BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI

----- 🙡 🕮 🙣 -----

NGUYỄN ĐẶNG THẢO NGUYÊN

ĐÔ THỊ HÓA VÀ TÁC ĐỘNG CỦA ĐÔ THỊ HÓA ĐẾN PHÁT TRIỂN

KINH TẾ - XÃ HỘI Ở THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

Chuyên ngành: Địa lí học

Mã số : 9.31.05.01

LUẬN ÁN TIẾN SĨ ĐỊA LÍ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC

1: GS.TS Nguyễn Viết Thịnh

2: PGS.TS Đậu Thị Hòa

HÀ NỘI- 2022

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nghiên

cứu được trình bày trong luận án là trung thực, khách quan, có nguồn gốc rõ ràng.

Tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm về nội dung và kết quả nghiên cứu của luận án.

Tác giả luận án

NCS. Nguyễn Đặng Thảo Nguyên

LỜI CẢM ƠN

Với tất cả tình cảm của mình, tôi xin được bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn sâu

sắc nhất của mình tới GS.TS Nguyễn Viết Thịnh và PGS.TS Đậu Thị Hòa ; những

người đã tận tình chỉ bảo, hướng dẫn cho tôi trong suốt quá trình nghiên cứu và thực

hiện luận án này.

Tôi trân trọng cảm ơn Ban Giám hiệu, phòng Sau Đại học trường Đại học sư

phạm Hà Nội đã tạo điều kiện cho tôi trong suốt quá trình làm Nghiên cứu sinh.

Tôi xin trân trọng cảm ơn Ban Chủ nhiệm khoa Địa Lý, các thầy cô trong bộ

môn Địa lý KT-XH, trường Đại học sư phạm Hà Nội đã động viên, đóng góp nhiều ý

kiến quý báu trong quá trình học cũng như thực hiện luận án.

Tôi xin trân trọng cảm ơn Ban Giám Đốc và Ban Tổ Chức Cán Bộ Đại Học Đà Nẵng cùng Ban Giám hiệu trường Đại học sư phạm Đà Nẵng, Ban chủ nhiệm Khoa

Địa lý, Bộ môn địa lý KT-XH đã tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tôi hoàn thành luận

án theo quy định.

Xin chân thành cảm ơn Tổng cục Thống Kê thành phố Đà Nẵng;các Sở ban

ngành thành phố Đà Nẵng đã giúp đỡ tôi trong quá trình thu thập tài liệu, điều tra

khảo sát và trao đổi kiến thức, kinh nghiệm thực tiễn.

Xin gửi lời cảm ơn đến gia đình, bạn bè, đồng nghiệp và người thân đã luôn

động viên, ủng hộ, chia sẻ và giúp đỡ tôi cả về tinh thần lẫn vật chất trong quá trình

học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận án.

Xin trân trọng cảm ơn!

Tác giả luận án

NCS. Nguyễn Đặng Thảo Nguyên

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

Tiếng Việt

STT Chữ viết tắt Chữ đầy đủ

CN Công nghiệp 1

CN- XD- DV Công nghiệp- xây dựng- dịch vụ 2

CNH – HĐH Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa 3

CNTT Công nghệ thông tin 4

CNC Công nghệ cao 5

CCN Cụm công nghiệp 6

CSHT Cơ sở hạ tầng 7

CSVCKT Cơ sở vật chất kĩ thuật 8

DVCN Dịch vụ công nghiệp 9

DRT Trạm phát sóng 10

ĐTH Đô thị hóa 11

KCN Khu công nghiệp 12

KH-CN Khoa học công nghệ 13

KHKT Khoa học kĩ thuật 14

KT – XH Kinh tế - xã hội 15

KT – XH – MT Kinh tế - xã hội – môi trường 16

VKTTĐMT Vùng kinh tế trọng điểm miền trung 17

Môi trường nhân tạo 18 MTNT

Môi trường tự nhiên 19 MTTN

N- L – TS Nông – Lâm – Thủy sản 20

NCS Nghiên cứu sinh 21

NN Nông nghiệp 22

TCTK Tổng cục thống kê 23

TNBQĐN Thu nhập bình quân đầu người 24

TTCN Trung tâm công nghiệp 25

GO Tổng giá trị tăng thêm của tất cả các ngành kinh tế. 26

TNK Thuế nhập khẩu vào tỉnh/thành phố. 27

Trợ cấp sản xuất phát sinh từ các đơn vị thường trú TC 28 trong tỉnh/thành phố.

TP Thành phố 29

UN-Habitat Chương trình Nhân cư Liên Hợp Quốc 30

Tiếng Anh

STT Chữ viết tắt Chữ viết đầy đủ Nghĩa tiếng Việt

The Asian Development Bank Ngân hàng Phát triển Châu Á 1 ADB

Bus Rapid Transit Phương tiện giao thông nhanh 2 BRT

East-West Economic Corridor Hành lang kinh tế Đông Tây 3 EWEC

Foreign Direct Investment Đầu tư trực tiếp nước ngoài 4 FDI

5 GDP Gross Domestic Product Tổng sản phẩm quốc nội

Regional Domestic 6 GRDP Tổng sản phẩm trên địa bàn Gross Product

Light Rail Transit Phương tiện giao thông đường 7 LRT

sắt nhẹ

Mass Rapid Transport Mạng lưới giao thông công 8 MRT

cộng cao tốc.

Hội đồng nghiên cứu khoa học 9 SSRC Social Science Research Council xã hội

Statistical products for the social 10 SPSS Phần mềm thống kê services

United Nations Development Chương trình Phát triển Liên 11 UNDP

Programme Hợp Quốc

United Nations Educational, Tổ chức Giáo dục, Khoa học 12 UNESCO

Scientific And Cultural và Văn hóa Liên Hiệp Quốc

Organization

Quỹ Dân số Liên Hợp Quốc 13 UNFPA

United Nation Fund Population Agency

World Bank Ngân hàng thế giới 14 WB

15 PCI

Peripheral Component Interconnect Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh

MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU 1

1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI 1

2. MỤC TIÊU VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU 2

2.1. Mục tiêu 2

2.2. Nhiệm vụ 2

3. PHẠM VI NGHIÊN CỨU 2

3.1. Giới hạn về nội dung 3

3.2. Giới hạn về không gian 3

3.3. Giới hạn về thời gian 3

4. QUAN ĐIỂM VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 3

4.1. Quan điểm nghiên cứu 3

4.1.1. Quan điểm hệ thống 3

4.1.2. Quan điểm lãnh thổ 4

4.1.3. Quan điểm tổng hợp 4

4.1.5. Quan điểm phát triển bền vững 4

4.2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 5

4.2.1. Phương pháp thu thập và xử lý tài liệu 5

4.2.2. Phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp 5

4.2.3. Phương pháp khảo sát và điều tra xã hội học 5

4.2.4. Phương pháp bản đồ và hệ thống thông tin địa lý (GIS) 6

4.2.5. Phương pháp tham vấn chuyên gia 6

5. Ý NGHĨA KHOA HỌC VÀ THỰC TIỄN CỦA LUẬN ÁN 6

6. CẤU TRÚC CỦA LUẬN ÁN 7

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ KHOA HỌC VỀ ĐÔ THỊ HÓA VÀ TÁC ĐỘNG CỦA ĐÔ THỊ HÓA ĐẾN KINH TẾ - XÃ HỘI 8

1.1. TỔNG QUAN CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI 8

1.1.1. Những nghiên cứu về đô thị hóa 8

1.1.1.1. Trên thế giới 8

1.1.1.2. Ở Việt Nam 10

1.1.2. Những nghiên cứu về tác động của đô thị hóa đến kinh tế - xã hội 13

1.1.2.1. Trên thế giới 13

1.1.2.2. Ở Việt Nam 15

1.1.3. Những nghiên cứu về đô thị hóa ở Đà Nẵng 16

1.2. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐÔ THỊ HÓA VÀ TÁC ĐỘNG CỦA ĐÔ THỊ HÓA ĐẾN PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI 19

1.2.1. Về đô thị hóa 19

1.2.1.1. Khái niệm về đô thị và đô thị hóa 19

1.2.1.2. Đặc điểm của đô thị hóa 24

1.2.1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến đô thị hóa 26

1.2.1.4. Các tiêu chí đánh giá đô thị hóa 28

1.2.2. Tác động của đô thị hóa đến phát triển kinh tế - xã hội 31

1.2.2.1. Tác động đến kinh tế 31

1.2.2.2. Tác động đến xã hội 34

1.2.2.3. Các tiêu chí đánh giá tác động của ĐTH đến phát triển KT-XH 36

1.3. CƠ SỞ THỰC TIỄN VỀ ĐÔ THỊ HÓA 37

1.3.1. Thực tiễn đô thị hóa ở Việt Nam giai đoạn 2003 - 2020 37

1.3.2. Kinh nghiệm đô thị hóa ở một số thành phố trực thuộc trung ương 40

1.3.2.1. Đô thị hóa ở thành phố Hải Phòng 40

1.3.2.2. Đô thị hóa ở thành phố Cần Thơ 43

Tiểu kết chương 1 45

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG ĐÔ THỊ HÓA Ở THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG 47

2.1. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN ĐÔ THỊ HÓA Ở TP ĐÀ NẴNG 47

2.1.1. Vị trí địa lý và phạm vi lãnh thổ 47

2.1.2.1. Địa hình và đất 49

2.1.2.2. Tài nguyên khí hậu và tài nguyên nước 50

2.1.2.3. Tài nguyên biển 52

2.1.3. Kinh tế - xã hội 54

2.1.3.1. Lịch sử hình thành đô thị Đà Nẵng 54

2.1.3.2. Dân cư - lao động 56

2.1.3.3. Trình độ phát triển kinh tế 58

2.1.3.4. Khoa học công nghệ 58

2.1.3.5. Toàn cầu hóa và thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài 60

2.1.3.6. Thể chế chính sách 61

2.1.4. Đánh giá chung 63

2.1.4.1. Thuận lợi, cơ hội 63

2.1.4.2. Khó khăn hạn chế 63

2.2. THỰC TRẠNG ĐÔ THỊ HÓA Ở THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG 64

2.2.1. Chức năng đô thị 64

2.2.2. Quy mô dân số đô thị 65

2.2.2.1. Quy mô dân số đô thị giai đoạn 2003 – 2020 65

2.2.2.2. Lao động 69

2.2.3. Kinh tế đô thị 71

2.2.3.1. Quy mô GRDP 71

2.2.3.2. Cơ cấu kinh tế 72

2.2.4. Cơ sở hạ tầng đô thị 73

2.2.4.1. Hệ thống giao thông 73

2.2.4.2. Hệ thống cung cấp điện 76

2.2.4.3. Hệ thống cấp, thoát nước và xử lý nước thải 76

2.2.4.4. Hệ thống bưu chính - viễn thông 76

2.2.5. Sự mở rộng không gian đô thị 77

2.2.5.1. Mở rộng về diện tích đô thị 77

2.2.5.2. Các hướng mở rộng của đô thị 81

2.2.6. Đánh giá chung 83

2.2.6.1. Những thành công của ĐTH ở Đà Nẵng 83

2.2.6.2. Những hạn chế của ĐTH ở Đà Nẵng trong thời gian qua 84

Tiểu kết chương 2 85

CHƯƠNG 3 87

TÁC ĐỘNG CỦA ĐÔ THỊ HÓA ĐẾN PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI CỦA THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG 87

3.1. TÁC ĐỘNG CỦA ĐÔ THỊ HÓA ĐẾN PHÁT TRIỂN KINH TẾ CỦA THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG 87

3.1.1. Tốc độ tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế 87

3.1.1.1. Tốc độ tăng trưởng kinh tế 87

3.1.1.2. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế 89

3.1.2. Đô thị hóa tác động đến các ngành kinh tế trụ cột của TP Đà Nẵng 91

3.1.2.1. Tác động đến sự phát triển du lịch 91

3.1.2.2. Tác động đến phát triển cảng biển 96

3.1.2.3. Tác động đến phát triển Công nghiệp 99

3.1.2.4. Tác động tới hạ tầng giao thông 103

3.2. TÁC ĐỘNG CỦA ĐÔ THỊ HÓA ĐẾN XÃ HỘI CỦA TP ĐÀ NẴNG 105

3.2.1. Đô thị hóa tác động tới vấn đề lao động, việc làm 105

3.2.1.1. Tác động đến lao động 105

3.2.1.2. Tác động đến giải quyết việc làm cho người lao động 108

3.2.2. Đô thị hóa tác động đến GRDP bình quân đầu người, thu nhập BQĐN và 109 đời sống người dân

3.2.2.1. Tác động đến thu nhập bình quân đầu người 109

3.2.2.2. Tác động đến đời sống của người dân 111

3.2.2.3. Tác động tích cực đến đời sống người dân nằm trong khu chỉnh trang 113 đô thị và các khu di dời tái định cư

* Đánh giá chung về tác động của ĐTH đến KT – XH của TP Đà Nẵng trong giai đoạn nghiên cứu 116

CHƯƠNG 4 120

GIẢI PHÁP HIỆU QUẢ CHO ĐÔ THỊ HÓA VÀ PHÁT TRIỂN 120

KINH TẾ - XÃ HỘI Ở THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG 120

4.1. CƠ SỞ ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP 120

4.1.1. Định hướng về đô thị hóa của Vùng kinh tế trọng điểm miền Trung và thành phố Đà Nẵng 120

4.1.1.1. Định hướng về ĐTH của VKTTĐMT 120

4.1.1.2. Định hướng ĐTH của thành phố Đà Nẵng đến năm 2030 122

a. Định hướng về chức năng đô thị 122

b. Định hướng về không gian đô thị Đà Nẵng 123

c. Định hướng về CSHT đô thị Đà Nẵng 129

4.1.2. Những kết quả nghiên cứu của luận án về đô thị hóa và tác động của nó đến phát triển KT-XH ở TP Đà Nẵng 132

4.1.2.1. Những thành tựu về ĐTH và tác động của nó đến KT – XH ở TP Đà Nẵng 132

4.1.2.2. Những hạn chế, thách thức của ĐTH và tác động của nó tới KT – XH 134 ở TP Đà Nẵng

4.2. CÁC GIẢI PHÁP XÂY DỰNG ĐÔ THỊ VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ XÃ HỘI Ở THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG 135

4.2.1. Giải pháp về quy hoạch cấu trúc không gian đô thị hài hòa giữa hiện đại và truyền thống, có bản sắc riêng độc đáo 135

4.2.2. Nâng cao chất lượng nguồn lao động để thực hiện đô thị hóa và phát triển 138 KT – XH của thành phố

4.2.3. Thu hút mạnh đầu tư và sử dụng hiệu quả nguồn vốn đầu tư cho đô thị và 139 phát triển KT – XH

4.2.4. Xây dựng đô thị kết nối trong vùng và khu vực 140

4.2.5. Xây dựng đô thị theo hướng thông minh tiến đến quản trị đô thị 141

4.2.6. Xây dựng đô thị xanh thân thiện với môi trường, hướng tới sự phát triển bền vững 144

146 Tiểu kết chương 4

147 PHẦN KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ

147 1. KẾT LUẬN

148 2. KHUYẾN NGHỊ

DANH MỤC BẢNG SỐ LIỆU

STT Tên bảng Trang

Bảng 1.1. Tỷ lệ dân đô thị phân theo vùng giai đoạn 2000 – 2020 39 1

Bảng 1.2. Một số chỉ tiêu về ĐTH ở TP Hải Phòng giai đoạn 2003 42 2

– 2020

Bảng 1.3. Một số chỉ tiêu về ĐTH ở TP Cần Thơ giai đoạn 2003 44 3

– 2020

Bảng 2.1. Các đơn vị hành chính TP Đà Nẵng năm 2020 - Diện 48 4

tích và dân số

Bảng 2.2. Hiện trạng quỹ đất của TP Đà Nẵng giai đoạn 2003 – 50 5

2020

Bảng 2.3. Quy mô dân số các quận huyện giai đoạn từ 2003 – 56 6

2020

Bảng 2.4. Số dự án và số vốn FDI vào TP Đà Nẵng giai đoạn 2003 60 7

– 2020

Bảng 2.5. Số dân và gia tăng dân số ở TP Đà Nẵng giai đoạn 2003 65 8

– 2020

Bảng 2.6. Tỷ lệ dân đô thị TP Đà Nẵng, giai đoạn 2003 – 2020 69 9

phân theo quận, huyện

70 10 Bảng 2.7. Lực lượng lao động và lao động đang làm việc ở TP Đà

Nẵng giai đoạn 2003 – 2020

72 11 Bảng 2.8. Quy mô và cơ cấu GRDP của TP Đà Nẵng giai đoạn

2003 – 2020

79 12 Bảng 2.9. Biến động diện tích đất phân theo loại đất của các quận,

huyện, của TP Đà Nẵng giai đoạn 2005 – 2020

88 13 Bảng 3.1. Tốc độ tăng trưởng GRDP trung bình năm của TP Đà

Nẵng

106 14 Bảng 3.2. Lao động từ 15 tuổi trở lên đang làm việc hàng năm

phân theo nhóm ngành kinh tế giai đoạn 2003 – 2020

108 15 Bảng 3.3. Số lao động được tạo việc làm và tỷ lệ thất nghiệp của

TP Đà Nẵng giai đoạn 2003 – 2020

110 16 Bảng 3.4. GRDP bình quân đầu người của TP Đà Nẵng (theo giá

HH) giai đoạn 2003 – 2020

111 17 Bảng 3.5. GRDP/người và tỷ lệ hộ thoát nghèo từ 2003 - 2020

122 18 Bảng 4.1. Một số chỉ tiêu KT – XH chủ yếu của TP Đà nẵng giai

đoạn 2021 – 2030

DANH MỤC HÌNH VẼ

STT Tên hình Trang

Hình 1.1. Biểu đồ chuyển dịch lao động theo 3 khu vực kinh tế 25 1

(theo J. Fourastie,)

Hình 1.2. Biểu đồ số dân đô thị và tỉ lệ dân số đô thị ở Việt Nam 38 2

giai đoạn 2000 – 2020

Hình 2.1. Biểu đồ gia tăng dân số cơ học của TP Đà Nẵng giai 66 3

đoạn 2003 – 2020

Hình 2.2. Biểu đồ dân số thành thị và tỉ lệ dân thành thị của TP Đà 68 4

Nẵng giai đoạn 2003 – 2020

Hình 2.3. Biểu đồ cơ cấu lao động đang làm việc phân theo nhóm 71 5

ngành kinh tế của TP Đà Nẵng giai đoạn 2003 – 2020

Hình 3.1. Biểu đồ GRDP và tốc độ tăng trưởng GRDP của TP Đà 88 6

Nẵng giai đoạn 2003 – 2020

Hình 3.2. Biểu đồ cơ cấu GRDP theo nhóm ngành kinh tế ở TP Đà 89 7

Nẵng giai đoạn 2003 – 2020

Hình 3.3. Biểu đồ chuyển dịch cơ cấu GRDP theo thành phần kinh 91 8

tế của TP Đà Nẵng giai đoạn 2003 – 2020

Hình 3.4. Biểu đồ tỉ lệ lao động đang làm việc đã qua đào tạo của 106 9

TP Đà Nẵng giai đoạn từ 2003 – 2020

Hình 3.5. Biểu đồ TNBQĐN/tháng của TP Đà Nẵng giai đoạn 109 10

2003 – 2020 (đơn vị: triệu đồng/người/)

Hình 3.6. Biểu đồ GRDP bình quân đầu người của Đà Nẵng (theo 110 11

giá HH) giai đoạn 2003 – 2020

Hình 3.7. Biểu đồ so sánh về đời sống người dân sau khi chỉnh 114 12

trang đô thị

Hình 3.8. Biểu đồ so sánh đời sống người dân sau khi đến ở khu 115 13

tái định cư

Hình 4.1. Bản đồ định hướng các phân khu trong vùng phát triển 127 14

đô thị

Hình 4.3. Bản đồ định hướng phân khu chức năng đô thị toàn thành 129 15

phố đến 2030

DANH MỤC BẢN ĐỒ, LƯỢC ĐỒ

STT Tên bản đồ, lược đồ Trang

Sau trang 48 1 Bản đồ hành chính thành phố Đà Nẵng

Sau trang 54 2 Bản đồ các nhân tố tự nhiên của thành phố Đà Nẵng

Sau trang 62 3 Bản đồ các nhân tố kinh tế- xã hội của thành phố Đà Nẵng

Sau trang 76 4 Bản đồ thực trạng đô thị hóa thành phố Đà Nẵng

Sau trang 80 5 Bản đồ hiện trạng sử dụng đất thành phố Đà Nẵng năm 2020

Sau trang 83 6 Bản đồ hiện trạng các khu chức năng ở thành phố Đà Nẵng

Sau trang 132 7

Bản đồ cơ cấu phân vùng chức năng phát triển đô thị đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 của thành phố Đà Nẵng

1

PHẦN MỞ ĐẦU

1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI

Đô thị hóa (ĐTH) là xu thế chung của các quốc gia trên thế giới. Ở các nước

phát triển thuộc châu Âu, Bắc Mỹ ĐTH diễn ra sớm, gắn liền với công nghiệp hóa

(CNH). Nửa sau của thế kỷ XX, ĐTH phát triển mạnh ở các nước đang phát triển thuộc châu Á, Mỹ La Tinh và châu Phi. Tỷ lệ dân thành thị trên toàn thế giới tăng

liên tục từ 30,0% năm 1950 lên 36,6% năm 1970, 46,7% năm 2000 và 56,2% năm

2020 (The World’s Cities in 2020. United Nations).

ĐTH vừa là điều kiện, là phương tiện, vừa là mục tiêu của phát triển kinh tế -

xã hội (KT – XH). ĐTH là quá trình chuyển từ hoạt động nông nghiệp phân tán sang hoạt động phi nông nghiệp tập trung trên địa bàn xác định. Đây là hiện tượng KT – XH phức tạp, diễn ra trên một không gian rộng lớn và khoảng thời gian lâu dài. ĐTH

thực chất là sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu xã hội

Nước ta, từ 1986 thực hiện đường lối đổi mới toàn diện nền KT – XH, với

chính sách mở cửa, thu hút đầu tư nước ngoài, đẩy mạnh CNH, hiện đại hóa (HĐH)

đất nước. ĐTH phát triển song song với quá trình CNH. Các đô thị lớn được hình

thành và phát triển, trở thành những trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội quan

trọng của đất nước và là những hạt nhân tạo vùng kinh tế. Tỉ lệ dân đô thị tăng nhanh

từ 24,2% năm 2000 lên 30,4% năm 2010 và đạt 36,8% năm 2020. Số lượng đô thị

tăng nhanh, từ 649 đô thị các loại năm 2000 lên 862 đô thị năm 2020, trong đó có 2

đô thị đặc biệt và 22 đô thị loại I, đóng góp 70% GDP cả nước [132]. Cùng với việc

tăng nhanh số đô thị và tỷ lệ dân số đô thị trong tổng số dân, diện tích đô thị cũng

được mở rộng nhanh chóng; cơ cấu lao động đang làm việc và cơ cấu kinh tế cũng

thay đổi mạnh mẽ. Tỷ lệ lao động đang làm việc trong 2 nhóm ngành phi nông nghiệp

tăng lên rõ rệt, từ 34,9% năm 2000, lên 50,5% năm 2010 và đạt 66,9% năm 2020. Cơ

cấu GDP cả nước của 2 nhóm ngành phi nông nghiệp cũng chuyển dịch nhanh chóng,

năm 2000 là 75,5%, năm 2010: 81,6% và đạt 85,1% năm 2020 [132]

Trước năm 1997, Đà Nẵng là thành phố (TP) trực thuộc tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng, với không gian nhỏ hẹp, cơ sở hạ tầng (CSHT) đô thị chưa phát triển, khả năng thu hút đầu tư kém, thiếu động lực kinh tế. ĐTH của TP diễn ra nhanh chóng từ năm 2003, khi được công nhận là đô thị loại I, trực thuộc trung ương đến nay. Tỷ lệ dân thành thị cao, từ 79,1% năm 2003 lên 86,9% năm 2010 và đạt 87,3% năm 2020, đứng

đầu trong 63 tỉnh thành của cả nước. Không gian đô thị đã mở rộng gấp gần 4 lần,

2

các khu dân cư được quy hoạch khá bài bản, các khu phố cũ được cải tạo nâng cấp. Kinh tế đô thị ngày càng phát triển, quy mô GRDP năm 2020 hơn 103,0 nghìn tỷ

đồng, đứng thứ 11/63 tỉnh thành; cơ cấu GRDP với thế mạnh là DV - CN (87,6%)

ĐTH ở TP Đà Nẵng đã trải qua hơn 20 năm, có những đặc trưng riêng của một

đô thị có 3 mặt giáp biển, gắn chặt với tự nhiên, mang dấu ấn của con người miền Trung Xứ Quảng, dám nghĩ, dám làm, dễ dàng thích ứng với cái mới, bắc cầu vượt

sông, vươn mình ra biển lớn.

Nghị quyết số 43 NQ/TW về xây dựng và phát triển TP Đà Nẵng đến năm

2030, tầm nhìn đến năm 2045 của Bộ Chính trị ban hành ngày 24/1/2019 nêu rõ mục

tiêu xây dựng TP Đà Nẵng trở thành đô thị lớn, thông minh, sáng tạo, bản sắc, giữ vai trò động lực trong phát triển kinh tế của khu vực miền Trung – Tây Nguyên, là một trong những trung tâm KT – XH lớn của cả nước và Đông Nam Á.

Đề tài “Đô thị hóa và tác động của đô thị hóa đến phát triển KT – XH ở

thành phố Đà Nẵng” nhằm làm rõ đặc điểm ĐTH ở TP Đà Nẵng trong giai đoạn

2003 – 2020; tác động của ĐTH đến phát triển KT – XH của TP; những giải pháp đặt

ra để thực hiện mục tiêu xây dựng TP Đà Nẵng mà Bộ Chính trị và chính quyền TP

đặt ra.

2. MỤC TIÊU VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU

2.1. Mục tiêu

Trên cơ sở hệ thống lý luận về ĐTH và tác động của ĐTH đến phát triển KT

– XH đề tài có mục tiêu là nghiên cứu ĐTH và tác động của ĐTH đến KT – XH

của TP Đà Nẵng; từ đó đề xuất các giải pháp cho ĐTH và tác động của ĐTH đến

phát triển KT - XH của TP Đà Nẵng đến năm 2030.

2.2. Nhiệm vụ

- Tổng quan cơ sở lý luận về ĐTH và tác động của ĐTH đến phát triển KT –

XH để vận dụng vào nghiên cứu ở TP Đà Nẵng.

- Đánh giá các các nhân tố ảnh hưởng đến ĐTH và phân tích thực trạng ĐTH ở

TP Đà Nẵng.

- Phân tích tác động của ĐTH ở TP Đà Nẵng đến phát triển KT – XH trên địa

bàn nghiên cứu.

- Đề xuất các giải pháp hiệu quả cho ĐTH và phát triển KT – XH ở TP Đà Nẵng

trong tương lai.

3. PHẠM VI NGHIÊN CỨU

3

3.1. Giới hạn về nội dung - Tập trung vào nghiên cứu thực trạng ĐTH ở TP Đà Nẵng theo các khía cạnh:

chức năng đô thị; dân số đô thị; kinh tế đô thị; CSHT đô thị; sự mở rộng không gian

đô thị.

- Đánh giá tác động ĐTH đến sự phát triển KT – XH của TP Đà Nẵng dưới

góc độ Địa lý học, ở mức định tính, cụ thể là:

+ Về kinh tế: tác động của ĐTH đến tăng trưởng kinh tế và chuyển dịch cơ

cấu kinh tế; đến phát triển các ngành kinh tế gắn với biển (công nghiệp, cảng biển,

du lịch), kết cấu hạ tầng giao thông.

+ Về xã hội: tác động của ĐTH đến lao động - việc làm, tăng trưởng

GRDP/người, đời sống văn hóa của người dân trên địa bàn.

3.2. Giới hạn về không gian

- Đề tài nghiên cứu quá trình ĐTH trên lãnh thổ hành chính của TP Đà Nẵng,

chủ yếu tập trung vào 6 quận nội thành, gồm 2 quận trung tâm (Hải Châu, Thanh

Khê), được coi là lõi của đô thị; quận Liên Chiểu hướng đô thị mở rộng về phía Bắc

và Tây Bắc; các quận Cẩm Lệ, Sơn Trà, Ngũ Hành Sơn hướng đô thị mở rộng về phía

Đông Nam và Tây Nam TP. Đối với huyện Hòa Vang, đề tài tập trung nghiên cứu

ĐTH ở một số xã (Hòa Bắc, Hòa Liên, Hòa Sơn, Hòa Nhơn, Hòa Châu, Hòa Phước),

đây là khu vực tiếp nối, mở rộng của vùng nội thành. Riêng tại quần đảo Hoàng Sa

không có dữ liệu nên đề tài không đề cập đến vấn đề ĐTH ở đây

- Ngoài ra, đề tài cũng đặt TP Đà Nẵng trong vùng kinh tế trọng điểm miền

Trung (VKTTĐMT) và cả khu vực miền Trung – Tây Nguyên để phân tích.

3.3. Giới hạn về thời gian - Đề tài nghiên cứu ĐTH ở TP Đà Nẵng giai đoạn từ 2003 – 2020. Mốc 2003

đánh dấu Đà Nẵng được công nhận là TP loại I, trực thuộc trung ương.

- Các dữ liệu về ĐTH và tác động của ĐTH đến phát triển KT – XH ở TP Đà

Nẵng chủ yếu tập trung trong giai đoạn 2003 – 2020 và dự báo đến năm 2030

4. QUAN ĐIỂM VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 4.1. Quan điểm nghiên cứu 4.1.1. Quan điểm hệ thống

ĐTH là một hiện tượng KT – XH đa dạng và phức tạp, phát triển trong mối

quan hệ qua lại, nhiều chiều với các hiện tượng khác trong hệ thống KT – XH. Vận dụng quan điểm hệ thống trong nghiên cứu ĐTH ở TP Đà Nẵng, đề tài đặt nó trong hệ thống KT – XH của TP và trong hệ thống KT – XH ở cấp cao hơn, đó là

4

VKTTĐMT để phân tích những ảnh hưởng của hệ thống tự nhiên, dân cư, kinh tế, xã hội của địa phương đối với ĐTH; đồng thời phân tích những tác động của ĐTH

đến hệ thống KT – XH của TP; xem xét sự phát triển của đô thị Đà Nẵng, đặc biệt là

vị thế, chức năng có ảnh hưởng đến VKTTĐMT và khu vực Tây Nguyên ở các mức

độ khác nhau.

4.1.2. Quan điểm lãnh thổ

Nghiên cứu ĐTH theo quan điểm lãnh thổ là đặc thù trong nghiên cứu Địa lý

KT – XH. ĐTH là hiện tượng KT – XH phức tạp, nó diễn ra trên một không gian xác

định và có sự khác biệt theo lãnh thổ. Bởi vì mỗi lãnh thổ có những điều kiện ảnh

hưởng và tác động riêng đến quá trình ĐTH. Vận dụng quan điểm lãnh thổ trong nghiên cứu để phân tích, làm rõ tính phân hóa không gian của ĐTH, nêu bật được những đặc điểm đặc thù riêng của ĐTH ở TP Đà Nẵng so với các đô thị khác và các

vùng lãnh thổ khác.

4.1.3. Quan điểm tổng hợp

Quan điểm tổng hợp thực chất là việc vận dụng quan điểm biện chứng trong

địa lí. ĐTH là một quá trình phức tạp, đan xen nhiều nhân tố, nhiều lĩnh vực, có mối

quan hệ chặt chẽ với nhau. Vận dụng quan điểm tổng hợp cho phép xem xét quá trình

ĐTH ở TP Đà Nẵng thời gian qua diễn ra nhanh, mạnh mẽ do nhiều yếu tố tự nhiên,

dân cư, kinh tế, văn hóa, xã hội tác động, đồng thời ĐTH cũng tác động và làm biến

đổi KT – XH. Vận dụng quan điểm này còn cho phép xác định các chỉ tiêu của ĐTH

và tác động của nó đến sự phát triển KT – XH của TP Đà Nẵng.

4.1.4. Quan điểm lịch sử - viễn cảnh

Quan điểm lịch sử - viễn cảnh trong nghiên cứu ĐTH, chính là thấy được ĐTH

ở TP Đà Nẵng là một quá trình vận động và phát triển trong không gian và thời gian.

ĐTH giai đoạn 2003 – 2020 chính là sự kế thừa kết quả ĐTH của giai đoạn trước,

đồng thời là cơ sở cho định hướng phát triển ĐTH ở TP Đà Nẵng trong tương lai.

4.1.5. Quan điểm phát triển bền vững

Đây là cách tiếp cận chính xuyên suốt quá trình nghiên cứu luận án. ĐTH là một hiện tượng KT – XH và là một quá trình tất yếu trong phát triển, tuy nhiên sự phát triển của ĐTH phải dựa trên những yếu tố và điều kiện phù hợp mới có các tác động tích cực, lâu dài đối với KT – XH, môi trường đối với mỗi lãnh thổ, quốc gia

và địa phương. Nếu ĐTH phát triển không phù hợp thì tác động ngược, tiêu cực đối với các yếu tố, nhất là môi trường. Vận dụng quan điểm phát triển bền vững người nghiên cứu cần xem xét phát triển ĐTH bền vững ở TP Đà Nẵng cần đảm bảo cân

5

bằng giữa KT – XH và môi trường. Hướng đến mục tiêu chung phát triển xã hội bền vững, chất lượng cuộc sống của người dân đô thị cao cả về vật chất, tinh thần và môi

trường sống.

4.2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

4.2.1. Phương pháp thu thập và xử lý tài liệu

Là phương pháp cần thiết cho việc tiếp cận, thu thập các tài liệu thứ cấp, sơ cấp

từ nhiều nguồn khác nhau.

- Các tài liệu thứ cấp được thu thập từ các cơ quan phát hành, nhà xuất bản, trên

cổng thông tin điện tử, cụ thể là: Tổng cục Thống kê, Niên giám thống kê của TP Đà

Nẵng, các báo cáo hàng năm, các đề án quy hoạch thành phố và các sở như: Sở Kế hoạch và Đầu tư, Sở Kiến trúc, Sở Công nghiệp, Sở Du lịch, Sở Giao thông,…

- Các tài liệu sơ cấp được thu thập thông qua: (1) quan sát, ghi chép ngoài thực

địa; (2) phỏng vấn, tham vấn ý kiến của các hộ dân tại các quận, phường, xã ở TP Đà

Nẵng của tác giả.

- Xử lý tư liệu thu thập được, tiến hành lựa chọn, phân loại, sắp xếp, tổng hợp

theo những nội dung nghiên cứu.

4.2.2. Phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp

Trên cơ sở các tài liệu đã thu thập, tác giả tiến hành phân tích, so sánh quá trình

ĐTH của TP Đà Nẵng và tác động của ĐTH đến KT - XH theo thời gian và không

gian đã xác định

Thực hiện phương pháp so sánh, đối chứng giữa các giai đoạn, các thời kì của

quá trình ĐTH để đánh giá thực trạng ĐTH ở TP Đà Nẵng và tác động của ĐTH đối

với phát triển KT – XH của TP trong giai đoạn 2003 – 2020.

4.2.3. Phương pháp khảo sát và điều tra xã hội học

Kết quả nghiên cứu của đề tài không chỉ dựa vào nguồn tài liệu thứ cấp, mà còn

sử dụng và xử lý các kết quả điều tra thu thập trên thực địa. Những kết quả điều tra giúp tác giả phân tích cụ thể hơn và sâu hơn tác động của ĐTH đến các khía cạnh của

KT – XH trong các khu vực dân cư của TP.

Việc xây dựng nội dung, lựa chọn đối tượng, phương pháp và địa bàn điều tra

được tác giả thực hiện như sau:

a. Xác định nội dung điều tra

- Mục đích điều tra:

+ Thu thập các thông tin về nhận thức, thái độ của người dân đối với chủ trương,

chính sách thực hiện ĐTH của TP.

6

+ Làm rõ những tác động tích cực và tiêu cực của ĐTH đến việc làm, đời sống

của dân cư ở các khu đô thị cũ được chỉnh trang và các khu đô thị mới tái định cư.

- Đối tượng điều tra: các hộ gia đình trong các khu đô thị cũ thực hiện chỉnh

trang và các hộ gia đình thuộc các khu tái định cư (đô thị mới).

- Địa bàn điều tra các hộ ở các quận Hải Châu, Thanh Khê, Cẩm Lệ, Ngũ Hành

Sơn, Liên Chiểu.

- Thời gian thực hiện: điều tra 2 đợt (đợt 1: tháng 7, 8 năm 2018; đợt 2: tháng

6,7 năm 2019).

b. Xây dựng phiếu điều tra: 2 phiếu điều tra cho 2 khu vực (xem phụ lục 1),

với 200 mẫu (100 hộ tại khu đô thị cũ thực hiện chỉnh trang chủ yếu ở quận Hải Châu, Thanh Khê; 100 hộ tại những khu tái định cư (đô thị mới), chủ yếu ở các quận Cẩm lệ, Ngũ Hành Sơn, Liên Chiểu.

c. Xử lý kết quả điều tra: Những thông tin thu được, tác giả xử lý bằng phần

mềm thống kê SPSS (phụ lục 2) để có những kết quá chính xác và tin cậy.

4.2.4. Phương pháp bản đồ và hệ thống thông tin địa lý (GIS) - Các số liệu sơ cấp và thứ cấp được xử lý trên các phần mềm Excel, SPSS để

đưa ra những kết quả nghiên cứu sơ bộ.

- Từ những kết quả sơ bộ, tác giả sử dụng phần mềm Mapinfo thành lập cơ sở

dữ liệu, xây dựng các các bản đồ, sơ đồ, biểu đồ thể hiện kết quả nghiên cứu một cách

cụ thể, chính xác và khoa học.

4.2.5. Phương pháp tham vấn chuyên gia

Trong quá trình nghiên cứu, tác giả đã trao đổi và tham vấn các ý kiến của các

nhà khoa học thuộc lĩnh vực đô thị, lĩnh vực KT – XH và các nhà quản lý đại diện

cho các sở, ban ngành như Sở Kế hoạch và Đầu tư, Sở Kiến trúc và Ban dự án quy

hoạch đô thị. Dựa trên các ý kiến đóng góp của các chuyên gia, những người đã và

đang trực tiếp quản lý hay thực hiện nhiều đề tài, dự án về đô thị, quy hoạch đô thị và con người trong đô thị, tác giả giải quyết các nội dung nghiên cứu; đồng thời xác

định được hướng đi và phương pháp nghiên cứu.

5. Ý NGHĨA KHOA HỌC VÀ THỰC TIỄN CỦA LUẬN ÁN

- Ý nghĩa khoa học: Luận án góp phần làm sáng tỏ rõ thêm những vấn đề lý luận và thực tiễn về ĐTH và tác động của ĐTH đến phát triển KT – XH, lựa chọn các

tiêu chí đánh giá và phương pháp nghiên cứu ĐTH phù hợp để vận dụng cho TP Đà Nẵng.

- Ý nghĩa thực tiễn:

7

+ Luận án làm rõ những thuận lợi và khó khăn của các nhân tố ảnh hưởng đến ĐTH ở TP Đà Nẵng, phân tích thực trạng ĐTH ở TP Đà Nẵng trong giai đoạn 2003

– 2020, đánh giá được những tác động của ĐTH đến phát triển KT – XH của TP Đà

Nẵng và đề xuất được các giải pháp có cơ sở khoa học cho ĐTH, tác động tích cực

của ĐTH đến phát triển KT – XH ở TP Đà Nẵng trong tương lai.

+ Từ những kết quả trên đây, đề tài có thể làm tài liệu tham khảo về thực tiễn

ĐTH của TP Đà Nẵng giai đoạn 2003 – 2020 cho các cơ quan chức năng của TP

trong quy hoạch và phát triển đô thị ở giai đoạn tiếp theo

Ngoài phần mở đầu và kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung chính

6. CẤU TRÚC CỦA LUẬN ÁN của luận án được trình bày trong 4 chương: Chương 1: Cơ sở khoa học về ĐTH và tác động của ĐTH đến phát triển KT –

XH.

Chương 2. Thực trạng ĐTH ở TP Đà Nẵng.

Chương 3. Tác động của ĐTH đến phát triển KT – XH ở TP Đà Nẵng.

Chương 4. Giải pháp hiệu quả cho ĐTH và phát triển kinh tế - xã hội ở TP Đà

Nẵng.

8

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ KHOA HỌC VỀ ĐÔ THỊ HÓA VÀ TÁC ĐỘNG CỦA

ĐÔ THỊ HÓA ĐẾN KINH TẾ - XÃ HỘI

1.1. TỔNG QUAN CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ

TÀI

1.1.1. Những nghiên cứu về đô thị hóa

1.1.1.1. Trên thế giới - Về khái niệm và đặc điểm của đô thị hóa

Trong lịch sử phát triển của xã hội loài người, ĐTH diễn ra từ rất sớm, những

đô thị đầu tiên xuất hiện cách đây 5000 năm, nhưng nghiên cứu về ĐTH bài bản và có cơ sở khoa học thì phải đến cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX. Cerda (Tây Ban Nha) [69] là người đưa ra khái niệm đầu tiên về ĐTH trong cuốn “Lý luận chung về đô thị

hóa” vào năm 1867 khi ông nghiên cứu để mở rộng thành phố Barcelona. Theo quan

điểm của ông, ĐTH là một hiện tượng phức tạp có tính lịch sử, đa diện, nó không chỉ

là sự mở rộng đô thị, tăng dân số đô thị mà còn liên quan đến sự thay đổi về kinh tế,

về xã hội và môi trường; phát triển mạnh của các ngành phi nông nghiệp như công

nghiệp, thủ công nghiệp, dịch vụ và sự phân công lao động, việc làm và nơi ở,….

Trên cơ sở đó, Cerda đã tổng kết lý thuyết chung về đô thị gồm 5 lĩnh vực: cơ sở công

nghệ, hành chính, chính trị, luật pháp và kinh tế. Vì thế mà theo ông cần phải xây

dựng khoa học về đô thị.

Vào thập niên giữa của thế kỷ XX, những nghiên cứu về ĐTH phát triển mạnh,

dưới nhiều góc độ khác nhau như đô thị học, nhân khẩu học, kinh tế học đô thị, địa

lý KT – XH,…với nhiều khái niệm khác nhau về ĐTH. Các khái niệm ĐTH thay đổi

tùy thuộc vào đặc điểm nhân khẩu học, trình độ phát triển KT – XH và chiến lược

của từng quốc gia. Nhiều nghiên cứu đề cập đến ĐTH ở khía cạnh dễ nhận biết nhất,

chính là sự tăng dân số đô thị trên tổng số dân của một quốc gia, một khu vực, một châu lục; là hiện tượng thu hút dân cư từ nơi khác nhập cư vào đô thị làm cho dân số

tăng nhanh và mở rộng về không gian đô thị [69,108]. Tuy nhiên, về sau này những nghiên cứu lại chứng minh sự phát triển của lực lượng sản xuất là động lực chính của ĐTH; đô thị là trung tâm phát triển kinh tế ở mỗi khu vực, mỗi quốc gia. Michael Spence và cộng sự đã cho rằng: ĐTH là “động lực quan trọng nhất” để phát triển

kinh tế đô thị, thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế, làm thay đổi về cơ cấu lao động, tạo thu nhập cao cho người dân đô thị, điều này đúng với quá trình ĐTH mạnh mẽ của các nước đang phát triển vào nửa sau của thế kỉ XX [1]

9

Ủy ban nghiên cứu khoa học xã hội thế giới (SSRC) từ những năm 60 của thế kỷ XX đã tổng quan những nghiên cứu về đô thị và ĐTH. Ngoài việc đưa ra những

khái niệm về ĐTH, SSRC đã đưa ra nhận định về đặc điểm của ĐTH, đó là một quá

trình phức tạp, đan xen nhiều vấn đề KT – XH – Môi trường và không gian, ĐTH thể

hiện rõ tính lịch sử, nó gắn liền với quá trình CNH và thể hiện tính toàn cầu. Năm 1985, Harold Carter cho xuất bản cuốn “Nghiên cứu địa lý đô thị”, cùng với các tác

giả Anh đề cập đến nhiều vấn đề, nhiều đặc điểm đa dạng, phức tạp, nhiều xu hướng

mới về ĐTH trong các giai đoạn lịch sử và địa lí khác nhau như: quá độ đô thị, ĐTH

đảo ngược của Brian.T. Berry năm 1976 [96], ĐTH vùng ven của Alan Rabinowitz

[95], các thành phố trên thế giới thứ 3 của David Drakakis năm 2000, tăng trưởng đô thị của Michael Spence [1] và các kiểu thay đổi không gian đô thị trong ĐTH của Pierre Laborde năm 2002 [46].

- Các nhân tố ảnh hưởng đến ĐTH

Song song với những nghiên cứu về khái niệm và đặc điểm của ĐTH, có nhiều

nghiên cứu đề cập đến các nhân tố ảnh hưởng đến ĐTH, đặc biệt trong nghiên cứu về

việc xây dựng các mô hình TP, các nhà nghiên cứu chú trọng nhất là quỹ đất để xây

dựng mô hình các TP. Điển hình như “mô hình thành phố” của Hoyt (năm 1939), mô

hình “các đường tròn đồng tâm” (năm 1925) của Ernest Burgess, đều chú trọng đến

yếu tố địa tô. Lý thuyết “Vị trí trung tâm” (Central Place Theory) của nhà địa lý

người Đức - Walter Christaller (năm 1933) [100], đề cập đến các mối quan hệ mật

thiết giữa các TP và khu vực bao quanh: vị trí và các điều kiện xung quanh. Đại hội

Địa lý quốc tế lần thứ XXIII tổ chức tại Matxcova (năm 1976), đã thảo luận và đưa

ra các kết quả nghiên cứu mới thuộc các trường phái địa lý khác nhau về ĐTH. Một

trong những điểm mới đó là ĐTH được nghiên cứu dưới góc độ địa lý: ĐTH được

hình thành và phát triển dưới tác động của các điều kiện tự nhiên (tài nguyên đất),

điều kiện KT – XH (cấu trúc của hệ thống dân cư, sự phát triển của nền kinh tế, đặc biệt là CNH, tính liên tục của nông thôn và thành thị), ảnh hưởng của thể chế chính

trị tới sự phát triển các đô thị. Trên cơ sở những lí luận mới, một số nghiên cứu đã phân tích những điều kiện để thay đổi về không gian, thay đổi cơ cấu kinh tế, sự phát triển cảnh quan đô thị. Minh chứng cụ thể ở những vùng đô thị mới của Hoa Kỳ, Canada, Anh và một số nước ở châu Phi, châu Á (trong đó có Việt Nam) [92]. Tuy

nhiên, điều kiện cụ thể của mỗi quốc gia không giống nhau, nên ĐTH ở các quốc gia cũng có những đặc trưng riêng về mức độ, tiến trình và quy mô.

10

Hiện nay, một số lý thuyết hiện đại hơn về ĐTH được đề cập và đang tiếp tục được nghiên cứu, điển hình là: ĐTH ngoại vi, ĐTH quá tải, ĐTH dựa vào nguồn vốn

đầu tư bên ngoài, mô hình phát triển các TP tiền công nghiệp và quy luật phát triển

của các TP từ nhỏ đến lớn đã được Michael Pacione đề cập, phân tích trong “Urban

Geography– a global perspective” [105], Paul L.Knox và Linda McCarthy trong “Urbanization”, cũng đã phân tích sâu hơn những nhân tố ảnh hưởng và áp dụng

chúng vào thực tiễn khi nghiên cứu ĐTH ở nhiều nước trên thế giới, trong đó chủ yếu

là Hoa Kỳ và một số nước Tây Âu [107].

- Về tiêu chí đánh giá ĐTH

ĐTH là một diễn tiến phức tạp và đa diện về các mặt địa lý, lịch sử, dân cư, KT – XH, văn hóa,… vì vậy tùy thuộc điều kiện và hoàn cảnh nghiên cứu mà các tác giả đã lựa chọn những tiêu chí định tính, định lượng để đánh giá, đo lường tốc độ và trình

độ ĐTH của mỗi quốc gia, mỗi vùng lãnh thổ.

Liên hợp quốc đã sử dụng tiêu chí tỉ lệ dân số đô thị là số dân đô thị so với tổng

dân số để đánh giá trình độ ĐTH và tiêu chí sự thay đổi trung bình năm của tỉ lệ dân

số đô thị để đánh giá tốc độ ĐTH [109]. Ở Ấn Độ, N.G.Fian sử dụng 2 tiêu chí dân

số và không gian lãnh thổ để đánh giá ĐTH [48]; Pranati Datta chỉ sử dụng tiêu chí

dân số; trong khi đó, ở Phi-lip-pin, Fu – Chen Lo và Yeu – Man Yeung xác định 3

chỉ tiêu để đánh giá mức độ ĐTH vùng Metro Manila và gắn với chỉ tiêu về dân số

học [104].

Hiện nay, nhiều tác giả đã xây dựng bộ tiêu chí tổng hợp (gồm nhiều tiêu chí

với các chỉ tiêu) để đánh giá ĐTH như dân số, KT – XH, lao động, CSHT và môi

trường. Cụ thể như Tổ chức UN – Habitat đưa ra 5 tiêu chí với 23 chỉ tiêu [110], Li

– Yin Shen đưa ra 4 tiêu chí với 127 chỉ tiêu [103], Wang Yeu đưa ra 3 tiêu chí với

22 chỉ tiêu [111], Vichit Lorchirachoonkul đưa ra 9 tiêu chí với 489 chỉ tiêu. Nhiều

tác giả còn tính cả chỉ số tổng hợp để đánh giá tổng quát quá trình ĐTH, điều này thể hiện được tính phức tạp, đa diện, đa tiêu chí của ĐTH. Những tiêu chí trên cũng được

tác giả tham khảo để xác định cho đề tài

1.1.1.2. Ở Việt Nam

- Về khái niệm và đặc điểm của ĐTH

Ở nước ta, những nghiên cứu về ĐTH cũng đã được thực hiện vào những thập

niên 80, 90 của thế kỉ XX. Tác giả Đàm Trung Phường là một trong những người đi đầu và đặt nền móng cho nghiên cứu về đô thị và ĐTH ở Việt Nam. Cuốn “Đô thị Việt Nam” tập 1, 2 của ông (1995) [59] đã đề cập khá toàn diện về đô thị và ĐTH ở

11

Việt Nam. Trong tập 1, tác giả đã đi sâu vào một số vấn đề lý luận về ĐTH ở Việt Nam, đưa ra khái niệm tương đối toàn diện về ĐTH. Tác giả cho rằng ĐTH là một

quá trình diễn thế về KT – XH, văn hóa, không gian gắn với những tiến bộ về khoa

học kỹ thuật (KHKT). ĐTH là quá trình chuyển đổi về cơ cấu lao động, cơ cấu kinh

tế, lối sống,…Ngoài khái niệm ĐTH, tác giả cũng phân tích rõ các đặc điểm chung của ĐTH và vận dụng vào phân tích những đặc điểm cụ thể của ĐTH ở Việt Nam.

Cùng hướng nghiên cứu cơ sở lý luận về ĐTH, còn có các tác giả Mạc Đường

trong cuốn “Dân tộc học - Đô thị và vấn đề đô thị hóa” năm 2002 [28], tác giả Trương

Quang Thao trong cuốn “Đô thị học nhập môn” và “Đô thị học - những khái niệm

mở đầu” năm 2003 [69]. Nghiên cứu về “Lịch sử phát triển đô thị” có tác giả Đặng Thái Hoàng, Nguyễn Quốc Thông. Nghiên cứu về “Quản lý đô thị” có Nguyễn Ngọc Châu, Võ Kim Cương, Phạm Kim Giao [7,17,29]. Các tác giả, đã đưa ra những khái

niệm về đô thị và ĐTH trên cơ sở tổng quan từ các nhà nghiên cứu trên thế giới như

Cerda, A. Gutnov, I Lejav và chú trọng phân tích, làm rõ các đặc điểm chức năng của

đô thị, diễn biến ĐTH và sự phát triển mạnh của cuộc cách mạng KHKT và CNH đến

ĐTH. Những lý thuyết đô thị tiền công nghiệp, đô thị công nghiệp, đô thị hậu công

nghiệp đã được đề cập đến bởi các tác giả Nguyễn Thế Bá trong “Quy hoạch xây

dựng đô thị” năm 1982 [2], Ngô Huy Quỳnh trong “Quy hoạch cải tạo, xây dựng và

phát triển đô thị”năm 1997 [61]

- Về các nhân tố ảnh hưởng đến ĐTH

Cuốn “Đô thị Việt Nam” tập 1 của tác giả Đàm Trung Phường đã đề cập và

phân tích rõ các nhóm yếu tố tác động đến ĐTH và quá trình ĐTH như nhóm yếu tố

tự nhiên và tài nguyên thiên thiên, nhóm yếu tố KT – XH, lịch sử và cả thể chế chính

sách. Trong các giáo trình về “Đô thị hóa” và “Quy hoạch phát triển đô thị” của các

tác giả Nguyễn Thế Bá, Vũ Thị Bình và các cộng sự khác đều đề cập đến các nhân tố

ảnh hưởng tới ĐTH. Hai tác giả Đỗ Thị Minh Đức và Nguyễn Viết Thịnh cho rằng các luồng di cư từ nông thôn ra thành phố gắn với quá trình CNH là nguyên nhân của

ĐTH. Ngoài ra, trong nhiều công trình nghiên cứu về ĐTH ở một lãnh thổ cụ thể, các tác giả đều lựa chọn phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình ĐTH. Nghiên cứu của Hoàng Phúc Lâm (2002) [47] về “Tác động của những biến đổi kinh tế - xã hội đến sự phát triển đô thị ở thị xã Lạng Sơn”, nhấn mạnh đến nhóm nhân tố KT – XH

của địa phương này. Các luận án tiến sĩ Địa lý học như: “Phân tích quá trình đô thị hóa ở Hải phòng” của Vũ Thị Chuyên (2010) [11]; “Nghiên cứu quá trình đô thị hóa và ảnh hưởng của nó đến sự phát triển kinh tế - xã hội thành phố Cần Thơ” của tác

12

giả Phạm Đỗ Văn Trung (2014) [78]; Nghiên cứu “Đô thị hóa và sử dụng đất đô thị ở tỉnh Bắc Ninh trong giai đoạn 2005 – 2015” [94] của tác giả Ngô Thị Hải Yến đều

đề cập các nhóm nhân tố: vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên,

nhóm KT – XH, thể chế chính sách ảnh hưởng đến ĐTH ở địa bàn nghiên cứu.

- Về tiêu chí đánh giá ĐTH Ở Việt Nam, cùng với nghiên cứu các khái niệm, nhân tố ảnh hưởng đến ĐTH

nhiều tác giả đề cập đến các tiêu chí đánh giá ĐTH, tiêu biểu nhất là công trình nghiên

cứu của Giáo sư Đàm Trung Phường, trong cuốn “Đô thị Việt Nam – Tập 1 và 2”.

Tác giả Phạm Ngọc Côn trong cuốn “Kinh tế học đô thị”, cùng một số tác giả khác

đã đưa ra nhiều tiêu chí đánh giá ĐTH, tập trung vào dân số, tỉ lệ dân số đô thị trên tổng số dân, quy mô diện tích đô thị, hệ thống cơ sở hạ tầng và quy mô kinh tế đô thị,…Tác giả Đỗ Thị Minh Đức (1992), trong luận án tiến sĩ “Phân tích dưới góc độ

địa lý kinh tế - xã hội sự chuyển hóa nông thôn thành đô thị ở Hà Nội trong quá trình

đô thị hóa”, đã phân tích các khía cạnh về biến đổi dân số cơ học, mật độ dân số liên

quan đến chuyển đổi hoạt động kinh tế, chuyển đổi sử dụng lao động và sử dụng đất

ở vùng ngoại thành Hà Nội từ 1980 – 1989 [25]. Những nghiên cứu của các tác giả

Vũ Thị Chuyên (năm 2010), Phạm Đỗ Văn Trung (năm 2014), Ngô Thị Hải Yến

(năm 2016), Nguyễn Thị Hoài Phương (năm 2020) [58], đặc biệt là nghiên cứu “Vận

dụng phương pháp phân tích đa tiêu chí đánh giá mức độ đô thị hóa nhằm góp phần

xây dựng quan điểm phát triển đô thị ở Việt Nam” của Nguyễn Hữu Đoàn [22]. Các

nghiên cứu của các tác giả đều vận dụng bộ tiêu chí dựa trên 5 lĩnh vực: chức năng

đô thị, dân số, lao động, CSHT, kiến trúc cảnh quan đô thị để xây dựng hệ thống tiêu

chí đánh giá ĐTH ở các địa phương. Đây cũng là những căn cứ giúp tác giả lựa chọn

và xác định tiêu chí đánh giá cho luận án của mình

Tháng 11/ 2011, “Đánh giá Đô thị hóa ở Việt Nam, Báo cáo hỗ trợ kỹ thuật”

của Ngân hàng thế giới do ông Dean Cira phụ trách với sự tham gia của nhóm cán bộ chủ chốt, bao gồm: Arish Dastur, Henry Jewell, Austin Kilroy, Nancy Lozano, Phan

Thị Phương Huyền và Hyoung Gun Wang. Báo cáo được xây dựng trên những nghiên cứu chuyên sâu để đánh giá phân tích toàn diện quá trình ĐTH ở Việt Nam trong 2 thập niên gần đây, theo 5 khía cạnh chuyển đổi của hệ thống đô thị và ĐTH, nêu rõ những mặt tích cực và cả những hạn chế, thách thức mà Việt Nam đang phải đối mặt

trong quá trình ĐTH [52].

13

1.1.2. Những nghiên cứu về tác động của đô thị hóa đến kinh tế - xã hội

1.1.2.1. Trên thế giới Theo David Drakakis - Smith, kinh tế, dân cư, xã hội, môi trường là các nhân

tố then chốt cần nghiên cứu trong quá trình ĐTH ở bất cứ quốc gia nào trên thế giới

[98]. ĐTH là quá trình phức tạp mang tính quy luật, nó chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố, nhưng cũng tác động đến nhiều mặt của đời sống và phát triển kinh tế. Các

tác động của ĐTH tập trung ở các khía cạnh chính là:

- Tác động tới dân cư: nghiên cứu tác động của ĐTH với vấn đề dân cư, David

E. Bloom đã dự đoán xu hướng gia tăng dân số đô thị thế giới trong tương lai và đưa

ra một số mô hình ĐTH trên thế giới, ông cho rằng gia tăng dân số đô thị là nguyên nhân chính của những thay đổi về xã hội đô thị trong ĐTH ở mỗi quốc gia [99]. Michael Timberlake [106] và Alan Rabinowitz [95], thì cho rằng CNH đã dẫn đến

dòng di cư từ nông thôn ra TP, dòng di cư này đã làm thay đổi quy mô, cơ cấu dân số

và lối sống dân cư trong các đô thị. James. H. Spener [102] cũng chỉ ra rằng ở các

nước phát triển như Hoa Kỳ, khu vực Tây Âu, và một số nước châu Á (Nhật Bản,

Singapore…), quá trình ĐTH đã ở giai đoạn ổn định nên hiện tượng dịch cư theo

chiều sâu không còn, dân cư đã có xu hướng phân tán ra các đô thị nhỏ và các vùng

ven đô.

- Tác động tới kinh tế: Đây là vấn đề được nhiều tổ chức, cá nhân quan tâm

nghiên cứu như UNESCO, UNDP, WB, ADB với mục đích làm sáng tỏ những mối

liên kết giữa toàn cầu hóa và ĐTH. Một số nghiên cứu cho rằng các TP đang ngày

càng trở thành động lực quan trọng của quá trình thay đổi cơ cấu kinh tế đô thị theo

hướng tăng tỉ lệ lao động ở khu vực II và III, giảm mạnh lao động ở khu vực I, dẫn

đến kinh tế các đô thị tăng trưởng nhanh, xuất hiện kinh tế đô thị và sự phát triển kinh

tế ở các quốc gia trên thế giới [106]. Ở Đông Nam Á, các đô thị phần lớn là các trung

tâm công nghiệp, trung tâm kinh tế nên sự phát triển ĐTH thường song song với phát triển kinh tế.

Tài liệu “Dân số, đô thị hóa và chất lượng cuộc sống” của Liên hiệp quốc tại Hội nghị quốc tế về dân số và phát triển ở Nairobi (1994), đã đề cập đến những tác động tích cực của ĐTH đến sự tăng trưởng phát triển kinh tế đô thị, tác động tới cả khu vực nông thôn, từ đó góp phần làm thay đổi các vấn đề xã hội như thu nhập người

dân, đời sống văn hóa xã hội, mức sinh tử và quy mô gia đình [110].

Michael Spence và cộng sự đã phân tích tác động của ĐTH làm đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, thay đổi về cơ cấu lao động và là động lực phát triển kinh tế

14

[53]. Tác giả Nhiêu Hội Lâm trong cuốn “Kinh tế học đô thị” [48], coi đô thị là con đẻ của lực lượng sản xuất, là thể hữu cơ xã hội của kinh tế tập trung, phân tích và đưa

ra cơ chế phát triển của kinh tế đô thị. Theo ông, cơ cấu ngành của kinh tế đô thị có

mối quan hệ chặt chẽ với cơ cấu không gian đô thị. Tác giả đã đưa ra những đặc điểm

để nhận dạng khu kinh tế đô thị với hệ thống đô thị. - Tác động tới các vấn đề xã hội: tác giả David Drakakis trong “Third World

Cities” [98], đề cập tính hai mặt của ĐTH đến các vấn đề xã hội. Các tác động tích

cực của ĐTH như tạo việc làm, tăng thu nhập, cải thiện đời sống, lối sống văn minh

đô thị. Mặt trái của ĐTH ở những nước có ĐTH nhanh, đặc biệt là những nước thuộc

“thế giới thứ ba” cũng gay gắt, họ đang phải đối mặt với một loạt các vấn đề xã hội như dân cư đông đúc, thiếu nhà ở, thất nghiệp, thiếu nước sạch, ô nhiễm môi trường, chênh lệch giàu nghèo ngày càng lớn, tệ nạn xã hội ngày càng gia tăng. Michael

Pacione [105] cũng nhận định các siêu đô thị ở châu Phi, Mỹ La Tinh và châu Á tập

trung nhiều lao động giản đơn, có thu nhập thấp nên dẫn đến một xã hội bất ổn, bạo

lực gia tăng và nguy cơ xảy ra chiến tranh đô thị. Còn Brian J.L Berry [96] cho rằng

chiến lược phát triển kinh tế không kiểm soát, tốc độ tăng dân số nhanh hơn tốc độ

tăng trưởng kinh tế, cơ sở hạ tầng chậm phát triển đã khiến sức chứa của nhiều đô thị

quá tải. Hiện tượng ĐTH đảo ngược, ĐTH giả tạo đã diễn ra ở nhiều nước châu Á,

châu Phi và Mỹ La Tinh cũng khiến những tác động tiêu cực của ĐTH ở đây thêm

sâu sắc

Sau những nghiên cứu về ĐTH, Kaplan, Wheeler, Holloway đã cho rằng song

song với phát triển ĐTH cần phải tái cấu trúc đô thị để khắc phục những tồn tại và

chữa những căn bệnh do ĐTH mang lại [100]. Để ĐTH một cách bền vững, trong

“Urbanization – an introduction to urban geography”, Paul L. Knox và Linda Mc

Carthy [107] nhấn mạnh ĐTH là động lực phát triển kinh tế ở mỗi quốc gia và chỉ ra

những mặt trái, những thách thức của ĐTH ở mỗi nhóm nước khác nhau, đặc biệt là ở các nước thuộc thế giới thứ ba. Một số tác giả chú trọng đến những giải pháp để

giảm tiêu cực trong ĐTH, như xây dựng một hệ sinh thái đô thị toàn cầu dựa trên những đặc điểm lịch sử, thể chế chính trị, chức năng, trình độ phát triển kinh tế của các đô thị ở mỗi quốc gia [102]. Một số công trình nghiên cứu khác như “Urban Geography” [100] đã cho rằng cần tạo nên sự cân bằng, đồng đều giữa tỉ lệ tăng dân

số đô thị với tốc độ tăng trưởng kinh tế và mức độ hiện đại hóa CSHT giao thông, còn những nước có dân số đang chuyển đổi mạnh mẽ từ nông thôn thành đô thị cần

15

có những sách lược khác với những nước mới bước vào quá trình ĐTH hoặc ĐTH đã đi vào giai đoạn ổn định.

1.1.2.2. Ở Việt Nam

Có nhiều công trình nghiên cứu về tác động của ĐTH đến kinh tế xã hội cả về

lý luận và thực tiễn trên phạm vi cả nước, từng địa phương, nhất là ở các đô thị lớn của Việt Nam. Các tác giả cũng nghiên cứu sâu ở nhiều góc độ, nhiều khía cạnh khác

nhau.

- Tác động tới dân cư – xã hội: trong cuốn “Phát triển bền vững đô thị” [79]

của tác giả Đào Hoàng Tuấn, đã coi sự biến đổi về dân cư – lao động là một thành

phần của ĐTH và đã phân tích mối quan hệ giữa nông thôn và đô thị thông qua dòng di cư tự phát từ các vùng nông thôn ra các đô thị lớn là Hà Nội, Hồ Chí Minh. Cùng hướng này còn có Đỗ Thị Thanh Hoa [34], Phạm Thị Xuân Thọ [74] đều đề cập đến

tác động của ĐTH đến việc di dân tự do từ nông thôn đến đô thị Hà Nội và TP Hồ

Chí Minh. Nhóm nghiên cứu của Ngân hàng Thế giới, thông qua nghiên cứu về ĐTH

ở Việt Nam cũng phân tích gia tăng dân số đô thị và di cư là một trong những thành

phần chính của các đô thị ở Việt Nam hiện nay [13]. Dưới góc độ Địa lý học hai tác

giả Lê Thông [70] và Nguyễn Minh Tuệ [80] cho rằng ĐTH tác động mạnh đến sự

phân bố dân cư và hình thái quần cư, đến cơ cấu nghề nghiệp – xã hội. Tác giả Đỗ

Thị Minh Đức [25], trong nghiên cứu về ĐTH, đã nêu ra thị trường lao động ở ngay

trong lòng đô thị hiện tại đang “cung” lớn hơn “cầu” và việc cơ cấu lại thành phần

kinh tế lại có xu hướng đẩy lao động ra hơn là thu hút lao động vào thì sức ép của

vùng nông thôn lên đô thị là rất lớn. Tác động của ĐTH đến cơ cấu lao động nghề

nghiệp ở vùng nông thôn và vùng đang trở thành đô thị cũng được tác giả Phan Thanh

Khôi phân tích trong “Một số vấn đề nảy sinh trong tiến trình CNH, HĐH vùng đồng

bằng sông Hồng” [44], chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần, sự chấp nhận

hoạt động của thị trường lao động đã khiến sự di chuyển lao động từ khu vực nông thôn ra thành thị theo hình thức mùa vụ đã trở nên dễ dàng và phổ biến hơn. Bên cạnh

đó, trong “Dân số học đô thị”, các quá trình dân số trong đô thị, cấu trúc dân cư đô thị và nhân khẩu, gia đình trong đô thị được tác giả Trần Hùng đã đề cập đến [38]. Trong cuốn “Xã hội học đô thị” [31] của Đỗ Hậu (chủ biên) và của Trịnh Duy Luân [50], tác giả cũng đi sâu đề cấp đến các vấn đề về xã hội như lao động, việc làm, văn

hóa, tệ nạn của đô thị. Tác giả Phan Thị Mai Hương [43], còn đề cập đến tác động của ĐTH đến những biến đổi tâm lý của dân cư vùng ven đô trong quá trình ĐTH ở TP Hồ Chí Minh

16

Ngoài ra, tác động của ĐTH đến các vấn đề khác như chính sách phát triển đô thị, quản lý đô thị đã được nghiên cứu bởi các tác giả Nguyễn Ngọc Châu [7],

Phạm Ngọc Côn [12], Võ Kim Cương [18], Nguyễn Đình Hương [42], Phạm Sĩ Liêm

[49] nghiên cứu dưới các góc độ khác nhau.

- Tác động của ĐTH đến phát triển kinh tế: lĩnh vực này có nhiều nhà nghiên cứu dưới nhiều khía cạnh như Nguyễn Sĩ Quế, Đặng Thái Hoàng [35] và Nguyễn

Quốc Thông [75], trong nghiên cứu về lịch sử đô thị đã sắp xếp, phân tích và bình

luận tác động của ĐTH đến kinh tế theo từng giai đoạn lịch sử [35,75]. Các tác giả

Trần Văn Tấn [68], Nguyễn Đình Hương [42], Phạm Ngọc Côn [12] cũng đã đưa ra

những chứng minh phát triển đô thị cần lấy tăng trưởng kinh tế làm trọng tâm trên cơ sở vận dụng lý thuyết các cực tăng trưởng và thực hiện ĐTH cũng cần chú ý đến lý thuyết phát triển đô thị dựa vào kinh tế xuất khẩu và lý thuyết phát triển kinh tế lấy

con người làm trung tâm. Ở một khía cạnh khác dưới góc độ địa lý KT – XH, nhiều

tác giả đã xác lập mối quan hệ chặt chẽ nông thôn – đô thị và xu hướng phát triển của

đô thị như Đỗ Thị Minh Đức [25], Hoàng Phúc Lâm [47]. Các nghiên cứu khác về

góc độ này có thể đề cập thêm là “Nghiên cứu đô thị hóa và tác động của nó đến sự

phát triển kinh tế - xã hội thành phố Cần Thơ” của Phạm Đỗ Văn Trung [78], “Đô

thị hóa và sử dụng đất đô thị của tỉnh Bắc Ninh giai đoạn 2005 – 2015” của Ngô Thị

Hải Yến [94]; “Nghiên cứu đô thị hóa và ảnh hưởng của nó đến chuyển dịch cơ cấu

sử dụng đất của tỉnh Bình Dương” của Nguyễn Thị Hoài Phương [58]. Báo cáo tổng

hợp “Đánh giá Đô thị hóa ở Việt Nam” của Ngân hàng thế giới [52] đã tập trung phân

tích tác động của ĐTH đến 5 chuyển đổi của đô thị: chuyển đổi về quản lý hành chính,

chuyển đổi về không gian, chuyển đổi về kinh tế, chuyển đổi về dân số, chuyển đổi

về phúc lợi trong quá trình ĐTH ở Việt Nam .

1.1.3. Những nghiên cứu về đô thị hóa ở Đà Nẵng

Thực tế các công trình nghiên cứu về ĐTH và tác động của ĐTH đến KT – XH ở TP Đà Nẵng không nhiều. Một số nghiên cứu sau đây của các tác giả đề cập đến

những khía cạnh liên quan đến ĐTH và tác động của ĐTH tại TP Đà Nẵng.

- Một số tài liệu liên quan đến ĐTH ở TP Đà Nẵng: Các tác giả Dương Trung Quốc, Trần Hữu Đính, Nguyễn Văn Nhật, Nguyễn Tố Uyên, Ngô Văn Minh (2001) [60] khi nghiên cứu về “Lịch sử thành phố Đà Nẵng”,

đã đề cập đến địa danh và sự hình thành của đô thị Đà Nẵng trong các giai đoạn lịch sử. Tài liệu “Đà Nẵng thành tựu và triển vọng - Đà Nẵng Achievements and Prospects”, của Nguyễn Đức Hùng (2015) [39], đã tổng kết những thành tựu của quá

17

trình ĐTH và phát triển KT – XH, đồng thời cũng đề cập đến những hạn chế trong quá trình ĐTH của TP Đà Nẵng trong giai đoạn 1997 – 2015.

- Một số công trình nghiên cứu liên quan đến ĐTH và tác động của nó đến các

khía cạnh KT – XH của TP Đà Nẵng.

Đề tài khoa học “Xây dựng lối sống đô thị trong quá trình đô thị hóa ở thành phố Đà Nẵng. Thực trạng và giải pháp”, của các tác giả Phạm Hảo, Nguyễn Hồng

Sơn, Lê Văn Định (2006) [32], Học viện Chính trị Quốc Gia, TP Hồ Chí Minh. Nội

dung chủ yếu của đề tài tập trung đánh giá lại thực trạng quá trình ĐTH và thực trạng

lối sống đô thị của TP Đà Nẵng, rút ra những bài học kinh nghiệm và đề ra những

giải pháp xây dựng lối sống đô thị văn minh, hiện đại, tạo điều kiện để TP Đà Nẵng phát triển bền vững trong giai đoạn hiện nay.

Luận án tiến sĩ với đề tài “Việc làm cho nông dân bị thu hồi đất trong quá trình

công nghiệp hóa, đô thị hóa ở thành phố Đà Nẵng”, của tác giả Nguyễn Dũng Anh

(2014) [21], nội dung tập trung phân tích thực trạng việc làm cho nông dân bị thu hồi

đất trong quá trình CNH, ĐTH ở TP Đà Nẵng giai đoạn 2001 – 2014, nêu quan điểm

và đề xuất các giải pháp tạo việc làm cho nông dân ở các khu vực bị thu hồi đất.

Luận án tiến sĩ với đề tài “Ảnh hưởng của đầu tư trực tiếp nước ngoài tới đô thị

hóa theo hướng bền vững ở Đà Nẵng” của tác giả Nguyễn Thị Thoa (2014) [73], nội

dung đề tài tập trung phân tích vai trò, thực trạng và các tác động của việc thu hút đầu

tư trực tiếp của nước ngoài tới ĐTH, hướng tới xây dựng đô thị Đà Nẵng bền vững,

đề xuất các giải pháp thu hút đầu tư và sử dụng nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài

tới ĐTH ở TP Đà Nẵng hiệu quả nhất.

Luận án tiến sĩ với đề tài “Tác động của người nhập cư đến phát triển kinh tế -

xã hội ở thành phố Đà Nẵng”, của tác giả Nguyễn Nữ Đoàn Vy (2018) [93], nội dung

nghiên cứu tập trung vào phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến nhập cư vào Đà Nẵng,

thực trạng của việc nhập cư và đánh giá tác động của người nhập cư đến phát triển KT – XH của TP Đà Nẵng.

- Những bài viết về ĐTH ở TP Đà Nẵng đăng trên các tạp chí, các trang web Có nhiều bài viết của các nhà khoa học nghiên cứu về ĐTH, các kiến trúc sư, các nhà nghiên cứu kinh tế đăng trên các tạp chí khoa học, các báo viết và báo điện tử, đánh giá về quá trình ĐTH của TP Đà Nẵng, phân tích những thành tựu và hạn

chế của quá trình ĐTH và nêu định hướng, giải pháp cho ĐTH ở TP Đà Nẵng. Tác giả Ngô Viết Nam Sơn có các bài viết: “Tầm nhìn trăm năm trong công tác quy hoạch các đô thị biển Đà Nẵng” đăng trong Tạp chí Kiến trúc Việt Nam, số 7/2009 [63],

18

“Bản sắc Quy hoạch và Kiến trúc của Đà Nẵng và Huế: Thử thách và Cơ hội, Tạp chí Kiến trúc, số 183 (tháng 7/2010) [64], “Không gian đô thị Đà Nẵng trong thế kỷ

XXI”, Tạp chí Kiến trúc, số 214, năm 2013 [65]. Tác giả Lê Hồng Kế “Thành phố Đà

Nẵng - Một đô thị phát triển bền vững và hội nhập”, bài viết trong Hội thảo khoa học

Quy hoạch phát triển đô thị Đà Nẵng - Hội nhập và phát triển TP Đà Nẵng, ngày 6/8/2010 [45]; Tác giả Xuân Ngọ có bài “Nhìn lại 10 năm Đà Nẵng triển khai thực

hiện đề án thành phố môi trường” đăng trong Tạp chí môi trường, số 7/2019 [54].

Kiến trúc sư Tô Văn Hùng, “Đà Nẵng – Hướng đến phát triển đô thị đẳng cấp khu

vực” [40].

Bên cạnh các công trình nghiên cứu, những bài viết trên các tạp chí, TP Đà

Nẵng còn có những dự án Quốc tế về đầu tư cho ĐTH và phát triển thành phố như:

Dự án thứ nhất: Da Nang Priority Infrastructure Investment Project (Dự án đầu

tư cơ sở hạ tầng ưu tiên Đà Nẵng) của ngành Phát triển đô thị năm 2008 - Phòng Phát

triển Bền vững – Khu vực Đông Á và Thái Bình Dương [57].

Dự án thứ hai: Danang Sustainable City Development, Dự án Phát triển Bền

vững Thành phố Đà Nẵng của Ngân hàng Thế giới (ngày phê duyệt của Ngân hàng

Thế giới: 26/4/2013, ngày kết thúc sửa đổi: 30/6/2019) [53].

Đề án mới nhất: “Xây dựng thành phố thông minh tại thành phố Đà Nẵng giai

đoạn 2018 - 2025, định hướng đến năm 2030” (Quyết định số 6439/QĐ-UBND ngày

29/12/2018 của UBND TP Đà Nẵng) [87].

Kết luận: Qua tiếp cận và lược khảo những công trình nghiên cứu về ĐTH và

tác động của ĐTH đến KT – XH trên đây, tác giả rút ra một số nhận xét như sau:

Thứ nhất, các kết quả các công trình đã đạt được: Các nghiên cứu đã làm rõ

và đưa ra những lý luận cơ bản về ĐTH, đặc điểm, diễn tiến, các nhân tố ảnh hưởng

đến ĐTH, tiêu chí đánh giá ĐTH và những tác động trở lại của ĐTH đến các lĩnh vực

KT – XH và môi trường dưới nhiều góc độ khác nhau; về thực tiễn, các công trình nghiên cứu cũng đề cập đến ĐTH ở nhiều khía cạnh, nhiều lãnh thổ, khu vực khác

nhau. Mỗi khu vực, lãnh thổ sử dụng các tiêu chí đánh giá ĐTH phù hợp với điều kiện đặc thù cho kết quả đánh giá thuyết phục. Nhìn chung các công trình nghiên cứu có giá trị khoa học và thực tiễn, là nguồn tư liệu quý giá để nghiên cứu sinh tham khảo.

Thứ hai, những “khoảng trống” trong các công trình nghiên cứu: Những cơ sở lý luận về ĐTH đã được nghiên cứu kỹ dưới nhiều góc độ như nhân khẩu học, xã hội học, kinh tế chính trị học, nhưng chưa có các công trình nghiên cứu đầy đủ, toàn

19

diện dưới góc độ địa lý KT – XH. Về cơ sở thực tiễn cũng chưa có công trình nghiên cứu nào nghiên cứu thực trạng ĐTH và tác động của ĐTH đến KT – XH ở TP Đà

Nẵng dưới góc độ Địa lý học một cách toàn diện đối với TP có vị thế là động lực của

VKTTĐMT, là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của khu vực miền Trung

– Tây Nguyên. Trên cơ sở kế thừa về lý luận và tiếp thu các kết quả nghiên cứu của các nhà

khoa học đi trước, thấy được những “khoảng trống” của lý luận và thực tiễn về ĐTH;

tác động của ĐTH đến KT – XH ở đô thị trong giai đoạn hiện tại, tác giả luận án

nghiên cứu ĐTH và tác động của nó đến phát triển KT – XH ở TP Đà Nẵng dưới góc

độ địa lý KT – XH

● Nghiên cứu những nhân tố ảnh hưởng đến ĐTH ● Thực trạng ĐTH từ 2003 – 2020 của một TP biển, trung tâm kinh tế -

văn hóa – xã hội – khoa học kỹ thuật ● Tác động của ĐTH đến KT – XH của TP

1.2. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐÔ THỊ HÓA VÀ TÁC ĐỘNG CỦA ĐÔ THỊ HÓA

ĐẾN PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI

1.2.1. Về đô thị hóa

1.2.1.1. Khái niệm về đô thị và đô thị hóa a. Khái niệm đô thị

Quá trình hình thành và phát triển đô thị trải qua các thời kỳ lịch sử khác nhau.

Mỗi một thời kỳ tạo nên các đô thị có đặc trưng riêng do được hình thành và phát

triển trong mối quan hệ tổng hòa của các nhân tố tự nhiên và KT – XH. Đô thị là đối

tượng nghiên cứu của nhiều chuyên ngành, vì vậy có rất nhiều khái niệm đô thị được

công bố ở nhiều lĩnh vực.

- Thuật ngữ đô thị trong tiếng La tinh là “urbs”, tiếng Anh “urban”. Trên thế

giới, các nhà nghiên cứu đô thị học ở Mỹ bao gồm Kaplan, Wheeler và Holloway đã đưa ra định nghĩa về đô thị: “Đô thị là những nơi có dân cư sinh sống đông đúc với

mật độ cao, người dân sống ở đó thường làm các ngành nghề không liên quan đến lĩnh vực nông nghiệp và đó thường là những trung tâm chính trị, kinh tế và xã hội. Đô thị không chỉ là nơi tập trung đông dân cư mà ở đó còn diễn ra các hoạt động kinh tế phi nông nghiệp và đây là những trung tâm về kinh tế, chính trị và xã hội”.

Theo Richtofen (1968) “Đô thị là một nhóm tập hợp những người có cuộc sống không

dựa vào nông nghiệp và trước hết dựa vào công nghiệp”. Theo Yu.G. Xauskin: Đô

20

thị là một điểm quần cư có mật độ nhân khẩu cao và dân cư ở đây không có hoạt động nông nghiệp trực tiếp [100]

Ở Việt Nam, theo tác giả Đàm Trung Phường “Đô thị là một đơn vị kinh tế xã

hội phản ánh sự vận động của bản thân lực lượng sản xuất và tổ chức xã hội, khi bột

phát, khi phát triển bình thường, khi suy thoái làm cho cấu trúc đô thị luôn luôn chuyển hóa. Sự chuyển hóa này mang tính chất vừa sinh học, vừa cơ học, diễn ra từ

trong tâm đô thị ra ngoài và từ ngoài tác động vào tâm đô thị” [59].

Tác giả Phạm Ngọc Côn trong cuốn “Kinh tế học đô thị” [12] đã đưa ra khái

niệm đô thị theo hai khía cạnh:

+ Theo tính chất đô thị: đô thị phải có 3 điều kiện là tính tập trung với mật độ cao, tính kinh tế và tính xã hội, từ đó tác giả nêu định nghĩa “Đô thị là một thực thể thống nhất hữu cơ của thực thể kinh tế phi nông nghiệp, thực thể xã hội và thực thể

vật chất tập trung với mật độ cao tại một khu vực nhất định”

+ Theo điểm dân cư đô thị: “Đô thị là điểm dân cư tập trung với mật độ cao,

chủ yếu là lao động phi nông nghiệp, là trung tâm tổng hợp hay chuyên ngành, có

vai trò thúc đẩy phát triển KT – XH của cả nước hoặc một tỉnh, một huyện”

Tác giả Phạm Trọng Mạnh trong cuốn “Quản lý đô thị” [51] cho rằng “Đô thị

là những điểm dân cư tập trung, có vai trò thúc đẩy sự phát triển KT – XH của một

vùng lãnh thổ, có cơ sở hạ tầng thích hợp và dân cư nội thị không dưới 4000 người

(đối với miền núi là 2000 người) với tỷ lệ lao động phi nông nghiệp tối thiểu là

65,0%”

Khái niệm về đô thị được đưa ra trong thông tư số 34/2009/TT - BXD và quy

định chi tiết một số nội dung của Nghị định 42/2009/NĐ - CP của Chính phủ Việt

Nam “Đô thị là khu vực tập trung dân cư sinh sống có mật độ cao và chủ yếu hoạt

động trong lĩnh vực kinh tế phi nông nghiệp, là trung tâm chính trị, hành chính, kinh

tế, văn hóa hoặc chuyên ngành có vai trò thúc đẩy sự phát triển KT – XH của quốc gia hoặc một vùng lãnh thổ, một địa phương, bao gồm nội thành, ngoại thành của

thành phố, nội thị, ngoại thị của thị xã, thị trấn” [6].

- Cấu trúc không gian đô thị chính là hình thức tồn tại về không gian KT – XH. Nó không chỉ bao gồm mối quan hệ không gian giữa các ngành công nghiệp (CN), dịch vụ (DV), thương mại với nông nghiệp (NN) vùng ngoại ô mà còn mối

quan hệ với không gian các ngành sản xuất phi vật chất như văn hóa, giáo dục, y tế, các dịch vụ hành chính và cả sự kết hợp giữa các khu nhà ở, các cơ sở CN, thương mại, CSHT với đất đai và với dân cư sống ở đô thị đó. Cấu trúc không gian đô thị bao

21

gồm: phần cấu trúc cứng (mạng lưới hạ tầng kỹ thuật cứng chủ đạo và các bộ phận của thiên nhiên cần được bảo tồn); phần cấu trúc mềm (mạng lưới nhà ở, hạ tầng xã

hội cơ động cùng các bộ phận của thiên nhiên được phép tác động cải tạo, tôn tạo);

phần cấu trúc điều hòa (các dạng tổ chức hoạt động phát triển của cộng đồng gắn kết

hai phần cấu trúc cứng và cấu trúc mềm trong từng thời gian và không gian cụ thể, gồm cả chính sách quản lý và tiến bộ KHKT) [59]. Đô thị có cấu trúc không gian phù

hợp hay không phù hợp sẽ ảnh hưởng mạnh đến hiệu quả KT – XH và môi trường

của lãnh thổ

- Phân khu chức năng đô thị: các khu chức năng đô thị được phân chia dựa

trên những yêu cầu tập trung hóa chức năng KT – XH của đô thị. Các khu chức năng đô thị nếu được phân chia phù hợp và có sự kết hợp với nhau sẽ thúc đẩy sự phát triển KT – XH của đô thị. Những điều kiện ảnh hưởng đến quá trình phân chia các khu vực

chức năng đô thị là quy luật phân bố sức sản xuất, khối lượng và chất lượng tài

nguyên, sự mở rộng của thị trường, số lượng và chất lượng nguồn lao động, CSHT,

tính chất đô thị,…Các đô thị thường phân thành các khu chức năng như: khu chức

năng CN, khu chức năng thương mại – DV, khu chức năng ngoại ô.

Từ các khái niệm đô thị nêu trên, có thể thấy sự thống nhất chung về dấu hiệu

nhận biết đô thị, đó là mật độ dân cư cao, chủ yếu là hoạt động phi nông nghiệp và

có vai trò thúc đẩy phát triển KT – XH. Tác giả luận án đồng tình với các dấu hiệu

nhận biết và kế thừa, phát triển trong nghiên cứu ĐTH ở chương 2

Hiện nay, đô thị phát triển mạnh, ngày càng hiện đại và đã có thêm nhiều khái

niệm ở các khía cạnh khác nhau của đô thị như:

Chùm đô thị, là một tập hợp đô thị gần nhau, ảnh hưởng lẫn nhau bởi quá trình

ĐTH và có quan hệ gắn bó với nhau về CSHT kết nối với nhau. Chùm đô thị gồm

một hoặc vài TP lớn làm cực và nhiều TP nhỏ làm vệ tinh;

Đô thị vệ tinh, là đô thị độc lập về hành chính, có hệ thống quản lý riêng, nhưng vẫn nằm trong cơ cấu và phát triển theo định hướng chiến lược của thành phố

lớn [130];

Đô thị sinh thái, là đô thị xây dựng dựa trên nền tảng tự nhiên, phát triển hài hòa với tự nhiên như một thành phần hữu cơ của tổng thể tự nhiên, đạt được sự cân bằng động trong hệ sinh thái đô thị [79];

Đô thị xanh (Green Cities) là tổng thể quy hoạch xây dựng đô thị trên 3 yếu tố: MT xanh – KT xanh – XH xanh, cư dân sống trong đô thị phải cảm thấy hài lòng, được thụ hưởng các điều kiện về hạ tầng kĩ thuật và hạ tầng xã hội, có công viên, có

22

chỗ cho trẻ nhỏ vui chơi và học tập;

Đô thị bền vững (Sustainable city), là đô thị đạt được sự thống nhất, đảm bảo

sự cân bằng cả ba mặt KT – XH - Môi trường, nhằm nâng cao chất lượng sống của

thế hệ hiện tại mà không làm ảnh hưởng tới các nhu cầu sống, phát triển của thế hệ

tương lai. Một đô thị bền vững phải đảm bảo được 4 tiêu chí: cuộc sống của cư dân tốt hơn, nền tài chính lành mạnh, quản lý tốt, khả năng cạnh tranh tốt [79];

Đô thị thông minh (Smart City), là mô hình đô thị ứng dụng CNTT, trí tuệ

nhân tạo để quản lý, nâng cao tiêu chuẩn cuộc sống đô thị, cải thiện chất lượng phục

vụ của chính quyền đô thị và sử dụng hiệu quả các nguồn năng lượng, tài nguyên

thiên nhiên. Cũng có thể hiểu, TP thông minh là TP có nền kinh tế thông minh, đi lại thông minh, cư dân thông minh, môi trường thông minh, quản lý đô thị thông minh và cuộc sống thông minh [87].

b. Khái niệm đô thị hóa

Thuật ngữ ĐTH bắt nguồn từ cổ tự la tinh “urbanus”, nghĩa là thuộc tính đô

thị, sang tiếng Anh là “Urbanization”. Hiện nay, có nhiều khái niệm về ĐTH, theo

từng lĩnh vực nghiên cứu khác nhau như: Địa lý học, Xã hội học, Nhân khẩu học,

Kinh tế học, Đô thị học, Kiến trúc học,…

- Dưới góc độ đô thị học, các nhà nghiên cứu đô thị cũng đưa ra các khái niệm.

Theo trường phái của của Liên Xô (cũ) như E.B.Alaev cho rằng: “ĐTH là một quá

trình KT - XH gia tăng mạnh mẽ trong thời đại KHKT. Biểu hiện của ĐTH là sự tăng

nhanh về số lượng và quy mô các điểm dân cư đô thị hay sự tập trung về dân cư trong

các TP. ĐTH là sự chuyển biến sâu sắc trong cấu trúc kinh tế và trong các hoạt động

đời sống xã hội ở các đô thị” [25]. Các chuyên gia ở Trung tâm định cư Liên hợp

quốc cho rằng “ĐTH là quá trình mà nhờ nó, dân số các quốc gia chuyển dịch từ các

nghề nghiệp nông thôn sang các nghề nghiệp đô thị, từ các điểm dân cư nông thôn

sang các điểm dân cư đô thị. ĐTH được hiểu là sự biểu hiện của các mô hình phát triển các điểm dân cư” [56]. Các nhà nghiên cứu đô thị Mỹ Paul. L. Knox và L.

McCarthy lại cho rằng: ĐTH là một quá trình liên quan đến những người sống và làm việc ở các TP lớn và các vùng siêu đô thị. Quá trình ĐTH diễn ra với sự biến đổi cùng lúc một loạt các yếu tố có quan hệ mật thiết với nhau như: kinh tế, chính trị, văn hóa, môi trường, dân cư, nhân khẩu, xã hội, công nghệ, kết quả của những biến đổi này đã

tác động đến hệ thống đô thị và các vấn đề khác như sử dụng đất, môi trường xây dựng, sinh thái xã hội và kiến trúc trong đô thị [107]. Ở Việt Nam, GS. Đàm Trung Phường, nhà nghiên cứu về đô thị đã đưa ra khái niệm tương đối đầy đủ và khái quát

23

về ĐTH: “ĐTH là một quá trình diễn thế về KT - XH – Văn hóa – Không gian gắn liền với những tiến bộ về KHKT, trong đó diễn ra sự phát triển nghề nghiệp mới, sự

chuyển dịch cơ cấu lao động, sự phát triển đời sống văn hóa, sự chuyển đổi lối sống

và sự mở rộng phát triển không gian thành hệ thống đô thị, song song với tổ chức bộ

máy hành chính, quân sự” [59].

- Dưới góc độ kinh tế học đô thị: ĐTH được coi là quá trình chuyển đổi về sự

phân bố lực lượng sản xuất trong nền kinh tế, sự thay đổi trong sắp xếp dân cư ở

những vùng ngoại ô, nông thôn thành vùng đô thị. Cách hiểu này cho thấy, ĐTH còn

là sự phát triển các đô thị theo chiều sâu và là sản phẩm của xã hội CN, được đánh

giá dựa trên sự thay đổi tỉ lệ lao động, tỉ trọng GRDP của ngành NN với các ngành phi NN [12]. Tác giả Nhiêu Hội Lâm đã đưa ra khái niệm “ĐTH là quá trình thay đổi tính chất trạng thái của đô thị, tăng vọt của số lượng đô thị và nâng cao chất

lượng đô thị. Nghĩa hẹp của ĐTH là một quá trình lịch sử, nói về số lượng, chủ yếu

chỉ dân số phi NN tập trung với quy mô lớn tại đô thị và khu vực đô thị” [48].

- Dưới góc độ địa lý KT- XH: ĐTH là một quá trình chuyển từ hoạt động NN

phân tán sang hoạt động phi NN tập trung trên địa bàn nhất định. Đây là hiện tượng

KT – XH phức tạp, diễn ra trên một không gian rộng lớn và khoảng thời gian lâu dài

để chuyển biến các xã hội nông nghiệp – nông dân – nông thôn sang xã hội công

nghiệp – thị dân – đô thị. ĐTH thực chất là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế và

cơ cấu xã hội với các biểu hiện sau:

+ Hình thành và mở rộng quy mô đô thị với CSHT kỹ thuật hiện đại, cùng với

đó dẫn đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ NN là chủ yếu sang CN và DV là chủ yếu.

+ Tăng nhanh dân số đô thị trong tổng số dân, dẫn đến thay đổi cơ cấu giai

cấp, phân tầng xã hội.

+ Chuyển từ lối sống phân tán (mật độ dân số thấp) sang lối sống tập trung

(mật độ dân cư cao).

+ Chuyển từ lối sống nông thôn sang lối sống đô thị, từ văn hóa làng xã sang

văn hóa đô thị, từ văn minh NN sang văn minh đô thị.

Bên cạnh khái niệm ĐTH, còn có khái niệm phi ĐTH diễn ra chủ yếu ở các đô thị quy mô lớn của các nước phát triển, với hiện tượng giảm dân số đô thị; khái niệm đảo cực ĐTH, là hiện tượng dân cư tập trung ngày càng đông vào các đô thị nhỏ

và trung bình; hay khái niệm ĐTH khác biệt, là hiện tượng có nhiều dòng dịch cư vào và đồng thời có nhiều dòng chuyển cư ra khỏi trung tâm đô thị.

Từ những khái niệm về ĐTH nêu trên, tác giả nhận thấy ĐTH có tính chất

24

phức tạp, đa chiều, đa cấp, đa diện. Bản chất của ĐTH là một quá trình KT – XH lịch sử mang tính quy luật, mang tính tất yếu của sự phát triển xã hội. ĐTH là một quá

trình vận động và chuyển hóa phức tạp, nhiều mặt về không gian, về KT – XH và văn

hóa, trong đó diễn ra sự thay đổi về không gian và quy mô đô thị, quy mô dân số, cơ

cấu kinh tế, cơ cấu lao động, cơ cấu sử dụng đất, hệ thống CSHT đô thị và tổ chức quản lý đô thị.

1.2.1.2. Đặc điểm của đô thị hóa - ĐTH là quá trình mang tính xã hội và lịch sử: mỗi nền văn minh, mỗi chế độ

xã hội, mỗi giai đoạn lịch sử đều tạo ra những thành tựu, đều có những phong cách

sống, cách thức làm việc, lao động, nhu cầu hưởng thụ phù hợp, tạo ra một hình thái phân bố dân cư, một cấu trúc chức năng, cảnh quan đô thị thích hợp. Vì vậy, mỗi thời kỳ lịch sử đều có hệ thống đô thị thích ứng. Hệ thống đô thị phản ánh rõ nét trình độ

phát triển của lực lượng sản xuất, KHKT và trình độ tổ chức quản lý của xã hội trong

giai đoạn lịch sử đó [42].

- ĐTH là quá trình gắn liền với quá trình CNH: ĐTH là quá trình chuyển biến

và thay đổi cơ cấu ngành nghề, cơ cấu lao động và các hình thái sản xuất. Các hoạt

động kinh tế chủ yếu trong đô thị là CN và DV, nên quá trình ĐTH diễn ra song hành

với quá trình CNH. Trong thời đại CNH, HĐH sự hình thành, phát triển, phân bố các

ngành CN, khu công nghiệp (KCN) là yếu tố mang tính tiên quyết cho quá trình ĐTH,

đồng thời hệ thống đô thị hình thành và phát triển lại là nơi thu hút, hấp dẫn và đảm

bảo các điều kiện cho hoạt động CN. Hai quá trình ĐTH và CNH có mối quan hệ tác

động qua lại, mật thiết với nhau. Các đô thị hiện đại trên thế giới thường là những

trung tâm CN lớn và hiện đại. Thế kỷ XXI là thế kỷ của văn minh tri thức và sự bùng

nổ của công nghệ thông tin (CNTT), điều này cũng tác động mạnh mẽ đến quá trình

ĐTH, hệ thống đô thị của thế giới đang hoàn thiện theo hướng hiện đại và bền vững

[30]. - ĐTH là quá trình tất yếu và mang tính toàn cầu: ĐTH là một quá trình phát

triển tất yếu của lịch sử phát triển KT – XH. Một khi lực lượng sản xuất phát triển đến một trình độ nhất định, kéo theo những thay đổi về cấu trúc dân cư để phù hợp với sự phân bố của lực lượng sản xuất. ĐTH không chỉ diễn ra trong một vùng, một quốc gia, một khu vực mà là nhu cầu tất yếu của tất cả các quốc gia, các khu vực trên

thế giới. Nhu cầu ĐTH hiện nay đang diễn ra mạnh mẽ ở các nước đang phát triển, các nước phát triển đã ở giai đoạn ổn định và ĐTH đã đi vào chiều sâu [18,28]. - ĐTH là quá trình vận động phức tạp, có quy luật và đan xen các vấn đề KT

25

– XH – Môi trường – Văn hóa và không gian: ĐTH là quá trình vận động, chuyển dịch liên tục và phức tạp về mọi khía cạnh của xã hội, nhưng có tính quy luật, biểu

hiện ở sự gia tăng dân số đô thị, hình thức phân bố dân cư và lối sống đô thị, sự

chuyển đổi nghề nghiệp và cơ cấu kinh tế, sự thay đổi về cấu trúc không gian đô thị

và cảnh quan môi trường [69]. + ĐTH là quá trình chuyển dịch dân số, dân cư liên tục, các đô thị là nơi thu

hút dân cư, mật độ dân cư đông đúc. Có hai hướng chuyển dịch dân cư, đó là hướng

chuyển đổi chỗ ở (từ nông thôn ra thành thị), thứ hai là chuyển dịch nghề nghiệp (từ

NN sang CN, DV), ngoài ra còn có hướng dịch cư tạm thời, dịch cư con thoi [68,89],

các hướng chuyển dịch đó đều là sự chuyển hóa về dân số đô thị tăng lên, hình thức quần cư thay đổi, mật độ dân cư thay đổi.

+ ĐTH là quá trình chuyển dịch liên tục về cơ cấu ngành nghề, cơ cấu lao động

và tính chất lao động xã hội từ NN sang CN, DV, từ lao động chân tay sang lao động

trí óc và khoa học – công nghệ từ đơn giản đến phức tạp, hàm lượng trí tuệ cao, công

nghệ biến đổi nhanh chóng [68]. Quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành nghề làm thay

đổi cơ cấu kinh tế từ nông – lâm – thủy sản (N – L – TS) sang công nghiệp – dịch vụ

(CN – DV). Phát triển và mở rộng đô thị chính là mở rộng phát triển CN, DV và các

lĩnh vực sản xuất có năng suất lao động cao, đem lại thu nhập cao cho người lao động

[47,67].

Hình 1.1. Biểu đồ chuyển dịch lao động theo 3 khu vực kinh tế (theo J. Fourastie,) - [94]) + ĐTH là quá trình làm thay đổi cảnh quan và hệ sinh thái đô thị. Quá trình ĐTH đồng nghĩa với quá trình làm thay đổi môi trường tự nhiên, tùy từng mức độ mà

26

môi trường tự nhiên biến đổi nhiều ít khác nhau. Có những đô thị môi trường tự nhiên bị biến đổi tận gốc, cũng có những đô thị môi trường nhân tạo và môi trường tự nhiên

phát triển hài hòa. Xu thế hiện nay phát triển hệ thống đô thị sinh thái để đảm bảo

chất lượng cuộc sống cho cư dân đô thị hướng đến xây dựng đô thị bền vững [47].

1.2.1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến đô thị hóa a. Vị trí địa lý và phạm vi lãnh thổ

Vị trí địa lý là nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến sự hình thành cũng như quá

trình phát triển đô thị, ở mức độ nhất định còn quyết định đến tính chất của đô thị. Vị

trí tự nhiên, vị trí KT – XH và cả vị trí chính trị thuận lợi, mở cửa là điều kiện lý

tưởng cho một đô thị phát triển. Trên thế giới và Việt Nam các đô thị lớn, có lịch sử lâu đời đều nằm ở những vị trí thuận lợi như ở các đồng bằng châu thổ màu mỡ, bên cạnh các dòng sông lớn, vùng ven biển hoặc ở các đầu mối giao thông quan trọng. Vị

trí địa lý cũng có thể tạo thuận hoặc gây khó khăn cho mối quan hệ giữa đô thị với

các đô thị lân cận, ảnh hưởng đến quá trình phát triển và vận hành đô thị. Sự thuận

lợi hay khó khăn về vị trí địa lý phần nào quyết định đến tốc độ, mức độ cũng như

chất lượng của quá trình ĐTH.

Phạm vi lãnh thổ, các đơn vị hành chính của lãnh thổ, nhất là diện tích của

lãnh thổ liên quan nhiều đến quy mô rộng, hẹp của đô thị. Các lãnh thổ có diện tích,

phạm vi rộng thuận lợi cho việc mở rộng không gian đô thị; lãnh thổ có diện tích,

phạm vi hẹp, việc mở rộng không gian bị hạn chế và trong chừng mực nhất định còn

chi phối cả kiến trúc đô thị.

b. Điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên

Điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên là những tiền đề cần thiết cho

quá trình ĐTH. Ở những nơi thuận lợi về điều kiện tự nhiên, mạng lưới đô thị phát

triển mạnh, tốc độ ĐTH nhanh. Các điều kiện như nền địa chất, các dạng địa hình,

quyết định đến quy mô đô thị, hình thái và cảnh quan đô thị. Quy mô diện tích lãnh thổ, chất lượng đất đai quyết định đến khả năng mở rộng đô thị và phân bố không

gian của đô thị. Tài nguyên khoáng sản và sự phân bố các mỏ khoáng sản trong vùng cũng quyết định đến sự ra đời của ngành kinh tế và chức năng của đô thị. Điều kiện khí hậu vừa ảnh hưởng đến cảnh quan, kiến trúc vừa ảnh hưởng đến sự mở rộng quy mô đô thị.

c. Nhân tố kinh tế - xã hội - Lịch sử phát triển đô thị: Nhân tố lịch sử phát triển đô thị có ảnh hưởng lớn đến quá trình ĐTH của bất cứ đô thị nào. Bề dày lịch sử của lãnh thổ gắn liền với lịch

27

sử hình thành đô thị, tạo nên tính đặc trưng của đô thị đó, thể hiện mối quan hệ của đô thị với các lãnh thổ và đô thị lân cận. Nhân tố lịch sử có thể thúc đẩy nhanh quá

trình ĐTH và sự hình thành đô thị, cũng có thể kéo dài hoặc làm chậm lại quá trình

ĐTH của đô thị. Những biến động trong lịch sử đô thị có ảnh hưởng lớn đến sự thay

đổi về quy mô dân số, quy mô về diện tích đất và những thay đổi về KT – XH của đô thị. Lịch sử đô thị gắn liền với lịch sử phát triển vùng đất của dân tộc, phân tích lịch

sử phát triển đô thị cũng góp phần hiểu rõ quá trình hình thành và phát triển KT - XH

vùng đất đó của lãnh thổ và dân tộc.

- Dân cư và lao động: ĐTH gắn với sự gia tăng dân số đô thị, thể hiện ở quá

trình gia tăng tự nhiên (tỉ lệ sinh, tử), gia tăng cơ giới đều tác động mạnh mẽ đến tốc độ tăng quy mô dân số trong các đô thị và từ đó tác động đến mức độ ĐTH. Sự phát triển mạnh mẽ của KHKT và nền kinh tế tri thức đã làm thay đổi căn bản mục tiêu

phát triển của các quốc gia trên thế giới, lao động trong khu vực NN giảm nhanh,

trong các khu vực CN, công nghệ cao (CNC), DV, du lịch ngày càng tăng, trình độ

chuyên môn, nghiệp vụ, tay nghề của người lao động ngày càng cao, phản ánh chất

lượng ĐTH và trình độ KT – XH của các quốc gia.

- Trình độ phát triển kinh tế: tốc độ phát triển kinh tế, quy mô nền kinh tế, cơ

cấu kinh tế là những nhân tố quyết định đến tốc độ ĐTH. Khi trình độ phát triển kinh

tế đồng bộ với sự phát triển của CSHT là điều kiện thu hút đầu tư trực tiếp, số dự án,

số vốn, tác động mạnh đến phát triển ngành CN, DV, từ đó thúc đẩy sự tập trung dân

cư đô thị và chuyển dịch cơ cấu lao động đô thị, do vậy ĐTH diễn ra nhanh hơn.

Trong trình độ phát triển kinh tế, CNH là nhân tố tác động mạnh mẽ đến ĐTH, thông

qua tăng giá trị sản xuất CN cũng như tăng tỉ trọng ngành CN trong cơ cấu GDP, từ

đó thúc đẩy ngành thương mại, và các loại hình DV khác phát triển. Ở các nước phát

triển, CNH với những tiến bộ về KHKT là tiền đề và nhân tố thúc đẩy ĐTH, nên các

đô thị thường có quy mô lớn, hiện đại. Trình độ CNH thể hiện rõ trình độ ĐTH thông qua cấu trúc không gian và sự phân bố các phân khu chức năng trong đô thị.

- Khoa học công nghệ (KHCN): tác động trực tiếp vào quá trình ĐTH, động lực thúc đẩy ĐTH. Cuộc cách mạng CN lần thứ tư (4.0), chương trình chuyển đổi số (CĐS), tác động sâu sắc đến hình thái, mục tiêu, hướng phát triển các đô thị theo hướng thông minh, sáng tạo, đổi mới hoạt động quản lý, điều hành đô thị. KHCN tạo

nền tảng thúc đẩy phát triển các ngành, các lĩnh vực mới, phát triển môi trường nhân văn, môi trường xã hội số trong đô thị

- Bối cảnh Toàn cầu hóa: toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế có vai trò thúc đẩy

28

ĐTH nhanh và mạnh hơn. Toàn cầu hóa tạo điều kiện cho sự giao lưu, hợp tác giữa các quốc gia trên thế giới về mọi mặt như KT, XH, văn hóa, KHKT và công nghệ,

tạo động lực cho sự phát triển kinh tế ở mỗi quốc gia. Hiện nay, toàn cầu hóa với sự

lưu thông xuyên quốc gia về dòng vốn, dòng lao động, dòng hàng hóa tạo nên sự cạnh

tranh không chỉ giữa các quốc gia mà còn là sự cạnh tranh giữa các đô thị, những trung tâm thương mại, DV, CN của thế giới. Bên cạnh sự cạnh tranh, các đô thị ở các

quốc gia còn có mối liên hệ chặt chẽ về kinh tế trong bối cảnh tự do thương mại thông

qua các nguồn vốn đầu tư. Như vậy, hội nhập kinh tế quốc tế không chỉ tạo cơ hội

thu hút đầu tư, hợp tác phát triển kinh kinh tế, mà còn tạo điều kiện để nâng cao chất

lượng đô thị như hiện đại hóa CSHT, cơ sở vật chất kỹ thuật (CSVCKT) cho đô thị, mở rộng không gian, kiến tạo cấu trúc và cảnh quan đô thị.

- Các nguồn vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài (FDI): xu thế toàn cầu hóa

hiện nay vừa thúc đẩy hợp tác phát triển và cạnh tranh để phát triển; động thời mở

rộng cơ hội hợp tác đầu tư. Quá trình ĐTH là quá trình thúc đẩy và mở rộng các

nguồn vốn FDI. Các nước đang phát triển cần sự tác động mạnh mẽ từ nguồn vốn

FDI cho quá trình ĐTH và thúc đẩy phát triển KT – XH. Các nước này, nếu chỉ dựa

vào nguồn vốn trong nước, sẽ hạn chế lớn trong việc đầu tư cho KHKT, CSVCKT và

ngay cả CSHT. Nguồn vốn FDI giúp các quốc gia đang phát triển tránh khỏi tụt hậu,

đổi mới công nghệ, kỹ thuật, tăng năng suất lao động, tạo việc làm và nâng cao thu

nhập, tăng tích lũy, góp phần thúc đẩy ĐTH.

- Các thể chế và chính sách: đường lối và những chính sách phát triển KT –

XH của mỗi quốc gia là nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến ĐTH. Chiến lược xây dựng

và phát triển các đô thị luôn gắn liền với chiến lược phát triển KT – XH của quốc gia

và từng địa phương, vì sự phát triển KT – XH chi phối trực tiếp chức năng và tính

chất của đô thị. Bên cạnh đó, hệ thống chính sách của nhà nước sẽ tác động đến ĐTH

theo nhiều khía cạnh khác nhau, hoặc là tác động trực tiếp hoặc là gián tiếp. Hệ thống chính sách bao gồm: chính sách CNH, chính sách về nhà ở, chính sách đất đai, chính

sách đầu tư, chính sách ĐTH,... Ngoài ra, trình độ quản lý nhà nước về đô thị cũng có thể trở thành nhân tố quan trọng thúc đẩy hoặc kìm hãm quá trình ĐTH.

1.2.1.4. Các tiêu chí đánh giá đô thị hóa Từ việc nghiên cứu các tài liệu về đánh giá ĐTH như Nghị định 42/2009/NĐ

– CP của nước ta, đánh giá ĐTH dựa trên 18 tiêu chí chia thành 6 nhóm là: chức năng đô thị, quy mô dân số, tỉ lệ lao động phi NN, mật độ dân số, CSHT và kiến trúc, cảnh quan đô thị. Các nghiên cứu của một số tác giả Nguyễn Hữu Đoàn, đưa ra 32 tiêu chí

29

chia thành 4 nhóm: KT – XH đô thị, CSHT xã hội, CSHT kỹ thuật và quản lý đô thị để đánh giá ĐTH cho TP Hà Nội; tác giả Vũ Thị Chuyên, sử dụng 38 tiêu chí chia

thành 5 nhóm: chức năng đô thị, KT – XH đô thị, CSHT đô thị, kiến trúc cảnh quan

và quản lý đô thị, cấu trúc không gian đô thị để đánh giá ĐTH ở TP Hải Phòng và

một số nghiên cứu khác. Đồng thời căn cứ vào thực tế ĐTH ở TP Đà Nẵng, tác giả đã lựa chọn các tiêu chí đánh giá ĐTH bao gồm:

a. Chức năng đô thị

Nhóm chức năng đô thị bao gồm hai tiêu chí: (1) Vị thế của đô thị trong hệ

thống đô thị quốc gia, là sự xác định vai trò, vị trí và tầm quan trọng của đô thị trong

hệ thống đô thị của khu vực, quốc gia và đối với cả nền KT – XH của khu vực và quốc gia. Vị thế đô thị được thể hiện trong quy hoạch tổng thể xây dựng và phát triển hệ thống đô thị quốc gia; (2) Tính chất của đô thị, là sự xác định đô thị là trung tâm

tổng hợp (chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, khoa học, giáo dục,…) hay đô thị là trung

tâm chuyên ngành (CN, cảng biển, du lịch, thể thao, KHKT,…), đó là các ngành nổi

trội đóng vai trò quyết định tính chất của đô thị.

b. Dân số đô thị

Nhóm tiêu chí dân số đô thị bao gồm: quy mô dân số, gia tăng dân số, lao động

đô thị.

Quy mô dân số đô thị, là tổng số dân cư thường trú và tạm trú trong thời gian

từ 6 tháng trở lên trong khu vực đô thị. Quy mô dân số đô thị còn được thể hiện bằng

tỉ lệ dân thành thị trên tổng số dân số của lãnh thổ đô thị đó.

Gia tăng dân số đô thị, là mức độ gia tăng tỉ lệ dân số đô thị cho từng năm

hoặc trung bình của một giai đoạn 5 năm, 10 năm. Gia tăng dân số đô thị được biểu

hiện ở tỉ lệ gia tăng tự nhiên và tỉ lệ gia tăng cơ học.

Lao động đô thị, là tổng số lao động trong đô thị và tỉ lệ lao động phi NN của

đô thị so với tổng lao động trong các ngành kinh tế ở cùng thời điểm. Sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế đô thị, chủ yếu là các ngành phi NN dẫn đến tỉ lệ lao động phi

NN tăng cao và chiếm tỷ trọng lớn trong tổng lao động, điều này cũng liên quan đến các dòng nhập cư vào đô thị. c. Kinh tế đô thị Nhóm tiêu chí kinh tế đô thị gồm tiêu chí: quy mô GRDP và cơ cấu các ngành

kinh tế đô thị.

Quy mô GRDP là tổng sản phẩm trên địa bàn (một tỉnh hay thành phố trực thuộc trung ương). GRDP là chỉ tiêu kinh tế tổng hợp phản ánh giá trị mới tăng thêm

30

của hàng hóa và dịch vụ được tạo ra trên địa bàn trong một thời gian nhất định (6 tháng hay một năm), là chỉ tiêu đánh giá đúng đắn nhất sự phát triển kinh tế của TP

theo thời gian và so sánh quốc tế.

Cơ cấu ngành kinh tế đô thị, là sự tương quan giữa các ngành trong tổng thể

nền kinh tế đô thị, cơ cấu ngành kinh tế đô thị luôn chuyển dịch làm thay đổi vị trí, tỉ trọng của các ngành để phù hợp với sự phát triển ngày càng cao của lực lượng sản

xuất và phân công lao động xã hội. Hướng chuyển dịch phổ biến ở đô thị là giảm tỉ

trọng các ngành Nông – Lâm – Thủy sản (N – L – TS) (nhóm I), tăng nhanh tỉ trọng

nhóm ngành CN – XD (nhóm II) và DV (nhóm III), tùy vào các nguồn lực và thế

mạnh của các đô thị mà tỉ trọng của nhóm II hay nhóm III tăng nhanh hơn. Cơ cấu ngành kinh tế đô thị có ý nghĩa quan trọng đánh giá lợi thế và khả năng khai thác có hiệu quả các nguồn lực của đô thị cho sự phát triển.

d. Cơ sở hạ tầng đô thị

Nhóm CSHT phản ánh cơ sở vật chất nền tảng của đô thị, bao gồm nhiều tiêu

chí về hạ tầng xã hội, hạ tầng kỹ thuật. Trong phạm vi nghiên cứu, tác giả chọn các

tiêu chí sau đây:

- Giao thông đô thị được đánh giá qua số lượng và chất lượng các loại hình

giao thông, mật độ giao thông và các đầu mối giao thông quan trọng;

- Cấp nước đô thị được đánh giá bởi hệ thống mạng lưới cung cấp nước sạch

và số hộ dân đô thị được sử dụng nước sạch, tiêu chuẩn nước sinh hoạt của dân cư đô

thị;

- Cung cấp điện và chiếu sáng đô thị, được đánh giá qua mức độ cung cấp và

sự ổn định của điện sinh hoạt;

- Thông tin liên lạc và bưu chính viễn thông được tính bằng tỉ lệ dân sử dụng

các phương tiện truyền thông như số máy điện thoại cố định và di động, sử dụng

mạng wifi;

đ. Mở rộng không gian đô thị

Nhóm tiêu chí về mở rộng không gian đô thị được đánh giá trên 2 tiêu chí: - Một là hệ thống đô thị được mở rộng theo không gian về diện tích đô thị và chất lượng, mức độ hiện đại của đô thị; sự mở rộng về không gian đô thị thường trải qua các giai đoạn: giai đoạn đầu ĐTH thường là tăng diện tích đô thị, giai đoạn sau

đi vào chiều sâu chất lượng;

- Hai là phân khu chức năng đô thị: các khu chức năng đô thị được phân chia dựa trên yêu cầu về tập trung hóa chức năng kinh tế (khu CN, khu thương mại, DV,

31

khu du lịch, khu NN sinh thái), tập trung hóa các chức năng xã hội của đô thị (khu văn hóa, giáo dục, thể thao, khu trung tâm hành chính,…) các khu chức năng được

phân chia hợp lý và kết hợp với nhau sẽ thúc đẩy sự phát triển KT – XH đô thị.

Như vậy, hệ thống tiêu chí được dùng để đánh giá ĐTH ở TP Đà Nẵng bao

gồm 15 tiêu chí thuộc 5 nhóm: chức năng đô thị, dân số đô thị, kinh tế đô thị, cơ sở hạ tầng đô thị và sự mở rộng không gian đô thị.

1.2.2. Tác động của đô thị hóa đến phát triển kinh tế - xã hội

1.2.2.1. Tác động đến kinh tế a. Những tác động tích cực

- Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế Tác động của ĐTH đến tăng trưởng kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế đã được chứng minh trong các công trình nghiên cứu của Michael Timberlake trong “Đô

thị hóa trong nền kinh tế thế giới” [106], Nhiêu Hội Lâm trong “Kinh tế học đô thị”

[48], “Đô thị hóa và tăng trưởng” của Ngân hàng thế giới [54]. Các công trình đã

khẳng định là nếu quản lý tốt, ĐTH sẽ góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và

chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tích cực cho phát triển đất nước. Sự thúc đẩy

tăng trưởng kinh tế của ĐTH chủ yếu do tăng năng suất lao động, hiệu ứng tập trung,

thị trường lao động có quy mô lớn hơn và hoạt động hiệu quả hơn, chi phí giao dịch

thấp hơn và tri thức được ứng dụng nhiều hơn;

Quá trình ĐTH liên quan đến quá trình chuyển đổi cơ cấu nền kinh tế, ngành

kinh tế; tính chất và các hoạt động kinh tế có vai trò điều chỉnh và dẫn dắt quá trình

ĐTH. Nhìn chung các đô thị trên thế giới đều có xu hướng chuyển dịch từ NN sang

CN và DV. Xu hướng này xuất phát từ những điều kiện của hoạt động kinh tế, hoạt

động NN trong đô thị bị hạn chế bởi các nguồn tài nguyên thiên nhiên không đáp ứng

nhu cầu tại chỗ của NN, trong khi đó các ngành CN, DV lại có nhiều điều kiện thuận

lợi về CSHT, CSVCKT, lao động, KHKT, sự thích ứng, nhu cầu thị trường, hiệu quả kinh tế mang lại. Trong từng ngành cũng có sự thay đổi theo từng giai đoạn của ĐTH

để phù hợp với các nguồn lực như tài nguyên, lực lượng lao động, CSVCKT của lãnh thổ; ĐTH ở nước ta cũng gắn liền với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, tăng tỉ trọng khu vực CN – XD và DV, giảm tỉ trọng khu vực N – L – TS, tập trung nhiều cơ sở CN và DV đa dạng.

- Phát triển kết cấu hạ tầng hiện đại, đồng bộ Các đô thị dù lớn nhỏ của một quốc gia hay khu vực đều xây dựng và phát triển được hệ thống CSHT tốt hơn, đồng bộ và hiện đại hơn các vùng nông thôn của quốc

32

gia, khu vực đó. CSHT là tổng hợp các công trình vật chất kỹ thuật có chức năng phục vụ trực tiếp cho sự phát triển kinh tế và đời sống người dân, nó được bố trí trên

một phạm vi nhất định. Các công trình CSHT và CSVCKT rất đa dạng, bao gồm hệ

thống giao thông vận tải, điện, nước, nhà ở, bệnh viện, trường học, nhà hát, bưu chính

viễn thông và các công trình phục vụ cộng đồng. Những công trình này có vị trí hết sức quan trọng phục vụ trực tiếp hoặc gián tiếp cho hoạt động KT – XH. Chính vì

vậy, giai đoạn đầu tiên của quá trình ĐTH là tạo ra hệ thống CSHT cho đô thị, đây

được coi là vỏ vật chất của đô thị, là nền tảng để đô thị vận động và phát triển trên

mọi lĩnh vực. Hệ thống CSHT đồng bộ, hiện đại là nền tảng vật chất đẩy nhanh tăng

trưởng kinh tế, nâng cao hiệu suất, hiệu quả của nền kinh tế, giải quyết các vấn đề xã hội.

Thực tế trên thế giới hiện nay, ở các nước phát triển, hầu hết hệ thống đô thị đều

có hệ thống CSHT đồng bộ và hiện đại, trong khi đó ở các nước đang phát triển, kết

cấu CSHT của hệ thống đô thị còn nhiều hạn chế, chưa đồng bộ hoặc chưa đủ chuẩn,

chính vì vậy việc ưu tiên đầu tư xây dựng, cải tạo, nâng cấp hệ thống CSHT đạt chuẩn

được các nước đang phát triển đặc biệt ưu tiên trong quá trình ĐTH. Quá trình ĐTH

ở Việt Nam, với quan điểm “CSHT phải đi trước một bước” và được ví như “hệ

thống huyết mạch nuôi sống cơ thể đô thị”, nên mức đầu tư cho phát triển CSHT đô

thị chiếm trên 10% GDP hàng năm. Đến nay, các đô thị lớn ở Việt Nam đã có hệ

thống CSHT tương đối đồng bộ và hiện đại.

- Đẩy mạnh thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nước

Các đô thị là nơi có hoạt động KT – XH phát triển mạnh hơn các vùng nông

thôn, đặc biệt là các lĩnh vực CN, DV, văn hóa, y tế, giáo dục, thể thao và cả hoạt

động kinh doanh bất động sản. Vì vậy, khu vực đô thị là nơi thu hút được nhiều nguồn

vốn đầu tư, đặc biệt là nguồn vốn đầu tư FDI. Đây là động lực chính cho sự phát triển

kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế của một đô thị nói riêng và quốc gia nói chung, nhất là đối với ĐTH của các nước đang phát triển như Việt Nam. ĐTH đã tác động

mạnh mẽ đến thu hút đầu tư, các nhà đầu tư trong và ngoài nước sẵn sàng huy động vốn đầu tư mở rộng sản xuất, cải thiện CSHT của đô thị, các KCN, khu chế xuất nâng cao hiệu quả phát triển kinh tế đô thị và nền kinh tế quốc gia.

- Tạo ra thị trường tiêu thụ rộng lớn

Thị trường hình thành và tồn tại gắn liền với sự phát triển của nền sản xuất hàng hóa. Sản xuất hàng hóa chính là kiểu tổ chức kinh tế, trong đó sản phẩm được sản xuất ra để bán, để trao đổi, vì vậy thị trường là yếu tố sống còn đối với hoạt động sản

33

xuất và tiêu thụ sản phẩm. Mục đích của nhà sản xuất kinh doanh là bán được sản phẩm và thu lợi nhuận. Nền sản xuất càng phát triển, sản phẩm làm ra càng nhiều thì

việc bán sản phẩm càng khó khăn hơn nên rất cần thiết phải mở rộng thị trường. Thị

trường được hình thành và mở rộng dựa trên 3 yếu tố: một là, có khách hàng và lượng

khách hàng càng đông thì càng có lợi; hai là, khách hàng có nhu cầu cần thỏa mãn và nhu cầu ngày càng nhiều, càng cao thì càng có lợi; ba là, khách hàng phải có khả năng

thanh toán. Đô thị là nơi có nền sản xuất hàng hóa phát triển mạnh, khối lượng hàng

hóa ngày càng tăng lên do sự phát triển và tăng trưởng kinh tế. Đô thị cũng là nơi dân

cư tập trung đông đúc từ vài trăm ngàn dân đến hàng triệu và hàng chục triệu, bản

thân đô thị là một thị trường rộng lớn đáp ứng 3 yếu tố của thị trường là số dân đông nên lượng khách hàng rất lớn; đời sống dân cư đô thị cao nên nhu cầu khách hàng rất lớn; thu nhập của người dân đô thị cũng cao nên khả năng thanh toán cao. Điều này

cho thấy ĐTH là nơi tạo ra thị trường tiêu thụ rộng lớn, kích thích sản xuất phát triển.

b. Những tác động tiêu cực

- ĐTH ở chừng mực nhất định đã tạo nên sự chênh lệch trong phát triển kinh

tế giữa thành thị và nông thôn

Quá trình ĐTH phát triển nhanh và ngày càng mở rộng, đồng nghĩa diện tích

đất NN càng thu hẹp, vì đất đô thị được lấy chủ yếu từ đất NN. Ở Việt Nam, diện tích

đất đô thị năm 2010 là 1.429.000 ha, đến năm 2020 diện tích đất đô thị tăng lên

3.500.000 ha [113]. Một số đô thị mở rộng diện tích sang khu vực nông thôn, nhưng

quy hoạch đất chưa hợp lý, sử dụng đất kém hiệu quả sẽ gây lãng phí nguồn tài nguyên

đất, thu hẹp diện tích đất sản xuất NN, sâu xa sẽ ảnh hưởng tới an ninh lương thực

quốc gia. Hoạt động kinh tế ở nông thôn cũng kém đa dạng hơn, sự đầu tư về khoa

học kỹ thuật, công nghệ, vật tư cho sản xuất NN còn hạn chế hơn khu vực đô thị, số

lao động có trình độ tập trung chủ yếu ở khu vực đô thị, đó là những nguyên nhân tạo

nên năng suất lao động ở khu vực nông thôn thấp; tỉ lệ đóng góp của khu vực nông thôn vào GDP của quốc gia thấp hơn so với khu vực đô thị, tạo nên sự chênh lệch

trong phát triển kinh tế giữa hai khu vực nông thôn và thành thị.

- Kết cấu hạ tầng đô thị quá tải

ĐTH phát triển mạnh, mật độ giao thông dày đặc, mật độ các công trình sản xuất, dịch vụ, nhà ở, các công trình công cộng ngày càng dày đặc hơn, hệ thống các

tòa cao ốc ngày càng nhiều, các thành phố thiếu quy hoạch hợp lý, thiếu hệ thống sẽ dẫn đến đè nặng, phá vỡ cấu trúc kết cấu hạ tầng. Hiện tượng kết cấu hạ tầng đô thị

34

quá tải sẽ gây những ảnh hưởng tiêu cực đến phát triển KT – XH, đặc biệt là ảnh hưởng đến môi trường và đời sống người dân.

1.2.2.2. Tác động đến xã hội a. Những tác động tích cực

- ĐTH làm thay đổi phân bố dân cư và lao động: ĐTH phát triển, không gian đô thị mở rộng, CSHT đồng bộ và hiện đại hơn. Kinh tế chuyển đổi, môi trường xã

hội cũng thay đổi theo hướng văn minh hơn, đã thu hút lực lượng lớn lao động trong

các ngành nghề. Những người tìm việc làm, tri thức, học sinh, sinh viên và cả những

người có điều kiện kinh tế, tài chính có xu hướng nhập cư vào đô thị làm thay đổi về

số lượng dân cư, phân bố dân cư và lao động. Tỉ lệ lao động trong các ngành phi NN, lao động có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ tăng lên. Phân bố dân cư với mật độ cao, tạo thuận lợi cho kinh tế đô thị phát triển.

- ĐTH góp phần tạo việc làm và thu nhập cho người lao động: cơ cấu ngành

nghề trong đô thị rất đa dạng, đặc biệt là nhóm ngành dịch vụ, tạo ra việc làm và sinh

kế cho người lao động. Trong năm 2020 mặc dù do bị ảnh hưởng của dịch bệnh Covid

- 19, nhưng các đô thị của nước ta đã giải quyết việc làm cho 1,34 triệu lao động (báo

Lao động ra ngày 23/1/2020) và nâng cao thu nhập cho người dân.

- Đảm bảo các dịch vụ cho đời sống người dân: ĐTH phát triển, CSHT và

CSVCKT của đô thị được đồng bộ và hiện đại hóa, nên các điều kiện dịch vụ y tế,

sức khỏe, giáo dục tốt hơn, chất lượng dịch vụ cao hơn các khu vực nông thôn.

- ĐTH phổ biến lối sống đô thị, văn minh, hiện đại: văn hóa và lối sống đô thị

thể hiện sự tiến bộ của văn minh CN, dân cư đô thị dễ dàng thay đổi nơi ở và nơi làm

việc do tính chất của sản xuất CN. Nhu cầu giao tiếp cao, đa dạng và phức tạp, nhu

cầu văn hóa, giáo dục, thể thao cao và ngày càng tăng. Người dân có điều kiện để

nâng cao trình độ, phát huy năng lực sáng tạo và phát triển toàn diện. Lối sống đô thị

phụ thuộc chủ yếu vào các dịch vụ công cộng và yêu cầu của người dân về các dịch vụ này càng cao. Dân cư đô thị thường sử dụng thời gian tự do vào các nhu cầu học

tập, vui chơi, giải trí, luyện tập thể thao,…một cách có hiệu quả để phát triển bản thân.

b. Những tác động tiêu cực - Giảm tỉ lệ lao động nông thôn: Dân số ở các đô thị tăng nhanh, dân tăng chủ

yếu là những người trẻ tuổi, có sức khỏe, có sức lao động ở các vùng nông thôn di cư ra thành phố để ở, để tìm kiếm việc làm, để kinh doanh,…Từ đó dẫn đến tỉ lệ lao động ở nông thôn giảm, thiếu hụt, làm cho các hoạt động sản xuất NN bị đình đốn,

35

tình trạng bỏ ruộng hoang ở các vùng nông thôn gia tăng, ở nước ta rõ rệt nhất là vùng đồng bằng sông Hồng, Duyên hải miền Trung, Đông Nam Bộ.

- Gây sức ép vấn đề việc làm/thất nghiệp và các vấn đề xã hội: ĐTH cũng tạo

nên những sức ép về việc làm, tình trạng thất nghiệp, về nhà ở, y tế, giáo dục. Làn

sóng di dân từ nông thôn ra thành thị ở các nước vẫn diễn ra, nhiều khu vực với mức độ ngày càng tăng. Nước ta, mỗi năm có khoảng 1 triệu dân di cư đến các TP, nhất là

TP Hồ Chí Minh và Hà Nội (2 TP này có tới 1/3 dân di cư từ nông thôn tới) [130],

làm cho dân số đô thị tăng nhanh đột biến. Trong khi đó, kết cấu hạ tầng, đất đai, nhà

ở, dịch vụ phúc lợi chưa đáp ứng đầy đủ với số lượng dân tăng nhanh. Do đó, tạo nên

sức ép quá tải ngày càng lớn và phát sinh một loạt các vấn đề xã hội như: mất cân đối về mật độ dân cư và số dân giữa thành thị và nông thôn. Đồng thời các vấn đề nan giải về giải quyết việc làm, thất nghiệp tại chỗ, tắc nghẽn giao thông đô thị, sức ép

đối với việc đảm bảo y tế, giáo dục, đào tạo nghề, nâng cao đời sống vật chất và tinh

thần cho người dân ở các đô thị lớn như TP Hồ Chí Minh, Hà Nội, Hải Phòng, Cần

Thơ,…ngày càng gay gắt hơn.

- Tạo nên sự phân hóa giàu nghèo: khoảng cách về mức sống và các điều kiện

sống của dân cư khu vực đô thị và nông thôn ngày càng chênh lệch, tạo nên sự phân

hóa giàu nghèo giữa thành thị và nông thôn. Ngay trong khu vực thành thị cũng có

sự phân hóa rõ rệt giữa nhóm dân cư có thu nhập cao và nhóm thu nhập thấp. Ở nhiều

nước trên thế giới, bên cạnh những khu đô thị hiện đại, nguy nga vẫn còn nhiều khu

nhà “ổ chuột”. Cuộc sống của người dân trong các khu này tồn tại trong bóng tối của

đói nghèo, lạc lõng trong sự phát triển của xã hội bên ngoài. Điển hình các khu ổ

chuột nằm bên những tòa nhà đồ sộ, lộng lẫy của các TP như Mexico city, Mumbai,

Sao Paulo, Cairo, Băng Cốc… Ở Việt Nam, theo thống kê của UNFPA, còn 25% dân

cư thành thị không đủ tiền để mua nhà ở, 20% nhà ở thành thị xếp vào loại không đạt

tiêu chuẩn, 30% dân số TP Hà Nội sống trong môi trường chật hẹp, với diện tích ở không quá 3m2/người [132]; Các tệ nạn xã hội như trộm cắp, cướp giật gia tăng ở các đô thị, an ninh chưa đảm bảo, làm cho môi trường xã hội của đô thị phức tạp.

- Ảnh hưởng đến lối sống và văn hóa ứng xử: Cùng với ĐTH, môi trường sống thay đổi đã tạo ra lối sống pha trộn giữa hành vi văn hóa ứng xử và giao tiếp của lối sống truyền thống NN cũ với những yếu tố văn hóa mới. Từ đó tạo ra mâu thuẫn giữa

nhịp sống nhanh, tính nề nếp, trật tự, đúng giờ của đô thị đối lập với lối sống chậm, tĩnh tại, vô tổ chức, làm ăn tản mạn, ngại thay đổi và tiếp cận cái mới của nông thôn. Đồng thời cũng tạo ra những đối nghịch giữa những con đường khang trang ở khu đô

36

thị mới và những khu nhà chen chúc;

Văn hóa ứng xử: vẫn có sự pha trộn giữa văn hóa của đô thị hiện đại với quan

hệ huyết thống, họ hàng ở nông thôn, văn hóa làng xã vẫn được mang vào công sở.

1.2.2.3. Các tiêu chí đánh giá tác động của ĐTH đến phát triển KT-XH Trên cơ sở kế thừa những lý luận và thực tiễn về tác động của ĐTH đến KT – XH của các công trình nghiên cứu trước như nhóm tác giả của Ngân hàng thế giới

[54], của Nhiêu Hội Lâm [48], của Phạm Đỗ Văn Trung [78], đồng thời dựa trên

những đặc trưng về ĐTH của TP Đà Nẵng, tác giả đã lựa chọn một số tiêu chí để

đánh giá tác động của ĐTH đến sự phát triển KT – XH của TP Đà Nẵng như sau:

a. Tác động của ĐTH đến kinh tế - Tốc độ tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế: ĐTH phù hợp sẽ có tác động tích cực đến phát triển kinh tế, đẩy nhanh tốc độ và quy mô kinh tế đô thị. Chỉ

số để đo lường sự tăng trưởng kinh tế đô thị được tính bằng cách: lấy chênh lệch giữa

quy mô kinh tế kỳ hiện tại so với quy mô kinh tế kỳ trước chia cho quy mô kinh tế

kỳ trước; ĐTH tác động mạnh tới sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo ngành, do sự

tăng nhanh của các hoạt động kinh tế phi NN. Sự tác động này thể hiện mối tương

quan nghịch giữa gia tăng dân số, gia tăng kinh tế khu vực đô thị và giảm dân số và

hoạt động kinh tế ở khu vực nông thôn.

- Phát triển các ngành kinh tế trụ cột của đô thị: Đà Nẵng là thành phố biển

có nhiều tiềm năng về tự nhiên và có nguồn lực về con người, tạo cho TP thế mạnh

phát triển các ngành kinh tế gắn với biển như CN – CNC, cảng biển và kinh tế biển;

DV du lịch.

+ Tác động của ĐTH đến xây dựng CSHT, tạo cảnh quan cho hoạt động du

lịch và quy hoạch các khu du lịch;

+ Tác động của ĐTH đến quy hoạch phát triển các cảng biển và chuyển đổi

chức năng các cảng phù hợp với chức năng đô thị cảng biển;

+ Tác động của ĐTH đến sự chuyển dịch cơ cấu các ngành CN và quy hoạch

các KCN tập trung, trung tâm CNC của đô thị.

- Phát triển kết cấu hạ tầng giao thông: tiêu chí này, tập trung phân tích việc quy hoạch các đầu mối giao thông quan trọng của đường bộ, đường hàng không, đường thủy, đường sắt của đô thị Đà Nẵng; xây dựng hệ thống giao thông kết nối

giữa TP Đà Nẵng với các tỉnh thành trong vùng và trong khu vực.

b. Tác động của đô thị hóa đến xã hội

37

- Lao động/việc làm: ĐTH tác động tới việc nâng cao chất lượng của lực lượng lao động thông qua việc thu hút lực lượng lao động có trình độ và đào tạo, bồi dưỡng

nâng cao trình độ cho người lao động; ĐTH tạo điều kiện thuận lợi để các ngành nghề

phát triển đa dạng, nhất là DV, tạo nhiều việc làm cho cư dân và người lao động trong

đô thị.

- Tăng trưởng GRDP bình quân đầu người: tốc độ ĐTH nhanh, chất lượng

cao, tạo điều kiện thuận lợi cho chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động, góp

phần tăng trưởng GRDP của đô thị (GRDP của các khu vực đô thị thường lớn hơn

khu vực nông thôn), nhất là các đô thị lớn, đây là điều kiện cơ bản để tăng trưởng

GRDP bình quân đầu người của cư dân đô thị.

- Tác động của ĐTH đến đời sống của người dân: Tiêu chí này thể hiện rõ nhất ở mức thu nhập của người dân và các điều kiện sống như nhà ở, y tế, văn hóa và

giáo dục mà người dân được thụ hưởng do tác động của ĐTH.

1.3. CƠ SỞ THỰC TIỄN VỀ ĐÔ THỊ HÓA

1.3.1. Thực tiễn đô thị hóa ở Việt Nam giai đoạn 2003 - 2020 - Việt Nam có lịch sử lâu đời, giàu truyền thống đấu tranh dựng nước và giữ

nước. Quá trình ĐTH ở nước ta đã phát triển từ rất sớm. Từ thế kỷ thứ III - Trước

Công nguyên, thành Cổ Loa đã được xem là đô thị đầu tiên của nước ta và cũng từ

đó quá trình ĐTH chuyển biến theo từng giai đoạn của lịch sử dân tộc và lịch sử phát

triển KT – XH đất nước. Trải qua các thời kỳ phong kiến, thời thuộc Pháp, thời chiến

tranh chia cắt hai miền Nam - Bắc, quá trình ĐTH vẫn diễn ra, nhưng không rõ nét,

chậm chạp, chức năng đô thị chủ yếu mang tính chất hành chính, chính trị, sức sản

xuất kém, vì vậy về kinh tế đô thị không phát triển mạnh, không khác biệt nhiều so

với nông thôn [3].

- Giai đoạn 1975 - 1990, do các nguyên nhân như đất nước mới qua chiến

tranh, kinh tế chưa phục hồi, hậu quả của chiến tranh còn nặng nề, cơ chế quản lý quan liêu bao cấp còn tồn tại dẫn đến cuộc khủng hoảng kinh tế nặng nề, kéo dài nên

quá trình ĐTH diễn ra rất chậm. Đến đầu những năm 1990 có khoảng 500 đô thị với tỷ lệ dân thành thị khoảng 17-18% [129]. - Từ năm 2003 đến nay, nền kinh tế nước ta sau hơn 30 năm đổi mới đã đạt nhiều thành tự quan trọng, trong đó ĐTH nước ta thực sự đã có nhiều chuyển biến, tỉ

lệ ĐTH tăng khá nhanh, chuyển biến cả về số lượng và chất lượng. Theo Cục phát triển đô thị, năm 2010 cả nước có 755 đô thị (gồm 2 đô thị đặc biệt, 10 đô thị loại I, 12 đô thị loại II, 47 đô thị loại III, 50 đô thị loại IV và 634 thị trấn và đô thị loại V),

38

tỉ lệ đô thị hóa tăng lên 30,5%. Đến 2020, số lượng đô thị tăng lên 862 (gồm 2 đô thị đặc biệt, 22 đô thị loại I, 31 đô thị loại II, 48 đô thị loại III, 90 đô thị loại IV, 642 thị

trấn và đô thị loại V). Số dân thành thị và tỉ lệ dân thành thị tăng lên.

Triệu người

%

Năm

Hình 1.2. Biểu đồ số dân đô thị và tỉ lệ dân số đô thị ở Việt Nam

giai đoạn 2000 - 2020 (Nguồn: NGTK Việt Nam năm 2010 và 2020)

Từ biểu đồ trên cho thấy, quá trình ĐTH phát triển làm tăng số lượng các đô

thị nên số dân đô thị tăng nhanh, nhất là từ 2010 đến 2020, tỉ lệ dân đô thị chiếm gần

37% dân số cả nước.

Diện tích đất tự nhiên trong ranh giới hành chính của các đô thị nước ta tăng lên, hiện nay trên 350.000 km2 (chiếm 11,0% diện tích đất tự nhiên toàn quốc); diện tích đất khu vực nội thị ước đạt trên 150.000 km2 (chiếm 4,48% diện tích đất tự nhiên toàn quốc) [3,76]. Không gian các đô thị được mở rộng và đã hình thành một số cực

tăng trưởng chủ đạo tại các đô thị lớn, nhất là TP Hồ Chí Minh và Hà Nội.

Hệ thống hạ tầng kỹ thuật được chú trọng đầu tư tăng cả về quy mô và chất lượng, đặc biệt là hệ thống giao thông đô thị. Ở các đô thị cấp trung ương, cấp tỉnh, mạng lưới đường nội thành được cải tạo và nâng cấp; đồng thời những trục giao thông chính được mở ra làm xương sống cho phát triển không gian đô thị. Đời sống người dân đô thị từng bước được cải thiện, nâng cao, kinh tế các đô thị tăng trưởng ở mức cao.

39

Chức năng đô thị ngày càng đa dạng: có đô thị cấp quốc gia, đô thị cấp vùng và tiểu vùng; có đô thị giữ chức năng tổng hợp, có đô thị giữ chức năng chuyên

ngành,…

Kiến trúc cảnh quan cũng đa dạng và thay đổi rõ rệt, bên cạnh các kiến trúc

hiện đại của các đô thị châu Á, Âu, vẫn thể hiện các kiến trúc mang đậm bản sắc văn hóa truyền thống của Việt Nam.

- Tuy nhiên, ĐTH ở nước ta còn nhiều khó khăn, hạn chế gây ảnh hưởng đến

phát triển kinh tế, đến các vấn đề xã hội và đến đời sống của dân cư trong đô thị nói

riêng và cả nước nói chung. Các vấn đề ĐTH của Việt Nam đang phải đối mặt: thứ

nhất là ĐTH diễn ra không đồng đều giữa các vùng, thể hiện ở bảng sau:

Bảng 1.1. Tỷ lệ dân đô thị phân theo vùng giai đoạn 2000 – 2020 (ĐV %)

Các vùng 2000 2010 2020

Trung du MN phía Bắc (+ Quảng Ninh) 16,9 19,8 24,3

Đồng bằng sông Hồng (trừ Quảng Ninh) 24,8 29,1 35,4

Bắc Trung Bộ 16,9 23,9 12,9

Duyên hải Nam Trung Bộ 34,6 40,4 27,7

Tây Nguyên 28,6 28,8 26,8

Đông Nam Bộ 57,3 66,9 55,7

Đồng bằng sông Cửu Long 23,6 25,9 17,6

Nguồn: NGTK Việt Nam năm 2010 và 2020

Các vùng có tỷ lệ dân đô thị lớn nhất vẫn tập trung ở vùng Đông Nam Bộ,

Duyên Hải Nam Trung Bộ và Đồng bằng sông Hồng, các vùng này có CSHT mạnh, KT – XH phát triển, nhất là CN và DV, ĐTH phát triển mạnh, tập trung nhiều đô thị. Các vùng có tỷ lệ dân đô thị nhỏ là Miền núi trung du phía Bắc, Tây Nguyên, Bắc Trung bộ và Đồng bằng sông Cửu Long. Đây là các CSHT còn nhiều khó khăn, KT – XH phát triển chậm, CN, DV chưa phát triển, ĐTH chậm.

Thứ hai, sự di dân với số lượng lớn, tốc độ nhanh, thiếu kiểm soát từ các vùng

nông thôn ra thành thị, làm cho dân số các đô thị tăng nhanh, quy mô dân số đô thị

40

ngày càng lớn. Trong khi đó, CSHT, hạ tầng kỹ thuật đô thị chưa đầy đủ, chưa đồng bộ và chưa hiện đại dẫn đến nhiều bất cập, áp lực về vấn đề giải quyết việc làm, vấn

đề nhà ở, đất ở, thiếu các điều kiện thiết yếu đáp ứng cho nhu cầu của dân cư, gây

ảnh hưởng đến chất lượng đời sống người dân đô thị.

Thứ ba, quá trình ĐTH chưa có chiến lược lâu dài và bền vững nên hiệu quả sử dụng đất thấp, nhiều dự án treo lâu năm gây lãng phí đất đai và hiệu quả KT – XH

còn thấp, đô thị chưa tạo được động lực tăng trưởng chung cho vùng.

Thứ tư, mật độ dân cư ở một số đô thị lớn rất đông đúc, CSHT chưa đảm bảo,

nhất là hệ thống cấp thoát nước, vệ sinh môi trường dẫn đến tình trạng môi trường ở

các đô thị bị ô nhiễm, xuống cấp nặng nề, khó khắc phục. Diễn biến và mức độ của biến đổi khí hậu và thiên tai ngày càng sâu sắc hơn gây nhiều khó khăn, bất cập và những thách thức mới cho quá trình ĐTH ở nước ta.

Thứ năm, năng lực quản lý đô thị thấp, chưa theo kịp với xu thế và sự thay đổi

của cuộc cách mạng 4.0.

Nhìn nhận lại quá trình phát triển ĐTH ở Việt Nam, một đất nước với nền NN

còn lạc hậu, 80% dân số sống bằng nghề nông, CN chưa phát triển, chịu ảnh hưởng

nặng nề của chiến tranh và thiên tai, nhưng đến nay chúng ta đã có một hệ thống các

đô thị đủ các cấp độ. ĐTH phù hợp với CNH, HĐH đẩy nhanh tăng trưởng kinh tế,

đã từng bước khẳng định sự thành công của ĐTH và phát triển KT – XH ở nước ta.

Quá trình ĐTH đúng hướng sẽ thúc đẩy nhanh tiến trình CNH, HĐH đất nước, mang

lại cơ hội tăng trưởng KT – XH, nâng cao đời sống cho toàn bộ người dân Việt Nam.

Yêu cầu và nhiệm vụ đặt ra cho ĐTH ở giai đoạn tiếp theo là: hướng tới xây dựng hệ

thống đô thị bền vững, có CSHT và CSVCKT đồng bộ, hiện đại, có cảnh quan môi

trường đạt tiêu chuẩn, chất lượng của “đô thị xanh”. Xây dựng mạng lưới đô thị với

các cấp độ: một số đô thị lớn, chùm đô thị vừa và chuỗi đô thị nhỏ liên kết và phân

bố hợp lý trên toàn quốc, để nâng cao chất lượng và năng lực cạnh tranh của các đô thị trong quốc gia, khu vực và quốc tế. ĐTH cần chú trọng đến các giá trị đặc trưng

của các đô thị và tính văn hóa của các vùng miền.

1.3.2. Kinh nghiệm đô thị hóa ở một số thành phố trực thuộc trung ương

1.3.2.1. Đô thị hóa ở thành phố Hải Phòng Vốn là một đô thị cũ từ thời thuộc Pháp, sau khi đất nước thống nhất (1975),

TP Hải Phòng, Hà Nội và Hồ Chí Minh là ba TP trực thuộc trung ương của nước ta. Năm 2003, Hải Phòng được công nhận là đô thị loại 1 trực thuộc trung ương, là trung tâm CN và công nghệ, cảng biển, đồng thời là trung tâm kinh tế, văn hóa, thương mại,

41

khoa học, giáo dục và y tế của vùng Đồng bằng sông Hồng. Quá trình ĐTH của Hải Phòng diễn biến qua từng giai đoạn của chiều dài lịch sử, nhưng thực sự chuyển biến

mạnh mẽ kể khi triển khai thực hiện Nghị quyết số 32-NQ/TW (5/8/2003) của Bộ

Chính trị (khóa IX) [11]. Với mục tiêu xây dựng TP công nghiệp phát triển hiện đại,

thông minh, bền vững. Kết cấu hạ tầng giao thông đồng bộ, hiện đại kết nối thuận lợi với trong nước và quốc tế bằng cả đường bộ, đường sắt, đường biển và đường hàng

không; một trọng điểm dịch vụ logistics; trung tâm quốc tế về giáo dục, đào tạo,

nghiên cứu, ứng dụng, phát triển KHCN, kinh tế biển; đời sống vật chất và tinh thần

của nhân dân không ngừng được nâng cao ngang tầm với các thành phố tiêu biểu ở

châu Á. Để đạt được mục tiêu, các cấp lãnh đạo và nhân dân TP Hải phòng đã đề ra và thực hiện nhiều quyết sách táo bạo về ĐTH.

- Thực hiện quy hoạch theo 5 hướng giống như “5 cánh phượng” hướng ra

biển, đồng thời bán theo những dòng sông như sông Cấm, sông Tam Bạc, sông Lạch

Tray,…trong đó 3 hướng trụ cột đột phá là hướng phía Bắc sông Cấm, hướng Cát Hải

– Cát Bà, hướng Đồ Sơn và ven sông Lạch Tray.

- Chuyển đổi diện tích sử dụng đất phi NN để tăng diện tích đất đô thị, đưa

diện tích đô thị từ 2.748 ha (2003) lên gần 16.000 ha (2020), tăng 5,8 lần, không gian

đô thị được mở rộng với việc thành lập 3 quận mới Hải An, Đồ Sơn và Dương Kinh.

- Huy động nhiều nguồn vốn đầu tư phát triển mạnh mẽ kết cấu hạ tầng, trước

hết là hạ tầng giao thông. Sau khi đường cao tốc Hà Nội – Hải Phòng đi vào vận hành,

các dự án mới lại triển khai và hoàn thành, như mở rộng cảng hàng không quốc tế

Cát Bi, cầu Nguyễn Trãi, cầu Bến Rừng, cầu Rào III, đường trục World Bank, tuyến

đường mới từ trung tâm đi Đồ Sơn, các tuyến vành đai 2, vành đai 3, Quốc lộ 10 được

mở rộng,…[19] Đến thời điểm năm 2020, đô thị Hải Phòng có hệ thống giao thông

tương đối đồng bộ, hiện đại, kết nối liên hoàn. Các công trình phúc lợi được chú trọng

đầu tư, cải tạo, xây dựng mới một số bệnh viện, trường học, khu thể thao, khu vui chơi giải trí, các công viên xanh, nạo vét và mở rộng sông Tam Bạc,…

- Tập trung bố trí nguồn lực hợp lý để đẩy mạnh chỉnh trang các khu vực đô thị cũ. Hải Phòng là TP được thành lập từ thời Pháp thuộc, nhiều khu vực đô thị cũ kiến trúc lạc hậu, nhỏ bé và xuống cấp, nâng cấp đô thị trung tâm theo hướng văn minh, hiện đại, nhất là các khu đô thị dọc theo các dòng sông chảy qua nội đô, tạo

cảnh quan làm thay đổi bộ mặt khu trung tâm vốn được xây dựng từ lâu đời. Sửa chữa, cải tạo 27 khu chung cư cũ, thay đổi các điều kiện tiện ích để phục vụ cuộc sống người dân.

42

- Đầu tư ngân sách và huy động vốn từ nhiều tập đoàn xây dựng nhiều khu đô thị mới, với bản sắc kiến trúc riêng của TP cảng và CN, nổi bật là các khu đô thị

Vinhomes Imperia của Tập đoàn Vingroup, các khu đô thị của Tập đoàn Hoàng Huy,

Khu đô thị Lạch Tray của Tập đoàn Agape, các khách sạn 5 sao, Trung tâm thương

mại AeonMall,…với kiến trúc hiện đại ra đời, xây dựng mới 18 khu chung cư mới khang trang, sạch đẹp, đầy đủ các công trình tiện ích phục vụ đời sống người dân.

Kết quả, TP Hải Phòng đã đạt một số chỉ tiêu quan trọng về ĐTH trong giai

đoạn từ 2003 - 2020 thể hiện ở bảng sau:

Bảng 1.2. Một số chỉ tiêu về ĐTH ở TP Hải Phòng giai đoạn 2003 - 2020

Chỉ tiêu Đơn vị tính 2003 2010 2020

Số dân đô thị Nghìn người 646,4 858,8 932,5

Tỷ lệ dân đô thị % 36,9 46,2 45,4

GRDP Tỷ đồng 21.371,6 57.284,1 276.600

GRDP/người Triệu đồng 12,1 30,8 134,7

Cơ cấu GRDP %

+ Nông nghiệp 13,0 10,0 4,6

+ Phi nông nghiệp 87,0 90,0 95,4

Cơ cấu lao động %

+ Nông nghiệp 46,0 34,5 21,0

+ Phi nông nghiệp 54,0 65,5 79,0

1,7 5,2 Thu nhập BQĐN/tháng Triệu đồng 1,2

Nguồn: NGTK TP Hải Phòng năm 2005, 2015 và 2020

Bảng số liệu trên cho thấy, về tiêu chí đô thị loại 1, TP Hải Phòng đứng thứ 4/5 TP trực thuộc trung ương, tỉ lệ ĐTH toàn TP đạt 46,7% gấp 1,4 lần trung bình toàn quốc, tỉ lệ dân thành thị đạt 45,4%; ĐTH cũng đã tác động rất tích cực đến phát triển KT – XH của TP Hải Phòng, với các chỉ số mà năm 2020 TP đạt được: thúc đẩy tăng trưởng KT – XH với tốc độ tăng GRDP bình quân 5 năm (2015 – 2020) đạt

43

14,02%, gấp 2 lần giai đoạn trước và gấp 2,1 lần tốc độ trung bình cả nước; GRDP đầu người đạt 5.2 triệu đồng/tháng, gấp 1,95 lần trung bình cả nước; tỉ trọng GRDP

trong GDP cả nước đạt 5,1%. Đời sống an sinh của người dân đô thị được đảm bảo

và nâng cao rõ rệt [19].

Tuy nhiên, quá trình ĐTH ở TP Hải Phòng vẫn còn bộc lộ các hạn chế, nhiều tiêu chí của đô thị loại I còn đạt ở mức thấp như: tỉ lệ đất giao thông mới đạt 8,33% (yêu cầu là 16 – 24%), đất cây xanh đô thị mới đạt 3,85 m2/người (yêu cầu là 10 - 15 m2/người) [19]; CSHT của đô thị chưa tương xứng với yêu cầu phát triển đô thị. Bên cạnh đó trình độ quản lý, phát triển đô thị còn nhiều hạn chế, bất cập; chất lượng công

tác quy hoạch thấp, quản lý đất đai còn nhiều thiếu sót; một số vấn đề xã hội và khoa học công nghệ chưa được quan tâm đúng mức. Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XVI, TP Hải Phòng phấn đấu đến năm 2025,

sẽ hoàn thành các tiêu chí của đô thị loại I, nâng tỉ lệ ĐTH lên 60 – 70%, mật độ dân số trung bình đạt 2000 – 3000 người/km2, tỉ lệ nước thải đô thị được xử lý đạt quy chuẩn 40 – 50 %, diện tích cây xanh 10 - 15 m2/người, diện tích đô thị đạt 16.000 ha. Phấn đấu đến 2025 sẽ là TP thứ 3 xếp loại đô thị đặc biệt [19].

1.3.2.2. Đô thị hóa ở thành phố Cần Thơ TP Cần Thơ nằm bên hữu ngạn của dòng sông Hậu, vùng đất này có mặt trên

dư đồ Việt Nam vào năm 1739 với tên gọi Trấn Giang. TP Cần Thơ ngày nay cũng

đã trải qua nhiều giai đoạn lịch sử của đất nước, thời thuộc Pháp Cần Thơ từng là

“Thủ phủ” của miền Tây Nam Bộ, đến nay vẫn là đô thị hạt nhân và là trung tâm kinh

tế, văn hóa, xã hội của vùng đồng bằng sông Cửu Long. Năm 2003, theo Nghị quyết

số 22/2003/QH11, Cần Thơ được tách ra khỏi tỉnh Hậu Giang và trở thành TP trực

thuộc trung ương. Qua 6 năm xây dựng và phát triển, ngày 24/6/2009, Cần Thơ được

công nhận là đô thị loại I trực thuộc trung ương, TP đã bước sang giai đoạn phát triển

mới. Quá trình ĐTH của TP Cần Thơ đã bắt đầu phát triển mạnh từ năm 2004 và càng tăng tốc độ sau khi là TP loại I. Là một TP vùng đồng bằng sông nước, hệ thống sông

ngòi, kênh rạch chằng chịt, khác với hai TP biển là Hải phòng và Đà Nẵng, nên quá trình ĐTH của Cần Thơ cũng có nhiều nét khác biệt. - ĐTH diễn ra theo một số trục nhất định, từ ngã ba sông Hậu và sông Cần Thơ phát triển ra các vùng xung quanh, đây là khu vực tập trung đô thị cao nhất. Khu

đô thị trung tâm này bao gồm đô thị truyền thống Ninh Kiều, Bình Thủy, kết nối với đô thị sinh thái Phong Điền. Từ khu vực trung tâm phát triển theo hai hướng: dọc sông Cần Thơ về phía Nam, ĐTH phát triển tốc độ khá cao ở khu vực Cái Răng; dọc

44

sông Hậu về phía Bắc, tốc độ ĐTH phát triển mạnh ở khu vực Thốt Nốt và Ô Môn, không gian đô thị ở đây được mở rộng nhiều nhất. Đây là 3 khu đô thị mới, tạo nên 5

quận nội thành là Ninh Kiều, Bình Thủy, Cái Răng, Ô Môn và Thốt Nốt.

- ĐTH ở TP Cần Thơ diễn ra mạnh ở khu vực nông thôn, nhiều thị trấn được

hình thành và phát triển, tạo nên các đô thị vùng nông thôn như: Phong Điền, Thạnh An, Vĩnh Thạnh, Cờ Đỏ và Thới Lai.

- TP đã có nhiều chính sách thu hút, ưu đãi vốn đầu tư vào xây dựng CSHT đô

thị, đặc biệt là hạ tầng giao thông. Loại hình giao thông quan trọng nhất ở TP Cần

Thơ là đường bộ, đường sông và đường hàng không. Toàn TP đã có 2.762,84 km

đường bộ, các tuyến đường quốc lộ, đường tỉnh, đường huyện và các trục đường đô thị được xây dựng, cải tạo, nâng cấp hiện đại hơn. Đặc biệt là các công trình giao thông trọng điểm, mang tính chất động lực phát triển vùng đã hoàn thành và đưa vào

sử dụng như cầu Cần Thơ, cầu Vàm Cống, cầu Rạch Tra và Rạch Nhum; mạng lưới

đường thủy của TP có tổng chiều dài 1.157km, có khả năng lưu thông các phương

tiện trọng tải từ 15 – 30 tấn; sân bay Cần Thơ là một trong 5 sân bay quốc tế của nước

ta cũng đã được đầu tư nâng cấp nới rộng đường băng lên 3000m, diện tích mở rộng 20.600m2, và nhiều hạng mục kỹ thuật hiện đại, có khả năng tiếp đón 3 – 5 triệu lượt khách/năm và vận chuyển khối lượng hàng hóa 5.000t/năm. Bên cạnh đó các hạng

mục như hệ thống điện, nước, bưu chính, viễn thông và các công trình công cộng

phục vụ dân sinh cũng được quan tâm đầu tư xây dựng [115].

Đến nay, sau 15 năm thực hiện Nghị quyết 45-NQ/TW về ĐTH và phát triển,

ĐTH làm cho TP Cần Thơ thay da đổi thịt, có một diện mạo mới, năm 2020 tỉ lệ ĐTH

đạt 70%, thúc đẩy KT – XH phát triển, GRDP giai đoạn 2015 – 2020 tăng bình quân

6,53%, hàng năm đóng góp khoảng 1,47% GDP cả nước. Tổng GRDP đầu người đạt

98,2 triệu đồng/năm, cao hơn mức bình quân của cả nước (đứng thứ 5/5 thành phố

lớn trực thuộc trung ương). Chất lượng và năng lực cạnh tranh của thành phố từng bước được nâng lên [136]. TP Cần Thơ đã đạt được một số chỉ tiêu về ĐTH và KT –

XH trong giai đoạn từ 2003 – 2020 như sau:

Bảng 1.3. Một số chỉ tiêu về ĐTH ở TP Cần Thơ giai đoạn 2003 - 2020

Chỉ tiêu Đơn vị tính 2003 2010 2020

Số dân đô thị Nghìn người 555,6 787,9 868,8

45

Tỷ lệ dân đô thị % 49,9 65,9 70,0

GRDP Tỷ đồng 14.277,7 43.840,4 121.800

GRDP/người Triệu đồng 12,6 36,5 98,2

Cơ cấu GRDP %

+ Nông nghiệp 18,7 10,1 4,6

+ Phi nông nghiệp 81,3 89,9 94,3

Cơ cấu lao động %

+ Nông nghiệp 51,9 42,1 32,5

+ Phi nông nghiệp 48,1 57,9 67,5

1,5 5,0 Thu nhập BQĐN/tháng Triệu đồng 0,6

Nguồn: NGTK TP Cần Thơ năm 2005, 2015 và 2020

Tuy nhiên, quá trình ĐTH ở Cần Thơ còn bộc lộ nhiều hạn chế: trình độ ĐTH

diễn ra không đồng đều trên địa bàn, tạo ra áp lực cục bộ ở một số khu vực; tiến độ

thực hiện các dự án chậm trễ, kéo dài; kết cấu hạ tầng thiết yếu chưa theo kịp nhu cầu

TP, chưa tương xứng với yêu cầu loại đô thị; năng lực đầu tư cho ĐTH còn phân tán

[135].

Định hướng xây dựng và phát triển TP Cần Thơ đến năm 2025 có dân số từ

1,6 – 1,8 triệu người, mở rộng đô thị lên 22.000ha. Cải tạo, chỉnh trang và quản lý

chặt chẽ về quy hoạch kiến trúc, bảo vệ các di sản kiến trúc văn hóa truyền thống,

cảnh quan có giá trị, phát triển đồng bộ, hiện đại hóa các khu đô thị mới, hướng tới mục tiêu đưa Cần Thơ trở thành đô thị hiện đại, văn minh, xanh sạch đẹp, mang bản

sắc sông nước miền Tây, thuộc nhóm các TP phát triển ở châu Á [120].

Tiểu kết chương 1 Nội dung chương 1, tác giả đã trình bày tổng quan cơ sở lý luận về ĐTH và tác động của ĐTH đến KT – XH, bao gồm các khái niệm về đô thị và ĐTH, đặc điểm cơ bản của ĐTH và các nhân tố ảnh hưởng đến quá trình ĐTH. Cơ sở lý luận về tác động của ĐTH đến KT – XH được khái quát những tác động tích cực và tiêu cực đến kinh tế và xã hội của đô thị. Từ việc tổng quan được cơ sở lý luận, tác giả đã khái

46

quát thực tiễn về ĐTH ở Việt Nam và những kinh nghiệm về ĐTH của các TP loại I trực thuộc trung ương là TP Hải Phòng và TP Cần Thơ, khắc họa bức tranh về thực

tiễn ĐTH ở nước ta từ 2003 đến 2020.

Những tiêu chí đánh giá ĐTH và tác động của của ĐTH đến KT – XH được

tác giả kế thừa từ các tài liệu và các công trình nghiên cứu trước đó để xây dựng các tiêu chí đánh giá ĐTH của TP Đà Nẵng bao gồm: chức năng đô thị, dân số đô thị,

kinh tế đô thị, CSHT đô thị và mở rộng không gian đô thị; các tiêu chí đánh giá tác

động của ĐTH đến KT – XH cũng được kế thừa và xây dựng bao gồm: các tiêu chí

đánh giá tác động ĐTH đến kinh tế như tốc độ phát triển và chuyển dịch cơ cấu kinh

tế, sự phát triển các ngành kinh tế trụ cột của đô thị, phát triển kết cấu hạ tầng giao thông; các tiêu chí đánh giá tác động ĐTH đến xã hội, gồm lao động việc làm, tăng trưởng GRDP bình quân đầu người và đời sống của người dân đô thị.

Từ những cơ sở lý luận, thực tiễn về ĐTH và tác động của ĐTH đến KT – XH

đã khái quát được, tác giả đã đúc kết thành bài học kinh nghiệm vận dụng vào nghiên

cứu đánh giá quá trình ĐTH và tác động của nó đến phát triển KT – XH ở TP Đà

Nẵng ở những chương tiếp theo.

47

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG ĐÔ THỊ HÓA Ở THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

2.1. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN ĐÔ THỊ HÓA Ở TP ĐÀ NẴNG

2.1.1. Vị trí địa lý và phạm vi lãnh thổ

Đà Nẵng là TP có diện tích không lớn: 1.284,73 km2, trong đó, 6 quận nội thành có diện tích 246,56 km2 và hai huyện Hòa Vang, Hoàng Sa chiếm diện tích 1.038,17 km2. Phần đất liền của TP Đà Nẵng nằm ở 15o55’20” đến 16o14’10” vĩ tuyến Bắc, 107o18’30” đến 108o20’00” kinh tuyến Đông [16]. Phía Bắc giáp tỉnh Thừa Thiên Huế, phía Nam và Tây giáp tỉnh Quảng Nam, phía Đông bắc, Đông, Đông Nam

giáp biển Đông. Đà Nẵng là một trong 5 TP trực thuộc trung ương và là TP biển lớn

nhất miền Trung.

Trên vùng biển, quần đảo Hoàng Sa là huyện đảo của TP Đà Nẵng nằm ở tọa độ 15o45’B - 17o15’B, kinh độ 111oĐ - 113oĐ, quần đảo có diện tích khoảng 30.000km2, phần nổi có diện tích khoảng 10km2, trong đó đảo Phú Lâm có diện tích lớn nhất.

- TP Đà Nẵng nằm gần như trung độ của đất nước, cách thủ đô Hà Nội 765

km về phía Bắc và cách TP Hồ Chí Minh 964 km về phía Nam, như cầu nối 2 TP lớn

nhất của cả nước và nối với vùng Tây Nguyên qua Quốc lộ 14B (với chiều ngang

Đông - Tây khoảng 300km), là cửa ngõ ra biển của Tây Nguyên. TP Đà Nẵng nằm

ngay trên các trục giao thông Bắc – Nam về đường bộ, đường sắt, đường biển và

đường hàng không.

- TP Đà Nẵng nằm ở trung tâm của VKTTĐMT, gồm năm tỉnh và TP: Thừa

Thiên - Huế, Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi và Bình Định, được thành lập năm

2004, nhằm phát huy những ưu thế của vùng như vị trí địa lý, các nguồn tài nguyên

thiên nhiên, truyền thống văn hóa và kinh nghiệm sản xuất, phòng chống thiên tai của

dân cư, hướng đến thực hiện chiến lược từng bước phát triển VKTTĐMT thành một

trong những vùng phát triển năng động của cả nước, trong đó TP Đà Nẵng với vị thế là đô thị hạt nhân có vai trò tạo động lực thúc đẩy sự phát triển KT – XH cho vùng

và cả khu vực miền Trung – Tây Nguyên. - TP Đà Nẵng nằm ở cửa phía Đông của Hành lang Kinh tế Đông – Tây (EWEC). Trong phạm vi khu vực và quốc tế, TP Đà Nẵng là một trong những cửa ngõ quan trọng ra biển của các nước Lào, Campuchia, Thái Lan, Myanmar và cả các

nước vùng Đông Bắc Á thông qua Hành lang Kinh tế Đông – Tây. Hành lang Kinh tế Đông – Tây có vai trò đặc biệt quan trọng, nối hai bờ của Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương, con đường này chạy qua 13 tỉnh, TP của 4 nước (Myanma, Thái Lan,

48

Lào và Đà Nẵng của Việt Nam). TP Đà Nẵng cách các trung tâm kinh tế phát triển của các nước Đông Nam Á và Thái Bình Dương trong phạm vi bán kính khoảng 2.000

km và nằm ngay trên các tuyến đường biển và đường hàng không quốc tế. Vị trí chiến

lược này rất thuận lợi cho giao lưu trong khu vực và quốc tế về nhiều mặt, thúc đẩy

sự phát triển KT – XH của đô thị. - TP Đà Nẵng nằm ở vị trí trung tâm của “Con đường di sản thế giới” miền

Trung - Việt Nam, bao gồm phía Bắc là Thành Nhà Hồ (Thanh Hóa), Vườn quốc gia

Phong Nha - Kẻ Bàng (Quảng Bình) và Cố đô Huế; phía Nam là Thánh Địa Mỹ Sơn

và đô thị cổ Hội An (Quảng Nam). Phía Tây kết nối với Tây Nguyên là di sản Không

gian văn hóa Cồng Chiêng Tây Nguyên. Từ TP Đà Nẵng đến các di sản thế giới không xa, trong phạm vi độ dài các cung đường, gần nhất là cách đô thị cổ Hội An là 20km; Thánh Địa Mỹ Sơn 70km về phía Nam; cách Cố Đô Huế 100km, Phong Nha – Kẻ

Bàng 300km về phía Bắc và 200 km với khu vực Tây Nguyên. TP Đà Nẵng có thể

thuận lợi kết nối với hai di sản thế giới khác trong khu vực như Cố đô Luang Prabang

(Lào) và quần thể Angkor Wat (Cam Pu Chia). Đây là điều kiện rất thuận lợi để TP

Đà Nẵng có thể xây dựng các chương trình du lịch, các tour du lịch phù hợp, nhất là

đối với sự hợp tác, liên kết vùng trong phát triển du lịch.

Tính đến năm 2020, TP Đà Nẵng có 8 đơn vị hành chính, gồm 6 quận nội

thành và 2 huyện (trong đó có 01 huyện đảo Hoàng Sa), với 45 phường và 11 xã. Các

quận, huyện của TP Đà Nẵng đều giáp biển, trừ quận Cẩm Lệ mới thành lập năm

2005. Xét về diện tích, dân số và các đơn vị hành chính, TP Đà Nẵng thuộc các địa

phương có quy mô lãnh thổ trung bình.

Bảng 2.1. Các đơn vị hành chính TP Đà Nẵng năm 2020 - Diện tích và dân số

Các quận, huyện Số phường, xã Diện tích (km2) Dân số (nghìn ng)

Liên Chiểu 05 74,37 203,98

Thanh Khê 10 9,47 187,21

Hải Châu 13 23,29 204,15

Sơn Trà 07 63,39 161,55

Ngũ Hành Sơn 04 40,19 94,07

Cẩm Lệ 06 35,85 169,48

49

Hòa Vang 11 733,17 149,04

Hoàng Sa - 305,00 -

Nguồn: Niên giám thống kê - 2020 [16]

Như vậy, TP Đà Nẵng có nhiều thuận lợi về trí địa lý, tạo điều kiện để thúc đẩy

về giao lưu hợp tác kinh tế, văn hóa, KHKT và thu hút đầu tư với các địa phương láng giềng của miền Trung - Tây Nguyên, thúc đẩy các mối quan hệ hợp tác trong

khu vực và quốc tế về mọi mặt, đồng thời tạo cho TP Đà Nẵng một vị thế quan trọng

là đô thị “hạt nhân trung tâm”, là đòn bẩy kinh tế, văn hóa, xã hội, chính trị, ngoại

giao của VKTTĐMT và cả khu vực Tây Nguyên. Điều này đã tác động mạnh và đẩy

nhanh quá trình ĐTH.

2.1.2. Điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên

2.1.2.1. Địa hình và đất a. Địa hình

Địa hình của TP Đà Nẵng tương đối đa dạng, bao gồm: đồng bằng ven biển, vùng đồi thấp xen kẽ đồng bằng và vùng đồi núi cao ở phía Tây, Tây Bắc. Từ Đông

sang Tây có các khu vực địa hình sau đây:

- Biển và bờ biển phía Đông dài khoảng 30km, địa hình phức tạp, có những

cửa sông, bãi cạn và những trũng ngầm, ven bờ có nhiều bãi tắm, cảnh quan đẹp. Với

3 mặt giáp biển tạo khả năng mở rộng TP hướng ra biển.

- Đồng bằng ven biển, địa hình bằng phẳng và tương đối thấp, chịu ảnh hưởng

nhiều của thủy triều, dễ bị nhiễm mặn. Đây là vùng thuận lợi cho việc phát triển NN,

CN, DV, các khu chức năng của đô thị và cũng là khu vực tập trung dân cư đông đúc.

Đất để bố trí các cơ sở CN và các công trình KT - XH khác đã gần tới giới hạn, nguồn

nước cung cấp cho sản xuất CN, DV trong vùng này có hạn chế.

- Địa hình đồi núi tập trung chủ yếu ở phía Tây, đa phần ở độ cao 700 - 1.500m, độ dốc lớn (>400) là nơi tập trung nhiều hệ sinh thái rừng đầu nguồn và có ý nghĩa về bảo vệ môi trường sinh thái của TP. Khu vực này là cơ sở cho TP mở rộng không gian và phát triển các khu đô thị mới theo mô hình đô thị sinh thái, đô thị xanh,…

b. Đất Tổng quỹ đất tự nhiên của TP Đà Nẵng là 128.473ha (tính cả diện tích huyện

đảo Hoàng Sa), gồm các nhóm chính: đất đỏ vàng, đất mùn đỏ vàng, đất dốc tụ tập

trung ở vùng đồi núi, thích hợp cho trồng rừng, cây công nghiệp lâu năm, cây dược

50

liệu; đất phù sa, đất đen, đất xám bạc màu ở vùng đồng bằng, phù hợp với trồng lúa, hoa màu, rau củ, chăn nuôi gia súc; ngoài ra ven biển còn có đất cát, đất mặn.

Hiện trạng sử dụng quỹ đất của TP Đà Nẵng giai đoạn 2003 - 2020, có thay

đổi nhưng không nhiều, theo hướng tăng quỹ đất phi NN.

Bảng 2.2. Hiện trạng quỹ đất của TP Đà Nẵng giai đoạn 2003 – 2020

Quỹ đất 2003 2010 2020 2003 - 2020

Ha % Ha % Ha % Biến động

Tổng quỹ 125.654 100,0 125.654 100,0 128473 100,0 +2819 +2,2

đất

Đất NN 71.460 56,9 69.550 55,4 71.273 55,5 -187 - 0,3

Đất phi NN 46.954 37,4 53.749 42,8 55.788 43,4 +8834 +18,8

chưa Đất 7.240 5,7 2.355 1,9 1.412 1,1 -5828 - 80,5

SD

Nguồn: NGTK TP Đà Nẵng các năm [16 ] Như vậy trong cơ cấu quỹ đất, đất NN chiếm tỷ trọng lớn, nhưng giảm nhẹ;

đất phi NN (trong đó có đất dành cho đô thị) tăng nhanh do nhu cầu sử dụng đất phục

vụ cho ĐTH, CN, DV; đất chưa sử dụng của TP Đà Nẵng còn ít (năm 2020 còn 1.412

ha, chiếm 1,10%), ảnh hưởng đến ĐTH, mở rộng không gian đô thị.

2.1.2.2. Tài nguyên khí hậu và tài nguyên nước

a. Khí hậu thời tiết

Đà Nẵng nằm trong đới khí hậu cận xích đạo gió mùa. Tuy nhiên, do vị trí nằm

ở ranh giới giữa hai đới khí hậu nên khí hậu Đà Nẵng mang tính chuyển tiếp giữa khí hậu nhiệt đới gió mùa ở phía Bắc và cận xích đạo gió mùa ở phía Nam. Đà Nẵng có nền nhiệt độ cao và ít biến động, nhiệt độ trung bình năm khoảng 25,6oC, nhiệt độ cao nhất vào các tháng 6,7,8 từ 28 - 30oC, nhiệt độ thấp nhất vào các tháng 12,1,2 từ 18 - 23oC. Độ ẩm không khí trung bình 83,4%, cao nhất là tháng 10,11 từ 85,7 – 87,7%, thấp nhất là tháng 6,7 từ 76,7 – 77,3%. Lượng mưa của Đà Nẵng cao, trung bình 2.505mm/năm, mưa phân hóa theo mùa rất rõ rệt.

Khí hậu Đà Nẵng phân hóa thành hai mùa rõ rệt: mùa mưa và mùa khô

51

- Mùa mưa: từ tháng 8 – 12, mưa nhiều, lượng mưa trung bình 161,4 mm/tháng. Đặc biệt từ tháng 10 – 11, lượng mưa trung bình từ 500 – 1000 mm/tháng, thời tiết

mưa bão thường xuyên xảy ra, gây lũ lụt, khó khăn cho các hoạt động kinh tế, du lịch.

- Mùa khô: từ tháng 1 – 7, lượng mưa nhỏ, nhất là các tháng 2,3,4 chỉ từ 23 –

40 mm/tháng, gây thiếu nước, khô hạn. Tuy nhiên lại là mùa thuận lợi cho các hoạt động kinh tế, nhất là du lịch.

Đà Nẵng là nơi chịu ảnh hưởng nhiều của thiên tai như gió bão, thủy triều, sóng

thần thường xảy ra. Đà Nẵng cũng nằm trong vùng chịu tác động mạnh của biến đổi

khí hậu. Trong kịch bản, nếu mực nước biển dâng 100 cm thì khoảng 1,13% diện tích đất của TP có nguy cơ ngập. Các quận có nguy cơ cao nhất là Liên Chiểu và Ngũ

Hành Sơn. Điều này cũng tác động và gây khó khăn cho quá trình ĐTH, đặc biệt là

các công trình của đô thị ở vùng ven biển.

b. Tài nguyên nước

- Tài nguyên nước của TP Đà Nẵng khá phong phú cả nước dưới đất, nước

mặt.

+ Về nước mặt: tổng lượng dòng chảy khoảng 12,3 tỉ m3/năm, nhưng phân bố không đều: về mùa mưa chiếm từ 65 – 80% tổng lượng nước, thừa nước, do địa hình

dốc, dòng chảy ngắn nên thường gây lũ lụt, mùa khô lượng nước chỉ chiếm 20 – 35%,

thiếu nước thường gây xâm nhập mặn. Hệ thống sông ngòi của TP Đà Nẵng đều bắt

nguồn từ vùng đồi núi phía Tây, Tây Bắc đổ ra biển nên sông ngắn dốc. TP có 2 sông chính: sông Hàn dài khoảng 204km, tổng diện tích lưu vực khoảng 5.180km2; sông Cu Đê dài khoảng 38km, diện tích lưu vực khoảng 426 km2; ngoài ra còn có các sông nhỏ như sông Yên, sông Chu Bái, sông Vĩnh Điện, sông Túy Loan, sông Cầu Đỏ,

sông Phú Lộc và khoảng 546 ha mặt nước [118]. Nguồn cung cấp nước cho sản xuất

và đời sống của TP chủ yếu lấy từ sông Vu Gia chảy qua sông Yên đổ về sông Cầu

Đỏ cung cấp nước cho nhà máy nước Cầu Đỏ. Nhu cầu dùng nước của TP tăng lên rất nhanh, năm 2020 đạt 230 triệu m3/năm.

+ Về nước ngầm: tài nguyên nước dưới đất của TP khá dồi dào, tổng trữ lượng tiềm năng nước ngầm trên địa bàn TP là 342.437 m3/ngày đêm. Nguồn nước dưới đất tồn tại trong các tầng chứa nước lỗ hổng và tầng chứa nước khe nứt. Tuy nhiên nhiều khu vực cũng bị nhiễm mặn.

- Đánh giá: ĐTH đi liền với tăng dân số đô thị, phát triển kinh tế và mở rộng

không gian đô thị đều chịu ảnh hưởng của nguồn nước. TP Đà Nẵng có nguồn nước

52

mặt và nước ngầm tương đối dồi dào, chất lượng nước tốt, đáp ứng nhu cầu của sự phát triển đô thị hiện tại. Tuy nhiên hiện nay dòng chảy của các sông đang có sự thay

đổi, nguồn nước mặt có nguy cơ giảm về số lượng và chất lượng do khai thác bừa bãi

rừng đầu nguồn, khai thác thủy điện, ảnh hưởng của biến đổi khí hậu làm gia tăng tần

suất các hiện tượng lũ lụt, xói lở đất, sạt lở bờ sông, sạt lở núi, xâm nhập mặn, làm cho độ đục, độ cứng, độ kiềm,…tăng lên dẫn đến chất lượng nguồn nước mặt giảm.

Việc khai thác và sử dụng nguồn nước ngầm là vấn đề tất yếu. Trữ lượng nước ngầm có thể khai thác được trên địa bàn TP khoảng 73.898 m3/ngày đêm (chiếm 21,6%) so với trữ lượng tiềm năng nước ngầm, công suất khai thác nước ngầm chiếm khoảng

1/4 trữ lượng hiện có. Về lâu dài, để đảm bảo an ninh nguồn nước, TP cần kiểm kê, đánh giá cụ thể chất lượng, trữ lượng tài nguyên nước trên toàn địa bàn.

2.1.2.3. Tài nguyên biển - Lãnh thổ TP Đà Nẵng bao gồm phần đất liền và biển. TP có đường bờ biển

dài khoảng 30km, nằm trong đới khí hậu cận xích đạo nên sinh vật biển rất phong

phú khoảng gần 300 giống loài, trong đó có 20 loài có giá trị kinh tế cao (cá, tôm,

mực, rong biển,…), với tổng trữ lượng dự báo 1,14 triệu tấn, phân bố tập trung chủ yếu ở độ sâu từ 50 – 200m. Biển Đà Nẵng có ngư trường rộng trên 15.000 km2 là một ngư trường quan trọng của vùng Trung Trung Bộ, khai thác từ 150.000 – 200.000 tấn

hải sản/năm [118].

- Vịnh Đà Nẵng, tên dân gian là Vũng Thùng có diện tích rộng 116 km2, chu vi 46 km, nằm gọn trong lòng bờ biển hình cánh cung dài chừng 30 km. Được bao

bọc bởi núi Hải Vân sừng sững ở phía Bắc và bán đảo Sơn Trà rộng lớn ở phía Đông,

phía Tây sau lưng vịnh có nhiều núi non từ thấp đến cao để tựa thế như Đại La, rồi

Phước Tường đến Bà Nà - Núi Chúa, cuối cùng là Trường Sơn. Phía Bắc và phía

Đông được Hải Vân, Sơn Trà che chắn gió bão, phía Tây Trường Sơn che chắn gió

Tây Nam khô nóng. Hình dạng của vịnh biển, cùng với địa hình đồi núi trên đất liền ăn lan biển, kết hợp tạo nên nét đặc sắc, mở ra hướng biển trong phát triển đô thị của

TP so với nhiều đô thị khác.

Vùng vịnh có độ sâu trung bình từ 10 – 17m, các tàu lớn có trọng tải đến 50.000 tấn đều có khả năng ra vào vịnh dễ dàng. Với diện tích, độ sâu và địa thế đặc biệt, vịnh Đà Nẵng đẹp, rộng, sâu và kín gió, là nơi neo đậu tàu thuyền an toàn, và là

động lực phát triển cho đô thị cảng biển. Trong thực tế, TP Đà Nẵng đã là một thương cảng từ rất sớm. Vị trí địa lý đặc biệt của vịnh Đà Nẵng tạo thuận lợi cho sự liên kết và thông thương với các cảng trong nước như Hải Phòng, Sài Gòn, Nha Trang, Quy

53

Nhơn, Chân Mây (Huế), với khoảng cách xa nhất là cảng Sài Gòn cách 520 hải lý và các cảng quốc tế thông qua tuyến giao thông đường biển. Cảng Đà Nẵng có thể kết

nối với các cảng Yokohama (Nhật Bản), Thượng Hải (Trung Quốc), Đài Bắc (Đài

Loan), Kao Slung (Đài Loan), Hồng Kông (Trung Quốc), Macao (Trung Quốc),

Manila (Philippines),…[25]. Điều này tác động đến ĐTH, thúc đẩy việc quy hoạch xây dựng đô thị cảng biển hiện đại, với các khu cảng chức năng: cảng du lịch, cảng

vận chuyển hàng hóa, dịch vụ logistics, cảng cá của đô thị.

- Vùng biển của Đà Nẵng được thiên nhiên ưu ái, có làn nước trong xanh và

bờ cát trắng mịn tạo nên những bãi biển tuyệt đẹp, nổi bật nhất là các bãi biển Mỹ

Khê, Non Nước, Bắc Mỹ An, Xuân Thiều; xung quanh bán đảo Sơn Trà cũng có những bãi biển đẹp nổi tiếng như: Tiên Sa, Bãi Nam, Bãi Bắc, Bãi Bụt, Bãi Đá Đen, Bãi Cát Vàng, Bãi Rạn,... Trong những bãi biển trên, Mỹ Khê được tạp chí Mỹ Forbes

bình chọn là 1 trong 6 bãi biển quyến rũ nhất hành tinh, hay Bãi Làng Vân nằm dưới

chân đèo Hải Vân, là một bãi biển được xếp hạng vào nhóm bãi biển hoang sơ và đẹp

bậc nhất Việt Nam. Những thế mạnh nổi bật về du lịch biển, đã tác động đến quá trình

ĐTH trong việc quy hoạch và thiết kế đô thị với chức năng du lịch là ngành kinh tế

mũi nhọn.

2.1.2.4. Tài nguyên rừng Nằm ở nơi đan xen chuyển tiếp của hai đới khí hậu: nhiệt đới gió mùa ở phía

Bắc, cận xích đạo gió mùa ở phía Nam và nằm trong vùng ranh giới của hai miền tự

nhiên Tây Bắc – Bắc Trung Bộ và Nam Trung Bộ - Nam Bộ, TP Đà Nẵng có thiên

nhiên đa dạng và phong phú, đặc biệt là sinh vật.

TP Đà Nẵng có hệ sinh vật khá phong phú, với tổng diện tích có rừng 63,3

nghìn ha, chủ yếu tập trung ở phía Tây và Tây Bắc TP, trong đó rừng tự nhiên chiếm

68,2%. Tỷ lệ che phủ rừng là 49,2% [118]. Tài nguyên rừng của TP có ý nghĩa đặc

biệt quan trọng bảo vệ môi trường sinh thái, nâng cao chất lượng môi trường đô thị và phát triển du lịch, tập trung ở 2 khu bảo tồn thiên nhiên đặc sắc là Bà Nà, Sơn Trà

và khu văn hóa lịch sử môi trường Nam Hải Vân. - Rừng khu vực Bà Nà - Núi Chúa có diện tích 17.641 ha, là một vùng núi cao, đỉnh cao nhất là Núi Chúa cao 1487m, rặng núi Bà Nà, với độ cao trung bình hơn 800m, độ dốc 25o đến 35o, khí hậu ở Bà Nà vào mùa hè nhiệt độ trung bình khoảng 18oC, nhiệt độ thấp nhất là 2oC vào mùa đông và cao nhất là 25oC vào mùa hè. Biên độ nhiệt ngày đêm là 5,3oC, sương mù thường xuất hiện vào buổi chiều. Rừng Bà Nà có những giá trị to lớn về đa dạng sinh học [118]. Rừng Bà Nà tiếp nối với rừng Hải

54

Vân và dãy Bạch Mã kéo dài ra biển bao bọc toàn bộ phía Bắc và Tây Bắc TP. Bà Nà đã được công nhận là khu dự trữ thiên nhiên, cần bảo vệ, bảo tồn nghiêm ngặt và

được ví là “Hòn ngọc khí hậu” của TP Đà Nẵng, góp phần cải tạo khí hậu nâng cao

chất lượng môi trường đô thị và phát triển du lịch.

- Khu bảo tồn thiên nhiên bán đảo Sơn Trà có tổng diện tích khoảng 4.400ha, có độ cao trung bình 350m, đỉnh Ốc của bán đảo là nơi có vị trí cao nhất với 700m.

Rừng Sơn Trà có giá trị lưu trữ đa dạng sinh học rất lớn, là một trong 200 vùng sinh

thái tiêu biểu toàn cầu, là nơi trú ngụ của nhiều loài sinh vật độc đáo [118]. Khu bảo

tồn thiên nhiên Sơn Trà được coi như lá phổi xanh của cả TP, là nguồn cung cấp oxy

cho người dân và cũng là nhà cho nhiều cá thể động thực vật sinh sống, là một khu rừng nguyên sinh có khí hậu trong lành và cảnh quan thiên nhiên tuyệt đẹp. Dưới chân chạy xung quanh rừng Sơn Trà là những bãi cát trải dài, nước biển nước trong

vắt phản chiếu ánh nắng Mặt Trời và những rạn san hô đa sắc màu, tạo nên một bức

tranh thiên nhiên sơn thủy hữu tình, nên bán đảo này còn có tên gọi là núi Tiên Sa.

Điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên của TP Đà Nẵng ảnh hưởng tới

phát triển đô thị và ĐTH với nhiều nét riêng biệt độc đáo, có núi, rừng, sông biển

trong lòng TP. Quá trình quy hoạch, xây dựng hợp lý, khai thác được các yếu tố thiên

nhiên sẽ tạo cho đô thị có cảnh quan đẹp và chất lượng môi trường tốt.

2.1.3. Kinh tế - xã hội

2.1.3.1. Lịch sử hình thành đô thị Đà Nẵng Đà Nẵng là một TP có bề dày lịch sử, gắn liền với lịch sử mở mang bờ cõi của

dân tộc và cũng gắn với lịch sử của Xứ Quảng, một vùng đất đầy biến động qua các

thời kỳ, nhưng rất đặc trưng, tác động mạnh đến sự hình thành và phát triển của đô

thị và tạo nên diện mạo riêng cho đô thị này.

. - Trước thời Pháp thuộc: từ thời Sa Huỳnh - Chăm Pa, Xứ Quảng là vùng giáp

biển, hoạt động kinh tế ở đây không chỉ là nông nghiệp, ngư nghiệp mà cả hoạt động giao thương bằng đường biển đã diễn ra; đến thời Chúa Nguyễn, các hoạt động kinh

tế nông, ngư nghiệp ở đây đã phát triển mạnh, khu vực này đã trở nên trù phú; hoạt động giao thương buôn bán, trao đổi hàng hóa với các thương nhân trong và ngoài nước diễn ra nhộn nhịp. Giữa thế kỷ XVI Đà Nẵng giữ vị trí Tiền cảng cho Hội An, có vai trò trung chuyển hàng hóa và tu sửa tàu thuyền, nhưng đến thế kỷ XVIII, Đà

Nẵng đã trở thành một thương cảng thay thế Hội An, tàu thuyền lớn của nước ngoài ra vào vịnh Đà Nẵng dễ dàng, nhộn nhịp; đến thời Nhà Nguyễn, Đà Nẵng vừa là một thương cảng, đồng thời là một quân cảng quan trọng bậc nhất thực thi việc quản lý,

55

phòng thủ, đón tiếp các đoàn ngoại quốc thực thi chính sách ngoại giao của Nhà Nguyễn và cũng là thương cảng lớn nhất miền Trung lúc đó [137].

- Thời Pháp thuộc: theo Hiệp ước Harmand (25/8/1883), Triều đình Huế cho

phép Pháp mở cửa Đà Nẵng để thông thương. Ngày 17/8/1888, Tổng thống Pháp kí

sắc lệnh thành lập 3 TP ở Việt Nam là Hà Nội, Hải Phòng và Đà Nẵng. Ngày 24/5/1889, TP Đà Nẵng thuộc tỉnh Quảng Nam được thành lập, gồm 5 xã của huyện

Hòa Vang (Hải Châu, Phước Ninh, Thạch Thang, Nam Dương và Nại Hiên Tây),

nằm bên tả ngạn sông Hàn, diện tích khoảng 10.000 ha, lấy tên là Tourane. Tourane

là TP loại II và chịu sự cai quản trực tiếp của Toàn quyền Đông Dương. Ngày

19/9/1905, Toàn quyền Đông Dương ra Nghị định tách TP Đà Nẵng ra khỏi tỉnh Quảng Nam để trở thành một đơn vị hành chính độc lập [137]. Đầu thế kỷ XX, thực dân Pháp xây dựng Tourane trở thành một đô thị cảng biển theo kiểu Tây phương,

đầu tư xây dựng hệ thống có CSHT đô thị vững chắc, CSVCKT cho các ngành kinh

tế chủ chốt của đô thị như sửa chữa tàu thuyền, kinh doanh các dịch vụ thương mại,

phát triển thủ công nghiệp, chế biến hàng xuất khẩu,…

- Thời Quốc gia Việt Nam và Việt Nam Cộng hòa: Đà Nẵng được chính quyền

Việt Nam Cộng hòa xác định là TP trực thuộc trung ương, có 3 quận (quận 1,2,3) và

xác định mục tiêu: “Xây dựng Đà Nẵng là trung tâm chính trị, quân sự, văn hóa cho

vùng I và II chiến thuật” [137]. Thay thế Pháp, Mỹ tiến hành xây dựng CSHT của

các căn cứ quân sự phục vụ chiến tranh như sân bay, bến cảng, kho bãi, cơ sở thông

tin liên lạc,…Năm 1973, khi Mỹ rút khỏi Việt Nam, chính quyền Việt Nam Cộng

hòa đã cho phân chia lại địa giới hành chính Đà Nẵng, giữ nguyên 3 quận như cũ, chỉ

sáp nhập 28 khu phố bên dưới cấp quận thành 19 phường, thị xã Đà Nẵng là đô thị

lớn thứ hai miền Nam [137].

- Từ 1975 đến nay: Sau khi thống nhất đất nước, TP Đà Nẵng thuộc tỉnh Quảng

Nam - Đà Nẵng, gồm 3 quận, 28 phường. Đến ngày 5/5/1990, Đà Nẵng được công nhận là đô thị loại 2. Ngày 1/1/1997, Đà Nẵng chính thức được công nhận là TP trực

thuộc trung ương, bao gồm 5 quận Hải Châu, Liên Chiểu, Ngũ Hành Sơn, Sơn Trà, Thanh Khê. Đến ngày 15/7/2003, Đà Nẵng trở thành đô thị loại I trực thuộc trung ương, năm 2005, lấy các xã Hòa Thọ, Hòa Phát và Hòa Xuân của huyện Hòa Vang và phường Khuê Trung của quận Hải Châu để thành lập nên quận mới là quận Cẩm

Lệ. Quá trình phát triển đô thị đã cho thấy Đà Nẵng có điều kiện thuận lợi để hình thành đô thị từ rất sớm và từ xa xưa đã định hình là một đô thị cảng, giao thương

56

buôn bán, trao đổi hàng hóa giữa các nước phía Tây, phía Đông, phía Bắc, phía Nam rất nhộn nhịp và sầm uất. Đây là một trong những động lực rất lớn thúc đẩy ĐTH,

phát triển một đô thị hiện đại.

2.1.3.2. Dân cư - lao động a. Dân cư Dân cư là một nhân tố quan trọng về nguồn lực con người có ảnh hưởng quan

trọng tới ĐTH. Số dân đô thị ảnh hưởng đến quy mô đô thị và lực lượng lao động

tiềm năng của đô thị.

- Dân số TP Đà Nẵng năm 2020 đạt 1.169,5 nghìn người (tăng 1,54 lần so với

năm 2003), chiếm gần 1,2% dân số cả nước. So sánh trong cả nước về dân số: năm 2003 dân số TP Đà Nẵng đứng vị trí thứ 53 trên toàn quốc, đến năm 2020 đứng thứ 38/63 tỉnh thành và đứng thứ 5/5 TP loại I trực thuộc trung ương, dân số đã nhiều

hơn một số tỉnh khu vực miền Trung như Quảng Bình, Quảng Trị, Phú Yên. Với quy

mô dân số này, Đà Nẵng là một thành phố đông dân. Tuy nhiên trong từng đơn vị

hành chính quận, huyện sự biến động về quy mô dân số có khác nhau:

Bảng 2.3. Quy mô dân số các quận huyện giai đoạn từ 2003 – 2020 (ĐV: người)

Các quận, huyện 2003 2005 2010 2015 2020

Liên Chiểu 70.441 82.162 136.249 158.558 203.980

Thanh Khê 159.272 163.178 177.810 190.877 187.210

Hải Châu 208.281 192.881 195.398 209.641 204.150

Sơn Trà 109.978 116.998 132.469 153.940 161.550

Ngũ Hành Sơn 49.180 51.914 68.026 76.273 94.070

Cẩm Lệ 65.507 92.493 108.704 169.48 -

Hòa Vang 155.287 106.379 120.267 130.845 149.040

Hoàng Sa - - - - -

Nguồn: NGTK TP Đà Nẵng các năm [16]

- Trong từng giai đoạn tốc độ tăng dân số của các khu vực có sự chênh lệch:

dân số ở hai quận trung tâm Thanh Khê và Hải Châu luôn chiếm tỉ trọng lớn và giai

57

đoạn đầu tăng trưởng nhanh; từ 2006 – 2010 vùng ven, vùng ngoại ô có tỷ lệ tăng trưởng dân số bắt đầu nhanh hơn vùng trung tâm; từ 2010 – 2020 tỉ lệ tăng ở vùng

trung tâm bắt đầu chậm dần, dân số từ khu vực trung tâm chuyển đến các khu tái định

cư, các khu đô thị mới, các khu vực gần KCN, các trường đại học ở các quận Liên

Chiểu, Cẩm Lệ, Ngũ Hành Sơn, nên tốc độ tăng dân số bình quân ở các quận này cao hơn. Cao nhất là quận Liên Chiểu 7,4% mỗi năm, tiếp đến là Cẩm Lệ, Ngũ Hành Sơn

(chủ yếu là gia tăng cơ giới), quận Hải Châu có tốc độ tăng trưởng chậm nhất, chỉ

0,7% mỗi năm. Quy mô dân số TP năm 2020 gần 1,17 triệu người [10].

- Phân bố dân cư: TP Đà Nẵng có diện tích không rộng, mật độ dân số trung bình 910 người/km2, cao hơn TP Cần Thơ (862 người/km2), bằng 2/3 mật độ dân số của TP Hải Phòng (1.355 người/km2), chỉ bằng 1/3 mật độ dân số của TP Hà Nội và 1/5 mật độ dân số của TP Hồ Chí Minh. Mật độ dân số ở các quận, huyện có sự chênh lệch: tại hai quận trung tâm, mật độ dân số rất cao như Thanh Khê (19.769 người/km2) và Hải Châu (8.766 người/km2), mật độ cao gấp gần 22 lần vùng mật độ thấp và 9,6 lần mật độ trung bình toàn TP; các quận khác mật độ trên dưới 2.500 người/km2; mật độ thấp nhất là huyện Hòa Vang 203 người/km2. TP Đà nẵng đang tìm ra giải pháp để phân bố lại dân cư và giãn dân nội đô, đã tích hợp một cách hiệu quả giữa khai

thác tài nguyên thiên nhiên, phát triển kinh tế và phân bố lại dân cư, tạo môi trường

sống tốt cho người dân.

Đà Nẵng là thành phố nằm trong tốp 5 TP đông dân của Việt Nam, mật độ dân

số trung bình tương đối cao, sự phân bố dân cư các quận nội thành mức độ tập trung

cao, chỉ riêng huyện Hòa Vang (ngoại thành) mật độ thấp nhất. Điều này cho thấy về

cơ bản nhân tố dân cư cơ bản thuận lợi, thành phố có đầy đủ nguồn nhân lực cho

ĐTH và phát triển KT – XH, sẽ đáp ứng nhu cầu phát triển của một TP lớn.

b. Lao động: có tác động mạnh đến sự phát triển đô thị và kinh tế đô thị. TP

Đà Nẵng nằm ở vị trí trung tâm của vùng Duyên hải miền Trung và Tây Nguyên, là đô thị phát triển nhất trong khu vực, kinh tế CN – DV giữ vai trò chủ đạo đã thu hút

nhiều lao động. Cùng với gia tăng dân số, nguồn lao động và lao động đang làm việc của TP Đà Nẵng tăng nhanh, nhanh hơn cả tốc độ gia tăng dân số. Năm 2003, lực lượng lao động của TP là 355,8 nghìn người, trong đó số lao động đang làm việc là 337,4 nghìn người, đến 2020 lực lượng lao động tăng lên 586,2 nghìn người, trong

đó, số lao động đang làm việc là 534,5 nghìn người, tăng 1,6 lần [16]. Với tỷ lệ gia tăng dân số (trong đó gia tăng cơ học đóng vai trò quan trọng), tạo cho TP nguồn lao động dồi dào. Tỷ lệ lao động từ 15 tuổi trở lên đang làm việc chiếm tới 91,2%, có khả

58

năng đáp ứng nhu cầu lao động cho các ngành kinh tế, nhất là CN – DV, là điều kiện để thúc đẩy ĐTH phát triển.

2.1.3.3. Trình độ phát triển kinh tế Trình độ phát triển kinh tế là nhân tố quan trọng tác động đến quá trình ĐTH,

nhất là quy mô nền kinh tế, tốc độ tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế. Ngay từ khi trở thành TP trực thuộc trung ương, kinh tế TP Đà Nẵng đã được định

hướng phát triển theo hướng CNH, HĐH. Tuy nhiên, quy mô nền kinh tế đến những

năm 2003 vẫn chưa tương xứng với vị thế của một đô thị loại I trực thuộc trung ương.

Sau 18 năm thực hiện Nghị quyết số 33/NQ-TW của Bộ Chính trị (khóa IX) TP Đà

Nẵng đã có những bước tiến vượt bậc, đạt được nhiều thành tựu quan trọng trên mọi lĩnh vực, đặc biệt là lĩnh vực KT – XH. Quy mô nền kinh tế tăng nhanh, tổng GRDP (theo giá HH) năm 2003 mới đạt 4.946,9 tỉ đồng, nhưng đến 2020 đã đạt 103.234 tỉ

đồng, tăng 26,3 lần. Tốc độ tăng trưởng GRDP giai đoạn 2003 – 2020 bình quân

10%/năm, đưa TP Đà Nẵng từ một đô thị đứng thứ 22/63 tỉnh thành (2010), hiện nay

vươn lên đứng 11/63 tỉnh thành và đứng 4/5 TP loại I trực thuộc trung ương (2020),

dẫn đầu trong các tỉnh thành VKTTĐMT [16, 86].

Những kết quả về kinh tế là tiền đề quan trọng để TP Đà Nẵng tiếp tục tái đầu

tư thực hiện CNH, HĐH, từ đó thúc đẩy quá trình ĐTH cho các giai đoạn tiếp theo

2021 – 2030.

2.1.3.4. Khoa học công nghệ

Trong thực tế, sự phát triển của KHCN có tác động mang tính quyết định đối

với tăng trưởng dài hạn và chất lượng tăng trưởng nền KT – XH. KHCN thúc đẩy

tăng trưởng kinh tế thông qua tác động đến tổng cung và tổng cầu; các sản phẩm

KHCN đóng góp trực tiếp vào GDP của quốc gia. Đại hội Đảng lần thứ XIII của Việt

Nam đã nhấn mạnh: “dựa trên nền tảng khoa học để đẩy mạnh chuyển đổi số quốc

gia; tận dụng hiệu quả các cơ hội của cuộc Cách mạng 4.0 gắn với hội nhập quốc tế để cơ cấu lại nền kinh tế, phát triển kinh tế số, xã hội số”. Đây được coi là nhân tố

quyết định để nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh, góp phần thực hiện thành công CNH, HĐH đất nước. ĐTH và kinh tế đô thị luôn là chiến lược trọng tâm của CNH, HĐH. Mục tiêu là xây dựng các trung tâm đô thị nhằm tạo nền tảng hạ tầng và các nguồn lực, nhất là

nguồn lực về KHCN cho sự phát triển và chuyển đổi số. Cách mạng 4.0 tác động đến ĐTH ở mọi khía cạnh như quản lý, kiểm soát ĐTH và tất cả các hoạt động như giao

59

thông đô thị, CN, DV,..và các hoạt động xã hội, đồng thời hướng tới phát triển đô thị thông minh hiện đại.

Với vai trò và mức độ tác động của cuộc Cách mạng 4.0 đối với quá trình

ĐTH, các cấp lãnh đạo TP Đà Nẵng đều thống nhất quan điểm chủ đạo: “TP thông

minh là mô hình quản lý đô thị, trong đó CNTT – truyền thông được sử dụng như một công cụ để giải quyết những thách thức trong quản lý đô thị hiện đại dựa trên dữ liệu

và thông tin được thu thập lưu trữ, xử lý”. Chính vì vậy từ năm 2014, TP đã phê duyệt

đề án “Thành phố thông minh hơn”. TP phối hợp, hợp tác với các doanh nghiệp

CNTT hàng đầu trong nước và quốc tế để triển khai nhiều ứng dụng thông minh, tiện

ích trên môi trường số dưới dạng app cho điện thoại di động và đã thu được sự tương tác lớn của người dân, doanh nghiệp; hình thành dữ liệu số và chia sẻ dữ liệu lẫn nhau; triển khai Cổng dữ liệu mở để cung cấp dữ liệu và công khai thông tin cho

người dân, doanh nghiệp. Cụ thể, TP đã thí điểm ứng dụng thông minh vào một số

lĩnh vực chuyên ngành như: trong quản trị thông minh, triển khai hệ thống giám sát

tập trung Mini IOC và 6 dịch vụ đô thị thông minh cơ bản (DV phản ánh và góp ý,

giám sát DV công, DV giám sát giao thông, DV giám sát an ninh trật tự đô thị, DV

giám sát an toàn thông tin, DV giám sát thông tin mạng XH) và 12 dịch vụ tăng thêm.

Ứng dụng trong giao thông thông minh như giám sát bãi đỗ xe, hệ thống xe buýt chất

lượng cao, hệ thống vé tự động, hệ thống quản lý, giám sát đơn vị vận hành, hệ thống

bản đồ giao thông, hệ thống thông tin hành khách thực tại ở nhà chờ, hệ thống giám

sát an ninh trung tâm, hệ thống CSHT và Cổng thông tin giao thông trực tuyến. Ứng

dụng trong giáo dục thông minh như triển khai ứng dụng phần mềm tuyển sinh các

lớp đầu cấp, cơ sở dữ liệu dùng chung và Cổng giao tiếp dữ liệu ngành giáo dục để

liên thông tích hợp dữ liệu các phần mềm quản lý trường học, hình thành cơ sở dữ

liệu quản lý học sinh và giáo viên toàn thành phố, xây dựng Cổng tra cứu điểm thi

các cấp. Ứng dụng trong đời sống thông minh như triển khai Trung tâm giám sát an ninh, trật tự qua camera, huy động các doanh nghiệp, tổ dân phố và người dân trang

bị camera giám sát an ninh, thí điểm triển khai ứng dụng nhận dạng trong quản lý đô thị,… KHCN, nhất là việc ứng dụng công nghệ số, đã tác động mạnh đến ĐTH, thúc đẩy việc phát triển đô thị hướng đến mục tiêu “hình thành hệ sinh thái sử dụng công

nghệ số, kinh tế số phát triển, tạo nền tảng thúc đẩy phát triển các ngành, lĩnh vực mới; phát triển môi trường số an toàn, nhân văn, rộng khắp để hình thành xã hội số,

60

công dân số”. TP Đà Nẵng đã và đang thực hiện nhiều chiến lược để hướng tới, hoàn thành xây dựng đô thị thông minh vào những năm tiếp theo.

2.1.3.5. Toàn cầu hóa và thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài - Xu thế toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế tạo cơ hội cho các quốc gia và các

địa phương phát triển trên nhiều lĩnh vực, đặc biệt là lĩnh vực kinh tế. Toàn cầu hóa với sự lưu thông xuyên quốc gia về dòng vốn, dòng lao động và dòng hàng hóa, thị

trường, nhưng đồng thời cũng tạo sự cạnh tranh mạnh mẽ trong phát triển. Nhận thức

điều này, từ khi trở thành TP trung ương, lãnh đạo TP Đà Nẵng đã đề ra nhiều giải

pháp chiến lược để có thể tăng cường hợp tác phát triển trong các lĩnh vực như CN,

CNC, CNTT, du lịch và NN ứng dụng công nghệ. Tạo ra nhiều mặt hàng chủ lực tham gia vào thị trường khu vực và thế giới như sản phẩm CN - CNC, các mặt hàng tiêu dùng (linh kiện điện tử ngành hàng không, mô tơ điện, xe máy, phụ tùng ô tô,

thủy sản, giày dép, may mặc,..). Năng lực cạnh tranh hàng hóa của TP Đà Nẵng luôn

được các đối tác đánh giá cao. Quá trình hội nhập kinh tế với khu vực và quốc tế,

hiệu quả và vị thế của đô thị Đà Nẵng đã được tăng lên.

- Chính quyền TP cũng nhận thức rõ, để xây dựng và phát triển đô thị văn

minh, hiện đại, có đẳng cấp khu vực và quốc tế, có sự đồng bộ cao giữa trình độ phát

triển kinh tế với sự phát triển của CSHT. Việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài

(FDI) là nguồn lực rất quan trọng tác động mạnh đến phát triển CN, CNC, dịch vụ,

nông nghiệp, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thu hút nguồn lao động, đồng thời thúc đẩy

ĐTH nhanh và mạnh hơn. Trong thời gian qua, TP Đà Nẵng đã ban hành nhiều cơ

chế, chính sách thuận lợi, nỗ lực cải cách hành chính (giảm thành phần hồ sơ, rút

ngắn thời gian giải quyết hồ sơ, hoàn thành trung tâm dữ liệu chung, chia sẻ, tích hợp

cho các sở, ban ngành, địa phương), cam kết tạo môi trường đầu tư, kinh doanh thông

thoáng, tập trung đầu tư xây dựng CSHT đồng bộ để thu hút nhiều dự án lớn, tạo

động lực thúc đẩy phát triển kinh tế và quá trình ĐTH. Vì vậy số dự án, số vốn đầu tư trong thời gian qua tăng nhanh, góp phần tích cực cho quá trình phát triển của TP.

Bảng 2.4. Số dự án và số vốn FDI vào TP Đà Nẵng giai đoạn 2003 – 2020

Số dự án được Năm Tổng số vốn đăng kí Số vốn thực hiện

cấp phép (triệu USD) (triệu USD)

2003 5 122,9 25,58

61

2005 13 191,2 54,32

2010 22 461,7 285,97

2015 71 95,2 111,73

2020 87 129,81 308,05

Nguồn: NGTK TP Đà Nẵng các năm [16] Tính đến cuối năm 2020, lũy kế các dự án FDI còn hiệu lực là 884 dự án, với

tổng số vốn đăng ký đạt 3.598,2 triệu USD, trong đó tổng số vốn FDI đăng ký đầu tư

cho CN chế biến và chế tạo dẫn đầu chiếm 1.794,8 triệu USD (chiếm 49,9%), thứ hai

là lĩnh vực kinh doanh bất động sản 712,5 triệu USD (chiếm 19,8%), thứ ba là dịch

vụ lưu trú, ăn uống 373,8 triệu USD (chiếm 10,4%). Các quốc gia có vốn đăng ký

còn hiệu lực lớn là: Singapore hơn 1.013 triệu USD (chiếm 28,2%), Nhật Bản 765,3

triệu USD (chiếm 21,3%), Hoa Kỳ 528,8 triệu USD (chiếm 14,7%) [16].

TP Đà Nẵng luôn được coi là “điểm sáng” về thu hút đầu tư trực tiếp nước

ngoài, mặc dù hai năm trở lại đây trong bối cảnh đại dịch Covid 19 xảy ra trên toàn thế giới, nhưng FDI ở TP Đà Nẵng vẫn đạt kết quả khả quan, điều này có ý nghĩa

quan trọng góp phần vào phục hồi nền kinh tế, thúc đẩy sản xuất kinh doanh, giải

quyết việc làm, ổn định xã hội và tiếp tục thúc đẩy ĐTH phát triển.

2.1.3.6. Thể chế chính sách - Nghị quyết số 33/QĐ – TW của BCH Trung ương ngày 16/10/2003 về xây

dựng và phát triển TP Đà Nẵng trong thời kỳ CNH, HĐH đất nước, đặt ra mục tiêu:

“Xây dựng thành phố Đà Nẵng trở thành đô thị lớn của cả nước, là trung tâm kinh

tế - xã hội lớn của miền Trung với vai trò là trung tâm CN, thương mại du lịch và

dịch vụ; là thành phố cảng biển, đầu mối giao thông quan trọng về trung chuyển vận

tải trong nước và quốc tế; trung tâm bưu chính – viễn thông và tài chính – ngân hàng;

một trong những trung tâm văn hóa – thể thao, giáo dục – đào tạo và khoa học công nghệ của miền Trung; là địa bàn giữ vị trí chiến lược quan trọng về quốc phòng, an ninh của khu vực miền Trung và cả nước” [4]. Đây là văn bản pháp lý tác động mạnh mẽ nhất đối với quá trình ĐTH của TP.

Văn bản này chi phối nhiệm vụ trọng tâm trong các kỳ Đại hội Đảng bộ TP, đặc biệt

là việc thực hiện quy hoạch tổng thể TP quá trình ĐTH. Năm 2018, TP đã báo cáo

tổng kết 15 năm thực hiện Nghị quyết 33, đánh giá những thành tựu đạt được, đồng

62

thời cũng chỉ ra những hạn chế trong phát triển KT – XH và trong quá trình ĐTH, phân tích nguyên nhân và rút ra những bài học kinh nghiệm cho giai đoạn sau, đặc

biệt trong quy hoạch, sử dụng đất và quản lý đô thị.

- Quyết định thành lập VKTTĐMT của Thủ tướng Chính phủ, ban hành

13/8/2004. Mục đích: nhằm phát huy tiềm năng, vị trí địa lý và các lợi thế so sánh của vùng, từng bước phát triển VKTTĐMT thành một trong những vùng phát triển

năng động của cả nước. Nhiệm vụ trọng tâm: tập trung nghiên cứu chiến lược phát

triển tổng thể cho cả khu vực; các đô thị trong vùng cần phải liên kết chặt chẽ, bổ

sung, hỗ trợ nhau trong quá trình phát triển, phát huy thế mạnh, nâng cao sức cạnh

tranh của toàn vùng, giải quyết những vấn đề chung để hướng tới sự phát triển bền vững đối với từng địa phương; hình thành "chuỗi đô thị biển" tạo động lực phát triển cho cả vùng; trong đó, TP Đà Nẵng được xác định là đô thị hạt nhân, tạo động lực

thúc đẩy sự tăng trưởng trong phát triển KT – XH cho cả khu vực miền Trung và Tây

Nguyên [8].

- Nghị quyết số 43 - NQ/TW, của Bộ Chính trị về xây dựng và phát triển TP

Đà Nẵng đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2045, ban hành ngày 24/1/2019, Bộ

Chính trị xác định mục tiêu và nhiệm vụ chiến lược cho TP trong giai đoạn mới.

Mục tiêu: “Xây dựng thành phố Đà Nẵng trở thành một trong những trung

tâm KT – XH lớn của cả nước và Đông Nam Á, là hạt nhân của chuỗi đô thị và cực

tăng trưởng của vùng kinh tế trọng điểm miền Trung - Tây Nguyên; trở thành đô thị

sinh thái, hiện đại, thông minh và đáng sống” [5].

Nghị quyết mở ra một tầm nhìn mới, cùng với những chính sách vượt trội để

TP Đà Nẵng có cơ hội vươn ra biển rộng. Nghị quyết nhấn mạnh: “cần chú trọng

công tác quản lý đô thị, tổ chức không gian đô thị hiện đại, hài hòa với thiên nhiên,

bảo tồn và phát triển bản sắc đặc trưng của đô thị biển - sông - núi, bảo đảm các tiêu

chuẩn đô thị hiện đại; nghiên cứu mở rộng không gian và phát triển các khu đô thị mới về phía Tây và Tây Bắc theo hướng đô thị sinh thái, đô thị xanh, ĐTH gắn với

xây dựng nông thôn mới. Phát triển khu trung tâm thành phố theo hướng mô hình đô thị nén hiện đại” [5].

Những văn bản pháp lý của Nhà nước, là những định hướng nêu ra trong các văn bản trên về Quy hoạch và phát triển TP Đà Nẵng, góp phần đẩy nhanh quá trình

ĐTH theo cả chiều rộng và chiều sâu, đưa TP Đà Nẵng trở thành đô thị văn minh, hiện đại của cả nước.

63

2.1.4. Đánh giá chung

2.1.4.1. Thuận lợi, cơ hội TP Đà Nẵng có vị trí địa lý thuận lợi, là TP biển chỉ cách các đầu mối giao

thông quan trọng của nước ta như các cảng, các sân bay quốc tế lớn, các đầu mối giao

thông đường sắt, đường bộ và các trung tâm kinh tế, văn hóa, xã hội lớn của nước ta là thủ đô Hà Nội và TP Hồ Chí Minh trong bán kính từ 500 – 950km và khoảng cách

với cách các quốc gia trong khu vực Đông Nam Á và một số nước châu Á trong bán

kính 2000km tạo điều kiện rất thuận lợi cho mở rộng quan hệ hợp tác kinh tế và giao

lưu văn hóa, xã hội với các vùng trong nước và các nước trong khu vực, trên thế giới.

TP Đà Nẵng nằm giữa hai TP lớn (Hà Nội và Hồ Chí Minh), nằm trên các trục giao thông Bắc – Nam quan trọng của cả nước (đường bộ, đường sắt, đường biển và đường hàng không); là cửa ngõ giao thông quan trọng của vùng Tây Nguyên và là

điểm cuối của Hành lang Kinh tế Đông – Tây; là TP trẻ năng động, có sức lan tỏa

lớn. Đây là những cơ hội rất tốt để TP Đà Nẵng vận dụng các kinh nghiệm phát triển

đô thị của các TP trong và ngoài nước trong ĐTH, phát triển TP Đà Nẵng trở thành

đô thị văn minh, hiện đại ngang tầm khu vực và quốc tế.

TP Đà Nẵng có điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên tương đối thuận

lợi, có núi – sông – biển – đồng bằng trong lòng TP, cảnh quan thiên nhiên đẹp và

khí hậu biển tốt cho con người và sinh vật, rất thuận lợi để phát triển không gian đô

thị về các hướng Tây, Tây Bắc, và phía Tây; địa hình thuận lợi cho việc xây dựng

nhà ở đô thị, các cơ sở kinh tế, công trình công cộng và CSHT đô thị ít tốn chi phí về

san lấp, cải tạo mặt bằng.

TP Đà Nẵng có tốc độ phát triển kinh tế tương đối nhanh, năng lực cạnh tranh

cấp tỉnh luôn đứng trong tốp đầu; có môi trường đầu tư hấp dẫn, thu hút nhiều dự án

lớn và nguồn vốn lớn từ nước ngoài; người dân thuần phác, cần cù lao động, có nhiều

kinh nghiệm trong phòng chống thiên tai; hạ tầng đô thị tương đối tốt, đồng bộ và hiện đại. Có cảng biển lớn, có sân bay quốc tế và là trung tâm giáo dục đào tạo lớn

nhất miền Trung – Tây Nguyên.

2.1.4.2. Khó khăn hạn chế TP Đà Nẵng nằm trong vùng thường xuyên chịu ảnh hưởng của biến đổi khí hậu, nước biển dâng, thiên tai, mưa bão lớn và lũ lụt với sức tàn phá mạnh, ảnh hưởng

TP Đà Nẵng có diện tích đất tự nhiên không lớn, diện tích đất chưa sử dụng

rất lớn đến CSHT, CSVCKT và sự phát triển KT – XH của TP. còn ít, nên diện tích đất đai để phát triển đô thị bị hạn chế.

64

Thời gian qua, TP Đà Nẵng cũng chưa thu hút mạnh được nhiều lao động có chất lượng cao, trẻ, năng động và sáng tạo ở trong nước và nước ngoài đến để làm

ăn, sinh sống, gây hạn chế năng suất và chất lượng lao động, thông qua đó cũng ảnh

hưởng đến ĐTH, đặc biệt là sự phát triển đô thị thông minh và hiện đại.

2.2. THỰC TRẠNG ĐÔ THỊ HÓA Ở THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

2.2.1. Chức năng đô thị

Ngày 15/7/2003, TP Đà Nẵng được công nhận là đô thị loại I trực thuộc trung

ương, với mục tiêu xác định xây dựng Đà Nẵng trở thành trung tâm kinh tế lớn của

quốc gia, là trung tâm văn hóa giáo dục, KHCN của miền Trung – Tây Nguyên. Từ

sự chuyển đổi cấp hành chính này, có nền tảng pháp lý, được sự hỗ trợ của trung ương, đô thị Đà Nẵng thực sự chuyển mình nhanh, trở thành đô thị lớn, đô thị tổng hợp với các chức năng chính theo thứ tự ưu tiên:

- Là TP du lịch sinh thái – Trung tâm phát triển du lịch các tỉnh miền Trung –

Tây Nguyên.

- Là TP khoa học và CN - CNC.

- Là trung tâm giáo dục đào tạo, thông tin truyền thông, viễn thông quốc tế

của khu vực miền Trung – Tây Nguyên.

- Là Trung tâm tài chính, tín dụng, ngân hàng.

- Là đầu mối giao thông về đường bộ, đường sắt quốc gia, cảng biển, cảng

hàng không quốc tế, có vị trí chiến lược quan trọng về an ninh khu vực Nam Trung

Bộ, Tây Nguyên và cả nước.

Theo quy hoạch vùng chức năng đô thị từ 2013 – 2020 và giai đoạn tiếp theo,

TP Đà Nẵng đã phân 3 vùng đặc trưng: Vùng ven mặt nước (ven sông Hàn, ven vịnh

biển), Vùng lõi xanh, Vùng sườn đồi. Trong các vùng, được tổ chức thành các phân

khu đô thị với những đặc tính, chức năng riêng biệt. Ngoài ra còn có Vùng sinh thái

phía Tây và phía Đông.

Hướng đến 2030, Đà Nẵng sẽ trở thành đô thị với chức năng là trung tâm về

khởi nghiệp đổi mới, sáng tạo quốc gia mang tầm cỡ khu vực Đông Nam Á, năm 2045, sẽ trở thành trung tâm công nghệ và đổi mới sáng tạo hàng đầu châu Á [10].

TP đã tập trung đầu tư cải tạo, nâng cấp CSHT giao thông, chỉnh trang đô thị, cải thiện hạ tầng kỹ thuật và xây dựng các khu đô thị mới,…đến 2020 quá trình ĐTH

ở TP Đà Nẵng đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng thể hiện qua các tiêu chí đánh giá đã lựa chọn về chức năng đô thị, về quy mô dân số, về kinh tế và sự mở rộng không gian đô thị.

65

2.2.2. Quy mô dân số đô thị

2.2.2.1. Quy mô dân số đô thị giai đoạn 2003 – 2020 a. Dân số

- Từ năm 2003, cùng với việc mở rộng không gian đô thị, sự thay đổi của cơ

cấu kinh tế và sự phát triển kinh tế theo hướng CNH, dân số TP Đà Nẵng đã liên tục tăng trưởng. Dân số sau 18 năm tăng 1,6 lần. Tính bình quân năm tăng 20,2 nghìn

người, tương đương tốc độ tăng bình quân hàng năm giai đoạn 2003 - 2010 là

2,62%/năm, giai đoạn 2010 – 2020 là 2,54%.

- Sự tăng trưởng dân số của TP Đà Nẵng do gia tăng tự nhiên và gia tăng cơ

học, thể hiện ở bảng sau:

Bảng 2.5. Số dân và gia tăng dân số ở TP Đà Nẵng giai đoạn 2003 – 2020

Gia tăng TN Gia tăng CH Gia tăng DS Năm Dân số

(%) (%) (%) (nghìn người)

2003 747,1 1,19 0,70 1,89

2005 805,7 1,25 0,38 1,63

2010 937,2 1,26 2,64 3,90

2015 1.056,3 1,11 0,49 1,60

2020 1.169.5 1,47 1,10 2,57

Nguồn: NGTK TP Đà Nẵng các năm [16]

+ Tỷ lệ gia tăng tự nhiên trung bình từ 1,15 đến 1,25%/năm (cao hơn mức

trung bình cả nước), do tỷ lệ tử nhỏ và không biến động nhiều.

+ Tỷ lệ gia tăng cơ học của TP Đà Nẵng ở mức cao so với các TP trong cả

nước và cao nhất so với các tỉnh thành thuộc vùng Duyên hải miền Trung. Gia tăng cơ học là yếu tố quan trọng đối với dân số, lao động và sự phát triển KT – XH của đô thị. Đà Nẵng là một đô thị có nhiều lợi thế trong phát triển, tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt bình quân hơn 8%/năm, tốc độ ĐTH nhanh nhất trong cả nước (đạt mức bình quân giai đoạn 2016 – 2020 là 36,8%), đã thu hút một số lượng lớn dân cư từ nơi khác đến, tỉ lệ gia tăng cơ học cao, đạt mức bình quân 1,0%/năm, trung bình mỗi năm

66

TP Đà Nẵng gia tăng cơ học khoảng 15.000 người [93]. Đà Nẵng có tỷ lệ nhập cư luôn luôn cao hơn tỷ lệ xuất cư, thể hiện ở biểu đồ sau:

%

Năm

Hình 2.1. Biểu đồ gia tăng dân số cơ học của TP Đà Nẵng giai đoạn 2003 – 2020

(Nguồn số liệu [16])

Từ biểu đồ 2.1 ta thấy: giai đoạn 2003 – 2005, do đang ở giai đoạn đầu của

phát triển kinh tế, CN phát triển, số lao động nhập cư vào TP tương đối nhiều, tỷ suất

nhập cư cao (từ 12 – 15‰), cùng với đó số người xuất cư khỏi TP tìm việc làm, chủ

yếu vào TP Chí Minh, Đồng Nai nhiều nên tỷ suất xuất cư cũng khá cao (trên 8‰),

tỉ lệ gia tăng cơ học còn thấp. Năm 2010, việc chỉnh trang đô thị đã ổn định và quy

hoạch các khu đô thị mới được định hình, tỷ lệ nhập cư vào TP Đà Nẵng tăng cao

(29,8‰), trong khi tỷ suất xuất cư nhỏ (3,4‰), tỷ lệ gia tăng cơ học cao đạt 2,64%.

Từ 2010 trở lại đây, tỷ lệ người nhập cư cao (trung bình năm là 18,4‰) hơn nhiều

lần tỷ lệ người xuất cư (trung bình năm là 4,3‰), nên tỷ lệ gia tăng cơ học của TP cao (trung bình năm 1,3%), cao thứ 4/63 tỉnh thành (sau Bình Dương, Bắc Ninh và TP Hồ Chí Minh).

- Xét về nguyên nhân người nhập cư vào TP Đà Nẵng trong thời gian qua có

thể đề cập đến 3 nguyên nhân cơ bản:

Thứ nhất, chủ yếu do mục đích kinh tế (chiếm 69,38% tổng số người nhập cư)

[93], TP Đà Nẵng trong giai đoạn từ 2003 – 2020, CN phát triển nhanh chóng, với 6

67

KCN tập trung, 01 khu CNC và 01 Trung tâm CNTT. Hơn nữa, sau 2010 du lịch và DV cũng phát triển mạnh nên nhu cầu lao động tăng nhanh, cơ hội tìm kiếm việc làm

nhiều hơn và thu nhập cao hơn, tạo lực hút rất lớn đối với lao động nhập cư từ các

tỉnh. Trong khi đó các tỉnh lân cận như Thừa Thiên Huế, Quảng Nam, Quảng Ngãi

tốc độ CNH và ĐTH chậm hơn nên sức hút yếu hơn.

Thứ hai, do điều kiện sống ngày càng được cải thiện về giáo dục, đào tạo nghề,

việc học hành của bản thân và con cái, các dịch vụ y tế, chăm sóc sức khỏe, các nhu

cầu văn hóa, thể thao,... TP Đà Nẵng là đô thị thực hiện nhiều chương trình đảm bảo

và nâng cao chất lượng cuộc sống cho người dân, như chương trình “5 không” “3

có”, xây dựng TP môi trường. Từ 2016 TP thực hiện chiến lược “4 an”, cùng với sự phát triển mạnh của các ngành dịch vụ y tế, giáo dục, văn hóa,…làm cho chất lượng cuộc sống của người dân TP được nâng cao rõ rệt, tạo nên những sức hút dân cư và

lao động từ các tỉnh khác đến lập nghiệp. Đặc biệt trong đó có một bộ phận lao động

có trình độ và tay nghề cao, đã góp phần bổ sung lực lượng lao động cho TP.

Thứ ba, TP Đà Nẵng có tốc độ ĐTH nhanh so với cả nước. Trong giai đoạn

2003 – 2020, TP đã thực hiện quy hoạch, chỉnh trang, mở rộng diện tích đô thị gấp 4

lần. Đồng thời chất lượng đô thị cũng ngày càng đồng bộ và hiện đại hơn cả về CSHT

và CSVCKT, bộ mặt TP đã thay đổi, thu hút các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Hơn

nữa các chính sách, thủ tục về nhập cư, về đất thổ cư cũng thông thoáng hơn, cũng là

nguyên nhân tạo nên lực hút dân cư từ các tỉnh, thành đến.

Người nhập cư vào TP Đà Nẵng chủ yếu đến từ các tỉnh miền Trung và Tây

Nguyên. Theo số liệu của Sở LĐ –TB&XH TP Đà Nẵng, giai đoạn 2010 - 2018, dân

nhập cư đến chủ yếu từ các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng

Trị, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định chiếm 80,1%, từ Tây Nguyên chiếm 8,1%

và từ vùng đồng bằng sông Hồng chiếm 4,6% [93], 7,2% còn lại là đến từ các tỉnh,

thành khác trong phạm vi cả nước. Đơn vị hành chính nhận số lượng dân nhập cư nhiều nhất là quận Liên Chiểu (chiếm gần 30% tổng dân nhập cư), tiếp đến là các

quận Cẩm Lệ, Ngũ Hành Sơn (chiếm trên 20% tổng dân nhập cư), vì đây là các quận tập trung nhiều KCN, các trường đại học và các khu đô thị mới. Quận trung tâm Hải Châu có tỷ lệ dân nhập cư ít nhất (khoảng 0,7%), đây là khu vực đã có mật độ dân cao, giá đất, giá nhà ở và cho thuê cao nên dân nhập cư vào ít. Nhờ có lao động nhập

cư vào TP đã đáp ứng được nhu cầu tăng trưởng KT – XH.

Những biến đổi về quy mô dân số của TP Đà Nẵng là do ĐTH và sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH. CN và DV phát triển mạnh, thu hút số

68

lượng lớn lực lượng lao động từ các tỉnh vào TP, gia tăng cơ học luôn dương, với tỷ lệ tăng, trung bình năm khoảng 1,1%. Xét về gia tăng cơ học TP Đà Nẵng đứng thứ

4/63 tỉnh thành (sau Bình Dương, Bắc Ninh và TP Hồ Chí Minh), đứng thứ 2/5 TP

trực thuộc trung ương (sau TP Hồ Chí Minh). Điều này thể hiện mặt tích cực trong

thu hút nguồn lao động có chất lượng, đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế và nhu cầu ĐTH, tuy nhiên cũng gây nhiều sức ép đối với giải quyết việc làm, nhà ở và các vấn

đề xã hội khác.

b. Tỷ lệ dân thành thị

TP Đà Nẵng là đô thị có bề dày lịch sử, đô thị cảng và giao thương buôn bán,

tỉ lệ dân thuần nông thấp, tỉ lệ dân thành thị luôn cao. Ngay từ khi được công nhận là đô thị loại I trực thuộc trung ương năm 2003 tỉ lệ dân thành thị cũng đã cao chiếm 79,1%. Từ 2003 - 2020 quá trình ĐTH diễn ra với tốc độ nhanh, diện tích, không gian

đô thị mở rộng, cùng với sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế, đa dạng hoá các hoạt động

dịch vụ phi NN nên tỉ lệ dân thành thị tăng nhanh, đến 2020 chiếm 87,3%, đứng đầu

cả nước về tỉ lệ dân thành thị.

%

Nghìn người

Năm

Hình 2.2. Biểu đồ dân số thành thị và tỉ lệ dân thành thị của TP Đà Nẵng giai đoạn 2003 – 2020 (nguồn số liệu [16])

Số dân thành thị từ 2003 – 2020 tăng 429,4 nghìn người, gấp 1,72 lần. Ở một

số quận như Liên Chiểu, Cẩm Lệ, Ngũ Hành Sơn, trong những năm qua do tác động của ĐTH và kinh tế đô thị, dân số tăng nên số dân thành thị cũng tăng theo, trong khi đó các quận trung tâm như Thanh Khê, Hải Châu dân số có chiều hướng giảm, do

69

giãn dân ra các khu tái định cư, khu đô thị mới và quy hoạch các khu chức năng đô thị nên số dân thành thị cũng có chiều hướng giảm.

Bảng 2.6. Tỷ lệ dân đô thị TP Đà Nẵng, giai đoạn 2003 – 2020

phân theo quận, huyện (ĐV %)

Quận, huyện 2003 2005 2010 2015 2020

Toàn thành phố 79,1 86,3 86,9 87,0 87,3

Quận Liên Chiểu 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0

Quận Thanh Khê 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0

Quận Hải Châu 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0

Quận Sơn Trà 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0

Quận Ngũ Hành Sơn 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0

Quận Cẩm Lệ 100,0 100,0 100,0 100,0 -

Huyện Hòa Vang 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0

Huyện Hoàng Sa 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0

Nguồn: NGTK TP Đà Nẵng các năm [16]

Do sự chuyển đổi về kinh tế đô thị từ NN qua CN và DV, các quận được thành

lập, các xã được sát nhập và chuyển thành các quận, hoạt động kinh tế cũng được

chuyển đổi sang CN và DV nên ở các quận nội thành tỷ lệ dân thành thị vẫn chiếm

100%.

2.2.2.2. Lao động - Cùng với sự gia tăng dân số đô thị, lực lượng lao động của TP Đà Nẵng cũng

tăng nhanh, tốc độ tăng của lực lượng lao động nhanh hơn tốc độ tăng dân số, do quá trình ĐTH nhanh, cùng với sự chuyển biến về cơ cấu kinh tế, về ngành nghề dẫn đến số lượng lao động tăng lên. Tỷ lệ lao động đang làm việc trong các ngành kinh tế so với tổng lực lượng lao động chiếm tỉ lệ ngày càng cao, năm 2003 – 2005, chiếm 75%. Từ sau 2010 con số này vượt trên 95,0%, điều này thể hiện, thành phố đã chú trọng

quan tâm giải quyết việc làm cho người lao động, giảm tỉ lệ lao động không có việc

70

làm và thất nghiệp. Tuy nhiên, năm 2020 do ảnh hưởng của đại dịch Covid - 19, tỉ lệ lao động đang làm việc giảm còn 91,2% trong tổng lao động.

Bảng 2.7. Lực lượng lao động và lao động đang làm việc ở TP Đà Nẵng

giai đoạn 2003 – 2020 (ĐV: nghìn người)

Chỉ tiêu 2003 2005 2010 2015 2020

Lực lượng lao động 355,8 386,5 463,8 547,0 586,2

LĐ đang làm việc 337,4 367,7 441,6 523,3 534,5

- Trong đó khu vực 73,4 84,0 85,5 85,4 84,5

thành thị (%)

Nguồn: NGTK TP Đà Nẵng các năm [16]

- Về cơ cấu lao động thành thị và nông thôn: do hoạt động CN, DV phát triển mạnh, nên thu hút lực lượng lao động vào khu vực đô thị nhiều, chiếm tỉ lệ cao. Tỷ

lệ lao động thành thị năm 2003 chiếm 73,4% tổng lao động, đến 2020 tỷ lệ lao động

đang làm việc ở khu vực thành thị rất cao chiếm 84,5%, lao động nông thôn chỉ chiếm

tỷ trọng thấp từ 26,6% năm 2003 còn 15,5% (tập trung trong khu vực sản xuất NN,

lâm nghiệp, ngư nghiệp), phù hợp với tỷ lệ dân số giữa thành thị và nông thôn.

- Về cơ cấu lao động theo nhóm ngành kinh tế: cơ cấu GRDP theo nhóm ngành

kinh tế của TP chuyển dịch nhanh từ NN sang DV và CN, kéo theo sự chuyển dịch

cơ cấu lao động từ lao động NN sang DV và CN. Sự chuyển dịch này phù hợp, nhằm

khai thác có hiệu quả các nguồn lực, tăng năng suất lao động. Theo tính toán từ số

liệu kinh tế 2017 – 2018 Việt Nam và Thế giới cho thấy: ngành NN giảm 1% lao

động thì năng suất tăng 2,1%, ngành CN tăng 1% lao động làm tăng 8,89% năng suất

lao động, ngành DV tăng 1% lao động, năng suất lao động tăng 16,1% [86]. Vì vậy,

sự chuyển dịch lao động từ khu vực sản xuất NN sang khu vực DV và CN của TP Đà Nẵng thể hiện đúng hướng CNH, HĐH, làm tăng năng suất lao động và cũng đã phản ánh rõ thực trạng của ĐTH trong nguồn lao động của TP.

71

Năm

Hình 2.3. Biểu đồ cơ cấu lao động đang làm việc phân theo nhóm ngành kinh tế

của TP Đà Nẵng giai đoạn 2003 – 2020 [16]

- Ngay trong từng ngành, cơ cấu lao động cũng có sự thay đổi, phù hợp với sự

phát triển kinh tế đô thị từng giai đoạn. Giai đoạn đầu CNH, lao động trong ngành

CN chiếm tỉ lệ cao. Thời gian gần đây, một số ngành DV phát triển mạnh, có giá trị

gia tăng cao, do khai thác tốt tiềm năng và đáp ứng nhu cầu xã hội như du lịch, mức

tăng lao động từ 2015 – 2020 là 3,25 lần, CNTT tăng 1,9 lần, DV logistics tăng 1,5

lần làm cho số lượng lao động trong ngành DV tăng nhanh [118], chiếm tới 68,3%.

Ngược lại, lao động trong khu vực NN giảm nhanh năm 2020 còn 3,3%. Sản xuất NN hiện cũng chuyển sang hướng ứng dụng KHKT và công nghệ, giảm số lượng lao

động, tăng năng suất và chất lượng sản phẩm; tập trung sản xuất các sản phẩm đáp

ứng nhu cầu dân cư đô thị như các loại rau củ, hoa quả, gia súc, gia cầm.

Sự gia tăng lực lượng lao động và chuyển dịch cơ cấu lao động trong thời gian qua của TP Đà Nẵng là phù hợp với tiến trình phát triển KT - XH của TP, đó là kết

quả của quá trình ĐTH nhanh chóng, phù hợp, tạo điều kiện thuận lợi để TP đề ra những quyết sách phát triển ĐTH trong giai đoạn mới.

2.2.3. Kinh tế đô thị

2.2.3.1. Quy mô GRDP Năm 2003, Đà Nẵng được công nhận là đô thị loại I, đánh dấu một cột mốc quan trọng, với nhiệm vụ xây dựng TP Đà Nẵng trở thành một trong những đô thị lớn của cả nước; là trung tâm KT – XH của miền Trung với vai trò là trung tâm CN,

72

thương mại, du lịch và DV, tạo ra luồng sinh khí và động lực mới cho sự phát triển, các quyết sách, chiến lược đều tập trung vào thực hiện ĐTH và phát triển KT – XH

theo hướng CNH, HĐH. Nhờ đó, tổng sản phẩm trên địa bàn của TP liên tục tăng

(năm 2003 tổng GRDP của TP chỉ 4946,9 tỉ đồng (giá hiện hành), đến 2020 đã tăng

lên 103.234 tỉ đồng) tăng 20,5 lần. Trong đó, khu vực CN – XD giai đoạn đầu 2003 – 2005 tăng nhanh và chiếm tỉ trọng cao trên 50% GRDP của thành phố, giai đoạn từ

2010 – 2020, khu vực DV lại tăng nhanh và chiếm tỉ trọng cao trên 65% GRDP của

TP, khu vực N – L – TS chiếm tỉ trọng nhỏ và giảm dần, tỉ trọng trên, dưới 2%. Tỉ

trọng này phù hợp với ĐTH và sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế của TP trong hai giai

đoạn.

Bảng 2.8. Quy mô và cơ cấu GRDP của TP Đà Nẵng giai đoạn 2003 – 2020

Chỉ tiêu ĐV 2000/2003 2005 2010 2015 2020

Tỉ 4.946,9 11.690,8 34.763,0 73.791,0 103.234

GRDP (giá HH) - So với cả nước đồng - - 22/63 18/63 11/63

- So với 5 TPTW - - 5/5 5/5 4/5

% 100 100 100 100 100

Cơ cấu GRDP - Nông, lâm, ngư 7,8 5,1 2,8 2,2 2,2

- CN – XD 41,3 50,2 21,6 23,4 21,1

- Dịch vụ 50,9 43,2 66,1 63,4 66,5

- Thuế SP - 1,5 10,5 11,0 10,2

Tỉ 3390,2 6236,3 34.793,0 51.616,0 63907,0

GRDP (giá SS 2010) đồng (giáSS-94) (giá SS-94)

4. Tốc độ TT % 9,9 13,8 11,6 7,84 -7,9

Nguồn: NGTK Việt Nam và Tp Đà Nẵng các năm [16]

Trong cơ cấu GRDP, tỉ trọng khu vực N – L - TS thấp thứ 2/63 tỉnh thành (sau TP Hồ Chí Minh) và tỉ trọng khu vực DV cao thứ 3/63 tỉnh thành (sau TP Hà Nội và

TP Hồ Chí Minh). Tốc độ tăng trưởng GRDP luôn ở mức cao và tăng nhanh trong giai đoạn 2003 – 2010, riêng năm 2020 do ảnh hưởng nặng nề của đại dịch Covid – 19 nên TP Đà Nẵng là một trong 5 tỉnh, TP có tốc độ tăng trưởng âm (-).

2.2.3.2. Cơ cấu kinh tế Quá trình ĐTH và cơ cấu kinh tế theo nhóm ngành có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, cơ cấu kinh tế dẫn dắt quá trình ĐTH, còn ĐTH thúc đẩy nhanh sự chuyển

73

dịch cơ cấu kinh tế. Trong giai đoạn 2003 - 2020 ĐTH ở TP Đà Nẵng thể hiện rõ trong sự thay đổi cơ cấu kinh tế, cùng với sự tăng trưởng về GRDP.

Giai đoạn đầu khi mới tách từ TP trực thuộc tỉnh trở thành TP trung ương, đô

thị loại I, TP Đà Nẵng chọn hướng đột phá ưu tiên phát triển CN, thực hiện song song

với quá trình ĐTH, cơ cấu kinh tế là CN – DV – NN. TP tập trung xây dựng các KCN, đưa số lượng từ 2 lên 6 KCN, phát triển các ngành CN có thế mạnh, sản phẩm có nhu

cầu lớn trên thị trường quốc tế và khu vực như điện tử, sản xuất linh kiện, dệt -

may,…Tỉ trọng nhóm ngành CN bắt đầu tăng từ 26% (1997) lên 32,7% năm 2010.

Thời kì này tốc độ ĐTH cũng bắt đầu tăng nhanh.

Giai đoạn từ 2010 – 2020, để khai thác các thế mạnh về nguồn lực và hướng đến sự phát triển bền vững, TP Đà Nẵng lựa chọn mô hình phát triển kinh tế thân thiện, hiện đại với môi trường, lấy ngành DV làm mũi nhọn, chủ đạo, TP đã chú trọng

ưu tiên đầu tư nguồn vốn cho ngành DV (tỉ trọng vốn đầu tư cho DV chiếm hơn

60%/năm trong tổng vốn đầu tư trên địa bàn TP), dịch vụ bắt đầu tăng trưởng mạnh,

đóng góp tỉ trọng lớn vào GRDP của TP. Cơ cấu kinh tế bắt đầu chuyển dịch dần từ

CN sang DV, du lịch là ngành mũi nhọn và là 1 trong 3 trụ cột kinh tế của TP. Ngành

DV tăng trưởng nhanh và chiếm tỉ trọng cao, ngành CN giảm dần tỷ trọng, tập trung

vào các ngành có hàm lượng kỹ thuật cao và có giá trị xuất khẩu trên thị trường quốc

tế, chọn hướng CN – CNC là trụ cột thứ hai, cảng biển và kinh tế biển là trụ cột thứ

3 của TP. NN giảm nhanh, chiếm tỉ trọng nhỏ, sản xuất chuyển hướng ứng dụng công

nghệ cao trong NN tạo ra các sản phẩm phục vụ nhu cầu của đô thị. Cơ cấu ngành

kinh tế chuyển dịch sang DV – CN – NN. Trên thực tế, ngay từ năm 2008, cơ cấu kinh

tế của TP đã chuyển dịch sang hướng này, trước 2 năm so với mục tiêu đề ra. Sự

chuyển dịch này thể hiện cơ cấu ngành của một đô thị hiện đại và đúng hướng, qua

đó thúc đẩy ĐTH và tăng trưởng kinh tế, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển bền

vững.

2.2.4. Cơ sở hạ tầng đô thị Trong những năm qua, tiến hành ĐTH, TP Đà Nẵng luôn tập trung đầu tư xây dựng và nâng cao chất lượng CSHT để đáp ứng nhu cầu phát triển KT – XH và nhu cầu sinh hoạt, làm việc của người dân, của doanh nghiệp và xứng tầm là đô thị trung tâm của khu vực miền Trung – Tây Nguyên.

2.2.4.1. Hệ thống giao thông - Hệ thống đường bộ: quá trình ĐTH tập trung vào mở rộng, nâng cấp, hiện đại hóa các tuyến phố hiện có trong TP; quy hoạch mở thêm nhiều tuyến phố mới với

74

chất lượng cao, đặc biệt là các tuyến phố chính vào trung tâm TP, đến các khu du lịch, và các tuyến phố có chức năng du lịch. Đối với khu vực nông thôn, các tuyến

giao thông cũng được nâng cấp, mở rộng, mở thêm nhiều tuyến mới và bê tông hóa

đến hơn 90% các tuyến đường nông thôn. ĐTH tập trung đầu tư đã tạo nên một mạng

lưới giao thông đường bộ của TP ngày càng thay đổi cả về số lượng và chất lượng, tính đến năm 2020, trong 6 quận nội thành đã có tới 2.000 tuyến phố, tổng chiều dài

1.303,574 km, trong đó các tuyến phố nội đô 954,348 km, tuyến đường quốc lộ là

119,276 km, tuyến đường tỉnh 75,210 km, còn lại là tuyến giao thông huyện, xã và

tuyến chuyên dùng là 154,740 km. Hệ thống giao thông nội đô được kết nối đồng bộ

với giao thông thôn xã. Nối hai bờ Đông – Tây sông Hàn là 9 cây cầu hiện đại, đặc sắc. Nổi bật nhất là các cầu: Thuận Phước, Sông Hàn, Rồng, Nguyễn Văn Trỗi, Trần Thị Lý, nằm giữa khu trung tâm TP, vừa thuận lợi cho giao thông đi lại hai bên sông

Hàn, vừa là những điểm du lịch thú vị đối với du khách. Nếu so sánh với hệ thống

đường bộ trước năm 2003, toàn thành phố chỉ có 100 con đường, tổng chiều dài 300

km, hai bên sông Hàn chỉ được nối thông bởi 1 bến phà và một cây cầu Nguyễn Văn

Trỗi. Các tuyến đường ven biển phía Đông, vịnh Đà Nẵng đã và đang được hình

thành. Đến nay, mạng lưới giao thông đường bộ không ngừng được chỉnh trang, mở

rộng và hoàn thiện, tạo thuận lợi cho việc đi lại và cho phát triển du lịch, DV, KT –

XH mà còn góp phần tạo nên mỹ quan đô thị, mang lại vẻ đẹp cho TP.

- Hệ thống giao thông đường thủy, có cả đường sông và đường biển:

+ Giao thông đường sông: địa phận TP có 6 con sông: sông Cu Đê, sông Cẩm

Lệ, sông Túy Loan, sông Yên, sông Quá Giáng, sông Cổ Cò, với tổng chiều dài 49,2

km. Trong đó, sông có giá trị giao thông quan trọng là sông Hàn. Sông Hàn dài 9,4

km, là hạ lưu của hai sông Cẩm Lệ và sông Vĩnh Điện đổ ra vịnh Đà Nẵng. Sông Hàn

có độ rộng trung bình là 120m, độ sâu về mùa khô là 4,5m, về mùa mưa trên 5,5m.

Sông Hàn chảy trong lòng TP, không những tạo cảnh quan đẹp cho đô thị, mà còn có giá trị đối với du lịch đường sông. Dọc sông Hàn có các tour du lịch hoạt động theo

các tuyến: tour dọc sông Hàn ra cửa biển; tour du ngoạn Bãi Cát Vàng và bán đảo Sơn Trà; tour câu cá, lặn ngắm san hô bán đảo Sơn Trà; tour Hòn Chảo - Đảo Ngọc và bước đầu đã hình thành một cảng du lịch sông Hàn. TP đang đầu tư nạo vét, khơi thông sông Cổ Cò phục vụ mục đích du lịch, hình thành tour du lịch đường sông nối

TP Đà Nẵng với đô thị cổ Hội An.

+ Giao thông đường biển: vịnh Đà Nẵng vừa rộng, sâu và kín, rất thuận để phát triển cảng biển và giao thông đường biển. Cảng Đà Nẵng được hình thành và

75

phát triển từ lâu đời. Để trở thành một đầu mối giao thông đường biển quan trọng, quá trình ĐTH đã thực hiện quy hoạch các cảng thành các cụm cảng. Hiện tại Đà

Nẵng đã có các cụm cảng như: cụm cảng Tiên Sa, là cảng hàng hóa chính, quan trọng,

cảng Tiên Sa đã được đầu tư nâng cấp và hiện đại hóa. Tuy nhiên, cảng Tiên Sa đang

được chuyển đổi dần chức năng thành cảng du lịch lớn của miền Trung; cụm cảng Liên Chiểu, đang được đầu tư xây dựng, mở rộng quy mô trở thành cụm cảng lớn,

đảm nhiệm chức năng vận chuyển hàng hóa và DV logistics. Cảng Liên Chiểu thay

thế chức năng vận chuyển hàng hóa cho cảng Tiên Sa và là cảng quan trọng trong

chuỗi DV logistics của cả khu vực miền Trung – Tây Nguyên và khu vực Đông Nam

Á. Tạo tiền đề cho hình thành khu đô thị cảng ở phía Bắc TP, kết nối các KCN hiện có. - Hệ thống giao thông đường hàng không: sân bay quốc tế Đà Nẵng là một

trong 5 sân bay quốc tế lớn của cả nước, với diện tích toàn khu vực là 861 ha. Đến

năm 2020, sân bay có 2 nhà ga: nhà ga nội địa đã được mở rộng và đầu tư nâng cấp,

hiện đại hóa, đạt chuẩn về đường băng, sân đỗ và các công trình kỹ thuật phục vụ;

nhà ga quốc tế được xây dựng hiện đại đã hoàn thành năm 2017, sân bay Đà Nẵng

được xếp loại 4E, hạng C theo chuẩn IATA; nhà ga nội địa và quốc tế đảm bảo năng

lực đón trên 260 chuyến bay, với hơn 40.000 lượt khách trong nước và quốc tế thông

qua mỗi ngày, tính đến nay đã có trên 30 hãng hàng không của hơn 20 nước thông

qua sân bay Đà Nẵng. Riêng nhà ga quốc tế đã có 35 đường bay quốc tế đến Đà Nẵng,

với tần suất mỗi tuần 496 chuyến bay [83]. Sân bay quốc tế Đà Nẵng trở thành biểu

tượng cho sự trẻ trung, năng động, làm hạt nhân phát triển, kết nối các chuỗi DV đô

thị, tạo nên động lực phát triển mới cho đô thị và ĐTH.

- Hệ thống giao thông đường sắt: TP Đà Nẵng nằm trên tuyến đường sắt Bắc

– Nam, ga Đà Nẵng là một ga lớn trên tuyến đường. Từ ga Đà Nẵng có thể đi – đến

tất cả các ga ở phía Bắc và phía Nam. CSHT và CSVCKT của nhà ga Đà Nẵng khá tốt. Tuy nhiên, ga Đà Nẵng nằm giữa trung tâm thành phố, điều này sẽ gây ảnh hưởng

tới giao thông đô thị. Trong quá trình ĐTH, hạ tầng giao thông đô thị được TP ưu tiên đầu tư phát triển vận tải khách công cộng, Để đảm bảo giao thông đô thị, ga Đà Nẵng sẽ được di dời ra khỏi trung trung tâm, nhà ga mới nằm trên trục giao thông Tây Bắc TP, tạo nên hệ thống giao thông đồng bộ, hiện đại góp phần xây dựng TP

Đà Nẵng văn minh, sạch đẹp và thông thoáng.

76

2.2.4.2. Hệ thống cung cấp điện Nguồn cung cấp điện cho TP chủ yếu là điện lưới quốc gia, bao gồm lưới điện

500KV, 200KV, 110KV. TP đã xây dựng 1 trạm phát điện với quy mô, công suất lớn

là trạm Cầu Đỏ, gồm 14 tổ máy, có tổng công suất lắp đặt 11,760KW và tổng công

suất khả dụng đạt khoảng 7.000KW; xây dựng các trạm biến áp: 1 trạm biến áp 500KV, có quy mô công suất 2x450MVA, điện áp 500/220KV; 3 trạm biến áp 220KV

với tổng công suất lắp đặt 875MVA; 12 trạm biến áp 110KV với tổng công suất lắp

đặt 1.096MVA; ngoài ra còn có 60 tổ máy phát điện Diesel độc lập cấp điện cho phụ

tải [86].

Được sự hỗ trợ của Ngân hàng Thế giới và một số tổ chức quốc tế, mạng lưới điện của TP không ngừng được cải thiện, nâng cấp và ngày càng đồng bộ, hiện đại nên việc cung cấp điện trong TP khá ổn định đáp ứng được nhu cầu sản xuất, tiêu

dùng của nhân dân và khách du lịch.

2.2.4.3. Hệ thống cấp, thoát nước và xử lý nước thải - Về cấp nước: TP Đà Nẵng đã xây dựng và hoàn thiện 4 nhà máy cung cấp

nước, đó là Cầu Đỏ, Sân Bay, Sơn Trà và Hải Vân, với tổng công suất thiết kế

90.000m3/ngày đêm. Nguồn cung cấp nước chủ yếu là sông (cung cấp cho nhà máy

nước Cầu Đỏ và Sân Bay) và các suối (cung cấp cho nhà máy nước Sơn Trà và Hải

Vân). Mạng lưới đường ống đạt chuẩn, được đặt ngầm, đảm bảo cung cấp nước cho

sinh hoạt, cho sản xuất trên địa bàn toàn bộ 6 quận nội thành và dọc các trục đường

chính của ngoại thành. Đảm bảo trên 98% dân trong nội thành được sử dụng nước

sạch và mức tiêu thụ bình quân đạt 128 lít/người/ngày [84].

- Về hệ thống thoát nước và xử lý nước thải, TP Đà Nẵng đã quy hoạch xây

dựng kết hợp hai loại hệ thống thoát nước chung và hệ thống thoát nước thải riêng

dẫn về trạm xử lý. Tính đến năm 2020, TP có 6 trạm xử lý nước thải, với tổng công suất đạt 316.000 m3/ngày. Dự kiến đến 2025 sẽ nâng cấp mở rộng 2 trạm (Hòa Xuân và Liên Chiểu) và xây dựng mới 1 trạm để nâng tổng công suất 430.000 m3/ngày, đảm bảo cho vệ sinh môi trường thành phố [84].

2.2.4.4. Hệ thống bưu chính - viễn thông Xác định chiến lược xây dựng đô thị hiện đại, thông minh, nên việc tiến hành

ĐTH, TP tập trung xây dựng hệ thống thông tin, truyền thông hiện đại và tiện ích.

Bước đầu tiên, TP Đà Nẵng tập trung đầu tư xây dựng hệ thống CSHT cho CNTT, tính đến 2020 TP đã có 60 đài vệ tinh, hình thành mạng wifi miễn phí trên toàn TP; hoàn thiện 9 tuyến truyền dẫn nội tỉnh, 3 tuyến sử dụng viba; mạng không

77

dây công cộng với 430 điểm phát tại các khu trung tâm, khu vực công cộng và các điểm du lịch; mạng lưới viễn thông phát triển hiện đại và ổn định, đáp ứng nhu cầu

chuyển tải thông tin, giao tiếp của người dân và du khách. TP Đà Nẵng trở thành một

trong ba trung viễn thông lớn của cả nước nằm trên đường cáp quang quốc tế. Đài

Cáp biển quốc tế đáp ứng đầy đủ các yêu cầu về thông tin – viễn thông cho các tổ chức và cá nhân trên địa bàn TP và khu vực miền Trung – Tây Nguyên [83,86].

Năm 2018, TP đã tập trung xây dựng cơ sở dữ liệu, thành lập Trung tâm thông

tin dịch vụ công, kết nối giữa các ban ngành, giúp cho việc giải quyết hồ sơ, thủ tục

hành chính, giải đáp các thắc mắc về dịch vụ hành chính công cho các tổ chức và cá

nhân được thực hiện nhanh chóng, giảm bớt phiền hà, quan liêu trong hồ sơ thủ tục, tạo thuận lợi cho thu hút đầu tư và phát triển kinh tế, văn hóa, giáo dục và xã hội.

2.2.5. Sự mở rộng không gian đô thị

2.2.5.1. Mở rộng về diện tích đô thị - Trước năm 2003 Đà Nẵng là một đô thị nhỏ bé, dân số chưa đến 600.000

người, khu vực nội thành chỉ bao gồm 3 quận: Hải Châu tổng diện tích đất 2.100,5

ha, Thanh Khê 927,5 ha và quận 3 (là một phần của quận Sơn Trà, Ngũ Hành Sơn

ngày nay) khoảng 2.560 ha. Tổng diện tích đất nội thị khoảng gần 5.600 ha, với số

dân đô thị 591.000 người (chiếm tỉ lệ 79,1%) [77].

Diện tích nội thị nhỏ hẹp, CSHT thiếu thốn và nghèo nàn, đặc biệt là giao

thông. Toàn TP có 100 con đường, đường phố chật hẹp, xuống cấp, nhiều khu vực

còn là đường đất đá. Sông Hàn ngăn cách giữa hai khu vực Đông – Tây TP, việc giao

thông đi lại chỉ có một bến phà đường thủy và một cây cầu đường bộ và một cây cầu

đường sắt, việc giao thông đi lại và kết nối với biển rất khó khăn. Các công trình điện,

nước, các dịch vụ công còn thiếu thốn, lạc hậu, vệ sinh môi trường hạn chế, đời sống

người dân còn gặp nhiều khó khăn.

Tài nguyên biển chưa được khai thác, một vài bãi tắm hoạt động tự nhiên phục vụ cho nhu cầu của dân địa phương, ven biển là những xóm chài nghèo, kinh tế biển

chủ yếu tự cung, tự cấp trong phạm vi địa phương, thành phố thực sự quay lưng với biển, thiếu động lực phát triển kinh tế.

- Từ năm 2003 cho đến 2020, TP Đà Nẵng đã tập trung vào quy hoạch lại toàn bộ không gian đô thị, từ quy hoạch sử dụng đất cho đô thị, xác định các khu đô thị

cần chỉnh trang, xác định các khu vực cho các khu đô thị mới, ban hành, phổ biến cho dân các chính sách đền bù, giải tỏa; TP đã thực hiện chỉnh trang và điều chỉnh quy hoạch vào các năm 2003, 2010 và 2013. Đặc biệt giai đoạn 2003 – 2010 thành phố

78

đã phê duyệt tới 1.200 đồ án quy hoạch, với 334 vị trí đất xây dựng các công trình, với tổng diện tích 8.000 ha, phủ kín quy hoạch chi tiết 1/500 và 1/2000; cả TP là một

công trình xây dựng và tái thiết lại đô thị, 120.000 hộ dân trên tổng số 200.000 hộ

được di dời, giải tỏa các xóm “nhà chồ” hai bên sông Hàn, tái định cư cho 110.000

hộ, thu hồi, cho thuê 17.000 ha đất được tiến hành khẩn trương, nhanh chóng, đồng thời tạo ra được một lượng quỹ đất lớn để khai thác với các mục đích khác nhau của

đô thị [124]. Công cuộc tái thiết, cải tạo đô thị diễn ra với quy mô và tốc độ chưa từng

có, đến năm 2020 đạt tỉ lệ ĐTH là 87,3%.

Cơ cấu sử dụng đất của TP giai đoạn này đã có sự thay đổi nhanh chóng, diện

tích đất sản xuất NN giảm nhanh, diện tích đất phi NN tăng nhanh (bảng 2.2). Năm 2005 diện tích đất phi NN là 48.204 ha (chiếm 38,4% trong cơ cấu sử dụng đất) đến 2020 lên 55.788 ha (chiếm 43,4% trong cơ cấu sử dụng đất), tăng 1,2 lần, điều này

cho thấy ĐTH đã mở rộng diện tích đô thị, diện tích đất cho CN, dịch vụ, nhà ở,…tăng

lên. Tuy nhiên về mức độ biến động trong diện tích các loại đất ở các quận, huyện có

khác nhau thể hiện ở bảng 2.9 dưới đây.

Từ bảng dưới đây ta thấy: diện tích đất NN ở các quận nội thành đều giảm,

giảm nhanh nhất là các quận Ngũ Hành Sơn, Cẩm Lệ và Liên Chiểu và diện tích đất

phi NN của 3 quận cũng tăng nhanh, lý do các quận này phát triển nhiều KCN, khu

du lịch và các dịch vụ, hàng trăm ha đất quốc phòng tại Hải Vân, Sơn Trà và nhiều

vị trí khác trong đô thị cũng được đưa vào mục tiêu phát triển kinh tế kết hợp với

quốc phòng và bảo vệ rừng sinh thái nên diện tích đất phi NN của quận Sơn Trà, Liên

Chiểu cũng được tăng lên, ngay cả diện tích đất lâm nghiệp của 2 quận này cũng được

tăng lên. Các khu vực nông thôn cận đô thị được quy hoạch thành khu đô thị mới,

khu tái định cư. Các cơ sở kho tàng trong đô thị cũng lần lượt được đưa ra vùng ngoại

vi. Những nghĩa trang nội đô với hàng trăm nghìn ngôi mộ cũng được giải tỏa, quy

tập về các nghĩa trang mới.

79

Bảng 2.9. Biến động diện tích đất phân theo loại đất của các quận, huyện,

của TP Đà Nẵng giai đoạn 2005 – 2020

Năm 2005 Năm 2020

Quận, Huyện Đất NN Đất phi NN Đất Đất NN Đất Phi NN Đất

chư a chư a

SD SD

Ha % Ha % % Ha % Ha % %

Liên Chiểu 4.669, 56,2 2.835, 34,1 9,7 3.551 47,7 3.161 42,5 9,8

9 6

2,3 Thanh Khê 21,22 889,5 95,9 1,8 11,0 870 91,9 6,9 1,2

1,0 Hải Châu 20,45 2.067, 98,0 1,0 9,0 2.055 88,2 11,4 0,4

8

Sơn Trà 55,0 1.898, 31,2 13,8 3.759 59,3 1.924 30,4 10,3

3.348, 1 0

N.H. Sơn 1.299, 35,5 1.918, 52,4 12,1 365 9,1 2.918 72,6 18,3

5 2

Cẩm Lệ 996,5 30,0 2.096, 63,1 6,9 684 19,1 2.624 73,2 7,7

8

Hòa Vang 59.870 84,6 6.265, 8,9 6,5 62.908 85,8 7.413 10,1 4,1

0

Tổng DT 70.225 73,8 17.971 18,9 7,3 71.287 72,8 20.965 21,4 5,8

Nguồn: NGTK TP Đà Nẵng các năm [16]

- Kết quả: sau công cuộc tái thiết, xây dựng đô thị đã tạo nên hệ thống CSHT

đồng bộ và tương đối hiện đại, nhất là hệ thống giao thông đường phố ngày càng

được mở rộng và hiện đại hơn, đã có 2.000 con đường, với tổng chiều dài 1.300km,

nối hai bờ Đông – Tây sông Hàn là 9 cây cầu đặc sắc bắc qua, cảnh quan, môi trường đô thị thay đổi sâu sắc; các khu đô thị mới được hình thành và được quy hoạch theo hướng đô thị hiện đại; toàn bộ vùng ven biển đã phủ kín các dự án cho phát triển du lịch, dọc ven biển là các tuyến đường rộng rãi, cảnh quan đẹp được hoàn thiện (đường Nguyễn Tất Thành, Hoàng Sa, Trường Sa được xem là ba trong số những con đường ven biển đẹp nhất nước ta hiện nay); hai bên sông Hàn hình thành hai tuyến đường

rộng, hiện đại với nhiều công trình phục vụ công cộng (đường Bạch Đằng và Trần

80

Hưng Đạo); quy mô không gian đô thị Đà Nẵng đã mở rộng lên tới gần 21.300 ha, tức gấp hơn 4 lần so với đô thị cũ. Trong đó, nhiều khu đô thị cũ được nâng cấp và

phát triển khá đồng bộ, nhiều khu đô thị mới, nhiều trục cảnh quan xứng tầm là một

đô thị hiện đại.

81

2.2.5.2. Các hướng mở rộng của đô thị Với ý tưởng lấy vịnh Đà Nẵng và sông Hàn làm bố cục chủ đạo trong tổ chức

không gian, đô thị Đà Nẵng được mở rộng không gian về phía Tây, Tây Bắc, Tây

Nam, Nam và Đông Nam. Ưu tiên phát triển theo hướng Tây Bắc, khu vực giữa quốc lộ 1A và đường Liên Chiểu – Thuận Phước (đường Nguyễn Tất Thành). Đồng thời

mở rộng đô thị trên cơ sở xây dựng các đô thị vệ tinh, các thị trấn, thị tứ và phát triển

kết cấu hạ tầng diện rộng để từng bước hình thành chùm đô thị vệ tinh Đà Nẵng. Các

trục không gian chính đã hình thành theo các trục đường chính: trục Quốc lộ 1A -

đường Điện Biên Phủ - Lê Duẩn - Sông Hàn (từ phía Bắc vào trung tâm TP); trục Hoàng Sa - Trường Sa; Võ Chí Công - Ngũ Hành Sơn - Làng Đại học Đà Nẵng (trục ven biển phía Đông); các trục Điện Biên Phủ - Tôn Đức Thắng - Hoàng Văn Thái -

Bà Nà và Cách Mạng tháng 8 - đường 2/9 - Cầu Tuyên Sơn - Biển (là các trục từ

trung tâm về phía Đông ra biển và về phía Tây lên Bà Nà). Từ các trục chính, TP đã

quy hoạch và xác định hướng mở rộng cho các khu chức năng của đô thị.

a. Đô thị trung tâm

Khu này, có diện tích 3.264 ha, thuộc các quận: quận Hải Châu, Thanh Khê

và phường Khuê Trung của quận Cẩm Lệ. Đây là khu trung tâm đô thị cũ, tập trung

các cơ quan, ban ngành, các trung tâm văn hóa, KHKT và thương mại của TP. Quá

trình ĐTH tập trung cải tạo và chỉnh trang và nâng cấp. Các tuyến đường trong các

khu phố được mở rộng, hiện đại hóa, hệ thống cấp thoát nước được cải tạo, đấu nối

đồng bộ; mạng lưới điện chiếu sáng đầu tư nâng cấp; hệ thống thu gom, vận chuyển

rác thải thực hiện đúng quy trình, đồng bộ; công tác quản lý trật tự đô thị được tiến

hành chặt chẽ; giao thông đô thị thông thoáng, tình trạng tắc nghẽn giao thông, lấn

chiếm không gian công cộng trong các khu đô thị cũ không còn; dịch vụ phát triển

mạnh, đảm bảo cung cấp các dịch vụ đáp ứng nhu cầu và điều kiện sống cho người dân và du khách. Bộ mặt kiến trúc của khu đô thị trung tâm được phát triển các khối

nhà cao tầng đa chức năng ở dọc các trục đường chính, có diện tích cây xanh và không gian công cộng khang trang, có trật tự, điều kiện vệ sinh môi trường sạch đẹp, về chất lượng hạ tầng đồng bộ và hiện đại. Khu đô thị trung tâm là trung tâm hành chính, chính trị, văn hóa, khoa học, giáo dục, trung tâm giao lưu thương mại, DV và du lịch.

b. Khu đô thị du lịch, thương mại và cảng biển ven biển phía Đông: khu này

chia làm hai phân khu

82

- Khu ven biển Tây Bắc: có diện tích 3.647 ha, thuộc một số phường: An Khê, Thanh Khê Đông, Thanh Khê Tây, Xuân Hà, Tam Thuận của quận Thanh Khê và các

phường: Hòa Minh, Hòa Khánh Nam, một phần Hòa Khánh Bắc và Hòa Hiệp Nam

của quận Liên Chiểu. CSHT khu này đã và đang được cải tạo, chỉnh trang và xây

dựng mới. Quy hoạch xây dựng các đô thị mới theo hướng đô thị sinh thái phục vụ du lịch, dịch vụ điển hình như: Khu đô thị sinh thái Golden Hills (400 ha), Home

Land Central Park, khu phức hợp Eco Charm, Dragon Smart City,… các khu dân cư

kiểu mới như Hòa Khánh Residence, Hòa Minh và khu đô thị Cảng biển Liên Chiểu.

Một số dự án nước ngoài tập trung đầu tư về cơ sở vật chất cho du lịch như Tập đoàn

khách sạn Mikazuki, lớn nhất Nhật Bản đã thực hiện dự án khu đô thị du lịch nghỉ dưỡng cao cấp Xuân Thiều và đã đi vào hoạt động trong năm 2020. Chức năng chủ yếu của khu này là phát triển du lịch nghỉ dưỡng, trung tâm thương mại, DV, cảng

biển và các DV hỗn hợp.

- Khu ven biển phía Đông Nam: có diện tích khoảng gần 4.000 ha, chủ yếu

thuộc quận Sơn Trà (gồm cả bán đảo Sơn Trà) và các phường Mỹ An, Khuê Mỹ, Hòa

Hải của quận Ngũ Hành Sơn. Ở đây đã hình thành một hệ thống khách sạn, nhà nghỉ,

biệt thự cao cấp, hiện đại, các công viên, khu vui chơi giải trí rộng lớn, các nhà hàng

ăn uống đặc sản biển phục vụ các khu du lịch thu hút đông khách nhất của Đà Nẵng

như Mỹ Khê, Non Nước, Bắc Mỹ An,…Khu này, đã hình thành và phát triển các khu

đô thị sinh thái cao cấp như: khu đô thị nghỉ dưỡng cao cấp CocoBay, tổng diện tích 513.326m2; khu đô thị sinh thái Hòa Xuân, diện tích 450 ha; và các khu đô thị sinh thái FPT, khu đô thị Saphia, Khu Viêm Đông Central Park, Han River Village,...

Chức năng chủ yếu của khu này là du lịch, nghỉ dưỡng, DV bưu chính viễn thông,

cảng biển và ngư nghiệp, an ninh quốc phòng và giáo dục.

c. Khu đô thị công nghiệp và công nghệ cao phía Tây – Tây Bắc

Khu này có diện tích 13.606 ha gồm một số phường Hòa An, Hòa Phát, Hòa Thọ Tây (quận Cẩm Lệ), phần phía Tây của các phường Hòa Khánh Nam, Hòa Khánh

Bắc, Hòa Minh, Hòa Hiệp Bắc (quận Liên Chiểu) và một phần các xã Hòa Nhơn, Hòa Phú, Hòa Ninh, Hòa Liên và xã Hòa Sơn (huyện Hòa Vang). Về hạ tầng, khu Tây – Tây Bắc giáp biển, gần các KCN lớn, tập trung 4 nút giao thông quan trọng về hàng không, đường bộ, đường sắt và đường biển. Chức năng chủ yếu là CN, CNC, CN có

hàm lượng kỹ thuật cao, CNTT. Khu này, đã quy hoạch hình thành, phát triển các KCN tập trung lớn của TP, với mật độ cao như: KCN Liên Chiểu, KCN Hòa Khánh và Hòa Khánh mở rộng, KCN Hòa Cầm, KCN công nghệ cao, định hình “thung lũng

83

silicon” của miền Trung, đang thu hút lao động tri thức, giới chuyên gia và cư dân ở các tỉnh về.

d. Khu đô thị sinh thái, văn hóa, thể thao và bảo tồn di tích lịch sử phía Nam

– Tây Nam

Khu này tập trung ở phía Nam: có diện tích 9.075 ha gồm 6 xã 1 phần xã Hòa Nhơn và các xã Hòa Phong, Hòa Khương, Hòa Tiến, Hòa Châu, Hòa Phước của

huyện Hòa Vang, phường Hòa Quý, Hòa Xuân của quận Ngũ Hành Sơn. Trọng tâm

của khu này là khu đô thị đại học, Trung tâm đổi mới sáng tạo, công viên phần mềm

Hòa Quý, cùng các bệnh viện quốc tế, khu liên hợp thể thao Hòa Xuân. Ngoài ra còn

có phân khu NN ứng dụng CNC ở Tây Nam. Khu đô thị sinh thái này có chức năng gìn giữ cảnh quan tự nhiên gắn với bảo tồn di tích lịch sử, văn hóa, giáo dục đào tạo, thể thao cấp quốc gia.

Các khu đô thị và khu dân cư mới được quy hoạch khá bài bản, CSHT và các

công trình dịch vụ đồng bộ và hiện đại, thiết kế cảnh quan đẹp, thoáng đãng không

gian xanh mát đáp ứng nhu cầu của dân cư. Các tuyến đường mới mở rộng và đẹp tạo

nên mạng lưới giao thông thuận lợi nối giữa các khu đô thị mới với khu trung tâm,

đặc biệt là tới các khu du lịch, khu thương mại, KCN như tuyến đường Bạch Đằng

và tuyến đường chạy dọc bờ Đông sông Hàn, hai tuyến đường này được nối với nhau

bởi những cây cầu độc đáo cầu xoay sông Hàn, cầu Rồng, cầu dây văng Trần Thị Lý;

đường Hoàng Sa, Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Tất Thành rộng, dài chạy dọc bờ biển

phía Đông Bắc, phía Đông và Đông Nam TP Đà Nẵng; tuyến đường Trường Sa kết

nối giữa TP Đà Nẵng với phố cổ Hội An; nhiều tuyến đường mới được mở rộng nối

từ vùng biển phía Đông đến các khu du lịch phía Tây làm cho không gian đô thị TP

Đà Nẵng mở rộng, thông thoáng, không bị bó hẹp ở một số phường của quận Hải

Châu và Thanh Khê như trước.

2.2.6. Đánh giá chung

2.2.6.1. Những thành công của ĐTH ở Đà Nẵng Quá trình ĐTH ở TP Đà Nẵng là một điểm sáng về quy mô và tốc độ ĐTH ở nước ta, với tốc độ nhanh, tỉ lệ ĐTH đạt 87,2%, cao nhất cả nước. Quá trình ĐTH đã đạt được những thành tựu quan trọng, không gian đô thị được mở rộng, CSHT và CSVCKT đồng bộ và ngày càng hiện đại, KT – XH tăng trưởng đều và ổn định. Đà

Nẵng là TP có vị thế quan trọng trong VKTTĐMT và đối với cả khu vực miền Trung – Tây Nguyên. Năm 2020, TP Đà Nẵng có thứ hạng về kinh tế đứng thứ 11/63 tỉnh thành, tỉ trọng GRDP ngành dịch vụ cao thứ 3 sau TP Hà Nội và TP Hồ Chí Minh,

84

năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) luôn nằm trong tốp đầu, dẫn đầu cả nước về tỉ lệ ĐTH và tỉ lệ dân thành thị (87,3%). Có thể nói, quá trình ĐTH ở TP Đà Nẵng trong

thời gian qua đã diễn ra mạnh mẽ, rộng khắp về cả số lượng lẫn chất lượng.

Về số lượng, không gian đô thị từ con số khiêm tốn 5.600 ha đã tăng lên 21.300

ha, từ 2 quận nội thành ở những thập niên 70, hiện nay là 6 quận nội thành và trên 10 KCN, khu chế xuất quy mô lớn (Đà Nẵng, Hòa Khánh, Liên Chiểu, Sơn Trà, Ngũ

Hành Sơn, Cẩm Lệ, Hòa Vang, Sơn Trà,...), 2 cảng biển lớn (Tiên Sa, Liên Chiểu),...

Từ 100 tuyến đường lên tới 2.000 tuyến đường được bê tông hóa, hiện đại hóa, nối 2

bờ sông bởi 9 cây cầu, trong đó 4 cầu được xếp hạng là những cây cầu đẹp nhất Việt

Nam.

Về chất lượng, vấn đề quy hoạch, thiết kế và các yếu tố kỹ thuật được kiểm định chặt chẽ, chất lượng các công trình đảm bảo, diện mạo đô thị khang trang, sạch,

đẹp, thân thiện, tiếp cận với các tiêu chí của một đô thị sinh thái bền vững, để xứng

với danh hiệu “Thành phố đáng sống" của Việt Nam.

Những thành tựu đạt được trong ĐTH những năm qua của TP Đà Nẵng, nổi

bật nhất là công cuộc quy hoạch, xây dựng CSHT đồng bộ, hiện đại gắn liền với chỉnh

trang và mở rộng đô thị đã thực sự tạo ra bước chuyển biến rất quan trọng cho quá

trình phát triển TP theo đúng hướng CNH, HĐH, điều này góp phần khẳng định ĐTH

của TP Đà Nẵng là phù hợp và thành công, làm cơ sở cho ĐTH và phát triển KT –

XH đi vào chiều sâu ở những giai đoạn tiếp theo.

2.2.6.2. Những hạn chế của ĐTH ở Đà Nẵng trong thời gian qua Mặc dù ĐTH của TP Đà Nẵng đã thực hiện khá hiệu quả theo hướng đô thị

hóa bền vững, đã hình thành được các khu đô thị vệ tinh, hình thành các khu chức

năng của đô thị, xây dựng, bảo vệ cảnh quan tự nhiên và môi trường. Tuy nhiên, ĐTH

ở TP Đà Nẵng trong thời gian qua vẫn còn bộc lộ những hạn chế và đang tiềm ẩn

những hệ lụy trong tương lai, ảnh hưởng đến xu thế phát triển bền vững. Theo đánh giá của các chuyên gia, các kiến trúc sư, những hạn chế biểu hiện:

- Sự phát triển quá nhanh và có phần thiếu bền vững nên việc quy hoạch về ranh giới các khu chức năng chưa chặt chẽ, chưa rõ ràng, các khu vực đã quy hoạch cho KCN, khu xử lý chất thải, nghĩa trang, khu dành cho giao thông đô thị thì nay lại bị bao vây bởi các khu đô thị mới, khiến cho cấu trúc đô thị có phần bất ổn.

- TP có diện tích đất tự nhiên không lớn, nhưng hiệu quả sử dụng đất đô thị còn thấp, do ĐTH vẫn còn phát triển theo chiều rộng, dàn trải, thấp tầng, đất ở chiếm một tỉ lệ lớn; khu vực trung tâm TP mật độ dân cư ngày càng tăng cao, do hình thành

85

các chung cư cao tầng; trong khi các khu vực ven đô mô hình cấu trúc nhà ở chưa mang tính chất đô thị, còn thể hiện rõ mô hình cấu trúc nông thôn, gây ảnh hưởng

đến hiệu quả sử dụng đất và những bất cập về không gian sống. TP chưa có chiến

lược lâu dài, bền vững về quỹ đất cho không gian xanh và các công trình công cộng

như khu vui chơi giải trí, thể thao, công viên, cây xanh,… phục vụ nhu cầu và phúc lợi xã hội cho người dân.

- Việc khai thác ồ ạt các tài nguyên đất đá ở vùng đồi núi làm vật liệu san, lấp

nền của các công trình đã gây ảnh hưởng lớn tới địa hình, làm biến đổi cảnh quan

thiên nhiên và hệ sinh thái rừng ở các vùng đồi núi. Những tác động của ĐTH đến

các khu bảo tồn thiên nhiên như bán đảo Sơn Trà, Bà Nà – Núi Chúa, Hải Vân khi chưa có quy hoạch tổng thể theo hướng bền vững, sẽ gây ảnh hưởng đến chất lượng môi trường đô thị trong tương lai.

- Đô thị Đà Nẵng đã có nhiều thay đổi về chất và lượng, tạo cơ sở và động lực

cho KT – XH phát triển; kinh tế TP Đà Nẵng đã có nhiều thay đổi về cơ cấu và tốc

độ tăng trưởng. Tuy nhiên, kinh tế vẫn chưa có sự đột phá thực sự, CN, DV chưa tạo

được sức bật nổi trội, GRDP còn chiếm một tỉ lệ nhỏ trong tổng GDP của cả nước

(chỉ chiếm 1,55%). Điều này cũng chứng tỏ ĐTH chưa tạo ra được một cấu trúc đô

thị có khả năng tạo giá trị gia tăng lớn và hiệu quả ĐTH chưa thực sự cao.

- ĐTH ở TP Đà Nẵng trong thời gian qua mới chú trọng đến tính hiện đại của

đô thị, xem nhẹ tính văn hóa truyền thống và tính bền vững. ĐTH đã xóa bỏ hoặc bỏ

quên việc quy hoạch và đầu tư các “làng đô thị” ở vùng ven như các làng nghề mộc,

thêu ren, mỹ nghệ hoặc các làng NN như làng hoa, làng rau quả,…vừa khai thác được

những ưu thế của tự nhiên, vừa đáp ứng nhu cầu của đô thị, vừa phục vụ nhu cầu du

lịch sinh thái.

Để tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 43-NQ/TW của Bộ Chính trị về xây dựng

và phát triển TP Đà Nẵng đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2045, ĐTH phải tuân thủ chặt chẽ theo hướng xây dựng "đô thị sinh thái, hiện đại, thông minh, mang tầm

quốc tế và có bản sắc riêng; phát triển kinh tế nhanh và bền vững, coi việc nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân đạt ở mức cao là nhiệm vụ trung tâm; tập trung phát triển 3 trụ cột chính: du lịch, công nghiệp công nghệ cao và kinh tế biển, bảo đảm quốc phòng, an ninh, chủ quyền biển đảo, trật tự, an toàn xã hội" [5].

Tiểu kết chương 2 TP Đà Nẵng có vị trí địa lý rất thuận lợi, có thể giao lưu, mở rộng quan hệ hợp tác về mọi mặt với các tỉnh thành trong vùng Duyên hải miền Trung và Tây Nguyên,

86

với các đô thị lớn trong cả nước và với các nước trong khu vực Đông Nam Á và Đông Á, thúc đẩy ĐTH và phát triển KT – XH.

Chương 2 của luận án, gồm hai nội dung chính: phân tích, đánh giá các nhân

tố ảnh hưởng đến ĐTH ở TP Đà Nẵng, trong đó tập trung vào các nhân tố: vị trí địa

và phạm vi lãnh thổ; điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên; các nhân tố kinh tế xã hội. Mỗi nhân tố có mức độ tác động khác nhau tùy theo thời gian và không

gian cụ thể, nhưng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau và có vai trò to lớn đối với ĐTH,

tác động mạnh mẽ đến ĐTH của TP Đà Nẵng trong giai đoạn 2003 – 2020.

Hiện trạng ĐTH ở TP Đà Nẵng, được tập trung phân tích sự thay đổi về chức

năng đô thị, quy mô dân số đô thị, kinh tế đô thị, CSHT đô thị và sự mở rộng về không gian đô thị. Đô thị Đà Nẵng đã thay đổi cơ bản về chức năng, từ TP trực thuộc tỉnh trở thành TP trực thuộc trung ương loại một, là một trung tâm kinh tế, văn hóa,

chính trị, xã hội lớn của miền Trung – Tây Nguyên; TP Đà Nẵng có mức độ ĐTH

cao nên quy mô dân số đô thị tăng nhanh, tỉ lệ gia tăng cơ học cao, đây là nét đặc

trưng của ĐTH ở các nước đang phát triển, thu hút sự di cư từ nông thôn ra đô thị là

phổ biến. Dân số đô thị tăng, tỉ lệ dân thành thị luôn dẫn đầu cả nước; sự thay đổi

kinh tế của đô thị trong ĐTH như quy mô và cơ cấu GRDP theo thời gian và theo

ngành, sự thay đổi về cơ cấu kinh tế qua các giai đoạn phù hợp với các chỉ tiêu kinh

tế đề ra trong các nghị quyết và kế hoạch 5 năm phát triển KT – XH của TP Đà Nẵng,

CSHT được xây dựng tương đối đồng bộ và hiện đại làm thay đổi hẳn cảnh quan đô

thị; không gian đô thị được mở rộng về diện tích và hình thành các khu chức năng đô

thị. Giai đoạn 2003 – 2020 ĐTH của TP Đà Nẵng đã thay đổi căn bản cả về số lượng

và chất lượng, đạt nhiều tiêu chuẩn của đô thị loại I cấp quốc gia. TP Đà Nẵng đang

hướng tới ĐTH giai đoạn 2020 – 2030 xây dựng đô thị đạt tiêu chuẩn đô thị cấp quốc

tế; ngoài những thành tựu đạt được, luận án còn đề cập đến những hạn chế cơ bản của

ĐTH ở TP Đà Nẵng trong thời gian qua làm cơ sở cho việc điều chỉnh và đề xuất các giải pháp cải thiện quá trình ĐTH TP Đà Nẵng trong giai đoạn tiếp theo.

87

CHƯƠNG 3

TÁC ĐỘNG CỦA ĐÔ THỊ HÓA ĐẾN PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI

CỦA THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

3.1. TÁC ĐỘNG CỦA ĐÔ THỊ HÓA ĐẾN PHÁT TRIỂN KINH TẾ CỦA

THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

3.1.1. Tốc độ tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế

3.1.1.1. Tốc độ tăng trưởng kinh tế Năm 2003, khi Đà Nẵng được công nhận đô thị loại I trực thuộc trung ương,

Nghị quyết 33-NQ/TW ban hành ngày 16/10/2003 về “xây dựng, phát triển thành phố Đà Nẵng trong thời kỳ CNH, HĐH đất nước”. Đảng bộ và Chính quyền TP đã xây dựng chiến lược và các chương trình hành động để thực hiện nghị quyết, trong

đó chương trình hành động số 01, là đẩy nhanh quá trình ĐTH, xây dựng bộ khung

cho TP, ĐTH được đầu tư thực hiện với tốc độ rất nhanh, đã tác động mạnh đến tốc

độ tăng trưởng kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế của TP.

ĐTH và tăng trưởng kinh tế có mối quan hệ chặt chẽ, ĐTH thúc đẩy tăng

trưởng kinh tế, đồng thời tăng trưởng kinh tế là nhân tố quyết định đối với ĐTH.

Trong giai đoạn 2003 – 2020 tổng sản phẩm xã hội trên địa bàn (tính theo giá HH)

tăng trung bình 10%/năm, mặc dù tốc độ tăng trưởng giữa các năm có khác nhau.

Riêng năm 2020 do chịu ảnh hưởng nặng nề của đại dịch Covid 19 nên tốc độ tăng

trưởng - 9,8% và là 1 trong 5 tỉnh, TP của nước ta có tốc độ tăng trưởng âm, cùng với

Khánh Hòa (- 10,5%), Quảng Nam (- 7,0%), Bà Rịa – Vũng Tàu (- 4,9%), Quảng

Ngãi (- 1,0%). Tuy nhiên quy mô GRDP vẫn ở thứ hạng cao của cả nước: năm 2010,

đứng ở vị trí 22/63 tỉnh thành, đến 2020, lên vị trí 17/63 tỉnh thành.

88

Đơn vị: %

Hình 3.1. Biểu đồ GRDP và tốc độ tăng trưởng GRDP của TP Đà Nẵng

giai đoạn 2003 – 2020 [16, 86]

ĐTH tác động đến tốc độ tăng trưởng của các nhóm ngành kinh tế: nhóm

ngành CN – XD và DV có tốc độ tăng trưởng cao và tăng liên tục, do khai thác lợi

thế về tự nhiên và KT – XH; nhóm ngành N – L – TS có tốc độ tăng trưởng thấp và

giảm dần.

Bảng 3.1. Tốc độ tăng trưởng GRDP trung bình năm của TP Đà Nẵng

giai đoạn 2003 – 2020 (ĐV:%)

Các nhóm ngành 2003 – 2009 2010 – 2015 2016 – 2020

Tổng GRDP 11,3 8,6 4,6

Dịch vụ 16,5 8,8 5,7

Công nghiệp – Xây dựng 6,4 10,1 2,1

Nông – Lâm – Thủy sản 0,9 0,3 3,1

Nguồn: [86] Năm 2020 do ảnh hưởng của đại dịch Covid - 19, tốc độ tăng trưởng của các

ngành đều giảm, đặc biệt là nhóm ngành dịch vụ, dẫn đến tốc độ tăng trưởng GRDP toàn TP có giá trị âm.

89

3.1.1.2. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế a. Chuyển dịch cơ cấu GRDP theo nhóm ngành kinh tế

ĐTH đã thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế thành công theo cả chiều rộng và

chiều sâu. Xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế của TP theo hướng hiện đại và bền

vững là DV - CN – NN, phù hợp với những lợi thế cơ bản về các nguồn lực của TP và phù hợp với xu thế chung của quá trình ĐTH ở các nước trên thế giới, trong khu

vực và các TP lớn ở Việt Nam.

Đơn vị: %

Hình 3.2. Biểu đồ cơ cấu GRDP theo nhóm ngành kinh tế ở TP Đà Nẵng

giai đoạn 2003 – 2020 [16,86]

Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo nhóm ngành có khác nhau qua các giai

đoạn:

- Trước 2003, CN chưa được đầu tư, toàn TP chỉ có 02 KCN với 06 dự án có

vốn đầu tư nước ngoài đưa vào sản xuất, số lượng doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh

vực CN cũng chỉ có 149 doanh nghiệp; ngành DV tản mạn, chưa phát triển.

- Năm 2003, đánh dấu cột mốc quan trọng, TP được công nhận là đô thị loại

I, với mục tiêu trở thành đô thị lớn của cả nước, là trung tâm KT – XH của miền Trung với vai trò là trung tâm CN, DV, thương mại, du lịch. Do yêu cầu phát triển của TP và yêu cầu tạo động lực cho cả vùng, TP Đà Nẵng đã chọn hướng đột phá là ưu tiên phát triển CN, thực hiện song song với ĐTH, cơ cấu kinh tế định hình CN – DV - NN. Giai đoạn 2003 – 2008, CN cùng với xây dựng phát triển mạnh nhờ các

90

chính sách ưu đãi về đầu tư, các KCN mới được thành lập, tỉ trọng ngành CN trong cơ cấu GRDP của TP tăng cao, đạt 50,2%/năm 2005 và 45,8% năm 2008 [86].

- Giai đoạn Từ 2010 – 2020, ĐTH của TP phát triển nhanh, Đà Nẵng lựa chọn

nhóm ngành DV làm chủ đạo, cơ cấu kinh tế xác định là DV – CN – NN. Trong từng

ngành, có chuyển dịch về cơ cấu nội bộ, các ngành có giá trị gia tăng thấp giảm dần, nhường vị trí cho những ngành có giá trị gia tăng cao, trong đó du lịch là ngành mũi

nhọn; tập trung phát triển các ngành CN – CNC, CNTT. Nhóm ngành N – L – TS

chuyển từ sản xuất truyền thống sang ứng dụng CNC tạo ra những sản phẩm chủ lực

có thương hiệu.

Động lực cơ bản của sự chuyển dịch này là do quá trình ĐTH diễn ra nhanh, mạnh làm cho diện mạo, cảnh quan TP thay đổi và ngày càng khởi sắc. các khu chức năng của TP được hình thành như: các khu du lịch, các trung tâm thương mại, thông

tin liên lạc, khu cảng biển, cảng hàng không,... tạo động lực thúc đẩy sự phát triển

ngành du lịch, hơn nữa từ 2013 – 2020, Đà Nẵng luôn đứng vị trí 1, 2 về chỉ số năng

lực cạnh tranh cấp tỉnh, riêng từ 2013 – 2016, bốn năm liền giữ ngôi vị quán quân.

b. Chuyển dịch cơ cấu GRDP theo thành phần kinh tế

Cùng với sự chuyển dịch cơ cấu theo nhóm ngành kinh tế, cơ cấu GRDP theo

thành phần kinh tế của TP Đà Nẵng cũng có sự chuyển biến rõ rệt giữa khu vực Nhà

nước và khu vực ngoài Nhà nước. Tỷ trọng của thành phần kinh tế Nhà nước giảm

nhanh, từ 58,5% (2003) xuống 23.9% (2020), trong khi tỷ trọng của khu vực ngoài

Nhà nước ngày càng tăng cao, từ 29,3% lên 56,0%, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài

cũng bắt đầu tăng từ 7,4% lên 9,9% năm 2020. Sự chuyển dịch về cơ cấu thành phần

kinh tế chứng tỏ ĐTH đã tác động đến việc tham gia ngày càng rộng của các khu vực

kinh tế ngoài Nhà nước và cả khu vực có vốn đầu tư nước ngoài.

91

Hình 3.3. Biểu đồ chuyển dịch cơ cấu GRDP theo thành phần kinh tế của TP

Đà Nẵng giai đoạn 2003 – 2020 [86,118]

ĐTH đã tác động đến việc huy động được mọi thành phần kinh tế, kể cả các

tổ chức và cá nhân tham gia đầu tư trong xây dựng CSHT và CSVCKT cho đô thị,

làm nền tảng cho sự phát triển KT – XH.

Như vậy, ĐTH nhanh và việc mở rộng không gian đô thị ở TP Đà Nẵng trong giai đoạn 2003 – 2020 đã tác động mạnh đến chuyển dịch cơ cấu ngành và cơ cấu

thành phần kinh tế theo hướng CNH, HĐH.

3.1.2. Đô thị hóa tác động đến các ngành kinh tế trụ cột của TP Đà Nẵng

Trong quá trình ĐTH, TP Đà Nẵng tập trung vào các nguồn lực và các lợi thế

để phát triển các ngành kinh tế trụ cột như du lịch, kinh tế cảng và CN.

3.1.2.1. Tác động đến sự phát triển du lịch a. ĐTH tạo nền tảng hạ tầng kỹ thuật và cảnh quan đô thị cho du lịch

- ĐTH làm thay đổi căn bản CSHT của đô thị, tạo nên hệ thống hạ tầng khá đồng bộ và hiện đại như hệ thống giao thông đường ô tô, đường sắt, đường thủy, đường hàng không. Toàn bộ hai dải ven biển phía Đông và vịnh Đà Nẵng đã được phủ kín các dự án mới, hình thành các tuyến đường ven biển. Giao thông đã tạo thuận lợi cho hoạt động du lịch, nối liền các điểm, khu du lịch trong TP và kết nối với các trung tâm du lịch của các tỉnh lân cận Quảng Nam, Thừa Thiên Huế, Tây Nguyên.

Việc nâng cấp sân bay quốc tế và mở các đường bay trực tiếp từ TP Đà Nẵng đi các

92

tỉnh thành trong nước và các nước trên thế giới đã tạo thuận lợi rất lớn cho việc thu hút khách du lịch. Số lượng khách du lịch đến TP Đà Nẵng ngày càng tăng cao, Năm

2019 TP Đà Nẵng đón gần 10,0 triệu lượt khách, trong đó có gần 4,4 triệu lượt khách

quốc tế, hơn 5,2 triệu lượt khách nội địa. Tổng thu đạt 8.658 tỷ đồng. Song năm 2020

do ảnh hưởng của đại dịch Covid – 19 các chỉ tiêu trên giảm đi đáng kể, chỉ còn gần 3,1 triệu lượt khách, trong đó khách quốc tế chỉ còn 850,0 nghìn. Tổng thu du lịch

chỉ còn 4.027 tỷ đồng (chỉ bằng 1/2 tổng thu du lịch năm 2019) [122].

- ĐTH đã tạo những điểm nhấn về hạ tầng và cảnh quan cho du lịch TP: Đà

Nẵng có thiên nhiên phong phú, đa dạng và khá độc đáo, các cảnh quan biển, sông,

núi đan xen nhau nằm ngay trong lòng TP. Đà Nẵng lại nằm giữa 3 khu vực di sản thế giới là Huế, Hội An, Mỹ Sơn. Nhờ thực hiện ĐTH đã hình thành các khu đô thị mới, các khu du lịch nghỉ dưỡng với cảnh quan đẹp, ấn tượng mang bản sắc riêng của

TP vịnh biển. ĐTH trong giai đoạn này đã tạo nên cấu trúc không gian tiếp cận tự

nhiên với phương châm "kéo dài bờ biển và kéo dài dòng sông", đô thị được thiết

thành một chuỗi chạy dọc hành lang ven biển và chạy dọc hai bên bờ sông Hàn về

phía Nam, với các công trình kỹ thuật có kiến trúc độc đáo thể hiện tính riêng biệt

của TP Đà Nẵng, được khách du lịch trong và ngoài nước tìm đến.

Những cây cầu hiện đại, kiến trúc đặc sắc: ĐTH là quá trình cải biến CSHT,

hệ thống giao thông, hầm, cầu ở TP Đà Nẵng không chỉ tạo cho giao thông đô thị

thông thoáng, mà còn có tính thẩm mỹ cho du lịch. Sông Hàn đã tạo nên nét đẹp đặc

sắc cho TP, bốn cây cầu nằm giữa trung tâm TP mang những vẻ đẹp và ý nghĩa khác

nhau: Cầu sông Hàn, là cây cầu dây văng hình một cánh quạt lớn. Đây là con đường

ngắn nhất từ trung tâm TP ra biển. Sự độc đáo của cây cầu là phần giữa của cầu quay được một góc 90o để mở đường cho tàu thuyền qua lại trên sông Hàn; Nơi cuối của sông Hàn ra biển là cầu Thuận Phước, cầu thiết kế theo cấu trúc dây võng, nhìn ở góc

độ nào cũng rất đẹp và lộng lẫy, có ý nghĩa rất lớn trong việc nối tuyến vận chuyển quan trọng hàng hóa và du khách từ Huế qua Hải Vân vào tuyến ven biển Tây Bắc

Nguyễn Tất Thành đến Hoàng Sa - Trường Sa, cảng Tiên Sa, thông thương với Hội An. Kế bên cầu sông Hàn là Cầu Rồng, cầu được mô phỏng bởi hình dáng con rồng thời Lý bay ra biển Đông, do tập đoàn Louis Berger (Mỹ) thiết kế. Đây là con đường ngắn nhất đi từ sân bay quốc tế ra các bãi biển và các khu du lịch phía Đông. Tính

độc đáo của Cầu Rồng không chỉ ở hình dáng mà còn ở sự việc “Rồng phun lửa và nước”, đây là một điểm du lịch rất hấp dẫn du khách; ngược lên dòng Hàn là cầu Trần Thị Lý, cầu được thiết kế hình cánh buồm căng gió, với trụ tháp dây văng

93

nghiêng cao tới 145 mét, cầu nằm sát với cầu cũ Nguyễn Văn Trỗi đã được cải tạo thành công viên cầu đi bộ, ngắm cảnh sông Hàn. Kiến trúc nghệ thuật đặc sắc này tạo

nên ấn tượng mạnh cho du khách.

Những con đường du lịch thơ mộng đầy ấn tượng: quá trình cải tạo và xây

dựng CSHT đô thị, TP Đà Nẵng đã chú trọng kết hợp giữa yếu tố kỹ thuật và cảnh quan tự nhiên để tạo nên những con đường du lịch có sức hút đối với du khách. Những

con đường vừa có chức năng giao thông, vừa có chức năng du lịch phải kể tới là:

đường Bạch Đằng, nằm sát bờ Tây sông Hàn, con được được ví như “chiếc ban công

xinh đẹp của thành phố”, là một trong những con đường du lịch đẹp nhất nằm ngay

trung tâm TP. Bao quanh bờ biển phía Đông của TP là đường Hoàng Sa, đường được ví như “dải lụa mềm”, đường chạy quanh co, uốn lượn một bên núi, bên biển dài khoảng 15 km và đường Trường Sa nối TP với đô thị cổ Hội An. Dẫn đến Mỹ Khê,

một bãi biển đẹp nổi tiếng của Đà Nẵng là đường Võ Nguyên Giáp, dài gần 8km kết

nối giữa Hoàng Sa và Trường Sa. Hai bên đường có nhiều cảnh quan đẹp, có nhiều

khu nghỉ dưỡng, khách sạn, nơi tổ chức nhiều lễ hội lớn và các trò chơi thú vị. Bốn

con đường đều có những nét đẹp riêng, tô điểm thêm cho cảnh quan TP và kết nối

những điểm du lịch quan trọng của Đà Nẵng. Ngoài ra, còn nhiều con đường rộng,

hiện đại đến các khu du lịch trọng điểm của TP như: đường Nguyễn Tất Thành chạy

dọc bờ vịnh phía Tây Bắc, đường lên lên đỉnh Sơn Trà (DRT), đường Hoàng Văn

Thái lên khu du lịch Bà Nà – Suối Mơ,…

Những công viên xanh và những khu vui chơi đẳng cấp: Hướng đến một TP

du lịch đẳng cấp, ĐTH cũng đã chú trọng thiết kế những công viên và các khu vui

chơi giải trí, tổ chức hội nghị, hội thảo tầm cỡ khu vực và quốc tế. Thời gian qua, TP

Đà Nẵng cũng đã tạo ra được những công trình mang tầm cỡ quốc gia và khu vực,

điển hình là: Công viên APEC, được khánh thành trong tuần lễ Cấp cao APEC năm

2017 do Việt Nam đăng cai tổ chức. Công viên APEC nằm ở trung tâm thành phố, là điểm du lịch hấp dẫn, quảng bá hình ảnh Đà Nẵng - Việt Nam với bạn bè quốc tế;

Công viên 29/3, với hồ nước rộng và cây xanh dày đặc, rợp bóng mát bao quanh hồ, là nơi tổ chức nhiều hoạt động văn hóa, xã hội như: hội hoa xuân, vui chơi ngày tết, hội chợ, cắm trại, thể thao của nhân dân TP. Nằm sát sân bay quốc tế, phong cảnh đẹp, không khí trong lành, một điểm dạo chơi, thưởng ngoạn của du khách; Công

viên Biển Đông, chạy dọc theo bãi biển và tuyến đường Hoàng Sa, công viên có sức thu hút du khách nhờ cảnh quan thơ mộng, một bên biển xanh, một bên là những hàng cây, dưới hàng cây là những bức tượng điêu khắc có tính thẩm mỹ cao, không khí

94

trong lành, tầm nhìn ra biển bao la. Đây là nơi tổ chức nhiều chương trình lễ hội, thu hút đông đảo du khách đến với TP Đà Nẵng.

b. ĐTH tạo thuận lợi thu hút nhiều dự án đầu tư trong và nước ngoài cho du

lịch

ĐTH đã góp phần thu hút nhiều dự án đầu tư xây dựng CSVCKT phục vụ du lịch, hình thành các điểm, các khu du lịch, đồng thời tạo ra những sản phẩm du lịch

nổi bật của TP. Từ 29 dự án đầu tư với tổng số vốn 553,6 triệu USD năm 2005 tăng

lên 55 dự án, với tổng vốn đầu tư lên 2.835,7 triệu USD năm 2010, trong đó có 10 dự

án đầu tư của nước ngoài với tổng số vốn 1.212 triệu USD, đến năm 2020 ngành du

lịch đã thu hút 11 dự án trọng điểm lớn, tổng số vốn lên hàng chục triệu USD [122]. Giai đoạn 2003 – 2020, nhiều dự án trọng điểm đã hoàn thành và đi vào hoạt động, tác động rất lớn đến sự phát triển du lịch. Các dự án tiêu biểu nhất là:

- Các dự án đầu tư xây dựng CSVCKT cho du lịch như: dự án xây dựng khu

du lịch Bà Nà Hills, dự án Công viên Châu Á, dự án Công viên suối nước nóng Thần

Tài, dự án Công viên nước Đà Nẵng Mikazuki (xem phụ lục 5).

- Các dự án xây dựng các sân golf: như dự án sân golf BRG Danang Golf

Course, dự án sân golf Bà Nà Hills (xem phụ lục 6).

- Các dự án đầu tư về xây dựng các cơ sở lưu trú, khách sạn: hàng loạt dự án

của các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài đầu tư vào lĩnh vực khách sạn như: Tập

đoàn lớn như Mường Thanh, Tập đoàn kinh doanh khách sạn Pháp, AccorHotels, Tập

đoàn Marriott, InterContinental Hotel Group của Anh, Tập đoàn Empire Group, Tập

đoàn Route Inn Group của Nhật Bản, Tập đoàn Ascott Limited của Singapore, Tập

đoàn Hilton Worldwide của Mỹ [122] (xem phụ lục 7).

Sự thu hút đầu tư này đã làm cho CSVCKT của ngành du lịch vừa tăng lên về

số lượng và thay đổi về chất lượng và làm thay đổi diện mạo và tăng cường năng lực

cạnh tranh của du lịch Đà Nẵng, trở thành một trong những điểm đến hấp dẫn, thân thiện, an toàn.

c. ĐTH tác động tới quy hoạch và hình thành các khu du lịch của TP Việc hình thành các khu chức năng của đô thị đã tạo thuận lợi và thúc đẩy việc

quy hoạch các điểm, các khu du lịch, các tuyến du lịch: - Khu trung tâm TP ra bờ biển phía Đông: có tuyến du lịch dọc đường Bạch

Đằng, chạy song song với sông Hàn, ngắm sông Hàn và các cây cầu từ trung cầu Trần Thị Lý, cầu vồng tình yêu, qua cầu Rồng, câu sông Hàn, đến cửa biển là cầu Thuận Phước, rẽ lên phía Tây Bắc gặp các bãi biển đẹp như Thanh Bình, Xuân Thiều, Nam

95

Ô; qua cầu Thuận Phước sang bờ biển phía Đông tiếp nối với các bãi biển đẹp nổi tiếng ở phía Đông như Mỹ Khê, Bắc Mỹ An. Sản phẩm du lịch của khu này là tham

quan TP, tham quan các cây cầu, ngắm cảnh sông Hàn về đêm, nghỉ dưỡng biển, tắm

biển, thể thao biển và mua sắm.

- Khu du lịch Sơn Trà (phía Đông Bắc), bán đảo Sơn Trà là khu bảo tồn thiên nhiên quốc gia quan trọng, rừng có tính đa dạng cao về giống loài sinh vật, trong khu

bảo tồn này còn lưu giữ khoảng 70% rừng tự nhiên. Bán đảo có độ cao 621m so với

mực nước biển, ba mặt giáp biển, không khí trong lành, dưới chân núi xung quanh

bán đảo có nhiều bãi biển đẹp nổi tiếng như bãi biển Tiên Sa, Bãi Bụt, Bãi Rạng, Bãi

Nam,...Do ưu thế về cảnh quan thiên nhiên, Sơn Trà trở thành một khu du lịch có sức hút mạnh đối với du khách, với các sản phẩm du lịch đặc trưng là nghỉ dưỡng biển cao cấp, văn hóa ẩm thực và du lịch sinh thái.

- Khu du lịch Bà Nà – Núi Chúa (phía Tây Bắc), là miền núi cao của Đà Nẵng nằm trong dải Trường Sơn, đỉnh Bà Nà cao 1489m, nhiệt độ trung bình 18oC, là khu dự trữ thiên nhiên quốc gia, tính đa dạng sinh học cao. Bà Nà đã được đầu tư để trở

thành một khu du lịch nổi tiếng mang thương hiệu của Đà Nẵng, với nhiều công trình

nổi bật hiện đại tầm cỡ quốc gia, quốc tế như Làng Pháp, công viên giải trí Fantasy

Park, Cầu Vàng,… Chỉ cách trung tâm TP gần 30km, Bà Nà Hills có các sản phẩm

du lịch rất đặc sắc như: nghỉ dưỡng núi cao, du lịch sinh thái, tham quan, vui chơi

giải trí, ẩm thực Việt, Âu, Á và nhiều quầy hàng lưu niệm chủng loại phong phú đa

dạng. Bà Nà Hills luôn là điểm đến lý tưởng, thu hút một lượng lớn khách du lịch nội

địa và quốc tế đến với TP Đà Nẵng.

- Phía Đông Nam là khu du lịch Ngũ Hành Sơn, khu du lịch có sự kết hợp hài

hòa giữa thiên nhiên của núi Ngũ Hành, biển Non Nước, chùa Linh Ứng và Làng đá

mỹ nghệ. Quần thể “núi - biển - chùa chiền - làng nghề” tạo thành một danh thắng

nổi tiếng và trở thành biểu tượng cho sông núi biển hài hòa của Đà Nẵng. Khu du lịch Ngũ Hành Sơn, cách trung tâm TP chỉ 7km về phía Nam, có sức thu hút du khách với

các sản phẩm du lịch rất đặc trưng như tham quan núi Ngũ Hành, Làng đá mỹ nghệ, nghỉ dưỡng, tắm biển, thể thao biển và du lịch tâm linh.

Ngoài các khu du lịch, TP Đà Nẵng còn có các điểm du lịch hấp dẫn khác như

Suối khoáng và công viên Khủng Long núi Thần Tài, Làng Vân, Đèo Hải Vân,...

ĐTH ở TP Đà Nẵng đã tác động đến hoạt động du lịch thông qua việc hoàn thiện và hiện đại CSHT, cảnh quan đô thị, tạo điều kiện thu hút nhiều dự án trong và ngoài nước, đầu tư xây dựng CSVCKT, các cơ sở lưu trú và các khách sạn hiện đại,

96

tiện nghi, quy hoạch các khu du lịch của TP mà Đà Nẵng trở thành 1 trong 3 trung tâm du lịch lớn của cả nước (cùng với TP Hà Nội và TP Hồ Chí Minh), ngày càng

thu hút được nhiều khách du lịch trong và ngoài nước, đem lại nguồn thu đáng kể cho

TP.

3.1.2.2. Tác động đến phát triển cảng biển a. Tác động đến quy hoạch xây dựng hạ tầng kỹ thuật cảng biển

TP Đà Nẵng có vịnh biển rộng và sâu, tạo thuận lợi cho phát triển cảng biển. Vịnh rộng 12 km2, độ sâu trung bình dao động từ 14 – 15m, tối đa 17m. Là một vịnh kín: về tự nhiên được bao bọc bởi núi Hải Vân ở phía Tây Bắc và bán đảo Sơn Trà ở

phía Đông Bắc; về kỹ thuật, cảng có đê chắn sóng dài 450m, thuận lợi cho tàu thuyền ra vào cảng quanh năm. Vị trí của cảng Đà Nẵng lại thuận lợi, nằm gần với các cảng biển của các nước trong khu vực ĐNÁ và Châu Á, tạo điều kiện cho cảng mở rộng

thị trường nguồn hàng hóa, nguồn hành khách từ các nước trong khu vực như Lào,

Campuchia, Thái Lan, Mianma và xa hơn là các nước khu vực Đông Á như Trung

Quốc, Nhật Bản, Đài Loan,… Chỉ cần khoảng hai ngày đêm là các loại hàng hóa có

thể từ Đà Nẵng đi đến các nước trong khu vực ĐNÁ, Đông Á và ngược lại hàng hóa,

hành khách các nước có thể đến Việt Nam. Ở trong nước, cảng Đà Nẵng cách cảng

Sài Gòn là xa nhất với hơn 500 hải lý, cảng tiếp nhận nguồn hàng hóa, nguồn nguyên

liệu phong phú từ các tỉnh duyên hải miền Trung, Tây Nguyên và có thể mở rộng ra

cả phía Bắc và phía Nam.

Từ năm 2003, TP đã xác định nhiệm vụ chiến lược là quy hoạch, bố trí lại các

cụm cảng, xây dựng hạ tầng kỹ thuật để cảng Đà Nẵng trở thành cảng biển lớn và

hiện đại nhất miền Trung - Tây Nguyên; nâng cao năng lực và công suất cảng, tiếp

nhận tàu hàng đến 50.000 DWT, tàu container 2.500 Teus, tàu khách đến 75.000

GRT; xây dựng hệ thống giao thông vận tải cảng đồng bộ, có thể kết nối giữa các loại

đường như đường sắt, đường ô tô, đường hàng không với cảng biển tạo thuận lợi cho lưu thông hàng hóa, hành khách đi và đến; Cảng Đà Nẵng cũng tập trung vào ba chức

năng chính, đó là cảng hàng hóa và DV logistics, cảng du lịch và cảng cá. Nhờ quá trình ĐTH, quy hoạch đô thị hiện đại, TP đã quy hoạch thành 3 cụm cảng biển từ 10 cảng nhỏ, nâng cấp với quy mô lớn và hiện đại:

- Cụm cảng Tiên Sa – Sơn Trà (gọi chung là cảng Tiên Sa): thuộc phường Thọ

Quang, quận Sơn Trà. Là cảng tổng hợp đã được đầu tư nâng cấp, mở rộng và hiện đại hóa cụm cảng này (xem phối cảnh cảng ở phụ lục 8).

97

Theo báo cáo của cảng về CSHT và CSVCKT cảng đã có: “1.700m cầu bến, trang bị hệ thống cầu QCC Feeder Server hiện đại, với sức nâng đạt 40 tấn, tầm 40m và hạ tầng kỹ thuật đồng bộ đi kèm; tổng diện tích kho 20.290 m2 (trong đó kho CFS là 2.160 m2), tổng diện tích bãi là 178.603 m2. Đồng thời thiết lập kho bãi trung chuyển với diện tích tới 50 ha”. Nâng khả năng tiếp nhận tàu có trọng tải đến 70.000 DWT, tàu container đến 4.000 Teus, và tàu khách du lịch loại lớn đến 150.000 GRT;

Nâng năng lực tiếp nhận hàng hóa qua cảng lên tới 12 triệu tấn/năm.

Cảng đã xây dựng thành công hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO

9001 – 2000, nâng cao chất lượng dịch vụ cho khách hàng. Từ 2016 cảng Tiên Sa lại

tiếp tục đầu tư nâng cấp để trở thành "cảng xanh" (Green port), hiện đại để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của thị trường [15].

- Cụm cảng Liên Chiểu: thuộc phường Hòa Hiệp, quận Liên Chiểu. Là cảng

nhỏ, chuyên dụng, gắn với KCN Hòa Khánh, tàu có trọng tải 10.000 DWT có thể ra

vào (xem phối cảnh cảng ở phụ lục 8).

Theo định hướng chiến lược ĐTH và phát triển đô thị Đà Nẵng đề cập trong

Nghị quyết 43, Dự án xây dựng bến cảng Liên Chiểu của Đà Nẵng đã được Thủ tướng

Chính phủ phê duyệt, nguồn vốn đầu tư chủ yếu của nhà nước và địa phương. Dự án

được thực hiện qua 2 giai đoạn: Giai đoạn đầu từ 2018 – 2022, tập trung đầu tư mở

rộng, nâng cấp, xây dựng 1 bến hàng hóa tổng hợp, 1 bến container và các hạng mục

về cơ sở hạ tầng gồm đê, kè chắn sóng, luồng tàu, khu nước, hệ thống giao thông kết

nối với cảng và các cơ sở vật chất kỹ thuật khác. Hoàn thành giai đoạn I, cảng Liên

Chiểu sẽ tiếp nhận tàu tổng hợp, hàng rời trọng tải 100.000 tấn, tàu container có sức

chở từ 6.000 - 8.000 TEUs, đảm bảo thông quan lượng hàng từ 3,5 - 5,0 triệu tấn/năm,

với tổng mức đầu tư giai đoạn 1 là 3.426,3 tỉ đồng [15].

Sau khi hoàn thành đầu tư, mở rộng cụm cảng Liên Chiểu, cảng đảm nhiệm 2

chức năng chính là bốc xếp hàng hóa tổng hợp, hàng container và DV logistics trong nước, trong khu vực Đông Nam Á và châu Á – Thái Bình Dương.

- Cụm cảng Thọ Quang: thuộc phường Thọ Quang, quận Sơn Trà. Là cảng cá gắn với Âu thuyền Thọ Quang, gồm cảng cá, chợ đầu mối thủy sản và khu neo đậu tàu tránh bão. Để đảm bảo an toàn khi ra khơi, thúc đẩy thủy sản phát triển mạnh

Từ năm 2004 - 2010, thành phố đã đầu tư xây dựng và nâng cấp cảng đáp ứng

cho 500 tàu neo đậu. Tuy nhiên, năng lực này chưa đủ đáp ứng nhu cầu trong mùa mưa bão, vì cảng cá Thọ Quang là nơi tránh bão cho các tàu ở các ngư lân cận và ngư trường Hoàng Sa, vào mùa mưa bão số tàu neo đậu có thể lên tới 1.500 đến 2.000 tàu,

98

vì vậy năm 2016, Đà Nẵng tiếp tục thực hiện dự án cải tạo nâng cấp cảng cá lần 2, tập trung vào các khoản mục: nâng cấp về CSHT và CSVCKT của cảng, các cơ sở

phục vụ cho dịch vụ hậu cần ngư nghiệp, bến bãi, khu bảo quản sản phẩm, các trang

thiết bị và phương tiện bảo quản sản phẩm tương đối hiện đại. Nâng cao năng lực của

cảng, có khả năng tiếp nhận tàu có trọng tải 10.000 DWT hành thủy, với công suất trung bình tiếp nhận khoảng 19.000 lượt tàu thuyền và 100.000 tấn hải sản hàng năm

[84].

b. ĐTH tác động đến sự hình thành, chuyển đổi chức năng của các cụm cảng

Đà Nẵng có vị trí hướng ra biển, có nhiều tiềm năng và lợi thế to lớn trong

phát triển các ngành kinh tế biển như du lịch biển, DV cảng biển, thủy sản, CN ven biển. ĐTH đã tác động đến chuyển đổi chức năng của các cụm cảng.

- Cảng Tiên Sa từ cảng hàng hóa chuyển đổi chức năng thành cảng du lịch.

Đây là đột phá trong khai thác thế mạnh về du lịch và cảng biển. Cảng Tiên Sa có

cảnh quan đẹp, nằm sát khu du lịch Sơn Trà, cách khu du lịch Ngũ Hành Sơn và cách

trung tâm TP chỉ 10km, gần đô thị cổ Hội An và Thánh Địa Mỹ Sơn. Quá trình ĐTH

đã xây dựng được hệ thống giao thông thuận tiện đi từ cảng đến các bãi biển, các khu

nghỉ mát, các khu du lịch của TP, kết nối giao thông đến các khu du lịch của Hội An

- Mỹ Sơn - Huế; cảng Tiên Sa đã xây dựng một nhà ga đón khách, có bến bãi phục

vụ tàu du lịch, cải tiến chất lượng các DV phục vụ, phối hợp chặt chẽ với các cơ quan

chức năng như hải quan, công an, cảng vụ, biên phòng để đảm bảo thủ tục, an toàn

cho khách. Vì vậy, tuy chưa hoàn toàn trở thành một cảng chuyên dụng về du lịch,

nhưng cũng đã thu hút nhiều tàu du lịch trong và ngoài nước cập bến. Số lượng tàu

và khách du lịch tăng đều hàng năm. Năm 2012 đón 57 tàu với 52.000 lượt khách;

năm 2019 đón 101 tàu với 130.000 lượt khách. Những hãng tàu nổi tiếng trên thế giới

đã cập cảng Tiên Sa như: Star Cruises, Costa Cruises, AIDA Cruises, Dream Cruises,

Holland America Cruises, MSC Cruises, Azamara Cruises,...từ các thị trường Úc, Anh, Đức, Ý, Tây Ban Nha, Nhật Bản, Trung Quốc,...đến tham quan du lịch Đà Nẵng

[116]. - Cảng Liên Chiểu đảm nhận chức năng vận chuyển hàng hóa và DV logistics. TP đang triển khai đầu tư xây dựng CSHT, CSVCKT, hệ thống kho bãi và thiết bị công nghệ,…cho cảng Liên Chiểu, hướng đến phát triển mạnh DV logistics cảng

biển, khai thác tiềm năng của vùng hậu phương Tây Nguyên, Lào, Thái Lan qua Hành lang kinh tế Đông – Tây mang lại giá trị gia tăng cao, thúc đẩy kinh tế khu vực miền Trung – Tây nguyên phát triển. Trong tương lai, cảng Liên Chiểu sẽ hoạt động với

99

vai trò là trung tâm dịch vụ, điều phối logistics của miền Trung Việt Nam và là một thương cảng sầm uất.

3.1.2.3. Tác động đến phát triển Công nghiệp a. Đô thị hóa tác động đến hình thành và phát triển các khu công nghiệp tập

trung (gọi tắt là KCN) Trước năm 2003, CN Đà Nẵng chưa phát triển, toàn TP chỉ có 2 KCN. Ngay

sau khi được công nhận là đô thị loại I trực thuộc trung ương, Đà Nẵng tập trung đẩy

nhanh quá trình CNH. ĐTH trong thời kỳ này tác động mạnh tới việc quy hoạch, xây

dựng các KCN. TP xác định không gian cho các KCN nằm ở phía Tây Bắc và Tây

Nam của thành phố. Việc xây dựng CSHT, CSVCKT cho các KCN tập trung được thực hiện nhanh chóng. Đến 2020, TP đã có 06 KCN lớn và một khu CNC, với diện tích 970,50 ha đã đi vào hoạt động và 1 khu CNTT tập trung nằm ở vị trí thuận lợi.

1. Khu công nghiệp Đà nẵng

- KCN Đà Nẵng được cấp phép đầu tư vào năm 1993, là KCN đầu tiên với tên

gọi Khu chế xuất An Đồn. KCN này được đánh giá là điển hình và thành công nhất

của TP khi đạt tỉ lệ lấp đầy 100% sớm nhất cả nước. KCN Đà Nẵng xây dựng trên

diện tích 62,99 ha, cơ sở hạ tầng điện, nước, giao thông và trạm xử lý nước thải đảm

bảo, mật độ cây xanh đạt 15% theo quy định. KCN có vị trí thuận lợi, cách trung tâm

TP 2km, cách cảng Tiên Sa 6km, cách sân bay 5km, cách ga Đà Nẵng 3 km.

- Cơ cấu CN của KCN Đà Nẵng gồm các ngành chủ yếu: cơ khí lắp ráp; công

nghiệp hóa chất, nhựa, sản phẩm sau hóa dầu; chế biến nông, lâm, hải sản; sản xuất

bao bì; sản xuất vật liệu xây dựng.

2. Khu công nghiệp Hòa Khánh

- KCN Hòa khánh, là KCN thứ 2 của TP Đà Nẵng đi vào hoạt động từ năm

1998, với tổng diện tích ban đầu là 432,5 ha, nằm ở phường Hòa Khánh, quận Liên

Chiểu, có vị trí thuận lợi sát quốc lộ 1A, cách cảng Liên Chiểu và ga đường sắt Kim Liên 5km, cảng Tiên Sa 15km, sân bay quốc tế 10km. CSHT và CSVCKT đồng bộ

như hệ thống cung cấp điện, nước, khu vực nhà xưởng, kho bãi và các trục giao thông trong KCN rộng với 2 làn đường, hệ thống xử lý nước thải công suất 5.000m3/ngày. - KCN này thu hút được nhiều doanh nghiệp trong và ngoài nước đầu tư phát triển CN, đặc biệt là các doanh nghiệp Nhật Bản. Hiện nay, KCN Hòa Khánh có 23

doanh nghiệp Nhật Bản đang hoạt động (chiếm 50% dự án FDI đang thực hiện). Cơ cấu CN của khu này chủ yếu là: cơ khí lắp ráp, điện tử, may mặc, bao bì, nhựa, chế biến nông, lâm, hải sản và vật liệu xây dựng cao cấp.

100

3. Khu công nghiệp Liên Chiểu - KCN Liên Chiểu, được thành lập năm 1998, với tổng diện tích quy hoạch

373,5 ha, nằm ở phường Hòa Hiệp Bắc, quận Liên Chiểu. Đây là KCN lớn và hiện

đại nằm trong quần thể kiến trúc tổng hợp gồm khu đô thị, khu vui chơi giải trí và

DV. Hệ thống CSHT, CSVCKT được xây dựng hoàn chỉnh và khá hiện đại như: điện, nước, giao thông, hệ thống xử lý nước thải, bưu chính viễn thông, nhà xưởng, nhà

sản xuất của các doanh nghiệp trong và ngoài nước. Ngoài ra, KCN này còn có các khu nhà xưởng cho thuê với quy mô 5.000m2/1 nhà xưởng. - KCN Liên Chiểu cũng thu hút được nhiều doanh nghiệp trong và ngoài nước

đầu tư kinh doanh các ngành: luyện thép, cao su, chế tạo, hóa chất, sản xuất vật liệu xây dựng, cơ khí lắp ráp,... Một số dự án lớn đã và đang hoạt động từ 2013 như: Công ty Cổ phần Cao su Đà Nẵng và Công ty Crown Packaging Investment, với các nhà

máy sản xuất lốp ô tô Radial, nhà máy sản xuất vỏ lon, nắp lon dùng cho nước giải

khát,...

4. Khu công nghiệp dịch vụ thủy sản Đà Nẵng

- KCN dịch vụ thủy sản được thành lập năm 2001, có tổng diện tích 77,3 ha

thuộc phường Thọ Quang, quận Sơn Trà. Vị trí rất thuận lợi, gần ngay Âu thuyền và

cảng cá Thọ Quang, cách trung tâm TP, cảng Tiên Sa, sân bay Đà Nẵng dao động từ

2 - 5km. CSHT, CSVCKT đã được đầu tư xây dựng, đặc biệt là hệ thống xử lý nước thải đã được cải tạo năm 2012, với công suất 10.000m3/ngày đêm để xử lý nước thải KCN, nước thải sinh hoạt khu dân cư, đồng thời tập trung đầu tư cho công trình hạ

tầng nạo vét Âu thuyền, cải tạo toàn bộ hệ thống thu gom chất thải, nước thải, sử

dụng chế phẩm khử mùi,... đảm bảo cho hoạt động của KCN đạt tiêu chuẩn vệ sinh

môi trường.

- KCN dịch vụ thủy sản Đà Nẵng chủ yếu là hoạt động của ngành CN chế biến

thủy sản và DV hậu cần cảng cá. Hiện có 33 doanh nghiệp trong và ngoài nước đang hoạt động trong các lĩnh vực này.

5. Khu công nghiệp Hòa Cầm - KCN Hòa Cầm được thành lập năm 2003, có diện tích 261 ha, nằm ở phường Hòa Thọ Tây, quận Cẩm Lệ. Đây là KCN sạch của TP, tập trung các ngành sản xuất có công nghệ tiên tiến và các ngành không gây ô nhiễm môi trường. KCN Hòa Cầm

có vị trí rất thuận lợi, cách trung tâm, sân bay, cảng biển, nhà ga đường sắt chỉ từ 5 – 10km; có hệ thống CSHT, CSVCKT đồng bộ, hiện đại, đặc biệt là hệ thống giao thông nội bộ và giao thông kết nối với trung tâm, với quốc lộ 1A và đường 14B. Diện

101

tích cây xanh nhiều, cảnh quan tổng thể của KCN được thiết kế theo hướng bảo vệ môi trường và sức khỏe của người lao động.

- KCN Hòa Cầm cũng thu hút rất nhiều doanh nghiệp trong và ngoài nước,

hiện có 55 doanh nghiệp đang đầu tư sản xuất, với gần 30.000 lao động, với các ngành

chủ yếu như: CN điện tử, thiết bị điện, cơ khí lắp ráp, chế biến nông sản thực phẩm, may mặc, công nghiệp vật liệu xây dựng, trang trí nội thất cao cấp, hóa mỹ phẩm,

bao bì,... Nhiều doanh nghiệp hoạt động ổn định và có doanh thu cao, điển hình như

Associated, Foster, Yonezawa, Sadavi,...

6. Khu công nghiệp Hòa Khánh mở rộng

- KCN Hòa Khánh mở rộng được thành lập năm 2004, với tổng diện tích 316,51 ha thuộc quận Liên Chiểu, giáp với KCN Hòa Khánh. Đây là KCN mới nên việc xây dựng CSHT, CSVCKT hoàn thiện, đồng bộ theo chuẩn của một KCN tập

trung, đặc biệt cảnh quan môi trường được chú trọng, tuân thủ tiêu chuẩn mật độ xây

dựng các nhà máy, xí nghiệp khoảng 50 - 60%, còn lại là đường giao thông nội bộ và

cảnh quan cây xanh, thảm cỏ, thông thoáng đảm bảo về môi trường và sức khỏe cho

người lao động.

- KCN Hòa Khánh mở rộng thu hút ngày càng nhiều các doanh nghiệp đầu tư

sản xuất, tập trung vào các ngành: cơ khí lắp ráp, hóa chất, nhựa và các sản phẩm sau

hóa dầu, chế biến nông lâm hải sản, may mặc, vật liệu xây dựng, giấy, bao bì,..

7. Khu công nghệ cao Đà Nẵng

- Khu CNC Đà Nẵng được thành lập năm 2010, với tổng diện tích 1.129, 76

ha nằm tại 2 xã Hòa Liên, Hòa Ninh của huyện Hòa Vang. Vị trí rất thuận lợi, nằm

trên đường cao tốc Đà Nẵng - Dung Quất, kết nối với quốc lộ 1A, nối liền tất cả các

khu kinh tế trọng điểm của miền Trung như Chân Mây - Chu Lai - Dung Quất. Khu

CNC cũng có môi trường sinh thái và môi trường tự nhiên hài hòa, trong sạch, gần

khu du lịch Bà Nà Hills, gần sông Cu Đê, có núi, có rừng, có hồ Hòa Trung rộng lớn (diện tích 86ha) tạo thuận lợi xây dựng cảnh quan môi trường sinh thái.

- Hệ thống CSHT, CSVCKT được đầu tư thiết kế hiện đại và đảm bảo tiêu chuẩn ưu việt của một KCN sạch. Hệ thống thoát nước được xây dựng theo 2 hướng riêng biệt: 1 hướng xử lý triệt để nguồn nước thải, làm sạch trước khi đổ ra bên ngoài, đạt mức B theo QCVN (hệ thống xử lý nước thải với công suất 18.00m3/ngày đêm), 1 hướng hệ thống thu và đưa nước mưa vào các hồ. - Đây là một trong 3 khu CNC đa chức năng của Việt Nam (sau Hòa Lạc của TP Hà Nội và TP Hồ Chí Minh), hình thành 6 nhóm ngành nghề ưu tiên đầu tư phát

102

triển, đó là: “công nghệ sinh học phục vụ y tế, nông nghiệp, thủy sản; công nghệ vi điện tử, cơ khí và quang điện tử; tự động hóa và cơ khí chính xác; công nghệ vật liệu

mới, năng lượng mới và công nghệ nano; công nghệ thông tin, truyền thông, phần

mềm tin học; công nghệ môi trường, công nghệ phục vụ hóa dầu và một số công nghệ

đặc biệt khác” [33]. Hiện nay đã có một số nhà đầu tư với các dự án lớn như: Tokyo Keiki Precision; Niwa Foundry Việt Nam,...

b. Đô thị hóa tác động đến hình thành và phát triển khu CNTT tập trung (Da

nang It Park)

- Khu CNTT tập trung được thành lập năm 2018 với tổng diện tích 341 ha,

thuộc xã Hòa Liên, huyện Hòa vang. Có vị trí thuận lợi, nằm trên trục cao tốc Đà Nẵng - Dung Quất, nối với quốc lộ 1A gần cảng Liên Chiểu, ga đường sắt, khu CNC,...Giai đoạn 1 hoàn thành vào năm 2019 với diện tích 131 ha, hạ tầng đồng bộ,

cao cấp, các tiện nghi ngoài trời, thể thao, đặc biệt là cảnh quan cây xanh được phân

bố rộng khắp toàn khu vực đường đi, quanh các hồ nước, tạo không gian môi trường

sống và làm việc rất tốt cho dân cư và người lao động.

- Khu CNTT tập trung được thiết kế xây dựng theo hình mẫu "Thung lũng

Silicon” của Hoa Kỳ, là một trong những Trung tâm CNTT tốt nhất châu Á, cung cấp

những dịch vụ, nguồn nhân lực chất lượng cao và những sản phẩm CNTT tốt nhất

cho thế giới. Khu CNTT tập trung là nơi làm việc lý tưởng cho khoảng 25.000 lao

động chất lượng cao của TP Đà Nẵng và cả nước. TP đã có nhiều chính sách ưu đãi

để thu hút đầu tư vào khu CNTT này như: chính sách ưu đãi về thuế thu nhập đối với

các doanh nghiệp, thuế đối với hàng hóa nhập khẩu, thuế thu nhập cá nhân đối với

người lao động,...Một số các công ty lớn như IBM, Cisco, Intel, KDDI, Mitsui và các

công ty về CNTT của Nhật, Singapo, Mỹ cũng đang quan tâm tới khu CNTT tập

trung này.

- Ngoài 6 KCN, 1 khu CNC và 1 khu CNTT tập trung đã được quy hoạch, xây dựng và đi vào hoạt động tương đối ổn định, năm 2020 thành phố đang tiếp tục đẩy

nhanh tiến độ quy hoạch mặt bằng và đầu tư xây dựng các KCN và CCN mới như: KCN Hòa Cầm mở rộng, KCN Hòa Ninh, CCN Hòa Bắc, CCN Hòa Khánh Nam, CCN Cẩm Lệ, CCN Hòa Nhơn,... c. ĐTH tác động đến sự thay đổi cơ cấu trong nội bộ ngành CN

ĐTH đã tác động mạnh đến sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế của TP theo hướng CNH, HĐH. Trong CN, Đà Nẵng chú trọng phát triển CN nhưng không xung đột với du lịch, tập trung đổi mới công nghệ, phát triển CN sạch, xây dựng các KCN, CCN

103

sinh thái, đảm bảo cho phát triển bền vững. Theo đó, cơ cấu ngành trong nội bộ ngành CN cũng thay đổi theo hướng tăng cường phát triển các ngành có lợi thế cạnh tranh,

có hàm lượng công nghệ và giá trị tăng cao, trong đó, tập trung phát triển CN - CNC,

công nghiệp Điện tử - Tin học,…để CN phát triển theo hướng tăng trưởng xanh, bền

vững. - Đồng thời giảm tỉ trọng các ngành CN dựa vào khai thác tài nguyên, các

ngành có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường như luyện kim, sản xuất xi măng,…giảm

từ 7,8% (2015) xuống 5% (2020); các ngành sử dụng nhiều lao động như may mặc,

giày da, giảm từ 10,6% xuống 9,3% [117]. Trong từng ngành, mức độ giảm cụ thể

như sản xuất thép giảm 30%, sản xuất động cơ giảm 25%, sản xuất xi măng và các vật liệu xây dựng giảm 33% và được quy hoạch ra ngoại vi TP. Sự thay đổi về cơ cấu trong nội bộ ngành CN là phù hợp với xu thế chung trên

thế giới và để bắt kịp xu hướng của cuộc cách mạng 4.0, hướng đến mục tiêu phát

triển bền vững cho đô thị.

3.1.2.4. Tác động tới hạ tầng giao thông a. ĐTH tác động tới quy hoạch các đầu mối giao thông chính của thành phố

Sự phát triển đô thị và cấu trúc không gian đô thị muốn hiệu quả chỉ có thể

được thúc đẩy thông qua hệ thống CSHT, đặc biệt là mạng lưới giao thông. ĐTH ở

TP Đà Nẵng trước hết cũng bắt đầu bằng việc quy hoạch các đầu mối giao thông,

đường ô tô, đường sắt, đường thủy và đường hàng không.

- Các đầu mối giao thông đường ô tô: Bến xe trung tâm TP đã được chuyển

dời lên phía Bắc thuộc phường Hòa Minh, quận Liên Chiểu, nằm trên đường Tôn

Đức Thắng năm 2005. Với diện tích gần 6,2 ha; không gian khá rộng rãi, có khu nhà

chờ, có căng tin, môi trường, vệ sinh sạch sẽ. Bến xe đã liên kết với nhiều đơn vị vận

tải lớn, uy tín trên cả nước, cung cấp gần 100 tuyến xe đi khắp các tỉnh khác nhau và

cả tuyến đi sang nước bạn Lào, giúp cho việc đi và đến TP du lịch này thuận tiện rất nhiều. Năm 2012, Công ty cổ phần Tập đoàn Đức Long Gia Lai đã đầu tư xây dựng

bến xe phía Nam Đà Nẵng, cách trung tâm 13 km. Để thuận tiện cho hành khách, TP đã cho kéo dài tuyến xe buýt số 07, gồm 10 đến bến xe phía Nam, việc di chuyển đi lại của khách thuận tiện hơn, tăng cường độ khai thác của bến xe phía Nam, giảm tải cho bến xe trung tâm phía Bắc.

Trong quá trình ĐTH, TP thực hiện quy hoạch, xây dựng các cầu vượt, đường ngầm. Điển hình là cầu vượt Hòa Cầm ở nút giao thông Hòa Cầm. Ở nút giao thông Ngã Ba Huế, là nơi giao nhau giữa 4 tuyến đường bộ và giao cắt đồng mức với đường

104

sắt Bắc Nam, nút giao thông này có lưu lượng phương tiện lưu thông rất lớn đã xây dựng cầu vượt Ngã Ba Huế đã tránh ùn tắc giao thông, đồng thời tạo điểm nhấn và

nét riêng cho đô thị Đà Nẵng.

- Đầu mối giao thông đường thủy: đối với giao thông đường sông, chủ yếu là

trên sông Hàn ở trung tâm thành phố, và sông Cu Đê ở phía Bắc – Tây Bắc TP; hệ thống giao thông đường sông phục vụ du lịch nội địa. TP tiến hành giải tỏa dân cư

các xóm “nhà chồ” hai bên bờ sông Hàn, cải tạo tuyến đường Bạch Đằng, xây dựng

mới tuyến Trần Hưng Đạo, thay bến phà bằng các cây cầu, quy hoạch cảng sông Hàn,

sông Thu trước đây là cảng cá và cảng hàng hóa, thành một bến cảng du lịch nội địa

sông Hàn ổn định, xây dựng các công trình nhà hàng ăn uống, mua sắm, giải trí, thể thao câu cá,... nhằm khai thác 8 tuyến du lịch nội địa có tiềm năng rất lớn.

Đối với giao thông đường biển, đã quy hoạch, xây dựng thành ba cụm cảng

lớn: cảng hàng hóa Tiên Sa đang đầu tư để chuyển đổi dần sang chức năng cảng du

lịch trong nước và quốc tế; cảng Liên Chiểu là cảng vận chuyển hàng hóa và dịch vụ

logistics; cảng Thọ Quang là cảng cá và dịch vụ thủy sản, nhằm khai thác các thế

mạnh về biển.

- Sân bay quốc tế Đà Nẵng, đầu mối giao thông chính và quan trọng của giao

thông hàng không, để đáp ứng nhu cầu phát triển đô thị, năm 2016 thành phố đã cải

tạo nâng cấp nhà ga nội địa và xây dựng nhà ga quốc tế đưa vào hoạt động năm 2017.

Giai đoạn tiếp theo, sân bay quốc tế Đà Nẵng tiếp tục nâng cấp, mở rộng và hiện đại

hóa, xây dựng mới nhà ga quốc tế T3 với công suất 13 - 15 triệu hành khách/năm,

400.000 tấn/năm hàng hóa. Sân bay quốc tế Đà Nẵng trở thành một đô thị sân bay

hiện đại, đẹp đẽ, quảng bá hình ảnh trẻ trung, năng động, sáng tạo của thành phố Đà

Nẵng ra thế giới [83].

Trong giai đoạn tới, ĐTH đi vào chiều sâu, hạ tầng giao thông đô thị sẽ được

ưu tiên đầu tư phát triển vận tải khách công cộng, nghiên cứu xây dựng mạng lưới tàu điện ngầm phục vụ giao thông trong nội thành và giảm tải phương tiện giao thông

cá nhân, tạo nên một hệ thống giao thông đồng bộ, hiện đại góp phần xây dựng thành phố Đà Nẵng hiện đại, văn minh và thông thoáng. b. ĐTH tác động đến xây dựng hạ tầng giao thông kết nối vùng và ngoại vùng Đà Nẵng được xác định vai trò là TP động lực thúc đẩy sự phát triển KT – XH

của VKTTĐMT, vì vậy ĐTH rất chú trọng "Phát triển kết cấu hạ tầng giao thông tạo động lực lan tỏa", xây dựng các hệ thống đường sắt, đường bộ cao tốc, đường

105

thủy, đường hàng không kết nối với nhau, kết nối trong vùng, kết nối với hệ thống giao thông quốc gia và quốc tế.

- Giao thông được quy hoạch và kết nối theo 2 trục chính:

Trục Bắc - Nam: cải tạo và nâng cấp tuyến Quốc lộ 1A; xây dựng tuyến đường

bộ cao tốc Huế - Đà Nẵng - Quảng Ngãi - Bình Định; tuyến cao tốc Đà Nẵng - Quảng Ngãi 130 km (4 - 6 làn); cải tạo nâng cấp đường sắt Bắc - Nam; nâng cấp sân bay

quốc tế Đà Nẵng; nâng cấp mở rộng cảng nước sâu Tiên Sa, xây dựng cảng nước sâu

Liên Chiểu.

Trục Đông - Tây: xây dựng, mở rộng Quốc lộ 14B nối cảng Đà Nẵng - Cửa

khẩu Nam Giang với đường Hồ Chí Minh - Tây Nguyên; xây dựng mới tuyến đường Cam Lộ - Túy Loan dài 185 km có 4 làn đường. - Đà Nẵng cùng với 5 tỉnh Tây Nguyên kết nối với nhau qua các hành lang vận

tải chính là: Đà Nẵng - Quốc lộ 1A - Quốc lộ 19 - Biên giới Việt Lào; Đà Nẵng -

Quốc lộ 14B - Quốc lộ 14D - Đường Hồ Chí Minh - Tây Nguyên; Dung Quất - Tây

Nguyên; Quy Nhơn - Quốc lộ 19 - Tây Nguyên. Từ đây, có thể kết nối với Lào, Thái

Lan, Campuchia, Myanmar, xa hơn nữa là các nước Nam Á và Tây Nam Trung Quốc.

Trước mắt, trong liên kết gần, Đà Nẵng có thể thu hút nguồn nguyên liệu, hàng hóa

trong vùng, các vùng và các nước lân cận như Tây Nguyên, Lào, Đông Bắc Thái Lan

qua hệ thống đường bộ tới các cảng nước sâu trong vùng như Đà Nẵng, Chân Mây

(phía Bắc), Dung Quất, Quy Nhơn (phía Nam) và các cảng hàng không Đà Nẵng, Phú

Bài, Chu Lai sẽ rút ngắn được đường đi của hàng hóa.

3.2. TÁC ĐỘNG CỦA ĐÔ THỊ HÓA ĐẾN XÃ HỘI CỦA TP ĐÀ NẴNG

3.2.1. Đô thị hóa tác động tới vấn đề lao động, việc làm

3.2.1.1. Tác động đến lao động ĐTH tác động đến số lượng và chất lượng lao động đang làm việc trong nền

kinh tế. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng phát triển CN và DV, thu hút được lao động từ vùng nông thôn ngoại ô vào nội thị và từ các tỉnh khác tới, làm cho số

lượng lao động và liên tục trong giai đoạn 2003 – 2020 và trong cơ cấu lao động đang làm việc giữa nhóm ngành phi NN và NN có sự chuyển dịch rõ rệt.

106

Bảng 3.2. Lao động từ 15 tuổi trở lên đang làm việc hàng năm phân theo nhóm ngành kinh tế giai đoạn 2003 – 2020 (ĐV: nghìn người và %)

2003 2005 2010 2015 2020

Lao động Nghì % Nghì % Nghì % Nghì % Nghì %

đang n n n n n

làm việc người người người người người

Tổng số 355,8 100 363,4 100 422,7 100 549,2 100 534,4 100

Phi NN 281,4 79,1 304,7 83,9 397,6 89,8 508,0 92,5 505,9 94,

7

NN 74,4 20,9 58,7 16,1 45,1 10,2 41,2 7,5 28,5 5,3

Nguồn: NGTK TP Đà Nẵng các năm [16] Hoạt động kinh tế chủ yếu ở đô thị là các ngành CN và DV, nên tỷ lệ lao động

trong 2 nhóm ngành này tăng nhanh, từ 79,1% năm 2003 lên 89,8% năm 2010 và đạt

tới 94,7% năm 2020. Đây là chỉ tiêu khá cao so với các địa phương khác. Chất lượng

lao động cũng tăng lên đáp ứng yêu cầu của các ngành kinh tế đô thị, thể hiện ở tỷ lệ

lao động đã qua đào tạo và có trình độ chuyên môn nghiệp vụ ngày càng tăng lên.

Nguồn: Số liệu từ NGTK TP Đà Nẵng các năm [16]

Hình 3.4. Biểu đồ tỉ lệ lao động đang làm việc đã qua đào tạo của TP Đà Nẵng giai đoạn từ 2003 – 2020

107

Trong số 44,0% lao động đã qua đào tạo năm 2020 có: 22,75% trình độ đại học và trên đại học, 8,69% trình độ cao đẳng, 5,95% trình độ trung cấp và 6,61%

trình độ sơ cấp. Đây là tỷ lệ khá cao so với trung bình chung của cả nước và các địa

phương.

TP Đà Nẵng cũng có nhiều chính sách ưu đãi thu hút lực lượng lao động có trình độ từ bên ngoài vào như chính sách cấp đất ở, nhà ở cho những người có trình

độ Tiến sĩ, tạo thuận lợi cho người lao động có trình độ nhập cư, nên đã thu hút được

số lượng lớn lao động có trình độ đến TP Đà Nẵng làm việc. Theo khảo sát của tác

giả Nguyễn Nữ Đoàn Vy, năm 2017 điều tra 650 lao động nhập cư, trong đó 60,2%

là trình độ THPT, 10,8% trình độ cao đẳng và đại học, 3,4% trình độ sau đại học [93]. TP Đà Nẵng cũng đã tạo điều kiện thuận lợi cho các tập đoàn, doanh nghiệp từ khắp nơi đến sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp đã đầu tư máy móc, công nghệ mới,

nhiều kỹ sư, chuyên gia và tạo ra nhiều việc làm cho người lao động, đồng thời cũng

góp phần đào tạo, bồi dưỡng nâng cao kiến thức, tay nghề cho người lao động. Điều

này cũng tác động tích cực đến năng suất và chất lượng sản phẩm. Cũng theo tác giả

Nguyễn Nữ Đoàn Vy, có 60% doanh nghiệp ở Đà Nẵng cho rằng công nhân là những

người nhập cư có năng suất cao hơn và làm việc có hiệu quả hơn so với người lao

động địa phương [93]. Bên cạnh đó, trong số lao động nhập cư có một bộ phận là sinh

viên đã tốt nghiệp các trường đại học, cao đẳng trên địa bàn TP muốn ở lại để tìm

việc làm.

Chất lượng người lao động đã được các doanh nghiệp đánh giá là một trong 3

yếu tố quan trọng giúp TP Đà Nẵng dẫn đầu về chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh

(PCI) trong thời gian qua. Đặc biệt, số lao động ở nông thôn qua đào tạo có tốc độ

tăng nhanh hơn, để đáp ứng việc ứng dụng CNC trong sản xuất NN (năm 2003, số

lao động nông thôn qua đào tạo chỉ chiếm 8,2% trong tổng lao động đã qua đào tạo,

đến 2020 số lao động nông thôn qua đào tạo tăng lên 32,55%). Chất lượng nguồn nhân lực được nâng cao đã làm năng suất lao động xã hội trên đầu người cũng tăng

lên đáng kể. Năm 2020, năng suất lao động tính theo GRDP đạt 95,7 triệu đồng/người/năm cao hơn cả nước (43,4 triệu đồng) [16]. Sự thay đổi về số lượng, chất lượng lao động thể hiện rõ tác động của ĐTH đến lao động của TP Đà Nẵng. Tuy nhiên bên cạnh những thuận lợi sự chuyển dịch cơ cấu lao động cũng đặt ra nhiều

vấn đề: sự mất cân đối về cơ cấu lao động, tình trạng thiếu lao động ở nông thôn, áp lực về giải quyết việc làm và một số vấn đề xã hội của TP.

108

3.2.1.2. Tác động đến giải quyết việc làm cho người lao động Việc làm là một vấn đề xã hội cấp bách của TP hơn triệu dân, với mức tăng

dân số cơ học bình quân hơn 1%/năm. Quá trình ĐTH diễn ra với tốc độ nhanh, các

ngành kinh tế phi NN phát triển mạnh, đòi hỏi lực lượng lao động ngày càng nhiều

về số lượng và yêu cầu cao về chất lượng. TP đã chú ý giải quyết vấn đề này với mục tiêu xây dựng TP "5 không" "3 có" "4 an". Mục tiêu "3 có" là có nhà ở, có việc làm,

có nếp sống văn minh đô thị. Đối với mục tiêu có việc làm, TP đã ban hành Đề án

giải quyết việc làm cho người trong độ tuổi lao động như:

- Tổ chức ngày hội việc làm định kỳ để tạo cầu nối giữa việc và người (kết nối

giữa các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất, kinh doanh đang cần người và người lao động đang cần việc). Từ 2003 - 2010, đã tổ chức được 3 hội chợ việc làm lớn, mỗi lần hội chợ đã giải quyết được khoảng 3.000 việc làm cho người lao động. Từ 2010 – 2015,

hội chợ việc làm tổ chức định kỳ mỗi tháng 1 lần. Từ 2016 – 2020, hội chợ việc làm

tăng lên mỗi tháng 4 lần, vì vậy số lao động có việc làm tăng lên, đồng thời giảm dần

tỉ lệ thất nghiệp. Giai đoạn 2016 – 2020, đã giải quyết việc làm mới cho khoảng 19,5

vạn lao động, bình quân mỗi năm giải quyết việc làm mới cho khoảng 3,9 vạn lao

động [86]. Một số ngành kinh tế mũi nhọn phát triển đã tạo cơ hội việc làm lớn cho

lao động, nhất là lao động nhập cư như du lịch, thương mại, CN, DV…

Bảng 3.3. Số lao động được tạo việc làm và tỷ lệ thất nghiệp của TP Đà Nẵng

giai đoạn 2003 – 2020

Năm Số LĐ được tạo việc làm mới Tỉ lệ thất nghiệp (%)

hàng năm (người)

2003 - 5,2

2005 14.494 5,1

2010 15.950 4,8

2015 26.000 4,3

2019 36.600 3,5

2020 - 9,4

(Nguồn: 86)

109

Riêng năm 2020, do tình hình dịch Covid 19, nhiều doanh nghiệp gặp khó khăn, đặc biệt là các ngành DV và du lịch, nên nhu cầu lao động giảm đi tỉ lệ thiếu

việc làm và thất nghiệp tăng cao, TP Đà Nẵng đang nỗ lực để đạt được mục tiêu có

việc và không có người thất nghiệp, hướng tới mục tiêu chung xây dựng TP hiện đại,

sạch đẹp, bền vững, đảm bảo chất lượng sống.

3.2.2. Đô thị hóa tác động đến GRDP bình quân đầu người, thu nhập BQĐN

và đời sống người dân

3.2.2.1. Tác động đến thu nhập bình quân đầu người - ĐTH là một nhân tố quan trọng góp phần tăng trưởng TNBQĐN hàng tháng.

Do thu hút được lực lượng lao động có trình độ ở bên ngoài vào và việc nâng cao trình độ chuyên môn của người lao động, nên năng suất lao động xã hội của các khu vực kinh tế được nâng cao và làm cho TNBQĐN/tháng của TP tăng nhanh

Hình 3.5. Biểu đồ TNBQĐN/tháng của TP Đà Nẵng giai đoạn 2003 – 2020

(đơn vị: triệu đồng/người/)

Về TNBQĐN/tháng, năm 2020 TP Đà Nẵng đứng thứ 3/5 TP trực thuộc trung

ương và đứng thứ 6/63 tỉnh và TP của cả nước.

- ĐTH thúc đẩy tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế; quy mô GRDP của

thành phố luôn tăng cao và ổn định, làm cho GRDP bình quân đầu người tăng lên liên tục và luôn ở mức cao hơn bình quân chung của cả nước.

110

Bảng 3.4. GRDP bình quân đầu người của TP Đà Nẵng (theo giá HH) giai đoạn 2003 – 2020

Chỉ tiêu 2003 2005 2010 2015 2020

GRDP/ng (triệu 12,0 16,4 37,1 69,9 88,3

đồng)

GRDP/ng (USD) 771,6 1.034 1.898 3.207 3.725

Nguồn: [16,86]

Triệu đồng

Năm

Hình 3.6. Biểu đồ GRDP bình quân đầu người của Đà Nẵng

(theo giá HH) giai đoạn 2003 – 2020

Riêng năm 2019, đạt 97,4 triệu đồng/người/năm, tương đương 4.171 USD, nhưng đến 2020 do ảnh hưởng của đại dịch Covid 19 ở TP Đà Nẵng, GRDP/người đã giảm xuống còn 88,3 triệu đồng (tương đương 3.725 USD), gấp 7,4 lần so với năm 2003 và gấp 1,45 lần cả nước, gấp 1,42 lần trong VKTTĐMT, đứng thứ 11/63 tỉnh thành và thứ 5/5 TP trực thuộc trung ương [126].

111

3.2.2.2. Tác động đến đời sống của người dân ĐTH và phát triển đô thị theo hướng bền vững nhằm nâng cao đời sống người

dân. TP đã thực hiện nhiều chương trình như: “5 không” (không có hộ đói, không có

người mù chữ, không người lang thang xin ăn, không người nghiện ma túy, không

giết người để cướp của); “3 có” (có nhà ở, có việc làm, có nếp sống văn hóa, văn minh đô thị); “4 an” (an ninh trật tự, an toàn giao thông, an toàn vệ sinh thực phẩm,

an sinh xã hội). Trong thời gian qua, tổng sản phẩm trên địa bàn tăng nhanh, năm

2020 tăng hơn 11 lần so với năm 2003, GRDP bình quân đầu người năm 2020 tăng

7,4 lần. Vậy, ĐTH đã tác động mạnh không chỉ đến các hoạt động kinh tế mà cả các

vấn đề xã hội, đến thu nhập và đời sống của người dân. - ĐTH tác động trực tiếp đến giảm nghèo và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho người dân. TP thực hiện Chương trình “Không có hộ đặc biệt nghèo”, gắn

với Chỉ thị 24-CT/TU của Thành ủy, đã huy động toàn xã hội vào cuộc, tạo nguồn

lực để thực hiện chính sách giảm nghèo. Giai đoạn 2016 – 2020, TP đã nâng mức

chuẩn nghèo lên 1,35 triệu đồng đối với hộ ở nông thôn và 1,45 triệu đồng đối với hộ

ở thành thị, cao hơn 30% so với mức của Trung ương và năm 2018 đã hoàn thành chỉ

tiêu. Đến cuối năm 2020, không còn hộ nghèo theo chuẩn cũ, tỉ lệ hộ nghèo theo

hướng tiếp cận đa chiều của TP thì giảm còn 2,04%.

Bảng 3.5. GRDP/người và tỷ lệ hộ thoát nghèo của TP Đà Nẵng từ 2003 - 2020

Năm Số hộ thoát nghèo trong năm Mức giảm tỷ lệ hộ nghèo (%)

2003 2.497 1,7

2005 6.285 4,1

2010 8.380 3,7

2015 6.961 2,9

2020 2.300 Ko còn hộ nghèo theo chuẩn cũ

Nguồn: NGTK TP Đà Nẵng các năm [16,86] - Chương trình “An sinh xã hội” của TP đã thực sự đạt hiệu quả, huy động nhiều nguồn lực xây dựng chung cư, nhà ở xã hội để giải quyết nhà ở cho các hộ

chính sách, các hộ nghèo chưa có chỗ ở ổn định, các hộ tái định cư, cho cán bộ, công

112

nhân viên có thu nhập thấp. Đầu tư xây dựng nhà ở cho công nhân tại các KCN, ký túc xá cho sinh viên. Tiếp tục nhiều giải pháp giải quyết việc làm cho người lao động.

- Công tác chăm sóc và bảo vệ sức khỏe của nhân dân được quan tâm, đầu tư

xây dựng mới, cải tạo, nâng cấp các bệnh viện đa khoa, chuyên khoa, các trung tâm

y tế, các trạm y tế. Hiện đại hóa các phương tiện thiết bị khám chữa bệnh, phát triển dịch vụ y tế chuyên sâu, từng bước hội nhập nền y tế khu vực và quốc tế. Đến 2020,

100% số phường, xã đạt chuẩn quốc gia về y tế, 98,9% trẻ em dưới 1 tuổi được tiêm

phòng đầy đủ; tỉ lệ trẻ em dưới 5 tuổi bị suy dinh dưỡng chiếm tỉ lệ nhỏ (2,4%). Tỉ lệ

bao phủ bảo hiểm y tế đạt 99%; số giường bệnh/1 vạn dân đạt 78,6% gường; số bác

sĩ/1 vạn dân đạt 20,3 bác sĩ; tuổi thọ bình quân đạt 76,3 tuổi [16,86].

- Mạng lưới trường học được quy hoạch, xây dựng theo hướng đa dạng hóa, xã hội hóa, cơ cấu hợp lý giữa các cấp học, ngành học. Đến 2020, 100% phường xã

duy trì phổ cập tiểu học và THCS đúng độ tuổi, 56/56 phường xã đạt chuẩn phổ cập

giáo dục bậc THPT. Ứng dụng mạnh mẽ KHKT và CNTT trong giáo dục. Đầu tư xây

dựng các công trình phục vụ học 2 buổi/ngày cho bậc tiểu học (tỉ lệ HS tiểu học được

học 2 buổi/ngày chiếm 97%). Toàn TP có 206 trường mầm non, 192 trường tiểu học,

57 trường THCS, 24 trường THPT, 15 trường cao đẳng và 12 trường đại học; với

tổng số HS mầm non 63.600 HS; 98.964 HS tiểu học, 65.192 HS THCS, 32.491 HS

THPT và 112.164 sinh viên đại học và cao đẳng). Đẩy mạnh việc xã hội hóa và hợp

tác quốc tế trong phát triển giáo dục ở tất cả các bậc học từ mầm non đến đại học.

Chất lượng hiệu quả giáo dục ngày càng được nâng cao [16, 86].

- Các điều kiện thiết yếu cho đời sống được đảm bảo cả về số lượng và chất

lượng: tỉ lệ hộ dân được sử dụng nước sạch chiếm 99,5%, 100% hộ dân được sử dụng điện, tỉ lệ hộ dân sử dụng internet là 83,7%, diện tích đất ở bình quân/người là 25,8m2. - ĐTH tác động mạnh đến đời sống văn hóa của người dân, hướng về giá trị

cộng đồng: ĐTH ảnh hưởng đa chiều đến đời sống văn hóa của người dân đô thị, đặc biệt là sự chuyển biến từ văn hóa, lối sống nông thôn sang văn hóa, lối sống đô thị

văn minh, hiện đại. Chính quyền TP đã tập trung vào đề án "Xây dựng nếp sống văn hóa - văn minh đô thị", hướng đến một đô thị văn minh, giàu tính nhân văn, hài hòa, thân thiện, an bình, có chất lượng môi trường sống tốt. Từ 2015 đến nay, TP thực hiện "Năm văn hóa, văn minh đô thị", tất cả các quận, huyện, xã, phường đều chú

trọng thực hiện chương trình này: các tiêu chí cụ thể về văn hóa - văn minh đô thị được ban hành. Ban Tuyên giáo TP biên soạn "Sổ tay văn hóa người Đà Nẵng thực hiện nếp sống văn, văn minh đô thị" để tuyên truyền, giáo dục. Đô thị Đà Nẵng có

113

nét đẹp về văn hóa - văn minh giao thông, với tiêu chí “9 không và 9 nên”. TP Đà Nẵng có văn hóa - văn minh giao tiếp ứng xử, với truyền thống mến khách, trọng

tình, trọng nghĩa, sẵn sàng chia sẻ, giúp đỡ; có văn hóa - văn minh trong hoạt động

kinh doanh; có văn hóa - văn minh môi trường (98% rác thải được thu gom theo đúng tiêu chuẩn, hệ thống cây xanh và không gian xanh đạt 6 – 8 m2/người, chỉ số ô nhiễm không khí (AP) trong khu vực đô thị nhỏ hơn 100, độ ồn tại khu dân cư nhỏ hơn

60dbA, ở đường phố nhỏ hơn 75dbA) [32, 55]. Nhờ vậy, chất lượng đời sống vật

chất, tinh thần của người dân ngày càng được nâng cao, tạo cho thành phố xanh, sạch,

đẹp, để lại nhiều ấn tướng tốt cho người dân và du khách.

- Con người Đà Nẵng mang đậm dấu ấn Xứ Quảng, giản dị, cần cù, chịu khó, trọng tình nghĩa, cương trực, thẳng thắn; sống trong môi trường kinh tế có sự đan xen của nhiều thành phần kinh tế cùng với môi trường sống thay đổi do quá trình ĐTH

diễn ra nhanh chóng. Kết quả dẫn tới sự hình thành lối sống pha trộn giữa những yếu

tố cũ quy định hành vi văn hóa, ứng xử và giao tiếp với những yếu tố văn hóa mới

chưa thật ổn định và ẩn chứa mâu thuẫn cần tiếp tục hoàn thiện như: nhịp sống nhanh

của ĐTH hiện đại với thói quen trì trệ, tĩnh tại của lối sống nông thôn, giữa quy hoạch

đô thị theo hướng hiện đại với quản lý và vận hành đô thị theo kiểu tự phát. Đô thị

Đà Nẵng vẫn phải đối mặt với tắc đường, ô nhiễm môi trường, thiếu nước sinh hoạt

và điều kiện sống ở một số khu tái định cư còn kém,…

3.2.2.3. Tác động tích cực đến đời sống người dân nằm trong khu chỉnh

trang đô thị và các khu di dời tái định cư - Để tìm hiểu tác động của ĐTH đến đời sống các hộ dân cư nằm trong khu

vực chỉnh trang đô thị và các hộ phải di dời đến những khu tái định cư, NCS đã tiến

hành điều tra 200 hộ dân, gồm: 100 hộ tại các khu chỉnh trang ở quận Hải Châu và

quận Thanh Khê; 100 hộ phải di dời đến các khu tái định cư ở quận Cẩm Lệ, Ngũ

Hành Sơn, Liên Chiểu.

- Nội dung điều tra tập trung chủ yếu tìm hiểu về tư tưởng và sự đồng thuận

của người dân với chủ trương chính sách ĐTH của TP; những tác động của quá trình ĐTH đến đời sống của dân cư ở các khu chỉnh trang và di dời đến khu tái định cư (phụ lục 1,2). - Kết quả điều tra cụ thể (phụ lục 3,4).

* Điều kiện sống của các hộ dân ở khu vực chỉnh trang đô thị + Số hộ đã định cư từ 3 đến trên 10 năm chiếm tới 92,9%; Số hộ chịu ảnh hưởng của chỉnh trang 1 lần chiếm 54,5%, số hộ bị ảnh hưởng 2, 3 lần chiếm 43,4%;

114

+ Về nhận thức và tư tưởng: 100% số hộ đều đồng ý thực hiện chính sách chỉnh trang đô thị; 82% số hộ biết trước những khó khăn sẽ gặp trong quá trình chỉnh

trang; 80% số hộ cho rằng khó khăn nhất là môi trường xáo trộn và ô nhiễm, 20% là

các khó khăn khác.

+ Điều kiện sống của các hộ dân sau khi thực hiện chỉnh trang đô thị so với

điều kiện sống trước khi chỉnh trang thể hiện ở biểu đồ sau đây:

%

Hình 3.7. Biểu đồ so sánh về đời sống người dân sau khi chỉnh trang đô thị

(Nguồn tổng hợp từ kết quả điều tra của NCS năm 2019)

Từ kết quả trên cho thấy những chính sách về chỉnh trang đô thị của TP đều

được người dân đồng tình ủng hộ, mặc dù hầu hết người dân đều biết trước những

khó khăn về môi trường, về sản xuất, kinh doanh và sinh hoạt sẽ gặp trong quá trình

thực hiện chỉnh trang đô thị. Tuy nhiên, người dân đều nhận thức rõ sau khi đô thị được cải tạo, nâng cấp các điều kiện sống sẽ tốt hơn, hoặc giữ nguyên không bị thay đổi, tin tưởng vào chính sách của TP. Đây cũng là một thành công của quá trình ĐTH

ở TP Đà Nẵng. * Điều kiện sống của các hộ dân phải di dời đến khu vực tái định cư + Số hộ đã đến định cư 3 đến 10 năm chiếm 76,0%, dưới 3 năm chiếm 23%; Nghề nghiệp của các hộ trước khi chuyển đến khu tái định cư: lao động tự do chiếm 31,2%, hưu trí 24,0%, buôn bán 14,6%, còn lại là công nhân, tri thức.

115

+ Về nhận thức và tư tưởng: 83,3% hộ đồng ý với chính sách đền bù, giải tỏa của thành phố, 16,2% hộ chưa đồng ý với chính sách đền bù đối với gia đình về diện

tích đất.

+ Lý do đến ở các khu tái định cư: 76,9% hộ nằm trong khu vực giải tỏa, 11,0%

mua đất làm nhà mới; các khó khăn được đề cập khi chuyển đến khu tái định cư: 42,4% hộ cho là xa chợ, bệnh viện, khu thương mại, 28,8% hộ cho là khó tìm việc

làm mới, 13,6% khó khăn chưa làm được nhà kiên cố.

+ Điều kiện sống của các hộ dân sau khi đến ở khu tái định cư so với điều kiện

sống nơi ở cũ, thể hiện ở biểu đồ sau đây:

%

Hình 3.8. Biểu đồ so sánh đời sống người dân sau khi đến ở khu tái định cư

(Nguồn tổng hợp từ kết quả điều tra của NCS năm 2019)

Kết quả trên cho thấy hầu hết người dân đồng thuận với chính sách đền bù giải

tỏa của TP, số hộ chưa đồng ý ít vì lý do chủ yếu là số đất được đền bù ít hơn nhiều

so với số đất của gia đình bị giải tỏa và vị trí nơi ở mới không thuận lợi cho gia đình kinh doanh, buôn bán,…80%, số hộ cho rằng điều kiện sống ở các khu tái định tốt hơn hoặc giữ nguyên so với nơi ở cũ; các điều kiện sống mà số hộ cho là xấu hơn tập trung ở các tiêu chí như: môi trường xã hội tệ hơn (chiếm 24,8%), không thoải mái (chiếm 20%) và việc làm xấu hơn (chiếm 19,8%). Lý do một số khu tái định cư chưa ổn định về dân cư, người ở nhiều nơi tụ hội nên môi trường xã hội cũng chưa thật ổn

116

định, các tổ dân phố hoạt động chưa chặt chẽ, một số lao động chưa tìm được việc làm nên cũng ảnh hưởng đến môi trường xã hội và sự thoải mái trong đời sống.

Tóm lại: trong 18 năm qua, ĐTH ở TP Đà Nẵng đã đạt được những thành tựu

quan trọng và tác động tích cực đến nhiều mặt của đời sống xã hội, nâng cao chất

lượng sống của người dân. TP đang tiếp tục cố gắng để thực hiện thành công các chương trình “thành phố 5 không, 3 có và 4 an”.

* Đánh giá chung về tác động của ĐTH đến KT – XH của TP Đà Nẵng

trong giai đoạn nghiên cứu Gần 20 năm ĐTH, Đà Nẵng đã nhanh chóng xây dựng thành phố với hình ảnh

là một đô thị hiện đại, đẹp, văn minh, có đặc thù và bản sắc riêng, hấp dẫn. ĐTH cũng đã tác động làm thay đổi nhiều mặt của KT – XH nhằm hướng đến xây dựng Đà Nẵng thành một đô thị "mang tầm quốc tế, có bản sắc riêng", có thể sánh vai cùng các đô

thị hiện đại, hấp dẫn bậc nhất thế giới như Singapore,…

. Tuy nhiên, trong giai đoạn vừa qua, ĐTH cũng còn nhiều mặt hạn chế trong

tác động đến KT – XH của thành phố, luận án tập trung phân tích những hạn chế cơ

bản của ĐTH đến ba khía cạnh sau đây:

- Thứ nhất, hạn chế của ĐTH đối với xây dựng hạ tầng giao thông đô thị: quá

trình ĐTH đã tạo nên hệ thống CSHT tương đối đồng bộ và hiện đại, tuy nhiên hệ

thống hạ tầng giao thông đô thị xây dựng chưa có tầm nhìn chiến lược lâu dài, còn

nhiều bất cập, phần lớn các tuyến đường trong nội đô vẫn chật hẹp, phương tiện giao

thông cá nhân vẫn là chính, chưa có quy hoạch, chưa xây dựng các gara, các bãi đậu

xe công cộng có quy mô lớn cho các phương tiện giao thông, chưa đầu tư cho hệ

thống giao thông tĩnh một cách thích hợp. Vì vậy, hiện tượng ùn tắc giao thông trong

giờ cao điểm đã thường xuyên xảy ra ở khu trung tâm và các khu trọng yếu trong

thành phố; tai nạn giao thông cũng là một thực trạng nhức nhối.

- Thứ hai, hạn chế của ĐTH đối với sự phát triển kinh tế: Tốc độ tăng trưởng kinh tế của thành phố từ 2015 đến 2020 đã chững lại, quy mô nền kinh tế chưa tương

xứng với tiềm năng, cơ hội và lợi thế cạnh tranh. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch, nhưng cũng bộc lộ những điểm chưa phù hợp, điều này thể hiện rõ qua tác động của đại dịch Covid 19. Đối với các ngành kinh tế mũi nhọn của TP, tác động của ĐTH cũng thế hiện các mặt hạn chế.

+ Đối với du lịch, dịch vụ: tài nguyên du lịch nhân văn không nhiều, không nổi bật như Huế và Quảng Nam, nhưng Đà Nẵng lại có những tài nguyên thiên nhiên có giá trị và sự hấp dẫn như Bà Nà, Ngũ Hành Sơn, Sơn Trà, Hải Vân và những bãi

117

biển đẹp nổi tiếng. Tuy nhiên việc quản lý, bảo tồn, tôn tạo và đầu tư xây dựng CSVCKT, xây dựng sản phẩm du lịch phục vụ sự phát triển du lịch còn thiếu: thiếu

những điểm vui chơi giải trí tổng hợp đẳng cấp, thiếu các khu chợ đêm độc đáo, thiếu

khu thương mại trung tâm mang tầm quốc gia, quốc tế (khu tập hợp các công trình

văn phòng thương mại, tài chính, shopping mall hạng sang, khách sạn lớn mang tầm quốc tế), thiếu các khu thương mại sầm uất, các điểm du lịch điển hình, hấp dẫn ở

trong thành phố còn ít.

+ Đối với công nghiệp: thực tế trong thời gian qua, các KCN tại Đà Nẵng có

quy mô nhỏ, phát triển chậm, trong quy hoạch đô thị, quỹ đất dành cho công nghiệp

không nhiều, chưa có quy hoạch cho các KCN lớn như Phú Nghĩa (Chương Mỹ, Hà Nội), Bình Xuyên (Vĩnh Phúc), Becamex Bình Phước, Tân Phú Trung (TP Hồ Chí Minh),… Một số KCN quan trọng của TP Đà Nẵng lại nằm gần các khu dân cư như

Hòa Khánh và Hòa Khánh mở rộng, Hòa Cầm); TP chưa có nhiều doanh nghiệp lớn,

ĐTH vẫn chưa thu hút được nhiều lực lượng lao động, công nhân kỹ thuật có tay nghề

cao ở các vùng lân cận.

ĐTH đã tạo thuận lợi cho nhiều đổi mới sáng tạo, nhưng đổi mới sáng tạo cũng

chưa trở thành động lực, chưa tạo sự thay đổi căn bản trong phát triển kinh tế; thu hút

FDI còn thấp so với tiềm năng, các dự án CNC, công nghệ nguồn còn rất ít.

- Thứ ba, hạn chế của ĐTH đối với các vấn đề xã hội:

+ Việc tăng dân số nhanh: do tỷ lệ nhập cư cao, cùng áp lực của tái định cư,

dẫn đến diện tích đất nhà ở tăng lên, hệ số sử dụng đất nhà ở thấp, đây là một trong

những hạn chế quan trọng đối với một đô thị có diện tích nhỏ như Đà Nẵng.

+ Tác động hạn chế của ĐTH đến vấn đề việc làm của người dân TP: ĐTH ở

Đà Nẵng phần nào đã tác động tích cực đến vấn đề việc làm, tỷ lệ thất nghiệp nhỏ.

Tuy nhiên, việc làm của dân cư địa phương, nhất là dân cư ở các xã ven nội thị, ở các

khu tái định cư còn gặp nhiều khó khăn. Do sự gia tăng nguồn lao động của dòng nhập cư, sự thu hẹp đất canh tác, khiến cho việc làm của người dân địa phương ở các

xã của Hòa Vang, người dân ở các khu tái định cư nằm ven thành phố trở nên khó khăn và bức xúc. Hơn nữa tình trạng mất đất NN, chuyển đổi mục đích sử dụng đất, làm mất nguồn sinh kế chủ yếu của nhiều hộ gia đình nông dân, đặc biệt là những hộ nông dân nghèo, buộc họ phải chuyển đổi nghề nghiệp, nhưng bản thân họ lại chưa

đáp ứng được với các nghề mới trong đô thị, làm nảy sinh nhiều mâu thuẫn xã hội. + Hệ thống hạ tầng xã hội và an sinh xã hội: quá trình ĐTH đã chú trọng đầu tư xây dựng, tuy nhiên vẫn còn nhiều bất cập và thiếu thốn. Đà Nẵng là thành phố

118

biển, chịu tác động mạnh của thiên tai và biến đổi khí hậu, nước biển dâng cao, nước mặn xâm nhập ngày càng sâu vào nội địa, nước ngọt ngày một khan hiếm, việc thiếu

nước ngọt đang hiện hữu, tuy nhiên việc quy hoạch và xây dựng các hồ chứa nước

hiện đại, đủ lớn để đảm bảo nước ngọt cho người dân trong mùa khô nóng và điều

tiết nước trong mùa mưa lũ cũng chưa được thực hiện; nút thương mại chính hiện tại của Đà Nẵng nằm ở quận Hải Châu, chưa có các nút phụ bên ngoài trung tâm, đặc

biệt là để phục vụ nhu cầu địa phương của cư dân; các công trình phục vụ an sinh xã

hội như các trung tâm phúc lợi, nuôi dưỡng người già chưa quy hoạch xây dựng.

+ ĐTH cũng đã làm suy giảm các loại hình kiến trúc truyền thống như: nhà ở,

cổng làng, cầu,… Sự đan xen thiếu quy hoạch, thiếu gắn kết giữa không gian làng xã truyền thống và không gian phát triển đô thị mới dẫn đến sự lộn xộn, manh mún. Đà Nẵng còn rất ít những làng cổ và những ngôi nhà cổ.

+ Sự pha trộn nhiều tầng lớp dân cư và sự chuyển đổi các mô hình tổ chức ở

các khu dân cư, nhất là các khu vùng nông thôn được chuyển lên thành thị đã tác

động mạnh đến lối sống, văn hóa của các hộ gia đình, từ lối sống của nông dân, làng

xã sang lối sống thành thị, phố phường làm thay đổi hành vi, ứng xử của cư dân, làm

biến đổi, suy giảm các mối quan hệ họ hàng, bà con làng xóm gần gũi, thân mật, chia

sẻ,… vốn là truyền thống tốt đẹp của người dân Xứ Quảng.

Đánh giá, phân tích những hạn chế trong tác động của ĐTH đến KT – XH của

TP Đà Nẵng là hết sức cần thiết, giúp cho các cấp lãnh đạo, các cơ quan chức năng

của thành phố có thể đưa ra những quyết sách cho sự phát triển hài hòa, bền vững giữ

ĐTH và KT – XH trong tương lai.

Tiểu kết chương 3 Nội dung của chương 3 gồm: đánh giá tác động của ĐTH đến sự phát triển

kinh tế (tác động đến tốc độ tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế; đến sự phát

triển các ngành kinh tế, đặc biệt các ngành gắn với biển như du lịch, cảng biển và công nghiệp; đến phát triển kết cấu hạ tầng giao thông) và tác động của ĐTH đến xã

hội (tác động đến lao động việc làm, đến tăng trưởng GRDP bình quân đầu người và đời sống người dân). Sự tác động của ĐTH được làm rõ thông qua phân tích từng tiêu chí thay đổi theo thời gian từ 2003 – 2020. ĐTH ở TP Đà Nẵng diễn ra nhanh, mạnh nên đã thúc đẩy sự tăng trưởng kinh

tế, thể hiện hiệu ích quy mô đô thị, khi quy mô GRDP tăng và phù hợp với các thay đổi quan trọng của ĐTH; làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, tỉ trọng khu vực CN, DV cao hơn NN, phù hợp theo từng giai đoạn của quá trình CNH (giai

119

đoạn 2003 – 2009, thời kỳ đẩy mạnh CNH, cơ cấu kinh tế xác định là CN – DV – NN, đến giai đoạn 2010 – 2020 chuyển nhanh sang DV – CN – NN nhằm đáp ứng sự

phát triển kinh tế đô thị theo hướng bền vững); sự thay đổi cơ cấu ngành kéo theo sự

thay đổi của cơ cấu thành phần kinh tế, khu vực ngoài nhà nước và khu vực có vốn

đầu tư nước ngoài tăng nhanh, phát huy tổng hợp được các nguồn lực, đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế.

Phân tích rõ tác động của ĐTH đối với sự phát triển các ngành kinh tế trụ cột

là: ĐTH đã tạo được hệ thống CSHT ngày càng đồng bộ và hiện đại phục vụ cho các

ngành kinh tế, làm nền tảng cho đầu tư xây dựng hệ thống CSVCKT cho từng ngành,

để phát triển du lịch, cảng biển và CN – CNC, thúc đẩy các ngành phát triển, tạo ra những sản phẩm đáp ứng nhu cầu thị trường trong và ngoài nước; việc quy hoạch đô thị cũng thúc đẩy và hình thành các khu du lịch, các KCN, các cảng biển tạo nên sự

chuyên môn hóa của đô thị du lịch, đô thị cảng biển và CN – CNC, thể hiện vai trò,

vị thế của Đà Nẵng đối với VKTTĐMT và cả nước.

ĐTH tác động đến các vấn đề xã hội, được phân tích theo các tiêu chí nổi bật

như ĐTH tác động làm thay đổi lực lượng lao động cả về số lượng và chất lượng, do

phát triển đa dạng ngành nghề và yêu cầu về chuyên môn, kỹ năng; cơ cấu lao động

chuyển dịch phù hợp với cơ cấu ngành kinh tế, tăng lao động ở khu vực DV, CN,

giảm lao động khu vực NN, đảm bảo cho sự phát triển đô thị theo hướng CNH, HĐH;

ĐTH có tác động tích cực trong giải quyết việc làm cho người lao động, do phát triển

nhiều ngành DV, CN, nâng cao đời sống cho người lao động và các dịch vụ y tế,

chăm sóc sức khỏe, giáo dục đào tạo ngày càng tốt hơn.

Phần cuối chương 3, luận án đi phân tích những hạn chế trong tác động của

ĐTH đến KT – XH của TP ở 3 khía cạnh là hạ tầng giao thông đô thị, đến các lĩnh

vực kinh tế cơ bản và đến các vấn đề xã hội.

Những phân tích về tác động của ĐTH đến KT – XH của TP Đà Nẵng là cơ sở đưa ra những định hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả các tác động của ĐTH

trong giai đoạn mới ở chương tiếp theo.

120

CHƯƠNG 4

GIẢI PHÁP HIỆU QUẢ CHO ĐÔ THỊ HÓA VÀ PHÁT TRIỂN

KINH TẾ - XÃ HỘI Ở THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

4.1. CƠ SỞ ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP

4.1.1. Định hướng về đô thị hóa của Vùng kinh tế trọng điểm miền Trung và

thành phố Đà Nẵng 4.1.1.1. Định hướng về ĐTH của VKTTĐMT

Ngày 13/8/2004, Thủ tướng Chính phủ đã ký quyết định thành lập VKTTĐMT

gồm 5 tỉnh, thành là Thừa Thiên Huế, Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, nhằm phát huy tiềm năng, vị trí địa lý và các lợi thế so sánh của vùng, từng bước phát triển VKTTĐMT thành một trong những vùng phát triển năng động của cả nước. Đây

là vùng có vị trí đặc biệt quan trọng trong chiến lược phát triển KT – XH và đảm bảo

an ninh quốc phòng đối với cả khu vực Duyên hải miền Trung và Tây Nguyên.

Sau 10 năm thành lập từ 2004 – 2014, VKTTĐMT cũng đã đạt được những

thành tựu bước đầu trong mọi lĩnh vực KT – XH: nền kinh tế phát triển tương đối

toàn diện và liên tục tăng trưởng với nhịp độ khá cao, chất lượng tăng trưởng từng

bước được cải thiện; tốc độ tăng trưởng GDP bình quân hàng năm toàn thời kỳ đạt

11,6%, VKTTĐMT đóng góp khoảng 7,9% GDP của cả nước; cơ cấu kinh tế có sự

chuyển dịch tích cực, tỷ trọng các ngành phi NN tăng nhanh; đời sống của nhân dân

đã có nhiều cải thiện, đặc biệt các địa phương có nhiều chính sách xóa đói, giảm

nghèo, nhiều mô hình hỗ trợ nhà ở và đất ở cho người nghèo, tỉ lệ hộ nghèo giảm

nhanh [8].

Về ĐTH, hệ thống đô thị của vùng qua các giai đoạn lịch sử được hình thành

gắn liền với quá trình khai thác và phát triển KT – XH của vùng, đến nay đã tạo thành

một chuỗi đô thị chạy từ Bắc xuống Nam dọc theo bờ biển Đông và từ Tây sang Đông dọc theo các trục chính Đông – Tây và theo các lưu vực sông, trong đó, có 1 TP trực

thuộc trung ương loại I; tỉ lệ ĐTH đạt hơn 30%, cao hơn mức trung bình cả nước (27%). Theo đánh giá chung “Các đô thị đã đảm nhiệm được vai trò là trung tâm phát triển CN, tiểu thủ CN, các ngành nghề mới, trung tâm phát triển và chuyển giao công nghệ trong vùng, trung tâm giao lưu thương mại trong nước và ngoài nước, thu

hút đầu tư, phát triển kinh tế đối ngoại, trung tâm dịch vụ, phát triển văn hoá, giáo dục, nâng cao dân trí và phát triển nguồn lực, giữ vai trò trong tăng thu ngân sách cho Nhà nước hàng năm và đi đầu trong việc đảm bảo an ninh, quốc phòng” [8].

121

Đến ngày 13/10/2014 Thủ tướng Chính phủ tiếp tục ra quyết định số 1874/QĐ- TTg về Quy hoạch tổng thể phát triển KT – XH VKTTĐMT đến năm 2020, định

hướng đến năm 2030. Theo quy hoạch này, định hướng đến năm 2030: “VKTTĐMT

tiếp tục là khu vực phát triển năng động với tốc độ nhanh, bền vững, chất lượng tăng

trưởng ngày càng cao; là vùng có cảnh quan môi trường tốt và là trung tâm dịch vụ, du lịch, nghỉ dưỡng chất lượng cao của cả nước và khu vực Đông Nam Á; có cơ cấu

kinh tế hiện đại, không gian phát triển đô thị và CN gắn với biển. Các khu kinh tế

Chu Lai, Dung Quất, Chân Mây – Lăng Cô và Nhơn Hội là những hạt nhân, là trung

tâm phát triển lớn của vùng. TP Đà Nẵng, Huế, Quy Nhơn trở thành các trung tâm

du lịch, thương mại và giao dịch quốc tế lớn của cả nước, đảm nhận chức năng dịch vụ thương mại và trung tâm du lịch của cả khu vực miền Trung – Tây Nguyên” [9]. Các chỉ tiêu về ĐTH của VKTTĐMT đến năm 2030, tỉ lệ ĐTH đạt từ 55 –

60%; mở rộng và phát triển các đô thị gắn với các khu kinh tế, KCN, CCN, các cửa

khẩu, các trung tâm thương mại và du lịch theo hướng đa trung tâm, tạo sự liên kết

chặt chẽ giữa các địa phương trong vùng và liên kết với các vùng lân cận; tạo nên

chuỗi đô thị động lực chính là Huế - Đà Nẵng – Chu Lai – Vạn Tường – Quy Nhơn

cho toàn vùng Duyên hải miền Trung, trong đó TP Đà Nẵng là đô thị hạt nhân. Trong

chuỗi đô thị động lực này, tập trung xây dựng các cụm đô thị động lực: “Cụm số 1:

Huế - Tứ Hạ - Phú Bài – Thuận An – Bình Điền, thành phố Huế là đô thị trung tâm,

tiến tới trở thành TP trực thuộc Trung ương; Cụm số 2: Chân Mây – Đà Nẵng – Điện

Nam – Điện Ngọc – Hội An, Đà Nẵng là đô thị trung tâm của VKTTĐMT và vùng

Trung Trung Bộ; Cụm số 3: Núi thành – Dốc Sỏi – Châu Ô – Vạn Tường, trong đó

đô thị Núi Thành gắn với khu kinh tế mở Chu Lai, Vạn Tường, Dốc Sỏi, Châu Ô gắn

với khu kinh tế Dung Quất; Cụm số 4: TP Quy Nhơn và vùng phụ cận, trong đó TP

Quy Nhơn là đô thị trung tâm phía Nam gắn với khu kinh tế Nhơn Hội”. Về chức

năng, một số đô thị gắn với các khu kinh tế tổng hợp, gồm CN, các DV, du lịch và cảng biển; một số đô thị gắn với chức năng chuyên ngành như đô thị du lịch, đô thị

CN, đô thị cảng, đô thị dịch vụ NN,…[9]. Như vậy, theo quy hoạch phát triển KT – XH của VKTTĐMT, Đà Nẵng là TP lớn nhất trong vùng, là đô thị hạt nhân trong chuỗi đô thị động lực của vùng và là đô thị trung tâm trong cụm đô thị động lực số 2. Vị thế này tạo cho TP Đà Nẵng nhiều

cơ hội để phát triển, nhưng đồng thời cũng là một thách thức lớn trong xây dựng chiến lược phát triển để xứng tầm với vị thế được Chính phủ trao cho.

122

4.1.1.2. Định hướng ĐTH của thành phố Đà Nẵng đến năm 2030

a. Định hướng về chức năng đô thị

Nghị quyết 43 NQ/TW của Bộ Chính trị về xây dựng phát triển TP Đà Nẵng

đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2045. Nghị quyết đã chỉ rõ định hướng phát triển

KT – XH và phát triển không gian đô thị của Đà Nẵng trong giai đoạn từ 2021 - 2030 [5]. Ngày 01/2/2019, Thủ tướng Chính phủ kí Quyết định 147//QĐ –TTg phê duyệt

Điều chỉnh quy hoạch chung xây dựng TP Đà Nẵng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm

2045. Đây là hai văn bản pháp lý quan trọng đối với xây dựng và phát triển TP Đà

Nẵng trong giai đoạn tới.

Tháng 1/2020, Ủy ban nhân dân TP Đà Nẵng đã trình duyệt Thuyết minh tổng hợp “Điều chỉnh quy hoạch chung thành phố Đà Nẵng đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2045”. Mục tiêu xây dựng thành phố Đà Nẵng trở thành một trong những

trung tâm KT – XH lớn của cả nước và Đông Nam Á.

Nghị quyết 43 NQ/TW đã xác định rõ mục tiêu của cần đạt được của thành

phố Đà Nẵng đến năm 2030 là: “Xây dựng thành phố Đà Nẵng trở thành một trong

những đô thị sinh thái, hiện đại và thông minh, trung tâm KT – XH lớn của cả nước

và Đông Nam Á với vai trò là trung tâm về khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo” [5]. Tính

chất: đô thị Đà Nẵng là đô thị trung ương loại I, thành phố cấp quốc gia hiện đại, là

đô thị trung tâm thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của miền Trung – Tây Nguyên.

Đại hội Đảng bộ lần thứ XXII, nhiệm kỳ 2020 – 2025 của thành phố Đà Nẵng

đã xác định một số chỉ tiêu cụ thể cho phát triển đô thị giai đoạn 2021 – 2025: “GRDP

tăng 9 – 10%, GRDP/người đạt 5.000 – 5.500 USD, tổng vốn đầu tư phát triển xã hội

tăng 9 – 10%/năm, thu ngân sách tăng bình quân 7 – 10%/năm; tỉ lệ tăng dân số bình

quân 2,4%/năm, tỉ lệ lao động qua đào tạo đạt 75%, không còn hộ nghèo còn sức lao

động theo chuẩn đa chiều của TP, 100% xã đạt chuẩn nông thôn mới, 100% KCN,

CCN có hệ thống xử lý nước thải tập trung đạt tiêu chuẩn, trên 90% nước thải sinh hoạt đô thị, 100% nước thải CN, chất thải được thu gom và xử lý tập trung đạt tiêu

chuẩn, duy trì tỉ lệ rừng 47%” [88]. Bảng 4.1. Một số chỉ tiêu KT – XH chủ yếu của Đà nẵng giai đoạn 2021 – 2030 [5]

Chỉ tiêu Đơn vị Giai đoạn 2021 – 2030

Các chỉ tiêu về kinh tế

Tốc độ tăng trưởng GDRP bình quân năm % 12

123

- Dịch vụ 12,5 – 13,5

- Công nghiệp 11,5 – 12,5

- Nông nghiệp 4 – 5

- Các lĩnh vực công nghệ cao 10

Cơ cấu kinh tế %

- Dịch vụ 62 – 65

- Công nghiệp 28 – 30

- Nông nghiệp 1 – 2

Kim ngạch xuất khẩu >2 % của cả nước %

Thu ngân sách trên địa bàn tăng >15%/năm %

Tổng vốn đầu tư phát triển XH tăng 10%/năm %

Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh Thứ hạng Top 3 cả nước

Các chỉ tiêu về xã hội

Dân số Tr. người 1,5

Tỉ lệ gia tăng dân số 2,4 %

Vạn lao Giải quyết việc làm mới hàng năm 3,5

động

Tỉ lệ lao động qua đào tạo 70 %

GRDP bình quân đầu người 8.700 USD

b. Định hướng về không gian đô thị Đà Nẵng

- Mở rộng diện tích đô thị Trong tổng diện tích đất hiện tại của TP là 128.488ha, dự kiến đến năm 2030 tổng diện tích đất của TP Đà Nẵng sẽ là 128.896ha, tăng thêm 407,64ha do khai thác

124

lấn biển ở cảng Liên Chiểu, khu Đa Phước dọc theo vịnh Đà Nẵng và công viên Đại Dương ở bán đảo Sơn Trà.

Đến năm 2030, định hướng tổng diện tích đất xây dựng đô thị là 32.227ha

(chiếm 32,8% tổng diện tích đất liền của TP), trong đó 15.183ha là đất dân dụng,

17.044ha là đất ngoài dân dụng. Vậy đến 2030, quỹ đất dành cho những dự án đã được phê duyệt tiếp tục duy trì thực hiện. Quỹ đất dự trữ cho phát triển đô thị chủ yếu

nằm ở phía Tây và Tây Nam TP, với mục đích phát triển khu vực đô thị hiện tại, cần

hạn chế phát triển đô thị vào khu vực đất nhạy cảm với môi trường và hành lang thoát

lũ ở phía Nam và Tây Nam TP. Dành khoảng 6.527ha đất cho phát triển đô thị sau

năm 2030. - Cấu trúc không gian đô thị Theo bản Thuyết minh tổng hợp "Điều chỉnh quy hoạch chung TP Đà Nẵng

đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2045". Dựa trên các đặc điểm về tài nguyên thiên

nhiên, không gian đô thị Đà Nẵng được cấu trúc thành ba vùng đặc trưng: vùng ven

mặt nước, vũng lõi xanh, vùng sườn đồi, và một vùng sinh thái; thiết lập 2 vành đai

kinh tế: vành đai phía Bắc là CN – CNC – Cảng biển – DV Logistics, vành đai phía

Nam là đổi mới sáng tạo và NN ứng dụng CNC. Tổ chức 4 cụm việc làm tích hợp

các ngành kinh tế và phân vùng phát triển của TP. Đây là các cụm kinh tế chính trong

định hướng Chiến lược phát triển KT – XH. Toàn TP sẽ là một điểm đến du lịch lớn

– TP du lịch.

Ba vùng đô thị đặc trưng được tổ chức thành 10 phân khu đô thị với những

đặc tính và chức năng riêng.

* Vùng ven mặt nước, được xác định bởi đặc điểm ven sông, ven biển, vùng

này được tổ chức thành 3 phân khu:

● Phân khu ven sông Hàn và bờ Đông gồm khu vực dọc hai bên bờ sông Hàn, sông Cổ Cò và bờ Đông, với tổng diện tích khoảng 6,537 ha, dân số dự kiến khoảng 461.000 người, là khu đô thị hiện trạng sẽ được cải tạo, tái thiết theo hướng

đô thị nén ở khu vực trung tâm TP. Đây là khu trung tâm hành chính, tập trung phát triển các ngành DV, thương mại và du lịch.

● Phân khu ven vịnh Đà Nẵng, gồm các khu vực ven vịnh biển, tổng diện tích khoảng 1.549 ha, dân số dự kiến khoảng 192.000 người. Phân khu này sẽ được cải tạo và xây dựng thành khu đô thị hỗn hợp, dành cho dân cư có thu nhập tầm trung, đồng thời kết hợp phát triển hoạt động thương mại, du lịch và các loại hình vui chơi giải trí biển.

125

● Phân khu cảng Liên Chiểu, gồm một phần của phường Hòa Bắc, một phần xã Hòa Liên dọc sông Cu Đê, tổng diện tích khoảng 1.070 ha, dân số dự kiến

khoảng 12.000 người. Phân khu này sẽ xây dựng phát triển cảng hàng hóa và dịch vụ

logistics, tạo thành khu đô thị cảng biển phía Tây Bắc, tăng cường vị thế của TP Đà

Nẵng như một trung tâm logistics quốc tế quan trọng.

* Vùng lõi xanh, nằm giữa TP đặc trưng bởi những ngọn đồi, cây xanh,

vùng này được tổ chức thành 4 phân khu:

● Phân khu CNC, gồm phường Hòa Khánh Bắc, Hòa Hiệp Nam, các xã Hòa Liên, Hòa Sơn, Hòa Ninh (huyện Hòa Vang), tổng diện tích khoảng 5.697 ha,

dân số dự kiến khoảng 385.000 người. Phân khu này sẽ tập trung phát triển các ngành CN - CNC, CN sạch thân thiện môi trường và sẽ hình thành khu đô thị cùng các không gian công cộng như bến xe được kết nối với phân khu sinh thái phía Tây và

sông Cu Đê phía Bắc.

● Phân khu Trung tâm lõi xanh, gồm phường Hòa Khánh Bắc, Hòa Khánh Nam, Hòa Minh (Q. Liên Chiểu), Hòa An, Hòa Phát (Q. Cẩm Lệ) xã Hòa Sơn,

Hòa Nhơn (Hòa Vang), tổng diện tích khoảng 4.721 ha, dân số dự kiến khoảng 63.000

người. Định hướng phát triển, di dời bãi rác Khánh Sơn, khôi phục lại môi trường do

khu khai thác khoáng sản và bãi rác, hình thành công viên cây xanh và các khu chức

năng đô thị, nâng cấp cải tạo các khu dân cư hiện trạng, xây mới các khu dân cư cho

những người có thu nhập tầm trung, xây dựng những không gian công cộng mới với

nhiều không gian xanh rộng lớn.

● Phân khu đổi mới sáng tạo, gồm địa phận Hòa Quý (Q. Ngũ Hành Sơn), Hòa Xuân, Hòa Thọ Đông, Hòa Thọ Tây, Khuê Trung (Q. Cẩm Lệ), xã Hòa Nhơn,

Hòa Châu, Hòa Phước (Hòa Vang), tổng diện tích 3.903 ha, dân số khoảng 225.000

người. Định hướng phát triển các dịch vụ giáo dục, đào tạo, y tế, thể dục – thể thao

chất lượng cao, trọng tâm là khu đô thị đại học, trung tâm đổi mới sáng tạo, công viên phần mềm, bệnh viện quốc tế, khu liên hợp thể thao.

● Phân khu sân bay, gồm khu vực quanh sân bay quốc tế Đà Nẵng, tổng diện tích khoảng 1.327 ha, dân số dự kiến khoảng 118.000 người. Định hướng phát triển là sân bay quốc tế hiện đại và cụm logistics hiện đại, đồng thời tận dụng vị trí thuận lợi của sân bay để phát triển thành một trung tâm công cộng tại TP Đà Nẵng.

* Vùng Sườn đồi, không gian mở rộng lớn ven sườn đồi núi phía Tây, vùng

này được tổ chức thành 3 phân khu:

126

● Phân khu đô thị Sườn đồi, gồm địa phận xã Hòa Ninh, Hòa Sơn, Hòa Nhơn, Hòa Phú, Hòa Phong, tổng diện tích khoảng 2,757 ha, dân số dự kiến khoảng

252.000 người. Định hướng phát triển thành không gian xanh rộng lớn chạy dọc theo

vùng đồi núi, đồng thời xây dựng các tòa nhà cao tầng, mật độ xây dựng thấp, tập

trung phát triển bền vững, hài hòa với môi trường tự nhiên.

● Phân khu NN ứng dụng KHKT và CNC, nằm ở phía Tây Nam TP, tổng diện tích khoảng 3.440 ha, dân số dự kiến khoảng 12.000 người. Định hướng phát

triển vùng NN ứng dụng CNC, sản phẩm chủ yếu rau quả, thực phẩm và hoa phục vụ

nhu cầu đô thị du lịch.

● Phân khu dự trữ phát triển, gồm địa phận một phần của các xã Hòa Nhơn, Hòa Phong, Hòa Khương, Hòa Châu, Hòa Tiến, Hòa Phước (Hòa Vang), tổng

diện tích khoảng 5.615 ha, dân số dự kiến khoảng 53.000 người. Là phân khu dự trữ cho giai đoạn sau 2030. Phân khu này sẽ được chỉnh trang, sắp xếp lại các điểm dân

cư và các khu vực sản xuất NN.

* Ngoài ra còn Vùng sinh thái: bao gồm vùng đồi núi phía Tây và huyện đảo

Hoàng Sa. Vùng này là yếu tố quyết định chính cho ranh giới ĐTH, là tiềm năng phát

triển du lịch, bảo tồn đa dạng sinh học và thúc đẩy phát triển bền vững. Vùng này

được tổ chức thành 2 phân khu:

● Phân khu sinh thái phía Tây, gồm vùng đồi núi phía Bắc và phía Tây TP, tổng diện tích khoảng 57.416 ha, dân số khoảng 21.000 người. Đây là khu bảo

tồn thiên nhiên, tính đa dạng sinh học cao, cảnh quan thiên nhiên đẹp. Định hướng

phát triển các khu du lịch cao cấp, du lịch mạo hiểm, du lịch sinh thái nhằm bảo vệ

tài nguyên rừng.

● Phân khu sinh thái phía Đông, gồm toàn bộ huyện đảo Hoàng Sa, diện tích 30.500 ha và bán đảo Sơn Trà diện tích khoảng 4.199 ha. Định hướng phát triển

khu du lịch quốc gia, với các sản phẩm du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng du lịch tâm linh, bảo vệ cảnh quan và môi trường sinh thái của bán đảo Sơn Trà.

127

Hình 4.1. Sơ đồ định hướng các phân khu trong vùng phát triển đô thị [89]

- Phân khu chức năng đô thị toàn thành phố

Không gian đô thị được cấu trúc thành các khu khác nhau để tạo điều kiện cho

công việc, sinh sống và vui chơi. Không gian đô thị Đà Nẵng bao gồm các khu:

+ KCN – CNC, bao gồm các KCN – CNC ở phía Bắc, KCN – khu đổi mới

sáng tạo ở phía Nam, khu cảng biển Liên Chiểu và Tiên Sa, hai vành đai kết nối với nhau qua đường cao tốc và giao thông công cộng. + Khu Logistics, bao gồm khu Logistics hàng hải tập trung ở phía Bắc thuộc

cảng Liên Chiểu; khu Logistics sân bay ở phía Nam sân bay quốc tế và phía Tây

đường tránh Nam Hải Vân, các khu này hỗ trợ các hoạt động liên quan đến thương mại và vận chuyển hàng hóa hàng không, sẽ trở thành nút quan trọng của mạng lưới logistics toàn cầu. + Khu du lịch, bao gồm các khu du lịch chính với bản sắc độc đáo dựa trên cơ sở các di tích lịch sử, văn hóa và cảnh quan thiên nhiên, bao gồm các khu du lịch ven

128

bờ biển phía Đông và ven bờ vịnh Tây Bắc; các khu du lịch sinh thái ở phía Tây phát triển dựa trên cơ sở cảnh quan rừng núi và tính đa dạng sinh học.

+ Khu NN ứng dụng CNC ở phía Tây Nam, gần hồ Đồng Nghệ, diện tích hơn

2.000 ha, vùng đất tương đối bằng phẳng, có tiềm năng tưới tiêu, xa đô thị.

+ Khu lõi xanh, là không gian công cộng ở trung tâm TP, với các hoạt động vui chơi giải trí giữa cảnh quan thiên nhiên, có bản sắc riêng, phục vụ nhu cầu của

người dân và khách du lịch.

+ Khu phát triển hỗn hợp, kết hợp sinh sống, vui chơi, kinh doanh, du lịch ở

dọc bờ biển, tạo ra môi trường sôi động.

+ Khu vực dân cư, được phân bố trên khắp địa bàn TP, với bản sắc độc đáo của ba vùng đô thị đặc trưng, được quy hoạch theo hệ thống phân cấp của các khu dân cư với hệ số sử dụng đất khác nhau.

+ Các nút đô thị chính, bao gồm Trung tâm đô thị là trung tâm TP hiện tại sẽ

tạo nên bộ mặt mới; đầu mối đô thị chính là các cụm CNC, cụm Đổi mới sáng tạo,

cụm Logistics, cụm cảng biển; trung tâm du lịch theo chủ đề là du lịch sinh thái phía

Tây, cảng du lịch Tiên Sa, sông Hàn, trung tâm văn hóa và thể thao Tuyên Sơn và

đường 2-9, trung tâm du lịch ven bờ Đông và vịnh Đà Nẵng.

Đến năm 2030, sự phát triển đô thị sẽ dựa trên phân khu chức năng với quỹ

đất dự trữ dành riêng cho phát triển trong tương lai.

129

Hình 4.2. Sơ đồ định hướng phân khu chức năng đô thị toàn TP đến 2030 [89]

c. Định hướng về CSHT đô thị Đà Nẵng

Chú trọng đầu tư, xây dựng phát triển kết cấu hạ tầng đồng bộ và hiện đại, kết

nối hệ thống giao thông các địa phương, các vùng lân cận, kết nối với khu vực Đông

Nam Á và Đông Á, Nam Á.

- Hạ tầng giao thông

+ Định hướng cấu trúc mạng lưới đường bộ: TP Đà Nẵng phấn đấu trở thành một trung tâm trung chuyển giao thông từ 25 – 35% lưu lượng giao thông công cộng

và mật độ đường cao tốc đạt 52 km/1 triệu dân.

Đối với các khu đô thị mới: với hệ thống đường mới, phân cấp đường rõ ràng,

xác định vai trò, chức năng, tốc độ cho từng loại đường; đã hoàn thiện cao tốc Đà Nẵng – Quảng Ngãi; tiếp tục hoàn thiện tuyến cao tốc La Sơn – Túy Loan (Đà Nẵng – Thừa Thiên Huế); xây dựng đường kết nối giữa cao tốc Đà Nẵng – Quảng Ngãi với đường Hồ Chí Minh như một phần của cao tốc quốc gia; mở rộng nâng cấp các quốc lộ 14B, 14G; quản lý, phân luồng đường vành đai ngoài để phân bố và chuyển hướng lưu lượng; các trục giao thông chính Bắc – Nam, Tây – Đông của đô thị phải được

kết nối với các đường cao tốc quốc gia, quốc lộ và đường vành đai ngoài, kết nối với

130

các trung tâm và hạ tầng chính trong TP như sân bay, cảng biển, ga tàu, trung tâm đô thị, thương mại, các KCN, khu du lịch; khoảng cách giữa 2 trục chính đô thị là 2,4 –

4 km, hạn chế và kiểm soát giao cắt với các trục nội thị.

Đối với khu đô thị hiện trạng: tập trung vào duy tu, bảo dưỡng, tối ưu hóa và

cải thiện khả năng vận chuyển, phân bố lưu lượng và mật độ hóa của các khu vực đô thị; xác định một số tuyến đường chính hiện tại để nâng cấp lên đường trục chính đô

thị; thiết lập các tuyến đi bộ.

Quy hoạch hệ thống giao thông công cộng: định hướng quy hoạch nhiều loại

hình giao thông công cộng để cung cấp giải pháp đi lại cho người dân và khách du

lịch. Bao gồm mạng vận chuyển nhanh gồm sự kết hợp của MRT, LRT và BRT, trong đó có 01 tuyến MRT (Mass Rapid Transit) là trục vận tải công cộng tốc độ cao, khối lượng vận chuyển lớn, chạy dọc vành đai phía Tây 2, sẽ có 8 tuyến LRT kết nối với

MRT và các trung tâm đô thị, 2 tuyến tramway ven biển và 01 tuyến ven sông Hàn

tạo thành mạng lưới giao thông công cộng hoàn chỉnh cho TP; mạng lưới xe buýt

được phát triển bổ sung cho mạng LRT/BRT, gồm xe buýt liên tỉnh và xe buýt nội

đô; phát triển hệ thống giao thông không động cơ: đi bộ và xe đạp.

+ Giao thông đường hàng không: tiếp tục nâng cấp, phát triển sân bay quốc tế

Đà Nẵng đạt công suất 30 triệu hành khách/năm đến năm 2030. Xây dựng nhà ga T3

và cơ sở hạ tầng, các dịch vụ hàng không liên quan; nâng cấp các cơ sở hiện tại tăng

hiệu quả vận hành; đối với sân bay Nước Mặn, chuyển đổi sang lưỡng dụng đảm bảo

phục vụ nhu cầu an ninh quốc phòng và dịch vụ địa phương.

+ Giao thông đường thủy biển: phát triển cảng Đà Nẵng là cảng tổng hợp quốc

gia, đảm nhận vai trò cảng cửa ngõ quốc tế ở khu vực miền Trung (loại IA), bao gồm

3 khu vực cảng với các chức năng: xây dựng cảng Liên Chiểu là cảng chuyên logistics

và vận chuyển hàng hóa, tiếp nhận tàu trọng tải 100.000 tấn, tàu container 8.000 TEU,

với CS: 46 triệu tấn; nâng cấp và chuyển đổi cảng Tiên Sa thành cảng biển du lịch quan trọng của miền Trung; tiếp tục phát triển khu cảng Thọ Quang theo quy hoạch

là khu cảng cá và dịch vụ ngư nghiệp cho tàu trọng tải từ 10.000 – 20.000 tấn, có bến chuyên dùng cho tàu trọng tải từ 5.000 – 10.000 tấn.

+ Giao thông đường sông: phát triển, mở rộng các tuyến đường thủy nội địa phục vụ du lịch dọc theo sông Hàn, sông Cu Đê, sông Túy Loan, sông Cẩm Lệ và

xung quanh bán đảo Sơn Trà; các tuyến đường thủy được kết nối với Hội An qua sông Cổ Cò và sông Vĩnh Điện nhằm phát triển du lịch trong tương lai.

131

+ Giao thông đường sắt: di dời ga đường sắt hiện tại ra khỏi trung tâm TP, xây dựng ga hành khách đặt tại nút giao thông Bắc – Nam và đường Bà Nà – Suối Mơ,

phát triển thành một khu đô thị mới phía Tây, kết nối với sân bay và trung tâm TP

bằng hệ thống giao thông công cộng. Xây dựng ga hàng hóa tại khu vực cảng Liên

Chiểu kết nối giữa cảng logistics, KCN; xây dựng tuyến đường sắt cao tốc Bắc – Nam chạy song song phía Đông đường cao tốc Bắc – Nam.

- Cấp điện và chiếu sáng đô thị

Từ năm 2020 – 2030, với mức tăng dân số và mức tăng của nền kinh tế, nhu

cầu dùng điện của TP Đà Nẵng tăng ở mức cao, nhu cầu điện năng của TP sẽ cần

1.500 MVA cho năm 2030 và 1.700 MVA năm 2045, nên công suất điện đến năm 2030 phải tăng gấp 1,52 lần so với đầu năm 2020.

Nguồn cung cấp điện cho TP Đà Nẵng chủ yếu vẫn dựa vào hệ thống truyền

tải quốc gia, bao gồm hệ thống trạm 500kV, 200kV Đà Nẵng và trạm 220kV Hòa

Khánh. Ngoài ra còn có các đường dây 220kV Thạnh Mỹ - Hòa Khánh và Huế – Hòa

Khánh, Tam Kỳ - Đà Nẵng; lưới 110kV đường dây Đại Lộc – Đà Nẵng cũng là nguồn

điện của thủy điện Sông Côn cung cấp cho TP; đến năm 2030, cần quy hoạch các

nguồn cung cấp điện cho TP: phát triển các trạm thủy điện vừa và nhỏ trên sông Nam,

sông Bắc công suất 50MW trong giai đoạn 2020 – 2030, phát triển nhiệt điện từ đốt

rác thải sinh hoạt (xây dựng nhà máy đốt chất thải rắn phát điện tại Khánh Sơn với

quy mô công suất 2x18MW).

Hệ thống chiếu sáng đô thị: phạm vi chiếu sáng gồm tất cả các tuyến đường

giao thông trong đô thị tuân thủ theo định hướng của quy hoạch Đà Nẵng 2030 –

2050; đầu tư hệ thống chiếu sáng độc lập hoặc chung hạ tầng kỹ thuật với các hạng

mục khác. Đối với hệ thống chiếu sáng nổi phần lớn lắp đèn Led chung với điện lực

và đi nổi độc lập trên trụ bê tông ly tâm, đảm bảo khoảng cách trụ đèn, độ cao lắp đặt

đèn, công suất đèn, góc chiếu của đèn phù hợp với từng mặt cắt ngang lòng đường theo các tiêu chuẩn. Hệ thống chiếu sáng đi ngầm, sử dụng trụ mạ kẽm nhúng nóng

theo quy định, đảm bảo khoảng cách trụ đèn, độ cao lắp đặt đèn, công suất đèn. Cáp ngầm chiếu sáng phải được luồn trong ống nhựa bảo vệ khi chôn dưới đất.

- Cấp, thoát nước đô thị + Cấp nước đến năm 2030: đảm bảo 100% dân cả nội ngoại thành được cấp

nước sạch và điều kiện vệ sinh đô thị; bảo đảm nước sạch ở tất cả các sông, hồ để bảo vệ sinh thái tự nhiên của môi trường sống dưới nước; bảo tồn và bảo vệ nguồn nước

132

để thích ứng với biến đổi khí hậu; duy trì tiêu chuẩn cao nhất cho chất lượng nước và chất thải để đảm bảo sức khỏe của con người, động vật và chất lượng môi trường.

Xác định nguồn nước cấp cho TP đến năm 2030 là nguồn nước mặt, chủ yếu

từ 2 sông chính là sông Yên – Cầu Đỏ cung cấp nước cho nhà máy nước Cầu Đỏ,

sông Cu Đê cung cấp nước cho nhà máy nước Hòa Liên. Ngoài ra có các nguồn hỗ trợ bổ sung như Suối Đá, suối Tình cung cấp cho nhà máy nước Sơn Trà, Suối Lương;

hồ Hòa Trung cấp nước cho nhà máy nước Hòa Trung. Chất lượng nước mặt đảm

bảo chuẩn theo QCVN 08:2015/BTNMT.

+ Hệ thống thoát nước thải: nước thải sinh hoạt, thương mại sẽ được thu gom

về các trạm xử lý nước thải tập trung của đô thị, xử lý triệt để đạt tiêu chuẩn rồi xả vào nguồn tiếp nhận. Nước thải CN và y tế được thu gom xử lý riêng cục bộ riêng biệt rồi xả vào nguồn tiếp nhận; tổng lượng nước thải sinh hoạt trong ngày trung bình của thành phố đến năm 2030 là 466.000m3/ngày và tổng lượng nước thải công nghiệp 172.000m3/ngày; tiêu chuẩn nước thải tính theo 100% tiêu chuẩn cấp nước; đến năm 2003 kết hợp hai hệ thống thoát nước chung và xây dựng hệ thống thoát nước thải

riêng dẫn về trạm xử lý; duy trì, bảo dưỡng 5 trạm xử lý nước thải hiện tại, xây thêm

trạm xử lý nước thải phía Tây Nam TP, nâng tổng công suất các trạm xử lý nước thải sinh hoạt năm 2030 đạt 430.000 m3/ngày.

- Thông tin liên lạc

Định hướng chiến lược phát triển thông tin liên lạc phục vụ phát triển đô thị,

KT – XH theo hướng đô thị thông minh. Quản lý, sắp xếp việc ngầm hóa và sử dụng

chung mạng lưới viễn thông.

4.1.2. Những kết quả nghiên cứu của luận án về đô thị hóa và tác động của nó

đến phát triển KT-XH ở TP Đà Nẵng

4.1.2.1. Những thành tựu về ĐTH và tác động của nó đến KT – XH ở TP

Đà Nẵng Sau hơn 20 năm phát triển, đặc biệt là từ 2003 đô thị Đà Nẵng đã đạt được

nhiều thành tựu quan trọng cả về không gian, chất lượng hạ tầng và KT – XH, TP Đà Nẵng luôn được coi là hình mẫu về phát triển đô thị ở Việt Nam. TP đã có những chính sách, cách thực hiện và các giải pháp thu hút nguồn lực cho ĐTH một cách sáng tạo, vì vậy đã tạo nên những thành tựu trong ĐTH.

- Chính sách “đổi đất lấy hạ tầng” là một cách thức tạo nguồn vốn đầu tư cho giai đoạn đầu, hoặc thực hiện chủ trương “Nhà nước và nhân dân cùng làm” vừa thu hút được nguồn lực trong dân, vừa tạo được sự đồng thuận thực sự đối với người dân

133

để thực hiện xã hội hóa trong ĐTH, dân được tham gia đề xuất nguyện vọng, góp ý trong thực hiện chính sách đền bù giải tỏa. Cách làm sáng tạo này đã tạo sự thuận lợi

trong việc đền bù, giải tỏa nhanh chóng, điển hình như các khu nhà “chồ” dọc hai

bên sông Hàn, hầu hết các đường kiệt, đường hẻm trong các khu dân cư được người

dân bê tông hóa, đặc biệt công trình cầu quay sông Hàn, là công trình được xây dựng do sự đóng góp của người dân toàn TP, đã tạo nên một mốc son quan trọng, là biểu

trưng cho “ý đảng lòng dân”. TP Đà Nẵng đã khai thác được nhiều lợi thế sẵn có về

tự nhiên, con người để thực hiện ĐTH, tạo sự chuyển biến khá mạnh mẽ, góp phần

mở rộng quy mô đô thị cả về số lượng và chất lượng.

- ĐTH ở TP Đà Nẵng đã tạo được bộ khung CSHT đồng bộ và khá hiện đại, mở ra các hướng với quy hoạch lấp đầy không gian đô thị, không gian đô thị không còn bó hẹp ở một số phường của hai quận Hải Châu và Thanh Khê như trước, đô thị

được mở rộng từ 3 quận lên 6 quận nội thành, diện tích tăng gấp 4 lần so với năm

2003, tăng quy mô dân số đô thị tương xứng với đô thị loại I.

- Nhờ CSHT hoàn thiện, cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động chuyển dịch theo

hướng CNH, HĐH, quy mô nền kinh tế thay đổi, vai trò và vị thế của đô thị Đà Nẵng

tăng cao trong khu vực và đóng góp vào GDP của quốc gia.

- TP Đà Nẵng có quá trình ĐTH diễn ra mạnh mẽ nhất trong khu vực miền

Trung – Tây Nguyên và đã thực hiện khá hiệu quả xu hướng ĐTH bền vững, thúc

đẩy tăng trưởng kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế phù hợp, tác động mạnh đến

tất cả các ngành kinh tế, tạo nên sự thay đổi và tăng trưởng. Đặc biệt là tạo nền tảng

CSHT, CSVCKT cho các ngành kinh tế trụ cột như du lịch, kinh tế cảng biển, CN,

CNC,…quy hoạch các khu du lịch, các cảng biển, các KCN, các vùng NN sinh thái

và ứng dụng CNC một cách hợp lý để khai thác được mọi nguồn lực tạo đà phát triển

cho các ngành và toàn bộ nền kinh tế.

- ĐTH cũng đã thu hút được một số lượng lớn lực lượng lao động trẻ, khỏe và có trình độ; tạo được nhiều việc làm mới cho người lao động, góp phần tăng thu nhập,

nâng cao chất lượng đời sống người dân cả về vật chất, tinh thần và môi trường sống. Lối sống thành thị đã được phổ biến rộng trong các khu dân cư nông thôn mới chuyển thành đô thị, tạo văn minh đô thị cho Đà Nẵng.

Đà Nẵng được nhận định là TP đáng sống của Việt Nam, gần đây, tờ báo danh

tiếng của Mỹ - The New York Times công bố danh sách 52 điểm đến hấp dẫn nhất năm 2019, trong đó có TP Đà Nẵng được xếp thứ 15 [41]. Điều này, là một minh chứng cho sự thành công của ĐTH ở TP Đà Nẵng. Có thể coi ĐTH từ 2003 – 2020

134

là giai đoạn khai phá, định hình và tạo nền tảng cho giai đoạn tiếp theo, ĐTH theo chiều sâu thực sự mới có thể vươn tới TP tầm quốc gia, khu vực và quốc tế.

4.1.2.2. Những hạn chế, thách thức của ĐTH và tác động của nó tới KT –

XH ở TP Đà Nẵng - Đà Nẵng là một TP có diện tích nhỏ (128.473 ha). Trong đó, diện tích phần đất liền chỉ 98.000 ha, dân số hiện nay gần 1,2 triệu người, theo chiến lược phát triển

đến năm 2030, dân số TP Đà Nẵng trên 1,5 triệu người, đất xây dựng đô thị khoảng

37.500ha (mật độ bình quân khoảng 60 – 70 người/ha, quỹ đất rất eo hẹp). Đây là

một thách thức lớn cho tăng trưởng và phát triển bền vững trong tương lai. Giai đoạn

vừa qua, ĐTH phát triển dàn trải, thấp tầng, sử dụng một diện tích lớn đất đai cho nhà ở, chưa quan tâm đến việc dành quỹ đất thích đáng cho việc xây dựng các công viên cây xanh, khu vui chơi giải trí và các công trình phúc lợi công cộng, hiệu quả sử

dụng đất khá thấp. Quỹ đất khai thác và sử dụng eo hẹp, nếu không có định hướng

chiến lược rõ ràng sẽ dẫn đến cạn kiệt nguồn đất dự trữ cho phát triển đô thị.

- ĐTH ở TP Đà Nẵng trong thời gian qua đã tạo nên hệ thống CSHT tương đối

đồng bộ và hiện đại, giúp cho cảnh quan đô thị thay đổi và lưu thông trong đô thị

thông thoáng, tuy nhiên TP cũng đang đối mặt với nhiều nguy cơ và thách thức lớn

trong xây dựng và tổ chức mạng lưới giao thông đô thị. Dân số không ngừng tăng,

điều kiện sống của người dân tăng lên, các phương tiện giao thông chủ yếu như xe

máy, ô tô ngày càng nhiều, số lượng khách du lịch cũng ngày càng tăng lên, với thực

trạng hệ thống CSHT giao thông như hiện nay, tình trạng ùn tắc giao thông, kẹt xe,

kẹt đường ngày càng hiện hữu và trở nên gay gắt, đặt ra một nhu cầu bức thiết phải

thiết kế xây dựng hệ thống giao thông công cộng hợp lý, phù hợp với cảnh quan và

sự phát triển KT – XH cho đô thị tương lai.

- ĐTH nhanh chóng, thiếu quy hoạch lâu dài, thiếu kiểm soát về quy mô, ranh

giới, khiến cho cấu trúc đô thị vẫn theo một lối mòn truyền thống: chia lô, các khu dân cư mới, cũ đều cùng kiểu nhà phố chạy dài bám sát mặt đường, kiến trúc khá đơn

điệu, giống nhau ở khắp nơi trong TP, không có nơi nào khác biệt, không mang lại cảm hứng đặc sắc và đáng nhớ; dọc hai bờ sông Hàn cũng chỉ là những khu cao ốc hiện đại, không có những công trình đặc sắc, mang đậm dấu ấn về kiến trúc và không gian đô thị cho một TP biển – sông – núi; các cấu trúc không mang tính bản địa, có

giá trị văn hóa cao như làng nghề, làng văn hóa, làng hoa, làng rau,…bị xóa đi trong quá trình ĐTH. Các khu vực ven đô, ĐTH chưa phù hợp với quy luật chuyển đổi cấu trúc từ mô hình nông thôn sang mô hình đô thị, dẫn đến một không gian đô thị lộn

135

xộn, những bản sắc tự nhiên bị mất đi, và bản sắc đô thị lại không hoàn thiện. Việc thiết kế, xây dựng một không gian đô thị hiện đại, nhưng có bản sắc, độc đáo, riêng

biệt đang là một thách thức lớn cho quá trình ĐTH ở TP Đà Nẵng trong tương lai.

- Lối sống và những truyền thống văn hóa tốt đẹp của người dân đất quảng đang

dần bị suy giảm và mai một do sự phát triển của lối sống, văn hóa đô thị. Đây cũng là một thách thức lớn cho việc phát triển đô thị hiện đại gắn liền với giữ gìn, nhân

rộng những bản sắc văn hóa truyền thống tốt đẹp của vùng đất.

4.2. CÁC GIẢI PHÁP XÂY DỰNG ĐÔ THỊ VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ XÃ

HỘI Ở THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG Trên cơ sở nghiên cứu thực trạng ĐTH và sự tác động của ĐTH đến KT – XH của TP Đà Nẵng, để khắc phục những hạn chế và thực hiện có hiệu quả Nghị quyết 43 của Chính phủ về xây dựng đô thị và phát triển KT – XH thành phố Đà Nẵng đến

năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, luận án đề xuất các giải pháp đảm bảo sự phát

triển hài hòa giữa ĐTH và phát triển KT – XH, hướng đến xây dựng đô thị Đà Nẵng

trở thành đô thị mang tầm khu vực và quốc tế, một TP sinh thái, hiện đại, thông minh

và đáng sống.

4.2.1. Giải pháp về quy hoạch cấu trúc không gian đô thị hài hòa giữa hiện đại

và truyền thống, có bản sắc riêng độc đáo Việc xây dựng một đô thị hài hòa giữa hiện đại và có bản sắc truyền thống

riêng đang là xu thế chung của thế giới hướng tới sự phát triển bền vững. Các đô thị

lớn trong khu vực và Châu Á - Thái Bình Dương đều được quy hoạch, thiết kế, phát

triển theo hướng này như Singapore, Băng Cốc (Thái Lan), Kuala Lumpur

(Malaysia), Jakarta (Indonesia), Tokyo, Fukuoka (Nhật Bản), Canberra (Australia),

Seoul (Hàn Quốc). Cách tiếp cận xây dựng đô thị vừa hiện đại, vừa truyền thống sẽ

đảm bảo được sự phát triển, hội nhập nhưng vẫn bảo vệ được môi trường và cân bằng

các hệ sinh thái. Trong 18 năm qua, ĐTH ở TP Đà Nẵng diễn ra mạnh mẽ và rộng khắp cả về

số lượng và chất lượng, diện mạo của TP đã thay đổi rõ rệt. Những thay đổi về KT – XH, về lối sống văn minh đô thị đưa Đà Nẵng được đánh giá là "TP đáng sống" của Việt Nam và tự tin sánh vai với các TP hiện đại trong khu vực. Tuy nhiên, quá trình ĐTH trong thời gian qua cũng bộc lộ nhiều hạn chế ảnh hưởng đến xu thế phát triển

bền vững, đến tiêu chuẩn TP mang tầm khu vực và quốc tế, trước hết là những hạn chế trong quy hoạch thiết kế, cảnh quan và thẩm mỹ.

136

- ĐTH ở TP Đà Nẵng, cả ở khu trung tâm và ngoại ô, việc quy hoạch và cấu trúc không gian đô thị vẫn theo lối cũ, kiến trúc đơn điệu, không có dấu ấn riêng biệt,

không thu hút, không đem lại cảm hứng đối với dân bản địa và du khách.

- Các không gian đặc sắc cần được phô diễn, cần mở rộng tầm nhìn như sông,

biển thì lại bị che khuất bởi hệ thống nhà cao tầng dọc hai bên bờ sông Hàn, dọc ven biển đã tạo nên những bức "tường bê tông" che khuất những biểu trưng của TP và

không gian thoáng đãng.

- Những không gian của những công trình biểu thị "Đô thị phồn hoa" thì rất ít

ỏi, chật hẹp như công viên, vườn hoa, khu vui chơi, giải trí, công trình công cộng;

thiếu những công trình của kiến trúc nổi bật như những điểm nhấn để khi nhìn vào nhận ra TP Đà Nẵng, khi đi để lại dấu ấn và muốn quay trở lại. - Những vùng ven đô là những không gian mang đậm tính truyền thống văn

hóa bản địa, đó là các cánh đồng, các làng nông nghiệp, làng nghề truyền thống, các

hệ sinh thái hồ, đầm, cũng dần bị xóa đi trong quá trình ĐTH.

Cảnh quan đô thị Đà Nẵng vẫn là những mảnh ghép rời rạc, chưa tạo lập được

bản sắc riêng, không khai thác được những giá trị đặc trưng mà đôi khi còn đánh mất

đi những giá trị văn hóa bản địa. Thiên nhiên và con người Đà Nẵng đã tạo nên một

phức hợp tự nhiên - sinh thái - nhân văn hoàn chỉnh không đô thị nào sánh bằng. Để

quy hoạch, thiết kế xây dựng đô thị hài hòa giữa yếu tố hiện đại và truyền thống, với

bản sắc đặc trưng của đô thị biển - sông - núi, TP Đà Nẵng cần tập trung vào:

a. Quy hoạch ĐTH trước hết chú trọng tính "hiện đại hóa" Hiện đại hóa thể hiện trước hết đầu tư xây dựng hệ thống CSHT và CSVCKT

đồng bộ, hiện đại tạo ra những tiện ích cao nhất cho người dân; hiện đại hóa hệ thống

giao thông đô thị, đặc biệt chú trọng xây dựng hệ thống giao thông ngầm và trên

không để đáp ứng nhu cầu quy mô dân số tăng lên từ 1,5 – 3 triệu; cần đa dạng các

hình thức giao thông công cộng, đặc biệt chú trọng các loại hình không sử dụng năng lượng và không gây ô nhiễm như đi bộ, xe đạp, xích lô,…gắn với tiện ích đô thị theo

hướng thông minh; hiện đại hóa các hệ thống cung cấp nước sinh hoạt, hệ thống thoát nước mặt, nước thải, cung cấp điện, hệ thống thông tin, hơi đốt, xử lý chất thải, rác thải,…Kết hợp hài hòa giữa thiên nhiên và hệ thống hạ tầng xã hội như các công trình y tế, văn hóa, giáo dục, thể thao, thương mại, dịch vụ nhằm đảm bảo các tiện ích cho

người dân, du khách được làm việc, lao động sản xuất, học tập, sinh hoạt, vui chơi trong môi trường sạch, đẹp, lành mạnh.

137

Hệ thống kiến trúc hiện đại, quy mô lớn với các khối nhà cao tầng, đa dạng về kiến trúc nên bố trí ở khu vực trung tâm TP (khu đô thị nén), với các trung tâm

hành chính, thương mại, tài chính, ngân hàng, trung tâm hội nghị, quảng trường,…

b. Quy hoạch đô thị cần chú trọng đến yếu tố bản sắc văn hóa độc đáo, hài

hòa giữa yếu tố hiện đại hóa và truyền thống. Bản sắc văn hóa độc đáo riêng của đô thị Đà Nẵng đó chính là sự kết hợp hài

hòa giữa kiến trúc đô thị hiện đại và cảnh quan thiên nhiên núi, sông, biển, hồ. Cảnh

quan này phải được phô diễn trên cả hai phương diện không gian và kiến trúc.

- Về phương diện không gian: đô thị kéo dài theo hai bờ sông, kéo dài dọc bờ

biển và những trục đường nối giữa sông, biển, núi với nhau tạo nên một tổng thể đô thị rất độc đáo và riêng biệt của Đà Nẵng mà không đô thị nào có được. Cần tổ chức không gian cảnh quan đô thị trên nguyên tắc: “Lấy dòng sông Hàn tạo lõi xanh”, dãy

núi Nam Hải Vân tạo thành hình cánh cung ôm lấy vịnh Đà Nẵng vừa là phông nền

tạo cảnh, vừa “đóng khung” không gian biển; lấy ngọn núi Ngũ Hành Sơn lịch sử

làm trung tâm phát triển khu Tây Nam, lấy bán đảo Sơn Trà tạo yếu tố “nút” cho

không gian phía Đông và ngọn Bà Nà là điểm hội tụ phía Tây [41].

- Về phương diện kiến trúc riêng không cho phép TP Đà Nẵng tự do phát triển

các khối nhà cao tầng dọc hai bờ sông Hàn, dọc ven biển và khu Ngũ Hành Sơn, bởi

lẽ các khối nhà cao tầng sẽ là những bức tường che khuất những cảnh đẹp tự nhiên

của TP và làm mất đi tầm quan sát không gian thiên nhiên và không gian xã hội hòa

quyện cả ban ngày lẫn ban đêm của Đà Nẵng.

Với chiến lược bền vững, các khối nhà cao tầng cần quy hoạch thành các cụm

kết nối với cảnh quan thiên nhiên, kết nối với hệ thống giao thông công cộng hiện đại

ở trung tâm TP, tạo nên các điểm nhấn mà không tranh chấp với núi, đồi, sông, hồ,

biển. Hơn nữa, các thiết kế kiến trúc này sẽ tạo nên sự đa dạng cho cảnh quan khu

trung tâm đô thị.

Các vùng ven sông, đặc biệt ven sông Hàn có chiều rộng vừa phải, rất thuận

lợi cho việc kết nối, phát triển đô thị giữa hai bờ sông, cần tạo nên một khung cảnh kiến trúc của đô thị phồn hoa, sầm uất trên bến dưới thuyền, các hoạt động du lịch, lễ hội, giao lưu văn hóa xã hội ngày đêm diễn ra trên nền kiến trúc và không gian sông nước mang một bản sắc vừa hiện đại, vừa độc đáo riêng cho TP Đà Nẵng.

Vùng ven biển, việc quy hoạch “mặt tiền biển” là quan trọng hàng đầu đối với đô thị biển. TP Đà Nẵng có thế mạnh lớn về du lịch biển, nhưng nếu quy hoạch mặt tiền của biển chỉ chú trọng đến quy hoạch hàng loạt các Resort nối tiếp Resort, kéo

138

dài hàng chục km, biến tài sản thiên nhiên thành tài sản riêng tư vừa ngăn cản cơ hội tiếp cận biển của nhân dân, vừa làm tổn hại cơ hội phát triển của các khu vực phía

sau biển (nội địa), vì vậy quy hoạch đô thị vùng mặt tiền biển cần phải hài hòa cân

đối giữa các chức năng của đô thị, hòa quyện giữa kiến trúc và cảnh quan thiên nhiên

xinh đẹp của biển của sông, của núi, mang lại vẻ đẹp và những tiện ích cao cho chất lượng cuộc sống của người dân và du khách, phát triển du lịch bền vững.

Các vùng ven đô, cần chú trọng bảo vệ và giữ gìn quỹ đất, tránh tình trạng bê

tông hóa toàn TP, cần dành đất cho các kiến trúc mang bản sắc văn hóa truyền thống

như các làng đô thị vùng ven, làng đô thị vệ tinh dựa vào thế mạnh của vùng sinh thái

và những kinh nghiệm truyền thống của dân cư về ngành nghề để hình thành các làng văn hóa, làng du lịch sinh thái, làng hoa, làng rau quả, làng nghề truyền thống vừa phục vụ cho nhu cầu của đô thị, vừa phục vụ cho nhu cầu du lịch.

4.2.2. Nâng cao chất lượng nguồn lao động để thực hiện đô thị hóa và phát

triển KT – XH của thành phố

Với vị thế là đô thị hạt nhân, đô thị động lực của VKTTĐMT, TP Đà Nẵng

cần đào tạo, bồi dưỡng nâng cao chất lượng nguồn nhân để đáp ứng nhu cầu phát

triển của TP, đồng thời là nơi đào tạo và cung ứng nguồn nhân lực có chất lượng cho

cả vùng miền Trung – Tây Nguyên.

- Đến 2020, trên địa bàn TP có 20 trường Cao đẳng và 15 trường Đại học, phân

viện đang hoạt động. Hầu hết các trường đều có cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất kỹ

thuật, trang thiết bị khá đầy đủ, hiện đại phục vụ cho đào tạo. Hệ thống các trường

đại học, cao đẳng, phân viện nghiên cứu đã được quy hoạch thành khu "Làng Đại học

Đà Nẵng", với quy mô 60.000 sinh viên và 3.500 cán bộ, giảng viên và một khu đô

thị khoảng 5.000 dân cư. Qua 15 năm quy hoạch, nhưng đến 2020, Làng đại học mới

chỉ có 10 trường đại học, cao đẳng của TP Đà Nẵng và quốc tế đi vào hoạt động, cần

đẩy nhanh tiến độ đầu tư xây dựng để Làng đại học hoàn thiện, đi vào hoạt động ổn định và phát triển đáp ứng nhu cầu cung ứng nguồn nhân lực có trình độ cao cho sự

- TP Đà Nẵng đã có những giải pháp rất thông minh để đào tạo nguồn nhân

phát triển của TP, khu vực miền Trung – Tây Nguyên. lực có chất lượng cho TP cần duy trì và phát triển như:

● Tiếp tục các đề án đưa học sinh, sinh viên đi đào tạo ở trong nước và nước ngoài như đề án 393 "Đào tạo 100 tiến sĩ, thạc sĩ ở các cơ sở đào tạo nước

ngoài", đề án 47 "Hỗ trợ đào tạo bậc đại học tại các cơ sở nước ngoài bằng ngân

139

sách Nhà nước dành cho học sinh các trường THPT trên địa bàn TP", hiện nay là đề án 922 thay thế và kế thừa 2 đề án trên [90].

● Cần liên kết với khu vực và quốc tế trong đào tạo: mời các chuyên gia, giáo sư, các nhà nghiên cứu hợp tác đào tạo nguồn nhân lực theo các chương trình,

các dự án với nước ngoài để đào tạo nguồn nhân lực. Hàng năm TP sẽ ban hành danh mục các dự án, chương trình hoặc chuyên đề để kêu gọi sự tham gia của các nhà

nghiên cứu, các chuyên gia, giáo sư trong nước và nước ngoài tham gia.

● Cần có chính sách cụ thể trong đào tạo nghề, chú ý đến đặc thù của vùng ĐTH và nghề nghiệp. Xây dựng các chương trình đào tạo nghề cho học sinh tốt

nghiệp THCS, THPT gắn với nghề là thế mạnh của địa phương. - Có chính sách mang tính đột phá để "cầu hiền tài", tạo điều kiện thuận lợi để thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao như chính sách nhà ở, đất ở, công việc và tiền

lương, hỗ trợ kinh phí ban đầu khi chuyển tới, nhất là các ngành còn thiếu lực lượng

lao động có trình độ như y, dược, du lịch, viễn thông, tài chính - ngân hàng, công

nghệ sinh học, tự động hóa,… TP có những chính sách ưu đãi để thu hút bổ sung

nguồn nhân lực.

4.2.3. Thu hút mạnh đầu tư và sử dụng hiệu quả nguồn vốn đầu tư cho đô thị

và phát triển KT – XH Trong thời gian qua, TP Đà Nẵng là một trong những điểm đến uy tín, có sức

hấp dẫn đối với các nhà đầu tư trong và ngoài nước, đã thu hút được nhiều dự án FDI,

với tổng số vốn lên hàng trăm triệu USD, khiến chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh

(PCI) luôn đứng ở tốp đầu. Tuy nhiên, hoạt động thu hút đầu tư trong thời gian qua

cũng còn nhiều bất cập như: các dự án trong nước chủ yếu tập trung vào lĩnh vực bất

động sản, DV khách sạn, nghỉ dưỡng, đầu tư cho CN – CNC chưa đến 10%; thu hút

FDI từ các doanh nghiệp lớn còn hạn chế, chủ yếu là các dự án có vốn đăng ký nhỏ;

quỹ đất sạch ngoài KCN có diện tích nhỏ, nên việc kêu gọi các dự án có quy mô sử dụng đất trên 5ha gặp nhiều khó khăn; tính kết nối giữa các phương tiện giao thông

còn hạn chế; tiềm lực về tài chính, công nghệ, trình độ người lao động của các doanh

+ Tiếp tục cải cách hành chính, đơn giản hóa thủ tục, giảm tải chi phí cho cá

nghiệp chưa cao,…đã ảnh hưởng đến thu hút đầu tư và sử dụng hiệu quả vốn đầu tư. - Hướng đến 2030, TP cần nhiều giải pháp đồng bộ để thu hút đầu tư và sử dụng hiệu quả nguồn vốn đầu tư. nhân, tổ chức và doanh nghiệp trong hồ sơ giấy tờ.

140

+ Có cơ chế chính sách phù hợp và ưu tiên cho thu hút đầu tư như chính sách

về đấu giá quyền sử dụng đất, chính sách quản lý hỗ trợ đầu tư cho CCN,…

+ Cần đa dạng hóa các kênh quảng bá kêu gọi đầu tư, tiếp cận nhà đầu tư, đặc

biệt là các thị trường trọng điểm mang tính chiến lược.

+ Đẩy mạnh quan hệ hợp tác với các tổ chức quốc tế như các Tổ chức Xúc tiến thương mại của các nước Nhật Bản – JETRO, Hàn Quốc – KOTRA, Phòng Thương

mại và CN châu Âu – EUROCHAM,…nhằm quảng bá và thu hút đầu tư.

+ Tập trung thu hút đầu tư vào những lĩnh vực mạnh, có tiềm năng như CN -

CNC, du lịch, cảng biển, nhất là NN ứng dụng CNC để tăng năng suất, sản phẩm.

4.2.4. Xây dựng đô thị kết nối trong vùng và khu vực ĐTH ở TP Đà Nẵng đã chú trọng xây dựng đô thị theo hướng kết nối trong vùng và khu vực, bước đầu đã tạo lập được nền tảng CSHT, CSVCKT cho các lĩnh

vực du lịch, thương mại, vận tải, logistics, tài chính ngân hàng, CNTT, giáo dục đào

tạo, y tế,…Nhiều dự án quan trọng quy mô lớn về hạ tầng giao thông được hoàn thành

đã rút ngắn khoảng cách giữa TP Đà Nẵng và các vùng lân cận để tăng cường liên

kết phát triển kinh tế vùng. Tuy nhiên, so với mục tiêu đề ra, TP Đà Nẵng chưa đạt

như kỳ vọng, “Đà Nẵng chưa thể hiện rõ nét vai trò là đô thị trung tâm, đầu tàu,

động lực dẫn dắt sự phát triển kinh tế xã hội miền Trung – Tây Nguyên; sự liên kết

hợp tác với các địa phương trong vùng, trong khu vực chưa chủ động, chưa thường

xuyên, hiệu quả chưa cao,…” [5].

Hướng tới mục tiêu của năm 2030, TP cần có những giải pháp mạnh và táo

bạo theo các hướng chủ đạo:

- Trước hết về giao thông, cần nhanh chóng xóa bỏ sự ngăn cách, bất lợi về

giao thông giữa các địa phương trong vùng, đồng thời mở rộng sự kết nối với hai đầu

Nam – Bắc và quốc tế thông qua mạng giao thông chiến lược, bao gồm hệ thống

đường cao tốc, đường sắt, đường thủy, đường hàng không kết nối với nhau, kết nối với hệ thống giao thông quốc gia và quốc tế tạo nên sự thông thương, thuận lợi, nhanh

chóng trong giao lưu hợp tác về mọi mặt. - Về kinh tế, mỗi tỉnh thành của miền Trung đều có những thế mạnh và hạn chế riêng, nhưng nếu có thể liên kết và hợp tác tốt thì sẽ bổ sung, hỗ trợ để cùng phát triển. TP Đà Nẵng có nhiều ưu thế và tiềm năng về mọi mặt, cần tận dụng sức mạnh

của liên kết vùng trong các lĩnh vực công, nông, ngư nghiệp, DV thương mại, giáo dục bậc cao, đặc biệt là du lịch và DV logistic.

141

+ Trong lĩnh vực du lịch, TP Đà Nẵng không có di sản nhưng lại nằm trên con đường di sản miền Trung và con đường di sản Đông Dương. Vì vậy TP phải tạo ra

một đô thị du lịch có CSVCKT tốt nhất để thu hút khách, trở thành nơi nghỉ ngơi, vui

chơi, giải trí, thư giãn hấp dẫn của du khách; hình thành các tuyến đường du lịch ven

biển và kết nối các cảng du lịch; liên kết, phối hợp để xây dựng các tour du lịch, các tuyến du lịch với những sản phẩm đặc sắc nhất của mỗi địa phương. Sự kết nối làm

cho không gian du lịch được mở rộng, vừa thu hút, vừa chia sẻ nguồn khách, nâng

cao năng lực cạnh tranh, phát huy tối đa được thế mạnh của TP để phát triển.

+ Đối với dịch vụ logistic, Đà Nẵng ở trung tâm của vùng KTTĐMT, là điểm

đầu của Hành lang kinh tế Đông – Tây, kết nối với Lào, Thái Lan, Myanmar, thông sang Malaysia, Singapore, đây là nguồn hậu phương dồi dào cả về nguyên liệu và thị trường hàng hóa, DV logistics được xem là “mỏ vàng” của TP Đà Nẵng trong tương

lai. Để khai thác được mỏ vàng này cần thiết phải hoàn thiện các trung tâm logistics

cấp vùng và địa phương để đảm bảo cung cấp các DV logistics; xây dựng và hoàn

thiện các tuyến đường cao tốc xương sống của vùng, hiện đại hóa tuyến đường Đà

Nẵng – Nam Giang – Sekong - Champasak (Lào) – Vanuatu – Ubon Ratchathani –

Bangkok (Thái Lan), tạo thuận lợi cho lưu thông hàng hóa giữa các nước và miền

Trung Việt Nam thông qua TP Đà Nẵng; nâng cấp và hiện đại hóa CSHT tại các cửa

khẩu, đơn giản hóa các thủ tục hải quan và ứng dụng công nghệ số trong kiểm soát

hàng hóa.

Để TP Đà Nẵng trở thành “siêu đô thị” tầm cỡ, khẳng định vị thế hạt nhân cần

phải có sự liên kết toàn diện giữa các địa phương trên tinh thần đồng tâm hiệp lực

cùng phát triển.

4.2.5. Xây dựng đô thị theo hướng thông minh tiến đến quản trị đô thị Ở nước ta, xu hướng xây dựng TP thông minh đã được Đảng, Nhà nước và

các địa phương quan tâm chú trọng, coi đây là một lựa chọn tất yếu cho quá trình phát triển và hội nhập. TP Đà Nẵng đã đi đầu trong việc quy hoạch xây dựng phát triển đô

thị theo hướng thông minh. Đề án “Xây dựng TP thông minh giai đoạn 2018 – 2025, định hướng đến năm 2030”, theo Quyết định số 6439/QĐ – UBND ngày 29/12/2018 của UBND TP Đà Nẵng ban hành, với mục tiêu: đến năm 2030 “Đà Nẵng hoàn thành xây dựng đô thị thông minh kết nối đồng bộ với các mạng lưới đô thị thông minh

trong nước và khu vực Asean” [87]. Để thực hiện được mục tiêu đề án, TP Đà Nẵng phải có những bước đi đột phá để tạo nền tảng cho sự phát triển đô thị thông minh.

142

a. Trước hết cần phải xây dựng được hệ thống dữ liệu trung tâm đồng bộ về ứng dụng; chia sẻ được dữ liệu và tài nguyên từ hệ thống lưu trữ dữ liệu trung tâm,

bởi vì dữ liệu đóng vai trò nền tảng quan trọng cho đô thị thông minh.

- Hệ thống Dữ liệu được xây dựng trên 3 trục chính là: hạ tầng (đảm bảo cho

dữ liệu được lưu trữ, tìm kiếm, an toàn trong khai thác); kết nối (đảm bảo dữ liệu được thu thập, xây dựng, chia sẻ với các hệ thống thông tin qua mạng Viễn thông);

thông minh (dựa trên các kỹ thuật hiện đại như trí tuệ nhân tạo, máy học để tìm kiếm,

thu thập, phân tích, nhận dạng, cung cấp dịch vụ từ kho dữ liệu).

- Cần hoàn thiện và chuẩn hóa Cơ sở dữ liệu nền (dữ liệu công dân, doanh

nghiệp, hộ khẩu, đất đai,…) và các phần mềm quản lý nhà nước của các ban ngành, quận, huyện); phát triển hạ tầng dữ liệu (không gian đô thị, đất đai, xây dựng, giao thông,… trên hệ thống GIS).

- Hệ thống dữ liệu đã được hoàn thiện, chuẩn hóa, đầy đủ cần được đưa vào

hệ thống học bạ điện tử và hệ thống hồ sơ sức khỏe điện tử của toàn TP.

b. Ứng dụng CNTT & TT triệt để trên mọi lĩnh vực, mọi hoạt động của đô thị,

đặc biệt là các lĩnh vực:

- Giao thông: xây dựng, vận hành hệ thống các thiết bị điều khiển, thiết bị

giám sát hành trình, giám sát việc thực hiện và vi phạm, kể cả việc thu phí của các

loại phương tiện giao thông trên toàn TP.

- An ninh trật tự, an toàn xã hội và phòng chống thiên tai, cứu hộ, cứu nạn:

xây dựng hệ thống thiết bị kiểm soát, giám sát tình hình an ninh trật tự, hệ thống cảnh

báo và hệ thống gọi cứu trợ, cứu nạn trên đất liền cũng như trên biển của TP.

- Môi trường: cần xây dựng và hoàn thiện các hệ thống quan sát quan trắc các

loại môi trường nước, không khí, đất; hệ thống giám sát môi trường nước ở các khu

xử lý nước thải, chất thải ở tất cả các trạm bao phủ trên địa bàn TP.

- Ngoài ra, ứng dụng tích cực trên các lĩnh vực như y tế, vệ sinh an toàn thực

phẩm, cấp điện nước, giáo dục,…

c. Đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực chất lượng cao cho cuộc cách mạng

4.0, tiến tới 5.0 của TP. Hiện nay, TP Đà Nẵng đang đối mặt với khó khăn thiếu hụt, tụt hậu về nguồn nhân lực chất lượng cao trong lĩnh vực CNTT, đến năm 2030 ngành này cần tăng

thêm 22.000 lao động chất lượng cao. Để tạo ra được nguồn nhân lực chất lượng cao, phục vụ cho chiến lược xây dựng phát triển đô thị thông minh, TP cần tập trung vào

143

- Xây dựng các khu đô thị công nghệ, các khu nghiên cứu và phát triển R&D, các khu đô thị Đại học, phát triển các tập đoàn công nghệ để thu hút lực lượng lao

động có trình độ cao vào các khu này, sau đó nhân rộng ra bằng quá trình đào tạo và

bồi dưỡng nâng cao.

- Đặt hàng đào tạo, bồi dưỡng tại các cơ sở đào tạo ở địa phương và trong nước theo nhu cầu nguồn nhân lực của TP và các doanh nghiệp trong các lĩnh vực của

CNTT.

- Xây dựng và thực các chương trình hợp tác đào tạo bồi dưỡng nguồn nhân

lực với nước ngoài, đặc biệt là với các cơ sở đào tạo, với các tập đoàn lớn trong các

- Các cơ quan, doanh nghiệp có chế độ, chính sách và chiến lược tự đào tạo

lĩnh vực của cuộc cách mạng 4.0. bồi dưỡng nâng cao trình độ cho cán bộ, nhân viên trong đơn vị.

d. Chuyển từ quản lý đô thị sang quản trị đô thị thông minh

Quản trị đô thị thông minh là xây dựng nền tảng cho sự sáng tạo và thông minh

hơn, thay đổi hệ thống hành chính cứng nhắc giải quyết công việc theo đúng quy

định, sang giải quyết công việc đáp ứng nhu cầu xã hội, trên cơ sở khai thác sức sáng

tạo và nguồn nhân lực rộng mở; quản trị đô thị thông minh đặt trên nền tảng “hợp tác

nhóm” trong quản lý và sử dụng công nghệ thông minh, vì vậy trong quản trị đô thị

cần phải:

- Hoàn thiện toàn bộ hệ thống dữ liệu cơ sở về các lĩnh vực quy hoạch, đất đai,

công trình, các ngành,…thuận lợi cho việc quản lý ở mọi cấp.

- Đổi mới tư duy và hệ thống quản lý đô thị theo khoa học để phù hợp với việc

ứng dụng và tích hợp công nghệ thông minh trong quản lý.

- Cần phải tạo nền tảng pháp lý cụ thể cho chính sách và tổ chức quản lý đô

thị thông minh.

- Đào tạo cán bộ quản lý biết phối hợp công tác quản lý thông qua công nghệ

thông minh.

- Tổ chức bồi dưỡng cho dân cư biết hợp tác với chính quyền và biết sử dụng

các ứng dụng thông minh để hợp tác trong công tác quản lý đô thị thông minh. TP thông minh dựa trên 3 trụ cột: công nghệ, quản trị, cư dân và hệ thống quản trị chính là cầu nối đảm bảo sự tương thích với sự thay đổi của công nghệ. Trình độ

cư dân và việc hợp tác tốt giữa 3 trụ cột này sẽ đem lại hiệu quả cao trong quản trị đô thị thông minh.

144

4.2.6. Xây dựng đô thị xanh thân thiện với môi trường, hướng tới sự phát triển

bền vững Xây dựng đô thị xanh là một xu hướng trong thời đại CNH, HĐH, đồng thời

cũng là mục tiêu của phát triển đô thị bền vững, nó phù hợp với các đô thị có quy mô

nhỏ, trung bình có lợi thế về khí hậu, địa hình và thiên nhiên phong phú, đa dạng. Ở nước ta, khái niệm về đô thị xanh còn mới mẻ, nên hiểu về bản chất của đô thị xanh

còn chưa đầy đủ. Phần lớn người dân cho rằng: đô thị xanh là đô thị có nhiều cây

xanh, nhiều công viên, sử dụng nguồn năng lượng Mặt Trời,… hiểu như vậy là đúng

nhưng chưa đủ. Khái niệm đô thị xanh cần được hiểu là việc quy hoạch xây dựng đô

thị và sử dụng tài nguyên hiệu quả, đô thị xanh được xây dựng dựa trên cơ sở: mật độ xây dựng thấp, hệ số sử dụng đất cao; tạo không gian đô thị mở; khai thác có hiệu quả tài nguyên; nâng cao chất lượng hệ thống giao thông; bảo tồn văn hóa bản địa và

các di sản [129].

Đà Nẵng là một đô thị có lợi thế về khí hậu cận xích đạo gió mùa, nắng ấm

đều trong năm, địa hình tự nhiên phong phú đa dạng, có sự kết hợp hài hòa giữa sông

- núi - rừng - biển - hồ, rất thuận lợi để xây dựng mô hình đô thị xanh. Mô hình này

cho phép TP Đà Nẵng khai thác tài nguyên một cách hợp lý, bền vững, hạn chế mức

độ xây dựng, mức độ bê tông hóa bề mặt đô thị mà vẫn tạo ra nguồn lực phát triển đô

thị hiện đại, hạn chế khai thác tài nguyên đất cho việc xây dựng, tạo ra nhiều không

gian xanh, hài hòa giữa các hệ sinh thái nhân văn với các hệ sinh thái tự nhiên tạo

môi trường sống tốt, đảm bảo sức khỏe, nâng cao chất lượng cuộc sống cho người

dân. Hướng tới một TP Đà Nẵng “xanh” bền vững về môi trường, cân bằng giữa các

yếu tố bảo tồn và phát triển mới. Để đạt được mục tiêu “đô thị xanh”, quá trình quy

hoạch đô thị và tổ chức thiết kế thi công cần tập trung vào các giải pháp:

- Quy hoạch đô thị cần chú trọng nhất là sử dụng đất một cách hợp lí và có

hiệu quả nhất; cần phải đặt yếu tố “xanh” lên hàng đầu, không gian xanh đô thị không chỉ là cây xanh đường phố, công viên, mặt nước sông, hồ mà cần phải nhìn toàn diện

hơn, dành một tỷ trọng lớn trong tổng diện tích đất tự nhiên của đô thị cho các hành lang xanh, vành đai xanh, các không gian công cộng, các khu đô thị sinh thái, vùng trồng hoa, vùng bảo tồn cây xanh, trục xanh cảnh quan, không gian mở ven mặt nước và cả diện tích đất cho vành đai lâm nghiệp, NN và các làng nghề truyền thống,…Tạo

dựng một hình ảnh đô thị thông thoáng, sinh động, thanh bình và phát huy tối đa các giá trị của tự nhiên thể hiện tính thẩm mỹ cao.

145

- Xây dựng hệ thống “Giao thông xanh”: TP Đà Nẵng cũng như nhiều TP ở nước ta dân số tăng nhanh, phương tiện giao thông cũng tăng nhanh, chủ yếu là xe

máy và ô tô cá nhân nên việc tổ chức giao thông đang đối mặt với tình trạng phương

tiện giao thông đông đúc trên đường phố, nạn ùn tắc xảy ra hàng ngày, ô nhiễm môi

trường đô thị ngày càng nặng nề. Xây dựng hệ thống giao thông xanh là một tiêu chí quan trọng của xây dựng đô thị xanh, phát triển đô thị gắn với hệ thống giao thông

thân thiện môi trường, chú trọng xây dựng các phương tiện giao thông ngầm, các

phương tiện sử dụng năng lượng sạch không gây ô nhiễm môi trường và các phương

tiện không sử dụng năng lượng như xe đạp, xích lô, đi bộ,…

- Xây dựng nền “Công nghiệp xanh”, đó là nền CN sử dụng chủ yếu nguồn năng lượng sạch và công nghệ sản xuất tiên tiến; khuôn viên các KCN, TTCN đảm bảo diện tích cây xanh theo tiêu chuẩn, cảnh quan môi trường đảm bảo cho sức khỏe

và tinh thần của người lao động. Đà Nẵng có 6 KCN tập trung và một khu CNC, các

KCN đã được đầu tư nâng cấp, có công trình xử lý nước thải, có mật độ cây xanh

đảm bảo quy định, môi trường được cải thiện, nhưng chưa đúng tiêu chuẩn của một

nền CN xanh về hệ thống xử lý nước thải, khí thải, rác thải, nguồn năng lượng, công

nghệ, diện tích xây dựng và diện tích cho không gian xanh,… Xây dựng nền CN xanh

sẽ giảm bớt nguy cơ ô nhiễm, nâng cao chất lượng môi trường, đảm bảo chất lượng

môi trường sống cho người lao động và cư dân.

- Các công trình kiến trúc ở trung tâm TP hay ở các khu đồi núi, ven sông, ven

biển, ven hồ việc quy hoạch và thiết kế cần khai thác tối đa các yếu tố tự nhiên vốn

có như địa hình, rừng cây xanh, mặt nước và kiến trúc, màu sắc của các công trình

cần thể hiện sự hài hòa gần gũi với thiên nhiên. Không nên phá vỡ hoặc làm biến

dạng địa hình tự nhiên, xu thế phát triển đô thị hấp dẫn nhất của thế kỷ XXI là xây

dựng các đô thị bảo tồn được cảnh quan thiên thiên và di sản văn hóa, đảm bảo được

sự cân bằng sinh thái. TP Đà Nẵng phải hướng đến xây dựng một đô thị gìn giữ được sông, núi, biển, hồ trong lòng TP hòa quyện với các di tích lịch sử, tạo nên một đô thị

thiên nhiên độc đáo và hấp dẫn.

- Trong đô thị xanh, con người và môi trường thiên nhiên gần gũi, thân thiện. Cộng đồng dân cư đô thị vừa là người thực hiện các hành vi gìn giữ, bảo vệ môi trường và không gian xanh, vừa là người kiểm tra, giám sát, ngăn chặn các hoạt động

làm tổn hại môi trường hoặc gây ô nhiễm môi trường.

- Giáo dục nâng cao nhận thức cho cộng đồng dân cư sống thân thiện với môi trường, gìn giữ, bảo vệ, tôn tạo môi trường là đặc biệt quan trọng. Sống thân thiện

146

với môi trường đem lại giá trị đạo đức, nhân cách của con người tạo nên chất lượng cuộc sống cao, sống thanh bình và có tính thẩm mỹ, đó chính cũng chính mục tiêu

của phát triển đô thị bền vững.

Tiểu kết chương 4

Chương 4 của luận án đã đưa ra những cơ sở để đề xuất giải pháp về ĐTH và

phát triển KT – XH ở TP Đà Nẵng đến năm 2030 là:

- Trên cơ sở phân tích đánh giá thực trạng ĐTH ở chương 2 và những tác động

của ĐTH đến KT – XH ở chương 3, tác giả đã đưa ra những nhận định chung về

những thành tựu, những hạn chế và thách thức của ĐTH đối với phát triển KT – XH

ở TP Đà Nẵng trong giai đoạn vừa qua.

- Các quy hoạch, các định hướng ĐTH và phát triển KT – XH của TP Đà Nẵng trong giai đoạn 2021 – 2030 như: “Quy hoạch và định hướng ĐTH và phát triển KT

– XH của VKTTĐMT”; “Nghị quyết số 43/NQ-TW của Bộ Chính trị về xây dựng và

phát triển TP Đà Nẵng đến năm 2030”; “Quyết định 147/QĐ-TTg về Điều chỉnh quy

hoạch chung của xây dựng TP Đà Nẵng đến năm 2030 và tầm nhìn đến 2045”;

“Thuyết minh tổng hợp về điều chỉnh quy hoạch chung TP Đà Nẵng đến năm 2030

và tầm nhìn đến 2045” của UBND TP Đà Nẵng.

Đến năm 2030, TP Đà Nẵng trở thành đô thị hạt nhân của khu vực miền Trung

– Tây Nguyên và là một “Siêu đô thị” sinh thái, hiện đại, thông minh, đáng sống

mang tầm khu vực và quốc tế; cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động tiếp tục chuyển dịch

theo hướng CNH, HĐH. Quá trình ĐTH sẽ chuyển sang giai đoạn phát triển theo

chiều sâu thực sự. Đến năm 2030, đô thị Đà Nẵng sẽ bao gồm ba Vùng đô thị đặc

trưng, với 10 phân khu đô thị và hai vành đai kinh tế (Vành đai phía Bắc: CN – CNC,

cảng biển và dịch vụ logistics; Vành đai phía Nam: Đổi mới sáng tạo và nông nghiệp

ứng dụng CNC), toàn thành phố có 7 khu chức năng.

Trong chương 4, tác giả đã đưa ra các giải pháp về quy hoạch và thiết kế cấu trúc không gian đô thị theo hướng kết hợp giữa yếu tố hiện đại và truyền thống tạo

nên bản sắc riêng, giải pháp về nâng cao chất lượng nguồn lao động, giải pháp về thu hút đầu tư và sử dụng hiệu quả nguồn vốn đầu tư, giải pháp xây dựng đô thị kết nối trong vùng và khu vực, giải pháp xây dựng đô thị thông minh, giải pháp xây dựng đô thị xanh thân thiện với môi trường, hướng tới phát triển một đô thị Đà Nẵng bền vững.

147

PHẦN KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ

1. KẾT LUẬN 1.1. ĐTH là quá trình phát triển mang tính khách quan, tất yếu của sự phát triển KT

– XH ở mỗi quốc gia trên thế giới và mỗi địa phương trong từng quốc gia. ĐTH diễn ra luôn kéo theo những biến đổi về hành chính, dân cư, lao động, kinh tế, văn hóa, xã

hội, CSHT và cảnh quan đô thị. Đà Nẵng là TP nằm ở trung tâm của VKTTĐMT, là

cầu nối giữa hai vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ và vùng kinh tế trọng điểm phía

Nam, là cửa ngõ ra biển của Tây Nguyên. Vị trí địa lý và đặc điểm thiên nhiên có

nhiều thuận lợi để xây dựng và phát triển đô thị. Cùng với quá trình CNH, HĐH, quá trình ĐTH ở Đà Nẵng đã có nhiều biến chuyển và tác động tích cực đến nền KT – XH của TP.

1.2. ĐTH ở TP Đà Nẵng thực sự phát triển nhanh, mạnh mẽ từ 2003 đến nay, tiến

trình ĐTH trải qua hai giai đoạn, làm thay đổi đô thị theo hướng đồng bộ, hiện đại.

Giai đoạn đầu từ 2003 đến 2009, đây là giai đoạn khai phá, chỉnh trang đô thị,

di dời dân cư, bến xe, các xí nghiệp CN để tái thiết lại đô thị. Giai đoạn này chủ yếu

diễn ra trong khu vực trung tâm TP thuộc hai quận Hải Châu và Thanh Khê; giai đoạn

hai từ 2010 – 2020 là giai đoạn mở rộng không gian đô thị, cấu trúc, thiết kế các khu

chức năng, cảnh quan đô thị để tạo nên một hình hài mới. TP được mở rộng ở các

hướng Tây, Tây Bắc, Tây Nam, Nam và Đông Nam.

Tốc độ ĐTH cao đạt gần 40%, (trong khi cả nước đạt 34%), làm cho tỉ lệ ĐTH

và tỉ lệ dân đô thị của TP Đà Nẵng luôn ở mức dẫn đầu cả nước 87,3%. Trong 18 năm

(2003 – 2020), ĐTH đã tạo nên một bộ khung cơ bản về CSHT cho thành phố và

được đánh giá là đô thị có hệ thống CSHT khá đồng bộ và hiện đại của cả nước, cùng

với sự thay đổi về CSHT là sự thay đổi về dân cư, lực lượng lao động, sự chuyển dịch

mạnh về cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động theo hướng CNH, tỉ lệ lao động phi NN tăng cao chiếm tỉ trọng lớn (95,1%), tỉ trọng nhóm ngành phi NN ngày càng chiếm tỉ trọng

cao trong cơ cấu kinh tế; tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân ở mức khá cao trong cả giai đoạn (10%/năm). Cấu trúc không gian đô thị Đà Nẵng đã có sự thay đổi, từ một đô thị được tách ra khỏi một tỉnh, với diện tích nội đô chỉ 5.600 ha nay tăng lên gấp 4 lần (21.300ha),

cấu trúc không gian được quy hoạch rõ với các khu chức năng: khu đô thị trung tâm hành chính, các KCN, khu CNC, khu CNTT tập trung, các cụm cảng biển, các khu

148

du lịch, DV thương mại, thể dục thể thao, văn hóa và các DV công cộng hình thành rõ nét.

1.3. ĐTH đã tác động mạnh mẽ đến sự phát triển KT – XH của TP Đà Nẵng, làm

thay đổi chức năng đô thị và sự phát triển các ngành kinh tế

Những kết quả của ĐTH trong 18 năm đã thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế, thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ NN – CN – DV sang CN – DV – NN và DV –

CN – NN, sự chuyển dịch này thể hiện rõ xu thế phát triển đô thị với chức năng tổng

hợp và bền vững; dưới tác động của ĐTH, các ngành kinh tế có thế mạnh nổi trội của

TP như CN, cảng biển, du lịch, NN phát triển theo hướng hiện đại và ứng dụng công

nghệ cao vừa hiện đại vừa kết hợp với thiên nhiên.

ĐTH cũng đã tác động làm thay đổi căn bản đời sống vật chất và tinh thần của dân cư đô thị, thu nhập GRDP bình quân/người năm 2020 đứng thứ 9/63 tỉnh thành

và thứ 4/5 TP trực thuộc trung ương, nhưng nếu tính TNBQĐN/tháng thì TP Đà Nẵng

đứng thứ 6/63 tỉnh thành và đứng thứ 3/5 TP trung ương.

1.4. Tuy đã đạt được những thành tựu nhất định, nhưng ĐTH trong thời gian qua

còn bộc lộ những hạn chế về sử dụng hiệu quả đất đô thị, về cấu trúc không gian, cấu

trúc cảnh quan đô thị chưa đạt được kỳ vọng đặt ra và chưa đầy đủ tiêu chuẩn của

một đô thị phát triển bền vững mang tầm quốc gia, khu vực và quốc tế.

1.5. Để khắc phục hạn chế, hướng đến xây dựng ĐTH đạt được trình độ cao, khai

thác được các lợi thế so sánh, thực hiện được mục tiêu ĐTH và KT – XH đề ra trong

Nghị quyết Đại hội Đảng bộ của TP đến năm 2025 và đến năm 2030, luận án đã đề

xuất được 5 giải pháp cho xây dựng đô thị và phát triển KT – XH, để thành phố Đà

Nẵng trở thành một thành phố hiện đại nhưng vẫn giữ được bản sắc truyền thống

riêng, bền vững hài hòa giữa kinh tế - xã hội – môi trường.

Trong thuyết minh quy hoạch chung thành phố Đà Nẵng đến năm 2030, tầm

nhìn đến năm 2045, đô thị Đà Nẵng sẽ phát triển theo 3 vùng đô thị đặc trưng (Vùng ven mặt nước sông, biển; Vùng lõi xanh trung tâm thành phố; Vùng sườn đồi ở miền

đồi núi phía Tây), với 7 khu chức năng và 2 Vành đai kinh tế (Vanh đai phía Bắc: CN công nghệ cao, cảng biển, dịch vụ logistics; Vành đai phía Nam: Trung tâm đổi mới sáng tạo, NN ứng dụng CNC); đưa TP Đà Nẵng trở thành đô thị thông minh hiện đại, đô thị xanh ngang tầm các đô thị khu vực Đông Nam Á và Thế giới.

2. KHUYẾN NGHỊ Để quá trình ĐTH đem lại những tác động tích cực, hiệu quả đối với việc phát triển KT – XH, đạt mục tiêu đến năm 2030 TP Đà Nẵng trở thành TP mang tầm quốc

149

gia, khu vực và quốc tế, NCS có một số khuyến nghị với các cấp lãnh đạo thành phố bên cạnh việc đẩy mạnh ĐTH và phát triển KT – XH, cần chú trọng vào các vấn đề

sau đây:

- Trong quá trình quy hoạch phát triển và xây dựng TP ở giai đoạn tiếp theo,

cần thiết phải giành một tỉ lệ đất thích đáng cho phát triển NN, tạo ra các vành đai xanh (rau quả, hoa, cây xanh,…) và các làng nghề truyền thống cho TP. Bởi lẽ việc

này sẽ đem lại những lợi ích lâu dài bền vững cho đô thị cả về kinh tế, xã hội, cảnh

quan môi trường, tránh tình trạng bê tông hóa toàn TP, gây nhiều hệ lụy và khó có

thể sửa chữa, vì để biến đá thành đất phải mất vài trăm triệu năm, nhưng để biến đất

thành bê tông, thành đá thì chỉ trong vòng vài giờ hoặc vài ngày, muôn đời con cháu các thế hệ sau rất khó biến bê tông, gạch đá trở lại thành đất được, nếu có thì phải tốn khoản chi phí vô cùng lớn. Bài học này được rút ra từ một số TP trên thế giới.

- Quá trình ĐTH ở TP Đà Nẵng trong thời gian qua đã đạt được nhiều thành

tựu quan trọng, đã làm thay đổi về cơ sở vật chất kỹ thuật, về cảnh quan đô thị, về

kinh tế, xã hội và môi trường. Tuy nhiên, chủ yếu vẫn chỉ quan tâm, chú trọng đến

khía cạnh vật chất, còn khía cạnh về đời sống tinh thần của người dân chưa được quan

tâm sâu sát, các cơ quan ban ngành chưa có những điều tra, khảo sát cụ thể để hiểu

rõ được đời sống tinh thần của một bộ phận không nhỏ dân cư xuất thân từ làng quê,

từ hoạt động kinh tế nông thôn, nay địa phương được trở thành TP; để hiểu người dân

có thực sự hạnh phúc, có thực sự đã thích ứng với những nề nếp, trật tự, tiêu chuẩn

của lối sống trong môi trường đô thị, văn minh đô thị, nên đến tình trạng xây dựng

đô thị hiện đại nhưng với lối sống hỗn tạp, suy nghĩ vụn vặt, làm ăn tản mạn, tùy

tiện,… lối sống đô thị nhuốm màu “nông thôn” đan xen và chứa đựng nhiều mâu

thuẫn trong không gian đô thị và trong dân cư đô thị, ảnh hưởng đến mục tiêu xây

dựng một đô thị “đáng sống” thực sự.

- Để xây dựng một TP thông minh hiện đại, TP Đà Nẵng cần có những giải pháp quan trọng, trước hết là phải đồng bộ hóa giữa quá trình ĐTH với việc thay đổi

lối sống mang tính hiện đại của cư dân. Bởi vì, đô thị hiện đại phải bắt đầu bằng sự thay đổi suy nghĩ, thói quen hàng ngày, nề nếp, trật tự và sự tuân thủ các quy định trong giao thông, nơi công cộng, trong cơ quan, xí nghiệp; thực hiện đồng bộ các biện pháp quản lý đô thị theo hướng hiện đại, có hệ thống, phải quyết liệt và có tầm nhìn

lâu dài, tránh lối tư duy nhiệm kỳ; tăng cường tuyên truyền, giáo dục người dân hướng tới các giá trị cộng đồng của đô thị hiện đại như ý thức, văn hóa cộng đồng trong sinh hoạt ở khu phố, khối phố, cụm dân cư, hạn chế tối đa tính tư hữu, tự phát, tùy tiện,

150

ích kỷ “đèn nhà ai nấy rạng, chuông làng nào làng đó đánh”; xây dựng một thiết chế văn hóa công sở, xây dựng các không gian công cộng, bảo tồn, phát huy các giá

trị văn hóa truyền thống một cách văn minh, tránh việc mang văn hóa làng xã, mê tín

vào cơ quan, công sở, nhất là việc hương khói, thờ cúng trong cơ quan, công sở.

- Trong định hướng quy hoạch, phát triển ĐTH đến năm 2030, TP Đà Nẵng cần có quy hoạch cụ thể, rõ ràng cho không gian và cảnh quan để phát triển kinh tế

ban đêm. Hoạt động kinh tế ban đêm vừa là hoạt động kinh tế, nhưng vừa là một dạng

hoạt động du lịch, nếu không gian chật hẹp, cảnh quan không thoáng đãng, sạch đẹp

thì hiệu quả mang lại thấp. Cần phải nghiên cứu và quy hoạch cụ thể, đồng thời cần

xác định và xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng kỹ thuật cho phát triển kinh tế ban đêm. Không gian, cơ sở hạ tầng kỹ thuật kết hợp cũng tạo nên những thành công của phát triển kinh tế ban đêm, thông qua đó làm phong phú, đa dạng cảnh quan, môi trường

và kinh tế đô thị; xác định rõ hoạt động kinh tế ban đêm của TP Đà Nẵng thì các DV

nào là cốt lõi, DV nào là DV hỗ trợ cho DV cốt lõi. Đặc biệt cần chú trọng đến các

DV và các sản phẩm du lịch đặc trưng nhất làm nổi bật nét riêng của kinh tế ban đêm

tại TP để thể thu hút khách du lịch và mang lại nét khác biệt cho TP Đà Nẵng.

151

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

A. Tiếng Việt 1. Patricia Clarke Annez và Robert M.Buckley, Michael Spence (2010), Đô thị hóa

và tăng trưởng, NXB Dân trí dịch, Hà Nội.

2. Nguyễn Thế Bá (1982), Quy hoạch xây dựng đô thị, NXB Xây dựng, Hà Nội. 3. Nguyễn Thế Bá, Trần Trọng Hanh, Lê Trọng Bình, Nguyễn Tố Lăng (2008): Quy

hoạch xây dựng phát triển đô thị, NXB. Xây dựng, Hà Nội.

4. Bộ Chính trị (2003), Nghị quyết xây dựng và phát triển thành phố Đà Nẵng trong

thời kỳ CNH, HĐH đất nước (Nghị quyết số 33 NQ/TW, ngày 16/10/2003). 5. Bộ Chính trị (2019), Nghị quyết xây dựng và phát triển thành phố Đà Nẵng đến

năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2045 (Nghị quyết số 43 NQ/TW, ngày 24/1/2019).

6. Bộ xây dựng (2009), Thông tư 34/2009/TT - BXD Quy định chi tiết một số nội dung

của Nghị định 42/2009/NĐ-CP ngày 07/05/2009 của Chính phủ về việc Phân loại đô

thị.

7. Nguyễn Ngọc Châu (2012), Quản lý đô thị, NXB Xây dựng.

8. Chính phủ (2004), Quyết định số 148/2004/QĐ-TTg ngày 13/08/2004 của Thủ

tướng Chính phủ về thành lập Vùng kinh tế trọng điểm miền Trung. 9. Chính phủ (2014), Quyết định Phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển KT – XH

vùng Kinh tế trọng điểm Miền Trung, số 1874/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ,

ngày 13/10/2014.

10. Chính phủ (2019), Quyết định phê duyệt nhiệm vụ điều chỉnh quy hoạch chung

thành phố Đà Nẵng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, số 147/QĐ - TTg, Hà

Nội, ngày 1/2/2019.

11. Vũ Thị Chuyên (2010), Phân tích quá trình đô thị hóa ở thành phố Hải Phòng

giai đoạn 1985 - 2007, Luận án tiến sĩ Địa lý học, Đại Học Sư phạm Hà Nội. 12. Phạm Ngọc Côn (1998), Kinh tế học đô thị, NXB Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội.

13. Alan Coulthart, Nguyễn Quang và Henry Sharpe (2006), Chiến lược phát triển đô thị: Đối mặt với những thách thức về đô thị hóa nhanh chóng và chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường, Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam, Hà Nội. 14. Cục Thống kê thành phố Đà Nẵng (2015), Đà Nẵng 40 năm thế và lực mới. 15. Cục thống kê tp Đà Nẵng, Niên giám thống kê về hoạt động của cảng biển thành phố Đà Nẵng từ 2000 – 2019. 16. Cục Thống kê Đà Nẵng, Niên giám thống kê tp Đà Nẵng – 2005, 2010, 2015,

152

2020, NXB Thống kê. 17. Võ Kim Cương (2004), Quản lý đô thị thời kỳ chuyển đổi, NXB Xây dựng, Hà

Nội.

18. Võ Kim Cương (2006), Chính sách đô thị, NXB Xây dựng, Hà Nội.

19. Phạm Cường (2020), Hải phòng tạo bước phát triển vượt bậc với những dấu ấn mới, trang https://dangcongsan.vn (ra ngày 31/10/2020).

20. Phạm Kiều Đa (2000), “Ngành công nghiệp thành phố Đà Nẵng 25 năm qua

(1975-2000)”, trong Nguyễn Hoàng Long; Bùi Công Minh; Hoàng Hương Việt.

21. Nguyễn Anh Dũng (2014), “Việc làm cho nông dân bị thu hồi đất trong quá trình

CNH, ĐTH ở thành phố Đà Nẵng”, Luận án tiến sĩ kinh tế, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân. 22. Nguyễn Hữu Đoàn (2009), Vận dụng phương pháp phân tích đa tiêu chí đánh giá

mức độ đô thị hóa nhằm góp phần xây dựng các quan điểm phát triển đô thị ở Việt

Nam đến năm 2020, lấy Hà Nội làm ví dụ, Luận án tiến sĩ kinh tế, Trường Đại học

Kinh tế Quốc dân.

23. Nguyễn Hữu Đoàn, Nguyễn Đình Hương (2002), Giáo trình kinh tế đô thị, NXB

Giáo dục Việt Nam, Hà Nội.

24. Nguyễn Hữu Đoàn, Nguyễn Đình Hương (2003), Giáo trình quản lý đô thị, NXB

Thống kê, Hà Nội.

25. Đỗ Thị Minh Đức (1992), Phân tích dưới góc độ địa lý kinh tế - xã hội sự chuyển

hóa nông thôn thành đô thị ở Hà Nội trong quá trình đô thị hóa, Luận án tiến sĩ Địa

lý, Đại học Sư phạm Hà Nội

26. Đỗ Thị Minh Đức (2005), “Phân tích mạng lưới đô thị Việt Nam và vấn đề phát

triển vùng”, Tạp chí Khoa học, Đại học Sư phạm Hà Nội, (số 2), tr 3-5

27. Đỗ Thị Minh Đức (2006), “Đô thị hóa ở Việt Nam trong bối cảnh của thế giới đô

thị hóa”, Tạp chí Khoa học, Đại học Sư phạm Hà Nội, (số 2), tr 5-7 28. Mạc Đường (2002), Dân tộc học – Đô thị và vấn đề đô thị hóa, NXB Trẻ

29. Phạm Kim Giao (Chủ biên), Quản lý nhà nước về đô thị, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội 30. Nguyễn Thị Hậu, Đà Nẵng - Nhìn từ quá khứ, Báo Đô thị và phát triển, ngày 4/7/2017

31. Đỗ Hậu (chủ biên) (2001), Xã hội học đô thị, NXB Xây dựng, Hà Nội 32. Phạm Hảo, Nguyễn Hồng Sơn, Lê Văn Định (2006), Xây dựng lối sống đô thị trong quá trình ĐTH ở thành phố Đà Nẵng - Thực trạng và giải pháp, Báo cáo khoa

153

học, Học viện Chính trị khu vực III - Học viện Chính trị Quốc Gia, Thành phố Hồ Chí Minh

33. Nguyễn Thị Hiệp (2017), Giải pháp đẩy mạnh phát triển công nghiệp Đà Nẵng,

Tạp chí Công thương, Sở Công thương TP Đà Nẵng,

34. Đỗ Thị Thanh Hoa (1999), Di cư trong quá trình ĐTH và tác động của nó tới môi trường xã hội TP. Hà Nội, Luận án tiến sĩ Địa lí, ĐHSP Hà Nội

35. Đặng Thái Hoàng (2000), Lịch sử phát triển đô thị, NXB XD, Hà Nội.

36. Đặng Thái Hoàng (2000), Thiết kế đô thị có minh họa, NXB XD, Hà Nội.

37. Nguyễn văn Huân, "Liên kết vùng từ lý luận đến thực tiễn”, Phòng nghiên cứu

phát triển kinh tế vùng, Viện kinh tế Việt Nam 38. Trần Hùng (2001), Dân số học đô thị, NXB XD, Hà Nội. 39. Nguyễn Đức Hùng, Đà Nẵng thành tựu và triển vọng- Đà Nẵng Achievements

and Prospects, Nhà xuất bản Đà Nẵng

40. Tô Văn Hùng, “Đà Nẵng – Hướng đến phát triển đô thị đẳng cấp khu vực, Tạp

chí Kiến trúc, số 2/2019.

41. Tô Văn Hùng, Đà Nẵng nhìn lại 20 năm tạo dựng và hướng đến phát triển bền

vững trong tương lai, trang hdnd.danang.gov.vn, ngày 30/1/2018

42. Nguyễn Đình Hương (Chủ biên) (2000), Đô thị hóa và quản lý kinh tế đô thị ở

Hà Nội, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

43. Phan Thị Mai Hương (2010), Những biến đổi tâm lý của cư dân vùng ven đô trong

quá trình ĐTH, NXB Từ điển Bách khoa, TP. HCM

44. Phan Thanh Khôi (2006), Một số vấn đề kinh tế - xã hội trong tiến trình CNH,

HĐH vùng đồng bằng sông Hồng, NXB Lý luận chính trị, Hà Nội

45. Lê Hồng Kế, Thành phố Đà Nẵng - Một đô thị phát triển bền vững và hội nhập,

Hội thảo khoa học "Quy hoạch phát triển đô thị Đà Nẵng - Hội nhập và phát triển, Đà

Nẵng ngày 6/8/2010 46. Pierre Laborde (2011), Không gian đô thị, NXB Thế giới, Hà Nội.

47. Hoàng Phúc Lâm (2002), Tác động của những biến đổi kinh tế - xã hội đến sự phát triển đô thị thị xã Lạng Sơn, Luận án tiến sĩ Địa lý học, Trường ĐHSP Hà Nội. 48. Nhiêu Hội Lâm (2004), Kinh tế học đô thị, NXB Chính trị Quốc gia Hà Nội. 49. Phạm Sĩ Liêm (2010), Nghiên cứu đô thị, quy hoạch, quản lý đất đai, bất động

sản và nhà ở, NXB Xây dựng, Hà Nội. 50. Trịnh Duy Luân (2004), Xã hội học đô thị, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội. 51. Phạm Trọng Mạnh (2002), Quản lý đô thị, NXB Xây dựng, Hà Nội

154

52. Ngân hàng thế giới tại Việt Nam (2011), Đánh giá đô thị hóa ở Việt Nam, Báo cáo hỗ trợ kĩ thuật, Hà Nội.

53. Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam (2013), Danang Sustainable City Development

(Dự án Phát triển Bền vững Thành phố Đà Nẵng)

54. Ngân hàng thế giới (2010), Đô thị hóa và tăng trưởng, Ủy ban về tăng trưởng và Phát triển, NXB Dân trí

55. Xuân Ngọ (2019), Nhìn lại 10 năm Đà Nẵng triển khai thực hiện đề án thành phố

môi trường, Tạp chí môi trường, số 7/2019

56. Phạm Văn Nhật (2003), Quá trình đô thị hóa và ảnh hưởng của nó tới môi trường

nước và không khí ở thành phố Việt Trì, Luận án tiến sĩ Địa lý học, Trường ĐHSP HN 57. Phòng Phát triển Bền vững – Khu vực Đông Á và Thái Bình Dương (2008), Da

Nang Priority Infrastructure Investment Project (Dự án đầu tư cơ sở hạ tầng ưu tiên

Đà Nẵng)

58. Nguyễn Thị Hoài Phương (2020), Đô thị hóa tỉnh Bình Dương và ảnh hưởng của

nó đến chuyển dịch cơ cấu sử dụng đất, Luận án Tiến sĩ Địa lý học, Tp Hồ Chí Minh

59. Đàm Trung Phường (1995), Đô thị Việt Nam, tập I, II, NXB Xây dựng, Hà Nội.

60. Dương Trung Quốc; Trần, Hữu Đính; Nguyễn, Văn Nhật; Nguyễn, Tố Uyên;

Ngô, Văn Minh (2001), Lịch sử thành phố Đà Nẵng, Đà Nẵng: NXB Đà Nẵng

61. Ngô Huy Quỳnh (1997), Quy hoạch – Cải tạo và xây dựng đô thị, NXB Văn hóa

thông tin

62. Trần Cao Sơn (1995), Dân số và tiến trình đô thị hóa - Động thái phát triển và

triển vọng, NXB KHXH, Hà Nội.

63. Ngô Viết Nam Sơn (2009), Tầm nhìn trăm năm trong công tác quy hoạch các Đô

thị biển, Tạp chí Kiến trúc Việt Nam, số 7/2009

64. Ngô Viết Nam Sơn (2010), Bản sắc Quy hoạch và Kiến trúc của Đà Nẵng và Huế: Thử thách và Cơ hội, Tạp chí Kiến trúc, số 183 (tháng 7/2010)

65. Ngô Viết Nam Sơn (2013), Không gian đô thị Đà Nẵng trong thế kỉ XXI, Tạp chí Kiến trúc, số 214 – 2013 66. Sở Du lịch thành phố Đà nẵng, Báo cáo hoạt động du lịch của thành phố Đà Nẵng năm 2005, 2010, 2015, 2020 và phương hướng, nhiệm vụ năm 2006, 2011, 2016,

2021 67. Nguyễn Văn Sửu (2014), Công nghiệp hóa, đô thị hóa và biến đổi sinh kế ở ven đô Hà Nội, Hà Nội: NXB Tri Thức,

155

68. Trần Văn Tấn (2006), Kinh tế đô thị và vùng, NXB Xây dựng. 69. Trương Quang Thao (2003), Đô thị học - Những khái niệm mở đầu, NXBXD, Hà

Nội.

70. Lê Thông (cb). (2011), Địa lý kinh tế - xã hội Việt Nam, NXB ĐHSP, Hà Nội

71. Lê Thông, Nguyễn Quý Thao, Nguyễn Minh Tuệ và nnk (2012), Việt Nam các vùng kinh tế và vùng kinh tế trọng điểm, NXB Giáo dục Việt Nam

72. Nguyễn Viết Thịnh, Đỗ Thị Minh Đức (2005), Địa lý kinh tế - xã hội Việt Nam,

tập 1. NXB ĐHSP, Hà Nội

73. Nguyễn Thị Thoa (2014), “Ảnh hưởng của đầu tư trực tiếp nước ngoài tới đô thị

hóa theo hướng bền vững ở Đà Nẵng”, Luận án Tiến sĩ 74. Phạm Thị Xuân Thọ (2002), Di dân ở TP.HCM và tác động của nó đối với sự phát triển KT – XH, Luận án Tiến sĩ Địa lý, ĐHSP Hà Nội

75. Nguyễn Quốc Thông (2008), Lịch sử xây dựng đô thị cổ đại và trung đại phương

Tây, NXB XD, Hà Nội.

76. Tổng cục Thống kê (2019), Báo cáo chính thức Tổng điều tra Dân số và nhà ở

2019

77. Bùi Huy Trí, Đà Nẵng chặng đường 20 năm phát triển đô thị, Báo đô thị phát

triển, 1/3/2019

78. Phạm Đỗ Văn Trung (2014), Nghiên cứu quá trình ĐTH và ảnh hưởng của nó

đến sự phát triển KT – XH thành phố Cần Thơ, Luận án tiến sĩ Địa lý học, Trường

ĐHSP Hà Nội.

79. Đào Hoàng Tuấn (2008), Phát triển bền vững đô thị (Những vấn đề lý luận và

kinh nghiệm của thế giới), NXB KHXH, Hà Nội.

80. Nguyễn Minh Tuệ, Nguyễn Việt Thịnh, Lê Thông (2005), Địa lý kinh tế - xã hội

đại cương, NXB Đại học Sư phạm Hà Nội, Hà Nội

81. Từ điển bách khoa Việt Nam (1995), NXB Hà Nội, Hà Nội. 82. UBND TP Đà Nẵng (2004), Báo cáo tổng hợp Quy hoạch tổng thể phát triển

Kinh tế - xã hội Vùng kinh tế trọng điểm Miền Trung đến năm 2020. 83. UBND TP Đà Nẵng, Báo cáo phân tích tình hình kinh tế - xã hội thành phố Đà Nẵng các năm từ 2010 – 2020 (số thứ tự 104, 107, 108, 110) 84. UBND TP Đà Nẵng (2016), Đà Nẵng bước tiến 20 năm qua những con số thống

kê (1997 – 2016) tr 8

156

85. UBND TP Đà Nẵng (2017), Báo cáo chuyên đề rà soát đánh giá hiệu quả và các giải pháp đầu tư phát triển công nghiệp TP Đà Nẵng đến năm 2020 và tầm nhìn đến

năm 2030

86. UBND TP Đà Nẵng, Báo cáo 15 năm thực hiện Nghị quyết số 33 - NQ /TW của

Bộ Chính trị (Khóa IX) về xây dựng và phát triển thành phố Đà Nẵng trong thời kỳ CNH, HĐH đất nước, Số 101/BC - UBND, ngày 17/4/2018

87. UBND TP Đà Nẵng, Đề án Xây dựng thành phố thông minh tại thành phố Đà

Nẵng giai đoạn 2018 - 2025, định hướng đến năm 2030, Ban hành kèm Quyết định

số 6439/QĐ-UBND ngày 29/12/2018 của UBND thành phố Đà Nẵng

88. UBND TP Đà Nẵng (2020), Nghị quyết Đại hội đại biểu lần thứ XXII Đảng bộ thành phố Đà Nẵng nhiệm kỳ 2020 – 2025, ngày 20 – 22/10/2020 89. UBND TP Đà Nẵng, Thuyết minh tổng hợp Điều chỉnh quy hoạch chung thành

phố Đà Nẵng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, tháng 1/2020

90. Viện nghiên cứu phát triển kinh tế - xã hội TP Đà Nẵng (2010), Đề án Thực trạng

và giải pháp về chính sách thu hút nguồn nhân lực trình độ cao của TP. Đà Nẵng,

Đà Nẵng, tr.42.

91. Viện nghiên cứu phát triển kinh tế - xã hội TP Đà Nẵng (2010), “Phát triển

thương mại trên địa bàn TP Đà Nẵng đến năm 2020”, Báo cáo khoa học

92. Viện các khoa học về Trái Đất (1978), Tuyển tập Địa lí học và cách mạng khoa

học kĩ thuật, NXBKH &KT, Hà Nội

93. Nguyễn Nữ Đoàn Vy (2018), “Tác động của người nhập cư đến phát triển kinh

tế - xã hội ở thành phố Đà Nẵng”, Luận án tiến sĩ Kinh tế chính trị, Học viện Chính

trị Quốc gia Hồ Chí Minh.

94. Ngô Thị Hải Yến (2017), Đô thị hóa và sử dụng đất đô thị ở tỉnh Bắc Ninh trong

giai đoạn 2005 – 2015, Luận án tiến sĩ Địa lí học, Trường ĐHSP, Hà Nội.

B. Tiếng Anh 95. Alan Rabinnowitz (2004), Urban economics and land use in America – The

transformation of cities in the twentieth century, M,E, Sharpe 96. Brian J.L. Berry (1976), Urbanization and Counter Urbanization, Sage Publication, Beverly Hills, London 97. Chemillier- Gendreau, Monique (2000), Sovereignty Over the Paracel and

Spratley Islands (bằng tiếng Anh), Den Haag: Kluwer La International, ISBN 978- 90-411-1381-8 98. David Drakakis – Smith (2000), Third World Cities, 2nd Edition, Routledge

157

99. David E, Bloom (2003), The demographic dividend – A new perspective on the economic consequences of population change, Rand Program of Policy – Relevant

research Communication, America

100. David Kaplan, Wheeler Holloway (2009), Urban Geography, 2nd Edition, ed,

John Willy and Sons, INC, America 101. Francoise Noel (2006), Territory and Sustainable Development, Vietnam –

Belgium Master Programs

102. James. H. Spener, Rowman Littlefield (2015), Globalization and Urbanization,

The Rowman & Littlefield Publishing Group INC, New York, London

103. Li-Yin Shen (2011), The application of urban sustainability indicators – A comparison between various practices, Habitat International, Volume 35, Issue 1, January 2011, Pages 17 cie

104. Lo, Fu – Chen and Yeu – Man Yeung (1996), Emerging World cities in Pacific

Asia, Tokyo: United Nations University Press

105. Michael Pacione (2009), Urban Geography – A global perspective, 3rd edition,

Routledge, USA

106. Michael Timberlake (1985), Urbanization in the world economy, Academic

press INC

107. Paul. L, Knox, Linda McCarthy (2012), Urbanization, Pearson Education, INC,

America

108. Terry McGee(2005), Distinctive urbanization in the peri-urban regions of East

and South East Asia: Renewing the debate. Perencanaan Wilayah dan Konta, 16 (1),

39-56.

109. UN, Department of Economicand Social Affairs (2012), World Urbanization

Prospects – The 2011 Revision: Highlights.

110. UN – Habitat (1994), “Population, Urbanization and Quality of life”. 111. Wang Yue, Wang Lin (2010), Evaluation of Jinan Urbanization System

(Proceedings of 2010 International Conference on Regional Management Science and Engineering ISBN: 978-0-9806854-5-9.

C. Các Trang web 112. https://www.baoxaydung.com.vn

113. http://baochinhphu.vn 114. https://baodanang.vn/ Đà Nẵng định vị vững chắc đô thị lớn ở khu vực, Triệu Tùng, ngày 4/4/2020

158

115. https://baocantho.com.vn/mo-rong-khong-gian-phat-trien-cho-do-thi-can-tho- a135320.html

116. https://baodanang.vn/channel/5404/202012/da-nang-phat-huy-loi-the-tu-du-

lich-bien-3874212/

117. https://baodanang.vn/channel/5404/202011/phat-trien-nganh-cong-nghiep-co- gia-tri-gia-tang-cao-3872775/

118.https://ccco.danang.gov.vn/98_80_963/Tai_nguyen_thien_nhien_thanh_pho_D

a_Nang.aspx

119. http://www.cityindicators.org/Deliverables/Global%20Urban%20Indicators%

http://consosukien.vn/xay-dung-va-phat-trien-thanh-pho-can-tho-den-nam-

20Databa-12-4-2007-1028705.pdf 120. 2030-tam-nhin-2045.htm

121. https://www.dangbodanang.vn/thoisu-chinhtri/xây dựng Đà Nẵng trở thành đô

thị trung tâm, mang tầm khu vực, báo Đà Nẵng, ngày 19/3/2021, Triệu Tùng

122. https://www.danang.gov.vn/de/gioi-thieu/chi-tiet?id=38651&_c=39 (du lịch)

123. https://dulichkhampha24.com/ba-na-hills-cua-ai.html

124. https://dothiphattrien.vn, Đà Nẵng thực trạng và giải pháp quản lý quy hoạch

và xây dựng trong khu đô thị cũ, ngày 2/6/2015

125. http://khucongnghiep.com.vn: “Liên kết vùng: Giải pháp để phát triển bền vững

các KCN Duyên hải miền Trung”, 7/9/2016.

126.https://www.google.com/search?q=thu+nh%E1%BA%ADp+b%C3%ACnh+qu

%C3%A2n+%C4%91%E1%BA%A7u+ng%C6%B0%E1%BB%9Di+%C4%91%C

3%A0+n%E1%BA%B5ng+2019&source=lnms&tbm=isch&sa=X&ved=2ahUKEw

jD5om067DzAhXHF4gKHRNlDzAQ_AUoA3oECAEQBQ&biw=1169&bih=666

&dpr=2.25

https://nhandan.vn/tin-tuc-kinh-te/da-nang-phat-trien-san-xuat-nong-nghiep-

127. cong-nghe-cao-352801/

128. https://www.tapchikientruc.com.vn: Sở xây dựng Đà Nẵng, Đà Nẵng – Chặng đường 20 năm phát triển, Tạp chí Kiến trúc số 2/2019 129. https://www.tapchikientruc.org.vn, Phát triển “đô thị xanh” tại Việt Nam, Tạp chí Kiến trúc Việt Nam, Lê thị Bích Thuận

130. https://www.tapchiquyhoachxâydựng, Số 91+ 92/2018 131. https://www.tapchitaichinh: "Liên kết vùng trong tái cơ cấu kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng", 31/12/2017

159

132. https://thuvienphapluat.vn 133. https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%C3%A0_N%E1%BA%B5ng

134. https://moc.gov.vn/vn/tin-tuc/1184/65987/can-tho-phat-trien-do-thi-theo-

huong-tang-truong-xanh.aspx

https://www.sggp.org.vn/can-tho-qua-trinh-do-thi-hoa-boc-lo-nhieu-bat-cap-

135. 521373.html

136. https://plo.vn/thoi-su/can-tho-do-thi-hien-dai-dam-da-ban-sac-diem-den-hap-

dan-935025.html

137. https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%C3%A0_N%E1%BA%B5ng

138. https://danang.gov.vn/de/gioi-thieu/chi-tiet?id=38650&_c=39 139. https://en.wikipedia.org/ The World’s Cities in 2019. United Nations.

160

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CÔNG BỐ

TT Tên công trình Năm Tên tạp chí

NCS.ThS. Nguyễn Đặng Thảo Nguyên - Tác

Tạp chí khoa học và công nghệ, Đại học 1 2016 động đô thị hóa đến nguồn lao động của thành phố Đà Nẵng giai đoạn từ năm 2005 đến nay. Đà Nẵng

NCS.ThS. Nguyễn Đặng Thảo Nguyên, Kỷ yếu Hội nghị Địa

GS.TS. Nguyễn Viết Thịnh -Đô thị hóa và lý toàn quốc lần thứ 2 2018

phát triển du lịch ở thành phố Đà Nẵng. 10

University of Van-Anh T.Truong, Thao-Nguyen Economics – The D.Nguyen, Urban heritage image based on University of destination brand personality: The case of Danang, Vietnam, 3 2018 Danang city, Vietnam, The second 06/10/2018, ISBN: International Conference on Marketing in the 978-604-84-3471-7. Connected Age (MICA-2018).

Associate Professor. Đậu Thị Hòa, Tourism 2019 Fall

Faculty, University of Dong A, M.S. Dang International Joint

Thi Thao Nguyen. Conference 4 2019 Evaluating DaNang’S Natural Resources For 9th East Asia

Tourism To Build A Sustainable Tourism Academic Exchange

City. Forum

Tạp chí Phát triển

NCS.ThS. Nguyễn Đặng Thảo Nguyên - Những nhân tố động lực thúc đẩy nhanh quá 2020 5

kinh tế - xã hội Đà 124, số Nẵng, 4.2020, ISSN 1859- trình đô thị hóa ở thành phố Đà Nẵng.

3437.

161

PGS. TS. Đậu Thị Hòa, NCS.ThS. Nguyễn Đặng Thảo Nguyên - Mối quan hệ giữa quá Tạp chí phát triển kinh tế - xã hội Đà 2020 6 trình đô thị hóa và sự phát triển du lịch của Nẵng số 128/8.2020,

thành phố Đà Nẵng từ 2003 đến nay. ISSN 1859 - 3437.

NCS.ThS. Nguyễn Đặng Thảo Nguyên- Những nhân tố để Đà Nẵng trở thành đô thị Tạp chí khoa học trường Đại học Sư 2020 7 động lực của vùng kinh tế trọng điểm miền phạm - Đại học Đà

Trung. Nẵng 38(02)-2020

Tạp chí phát triển

PGS. TS. Đậu Thị Hòa, NCS.ThS. Nguyễn Đặng Thảo Nguyên- Đô Thị Hóa và liên kết Kinh tế- Xã hội Đà 146, số Nẵng, 2022 8 vùng trong phát triển kinh tế- xã hội ở thành 02.2022, ISSN 1859- phố Đà Nẵng. 3437.

Kỷ yếu hội nghị NCS.ThS. Nguyễn Đặng Thảo Nguyên - Sự khoa học Địa lí toàn hình thành và phát triển cụm cảng Đà Nẵng quốc lần thứ XII, 2022 9 trong mối quan hệ với quá trình đô thị hóa của ISBN: 978-604-334- thành phố. 789-0

PHẦN PHỤ LỤC

PHỤ LỤC 1: PHIẾU ĐIỀU TRA HỘ DÂN KHU VỰC CHỈNH TRANG ĐÔ

THỊ

PHIẾU ĐIỀU TRA Thăm dò ý kiến của các hộ gia đình trong khu vực chỉnh trang đô thị

Kính thưa ông/bà, anh/chị! Nhằm mục đích tìm hiểu về đời sống của người dân ở các khu vực chỉnh

trang đô thị của thành phố Đà Nẵng để làm rõ thực trạng phát triển Đô thị hóa

của thành phố Đà Nẵng trong mối quan hệ với sự phát triển kinh tế - xã hội, từ đó

đề xuất các giải pháp để đảm bảo sự hài hòa giữa phát triển đô thị với sự phát triển

kinh tế xã hội của thành phố Đà Nẵng trong tương lai. Chúng tôi kính mời ông/bà, anh/chị vui lòng trả lời một số câu hỏi sau đây. Xin trân trọng cảm ơn ông/bà,

anh/chị trước.

Nhóm nghiên cứu.

1. Gia đình ông/bà đã cư trú ở đây vào năm nào? Từ năm………………………….......... đến năm……………………………….

2. Gia đình có bị ảnh hưởng hay không ảnh hưởng bởi công tác chỉnh trang đô

Có bị ảnh hưởng Không bị ảnh hưởng thị?

3. Gia đình có đồng ý hay không đồng ý với việc chỉnh trang đô thị của thành phố? Đồng ý Không đồng ý

4. Nếu gia đình không đồng ý việc chỉnh trang đô thị của thành phố thì xin hãy

cho biết lý do (Có thể chọn nhiều lý do) Bị mất đi diện tích đất ở

Diện tích nhà ở bị thu hẹp ảnh hưởng đến đời sống sinh hoạt

Công tác chỉnh trang kéo dài gây ảnh hưởng đến đời sống hàng ngày, ảnh hưởng

Lý do khác:

đến kinh doanh, buôn bán của gia đình

5. Từ khi cư trú ở đây, đã mấy lần gia đình bị ảnh hưởng bởi việc quy hoạch

chỉnh trang đô thị? 1 lần 2 lần 3 lần 4 lần 5 lần

6. Những khó khăn gia đình gặp phải trong quá trình thực hiện chỉnh trang đô

thị? (Có thể chọn nhiều lý do) Nhà cửa bị thay đổi kiến trúc Diện tích nhà bị thu hẹp, không thuận lợi đối với số nhân khẩu trong gia đình

Không thuận lợi cho việc kinh doanh, buôn bán của gia đình

Cảnh quan, môi trường xáo trộn, ô nhiễm

Ảnh hưởng tới việc làm và thu nhập của gia đình

Khó khăn khác

7. Khó khăn nhất của gia đình khi thực hiện chỉnh trang là gì?

8. Gia đình có biết trước những khó khăn khi thực hiện chỉnh trang đô thị không? Không biết Có biết

9. Gia đình cho biết những điều tốt hơn hoặc xấu hơn khi công tác chỉnh trang

đô thị đã hoàn thiện:

Không thay Các nội dung Tốt hơn Xấu hơn

đổi

Cơ sở hạ tầng (đường xá, điện nước,...)

Cảnh quan thiên nhiên

Chất lượng môi trường

Điều kiện nhà ở của gia đình

Việc kinh doanh, buôn bán của gia đình

Việc làm của gia đình

Thu nhập của gia đình

Sự thoải mái

Xin cho biết lý do

10. Gia đình có đề xuất hay kiến nghị gì với các cấp chính quyền về việc thực

hiện việc chỉnh trang đô thị trong khu vực?

Ông/bà: ………………………………………………. Năm sinh: ……..

Quy mô hộ gia đình: …….. người

Địa chỉ:……………………………………………………

Xin chân thành cảm ơn sự hợp tác của gia đình!

PHỤ LỤC 2: PHIẾU ĐIỀU TRA HỘ DÂN KHU VỰC TÁI ĐỊNH CƯ

PHIẾU ĐIỀU TRA Thăm dò ý kiến của các hộ gia đình trong khu vực tái định cư

Kính thưa ông/bà, anh/chị!

Nhằm mục đích tìm hiểu về đời sống của người dân ở các khu giải tỏa và tái

định cư của thành phố Đà Nẵng để làm rõ thực trạng phát triển Đô thị hóa của

thành phố Đà Nẵng trong mối quan hệ với sự phát triển kinh tế - xã hội, từ đó đề

xuất các giải pháp để đảm bảo sự hài hòa giữa phát triển đô thị với sự phát triển

kinh tế xã hội của thành phố Đà Nẵng trong tương lai. Chúng tôi kính mời ông/bà, anh/chị vui lòng trả lời một số câu hỏi sau đây. Xin trân trọng cảm ơn ông/bà,

anh/chị trước.

Nhóm nghiên cứu.

1. Gia đình ông/bà đã cư trú ở đây vào năm nào? Từ năm................................. đến năm……………………………………….......

2. Trước khi đến đây, gia đình đã cư trú ở đâu? Đường phố:.......................................... Quận/huyện:...……………………….

Thành phố/ tỉnh………………………………………………………………..

3. Chuyển về định cư ở đây vào năm:……..……………………………………..

4. Lý do gia đình chuyển về đây? (Có thể chọn nhiều lý do) Nằm trong khu vực giải tỏa của thành phố

Không tìm được việc làm ở nơi ở cũ

Tìm được việc làm ở nơi ở mới (Kinh doanh buôn bán…hoặc công việc khác)

Gần người thân

Gần nơi làm việc

Gần nơi học tập của con cháu Điều kiện sống tốt hơn

5. Gia đình cho biết lý do chính để chuyển về đây?

6. Trước khi đến ở đây gia đình làm nghề gì? Nông dân (Trồng trọt; chăn nuôi; ngư nghiệp) Trí thức

Công nhân Hưu trí

Kinh doanh, buôn bán Lao động tự do

Nội trợ

7. Sau khi chuyển về đây gia đình vẫn tiếp tục nghề cũ hay chuyển công việc

mới? Nghề cũ : .....................................................................................................

Nghề mới: …………………………………………………………………

8. Gia đình có gặp khó khăn khi chuyển đến nơi ở mới này không? Có Không

9. Đó là những khó khăn gì? (Có thể chọn nhiều lý do) Đất đai hẹp hơn nơi ở cũ

Chưa làm được nhà ở kiên cố

Xa chợ, khu thương mại và các khu vực bệnh viện

Đường xá, điện, nước chưa ổn định

Xa nơi học tập của con cháu Chưa tìm được việc làm

Môi trường bị phá, ô nhiễm

Chưa giao tiếp được với những người xung quanh

10. Khó khăn nhất của gia đình là gì?

11. Nếu biết trước những khó khăn gia đình có chuyển về đây không? Không Có

12. Gia đình cho biết những điều tốt hơn hoặc xấu hơn nơi ở cũ:

Các nội dung Tốt hơn Xấu hơn Không thay đổi

Việc làm

Thu nhập

Điều kiện nhà ở

Điều kiện làm việc

Cơ sở hạ tầng

Môi trường xã hội

Cảnh quan thiên nhiên

Sự thỏa mái

Xin cho biết lý do

13. Vào thời điểm giải tỏa, tái định cư, gia đình có đồng ý với những chính sách của thành phố trước đây không? Đồng ý Không đồng ý

14. Lý do mà gia đình không đồng ý?

15. Gia đình có đề xuất hay kiến nghị gì với các cấp chính quyền về những khó khăn của gia đình?

Ông/ bà: ………………………………………………. Năm sinh: ……..

Quy mô hộ gia đình: …….. người

Địa chỉ:……………………………………………………

Xin chân thành cảm ơn sự hợp tác của gia đình!

PHỤ LỤC 3: KẾT QUẢ ĐIỀU TRA HỘ DÂN KHU VỰC CHỈNH TRANG ĐÔ

THỊ Frequencies [DataSet1] E:\Phieu Dieu tra do thi Ms. Nguyen\Chinh trang do thi.sav

Statistics

So na Bi anh Don g y So lan bi Kho kha Biet truo Co so Can h Chat luong Die u Viec kinh Vie c Thu nha Su thoa

n i

m cu huon g chin h anh huon c kho ha tan quan thie moi truon kien nha doan h, lam cua p cua nhat mai

chinh tran kha n o buon gia gia tru g g g

cua din din nhie trang g n ban

n h h

gia din

h

N Valid 99 98 98 99 85 89 99 99 99 99 99 99 99 99

Missin 0 1 1 0 14 10 0 0 0 0 0 0 0 0 g

Frequency Table

Câu 1: So nam cu tru

Valid Percent Cumulative

Frequency Percent làm kết quả Percent

2.0 2.0 2.0 Valid 1 2

5.1 5.1 7.1 2 5

31.3 31.3 38.4 3 31

25.3 25.3 63.6 4 25

11.1 11.1 74.7 5 11

8.1 8.1 82.8 6 8

2.0 2.0 84.8 7 2

4.0 4.0 88.9 8 4

9 10 10.1 10.1 99.0

10 1 1.0 1.0 100.0

Total 99 100.0 100.0

Câu 2: Bi anh huong chinh trang

Valid Percent Cumulative

Frequency Percent làm kết quả Percent

Valid Bi anh huong 24 24.2 24.5 24.5

Khong bi anh huong 74 74.7 75.5 100.0

Total 99.0 100.0 98

1 1.0 Missing System

99 100.0 Total

Câu 3: Dong y chinh trang

Valid Percent Cumulative

Frequency Percent làm kết quả Percent

Valid Dong y 98 99.0 100.0 100.0

Missing System 1 1.0

Total 99 100.0

Câu 5: So lan bi anh huong

Valid Percent Cumulative

Frequency Percent làm kết quả Percent

Valid 1 lan 54 54.5 54.5 54.5

2 lan 43 43.4 43.4 98.0

3 lan 2 2.0 2.0 100.0

Total 99 100.0 100.0

Câu 6: Kho khan nhat

Valid

Percent làm Cumulative

Frequency Percent kết quả Percent

Valid Khong thuan loi viec 6 6.1 7.1 7.1 kinh doanh, buon ban

Canh quan, moi truong 68 68.7 80.0 87.1 xao tron, o nhiem

Anh huong viec lam, 1.0 1.2 88.2 1 thu nhap cua gia dinh

Kho khan khac 10.1 11.8 100.0 10

Total 85.9 100.0 85

14.1 14 Missing System

100.0 99 Total

Câu 8: Biet truoc kho khan

Valid Percent Cumulative

Frequency Percent làm kết quả Percent

Valid Co biet truoc 73 73.7 82.0 82.0

Khong biet truoc 16 16.2 18.0 100.0

Total 89.9 100.0 89

Missing System 10.1 10

Total 100.0 99

Câu 9: Co so ha tang

Valid Percent Cumulative

Frequency Percent làm kết quả Percent

Valid Tot hon 93 93.9 93.9 93.9

Khong thay doi 6 6.1 6.1 100.0

Total 99 100.0 100.0

Câu 9: Canh quan thien nhien

Valid Percent Cumulative

Frequency Percent làm kết quả Percent

Valid Tot hon 89 89.9 89.9 89.9

Khong thay doi 10 10.1 10.1 100.0

Total 99 100.0 100.0

Câu 9: Chat luong moi truong

Valid Percent Cumulative

Frequency Percent làm kết quả Percent

Valid Tot hon 88 88.9 88.9 88.9

Khong thay doi 11 11.1 11.1 100.0

Total 99 100.0 100.0

Câu 9: Dieu kien nha o cua gia dinh

Valid Percent Cumulative

Frequency Percent làm kết quả Percent

Valid Tot hon 18 18.2 18.2 18.2

Khong thay doi 81 81.8 81.8 100.0

Total 99 100.0 100.0

Câu 9: Viec kinh doanh, buon ban

Valid Percent Cumulative

Frequency Percent làm kết quả Percent

Valid Tot hon 15 15.2 15.2 15.2

Khong thay doi 84 84.8 84.8 100.0

Total 99 100.0 100.0

Câu 9: Viec lam cua gia dinh

Valid Percent Cumulative

Frequency Percent làm kết quả Percent

Valid Tot hon 17 17.2 17.2 17.2

Khong thay doi 82 82.8 82.8 100.0

Total 99 100.0 100.0

Câu 9: Thu nhap cua gia dinh

Valid Percent Cumulative

Frequency Percent làm kết quả Percent

Valid Tot hon 19 19.2 19.2 19.2

Khong thay doi 80 80.8 80.8 100.0

Total 99 100.0 100.0

Câu 9: Su thoai mai

Valid Percent Cumulative

Frequency Percent làm kết quả Percent

Valid Tot hon 98 99.0 99.0 99.0

Khong thay doi 1 1.0 1.0 100.0

Total 99 100.0 100.0

Crosstabs [DataSet1] E:\Phieu Dieu tra do thi Ms. Nguyen\Chinh trang do thi.sav

Warnings

The crosstabulation of Ly do khac * So nam cu tru is empty.

Case Processing Summary

Cases

Valid Missing Total

N Percent N Percent N Percent

Bi anh huong chinh 98 99.0% 1 1.0% 99 100.0% trang * So nam cu tru

So lan bi anh huong * 99 100.0% 0 .0% 99 100.0% So nam cu tru

Kho khan nhat * So 85 85.9% 14 14.1% 99 100.0% nam cu tru

Biet truoc kho khan * 89 89.9% 10 10.1% 99 100.0% So nam cu tru

Bi anh huong chinh trang * So nam cu tru Crosstabulation

Count

So nam cu tru

1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 Total

Bi anh Bi anh 1 2 4 5 3 2 0 4 3 0 24 huong chinh huong

trang

Khong bi anh 3 27 19 8 6 2 0 7 1 74 1

huong

Total 2 5 31 24 11 8 2 4 10 1 98

So lan bi anh huong * So nam cu tru Crosstabulation

Count

So nam cu tru

1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 Total

So lan bi 1 2 5 16 16 4 2 0 2 7 0 54 anh huong lan

2 0 0 15 9 6 6 2 2 2 1 43 lan

3 0 0 1 0 1 0 2 0 0 0 0 lan

2 5 2 4 Total 31 25 11 8 10 1 99

Kho khan nhat * So nam cu tru Crosstabulation

Count

So nam cu tru

1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 Total

Kho khan 0 1 2 3 0 0 0 0 0 0 6 Khong thuan loi viec kinh doanh, buon nhat

ban

Canh quan, 1 3 20 14 10 6 1 4 9 0 68 moi truong

xao tron, o

nhiem

Anh huong

viec lam, thu 0 0 0 1 0 0 0 0 0 0 1 nhap cua gia

dinh

Kho khan 1 1 1 6 0 0 0 0 0 1 10 khac

Total 2 5 23 24 10 6 1 4 9 1 85

Biet truoc kho khan * So nam cu tru Crosstabulation

Count

So nam cu tru

1 2 3 4 5 6 7 8 9 Total

Biet truoc Co biet 1 4 21 21 7 5 2 4 8 73 kho khan truoc

Khong 1 1 3 4 2 3 0 0 2 16 biet truoc

2 5 8 2 4 10 89 Total 24 25 9

[DataSet1] E:\Phieu Dieu tra do thi Ms. Nguyen\Chinh trang do thi.sav

Case Summary

Cases

Valid Missing Total

N Percent N Percent N Percent

$Khokhangiadinha 94 94.9% 5 5.1% 99 100.0%

a. Group

$Khokhangiadinh Frequencies

Responses Percent of

N Percent Cases

Khong thuan loi viec 10 8.9% 10.6% Kho khan cua gia dinha kinh doanh, buon ban

Canh quan, moi truong 93 83.0% 98.9% xao tron, o nhiem

Anh huong viec lam, thu 6.2% 7.4% 7 nhap cua gia dinh

Kho khan khac 1.8% 2.1% 2

Total 112 100.0% 119.1%

PHỤ LỤC 4: KẾT QUẢ ĐIỀU TRA HỘ DÂN KHU VỰC TÁI ĐỊNH CƯ

Multiple Response [DataSet1] E:\Phieu Dieu tra do thi Ms. Nguyen\Khu tai dinh cu.sav

Case Summary

Cases

Valid Missing Total

N Percent N Percent N Percent

$Lydochuyenvea 101 100.0% 0 .0% 101 100.0%

Câu 4: $Lydochuyenve Frequencies

Responses

Percent

(% tính

trên tổng Percent of

N (số lựa chọn) Cases (% tính

người làm kết trên tổng số

chọn) quả phiếu)

Nam trong khu vuc giai 79 41.6% 78.2% Ly do gia dinh chuyen vea toa

Khong tim duoc viec 2 1.1% 2.0% lam o noi o cu

Tim duoc viec lam o noi 10 5.3% 9.9% o moi

15 Gan nguoi than 7.9% 14.9%

17 Gan noi lam viec 8.9% 16.8%

Gan noi hoc tap cua con 25 13.2% 24.8% chau

Dieu kien song tot hon 42 22.1% 41.6%

Total 190 100.0% 188.1%

[DataSet1] E:\Phieu Dieu tra do thi Ms. Nguyen\Khu tai dinh cu.sav

Case Summary

Cases

Missing Total Valid

N Percent N Percent N Percent

$Khokhanchuyendena 59 58.4% 42 41.6% 101 100.0%

Câu 9: $Khokhanchuyenden Frequencies

Responses

Percent

(% tính

trên tổng

lựa chọn)

làm kết Percent of

N quả Cases

Dat dai hep hon noi o cu 12 11.9% 20.3%

Nhung kho khan khi chuyen dena Chua lam duoc nha o 13 12.9% 22.0% kien co

Xa cho, khu TM, benh 40 39.6% 67.8% vien

Duong sa, dien nuoc 3 3.0% 5.1% chua on dinh

Xa noi hoc tap cua con 9 8.9% 15.3% chau

Chua tim duoc viec lam 20 19.8% 33.9%

Moi truong bi pha, o 1 1.0% 1.7% nhie

Chua giao tiep duoc voi

nhung nguoi xung 3 3.0% 5.1%

quanh

Total 101 100.0% 171.2%

Frequencies [DataSet1] E:\Phieu Dieu tra do thi Ms. Nguyen\Khu tai dinh cu.sav

Frequency Table

Câu 1: Thoi gian cu tru

Valid Percent Cumulative

Frequency Percent làm kết quả Percent

Valid 3 nam tro lai 23 22.8 23.0 23.0

4-5 nam 18 17.8 18.0 41.0

6-10 nam 44 43.6 44.0 85.0

Tren 10 nam 15 14.9 15.0 100.0

Total 100 99.0 100.0

Missing System 1 1.0

Total 101 100.0

Câu 2: Noi cu tru truoc day

Valid Percent Cumulative

Frequency Percent làm kết quả Percent

Valid Tinh thanh khac 15.8 15.8 16 15.8

Quan Hai Chau 21.8 21.8 22 37.6

Quan Ngu Hanh Son 14 13.9 13.9 51.5

Quan Cam Le 36.6 36.6 37 88.1

Quan Son Tra 10.9 10.9 11 99.0

Huyen Hoa Vang 1 1.0 1.0 100.0

Total 101 100.0 100.0

Câu 3: Thoi gian dinh cu

Frequency Percent Valid Percent làm kết quả Cumulative Percent

Valid 3 nam tro lai 23 22.8 23.0 23.0

4-5 nam 17 16.8 17.0 40.0

6-10 nam 45 44.6 45.0 85.0

Tren 10 nam 15 14.9 15.0 100.0

Total 100 99.0 100.0

Missing System 1 1.0

Total 101 100.0

Nam trong KV giai toa

Valid Cumulative

Frequency Percent Percent Percent

Valid Nam trong khu vuc giai 78.2 100.0 100.0 79 toa

Missing System 21.8 22

Total 101 100.0

Câu 4: Ly do dinh cu chinh

Valid Percent làm Cumulative

Frequency Percent kết quả Percent

Valid Nam trong khu vuc giai 70 69.3 76.9 76.9 toa

Tim duoc viec lam o noi 5.0 5.5 82.4 5 o moi

Gan nguoi than 2.0 2.2 84.6 2

Gan noi lam viec 2.0 2.2 86.8 2

Gan noi hoc tap cua con 2.0 2.2 89.0 2 chau

Dieu kien song tot hon 10 9.9 11.0 100.0

Total 91 90.1 100.0

10 Missing System 9.9

Total 101 100.0

Nghe nghiep truoc day

Cumulative

Frequency Percent Valid Percent Percent

Valid Nong dan 9.9 9.9 10 9.9

13 Cong nhan 12.9 12.9 22.8

Kinh doanh, buon ban 13 12.9 12.9 35.6

Noi tro 3.0 3.0 38.6 3

Tri thuc 10.9 10.9 49.5 11

Huu tri 19.8 19.8 69.3 20

Lao dong tu do 30.7 30.7 100.0 31

Total 101 100.0 100.0

Câu 6: Nghe nghiep truoc day

Valid

Percent

làm kết Cumulative

quả Percent Frequency Percent

Valid Nong dan 3.0 3.1 3.1 3

Cong nhan 12.9 13.5 16.7 13

Kinh doanh, buon 13.9 14.6 31.2 14 ban

Noi tro 3.0 3.1 34.4 3

Tri thuc 9.9 10.4 44.8 10

Huu tri 22.8 24.0 68.8 23

Lao dong tu do 31.2 100.0 29.7 30

Total 95.0 100.0 96

Missing System 5.0 5

Total 101 100.0

Câu 8: Gap kho khan khi chuyen den

Valid

Percent làm kết

Frequency Percent quả Cumulative Percent

Valid Co 58 57.4 58.0 58.0

Khong 42 41.6 42.0 100.0

Total 100 99.0 100.0

Missing System 1 1.0

Total 101 100.0

Câu 9: Kho khan nhat cua gia dinh

Valid

Percent

làm kết

Frequency Percent quả Cumulative Percent

2 2.0 3.4 3.4 Valid Dat dai hep hon noi o cu

8 7.9 13.6 16.9 Chua lam duoc nha o kien co

Xa cho, khu TM, 25 24.8 42.4 59.3 benh vien

Duong sa, dien chua on nuoc 3.0 5.1 64.4 3

dinh

Xa noi hoc tap 3 3.0 5.1 69.5 cua con chau

Chua tim duoc 17 16.8 28.8 98.3 viec lam

Moi truong bi 1 1.0 1.7 100.0 pha, o nhie

Total 59 58.4 100.0

42 Missing System 41.6

Total 101 100.0

Câu 11: Y dinh chuyen ve khi biet KK

Valid Percent Cumulative

Frequency Percent làm kết quả Percent

Valid Co 61 60.4 64.2 64.2

Khong 34 33.7 35.8 100.0

Total 95 94.1 100.0

Missing System 6 5.9

Total 101 100.0

Câu 12: Viec lam

Valid Percent Cumulative

Frequency Percent làm kết quả Percent

Valid Tot hon 39.6 39.6 39.6 40

Xau hon 19.8 19.8 59.4 20

Khong thay doi 41 40.6 40.6 100.0

Total 101 100.0 100.0

Câu 12: Thu nhap

Valid Percent Cumulative

Frequency Percent làm kết quả Percent

Valid Tot hon 37.6 37.6 37.6 38

Xau hon 16.8 16.8 54.5 17

Khong thay doi 46 45.5 45.5 100.0

Total 101 100.0 100.0

Câu 12: Dieu kien nha o

Valid Percent Cumulative

Frequency Percent làm kết quả Percent

Valid Tot hon 61.4 61.4 61.4 62

Xau hon 13.9 13.9 75.2 14

Khong thay doi 25 24.8 24.8 100.0

Total 101 100.0 100.0

Câu 12: Dieu kien lam viec

Valid Percent Cumulative

Frequency Percent làm kết quả Percent

45 Valid Tot hon 44.6 44.6 44.6

16 Xau hon 15.8 15.8 60.4

Khong thay doi 40 39.6 39.6 100.0

Total 101 100.0 100.0

Câu 12: Co so ha tang

Valid Percent Cumulative

Frequency Percent làm kết quả Percent

62 Valid Tot hon 61.4 61.4 61.4

14 Xau hon 13.9 13.9 75.2

Khong thay doi 25 24.8 24.8 100.0

Total 101 100.0 100.0

Câu 12: Moi truong xa hoi

Valid Percent Cumulative

Frequency Percent làm kết quả Percent

51 Valid Tot hon 50.5 50.5 50.5

25 Xau hon 24.8 24.8 75.2

Khong thay doi 25 24.8 24.8 100.0

Total 101 100.0 100.0

Câu 12: Canh quan thien nhien

Valid Percent Cumulative

Frequency Percent làm kết quả Percent

68 Valid Tot hon 67.3 67.3 67.3

13 Xau hon 12.9 12.9 80.2

Khong thay doi 20 19.8 19.8 100.0

Total 101 100.0 100.0

Câu 12: Su thoai mai

Valid Percent Cumulative

Frequency Percent làm kết quả Percent

47 Valid Tot hon 46.5 47.0 47.0

20 Xau hon 19.8 20.0 67.0

Khong thay doi 32 31.7 32.0 99.0

5 1 1.0 1.0 100.0

Total 100 99.0 100.0

Missing System 1 1.0

Total 101 100.0

Câu 13: Dong y chinh sach luc giai toa

Valid Percent Cumulative

Frequency Percent làm kết quả Percent

Valid Co 83 82.2 83.8 83.8

Khong 16 15.8 16.2 100.0

Total 99 98.0 100.0

Missing System 2 2.0

Total 101 100.0

PHỤ LỤC 5: CÁC DỰ ÁN ĐẦU TƯ XÂY DỰNG CSHT và CSVCKT CHO DU

LỊCH

1. Nổi bật nhất là dự án đầu tư xây dựng khu du lịch Bà Nà Hills, chủ đầu tư

là Tập đoàn Sun Group, với tổng vốn đăng ký là 8.000 tỷ đồng, trong đó có nhiều

hạng mục nổi bật đặc biệt là hệ thống cáp treo hiện đại với 5 tuyến và gồm 12 ga đi và đến. Hệ thống cáp treo này có tổng kinh phí lớn nhất Việt Nam (300 triệu USD),

được xây dựng đúng theo tiêu chuẩn của Hiệp hội cáp treo thế giới và là một trong

những công trình cáp treo vĩ đại nhất trên thế giới, được xây dựng bởi nhà sản xuất

Cáp nổi tiếng Doppelmayr của Áo và CWA của Thụy Sĩ, đảm bảo tuyệt đối về các

quy chuẩn kỹ thuật và độ an toàn. Năm 2009 đã chính thức đưa vào hoạt động 2 tuyến cáp treo số 1, 2 Tuyến cáp số 3 được đưa vào hoạt động vào năm 2013 và tuyến số 4 và 5 được đưa vào hoạt động vào năm 2017. Ngày 29/3/2009 cáp treo Bà Nà vinh dự

được nhận bằng chứng nhận lập 4 kỷ lục thế giới do ông Carlos Martinez Nogues,

đại diện Tổ chức Kỷ lục Guinness thế giới (Guinness World Records) trao tặng [123].

Bà Nà Hills còn đầu tư xây dựng nhiều công trình nổi bật khác như: Làng Pháp, thánh

đường ST Denis, lâu đài Chenonceau, quảng trường Demo, lâu đài Chateau De

Chenonceau, vườn hoa, hầm rượu,…là các công trình kiến trúc mang đậm chất Pháp cổ kính; Khu vui chơi giải trí Fantasy Park có tổng diện tích 21.000m2, được thiết kế dựa trên ý tưởng từ hai cuốn tiểu thuyết nổi tiếng của người Pháp – Jules Verne; Cầu

Vàng, cây cầu đi bộ ấn tượng nhất thế giới, được vinh dự nằm trong “tốp 10 cây cầu

độc lạ nhất thế giới”. Các công trình được đầu tư xây dựng ở đây đã gây được tiếng

vang lớn, đưa tên tuổi Bà Nà Hills Đà Nẵng vươn xa ra thế giới, thu hút rất đông du

khách trong và ngoài nước.

2. Dự án Công viên Châu Á, do Công ty TNHH Công viên Châu Á, thuộc Tập

đoàn Sun Group là chủ đầu tư, với tổng vốn đầu tư 10.000 tỷ đồng, là khu công viên

văn hóa giải trí hàng đầu Việt Nam đạt đẳng cấp quốc tế, trong đó “Vòng quay Mặt Trời”cao 115m, được thiết kế bởi kiến trúc sư lừng danh Bill Bensley, thuộc Tập

đoàn tư vấn Bensley Design Studios, là hạng mục vui chơi lọt vào tốp 5 vòng quay cao nhất hành tinh, và nằm trong danh sách những công trình độc đáo và ấn tượng của thế giới.

3. Dự án Công viên suối nước nóng Núi Thần Tài, do công ty Cổ phần DHC

Suối Đôi làm chủ đầu tư, tổng số vốn đầu tư 500 tỷ đồng, được đưa vào sử dụng với nhiều hạng mục như: khu vực tắm khoáng, tắm nóng, tắm bùn, tắm trà, tắm cà phê, spa, khu vui chơi thiếu nhi, khách sạn cao cấp,..

4. Một trong những dự án lớn và hot nhất là Công viên nước Đà Nẵng Mikazuki do Tập đoàn Mikazu (Nhật Bản) đầu tư bên vịnh Đà Nẵng (thuộc phường

Hòa Hiệp Nam, quận Liên Chiểu), với tổng số vốn đầu tư hơn 100 triệu USD, trên

diện tích 12,2 ha [122], đưa vào sử dụng 12/2020, với các hạng mục hệ thống bể bơi

đa dạng (bể trượt nước, bể tạo sóng, dòng sông lười dài 450m, đường trượt rồng), nhiệt độ nước 28oC; khu giải trí và chăm sóc sắc đẹp theo phong cách Nhật Bản, khu ẩm thực nhật Bản,…

PHỤ LỤC 6: CÁC DỰ ÁN ĐẦU TƯ XÂY DỰNG CÁC SÂN GOLF

1. Dự án sân golf BRG Danang Golf Course, với mức đầu tư trên 130 triệu

USD, hoàn thành năm 2010, do Tập đoàn BRG tiếp nhận. Sân golf nằm ở phường Hòa Hải, quận Ngũ Hành Sơn, tầm nhìn hướng ra bãi biển rất đẹp. Đây là sân golf mang phong cách truyền thống đầu tiên ở Đông Nam Á, với những bãi cát mở rộng,

trên thảm thực vật biển hoang sơ, sân golf là tác phẩm được thiết kế bởi tay golf

huyền thoại Greg Norman người Úc. Năm 2020 UBND thành phố Đà Nẵng Ban hành

quyết định điều chỉnh mở rộng sân golf này và chủ đầu tư là Công ty TNHH Sân golf

Vinacapital, với diện tích sử dụng lên 220 ha, tổng vốn đầu tư 1.168 tỷ đồng, gồm

các hạng mục là khu sân golf 36 lỗ, khu biệt thự cho thuê và bán, khách sạn tiêu chuẩn

4 sao với 500 phòng;

2. Dự án sân golf Bà Nà Hills, do Tập đoàn Sun Group là chủ đầu tư với tổng

số vốn 730 tỉ đồng, sân golf nằm trên độ cao 1.000m, do chính golf thủ số 1 thế giới

Luke Donald trực tiếp thiết kế. Sân golf này được đưa vào sử dụng tháng 3/2016, đã

được trao 2 giải thưởng cao quý là sân golf tốt nhất Châu Á và sân golf tốt nhất Việt

Nam, tại Lễ trao giải thưởng thế giới – World Golf Awards – diễn ra ở La Manga del

Mar (Tây Ban Nha) [122].

PHỤ LỤC 7: CÁC DỰ ÁN ĐẦU TƯ VỀ XÂY DỰNG CÁC CƠ SỞ LƯU TRÚ,

KHÁCH SẠN

Thị trường bất động sản Đà Nẵng không khắc nghiệt như Hà Nội và TP Hồ

Chí Minh, Đà Nẵng lại là đô thị thu hút đông khách du lịch nội địa và quốc tế, vì vậy hàng loạt dự án của các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài đầu tư vào lĩnh vực khách sạn. Những Tập đoàn lớn như Mường Thanh và các tập đoàn khách sạn lớn ở nước ngoài như: Tập đoàn kinh doanh khách sạn Pháp, AccorHotels, với khách sạn

đầu tiên khai trương vào 2011, năm 2020 đã tăng lên 5 khách sạn; Tập đoàn Marriott đầu tư khu nghỉ dưỡng Sheraton Grand và hai khách sạn thuộc hệ thống Latecomer Marriott tại Đà Nẵng; Năm 2012 InterContinental Hotel Group của Anh cũng ra mắt

khu nghỉ dưỡng cao cấp InterContinental Danang Sun Peninsula tại bán đảo Sơn Trà, với 200 phòng nghỉ sang trọng; Năm 2016, Tập đoàn Empire Group, khởi công xây

dựng siêu dự án CocoBay Đà Nẵng, một tổ hợp giải trí, lưu trú khép kín với quy mô

lớn, bao gồm trung tâm mua sắm, sân khấu 1.500 chỗ ngồi, khu biểu diễn nghệ thuật,

võ thuật, hồ bơi, khu phố đi bộ, câu lạc bộ Beach Club, tổ hợp nhà hàng ẩm thực Âu – Á,…; Năm 2017, Tập đoàn Route Inn Group của Nhật Bản, đã ra mắt khách sạn 4

sao Grandvirio Danang City, mở đầu cho chuỗi 50 khách sạn tại Việt Nam; Giữa năm

2017, Tập đoàn Ascott Limited của Singapore khai trương khu nghỉ dưỡng lớn nhất

Việt Nam là Citadines Blue Cove Da Nang trên bán đảo Sơn Trà với 548 phòng; Cuối

năm 2018 Tập đoàn Hilton Worldwide của Mỹ xây dựng khách sạn Hilton Da Nang với 28 tầng và 223 phòng. Sự đầu tư này đã làm cho các cơ sở lưu trú của Đà Nẵng tăng lên rõ rệt, năm 2003 cả thành phố có 58 khách sạn với 1.948 phòng, trong đó có

vài khách sạn 3 sao; đến 2020 có tới 943 cơ sở lưu trú, trong đó có 184 khách sạn từ

3 sao trở lên [122]. Điều này đã làm thay đổi diện mạo và tăng cường năng lực cạnh

tranh của du lịch Đà Nẵng, trở thành một trong những điểm đến hấp dẫn, thân thiện,

an toàn

- Trong năm 2021, thành phố thu hút 11 dự án đầu tư trọng điểm cho du lịch

như: xây dựng Bến du thuyền quốc tế; Công viên khu vực cầu Nguyễn Văn Trỗi và

khuôn viên 2 đầu cầu; Công viên Bách Thảo tại Hòa Vang, diện tích 200ha; Trung

tâm mua sắm và giải trí ngầm Bãi tắm Sơn Thủy (quận Ngũ Hành Sơn), diện tích

3ha; Trường đua ngựa và trang trại nuôi ngựa (quận Liên Chiểu và huyện Hòa Vang),

diện tích khoảng 670ha; Chợ đầu mối Hòa Phước (Hòa Vang); Trung tâm thương mại

Chợ Cồn

PHỤ LỤC 8: PHỤ LỤC ẢNH

Hình 3.4. Phối cảnh cảng Tiên Sa [138]

Hình 3.5. Phối cảnh cảng Liên Chiểu giai đoạn 1 [138]

Hình 4.1. Sơ đồ cấu trúc phát triển không gian đô thị Đà Nẵng đến năm 2030 và tầm

nhìn đến 2045 [89]