
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Tại nhiều quốc gia trên thế giới, giáo dục đại học ngoài công lập (NCL)
được xem như một phần bổ sung quan trọng cho khu vực giáo dục đại học
công lập. Nó có thể đáp ứng một cách hiệu quả và linh hoạt đối với những
yêu cầu của người học và giới tuyển dụng. Hơn nữa giáo dục đại học NCL
còn góp phần mở rộng quy mô giáo dục đại học của quốc gia với một chi
phí công không đáng kể. Ở một số nước, tỷ lệ sinh viên học tại các trường
đại học NCL có thể khá lớn, thí dụ: Tỷ lệ này là 86% ở Philipin, 75% ở Hàn
Quốc và 60% ở Braxin, Indonexia, Bangladet và Columbia. [30]. Trong quá
trình phát triển các trường đại học NCL, vấn đề quản trị rất được coi trọng,
nó là một trong nhứng yếu tố quan trọng tạo nên sự thành công.
Trong quá trình toàn cầu hóa, giáo dục đại học NCL ở Việt Nam không
thể đứng ngoài lề và thực sự đã có bước chuyển mình để hòa nhịp với tình
hình mới. Hiện nay, vấn đề quản trị trường đại học một cách hiệu quả hơn,
xây dựng và phát triển nhà trường trở thành những cơ sở đào tạo có chất
lượng cao và có uy tín hơn đang là vấn đề trăn trở của các nhà quản lý giáo
dục đại học Việt Nam.
Nghị quyết của Chính phủ số 14/2005/NĐCP về đổi mới cơ bản và toàn
diện giáo dục đại học Việt Nam ngày 2 tháng 11 năm 2005 tiếp tục khẳng
định vai trò quan trọng cảu giáo dục đào tạo, coi giáo dục là quốc sách hàng
đầu, xã hội hóa giáo dục là bước đi hết sức quan trọng; trong chiếm lược
phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011 - 2020 đào tạo nhân lực chất lượng
cao là một trong 3 khâu đột phá để phát triển đất nước. Để đáp ứng yêu cầu
đó “cần đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục theo hướng chuẩn hóa,
hiện đại hóa, xã hội hóa”. Đây là định hướng và quyết tâm lớn của Đảng,
Nhà nước ta trong phát triển giáo dục đào tạo. [14].
Thực hiện chủ trương xã hội hóa giáo dục đào tạo, loại hình trường đại
học, cao đẳng ngoài công lập là sản phẩm của tư duy đổi mới giáo dục đào
tạo, ra đời từ những năm 80 thế kỷ XX và phát triển thành hệ thống các
trường ĐH, CĐ ngoài công lập (NCL) như ngày nay. Đây là một thành phần
mới trong hệ thống giáo dục quốc dân của Việt Nam. Hệ thống các trường
NCL tuy chưa phát triển như mong muốn, nhưng đã có những nỗ lực vượt
khó khăn, tìm tòi cách đi, cách hoạt động, gánh vác một phần tải trọng giáo
dục đại học của cả nước, mở rộng cơ hội học đại học, học nghề của nhân
dân. Các trường đại học ngoài công lập gồm có các trường dân lập, bán
công và tư thục, hoạt động chủ yếu từ nguồn vốn ngoài ngân sách Nhà nước,
thu hút các nguồn lực xã hội để làm giáo dục, tuân thủ pháp luật hiện hành,
phù hợp với Điều lệ Trường đại học Việt Nam. Là loại hình mới, thành phần
mới, tự chịu trách nhiệm về tài chính, các trường đại học NCL phải có
2
những tố chất mới năng động, sáng tạo, hiệu quả. Trong tương lai khi hệ
thống giáo dục đào tạo phát triển đúng quy luật, cạnh tranh bình đẳng, các
trường NCL sẽ phát triển mạnh và có những trường là mô hình đối chứng về
tổ chức quản lý, về hiệu quả đào tạo trong việc quản lý, sử dụng, phát huy
tài sản nhân lực vật lực trong giáo dục đào tạo.
Sau 10 năm thực hiện “Chiến lược phát triển giáo dục 2001 – 2010” tình
hình giáo dục đại học nước ta có một số chuyển biến tích cực. Quy mô phát triển khá
nhanh, số trường đại học, cao đẳng tăng lên, đáp ứng nhu cầu học tập của người dân,
số sinh viên/1 vạn dân vào cuối năm 2010 đã đạt được mục tiêu đặt ra (200 sinh
viên/1 vạn dân), trong đó có 81 trường đại học, cao đẳng ngoài công lập và số sinh
viên do các trường ngoài công lập đào tạo chiếm khoảng 15 % số sinh viên cả nước
(mục tiêu đề ra là 40% vào năm 2020). [13] [14].
Mặc dù các trường ĐHNCL đã có những đóng góp không nhỏ trong
sự nghiệp phát triển giáo dục đại học của đất nước, tuy nhiên cơ chế hoạt
động, mô hình quản trị điều hành trong các trường ĐHNCL vẫn còn
nhiều bất cập, chưa khai thác tối đa tiềm năng của hệ thống trường này
và chưa đáp ứng được nhu cầu của xã hội. Trong khi giáo dục đại học khu
vực và thế giới có những bước phát triển khá mạnh, thì nhìn chung giáo dục
đại học NCL Việt Nam vẫn đang lúng túng, hành lang pháp lý chưa chuẩn,
mô hình còn chắp vá, nội dung phương pháp đào tạo còn lạc hậu…, nói
chung chưa có bước đi vững chắc, chất lượng đào tạo còn yếu kém, chưa có
sự đột phá để phát triển. Nguồn nhân lực đại học phục vụ sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước vẫn còn trong tình trạng vừa thừa vừa
thiếu, nhất là thiếu nhân lực chất lượng cao, có khả năng đi trước đón đầu.
Để khắc phục tình trạng yếu kém đó, trong Quyết định của Thủ tướng
Chính phủ số 121/2007/QĐ-TTg về phê duyệt Quy hoạch mạng lưới các
trường Đại học và cao đẳng giai đoạn 2006-2020 ngày 27 tháng 7 năm 2007
đã chỉ rõ: “Cần phải đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục Đại học Việt Nam
giai Đoạn 2006 – 2020”. [26]. Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ số 296/CT-
TTg về việc đổi mới quản lý giáo dục Đại học giai đoạn 2010 – 2012 ngày 27
tháng 2 năm 2010
cũng đã khẳng định: Phải đổi mới hệ thống giáo dục Đại
học và sau Đại học, gắn Đào tạo với sử
dụng, trực tiếp phục vụ chuyển đổi
cơ cấu lao động, phát triển nhanh nguồn nhân lực chất lượng cao, nhất là
chuyên gia đầu ngành [23]. Cốt lõi của vấn đề đổi mới của Nghị quyết Trung
ương 4 Khoá V, Văn kiện Hội nghị lần thứ VI Ban chấp hành TW khóa IX
chính là việc tăng quyền tự chủ cho các trường Đại học. Tuy nhiên, công tác
quản trị các trường đại học NCL ở Việt Nam theo mô hình nào để đảm bảo
chất lượng và hiệu quả đào tạo đang là một vấn đề còn bỏ ngỏ. Chính vì vậy,
việc nghiên cứu về thực tiễn “Đổi mới quản trị trong các trường đại học
ngoài công lập ở Việt Nam” là vấn đề cấp bách nhằm tìm kiếm giải pháp và
mô hình ĐH NCL năng động, hiệu quả, có sức sống nội lực mạnh mẽ để tự