LUẬN VĂN:
Hoàn thiện quy hoạch phát triển kinh tế -
xã hội quận Long Biên, thành phố Hà Nội đến năm 2015
mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Quá trình công nghiệp hóa và đô thị hóa ở Thủ đô Hà Nội đang diễn ra với tốc độ
nhanh. Trong quá trình đó, công tác quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của thành phố nói
chung và của từng quận, huyện nói riêng phải đi trước một bước, định hướng đúng cho các
kế hoạch và chương trình phát triển trung hạn và ngắn hạn. Quy hoạch phát triển kinh tế -
xã hội vẫn được coi là một khâu quan trọng trong công tác kế hoạch hóa, làm căn cứ cho việc
xây dựng định hướng phát triển và là cơ sở cho quy hoạch chuyên ngành, quy hoạch xây
dựng đô thị, hoạch định các kế hoạch 5 năm và hàng năm. Điều này càng đặc biệt quan
trọng đối với Hà Nội là trung tâm kinh tế, văn hóa, chính trị lớn, là Thủ đô của cả nước.
Long Biên là một quận mới được tách ra từ huyện Gia Lâm với 14 đơn vị hành chính
cấp phường [13]. Quy hoạch của huyện Gia Lâm trước đây đã được xây dựng trên cơ sở coi
Gia Lâm (cũ) là một huyện ngoại thành, chứa đựng nhiều nội dung cho mục tiêu phát triển
nông nghiệp và nông thôn. Trong định hướng phát triển các khu công nghiệp tập trung lớn
trên địa bàn quận Long Biên hiện nay như Sài Đồng A, Sài Đồng B, Đài Tư..., công nghệ sản
xuất được quy hoạch chưa phải là công nghệ hiện đại, còn nhiều khả năng gây ô nhiễm môi
trường. Các khu đô thị cũ hầu hết là nhà thấp tầng, chia lô với cơ sở hạ tầng còn thiếu và
chưa đồng bộ. Quy hoạch cũ chưa thực sự gắn kết với hướng quy hoạch nguồn nhân lực,
chưa giải quyết được vấn đề việc làm cho dân cư trên địa bàn, chưa thực sự phát huy có
hiệu quả những tiềm năng cho sự phát triển kinh tế - xã hội.
Hiện nay, Long Biên là một quận nội thành với định hướng trước mắt cũng như
lâu dài phải phù hợp với quy hoạch chung của Thủ đô. Chính vì vậy, việc hoàn thiện quy
hoạch phát triển kinh tế - xã hội của quận đến năm 2015 là rất cần thiết nhằm phát huy tốt
những yếu tố tiềm năng, định rõ phương hướng phát triển các lĩnh vực kinh tế - xã hội của
quận trong những năm tới, làm cơ sở khoa học cho việc xây dựng các đề án quy hoạch chi
tiết và kế hoạch đầu tư phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn quận, để Long Biên từng
bước phát triển tương xứng với vị trí của một quận nội thành Thủ đô với tiêu chuẩn của
một đô thị đồng bộ và hiện đại.
Việc nghiên cứu quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội quận Long Biên đến năm
2015 là một trong những việc làm rất cần thiết hiện nay. Vì thế, tôi chọn vấn đề " Hoàn
thiện quy hoạch phỏt triển kinh tế - xó hội quận Long Biờn, thành phố Hà Nội đến năm
2015" làm đề tài luận văn thạc sĩ chuyên ngành Quản lý kinh tế.
2. Tình hình nghiên cứu
Trong những năm qua, Chính phủ và ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội đã có
nhiều quyết định, chỉ thị, công văn về điều chỉnh quy hoạch chung của Thủ đô Hà Nội và
điều chỉnh quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của một số quận, huyện của Hà Nội. Cụ
thể là:
- Quyết định 108/CP của Thủ tướng Chính phủ về điều chỉnh quy hoạch chung của
Thủ đô Hà Nội đến năm 2020.
- Chỉ thị 32/1998/CT-TTg ngày 23/9/1998 của Thủ tướng Chính phủ về công tác
quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2010.
- Công văn số 792/UB-KHĐT ngày 9/4/1999 của Chủ tịch ủy ban nhân dân thành
phố Hà Nội chỉ đạo thực hiện công tác quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội.
- Công văn số 516/UB-KHĐT ngày 25/2/2004 của ủy ban nhân dân thành phố Hà
Nội về việc xây dựng, điều chỉnh quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội các quận, huyện Hai
Bà Trưng, Gia Lâm, Thanh Trì, Long Biên và Hoàng Mai, v.v...
Ngoài ra, có một số đề tài luận văn thạc sĩ nghiên cứu về quản lý quy hoạch đô thị,
như: Hoàn thiện quản lý quy hoạch xây dựng đô thị trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh,
Luận văn thạc sĩ chuyên ngành Quản lý kinh tế của Huỳnh Khương Ninh, Hà Nội, 2005;
Cải cách hành chính trong quản lý nhà nước về kinh tế cấp quận/ huyện tại Thành phố Hồ
Chí Minh, Luận văn thạc sĩ chuyên ngành Quản lý kinh tế của Trần Công Lý, Hà Nội,
2005; Phát triển các dịch vụ xã hội cho người nghèo trên địa bàn thành phố Hà Nội, Luận
văn thạc sĩ chuyên ngành Quản lý kinh tế của Phạm Thị Thanh Mai, Hà Nội, 2005...
Tuy vậy, đến nay chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu một cách hoàn
chỉnh về quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội quận Long Biên.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích: Trên cơ sở nhận thức lý luận và đánh giá thực trạng quy hoạch phát
triển kinh tế - xã hội quận Long Biên từ khi thành lập đến nay, đề ra những giải pháp nhằm
hoàn thiện việc quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội quận Long Biên đến năm 2015.
- Nhiệm vụ
+ Làm rõ một số vấn đề lý luận về quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội cấp quận.
+ Phân tích, đánh giá các yếu tố tiềm năng, nguồn lực, những nét đặc thù và thực
trạng quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội quận Long Biên từ khi thành lập đến nay, chỉ ra
những nguyên nhân của thành tựu và hạn chế, yếu kém.
+ Đề ra những định hướng và giải pháp nhằm hoàn thiện quy hoạch phát triển kinh
tế - xã hội quận Long Biên đến năm 2015.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu
Công tác quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội quận Long Biên trên các lĩnh vực
chủ yếu.
- Phạm vi nghiên cứu
+ Phạm vi về không gian: Trong phạm vi ranh giới hành chính của quận Long
Biên.
+ Phạm vi thời gian: Khảo sát đánh giá và xây dựng chương trình quy hoạch phát
triển kinh tế - xã hội quận Long Biên từ khi thành lập (2003) đến năm 2015.
+ Phạm vi các ngành, lĩnh vực: Tất cả các ngành, lĩnh vực chủ yếu của kinh tế - xã
hội trên địa bàn quận Long Biên, không phân biệt cấp quản lý.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận
Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và các quan điểm của
Đảng, Chính phủ và Thành ủy, ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội về việc quy hoạch phát
triển kinh tế - xã hội cấp quận ở thành phố Hà Nội trong giai đoạn hiện nay.
- Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện, luận văn sử dụng các phương pháp điều tra, thống kê,
phân tích, tổng hợp, logic - lịch sử, nghiên cứu tài liệu qua khai thác các dự án, các báo
cáo chuyên đề đã được thực hiện trên địa bàn quận Long Biên nói riêng và Hà Nội nói
chung.
6. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Đề tài là tài liệu tham khảo hữu ích giúp cấp ủy đảng, chính quyền quận Long
Biên nắm được tình hình chung về quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội quận Long Biên
trong thời gian qua, vận dụng vào việc quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội quận Long
Biên đến năm 2015.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung
luận văn gồm 3 chương, 7 tiết.
Chương 1
cơ sở lý luận và thực tiễn về hoàn thiện quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội quận
long biên
1.1. Vị Trí, VAI Trò Và Nội DUNG QUY Hoạch Phát Triển KINH Tế - Xã
Hội Cấp Quận
1.1.1. Vị trí, vai trò và chức năng cấp quận
* Vị trí, vai trò cấp quận trong hệ thống tổ chức hành chính nhà nước
Theo quy định của luật pháp Việt Nam, quận/ huyện là một trong bốn cấp hành
chính của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đồng thời quận/ huyện còn được tổ
chức là một cấp chính quyền thuộc hệ thống chính quyền địa phương, là cấp trên của xã,
phường - chính quyền cơ sở và cấp dưới của tỉnh/ thành phố.
Về tổ chức không gian địa lý, quận là địa bàn lãnh thổ với cư dân và tổ chức xã
hội đô thị, bao gồm diện tích tự nhiên và một lượng dân cư nhất định, tuỳ thuộc vị trí, tính
chất và điều kiện phát triển về kinh tế, văn hóa, xã hội. Về hành chính, quận là cơ quan nhà
nước địa phương quản lý một số phường nhất định. Số lượng phường thuộc mỗi quận
không có chỉ tiêu thống nhất, tùy theo đặc điểm và tính chất của từng khu vực quyết định
hình thành quận và địa giới quận thuộc thẩm quyền của Quốc hội.
Xét về tổ chức xã hội - kinh tế, quận là một phần lãnh thổ của thành phố được
phân chia theo địa giới hành chính bao gồm đất đai, dân cư. ở các quận, hầu hết đều có hệ
thống kết cấu hạ tầng phát triển, có đường giao thông thuận tiện, có hệ thống cung cấp
điện, nước sinh hoạt, dân cư đông, tập trung nhiều tầng lớp làm ăn sinh sống chủ yếu dựa
vào sản xuất công nghiệp, thương mại, dịch vụ… với sự đa dạng và phức tạp về ngành
nghề. Mật độ dân số cao và cơ cấu dân cư phức tạp nên trên địa bàn cấp quận cũng dễ nảy
sinh nhiều vấn đề về an ninh, trật tự, về các mối quan hệ giao lưu và quản lý độ thị.
Với hoạt động đa dạng, phức tạp trên mọi lĩnh vực đời sống xã hội của hàng vạn
người trên một địa bàn lãnh thổ khá hẹp đòi hỏi phải có sự quản lý, điều hành của một tổ
chức chính quyền, đó là cơ quan nhà nước cấp quận.
Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 (sửa đổi), Điều
118 xác định như sau:
Các đơn vị hành chính của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
được phân định như sau:
Nước chia thành tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương;
Tỉnh chia thành huyện, thành phố thuộc tỉnh và thị xã; thành phố trực
thuộc trung ương chia thành quận, huyện và thị xã;
Huyện chia thành xã, thị trấn; thành phố thuộc tỉnh, thị xã chia thành
phường, xã; quận chia thành phường…[5, tr. 64].
Như vậy, đơn vị hành chính của nước ta hiện nay được chia thành bốn cấp: cấp
trung ương, cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; cấp quận, huyện, thị xã và thành phố
thuộc tỉnh; cấp xã, phường, thị trấn. Trong mối quan hệ giữa các cấp hành chính theo phân
định của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992, thì cấp quận là
một cấp trung gian có mối liên hệ giữa cấp thành phố trực thuộc trung ương với cấp cơ sở
là cấp phường.
Trong mối quan hệ ấy, đơn vị hành chính cấp quận có vai trò rất quan trọng, quyết
định sự thành công hay thất bại trong thực hiện nhiệm vụ của thành phố. Các hoạt động
trong quản lý hành chính nhà nước ở quận, sự lãnh đạo của cấp uỷ đảng được thể hiện ở
đường lối, chủ trương, chính sách và các biện pháp lớn; đó là những vấn đề quan hệ với tất
cả lĩnh vực trong đời sống xã hội có tầm chiến lược, tác động, ảnh hưởng lâu dài đối với
công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nhưng những vấn đề về đường lối, chủ trương,
chính sách và các biện pháp lớn ấy chỉ trở thành hiện thực khi thông qua hoạt động của hệ
thống chính quyền cấp quận là Hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân, qua sự hưởng ứng
thực hiện của quần chúng nhân dân. Để quần chúng nhân dân hiểu rõ đường lối, chủ
trương, chính sách của Đảng, Nhà nước và tự giác thực hiện tất yếu phải thông qua quá trình
tổ chức thực hiện trên phạm vi địa bàn hoạt động của mỗi địa phương, cơ sở. Vì vậy, không
thể thiếu vai trò trung gian của cấp quận.
Cấp quận là một cấp hành chính được lập ra ở các thành phố trực thuộc trung ương
trong cả nước. Cấp quận trực tiếp lĩnh hội mọi vấn đề về đường lối, chủ trương, chính sách từ
cấp thành phố, chịu sự lãnh đạo và chỉ đạo trực tiếp của thành phố. Đối với cấp quận, nhiều
vấn đề trên địa bàn bị chi phối rất lớn và gắn bó về kinh tế, kế hoạch và sự quản lý của thành
phố. Do sự phát triển về kinh tế - xã hội và quá trình đô thị hoá đang diễn ra ngày càng nhanh
ở nước ta, việc hình thành đơn vị hành chính cấp quận là rất cần thiết.
Trong vài thập kỷ qua, qua việc cải cách thí điểm, một số quận, huyện, tỉnh, thành
phố ở nước ta được sáp nhập với quy mô không thích hợp với điều kiện thực tế. Đến nay,
Nhà nước đã phải hoạch định lại địa giới theo hướng nhỏ và gọn hơn, phù hợp thực tế của
từng vùng, cấp quận trở thành đơn vị hành chính có vai trò thúc đẩy phát triển kinh tế địa
phương.
* Chức năng, quyền hạn cấp quận
Theo Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 và Luật Tổ
chức Hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân năm 2003, chính quyền địa phương ở nước ta
được tổ chức làm ba cấp: tỉnh - thành phố trực thuộc trung ương, quận (huyện), phường
(xã). Trong công cuộc đổi mới đất nước, tổ chức chính quyền địa phương nói chung, chính
quyền quận (huyện) nói riêng có nhiều bước tiến quan trọng. Các cấp chính quyền đã tập
trung vào chức năng quản lý hành chính nhà nước bằng công quyền và pháp luật, quy
hoạch và kế hoạch, có sự kết hợp giữa điều tiết bằng chính sách với sử dụng các nguồn lực
vật chất nhất là nguồn lực về tài chính, tín dụng, kết cấu hạ tầng. Cơ sở pháp lý tổ chức và
hoạt động của chính quyền địa phương được quy định trong Pháp lệnh về nhiệm vụ, quyền
hạn cụ thể của Hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân ở mỗi cấp (25-6-1996). Trong cơ cấu
chính quyền địa phương, Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương,
có tính tự quản và thực hiện ý chí, nguyện vọng của nhân dân địa phương, quyết định chủ
trương, biện pháp phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương phù hợp với lợi ích của nhân dân
và pháp luật. ủy ban nhân dân là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân và nằm trong
tổng thể các cơ quan thuộc nền hành chính quốc gia. Vì vậy, ủy ban nhân dân thực hiện sự
kết hợp chặt chẽ các quá trình quản lý nhà nước cả về mặt lãnh thổ và cả về kinh tế, văn
hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng.
Cụ thể, đối với Hội đồng nhân dân quận (huyện) có chức năng, quyền hạn sau:
- Hội đồng nhân dân quận quyết định kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội hàng năm;
chủ trương, biện pháp về xây dựng, phát triển kinh tế hợp tác xã và kinh tế hộ gia đình ở địa
phương. Quyết định biện pháp bảo đảm thực hiện chương trình khuyến nông, khuyến lâm,
khuyến ngư, khuyến công và phát huy mọi tiềm năng của các thành phần kinh tế ở địa
phương, bảo đảm quyền tự chủ sản xuất, kinh doanh của các cơ sở kinh tế theo quy định của
pháp luật. Dự toán thu ngân sách nhà nước trên địa bàn; dự toán thu chi ngân sách địa phương
và phân bổ dự toán ngân sách cấp mình; phê chuẩn quyết toán ngân sách địa phương; quyết
định các chủ trương, biện pháp triển khai thực hiện ngân sách; điều chỉnh dự toán ngân sách
địa phương trong trường hợp cần thiết; giám sát việc thực hiện ngân sách đã được Hội đồng
nhân dân quyết định. Quy hoạch, kế hoạch mạng lưới giao thông, thủy lợi và biện pháp bảo vệ
đê điều, công trình thủy lợi theo quy định của pháp luật. Quyết định biện pháp thực hành tiết
kiệm, chống lãng phí, chống tham nhũng, chống buôn lậu và gian lận thương mại.
- Quyết định các biện pháp và điều kiện cần thiết để xây dựng mạng lưới giáo dục
mầm non, giáo dục phổ thông trên địa bàn theo quy hoạch chung. Quyết định biện pháp bảo
đảm cơ sở vật chất, điều kiện phát triển sự nghiệp văn hóa, thông tin, thể dục thể thao tại địa
phương. Giữ gìn, bảo quản, trùng tu và phát huy giá trị các công trình văn hóa, nghệ thuật, di
tích lịch sử - văn hóa và danh lam thắng cảnh theo phân cấp. Quyết định biện pháp phòng,
chống tệ nạn xã hội ở địa phương; bảo vệ chăm sóc sức khỏe nhân dân, phòng chống dịch
bệnh; chăm sóc người già, người tàn tật, trẻ mồ côi không nơi nương tựa; bảo vệ, chăm sóc bà
mẹ, trẻ em; thực hiện chính sách dân số kế hoạch hóa gia đình; chính sách ưu đãi đối với
thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sĩ, những người và gia đình có công với nước; thực hiện
chính sách bảo hộ lao động, bảo hiểm xã hội, cứu trợ xã hội, xóa đói, giảm nghèo.
- Quyết định biện pháp ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ, phát huy sáng kiến cải
tiến kỹ thuật để phát triển sản xuất, kinh doanh và đời sống của nhân dân ở địa phương. Quản
lý và sử dụng đất đai, rừng núi, sống hồ, nguồn nước, tài nguyên trong lòng đất, nguồn lợi ở
vùng biển tại địa phương theo quy định của pháp luật. Quyết định biện pháp bảo vệ và cải
thiện môi trường; phòng, chống và khắc phục hậu quả thiên tai, bão lụt ở địa phương; thực
hiện các quy định của pháp luật về tiêu chuẩn đo lường và chất lượng sản phẩm, ngăn chặn
việc sản xuất, lưu hành hàng giả, hàng kém chất lượng ở địa phương, bảo vệ lợi ích của người
tiêu dùng.
- Quyết định biện pháp thực hiện nhiệm vụ xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân và
quốc phòng toàn dân; bảo đảm thực hiện chế độ nghĩa vụ quân sự, xây dựng lực lượng dự bị
động viên, thực hiện nhiệm vụ hậu cần tại chỗ, chính sách hậu phương quân đội và chính sách
đối với lực lượng vũ trang nhân dân ở địa phương; biện pháp kết hợp quốc phòng, an ninh với
kinh tế, kinh tế với quốc phòng, an ninh. Thực hiện nhiệm vụ giữ gìn an ninh, trật tự, an toàn
xã hội; đấu tranh phòng ngừa, chống tội phạm và các hành vi vi phạm pháp luật khác ở địa
phương [11, tr. 20-24].
Đối với ủy ban nhân dân quận (huyện) có chức năng và quyền hạn sau:
- Xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội hàng năm trình Hội đồng nhân dân
cùng cấp thông qua để trình ủy ban nhân dân cấp tỉnh phê duyệt; tổ chức và kiểm tra thực hiện
kế hoạch đó. Lập dự toán thu ngân sách nhà nước trên địa bàn; dự toán thu, chi ngân sách địa
phương, phương án phân bổ dự toán ngân sách cấp mình; quyết toán ngân sách địa phương;
lập dự toán điều chỉnh ngân sách địa phương trong trường cần thiết trình Hội đồng nhân dân
cùng cấp quyết định và báo cáo ủy ban nhân dân, cơ quan tài chính cấp trên trực tiếp. Tổ chức
thực hiện ngân sách địa phương; hướng dẫn, kiểm tra ủy ban nhân dân phường (xã) xây dựng
và thực hiện ngân sách và kiểm tra nghị quyết của Hội đồng nhân dân phường (xã) và thực
hiện ngân sách địa phương theo quy định của pháp luật. Phê chuẩn kế hoạch kinh tế - xã hội
của phường (xã).
- Xây dựng và trình hội đồng nhân dân cùng cấp thông qua các chương trình
khuyết khích phát triển nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp ở địa phương và tổ chức thực
hiện các chương trình đó. Chỉ đạo ủy ban nhân dân phường (xã) thực hiện các biện pháp
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển nông nghiệp, bảo vệ rừng, trồng rừng và khai thác
lâm sản, phát triển ngành, nghề đánh bắt, nuôi trồng và chế biến thủy sản. Thực hiện giao
đất, cho thuê đất và thu hồi đất đối với cá nhân và hộ gia đình, giải quyết các tranh chấp
đất đai, thanh tra đất đai theo quy định của pháp luật. Xét duyệt quy hoạch, kế hoạch sử
dụng đất đai của ủy ban nhân dân phường (xã). Xây dựng quy hoạch thủy lợi; tổ chức bảo
vệ đê điều, các công trình thủy lợi vừa và nhỏ; quản lý mạng lưới thủy nông trên địa bàn
theo quy định của pháp luật.
- Tham gia với ủy ban nhân dân tỉnh (thành phố) trong việc xây dựng quy hoạch, kế
hoạch phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp trên địa bàn. Xây dựng và phát triển các cơ
sở công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ ở các phường (xã). Tổ chức thực hiện xây dựng
và phát triển các làng nghề truyền thống sản xuất các sản phẩm có giá trị tiêu dùng và xuất
khẩu; phát triển các cơ sở chế biến nông, lâm, thủy sản và các cơ sở công nghiệp khác theo sự
chỉ đạo của ủy ban nhân dân tỉnh (thành phố).
- Tổ chức lập, trình duyệt hoặc xét duyệt theo thẩm quyền quy hoạch xây dựng
phường, điểm dân cư nông thôn trên địa bàn quận; quản lý việc thực hiện quy hoạch xây dựng
đã được duyệt. Quản lý, khai thác, sử dụng các công trình giao thông và kết cấu hạ tầng cơ sở
theo sự phân cấp. Quản lý việc xây dựng, cấp giấy phép xây dựng và kiểm tra việc thực hiện
pháp luật về xây dựng; tổ chức thực hiện các chính sách về nhà ở; quản lý đất đai và quỹ nhà
thuộc sở hữu nhà nước trên địa bàn. Quản lý việc khai thác, sản xuất, kinh doanh vật liệu xây
dựng theo phân cấp của ủy ban nhân dân tỉnh (thành phố).
- Xây dựng, phát triển mạng lưới thương mại, dịch vụ, du lịch và kiểm tra việc chấp
hành quy định của Nhà nước về hoạt động thương mại, dịch vụ và du lịch trên địa bàn quận.
Kiểm tra việc thực hiện các quy tắc về an toàn và vệ sinh hoạt động thương mại, dịch vụ, du
lịch trên địa bàn. Kiểm tra việc chấp hành quy định của Nhà nước về hoạt động thương mại,
dịch vụ, du lịch trên địa bàn.
- Xây dựng các chương trình, đề án phát triển văn hóa, giáo dục, thông tin, thể dục
thể thao, y tế, phát triển trên địa bàn quận (huyện) và tổ chức thực hiện sau khi được cấp
có thẩm quyền phê duyệt. Tổ chức và kiểm tra việc thực hiện các quy định của pháp luật
về phổ cấp giáo dục, quản lý các trường tiểu học, trung học cơ sở, trường dạy nghề; tổ
chức các trường mầm non; thực hiện chủ trương xã hội hóa giáo dục trên địa bàn; chỉ đạo
việc xóa mù chữ và thực hiện các quy định về tiêu chuẩn giáo viên, quy chế thi cử. Quản
lý các công trình công cộng được phân cấp; hướng dẫn các phong trào về văn hóa, hoạt
động của các trung tâm văn hóa - thông tin, thể dục thể thao; bảo vệ và phát huy giá trị các
di tích lịch sử - văn hóa và danh lam thắng cảnh do địa phương quản lý. Thực hiện kế
hoạch phát triển sự nghiệp y tế; quản lý các trung tâm y tế, trạm y tế; chỉ đạo và kiểm tra
việc bảo vệ sức khỏe của nhân dân; phòng, chống dịch bệnh; bảo vệ và chăm sóc người
già, người tàn tật, trẻ mồ côi không nơi nương tựa; bảo vệ chăm sóc bà mẹ, trẻ em; thực
hiện chính sách dân số và kế hoạch hóa gia đình; kiểm tra việc chấp hành pháp luật trong
hoạt động của các cơ sở hành nghề y, dược tư nhân, cơ sở in, phát hành, xuất bản phẩm.
Tổ chức, chỉ đạo việc dạy nghề, giải quyết việc làm cho người lao động; tổ chức thực hiện
phong trào xóa đói, giảm nghèo; hướng dẫn hoạt động từ thiện, nhân đạo.
- Thực hiện các biện pháp ứng dụng khoa học, công nghệ phục vụ sản xuất và đời
sống nhân dân ở địa phương. Tổ chức thực hiện bảo vệ môi trường; phòng, chống, khắc phục
hậu quả thiên tai, lũ lụt. Tổ chức thực hiện các quy định của pháp luật về tiêu chuẩn đo lường
và chất lượng sản phẩm; kiểm tra chất lượng sản phẩm và hàng hóa trên địa bàn; ngăn chặn
việc sản xuất và lưu hành hàng giả, hàng kém chất lượng ở địa phương.
- Tổ chức phong trào quần chúng tham gia lực lượng vũ trang và quốc phòng toàn
dân; thực hiện kế hoạch xây dựng khu vực phòng thủ quận (huyện); quản lý lực lượng dự
bị động viên; chỉ đạo việc xây dựng lực lượng dân quân tự vệ, công tác huấn luyện dân
quân tự vệ. Tổ chức đăng ký, khám tuyển nghĩa vụ quân sự; quyết định việc nhập ngũ,
giao quân, việc hoãn, miễn thi hành nghĩa vụ quân sự và xử lý các trường hợp vi phạm
theo quy định của pháp luật. Tổ chức thực hiện nhiệm vụ giữ gìn an ninh, trật tự, an toàn
xã hội, xây dựng lực lượng công an nhân dân vững mạnh, bảo vệ bí mật nhà nước; thực
hiện các biện pháp phòng ngừa, chống tội phạm, các tệ nạn xã hội và các hành vi vi phạm
pháp luật khác ở địa phương. Chỉ đạo và kiểm tra việc thực hiện các quy định của pháp
luật về quản lý hộ khẩu, quản lý việc cư trú, đi lại của người nước ngoài ở địa phương.
Tuyên truyền, giáo dục, vận động nhân dân tham gia phong trào bảo vệ an ninh, trật tự, an
toàn xã hội [11, tr. 82-89].
Ngoài ra, theo Điều 26 Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân, Hội
đồng nhân dân cấp quận còn được giao thực hiện những nhiệm vụ, quyền hạn sau đây: quyết
định các biện pháp đảm bảo thực hiện thống nhất kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và quy
hoạch đô thị của thành phố; quyết định biện pháp bảo đảm trật tự công cộng, giao thông,
phòng, chống cháy, nổ và bảo vệ môi trường, cảnh quan đô thị; quyết định biện pháp quản lý
dân cư đô thị và tổ chức đời sống nhân dân [11].
Như vậy, cấp quận không chỉ thực hiện chức năng quản lý hành chính nhà nước ở địa
phương mà còn được pháp luật trao thẩm quyền cho chính quyền trên các lĩnh vực hoạt động
kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh.
Đối với các cấp chính quyền địa phương trong đó có cấp quận, ngoài Hiến pháp 1992,
Pháp lệnh về nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của chính quyền địa phương mỗi cấp (25-6-1996),
Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân năm 2003, còn có Pháp lệnh về giám sát
và hướng dẫn của ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hướng dẫn và nguyên tắc kiểm tra của Chính
phủ đối với Hội đồng nhân dân, Pháp lệnh Cán bộ công chức, các luật, nghị định, thông tư về
quản lý nhà nước ở các lĩnh vực ngân sách, đất đai, lao động, thương mại... Các văn bản pháp
lý nêu trên đã xác định cụ thể chức năng, nhiệm vụ của quận (huyện) và đặt chính quyền quận
(huyện) vào khung pháp lý chặt chẽ, bảo đảm hoạt động quản lý của bộ máy chính quyền
được thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ theo quy định pháp luật, ràng buộc bởi pháp luật
theo đúng định hướng xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
1.1.2. Nhiệm vụ, nội dung và yêu cầu quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội cấp
quận
* Nhiệm vụ của công tác quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội cấp quận
Để xác định được nhiệm vụ của công tác quy hoạch, trước hết cần xác định quy
hoạch là gì? Theo Từ điển tiếng Việt, xuất bản năm 1992, thì qui hoạch là việc "bố trí, sắp xếp
toàn bộ theo một trình tự hợp lý trong từng thời gian, làm cơ sở cho việc lập kế hoạch dài hạn"
[29, tr. 801].
Quy hoạch là sự phân bố và sắp xếp các hoạt động và các yếu tố sản xuất, dịch vụ và
đời sống trên một địa bàn lãnh thổ (quốc gia, vùng, tỉnh, huyện...) cho một thời kỳ trung hạn,
dài hạn (có chia các giai đoạn) để cụ thể hóa chiến lược phát triển kinh tế - xã hội trên lãnh
thổ, theo thời gian và là cơ sở để lập các kế hoạch phát triển. Phải dựa trên cơ sở tính toán và
khai thác hợp lý, khoa học, có hiệu quả cao các điều kiện thiên nhiên, kinh tế, xã hội, các yếu
tố của lực lượng sản xuất toàn xã hội nhằm đạt được mục tiêu chiến lược đã đề ra [28, tr. 616].
Chất lượng của quy hoạch phụ thuộc vào công tác điều tra cơ bản, dự đoán phát
triển kinh tế, khoa học kỹ thuật và khả năng mở rộng sự hợp tác kinh tế với nước ngoài.
Có các loại quy hoạch: Quy hoạch đô thị, quy hoạch vùng, quy hoạch xây dựng,
quy hoạch kinh tế, quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn...
Quy hoạch đô thị là nghiên cứu những quy luật phát triển của đô thị nhằm giúp
cho việc hoạch định những chính sách, kế hoạch, quy hoạch phát triển đô thị đảm bảo việc
sắp xếp, bố trí các yếu tố tạo nên đô thị và tạo ra một cấu trúc hợp lý đảm bảo sự hoạt động
nhịp nhàng của các yếu tố đó và sự hài hòa của đô thị với môi trường.
Quy hoạch vùng là "dự án thiết kế sử dụng tổng hợp lãnh thổ từng vùng đất đai
của một nước về sử dụng đất đai, về xây dựng cơ bản, tổ chức cân đối giữa các ngành công
nghiệp, nông nghiệp, giao thông, dựa theo thế mạnh của mỗi vùng" [1, tr. 1381].
Nội dung của quy hoạch vùng là bố trí hiệu quả các cơ sở sản xuất - kinh doanh
trên cơ sở sử dụng tổng hợp nguyên liệu, vật tư, lao động, kỹ thuật và tổ chức hợp tác liên
doanh giữa các cơ sở, bố trí dân cư hợp lý nhằm đảm bảo kiến trúc xây dựng, vệ sinh
thuận tiện cho dân, phối hợp sử dụng chung hệ thống cấu trúc hạ tầng và dịch vụ. Quy
hoạch vùng được tiến hành trên cơ sở các vùng kinh tế có ranh giới tương đối ổn định, làm
cơ sở cho việc lập các đồ án thiết kế xây dựng.
Quy hoạch xây dựng là việc tổ chức không gian đô thị và điểm dân cư nông thôn,
hệ thống công trình kỹ thuật, hạ tầng xã hội; tạo lập môi trường sống thích hợp cho người
dân sống tại các vùng lãnh thổ, bảo đảm kết hợp hài hòa giữa lợi ích quốc gia với lợi ích
cộng đồng, đáp ứng các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, bảo vệ
môi trường. Quy hoạch xây dựng được thể hiện thông qua đồ án quy hoạch xây dựng bao
gồm sơ đồ, bản vẽ, mô hình và thuyết minh [12, tr. 10].
Quy hoạch kinh tế là cụ thể hóa chiến lược phát triển kinh tế về mặt không gian và
thời gian. Quy hoạch kinh tế là một dự án khoa học tổng hợp các quy hoạch, kế hoạch và
dự án cụ thể, chi tiết thành một bản quy hoạch chung cho cả vùng (hoặc cả ngành) nhằm
đạt các mục tiêu và các định hướng trong chiến lược phát triển đã đề ra cho vùng, ngành
[20, tr. 27].
Vậy quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội là luận chứng khoa học về phát triển và
phân bố các ngành kinh tế trong mối quan hệ cấu trúc, làm cho chúng phát triển cân đối,
hài hòa, thúc đẩy lẫn nhau, trong đó có những ngành mũi nhọn, những ngành chuyên môn
hóa, những ngành hỗ trợ, bổ trợ. Căn cứ vào các điều kiện tự nhiên, kinh tế và xã hội trong
từng thời kỳ và từng vùng để khai thác hợp lý và bảo vệ môi trường, phân bổ dân cư, phát
triển sản xuất, nâng cao đời sống của nhân dân.
Như vậy, quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội là quá trình bố trí, sắp xếp các lĩnh
vực kinh tế, xã hội theo một trình tự hợp lý, có kế hoạch để làm tiền đề cho việc định
hướng phát triển kinh tế theo đúng hướng đã định.
Quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội là một chức năng gắn liền với nhiệm vụ của
bộ máy công quyền. Chức năng này được thực hiện ở cả bốn cấp chính quyền, trong đó
cấp quận có vai trò quan trọng.
Nhiệm vụ của công tác quy hoạch cấp quận: Quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội
cấp quận bao gồm nhiều hoạt động liên tục và gồm nhiều giai đoạn: nghiên cứu, thiết kế,
xây dựng chương trình... nhưng có quan hệ mật thiết với nhau. Nếu như việc quy hoạch
tổng thể chủ yếu mang tính định hướng thì quy hoạch chi tiết phân khu chức năng cho
từng ngành và cấp dưới (phường) mang tính quản lý cao hơn. Nó quy định cụ thể những
vấn đề cần làm và chính những quy định pháp lý được đề xuất nhằm mang lại phúc lợi và
an toàn cho dân cư. Trong nhiều trường hợp, quy hoạch có tác dụng định hướng cho sự
phát triển kinh tế - xã hội và kiểm soát, ngăn chặn các hoạt động xây dựng, sản xuất không
theo định hướng, tùy tiện, bất chấp lợi ích công cộng.
Bên cạnh quy hoạch tổng thể chung cho quận, trong quản lý còn chú ý đến quy
hoạch cấp cộng đồng vì nó gắn liền với việc cải tạo công trình ở các phường. Việc cải tạo
có hai phương thức: Một là, xây dựng lại, tức là phá bỏ những công trình cũ (nhà cũ,
đường phố cũ…) để xây dựng lại hoàn toàn mới; hai là, tu bổ tức là chỉ sửa sang chút ít. ở
nhiều nước, trước đây người ta thực hiện quy hoạch cải tạo ban đầu nặng về xây dựng lại
và tái trang bị vật chất, gần đây lại thiên về tu bổ và thực hiện các chương trình xã hội; đây
cũng là khuynh hướng chủ yếu của một số nước mới phát triển trong việc xác định bước
quy hoạch xây dựng đô thị của mình. Kinh nghiệm cho thấy, việc cải tạo đô thị nhiều khi
lại làm trầm trọng thêm những vấn đề mà người ta muốn giải quyết. Ví dụ, nhà cũ nát
muốn phá đi để làm cao ốc sang trọng, nhưng khi thực hiện giá thành nhà ở mới lại quá đắt
so với túi tiền của người có thu nhập thấp, một đối tượng chiếm tỷ trọng khá lớn tại các
nước nghèo và đang phát triển. Do vậy, khi tiến hành cải tạo các khu phố cũ nát, người
nghèo bắt buộc phải chuyển chỗ ở, nhường cho những người giàu để tìm những "ổ chuột"
mới hợp với thu nhập của họ.
Đối với việc quy hoạch phát triển các khu đô thị mới, ai cũng biết là các khu đô thị
đều rất khác nhau ở mỗi nước hoặc ở mỗi giai đoạn phát triển trong cùng một nước, nhất là
về quy mô, chuyên biệt hóa trong nội bộ, về phương thức xây dựng khu dân cư, về cơ cấu
dân cư… nhưng khi thiết kế, nhà quy hoạch đều hướng trực tiếp vào việc cải thiện các vấn
đề đô thị. Tại mỗi khu đô thị mới đều nhằm giải quyết những nhu cầu riêng biệt của từng
cơ sở. Tuy nhiên, trong nội bộ cấp quận, việc xác định tính chuyên biệt nhằm định hướng
quy hoạch phát triển cũng đòi hỏi phải có tính khoa học và sự cẩn trọng.
Quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội cấp quận và việc tổ chức không gian kiến
trúc, bố trí xây dựng các công trình trong quận qua từng thời kỳ, làm cơ sở cho việc đầu tư
xây dựng, phát triển kinh tế - xã hội. Đồng thời, việc quy hoạch có vai trò định hướng phát
triển không gian, là tiền đề sử dụng đất có hiệu quả nhằm phát triển kinh tế - xã hội trên địa
bàn quận. Do đó, quy hoạch có vai trò là cơ sở cho việc xác định chiến lược phát triển hợp
lý trong từng giai đoạn và việc định hướng phát triển lâu dài cho quận về mặt tổ chức sản
xuất, tổ chức đời sống và tổ chức không gian kiến trúc cảnh quan, môi trường ở quận.
Trong những năm qua, do tác động của sự phát triển nền kinh tế thị trường, chính
sách mở cửa, sự quan tâm của Đảng và Nhà nước đối với công tác quy hoạch, đầu tư cải
tạo và xây dựng cơ sở hạ tầng… các đô thị ở nước ta, trong đó có Hà Nội, đã phát triển
nhanh chóng, đảm nhiệm được vai trò trung tâm phát triển công nghiệp với cơ cấu các
ngành công nghiệp, dịch vụ hợp lý, trong đó hình thành các ngành nghề mới, các trung tâm
phát triển và chuyển giao công nghệ trong vùng theo các ngành, là nơi giao lưu thương mại
trong nước và nước ngoài, thu hút đầu tư phát triển kinh tế đối ngoại, trở thành trung tâm
dịch vụ, phát triển văn hóa, giáo dục, nâng cao dân trí, và phát triển nguồn lực, giữ vai trò
tăng thu ngân sách cho nhà nước hàng năm.
Từ năm 1992 về trước, việc quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội ở các đô thị ít
được chú ý. Ngày 17/8/1994, Chính phủ ban hành Nghị định số 91/CP về điều lệ quản lý
quy hoạch đô thị, trong đó quy định: "Đô thị phải được xây dựng, phát triển theo quy
hoạch…", và "việc cải tạo và xây dựng đô thị phải căn cứ vào quy hoạch xây dựng đô thị
được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt" [14], đến năm 2003 có 86 thành phố, thị
xã và hàng trăm thị trấn có quy hoạch xây dựng chung được duyệt hoặc đang điều chỉnh
quy hoạch. Hiện nay, nước ta có gần 700 đô thị các loại với dân số chiếm 25% cả nước,
gần 50% dân số đô thị đang tập trung tại Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh. Dự báo đến
2010, dân số đô thị chiếm 33%, đến 2020 sẽ chiếm 45% dân số cả nước.
Rõ ràng trong điều kiện nền kinh tế phát triển với tốc độ cao, đô thị hóa sẽ diễn ra
mạnh mẽ, vai trò của quản lý nhà nước cần được tăng cường mạnh mẽ trong việc quy
hoạch xây dựng đô thị, đòi hỏi phải rà soát lại công tác quản lý quy hoạch xây dựng trên
phạm vi toàn quốc, đối với từng lãnh thổ, từng tỉnh, từng đô thị và mỗi điểm dân cư để
Nhà nước có biện pháp chỉ đạo hiệu quả xây dựng theo quy hoạch, tránh tình trạng manh
mún, phân tán, thiếu mỹ quan và không có quy hoạch. Hội nghị lần thứ 9 của Ban Chấp
hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (khóa IX) đã nêu ra các nhóm chủ trương,
chính sách, giải pháp lớn cần tập trung thực hiện. Trong đó có nhóm giải pháp về phát
triển kinh tế đã nêu: "Tăng cường đầu tư cho công tác quản lý quy hoạch xây dựng đô
thị…" [4].
Những năm qua, quá trình đô thị hóa ở nước ta diễn ra nhanh chóng, Nhà nước đã
ban hành nhiều văn bản pháp quy để quản lý, điều chỉnh quy hoạch, xây dựng đô thị và
thiết lập trật tự kiến trúc đô thị, mới nhất là hai luật đất đai (2003) và Luật Xây dựng
(2003) có hiệu lực từ 1-7-2004, đã đáp ứng được nhu cầu quản lý và phát triển đất nước.
Trong đó, Luật Xây dựng quy định nhiệm vụ công tác quản lý nhà nước về quy hoạch và
quy định nhiệm vụ, nội dung công tác quy hoạch cho cấp quận ở các thành phố. Trên cơ sở
các văn bản luật pháp về quy hoạch, cộng với nhiệm vụ quản lý, kế hoạch hóa của chính
quyền cấp quận, có thể nêu lên ba nhiệm vụ cơ bản sau đây của công tác quy hoạch phát
triển kinh tế - xã hội cấp quận:
- Đối với quy hoạch chung cần xác định tính chất, đặc trưng của quận, quy mô dân
số và định hướng phát triển không gian trong quận, các công trình hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng
xã hội cho từng giai đoạn 5 năm, 10 năm và dự báo hướng phát triển cho giai đoạn 20
năm. Qua đó phải xác định những khu vực cần giải tỏa, những khu vực được giữ lại để
chỉnh trang, những khu vực cần được bảo vệ và những yêu cầu cụ thể khác theo đặc điểm
của từng đơn vị.
- Đối với quy hoạch chi tiết cần làm rõ yêu cầu diện tích sử dụng đất, quy mô,
phạm vi quy hoạch chi tiết, thiết kế đô thị, thiết kế đồng bộ và các công trình hạ tầng kỹ
thuật, hạ tầng xã hội trong khu vực thiết kế. Lập danh mục đề xuất biện pháp cải tạo cho
những công trình cần giữ lại trong khu vực quy hoạch cải tạo.
- Các đồ án quy hoạch xây dựng ở quận sau khi được duyệt cần được tổ chức và
thực hiện trên cơ sở áp dụng đồng bộ các biện pháp: Ban hành quy chế quản lý xây dựng
theo quy hoạch; tổ chức công bố và công khai các đồ án quy hoạch xây dựng để thực hiện
cơ chế giám sát việc lập và thực hiện quy hoạch xây dựng; cung cấp thông tin về quy
hoạch xây dựng, tạo điều kiện để cho các tổ chức, cá nhân xây dựng công trình phù hợp
với quy hoạch đảm bảo chất lượng kiến trúc, cảnh quan và môi trường của quận.
* Nội dung quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội cấp quận
- Trên cơ sở quy hoạch chung của thành phố, nội dung của công tác quy hoạch
phát triển kinh tế - xã hội cấp quận là đánh giá việc thực hiện quy hoạch hàng năm và xác
định đúng các nguồn lực hiện có để qua đó bố trí, sắp xếp lại các nguồn lực cho hợp lý
nhằm thúc đẩy kinh tế - xã hội trong quận phát triển ổn định, bền vững.
- Xác định được hệ thống các khu đô thị các điểm dân cư để phục vụ cho quy
hoạch các khu công nghiệp, nông nghiệp và du lịch, các khu vực bảo vệ môi trường, tài
nguyên thiên nhiên và các khu chức năng khác. Bố trí hệ thống các công trình hạ tầng kỹ
thuật, không gian và các biện pháp bảo vệ môi trường. Định hướng phát triển các công
trình chuyên ngành. Xác định đất dự trữ để phục vụ cho nhu cầu phát triển kinh tế và sử
dụng đất có hiệu quả.
- Nội dung quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội cấp quận phải xác định tổng mặt
bằng sử dụng đất của quận theo quy mô dân số của từng giai đoạn quy hoạch; phân khu
chức năng đô thị; mật độ dân số, hệ số sử dụng đất và các chỉ tiêu kinh tế - kỹ thuật khác
của từng khu chức năng và của đô thị; bố trí tổng thể các công trình hạ tầng kỹ thuật đô thị,
xác định chỉ giới xây dựng, chỉ giới đường đỏ của các tuyến đường giao thông chính đô
thị, xác định cốt xây dựng khống chế của từng khu vực và toàn đô thị. Quy hoạch đô thị
phải được thiết kế theo quy chuẩn, tiêu chuẩn xây dựng, phải tận dụng địa hình, cây xanh,
mặt nước và các điều kiện thiên nhiên nơi quy hoạch, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc.
Trong trường hợp quy hoạch chung xây dựng cải tạo đô thị phải đề xuất được các giải
pháp giữ lại những công trình, cảnh quan hiện có phù hợp với nhiệm vụ đề ra.
- Xác định các khu chức năng, hệ thống các công trình hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã
hội, hướng phát triển cho từng điểm dân cư, thiết kế mẫu nhà ở phù hợp với điều kiện tự
nhiên, phong tục tập quán cho từng vùng để hướng dẫn nhân dân xây dựng. Quy hoạch chi
tiết xây dựng khu trung tâm quận phải xác định vị trí, diện tích xây dựng của các công
trình: trụ sở làm việc của các cơ quan, tổ chức, các công trình giáo dục, y tế, văn hóa, thể
dục thể thao, thương mại dịch vụ và các công trình khác. Đối với các điểm dân cư phường
đang tồn tại ổn định lâu dài, khi thực hiện quy hoạch xây dựng thì phải thiết kế cải tạo,
chỉnh trang các khu chức năng, các công trình hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội.
- Quy hoạch các công trình văn hóa xã hội, cơ sở hạ tầng kỹ thuật bao gồm: trường
học, bệnh viện, trung tâm văn hóa, các tuyến giao thông, cấp thoát nước, vệ sinh môi
trường, cung cấp năng lượng, chiếu sáng công cộng, thông tin bưu điện… Mọi công trình
văn hóa xã hội, cơ sở hạ tầng kỹ thuật ở quận khi xây dựng xong phải được tổ chức
nghiệm thu, bàn giao cho các cơ quan chuyên trách của nhà nước quản lý, sử dụng và khai
thác công trình đó.
Công tác quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội có vai trò rất quan trọng, mở đường
cho sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tránh sự phát triển tự phát về xây dựng và các hoạt
động kinh tế - xã hội, mà thường để lại nhiều hậu quả. Quy trình tổ chức xét duyệt chương
trình quy hoạch, kể cả khâu lập quy hoạch đòi hỏi cần phải đổi mới và thực hiện một cách
cẩn trọng, trách nhiệm, nhằm tránh cho ra đời những sản phẩm quy hoạch kém chất lượng,
gây tổn hại quá trình phát triển kinh tế - xã hội cho quận.
* Yêu cầu đổi mới quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội cấp quận
- Đô thị hóa là xu thế tất yếu đối với các nước đang phát triển, bên cạnh xu thế ấy
bao giờ cũng có một xu thế khác là sự tự phát hình thành các khu, cụm dân cư. Nguyên
nhân kinh tế dẫn tới sự di dân tự phát và việc chưa coi trọng công tác quản lý quy hoạch
xây dựng của các cấp chính quyền. Nhiều vấn đề thực tiễn liên quan đến quản lý quy
hoạch xây dựng ở quận là sự hỗn độn, mất trật tự trong xây dựng, quản lý đất đai, bảo vệ
môi trường, ùn tắc giao thông… đã khiến cho nhiều vấn đề trở nên khó khăn, phức tạp
trong nhận thức và thực thi các giải pháp đề ra.
- Thời gian gần đây công luận đã nói nhiều đến vấn đề quy hoạch "treo", nhưng
thực tế cho thấy còn có quy hoạch kết hợp với đầu cơ đất, quy hoạch "điều chỉnh"…
Quy hoạch "treo" là loại quy hoạch không mang tính khả thi, làm ra để đó, gây tốn
tiền của, thời gian và luôn đe dọa sự ổn định nơi ở của người dân, kìm hãm sự phát triển.
Quy hoạch kết hợp với đầu cơ đất được ngụy trang với tên gọi quy hoạch chính danh,
không kinh doanh để có thể tiến hành tự đền bù đất trên những diện tích khá rộng, thường
dừng ở việc phân lô và tuy có khá đủ các cơ sở hạ tầng kỹ thuật đô thị, nhưng thường thiếu
cơ sở hạ tầng xã hội. Những lô đất được khoanh vùng rồi để đó, không thấy xây dựng mà
chỉ được thực hiện việc mua đi bán lại tìm chênh lệch giá, tạo nên một thị trường ảo về
nhu cầu nhà ở.
Với quy hoạch "điều chỉnh" tuy ban đầu thực hiện quy hoạch chi tiết rất công phu,
đầy đủ. Sau thời gian thực hiện quy hoạch, thông qua đền bù, giải tỏa và đầu tư xây dựng
cơ sở hạ tầng kỹ thuật, các bất cập bắt đầu nảy sinh: đền bù không dứt điểm, lợi nhuận
thực tế đối với một số loại hình nhà ở đột biến cao lên, dễ kinh doanh, lợi nhuận siêu
ngạch mà không cần bỏ thêm vốn, không cần thực hiện những công trình hạ tầng xã hội
mang tính nghĩa vụ, tuy nhiên vẫn phải điều chỉnh lại quy hoạch để đảm bảo cho lợi nhuận
siêu ngạch thấy trước. Thông qua những báo cáo, yêu cầu điều chỉnh quy hoạch tại một số
điểm của dự án sẽ được xem là sự cần thiết, khả thi hơn… để có được ủng hộ, phê duyệt từ
những đơn vị nhà nước quản lý quy hoạch.
- Yêu cầu đặt ra là phải đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ và sự phối hợp các
ngành, các cấp trong quản lý quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội cấp quận. Việc quản lý
quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội cấp quận phải có một bộ máy thích hợp với các yêu
cầu, nhiệm vụ đặt ra. Quản lý cấp quận khác với quản lý cấp huyện trên nhiều lĩnh vực,
bởi tính phức tạp, đa dạng của nó. Nếu việc quản lý ở cấp quận cũng theo một khung với
chế độ quản lý vùng nông thôn thì không thể giải quyết hiệu quả những vấn đề nảy sinh từ
thực tiễn đô thị. Cần phân định rõ chức năng của chính quyền quận và cơ quan chuyên
môn, đồng thời nghiên cứu tổ chức bộ máy quản lý ở quận sao cho phù hợp, thể hiện được
sự phối hợp chặt chẽ giữa các ngành, các cấp trong quản lý quy hoạch phát triển kinh tế -
xã hội.
- Sự phân cấp quản lý quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội cấp quận là một yêu
cầu quan trọng về đổi mới quản lý, tuy nhiên sự phân cấp cần thể hiện rõ sự thống nhất
phối hợp, phân định trách nhiệm, tránh việc đùn đẩy công việc cuối cùng gây khó khăn
cho người dân. Cụ thể là, việc quy hoạch phải thông qua Hội đồng nhân dân quận là điều
rất cần thiết. Tuy nhiên, để đảm bảo chất lượng việc quy hoạch cần tăng cường tính
chuyên trách hay khả năng phản biện tốt của Hội đồng nhân dân. Thực tế cho thấy, nhiều
bản quy hoạch thông qua Hội đồng nhân dân rất dễ dàng, dường như các đại biểu ít cho ý
kiến hoặc không thể tham gia ý kiến, nhưng sau khi xuất hiện những bất cập trong quá
trình triển khai thực hiện chương trình quy hoạch, Hội đồng nhân dân lại phải họp đi họp
lại nhiều lần để xem xét các khiếu nại của nhân dân.
Đối với việc quản lý quy hoạch cấp quận phải dựa trên một hệ thống thể chế, chính
sách cũng như hệ thống tổ chức thực thi pháp luật thống nhất trên một số lĩnh vực của đời
sống đô thị như quản lý đất đai, quản lý giao thông, cơ sở hạ tầng kỹ thuật và xã hội, chính
sách quản lý dân cư, dân số, bảo vệ môi trường, sử dụng các không gian công cộng đô thị…
Về lĩnh vực này, thực tế cho thấy đã xuất hiện những vấn đề vừa thiếu lại vừa thừa, không
đồng bộ, thay đổi liên tục. Do đó, sự phân cấp nếu không phân định rõ trách nhiệm cụ thể thì
việc quy hoạch không thể hiện được tính khả thi và bộ máy quản lý của chính quyền quận dễ
sa vào việc giải quyết những hệ lụy nảy sinh.
1.2. Các Yếu Tố Tiềm NĂNG Và Nguồn Lực Phát Triển KINH Tế - Xã Hội
Quận LONG BIÊN
1.2.1. Các yếu tố tiềm năng phát triển kinh tế - xã hội quận Long Biên
* Về vị trí địa lý
Quận Long Biên được thành lập theo Nghị định 132/2003/NĐ-CP ngày 06-11-
2003 trên cơ sở điều chỉnh địa giới hành chính của huyện Gia Lâm với 14 đơn vị hành
chính trực thuộc, gồm các phường Gia Thụy, Ngọc Lâm, Bồ Đề, Phúc Đồng, Phúc Lợi,
Thượng Thanh, Giang Biên, Ngọc Thụy, Việt Hưng, Long Biên, Thạch Bàn, Cự Khối,
Đức Giang, Sài Đồng.
Quận Long Biên nằm ở cửa ngõ phía Đông Bắc của Thủ đô Hà Nội, phía Bắc giáp
sông Đuống, phía Đông giáp huyện Gia Lâm, phía Tây giáp huyện Đông Anh, phía Nam giáp
sông Hồng. Vị trí địa lý đặc thù của quận, nằm giữa hai con sông lớn là sông Hồng và sông
Đuống, tạo cho Long Biên có tiềm năng quan trọng cho phát triển các cụm công nghiệp kỹ
thuật cao, cho quá trình phát triển đô thị hiện đại, đồng thời tạo được sự giao lưu trong hoạt
động kinh tế. Quận Long Biên cũng là nơi tập trung nhiều đầu mối giao thông quan trọng với
nhiều đường giao thông lớn như đường sắt, quốc lộ, đường thủy nối liền các tỉnh phía Bắc
(Lạng Sơn, Bắc Ninh, Bắc Giang), các tỉnh phía Đông Bắc (Hải Dương, Hải Phòng, Quảng
Ninh). Đây là điều kiện thuận lợi cho sự liên kết kinh tế giữa quận với các tỉnh và thành phố
lân cận, mở rộng thị trường kinh doanh và dịch vụ.
Nằm trong vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng, và ở trên trục tam giác kinh tế Hà
Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh. Vị trí địa lý này tạo nên một sức hút mạnh để quận Long
Biên phát triển nhanh về kinh tế - xã hội, theo kịp nhịp độ phát triển chung của Thủ đô Hà
Nội.
Quận Long Biên có vị trí địa lý rất thuận lợi gần các trục giao thông chính: đường
bộ, đường hàng không, đường sông, đường sắt nên rất dễ dàng cho các phương tiện vận
chuyển tập kết nguyên vật liệu đầu vào và các sản phẩm đầu ra của quá trình sản xuất.
Long Biên là điểm xuất phát của đường quốc lộ số 5, là điểm trung chuyển của quốc lộ 1A
và nhiều tuyến đường chiến lược khác, là cửa ngõ nối giữa Hà Nội với các trung tâm công
nghiệp lớn của vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ như Hải Phòng, Quảng Ninh, Hưng Yên,
Hải Dương, Bắc Ninh…
Long Biên là nơi tập trung các khu công nghiệp lớn của thành phố và cả nước như
Đức Giang, Sài Đồng A và B đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt quy hoạch, nhiều
doanh nghiệp công nghiệp đã đi vào sản xuất ổn định.
Quận Long Biên có nguồn lao động khá dồi dào, nếu được đào tạo tốt sẽ có khả
năng đáp ứng được cho phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và xây dựng.
Quận Long Biên mới được thành lập, trên địa bàn đang triển khai các công trình
trọng điểm của quốc gia và thành phố, đặc biệt là các công trình xây dựng dân dụng và
giao thông, cơ sở hạ tầng đang đứng trước yêu cầu cấn hoàn thiện phục vụ phát triển kinh
tế - xã hội. Đây là điều kiện thuận lợi để phát triển ngành xây dựng trong thời gian tới.
Với vị trị địa lý thuận lợi, có tính đặc trưng so với các quận nội thành khác sẽ tạo
điều kiện cho quận Long Biên phát triển các ngành kinh tế - xã hội. Vì vậy, tuy mới thành
lập, nhưng quận Long Biên có vai trò nhất định đối với sự phát triển của Thủ đô Hà Nội.
* Về điều kiện tự nhiên
Quận Long Biên nằm trong phạm vi hai tuyến đê sông Hồng và sông Đuống với
địa hình lòng máng cao ven theo đê hai sông. Địa hình quận tương đối bằng phẳng, thấp
dần từ Tây Bắc xuống Đông Nam theo hướng chung của địa hình và theo hướng của dòng
sông Hồng. Địa hình Long Biên khá đa dạng, làm nền tảng cho cảnh quan tự nhiên, tạo
thuận lợi cho phát triển kinh tế, xây dựng các công trình hạ tầng, dân dụng và khu công
nghiệp.
Quận Long Biên mang sắc thái đặc trưng của khí hậu vùng nhiệt đới ẩm, gió mùa.
Từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau là mùa đông lạnh, thời kỳ đầu thường hanh khô nhưng
đến nửa cuối của mùa đông lại thường ẩm ướt. Nhiệt độ trung bình hàng năm đạt 23 - 240C, biên độ dao động nhiệt giữa ngày và đêm khoảng 6-70C. Độ ẩm trung bình hàng
năm của quận khoảng 82%, ít thay đổi theo các tháng, thường dao động trong khoảng 78 -
87%. Lượng mưa trung bình khoảng 1.600 - 1.800 mm. Long Biên chịu ảnh hưởng chế độ thủy văn của sông Hồng và sông Đuống: lưu lượng trung bình nhiều năm là 2.710 m3/s,
mực nước lũ thường cao từ 9 - 12 m (độ cao trung bình mặt đê là 14 - 14,5 m).
Về đất đai: Theo số liệu thống kê đến ngày 1-10-2004, quận Long Biên có diện tích
6.038 ha, là quận có điện tích lớn nhất trong số các quận nội thành Hà Nội. Trong đó đất nông
nghiệp là 2.258,01 ha, chiếm 34,17%; diện tích đất canh tác là 1.644,2 ha được chia thành hai
vùng: vùng trong đồng là 1.114,8 ha, vùng ngoài bãi là 529,4 ha. Diện tích đất ngoài bãi
thuộc loại đất phù sa được bồi đắp hàng năm, chất đất tốt, tạo điều kiện thuận lợi cho sản
xuất nông nghiệp. Trong tương lai, diện tích đất này có thể chuyển đổi mục đích sử dụng
sang nông nghiệp đô thị - sinh thái kết hợp với phục vụ cho du lịch thì đây có thể trở thành
một nét độc đáo của quận.
Bảng 1.1: Diện tích các loại đất của quận Long Biên (đến 10-2004) [16]
STT Loại đất Hiện trạng (2004)
1 Đất nông nghiệp 2.258,01 ha 37,41%
2 Đất chuyên dùng 1809,64 ha 29,97%
3 Đất ở 724,28 ha 11,99%
4 Đất chưa sử dụng 1246,29 ha 20,631%
Cộng: 6038,24 ha 100%
Diện tích đất nông nghiệp chiếm tỷ lệ tương đối lớn trong tổng diện tích của quận.
Tuy nhiên, do tốc độ đô thị hóa nhanh, diện tích đất sản xuất nông nghiệp bị thu hẹp trung
bình 1 năm giảm từ 100 - 120 ha nên phần lớn diện tích còn lại là đất kẹt trong các khu dân
cư, khu công nghiệp, ảnh hưởng tới sản xuất nông nghiệp và cần có sự chuyển mục đích sử
dụng để tăng hiện quả sử dụng đất hiện có của quận.
Trong số đất nông nghiệp, quận Long Biên còn có 106,94 ha đất vườn tạp, 7,63 ha
đất trồng cây lâu năm và 5,27 ha đất trồng cỏ chăn nuôi. Diện tích đất này không còn phù
hợp với một quân nội thành của Thủ đô. Đây là quỹ đất có thể dành cho phát triển nông
nghiệp đô thị với nét đặc trưng là nông nghiệp sinh thái. Đồng thời đây cũng là quỹ đất dự
trữ cho quá trình đô thị hóa.
Đất chuyên dùng là 1.809,64 ha, chiếm 29,9% tổng diện tích đất toàn quận. Trong đó đất
dành cho xây dựng cơ bản là 562,42 ha, diện tích đất giao thông là 386,58 ha. Đất ở là 724,28
ha, chiếm 12,85% tổng diện tích của quận, trong đó diện tích đất ở nông thôn chiếm 474,41 ha.
Đất chưa sử dụng là 1246,29 ha, chiếm 20,63% diện tích đất tự nhiên toàn quận, trong đó diện
tích đất bằng chưa sử dụng là 67,16 ha sẽ là một nhân tố quan trọng tạo điều kiện thuận lợi cho
việc xây dựng các công trình công cộng, xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật đô thị. Việc xây
dựng các công trình mới trên địa bàn quận sẽ có thuận lợi hơn so với các quận nội thành khác
về giải phóng mặt bằng cũng như ngân sách chi trả tiền đền bù đất.
Quận Long Biên đang trong quá trình đô thị hóa với tốc độ khá nhanh, nhu cầu sử
dụng đất rất lớn. Đồng thời cùng với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu sử dụng
đất cũng sẽ có những biến động liên tục. Với quỹ đất hiện có, đặc biệt là với diện tích đất
nông nghiệp và diện tích đất chưa sử dụng khá lớn, trong khoảng thời gian từ nay đến năm
2015, việc chuyển đổi chức năng sử dụng đất cho quy hoạch tổng thể trên địa bàn quận
còn tương đối thuận lợi. Đây là điều kiện cho sự phát triển của các ngành, các lĩnh vực và
cho xây dựng cơ sở hạ tầng với quy mô, tương xứng với một quận nội thành của Thủ đô
Hà Nội.
Tài nguyên và khoáng sản: Với hệ thống sông Hồng và sông Đuống có thể làm cơ
sở cho phát triển công nghiệp khai thác cát, đáp ứng nhu cầu vật liệu xây dựng trên địa bàn
quận. Tuy nhiên, cần phải có quy hoạch và quản lý khai thác để tránh ảnh hưởng đến dòng
chảy và sụt lở ở bờ sông.
1.2.2. Nguồn lực phát triển kinh tế - xã hội quận Long Biên
Quận Long Biên hiện có hơn 182.000 nhân khẩu. Mật độ dân số bình quân 3.075 người/ km2, thấp hơn so với bình quân chung của toàn thành phố Hà Nội. Chính vì vậy,
sức ép về nhà ở, việc làm và một số vấn đề xã hội khác trên địa bàn quận không thực sự là
vấn đề bức xúc như một số quận khác của Thủ đô. Tuy nhiên, sự phân bố dân cư không
đồng đều giữa các phường trong quận. Đông dân nhất là phường Ngọc Lâm với 18.377
người/ km2 nằm trong lòng thị trấn Gia Lâm cũ, địa bàn trải dài theo trục đường quốc lộ 1. Phường có mật độ dân thấp nhất là phường Cự Khối 1.247 người/ km2.
Long Biên là quận mới thành lập, kinh tế đang trong giai đoạn đầu xây dựng và
phát triển với nhiều dự án lớn đang được xây dựng và triển khai, nên có nhiều biến động
trong quy mô dân số. Năm 2003, tốc độ dân số trung bình toàn quận là 4,24%. Tuy nhiên,
tốc độ tăng cơ học cũng có sự chênh lệch rất rõ giữa các phường. Phường Thượng Thanh tốc
độ dân số cơ học lên tới 23,29% trong khi đó ở một số phường lại có tình trạng tốc độ dân
số cơ học âm.
Dân số tăng sẽ làm tăng lực lượng lao động tham gia các hoạt động kinh tế trên các
địa bàn, tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, dân số tăng nhanh sẽ
kéo theo những yêu cầu về giải quyết việc làm, nhà ở và các vấn đề xã hội khác.
Lao động là nhân tố quan trọng thúc đẩy phát triển kinh tế. Theo số liệu Phòng
Thống kê quận Long Biên, đến 31-12-2004 dân số trong độ tuổi lao động là 126.133 người
(chiếm 69,29% dân số). Đây là lực lượng lao động trực tiếp, là động lực cho tăng trưởng
và phát triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, hiện nay quận Long Biên vẫn còn một lượng lao
động chưa được huy động cho sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội. Số người chưa có việc
làm năm 2004 là 7.651 người, chiếm 6,07 số người trong độ tuổi lao động. Một phần trong
số người chưa có việc làm là những lao động nông nghiệp bị mất đất nông nghiệp do ảnh
hưởng của quá trình đô thị hóa.
Trong tổng số nguồn lao động, phần lớn vẫn là lao động phổ thông, chiếm tỷ lệ 80%.
Số người lao động qua đào tạo năm 2004 đạt 20% tương đương tỷ lệ chung của cả nước. Cơ
cấu về trình độ lao động theo tỷ lệ: 1 đại học - 0,68 trung học chuyên nghiệp - 1,67 công nhân
kỹ thuật. So sánh với tính toán của các chuyên gia về yêu cầu hiện nay phải là 1 đại học - 4
trung học chuyên nghiệp - 14 công nhân kỹ thuật thì cơ cấu lao động của quận chưa hợp lý,
cần chuyển dịch theo hướng tăng nhanh số lượng lao động được đào tạo ở bậc trung học
chuyên nghiệp và dạy nghề.
Hiện nay, lao động của quận đã đáp ứng được yêu cầu công việc. Song với tốc độ
phát triển kinh tế - xã hội cùng với sự phát triển khoa học kỹ thuật theo hướng công nghiệp
hóa, hiện đại hóa thì chất lượng lao động của quận chưa đáp ứng được yêu cầu.
Là quận nội thành của Thủ đô, Long Biên đã bước đầu thu hút được lao động có
trình độ chuyên môn cao đến làm việc tại các cơ sở sản xuất, kinh doanh trên địa bàn. Với
tiềm năng phát triển công nghiệp và dịch vụ, quận sẽ tiếp tục thu hút được đội ngũ lao
động có trình độ đến làm việc.
Về cơ cấu lao động: Cùng với việc phát triển các thành phần kinh tế, lao động của
quận phân bổ 30% vào khu vực kinh tế nhà nước. Khu vực kinh tế ngoài nhà nước thu hút
và tạo việc làm cho một bộ phận lớn lao động trên địa bàn quận (66%). Tuy nhiên, là một
quận tập trung nhiều khu công nghiệp, thu hút được nhiều nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài, nhưng số lao động tham gia làm việc trong khu vực này chiếm tỷ trọng rất nhỏ
(chiếm 4%). Điều này chứng tỏ, về mặt chất lượng, lao động của quận và còn chưa đáp
ứng được yêu cầu cao của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Cơ cấu lao động theo ngành kinh tế trong những năm qua chưa có biến đổi tích
cực. Lao động trong các ngành kinh tế có sự dịch chuyển từ ngành nông nghiệp sang công
nghiệp nhưng vẫn chỉ là thay đổi nhỏ. Lao động trong ngành nông nghiệp chiếm tỷ lệ rất
cao (khoảng 50% trong tổng số lao động). Lao động trong ngành công nghiệp và dịch vụ
chiếm tỷ lệ thấp, chưa tương xứng với quận nội thành.
Trong khi lao động nông nghiệp chiếm tỷ trọng cao, nhưng tỷ lệ sử dụng thời gian
lao động ở nông thôn chỉ đạt khoảng 40%. Như vậy, tình trạng lãng phí lao động còn khá
lớn. Số lao động này nếu được đào tạo nâng cao trình độ, sẽ là lực lượng đáp ứng cho mục
tiêu chuyển dịch cơ cấu kinh tế của quận trong những năm tới.
Với tiềm năng về vị trí địa lý và đất đai, quận Long Biên đã thu hút được nhiều
doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh trên địa bàn. Khi tiến hành thủ tục thuê mặt bằng, các
doanh nghiệp phải thực hiện cam kết sẽ tuyển dụng lao động trên địa bàn (cụ thể thuê 1 ha
mặt bằng doanh nghiệp phải cam kết tuyển dụng ít nhất 10 lao động của quận). Nếu không
đủ lao động, doanh nghiệp mới tuyển dụng lao động từ các địa phương khác. Về phía các
doanh nghiệp, muốn tuyển dụng lao động địa phương, một mặt góp phần giải quyết tình
trạng thất nghiệp cho lao động trên địa bàn quận, mặt khác sử dụng lao động địa phương
doanh nghiệp sẽ không phải lo vấn đề nhà ở cho người lao động. Vì vậy, tuy số lượng lao
động chưa có việc làm ở quận còn nhiều và tạo việc làm cho người lao động không phải là
vấn đề quá phức tạp, nhưng vấn đề quan trọng là người lao động có khả năng đáp ứng yêu
cầu của công việc hay không.
Hệ thống cơ sở hạ tầng: Quận Long Biên bước đầu có hệ thống cơ sở hạ tầng kỹ
thuật như giao thông, điện, cấp thoát nước nhưng chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển
kinh tế - xã hội của một quận nội thành. Hệ thống cơ sở hạ tầng xã hội tương đối tốt; công
tác phổ cập giáo dục, chăm sóc sức khỏe, thể dục thể thao và văn hóa cộng đồng đã đạt
được nhiều kết quả tích cực. Tuy nhiên, hệ thống cơ sở hạ tầng vẫn còn rất lạc hậu, chưa
đồng bộ, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội trong thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Khả năng về thị trường và quan hệ hợp tác: Sự phát triển kinh tế của cả nước nói
chung và Hà Nội nói riêng ảnh hưởng rất lớn đối với nền kinh tế trên địa bàn quận. Trong
những năm gần đây, nền kinh tế Việt Nam và Thủ đô Hà Nội đã đạt được một số kết quả
khả quan, đời sống của nhân dân được nâng cao, nhu cầu tiêu dùng các loại hàng hóa dịch
vụ ngày càng phát triển nhanh chóng. Nhờ đó, thị trường đối với các loại hàng hóa và dịch
vụ ngày càng phát triển và mở rộng.
Khu vực nội thành Hà Nội với khoảng 3 triệu dân và hàng nghìn cơ quan, đơn vị
sản xuất kinh doanh sẽ là thị trường lớn đối với các sản phẩm và dịch vụ của quận. Ngoài
ra, Hà Nội cũng là trung tâm, đầu mối luân chuyển hàng hóa lớn khu vực Bắc Trung Bộ và
cả nước, hàng hóa được tiêu thụ trên địa bàn còn được vận chuyển đi nhiều địa phương
khác. Với hệ thống giao lưu hàng hóa thuận lợi, hàng hóa sản xuất trên địa bàn quận có
điều kiện tiếp cận thị trường các tỉnh lân cận trong khu vực đồng bằng Bắc Bộ, nhiều sản
phẩm có phạm vi tiêu thụ trên địa bàn cả nước. Vì vậy, đối với quận Long Biên, thị trường
tiêu thụ trong nước rất lớn. Đây là tiềm năng phát triển kinh tế của quận.
Trong xu thế hội nhập khu vực và quốc tế, Hà Nội nói chung và quận Long Biên
nói riêng sẽ có nhiều thời cơ thuận lợi để thúc đẩy sự hợp tác kinh tế quốc tế. Ngoài thị
trường tiêu thụ trong nước, các doanh nghiệp trên địa bàn quận còn có tiềm năng tiêu thụ
trên thị trường thế giới, đặc biệt thị trường các nước trong khu vực.
Nguồn lực tài chính và khả năng huy động vốn cho đầu tư phát triển: Do tốc độ đô
thị hóa trên địa bàn quận tiếp tục diễn ra nhanh, cho nên quận Long Biên sẽ có khả năng
thu hút nguồn lực tài chính rất lớn để đẩy nhanh nhịp độ phát triển kinh tế - xã hội. Long
Biên là quận nội thành có vị trí rất thuận lợi cho phát triển công nghiệp và dịch vụ, nên có
lợi thế thu hút các nguồn vốn tín dụng, liên doanh, liên kết và các nguồn vốn xã hội nói
chung. Với nguồn đất chưa sử dụng, quận Long Biên có thể huy động vốn phát triển cơ sở
hạ tầng thông qua hình thức đấu giá quyền sử dụng đất.
Tóm lại, Long Biên nằm trong tam giác phát triển kinh tế phí Bắc, với các tuyến
giao thông quan trọng từ Hà Nội đi các tỉnh Hải Dương, Hải Phòng, Quảng Ninh, tạo cho
quận có thế mạnh trong phát triển các ngành kinh tế. Điều kiện thời tiết khi hậu tương đối
thuận lợi cho phát triển nông nghiệp - đô thị - sinh thái cũng như các ngành và các lĩnh vực
khác.
So sánh với các quận nội thành khác, Long Biên còn có quỹ đất phát triển đô thị.
Hệ thống cơ sở hạ tầng kỹ thuật đang được đầu tư xây dựng đồng bộ, hiện đại. Tiềm năng
đó tạo thế mạnh cho việc phát triển các khu công nghiệp, các trung tâm dịch vụ trên địa bàn
cũng như tạo điều kiện thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nước. Trên địa bàn tập trung
nhiều đơn vị, doanh nghiệp của Trung ương, thành phố cùng với một số lượng lớn các cơ sở
sản xuất kinh doanh của quận tạo việc làm cho lao động trong quận. Quận có nguồn nhân
lực khá dồi dào, tham gia hoạt động kinh tế trên địa bàn quận, trong khu vực nội, ngoại
thành và các tỉnh lân cận. Các cơ sở văn hóa, lịch sử và yếu tố truyền thống cũng là tiền đề
quan trọng cho phát triển kinh tế của quận.
Nhưng do sức hút của quá trình phát triển kinh tế, với tốc độ đô thị hóa nhanh, quận
Long Biên sẽ phải đương đầu với một dòng di cư tự do từ các quận, huyện của thành phố và
các tỉnh khác về. Tốc độ tăng dân số cơ học sẽ tạo nên sức ép nhiều mặt cho quá trình phát
triển kinh tế - xã hội của quận. Lao động chưa qua đào tạo vẫn chiếm tỷ lệ cao và có sự mất
cân đối nghiêm trọng trong cơ cấu lao động cả về trình độ lao động cũng như ngành nghề, một
bộ phận lao động chưa có việc làm. Lao động trong quận chưa được thu hút nhiều vào các
doanh nghiệp trên địa bàn, đặc biệt doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Do mới được
hình thành từ huyện ngoại thành nên cơ sở hạ tầng còn lạc hậu, chưa đồng bộ.
Tuy khó khăn còn nhiều nhưng tiềm năng cho phát triển kinh tế - xã hội của quận
Long Biên rất lớn. Điều quan trọng là khai thác và sử dụng hợp lý, có hiệu quả những tiềm
năng và lợi thế hiện có cho sự phát triển kinh tế - xã hội của quận, xứng đáng với vị thế
của một quận nội thành Thủ đô. Mặt khác, quận Long Biên đang trong quá trình đô thị hóa
nhanh, nên sẽ phải giải quyết mâu thuẫn giữa đô thị hóa tự giác nhằm vừa đảm bảo phát
huy được các nguồn lực đa dạng, vừa đảm bảo phát triển đô thị văn minh, hiện đại. Đồng
thời quận Long Biên sẽ được thụ hưởng những lợi thế do ba cây cầu mới được hình thành,
song cũng phải giải quyết nhiều vấn đề phức tạp về kinh tế - xã hội đặt ra trong quá trình
thực hiện ba dự án này. Về vấn đề quản lý kinh tế - xã hội trên địa bàn quận sẽ phát sinh
nhiều khó khăn, phức tạp, do quá trình đô thị hóa đang diễn ra mạnh mẽ, do sự phát triển
của nhiều loại hình doanh nghiệp trên địa bàn.
Chương 2
thực trạng quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội quận long biên từ năm 2003 đến nay
2.1. Thực Trạng CÔNG Tác QUY Hoạch Và Thực Hiện QUY Hoạch Đầu TƯ
Phát Triển Các Ngành KINH Tế
2.1.1. Công tác quy hoạch, quản lý đất đai và đô thị
* Công tác quy hoạch và kế hoạch, đầu tư
Từ khi thành lập quận đến nay, công tác quy hoạch được các cấp ủy đảng và chính
quyền quan tâm chỉ đạo. Quận ủy và Hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân quận đã chủ
động làm việc với lãnh đạo thành phố, các sở, ban ngành liên quan để triển khai thực hiện
công tác quy hoạch. Đồng thời tiếp tục đề nghị thành phố chấp thuận điều chỉnh quy hoạch
chi tiết của quận phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội trong giai đoạn mới. Tổ
chức công bố công khai và bàn giao quy hoạch chi tiết tỷ lệ 1/500 đường 5 kéo dài, chỉnh
trang phố Ngô Gia Tự; quy hoạch chi tiết tỷ lệ 1/200 khu đô thị mới Thượng Thanh cho
các phường có liên quan để phối hợp quản lý theo quy hoạch.
Công tác kế hoạch, đầu tư được chú trọng, tập trung chỉ đạo theo hướng trọng điểm,
thí điểm xã hội hóa trong đầu tư, có ưu tiên; đẩy nhanh tiến độ thực hiện các dự án đầu tư
xây dựng cơ bản. Tiến hành giao chỉ tiêu định hướng phát triển kinh tế - xã hội, giao phân bổ
ngân sách hàng năm đúng quy định; khẩn trương hoàn thành các dự án chuyển tiếp, đưa
vào sử dụng có hiệu quả; thực hiện rà soát các dự án đầu tư, hạn chế dàn trải và tập trung
ưu tiên vốn, thủ tục hành chính cho các dự án hạ tầng kinh tế - xã hội, một số dự án trọng
điểm của quận và các dự án nhằm đạt chuẩn hóa trong lĩnh vực y tế, giáo dục; các dự án
đấu giá quyền sử dụng đất được tập trung chỉ đạo, triển khai tích cực.
Chỉ đạo các phòng ban chuyên môn kịp thời tháo gỡ khó khăn trong quá trình thực
hiện các Thông tư 03/TT-BXD và Thông tư số 04/TT-BXD hướng dẫn điều chỉnh dự toán
công trình xây dựng cơ bản. Thẩm định, phê duyệt 138 dự án đầu tư với tổng số vốn
221,254 tỷ đồng; trong đó 58 dự án với nguồn ngân sách đầu tư 137,817 tỷ đồng; 80 dự án
bằng nguồn vốn huy động của địa phương với số vốn 83,437 tỷ đồng.
Các dự án xây dựng cơ bản vốn tập trung thành phố năm 2005 ước thực hiện 9,2 tỷ
đồng/10,035 tỷ đồng (đạt 91,6% so với kế hoạch). Ngoài ra, các dự án trọng điểm trên địa
bàn quận (hạ tầng khu tái định cư cầu Vĩnh Tuy, san nền trung tâm thương mại quận, khu
đấu giá…) sử dụng vốn tập trung của thành phố ước thực hiện 73,5 tỷ đồng [32].
Tập trung xây dựng một số đề án, xây dựng các cơ chế thu hút đầu tư trong chuyển
dịch cơ cấu kinh tế, xây dựng chợ, trung tâm thương mại; làm rõ cơ chế điều hành quản
lý…
* Công tác quản lý đất đai và đô thị
Công tác quản lý đất đai được quan tâm chỉ đạo và có nhiều chuyển biến tích cực
ở các khu dân cư sinh sống, các khu đất nông nghiệp. Tổ chức quản lý chống lấn chiếm và
phối hợp với các ngành có liên quan nghiên cứu phương án sử dụng đất có hiệu quả theo
quy hoạch đã duyệt tại các khu vực trong quận. Tổng hợp, thống kê diện tích đất nhỏ lẻ,
đất kẹt, đất sử dụng kém hiệu quả. Chỉ đạo các phường lập kế hoạch sử dụng, xây dựng
các công trình công cộng và đấu giá quyền sử dụng đất nhằm tăng nguồn thu cho ngân
sách. Hoàn thành công tác kiểm kê đất đai 5 năm theo định kỳ, làm cơ sở xây dựng kế
hoạch sử dụng đất năm 2006. Việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất được tập trung
tháo gỡ các vướng mắc tồn tại. Tổng số hồ sơ đã hoàn thiện và xét duyệt là 9.272/ 9.175
hồ sơ, đạt 101% so với kế hoạch.
Công tác quản lý đô thị được tăng cường, duy trì thường xuyên, làm rõ trách nhiệm
trong công tác quản lý trật tự xây dựng của chính quyền cơ sở, hạn chế tối thiểu các vị phạm,
không để xảy ra các trường hợp vị phạm nghiêm trọng, xử lý kiên quyết và triệt để các vị
phạm ngay từ đầu. Tỷ lệ các công trình xây dựng có phép trên địa bàn quận ngày càng tăng.
Trong năm 2005 tiến hành kiểm tra 739 trường hợp, trong đó có 365 trường hợp có giấy phép
(đạt 60,2%), 374 trường hợp vi phạm. Xử lý 25 bãi rác thải không đúng quy định tại các
phường, tổ chức thu gom xử lý rác sinh hoạt, thực hiện đề án xã hội hóa công tác vệ sinh môi
trường [30].
2.1.2. Quy hoạch phát triển ngành công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và xây
dựng
* Công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp
Khi thành lập quận, trên địa bàn Long Biên có 38 doanh nghiệp trung ương và
thành phố. Trong đó 15 doanh nghiệp nhà nước đã thực hiện cổ phần hóa và chuyển sang
hoạt động theo hình thức công ty cổ phần. Số lượng các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài tuy không nhiều nhưng có vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển kinh tế và tạo việc
làm trên địa bàn quận. Khối công nghiệp ngoài quốc doanh do quận trực tiếp quản lý là 123
doanh nghiệp và 1.188 hộ cá thể, gồm các ngành nghề: khai thác than, sản xuất chế biến thực
phẩm đồ uống, công nghiệp dệt may, công nghiệp gỗ, sản xuất giầy dép, giấy, hóa chất, cao
su, nhựa, khóa, đúc đồng, đồ gỗ, thiết bị lọc nước… Đây là những ngành sử dụng nhiều lao
động và có tiềm năng phát triển mạnh trong những năm tới.
Các cơ sở sản xuất tập trung chủ yếu ở các ngành chế tạo sản phẩm từ kim loại,
sản xuất túi, va li, giầy dép, may mặc. Số lượng cơ sở sản xuất các ngành thuộc da, lông
thú, đồ gỗ giảm do sản xuất thủ công nên khó cạnh tranh trên thị trường.
Tổng giá trị sản xuất công nghiệp do quận quản lý năm 2003 đạt 1.057.879 triệu
đồng, tập trung chủ yếu ở các ngành thực phẩm đồ uống (chiếm 9,4%), may mặc (chiếm
2,6%), sản xuất thiết bị nghe nhìn (chiếm 13,9%), sửa chữa phương tiện vận tải (chiếm
33,1%). Năm 2004 đạt 1.171.376 triệu đồng, tăng 10,73% so với năm 2003 [31]. Đây là một
tốc độ tăng trưởng thấp hơn nhiều so với tốc độ tăng trưởng bình quân công nghiệp của thành
phố Hà Nội (16,1%). Nguyên nhân chủ yếu là do các doanh nghiệp công nghiệp do quận
quản lý có quy mô nhỏ, chưa tập trung đầu tư mở rộng sản xuất. Giá trị sản xuất tăng chủ
yếu từ những doanh nghiệp mới thành lập trong năm 2004, 2005.
Đối với các doanh nghiệp nhà nước đóng trên địa bàn quận, tốc độ tăng giá trị sản
xuất bình quân hàng năm giai đoạn 2003-2004 là 29,67%. Giá trị sản xuất công nghiệp ở
quận Long Biên chủ yếu là do kinh tế nhà nước và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đóng
góp, chiếm 79,6% tổng giá trị sản xuất trên địa bàn quận. Các doanh nghiệp công nghiệp
ngoài quốc doanh tuy số lượng lớn (chiếm 98,3% tổng số doanh nghiệp), nhưng chỉ chiếm
20,4% tổng giá trị sản xuất công nghiệp.
So với tổng giá trị sản xuất công nghiệp của thành phố Hà Nội, giá trị sản xuất
công nghiệp quận Long Biên chiếm tỷ trọng khá cao. Nếu chỉ tính riêng các doanh nghiệp
ngoài quốc doanh chiếm 7,5% tổng giá trị sản xuất ngoài quốc doanh của thành phố Hà Nội
(năm 2004). Tính cả khu vực nhà nước và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài, tỷ trọng này
là 13,7%. Nguyên nhân chủ yếu là do trên địa bàn quận có các khu công nghiệp tập trung
nhiều doanh nghiệp nhà nước lớn và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Giá trị sản xuất công nghiệp ngoài quốc doanh hàng năm tăng nhanh, tốc độ tăng
trưởng bình quân giai đoạn 2003-2004 là 18,5%, chủ yếu tập trung ở kinh tế cá thể và kinh
tế hỗn hợp. Các ngành nghề sản xuất công nghiệp ngoài quốc doanh khá đa dạng và phong
phú, nhưng chủ yếu vẫn là các ngành chế biến. Giá trị sản xuất của công nghiệp chế biến
năm 2003 tăng 296,88% so với năm 2000 và tập trung chủ yếu vào các ngành sản xuất
thực phẩm đồ uống, sản xuất trang phục, hóa chất, đồ gỗ. Một số ngành hàng có tính tập
trung nhỏ như: sản xuất gỗ (ở Đức Giang), may (ở Sài Đồng)… Một số ngành nghề đang
có chiếu hướng phát triển nhanh như sản xuất đồ uống, trang phục, sản phẩm từ kim loại.
Bên cạnh đó có nhiều ngành nghề phát triển nhưng còn ít được quan tâm đầu tư phát triển:
lắp ráp, sửa chữa, chế biến gỗ, sản phẩm từ tre nứa, sản xuất giấy…
Các sản phẩm cơ khí sản xuất có sản lượng tương đối cao, sản phẩm đã có vị trí
trên thị trường như: sản xuất tôn, cáp điện, phụ tùng xe máy, đúc… Đây là những sản
phẩm mà thị trường đang có nhu cầu cao, kể cả thị trường của các tỉnh lân cận. Lắp ráp,
sửa chữa là ngành tuy mới nhưng đang có điều kiện thuận lợi để mở rộng sản xuất với các
sản phẩm: lắp ráp xe máy, đồ điện dân dụng, máy công nghiệp... như Công ty Phương Đông,
Công ty Cường Hậu, Công ty Hương Thành. Hoạt động sản xuất cá thể phong phú, những
ngành có thế mạnh là may, sản xuất các sản phẩm từ kim loại, chế biến lương thực, thực
phẩm và sản xuất sửa chữa phương tiện vận tài khác.
Số lượng các hộ sản xuất ở phường trước là thị trấn và các phường trước là các xã
chênh lệch tương đối lớn, nhiều phường có tốc độ đô thị hóa cao, nhưng số hộ đầu tư vốn
sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp chưa nhiều, quy mô sản xuất nhỏ như phường
Bồ Đề, Việt Hưng, Phúc Lợi… Các hộ cá thể có xu hướng phát triển ngành lắp đặt thiết bị
viễn thông và dân dụng phục vụ các công trình xây dựng cơ bản. Đây là ngành có tốc độ
tăng trưởng cao, giải quyết nhiều việc làm và có cơ hội phát triển mạnh trong những năm tới.
Tổng số lao động trong các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp là 6.684, chiếm
khoảng 8,75% lực lượng lao động ngành công nghiệp Hà Nội. Trong đó chủ yếu là lao
động thuê ngoài chiếm 86,7%. Năm 2003, trên địa bàn quận chỉ có 26 doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài với 2.574 lao động, chiếm 36,2%; doanh nghiệp nhà nước có 2.247
lao động, chiếm tới 38,46%; doanh nghiệp ngoài quốc doanh có 1.537 lao động, chiếm
23,41 tổng số lao động sản xuất công nghiệp trên địa bàn quận. Như vậy, lực lượng lao
động trong các doanh nghiệp ngoài quốc doanh chiếm ưu thế.
So với các quận, huyện khác, lực lượng lao động trong khu vực công nghiệp ngoài
quốc doanh của quận Long Biên còn chiếm tỷ trọng cao, khoảng 8,3% tổng số lao động
công nghiệp. Số lao động tập trung ở các ngành sản xuất trang phục chiếm 21,6%, thực
phẩm đồ uống chiếm 13,2%, sản xuất sản phẩm từ kim loại chiếm 15,6%, sửa chữa các sản
phẩm vật tư khác chiếm 4,5%.
Trình độ lao động: công nhân kỹ thuật chiếm 55%, lao động có trình độ đại học, trung
cấp chiếm 1,03%, còn lại chưa qua đào tạo nghề. Số lao động có trình độ chủ yếu tập trung ở
các công ty trách nhiệm hữu hạn và các chủ hộ sản xuất cá thể.
Về thu nhập: Bình quân một người lao động là 820.000 đồng/tháng. Một số ngành sản
xuất sản phẩm kim loại và công nghệ thông tin thu nhập đạt 1 triệu đồng/người/tháng; sản
xuất máy móc, thiết bị 1 triệu/người/tháng; sửa chữa phương tiện vận tải
920.000đồng/người/tháng…
Các ngành sản xuất thực phẩm, đồ uống, trang phục, các sản phẩm từ kim loại,
điện tử, hóa chất, vật liệu xây dựng là những ngành thu hút nhiều lao động. Do vậy, cần có
kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng, phát triển nguồn nhân lực và cần được cụ thể hóa trong
chương trình phát triển kinh tế - xã hội của quận.
Quận Long Biên có một số ngành có lợi thế phát triển trong thời gian ngắn như
khai thác cát, các sản phẩm kim loại. Tuy nhiên, do ý thức của người lao động chưa cao
nên quá trình sản xuất đang đặt ra nhiều vấn đề về môi trường. Một số ngành nghề có tiềm
năng phát triển dài hạn như ngành công nghiệp cảng sông, sản phẩm gỗ, lắp ráp sửa chữa
phục vụ các công trình công nghiệp và dân dụng nhưng đang thiếu lao động lành nghề.
Cơ sở vật chất và công nghệ của các cơ sở sản xuất công nghiệp: Hầu hết các cơ
sở sản xuất có quy mô lớn thì công nghệ lạc hậu, máy móc quá cũ, trình độ tự động hóa
thấp, sản xuất kém hiệu quả. Vì vậy, năng suất thấp, chất lượng sản phẩm kém, khó có khả
năng cạnh tranh và mở rộng thị trường trước xu thế hội nhập khu vực. Một số ít cơ sở công
nghiệp nhà nước, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được trang bị công nghệ tương
đối hiện đại và kinh doanh có hiệu quả như: Công ty May 10, Công ty Điện tử Hà Nội,
Liên doanh Orion - Hanel, Liên doanh Viko, Thạch Bàn... Còn đại bộ phận các cơ sở công
nghiệp, tiểu thủ công nghiệp là công nghệ cũ thanh lý hoặc công nghệ tự dựng. Hầu hết các
doanh nghiệp chưa đủ điều kiện về vốn để đầu tư dây chuyền công nghệ hiện đại. Các yếu tố
trên đã làm cho hoạt động sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp kém hiệu quả, gây ô
nhiễm môi trường.
Về quy mô: Vốn đầu tư cho sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp nhỏ do các
doanh nghiệp, hộ sản xuất không đủ điều kiện về mặt bằng, thị trường... để đầu tư một
cách khoa học. Vốn kinh doanh của các hộ sản xuất nhỏ, bình quân là 106,6 triệu đồng/hộ,
trong đó tập trung ở một số hộ lớn như may, gia công kim khí, chế biến các sản phẩm từ
kim loại, sản xuất đồ uống… cơ cấu vốn đầu tư chủ yếu tập trung vào vốn cố định (trên
58%), nên khả năng thay đổi mặt hàng để phù hợp thị hiếu chậm. Quá trình sản xuất chưa
có các sản phẩm có chất lượng cao.
Tổng số vốn sản xuất kinh doanh của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh là hơn
817.980 tỷ đồng, trong đó vốn cố định là 560.000 tỷ đồng, chiếm 68,5% tổng số vốn. Vốn
sản xuất kinh doanh của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh được hình thành bởi một số
nguồn chủ yếu: nguồn vốn chủ sở hữu chiếm 71,9%, vay từ nguồn khác chiếm 19,2%, vốn
vay ngân hàng chiếm 8,9%.
Mức vốn đầu tư cho các ngành sản xuất ở các hộ sản xuất cá thể cũng khác nhau:
sản xuất sản phẩm từ kim loại chiếm 2,7%, may mặc chiếm 9,5%, chế biến lương thực,
thực phẩm chiếm 2,9%, sản xuất giường, tủ, bàn, ghế chiếm 2,9%, sửa chữa phương tiện
vận tải khác chiếm 2,9%.
Mặt bằng phục vụ sản xuất kinh doanh: 70% các hộ sản xuất sử dụng diện tích nơi ở
làm địa điểm sản xuất, một số hộ thuê đất thổ cư của các hộ gia đình. Điều này gây ảnh hưởng
lớn tới hiệu quả và khả năng đầu tư vốn để mở rộng sản xuất hoặc đổi mới công nghệ hết sức
khó khăn. Khoảng 80% các đơn vị thuê địa điểm tại các doanh nghiệp nhà nước với thời gian
ngắn, giá thuê cao làm ảnh hưởng tới hiệu quả và thu thập của người dân lao động, không đủ
điều kiện để lập kế hoạch phát triển dài hạn. Một số có nhu cầu mở rộng sản xuất nhưng
không dám thực hiện đầu tư trên mặt bằng thuê.
Trên địa bàn hiện có hai khu công nghiệp Đức Giang và Sài Đồng. Các doanh
nghiệp trong khu công nghiệp này hầu hết là doanh nghiệp nhà nước, nhiều doanh nghiệp
đã có những bước phát triển phù hợp với cơ chế thị trường: Công ty May 10, Công ty May
Đức Giang, Công ty Kim khí Thăng Long…
Một số đơn vị hoạt động cầm chừng, kém hiệu quả, công nghệ sản xuất cũ, ít được
cải tiến, sản xuất gây ô nhiễm môi trường: Công ty xe lửa Gia Lâm, Công ty Hóa chất Đức
Giang, Công ty Gạch Thạch Bàn… Một số doanh nghiệp ngoài nhà nước thuê, có doanh
nghiệp cho thuê diện tích lớn với số doanh nghiệp lên tới trên 50 đơn vị (Công ty Xe lửa
Gia Lâm), hoạt động trên mặt bằng như một cụm công nghiệp tập trung, nhưng không có
sự quản lý của nhà nước, làm ảnh hưởng tới môi trường đô thị và quy hoạch phát triển
công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp.
Với khu công nghiệp mới hình thành: Sài Đồng B, Sài Đồng A, Đài Tư thì chỉ có
khu Sài Đồng B đi vào hoạt động tương đối ổn định; khu Sài Đồng A còn nhiều diện tích
chưa được sử dụng (khoảng 200 ha); khu Đài Tư chưa được khai thác… Những yếu tố này
cũng làm ảnh hưởng tới việc định hướng phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp của
quận.
* Ngành xây dựng
Toàn quận có 52 doanh nghiệp xây dựng, chủ yếu là các doanh nghiệp ngoài quốc
doanh.
Bảng 2.1. Số lượng cơ sở, lao động và giá trị sản xuất của ngành xây dựng trên địa bàn
quận [16 ]
Đơn vị tính 2003 2004
1. Cơ sở Cơ sở 52 54
2. Lao động Người 11.081 12.114
3. Giá trị SX Triệu đồng 260.010 291.521
4. Tổng số vốn Triệu đồng 2.086.363 2.476.524
5. Thu nhập bình quân/năm Triệu đồng 15.760 17.210
Ngành xây dựng đang được củng cố, bước đầu tổ chức tốt việc tiếp nhận và thực
hiện các dự án chuyển tiếp từ huyện Gia Lâm. ủy ban nhân dân quận phê duyệt 85 dự án
đầu tư. Ra quyết định chuẩn bị đầu tư 62 dự án. Các dự án được đầu tư có trọng tâm, trọng
điểm, tập trung vào một số lĩnh vực thiết thực phục vụ cho việc cải thiện, nâng cấp hạ tầng
cơ sở, chỉnh trang đô thị. Đồng thời đã thỏa thuận vị trí, lập xong quy hoạch cơ cấu sử
dụng đất khu trung tâm hành chính quận tại khu đô thị mới Việt hoạch và hoàn thành quy
hoạch cơ cấu sử dụng đất trung tâm hành chính của phường mới Gia Thụy. Khởi công xây
dựng các khu đô thị mới Sài Đồng (56,4 ha); khu đô thị mới Việt Hưng (210,5 ha); chuẩn
bị khởi công xây dựng đô thị mới Thạch Bàn (31,69 ha) [31].
Tuy nhiên, khó khăn lớn nhất hiện nay của các doanh nghiệp xây dựng của quận là
công nghệ thi công cũ, chỉ đủ năng lực làm thầu phụ hoặc đảm nhận các công trình nhỏ. Thực
trạng này đã chứng tỏ để phát triển ngành xây dựng, vấn đề cơ bản là đầu tư vốn, tập trung mở
rộng quy mô, cải tạo và đổi mới trang thiết bị, áp dụng công nghệ hiện đại cũng như việc sử
dụng loại nguyên vật liệu mới trong xây dựng, đào tạo đội ngũ công nhân lành nghề, kiện toàn
lại bộ máy tổ chức quản lý để có đủ khả năng tham gia và thắng thầu trước hết là các hạng
mục xây dựng thuộc công trình ngay trên địa bàn quận. Điều này đòi hỏi các doanh nghiệp
xây dựng phải tích cực chuẩn bị để có thể đáp ứng tốt xu hướng phát triển mạnh của ngành
xây dựng trên địa bàn quận trong những năm tới.
2.1.3. Quy hoạch phát triển ngành nông nghiệp
Do sự phát triển nhanh về công nghiệp và đô thị hóa làm cho diện tích đất nông
nghiệp ngày càng bị thu hẹp, nên cần có sự tổ chức sản xuất nông nghiệp hợp lý, phù hợp
với quá trình phát triển đô thị và giải quyết những vấn đề bức xúc về môi trường. Phát triển
nông nghiệp ở Hà Nội sẽ khác rất nhiều so với hình thức phát triển nông nghiệp tại các tỉnh
khác. Nghị quyết 15/NQ-TW ngày 15/12/2000 của Bộ Chính trị về phương hướng nhiệm
vụ phát triển đô thị Hà Nội thời kỳ 2001-2010 đã khẳng định: "Phát triển nông nghiệp Thủ đô
theo hướng nông nghiệp - đô thị - sinh thái" [15]. Ngày 28/12/2000, ủy ban Thường vụ Quốc
hội (khóa 9) đã thông qua Pháp lệnh Thủ đô Hà Nội, nhấn mạnh:
Chiến lược phát triển kinh tế Thủ đô được hoạch định dài hạn và cho từng
giai đoạn, bảo đảm nhanh chóng chuyển dịch cơ cấu kinh tế hợp lý theo hướng
dịch vụ - công nghiệp - nông nghiệp, đạt mức tăng trưởng kinh tế cao, bền
vững, phát huy thế mạnh của Thủ đô làm động lực cho vùng kinh tế trọng điểm
phía Bắc và cả nước. Phát triển nông nghiệp theo hướng nông nghiệp - đô thị -
sinh thái [17].
Quyết định số 60/2002/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt quy
hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội Thủ đô Hà Nội thời kỳ 2001 - 2010 tiếp tục khẳng
định: "Phát triển nông nghiệp theo hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cao cấp hóa các sản
phẩm nông nghiệp theo hướng nông nghiệp - đô thị - sinh thái, hình thành các vùng sản xuất
hàng hóa đặc sản như rau sạch - hóa - cây cảnh, cây ăn quả, tạo môi trường bền vững trong
lành cho Thủ đô Hà Nội…" [22]. Bên cạnh đó, Quyết định 108/CP của Chính phủ phê duyệt
điều chỉnh không gian Hà Nội đến năm 2020 là phát triển mở rộng Hà Nội theo hướng Bắc -
Tây Bắc và Tây - Tây Nam [23].
Hiện nay, số hộ nông nghiệp của quận chỉ chiếm 18,37%. Thực hiện quy hoạch
phát triển Thủ đô, quận Long Biên đã triển khai nhiều dự án đầu tư xây dựng các công
trình hạ tầng kỹ thuật trọng điểm: Quốc lộ 1B, cầu Phù Đổng, Thanh Trì… Nhiều khu
công nghiệp ra đời, cùng với đó là các khu đô thị mới với quy mô lớn, hạ tầng kỹ thuật
đồng bộ đang được khẩn trương triển khai. Các ngành dịch vụ phát triển đa dạng, đời sống
của người dân đã chuyển mình từng bước từ sản xuất nông nghiệp sang dịch vụ, công
nghiệp.
- Về chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp: Trong một thời gian khá dài,
nông nghiệp có vị trí quan trọng hàng đầu trong cơ cấu kinh tế của huyện Gia Lâm cũ. Từ
năm 1996, Đại hội Đảng bộ huyện Gia Lâm lần thứ 17 (1996 - 2000) đã đề ra phương
hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế - xã hội theo hướng công nghiệp, thủ công nghiệp -
nông nghiệp - thương mại, dịch vụ. Đại hội Đảng bộ huyện Gia Lâm lần thứ 18 (2001 -
2005) đã đề ra mục tiêu: "Tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi mới, phát huy tối đa nội lực,
chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng: Công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp - nông nghiệp
- dịch vụ" [2]. Do đó, cơ cấu kinh tế bắt đầu có sự thay đổi so với trước năm 1995. Nông
nghiệp không còn giữ vị trí hàng đầu nữa, mà đứng ở vị trí thứ hai sau công nghiệp và tiểu
thủ công nghiệp.
Sau khi quận Long Biên được thành lập, do đặc điểm các phường (được nâng lên từ
xã của huyện Gia Lâm cũ) gần sát nội thành Hà Nội (quận Hoàn Kiếm) và có các khu công
nghiệp, nên số hộ phi nông nghiệp chiếm tỷ lệ khá cao (trên 80%). Do vậy, từ khi tách
thành quận mới, tỷ trọng nông nghiệp trong cơ cấu các ngành kinh tế giảm mạnh.
Thực hiện chủ trương của Quận ủy, Hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân quận
Long Biên về chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp, tập trung vào chuyển đổi
những diện tích đất sản xuất nông nghiệp kém hiệu quả, diện tích đất trũng, ao hồ sang
nuôi trồng thủy sản, trồng cây ăn quả, chăn nuôi kết hợp với dịch vụ… Đến nay, đã có một
số trang trại có diện tích lớn như: khu Hồ Miễu (phường Thượng Thanh), khu Hồ Thạch
Bàn và Tầm Dâu (phường Phúc Đồng), khu Bể và vườn Trũng (phường Giang Biên). Số
trang trại có diện tích trên 3 ha chiếm tỷ lệ 21%, còn lại chủ yếu diện tích từ 1 đến 2,5 ha,
tập trung ở các phường có diện tích ao hồ lớn thuộc vùng trũng của phường Thạch Bàn,
Phúc Lợi, Phúc Đồng.
Việc chế biến tiêu thụ sản phẩm của các trang trại chủ yếu là tiêu thụ tại chỗ, chưa
ký hợp đồng xuất khẩu. Hầu như sản phẩm chưa được chế biến, thường là bán thô, vì vậy
giá cả và mức tiêu thụ thường không ổn định.
Tuy việc chuyển dịch cơ cấu cây trồng vật nuôi trong nông nghiệp những năm gần
đây diễn ra nhanh đã góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng đất, tăng thu nhập cho người
dân. Mặc dù vậy, việc đầu tư cho sản xuất còn ít do thiếu vốn, gặp khó khăn trong tiêu thụ
sản phẩm.
- Cơ cấu và sử dụng đất trong nông nghiệp: Tổng diện tích đất tự nhiên là 6038,24
ha, trong đó đất canh tác là 1.644 ha (chiếm 27,2%). Đất canh tác được chia thành 2 vùng:
trong đồng và ngoài bãi. Diện tích đất trong đồng là 1.114,8 ha (chiếm 67,8%), diện tích
đất vùng bãi là 529,2 ha (chiếm 32,2%). Ngoài ba phường Ngọc Lâm, Đức Giang, Sài
Đồng, toàn bộ 11 phường còn lại đều có diện tích đất canh tác. Ba phường có diện tích đất
canh tác không đáng kể là Ngọc Thụy, Bồ Đề và Gia Thụy (từ 20 - 40 ha), còn lại diện tích
đất canh tác tập trung ở các phường Thạch Bàn, Cự Khối, Giang Biên và Phúc Lợi là
những phường có diện tích đất ngoài bãi lớn. Ngoài ra, các cây rau, màu khác và các loại
cây trồng có diện tích đất canh tác nhỏ, khoảng hơn 100 ha. Rau quả trồng chủ yếu ở các
phường Long Biên, Thạch Bàn, Cự Khối và Thượng Thanh, diện tích đất trồng là 123 ha
(chiếm 7% diện tích đất nông nghiệp). Các loại đất trồng mầu khác tập trung ở Thạch Bàn,
Cự Khối, Thượng Thanh, diện tích là 116 ha (chiếm 7%) và ở Long Biên, Cự Khối là 128
ha (chiếm 7,5%).
So với quy chuẩn, cơ cấu sử dụng đất của Long Biên có một số điểm đáng chú ý là
đất nông nghiệp còn nhiều, trong đó diện tích trồng cây hàng năm trên 1.860 ha, chiếm hơn
31% diện tích toàn Quận. Nếu so diện tích đó với diện tích nghiên cứu (trừ diện tích sông
Hồng và sông Đuống thuộc quận), thì tỷ lệ lên gần 38%. Đây là tiềm năng lớn để có thể tiến
hành đô thị hóa theo quy hoạch bài bản, xây dựng đô thị hiện đại.
Đất mặt nước nuôi trồng thủy sản cũng chiếm tỷ lệ đáng kể. Trong quá trình đô thị
hóa, sẽ duy trì diện tích này để tạo môi trường sinh thái và hồ điều hòa nước mưa cho các
khu đô thị.
Đất cho xây dựng cơ bản và các khu, cụm công nghiệp chiếm tỷ trọng khá cao
trong hiện trạng cơ cấu sử dụng đất của quận, chiếm tới trên 53%.
Đất giao thông chiếm tỷ lệ thấp, chỉ gần 6% so với tổng diện tích tự nhiên của
quận và hơn 7% nếu so với diện tích nghiên cứu (trừ 1017 ha và sông Hồng và sông
Đuống). Trong khi Hoàn Kiếm có tỷ lệ là hơn 22% (nếu so với diện tích nghiên cứu) và so
với quy chuẩn 25% thì trong tương lai cần bố trí tăng thêm rất nhiều đất dành cho giao
thông.
Đất quốc phòng chiếm gần 5,7%, chủ yếu thuộc khu vực sân bay Gia Lâm. Diện
tích này cơ bản sẽ không thay đổi trong quy hoạch đến năm 2015.
Đất ở chiếm tỷ lệ 12,84%, trong đó đất ở đô thị chỉ chiếm 2,46%.
Đất sông chưa sử dụng là 1017 ha (17%), diện tích này sẽ không đổi trong quy
hoạch đến 2015.
Hiện trạng cơ cấu sử dụng đất của quận vẫn mang sắc thái cơ cấu sử dụng đất của
một huyện ngoại thành: đất nông nghiệp chiếm tỷ trọng cao, đất ở đô thị và đất giao thông
chiếm tỷ trọng thấp.
- Hoạt động sản xuất nông nghiệp: Giá trị sản xuất nông nghiệp năm 2004 đạt
khoảng 73,7 tỷ đồng, chiếm khoảng 1,5% tổng giá trị sản xuất của các ngành kinh tế
(5.525 tỷ đồng). Giá trị sản xuất nông nghiệp có xu hướng giảm. Một trong những nguyên
nhân chính là tốc độ đô thị hóa ngày càng nhanh làm diện tích đất sử dụng cho nông
nghiệp giảm mạnh.
Bảng 2.2. Giá trị sản xuất nông nghiệp trên địa bàn quận Long Biên [16]
Đơn vị: Tỷ đồng, giá hiện hành)
Chỉ tiêu 2005 Tăng (%) 2004
Tổng giá trị (trong đó) 73,7 66,4 10%
1. Trồng trọt 27,2 25,0 9%
2. Chăn nuôi 40,9 36,7 11%
3. Dịch vụ nông nghiệp 2,8 2,3
4. Thủy sản 2,2 2,0
Cơ cấu sản xuất nông nghiệp: chăn nuôi và trồng trọt là hai ngành chính trong sản
xuất nông nghiệp. Chăn nuôi đóng góp 56% giá trị sản xuất của ngành nông nghiệp, trồng
trọt chỉ chiếm khoảng 37%, còn lại là giá trị của ngành thủy sản và dịch vụ nông nghiệp,
sản xuất lâm nghiệp có giá trị rất nhỏ.
Lĩnh vực trồng trọt đã có sự chuyển đổi cơ cấu gieo trồng, diện tích trồng các loại cây
có giá trị cao như rau xanh, cây ăn quả có xu hướng tăng trong khi diện tích trồng các cây
lương thực có xu hướng giảm nhanh. Tuy nhiên, các loại cây trồng chưa có sự phân bố thành
các vùng chuyên canh mà vẫn phân bố đan xen kết hợp giữa các loại cây trồng khác nhau, do
đó chưa tạo được thế mạnh trong tiêu thụ sản phẩm.
Sản xuất nông nghiệp còn mang tính nhỏ, lẻ và không tập trung. Các phường chủ
yếu vẫn canh tác những loại cây trồng thông dụng, có giá trị kinh tế thấp như lúa, ngô, rau
màu. Cây rau sản xuất ít và tập trung chủ yếu ở ba phường Giang Biên, Long Biên, Cự
Khối. Về sản xuất những cây trồng có giá trị kinh tế cao chỉ có hai phường Cự Khối (cây
Táo) và phường Ngọc Thụy (cây Khế).
Diện tích gieo trồng lúa cả năm khoảng 1.500 ha, trong đó vụ xuân 800 ha, vụ mùa
700 ha, tập trung chủ yếu ở các phường Thạch Bàn, Giang Biên, Phúc Lợi, Phúc Đồng. Giống
lúa trồng chủ yếu là C70, C71 và Khang Dân. Những giống lúa cho năng suất cao như lúa lai,
Xi23 khó gieo trồng trên địa bàn quận. Nguyên nhân chủ yếu là do chân ruộng cao, điều kiện
canh tác khó. Lúa nếp hoa vàng được trồng ở các phường Thạch Bàn, Long Biên và trồng chủ
yếu để bán non làm cốm. Năng suất lúa trung bình khoảng 38 tạ/ha. Sản lượng lúa cả năm đạt
7743 tấn (năm 2003), đạt giá trị sản xuất khoảng 25 tỷ đồng.
Cây ngô chủ yếu được gieo trồng ở vùng bãi sông Hồng và sông Đuống. Giống gieo
trồng ngô khá đa dạng (DK888, P11, VN10…). Giống ngô lai chiếm tỷ trọng chủ yếu
(75%) diện tích. Diện tích gieo trồng ngô ngoài bãi do điều kiện nước tưới khó khăn và
nạn chuột phá hại nên năng suất bình quân hàng năm chỉ đạt từ 13 - 150kg/sào. Sản lượng
ngô hạt cả năm 2003 đạt 3.600 tấn, giá trị khoảng 8 tỷ đồng.
Diện tích trồng rau hàng năm 400 ha, trong đó diện tích rau muống khoảng 45 ha,
tập trung chủ yếu ở các phường Bồ Đề, Thượng Thanh, Phúc Lợi. Diện tích rau khác có
khoảng 355 ha, tập trung ở các phường Cự Khối, Long Biên, Giang Biên, Thạch Bàn.
Trong tổng số 400 ha rau có khoảng 45 ha rau được gieo trồng ở những vùng, khu vực
được quy hoạch sản xuất rau an toàn (phường Giang Biên, Thạch Bàn). Ngoài ra, ở Long
Biên còn có trồng các cây ăn quả khác như cam, chanh, chuối, vải, nhãn, hồng xiêm, táo
và trồng hoa. Tuy nhiên giá trị sản xuất thấp, chưa tương xứng với tiềm năng.
Về chăn nuôi: Tổng đàn lợn trên 2 tháng tuổi toàn quận có khoảng trên 17 nghìn
con, trong đó lợn nạc có khoảng 1,5 nghìn con, tập trung chủ yếu ở các phường Long Biên,
Thượng Thanh, Việt hưng, Ngọc Thụy. Sản lượng xuất chuồng ước đạt 1079 tấn. Đàn trâu
có khoảng 60 con, chủ yếu là trâu cày kéo, tập trung ở các phường Thượng Thanh, Giang
Biên, Phúc Lợi. Đàn bò hiện có khoảng 1.740 con, trong đó bò sữa là 159 con, tập trung ở
các phường Phúc Lợi, Cự Khối, Long Biên. Chăn nuôi gia cầm chủ yếu là gà vịt. Tuy
nhiên, do ảnh hưởng của dịch cúm gà, số lượng đàn gia cầm bị tiêu hủy lên đến 58 nghìn
con nên đến thời điểm 1/4/2004 tổng đàn gia cầm còn trên 7000 con.
Nuôi trồng thủy sản: Tổng diện tích mặt nước nuôi trồng thủy sản hiện có 172 ha,
trong đó tập trung chủ yếu ở các phường Thạch Bàn (40 ha), Thượng Thanh (30 ha), Việt
Hưng (28 ha), còn lại ở các phường khác. Diện tích mặt nước để thả cá chiếm 72%, diện
tích mặt nước nuôi trồng thủy sản kết hợp với dịch vụ du lịch sinh thái chiếm 20%. Tuy
nhiên, diện tích mặt nước nuôi trồng thủy sản được cải tạo đưa vào sử dụng có hiệu quả
chỉ chiếm 45% diện tích, còn lại là nuôi trồng mang tính tận dụng, chưa được đầu tư.
- Cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất nông nghiệp: Hệ thống tổ chức cơ sở hạ tầng
phục vụ sản xuất nông nghiệp nhìn chung chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển nông
nghiệp trong điều kiện mới (nông nghiệp gắn với phục vụ nhu cầu dân cư đô thị). Những
năm trước đây, cơ sở hạ tầng được đầu tư ở khu vực trong đồng như hệ thống đường giao
thông nội đồng, hệ thống mương tưới, tiêu… Khu vực ngoài bãi gần như chưa được đầu
tư, chỉ có vùng bãi phường Giang Biên được đầu tư hệ thống kênh tưới vào năm 2004 (2 tỷ
đồng).
Mức độ cơ giới hóa trong nông nghiệp còn hạn chế, sức kéo trâu bò vẫn chiếm
phần lớn. Sức kéo cơ giới chủ yếu ở các loại xe kiểu công nông công suất nhỏ và một số
loại xe vận tải nhỏ do Trung Quốc sản xuất. Các hợp tác xã cơ khí - cơ giới nông nghiệp
hầu như không còn tồn tại, hoặc có tồn tại nhưng hoạt động không hiệu quả.
Các loại hình dịch vụ nông nghiệp chưa phát triển tương xứng với tiềm năng thực
tế. Đến nay toàn quận có 8 hợp tác xã nông nghiệp, trong đó có
4 hợp tác xã hoạt động khá (Giang Biên, Thượng Thanh, Việt Hưng, Thạch Bàn), 2 hợp
tác xã hoạt động kém (Long Biên, Phúc Lợi). Hầu hết các dịch vụ nông nghiệp chỉ làm
nhiệm vụ cung ứng giống, phân bón, thuốc trừ sâu… dịch vụ đầu ra không có và chưa
được quan tâm.
- Lao động trong nông nghiệp: Long Biên được thành lập trên cơ sở các phường gần
nội thành và khu công nghiệp phía bắc Hà Nội nên số lao động nông nghiệp chiếm tỷ lệ
không cao trong cơ cấu lao động của quận. Số hộ làm nông nghiệp còn khoảng 33-34 ngàn
người, chiếm 50% tổng số người lao động đang làm việc trên địa bàn quận. Số người trong
độ tuổi lao động chiếm 42%, số người trên độ tuổi lao động chiếm 45%, còn lại là dưới độ
tuổi lao động.
Do điều kiện thuận lợi tiếp giáp nội thành Hà Nội nên lao động nông nghiệp của
quận có cơ hội tiếp thu và ứng dụng các tiến bộ khoa học - kỹ thuật vào trong sản xuất nông
nghiệp. Tuy nhiên, do có đặc điểm chung của khu vực nông thôn thuộc huyện Gia Lâm trước
đây và sản xuất nông nghiệp ở Việt Nam nói chung nên chất lượng lao động nông nghiệp ở
Long Biên còn thấp, trình độ kỹ thuật kém, thâm canh chủ yếu là cây lúa, chưa có tập quán,
kinh nghiệm sản xuất những loại cây trồng có hiệu quả kinh tế cao như hoa, cây cảnh, cây
ăn quả, rau an toàn… Điều này gây ảnh hưởng không tốt đến khả năng thực hiện phát triển
nông nghiệp theo hướng hiện đại, nông nghiệp sinh thái, phục vụ nhu cầu dân cư đô thị và
thực hiện việc chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi.
2.1.4. Quy hoạch phát triển ngành thương mại - dịch vụ
Cùng với quá trình đô thị hóa đang diễn ra nhanh và đời sống nhân dân càng được
nâng cao, ngành thương mại dịch vụ trong quận đang phát triển với tốc độ nhanh, đặc biệt
tại một số phương: Đức Giang, Ngọc Lâm, Bồ Đề.
Năm 2004, tổng mức lưu chuyển hàng hóa bán lẻ và dịch vụ ước đạt 3.554 tỷ
đồng, tăng 17,5% so với năm 2003. Giá trị sản xuất ngành thương nghiệp, dịch vụ, khách
sạn, nhà hàng năm 2004 ước đạt 332,8 tỷ đồng, tăng 17% so với cùng kỳ năm 2003 [31].
Năm 2005, tổng mức lưu chuyển hàng hóa bán lẻ và dịch vụ ước đạt 6.031 tỷ đồng, tăng
22,2% so với năm 2004 [32]. Quận đang có chủ trương tập trung tạo điều kiện để các
ngành kinh doanh kim khí, sản phẩm gỗ, bao bì… phát triển mạnh và đẩy nhanh các ngành
dịch vụ như nhà nghỉ, ăn uống và y tế.
- Các loại hình kinh doanh dịch vụ: Loại hình kinh doanh phổ biến ở quận Long
Biên là kinh doanh tổng hợp. Các doanh nghiệp khi đăng ký đều xác định mặt hàng kinh
doanh nhưng trên thực tế, những hàng hóa nào trên thị trường có nhu cầu và thu được lợi
nhuận là kinh doanh. Rất ít các doanh nghiệp kinh doanh một loại hàng hóa.
Đến đầu năm 2005, toàn quận có 369 doanh nghiệp hợp tác xã kinh doanh thương
mại, dịch vụ và khách sạn, nhà hàng. Số doanh nghiệp kinh doanh thương mại là 286 doanh
nghiệp và 20 hợp tác xã kinh doanh thương mại (do quận quản lý). Trong đó có 196 công
ty trách nhiệm hữu hạn, 44 công ty cổ phần và 46 doanh nghiệp tư nhân. Các doanh nghiệp
tập trung chủ yếu là kinh doanh thương mại hàng phi lương thực thực phẩm và hàng hóa
tổng hợp. Số doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ là 38 và khách sạn, nhà hàng là 40 doanh
nghiệp. Tổng số hộ kinh doanh thương mại, khách sạn, nhà hàng là 6.059 hộ. Trong đó
kinh doanh thương mại là 3.513 hộ. Trong năm 2004, có khoảng 13% trong tổng số 3.513
hộ kinh doanh thương nghiệp là bán buôn, số còn lại là bán lẻ. Các hộ bán lẻ tập trung chủ
yếu kinh doanh hàng phi lương thực, thực phẩm, chiếm 82.2% trong tổng số 2.050 hộ bán
lẻ.
Điểm đặc biệt là số các cơ sở kinh doanh khách sạn, nhà hàng ở quận Long Biên
rất nhiều, có khoảng 2.002 cơ sở kinh doanh loại hình này, chủ yếu là các hộ kinh doanh
nhà nghỉ và nhà hàng. Số hộ kinh doanh là 1.962 hộ, chiếm 98% số lượng các cơ sở. Trong
đó kinh doanh nhà hàng có tới 1.789 hộ.
- Phân bố các cơ sở kinh doanh và lao động dịch vụ: Các cơ sở kinh doanh thương
mại dịch vụ và khách sạn, nhà hàng, các doanh nghiệp chủ yếu tập trung ở phường Ngọc
Lâm, Đức Giang, Gia Thụy, Bồ Đề có các trục đường lớn thuận tiện cho việc mở văn
phòng giao dịch của các doanh nghiệp. Số doanh nghiệp tập trung ở 4 phường này lên đến
273 đơn vị (chiếm 3/4 số lượng các công ty, doanh nghiệp). Các hộ kinh doanh cá thể tập
trung nhiều nhất ở phường Đức Giang là 1.539 hộ, chiếm 1/4 tổng số hộ kinh doanh.
Tổng số lao động làm việc trong lĩnh vực dịch vụ là 11.815 người. Trong đó làm việc
trong các công ty là 4.316 người, trong hợp tác xã là 149 người và 7.350 người làm việc
trong các hộ cá thể. Trung bình một công ty dịch vụ có 12 lao động.
- Kết quả hoạt động kinh doanh dịch vụ: Các doanh nghiệp kinh doanh thương
mại, khách sạn và dịch vụ khác trên địa bàn quận (năm 2003) đã tạo ra mức doanh thu
2.906,7 tỷ đồng. Trung bình mỗi doanh nghiệp tạo ra được 7,87 tỷ đồng. Trong số doanh
nghiệp kinh doanh thương mại thì các công ty trách nhiệm hữu hạn có số lượng đông nhất
và cũng có mức doanh thu cao nhất. Trong năm 2003, các công ty trách nhiệm hữu hạn có
doanh thu gần 2.483,2 tỷ đồng, tính trung bình một công ty có doanh thu là 10,3 tỷ đồng. Bán
buôn là lĩnh vực thu nhiều lợi nhuận nhất, trung bình 1 công ty trách nhiệm hữu hạn bán ra
ngần 14 tỷ đồng năm 2003. Các công ty cổ phần có mức doanh thu là 188 tỷ đồng, trung
bình một công ty có doanh thu là 3,5 tỷ đồng. Các doanh nghiệp tư nhân có mức doanh thu
là 221,5 tỷ đồng, trung bình một doanh nghiệp tư nhân đạt doanh thu gần 14 tỷ đồng, một
hợp tác xã chỉ thu về 1,16 tỷ đồng.
Đối với các hộ kinh doanh thương nghiệp, hoạt động của các hộ sôi động hơn so
với hoạt động của các doanh nghiệp do số lượng mặt hàng kinh doanh đa dạng, phục vụ
các nhu cầu sinh hoạt thiết yếu hoặc nhu cầu xây dựng của đời sống dân cư. Tổng doanh
thu của các hộ kinh doanh năm 2003 là 298 tỷ đồng, tính trung bình một hộ kinh doanh tạo
ra 49,2 triệu đồng/năm. Các hộ bán lẻ hàng lương thực thực phẩm có mức doanh thu trung
bình cao nhất, mỗi hộ bán ra khoảng 203 triệu đồng/năm, sau đó là các hộ bán buôn hàng
phi lương thực thực phẩm 136 triệu đồng/năm và kinh doanh nhà nghỉ 146 triệu đồng/năm.
- Quy hoạch mạng lưới chợ: Hệ thống cơ sở vật chất của các ngành dịch vụ quận
Long Biên vẫn còn nghèo nàn lạc hậu, chưa có các công trình thương mại, dịch vụ có quy
mô lớn và tầm cỡ. Hiện nay trên địa bàn quận có 47 chợ lớn, nhỏ và tụ điểm buôn bán,
trong đó 3 chợ đã có dự án đầu tư xây dựng là chợ Thượng Cát, Gia Quất, Vũ Xuân Thiều.
Bốn chợ cần có phương án đầu tư nâng cấp do đã xuống cấp và quá tải: chợ Ô Cách (phường Đức Giang) diện tích 1.600 m2, có 150 hộ kinh doanh. Chợ Việt Hưng (phường Việt Hưng), diện tích 3.000 m2, có 268 hộ kinh doanh. Chợ Gia Lâm (phường Ngọc Lâm), diện tích 4.751 m2, có 186 hộ kinh doanh. Chợ Mới (phường Thạch Bàn), diện tích 2.294 m2, diện
tích xây dựng 690 m2 đã xuống cấp cần phải đầu tư nâng cấp với quy mô lớn hơn. Chợ Đức Hòa (phường Thượng Thanh) được xây dựng theo hình thức BOT, diện tích 1.329m2, diện tích xây dựng 564 m2, có 90 hộ kinh doanh. Số tiền thu được từ cho thuê địa điểm
kinh doanh là 40 triệu đồng/năm, tiền thu từ bán vé chợ là 40,08 triệu đồng/năm.
Đặc thù của các chợ là bán lẻ phục vụ đời sống hàng ngày của cán bộ và nhân dân
trong khu vực, với quy mô nhỏ, cơ sở hạ tầng của các chợ đều xuống cấp, gây ra tình trạng
hàng hóa chậm luân chuyển, các hộ kinh doanh phải nghỉ nhiều…đã ảnh hưởng đến việc
thực hiện kế hoạch thu ngân sách và các kế hoạch khác của quận.
Do nhu cầu sinh hoạt mua bán hàng ngày phát triển, nên đã xuất hiện nhiều chợ
tạm, chợ cóc, tụ điểm buôn bán ở các khu dân cư, chủ yếu là những người kinh doanh
không có địa điểm cố định hoặc bán hàng tươi sống phục vụ nhân dân vào buổi sáng. Toàn
quận có 39 chợ cóc, chợ tạm và tụ điểm buôn bán, trong đó phường Ngọc Thụy có 6 chợ
tạm, chợ cóc với tổng số 320 hộ kinh doanh, phường Long Biên có 5 chợ với 196 hộ kinh
doanh chủ yếu là thực phẩm, rau xanh, hàng ăn uống. Ngoài ra trên địa bàn quận còn có
một số bách hóa tổng hợp với quy mô nhỏ, không đáp ứng được đầy đủ nhu cầu của dân
cư đô thị: bách hóa Sài Đồng (3 tầng), bách hóa Gia Lâm.
Những năm qua, được sự quan tâm chỉ đạo của ủy ban nhân dân quận và các
phường, việc tổ chức và xây dựng chợ đã có những tiến bộ rõ rệt, góp phần tích cực vào
việc lưu thông hàng hóa, đáp ứng nhu cầu người tiêu dùng, tạo việc làm cho hàng ngàn
người lao động, tăng thu cho ngân sách và góp phần vào những tiến bộ bước đầu trong
việc giữ gìn trật tự văn minh đô thị. Tuy nhiên, do trước đây nằm trong huyện Gia Lâm và
trong một thời gian dài theo cơ chế bao cấp, chợ bị xem nhẹ, lúc đó thường chỉ chú ý xây
dựng các cửa hàng, cửa hiệu thương nghiệp quốc doanh, không chú ý đến xây dựng chợ.
Do yêu cầu đòi hỏi của thị trường, việc xây dựng chợ tuy đã được quan tâm, song số người
tham gia kinh doanh thương nghiệp, dịch vụ tăng lên quá nhanh, thời gian xây dựng chợ còn
ngắn và ít kinh nghiệm nên chưa có những giải pháp đồng bộ, dẫn đến tình trạng thiếu chợ
để hàng trăm người lấn chiếm vỉa hè và kinh doanh trong các chợ tạm gây hậu quả về
nhiều mặt, làm cho thị trường lộn xộn, thiếu kỷ cương, vi phạm Nghị định 36/CP của
Chính phủ, tác động xấu đến văn minh đô thị và làm thất thu ngân sách. Bên cạnh đó, cơ
sở vật chất của chợ rất yếu kém, không đảm bảo an toàn vệ sinh rác, chất thải và văn minh
của chợ. Hiệu quả sử dụng chợ còn thấp, nhiều chợ đã được cải tạo xây dựng mới nhưng
chưa phát huy sử dụng hết công suất. Vấn đề kiến trúc nhiều chợ xây dựng không thông
thoáng, ít cổng, thậm chí có chợ có cả những hộ dân ở lẫn… Điều đó làm cho việc sử dụng
chợ kém hiệu quả và không an toàn. Công tác tổ chức quản lý chợ còn nhiều yếu kém, tổ
chức sắp xếp người kinh doanh thiếu trật tự, kỷ cương, chưa làm tốt việc giữ gìn vệ sinh
môi trường, những hoạt động dịch vụ cho người vào chợ còn ít và hiệu quả thấp.
Trên địa bàn quận hiện nay chưa có khu trung tâm thương mại. Trong định hướng
phát triển quận Long Biên theo hướng dịch vụ - công nghiệp - nông nghiệp và tiến trình đô
thị hóa đang diễn ra ngày càng nhanh, cần thiết phải có các khu thương mại với đầy đủ các
dịch vụ hiện đại như siêu thị, khu vui chơi giải trí… để phục vụ nhu cầu của đời sống dân
cư.
2.2. QUY Hoạch Phát Triển Các Ngành VĂN Hóa - Xã Hội
2.2.1. Về giáo dục - đào tạo
- Hiện nay quận Long Biên có 30 trường mầm non, trong đó có 3 trường công lập, 11
trường bán công nông thôn, 13 trường thuộc khối cơ quan xí nghiệp, 3 trường tư thục.
Ngoài ra, còn có các lớp mầm non tổ chức theo hình thức "nhóm trẻ gia đình". Tổng số
giáo viên là 303. Trình độ đại học là 4%, trung cấp là 69%, sơ cấp là 7%. Diện tích đất sử
dụng của 3 trường công lập là 10.123 m2, với 32 lớp; 11 trường bán công nông thôn có diện tích 30.888 m2, với 118 lớp; 13 trường khối cơ quan có diện tích 14.698 m2, với 79
lớp. Nhiều trường diện tích chật hẹp, không có sân chơi và đồ chơi ngoài trời, không có
tường bao, không có cổng trường và bảo vệ, nhà vệ sinh không đảm bảo yêu cầu. Các trường
phân bố lẻ tẻ, thành 18 khu trung tâm và 33 điểm lẻ, tương ứng với 60 nhóm lớp (chưa kể
các nhóm lớp tư thục và hiệp quản). Số lượng phòng học cấp 4 còn nhiều, ngoài 103 phòng
học kiên cố, còn 46 phòng học cấp 4. Một số trường chưa có địa điểm cố định, phải mượn
hội trường, đình (6 phòng học). Các trường mầm non hiện vẫn thực hiện Quyết định 73
của ủy ban nhân dân thành phố (năm 2000), nên tiền học phí và xây dựng cơ sở vật chất
vẫn ở mức thấp, do đó chi phí cho các hoạt động xây dựng, sửa chữa, mua sắm trang thiết
bị không bảo đảm yêu cầu của một cơ sở giáo dục mầm non, và hầu hết các trường không
có máy vi tính, máy chiếu…
- Trường tiểu học có 7 trường, trong đó phường Ngọc Lâm, Đức Giang, Sài Đồng có
2-3 trường, các phường khác mỗi phường có 1 trường. Tổng số giáo viên là 491. Trình độ
đại học là 12%, cao đẳng là 58%, trung cấp là 29%, sơ cấp là 1%. Về cơ bản hệ thống các
trường tiểu học đã đáp ứng được yêu cầu dân cư trên địa bàn. Tuy nhiên, một số trường
chưa đảm bảo chuẩn 35 học sinh/lớp: Ngọc Thụy, Ngọc Lâm. ái Mộ, Việt Hưng, Long
Biên, Thạch Bàn, Sài Đồng A. Cơ sở vật chất các trường ái Mộ, Ngọc Lâm, Sài Đồng A số
phòng học không đủ, số học sinh đông nên chỉ có một phần học sinh được học 2 buổi/ngày. Các trường chưa đáp ứng chuẩn 6 m2 đất/học sinh: Ngọc Thụy, Thượng Thanh,
Ngọc Lâm, ái Mộ, Phúc Đồng, Sài Đồng A. Các trường còn phòng học cấp 4 (21 phòng):
Ngọc Thụy, Thượng Thanh, ái Mộ, Đức Giang, Sài Đồng A, Giang Biên, Phúc Lợi. Nhiều
trường không có phòng chức năng.
- Trường trung học cơ sở có 15 trường. Số lượng giáo viên là 516, trong đó có 417
đạt tiêu chuẩn và 99 chưa đạt chuẩn. Các trường trung học cơ sở đảm bảo chỉ tiêu 35 học
sinh/lớp: trường Ngô Gia Tự và Phúc Đồng. Cơ sở vật chất của các trường không đảm bảo 6 m2 đất/học sinh: Thượng Thanh, Bồ Đề, Ngô Gia Tự, Phúc Đồng, Việt Hưng, Long
Biên, Thạch Bàn, Giang Biên, Phúc Lợi. Các trường trung học cơ sở còn phòng học cấp 4:
gồm 9 phòng ở Sài Đồng và Phúc Lợi.
- Trung học phổ thông có 2 trường do Sở Giáo dục và Đào tạo Thành phố quản lý
(Nguyễn Gia Thiều và Lý Thường Kiệt). Ngoài ra, còn có 6 trường trung học phổ thông dân
lập, trong đó có những trường hoạt động tốt (trung học phổ thông Vạn Xuân), nhưng có
trường hoạt động kém hiệu quả, không thu hút được học sinh (trung học phổ thông Lê Văn
Thiệm, Tây Sơn).
- Quận có 1 trung tâm giáo dục thường xuyên Việt Hưng và 1 trường bổ túc văn hóa, với tổng diện tích 3.573 m2, 14 giáo viên và 1.268 học sinh. Hai cơ sở này đã liên kết
đào tạo với một số trường đại học ở thành phố Hà Nội.
Đến nay, quận Long Biên chưa có trung tâm dạy nghề tập trung với chất lượng
cao. Đây là vấn đề cần được quan tâm vì nhu cầu đào tạo đội ngũ lao động có tay nghề trên
địa bàn quận đang tăng mạnh. Quận hiện có 1 trung tâm dạy nghề tư thục Quang Trung, 12
cơ sở dạy nghề, trong đó có dạy nghề của xí nghiệp may và dạy nghề của tư nhân, quy mô nhỏ
như dạy sửa chữa xe máy.
Những năm qua, quận đã duy trì, nâng cao chất lượng dạy và học ở các cấp, bậc
học. Mạng lưới giáo dục phổ thông từ bậc mầm non đến phổ thông trung học, về cơ bản đã
đáp ứng được nhu cầu và quy mô học sinh trên địa bàn quận, đảm bảo 100% số trẻ 5 tuổi được
đến lớp. Số cháu trong độ tuổi đi học vượt kế hoạch thành phố giao. Tỷ lệ cháu trong độ tuổi
đi nhà trẻ là 28,8%, vượt 0,8%. Tỷ lệ cháu trong độ tuổi đi mẫu giáo là 78,1%, vượt 0,1%. Số
học sinh có mặt đầu năm học bậc tiểu học, trung học cơ sở đạt kế hoạch thành phố giao. Tỷ lệ
học sinh học 2 buổi/ngày ở bậc tiểu học là 79% và bậc trung học cơ sở là 70%. Tỷ lệ học sinh
tốt nghiệp năm học 2003 - 2004 bậc tiểu học đạt 100%, bậc trung học cơ sở đạt 99,72%, xếp
thứ 4/14 quận huyện của thành phố. Quận đã quan tâm công tác đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ
cho các giáo viên, tổ chức 192 chuyên đề cấp quận, 629 chuyên đề cấp trường nhằm nâng
cao trình độ chuyên môn trong công tác giảng dạy. Tỷ lệ giáo viên đạt chuẩn bậc mầm non
đạt 90,3%, trên chuẩn đạt 43,7%, bậc tiểu học đạt chuẩn 100%, trên chuẩn đạt 65,3%, bậc
trung học cơ sở đạt chuẩn 99,7%, trên chuẩn đạt 35%. Tuy nhiên, hệ thống trường, lớp đã
được quan tâm đầu tư xây dựng, song vẫn còn thiếu, một số cơ sở đã bị xuống cấp, trang
thiết bị cho dạy và học chưa đủ và nhiều trường còn thiếu hệ thống các phòng chức năng.
Nhiều trường chưa đảm bảo được quy định trường chuẩn quốc gia của Bộ Giáo dục và
Đào tạo về diện tích, quy mô lớp học, thiết bị học tập. Chất lượng đội ngũ giáo viên còn
hạn chế, vẫn còn một số giáo viên chưa đạt chuẩn. Quận Long Biên chưa có trung tâm dạy
nghề, không có trường đại học, cao đẳng đóng trên địa bàn. Vì vậy, việc hình thành cơ sở
đào tạo nghề có chất lượng cao đang là yêu cầu bức xúc.
2.2.2. Về ngành y tế
Trên địa bàn quận có hai bệnh viện: Bệnh viện Đa khoa Đức Giang, với quy mô
khoảng 250 giường bệnh và Bệnh viện Tâm thần, quy mô khoảng 150 giường bệnh, cả hai
bệnh viện đều do Sở Y tế Hà Nội quản lý. Ngoài ra, còn có Trung tâm y tế mới thành lập,
cơ sở vật chất và trang thiết bị y tế còn thiếu, kinh phí hoạt động hạn hẹp, trụ sở làm việc
phải đi thuê. Số cán bộ y tế của Trung tâm gồm 4 bác sĩ, y tá. Quận Long Biên còn có 1
trung tâm y tế hàng không, quy mô khoảng 20 giường bệnh và trung tâm y tế đường sắt.
Hai trung tâm y tế này chỉ phục vụ cho cán bộ công nhân viên của Tổng công ty Hàng
không Việt Nam và Công ty Xe lửa Gia Lâm.
Do mạng lưới y tế phường mới được hình thành, nên cơ sở vật chất chưa đạt so
với tiêu chuẩn quốc gia; dụng cụ y tế khám chữa bệnh ở một số phường còn thiếu hoặc đã
hỏng, lạc hậu.
Ngoài hệ thống y tế công lập, các cơ sở hành nghề y, dược tư nhân cũng phát triển
nhanh chóng. Năm 2004, 146 cơ sở hành nghề y, dược tư nhân có giấy phép do Sở Y tế Hà
Nội cấp. Nghề Y có 77 cơ sở, trong đó có 4 phòng khám đa khóa; Dược có 60 cơ sở; Y
học dân tộc có 9 cơ sở. Các cơ sở này đã đi vào hoạt động nền nếp, nhiều cơ sở có diện
tích sử dụng riêng biệt, khang trang, đầy đủ trang thiết bị và thực hiện theo đúng các quy
chế ban hành của Bộ Y tế. Các cơ sở tham gia khám chữa bệnh, cung ứng thuốc, đảm bảo
an toàn hợp lý cho người bệnh, góp phần cùng với tổ chức y tế nhà nước chăm sóc sức
khỏe ban đầu cho nhân dân trên địa bàn. Tuy nhiên, công tác hành nghề y, dược tư nhân
còn một số phòng khám hoạt động quá phạm vi cho phép, cơ sở y tế kiêm bán thuốc,
người giúp việc không phép, biển hiệu sai, chưa nghiêm túc thực hiện quy chế, chế độ
chuyên môn, quy trình vệ sinh vô khuẩn, hệ thống sổ sách thiếu, ghi chép chưa đầy đủ,
một số hóa đơn thuốc chưa hợp lệ. Trong khi đó, công tác quản lý các cơ sở hành nghề y,
dược tư nhân của các ngành chức năng chưa chặt chẽ, dẫn đến có lúc, có nơi xử lý chưa
triệt để.
Cán bộ y tế của quận còn thiếu cả về số lượng và chất lượng. Năm 2004, có 68 cán bộ
y tế, tính bình quân 1 cán bộ y tế phục vụ khoảng 2.568 người dân. Tỷ lệ này chưa đạt được so
với yêu cầu chung của thành phố là 500 dân/cán bộ
y tế. Với yêu cầu mỗi trạm y tế phường phải có một bác sĩ, 1 y tá; hiện nay, có 3 trạm y tế
chưa có bác sĩ (Thạch Bàn, Phúc Lợi, Việt Hưng).
2.2.3. Về thể dục thể thao, văn hóa thông tin
- Về thể dục thể thao cơ sở vật chất đã đáp ứng được nhu cầu thể dục thể thao của
nhân dân. Phòng trào thể dục thể thao phát triển khá rộng rãi, thu hút đông đảo tầng lớp,
lứa tuổi tham gia. Tỷ lệ người tham gia luyện tập thể dục thể thao thường xuyên là 24,5%,
tỷ lệ hộ gia đình thể thao (2004): 16%. Lực lượng cán bộ thể dục thể thao đã được tăng
cường số lượng và nâng cao chất lượng. Ngành thể dục thể thao của quận cũng đã đạt được
những thành tích trong các giải thi đấu của thành phố và quốc gia. Tuy nhiên, quận cần
phải có một trung tâm thể dục thể thao và sân vận động một số phường cần nâng cấp, sửa
chữa. Nhiều sân tập thể thao thực chất mới chỉ là các khu đất trống phục vụ cho hoạt động
thể thao.
- Văn hóa thông tin: toàn quận có 72 di tích lịch sử văn hóa, trong đó 34 di tích đã
được xếp hạng. Một số công trình có ý nghĩa quan trọng, khá tiêu biểu cho truyền thống
lịch sử, văn hóa của dân tộc, góp phần tạo nên một nền văn hóa vật thể, mang đậm bản sắc
văn hóa Thủ đô. Hiện nay đã có di tích trở thành một điểm trong tua du lịch sông Hồng là
đền Ghềnh, đền thờ Lý Thường Kiệt. Song việc khai thác đưa vào điểm du lịch vẫn đang do
tư nhân đứng ra tổ chức quản lý. Những năm qua, được sự quan tâm của các cấp, các
ngành và nhân dân, nhiều di tích đã được tu bổ, tôn tạo, được Nhà nước xếp hạng di tích
lịch sử văn hóa. Song một số di tích đã bị xuống cấp như: đình thôn Ngô (phường Thạch
Bàn), đình thôn Nha (phường Long Biên), đình Hội Xá (phường Phúc Lợi), chùa Xuân Hạ,
chùa Thổ Khối (phường Cự Khối).
Câu lạc bộ, nhà văn hóa: quận Long Biên chưa có nhà văn hóa cấp quận mà chỉ có
một Trung tâm văn hóa Hàng không, hai phường có nhà văn hóa (Ngọc Lâm, Ngọc Thụy),
cơ sở vật chất đáp ứng được các nhu cầu sinh hoạt văn hóa trên địa bàn. Các phường khác
chỉ có các địa điểm phục vụ cho các hoạt động sinh hoạt, hội họp. Quận có 5 trung tâm học
tập cộng đồng của 5 cụm dân phố.
Hệ thống thông tin ở quận có 14 trạm phát thanh phường, 14 đội thông tin lưu
động cơ sở. Công tác thông tin tuyên truyền cổ động đã được thực hiện khá tốt. Quận đã tổ
chức được rất nhiều hội nghị tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật như Luật Bầu cử
đại biểu Hội đồng nhân dân, Luật Giao thông đường bộ, Pháp lệnh Phòng chống
HIV/AIDS, Pháp lệnh Dân số với số lượng người tham dự khá lớn. Công tác vận động nếp
sống văn hóa được thực hiện tích cực. Quận đã xây dựng và triển khai thực hiện cuộc vận
động "toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa", cán bộ công nhân viên và quần
chúng nhân dân thực hiện tổ chức lễ cưới, lễ tang... tiết kiệm, lành mạnh; phát 45.000 tờ
đăng ký xây dựng gia đình văn hóa và đã có 95,6% hộ gia đình đăng ký xây dựng gia đình
văn hóa. Tỷ lệ hộ đạt gia đình văn hóa là 86%.
Công tác quản lý nhà nước về lĩnh vực văn hóa đã được tăng cường, quận đã ký
cam kết thực hiện Nghị định 87/CP với 134 cơ sở kinh doanh dịch vụ văn hóa và tích cực
kiểm tra các cửa hàng văn hóa phẩm, băng đĩa nhạc, đĩa hình, trò chơi điện tử; đã tiến hành
thu giữ các băng, đĩa không tem nhãn. Công tác quản lý di tích, lễ hội, tôn giáo được quản
lý chặt chẽ và đi vào nền nếp. Quận đã tổ chức nhiều lễ hội truyền thống đảm bảo vui chơi
lành mạnh, đúng pháp luật.
2.2.4. Về an ninh, quốc phòng và trật tự an toàn xã hội
Công tác phòng chống ma túy và tuyên truyền, đấu tranh với các tệ nạn xã hội đã
đạt kết quả tốt, thể hiện số lượng đối tượng nghiện hút ma túy, mại dâm trong những năm
qua không tăng và có chiều hướng giảm. Đến cuối năm 2004, số đối tượng nghiện ma túy
trên địa bàn là 527 người ở 14/14 phường, giảm tuyệt đối so với đầu năm là 52 đối tượng.
Quận đã tiến hành giao chỉ tiêu cai nghiện, quản lý sau cai cho các phường. Bàn giao danh
sách đối tượng quản lý sau cai và hướng dẫn các phường đánh giá, phân loại, chấm điểm về
công tác xây dựng phường lành mạnh, không có tệ nạn xã hội để làm căn cứ đánh giá mức độ
chuyển hóa công tác phòng chống tệ nạn xã hội ở các đơn vị cơ sở. Đồng thời, đã lập hồ sơ
và ra quyết định cai bắt buộc 282 đối tượng; bắt đi cai bắt buộc 167 đối tượng, bằng 38%
chỉ tiêu kế hoạch của năm. Số cai tại gia đình và cộng đồng là 8 đối tượng. Đã tổ chức hoạt
động 4 câu lạc bộ sau cai ở 4 phường với 45 hội viên tham dự. Bàn giao cho các phường
quản lý, giúp đỡ 58 đối tượng đã và sẽ từ trung tâm cai nghiện trở về, 79 đối tượng có
nguy cơ nghiện ma túy cao, có biện pháp cai nghiện cho 113 người mới nghiện. Ngoài ra,
quận thường xuyên tiến hành giao ban định kỳ trong công tác phòng chống tệ nạn xã hội
để quản lý tốt đối tượng nghiện, đối tượng có nguy cơ cao; thực hiện tốt chế độ báo cáo
định kỳ về công tác phòng chống tệ nạn xã hội.
Là quận có hệ thống dịch vụ khá phát triển với số lượng lớn các nhà nghỉ, phòng
karaoke, cà phê giải khát và có một số vườn hoa, công viên là điều kiện để tệ nạn mại dâm có
khả năng phát triển mạnh. Từ khi thành lập, quận đã tổ chức thi tìm hiểu pháp lệnh phòng
chống tệ nạn xã hội, chỉ đạo, đôn đốc các phường thực hiện công tác tuyên truyền pháp
lệnh phòng chống mại dâm tập trung với gần 2000 người nghe, dựng 73 panô, áp phích,
thu thập và xử lý 88 tụ điểm về hoạt động mại dâm. Đội kiểm tra liên ngành của quận và
các phường đã kiểm tra 239 lượt cơ sở kinh doanh dịch vụ dễ phát sinh tệ nạn mại dâm,
lập biên bản xử lý 6 cơ sở vi phạm; xét duyệt 15 đối tượng gái mại dâm đi cơ sở chữa bệnh
và cai nghiên ma túy.
Công tác an ninh của quận đã từng bước ổn định bộ máy tổ chức công an, đặc biệt
quan tâm đến bộ máy và điều kiện công tác của công an 14 phường. An ninh chính trị trên
địa bàn luôn được giữ vững ổn định, đảm bảo tuyệt đối an toàn trong các sự kiện chính trị
quan trọng của thành phố. Công tác đấu tranh với các loại tội phạm kinh tế, hình sự đạt kết
quả tốt; công an quận đã thực hiện tốt nhiều chuyên án, từng bước ngăn chặn các tệ nạn xã
hội. Phong trào quần chúng tham gia bảo vệ an ninh tổ quốc được đẩy mạnh và duy trì.
Tiếp tục thực hiện Nghị quyết 08/TW của Bộ Chính trị, Chương trình 15/TU của Thành ủy
Hà Nội về đảm bảo an ninh quốc gia trong tình hình mới; triển khai thực hiện Nghị quyết
09/CP của Chính phủ về chương trình quốc gia phòng chống tội phạm và chương trình
quốc gia phòng chống ma túy.
Công tác quốc phòng, đã tiến hành kiện toàn tổ chức, biên chế cơ quan quân sự
quận, các đơn vị dự bị động viên, dân quân tự vệ. Triển khai thực hiện có chất lượng công
tác tập huấn cán bộ quân sự, huấn luyện lực lượng dân quân tự vệ, tuyển sinh quân sự và
đón quân nhân hoàn thành nghĩa vụ trở về địa phương. Các đơn vị quân đội đóng trên địa
bàn quận tích cực tham gia các phong trào của địa phương, làm tốt công tác hậu phương
quân đội.
2.2.5. Về môi trường
Do quá trình đô thị hóa trên địa bàn quận diễn ra nhanh chóng, tốc độ tăng dân số
cao, đã gây áp lực lớn lên môi trường. Bên cạnh đó, việc bố trí bất hợp lý các xí nghiệp,
nhà máy, cơ sở sản xuất công nghiệp, trung tâm công nghiệp xen lẫn các khu dân cư cũng
làm cho tình trạng ô nhiễm môi trường tăng mạnh; đặc biệt các khu công nghiệp cũ với
công nghệ máy móc lạc hậu, vừa hao tốn năng lượng và nguyên, nhiên liệu, vừa thải ra
một lượng lớn phế thải vào môi trường.
Về môi trường nước mặt: Long Biên là quận duy nhất của Hà Nội có ba mặt giáp
với hai sông lớn là sông Hồng, sông Đuống. Ngoài ra, còn có sông Cầu Bây và nhiều các
mương thoát nước, cùng các hồ điều hòa như Tai Trâu, Công Viên, Cầu Tình, Sân Bay…
nên diện tích nước mặt chiếm tỷ lệ khá lớn trong diện tích tự nhiên toàn quận. Với sông
Hồng, sông Đuống và các hồ đóng góp rất quan trọng vào việc điều hòa khí hậu của quận.
Những năm gần đây chất lượng môi trường nước ở các hồ nói chung có xu hướng ngày
càng giảm sút do xâm lấn và tình trạng nguồn nước thải không qua xử lý trực tiếp đổ vào
hồ, vượt quá khả năng tự điều hòa của các hồ. Các sông, hồ và kênh đang tiếp nhận một
lượng lớn rác thải sinh hoạt của người dân xung quanh, điều này không những làm giảm
khả năng điều hòa không khí mà còn gây ô nhiễm môi trường xung quanh.
Ô nhiễm nước thải: Quận Long Biên chưa có hệ thống thoát nước bẩn riêng mà
thoát chung với nước mưa. Nhiều tuyến phố chưa có hệ thống thoát nước hoặc hệ thống
này đã quá cũ, không được nạo vét định kỳ nên ít phát huy tác dụng. Theo kết quả kiểm tra
số điểm ngập úng thường xuyên của quận là 28 điểm, xảy ra ở cả 14/14 phường trên địa
bàn. Do hiện tượng này, nhiều điểm nước cống ở dưới dồn lên gây ô nhiễm môi trường
nghiêm trọng. Đặc biệt nguồn nước thải từ các bệnh viện chứa nhiều chất bẩn và độc hại,
hàm lượng chất hữu cơ BoD5 cao, chứa nhiều vi trùng gây bệnh. Hầu hết nước thải của hai
bệnh viện, trung tâm y tế Hàng Không và các trạm y tế, phòng khám đều không quả xử lý,
xả trực tiếp vào cống thoát nước, sau đó xảy ra sông, hồ. Đây là nguồn gây bệnh rất nguy
hiểm. Bên cạnh đó là nước thải của trên 500 nhà nghỉ, khách sạn và hàng trăm cơ sở sản
xuất trung tâm công nghiệp quy mô nhỏ thuộc sở hữu tư nhân, đổ ra một khối lượng nước
thải khá lớn; nhiều xí nghiệp có chất thải độc hại cao xả trực tiếp vào hệ thống cống chung
của quận sau đó được đưa vào sông Hồng và các sông, hồ khác.
Nước thải công nghiệp được đánh giá là vấn đề bức xúc nhất hiện nay, trong đó
nước thải từ khu nhà máy xe lửa Gia Lâm, kho xăng dầu của Công ty Xăng dầu khu vực
1…được đánh giá là gây ô nhiễm rất lớn, nhưng vẫn chưa có giải pháp hữu hiệu. Riêng
nước thải khu công nghiệp Sài Đồng B, mặc dù chưa có đánh giá chính thức nhưng nguồn
nước thải ở đây có thể mang theo các chất độc rất nguy nhiểm như: thủy ngân, phóng xạ…
cần phải được nghiên cứu, đánh giá một cách chính xác, toàn diện.
Nguyên nhân của tình trạng trên là hầu hết các hộ sản xuất công nghiệp cá thể và một
số doanh nghiệp chưa có ý thức chấp hành các quy định về môi trường, chưa quan tâm đến
đầu tư lắp đặt hệ thống xử lý nước thải trước khi thải ra hệ thống chung. Các khu công
nghiệp tập trung vẫn chưa có hệ thống xử lý chất thải đồng bộ, kể cả khu công nghiệp Sài
Đồng. Một số doanh nghiệp tự thiết kế hệ thống xử lý chất thải, nhưng thiếu sự liên kết với
các doanh nghiệp khác. Các doanh nghiệp khu công nghiệp Đức Giang có quy mô khá lớn
như may Đức Giang, gạch Thạch Bàn nhưng chưa có hệ thống xử lý chất thải hoặc hệ
thống được thiết kế quá sơ sài, không đảm bảo tiêu chuẩn kỹ thuật.
Về môi trường không khí: Theo kết quả nghiên cứu của đề tài khoa học cấp thành
phố: "Thực trạng và các giải pháp giảm thiểu ô nhiễm không khí tại các khu vực tập trung
công nghiệp ở nội thành", thì nồng độ các chất gây ô nhiễm không khí chủ yếu như CO2,
SO2, NO2, nồng độ bụi lơ lửng (TSP) ngoài trời ở Hà Nội đều cao hơn so với tiêu chuẩn
Việt Nam tới 3-4 lần. Cụ thể theo tiêu chuẩn của Việt Nam, thành phần bụi trong không khí không được quá 0,2mg/ m3, nhưng thực tế thì nồng độ bụi tại các quận Đống Đa và Long Biên là 0,8mg/ m3, Hoàng Mai: 0,72mg/ m3, Ba Đình và Hoàn Kiếm đều hơn 0,52mg/ m3. Từ đó có thể thấy, mức độ ô nhiễm không khí về bụi đang ở mức rất cao,
nồng độ bụi trung bình trên địa bàn Quận gấp 4 lần mức độ cho phép, cao nhất trong số
các quận nội thành và gấp trên 1,5 lần so với các quận Hoàn Kiếm, Ba Đình (nồng độ 0,52 mg/ m3).
Nguyên nhân chính của tình trạng ô nhiễm bụi hiện nay trên địa bàn là do các xe
vận chuyển vật liệu xây dựng như đất thải, cát, xi măng, vôi…không đúng quy cách, bùn
đất bám ở lốp, thành xe trở thành nguồn phát tán bụi. Thêm vào đó, các tụ điểm buôn bán
vật liệu xây dựng không đủ điều kiện kinh doanh đảm bảo vệ sinh môi trường, không che
chắn vật liệu và thường xuyên sử dụng lòng đường, vỉa hè làm nơi tập kết, vận chuyển và
bốc dỡ cũng là tác nhân gây bụi trong quận. Tình trạng ô nhiễm bụi, không khí diễn ra rất
bức xúc ở các tuyến đường Ngô Gia Tự thuộc đoạn quốc lộ 1 từ ngã ba Cầu Chui đến chân
Cầu Đuống. Hàng ngày, đoạn đường này luôn bị ô nhiễm nặng vì bụi đất do các xe tải chở
vật liệu xây dựng rời (cát đen) từ phía sông Hồng đi về khu đô thị mới Việt Hưng không
che chắn để cát rơi xuống mặt đường. Việc phát triển và giữ gìn cây xanh không được
quan tâm đúng mức, diện tích cây xanh bình quân đầu người trên địa bàn ngày càng giảm
do mật độ xây dựng và mật độ dân số ngày càng gia tăng. Trong khi diện tích công viên, vườn hoa và thể dục thể thao của các nước phát triển từ 15 - 20 m2/người thì chỉ tiêu này ở khu vực nội thị Hà Nội bình quân chỉ có 1,26 m2/người. Đây cũng là nguyên nhân quan
trọng của tình trạng ô nhiễm không khí.
Để giữ gìn môi trường, Xí nghiệp Môi trường đô thị tổ chức thu gom vận chuyển
và xử lý rác thải ở 4 phường Ngọc Lâm, Bồ Đề, Đức Giang, Sài Đồng. Hiện nay, đã có
trên 90% rác thải sinh hoạt của nhân dân, các cơ quan, xí nghiệp, đơn vị, trường học… trên
địa bàn này được thu gom và vận chuyển đi, nhưng còn nhiều hộ gia đình, cơ quan, cơ sở
sản xuất nhỏ vẫn đổ rác ra hồ, ao, thùng đấu, mương thoát nước, chân đê và những nơi
công cộng khác gây ảnh hưởng đến vệ sinh môi trường đô thị, cảnh quan đường phố. Phần
còn lại được thu gom bởi những người thu gom đồng nát nhằm tái chế hoặc được thu gom
qua các kỳ tổng vệ sinh.
Đối với các phường còn lại, do không có người thu gom gây mất vệ sinh trong các
làng xóm, ủy ban nhân dân huyện Gia Lâm trước kia đã chủ trương xây dựng làng xã xanh
- sạch - đẹp với mô hình tổ vệ sinh tự quản tại các địa phương, với hoạt động đặc trưng cơ
bản là tự tổ chức thu gom và đổ phế thải ngay trên địa bàn phường. Kinh phí chi trả cho vệ
sinh viên từ nguồn thu phí vệ sinh, tuy đã phát huy được kết quả bước đầu nhưng vẫn còn
nhiều bất cập chưa được xử lý, đó là chưa cho điểm chôn lấp, xử lý rác thải, chưa có biện
pháp xử lý đảm bảo vệ sinh môi trường. Người thu gom rác phần lớn có trình độ văn hóa
thấp, không có người quản lý trực tiếp và không phải là lao động chuyên nghiệp nên đôi
khi còn đổ rác đã thu gom vào chân đề, các ao gây ô nhiễm.
Đánh giá chung mức độ ô nhiễm của quận Long Biên được xếp vào loại trung bình
của thành phố. So với quận Hai Bà Trưng, Thanh Xuân, Đống Đa, chất lượng môi trường
Long Biên vẫn được xếp ở mức khá hơn, nhưng nếu so với các quận: Ba Đình, Tây Hồ,
Cầu Giấy thì chất lượng môi trường Long Biên kém hơn. Mức độ ô nhiễm trong những
năm gần đây có xu hướng tăng lên, cụ thể môi trường nước mặt của quận (gồm nước sông
Đuống, sông Hồng và các hồ điều hòa) được đánh giá vào loại ô nhiễm nhẹ. Tình trạng ô
nhiễm nước thải ở nhiều địa điểm là khá nặng. Chất lượng nước ngầm còn khá tốt nhưng
đang có chiều hướng ô nhiễm vượt giới hạn cho phép nhiều lần, nhất là ở các khu vực có
mật độ giao thông cao; các công trình xây dựng và các khu công nghiệp cũ. Đặc biệt, tình
trạng ô nhiễm khói bụi trên địa bàn quận đang ở mức rất cao so với tiêu chuẩn và thuộc
nhóm ô nhiễm bụi cao nhất thành phố. Về rác thải, tuy chưa ở mức trầm trọng nhưng vấn đề
rác thải đang được đặt ra cấp bách do khối lượng rác thải ngày càng gia tăng trong khi hiệu
quả thực tế của việc thu gom, xử lý rác thải còn kém hiệu quả, chưa mang tính bền vững.
2.2.6. Công tác quản lý đô thị và nhà ở
Những năm qua, quận Long Biên đã triển khai nhiều dự án đầu tư xây dựng các
công trình hạ tầng kỹ thuật trọng điểm: quốc lộ 1, cồng Phù Đổng, Thanh Trì… Nhiều khu
công nghiệp ra đời, các khu đô thị mới với quy mô lớn, hạ tầng kỹ thuật được triển khai đã
tạo cho Long Biên một diện mạo mới đang trên đà phát triển. Tuy nhiên, sức ép gia tăng
cơ học về dân số, các vấn đề về xã hội và công tác quản lý đất đai, đô thị cũng nảy sinh hết
sức phức tạp.
Về quản lý xây dựng đô thị: Công tác quản lý đô thị Long Biên đã phát huy được
một số kết quả bước đầu, như cấp phép và quản lý trật tự xây dựng, đô thị theo phân cấp,
có tiến bộ, giảm phiền hà cho nhân dân. Công tác kiểm tra xử lý vi phạm xây dựng trái
phép trên đất nông nghiệp, lấn chiếm đất công được tăng cường. Tuy nhiên, tỷ lệ các công
trình xây dựng, nhất là xây dựng nhà ở không phép vẫn diễn ra tràn lan, chiếm đến 80% số
công trình xây dựng. Các trường hợp xây dựng trái phép trên đất nông nghiệp còn diễn ra
và đang được xử lý, khắc phục như phường Giang Biên, Thượng Thanh, Bồ Đề.
Hệ thống chiếu sáng: Năm 2004, lắp đặt trên 1500 bóng đèn chiếu sáng cho trên 50
km đường giao thông ở các phường. Năm 2005, hoàn thành thực hiện dự án chiếu sáng đợt
I là 134.022 km với 933 bộ bóng đèn tại 14 phường.
2.3. QUY Hoạch Phát Triển Hạ Tầng Kỹ Thuật
2.3.1. Hệ thống giao thông
- Về đường bộ: Long Biên có hệ thống giao thông trên mặt đê sông Hồng và đê
sông Đuống, cùng với đường vành đai 3 chạy gần như bao quanh quận. Hệ thống đê chia
quận thành khu vực trong đồng và ngoài bãi (gồm bãi sông Hồng và sông Đuống). Hệ thống
đường quốc lộ gồm đoạn từ cầu Chương Dương đến cầu Đuống cùng với đoạn đường từ
ngã ba Cầu Chui đến đường vành đai 3. Trục giao thông hình chữ T này đã và đang là trục
đô thị hóa trên địa bàn Quận. Ngoài hai hệ thống trên, khu vực thị trấn Gia Lâm cũ, khu
vực Đức Giang, Thạch Bàn bước đầu hình thành mạng lưới giao thông đô thị. Tuy vậy hệ
thống này còn chắp vá, chưa theo kịp tốc độ đô thị hóa, chưa đáp ứng được yêu cầu xây
dựng đô thị văn minh, hiện đại. ở các làng xóm cũ, các đường làng, ngõ xóm chưa được
cải tạo theo hướng giao thông đô thị. Tổng chiều dài các tuyến đường bộ trên địa bàn quận là 323 km, đạt 5,35 km/ km2 (chỉ tiêu này của quận Hoàn Kiếm là hơn 14km/ km2).
- Đường sắt: Dọc quốc lộ 1 cũ và quốc lộ 5 có hai tuyến đường sắt đi Lạng Sơn và
Hải Phòng. Đây là tuyến đường sắt liên tỉnh chạy qua quận Long Biên. Hai tuyến này hầu
như chưa có vai trò tích cực trong giao thông nội đô.
- Đường thủy: Sông Hồng và sông Đuống là hai tuyến giao thông thủy quan trọng
đối với quận Long Biên. Tuy nhiên, năng lực vận tải thủy của hai tuyến này đối với Long
Biên còn hạn chế, do hệ thống cảng sông còn yếu kém.
- Đường không: Trên địa bàn quận Long Biên có cụm cảng hàng không Gia Lâm.
Cụm này đóng vai trò giao thông đối ngoại cho cả khu vực, hầu như không có vai trò gì
trong giao thông nội đô của quận.
2.3.2. Hệ thống cấp nước, thoát nước
Nguồn cấp nước ở quận có Nhà máy nước Gia Lâm, công suất 30.000 m3/ ngày đêm và trạm nước sân bay Gia Lâm có công suất 6.000 m3/ngày đêm, dự án nâng công suất nhà máy nước Gia Lâm lên 60.000 m3/ngày đêm đang được triển khai. Hiện nay đã có 8/14
phường được cấp nước sạch là Ngọc Lâm, Bồ Đề, Thượng Thanh, Đức Giang, Việt Hưng, Gia Thụy, Phúc Đồng, Sài Đồng với 25.000 m3 nước/ngày đêm. Hiện đã có 2 phường có
dự án đầu tư nước sạch là Ngọc Thụy, Thạch Bàn với giá trị dự án là 29 tỷ đồng, 1 phường
đang lập dự án là Long Biên với giá trị 14 tỷ đồng. Như vậy, còn 3 phường chưa có dự án
nước sạch gồm: Cự Khối, Giang Biên, Phúc Lợi.
Hệ thống thoát nước vẫn gồm các cống, rãnh, mương đất nhỏ giúp thoát nước từ
các khu dân cư ra các mương tiêu liên phường hoặc thoát ra các hồ ao hiện có, sau đó thoát
vào hệ thống mương tiêu nông nghiệp và đổ ra sông Cầu Bây. Nhưng hệ thống này xuống
cấp và không đảm bảo khả năng thoát nước. Hầu hết các tuyến mương thoát nước cho khu
dân cư và mương nông nghiệp đều bị bồi lắng, có đáy mương cao, nhiều điểm bị co thắt, bị
phủ bèo, cây dại gây cản trở dòng chảy. Các hồ điều hòa Tai Trâu, Công Viên, Cầu Tình,
Sân Bay do có mực nước cao nên khả năng điều hòa nước rất hạn chế. Tuyến sông Cầu
Bây mặt sông có nhiều bèo, việc thoát nước tự chảy của sông phụ thuộc vào mực nước hệ
thống Bắc - Hưng - Hải tại cửa cống Xuân Thụy (khi mực nước hạ lưu cống Xuân Thụy >
2,8 m thì nước sẽ chảy ngược lại từ Bắc - Hưng - Hải vào sông Cầu Bây). Trên địa bàn
quận chưa có hồ điều hòa kết hợp trạm bơm cưỡng bức, hầu hết hệ thống kênh dẫn chủ yếu là
kênh đất.
Hiện nay quận có dự án trạm bơm tiêu Nam Đuống kết hợp tưới bãi sông Hồng
theo Quyết định số 337/QĐ-UB ngày 27/2/1995 được xác định đặt tại thôn Tư Đình,
phường Long Biên. Đến nay sau nhiều lần đổi tên dự án, thay đổi phương án thiết kế kỹ
thuật, quy mô… dự án vẫn chưa được triển khai gây khó khăn rất lớn cho công tác thoát
nước, đặc biệt là vào mùa mưa.
Hướng thoát nước và các lưu vực chính: Quận Long Biên được giới hạn bởi hai
tuyến đê sông Hồng và sông Đuống với địa hình lòng máng được tạo bởi hai triền đê đó.
Ranh giới giao cắt giữa hai triền đê đã tạo ra dòng chảy tự nhiên là sông Cầu Bây, chảy từ
Tây - Bắc xuống Đông - Nam quận. Tiêu thoát nước theo hướng Tây - Bắc xuống Đông -
Nam chảy xuôi tự nhiên của sông Cầu Bây đổ ra hệ thống thủy nông Bắc - Hưng - Hải qua
cống Xuân Thụy.
Các công trình thoát nước chính: Là quận đang trong giai đoạn đầu của quá trình đô
thị hóa, nên hệ thống thoát nước theo sông và mương lộ thiên còn phổ biến. Thoát nước
của quận được triển khai theo hai trục chính: sông Cầu Bây và tuyến mương Nam đường
5. Sông Cầu Bây, đoạn từ cống Lâm Thịnh đến đập trại lợn dài 7.200 m. Đoạn này có
chiều rộng từ 3-12 m có nhiều đoạn mặt cắt ngang chỉ còn trên dưới 3 m. Đoạn từ đập trại
lợn đến sông Bắc-Hưng - Hải dài 5.800 m. Đoạn này tình trạng xâm lấn dòng chảy có phần
ít nghiêm trọng hơn đoạn trên. Các mương thoát lộ thiên có 20 tuyến, với tổng chiều dài
khoảng 49.000 m [21]. Tuyến mương Nam đường 5 dài khoảng 5,5 km đang đảm nhận vai
trò là trục tiêu thoát nước chính cho phường Bồ Đề, Ngọc Lâm, một phần phường Long
Biên và phường Phúc Đồng. Hệ thống cống ngầm, rãnh thoát nước có tổng chiều dài
khoảng hơn 58.580 m. Trong đó, chủ yếu là các tuyến rãnh và trên 1.000 m cống dẫn ngầm
với phi từ 0,6 đến 1 m. Phân bố các cống dẫn và rãnh thoát tập trung chủ yếu ở các phường
đã có tỷ lệ đô thị hóa cao như: Phúc Đồng với 8380m, Đức Giang với 6.539 m, Sài Đồng
với 4.041 m; 11 phường còn lại, mỗi phường chỉ có một vài ngàn mét cống và rãnh.
Hệ thống cống thoát và điều tiết thoát nước: Long Biên có các cống thoát quan
trọng là cống chợ Ô Cách, cống Lâm Thịnh, cống Ga. Đây là 3 cống thoát chính từ các
mương, rãnh thoát cho các phường ở lưu vực 3. Trên sông Cầu Bây có 4 cống điều tiết: cống Xuân Thụy với lưu lượng thoát 24 m3/s, thoát nước sông Cầu Bây ra hệ thống Bắc -
Hưng - Hải; cống T4 và cống Gù là hai cống thoát cho các phường Đức Giang, Thượng
Thanh, Việt Hưng, Giang Biên và một phần phường Gia Thụy, Phúc Đồng; cống Trại Lợn,
cách cống qua đường 5 khoảng 1.000 m về phía hạ lưu. Ngoài ra tại nút cầu chui còn có trạm bơm công suất 450 m3/ha để giải quyết úng cục bộ tại nút Cầu Chui.
Hiện có trên 30 điểm thường bị ngập úng khi có mưa to. Nếu sau này, khi diện tích
đồng ruộng không còn, tình trạng ngập úng sẽ còn tăng thêm. Nguyên nhân ngập úng ở các
khu dân cư thôn xóm là do chưa có hệ thống cống rãnh được xây dựng bài bản, còn chắp
vá, không đồng bộ. Hướng thoát vẫn theo truyền thống từ thôn đổ ra đồng ruộng, ao hồ,
mương lộ thiên, trong khi đó các đáy mương ngày càng cao lên. Với các khu dân cư đô thị
thì hệ thống cống rãnh chưa đồng bộ, đô thị hóa tự phát. Việc quản lý nhà nước về cốt nền
nhà, đường và các công trình kiến trúc hầu như chưa được đặt ra.
2.3.3. Về phát triển đô thị
Quận Long Biên là khu vực có tỷ lệ đô thị hóa cao (xét cả về tỷ lệ dân cư, tỷ lệ đất đô
thị, giá trị sản xuất của các ngành kinh tế). Không gian kiến trúc của quận Long Biên được
hình dung với các khu vực không gian chính như sau:
Các khu vực đô thị cũ thuộc Gia Lâm trước đây là khu vực nằm hai bên trục
đường từ đầu cầu Long Biên và cầu Chương Dương lên Đông-Bắc (cầu Đuống). Hạt nhân
của khu vực này là thị trấn Gia Lâm cũ, khu vực ngã ba Cầu Chui. Không gian đô thị ở đây
được phát triển tự phát bám theo hai bên đường giao thông. Nhà "hình ống"của dân cư
bám sát hai bên đường, nên hầu như không có các tuyến phố gắn với không gian thoáng
đãng, không có các điểm cây xanh sinh thái như kiểu các vườn hoa, công viên xen kẽ trong
khu dân cư đã gây ra cảm giác bức bối, lộn xộn rất khó tổ chức giao thông hiện tại theo kịp
tốc độ phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn.
Khu vực nằm dọc theo đường 5 từ ngã ba Cầu Chui đến ngã tư đường 5 và đường
vành đai 3. Quá trình đô thị hóa ở khu vực này cũng tự phát như khu vực nói trên. Đặc
trưng về kiến trúc, về tổ chức giao thông ở đây cũng tương tự khu vực nói trên.
Các khu vực đô thị gắn liền với các cụm công nghiệp tập trung của huyện Gia Lâm
trước đây, chủ yếu nằm trên địa bàn phường Đức Giang và Thạch Bàn. Đặc trưng về tổ
chức không gian đô thị của khu vực này về cơ bản là nhà "hình ống" được xây dựng bám
theo hai bên đường giao thông, có một số điểm dân cư nhỏ nằm xen với khu vực sản xuất
công nghiệp.
Về tổ chức của hai cụm công nghiệp này được hình thành trong bối cảnh trước đây,
xung quanh là đồng ruộng sản xuất nông nghiệp và mật độ dân cư còn thấp. Nay cả hai
điều kiện đó đều đang diễn biến ngược lại, đất sản xuất nông nghiệp giảm nhanh, còn mật
độ dân cư lại tăng nhanh cùng với sự gia tăng dân cư của toàn huyện.
Các khu vực đô thị gắn với các khu công nghiệp tập trung: Trên địa bàn quận
Long Biên có khu công nghiệp Sài Đồng B, Đài Tư và Sài Đồng A. Trong đó hai khu Sài
Đồng B và Đài Tư đã giải phóng mặt bằng theo đúng quy hoạch. Khu Sài Đồng B đã xây
dựng cơ sở hạ tầng được 48,5 ha và cho thuê gần hết số diện tích. Khu Đài Tư đã xây dựng
cơ sở hạ tầng xong trên cả 40 ha. Tuy được quy hoạch, song trước đây các nhà quy hoạch
chưa lường trước được tình hình đô thị hóa diễn ra với tốc độ nhanh, nên cả hai khu công
nghiệp đã và đang bị đô thị hóa bao bọc xung quanh. Vì vậy, vấn đề đặt ra trong tổ chức
không gian đô thị khu dân cư và các doanh nghiệp trong khu công nghiệp cần phải được
định hướng khoa học. Riêng khu công nghiệp Sài Đồng A được quy hoạch với 407 ha từ
năm 1997, nhưng đến nay diện tích đã giải phóng mặt bằng vẫn là số 0. Trong phạm vi ranh
giới quy hoạch khu công nghiệp Sài Đồng A chủ yếu vẫn là diện tích đất sản xuất nông
nghiệp. Các khu vực làng xóm cũ còn chiếm tỷ lệ cao về diện tích đất, tỷ lệ dân số chiếm
trên 20% tổng dân số. Các công trình nhà ở của dân cư phần lớn là thấp tầng, bố trí xen kẽ
với vườn cây và ao chuồng, nuôi cá, gia súc theo mô hình kinh tế gia đình trước đây.
Khu vực đất sản xuất nông nghiệp: Diện tích đất nông nghiệp hiện còn khoảng
1.799 ha, trong đó hơn 1.644 ha đất canh tác, còn lại là đất cây lâu năm, diện tích ao hồ nuôi
trồng thủy sản. Trong khoảng 1.700 ha đất nông nghiệp thì diện tích trong đồng là 1.114,8 ha.
Đây là điều kiện thuận lợi để tổ chức không gian đô thị của Long Biên theo hướng hình thành
một quận có không gian kiến trúc hài hòa giữa các trung tâm văn hóa, hành chính, thương
mại… với các khu vực lân cận; giữa các công trình kiến trúc với khu vực cây xanh sinh
thái; giữa Long Biên với các quận huyện khác và các địa phương ngoài Hà Nội…
Bức tranh đô thị của quận Long Biên đang là sự đan xen giữa đất ở đô thị với đất
nông nghiệp, giữa đất ở nông thôn với đất nông nghiệp. Các công trình kiến trúc chưa có
công trình cao tầng nào có thể làm điểm nhấn về không gian kiến trúc, làm trung tâm về
thương mại về văn hóa, hành chính.
Chương 3
Định hướng và giải pháp Hoàn Thiện
quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội quận Long Biên đến năm 2015
3.1. Các NHÂN Tố ảnh Hưởng Và Định Hướng QUY Hoạch Phát Triển
KINH Tế - Xã Hội Quận LONG BIÊN
3.1.1. Các nhân tố ảnh hưởng đến quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội quận
Long Biên
* Xu thế đô thị hóa và công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Long Biên là quận mới thành lập, trên cơ sở chuyển từ các xã ngoại thành của
huyện Gia Lâm thành quận nội thành. Đây là quá trình chuyển biến toàn diện về kinh tế -
xã hội theo những xu hướng vận động mang tính quy luật sau:
- Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo định hướng từ công nghiệp - dịch vụ -
nông nghiệp sang dịch vụ - công nghiệp - nông nghiệp. Sự chuyển dịch này không những
là sự vận động mang tính quy luật của quá trình chuyển từ các xã ngoại thành thành quận
nội thành mà còn là sự vận động chung của kinh tế Hà Nội theo hướng công nghiệp hóa,
hiện đại hóa. Tuy nhiên, đối với quận mới thành lập đang đặt ra một cách cấp thiết, đồng
thời đây là địa bàn có điều kiện kinh tế, xã hội thuận lợi cho phép quá trình đó diễn ra với
tốc độ nhanh hơn. Hiện tại, nông nghiệp ở quận Long Biên chiếm tỷ trọng rất nhỏ, đã hình
thành các khu công nghiệp tập trung có quy mô tương đối lớn, nhưng thương mại, dịch vụ
chưa phát triển tương xứng với tiềm năng và vị trí của Quận. Vì vậy, vấn đề phát triển dịch
vụ và công nghiệp có công nghệ cao đáp ứng yêu cầu hiện đại hóa là vấn đề cấp bách.
- Quá trình đẩy nhanh việc xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng: giao thông, hệ thống
cung cấp nước sạch và xử lý nước, các trung tâm thương mại (chợ, siêu thị…), các công trình
văn hóa (nhà hát, viện bảo tàng, trung tâm giải trí…), cơ sở hạ tầng cho dịch vụ, công
nghiệp, các khu dân cư tập trung... theo những đặc trưng của một đô thị mới. Đối với Long
Biên, những công trình trên còn rất thiếu và không đồng bộ. Vì vậy, tốc độ đô thị hóa
nhanh hay chậm tùy thuộc vào quá trình xây dựng các cơ sở hạ tầng trên địa bàn quận, trong
đó vấn đề vốn cho xây dựng, giải phòng mặt bằng là những vấn đề cơ bản và nan giải nhất.
- Quá trình đẩy mạnh phát triển sản xuất, giao lưu hàng hóa và mở rộng các hoạt
động dịch vụ, tăng cường nâng cao dân trí, đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng cao
tương xứng với vai trò, vị trí cấp quận, nhất là quận của Thủ đô Hà Nội. Trong những năm
tới, quá trình đô thị hóa ở quận Long Biên sẽ tiếp tục diễn ra hết sức mạnh mẽ. Nhân tố
thúc đẩy quá trình đô thị hóa là sự vận động mang tính khách quan của Long Biên đang
trong quá trình vận động từ các xã ven quận nội thành của Thủ đô Hà Nội. Tuy nhiên, sự mở
rộng của đô thị, quá trình phát triển đô thị diễn ra rất nhanh đòi hỏi quy hoạch, xây dựng các
cơ sở hạ tầng phải tính toán tính thích ứng trong thời gian dài, bố trí và xây dựng các cơ sở sản
xuất, dịch vụ đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững. Đặc biệt quá trình đô thị hóa, sự chuyển
dịch cơ cấu kinh tế theo hướng giảm tỷ trọng nông nghiệp, làm cho đất nông nghiệp bị thu
hẹp nhanh, đã đặt ra yêu cầu cấp thiết về giải quyết việc làm cho dân cư nông nghiệp bị mất
đất, đây cũng là một trong những vấn đề bức xúc của thành phố Hà Nội trong quá trình đô thị
hóa.
- Sự phát triển và mở rộng không gian kinh tế của Thủ đô Hà Nội và mối liên kết
chặt chẽ giữa Hà Nội và các tỉnh vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ. Đặc biệt là sự phát triển
mạnh mẽ của tam giác kinh tế Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh. Long Biên với lợi thế cửa
ngõ phía Đông Bắc của Hà Nội sẽ nằm ở vùng tam giác, cửa ngõ giao lưu hàng hóa, dịch vụ.
Do vậy, dịch vụ sẽ dần nổi lên là ngành sôi động nhất của quận trong thời gian tới, và tỷ trọng
của nông nghiệp sẽ giảm dần. Chủ trương phát triển kinh tế ở Hà Nội đã được đề ra trong quy
hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội Thủ đô Hà Nội thời kỳ 2001-2010 được Thủ tướng
phê duyệt trong Quyết định số 60/2002/QĐ-TTG ngày 15/2/2002. Theo đó:
Phát triển nông nghiệp Thủ đô theo hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế,
cao cấp hàng hóa các sản phẩm nông nghiệp theo hướng nông nghiệp - đô thị -
sinh thái, hình thành các vùng sản xuất hàng hóa đặc sản như rau sạch, hoa, cây
cảnh, cây ăn quả, tạo môi trường bền vững trong lành cho Thủ đô Hà Nội [19].
Đồng thời, chủ trương chuyển dịch cơ cấu kinh tế đã được Quận ủy, Hội đồng
nhân dân và ủy ban nhân dân quận đề ra theo hướng tăng nhanh tỷ trọng thương mại - dịch
vụ, đồng thời giảm tỷ trọng nông nghiệp trong cơ cấu kinh tế. Chủ trương này phù hợp với
chủ trương chuyển dịch cơ cấu kinh tế Thủ đô theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đã được Đảng bộ và ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội đề ra.
* Sự tác động của tiến bộ kỹ thuật và công nghệ mới
Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã xác định mục tiêu đến năm 2010
Việt Nam sẽ thoát khỏi tình trạng chậm phát triển và đến năm 2020 Việt Nam cơ bản trở
thành một nước công nghiệp, theo hướng hiện đại [3]. Như vậy, trong thời kỳ quy hoạch,
tốc độ phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta sẽ diễn ra hết sức nhanh chóng và mạnh mẽ, trong
đó áp dụng công nghệ thông tin, những tiến bộ mới về khoa học công nghệ trong các ngành
sản xuất, dịch vụ sẽ là nhân tố chi phối mạnh mẽ và có tính quyết định.
Nghị quyết 15 của Bộ Chính trị và Pháp lệnh Thủ đô Hà Nội cũng đã xác định rõ
Hà Nội phải đi dầu trong việc ứng dụng những tiến bộ mới của khoa học công nghệ và tập
trung phát triển một số ngành kinh tế mũi nhọn. Mặt khác, trong giai đoạn tới Hà Nội sẽ
tập trung ưu tiên nhiều hơn cho mục tiêu hiện đại hóa, đổi mới và ứng dụng công nghệ hiện
đại, phát triển theo chiều sâu. Trong đó, việc ứng dụng tiến bộ mới về khoa học kỹ thuật có
ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của quận. Điều đó tạo điều
kiện thuận lợi cho Long Biên tập trung nguồn lực phát triển các ngành dịch vụ, công nghiệp
sạch và nông nghiệp sinh thái phù hợp với tiềm năng của quận.
* Quy mô dân số, lao động và nguồn nhân lực
Từ năm 2005 đến 2015, quá trình đô thị hóa trên địa bàn quận Long Biên sẽ diễn
ra với nhịp độ rất nhanh. Do là khu vực mở rộng phát triển của thành phố nên cùng với sự
phát triển của hệ thống cơ sở hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội, Long Biên sẽ là một trong
những địa bàn thu hút dân cư ở vùng nội thành cũ và các vùng lân cận. Theo quy hoạch, trên
địa bàn quận đã và đang thực hiện một loạt các dự án trọng điểm, có quy mô lớn của thành
phố và khi hoàn thành sẽ thu hút một số lớn lượng dân đến ở. Trong thời kỳ quy hoạch
2005- 2015, quá trình đô thị hóa nhanh làm cho sự biến động dân cư rất phức tạp, tốc độ
tăng dân số cơ học có xu hướng tăng nhanh hơn những năm trước.
* Khả năng đầu tư, khai thác các nguồn vốn cho phát triển kinh tế - xã hội trên
địa bàn quận
Do vị trí, vai trò đặc trưng kinh tế - xã hội của quận nội thành khác cơ bản so với
trước nên quá trình chuyển từ các xã ngoại thành thành quận nội thành của Long Biên có
nhiều điểm đáng lưu ý:
- Tính cấp thiết của sự chuyển biến kinh tế - xã hội cấp bách hơn, sự chuyển biến
cần diễn ra với tốc độ nhanh hơn. Những yêu cầu đối với việc xây dựng cơ sở hạ tầng
mang tính tập trung hơn, khối lượng lớn hơn, nên yêu cầu của đầu tư lớn và tập trung.
- Đặc điểm của đô thị là sản xuất gắn liền với đời sống và các hoạt động văn hóa, xã
hội, chính trị trong không gian hẹp. Sự tác động của sản xuất, sinh hoạt đến môi trường rất
lớn, trong khi đó yêu cầu về môi trường nhân văn và tự nhiên rất cao. Để giải quyết các
vấn đề này đòi hỏi lượng vốn rất lớn, bao gồm: vốn vật chất, vốn tiền tệ và nhân lực. Đây
là sức ép lớn đòi hỏi phải tập trung giải quyết, vì đây là một trong các yếu tố quan trọng
nhất định quá trình chuyển biến kinh tế - xã hội theo đúng yêu cầu của quận nội thành.
- Khả năng đầu tư: Tiềm năng về đất của quận chưa được khai thác có hiệu quả so
với các quận nội thành cũ. Với tiềm năng về đất, một mặt, Long Biên có thể thu hút thêm các
cơ sở sản xuất và kinh doanh thương mại, dịch vụ, tạo khả năng thu hút vốn đầu tư có thể
tăng thêm, nhất là ở các phường còn quỹ đất nông nghiệp. Mặt khác, khả năng xúc tiến
việc xây dựng các cơ sở hạ tầng nhanh (không gian còn tương đối thoáng, khó khăn trong
việc giải phóng mặt bằng ít hơn), mức tập trung đầu tư bằng nguồn vốn ngân sách cũng
nhanh hơn.
Khảo sát thực trạng kinh tế - xã hội của quận cho thấy, tuy mức độ phát triển kinh
tế chưa cao, nhưng tiềm lực kinh tế trong các tầng lớp dân cư còn tương đối lớn. Có thể
huy động các nguồn lao động và tiền vốn trong dân vào phát triển công nghiệp nhỏ, tiểu
thủ công nghiệp, thương mại, dịch vụ và xây dựng các cơ sở hạ tầng theo phương thức
Nhà nước và nhân dân cùng làm.
Là địa bàn đang trong quá trình đô thị hóa thuộc khu vực mở rộng phát triển của
thành phố, nên có thể tranh thủ khai thác được nhiều nguồn vốn tín dụng ưu đãi từ các quỹ đầu
tư phát triển của Nhà nước và thành phố. Ngoài ra, trong điều kiện kinh tế mở, với vị trí thuận
lợi, Long Biên có thể thu hút các nguồn vốn dưới hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)
và viện trợ phát triển chính thức (ODA).
3.1.2. Quan điểm và định hướng quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội quận
Long Biên
* Quan điểm về quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội
- Phát triển kinh tế - xã hội phải phù hợp với mục tiêu, phương hướng, nhiệm vụ
phát triển của Thủ đô và gắn liền với quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước.
Là một bộ phận cấu thành của Thủ đô, quá trình phát triển kinh tế - xã hội của
Long Biên tất yếu phải phù hợp với phương hướng, nhiệm vụ phát triển của thành phố
trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Pháp lệnh Thủ đô Hà Nội đã xác
định: "Thủ đô Hà Nội là trung tâm đầu não chính trị - hành chính quốc gia, trung tâm lớn
về văn hóa, khoa học, giáo dục, kinh tế và giao dịch quốc tế của cả nước..." [17, tr. 7-8].
Trong 10 năm tới, Hà Nội phải phát triển kinh tế - khoa học công nghệ - văn hóa - xã hội
toàn diện, bền vững, bảo đảm xây dựng về cơ bản nền tảng vật chất - kỹ thuật và xã hội
của Thủ đô giàu đẹp văn minh, thach lịch, hiện đại, đậm đà bản sắc ngàn năm văn hiến,
nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân; phấn đấu trở thành một trung tâm
tiêu biểu cho cả nước và có uy tín ở khu vực.
Để đạt được mục tiêu đó, cần khai thác và phát huy mọi nguồn lực để xây dựng Hà
Nội có kết cấu hạ tầng kỹ thuật đô thị đồng bộ, hiện đại, môi trường bền vững; bảo đảm
vững chắc an ninh quốc phòng, trật tự an toàn xã hội; phát triển kinh tế Thủ đô với tốc độ
tăng trưởng cao, cơ cấu hợp lý, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế trong nước và chủ động
hội nhập kinh tế quốc tế.
Chiến lược phát triển kinh tế của Thủ đô được hoạch định đảm bảo nhanh chóng
chuyển dịch cơ cấu hợp lý theo hướng dịch vụ - công nghiệp - nông nghiệp, đạt mức tăng
trưởng cao làm động lực cho vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc và cả nước. Hà Nội sẽ tập
trung ưu tiên phát triển công nghệ cao trong các lĩnh vực công nghệ thông tin - điện tử,
sinh học, cơ khí - tự động hóa, công nghệ sản xuất và sử dụng vật liệu mới.
Theo định hướng trên, qui hoạch tổng thể trên địa bàn quận, một mặt phải điều tra,
đánh giá tiềm năng và lợi thế so sánh của quận, mặt khác phải đặt trong tổng thể chiến
lược phát triển dài hạn của Thủ đô. Điều đó cũng có nghĩa là trong quá trình xây dựng và
thực hiện qui hoạch tổng thể, cần tính đến sự phối hợp đồng bộ giữa qui hoạch của quận,
của thành phố và các ngành, lĩnh vực trên địa bàn Hà Nội, tạo ra sự phân công hợp tác có
kế hoạch trong một cơ cấu thống nhất trên phạm vi thành phố và cả nước. Ví dụ, khi quy
hoạch cơ sở hạ tầng cho quận cần phải tính đến mục tiêu, quy hoạch hệ thống hạ tầng của
thành phố và nhằm thực hiện được mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của thành phố và
quận Long Biên.
- Thực hiện các mục tiêu cơ bản, xác định đúng trọng tâm, có bước đi và giải pháp
phù hợp, sáng tạo, hiệu quả, đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế - xã hội, chủ động hội
nhập kinh tế khu vực và quốc tế.
Quận Long Biên mới được thành lập, điểm xuất phát thấp hơn và khó khăn hơn so
với một số quận nội thành khác, nên việc thực hiện các nhiệm vụ kinh tế - xã hội và đẩy
nhanh tốc độ tăng trưởng là thách thức rất lớn. Vì vậy, trong quá trình phát triển kinh tế -
xã hội, cần bảo đảm sự kết hợp hài hóa giữa giải quyết các vấn đề trước mắt và tạo mọi
điều kiện để thực hiện theo định hướng chiến lược đã xác định. Muốn vậy, cần phải xác
định đúng các khâu đột phá, các lĩnh vực mũi nhọn để đi tắt, đón đầu nhằm đẩy nhanh tốc
độ tăng trưởng kinh tế. Trong đó, đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng phải đi trước một bước và
theo phương châm tập trung, dứt điểm để tạo cơ sở cho các ngành dịch vụ phát triển.
Sự phát triển kinh tế - xã hội theo yêu cầu của quá trình chuyển từ các xã ven nội
đô thành các phường và quận nội thành là nội dung cơ bản, là yêu cầu cấp thiết của quận
Long Biên trong quá trình qui hoạch.
Về thực chất, sự phát triển kinh tế - xã hội theo yêu cầu đô thị hóa có tính qui luật
riêng. Trong đó, mức độ và tốc độ đầu tư cao cho phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt là kết
cấu hạ tầng đô thị, sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế là những yêu cầu cơ bản nhất. Có như
vậy, sự phát triển kinh tế - xã hội mới thực sự tương xứng với tiềm năng, vị trí của cấp
quận, và Long Biên mới thực sự chủ động hội nhập với tiến trình công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước.
- Phát triển đồng bộ hệ thống kết cấu hạ tầng đô thị, tạo môi trường thuận lợi cho
sự phát triển kinh tế - xã hội.
Một trong những vấn đề cấp bách của đô thị hóa là yêu cầu xây dựng kết cấu hạ
tầng đô thị, trước hết là hệ thống đường giao thông, cấp nước, thoát nước, cơ sở phúc lợi
công cộng. Hiện tại, các chỉ tiêu về hạ tầng đô thị quận còn kém đồng bộ, chưa đáp ứng được
yêu cầu của đô thị hiện đại. Trong quá trình qui hoạch, Long Biên sẽ được ưu tiên đầu tư
nhiều dự án lớn nhằm hiện đại hóa cơ sở hạ tầng. Vì vậy, việc qui hoạch cần chú ý xác định
sự phát triển đồng bộ hệ thống kết cấu hạ tầng đô thị là yêu cầu và nội dung cơ bản của
quy hoạch.
So với các quận nội thành khác của Hà Nội, Long Biên có điều kiện thuận lợi hơn
trong việc giải phóng mặt bằng, thực hiện các công trình xây dựng theo qui hoạch. Trong
xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đô thị, vấn đề triển khai xây dựng nhanh và đồng bộ sẽ
có thuận lợi hơn. Tuy nhiên, lợi thế này sẽ dần dần bị mất đi nếu không có những giải pháp
cụ thể để đảm bảo phát triển kinh tế - xã hội theo qui hoạch, kế hoạch đã xác định, trước
hết là qui hoạch sử dụng đất. Mặt khác, do phải xây dựng hầu như từ đầu nên cần có nguồn
vốn và khối lượng các hạng mục xây dựng rất lớn. Vì vậy, khi xây dựng qui hoạch cần tính
toán sự phối hợp đồng bộ, có bước đi hợp lý để tạo điều kiện thuận lợi thúc đẩy sự phát
triển kinh tế - xã hội.
- Phát triển kinh tế phải kết hợp với phát triển văn hóa - xã hội, giữ vững bản sắc
văn hóa truyền thống; bảo đảm ổn định chính trị-xã hội, tăng cường an ninh quốc phòng,
giữ gìn và tôn tạo các di tích lịch sử văn hóa, bảo vệ môi trường sinh thái, nâng cao đười
sống của nhân dân.
Pháp lệnh Thủ đô Hà Nội đã xác định một trong những mục tiêu xây dựng, phát
triển Thủ đô là:
Xây dựng, phát triển Thủ đô xã hội chủ nghĩa giàu đẹp, văn minh, thanh
lịch, hiện đại, tiêu biểu cho cả nước. Có hệ thống kết cấu hạ tầng kỹ thuật đô thị
đồng bộ, hiện đại, môi trường bền vững… Bảo tồn phát huy tinh hoa văn hóa
truyền thống của Thủ đô ngàn năm văn hiến, góp phần xây dựng và phát triển
nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc…[17, tr. 8-9].
Là một bộ phận của Thủ đô, quá trình phát triển kinh tế quận Long Biên cũng phải
đáp ứng được mục tiêu đó. Vì vậy, sự phát triển kinh tế phải đi đôi với phát triển văn hóa,
giữ vững bản sắc văn hóa truyền thống của dân tộc, bảo đảm ổn định chính trị - xã hội,
nâng cao đời sống của nhân dân. Đây là một quan điểm cơ bản cần được quán triệt khi xây
dựng và qui hoạch phát triển kinh tế - xã hội của quận. Để quán triệt tư tưởng trên, cần lưu
ý một số vấn đề sau:
Qui hoạch phát triển kinh tế - xã hội được thực hiện trong mối quan hệ hữu cơ với
tất cả các ngành, các lĩnh vực, giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất, giữa tăng
trưởng kinh tế với các vấn đề xã hội và môi trường, bảo đảm sự phát triển bền vững.
Mục tiêu và các chỉ tiêu kinh tế - xã hội chủ yếu được xây dựng cho từng giai đoạn
2006 - 2010 và 2011 – 2015, phải đặt nó trong chiến lược phát triển dài hạn cho những
năm tiếp theo. Chú trọng bảo tồn, tôn tạo các di tích lịch sử, văn hóa, danh lam thắng cảnh
tiêu biểu trên địa bàn quận; xây dựng các cơ sở du lịch, thể thao, khu vui chơi giải trí và
các công trình văn hóa nghệ thuật đáp ứng nhu cầu sinh hoạt ngày càng cao của nhân dân.
Kết hợp các mục tiêu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa với bảo vệ môi trường sinh
thái, bảo đảm sự phát triển bền vững. Tăng trưởng kinh tế nhanh trên cơ sở giữ vững ổn
định chính trị - xã hội, tăng cường an ninh quốc phòng, kết hợp hài hòa với giải quyết các
vấn đề xã hội (việc làm, xóa đói giảm nghèo, ngăn ngừa và hạn chế các tệ nạn xã hội…),
nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân.
* Định hướng quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội quận Long Biên đến năm
2015:
Từ nay đến năm 2015, xây dựng Long Biên trở thành quận phát triển toàn diện về
kinh tế - xã hội, đóng vai trò động lực phát triển của Thủ đô Hà Nội ở cửa ngõ phía Đông
Bắc, phát triển đồng bộ hệ thống hạ tầng đô thị, tăng cường quản lý đô thị theo quy hoạch
và bảo vệ môi trường sinh thái; khai thác có hiệu quả các yếu tố tiềm năng; nâng cao đời
sống vật chất và tinh thần của nhân dân; bảo đảm an ninh, quốc phòng; xây dựng hệ thống
chính trị vững mạnh. Cụ thể là:
- Xây dựng quận Long Biên thành một khu đô thị văn minh, hiện đại của thành
phố Hà Nội.
- Thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng dịch vụ - công nghiệp - nông
nghiệp trên cơ sở khai thác tiềm năng, lợi thế so sánh của quận theo định hướng qui hoạch
chung của thành phố.
- Phát triển mạnh và nâng cao chất lượng các ngành dịch vụ: du lịch, thương mại,
tài chính - ngân hàng, chuyển giao công nghệ, đào tạo nhân lực, bảo hiểm... Tập trung mọi
nguồn lực phát triển nhanh dịch vụ theo hướng nhanh chóng vươn lên trình độ tiên tiến của
các nước trong khu vực và trở thành kinh tế mũi nhọn của quận.
- Đẩy mạnh phát triển công nghiệp có hàm lượng chất xám cao theo hướng đầu tư
chiều sâu, đột phá vào những ngành hàng, sản phẩm sử dụng công nghệ hiện đại, sử dụng
ít mặt bằng và có cơ chế bắt buộc các doanh nghiệp công nghiệp hiện đang hoạt động đổi
mới công nghệ, giảm thiểu ô nhiễm môi trường. Phát triển công nghiệp ngoài quốc doanh
phù hợp với tiềm năng, môi trường và điều kiện sẵn có của quận. Khuyến khích các cơ sở
sản xuất công nghiệp hoạt động tập trung trong các khu công nghiệp. Duy trì nghề khai
thác cát, công nghiệp cảng sông và sản xuất các sản phẩm từ gỗ.
- Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng tăng tỷ trọng sản phẩm nông
nghiệp có giá trị kinh tế cao, phát triển nông nghiệp đô thị, nông nghiệp sinh thái. Từng
bước hình thành vùng sản xuất nông nghiệp tập trung chất lượng cao với các loại rau cao
cấp, cây ăn quả, ngô chất lượng. Hình thành các vùng nông nghiệp - đô thị - sinh thái bền
vững, kết hợp phát triển du lịch - dịch vụ, thăm quan, giải trí phục vụ nhu cầu đa dạng của
người dân Thủ đô, các vùng phụ cận và dân cư trong quận. Quy hoạch sản xuất nông
nghiệp thành hai vùng lớn: ngoài bãi sông Đuống chuyên trồng rau phục vụ nhu cầu rau
xanh của dân cư đô thị và tập trung đầu tư cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất nông nghiệp cho
vùng này. Phía trong đê về cơ bản không còn sản xuất nông nghiệp, những diện tích nhỏ lẻ
được tiếp tục tận dụng để trồng trọt khi chưa thực hiện các dự án phi nông nghiệp. Giải
quyết lao động dôi dư cho các phường có đất nông nghiệp bị thu hồi và các phường, các
vùng phụ cận, góp phần ổn định chính trị xã hội, nâng cao mức sống và thu nhập cho nhân
dân.
- Hiện đại hóa hệ thống kết cấu hạ tầng đô thị, cải tạo và xây dựng mới cơ sở hạ
tầng xã hội (trường học, các công trình phúc lợi công cộng và các công trình văn hóa, y
tế…) ngang tầm với các nước trong khu vực.
Đối với hệ thống giáo dục cần tăng cường cơ sở vật chất cho giáo dục - đào tạo,
xóa các phòng học cấp 4, hiện đại hóa thiết bị dạy học. Đảm bảo đội ngũ giáo viên đủ về
số lượng và trình độ chuyên môn. Khuyến khích đa dạng hóa các loại hình giáo dục - đào
tạo, chuyển một số trường công lập sang dân lập. Xã hội hóa giáo dục nhằm huy động mọi
nguồn lực cho sự nghiệp phát triển giáo dục - đào tạo. Phát triển mạnh đào tạo hướng
nghiệp, đào tạo nghề, góp phần giải quyết việc làm cho người lao động trên địa bàn quận.
Giữ gìn và tôn tạo các di tích lịch sử - văn hóa, xây dựng hệ thống văn hóa - thông
tin nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của nhân dân, nâng cao đời sống tinh thần cũng
như khả năng tiếp cận với nền văn minh nhân loại, loại bỏ những hành vi văn hóa không
lành mạnh. Phấn đấu đưa phong trào thể dục thể thao phát triển rộng khắp, góp phần nâng
cao sức khỏe, thể lực của nhân dân. Trước hết, cần phát triển mạnh phong trào thể dục thể
thao trong thanh thiếu niên, học sinh, xây dựng nòng cốt thể dục thể thao cũng như tăng
cường thể chất cho lực lượng lao động trong tương lai. Đồng thời, nâng cao tinh thần thể
dục thể thao đối với người cao tuổi, tăng cường sức khỏe, giúp người già sống vui, khỏe.
- Xây dựng an ninh chính trị và quốc phòng vững mạnh, đảm bảo trật tự an toàn
xã hội, có môi trường trong sạch và đời sống nhân dân được cải thiện. Phát triển kinh tế
phải gắn chặt với đảm bảo và giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, củng cố
quốc phòng. Hai mặt kinh tế và an ninh quốc phòng tuy là hai lĩnh vực riêng nhưng lại
có quan hệ hữu cơ trong một thể thống nhất, mặt này là điều kiện tồn tại và phát triển
của mặt kia. Do đó, phải chú trọng tăng cường xây dựng các lực lượng vũ trang, công
an nhân dân vững mạnh cả về tổ chức, nghiệp vụ và khả năng sẵn sàng chiến đấu. Bên
cạnh đó, an ninh quốc phòng cũng phải phát triển phù hợp với sự phát triển kinh tế,
trong đó chú trọng việc huy động khả năng về cơ sở vật chất, nhân lực tham gia thúc
đẩy sự tăng trưởng và phát triển kinh tế của quận.
Trong quy hoạch, việc bố trí các công trình cũng như hệ thống cơ sở hạ tầng phải
phù hợp với các yêu cầu về đảm bảo an ninh - quốc phòng. Để đạt được điều này, an ninh
quốc phòng phải đề ra những yêu cầu mà các ngành kinh tế - xã hội phải đáp ứng. Qua đó,
việc xây dựng một số hệ thống cơ sở hạ tầng như đường, điện, thông tin liên lạc, các công
trình xây dựng khác phải đáp ứng được nhu cầu sử dụng cho mục đích quân sự.
Tăng cường bảo vệ các cơ quan đầu não của Đảng, Nhà nước, thành phố, bảo vệ
nhân dân; đảm bảo giữ vững ổn định chính trị - xã hội ở quận, Thủ đô trong mọi tình
huống; đảm bảo an ninh trật tự và phục vụ hiệu quả các hoạt động của trung ương và thành
phố.
Đấu tranh có hiệu quả đối với các tệ nạn xã hội, kiên quyết ngăn chặn bằng được
tệ nạn nghiện hút, buôn bán và tàng trữ chất ma túy, phấn đấu không có học sinh mắc tệ
nạn ma túy, giảm các loại tội phạm, nhất là các loại tội phạm nguy hiểm. Điều tra khám
phá đạt tỷ lệ cao đối với các loại án: thường án phạt phải đạt 75 - 85% và trọng án phải đạt
90% trở lên.
3.2. Những Giải Pháp Chủ Yếu Nhằm Hoàn Thiện QUY Hoạch Phát Triển
KINH Tế - Xã Hội Quận LONG BIÊN Đến NĂM 2015
3.2.1. Giải pháp chung
* Phát huy vai trò lãnh đạo của cấp ủy đảng trong việc thực hiện quy hoạch
phát triển kinh tế - xã hội
Để việc quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội trở thành hiện thực, phải coi trọng
phát huy vai trò lãnh đạo của các cấp ủy đảng, cần tập trung vào một số vấn đề sau:
- Làm tốt công tác tư tưởng trong Đảng và quần chúng nhân dân về ý nghĩa của
việc xây dựng quy hoạch và việc tổ chức thực hiện những nội dung quy hoạch nêu ra. Để
có được một đô thị mới, văn minh, hiện đại phải thực hiện theo quy hoạch là đem quyền
lợi trực tiếp cho dân cư trên địa bàn quận.
- Cần quán triệt trong các cấp ủy đảng về mối quan hệ tác động qua lại giữa sự phát
triển xã hội và giải quyết các vấn đề xã hội. Những chỉ tiêu lớn, các mục tiêu được xây dựng
trong quy hoạch đã được cân nhắc thận trọng sự tác động qua lại giữa phát triển kinh tế và phát
triển xã hội. Do vậy, khi triển khai quy hoạch và các kế hoạch hành động hàng năm cần thận
trọng khi thực hiện những công việc cụ thể có nguy cơ phá vỡ sự cân bằng đã được xây dựng
trong quy hoạch.
- Quán triệt trước hết từ các cấp ủy đảng về trách nhiệm lãnh đạo của các Đảng bộ
phường đối với mọi hoạt động kinh tế - xã hội. Trách nhiệm của người đảng viên và các
cấp ủy là không chỉ thụ động chờ được thông tin, mà quan trọng hơn nếu thấy cần thiết, sẽ
đề nghị được thông tin về các dự án phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn. Từ đó để làm
tốt công tác tư tưởng từ trong Đảng ra quần chúng về triển khai các dự án cụ thể. Đảng
viên thông suốt về tư tưởng thì mới có thể làm tốt công tác tư tưởng đối với quần chúng.
- Dân cư trên địa bàn Long Biên sẽ chịu sự tác động của mọi dự án phát triển kinh
tế - xã hội kể cả những tác động tích cực, lẫn tác động tiêu cực. Do vậy, không nên phân
biệt và từ đó dẫn đến bàng quan đối với các dự án phát triển kinh tế - xã hội của trung
ương, của thành phố triển khai trên địa bàn quận. Vì vậy, các cấp ủy đảng cần có trách
nhiệm giám sát, đóng góp để từng dự án triển khai trên địa bàn phát huy tác động tích cực
về kinh tế - xã hội và môi trường, giảm thiểu những tác động xấu.
* Xã hội hóa hoạt động đầu tư trong các lĩnh vực kinh tế - xã hội trên địa bàn
quận
Để thực hiện được các nội dung và định hướng trong quy hoạch này, sẽ cần lượng
vốn đầu tư lớn hàng nghìn tỷ đồng, nếu trông chờ nguồn vốn từ ngân sách sẽ là bế tắc
trong triển khai quy hoạch. Hơn nữa, để đảm bảo xây dựng đô thị văn minh, hiện đại, đem
lại đời sống vật chất và tinh thần ngày càng cao cho dân cư cần huy động các thành phần
kinh tế, các tổ chức trong và ngoài nước để phát triển kinh tế - xã hội. Vấn đề quan trọng là
cần được quán triệt trong tất cả các cấp ủy, các phòng ban của quận, tạo sự thông suốt về
tư tưởng trong toàn bộ cán bộ, đảng viên. Từ đó làm chuyển biến trong hoạt động hành
chính theo hướng tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tất cả các thành phần kinh tế tham gia
đầu tư phát triển kinh tế - xã hội.
* Đẩy mạnh công tác quản lý nhà nước và cải cách hành chính trên địa bàn
quận
- Về quản lý thực hiện quy hoạch tổng thể: Trên cơ sở quy hoạch tổng thể và các
quy hoạch khác, quận phải chuyển cho mỗi phường 01 bộ tài liệu về các quy hoạch. Đồng
thời, yêu cầu các phường chủ động đề xuất nhu cầu và giới thiệu trên địa bàn phường để
bố trí đất cho mục đích công cộng, như điểm vui chơi công cộng, địa điểm bố trí các chợ
nhỏ trên địa bàn phường… Quận sẽ xem xét các đề xuất của các phường, nếu những đề
xuất đó phù hợp với quy hoạch, sẽ quyết định cho thực hiện.
Cùng với các quy hoạch chi tiết sử dụng đất và giao thông, quận sẽ phối hợp với
các sở, ngành chức năng tổ chức cắm mốc giới đường giao thông, các khu đất công cộng
và giao cho các phường có trách nhiệm quản lý trực tiếp mốc giới của các công trình.
Để quy hoạch tổng thể trên địa bàn quận được hiện thực hóa, có tính khả thi cao
do ngày càng có nhiều dự án không thuộc thẩm quyền phê duyệt của cấp quận, nhưng quận
lại có trách nhiệm xử lý những tác động về xã hội và môi trường của từng dự án, do vậy
khi phê duyệt các dự án trên địa bàn Long Biên, cần đảm bảo tính phù hợp với quy hoạch
này.
- Về cải cách hành chính: Tạo ra bước chuyển biến mới về chất trong cải cách
hành chính. Về tổ chức các đơn vị hành chính, quận sẽ tuân thủ theo quy định chung của
thành phố. Nội dung cải cách hành chính cần tập trung xử lý là cải tiến các thủ tục và trình
tự, thời gian thực hiện các thủ tục hành chính; nâng cao ý thức trách nhiệm của đội ngũ
công chức trong thực thi công vụ. Những cải tiến đó cần hướng tới mục tiêu vừa để làm
lành mạnh hóa các hoạt động hành chính, vừa tạo điều kiện để thu hút các nguồn ngoại
lực, vừa để phát huy tốt nguồn nội lực cho phát triển kinh tế - xã hội. Kiểm tra xử lý kịp
thời những vi phạm hành chính trên địa bàn quận.
- Công tác nắm thông tin phục vụ quản lý vĩ mô kinh tế - xã hội: Để có thể điều hành
nền kinh tế - xã hội phát triển theo định hướng nêu trên, điều kiện có tính quyết định là quận
phải nắm được các thông tin kinh tế - xã hội cơ bản. Trong khi cơ chế sản xuất và cung cấp
thông tin kinh tế - xã hội của nước ta còn nhiều bất cập, quận sẽ tìm phương thức thích hợp để
có được thông tin một cách hệ thống. Đồng thời, khẩn trương nối mạng hệ thống máy vi
tính để chia sẻ thông tin, cung cấp thông tin giữa các phòng ban cấp quận với các phường.
* Hoàn thiện các chính sách và tăng cường giám sát, kiểm tra
Nghiên cứu hoàn thiện các cơ chế chính sách nhằm khuyến khích thu hút đầu tư của
các thành phần kinh tế, đồng thời tăng cường công tác giám sát, thanh tra, kiểm tra, kiểm toán
việc sử dụng các nguồn vốn đầu tư, kiểm tra chất lượng công trình xây dựng cơ bản nhằm
tránh lãng phí thất thoát trong đầu tư.
3.2.2. Giải pháp cụ thể thực hiện quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội
* Giải pháp quy hoạch phát triển ngành công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và
xây dựng
Để đạt mức tăng trưởng ổn định, ngành công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp có nhu cầu
vốn đầu tư rất lớn. Muốn vậy, phải đa dạng hóa nguồn vốn, hình thức đầu tư như: nguồn
vốn tích lũy từ bản thân doanh nghiệp, vốn tín dụng, vốn huy động, đặc biệt là vốn đầu tư
nước ngoài... Tạo môi trường thuận lợi, có chính sách ưu đãi, thủ tục nhanh gọn để đảm bảo
môi trường đầu tư ổn định, hấp dẫn, tính cạnh tranh cao để thu hút vốn đầu tư. Đồng thời,
có kế hoạch đào tạo cán bộ quản lý, công nhân lành nghề trong các doanh nghiệp nhà nước
và khu vực ngoài quốc doanh. Củng cố hệ thống đào tạo nghề trên địa bàn, ngoài các trung
tâm đào tạo nghề của Nhà nước, quận sẽ đẩy mạnh việc xã hội hóa đào tạo nghề trên địa
bàn để hình thành trung tâm dạy nghề được trang bị đầy đủ thiết bị, với một số nghề mũi
nhọn: điện tử, cơ khí vận tải, bưu điện, cơ khí chính xác, tự động hóa, sửa chữa phương
tiện, thiết bị phục vụ đời sống.
Tăng cường công tác quản lý của Nhà nước đối với sự phát triển của ngành, đặc
biệt trong việc thay đổi, tiếp nhận quy trình công nghệ mới hiện đại đối với các doanh
nghiệp, phải xác định rõ tiêu chí để đầu tư, lựa chọn công nghệ tối ưu, đảm bảo khả năng
cạnh tranh của sản phẩm về cả chiều sâu và chiều rộng. Từng bước thực hiện có hiệu quả
chủ trương sắp xếp lại sản xuất, cổ phần hóa một số doanh nghiệp nhà nước.
Cần có các chính sách và giải pháp kinh tế năng động giúp các doanh nghiệp thu
hút vốn đầu tư, tìm đối tác liên doanh, mở rộng thị trường tiêu thụ và ứng xử linh hoạt với
sự vận động không ngừng của môi trường sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế thị
trường.
Phát triển kinh tế ngoài quốc doanh, khuyến khích các cơ sở công nghiệp ngoài quốc
doanh đổi mới thiết bị, công nghệ, nâng cao chất lượng mặt hàng. Ưu tiên tạo điều kiện về
mặt bằng cho các doanh nghiệp, các cá nhân có dự án mở rộng kinh doanh phù hợp với
quy hoạch và cho các doanh nghiệp triển khai dự án phát triển sản xuất các thiết bị điện tử,
chính xác, tự động và các sản phẩm tiên tiến phục vụ đời sống của người dân đô thị để
thay thế các doanh nghiệp đóng trên địa bàn sử dụng quỹ đất không có hiệu quả hoặc gây ô
nhiễm môi trường.
Khuyến khích các cơ sở công nghiệp nhỏ liên kết, tập trung, tích tụ vốn để chuyển
lên sản xuất ở quy mô lớn. Xây dựng chính sách thu hút các trung tâm bảo hành, bảo
dưỡng, các cửa hàng sửa chữa… của các hãng sản xuất thiết bị tự động, thiết bị chuyên
ngành như: phòng cháy chữa cháy, thiết bị làm sạch môi trường, thiết bị điện tử, tin học,
thiết bị ngân hàng, thiết bị bưu chính viễn thông, phương tiện đặc chủng, trang thiết bị hiện
đại phục vụ đời sống.
Đầu tư phát triển dịch vụ cho thuê văn phòng để thu hút các doanh nghiệp trong việc
phát triển nguồn vốn đầu tư cho sản xuất, kinh doanh. Mở rộng mạng lưới dạy nghề trên địa
bàn với chính sách xã hội hóa công tác dạy nghề kết hợp với việc đầu tư của Nhà nước cho
công tác dạy nghề. Thành lập các hội nghề nghiệp, câu lạc bộ người có tay nghề cao để tập
hợp những kinh nghiệm. Đầu tư cho các doanh nghiệp xúc tiến giới thiệu sản phẩm và quảng
bá sản phẩm trên cơ sở có bảo hộ của Nhà nước. Từng bước tạo điều kiện cho các doanh
nghiệp có tiềm năng phát triển công nghiệp phần mềm, công nghệ tin học và các lĩnh vực
công nghiệp tiên tiến. Khu vực công nghiệp quốc doanh thực hiện sắp xếp lại sản xuất, cổ
phần hóa doanh nghiệp theo chủ trương của trung ương và thành phố. Ưu tiên về mặt bằng
cho doanh nghiệp kinh doanh các ngành sử dụng công nghệ cao nhằm tạo ra sản phẩm
mới, có sức cạnh tranh, ít gây ô nhiễm môi trường.
Phát triển có chọn lọc một số ngành công nghiệp mũi nhọn, có hàm lượng công
nghệ và chất xám cao. Phát triển mạnh công nghiệp sạch (công nghiệp phần mềm…) phục
vụ quá trình phát triển vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc. Tiếp tục đầu tư chiều sâu và
chuyển dịch theo hướng ưu tiên cho sản phẩm có hàm lượng chất xám cao, có sức cạnh
tranh trên thị trường, bảo đảm chủ động hội nhập với khu vực và quốc tế. Từng bước đưa
các dự án có đầu tư chiều sâu vào thay thế, điều chỉnh hoạt động trong các khu công
nghiệp cũ (Đức Giang, Sài Đồng) để giải quyết sự lạc hậu về công nghệ, sản phẩm thiếu
sức cạnh tranh, gây ô nhiễm môi trường.
Phát triển công nghiệp ngoài quốc doanh phù hợp với tiềm năng và điều kiện sẵn có
của quận. Có cơ chế khuyến khích các tổ chức và cá nhân phát triển sản xuất lâu dài trong
các khu công nghiệp đã quy hoạch, không gây ô nhiễm môi trường, tạo việc làm cho người
lao động; khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư vào sản xuất kinh doanh, đổi mới
thiết bị, công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm. Duy trì và phát triển bền vững một số
ngành nghề truyền thống như nghề khai thác cát, chế biến gỗ; chú trọng phát triển, nâng
cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của các hợp tác xã và hộ cá thể. Phát triển các bến cảng
sông phục vụ công nghiệp sửa chữa, đóng mới các tàu vận chuyển và tàu du lịch đường
sông.
Từng bước điều chỉnh cơ cấu công nghiệp theo hướng giảm dần tỷ trọng công nghiệp
cơ bản (hóa chất, cơ khí), công nghiệp tiêu dùng thông thường (may mặc, đồ uống), tăng tỷ
trọng các ngành nghề công nghiệp mới, có hàm lượng công nghệ cao.
Tập trung duy trì tốc độ phát triển của một số ngành sau: Công nghiệp dệt may cần
đầu tư công nghệ mới vào các doanh nghiệp hiện có, chuyển đổi hình thức tổ chức và đầu
tư vốn, công nghệ cho các cơ sở dệt, may với mục tiêu phục vụ tiêu dùng trong nước và
xuất khẩu. Công nghiệp điện - điện tử là nhóm ngành có doanh thu lớn đáp ứng nhu cầu
tiêu dùng cũng như xuất khẩu, ít gây ô nhiễm cần được đầu tư thích đáng về vốn sản xuất,
để nâng cấp, bổ sung dây chuyển công nghệ hiện đại. Công nghiệp hóa chất, nhóm này
thường gây ô nhiễm môi trường cao, cần có các biện pháp cải tiến các thiết bị hiện tại, để
giảm thiểu sự tác động tới môi trường xung quanh hoặc cần có phương án di dời ra khỏi
địa bàn quận. Công nghiệp chế biến thực phẩm, đồ uống đang chiếm tỷ trọng tương đối
lớn, hướng phát triển của ngành này là nâng cấp thiết bị hiện tại kết hợp đầu tư mới để
đảm bảo chất lượng sản phẩm. Công nghiệp phần mềm có nhiều tiềm năng để phát triển
nếu có mặt bằng riêng cho một khu trung tâm thương mại và công nghệ cao.
* Giải pháp quy hoạch phát triển ngành nông nghiệp
Khuyến khích, tạo mọi điều kiện cho các doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp,
đặc biệt chú trọng các vùng bãi. Những doanh nghiệp đầu tư sản xuất nông nghiệp ở vùng
bãi, ngoài việc được hưởng cơ sở hạ tầng do Nhà nước đầu tư còn được tạo điều kiện cho
thuê mặt bằng để gắn sản xuất với sơ chế và chế biến nông sản. Tập trung đầu tư hoàn
chỉnh cơ sở hạ tầng phục vụ cho sản xuất nông nghiệp vùng bãi, có chính sách đầu tư hệ
thống kênh tưới, hệ thống đường giao thông nội đồng, hệ thống điện, nhà lưới…
Tăng cường xúc tiến thương mại, tham gia các hội chợ nông sản do thành phố,
quận và các đơn vị tổ chức. Thúc đẩy việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, hàng năm lập kế
hoạch sản xuất phù hợp với nhu cầu thị trường. Gắn sản xuất nông nghiệp với du lịch sinh
thái, hình thành những vùng sản xuất lớn, tập trung thu hút khách hàng tại địa điểm sản
xuất để thu mua. Gắn sản xuất với sơ chế và chế biến nông sản, tạo thương hiệu của sản
phẩm trên thị trường.
Quy hoạch phát triển nông nghiệp theo hướng nông nghiệp - đô thị - sinh thái.
Nông nghiệp đô thị sinh thái là một nền nông nghiệp có cơ cấu cây trồng, vật nuôi hợp lý
trong điều kiện sinh thái phát triển theo hướng sản xuất hàng hóa với trình độ công nghệ
cao (cơ giới hóa, sinh học hóa…) tạo ra các sản phẩm nông nghiệp sạch, kết hợp đồng bộ
sản xuất nông nghiệp, công nghiệp chế biến, tiêu thụ và dịch vụ du lịch sinh thái, bảo vệ
cảnh quan môi trường, giữ gìn hệ sinh thái tự nhiên, phục vụ phát triển nông nghiệp và
kinh tế bền vững. Giải pháp bố trí quy hoạch phát triển ngành trồng trọt như sau:
Về cây lúa, tập trung chủ yếu ở Thạch Bàn, Việt Hưng, Thượng Thanh, Giang
Biên, Phúc Đồng và Phúc Lợi. Từ nay đến năm 2015, sẽ thực hiện chủ trương chuyển đổi
cơ cấu cây trồng sang các loại cây có giá trị kinh tế cao là rau hoặc cây ăn quả… Đến năm
2015, Long Biên sẽ không còn gieo trồng lúa. Cây ăn quả và cây môi sinh sẽ được trồng
tập trung vào khu công viên cây xanh sẽ góp phần hình thành vành đai xanh cho Thủ đô;
diện tích trồng cây ăn quả và môi sinh sẽ lên 250 ha.
Cây rau hiện có khoảng 45 ha gieo trồng ở những vùng, được quy hoạch thành khu
vực sản xuất rau an toàn ở phường Giang Biên và Thạch Bàn. Rau an toàn là cây có giá trị
kinh tế cao, nên cần phát triển thành những vùng chuyên canh tập trung sản xuất rau an toàn.
Đến năm 2015, diện tích đất trồng rau sẽ lên đến 137 ha, trong đó chủ yếu ở các vùng bãi
thuộc các phường Long Biên (50 ha), vùng Giang Biên (40 ha), Phúc Lợi (20 ha), Cự Khối
(16 ha).
Hoa cây cảnh kết hợp với du lịch sinh thái sẽ được tập trung ở các dự án xây dựng
khu công viên cây xanh. Đến năm 2015, diện tích trồng hoa cây cảnh đạt khoảng 100 ha.
Tập trung ở các phường như Thạch Bàn (20 ha), Giang Biên (24 ha), Ngọc Thụy (10 ha),
Long Biên (10 ha), Bồ Đề (6 ha), Cự Khối (5 ha).
Cây ngô và các loại cây màu khác sẽ được trồng ở vùng bãi sông Đuống và sông
Hồng, ở các phường Long Biên (40 ha), Phúc Lợi (58 ha), Cự Khối (40 ha), Giang Biên
(20 ha) và ở các phường Bồ Đề, Thạch Bàn, Ngọc Thụy. Diện tích trồng ngô và các cây
màu khác dự kiến đạt 186 ha vào năm 2015.
Về chăn nuôi: Từ năm 2010 trở đi, về cơ bản sẽ không khuyến khích chăn nuôi gia
súc, gia cầm trên địa bàn quận, nhất là khu vực trong đê.
Về thủy sản: Tổng diện tích mặt nước nuôi trồng thủy sản là 172 ha, tập trung ở
phường Thạch Bàn, Thượng Thanh, Việt Hưng... chủ yếu là thả cá thâm canh (chiếm trên
50% diện tích mặt nước nuôi trồng). Đến năm 2015, dự kiến diện tích mặt nước nuôi trồng
thủy sản thu hẹp còn 63 ha. Cần xem xét lựa chọn các loại giống cá cho năng suất cao, tận
dụng nuôi thả ở các diện tích mặt nước như đầm, hồ cao. Kết hợp các đầm hồ nuôi thả cá
với các dịch vụ câu cá, vui chơi giải trí để đem lại nguồn thu cho địa phương.
* Giải pháp quy hoạch phát triển ngành thương mại - dịch vụ
Để thực hiện quy hoạch phát triển ngành thương mại - dịch vụ, cần phải có một
lượng vốn khá lớn. Vì vậy, vốn là một trong các vấn đề mang tính quyết định đối với quy
hoạch ngành thương mại - dịch vụ. Để huy động được nguồn vốn, cần tập trung giải quyết
những vấn đề sau:
Đối với các hạng mục công trình làm chức năng dịch vụ công cộng, Nhà nước cần
đầu tư vốn và thực hiện theo phương châm "Nhà nước và nhân dân cùng làm" để huy động
vốn của dân và các tổ chức khác. Thu hút một phần đóng góp của các tổ chức khai thác
dịch vụ nằm trong phạm vi công trình. Đối với các trung tâm thương mại, hình thức huy
động vốn là kêu gọi vốn đầu tư từ các doanh nghiệp trong và ngoài nước theo phương thức
BOT hoặc BOT từng phần, từng hạng mục, góp vốn hoặc huy động vốn từ dân. Với các cơ
sở kinh doanh dịch vụ cải tạo hoặc xây dựng mới, vốn đầu tư chủ yếu của các cơ sở này là
dưới hình thức vốn vay. Để các cơ sở nâng cao năng lực kinh doanh, cần có cơ chế kinh
doanh và có chính sách vay hợp lý tạo sự thu hút, khuyến khích các cơ sở tự đầu tư. Để tạo
nguồn vốn ngân sách, quận cần thực hiện cơ chế đổi đất lấy hạ tầng, đấu thầu, đấu giá
quyền sử dụng đất.
Do vị trí đặc biệt quan trọng của các hoạt động thương mại - dịch vụ trên địa bàn
quận, cần có một số biện pháp cụ thể sau:
- Đề nghị ủy ban nhân dân thành phố cho phép thành lập một cơ quan quản lý nhà
nước về dịch vụ trên địa bàn quận. Chức năng, nhiệm vụ của cơ quan này do ủy ban nhân
dân thành phố quy định và chịu sự chỉ đạo trực tiếp của ủy ban nhân dân quận. Cơ quan
này có thể được hình thành trên cơ sở tăng cường chức năng, nhiệm vụ và nguồn nhân lực
cho phòng Kinh tế - Kế hoạch để giúp ủy ban nhân dân quận trong việc phối hợp xây dựng
quy hoạch, kế hoạch phát triển dịch vụ trên địa bàn quận.
- Tạo sự gắn kết hoạt động và hỗ trợ cho nhau của các ngành nông nghiệp, văn
hóa, giao thông với ngành dịch vụ. Trong đó lưu ý mối quan hệ ngành dịch vụ với xây
dựng nông nghiệp sinh thái để khai thác nông nghiệp sạch và du lịch sinh thái, ngành dịch
vụ với ngành văn hóa để khai thác các hoạt động du lịch văn hóa. Đối với các chợ khu vực
phải có sự giám sát của ủy ban nhân dân phường để đảm bảo vệ sinh an toàn, không gây
cản trở cho sinh hoạt của nhân dân đang cư trú tại các khu vực quanh chợ. Triệt để sử dụng
diện tích trong chợ, nghiêm cấm việc tự phát buôn bán ở các ngõ ngách xung quanh chợ.
- Tăng cường đào tạo và phát triển nguồn nhân lực, bao gồm đội ngũ cán bộ quản
lý nhà nước và cán bộ quản lý kinh doanh trong lĩnh vực dịch vụ, đủ sức đáp ứng yêu cầu
phát triển du lịch trên địa bàn quận.
Tổ chức tốt thị trường trên địa bàn quận Long Biên gắn với địa bàn thành phố Hà
Nội, vừa đảm bảo nhu cầu phát triển theo hướng chuyên môn hóa, vừa đảm bảo yêu cầu
không ngừng mở rộng mặt hàng kinh doanh. Bên cạnh việc tập trung quy hoạch và phát
triển hệ thống chợ, cửa hàng bán lẻ theo từng cụm dân cư, từng đường phố, bảo đảm trật tự
an ninh, vừa chú ý phát triển các trung tâm thương mại, siêu thị với các phương thức mua
bán tiên tiến, hiện đại, phù hợp với nhu cầu và trình độ đô thị văn minh, tiên tiến.
Trước hết cần đầu tư nâng cấp hạ tầng thương mại ở các phường Ngọc Lâm, Đức
Giang, Sài Đồng là những khu đô thị cũ, hoạt động thương mại đang phát triển sôi động
nhưng đang có biểu hiện quá tải về cơ sở vật chất, mạng lưới chợ, điểm bán hàng. Đồng
thời tập trung vốn, nguồn lực xây dựng từ 2 đến 3 trung tâm thương mại lớn ở những khu
vực còn diện tích đất đủ lớn là khu công nghiệp Sài Đồng A và khu chợ đầu mối Gia Thụy.
Trung tâm thương mại sẽ cung cấp các dịch vụ hiện đại như ngân hàng, tài chính, cho thuê
văn phòng cao cấp, dịch vụ vui chơi giải trí, bưu chính viễn thông, siêu thị cao cấp… Xây
dựng một số trung tâm thương mại, siêu thị phục vụ dân cư đô thị, đảm bảo mỗi phường có
ít nhất một chợ trung tâm. Khu vực phường Việt Hưng, Thượng Thanh, Sài Đồng, Thạch
Bàn… phải có khu siêu thị, khu vui chơi giải trí, các dịch vụ giữ xe máy, ô tô…
Thúc đẩy phát triển hoạt động thương mại tại các phường mới chuyển lên từ xã
như Cự Khối, Phúc Đồng, Phúc Lợi, Giang Biên… Phát triển dịch vụ nhằm tạo điều kiện
phục vụ tốt các nhu cầu sinh hoạt hàng ngày của nhân dân với tư cách một đơn vị hành
chính của quận, tạo điều kiện thúc đẩy phát triển sản xuất kinh doanh trên địa bàn. Kết hợp
các hoạt động dịch vụ với các hoạt động sản xuất và sinh hoạt văn hóa truyền thống, tạo sự
đa dạng trong các loại hình kinh doanh thương mại ở các phường trên địa bàn quận.
Cần quy hoạch mạng lưới chợ theo hướng sắp xếp hệ thống chợ, điểm bán hàng và
nâng cấp các chợ chính. Hiện nay trên địa bàn quận có 4 chợ chính được xây dựng kiên cố.
Trong thời gian qua các chợ này xuống cấp và quá tải, không đáp ứng nhu cầu của nhân
dân. Do vậy, cần có dự án cải tạo và nâng cấp các chợ Gia Lâm, Việt Hưng, Ô cách. Đối
với các chợ tạm, chợ cóc thực hiện rà soát, quy hoạch lại. Cần tiến hành ra soát các điểm
đất kẹt, nhỏ lẻ trong khu dân cư để ưu tiên xây dựng các điểm bán hàng nhỏ lẻ phụ vụ nhu
cầu tiêu dùng tại chỗ của dân cư trong khu vực. Hình thức đầu tư có thể là đấu giá quyền
sử dụng đất cho mục đích thương mại hoặc BOT trong thời gian ngắn (5 -10 năm).
Cùng với việc kiện toàn và nâng cấp mạng lưới chợ, mạng lưới trung tâm thương
mại sẽ được quy hoạch phát triển theo định hướng sau:
- Vị trí, địa điểm xây dựng trung tâm thương mại phải thuận lợi cho quá trình mua
sắm và vận chuyển hàng hóa. Quy mô của trung tâm thương mại phải phù hợp với nhu cầu
mua sắm của dân cư trong khu vực, của các quận, huyện khác tiếp giáp với Long Biên.
- Xây dựng một trung tâm thương mại cao cấp, đa năng với quy mô lớn (từ 30 tầng
trở lên) ở khu công nghiệp Sài Đồng A, phía Đông Bắc nhà máy nước Gia Lâm. Đây là
một vị trí đẹp nằm ở trung tâm quận, có điều kiện thuận lợi để phát triển thành một trung
tâm lớn của thành phố. Hơn nữa, khu vực này dễ giải phóng mặt bằng, giao thông thuận lợi.
Trung tâm thương mại sẽ cung cấp dịch vụ như cho thuê văn phòng, siêu thị, điểm bán
hàng tiêu dùng và công nghiệp, khu vui chơi giải trí (nhà hàng, khách sạn, rạp chiếu
phim…), khu để xe… Đồng thời đây sẽ là điểm tập trung cho các loại hình dịch vụ cao cấp
như ngân hàng, tài chính, bảo hiểm, bưu chính viễn thông, trở thành một trung tâm kinh tế,
tài chính của quận cũng như của thành phố, phục vụ làm trung tâm tam giác kinh tế Hà
Nội - Quảng Ninh - Hải Phòng. Xây dựng trung tâm thương mại tại vị trí chợ đầu mối Gia
Thụy (5 ha). Xây dựng các trung tâm thương mại với quy mô nhỏ hơn ở các khu vực như
Bãi ăng ten (phương Bồ Đề), Mả Tre (phường Gia Thụy), thôn Trạm (phường Long Biên),
Thượng Cát (phường Thượng Thanh). Cải tạo một số chợ có vị trí thuận tiện giao thông và
là nơi tập trung đông dân cư thành trung tâm thương mại: chợ Gia Lâm, chợ Việt Hưng.
Hình thức huy động vốn là kêu gọi vốn đầu tư từ các doanh nghiệp trong và ngoài nước
theo phương thức BOT hoặc BOT từng phần, từng hạng mục, góp vốn hoặc huy động vốn
từ dân.
Quy hoạch hệ thống nhà hàng, khách sạn: Hiện tại hệ thống khách sạn nhà hàng
trên địa bàn quận Long Biên phát triển mạnh về số lượng nhưng chất lượng chưa cao. Mật
độ nhà nghỉ, nhà trọ tập trung trên đường Nguyễn Văn Cừ và khu vực ven sông Hồng. Tuy
nhiên, những khách sạn đạt tiêu chuẩn cao, phục vụ khách quốc tế chưa có mà chủ yếu là
các khách sạn quy mô nhỏ, nhà nghỉ, nhà trọ, nhà hàng, phòng karaoke… với mật độ đông,
các loại hình kinh doanh phức tạp, ở đây tập trung nhiều tệ nạn xã hội nên việc quản lý
cũng gặp khó khăn. Đối với các công trình như khách sạn thì tại trung tâm đô thị sẽ xây
dựng các công trình có quy mô và tiêu chuẩn cao để phục vụ những khách nghỉ có nhu cầu
hoặc khách quốc tế, phục vụ cho các chuyên gia nước ngoài đến làm việc tại các khu công
nghiệp trong khu vực, vùng lân cận hoặc văn phòng trong các trung tâm thương mại ở
quận.
Quy hoạch các ngành khác: Dịch vụ tài chính, ngân hàng có ý nghĩa hết sức quan
trọng trong nền kinh tế thị trường. Mức độ phát triển của một nền kinh tế hiện đại có thể
được đánh giá thông qua sự phát triển của hệ thống tài chính, ngân hàng, bảo hiểm. Trong
thời gian qua, hệ thống này đã bắt đầu phát triển ở địa bàn quận Long Biên, với sự xuất
hiện các chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Ngân hàng Đầu tư và
phát triển, Ngân hàng Ngoại thương và các ngân hàng thương mại cổ phần khác. Khi các
khu đô thị mới, trung tâm thương mại hình thành, nhu cầu dịch vụ tài chính, ngân hàng,
bảo hiểm… của các doanh nghiệp, công ty, các hộ kinh doanh cũng như của dân cư sẽ tăng
nhanh. Do vậy, cần khuyến khích mạnh mẽ phát triển loại hình dịch vụ này, tạo môi
trường thuận lợi cho các tổ chức thuộc mọi thành phần kinh tế tham gia cạnh tranh bình
đẳng trên thị trường tài chính và dịch vụ hoạt động trên địa bàn quận qua hình thức ưu đãi;
tạo điều kiện thuận lợi cho việc thuê văn phòng, địa điểm kinh doanh, đặc biệt ở các trung
tâm thương mại chuẩn bị hình thành.
Dịch vụ bưu chính, viễn thông cần được quan tâm đặc biệt. Trong thời đại công
nghệ thông tin và kinh tế tri thức, sự phát triển kinh tế đòi hỏi phải có sự đi trước của hệ
thống thông tin liên lạc, đặc biệt là trong điều kiện phát triển thương mại điện tử đang dần
trở thành xu hướng trong tương lai. Do vậy, cần có hướng đầu tư phát triển các loại hình
dịch vụ bưu chính viễn thông và công nghệ thông tin theo hướng hiện đại, nâng cao chất
lượng và sức cạnh tranh của các dịch vụ nhằm đáp ứng tốt hơn yêu cầu phát triển kinh tế -
xã hội trên địa bàn quận và của toàn thành phố Hà Nội. Đầu tư xây dựng và lắp đặt đường
truyền internet tốc độ cao, đầu tư hạ tầng truyền thông… đặc biệt chú trọng kết nối với các
trung tâm thương mại, trung tâm hành chính của quận.
Đầu tư duy trì, củng cố nâng cấp và phát triển cơ sở vật chất hạ tầng giao thông
vận tải. Nâng cấp, hiện đại hóa các trục đường có lưu lượng giao thông lớn, kết nối các
khu vực du lịch, khu di tích lịch sử văn hóa trên địa bàn quận. Phát triển bến cảng sông hiện
đại để phát huy thế mạnh về vị trí địa lý đặc thù của quận từ đó thúc đẩy các ngành công
nghiệp liên quan đến phát triển.
Tập trung phát triển mạnh các loại hình dịch vụ khoa học công nghệ nhằm phục vụ
quá trình phát triển kinh tế - xã hội của quận. Chú trọng phát triển các dịch vụ đòi hỏi kỹ
thuật cao, xử lý số liệu, tính toán phân tích phục vụ trực tiếp nghiên cứu, triển khai; các hoạt
động liên quan đến bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ; các hoạt động hỗ trợ chuyển giao công
nghệ, áp dụng kỹ thuật mới vào sản xuất kinh doanh, tổ chức hỗ trợ ươm tạo công nghệ,
khởi lập doanh nghiệp; các hoạt động đào tạo huấn luyện cán bộ kỹ thuật, bồi dưỡng và
nâng cao kiến thức quản lý kinh doanh. Phấn đấu xây dựng một công viên phần mềm để
tạo tiền đề phát triển mạnh các loại hình dịch vụ khoa học kỹ thuật.
Đẩy mạnh phát triển du lịch nhằm góp phần thúc đẩy nhanh quá trình chuyển dịch
cơ cấu kinh tế theo hướng dịch vụ - công nghiệp - nông nghiệp. Phát triển đa dạng các loại
hình du lịch: du lịch sinh thái, du lịch văn hóa. Đầu tư tôn tạo, nâng cấp các di tích lịch sử
văn hóa, trước hết là các di tích như đền Lý Thường Kiệt, chùa Bồ Đề, đền Chử Đồng
Tử… các làng nghề truyền thống. Xây dựng khu công viên cây xanh kết hợp với du lịch
sinh thái 337 ha thuộc các phường Cự Khối, Long Biên, Thạch Bàn và Bồ Đề. Xây dựng
khu công viên cây xanh kết hợp với du lịch sinh thái tại một số phường khác như Ngọc
Thụy, Giang Biên kết hợp nông nghiệp với du lịch sinh thái.
* Giải pháp thực hiện quy hoạch phát triển các lĩnh vực văn hóa - xã hội
- Tổ chức lại các trường mầm non theo hướng các lớp lẻ sẽ thu gọn về các trường
có điều kiện đầu tư tập trung. Xây dựng một trường mầm non công lập đạt chuẩn quốc gia:
Hoa sữa và Đức Giang. Chuyển ba trường tiểu học đến địa điểm mới để có thể đạt chuẩn 6 m2/học sinh: Trường tiểu học Sài Đồng A; Trường tiểu học Giang Biên; Trường tiểu học
Phúc Đồng. Chuyển địa điểm ba trường trung học cơ sở để có thể đạt chuẩn quốc gia về
diện tích đất bình quân mỗi học sinh: Trường Trung học cơ sở Cự Khối; Trường Trung
học cơ sở Sài Đồng; Trường Trung học cơ sở Ngọc Thụy. Xây dựng Trung tâm dạy nghề
của quận tại phường Việt Hưng. Phối hợp với các trung tâm dạy nghề của các cơ quan
trung ương, thành phố và đặc biệt là các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài để đào tạo
nghề cho người lao động, gắn đào tạo với thực tế sản xuất. Ngoài ra, để đạt được mục tiêu
đặt ra, trong giai đoạn 2005-2010, cần phải cải tạo, nâng cấp để xóa tình trạng phòng học
tạm, phòng học cấp 4 ở các trường. Từ năm 2010-2015, xây dựng mới 1 trường tiểu học, 1
trường trung học cơ sở dân lập và 1 trường phổ thông trung học công lập chất lượng cao ở khu
đô thị Việt Hưng. Xây dựng mới 1 trung tâm giáo dục tổng hợp và hướng nghiệp, 1 trường
trung học chuyên nghiệp, 1 trường cao đẳng. Tiếp tục đầu tư cải tạo, nâng cấp các phòng
chức năng, đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng đào tạo.
- Cải tạo, nâng cấp bệnh viện đa khoa Đức Giang, nâng cấp và mở rộng các trạm y
tế phường, xây dựng mới trung tâm y tế quận và xây mới trạm y tế phường Đức Giang.
Xây thêm 1 bệnh viện đa khoa với quy mô khoảng 300 giường bệnh tại trung tâm quận.
Xây dựng một trung tâm dịch vụ y tế cao cấp tại khu Sài Đồng A. Khuyến khích phát triển
y tế tư nhân và tổ chức quản lý chặt chẽ hoạt động kinh doanh của các cơ sở y, dược tư
nhân. Tăng cường trang thiết bị và nâng cấp bệnh viện đa khoa và các trạm y tế phường.
- Nâng cao chất lượng các hoạt động văn hóa - thông tin: Xây dựng một thư viện
lớn, tăng cường số lượng sách, báo cho các phòng đọc để đáp ứng nhu cầu của nhân dân.
Đầu tư xây dựng một trung tâm văn hóa cấp quận để làm nơi giao lưu văn hóa, thưởng
thức nghệ thuật. Mỗi phường cần có một nhà văn hóa, giai đoạn 2005-2010, tiến hành xây
dựng nhà văn hóa tại 6 phường; giai đoạn 2010-2015, xây dựng nhà văn hóa các phường
còn lại, đảm bảo mỗi phường có một nhà văn hóa. Từ năm 2005 - 2010, triển khai xây
dựng 9 trung tâm học tập cộng đồng của các phường.
Thông tin cổ động là công tác quan trọng để phục vụ cho nhiệm vụ chính trí, đòi
hỏi ngày càng phải nhạy bén, chủ động hướng dẫn dư luận xã hội và điều chỉnh hành vi của
người dân. Vì vậy, phải xây dựng lực lượng thông tin được trang bị kỹ thuật để làm công tác
thông tin chính trị. Công tác thông tin cổ động tại các phường cần được củng cố thông qua
các tổ chức đoàn thể như đoàn thanh niên, hội phụ nữ, hội người cao tuổi… nhằm tuyên
truyền về chính trị, pháp luật, nếp sống văn minh. Tiếp tục cuộc vận động xây dựng nếp
sống văn minh, gia đình văn hóa, phấn đấu từ năm 2005 trở đi đảm bảo 100% hộ gia đình
đăng ký thực hiện nếp sống văn minh và khoảng 95-100% hộ gia đình đạt tiêu chuẩn gia
đình văn hóa.
Tiếp tục bảo vệ, tu tạo và nâng cấp các di tích lịch sử, văn hóa, đặc biệt là các di tích
đã được Nhà nước xếp hạng. Một số công trình lớn, có giá trị lịch sử cao cần được trùng tu,
phục vụ chương trình 1000 năm Thăng Long - Hà Nội.
- Phát triển mạng lưới công trình thể dục thể thao kết hợp với các khu công viên cây xanh đến từng phường, đảm bảo tiêu chuẩn 1-2 m2/người. Cải tạo và nâng cấp sân vận
động của các phường. Phát động phong trào thể dục thể thao quần chúng một cách toàn
diện từ khu dân cư, trường học và các cơ quan trên địa bàn quận. Nghiên cứu phát triển
một số môn thể thao mũi nhọn tham gia thi đấu cấp thành phố và quốc gia. Tăng cường
đào tạo, bồi dưỡng trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ quản lý, huấn luyện
và cán bộ phong trào, đảm bảo đội ngũ thể dục thể thao đủ cả về số lượng và có chất lượng
ở cấp quận, cấp phường.
* Giải pháp bảo vệ môi trường sinh thái
Một trong những giải pháp quan trọng nhất đối với vấn đề bảo vệ môi trường hiện
nay và trong tương lai đó là tuyên truyền, vận động ý thức bảo vệ môi trường của người
dân, bao gồm: Bảo vệ môi trường nước, môi trường không khí và rác thải. Cần có các quy
định xử phạt nghiêm minh đối với các hành vi gây tổn hại đến môi trường. Ngoài ra, việc
bảo vệ môi trường nước cần các giải pháp sau:
- Đối với các hồ điều hòa: Kinh nghiệm rút ra từ các quận cũ cho thấy, để có thể
bảo vệ được các hồ nước khỏi tình trạng xâm lấn trái phép một cách hiệu quả, lâu dài, cần
có sự quan tâm thỏa đáng của quận. Đối với các hồ điều hòa lớn, cần đầu tư xây kè và làm
các tuyến đường bao quanh để tránh xâm lấn môi trường cảnh quan chung. Đối với các hồ
nhỏ, cần được kè xung quanh và có biện pháp bảo vệ nghiêm ngặt.
- Xây dựng hệ thống nước thải tròn các khu đô thị, khu công nghiệp của Quận tách
riêng khỏi hệ thống thoát nước mưa. Nước thải sau khi được tập trung xử lý tại các nơi xử
lý theo tiêu chuẩn nước thải mới được xả ra sông, hồ. Hệ thống xử lý nước thải trong khu
vực được thiết kế tách riêng thành hệ thống nước thải sinh hoạt và nước thải công nghiệp.
- Đối với khu vực làng xã cũ, trước mắt không thiết kế hệ thống thoát nước thải riêng
biệt. Nước thải được xử lý tại các bể tự hoại sau đó thoát vào hệ thống thoát nước mưa. Có thể
thiết kế hệ thống xử lý nước thải tập trung cho các công trình sản xuất công nghiệp, tiểu thủ
công nghiệp, các công trình công cộng dịch vụ.
- Đối với nguồn nước ngầm: Giải pháp lâu dài để đảm bảo chất lượng nguồn nước
ngầm là giảm tối đa lượng nước thải ô nhiễm ngầm xuống lòng đất. Muốn vậy phải xây
dựng hệ thống cống rãnh thoát nước tốt, xử lý nghiêm những trường hợp đổ chất thải, rác
thải ô nhiễm xuống lòng đất, từng bước kiểm soát việc khai thác nguồn nước ngầm.
Về xử lý rác thải: Để nâng cao năng lực thu gom, vận chuyển và xử lý rác thải,
phải thực hiện xã hội hóa lĩnh vực này, có như vậy mới giải quyết được căn bản vấn đề rác
thải. Mô hình này từng được trải nghiệm và đã chứng minh được hiệu quả thiết thực, giúp
tạo sự công bằng trong việc giữ gìn vệ sinh môi trường. Mô hình xã hội hóa được thực
hiện là: Ngân sách nhà nước chi trả cho việc duy trì vệ sinh môi trường tại các đường phố
có tên, tuyến đường chính của 14 phường và chi phí vận chuyển rác trên toàn quận đến bãi
xử lý rác của thành phố. Các đường ngõ phố, ngõ xóm tại 14 phường, ủy ban nhân dân
phường phải tổ chức thu gom và vận chuyển rác đến nơi tập kết (xã hội hóa), các điểm
chân rác tại các phường để quận tổ chức vận chuyển đi. Việc thực hiện xã hội hóa do các
phường tổ chức các đội thu gom, vận chuyển rác đến nơi tập kết quy định gần nhất và tự
cân đối thu, chi theo quy định của Nhà nước. ủy ban nhân dân quận nghiên cứu điều kiện
cơ sở vật chất của từng phường để có chủ trương cho việc đầu tư cơ sở vật chất ban đầu.
Về địa điểm xử lý rác: Trong thời gian bãi chôn lấp Kiêu Kị vẫn còn sử dụng,
chuyển toàn bộ rác thải của quận Long Biên xử lý tại bãi chôn lấp Kiêu Kị để giảm chi phí.
Khi bãi Kiêu Kị được mở thêm khu vực xử lý rác thành phân bón thì rác phân loại tại Đức
Giang và Sài Đồng là nguồn để việc xử lý rác thành phân bón có hiệu quả hơn. Sau khi bãi
Kiêu Kị đóng cửa, rác sẽ chuyển về chôn lấp tại Nam Sơn - khu xử lý liên hiệp của thành
phố Hà Nội.
* Giải pháp giảm thiểu ô nhiễm không khí và tiếng ồn
Trong định hướng phát triển kinh tế - xã hội, không xây dựng và phát triển tiếp các
khu công nghiệp trên địa bàn, không phát triển mới các ngành công nghiệp gây ô nhiễm môi
trường mà lựa chọn ưu tiên phát triển các ngành công nghiệp sạch như: truyền thông, phần
mềm, công nghệ sinh học... Tiếp tục kiến nghị với ủy ban nhân dân thành phố có kế hoạch di
dời các nhà máy gây ô nhiễm môi trường lớn ra khỏi địa bàn quận (như gạch Thạch Bàn, kho
xăng dầu Đức Giang…). Đối với những cơ sở gây ô nhiễm khác, cần phải có định hướng di
dời đi nơi khác hoặc thay đổi công nghệ để không làm ảnh hưởng đến môi trường.
Tăng cường kiểm tra, xử lý các phương tiện vận chuyển đất, cát quá tải, không che
phủ đúng quy định làm rơi đất, cát và rác ra đường. Trang bị thùng đựng rác tại các tuyến
phố văn minh - đô thị, lắp đặt nhà vệ sinh công cộng tại các công viên, vườn hoa và các vị
trí công cộng khác.
Tổ chức trồng nhiều cây xanh hai bên các trục đường để điều hòa không khí, giảm
bụi và mở rộng, nâng cao chất lượng giao thông công cộng góp phần giảm bớt lượng
phương tiện tham gia giao thông trên đường.
* Giải pháp quy hoạch phát triển cơ sở hạ tầng xã hội, hạ tầng kỹ thuật và quản
lý, tổ chức không gian đô thị trên địa bàn quận
- Đối với tất cả các tuyến mương, sông sẽ quy hoạch ranh giới, cần tập trung quy
hoạch ranh giới sông Cầu Bây và 4 tuyến mương dự kiến sẽ để lộ thiên tương đối lâu dài
đã nói trên. Định hướng cốt nền xây dựng các công trình kiến trúc trên địa bàn, coi việc
quản lý cốt nền xây dựng là một trong những nội dung quản lý nhà nước về trật tự xây
dựng, từ đó để xác định cốt của hệ thống cống ngầm.
- Về quản lý đô thị: Do cơ sở hạ tầng kỹ thuật còn hạn chế, manh mún nên trong
những năm tới phải tiếp tục giải quyết các vấn đề cấp, thoát nước, chiếu sáng trên địa bàn,
hướng tới đạt 100% các tuyến phố, đường nội bộ trên địa bàn có chiều rộng 2 m trở lên
được lắp đặt đèn chiếu sáng.
Để tạo bộ mặt đô thị mới cho quận, đối với các tuyến đường, phố mới sẽ được xây
dựng trong các năm tới đây (như tuyến đường 5 kéo dài, tuyến chân cầu Vĩnh Tuy, cầu
Thanh Trì, đường mới vào khu đô thị Việt Hưng…), dọc các tuyến đường phố này, sẽ xây
dựng ngay quy hoạch chi tiết về xây dựng và sử dụng đất. Ưu tiên phát triển các khu vực
chi tiết về xây dựng, sử dụng đất và phát triển các khu công viên cao cấp, các khu văn
phòng hiện đại… tạo ra bước đột phá mới, làm thay đổi căn bản bộ mặt đô thị.
Để khắc phục việc úng ngập cục bộ và tạo bộ mặt cảnh quan đô thị, đối với các
khu đô thị mới khi triển khai khởi công dự án phải thực hiện các nội dung: Xây dựng hệ
thống thoát nước xung quanh khu đô thị và khu vệ sinh công cộng trong khu đô thị; nối kết
giao thông trong khu đô thị với các khu vực xung quanh; đối với đất kẹt trong các khu đô
thị đề nghị ủy ban nhân dân thành phố cho làm các công trình công cộng và cây xanh.
Tăng cường công tác quản lý trật tự xây dựng trên địa bàn, xử lý nghiêm và dứt
điểm các vi phạm xây dựng trái phép trên đất nông nghiệp, các vi phạm không phép, sai
phép ở các khu vực đã quy hoạch, lấn chiếm đất công… Duy trì đẩy mạnh các biện pháp
đảm bảo trật tự và an toàn giao thông, quản lý trật tự hè, đường phố, trật tự xây dựng đô
thị. Đẩy nhanh việc cấp giấy phép xây dựng, giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà và sử
dụng đất.
Thực hiện cải tạo, nâng cấp và sắp xếp một số chợ hiện có, xóa dần các chợ cóc và
đề nghị thành phố cho xây thêm một số chợ mới, xóa bỏ tình trạng buôn bán trên các vỉa
hè, lòng đường gây lộn xộn trong quản lý đô thị.
Công tác cấp, thoát nước, đề nghị với thành phố, Bộ Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn xem xét, giải quyết dự án trạm bơm Từ Đình; nâng cấp và xây mới các công
trình thoát nước trên địa bàn. Đối với các phường chưa được cung cấp nước sạch, đề nghị
ủy ban nhân dân thành phố triển khai lập dự án cung cấp nước sạch cho các phường này.
- Về cơ chế quản lý: Để nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước, cần tập trung giải
quyết một số vấn đề sau: Đề nghị thành phố cho phép thực hiện một số quy chế phục vụ
cho công tác quy hoạch như đổi đất lấy cơ sở hạ tầng, quy chế ưu tiên tuyển dụng lao động
là những công dân trên địa bàn quận, ưu tiên thầu xây dựng cho các cơ sở kinh tế trên địa
bàn quận… Mở rộng quyền hạn chính quyền cấp quận, phường trong quản lý nhà nước đối
với các cơ sở kinh tế đóng trên địa bàn, đặc biệt trong việc kiểm tra giám sát các hoạt động
liên quan đến vấn đề môi trường, thu thuế, quản lý xây dựng và các hoạt động mang tính xã
hội. Nâng cao năng lực quản lý của cán bộ bằng việc ưu tiên đào tạo, tuyển dụng, bổ
nhiệm, đánh giá cán bộ. Cần có chính sách đãi ngộ tốt hơn đối với đội ngũ lãnh đạo cấp
phường thông qua các khoản sinh hoạt phí, trợ cấp... để thu hút những người có trình độ,
khả năng lãnh đạo nắm giữ công tác này.
- Thực hiện định hướng tổ chức không gian đô thị: Hạn chế tối đa việc phân chia lô
đất làm nhà ở "hình ống" bám theo các trục đường mới mở. Trong đấu thầu quyền sử dụng
đất ở, nên ưu tiên định hướng xây dựng các chung cư cao tầng, hạn chế đấu thầu các lô đất
sẽ làm xuất hiện nhà "hình ống". Với các khu đô thị mới, trong thiết kế quy hoạch cần có
yêu cầu bắt buộc dành đất xây dựng vườn hoa, công viên cây xanh cấp đô thị hoặc cấp khu
nhà ở tùy thuộc vào quy mô của dự án khu đô thị mới. Có biện pháp ngăn ngừa nguy cơ
xâm lấn diện tích các hồ điều hòa trên địa bàn quận.
* Giải pháp về an ninh quốc phóng, trật tự an toàn xã hội
Tăng cường giáo dục ý thức quốc phòng cho toàn dân, đẩy mạnh xây dựng thế trận
quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng quốc phòng - an ninh ngay từ khi xây dựng
chiến lược, qui hoạch, kế hoạch và ngay trong từng dự án phát triển ngành, vùng, lĩnh vực,
nhất là các lĩnh vực chủ yếu trên địa bàn quận. Hình thành và sẵn sàng triển khai các
phương án tác chiến phòng chống bạo loạn trong mọi tình huống.
Đẩy mạnh các phong trào quần chúng tham gia bảo vệ an ninh Tổ quốc, chống lại
các âm mưu thù địch, diễn biến hòa bình… chủ động nắm chắc tình hình, đấu tranh phòng
chống, ngăn ngừa các loại tội phạm, tấn công mạnh mẽ vào các tệ nạn xã hội.
Từ nay đến năm 2015, quận cần có những biện pháp kiên quyết nhằm hạn chế và
ngăn chặn ngay tình trạng buôn bán và tàng trữ ma túy, với các biện pháp như: tuyên
truyền, kiên quyết tiêu diệt các tụ điểm buôn bán ma túy ngay từ khi mới hình thành, xử lý
thật nghiêm với các trường hợp liên quan đến ma túy, tạo việc làm cho người lao động.
Vận dụng có hiệu quả mô hình tự quản của quần chúng nhân dân để phát hiện, bắt giữ xử
lý tội phạm có tổ chức, xã hội đen. Giải quyết việc làm và tổ chức dạy nghề cho người lao
động. Khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư xây dựng các cơ sở dạy nghề. Xây dựng
các điểm vui chơi lành mạnh cho thanh thiếu niên và xây dựng trung tâm văn hóa - thể
thao của quận.
Đẩy mạnh phòng chống tệ nạn xã hội, tăng cường kiểm tra, kiểm soát các loại hình
kinh doanh dễ phát sinh tệ nạn xã hội: nhà hàng, nhà nghỉ, khách sạn, karaoke. Tập trung chủ
động tấn công các đường dây buôn bán phụ nữ, trẻ em, các tụ điểm ma túy. Quản lý chặt
những đối tượng có nguy cơ nhiễm bệnh và đang nhiễm HIV. Tiếp tục thực hiện có hiệu quả
Nghị quyết 09 của Chính phủ về chương trình quốc gia phòng chống tội phạm. Phát động
phong trào an ninh quốc phòng, phòng chống tội phạm từ cơ sở, đưa phong trào phát hiện, tố
giác tội phạm đi vào chiều sâu. Xây dựng một số phường, cơ quan, đơn vị điểm không có ma
túy, mại dâm và không phát sinh người nghiện ma túy mới để nhân rộng.
* Giải pháp về xây dựng đội ngũ cán bộ quận
Để thực hiện tốt công tác quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội đòi hỏi đội ngũ cán bộ
phải có phẩm chất đạo đức, năng lực và trình độ chuyên môn đáp ứng yêu cầu đề ra. Do vậy,
quận phải có kế hoạch tuyển chọn tạo nguồn, kế hoạch đào tạo bồi dưỡng, kế hoạch sử dụng
cán bộ… Đây là biện pháp rất cần thiết để đội ngũ cán bộ không bị hẫng hụt, bảo đảm tính
liên tục trong công tác cán bộ.
Về tuyển chọn cán bộ phải coi trọng cả đức và tài, đức là gốc. Khi vận dụng cần
hiểu đúng vị trí và mối quan hệ chặt chẽ giữa đức và tài, tránh cực đoan, tuyệt đối hóa từng
mặt.
Về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ phải xuất phát từ công tác quy hoạch cán bộ, phải có
chương trình, nội dung, thời gian đào tạo cho từng loại cán bộ. Ngoài việc đào tạo, bồi dưỡng ở
các trường lớp, cần phải đưa cán bộ tham gia vào các hoạt động thực tiễn để rèn luyện nâng
cao trình độ chuyên môn và bản lĩnh chính trị.
Sử dụng cán bộ phải đảm bảo đúng tiêu chuẩn và sở trường, đề bạt, bổ nhiệm đúng
lúc, giao việc đúng tầm với cương vị thích hợp để cán bộ có môi trường phát triển khả năng
của mình, bảo đảm tích phù hợp giữa trình độ, năng lực với đòi hỏi của công việc đặt ra.
Đồng thời phải có chính sách sử dụng, đãi ngộ thích đáng, kịp thời nhằm khuyến khích cán
bộ tham gia tích cực vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội của quận.
Kết Luận
Long Biên là quận mới thành lập trên cơ sở thị trấn Gia Lâm, hai cụm công nghiệp
tập trung Đức Giang và Thạch Bàn cùng một số xã của huyện Gia Lâm. Đó là khu vực đã
và đang trong quá trình đô thị hóa với tốc độ cao. Hiện nay khu vực này trở thành một
quận mới của nội thành Hà Nội, nên sẽ là điều kiện thúc đẩy mạnh mẽ quá trình đô thị hóa
vốn đã được thực hiện với tốc độ nhanh từ những năm trước đây. Quá trình đó đang tạo ra
nhiều cơ hội và cũng không ít thách thức cho quận Long Biên. Trong quy hoạch phát triển
kinh tế - xã hội, ủy ban nhân dân quận Long Biên đã lựa chọn các phương án phát triển
kinh tế - xã hội có thể tranh thủ được cơ hội và vượt qua những thách thức đang đặt ra cho
trong quá trình phát triển về lĩnh vực kinh tế - xã hội. Cơ cấu kinh tế cũng như kinh tế
thuộc cấp quận quản lý thiên về công nghiệp, dịch vụ còn chiếm tỷ trọng thấp. Cơ cấu đó
là phù hợp với thời kỳ đầu thực hiện chiến lược đẩy mạnh quá trình công nghiệp hóa. Tuy
nhiên, về lâu dài và nhất là khi Long Biên đã trở thành quận nội thành thì cơ cấu đó không
còn phù hợp với quá trình hiện đại hóa của Thủ đô và khu vực kinh tế trọng điểm phía
Bắc. Do vậy, ủy ban nhân dân quận Long Biên chủ trương từng bước chuyển dịch cơ cấu
kinh tế trên địa bàn quận từ công nghiệp - dịch vụ - nông nghiệp dần chuyển sang dịch vụ -
công nghiệp - nông nghiệp. Đó là quá trình lâu dài nhưng phải được định hướng ngay từ
bây giờ để tương lai không phải xử lý những vấn đề khó khăn do phát triển công nghiệp,
dịch vụ và giảm thiểu nguy cơ tác động xấu đến môi trường sinh thái cũng như môi trường
xã hội. Để hướng tới cơ cấu kinh tế dịch vụ - công nghiệp - nông nghiệp, quận Long Biên
đã mạnh dạn điều chỉnh cơ cấu sử dụng đất đai, như không mở rộng thêm các khu công
nghiệp tập trung, định hướng phát triển công viên cây xanh, trung tâm giải trí cấp thành
phố tại phường Long Biên và Cự Khối, chủ động phát triển hệ thống chợ, định hướng phát
triển các tòa nhà đa năng tại các khu đô thị mới để thu hút các ngành dịch vụ cao cấp…
Về lĩnh vực xã hội, các ngành giáo dục, đào tạo, y tế, thể dục thể thao... được hướng
tới các chuẩn mực tiên tiến, văn minh, trong đó quan trọng và là điều kiện tiền đề chính là
quỹ đất dành cho các ngành này. Trên cơ sở định hướng này, từng ngành sẽ xây dựng quy
hoạch chi tiết về địa điểm, quy mô diện tích từng công trình cũng như bước đi trong từng
thời gian.
Hệ thống đường giao thông được định hướng phát triển để đáp ứng yêu cầu phát
triển đô thị hiện đại, tránh những vấp váp mà các khu đô thị cũ thường mắc phải. Đi theo
hệ thống đường giao thông sẽ là hệ thống cấp, thoát nước, điện lực, thông tin… được xây
dựng hiện đại, đồng bộ. Định hướng phát triển các trục giao thông chính trên địa bàn và
định hướng các khu vực chức năng trong sử dụng đất sẽ là bước tạo tiền đề để hình thành
bộ mặt đô thị hiện đại kết hợp hài hòa với các làng xóm cổ trên địa bàn quận.
Để thực hiện được quy hoạch tổng thể, cần thực hiện một loạt các giải pháp về
kinh tế, xã hội, kỹ thuật… Tất cả các giải pháp đề ra có thực hiện được hay không là tùy
thuộc vào đội ngũ cán bộ công chức và sự lãnh đạo của các cấp ủy đảng, chính quyền quận
Long Biên trong những năm tới.
DANH Mục Tài Liệu THAM Khảo
1. Đại từ điển tiếng Việt (1998), Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.
2. Đảng bộ huyện Gia Lâm (2001), Báo cáo chính trị Đại hội Đảng bộ huyện Gia Lâm
lần thứ 18 (2001-2005), Gia Lâm.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam (2004), Văn kiện Hội nghị Ban Chấp hành trung ương lần
thứ 9 (khóa IX), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
5. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 (sửa đổi) (2005), Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
6. Nguyễn Mạnh Hùng (2004), Chiến lược - kế hoạch - chương trình đầu tư phát triển
kinh tế - xã hội Việt Nam đến năm 2010, Nxb Thống kê, Hà Nội.
7. Nguyễn Mạnh Hùng (1997), Quy hoạch ngành và chương trình quốc gia ở Việt Nam
đến và sau năm 2000, Nxb Thống kê, Hà Nội.
8. Trần Hoàng Kim (chủ biên) (2002), Tư liệu kinh tế - xã hội 631 huyện, quận, thị xã,
thành phố thuộc tỉnh Việt Nam, Nxb Thống kê, Hà Nội.
9. Kinh tế học phát triển - những vấn đề đương đại (2003), Nxb Khoa học xã hội, Hà
Nội.
10. Luật Đất đai (2006), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
11. Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân (2005), Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
12. Luật Xây dựng (2006), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
13. Nghị định số 132/2003/NĐ-CP, ngày 6/11/2003 của Chính phủ.
14. Nghị định số 91/NĐ-CP của Chính phủ, Về điều lệ quản lý quy hoạch đô thị.
15. Nghị quyết số 15/NQ-TU, ngày 15/12/2000 của Bộ Chính trị, Về phương hướng,
nhiệm vụ phát triển đô thị Hà Nội thời kỳ 2001-2010.
16. Niên giám thống kê quận Long Biên năm 2004 (2004), Long Biên.
17. Pháp lệnh Thủ đô Hà Nội (2005), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
18. Quy chế hoạt động của Hội đồng nhân dân (2005), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
19. Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế-xã hội Thủ đô Hà Nội thời kỳ 2001-2010 (2001),
Hà Nội.
20. Nguyễn Văn Sáu (chủ biên) (2003), Giáo trình quản lý kinh tế, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
21. Sở Giao thông công chính Hà Nội (2004), Báo cáo tình hình cấp thoát nước thành phố
Hà Nội, tháng 8 năm 2004, Hà Nội.
22. Thủ tướng Chính phủ (2002), Quyết định số 60/2002/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính
phủ về việc phê duyệt quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội Thủ đô Hà
Nội thời kỳ 2001-2010, Hà Nội.
23. Thủ tướng Chính phủ, Quyết định 108/CP của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt điều
chỉnh không gian đô thị Hà Nội đến năm 2002, Hà Nội.
24. Toàn cảnh kinh tế Việt Nam (2004), tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
25. Tổng cục Thống kê (1996), Kết quả tổng điều tra các cơ sở kinh tế, hành chính sự
nghiệp năm 1995, Nxb Thống kê, Hà Nội.
26. Tổng cục Thống kê (2005), Tư liệu kinh tế - xã hội 64 tỉnh, thành và thành phố Việt
Nam, Nxb Thống kê, Hà Nội.
27. Tổng quan quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam (2002), Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
28. Từ điển Bách khoa Việt Nam (2000), tập 3, Nxb Từ điển bách khoa, Hà Nội.
29. Từ điển tiếng Việt (1992), Trung tâm Từ điển ngôn ngữ, Hà Nội.
30. ủy ban nhân dân quận Long Biên (2004), Báo cáo tình hình thực hiện nhiệm vụ năm 2004,
nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội năm 2005, xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế -
xã hội 5 năm 2006-2010, Long Biên.
31. ủy ban nhân dân quận Long Biên (2004), Báo cáo tình hình thực hiện nhiệm vụ phát
triển kinh tế - xã hội, an ninh quốc phòng năm 2004, nhiệm vụ phát triển kinh tế -
xã hội, an ninh quốc phòng năm 2005, Long Biên.
32. ủy ban nhân dân quận Long Biên (2005), Báo cáo tình hình thực hiện nhiệm vụ phát
triển kinh tế - xã hội, an ninh quốc phòng năm 2005, nhiệm vụ phát triển kinh tế -
xã hội, an ninh quốc phòng năm 2006, Long Biên.
phụ lục
Phụ lục 1
biểu tổng hợp thực hiện các chỉ tiêu về kinh tế - xã hội
năm 2004, kế hoạch năm 2005
KH Ước Kế Đơn TP TT Chỉ tiêu chính So sánh TH hoạch vị giao 2004 2005 (2004)
A B C 1 2 3 4=2/1 5=3/2
I Về phát triển kinh tế
* Tốc độ tăng giá trị sản
xuất các ngành
1 Ngành công nghiệp-XDCB % 17 17 17
2 Ngành thương mại - DV 16 17 18 +1 +1 %
3 Ngành nông nghiệp - TS -5 -5,8 %
giảm
II Văn hoá - Xã hội
1 Số học sinh có mặt đầu năm hs
học
+ Giáo dục mầm non hs 7.906 7.956 8.050 100,6 101,2
% %
- Tỷ lệ các cháu trong độ tuổi đi %
học
+ Nhà trẻ 28,0 28,8 29,0 +0,8 +0,2 %
+ Mẫu giáo 78,0 78,1 78,5 +0,1 +0,4 %
+ Học sinh tiểu học 12.469 12.469 12.283 100% 98,5% hs
- Tỷ lệ học sinh học 2 % 79 92 95 +13 +3
buổi/ngày
+ Học sinh THCS hs 10.233 10.233 10.250 100,1
2 Xoá phòng học cấp 4 phòng 38 30 32 79% 106,6
%
3 Xã hội hoá giáo dục
- Số trường Q.lập chuyển sang trường 1 - - - -
B.công
14 4 Xã hội hoá công tác VSMT phường 14 100% 100%
81 5 Tỷ lệ hộ đạt TC GĐVH 80 81,5 +1 +0,5 %
6 Mức giảm tỷ lệ sinh 0,007 0,15 0,06 -0,74 +0,01 %0
Tỷ lệ sinh 18,09 17,35 16,9 -0,74 -0,45 %0
7 Tỷ lệ sinh con thứ ba 2,5 3,75 3,65 +1,25 -0,1 %
8 Tỷ lệ TE suy DD 13,9 13,5 13,0 +0,4 -0,5 %
9 Giảm hộ nghèo 200 205 210 +5 +5 hộ
10 Số LĐ được GQVL người 4.000 4.100 4.300 103% 104,8
%
11 Số ngày công LĐ công ích Ng.côn 115.00 126.50 130.00 110% 103%
0 0 0 g
12 Tỷ lệ người LTTX 24 25,3 26 +1,53 +0,7 %
13 Tỷ lệ gia đình thể thao 15,5 19,0 19,5 +3,5 +0,5 %
6000 5000 7929 83,3% 158,6 III Cấp GCN quyền sử dụng
% đất
Nguồn: ủy ban nhân dân quận Long Biên.
Phụ lục 2
Biểu tổng hợp thực hiện các chỉ tiêu về kinh tế - xã hội năm 2005
KHTP K.năng So sánh T 2005 (%) TH Chỉ tiêu chính Đơn vị T 2005
B C 1 3 4=3/1 A
I Về phát triển kinh tế
* Tốc độ tăng giá trị sản xuất các
ngành
1 Ngành công nghiệp - XDCB 17 18,5 %
2 Ngành thương mại - DV - 20,1 %
3 Ngành nông nghiệp - TS - %
II Văn hoá - Xã hội
4 Số học sinh có mặt đầu năm học hs
+ Giáo dục Mầm non 8.200 8.390 102,3 hs
- Tỷ lệ các cháu trong độ tuổi đi %
học
+ Nhà trẻ 28 28 %
+ Mẫu giáo 80 80 %
hs + Học sinh tiểu học 12.000 12.089 100,7
% - Tỷ lệ học sinh học 2 buổi/ngày 91,6 98,6
hs + Học sinh THCS 10.500 10.575 100,7
17 13 % - Tỷ lệ học sinh học 2 buổi/ngày
5 Xã hội hoá giáo dục
- Số trường Q.lập chuyển sang 1 - trường
B.công
% 6 Tỷ lệ hộ đạt TC GĐVH 80 82 +2
% 7 Mức giảm tỷ lệ sinh so với năm 0,008 0,01
2004
Tỷ lệ sinh %0 17,33 17,00
8 Tỷ lệ sinh con thứ ba 4,16 3,98 % -0,18
9 Tỷ lệ TE suy DD 12,7 12,6 % -0,1
10 Số trạm y tế đạt chuẩn QG 10 14 trạm +4
11 Giảm hộ nghèo 20 90 hộ +70
12 Số LĐ được GQVL người 4.200 4.450 105
13 Số ngày công LĐ công ích Ng.công 126.500 138.000 109
24,5 26,0 14 Tỷ lệ người LTTX % +1,5
- 20,0 15 Tỷ lệ gia đình thể thao %
1 1 16 Đấu thầu công tác thu gom rác thải Quận
14 2 17 Triển khai tuyến phố VM - TM Tuyến
III Thu chi ngân sách
18 Tổng thu Tỷ đồng 370,064 522,622 141
19 Tổng chi Tỷ đồng 273,027 245,534 90
9.175 9.272 101 IV Cấp GCN quyền sử dụng đất
Nguồn: ủy ban nhân dân quận Long Biên.
Môc lôc
Trang
Më ®Çu 1
Chương 1: cơ sở lý luận và thực tiễn về hoàn thiện quy hoạch phát 4
triển kinh tế - x· héi quËn long biªn
1.1. Vị trí, vai trò và nội dung quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội cÊp 4
quËn
1.2. Các yếu tố tiềm năng và nguồn lực phát triển kinh tế - xã hội quận Long 22
Biªn
32 Ch-¬ng 2: Thực trạng quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội quận
long biên từ năm 2003 đến nay
2.1. Thực trạng công tác quy hoạch và thực hiện quy hoạch đầu tư phát triển 32
các ngành kinh tế
2.2. Quy hoạch phát triển các ngành văn hóa - xã hội 52
2.3. Quy ho¹ch ph¸t triÓn h¹ tÇng kü thuËt 64
70 Ch-¬ng 3: định hướng và giải pháp hoàn thiện quy hoạch phát
triển kinh tế - xã hội quận long biên đến năm 2015
3.1. Các nhân tố ảnh hưởng và định hướng quy hoạch phát triển kinh tế - 70
xã hội quận Long Biên
3.2. Những giải pháp chủ yếu nhằm hoàn thiện quy hoạch phát triển kinh 82
tế - xã hội quận Long Biên đến năm 2015
Kết luận 104
Danh môc tµi liÖu tham kh¶o 106
phô lôc 109