intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Độ an toàn của cao chiết khổ sâm (Croton tonkinensis) đối với tôm thẻ (Penaeus vannamei) ở điều kiện in vitro

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:10

17
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục tiêu của nghiên cứu này là kiểm tra tính an toàn của cao chiết khổ sâm trong điều kiện in vitro để làm cở sở ứng dụng trong ao nuôi. Thí nghiệm kiểm tra độc tính của cao chiết khổ sâm qua đường ăn được thực hiện với các nồng độ trộn vào thức ăn từ 0 đến 45% (450 g/kg thức ăn).

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Độ an toàn của cao chiết khổ sâm (Croton tonkinensis) đối với tôm thẻ (Penaeus vannamei) ở điều kiện in vitro

  1. VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II ĐỘ AN TOÀN CỦA CAO CHIẾT KHỔ SÂM (Croton tonkinensis) ĐỐI VỚI TÔM THẺ (Penaeus vannamei) Ở ĐIỀU KIỆN IN VITRO Trương Hồng Việt1*, Đỗ Thị Cẩm Hồng1, Trần Bùi Trúc Quân2, Vũ Thiên Ân1 TÓM TẮT Các loại thảo mộc và cây thuốc hứa hẹn sẽ trở thành nguồn cung cấp các liệu pháp chữa bệnh cho nuôi tôm cá vì các sản phẩm này cung cấp với giá rẻ hơn để điều trị và không gây độc. Dịch chiết từ cây khổ sâm (Croton tonkinensis) được cho là có chứa các lớp chất chủ yếu là các hợp chất hữu cơ như flavonoid, alkaloid, polyphenol... Mục tiêu của nghiên cứu này là kiểm tra tính an toàn của cao chiết khổ sâm trong điều kiện in vitro để làm cở sở ứng dụng trong ao nuôi. Thí nghiệm kiểm tra độc tính của cao chiết khổ sâm qua đường ăn được thực hiện với các nồng độ trộn vào thức ăn từ 0 đến 45% (450 g/kg thức ăn). Đối với thí nghiệm ngâm cao chiết vào nước nuôi tôm được thực hiện với các nồng độ từ 0 đến 160 ppm. Kết quả nghiên cứu cho thấy cao chiết khổ sâm gây độc yếu đối với tôm nuôi qua đường ăn. Ở nồng độ cao chiết 45%, tỷ lệ trung bình tôm bị chết sau 48 giờ là 15% và tỷ lệ trung bình tôm chết là 21,67% sau 96 giờ. Đối với thí nghiệm ngâm cao chiết khổ sâm vào nước nuôi tôm cho thấy ở nồng độ 20 ppm, tôm sống 100% sau 96 giờ tiếp xúc với cao chiết và tỷ lệ tôm chết 100% sau 96 giờ ở nồng độ 150 ppm. Giá trị LC50 của cao chiết khi cho trực tiếp vào nước nuôi tôm được xác định ở các thời điểm 48, 72 và 96 giờ rất cao, với nồng độ lần lượt là 93,02; 81,25, và 81,25 ppm. Trong khi LC50 của các nồng cao chiết được trộn vào thức ăn không được xác định do tỷ lệ gây chết tôm thí nghiệm < 50%. Từ các kết quả trên, chúng tôi kết luận cao chiết khổ sâm an toàn đối với tôm thẻ chân trắng ở điều kiện in vitro. Từ khoá: Cao chiết, Croton tonkinensis, khổ sâm, LC50, tôm thẻ chân trắng. I. ĐẶT VẤN ĐỀ kích thích tăng trưởng, kích thích sự thèm ăn Trong những năm qua, việc sử dụng kháng và tăng cường miễn dịch ở cá và tôm (Citarasu sinh và hoá chất để phòng trị bệnh nhiễm khuẩn & ctv., 2001). Theo Lee & Gao (2012), các loại đã gây ra tình trạng bất lợi trong lĩnh vực nuôi thảo dược hoạt động như là một hương vị nên nó trồng thủy sản. Điều này có thể làm xuất hiện có khả năng ảnh hưởng đến sự thèm ăn của vật nhiều chủng vi khuẩn có khả năng kháng kháng nuôi như tiết dịch tiêu hóa và tăng lượng thức ăn sinh. Ngoài ra, dư lượng của nó không những ăn vào, đồng thời cũng là một trong những yếu làm hại môi trường nuôi thuỷ sản mà còn ảnh tố góp phần làm giảm hệ số chuyển hoá thức ăn hưởng không tốt đến sức khoẻ của con người (Venketramalingam & ctv., 2007). Theo Đỗ Tất (Syahidah, 2014). Các loại thảo mộc và cây Lợi (2004), trong rễ, thân và lá của cây khổ sâm thuốc hứa hẹn sẽ trở thành nguồn cung cấp (Croton tonkinensis) có chứa các lớp chất chủ các liệu pháp chữa bệnh cho nuôi cá vì các sản yếu là các hợp chất diterpenoid như flavonoid, phẩm này cung cấp với giá rẻ hơn để điều trị và alcaloid, polyphenol... Nó thuộc nhóm cây thuốc chính xác hơn mà không gây độc (Madhuri & và vị thuốc được dùng làm thuốc bổ, thuốc bồi ctv., 2012). Các chế phẩm thảo dược có vai trò dưỡng, có tác dụng tốt với tiêu hóa và bệnh quan trọng trong kiểm soát dịch bệnh vì chúng đau dạ dày. Trong hầu hết các trường hợp, các có chứa các thành phần hoạt tính bao gồm chất hoạt chất như là polyphenol, polysaccharides, chống oxy hoá, chống vi khuẩn, chống stress, proteoglycans và flavonoids đóng một vai trò 1 Trung tâm Quan trắc Môi trường và Bệnh Thủy sản Nam Bộ, Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản II. 2 Đại học Quốc tế, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh. *Email: truonghongviet@yahoo.com TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 13 - THÁNG 6/2019 35
  2. VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II chính trong việc ngăn ngừa hoặc kiểm soát các ml trong cồn thực phẩm, lấy với lượng xác định vi khuẩn lây nhiễm (Citarasu & ctv., 2003). Để rồi trộn vào thức ăn, sau đó thêm nước vào với làm cơ sở cho sự an toàn của cao chiết trong tỷ lệ nước và thức ăn 1:1. Bột thức ăn sau khi việc ứng dụng phòng bệnh tôm, chúng tôi thực trộn đều được đưa vào máy quay để tạo thành hiện các thí nghiệm đánh giá độ an toàn của hạt, rồi quạt gió cho khô ở nhiệt độ phòng trong cao chiết khổ sâm qua đường ăn và qua đường vòng 24 giờ. Thức ăn được tách thành hạt riêng nước nuôi để xác định liều gây chết 50% sau lẻ và được bảo nơi thoáng mát đến khi làm thí 96 giờ thí nghiệm (APHA, 2005). nghiệm. II. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP 2.2.2. Xác định tính an toàn của cao chiết khổ sâm trộn vào thức ăn tôm 2.1. Vật liệu 2.2.2.1. Thí nghiệm thăm dò để xác định + Cao chiết thô khổ sâm được cung cấp bởi khoảng gây độc của cao chiết khổ sâm trộn Viện hoá học và các hợp chất thiên nhiên. Dịch vào thức ăn thô được tách chiết bằng cồn tuyệt đối, cô đặc và được bảo quản ở nhiệt độ phòng. Thí nghiệm được thực hiện với 6 nồng độ cao chiết khổ sâm là 0, 2, 4, 8, 16 và 20% + Tôm thẻ chân trắng được ương nuôi từ lượng thức ăn tôm. Mỗi nghiệm thức được lặp tôm ấu trùng đến khi đạt trọng lượng từ 2-3 lại 3 lần trong bể nhựa 90 lít có chứa 30 lít gram, có nguồn gốc từ Trung tâm Giống Hải nước biển, mỗi bể thí nghiệm có 20 con tôm sản Nam Bộ thuộc Viện Nghiên cứu Nuôi cỡ 3-4 g/tôm. Tôm được cho ăn 3 lần/ngày với trồng Thuỷ sản II. Tôm được thu mẫu kiểm tỷ lệ 3% trọng lượng thân, các bể được sục khí tra các mầm bệnh bao gồm WSSV (White liên tục, không thay nước trong suốt thời gian Spot Syndrome Virus), TSV (Taura Syndrome thí nghiệm, và tôm chết được vớt ra ngay để Virus), IHHNV (Infectious Hypodermal and không ảnh hưởng xấu đến chất lượng nước Haematopoietic Necrosis Virus), YHV (Yellow trong suốt thời gian thí nghiệm. Ghi nhận số Head Virus) và bệnh hoại tử gan tuỵ cấp - tôm chết hàng ngày và theo dõi trong 96 giờ để AHPND (Acute Hepatopancreatic necrosis xác định khoảng gây độc (nồng độ cao nhất mà disease) bằng phương pháp PCR. Ngoài ra, tôm sống 100% và nồng độ thấp nhất gây chết bệnh hoại tử gan tuỵ cấp được kiểm tra bằng tôm 100%). phương pháp mô học. 2.2.2.2. Thí nghiệm xác định nồng độ gây + Nước biển được khử trùng bằng chlorine chết 50% (LC50) của cao chiết khổ sâm trộn với liều 30 ppm, sục khí mạnh và liên tục trong vào thức ăn 1 tuần (để trung hoà chlorine) trước khi dùng. Thí nghiệm được thực hiện dựa theo + Các thông số chất lượng nước như là phương pháp của APHA (2005). Thí nghiệm nhiệt độ (28-29°C), độ mặn (20‰), oxi hoà tan được bố trí 5 nồng độ cao chiết khổ sâm nằm (sục khí mạnh và liên tục, DO > 6 mg/l) và pH trong khoảng gây độc được xác định từ thí (7,5-8,5) được duy trì trong suốt thời gian thí nghiệm thăm dò. Nghiệm thức đối chứng, nghiệm. tôm được cho ăn thức ăn trộn 0% cao chiết. + Tôm trước khi làm thí nghiệm được nuôi Phương pháp thực hiện giống như thí nghiệm thuần 7 ngày tại phòng thí nghiệm thuộc Trung thăm dò ở mục 2.2.2.1. Ghi nhận số tôm tâm Quan trắc Môi trường và Bệnh Thủy sản chết hàng ngày và theo dõi trong suốt 96 giờ Nam Bộ. để xác định nồng độ gây chết 50% (LC50) 2.2. Phương pháp nghiên cứu bằng chương trình máy tính (Stephan & 2.2.1. Trộn cao chiết thô vào thức ăn Rodgers, 1985) theo hướng dẫn của ASTM Thức ăn tôm được nghiền thành bột mịn. (American Society for Testing and Materials, Cao chiết được pha thành dung dịch gốc 0,5 g/ Philadelphia) (1993). 36 TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 13 - THÁNG 6/2019
  3. VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II 2.2.3. Xác định tính an toàn của cao chiết Quy trình xử lý mô học được thực hiện khổ sâm ngâm vào nước nuôi tôm dựa theo phương pháp được mô tả bởi Bell & 2.2.3.1. Thí nghiệm thăm dò để xác định Lightner (1998). Tôm lờ đờ sắp chết (tôm nằm khoảng gây độc của cao chiết khổ sâm ngâm nghiêng một bên) hoặc tôm sống sau khi kết thúc vào nước nuôi tôm thí nghiệm được cố định ngay vào dung dịch Thí nghiệm được thực hiện với 6 nồng Davidson (330 ml ethanol 95%, 220 ml formalin độ cao chiết khổ sâm là 0, 20, 40, 80, 160 và 100%, 115 ml axít acetic đậm đặc, và 335 ml 180 ppm cho trực tiếp vào bể thí nghiệm. Mỗi nước cất) trong suốt 24 giờ, sau đó chuyển qua nghiệm thức được lặp lại 3 lần trong bể nhựa 90 dung dịch ethanol 70% để bảo quản lâu hơn. lít có chứa 30 lít nước biển, mỗi bể thí nghiệm Mô gan tuỵ tôm được khử nước, được đúc vào có 20 con tôm. Tôm được cho ăn với thức ăn khối parafin, được cắt thành lát mỏng 5 μm, và thương mại 3 lần/ngày với tỷ lệ 3% trọng lượng được nhuộm với hai thuốc nhuộm hematoxylin thân. Các bể được sục khí liên tục, không thay và eosin. Kết quả quan sát cấu trúc mô bệnh học nước trong suốt thời gian thí nghiệm, và tôm được kiểm tra bằng cách quan dưới kính hiển vi. chết được vớt ra ngay để không ảnh hưởng III. KẾT QUẢ xấu đến chất lượng nước trong suốt thời gian 3.1. Kết quả thử nghiệm độc tính của cao thí nghiệm. Ghi nhận số tôm chết hàng ngày và chiết khổ sâm qua đường ăn theo dõi trong suốt 96 giờ để xác định khoảng 3.1.1. Thí nghiệm thăm dò để xác định gây độc (nồng độ cao nhất mà tôm sống 100% khoảng nồng độ gây độc của cao chiết và nồng độ thấp nhất gây chết tôm 100%). Tỷ lệ chết trung bình của tôm thí nghiệm 2.2.3.2. Thí nghiệm xác định nồng độ gây ở các thời điểm 24, 48, 72, và 96 giờ khi cho chết 50% (LC50) của cao chiết khổ sâm ngâm tôm ăn với các nồng độ cao chiết khổ sâm được vào nước nuôi tôm trộn vào thức ăn bao gồm 0, 2, 4, 8, 16, và 20%, Thí nghiệm được thực hiện dựa theo phương được trình bày ở Bảng 1. Không có tôm chết ở pháp của APHA (2005). Thí nghiệm được bố trí các nghiệm thức đối chứng (0%), nghiệm thức 5 nồng độ cao chiết khổ sâm nằm trong khoảng 2% và nghiệm thức 4% trong suốt 96 giờ thí gây độc được xác định từ thí nghiệm thăm dò. nghiệm. Ở nồng độ 8%, tỷ lệ tôm chết trung Nghiệm thức đối chứng không ngâm cao chiết. bình từ 5±5% đến 8,33±5,77% sau 24 đến 96 Phương pháp thực hiện giống như thí nghiệm giờ. Tỷ lệ trung bình tôm bị chết giống nhau ở thăm dò ở mục 2.2.3.1. Ghi nhận số tôm chết 72 và 96 giờ ở các nồng độ cao chiết 8, 16 và hàng ngày và theo dõi trong suốt 96 giờ để xác 20% lần lượt là 8,33±5,77%; 13,33±2,89% và định nồng độ gây chết 50% (LC50). 16,67±2,89%; và các tỷ lệ này không có sự khác 2.2.4. Phương pháp mô học biệt ý nghĩa thống kê (P > 0,05) (Bảng 1). Bảng 1: Tỷ lệ chết (trung bình ± sai số chuẩn) của tôm thí nghiệm thăm dò sau khi tôm được cho ăn cao chiết khổ sâm với các nồng độ khác nhau. Nồng độ Tỷ lệ (%) trung bình tôm chết theo thời gian thí nghiệm cao chiết 24 giờ 48 giờ 72 giờ 96 giờ 0% 0±0 0±0 0±0 0±0 2% 0±0 0±0 0±0 0±0 4% 0±0 0±0 0±0 0±0 8% 5±5 5±5 8,33 ± 5,77 a 8,33a ± 5,77 16 % 5±0 5±0 13,33a ± 2,89 13,33a ± 2,89 20 % 6,67 ± 2,89 16,67 ± 2,89 16,67a ± 2,89 16,67a ± 2,89 * Các chữ cái thể hiện khác biệt ý nghiã thống kê P < 0,05 theo cột (Tukey’ HSD) TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 13 - THÁNG 6/2019 37
  4. VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II 3.1.2. Thí nghiệm xác định LC50 của cao ăn cao chiết, tôm chết sau 24 giờ, có tỷ lệ chết chiết trộn vào thức ăn trung bình từ 1,67±2,89% đến 5±0%. Tỷ lệ trung Từ kết quả thí nghiệm thăm dò với các nồng bình tôm bị chết sau 48 giờ ở nồng độ cao chiết độ cao chiết trộn vào thức ăn từ 0 đến 20% cho cao nhất (45%) là 15±5%. Ở thời điểm 72 và thấy tỷ lệ tôm chết rất thấp < 17% sau 96 giờ, vì 96 giờ, tỷ lệ trung bình tôm chết ở nồng độ cao vậy thí nghiệm tiếp theo được thực hiện với các nhất của thí nghiệm (45%) là tương đương nhau nồng độ cao hơn. Tôm được cho ăn hàng ngày (21,67±2,89%). Kết quả phân tích thông kê cho với các nồng độ cao chiết khổ sâm được trộn thấy tỷ lệ trung bình tôm chết không khác biệt ý vào thức ăn bao gồm 0, 25, 30, 35, 40, và 45%. nghĩa thống kê (P>0,05) giữa các nghiệm thức Tỷ lệ chết trung bình của tôm thí nghiệm ở các cho tôm ăn các nồng độ cao chiết trong suốt 96 thời điểm 24, 48, 72, và 96 giờ được trình bày ở giờ thí nghiệm. Do các kết quả tỷ lệ tôm chết bảng 2. Kết quả thí nghiệm cho thấy không có
  5. VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II Hình 1. Cấu trúc mô học của gan tuỵ tôm được ăn cao chiết khổ sâm trộn vào thức ăn với liều 0, 2, 4 và 45% sau khi kết thúc thí nghiệm ở 96 giờ. (A1) nhóm đối chứng hiện diện nhiều tế bào B, và (D1) nhóm ăn cao chiết khổ sâm 45% vẫn có cấu (B1) nhóm ăn cao chiết khổ sâm 2%, trúc gan bình thường với nhiều tế bào B như nhóm đối chứng. (C1) nhóm ăn cao chiết khổ sâm 4%, Mũi tên: tế bào B có chứa một không bào lớn (X200). 3.2. Kết quả thử nghiệm độc tính của cao sau 48 giờ rất thấp (16,67±2,89%), và tỷ lệ này chiết khổ sâm qua đường nước nuôi không thay đổi sau 96 giờ. Ở các nồng 80, 160 3.2.1. Thí nghiệm thăm dò để xác định và 180 ppm, tỷ lệ trung bình tôm bị chết sau 24 khoảng nồng độ của cao chiết khổ sâm ngâm giờ tăng dần theo nồng độ cao chiết, lần lượt là vào nước nuôi tôm 13,33±7,64%; 21,67±7,64% và 38,33±2,89%; Tỷ lệ chết trung bình của tôm thí nghiệm và tỷ lệ tôm chết ở nghiệm thức 180 ppm có khi tiếp xúc với các nồng độ cao chiết khổ sâm khác biệt ý nghĩa thống kê (P
  6. VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II 3.2.2. Thí nghiệm xác định LC50 của cao với các nồng độ cao chiết khổ sâm khác nhau ở chiết được ngâm vào nước nuôi tôm các thời điểm 24, 48, 72, và 96 giờ, được trình Tỷ lệ chết của tôm thí nghiệm khi tiếp xúc bày ở Bảng 4. Bảng 4: Tỷ lệ chết (trung bình ± sai số chuẩn) của tôm thí nghiệm xác định LC50 sau khi tiếp xúc với cao chiết khổ sâm với các nồng độ khác nhau. Nồng độ Tỷ lệ (%) trung bình tôm chết thời gian thí nghiệm cao chiết 24 giờ 48 giờ 72 giờ 96 giờ 0 ppm 0±0 0±0 0±0 0±0 30 ppm 0a ± 0 6,67a ± 2,89 11,67a ± 2,89 11,67a ± 2,89 60 ppm 10ab ± 5 18,33ab ± 7,64 30ab ± 15 30ab ± 15 90 ppm 18,33bc ± 2,89 36,67b ± 12,58 50b ± 5 50b ± 5 120 ppm 18,33bc ± 5,77 86,67c ± 11,55 93,33c ± 7,64 93,33c ± 7,64 150 ppm 28,33c ± 5,77 90c ± 8,66 100c ± 0 100c ± 0 LC50 (ppm) - 93,02 81,25 81,25 (-) không xác định; Các chữ cái thể hiện khác biệt ý nghĩa thống kê P < 0,05 theo cột (Tukey’ HSD). Số liệu cho thấy không có tôm chết ở nhóm đối chứng (0 ppm) trong suốt 96 giờ thí nghiệm. Ở nồng độ 30 ppm, tôm không chết sau 24 giờ tiếp xúc với cao chiết, tỷ lệ chết trung bình được quan sát sau 48 giờ rất thấp (6,67±2,89%), và tỷ lệ chết trung bình giống nhau ở 72 và 96 giờ (11,67±2,89%). Ở các nồng 90, 120 và 150 ppm, tỷ lệ trung bình tôm chết sau 24 giờ lần lượt là 18,33±2,89%; 18,33±5,77% và 28,33±5,77%; và các tỷ lệ tôm chết này không có khác biệt ý nghĩa thống kê (P>0,05). Tỷ lệ trung bình tôm chết Hình 2. Đồ thị phân tích hồi quy để xác định 100% sau 72 và 96 giờ ở nồng độ 150 ppm. LC50 sau 48 giờ tiếp xúc với cao chiết khổ sâm. Trong khi đó, ở nồng độ 120 ppm, tỷ lệ trung bình tôm chết 93,33±7,64% sau 72 và 96 giờ. Ở các thời điểm 48, 72, và 96 giờ thí nghiệm, tỷ lệ trung bình tôm chết của nghiệm thức cho tôm ăn các nồng độ cao chiết có khác biệt ý nghĩa thống kê (P
  7. VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II sâm, các tế bào biểu mô của ống gan tuỵ được biệt hoá thành nhiều tế bào B và giống với cấu trúc mô học của tôm đối chứng. Các nghiên cứu trước đây báo cáo rằng tế bào B có liên quan đến sự hấp thu chất lỏng và các phân tử nhỏ bên trong ống gan, đây là một đặc tính của tế bào B ở các loài giáp xác (Lyon & Simkiss, 1984; Al-Mohanna & Nott, 1986; Vogt, 1993). Ngoài ra, tế bào B còn là nguồn enzyme giúp cho quá trình tiêu hoá ngoại bào (Loizzi, 1971; Gibson & Hình 4. Đồ thị phân tích hồi quy để xác định Barker, 1979; Caceci & ctv., 1988). Sự gia tăng LC50 sau 96 giờ tiếp xúc với cao chiết khổ sâm. của tế bào B giúp thuận lợi trong việc tổng hợp và bài tiết các enzyme tiêu hoá. Điều này cũng IV. THẢO LUẬN giúp cho tôm thẻ chân trắng hấp thụ nhiều năng Các nghiên cứu gần đây đã báo cáo rằng để lượng từ thực phẩm ăn vào và làm tăng mức độ đánh giá tác động của thức ăn lên đường tiêu trao đổi chất để giữ chức năng cơ thể trở nên hóa (gan và dạ dày), có thể sử dụng phương bình thường (Li & ctv., 2008). Ở mức độ phân pháp mô bệnh học để giám sát (Božidar & ctv., tử, dịch chiết từ lá khổ sâm Croton tonkinensis 2011; Miriam & Menon, 2005). Ở cơ quan gan cho thấy có sự ức chế mạnh yếu tố nhân NF- tuỵ của tôm, cấu trúc cơ bản bao gồm các ống κB trong các đại thực bào RAW264.7. NF-κB là được phân nhánh và có các loại tế bào biểu mô một yếu tố phiên mã kích hoạt sự biểu hiện của như là tế bào mầm (E), tế bào sợi (F), tế bào dự nhiều gen liên quan đến quá trình viêm như là trữ (R), và tế bào tiết (B) xếp thành ống được các cytokine interleukin IL-1β, IL-2 và TNF-α gọi là ống gan. Các ống gan dễ dàng bị thay đổi (tumor necrosis factor - yếu tố gây hoại khối u) cấu trúc và các tế bào biểu mô khi tiếp xúc các (Tak & Firestein, 2001; Aquila & ctv., 2009). chất độc hoá học hay chất độc sinh học (Jacobs, Thêm vào đó, các diterpenoids được chiết xuất 1928; Bhavan & Geraldin, 2000). Ngoài ra, theo từ khổ sâm cho thấy có tác dụng ức chế enzyme Bautista & ctv., (1994) và Wu & ctv., (2008) SIRT1 (Dao & ctv., 2010). Enzyme này có chức báo cáo rằng cơ quan gan tuỵ rất nhạy với các năng khử nhóm acetyl của protein đóng vai trò loại thức ăn khác nhau, các chất gây ô nhiễm quan trọng trong việc điều hoà tế bào phản ứng nước và các chất có tính độc. Vì vậy, nó thường với các yếu tố gây stress (Sinclair & Guarente, được dùng để kiểm tra ảnh hưởng của các chất 2006). Đối với các diterpenoids thuộc nhóm độc khác nhau. Mẫu gan tuỵ của tôm sắp chết ent-Kaurane được chiết tinh từ lá cây khổ sâm hoặc tôm sống sau khi kết thúc thí nghiệm được có khả năng kích thích sự biệt hoá để hình thành cố định trong dung dịch Davidson để phân tích nguyên bào xương (Osteoblast), là các tế bào cấu trúc mô học. Kết quả nghiên cứu cho thấy quan trọng nhất trong các mô xương và rất quan gan tuỵ tôm ở nhóm tôm được cho ăn thức ăn có trọng cho sự hình thành xương. trộn cao chiết của khổ sâm với liều 2, 4 và 45% Số liệu thử nghiệm độc tính qua đường ăn vẫn duy trì cấu trúc bình thường như nhóm đối cho thấy tất cả các nghiệm thức ăn cao chiết với chứng. Kết quả phân tích mẫu mô học của thí nồng độ từ 0 đến 20% có tỷ lệ tôm chết trung nghiệm cho ăn cao chiết cho thấy, gan tuỵ của bình rất thấp từ 5 đến 6,67% sau 24 giờ. Trong tôm ở tất cả các nghiệm thức thí nghiệm có biểu khi ở nồng độ cao chiết 4%, tỷ lệ sống của tôm hiện cấu trúc mô học bình thường như được thấy thí nghiệm là 100% sau 96 giờ. Đối với nồng ở các loài tôm (Bell & Lightner, 1988; Caceci độ cao chiết cao nhất (45% trong thức ăn), tỷ & ctv., 1988; Lightner & ctv., 1996; Bhavan & lệ trung bình tôm bị chết sau 48 giờ là 15%, Geraldine, 2000). Ở hai nhóm ăn cao chiết khổ trong khi, ở thời điểm 72 và 96 giờ, tỷ lệ trung TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 13 - THÁNG 6/2019 41
  8. VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II bình tôm chết là tương đương nhau (21,67%), sau 96 giờ tiếp xúc với cao chiết và tỷ lệ tôm các tỷ lệ này không khác biệt ý nghĩa thống kê chết 100% sau 96 giờ ở nồng độ 150 ppm. Giá (P > 0,05) giữa các nghiệm thức cho tôm ăn các trị LC50 được xác định ở các thời điểm 48, 72 nồng độ cao chiết trong suốt 96 giờ thí nghiệm. và 96 giờ với nồng độ rất cao lần lượt là 93,02; Do các kết quả tỷ lệ tôm chết < 50%, nên số 81,25; và 81,25 ppm. liệu này không xác định được giá trị LC50 ở các LỜI CẢM ƠN thời điểm quan sát. Điều này cho thấy cao chiết khổ sâm được trộn vào thức ăn có tính an toàn Đề tài này được thực hiện từ kinh phí của cao đối với tôm nuôi khi được phòng trị bệnh hợp đồng đề tài nhánh số 02/HĐ-TS với Viện AHPND trong phòng thí nghiệm cũng như trong Hoá học và các Hợp chất Thiên nhiên. ao nuôi (liều hiệu quả 2%). Đối với thử nghiệm qua đường nước nuôi. Kết quả cho thấy, ở nồng TÀI LIỆU THAM KHẢO độ 20 ppm, tôm sống 100% sau 96 giờ tiếp xúc Tài liệu tiếng Việt với dịch chiết và tỷ lệ tôm chết 100% sau 72 và Đỗ Tất Lợi, 2004. Những cây thuốc và vị thuốc 96 giờ ở nồng độ 150 ppm. Ở các nồng cao 90, Việt Nam, Nhà xuất bản Y học. 120 và 150 ppm, tỷ lệ trung bình tôm chết sau 24 Tài liệu tiếng Anh giờ lần lượt là 18,33; 18,33 và 28,33%, và các Al-Mohann, S.Y. and Nott, J.A., 1986. B-cells tỷ lệ tôm chết này không có khác biệt ý nghĩa and digestion in the hepatopancreas of thống kê (P > 0,05). Ở các thời điểm 48, 72, và Penaeussemisulcatus (Crustacea, Decapoda). J. 96 giờ thí nghiệm, tỷ lệ trung bình tôm chết của Mar. Biol. Assoc. U. K, 66, 403–414. nghiệm thức cho tôm ăn các nồng độ cao chiết APHA, 2005. Standard methods for examination có khác biệt ý nghĩa thống kê (P < 0,05). Giá trị of water and waste water. Edited by Eaton, A. LC50 được xác định ở các thời điểm 48, 72 và D., Cleseri, L. S., Rice, E. W., Greenberg, A. E., Publish Health Assosiation, Washington DC. 96 giờ rất cao lần lượt là 93,02; 81,25; và 81,25 ppm. Điều này cho thấy cao chiết khổ sâm gây Aquila, S., Weng, ZY., Zeng, YQ., Sun, HD., Rios, JL., 2009. Inhibition of NF-κB activation and độc yếu đối với tôm thẻ chân trắng. Theo Giang iNOS induction by ent-kaurane diterpenoids in & ctv., (2005) các diterpenoids tinh được tinh LPS-stimulated RAW264.7 murine macrophages. sạch từ lá khổ sâm Việt Nam có hoạt tính gây J Nat Prod, 72:1269–1272. độc yếu hoặc không gây độc đối với Artemia. ASTM, 1993. Standard practice for using brine Từ các cơ sở trên, nghiên cứu này đề xuất rằng shrimp nauplii as food for test animals in aquatic cao chiết khổ sâm an toàn và có thể ứng dụng toxicology. ASTM E1191-90, American Society phòng bệnh trên tôm nuôi ở quy mô trang trại. for Testing and Materials, Philadelphia. PA. V. KẾT LUẬN Bautista, M.N., Lavilla-Pitogo, C., Subosa, P.F., Begino, E.T., 1994. Aflatoxin B1 contamination Cao chiết khổ sâm không gây độc đối với of shrimp feeds and its effect on growth and tôm nuôi qua đường ăn ở nồng độ 4% trộn vào hepatopancreas of preadult Penaeus monodon. thức ăn (tỷ lệ sống của tôm thí nghiệm 100% J. Sci. Food Agricult, 65, 5–11. sau 96 giờ). Kết quả thử nghiệm cho thấy ở Bell, T.A. and Lightner, D.V., 1988. A Handbook nồng độ cao chiết lên đến 45% (450g/kg thức of Normal Penaeid Shrimp Histology, World ăn), tỷ lệ trung bình tôm bị chết sau 48 giờ là Aquaculture Society, Baton Rouge, LA. 15% và 21,67% sau 96 giờ ăn cao chiết. Giá trị Bhavan, P.S., and Geraldine, P., 2000. Histopathology LC50 không được xác định do tỷ lệ gây chết tôm of the hepatopancreas and gills of the prawn của cao chiết qua đường ăn < 50%. Macrobrachium malcolmsonii exposed to endosulfan. Aquat. Toxicol, 50, 331–339. Cao chiết khổ sâm không gây độc hoặc gây Božidar S. B. Marko, Z. Zoran and Vesna D., độc yếu đối với tôm nuôi khi tiếp xúc trực tiếp 2011. Histological methods in the assessment trong nước. Ở nồng độ 20 ppm, tôm sống 100% of different feed effects on liver and intestine of 42 TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 13 - THÁNG 6/2019
  9. VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II fish. Journal of Agr. Sc., 56:87-100. muscle network. Zeitschrift fuer Zellforschung Caceci, T., Neck, K.F., Lewis, D.H., and Sis, R.F., und mikroscopische Anatomic, 113: 420-440. 1988. Ultrastructure of the hepatopancreas of Lyon, R. and Simkiss, K., 1984. The ultrastructure the Pacific white. shrimp, Penaeus vannamei and metal-containing inclusions of mature cell (Crustacea: Decapoda). J. Mar. Biol. Assoc, U. types in the hepatopancreas of a crayfish. Tissue K. 68, 323–327. and Cell, Volume 16, issue 5. Page 805 - 817. Citarasu T, Babu, M.M., Punitha, S.M.J., Available online 2005. Venketramalingam, K. and Marian, M.P., 2001. Madhuri, S., Mandloi, A. K., Govind, P. and Sahni, Control of pathogenic bacteria using herbal Y.P., 2012. Antimicrobial activity of some biomedicinal products in the larviculture system medicinal plants against fish pathogens. IRJP, 3 of Penaeus monodon. International Conference (4). ISSN. 2230-8407. on Advanced Technologies in Fisheries and Miriam P. and Menon N. R., 2005. Histopathological Marine Sciences, MS University, India. changes in the hepatopancreas of the penaeid Citarasu, T., Venkatramalingam, K., , Micheal shrimp Metapenaeus dobsoni exposed to babu, M., Raja jeya sekar, R., & Petermarian, petroleum hydrocarbons. J. Mar: Biol. Ass, India, M., 2003. Influence of the antibacterial herbs, 47 (2) : 160 – 168. Solanum trilobatum, Andrographis paniculata Sinclair, DA. and Guarente, L., 2006. Unlocking the and Psoralea corylifolia on the survival, growth Secrets of Longevity Genes. Scientific American. and bacterial load of Penaeus monodon post 294 (3): 48–51. 54–7. larvae. Aquaculture International, 11: 583–595. Stephan, CE and Rodgers, JW., 1985. Advantages of Dao, T. T.; Le, T. V. T.; Nguyen, P. H.; Thuong, P. using regression analysis to calculate results of T.; Minh, P. T. H.; Woo, E. R.; Lee, K. Y.; and chronic toxicity tests. In: Bahner RC. Hansen DJ Oh, W. K. Planta Med., 2010. SIRT1 Inhibitory (eds) Aquatic toxicology and hazard assessment. Diterpenoids from the Vietnamese Medicinal Plant Eight Symposium. ASTM STP 891, American Croton tonkinensis. J. Nat. Prod. 76. 1011− 1014. Society for Testing and Materials. Philadelphia. Giang, P. M., Son, P. T., Hamada, Y., and Otsuka, H., pp 328–338. 2005. Cytotoxic Diterpenoids from Vietnamese Syahidah, A., 2014. Status and potential of herbal Medicinal Plant Croton tonkinensis GAGNEP. applications in aquaculture. Iranian Journal of Chem. Pharm. Bull, 53(3) 296—300. Fisheries Sciences, 14, 27-44. Gibson, R. and Barker, P. L., 1979. “The decapod Tak, PP. and Firestein, GS., 2001. NF-κB: A key role hepatopancreas”, Oceanography and Marine in inflammatory diseases.  J Clin Invest, 107:7– Biology, 17: 285-346. 11. doi: 10.1172/JCI11830. Jacobs, W., 1928. Untersuchungen Ã1⁄4berdie Venketramalingam, K., Christopher, J. G., and Citarasu, Cytologie der Sekretbildung in der T., 2007. Zingiber officinalis an herbal appetizer Mitteldarmdriise von Astacus leptodactylus. in the tiger shrimp Penaeus monodon (Fabricius) Zeitschrift fuer Zellforschung und larviculture. Aquac Nutr, 13(6):439–443. mikroskopische Anatomic, 8: 1-62. Vogt, G., 1993. Differentiation of B-cells in the Lee, J-Y. and Gao, Y., 2012. Review of the application hepatopancreas of the prawn Penaeus monodon. of garlic, Allium sativum in aquaculture. World Acta Zool, 74: 51-60. Aquaculture Society, P447-458. V43 (4). Vuddhakul, V., Bhoopong, P., Hayeebilan, F., and Lightner, D.V., Hasson, K.W., White, B.L., and Subhadhirasakul, S., 2007. Inhibitory activity of Redman, R.M., 1996. Chronic toxicity and Thai condiments on pandemic strain of Vibrio histopathological studies with Benlate, a parahaemolyticus. Food Microbiology, 24, 413- commercial grade of benomyl, in Penaeus 418. http://dx.doi.org/10.1016/j.fm.2006.04.010 vannamei (Crustacea: Decapoda). Aquat. Wu, J.P., Chen, H.H., and Huang, D.J., 2008. Toxicol, 34, 105–118. Histopathological and biochemical evidence of Loizzi, R. F., 1971. Interpretation of crayfish hepatopancreatic toxicity caused by cadmium hepatopancreatic function based on fine and zinc in the white shrimp, Litopenaeus structural analysis of epithelial cell lines and vannamei. Chemosphere, 73. 1019–1026. TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 13 - THÁNG 6/2019 43
  10. VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II SAFETY OF CROTON TONKINENSIS EXTRACT WITH RESPECT TO WHITE-LEG SHRIMP (Penaeus vannamei) UNDER IN VITRO       Truong Hong Viet1 *, Do Thi Cam Hong1, Tran Bui Truc Quan2, Vu Thien An1 ABSTRACT Herbs and medicinal plants promise to be a source of therapeutic supply for shrimp and fish culture because these products are cheaper cost to treat and non-toxic. The extract of Croton tonkinensis plant was thought to contain mainly organic compounds such as flavonoids, alkaloids, polyphenols... The aim of this study is to investigate the safety of crude extract of C. tonkinensis under in vitro. The toxicity test of the Croton extract via oral was performed with concentrations from 0 to 45% (450g/kg feed). For the extract immersion experiments into the culture water was carried out at concentrations from 0 to 160 ppm. The results showed that the Croton extract is not toxic to white- leg shrimp via oral treatment. At 45% concentration, the average shrimp mortality is 15% and 21.67% after 48 and 96 hours, respectively. For the experiment of soaking extract in shrimp water, shrimp survive 100% after 96 hours of exposure to the extract at 20 ppm concentration and the 100% dead shrimp after 96 hours at 150 ppm concentration. The high relative LC50 values of Croton extract which was immersed into shrimp culture water, ​​were determined as 93.02; 81.25; and 81.25 ppm, at 48, 72 and 96 hours, respectively. While LC50 values of Croton extract which was mixed into shrimp feed were not computed due to the experimental shrimp mortality < 50%. From the above results, we conclude that the extract is safe for white-leg shrimp under in vitro. Keywords: AHPND, Croton tonkinensis, Extract, LC50, White-leg shrimp. Người phản biện: TS. Lê Hồng Phước Ngày nhận bài: 15/5/2019 Ngày thông qua phản biện: 17/6/2019 Ngày duyệt đăng: 26/6/2019 1 Southern Monitoring Center for Aquaculture Environment and Epidemics, Research Institute for Aquaculture No.2. 2 International University, Vietnam Naional University, HCMC. * Email: truonghongviet@yahoo.com 44 TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 13 - THÁNG 6/2019
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2