-----(cid:1)(cid:2)(cid:3)(cid:1)(cid:2)-----

ĐỒ ÁN TỐT NGHIỆP

Đề tài: “Kế hoạch hoá chuyển dịch cơ cấu

ngành kinh tế thời kỳ 2001-2005 ở Việt

Nam và các giải pháp thực hiện.”

- 1 -

- 2 -

Mục lục

................................................................................................. 1

Mở đầu

Chương I:

một số vấn đề lý luận về sự chuyển dịch

cơ cấu ngành kinh tế ............................................................... 6

I. Cơ cấu kinh tế và phân loại cơ cấu kinh tế ................................................................... 6

1. Khái niệm cơ cấu kinh tế .................................................................................. 6

2. Phân loại cơ cấu kinh tế ................................................................................... 7

II. Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ................................................................................. 9

1. Khái niệm chuyển dịch cơ cấu kinh tế .............................................................. 9

2. Sự cần thiết chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế .............................................. 10

3. Những lý luận cơ bản về chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế .......................... 10

Chương II:

Thực trạng chuyển dịch cơ cấu kinh tế ............................... 31

I. Những phương hướng chuyển dịch cơ cấu ngành

kinh tế trong thời kỳ 1996-2000 .................................................................................... 31

1. Nông nghiệp .................................................................................................... 31

2. Công nghiệp .................................................................................................... 33

3. Chương trình phát triển kinh tế dịch vụ ......................................................... 35

II. Thực trạng qúa trình chuyển dịch cơ cấu

ngành kinh tế thời kỳ 1996-2000 .................................................................................. 36

1. Thực trạng qúa trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế thời kỳ 1996-2000 ...... 36

2. Thực trạng cơ cấu ngành kinh tế năm 2001 .................................................. 40

3. Những thuận lợi và khó khăn cho những năm tiếp theo................................. 44

4. Nguồn lực chủ yếu cho qúa trình chuyển dịch cơ cấu ngành

trong thời kỳ 2001-2005 ................................................................................. 46

Chương III: Kế hoạch chuyển dịch cơ cấu ngành

thời kỳ 2001-2005 .................................................................. 48

I. Quan điểm: ..................................................................................................................... 48

II. Định hướng chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế .......................................................... 53

1. Định dạng cơ cấu và lựa chọn một số ngành trọng điểm, mũi nhọn ............. 53

- 3 -

2. Định hướng chuyển dịch cơ cấu các ngành .................................................. 56

3. Định hướng phát triển các ngành dịch vụ ...................................................... 62

III. Các giải pháp: ................................................................................................................ 63

1. Giải pháp nâng cao chất lượng các quy hoạch, chương trình dự án

phát triển ngành ............................................................................................. 63

2. Về vốn đầu tư: ................................................................................................. 64

3. Đào tạo nguồn nhân lực: ................................................................................ 65

4. Giải pháp về thị trường: ................................................................................. 66

5. Chính sách thúc đẩy, hỗ trợ chuyển dịch cơ cấu ngành: ............................... 67

6. Xác định các bước đi cho qúa trình chuyển dịch: .......................................... 68

............................................................................................... 70

kết luận

Tài liệu tham khảo.......................................................................................... 71

- 4 -

Mở đầu

Xây dựng một các ngành kinh tế hợp lý, hiệu quả cao là vấn đề hết sức quan

trọng để nền kinh tế phát triển với tốc độ cao và bền vững.

Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo xu hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phù

hợp với yêu cầu và bước đi trong tiến trình hội nhập của nền kinh tế khu vực và thế

giới là một trong những nội dung cơ bản của đường lối đổi mới nền kinh tế đất nước

do Đai hội lần thứ VII, VIII và IX của Đảng đề ra. Mục tiêu phấn đấu đến năm 2005

ở nước ta có cơ cấu GDP theo ngành là: tỷ trọng nông nghiệp khoảng 20-21%, tỷ

trọng công nghiệp và xây dựng khoảng 40-41%, tỷ trọng các ngành dịch vụ khoảng

41-42%. Để đạt được mục tiêu đề ra trên đây, góp phần thực hiện chủ trương lớn

của Đảng và Nhà nước trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá; mỗi nhóm

ngành phải đạt tốc độ tăng trưởng: nông nghiệp khoảng 4,3%, công nghiệp và xây

dựng 10,8%, dịch vụ 6,2%; tăng trưởng GDP bình quân 7,5%. Trong những năm

qua cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm, mang tính tự phát, chưa thật sự chủ động, còn

nhiều bấp bênh, rủi ro; hiệu quả sản xuất thấp dẫn đến không đạt được kế hoạch

tăng trưởng kinh tế đề ra. Nó là vấn đề bức xúc nhất hiện nay, đang là vấn đề trung

tâm trong các cuộc nghiên cứu,thảo luận của Quốc hội và Chính phủ.

Ngày nay, thế giới có những biến đổi sâu sắc, ngày càng nhiều những biến

động khó lường, nhiều yếi tố tác động đến sự phát triển kinh tế. Đề án nghiên cứu

theo phương hướng chuyển dịch cơ cấu ngành một cách chủ động, linh hoạt phù

hợp với những biến động của trong và ngoài nước. Đề án nghiên cứu "Kế hoạch

hoá chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế thời kỳ 2001-2005 ở Việt Nam và các giải

pháp thực hiện".

Em xin chân thành cảm ơn đã nhiệt tình giúp đỡ em nghiên cứu hoàn thành đề án

này. mặc dù đã hết sức cố gắng trong qúa trình nghiên cứu, nhưng do trình độ, kinh

nghiệm còn hạn chế và thời gian ngắn chưa nghiên cứu được sâu sắc vấn đề nên bài

viết không tránh khỏi những hạn chế và thiếu sót. Mong được sự góp ý của các thầy,

- 5 -

các cô và bạn bè để em có thể hiểu sâu sắc hơn vấn đề.

Chương I

Một số vấn đề lý luận về

sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế

I. Cơ cấu kinh tế và phân loại cơ cấu kinh tế

1. Khái niệm cơ cấu kinh tế

Trong các tài liệu kinh tế có nhiều cách tiếp cận khác nhau về khái niệm cơ cấu

kinh tế. Các cách tiếp cận này thường bắt đầu từ khái niệm “cơ cấu”. Là một phạm trù

triết học, khái niệm cơ cấu được sử dụng để biểu thị cấu trúc bên trong, tỷ lệ và mối

quan hệ giữa các bộ phận hợp thành của một hệ thống. Cơ cấu được biểu hiện như là

những mối quan hệ liên kết hữu cơ, các yếu tố khác nhau của một hệ thống nhất định.

Cơ cấu là thuộc tính của một hệ thống. Do đó, khi nghiên cứu cơ cấu phải đứng trên

quan điểm hệ thống.

Đứng trên quan điểm duy vật biện chứng và lý thuyết hệ thống có thể hiểu: cơ

cấu kinh tế là một tổng thể hợp thành bởi nhiều yếu tố kinh tế của nền kinh tế quốc

dân, giữa chúng có những mối liên hệ hữu cơ, những tương tác qua lại cả về số

lượng và chất lượng, trong những không gian và điều kiện kinh tế-xã hội cụ thể,

chúng vận động hướng vào những mục tiêu nhất định. Theo quan điểm này, cơ cấu

kinh tế là một phạm trù kinh tế, là nền tảng của cơ cấu xã hội và chế độ xã hội.

Một cách tiếp cận khác thì cho rằng: cơ cấu kinh tế hiểu một cách đầy đủ là

một tổng thể hệ thống kinh tế bao gồm nhiều yếu tố có quan hệ chặt chẽ với nhau

trong những không gian và thời gian nhất định, trong những điều kiện kinh tế - xã

hội nhất định, được thể hiện cả về mặt định tính lẫn định lượng, cả về số lượng lẫn

chất lượng, phù hợp với mục tiêu được xác định của nền kinh tế.

Nhìn chung các cách tiếp cận trên đã phản ánh được mặt bản chất chủ yếu của

- 6 -

cơ cấu kinh tế. Đó là các vấn đề:

- Tổng thể các nhóm ngành, các yếu tố câú thành hệ thống kinh tế của một quốc

gia.

- Số lượng và tỷ trọng các nhóm ngành và các yếu tố cấu thành hệ thống kinh

tế trong tổng thể nền kinh tế đất nước.

- Các mối quan hệ tương tác lẫn nhau giữa các nhóm ngành, các yếu tố...hướng vào

các mục tiêu đã xác định. Cơ cấu kinh tế còn là một phạm trù trừu tượng; muốn nắm

vững bản chất của cơ cấu kinh tế và thực thi các giải pháp nhằm chuyển dịch cơ cấu kinh

tế một cách có hiệu quả cần xem xét từng loại cơ cấu cụ thể của nền kinh tế quốc dân.

2. Phân loại cơ cấu kinh tế

2.1. Cơ cấu ngành kinh tế

Trong bàI viết chú trọng nghiên cứu cơ cấu ngành kinh tế.

Cơ cấu ngành của nền kinh tế là tập hợp tất cả các ngành hình thành lên nền

kinh tế và các mối quan hệ tương đối ổn định giữa chúng.

Các chỉ tiêu đánh giá:

- Loại chỉ tiêu dịnh lượng thứ nhất:tỷ trọng các ngành so với tổng thể các

ngành của nền kinh tế.

- Chỉ tiêu định lượng thứ hai:Có thể mô tả được phần nào mối quan hệ tác

động qua lại giữa các ngành kinh tế, đó là các hệ số trong bảng can đối liên ngành

(của hệ MPS) hay bảng Vào- Ra (I/O)(của hệ SNA).

Cơ cấu ngành phản ánh phần nào trình độ phân công lao động xã hội chung

của nền kinh tế và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Thay đổi mạnh mẽ cơ

cấu ngành là nét đặc trưng của các nước đang phát triển. Khi phân tích cơ cấu ngành

của một quốc gia người ta thường phân tích theo 3 nhóm ngành (khu vực):

+ Nhóm ngành nông nghiệp: bao gồm các ngành nông, lâm, ngư nghiệp.

+ Nhóm ngành công nghiệp:bao gồm các ngành công nghiệp và xây dựng.

+ Nhóm ngành dịch vụ: bao gồm các ngành thương mại, bưu điện, du lịch...

Trong công nghiệp cần chú ý đến các hệ số liên hệ phía “thượng nguồn” và

- 7 -

các hệ số liên hệ phía “hạ nguồn”.

* Các ngành công nghiệp “thượng nguồn”:là những ngành công nghiệp tạo

nguyên liệu và sản phẩm trung gian, đòi hỏi vốn đầu tư cao và công nghệ cơ bản,

công nghệ cao.

* Các ngành công nghiệp “hạ nguồn”:là những ngành công nghiệp sản xuất ra

sản phẩm cuối cùng cho tiêu dùng, thường đòi hỏi vốn đầu tư ít, sử dụng nhiều lao

động, có thể có quy mô sản xuất vừa và nhỏ.

Những ngành công nghiệp thượng nguồn và hạ nguồn nêu trên có mối quan hệ

dọc rất chặt chẽ. Trong một chuyên ngành nhất định có thể có một hình thức tổ chức

khép kín từ công nghiệp thượng nguồn đến hạ nguồn của một quốc gia hay theo sự

phân công lao động quốc tế (theo thương mại hay hợp đồng gia công) giữa các quốc

gia.

2.2. Cơ cấu lãnh thổ

Nếu cơ cấu kinh tế hình thành từ sự phân công lao động xã hội và chuyên môn

hoá sản suất thì cơ cấu kinh tế lãnh thổ lại được hình thành chủ yếu từ việc bố trí

sản xuất theo không gian địa lý.

Cơ cấu lãnh thổ và cơ cấu địa lý thực chất là hai mặt của một thể thống nhất và

đều là sự biểu hiện của sự phân công lao động xã hội. Cơ cấu lãnh thổ hình thành

gắn liền với cơ cấu ngành và thống nhát trong vùng kinh tế. Trong cơ cấu lãnh thổ,

có sự biểu hiện của cơ cấu ngành trong điều kiện cụ thể của không gian lãnh thổ.

Xu hướng phát triển kinh tế lãnh thổ thường là phát triển nhiều mặt, tổng hợp, có ưu

tiên một vài ngành và gắn liền sự hình thành phân bổ dân cư phù hựp với các đIều

kiện, tiềm năng phát triển kinh tế của lãnh thổ. Việc chuyển dịch cơ cấu lãnh thổ

phải đảm bảo sự hình thành và phát triể có hiệu quả của các ngành kinh tế, các

thành phần kinh tế theo lãnh thổ và trên phạm vi cả nước, phù hợp với đặc đIểm tự

nhiên ngành kinh tế xã hội, phong tục tập quángành truyền thống của mỗi vùng,

nhằm khai thác triệt để thế mạnh của vùng đó.

2.3. Cơ cấu thành phần kinh tế

Nếu như phân công lao động xã hội đã là cơ sở hình thành cơ cấu ngành và cơ

cấu lãnh thổ, thì chế độ sở hữu là cơ sở hình thành cơ cấu thành phần kinh tế. Một

- 8 -

cơ cấu thành phần kinh tế hợp lý pháI dựa trên cơ sở hệ thống tổ chức kinh tế với

chế độ sở hữu có khả năng thúc đẩy sự phats triển của lực lượng sản xuất, thúc đấy

phân công lao động xã hội...Theo nghĩa đó, cơ cấu thành phần kinh tế cũng là một

nhân tố tác động đến cơ cấu ngành kinh tế và cơ cấu lãnh thổ. Sự tác động đó là một

biểu hiện sinh động của mối quan hệ giữa các loạI cơ cấu trong nền kinh tế.

Ba bộ phận cơ bản hợp thành cơ cấu kinh tế là cơ cấu ngành kinh tế, cơ cấu

thành phần kinh tế, cơ cấu lãnh thổ có quan hệ chặt chễ với nhau. Trong đó cơ cấu

ngành kinh tế có vai trò quan trọng hơn cả. Cơ cấu ngành và thành phần kinh tế chỉ

có thể được chuyển dịch đúng đắn trên phạm vi không gian lãnh thổ và trên phạm vi

cả nước. Mặt khác, việc phân bố không gian lãnh thổ một cách hợp lý có ý nghĩa

quan trọng thúc đẩy phát triển các ngành và thành phần kinh tế trên lãnh thổ.

II. Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế

1. Khái niệm chuyển dịch cơ cấu kinh tế

Khái niệm: Sự thay đổi của cơ cấu kinh tế từ trạng thái này sang trạng thái

khác cho phù hợp với môi trường phát triển được coi là sự chuyển dịch cơ cấu kinh

tế.

* Khái niệm chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế

Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế là quá trình chuyển cơ cấu ngành kinh tế từ

dạng này sang dạng khác phù hợp với trình độ phát triển của phân công lao động xã

hội, sự phát triển của lực lượng sản xuất và các nhu cầu về kinh tế-xã hội của đất

nước.

Chuyển dịch cơ cấu đem tính khách quan thông qua thông qua những nhận

thức chủ quan của con người, trong quá trình chuyển dịch cơ cấu đã hình thành các

khái niệm:

- Điều chỉnh cơ cấu:Đó là quá trình chuyển dịch cơ cấu trên cơ sở thay đổi

một số mặt, một số yéu tố cơ cấu, làm cho nó thích ứng với điều kiện khách quan

từng thời kỳ không tạo ra sự thay đổi đột biến, tức thời.

- CảI tổ cơ cấu:Đó là quá trình chuyển dịch cơ cấu cơ cấu trên cơ sở thay đổi

một số mặt bản chất so với thực trạng cơ cấu ban đầu, nhanh chóng tạo ra sự đột

- 9 -

biến.

Cơ cấu kinh tế nói chung và cơ cấu ngành kinh tế nói riêng luôn thay đổi theo

từng thời kỳ phát triển bởi các yếu tố hợp thành. Đó là sự thay đổi về số lượng các

ngành hoặc sự thay đổi tỷ lệ giữa các ngành do sự xuất hiện hoặc sự biến mất của

một số ngành và và sự tăng trưởng giữa các yếu tố cấu thành là không đồng đều.

Đây không chỉ đơn thuần là sự thay đổi vị trí, mà còn là sự biến đổi cả về lượng và

chất trong nội bộ cơ cấu. Việc chuyển dịch cơ cấu ngành phải dựa trên cơ sở một cơ

cấu hiện có, do đó nội dung của chuyển dịch cơ cấu là cảI tạo cơ cấu cũ lạc hậu

hoặc chưa phù hợp để xây dựng cơ cấu mới tiên tiến, hoàn thhiện và bổ sung cơ cấu

cũ nhằm biến cơ cấu cũ thành cơ cấu mới hiện đại và phù hợp hơn.

2. Sự cần thiết chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế

Cơ cấu ngành kinh tế luôn luôn biến đổi cùng với qúa trình phát triển của nền

kinh tế. Mỗi thời kỳ, với những điều kiện cụ thể các ngành kinh tế tăng trưởng với

tốc độ khác nhau dẫn đến cơ cấu ngành thay đổi. Các điều kiện này vừa có những

tác động tích cực vừa có tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế. Vì vậy, cần chủ động

chuyển dịch cơ cấu ngành phát huy những thuận lợi và hạn chế những khó khăn do

điều kiện hiện tại đặt ra để thúc đẩy phát triển kinh tế nhanh và bền vững là vấn đề

dặt ra đối với tất cả các quốc gia ở tất cả các giai đoạn phát triển.

3. Những lý luận cơ bản về chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế

3.1. Những yếu tố cơ bản có liên quan đến xu thế phát triển kinh tế của đất

nước

a. Quy luật tiêu thụ sản phẩm của E.Engel

Ngay từ đầu thế kỷ 19, nhà kinh tế học người Đức E.Engel đã nhận thấy rằng

khi thu nhập của gia đình tăng lên thì tỷ lệ chi tiêu của họ cho lương thực, thực

phẩm giảm đi. Do chức năng chính của khu vực nông nghiệp là sản xuất lương

thực, thực phẩm nên có thể suy ra là tỷ tọng nông nghiệp trong toàn bộ nền kinh tế

sẽ giảm đi khi thu nhập tăng lên.

Quy luật của E.Engel được phát hiện cho tiêu dùng lương thực, thực phẩm

nhưng nó có ý nghĩa quan trọng trong việc định hướng cho việc nghiên cứu tiêu

dùng các loại sản phẩm khác. Các nhà kinh tế học gọi lương thực, thực phẩm là các

- 10 -

sản phẩm thiết yếu, hàng công nghiệp là sản phẩm tiêu dùng lâu bền, và việc cung

cấp dịch vụ là sự tiêu dùng cao cấp. Qua qúa trình nghiên cứu, họ phát hiện ra xu

hướng chung là khi thu nhập tăng lên thì tỷ lệ chi tiêu cho hàng tiêu dùng lâu bền

tăng phù hợp với tăng thu nhập, còn chi tiêu cho tiêu dùng cao cấp tăngnhanh hơn

tốc độ tăng thu nhập.

Như vậy, quy luật tiêu thụ sản phẩm của E.Engel đã làm rõ tính xu hướng của

việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong qúa trình phát triển.

b. Quy luật tăng năng suất lao động của A.Fisher

Năm 1935, trong cuốn “Các quan hệ kinh tế của tiến bộ kỹ thuật”, A. Fisher

đã giới thiệu kháI niệm việc làm ở khu vực thứ nhất, thứ hai, thứ ba. A. Fisher quan

sát thấy rằng, các nước có thể phân theo tỷ lệ phân phối tổng lao động của từng

nước vào ba khu vực. Khu vực thứ nhất bao gồm sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp

và theo một số quan điểm còn bao gồm cả khai thác mỏ. Khu vực thứ hai bao gồm

công nghiệp chế biến và xây dựng. Khu vực thứ ba gồm có vận tải, thông tin,

thương nghiệp, dịch vụ nhà nước, dịch vụ tư nhân. Theo A.Fisher, tiến bộ kỹ thuật

đã có tác động đến sự phân bố lao động vào ba khu vực này. Trong qúa trình phát

triển, việc tăng cường sử dụng máy móc và các phương thức canh tác mới đã tạo

điều kiện cho nông dân nâng cao năng suất lao động. Kết quả là, để bảo đảm lượng

lương thực, thực phẩm cần thiết cho xã hội thì không cần đến lượng lao động như

cũ và do vậy, tỷ lệ của lực lượng lao động trong nông nghiệp giảm. Dựa vào số liệu

thống kê thu thập được, A. Fisher cho rằng tỷ lệ giảm này có thể giảm từ 80% đối

với các ngành chậm phát triển nhất xuóng 11-12 % ở các nước công nghiệp phát

triển và trong điều kiện đặc biệt có thể xuống tới 5%. Ngược lại, tỷ lệ lao động được

thu hút vào khu vực thứ hai và khu vực thứ ba ngày càng tăng do tính co giãn về

nhu cầu sản phẩm của hai khu vực này và khả năng hạn chế hơn của viẹc áp dụng

tiến bộ kỹ thuật, đặc biệt là đối với khu vực thứ ba.

c. Vai trò của khoa học vai trò nghệ trong thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu

Khoa học và công nghệ có vai trò đặc biệt quan trọng trong qúa trình chuyển

dịch cơ cấu kinh tế, nhất là trong bối cảnh hiện nay khi mà nền kinh tế thế giới đang

chuyển từ nền kinh tế công nghiệp sang nền kinh tế tri thức. Sự phát triển của khoa

học và công nghệ không chỉ đẩy nhanh tốc độ phát triển của các ngành mà còn làm

- 11 -

phân công lao động xã hội trở nên sâu sắc và đưa đến sự phân chia các ngành thành

nhiều ngành nhỏ hơn, xuất hiện nhiều ngành, nhiều lĩnh vực kinh tế mới, từ đó làm

thay đổi cơ cấu, vị trí giữa các ngành, hay thúc đẩy các ngành chuyển dịch cơ cấu

kinh tế theo hướng:

+ Các ngành sản xuất vật chất (nông nghiệp, công nghiệp)đều tăng lên về sản

lượng tuyệt đối, nhưng về tỷ trọng trong GDP so với các ngành sản xuất phi vật

chất (dịch vụ) lại giảm tương đối.

+ Cơ cấu kinh tế trong, nội bộ mỗi ngành cũng biến đổi theo hướng ngày càng

tăng mạnh quy mô sản xuất ở các ngành có hàm lượng kỹ thuật, công nghệ cao.

d. Xu thế kinh tế thế giới

* Xu thế hoà bình hợp tác

Nhìn tổng quát, có thể dự báo xu thế hoà bình hợp tác phát triển trên thế giới

và khu vực tiếp tục gia tăng đi đôi với những cọ sát đấu tranh, cạnh tranh ngày càng

gay gắt, có thể có những bùng nổ khó lường. Các nước lớn, các trung tâm phát triển

lớn đang và sẽ giằng co, tranh giành ảnh hưởng, lấn át kinh tế đối với các nước

khác. Bên cạnh đó, trình độ phát triển ngày càng cao của lực lượng sản xuất cũng

như kinh tế nói chung của thế giới đã tạo ra những cơ hội hợp tác, hội nhập để khai

thác các nguồn lực quốc tế phục vụ cho nhu cầu phát triển quốc gia. Mỗi nước với

trình độ phát triển khác nhau đều tìm thấy lợi thế của mình qua các quan hệ kinh tế

quốc tế và có thể tham gia opj tác phát triển dưói nhiều hình thức.

* Tác động của cách mạng khoa học và công nghệ

Trong thế kỷ XXI, với dự báo cách mạng khoa học và công nghệ sẽ có những

nhảy vọt khó lường, yêu cầu mới và cũng là khả năng mới trong điều kiện nhân loại

đang bứoc vào nền kinh tế tri thức. Trong điều kiện đó, công nghiệp hoá, hiện đại

hoá đất nước phải triển khai theo tư duy mới, phù hợp với giai đoạn mới. Việt Nam

có những lới thế so sánh về tài nguyên thiên nhiên và dồi dào về nguồn nhân lực,

nếu được phát huy sẽ là nhân tố tích cực để tiếp nhận khoa học và công nghệ gây

dựng năng lực nội sinh.

* Toàn cầu hoá và khu vực hoá

Là xu thế khác quan ngày càng tác động mạnh, thậm chí chi phối phát triển

- 12 -

kinh tế của các nước. Trong bối cảnh đó, chúng ta cần thấy hết mặt tích cực, thuận

lợi, cả mặt tiêu cực, khó khăngành thách thức và có chiến lược thích ứng và lợi

dụng qúa trình này có hiệu quả nhất.

Dòng vốn Đầu tư trực tiếp nước ngoài(FDI) đến các nước đang phát triển: Từ

những năm đầu của thạp kỷ 90, toàn cầu hoá và khu vực hoá đã tạo điều kiện cho

các dòng vốn FDI đến với các nền kinh tế đang phát triển. Nguồn vốn này tăng liên

tục qua các năm, tuy có suy giảm do tác động của khủng hoảng kinh tế năm 97.

Dòng vốn hỗ trợ chính thức với các điều kiện ưu đãi (ODA) đến các nước

đang phát triển có xu hướng giảm dần.

Quốc tế hoá thương mại, vốn và sản xuất. Bốn mươi năm qua kim ngạch

thương mại hàng hoá của toàn thế giới đã tăng 6%/năm trong khi đó sản xuất hàng

hoá chỉ tăng 3,7%. Mức độ mở cửa của các nước tăng. Sau thương mại vốn đầu tư

cũng đã nhanh chóng được quốc tế hoá. Cạnh tranh thương mại và thu hút đầu tư

trên thế giới diễn ra ngày càng mạnh mẽ.

3.2. Các lý thuyết phát triển

Với tư các là loạI lý thuyết chủ yếu nghiên cứu các con đường hay các mô

hình phát triển kinh tế của các nước chạm phát triển hiện đang nỗ lực tiến hành

công nghiệp hoá, các lý thuyết phát triển trực tiếp hoặc gián tiếp đều bàn tới một

trong những nội dung cơ bản nhất của công nghiệp hoá là chuyển dịch cơ cấu

ngành. Song, do bản thân thế giới chậm phát triển bao gồm nhiều quốc gia với các

đặc đIểm đặc thù khác nhau, do xuất phát từ các quan điểm và các góc độ nghiên

cứu khác nhau nên cách giảI quyết vấn đề chuyển dịch cơ cấu ngành trong qúa trình

công nghiệp hoá của các loạI lý thuyết phát triển cũng rất khác nhau. Có thể thấy

đIều này qua một số lý thuyết phát triển chủ yếu sau.

a. Lý thuyết phân kỳ phát triển kinh tế

Tư tưởng cơ bản của người chủ xưởng lý thuyết này Walt Rostow cho rằng,

qúa trình phát triển kinh tế của bất kỳ quốc gia nào cũng đều trảI qua 5 giai đoạn

tuần tự như sau:

1/ Xã hội truyền thống: Với đặc trưng là nông nghiệp giữ vai trò thống trị

- 13 -

trong đời sống kinh tế, năng suất lao động thấp và xã hội kém linh hoạt.

2/ Giai đoạn chuẩn bị cất cánh: Với những thay đổi quan trọng là trong xã hội

đã xuất hiện tầng lớp chủ xí nghiệp có khả năng đổi mới, kết cấu hạ tầng sản xuất,

nhất là giao thông đã phát triển. Bắt đầu hình thành những khu vực đầu tầu có tác

động lôI kéo nền kinh tế phát triển.

3/ Giai đoạn cất cánh: với những dấu hiệu quan trọng như tỷ lệ đầu tư so với

thu nhập quốc dân đạt mức 10%, xuất hiện những ngành công nghiệp chế biến có

tốc độ tăng trưởng cao, có những chuyển biến mạnh mẽ trong thể chế xã hoọi, thuận

lợi cho sự phát triển của khu vực sản xuất hiện đai và kinh tế đối ngoại.

4/ Giai đoạn chuyển tới sự chín muồi kinh tế là giai đoạn mà tỷ lệ đầu tư trên

thu nhập quốc dân đạt mức cao(từ 10-20%) và xuất hiện nhiều cực tăng trưởng mới.

5/ Kỷ nguyên tiêu dùng hàng loạt:là giai đoạn kinh tế phát triển cao, sản xuất

đa dạng hoá, thị trường linh hoạt và có hiện tượng suy giảm nhịp độ tăng trưởng.

Theo lý thuyết phân kỳ phát triển này hầu hết các nước đang phát triển đang

tiến hànhcông nghiệp hoá hiện nay nằm ở giai đoạn 2và 3, tuỳ theo mức độ phát

triển của từng nước. NgoàI những dấu hiệu kinh tế - xã hội khác, về mặt cơ cấu,phải

bắt đầu hình thành một số ngành công nghiệp chế biến có khả năng lôi kéo toàn bộ

nền kinh tế tăng trưởng. Đồng thời, cùng với sự chuyển tiếp từ giai đoạn 2 sang 3 là

sự thay đổi của những lĩnh vực đóng vai trò đầu tàu. Nghĩa là trong chính sách cơ

cấu cần xét đến trật tự ưu tiên phát triển những lĩnh vực có thể đảm trách vai trò đó

qua mỗi giai đoạn phát triển cụ thể.

Do tiếp cận vấn đề góc độ khái quát lịch sử của nhiều nước, lý thuyết phân kỳ

phát triển kinh tế không mô tả sâu những khía cạnh đặc thù của từng nước hay từng

nhóm nước, song những nhận xét khái quát chung ấy có thể xem như những gợi ý

rất có ý nghĩa đối vấn đề chuyển dịch cơ cấu trong qúa trình công nghiệp hoá của

từng nước đang phát triển hiện nay.

b. Lý thuyết nhị nguyên

Lý thuyết nhị nguyên do A. Lewis (giải thưởng Nobel năm 1979) khởi xướng,

tiếp cận vấn đề từ đời sống kinh tế của các nước đang phát triển. Ông đã có những

kiến giải khá cụ thể về sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế trong thời kỳ công

- 14 -

nghiệp háo hiện nay. Lý thuyết nhị nguyên cho rằng ở các nền kinh tế này có hai

khu vực kinh tế song song tồn tại: khu vực kinh tế truyền thống, chủ yếu là sản xuất

nông nghiệp và khu vực kinh tế công nghiệp hiện đại, du nhập từ bên ngoài. Khu

vực truyền thống có đặc đIểm là trì trệ, năng suất lao động thấp và dư thừa lao

động. Vì thế, có thể chuyển một phần lao động từ khu vực này sang khu vực công

nghiệp hiện đạI mà không ảnh hưởng đến sản lượng nông nghiệp. Do có năng suất

cao nên khu vực công nghiệp hiện đạI có thể tự tích luỹ để mở rộng sản xuất một

cách độc lập mà không phụ thuộc vào những điều kiện chung của toàn bộ nền kinh

tế.

Kết luận đương nhiên rút ra từ những nhận định này là để thúc đẩy phát triển

kinh tế của những nước chậm phát triển, cần phải bằng mọi cách mở rộng khu vực

sản xuất công nghiệp hiện đại càng nhanh càng tốt mà không cần quan tâm tới khu

vực nông nghiệp truyền thống. Sự gia tăng của khu vực công nghiệp hiện đại tự nó

sẽ rút dần lao động từ khu vực nông nghiệp sang và biến nền sản xuất nông nghiệp

xã hội từ trạng thaí nhị nguyên thành một nền kinh tế công nghiệp phát triển.

PhảI nói răng những kết luận của lý thuyết nhị nguyên đã gây được ấn tượng

mạnh mẽ đối với các quốc gia chậm phát triển đang mong muốn đẩy mạnh quá trình

công nghiệp hoá. Trên thực tế, chính sách công nghiệp hoá và cơ cấu kinh tế ở

nhiều quốc gia chậm phát triển từ sau Chiến tranh thế giới lần thứ II đến thời gian

gần đây đã ít nhiều chịu ảnh hưởng của lý thuyết này.

Lý thuyết kinh tế nhị nguyên còn được nhiều nhà kinh tế(J. Fei, G.Raní, Haris,

Todaro,...)tiếp tục nghiên cứu và phân tích. Luận đIểm phát triển của họ là khả năng

phát triểnvà thu nạp lao động của khu vực công nghiệp hiẹen đại. Khu vực này có

nhiều khả năng lựa chọn kỹ thuật, trong đó có những loạI kỹ thuật có hệ số sử dụng

lao động cao, nên về nguyên tắc, có thể thu hút được lao động dư thừa từ khu vực

nông nghiệp truyền thống. Nhưng việc di chuyển lao động được giả định là do sự

chênh lẹch về mức thu nhập của lao động từ hai khu vực kinh tế trên quyết định. Có

nghĩa là, khu vực công nghiệp hiện đại chỉ có thể thu hút lao động từ khu vực nông

nghiệp trong trường hợp đang có nạn nhân mãn khi nó có mức lương cao hơn mức

thu nhập khi họ còn ở nông thôn. Nhưng khả năng duy trì sự chênh lệch này sẽ cạn

dần cho đến khi nguồn lao động dư thừa ở nông thôn không còn nữa. Đến lúc đó,

việc tiếp tục di chuyển lao động từ nông nghiệp sang công nghiệp sẽ làm cho sản

- 15 -

lượng nông nghiệp giảm đi, khiến cho giá cả hành hoá nông phẩm tiêu dùng tăng

lên, kéo theo mức tăng lương tương ứng trong khu vực sản xuát công nghiệp. Chính

sự tăng lương của khu vực sản xuất công nghiệp sẽđặt ra giới hạn về mức cầu tăng

thêm về lao động của bản thân nó. Như vậy mặc dù về mặt kỹ thuật- công nghệ khu

vực công nghiệp hiện đại có thể có khả năng thu dụng không hạn chế nhân lực,

nhưng về mặt thu nhập và độ co dãn cung cầu nhân lực của hai khu vực thì sức thu

nạp lao động từ khu vực nông nghiệp của công nghiệp là có hạn.

Một hướng phát triển khác dựa trên lý thuyết nhị nguyên là phân tích khả năng

di chuyển lao động từ nông thôn ra khu vực công nghiệp- thành thị. Quá trình dịch

chuyển lao động chỉ trôi chảy khi “ tổng cung” về lao động từ nông nghiệp phù hợp

với “tổng cầu” ở khu vực công nghiệp. Sự di chuyển này không chỉ phụ thuộc vào

sự chênh lệch thu nhập mà còn phụ thuộc vào sác xuất tìm được việc làm đối với

những người lao động nông nghiệp. Khi đưa thêm yếu tố “ sác xuất tìm được việc

làm” vào phân tích, người ta thấy xuất hiện các tình huống làm yếu đi khả năng di

chuyển lao động giữa hai khu vực như sau:

- Sự năng động của bản thân khu vực công nghiệp:Về mặt này, so với nền

công nghiệp ở các nước phát triển, khu vực gọi là ” công nghiệp hiện đạ “ ở các

nước chậm phát triển yếu kém hơn rất nhiều. Vì vậy, để vừa có khả năng cạnh tranh

với nền công nghiệp nước ngoài khác, vừa làm đầu tàu lôi kéo sự tăng trưởng của

toàn bộ nền kinh tế thì khu vực công nghiệp phảI hướng tới những ngành kỹ thuật

cao. Nhưng những ngành này cần tăng hàm lượng vốn đầu tư hơn là tăng hàm

lượng lao động. Vì thế, khu vực “công nghiệp hiện đạI” ở các nước chậm phát triển

cũng có nguy cơ gặp phải vấn đề dư thừa lao động chứ không riêng gì khu vực nông

nghiệp.

- Khả năng đáp ứng nhu cầu về kỹ thuật của người lao động nông nghiệp khi

chuyển sang lĩnh vực công nghiệp. Về mặt này, một thực tế là lao động nông thôn

có trình độ học vấn thấp hơn nhiều so với lao động thành thị, thậm chí chưa quen

với môi trường lao động công nghiệp. Việc đào tạo lao động công nghiệp kỹ năng

cao chẳng những đòi hỏi nhiều thời gian mà phải có đầu tư lớn, đến mức người ta

xem như một trong những lĩnh vực đầu tư quan trọng nhất đối với một nền kinh tế.

Với những phân tích trên, người ta thấy rằng xác suất tìm được việc làm mới ở khu

- 16 -

vực công nghiệp đối với người nông dân rời bỏ ruộng đồng là có giới hạn.

Tóm lại, khi phân tích sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế của hai lĩnh vực sản xuất

vật chất quan trọng nhất của các nền kinh tế chậm phát triển trong thời kỳ công

nghiệp hoá, các lý thuyết nhị nguyên đã đi từ chỗ cho rằng chỉ cần tập trung vào

phát triển công nghiệp mà không chú ý tới nông nghiệp đến chỗ chỉ ra những giới

hạn của chúng và vì thế, cần quan tâm thích đáng tới nông nghiệp trong qúa trình

chuyển dịch cơ cấu kinh tế này

c. Lý thuyết phát triển cân đối liên ngành

Những người ủng hộ quan điểm này như R. Nurkse, P.Rosenstein-Rodan...,

cho rằng để nhanh chóng công nghiệp hoá, cần thúc đẩy phát triển đồng đều ở tất cả

mọi ngành kinh tế quốc dân. Họ chủ yếu dựa trên những luận cứ sau:

- Trong qúa trình phát triển, tất cả các ngành kinh tế liên quan mật thiết với

nhau trong chhu trình “đầu ra” của ngành này là “đầu vào” của ngành kia. Vì thế sự

phát triển đồng đều và cân đối chính là đòi hỏi sự cân bằng cung cầu trong sản xuất.

- Sự phát triển cân đối giữa các ngành như vạy giúp tránh được ảnh hưởng tiêu

cực của những biến động của thị trường thế giới và hạn chế mức độ phụ thuộc vào

các nền kinh tế khác, tiết kiệm nguồn ngoại tệ vốn rất khan hiếm và thiếu hụt.

- Một nền kinh tế dựa trên cơ cấu cân đối hoàn chỉnh như vậy chính là nền

tảng vững chắc đảm bảo sự độc lập chính trị của các nước thuộc thế giới thứ ba

chống lại chủ nghĩa thực dân.

Lý cuốicùng tỏ ra rất hấp dẫn đối với nhiều quốc gia chậm phát triển mới

giành được độc lập về chính trị những năm sau Đại chiến thế giới lần thứ hai. Vì

thế, mô hình phát triển theo cơ cấu cân đối khép kín-mô hình công nghiệp hoá

“hướng nội” hay thay thế “nhập khẩu” đã trở thành trào lưu phổ biến thời kỳ đó.

Tuy nhiên, thực tế đã dần dần cho thấy những yếu đIểm rất lớn của mô hình

lý thuyết này. ở đây có hai vấn đề cần đặc biệt cần được xem xét là:

- Thứ nhất, việc phát triển một cơ cấu kinh tế cân đối, hoàn chỉnh đã đưa nền

kinh tế đến chỗ khép kín và khu biệt với thế giới bên ngoài. Điều này chẳng những

ngược với xu hướng chung của tất thảy mọi nền kinh tế trong điều kiện hiện đại là

khu vực háo và toàn cầu hoá, mà trong lúc ngăn ngừa những ứac động tieu cực cua

- 17 -

thị trường thế giới, đã bỏ qua những ảnh hưởng tích cực do bên ngoài đem lại.

- Thứ hai, các nền kinh tế chậm phát triển không đủ khả năng về nhân tài, vật

lực để có thể thực hiện được những mục tiêu cơ cấu đặt ra ban đầu.

Cả hai yếu tố này đều góp phần làm cho sự chuyển dịch cơ cấu ngành theo

hướng công nghiệp hoá gặp khó khăn, bởi lẽ cách tiếp cận trên đã làm phân tán các

nguồn lực phát triển rất có hạn của các quốc gia, khiến cho ngay cả việc sửa chữa

lại di sản cơ cấu kinh tế què quặt của thời kỳ thuộc địa cũ cũng bị trở ngại. Chính vì

thế, chỉ sau một thời kỳ tăng trưởng, các nền kinh tế theo đuổi mô hình cơ cấu cân

đối này đã nhanh chóng rơi vào tình trạng thiểu năng.

d. Lý thuyết phát triển cơ cấu ngành cân đối hay các “cực tăng trưởng”

Ngược lại với quan điểm phát triển nền kinh tế theo một cơ cấu cân đối khép

kín nêu trên, lý thuyết phát triển cơ cấu ngành không cân đối (A.Hirschman,

F.Perrons, G.Destanne de Bernis...)cho rằng không thể và không nhất thiết phải

đảm bảo tăng trưởng bền vững cách duy trì cơ cấu cân đối liên ngành đối với mọi

quốc gia, với những luận cứ chủ yếu sau:

- Việc phát triển cơ cấu không cân đối gây lên áp lực, tạo ra sự kích thích đầu

tư. Trong mối tương quan giữa các ngành, nếu cung bằng cầu thì sẽ triệt tiêu động

lực khuyến khích đầu tư nâng cao năng lực sản xuất. Do đó, nếu có những dự án

đầu tư lớn hơn vào một số lĩnh vực thì thì áp lực đầu tư sẽ xuất hiện bởi cầu lớn hơn

cung lúc đầu và sau đó thì cung lớn hơn cầu ở một số lĩnh vực. Chính những dự án

đó có tác dụng lôi kéo đầu tư theo kiểu lý thuyết số nhân.

- Trong mỗi giai đoạn phát triển của thời kỳ công nghiệp hoá, vai trò “cực tăng

trưởng” của các ngành trong nền kinh tế là không giống nhau. Vì thế, cần tập trung

những nguồn lực khan hiếm cho một số lĩnh vực trong một thời điểm nhất định.

- Do trong thời kỳ đầu tiến hành công nghiệp hoá, các nước đang phát triển rất

thiếu vốn, lao động kỹ thuật, công nghệ và thị trường nên không đủ điều kiện để

cùng một lúc phát triển đồng bộ tất cả các ngành hiện đại. Vì thế, việc phát triển cơ

cấu không cân đối là một sự lựa chộn bắt buộc.

Lúc đầu lý thuyết này tỏ ra không hấp dẫn lắm vì dường như nó bỏ qua những

lỗ lực xây dựng một nền kinh tế độc lập có cơ cấu ngành cân đối để chống lạI chỉ

- 18 -

nghĩa thực dân. Mặt khác, đằng sau cách dặt vấn đề xây dựng một cơ cấu không cân

đối và mở cửa ra bên ngoài là chấp nhận sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh

tế-mà thường thì các nền kinh tế chậm phát triển gặp phải nhiều bất lợi hơn. Song,

do những hạn chế ngày càng trở nên rõ ràng của ý tưởng thực hiện mô hình công

nghiệp hoá hướng nội có cơ cấu ngành cân đối hoàn chỉnh và những thành công

“thần kỳ” của một số nước đi tiên phong, điển hình là nhóm NICs Đông á,lý thuyết

phát triển cơ cấu ngành không cân đối hay các cực tăng trưởng ngày càng được thừa

nhận rộng rãi. Trên thực tế, mô hình công nghiệp mở cửa, hướng ngoại đã trở thành

một xu hướng chính yếu ở các nước chậm phát triển từ thập niên 1980 trở lại đây.

e. Lý thuyết phát triển theo mô hình “đàn nhạn bay”

Từ sự phân tích thực tế lịch sử phát triển kinh tế của các quốc gia và dựa trên

lý thuyết lợi thế so sánh trong quan hệ kinh tế quốc tế, người khởi xướng lý thuyết

này, giáo sư Kaname Akamatsu đã đưa ra những kiến giảivề quá trình “đuổi kịp”

các nước tiên tiến nhất của các nước kém phát triển hơn. Trong những ý tưởng về

sự “đuổi kịp” này, vấn đề cơ cấu ngành có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Xét trên góc

độ phát triển của toàn bộ nền công nghiệp, từng phân ngành hay thậm chí từng lọai

sản phẩm riêng biệt, qúa trình “đuổi kịp”về mặt kinh tế và kỹ thuật của chúng được

chia thành 4 giai đoạn sau:

Giai đoạn1:Các nước kém phát triển nhập hàng công nghiệp chế biến từ các

nước phát triển hơn và xuất khẩu một số sản phẩm thủ công đặc biệt.Giai doạn này

xảy ra sự phân biệt hay phân công lao động quốc tế ngay trong lòng các nước kém

phát triển-chuyên sản xuất một số sản phẩm thủ công đặc biệt để bán và nhập khẩu

hàng tiêu dùng công nghiệp khác từ các nước công nghiệp phát triển.

Giai đoạn 2:Các nước chậm phát triển nhập sản phẩm đầu tư từ các nước công

nghiệp phát triển để tự chế tạo lấy hàng hoá công nghiệp tiêu dùng trước đây vẫn

phảI nhập. Đây là giai đoạn các nước kém phát triển bắt đầu tích luỹ tư bản (vốn) và

phỏng theo (bắt chước) công nghệ chế tạo từ các nước công nghiệp phát triển.

Ngoài việc nâng cấp và mở rộng một số ngành công nghiệp sản xuất hàng xuất

khẩu, nhìn toàn cục giai đoạn 2 mang dáng dấp của mô hình công nghiệp hoá “thay

thế nhập khẩu” đối với nhiều ngành sản xuất công nghiệp hàng tiêu dùng.Vì thế,

những ngành công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng thay thế nhập khẩu phát triển

- 19 -

mạnh trong giai đoạn này. Song, những điều chỉnh cơ cấu kinh tế vĩ mô lại được

giành ưu tiên cho các ngành công nghiệp trợ giúp (kết cấu hạ tầng kinh tế)cho

những công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng phát triển như điện, nước và giao thông

vận tải.

Giai đoạn 3:là giai đoạn mà những sản phẩm công nghiệp thay thế nhập ở giai

đoạn 2 đã có thể trở thành sản phẩm xuất khẩu. Những sản phẩm đầu tư trước đây

phải nhập giờ đây đã có thể dần dần thay thế bằng nguồn khai thác và sản xuất ở

trong nước. Như vậy, khoảng cách kỹ thuật giữa các nước đi sau các nước công

nghiệp phát triển (trước hết là trong lĩnh vực chế tạo hàng tiêu dùng) không còn xa

cách bao nhiêu. Vì vậy mà số lượng và quy mô mặt hàng xuất khẩu ngày càng mở

rộng. Cơ cấu công nghiệp đã trở nên đa dạng hơn cho chỗ có nhiều khả năng hơn về

kỹ thuật đế lựa chọn và lợi dụng các lợi thế so sánh so với trước đây.

Giai đoạn 4: Là giai đoạn việc xuất khẩu hàng công nghiệp tiêu dùng bắt đầu

giảm xuống, nhường chỗ cho việc xuất khẩu các loại hàng hoá đầu tư vốn đã bắt

đầu phát triển ở giai đoạn 3. Về mặt kỹ thuật, nền công nghiệp đã đạt mức ngang

bằng với các nước kém phát triển hơn.

Mô hình “đàn nhạn bay” vẫn tiếp tục diễn ra theo phương thức này, mặc dù có

sử dụng sự thay đổi vị trí một số quốc gia nhất định.

Như vậy với việc phân chia qúa trình công nghiệp hoá của các nước “đi

sau”thành 4 giai đoạn trong mối liên quan với nền kinh tế khác theo mô hình “đàn

nhạn bay”, quan điểm chuyển dịch cơ cấu ngành của lý thuyết phát triển này có

nhiều điểm tương đồng với lý thuyết phát triển cơ cấu ngành “không cân đối” hay

các “cực tăng trưởng”. Cũng giống như trong lý thuyết phát triển “không cân đối”,

các “cực tăng trưởng” ở đây cũng thay đổi theo từng giai đoạn và nhân tố có ý nghĩa

quyết định sự thay đổi này là lợi thế so sánh trong quan hệ ngoại thương. Ngoài ra,

điều cần lưu ý nữa là việc “đuổi kịp” các nước công nghiệp phát triển diễn ra nhanh

hay chậm một phần rất lớn phụ thuộc vào việc lựa chọn các “cực tăng trưởng” trong

mỗi giai đoạn nhất định.

Mỗi loại lý thuyết trên đây đều có những mặt mạnh không thể chối cãi, song

cũng luôn tỏ ra không phải có thể áp dụng thành công ở mọi nơi mọi lúc. Tuy nhiên,

có thể tổng hợp lại thành những điều mà đã đề cập đến vấn đề chuyển dịch cơ cấu

- 20 -

ngành trong qúa trình phát triển (hay công nghiệp hoá) như sau:

1-Các lý thuyết phát triển đều quan tâm việc xác định các tiền đề cần thiết của

qúa trình công nghiệp hoá.

2-Chúng không những chỉ coi chuyển dịch cơ cấu cơ cấu là một trong những

chỉ tiêu quan trọng của sự phát triển trong thời kỳ công nghiệp hoá mà còn chỉ ra

nội dung cụ thể của nó là tăng tỷ trọng của công nghiệp giảm tỷ trọng nông nghiệp

trong GDP, dân số thành thị lớn hơn dân số nông thôn. Cách xác định nội dung

chuyển dịch cơ cấu như vậy cho phép một mặt đánh giá mức độ thành công của

công nghiệp hoá của một quốc gia; mặt khác, tìm hiểu những nguyen nhân quy định

tình trạng thoáI triển hay không sao bắt kịp được vào qúa trình công nghiệp hoá đã

xảy ra ở một số nước trên thế giới.

3-Đánh giá sự thành bại của các nước đang công nghiệp hoá, lý thuyết phát

triển đã khẳng định rằng có những nguyên nhân thuộc về cơ cấu. Người ta nhận

thấy rằng trong những nước không thành công, cơ cấu có tình trạng không liên kết

bên trong. G.Grellet nhận xét “ Tình trạng không liên kết bên trong ấy thê hiện một

ma trận về giao lưu liên ngành công nghiệp và một ma trận về giao lưu liên vùng

hầu như hoàn toàn trống rỗng”.

Như vậy, “kinh tế học của sự phát triển”đã đặt vấn đề cơ cấu và một trong

những vị trí cơ bản trong lý thuyết của mình để xem xét, đánh giá và phân loại các

dạng thức phát triển và thoái triển ở các nước thuộc thế giới thứ ba. Việc đề cao vấn

đề cơ cấu được xem là một trong những thành công trong lý thuyết phát triển kinh

tế hiện đại. Bởi nó khắc phục được sự phiến diện trong nhìn nhận vấn đề kinh tế của

các nước chậm phát triển khi chỉ xoay quanh chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế -tức là

mức độ tăng lên củ GNP và GNP đầu người.

Việc quan tâm đến vấn đề cơ cấu kinh tế thông qua việc chỉ ra tính chất

“không liên kết bên trong” ở một số nền kinh tế chậm phát triển nào đó mang hàm ý

về một giải pháp mang tính nguyên tắc:phải xây dựng một cơ cấu kinh tế có sự liên

kết, thúc đẩy, lôi kéo lẫn nhau trong qúa trình phát triển. Một cơ cấu như vậy vừ là

điều kiện cho sự phát triển hay công nghiệp hoá, đồng thời lại vừa là kết quả, là một

chỉ số để xem xét mức độ thành công của công nghiệp hoá và phát triển.

4- Kinh tế học phát triển cho rằng hình thức chuyển dịch cơ cấu ngành của các

- 21 -

nước chậm phát triển trong thời kỳ công nghiệp hoá diễn ra rất đa dạng. Việc

nghiên cứu trắc nghiệm kết hợp với so sánh lý thuyết đã cho phép mô tả một bức

tranh nhiều mầu sắc về về qúa trình chuyển dịch cơ cấu của các nước chậm phát

triển thuộc các khu vực khác nhau. Chính vì vậy, ngày càng có nhiều người cho

rằng không có một khuôn mẫu chung duy nhất nào có thể áp dụng thành công cho

mọ quốc gia. Việc công nghiệp hoá bắt đầu từ đâu:công nghiệp, nông nghiệp hay

dịch vụ vẫn đang còn là vấn đề tranh cãi.

5- Việc thừa nhận tính đa dạng của các hình thức chuyển dịch cơ cấu trong

qúa trình công nghiệp hoá của các nước đang phát triển hiện đang để lại một khoảng

trống mà người ta cho rằng sứ mệnh đặc biệt trong việc giải quyết vấn đề đó trao

vào tay các chính phủ. Trong các lý thuyết kinh tế, vai trò can thiệp của nhà nước

được xem là một trong những yếu tố quyết định sự phát triển kinh tế.

Khái niệm về mức độ “hợp lý”trong cơ cấu ngành kinh tế giữa các quốc gia là

một kháI niệm có tính co giãn lớn, phụ thuộc trước hết vào những đặc đIểm đặc thù

của mỗi quốc gia như cư dân, cơ cấu và trình độ kinh tế kỹ thuật hiện có, tài nguyên

thiên nhiên, văn hoá và các mối quan hệ kinh tế quốc tế v.v...Rõ ràng là cần có sự

giải thích cụ thể hơn trong mỗi trường hợp cụ thể cũng như những ngành cụ thể.

6- Để có cơ cấu ngành hợp lý, các chính phủ phải đánh giá được các nguồn lực

bên trong, đồng thời phải được với các nguồn lực bên ngoàI trong điều kiện quốc tế

hoá đời sống kinh tế thế giới. Về điểm này, “Kinh tế học phát triển” cho rằng đối

với một số quốc gia dân số ít, nhỏ bé, chính điều kiện bên ngoài mới là yếu tố quyết

định cơ cấu ngành của họ.

3.3. Lý thuyết về chu kỳ sống của sản phẩm

Lý thuyết “chu kỳ sống sản phẩm”, xét trong khuôn khổ một hệ thống kinh tế

mở, (tức là trong đó, ngoại thương là một yếu tố được giả định), cho rằng sự tồn tại

về mặt kinh tế của một sản phẩm (hay một ngành, cũng như vạy) trải qua 5 thời kỳ.

Thời kỳ thứ nhất là du nhập sản phẩm.Đây là giai đoạn sản phẩm mới sản xuất trên

thị trường nội địa. Sự xuất hịên này có thể du nhập sản phẩm mới từ nước ngoàI, có

thể là phát minh nhưng điều quan trọng là sự xuất hiện này một mật giả định có tồn

- 22 -

tại sẵn công nghệ và kỹ thuật chế tạo nó, mặt khác tạo ra nhu cầu về nó.

Thời kỳ thứ hai, thay thế nhập khẩu là giai đoạn tiếp theo, khi nhu cầu về sản

phẩm mới đã tăng mạnh trên thị trường trong nước. Bắt đầu qúa trình triển khai

công nghệ và kỹ thuật sản xuất sản phẩm trong nước để thay thế hàng nhập khẩu.

Thời kỳ thứ ba, bành trướng xuất khẩu, trong thời kỳ này, nhu cầu nội địa với

sản phẩm được đáp ứng về căn bản, đồng thời, kỹ thuật-công nghệ sản xuất sản

phẩm được cải tiến và hoàn thiện. Sản phẩm được xuất khẩu ra nước ngoài, cạnh

tranh trên thị trường quốc tế với khôí lượng ngày càng tăng.

Thời kỳ thứ tư là thời kỳ mà cả nhu cầu nội địa lẫn nhu cầu xuất khẩu đối với

sản phẩm dều giảm xuống chậm. Điều đó cản trở việc mở rộng sản xuất hơn nữa.

Bắt đầu xuất hiện dấu hiệu giảm sút năng lực cạnh tranh so với những nước xuất

phát muộn hơn.

Thời kỳ thứ năm, nhập khẩu đảo đây là thời kỳ cuối cùng trong chu kỳ sản

phẩm nội dung của thời kỳ này là sản xuất trong nước bắt đầu đối mặt với cạnh

tranh từ nước ngoài như là hệ quả tất nhiên của qúa trình bành trướng xuất khẩu sản

phẩm (đối với nước ngoài là du nhập sản phẩm, sản xuất thay thế nhập khẩu và bắt

dầu xuất khẩu). Cuộc cạnh tranh này tạo ra một số bất lợi thế cho qúa trình sản xuất

trong nước.Đó là bất lợi thế về thị trường về chi phí sản xuất. Việc tiếp tục sản xuất

sản phẩm (mở rộng công suất hay duy trì mức cũ, thậm chí thu hẹp) trở nên kém

hiệu quả. Trong một quãng thời gian dài, sự lựa chọn không thể tránh khỏi là

chuyển sang một loại sản phẩm mới khác. Để bảo đảm hiệu qua và ưu thế cạnh

tranh, đất nước phảI thực hiện bước chuyển đó và vì thế không thể không nhập khẩu

trở lại loại sản phẩm trước đây nó đã từng xuất khẩu.

Năm giai đoạn trên hình thành nên chu kỳ sống của sản phẩm. Nó xác định

tính chất yếu về kinh tế và kỹ thuật cho sự tồn tại của một ngành, một sản phẩm.

Đây chính là khuôn khổ lý thuyết tổng quát về qúa trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế

trên phạm vi thế giới. Trong phạm vi một nước đIều này cũng đúng khi xét trong

quan hệ giữa các ngành và công ty. Khi quan sát qúa trình này, người ta thấy qúa

trình di chuyển cơ cấu là liên tục và mang tính khách quan. Khái niệm liên tục ở đây

hàm nghĩa một sự dượt đuổi thật sự về sản phẩm và công nghệ-kỹ thuật giữa các

- 23 -

nước. Trong cuộc dượt đuổi này xuất hiện hai khả năng cho những nước đi sau. Đó

là:Thứ nhất, rút ngắn khoảng thời gian của mỗi thời kỳ trong toàn bộ chu kỳ. Thứ

hai, có thể bỏ qua nhiều loại sản phẩm để chuyển nhanh sang loại sản phẩm mới.

3.4. Các mô hình chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên thế giới

a. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo mô hình hướng nội

Với mục tiêu là phát huy tính chủ động của chính phủ trong quản lý kinh tế,

bảo đảm và duy trì sự phát triển của các ngành sản xuất truyền thống của dân tộc,

nhiều nước trên thế giới đã thực hiện chính sách chuyển dịch cơ cấu cơ cấu kinh tế

theo mô hình hướng nội.

Mô hình hướng nội là chính sách chuyển dịch cơ cấu kinh tế có xu hướng

hướng nội, có chiến lược đóng cửa nhiều hơn. Nó khuyến khích theo hướng sản

xuất cho thị trường trong nước, nhấn mạnh việc thay thế nhập khẩu, tự túc về lương

thực, có thể cả các mặt hàng phi mậu dịch.

Ban đầu chính phủ các nước đang phát triển nhiều khi cũng lựa chọn các chính

sách chuyển dịch cơ cấu nhằm thúc đảy tự lực quốc gia, đặc biệt là tăng cường sản

xuất lương thực, các nông sản và khoáng sản mà chúng không được nhập khẩu. Các

biểu thuế nhập khẩu hoặc quota nhập khẩu lương thực được thực hiện, đồng thời

chính phủ cũng đánh thuế vào hàng hoá xuất khẩu nhằm nâng cao nguồn thu, và

làm giảm sức thu hút của nền nm định hướng xuất khẩu tương đối so với nền nông

nghiệp hướng nội.

Các chính sách trên sẽ đem tới sự mở rộng cho các ngành công nghiệp nhỏ với

sự trợ cấp thích hợp và dần dần khuyến khích nền công nghiệp hoá thay thế nhập

khẩu. Bên cạnh chính sách bảo hộ chhung, họ còn có thể thực hiện sự hỗ trợ có lựa

chọn cho nền công nghiệp hoá thay thế nhập khẩu có tên là nền công nghiệp non

trẻ.

Chiến lược đóng cửa là thực hiện công nghiệp hoá theo hướng thay thế nhập

khẩu núp đằng sau bức tường bảo hộ mậu dịch. Do vậy ít tạo ra sức ép về cạnh

tranh hơn, làm cho cơ cấu ít nhạy bén hơn, đông cứng hơn Ngoài ra chiến lược dựa

trên cơ sở bảo hộ mậu dịch và thay thế nhập khẩu có xu hướng kèm theo sự hối lộ

và độc đoán, gây trì trệ cho quá trình phát triển, ảnh hưởng không nhỏ đến tăng

- 24 -

trưởng.

b. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo mô hình hướng ngoại

Mô hình hướng ngoại là mô hình với chính sách chuyển dịch cơ cấu đưa nền

kinh tế phát triển theo hướng mở cửa nhiều hơn, có thể thúc đẩy thương mại và các

luồng tư bản đổ vào, khuyến khích lợi nhuận giữa việc sản xuất cho thị trường trong

nước hay thị trường ngoài nước, tạo ra khả năng sinh lãi cao hơn trong việc sản xuất

hàng hoá xuất khẩu.

Có hai loại hình chiến lược kinh tế mở cửa đó là:

Thứ nhất, tạo các khuyến khích về giá cả một cách tực theo hướng có lợi cho

xuất khẩu (chẳng hạn thông qua trợ cấp xuất khẩu).

Thứ hai, tạo ra sự trung lập thích hợp về giá cả giữa sản xuất trong nước và thị

trường nước ngoài. Tức là chuyển các khuyến khích theo hướng có lợi cho sự mở

cửa.

Đặc đIểm của các chính sách hướng ngoại ban đầu ở nhiều nước đang phát

triển là hướng vào xuất khẩu vừa phải để tăng nguồn thu cho chính phủ, nhằm nâng

cao cơ sở hạ tầng để hàng hoá hỗ trợ cho xuất khẩu. Mô hìn này được thực hiện với

các chính sách thương mại thiên về ủng hộ sự thay thế nhập khẩu, tạo ra một biểu

thuế nhập khẩu đem lại nguồn thu thích hợp mà không cần tới sự bảo hộ mạnh mẽ.

Sau khi hoàn thành những giai đoạn ban đầu của việc thay thế nhập khẩu, các

nước đang phát triển thường chuyển sang các chính sách hướng ngoại đối với các

ngành chế tạo máy. Cách tốt nhất là quan tâm đến việc cung cấp các đầu vào cho

nhà xuất khẩu trong khi cơ sở hạ tầng chưa đáp ứng đầy đủ. Tài quản lý của chính

phủ ở đây là sự lựa chọn sáng suốt sự thay thế nhập khẩu có hiệu quả và đẩy mạnh

xuất khẩu. Xây dựng một chính sách thương mại quốc tế cho phù hợp với nền kinh

tế đang phát triển, nhằm phục vụ tốt nhất các mục tiêu phát triển kinh tế -xã hội củ

mỗi quốc gia.

Chuyển dịch cơ cấu theo mô hình hướng ngoại rất có ý nghĩa đối với thuế

quan và các hình thức khác của chính sách bảo hộ mậu dịch, chính sách tỷ giá hối

đoái và quản lý vĩ mô trong nước. Vấn đề mở cửa có liên quan đến nhập khẩu và

xuất khẩu hoặc tài khoản vãng lai trong cán cân thanh toán. Việc quyết định hướng

- 25 -

ngoại cho dù ở mức độ nào thì cũng có nhiều tác động quan trọng đến các mặt của

đời sống kinh tế. Nó sẽ ảnh hưởng tới việc phân bố sản xuất giữa các mặt hàng trao

đổi được xuất hoặc nhập khẩu; tăng cường sử dụng nguồn lực và tới sự phân phối

thu nhập thông qua những tác động đối với thị trường nhân tố sản xuất và thị trường

sản phẩm; tới cơ cấu và tốc độ công nghiệp hoá; tới việc phân bổ đất đai và các

nguồn lực khác giữa cây lương thực và cây phục vụ xuất khẩu, v.v...

Ưu đIểm của sự mở cửa là nó thúc đẩy qúa trình đổi mới và tăng năng suất lao

động nhanh, tạo ra khả năng thích nghi của nền kinh tế; tác động tốt đến qúa trình

phát triển dài hạn, có tác dụng tốt đối với sự tăng trưởng của GDP.

Tuy nhiên, chiến lược kinh tế mở của sẽ mang lại cho chính phủ nước đó ít có

khả năng hành động theo ý mình hơn; có tác dụng xấu tới công nghệ trong nước do

dựa vào tư liệu sản xuất và công nghệ nhập khẩu, đặc biệt đối với các nước nhỏ có

thu nhập thấp mà nền kinh tế của họ ở vào vị thế không thuận lợi. Việc thực hiện

chính sách thuế nhập khẩu thấp ở giai đoạn đầu có thể đem lại ảnh hưởng xấu là

tăng giá cả tiêu dùng và một số ngành sản xuất thay thế nhập khẩu. Ngoài ra, khi

các điều kiện quốc tế trở nên không thuận lợi thì rủi ro có thể xảy ra, đem lại không

ít hậu quả xấu cho nền kinh tế-xã hội trong nước.

c. Chuyển dịch cơ cấu theo mô hình hỗn hợp

Mô hình hướng về xuất khẩu lấy thị trường nước ngoài làm trọng tâm phát

triển công nghiệp. Điều đó mang lại những lợi ích thiết thực, song cũng đòi hỏi

những điều kiện rất khắt khe, mà trước hết là các sản phẩm xuất khẩu phảI có khả

năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Đó là điều các nước đang phát triển không

dễ thực hiện trong giai đoạn đầu của qúa trình công nghiệp hoá. Mặt khác, việc

thiên về thị trường quốc tế đôi khi đẫn tới bỏ trống thị trường nội địa cho hàng hoá

nước ngoài thâm nhập.

Để khắc phục những tình trạng trên đây, người ta chuyển sang thực hiện mô

hình hỗn hợp. Mô hình này được xây dựng trên cơ sở kết hợp các yếu tố của mô

hình hướng nội (coi trọng thị trường trong nước, phát triển sản xuất các sản phẩm

trong nước sản xuất có hiệu quả thay thế nhập khẩu) và các yếu tố của mô hình

hướng ngoại (phát huy lợi thế so sánh để đẩy mạnh sản xuất các sản phẩm xuất

khẩu, lấy yêu cầu của thị trường quốc tế làm hướng phấn đấu phát triển sản xuất

- 26 -

trong nước). Sự hình thành mô hình này là sự điều chỉnh trọng tâm thị trường phát

triển sản xuất của mô hình hướng nội và mô hình hướng ngoại. Trong sự kết hợp

ấy,người ta vẫn ưu tiên nhiều hơn cho hướng ngoại.

Trong qúa trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta hiện nay, Đảng ta đã

định rõ quan điểm “xây dựng nền kinh tế mở hội nhập với khu vực và thế giới,

hướng mạnh về xuất khẩu, đồng thời thay thế nhập khẩu bằng những sản phẩm

trong nước sản xuất có hiệu quả “.

3.5. Kinh nghiệm chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở một số nước

*Malaxia

Là một nước dành độc lập từ năm 1957, Malaixia bắt đầu bằng một nền kinh

tế (từ chỗ phụ thuộc Anh quốc)trong đó có 2 mặt hàng chiếm ưu thế là thiếc và cao

su. Liên tiếp từ đó, nền kinh tế của Malaixia liên tục thực hiện chính sách đa dạng

hoá rộng rãI các hàng sản xuất và đã đạt được tốc độ tăng trưởng nhanh, trung bình

từ 7%đến 8%hàng năm. Sản lượng GNP bình quân theo đầu người là 2000USD

năm 1984. Danh mục các mặt hàng xuất khẩu có thêm dầu cọ, gỗ,ca cao và hạt

tiêu. Không những thế Malaixia còn là nước sản xuất đứng đầu thế giới về cao

su,thiếc, dầu cọ và gỗ nhiệt đới và là nước có khối lượng xuất khẩu lớn về dầu mỏ

và khí tự nhiên hoá lỏng.

Bằng những chính sách thiết thực nhằm thu hút vốn đầu tư nước ngoàI và

ngành công nghiệp, số lượng hàng xuất khẩu tăng nhanh, nhất là các linh kiện đIện

tử, hàng tiêu dùng đồ đIện,sản phẩm dệt và các hàng công nghiệp khác, góp phần

đáng kể tăng trưởng kinh tế.

Sau những năm 1981-1982 (suy thoáI kinh tế trên khắp thế giới), các mặt hàng

xuất khẩu truyền thống của Malaixia bị giảm giá, làm giảm thu nhập và đầu tư. Nhà

nước Malaixia đã tìm cách kích thích nền kinh tế và đẩy nhanh tăng trưởng công

nghiệp bằng việc đầu tư vào một số cơ sở hạ tầng và công nghiệp nặng. Chi tiêu

Chính phủ tăng bằng cách đI vay nợ nước ngoàI để mua cổ phàn của các công ty

nước ngoàI với mụch đích có đIều kiện kiểm soát các công ty lớn của nước ngoàI.

Do vậy mà nợ nước ngoài của Malaixia tính đến năm 1984 đã tăng tới 15 tỷ USD.

Năm 1985-1986, do ảnh hưởng có giá dầu mỏ và dầu cọ trên thế giới giảm nhanh,

sản lượng GNP theo đầu người giảm xuống còn 1600 USD bình quân đầu người,

- 27 -

thâm hụt lớn trong ngân sách nhà nước. Chính phủ đã phảI thy đổi một số chính

sách như bãI bỏ một vàI mục tiêu và chi tiêu và tăng trưởng trong kế hoạch lần thứ

5 (1986-1990), chú trọng hơn về khu vực tư nhân, tư nhân hoá một số công ty quốc

doanh và của chính phủ; Công ty vận tảI biển quốc gia và hàng không quốc gia

được bấn một phần cho các nhà đầu tư thông qua thị trường chứng khoán.

Nền kinh tế Malaixia bắt đầu phục hồi từ năm 1987 liên tục đến năm 1989 nhờ

sự cảI thiện về giá cả hàng hoá và tăng trưởng trong sản xuất công nghiệp. GDP

thực tế tăng 4,7%năm 1987, 9,5%năm 1988 và 7,7 %năm 1989.Hàng xuất khẩu

chiếm hơn 3//4 tăng trưởng, dẫn tới cán cân thanh toán dư thừa, đầu tư nước ngoài

tăng lên, nợ nước ngoài giảm. Vốn là nước có nguồn lực đất đai dồi dào, lực lượng

lao động có học vấn tốt và môI trường chính trị ổn định, tiết kiệm trong nước mạnh

tạo đủ vốn cho đầu tư, ngoai ra với chính sách thu hút đầu tư nước ngoài, khả năng

tăng trưởng của Malaixia là có triển vọng tiếp tục và thịnh vượng. Tuy nhiên, chính

phủ Malaixia vẫn luôn phảI có những chính sách phù hợp để đề phòng những tổn

thương do biến động từ bên ngoàI.

* ĐàI Loan

Giai đoạn thứ nhất (1953-1964). Giai đoạn này tương ứng với 3 kế hoạch 4

năm phát triển kinh tế của Đài Loan:1953-1956, 1957-1960, 1961-1964.

Mục tiêu chiến lược của Đài Loan giai đoạn này là phát triển công nghiệp

nhằm đáp ứng nhu cầu cơ bản của nhân dân như ăn, mặc,ở đI lạI, học tập, giảI

trí...Do vậy đối với CNH ở giai đoạn này, thay thế nhập khẩu được coi là nhiệm vụ

trọng tâm.

Trong giai đoạn này,Đài Loan một mặt chủ trương phát triển các ngành sản

xuất trong nước nhằm thay thế những sản phẩm phảI nhập khẩu trước đây; mặt

khác, đưa ra một loạt các biện pháp nhằm hạn chế nhập khẩu những mặt hàng tự sản

xuất được. Chính quyền Đài Loan còn áp dụng nhiều biện pháp hỗ trợ công nghiệp

nộ địa như miễn giảm thuế kinh doanh, cho vay với lãI suất thấp và các khoản trợ

cấp khác.

Chiến lược CNH thay thế nhập khẩu vớ các biện pháp tích cực đã đem lạI cho

Đài Loan một số kết quả nhất định. Giá trị sản lượng công nghiệp từ năm 1953-

1962 tăng trung bình 11,7%/năm. Công nghiệp được mở rộng đã thu hút thêm một

- 28 -

lượng lớn lao động, từ 17%trong toàn bộ lao động đang làm việc năm 1951 tăng lên

25%năm 1964. Bước ngoạt đánh dấu sự phát triển của công nghiệp Đài Loan là giá

trị sản xuất công nghiệp từ năm 1956 đã bắt đầu vượt giá trị sản xuất nông

nghiệp.trong GDP.

Tuy nhiên, chiến lược CNH thay thế nhập khẩu kể từ đầu thập niên 60 cũng đã

bộc lộ những mặt hạn chế của nó. Sản phẩm công nghiệp của Đài Loan không có

khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới, còn tạI thị trường trong nước sức mua

của người dân rát hạn chế do thu nhập còn thấp. Trong khi đó, việc nhập khẩu các

nguyên liệu, thiết bị cần thiết cho công nghiệp hoá vẫn tiếp tục tăng lên khiến thâm

hụt mậu dịch, thâm hụt ngoạI tệ vẫn tiếp tục tăng. Tốc độ tăng trưởng của công

nghiệp bắt đầu giảm vào đầu thập kỷ 60, từ 20%năm 1955 xuống chỉ còn 9,8% năm

1961. Riêng tốc độ tăng trưởng của công nghiệp chế biến- một thế mạnh của dự

kiến trong thập kỷ 50 cũng giảm từ 14,4%năm 1960 xuống còn 8,1% năm 1962. Để

thoát khỏi tình thế bất lợi này và tìm kiếm con đường phát triển cho Đài Loan,

chính phủ và các nhà kinh tế, giới kinh doanh của hòn đảo này đã chuyển chiến

lược CNH thay thế nhập khẩu sang CNH theo hướng xuất khẩu.

Giai đoạn thứ 2(1964-1973). Triển khai CNH hướng về xuất khẩu Đài Loan đã

thực hiện một bước thay đổi căn bản về chiến lược phát triển, về quy chế và quản lý

kinh tế, thông qua một loạt cảI cách quan trọng như áp dụng một chế độ một tỷ giá

hối đoáI. Thứ hai, chính phủ ĐàI Loan áp dụng nhiều biện pháp ưu đãI đối với các

doanh nghiệp sản xuất theo hướng xuất khẩu. Thứ ba, ngoàI các lỗ lực huy động

nguồn lực bên trong, ĐàI Loan còn ban hành nhiều chính sách nhằm thu hút vốn và

công nghệ từ bên ngoàI.

Với phương châm đề ra trong giai đoạn này là “xuất khẩu để nhập khẩu”,

“nhập khẩu để thúc đẩy xuất khẩu”, cả công nghiệp nhẹ và công nghiệp nặng của

ĐàI Loan ở giai đoạn này đã có bước phát triển mạnh mẽ, đạt mức tăng trưởng bình

quân hàng năm là 18,5%. ĐIều quan trọng hơn là tỷ trọng công nghiệp trong GDP

tăng lên đáng kể, đạt 41,3% trong khi nông nghiệp đã giảm tương đối, chỉ còn

15,5%. Sự phát triển nhanh chóng của công nghiệp đã góp phần thúc đẩy sự tăng

trưởng kinh tế nhanh của ĐàI Loan. GDP của ĐàI Loan giai đoạn này luôn luôn

- 29 -

tăng trung bình là 10,1%/năm.

- Giai đoạn thứ 3(1974-1990). Giai đoạn này ĐàI loan tiếp tục công cuộc CNH

song có bước đIều chỉnh quan trọng về cơ cấu ngành nghề, trong đó ưu tiên hàng

đầu là tập trung phát triển các ngành công nghiệp có hàm lượng vốn và kỹ thuật

cao, tuy vẫn duy trì chính sách phát triển các ngành công nghiệp nhẹ hướng ra xuất

- 30 -

khẩu.

Chương II

Thực trạng chuyển dịch cơ cấu kinh tế

I. Những phương hướng chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế trong thời kỳ

1996-2000

Nhiệm vụ và mục tiêu chủ yếu

Tập trung sức cho mục tiêu phát triển, đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân

hàng năm 9-10%; dến năm 2000, GDP bình quân đầu người gấp đôI năm 1990.

Phát triển toàn diện nông, lâm, ngư nghiệp, gắn với công nghiệp chế biến

nông, lâm, thuỷ sản và đổi mới cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng công nghiệp

hoá, hiện đạI hoá. Tốc độ tăng gía trị sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp bình quân

hàng năm 4-4,5%. Phát triển các ngành công nghiệp chú trọng trước hết công

nghiệp chế biến, công nghiệp hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu; xây dựng có chọn

lọc một số cơ sở công nghiệp nặng về dầu khí, than, xi măng, cơ khí, đIện tử, thép,

phân bón, hoá chất, một số cơ sở công nghiệp quốc phòng. Tốc độ tăng gía trị sản

xuất công nghiệp bình quân hàng năm 14-15%.

Phát triển các ngành dịch vụ, tập trung vào các lĩnh vực vận tảI, thông tin liên

lạc, thương mại, du lịch, các dịch vụ tài chính, ngân hàng, công nghệ, pháp lý...Tốc

độ tăng gía trị dịch vụ bình quân hằng năm 12-13 %.

Đến năm 2000 tỷ trọng công nghiệp và xây dựng chiếm khoảng 34-35% trong

GDP; nông, lâm, ngư nghiệp chiếm khoảng 19-20%; dịch vụ chiếm khoảng 45-

46%.

1. Nông nghiệp

- 31 -

* Mục tiêu:

Phát triển nông nghiệp toàn diện hướng và bảo đảm an toàn lương thực quốc

gia trong mọi tình huống, tăng nhanh nguồn thực phẩm và rau quả, cảI thiện chất

lượng bữa ăn, giảm suy dinh dưỡng.

Chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp và kinh tế nông thôn có hiệu quả. Trên cơ sở

bảo đảm vững chắc nhu cầu lương thực, chủ yếu là lúa, mở rộng diện tích trồng cây

công nghiệp, cây ăn quả, tăng nhanh đàn gia súc, gia cầm, phát triển kinh tế biển,

đảo, kinh tế rừng, khai thác có hiệu quả tiềm năng của nền nông nghiệp sinh tháI,

tăng nhanh sản lượng hàng hoá gắn với công nghiệp chế biến và xuất khẩu.

* Nhiệm vụ:

Tăng nhanh sản lượng lương thực hàng hoá ở những vùng đồng bằng có năng

suất và hiệu quả cao. Bố trí lạI mùa vụ để né tránh thien tai, chuỷên sang các vụ có

năng suất cao hoặc sang các cây có hiệu quả hơn. Dự kiến năm 2000, sản lượng

lương thực đạt khoảng 30 triệu tấn bình quân đầu người 360-370 kg.

Phát triển mạnh các loại cây công nghiệp, cây ăn quả và rau đậu có hiệu quả

kinh tế cao; Trồng cây công nghiệp kết hợp với chương trình phủ xanh đất trống,

đòi trọc theo hình thức nông lâm kết hợp. Đến năm 2000 đưa tỷ trọng cây công

nghiệp chiếm khoảng 45% gía trị sản phẩm ngành trồng trọt.

Hình thành và phát triển các vùng chăn nuôI tập trung gắn với công nghiệp

chế biến thực phẩm. Đổi mới hệ thống giống có năng suất cao, chất lượng tốt. Thực

hiện chương trình lạc hoá đàn lợn, cảI tạo đàn bò, phát triển bò sữa, bò thịt và thanh

toán một số bệnh nhiệt đới. Phấn đấu đến năm 2000, đưa ty trọng ngành chăn nuôI

trong gía trị sản phẩm nông nghiệp lên khoảng 30-35%.

Phát triển nghề nuôI trồng thuỷ hảI sản ở cả nước ngọt, nước lợ và nước mặn.

Bảo vệ và khôI phục rừng ngập mặn. Chuyển một số ruộng trũng, thường bị úng lụt

hoặc bị nhiễm mặn, năng suất thấp sang nuôI trồng thuỷ sản. Đến năm 2000 diện

tích nuôI trồng thuỷ sản đạt trên 60 vạn ha.

Phát triển mạnh nghề đánh bắt xa bờ thông qua việc hỗ trợ cho ngư dân vay

vốn và phát triển lực lượng quốc doanh Sản lượng thuỷ hảI sản năm 2000 khoảng

1,6-1,7 triệu tấn, trong đó sản lượng nuôI trồng khoảng 50-55 vạn tấn; xuất khẩu

- 32 -

thuỷ hảI sản 1-1,1tỷ USD.

Trong 5 năm 1996-2000 phảI bảo vệ 9,3 triệu ha rừng hiện có và tạo thêm 2,5

triệu ha rừng trong đó có 1 triệu ha rừng trồng mới,đưa diện tích đất đai được che

phủ bằng rừng và cây lâu năm khác lên 40%.

2. Công nghiệp

* Mục tiêu:

Đổi mới công nghệ của phần lớn doanh nghiệp. Phát triển nhanh một số ngành

có lợi thế, hình thành một số ngành mũi nhọn trong các lĩnh vực chế biến lương

thực-thực phẩm, khai thác và chế biến dầu khí, công nghiệp đIện tử và công nghệ

thông tin, cơ khí chế tạo, sản xuất vật liệu.

Hình thành các khu công nghiệp tập trung (bao gồm cả khu chế suất và khu

công nghệ cao), tạo địa bàn thuận lợi cho việc xây dựng các cơ sở công nghiệp mới.

Phát triển mạnh công nghiệp nông thôn và ven đô thị. ở các thành phố, thị xã, nâng

cấp cảI tạo các cơ sở công nghiệp hiện có, dưa các cơ sở không có khả năng sử lý ô

nhiễm ra ngoàI thành phố, hạn chế xây dựng cơ sở công nghiệp xen lẫn dân cư.

* Nhiệm vụ:

Phát triển công nghiệp chế biến thực phẩm và công nghiệp hàng tiêu dùng

nhằm đáp ứng nhu cầu trong nước, đồng thời hướng mạnh về xuất khẩu, ưu tiên

phát triển những sản phẩm có lợi thế cạnh tranh và có hiệu quả cao.

Kết hợp nhiều loạI quy mô, nhiều trình độ công nghệ thích hợp, bảo đảm chế

biến phần lớn nông lâm, thuỷ sản của các vùng. Đầu tư chiều sâu mở rộng công

suất và đổi mới công nghệ các cơ sở hiện có, đồng thời xây dựng với một số cơ sở

sản xuất với công nghệ hiện đạI.

Đưa công suất xay xát lên khoảng 15 triệu tấn thóc vào năm 2000.

Đầu tư chiều sâu, mở rộng các nhà máy đường hiện có. Xây dựng mới một số

nhà máy có quy mô vừa và nhỏ ở những vùng nguyên liệu nhỏ, xây dựng các nhà

máy có thiết bị công nghệ tiên tiến, hiện đạI kể cả liên doạnh với nước ngoàI. Sản

lượng dường năm 2000 khỏng 1 triệu tấn.

Cho dân vay vốn đầu tư để phát triển mạnh cà phê. Tăng công suất chế biến,

- 33 -

nâng cao chất lượng và đa dạng hoá sản phẩm cà phê.

Nâng công suất chế biến mủ cao su từ 20 nghìn tấn hiện nay lên 70 nghìn

tấn/năm. Phát triển các ngành công nghiệp chế biến sản phẩm từ cao su.

Phát triển chế biến thịt, sữa, thuỷ hảI sản ngành rau, quả theo nhiều quy mô.

CảI tạo các cơ sở hiện có và xây dựng các cơ sở mới hiện đạI, nhất là để phục vụ

cho xuất khẩu.

Phát triển mạnh công nghiệp nhẹ, nhất là dệt, may, da giày, giấy, các mặt hàng

thủ công mỹ nghệ. Đầu tư hiện đạI hoá dây chuyền công nghệ, nâng chất lượng và

sức cạnh tranh của sản phẩm. Chuyển dần việc nhận gia công dệt may, đồ da sang

mua nguyên liệu, vật liệu để sản xuất hàng xuất khẩu. Khắc phục sự lạc hậu của

ngành sợ, dệt; phấn đấu đến năm 2000 sản xuất 800 triệu mét vảI, lụa gắn với việc

phát triển bông và tơ tằm. Đầu tư chiều sâu các nhà máy hiện có và xây dựng mới

một số nhà máy gắn với phát triển vùng nguyên liệu để đưa sản lượng giấy năm

2000 lên 30 vạn tấn.Sản xuất đồ dùng kim khí, đồ dùng bằng nhựa, chất tẩu rửa, mỹ

phẩm đủ cho nhu cầu trong nước và cố phần xuất khẩu.

Tiếp tục đẩy mạnh tìm kiếm, thăm dò khai thác dầu và khí năm 2000 đạt

khoảng 20 triệu tấn dầu quy đổi, trong dố khoảng 16 triệu tấn dầu thô và 4 tỷ mết

khối khí. Xây dựng quy hoạch tổng thể sử dụng khí thiên nhiên khí đồng hành.

Hoàn thành hai công trình đường ống dẫn khí để sử dụng 4,5-5 tỷ m/ năm. Xây

dựng nhà máy lọc dầu số 1 (6,5 triệu tấn/ năm) Chuẩn bị xây dựng nhà máy lọc dầu

số 2 hoặc mở rộng nhà máy lọc dầu số 1) và xây dựng ngành công nghiệp hoá dầu.

Tăng nhanh nguồn đIện; hoàn thành xây dựng và xây dựng gối đầu một số cơ

sở phát đIện lớn để tăng thêm khoảng 3000 MW công suất huy động trong 5 năm

tới và gối đầu khoảng1000MW công suất cho sau năm 2000. Sản lượng đIện vào

năm 2000 khoảng 30 tỉ KWh. Xây dựng, cảI tạo hệ thống các trạm biến áp và

đường dây tảI đIện đồng bộ với nguồn. Cố chính sách và biện pháp tích cực, hữu

hiệu để sử dụng đIện hợp lý, tiết kiệm.

Phát triển ngành than hướng vào tăng công suất hiện có bằng phục hồi, cảI tạo,

mở rộng một số mỏ. Duy trì công suất các mỏ đang khai thác.Năm 2000 đạt khoảng

10 triệu tấn than sạch.

Tăng thêm công suất phân lân đạt sản lượng1,2 triệu tấn vào năm 2000. Xây

- 34 -

dựng nhà máy phân đạm số 1từ khí có công suất 60- 80 vạn tấn/ năm. Xây dựng gối

đầu nhà máy phân đạm số 2 có công suất tương tự đưa vào vận hành trong kế hoạch

5 năm sau.

Đưa vào sản xuất các nhà máy xi măng đang xây dựng; huy động và vay vốn

để mở rộng, xây dựng mới một số nhà máy xi măng, kể cả lò đứng; liên doanh với

nước ngoàI xây thêm một số nhà máy. Sản lượng xi măng năm2000 đạt khoảng 18-

20 triệu tấn.

Đầu tư hoàn chỉnh các day chuyền sản xuất thép hiện có, khởi công xây dựng

mới một số nhà máy thép, chú trọng khâu tạo phôi. Năm 2000 sản xuất 2 triệu tấn

thép. Kết hợp chế tạo trong nước với nhập khẩu đế trang bị một phần máy móc các

dây truyền thiết bị cho nền kinh tế và có sản phẩm xuất khẩu. Trước mắt, hướng vào

sản xuất thiết bị toàn bộ cho công nghiệp chế biến nông sản, các loạI phương tiện

vận tảI...phát triển mạnh công nghiệp đóng tầu, lắp ráp và chế tạo ô tô xe máy.

Xây dựng và phát triển nhanh công nghiệp đIện tử và công nghệ thông tin,

chọn một số hướng đI sớm vào hiện đạI phục vụ ché tạo máy và tự động hoá một số

khâu có sản phẩm xuất khẩu. Phát triển dịch vụ tin học, nhất là phần mềm nghiên

cứu khoa học.

3. Chương trình phát triển kinh tế dịch vụ

* Mục tiêu:

Phát triển mạnh các loạI dịch vụ, mở thêm những loạ hình mới đáp ứng nhu

cầu đa dạng của sản xuất kinh doanh và đời sống.

Tạo môI trường cạnh tranh lành mạnh trong dịch vụ. Giữ ổn định giá cả, nhất

là đối với các mặ hàng và dịch vụ thiết yếu.

* Nhiệm vụ

Phát triển thương nghiệp, bảo đảm lưu thông hàng hoá thông suốt, dễ dàng

trong cả nước, nhất là vùng nông thôn, vùng sâu và miền núi, chú trọng công tác

tiếp thị trong và ngoàI nước. Thương nghiệp quốc doanh được củng cố và phát triển

trong những ngành hàng thiết yếu đối với sản xuất và đời sống, nắm bán buôn, chi

- 35 -

phối bán lẻ.

Tăng cường quản lý thị trường, hướng dẫn các thành phần kinh tế trong

thương nghiệp phát triển đúng hướng, đúng chính sách, pháp luật,cạnh tranh lành

mạnh; chống trốn thuế, lậu thuế, lưu thông hàng giả.

Tăng cường vai trò đIều tiết vĩ mô của nhà nước, xử lý kịp thời mọi diễn biến

bất lợi của thị trường. Hoàn thiện hệ thống dự trữ quốc gia, dự trữ lưu thông.

Giá trị hàng hoá bán ra trên thị trường đến năm 2000 gấp 2,5 lần năm 1995,

tăng bình quân hàng năm 20% (tính theo giá năm 1995).

Tăng nhanh khối lượng, nâng cao chất lượng và độ an toàn vận tảI hành

khách, hàng hoá, trên tất cả các loạI hình vận tảI. Nâng cao năng lực đủ sức đảm

nhận tỷ lệ thị phần theo luật pháp quốc tế trong vận tảI hàng không, viễn dương.

Triển khai thực hiện quy hoạch tổng thể phát triển du lịch tương xứng với tiềm

năng du lịch to lớn của đát nước theo hướng du lịch văn hoá, sinh tháI, môI trường.

Xây dựng các chương trình và các đIểm du lịc hấp dẫn về văn hoá, di tích ịch sử và

khu danh lam thắng cảnh.

II. Thực trạng qúa trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế thời kỳ 1996-2000

1. Thực trạng qúa trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế thời kỳ 1996-

2000

Cơ cấu kinh tế đã có bước chuyển dịch tích cực

Cơ cấu các ngành kinh tế đã có bước chuyển dịch theo hướng công nghiệp

hoá, hiện đạI hoá. Tỷ trọng nông, lâm, ngư nghiệp trong GDP đã giảm từ

27,2%năm 1995 xuống còn 24,3% năm 2000; công nghiệp và xây dựng từ 28,7%

tăng lên 36,6% và dịch vụ từ 44,1%năm 1995 còn 39,1%. Mặc dù vây vẫn chưa đạt

được mục tiêu đề ra trong Nghị quyết ĐạI hội VIII (cơ cấu vào năm 2000 tương ứng

- 36 -

là 19-20%, 34-35% và 45-46%).

Tốc độ tăng trưởng so với năm trước(%)

Cơ cấu

Nông lâm

Nông lâm

Năm

Tổng

Công nghiệp

Dịch

Công nghiệp

Dịch

nghiệp và

nghiệp và

và xây dựng

và xây dựng

vụ

vụ

số

thuỷ sản

thuỷ sản

27,76

14,46

8,80

29,73

42,51

9,34

1996

4,40

25,77

12,62

7,14

32,08

42,15

8,15

1997

4,33

25,78

8,33

5,08

32,49

41,73

5,76

1998

3,53

25,43

7,76

2,25

35,50

40,67

4,77

1999

5,23

24,30

10,07

5,07

36,61

39,09

6,75

2000

4,04

14,50

Ước2001

7,10

4,10

1.1. Cơ cấu nông nghiệp chuyển dịch tích cực góp phần quan trọng vào

tăng trưởng kinh tế

Giá trị sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp tăng bình quân hàng năm 5,7% so với

mục tiêu đề ra 4,5-5%, trong đó nông nghiệp tăng 5,6%, lâm nghiệp 0,4%, ngư

nghiệp 8,4%.

Cơ cấu mùa vụ đã chuyển dịch theo hướng tăng diện tích lúa đông xuân và lúa

hè thu có năng suất cao, ổn định. Các loạI giống lúa mới đã được sử dụng trên 87%

diện tích gieo trồng. Sản lượng lương thực có hạt tăng bình quân hàng năm trên 1,6

triệu tấn; lương thực bình quân đầu người tăng từ 360 kg năm 1995 lên 444 kg năm

2000.

Nhiều vùng sản xuất nông sản hàng hoá tập trung gắn với công nghiệp chế

biến bước đầu được hình thành; sản phẩm nông nghiệp đa dạng hơn. So với năm

1995, diện tích một số cây công nghiệp tăng khá:cà phê gấp 2,7 lần, cao su tăng

46%, mía tăng khoảng 35%, bông tăng 8%, thuốc lá tăng trên 18%, rừng nguyên

liệu giấy tăng 66%,...Một số loạI giống cây công nghiệp có năng suất cao đã được

đưa vào sản xuất đạI trà.

Giá trị sản xuất nông nghiệp trên một đơn vị đất nông nghiệp tăng từ

13,5%triệu đồng/ha năm 1995 lên 17,5 triệu đông/ha năm 2000.

Chăn nuôI tiếp tục phát triển. Sản lượng thịt lợn hơI năm 2000 ước trên 1,4

- 37 -

triệu tấn,băng 1,4 lần so với năm 1995.

Nghề nuôi, trồng và dánh bắt thuỷ sản phát triển khá. Sản lượng thuỷ sản đánh

bắt năm 2000 đạt trên 2 triệu tấn so với mục tiêu kế hoạch 1,6-1,7 triệu tấn; xuất

khẩu đạt 1.475 triệu USD.

Công tác trồng rừng, chăm sóc, bảo vệ rừng có tiến bộ. Trong 5 năm đã trồng

1,1 triệu ha rừng tập trung, bảo vệ 9,3 triệu ha rừng hiện có, khoanh nuuoi táI sinh

700 nghìn ha. Độ che phủ rừng tăng từ 28,2% năm 1995 lên 33% năm 2000.

Xuất khẩu nông, lâm, thuỷ sản năm 2000 đạt 4,3 tỷ USD, gấp hơn 1,7 lần so

với năm 1995, bình quân hàng năm chiếm khoảng 30% kim ngạch xuất khẩu của cả

nước; đã tạo được ba mặt hàng xuất khẩu chủ lực là gạo (đứng thứ hai thế giới), cà

phê (đứng thứ ba)và hàng thuỷ sản chiếm 34%giá trị xuất khẩu toàn ngành.

1.2. Cơ cấu công nghiệp

Nhịp độ tăng giá trị sản xuất công nghiệp bình quân hàng năm 13,5.

Một số ngàng công nghiệp tiếp tục tổ chức và sắp xếp lạI sản xuất, lựa chọn

các sản phẩm ưu tiên và có lợi thế, có nhu cầu của thị trường để đầu tư chiều sâu,

đổi mới công nghệ đạt chất lượng cao hơn, đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất

khẩu.

Năng lực sản xuất các sản phẩm công nghiệp chủ yếu tăng khá:năm 2000 so

với năm 1995, công suất đện gấp 1,5 lần (tăng 2.715 MW); xi măng gấp 2,1 lần

(tăng 8,7 triệu tấn); phân bón gấp trên 3 lần (tăng 1,5 triệu tấn); thép gấp 1,7 lần

(tăng 1,0 triệu tấn); mía đường gấp hơn 5 lần (tăng hơn 60.000 tấn mía / ngày).

Sản lượng một số sản phẩm quan trọng tăng nhanh. Năm 2000 so với năm

1995, sản lượng dầu thô gấp 2,1 lần; đIện gấp 1,8 lần; than sạch vượt ngưỡng 10

triệu tấn, trong đó xuất khẩu 3,0 triệu tấn; thép cán gấp hơn 3 lần; xi măng gấp hơn

2 lần; vảI các loạI gáp 1,5 lần; giấy các loạI gấp 1,7 lần,...

Xuất khẩu sản phẩm công nghiệp (kể cả tiểu thủ công nghiệp) tăng nhanh,

năm 2000 đạt 10 tỷ USD, gấp 3,4 lần năm 1995, chiếm khoảng 70% tổng kim

ngạch xuất khẩu cả nước.

Cơ cấu các ngành công nghiệp đã có chuyển dịch đáng kể, hình thành một số

sản phẩm mũi nhọn, một số khu công nghiệp, khu chế xuất với nhiều cơ sở sản xuất

- 38 -

có công nghệ hiện đạI. Đến năm 2000, công nghiệp khai thác dầu thô, khí tự nhiên

và dịch vụ khai thác dầu khí chiếm khoảng 11,2% tổng giá trị sản xuất toàn ngành,

công nghiệp sản xuất thực phẩm và đồ uóng chiếm khoảng 20%, công nghiệp sản

xuất và phân phối đIện, khí đốt, hơI nước chiếm khoảng 5,4%.

Ngành xây dựng đã tiếp nhận công nghệ xây dựng mới, trang bị thêm nhiều

thiết bị hiện đạI, đáp ứng nhhu cầu phát triển trong lĩnh vực xây dựng dân dụng và

công nghiệp, có thể đảm đương việc thi công những công trình quy mô lớn, hện đạI

về công nghệ; năng lực đấu thầu các công trình xây dựng cả trong và ngoàI nước

được tăng cường.

Đáp ứng đủ nhu cầu xi măng, tấm lợp;cơ bản đáp ứng nhu cầu về thép xây

dưng thông thường.Một số vật liệu xây dựng chất lượng cao (gạch lát nền, gạch ốp

lát)sản xuất trong nước đạt tiêu chuẩn châu Âu và khu vực.

1.3. Cơ cấu dịch vụ đã phát triển đa dạng

Giá trị các ngành dịch vụ tăng 6,8%/năm.Thương mạI phát triển khá, bảo đảm

lưu chuyển, cung ứng vật tư, hàng hoá trong cả nước và trên từng vùng. Thương

mạI quốc doanh được sắp xếp lạI theo hướng nắm bán buôn, tham gia kinh doanh

bán lẻ đối với một số mặt hàng thiết yếu; mạng lưới trao đổi hàng hoá với nông

thôn, miền núi bước đầu được tổ chức lạI. Tổng mức hàng hoá bán lẻ tăng bình

quân 6,2%/năm (đã loạI trừ yếu tố biến động giá).

Du lịch phát triển đa dạng, phong phú, chất lượng dịch vụ được nâng lên.

Tổng doanh thu du lịch tăng 9,7%/năm.

Dịch vụ vận tải về cơ bản đáp ứng dược nhu cầu giao lưu hàng hoá và đi lại

của nhan dân. Khối lượng luân chuyển hàng hoá tăng 2%/năm và luân chuyển hành

khách tăng 5,5%/năm.

Dịch vụ bưu chính- viễn thông có bước phát triển và hiện đạI hoá nhanh. Giá

trị doanh thu bưu đIện tăng bình quân hàng năm 11,3%/năm.

Các dịch vụ tàI chính, kiểm toán, ngân hàng, bảo hiểm,... được mở rộng.Thị

trường dịch vụ bảo hiểm đã được hình thành với sự tham gia của các thành phần

kinh tế trong và ngoàI nước; dịch vụ tà chính, ngân hàng đã có những đổi mới quan

- 39 -

trọng, tăng bình quân hàng năm 7,0%.

Các loạI dịch vụ khác như tư vấn pháp luật, khoa học và công nghệ,...bắt đầu

phát triển.

2. Thực trạng cơ cấu ngành kinh tế năm 2001

Để có đIều chỉnh cho kế hoạch chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế phù hợp với

những điều kiện mới nảy sinh và những kết quả thực tế chúng ta đã đạt được ở năm

đầu của kế hoạch 5 năm 2001-2005 cần đánh giá thực trạng cơ cấu ngành đạt được

trong năm qua.

(1) Trong nông, lâm, ngư nghiệp, đã có những chuyển động mạnh hơn trong

chuyển dịch cơ cấu mùa vụ, cây trồng,vật nuôI theo hướng hiệu quả; phát triển

trồng cây nguyên liệu để phục vụ cho các cơ sở chế biến để thay thế hàng nhập

khẩu đã có bước khởi động, rõ nét là cây bông, cây thuốc lá...Dự kiến giá trị sản

xuất ngành nông, lâm, ngư nghiệp năm 2001 tăng 4,1% (kế koạch 4,3%), trong đó

nông nghiệp tăng 2,2%, thuỷ sản có bước phát triển khá, đã chiếm trên 16% giá trị

toàn ngành và tăng 15,5% so với năm 2000. Một lý do quan trọng nông nghiệp

không đạt kế hoạch là do giá các hàng hoá nông sản xuống thấp.

Đến nay đã có hơn 200 ngàn ha đất trồng lúa, năng suất thấp chuyển sang nuôI

tôm và một số cây trồng khác có hiệu quả hơn. Sản lượng lương thực có hạt năm

2001 ước khoảng 34 triệu tấn, giảm gần 1 triệu tấn so với năm 2000.

Các loạI cây công nghiệp có thị trường tiêu thụ như cao su, chè...được phát

triển theo hướng, tăng năng suất; đối với một số cây công nghiệp có thị trường tiêu

thụ khó khăn, giá xuống thấp như cà phê, hạt đIều, nhân đIều,...đã có sự chọn lọc,

cơ cấu lạI.

Chăn nuôI phát triển khá, đàn trâu bò, lợn, gia cầm đều tăng; sản lượng thịt

tăng 6%; sản lượng sữa tăng gần 25%.

Trồng mới trên 230 ngàn ha rừng, khoanh nuôI táI sinh 157 ngàn ha rừng, tỷ lệ

che phủ rừng cả nước ước đạt gần 34%.

NuôI trồng thuỷ sản có bước phát triển mạnh, sản lượng thuỷ sản cả nước ước

đạt khoảng 2,3 triệu tấn.

Chương trình phát triển về giống đã được chú trộng đầu tư, hệ thống các trung

- 40 -

tâm giống, các trạm, trạI giống cây trồng vật nuôI...được đầu tư nâng cấp.

Mặc dù nhiều vùng đã có sự chuyển dịch cơ cấu sản xuất, cây trồng và vật

nuôI theo hướng phát huy lợi thế và hiệu quả hơn, nhưng cũng chỉ là bước đầu.

Công tác quy hoạch phát triển các vùng chưa thật sự gắn kết với việc xây dựng

các cơ sở chế biến, giữa sản xuất và nhu cầu thị trường tiêu thụ sản phẩm, nên hiệu

quả không cao.

(2) Sản xuất công nghiệp tăng trưởng khá cao và đồng đều trong các khu vực

kinh tế và các trung tâm công nghiệp, đặc biệt là công nghiệp ngoàI quốc doanh

tăng rất cao. Giá trị sản xuất công nghiệp tăng khoảng 14,5%(kế koạch 13%).

Nhiều sản phẩm quan trọng có mức tăng khá cả về sản xuất và tiêu thụ như

khai thác khí, sản xuất đIện, than sạch, thép, xi măng, xe đạp,cơ khí, chế biến sữa,

chế biến thuỷ sản...

Tuy nhiên, sản xuất công nghiệp vẫn còn nhiều tồn tại, một số ngành sản xuất

còn khó khăn, chưa tập trung đầu tư đúng mức cho các sản phẩm có lợi thế cạnh

tranh; một số sản phẩm sản xuất trong nước giá thành còn cao, khả năng cạnh tranh

các sản phẩm thấp. Nhiều doanh nghiệp còn trông chờ vào sự hỗ trợ của nhà nước

như cấp vốn, hạ lãI suất vốn vay, bù lỗ, miễn, giảm thuế...tính năng động trong sản

xuất kinh doanh kém.

Một vấn đề bức súc nhất hiện nay là khả năng cạnh tranh của hàng hoá Việt

Nam không chỉ trên thị trường quốc tế, mà ngay cả trên sân nhà. Nhiều sản phẩm

của Việt Nam hiện nay tồn tạI được là nhờ sự bảo hộ của Nhà nước như đồ nhựa,

xe máy, xe đạp, đồ dùng gia đình, đồ hộp, gạch ốp lát, may mặc, chất tẩy rửa. Đó là

chưa kể các biện pháp bảo hộ phi thuế quan như hạn ngạch, giấy phép nhập

khẩu...Trong khi đó, thời hạn cam kết cắt giảm thuế quan theo CEPT/AFTA đã đến

gần kề.

Để tăng tính cạnh tranh, trong đó một nhân tố quan trọng là phảI giảm được

chi phí “đầu vào”. Muốn giảm chi phí "đầu vào" có những vấn đề phụ thuộc vào

khả năng của doanh nghiệp như đổi mới quản lý, cảI tiến kỹ thuật, áp dụng công

nghệ, đào tạo đội ngũ quản lý...nhưng còn nhiều vấn đề nằm ngoàI khả năng của

- 41 -

doanh nghiệp thuộc về cơ chế, chính sách, hiệu quả quản lý của Nhà nước.

Theo số liệu của Ban Vật giá Chính phủ, đIện dùng cho sản xuất công nghiệp

ở Việt Nam lên tới 6,30 Cent/kWh, trong khi đó tạI Trung Quốc chỉ là 4,50

Cent/kWh, Malaixa là 5,7 Cent/kWh và Inđônêxia là 4,50 Cent/kWh. Cước đIện

thoạI đI quốc tế bình quân của Việt Nam là 1,97 USD/phút, trong khi đó ở Trung

Quốc là 6,3 USD/phút, THáI Lan là 1,55 USD/phút, Singapore 0,88 USD/phút,

Malaixia 1,03 USD/phút, Inđônêxia là 1,38 USD/phút. Xi măng đóng bao của Việt

Nam là 51,5 USD/tấn, trong khi tai Singapore là 47,7 USD/tấn, Inđônêxia là 46,7

USD/tấn. Còn nhiều chi phí khác lớn hơn các nước như chi phí vận chuyển,

nước,bảo hiểm, lương tối thiểu...nhiều chi phí "đầu vào" đã không hợp lý, nhưng

vẫn đang có xu hướng tăng lên.

NgoàI chi phí "đầu vào" cao doanh nghiệp còn đối mặt với các loạI phí và lệ

phí. Hiện nay, bên cạnh những loạI phí và lệ phí chính thức thành văn bản, doanh

nghiệp còn dối mặt với các loạI phí và lệ phí không chính thức khác (?).Đối với các

doanh nghiệp xuất nhập khẩu, bên cạnh phí hảI quan hay chi phí cho các loạI thuế

đã quy định còn phảI đóng rất nhiều loạI “phí” dươí các hình thức khác nhau, mà

nếu không nộp đủ thì hàng hoá sẽ bị ách tắc, doanh nghiệp phảI chịu chi phí lưu

kho, mất cơ hội kinh doanh, làm tăng chi phí sản xuất và tăng giá thành sản phẩm.

Chi phí để doanh nghiệp Việt Nam tiếp cận thị trường quốc tế thường là rất

lớn. Nhà nước chưa có cơ chế quản lý, hỗ trợ đủ mạnh để cung cấp thông tin và các

phương tiện giao dịch công cộng. Một trong những đIểm yếu của doanh nghiệp Việt

Nam tạI thị trường thế giới là khả năng tiếp hỗ trợ xuất khẩu.

Thêm vào đó là các thủ tục hành chính quá rườm rà, mất nhiều thời gian, việc

cấp giấy phép kinh doanh, quyết định cho thuê đất, vấn đề giảI phóng mặt bằng

thường kéo dài, quy chế đấu thầu còn nhiều bất cập, tình trạng hình sự hoá các giao

dịch kinh tế còn nhiều phức tạp, phiền nhiễu...

Hàng hoá Việt Nam cạnh tranh kém còn do trình độ thiết bị công nghệ lạc

hậu. Ví dụ, trong ngành cơ khí, thiết bị cơ khí lạc hậu đến 4-5 thập kỷ so với mặt

bằng thế giới. Hiện nay toàn bộ hệ thống công nghệ của ngành cơ khí Việt Nam sử

dụng để sản xuất công cụ, hàng tiêu dùng, máy động lực...hầu hết đều ra đời từ

trước thập kỷ 80 và có tới 30 %có tuổi thọ hơn nửa thế kỷ. Trong nông nghiệp,

- 42 -

thiếu công nghệ bảo quản và chế biến. Đến nay, khoảng 70 % lượng hàng nông sản

xuất khẩu chủ yếu dưới dạng thô, làm cho giá trị gia tăng của hàng xuất khẩu thấp.

Và ngược lạI các mặt hàng gạo cao cấp, cà phê, hạt đIều đã qua chế biến của nước

ngoài vẫn chiếm lĩnh thị trường Việt Nam.

Tỷ lệ nội địa hoá của hàng Việt Nam thấp. Để sản xuất, các ngành hàng phụ

thuộc nhiều vào nguyên liệu nhập khẩu. Ví dụ để sản xuất giấy, các công ty phảI

nhập khẩu bột giấy, loạI nguyên liệu này chiếm tới 70%giá thành sản phẩm. Đối với

ngành dệt may 90% nguyên liệu là nhập khẩu và theo đó nguyên liệu này chiếm tới

60% giá thành sản phẩm. Tỷ lệ nội địa hoá ở các ngành xe máy, ô tô còn rất thấp.

Đó là kết quả của việc tổ chức cơ cấu ngành, cơ cấu lãnh thổ chưa được làm

tốt. Cụ thể là ở lĩnh vực công nghiệp nhẹ còn chưa đa dạng về ngành hàng và tập

trung khá nhiều vào một số lĩnh vực dẫn đến sự trùng lắp. Trong hơn 740 dự án còn

hiệu lực có đến 300 dự án đầu tư vào ngành sợi, dệt, may, trên 60 dự án về sản xuất

giầy dép và nguyên phụ liệu, 60 dự án về bao bì các loạI và hơn 30 dự án về sản

xuất kinh doanh túi xách...ứơc tính chỉ 3 nhóm ngành hàng trên đã chiếm hơn 3/4

tổng số vốn đầu tư nước ngoài vào ngành công nghiệp nhẹ. Do đó đã dẫn đến cạnh

tranh gay gắt về đầu ra còn đầu vào thì phần lớn phảI nhập khẩu.

(3) Các hoạt động dịch vụ, du lịch, vận tải, bưu chính viễn thông và các loạI

hình dịch vụ khác như tài chính ngân hàng, chuyển giao công nghệ...đều có bước

phát triển. Đặc biệt ngành du lịch có bước phát triển mới, tiềm năng du lịch ở nhiều

địa phương đã được khai thác có hiệu quả. Lượng hàng hoá trong lưu thông ở hầu

hết các địa phương tăng khá, kể cả các tỉnh miền núi; giá cả thị trường ổn định.

Tổng mức bán lẻ và doanh thu dịch vụ hàng hoá xã hội tăng 8,7%; khối lượng

hàng hoá luân chuyển tăng 9,6%, khối lượng hành khách luân chuyển tăng 6,7%.

Tổng doanh thu bưu chính viễn thông tăng khoảng 14%; mật độ đIện thoạI đạt 5,3

máy trên 100 dân; khách du lịch quốc tế đến Việt Nam tăng 7,5%. Công suất sử

dụng phòng, buồng ở các khách sạn đạt trên 60%.

Tuy nhiên, chất lượng dịch vụ chưa được cảI thiện rõ rệt; dịch vụ vận chuyển

chất lượng cao còn nhiều bất cập, tình trạng chậm giờ, bỏ chuyến trong vận chuyển

hàng không chưa được khắc phục; tai nạn giao thông tiếp tục gia tăng, vận chuyển

- 43 -

hành khách bằng phương tiện giao thông công cộng tạI các thành phố lớn tăng

chậm; dịch vụ ngân hàng, dịch vụ cá nhân và cộng đồng, dịch vụ khoa học và công

nghệ, tư vấn; kinh doanh bất động sản...chậm phát triển.

Một tình trạng bức súc nhất là ngân hàng có tiền nhưng không cho vay được

còn người kinh doanh muốn vay tiền nhưng không vay được.

Đánh giá tổng quát:

Năm 2001 nền kinh tế nước ta tiếp tục phát triển khá và ổn định; cơ cấu kinh

tế công nghiệp, nông nghiệp có bước chuyển dịch tích cực, thuỷ sản phát triển khá,

sản xuất công nghiệp và các hoạt động dịch vụ tăng khá cao.

Chất lượng tăng trưởng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp.

Cơ cấu sản xuất chuyển dịch chưa kịp với yêu cầu của thị trường nhất là việc khắc

phục kém về chất lượng và giá cả cao; chuyển dịch cơ cấu sản xuất trong nông

nghiệp còn mang tính tự phát, chưa thật sự chủ động, còn nhiều bấp bênh, rủi ro;

việc quy hoạch, xác định từng sản phẩm để đầu tư, kể cả đầu tư chiều sâu nhẳm

thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu sản xuất trong công nghiệp tiến hành còn chậm; chi phí

sản xuất cao và có xu hướng tăng lên; thiếu thông tin thị trường; đóng góp của khoa

học công nghệ và tăng năng suất, chất lượng, giá trị sản phẩm còn ít.

3. Những thuận lợi và khó khăn cho những năm tiếp theo

1. Những thuận lợi

Những thành tựu về kinh tế, xã hội đạt được trong những năm đổi mới đã tạo

nhiều thuận lợi cơ bản cho các năm tiếp theo; nguồn lực vật chất, trí tuệ và tinh thần

của đất nước, nhân dân ta còn nhiều tiềm năng; năng lực sản xuất và trình độ sản

xuất của nhiều ngành kinh tế tăng lên đáng kể; nền kinh tế nước ta đang chuyển

dịch cơ cấu sản xuất, bước đầu thích nghi hơn với những biến động của thị trường

trong nước và quốc tế.

Việc triển khai các chương trình hành động thực hiện nghị quyết ĐạI hội IX,

cũng như việc sửa đổi, bổ sung một số đIều của Hiến pháp năm 1992 mở ra bước

tiến mới trong cảI cách hành chính, nâng cao hiệu lưc quản lý của Nhà nước, cảI

thiện mạnh mẽ quan hệ giữa các cơ quan nhà nước, doanh nghiệp và người dân sẽ là

- 44 -

nhân tố quan trọng đẩy nhanh tiến trình đổi mới kinh tế, xã hội; tạo ra những động

lực mới để huy động mọi nguồn lực đầu tư phát triển, chuyển đổi cơ cấu kinh tế,

tăng khả năng cạnh tranh của nền kinh tế.

Tiến độ sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả khu vực doanh

nghiệp nhà nước theo nghị quyết Trung ương 3 (khoá IX) sẽ được đẩy mạnh thực

hiện, cùng với việc tiếp tục thực hiện tốt Luật Doanh nghiệp, khuyến khích phát

triển mạnh các doanh nghiệp trong các thành phần kinh tế sẽ phát huy nội lực nhiều

hơn cho phát triển kinh tế-xã hội.

Trong bối cảnh tình hình thế giới đang có nhiều diễn biến phức tạp, sự ổn định

chính trị-xã hội của nước ta và sự cảI thiện đáng kể môI trường đầu tư, kinh doanh

trong những năm qua là một lợi thế lớn, cần tận dụng, sẽ tạo điều kiện thuận lợi hơn

cho hợp tác kinh tế, thương mại với nước ngoàI, đẩy nhanh thu hút đầu tư và du lịch

quốc tế.

Mặt khác, việc thực hiện theo một tiến trình chủ động và hợp lý các cam kết

đối với các cơ chế hợp tác song phương và đa phương mà nước ta đã tham gia,

trước hết là các cam kết trong khuôn khổ ASEAN, APEC, ASEM,...sẽ tạo ra những

khả năng mới để mở rộng và đa dạng hoá mạnh mẽ các mối quan hệ kinh tế quốc tế

và khu vực. Hiệp định thương mại Việt- Mỹ được thông qua sẽ cho phép tăng dung

lượng của hàng hoá nước ta trên thị trường Mỹ, nhất là hàng nông, thuỷ sản, dệt

may, da giày...

ở trong nước, cơ cấu sản xuất trong từng ngành, từng lĩnh vực chưa chuyển

2. Những khó khăn

dịch kịp thời theo sự biến động nhanh của nhu cầu thị trường trong và ngoàI nước.

Hiệu quả sản xuất kinh doanh, năng lực cạnh tranh của toàn nền kinh tế cũng như

của từng ngành, từng sản phẩm chưa được cảI thiện đáng kể, chuyển dịch cơ cấu lao

động chậm. Khả năng hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực của các doanh nghiệp

Việt Nam còn thấp khá xa so với nhu cầu.

Bên cạnh đó, kinh tế thế giới còn diễn biến không thuận lợi và phức tạp;

những khó khăn lớn có thể vẫn kéo dàI và ảnh hưởng không nhỏ đến kế hoạch phát

- 45 -

triển kinh tế-xã hội nước ta:

Các nền kinh tế lớn trên thế giới và trong khu vực đều giảm mạnh tốc độ phát

triển. Sau sự kiện 11-9-2001 ở Mỹ, sẽ càng khó khăn hơn, khả năng hồi phục sẽ bị

chậm lạI, ảnh hưởng đến khả năng tăng trưởng kinh tế nước ta, nhất là trên các lĩnh

vực xuất khẩu, thu hút vốn bên ngoàI và du lịch quốc tế.

Việc thực hiện các cam kết quốc tế trong tiến trình hội nhập kinh tế, bên cạnh

việc mang lạI nhiều thuận lợi quan trọng, cũng sẽ đặt các doanh nghiệp nước ta

trước sự cạnh tranh gay gắt của các doanh nghiệp nước ngoài ngay trên thị trường

nội địa.

Dự báo thị trường thế giới về nông sản và hàng công nghiệp tiêu dùng chủ yếu

cho thấy sẽ không có những thay đổi cơ bản trong hai năm tới, giá cả trên thị trường

thế giới chưa tăng lên đáng kể. Do đó, các mặt hàng xuất khẩu chủ lực cả nước ta

như gạo, cà phê, cao su, chè, dệt may, giày dép...sẽ tiếp tục phảI đối mặt với tình

trạng giá xuất khẩu thấp; thu nhập của nền kinh tế nước ta nói chung và nông dân

nói riêng sẽ tăng chậm.

NgoàI ra, việc Trung quốc một đất nước có 1,2 tỷ dân (dân số lớn nhất thế

giới), một đất nước đang trên đà phát triển cao,ổn định nhất thế giới và biên giới

giáp với chúng ta vừa ra nhập tổ chức thương mại thế giới WTO cũng tạo cho

chúng ta những cơ hội và thách thức rất lớn. Một thị trường được đánh giá là

“thượng vàng hạ cám” đòi hỏi chúng ta phảI nghiên cứu đưa ra được cơ cấu ngành,

cơ cấu sản phẩm phát huy những đIểm mạnh và hạn chế những đIểm yếu của để nền

kinh tế có thể hoạt động hiệu quả

4. Nguồn lực chủ yếu cho qúa trình chuyển dịch cơ cấu ngành trong

thời kỳ 2001-2005

1. Vốn đầu tư cho phát triển

Theo tính toán ban đầu khả, năng huy động nguồn vốn cho đầu tư phát triển

trong 5 năm tới vào khoảng 830-850 nghìn tỷ đồng (theo giá năm 2000), tương

đương 59-61 tỷUSD tăng khoảng 11-12%/năm, trong đó nguồn vốn trong nước

chiếm khoảng 2/3. Tỷ lệ đầu tư so với GDP chiếm khoảng 31-32% bảo đảm tốc độ

tăng trưởng kinh tế 7,5%/năm và có công trình gối đầu cho kế hoạch 5 năm tiếp

- 46 -

theo.

Trong tổng vốn đầu tư xã hội, đầu tư phát triển từ ngân sách nhà nước chiếm

20-21%; đầu tư bằng tín dụng nhà nước chiếm 17-18%; khu vực doanh nghiệp nhà

nước đầu tư chiếm 19-20%; khu vực dân cư, doanh nghiệp tư nhân đầu tư trực tiếp

24-25%; đầu tư trực tiếp nước ngoài theo dự báo và tính toán ban đầu dự kiến đưa

và thực hiện chiếm 16-17%.

Toàn bộ nguồn vốn bên ngoài có thể thu hút cho đầu tư phát triển là 18-20 tỷ

USD trong đó:

Khả năng thu hút nguồn ODA trong 5 năm tới ODA khoảng 10-11 ty USD,

FDI khoảng 9-10 tỷ USD.Ngoài ra còn khả năng thu hút các nguồn khác khoảng 1-2

tỷ USD.

2. Thực trạng lao động

Tại thời điểm 1-7-2001, dân số nước ta là 78,7 triệu người,tăng 1 triệu so với

năm 2000, trong đó dân số khu vực thành thị là 19,2 triệu người (24,4%); dân số

khu vực nông thôn là 59,5 triệu người (75,6%). Hộ thuần nông ở khu vực nông thôn

vẫn cao (68,26%).

Về độ tuổi lao động, tính chung trong toàn quốc,số người dưới tuổi lao động là

30,35%, trong độ tuổi lao động là 59,25% và trên độ tuổi lao động là 10,40 %, các

nhóm tuổi có tỷ lệ tham gia hoạt động kinh tế cao nhất là từ 35-39 tuổi, tiếp đến là

nhóm 25-29 tuổi; 40-44và 45-49...Cơ cấu lao động năm 2001 so với năm 2000 vẫn

chuyển dịch theo hướng tích cực, tỷ lệ lao động trong nhóm ngành nông, lâm, ngư

nghiệp tiếp tục giảm; công nghiệp, xây dựng, dịch vụ tăng nhanh. Trình độ học vấn

của lao động tương đối cao: 78% tốt nghiệp tiểu học trở lên; 36,5% lao động thường

xuyên ở thành thị đã tốt nghiệp từ phổ thông trung học trở lên. Tuy nhiên, trình độ

chuyên môn kỹ thuật của lao động còn rất thấp, 83% không có chuyên môn kỹ

thuật. Cơ cấu trình độ của lao động rất bất hợp lý. Tỷ lệ lao động có trình độ đại

học, trung học chuyên nghiệp và công nhân kỹ thuật hiện nay ở Việt Nam là 1-1,6-

3,6 so với mức bình quân của thế giới là 1-4-20.

Tỷ lệ thất nghiệp giảm chậm 6,4% năm 2000 xuống còn 6,28% năm 2001. Tỷ

lệ sử dụng thời gian lao động còn thấp. Số tỉnh có tỷ lệ sử dụng thời gian lao động

- 47 -

dưói 75% vẫn còn tới 67,21% trong tổng 61 tỉnh thành phố.

Chương III

Kế hoạch chuyển dịch cơ cấu ngành

thời kỳ 2001-2005

I. Quan điểm:

Quan điểm 1: Coi chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế vừa là vấn đề cần thiết

phảI định hướng vừa là động lực, là điều kiện để thực hiện các chiến lược về phát

triển kinh tế

Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nói chung và chuyển dịch cơ cấu ngành nói riêng

sẽ làm thay đổi tốc độ tăng trưởng, nếu chuyển dịch cơ cấu theo hướng phù hợp với

những điều kiện về nguồn lực của đất nước như vị trí địa lý, điều kiện tàI nguyên,

đặc biệt trong thời đạI ngày nay là nguồn lực lao động và vốn đầu tư cùng với đó

biết tận dụng tốt các yếu tố bên ngoàI như xu thế hoà bình hợp tác, cách mạng khoa

học công nghệ và đặc biệt là xu thế toàn cầu hoá đang dần trở thành xu thế chủ đạo

sẽ thúc đẩy kinh tế tăng trưởng nhanh, hiệu quả cao và bền vững.

Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế phù hợp sẽ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế

nhanh, hiệu quả cao và bền vững. Từ đó chúng ta đưa đất nước ra khỏi tình trạng

kếm phát triển, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, văn hoá của nhân dân;tạo nền

tảng để đến đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng

hiện đạI. Từ đó chúng ta có nguồn lực để công nghiệp hoá hiện đạI hoá, chuyển

dịch cơ cấu lao động v.v...và quay trở lạI cơ cấu nền kinh tế một cách phù hợp với

những điều kiện mới của đất nước.

Quan điểm 2: Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế phảI phù hợp với xu thế phát

triển.

* Phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững, tăng trưởng kinh tế đI đôI với thực

- 48 -

hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môI trường.

Phát huy mọi nguồn lực để phát triển nhanh và có hiệu quả những sản phẩm,

ngành, lĩnh vực mà nước ta có lợi thế, đáp ứng nhu cầu trong nước và đẩy mạnh

xuất khẩu, không ngừng nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường trong nước và nước

ngoài. Tăng nhanh năng suất lao động xã hội và nâng cao chất lượng tăng trưởng.

Triệt để tiết kiệm, chống lãng phí, tăng tích luỹ cho đầu tư phát triển.

Tăng nhanh năng lực nội sinh về khoa học và công nghệ, nâng cao chất lượng

và hiệu quả giáo dục và đào tạo đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đạI hoá.

Đẩy mạnh việc ứng dụng có hiệu quả các công nghệ nhập khẩu. đI nhanh vào công

nghệ hiện đại ở những ngành những lĩnh vực then chốt để tạo bước nhảy vọt về

công nghệ và kinh tế, tạo tốc độ tăng trưởng vượt trội ở những sản phẩm và dịch vụ

chủ lực. Công nghiệp hoá gắn với hiện đại hóa ngay từ đầu và trong suốt giai đoạn

phát triển. Nâng cao hàm lượng tri thức trong các nhanh tố phát triển kinh tế, từng

bước phát triển kinh tế tri thức ở nước ta.

Phát triển kinh tế gắn chặt với bảo vệ và cảI thiện môI trường thiên nhiên,giữ

gìn đa dạng sinh học. Chủ động phòng tránh và hạn chế tác đọng xấu của thiên tai.

Coi yêu cầu về môI trường là một tieu chí quan trọng đánh giá các giảI pháp phát

triển.

* Đẩy mạnh công cuộc đổi mới, tạo động lực, giảI phóng và phát huy mọi

nguồn lực

Tiếp tục đổi mới sâu rộng, đồng bộ về kinh tế, xã hội và bộ máy nhà nước

hướng vào hình thành và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội

chủ nghĩa nhằm giảI phóng và phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất, phát huy sức

mạnh vật chất, trí tuệ và tinh thần của dân tộc, tạo động lực và nguồn lực phát triển

nhanh, bền vững.

Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là sự nghiệp của toàn dân, của mọi thành phần

kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước là chủ đạo. Tập trung tháo gỡ mọi vướng mắc,

xoá bỏ mọi trở lực để khơI đậy nguồn lực to lớn trong dân, cổ vũ các nhà kinh

doanh và mọi người dân ra sức làm giàu cho mình và cho đất nước. Tiếp tục cảI

thiện môI trường đầu tư để thu hút tốt hơn và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực

bên ngoàI. Nội lực là quyết định, ngoạI lực là quan trọng, gắn kết với nhau thành

- 49 -

nguồn lực tổng hựp để phát triển đất nước.

* Phát triển mạnh những ngành đang có lợi thế về lao động và tàI nguyên

cùng với qúa trình phát triển những ngành công nghệ cao.

Phát triển mạnh những ngành công nghiệp đang có lợi thế về lao động và tàI

nguyên, tạo ra được nhiều việc làm cho người lao động tăng thu ngoạI tệ, góp phần

cảI thiện cán cân thương mại. Đó là nhóm ngành nông sản, thuỷ sản như gạo, cà

phê, cao su tự nhiên, thuỷ sản...và những ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao

động như may mặc, da giầy. Lợi thế của những sản phẩm này đang bị thu hẹp. Do

đó càn chú ý nâng cao khả năng cạnh tranh bằng việc đầu tư và công nghệ cao cho

toàn bộ qúa trình từ sản xuất đến chế biến, bảo quản, vận chuyển và tiêu thụ.

Phát triển những ngành công nghiệp quan trọng, có sức cạnh tranh trong thời

gian tiếp theo như:đIện-đIện tử, cơ khí, công nghệ thông tin. Trong đó công nghệ

thông tin phảI trở thành ngành mũi nhọn trong tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại

hoá của đất nước.

* Coi trọng thị trường trong nước và nước ngoài

Từ kinh nghiệm của nước ta, các nước trong khu vực và trên thế giới cho thấy

chúng ta phảI coi trọng quan điểm này, đặc biệt với nước ta với dân số tương đối

lớn nhưng tiềm lực kinh tế hạn chế, khả năng cạnh tranh của hàng hoá còn thua kém

nhiều nước, nhiều mặt hàng còn đang thua ngay trên “sân nhà” thì cần áp dụng mô

hình hỗn hợp một cách hợp lý, hiệu quả tránh cực đoan hướng nền kinh tế theo một

hướng thuần tuý, phảI vừa phát huy lợi thế so sánh trong việc phát triển các ngành

xuất khẩu, đồng thời phát triển thị trường trong nước. Tức là chúng ta phảI chuyển

dịch cơ cấu hợp lý theo yêu cầu của tiến trình hội nhập và các thời kỳ khác nhau

trong chu kỳ sản phẩm.

Quan điểm 3: Xây dựng cơ cấu phù hợp với xu thế của thế giới

* Hướng hội nhập:

Hiện nay xu thế quốc tế hoá đang tác động đến tất cả các nkt trên thế giới và

đang chuyển sang một hình thức phát triển cao hơn đó là xu thế toàn cầu hoá cùng

đó là xu thế hoà bình hợp tác, sự phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ. Đó

là những xu thế khách quan mỗi quốc gia cần phải biết nắm bắt những cơ hội và đẩy

- 50 -

lùi những thách thức khó khăn. Những thuận lợi chúng ta được tiếp nhận đặc biệt

phải kể đến sự chuyển giao công nghệ tiên tiến và vốn từ nước ngoài, tạo điều kiện

chuyển dịch cơ cấu cơ cấu, rút ngắn nhanh khoảng cách với các nước phát triển.

+Trước hết về công nghệ máy móc và công nghệ quản lý: Chúng ta cần lựa

chọn hợp lý những công nghệ, máy móc phù hợp với trình độ khai thác sử dụng và

khả năng về vốn trong điều kiện hiện tại và tương lai, tránh tình trạng nhập những

công nghệ quá lạc hậu hoặc quá cao, giá cả không phù hợp.

+Về vốn: Tạo môi trường đầu tư thông thoáng, đơn giản các thủ tục, phát

triển, lành mạnh hoá các thị trường lôi kéo các nhà đầu tư làm ăn lâu dài tại Việt

Nam.

*Hướng công nghệ hoá,hiện đại hoá

Con đường công nghệ hóa, hiện đại hóa của nước ta cần và có thể rút ngắn

thời gian, vừa có những bước tuần tự, vừa có bước nhảy vọt. Phát huy những lợi thế

của đất nước, tận dụng mọi khả năng để đạt được trình độ công nghệ tiên tiến, đặc

biệt là công nghệ thông tin và công nghệ sinh học; đẩy mạnh thuỷ lợi hoá, cơ giới

hoá, điện khí hoá tranh thủ ngày càng nhiều hơn những thành tựu về khoa học công

nghệ, từng bước phát triển kinh tế tri thức. Phát huy nguồn lực trí tuệ và sức mạnh

tinh thần của người Việt Nam.

Công nghiệp hoá, hiện đại hoá phải đảm bảo xây dựng nền kinh tế độc lập, tự

chủ về đường lối, chính sách; có kết cấu hạ tầng hiện đại và có một số ngành công

nghiệp nặng then chốt có năng lực nội sinh về khoa học công nghệ.

* Tăng tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ giảm tỷ trọng nông nghiệp

Cơ cấu kinh tế nước ta còn lạc hậu tỷ trọng nông nghiệp còn cao trong khi đó

sản xuất nông nghiệp có năng suất ngày càng tăng và sản phẩm nông nghiệp có nhu

cầu ngày càng giảm do đời sống ngày càng cao. Vì vậy, chúng ta cần giảm tỷ trọng

của ngành này. Nhu cầu về các hàng hoá công nghiệp và dịch vụ ngày càng tăng.

Do đó chúng ta cần tăng tỷ trọng những ngành này.

-Tỷ trọng của nông nghiệp sẽ giảm dần qua các năm đến năm 2005 chỉ còn 20-

21% trong cơ cấu GDP.

Trong đó giảm tỷ trọng trồng trọt, tăng tỷ trọng chăn nuôi; giảm tỷ trọng lâm

- 51 -

nghiệp; tăng tỷ trọng thuỷ sản; giảm tỷ trọng của trồng trọt và lâm nghiệp tương đối

so với các ngành khác nhưng vẫn tăng về tuyệt đối. Tăng tỷ trọng ngành có giá trị

xuất khẩu cao.

-Chuyển đổi cơ cấu công nghiệp đi từ các ngành công nghiệp dựa trên lợi thế

so sánh về lao động tài nguyên sang các ngành công nghiệp chế biến sâu hơn. Phát

triển các ngành công nghiệp đi sau liên kết chặt chẽ và bền vững với các ngành đi

trước. Nâng dần trình độ công nghệ, tranh thủ đi nhanh đi thẳng vào công nghệ hiện

đại, công nghệ cao. Phát huy lợi thế về nguồn nhân lực có trình độ cao.

-Phát triển các loại hình dịch vụ: thương mại, tài chính ngân hàng, du lịch,

dịch vụ hàng hải... đáp ứng yêu cầu sản xuất và đời sống phù hợp với xu hướng của

kinh tế thị trường hiện đại, góp phần chuyển dịch nhanh cơ cấu kinh tế cơ cấu lao

động.

Quan điểm 4: Đảm bảo tính hiệu quả kinh tế-xã hội cao trong phương án

chuyển dịch cơ cấu ngành

Đây là một trong những mục tiêu quan trọng nhất của phương án chuyển dịch

cơ cấu. Bao gồm mục tiêu sau:

-Chuyển dịch cơ cấu ngành phải tạo ra được giá trị gia tăng cao.

-Chuyển dịch cơ cấu phải sử dụng hiệu quả tối đa các nguồn lực.

+Đem lại tỷ lệ lọi nhuận cao nhất.

+Sử dụng hiệu quả nguồn nhân lực: tăng tổng năng suất lao động toàn xã hội,

giảm thấp nhất tỷ lệ thất nghiệp, tăng cao nhất thời gian sử dụng lao động.

+Sử dụng triệt để năng suất máy móc;khai thác tối đa tính năng, tác dụng của

máy móc.

Quan điểm 5: Chuyển dịch cơ cấu ngành phải đồng bộ

-Chuyển dịch cơ cấu phải được nhận thức ở mọi ngành,mọi cấp,mọi người dân.

-Chuyển dịch cơ cấu ngành phải đồng bộ với cơ cấu vùng cơ cấu thành phần

kinh tế.

-Chuỷên dịch cơ cấu ngành phải phù hợp với chuyển dịch cơ cấu nguồn nhân

- 52 -

lực, chuyển dịch cơ cấu nguồn vốn, với trình dộ công nghệ.

-Chuyển dịch cơ cấu của mỗi ngành phải tính đến sự chuyển dịch cơ cấu của

các ngành khác. Phải tận dụng được hiệu quả, sản phẩm của các ngành khác.

II. Định hướng chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế

1. Định dạng cơ cấu và lựa chọn một số ngành trọng điểm, mũi nhọn

Tiêu chuẩn và tiêu thức định dạng cơ cấu

Với tư cách là nội dung cốt lõi của đường lối công nghiệp hoá, việc định dạng

cơ cấu ngành trong những năm trước mắt có trọng tâm là xác định một tương quan

cơ cấu hợp lý. Về thực chất, tương quan đó không có gì khác hơn là ưu tiên đối với

một số ngành nhất định, là xác định những ngành trọng đIểm và mũi nhọn. Trước

khi định dạng cơ cấu tổng quát cần lựa chọn các ngành ưu tiên, cần làm rõ tiêu

chuẩn cơ bản và những tiêu thức chính để thực hiện sự lựa chọn đó ở nước ta trong

những năm trước mắt.

Tiêu chuẩn cơ bản

Về nguyên tắc, trong điều kiện nền kinh tế thị trường, hiệu quả luôn luôn là

tiêu chuẩn cơ bản nhất để lựa chọn ngành trọng điểm, mũi nhọn. Việc xa rời nguyên

tắc này đồng nghĩa với việc phủ nhận rên thực tế vai trò điều tiết của cơ chế thị

trường, đặc biệt là vai trò việc phân bố các nguồn lực. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra

là:cần hiểu khái niệm hiệu quả như thế nào cho thích hợp ? tương quan giữa hiệu

quả kinh tế thuần tuý và hiệu quả kinh tế-xã hội trong đó là như thế nào ? Có ba

điểm cần đáng lưu tâm ở đây.

Thứ nhất, chúng ta đang xét đến các vấn đề chiến lược. Vì thế, hiệu quả xét

trên quan điểm dài hạn cần được coi là tiêu chuẩn chủ đạo. Điều đó không có nghĩa

là sao nhãng những lợi ngắn hạn song khi theo đuổi mục tiêu tăng trưởng cao, lâu

bền như là mục tiêu hàng đầu thì việc ưu tiên bất cứ ngành nào trong giai đoạn đầu

trước hết cũng phải nhằm đích tạo dựng cơ sở tăng trưởng bền vững cho toàn bộ

nền kinh tế ở giai đoạn sau, hướng tới việc nâng cao năng lực cạnh tranh quốc tế và

trình độ công nghệ-kỹ thuật của đất nước.

Thứ hai, để bảo đảm sự phát triển bền vững theo một mô thức tăng trưởng và

phát triển kinh tế xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa, rõ ràng không chỉ quan

- 53 -

tâm đến hiệu quả kinh tế thuần tuý. Các tiêu chuẩn đánh giá hiệu quả kinh tế-xã hội

như mức độ công ăn việc làm, phân phối lợi ích do tăng trưởng đem lạI cho các

tầng lớp dân cư khác nhau đặc biệt là cho nông dân v.v...cần được tính đến như là

những tiêu thức chủ yếu. Kinh nghiệm phát triển của các nền kinh tế châu á cho

thấy hai yếu tố này về cơ bản có tác động cùng chiều, thúc đẩy lẫn nhau. ở một cấp

độ cao hơn, còn có thể nói rằng hiệu quả kinh tế, lợi ích tăng trưởng chỉ có thể đạt

mức tối đa khi nó gắn liền với sự bảo đảm một hiệu quả kinh tế -xã hội đủ cao.

Thứ ba, những ngành được lựa chọn để ưu tiên phát triển cần phải là loại

ngành có hệ số tác động cao đến sự phát triển của tương đối nhiều ngành hơn. Nói

khác đi, một mức tăng trưởng cao của ngành ưu tiên sẽ phảI kéo theo sự tăng trưởng

của nhiều ngành liên quan không nằm trong sự ưu tiên. Phạm vi các ngành chịu sự

tác động “lôI kéo tăng trưởng” và mức độ tác động đến tốc độ tăng trưởng của một

số ngành “bị lôi kéo” này từ sự phát triển của một ngành nào đó tạo nên hiệu quả

phát triển toàn bộ cả nó. Đây được coi là tiêu chuẩn chung bắt buộc để lựa chọn

ngành trọng đIểm, mũi nhọn.

Các tiêu thức chính lựa chọn ngành trọng điểm

Về đạI thể, các tiêu thức này có liên quan đến yêu cầu tận dụng các nguồn lực,

hiệu quả sử dụng vốn, bước chuyển bắt buộc do chu kỳ sản phẩm quy định và đến

định hướng tăng trưởng xuất khẩu.

*Do chỗ đIểm xuất phát kinh tế của nước ta là thấp, yêu cầu tối cao đặt ra cho

việc lựa chọn cơ cấu là tận dụng tối đa lợi thế về các nguồn sẵn có với chi phí thấp

nhất về vốn. Thoả mãn yêu cầu này bao gồm trong đó khả năng du trì chỉ số ICOR

trung bình thấp của nền kinh tế. Sự lựa chọn cụ thể sẽ căn cứ vào:

-Lợi thế về tài nguyên thiên nhiên xét. Xét theo chỉ số trữ lượng tài nguyên

tính trên đầu người. Nói chung, nước ta không phải là một nước giaù, kể cả khi so

sánh với nhiều nước trong khu vực. Song, trong bối cảnh nước ta hiện nay vẫn có

thể chỉ ra một số nguồn được coi là lợi thế phát triển. Những nguồn đó là: dầu khí,

cơ sở nông nghiệp nhiệt đớivới tiềm năng đa canh và trồng lúa nước, quạng apatit,

quặng sắt và nhôm, nguồn nguyên liệu sản xuất vật liệu xây dựng.

-Lợi thế về nguồn nhân lực (lao động). Thực ra, đối với nước ta hiện nay, vấn

đề lao động có hai mặt, nguồn lao động rất dồi dào và rẻ là lợi thế lớn nhưng đây

- 54 -

chỉ là lợi thế tiềm năng.Trên thực tế, nước ta đang đối mặt với khía cạnh thứ hai của

vấn đề lao động:thiếu công ăn việc làm, trình độ tay nghề của người lao động thấp,

tạo ra một áp lực phát triển rất nặng nề. Việc tạo ra nhiều chỗ việc làm để tận dụng

lao động đang là một yêu cầu cấp bách hàng đầu cho bất cứ sự lựa chọn cơ cấu nào.

Lôgic tự nhiên dẫn tới sự kết luận rằng sử dụng nhiều lao động là tiêu thức chủ

yếu nhất để lựa chọn ngành trọng điểm.

-Tổ hợp hai tiêu thức trên, chúng ta có tiêu thức thứ ba:chỉ số ICOR thấp để

xác dịnh ngành trọng điểm. Khái niệm tổ hợp ở đây hàm một nghĩa rất rõ ràng chỉ

số ICOR thấp là tiêu thức tinh lọc số ngành được chọn là ngành trọng điểm theo trật

tự ưu tiên của các ngành được lựa chọn theo hai tiêu thức trên.

*Đối với yêu cầu mang tính kỹ thuật của việc lựa chọn ngành trọng điểm

(bước chuyển bắt buộc do chu kỳ sản phẩm quy định, của định hướng tăng trưởng

xuất khẩu), cần phân tích một số tính quy định trên một góc độ khác:mối tương

quan giữa tính tất yếu kỹ thuật của qúa trình chuyển dịch cơ cấu với những đòi hỏi

thị trường (thị trường quốc tế và trong nước).

Nguyên tắc tổng quát rút ra từ đó là việc xác định các ngành trọng điểm, xếp

hạng trật tự ưu tiên của chúng là mức độ thoả mãn bốn tiêu chuẩn đó. Ngành nào

thoả mãn càng đầy đủ bốn tiêu chuẩn thì xếp hạng ưu tiên càng cao và ngược lại.

Các tiêu thức chính để xác định ngành mũi nhọn

Trước tiên, cần nói rằng về cơ bản, ngành mũi nhọn phải là ngành đáp ứng các

tiêu thức đặt ra cho ngành trọng điểm. Tuy nhiên, mức độ đáp ứng tổ hợp tiêu thức

trên có thể được xem xét trong một tương quan “lỏng”hơn: có những tiêu thức đặt ra

nghiêm ngặt hơn (định hướng xuất khẩu, chỉ số ICOR thấp), có những tiêu thức

không đòi hỏi nghiêm ngặt lắm (định hướng sử dụng tài nguyên). Sự thay đổi trong

tiêu thức lựa chọn này được quy định bởi ngành trọng điểm còn phải đáp ứng một số

yêu cầu khác mang tính đặc trưng:tạo sức thúc đẩy cho qúa trình đổi mới công nghệ-

kỹ thuật trong nền kinh tế.

Trật tự các tiêu thức chính để xác định ngành mũi nhọn:

-Định hướng công nghệ-kỹ thuật tiên tiến;

-Định hướng xuất khẩu;

- 55 -

-Định hướng sử dụng các lợi thế về nguồn lực trước tiên là nguồn lao động;

-Chỉ số ICOR thấp.

Thực ra, bốn tiêu thức trên có mối quan hệ ràng buộc chặt chẽ với nhau (chế

định lẫn nhau). Tất cả chúng đều hướng tới những mục tiêu dài hạn của nền kinh tế:

tăng trưởng nhanh với hiệu quả sử dụng nguồn vốn cao, tăng nguồn thu nhập ngoại

tệ (được coi là nguồn lực khan hiếm nhất hiện nay), tạo nhiều việc làm theo định

hướng tăng trưởng đã lựa chọn.

Tuy nhiên ngành ngành mũi nhọn, trong sự phân biệt với ngành trọng điểm,

còn nhằm một mục tiêu thậm chí còn dài hạn hơn:định hướng công nghệ-kỹ thuật

cho toàn bộ nền kinh tế. Đây được coi là tiêu thức chủ yếu nhất để xác định tư cách

ngành mũi nhọn trong giai đoạn tới ở nước ta.

2. Định hướng chuyển dịch cơ cấu các ngành

Dạng cơ cấu ngành trong thời kỳ này là công nghiệp -nông nghiệp -dịch vụ

các chỉ tiêu định hướng phát triển kinh tế chủ yếu:

Đưa GDP năm 2005 gấp 2 lần so với năm 1995. Nhịp độ tăng trưởng bình

quân hằng năm thời kỳ 5 năm 2001-2005 là 7,5%, trong đó nông, lâm, ngư nghiệp

tăng 4,0-4,5% công nghiệp và xây dựng tăng 10,8%, dịch vụ tăng 6,2%

-Giá trị sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp tăng 4,8%/năm.

-Giá trị sản xuất ngành công nghiệp tăng 13%/năm.

-Giá trị dịch vụ tăng 7,5%.

Cơ cấu ngành kinh tế trong GDP đến năm 2005 dự kiến:

-Tỷ trọng nông, lâm, ngư nghiệp 20-21%.

Tỷ trọng công nghiệp và xây dựng khoảng 38-39%.

-Tỷ trọng các ngành dịch vụ 41-42%.

2.1. Định hướng chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp

Chuyển đổi nhanh chóng cơ cấu sản xuất nông nghiệp. Tỷ trọng nông nghiệp

trong GDP sẽ giảm dần từ 24,3%năm 2000 xuống còn 20-21% năm 2005;

Cơ cấu trong nội bộ nông, lâm, ngư nghiệp có sự chuyển biến tăng tỷ trọng

- 56 -

ngành có giá trị sản xuất và xuất khẩu cao. Giá trị sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp

tăng bình quân 4,8%/năm.Đến năm 2005, ngành nông nghiệp chiếm khoảng 75-

76%giá trị sản xuất toàn ngành, lâm nghiệp khoảng 5-6%, thuỷ sản khoảng 19-20%.

Xây dựng các vùng sản xuất hàng hoá chuyên canh phù hợp với tiềm năng và

lợi thế về khí hậu, đất đai và lao động của từng vùng, từng địa phương.ứng dụng

nhanh khoa học và công nghệ vào sản xuất, nhất là ứng dụng công nghệ sinh học;

gắn nông nghiệp với công nghiệp chế biến; gắn sản xuất với thị trường tiêu thụ,

hình thành sự liên kết nông- công nghiệp- dịch vụ ngay trên địa bàn nông thôn.

Tích cực khai hoang mở rộng diện tích canh tác ở những nơI còn đất hoang

hóa chưa được sử dụng, phân bố lạI lao động dân cư; giảm nhẹ tác động của thiên

tai đối với sản xuất.

Phát triển mạnh ngành, nghề và kết cấu hạ tầng ở nông thôn, tạo thêm việc

làm mới để chuyển lao động sang làm ngành, nghề phi nông nghiệp, nâng cao đời

sống của dân cư nông thôn. Phán đấu đến năm 2005 thu nhập bình quân của nông

dân gấp 1,7 lần so với hiện nay; không còn hộ đói, giảm đáng kể tỷ lệ hộ nghèo.

Tiếp tục đẩy mạnh sản xuất lương thực theo hướng thâm canh, tăng năng suất

và tăng nhanh lúa đặc sản,chất lượng cao. Sản lượng lương thực có hạt năm 2005

dự kiến 37 triệu tấn, đảm bảo an ninh lương thực quốc gia.

Tập trung phát triển cây công nghiệp chủ lực có khả năng cạnh tranh như cao

su, cà phê chè, chè, đIều,...Ngoài ra cần đặc biệt chú trọng phát triển các loạI rau

quả và các sản phẩm đặc trưng khác.

Phát triển chăn nuôI, dự kiến năm 2005,sản lượng thịt hơI các loạI khoảng 2,5

triệu tấn.Hướng chính là tổ chức lạI sản xuất, khuyến khích phát triển hộ hoặc nông

trạI chăn nuôI quy mô lớn; đầu tư cảI tạo đàn giống, tăng cường công tác thú y; chế

biến thức ăn chăn nuôI; phát triển đàn bò thịt, sữa và các cơ sở chế biến thịt, sữa;

tìm kiếm thị trường xuất khẩu.

Bảo vệ và phát triển rừng, tiếp tục thực hiện dự án 5 triệu ha rừng.Tăng nhanh

diện tích trồng rừng mới, kết hợp với khoanh nuôI, bảo vệ táI sinh rừng. Trồng mới

1,3 triệu ha rừng tập trung, nâng độ che phủ rừng lên khoảng 38-39%vào năm 2005;

hoàn thành cơ bản công tác định canh định cư và ổn định đời sống nhân dân vùng

- 57 -

núi.

Phát triển khai thác hảI sản xa bờ và đIều chỉnh nghề cá ven bờ hợp lý.Đầu tư

phát triển mạnh ngành nuôI trồng thuỷ sản, xây dựng vùng nuôI, trồng tập trung,

gắn với phát triển công nghiệp chế biến chất lượng cao; đẩy mạnh nuôI tôm xuất

khẩu theo phương thức tiến bộ, bảo vệ môI trường.Xây dựng đồng bộ công nghiệp

khai thác cả về đội tàu, cảng, bến cá, đóng và sửa tàu thuyền, dệt lưới, dịch vụ hậu

cần, an toàn trên biển. Phấn đấu đạt sản lượng thuỷ sản năm 2005 vào khoảng 2,4

triệu tấn, giá trị xuất khẩu thuỷ sản khoảng 2,5 tỷ USD.

Phát triển mạng lưới thuỷ lợi, bảo đảm cảI tạo đất, thâm canh tăng vụ và khai

thác các vùng đất mới. Xây dựng và củng cố hệ thống đê biển và các công trình

ngăn mặn, thuỷ lợi cho nuôI, trồng thuỷ sản ở đồng bằng sông Cửu Long. Kiên cố

hoá các tuyến đê xung yếu; tiếp tục thực hiện chương trình kiên cố hóa kênh

mương. Phấn đấu đến năm 2005, đưa năng lực tưới lên 6,5 triệu ha gieo trồng lúa và

1,5 triệu ha rau màu, cây công nghiệp (tăng 60 vạn ha)

Phát triển nhanh cơ sở hạ tầng giao thông nông thôn, tiếp tục đầu tư xây dựng

đường giao thông đến hơn 500 xã hiện chưa có đường ô tô đến trung tâm, mở rộng

mạng lưới cung cấp đIện, thực hiện tốt chương trình quốc gia về nước sạch, vệ sinh

môI trường nông thôn.

Mở mang các làng nghề, phát triển các đIểm công nghiệp, tiểu thủ công

nghiệp sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ, đưa công nghiệp sơ chế và chế biến về

nông thôn và vùng nguyên liệu; phát triển lĩnh vực dịch vụ cung ứng vật tư kỹ thuật,

trao đổi nông sản hàng hoá ở nông thôn,...tăng nhanh việc làm cho khu vực phi

nông nghiệp.

2.2. Định hướng chuyển dịch cơ cấu công nghiệp

Chuyển dịch cơ cấu công nghiệp vói nhịp độ cao, có hiệu quả, coi trọng đầu tư

chiều sâu, đổi mới thiết bị công nghệ tiên tiến và tiến tới hiện đạI hoá từng phần các

ngành sản xuất công nghiệp.

Phát triển các ngành công nghiệp có lợi thế cạnh tranh, chú trọng công nghiệp

chế biến và công nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu; các ngành công nghiệp phục vụ

- 58 -

phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn

Xây dựng có chọn lọc, có đIều kiện về vốn, công nghệ, thị trường, và hiệu quả

một số cơ sở công nghiệp sản xuất tư liệu sản xuất: dầu khí luyện kim (thép, alumin,

nhôm, kim loạI quý hiếm...), cơ khí, đIện tử, hoá chất cơ bản...

Phát triển mạnh công nghiệp công nghệ cao, nhất là công nghệ thông tin, viễn

thông, đIện tử. Phát triển một số cơ sở công nghiệp quốc phòng cần thiết.

Kết hợp hàI hoà giữa phát triển công nghiệp đáp ứng yêu cầu trong nước và

xuất khẩu; có những biện pháp bảo hộ hợp lý, bảo đảm công nghiệp phát triển với

khả năng cạnh tranh cao, thúc đẩy công nghiệp hoá, hiện đạI hoá đất nước.

Khuyến khích mọi thành phần kinh tế tham gia đầu tư phát triển sản xuất công

nghiệp với nhiều quy mô, nhiều trình độ; chú trọng các doanh nghiệp vừa và nhỏ,

phù hợp định hướng chung và lợi thế của từng vùng, từng địa phương; trước hết tập

trung cho công nghiệp chế biến, công nghiệp sử dụng nhiều lao động và công

nghiệp sản xuất hàng hoá xuất khẩu, phát triển mạnh mẽ tiểu thủ công nghiệp.

Giá trị sản xuất công nghiệp tăng bình quân 13,5%/năm.

* Định hướng phát triển một số ngành công nghiệp:

Công nghiệp chế biến nông, lâm, thuỷ sản, phát triển mạnh theo hướng đầu tư

công nghệ hiện đạI, sản xuất ra các sản phẩm đủ khả năng cạnh tranh trên thị trường

trong nước và nước ngoàI; chú trọng các mặt hàng như chế biến thuỷ sản, chế biến

lương thực,thịt, sữa,đường mật, nước giảI khát, dầu thực vật...

Phấn đấu đến năm 2005 đạt 8-10 lít sữa/người/năm và đưa kim ngạch xuất

khẩu sản phẩm sữa gấp 2 lần so với năm 2000, nâng tỷ lệ sử dụng nguyên liệu trong

nước lên 20%. Tiếp tục quy hoạch phát triển đồng bộ ngành mía cả về vùng nguyên

liệu và cơ sở chế biến; dự kiến lượng đường mật các loạI bình quân đầu người vào

năm 2005 khoảng 14,4 kg. Chú trọng đầu tư sản xuất dầu thực vật, phát triển cơ sở

chế biến rau,quả gắn với phát triển vùng nguyên liệu.

Ngành giấy, đầu tư mở rộng cơ sở sản xuất giấy hiện có, nghiên cứu xây dựng

thêm một số cơ sở sản xuất bột giấy và giấy để có thể tăng công suất thêm 20 vạn

tấn, trong đó có nhà máy bột giấy ở Kon Tum công suất 13 vạn tấn/năm, đưa tổng

- 59 -

năng lực sản xuất lên 60 vạn tấn và đạt sản lượng 50 vạn tấn vào năm 2005.

Ngành dệt may và da giầy, chú trọng tìm kiếm và mở thêm thị trường trong

nước và nước ngoàI.Tăng cường đầu tư, hiện đạI một số khâu sản xuất, tập trung

đầu tư sản xuất sợi, dệt, thuộc da; chú trọng phát triển nguồn bông và khai thác

nguồn da các loạI, tăng phần sản xuất trong nước và các nguyên liệu và phụ liệu

trong ngành dệt may và da giầy để nâng cao giá trị gia tăng các sản phẩm xuất khẩu.

Đến năm 2005, đạt sản lượng 2,5-3 vạn tấn bông xơ, 750 triệu mét vảI, nâng sản

lượng giầy dép lên trên 410 triệu đôI.

Ngành công nghiệp đIện tử và công nghệ thông tin, viễn thông, thực hiện đầu

tư chiều sâu, đổi mới công nghệ, hiện đạI hoá những cơ sở sản xuất đIện tử đã có,

xây dựng một số cơ sở mới đẻ đáp ứng nhu cầu trong nước, giảm dần nhập khẩu và

tằng dần xuất khẩu;tăng nhanh tỷ lệ nội địa hoá sản phẩm có hàm lượng công nghệ

cao.Tập trung đầu tư và có chính sách để phát triển mạnh công nghiệp phần mềm

phục vụ nhu cầu trong nước và tham gia xuất khẩu, đưa giá trị sản phẩm phần mềm

đạt trên 500 triệu USD vào năm 2005, trong đó xuất khẩu khoảng 200 triệu USD.

Ngành cơ khí, tập trung đầu tư chiều sâu, đổi mới công nghệ, hiện đạI hoá một

số khâu then chốt trong chế tạo, chú trọng công nghiệp đóng tầu và sửa chữa tàu,

đặc biệt là các loạI tầu có trọng tảI lớn. Tăng khả nâưng chế tạo các dây truyền thiết

bị toàn bộ, thiết bị lẻ cho công nghiệp chế biến; máy công cụ và máy nông nghiệp;

các loạI thiết bị cho các cơ sở công nghiệp vừa và nhỏ; phương tiện vận tảI, máy

công cụ, máy xây dựng, cơ khí tiêu dùng. Phát triển một số lĩnh lực hiện đạI như cơ

đIện tử; từng bước đưa ngành cơ khí thành ngành công nghiệp mạnh, đáp ứng

khoảng 25% nhu cầu chế tạo thiết bị cho nền kinh tế và nội địa hoá khoảng 70- 80

% các loạI phụ tùng xe máy và 30% phụ tung lắp ráp ô tô.

Ngành dầu khí, tiếp tục tìm nguồn vốn hợp tác thăm dò, tìm kiếm khai thác để

tăng thêm khả năng khai thác dầu khí.Sản lượng khai thác dầu năm 2005 đạt 27-28

triệu tấn quy đổi. Đẩy mạnh công tác phát triển mỏ và xây dựng đường ống dẫn khí

Nam Côn Sơn để đưa vào vận hành năm 2002 nhà máy lọc dầu số một đưa vào vận

hành năm 2004 nhằm đạt sản lượng 6 triệu tấn xăng, dầu và các sản phẩm dầu vào

năm 2005. NgoàI ra sẽ tiến hành một số công tác chuẩn bị cho việc xây dựng nhà

máy lọc dầu số 2, đường ống dẫn khí và cơ sở chế biến, sử dụng khí ở khu vực Tây

Nam, đồng băng sông Hồng. Tận dụng khả năng để đầu tư ra nước ngoài nhằm phát

- 60 -

triển lâu dàI ngành dầu khí nước ta.

Ngành đIện, sản lượng đIện phát ra năm 2005 khoảng 44 tỷ kWh, tăng bình

quân 12%/năm đáp ứng nhu cầu phát triển công nghiệp,nông nghiệp, phát triển các

ngành dịch vụ và phục vụ dân sinh.

Trong 5 năm tới công suất nguồn đIện tăng thêm khoảng 5.200 MW đến năm

2005 tổng công suất nguồn đIện khoảng 11.400 MW, trong đó thuỷ đIện chiếm

40%, nhiệt diện kkhí trên 44%, nhiệt đIện than trên 15%,... Đầu tư xây dựng đồng

bộ hệ thống tảI đIện, tích cực chuản bị cho công trình thuỷ đIện Sơn La, phấn đấu

tạo đủ điều kiện để khở công xây dựng trong kế hoạch 5 năm này.

Ngành than, mở rộng tiêu thụ than trong và ngoàI nứơc để tăng nhu cầu sử

dụng than, bố trí sản xuất than hợp lý giữa cung và cầu. Thực hiện chủ trương đầu

tư có trọng đIểm, đổi mới công nghệ, nâng cao tính an toàn trong sản xuất và cảI

thiện điều kiện làm việc của công nhân ngành than. Dự kiến sản lượng than năm

2005 khoảng 15-16triệu tấn.

Đẩy nhanh tiến độ xây dựng các nhà máy xi măng để đưa vào khai thác trong

5 năm tới; nghiên cứu xây dựng với một vàI nhà máy xi măng dể tăng thêm 8-9

triệu tấn công suất. Đến năm 2005 dự kiến tổng công suất đạt trên 24,5 triệu tấn.

Phát triển sản xuất các ngành vật liệu xây dựng khác như tấm lợp, gạch, ngói, khai

thác và chế biến đá granit, sản xuất các thiết bị trang trí nội thất... để phục vụ tiêu

dùng trong nước và xuất khẩu.

Ngành hoá chất phân bón, nghiên cứu các điều kiện để sớm khởi công xây

dựng nhà máy sản xuất DAP công suất 33 vạn tấn phân diamon phốt phát; tăng lực

lượng khai thác và tuyển quặng apatít lên76 vạn tấn/ năm, đưa tổng năng lực sản

xuất phân lân các loạI đến năm 2005 khoảng 2,2 triệu tấn. Triển khai xây dựng nhà

máy sản xuất phân đạm từ khí để có thể huy động một phần công suất vào năm

2004.Tích cực thực hiện các công tác chuẩn bị để sớm khởi công xây dựng nhà

máy sản xuất phân đạm từ khí hoá than, gối đầu công súât cho 5 năm sau. Dự kiến

sản lượng phân urê năm 2005 vào khoảng 80-90 vạn tấn.

Nâng cao năng lực sản xuất một số hoá chất cơ bản như xút, sôđa; đẩy mạnh

sản xuất những sản phẩm cao su, trong đó sản lượng lốp ô tô, máy kéo đạt 1,2 triệu

- 61 -

bộ / năm.

Ngành thép, tiếp tục triển khai đầu tư chiều sau các cơ sỏ luyện và cán thép

hiện có. Đầu tư xây dựng mới 1-2 cơ sở sản xuất phôI thép, nâng năng lực sản xuất

phôI từ 40 vạn tấn năm 2000 lên 1-1,4 triệu tấn năm 2005. Xây dựng nhà máy cán

thếp nguội và nhà máy cán thép nóng để sản xuất thép tám, thép lá. Nghiên cứu và

chuẩn bị xây dựng cơ sở luyện thép liên hợp từ quặng trong nước và nhập khẩu sản

lượng thép cán các loạI năm 2005 khoảng 2,7 triệu tấn.

Khai thác và chế biến các loạI khoáng sản, phát triển công nghiệp khai thác

bôxit, luyện alumin và chế biến nhôm theo 1 trong 2 phương án sản xuất 30 nghìn

tấn /năm để đIện phân 75 nghìn tấn nhôm sử dụng trong nước; sản xuất 1triệu tấn

alumin cho xuất khẩu, giai đoạn sau nâng lên 3 triệu tấn. Đầu tư khai thác và tuyển

quặng đồng, khai thác imenhít, đá quý, vàng, đất hiếm; xây dựng nhà máy luyện

kẽm TháI Nguyên, luyện đồng ở Lào Cai.

3. Định hướng phát triển các ngành dịch vụ

Đa dạng hoá các ngành dịch vụ, mở rộng thị trường tiêu thụ các sản phẩm dịch

vụ, đáp ứng tốt nhu cầu phát triển kinh tế và đời sống xã hội.

Phát triển thương mạI, cả nội thương và ngoại thương, đảm bảo hàng hoá lưu

thông thông suốt trong thị trường nội địa và giao lưu buôn bán với nước ngoài. Chú

trọng công tác tiếp thị và mở rộng thị trường nông thôngành thị trường miền núi;

tạo liên kết chặt chẽ giữa các vùng trong nước. Củng cố thương mạI nhà nước; tăng

cường vai trò đIều tiết của nhà nước. Tổng mức lưu chuyển hàng hoá bán lẻ trên thị

trường tăng khoảng 11-14%/năm.

Nâng cao chất lượng, quy mô và hiệu quả hoạt động du lịch. Liên kết chặt chẽ

các ngành liên quan đến hoạt động du lịch để đầu tư phát triển một số khu du lịch và

trọng đIểm; đưa ngành du lịch thành một ngành kinh tế mũi nhọn. Phát triển và đa

dạng hoá các loạI hình và các đIểm du lịch sinh tháI, du lịch văn hoá, lịch sử thể

thao hấp dẫn du khách trong và ngoàI nước. Xây dựng và nâng cấp cơ sở vật chất và

đẩy mạnh hợp tác với các nước trong hoạt động du lịch.

Nâng cao chất lượng, tăng khối lượng và độ an toàn vận tảI khách, hàng hoá

trên tất cả các loạI hình vận tảI; có biện pháp tích cực để giảI quyết tốt vận tảI

- 62 -

khách công cộng ở các thành phố lớn Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, phấn đấu để

giảm thiểu tai nạn giao thông...Nâng thị phần vận tải quốc tế bằng hành không,

đường biển...Khối lượng luân chuyển hàng hoá tăng 9-10%/năm. Luân chuyển hành

khách tăng 5-6%/năm. Nâng cao chất lượng dịch vụ bưu chính viễn thông. Năm

2005 mật độ đIện thoạI đạt 7-8 máy/100 dân. Phổ cập dịch vụ đIện thoạI đến 100%

số xã trong toàn quốc.

Phát triển nhanh các loạI hình dịch vụ tàI chính ngân hàng, kiểm toán ngành tư

vấn pháp luật, dịch vụ trí tuệ, tin học, dịch vụ kỹ thuật, dịch vụ y tế, giáo dục và đào

tạo, thể dục thể thao...

Nhịp độ tăng trưởng bình quân giá trị gia tăng các ngành dịch vụ trên 7,5%/ năm.

III. Các giải pháp:

1. Giải pháp nâng cao chất lượng các quy hoạch, chương trình dự án

phát triển ngành

-Để nâng cao tính khả thi của quy hoạch ngành, điều quyết định là phải nâng

cao chất lượng của quy hoạch, chương trình dự án phát triển cụ thể của từng ngành,

cùng đó phải xây dựng chiến lược cho 10 năm tới và “tầm nhìn” đến 2020. Điều

này sẽ đảm bảo hàng hoá sản xuất ra được tieu thụ với giá cả hợp lý, hiệu quả cao.

Mặt khác, đảm bảo các yếu tố đầu vào cho qúa trình sản xuất được chuẩn bị đồng

bộ, chi phí thấp.

-Gắn quy hoạch phát triển ngành với chiến lược, chiến lược quy hoạch vùng,

sản phẩm và chiến lược thị trường, chiến lược đào tạo nguồn nhân lực.

-Các quy hoạch, chương trình phải được xây dựng trên cơ sở:

+Coi trọng công tác điều tra nghiên cứu thị trường và dự đoán sự thay đổi của

thị trường (cả thị trường trong và ngoài nước). Đối với thị trường nước ngoài, các

cơ quan, tổ chức nhà nước có liên quan và doanh nghiệp cần phối hợp với nhau chặt

chẽ nghiên cứu thị trường hoạch định được chiến lược, quy hoạch cho mỗi ngành

hàng. Do các doanh nghiệp trong nước chưa có khả năng về tài chính, nguồn nhân

lực để ra thị trường nước ngoài nghiên cứu đánh giá tình hình cạnh tranh, nhu cầu

- 63 -

thị trường, tự quyết định được chính xác chiến lược đầu tư cho mình.

+Dự báo tiến bộ khoa học công nghệ của ngành và tác động của nó tới phát

triển ngành.

+Đánh giá đầy đủ nguồn lực, cơ hội, thách thức, khả năng cạnh tranh.

+Cần có quy hoạch tổng thể và quy hoạch xây dựng từng cơ sở sản xuất dinh

doanh.

+Phải gắn quy hoạch với chính sách và giải pháp thực hiện.

-Các chiến lược, quy hoạch sẽ được thực hiện thông qua các chương trình và

dự án phát triển.

2. Về vốn đầu tư:

-Đa dạng hoá các nguồn vốn đầu tư để nâng cao khối lượng vốn đầu tư.

Nguồn vốn trong nước là quyết định và vốn nước ngoài là quan trọng. Nâng mức

đầu tư toàn xã hội chiếm 31-32% GDP. Trong đó trên 2/3 là vốn trong nước.

-Điều chỉnh cơ cấu đầu tư theo hướng

+Đầu tư có trọng điểm, tránh tràn lan, đẩy nhanh tiến độ hoàn thành các công

trình đầu tư.Hướng ưu tiên là đầu tư cho xây dựng kết cấu hạ tầng và đầu tư cho

chuyển đổi cơ cấu phù hợp với khả năng về đất đai, lao động và sinh thái từng vùng,

gắn nông nghiệp với công nghiệp chế biến. Đầu tư vào các ngành công nghiệp có

lợi thế cạnh tranh chú trọng công nghiệp chế biến và công nghiệp hàng xuất khẩu

các ngành công nghiệp phục vụ nông nghiệp. Khuyến khích đầu tư các ngành công

nghiệp mũi nhọn, công nghiệp then chốt.

+Chuyển hướng mạnh mẽ theo chiều sâu trong tất cả các ngành kinh tế, đưa

nhanh tiến bộ kỹ thuật mới và thiết bị máy móc mới vào sản xuất nhằm nâng cao

chiến lược sản phẩm tăng sức cạnh tranh trên thị trường trong nước và nước ngoài.

+Tăng nhanh chóng sản lượng và nâng cao chất lượng các doanh nghiệp xuất

khẩu.

+Đối với những loại sản phẩm mới cần có quy hoạch, kế hoạch đầu tư nhanh

chóng tránh để tình trạng sản xuất tự phát, sản xuất tràn lan không có các biện pháp

- 64 -

hỗ trợ kịp thời từ nhà nước.

-Nâng cao hiệu quả đầu tư có trọng điểm và mũi nhọn. Đầu tư phải thấy được

hiệu quả tránh mơ hồ, tránh thất thoát lãng phí,lưa chọn đúng công nghệ. Đặc biệt là

chống tham nhũng trong xây dựng.

-Đáp ứng đúng tiến độ cấp vốn tránh tình trạng dự án phải chờ kế hoạch vốn.

-Tạo điều kiện để các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế dễ dàng tiếp

cận với các nguồn vốn. Mở rộng các hình thức hỗ trợ đầu tư nhất là bảo lãnh tín

dụng đầu tư và hỗ trợ sau đầu tư.

-Tiếp tục thực hiện một cách đồng bộ Luật Khuyến khích đầu tư trong

nước;Tiếp tục đẩy mạnh việc thi hành Luật Doanh nghiệp;Tiếp tục thực hiện Luật

Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đầu tư nước ngoài.

-Đa dạng hoá các hình thức đầu tư. Quan tâm thu hút nguồn kiều hối.

3. Đào tạo nguồn nhân lực:

Cơ cấu và chất lượng nguồn nhân lực là yếu tố quyết định cho phát triển và

chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Chúng ta bước đầu đã có những chính sách đầu tư cho

đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực, nhưng hiện nay cơ cấu nguồn nhân lực chưa

đáp ứng được yêu cầu của chuyển dịch cơ cấu ngành tạo tăng trưởng cao. Do đó,

cần phải đổi mới một cách căn bản công tác đào tạo nguồn nhân lực theo hướng:

-Tạo ra sự gắn bó hơn giữa đào tạo và sử dụng, giữa đào tạo và thị trường lao

động.

+Củng cố và phát triển các trường dậy nghề, các trung tâm dậy nghề và xúc

tiến việc làm, nâng cao chất lượng đào tạo các trường đại học, trung học chuyên

nghiệp để đến năm 2005 đạt tỷ lệ lao động kỹ thuật lên 30%.

+Điều chỉnh cơ cấu đào tạo theo hướng tăng cường đào tạo công nhân kỹ thuật

nhất là các ngành nghề mới. Để thực hiện tốt cần có các giải pháp đồng bộ và sự

phối hợp giữa các ban ngành và các cơ quan liên quan trong chủ thể hệ thống hướng

nghiệp. Chú trọng đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ giáo viên. Đầu tư xây dựng cơ sở

vật chất, trường học, trang thiết bị giảng dậy, học tập đáp ứng nhu cầu đào tạo.

+Bộ Giáo dục - Đào tạo cần có kế hoạch và tổ chức các ngành các địa phương

- 65 -

sắp xếp lại mạng lưới các trường đại học, trung học chuyên nghiệp, dậy nghề theo

hướng tránh trùng lắp,hình thành các trường trọng điểm, mở rộng quy mô cơ cấu

ngành nghề hợp lý.

+Nâng cao chất lượng đào tạo ở tất cả các bậc học.

4. Giải pháp về thị trường:

Thị trường là cơ sở để mỗi quốc gia,doanh nghiệp nói riêng xác định cơ cấu

đầu tư sản xuất của mình. Nó tác động mạnh mẽ đến chuyển dịch cơ cấu cơ cấu

ngành. Để sản xuất có hiệu quả thì cơ cấu sản xuất ngành phải bám sát, dự đoán

được xu thế biến đổi của thị trường (bao gồm thị trường đầu vào, thị trường đầu ra,

thị trường trong nước và nước ngoài, thị trường vốn, thị trường lao động, thị trường

công nghệ...

-Nhà nước và doanh nghiệp đều phải có trách nhiệm phát triển thị trường

trong nước và nước ngoài. Nhà nước tác đọng đến thị trường trên các khía cạnh:

+Xây dựng và thực hiện cơ chế chính sách khuyến khích giao lưu hàng hoá.

+Nhà nước khuyến khích tổ chức các hiệp hội ngành nghề tránh tình trạng

tranh mua, tranh bán gây thiệt hại cho nền sản xuất trong nước.

+Chú ý phát triển thị trường nông thôn miền núi.Xây dựng các chợ nông sản

bán buôn các chợ cây giống, con giống, chợ thiết bị công nghệ để người nuôi trồng

sản xuất mua được các yếu tố "đầu vào" với chất lượng cao giá thấp.

+Phát triển các mô hình liên kết giữa cơ sở sản xuất, chế biến với các cơ sở

sản xuất nguyên liệu. Các cơ sở chế biến tạo điều kiện ứng vốn vật tư, giống và kỹ

thuật cho các cơ sở sản xuất nguyên liệu.

+Tăng cường mối liên kết giữa trường học,viện nghiên cứu và doanh nghiệp

đưa những phát minh, cải tiến công nghệ nhanh chóng vào sản xuất.

+Mở rộng việc thực hiện cơ chế “ mua hàng trả góp” có sự liên kết giữa ngân

hàng, doanh nghiệp và người tiêu dùng nhằm tăng cường khả năng tiêu thụ hàng

hoá.

+Nhà nước phối hợp với các doanh nghiệp nghiên cứu thị trường trong nước

- 66 -

và nước ngoài(đặc biệt là thị trường nước ngoài). Nhà nước công bố những thông

tin miễn phí cho tất cả các doanh nghiệp có liên quan phối hợp lựa chọn mục tiêu và

bước đi cho mỗi thời kỳ.

+Thiết lập hệ thống phân phối các cơ quan đại diện ngành nghề ở nước ngoài

tìm hiểu, phát triển thị trường.

+Khuyến khích các hiệp hội ngành nghề đưa thông tin lên mạng Internet, thúc

đẩy thương mại điện tử phát triển.

-Xây dựng chính sách bảo vệ lợi ích người tiêu dùng

+Xây dựng cơ chế hạn chế độc quyền và cơ chế giám sát có hiệu quả đối với

các doanh nghiệp có vị thế độc quyền trong sản xuất kinh doanh. Kiểm soát hoạt

động và điều tiết lợi nhuận đối với các doanh nghiệp độc quyền.

+Đẩy mạnh chống buôn lậu đi đôi với nâng cao chất lượng, hạ giá thành sản

phẩm để kích thích sức mua. Kiểm tra kiểm soát chặt chẽ thị trường, chống làm

hàng giả, hàng nhái...

-Đặt hàng cho các doanh nghiệp sản xuất và cung ứng một số hàng hoá và

dịch vụ.

-Nhà nước tăng cường quan hệ mở rộng quan hệ,hợp tác ký kết hiệp định với

nước ngoài.

Doanh nghiệp cần chủ động tăng cường mở rộng thị trường bằng cách nâng

cao chất lượng sản phẩm, đa dạng hoá sản phẩm, sản xuất sản phẩm mới và tiến

hành tốt nhiệm vụ marketing.

5. Chính sách thúc đẩy, hỗ trợ chuyển dịch cơ cấu ngành:

Trong điều kiện các doanh nghiệp nước ta tiềm lực, khả năng cạnh tranh còn

yếu thì các chính sách của nhà nước nhằm hỗ trợ để chuyển dịch cơ cấu ngành là rât

quan trọng. Trong những năm qua nhà nước đã có những chính sách hỗ trợ chuyển

dịch cơ cấu nhưng chưa đạt được kết quả cao. Để nâng cao khả năng cạnh tranh của

hàng hoá ở thị trường trong nước và hội nhập thị trường khu vực và thế giới trong

những năm sắp tới cần giải quyết tốt những vấn đề sau:

+Thực hiện tốt quản lý ngành và lãnh thổ trong phát triển kinh tế. Thực hiện

- 67 -

xoá bỏ cơ chế chủ quản đối với quản lý các cơ sở sản xuất kinh doanh.

+Nghiên cứu hình thành mô hình công ty mẹ-công ty con đưa vào hoạt động

một cách hiệu quả.

+Tiếp tục đổi mới chính sách kinh tế đối ngoại trên các mặt:

*Mở rộng thêm các lĩnh vực thu hút đầu tư nước ngoài. Nâng cao hiệu quả

quản lý nhà nước trên cơ sở rà soát thường xuyên các dự án đầu tư nước ngoài đã

được cấp phép để có các biện pháp hỗ trợ, xử lý kịp thời.

*Tiếp tục chủ trương phân cấp quản lý nhà nước về đầu tư nước ngoài, cải tiến

thủ tục hành chính, chính sách đào tạo công nhân kỹ thuật trong khu vực đầu tư

nước ngoài.

6. Xác định các bước đi cho qúa trình chuyển dịch:

Mỗi quốc gia trong mỗi thời kỳ cần xác định được các bước đi thích hợp cho

mình một cách phù hợp với những nguồn lực của đất nước và điều kiện bên ngoài.

Trên cơ sở đó khai thác triệt để lợi thế tuyệt đối và lợ thế so sánh tham gia hiệu quả

vào phân công lao động quốc tế và trao đổi mậu dịch quốc tế. Trong thời kỳ 2001-

2005 chúng ta cần tiến hành theo một số bước như sau:

Trong nông nghiệp: Tiếp tục chuyển đổi cơ cấu cây trồng, mùa vụ;tiếp tục

chuyển một số diện tích lúa năng suất thấp sang nuôi trồng thuỷ sản và trồng các

loại cây khác như bông, đậu tương, cây ăn quả. Mở rộng diện tích trồng rau,hoa,

quả kết hợp với nâng cao chất lượng, tăng năng suất hướng vào thị trường xuất

khẩu.

Trong công nghiệp:

+Phát triển các ngành công nghiệp có lợi thế cạnh tranh, công nghiệp chế biến,

công nghiệp hàng xuất khẩu, công nghiệp cơ khí, chế tạo thay thế nhập khẩu, công

nghiệp công nghệ cao, trước hết là công nghệ thông tin, viễn thông, điện tử. Bảo

đảm đủ năng lượng, các loại vật tư chủ yếu như thép xây dựng, xi măng, phân lân

các loại và các mặt hàng tiêu dùng cho sản xuất và đời sống của nhân dân. Những

ngành đem lại được nguồn ngoại tệ lón cho nền kinh tế.

+Tiếp tục ban hành các chính sách phát triển nhanh nguồn nguyên liệu giấy,

nguyên liệu thuốc lá, nguyên liệu bông xơ, sợi tổng hợp, nguyên liệu da, phôi thép

- 68 -

để tawng hàm lượng nội địa hoá sản phẩm, kể cả sản phẩm xuất khẩu.

+Khuyến khích sản xuất thiết bị đồng bộ bằng việc không đánh thuế các linh

kiện, nguyên liệu trong nước chưa sản xuất được là "đầu vào" của thiết bị đồng bộ.

Trong dịch vụ: Phát triển mạnh và đa dạng các loại hình dịch vụ; đa dạng hoá

các thị trường; nâng cao chất lượng các loại hình dịch vụ; phát triển du lịch, bưu

chính-viễn thông, vận tải, tài chính, ngân hàng, kiểm toán, tư vấn, khoa học công

nghệ.

Công bố rộng danh mục chương trình đầu tư 5 năm 2001-2005, kể cả danh

mục kêu gọi vốn và hỗ trợ phát triển chính thức để định hướng cho các nhà đầu tư

trong và ngoài nước lựa chọn và làm cơ sở cho việc huy đọng nguồn vốn đưa vào

- 69 -

đầu tư phát triển.

KẾT LUẬN

Chuyển dịch cơ cấu phải được nhận thức, thực hiện từ mọi ngành, mọi cấp, là

công việc thường xuyên liên tục. Để làm sao nền kinh tế có thể nắm bắt tổng hợp tốt

nhất tất cả các nguồn lực, các cơ hội từ trong và ngoài nước tạo ra. Chuyển dịch cơ

cấu phải xây dựng cơ cấu chi tiết cho từng ngành, từng lĩnh vực trong nền kinh tế ở

những năm tới, đồng thời phải có cái nhìn xa hơn cho các năm sau này. Chuyển

dịch cơ cấu phải đến tận những người dân. Làm được như thế chắc chắn nền kinh

tế nước ta sẽ phát triển nhanh, vững chắc đưa đất nước ta sớm “sánh vai được với

các cường quốc năm châu” như sự mong đợi của Chủ tịch Hồ Cí Minh kính yêu của

- 70 -

chúng ta.

Tài liệu tham khảo

1. Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII, IX-NXB Sự thật

2. Báo cáo của Quốc hội về thực hiện kế hoạch năm 2001và kế hoạch năm 2002

3. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong điều kiện hội nhập với khu vực và thế giới –

NXB Chính trị Quốc gia

4. Chuyển dịch cơ cấu ngành và phát triển các ngành trọng điểm, mũi nhọn ở Việt

Nam

5. Cơ sở khoa học của một số vấn đề trong chiến lược phát triển kinh tế-xã hội Việt

Nam đến năm 2010 và tầm nhìn đến năm 2020- NXB Chính trị quốc gia

- 71 -

6. Giáo trình kinh tế và quản lý công nghiệp