intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Định hướng xây dựng “không gian xanh” khu vực Ba Vì cho thành phố Hà Nội

Chia sẻ: Thi Thi | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:8

30
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Việc xây dựng “không gian xanh” nhằm giữ gìn cảnh quan, đảm bảo môi trường sống và hạn chế ô nhiễm, xây dựng Thủ đô Hà Nội trở thành thành phố xanh - văn hiến - văn minh - hiện đại trong hiện tại cũng như tương lai là việc làm cần thiết và cấp bách. Bài viết này góp một ý kiến về vấn đề xây dựng “không gian xanh” ở khu vực huyện Ba Vì cho Hà Nội nhằm giữ gìn cảnh quan, đảm bảo môi trường sống và hạn chế ô nhiễm môi trường của thành phố.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Định hướng xây dựng “không gian xanh” khu vực Ba Vì cho thành phố Hà Nội

Lê Tiến Dũng và Đtg<br /> <br /> Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br /> <br /> 95(07): 71 - 78<br /> <br /> ĐỊNH HƯỚNG XÂY DỰNG “KHÔNG GIAN XANH” KHU VỰC BA VÌ<br /> CHO THÀNH PHỐ HÀ NỘI<br /> 1<br /> <br /> Lê Tiến Dũng1*, Nguyễn Thị Phượng2<br /> Đại học Thái Nguyên, Trường Đại học Sư phạm – ĐH Thái Nguyên<br /> 2<br /> <br /> TÓM TẮT<br /> Việc xây dựng “không gian xanh” nhằm giữ gìn cảnh quan, đảm bảo môi trường sống và hạn chế ô<br /> nhiễm, xây dựng Thủ đô Hà Nội trở thành thành phố xanh - văn hiến - văn minh - hiện đại trong<br /> hiện tại cũng như tương lai là việc làm cần thiết và cấp bách. Bài viết này góp một ý kiến về vấn<br /> đề xây dựng “không gian xanh” ở khu vực huyện Ba Vì cho Hà Nội nhằm giữ gìn cảnh quan, đảm<br /> bảo môi trường sống và hạn chế ô nhiễm môi trường của thành phố.<br /> Từ khóa: Không gian xanh, ô nhiễm môi trường, Hà Nội, Ba Vì.<br /> <br /> ĐẶT VẤN ĐỀ*<br /> Nhằm bảo vệ môi trường và phát triển bền<br /> vững, khắc phục sự đe dọa của đô thị màu xám<br /> trong quá trình đô thị hóa, việc nghiên cứu,<br /> quy hoạch và xây dựng các đô thị xanh đã trở<br /> thành xu hướng chung của thế giới và của Việt<br /> Nam. Không gian xanh là thành phần không<br /> thể thiếu của một đô thị, với nhiều chức năng,<br /> ý nghĩa quan trọng: góp phần cân bằng sinh<br /> thái, cải thiện chất lượng môi trường, là không<br /> gian nghệ thuật cảnh quan mang ý nghĩa nhân<br /> văn, xã hội, làm giảm stress cho người dân<br /> trong một cuộc sống hiện đại, khẩn trương,<br /> nhiều áp lực, ngoài ra, không gian xanh với<br /> tâm lý của người Việt Nam từ lâu đời đối với<br /> nhiều loài cây còn có ý nghĩa tâm linh sâu sắc,<br /> như các cây si, xanh, đa, cây mai, cây lộc<br /> vừng… Nhìn nhận một cách toàn diện, ngoài<br /> cây xanh đường phố, công viên, mặt nước,<br /> không gian xanh đô thị còn bao gồm các hành<br /> lang xanh, vành đai xanh, thị trấn sinh thái,<br /> công viên sinh thái, khu sản xuất nông nghiệp<br /> chất lượng cao, vùng trồng hoa, vùng bảo tồn<br /> cây xanh, trục xanh cảnh quan.<br /> Dù có nhiều lợi thế, nhưng việc phát triển đô<br /> thị xanh ở Việt Nam đến nay vẫn gặp nhiều<br /> trở ngại do hạ tầng kỹ thuật và xã hội còn<br /> kém, môi trường nhiều nơi bị ô nhiễm nặng<br /> nề, dân số đông hạn chế quỹ đất dân dụng<br /> trong đó có công viên cây xanh, đội ngũ<br /> chuyên gia quy hoạch ít và trình độ chưa cao,<br /> tỷ lệ diện tích cây xanh còn quá ít so với yêu<br /> *<br /> <br /> Tel: 0912 551592, Email: letiendungtn@gmail.com<br /> <br /> cầu. Nước ta hiện có khoảng 755 đô thị các<br /> loại, diện mạo đô thị đã được cải thiện theo<br /> hướng hiện đại, song hầu như chưa có đô thị<br /> nào hội tụ đủ 7 tiêu chí của một đô thị xanh,<br /> sạch: không gian xanh; công trình xanh; giao<br /> thông xanh; công nghiệp xanh; chất lượng môi<br /> trường đô thị xanh; bảo tồn cảnh quan thiên<br /> nhiên, danh lam thắng cảnh, công trình lịch<br /> sử, văn hóa; cộng đồng dân cư sống thân thiện<br /> với môi trường và thiên nhiên. Đối với việc<br /> hình thành đồng bộ hệ thống không gian xanh<br /> của đô thị lại càng chưa thể hiện rõ. Việc quy<br /> hoạch “không gian xanh”, xây dựng Thủ đô<br /> Hà Nội trở thành thành phố xanh - văn hiến văn minh - hiện đại trong hiện tại cũng như<br /> tương lai trở nên rất cần thiết và cấp bách. Đồ<br /> án Quy hoạch chung xây dựng Thủ đô Hà Nội<br /> đến năm 2030, tầm nhìn 2050 nêu rõ sẽ dành<br /> 70% diện tích tự nhiên cho “không gian<br /> xanh”. Vậy, cơ sở nào cho quy hoạch, xây<br /> dựng “không gian xanh”, ý nghĩa, thuận lợi,<br /> khó khăn trong xây dựng “không gian xanh”<br /> cho Hà Nội?..., Bài viết này góp một ý kiến về<br /> vấn đề xây dựng “không gian xanh” ở khu vực<br /> huyện Ba Vì cho thành phố Hà Nội.<br /> ĐỐI<br /> TƯỢNG,<br /> PHƯƠNG<br /> PHÁP<br /> NGHIÊN CỨU<br /> Đối tượng nghiên cứu<br /> Trong một “không gian xanh” thì các yếu tố<br /> cảnh quan môi trường được đặc biệt coi trọng.<br /> Khu vực huyện Ba Vì của Hà Nội có mối liên<br /> hệ hữu cơ với mọi quận, huyện, thị xã của<br /> thành phố, có điều kiện khí hậu, địa hình và<br /> đa dạng sinh học phù hợp đối với xây dựng<br /> 71<br /> <br /> Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên<br /> <br /> http://www.lrc-tnu.edu.vn<br /> <br /> Lê Tiến Dũng và Đtg<br /> <br /> Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br /> <br /> “không gian xanh”: vòng cung núi Tản Viên<br /> mà Hà Nội tựa vào và hướng ra Hồ Tây, có<br /> một phần Vườn quốc gia Ba Vì với giá trị<br /> sinh học cao, có sông Hồng, sông Đà, hồ<br /> Đồng Mô, hồ Suối Hai… là những diện tích<br /> nước ngọt có giá trị cả về tự nhiên và xã hội.<br /> Do đó, việc nghiên cứu xác định cơ sở lí luận<br /> và thực tiễn để xây dựng mô hình “không<br /> gian xanh” khu vực huyện Ba Vì và ý nghĩa<br /> của nó, đặc biệt đối với mục đích làm hạn chế<br /> ô nhiễm cho thành phố Hà Nội là mục tiêu và<br /> là đối tượng nghiên cứu của đề tài.<br /> Phương pháp nghiên cứu<br /> Tác giả đã sử dụng tổng hợp một số phương<br /> pháp: Dựa trên bản đồ, xác định vị trí, mối<br /> liên hệ giữa huyện Ba Vì với các quận, huyện,<br /> thành phố, thị xã trong quy hoạch xây dựng<br /> “không gian xanh”. Nghiên cứu thực địa tại<br /> một số địa điểm thuộc các khu vực sông, hồ,<br /> rừng tự nhiên, vùng nông thôn để thu thập tư<br /> liệu, hình ảnh, xác minh tài liệu trên thực địa.<br /> Trao đổi ý kiến với chuyên gia, liên hệ với<br /> một số cơ quan liên quan để thu thập, bổ sung<br /> tư liệu về các điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã<br /> hội của khu vực. Xử lý, định lượng tài liệu.<br /> Đánh giá vai trò của các điều kiện tự nhiên<br /> của huyện Ba Vì, phân tích, tổng hợp tài liệu<br /> liên quan đến môi trường của Hà Nội trong<br /> vai trò là cơ sở khoa học của vấn đề xây dựng<br /> “không gian xanh” cho thành phố Hà Nội.<br /> KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ BÀN LUẬN<br /> Ô nhiễm môi trường không khí ở thành<br /> phố Hà Nội<br /> Hiện trạng ô nhiễm môi trường không khí<br /> Môi trường không khí của Hà Nội, đặc biệt ở<br /> hầu hết các khu công nghiệp, các trục đường<br /> giao thông đều bị ô nhiễm ở cấp độ khác<br /> nhau. Đó là hệ quả của sự gia tăng dân số, gia<br /> tăng đột biến các phương tiện giao thông (ô<br /> tô, xe máy…), sự phát triển quá nhanh của<br /> sản xuất công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp<br /> trong điều kiện cơ sở hạ tầng còn thấp kém.<br /> Một nguyên nhân quan trọng nữa, đó là sự<br /> thiếu vắng trầm trọng của hệ thống không<br /> gian xanh trong quy hoạch, thiết kế, xây dựng<br /> hệ thống giao thông, các khu công nghiệp, đô<br /> thị mới.<br /> <br /> 95(07): 71 - 78<br /> <br /> Báo cáo hiện trạng môi trường hàng năm của<br /> Sở Tài nguyên và Môi trường Hà Nội đều<br /> khẳng định nồng độ các chất ô nhiễm môi<br /> trường không khí luôn vượt quá tiêu chuẩn<br /> cho phép (TCCP). Cụ thể, mỗi năm thành phố<br /> phải tiếp nhận khoảng 80.000 tấn bụi, khói;<br /> 9.000 tấn khí SO2; 46.000 tấn khí CO2. Theo<br /> kết quả quan trắc, nồng độ bụi lơ lửng ở các<br /> quận nội thành luôn vượt quá TCCP từ 2 - 3<br /> lần: địa bàn quận Đống Đa, Long Biên có<br /> nồng độ bụi cao nhất tới 0,80 mg/m3, gấp 4<br /> lần TCCP, địa bàn quận Tây Hồ, Hoàng Mai<br /> 0,78 mg/m3... Trong 10 năm qua, hàm lượng<br /> bụi lơ lửng do sản xuất công nghiệp và thủ<br /> công nghiệp thải ra chiếm 67%, do đường<br /> phố bẩn chiếm 30%, còn lại là do các<br /> phương tiện giao thông. Mức độ ô nhiễm môi<br /> trường không khí trên địa bàn thành phố đã<br /> được cảnh báo ở mức “báo động đỏ”.<br /> Nguồn gốc gây ô nhiễm<br /> Có nhiều nguyên nhân gây ra ô nhiễm môi<br /> trường không khí của Hà Nội. Sau đây là một<br /> số nguyên nhân chính:<br /> - Ô nhiễm do hoạt động sản xuất công nghiệp,<br /> nông nghiệp: Hà Nội hiện có trên 400 cơ sở<br /> công nghiệp đang hoạt động, trong đó gần 150<br /> cơ sở có tiềm năng lớn về thải bụi, khí SO2,<br /> CO và NO2 từ quá trình chuyển hoá năng<br /> lượng (đốt cháy than, xăng, dầu). Với lượng<br /> tiêu thụ trung bình trên 250.000 tấn than,<br /> 230.000 tấn xăng dầu/năm, trong điều kiện<br /> chất lượng nhiên liệu thấp, lẫn nhiều tạp chất<br /> (hàm lượng benzen trong xăng tới 5% so với<br /> TCCP là 1%, hàm lượng lưu huỳnh trong dầu<br /> diezen 0,5-1% so với 0,05%...), thêm vào đó,<br /> việc sử dụng các chất hóa học, thuốc bảo vệ<br /> thực vật cũng góp phần làm cho ô nhiễm môi<br /> trường nói chung và ô nhiễm không khí nói<br /> riêng càng trở nên trầm trọng.<br /> - Do hoạt động giao thông và xây dựng: Với<br /> tốc độ tăng trưởng trung bình hàng năm về xe<br /> máy là 15%, ôtô là 10%, năm 1996 thành phố<br /> có 600.000 xe máy, 34.000 ô tô, sau 10 năm<br /> lượng ô tô tăng gấp 4,4 lần và xe máy tăng<br /> 2,6 lần. Đây là nguồn thải một số lượng lớn ra<br /> môi trường các khí độc hại như CO, SO2,<br /> NO2, các hợp chất chứa bụi, chì, khói, đặc<br /> biệt tại các khu vực trục, nút giao thông chính<br /> <br /> 72<br /> <br /> Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên<br /> <br /> http://www.lrc-tnu.edu.vn<br /> <br /> Lê Tiến Dũng và Đtg<br /> <br /> Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br /> <br /> và vào các giờ cao điểm. Mức độ ô nhiễm<br /> càng sâu sắc thêm trong điều kiện cơ sở hạ<br /> tầng giao thông còn thấp (tiêu chuẩn luồng<br /> đường, tốc độ lưu thông, chất lượng<br /> đường,…), cường độ dòng xe lớn (trên 1.800<br /> - 3.600 xe/giờ), phương tiện giao thông cũ,<br /> đường hẹp, nhiều giao điểm, ý thức người<br /> tham gia giao thông kém (thống kê tại bốn<br /> khu vực: Đuôi Cá, đê sông Hồng, đường<br /> Láng - Hòa Lạc và chân cầu Thăng Long, có<br /> đến 95% số xe tải chở vật liệu xây dựng<br /> không bảo đảm yêu cầu vệ sinh như: thùng xe<br /> không kín, không hoặc che đậy sơ sài, chở<br /> quá tải)....<br /> Tốc độ đô thị hóa diễn ra nhanh, mạnh. Cả<br /> thành phố như một “công trường” lớn luôn có<br /> hơn 1.000 công trình xây dựng lớn nhỏ đang<br /> thi công, gồm: các dự án cải tạo, xây dựng nút<br /> giao thông, khu đô thị mới… có quy mô lớn,<br /> thời gian thi công kéo dài hàng năm, gây ô<br /> nhiễm bụi cả khu vực rộng lớn. Hàng tháng<br /> đều có khoảng 10.000m2 đường bị đào bới để<br /> sửa chữa, nâng cấp hoặc thi công các công<br /> trình hạ tầng kỹ thuật. Cả thành phố có hơn<br /> 300 điểm buôn bán vật liệu xây dựng mà<br /> phần lớn không đủ điều kiện kinh doanh bảo<br /> đảm vệ sinh môi trường vì diện tích nhỏ hẹp,<br /> không có hàng rào che chắn, sử dụng vỉa hè khu<br /> vực đông dân cư để tập kết vật liệu… cũng<br /> thường xuyên phát tán bụi vào môi trường.<br /> - Hoạt động sinh hoạt và dịch vụ tạo ra khí<br /> thải từ nhiên liệu đun nấu, nhất là than tổ ong<br /> (một gia đình tiêu thụ 2kg than/ngày, tức là<br /> tới 60kg/tháng); thải ra một lượng rác rất lớn,<br /> nếu bị tồn đọng lâu ngày không kịp thu dọn,<br /> rác sẽ bị phân hủy, giải phóng khí metan càng<br /> làm môi trường không khí ô nhiễm hơn. Sự<br /> hoạt động của hàng chục làng nghề ở Hà Nội<br /> (gốm Bát Tràng, đúc đồng Ngũ Xã…), các<br /> cơ sở tiểu, thủ công nghiệp rải rác khắp các<br /> ngõ phố, khu dân cư, việc đốt rơm rạ sau thu<br /> hoạch…thải vào môi trường khói, bụi, khí<br /> CO2… Những hoạt động nói trên thường rất<br /> khó kiểm soát với mục đích làm giảm thiểu ô<br /> nhiễm môi trường không khí.<br /> Cơ sở tự nhiên và xã hội để xây dựng<br /> “không gian xanh” ở khu vực huyện Ba Vì<br /> Ba Vì là huyện bán sơn địa nằm ở Tây Bắc<br /> Hà Nội, cách nội thành chừng 60km. Phía<br /> <br /> 95(07): 71 - 78<br /> <br /> Bắc giáp thành phố Việt Trì, ranh giới là sông<br /> Hồng; phía Nam giáp các huyện Lương<br /> Sơn và Kỳ Sơn tỉnh Hoà Bình; phía Tây<br /> giáp Phú Thọ, ranh giới là sông Đà, Đông Bắc<br /> là sông Hồng ngăn cách với tỉnh Vĩnh Phúc;<br /> Đông Nam giáp thị xã Sơn Tây và một phần<br /> huyện Thạch Thất. Trong khu vực có Vườn<br /> quốc gia Ba Vì. Trên ranh giới với tỉnh Phú<br /> Thọ có hai ngã ba sông: ngã ba Trung Hà<br /> giữa sông Đà và sông Hồng (xã Phong Vân),<br /> ngã ba Bạch Hạc giữa sông Hồng và sông<br /> Lô (xã Tản Hồng và Phú Cường, đối diện<br /> thành phố Việt Trì). Ba Vì kết nối chặt chẽ<br /> với trung tâm Hà Nội qua trục đường Thăng<br /> Long và các địa phương lân cận cả về kinh tế,<br /> văn hóa, xã hội và tự nhiên với nhiều trục<br /> đường như quốc lộ 32, tỉnh lộ 89A, đường 21<br /> (đường Cu Ba)…, các tuyến đường thủy trên<br /> sông Hồng, sông Đà với tổng chiều dài 70<br /> km. Ba Vì là vùng đất giầu đẹp, đa dạng về<br /> sinh học, có môi trường thiên nhiên trong<br /> lành. Tuy nhiên, không ít nhà khoa học đang<br /> lo lắng cho sự bảo tồn sinh thái và hệ động,<br /> thực vật ở đây trong quá trình mở rộng Thủ<br /> đô. Vì vậy việc nghiên cứu, bảo tồn cảnh<br /> quan tự nhiên, xây dựng Ba Vì trở thành một<br /> bộ phận “không gian xanh” có ý nghĩa quan<br /> trọng đối với mục tiêu xây dựng Hà Nội văn<br /> minh, xanh, sạch, đẹp.<br /> Điều kiện tự nhiên<br /> Địa hình<br /> Chia thành ba vùng rõ rệt: vùng núi trung<br /> bình và núi thấp, vùng đồi gò, nối tiếp là vùng<br /> đồng bằng ven sông. Vùng núi chiếm 47,5%<br /> diện tích, có đỉnh Vua cao nhất là 1296m, Tản<br /> Viên: 1.281m, Ngọc Hoa trên 1000m, còn lại<br /> một số đỉnh cao trên 700m. Núi Ba Vì dạng<br /> vòm - khối tảng cấu tạo bởi tập hợp đá phức<br /> tạp, song chủ yếu là đá phun trào bazơ, được<br /> các pha tân kiến tạo nâng lên, bị xâm thực, bào<br /> mòn thành các bậc - vai núi là những mặt<br /> bằng cục bộ. Từ dưới lên quan sát thấy mặt<br /> bằng 200 - 300m, 400 - 600m, 800 - 1000m và<br /> 1200m. Đáng chú ý là các mặt bằng có độ cao<br /> 400m và 600 m, chiều dài 700 - 800m, rộng<br /> 200 - 300m đã có các khu nghỉ an dưỡng được<br /> xây dựng từ thời thuộc Pháp. Tính độc đáo về<br /> địa chất, địa hình tạo nên sự phân hoá theo đai<br /> 73<br /> <br /> Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên<br /> <br /> http://www.lrc-tnu.edu.vn<br /> <br /> Lê Tiến Dũng và Đtg<br /> <br /> Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br /> <br /> cao, sự đa dạng về cảnh quan với một hệ sinh<br /> thái rừng nhiệt đới gió mùa ẩm điển hình.<br /> Chân núi Ba Vì là dải địa hình đồi thoải xen<br /> các khối núi sót nhỏ theo phương tây bắc qua<br /> Yên Bài, Vân Hòa, Ba Trại, hình thành do các<br /> máng trũng xâm thực phân cắt bề mặt<br /> pedimen. Các khối núi phía tây, dải đồi núi sót<br /> này là nơi đầu nguồn của các thung lũng sông<br /> suối. Sườn đông núi Ba Vì có độ dốc thấp<br /> hơn, thoải xuống vùng đồng bằng. Vùng đồng<br /> bằng được bao bọc và bồi đắp bởi hai con<br /> sông là sông Hồng và sông Đà nên đất đai rất<br /> phì nhiêu, màu mỡ.<br /> Khí hậu<br /> Huyện Ba Vì nằm ở khoảng vĩ tuyến 210 Bắc,<br /> khí hậu nhiệt đới gió mùa ẩm. Nhiệt độ trung<br /> bình năm 23039C, tháng 7 cao nhất (28,690C).<br /> Lượng mưa 1721,7mm/năm và không đều<br /> giữa các khu vực và các tháng. Sườn núi phía<br /> đông mưa tới trên 2500mm/năm. Mùa đông<br /> trùng với mùa khô (tháng 11 - 3 năm sau),<br /> nhiệt độ trung bình xấp xỉ 200C (thấp nhất<br /> tháng 1: 15,80C), lượng mưa thấp, chiếm<br /> 80<br /> - 90% lượng mưa cả năm. Mùa đông có gió<br /> Bắc, Đông Bắc với tần suất >40%. Mùa hạ<br /> gió Đông Nam tần suất 25% và gió Tây Nam.<br /> Độ ẩm trung bình năm 85%.<br /> Đa dạng sinh học<br /> Ba Vì có hơn 11.134ha đất lâm nghiệp, chiếm<br /> 26% diện tích tự nhiên của huyện và 40%<br /> diện tích đất lâm nghiệp của Hà Nội., trong<br /> đó có 10.724,9 ha rừng (2008), phân bố ở<br /> 17/31 xã, thị trấn, tập trung nhất ở 7 xã miền<br /> núi vùng đệm Vườn quốc gia Ba Vì, gồm<br /> rừng sản xuất, rừng phòng hộ và rừng đặc<br /> dụng. Có 3 kiểu thảm rừng chính: 1) Rừng<br /> kín lá rộng thường xanh mưa ẩm á nhiệt đới<br /> núi thấp, 2) Rừng kín thường xanh hỗn hợp<br /> cây lá rộng, cây lá kim á nhiệt đới núi thấp<br /> và 3) Rừng kín lá rộng mưa ẩm nhiệt đới<br /> núi thấp.<br /> Kiểu thứ nhất là một quần thể nguyên sinh bị<br /> tác động nhẹ, nhưng do được bảo vệ trong<br /> thời gian dài, đã trải qua diễn thế nguyên sinh,<br /> nên hình thái và cấu trúc vẫn mang sắc thái<br /> <br /> 95(07): 71 - 78<br /> <br /> quần thể nguyên sinh. Kiểu rừng này phân bố<br /> chủ yếu trên các dãy núi Ngọc Hoa, Tản<br /> Viên, Đỉnh Vua với độ cao 760 m - 1200 m.<br /> Cấu trúc đơn giản, rừng chỉ có 2 tầng, không<br /> có tầng vượt tán, với 2 kiểu phụ sinh là rừng<br /> rêu (rừng cảnh tiên) và rừng thưa á nhiệt đới.<br /> Kiểu rừng kín thường xanh hỗn hợp cây lá<br /> rộng, cây lá kim á nhiệt đới núi thấp là kiểu<br /> phụ miền thực vật thân thuộc với khu hệ bản<br /> địa Nam Trung Hoa - Bắc Việt Nam và khu hệ<br /> di cư Hymalaya - Vân Nam - Quý Châu. Từ độ<br /> cao 900m đã xuất hiện những cá thể cây Bách<br /> xanh (Calocedrus macrolepis) trong ngành phụ<br /> hạt trần (Gymnospermae), càng lên cao tần<br /> suất xuất hiện càng tăng và trở thành một trong<br /> những loài ưu thế của ưu hợp Bách xanh + Dẻ<br /> + Re + Giổi + Mỡ. Kiểu rừng này phân bố ở<br /> phần đỉnh sườn tây Đỉnh Vua, Ngọc Hoa, Tản<br /> Viên và Tiểu Đồng.<br /> Kiểu rừng kín lá rộng thường xanh mưa ẩm<br /> nhiệt đới núi thấp. Do trải qua quá trình chặt<br /> chọn cây gỗ tốt và phá rừng làm nương rẫy,<br /> nên kiểu này đã mất hoàn toàn quần thể thành<br /> thục, chỉ còn những kiểu phụ nhân tác như<br /> rừng thưa nhiệt đới, phân bố khắp đai cao<br /> 400m - 800m xung quanh sườn núi Ba Vì. Dù<br /> đã được bảo vệ trong thời gian dài, song kiểu<br /> thảm này vẫn chỉ là kiểu rừng thưa, tầng tán<br /> bị phá vỡ mất hẳn tính liên tục vốn có. Tính<br /> chất tầng của rừng gỗ chỉ thể hiện ở vài đám,<br /> vạt lâm phần gỗ mọc tập trung. Dưới tán cây<br /> gỗ có nhiều loài dây leo thân gỗ, cây phụ sinh<br /> thuộc nhiều họ: dương sỉ, phong lan, họ môn,<br /> cây bán phụ sinh, tre, nứa, giang…<br /> Do điều kiện khí hậu thuận lợi cho sự sinh<br /> trưởng, phát triển của nhiều loài, nhiều họ<br /> nên tổ thành cây gỗ ở kiểu rừng này khá<br /> phức tạp, không thể hiện rõ tính chất ưu thế<br /> như ở vành đai á nhiệt đới. Các kiểu phụ<br /> nhân tác là: Rừng tre nứa, chủ yếu là cây<br /> giang thường phát triển thành bụi dầy đặc<br /> tạo thành tán kín, thấp làm hạn chế khả năng<br /> tái sinh của loài cây gỗ; Kiểu phụ rừng phục<br /> hồi là quần thể xuất hiện sau nương rẫy đã<br /> bỏ hoá đất vẫn còn tốt, phân bố tập trung ở<br /> quanh khu cốt 400m lên cốt 600m, hình thái<br /> cấu trúc đơn giản: một tầng tán cây gỗ khá<br /> đồng đều, đồng tuổi gồm những loài cây tiên<br /> <br /> 74<br /> <br /> Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên<br /> <br /> http://www.lrc-tnu.edu.vn<br /> <br /> Lê Tiến Dũng và Đtg<br /> <br /> Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br /> <br /> phong như: Ba soi (Macaranga denticulata),<br /> Hu đay (Trema angustifolia), Ba bét<br /> (mallotus apella). Kiểu thảm rừng này là<br /> quần thể đang diễn thế, nếu bảo vệ tốt có thể<br /> hồi nguyên trở về kiểu phụ miền hay kiểu<br /> phụ thổ nhưỡng nguyên sinh; Một kiểu phụ<br /> nhân tác đặc biệt là rừng trồng, gồm các loài<br /> keo, thông, long não, giổi, muồng đen, trám,<br /> sấu, nhội, sến... sinh trưởng tốt, phân bố chủ<br /> yếu ở sườn và chân dãy Ba Vì.<br /> Ngoài ra, Ba Vì còn cánh rừng nguyên sinh<br /> khác ở Đầm Long - Bằng Tạ diện tích 70ha,<br /> trong đó 50ha là mặt nước và 20ha rừng, với<br /> hệ thực vật rất phong phú và đa dạng: 387<br /> loại thuộc 252 chi, 94 họ của 4 ngành thực vật<br /> bậc cao thuộc 8 nhóm sử dụng khác nhau,<br /> trong đó có rất nhiều cây trăm tuổi như: đinh,<br /> lim, chò… Phong phú nhất là nhóm cây thuốc<br /> nam với 76 loài.<br /> Ngoài hệ thực vật đa dạng, Ba Vì còn có 69<br /> loài chim, 22 loài bò sát và 69 loài côn trùng.<br /> Thủy văn<br /> Ba Vì có mạng lưới thủy văn dạng toả tia rất<br /> đặc trưng. Xung quanh có hai sông lớn bao<br /> bọc: phía Tây là sông Đà chảy sát chân núi<br /> Ba Vì, phía Bắc là sông Hồng và hồ Suối<br /> Hai (670 ha), phía Đông là hồ Đồng Mô (200<br /> ha). Xung quanh vùng núi còn nhiều suối, hồ<br /> tự nhiên, nhân tạo lớn nhỏ khác nhau, như:<br /> Ao Vua, Khoang Xanh, Thác Mơ, suối Tiên,<br /> suối khoáng nóng Thuần Mỹ. Hệ thống sông<br /> suối chủ yếu có thượng nguồn ở núi Ba Vì<br /> và núi Viên Nam. Các suối lớn và dòng<br /> nhánh chảy theo hướng Bắc, Đông Bắc và<br /> đều là phụ lưu của sông Hồng (Suối Cái,<br /> suối Ninh, suối Yên Cư, suối Bơn…). Ở phía<br /> Tây của khu vực, các suối ngắn và dốc hơn<br /> so với các suối ở phía Bắc và phía Đông, đều<br /> là phụ lưu của sông Đà (suối Ổi, suối Ca,<br /> suối Mít, suối Xoan...). Sông suối gây lũ về<br /> mùa mưa. Về mùa khô các suối nhỏ thường<br /> cạn kiệt. Nguồn nước ngầm trong khu vực<br /> cũng tương đối dồi dào và hầu như chưa bị<br /> ô nhiễm.<br /> Thủy văn ở Ba Vì là nhân tố quan trọng tác<br /> động tới hệ sinh thái, hình thành vi khí hậu<br /> của vùng, là nguồn cung cấp nước quan trọng<br /> cho đời sống, sản xuất, đồng thời cùng với<br /> <br /> 95(07): 71 - 78<br /> <br /> nhiều yếu tố khác tạo điều kiện cho Ba Vì<br /> phát triển nhiều loại hình du lịch.<br /> Tài nguyên đất<br /> Đất đai huyện Ba Vì được chia làm 2 nhóm,<br /> nhóm vùng đồng bằng và nhóm đất vùng đồi<br /> núi. Nhóm đất vùng đồng bằng có 12.892 ha<br /> bằng 41,1% diện tích đất đai toàn huyện.<br /> Nhóm đất vùng đồi núi: 18.478 ha bằng<br /> 58,9% đất đai của huyện.<br /> Đặc điểm dân cư và kinh tế - xã hội<br /> Huyện Ba Vì gồm 31 xã, thị trấn. Các làng, xã,<br /> thị trấn là những điểm quần cư nông thôn. Thế<br /> mạnh kinh tế của huyện là nông nghiệp (gần<br /> 80% dân số) với cây lúa trồng trên vùng bãi<br /> ven sông, cây công nghiệp (chè…) và cây ăn<br /> quả trồng ở vùng đồi núi. Ngành chăn nuôi<br /> cũng rất phát triển, nhất là nuôi bò thịt và bò<br /> sữa. Ba Vì còn đặc biệt chú ý khai thác tiềm<br /> năng về du lịch - dịch vụ, tạo việc làm cho<br /> 3.500 lao động trong huyện và hơn 10.000 việc<br /> làm cho lao động ở các địa phương xung<br /> quanh… Trong Đồ án quy hoạch chung thành<br /> phố Hà Nội, Ba Vì được xây dựng thành<br /> không gian xanh, đồng thời là vùng cung cấp<br /> lương thực và rau sạch cho Hà Nội.<br /> Những thách thức đối với vấn đề xây dựng<br /> “không gian xanh” ở khu vực Ba Vì<br /> Bảo vệ đa dạng sinh học, cảnh quan tự<br /> nhiên ở Ba Vì<br /> Việc bảo vệ đất đai vùng đệm cũng như Vườn<br /> quốc gia là một thách thức lớn. Nhiều diện<br /> tích rừng đang bị thu hẹp do các hành vi lấn<br /> chiếm xảy ra khá phổ biến của nhiều cá nhân,<br /> tập thể như: di chuyển cọc mốc, uốn đường<br /> ranh giới, phá rừng làm nương, khai thác lâm<br /> sản trái phép. Việc cấp phép dự án du lịch khá<br /> tràn lan, thiếu sự quản lí chặt chẽ của cấp,<br /> ngành có thẩm quyền đã xâm phạm đất đai<br /> thuộc vùng quy hoạch không gian xanh. Các<br /> dự án trồng tre măng xen tán rừng, khai thác<br /> bền vững cây thuốc, trồng và khoanh nuôi<br /> bảo vệ rừng,… thực tế cũng làm cho đời sống<br /> người dân sống dựa vào rừng ổn định hơn,<br /> song cơ quan chức năng thiếu kiểm tra sâu<br /> sát, đồng thời nhu cầu về cây thuốc và nhiều<br /> lâm sản khác ngày càng cao nên đã xuất hiện<br /> kiểu khai thác hủy diệt, làm cho cảnh quan tự<br /> 75<br /> <br /> Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên<br /> <br /> http://www.lrc-tnu.edu.vn<br /> <br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2