1

Luận văn

Định canh, định cư với xoá đói

giảm nghèo ở Hà Giang

2

Mở đầu

1. Tính cấp thiết của đề tài

Định canh định cư là một yêu cầu cấp thiết trong chiến lược phát triển

không những của Việt Nam mà còn của nhiều quốc gia trên thế giới. Nhận

thức rõ vai trò của định canh định cư đối với sự ổn định, phát triển kinh tế - xã

hội và xoá đói giảm nghèo ở nước ta, Đảng và Nhà nước đã sớm đề ra và thực

hiện chủ trương, chính sách định canh định cư.

Gần nửa thế kỷ qua, kể từ khi Chính phủ ban hành Nghị quyết số 38/CP

về định canh định cư vào năm 1968, công tác định canh định cư đã đạt được

những kết quả quan trọng, góp phần tạo điều kiện cho đồng bào các dân tộc

thiểu số, vùng cao ổn định nơi ăn, chốn ở, ổn định địa bàn canh tác, sản xuất

nông nghiệp gắn với bảo vệ rừng, quy hoạch dân cư, bảo vệ các nguồn tài

nguyên thiên nhiên vì sự ổn định về kinh tế - xã hội và phát triển bền vững

của các vùng và quốc gia. Thông qua công tác định canh định cư, đồng bào

các dân tộc được tiếp cận và tham gia vào phát triển kinh tế, xoá đói giảm

nghèo, cải thiện và từng bước nâng cao đời sống của mình.

Hà Giang là một tỉnh vùng cao biên giới phía Bắc của Tổ quốc, với 22

dân tộc anh em trong đó chủ yếu là dân tộc thiểu số như: Mông 30% (dân số

toàn tỉnh), Tày 25%, Dao 15%, Nùng 9%... không những thế do địa hình phức

tạp bị chia cắt, độ dốc lớn, miền núi cao, khí hậu khắc nghiệt. Toàn tỉnh có

195 xã, phường, thị trấn nhưng trong đó có tới 115 xã thuộc diện xã đặc biệt

khó khăn theo phân loại của Uỷ ban dân tộc miền núi, tỷ lệ đói nghèo của xã

cao nhất là 86,3%. Chính vì thế đến nay một bộ phận không nhỏ dân cư của

tỉnh còn sống trong tình trạng định canh định cư chưa bền vững, trình độ phát

triển kinh tế thấp, tỷ lệ đói nghèo còn cao. Đặc biệt quá trình triển khai thực

hiện chính sách định canh định cư trên địa bàn tỉnh còn bộc lộ nhiều vấn đề

3

bất cập, nhất là trong giải quyết vấn đề đất đai, việc làm, các điều kiện dân

sinh liên quan đến đời sống của các gia đình, cộng đồng và điểm định canh

định cư, nguồn thu nhập thiếu ổn định, tình trạng du canh du cư vẫn cú nguy

cơ tiếp diễn… Trước thực tiễn đó, Hà Giang quyết tâm thực hiện tốt công tác

định canh định cư bền vững, coi đây là việc làm vô cùng cần thiết nhằm phát

triển kinh tế - xã hội của tỉnh, đưa Hà Giang thoát khỏi tỉnh nghèo. Vì vậy, tác

giả đã chọn đề tài: "Định canh, định cư với xoá đói giảm nghèo ở Hà Giang

" để làm luận văn tốt nghiệp của mình.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

Định canh định cư là một trong những nội dung quan trọng trong chính

sách phát triển vùng dân tộc thiểu số và miền núi ở Việt Nam từ 1968 đến

nay. Cho nên vấn đề này đã được nhiều người quan tâm nghiên cứu ở nhiều

khía cạnh khác nhau. Cho đến nay đã có các công trình như:

- Uỷ ban Dân tộc - Viện Dân tộc: "Nghiên cứu về định canh, định cư ở

Việt Nam", Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, năm 2006.

- Cục Định canh định cư và vùng kinh tế mới: "Di dân kinh tế mới, định

canh định cư - lịch sử và truyền thống", Nxb Nông nghiệp, năm 2001.

- TS. Đỗ Văn Hoà: "Định canh định cư và phát triển kinh tế - xã hội

miền núi".

- Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn: Tổng quan định canh định cư

cho đồng bào các dân tộc thiểu số ở miền Nam Việt Nam thời kỳ 1998-2010.

- Uỷ ban nhân dân tỉnh Hà Giang, Đề án tổng quan định canh định cư

tỉnh Hà Giang (giai đoạn 1999-2010), tháng 3/1999.

Các công trình trên đề cập đến công tác định canh định cư dưới các góc

độ khác nhau cả về lý luận và thực tiễn nhưng chưa có công trình nào đề cập

đến vấn đề Định canh, định cư với xoá đói giảm nghèo ở Hà Giang. Vì vậy,

4

đề tài mà tác giả lựa chọn để nghiên cứu không trùng với các công trình đã

công bố.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận ăn

* Mục đích:

- Luận văn làm rõ cơ sở lý luận và sự cần thiết phải thực hiện công tác

định canh định cư gắn với xoá đói giảm nghèo. Đồng thời, phân tích đánh giá

thực trạng công tác định canh định cư và xoá đói giảm nghèo ở Hà Giang. Từ

đó đưa ra các giải pháp định canh định cư bền vững góp phần xoá đói giảm

nghèo ở Hà Giang. Để thực hiện được mục đích trên, luận văn đề ra các

nhiệm vụ sau:

* Nhiệm vụ:

- Khái quát một số vấn đề lý luận về định canh định cư và vai trò của

công tác định canh định cư với việc xoá đói giảm nghèo ở nước ta.

- Tập trung phân tích thực trạng định canh định cư và xoá đói giảm

nghèo ở tỉnh Hà Giang và chỉ ra những nguyên nhân đạt được thành công và

nguyên nhân còn tồn tại.

- Đề xuất các giải pháp chủ yếu cho việc thực hiện định canh định cư

bền vững gắn với xoá đói giảm nghèo ở tỉnh Hà Giang trong thời gian tới.

4. Phạm vi nghiên cứu

Luận văn chỉ nghiên cứu vấn đề định canh định cư và xoá đói giảm

nghèo dưới góc độ kinh tế chính trị, đồng thời tập trung nghiên cứu công tác

định canh định cư và xoá đói giảm nghèo của tỉnh từ năm 2000 đến nay.

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

*Cơ sở lý luận:

Luận văn dựa trên cơ sở lý luận kinh tế chính trị Mác - Lênin, tư tưởng

Hồ Chí Minh và các quan điểm, chủ trương, đường lối, chính sách về định

canh định cư, phát triển kinh tế, xoá đói giảm nghèo của Đảng, Nhà nước và

của Đảng bộ tỉnh Hà Giang để nghiên cứu.

* Phương pháp nghiên cứu

5

Luận văn sử dụng phương pháp luận khoa học kinh tế chính trị và kết

hợp các phương pháp khác để nghiên cứu như: Phân tích, tổng hợp, so sánh,

thống kê, hệ thống...

6. Những đóng góp của luận văn

- Hệ thống hoá những vấn đề lý luận về định canh định cư và vai trò

của nó trong xoá đói giảm nghèo dưới góc độ kinh tế chính trị.

- Phân tích đánh giá thực trạng công tác định canh định cư và xoá đói

giảm nghèo ở tỉnh từ năm 2000 đến nay.

- Luận văn góp phần cung cấp cơ sở lý luận và thực tiễn cho việc hoạch

định chính sách định canh định cư nhằm phát triển kinh tế - xã hội và xoá đói

giảm nghèo ở Hà Giang.

- Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu vấn đề

định canh định cư ở các địa bàn tương tự như Hà Giang.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn

gồm 3 chương, 8 tiết.

6

Chương 1

Một số vấn đề lý luận chung về định canh định cư

1.1. Nhận thức chung về định canh định cư

1.1.1. Khái niệm du canh, du cư

- Du canh: là hình thức canh tác không ổn định với trình độ sản xuất

thấp, mang tính tự nhiên, bóc lột đất.

- Du cư: là hình thức cư trú không ổn định, nhà cửa tạm bợ, nay chỗ

này, mai chỗ khác.

- Du canh du cư: là hình thức canh tác và cư trú không ổn định, nguồn

sống chủ yếu dựa vào phát nương làm rẫy, sản xuất lương thực theo lối bóc

lột đất, tự cung tự cấp.

1.1.2. Tiêu chí xác định du canh, du cư

- Hộ du canh, du cư là hộ có ít hoặc không có đất canh tác ổn định. Nguồn

sống chủ yếu của hộ dựa vào thu nhập từ phá rừng để sản xuất nương rẫy du

canh (từ 50% trở lên). Chỗ ở không ổn định và thay đổi theo nương rẫy du canh.

- Thôn, bản du canh, du cư là thôn bản có từ 50% số hộ du canh, du cư

trở lên (so với tổng số hộ của thôn bản đó).

1.1.3. Định cư, du canh

1.1.3.1. Khái niệm định cư, du canh

* Định cư, du canh:

Là hình thức đã cư trú ổn định, đã có một phần đất đai canh tác ổn

định, nhưng sản xuất không đủ ăn, còn phải phá rừng làm nương rẫy. Muốn

xoỏ bỏ hiện trạng này cần phải tạo điều kiện về tư liệu sản xuất cho đồng bào

ổn định đời sống về vật chất.

1.1.3.2. Tiêu chí xác định định cư, du canh

7

- Hộ định cư, du canh là hộ đã có chỗ ở và có một phần đất đai canh tác

ổn định. Nguồn sống của hộ dựa vào thu nhập trên đất canh tác ổn định đạt từ

50% đến dưới 80% so với tổng thu nhập.

- Thôn, bản, xã định cư, du canh là thôn, bản, xã có từ 50% số hộ định

cư, du canh trở lên (so với tổng số hộ của thôn, bản, xã đó).

- Những thôn, bản, xã có dưới 50% số hộ định cư, du canh là thôn, bản,

xã có hộ định cư, du canh.

1.1.4. Định canh, định cư

1.1.4.1. Khái niệm định canh, định cư

Là hình thức canh tác và cư trú đã ổn định, không còn phá rừng làm

rẫy, không còn du cư, không còn đói giáp hạt. Trong đó, hộ định canh, định

cư có đủ tư liệu sản xuất ổn định và thôn, bản, xã định canh, định cư có đủ cơ

sở vật chất thiết yếu đảm bảo sản xuất và đời sống.

* Tư liệu sản xuất ổn định gồm:

- Ruộng nước, ruộng bậc thang, nương thâm canh sản xuất lương thực

ổn định lâu dài.

- Đất trồng cây công nghiệp, cây đặc sản, cây ăn quả có thu nhập.

- Bãi cỏ, ao hồ để phát triển chăn nuôi.

- Rừng và đất rừng được giao cho hộ kinh doanh, hoặc giao khoán bảo

vệ lâu dài.

- Đất ở và vườn hộ.

* Cơ sở vật chất thiết yếu phục vụ sản xuất và đời sống bao gồm:

- Các công trình thủy lợi nhỏ và vừa phục vụ sản xuất thâm canh.

- Các tuyến đường giao thông nội vùng giữa các thôn, bản, xã phục vụ đi

lại sản xuất, lưu thông hàng hoá và cung ứng dịch vụ cho nhân dân trong vùng.

- Các công trình phúc lợi công cộng như trường, lớp học, trạm y tế, tủ

thuốc, các công trình nước sinh hoạt... đảm bảo việc học hành, chữa bệnh và

nâng cao đời sống văn hoá tinh thần cho đồng bào định canh, định cư và đồng

bào dân tộc miền núi.

8

1.1.4.2. Tiêu chí xác định đối tượng định canh, định cư

- Thôn, bản hoặc xã có từ 50% số hộ bao gồm hộ du canh, du cư và hộ

định cư, du canh trở lên trong tổng số hộ ở thụn bản đú là thôn, bản, xã thuộc

đối tượng định canh, định cư.

- Thôn, bản, xã có dưới 50% số hộ bao gồm hộ du canh, du cư và hộ

định cư, du canh là thôn, bản, xã có hộ thuộc đối tượng định canh, định cư.

1.1.4.3. Đối tượng và các hình thức định canh, định cư

* Đối tượng của công tác định canh, định cư là hộ gia đình và thôn,

bản, các xã đồng bào dân tộc thiểu số ở miền núi vùng cao còn sống du canh,

du cư hoặc đã định cư nhưng còn du canh và cả những hộ đã định canh, định

cư để đảm bảo định canh, định cư bền vững.

* Các hình thức định canh, định cư

- Định canh, định cư tại chỗ là đồng bào sinh sống ở đâu thì vận động

họ định canh, định cư ở địa bàn đó.

Với hình thức này:

+ Về định canh: Trên cơ sở quy hoạch lại đất đai tiến hành hỗ trợ đồng

bào khai hoang ruộng nước bãi đất mầu, trồng cây công nghiệp, cây đặc sản,

cây ăn quả, chăn nuôi...

+ Về định cư: Xây dựng lại bản làng, làm nhà ở, làm đường giao thông,

xây dựng trường học, trạm y tế...để đồng bào có điều kiện ổn định cư trú lâu dài.

- Định canh, định cư bằng cách chuyển chỗ là chuyển đồng bào từ nơi

đang sinh sống đến nơi khác để định canh, định cư.

Với hình thức này:

+ Về định canh: Cũng trên cơ sở quy hoạch lại đất đai, phân chia đất

cho từng hộ gia đình, hỗ trợ đồng bào khai hoang, phục hoá ruộng nước, đất

mầu, trồng cây công nghiệp, cây đặc sản, chăn nuôi...

9

+ Về định cư: Hỗ trợ đồng bào di chuyển, làm nhà ở, xây dựng mới

hoặc mở rộng nâng cấp các công trình cơ sở hạ tầng và phúc lợi tập thể ở nơi

định canh, định cư.

- Định canh, định cư bằng cách "công nhân hoá" là đưa đồng bào vào

làm công tại các doanh nghiệp tại địa phương. Hình thức này được thực hiện

ở một số địa phương thuộc các tỉnh miền núi phía Bắc từ khi hình thành các

công trường, lâm trường, trạm trại... ở miền núi. Nó cũng được thực hiện có

kết quả khi thành lập các công trường, nông trường, lâm trường sản xuất lớn ở

các tỉnh miền núi phía Nam và Tây Nguyên.

Với hình thức này:

+ Về định canh: là làm việc tại các doanh nghiệp, thu nhập bằng tiền

lương hoặc hiện vật do doanh nghiệp chi trả.

+ Về định cư: được doanh nghiệp phân phối đất làm nhà ở, được

hưởng các công trình phúc lợi tập thể do doanh nghiệp tạo ra.

1.1.4.4. Tiêu chí xác định cơ bản hoàn thành định canh, định cư

- Hộ cơ bản hoàn thành định canh, định cư là hộ không còn đói giáp

hạt, không phá rừng làm rẫy, không du cư và được xác định như sau:

+ Đạt 80% trở lên giá trị thu nhập đảm bảo đời sống của hộ thu được từ

sản xuất trên đất canh tác ổn định.

+ Có nước sinh hoạt bình thường.

+ Có nơi ở ổn định, có vườn hộ và có chăn nuôi.

- Thôn, bản, xã cơ bản hoàn thành định canh, định cư là thôn, bản, xã

sau khi thực hiện định canh, định cư đạt từ 85% số hộ trở lên cơ bản hoàn

thành định canh, định cư (so với tổng số hộ thuộc đối tượng định canh, định

cư của thôn, bản, xã đó).

- Những huyện, tỉnh cơ bản hoàn thành định canh, định cư là những

huyện, tỉnh sau khi thực hiện định canh, định cư đạt từ 85% số hộ trở lên cơ

bản hoàn thành định canh, định cư (so với tổng số hộ thuộc đối tượng định

canh, định cư của huyện, tỉnh đó).

10

- Nhà nước tiếp tục hỗ trợ, đầu tư xây dựng hạ tầng cơ sở và phát triển sản

xuất bằng các chương trình kinh tế - xã hội khác để định canh, định cư bền vững.

1.2. Vai trò của công tác định canh, định cư đối với xoá đói giảm nghèo 1.2.1. Sự cần thiết phải chuyển từ du canh, du cư sang định canh,

định cư

Du canh của một bộ phận dân tộc thiểu số vùng núi từ lâu được xem là

"tụt hậu" và không hiệu quả trong hoạt động và phát triển kinh tế, là tác nhân

chủ yếu gây ra nạn phá rừng. Vì thế trong chiến lược phát triển kinh tế - xã

hội vùng dân tộc thiểu số, miền núi, Việt Nam đã có nhiều chính sách nhằm

xoá bỏ hiện tượng du canh. Bởi lẽ, chúng ta biết rằng du canh là hình thức

canh tác không ổn định ở một địa điểm, sản xuất trồng trọt ở nơi này một thời

gian sau lại chuyển hoạt động canh tác đến nơi khác, đây là lối canh tác

ngược với lối canh tác được gọi là thâm canh - tức là canh tác, chăm bón cây

trồng trên một địa điểm ổn định. Du canh là hoạt động kinh tế nông nghiệp

của một bộ phận dân tộc thiểu số vì lý do điều kiện canh tác đất đai hạn chế,

vì phong tục tập quán canh tác của họ trong một điều kiện tài nguyên rừng

và đất đai cho phép, vì sức ép kinh tế với năng suất trồng trọt thấp và mâu

thuẫn không đáp ứng nhu cầu đời sống của gia đình, cộng đồng ngày một

tăng theo thời gian.

Việt Nam là một nước có tới 2/3 tổng diện tích là miền núi. Có 53 dân

tộc, hơn 10 triệu người dân tộc thiểu số với nguồn gốc, ngôn ngữ và văn hoá

khác nhau, cư trú tập trung ở miền núi. Địa bàn và các nhóm dân tộc thiểu số

này từ lâu đã là đối tượng của các chính sách dân tộc nói chung và định

canh, định cư nói riêng. Chương trình định canh, định cư được thực hiện với

mục tiêu nhằm chấm dứt tình trạng du canh - một phương thức sản xuất

được đồng bào các dân tộc thiểu số nước ta duy trì từ xa xưa mang tính lạc

hậu với đặc điểm:

11

+ Canh tác trên nương rẫy là chủ yếu, hoạt động theo chu kỳ: Đốt rừng

- tra hạt - thu hoạch - đốt rừng - tra hạt,... Như vậy đó là sự vận động lấy khởi

điểm của chu kỳ là đốt rừng.

+ Hiệu quả canh tác thấp, phụ thuộc gần như hoàn toàn vào điều kiện tự

nhiên như: mưa, nắng, hạn hán, lũ lụt, giá rét... Vì bị lệ thuộc hoàn toàn vào

thiên nhiên nên sản xuất và đời sống của đồng bào hiện còn du canh, du cư rất

khó khăn. Du canh, du cư có xu hướng ngày càng tiến vào vùng sâu, vùng xa,

vùng hẻo lánh. Các hộ gia đình du canh, du cư ngày càng xa sinh hoạt cộng

đồng, càng xa các trung tâm văn hoá - xã hội của khu vực. Do đó, cuộc sống của

đồng bào du canh, du cư đã khó khăn lạc hậu lại càng khó khăn lạc hậu hơn.

+ Kiểu canh tác này không những không bồi bổ độ phì của đất mà

ngược lại huỷ hoại nghiêm trọng độ mầu mỡ, đất đai bị bào mòn, rửa trôi trở

thành bạc mậu, cằn cỗi. Vì mỗi khu rừng phát đốt đi chỉ gieo trồng cây lương

thực được một vài vụ, đất bị nước mưa rửa trôi, bạc mầu trở thành đất trống

đồi núi trọc, người canh tác lại phải tìm đến khu rừng khác tiếp tục phát đất,

cứ như thế du canh đến đâu tất nhiên phải du cư đến đó. Với những đặc điểm

ấy phương thức sản xuất này để lại hậu quả nặng nề, nghiêm trọng cho cả

nước cũng như chính đồng bào miền núi. Trước hết, du canh, du cư khiến

người dân luôn phải thay đổi chỗ canh tác và chỗ ở đồng thời quy định nếp

nghĩ, cách sống tạm bợ theo thói quen ăn sâu vào tiềm thức của đồng bào, từ

đó quy định số phận của họ.

Như vậy, du canh, du cư không chỉ gây mất ổn định về nhiều phương

diện mà nguy cơ lớn nhất do những người du canh gây ra làm cho rừng bị tàn

phá, vì muốn có đất canh tác họ phải khai thác trên diện tích lớn của rừng, đây

cũng là một trong những nguyên nhân gây ra các hiện tượng như lũ quét, hạn

hán... đặc biệt là ở các tỉnh miền núi, gây thiệt hại lớn về tài sản và tính mạng

con người.

12

Khụng những thế, cuộc sống thiếu ổn định nay đõy mai đú, đời sống

vật chất khú khăn, đời sống tinh thần thiếu thốn, luụn tỡm nơi ở, nơi làm ăn

mới hỡnh thành một bộ phận dõn cư tự do khụng hoà đồng với một thể chế

kinh tế, chớnh trị, xó hội nhất định của đất nước. Mặt khỏc tạo ra những khe

hở phỏt sinh mặt trỏi về kinh tế, chớnh trị, xó hội mà những kẻ phỏ hoại,

chống đối, bọn xấu lợi dụng.

Tóm lại, hậu quả của du canh, du cư là không những đời sống của đồng

bào ngày càng khó khăn mà còn ảnh hưởng nghiêm trọng đến suy thoái đất

canh tác, bảo vệ môi trường và sự phát triển bền vững ở miền núi. Di cư tự

do của đồng bào dân tộc thiểu số ở miền núi phía Bắc đến Tây Nguyên cũng

là hậu quả của phương thức canh tác du canh, du cư khi diện tích rừng ở nơi

đang sinh sống không còn, người dân phải đi xa để tìm nơi có rừng phát

nương, làm rẫy.

Chính vì thế, định canh, định cư cho đồng bào các dân tộc thiểu số ở

miền núi nước ta nhằm hỗ trợ đồng bào tạo lập một cuộc sống ổn định hướng

tới phát triển bền vững đang là một vấn đề cấp bách hiện nay. Xuất phát từ

thực tiễn của tình trạng du canh, du cư để thấy rõ hơn sự cần thiết phải tiếp

tục chuyển từ du canh, du cư sang định canh, định cư:

Vào năm 1968, khi Chính phủ thực hiện chính sách định canh, định

cư đầu tiên, ước tính có khoảng 3,8 triệu người tiến hành du canh; đến

1990, Việt Nam có khoảng 482.000 hộ gia đình (2,8 triệu nhân khẩu) là

mục tiêu của chính sách định cư. Năm 1999, con số này lên tới 608.000 hộ

(3,7 triệu nhân khẩu) [19, tr.34-35]. Và một điều cần chú ý là trước năm

1968, phạm vi du canh, du cư chỉ diễn ra trên địa bàn hẹp, chủ yếu từ bản

này sang bản khác trong nội bộ xã hoặc từ xã này sang xã khác trong nội

bộ huyện, sau đó du canh, du cư diễn ra trên địa bàn rộng hơn như di

chuyển từ tỉnh này sang tỉnh khác. Đặc biệt là với các chương trình xây

13

dựng kinh tế mới nên hiện tượng người Kinh di cư lên miền núi tăng

nhanh, đến đầu những năm 90 của thế kỷ XX, tỷ lệ người Kinh tại nhiều xã

miền núi đã lên tới 50% tổng số dân toàn xã. Do làn sóng di cư và tác động

của việc phân phối lại đất, rừng cho các lâm trường quốc doanh, các chính

sách xoá bỏ cây thuốc phiện... người dân tộc thiểu số đã phải đối mặt với

nhiều khó khăn về kinh tế, đặc biệt là sự suy giảm về diện tích canh tác do

việc du canh, hậu quả là, một số hộ gia đình trước đây không du canh, du

cư đã bắt buộc phải di chuyển tìm kiếm đất mới để canh tác. Việc này đã

dẫn tới sự gia tăng làn sóng di cư tự do của người dân tộc thiểu số, đặc biệt

là từ miền núi phía Bắc tới các vùng khác của cả nước.

Chẳng hạn theo Báo Nhân dân (Báo Điện tử) ngày 8/12/2004 thì "giai

đoạn 1991-1995 bình quân mỗi năm có hơn 16 vạn người di cư tự do, từ năm

1996 đến năm 2000 giảm xuống còn 9 vạn người/năm, 2 năm 2001 - 2002

còn hơn 4 vạn người".

Từ những năm gần đây, số lượng đồng bào thiểu số ở miền núi phía

Bắc di cư tự do vào Tây Nguyên sinh sống đã giảm nhưng đồng bào lại

thường di cư tự do vào các vùng rừng đầu nguồn xa xôi, hẻo lánh, khó kiểm

soát, để phát rừng làm rẫy. Hơn nữa, du canh, du cư không chỉ do tác nhân

kinh tế mà còn do các tác nhân xã hội và tôn giáo nữa. Bằng chứng là 248 hộ

người Mông ở thôn Noh Prông thuộc xã Hoà Phong, tỉnh Đắc Lắc đã di cư từ

huyện Bắc Quang tỉnh Hà Giang và Chiêm Hoá thuộc tỉnh Tuyên Quang vào

sinh sống ở thụn này không chỉ vì thiếu đất canh tác mà còn vì những vấn đề

rắc rối trong quan hệ với họ hàng, láng giềng và chính quyền địa phương cũng

như di cư tự do vào Tây Nguyên để dễ thay đổi theo đạo Tin lành [19, tr.36].

Từ những lý do trên, cần phải thực hiện công tác định canh, định cư

đối với đồng bào còn du canh, du cư, xây dựng cơ sở định canh, định cư, ổn

định sản xuất và đời sống, đầu tư hỗ trợ cho đồng bào đã định canh nhưng còn

14

du canh xây dựng cơ sở định canh ổn định, vận động đồng bào đã định cư mở

rộng và củng cố cơ sở định canh để đáp ứng yêu cầu phát triển của sản xuất,

chấm dứt tình trạng khai phá nương rẫy hàng năm hoặc đi phát nương xa theo

lối một chốn đôi quê.

1.2.2. Định canh, định cư có ý nghĩa quan trọng đối với xoá đói

giảm nghèo

Trong những năm qua nhờ sự đầu tư nhiều mặt của Nhà nước, miền núi

đã đạt được những tiến bộ về phát triển kinh tế - xã hội, tuy nhiên đến nay vẫn

là khu vực có tỷ lệ đói nghèo cao. Mức sống thấp là hiện tượng phổ biến ở cư

dân vùng cao, vùng sâu, vùng xa, vùng thuộc diện vận động định canh, định

cư. Sự chênh lệch về tỷ lệ đói nghèo giữa các nhóm dân tộc cũng khá lớn, cao

nhất là trong các dân tộc sống ở vùng cao, vùng đặc biệt khó khăn: đồng bào

Mông ở Hà Giang; Ơ Du ở Nghệ An; Rác Glây ở Ninh Thuận...

Từ thực trạng đói nghèo tại các vùng định canh, định cư nói chung cho

thấy tại các vùng này:

Sản xuất nông lâm nghiệp vẫn chủ yếu là tự cung tự cấp. Hiệu quả sản

xuất nông nghiệp thấp, nguyên nhân trước hết là do địa hình chia cắt mạnh,

độ dốc lớn, đất đai bị xói mòn, năng suất cây trồng vật nuôi thấp. Hai là, trình

độ dân trí thấp, thiếu vốn và công tác chuyển giao các tiến bộ khoa học kỹ

thuật nông nghiệp cho miền núi cũng gặp nhiều khó khăn, nhất là vùng cao,

vùng sâu, vùng xa.

Tình trạng phá rừng làm nương rẫy vẫn diễn ra và gây ra hậu quả

nghiêm trọng. Mặc dù đã có sự quan tâm đầu tư bảo vệ và phát triển vốn

rừng, nhưng nhiều khu vực có rừng tự nhiên và rừng phòng hộ tập trung vẫn

tiếp tục giảm sút, một trong những nguyên nhân chính do mở rộng đất canh

tác nông nghiệp và tình trạng du canh.

15

Cơ sở hạ tầng ở khu vực miền núi nói chung và vùng định canh, định

cư nói riêng còn yếu kém, nhất là vùng sâu, vùng xa. Vì ở miền núi do địa

hình phức tạp, khả năng ngân sách lại hạn hẹp cho nên đường giao thông đi

lại không thuận lợi, ở nhiều xã phần lớn đường chỉ đi được vào mùa khô. Các

cơ sở hạ tầng khác như y tế, giáo dục, nước sạch cũng rất yếu kém. Số lượng

trẻ em trong độ tuổi đi học bị thất học ở một số nhóm dân tộc thiểu số cao như

Mông, Sinh Mun, Khơ Mú. Tình trạng thiếu nước sinh hoạt trong mùa khô là

phổ biến ở vùng cao, nhiều nơi đồng bào phải đi bộ lấy nước sinh hoạt xa đến

5-10 km như vùng cao Đồng Văn (Hà Giang), lục khu Hà Quảng (Cao Bằng).

Cơ sở hạ tầng kém đã trở thành yếu tố quan trọng chi phối khả năng phát triển

kinh tế hàng hoá và sự nghiệp phát triển văn hoá và nâng cao đời sống vật

chất và tinh thần của đồng bào các dân tộc. Vì vậy, việc thực hiện tốt công tác

định canh, định cư có vai trò to lớn đối với phát triển kinh tế - xã hội, thực

hiện tốt chương trình xoá đói giảm nghèo ở miền núi, đồng thời xõy dựng, tạo

ra một cộng đồng dõn tộc với bước phỏt triển mới hoà nhập với bước phỏt

triển của đất nước. Bởi lẽ, mục đích của công tác định canh, định cư là tạo

điều kiện cho bộ phận đồng bào dân tộc thiểu số ở miền núi còn du cư phá

rừng hoặc đã định cư, nhưng còn du canh, đời sống quá khó khăn lạc hậu, để

đồng bào các vùng này từ bỏ được lối sống cũ chuyển sang cuộc sống mới: có

nhà ở, có đất đai canh tác, hoặc việc làm ổn định, giảm dần đói nghèo, định

canh, định cư bền vững, góp phần bảo vệ rừng, bảo vệ môi trường sinh thái,

bảo đảm trật tự xã hội, an ninh quốc phòng.

Không những thế, thông qua kết quả thực hiện công tác định canh,

định cư thời gian qua ở nước ta, có thể thấy rõ định canh, định cư có vai trò

không nhỏ trong xoá đói giảm nghèo và phát triển kinh tế - xã hội ở miền

núi. Cụ thể là:

16

Nhờ có chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước về đầu tư công tác

định canh, định cư và sự hưởng ứng của đồng bào các dân tộc miền núi, đến

nay các chương trình định canh, định cư đã đóng góp vào mục tiêu xoá đói

giảm nghèo rất tích cực ở vùng nông thôn miền núi. Bởi vì, nội dung chính

của công tác định canh, định cư là tập trung giải quyết những vấn đề bức xúc

nhất về sản xuất và đời sống như đất trồng trọt, nước sản xuất và sinh hoạt

của bộ phận đồng bào dân tộc thuộc diện khó khăn nhất ở miền núi. Tính từ

1990 đến nay, chương trình định canh, định cư đã hỗ trợ khai hoang: 31 nghìn

ha; cải tạo đồng ruộng, xây dựng ruộng bậc thang, nương xếp đá: 8 nghìn ha;

xây dựng bể nước, giếng nước: 8 nghìn cái... Cũng thông qua cuộc vận động

định canh, định cư, đồng bào dân tộc đã học được cách làm ăn mới khắc phục

được tập quán quảng canh, chuyển sang thâm canh. Đã có nhiều mô hình

thành công về thực hiện công tác định canh, định cư: mô hình định canh, định

cư gắn với phát triển kinh tế hộ gia đình ở các tỉnh miền núi phía Bắc và Tây

Nguyên; mô hình định canh, định cư gắn với cơ sở các nông, lâm trường quốc

doanh ở khu vực Tây Nguyên, mô hình định canh, định cư gắn với xây dựng

vùng kinh tế mới như mô hình Mò Cổng (Sơn La), Viễn Sơn (Yên Bái), Khe

Cạn (Thái Nguyên)... Đến nay ở khu vực miền núi tỷ lệ nghèo đã giảm, chấm

dứt tình trạng đói kinh niên, nhiều hộ đồng bào nhờ phát triển kinh tế hộ đã

trở nên giầu.

Kết quả của công tác định canh, định cư còn góp phần hình thành

những vùng sản xuất tập trung quy mô lớn như cà phê ở Tây Nguyên, vùng

cây công nghiệp dài ngày như cao su, hồ tiêu, điều, cây ăn quả ở miền Đông

Nam Bộ, vùng chè ở Sơn La, Lai Châu, Thái Nguyên, Hà Giang, Lâm

Đồng...; vùng quế ở Yên Bái, Quảng Ninh, Nghệ An, Quảng Nam; vùng cây

ăn quả Bắc Giang, Lạng Sơn...; vùng chuyên doanh rừng ở Thanh Hoá, Nghệ

An, Sơn La... Các vùng chuyên canh định canh, định cư đã có sản phẩm hàng

17

hoá, thực sự góp phần quan trọng trong các mặt hàng xuất khẩu nông lâm sản

của cả nước, đem lại nguồn thu nhập ổn định, cải thiện một bước đời sống

nhân dân các dân tộc vùng dự án.

Chương trình định canh, định cư cùng với các chương trình phát triển

kinh tế - xã hội đã góp phần cải thiện cơ sở hạ tầng ở các xã vùng cao thuộc

địa bàn miền núi. Kết quả đến nay ở khu vực miền núi có 94% số xã định

canh, định cư có đường giao thông đến trung tâm cụm xã, 84% số xã có

trường tiểu học, 64% số đồng bào dân tộc thiểu số dùng điện lưới sinh hoạt,

60% số xã có trạm truyền thanh, góp phần giảm tỷ lệ nghèo cả nước từ 20%

xuống còn 11% hiện nay. Công tác định canh, định cư cũng góp phần vào

việc bảo vệ rừng, đến nay độ che phủ rừng cả nước đã tăng lên 36% [18,

tr.254]. Những kết quả lớn nhất của việc đầu tư cho công tác định canh, định

cư đã đạt được trong những năm qua là tạo ra tư liệu sản xuất là đất trồng trọt

ổn định, hỗ trợ nước sinh hoạt và xây dựng các công trình thủy lợi nhỏ... đã

thực sự góp phần ổn định sản xuất và đời sống, thực sự góp phần xoá đói

giảm nghèo cho đồng bào các dân tộc vùng cao.

Chính vì vai trò của định canh, định cư đối với xoá đói giảm nghèo như

đã phân tích trên đây. Công tác định canh, định cư trong những năm gần đây

đã có bước chuyển biến mới. Tập trung vào nội dung xoá đói giảm nghèo,

trước mắt là xoá đói kinh niên, đói giáp hạt. Từ nguyên nhân sinh ra đói

nghèo ở các vùng thuộc đối tượng định canh, định cư tìm ra các giải pháp hữu

hiệu để họ bảo vệ được tài nguyên rừng mà còn nâng cao được đời sống của

người dân, xoá được đói, giảm được nghèo. Do đó, tại Nghị quyết số 112

ngày 21/11/1997 của Chính phủ ra Quyết định số 05 ngày 14/1/1998 của Thủ

tướng Chính phủ đã quy định: Chương trình quốc gia xoá đói giảm nghèo bao

gồm cả công tác định canh, định cư; đặt công tác định canh, định cư trong

chương trình quốc gia xoá đói giảm nghèo. Và ngược lại, mục tiêu của công

18

tác định canh, định cư cũng bao gồm cả nội dung xoá đói giảm nghèo. Cụ thể

mục tiêu bao trùm của công tác định canh, định cư được xác định theo Quyết

định 140/1999/QĐ-BNN-định canh, định cư bao gồm:

1. Xoá bỏ du canh, du cư và định cư các nhóm dân tộc.

2. Góp phần xoá đói giảm nghèo.

3. Góp phần giảm hiện tượng phá rừng và bảo vệ môi trường.

Tóm lại, định canh, định cư không chỉ có ý nghĩa đối với công tác xoá

đói giảm nghèo mà định canh, định cư còn có mối quan hệ biện chứng với

xoá đói giảm nghèo: Thực hiện định canh, định cư bền vững sẽ là điều kiện,

tiền đề cho xoá đói giảm nghèo thực hiện được các nội dung của chương trình

đề ra đạt được hiệu quả. Mặt khác, xoá đói giảm nghèo cũng là điều kiện để

củng cố định canh, định cư ngày càng vững chắc, đồng bào yên tâm tích cực

phát triển sản xuất theo hướng thâm canh, áp dụng khoa học kỹ thuật mới

rộng rãi, kinh tế được tăng trưởng, đời sống ổn định.

Sự kết hợp đú cú ý nghĩa to lớn trong việc chuẩn bị điều kiện, mụi

trường kinh tế- xó hội để thực thi cụng nghiệp hoỏ nụng nghiệp nụng thụn cú

hiệu quả, đặc biệt là nụng thụn miềi nỳi (vựng dõn tộc thiểu số chiếm tỷ lệ lớn).

1.3. Một số chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước về công tác định

canh, định cư

Sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập (1930), văn bản

chính thức đầu tiên của Đảng đề cập đến vấn đề du canh được đề ra tại Hội

nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương năm 1948. Vấn đề du canh đã

được đề cập trong phần về "cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân

dân", sự cần thiết phải "khuyến khích việc xoá bỏ du canh và giúp đỡ trong

việc cải thiện cung cấp các trang thiết bị, cây giống, phân bón, khai thác đất 2

vụ".

19

Nhằm hướng tới mục tiêu định canh, định cư, chính sách đầu tiên thể

hiện trong Nghị quyết 71/TW ngày 23/3/1963. Trong nghị quyết trên, Bộ

Chính trị đã chính thức nêu lên vấn đề định canh, định cư và giải quyết vấn

đề này.

Tiếp sau đó, xuất phát từ tập quán canh tác lạc hậu, phá rừng làm rẫy,

đất đai ngày càng bạc mầu, diện tích rừng ngày càng bị thu hẹp, tài nguyên

cạn kiệt, môi trường sinh thái bị phá vỡ, hạn hán lũ lụt thường xuyên xẩy ra.

Trước thực trạng đó, Hội đồng Chính phủ ra Nghị quyết 38/CP ngày 12/03/1968

về công tác vận động định canh, định cư. Nghị quyết 38/CP đã nêu rõ phương

hướng nhiệm vụ xây dựng phát triển kinh tế miền núi, đồng thời yêu cầu các

cấp, các ngành phải coi trọng công tác định canh, định cư để tạo điều kiện

nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho đồng bào còn du canh, du cư;

Quyết định 72/HĐBT ngày 13/3/1990 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính

phủ) về một số chủ trương chính sách cụ thể phát triển kinh tế - xã hội miền

núi; Quyết định 327/HĐBT ngày 15/9/1992 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng

về một số chủ trương, chính sách sử dụng đất trống đồi núi trọc, bãi bồi ven

biển và mặt nước; Nghị định số 02/CP ngày 15/1/1994 của Chính phủ ban

hành văn bản quy định về việc giao đất lâm nghiệp cho tổ chức, hộ gia đình,

cá nhân sử dụng ổn định, lâu dài vào mục đích lâm nghiệp; Nghị định số

20/1998/NĐ-CP ngày 31/3/1998 của Chính phủ về phát triển thương mại

miền núi, hải đảo và vùng đồng bào dân tộc; Chỉ thị 393/TTg ngày 10/6/1996

của Thủ tướng Chính phủ về quy hoạch dân cư, tăng cường cơ sở hạ tầng, sắp

xếp sản xuất ở vùng dân tộc và miền núi; Quyết định số 202/TTg ngày

2/5/1994 quy định về việc khoán bảo vệ rừng, khoanh nuôi tái sinh và trồng

rừng; Quyết định của Thủ tướng Chính phủ số 35/QĐ-TTg ngày 13/1/1997

phê duyệt chương trình xây dựng cụm xã miền núi, vùng cao; Quyết định của

20

Thủ tướng Chính phủ số 133/1998/QĐ-TTg ngày 23/7/1998 về phê duyệt

chương trình mục tiêu quốc gia về xoá đói giảm nghèo trong giai đoạn 1998 -

2000; Quyết định của Thủ tướng Chính phủ số 135/1998/QĐ-TTg ngày

31/7/1998 phê duyệt chương trình phát triển kinh tế - xã hội các xã đặc biệt

khó khăn, miền núi và vùng sâu, vùng xa; Quyết định số 138/2000/QĐ-TTg

ngày 29/11/2000 của Thủ tướng Chính phủ đã quyết định hợp nhất dự án định

canh, định cư và chương trình phát triển kinh tế - xã hội các xã đặc biệt khó

khăn miền núi và vùng sâu, vùng xa. Trong quyết định này, phần xây dựng cơ

sở hạ tầng của dự án định canh, định cư thuộc các xã Chương trình 135 được

đưa vào dự án xây dựng cơ sở hạ tầng của Chương trình 135. Tuy nhiên, do

còn có các xã thuộc diện vận động định canh, định cư nằm ngoài địa bàn thực

hiện Chương trình 135, vì vậy, tại Quyết định số 143/2001/QĐ-TTg ngày

27/9/2001 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt "Chương trình mục

tiêu quốc gia xoá đói giảm nghèo và việc làm giai đoạn 2001 - 2005" đã đưa

dự án định canh, định cư là một trong những dự án thực hiện chương trình

xoá đói giảm nghèo và được phân bổ nguồn vốn thực hiện riêng.

Trong thời gian gần đây, để tiếp tục hỗ trợ đồng bào các dân tộc thực

hiện việc định canh, định cư, Chính phủ ban hành nhiều chính sách hỗ trợ cho

vùng và hộ gia đình để đất sản xuất, ổn định đời sống xoá đói giảm nghèo:

Quyết định số 134/2004/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về một

số chính sách hỗ trợ đất sản xuất, đất ở, nhà ở và nước sinh hoạt giúp hộ

đồng bào dân tộc thiểu số ổn định đời sống và xoá đói giảm nghèo; Quyết

định số 186/2001/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về phát triển kinh tế 6

tỉnh đặc biệt khó khăn (Cao Bằng, Bắc Kạn, Hà Giang, Sơn La, Lai Châu)

tập trung giải quyết những vấn đề bức xúc của 6 tỉnh về đói nghèo, du

canh, du cư, ổn định đời sống, tái trồng cây thuốc phiện và chăm sóc sức

21

khoẻ. Trong đó tập trung đầu tư cơ sở hạ tầng, hỗ trợ khai hoang, giống cây

trồng, vật nuôi, trồng rừng...; Quyết định 120/2003/QĐ-TTg của Thủ tướng

Chính phủ về phê duyệt chiến lược phát triển kinh tế - xã hội tuyến biên

giới Việt Trung. Mục tiêu quyết định này nhằm đưa vùng này thoát khỏi

đói nghèo và củng cố an ninh quốc phòng ở tuyến biên giới. Trong quyết

định này có nhiều chính sách hỗ trợ trực tiếp cho hộ gia đình về khai

hoang, về nhà ở và di chuyển dân đến các xã biên giới với mức cao hơn các

vùng khác; nhận thức Tây Nguyên có vị trí chiến lược quan trọng và là

những tỉnh có tỷ lệ đói nghèo cao, Chính phủ đã có một số chính sách hỗ

trợ: Quyết định số 154/2002/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về chính

sách cho các hộ đồng bào dân tộc thiểu số tại chỗ và đồng bào thuộc diện

chính sách ở các tỉnh Tây Nguyên mua nhà trả chậm; Quyết định số

132/2002/QĐ-TTg "chính sách giải quyết đất sản xuất và đất ở cho đồng

bào dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên".

1.4. Kinh nghiệm quốc tế và một số địa phương trong nước về định canh, định

1.4.1. Kinh nghiệm quốc tế

* ở Lào

Lào là quốc gia có tỷ lệ người dân tộc thiểu số cao (khoảng 40% dân

số) phần đông trong số này sinh sống ở các khu vực miền núi, vùng cao và

chủ yếu sống dựa vào du canh.

Kể từ khi nước Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào được thành lập (1975)

và đặc biệt từ Đại hội Đảng lần thứ tư (1986), việc giảm tình trạng du canh là

một trong các chương trình ưu tiên của Lào nhằm ổn định các cộng đồng,

nâng cao năng suất, cải thiện môi trường kinh tế - xã hội và giảm thiểu sự suy

thoái của tài nguyên thiên nhiên.

22

Chương trình chính để tiến tới xoá bỏ du canh bao gồm các chính sách

nhằm cung cấp các dịch vụ giáo dục và chăm sóc sức khoẻ cho cư dân vùng

cao thông qua việc tái định cư để đưa họ vào các "vùng trọng điểm".

Bên cạnh việc tái định cư, Lào cũng thực hiện chính sách xoá bỏ du

canh thông qua việc ban hành một loạt các nghị định và hướng dẫn về quản lý

đất nông nghiệp và lâm nghiệp được ban hành nhằm hỗ trợ cho quy hoạch sử

dụng đất của quốc gia và chương trình phân phối lại đất đai. Phân phối lại đất

đai được xem là một bước tiến và giúp cho việc xoá bỏ du canh. Quá trình cải

cách ruộng đất được mong đợi là sẽ định hướng lại hệ thống canh tác thông

qua việc ban hành chứng chỉ sử dụng đất dài hạn cho một diện tích đất có giới

hạn, trong khi đó các vùng khác sẽ được quy hoạch lại thành vùng lâm nghiệp

hoặc rừng đầu nguồn. Bởi vì, thông qua việc giảm diện tích đất dành cho

nông nghiệp, nông dân sẽ phải tăng cường thâm canh các loại cây trồng mang

tính hàng hoá và các loại cây trồng mang tính thị trường, nhằm phát triển

nông thôn, đưa các thôn bản gần với các loại hình dịch vụ.

Tuy nhiên, do chính sách cải cách ruộng đất và tái định cư chỉ tập trung

vào việc giới hạn sử dụng đất, mà không đầu tư vào thâm canh sử dụng đất

nên đã tạo ra cho người nông dân nhiều khó khăn nhất định, sau một năm cải

cách ruộng đất, diện tích đất nông nghiệp bình quân giảm xuống 1/3 từ 3,9 ha

xuống 2,7 ha/hộ [19, tr.73]. Việc giảm diện tích canh tác kèm theo việc nhu

cầu lương thực ngày càng tăng đã dẫn đến hiện tượng người nông dân phải rút

ngắn thời gian bỏ hoá, kéo dài, thời gian canh tác và tăng cường sử dụng lao

động nhằm duy trì an ninh lương thực thay thế diện tích đất đã bị mất đi do

chính sách cải cách ruộng đất mới. Kết quả chung của sự thay đổi đó đã làm

giảm năng suất của đất, làm xấu đi điều kiện làm việc, tăng suy thoái đất đai

và xói mòn đất - trái ngược với mục tiêu của chính sách. Thêm vào đó, chính

sách cải cách ruộng đất đã dẫn đến sự di cư tự do không kiểm soát được của

23

những người đã định cư. Rất nhiều người dân đã quay lại nơi cũ khi họ không

có đủ đất canh tác, và thiếu lương thực.

* ở Thái Lan:

Chính phủ Thái Lan rất quan tâm đến các cộng đồng người dân tộc

thiểu số đang sinh sống tại phía Bắc, những cộng đồng được coi là các "bộ

lạc". Dân số của các bộ lạc này khoảng chừng 600.000 đến 700.000 người. Từ

lâu, Chính phủ Thái Lan đã cấm việc du canh trong cộng đồng các dân tộc

vùng cao này. Quân đội đã tiến hành chính sách tái định cư bắt buộc từ năm

1967 đến 1973, nhằm di chuyển các "bộ lạc" này về vùng đồng bằng.

Các đạo luật cấm sử dụng đất rừng để canh tác nông nghiệp cũng được

ban hành. Chính phủ đã tạo ra 87 công viên quốc gia, 65 công viên rừng, 46

khu bảo tồn thiên nhiên, 44 vùng cấm săn bắn, 15 vườn thực vật học và 53

khu vườn phục vụ nghiên cứu khoa học mà rất nhiều khu trong số đó trước

đây thuộc phạm vi sử dụng của các cộng đồng dân tộc thiểu số. Chính vì vậy

việc di chuyển bắt buộc các bộ lạc này ra khỏi các khu bảo tồn được Chính

phủ ủng hộ. Đồng thời, Chính phủ cũng có nhiều chương trình tài trợ nhằm

định cư các bộ lạc thiểu số tại các khu làng định cư, trồng các loại hoa mầu và

các sản phẩm có giá trị cao trên thị trường để thay thế cho việc du canh. Tuy

nhiên, tại các vùng này họ lại cần một lượng lớn nước và thuốc trừ sâu, dẫn

đến người dân ở vùng đồng bào không đủ nước và những nguồn nước từ vùng

cao chẩy xuống chứa rất nhiều thuốc trừ sâu, tạo nên một số xung đột nhỏ

giữa người dân miền núi và đồng bằng [19, tr.77].

* ở Inđônêxia:

Chính phủ Inđônêxia từ lâu cũng đã tiến hành xoá bỏ việc du canh và

tiến hành định cư cho đồng bào các dân tộc thiểu số thông qua một chương

trình có tên là "Chương trình phát triển các cộng đồng vùng sâu vùng xa".

Các dự án định canh, định cư chính đã được thực hiện bao gồm việc

xây dựng "các khu định cư xã hội", nơi các thành viên của các nhóm đối

24

tượng được tập trung lại và trao quyền làm chủ các dự án phát triển, từ việc

xây dựng các trường học đến khuyến nông, khuyến lâm. Các khu định cư xã

hội do Chính phủ xây dựng bao gồm các ngôi nhà giống hệt nhau, mỗi hộ

được cấp 2 ha đất, bếp và các công cụ làm vườn, 3 tháng lương thực, quần

áo... Hơn nữa, khu định cư còn có cả nhà thờ để phục vụ các nghi lễ tôn giáo,

một nhà hội họ cộng đồng, trường học và sân bóng đá. Những người đến định

cư tại đây phải từ bỏ việc du canh nên họ được cấp đất, giống, súc vật nuôi,

các công cụ phục vụ sản xuất và đào tạo kỹ thuật.

Tuy nhiên, chương trình vẫn còn những hạn chế đó là, đất đai cấp cho

các khu vực này thường có độ mầu mẫu thấp vì quỹ đất ngày một hạn hẹp.

Một vấn đề nữa là nạn tham nhũng tại các địa phương đã làm thất thoát một

lượng lớn số tiền tài trợ cho các khu vực định cư xã hội này.

Một chính sách quan trọng trong công tác định canh, định cư của

Inđônêxia là đã di cư được một số người Java từ vùng thấp lên vùng cao để

giải quyết các vấn đề về đất nông nghiệp và giới thiệu những kỹ thuật canh

tác mới đến vùng cao. Chương trình này được biết đến như là một trong

những chương trình định canh, định cư cấp Chính phủ được đầu tư nhiều nhất

về tiền bạc cũng như thời gian. Tuy nhiên, chính những người di cư lại là

nguyên nhân chính của nạn phá rừng do phương pháp canh tác không phù hợp

và chương trình đi dân này phải dừng lại.

* ở Trung Quốc:

Trung Quốc là một quốc gia với rất nhiều dân tộc thiểu số đang sinh

sống. Việc định canh, định cư các cộng đồng người dân tộc thiểu số đã trở

thành một chính sách chính thức.

Điển hình do chương trình định canh, định cư do dân bản mà Chính

phủ cho vùng họ đang sống tại những môi trường khó có thể cư trú và khó

tiếp cận được với các dịch vụ (vùng sâu, vùng xa như khu vực núi cao hiểm

25

trở tại vùng Tây Nam). Rất nhiều trường hợp người dân được di chuyển một

khoảng cách khá xa đến một vùng thời tiết, khí hậu, sinh thái, hệ thống sản

xuất và những yếu tố về văn hoá xã hội hoàn toàn khác lạ. Do tính chất của

việc định canh, định cư của Trung Quốc như vậy, làm cho người dân cảm

thấy rất khó khăn trong việc thích ứng với môi trường mới, đó cũng là nguyên

nhân dẫn đến tình trạng đói nghèo, nên nhiều địa phương đã yêu cầu Chính

phủ trả những người này trở về địa điểm cũ, nơi họ đã ra đi.

Gần đây Trung Quốc đang cố gắng tạo ra những khu tự trị vùng và địa

phương cho các cộng đồng người dân tộc thiểu số, cho phép họ tự quyết định

việc sử dụng đất.

* Nhận xét và những bài học kinh nghiệm rút ra cho Việt Nam: Như

trên đã nêu, có rất nhiều loại hình chương trình định canh, định cư và tái định

canh, định cư; một số chương trình cũng tương tự như các chương trình đã

thực hiện tại Việt Nam và một số chương trình khác biệt. Điểm quan trọng

cần lưu ý đó là các chương trình định canh, định cư đều có thể có những ảnh

hưởng rất sâu sắc đến sinh kế, thu nhập và những khả năng xã hội. Việt Nam

có thể học hỏi rất nhiều từ các chương trình của các nước trong công tác định

canh, định cư và rút ra những bài học kinh nghiệm cho nước ta đó là:

- Chương trình định canh, định cư muốn thực hiện được phải có sự

tham gia của cộng đồng, nơi nào không có sự đồng thuận giữa người dân với

Chính phủ sẽ dẫn đến những cuộc phản đổi (Thái Lan, Lào).

- Tại những nơi mà các chương trình đã cố gắng bắt buộc các cộng

đồng này phải từ bỏ việc du canh và không có những đầu tư thay thế đầy đủ

thì vấn đề an ninh lương thực sẽ bị đe dọa nghiêm trọng (Lào). Chính vì vậy,

việc quy hoạch sử dụng đất mà làm giảm diện tích canh tác du canh mà không

cung cấp những lựa chọn thay thế phù hợp thì hầu hết là không thành công.

Các chương trình nâng cao sản xuất nông nghiệp phải đi cùng với công tác

26

đầu tư cho các lựa chọn thay thế như đầu vào cho sản xuất, xây dựng các kênh

mương, thủy lợi...

- Không thể xoá bỏ được việc canh tác du canh tại một số vùng bởi vì

họ có những lựa chọn thay thế nào phù hợp với môi trường; chính vì vậy, cần

phải chú trọng đến việc nâng cao năng suất hơn là xoá bỏ nó. Chẳng hạn, tại

một số vùng núi nước ta sẽ không thể canh tác lúa nước thành công, nên

chúng ta cần phải có những mô hình nông lâm kết hợp với việc chăn nuôi như

là một lựa chọn thay thế và cho phép một số vùng tiếp tục canh tác quay

vòng.

- Các chương trình phải được đầu tư hợp lý, hoạt động đa dạng và an

ninh lương thực phải là mục tiêu hàng đầu.

- Người dân phải được tham gia vào quá trình lập kế hoạch từ đầu đến

cuối; các kế hoạch cần phải được phát triển tại cấp thấp nhất (thôn, bản)

nhưng cần phải được gắn liền với quy hoạch vùng, đặc biệt là việc quy hoạch

sử dụng đất vùng.

- Những khoản đầu tư quy mô nhỏ (cấp thôn, bản) vào việc đa dạng hoá

nông nghiệp và một số công trình hạ tầng quy mô nhỏ như chợ, đường sá,

trường học và đào tạo khuyến nông tỏ ra là một chiến lược hiệu quả nhất. Đầu

tư tại cấp phù hợp và trong nhiều lĩnh vực là chìa khoá của sự thành công.

1.4.2. Kinh nghiệm một số địa phương về định canh, định cư

Định canh, định cư là một vấn đề quan trọng trong chiến lược phát triển

kinh tế - xã hội ở các vùng dân tộc thiểu số và miền núi ở Việt Nam. Thực tế

triển khai công tác định canh, định cư ở nhiều địa phương có những cách làm

sáng tạo có hiệu quả. Bài học kinh nghiệm của các địa phương rất cần thiết

khi nghiên cứu vận dụng vào điều kiện cụ thể của địa phương mình.

* Cao Bằng: Là một tỉnh miền núi, vùng cao biên giới, nền kinh tế còn

hết sức khó khăn, sản xuất chủ yếu vẫn là nông nghiệp và mang tính tự cung

27

tự cấp, khó khăn nhất vẫn là ở các vùng sâu, vùng xa, vùng căn cứ cách mạng

kháng chiến cũ. Kinh nghiệm thành công nổi bật của Cao Bằng trong thực

hiện công tác định canh, định cư đó là Cao Bằng luôn thấy rõ mối quan hệ

giữa định canh, định cư với xoá đói giảm nghèo: Thực hiện định canh, định

cư mục đích chủ yếu là khai thác tốt những tiềm năng có ưu thế của vùng,

trên cơ sở đó mà phát triển tổng hợp các ngành để tăng thu nhập nâng cao đời

sống cho đồng bào, xoá được đói, giảm được nghèo.

Vì vậy, công tác định canh, định cư (các dự án) của Cao Bằng đều được

đưa vào nội dung của chương trình xoá đói giảm nghèo của tỉnh trong từng

giai đoạn. Nhiệm vụ xoá đói giảm nghèo tuy là một dự án riêng, nhưng luôn

được lồng ghép với các dự án định canh, định cư.

* Lâm Đồng: Là một tỉnh miền núi phía Nam Tây Nguyên có 23.000

hộ, 140.000 người dân tộc bản địa sinh sống chiếm 20% dân số toàn tỉnh.

Từ kết quả của cuộc vận động định canh, định cư của Lâm Đồng trong

nhiều năm qua có thể thấy một số bài học kinh nghiệm thành công nổi bật

đó là:

- Lâm Đồng luôn đặt công tác định canh, định cư là một công tác trọng

tâm trong tổng thể chương trình phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, đồng thời

đòi hỏi sự tham gia của nhiều ngành, vì nếu chỉ riêng ngành nông nghiệp thì

không thể thành công được. Những năm qua, tỉnh Lâm Đồng đã rất chú trọng

vấn đề này nên trong thời gian tương đối ngắn đã định canh, định cư tương

đối tốt cho đồng bào bản địa ở địa bàn rất khó khăn.

- Giải quyết dứt điểm từng địa bàn tùy khả năng đầu tư theo phương

pháp cuốn chiếu với phương châm "làm từ khó đến dễ", nơi khó làm trước,

nơi dễ làm sau. Sở dĩ tỉnh Lâm Đồng quyết định làm từ khó đến dễ là vì có

làm những điểm khó thì mới có nhiều kinh nghiệm và chứng minh được rằng

nơi khó làm được thì nơi dễ càng thuận lợi hơn. Do đầu tư dứt điểm từng địa

28

bàn nên tỉnh Lâm Đồng đã tập trung được nguồn vốn, trung bình mỗi hộ được

đầu tư bình quân 20 triệu đồng. Muốn đầu tư dứt điểm từng địa bàn theo

phương pháp cuốn chiếu không dễ thì hiện nay nhiều địa phương thường đầu

tư dàn trải, bình quân, muốn làm vừa lòng tất cả các nơi.

- Tỉnh đã xây dựng phương hướng sản xuất cho vùng định canh, định

cư một cách phù hợp, trong đó Lâm Đồng đặc biệt hết sức coi trọng việc xây

dựng vườn cây lâu năm cho mọi gia đình. Vườn cây lâu năm có ý nghĩa quan

trọng đối với việc định canh, vì nó như một tài sản cố định đặc biệt thường

xuyên sinh lợi để đảm bảo đời sống cho đồng bào, vì vậy đồng bào quyết tâm

định canh, định cư. Thực tế cho thấy nơi nào làm tốt vườn cây lâu năm thì

định canh, định cư rất vững chắc và đời sống của đồng bào dân tộc được cải

thiện rõ rệt.

* Bắc Giang: là một tỉnh miền núi, hiện nay toàn tỉnh có 75 xã thuộc

diện vận động định canh, định cư, bao gồm 291 thôn bản 11.624 hộ, 66.997

khẩu tập trung chủ yếu ở Sơn Động, Lục Ngạn và các xã vùng cao thuộc Lục

Nam và Yên Thế. Những năm gần đây công tác định canh, định cư ở Bắc

Giang đã được quan tâm đầu tư phù hợp, nên đã thu được nhiều thành công,

đặc biệt là đã ổn định và định canh, định cư được hơn 4.000 hộ đồng bào dân

tộc thiểu ở miền núi và vùng cao của tỉnh, đến nay tình trạng di cư tự do, vô

tổ chức vào các tỉnh Tây Nguyên hầu như chấm dứt, thậm chí một số hộ đồng

bào dân tộc đã di cư tự do vào Nam lại quay về yên tâm sản xuất. Điểm nổi

bật của Bắc Giang là đã xây dựng được các mô hình kinh tế trang trại trồng

cây nông nghiệp, cây công nghiệp, cây ăn quả, vườn đồi, chăn nuôi, bước đầu

cho thu nhập có hiệu quả (xã Lệ Viễn, Sơn Động là một điển hình).

Bên cạnh đó, Bắc Giang còn xây dựng các mô hình trình diễn về các

loại cây công nghiệp, cây ăn quả, chăn nuôi gia súc... tăng cường công tác

khuyến nông, lâm, thú y phòng trừ dịch bệnh, tạo niềm tin cho dân. Hướng

29

dẫn tham gia, tập huấn, thực hành từng bước chuyển giao kỹ thuật công nghệ

mới. Trong đó chương trình tập huấn đơn giản, dễ hiểu, không nặng về lý

thuyết mà chủ yếu là thực hành, đây cũng là một kinh nghiệm thành công của

Bắc Giang.

30

Chương 2

thực trạng công tác định canh định cư

và xoá đói giảm nghèo ở Hà Giang

2.1. thực trạng công tác định canh định cư

2.1.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội của vùng định canh định

cư tỉnh Hà Giang

Hà Giang là tỉnh vùng cao biên giới phía Bắc của Tổ quốc, phía Bắc

giáp Trung Quốc, phía Nam giáp tỉnh Tuyên Quang, phía đông giáo tỉnh Cao

Bằng, phía Tây giáp tỉnh Yên Bái và Lào Cai. Tổng diện tích tự nhiên là 7.923,2 km2. Toàn tỉnh gồm 10 huyện và 1 thị xã với 195 xã phường thị trấn

Hà Giang có đường biên giới Việt Trung dài 274km qua 7/11 huyện thị của

tỉnh, có dân số trên 69 vạn người, với 22 dân tộc, trong đó dân tộc Mông

chiếm 30%, Tày 25%, Dao 15%, Kinh 11%, Nùng 9%.

* Phạm vi vùng định canh, định cư

Vùng định canh, định cư tỉnh Hà Giang nằm trên phạm vi 1.339 thôn

bản (chiếm 80,5% số thôn bản toàn tỉnh( thuộc 174 xã (chiếm 89,3% số xã

toàn tỉnh), trong đó có 5 xã thuộc khu vực I, 46 xã, thị trấn thuộc khu vực II

và 123 xã thuộc khu vực III [20, tr.9].

* Quy mô của vùng định canh, định cư

- Về dân số:

Tổng dân số trong vùng định canh, định cư khoảng 65,5 vạn người

(bằng 95% dân số toàn tỉnh) và 94.559 hộ (94% số hộ toàn tỉnh), trong đó

diện cần vận động định canh, định cư của toàn tỉnh là 60.103 hộ (chiếm 60%

số hộ toàn tỉnh), 437.460 khẩu (chiếm 63,4% dân số toàn tỉnh), trong đó:

+ Diện du canh du cư: không còn

+ Diện du cư du canh: 23.053 hộ

31

+ Diện định canh, định cư chưa ổn định: 37.050 hộ

- Về quy mô diện tích:

Tổng diện tích tự nhiên: 771.052 ha

Trong đó: Đất nông nghiệp là 134.880 ha; đất lâm nghiệp 373.990 ha, đất

chuyên dùng 5.046 ha, đất ở 5.616 ha, đất chưa sử dụng 251.520 ha [20, tr.9].

* Đặc điểm tự nhiên của vùng định canh, định cư

Do ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên, tỉnh Hà Giang được chia làm 3

tiểu vùng:

- Tiểu vùng cao núi đá: gồm các xã trong vùng định canh, định cư của 4

huyện: Đồng Văn, Mèo Vạc, Yên Minh, Quản Bạ. Độ cao tuyệt đối trung

bình 1000 - 1600m, địa hình bị chia cắt phức tạp nhất so với các vùng khác

trong tỉnh, khí hậu mang nhiều sắc thái ôn đới.

- Tiểu vùng cao núi đất: Gồm các xã trong vùng định canh, định cư của

2 huyện Xín Mầm, Hoàng Su Phì. Độ cao tuyệt đối trung bình 600 - 1200m,

khí hậu phù hợp với cây trồng ôn đới, cận nhiệt đới.

- Tiểu vùng núi thấp: Gồm các xã trong vùng định canh, định cư của

các huyện Vị Xuyên, Bắc Quang và thị xã 2. Độ cao tuyệt đối trung bình 250

- 6000m, địa hình ít phức tạp hơn so với các tiểu vùng trên, khí hậu mang sắc

thái nhiệt đới.

- Về thổ nhưỡng: Có 18 loại đất chính được phân phối theo 5 nhóm đất

chính: Nhóm đất phù sa, nhóm đất gley, nhóm đất đen, nhóm đất xấu, nhóm

đất nâu đỏ.

- Nguồn nước: Vùng định canh, định cư tỉnh Hà Giang thuộc lưu vực

của các sông lớn: Sông Lô, sông Chảy, sông Gâm, sông Nhiệm, sông Sảo và

rất nhiều các sông suối nhỏ khác.

* Điều kiện về kinh tế - xã hội vùng định canh, định cư

32

- Về kinh tế: Trong những năm qua, kinh tế Hà Giang nói chung và toàn

vùng định canh, định cư nói riêng đã có những bước chuyển biến cơ bản, các

ngành, các lĩnh vực kinh tế đều được chú trọng đầu tư phát triển. Các nguồn

lực được huy động và sử dụng có hiệu quả hơn. Chính vì thế kinh tế Hà Giang

đã đạt được những thành tựu nổi bật sau:

+ Trong lĩnh vực sản xuất công nghiệp đã mở rộng quy mô và phát

triển theo nhiều ngành nghề sản xuất mới, có nhiều cơ sở khai khoáng, tuyển

quặng, sản xuất vật liệu xây dựng, chế biến nông lâm sản. Các nghề tiểu thủ

công nghiệp truyền thống như rèn, đúc, dệt thổ cẩm được khơi dậy và phát

triển mạnh, các nghề mới về thủ công mỹ nghệ, sản xuất hàng mây tre đan

xuất khẩu được khuyến khích phát triển, góp phần giải quyết việc làm và

chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn.

+ Nông nghiệp được chú trọng phát triển toàn diện, cơ cấu cây trồng

vật nuôi được chuyển dịch theo hướng sản xuất hàng hoá, nhận thức của nông

dân đã có sự thay đổi đáng kể tập quán canh tác cũ, từ nền sản xuất độc canh,

tự cấp, tự túc là chính, đến nay họ đã tích cực đẩy mạnh ứng dụng tiến bộ

khoa học kỹ thuật vào sản xuất, tăng diện tích thâm canh, góp phần tăng năng

suất, chất lượng sản phẩm, hình thành các vùng chuyên canh sản xuất hàng

hoá.

+ Hoạt động thương mại và dịch vụ phát triển nhanh chóng, cơ chế hoạt

động thông thoáng đã khuyến khích được các thành phần kinh tế tham gia,

đáp ứng một cách đầy đủ và thuận lợi cho nhu cầu sản xuất và đời sống xã hội

trên địa bàn tỉnh

Từ những kết quả trên, tốc độ tăng tỷ trọng GDP bình quân của tỉnh

luôn đạt tốc độ cao, giai đoạn 2001 - 2005 là 10,5%; thu nhập bình quân đầu

người đạt 3,2 triệu đồng, tăng 1,9 lần so với năm 2000 [14, tr.1].

- Văn hoá, xã hội

33

Văn hoá - xã hội phát triển ổn định và lành mạnh, đã tạo ra bước phát

triển mới về nâng cao dân trí, bồi dưỡng nhân lực, từng bước đáp ứng nhu

cầu đời sống tinh thần, văn hoá của nhân dân. Tỷ lệ huy động học sinh

trong độ tuổi đến trường, số học sinh ở các cấp học, bậc học ngày một tăng;

tỉnh đã được công nhận là tỉnh đạt chuẩn quốc gia về xoá mù chữ, phổ cập

tiểu học năm 1999; đến cuối năm 2005 tỉnh đã có 7 huyện, thị với 175 xã

phường, thị trấn được công nhận phổ cập trung học cơ sở; ở các thôn bản

đều có lớp học, 100% xã, phường, thị trấn có trường tiểu học, các huyện

đều có trường cấp III.

Công tác khám chữa bệnh, chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân và phòng

dịch bệnh được đảm bảo thường xuyên và không ngừng nâng cao về chất

lượng. Đội ngũ cán bộ y tế được củng cố, hiện toàn; công tác dân số kế hoạch

hoá gia đình hoạt động tích cực góp phần hạ tỷ lệ tăng dân số tự nhiên còn

1,66%năm 2005.

Phong trào đấu tranh chống các tệ nạn xã hội, loại trừ các thủ tục lạc

hậu và xây dựng gia đình văn hoá, làng văn hoá được triển khai rộng khắp và

thu hút được đông đảo nhân dân hưởng ứng.

Hoạt động của chính quyền các cấp đã phát huy tốt vai trò cơ quan

quản lý điều hành, thực hiện chức năng nhiệm vụ đúng luật. Mặt trận tổ quốc

và các đoàn thể nhân dân không ngừng đổi mới tổ chức bộ máy và cán bộ về

nội dung và phương thức hoạt động vận động đoàn viên hội viên và nhân dân

tích cực định canh, định cư ổn định, xoá đói giảm nghèo nhanh chóng.

2.1.2 Các nhân tố ảnh hưởng đến kết quả thực hiện định canh định

cư ở Hà Giang

Cú thể núi định canh, định cư là công tác rất quan trọng của Đảng và

Nhà nước ta, làm tốt công tác này là góp phần vào thực hiện chính sách dân

tộc của Đảng và góp phần phát triển kinh tế - xã hội, xoá đói giảm nghèo ở

34

miền núi, không ngừng củng cố an ninh quốc phòng bảo vệ môi trường sinh

thái, giải quyết vấn đề du canh du cư một cách triệt để nhằm ngăn chặn tình

trạng phá rừng làm rẫy, huỷ hoại môi trường sinh thái. Tuy nhiên thực tế triển

khai công tác này tại Hà Giang cho thấy có nhiều nhân tố ảnh hưởng đến kết

quả thực hiện công tác định canh, định cư cũng như mục tiêu của công tác này

đó đề ra trên đây.

- Các yếu tố tự nhiên:

Do ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên, vựng định canh, định cư được

chia thành 3 tiểu vùng với những đặc điểm khác nhau rõ rệt đặc biệt là tiểu

vùng cao núi đá và tiểu vùng cao núi đất. Vùng này có điều kiện tự nhiên

khắc nghiệt, diện tích chủ yếu là núi đá, giao thông đi lại khó khăn, thường bị

ách tắc về mùa mưa, địa hình bị chia cắt, độ dốc lớn, nên rất thiếu nước sinh

hoạt và sản xuất, thậm chí ở hầu hết các huyện vùng cao mỗi năm có 6 tháng

hanh khô không đủ nước sinh hoạt, càng không đủ nước phục vụ sản xuất đến

nỗi có tình trạng mỗi hộ gia đình ở vùng cao thường có 1 lao động chuyên

làm nhiệm vụ "cõng" nước về cho gia đình, và phải đi xa tới hơn chục km. Do

điều kiện canh tác, sản xuất khó khăn như vậy đã ảnh hưởng rất nhiều đến kết

quả thực hiện công tác định canh, định cư, nhất là mục tiêu xoá đói giảm

nghèo của các chương trình dự án định canh, định cư.

Không những thế, với địa hình đặc biệt của nhiều huyện vùng cao Hà

Giang, nói một cách hình ảnh là "sống trên đá, chết vùi trong đá" nên tình

trạng thiếu đất sản xuất - một điều kiện cơ bản để định canh, định cư cũng là

điều dễ hiểu với 16.467 hộ (chiếm 23,5%). Thực tế do các huyện vùng cao

của Hà Giang chủ yếu là núi đá, độ dốc lớn, bị xói mòn, có những nơi đến

mùa sản xuất bà con phải gùi đất lên bỏ vào hốc đá để giao hạt nhưng chỉ

được một vụ, mùa mưa đất lại bị trôi mất, và mùa sau lại lặp lại quy trình gùi

đất, cứ như thế năm này qua năm khác. Mặc dù là tỉnh miền núi, mật độ dân

35

số trung bình thấp nhưng ở các huyện vùng cao của tỉnh diện tích canh tác

bình quân đầu người chỉ từ 0,3 - 0,5 ha/1 lao động và hệ số sử dụng đất chỉ

đạt từ 1 - 1,3 lần, lại độc canh là phổ biến, nên năng suất cây trồng thấp.

Những năm trước đây vấn đề di cư tự do trên địa bàn tỉnh, và từ tỉnh nhà sang

các tỉnh khác cũng chính là do vấn đề đất đai canh tác.

* Các yếu tố kinh tế

- Là một tỉnh nghèo, còn gặp khó khăn nhiều mặt trong đời sống, xã

hội, xuất phát điểm của nền kinh tế - xã hội còn rất thấp so với khu vực và cả

nước, mặt khác, với nền kinh tế quy mô nhỏ và phát triển chậm, thu ngân sách

hàng năm của tỉnh chỉ đảm bảo được 12% tổng chi, phần còn lại phải do ngân

sách trung ương hỗ trợ nên việc đầu tư, thực hiện các chương trình, dự án

định canh, định cư gặp rất nhiều khó khăn.

- Kết cấu hạ tầng còn thiếu và yếu kém, đã ảnh hưởng không nhỏ đến

sản xuất và đời sống nhân dân vùng định canh, định cư vốn đã rất khó

khăn. Trên thực tế một số vùng không có nước, không thể xây dựng hệ

thống thuỷ lợi, tưới chủ động được, nước sản xuất hoàn toàn phụ thuộc vào

thiên nhiên, do đó sản xuất bấp bênh và kém hiệu quả. Chính điều này đã

cản trở sự phát triển của sản xuất nông nghiệp, gây khó khăn cho đời sống

người dân. Mặt khác đường giao thông Hà Giang, đặc biệt là vùng cao còn

rất khó khăn, nhiều nơi còn bị ách tắc, nhất là mùa mưa, điều đó hạn chế

sản xuất và tiêu thụ sản phẩm hàng hoá của các vùng, cá biệt có trường hợp

không thể xây dựng đường sá đến khu dân cư vì kinh phí quá lớn do địa

hình quá hiểm trở. Cùng với hệ thống giao thông, thuỷ lợi yếu kém, nước

sinh hoạt v.v... không đảm bảo đã ảnh hưởng không ít đến sức khoẻ, trình

độ dân trí, lao động sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân

vùng định canh, định cư.

36

- Hệ thống cơ chế chính sách (kinh tế, xã hội) là nhân tố quan trọng tác

động đến quá trình thực hiện công tác định canh, định cư. Việc xoá bỏ cơ chế

tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường là cần thiết, nhưng bên

cạnh những ưu thế tích cực còn có những hạn chế nhất định như sự phân hoá

giầu nghèo giữa các tầng lớp dân cư, giữa các vùng khác nhau nhất là ở vùng

sâu, vùng xa. Mức đầu tư cho xây dựng công trình công cộng phúc lợi xã hội

thấp, cơ cấu đầu tư giữa vùng định canh, định cư với khu vực khác giảm. Cơ

chế chính sách chậm đổi mới và không đồng bộ, chưa có chính sách hỗ trợ

thoả đáng cũng là nhân tố quan trọng hạn chế việc đảm bảo các mục tiêu của

công tác định canh, định cư nói chung.

* Các yếu tố xã hội

- Trình độ văn hoá, dân trí: Trong giai đoạn hiện nay, một số ít đồng

bào dân tộc thiểu số ở Hà Giang có kiến thức đã chủ động trong sản xuất, số

đồng bào này nhờ có kiến thức và kinh nghiệm làm ăn, họ đã huy động và sử

dụng có hiệu quả các yếu tố của quá trình sản xuất, nhờ đó đã vươn lên tự làm

giầu bằng chính sức lực và trí tuệ của mình. Ngược lại, còn nhiều hộ trong

vùng định canh, định cư trình độ dân trí thấp, không có kinh nghiệm sản xuất,

nặng về độc canh, thiếu kiến thức và kinh nghiệm sản xuất. Đó cũng là nhân

tố khiến cho những hộ nghèo đói thuộc diện vận động định canh, định cư

không huy động được các nguồn lực cho sản xuất, hoặc khi đã có tương đối

đầy đủ các nguồn lực thì họ sử dụng nó có hiệu quả thấp hoặc không có hiệu

quả, chẳng hạn nhiều hộ không có vốn nhưng không chịu vay vốn, không biết

vay để làm gì, hoặc khi có đất cũng không biết sản xuất cái gì, sản xuất như

thế nào?

- Phong tục tập quán lạc hậu, đặc biệt là tập quán canh tác lạc hậu cũng

là một yếu tố ảnh hưởng tới kết quả định canh, định cư ổn định. Do tập quán

lạc hậu và tập tục nặng nề của một số vùng dân tộc như ma chay, đình đám,

37

thả trâu bò rông, không tha thiết với việc học hành, tình trạng chặt phá rừng

bừa bãi... Thực tế các hộ nghèo là đồng bào dân tộc thuộc diện vận động định

canh, định cư ở Hà Giang vẫn còn sản xuất theo tập quán đã ăn sâu vào tiềm

thức, hết sức thủ công lạc hậu, nên năng suất lao động lại thấp mà hao phí

thời gian lao động lại cao. Mặt khác, tâm lý trông chờ ỷ lại vào Nhà nước

không chịu suy nghĩ là tâm lý phổ biến, nhất là nhân dân các vùng sâu, vùng

xa, vùng đặc biệt khó khăn.

- Tình trạng thất nghiệp, thiếu việc làm còn cao; cơ cấu lao động và

chất lượng lao động chuyển dịch chậm, năng suất lao động thấp, việc làm

chưa bền vững ở Hà Giang trong những năm qua đã dẫn đến nẩy sinh những

cản trở rất lớn đến công tác định canh, định cư như các vấn đề tệ nạn cờ bạc,

ma tuý, mê tín và di cư tự do do bị lôi kéo, kích động.

Ngoài những nhân tố trên còn có các nhân tố ảnh hưởng đến kết quả

công tác định canh, định cư như các yếu tố từ phía tổ chức bộ máy hoạt động;

cụ thể là năng lực tổ chức quản lý của ban lãnh đạo, trình độ khả năng của đội

ngũ nhân sự làm công tác định canh, định cư.

2.1.3. Kết quả thực hiện công tác định canh định cư ở Hà Giang từ

2000 đến nay

Trong thời gian vừa qua, được sự hỗ trợ đầu tư của Nhà nước, công tác

định canh, định cư tỉnh Hà Giang đã góp phần ổn định đời sống cho nhiều hộ

đồng bào dân tộc thiểu số, tăng diện tích canh tác bằng khai hoang phục hoá,

làm ruộng bậc thang, nương xếp đá, nhiều hộ có vườn cây ăn quả, cây công

nghiệp và đặc sản, có thêm sức kéo, nhiều khu vực rừng tự nhiên được

khoanh nuôi bảo vệ, vùng đất trồng đồi trọc được phủ xanh. Chương trình

định canh, định cư cũng đã hỗ trợ xây dựng một số cơ sở hạ tầng như giao

thông nông thôn, thủy lợi, thủy điện... các công trình phúc lợi như trạm xá,

38

trường học, trụ sở UBND xã...; hỗ trợ làm nhà cho những hộ gia đình quá

nghèo; kết quả tiêu biểu cụ thể như sau:

- Kết quả vận động đồng bào định canh, định cư:

Với mục tiêu ổn định đời sống và sản xuất kết hợp sắp xếp lại dân cư

trong vùng nhằm chấm dứt tình trạng du cư, không còn hộ đói, giảm hộ

nghèo. Đối với tỉnh Hà Giang giai đoạn 2001 - 2005 đã tổ chức định canh,

định cư cho 23.053 hộ, còn định cư, du canh và 37.050 hộ đã định canh, định

cư nhưng chưa ổn định. Đến hết 2005 đã chấm dứt tình trạng du canh, ổn định

đời sống và sản xuất [1, tr.3].

- Một số kết quả cụ thể về khối lượng thực hiện kế hoạch định canh,

định cư [1, tr.5]:

+ Phát triển sản xuất:

. Khai hoang : 6545 ha

. Làm nương xếp đá : 1000 ha

. Trồng cây công nghiệp, cây đặc sản : 8000 ha

. Trồng cây ăn quả : 350 ha

. Khoanh nuôi phục hồi rừng : 39055 ha

. Bảo vệ rừng : 90770 ha

. Trồng mới và chăm sóc rừng : 25.000 ha

: 1840 ha . Kinh tế hộ

: 3500 con . Vay chăn nuôi

+ Xây dựng cơ sở hạ tầng:

. Xây dựng thủy lợi nhỏ: 30 công trình, tưới = 400 ha.

. Xây dựng và sửa chữa thủy điện nhỏ : 5 công trình

. Xây dựng và sửa chữa trường học

: 20.000 m2 : 1.944 m2

. Xây dựng và sửa chữa trạm xá . Trụ sở phòng dân tộc tôn giáo định canh, định cư huyện: 144m2

39

. Trung tâm cụm xã : 20 trung tâm

+ Hỗ trợ di chuyển và ổn định dân cư.

. Di dãn dân nội vùng : 5.000 hộ

. Trợ cấp làm nhà : 364 hộ

. Trợ cấp sản xuất : 14.370 hộ

. Trợ cấp đời sống : 12.000 hộ

Trong đó tiêu biểu là các dự án hỗ trợ ổn định và phát triển sản xuất

luôn được nhân dân trông đợi và hưởng ứng như: dự án bảo quản ngô sau thu

hoạch (cấp thùng bảo quản và máy tẽ ngô quay tay, đồng thời tập huấn,

hướng dẫn sử dụng chi tiết đến từng hộ); các dự án khác như: hỗ trợ trồng cỏ;

hỗ trợ sản xuất đậu tương giống, hỗ trợ trồng thảo quả; hỗ trợ phát triển cây có

giá trị kinh tế (mày nếp, hoa hoè, bạc hà)... thực sự đáp ứng nguyện vọng của

nhân dân.

- Về vốn đầu tư: chỉ tính riêng từ 2001 - 2005 tổng số vốn đầu tư là

517.851 triệu đồng bao gồm cả vốn ngân sách vốn vay, với cơ cấu đầu tư như

sau: phát triển sản xuất nông lâm nghiệp 33,6%; xây dựng cơ sở hạ tầng và

phúc lợi 58,2%; hỗ trợ ổn định dân cư và quản lý 8,2% [1, tr.6].

- Hỗ trợ về cách làm ăn, khuyến nông, khuyến lâm cho đồng bào định

canh, định cư.

Hướng dẫn cho đồng bào cách làm ăn, khuyến nông, khuyến lâm được

coi là một trong những khâu then chốt, quyết định đến thắng lợi của công tác

định canh, định cư. Trong thời gian qua Chi cục đã tổ chức rất nhiều lớp tập

huấn kỹ thuật và kinh nghiệm sản xuất cho 2.300 lượt người; tổ chức trình

diễn 140 mô hình cây con tại 142 xã đặc biệt khó khăn của tỉnh. Qua đó đã

thực sự giúp cho đồng bào tại các xã vùng định canh, định cư nâng cao kiến

thức sản xuất hiệu quả. Tiêu biểu là việc chuyển giao công nghệ kỹ thuật mới

thông qua các mô hình như: Mô hình sản xuất khoai tây giống; mô hình nhân

40

rộng giống lúa thuần bản địa chất lượng cao và sản xuất; mô hình gà đen vùng

cao; xây dựng mô hình chăn nuôi gắn với trồng cỏ... Đó là những mô hình đạt

kết quả cao góp phần thực hiện mục tiêu ổn định phát triển sản xuất gắn với

chế biến và tiêu thụ sản phẩm là một trong những khó khăn rất lớn của đồng

bào định canh, định cư tỉnh Hà Giang.

- Công tác vận động hạ sơn.

Đây là một chủ trương đúng đắn của tỉnh đã được nhân dân đồng tình

cao tự giác thực hiện nhằm quy hoạch sắp xếp bố trí dân cư ở phân tán quy tụ

theo làng bản có đường ô tô đi lại thuận lợi, có điện thắp sáng, có điều kiện đầu

tư xây dựng cơ sở hạ tầng. Nhờ có cơ chế chính sách đầu tư thoả đáng của tỉnh,

nhân dân đã tích cực thực hiện, trong 5 năm đã hỗ trợ hạ sơn được 2563 hộ.

Ngoài ra thông qua việc thực hiện các dự án định canh, định cư, kinh tế

mới, cụ thể là dự án di dân biên giới trong 5 năm đã hỗ trợ 507 hộ di cư ra

vùng biên giới ổn định cuộc sống [1, tr.7].

2.1.4. Đánh giá kết quả công tác định canh định cư của Hà Giang

* Những thành tựu đạt được

Trong những năm qua, công tác định canh, định cư ở Hà Giang đã đạt

được những kết quả to lớn sau:

- Công tác định canh, định cư những năm gần đây chủ yếu thực hiện

theo hướng đầu tư tập trung theo dự án nên đã xác định điểm đầu tư tập trung

và đúng đối tượng là đồng bào dân tộc thiểu số đặc biệt khó khăn hoặc đồng

bào khác còn đói nghèo để xây dựng dự án đầu tư một cách thiết thực nhất;

đồng thời đã đầu tư đúng mục tiêu là: tạo được môi trường thuận lợi cho

người dân vùng định canh, định cư có điều kiện học hành, bảo vệ sức khoẻ và

đặc biệt là việc tổ chức lại sản xuất, phát triển kinh tế nhằm xoá đói giảm

nghèo vươn lên làm ăn để có kinh tế ổn định.

41

- Do tổ chức định canh, định cư theo dự án với những mục tiêu và nhiệm

vụ cụ thể, lấy hộ làm đơn vị kinh tế tự chủ, phát triển sản xuất theo hướng sản

xuất hàng hoá và đầu tư cơ sở hạ tầng, phúc lợi... đã tạo điều kiện cho việc tập

trung vốn, sử dụng vốn đúng mục đích và có hiệu quả. Công tác định canh, định

cư đã có sự chuyển biến nhanh hơn, đạt được kết quả rõ nét hơn.

- Vốn đầu tư theo dự án được tính toán một cách đồng bộ và toàn diện,

bao gồm cả ổn định và phát triển sản xuất, đời sống, xây dựng cơ sở hạ tầng

và phúc lợi cộng đồng. Đây chính là những điểm cơ bản để ổn định dân cư.

Qua thực tế đầu tư của chương trình định canh, định cư cho thấy có cần đầu

tư cho sản xuất nông - lâm nghiệp 30 - 40%; xây dựng cơ sở hạ tầng 50 -

60%; vay không lãi 5 - 10%; hỗ trợ sản xuất, đời sống và di dân khoảng 5%

như những năm qua là hợp lý. Mặt khác, vì vốn đầu tư đã thực sự đến tay

người dân nên đã góp phần tích cực giúp người dân vượt qua thời kỳ đói giáp

hạt và ổn định sản xuất, đời sống để định canh, định cư. Đặc biệt vốn đầu tư

cho xây dựng cơ sở hạ tầng với những công trình đã được xây dựng xong

luôn phát huy tác dụng tốt trong việc phục vụ sản xuất và đời sống ở vùng dự

án, làm thay đổi căn bản bộ mặt nông thôn miền núi vùng cao. Làm nền tảng

vững chắc cho việc mở rộng sản xuất cho những năm sau.

- Thông qua thực hiện các dự án định canh, định cư đã tạo điều kiện

cho các hộ có đủ diện tích sản xuất để giải quyết an toàn lương thực, trên cơ

sở đó mới có điều kiện chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi theo hướng sản

xuất hàng hoá; đồng thời thông qua việc thực hiện các dự án định canh, định

cư còn góp phần nâng cao dân trí, tạo điều kiện cho người dân tiếp thu dần

với những tiến bộ khoa học kỹ thuật, tạo cho họ làm quen với những phương

thức sản xuất tiên tiến, phù hợp với xu thế phát triển chung của đất nước.

* Những hạn chế trong việc thực hiện định canh, định cư

42

Mặc dù đã đạt được những kết quả đáng mừng trên đây, nhưng so với

nội dung của công tác định canh, định cư và yêu cầu của nhiệm vụ phát triển

kinh tế - xã hội, xoá đói giảm nghèo thì quá trình tổ chức thực hiện công tác

định canh, định cư của tỉnh Hà Giang trong thời gian qua còn bộc lộ một số

hạn chế sau:

- Kinh tế - xã hội vùng định canh, định cư tuy có chuyển biến tiến bộ

nhiều mặt, nhưng chưa ổn định và vững chắc; trình độ canh tác của đồng bào

dân tộc thiểu số còn lạc hậu, công cụ sản xuất thô sơ. Sản xuất còn mang tính

quảng canh, năng suất thấp, một bộ phận đồng bào còn thiếu đói, nhất là lúc

giáp hạt; kinh tế hộ tuy đã được quan tâm đầu tư nhưng do nhiều nguyên nhân

nên hiệu quả kinh tế chưa cao.

- Định canh định cư cho đồng bào còn nặng về đầu tư xây dựng cơ sở

hạ tầng, song có lúc lại đầu tư chưa đồng bộ, vẫn còn giải quyết theo kiểu

"cấp bách tình thế"; chưa tập trung nghiên cứu, tổ chức thực hiện mạnh mẽ

việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi phù hợp với lợi thế của từng vùng

để tạo ra các sản phẩm hàng hoá có giá trị kinh tế cao; chưa mở rộng các

ngành nghề dịch vụ phục vụ trong vùng đồng bào định canh, định cư; điều

kiện cho sản xuất, đời sống chưa ổn định, tỷ lệ đói nghèo còn cao, nguy cơ tái

du canh vẫn có thể xảy ra.

- Tuy đã định cư, nhưng nhiều nơi đồng bào dân tộc vẫn còn sống rải

rác, phân tán hoặc quá tập trung theo kiểu quần cư tự phát; chưa thực hiện

tốt việc quy hoạch bố trí dân cư và sắp xếp lại sản xuất như quy hoạch

được duyệt.

- Nguồn vốn cấp phát không đáp ứng yêu cầu của dự án, dẫn đến các

dự án định canh, định cư kéo dài thời gian ảnh hưởng tới mục tiêu dự án; vốn

đầu tư cấp ít lại nhỏ giọt gây khó khăn cho việc thực hiện dự án, không những

thế, quy mô đầu tư chưa thật sự tập trung, công tác quản lý, giám sát ở các

đơn vị còn yếu kém, nhiều công trình không phát huy được hiệu quả gây thiệt

43

hại lãng phí tiền của Nhà nước; việc giao kế hoạch hàng năm nhiều khi còn

chậm ảnh hưởng đến việc thực hiện mục tiêu kế hoạch; công tác kế hoạch đôi

khi còn bị động từ khâu xây dựng kế hoạch đến việc chỉ đạo thực hiện kế

hoạch. Tính khả thi của kế hoạch chưa cao nên có năm vẫn phải điều chỉnh kế

hoạch, đặc biệt là việc chuẩn bị đầu tư còn yếu và chậm, các chỉ tiêu thực hiện

ở cơ sở chưa sát, đúng với quy trình hướng dẫn của Nhà nước.

- Về việc sử dụng vốn vay: ở Hà Giang trong những năm qua gặp một

số khó khăn nhất là cho vay trồng cây công nghiệp và kinh tế vườn hộ. Một

mặt do nông dân Hà Giang rất nghèo, lại chưa định hướng được cơ cấu cây

trồng vật nuôi hợp lý cho nên đồng bào không muốn vay sợ đến hạn không trả

được, phát sinh thêm lãi dẫn đến nợ càng nợ thêm. Mặt khác thời hạn cho vay

3 năm đối với các cây trồng lâu năm như cây ăn quả và cây công nghiệp là

ngắn, vì vậy khi đến hạn trả nợ thì nông dân chưa có sản phẩm để bán, trả nợ

ngân hàng.

Một số đơn giá đầu tư nếu áp dụng chung theo quy định của Nhà nước

thì rất khó thực hiện ở tỉnh Hà Giang do điều kiện khó khăn về địa hình, đi lại

vận chuyển... chẳng hạn như định mức đầu tư cho khai hoang ruộng nước

theo quy định là 2 triệu đồng/ha, trong khi thực tế cần 6 - 8 triệu/ha; làm

nương xếp đá vốn cấp 2 triệu/ha, thực tế cần 6,8 triệu/ha.

- Cơ chế quản lý điều hành còn chồng chéo, phân công, phân cấp, cơ

chế phối hợp chưa được đồng bộ giữa tỉnh, huyện và xã giữa cơ quan chuyên

môn làm công tác định canh, định cư và các ban ngành khác, dẫn đến sự thiếu

quan tâm của chính quyền địa phương và một số ngành đi đối với công tác

định canh, định cư.

- Công tác sơ kết, tổng kết đánh giá các dự án chưa thực hiện kịp thời

nhằm đánh giá ảnh hưởng của dự án đối với sự phát triển kinh tế - xã hội, xoá

đói giảm nghèo và đời sống của đồng bào của vùng hưởng dự án, đánh giá

44

hiệu quả thực tế của dự án để rút ra những bài học kinh nghiệm cần thiết cho

công tác định canh, định cư.

* Nguyên nhân

Với những kết quả đạt được và những hạn chế trong quá trình thực hiện

công tác định canh, định cư ở Hà Giang nói trên do những nguyên nhân chủ

yếu sau:

- Nguyên nhân của những kết quả đã đạt được:

+ Một là: Trong quá trình chỉ đạo triển khai tổ chức thực hiện Nghị

quyết và chính sách của Đảng, Nhà nước đối với vùng đồng bào dân tộc thiểu

số nói chung, chính sách xoá đói giảm nghèo, chính sách đối với công tác

định canh, định cư nói riêng ở Hà Giang đã có sự vận dụng sáng tạo, phù hợp

với điều kiện đặc thù của một tỉnh nghèo nhất cả nước; đồng thời đã tập trung

vào những khâu đột phá như phát triển kinh tế là trọng tâm, xoá đói giảm

nghèo là quan trọng trên cơ sở đó xác định: Chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật

nuôi hợp lý, xây dựng cơ sở hạ tầng và giáo dục đào tạo làm cơ sở thúc đẩy

các mặt sản xuất và đời sống phát triển. Đây là nhân tố có ý nghĩa rất lớn

trong việc thực hiện thành công công tác định canh, định cư ở Hà Giang.

+ Hai là: Tuy còn một số hạn chế nhất định nhưng việc thực hiện lồng

ghép các chương trình, dự án trên cùng một địa bàn, do một chủ thể có trách

nhiệm chuyên lo đầu tư đã hạn chế việc trùng lắp hoặc bỏ sót, đồng thời tập

trung đầu mối để có cơ sở để kiểm tra, chỉ đạo trong quá trình thực thi chính

sách đối với vùng đồng bào dân tộc thiểu số.

+ Ba là: Cục Định canh định cư - kinh tế mới thuộc Ban Dân tộc tôn

giáo - Định canh định cư đã phối hợp với Uỷ ban nhân dân các huyện, chỉ dạo

các phòng Dân tộc tôn giáo - Định canh định cư; đồng thời cũng phối hợp và

tranh thủ sự lãnh đạo của các cấp uỷ Đảng, chính quyền cơ sở và các ngành

45

trong tổ chức thực hiện các chỉ tiêu kế hoạch, nhất là những chỉ tiêu đầu tư hỗ

trợ đến hộ.

+Bốn là: Đội ngũ cán bộ làm công tác định canh, định cư núi chung,

nhất là cán bộ Chi cục định canh, định cư thuộc Ban dõn tộc-tụn giỏo, định

canh định cư và các phòng Dân tộc tôn giáo - Định canh định cư về cơ bản có

trình độ chuyên môn vững, giàu kinh nghiệm và tâm huyết với công tác định

canh, định cư. Đây là một thuận lợi để Chi cục có thể thực hiện tốt chức năng

nhiệm vụ của mình nhằm góp phần hoàn thành công tác định canh, định cư.

- Nguyên nhân của những hạn chế:

+ Nguyên nhân khách quan: Du canh du cư là một tồn tại mang tính

lịch sử, là tập quán lâu đời của một bộ phận đồng bào các dân tộc thiểu số ở

các vùng khó khăn về điều kiện sản xuất và đời sống.

Đối tượng định canh, định cư phân bố trên phạm vi rộng, phân tán,

vùng vận động định canh, định cư là vùng khó khăn về mọi mặt: Địa hình

chia cắt, giao thông đi lại khó khăn; điều kiện tự nhiên phức tạp, nghiệt ngã;

dân trí thấp; kinh tế chậm phát triển nên không thể thay đổi tình hình trong

một thời gian ngắn.

+ Nguyên nhân chủ quan:

Nhận thức về công tác định canh, định cư còn giản đơn, chưa lường

trước được những khó khăn, vướng mắc gặp phải trong quá trình tổ chức thực

hiện. Do vậy, một số nơi dã thực hiện công tác định canh, định cư một cách

duy ý chí dẫn tới không đạt được một số chỉ tiêu kế hoạch đề ra trong các

chương trình, dự án.

Công tác tuyên truyền vận động còn hạn chế do chưa thấy hết vai trò của

công tác này, ngoài ra còn tạo ra tâm lý ỷ lại, thụ động trông chờ vào sự bao cấp

của Nhà nước, chưa khơi dậy và phát huy ý thức tự lực tự cường, tự vươn lên để

ổn định sản xuất và đời sống của người dân vùng định canh, định cư.

46

Trong quá trình tổ chức thực hiện việc phối hợp từ Trung ương đến địa

phương, giữa cơ quan chuyên môn và các ban ngành khác chưa chặt chẽ, việc

tổ chức lồng ghép các chương trình dự án trên cùng một địa bàn chưa tốt.

Một số chính sách về hỗ trợ sản xuất và đời sống, xây dựng cơ sở hạ

tầng, quy hoạch, bố trí đất đai, dân cư... chưa phù hợp, việc đầu tư cho công

tác định canh, định cư chưa đồng bộ và đủ mạnh để thực hiện tốt các nhiệm

vụ của công tác định canh, định cư.

Đội ngũ cán bộ làm công tác định canh, định cư và cán bộ người dân

tộc thiểu số còn thiếu và yếu. Bản thân đồng bào thuộc dân tộc vận động định

canh, định cư chủ yếu là người nghèo, trình độ dân trí thấp, ít kinh nghiệm tổ

chức sản xuất, thiếu vốn... là nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả thực

hiện định canh, định cư bền vững.

* Những vấn đề bức xúc đặt ra đòi hỏi phải giải quyết

Với thực trạng công tác định canh, định cư ở Hà Giang còn khá nhiều

những tồn tại hạn chế, điều đó đã đặt ra một số vấn đề bức xúc cần tập trung

giải quyết, đó là:

- Với điều kiện đất đai hiện có và khả năng khai thác đưa vào sử dụng,

nếu được tổ chức sản xuất tốt có thể đủ đảm bảo cho việc ổn định dân cư

trong nội bộ vùng. Vấn đề là phải có điều kiện đầu tư để khai thác hợp lý có

hiệu quả và bền vững tiềm năng đất đai.

- Do sản xuất nông nghiệp ở Hà Giang còn lệ thuộc vào thiên nhiên,

gần 80% diện tích gieo trồng không chủ động được nước. Chuyển dịch cơ cấu

cây trồng vật nuôi chậm nhưng rất khó khăn, nhất là vùng cao chỉ phù hợp với

cây ngô và còn bò địa phương - năng suất, chất lượng sản phẩm và khả năng

sản xuất còn kém; phát triển chăn nuôi còn manh mún, khoán bảo vệ rừng

hiệu quả chưa cao, hiện tượng phá rừng làm nương rẫy vẫn còn. Mặt khác

47

việc phát triển các ngành nghề công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ tại

các vùng định canh, định cư của tỉnh rất khó khăn. Nên vấn đề đặt ra là muốn

xoá đói giảm nghèo, ổn định và nâng cao đời sống cho các hộ gia đình trong

vùng định canh, định cư, cần phải quan tâm đầu tư cho phát triển sản xuất,

trước mắt là sản xuất nông - lâm nghiệp. Cần phải có những biện pháp để mở

rộng sản xuất (khai hoang, làm nương xếp đá, đầu tư thuỷ điện), các biện

pháp cải tạo giống mới, thâm canh tăng vụ, phổ biến kinh nghiệm và kiến

thức làm ăn đến tận hộ gia đình; có quy hoạch, kế hoạch phát triển sản xuất

phù hợp với điều kiện đặc thù của từng vùng; xây dựng và phổ biến rộng rãi

các mô hình nông lâm kết hợp canh tác trên đất dốc, các mô hình trang trại có

hiệu quả.

- Vấn đề quy hoạch, ổn định dân cư; quy hoạch bố trí đất đai, quy

hoạch sắp xếp lại sản xuất để giải quyết đảm bảo đủ đất sản xuất cho người

dân, đồng thời ổn định đời sống cho đồng bào đang đòi hỏi phải tập trung

nguồn lực và thời gian, để làm được việc này còn rất nhiều nan giải: phải giải

quyết vấn đề hỗ trợ vật chất ổn định đời sống, sản xuất đồng thời với giải

quyết hài hoà các mối quan hệ láng giềng, hàng xóm, tập quán sản xuất,

phong tục giữa các dân tộc khác nhau, trình độ và khả năng tiếp thu các

nguồn lực cho các hộ thuộc dân tộc vận động định canh, định cư.

- Để đảm bảo ổn định định canh, định cư, cùng với phát triển sản xuất

cần đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng và các công trình thuỷ lợi, trạm xá, trường

học, chợ, nước sinh hoạt và công trình phúc lợi khác. Ngoài ra do sự khác biệt

về điều kiện cơ sở vật chất kỹ thuật cũng như trình độ sản xuất giữa các khu

vực cho nên phải có giải pháp phù hợp với từng khu vực trong quá trình thực

hiện định canh, định cư.

- Huy động sức mạnh tổng hợp của các ngành, các cấp vào công tác

định canh, định cư. Coi công tác này như là một nhiệm vụ quan trọng phát

48

triển kinh tế, xoá đói giảm nghèo, củng cố quốc phòng, an ninh trật tự của

tỉnh. Các huyện, xã trong vùng phải coi là nhiệm vụ chớnh trị trung tâm và

phải có tổ chức, bộ máy đủ mạnh, ổn định từ tỉnh xuống cơ sở để thực hiện

công tác định canh, định cư; đồng thời phải có sự phân công trách nhiệm rõ

ràng cho các ngành, các cấp từ tỉnh đến xã trong việc tổ chức thực hiện; việc

kiểm tra, đôn đốc cần thực hiện thường xuyên để kịp thời bổ sung những biện

pháp cần thiết; uốn nắn, khắc phục những tồn tại, nâng cao trách nhiệm của

các ngành, các cấp và cá nhân cán bộ phụ trách, nhằm giải quyết tốt công tác

định canh, định cư cho đồng bào dân tộc tỉnh Hà Giang.

- Để định canh, định cư bền vững cần xây dựng một vành đai cơ cấu

kinh tế, văn hoá - xã hội, an ninh - quốc phòng ổn định để các dân cư có thể

yên tâm sinh sống một cách lâu dài tại chỗ.

- Phát huy nội lực của đồng bào các dân tộc vùng định canh, định cư

kết hợp sự đầu tư lồng ghép các chương trình dự án kinh tế - xã hội của Trung

ương, của tỉnh, kể cả các tổ chức phi chính phủ, đặc biệt là sự hướng dẫn,

chuyển giao các tiến bộ khoa học, kỹ thuật; đặt nhiệm vụ hỗ trợ sản xuất cho

hộ phát triển là biện pháp ưu tiên đồng thời coi trọng việc tổ chức tuyên

truyền giáo dục, vận động là những nhân tố chủ yếu để định canh, định cư ổn

định, xoá đói giảm nghèo một cách nhanh chóng, hiệu quả nhất.

2.2. Thực trạng công tác xoá đói giảm nghèo ở Hà Giang

2.2.1 Thực trạng nghèo đói trên địa bàn tỉnh Hà Giang

* Tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn mới (2006-2010)

Chính phủ đã có Quyết định số 170/2005/QĐ - TTg ngày 8/7/2005 về

việc ban hành chuẩn nghèo áp dụng cho giai đoạn 2006 -2010 cụ thể:

- Khu vực nông thôn: Những hộ có thu nhập bình quân đầu người 1

tháng từ 200.000 đồng (2.400.000 đồng/người/năm trở xuống là hộ nghèo).

49

- Khu vực thành thị: Những hộ có thu nhập bình quân đầu người 1

tháng từ 260.000 đồng (3.120.000 đồng/ người/năm trở xuống là hộ nghèo).

Theo Quyết định 135 ngày 31/7/1998 của Thủ tướng Chính phủ về

phê duyệt chương trình phát triển kinh tế - xã hội các xã đặc biệt khó khăn

miền núi, vùng sâu, vùng xa thì Hà Giang có 142/191 xã và là tỉnh có nhiều

xã đặc biệt khó khăn nhất cả nước. Nhưng đến nay đã có 27 xã đặc biệt khó

khăn hoàn thành cơ bản mục tiêu và đó được công nhận ra khỏi xã đặc biệt

khó khăn. Theo Quyết định 164 ngày 11/7/2006 của Thủ tướng Chính phủ,

Hà Giang hiện còn 115/195 xã đặc biệt khó khăn được đưa vào triển khai

chương trình 135 giai đoạn II (2006 - 2010) [22, tr.7].

Qua cuộc điều tra xác định hộ nghèo toàn tỉnh từ tháng 6/2005, với

chuẩn nghèo mới, cuối năm 2004 toàn tỉnh có 70.074 hộ nghèo, chiếm

54,65% số hộ toàn tỉnh; năm 2005, tỷ lệ hộ nghèo toàn tỉnh là 51,05% với

65.568 hộ nghèo. Trong đó có 7/11 huyện và 130/195 xã có tỷ lệ hộ nghèo

từ 50% trở lên; tỷ lệ đói nghèo của huyện cao nhất là Đồng Văn 77,7%, thị

xã Hà Giang có tỷ lệ nghèo thấp nhất là 10,68%, tỷ lệ nghèo của xã cao

nhất là 86,3%.

Biểu 2.1: Tỷ lệ hộ nghèo của Hà Giang năm 2005

(Theo kết quả điều tra năm 2005 và tính theo chuẩn mới năm 2005)

TT

Huyện, thị

Tổng số hộ

Số hộ nghèo

Tỷ lệ hộ nghèo (%)

1 Đồng Văn

11.069

8.608

77,77

2 Mèo Vạc

10.924

7.188

65,80

3 Yên Minh

12.354

7.851

63,55

4 Quản Bạ

7.838

5.439

69,39

5 Xín Mần

9.532

5.954

62,46

6 Hoàng Su Phì

10.177

6.366

62,55

7 Bắc Quang

21.790

6.430

29,51

50

8 Quang Bình

10.197

4.432

43,46

9 Vị Xuyên

17.538

8.398

47,88

10 Bắc Mê

7.247

3.859

53,25

11 Thị xã Hà Giang

9.766

1.043

10,68

Toàn tỉnh

51,05

128.432

65.568

Nguồn: Uỷ ban nhân dân tỉnh Hà Giang năm 2005, Báo cáo kết quả

điều tra xác định hộ nghèo năm 2005.

* Đặc điểm và tính đa dạng của nghèo ở tỉnh Hà Giang

Đặc điểm nghèo: Sau 20 năm đổi mới, thu nhập và mức sống của đa

số người dân đã được cải thiện, do vậy đặc điểm nghèo đói cũng có sự thay

đổi, trước đây chủ yếu là nghèo về lương thực, thực phẩm, thì đến nay cơ bản

được giải quyết. Song nghèo về phi lương thực, thực phẩn (nhu cầu về nhà ở,

chăm sóc sức khoẻ khi ốm đau, giáo dục, văn hoá, đi lại và giao tiếp xã hội)

ngày càng gay gắt, cơ hội tiếp cận và thụ hưởng các thành quả của sự phát

triển cũng có sự khác biệt đáng kể giữa nhóm giàu và nhóm nghèo, do sự

phân hoá giàu nghèo đang có xu hướng gia tăng.

Tuy vậy, ở Hà Giang nghèo đói vẫn rất đa dạng thể hiện:

- Thiếu ăn hàng năm từ 1 đến 3 tháng, chủ yếu là đồng bào dân tộc

thiểu số vùng cao chiếm khoảng 47% số hộ nghèo theo chuẩn mới và chiếm

khoảng 26% tổng số hộ toàn tỉnh. Mỗi năm ngân sách tỉnh phải trợ cấp cứu

đói trên 6 ngàn hộ.

- ở nhà tạm 26.250 hộ (37,5%), giá trị tài sản, đồ dùng lâu bền không

có hoặc có nhưng giá trị rất thấp.

- Chưa có điện sinh hoạt 36.112 hộ (51,5%), phải dùng nguồn nước tự

nhiên để ăn uống 59.012 hộ (84,2%), thiếu đất sản xuất 16.467 hộ (23,5%).

- Thiếu điều kiện cơ bản để phát triển sản xuất, công cụ sản xuất thô

sơ, thiếu vốn, chưa tiếp cận được thị trường tiêu thụ sản phẩm.

51

- Thiếu kiến thức sản xuất 29.898 hộ (42,67%), không có trình độ

chuyên môn kỹ thuật 69.139 hộ (98,7%), hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực

nông lâm sản 67.921 (97%).

Nghèo còn thể hiện ở việc con cái chỉ theo học ở bậc tiểu học, nếu có

học tiếp bậc trung học cơ sở thì tỷ lệ bỏ học cao, nhất là trẻ em dân tộc ở vùng

cao 8.069 hộ (11,5%) [22, tr.8].

Nghèo gắn liền với tập quán lạc hậu, nhất là ma chay, cưới xin tốn

kém. Một số hộ nghèo dân tộc thiểu số khi ma chay, cưới xin phải thịt, bán cả

trâu, bò mua bằng nguồn vốn vay ưu đãi hoặc của các tổ chức cá nhân ủng hộ

nên không có khả năng trả nợ.

* Nguyên nhân nghèo đói

- Nguyên nhân khách quan là do điều kiện tự nhiên không thuận lợi,

khí hậu khắc nghiệt, địa hình phức tạp, giao thông đi lại khó khăn, kinh tế

chậm phát triển, diện tích đất trồng trọt ít và khó canh tác...

- Nguyên nhân chủ quan do thiếu hoặc không đồng bộ về chính sách

đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng cho các khu vực khó khăn, chính sách khuyến

khích sản xuất, vốn tín dụng, hướng dẫn cách làm ăn, chính sách trong giáo

dục, y tế, giải quyết đất đai, định canh, định cư, kinh tế mới và nguồn lực đầu

tư còn hạn chế...

- Nguyên nhân chủ quan thuộc về chính người dân: Theo số liệu điều

tra năm 2004, nguyên nhân nghèo đói được thể hiện:

- Thiếu kinh nghiệm làm ăn: 42,67%

- Thiếu lao động: 10,37%

- Đông con: 19%.

Ngoài ra còn do tính ỷ lại của người dân trông chờ sự giúp đỡ của Nhà

nước, không thấy rõ trách nhiệm của bản thân trong công cuộc xoá đói giảm

nghèo chung của xã hội.

52

* Xu hướng nghèo đói

1. Khoảng cách chênh lệch về thu nhập, mức sống, tài sản, tiếp cận

các dịch vụ xã hội giữa các vùng, nhóm dân cư, dân tộc có xu hướng gia tăng.

Theo kết quả điều tra năm 2005, thu nhập bình quân chung toàn tỉnh là

225.301 đồng/người/tháng (tương đương 170 USD/người/năm). Trong đó, thị

xã Hà Giang có mức thu nhập bình quân đầu người cao nhất tỉnh (465.568

đồng/người/tháng), huyện Đồng Văn có mức thu nhập bình quân đầu người

thấp nhất (154.218 đồng/người/tháng); dân tộc Kinh có mức thu nhập bình

quân đầu người cao nhất (486.611 đồng/người/tháng), dân tộc Mông có mức

thu nhập bình quân đầu người thấp nhất (142.256 đồng/người/tháng).

Số hộ có mức thu nhập dưới 120.000 đồng/người/tháng ở khu vực

nông thôn là 34.182 hộ, chiếm 51,02% số hộ nghèo thuộc khu vực nông thôn.

Số hộ có thu nhập dưới 150.000 đồng đối với khu vực thành thị có 792 hộ,

chiếm 25,39% số hộ nghèo khu vực thành thị. Theo nhận định của các ngành

chuyên môn, số hộ có thu nhập bình quân đầu người dưới 120.000 đồng/tháng

đối với khu vực nông thôn và dưới 150.000 đồng/tháng đối với khu vực thành thị

được coi là nhóm hộ thiếu đói, những hộ này cần phải được quan tâm ưu tiên.

Trên cơ sở phân chia số hộ toàn tỉnh thành 5 nhóm thu nhập từ thấp

đến cao, mỗi nhóm chiếm 20% tổng số hộ thì khoảng cách chênh lệch về thu

nhập giữa 20% nhóm hộ giàu và 20% nhóm hộ nghèo là 5,19 lần; chênh lệch

giữa nông thôn và thành thị là 2,46 lần; giữa vùng thấp và vùng cao núi đá là

1,65 lần; giữa dân tộc Kinh và dân tộc Mông là 3,42 lần.

Mức thu nhập bình quân nhân khẩu/tháng:

+ Nhóm 1: 94.820 đồng (20% số hộ có thu nhập thấp nhất).

+ Nhóm 5: 492.030 đồng (20% số hộ có thu nhập cao nhất).

+ Khu vực thành thị : 484.037 đồng

+ Khu vực nông thôn : 196.033 đồng

53

+ Vùng cao núi đá : 167.003 đồng

+ Vùng cao núi đất : 197.556 đồng

+ Vùng thấp : 275.924 đồng [22, tr.10-11].

2. Hộ nghèo có xu hướng tập trung rõ rệt ở một số vùng địa lý và ở

một số nhóm dân tộc thiểu số:

+ Theo khu vực:

Phần lớn số hộ nghèo đói tập trung ở khu vực nông thôn, tổng số có

62.649 hộ nghèo, bằng 56,02% số hộ đang sống ở khu vực này và chiếm

95,5% tổng số hộ nghèo toàn tỉnh. Tỷ lệ hộ nghèo khu vực nông thôn cao hơn

3,29 lần so khu vực thành thị. Cheo theo vùng, các huyện vùng cao núi đá tỷ

lệ hộ nghèo cao nhất, số hộ nghèo chiếm 68,94% số hộ trong khu vực và bằng

44,3% số hộ nghèo toàn tỉnh; vùng núi thấp tỷ lệ hộ nghèo thấp hơn, chiếm

36,31% số hộ trong khu vực (biểu số 2.2).

Biểu 2.2: Tỷ lệ hộ nghèo chia theo khu vực

Khu vực

Tổng số hộ

Số hộ nghèo

Số xã, phường, thị trấn

Tỷ lệ hộ nghèo (%)

Số xã đặc biệt khó khăn

1

Thành thị (phường, thị trấn) Nông thôn (xã) Vùng cao núi đá Vùng cao núi đất Vùng thấp

14 181 68 44 83

16.616 141 111.816 42.185 65 19.709 43 66.538 34

2.919 62.649 29.086 12.320 24.162

17,56 56,02 68,94 62,50 36,31

Toàn tỉnh

195

142

128.432 65.568

51,05

Nguồn: Uỷ ban nhân dân tỉnh Hà Giang năm 2005, Báo cáo kết quả

điều tra xác định hộ nghèo năm 2005.

+ Theo dân tộc:

Biểu 2.3: Tỷ lệ hộ nghèo chia theo dân tộc

TT Dân tộc của chủ hộ

Tổng số hộ

Số hộ nghèo

Tỷ lệ hộ nghèo (%)

54

1 Mông 2 Tày 3 Kinh 4 Dao 5 Nùng 6 Giấy 7 La Chí 8 Hoa Hán 9 Pà Thẻn 10 Cờ Lao 11 Lô Lố 12 Bố Y 13 Phù Lá 14 Pu Péo 15 Dân tộc khác

37.343 32.387 19.066 18.256 12.590 2.720 1.960 1.367 945 383 251 158 118 107 781

27.642 12.228 1.970 11.117 7.689 1.450 1.307 607 645 262 176 70 80 45 280

74,02 37,75 10,33 60,89 61,07 53,30 66,68 44,40 68,25 68,40 70,11 44,30 67,79 42,05 35,85

Nguồn: Uỷ ban nhân dân tỉnh Hà Giang năm 2005, Báo cáo kết quả

điều tra xác định hộ nghèo năm 2005.

3. Nguy cơ tái nghèo có thể tưng do thiên tai, dịch bệnh, biến động

của hội nhập và phát triển kinh tế thị trường; cơ hội việc làm của người nghèo

càng khó khăn hơn do đổi mới khoa học công nghệ.

2.2.2. Thực trạng công tác xoá đói giảm nghèo ở tỉnh Hà Giang từ

năm 2000 đến nay

Kế thừa kết quả công tác xoá đói giảm nghèo giai đoạn trước, ngay từ

những năm đầu của giai đoạn 2001 - 2005 tỉnh Hà Giang luôn xác định công

tác xoá đói giảm nghèo là nhiệm vụ trọng tâm của các cấp uỷ Đảng, chính quyền

và nhân dân trong tỉnh; đặc biệt với việc ban hành Nghị quyết 05-NQ/TW với

5 chương trình phát triển kinh tế - xã hội tập trung cho xoá đói giảm nghèo,

thông qua đó tạo điều kiện để các ngành, các cấp xây dựng chương trình hoạt

động cụ thể cho từng năm, từng lĩnh vực, với mục tiêu chung là xã hội hoá

công tác xoá đói giảm nghèo; đồng thời tăng cường cán bộ của các sở, ban,

ngành về giúp các xã đặc biệt khó khăn phát triển kinh tế - xã hội, xoá đói

giảm nghèo, nhờ đó những năm qua việc triển khai thực hiện các chủ trương

55

và chính sách xoá đói giảm nghèo được đồng bộ và hiệu quả, mang lại những

kết quả sau:

* Kết quả thực hiện các chính sách và dự án về lĩnh vực xoá đói

giảm nghèo

1. Chính sách hỗ trợ người nghèo về tư liệu sản xuất

Trong 5 năm 2001-2005 Hà Giang đã huy động 80,1 tỷ đồng hỗ trợ

cho 39.831 hộ nghèo và cận nghèo có thêm tư liệu để tăng gia sản xuất như

trâu, bò, giải quyết sức kéo và sinh sản, mua máy nông nghiệp phục vụ sản

xuất, quy hoạch và phân bổ lại quỹ đất đai, tạo điều kiện có đất sản xuất cho

nông dân.

2. Chính sách miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp cho người nghèo:

Từ năm 2001-2003 đã thực hiện miễn giảm thuế sử dụng đất nông nghiệp cho

94.758 lượt hộ, với số tiền hơn 9,9 tỷ đồng. Từ năm 2004, thực hiện Nghị

định số 129/2003/NĐ-CP ngày 3/11/2003 của Chính phủ về chính sách miễn

giảm thuế nông nghiệp, Tỉnh thực hiện miễn, giảm thuế nông nghiệp cho

59.092 hộ nông dân với số thuế được miễn giảm trị giá 3.746 tấn thóc, tạo

điều kiện để các hộ nông dân đầu tư tái sản xuất nâng cao thu nhập xoá đói

giảm nghèo.

3. Chính sách giáo dục, dạy nghề: Tiếp tục chính sách đầu tư tăng

cường cơ sở trường lớp cho các xã vùng sâu, vùng xa, các nguồn vốn chương

trình mục tiêu kết hợp với sự đóng góp công sức của nhân dân trên địa bàn,

350 công trình trường học kiên cố và 1.038 điểm trường, 226 nhà lưu trú giáo

viên và học sinh đã được xây dựng. 379.956 lượt học sinh con em đồng bào

dân tộc và hộ nghèo được cấp phát miễn phí sách và các thiết bị học tập,

27.267 lượt học sinh được trợ cấp học bổng với số tiền trị giá 117.229 triệu

đồng. Hệ thống đào tạo dạy nghề của tỉnh đã được hình thành và thành phố,

56

qua 5 năm, đã tổ chức đào tạo nghề cho 11.153 lao động, từng bước tạo cơ sở

nâng cao thu nhập cho người lao động nghèo.

4. Chính sách y tế - kế hoạch hoá gia đình: Đã khám chữa bệnh miễn

phí cho gần 2 triệu lượt người nghèo, người dân tộc thiểu số với số tiền miễn

giảm hơn 44.614 triệu đồng. Đã vận động 131.147 lượt người áp dụng c'biện

pháp tránh thai, góp phần hạ tỷ lệ tăng dân số tự nhiên của tỉnh xuống còn

1,66% năm 2005.

5. Chính sách an ninh xã hội: Triển khai thực hiện cứu trợ đột xuất

cho 12.078 hộ gia đình bị thiên tai hoả hoạn, thực hiện cứu tế cho 36.618 lượt

hộ thiếu đói do ảnh hưởng của thiên tai lũ lụt, đói giáp hạt. Duy trì trợ cấp

thường xuyên cho 1.650 đối tượng người già cô đơn, trẻ mồ côi, người tàn tập

không nơi nương tựa.

6. Chính sách hỗ trợ về nhà ở: Thực hiện trợ cấp tấm lợp nhà ở cho

3,2 vạn hồ nghèo có nhà ở tạm bợ dột nát, đồng thời huy động nhân dân hỗ

trợ 12.502 hộ nghèo xoá nhà tạm với trị giá 18.640 triệu đồng. Ngoài ra, quỹ

ngày vì người nghèo do còn triển khai xây dựng và bàn dao đưa vào sử dụng

được 418 căn nhà đại đoàn kết, hỗ trợ sửa chữa nhà ở cho 733 hộ gia đình.

7. Chính sách hỗ trợ hộ nghèo tiêu thụ sản phẩm: Tiếp tục đầu tư xây

dựng 39 chợ, trích 2.318 triệu đồng trợ cước, trợ giá thu mua nông sản; đồng

thời có chính sách ưu đãi vốn vay, khuyến khích các thành phần kinh tế đầu

tư vào lĩnh vực chế biến và tiêu thụ sản phẩm.

8. Chính sách hỗ trợ văn hoá, thông tin cho người nghèo: Xây dựng

mới 112 điểm bưu điện văn hoá xã; hỗ trợ tivi, radio cho 16.957 hộ nghèo,

nâng tỉ lệ phủ sóng phát thanh đạt 96%, tỷ lệ phủ sóng truyền hình đạt 85%,

tạo điều kiện để bà con vùng sâu vùng xa thường xuyên được cập nhật thông

tin đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, khoa học kỹ thuật để áp

dụng trong sản xuất và đời sống.

57

9. Chính sách hỗ trợ đồng bào đặc biệt khó khăn: Cùng với việc hỗ trợ

xây dựng cơ sở hạ tầng, thực hiện Nghị quyết của Tỉnh uỷ, các cá nhân và tổ

chức đoàn thể đã ủng hộ 5.309 con dê giống cho 3.342 hộ. 4.350 tấm phản

nằm cho 2.175 hộ nghèo để đồng bào có điều kiện phát triển sản xuất, ổn định

cuộc sống.

10. Dự án đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng: Lồng ghép các nguồn vốn

kết hợp với nguồn nội lực của tỉnh theo phương châm "Nhà nước và nhân dân

cùng làm", 5 năm qua, toàn tỉnh đã bê tông hoá 367km đuờng giao thông

nông thôn, mở mới trên 1.520 km đường giao thông loại B đến các thôn bản;

xây dựng mới và nâng cấp hơn 337 công trình thuỷ lợi nhỏ, kiên cố hóa 597

km kênh mương. Xây dựng 350 trường học nhà cấp II - 2 tầng ở trung tâm

các xã, 1.038 điểm trường thôn bản, 226 nhà lưu trú giáo viên và học sinh;

xây dựng mới 137 công trình trạm xá xã, 140 trụ sở xã nhà cấp II, 2 tầng;

448 trụ sở thôn bản; hỗ trợ xây mới 3,1 vạn bể nước, kéo điện tới 2,5 vạn

hộ gia đình, 12.600 hộ xây dựng các công trình vệ sinh môi trường; đến

nay 100% số xã có trường học 2 tầng trở lên, 140 xã có trụ sở 2 tầng, 139

xã có trạm y tế 2 tầng, 100% xã, phường có điện lưới quốc gia, 75,5% số

hộ dân được sử dụng điện.

11. Dự án hỗ trợ phát triển sản xuất và phát triển ngành nghề: Trong 5

năm, tỉnh đã trích ngân sách 93.452 triệu đồng để thực hiện 7 chương trình

nông nghiệp trọng tâm như hỗ trợ lãi suất vay mua trâu, bò, dê, máy nông

nghiệp, thâm canh cây trồng; hỗ trợ giống, phân bón cho các hộ nghèo; triển

khai các dự án..., theo hướng sản xuất hàng hoá.

12. Dự án tín dụng cho người nghèo: Đã trợ giúp vốn cho 94.198 lượt

hộ nghèo, với tổng số vốn tín dụng đã huy động được 242.389 triệu đồng, đáp

ứng ngày càng đầy đủ nguồn vốn phát triển sản xuất xoá đói giảm nghèo trên

địa bàn tỉnh.

58

13. Dự án hỗ trợ người nghèo cách làm ăn, khuyến nông, khuyến lâm:

Đã tiến hành tổ chức được 7.399 lớp tập huấn kỹ thuật và kinh nghiệm sản

xuất, kinh doanh cho 273.600 lượt người. Tổ chức trình diễn 140 mô hình cây

con tại 142 xã đặc biệt khó khăn của tỉnh.

14. Dự án định canh, định cư, di dõn, kinh tế mới: Đã hỗ trợ 507 hộ

biên giới ổn định dân cư, hạ sơn 2.563 hộ, hỗ trợ khai hoang phục hoá

3.712,62 ha ruộng nương; tiếp tục tiến hành đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng để

người dân yên tâm định cư, phát triển sản xuất

15. Dự án hỗ trợ pháp lý cho người nghèo: Đã hướng dẫn, hỗ trợ pháp

lý giúp cho 4.200 người dân vùng cao, vùng sâu. Thông qua công tác trợ giúp

pháp lý nhiều vụ việc đã được các cộng tác viên tư vấn trợ giúp giải quyết

thành công.

16. Dự án đào tạo cán bộ làm công tác xoá đói giảm nghèo: Đã tổ chức

mở 275 lớp đào tạo tập huấn cho 15.811 lượt cán bộ làm công tác xoá đói giảm

nghèo của các huyện và các xã, các thôn bản trong toàn tỉnh [22, tr.2-3]..

- Đánh giá chung

Có thể khẳng định, với 9 chính sách và 7 dự án hỗ trợ cho người

nghèo thuộc chương trình xoá đói giảm nghèo được lồng ghép với chương

trình giải quyết việc làm và các chương trình phát triển kinh tế - xã hội trên

địa bàn 5 năm qua, đã làm thay đổi to lớn đời sống kinh tế - xã hội của toàn

tỉnh, cải thiện khả năng tiếp cận của người nghèo đối với các dịch vụ sản xuất,

dịch vụ xã hội cơ bản, nhận thức, năng lực, trách nhiệm về xoá đói giảm

nghèo được nâng cao, tạo được phong trào xoá đói giảm nghèo sôi động trên

địa bàn toàn tỉnh, có những bước đột phá quan trọng, nhất là mục tiêu giảm

nghèo đạt chỉ tiêu Nghị quyết Đại hội đảng bộ Tỉnh. Nhiều mô hình xoá đói

giảm nghèo hiệu quả đã xuất hiện, điển hình như: mô hình "bể nước, mái nhà,

con bò", mô hình "hạ sơn" của đồng bào vùng cao được đề cao và nhân rộng

59

trên địa bàn toàn tỉnh, tiết kiệm chi tiêu của các cơ quan đơn vị và cá nhân

huy động xây dựng quỹ xoá đói giảm nghèo, đặc biệt là phong trào cán bộ,

đảng viên và các cơ quan giúp hộ nghèo dê giống, phản nằm. Nhờ làm tốt

công tác xã hội hoá trong xoá đói giảm nghèo mà nội lực được khai thác, sức

dân được huy động tối đa cho việc xây dựng các chương trình phục vụ dân

sinh, các công trình cơ sở hạ tầng hoàn thành đưa vào sử dụng từng bước phát

huy hiệu quả đời sống văn hoá xã hội của nhân dân ngày càng được nâng cao,

số người nghèo được thụ hưởng thành quả kinh tế xã hội ngày càng nhiều, đời

sống của nhân dân không ngừng được cải thiện. Kết quả 39.831 hộ được nhận

dê giống. 11.583 ha cây sa mộc được trồng, 5.000 ha đất nương được chuyển

sang trồng cỏ phục vụ chăn nuôi và trồng cây có giá trị kinh tế cao, 3.712,62

ha đất được khai hoang nương xếp đá và ruộng bậc thang, hỗ trợ kéo điện đến

2,5 vạn hộ đồng bào dân tộc vùng 3, trợ cấp tấm lợp cho 3,2 vạn hộ gia đình,

12.868 hộ được xoá nhà tạm và làm mới, 2.175 hộ được hỗ trợ phản nằm, hỗ

trợ xây dựng 1,3 vạn bể nước ăn gia đình, quỹ xoá đói giảm nghèo của Tỉnh

huy động được trên 15 tỷ đồng phục vụ cho mục đích xoá đói giảm nghèo ...

Với sự cố gắng và nỗ lực của các cấp uỷ Đảng, chính quyền và nhân

dân trong tỉnh, đặc biệt bản thân các hộ nghèo, nhờ đó mà nền kinh tế của tỉnh

trong những năm qua tiếp tục giữ vững được tốc độ tăng trưởng cao trên 10%,

thu nhập bình quân đầu người tăng từ 1,8 triệu đồng năm 2001 lên 3,2 triệu

đồng năm 2005. Trên địa bàn Hà Giang cơ bản không còn tình trạng đói

nghèo kinh niên, đã có 1,8 vạn hộ thoát khỏi nghèo đói, tỷ lệ hộ nghèo giảm

từ 25,7% đầu năm 2001 xuống còn 8,57% vào cuối năm 2005. Thu nhập bình

quân đầu người/tháng của 20% số hộ nghèo nhất năm 2001 đạt 71.321 đồng

năm 2005 đạt 104.200 đồng, tăng 1,46 lần [22, tr.5].

60

Đặc biệt trong cỏc mối quan hệ cộng đồng,quan hệ gia tộc, gia đỡnh,

việc xoỏ đúi giảm nghốo tỏc động tới nhận thức đến nhu cầu sinh hoạt và

cuộc sống đối với cỏc đối tượng định canh, định cư.

* Những khó khăn, tồn tại trong công tác xoá đói giảm nghèo

1. Về cơ chế chính sách: Trong những năm qua Hà Giang đã có cơ chế

chính sách thông thoáng và tập trung đầu tư cho công tác xoá đói giảm nghèo,

tuy nhiên do vừa làm, vừa phải rút kinh nghiệm, kết hợp với nhiều yếu tố

khách quan cũng như chủ quan, trong việc xây dựng và tổ chức triển khai

thực hiện công tác xoá đói giảm nghèo có lúc, có nơi còn thiếu sự đồng bộ,

đặc biệt là cơ chế chính sách liên quan đến nhiều ngành, nhiều lĩnh vực, hay

trong những lĩnh vực mà địa phương không thể tự mình quyết định được, ví

dụ như: vấn đề cơ sở hạ tầng, vấn đề sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, vấn đề

chuyển giao khoa học kỹ thuật, hay vấn đề chính sách cán bộ cơ sở... đó

không chỉ là những khó khăn mà còn là thách thức đối với một tỉnh miền núi

cao và dân tộc như Hà Giang.

2. Về tổ chức chỉ đạo, thực hiện: Công tác chỉ đạo của cấp uỷ Đảng và

chính quyền cơ sở có lúc, có nơi còn thiếu tính đồng bộ, thể hiện cụ thể trên

một số việc như: Nghị quyết của Đảng đã ban hành, song chính quyền chưa

kịp thời cụ thể hoá, dẫn đến việc tổ chức triển khai thực hiện của cấp dưới còn

lúng túng; việc phân công phân nhiệm chưa rõ ràng, một số nơi phân công

chồng chéo, không đúng chức năng, thiếu sự kiểm tra giám sát thường xuyên,

dẫn đến hiệu quả tổ chức thực hiện các chương trình dự án chưa cao... Mặt

khác, cấp uỷ và chính quyền của một số đơn vị thiếu tính chủ động, chủ quan

theo dõi, kiểm tra, đánh giá tình hình tại cơ sở, dẫn đến chưa sát sao trong

công tác chỉ đạo thực hiện chương trình xoá đói giảm nghèo.

Với đặc điểm của tỉnh miền núi và dân tộc, trình độ đội ngũ cán bộ

còn nhiều bất cập, đặc biệt là phong tục tập quán của đồng bào các dân tộc ít

61

người, vì vậy việc tổ chức chỉ đạo thực hiện chương trình xoá đói giảm nghèo

gặp nhiều khó khăn, chưa đem lại hiệu quả như mong muốn.

3. Về nguồn lực: Là tỉnh nghèo, nguồn thu ngân sách hạn hẹp, đời

sống kinh tế của nhân dân mặc dù đã được cải thiện, song thu nhập vẫn ở mức

thấp, tỷ lệ hộ khá giầu còn khiêm tốn (21% tổng số hộ), số doanh nghiệp sản

xuất kinh doanh có hiệu quả ít, doanh thu nhỏ, vì vậy việc chủ động trong lĩnh

vực huy động nguồn lực cho xoá đói giảm nghèo gặp khó khăn, hạn chế, chưa

đáp ứng được nhu cầu, do đó việc hỗ trợ để người nghèo thoát nghèo trong

thời gian ngắn và bền vững khó thực hiện được.

4. Công tác xoá đói giảm nghèo còn thiếu tính bền vững: Ngoài

nguyên nhân cơ bản là điều kiện tự nhiên, nguyên nhân sâu xa là trình độ

nhận thức, tính trông chờ, ỷ lại của chính quyền cơ sở và bản thân người

nghèo chưa thấy rõ trách nhiệm của mình trong công cuộc xoá đói giảm

nghèo của xã hội.

62

Chương 3

những giải pháp chủ yếu thực hiện định canh, định cư gắn với xoá đói

giảm nghèo ở Hà Giang

3.1. Quan điểm, mục tiêu, phương hướng của công tác định canh, định cư trên

địa bàn tỉnh Hà Giang đến 2010

3.1.1. Quan điểm về công tác định canh, định cư tỉnh Hà Giang

Một là, công tác định canh, định cư là một chính sách dân tộc của Đảng

và Nhà nước, là bước đi ban đầu của sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội tại

địa bàn miền núi, dân tộc, có nhiều khó khăn, điểm xuất phát và trình độ dân

trí thuộc vào loại thấp nhất so với các vùng khác trong cả nước. Là một trong

những chương trình quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của

tỉnh, nhằm thực hiện ổn định dân cư, xoá đói giảm nghèo, từng bước cải thiện

đời sống của đồng bào các dân tộc trong tỉnh, giữ vững cân bằng sinh thái môi

trường, tăng cường an ninh quốc phòng vùng biên giới phía Bắc của Tổ quốc.

Thực chất của công tác định canh, định cư của Hà Giang đến năm 2010

là nhằm giúp đỡ trên 60.000 hộ, 370.000 nhân khẩu thuộc diện định canh,

định cư có điều kiện vươn lên, ổn định đời sống và sản xuất, chuyển dịch cơ

cấu cây trồng vật nuôi gắn với nghề rừng, mở rộng ngành nghề theo hướng

phát triển sản xuất hàng hoá, bằng cách khai thác tiềm năng đất đai, lao động

và các nguồn lực khác của vùng để ổn định dân cư tại chỗ là chủ yếu, tạo

thêm sản phẩm cho xã hội, góp phần cho sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội

chung của tỉnh.

Hai là, định canh định cư không chỉ là hợp thức hoá các hộ gia đình

theo kiểu khép kín, duy trì tình trạng tự cấp tự túc mà phải dựa vào quy hoạch

tổng thể phát triển kinh tế xã hội của cả huyện, tỉnh, phương hướng mục tiêu

phát triển của công tác định canh, định cư phải phù hợp với phương hướng

63

mục tiêu chung theo ngành, theo lãnh thổ mà các phương án quy hoạch tổng

thể đã đề ra.

Ba là, đối tượng định canh, định cư của tỉnh Hà Giang chủ yếu là đồng

bào các dân tộc thiểu số ở khu vực III đời sống hiện gặp rất nhiều khó khăn,

trình độ dân trí thấp, với những phong tục tập quán lạc hậu. Vì vậy công tác

định canh, định cư phải lấy con người làm trọng tâm, lấy hộ gia đình làm đơn

vị kinh tế tự chủ, lấy cộng đồng thôn, bản - xã làm địa bàn đầu tư và tổ chức

sản xuất, lấy huyện làm địa bàn quản lý điều phối.

Để đảm bảo công tác định canh, định cư thực hiện một cách có hiệu

quả, tránh phải làm đi làm lại nhiều lần, đi đôi với việc đầu tư sản xuất cho

các hộ, cần phải đầu tư cơ sở hạ tầng và phúc lợi cho cộng đồng. Đây là

một đòi hỏi khách quan thực tế của công tác định canh, định cư của Hà

Giang trong những năm vừa qua đã khẳng định tính đúng đắn của quan

điểm này. Tuy nhiên cũng cần phải thấy rõ là hiện nay trong vùng còn có

nhiều chương trình, dự án khác cũng đang được thực hiện như phát triển

xoá đói giảm nghèo, các chương trình về y tế, giáo dục, xây dựng trung tâm

cụm xã... Vì vậy cần phải lồng thép các chương trình để tránh sự đầu tư trùng

lặp, chồng chéo.

Bốn là, định canh, định cư là một quá trình từ du canh du cư  định

canh, định cư, từ tạm ổn định  ổn định  phát triển, từ chỗ không có hoặc

có rất ít tư liệu sản xuất ổn định dần dần tạo ra tư liệu sản xuất ổn định. Đồng

thời định canh, định cư cũng là một quá trình chuyển biến nhận thức, thay đổi

phong tục tập quán, học hỏi và nâng cao trình độ của người dân, đáp ứng yêu

cầu sản xuất thâm canh, có kỹ thuật, thực chất là một cuộc cách mạng toàn

diện và sâu sắc trên lĩnh vực kinh tế, văn hoá và xã hội.

Vì vậy công tác định canh, định cư không chỉ là để ổn định dân cư mà

phải tạo cho đồng bào cả kiến thức và trình độ sản xuất theo hướng sản xuất

64

hàng hoá, trên cơ sở đó phát triển và nâng cao dần mức sống của người dân.

Việc đầu tư hỗ trợ của Nhà nước không chỉ ở các xã chưa có dự án, mà còn

tiếp tục hỗ trợ phát triển đối với các xã đã có dự án. Có như vậy mới thực sự

ổn định và phát triển đời sống của các hộ trong cộng đồng, cũng như để công

tác định canh, định cư có bước đi phù hợp nhằm đem lại hiệu quả đầu tư cao.

Năm là, sự nghiệp định canh, định cư gắn liền với vấn đề con người và

liên quan chặt chẽ với no là vấn đề kinh tế - xã hội, an ninh, chính trị. Vì vậy,

công tác định canh, định cư là một công việc không đơn giản, nó hoàn toàn

không giống với những công việc khác mang nội dung kinh tế - xã hội như

vẫn thường đề cập: định canh, định cư không chỉ tạo đủ tư liệu sản xuất cho

những đối tượng diện vận động định canh, định cư là được. Điều quan trọng

là phải làm cho chính bản thân họ tiếp thu được tư liệu sản xuất để có thể thay

đổi phương thức canh tác và hoà nhập vào sự phát triển của cộng đồng. Do đó

nó liên quan đến nhiều vấn đề cần được giải quyết một cách đồng bộ, trong đó

phải tính đến những vấn đề có tính dân tộc, tính chất tự nguyện và kể cả việc

vận dụng tri thức khoa học theo từng mức độ khác nhau v.v... tất cả những cái

đó liên quan đến một hệ thống chính sách đặc thù và một chủ trương mang

tính biện pháp cụ thể và nhất quán.

Đó chính là những quan điểm cơ bản cho những giải pháp vĩ mô và vi

mô của công tác định canh, định cư ở Hà Giang

3.1.2. Phương hướng của công tác định canh định cư

- Tổ chức định canh, định cư tại chỗ là chủ yếu trên cơ sở gắn công tác

định canh, định cư với việc phân bố lại dân cư, bố trí địa bàn sản xuất trên phạm

vi nội bộ cộng đồng (thôn, bản, xã). Gắn định canh, định cư với các nông, lâm

trường quốc doanh và các đồn biên phòng ở các xã biên giới. Quy hoạch lại đất

đai gắn với quy hoạch giao thông, nguồn nước... ở những vùng có khả năng để

thực hiện di dân nội vùng, tổ chức định canh, định cư tại chỗ là chính.

65

- Định canh, định cư phải bắt đầu từ đẩy mạnh phát triển sản xuất,

trước hết là sản xuất nông - lâm nghiệp tại chỗ; phát triển sản xuất gắn với

chế biến tiêu thụ, tạo cho đồng bào làm quen dần với sản xuất hàng hoá, tạo

môi trường thuận lợi để đồng bào ổn định cuộc sống và biết khai thác có hiệu

quả các nguồn lực hiện có để tiến tới đủ ăn và làm giàu.

- Những nơi có đủ điều kiện để tổ chức sản xuất và đời sống thì lập các

dự án định canh, định cư độc lập để tổ chức định canh, định cư tại chỗ; đối

với những hộ đang sinh sống rải rác phân tán hoặc đang sinh sống ở những

nơi thiếu đất, thiếu nước thì vận động đồng bào di chuyển đến các điểm dân

cư đã ổn định của các điểm dân cư mới. Đối với các hộ này, Nhà nước cần hỗ

trợ tiền di chuyển làm nhà, cấp giống cây trồng vật nuôi và lương thực ăn

trong thời gian xây dựng cơ sở sản xuất ban đầu (6 tháng - 1 năm).

- Để tổ chức định canh, định cư ổn định, đi đôi với việc đầu tư cơ sở hạ

tầng nông thôn (đường giao thông, hệ thống thuỷ lợi, trường học, trạm xá,

thuỷ điện nhỏ, nước sinh hoạt...) cần phải xây dựng một cơ cấu cây trồng vật

nuôi thích hợp, tận dụng triệt để diện tích có khả năng đưa vào sản xuất nông

- lâm nghiệp. Phổ biến rộng rãi các mô hình canh tác trên đất dốc theo

phương thức nông - lâm kết hợp, trồng xen cây ngắn ngày trong vườn cây ăn

quả, cây công nghiệp, vườn rừng ở thời gian dài. Như vậy, vừa có thể giải

quyết an toàn lương thực, vừa từng bước làm cho đồng bào tiếp cận với cơ

chế thị trường, đa dạng hoá sản xuất.

- Củng cố, kiện toàn lại bộ máy của hệ thống định canh, định cư từ

huyện đến tỉnh, tăng cường đào tạo để nâng cao chất lượng đội ngũ những

người làm công tác định canh, định cư, thường xuyên có sự kiểm tra theo dõi,

tổng kết rút kinh nghiệm cho công tác chỉ đạo thực hiện định canh, định cư.

3.1.3. Mục tiêu của công tác định canh định cư

Cùng với các chương trình, dự án khác thực hiện trên địa bàn tỉnh, như

chương trình quốc gia xoá đói giảm nghèo, chương trình phát triển kinh tế - xã

66

hội hoặc xã miền núi và vùng sâu vùng xa, chương trình xây dựng trung tâm

cụm xã,... để góp phần thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội chung

của cả tỉnh, công tác định canh, định cư cần phải đạt được những mục tiêu chủ

yếu sau:

* Mục tiêu chung

ổn định và nâng cao đời sống và điều kiện sản xuất cho các hộ trong

vùng định canh, định cư, chấm dứt tình trạng du canh du cư, di dân tự do, tạo

điều kiện để đưa vùng thoát khỏi tình trạng nghèo nàn, lạc hậu, chậm phát triển,

hoà nhập vào sự phát triển chung của cả nước, góp phần bảo vệ môi trường sinh

thái, đảm bảo trật tự an toàn xã hội, an ninh quốc phòng vùng biên giới.

* Mục tiêu cụ thể

Đến 2010 cần ưu tiên tổ chức định canh, định cư cho các hộ đã định

canh, định cư nhưng chưa ổn định. Ưu tiên các xã đặc biệt khó khăn, các xã

biên giới, các xã vùng sâu vùng xa và các xã chưa có dự án phấn đấu đến năm

2010 cơ bản ổn định đời sống và sản xuất cho tất cả các hộ trong vùng, xoá hộ

đói, giảm tỷ lệ số hộ nghèo.

- Tăng cường đầu tư để hoàn thành tốt các chỉ tiêu của 41 dự án đã

được phê duyệt, nhanh chóng điều tra, xây dựng các dự án định canh, định cư

độc lập ở các khu vực chưa có dự án trên 31 xã để mỗi năm có thể đưa vào

thực hiện 7 - 8 dự án định canh, định cư độc lập đến 2010, toàn bộ diện vận

động định canh, định cư của tỉnh được đầu tư tổ chức định canh, định cư.

- Tiếp tục nghiên cứu xây dựng các dự án phát triển ở khu vực đã và

đang thực hiện dự án định canh, định cư ổn định, khu vực đã hoàn thành định

canh, định cư: xây dựng các mô hình định canh, định cư điển hình, nhằm

củng cố, tăng cường hiệu quả của dự án định canh, định cư [20, tr.16].

Để đạt được các mụcc tiêu nói trên, cần phải xem xét, căn cứ vào mục

tiêu xoá đói giảm nghèo của Tỉnh đến năm 2010 nữa.

67

Mục tiêu xoá đói giảm nghèo của Hà Giang đến 2010 đó là phấn đấu

đạt các mục tiêu chủ yếu sau:

+ Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân hàng năm đạt trên 13%.

+ Thu ngân sách nhà nước trên địa bàn đạt 400 tỷ đồng.

+ Thu nhập bình quân đầu người đạt trên 65 triệu đồng.

+ Hoàn thành phổ cập trung học cơ sở vào năm 2007; đến 2010 có trên

50 xã, phường, thị trấn đạt phổ cập bậc trung học.

+ Hạ tỷ lệ tăng dân số tự nhiên còn 1,45%.

+ Giảm tỷ lệ suy dinh dưỡng ở trẻ em dưới 5 tuổi còn 20%.

+ Tỷ lệ hộ gia đình được sử dụng điện đạt 85%, tỷ lệ phủ sóng phát

thanh đạt 98%, phủ sóng truyền hình đạt 90%.

- Những mục tiêu cụ thể về xoá đói giảm nghèo:

+ Giảm tỷ lệ nghèo bình quân mỗi năm 5% trở lên, tăng tỷ lệ hộ khá

giầu lên 30%; cải thiện đời sống của nhóm hộ nghèo nhằm hạn chế tốc độ gia

tăng khoảng cách chênh lệch về thu nhập, mức sống giữa thành thị và nông

thôn, giữa vùng cao và vùng thấp, giữa nhóm hộ giầu và nhóm hộ nghèo.

+ Đảm bảo việc làm và thu nhập cho người lao động. Tiếp tục thực

hiện chuyển dịch cơ cấu lao động phù hợp với chuyển dịch cơ cấu kinh tế, hỗ trợ

đào tạo nghề cho người lao động, tăng tỷ lệ sử dụng thời gian lao động ở nông

thôn.

+ Thu nhập của nhóm hộ nghèo tăng 2 lần so với năm 2005.

+ 100% hộ nghèo có sức lao động, có nhu cầu vay vốn, được vay vốn

tín dụng từ ngân hàng chính sách xã hội và các tổ chức tín dụng khác.

+ 100% hộ nghèo được khuyến nông, khuyến lâm, chuyển giao kỹ

thuật, hướng dẫn cách làm ăn, hỗ trợ điều kiện sản xuất.

+ 40.000 người nghèo được miễn, giảm học phí học nghề.

+ 100% người nghèo khi ốm đau được khám chữa bệnh miễn phí.

68

+ 100% học sinh nghèo được miễn giảm học phí, các khoản đóng góp

xây dựng trường.

+ 15.000 hộ nghèo hiện đang ở nhà tạm bợ được hỗ trợ xoá nhà tạm.

+ 100% cán bộ tham gia công tác xoá đói giảm nghèo ở các cấp được

tập huấn nâng cao năng lực về công tác xoá đói giảm nghèo [22, tr.10].

3.2. những giải pháp chủ yếu gắn định canh định cư với xoá đói giảm nghèo ở

Hà Giang

3.2.1. Tuyên truyền, giáo dục, vận động

Tổ chức tuyên truyền vận động là công tác phổ biến chủ trương chính

sách định canh, định cư của Đảng và Nhà nước, những kinh nghiệm, mô hình

thực hiện định canh, định cư tốt, đẩy nhanh hoạt động của các tổ chức đoàn

thể quần chúng làm cho người dân hiểu rõ và tự nguyện thực hiện định canh,

định cư.

Tình hình mới hiện nay đòi hỏi chúng ta phải nhận thức đầy đủ hơn về

chủ trương, chính sách của Đảng đối với vùng đồng bào thuộc đối tượng định

canh, định cư. Công tác định canh, định cư không chỉ thuần tuý là vấn đề kinh

tế mà còn là vấn đề xã hội có liên quan đến các vấn đề môi trường, an ninh

quốc phòng và đoàn kết các dân tộc. Chính vì vậy tuyên truyền, giáo dục, vận

động là giải pháp cần được quan tâm trước hết.

Tổ chức tuyên truyền vận động nhằm làm cho cán bộ, đảng viên và

quần chúng nhân dân nhận thức một cách sâu sắc đặc điểm và nội dung,

nhiệm vụ của công tác định canh, định cư. Từ tính chất quan trọng của công

tác định canh, định cư cần phải tăng cường hoạt động tuyên truyền vận động

định canh, định cư để người dân thấy được định canh, định cư mang lại lợi ích

thiết thân và chính đáng cho đồng bào hiện còn du canh du cư hoặc định cư

du canh, thông qua đó nắm bắt được tâm tư nguyện vọng của người dân, có

như vậy Tỉnh mới đề ra được những chủ trương chính sách hợp lòng dân, mới

69

giúp đỡ họ giải quyết những khó khăn trong sản xuất và đời sống, động viên

đồng bào hăng hái phấn khởi đi vào định canh, định cư, xây dựng thôn bản

cũng như cuộc sống mới.

Để tuyên truyền giáo dục đạt hiệu quả thiết thực, có thể tuyên truyền

thông qua việc xây dựng các mô hình tổ chức định canh, định cư tiêu biểu:

Qua tình hình tổ chức thực hiện định canh, định cư ở Hà giang do điều kiện

của từng tiểu vùng không giống nhau nên xuất hiện mô hình định canh, định

cư khác nhau. Trên cơ sở các mô hình định canh, định cư có hiệu quả, tổ chức

cho đồng bào tham quan học tập, trao đổi cùng đúc rút kinh nghiệm, vận động

hướng dẫn các hộ gia đình có đặc điểm tương tự làm theo dưới sự chỉ đạo,

giúp đỡ của các cấp ngành mà trực tiếp là Ban Dân tộc - Tôn giáo, định canh,

định cư làm trung tâm. Xây dựng và nhân rộng các mô hình ra nhiều nơi. từ

mô hình định canh, định cư phát triển trong từng thôn, bản thành thôn bản

định canh, định cư, cứ như vậy thành xã định canh, định cư.

Mặt khác muốn thực hiện tốt công tác định canh, định cư, giúp đồng

bào ổn định sản xuất và đời sống nhằm thực hiện định canh, định cư bền

vững, thì một mặt phải cú sự đầu tư hỗ trợ của Nhà nước, mặt khác phải phát

huy nội lực của đồng bào để họ tự mình vươn lên, tránh trông chờ ỷ lại một

chiều về phía Nhà nước. Do đó cần phải tuyên truyền, vận động, giáo dục ý

thức tự lực, tự cường của đồng bào trong quá trình thực hiện công tác định

canh, định cư. Cần phải quán triệt phương châm: Trung ương và địa phương

cùng làm; Nhà nước và nhân dân cùng làm, trong quá trình thực hiện các chủ

trương chính sách của Đảng và Nhà nước đối với vùng dân tộc, miền núi.

Cũng cần nhận thức rõ là việc tổ chức thực hiện các chính sách đối

với vùng dân tộc miền núi nói chung và công tác định canh, định cư nói

riêng là trách nhiệm của các cấp, các ngành từ tỉnh đến cơ sở và có sự phối

hợp của các tổ chức quần chúng, đoàn thể chính trị xã hội, và trước hết là

70

trách nhiệm của cấp uỷ, Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân các cấp chứ

không phải chỉ riêng trách nhiệm của cơ quan làm công tác dân tộc, định

canh, định cư.

Quá trình vận động định canh, định cư cũng cần tôn trọng các nguyên

tắc sau:

- Nguyên tắc tự nguyện: Đây là bước quan trọng để đối tượng thực diện

vận động định canh, định cư thấy được cần phải định canh, định cư ổn định.

Nếu thiếu hoặc bỏ qua giải thích này thì sẽ không thể có định canh, định cư

thành công, muốn có được sự nhận thức tự nguyện cần phải thông qua các tác

động bên ngoài từ nhiều hình thức khác nhau.

- Tôn trọng truyền thống dân tộc, nên khi vận động định canh, định cư

phải đảm bảo tính dân tộc thì mới đảm bảo định canh, định cư có kết quả.

- Tự do lựa chọn địa bàn cư trú, đây là nguyên tắc quan trọng để đảm

bảo quyền bình đẳng và nhân quyền của mọi dân tộc. Tuy nhiên khi tôn trọng

nguyên tắc này cần phải có định hướng để kết hợp hài hoà giữa chủ trương

định canh, định cư và ý muốn lựa chọn nơi cư trú của người dân.

3.2.2. Các giải pháp quy hoạch dân cư, đất đai, bố trí sản xuất

3.2.2.1. Giải pháp sắp xếp lại và ổn định dân cư

Việc sắp xếp dân cư là nhiệm vụ bức thiết có ý nghĩa quyết định đối

với việc phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào thuộc diện định canh, định

cư của tỉnh. Sắp xếp dân cư là việc căn cứ vào quy hoạch tổng thể phát triển

kinh tế - xã hội của địa phương, điều kiện tự nhiên, tính chất, đặc điểm của

từng vùng, từng dân tộc để sắp xếp dân cư, bố trí chỗ ở cho đồng bào nhằm

giúp họ yên tâm định canh, định cư, xây dựng cuộc sống. Trước hết là phải

thực hiện ổn định dân cư trong tỉnh, sau đó là phát triển từng bước, có cơ sở

vững chắc để hoà nhập với tình hình phát triển chung của cả nước.

71

Để làm tốt công tác này tỉnh cần soát xét điều chỉnh lại các dự án quy

hoạch xã, dự án định canh, định cư cho phù hợp với tình hình hiện nay. Với

60.103 hộ thuộc diện vận động định canh, định cư, trong đó có một số hộ cần

sắp xếp lại và ổn định đời sống theo hướng sau:

- Đối với những hộ đã định canh, định cư nhưng chưa ổn định, số hộ

đói nghèo, ngoài việc được hưởng lợi chung theo đầu tư của dự án, cần phải

có sự hỗ trợ của Nhà nước để mua sắm phương tiện sản xuất và trợ cấp đời

sống trong thời gian giáp hạt.

- Đối với những hộ còn du canh nhưng điều kiện sinh sống và sản xuất

thuận lợi thì bố trí để các hộ này ổn định tại chỗ.

- Đối với những hộ còn du canh song tiềm năng đất đai và điều kiện

sinh sống trong nội bộ xã còn lớn thì bố trí xen ghép với các điểm dân cư đã

có (di dân nội xã).

- Đối với những hộ mà điều kiện sinh sống và sản xuất quá khó khăn

thì phải di chuyển đến địa điểm mới trong phạm vi huyện đó (di dân nội

huyện) hoặc trong tỉnh (di dân nội tỉnh). Và tỉnh cần hỗ trợ kinh phí di

chuyển, làm nhà, trợ cấp lương thực cho thời gian đầu để họ ổn định, có thể từ

6 tháng đến 1 năm.

3.2.2.2. Giải pháp quy hoạch, bố trí đất đai

Quy hoạch, bố trí đất đai là việc bố trí lại đất đai, cây con phù hợp để

sản xuất lương thực, trồng cây công nghiệp, cây đặc sản, cây ăn quả, trồng và

kinh doanh rừng, phát triển ngành nghề đảm bảo có thu nhập ổn định thay thế

cho sản xuất nương rẫy du canh du cư.

Với Hà Giang quy hoạch đất đai là nhằm phát huy khả năng lao động

của đồng bào định canh, định cư, từ đó có quy hoạch đất đai cụ thể cho từng

vùng và có chính sách cụ thể quy định quyền lợi và nghĩa vụ của đồng bào được

sử dụng đất đai để trồng trọt, chăn nuôi, trồng rừng, bảo vệ và khai thác rừng.

72

Trên cơ sở quy hoạch sử dụng đất giai đoạn 2001-2010 đã phê duyệt

của tỉnh, và kế hoạch sử dụng đất của từng huyện, xuất phát từ thực trạng sử

dụng đất đai ở vùng định canh, định cư hiện nay. Cần phải xem xét giải quyết

cấp đủ đất cho dân theo luật định, không được để cho hộ đồng bào dân tộc ít

người sống ở miền núi, vùng cao lại thiếu đất hoặc không có đất sản xuất.

Với tổng số hộ của các xã trong vùng định canh, định cư của Hà Giang

dự kiến đến năm 2010 toàn vùng sẽ có 115.560 hộ, 668.800 khẩu. Và toàn

vùng định canh, định cư hiện nay có 251.520 ha đất chưa sử dụng, dự kiến

đến năm 2010 diện tích tự nhiên của toàn vùng là 771.052 ha, trong đó diện

tích đất nông nghiệp chiếm 147.143 ha (19% diện tích tự nhiên toàn vùng),

đất lâm nghiệp là 432.675 ha (56,1%), đất chuyên dùng là 5.273 ha, đất ở là

5.874 ha và đất chưa sử dụng còn 180.087 ha. Với khả năng khai thác đất đai

đưa vào sử dụng nông - lâm nghiệp như trên, phấn đấu mức giao đất bình

quân cho hộ kể cả hộ di dời đến địa điểm mới) phải có ít nhất 0,8 - 1 ha đất

canh tác cây hàng năm; 0,3 - 0,5 ha đất vườn và cây lâu năm, 2 - 3 ha đất

rừng.

Với mức đất đai bình quân được giao đó, cần phải tổ chức định hướng

và đầu tư khai thác hợp lý thì mới có thể đảm bảo sản xuất và đời sống ổn

định cho các hộ, mặt khác mới có điều kiện tổ chức sản xuất theo hướng hàng

hoá, nâng cao đời sống cho nhân dân trong vùng.

3.2.2.3. Giải pháp về quy hoạch tổ chức sản xuất vùng định canh

định cư

Cùng với việc quy hoạch, bố trí dân cư, đất đai, công tác quy hoạch, tổ

chức sản xuất là nhằm đảm bảo cho từng vùng khai thác mọi tiềm năng thế

mạnh của mình phát triển kinh tế - xã hội, xoá đói giảm nghèo.

Qua quy hoạch sản xuất, cần định hướng quy hoạch các vùng chuyên

canh cây trồng, vật nuôi, ngành nghề phù hợp với điều kiện tự nhiên của từng

73

vùng và theo quy mô thích hợp để tạo ra nhiều sản phẩm hàng hoá có thế

mạnh của từng vùng.

* Đối với ngành nông nghiệp:

Để thúc đẩy nông nghiệp Hà Giang phát triển, cần phải đầu tư thâm

canh và thực hiện đa dạng hoá cây trồng trên đất nông nghiệp; đẩy mạnh phát

triển các loại cây trồng phù hợp trên đất dốc; đồng thời phải bố trí cây trồng

vật nuôi phù hợp với điều kiện đất đai, khí hậu, thời tiết và phong tục tập

quán từng tiểu vùng; mặt khác để định canh, định cư đạt kết quả tốt, với Hà

Giang phải đặc biệt chú ý phát triển các loại cây trồng, vật nuôi để làm phù

hợp với trình độ sản xuất của đồng bào dân tộc.

Trên cơ sở đó, việc bố trí sản xuất cần thực hiện các giải pháp sau:

- Đối với tiểu vùng cao núi đá (gồm 4 huyện phía Bắc: Quản Bạ, Yên

Minh, Mèo Vạc, Đồng Văn)

Đây là vùng khó khăn nhất, quỹ đất nông nghiệp ít, thời tiết khí hậu

khắc nghiệt. Ngô là cây lương thực chính và cũng là cây trồng chủ đạo hiện

nay của vùng. Nhưng đây cũng là vùng có thế mạnh về phát triển chăn nuôi

đại gia súc, trồng cây ăn quả, dược liệu, sản xuất rau sạch, hoa.

Hướng bố trí sản xuất là đầu tư thâm canh, đa dạng hoá cây trồng

trên đất như cây lương thực (ngô, lúa), cây thực phẩm, cây công nghiệp

ngắn ngày (đậu tương, lạc, bông); phát triển các loại cây trồng phù hợp có

nguồn gốc ôn đới, các loại cây ăn quả (xoài lê, hồng không hạt, táo...), các

loại cây dược liệu (đỗ trọng, thảo quả); cây đặc sản (trúc ống); sản xuất rau

sạch, hoa có giá trị cao; chăn nuôi phát triển đàn trâu bò, dê, ong mật… do

đó cần tăng diện tích trồng cỏ phục vụ chăn nuôi, trong 5 năm tới trồng

mới 11.300 ha cỏ.

74

Phấn đấu đến 2010 hỗ trợ đầu tư cho phát triển nông nghiệp của tiểu

vùng như sau: Khai hoang 1.295 ha, làm nương xếp đá 2.305 ha, trồng cây

công nghiệp, cây đặc sản 2.257 ha; cây ăn quả 2.147 ha.

- Đối với tiểu vùng cao núi đất (gồm 2 huyện Hoàng Su Phì, Xín Mần)

Đây là vùng có thế mạnh về cây công nghiệp, cây ăn quả có giá trị kinh

tế cao. Hướng bố trí sản xuất là phát triển các cây công nghiệp dài ngày như

chè xanh, cần phát triển các mô hình trồng chè, gắn với chế biến tại chỗ, cây

công nghiệp ngắn ngày (đậu tương, lạc, sắn, bí xanh), thâm canh lúa, ngô, cây

ăn quả (mận, lê), cây dược liệu (ấu tẩu, đỗ trọng), cây đặc sản (trẩu, quế); phát

triển chăn nuôi trâu, dê, lợn, ngựa, gia cầm...

Phấn đấu đến 2010, khai hoang ruộng bậc thang 6.007 ha; trồng cây

công nghiệp, cây đặc sản: 5.950 ha; cây ăn quả: 600 ha.

- Đối với tiểu vùng thấp (gồm các huyện Bắc Quang, Quang Bình, Vị

Xuyên, thị xã Hà Giang, Bắc Mê).

Đây là vùng động lực có thế mạnh nước ta các nguồn nguyên liệu tại

chỗ phục vụ cho ngành công nghiệp chế biến. Phát triển các loại cây ăn quả

(cam, quýt, nhãn, vải), cây công nghiệp (chè, cà phê, dâu tằm, mây nếp), thâm

canh lúa, ngô, khoai tây, đậu tương, cây đặc sản (quế, thảo quả), chăn nuôi

lợn, trâu, bò, dê, gia cầm, cá...

Đến 2010 sẽ đầu tư hỗ trợ cho phát triển sản xuất nông nghiệp cho tiểu

vùng như sau: Khai hoang ruộng nước: 2.015 ha, trồng cây ăn quả: 5.743 ha;

trồng cây công nghiệp 9.157 ha

* Ngành lâm nghiệp

Hà Giang thuộc vùng núi cao, diện tích đất lâm nghiệp chiếm 42,38%

tổng diện tích tự nhiên, địa hình hiểm trở, độ dốc lớn, nhiều sông suối, vì thế

rừng chủ yếu là rừng phòng hộ đầu nguồn, vì thế cần chú trọng công tác quản

75

lý bảo vệ rừng, khoanh nuôi tái sinh, phòng chống cháy rừng kết hợp với khai

thác hợp lý, đảm bảo phát triển rừng, bảo vệ môi trường sinh thái. Cụ thể,

trong thời gian tới cần:

- Chuyển từ khai thác sang khoanh nuôi bảo vệ và trồng mới rừng, sử

dụng các biện pháp lâm sinh để tạo lậo một hệ sinh thái bền vững, phát huy

chức năng phòng hộ kết hợp với kinh doanh, bảo vệ nguồn gien động thực vật

quý hiếm, đáp ứng nhu cầu nguyên liệu cho công nghiệp chế biến lâm sản và

xuất khẩu.

- Phát triển lâm nghiệp xã hội, khuyến khích mọi thành phần kinh tế

tham gia nghề rừng, đẩy mạnh sản xuất theo phương thức nông - lâm kết hợp,

mô hình vườn rừng trang trại, hạn chế tiến tới xoá bỏ hoàn toàn tệ nạn phá

rừng làm nương rẫy, khai thác bừa bãi tài nguyên động thực vật.

- Tổ chức lồng ghép và thực hiện tốt các dự án phát triển lâm nghiệp

trong vùng định canh, định cư như dự án phát triển nông thôn miền núi, dự án

định canh, định cư... đảm bảo các chỉ tiêu trồng và khoanh nuôi bảo vệ rừng

do các dự án đề ra.

- Chú ý trồng các loại cây phù hợp, như đối với tiểu vùng cao núi đá là

thông, sa mộc, kháo..., đối với tiểu vùng cao núi đất là thông nhựa, sa mộc,

trẩu..., đối với tiểu vùng thấp chủ yếu là câu công nghiệp nguyên liệu giấy

(mỡ, bồ đề, keo...)

Phấn đấu đạt mục tiêu đến 2010 bảo vệ rừng: 217.854 ha; khoanh nuôi

tái sinh: 66.062 ha; diện tích đất có rừng của toàn vùng là 43.672 ha, tỷ lệ che

phủ của vùng đạt 56%.

3.2.3. Xây dựng vành đai cơ cấu kinh tế, văn hoá - xã hội, an ninh-

quốc phòng trong công tác định canh định cư

76

Để phát triển định canh, định cư bền vững, việc phát triển kinh tế - xã

hội ổn định, an ninh quốc phòng được giữ vững trong toàn vùng là vô cùng

cần thiết:

Từ thực tiễn yêu cầu phát triển trong giai đoạn tới, theo tinh thần Nghị

quyết 37 của Bộ Chính trị; mục tiêu phát triển của tỉnh đến năm 2010 là: phát

huy nội lực, khai thác có hiệu quả mọi tiềm năng, lợi thế tạo bước đột phá

trong tăng trưởng kinh tế, nâng cao chất lượng phát triển và chuyển dịch cơ

cấu kinh tế. Quyết tâm vượt ra khỏi tình trạng một tỉnh đặc biệt khó khăn, rút

ngắn khoảng cách phát triển so với các tỉnh trong khu vực để sớm thoát khỏi

tỉnh nghèo. Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng sản xuất hàng

hoá, công nghiệp hoá, hiện đại hoá để đến năm 2010 có có "dịch vụ - công

nghiệp - nông lâm nghiệp", đẩy mạnh tiếp thu tiến bộ khoa học và công nghệ;

nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo nguồn nhân lực, phát triển mạnh kinh tế

với phát triển xã hội, nâng cao đời sống mọi mặt của nhân dân, xoá đói giảm

nghèo, bền vững; ngăn chặn đẩy lùi các tệ nạn xã hội; tăng cường củng cố

quốc phòng, an ninh, giữ vững ổn định chính trị và trật tự an toàn xã hội, bảo

vệ vững chắc chủ quyền biên giới quốc gia, xây dựng biên giới hoà bình, hữu

nghị, hợp tác cùng phát triển.

Như vậy, để xây dựng được một vành đai kinh tế - xã hội, an ninh,

quốc phòng theo mục tiêu đã đề ra cần thực hiện các giải pháp sau:

Một là: Để phát triển kinh tế với tốc độ tăng trưởng cao Tỉnh cần phải

huy động tối đa các nguồn lực cho đầu tư phát triển:

- Thực hiện có hiệu quả cơ chế phân cấp quản lý nhà nước về phát triển

kinh tế, phát huy được nội lực, tăng thu ngân sách, chống thất thu, đảm bảo

nuôi dưỡng tốt các nguồn thu trên địa bàn. Tiếp tục đẩy mạnh khai thác các

nguồn lực trong dân, trong các thành phần kinh tế để đầu tư phát triển sản

77

xuất kinh doanh. Tích cực xây dựng các chương trình, dự án đầu tư phát triển

sản xuất kinh doanh để thu hút các nguồn lực đầu tư từ bên ngoài.

- Tập trung đầu tư phát triển mạnh các lĩnh vực có lợi thế của tỉnh, thu

hút các thành phần kinh tế trong và ngoài nước liên kết, hợp tác với các

doanh nghiệp trong tỉnh phát triển công nghiệp điện năng, xây dựng các công

trình thuỷ điện vừa và nhỏ; công nghiệp chế biến nông, lâm sản; đầu tư phát

triển công nghiệp khai thác, chế biến khoáng sản kim loại, vật liệu xây dựng

với công nghệ tiên tiến và quy mô hợp lý, tiết kiệm nguồn tài nguyên và bảo

vệ môi trường sinh thái. Phấn đấu đến 2010 có tổng công suất các nhà máy

thuỷ điện đạt trên 400 MW; sản lượng điện sản xuất đạt trên 1.200 tỷ kwh,

sản lượng khai thác khoáng sản đạt 300.000 tấn/năm, sản lượng chè chế biến

hàng năm 20.000 tấn [14, tr.9].

- Đẩy nhanh tiến độ đầu tư xây dựng và khai thác có hiệu quả khu kinh

tế cửa khẩu Thanh Thuỷ, các cửa khẩu chính và các khu trung tâm thương

mại. Tiếp tục xây dựng, mở rộng các chợ nông thôn, chợ đầu mối, chợ biên

giới v.v...

- Đầu tư xây dựng các dự án du lịch nghỉ dưỡng, du lịch sinh thái, văn

hoá cộng đồng như khu du lịch Thanh Hà, Thông Nguyên, khu nhà Vương,

cột cờ Lũng Cú, khu du lịch sinh thái Núi Cầm, hồ Noong v.v...; tập trung xây

dựng các khu, cụm, điểm công nghiệp trên địa bàn; phát triển các mặt hàng

thủ công mỹ nghệ truyền thống phục vụ du lịch và xuất khẩu. Tăng cường

ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ tiên tiến, hiện đại để nâng cao chất

lượng và giá trị sản phẩm. Tập trung phát triển mạnh cây ăn quả có thế mạnh

như: cam, quýt, xoài, lê... Xây dựng vành đai thực phẩm và một số vùng sản

xuất rau, hoa chất lượng cao, phát huy lợi thế từng vùng để phát triển chăn

nuôi, tăng nhanh đàn trâu, bò và đàn ong mật; đầu tư các điều kiện để hình

thành nghề nuôi trồng thuỷ sản, nhất là lòng hồ của các nhà máy thuỷ điện.

78

Tập trung việc trồng rừng kinh tế ở vùng nguyên liệu phục vụ sản xuất giấy,

có chính sách hỗ trợ đối với công tác trồng rừng đầu nguồn, rừng dọc biên

giới.

- Một khía cạnh cần quan tâm khi phát triển kinh tế ở vùng định canh,

định cư đó là:

Số hộ thuộc diện định canh, định cư của Hà Giang hiện nay chủ yếu là

khu vực nông thôn miền núi, do vậy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn

theo hướng sản xuất hàng hoá và tăng việc làm phi nông nghiệp là hướng đi

có tính quyết định đến phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế nông thôn.

Thực tiễn đã chứng minh tại các vùng định canh, định cư nếu chỉ sản xuất

thuần nông, tự cung, tự cấp thì rất khó để thoát nghèo và vươn lên giầu có. Do

vậy để giải quyết tốt vấn đề này cần gắn sản xuất nông nghiệp với chế biến và

tiêu thụ hàng hoá nông sản chế biến; liên kết chặt chẽ giữa: nhà khoa học, nhà

nông, nhà doanh nghiệp, nhà nước và ngân hàng trong sản xuất, chế biến và

tiêu thụ nông sản.

Hai là, xây dựng môi trường văn hoá - xã hội tốt cho vùng định canh,

định cư cần tập trung đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao chất lượng và sử dụng hợp

lý nguồn nhân lực theo hướng: phát triển mạng lưới trường lớp một cách đồng

bộ, thực hiện tách trường một cách đồng bộ, thực hiện tách trường để hoàn

thiện cấp học theo luật giáo dục.

Đa dạng hoá các hình thức dạy và học, tiếp tục mở mới và nâng cấp các

trường phổ thông dân tộc nội trú cho con em đồng bào dân tộc thiểu số vùng

định canh, định cư, khuyến khích mở rộng loại hình bán trú dân nuôi; củng cố

kết quả xoá mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học, đẩy mạnh tốc độ hoàn thành

phổ cập trung học cơ sở. Nâng cao chất lượng giáo dục của tất cả các cấp học,

ngành học; mở rộng việc sử dụng các phương tiện thông tin văn hoá nhằm

phổ biến kiến thức mới, nâng cao trình độ dân trí cho đồng bào, và tổ chức

79

dạy nghề thiết thực như trồng trọt, chăn nuôi, chế biến nông lâm sản... cho

con em đồng bào vùng định canh, định cư.

Tỉnh đã xoá được "xã trắng" về trường học, các thôn bản đã có lớp học.

Song cơ sở trường lớp của các xã vùng sâu, vùng xa vẫn còn tạm bợ, tình

trạng bỏ học, tái mù chữ vẫn còn. Do đó, cần tập trung đầu tư củng cố nâng

cấp trường lớp và các trang thiết bị phục vụ dạy và học. Tiếp tục duy trì cấp

sách giáo khoa, vở viết, miễn giảm học phí và các khoản đóng góp xây dựng

trường đối với con em nhà nghèo, tạo điều kiện cho 100% trẻ em vùng định

canh, định cư được đến trường.

- Tăng cường các biện pháp hỗ trợ về y tế, tạo cơ hội cho đồng bào tiếp

cận thuận lợi các dịch vụ y tế và chăm sóc sức khoẻ, dân số và kế hoạch hoá

gia đình. Củng cố mạng lưới y tế cơ sở, nhất là y tế xã và thôn bản, tập trung

đầu tư cơ sở vật chất cho các trạm y tế và đào tạo đội ngũ y bác sĩ về làm việc

tại xã. Thực hiện chính sách hỗ trợ miễn phí khám chữa bệnh đối với người

nghèo thuộc diện vận động định canh, định cư.

- Nâng cao chất lượng hoạt động các thiết chế văn hoá và phong trào

văn hoá. Đổi mới nâng cao hoạt động của báo chí, văn học nghệ thuật ở địa

phương. Thực hiện có hiệu quả cuộc vận động xây dựng cơ sở lành mạnh,

không có tệ nạn xã hội gắn với cuộc vận động toàn dân đoàn kết xây dựng đời

sống văn hoá. Phấn đấu đạt tỷ lệ 70% số gia đình văn hoá, 65% số làng văn

hoá, từng bước xây dựng xã, huyện văn hoá. 100% huyện thị và các xã có khu

vui chơi giải trí nhằm đáp ứng tốt hơn nhu cầu hoạt động văn hoá, thể dục thể

thao của nhân dân trong tỉnh [14, tr.12].

- Ba là, phát triển kinh tế - xã hội gắn với đảm bảo quốc phòng, an ninh

và đẩy mạnh các hoạt động đối ngoại. Làm tốt công tác giáo dục quốc phòng

toàn dân và phổ biến giáo dục pháp luật trong nhân dân. Chủ động phòng

ngừa đi đôi với kiên quyết đấu tranh có hiệu quả đối với các loại tội phạm.

80

Phát hiện và ngăn chặn kịp thời, không để xẩy ra các vụ việc bất ngờ, điểm

nóng về an ninh trật tự và khiếu kiện đông người.

Có coi trọng việc củng cố xây dựng đảm bảo quốc phòng an ninh trên

địa bàn là góp phần bảo vệ vững chắc chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, xây dựng

địa bàn tỉnh, huyện, thị trở thành khu vực phòng thủ vững chắc, giữ vững ổn

định chính trị xã hội; xây dựng biên giới hoà bình, hữu nghị, ổn định hợp tác

cùng phát triển, đồng thời góp phần chống truyền đạo trái pháp luật, di cư tự

do. Đấu tranh, phòng chống giảm thiểu các tệ nạn xã hội...

Chính việc phát triển kinh tế bền vững, văn hoá-xã hội ngày một nâng

cao, quốc phòng an ninh được đảm bảo trên đây đã tạo điều kiện thuận vào sự

nghiệp xoá đói giảm nghèo nói chung và định canh, định cư ổn định của Hà

Giang.

3.2.4. Xây dựng cơ sở hạ tầng và phúc lợi vùng định canh định cư

Cơ sở hạ tầng yếu kém là một trong những khó khăn trở ngại chính của

đồng bào vùng định canh, định cư, vì vậy muốn phát triển kinh tế - xã hội cho

đồng bào, cần phải quan tâm xây dựng cơ sở hạ tầng và phúc lợi cho vùng

định canh, định cư sau đây:

* Giao thông

Cần tiếp tục hỗ trợ xây dựng, nâng cấp, sửa chữa các tuyến đường giao

thông vào các xã định canh, định cư, phát triển mạnh giao thông liên thôn,

liên bản, đảm bảo cho người, ngựa và các phương tiện cơ giới nhỏ đi lại thuận

tiện. Dự kiến đến 2010 sẽ làm mới 32,3 km, nâng cấp 146km đường ô tô, làm

mới 23 cầu treo, 2.477km đường dân sinh, và đảm bảo tất cả các xã trong

vùng định canh, định cư có đường ô tô đến trung tâm xã.

Việc xây dựng đường giao thông theo tinh thần Nhà nước và nhân dân

cùng làm, với vật liệu tại chỗ là chính. Đường ô tô đến trung tâm xã do Nhà

81

nước hỗ trợ, đường dân sinh do Nhà nước và nhân dân cùng làm, Nhà nước

hỗ trợ thuốc nổ, xi măng, sắt thép và lương thực để làm đường.

* Thuỷ lợi

Thuỷ lợi là một trong những công trình thiết thực nhất góp phần phát triển

kinh tế của các xã vùng định canh, định cư, và là tiền đề có ý nghĩa quyết định cho

việc bố trí sử dụng đất đai, bố trí lao động, dân cư và môi trường sinh thái.

Do điều kiện địa hình và nguồn nước nên phần lớn các công trình thuỷ

lợi nhỏ phục vụ sản xuất của vùng định canh, định cư là cần phải chắn nước

và hồ đập nhỏ. Tuy nhiên, cũng cần nắm lại tình hình và xác định các công

trình hiện có cần gia cố, những công trình cần xây dựng mới và tính toán vốn

đầu tư cần thiết, kết hợp thuỷ lợi nhỏ với thuỷ điện nhỏ ở nơi có điều kiện.

Cần xây dựng một số công trình mới tại các vùng sản xuất tập trung. Ngoài ra

cần tăng cường trồng cây rừng kết hợp với làm hồ chứa nước nhỏ, ruộng bậc

thang nhằm giảm lũ, giữ nước, giữ ẩm.

Trong thời gian tới cần tập trung vốn hỗ trợ đầu tư xây dựng các công

trình cấp nước sinh hoạt cho đồng bào định canh, định cư vùng cao; cơ bản

giải quyết đủ nước, đảm bảo nước sạch, hợp vệ sinh. Vì hiện có 60% số hộ

của vùng còn thiếu nước sinh hoạt, đặc biệt là tình trạng thiếu trầm trọng vào

mùa khô ở vùng cao, do đó:

+ Với tiểu vùng cao núi đá cần tu sửa, tận dụng các công trình đã có,

xây dựng mới một số công trình chủ yếu là các bể xây chứa nước mưa, bể hốc

đá, các đường ống dẫn nước.

+ Tiểu vùng cao núi đất: Đầu tư các bể chứa nước cho các xã vùng cao,

biên giới và hệ thống nước tự chảy cho các xã vùng thấp.

+ Tiểu vùng thấp: Đầu tư giếng và hệ thống nước tự chảy

Nhà nước hỗ trợ một phần kinh phí để các hộ sống sơ tán ở vùng cao

đào giếng, xây bể nước dự trữ 1 triệu đồng/hộ.

82

* Các công trình phúc lợi công cộng

Tỉnh cần tiếp tục đầu tư xây dựng trường học, trạm xá, nhà văn hoá xã,

trụ sở Uỷ ban nhân dân xã, trụ sở phòng Dân tộc tôn giáo định canh, định cư

huyện, nhằm giúp đồng bào có nơi sinh hoạt vui chơi giải trí, từ đó xoá bỏ

được các tập tục lạc hậụ, nâng cao và được hỗ trợ đầy đủ về vật chất và tinh

thần. Trong đó cần xây dựng ở những nơi đồng bào sống tập trung, phù hợp

với yêu cầu và nguyện vọng của đồng bào vùng định canh, định cư.

3.2.5. Giải pháp về huy động vốn

Nhu cầu về vốn cho công tác định canh, định cư trên địa bàn Hà Giang

khá lớn, mặt khác do Hà Giang là một trong những tỉnh trọng điểm đầu tư của

Nhà nước cho nên có rất nhiều ngành với rất nhiều chương trình tham gia

triển khai trên địa bàn như chương trình xoá đói giảm nghèo, chương trình

xây dựng trung tâm cụm xã, chương trình hỗ trợ đồng bào dân tộc đặc biệt

khó khăn, chương trình 06, chương trình nước sạch, chương trình phát triển

kinh tế - xã hội ở các xã đặc biệt khó khăn, ở miền núi, vùng sâu, vùng xa...

Ngoài nguồn vốn trong nước, hiện nay Tỉnh còn có một số nguồn vốn

nước ngoài cũng được huy động để phát triển kinh tế - xã hội của các xã trong

vùng như IFAD, SIDA, UNICEF... Do đó để có vốn thực hiện công tác định

canh, định cư ngoài việc sử dụng có hiệu quả vốn định canh, định cư, cần phải

có kế hoạch lồng ghép các nguồn vốn trên một cách đồng bộ trên từng địa bàn

cụ thể để thực thi dự án, tránh đầu tư chồng chéo, cũng như tránh hiện tượng

có nơi thì có quá nhiều chương trình dự án triển khai, có nơi cần thì không có

dự án đầu tư.

- Trong quá trình thực hiện, phải sử dụng nguồn vốn đúng mục đích,

đúng đối tượng, đúng chính sách, có như vậy mới nhanh chóng hoàn thành

được sự nghiệp định canh, định cư trong tương lai.

83

- Trước khi đầu tư cần phải xem xét lấy hiệu quả kinh tế là hàng đầu,

kết hợp với các mục tiêu xã hội. Đầu tư có trọng điểm để phát huy hiệu quả,

gắn đầu tư với các biện pháp hỗ trợ về kỹ thuật và phương thức làm ăn phù

hợp với điều kiện của từng vùng định cư.

- Tăng cường vốn đầu tư với nhiều hình thức huy động từ nhiều nguồn

vốn khác nhau để nâng cao vốn đầu tư. Có thể huy động vốn trong dân và vốn

ngành, thu hút nguồn vốn nước ngoài bằng cách thực hiện chính sách ưu tiên

đối với các dự án và tài trợ quốc tế vào công tác định canh, định cư.

- Thực hiện hỗ trợ vốn trong nông lâm nghiệp, cơ quan chức năng thực

hiện chương trình định canh, định cư sau khi đã xác định giống cây trồng vật

nuôi phù hợp thì thực hiện hỗ trợ giống, công cụ lao động cho đồng bào, có

như vậy thì vốn đầu tư mới phát huy hiệu quả. Trên thực tế một số đồng bào

vay vốn xoá đói giảm nghèo với nguồn vốn ưu đãi ở vùng đặc biệt khó khăn

đã sử dụng sai mục đích, không đầu tư vào sản xuất mà tiến hành mua sắm

vật dụng, thực phẩm để giải quyết những thiếu thốn tạm thời.

Như vậy, việc tăng cường huy động, quản lý và sử dụng vốn trong công

tác định canh, định cư đòi hỏi có những biện pháp tổng hợp cần được kiểm

tra, giám sát chặt chẽ không để thất thoát trong lúc nguồn ngân sách còn eo

hẹp mà đời sống của đồng bào còn quá khó khăn.

3.2.6. Giải pháp phát triển nguồn nhân lực phục vụ công tác định

cạnh định cư

Do đặc thù của công tác định canh, định cư cho nên việc thành công

hay không thành công phụ thuộc chủ yếu vào cán bộ làm công tác định canh,

định cư. Với năng lực, trách nhiệm và đạo đức nghề nghiệp, họ là những

người trực tiếp hỗ trợ, giúp đỡ đồng bào định canh, định cư đồng thời là cầu

nối giữa đồng bào dân tộc miền núi với Đảng và Nhà nước. Chính vì vậy việc

84

tuyển chọn cán bộ làm công tác định canh, định cư ở Ban Dân tộc-tôn giáo,

Định canh định cư tỉnh và các phòng ở huyện cần tuyển chọn những người có

trình độ chuyên môn nghiệp vụ, có kiến thức sâu về các ngành nông - lâm -

ngư nghiệp và hiểu biết về phong tục, tập quán của đồng bào; nắm vững mọi

chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về lĩnh vực dân tộc, miền núi;

nhất là phải được đào tạo qua thực tế. Ưu tiên những người có kinh nghiệm,

những người ở địa phương thuộc vùng định canh, định cư. Mặt khác, đòi hỏi

người cán bộ phải có phẩm chất đạo đức tốt, có tinh thần trách nhiệm, nhiệt

tình công tác, có sức khoẻ sẵn sàng nhận nhiệm vụ công tác tại mọi địa bàn

khó khăn. Đồng thời tiếp tục nâng cao trình độ, đào tạo và đào tạo lại cho cán

bộ thực hiện công tác định canh, định cư.

Không chỉ chú ý đến đội ngũ cán bộ chuyên môn trực tiếp tại cơ quan

làm công tác định canh, định cư, mà còn cần phải phát huy nguồn lực cán bộ

cấp cơ sở phối kết hợp thực hiện công tác định canh, định cư ở địa phương.

Do đó phải nâng cao trình độ mọi mặt cho đội ngũ cán bộ làm công tác này ở

địa phương, nhất là ở các vùng định canh, định cư. Họ phải là những người có

trình độ, chủ động sáng tạo trong công tác. Ngoài việc biểu biết về các lĩnh

vực nông, lâm nghiệp, chăn nuôi, họ có thể giúp xã xây dựng những dự án

nhỏ về công tác định canh, định cư một cách thiết thực và hiệu quả. Chính vì

vậy cần phải thường xuyên nâng cao trình độ cho cán bộ ở cơ sở theo hướng:

- Thực hiện chương trình đào tạo chính thức đối với các cán bộ chủ

chốt làm công tác định canh, định cư ở xã chưa có kinh nghiệm, đặc biệt là

chú trọng việc đào tạo cho con em đồng bào dân tộc thiểu số. Nội dung đào

tạo bao gồm các kiến thức về: công tác vận động quần chúng; quản lý kinh tế,

quản lý tài chính; phát triển cộng đồng và xã hội; kỹ thuật nông, lâm, ngư

nghiệp, kỹ thuật xây dựng; các kiến thức về quản lý môi trường; kiến thức

pháp luật...

85

Có thể thực hiện bằng cách mở những lớp ngắn ngày, dài ngày, đào tạo

theo các chương trình, dự án, vừa học vừa làm, tập huấn theo chuyên đề v.v...

nhưng phải gắn sát với công tác thực tế; các chương trình đào tạo cán bộ phải

được chuyên môn hoá cao, đặc biệt đối với vấn đề xây dựng kế hoạch, quản

lý tổ chức, kiến thức nông, lâm nghiệp.

Sau cùng, phải chú ý nâng cao trình độ cho đồng bào thuộc vùng định

canh, định cư. Bởi vì trở ngại lớn nhất đối với sự phát triển khu vực định

canh, định cư hiện nay vẫn là mặt bằng dân trí của người dân. Xét một cách

toàn diện, để giải quyết dứt điểm vấn đề định canh, định cư thì mấu chốt và

lâu dài là phải nâng cao dân trí cho đồng bào các dân tộc vùng định canh, định

cư. Chỉ trên cơ sở dân trí ngày càng cao, đồng bào mới có khả năng và điều

kiện chinh phục tự nhiên, thấy rõ cái lợi ích trước mắt và lâu dài của việc định

canh, định cư để tự lo ổn định và nâng cao đời sống của mình.

3.2.7. Các giải pháp về cơ chế chính sách

Công tác định canh, định cư muốn thực hiện thành công thì trước hết

các chính sách định canh, định cư cần phải phù hợp với tình hình mới. Tỉnh

cần ban hành các chính sách đồng bộ, kích thích được sản xuất, cần cụ thể

hoá các chính sách của Trung ương cho phù hợp với điều kiện của Hà Giang

nhằm tiếp tục củng cố, ổn định cuộc sống và phát triển sản xuất cho đồng bào

định canh, định cư, đảm bảo cho đồng bào làm ăn lâu dài và có hiệu quả. Do

vậy, tỉnh cần thực hiện đầy đủ và phù hợp các chính sách sau:

- Chính sách hỗ trợ di chuyển, ổn định dân cư:

Với các hộ di chuyển đến địa điểm mới, Nhà nước cần hỗ trợ kinh phí di

chuyển, làm nhà và trợ cấp lương thực trong thời gian đầu từ 6 tháng đến 1 năm.

Hiện nay Tỉnh mới hỗ trợ di chuyển là 0,8 triệu đồng/hộ, hỗ trợ làm

nhà 2 triệu đồng/hộ. Với điều kiện đi lại, vận chuyển và mặt bằng giá cả như

86

ở Hà Giang thì mức đầu tư trên còn thấp, rất khó thực hiện, Tỉnh cần xem xét

tăng mức hỗ trợ thêm cho các hộ.

- Chính sách hỗ trợ phát triển sản xuất:

Tỉnh cần có chính sách ưu tiên khuyến khích phát triển sản xuất như:

tạo điều kiện cho người dân được vay vốn thuận lợi, thủ tục vay vốn đơn giản,

lãi suất ưu đãi hoặc vay không lãi.

Đối với nghề rừng có thể nghiên cứu để nâng mức đầu tư khoanh nuôi

bảo vệ và trồng rừng lên để cho người dân thực sự có thể sống được bằng

nghề rừng, đồng thời cho phép các chủ rừng được khai thác các sản phẩm phụ

trợ của rừng theo quy định của Nhà nước với điều kiện duy trì vốn rừng và

không làm giảm chức năng phòng hộ của rừng.

- Chính sách về hướng dẫn cách làm ăn, khuyến nông - lâm:

Do trình độ sản xuất và tiếp thu khoa học công nghệ của đồng bào

trong vùng định canh, định cư tương đối hạn chế, vì vậy để nước ta sản xuất

theo hướng thâm canh, đa dạng hoá cây trồng, từng bước tạo ra sản phẩm

hàng hoá ở khu vực định canh, định cư, một trong nhiều giải pháp quan trọng

là phải đẩy mạnh công tác khuyến nông, khuyến lâm, xây dựng một số mô

hình ứng dụng tiến bộ kỹ thuật trong sản xuất nông - lâm nghiệp phù hợp với

các xã miền núi, vùng cao để từ đó nhân ra diện rộng.

- Đẩy mạnh công tác khuyến nông, khuyến lâm: Đây là công việc hết

sức quan trọng và đối tượng định canh, định cư là đồng bào các dân tộc thiểu

số vùng cao, vùng sâu, vùng xa, trình độ dân trí thấp, có người không biết

tiếng phổ thông, nên công tác khuyến nông, khuyến lâm phải được tiến hành

sao cho thật đơn giản, thực tế và dễ hiểu, chủ yếu là tham quan, thực hành

"mắt thấy, tai nghe, tay sờ". Do đó, cần phải trang bị kiến thức và kỹ năng về

khuyến nông thông qua việc áp dụng khuyến nông có sự tham gia của dân,

hội nghị đầu bờ, tập huấn trên cơ sở mô hình thực tế. Gắn kết chặt chẽ khuyến

cáo tiến bộ kỹ thuật với giới thiệu phương pháp tổ chức sản xuất, bảo quản,

87

chế biến, hạch toán kinh tế và tiêu thụ sản phẩm; hỗ trợ việc hình thành và tổ

chức hoạt động của các tổ chức khuyến nông tự quản như câu lạc bộ khuyến

nông, nhóm tín dụng - tiết kiệm, nhóm nông dân cùng sở thích; tăng cường

đội ngũ cán bộ khuyến nông, khuyến lâm của tỉnh, huyện, cần tăng cường đội

ngũ cán bộ này tại các xã trong vùng định canh, định cư. Có cơ chế phù hợp

về tổ chức, đào tạo, sử dụng và đãi ngộ đối với cán bộ khuyến nông cơ sở. Có

thể nhân rộng hình thành cán bộ khuyến nông khuyến lâm cơ sở theo kiểu

"dân nuôi" như ở một số địa phương thuộc huyện Hoàng Su Phì, Bắc Quang.

Mỗi cộng đồng (thôn, bản - xã) chọn ra 1 - 2 nông dân trẻ, có hiểu biết, đào

tạo họ thành cán bộ khuyến nông, khuyến lâm về hướng dẫn bà con trong

thôn bản. Kinh phí cho cán bộ khuyến nông, khuyến lâm làm cơ sở chủ yếu

do dân đóng góp, tỉnh, huyện chỉ hỗ trợ một phần.

- Chính sách về chế biến và tiêu thụ sản phẩm:

Vấn đề bảo quản, chế biến và tiêu thụ sản phẩm không chỉ đặt ra khi

sản xuất hàng hoá đã phát triển mà cần phải quan tâm ngay từ khi bố trí sản

xuất, đặc biệt là đối với địa điểm của Hà Giang là hầu hết các vùng định canh,

định cư đều ở xa các trung tâm, thị trường lớn, bảo quản và vận chuyển hàng

hoá khó khăn.

Ngoài biện pháp phát triển hệ thống giao thông, đảm bảo lưu thông

hàng hoá, cần phải tăng cường đầu tư các cơ sở bảo quản chế biến nông - lâm

sản, đảm bảo các sản phẩm làm ra có chất lượng cao, giá cả hợp lý, mẫu mã

đa dạng phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng, tích cực tìm kiếm thị trường, đa

dạng hoá các hình thức tiếp thị sản phẩm, tạo điều kiện và môi trường kinh

doanh thuận lợi cho các hoạt động thương mại, dịch vụ.

- Chính sách hỗ trợ về giải quyết việc làm cho người lao động vùng

định canh, định cư:

88

Để định canh, định cư bền vững bên cạnh việc phát triển kinh tế, hỗ trợ

sản xuất thì giải quyết việc làm cho người lao động là một trong những giải

pháp quan trọng, bởi vì ở Hà Giang nói chung và các xã vùng định canh, định

cư nỏi riêng tỷ lệ lao động thiếu việc làm còn cao; cơ cấu lao động và chất

lượng lao động chuyển dịch chậm, năng suất lao động thấp, việc làm chưa bền

vững, bên cạnh đó còn có một bộ phận người lao động chưa nhận thức đầy đủ về

việc làm. Nhằm đạt được mục tiêu trong 5 năm (2006 - 2010) hỗ trợ giải quyết

việc làm cho 60.000 lao động, giảm tỷ lệ thất nghiệp của tỉnh dưới 4%, nâng tỷ

lệ sử dụng thời gian lao động ở nông thôn lên 85% vào năm 2010 cần phải:

+ Đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu ngành nghề, cơ cấu lao động, hình

thành vùng sản xuất nông nghiệp mang tính hàng hoá.

+ Mở rộng phát triển thương mại - dịch vụ với chất lượng ngày càng

cao

+ Thực hiện việc sắp xếp, chuyển đổi, cổ phần hoá các doanh nghiệp,

có chính sách hỗ trợ đối với doanh nghiệp nhằm tạo điều kiện cho các doanh

nghiệp phát triển sản xuất kinh doanh tạo việc làm ổn định cho người lao động.

+ Có chính sách thích hợp, tạo cơ chế thúc đẩy phát triển kinh tế khu

vực ngoài quốc doanh, nhất là kinh tế hộ gia đình, kinh tế trang trại, doanh

nghiệp vừa và nhỏ nhằm thu hút lao động vào làm việc.

+ Tổ chức giải quyết việc làm thông qua vốn vay hỗ trợ việc làm cho

người thất nghiệp, người thiếu việc làm, mà các cơ sở doanh nghiệp sản xuất

kinh doanh vay vốn với lãi suất ưu đãi để tạo việc làm.

Trên cơ sở đó cần tiếp tục thực hiện các chương trình, dự án hỗ trợ

người lao động như:

+ Đẩy mạnh công tác dạy nghề tại trường trung cấp nghề của tỉnh,

thành lập trung tâm dạy nghề khu vực phía Bắc đặt tại huyện Yên Minh và

trung tâm dạy nghề khu vực phía Nam đặt tại huyện Bắc Quang. Hỗ trợ dạy

nghề gắn với giải quyết việc làm mới trong các cơ sở sản xuất kinh doanh,

89

doanh nghiệp vừa và nhỏ, làng nghề, trang trại... nhận lao động chưa qua đào

tạo vào làm việc từ 1 năm trở lên.

+ Cho vay vốn tạo việc làm với lãi suất ưu đãi đối với các dự án tạo

việc làm mới, tạo việc làm cho lao động trong khu vực đang đô thị hoá, lao

động thất nghiệp, thiếu việc làm.

+ Tăng cường thực hiện công tác xuất khẩu lao động.

+ Tổ chức hội chợ việc làm để người lao động có cơ hội tìm việc làm

phù hợp với trình độ chuyên môn được đào tạo, có thu nhập ổn định.

3.2.8. Giải pháp về tổ chức thực hiện

Để khắc phục những mặt hạn chế trong tổ chức chỉ đạo thực hiện trong

những năm qua, tăng cường quản lý công tác định canh, định cư một cách có

hiệu quả, tránh chồng chéo, xác lập rõ ràng trách nhiệm của cơ quan tham

mưu cần cói sự đổi mới trong công tác tổ chức chỉ đạo thực hiện.

- Uỷ ban nhân dân tỉnh là cơ quan chỉ đạo thực hiện công tác định canh,

định cư trên cơ sở lấy chi cục Định canh định cư –kinh tế mới thuộc Ban Dân

tộc - tôn giáo định canh, định cư là cơ quan tham mưu và các ngành là cơ

quan phối hợp. Tuyệt đối tránh việc khoán trắng sự nghiệp định canh, định cư

cho cơ quan chuyên trách. Chính vì vậy, cần phải đổi mới, nâng cao hiệu lực

của bộ máy chuyên trách, và có cơ chế phối hợp với các ban ngành liên quan

như: Sở nông nghiệp phát triển nông thôn, Sở giao thông vận tải, Sở y tế, Sở

tài chính, Ngân hàng, Sở kế hoạch đầu tư...

- Thành lập ban quản lý dự án định canh, định cư huyện giúp Uỷ ban

nhân dân huyện trực tiếp chỉ đạo thực hiện dự án định canh, định cư trên địa

bàn huyện, trên cơ sở lấy phòng dân tộc - tôn giáo, định canh, định cư huyện

là cơ quan thường trực. Trong ban quản lý dự án cần có cán bộ kỹ thuật nông

- lâm nghiệp để giúp việc giao đất, giao rừng và khuyến nông - khuyến lâm.

90

- Tiến hành lồng ghép các chương trình kinh tế - xã hội trên địa bàn cần

có sự phối hợp chặt chẽ giữa các đơn vị quản lý các dự án để tránh việc đầu tư

trùng lắp, chồng chéo, mặt khác cũng tận dụng được nhiều nguồn vốn đầu tư

để thực hiện có hiệu quả việc định canh, định cư, xoá đói giảm nghèo cho các

hộ trong vùng.

- Để đảm bảo lấy hộ gia đình làm đơn vị tự chủ sản xuất làm động lực

để thực hiện dự án, đầu tư đến tận hộ gia đình, trong quá trình thực hiện, nếu

việc gì dân tự làm được thì tổ chức cho dân làm, hạn chế việc đưa người từ

nơi khác đến. Khuyến khích các già làng, trưởng bản tham gia ban quản lý dự

án để làm cầu nối giữa ban quản lý dự án và các hộ gia đình. Các cán bộ, già

làng, trưởng bản này được tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ định canh, định cư

và được hưởng các quyền lợi trích từ nguồn quản lý dự án.

91

kiến nghị

Để công tác định canh, định cư ở Hà Giang đạt kết quả cao trong thời

gian tới, xin đề xuất một số kiến nghị sau:

- Đối tượng thuộc diện vận động định canh, định cư ở Hà Giang ở

174/195 xã trong toàn tỉnh, trong đó có 34 xã biên giới, nơi có bộ đội biên

phòng đóng trên địa bàn. Vì vậy cần có sự phối hợp chặt chẽ của cả lực lượng

biên phòng và các tổ chức đoàn thể khác. Do đó tỉnh cần tăng cường chỉ đạo

các lực lượng đóng trên địa bàn tích cực tham gia vào công tác định canh,

định cư, xoá đói giảm nghèo ở đó.

- Các dự án định canh, định cư đã được UBND tỉnh phê duyệt và đầu tư

cần được bố trí đủ vốn theo tiến độ hàng năm. Tránh tình trạng bố trí nhỏ giọt

kém hiệu quả và giảm lòng tin của nhân dân.

- Đối với đồng bào dân tộc H'Mông sau khi triệt phá cây thuốc phiện

chuyển đổi sang trồng các loại cây khác để thay thế nhưng hiệu quả kinh tế lại

rất thấp, nguy cơ tái trồng cây thuốc phiện là có thể xẩy ra. Vì vậy, cần có

chính sách đặc biệt đầu tư ưu tiên và đồng bộ hơn nữa kể cả sản xuất, đời

sống và xây dựng cơ sở hạ tầng để đồng bào yên tâm định canh, định cư, xây

dựng bản làng, giữ gìn an ninh trật tự vùng biên giới.

- Tăng nguồn vốn đầu tư hàng năm cho các chương trình dự án xoá đói

giảm nghèo, định canh, định cư, đồng thời tạo cơ chế để cơ quan, đầu mối và

các cơ quan chuyên ngành ở các cấp có đủ thẩm quyền, năng lực và điều kiện

để quản lý các chương trình, dự án triển khai trên địa bàn tỉnh. Khắc phục tình

trạng trách nhiệm không đi đôi với thẩm quyền như giai đoạn vừa qua.

92

Kết luận

Công tác định canh, định cư cho đồng bào dân tộc còn du canh, du cư ở

miền núi đã được Đảng và Nhà nước ta quan tâm từ những năm 60 của thế kỷ

XX. Đây là một chủ trương đúng đắn, phù hợp với nguyện vọng của đồng

bào. Kết quả công tác định canh, định cư trong suốt quá trình đó đặc biệt là từ

năm 1986 đến nay đã đáp ứng yêu cầu của từng giai đoạn cách mạng, đem lại

hiệu quả nhiều mặt: chính trị, kinh tế, xã hội và an ninh quốc phòng. Cho đến

nay diện đồng bào cơ bản định canh, định cư khá lớn, số du canh, du cư

không còn nhiều và còn một số đã định cư nhưng du cư ở mức độ khác nhau.

Hà Giang là một trong những tỉnh nghèo của cả nước, có nhiều dân tộc

cùng chung sống, tỷ lệ đói nghèo còn cao. Hầu hết các địa bàn huyện, xã đều

thuộc vùng cao, miền núi, thuộc diện vận động định canh, định cư cho nên

định canh, định cư ở Hà Giang là một trong những chương trình quan trọng

trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, nhằm thực hiện ổn định

dân cư, xoá đói giảm nghèo, từng bước cải thiện đời sống vật chất và tinh

thần cho đồng bào các dân tộc trong tỉnh, giữ vững cân bằng sinh thái môi

trường, củng cố an ninh quốc phòng và trật tự an toàn xã hội. Đây là một công

việc khó khăn, phức tạp vì phải làm thay đổi cả cuộc sống, tập quán đã tồn tại

lâu đời của người dân vốn đã nghèo nàn, lạc hậu, dân trí thấp, nhận thức bị

hạn chế. Do đó công tác định canh, định cư đòi hỏi phải có sự chuẩn bị kỹ về

chiến lược, về quy hoạch, về vốn, về các giải pháp thực hiện, phải có sự thống

nhất từ tỉnh xuống huyện, xuống xã, giữa các ban, ngành với nhau để đảm bảo

việc tổ chức định canh, định cư có hiệu quả cao và bền vững.

Thực chất của công tác định canh, định cư tỉnh Hà Giang từ nay đến

năm 2010 là nhằm hỗ trợ cho 60.103 hộ, 370.193 khẩu (trong đó có 23.053

hộ, 138.155 khẩu định canh cư du canh) sinh sống trên 1.361 thôn, bản của

93

174 xã trong tỉnh có điều kiện ổn định đời sống và sản xuất, chuyển dịch cơ

cấu cây trồng vật nuôi, phát triển ngành nghề theo hướng sản xuất hàng hoá,

tạo cho đồng bào dân tộc trong vùng vươn lên theo kịp với đà phát triển

chung của tỉnh và cả nước.

Từ thực tiễn Hà Giang cho thấy định canh, định cư và xoá đói giảm

nghèo là những nội dung kinh tế - xã hội có quan hệ tác động, lồng ghép với

nhau. Chúng vừa là mục tiêu vừa là điều kiện, động lực cho nhau. Trong đó

định canh, định cư được coi là tiền đề, điều kiện cần có.

Với những khó khăn về đời sống và sản xuất, thiếu thốn về cơ sở hạ

tầng và phúc lợi, hạn chế về nhận thức và trình độ sản xuất, để ổn định và

nâng cao đời sống của các hộ trong vùng định canh, định cư, trên cơ sở khai

thác có hiệu quả những nguồn lực hiện có, ngoài việc bố trí sắp xếp lại dân

cư, Nhà nước cần có sự hỗ trợ đầu tư cần thiết để phát triển sản xuất cho các

hộ, xây dựng những cơ sở hạ tầng và phúc lợi thiết yếu như giao thông, thủy

lợi, nước sinh hoạt, điện, trường học, trạm xá... Mặt khác cũng cần có bước đi

và những giải pháp phù hợp với những nét đặc thù của vùng định canh, định

cư Hà Giang.

94

Danh mục tài liệu tham khảo

1. Ban Dân tộc tôn giáo, định canh định cư tỉnh Hà Giang, Báo cáo tổng kết

công tác định canh định cư từ năm 2001-2005.

2. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (1997), Tổng quan định canh

định cư cho đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi thời kỳ 1998-2010.

3. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn - Cục Định canh định cư và

vùng kinh tế mới (2001), Hệ thống các văn bản chính sách về công

tác định canh, định cư, di dân phát triển kinh tế mới, Nxb Nông

nghiệp, Hà Nội.

4. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (10/1999), Quyết định của Bộ

trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn về tiêu chí định

canh định cư.

5. Cục Định canh định cư và vùng kinh tế mới (1999), Di dân kinh tế mới,

định canh định cư - lịch sử và truyền thống, Nxb Nông nghiệp, Hà

Nội.

6. Cục Thống kê tỉnh Hà Giang, Niên giám thống kê Hà Giang năm 2000-2005.

7. Cục Thống kê tỉnh Hà Giang (6/2000), Báo cáo thực hiện tham luận về

công tác xây dựng đề án di chuyển và điều động dân cư.

8. Đảng Cộng sản Việt Nam (1986), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc

lần thứ VI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

9. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc

lần thứ VII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

10. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc

lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

11. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc

lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

95

12. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc

lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

13. Đề án xoá đói năm 2000 và giảm nghèo những năm tiếp theo trên địa

bàn tỉnh Hà Giang.

14. Hội đồng nhân dân tỉnh Hà Giang (12/2006), Nghị quyết phê duyệt kế

hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm giai đoạn 2006 - 2010.

15. Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Hà Giang - Chi cục định canh

định cư và vùng kinh tế mới (5/2000), Báo cáo thực hiện 10 năm

công tác định canh định cư và vùng kinh tế mới tỉnh Hà Giang.

16. PGS,TS Lê Ngọc Thắng (2005), Một số vấn đề về dân tộc và phát triển,

Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

17. Uỷ ban Dân tộc - Viện Dân tộc (2004), Kỷ yếu Hội thảo xoá đói giảm

nghèo ở vùng dân tộc thiểu số phía Bắc Việt Nam, Nxb Nông

nghiệp, Hà Nội.

18. Uỷ ban Dân tộc - Viện Dân tộc (2006), Giải pháp cải thiện đời sống cho

đồng bào các dân tộc thiểu số, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

19. Uỷ ban dân tộc - Viện dân tộc (2006), Nghiên cứu về định canh, định cư

ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

20. Uỷ ban nhân dân tỉnh Hà Giang (3/1999), Đề án định canh định cư tỉnh

Hà Giang giai đoạn 1999-2010.

21. Uỷ ban nhân dân tỉnh Hà Giang (7/2000), Báo cáo đánh giá diện vận

động định canh định cư.

22. Uỷ ban nhân dân tỉnh hà Giang (2/2006), Nghị quyết phê duyệt chương

trình giảm nghèo và giải quyết việc làm giai đoạn 2006 - 2010 trên

địa bàn tỉnh Hà Giang.