ÑAÏI HOÏC QUOÁC GIA THAØNH PHOÁ HOÀ CHÍ MINH TRƯỜNG ÑAÏI HOÏC KHOA HOÏC XAÕ HOÄI VAØ NHAÂN VAÊN ------------ TẠ ANH THƯ

NHỮNG ĐÓNG GÓP CỦA ĐÔNG DƯƠNG TẠP CHÍ TRONG QUÁ TRÌNH HIỆN ĐẠI HOÁ VĂN HỌC, VĂN HOÁ VIỆT NAM ĐẦU THẾ KỶ XX

Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Mã số: 62.22.34.01 LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN

Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS Lê Giang

Phản biện độc lập: 1. PGS.TS Vũ Tuấn Anh 2. PGS.TS Phan Trọng Thưởng

Phản biện:

Phản biện 1: PGS.TS Phan Trọng Thưởng Phản biện 2: PGS.TS Nguyễn Thành Thi Phản biện 3: PGS.TS Võ Văn Nhơn

Thành phố Hồ Chí Minh - 2016

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong trong Luận án là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất cứ công trình nào khác.

Tác giả Luận án

Tạ Anh Thư

LỜI CẢM ƠN

Tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn vô cùng sâu sắc đến Thầy hướng dẫn - PGS.TS. Lê Giang đã luôn theo sát và tận tình hướng dẫn tôi trong suốt quá trình nghiên cứu và thực hiện Luận án.

Tôi xin trân trọng cảm ơn các quí thầy, cô giáo của Khoa Văn học và Ngôn ngữ, các anh chị ở Phòng Sau đại học - Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn TP. Hồ Chí Minh đã hướng dẫn, giúp đỡ tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt thời gian học tập, nghiên cứu tại Trường.

Xin chân thành cảm ơn Lãnh đạo và các đồng nghiệp của tôi tại Trường Đại học Thủ Dầu Một đã tạo điều kiện thuận lợi nhất cho tôi hoàn thành Luận án.

Tôi xin dành tất cả sự yêu thương và lời cảm ơn tới bố mẹ, các anh chị em trong gia đình và người thân yêu luôn là niềm động viên mạnh mẽ cho tôi trong suốt thời gian qua.

Tác giả Luận án

Xin chân thành cảm ơn!

MỤC LỤC DẪN NHẬP ...................................................................................................... 1   1. Mục đích, ý nghĩa của luận án ...................................................................................... 1   1.1 Mục đích .................................................................................................................. 1   1.2 Ý nghĩa ..................................................................................................................... 1   2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ............................................................................................. 3   2.1. Ở trong nước ........................................................................................................... 3   2.1.1 Trước 1945 ........................................................................................................ 3   2.1.2. Từ 1945 đến 1975 ............................................................................................ 4   2.1.2.1 Ở miền Bắc ................................................................................................ 4   2.1.2.2 Ở miền Nam ............................................................................................... 6   2.1.3 Từ sau năm 1975 ............................................................................................. 11   2.2 Ở nước ngoài .......................................................................................................... 13   3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài ............................................................... 15   3.1 Đối tượng nghiên cứu ............................................................................................ 15   3.2 Phạm vi nghiên cứu ............................................................................................... 15   4. Đóng góp mới của luận án ........................................................................................... 16   4.1 Đóng góp về mặt khoa học .................................................................................... 16   4.2 Đóng góp về mặt thực tiễn ..................................................................................... 16   5. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................................. 17   6. Cấu trúc luận án ........................................................................................................... 17   CHƯƠNG 1: SỰ RA ĐỜI VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA ĐÔNG DƯƠNG TẠP CHÍ ................................................................................................................. 19   1.1. Bối cảnh xã hội Việt Nam và tầng lớp trí thức đầu thế kỷ XX ............................. 19   1.1.1 Bối cảnh xã hội ............................................................................................... 19   1.1.2 Giới trí thức Việt Nam trong một thời đại chuyển biến .................................. 33   1.2. Sự ra đời của Đông Dương tạp chí ....................................................................... 39   1.2.1. Chủ trương của Đông Dương tạp chí ............................................................ 39   1.2.1.1 Nguyễn Văn Vĩnh (1882 -1936) .............................................................. 46   1.2.1.2 Phan Kế Bính (1875 – 1921) ................................................................... 61   1.2.1.3 Nguyễn Đỗ Mục (1882 – 1949) ............................................................... 62   1.2.3 Những chặng đường phát triển của Đông Dương tạp chí ............................... 63

CHƯƠNG 2: NHỮNG ĐÓNG GÓP CỦA ĐÔNG DƯƠNG TẠP CHÍ TRONG QUÁ TRÌNH HIỆN ĐẠI HOÁ VĂN HỌC VIỆT NAM ĐẦU THẾ KỶ XX .................................................................................................. 72

2.1. Đông Dương tạp chí với sự phát triển chữ quốc ngữ - ngôn ngữ văn học của dân tộc ................................................................................................................................. 72   2.1.1 Mục đích của việc xây dựng chữ quốc ngữ của trí thức Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX .................................................................................................. 72   2.1.2 Đông Dương tạp chí với nỗ lực đưa chữ quốc ngữ đến với công chúng ........ 76   2.2. Đông Dương tạp chí và sự tiếp thu tinh hoa văn học thế giới .............................. 95   2.2.1 Tình hình dịch thuật văn học cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX ....................... 95   2.2.2. Diện mạo văn học phương Tây trên Đông Dương tạp chí ............................ 98   2.2.2.1 Quan điểm lựa chọn tác giả và tác phẩm ................................................. 98   2.2.2.2 Những tác giả tiêu biểu .......................................................................... 100   2.2.2.3 Những thể loại chính .............................................................................. 102

2.2.3. Những tác phẩm dịch ngoài phương Tây ..................................................... 109   2.2.3.1 Từ chữ Hán sang chữ Quốc ngữ ............................................................ 109   2.2.3.2 Từ tiếng Việt sang tiếng Pháp ................................................................ 110   2.2.4. Ngôn ngữ dịch thuật của Đông Dương tạp chí ............................................ 111   2.3. Vai trò của Đông Dương tạp chí trong việc hình thành các thể loại văn học mới119   2.3.1 Thơ ................................................................................................................ 120   2.3.2 Tiểu thuyết .................................................................................................... 127   2.3.3 Kịch ............................................................................................................... 131

CHƯƠNG 3: NHỮNG ĐÓNG GÓP CỦA ĐÔNG DƯƠNG TẠP CHÍ TRONG QUÁ TRÌNH HIỆN ĐẠI HOÁ VĂN HOÁ VIỆT NAM ĐẦU THẾ KỶ XX ................................................................................................ 139   3.1. Chủ trương hiện đại hoá văn hoá dân tộc của Đông Dương tạp chí ................... 139   3.1.1 Mối liên hệ văn hoá – văn học trong Đông Dương tạp chí .......................... 139   3.1.2 Đổi mới văn hoá Việt Nam dựa trên nền tảng đổi mới học thuật ................. 143   3.1.3 Đổi mới văn hoá Việt Nam dựa trên các giá trị cộng hoà ............................ 147   3.1.3.1 Giá trị của Công giáo và giá trị của thể chế cộng hoà ở Bắc Kì ............ 147   3.1.3.2 Sự lựa chọn các giá trị cộng hoà của Đông Dương tạp chí ................... 150   3.2. Đông Dương tạp chí và vấn đề canh tân giáo dục .............................................. 154   3.2.1. Về tính hiệu quả của nền giáo dục truyền thống .......................................... 154   3.2.2 Những phương pháp mới cho giáo dục ......................................................... 160   3.3. Đông Dương tạp chí và vấn đề đổi mới phong tục, tập quán ............................. 167   3.3.1 Chuyên mục Xét tật mình .............................................................................. 167   3.3.2. Chuyên mục Việt Nam phong tục ................................................................ 179   3.4. Đông Dương tạp chí và vấn đề nữ quyền ........................................................... 183   KẾT LUẬN .................................................................................................. 193   TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 197   PHỤ LỤC ..................................................................................................... 198

1

DẪN NHẬP

1. Mục đích, ý nghĩa của luận án

1.1 Mục đích

Trong bối cảnh đất nước đang đổi mới và hội nhập với thế giới, hiện đại hoá

văn học và văn hoá là một vấn đề thời sự, thu hút sự quan tâm của các nhà lý luận,

phê bình, các nhà văn hiện nay. Để tác động vào tiến trình hiện đại hoá này, chúng

ta cần nhìn lại và rút ra những bài học kinh nghiệm bổ ích từ giai đoạn hiện đại hoá

đầu thế kỷ XX, khi văn học, văn hoá Việt Nam bưóc đầu tiếp xúc với văn học, văn

hoá phương Tây.

Trong giai đoạn hiện đại hoá đầu thế kỷ XX, Đông Dương tạp chí nổi lên

như là một hiện tượng đặc biệt. Cùng với Nam Phong tạp chí, nó là một trong hai tờ

báo gây nhiều tranh luận nhất cho đến tận ngày nay. Có thể nói rằng, ở thời điểm

bấy giờ, lần đầu tiên báo chí quốc ngữ Việt Nam có được một tờ báo mang đường

nét rõ ràng của một dạng tạp chí nghiên cứu khoa học. Đông Dương tạp chí được ví

như bộ “bách khoa toàn thư về tri thức” đối với người Việt Nam ở thời điểm đó.

Tìm hiểu và đánh giá những đóng góp của tờ báo này trong quá trình hiện đại hoá sẽ

cho thấy mối quan hệ giữa báo chí và văn học nói riêng, trí thức và văn hoá nói

chung.

1.2 Ý nghĩa

Đây không phải là một công trình nghiên cứu về lịch sử báo chí, mà là về

chủ đề hiện đại hoá văn học, văn hoá dưới sự tác động của báo chí. Tuy nhiên, đề

tài này chú ý mối quan hệ giữa văn học, văn hoá và báo chí, mà trường hợp nghiên

cứu chính là một tờ báo cụ thể với nội dung và lịch sử của nó: Đông Dương tạp chí.

Trong tinh thần đó, về mặt lý thuyết, luận án góp phần soi sáng vấn đề hiện

đại hoá văn học, văn hoá trên bình diện lịch sử, thông qua nội dung và hoạt động

của một tờ báo. Nghĩa là, qua việc nghiên cứu sự ra đời và hoạt động của Đông

Dương tạp chí để đánh giá lại những bước vận động của văn học quốc ngữ Việt

Nam trên bước đường hiện đại hoá đầu thế kỷ XX. Sự vận động này nảy sinh trong

bối cảnh đặc biệt, khi mà cùng với bước chân xâm lược của thực dân Pháp là những

2

thành tựu về khoa học kỹ thuật mà họ mang theo. Sự xuất hiện của chữ quốc ngữ,

nhà in, báo chí và những luồng tư tưởng mới từ phương Tây đã mở toang cánh cửa

hội nhập với thế giới của xã hội phong kiến Việt Nam lạc hậu. Cuộc đụng độ giữa

thực dân Pháp và dân tộc Việt Nam không chỉ là sự đối đầu của kẻ đi xâm lược và

kẻ bị xâm lược mà còn là sự va đập giữa hai nền văn minh phương Đông và phương

Tây. Sự va đập ấy đã gây ra những xáo trộn không thể né tránh cho xã hội cổ truyền

Việt Nam và không còn cách nào khác, buộc nó phải thay đổi để thích nghi.

Về mặt thực tiễn, luận án cung cấp những cứ liệu và kinh nghiệm về tác

động của báo chí đối với sự phát triển của văn hoá, văn học dân tộc. Bài học về hiện

đại hoá từ đầu thế kỷ XX vẫn còn nguyên giá trị cho sự phát triển nhiều triển vọng

và cũng đầy thách thức của chúng ta hôm nay bởi những thế hệ trí thức đầu thế kỷ

XX không chỉ đóng trọn vai trò to lớn của họ trong quá khứ mà còn có thể tham gia

trực tiếp vào cuộc đi tới tương lai của chúng ta bằng những bài học còn nóng hổi,

nếu ta biết từ họ đối chiếu và ngẫm nghĩ. Những câu chuyện về họ đặt cho chúng ta

nhiều câu hỏi về một thế hệ những người khổng lồ trong văn hoá mà ngày nay ít

thấy có. Vậy những điều kiện lịch sử và nỗ lực cá nhân nào đã tạo nên “thế hệ

vàng” ấy của văn hoá Việt Nam? Nền đại học nào đã tạo nên những Phan Bội Châu,

Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Trần Quý Cáp, Ngô Đức Kế, Phạm Quỳnh,

Nguyễn Văn Vĩnh, Nguyễn Đỗ Mục, Phạm Duy Tốn? Tại sao họ, những người giỏi

nhất, những nhà Hán học uyên thâm nhất, được chính nền học vấn ấy tạo ra lại dám

mạnh mẽ từ bỏ sách xưa, đạp đổ cái cũ, dám chống lại cái chính mình học để đi tìm

cái mới, giải phóng trí tuệ cho mình và cho đất nước, dân tộc? Trả lời được những

câu hỏi này tức là đã trả lời được cho chính vấn đề mà chúng ta đang gặp phải ở

ngày hôm nay.

3

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề

Việc nghiên cứu vai trò, vị trí của Đông Dương tạp chí đối với nền quốc văn

mới cho đến nay tại Việt Nam vẫn chưa được quan tâm đúng mức so với vị thế của

tờ báo. Rải rác trên các báo, các công trình nghiên cứu văn học Việt Nam từ trước

1945 đến nay cũng có những nhận xét về đóng góp của Đông Dương tạp chí đối với

nền quốc văn của nước nhà. Tuy nhiên, những ý kiến này không thống nhất với

nhau, thậm chí trái ngược nhau do quan điểm nghiên cứu và phương pháp đánh giá

khác nhau. Thời gian gần đây, do những chuyển động mới của xã hội, một số nhân

vật, tác phẩm từng bị xem là “có vấn đề” đã được nhìn nhận và giới thiệu lại, trong

đó có Đông Dương tạp chí và chủ bút Nguyễn Văn Vĩnh. Đông Dương tạp chí trở

thành đề tài nghiên cứu của một vài luận văn cao học và đề tài nghiên cứu khoa học

sinh viên.

Có thể chia lịch sử nghiên cứu vấn đề những đóng góp của Đông Dương tạp

chí đối với quá trình hiện đại hóa văn học, văn hóa Việt Nam đầu thế kỷ XX thành

hai bộ phận: ở trong nước và ở nước ngoài.

2.1. Ở trong nước

2.1.1 Trước 1945

Trong Nhà văn hiện đại, Vũ Ngọc Phan đề cập đến Đông Dương tạp chí như

là “một cơ quan văn học đầu tiên ở thời buổi mà văn chương quốc văn mới còn bỡ

ngỡ... Người Tây học có thể thấy trong đó những tinh hoa của nền cổ học Trung

Hoa mà nước ta đã chịu ảnh hưởng lâu đời; người Hán học có thể thấy trong đó

những tư tưởng mới mà người Việt Nam ta cần biết rõ để mà thâu thái. Những bài

bình luận, những bài tham khảo về Đông phương và Tây phương đăng liên tiếp

trong Đông Dương tạp chí, ngày nay giở đến người ta còn thấy là những bài có thể

dựng thành những bộ sách biên tập rất vững vàng và có thể giúp ích cho nền văn

học Việt Nam hiện đại và tương lai…”

Ngoài ra còn có các bài Văn xuôi mới, Nguyễn Văn Vĩnh và các bản dịch của

ông trong cuốn Việt Nam văn học sử yếu của Dương Quảng Hàm; bài Báo giới và

văn học quốc ngữ cùng những bài viết về các ông Nguyễn Văn Vĩnh, Trần Trọng

4

Kim…của Thiếu Sơn đăng trên các báo thời bấy giờ. Những bài viết này chủ yếu

điểm qua tôn chỉ, ý nghĩa hoạt động của nhóm Đông Dương tạp chí.

2.1.2. Từ 1945 đến 1975

2.1.2.1 Ở miền Bắc

Tình hình nghiên cứu và đánh giá đóng góp về văn học, văn hóa của Đông

Dương tạp chí trở nên phức tạp khi đất nước ta tiến hành cuộc cách mạng giành độc

lập dân tộc và hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Điều đó chủ yếu là

do xuất phát điểm là công cụ của chính quyền thực dân của tờ báo. Sau thành công

của Cách mạng Tháng Tám 1945 và chiến thắng Điện Biên Phủ 1954, những gì liên

quan đến thực dân Pháp xâm lược cũng khiến người ta “dị ứng”. Số phận những

người trí thức Tây học đã từng cộng tác với Pháp và những ấn phẩm văn hóa có liên

quan đến chính quyền thực dân cũng vậy.

Các tác giả Lịch sử văn học Việt Nam (tập 4B) trong Tủ sách Đại học Sư

phạm, đã xếp chung Đông Dương tạp chí và Nam Phong tạp chí vào khuynh hướng

«văn học nô dịch» và xem Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh là «những tên việt gian

đầu sỏ». Theo sách này, «Cả Vĩnh lẫn Quỳnh đều tuyên truyền cho sự thống trị của

Pháp, chống đối cách mạng một cách triệt để, việc ấy chúng làm không giấu giếm gì

nên không lừa bịp được ai» ; «Đông Dương tạp chí và Nam Phong đã lôi cuốn một

số thanh niên trí thức ham nghiên cứu, có nhiệt tình với quốc văn, làm cho họ xao

lãng tình hình xã hội, đắm mình vào việc văn chương, mà coi đó là con đường phục

vụ dân tộc»; «Tóm lại, Đông Dương tạp chí và Nam Phong tuyệt nhiên không có

một công lao gì đối với văn học dân tộc cả ».

Những hoạt động canh tân văn hoá của Đông Dương tạp chí, thậm chí những

bài viết chống lại sự bóc lột của người Pháp còn bị hiểu là màn kịch “để cướp ảnh

hưởng trong quần chúng, để củng cố nền thống trị của đế quốc phong kiến, và để

bán mình cho cao giá” (?).

Cũng theo chiều hướng đánh giá tiêu cực về Đông Dương tạp chí, Tập san

Nghiên cứu lịch sử số 116 (1968), có bài Vài nét về quá trình đấu tranh chống thực

5

dân và tay sai trên lĩnh vực văn hoá của nhân dân ta trong 30 năm đầu thế kỷ 20

của tác giả Nguyễn Anh, trong đó phủ nhận những đóng góp của Đông Dương tạp

chí do Nguyễn Văn Vĩnh làm chủ bút. Bài viết cho rằng: “…Đúng ra ở Đông

Dương tạp chí vấn đề dịch thuật nổi bật hơn cả. Và đây là điểm mà trước kia người

ta đã ca tụng “giá trị”, “công lao” của Đông Dương tạp chí. Nhìn vào khối lượng

dịch thuật của Đông Dương tạp chí, chúng ta thấy rõ ràng là một việc dịch thuật

lung tung bừa bãi. Tuy có chọn lọc một số tác gia lớn nhưng tuỳ tiện, gặp đâu dịch

đấy, không có giới thiệu phê bình gì cả. Đông Dương tạp chí lại còn chạy theo thị

hiếu của người đọc, “gãi vào chỗ ngứa” của đám thanh niên tân học để lôi kéo họ

bằng cách dịch những bài thơ, đoạn văn nho nhỏ hấp dẫn của một số thi sĩ, văn sĩ.

Điểm đặc biệt là Đông Dương tạp chí chỉ chú trọng dịch các loại sách văn học của

Pháp, không đả động đến sách triết học. Âm mưu của Đông Dương tạp chí là dùng

văn chương để ru ngủ tinh thần yêu nước của nhân dân, lôi kéo nhân dân ra khỏi

ảnh hưởng tư tưởng tiến bộ của các sĩ phu, của cách mạng Tân Hợi ở Trung Quốc.

Có người đã nói Đông Dương tạp chí chỉ giới thiệu văn hoá phương Tây theo kiểu

ăn sống nuốt tươi quả là xác đáng…”

Bên cạnh những nhận xét có phần “căng thẳng” thì cũng có một số ý kiến

trung hoà hơn, chẳng hạn như ý kiến của nhà nghiên cứu Phan Cự Đệ trong cuốn

Phong trào thơ mới 1932 -1945 (Nxb Khoa học, 1966), trong đó có nhắc đến vai trò

của tờ Đông Dương tạp chí, Nam Phong tạp chí trong việc giới thiệu các tác phẩm

văn học phương Tây. Trong đó, Phan Cự Đệ nhấn mạnh:

“Trong và sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất, thực dân Pháp cho Phạm

Quỳnh và Nguyễn Văn Vĩnh ra tạp chí Nam Phong, báo Trung Bắc tân văn và Nhà

xuất bản Âu Tây tư tưởng; Nam Phong và Đông Dương tạp chí giới thiệu và dịch

các tác phẩm cổ điển của Corneille, Molière và những tác phẩm thế kỷ XIX của

Chateaubriand, Lamartine, Victor Huygo, Honoré de Balzac, Guy de Maupassant,

Baudelaire…Ở đây, những tư tưởng bảo thủ trong văn học Pháp như Maurice

Barrès, Charles Maurras, Léon Daudet được giới thiệu xen lẫn với những tư tưởng

tiến bộ của các nhà triết học khai sang thế kỷ XVIII như Rousseau, Voltaire,

6

Montesquieu. Trong các trường học, thanh niên bắt đầu say sưa với văn học Pháp.

Người ta đọc Rousseau, Bernadin de St Pierre, Chateaubriand, Boutget, Barrès, v.v..

Người ta ca ngợi lãng mạn của “tứ kiệt”: Hugo, Lamartine, Musset, Vigny..”

Mặc dù không trực tiếp nhắc đến những đóng góp tích cực của Đông Dương

tạp chí và nhưng Phan Cự Đệ thừa nhận rằng “các nhà thơ mới ở nước ta đã biết

tiếp thu truyền thống thơ ca của dân tộc và học tập một cách sáng tạo thơ ca nước

ngoài. Do đó họ đã xây dựng được những thể thơ tự do, giàu nhạc điệu, màu sắc, có

nhiều khả năng thể hiện tình cảm con người và thiên nhiên. Ngôn ngữ của dân tộc

cũng được các nhà “thơ mới” làm cho giản dị, trong sáng và giàu có hơn”. Có thể

xem đó là lời khẳng định ngầm vai trò của Đông Dương tạp chí và những tờ báo

tiên phong trong việc phổ biến các tác phẩm dịch thuật thời bấy giờ.

2.1.2.2 Ở miền Nam

Trong khi đó, ở miền Nam những năm 1954-1975, việc nghiên cứu và

« phán xét » Đông Dương tạp chí có phần khách quan và thỏa đáng hơn.

Thanh Lãng trong Bảng lược đồ văn học Việt Nam1, sau khi phân tích vai trò

của Nguyễn Văn Vĩnh - chủ bút Đông Dương tạp chí, đã đánh giá: « Đông Dương

tạp chí và Nam Phong tạp chí giữ một địa vị tối yếu trong lịch sử văn học Việt Nam

là vì hầu hết những sản phẩm văn chương có giá trị hay đã gây được một ảnh hưởng

sâu rộng đều xuất hiện trên hai tạp chí đó ».

Sự nghiệp Nguyễn Văn Vĩnh và Đông Dương tạp chí cũng được đánh giá

với nhiều ưu ái dưới ngòi bút Phạm Thế Ngũ trong Việt Nam văn học sử giản ước

tân biên: “Trong khoảng 10 năm, từ báo Đăng Cổ đến Đông Dương, bằng hoạt

động bằng tư tưởng, ông đã lay động mạnh cái xã hội Việt Nam cổ truyền, hối thúc nó biến hình lột xác ».2

Phạm Thế Ngũ viết tiếp: « Về đường văn học, hiển nhiên ông đã đứng ra mở

1 2 tập, xuất bản năm 1967 2 3 tập, tập 3, Nxb Quốc học Tùng thư 1965

đường cho văn học mới:

7

- Ông đã tranh đấu cho việc truyền bá và thắng thế chữ quốc ngữ là thứ chữ

của văn học mới.

- Ông đã đem vào xã hội ta nhà in và tờ báo là hai khí cụ giúp ông gầy dựng

văn học mới và sẽ giúp đắc lực cho sự phát triển của văn học mới sau này.

- Ông đã làm được trong bước đầu một tờ báo rất bổ ích cho văn mới lúc

phôi thai là tờ Đông Dương tạp chí...».

Trong cuốn Luận đề về Đông Dương tạp chí với Nguyễn Văn Vĩnh, Phan Kế

Bính, Nguyễn Đỗ Mục, sách giáo khoa dành cho học sinh trung học, Trần Việt Sơn

viết: “Nhóm Đông Dương tạp chí với Nguyễn Văn Vĩnh, Nguyễn Đỗ Mục, Phan Kế

Bính đã biết thức thời xây dựng nền văn học mới, vào lúc mà thời thế đã bị đảo lộn

bởi những biến cố chính trị. Cảm thấy sự quan trọng vô biên của tiếng Việt và chữ

quốc ngữ, nhóm đó đã đi bước tiên phong bằng cách xây dựng cho tiếng nói và chữ

viết đó trở nên vững chắc và phổ thông, đồng thời sử dụng những thể văn mới, mở

đường cho biết bao tác giả sau này”. [68]

Cũng là sách giáo khoa dành cho học sinh trung học, cuốn Luận đề về Đông

Dương tạp chí xuất bản năm 1961 của nhóm tác giả Nguyễn Duy Diễn, Bằng Phong

đã đưa ra những lời nhận xét rất trân trọng về Nguyễn Văn Vĩnh cũng như tờ Đông

Dương tạp chí mà ông chủ trì: “ Do tình trạng thiếu lối thoát của nền văn học và

báo chí nước nhà vào tiền bán thế kỷ thứ 20 mà Đông Dương tạp chí xuất hiện với

mục đích xây dựng, phổ biến chữ quốc ngữ, làm giàu cho nền văn học nước nhà

bằng đường lối dung hòa cũ mới và nâng cao báo chí lên xứng đáng với địa vị lãnh

đạo tinh thần trong quần chúng. Vì trung thành với đường lối và vì đóng góp bằng

những công việc cụ thể, hữu ích nên Đông Dương tạp chí không những có công lớn

đối với chữ quốc ngữ, đối với nền học thuật mà còn đối với báo chí nước nhà vào

lúc bấy giờ nữa”.

Ngoài những cuốn sách giáo khoa, chuyên khảo và lịch sử văn học, còn có

nhiều tạp chí đăng bài bình luận về Nguyễn Văn Vĩnh. Tạp chí Bách Khoa thời đại

(số 32 – 1958) có bài Nguyễn Văn Vĩnh – người có công to với nền quốc văn lúc

mới phôi thai của Tân Phong Hiệp: “Làng văn nước Việt đã trọng ông như một

8

người có công to với quốc văn: lối văn nghị luận nhờ ông phần lớn mà rạch ròi giản

dị, lối văn dịch thuật nhờ ông mà được đồng bào để ý và thêm tin tưởng những cái

«có thể» của tiếng nước nhà. Đông Dương tạp chí do ông chủ trương, một cơ quan

văn học có uy thế, lúc quốc văn đang còn ở vào thời lần bước, đã gây dựng được

phong trào tin yêu tiếng mẹ trong lớp thanh niên, tân, cựu học bấy giờ”.

Trong bài Phạm Quỳnh và Nguyễn Văn Vĩnh (Tạp chí Giáo dục phổ thông,

số 36, ngày 15-4-1959), Châu Hải Kỳ lưu ý: “Danh tiếng Nguyễn Văn Vĩnh vang

lừng từ khi ông xuất bản Đông Dương tạp chí (từ ngày 15-05-1913). Ông tụ họp

được nhiều nhân tài…Tờ Đông Dương tạp chí xứng đáng là cơ quan hoạt động văn

hóa rất danh tiếng ở Việt Nam vào đầu thế kỷ 20”.

Lưu Trung Khảo, tác giả bài viết Vai trò tạp chí trong văn chương Việt

Nam – Đông Dương tạp chí (Tạp chí Hiện đại, tháng 9-1960), có giọng điệu thẳng

thắn hơn: “Trên đường xây dựng toà lâu đài quốc văn, Đông Dương tạp chí đã góp

vào một số lớn vật liệu. Mặc dù tờ tạp chí đó hãy còn mắc phải nhiều khiếm khuyết

nhưng không ai có thể phủ nhận được vai trò lãnh đạo tiên phong của nó. Nếu người

ta có vì những tức khí nhất thời mà chê Nguyễn Văn Vĩnh là một nhà buôn, một tay

sai của Pháp, một học phiệt, thì chúng ta đứng trên phương diện văn học, vô tư và

khách quan, có thể nói: Nguyễn Văn Vĩnh là tên lính tiền phong trong đội quân báo

chí; Đông Dương tạp chí chính là viên gạch xây nền đắp móng cho lâu đài quốc học

Việt Nam”.

Trong bài viết Nguyễn Văn Vĩnh với Đông Dương tạp chí đăng trên tạp chí

Giáo dục phổ thông số 25 ngày 15 tháng 10 năm 1958, Kiêm Đạt nhận xét: “Cùng

với Nam phong tạp chí, tờ Đông Dương cố gắng phát huy tư tưởng ngoại quốc trên

cơ sở dân tộc, để tiếp cái công trình đồ sộ của vị tiên phong đó là Trương Vĩnh

Ký… Cũng như nhóm Nam Phong, họ gặp nhau trên cương lĩnh rất rộng rãi là phát

huy văn học nước nhà, không phải chi phối nhau về đường chánh trị mà tùy theo

khả năng, tùy theo tư tưởng riêng mỗi người phô diễn mỗi cách, chỉ nhìn chung vào

mục tiêu cao cả của công trình xây dựng”.

9

Thiếu Sơn trong bài Ông Phan Khôi đã phê bình ông Nguyễn Văn Vĩnh như

thế nào cũng đã đánh giá rất cao vai trò của Nguyễn Văn Vĩnh và Đông Dương tạp

chí đối với sự phát triển của chữ quốc ngữ: “Cái chánh mà ta cần phải gọi ra là một

tấm lòng tin tưởng vô biên đối với tiền đồ chữ quốc ngữ. Chẳng những tin tưởng mà

còn đem tất cả tài trí, cả năng lực để phục vụ cho tấm lòng tin tưởng đó. Ta phải so

sánh chữ quốc ngữ của ta thời đó với chữ quốc ngữ hồi Trương Vĩnh Ký, Huỳnh

Tịnh Của. Rồi ta lại kiếm những liên quan giữa thời đại Đông Dương tạp chí và

Nam Phong tạp chí với thời đại 1930-1940, thời đại khá gọi là phồn thịnh của văn

học Việt Nam thì ta mới thấy cái trớn thúc đẩy mãnh liệt như thế nào của những bậc

tiên phong tiền bối, của những người ngay lúc đó đã dám tuyên bố rằng: “Nước ta sau này hay dở là nhờ ở chữ quốc ngữ”.3

Ở miền Nam, người phê phán Nguyễn Văn Vĩnh cũng như Phạm Quỳnh gay

gắt và quyết liệt nhất chính là Nguyễn Văn Trung. Trong Chữ, văn quốc ngữ thời kỳ

đầu Pháp thuộc (Tủ sách “Tìm về dân tộc”), ông xem Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm

Quỳnh là “những kẻ thông minh, tài giỏi nhưng đầu hàng thực dân”. Ông viết:

“Không phải ngẫu nhiên con đường cứu nước bằng tiếng nói, chữ viết do những

người như Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh tung ra cổ võ mà không phải ai khác, vì

chủ nghĩa quốc gia bằng ngôn ngữ, văn tự xuất phát từ một lựa chọn chính trị căn

bản: đầu hàng, thỏa hiệp với chế độ thuộc địa và nhằm che giấu lựa chọn chính trị

căn bản đó [...]. Từ một điểm đúng: tiếng nói, chữ viết là một công cụ cứu nước,

Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh đã nhập nhằng coi chữ viết, tiếng nói như tất cả

đường lối, phương tiện duy nhất cứu nước và xây dựng tương lai dân tộc...”.

Trong Chủ đích Nam Phong, trước khi vạch trần quan điểm của Phạm

Quỳnh, Nguyễn Văn Trung không quên chỉ rõ những sai lầm của Nguyễn Văn

Vĩnh thể hiện qua các bài viết trên Đông Dương tạp chí: “Nguyễn Văn Vĩnh có thể

là một nhà báo giỏi, nhưng lại rất vụng về chính trị, không những không tranh thủ

3 Tạp chí Bách Khoa 1961.

được ai, đặc biệt giới sĩ phu, mà còn gây thêm đố kỵ, hận thù; Vĩnh tuyên truyền đề

10

cao thực dân Pháp một cách quá lộ liễu, “gia nô”, và mạt sát nhà nho, giới sĩ phu

thậm tệ, đặc biệt những người làm cách mạng”.

Một số nhà nghiên cứu đánh giá Đông Dương tạp chí là công cụ chính trị -

văn hóa của thực dân Pháp, nhưng có đóng góp cho văn hóa, văn học:

Lê Văn Siêu trong công trình Văn học sử thời kháng Pháp (1858-1945) 4chỉ

ra cả mặt sáng và mặt tối của Nguyễn Văn Vĩnh và các bài viết trên Đông Dương

tạp chí. Một mặt, Lê Văn Siêu thừa nhận, về sự nghiệp văn chương, Nguyễn Văn

Vĩnh là “người có công lớn và đầu tiên trong việc xây dựng nền văn chương Việt

Nam bằng chữ quốc ngữ. Với thái độ sống và thế đứng trong xã hội, ông thu hút

được người đồng thế hệ cùng đem văn tài ra cộng tác với ông trong việc xây dựng

này [...]. Trong khi ông sửa soạn người cho bước tiến tương lai như Phạm Quỳnh,

Tản Đà, thì bằng các thể văn, các bài viết, ông cũng tạo ra những mẫu mực văn

chương cho đời sau học theo, cùng nương theo đấy mà tiến hơn nữa”.

Mặt khác, Lê Văn Siêu phê phán khá nghiêm khắc những hạn chế của

Nguyễn Văn Vĩnh. Về các công trình dịch thuật của Nguyễn Văn Vĩnh, Lê Văn

Siêu viết: “ Mục đích việc dịch thuật, đăng dần trên báo, ngoài lối chơi văn cũng chỉ

là để giải trí cho độc giả, không phải cách khiến cho độc giả hiểu biết tường tận về

nền văn chương tư tưởng của nước Pháp. Việc dịch lại tuỳ hứng, gặp quyển nào hay

dễ dịch thì dịch, chớ không theo một chương trình nào cả. Tức là ý thức truyền bá

tư tưởng theo đường hướng kế hoạch nào, ông cũng chưa có”.

Về ý thức canh tân trong những bài văn chính luận của Nguyễn Văn Vĩnh, Lê

Văn Siêu nhận xét: “Ông viết trên báo đả kích những điều hủ lậu, tệ tục ở làng xã,

hoặc mê tín dị đoan trong hội chùa Hương, hoặc những thói hư tật xấu của người

An Nam, những lối học hủ bại cũ. Những đó chỉ là những ý kiến bất chợt tới cho

nhà viết báo, ông thực chưa có ý thức về canh tân xã hội để trình bày những kế

hoạch bắt đầu từ đâu, rồi đi tới đâu, theo đường lối nào. Mà thường ông chỉ lấy đời

4 Nxb Trí Đăng, Sài Gòn.

sống của người Pháp làm mẫu mực để chê trách những gì còn luộm thuộm của

11

mình”. Về điểm này, không phải Lê Văn Siêu không có lý, nhưng phải chăng ông

đòi hỏi quá cao ở Nguyễn Văn Vĩnh trong một hoàn cảnh lịch sử còn nhiều khó

khăn và hạn chế.

2.1.3 Từ sau năm 1975

Sau 1975, tuy đất nước đã hoàn toàn thống nhất nhưng không phải ngay thời

gian đầu, không khí học thuật đã hoàn toàn cởi mở. Việc đánh giá các tác giả, tác

phẩm vẫn còn nặng định kiến, chủ yếu dựa trên thái độ chính trị.

Cuốn Văn học Việt Nam giai đoạn giao thời 1900-1930 do nhà xuất bản Đại

học và Giáo dục chuyên nghiệp ấn hành năm 1988, có đoạn viết: “Trước sau đại

chiến 1914 - 1918 thực dân Pháp cho bọn tay sai Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh

ra Đông Dương tạp chí, Nam Phong tạp chí, loại sách Âu tây tư tưởng vừa tuyên

truyền cho văn học Pháp vừa đề xướng một tư tưởng yêu nước duy tân giả hiệu,

đánh lạc hướng quần chúng. Nhiều nhà văn, nhà báo, nhà thơ tập hợp lại quanh các

tờ báo ấy làm thơ, viết tuồng chèo, truyện ngắn, tiểu thuyết, kịch. Một số ra mở báo

riêng, lập nhà xuất bản riêng độc lập với bọn Quỳnh, Vĩnh như Tản Đà”.

Sau đổi mới, tình hình lý luận phê bình văn học trong nước đã có những

chuyển biến đáng kể. Nhiều hiện tượng văn học, văn hóa trước đây bị đánh giá sai

lệch đã được nhìn nhận lại.

Công trình Lịch sử báo chí Việt Nam 1865 -1945 do Đỗ Quang Hưng chủ

biên đã nhận xét về Đông Dương tạp chí khá cô đọng: “Đông Dương tạp chí suốt

những năm chiến tranh thế giới thứ nhất thực sự là tờ báo quan trọng bậc nhất của

giới thực dân. Nhưng cũng cần lưu ý là tờ báo này với nghệ thuật báo chí tiên tiến

của nó còn là cơ quan báo chí đi đầu trong việc truyền bá văn minh phương Tây,

phê bình lối sống phong kiến, các hủ tục xa xưa còn rơi rớt...”. [36]

Trong Từ điển văn học bộ mới (2004), tác giả Nguyễn Huệ Chi phân tích khá

thấu đáo sự nghiệp của Nguyễn Văn Vĩnh để đi đến kết luận: “Nguyễn Văn Vĩnh

trước sau vẫn là người do chế độ thực dân Pháp đào tạo. Ông chưa bao giờ đi ra

ngoài cơ chế thuộc địa. Nhưng trong phạm vi có thể, ông đã gắng noi theo đường

lối của Phan Châu Trinh, phê phán thẳng thừng chế độ phong kiến, kêu gọi người

12

Việt thực hành kỹ nghệ và thương mại, mong đưa đất nước đến chỗ phú cường [...].

Về mặt văn học, tờ Đông Dương tạp chí do ông làm chủ bút và nhất là những tác

phẩm dịch của ông một thời đã là lò đào luyện lớp thanh niên tân học để xây dựng

nền văn học mới trước sau những năm 30 của thế kỷ XX”.

Năm 2009, luận văn thạc sĩ ngành Văn học của Tạ Anh Thư với đề tài “Sự

nghiệp văn học của Nguyễn Văn Vĩnh và lịch sử tiếp nhận các tác phẩm của ông”

tại Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia thành phố Hồ

Chí Minh đã bước đầu nghiên cứu những đóng góp về mặt văn học của Đông

Dương tạp chí qua việc khẳng định sự nghiệp văn học của chủ bút Nguyễn Văn

Vĩnh với các tác phẩm của ông đã đăng trên Đông Dương tạp chí.

Năm 2010, công trình dự thi giải thưởng “Sinh viên nghiên cứu khoa học”

của Nguyễn Thị Thanh Loan với đề tài Cuộc vận động đổi mới văn hóa Việt Nam

đầu thế kỷ XX qua Đông Dương tạp chí đã cố gắng phác thảo những đóng góp của

Đông Dương tạp chí đối với tiến trình đổi mới văn hóa Việt Nam đầu thế kỷ XX,

cung cấp một số dẫn chứng mới làm rõ cho những nhận định về Đông Dương tạp

chí trước kia.

Gần đây, công trình nghiên cứu một cách có hệ thống hơn về Đông Dương

tạp chí phải kể đến Luận văn Thạc sĩ Văn học của Hoàng Thị Cương, Trường Đại

học Khoa học xã hội và Nhân văn Hà Nội, Đại học quốc gia, tháng 1 năm 2012 với

tựa đề Đông Dương tạp chí trong tiến trình hiện đại hóa Văn học Việt Nam đầu thế

kỷ XX. Trong công trình này, tác giả đã trình bày vai trò của báo chí đối với quá

trình hiện đại hóa văn học dân tộc cũng như tiền đề, tôn chỉ mục đích và sơ bộ hệ

thống chuyên mục của Đông Dương tạp chí. Bên cạnh đó, vai trò của Nguyễn Văn

Vĩnh, chủ bút Đông Dương tạp chí cũng được nhắc đến. Mặc dù đã cố gắng trình

bày vai trò của Đông Dương tạp chí trong tiến trình hiện đại hóa Văn học Việt Nam

đầu thế kỷ XX ở hai phương diện góp phần xây dựng “chất liệu nền” cho văn học

hiện đại - văn chương quốc ngữ và sưu tầm, dịch thuật, đăng tải các bài viết tư

tưởng học thuật phương Tây, nhiều tác phẩm văn chương tiếng Pháp, chữ Hán,

Nôm, chữ Trung Quốc nhưng luận văn mới chỉ dừng lại ở những đánh giá bước

13

đầu, chủ yếu dẫn lại ý kiến của các nhà nghiên cứu về những đóng góp của tờ báo

đối với tiến trình hiện đại hóa nền văn học dân tộc; chưa chỉ ra một cách hệ thống

và thuyết phục những đóng góp của Đông Dương tạp chí đối với quá trình hiện đại

hóa nền văn học, văn hóa nước nhà trong giai đoạn đầu thế kỉ 20.

2.2 Ở nước ngoài

Một trong những công trình nghiên cứu về Đông Dương tạp chí một cách

toàn diện phải kể đến Luận án Tiến sĩ (Thèse de doctorat) của Emmanuelle Affidi

với tựa đề Ðông Dương tạp chí (1913-1919), une tentative de diffusion du

discours et de la science de l’Occident au Tonkin: l’interculturalité, un enjeu

colonial entre savoir et pouvoir (1906-1936) (Đông Dương tạp chí (1913-1919),

một nỗ lực truyền bá tư tưởng và khoa học phương ở Tây Bắc Kỳ: giao thoa văn

hóa, chính sách thực dân giữa kiến thức và quyền lực (1906-1936)).

Luận án dài 820 trang, viết bằng tiếng Pháp, hoàn thành năm 2007, trong đó

khẳng định:

Au début du XXe siècle, dans le sillage du Japon et de la Chine, les élites

vietnamiennes tentent d’accéder aux outils de la modernité  occidentale pour

se libérer du colonisateur européen. Dans ce contexte, la revue ÐôngDương

Tạp Chí (Tonkin,1913-1919) se présente comme une tentative remarquable

visant à   initier les Vietnamiens à   la science de l’Occident (son savoir, ses

méthodes et techniques), en s’attachant notamment à  les familiariser avec la

sphère de pensée dans laquelle cette science s’inscrit, au travers de

traductions ciblées (littérature, philosophie, morale).

Fondée par l’éditeur français F.-H. Schneider avec l’appui du Gouverneur

Général Sarraut, et dirigée par le journaliste et traducteur vietnamien

Nguyễn Văn Vĩnh, cette revue en quốcngữ (écriture romanisée de la langue

vietnamienne) était un creuset d’aspirations différentes, mais qui

s’accordaient autour d’une même idée: pour les Vietnamiens, la présence

française en Indochine pouvait être une opportunité   à   saisir pour acquérir

14

plus facilement et de façon directe la science occidentale si convoitée; la

France républicaine pouvait même servir de modèle à  un Việt Nam en quête

d’identité, depuis que le modèle chinois avait montré  ses limites.

Cette thèse présente les travaux de cette revue et leurs résultats, sachant que

Ðông Dương Tạp Chí n’était pas un électron libre, mais bien l’émanation

d’un courant de pensée plus large, se frayant un chemin entre savoir et pouvoir dans le Việt Nam des premières années du XXe siècle (1906-1936).

Vào đầu thế kỷ XX, trước sự chuyển mình của Trung Hoa và Nhật Bản, các

nhà trí thức Việt Nam cố gắng tiếp cận các công cụ tân tiến của phương Tây

hòng thoát khỏi ách đô hộ của người Châu Âu. Trong bối cảnh ấy, Đông

Dương tạp chí (1913-1919) xuất hiện như một nỗ lực tuyệt vời nhằm khai

tâm người Việt đối với nền khoa học phương Tây (kiến thức, kỹ thuật và

phương pháp), nhất là nhắm tới việc độc giả Việt làm quen với thế giới tư

tưởng mà nền khoa học kể trên đã nảy sinh, thông qua việc dịch thuật chọn

lọc (văn học, triết học, đạo đức).

Được sáng lập bởi nhà xuất bản Pháp F-H Schneider với sự hỗ trợ của

Thống Đốc Toàn Quyền Sarraut, và do nhà báo dịch giả Nguyễn Văn Vĩnh

điều hành, tờ báo quốc ngữ này xuất hiện với nhiều khuynh hướng và lý do

khác nhau, nhưng tất cả đều xoay quanh một ý chính: đối với người Việt, sự

hiện diện của người Pháp tại Đông Dương có thể là cơ hội để tiếp thu dễ

dàng và trực tiếp nền khoa học tiên tiến phương Tây; Cộng hoà Pháp cũng

có thể là một mô hình cho một Việt Nam đang trong quá trình tìm một sắc

thái chính trị mới cho mình, kể từ khi mô hình cổ điển Trung Hoa tỏ ra lỗi

thời.

Luận án này trình bày những nghiên cứu về Đông Dương tạp chí và những

kết quả góp nhặt được, và Đông Dương tạp chí không phải là một công trình

vô bổ, mà chính là sự khai sáng cho một trào lưu tư tưởng rộng lớn hơn,

15

vạch ra một lộ trình giữa kiến thức và quyền lực trong một Việt Nam của

những năm đầu thế kỷ XX (1906-1936).

Như vậy, lĩnh vực mà Emmanuelle Affidi quan tâm là ảnh hưởng của xu

hướng chính trị tới sự phát triển nội dung của tờ báo và vai trò của Đông Dương tạp

chí đối với công cuộc tiếp thu nền khoa học tiên tiến của phương Tây tại Việt Nam

đầu thế kỉ XX. Đóng góp của Đông Dương tạp chí đối với quá trình đổi mới văn

học, văn hóa Việt Nam không phải là mục tiêu chính của luận án. Tiếc rằng ngoài

bản tóm tắt, chúng tôi chưa tiếp cận được với công trình này để tìm hiểu sâu hơn về

đề tài từ cái nhìn của một nhà nghiên cứu phương Tây. Chúng tôi hy vọng rằng luận

án này sẽ là một trong những công trình đầu tiên tại Việt Nam nghiên cứu một cách

hệ thống về những đóng góp của Đông Dương tạp chí trong tiến trình hiện đại hóa

văn học, văn hóa Việt Nam đầu thế kỉ XX.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài

3.1 Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của luận án là những đóng góp của Đông Dương tạp chí

vào quá trình hiện đại hoá của văn hoá và văn học Việt Nam đầu thế kỷ XX. Tiêu

điểm mà luận án tập trung là vấn đề hiện đại hoá trong giai đoạn chuyển tiếp từ

phạm trù văn học cổ điển sang phạm trù văn học hiện đại.

3.2 Phạm vi nghiên cứu

Phạm vi nghiên cứu của luận án là toàn bộ nội dung của Đông Dương tạp chí có

liên quan đến vấn đề hiện đại hoá, hoạt động của những người làm báo Đông

Dương tạp chí nhằm tác động vào quá trình này. Cụ thể qua các số báo:

-­   Năm 1913 và 1914: giai đoạn đầu của ấn bản Đông Dương tạp chí từ số 01

ngày 15/05/1913 đến 31/12/1914), (Thư viện Khoa học tổng hợp TP. HCM Micro film mã số MF 11845 của dự án SEAM)5

-­   1915: từ số 01 ngày 10/01. tới số 50 ngày 26 /12 (Viện thông tin Khoa học

xã hội, số hiệu Q8142)

5 Dự án của Hoa Kỳ nhằm bảo vệ những tài liệu của Đông Nam Á

-­   1916: từ số 104 đến số 120 (Viện thông tin Khoa học xã hội, số hiệu Q8142)

16

-­   Năm 1917: từ số 103 đến 125, 135 tới 154 (Viện thông tin Khoa học xã hội,

số hiệu Q8142)6

-­   Năm 1918, bị thiếu số 168 của tháng 4 cho đến số 185 của tháng 8 (Thư viện

Khoa học tổng hợp TP. HCM)7

-­   Năm 1919: chúng tôi chỉ có số 212.

Ngoài ra, luận án cũng tìm hiểu ảnh hưởng của Đông Dương tạp chí vào lúc đương

thời cũng như vào giai đoạn sau thông qua những hiện tượng văn hoá, văn học khác.

4. Đóng góp mới của luận án

4.1 Đóng góp về mặt khoa học

Luận án góp phần làm sáng tỏ vấn đề hiện đại hoá văn học, văn hoá trong bối

cảnh xã hội Việt Nam đầu thế kỷ XX; cho thấy mối quan hệ khăng khít của báo chí

và văn hoá, văn học. Nhìn nhận lại giai đoạn văn học này, cần xem xét đối tượng

bằng nhãn quan khoa học, toàn diện, khách quan, dựa trên bối cảnh lịch sử cụ thể.

Bằng việc đánh giá đúng hiện tượng Đông Dương tạp chí, luận án góp phần giải

thích sự phản ứng tự nhiên của một bộ phận văn hóa, văn học bản địa và của một bộ

phận con người bản địa trước sự ảnh hưởng của văn học thế giới qua con đường

xâm lược của chủ nghĩa thực dân.

4.2 Đóng góp về mặt thực tiễn

Luận án cung cấp những cứ liệu được xác minh về hoạt động của một tờ báo

quan trọng đầu thế kỷ XX, bổ sung những tài liệu và nhận định cho việc nghiên cứu

và giảng dạy lịch sử văn học và lịch sử báo chí của giai đoạn này. Thông tin chính

xác về ngày ra đời cũng như đình bản của tờ báo, những chặng đường hoạt động

cũng như sự thay đổi về mặt nội dung qua từng thời kỳ phát hành giúp những nhà

nghiên cứu có cơ sở để đánh giá một cách chính xác hơn những đóng góp cũng như

6 Những số báo của 1917 dưới dạng vi phim bao gồm những số 109, 114 đến 124; 126, 128 đ ến 132, 134 không có phần về văn học. Tuy nhiên, phần này lại có ở các số báo dạng giấy mà chúng tôi đã được truy cập ở thư viện Khoa học xã hội Hà Nội. 7 Phần văn học mặc dù được nêu rõ trong mục lục của từng số báo nhưng lại bị thiếu trong đa số các số báo của năm 1917 và 1918. Các số báo năm 1918 dưới dạng giấy hay Microfilm (Thư viện Khoa học hơp của TPHCM) đều không có mục “văn học”. Rất có thể phần văn học đã bị tách rời ra trước khi số báo này được đưa đến thư viện (tuy nhiên, không có dấu vết cho thấy rằng những trang của mục văn học đã bị xé).

những mặt hạn chế của tờ báo một thời từng được xem là “có vấn đề” này.

17

5. Phương pháp nghiên cứu

Đối với đề tài này, người viết kết hợp nhiều phương pháp khác nhau.

+ Phương pháp lịch sử: người viết sẽ đặt Đông Dương tạp chí vào bối cảnh xã hội

Việt Nam thuộc địa đầu thế kỷ và quá trình phát triển của báo chí quốc ngữ để vận

dụng để nghiên cứu, lý giải hoàn cảnh ra đời và hoạt động của Đông Đương tạp chí

(trong chương 1).

+ Phương pháp hệ thống và phương pháp loại hình: phương pháp này được

người viết vận dụng để hệ thống hoá, phân loại và trình bày những đóng góp của

Đông Dương tạp chí trên bình diện văn học và văn hoá (trong chương 2 và 3).

+ Ngoài ra luận án còn vận dụng phương pháp so sánh (so sánh Đông Dương

tạp chí với Nam Phong tạp chí), phương pháp phân tích (phân tích tác phẩm, thể

loại), thao tác tổng hợp (đúc kết vai trò và vị trí của Đông Dương tạp chí)…

6. Cấu trúc luận án

Luận án gồm 195 trang. Ngoài phần Dẫn nhập (18 trang), Kết luận (4

trang) và Thư mục (248 đề mục), luận án được triển khai thành 3 chương:

CHƯƠNG 1: Sự ra đời và hoạt động của Đông Dương tạp chí (53 trang)

Ở chương này, người viết sẽ trình bày bối cảnh xã hội Việt Nam và tầng lớp

trí thức đầu thế kỷ XX, tiền đề đưa đến sự ra rời của Đông Dương tạp chí và đồng

thời cũng là yếu tố chi phối sự biến chuyển về mặt nội dung của tờ báo qua từng

giai đoạn phát triển. Sau đó, người viết sẽ đề cập tới những đặc điểm của Đông

Dương tạp chí về mặt chủ trương và đội ngũ cũng như những chặng đường hoạt

động của tờ báo.

CHƯƠNG 2: Những đóng góp của Đông Dương tạp chí trong quá trình hiện

đại hoá văn học Việt Nam đầu thế kỷ XX (67 trang)

Ở chương này, người viết giới thiệu những ảnh hưởng của Đông Dương tạp chí

với sự phát triển của chữ quốc ngữ - ngôn ngữ văn học của dân tộc. Sau đó, chúng

tôi sẽ trình bày vấn đề Đông Dương tạp chí và sự tiếp thu tinh hoa văn học thế giới,

thể hiện qua mảng dịch thuật của tờ báo. Bên cạnh đó, vai trò của Đông Dương tạp

18

chí và sự phát triển các thể loại văn học mới (thơ, tiểu thuyết, kịch) cũng là đối

tượng được đánh giá trong chương mục này.

CHƯƠNG 3: Những đóng góp của Đông Dương tạp chí trong quá trình hiện

đại hoá văn hoá Việt Nam đầu thế kỷ XX (53 trang)

Trong chương này, chúng tôi cố gắng làm rõ những đóng góp của Đông

Dương tạp chí trong vấn đề canh tân giáo dục; vấn đề đổi mới phong tục, tập quán;

và vấn đề nữ quyền. Những đóng góp này đã tạo nên những tác động tích cực đến

quá trình hiện đại hóa văn hóa dân tộc đầu thế kỷ XX.

19

CHƯƠNG 1: SỰ RA ĐỜI VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA ĐÔNG DƯƠNG TẠP CHÍ

1.1. Bối cảnh xã hội Việt Nam và tầng lớp trí thức đầu thế kỷ XX

1.1.1 Bối cảnh xã hội

Khi các chiến hạm của Pháp nổ những phát súng đầu tiên ở cửa biển Đà

Nẵng năm 1858, xã hội Việt Nam như choàng tỉnh dậy sau một giấc ngủ dài. Trong

khi thế giới đang chuyển biến với cuộc cách mạng công nghệ dẫn đến nhu cầu đi

tìm thuộc địa của chủ nghĩa tư bản, thì giai cấp phong kiến Việt Nam đã để đất nước

chìm sâu trong sự lạc hậu và trì trệ. Trong quá khứ đã từng xuất hiện những tiếng

nói cảnh báo của những người trí thức ưu thời mẫn thế như Bùi Viện, Nguyễn

Trường Tộ, Nguyễn Lộ Trạch…, nhưng triều đình nhà Nguyễn và các quan lại vừa

thiển cận, vừa tự mãn, đã bỏ ngoài tai những lời khuyến nghị, ngày càng đưa đất

nước đến nguy cơ khủng hoảng.

Từ hoà ước Nhâm Tuất 1862 giao ba tỉnh miền Đông rồi ba tỉnh miền Tây

cho thực dân Pháp cho đến hoà ước Giáp Thân 1884 (Hòa ước Patenôtres, Pháp đã

hoàn thành việc xâm chiếm Việt Nam bằng quân sự. Một đất nước chia thành ba

khu vực với ba chế độ cai trị khác nhau: thuộc địa ở Nam Kỳ, bảo hộ ở Bắc Kỳ và

Trung Kỳ thuộc sự cai trị của Triều Nguyễn song do khâm sứ Pháp điều khiển. Nếu

ở Nam kỳ dân chúng có ít nhiều quyền tự do, dân chủ, thì ở Bắc và Trung Kỳ, ách

kìm kẹp của Pháp ngày càng siết chặt. Những cuộc nổi dậy và phản kháng của nhân

dân liên tiếp nổ ra, tiêu biểu là phong trào Cần Vương, phong trào Duy Tân, cuộc

binh biến ở Thái Nguyên, cuộc dân biến ở Trung Kỳ, cuộc khởi nghĩa của Nguyễn

Thái Học, phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh…; nhưng tất cả đều bị dìm trong biển

máu. Từ năm 1897 đến năm 1914 Pháp thực hiện đợt khai thác thuộc địa lần thứ

nhất và đến năm 1919, chúng bắt đầu đợt khai thác thuộc địa lần thứ hai (1919 -

1939). Những cơ sở đầu tiên của kinh tế tư sản bắt đầu phát triển trên toàn lãnh thổ

Việt Nam, đặc biệt là ở Bắc Kỳ và Nam Kỳ.

20

Khi chiếm trọn được sáu tỉnh Nam Kỳ, thực dân Pháp đã mưu toan thay đổi

toàn bộ nền giáo dục Việt Nam. Một số trường công lập thuộc thẩm quyền thị chính

được khai sinh ngay tại Sài Gòn.

Để thay đổi nền giáo dục cổ truyền vốn chịu nhiều ảnh hưởng của Trung

Hoa, thực dân Pháp bắt đầu đưa chữ quốc ngữ vào dạy trong trường học. Ban đầu là

những biện pháp khuyến khích, chẳng hạn như cho phép “mỗi làng, thị trấn của

tổng không có trường Pháp sẽ thiết lập một trường dạy quốc ngữ” hay “những làng

nhỏ có một trường dạy quốc ngữ sẽ được miễn mọi thuế đóng góp cho trường hàng

tổng” theo Nghị định 14.06.1880. Nhiều làng phải thuê người đi học cho đủ số

lượng. [86] Về sau, các biện pháp mạnh hơn được áp dụng để cưỡng chế học sinh đi

học. Nghị định 17.03.1879 về việc tổ chức nền học chánh mới ở Nam Kỳ đã ban

hành chương trình giáo dục Pháp – Việt ở Nam Bộ. Theo đó, chương trình Tiểu học

(ba năm) có dạy quốc ngữ, chương trình cấp 2 (ba năm) học cả chữ Nho và quốc

ngữ), chương trình cấp 3 (4 năm) dạy các văn thư, khế ước thông dụng, sử địa An

Nam mỗi tuần. [86]

Các kì thi theo kiểu cổ truyền cũng bị xoá bỏ. Trường hậu bổ được thành lập

để đào tạo những người làm quan cho Pháp. Nhiều học sinh, đặc biệt là các học sinh

công giáo được cử đi du học ở Pháp và các nước thuộc địa của Pháp. Số lượng học

sinh được học chương trình của Pháp tăng lên ngày càng đông khi hệ thống trường

Pháp -Việt được mở rộng tại Sài Gòn và một số thành phố, tỉnh lỵ lớn khác.

Sự thay đổi hình thức và nội dung giáo dục đã tạo ra một tầng lớp trí thức

mới cho xã hội – tầng lớp trí thức Tây học. Chính tầng lớp này đã hình thành nên

một đội ngũ sáng tác, một tầng lớp công chúng mới ở thành thị, tác động trực tiếp

tới sự hình hành và phát triển nền văn học chữ quốc ngữ ở Nam Bộ - cái nôi của báo

chí quốc ngữ cả nước.

Bên cạnh đó, việc bắt buộc sử dụng chữ quốc ngữ trong tất cả các văn bản

hành chính và các lĩnh vực khác cũng góp phần đẩy mạnh sự chuyển biến mạnh mẽ

về văn hoá xã hội của Việt Nam đầu thế kỷ XX. Đây là một trong những biểu hiện

21

rõ rệt nhất của việc mở rộng phạm vi ảnh hưởng của văn hoá phương Tây ở Việt

Nam.

Chữ quốc ngữ là loại chữ mà các giáo sĩ phương Tây hình thành bằng cách

sử dụng bộ chữ cái la-tinh quen thuộc có bổ sung thêm các dấu phụ (mà một số

ngôn ngữ phương Tây như chữ Bồ Đào Nha đã từng làm) để ghi âm tiếng Việt.

Khi nói đến sự hình thành và phát triển của chữ quốc ngữ ở Việt Nam, nhiều

người cho rằng linh mục Alexandre de Rhodes, đôi khi được gọi theo tên đã Việt

hoá là Đắc Lộ, là người đầu tiên đã sáng tạo ra chữ quốc ngữ. Năm 1651, linh mục

Alexandre de Rhodes đã biên soạn và cho in ở nhà in của Giáo hội La Mã tại Roma

(Ý) cuốn Từ điển Việt-Bồ-La (Dictionarium annamiticum, lusitanum et latinum).

Cũng trong năm này, ông cho in cuốn sách giảng đạo nhan đề là Phép giảng tám

ngày cho kẻ muốn chịu phép rửa tội mà vào đạo thánh Đức chúa Trời, cuốn sách

đầu tiên in bằng chữ quốc ngữ. [5]

Tuy nhiên, sự thật thì các giáo sĩ phương Tây đã tới Việt Nam và bước đầu

đặt nền móng cho việc hình thành chữ quốc ngữ từ trước đó. Tháng 10-1629, một

linh mục người Bồ Đào Nha là Gaspar d’Amaral lần đầu tiên tới Đàng Ngoài cùng

với một người Nhật Bản là thầy Paulus Saito. Trong thời gian ở Việt Nam, linh mục

Gaspar d’Amaral đã đi sâu nghiên cứu và học rất nhanh chữ quốc ngữ, khi ấy mới ở

dạng phôi thai, còn hết sức sơ khai. Ông đã để lại hai tài liệu viết tay vào các năm

1632 và 1637, trong đó ghi lại hàng loạt chữ quốc ngữ. Sau đó, ông bắt tay vào soạn

cuốn Từ điển Việt-Bồ-La (Diccionário anamita-português-latinum) nhưng tiếc thay

cuốn từ điển chưa kịp ấn hành thì ông đã qua đời trên đường từ Ma Cao quay trở lại

Đàng Ngoài để tiếp tục truyền giáo (23-12-1645) do tàu chở ông bị đắm. Cuốn từ

điển mà linh mục Gaspar d’Amaral đang soạn dở dang đã bị thất lạc. [8]

Một linh mục Dòng Tên thứ hai người Bồ Đào Nha cũng có những đóng góp

ở bước sơ khởi trong việc hình thành chữ quốc ngữ tại Việt Nam là linh mục

Antonio Barbosa. Ông đã soạn thảo một cuốn Từ điển Bồ-Việt (Diccionário

português-anamita), từ tiếng Bồ Đào Nha sang tiếng Việt, có lẽ trong thời gian 6

năm ở Đàng Ngoài. Nhưng cũng giống như số phận cuốn từ điển soạn dở của linh

22

mục Gaspar d’Amaral, cuốn tự điển của linh mục Antonio Barbosa cũng bị “mất

tích” và không ai biết được là nó đã bị huỷ hoại hay thất lạc đâu đó. [8, 67]

Chính dựa trên những cuốn từ điển (sau bị thất lạc) này mà linh mục

Alexandre de Rhodes đã soạn ra cuốn Từ điển Việt-Bồ-La in năm 1651 và được coi

như là người có công sáng tạo ra chữ quốc ngữ. Công lao lớn của Alexandre de

Rhodes là ở chỗ ông đã dựa trên thành quả của những người đi trước để trở thành

người soạn thảo và cho in thành sách những công trình đầu tiên về chữ quốc ngữ ở

Việt Nam.

Ngoài ra, trong sự hình thành chữ quốc ngữ, bên cạnh những nỗ lực cá nhân

của Alexandre de Rhodes, còn có sự đóng góp của nhiều người khác nữa, trong đó

không loại trừ có cả những người Việt Nam.

Mặc dù đã có những công trình như thế nhưng chữ quốc ngữ vẫn không được

phổ biến rộng rãi ở Việt Nam, đặc biệt là trong quảng đại dân chúng. Trong suốt

hơn 200 năm sau đó, chữ quốc ngữ chỉ được sử dụng ở một phạm vi hẹp trong

khuôn khổ nhà thờ Thiên Chúa giáo để phục vụ cho mục đích truyền đạo của các

giáo sỹ như dịch Kinh thánh, soạn các sách truyền đạo.

Trong suốt thời gian đó, một số giáo sĩ phương Tây đã nỗ lực nhằm hoàn

thiện dạng thức chữ quốc ngữ sơ khai mà Alexandre de Rhodes đã tạo ra. Điển hình

trong số đó là những sửa đổi của Đức Giám mục Pierre Joseph Georges Pigneaux

de Béhaine, thường được biết đến ở Việt Nam dưới tên gọi Bá Đa Lộc. Giám mục

Bá Đa Lộc là người đã khởi soạn Từ điển An nam-Latinh (1772-1773). Công trình

đang còn dở dang thì được cố đạo Tabert tiếp nối. Tới năm 1838, cha Tabert đã cho

in tại Serampur, Ấn Độ, cuốn Từ điển Việt-Latinh (Dictionarium annamitico-

latinum) có ghi thêm chữ Nôm bên cạnh chữ quốc ngữ (cuốn từ điển này thường

được biết tới dưới tên gọi là Từ điển Tabert). Trừ một số trường hợp cá biệt, chữ

quốc ngữ trong Từ điển Tabert về cơ bản đã có dạng thức như ngày nay.

Sau khi Pháp đã hoàn thành việc chiếm đóng và trực tiếp cai trị Nam Kỳ từ

năm 1867, chính quyền cai trị đã đẩy mạnh việc dạy học tiếng Pháp và chữ quốc

ngữ. Một số học giả, nhà bác học thời bấy giờ, chủ yếu ở Nam Kỳ, như Trương

23

Vĩnh Ký, Huỳnh Tịnh Của cũng đã có nhiều công trình nhằm phổ biến và truyền bá

chữ quốc ngữ trong dân chúng trong giai đoạn cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX.

Người đi tiên phong trong việc xây dựng và truyền bá chữ quốc ngữ, đặc biệt

ở Nam Kỳ, là Trương Vĩnh Ký.

Trương Vĩnh Ký vốn họ tên là Trương Chánh Ký, tên thánh là Pétrus Jean

Baptiste, sau đổi là Trương Vĩnh Ký, gọi tắt là Pétrus Ký. Trong lĩnh vực phát triển

chữ quốc ngữ, Trương Vĩnh Ký là tác gia đầu tiên và lớn nhất của văn học chữ quốc

ngữ Việt Nam cuối thế kỷ XIX. Ông là người Việt Nam đầu tiên cho in sách bằng

chữ quốc ngữ (1866), viết du ký bằng chữ quốc ngữ, phiên âm ra chữ quốc ngữ các

tác phẩm chữ Nôm và chữ Hán; là người Việt Nam đầu tiên viết sử Việt Nam và

ngữ pháp tiếng Việt bằng tiếng Pháp; là soạn giả Việt Nam đầu tiên làm từ điển đối

dịch Pháp-Việt, Hán-Việt-Pháp; là nhà báo người Việt đầu tiên làm chủ bút một tờ

báo (tờ Gia Định báo, từ 1869, sau E.Potteaux, trước Huỳnh Tịnh Của) và ra nguyệt

san (tờ Thông loại khoá trình, 1888-1889, với tư cách tư nhân).

Một học giả khác cũng có công trong việc phát triển chữ quốc ngữ buổi ban

đầu là Huỳnh Tịnh Của, thường gọi là Paulus Của, có thời gian ngắn làm chủ bút tờ

Gia Định báo sau Trương Vĩnh Ký. Công trình lớn nhất của ông là Đại Nam quấc

(quốc) âm tự vị. Đây là bộ từ điển tường giải đầu tiên về tiếng Việt do một tác giả

người Việt biên soạn theo phương pháp học thuật Âu Tây, thu thập được một vốn từ

khá lớn của tiếng Việt trên phạm vi cả nước. [5, 173-174]

Quá trình đấu tranh giằng co giữa chữ Hán với chữ quốc ngữ kéo dài sang

đến thời kỳ đầu thế kỷ XX với sự thắng thế dần dần của chữ quốc ngữ. Năm 1915,

vua Duy Tân ra chỉ dụ bãi bỏ các khoa thi hương, hội, đình ở Bắc Kỳ. Năm 1918,

vua Khải Định ra chỉ dụ bãi bỏ các khoa thi này ở Trung Kỳ và đến năm 1919 thì

bãi bỏ hoàn toàn các trường dạy chữ Nho, thay thế bằng hệ thống trường Pháp-Việt.

Ngày 18-9-1924, toàn quyền Đông Dương Merlin đã ký quyết định đưa chữ quốc

ngữ vào dạy ở ba năm đầu cấp tiểu học. [8]

Như vậy là sau gần ba thế kỷ từ khi cuốn từ điển Việt-Bồ-La của Alexandre

de Rhodes ra đời và hơn nửa thế kỷ sau khi Pháp nổ tiếng súng đầu tiên xâm lược

24

Việt Nam, người Việt Nam đã chính thức đoạn tuyệt với chữ Hán của người Trung

Hoa và chữ Nôm để hoàn toàn chuyển sang dùng chữ quốc ngữ.

Một biểu hiện khác nữa của việc mở rộng ảnh hưởng văn hoá phương Tây tại

Việt Nam, tạo tiền đề cho sự ra đời của Đông Dương tạp chí chính là sự ra đời phát

triển của báo chí quốc ngữ đầu thế kỉ XX, khởi nguồn từ Nam Bộ.

Năm 1865, vẫn đang còn trong quá trình thôn tính Nam Kỳ, thực dân Pháp

đã cho xuất bản tờ Gia Định báo bằng chữ quốc ngữ.

Gia Định báo phát hành số đầu tiên vào ngày 15- 04 - 1865, do một người

Pháp tên là Ernest Potteaux, một viên thông ngôn làm việc tại Soái phủ Nam Kỳ

làm chánh tổng tài (một chức danh được hiểu là chủ nhiệm kiêm chủ bút) tới năm

1869 thì chuyển sang cho Trương Vĩnh Ký làm chủ bút (cho tới ngày 31-12-

1871).[84] Tờ báo tồn tại đến ngày 31 tháng 12 năm 1909 (44 năm) và chính thức

đình bản vào 01 tháng 01 năm 1910.

Xét về mặt thông tin, Gia Định báo thực chất là một tờ công báo của chính

quyền nhằm phổ biến các văn kiện chính thức của chính quyền xâm lược trong dân

chúng Việt Nam, đồng thời góp phần truyền bá chữ quốc ngữ. Khi cho ra đời tờ Gia

Định báo, chính quyền cai trị thực dân muốn thông qua đây để truyền bá những tư

tưởng, văn hoá, thành tựu công nghệ của Pháp, đồng thời cũng qua việc thúc đẩy học chữ quốc ngữ để đầy lùi ảnh hưởng của Nho giáo thông qua chữ Hán. 8

Với mục đích như vậy, thời gian đầu Gia Định báo chỉ phổ biến về các vấn

đề chính trị, pháp lý, công quyền, đăng các công văn, nghị định, thông tư, đạo dụ

của chính quyền, các tin tức địa phương trên các lĩnh vực: kinh tế, tôn giáo, văn hóa

- xã hội...

Năm 1869, khi Trương Vĩnh Ký tiếp quản tờ báo với vai trò giám đốc và bổ

nhiệm Huỳnh Tịnh Của làm chủ bút, Gia Định báo được thêm các phần khảo cứu,

nghị luận, gồm các bài dịch thuật, sưu tầm, khảo cứu, sáng tác thơ, văn, lịch sử,

8 Mục đích này được thể hiện rõ trong văn thư đề ngày 9 -5-1865 của Thống đốc chỉ huy trưởng Nam Kỳ lúc bấy giờ là ông G. Roze gửi cho Bộ trưởng Bộ thuộc địa Pháp.

truyện cổ tích... Trong đó nổi bật là mục Tục ngữ An Nam, đăng làm nhiều kỳ, chủ

25

yếu do Paulus Huỳnh Tịnh Của phụ trách, một số truyện viết bằng văn vần dài kỳ

như Nhị thập tứ hiếu diễn ca, Chánh khí ca...

Để thúc đẩy việc học chữ quốc ngữ, báo có một số mục do Thế tải Trương

Minh Ký (học trò của Trương Vĩnh Ký) phụ trách, trong đó có phân tích khá kỹ

càng những mẹo luật trong việc sử dụng chữ quốc ngữ, cách dùng các chữ thế nào

cho chính xác...

Nhờ công của Trương Vĩnh Ký, Gia Định báo không chỉ làm một tờ công

báo đơn thuần nữa mà trở thành một phương tiện góp phần cổ động việc học chữ

quốc ngữ và lối học mới. Gia Định báo dùng rất ít từ Hán Việt nên câu văn như lời

nói, rất dễ đọc. Đây là đóng góp rất lớn của tờ báo vào thời điểm bấy giờ, khi chữ

quốc ngữ còn mới manh nha được sử dụng trên báo chí như một sự thể nghiệm.

Thành công này của Gia Định báo đã mở đường cho các thể loại văn xuôi Việt Nam

in bằng chữ quốc ngữ, đặt nền móng cho sự hình thành báo chí Việt Nam.

Bên cạnh Gia Định báo, Trương Vĩnh Ký còn phụ trách tờ Thông loại khoá

trình. Đây là tờ báo tư nhân đầu tiên và cũng là tạp chí văn học đầu tiên của nước ta.

Mảng văn học trên Thông loại khoá trình đã dạy cho độc giả của tờ báo (là học sinh

- theo tôn chỉ ghi trên trang bìa) biết chữ nghĩa văn chương và tập viết văn chương. Sau Gia Định báo, năm 1898 Phan Yên báo9 ra đời, chủ bút là Diệp Văn

Cương. Tương tự như Gia Định báo, Phan Yên báo cũng cung cấp các tin địa

phương và thư độc giả bằng chữ quốc ngữ, nhưng do các bài được đăng có tính

chính trị nên chỉ sau 7 số báo từ tháng 12 – 1898 đến tháng 2 - 1899, báo bị chính

quyền thực dân Pháp cho đóng cửa.

Năm 1901, Nông cổ mín đàm, tờ báo kinh tế đầu tiên bằng chữ quốc ngữ ra

đời theo nghị định của Toàn quyền Đông Dương Paul Doumer ban hành tại Sài Gòn

ngày 14 tháng 2 năm 1901. Nông cổ mín đàm có nghĩa là “Trà đàm về chuyện nông

nghiệp và thương nghiệp”, được chú thích bằng tiếng Pháp ngay dưới nhan đề tờ

9 Có giai thoại cho rằng, cái tên báo "Phan Yên" là một cách nói lái từ "Phiên An", một cái tên cũ của Gia Định.

báo: “Causeries sur l’agriculture et le commerce”. Số báo đầu tiên phát hành vào

26

ngày 01- 08- 1901. Chủ nhân của tờ báo là ông Canavaggio, một chủ đồn điền - nhà

buôn người Pháp.

Trong suốt 23 năm tồn tại của mình (1901- 1924) Nông cổ mín đàm đã có

những đóng góp to lớn cho phát triển nền báo chí, nền văn học chữ quốc ngữ tại

Nam Kỳ nói riêng và Việt Nam nói chung. Tờ báo tập trung khá nhiều cái “đầu

tiên” thú vị: tờ báo tư nhân đầu tiên; tờ báo kinh tế Việt ngữ đầu tiên; tờ báo đầu

tiên đăng tiểu thuyết nhiều kì để thu hút độc giả và đây cũng là tờ báo đầu tiên tổ

chức một cuộc thi viết tiểu thuyết quốc ngữ theo lối mới đầu tiên trong lịch sử văn

học nước ta. Tờ báo đã tập hợp và sản sinh ra những nhà văn tài năng nhất của văn

học Nam Bộ thời bấy giờ như Nguyễn Chánh Sắt, Lê Hoằng Mưu, Trần Chánh

Chiếu, Phạm Minh Kiên… Điều đó cho thấy rằng vượt ra khỏi mục đích chính ban

đầu, Nông cổ mín đàm đã trở thành “mảnh đất ươm mầm cho một thể loại văn học

mới phát triển, đơm hoa và kết trái: đó là tiểu thuyết viết bằng chữ quốc ngữ”. [2]

Sáu năm sau khi Nông cổ mín đàm ra đời, Lục tỉnh tân văn xuất bản số đầu

tiên ngày 14- 11-1907. Tờ báo do F.H. Schneider – một chủ nhà in người Pháp sáng

lập. Chủ nhiệm của tờ báo cũng là một người Pháp tên là Pierre Jeantet, chủ bút là Trần Nhật Thăng, biệt hiệu Đông Sơ tức Gilbert Trần Chánh Chiếu10. Báo xuất bản

mỗi tuần 3 lần vào các ngày thứ 2, thứ 4 và thứ 6. [74]

Dưới thời của chủ bút Trần Chánh Chiếu, về chính trị, Lục tỉnh tân văn cổ

động công kích chính quyền thuộc địa qua việc đăng nhiều bài có khuynh hướng

chống Pháp; về kinh tế, tờ báo kêu gọi đồng bào cạnh tranh với Hoa kiều để giành lấy quyền lợi, góp phần đưa đến phong trào tẩy chay hàng hóa của “các chú” 11

khiến chính quyền Pháp phải ra tay dàn xếp. Chính vì xu hướng hoạt động đó, Lục

tỉnh tân văn bị nhà cầm quyền chú ý. Cuối tháng 10 năm 1908, chủ bút Trần Chánh

10 Trần Chánh Chiếu là một đại điền chủ có quốc tịch Pháp. Ông là một trí thức yêu nước, một nhà tư sản dân tộc có tinh thần cách mạng, từng bí mật hoạt động với Hoàng thân Cường Để. Sau khi sang Hongkong để gặp Phan Bội Châu, trở về nước, Trần Chánh Chiếu công khai cổ động một phong trào gọi là Cuộc minh tân tại Nam Kỳ. Nhờ hoạt động duy tân hăng hái của ông, có hàng trăm du học sinh là con em của các địa chủ tại Nam Kỳ đã sang Nhật học tập . 11 Tiếng thông dụng ở Nam Kỳ, chỉ Hoa Kiều

Chiếu bị bắt, Lương Khắc Ninh đảm nhận vai trò chủ bút tiếp theo của tờ báo.

27

Năm 1921, Schneider bán lại tờ báo cho ông huyện Của, tức tri huyện hàm

Nguyễn Văn Của, một nhân vật rất nổi tiếng tại Nam Kỳ thời bấy giờ. Đến ngày 03-

10-1921, Lục tỉnh tân văn hợp nhất với Nam Trung nhật báo (số đầu tiên ra ngày

03-10-1921 do Diệp Văn Kỳ làm chủ bút) lấy tên chung là Lục tỉnh tân văn. Tờ báo

tiếp tục xuất bản cho đến năm 1944 với rất nhiều chủ bút khác nhau sau Lê Hoằng

Mưu. Lục tỉnh tân văn là tờ báo có uy tín bậc nhất vào thời đó. Nhiều cây bút của

miền Bắc, miền Trung vào học nghề làm báo tại đây. Trong đó có Nguyễn Văn

Vĩnh, Phan Khôi, Trần Huy Liệu, Tản Đà...Chính tờ Lục tỉnh tân văn sau này còn

có một ấn bản đặc biệt phát hành ở Bắc Kỳ cũng do Francois Henri Schneider chủ

trương, đó chính là Đông Dương tạp chí.

Tuy nhiên, những tờ báo nói trên chưa phải là nhật báo. Tờ báo hàng ngày xuất bản sớm nhất có lẽ là Công Luận báo (1918)12. Công Luận báo đã đóng góp

cho tiểu thuyết Nam Bộ rất nhiều tác phẩm của các tên tuổi như Biến Ngũ Nhi, Lê

Hoằng Mưu, Hồ Biểu Chánh, Phú Đức, Dương Minh Đạt, Nam Đình Nguyễn Thế

Phương, Nguyễn Ý Bửu, Trần Quang Nghiệp, Bửu Đình…

Tại miền Bắc, do những khác biệt về chế độ chính trị, sự đầu tư về mọi mặt

của thực dân Pháp muộn hơn, dẫn đến sự ra đời muộn hơn của báo chí quốc ngữ.

Năm 1905, Đại Việt tân báo (tên tiếng Pháp là L’Annam), tờ báo tư nhân đầu

tiên in một phần bằng chữ quốc ngữ, một phần chữ Hán xuất hiện ở Hà Nội. Chủ

báo là ông Ernes Babut (1878-1962), một người Pháp được biết đến trong phong

trào đấu tranh đòi dân quyền cho người Việt cùng với những nhà cách mạng Việt

Nam dưới thời Pháp thuộc đầu thế kỉ 20. Trụ sở báo đặt ở số 90 phố Hàng Mã với

Đào Nguyên Phổ làm chủ bút. Tờ báo này đã đăng những bài xã luận đầu tiên của

Phan Châu Trinh. Sau khi biết đến đường lối tranh đấu ôn hòa của Phan Châu

12 Thực ra, tiền thân của nó – tờ Tân Đợi thời báo do Lucien Héloury sáng lập, Nguyễn Kim Đính làm chủ biên đã xuất bản số đầu tiên vào năm 1916. Lucien Héloury cũng làm chủ nhiệm tờ báo Pháp văn L’Opinion xuất bản từ 1899 đến 1934. Ngày 28 – 09 – 1916 Tân Đợi thời báo đổi tên là Công Luận báo, xuất bản tuần 2 lần. Đến 1918 Công Luận báo xuất bản hàng ngày nhưng đây thực chất là ấn bản tiếng Việt của L’Opinion.

Trinh, Babut liền mời ông về cộng tác. Vị chủ bút người Pháp này được cho là có

28

thiện cảm công khai với các nhà ái quốc người Việt và đã dùng Đại Việt tân báo là

cơ quan ngôn luận không chính thức của Đông Kinh nghĩa thục.

Trước Đại Việt tân báo có Đại Nam đồng văn nhật báo xuất bản năm 1892,

chủ báo là ông F.C.Schneider nhưng ban đầu xuất bản hoàn toàn bằng chữ Hán, mãi

đến năm 1907 mới có thêm phần chữ quốc ngữ bên cạnh phần Hán văn. Đây chỉ là

một tờ công báo, tập hợp những thông báo, thông cáo của chính quyền thuộc địa để

thông tin cho người dân về các chính sách của chính quyền.

Ngày 28-3-1907, tờ Đại Nam Đăng Cổ tùng báo13 ra đời. Chủ báo là F.C.

Schneider và chủ bút là Nguyễn Văn Vĩnh.

Về nội dung, Đăng Cổ tùng báo bắt đầu có các đặc trưng của một tờ báo hiện

đại như phần tin tức trong nước, ngoài nước (dưới tên gọi Việc vặt các tỉnh, Việc vặt

ở Hà Nội, Việc vặt ở Hải Phòng, Điện báo toàn cầu...); phần xã thuyết, chủ yếu do

ông Nguyễn Văn Vĩnh viết ký dưới những tên gọi khác nhau như Tân Nam Tử, Mũi

Tẹt Tử, Nguyễn Văn Vĩnh, bàn về các vấn đề trong xã hội, thuộc đủ mọi lĩnh vực từ

kinh tế, chính trị đến thói hư tật xấu trong đời sống của người dân...

Bắt đầu từ số 799 ra ngày 9-5-1907, báo có thêm một mục mới là Nhời đàn

bà, đều do Nguyễn Văn Vĩnh viết với bút danh Đào Thị Loan (tên con gái Nguyễn

Văn Vĩnh), chủ yếu bàn về các vấn đề của phụ nữ như mối quan hệ trong gia đình,

chuyện vợ chồng, ăn mặc, vợ cả vợ lẽ, trinh tiết…những chuyện mà chị em phụ nữ,

lớp độc giả ngày càng quan trọng, đang quan tâm.

Báo cũng dành trang để đăng những bài thơ, phú trong phần Tập thơ, phú,

ca, rao. Riêng phần thơ dịch, chủ yếu do ông Nguyễn Văn Vĩnh dịch những bài thơ

ngụ ngôn của La Fontaine như Truyện quạ, cáo; Chuyện con ve và con kiến;

Chuyện con nhái muốn to bằng con bò; Ếch cầu vua...Ngoài ra, báo cũng có các

phần Nhời rao hẹn, Cáo bạch rao hàng, chính là tiền thân của quảng cáo trên báo

13 Đăng Cổ tùng báo, hiểu theo nghĩa nôm na, là “Khêu đèn gióng trống”. Sở dĩ vẫn còn chữ Đại Nam ở đầu bởi vì thực chất, đây chính là tiếp nối của tờ Đại Nam Đồng Văn nhật báo. Do Đại Nam Đồng Văn nhật báo đã ra đến số 792 nên số 793 của Đại Nam Đồng Văn nhật báo chính là số 1 của Đại Nam Đăng Cổ tùng báo (thường chỉ được gọi tắt là Đăng Cổ tùng báo).

hiện đại sau này.

29

Số cuối cùng của Đăng Cổ tùng báo là số 826, ra ngày 14-11-1907 [74, 173].

Sự đóng cửa của tờ báo có liên quan đến phong trào duy tân nổi tiếng lúc bấy giờ:

Đông Kinh nghĩa thục.

Vào đầu thế kỷ XX, Pháp hầu như đã hoàn thành quá trình bình định, dẹp

yên các cuộc khởi nghĩa yêu nước tại Việt Nam (chỉ còn phong trào Khởi nghĩa Yên

Thế của Đề Thám còn đang hoạt động, nhưng chỉ ở diện hẹp và bị dập tắt hoàn toàn

vào năm 1913). Song song với sự phát triển kinh tế, những tư tưởng tư bản cũng du

nhập và phát triển bên trong Việt Nam. Việc nhận thức bối cảnh quốc tế của trí thức

Việt Nam diễn ra trong khuôn khổ kinh tế chính trị do bốn loạt sự kiện cấu thành:

duy tân Minh Trị, chiến tranh Nga – Nhật (1905), cách mạng Trung Quốc (1919) và

đại chiến thế giới thứ nhất.

Các nhà Nho có tư tưởng tiến bộ nhận thức được sự yếu kém của Khổng

giáo, chứng kiến nước Nhật Bản duy tân mà thắng đế quốc Nga nên đã quyết định

phải thay đổi tư tưởng, cách thức học tập trong nước nhằm mục đích tự cường hy

vọng một cuộc đổi mới. Từ đây, phong trào Duy Tân chịu ảnh hưởng của Tân

Khổng giáo đã chuyển từ lý thuyết tư biện sang thực tiễn hành động chiến đấu.

Tháng 3 năm 1907, Đông Kinh nghĩa thục bắt đầu được khai giảng ở phố Hàng

Đào, Hà Nội dựa trên khuôn mẫu Khánh ứng nghĩa thục (Đại học Keio tại Nhật Bản14), một mô hình vô cùng thành công của phong trào Minh Trị duy tân.

Tuy nhiên, không phải ngay từ đầu, chiến thắng vang dội của Nhật Bản trước

nước Nga như một biểu tượng của sự phục thù huy hoàng của người da vàng đối với

người da trắng đã được các trí thức Việt Nam lưu ý mà phải hàng năm sau họ mới

14 Dưới thời Thiên hoàng Minh Trị, học giả Fukuzawa Yukichi ( Phúc Trạch Dụ Cát, 1835 - 1901) đã thành lập Trường Khánh Ứng Nghĩa thục vào năm 1868 ở Nhật Bản theo mô hình "public school" của nước Anh bao gồm việc truyền bá bốn tính cách quan trọng cho học sinh đó là tính tự cường , ý chí độc lập, óc tháo vát và lòng tự nguyện đóng góp vào các việc công ích, công thiện. 15 Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh đã từng sang Nhật gặp gỡ và đàm đạo trực tiếp với Lương Khải Si êu và mỗi người đã tiếp thu từ nhà cải cách nổi tiếng này những tư tưởng, những chủ trương khác nhau để sau đó, khi về nước, người thì chủ trương bạo động, người thì chủ trương cải lương, nhưng cả hai đều hướng về mục tiêu duy tân, mục tiêu dân tộc.

quan tâm mặn mà hơn. Việc đào sâu phân tích sự kiện này chỉ xảy ra dưới sự ảnh hưởng của các nhà cải cách Trung Quốc (nhất là Lương Khải Siêu)15.

30

Tiếng vang của phong trào cải lương chủ nghĩa và cải cách ở Trung Quốc đã

được các nhà trí thức Việt Nam lĩnh hội sâu sắc bởi sự tương đồng về văn hoá cũng

như tộc người và sự tương đồng về lịch sử “đồng văn, đồng chủng, đồng cảnh ngộ”.

Mặt khác, do sự tiếp giáp về biên giới nên “Tân thư” của các nhà duy tân Trung

Quốc có thể thâm nhập một cách nhanh chóng vào Việt Nam, tạo nên một sự hâm

mộ chưa từng có trong đông đảo tầng lớp trí thức Việt Nam.

Có thể nói rằng phong trào Duy Tân và Đông Kinh nghĩa thục ở Việt Nam

chịu ảnh hưởng của các nhà duy tân Trung Quốc nhiều hơn là từ các nhà cải cách

của Việt Nam thế hệ trước đó như Nguyễn Trường Tộ, Nguyễn Lộ Trạch hay Phạm

Phú Thứ..mà những cải cách của họ, nếu được Triều đình nhà Nguyễn áp dụng thì

có lẽ chúng ta còn có một cuộc duy tân sớm hơn duy dân Minh Trị ở Nhật Bản.

Điều này một lần nữa chứng tỏ sự phụ thuộc vô cùng to lớn về ý thức hệ của trí thức

Việt Nam từ người láng giềng Trung Quốc.

Tuy nhiên, ảnh hưởng của Minh Trị duy tân ở Việt Nam cũng khác đôi chút

với Trung Quốc. Trong khi gương sáng duy tân Minh Trị khuyến khích ý chí thay

đổi của các trí thức Trung Quốc và tạo điều kiện dễ dàng cho các cuộc cải tổ lịch sử

của họ (như Mậu Tuất chính biến – 1898), thì các cuộc cải cách ở Việt Nam còn

gắn bó bền bỉ với truyền thống nuôi dưỡng lòng yêu nước. Do vậy, thành quả cao

nhất của phong trào duy tân ở Việt Nam là ở lĩnh vực tư tưởng, là sự thắng thế của

“tân học” trong nhận thức của trí thức Việt Nam thời bấy giờ. Sự thắng thế đó càng

quí báu hơn nữa khi phần lớn những người ủng hộ “tân học” là những người đỗ đạt

cao trong các kỳ thi. Như vậy, ít nhất điều này cho thấy khả năng vượt qua quan

điểm dân tộc chủ nghĩa hẹp hòi cơ cựu và tính bảo thủ truyền thống của Khổng giáo

của trí thức nho học Việt Nam nhằm hướng tới văn minh hiện đại.

Việc xích lại gần Nhật Bản của trí thức Việt Nam không phụ thuộc vào cơ

hội chiến thuật hay chiến lược. Nó nằm trong tầm nhìn mang tính toàn cầu hơn và

văn hoá hơn. Trên thực tế, khuôn mẫu Nhật Bản đã mê hoặc người Việt bởi hai lí

do: đó là họ thể hiện khả năng lớn trong việc cải cách và cuộc cải cách đã thành

31

công vang dội, trong khi vẫn giữ nguyên vẹn những nền tảng văn hoá, luân lý của

Khổng giáo và sự phụ thuộc vào vùng ảnh hưởng của văn hoá Trung Quốc.

Vì Nhật Bản đã trở thành “tấm gương chung cho chúng ta” (Phan Bội Châu,

Đề tinh quốc dân ca) nên các trí thức Việt Nam muốn dựa vào tình đoàn kết giống

nòi và văn hoá để cứu dân tộc Việt Nam khỏi sự xâm lược từ phương Tây. Họ mong

ước có một sự liên kết giữa các trí thức Việt Nam, Trung Quốc, Nhật Bản trong

cùng một trận chiến văn hoá để chống lại văn hoá phương Tây.

Sự khác biệt giữa phong trào Duy Tân Minh Trị của Nhật Bản và phong trào

duy tân ở Việt Nam mà đại diện là Đông Kinh nghĩa thục đến từ nhiều yếu tố.

Trong đó, nguyên nhân lớn nhất là từ tầng lớp lãnh đạo phong trào.

Người sáng lập và đứng đầu phong trào Duy Tân ở Nhật Bản là Thiên hoàng

Mutsuhito. Không có gì lợi thế hơn cho một cuộc cải cách khi người đứng đầu cuộc

cải cách đó lại là người có quyền lực cao nhất. Từ Thiên Hoàng đến các đại danh

đều có sự nhất trí cao vì một mục tiêu duy tân Nhật Bản. Minh Trị duy tân do vậy

thành công vì nó không mâu thuẫn với lợi ích của giai cấp thống trị.

Trong khi đó ở Việt Nam, Đông Kinh nghĩa thục được sáng lập bởi các nhà

Nho có tư tưởng tiến bộ. Do là một nhóm tự phát, những người sáng lập và phong

trào Đông Kinh nghĩa thục phải chịu sự lệ thuộc vào chính quyền thuộc địa. Lẽ dĩ

nhiên, chính quyền thực dân không thể nào ủng hộ một phong trào có thể trở thành

một mối nguy đối với chế độ thuộc địa. Những hoạt động của các văn thân và sỹ

phu yêu nước khi ấy, tuy về danh nghĩa mới chỉ nằm ở trong phạm vi giáo dục,

nhưng cũng đã khiến cho giới chức cầm quyền thực dân lo ngại. Vì thế, tuy rằng

ban đầu cho phép Đông Kinh nghĩa thục hoạt động hợp pháp nhưng về sau nhận

thấy những đe dọa từ phong trào này, vào tháng 11 năm 1907 trường bị chính quyền

thực dân buộc phải giải tán.

Do phong trào duy tân Nhật Bản là một chính sách ở tầm vóc quốc gia, do

những tầng lớp cai trị điều hành, lẽ dĩ nhiên, nó diễn ra ở tất cả các mặt của đời

sống kinh tế xã hội của Nhật Bản từ quân sự đến pháp luật, giáo dục, kinh tế v.v...

Còn đối với Việt Nam, duy tân mới thực sự diễn ra ở lĩnh vực văn hoá, giáo dục.

32

Về chính trị-xã hội, phong trào duy tân đầu thế kỉ XX ở Việt Nam là một

cuộc vận động dân tộc, dân chủ; về tư tưởng, nó là một cuộc vận động khai sáng.

Công việc có ý nghĩa nhất mà phong trào đem lại là tuyên truyền, giáo dục cho

đông đảo dân chúng những tư tưởng mới. Để có thể trình bày, giải thích những tư

tưởng mới đó cần phải có một hệ thống ngôn ngữ chính xác, minh bạch; nghệ thuật

trình bày, biện luận chặt chẽ, khúc chiết để cho quần chúng nghe. Nhưng đại đa số

nhân dân không biết chữ Hán và chữ Nôm, vì vậy những người tham gia Đông Kinh

nghĩa thục đã bắt tay vào cải cách chữ quốc ngữ, cải cách văn tự, cách tân nghệ

thuật văn chương thông qua việc dịch thuật và biên soạn “tân thư”. Trên phương

diện văn học, nếu như ở Nhật Bản và Trung Quốc, “tân thư” là cơ sở để hình thành

tân văn (văn bạch thoại), phê phán cổ văn, đưa đến cho văn học các nước này những

phẩm chất mới về ngôn ngữ, thể loại và chức năng thẩm mỹ của văn học… thì ở

Việt Nam, “tân thư” cũng là một trong số những yếu tố tác động tích cực để hình

thành nền tân học và tân văn. Sáng tác của Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh,

Nguyễn Thượng Hiền… và các tiểu luận của Huỳnh Thúc Kháng, Ngô Đức Kế…

thể hiện một quan niệm mới về văn học, phá vỡ quy phạm quen thuộc, gò bó của từ

chương Trung Hoa. Thơ văn từ chỗ là thú chơi tao nhã, để tỏ chí tỏ lòng, để thù tạc

ngâm vịnh, đến lúc này đã trở thành lợi khí duy tân, thành công cụ tư tưởng, gắn bó mật thiết với đời sống xã hội và mang hơi thở của thời đại16.

Dù không thành công nhưng ngọn gió duy tân Đông Kinh nghĩa thục thực sự

ảnh hưởng sâu sắc đến con đường hoạt động của Đông Dương tạp chí.

Với chủ trương duy tân, tư sản hoá đất nước để giành độc lập, Đông Kinh

nghĩa thục đã mở cánh cửa về phía Âu Mỹ để cải cách văn học Việt Nam. Việc làm

có ý nghĩa này đã tạo ra một di sản quí báu cho những nhà cải cách sau đó kế thừa

và phát huy để duy tân đất nước. Đông Dương tạp chí là tờ báo đã kế thừa và thực

16 Nguyễn Đình Hảo, bản tóm tắt Luận án tiến sĩ ngữ văn, đề tài: “ Tạp chí Nam Phong trong tiến trình phát triển nền quốc văn mới đầu thế kỷ XX (1900 -1930)”.

hiện tiếp tục những cải cách còn dang dở của Đông Kinh nghĩa thục.

33

1.1.2 Giới trí thức Việt Nam trong một thời đại chuyển biến

Là những người vừa nhạy cảm, vừa hiểu biết thời đại, đứng trước tình hình

đất nước lúc bấy giờ, giới trí thức Việt Nam đã có những phản ứng và chọn lựa

khác nhau về mặt chính trị và văn hoá.

Có thể khái quát thành bốn cách phản ứng và chọn lựa trước thời cuộc của trí

thức Việt Nam ba thập niên đầu thế kỷ 20:

Cách thứ nhất là đi theo con đường bạo động để tìm cách lật đổ ách thống trị

của Pháp. Những người chủ trương con đường này cương quyết không chấp nhận

sự đô hộ của giặc Pháp trên đất nước mình, đã tập họp và vũ trang những người yêu

nước để chống Pháp. Họ tiếp tục con đường của Trương Định, Nguyễn Trung Trực,

Thủ Khoa Huân, Phan Liêm, Phan Tôn, Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám ...

Điều lúng túng nhất đối với những nhà chí sĩ yêu nước này là tìm một cương lĩnh và

chỗ dựa tinh thần cho cuộc chiến đấu. Lúc đầu đó là lời kêu gọi cần vương (giúp

vua) của Hàm Nghi, nên phong trào được gọi là phong trào Cần vương (1885-

1896). Khi Hàm Nghi bị Pháp bắt và đưa đi đày sang Algérie, hai vị vua chống

Pháp tiếp theo là Thành Thái và Duy Tân bị đày sang đảo Réunion, Khải Định quay

sang hợp tác với giặc thì khái niệm “Cần vương” không còn lý do tồn tại nữa.

Nhưng cán cân lực lượng giữa ta và Pháp quá mất cân bằng: vũ khí thô sơ, trình độ

quân sự non kém, lực lượng phân tán, thiếu sự lãnh đạo thống nhất, nên sự thất bại

là không tránh khỏi. Mặc dù vậy, tinh thần đề kháng của nhân sĩ trí thức Việt Nam

không bao giờ bị khuất phục, họ đã lãnh đạo những cuộc nổi dậy chống sưu thuế,

đòi quyền dân sinh, dân chủ…Họ đưa thanh niên đi đào tạo ở nước ngoài để chuẩn

bị lực lượng. Đó là con đường của Phan Bội Châu. Để giương ngọn cờ quân chủ,

Kỳ Ngoại Hầu Cường Để đã từng được chọn làm minh chủ. Những người theo con

đường này muốn dựa vào Nhật Bản là một nước “đồng chủng, đồng văn”. Họ đã

phải trả giá đắt: các du học sinh người Việt bị Nhật trục xuất, phong trào Đông Du

thất bại, Phan Bội Châu bị quản thúc thành “Ông già Bến Ngự”…Tiếp tục con

đường bạo động, về sau có những người đứng ra thành lập Việt Nam quốc dân đảng

mà Nguyễn Thái Học là đảng trưởng và hành động quả cảm của họ thể hiện qua

34

tiếng bom Sa Diện của Phạm Hồng Thái cũng như cuộc khởi nghĩa Yên Bái (1930)

với tinh thần “không thành công thì cũng thành nhân”.

Cách thứ hai là con đường học tập nền dân chủ phương Tây để duy tân đất

nước, làm cho dân tộc tự cường mà từng bước giành lại độc lập từ trong tay thực

dân Pháp. Đây là con đường mà Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Lương Văn

Can, Nguyễn Quyền, Phan Văn Trường, Nguyễn Thế Truyền cổ xuý. Những nhà

văn hoá này nhận thấy tương quan lực lượng giữa ta và Pháp quá mất cân bằng,

dùng giải pháp bạo động ngay như Phan Bội Châu sẽ tốn nhiều xương máu mà

không thể thành công. Vì vậy công cuộc giành độc lập là một sự nghiệp dài lâu.

Phải nâng cao dân trí, chấn hưng dân khí, học theo nền dân chủ tư sản mà mở

trường, lập hội, ra báo. Khi ý thức độc lập của dân ta vững vàng rồi, ta sẽ có đủ điều

kiện và lực lượng không chỉ cho mục tiêu độc lập dân tộc mà cả mục tiêu dân chủ,

dân quyền và dân sinh. Khuynh hướng này không đề cao bạo động nên không uy

hiếp trực tiếp chế độ thực dân. Nhưng Pháp biết rõ rằng về lâu dài nó là mối nguy

cơ lớn của chúng, khi chủ nghĩa ngu dân mất hiệu lực, nên Pháp đã tìm cách triệt hạ

người tiên phong: Phan Châu Trinh bị bắt giam và đưa đi đày tận Côn Đảo.

Cách thứ ba là giải pháp mà lịch sử đã chứng minh là hiệu quả nhất. Đó là con

đường mà Nguyễn Ái Quốc đã chọn lựa: vận động thành lập một chính đảng kiểu

mới của giai cấp công nhân để lãnh đạo cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, gắn

phong trào giải phóng dân tộc với phong trào cộng sản thế giới mà đại diện là Quốc

tế thứ ba. Đó là một sự nghiệp toàn diện trên tất cả các mặt trận: chính trị, quân sự,

kinh tế, văn hoá, ngoại giao…và khi điều kiện cũng như thời cơ chín muồi, sẽ phát

động khởi nghĩa giành chính quyền. Con đường này manh nha từ thập niên 10 cuả

thế kỷ trước, phát triển vào những năm 20, qua những cuộc tranh luận, thảo luận

trong thời gian Nguyễn Ái Quốc ở Pháp, trong Đại hội Tours cuả Đảng Xã hội

Pháp, ngày càng sáng rõ về mục tiêu. Hoạt động của Nguyễn Ái Quốc và những

người đồng chí hướng đã tác động đến sự hình thành và thống nhất các tổ chức

cộng sản trong nước (Đông Dương cộng sản đảng, An Nam cộng sản đảng và Đông

Dương cộng sản liên đoàn) dẫn đến sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam năm

35

1930. Từ đây lịch sử Việt Nam sẽ diễn ra chủ yếu theo con đường của sự chọn lựa

này.

Chúng ta tóm tắt trong mấy dòng những con đường đó, nhưng trên thực tế đó

là những chọn lựa rất phức tạp, đầy trăn trở và bi kịch. Đó không phải chỉ là suy

nghĩ mà là hành động, vào tù ra khám, đối diện với cái chết để xác định lý tưởng

của mình. Trong hoàn cảnh như vậy, đã có những người trí thức tránh né những con

đường gai góc, chọn con đường thứ tư, con đường hoạt động văn hoá để góp phần

hiện đại hoá dân tộc. Điều oái oăm là họ không thể làm văn hoá thuần tuý mà không

quan hệ với chính trị, lại là chính trị của chủ nghĩa thực dân. Đó là con đường mà

Trương Vĩnh Ký, Huỳnh Tịnh Của trải qua cuối thế kỷ 19 và Nguyễn Văn Vĩnh,

Phạm Quỳnh đi theo đầu thế kỷ 20. So với hai người trên, thì hai người sau này

ngày càng dấn sâu hơn vào chính trị. Nhưng giữa Nguyễn Văn Vĩnh và Phạm

Quỳnh tuy cùng một con đường nhưng lại có những ngả rẽ khác nhau, một phần do

thời điểm lịch sử mà hai ông hoạt động quy định, một phần do tính cách và chí

hướng của hai người khác nhau: một người năng động, hoạt bát, thực tiễn; một

người uyên bác, thâm trầm, kín đáo.

Nguyễn Văn Vĩnh lớn hơn Phạm Quỳnh mười tuổi, cả hai ông đều cộng tác

với Pháp, được người Pháp sử dụng cho những mục tiêu giai đoạn của họ, trong

những thời điểm khác nhau. Nguyễn Văn Vĩnh được người Pháp ưu ái chủ yếu vào

những năm trước Chiến tranh thế giới lần thứ nhất (1914-1918), Phạm Quỳnh thì từ

khi cuộc chiến tranh này nổ ra. Điểm chung giữa Nguyễn Văn Vĩnh và Phạm

Quỳnh là trước con đường đối thoại văn hoá do các viên toàn quyền nắm trong tay

quyền lãnh đạo Đông Dương như Paul Doumer, Paul Beau, A. Sarraut…vạch ra,

người Việt Nam phải nhanh chóng nắm bắt lấy như một cơ hội quan trọng để thay

đổi đất nước. Đối với những người trí thức quan tâm đến thời cuộc, ngay từ đầu họ

đã có thể nhận ra tham vọng và dã tâm của thực dân Pháp. Nhưng dù sao, chế độ

thực dân càng được củng cố thì những ảo tưởng về “khai hoá”, “văn minh” càng

mau tan vỡ. Chính vì vậy, mà những “ngây thơ”, “cả tin” của Nguyễn Văn Vĩnh,

nếu có, dễ hiểu hơn là của Phạm Quỳnh.

36

Nguyễn Văn Vĩnh đưa ra thuyết trực trị: kêu gọi người Pháp cai trị trực tiếp

An Nam. Năm 1918, dựa vào thuyết “dân tộc tự quyết” của Tổng thống Mỹ Wilson

đề ra ở Hội Quốc Liên (tức Liên Hiệp Quốc sau này), Nguyễn Văn Vĩnh viết báo cổ

vũ cho việc Đông Dương tự trị. Năm 1931, trên tờ L’Annam, ông đề xuất thuyết

trực trị để chống lại thuyết lập hiến của Phạm Quỳnh. Nhận ra sự thối nát của triều

đình nhà Nguyễn và bộ máy quan trường, Nguyễn Văn Vĩnh chủ trương dựa vào thế

lực bảo hộ của Pháp để dẹp bỏ Nam triều và guồng máy quan lại của nó.

Một số trí thức Tây học cũng tán thành và ủng hộ ông. Nhưng triều đình và

quan lại thì lại căm giận và phản ứng. Còn bản thân thế lực bảo hộ thì sử dụng

thuyết này như một áp lực lên triều đình và quan lại nhà Nguyễn, chứ không muốn

áp dụng nó trong thực tế. Bởi vì lẽ tồn tại của chế độ thực dân nửa phong kiến là sự

liên kết giữa chủ nghĩa thực dân và giai cấp phong kiến bản xứ. Còn những người

yêu nước thì không thể chấp nhận một sự cai trị trực tiếp, lộ mặt của chủ nghĩa thực

dân như vậy. Thuyết trực trị của Nguyễn Văn Vĩnh rõ ràng là không có cơ sở xã hội

và sớm trở nên lạc hậu.

Phạm Quỳnh khôn ngoan hơn, đã chọn một ngả rẽ an toàn, có tính chất thoả

hiệp và ôn hoà là xu hướng quân chủ lập hiến. Ông kêu gọi thực thi hiệp ước bảo hộ

năm 1884, bảo toàn chế độ quân chủ và xây dựng hiến pháp có tham khảo mô hình

dân chủ phương Tây. Lý thuyết này thoả mãn được cả ba thế lực: thực dân Pháp

muốn duy trì sự thống trị mà không có sự xáo trộn; Nam triều và quan lại không bị

mất vị trí và quyền lợi; một số trí thức được ve vuốt lòng tự ái dân tộc. Nhưng đối

với những sĩ phu nhạy bén về chính trị, thì họ nhận ra động cơ và mục đích của

Phạm Quỳnh không khó lắm. Chính vì vậy mà Ngô Đức Kế, Huỳnh Thúc Kháng,

Phan Khôi … đã tìm cách chỉ trích và đả kích những luận điểm của Phạm Quỳnh,

nhiều khi hơi quá mức, vì họ không muốn để lý thuyết đó ru ngủ quần chúng và

tăng uy tín cho chế độ thực dân nửa phong kiến. Đến khi Phạm Quỳnh được mời

vào Huế nhận chức Ngự tiền đổng lý văn phòng của Bảo Đại năm 1932, thì mọi sự

càng được phơi bày rõ ràng.

37

Nguyễn Văn Vĩnh cũng có cái lí riêng của ông khi ông phản đối thuyết lập

hiến của Phạm Quỳnh và đưa ra thuyết trực trị. Bởi theo ông, nhà vua “chỉ còn là

một bóng ma đối với dân chúng” và việc tiếp tục duy trì sự cai trị của nhà vua dưới

sự bảo hộ của Pháp chẳng qua chỉ làm tồi tệ thêm cho tình hình đất nước bởi vì bộ

máy cai trị đó đã quá lỗi thời. Ông gọi chính sách này là cách “làm mất uy tín của

tầng lớp ưu tú đối với những người dân nước họ bằng cách để họ tiếp tục những

phương pháp cổ xưa của họ đè nén và áp bức những người thấp bé và bình thường”.

Vì thế ông gọi đó là “chính sách thiếu thành thật”, “là một lăng mạ danh dự

đối với chúng ta” và “người ta bao giờ cũng coi chúng ta như những trẻ con”. [145]

Nguyễn Văn Vĩnh cho rằng sự hợp tác Pháp – Nam đương thời là sự hợp tác

không thành thực, tạm bợ và chẳng thể nào dẫn tới một kết quả tốt đẹp như mong

muốn. “Việc đầu tiên người ta phải chán nản để phát hiện ra là không bao giờ thống

nhất là một, dân tộc An Nam và thiểu số những người Pháp không bao giờ gắn bó

với nhau thành thật ở trên cái đất nước này”. Đây chính là cơ sở để ông đưa ra

thuyết trực trị. Tuy nhiên, chế độ trực trị mà ông đề ra không phải là sự cai trị hoàn

toàn của người Pháp mà là ‘hình thức một nước có một chính phủ đứng đầu Pháp –

Nam; có những nghị viện gồm cả hai bên trong đó tất cả những thành phần phải là

đại diện tương xứng với những quyền lợi và lực lượng của từng bên”. Đó là một

chính phủ duy nhất “do những công chức Pháp và công chức An Nam đảm nhiệm,

được tuyển mộ theo những qui định thật sự bình đẳng về quyền và bình đẳng về

chức vụ, với sự ưu tiên cho người Pháp chiếm những chức vụ để chỉ huy và ưu tiên

cho người Việt chiếm những chức vụ phải quan hệ trực tiếp với nhân dân địa

phương”.

Ông cho rằng nếu làm theo cách này những người Pháp thiểu số sẽ hợp lại

cùng nhân dân An Nam vốn là một thành phần ổn định. Và như thế, họ sẽ gắn bó

với An Nam, quốc gia “mà họ cũng coi như nước họ, họ yêu đất nước đó và những

con người ở đó từ trước. Mong muốn biến đất nước đó trở thành một tổ quốc thứ

hai của họ và đối xử với những người ở nước đó như đồng bào của họ”. [171]

38

Có thể thấy nếu so với thuyết lập hiến mà Phạm Quỳnh chủ trương thì thuyết

trực trị của Nguyễn Văn Vĩnh cũng không tránh được sự ảo tưởng và ngây thơ. Bởi

mục đích chính của thực dân là khai thác thuộc địa sao cho có lợi về phía họ chứ

không phải là đem lại văn minh cho cái dân tộc nghèo đói An Nam như họ vẫn từng

rao giảng. Vì thế, thuyết trực trị của Nguyễn Văn Vĩnh không thành công và là một

điểm yếu để người ta công kích khi đánh giá về sự nghiệp của ông.

Nguyễn Văn Vĩnh và Phạm Quỳnh từng cộng tác với nhau: nhiều bài viết của

Phạm Quỳnh lúc đầu đăng trên Đông Dương tạp chí do Nguyễn Văn Vĩnh làm chủ

bút. Nhưng về sau, do chủ trương khác nhau đó mà họ tranh luận với nhau nhiều khi

gay gắt và số phận đã đẩy hai người theo hai ngả rẽ khác nhau. Nhưng nhìn chung

về hướng đi thì cả Phạm Quỳnh và Nguyễn Văn Vĩnh đều là những hiện tượng có

thể cắt nghĩa theo cùng quy luật.

Trong lịch sử những cuộc xâm lược hay can thiệp của ngoại bang đều có

những người trí thức đứng ra cộng tác hay thoả hiệp với kẻ cầm quyền. Trong số đó

có những người tự mãn, tự đắc, cho mình là thức thời, bị người đời nguyền rủa.

Đồng thời cũng có những người bị lương tâm cắn rứt, tìm cách tự biện hộ, hoặc

chân thành hoặc vụng về, nhưng ít nhiều cho thấy sự ân hận và phân đôi trong con

người họ. Tôn Thọ Tường là một trường hợp tiêu biểu.

Nguyễn Văn Vĩnh chưa bao giờ tỏ ra ân hận về con đường đi của mình. Vả

chăng ông không kịp có thời gian và cơ hội để nhìn lại đời mình. Nhưng xét trong

bối cảnh lịch sử xã hội Việt Nam đầu thế kỷ 20, khi mà những lực lượng yêu nước

đều chưa tìm được ngọn cờ để tập trung sự lãnh đạo về một mối, có lẽ sự chọn lựa

chính trị của Nguyễn Văn Vĩnh cần được nhìn nhận một cách khoan thứ hơn.

Như phần sau của luận án sẽ trình bày, việc Nguyễn Văn Vĩnh đến với guồng

máy của chế độ bảo hộ là một run rủi của hoàn cảnh, đồng thời là một cơ duyên của

người muốn thay đổi số phận. Và khi đã đứng vào guồng máy rồi, với những cám

dỗ về điều kiện làm việc của thế giới văn minh, việc rút chân ra là một điều không

dễ dàng và đơn giản. Trong thực tế, như chúng ta sẽ thấy, Nguyễn Văn Vĩnh không

phải là người thoả hiệp hoàn toàn, ông đã tìm cách “cựa quậy” trong cái khuôn khổ

39

giới hạn mà chủ nghĩa thực dân quy định cho những người trí thức được nó đào tạo

và sử dụng. Không ít lần, ông đã đi chệch khỏi quỹ đạo do chủ nghĩa thực dân định

hướng: tham gia Đông Kinh nghĩa thục, bênh vực Phan Châu Trinh, phê phán Phạm

Quỳnh…

Nhưng con đường của ông cũng khác với con đường của Phan Châu Trinh

là người mà ông có sự đồng cảm, chia sẻ và đã từng hợp tác. Nếu Phan Châu Trinh

xác định nhiệm vụ duy tân để cứu nước và kiên định mục tiêu độc lập dân tộc, thì

Nguyễn Văn Vĩnh canh tân để rồi vẫn duy trì sự thống trị của Pháp qua chủ trương

trực trị. Rõ ràng là Phan Châu Trinh phê phán chế độ thực dân nửa phong kiến từ

bên ngoài, còn Nguyễn Văn Vĩnh thì chỉ trích từ bên trong. Ông vẫn là sản phẩm

của chế độ đó và một thời gian dài đã làm việc để phục vụ chế độ đó. Có thể vào

cuối đời ông phần nào tỉnh ngộ và nhận ra những ảo tưởng thời trẻ, nhưng ông đã

không kịp sửa chữa sai lầm của mình.

Mặt khác, cũng cần phải thấy rằng những hành động chính trị và những hành

động văn hoá có những tác dụng khác nhau về mặt khách quan. Chủ trương thuyết

trực trị rõ ràng là một sai lầm của Nguyễn Văn Vĩnh. Nhưng chủ trương truyền bá

chữ quốc ngữ, tham gia Đông Kinh nghĩa thục, làm báo, dịch sách… là những hành

động văn hoá có tác động tích cực đến sự canh tân đất nước. Ngày nay nói đến

thuyết trực trị là nói đến một cái gì lỗi thời, bị lịch sử vượt qua. Còn nói đến những

hoạt động văn hoá và văn học của Nguyễn Văn Vĩnh là nói đến những gì còn có

tiếng vang cho đến ngày nay, trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đời sống tinh

thần của đất nước. Vì vậy, thiết nghĩ, cần đánh giá con người và sự nghiệp Nguyễn

Văn Vĩnh trên tinh thần “gạn đục khơi trong”, bởi đó là một cuộc đời phong phú mà

cũng là cuộc đời hết sức phức tạp.

1.2. Sự ra đời của Đông Dương tạp chí

1.2.1. Chủ trương của Đông Dương tạp chí

Do nằm trong sự tính toán xâm lược văn hóa của thực dân Pháp, mục đích

ban đầu của Đông Dương tạp chí là phục vụ cho việc tuyên truyền của chính quyền

thực dân. Mục “Cẩn cáo” trên Đông Dương tạp chí số ra mắt đầu tiên ngày 15 tháng

40

5 năm 1913, đã viết: “Bản báo vì có việc nguy-biến phải vội-vàng in ra, cho nên kỳ

đầu này không kịp trình duyệt-báo chư quân tử, chủ-nghĩa báo này thế nào, và lối

in, lối soạn chương mục báo có những gì, không kịp nói cho rõ được. Đến kỳ sau

bổn-quán xin kể minh bạch chương-trình, chủ- nghĩa. Nay hãy nói đại cương để các

ngài biết. Mỗi kỳ sẽ có một bài tổng thuật các việc trong tuần-lễ, một bài đại luận về

thời-sự, các điện- báo- hoàn-cầu, các điều nên biết về buôn bán…”. Theo đó, bài

cũng nêu ra: “Cổ động cho dân An-nam lấy văn Quốc-ngữ làm quốc văn, làm gốc

nghề học”, “Bổn quán lại mở ra một chương đề là Đăng-văn cổ để lấy ra nhờ sở-

ước thực và lẽ phải của dân An-nam mà dâng lên cho chánh- phủ biết và đem những

ý cao Nhà-nước mà tỏ cho dân hay”.

Và, trong số báo thứ 2, ra ngày 22/5/1913, ở mục “Chủ-nghĩa”, tôn chỉ, mục

đích của Đông Dương tạp chí một lần nữa được nêu lại rõ ràng và cụ thể hơn, đó là:

“Phổ biến văn hoá Tây phương, cổ động học chữ quốc ngữ, giới thiệu kiến thức

thực nghiệp như canh nông, công nghệ và tuyên truyền cho chính phủ bảo hộ”.

Theo đánh giá của nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Trung thì: “Tất cả các mục tiêu mà

Đông Dương tạp chí đề ra đều giống với mục tiêu của phong trào Đông kinh nghĩa

thục, trừ việc tuyên truyền cho chính phủ bảo hộ”. [86]

Chủ trương và mục tiêu của Đông Dương tạp chí đã được Phạm Thế Ngũ

đúc kết như sau:

- Về chính trị, tờ báo hiển nhiên là một cơ quan tuyên truyền cho cuộc bảo

hộ của Pháp. Tuyên truyền bằng cách nào? Bằng cách đem những công việc của

nhà nước mà kể cho dân nghe […], bằng cách đem điều hơn lẽ thiệt mà khuyến dụ

dân đừng làm loạn, đừng theo cách mạng bạo động.

- Về học thuật thì “báo dựng nên cốt ở việc đem cái học thuật thái Tây dùng

tiếng nôm mà dạy phổ thông cho người An Nam không phải đi nhà tràng cũng học

được hoặc đã đi học rồi mà học thêm”. Việc giáo dục này có tính cách phổ thông và

bách khoa cho nên ta thấy dịch thuật và giảng giải về đủ các vấn đề, từ việc nuôi

con cho đến việc tu bổ đê điều, từ cách buôn bán của người Lang Sa đến sự phân

chia khoa tâm lý học thái tây.

41

- Về văn tự thì cổ động cho chữ quốc ngữ, thứ chữ tiện cho người An Nam

gấp mấy lần chữ nho. “Mở ngay tờ báo này ra mà ngắm xem, bấy nhiêu điều luận

trong báo, thử nghĩ giá như mà luận bằng chữ nho thì có mấy người hiểu cho hết

nghĩa. Thế mà chữ quốc ngữ thì không những là người biết chữ quốc ngữ đọc được

hiểu được mà đọc lớn cả nhà nghe cũng hiểu được”. Không phải chỉ cổ động bằng

cách viết một tờ báo quốc ngữ để mọi người đọc chơi, nhận ra những ưu điểm của

thứ chữ mới, báo quán còn tích cực hơn, hứa “nay mai phát không cho những người

mua báo một cuốn sách dạy quốc ngữ rất tiện cho các ông để không phải đem sách

đi hỏi, ai cũng tự học được chữ quốc ngữ”. [54, 46].

Chủ trương về chính trị nêu trên hoàn toàn phù hợp với tinh thần bản tường

trình của Sestier, một viên thanh tra người Pháp: “Thay thế cho những tin tức xâm

nhập vào xứ này bằng con đường báo chí Trung Hoa, chúng tôi nghĩ rằng tốt nhất là

nên có ngay ở xứ này một tờ báo An-nam mà trong đó, mỗi một sự kiện lý thú sẽ

được trình bày thực thà rõ ràng, kèm theo một sự giải thích cụ thể trong mức độ cần thiết và những lời bình luận hợp pháp”17. Chủ trương đó thể hiện rất rõ trong giai

đoạn đầu của Đông Dương tạp chí, với những bài viết cho thấy thái độ không tốt

của Nguyễn Văn Vĩnh đối với phong trào yêu nước lúc đó.

Ngay số đầu tiên của Đông Dương tạp chí, Nguyễn Văn Vĩnh đã lớn tiếng mạt

sát những người yêu nước ném bom giết một số sĩ quan Pháp ở khách sạn Hà Nội là

“lũ sài lang, đồ dối trá, đồ vô học, dùng chước ăn mày”, thậm chí còn hăm doạ nếu bắt được thì bỏ rọ lăn sông (!). Trong bài Gốc luận18 , Nguyễn Văn Vĩnh vừa ra sức

thanh minh cho những người Tây học, vừa đả kích, miệt thị những sĩ phu yêu nước

như Phan Bội Châu là “nguỵ Nho”, “nghêu ngao vô dụng”, “vô công rồi nghề”. Liên

hệ với những cuộc nổi dậy diễn ra trước đó, Nguyễn Văn Vĩnh viết: “Thiên hạ có kẻ

nói vu ra rằng việc làm loạn mới rồi cũng có bởi Tây học. Nhà nước cho học nhiều

quá, hữu tài vô dụng, thành ra một bậc người dở dang, cao không tới thấp không

17 Trích theo Nguyễn Văn Hoàn, Bức thư ngỏ gửi các nhà nghiên cứu Truyện Kiều ở miền Nam về ý nghĩa cuộc tranh luận giữa Phạm Quỳnh và Ngô Đức Kế, Nghiên cứu văn học, Hà Nội, số 12 -1960. 18 Đông Dương tạp chí, số 2, ngày 22-5-1913.

thông, không có chức phận gì nghĩ được bụng ước ao to quá, cho nên sinh ra một

42

đảng ghét Lang Sa, xúc xiểm dân An-nam làm loạn. Điều ấy là một điều lầm to,

chúng tôi tưởng nên giải để Nhà nước rõ kẻo việc làm càn của mấy đứa cuồng dại mà

thiệt lây đến những người trung nghĩa nhất với nước Lang Sa ở xứ này”.

Sự giận dữ của chủ bút Nguyễn Văn Vĩnh với những người của Việt Nam

Quang phục hội tham gia vụ ném bom tại khách sạn Hà Nội và xu hướng ca ngợi

chính quyền thuộc địa cho thấy rõ quan điểm chính trị của ông thời kì đầu cộng tác

với người Pháp. Nguyễn Văn Vĩnh coi hành động bạo lực là việc chỉ đem lại đổ

máu vô ích. Hơn nữa, nếu có thành công cũng chỉ dẫn tới việc duy trì chế độ vua

quan hủ bại... không tin rằng hễ cứ "theo Tây thì sau mất nước", và cũng cho rằng

"thực dân không hại bằng phong kiến". Với đầu óc thực tế, thích khoa học và công

nghệ thực hành cũng như nền tự do dân chủ của phương Tây, lại sẵn không thích

chế độ phong kiến, việc ông nhiệt tình ca ngợi "công khai hóa" của nhà nước bảo hộ

là không hề khó hiểu.

Tuy nhiên, theo thời gian, số lượng các bài viết có tính chất tuyên truyền cho

chính quyền trên Đông Dương tạp chí ngày càng giảm dần. Thay vào đó là sự tăng

lên của các bài viết mang tính học thuật. Kể từ năm 1915, tờ báo mới chuyên hẳn về

văn chương và sư phạm. Bản thân Nguyễn Văn Vĩnh cũng từ bỏ hẳn những bài xã

thuyết mà chuyên chú vào dịch thuật.

1.2.2 Đội ngũ biên tập của Đông Dương tạp chí

Đội ngũ biên tập của Đông Dương tạp chí bao gồm cả phái tân học và phái

cựu học. Phái tân học có Nguyễn Văn Vĩnh (1882 – 1936), Phạm Quỳnh (1892 –

1945), Nguyễn Văn Tố (1889 – 1947), Phạm Duy Tốn (1883 – 1924); phái cựu học

có Tản Đà (1889 -1939), Phan Kế Bính (1875 – 1921), Nguyễn Đỗ Mục (1882 –

1951). Trong số đó, Nguyễn Văn Vĩnh, Phan Kế Bính, Nguyễn Đỗ Mục là ba cây

bút gắn bó nhất với tờ báo. Về sau báo còn có sự cộng tác của Trần Trọng Kim

(1883 – 1953), Nguyễn Hữu Tiến (1875 – 1941), Nguyễn Bá Trác (1881 – 1945),

Thân Trọng Huề (1869 – 1925). Đội ngũ cầm bút của Đông Dương tạp chí thường

được gọi với một cái tên chung là “Nhóm Đông Dương tạp chí”. Họ đã mang đến

43

cho Đông Dương tạp chí một tinh thần riêng, một lối văn riêng đã trở thành

“thương hiệu”, lối văn mà các nhà nghiên cứu gọi là “lối văn Đông Dương tạp chí”.

Đặc điểm chung của các cây bút trên Đông Dương tạp chí là họ đều là những

trí thức thuộc thế hệ 1907 – trí thức của hai thế giới. [77] Thế hệ trí thức này sinh ra

trong bối cảnh quyền lực của triều đình phong kiến đang ngày càng mờ nhạt và Nho

giáo đang mất dần vị trí trong xã hội. Trong trận chiến giữa cũ và mới, giữa truyền

thống và hiện đại thì sức mạnh của quá khứ (hệ tư tưởng Nho giáo, nền quân chủ,

hệ thống quan lại già cỗi, cộng đồng làng xã khép kín) có vẻ như sắp sửa nhanh

chóng biến mất. Thêm vào đó, tình hình Đông Dương và thế giới dường như có xu

hướng ủng hộ cải cách, tạo nên thế thượng phong cho những nhà tư tưởng và những

trí thức duy tân. Nhưng đó chỉ là thắng lợi thoáng qua của họ khi chính quyền thực

dân, lúc thì đóng vai ủng hộ cải cách, lúc lại sẵn sàng dùng bàn tay sắt bóp nát

những cải cách đi xa hơn mong đợi.

Ngoại trừ Nguyễn Văn Vĩnh có xuất thân là con của một gia đình nông dân,

các trí thức tham gia Đông Dương tạp chí đều xuất thân từ gia đình có truyền thống

khoa bảng hoặc được rèn giũa bởi nền giáo dục Khổng giáo ngay từ nhỏ. Những trí

thức này khi trưởng thành lại sớm được đào tạo bởi nền giáo dục phương Tây nên

có độ thích ứng cao với những thay đổi của thời cuộc. Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu

thuộc dòng dõi quyền quý, có truyền thống khoa bảng. Tổ tiên ông xưa kia có nhiều

đời làm quan dưới triều Lê. Dương Bá Trạc là con của Dương Trọng Phổ (1862 -

1927), một nhà Nho có tư tưởng tiến bộ; là anh ruột Dương Quảng Hàm (1898 –

1946) và Dương Tụ Quán (1902 – 1969), cả hai đều là nhà giáo tiến bộ thời cận

hiện đại. Ở Đông Dương tạp chí, Tản Đà phụ trách chuyên mục Một lối văn Nôm,

được đánh giá là giàu chất nghệ thuật và là bước đệm cho những thành công trong

sự nghiệp cầm bút của ông sau này.

Nguyễn Văn Tố bút hiệu Ứng Hoè, thuở nhỏ học chữ Hán, sau sang Pháp

học đỗ bằng Thành chung (Trung học). Về nước ông làm việc tại trường Viễn Đông

Bác Cổ Hà Nội, chuyên về văn học cổ Việt Nam. Ông từng làm Hội trưởng Hội Trí

Tri, Hội truyền bá chữ Quốc ngữ trước năm 1945.

44

Phạm Quỳnh là một nhà văn hóa, nhà báo, nhà văn và quan đại thần triều

Nguyễn. Ông là người đi tiên phong trong việc quảng bá chữ Quốc ngữ và dùng

tiếng Việt - thay vì chữ Nho hay tiếng Pháp - để viết lý luận, nghiên cứu. Ông giữ

vai trò khá quan trọng ở Đông Dương tạp chí thời kì đầu mặc dù số lượng bài viết

không nhiều bằng những nhân vật chủ chốt như Nguyễn Văn Vĩnh, Nguyễn Đỗ

Mục và Phan Kế Bính. Bài viết của Phạm Quỳnh xuất hiện trên Đông Dương tạp

chí ngay từ số thứ 7 (26/06/1913) ở mục Pháp văn tạp thái với phần diễn Nôm tác

phẩm “La sagesse et la Destinée” de Maurice Maeterlink. Ông tiếp tục có nhiều bài

dịch Pháp văn đăng trên mục này. Ngoài ra ông cũng góp mặt ở mục Bình phẩm

sách mới xuất hiện đều đặn ở các kì báo và là cây bút chuyên viết các bài phê bình

về nền giáo dục cũ - mới cũng như sự khác biệt của triết học và tư tưởng Á – Âu

(mục Học cũ học mới, Tân cổ học bình luận).

Phạm Duy Tốn là nhà văn xã hội tiên phong của nền văn học mới Việt Nam

hồi đầu thế kỷ 20. Trước khi trở thành một nhà văn, nhà báo, ông từng là thông

ngôn ở toà Thống sứ Bắc Kỳ. Truyện ngắn Sống chết mặc bay của ông được coi là

truyện ngắn đầu tiên theo lối Tây phương của văn học Việt Nam.

Trần Trọng Kim xuất thân trong một gia đình Nho giáo, từ nhỏ ông học chữ

Hán. Vào năm 1897, ông theo học tại Trường Pháp -Việt Nam Định và học chữ

Pháp. Năm 1900, ông thi đỗ vào Trường Thông ngôn và tốt nghiệp năm 1903. là

một học giả danh tiếng, nhà giáo dục, nhà nghiên cứu sử học, văn học, tôn giáo Việt

Nam, bút hiệu Lệ Thần, thủ tướng của chính phủ Việt Nam trước 1945 do Nhật

dựng nên. Ông là tác giả của tác phẩm Việt Nam sử lược. Cha ông là Trần Bá Huân

(1838-1894), đã từng tham gia từ rất sớm phong trào Cần Vương do Phan Đình

Phùng lãnh đạo. Trên Đông Dương tạp chí, Trần Trọng Kim phụ trách các chuyên

mục liên quan đến giáo dục.

Nguyễn Bá Trác cũng từng thi đỗ Cử nhân ở Huế. Hưởng ứng lời kêu gọi

của các nhà ái quốc trong phong trào Đông Du, ông ra Hà Nội học tiếng Pháp và

năm 1908, ông sang Nhật du học. Khi chính phủ Nhật đã giải tán phong trào Đông

Du, ông phải sang Trung Quốc rồi trở về Hà Nội. Năm 1914, ông làm ở phòng báo

45

chí Phủ Toàn quyền Đông Dương và chủ bút phần Hán văn tờ Cộng Thị cho đến

năm 1916. Ông tham gia nhiều bài viết ở chuyên mục Bình phẩm sách mới trên

Đông Dương tạp chí.

Những thông tin trên cho thấy Đông Dương tạp chí đã tập hợp được những

tinh hoa của đội ngũ trí thức Việt Nam lúc bấy giờ. Trong ban biên tập của Đông

Dương tạp chí, có cả những người đeo đuổi công danh lẫn những người chỉ muốn

khẳng định giá trị cá nhân, cả những người yêu nước nhưng sau khi chứng kiến các

phong trào dân tộc lần lượt tan rã chỉ còn bấu víu vào phương thức duy tân bằng

con đường văn hoá. Nhiều người trong số họ đã từng tham gia Đông Kinh nghĩa

thục (Nguyễn Văn Vĩnh, Dương Bá Trạc) hoặc đều có giai đoạn trong sự nghiệp

của mình gắn bó với công tác giáo dục hoặc văn học, văn hoá. Vì thế, Đông Dương

tạp chí như là diễn đàn để họ thi thố tài năng và thực hiện những hoài bão còn ấp ủ.

Sự phân chia nhiệm vụ trong ban biên tập Đông Dương tạp chí cho thấy cách

tổ chức chuyên nghiệp của những người phụ trách tờ báo. Điều này cho phép tờ báo

khai thác hết được thế mạnh của từng thành viên. Ban biên tập Đông Dương tạp chí

có cả những nhà sưu tầm, biên khảo, những nhà lý luận, phê bình văn học, những

dịch giả và cả những nhà sáng tác văn chương…Chuyên mục thu hút sự cộng tác

của nhiều cây bút nhất là chuyên mục Bình phẩm sách mới. Hầu hết các nhân vật

nổi bật như Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh, Trần Trọng Kim, Phan Kế Bính,

Phạm Huy Lục, Nguyễn Bá Trác, Thân Trọng Huề đều có bài đăng. Ngoài ra, Đông

Dương tạp chí còn có những cái tên ít quen thuộc hơn nhưng thường xuyên góp mặt

như Trần Văn Quang, Bùi Đình Tá, Trương Quí Bình, Nguyễn Thị Duyên, Nguyễn

Hữu Khả, Cung Đình Huệ, Nguyễn Văn Ích, N – Đ- X, Tự Trân, Đ – T – Canh, Bùi

Đức Long, Phạm Quang Sán, Huấn đạo Hưng nhân, Nguyễn Tân Bổng, Trần Quang

Khương, Thái Kiến Quang, Nguyễn Vinh Chỉnh, Ngô Vi Lâm, Trần Đức Tiến,

Nguyễn Đình Quế, Madamme Đoan, Lê Văn Phúc…

So với ban biên tập Nam Phong tạp chí, ban biên tập Đông Dương tạp chí

tương đồng về nhiều mặt. Họ đều là những trí thức cùng thế hệ, có hoàn cảnh xuất

thân và quá trình trưởng thành khá giống nhau. Không ít những cây bút trước đây

46

đã từng cộng tác với Đông Dương tạp chí sau chuyển sang Nam Phong tạp chí như

Phạm Quỳnh, Tản Đà, Nguyễn Bá Trác, Nguyễn Hữu Tiến, Phạm Duy Tốn, Trần

Trọng Kim. Cơ cấu hoạt động của ban biên tập hai tờ tạp chí khá giống nhau, cũng

chia thành hai mảng tân học và cựu học. Tuy nhiên, vì sự tồn tại của Nam Phong

tạp chí kéo dài hơn (xuất bản liên tục 17 năm, so với 6 năm của Đông Dương tạp

chí), lại ra đời sau nên Nam Phong tạp chí có điều kiện thuận lợi về kinh nghiệm

lẫn thời gian để phát triển tờ báo đi sâu hơn về lĩnh vực học thuật. Đội ngũ cầm bút

của Nam Phong tạp chí vì thế có nhiều tên tuổi quen thuộc của lĩnh vực sáng tác

văn chương hơn là Đông Dương tạp chí (Đông Hồ, Tương Phố, Mộng Tuyết,

Nguyễn Trọng Thuật, Hoàng Ngọc Phách, Vũ Đình Long, Nguyễn Tường Tam…)

Có thể thấy rằng, Đông Dương tạp chí như là trường học buổi đầu, nơi tập

dợt, chuẩn bị kinh nghiệm cho các cây bút trong chặng đường dài hơi hơn ở Nam

Phong tạp chí.

Dưới đây là sơ lược về thân thế và sự nghiệp của ba cây bút chủ chốt trên

Đông Dương tạp chí: Nguyễn Văn Vĩnh, Phan Kế Bính và Nguyễn Đỗ Mục. Trong

đó, chúng tôi sẽ tập trung khai thác nhiều nhất về nhân vật Nguyễn Văn Vĩnh vì ông

là chủ bút, là “linh hồn” của Đông Dương tạp chí.

1.2.1.1 Nguyễn Văn Vĩnh (1882 -1936)

Nguyễn Văn Vĩnh sinh ngày 15-6-1882 (Nhâm Ngọ), mất ngày 01-5-1936

(Bính Tý), như vậy ông chỉ tại thế 54 năm.

Ông sinh ra tại nhà số 46 phố Hàng Giấy, Hà Nội, nhưng quê nội ở làng

Phượng Vũ, quê ngoại ở làng Đại Gia cùng thuộc phủ Thường Tín, tỉnh Hà Đông

(nay thuộc thành phố Hà Nội).

Cha mẹ ông là ông bà Nguyễn Văn Trực vốn là nông dân nghèo ở một vùng

đồng chiêm quanh năm ngập nước, mỗi năm chỉ cấy được một vụ lúa. Cũng như

nhiều dân làng, ông bà phải bỏ quê ra thành phố mưu sinh và ở nhờ một gian nhà

trong căn nhà của một người bà con là bà nghè Phan Huy Hổ và sinh ra Nguyễn

Văn Vĩnh ở đây.

47

Chỉ hơn một tháng rưỡi trước ngày sinh Nguyễn Văn Vĩnh, quân Pháp do

Henri Rivière chỉ huy đã tấn công và chiếm thành Hà Nội, Tổng đốc Hoàng Diệu

tuẫn tiết. Nguyễn Văn Vĩnh lớn lên trong cảnh nghèo, chứng kiến những biến đổi

của Hà Thành dưới sự chiếm đóng của thực dân Pháp. Phố Hàng Giấy nơi gia đình

ông cư ngụ, gần chợ Đồng Xuân, trở thành một phố cô đầu, thu hút dân ăn chơi có

tiếng. Cha ông vừa làm trưởng phố cho chính quyền Pháp, vừa giao tiếp với những

người chống Pháp trong phong trào Văn Thân. Mẹ ông buôn bán nhỏ ở chợ Đồng

Xuân để nuôi sống một gia đình đông con.

Là con trai lớn, ngay từ nhỏ, Nguyễn Văn Vĩnh đã có ý thức tự lực và lao

động giúp đỡ gia đình. Ông là người tháo vát và có sức khoẻ tốt, lại có chí tự học.

Trong thời gian ở nhà bà nghè, ông bắt đầu học chữ Hán. Năm lên tám tuổi, để đỡ

gánh nặng cho cha mẹ, ông phải đi làm thằng nhỏ kéo quạt ở trường thông ngôn của

Pháp mới được thành lập ở đình Yên Phụ.

Lớp học chủ yếu dạy tiếng Pháp theo phương pháp hội thoại, đồng thời có

dạy thêm chữ quốc ngữ. Vừa kéo quạt cho giáo viên và học sinh, Nguyễn Văn Vĩnh

vừa chăm chú nghe giảng và tự học. Sau ba năm kéo quạt trong lớp học, Nguyễn

Văn Vĩnh đã đọc, viết và nói được tiếng Pháp, thậm chí thông thạo hơn nhiều học

sinh trong lớp. Khi lớp học mãn khoá (1893), ông được Hiệu trưởng D’Argence cho

phép dự thi tốt nghiệp cùng cả lớp, đỗ thứ 12 trong số 40 học sinh khi mới 11 tuổi.

Nhờ thành tích đó, ông được đặc cách nhận vào làm học sinh chính thức hưởng học

bổng của lớp thông ngôn tập sự ngạch toà sứ, từ 1893 đến 1895, và đỗ thủ khoa khi

mới 14 tuổi.

Cuộc đời viên chức của Nguyễn Văn Vĩnh bắt đầu ngay sau đó, khi mới 15

tuổi (1896), ông đã được bổ nhiệm làm thông ngôn ở toà sứ Lào Cai, để phiên dịch

cho đoàn chuyên gia đường sắt của Pháp khảo sát tuyến đường Hải Phòng - Hà Nội

– Lào Cai – Vân Nam, phục vụ cho công cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất.

Nghề thông ngôn còn đeo đuổi ông suốt 11 năm, lần lượt qua các nhiệm sở là toà sứ

Hải Phòng, toà sứ Bắc Giang và toà đốc lý Hà Nội.

48

Sau một năm làm việc ở toà sứ Lào Cai, khi đoàn chuyên gia chuyển về Hải

Phòng, Nguyễn Văn Vĩnh cũng được bổ nhiệm làm thông ngôn toà sứ ở đây. Hải

Phòng là thành phố cảng được Pháp đầu tư xây dựng cơ sở vật chất để mở mang và

khai thác tài nguyên ở miền Bắc. Người thông ngôn phải giúp các chuyên gia tiếp

xúc với thuỷ thủ đến từ nhiều nước khác nhau. Tại đây, do yêu cầu của công việc,

Nguyễn Văn Vĩnh tự học thêm tiếng Anh và tiếng Hoa. Trong thời gian ở Hải

Phòng, ông bắt đầu tập viết báo bằng tiếng Pháp đăng trên tờ Le Courrier de Hai

Phong và dịch thơ ngụ ngôn, truyện thiếu nhi của Pháp sang tiếng Việt. Ông còn

tham gia dạy tiếng Pháp, chữ quốc ngữ và diễn thuyết ở Hội Trí Tri Hải Phòng.

Đến năm 1902, Nguyễn Văn Vĩnh lại được điều động lên làm thông ngôn ở

toà sứ Bắc Giang, nơi có nhà máy giấy Đáp Cầu do Pháp đang xây dựng. Ở đây,

ông làm việc ba năm dưới quyền của công sứ Hauser và được ông này tin dùng.

Khi Hauser được đề bạt làm đốc lý thành phố Hà Nội thì Nguyễn Văn Vĩnh

cũng được chuyển về làm thông ngôn ở toà đốc lý Hà Nội. Về Hà Nội, Nguyễn Văn

Vĩnh có điều kiện tham gia thường xuyên những hoạt động của Đông Kinh Nghĩa

thục, Hội Trí Tri và Thư viện Bình dân. Ông dạy tiếng Pháp, dạy viết văn, diễn

thuyết, giới thiệu sách với độc giả…Qua những hoạt động này, Nguyễn Văn Vĩnh

làm quen với Phan Kế Bính, Nguyễn Đỗ Mục, Phạm Duy Tốn, Trần Trọng

Kim…Cũng từ đây, Nguyễn Văn Vĩnh bước vào con đường làm báo: Hauser cử

ông làm chủ biên Đại Nam Đồng Văn nhật báo và đến năm 1907, khi tờ công báo

này đổi tên thành Đăng Cổ tùng báo, thì Nguyễn Văn Vĩnh trở thành chủ bút với

bút hiệu Tân Nam Tử.

Trong thời gian biên soạn và in ấn tờ công báo Đại Nam Đồng Văn nhật báo,

Nguyễn Văn Vĩnh được Hauser giới thiệu với F. H. Schneider, một chủ nhà in sang

Việt Nam sinh sống và làm việc từ năm 1882. Schneider giúp đỡ Nguyễn Văn Vĩnh

làm quen với nghề báo, nghề in và xuất bản. Theo Nguyễn Văn Trung, Schneider là

“người thân cận với các toàn quyền từ thời Lanessan, có óc kinh doanh, lập được

nhiều nhà in, cơ sở ấn loát báo chí tiếng Pháp và tiếng Việt. Ông khéo giao thiệp

với các nhân vật lãnh đạo trong giới cầm quyền thực dân nên được hầu như độc

49

quyền trợ cấp hoặc giúp đỡ chuyển báo, mua báo qua những hợp đồng khế ước ký

với nhà cầm quyền thực dân, trong đó ông cam kết thực hiện những đường lối của

nhà cầm quyền” (Chủ đích Nam Phong, tr. 137).

Năm 1906, Phủ Thống sứ Bắc Kỳ giao cho Đốc lý Hauser tổ chức và quản lý

gian hàng Bắc Kỳ ở Đấu xảo thuộc địa Marseille. Hauser lại phân công Nguyễn

Văn Vĩnh lập đề án thu thập sản phẩm hàng hóa để trưng bày, tuyển nhân công sang

Marseille làm gian hàng. Tháng 3-1906, với danh nghĩa thư ký của Hauser, đại lý

Bắc Kỳ tại hội chợ, Nguyễn Văn Vĩnh sang Pháp để lo cho gian hàng Bắc Kỳ, triển

lãm trong tháng 5 và 6-1906. Chính trong chuyến đi này, ông đã khám phá ra sức

mạnh của máy in, báo chí và sân khấu trên lĩnh vực văn hoá.

Trong một lá thư gửi về cho Phạm Duy Tốn, Nguyễn Văn Vĩnh đã miêu tả

chi tiết và bày tỏ sự thán phục của mình đối với công nghệ ấn loát của Pháp thời đó.

Ông viết: “Cuộc đi thăm lý thú nhất của tôi trong Đấu xảo là cuộc đi thăm gian báo

Petit Marseillais. Toà báo có những tài liệu xác thực nhất, lý thú nhất về nghề in từ

khi nghề đó bắt đầu phát triển – hay nói cho đúng từ khi nghề đó được nhập cảng

vào châu Âu. Một cái maquette về Gutenberg đứng trong cái nhà in thứ nhất cuả

ông ta. Trong tủ kính bày những sách vở và tài liệu linh tinh in từ ngày mới có nghề

in đến bây giờ. Khách đến xem có thể đi theo từng bước lịch trình tiến hoá của nghề

in, của cái nghề nhân những bản thảo lên thành ngàn, thành vạn…”.

Sau khi Đấu xảo thuộc địa Marseille kết thúc, Hauser đưa Nguyễn Văn Vĩnh

lên Paris, tạo điều kiện cho ông tham quan và tìm hiểu thủ đô nước Pháp. Ông đã

đến thăm nhà in và báo Revue de Paris, nhà xuất bản Hachette, nhà soạn và in từ

điển Larousse, tìm hiểu phong trào báo chí Pháp và nền dân chủ Pháp.

Thời gian ở Pháp tuy ngắn ngủi, nhưng đã giúp Nguyễn Văn Vĩnh nhận thức

được nhiều điều mà trước đây ở trong nước ông không nhận ra. Ông nhận ra mặt

tích cực của nền dân chủ Pháp cũng như lòng tốt của một số người dân chủ chân

chính ở nước này. Được những người này giới thiệu, Nguyễn Văn Vĩnh trở thành

người Việt Nam đầu tiên gia nhập Hội Nhân quyền của Pháp mà điều lệ cho thấy sự

trái ngược với chính sách của chủ nghĩa thực dân.

50

Qua chuyến xuất ngoại này, Nguyễn Văn Vĩnh còn có cơ hội nhận ra những

nhược điểm của dân tộc mình. Trong thư gửi Phạm Duy Tốn, ông tâm sự: “Nhận

thấy sự còn kém của mình, có phải là xấu xa gì đâu? Trên đời này người nào thấy

được chỗ kém của mình, người ấy đã gần đi đến chỗ tiến bộ”. Từ đó, ông đặt ra một

hoài vọng cho tương lai: “Tôi nghĩ muốn có một lớp người khá, một lớp người

hướng dẫn được quốc dân tiến lên con đường khoa học, chúng ta phải trông vào thế

hệ trẻ, đầu óc họ chưa có những định kiến cổ hủ, không bị cái gì ngăn cản họ tiến

lên. Ngồi mà nghĩ rằng tôi sẽ là người đầu tiên để làm công việc đó để mà gây lấy

một tương lai tốt đẹp, tôi xúc cảm thấy sung sướng vô cùng. Cha mẹ, anh em, vợ

con, tất cả đều phai nhoà trước tư tưởng đó để nhường chỗ cho một lòng vui thích

êm ái nhất…”

Một tác động nữa của chuyến đi là tinh thần xã hội và ý thức canh tân vốn có

ở ông đã được tiếp thêm nhiên liệu, nhờ nguồn thông tin mà ông thu thập được. Ông

còn tìm cách cung cấp thông tin đó cho bạn bè: “Từ tuần này tôi sẽ gửi đều báo

Matin về cho anh. Anh đọc đi và anh muốn đưa cho ai đọc nữa thì đưa. Ngày 01-5

mấy lâu nay được coi như ngày cách mạng xã hội. Tôi muốn tả kỹ để cho anh thấy

những việc gì đã xảy ra… Cùng với thơ này tôi gởi luôn cho anh xem cho biết kỹ

cái tình hình quốc tế ra sao vậy…”.

Nhưng khi có người muốn công bố những ghi nhận và cảm nghĩ của ông thì

ông lại không đồng ý vì cho rằng quan niệm của mình chưa định hình dứt khoát:

“Còn về tập nhật ký của tôi, anh bảo rằng có người muốn sưu tập những thư từ của

tôi để đăng lên báo. Đừng, tôi xin anh, tôi thấy rằng mỗi ngày ý kiến của tôi mỗi

thay đổi, nếu đăng lên bây giờ tôi sợ sau này chính tôi lại phản đối tôi”.

Chính nhờ chứng kiến những tiến bộ của nghề báo chí, ấn loát và xuất bản ở

Pháp mà Nguyễn Văn Vĩnh nung nấu ý định từ bỏ đời sống viên chức, chuyển sang

nghiệp làm báo tự do. Từ Pháp trở về, Nguyễn Văn Vĩnh đề nghị Hauser giúp đỡ để

xin thôi làm công chức và cộng tác với Schneider theo đuổi nghề báo và nghề in.

Schneider giao cho ông làm chủ bút tờ Đăng Cổ tùng báo, như đã nói ở trên, và

cùng với Dufour quản lý nhà in Dufour - Nguyễn Văn Vĩnh, một phân xưởng của

51

nhà in Schneider ở Hà Nội. Đăng Cổ tùng báo là tờ báo viết bằng chữ quốc ngữ đầu

tiên ở Bắc Kỳ, đồng thời có cả phần Pháp văn nhan đề Tribune Indochinoise (Diễn

đàn Đông Dương).

Sau đó, ông lần lượt làm chủ bút hàng loạt tờ báo viết bằng tiếng Pháp lẫn

quốc ngữ như Notre Journal (Báo của chúng ta), Notre Revue (Tạp chí của chúng

ta), Lục Tỉnh tân văn, Đông Dương tạp chí, Trung Bắc tân văn, L’Annam nouveau

(Nước Nam mới). Ông cũng làm chủ nhiệm nhà in Trung Bắc tân văn và Âu Tây tư

tưởng.

Được sự đồng ý của đốc lý Hauser, Nguyễn Văn Vĩnh đứng ra giúp một số

trí thức người Việt làm đơn và thảo điều lệ xin phép lập các trường học và các hội

trình lên Phủ thống sứ Bắc Kỳ. Vì vậy, Nguyễn Văn Vĩnh cũng trở thành sáng lập

viên của Hội Trí Tri, Trường Đông Kinh nghĩa thục, Hội giúp đỡ người Việt sang

Pháp du học, Hội Phật giáo Bắc Kỳ, Hội dịch sách Bắc Kỳ…

Tháng 3-1907 Trường Đông Kinh nghĩa thục được thành lập ở số 10 phố

Hàng Đào. Đông Kinh là tên cũ của Thăng Long – Hà Nội thời Lê sơ. Trường do

Lương Văn Can làm thục trưởng, Nguyễn Quyền làm giám học. Nguyễn Văn Vĩnh

đứng ra làm đơn xin mở trường và được cấp giấy phép chính thức vào tháng 5-

1907. Trường có bốn ban: Giáo dục, Tài chính, Tu thư và Cổ động, thu hút nhiều trí

thức yêu nước nổi tiếng, cả tân học lẫn cựu học. Tham gia giảng dạy có Nguyễn

Quyền, Hoàng Tăng Bí, Dương Bá Trạc (Hán văn); Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Duy

Tốn, Bùi Đình Tá (Việt văn và Pháp văn). Tham gia biên soạn tài liệu giáo khoa có

Lương Văn Can, Lê Đại, Nguyễn Hữu Cầu, Ngô Đức Kế. Tham gia diễn thuyết và

bình văn có Phan Châu Trinh, Dương Bá Trạc, Hoàng Tăng Bí, Lương Trúc Đàm…

Chính quyền thực dân Pháp sớm nhận ra hoạt động của nhà trường có thể

thành mối nguy hiểm đe dọa đến sự thống trị của chúng, nên cuối năm 1907, đã ra

lệnh đóng cửa trường, bắt giam những thành viên chủ chốt và đày ra Côn Đảo.

Nguyễn Văn Vĩnh đã tham gia Đông Kinh nghĩa thục ngay từ đầu, lại đứng ra xin

giấy phép cho trường, nhưng nhờ sự “quyền biến” của mình, đã không bị đàn áp.

Điều đó, như trên đây đã nói, gây nên một nghi vấn lịch sử.

52

Về vấn đề này, Thiếu Sơn lý giải: « ...tôi tin chắc rằng ông Nguyễn Văn Vĩnh

có thể đầu hàng mà không phải là người phản bội. Đầu hàng cũng không tốt đẹp gì

nhưng còn nhẹ tội hơn phản bội nhiều lắm. Ông là người được thực dân hiểu biết và

muốn dùng.

Ông không muốn để cho chúng lợi dụng. Ông muốn về phe những người ái

quốc để làm chung một việc gì có ích cho nước, có lợi cho dân. Nhưng thực dân

không dung túng một việc làm như thế. Chúng khủng bố phong trào nhưng chúng

cũng còn muốn giữ ông lại để dùng vào việc khác.

Ông là người khôn ngoan, quyền biến, ông cũng muốn còn có cơ hội để hoạt

động, nếu không ích cho đời thì cũng lời cho ông chứ không phải là con người tận

tuỵ với thực dân một cách mù quáng như nhiều kẻ khác, trong đó có Phạm Quỳnh »

[63, 52].

Một trong những sự kiện khá then chốt nữa nói lên lập trường chính trị của

Nguyễn Văn Vĩnh, mà cho đến nay các tài liệu vẫn chưa làm rõ động cơ, là việc ông

gia nhập Hội Tam Điểm. Theo Vũ Bằng, đây không phải là Loge maconique, còn

gọi là Le Grand Orient (viết tắt là G. O.), đặt trụ sở tại đường Gambetta, Hà Nội.

Hội Tam Điểm mà Nguyễn Văn Vĩnh tham gia là Logemixte Internationale, còn gọi

là “tổ chức Khổng Tử” (Loge Confucius), trụ sở ở phố Đường Thành. Ngoài

Nguyễn Văn Vĩnh, Hội này còn thu hút Phạm Quỳnh, Trần Trọng Kim, Ôn Như

Nguyễn Văn Ngọc, Nguyễn Quang Oanh, Phạm Huy Lục, Nguyễn Văn Luân…Nơi

đây đã tổ chức thảo luận về những vấn đề như nên theo thuyết trực trị hay quân chủ

lập hiến, cải tổ giáo dục như thế nào”. [6, 5]

Cùng lúc với Trường Đông Kinh nghĩa thục, năm 1907, Nguyễn Văn Vĩnh

đã sáng lập ra Hội dịch sách với tâm niệm: “Nước Nam ta muốn chóng bước lên

đường tiến hoá thì phải mau thu thái lấy những tư tưởng mới. Muốn cho tư tưởng

mới trong văn hoá Tây Âu truyền bá trong khắp dân gian thì cần phải phiên dịch sách nước ngoài ra tiếng Việt Nam”(19). Đây là đơn xin lập Hội dịch sách mà

19 Nguyễn Văn Vĩnh: Diễn văn đọc tại lần họp thứ nhất của Hội dịch sách , Hội quán Trí Tri ngày 4-8-1907.

Nguyễn Văn Vĩnh nhân danh chủ bút Đại Nam Đăng cổ tùng báo cùng đứng tên với

53

những trí thức nổi tiếng thời đó như Lương Văn Can (Giáo trưởng Đông Kinh nghĩa

thục), Đỗ Văn Tâm (Hiệp biện đại học sĩ), Đỗ Thận (Hội viên Thành phố Hà Nội),

Đào Văn Sử (Giáo trưởng tràng Hội Trí Tri): “Chúng tôi dám phiền đến Ngài là

chắc đã biết Ngài cũng tin như chúng tôi rằng: sự dịch sách có ích lợi cho dân ta

lắm, cho nên ở tờ đạt này, cũng không phải kể hết các nhẽ nữa […]. Chúng tôi xin

trình trước với các quan rằng: hội này chúng tôi mở ra là thực hợp ý Nhà nước, vì

Nhà nước bây giờ cũng hết lòng sửa đổi sự học. Chớ hội chúng tôi không có ý gì

ngạo phép, xin các quan đừng ngại. Các quan cai trị dân, một tiếng nói bằng trăm

nhẽ bàn của chúng tôi, nếu các quan giúp cho thành công quả này, thì cái phúc để

lại muôn năm, đời sau dân nước Nam có được nhiều sách mà học, mỗi ngày tư

tưởng một rộng ra, làm ăn buôn bán mỗi ngày một khôn khéo ra, cũng sẽ nhớ đến rằng: vì có các quan giúp vào bây giờ”20 . Ngày 26-6-1907, Hội dịch sách được

phép thành lập với 300 đại biểu tham dự, tại đây Nguyễn Văn Vĩnh đã đọc diễn văn

nói về ý nghĩa, mục đích của việc dịch sách.

Nhận thấy Đăng Cổ tùng báo có khuynh hướng ủng hộ những hoạt động của

Phan Châu Trinh, chính quyền bảo hộ ra lệnh đình bản tờ báo và bắt giam một số

người trong ban biên tập. Nguyễn Văn Vĩnh cũng bị bắt, nhưng chẳng bao lâu sau

được trả tự do nhờ sự can thiệp của Hauser và Schneider. Khi Phan Châu Trinh bị

chính quyền thực dân bắt, Nguyễn Văn Vĩnh là người đầu tiên ký vào lá đơn xin ân

xá cho chí sĩ Tây Hồ. Sau sự việc này, ông bị một vị thượng quan gọi đến và hăm

doạ: “Ở Côn Lôn còn rộng chỗ!..Chú hãy liệu lấy!”

Nhắc tới Phan Châu Trinh, người ta nhớ ngay tới bức thư nổi tiếng ông viết

ngày 15 tháng 9 năm Thành Thái thứ 18 (1906) gửi Toàn quyền Đông Dương. Bức

thư là một bản án hùng hồn chống lại bọn quan lại bất lực và thối nát cùng những tệ

nạn của chính quyền thực dân cai trị. Nhưng ít ai biết rằng Nguyễn Văn Vĩnh chính

là người dịch bức thư viết bằng chữ Hán ấy ra tiếng Pháp, phổ biến rộng rãi tài liệu

kết tội đó cho quần chúng nhân dân biết. Để làm được việc đó, như Delmas, chủ

20 Đại Nam Đăng cổ tùng báo, số 810, ngày 25-7-1907

tịch Hội nhân quyền chi hội Hà Nội nhận xét, phải có một lòng dũng cảm khác

54

thường. Và có lẽ những lời lẽ đanh thép trong bức thư cùng tâm huyết của bậc tiền

bối đã ảnh hưởng nhiều đến con đường hoạt động của Nguyễn Văn Vĩnh. Ông

quyết tâm đi theo con đường mở mang dân trí, chấn hưng dân khí, chờ thời cơ để

làm chủ đất nước.

Sau sự kiện này, Nguyễn Văn Vĩnh lại làm chủ nhiệm kiêm chủ bút tờ Notre

Journal (Báo của chúng ta), sau đổi thành Notre Revue (Tạp chí của chúng ta), chủ

yếu hướng đến độc giả người Pháp, giúp họ hiểu được văn hoá và con người An

Nam.

Năm 1910, Schneider sáng lập tờ Lục tỉnh tân văn trong Nam, Nguyễn Văn

Vĩnh được mời vào làm chủ bút.

Ba năm sau, 1913, ông trở ra Hà Nội làm chủ nhiệm kiêm chủ bút Đông

Dương tạp chí, cũng do Schneider sáng lập. Đây là tờ báo quan trọng nhất trong sự

nghiệp của ông vì nó đã gây ảnh hưởng lớn đến lịch sử báo chí và văn học nước ta

đầu thế kỷ XX. Tuy nhiên, một thời gian dài, Đông Dương tạp chí bị phủ nhận hoàn

toàn giá trị bởi những nội dung phản đối phong trào đấu tranh bạo động lúc bấy giờ

do Phan Bội Châu khởi xướng.

Bài xích Phan Bội Châu- một vị anh hùng của phong trào yêu nước là hành

động làm cho Nguyễn Văn Vĩnh bị nhiều người có ác cảm. Nó khiến ông bị liệt vào

hàng ngũ những kẻ theo Pháp, kể cả sau này, khi ông đả kích những người Pháp cai

trị. Người ta không thích cách ông nói về Phan Bội Châu cũng như không ưa cái

giọng chỉ trích, châm biếm thái quá khi ông phê phán những hủ lậu của người Việt

Nam. Đáng tiếc là những bài viết của Nguyễn Văn Vĩnh thời kì đầu cho Đông

Dương tạp chí với nội dung lên án những người bạo động do viết bằng chữ quốc

ngữ nên có nhiều người đọc. Còn những bài viết chống lại sự cai trị của người Pháp

21 Xem thêm các bài “Báo chí và nhà in”, L’Annam Nouveau số 29, ngày 10/05/1931; “Báo chí bản xứ tự do”, L’Annam Nouveau 03/05/1931; “Chống Pháp”, L’Annam Nouveau số 268 ngày 27/08/1933 và loạt bài “Từ triều đình Huế trở về” của Nguyễn Văn Vĩnh đăng trên L’Annam Nouveau các số 291, 292, 296, 297, 298 – tháng 11 năm 1933.

về sau này lại chủ yếu viết bằng tiếng Pháp, đăng trên L’Annam Nouveau và các tờ báo tiếng Pháp khác nên không mấy người đọc được để mà hiểu ông21.

55

Sở dĩ Nguyễn Văn Vĩnh phản ứng gay gắt trước các vụ bạo động giết người

Pháp kiểu du kích vì ông vốn cho rằng so sánh về lực lượng, ta quá mỏng để có thể

đấu chọi lại với người Pháp. Theo ông, việc trước mắt là phải tận dụng cơ hội để

học lấy văn minh của họ, xây dựng đất nước cho giàu mạnh, dân trí được hưng

thịnh thì lo gì không giữ được nước: “Tục thường nói: theo Tây thì sau mất nước,

chỉ những lo quốc hồn mai hậu không còn. Phải biết rằng cơ còn mất ấy, ở ta không

ở người. Còn người thì còn nước, còn đẻ thì còn người, còn có ruộng đất mà cày

cấy thì còn đẻ được. Mà may sao! Đất của ta thì chỉ có tay ta cầy được mà thôi. Đó là cái cơ còn, chớ không mất được 22. Cho tới lúc chủ trì L’Annam Nouveau gần hai

mươi năm về sau, Nguyễn Văn Vĩnh vẫn giữ nguyên suy nghĩ đó. Ông vẫn muốn

tránh bạo động để chờ một cơ hội mai sau, khi có “những con người đủ khả năng”:

“Những người theo chủ nghĩa quốc gia biết điều, họ mong muốn mặc dù thế nào

cũng có một tổ quốc mà không bị bắn chết hay chặt cổ, cũng không muốn biến đất

nước thành chiến trường máu lửa […] Họ nghĩ như những nhà hiền triết suy nghĩ, là

tổ quốc còn tồn tại khi giống nòi còn tồn tại và họ giữ được sức sống của mình. Tổ

quốc sẽ không được tạo ra bằng một đạo dụ của nhà vua, do các phòng của phủ

Toàn quyền thảo ra và vua Bảo Đại kí, và cũng không bằng một văn bản nào đó do

một chính phủ bên ngoài bản thân mình. Nhưng được tạo nên do chính bản thân

mình một ngày nào đó, sau một quyết tâm kéo dài kiên nhẫn và một sự chuẩn bị lâu

dài trong hòa bình. Nó cho phép lao động liên tục và trong sự phồn vinh đã làm nảy

nở ra những con người có đủ khả năng”. [166]

Hồi ký Thử đi tìm một lập trường tranh đấu cho dân tộc Việt Nam của Lê

Thanh Cảnh hé lộ phần nào những trăn trở và mâu thuẫn của Nguyễn Văn Vĩnh

trong đường lối chính trị của ông. Nguyễn Văn Vĩnh đã bày tỏ lý do vì sao ông chủ

trương trực trị: “Sở dĩ tôi theo lập trường trực trị (administration directe) là kinh

nghiệm cho tôi thấy Nam Kỳ trực trị mà tiến bộ quá xa hơn Trung Bắc. Mà Bắc kỳ

nhờ chế độ mập mờ nửa bảo hộ nửa trực trị (không công khai) mà còn hơn Trung

Kỳ quá xa. Chính thể bảo hộ tại Trung Kỳ là quá lạc hậu, đồng bào chúng ta ở đó 22 Đông Dương tạp chí, số 1 ngày 15 /5/1913.

56

còn trong tình trạng ngu muội. Cứ trực trị cái đã rồi sau khi được khai hóa theo đà

tiến bộ thì tức khắc dân chúng tự có sức mạnh mà trồi đầu lên. Nói trực trị tôi chẳng

khi nào chịu giao nước Nam cho Tây đâu. Quá khứ đường lối đấu tranh của tôi, cuộc đời thiếu thốn của tôi đã hùng hồn bảo đảm cho lời nói của tôi hôm nay”23.

Có lẽ điều khác biệt ở đây là thời gian đầu ông Vĩnh sợ mất lòng người Pháp,

sẽ ảnh hưởng đến việc dựa vào họ để đưa đất nước đến văn minh, tiến bộ; thời gian

sau này, tuy vẫn mong mỏi đạt được mục tiêu một đất nước của người An Nam mà

không phải bạo động, nhưng vì thất vọng bởi những gì người Pháp đã làm đi ngược

với chính sách dân chủ, bác ái mà họ đề ra nên chính ông chứ không ai khác, là

người cầm bút chống lại những bất công của chính sách thực dân cai trị trên đất nước mình24.

Nhờ tấm lòng đó của Nguyễn Văn Vĩnh, mà Phan Bội Châu, dù bị ông công

kích vẫn mến phục ông. Có lẽ do Phan Bội Châu biết rằng, tuy họ khác nhau về con

đường song cùng chung một mục đích. Sau này, họ còn đi du ngoạn cùng nhau trên

một chiếc xe do chính tay Nguyễn Văn Vĩnh cầm lái. Khi ông Vĩnh mất, Phan Bội

Châu rất thương tiếc, đã gửi câu đối đến viếng.

Cũng từ năm 1913, ông được bầu làm hội viên Viện Tư vấn Bắc Kỳ, tức là

nghị viên Viện Dân biểu Bắc Kỳ sau này. Trước đó, ông được bầu làm hội viên Hội

đồng thành phố Hà Nội mấy khoá liền. Ngoài ra, ông còn có chân trong Thượng hội

đồng kinh tế và lý tài Đông Pháp. Nhưng Nguyễn Văn Vĩnh không phải là “người

sắp hàng” có kỷ luật, hay nói theo ngôn ngữ ngày nay, không phải là người hoàn

toàn “đi theo lề bên phải” do chính quyền thực dân quy định.

Khi còn ở trong Hội đồng kinh tế Đông Dương, ông đã nhiều lần lên tiếng

bênh vực cho quyền lợi của đồng bào mình. Tại Đại hội đồng kinh tế Đông Dương

họp ở Sài Gòn năm 1932, ông thay mặt cho giới doanh nghiệp trong nước phản đối

chủ trương chuyển từ ngân bản sang kim bản vị, bảo vệ cho nền tài chính trong

23 Phan Châu Trinh toàn tập (2005), tập 3, Nxb Đà Nẵng. 24 Xem thêm loạt bài về chủ đề “Báo chí và nhà in” hay “Chiều hướng hiện nay của đường lối chính trị đối với người bản xứ” của Nguyễn V ăn Vĩnh đăng trên L’Annam Nouveau từ 1931 đến 1936.

nước. Khi chính quyền Pháp có bản dự thảo đưa ra nghị định hạn chế việc làm

57

thuốc và bán thuốc Bắc, tất cả các ông lang, các hãng bào chế, các nhà buôn thuốc ở

Bắc Kỳ đã họp lại và nhờ ông lên tiếng bênh vực. Và ông đã thực hiện được điều đó(25).

Nguyễn Văn Vĩnh đã hai lần từ chối Bắc đẩu bội tinh do chính phủ Pháp ban

tặng, một vinh dự mà rất nhiều người phải chạy chọt, luồn lụy mới mong có được.

Chính điều này đã khiến Phan Khôi, một người khó tính, tuy không đồng ý xưng

tụng Nguyễn Văn Vĩnh là « đại văn hào », nhưng thừa nhận ông là « người hào kiệt

đầy cái khí phách tự lập ». Phan Khôi viết : « Nói từ trong tim nói ra, tôi có phục

ông Nguyễn Văn Vĩnh thật. Tôi phục ông ở chỗ ông có chí tự lập, ở chỗ không mộ

hư vinh. Tôi ưa ông nhất là tại cái điểm thứ hai này. Kể trong ba bốn mươi năm

nay, cả Bắc Kỳ, ông nào có máu mặt cũng chạy cho được cái Bắc đẩu bội tinh, cái

Hồng lô tự khánh, cái hàn lâm gì đó, cùng không nữa cũng đồng kim tiền, chiếc kim

khánh. Chỉ một mình ông Vĩnh, muốn có thì giống gì mà chẳng có, nhưng ông đã

chẳng có gì cả, ông chỉ là bạch đinh. Tấm lòng nguội lạnh đối với cái hư vinh ấy đã đưa ông lên làm tiêu biểu cho bạn trẻ chúng ta sau này » 26.

Đồng thời với việc làm báo Đông Dương tạp chí, từ năm 1915, Nguyễn Văn

Vĩnh còn tham gia làm báo Trung Bắc tân văn với tư cách chủ bút, còn Schneider

làm chủ nhiệm. Đây là tờ báo ra ba kỳ mỗi tuần. Đến năm 1919, Trung Bắc tân văn

đổi thành nhật báo, lúc này Schneider về hưu, Nguyễn Văn Vĩnh kiêm luôn chức

chủ nhiệm. Về sau, vì nợ nần, ông chuyển tờ báo này cho Nguyễn Văn Luận.

Như trên đã nói, Nguyễn Văn Vĩnh không chỉ say mê làm báo mà ông còn

quan tâm đến nghề in. Hơn mười năm sau khi lập nhà in Dufour – Nguyễn Văn

Vĩnh, năm 1918, ông lại làm chủ nhiệm nhà in Trung Bắc tân văn và cùng Vayrac

thành lập nhà in Âu Tây tư tưởng.

Năm 1922, lần thứ hai Nguyễn Văn Vĩnh được cử đi dự Đấu xảo thuộc địa ở

Marseille, lần này cùng với Phạm Quỳnh và Phạm Duy Tốn. Trong chuyến đi này,

Nguyễn Văn Vĩnh đã tranh thủ đi thăm Berlin để tìm hiểu nghề ấn loát trên quê

hương của ông tổ máy in Gutenberg. Nhờ những gợi ý từ cuộc tham quan này, khi 25 Theo điếu văn ông Nguyễn Mạnh Bổng đọc tại đám tang Nguyễn Văn Vĩnh. 26 Sông Hương số 1, ngày 01-8-1936.

58

về nước, ông thế chấp nhà in và tài sản để vay tiền Ngân hàng Đông Dương đầu tư

cho việc đổi mới công nghệ ấn loát.

Năm 1927, ông khởi xướng việc cải cách chữ quốc ngữ, gọi là lối chữ “Quốc

ngữ mới”. Tuy đề nghị cải cách của ông không được hợp lý nên ít người hưởng

ứng, nhưng việc này cho thấy tâm huyết của ông đối với việc làm cho chữ quốc ngữ

ngày một phổ biến hơn.

Từ năm 1931 Nguyễn Văn Vĩnh chuyển sang kinh doanh, ông lập hội buôn,

tập hợp cổ phần ra báo L’Annam nouveau (Nước Nam mới), có Hy Tống làm trợ

bút. Là chủ nhiệm kiêm chủ bút của báo này từ năm 1931 đến đầu năm 1936,

Nguyễn Văn Vĩnh đã viết hàng trăm bài xã luận, phóng sự trên báo.

Năm 1930, nền kinh tế thế giới rơi vào khủng hoảng trầm trọng, ảnh hưởng

đến sức tiêu thụ, sản xuất đình trệ, các ngành nghề, trong đó có nghề in, đều gặp

nhiều khó khăn, Nguyễn Văn Vĩnh bị ngân hàng tịch thu nhà in đem bán đấu giá.

Nói về những vất vả trong cuộc đời Nguyễn Văn Vĩnh, Vũ Bằng có kể trong

hồi ký Bốn mươi năm nói láo: “Phần thì lo nợ, phần lại bận viết bài cho báo Annam

Nouveau, phần lại do dàn xếp câu chuyện gia đình, phần lại lo chống Phạm Quỳnh,

“chơi” lại thực dân Pháp, ông Vĩnh chỉ cho chỉ thị cũng hết thì giờ rồi […] “Tôi nhớ

có một lần Nguyễn Văn Vĩnh bị mấy nhà ngân hàng thúc nợ dữ quá, dọa tịch thu

gia sản. Trong khi ấy thì nhân viên nhà báo, mấy tháng không có tiền, bỏ bê công

việc; đã thế hai bà lại xích mích, làm tình làm tội ông; ấy là chưa kể mấy ông con,

quen lối sống như con Tây, đòi hết thứ này thứ nọ để ăn chơi cho phè phỡn” [7].

Trong hoàn cảnh như vậy mà Nguyễn Văn Vĩnh không nản chí, vẫn hăng say

làm việc: “Ông Vĩnh làm việc như con trâu cày, không mấy khi muốn làm phiền

người khác. Có một lần, tôi đã được mục kích một cảnh như sau: không biết giận

gia đình gì đó, ông lên một căn gác nằm khoèo, nhờ ông Tụng mua cho một mẹt

bún chả trừ cơm, rồi viết luôn một lúc một bài xã thuyết cho L’Annam nouveau,

thảo một thư cho Toàn quyền Pháp đưa xuống dưới nhà đánh máy luôn, dịch miệng

Tê-lê-mạc phiêu lưu ký cho Đông Lĩnh Dương Phượng Dực ngồi ám tả, trong khi

chính ông lại quay sang nói chuyện với ông Tụng về chuyện thống sứ Pháp có ý

59

muốn giúp ông tiền bất cứ lúc nào, bao nhiêu cũng được, miễn là ông tạm gác ý

kiến đả kích Pháp và ngưng chống nhà vua”.

Năm 1932, Bảo Đại về nước, Triều đình Huế mời ông vào làm quan trong

triều, nhưng ông từ chối. Trong bài phóng sự Từ triều đình Huế trở về, ông đã

nghiêm khắc phê phán bộ mặt cai trị của vua quan phong kiến, qua đó một lần nữa

giải thích lý do khiến ông đề xuất thuyết trực trị, trái với thuyết quân chủ lập hiến

của Phạm Quỳnh, như trên kia đã phân tích. Thậm chí, ông còn có thái độ kiêu

ngạo, theo lời kể của Vũ Bằng, là từng dám xông ra bắt tay Khải Định khi ông vua

Đầu năm 1936, bị ngân hàng gây sức ép bán đấu giá tài sản, ông phải sang

này xuống tàu ở ga Hàng Cỏ, đến nỗi suýt nữa thì bị xử tội « khi quân ».

Lào đi tìm vàng để trả nợ.

Chuyến đi thứ nhất dở dang vì ông bị bệnh, phải về Hà Nội điều trị một thời

gian mới hết bệnh. Sau đó, ông lại ra đi lần nữa. Ngày 01-5-1936, ông chết trên một

con thuyền độc mộc trên dòng sông Sê-băng-ghi, bản Ban-san-khup, ở Tchépone (Lào), ngày nay vẫn chưa rõ nguyên nhân. Chính quyền Pháp lúc đó thông báo ông

chết vì bệnh kiết lỵ. Nhưng gia đình ông nghi ông bị đầu độc, vì khi người thân

sang Lào đưa xác ông về, thì thi thể ông bị tím đen, chỉ nhờ vết sẹo trên người mới

Cho dù là vì lí do nào, cái chết ấy cũng là một kết thúc bi kịch. Như là sự mỉa

nhận ra được.

mai của số phận, một con người suốt đời làm việc với bao niềm hăng say để chứng

tỏ cho những người đồng bào của mình thấy được sự cần thiết học tập lối sống khoa

học và y học phương Tây lại bỏ thân cùng với căn bệnh kiết lỵ không được chạy

chữa đến nơi đến chốn. Một nhà báo nổi tiếng, ông chủ của hàng loạt tờ báo và nhà

in cuối cùng lại kết thúc cuộc đời không một xu dính túi, đúng theo nghĩa đen của

nó.

Đám tang Nguyễn Văn Vĩnh được tổ chức trọng thể tại trụ sở Hội Tam Điểm,

Hà Nội, mà ông là hội viên, như đã nói trên kia, với hai vạn người tham dự. Cái

chết bi đát và đột ngột của ông gợi lên lòng thương tiếc của nhiều người, thể hiện qua các điếu văn trình bày tại tang lễ.

60

Có thể nói, cùng với việc để lại một sự nghiệp văn hoá và văn học đáng cho

ta nghiên cứu, Nguyễn Văn Vĩnh còn để lại một tấm gương về tư chất của người trí

thức dám làm và dám chịu trách nhiệm về những hành động của mình trong hoàn

cảnh khắc nghiệt của lịch sử.

Sự nghiệp văn học của Nguyễn Văn vĩnh có thể chia làm hai phần: sáng tác

và dịch thuật.

Phần sáng tác:

Nguyễn Văn Vĩnh đã viết hàng ngàn bài báo đủ các thể loại bằng tiếng Pháp

và chữ Quốc ngữ đăng trên các báo như: Đăng Cổ tùng báo, Notre Journal, Notre

Revue, Lục Tỉnh tân văn, Đông Dương tạp chí, Trung Bắc tân văn, L’Annam

nouveau… với các bút danh: Quan Thành, N.V.V, Tân Nam Tử, Mũi Tẹt Tử, Tổng

Già, Lang Già, Đào Thị Loan. Những bài viết của ông mang tính cách luận thuyết

hoặc ký sự. Một số bài viết tiêu biểu có thể kể đến là: Người An Nam nên viết chữ

An Nam, Ma to dỗ nhớn, Thói tệ, Thiếu gạo ăn thừa giấy đốt, Lính tuần lính lệ, Hội

dịch sách, Tư tưởng Nam Kỳ, Chết vì gạo, Hội kiếp bạc, Truyện ăn mày, Đốt

pháo…(đăng trên Đăng Cổ tùng báo); Loạt bài Xét tật mình, Phận làm dân, Chỉnh

đốn lại cách cai trị dân xã, Hương Sơn hành trình, Con sâu đổ đầu nồi canh, Nhời

đàn bà, Chữ Nho, Chữ quốc ngữ, Tiếng An Nam,…(đăng trên Đông Dương tạp chí);

v.v…

Phần dịch thuật:

Kim Vân Kiều (dịch từ chữ Nôm sang chữ Quốc ngữ, rồi dịch từ chữ Quốc

ngữ sang Pháp văn), Tiền Xích Bích và Hậu Xích Bích (dịch từ chữ Hán ra tiếng

Pháp), Tam quốc chí diễn nghĩa (dịch cùng Phan Kế Bính từ chữ Hán ra chữ Quốc

ngữ).

Các tác phẩm dịch từ tiếng Pháp ra tiếng Việt: Luân lý học, Triết học yếu

lược (đăng trong Đông Dương tạp chí), Thơ ngụ ngôn của La Fontaine (Fables de

La Fontaine, 44 bài), Truyện trẻ con của Perrault, Truyện các bậc danh nhân La Mã

và Hy Lạp (Les vies parallèles des Hommes illustres de la Grèce et de Rome) của

Plutarque, Sử ký thanh hoa (Le Parfum des Humanistes) của Vayrac, Trưởng giả

61

học làm sang (Le Bourgeois Gennilhomme) của Molière, Bệnh tưởng (Le Malade

Imaginaire) của Molière, Giả đạo đức (Tartuffe) của Molière (bản này chưa dịch

hết), Người biển lận (L’Avare) của Molière, Tục ca lệ (Turcaret, 2 cuốn) của

Lesage, Mai Nương Lệ Cốt (Manon Lescaut, 5 cuốn) của Abbé Prévost, Truyện ba

người ngự lâm pháo thủ (Les Trois Mousquetaires, 24 cuốn) của Alexandre Dumas,

Những kẻ khốn nạn (Les Misérables) của Victor Hugo, Chuyện miếng da lừa (La

peau de chagrin) của Honoré de Balzac, Qui-li-ve du ký (Les Voyages de Gulliver)

của J.Swift, Tê-lê-mặc phiêu lưu ký (Les Aventures de Télémaque) của Fénelon,

Rabelais của Emile Vayrac, Đàn cừu vàng của chàng Panurge của Emile Vayrac,

Truyện Gil Blas de Santillane của Lesage.

1.2.1.2 Phan Kế Bính (1875 – 1921)

Phan Kế Bính hiệu là Bưu Văn, bút hiệu Liên Hồ Tử, sinh năm 1875 tại làng

Thụy Khê, huyện Hoàn Long, tỉnh Hà Đông (nay thuộc phố Thụy Khuê, quận Tây

Hồ, Hà Nội).

Năm Bính Ngọ (1906), Phan Kế Bính dự thi Nho học và đỗ cử nhân, nhưng

không ra làm quan, mà ở nhà dạy học. Trong thời gian này, ông công khai hưởng

ứng phong trào Duy Tân nhưng không trực tiếp chỉ đạo. Từ 1907, ông bắt đầu viết

báo cho nhiều tờ báo trong nước, trong vai trò là một trợ bút, chủ yếu là dịch thuật,

biên khảo sách chữ Hán. Sau đó ông lần lượt cộng tác với các tờ báo: Ðông Dương

tạp chí, Lục tỉnh tân văn, Trung Bắc tân văn. Đặc biệt là với tờ Đông Dương tạp

chí, hầu hết tác phẩm của ông đều từng đăng trên tạp chí này. Phan Kế Bính là một

nhà Nho vừa uyên thâm Hán học lại sành quốc văn nên được đánh giá là một trong

những cây bút xuất sắc trong làng văn lúc bấy giờ.

Viết cho Đông Dương tạp chí từ số đầu đến số cuối, ông chuyên phổ biến tư

tưởng Việt Nam và Trung Hoa, sưu tầm và dịch các tác phẩm cũ. Ở Đông Dương

tạp chí, ông chuyên giữ phần Hán văn, trong đó chủ yếu phổ biến tư tưởng Trung

Hoa (nghiên cứu và sưu tầm cổ văn, tác phẩm của các văn hào và triết gia trong các

sách Chiến quốc, Cổ văn, Liệt Tử, Mặc Tử, Hàn Phi Tử; dịch những truyện trong

Tình Sử, Kim cổ Kỳ Quan, Tiền Hán Thư).

62

Sự nghiệp văn chương của ông lưu lại gồm có hai loại:

Loại lịch sử: Đại Nam nhất thống chí (1916), Ðại Nam điển lệ toát yếu

(1915 - 1916), Việt Nam khai quốc chí truyện (1917), Đại Nam liệt truyện tiền biên

(1918), Ðại Nam liệt truyện chỉnh biên (1919), Tam quốc chí diễn nghĩa (dịch

chung với Nguyễn Văn Vĩnh).

Loại khảo cứu: Việt Nam phong tục (1915): nghiên cứu nghiêm túc, có tính

phản biện, về thuần phong mỹ tục của Việt Nam, Hán Việt văn khảo" (1918): bàn

về văn chương chữ Hán ở Trung Quốc, Việt Nam và triết học Trung Quốc. Các sách

viết về danh nhân Việt Nam: Nam hải dị nhân (1909), Hưng Đạo Đại vương

(1912).

1.2.1.3 Nguyễn Đỗ Mục (1882 – 1949)

Nhà văn Nguyễn Đỗ Mục tự Trọng Hữu, quê làng Thư Trai, huyện Thạch

Thất, tỉnh Sơn Tây nay thuộc huyện Phúc Thọ, tỉnh Hà Tây.

Ông sinh trưởng trong một gia đình Nho học truyền thống. Cha ông là Hoàng

Giáp Nguyễn Đình Dương, từng làm Án sát Hưng Yên, Bố chánh Quảng Bình, Biện

lý Bộ Lại.

Khoa Kỷ Dậu (1909) đời vua Duy Tân, Nguyễn Đỗ Mục đỗ tú tài, nhưng

không đỗ ở kì thi Hội. Khi tờ Đông Dương tạp chí do Nguyễn Văn Vĩnh làm chủ

bút ra đời, Nguyễn Đỗ Mục đến cộng tác và viết đều đặn ở mục Gõ đầu trẻ, chuyên

về giáo dục và dịch một số tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc. Ông là một trong vài

người vào thời kì đầu khi chữ Quốc ngữ mới có chỗ đứng trên diễn đàn văn học đã

góp công giới thiệu được những tác phẩm văn học Trung Quốc rộng rãi đến công

chúng. Nguyễn Đỗ Mục vừa tinh thông Hán học vừa giỏi quốc ngữ nên cũng được

đánh giá là một trong những cây bút kỳ cựu và xuất sắc của Đông Dương tạp chí.

Sau ngày Pháp tái chiếm Việt Nam, ông tham gia vào các tổ chức văn hóa

cứu quốc ở chiến khu Việt Bắc. Theo một số tài liệu, ông mất vào khoảng năm 1949

tại Thái Nguyên.

63

Văn nghiệp của ông chia làm hai loại:

Loại phiên dịch: Khổng Tử gia ngữ (chép những lời của Đức Khổng Tử về

các tục lệ như quan, hôn, tang, tế), Khổng Tử tập ngữ, Bách Tử kim đan (trích

những áng văn hay của các văn gia, triết gia Trung Hoa), Song phượng kỳ duyên

(chuyện nàng Chiêu Quân), Tái sinh duyên (chuyện nàng Mạnh Lệ Quân), Tây

Sương ký (chuyện nàng Oanh Oanh, đăng trong Đông Dương tạp chí. Riêng cuốn

này dịch theo lối chêm những câu tập Kiều), Đông Chu liệt quốc (đăng trên Đông

Dương tạp chí, sau do Tân Việt Nam xuất bản. Đây là một kho sử liệu thời Đông

Chu, lưu lại cho người sau những kinh nghiệm quý giá về chính trị), Hiệp nghĩa anh

hùng (tiểu thuyết nghĩa hiệp, đăng trên Tiểu thuyết thứ bảy), Vô gia đình (chuyện

này nguyên bản của Hector Malot nhưng ông dịch theo bản dịch của sách Tàu. Bản

dịch của ông lấy tên là Đứa trẻ khốn nạn đăng trên Trung Bắc Tân Văn, sau được in

thành sách lấy tên là Vô gia đình).

Loại biên khảo: Chinh phụ ngâm khúc dẫn giải.

Có thể thấy rằng, Đông Dương tạp chí là một diễn đàn đã tập hợp được

những cây bút tinh hoa nhất thời bấy giờ. Họ là các nhà trí thức Tây học và Nho học

không thuần nhất về lập trường chính trị và quan điểm học thuật...nhưng đã cùng

chung sức để xây dựng tờ báo như một cơ quan đứng đầu công cuộc duy tân, đổi

mới học thuật. Trước yêu cầu xây dựng một nền quốc văn mới, bồi bổ văn hoá dân

tộc, những người thực hiện Đông Dương tạp chí chủ trương xây dựng và phổ biến

chữ quốc ngữ, dung hoà học thuật Á-Âu để làm giàu cho nền văn học nước nhà, đặt

ra vai trò của báo chí trong việc khai hoá dân trí. Nguyễn Văn Vĩnh và những người

cộng sự của ông đã nỗ lực chứng minh ưu việt của chữ quốc ngữ và những giá trị to

lớn mà nó sẽ đem lại cho đời sống văn hoá, tinh thần của dân tộc. Những đóng góp

của họ trên Đông Dương tạp chí đã góp phần không nhỏ vào tiến trình hiện đại hóa

văn học Việt Nam đầu thế kỉ 20.

1.2.3 Những chặng đường phát triển của Đông Dương tạp chí

Theo những số báo mà Trung tâm Lưu trữ Quốc gia I, Thư viện quốc gia còn

lưu, thì qua gần 5 năm tồn tại Đông Dương tạp chí phát triển theo 2 giai đoạn chính:

64

Giai đoạn 1 (1913 - 1914)

Đông Dương tạp chí có khổ lớn 21x27cm, độ dày của báo dao động từ 16

đến 24 trang. Tờ bìa của Đông Dương tạp chí được trình bày như sau: ở phần trên

cùng, phía bên trái là NOUVELLE SÉRIE (số báo), phía bên phải là thời gian xuất

bản (gồm thứ, ngày, tháng, năm viết theo tiếng Pháp). Phía dưới là hàng chữ to in

đậm ĐÔNG-DƯƠNG TẠP CHÍ, dưới tên Đông Dương tạp chí có viết: “Edition

spéciale du “Lục tỉnh tân văn” Pour le Tonkin et L’ Annam” (ấn bản đặc biệt của

Lục tỉnh tân văn ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ), tiếp đó là dòng chữ Đông Dương tạp chí

được viết bằng chữ Hán, dưới nữa là dòng chữ in đậm nhỏ bằng tiếng Pháp REVUE

DE VULGARISATION (Tạp chí phổ biến khoa học), tiếp theo là phần mục lục

được đặt ở phía lề bên trái của tờ báo và dưới cùng có in tên của chủ nhiệm F .H.

SCHNEIDER, nơi xuất bản.

Việc tựa đề của tờ báo được in đậm bằng chữ quốc ngữ cho phép khẳng định

một trong những mục tiêu ưu tiên của tạp chí là khuyến khích phát triển ngôn ngữ

quốc gia là chữ quốc ngữ, cũng như khẳng định bản sắc so với Trung Hoa (các Hán

tự chỉ xuất hiện dưới dạng phụ đề, với kiểu chữ nhỏ hơn nhiều so với kiểu chữ dành

cho tựa đề bằng chữ quốc ngữ, thậm chí là so với chữ bằng tiếng Pháp).

Các tin bài trên Đông Dương tạp chí được chia thành ba cột. Có khá nhiều

chuyên mục trong mỗi số báo. Trong quá trình phát hành, Đông Dương tạp chí có

sự điều chỉnh thêm bớt ít nhiều về chuyên mục, ví dụ như chuyên mục “Tân học cổ

học bình luận”, và một số chuyên mục phục vụ cho các mục đích chính trị, xã hội,

thời sự… lúc bấy giờ. Từ số 45, Đông Dương tạp chí có mục “Tân học văn tập” với

hai nội dung lớn là: Văn chương khoa và Sư phạm học khoa. Nhưng về cơ bản trong

hai năm này, Đông Dương tạp chí vẫn giữ nhiều chuyên mục ổn định và xuyên

suốt, cụ thể là những chuyên mục:

1. Kính Khai

2. Cẩn cáo

3. Thời sự tổng thuật

4. Điện báo

65

5. Quan báo lược lục

6. Đông Dương thời sự

7. Nhời đàn bà

8. Văn chương

9. Tự do diễn đàn

10. Dưỡng anh nhi pháp

11. Việc buôn bán

12. Luân lý học

13. Sách dạy tiếng An Nam.

Như vậy, trong 2 năm đầu (1913-1914), Đông Dương tạp chí cung cấp nội

dung khá phong phú về mọi mặt trong đời sống xã hội lúc bấy giờ, phần tin tức

được ưu tiên hơn, đúng với tôn chỉ ban đầu của tờ báo đã được công bố. Mặc dù vậy

Đông Dương tạp chí cũng không quên một trong những mục đích, nhiệm vụ đề ra

ban đầu là, xây đắp một nền quốc văn mới. Từ năm 1915, Đông Dương tạp chí đã

có một bước ngoặt lớn, nội dung của tờ báo chủ yếu chỉ dịch thuật, đăng tải các tư

tưởng học thuật và đặc biệt chú trọng đi sâu vào đề tài văn chương. “Giáo hóa quốc

dân”, “xây dựng nền quốc văn mới” đã trở thành tôn chỉ, mục đích chính của Đông

Dương tạp chí.

Giai đoạn 2 (1915 – 1919)

Bước sang năm thứ 3, Đông Dương tạp chí đã có sự thay đổi cả hình thức lẫn

nội dung. Đông Dương tạp chí “sê-ri mới”, xuất bản từ năm 1915 có sự thay đổi về

trang bìa. Sê-ri mới được thiết kế trang bìa với ý đồ cho người đọc nhìn thấy dễ dàng

mục tiêu của tạp chí. Từ trên xuống dưới của trang bìa, độc giả sẽ nhìn thấy trước hết

giá của tạp chí “Mỗi một số: một hào”, sau đó là dòng chữ định rõ tính chất của tờ

báo: “Thư viện Phổ thông”.

Tựa đề của tạp chí bằng chữ quốc ngữ ở phần cao nhất (Đông Dương tạp chí)

và bằng Hán tự trong phần phụ đính nhỏ nằm dọc, trên đó có hình ảnh một người

Việt Nam mặc áo truyền thống, đeo mắt kính, dựa vào để đọc bản sao tờ Lục tỉnh tân

66

văn. Điều này một lần nữa cho thấy mối liên hệ trực tiếp của Đông Dương tạp chí và

Lục tỉnh tân văn.

Trong Đông Dương tạp chí “sê-ri mới”, các Hán tự lấy lại vị trí đặc quyền hơn so với “sê –ri” cũ27: kiểu chữ rõ ràng hơn (phông chữ lớn hơn). Các Hán tự ghi

trên hình nền phía sau là các tia mặt trời cách điệu, một chút giống như lá cờ Nhật

Bản (biểu tượng của mặt trời, gợi nhớ lại sự thống nhất của “các quốc gia ngoài Biển

Đông ", được đặt ngay sau tựa đề bằng chữ quốc ngữ của tạp chí); phần chữ viết

bằng tiếng Pháp được đóng khung phần trên của mái hiên bằng tre, có thể tưởng

tượng như là một cánh cửa đến thế giới khác, một nơi khác để khám phá, sự hiện

diện của phương Tây thông qua Pháp.

Phần phía dưới của trang bìa là hình vẽ con rồng bao viền quanh phía dưới

mái hiên, và một bức tranh vẽ mang tính biểu tượng cho nước Việt Nam: một chiếc

ghe đậu ven bờ một nơi thả trâu bò, và hai đứa trẻ đang vui đùa, một đứa thì thổi

sáo, và đứa còn lại đọc sách (có thể là mẫu cho “Thư viện phổ thông” của

Schneider). Một chú chó ngồi gần hai đứa trẻ này. Một trong hai đứa trẻ đội một

chiếc nón lá, và đứa kia đội khăn; chúng mặc áo bà ba và mặc chiếc quần ngắn.

Giữa các con trâu và những đứa trẻ, một người có vẻ cũng mang một quang gánh,

có thể làm chúng ta nghĩ đến việc đồng áng hay người nông dân. Bên dưới của bản

vẽ là sự hiện diện của hai cây bút lông biểu trưng cho công việc của giới trí thức.

Bìa báo này được giữ nguyên đến năm 1919. Ngày 01 tháng 09 cùng năm, nó

chính thức được thay thế bằng tạp chí Học báo, theo khuynh hướng hoàn toàn sư phạm.

Về khuôn khổ, từ 1915, Đông Dương tạp chí từ cỡ lớn được đổi thành cỡ

nhỏ, đóng thành tập như sách với số lượng trên dưới 40 trang vẫn tiếp tục ra hàng

tuần. Nội dung chỉ được trình bày thành hai cột. Các trang của Đông Dương tạp chí

27 Điều này cũng tương ứng với thực tế là trong “Sê-ri mới”. Văn hóa Hán – Việt cũng là đại diện trong tạp chí cũng như văn hóa phương Tây (đặc biệt là xem các đề mục lịch sử và văn minh Việt Nam của Phan Kế Bính, chuyển dịch một tiểu thuyết Trung Hoa của Nguyễn Đỗ M ục và phần quan trọng để dành cho việc giới thiệu văn học Việt Nam và Trung Hoa trong đề mục văn học).

được đánh số liên tục giữa các số tạp chí chứ không tách biệt theo từng số. Về nội

67

dung, mảng văn chương, học thuật được quan tâm nhiều hơn. Hệ thống chuyên mục

của Đông Dương tạp chí bao gồm:

1.   Văn chương (Pháp văn, Hán văn, Kim Vân Kiều, Bình phẩm sách mới).

2.   Gương phong tục.

3.   Chuyện Hoa tiên.

4.   Văn Nôm cổ.

5.   Văn Nôm đàng trong.

6.   Tiểu thuyết Tây diễn nôm.

7.   Tiểu thuyết Tàu.

8.   Tân học văn tập (Văn quốc ngữ, cách trí, tập đọc, giảng nghĩa và học

thuộc lòng, Nam sử).

9.   Công văn tập.

10.  Thiệt hành điện học.

Kỷ niệm 4 năm tờ báo ra đời, Đông Dương tạp chí đã đăng một bài viết có

tính chất tự tổng thuật, được đăng trên số báo 122 ra ngày 15 tháng 5 năm 1917:

“Hôm nay là ngày sinh nhật thứ tư của bản quán, lập ra tại Hà Nội, chính

giữa ngày 15 tháng 5 năm 1913.

Bốn năm nay bổn quán may mà được việc luôn. Đối với quốc gia trong

những tình ý quan dân cũng phải hiểu rõ, thì bản báo làm cái mối giao tiếp

cho trên dưới thân tín, cho đỡ nhiều việc hiểu sai nhau đến lưu huyết. Đối

với công nghệ thì bản quán đã hết sức tìm cứu những tân phương biệt kế,

cho việc cày cấy phát đạt...Đối với việc bán buôn, bản quán cũng đã cố

sức...Đối với việc giáo-hóa quốc dân, là tôn chỉ của bản quán, thì từ đầu đến

giờ bản quán đã đem hết tài lực, không quản phí tốn, không quản gian lao

mà gây cho lấy được một cuộc Nam học làm gốc cho dân, phải để lên trên cả

...”.

Rõ ràng, trong quá trình phát triển, Đông Dương tạp chí không chỉ có sự

thay đổi về khuôn khổ, số lượng; mà cùng với sự thay đổi nội dung và các chuyên

mục, tôn chỉ, mục đích của Đông Dương tạp chí cũng có những thay đổi theo quá

68

trình phát triển của tờ báo. Cụ thể là về nội dung, số lượng trang báo dành cho

nhiệm vụ tuyên truyền cho chính phủ bảo hộ dần bị thu hẹp và được thay thế bằng

các hoạt động hướng vào tuyên truyền văn chương, học thuật, sau cùng là hoàn toàn

chú trọng vào nhiệm vụ giáo hóa quốc dân, gây dựng một nền quốc văn mới.

Với những thay đổi về nội dung và chuyên mục, Đông Dương tạp chí đã có

những đóng góp không nhỏ trong việc phổ cập chữ quốc ngữ. Vai trò của Đông

Dương tạp chí đã được Trịnh Vân Thanh đánh giá:

“Mặc dù Đông Dương tạp chí ra đời không ngoài mục đích chính trị của thực

dân Pháp... Nhưng họ đã thất vọng vì các cây bút viết cho báo không theo

đúng mục đích chính trị, mà chỉ cốt thực hiện một nền quốc văn mới cho dân

tộc...Có thể nói đây là một tạp chí, trước nhất chuyên về việc dịch thuật Hán

văn và Pháp văn, nhằm mục đích nâng cao dân trí. Bên cạnh đó, nhóm Đông

Dương tạp chí cũng đã sáng tác nhiều loạt bài với lối văn bình dị, nhắm vào

việc giáo dục giới thanh niên trên con đường tiến hóa…Sau khi gạt bỏ những

gì có tính chất chính trị mà thực dân Pháp đã dụng ý, Đông Dương tạp chí

quả thật là đã có công xây dựng một cơ sở vững vàng cho nền quốc văn mới

trong lịch sử văn học Việt Nam ở đầu thế kỷ 20”. [73]

Sự phát triển qua các giai đoạn của Đông Dương tạp chí gắn liền với chính

sách của chính phủ. Đây là sự gắn bó cần thiết cho sự tồn tại của tờ báo. Chính Schneider cũng thừa nhận rằng sự ra đời của tạp chí chính là vì Albert Sarraut28 lên

nắm quyền ở Đông Dương. Do đó chúng ta cũng không bất ngờ khi tạp chí ngay từ

đầu có khuynh hướng ưa chuộng những cải cách của Sarraut, đặc biệt là trong lĩnh

vực giáo dục.

Tuy nhiên, việc tuyên truyền cho chính phủ không chỉ thể hiện cứng nhắc,

một chiều qua các công văn, nghị định. Đông Dương tạp chí thông tin tới nhân dân

Bắc Kỳ không chỉ những vấn đề khá trừu tượng như lợi ích chính trị, mà còn những

tin tức nóng hổi ví dụ như trận lụt tháng 8/1913. Theo đó, tạp chí đã đăng tải một bản

tường trình tỉ mỉ về những thiệt hại, kêu gọi quyên góp cho người dân và cơ sở vùng 28 Albert Pierre Sarraut (28 tháng 7, 1872 - 26 tháng 11, 1962) là chính khách người Pháp, đảng viên đảng Cấp tiến Pháp và đã hai lần làm thủ tướng Pháp.

69

lũ miền Bắc, đưa ra những tranh luận về vấn đề hiệu quả của những con đê cũng như

bản tóm tắt khí tượng mà qua đó cho phép theo dõi lũ và thủy lợi của sông Hồng.

Tuy rằng những vấn đề này đứng sau lợi ích kinh tế của chính quyền thực dân nhưng

cũng là diễn đàn để mọi người đưa ra ý kiến trực tiếp, hướng tới nhân dân và để hỗ

trợ họ trong nghịch cảnh.

Đông Dương tạp chí nhận được sự hỗ trợ khá lớn từ chính quyền để duy trì

hoạt động của mình và mở rộng hơn tầm ảnh hưởng đối với độc giả. Tạp chí giảm

giá từ tháng 7/1915 do sự giúp đỡ tài chính từ chính quyền nhằm tăng cường sự ảnh hưởng của tờ báo trong lĩnh vực giáo dục thông qua ảnh hưởng của báo chí viết bằng

chữ quốc ngữ, với mục đích ý phổ biến rộng rãi đến người dân Bắc Kỳ.

Mối liên hệ giữa Đông Dương tạp chí và chính quyền thuộc địa không ngừng

được tăng cường thể hiện qua việc trợ cấp ngày càng nhiều: nếu trong năm 1913,

tòa công sứ cấp cao của Bắc Kỳ chỉ phải chi trả đúng thời hạn cho những thông báo

kèm theo của chính phủ mà Đông Dương tạp chí phổ biến thì đến ngày 1/1/1914,

một hợp đồng giữa Schneider và chính phủ về việc xuất bản tất cả các thông báo về

hoạt động văn phòng được ký kết. Bắt đầu từ tháng 8 năm 1914 một thị trường mới

được mở rộng với 1500 nơi đặt mua. Sau cùng, tháng 7/1915, các cuộc đàm phán

liên kết giữa việc xuất bản của Schneider và dự án chính trị (tuyên truyền và giáo

dục) của chính phủ được khơi mào cho quá trình viện trợ trực tiếp từ chính quyền

thuộc địa cho Đông Dương tạp chí.

Về phía chính phủ, họ dường như hài lòng với công việc của báo chí bằng

chữ quốc ngữ, nhất là Đông Dương tạp chí, như Monguillot đã bày tỏ với Tổng thư

kí những vấn đề của Thống đốc Sarraut trong bức điện ngày 14/6/1918:

Từ lúc thành lập ngân sách dự kiến năm 1919, ước tính ngài giúp mang về

nhiều giáo sư bản xứ của những trường sơ đẳng, nơi được dạy chữ quốc

ngữ, tạp chí Đông Dương của ông Schneider tại Hà Nội bắt đầu xuất bản

những phụ trương sư phạm tương ứng với ba khóa học đầu tiên của Tiểu

học. Những phụ trương này được thiết lập bởi ủy ban giáo sư Pháp và giáo

sư bản xứ và kiểm soát bởi Ban trường nghề địa phương và Sở thanh tra

70

Giáo dục cộng đồng. Sự thống nhất từ vựng quốc ngữ ở ba nước Đông

Dương là một trong các nhan đề trong chương trình mới của bậc Tiểu học,

sự áp dụng đáng ao ước với tất cả các trường mà tạp chí sư phạm đã sửa đổi

hệ thống thuật ngữ và chính tả với sự quan tâm lớn lao.

Bức điện này gợi lại nghị định của chính phủ thuộc địa về chủ trương đồng

hóa chữ quốc ngữ trong trường học mà Đông Dương tạp chí đóng vai trò chủ chốt

trong việc thực hiện. Thế nên, không ngạc nhiên khi từ năm 1920, những tài trợ cho tuyên truyền bằng báo chí địa phương đăng kí với tổng ngân sách29 tăng lên thành

34.000 đồng, cho thấy tầm quan trọng của vấn đề này với chính quyền thuộc địa. Các cơ quan chính phủ thời kì này đều đi theo hướng tài trợ, như Marty30 ghi nhận:

- Nam Phong khác với Đông Dương tạp chí, được “thành lập tháng 7/1917

bởi “Văn phòng hành chính các vấn đề chính trị” (thuộc Chính phủ): trợ cấp

400$ một tháng;

- Trung Bắc tân văn, lập bởi Schneider và nhượng lại cho Chính phủ từ khi

về hưu (chủ bút: Nguyễn Văn Vĩnh, theo hợp đồng ngày 4/11/1919):

tài trợ 1000 đồng để trả ban biên tập, và “ngân sách miễn phí của chính phủ)

- Lục Tỉnh tân văn, (như trên) (chủ bút: Nguyễn Văn Của, hợp đồng ngày

10/12/1919);

- Báo Tiểu học: bản in tiếng Bắc Kỳ “Học Bảo” và bản in tiếng An Nam “Sư-

phạm Học-khoa”

Thông qua Đông Dương tạp chí, Sarraut và Schneider đã dẫn dắt một ấn

phẩm cộng đồng trở thành cầu nối cho những chính sách của chính quyền tới dân

chúng. Tuy nhiên nhiệm vụ này trở nên mờ nhạt ở giai đoạn sau của tạp chí bởi sự

lèo lái của ban biên tập người Việt, đứng đầu là chủ bút Nguyễn Văn Vĩnh. Người ta

có thể chỉ trích tờ báo là công cụ của chính quyền thực dân, nhưng nếu tạp chí không

29 CAOM-GGI 65 407: lưu ý của Ban các vấn đề Chính trị v à Địa phương về “cơ cấu tài trợ báo chí địa phương” (L. Marty, ngày 21/5/1920). 30 Như trên đã dẫn

cộng tác với chính phủ, nó đã không được xuất bản.

71

Tiểu kết:

Sự ra đời của Đông Dương tạp chí là kết quả của một quá trình vận động,

chuyển biến của nền văn học, văn hoá Việt Nam đầu từ nửa cuối thế kỷ XIX đến

đầu thế kỷ XX. Chính sách khai thác thuộc địa của Pháp đối với Việt Nam đã tác

động sâu sắc tới diện mạo bên ngoài cũng như cấu trúc bên trong của xã hội Việt

Nam. Xã hội Việt Nam đã hình thành một tầng lớp trí thức mới - trí thức Tây học và

một lớp nhà văn mới. Nghề viết văn, viết báo dần đi vào con đường chuyên nghiệp.

Bên cạnh đó, sự phổ biến mạnh mẽ của chữ quốc ngữ từ nửa sau thế kỷ XIX đã góp

phần quan trọng cho sự thay đổi diện mạo của nền văn học, văn hoá Việt Nam.

Những thành tựu của báo chí quốc ngữ, đặc biệt là báo chí quốc ngữ Nam Bộ là tiền

đề rất thuận lợi cho sự ra đời và phát triển của Đông Dương tạp chí.

Tinh thần của Đông Dương tạp chí là sự tiếp nối tinh thần của Đông Kinh

nghĩa thục khi mà các lực lượng yêu nước và tiến bộ ở Việt Nam ngày càng ý thức

sâu sắc về sự khủng hoảng, bất lực của chế độ phong kiến đồng thời cũng thấy rõ

không thể cứu nước nếu không canh tân đất nước. Cùng với những luồng tư tưởng

mới (từ tân thư, tân văn, tri thức có nguồn gốc phương Tây); với phong trào vận

động cải cách, duy tân (Duy Tân, Đông Du, Đông Kinh nghĩa thục) Đông Dương

tạp chí không những đã góp thêm vào quyết tâm duy tân ấy một tiếng nói mạnh mẽ

mà còn bằng những hành động quyết liệt hòng đưa đất nước mau bước trên con

đường văn minh.

Tuy nhiên, trong quá trình hoạt động, Đông Dương tạp chí đã phát triển xa

hơn theo định hướng của chính quyền. Ý tưởng về một tờ báo lĩnh hội vai trò như là

trụ cột của tòa nhà học vấn nói chung chắc chắn không phải là ý tưởng của các nhân

viên chính phủ nảy sinh từ sự xâm chiếm thuộc địa. Đó là sự kết nối các cá nhân ưu

tú theo con đường đặc biệt. Có thể khẳng định rằng, Đông Dương tạp chí dần dần

không chỉ là công cụ của riêng thực dân Pháp mà đã được chủ động sử dụng, khai

thác để trở thành công cụ đấu tranh cho sự tiến hóa của xã hội Việt Nam đầu thế kỉ

XX.

72

CHƯƠNG 2: NHỮNG ĐÓNG GÓP CỦA ĐÔNG DƯƠNG TẠP CHÍ TRONG QUÁ TRÌNH HIỆN ĐẠI HOÁ VĂN HỌC VIỆT NAM ĐẦU THẾ KỶ XX 2.1. Đông Dương tạp chí với sự phát triển chữ quốc ngữ - ngôn ngữ văn học của dân tộc

2.1.1 Mục đích của việc xây dựng chữ quốc ngữ của trí thức Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX

Nếu như trong một số lĩnh vực, nhất là trong việc phát hành và dịch thuật các

tác phẩm phương Tây, Việt Nam chậm hơn một chút so với người “đồng cảnh”

Trung Quốc, thì ngược lại, trong một số lĩnh vực khác, Việt Nam lại có thể tiến

hành với một tầm sâu rộng không ngờ, nhất là trong lĩnh vực cải cách ngôn ngữ viết

của dân tộc. [77]

Được các nhà truyền giáo đưa vào Việt Nam do nhu cầu truyền bá Phúc âm,

được các nhà cầm quyền phương Tây khuyến khích với mục tiêu phá vỡ thế độc

quyền của văn hoá Hán học, chữ quốc ngữ được dân chúng hoan nghênh, nhanh

chóng tiến lên vị trí chữ viết quốc gia, trong khi mọi cố gắng tương tự, dù được các

trí thức duy tân kêu gọi (Cù Thu Bạch, Trần Độc Tú, Hồ Thích, Mao Trạch

Đông…) chỉ đạt được mức độ cải cách khiêm tốn không mang tầm quan trọng tại

Trung Quốc.

Điều kì diệu trên đã xảy ra, bởi trí thức Việt Nam, bắt nguồn từ những hành

trình đầu tiên của chữ quốc ngữ, đã xem nó như một công cụ hiệu quả để truyền bá

những tư tưởng mới và những sách mới cho dân chúng. Song song với việc khẳng

định tính ưu việt của chữ quốc ngữ là những cuộc vận động phát hành các tác phẩm

duy tân do trí thức chịu trách nhiệm xuất bản trong phạm vi văn hoá và giáo dục của Đông Kinh nghĩa thục.31

Sự phát triển vượt bậc của chữ quốc ngữ ở Việt Nam đã làm nhà cầm quyền

Pháp phải kinh ngạc bởi nó đã vượt cả sự mong đợi của họ. Nguyên nhân của sự

31 Quốc dân độc bản, Văn minh tân học sách, Việt Nam quốc sử giản biên, Nam quốc vĩ nhân, Nam quốc giải sử, Quốc văn giáo khoa thư, Nam quốc địa dư, Luân lý giáo khoa thư...

phát triển vượt bậc đó là nhờ tâm huyết và nỗ lực của những người trí thức thấu

73

hiểu hơn ai hết sự cấp thiết của vấn đề giành lại sự tự chủ cho dân tộc sau bao thế

kỷ chịu ảnh hưởng của người láng giềng Trung Quốc. Với họ, xây dựng chữ quốc

ngữ không chỉ là vấn đề phát triển đất nước, đó còn là vấn đề bản sắc giữ bản sắc

của dân tộc thông qua việc giữ khoảng cách với mô hình Trung Hoa.

Không phải đợi đến sự xuất hiện của người phương Tây ở miền Viễn Đông

cùng với những kí tự la-tinh, rất tự nhiên, người Việt Nam luôn khẳng định bản sắc

của mình với người Trung Quốc mặc dù ảnh hưởng văn minh và các tư tưởng Trung Hoa trên các sản phẩm tinh thần ở Bắc Kì là rất lớn32. Vào cuối thế kỉ 18, trong

khoảng thời gian trị vì ngắn ngủi của vua Quang Trung (1788 – 1792) có nhiều cuộc

cải cách được thực hiện. Trong số đó, có việc sử dụng chữ Nôm làm quốc ngữ cho nước Đại Việt, nối tiếp khởi đầu của nó đã có từ năm 140033. Tuy nhiên, sự tôn

sùng các giá trị Trung Hoa cũng như sự phát triển của chủ nghĩa cá nhân ở thời

điểm đó đã khiến các trí thức bảo thủ tìm mọi cách duy trì quyền lực tối thượng của

hệ thống Hán học nhằm duy trì quyền lực của họ, ngay cả khi họ khao khát được

xác định bản sắc của dân tộc mình. Các bậc trí thức bảo thủ học chữ Hán lúc đó đã

kịch liệt phản đối cuộc cải cách và đã tìm cách loại bỏ quyền lực của vua Quang

Trung nhằm quay lại xã hội như trước đây. Việc lấy lại quyền lực của nhà Nguyễn

với sự lên ngôi của vua Gia Long cũng đồng nghĩa với việc bảo đảm cho các giá trị

Khổng Giáo được duy trì. Hệ thống chữ viết riêng của quốc gia vì thế đã mất đi cơ

hội phát triển. Tuy nhiên, sự khao khát có một hệ thống chữ viết riêng không vì thế

32 Một phần ba từ vựng của tiếng Việt có nguồn gốc từ tiếng Hán, các tác phẩm khoa học cũng được sáng tác từ lâu dựa trên ngôn ngữ này. Riêng ở lĩnh vực thi ca, tất cả các qui tắc của việc sáng tác thơ, bao gồm các luật điệu, sự phân biệt bằng - trắc và rất nhiều điển tích, điển cố trong tiểu thuyết Trung Quốc đã trở thành cảm hứng cho thi ca Việt Nam. 33Chữ Nôm, đã trở thành ngôn ngữ chính thức từ đời nhà Hồ (bởi Hồ Quí Ly) vào năm 1400, sử dụng song song với chữ Hán. Nhưng vào đời nhà Minh (1368- 1664), Trung Quốc lại một lần nữa xâm lược nước Đại Việt và áp đặt hệ thống chữ viết lên Việt Nam 34 Khái niệm “ngôn ngữ Việt” có thể được hiểu là Nam âm, có nghĩa là “âm giọng của người Việt Nam” bên cạnh ý nghĩa là để chỉ hướng Nam, so với phương b ắc của người Trung Quốc. Truyện Kiều của Nguyễn Du có thể được xem như là một biểu tượng cho tinh thần này.

mà bị dập tắt. Người Việt Nam vẫn tìm mọi cách để khẳng định tính độc đáo của văn hoá Việt Nam so với văn hoá Trung Quốc34.

74

Truyện Kiều được coi là một dạng “quốc thư” của Việt Nam, đại diện tiểu

biểu cho tâm hồn Việt Nam. Một trong những lý do quan trọng cho sự hâm mộ đó

có lẽ do Truyện Kiều là một tiểu thuyết sáng tác bằng chữ Nôm, nghĩa là bằng ngôn ngữ riêng của người Việt. Theo Maurice Durand35: “mặc dù nguồn gốc của Kiều

vẫn còn có thể đáng nghi ngờ khi mà Nguyễn Du đã sử dụng rất nhiều các nguồn

cảm hứng Trung Hoa để sáng tác, tuy nhiên ông ta đã biết cách sử dụng các nguồn

cảm hứng này một cách rất đa dạng để tạo ra một kiệt tác Việt Nam điển hình”.

Thực ra, tầm quan trọng của Truyện Kiều có thể nằm ở chỗ nó đã đánh dấu

một thời kỳ tiêu biểu trong sự phát triển của tiếng Việt. Theo đó, tiếng Việt như là

một công cụ thể hiện mang đầy tính nghệ thuật, hoàn toàn có đủ tầm vóc để tạo ra

những kiệt tác văn chương. Sự ra đời của Truyện Kiều khẳng định chúng ta có một

nền thi ca Việt Nam riêng biệt, khi mà vào thời điểm bấy giờ, các bậc trí thức bị ảnh

hưởng sâu sắc bởi nền văn học Trung Hoa và không có khả năng tự giải phóng ra

khỏi sự ràng buộc đó. Vậy mà trong bối cảnh này, Nguyễn Du đã có thể sử dụng

tiếng Việt và vần điệu Việt (lục bát) để thể hiện những tình cảm và những tư tưởng

(mà trước đây cũng có thể đã được thể hiện) nhưng chưa bao giờ với một phương

cách phóng khoáng và hoàn hảo trong một tác phẩm dài như vậy. Có thể nói rằng,

đây là lần đầu tiên tư tưởng Việt Nam được giải phóng hoàn toàn khỏi sự gò bó Hán

Việt với một cách rất tự nhiên với những âm điệu riêng của mình.

Bên cạnh những giá trị về mặt văn chương, việc lựa chọn Truyện Kiều một

dạng tiểu thuyết viết bằng chữ Nôm (ngôn ngữ bình dân) để trở thành lá cờ đầu

trong việc phổ biến văn học Việt Nam đã cho thấy sự quyết tâm của nhiều thế hệ trí

thức Việt Nam trong việc định hướng Việt Nam đến một nền văn hoá riêng ngoài

35Maurice Durand, “Thế giới truyện Nôm” (L’Univers des Truyen Nom), nằm trong Tủ sách Việt Nam (số IV) của Trường Viễn Đông bác cổ Pháp (EFEO), xuất bản bởi sự tài trợ của Trung tâm ngôn ngữ và văn minh Pháp, Đại sứ quán Pháp tại Việt Nam, NXB Văn hoá, 1998. Trích đoạn có tên “Tranh luận về Kiều”, trang 77-101. Chủ đề chính của đoạn trích này là về các ý kiến khác nhau của việc phổ biến truyện Kiều, t ác phẩm bị coi là thiếu đạo đức và sẽ rất nguy hiểm nếu đem phổ biến cho giới trẻ.

tầm kiểm soát của Trung Quốc.

75

Ở thời đại của mình, những trí thức Tây học như Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm

Quỳnh không bỏ lỡ một cơ hội nào để ca ngợi giá trị của Truyện Kiều, đồng nghĩa

với việc cổ vũ cho việc xây dựng một ngôn ngữ riêng của dân tộc. Bản dịch Truyện

Kiều sang tiếng Pháp lần đầu tiên được Nguyễn Văn Vĩnh công bố trên Đông

Dương tạp chí dưới tên gọi Kim Vân Kiều tân diễn Pháp văn (từ số 18 của Đông

Dương tạp chí), in thành sách lần thứ nhất từ năm 1913. Sau đó, ông còn dịch đi

dịch lại nhiều lần, sửa chữa cho thật ưng ý (chỉ riêng năm 1913 đã in tới ba bản có chỉnh sửa).36

Trong khoảng thời gian từ 1908 đến 1910 trên Notre Journal và Notre

Revue, Nguyễn Văn Vĩnh cũng đã từng dịch và giới thiệu Truyện Kiều. Đến giai

đoạn 1933 – 1936 trên tờ L’Annam Nouveau, ông lại dịch toàn bộ lần cuối cùng

theo bản dịch chữ Nôm của Bùi Kỷ và Trần Trọng Kim. Năm 1943, sau khi ông mất

bảy năm, nhà xuất bản Alexandre de Rhodes mới in ra thành sách, do họa sĩ Mạnh

Quỳnh minh họa. Cho đến ngày nay, bản dịch Truyện Kiều ra tiếng Pháp này vẫn

được xem là bản dịch hoàn hảo nhất.

Ngoài lí do khẳng định sự độc lập về mặt chủ quyền và sự khác biệt về mặt

văn hoá với Trung Quốc, trong việc tiếp nhận hệ thống ký tự La-tinh, những trí thức

cấp tiến cũng tìm kiếm cho mình một lợi ích khác, một kiểu phép màu khác - phép

màu từ khoa học kỹ thuật của người phương Tây. Hệ thống ký tự La- tinh cho phép

tiếp cận dễ dàng đến các phương thức kỹ thuật mới hiện đại của phương Tây, tiếp cận những công thức của nền văn minh phương Tây37. Chữ quốc ngữ vì thế đóng

vai trò rất quan trọng nhằm thay đổi số phận của dân tộc. Nói như Phan Kế Bính,

36 Thực ra Nguyễn Văn Vĩnh đã dịch Truyện Kiều từ chữ Nôm sang chữ quốc ngữ từ đầu năm 1907. Sách được in lần thứ nhất giữa năm 1907 bởi nhà in Doufour – Nguyễn Văn Vĩnh. Đâ y là quyển Truyện Kiều đầu tiên được in ra nhiều nhất để phổ biến rộng rãi trong nhân dân. Từ 1907 đến 1917 Nguyễn Văn Vĩnh tự tái bản mỗi năm một lần. Từ 1917, do bận làm báo Trung Bắc tân văn, ông nhượng lại cho hiệu sách Ích Ký xuất bản số 58 Hàng Giấy. Hiệu sách này từ năm 1917 đến 1923 đã in lại tất cả 7 lần, mỗi lần 30.000 cuốn . (Tư liệu gia đình Nguyễn Văn Vĩnh). 37 Trong sự đa nghĩa của tiếng Việt, « Pháp » có thể có nghĩa là « người Pháp », cũng có nghĩa là « phương pháp ». Do đó, người ta có thể hiểu rằng danh từ này là hiện thân của một tinh thần khoa học.

một cây bút chủ chốt trong ban biên tập của Đông Dương tạp chí: “người Trung

76

Quốc giống như là một người thầy đầu tiên, một người thầy tốt, nhưng để có thể phát triển hơn, cần phải tìm đến một người thầy khác khi cần”38.

Thế nhưng, sự lựa chọn đó không hề dễ dàng, nhất là khi đã quá lâu rồi, nền

văn hoá cổ truyền của Việt Nam chịu ảnh hưởng của Trung Quốc và Khổng giáo đã

trở thành một chuẩn mực. Trong khi đó, những giá trị mới của phương Tây lại xuất

hiện cùng với sự hiện diện của kẻ xâm lược: thực dân Pháp. Trước tình thế này,

công việc của những trí thức Tây học quyết tâm lèo lái con thuyền Việt Nam tiến tới

bến bờ hiện đại, văn minh thực sự đứng trước thử thách rất lớn. Làm sao để chứng

minh giá trị của chữ quốc ngữ, thuyết phục dân chúng sử dụng chữ quốc ngữ là một

thách thức đối với ban biên tập Đông Dương tạp chí, những người đã tự nhận cho

mình nhiệm vụ gầy dựng một nền quốc văn mới, một Việt Nam hiện đại “phát triển

như là châu Âu”.

2.1.2 Đông Dương tạp chí với nỗ lực đưa chữ quốc ngữ đến với công chúng

Như đã trình bày ở Chương 1, hầu như báo chí chưa xuất hiện ở Việt Nam

trước khi người Pháp có mặt. Vì vậy mà báo chí quốc ngữ Việt Nam xuất hiện trước

tiên ở Nam Kỳ rồi mới đến Bắc Kỳ. Nghĩa là sự ra đời của các ấn bản báo chí tiến

triển theo chiều hướng lấn chiếm và đô hộ của người Pháp trên lãnh thổ Việt Nam:

từ miền Nam tiến ra Bắc, từ Cochinchine trong những năm 1860 ra đến Tonkin, sau

năm 1883.

Giai đoạn Đông Dương tạp chí ra đời (1913), sự phát triển của chữ quốc ngữ

ở Nam Kỳ đã bắt đầu bước sang giai đoạn thứ 2, giai đoạn đồng hóa. Tuy nhiên, ở

Bắc Kỳ, mọi thứ chỉ mới bắt đầu. Sự khác biệt này là do nguyên nhân chính trị. Bởi

Nam Kỳ từ Hòa ước 1884 đã chịu sự cai trị trực tiếp của thực dân Pháp, chịu ảnh

hưởng của văn minh vật chất và văn minh tinh thần của phương Tây từ rất sớm,

trong khi Bắc Kỳ vẫn ở chế độ bảo hộ. Ngay từ khi mới chiếm Nam Kỳ, nhà cầm

quyền Pháp đã quyết định bác bỏ chữ Nho và cưỡng bức dùng chữ quốc ngữ trong

38 Phan Kế Bính, Việt Nam phong tục

các giấy tờ chính thức và trong các trường học bằng các nghị định và thông tư của

77

thống đốc Nam Kỳ. Còn tại Bắc Kỳ, phải hơn 30 năm sau, chữ quốc ngữ mới được áp dụng chính thức.39

Dù đã trải qua giai đoạn tiếp xúc và phát triển, với những nền tảng ban đầu

được gầy dựng bởi báo chí quốc ngữ Nam Kỳ, chữ quốc ngữ giai đoạn này vẫn rối

rắm và nghèo nàn, thiếu sự thống nhất về cách dùng cho cả ba miền. Ngay cả ở

Nam Kỳ, cái nôi của chữ quốc ngữ, sau bao nỗ lực của những người tiên phong, chữ

quốc ngữ vẫn là một thứ chữ cho bậc bình dân tiểu học, để đọc các thông cáo, nghị

định, sách báo phổ thông cần thiết cho cuộc sống hàng ngày, còn chữ Pháp, chữ

Nho mới là chữ văn hóa, văn học dùng ở bậc trung học, đại học. Muốn biến chữ

quốc ngữ thành thứ chữ dành cho văn chương, khoa học cần rất nhiều cải cách thực

sự, chứ không chỉ đơn giản bằng các nghị định.

Công việc cấp thiết của Nguyễn Văn Vĩnh và các cộng sự của ông ở Đông

Dương tạp chí là phổ biến quốc ngữ sâu rộng đến đông đảo các tầng lớp dân chúng

ở Bắc Kỳ, từ đó gây dựng một phong trào yêu mến chữ quốc ngữ khắp cả nước. Để

làm được việc này, điều quan trọng nhất là chỉ ra được sự ưu việt của chữ quốc ngữ

so với chữ Hán, chữ Nôm. Đây vốn là một công việc không hề dễ dàng bởi chữ Hán

vốn được xem là chữ thánh hiền, là kiểu mẫu của nền giáo dục khoa bảng đã tồn tại

cả ngàn đời nay. Nhiều trí thức lớn của dân tộc đã trưởng thành từ đó. Thêm vào đó,

chữ quốc ngữ lại có thêm bất lợi rất lớn ở chỗ nó du nhập cùng với sự xâm lược của

thực dân Pháp, nên trong tâm lý người Việt, nó tạo ra một sự dè chừng, nghi ngại.

Vì thế, việc giải thích cho dân chúng hiểu rõ nhược điểm của chữ Hán, chữ Nôm là

việc làm cần thiết để đả thông tư tưởng xã hội. Đông Dương tạp chí số 2, ngày

22/05/1913 đã nêu rõ quyết tâm này: “cổ động cho dân Annam ai cũng dùng quốc

ngữ để thế vào lối chữ khó khăn, học suốt đời người mà chẳng mấy người biết được

lấy cách dùng chữ mà thôi, chớ đừng nói học nữa. Đó lại là một việc tối yếu của bản

39 Điều này thể hiện qua những bản báo cáo chính trị của Thống sứ Bắc Kỳ P. Simoni gửi Toàn quyền và của Toàn quyền gửi Tổng trưởng thuộc địa. Cụ thể là Bưu thị 17- 02- 1910 gửi Công sứ, quan đầu tỉnh Hà Nội và Thông tư 01- 6 – 1910 của Simmoni gửi Công sứ các tỉnh Bắc Kỳ, đốc lý Hà Nội và Hải Phòng và các Tư lệnh khu quân sự.

báo”.

78

Cũng ở số báo này, Nguyễn Văn Vĩnh đã cổ động mạnh mẽ việc thay thế chữ

Hán, chữ Nôm bằng chữ quốc ngữ: “Mở ngay tờ nhật báo này ra mà ngẫm xem bấy

nhiêu điều luận trong báo, thử nghĩ: giá thử luận bằng chữ Nho thì mấy người đọc

được, mà trong những người đọc được thì mấy người hiểu hết nghĩa. Thế mà chữ

quốc ngữ, thì không những là người biết quốc ngữ đọc được, hiểu được, một người

đọc cả nhà nghe cùng hiểu [...]. Để đọc, viết được chữ quốc ngữ rất đơn giản “ai có

chí vài ngày, ngu đần là một tháng cũng phải thông”.

Mục “Triết học”, Đông Dương tạp chí số 2, trang 14, trong bài “Luận về

ngôn ngữ văn từ”, chủ bút Đông Dương tạp chí phân tích rõ hơn những hạn chế của

chữ Hán, chữ Nôm, tức lối chữ “họa hình”: “Chữ hoạ hình không thể đặt thêm ra

được, vì nếu mọi người tự tiện đặt thêm chữ ra, mà ko có cách gì để ai thấy chữ đọc

ra được ngay và biết chắc được nghĩa ngay, thì kẻ khác thế nào mà dùng được. […]

Thành ra có chữ mà tư tưởng không mới ra được, phải khuôn vào tư tưởng cũ”.

Từ những phân tích trên, Nguyễn Văn Vĩnh đã cho độc giả của mình thấy

rằng, chữ quốc ngữ là một xu thế tất yếu của sự phát triển. Hơn thế nữa, nó còn là

một cơ may cho dân tộc Việt Nam: “Xét như vậy thì phàm những lối chữ hoạ hình

không thể dùng mãi mãi được. Văn chương ngôn ngữ thời nay phải theo thời thế mà

hoán cải đi. Mà hoán cải được duy nhất chỉ có lối chữ sắp vần. Chữ nghĩa nước

Nam ta may nhờ có người Âu châu sang đây, tự nhiên đương dùng chữ hoạ hình

của Tàu mà thành ra có một lối chữ sắp vần, là chữ quốc ngữ thì thực là một cái

may không ước được của nước ta”. Ông kết luận: văn chương theo lối Nho gia “tư

tưởng làm đầy tớ cho chữ, còn trong văn chương Châu Âu thì chữ làm đầy tớ cho tư

tưởng.”

Đối với những luận điệu cho rằng cứ giữ lấy chữ Nho, người Việt Nam vẫn

có thể thu nạp kiến thức để tiến bước đến văn minh thông qua các sách của Tàu

thuật lại, Nguyễn Văn Vĩnh thẳng thừng bác bỏ: “Những lí tưởng Langsa, tỉ với óc

40Nguyễn Văn Vĩnh, “Phương Trâm ”, Đông Dương tạp chí số 2.

riêng người An Nam, cũng đã khó lựa cho tiêu rồi. Lý tưởng ấy, lại còn qua sách Tầu, gọt đầu, gọt đuôi, pha giữa, bổ thêm, dịch ra chữ Nho, nó lại càng độc lắm”.40

79

Nguyễn Văn Vĩnh nhấn mạnh, học được chữ quốc ngữ, chính là ta học được

văn minh Âu châu ngay tại nguồn gốc của nó. Quan trọng hơn nữa, đây chính là cơ

hội để thoát Trung: “Dùng chữ quốc ngữ thì người An Nam mới mở được cái vốn

sẵn của nhà, là cái tiếng nói của mình, có túng tiếng thì lấy ngay tiếng Lang-sa mà

bỏ thêm vào, học lấy Âu thuật ở tại chính nguồn, ở ngay sách các bậc danh bút, các

bậc chiết (triết) học, các nhà bác vật Âu châu. Như thế thì người An-nam mới gỡ ra

được cái lao lung văn chương của nước Tầu nó đè nén nước Nam đã mấy mươi đời.

Thế thì họa chăng người An-nam mới gây được thành một cái thể diện riêng cho nước mình41.”

Lẽ dĩ nhiên, chữ quốc ngữ không thể một sớm một chiều mà tinh tế và uyển

chuyển ngay được. Cuối năm 1913, Nguyễn Văn Vĩnh viết một bài báo nhan đề “Chữ Quốc- ngữ” 42 (le Quốc-ngữ) trong đó, ông nhắc lại rằng tuy còn một vài điểm

không hoàn hảo cần phải chỉnh sửa, nhưng lối chữ mới này rất ưu việt: “Chữ Quốc

ngữ tuy rằng có mấy nơi khuyết điểm, có mấy chỗ không tiện, song tỉ với chữ Nôm

ta và chữ Nho thì thực là một lối tiện quá rồi”.

Trong mục “Công luận”43, chủ bút Đông Dương tạp chí khá lạc quan về sự

tiến bộ mau chóng của chữ quốc ngữ: “Những sách triết lý, những tư tưởng Âu

châu, kể xét trong mấy bài luận của người An Nam mới tập làm, xem thì cũng có

thể diễn dịch ra tiếng Nôm ta được. Dịch lấy đúng chọi từng ý, cho thật mầu thì

không dám quyết, vì đến như các tiếng Châu Âu rộng nghĩa gần bằng nhau cả, cũng

còn chưa dịch được của nhau, huống chi là tiếng An Nam ta, tỉ với các tiếng ấy,

khác nào như trẻ con bập bẹ, song tưởng cũng diễn ra được đủ cho người đọc hội

được một ý đại cương để mà hiểu, để mà muốn tìm, muốn học tại nguyên thư.”

Để cổ vũ cho chữ quốc ngữ, ban biên tập của Đông Dương tạp chí cũng

không ngại ngần chỉ ra những nguyên nhân làm cản trở sự phát triển của nó. Bên

cạnh nguyên nhân từ sự non nớt, bỡ ngỡ vì là một lối chữ mới, nó còn gặp trở ngại

41 Đông Dương tạp chí số 8 42 Đông Dương tạp chí số 33, tr.4-5 43Về cách dịch các tiếng triết lý - Référendum sur la traduction des termed philosophiques

từ sức ì của một bộ phận trí thức lúc bấy giờ. Có một thực tế là, sự không phổ biến

80

của chữ Nho khiến cho vai trò của những ông nghè, ông cử thêm quan trọng trong

xã hội. Họ cũng có nhiều quyền lợi từ sự “độc quyền” đó. Trong mục “Văn chương

An Nam”, Đông Dương tạp chí số 9, Nguyễn Văn Vĩnh gọi đây “là một vấn đề gấp

và quan hệ mà không mấy người lo đến”:

Ấy là vì xưa nay, ở nước Nam mình, các bậc thượng lưu, chỉ nhờ có cách

học khó khăn ấy mà được ở trên nhân chúng. Giùi mài biết mấy mươi năm,

mới được làm đầu bốn dân. Mà nay một chốc từ chối hẳn cái tài ấy đi, nói

rằng từ rầy học vấn mọi người không ở như chữ năm xe nữa, chỉ do ở tiếng

Nôm mình, là một tiếng ai cũng nói, ai cũng biết, ai cũng có thể rèn tập lấy

hay, mà cái hay ấy chúng dễ phân xử, thì hồ dễ đã mấy kẻ có lượng nhớn mà

bỏ được cái quyền lợi riêng, khốn khổ mới chiếm được ấy.

Việc cổ vũ cho chữ quốc ngữ của Đông Dương tạp chí còn thể hiện trên

phương diện mở ra các mục khuyến khích độc giả sáng tác văn chương bằng chữ

quốc ngữ. Từ số 4, Đông Dương tạp chí có thêm một chuyên mục mới có tên là

“Lai kiểu” với lời tựa: “Bổn quán mở ra một mục này để chọn trong như có bài nào

hay và có ý nhị, không lợi hại riêng đến ai thì trước nữa để các quan duyệt báo coi,

và để mặc sức cho đua văn hay ý lạ.”

Tiếp theo đó, từ số 8, Đông Dương tạp chí mở ra mục “Tự do diễn đàn” để

“mỗi kỳ lục trong các bài Lai-kiểu, của các quan mua-báo gửi lại cho, lấy bài nào

hay nhất hoặc có biệt-kiến, mà đăng vào để các ngài nghị luận, trước nữa cho nó

thêm vị, sau nữa để phỉ bụng các bậc nhiều văn hay ý lạ muốn tỏ cho đồng-bào xem

biết”. Và theo tinh thần đó, từ số 38, mục “Từ phú thi ca” xuất hiện để “đua văn hay

ý lạ”. Thỉnh thoảng, Đông Dương tạp chí cũng mở những cuộc thi làm văn làm thơ

bằng chữ quốc ngữ và cho in những bài đoạt giải vào mục “Cuộc thi thơ”.

Thực ra, hình thức khuyến khích dân chúng sử dụng chữ quốc ngữ bằng cách

tạo ra các cuộc thi sáng tác bằng quốc ngữ đăng trên báo không phải là ý tưởng mới

mẻ. Trước Đông Dương tạp chí, các tờ báo quốc ngữ ra đời trước đó cũng đã áp

dụng phương pháp này. Gia Định báo, tờ báo quốc ngữ đầu tiên, từ thời Trương

Vĩnh Ký đã bắt đầu việc cổ động sử dụng chữ quốc ngữ thay cho chữ Hán, chữ

81

Nôm, khuyến khích tầng lớp trí thức đương thời viết báo, viết văn bằng chữ quốc

ngữ. Tờ Thông loại khóa trình, tờ báo tư nhân đầu tiên, tạp chí văn học đầu tiên của

nước ta do Trương Vĩnh Ký chủ trương cũng đã cố gắng dạy cho độc giả (đối tượng

là học sinh) tập viết văn chương. Tờ Nông cổ mín đàm, cái nôi của tiểu thuyết Nam

Bộ, từ tháng 10 năm 1906 đã mở ra cuộc thi viết tiểu thuyết đầu tiên ở nước ta

mang tên Quốc Âm thí cuộc…Tuy nhiên, hiệu quả mà các cuộc thi này mang lại

chưa cao.

Lý giải cho điều này, một số nhà nghiên cứu người Pháp lúc bấy giờ cho rằng do chính sách bỏ hẳn chữ Hán ở Nam Kỳ44 một cách đột ngột đã “tạo ra hậu

quả là làm cho trẻ con không còn biết đến nền học vấn của đạo lý Khổng Tử”.

Chính sách này cũng “đưa dân chúng của xứ này vào sự quên lãng cả một nền văn

chương từ ngàn xưa mà những tầng lớp được ăn học của cả một xã hội vẫn đang nuôi dưỡng”45. Về vấn đề này, chúng tôi cho rằng, sự ngưng đọng của văn học quốc

ngữ Nam Kỳ sau mấy chục năm tiên phong là do các nhà văn tiên phong ở Nam Kỳ

đi trước thời đại quá sớm. Nam Kỳ là vùng đất mới, do vậy, công chúng chưa được

chuẩn bị nền tảng tốt cho một cuộc cách mạng về chữ viết, về văn học. Về mặt này,

Bắc Kỳ có nhiều lợi thế hơn hẳn. Hơn nữa, mặc dù đi trước trên chặng đường cổ vũ

chữ quốc ngữ nhưng những trí thức Nam Kỳ dường như lại chưa chú trọng đúng

mức ở lĩnh vực tư tưởng, học thuật. Vì vậy, cuộc cách mạng chữ quốc ngữ chưa

triệt để, chưa có chiều sâu. Lá thư của chủ bút Nguyễn Văn Vĩnh viết năm 1907, gửi

cho một ông Phủ ở Nam Kỳ nhân dịp ông này gửi cho ông một số báo chí trong

Nam phần nào hé lộ cho chúng ta thấy nguyên nhân của vấn đề này đồng thời cho

thấy hướng đi của Nguyễn Văn Vĩnh trong lĩnh vực tuyên truyền chữ quốc ngữ, đổi

mới học thuật:

Cảm ơn ông đã có lòng tốt gửi cho tôi mấy chương nhật báo chữ Pháp và

chữ quốc ngữ các ông trong ấy làm ra. Tôi xem ra thấy các đại huynh trong

Lục tỉnh làm học chữ Pháp đã khá cả. Ngoài Bắc chúng tôi thực chưa được

44 Thông tư 28.-10-1879 45 De la langue annamite par lée et écrite. Revue Indochinoise 1er semester 1905, tr 206

người nào như thế.

82

Song ông đã có lòng tin mến mà hỏi ý tôi nghĩ làm sao các tư tưởng mới của

các đại huynh, vậy xin thực tình như anh em một nhà mà nói.

Văn chương Pháp, các đại huynh học thì cũng đã được nhiều người rồi, mà

giỏi quá, nhưng hình như các đại huynh có ý chuyên mặt hoa mỹ hơn tư

tưởng. Và như cái cách các đại huynh nghị luận, thực ra Pháp cảnh quá,

như thế tôi e rằng có ích cho người Pháp hơn người bản xứ; vì người bản xứ

mà muốn hiểu được những ý tứ văn học ấy, chắc đã học chuyên chữ Pháp

lâu năm. Tiểu đệ dám chê rằng văn thì hay thực, nhưng ý tứ hình như sẵn

sàng lắm, xem không thấy chút nào là tư tưởng riêng của người chịu nghĩ.

Còn như quốc văn của các đại huynh hình như biếng trễ. Có chữ, có nghĩa,

có mẹo, có mực nhưng không có văn, mà có một thứ tiếng hiếm như tiếng

Đông Dương mình thì phải nhờ văn rộng mới nghĩa lý được. Tôi sở mấy

chương báo bằng quốc văn với mấy trương báo bằng Pháp văn thì hình như

các huynh học Pháp văn kỹ quá, kỹ hơn tiếng nước nhà nhiều. Chữ Pháp

mình cũng nên biết một cách cặn kẽ mới xem được mọi sách hay của thái tây,

nhưng học lấy hay những câu bợm thì không khác chi nhà Nho học thơ phú

ngày xưa. Kể ra chữ quốc ngữ thì học không được lợi bằng thông minh chữ

Pháp thực, nhưng có chữ quốc ngữ hay thì các đại huynh học được điều gì

hay mới làm được sách chuyển cho cả nước thành thị nhà quê đều biết.

Người học chuyên lấy hay quốc văn bấy giờ là như làm một sự đại lượng,

không nghĩ đến mình, nghĩ đến anh em đồng bào khác, không có tiền mà học

lấy hay trường Pháp tư. Các quý huynh cứ chuyển chữ Pháp cho hay thì ông

nào hay, chỉ một mình, mình được nhớ mình mà thôi. Làm được quan to cùng

nhà nước đại Pháp thì là hay và sướng thật, nhưng không chuyển được cho

hết thảy đồng bào, thì nước có thể trách các đại huynh chỉ nghĩ đến mình mà

thôi.

Huynh ông có mấy nhời khen, tôi lấy làm cảm lắm, song tôi nghĩ những đồ

như vậy đã được mặt mũi trong xã hội thì lấy làm cực cho nước An Nam ta

lắm. Đại huynh đã qua nước Đại Pháp chắc cũng biết là dân xứ ấy, những

83

người như anh em ta, có rất nhiều đã hơn gì con kiến chưa? Nếu như anh em

mình ở đó, chỉ vào bực đánh giày, thế mà về đến đây đã có người biết tên,

biết tuổi, có danh, có tiếng đã cực chưa?

Trong lời chúc của huynh ông tôi xin nhận cả, và cảm ơn huynh ông”46.

Trích dẫn trên tuy khá dài nhưng cần thiết để chúng ta ý giải được lý do “đi

trước về sau” của văn chương quốc ngữ Nam Bộ đồng thời thấy hết được tầm vóc

của tư tưởng Nguyễn Văn Vĩnh đối với vấn đề đổi mới nền học thuật của nước nhà.

2.1.3 Đông Dương tạp chí với việc cải cách chữ quốc ngữ và rèn luyện câu văn xuôi

tiếng Việt

Một trong những đóng góp quan trọng của Đông Dương tạp chí trong việc

xây dựng chữ quốc ngữ - ngôn ngữ văn học của dân tộc là cải cách chữ quốc ngữ và

rèn luyện câu văn xuôi tiếng Việt. Ý thức được tầm quan trọng của lối chữ mới đối

với sự phát triển văn hóa dân tộc, ban biên tập tạp chí đã vạch ra phương hướng cải

cách bài bản để chữ quốc ngữ ngày càng hoàn thiện hơn, phát huy hết lợi thế của

nó. Đây là điều khiến cho Đông Dương tạp chí được các nhà nghiên cứu về lịch sử

báo chí và văn học đánh giá như là viên gạch xây đắp nền móng cho nền quốc văn

nước nhà.

Ở số 33, năm 1913, Đông Dương tạp chí đã nêu rõ quyết tâm cải cách chữ

quốc ngữ, lấy việc cổ động chữ quốc ngữ làm mục tiêu của tờ báo: “Nay bản báo

lấy việc cổ động cho chữ quốc ngữ làm chủ nghĩa, tưởng cũng nên đem hết các

khuyết điểm, các nơi không tiện ra mà bàn lại, chẳng dám đem cách nào mới mà xin

thế vào lối cũ, sợ thiên hạ lại bảo vẽ vời, song cũng nên bàn các nơi bất tiện ra để ai

nấy lưu tâm vào đó thì dễ có ngày tự dưng chẳng phải ai làm mà chữ quốc ngữ tự đổi dần dần đi”47.

Để hoàn thiện chữ quốc ngữ, trước tiên là phải giúp người dân tiếp cận với

chữ quốc ngữ một cách bài bản, khoa học vì lúc bấy giờ vẫn còn rất nhiều người

46 Bài đăng trong Đăng Cổ tùng báo số 814 ngày 22 tháng 8 năm 1907. Đúng vào thời điểm này, Nguyễn Văn Vĩnh đang dịch và in truyện Kim Vân Kiều từ chữ Nôm ra chữ Quốc ngữ. 47 Đông Dương tạp chí số 33, 1913

hoặc là mù chữ hoặc là chỉ biết Hán tự. Đây là trở ngại to lớn đối với mục tiêu

84

truyền bá các kiến thức khoa học (thông tin tổng quát và thông tin chuyên ngành)

đến với người dân. Để khắc phục điều này, ban biên tập Đông Dương tạp chí đã mở

một chương trình dạy tiếng trong tờ tạp chí của mình.

Ngay từ những số đầu tiên năm 1913, Đông Dương tạp chí đã có những bảng

mẫu chữ cái, cả viết hoa lẫn viết thường, kèm theo cách phát âm khá chuẩn xác48.

Do chữ quốc ngữ thời gian đầu còn lủng củng, thiếu sự đồng bộ, thống nhất

trong cách dùng ở cả ba miền, dẫn đến tình trạng hiểu sai, viết sai nên việc chỉ ra sự

khác biệt và xây dựng những luật lệ chung là rất cần thiết. Đông Dương tạp chí đã

đưa ra một loạt đề xuất để giải quyết vấn đề này.

Trên Đông Dương tạp chí số 33 năm 1913, với bài “Chữ quốc ngữ”, Nguyễn

Văn Vĩnh chỉ rõ sự khác biệt giữa chữ ch và chữ tr ở miền Bắc và miền Nam:

“những tiếng nên viết ch hay là tr ngoài Bắc ta thì không phân biệt chút nào, nhưng

ở Nam Kỳ thì thật có phân biệt. Như con trâu mà viết làm châu (hạt châu) thì người

Nam Kỳ không hiểu”. Hay sự khác biệt ở cách đọc chữ s với chữ x giữa các miền:

“Còn như chữ s với chữ x thì cũng vậy. Ngoài Bắc với trong Trung Kỳ thực không

phân. Còn Nam Kỳ thì bảo chữ s uốn lưỡi như chữ ch tây, còn chữ x thì đọc như

chữ s tây.” Và còn hàng loạt sự khác biệt giữa cách dùng các chữ d, gi, r, ch, tr; các

vần “trong Nam Kỳ có mà Bắc Kỳ không có như ươ, ươi, ươn, ươt” v.v…

Đến Đông Dương tạp chí số 82, Nguyễn Văn Vĩnh trở lại vấn đề này với bài

“Cách viết chữ quốc ngữ”, trong đó, phân tích kĩ càng hơn sự khác biệt giữa “tiếng

nói người đàng trong với người đàng ngoài” để tìm ra phương hướng giải quyết. Và

theo Nguyễn Văn Vĩnh thì “ba xứ ta chỉ nhường nhịn nhau độ bấy nhiêu tiếng thì

tiện lợi cho việc làm văn Nôm vô cùng”.

Do sự thiếu thống nhất của các kí tự (nhất là: s và x; gi, d và r; ch và tr),

Nguyễn Văn Vĩnh đã có lần muốn thay đổi bảng chữ cái tiếng Việt. Ông hy vọng

48 Bảng này đủ 23 chữ cái, gồm cả nguyên âm đơn, nguyên âm đôi và phụ âm. Cách phát âm của các vần có kèm theo tranh vẽ, dễ hiểu như sách học vần của học sinh cấp 1 hiện nay. Ví dụ: lọ (vẽ cái lọ), dép (vẽ đô i dép). Ngoài ra, tạp chí còn đăng các bài hướng dẫn cách cầm bút, cách ngồi viết…

điều này cho phép mọi người Việt, dù là ở vùng miền nào cũng đọc được văn bản

85

một cách chính xác. Có lẽ vì lí do này mà Đông Dương tạp chí rất hăng hái trong

việc quảng bá những công trình về chữ quốc ngữ. Ngay từ số 10, ban biên tập thông

báo Đông Dương tạp chí sẽ có « Báo thêm trang ». Sự thay đổi này sẽ bắt đầu kể từ

14 aout 1913 (số 14) dành cho phần Việt ngữ, chính xác là quốc ngữ, với hai mục

mới: giới thiệu quyển sách của giám đốc tập san, F-H, Schneider, sách « Quốc Ngữ

Chỉ Nam » và giáo trình học tiếng Việt của Gombaut Saintonge.

Sách « Quốc Ngữ Chỉ Nam » của Schneider dành cho những ai đã biết chữ

Nôm hay chữ Hán muốn tự học chữ quốc ngữ. Cuốn sách trình bày phương pháp học chữ quốc ngữ mà vào thời bấy giờ được đánh giá là sáng tạo và bổ ích49.

Schneider là người có niềm tin chắc chắn vào công việc xây dựng chữ quốc ngữ và

cải cách giáo dục của mình. Vì vậy, ông đã bỏ ra tất cả tâm huyết để xây dựng một

công trình đồ sộ hòng quảng bá phương pháp của ông mà Đông Dương tạp chí

chính là một trong những trụ cột của công trình ấy. Thế nên, không ngẫu nhiên mà

chương trình quảng bá quốc ngữ được duy trì liên tục trong suốt các số báo của

Đông Dương tạp chí. Trong bản phúc trình gửi cho Toàn quyền Saraut năm 1918,

ông giải thích ý nghĩa của việc thực hiện cuốn sách như sau :

“Trong suốt sự nghiệp in ấn của tôi ở Bắc Kỳ, tôi phát giác ra rằng các

phương pháp dạy quốc ngữ rất là bất cập. Có một vài quyển thì lại quá cao

siêu, thiếu hẳn những căn bản để phát triển và thậm chí để áp dụng đơn giản

nhất cho tiếng An Nam thông qua phương tiện tuyệt vời đó là chữ quốc ngữ”

[...]. “Quyển sách của tôi sẽ nhanh chóng chinh phục các nhà Nho, các ông

bố, một khi làm quen với chữ quốc ngữ sẽ khuyến khích các thôn làng càng

ngày mở càng nhiều các lớp dạy quốc ngữ, thứ tiếng cho phép phụ huynh có

thể theo dõi kết quả học tập của con em, có thể kiểm soát, ý thức được giá trị

thật sự của quốc ngữ, và sẽ đón nhận nó thay vì nghi ngờ như thái độ thủ

49 Được toàn quyền Đông Dương chấp thuận đưa vào chương trình giáo dục.

cựu, nếu không muốn nói là chống đối của họ hiện nay.”

86

Với phần giáo trình, kể từ số 42, trẻ em được xem là ưu tiên hàng đầu trong

việc học chữ quốc ngữ: tất cả các bài tập đều bằng quốc ngữ, cộng thêm các bài tập

viết, tập đọc và chính tả giúp cho trẻ học chữ quốc ngữ một cách dễ dàng.

Riêng về giáo trình học tiếng Việt của Gombaut Saintonge, theo lời giới

thiệu của ban biên tập Đông Dương tạp chí, trước tiên là dành cho các công chức Pháp, sau mới nhắm đến những người Việt muốn học Pháp ngữ.50 Cấu trúc của sách này cơ bản chia làm 5 phần 51, giúp phổ biến việc giảng dạy ngữ pháp và từ vựng

tiếng Việt. Đối với phần từ vựng, cuốn sách trình bày theo chủ đề để tạo thuận lợi

cho công việc của người học. Phần từ vựng cũng được phân loại theo thứ tự hứng thú giảm dần52 để tiếp cận càng nhiều người càng tốt.

Thực hiện giáo trình cho khóa học này, ban biên tập tạp chí có tham vọng

cho ra đời của một cuốn từ điển tiếng Việt để ổn định ngôn ngữ, đồng thời có thêm

một tài liệu tham khảo cho công việc phổ biến chữ quốc ngữ : “Trong phần từ vựng

tổng quát, chúng tôi đề xuất đưa ra một danh mục những từ An Nam thông dụng, để

làm cơ sở đầu tiên cho cuốn từ điển trong tương lai, mà sự xuất bản nó tùy thuộc vào sự đón nhận từ độc giả của báo chúng tôi”53.

Để hoàn thiện chữ quốc ngữ, rất cần thiết phải thống nhất cách phiên âm khi

dịch tên đất, tên người từ tiếng nước ngoài ra tiếng Việt. Đối với Nguyễn Văn Vĩnh,

việc dịch các danh xưng và dịa danh là một vấn đề, bởi vì ở thời điểm đó không có

một quy luật nào hiện hữu và không một ai biết được chính xác cách viết sao cho 50 Trên Đông Dương tạp chí số 26 có thông báo về việc này như sau: “sách dậy các quan Tây học tiếng An Nam, mà lại vừa tiện được cho người An Nam học tiếng Lang-sa nữa. Sách này của quan Tham-biên Gombaud- Saintonge […] làm ra, bản quán chủ nhân là ông F.H. Schneider thân đứng trông nom việc soạn sách ấy, lại có tòa soạn giúp việc, chủ bút Nguyễn Văn Vĩnh và cử nhân Phan Kế Bính cũng giúp vào.” 51 1- ngữ pháp; 2- từ vựng chung; 3- từ vựng phụ (để dễ dàng sử dụng các từ vựng chung trong đoạn văn); 4- các đoạn văn, đoạn hội thoại; 5 - những bài tập (chủ đề và các phiên bản). 52 Đoạn văn đầu gồm những từ thông d ụng; đoạn thứ hai gồm những từ kém thông dụng hơn; và đoạn thứ ba là những từ hạn chế: “chúng là những từ hầu như chỉ cần thiết cho một số người đặc thù, dùng giải thích những ý tưởng trừu tượng, khoa học, hay những lối diễn đạt bóng gió được người An Nam sử dụng chủ yếu theo cách thâm thúy” (ĐDTC, số 26, tr.16) 53 Đông Dương tạp chí, số 26, tr.15 - Schneider không có khả năng trực tiếp chi trả cho cuốn từ điển xuất bản vào năm 1913-1914. Thời kì đó, Đông Dương tạp chí đang trong tình cảnh tài chính bấp bênh, và tình hình được phục hồi vào những năm 1916-1917. Tuy nhiên vào tháng 7/1915, Đông Dương tạp chí tham gia hẳn vào vấn đề giáo dục của chính quyền thuộc địa, và ngừng chuyên đề về từ ngữ trong “Học ngôn ngữ An Nam”.

87

đúng. Theo ông, chừng nào người Việt vẫn còn tiếp tục sử dụng cách dịch danh xưng và địa danh « theo lối Tàu », thì sai càng thêm sai. 54.

Nguyễn Văn Vĩnh trích dẫn sau đó những ưu và khuyết điểm của từng

phương pháp. Ông nhấn mạnh rằng có được chữ quốc ngữ là một may mắn vì thứ

chữ này sử dụng chữ cái La-tinh, cho nên dễ dàng tiếp cận các từ ngữ gốc châu Âu.

Từ đó, có thể bổ sung từ vốn từ mới cho tiếng Việt, làm phong phú hơn tiếng nói.

Ông nói rõ « chữ quốc ngữ có lợi hơn chữ Hán và nếu Việt Nam bỏ qua cơ hội này

thì sẽ đánh mất đi một lối viết tiện dụng”.

Theo Nguyễn Văn Vĩnh, để tìm một phương pháp phiên âm cho tiếng Việt,

phải phân loại các danh xưng một cách logic, « phù hợp với cả người Tàu, người

Châu Âu, các nhà chức trách và theo thói quen » (như tên các nước quen biết). Một

cách khái quát, chúng ta có thể phân loại 3 cách phiên âm:

-   Tất cả các tên tuổi nổi tiếng, nghĩa là người Hoa cũng biết, được phiên âm ra chữ

Hán rồi phát âm theo âm Việt (vì cách phiên âm chính thống đã hiện hữu rồi).

-   Tất cả các danh xưng quen thuộc với người Việt Nam đều được phiên âm trực

tiếp theo âm đọc của tiếng Việt.

-   Những tên vùng hay quốc gia chưa từng biết thì cần phải sử dụng trực tiếp chính

tả của quốc gia đó và chú âm bằng tiếng Việt kế bên để giúp ghi nhớ.

Trên Đông Dương tạp chí số 67 năm 1914, Nguyễn Văn Vĩnh một lần nữa

đề cập về vấn đề này: “Bao nhiêu những tên nước lớn, ai cũng biết theo tiếng Tàu

rồi như là Pháp, Anh, Nga, Đức, Bỉ-lị-thì, Áo, thì cứ để tiếng biết rồi mà dùng…Còn bao nhiêu những chỗ chưa mấy biết thì dịch theo cách mới55, lấy cho

gần nguyên âm”.

Một điểm quan trọng trong bài viết của Nguyễn Văn Vĩnh cần phải lưu ý là:

đa số người Việt học quốc ngữ đều không biết tiếng Pháp, có nghĩa là họ cố gắng

đọc một chuỗi ký tự không mang một ý nghĩa nào (vì nó chẳng liên quan đến gì đến

ngôn ngữ thường ngày của họ). Ngược lại, chữ Hán dễ nhớ hơn, lại được sử dụng từ 54Đông Dương tạp chí số 26, Juin 1913. 55 Cách mới là cách dịch ra chữ quốc ngữ, tức là “khi viết những tên ấy vào văn quốc ngữ thì nên viết tiếng Việt trước rồi vòng hai bên hai cái viết nguyên dạng chữ vào sau cho người đã biết tiếng Tây dễ nhận ra”.

88

lâu, cho nên nó in hằn trong tâm thức của mỗi người Việt. Điều này không có nghĩa

là ai cũng biết đọc chữ Hán, nhưng dùng lâu nên người dân quen dần với lối viết đó.

Vì vậy, việc giới thiệu văn chương Pháp trong Đông Dương tạp chí được xem như

một phương tiện phát huy sự hiểu biết về nước Pháp tại Việt Nam, cũng như là một

cách hỗ trợ cho việc học quốc ngữ.

Những người thực hiện Đông Dương tạp chí muốn chữ quốc ngữ phải là một lối viết có luật lệ để “xứng đáng làm văn chương riêng của nước Nam ta”56 cho nên

họ đề nghị nhà cầm quyền xét trong các đơn từ, nếu đơn từ nào sai lỗi chính tả thì

không nhận, trừ những việc khẩn cấp, “như thế thì chắc rằng chẳng bao lâu bắt được người An Nam phải viết theo phép chứ không viết liều được nữa57.”

Công lao của Đông Dương tạp chí trong việc xây dựng và phát triển chữ

quốc ngữ sẽ rõ ràng hơn nếu ta nhìn lại lộ trình chữ quốc ngữ được phổ biến ở Việt

Nam. Theo đó, sự `phát triển của chữ quốc ngữ của Việt Nam không đơn giản diễn

ra theo chiều thuận lợi. Từ khi được sáng lập bởi những giáo sĩ người phương Tây

đến khi trở thành một công cụ chính trị trong tay của thực dân Pháp, tuỳ vào diễn

biến thực tế của xã hội Việt Nam mà từng giai đoạn nó được chính quyền thực dân

ủng hộ hay thờ ơ. Có một thực tế là chữ quốc ngữ được người Pháp ủng hộ mạnh

mẽ bởi vì lợi ích của Pháp ở Đông Dương chứ không phải vì lợi ích của người Việt

Nam. Dĩ nhiên người Pháp muốn thông qua chữ quốc ngữ để cắt đứt mối liên hệ

giữa Việt Nam với người láng giềng Trung Quốc. Tuy nhiên, sự phát triển quá

nhanh, quá mạnh mẽ của chữ quốc ngữ kéo theo những tác động to lớn đến tư

tưởng của xã hội Việt Nam cũng làm họ e ngại không ít. Sự chấm dứt một cách

cưỡng bức nền giáo dục chữ Hán đã tạo ra một sự hụt hẫng không ít trong xã hội.

Không ít các trí thức Tây học ở trong tình trạng lửng lơ, mất gốc rễ và dễ dao động.

Họ không hẳn có tâm hồn của người Việt nhưng cũng không thể hoàn toàn Pháp.

Nhất là khi vấn đề thống nhất ngôn ngữ Việt Nam có thể gây ra một sự hợp nhất

56 Đông Dương tạp chí số 51, 1914, tr 4-5 57 Đông Dương tạp chí số 51, 1914, tr 4-5

kéo theo của các vùng lãnh thổ Việt Nam mà người Pháp không hề muốn.

89

Những ý kiến tôn trọng truyền thống Việt Nam vì thế đã được gợi lại trên các

văn đàn chính trị Pháp giai đoạn này. Lẽ dĩ nhiên, chính quyền thực dân muốn đưa

người Việt Nam đến với tư duy phương Tây nói chung, nước Pháp nói riêng,

nhưng nếu vì thế phải chịu sự đe doạ cho quyền lợi của họ thì tốt hơn nên để cho

văn minh truyền thống của bản thân nước đó phát triển. Họ e ngại rằng chữ quốc

ngữ cũng như hệ thống giáo dục theo kiểu phương Tây sẽ tách con người Việt Nam

ra khỏi cộng đồng văn hoá của mình. Tình huống này đã dẫn đến sự tranh luận mới mẻ giữa những người có trách nhiệm về Đông Dương58, cũng như những suy ngẫm về sự cần thiết phải giới thiệu chương trình cổ học Viễn Đông59 hay không trong

các chương trình học ở nhà trường An Nam.

Vào năm 1927, Thalamas, hiệu trưởng đồng thời là tổng phụ trách của Viện

giáo dục cộng đồng Đông Dương, đã trình bày trước Hội đồng Chính phủ về việc

giáo dục cho người Đông Dương. Mục đích mà ông hướng đến là việc chọn lựa

giảng dạy trở lại bằng chữ Trung Hoa ở Việt Nam:

Có thể chấp nhận một đứa trẻ An Nam không được học chữ trong khi thứ

tiếng của nó chứa phần lớn gốc Trung có ở khắp nơi, trong tâm hồn của

chúng, những trang giấy trắng ở gia đình, những câu khắc mà chúng hằng

ngày phải dán mắt vào trong các bức tường của ngôi chùa, trong những ngôi

nhà đầy chữ ? Có thể phủ nhận được, về quan điểm thực tế, một Đông

Dương nơi mà người di dân gốc Hoa và những ngôi trường tư nhân Trung

Hoa tăng lên từng ngày, một Nam Kỳ nơi người Trung Hoa lập nên những

khu dân cư đông đúc và xây dựng nên bộ phận dân số đáng kể, cách ly hoàn

toàn với giáo dục, cả đại chúng, với việc học chữ ?[…] thật không thể để

tình trạng như thế tồn tại, giống như đối với truyền thống An Nam và sự cần

58 Bản báo cáo của Toàn quyền Đông Dương gửi đến Bộ thuộc địa vào ngày 17/7/1928 (CAOM - GGI 51 173: “Cải cách giáo dục ở Đông Dương”, 1927-1928). 59Bản tin chung của Viện giáo dục cộng đồng, “ Chương trình cổ học Viễn Đông ở Đông Dương”, Hanoi, Tổng giám đốc Viện giáo dục cộng đồng (Toàn quyền Đông Dương), 1929, 31 trang.

thiết của đất nước. Vì thế tôi hướng đến nghiên cứu những cách thức để tái

90

cấu trúc lại việc giảng dạy văn tự một cách đơn giản hóa cách học bằng một phương pháp khác với những phương pháp truyền thống cổ xưa…60.

Báo cáo này cho thấy mặc dù Thalamas không bác bỏ chương trình học bằng

chữ quốc ngữ, nhưng rõ ràng là vào năm 1927, chữ quốc ngữ không còn được xem

như một ưu tiên của chính phủ thuộc địa. Rõ ràng đây là một bước thụt lùi trong

chính sách về chữ quốc ngữ nếu so với cải cách vào năm 1917, thời điểm mà chữ

quốc ngữ đóng một vai trò quan trọng trong việc tái tổ chức lại việc dạy bãi bỏ việc sử dụng chữ Hán61.

Nguyễn Văn Vĩnh biết rõ những lo lắng của chính phủ thuộc địa. Đối với

ông, chữ quốc ngữ xứng đáng được chính phủ thực dân chú ý dù rằng vẫn còn một

núi công việc phải hoàn tất để hoàn thiện việc xây dựng nó, cũng là hoàn thiện ngôn

ngữ cho dân tộc Việt Nam. Mặc cho những khó khăn gặp phải, chủ bút Đông

Dương tạp chí chưa bao giờ từ bỏ ý tưởng tái cải cách chữ quốc ngữ. Thậm chí, ông

muốn tiến xa hơn trong cuộc cải cách này, như ông đã phát biểu trong bài báo “Văn

chương An Nam” - Đông Dương tạp chí số 9: “Tôi ước ao rằng một ngày kia sẽ xẩy

ra một lẽ gì làm cho lối mượn vần Tây ấy thành ra lối quốc ngữ teune thúque thực diệu” 62.

Khoảng từ năm 1927 đến 1930, trên tờ báo Trung Bắc tân văn, Nguyễn Văn

Vĩnh tiếp tục vấn đề mà ông đã gợi ra trên Đông Dương tạp chí vào năm 1913. Theo

đó, ông giải thích rằng hoàn toàn có thể đơn giản hóa cách viết của chữ quốc ngữ

bằng cách thay thế những chữ lạ lẫm trong bảng chữ cái alphabet La-tinh (“đ”, “ơ”,

“ư”, “ă”) và hệ thống tín hiệu đặc trưng để nhấn các âm (“á”, “à”, “ả”, “ã”, “ạ”). Từ

đó, ông ta đề xuất cho nhà cầm quyền thực dân sử dụng phương pháp ghi chép sau:

60Bản tin chung của Viện giáo dục cộng đồng, “Chương trình cổ học Viễn Đông ở Đông Dương”, trang 26 - 3: “IV- Giáo dục người Đông Dương hiện đại”; tác giả A.Thalamas. 61 Cải cách giáo dục dưới thời Sarraut. Vào năm 1917, ông đề xuất vấn đề phát triển chữ quốc ngữ và hạn chế việc dạy chữ Hán đồng thời bãi bỏ việc thi bằng chữ Hán trong cuộc thi đầu vào của tr ường Mandarins vào năm 1914. Cuộc thi thường niên bằng chữ Hán và chương trình cổ học Viễn Đông đã chấm dứt tồn tại vào năm 1918. 62 Theo Nguyễn Văn Vĩnh, “tân thức” phải được viết “teune thúque”, nghĩa là chính xác theo phương thức phát âm của người Pháp

-   Chữ “j” thay thế cho dấu nặng:

91

-   Chữ “z”, dấu hỏi

-   Chữ “w”, dấu ngã

-   Chữ “q”, dấu sắc

-   Chữ “f”, dấu huyền

-   Chữ “d” thay thế cho chữ “đ”

-   Chữ “y” thay thế cho chữ “d”

-   Chữ “k” thay thế cho chữ “q”

-   “ạ” viết thành “aj”

-   “ả” viết thành “az”

-   “ã” viết thành “aw”

-   “á” viết thành “aq”

-   “à” viết thành “af”

Với phương pháp này, “Nguyễn Văn Vĩnh” sẽ viết là “Nguyênw Va’n

Vinhw”. Cách viết này dễ dàng hơn cho những người đánh máy biên soạn và cho cả

nhà in. Thêm vào đó, nó giúp hạn chế số chữ phải thiết kế cho máy in và vì thế có thể tăng hiệu suất làm việc.63

Nguyễn Văn Vĩnh đã nhiều lần giải thích những lợi ích của chữ quốc ngữ cải

cách trong một xê-ri các bài báo có tựa đề “Chữ quốc ngữ cải biên”, xuất hiện trong

tờ L’Annam Nouveau (từ số 115 đến số 118) vào tháng 3 năm 1932. Tóm lại, sự

giản lược mà ông đề xuất từ bảng chữ cái của Pháp cho phép người ta tránh khỏi sự

nhầm lẫn hay bối rối với các dấu phụ (nhất là sự nhầm lẫn giữa dấu sắc [“á”] và

huyền [“à”], hay dấu hỏi [“ả”] và ngã [“ã”], và cũng có thể gửi đi các thông điệp

một cách dễ dàng. Điều này sẽ biến chữ quốc ngữ thành một loại văn tự có thể kết

nối dễ dàng với phần còn lại của thế giới. Theo phương pháp này, chữ cái của Việt

63 Ví dụ, năm 1882, để in bảng chữ cái của chữ quốc ngữ, Schneider phải dùng đến 127 loại chữ cái khác nhau (mỗi chữ in có giá rất cao) trong khi chữ Pháp chỉ cần có 25. Vả lại, các loại dấu trong chữ quốc ngữ khó dùng trong máy lino (máy in tự động) vốn đòi hỏi những công nhân in phải đánh dấu bằng tay các ký tự và không được xao lãng để hoàn thành công việc.

Nam sẽ giống với thứ chữ được sử dụng ở các nước châu Âu và châu Mỹ.

92

Tuy nhiên đề xuất cải cách này không đạt được mục đích của nó bởi nguyên

nhân thuần túy kinh tế và chính trị. Trong phần giới thiệu bản báo cáo gửi đến quan

Toàn quyền vào tháng 7/1932, tổng giám đốc của Viện giáo dục cộng đồng đã giải

thích rằng vấn đề này nổi lên trước hết như “một vấn đề chính trị hướng đến việc

chuyển đổi chữ viết quốc gia”. Ngoài ra, việc thay thế hệ thống ký tự alphabet gây

tốn kém rất lớn cho nhà nước: “sự thay thế này đồng nghĩa với hy sinh hàng đống giấy tờ, sổ sách khiến cho ngân sách nhà nước hao hụt gần 500.000 đô”64.

Vậy là hệ thống cải thiện chữ quốc ngữ mà Nguyễn Văn Vĩnh đề xuất đã bị

chôn vùi bởi vấn đề tài chính và chính trị. Chính quyền thực dân đã xem đó như

một nỗi ám ảnh vì thời gian này, họ phải làm mọi thứ để hạn chế mối nguy bị lật đổ

bởi dân chúng xứ thuộc địa. Việc cải cách chữ quốc ngữ cũng gây phiền toái và mệt

mỏi không kém việc họ đã bỏ ra nhiều năm trời để tìm kiếm cách chống lại ảnh

hưởng của chữ Hán ở Bắc Kỳ. Thêm vào đó, cùng với chữ quốc ngữ lại còn cả ý

tưởng “cách mạng” của Voltaire, Rousseau hay Montesquieu. Vậy tại sao họ lại

phải khuyến khích sự phát triển của một thứ ngôn ngữ quốc gia nếu nó gây bất lợi

cho họ? Sự thật là những tác động to lớn của chữ quốc ngữ đối với nền quốc văn

của nước nhà là nhờ những trí thức cấp tiến của dân tộc biết tận dụng cơ hội, nắm

lấy nó như một công cụ để tiến tới văn minh, thoát khỏi sự ảnh hưởng của Trung

Quốc chứ không phải xuất phát từ mong muốn một Việt Nam hùng mạnh, văn minh

của chính quyền thuộc địa. Sự phát triển, nói đúng hơn là sự cải thiện của chữ quốc

ngữ đã phải hy sinh vị trí của nó vì nền chính trị thuộc địa Pháp.

Không chỉ tiên phong trong việc cải cách chữ quốc ngữ trên bình diện lý

thuyết, Đông Dương tạp chí còn đóng góp rất to lớn cho sự phát triển của chữ quốc

ngữ trên phương diện thực hành truyền bá lối chữ mới này. Thông qua những bài

viết bằng chữ quốc ngữ, Đông Dương tạp chí đã giúp công chúng rèn luyện câu văn

64 CAOM-GGI 51170: “Giáo dục cộng đồng- phương thức giảng dạy”, 932, bảng phân tích của tổng điều hành Viện giáo dục cộng đồng ở Đông Dương gửi đến toàn quyền Đông Dương về vấn đề cách ký âm chữ quốc ngữ.

xuôi tiếng Việt.

93

Ở loạt ấn bản đầu tiên (1913-1914), tất cả các hạng mục và đa số các chuyên

đề, kể cả những bài phát biểu chính trị (của Toàn quyền hay Thống sứ) đều được

viết bằng quốc ngữ. Chỉ có các tác phẩm văn học, triết học và đạo đức của các tác

giả người Pháp là giữ nguyên văn gốc kèm theo bản dịch quốc ngữ. Kể từ số 42, chỉ

những bài Pháp văn trong mục Văn Chương Khoa của Tân Học văn tập và những

« bài học tiếng Việt » là còn giữ song ngữ, bao gồm cả truyện Kim Vân Kiều của

Nguyễn Du.

Ở loạt ấn bản thứ nhì (1915-1919), ngoại trừ phần văn học Pháp, tất cả các mục đều bằng quốc ngữ.65 Các tựa bài viết đều được dịch ra Pháp văn (luôn luôn

nằm dưới và trong ngoặc đơn). Phần dịch Kim Vân Kiều và phần « học tiếng An Nam » vẫn là song ngữ 66(1915). Riêng phần Pháp văn tập (1917) thì giữ nguyên

văn tiếng Pháp đã được dịch ra quốc ngữ trong Trung Bắc tân văn.

Ngoài những mục tin tức của một tờ báo, Đông Dương tạp chí còn có những

mục dạy về luật lệ, cách thảo công văn, giấy tờ, mục sư phạm khoa, mục khoa học,

mục nông học, mục kỹ nghệ…tất cả đều viết bằng chữ quốc ngữ. Sở dĩ có sự đa

dạng này là vì những người thực hiện cuộc cách mạng chữ quốc ngữ trên Đông

Dương tạp chí muốn biến thứ chữ này trở thành thứ chữ được mọi người dùng,

chiếm lĩnh trên mọi địa hạt hành chính, giáo dục, văn học, văn hóa của dân tộc.

Có thể thấy những nỗ lực của Đông Dương tạp chí trong việc làm cho chữ

quốc ngữ mỗi ngày một tinh tế hơn qua những bài bình luận, khảo cứu, phiên âm

các tác phẩm chữ Nôm ra chữ quốc ngữ, phê bình các sách viết bằng chữ quốc ngữ

65 Vì mục đích chính của Đông Dương tạp chí chính là sự quảng bá quốc ngữ cho nên các bài Pháp văn chẳng qua chỉ là phương tiện để chứng minh về khả năng của chữ quốc ngữ và nhằm giải quyết vấn đề là làm sao để trau chuốt thứ chữ ấy trở thành phương tiện phản ánh được tinh thần của dân tộc Việt Nam. 66 Kim Vân Kiều tân diễn Pháp văn của Nguyễn Văn Vĩnh là một trường hợp ngoại lệ, vì tiếng Pháp chỉ là phần chuyển ngữ. Khi dịch tác phẩm này của Nguyễn Du, N guyễn Văn Vĩnh dường như có hai mục đích: cho thấy sự tinh tế của tiếng Việt và nêu một tấm gương về việc dịch thuật cẩn trọng cho các dịch giả lúc bấy giờ.

mới xuất bản và giới thiệu các tác phẩm hay của các nước.

94

Trên Đông Dương tạp chí, Nguyễn Văn Vĩnh đã viết hàng ngàn bài báo bằng

chữ quốc ngữ đủ các thể loại, tiêu biểu là loạt bài “Xét tật mình”, “Phận làm dân”,

“Chỉnh đốn lại cách cai trị dân xã”, “Hương Sơn hành trình”, “Con sâu đổ đầu nồi

canh”, “Nhời đàn bà”, “Chữ Nho”, “Chữ quốc ngữ”, “Tiếng An Nam”…; Phan Kế

Bính thì có loạt bài khảo cứu về “Phong tục Việt Nam” và “Việt Hán văn khảo”;

Nguyễn Đỗ Mục có những bài bình luận về sư phạm trong mục “Gõ đầu trẻ”; Phạm

Duy Tốn với “Tập văn Nôm” in những truyện ngắn đầu tay. Trần Trọng Kim

chuyên viết về “Nam sử” và “Luân lý; Gombaud Saintoge ở tòa nhì phủ thống sứ

phụ trách mục dạy tiếng An Nam và tiếng Pháp; Tản Đà đã trình bày những câu văn

xuôi đầu tiên của ông trên Đông Dương tạp chí, gây một tiếng vang lớn trên văn

đàn lúc bấy giờ. Câu văn xuôi của Tản Đà cho thấy một khả năng tiến lên của câu

văn xuôi tiếng Việt từ truyền thống trong buổi giao thời của văn học Việt Nam, khi

mà áp lực của biền văn truyền thống là rất mạnh mẽ. Câu văn xuôi của Phạm Duy

Tốn trong những bài bút ký trên Đông Dương tạp chí là một hướng khác của việc

rèn luyện câu văn xuôi cho nền quốc văn mới. Lối văn xuôi ấy gần gũi với câu văn

xuôi của Nguyễn Công Hoan trong những truyện ngắn đầu tay…

Nhìn chung, các bài viết mang tính nhận định về chữ quốc ngữ chỉ hiện hữu

trong série đầu của Đông Dương tạp chí (1913-1914). Dù vậy trong série thứ nhì

của Đông Dương tạp chí, những bài viết tương tự cũng vẫn có mặt trong phần « Bài

học tiếng An Nam ». Với sự tăng lên của các bài dịch tiểu thuyết Châu Âu và Trung

Quốc cũng như những bài viết nhằm phát triển văn học Việt Nam, thì các bài viết chuyên về việc quảng bá chữ quốc ngữ cũng ít dần trong giai đoạn 1915-191967.

Các bài viết về vấn đề chữ quốc ngữ trên Đông Dương tạp chí trong suốt quá

trình tồn tại của tờ báo cho thấy đây không phải là những bài viết riêng lẻ, mang

tính ngẫu hứng mà nó hợp thành một hệ thống phổ quát về những lý luận về chữ

quốc ngữ. Điều này chứng minh rằng Đông Dương tạp chí đã có một chủ đích, một 67  Báo Trung Bắc tân văn, cũng do Nguyễn Văn Vĩnh làm chủ bút (kể từ năm 1915), sẽ tiếp tục theo đuổi mục tiêu kể trên của Đông Dương tạp chí. Tuy nhiên, vì không có điều kiện đẩy xa hơn nghiên cứu nên chúng tôi không liệt kê các bài viết này.

95

chính sách và một chương trình lâu dài vì sự phát triển của chữ quốc ngữ. Theo đó,

mỗi bài viết trước đều là một viên gạch làm nền cho bài viết sau để xây dựng công

trình nền quốc văn cuả nước nhà. Phát triển chữ quốc ngữ vì vậy chính là mục đích

trọng yếu của nội dung chương trình tạp chí chứ không phải là tuyên truyền cho

chính phủ.

2.2. Đông Dương tạp chí và sự tiếp thu tinh hoa văn học thế giới

2.2.1 Tình hình dịch thuật văn học cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX

Gần 1000 năm Bắc thuộc, văn học Việt Nam chịu ảnh hưởng sâu đậm của

văn học Trung Hoa. Từ khi chữ Nôm được dùng để sáng tác văn học thì việc dịch

tác phẩm văn học cũng bắt đầu được chú ý và những văn bản chữ Hán là những văn

bản đầu tiên được chọn để dịch. Việc dịch thuật này bắt đầu từ thời nhà Hồ, với việc

Hồ Quý Ly dịch Kinh Thi, Kinh Thư và kéo dài đến những năm đầu thế kỷ XX với

hàng trăm tác phẩm lớn nhỏ ở nhiều thể loại khác nhau. Đó là Quy khứ lai từ, Xích

Bích phú, Hảo cầu tân truyện diễn âm, Đường thi tuyệt cú diễn ca...

Vào giai đoạn nửa cuối thế kỷ XIX, khi thực dân Pháp nổ súng xâm lược, bối

cảnh xã hội Việt Nam đã khác nhiều so với trước. Đồng cảnh ngộ đó, Trung Quốc

cũng bị thực dân chia năm xẻ bảy nên ảnh hưởng trực tiếp của họ đối với Việt Nam

có phần chững lại. Chữ Hán ít được tôn sùng như trước. Chữ quốc ngữ phổ biến

hơn cùng với những chính sách của chính quyền thực dân và những nỗ lực của

những trí thức cấp tiến Việt Nam. Văn học Trung Quốc ít được dịch sang chữ Nôm

mà chủ yếu được dịch sang quốc ngữ. Nếu Trương Vĩnh Ký được biết đến như là

người đầu tiên dịch các sách Nho học ra quốc ngữ thì Huỳnh Tịnh Của lại là người

đầu tiên dịch các tác phẩm văn học Trung Quốc sang thứ chữ mới này. Tác phẩm

Chuyện giải buồn (1885) của ông phần nhiều là những truyện được dịch ra từ các

tác phẩm văn học Trung Quốc như Cao sĩ truyện, Trang Tử, Chiến quốc sách, Liêu

trai chí dị… Ngoài ra còn có Trương Minh Ký, dịch giả của nhiều áng văn cổ điển

như Chính khí ca, Đường thi, bắt đầu trên Gia Định báo từ 26/06/1886.

96

Đội ngũ dịch truyện Tàu sau đó có Nguyễn Chánh Sắt, Nguyễn An Khương,

Trần Phong Sắc, Nguyễn An Cư, Đinh Văn Đẩu, Huỳnh Trí Phú, Trần Hữu Quang

v.v...Họ đều là những người am tường chữ Hán và biết chữ quốc ngữ. Trong

khoảng từ 1905 đến 1910, đội ngũ dịch giả này đã đua nhau dịch nhiều tiểu thuyết

thần kỳ, anh hùng nghĩa hiệp của Trung Hoa tạo thành một phong trào “dịch truyện Tàu” lớn mạnh.68

Cùng với sự du nhập của văn hoá phương Tây theo bước chân của đội quân

xâm lược, tiểu thuyết phương Tây, đặc biệt là tiểu thuyết Pháp đã được dịch và

đăng ở Nam Bộ khá sớm, trước cả tiểu thuyết Tàu. Đội ngũ dịch giả phương Tây

đầu tiên không ai khác là những tín đồ công giáo, sớm giao lưu với môi trường văn hoá Pháp như Trương Vĩnh Ký, Trương Minh Ký, Huỳnh Tịnh Của.69

Đầu thế kỷ XX, số lượng bản dịch phương Tây xuất hiện nhiều hơn với các

tác phẩm của A. Dumas như Tiền căn báo hậu (Le Comte de Monte Cristo - 1907),

Ba chàng lính ngự lâm (1914) do Trần Chánh Chiếu dịch. Lê Hoằng Mưu cũng dịch

cả truyện Mỹ, Nga (qua tiếng Pháp) như Chồng bắt chạ vợ, Vi Lê giết vợ đăng trên

Nông cổ mín đàm...Tuy nhiên, do thị hiếu của công chúng, “truyện Tàu” vẫn là thể

loại được các dịch giả Nam Bộ ưu ái hơn.

Và cũng ở giai đoạn này, tại Trung Quốc phong trào dịch thuật phát triển rất

mạnh, nổi bật là phong trào “Tân văn”, “Tân thư”, một phong trào được khởi xướng

bởi các sỹ phu đứng đầu là Khang Hữu Vi, tiếp đó là Lương Khải Siêu, Nghiêm

Phục, Lâm Tự, Hồ Thích...Họ đã ý thức được sự lạc hậu của văn minh Trung Hoa

68   Thực ra, sự phát triển của phong trào dịch “truyện Tàu” có sự sắp xếp của thực dân Pháp. Năm 1872, Liraye đã cho rằng “người ta sẽ không chống lại việc học các mẫu tự Latinh, nếu tiếng Annam được thay thế để dịch một vài tác phẩm Trung Hoa cơ bản và cổ điển [53]. Như vậy, việc dịch thuật “truyện Tàu” được khởi đầu nhằm mục đích khuyến khích người dân học bản xứ học quốc ngữ của của nhà cầm quyền Pháp. 69 Từ năm 1884, Trương Minh Ký đã dịch cuốn Truyện Phansa diễn ra quốc ngữ, cuốn Riche et Pauvre (Phú bần truyện diễn ca) đăng ở Gia Định báo từ số 47, ngày 22 - 01- 1884. Năm 1887, ông dịch cuốn Les aventure de Telemaque của Fenelon (Chuyện Tê lê mặc gặp tình cờ) theo thể loại thơ lục bát. Năm 1886, Gia định báo đăng Truyện Robinson (Robinson Crusoé). Ngoài ra còn có truyện Gia huấn của lão Vincent (Les conseils du Père Vincent) của Trần Nguyên Hạnh vào cuối thế kỷ XIX.

và việc cần kíp phải nắm bắt lấy văn minh Âu Tây mà trước hết là việc dịch sách

97

trên nhiều lĩnh vực: triết học, văn học, chính trị, tư tưởng và hô hào người Trung

Quốc thức tỉnh, phê phán những hủ bại của xã hội phong kiến.

Nhìn nhận diễn biến ở đất nước láng giềng Trung Hoa, giới trí thức Việt

Nam lúc này đã nhận thấy dịch thuật đang là một vấn đề khẩn cấp: “Trung Hoa,

trong con mắt mình xưa, vẫn được coi là một nước kiểu mẫu, hơn nữa, được coi là

thiên triều, là thượng quốc, thế mà đời Thanh (1644 – 1911) đến giờ họ phải cắm

đầu phiên dịch các sách ngoại quốc không biết bao nhiêu mà kể. Xem ngay bản

thống kê vào số sách xuất bản năm Trung Hoa dân quốc hai mươi sáu (1937) của

riêng một nhà Thương vụ ấn thư quán, kể một tháng, riêng nhà ấy in 83 loại

sách...Nước Nhật cũng vậy, kể từ khi duy tân, người ta chú trọng đến việc dịch sách

ngoại quốc, nhất là sau hồi Âu chiến trước (1914 – 1918), họ lại càng hết sức cổ vũ

khuyến khích việc ấy nên các dịch phẩm về khoa học và văn học Âu – Mỹ ở đâu cũng được hoan nghinh”70. Đông Kinh nghĩa thục ra đời chính là do cảm hứng từ

phong trào Duy tân của Nhật Bản và chịu ảnh hưởng từ nguồn Tân văn, Tân thư từ

Trung Quốc.

Trong bối cảnh ấy, tiếp nối tinh thần của Đông Kinh nghĩa thục, Đông

Dương tạp chí (1913-1919) xuất hiện như một nỗ lực nhằm quảng bá nền khoa học

phương Tây (kiến thức, kỹ thuật và phương pháp) đến với người Việt, nhất là nhắm

tới việc độc giả Việt làm quen với thế giới tư tưởng mà nền khoa học kể trên đã nảy

sinh, thông qua việc dịch thuật chọn lọc (văn học, triết học, đạo đức).

Có thể nói rằng, đội ngũ dịch giả của Đông Dương tạp chí là những nhà tiên

phong trong lĩnh vực dịch thuật ở Bắc Kỳ. Từ phong trào dịch thuật văn học

phương Tây mà Đông Dương tạp chí gầy dựng, đội ngũ dịch giả ở Bắc Kỳ đã mau

chóng phát triển cả về số lượng lẫn chất lượng, đóng góp rất lớn cho công cuộc hiện

đại hoá nền văn học nước nhà giai đoạn đầu thế kỷ XX. Chính quyết tâm ưu tiên lựa

70 Hoa Bằng, (1942) “Cần phải dịch những sách hay”, Tạp chí Tri Tân số 45, tr 2.

chọn dịch các tác phẩm phương Tây đã làm cho Đông Dương tạp chí có một bản

98

sắc khác hẳn những tờ báo quốc ngữ ở Nam Bộ trước đó và những thành công của

họ đã chứng minh tính đúng đắn của con đường mà họ đã lựa chọn.

Tất nhiên, đóng góp khá quan trọng của văn học dịch Trung Quốc ở Nam

Bộ, đặc biệt ở thể loại tiểu thuyết đã tạo tính cân bằng về phương diện thể loại giữa

văn vần và văn xuôi, hình thành một lớp độc giả, tác giả viết về văn xuôi quốc ngữ

đông đảo, tạo nền tảng cho sự phát triển của một nền văn học mới. Nhưng một sự

chuyển động toàn diện, mang tính cách tân, đưa tiểu thuyết Việt Nam hội nhập với

dòng văn học thế giới phải kể đến công lao của dòng văn học dịch các tác phẩm

phương Tây mà đi tiên phong là Đông Dương tạp chí.

Hai tờ báo có uy tín là Đông Dương tạp chí và Nam Phong tạp chí đã đăng

tải nhiều tác phẩm dịch. Là những dịch giả có tài, có tinh thần cầu thị cao, Nguyễn

Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh đã cần mẫn giới thiệu những giá trị tinh hoa của văn học

Pháp trên nhiều thể loại: kịch, thơ, truyện ngắn, tiểu thuyết, nghiên cứu văn học. Họ

đã nối nhịp cho mạch chảy vốn đã khơi nguồn từ Trương Vĩnh Ký, Trương Minh

Ký, để rồi vào cuối những năm hai mươi, khi hội đủ điều kiện, mảng văn học dịch

từ tiếng Pháp được phát triển mạnh mẽ. Tiếp theo bước chân tiên phong của Đông

Dương tạp chí và Nam Phong tạp chí là sự góp sức của các tờ Phong Hoá, Ngày

nay, Tiểu thuyết thứ năm, Tiểu thuyết thứ bảy...tất cả đã tạo nên một cú hích mạnh

mẽ để nền văn học mang tính từ chương, ước lệ truyền thống chuyển mình trở thành

nền văn học hiện đại, phong phú chỉ trong vòng mấy chục năm trời.

Có thể xem văn học dịch là nhịp cầu chuyển tải những thể loại mới của thế

giới vào Việt Nam, biến những gì đã chuyển tải được ấy thành tài sản, thành kinh

nghiệm văn học của dân tộc.

2.2.2. Diện mạo văn học phương Tây trên Đông Dương tạp chí

2.2.2.1 Quan điểm lựa chọn tác giả và tác phẩm

Với ban biên tập Đông Dương tạp chí, văn học chính là con đường lý tưởng

để đi đến với tư tưởng phương Tây. Không phải là ngẫu nhiên mà năm 1914, Tân

học văn tập được trình bày qua hai đề mục “Sư phạm” và “Văn học”. Vì theo họ,

99

cách tốt nhất để nắm bắt lấy văn minh phương Tây là phải học tập tư tưởng và

phương pháp của phương Tây một cách trừu tượng qua văn học và một cách cụ thể

qua những chương trình và những môn học được giảng dạy trong các trường trung

học ở châu Âu.

Điều chúng tôi rút ra được từ các bài viết về văn học phương Tây trong Đông

Dương tạp chí đó là ban biên tập đã dành sự quan tâm đặc biệt đến các tác phẩm

của Pháp thế kỉ XVII, nhất là dòng văn học cổ điển. Chúng ta có thể thấy điều ấy

qua việc thống kê các bài viết ở thể loại này. Có đến 133 bài trên tổng số 253 bài

đăng trong các số báo mà chúng tôi tiếp cận được, tức là hơn một nửa là thuộc các tác giả thế kỉ XVII71.

Qua tất cả các thời kỳ với trên 79 tác giả thì đa số là tác giả Pháp, ngoại trừ

văn hào Tolstoi (Nga), T. Edison (Châu Mỹ), J. Swift (Ai-len), Boccace (Ý) và các

tác giả cổ đại Hy-La.

Giữa năm 1913 và 1914, chuyên mục “Văn học” trình bày đa số các tác

phẩm của Pháp. Trước khi Tân học văn tập ra đời, sự chọn lựa giới thiệu văn

chương Pháp của ban biên tập tạp chí được ghi rõ trong phần phụ trương của mục

« Văn chương » với tựa đề « Pháp văn tạp thái ». Ngược lại, trong Tân học văn tập

(kể từ số 42), không có phụ đề tương tự, chỉ có tựa đề là « Văn chương khoa », như

trong lời mở đầu có nói đến tầm quan trọng trong việc quan tâm đến văn chương

nước ngoài. Tuy nhiên phần Pháp ngữ vẫn chiếm đa số. Tác giả quốc gia khác chỉ

có Platon (số 69).

Kể từ năm 1915, sự phân loại này rõ ràng hơn với phần mục « Văn chương »

và « Cổ kim văn hợp phái ». Sau đó, chuyên mục còn được chia ra từng đề tài

«Pháp văn », « Hán văn », « Văn Nôm ».

Cũng cần phải ghi chú thêm là ít khi phần « Pháp văn » lại được thay thế bởi

văn học của quốc gia phương Tây khác. Chúng tôi chỉ thống kê được hai trường

71 Trên tổng số ước chừng từ 300 đến 350 bài và 12 tiểu thuyết được dịch ít nhiều hoàn chỉnh.

hợp: « văn học Hi-lạp » và « Văn học Ý đại lợi ». Những tác phẩm mà tác giả

100

không phải là người Pháp nằm rải rác trong phần « Pháp văn », ví dụ như trong số 3

(1915), hai bài đầu tiên là của Pháp, bài thứ ba là của Nga.

Việc phổ biến văn học phương Tây cũng được sử dụng qua hình thức tiểu

thuyết, ví dụ như: Những cuộc phiêu lưu của Gulliver của Swift (1915) và Robinson

Crusoé của Defoe (1916). Nhờ vậy, độc giả Việt Nam được biết đến hai tác phẩm

tiêu biểu của nền văn học Anh ngữ. Ngoài ra nền văn minh Hy-La cũng được giới

thiệu nhờ vào tác phẩm « Truyện truyền kỳ của các vỹ nhân Hy Lạp và La Mã » của

Plutarque (César và A Lịch Sơn Đại Đế - 1916).

Ngay cả trong phần tiểu thuyết, tất cả tác phẩm cũng thuộc Pháp ngữ như Gil

Blas (1913-1914) và Turcaret của Lesage, Những cuộc phiêu lưu của Télémaque

của Fenelon (1915)…

Có lẽ ban biên tập của Đông Dương tạp chí quan tâm đến giai đoạn lịch sử

này là do vào thời ấy, ở nước Pháp cũng dấy lên phong trào tranh cãi giữa cũ và

mới. Bối cảnh xung đột giữa cũ và mới ở Pháp vào thời ấy cũng tương tự như bối

cảnh của xã hội Việt Nam vào đầu thế kỷ XX. Đối với những ai muốn dẫn chứng sự

lợi ích về việc du nhập các phương pháp và học thuật mới vào xã hội Bắc Kỳ nhưng

đồng thời vẫn giữ đươc bản sắc văn hóa của riêng mình, đây là một ví dụ giá trị.

2.2.2.2 Những tác giả tiêu biểu

Qua khảo sát các tác phẩm dịch, chúng tôi thu được kết quả như sau: La

Fontaine (51 bài); Molière (hơn 30 bài); Anatole France (22 bài); Pascal (15 bài);

Perrault (hơn 11 bài); Rousseau, Voltaire, La Rochefoucauld (7 bài); Guyau,

Fénelon (5 bài); Helvétius, Chateaubriand (4 bài); Montesquieu, la Bruyère (3 bài);

Lesage – 2 tiểu thuyết (kéo dài 102 số báo); Defoe (34 số); Fénelon (24 số); Balzac

(22 số); Plutarque (19 số); Abbé Prévost (15 số); Swiff (11 số).

Từ phần phân tích sơ lược kể trên, có thể thấy rằng tính trên tổng số 79 tác

giả, thì 5 tác giả tiêu biểu chiếm 129 bài, nghĩa là hơn một nửa tổng số bài (253). Cụ

thể hơn, có 16 tác giả (5+11) được ban biên tập quan tâm nhất, vì riêng họ đã chiếm

tất cả 186 bài (129 + 57). Tính thêm số lượng tác giả các tác phẩm chọn lọc cộng

với phần tiểu thuyết, chúng tôi đi đến kết luận sau đây: 23 tác giả (16+7) trên tổng

101

số 79, tức là dưới 1/3 toàn bộ các tác giả, đã chiếm hết 186 bài, tức là hơn 2/3 tổng

số bài viết chọn lọc, cộng thêm 8 tiểu thuyết (khoảng 227 số báo của tạp chí).

Riêng về phần 5 tác giả tiêu biểu, một vài tác phẩm của họ được dịch đến 2

lần, cho thấy tầm quan trọng của các tác giả này và bài viết của họ. Đó là những

trường hợp sau đây:

-   Anatole France: « Chúng ta lên tiếng, chúng ta chờ đợi… » (trích tác phẩm Vườn

Epicure), Nguyễn Văn Vĩnh dịch lần đầu tiên trong số 2 (1913) và lần thứ nhì

trong số 1 (1915). Trích đoạn này được sử dụng để mở đầu cho phần văn học của

Đông Dương tạp chí năm 1913 và Đông Dương tạp chí ấn bản mới năm 1915.

-   Pascal: « Lưỡng cực » (trích Tư Tưởng), dịch lần đầu ở số 9 (1915) và lần 2 ở số

123 (1917) bởi hai dịch giả khác nhau.

-   Pascal: « Tự ái » (trích Tư Tưởng), dịch lần đầu trong số 37 và 38 năm (1914,

“Tân học văn tập”) và lần 2 trong số 112 (1917) bởi hai dịch giả khác biệt.

Ngoài ra, trong số các tác giả Pháp trong phần văn học, nhiều vị là Hàn lâm học sĩ72 như La Fontaine (1684), Montesquieu (1728), Voltaire (1746), Chateaubriand

(1811), Lamartine (1829), Cousin (1830), Victor Hugo (1841), Anatole France

(1896). Trong số họ có nhiều người rất nổi tiếng như: Balzac, Molière, Peraullt,

Renan, Zola, Stendhal, Théophile Gautier hay Lesage.

Những tác giả kể trên không phải ai cũng thuần túy hành nghề viết văn, một

số người viết lách nhưng làm một nghề khác, hay ít nhất cũng quan tâm đến lĩnh

vực khác; ngoài các nhà văn còn có cả người tu hành, triết gia, sử gia, nhà khoa học,

nhà bách khoa, nhà đạo đức, chính trị gia mà sau đây là một vài ví dụ:

-   Nhà tu và nhà thần học (Bossuet, Masillon, Fénelon, Malebranche, và cha

Prévost, cha Guénard)

-   Sử gia (Quinet, Michelet, Guizot, Lavisse, Augustin Thierry)

-   Triết gia (Guyau, Jouffroy, Simon, Cousin, Janet, Montesquieu, Rousseau,

72 Năm được phong vào Hàn Lâm viện được bỏ trong ngoặc

Helvétius, Diderot, Fontennelle, Pascal, Voltaire)

102

-   Nhà bách khoa và khoa học gia (Pasteur, Edison, Lanessan, Buffon, Pascal,

Bernadin de Saint-Pierre)

-   Nhà đạo đức (La Bruyère, La Rochefoucauld, Chamfort, Montesquieu,

Vauvenargues)

-   Chính trị gia (Guizot, Simon, Poincaré, Lanessan, Isnard)

-   Nghệ sĩ (Molière - diễn viên kịch, Fromentin - hoạ sỹ)

-   Nhà phê bình văn học (Nisard, Faguet)

-   Nhà báo (Defoe)

Sau khi nghiên cứu 253 bài73 và trọn bộ 10 tác phẩm được chuyển dịch hoàn

toàn trong suốt những năm hoạt động của tạp chí, chúng tôi đã có thể rút ra những

đề tài chủ đạo mà ban biên tập Đông Dương tạp chí theo đuổi như sau: nhiều bài

viết mang nội dung về thân phận con người, về sự cường thịnh của nước Pháp, về

tầm quan trọng của tinh thần khoa học và ái quốc, về lợi ích trong việc giao lưu văn

hóa Pháp Việt. Những đề tài khác thường thấy trong Đông Dương tạp chí là những

đề tài về đạo đức, và triết học. Tuy nhiên, những đề tài đậm chất văn học vẫn chiếm

đa số. Đó là những đề tài thuộc các thể loại văn học: tiểu thuyết, ngụ ngôn, truyện

kể và kịch.

2.2.2.3 Những thể loại chính

Những thể loại chính trên Đông Dương tạp chí bao gồm Tiểu thuyết phương

Tây, Truyện Ngụ ngôn La Fontaine và các bài viết thuộc lĩnh vực Triết học

Trên Đông Dương tạp chí, để quảng bá tư tưởng phương Tây đến quần

chúng, nhất là đến học sinh, ban biên tập đã chọn lựa trình bày những tiểu thuyết

tiêu biểu của phương Tây, những tác giả được người phương Tây yêu thích qua

nhiều thế hệ. Vì thế, tiểu thuyết lại trở thành một phương tiện giáo dục. Đây là điểm

khá thú vị vì với nền văn hóa truyền thống của Việt Nam, thể loại tiểu thuyết mang

tính tưởng tượng hay những tác phẩm hài hước được đánh giá là không xứng đáng

73 Có cả thảy là trọn bộ 12 tác phẩm, nhưng bản dịch của 2 bài (của Voltaire) không được tiếp tục.

để đưa vào chương trình giáo dục.

103

Trong 10 sáng tác và đầu sách tiêu biểu của văn học phương Tây được dịch

theo lối « truyền kỳ » trong suốt khoảng thời gian mấy năm ra mắt của tạp chí,

chúng tôi nhận thấy có 8/10 1à tác phẩm của Pháp, và 7/10 tác phẩm thuộc về thế kỷ

1774 :

-   Gil Blas de Santillane (1724)75 của Alain-René Lesage, tiểu thuyết gia và nhà viết

kịch người Pháp: đây là một thể loại thuộc tiểu thuyết phiêu lưu mạo hiểm, kể về

những gian truân mà nhân vật anh hùng Gil Blas phải trải qua với những lề thói

và gian manh của tất cả mọi tầng lớp trong xã hội.

-   Les voyages de Gulliver (1726 - Cuộc phiêu lưu của Gulliver) của Jonathan

Swift, tiểu thuyết gia và thi sĩ Ai-len , một dạng tiểu thuyết giả tưởng kể về sự

trưởng thành của anh hùng Gulliver trong chuyến phiêu lưu qua các thế giới ảo

tưởng Lilliputian và của người khổng lồ (tác phẩm này đã trở thành tiêu biểu cho

dòng văn học thiếu nhi).

-   Les aventures de Télémaque (1699 - Cuộc phiêu lưu của Telemaque), tác giả

Fénélon - nhà văn. Tác phẩm mang tính giáo dục, trong đó kể về câu chuyện thần

Mentor (thật ra là nữ thần Athena) truyền thụ cho Télémaque những giáo lý về

luân lý và chính trị trong cuộc tìm cha là Ulysse.

-   Vie et aventure de Robinson Crusoé (1719 - Cuộc phiêu lưu của Robinson

Crusoé) của Daniel Defoe, tiểu thuyết gia và phóng viên người Anh. Đây là dạng

tiểu thuyết phiêu lưu kể về những khó khăn của một người đi biển bị đắm tàu và

trôi dạt vào một đảo hoang. Ông thoát chết nhờ vào sự kiên cường của mình.

-   La peau de Chagrin (1831 - Miếng da lừa) của Honoré de Balzac, tiểu thuyết gia

người Pháp; tiểu thuyết được viết theo lối truyện kể thần kỳ và triết lý về thân

74 Bản ấn hành tác phẩm Cuộc phiêu lưu của Télémaque là vào năm 1699, có nghĩa là gần với thế kỷ 17 hơn. 75 Được dịch dưới dạng trường thiên tiểu thuyết giữa năm 1913 và 1914. Bản dịch được tiếp nối vào năm 1915 trong Trung Bắc tân văn.

phận con người.

104

-   Turcaret (1709) của Lesage: kịch phong hoá lên án sự thao túng của đồng tiền

qua hình ảnh trào phúng về các nhà tài phiệt được thể hiện như những người tham

lam, ích kỷ, ngu xuẩn và lừa bịp.

-   Manon Lescaut (1731) của Abbé Prévost, tiểu thuyết gia người Pháp. Tiểu thuyết

được cho là không có chủ đích lên lớp về đạo đức nhưng nêu rõ sự cần thiết về

việc phòng ngừa sức mạnh của dục vọng qua câu truyện bất hạnh của Manon

Lescaut và chàng hiệp sỹ Grieux.

-   Paul et Virginie (1788) của Bernadin de Saint-Pierre, tiểu thuyết gia người Pháp.

Tác phẩm nói về mối tình trong trắng giữa hai người mới lớn chưa biết gì về tội

lỗi, trong bối cảnh như mơ của đảo Maurice, trên tinh thần của một mô hình giáo

dục kiểu Rousseau.

-   Cuộc đời của các danh nhân Hy-lạp và La-mã của Plutarque - một chuyên gia về

tiểu sử và nhà đạo đức học Hy-lạp. Tác phẩm do Amyot chuyển ngữ vào năm

1559, bao gồm 46 tiểu sử trình bày theo cặp: tiểu sử một danh nhân Hy-lạp

thường đi đôi với một danh nhân La-mã. (như trong tạp chí trình bày về tiểu sử

của Alexandre Đại Đế và César).

-   Cuộc đời của Esope vùng Phrgien của La Fontaine, thi sĩ và nhà viết ngụ ngôn

người Pháp. Tác phẩm miêu tả về cuộc sống huyền thoại của Esope người Hy-lạp

(thế kỷ thứ 5 TCN). Ngay trong phần đầu của tập ngụ ngôn của mình, La Fontaine được xem như là người kế thừa Esope76.

Có thể thấy rằng, nội dung các tiểu thuyết dịch trên Đông Dương tạp chí đa

số là về cuộc đời của các danh nhân (Esope, Robinson), về phong hoá (Gil Blas,

Manon Lescaut, Miếng da lừa, Gulliver), tình cảm (Manon Lescaut, Paul et

Virginie), chuyện phiêu lưu với những nhân vật anh hùng (Gil Blas, Gulliver,

76  6 tập đầu được xuất bản vào năm 1668

Télémaque, Robinson)...nhưng tất cả đều chuyển tải một thông điệp về đạo đức.

105

Khuynh hướng đạo đức của các tác phẩm kể trên được tìm thấy qua các đề

tài được sử dụng thường xuyên như: lên án những sự dễ dãi, những dục vọng

(Miếng da lừa, Manon Lescaut, Télémaque); sự phù phiếm của tiền bạc (Turcaret,

Manon Lescaut); về tấm gương cố gắng và cần mẫn (Robinson, Témémaque);

những tình cảm đứng đắn (Paul et Virginie); tính hợp lý và thông minh (Esope).

Tất cả những bài dịch trường thiên tiểu thuyết này đều thuộc những chủ đề

được ban biên tập Đông Dương tạp chí quan tâm. Tuy nhiên, vấn đề luân lý chiếm

đa phần.

Ngoài tiểu thuyết, Truyện ngụ ngôn La Fontaine cũng được ban biên tập

Đông Dương tạp chí đặc biệt chú trọng.

Truyện ngụ ngôn của La Fontaine là một mối quan tâm lớn của Nguyễn Văn

Vĩnh. Ông đã nhiều lần giới thiệu các bản dịch của mình trên các tờ báo khác nhau

do chính ông làm chủ bút. Đầu tiên là những bản dịch được đăng năm 1907 trên

Đăng Cổ tùng báo. Đến năm 1912, có thêm một số bản dịch khác được giới thiệu

trên La Revue Indochinoise. Sau đó, truyện ngụ ngôn La Fontaine được giới thiệu

một cách có hệ thống trên Đông Dương tạp chí từ năm 1913 đến 1915.

Có nhiều lý do cho việc chọn lựa Truyện ngụ ngôn của Nguyễn Văn Vĩnh.

Một trong những lý do chính đó là mong muốn đem tới sự thấu hiểu giữa văn hóa

Đông -Tây, sử dụng văn chương như là cầu nối giữa hai dân tộc. Nguyễn Văn Vĩnh

hy vọng rằng nền văn học nhân văn (mà truyện ngụ ngôn là một bộ phận) có thể

giúp cho người Việt Nam hiểu rõ hơn tư tưởng của người Pháp. Từ đó, tiếp thu

được những giá trị vốn được nước Pháp ca tụng để tiến lên trên con đường văn

minh.

Bên cạnh đó, bằng con đường dịch thuật, Nguyễn Văn Vĩnh hy vọng có thể

giúp cho nền quốc văn nước nhà tìm thấy những cách thức diễn đạt mới. Qua việc

biên dịch truyện ngụ ngôn của La Fontaine, ông muốn chỉ cho người Việt thấy rằng

người dân Pháp lúc bấy giờ đang dùng một thể loại văn chương mà chính bản thân

người Việt đã biết rất rành. Nguyễn Văn Vĩnh xem việc biên dịch truyện ngụ ngôn

của La Fontaine như là một công cụ giáo dục hiệu quả nhằm dẫn dắt người Việt

106

thâm nhập vào tinh thần phương Tây trên cả ba mặt: giáo dục, luân lý và tôi rèn văn chương77.

Có vẻ như các truyện ngụ ngôn đã được ban biên tập chọn lựa nhằm mục

tiêu bổ sung ý nghĩa cho các tác phẩm văn học khác trong Đông Dương tạp chí. Sự

chọn lựa này cho thấy sự gần gũi về nhân sinh quan giữa người Pháp và người Việt:

tất cả các truyện ngụ ngôn đều mang nội dung nói về bản chất của con người vượt

lên trên mọi khác biệt văn hóa. Người Việt cũng biết đến những thói hư tật xấu của

con người như người Pháp như sự tham lam, bủn xỉn, tham vọng, mạnh được yếu

thua. Ở Việt Nam cũng có những lang băm và những quan tòa thiếu lương thiện.

Như vậy, truyện ngụ ngôn của La Fontaine được ban biên tập sử dụng như

một phương tiện lý tưởng để dẫn dắt độc giả đến với nền văn học phương Tây nói

chung và tư tưởng Pháp nói riêng. Ngoài ra, không loại trừ khả năng truyện ngụ

ngôn được ưu ái trên Đông Dương tạp chí là vì Nguyễn Văn Vĩnh – chủ bút Đông

Dương tạp chí - dịch giả chủ đạo của các truyện ngụ ngôn - rất thích thể loại văn

học này.

Thể loại triết học được Đông Dương tạp chí giới thiệu thông qua chuyên

mục có tên là “Triết học yếu lược”. Chuyên mục này giới thiệu 14 văn bản trong

khoảng thời gian giữa năm 1913 và tháng 2 năm 1914. Các bài viết về triết học

được trình bày thành 2 cột: bên trái là văn bản gốc bằng tiếng Pháp, bên phải là bản

dịch ra tiếng Việt. Lời giới thiệu đặt ở mỗi đoạn văn nhằm giải thích nghĩa, thỉnh

thoảng có một đoạn của tạp chí giới thiệu một phần nhỏ lịch sử của triết học phương

Tây. Nguồn tiếng Pháp trong các văn bản không được chính xác nhưng rất rõ ràng,

thể hiện trong đề mục phụ của thể loại: “Lược ở những sách học Đại Pháp hay nhất

ra”.

Khác với một vài quan niệm trước đây cho rằng Đông Dương tạp chí dịch

77 Thể loại ngụ ngôn qua tập Ngụ ngôn của La Fontaine gồm 5 bài giữa năm 1913-1914 và 44 bài trong Tân học văn tập năm 1914, thêm 2 bài cho năm 1915. Theo khảo sát của chúng tôi, phần ngụ ngôn chiếm đến 57, 58 bài, nghĩa là gần 1/5 tổng số bài viết.

thuật một cách bừa bãi, thiếu chọn lọc, không có hệ thống các tác phẩm triết học

107

phương Tây78, qua quá trình nghiên cứu, chúng tôi thấy rằng việc giới thiệu các tác

phẩm triết học đã được ban biên tập giới thiệu một cách hệ thống và rõ ràng với một

tiêu chí được xác định ngay từ đầu.

Văn bản đầu tiên (số 28, ngày 20 tháng 11 năm 1913. tr.11-12) xác định triết

học như một trong ba hình thức của hiểu biết con người, với những “nhận thức tầm

thường” và khoa học. Sau đó, là định nghĩa về khoa học: khoa học nghiên cứu

những nguyên nhân hay lí do của mọi vật (Aristote), mục đích là để hiểu và làm chủ

mọi thứ (Bacon).

Văn bản thứ hai (số 29, ngày 27 tháng 11, tr.17-18), tác giả giới thiệu nhanh

“Triết học là khoa học đặc biệt cần thiết lắp đầy các lĩnh vực trong thực tại”. Văn

bản này cũng trình bày trong nguyên tố đầu tiên, tư tưởng là một trong những chủ

thể của triết học, nhưng là chủ thể riêng của tâm lý học. Tâm lý học, logic học và

đạo đức xây đựng nên cái được gọi là “triết học chủ quan” trong chừng mực mà nó

liên quan tới con người. (Descartes)

Văn bản 3 (số 30, ngày 4 tháng 12, tr.16-17) phân biệt giữa “triết học chủ

quan” (tâm lý học, logic và đạo đức cái chế ngự tâm hồn) và “triết học khách quan”

(triết học của khoa học và siêu hình học, cái đối phó với thế giới bên ngoài và

nguyên nhân đầu tiên).

Văn bản 4 (số 31, ngày 11 tháng 12, tr.16-17) giải thích ngược lại rằng

phương pháp tốt nhất là “vượt lên những kết quả của nguyên nhân, những hậu quả

của nguồn gốc”, “nguyên nhân phải được giải thích để hiểu rõ chính nó trước khi

giải thích sự nhận thức về mọi vật”.

Văn bản 5 (số 32, ngày 18 tháng 12, tr. 17-19) định nghĩa thế nào là tâm lý

học. Theo đó, có thể chia tâm lý ra thành các nhánh nhỏ.

Văn bản 6 (số 33, ngày 25 tháng 12, tr.16-17) giới thiệu tâm lý học như là

78 Nguyễn Anh, Vài nét về quá trình đấu tranh chống thực dân và tay sai trên lĩnh vực văn hoá của nhân dân ta trong 30 năm đầu thế kỷ 20, Tập san Nghiên cứu lịch sử số 116 (1968).

trung gian giữa vật lý học và của khoa học đạo đức và xã hội.

108

Văn bản 7 (số 34, ngày 1 tháng 1, tr.16-17) đào sâu định nghĩa của nhận

thức. Văn bản này đề cập tới cựu hoài nghi và cogito (“tôi nghĩ, tôi tồn tại”) của

Descartes.

Văn bản 8 (số 35, tháng 1, tr.12-14) là sự kết hợp giữa các hình thức của

nhận thức như đã dẫn trong văn bản trên. Theo đó, có một nhận thức “tự phát” và

một nhận thức “phản ánh”.

Văn bản 9 (số 36, ngày 15 tháng 1, tr.12-14) theo đuổi chủ đề về vô thức:

cảm giác, sự thông minh, trí nhớ, sự liên kết của những ý tưởng, sự tưởng tượng.

Văn bản 10 (số 37, ngày 22 tháng 1, tr.13-14) bác bỏ những người ủng hộ

thuyết vô thức.

Văn bản 11 (số 38, ngày 5 tháng 2, tr.9-10, 15) giới thiệu chủ đề về sự suy

nghĩ. Descartes lại được trích dẫn một lần nữa.

Văn bản 12 (số 39, ngày 12 tháng 2, tr.11-12) thảo luận về bản chất chung

của nhân loại.

Văn bản 13 (số 40, ngày 19 tháng 2, tr.11) giới thiệu tiếp cuộc sống tinh thần

và đạo đức theo trích dẫn của Aristote, St Thomas và Bossuet; sau đó là ý kiến của

Descartes, Pascal, Malebranche, Leibniz, Condillac và Reid.

Văn bản 14 (số 41, ngày 26 tháng 2, tr.11-12) đề cập đến Leibniz và Samuel

Bailey.

Có thể rút gọn chuyên mục có 14 văn bản này theo những nội dung như sau:

-­‐   4 /14 văn bản giới thiệu triết học ở dạng khái quát.

-­‐   10 văn bản sau giới thiệu tâm lý học, sự nhận thức và sự vô thức.

- Những định nghĩa triết học xuất hiện rất nhiều và dường như là sự nhập môn vào

những khái niệm có thể chưa từng có trong đời sống học thuật ở Việt Nam.

- Có sự liên tục trong nội dung của các văn bản. Ví dụ: đoạn đầu tiên của văn bản

4 chính là đoạn cuối của văn bản 3 cũng như đoạn đầu tiên của văn bản 6 chính

là đoạn cuối của văn bản 5.

- Tất cả các văn bản dường như được lấy từ một cuốn sách có thể là một giáo

khoa triết học của Pháp.

109

2.2.3. Những tác phẩm dịch ngoài phương Tây

2.2.3.1 Từ chữ Hán sang chữ Quốc ngữ

Với chủ trương dung hòa hai nền văn hóa cũ mới, ban biên tập Đông Dương

tạp chí không chỉ dịch các tác phẩm phương Tây sang chữ quốc ngữ mà vẫn chú

trọng đến việc dịch những tác phẩm kinh điển của Trung Quốc để giới thiệu đến độc

giả Việt Nam. Bởi vì, suy cho cùng, quyết tâm thoát Trung là thoát những quan

niệm trì trệ, lạc hậu kìm hãm sự phát triển của đất nước, còn những tinh hoa của nền

văn học, văn hoá lâu đời này vẫn rất cần thiết để làm giàu cho tư tưởng, tâm hồn

của người Việt Nam. Sự tương đồng về văn hoá rất quan trọng để giúp một bộ phận

không nhỏ độc giả dễ tiếp thu cái đẹp của một nền văn hoá chưa bao giờ thôi đóng

vai trò quan trọng trong nền văn minh chung của nhân loại.

Trên Đông Dương tạp chí, song song với việc dịch các tác phẩm từ tiếng

tiếng Việt sang tiếng Pháp, Nguyễn Văn Vĩnh cũng dịch các tác phẩm cổ điển của

Trung Quốc để chiều lòng độc giả thích thể loại này. Các tác phẩm gồm có: Tiền

Xích Bích, Hậu Xích Bích, Tam quốc chí diễn nghĩa (dịch cùng với Phan Kế Bính).

Phần “Hán văn” là một chuyên mục có chất lượng cao, trong đó chủ yếu phổ biến tư tưởng Trung Hoa79. Chuyên mục này do Phan Kế Bính phụ trách. Các tác

phẩm Hán văn được Phan Kế Bính chuyển ngữ gồm: Đại Nam nhất thống chí

(1916), Ðại Nam điển lệ toát yếu (1915 - 1916), Việt Nam khai quốc chí truyện

(1917), Đại Nam liệt truyện tiền biên (1918), Ðại Nam liệt truyện chỉnh biên

(1919).

Nhà văn Nguyễn Đỗ Mục cũng góp công giới thiệu được những tác phẩm

văn học Trung Quốc rộng rãi đến công chúng. Các tác phẩm gồm có: Tây Sương ký

(chuyện nàng Oanh Oanh, dịch theo lối chêm những câu tập Kiều), Đông Chu liệt

quốc (đăng trên Đông Dương tạp chí, sau do Tân Việt Nam xuất bản. Đây là một

kho sử liệu thời Đông Chu, lưu lại cho người sau những kinh nghiệm quý giá về

79 Nghiên cứu và sưu tầm cổ văn, tác phẩm của các văn hào và triết gia trong các sách Chiến quốc, Cổ văn, Liệt Tử, Mặc Tử, Hàn Phi Tử; dịch những truyện trong Tình Sử, Kim cổ kỳ quan, Tiền Hán thư.

chính trị).

110

Có thể thấy rằng, các tác phẩm dịch từ chữ Hán sang chữ quốc ngữ trên

Đông Dương tạp chí khá đa dạng, phong phú về mặt nội dung và có chất lượng dịch

thuật cao. Bởi vì phụ trách lĩnh vực này là những cây bút tinh hoa, tinh thông Hán

học vào bậc nhất thời bấy giờ. Mảng văn học này đóng góp không nhỏ cho công

cuộc xây dựng một nền quốc văn mới, bồi bổ văn hoá dân tộc, dung hoà học thuật

Á-Âu để làm giàu cho nền văn học nước nhà.

2.2.3.2 Từ tiếng Việt sang tiếng Pháp

Vai trò làm cầu nối giữa hai nền văn hóa của Đông Dương tạp chí thể hiện rõ

nhất ở việc dịch Truyện Kiều sang tiếng Pháp của chủ bút Nguyễn Văn Vĩnh. Đây là

hành động rất có ý nghĩa để giới thiệu cho những người phương Tây biết đến những

tinh hoa văn hoá dân tộc Việt Nam, khẳng định những truyền thống tốt đẹp của

nước ta nhằm đề cao lòng tự hào dân tộc. Ông từng viết: "Nước Annam ta đã bị mất

bởi những người trí thức chỉ biết làm văn học Tầu, chúng ta hãy cố gắng để không trở thành những người trí thức chỉ biết làm văn học Pháp" 80.

Đây là tác phẩm được Nguyễn Văn Vĩnh dịch đi dịch lại nhiều lần, chú thích

vô cùng cẩn thận vì ông hiểu rằng tác phẩm cần sự chính xác cao và sự tinh tế về

ngôn ngữ trong dịch thuật.

“Cách dịch Kiều của ông Vĩnh rất khác lạ. Có thể nói là sự giảng tiếng Việt

bằng tiếng Pháp, cũng không sai. Ông dịch từng tiếng một (mot à mot). Rồi dịch cả

câu, cốt làm rõ nghĩa, không phụ thuộc vào từ và điệu. Sau mỗi đoạn đều có giảng

nghĩa và ghi chú rất công phu (Notes et Commentaires)”. [113]

Thí dụ:

Ngày xuân con én đưa thoi,

Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi.

Cỏ non xanh tận chân trời,

Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.

80 L’Annam a été perdu par les lettrés qui n’avaient faits que de la littérature chinoise, tâchons de ne pas devenir de lettrés qui ne font que la littérature franşaise - Notre journal 1908.

Dịch từng chữ:

111

Ngày (jours) xuân (printemps) con (unité d’animaux) én (hirondelle) đưa (pousser,

conduire, se mouvoir) thoi (navette).

Thiều quang (clartés sereines) chín (neuf) chục (dizaines) đã (déjà) ngoài (hors,

dehors, dépasser) sáu mươi (soixantes).

Cỏ (Herbe) non (jeune, tendre) xanh (vert, verdir) tận (jusqu’à, finir, à l’extrémité)

chân (pied) trời (ciel).

Cành (branches) lê (poiriers) trắng (blanc) điểm (tachetées) một (un) vài (deux)

bông (houppes, unités de fleurs, fleurs par extension) hoa (fleurs).

Dịch cả câu:

Les jours du printemps passesent, rapides comme l’hirondelle poussant la navette.

Des quatre-vingt-dix beaux jours du printemps, on était déjà au - delà du

soixantième.

Le tapis vert d’herbe tendre s’étendait jusqu’à l’extrême horizon. Les branches de poiriers étaient de blanc - tachetées par quelques fleurs

Sự trân trọng của Nguyễn Văn Vĩnh dành cho Truyện Kiều một lần nữa

khẳng định rằng Nguyễn Văn Vĩnh nói riêng và ban biên tập Đông Dương tạp chí

nói chung không có chủ trương đồng hoá. Ngay từ rất sớm họ không chỉ truyền bá

văn hoá Pháp ở Việt Nam mà còn giúp cho công chúng Pháp và công chúng Việt

Nam hiểu về một trong những tác giả kinh điển lớn của Việt Nam khi mà vì sự trớ

trêu của lịch sử, sau khi chữ Nôm không còn được sử dụng, người Việt Nam dường

như bị mất liên lạc về mặt ngôn ngữ với quá khứ văn học của dân tộc.

2.2.4. Ngôn ngữ dịch thuật của Đông Dương tạp chí

Như đã trình bày, mục tiêu của ban biên tập Đông Dương tạp chí là dùng

dịch thuật để hoàn thiện chữ quốc ngữ và bồi bổ tư tưởng cho người Việt Nam. Thế

nên, không phải ngay từ đầu ngôn ngữ dịch thuật của Đông Dương tạp chí đã hoàn

chỉnh, lưu loát và chính xác. Khó khăn trong việc dịch thuật xuất phát từ vấn đề

ngôn ngữ. Đó là sự non trẻ của chữ quốc ngữ khi mà nó không đủ lượng từ vựng để

dịch những khái niệm học thuật mới mẻ. Thêm vào đó sự khác biệt về mặt tư tưởng,

văn hoá, địa lý cũng gây những trở ngại đáng kể. Thế giới quan của người Việt

112

Nam khác với người Pháp tạo thêm những khó khăn cho cả dịch giả lẫn độc giả

trong việc hiểu văn bản dịch thuật trong thực tế, khi mà tham vọng của ban biên tập

Đông Dương tạp chí không chỉ dừng lại ở việc dịch thuật tác phẩm văn học mà còn

là giới thiệu triết học phương Tây và những khái niệm nền tảng của hệ tư tưởng

này.

Dịch văn học thường được xem là bộ môn khó nhất của ngành dịch thuật.

Bởi nếu các bộ môn khác chỉ yêu cầu dịch đúng và đủ thông tin, thì đối với văn học,

ngoài những yêu cầu đó, người dịch phải nắm bắt và truyền tải được cái « mã »

nghệ thuật mà nhà văn gửi gắm vào tác phẩm. Làm thế nào để xác định được độ tin

cậy của văn bản, rồi điển tích, điển cố, thành ngữ, ngôn ngữ tác văn học của tác

phẩm ở thời đại mà nó xuất hiện…đó thực sự là những thách thức không nhỏ cho

các dịch giả.

Ngay từ những ngày đầu thành lập tạp chí, ban biên tập đã thừa nhận những

hạn chế của mình và bày tỏ quyết tâm hoàn thiện dần ngôn ngữ dịch thuật hầu phục

vụ tốt hơn nữa cho độc giả. Đông Dương tạp chí số 2, mục “Văn chương” đã bày

tỏ: “Mỗi kỳ bản báo lựa văn hay Lang-sa, dịch ra quốc âm một bài, in vào mục này,

để cho các bậc tài hoa nước Nam xét cái thần tình văn chương Đại-pháp, và để gọi

là thử chơi xem các tư tưởng Lang-sa mà đem diễn ra quốc-âm đúng được đến đâu.

Không dám quyết rằng chọi được từng chữ từng ý”.

Thực ra, chủ trương dịch thoát đã được Nguyễn Văn Vĩnh xác định từ rất

sớm. Trong bài diễn văn đọc tại hội dịch sách ngày 26-6-1907, ông đưa ra lí do:

“Chắc rằng làm việc là việc bạc, vì bây giờ đem sách người mà dịch ra tiếng bản

quốc, nếu cứ dịch cho đúng từng chữ thì xem không hiểu được. Tất phải dịch lấy

nghĩa. Lấy nhời nhẽ ta mà giải nhời nhẽ người. Đến lúc thiên hạ xem hiển nhiên rồi,

tất có người rạch ròi muốn biết nghĩa thâm trầm thì lại đem dịch lại, nhưng lúc bấy

giờ dịch kỹ mới có người hiểu. Chúng tôi cũng biết rằng sách dịch ra bây giờ, đời

sau là có người chê, nhưng có thế mới gọi là tiến bộ, chúng tôi cũng sẽ thỏa lòng

rằng: mình đã có cắm nêu lên trước, cho nên mới có kẻ theo hút sau.”

113

Trên Đông Dương tạp chí những buổi đầu tiên, ông cũng đã có lần bộc bạch:

“Chúng tôi muốn đem lược những đoạn văn hay của các danh bút châu Âu. Kỳ thủy

xin hãy đăng những bài giản dị, rồi sau dần dần mỗi ngày đánh bạo, dịch những văn

khó thêm”.

Như vậy, các dịch giả của Đông Dương tạp chí đã quyết tâm nhận lãnh

nhiệm vụ khó khăn của buổi đầu để hoàn thiện dần nền ngôn ngữ, học thuật của

nước nhà. Điều đáng ghi nhận là tinh thần cầu tiến của họ trong việc sửa lỗi và tiếp

nhận cái mới.

Trong các bản dịch tiếng Pháp của chủ đề triết học, những khái niệm có thể

là những vấn đề với người đọc Việt vì có những khái niệm không hề có trong từ

vựng tiếng Việt hoặc bị hiểu sai. Để giải quyết vấn đề này, ban biên tập chọn cách

đăng đồng thời nguyên bản tiếng Pháp và tiếng Việt để độc giả dễ so sánh, hoặc đặt

từ gốc tiếng Pháp trong dấu ngoặc đơn cạnh bên các khái niệm được dịch ra tiếng

Việt. Bằng cách này, các dịch giả có thể theo dõi và cải thiện bản dịch của mình về

sau này. Ví dụ, ở văn bản đầu tiên, hàng loạt các khái niệm « khó » được chú thích

kèm với bản dịch tiếng Pháp trong dấu ngoặc đơn: Connaissance vulgaire (sự biết

thường); science [học thức]; philosophie[triết–học]; expérience personnelle [ lịch

duyệt riêng của mình]; tradition [tục truyền]; témoignage [tang –chứng];

conjectures [ý phỏng-chừng]; erreurs [điều sai-lầm]; faits particuliers [việc riêng};

constater [thấy sao thì ghi làm vậy]; cause [cái nhân]; raison [cái lý]; certitude [sự

tin chắc]; généralités [sự suy một điều ra muôn điều]; méthode[lề-lối]; vérités [điều

thực]; faits [việc]; lois [lệ]; vérités fondamentales [điều thực cốt-từ]; principes

[nguyên lý].

Ở văn bản thứ 2, số lượng các chú thích bằng tiếng Pháp cũng dày đặc:

Mathématiques [toán học]; physique [vật-khó đọc trong 2 từ]; chimie [hóa - học];

pensée [tư-tưởng]; esprit [cái thần]; âme [cái linh-tính]; psychologie [linh tính học];

logique [lý học]; morale [luân - lý học]; le bien [điều thiện]; philosophie subjective

[triết học lấy mình làm đích].

114

Với văn bản thứ 3, tình hình vẫn như các văn bản trước: Philosophie des

science [triết học các học-khoa]; le relatif [điều tỉ dữ-vật chất]; l’absolu [điều cố

hữu]; métaphysique [thuần lý học]; philosophie objective [triết học lấy vật làm

đích]; monde extérieur [thân ngoại thế giới]; cause première [nguyên nhân];

théodicée [thiên lý học]; théorique [triết đoán]; philosophie spéculative [suy toán

triết học]; philosophie pratique [thực dụng triết học].

Sang đến văn bản số 4, chỉ có một từ được chú thích: Panthéisme [triết học

cho trời là tổng cả vạn vật].

Văn bản số 5: Psychologie [linh-tính học]; âme ou esprit [linh-tính];

psychologie expérimentale [hiệu nghiệm linh- tính học]; psychologie rationnelle

[triết lý linh tính học]; conscience [linh tính]; caractères essentials [nguyên tính];

états [phận]

Văn bản số 7: Spontané [một thể lập tức]; réfléchi [một thể suy nghĩ]

Văn bản số 9: Association des idées [ sự nghĩ nhắng việc nọ ra việc kia]

Văn bản số 11: Les états où il se sent passif [những cách phát hiện ngoại

cảm]; les états où il se sent actif [ những cách phát hiện nội cảm]; l’être ou la

substance [cái hữu ngã]

Văn bản số 12: Cơ thể cử động [activité physique]; trí khôn-ngoan cử động

[activité intellectuelle]; luân lý cử động [activité morale].

Văn bản số 13: Việc tri giác [opération sensitives]; việc khôn ngoan

[opération intellectuelles]; minh-ngộ [entendement]; sở dục [volonté].

Chúng ta có thể nhận thấy rằng, do 3 văn bản đầu là phần giới thiệu chung về

triết học phương Tây, với những định nghĩa cần thiết phải có những bản dịch chính

xác nên các chú thích dày đặc. Trong bản dịch tiếp theo số lượng chú thích ít đi vì

những từ khó hay đặc biệt của triết học phương Tây đã được “giải thích” từ đầu.

Thỉnh thoảng, bản tiếng Pháp của một số từ hay khái niệm không xuất hiện

chính thức trong ngoặc đơn của bản dịch tiếng Việt nhưng nó được viết ở dạng in

nghiêng. Điều này cho thấy sự cẩn trọng của dịch giả.

115

Đôi khi, các dịch giả bắt buộc phải trông cậy vào cách nói quanh (hay câu

giải thích) để dịch một số câu đặc biệt của tư tưởng phương Tây như là:

“Triết học chủ thể” (văn bản 2): “triết học lấy mình làm đích” -­‐

-­‐   “Triết học khách quan” (văn bản 3): “triết học lấy vật làm đích”

-­‐   “Thuyết phiếm thần” (văn bản 4): “triết học cho giời là tổng cả vạn vật”

Ngoài những đặc điểm ngôn ngữ đến từ những lí do khách quan, ngôn ngữ

dịch thuật trên Đông Dương tạp chí còn bị chi phối bởi phong cách riêng của những

dịch giả. Bởi lẽ, việc dịch suy cho cùng là sự tái tạo nguyên tác trên tinh thần sáng

tạo. Người dịch, ngoài những yêu cầu giỏi ngoại ngữ, có kiến thức rộng còn cần

phải có tố chất của người nghệ sĩ. Những dịch giả của Đông Dương tạp chí mỗi

người một phong cách, tạo nên sự đa dạng cho ngôn ngữ dịch thuật của tờ báo.

Đọc các bài viết của Phạm Quỳnh, ta cảm nhận được một lối viết từ tốn, sâu

lắng, tinh tế. Còn ở Nguyễn Văn Vĩnh, ta thấy sự giản dị, trôi chảy, sáng sủa: “văn

ông Phạm Quỳnh vững vàng, chính xác nhiều chữ Hán, diễn đạt cao xa, thích hợp

với trí thức, còn văn của ông Nguyễn Văn Vĩnh không cầu kỳ, không chêm pha một

chữ Hán, cho nên thông thường, giản dị và có tính cách phổ biến” [14]. Thiếu Sơn

trong công trình Phê bình và cảo luận (1933) nhận xét Phạm Quỳnh: “dịch thật

đúng, thật hay, vừa biết tôn trọng cái nguyên ý của tác giả lại vừa dựa theo giọng

điệu của quốc văn”, nhận xét Nguyễn Văn Vĩnh: “văn mạch của ông thật thần tình

thú vị, giản dị hoạt bát, không quá thiên về tư tưởng như ông Quỳnh, không quá

nặng về tình cảm như ông Nguyễn Khắc Hiếu…”

Một dịch giả khác của Đông Dương tạp chí cũng được đánh giá cao là Phan

Kế Bính. Văn dịch của Phan Kế Bính cũng giản dị, gọn gàng nhưng vẫn đẹp, trôi

chảy, không những đảm bảo sát nghĩa của câu mà còn lột tả được tinh thần nguyên

tác. Là người am tường Hán học, lại chịu khó học hỏi, ông đã kết hợp được cái sâu

sắc, tinh tế của văn cổ với lối viết minh bạch, khúc chiết của văn Pháp nên bản dịch

của ông già dặn, tinh vi, chính xác và cú pháp rất minh bạch khiến người đọc dễ

dàng lĩnh hội. Một số nhà nghiên cứu cho rằng, các nhà văn bấy giờ, không ai sánh

116

kịp với ông ở lối đặt câu khúc chiết, rõ ràng, kể cả Phạm Quỳnh và Nguyễn Văn

Vĩnh.

Tuy nhiên, khi bàn về ngôn ngữ dịch thuật của Đông Dương tạp chí, dịch giả

được nhắc đến nhiều nhất là chủ bút Nguyễn Văn Vĩnh. Đây cũng là điều dễ hiểu

bởi ông là quán quân về dịch thuật tại Bắc Kỳ vào thời điểm lúc bấy giờ. Tác phẩm

dịch của ông ở đủ mọi thể loại.

Đặc điểm dễ nhận thấy khi đọc các tác phẩm dịch của Nguyễn Văn Vĩnh là

cảm giác rất Việt Nam, rất gần gũi. Những câu văn giản dị, trong sáng và có một vẻ

duyên dáng đặc biệt.

Nguyễn Văn Vĩnh không chủ trương dịch sát từng chữ. Ông dịch cốt lấy cái

ý chính, cái tinh thần của nguyên tác, chú trọng tới sự lưu loát, dễ hiểu, cú pháp gần

gũi với lối nói thường ngày của mọi người. Có khi, ông chêm vào đó những tục

ngữ, thành ngữ, những danh từ phổ biến trong xã hội để bản dịch thêm sinh động, rõ

nghĩa. Đọc các bản chuyển ngữ này của ông, người ta có cảm giác như đang đọc

nguyên tác bằng tiếng Việt. Về đặc điểm này, Dương Quảng Hàm nhận xét: “Văn

ông bình thường, giản dị, có tính cách phổ thông, tuy có châm chước cú pháp của

văn tây nhưng vẫn giữ được đặc tính văn ta. Ông lại chịu khó moi móc trong kho

thành ngữ, tục ngữ của ta những từ ngữ màu mè để diễn đạt các ý tưởng (cả những

ý tưởng mới của Âu Tây), thành ra đọc văn dịch của ông, tưởng chừng đang đọc

văn nguyên tác bằng tiếng Nam vậy.”

Bài thơ Con cá nhỏ và người đánh cá là một ví dụ sinh động cho cách dịch

này:

“Miễn là cá sống dưới hồ,

Cỏn con cũng có ngày to kếch xù,

Nhưng mà cá đã cắn cu (câu)

Thả ra, tôi nghĩ còn ngu nào tầy:”

Nguyên tác:

“Petit poisson deviendra grand,

117

Pourvu que Dieu lui prête sa vie;

Mais le lâcher en attendant,

Je tiens pour moi, que c’est folie.”

So sánh với nguyên tác, ta không thấy câu: “cá đã cắn câu”, nhưng thêm vào

câu này chẳng những không làm hỏng ý chính của toàn bài mà còn tăng thêm sự

độc đáo, thú vị bởi đây là thành ngữ rất quen thuộc trong dân chúng.

Cũng như vậy, ở vở hài kịch Tartuffe có hai câu:

“On vient de débiter, madame, une nouvelle,

Que je ne savais pas, et qui sans doute est belle”

Nếu muốn sát nghĩa và theo đúng nguyên tác thì phải dịch: “Người ta vừa

mới tung ra, thưa cô, một tin, mà tuy tôi chưa biết, nhưng tin đó tất đẹp đẽ lắm”.

Nhưng Nguyễn Văn Vĩnh đã dịch một cách giản dị là:

“Thưa cô, họ mới phao một tin rất lạ,

Tôi mới nghe mà đã ngạc nhiên”.

Hai chữ “thưa cô” ông nhắc ra đặt ở đầu câu thay vì để giữa hai mệnh đề chính

như nguyên tác; những chữ “rất lạ”, “ngạc nhiên” được thêm vào để thay thế những

chữ “tất đẹp đẽ lắm” được bỏ đi v.v… Nhưng chính vì dịch thoát như vậy nên ông

đã làm cho lời văn giản dị, xuôi tai theo cấu trúc ngữ pháp của tiếng Việt. [14]

Theo dõi những bước tiến bộ trong ngôn ngữ dịch thuật của Nguyễn Văn

Vĩnh, ta có thể hiểu được bước trưởng thành của Đông Dương tạp chí trong công

tác hoàn thiện ngôn ngữ văn học của dân tộc bởi thực chất, ông là dịch giả có nhiều

bài dịch nhất và là “linh hồn” của tạp chí.

Cũng như những dịch giả khác, không phải ngay từ đầu, ngôn ngữ dịch của

Nguyễn Văn Vĩnh đã có được sự súc tích, mạch lạc và sâu sắc. Thời gian đầu, do

chú trọng tới mục tiêu thu hút độc giả, khuyến khích người đọc ham mê chữ quốc

ngữ, Nguyễn Văn Vĩnh dịch rất nhiều và rất nhanh. Vì thế trong những bản dịch của

ông, có nhiều đoạn không được sát nghĩa lắm, nhiều đoạn lược dịch hoặc phỏng

dịch. Nhà phê bình Vũ Ngọc Phan đã nhận xét: "Lối dịch ấy các nhà báo thường

dùng và gọi là "lược dịch" cốt lấy mau, miễn là hoạt thì thôi. Người không có

118

nguyên văn để đối chiếu, tưởng là hay tuyệt, nhưng nếu dùng những bản dịch của

Nguyễn Văn Vĩnh để so với nguyên bản mà học dịch, thì nhiều khi người ta thấy những ý trong câu dịch không còn là ý của tác giả nữa"81.

Tiếp tục phiên dịch và sáng tác, ngay trong tác phẩm của ông đã có sự tiến

bộ: “Từ những câu văn lủng củng, lai lối hành văn của Pháp, của Tầu, hoặc quê mùa

hoặc không sát trong tác phẩm dịch như Trưởng giả học làm sang, Tục lệ ca đến Gil

Blas, Mai nương lệ cốt ta đã thấy lời văn của ông tuy vẫn giản dị nhưng trôi chảy,

linh hoạt lắm rồi. Thật đúng như sự tin tưởng của ông đối với khả năng chữ quốc

ngữ trên phạm vi dịch thuật.” [14]

Chính Nguyễn Văn Vĩnh cũng biết những hạn chế của mình nên khi nhận

thấy chất lượng các bản dịch đã được nâng lên, ông đã vui mừng chia sẻ với độc

giả: “Vừa dịch, vừa tập dịch về các hồi sau, lời lẽ mỗi ngày một thêm trau chuốt,

tưởng ai chịu khó đọc dòng đầu triệt vi, cũng vỡ được ít nhiều cái tinh thần của nhà

nguyên trước, chứ không đến nỗi phải tiếc công. Bản dịch văn này (Gil blas de

Sautillane) vả cũng là cái tang chứng ở trong lịch sử quốc văn ta từ lúc bập bẹ dùng

tiếng Nôm ta mà diễn tư tường Tây, cho đến bây giờ là lúc đã nên câu, nên đoạn, nên một văn pháp rồi” 82.

Thực ra việc dịch thoát hay không cũng còn tùy vào tác phẩm. Ở những tác

phẩm mà việc dịch không chính xác vài câu chữ không ảnh hưởng đến tư tưởng và

đặc trưng tác phẩm thì ông chủ trương dịch thoát và không cầu kì nhưng với những

tác phẩm mà giá trị của nó nằm ở vẻ đẹp của ngôn ngữ thì Nguyễn Văn Vĩnh dịch

rất cẩn thận, chú trọng từng câu chữ. Thậm chí, ông còn đi dịch lại cho đến khi nào

hoàn hảo thì thôi. Truyện Kiều của Nguyễn Du là một ví dụ.

Tóm lại, việc dịch thuật trên Đông Dương tạp chí tồn tại cả hai hình thức:

trực dịch và chuyển dịch. Trong đó, trực dịch là chủ yếu. Nếu xét trong hoàn cảnh

chuyển thể từ văn bản gốc sang văn bản dịch thì Đông Dương tạp chí có cả các hình

81 Vũ Ngọc Phan, Nhà văn hiện đại. 82 Lời tựa cuốn Gil Blas de Sautillane.

thức: dịch sát, dịch ý và lược dịch. Hình thức lược dịch áp dụng cho những tác

119

phẩm triết học phương Tây được giới thiệu trên tạp chí. Hình thức dịch ý phổ biến

trong các tác phẩm văn học ở giai đoạn đầu, khi chữ quốc ngữ còn chưa ổn định và

với đa số các truyện ngụ ngôn của La Fontaine nhằm Việt hoá chúng một cách tối

đa. Tuy nhiên, ở giai đoạn phát hành thứ hai của Đông Dương tạp chí (1915 -

1919), phần lớn các tác phẩm đã được dịch sát, chất lượng của bản dịch được nâng

cao rõ rệt.

Sự kết hợp của Nguyễn Văn Vĩnh và những trí thức thời bấy giờ, mỗi người

một vẻ, đã tạo nên một đội ngũ dịch giả khá hùng hậu, đóng góp rất to lớn trong

việc làm phong phú nền học thuật nước nhà, mở mang hiểu biết cho dân tộc Việt

Nam. Và Nguyễn Văn Vĩnh, với vai trò người tiên phong, người đứng ra tập hợp

những tài năng đó, cùng với khối lượng đồ sộ các tác phẩm mà ông đã đem đến cho

độc giả, xứng đáng được ghi nhận như là một nhà quán quân trong công việc dịch

thuật ở nước ta hồi đầu thế kỷ XX.

2.3. Vai trò của Đông Dương tạp chí trong việc hình thành các thể loại văn học

mới

Đầu thế kỷ XX, giới cầm bút Việt Nam đứng trước cơ hội hiện đại hoá văn

học nước nhà qua sự tiếp xúc với nền văn minh phương Tây. Để hiện đại hoá, họ

bắt buộc phải thay đổi tư duy văn học cũ chịu sự ảnh hưởng của văn học Trung

Quốc. Con đường duy nhất để bắt kịp bánh xe lịch sử là học tập ý tưởng và loại

hình, loại thể văn học phương Tây, chủ yếu là văn học Pháp.

Thể loại văn học là một dạng thức tổ chức tác phẩm. Nó qui định những

điểm nhìn, những hình thức phản ánh cuộc sống. Vì thế, nó dễ dàng trở thành

phương tiện trao đổi quốc tế.

Đóng góp của Đông Dương tạp chí trong việc hình thành các thể loại văn

học ở Việt Nam đầu thế kỷ chủ yếu thông qua các tác phẩm dịch thuật. Bởi qua dịch

thuật, những thể loại mới được du nhập, tạo nên những tương tác để làm biến đổi

cấu trúc bên trong của thể lại cũ và từng bước làm thay đổi mối tương quan về cơ

cấu thể loại nói chung.

120

Nhìn lại lúc bấy giờ, văn học Việt Nam vẫn còn chưa thoát ra khỏi những

đặc điểm của văn học trung đại với lối viết biền ngẫu, tầm chương trích cú, ước lệ.

Nền quốc văn cũ của ta hầu hết chỉ có văn vần (thơ, ca, phú) hoặc là biền văn (kinh

nghĩa, tứ lục - mà về thực chất vẫn là một thứ văn xuôi có vần, có điệu). Những thể

loại này đều phải tuân theo những luật lệ nghệ thuật chặt chẽ, hạn chế sự đa dạng

của sáng tạo cá nhân. Trong giai đoạn này, văn xuôi thực sự hầu như không có,

người Việt vẫn đang còn ở giai đoạn tập viết văn xuôi. Đi theo hướng cận hiện đại

của văn học thế giới, văn học Việt Nam đầu thế kỷ XX bắt buộc phải phát triển các

thể loại văn xuôi. Đó là một tất yếu lịch sử không cưỡng lại được.

Vấn đề ở đây là, nền văn học ấy trước giờ chỉ có một hình mẫu duy nhất là

văn học Trung Quốc. Để đổi mới, cần phải tìm cho nó một hình mẫu mới để noi

theo.

Thế nên, qua văn dịch, những người viết văn vốn chỉ biết văn cổ chữ Hán

hay văn Pháp hoặc là không tinh thông bất cứ một thứ ngoại ngữ nào sẽ nhìn thấy

cách kết cấu, bố cục của một bài văn, cơ cấu hợp lý của câu văn đồng thời học tập

được phương pháp suy nghĩ logic để thoát ra được lối nghĩ và lối viết cũ.

Có thể nói rằng, qua việc dịch thuật và biên khảo phát triển rất mạnh trên

Đông Dương tạp chí, nhiều nhà văn đã hiểu rõ hơn các loại văn của phương Tây,

dẫn đến việc thử nghiệm các loại văn ấy trong sáng tác. Tờ báo đóng vai trò như

một chiếc cầu nối giữa văn hoá, văn học Việt Nam với các nền văn hoá, văn học

khác trên thế giới, tạo cơ hội để nền văn học dân tộc nhìn lại mình, tìm kiếm những

yếu tố thuận lợi để phát triển.

Những đóng góp của Đông Dương tạp chí thể hiện rõ nét ở các thể loại thơ,

tiểu thuyết và kịch.

2.3.1 Thơ

Thực ra, lĩnh vực thi ca không phải là thế mạnh của Đông Dương tạp chí.

Như chúng ta biết, Đông Dương tạp chí chuyên về văn xuôi, còn Nam Phong tạp

chí mới thiên về thơ. Tuy nhiên, ít mà chất lượng. Các bản dịch tự do hơn về âm

luật của Nguyễn Văn Vĩnh với truyện ngụ ngôn của La Fontaine đã mở ra một

121

hướng mới cho thơ ca Việt Nam: thơ tự do. Bản dịch truyện ngụ ngôn « Con ve và

cái kiến » là ví dụ tiêu biểu nhất cho đóng góp này.

Sau Truyện Kiều, bài thơ Con ve và cái kiến, dịch từ truyện ngụ ngôn Con ve và con kiến (La Cigale et la Fourmi)83 của La Fontaine là tác phẩm mà chủ bút

Đông Dương tạp chí dành nhiều tâm huyết để hoàn thiện.

Ở lần công bố đầu tiên trên Đăng Cổ tùng báo (1907), bài thơ này được

Nguyễn Văn Vĩnh dịch bằng thể lục bát thể thơ truyền thống của dân tộc. Năm

1914, một bản dịch mới được đưa ra, giải phóng văn bản khỏi hệ nhịp câu truyền

thống để tiến đến sát hơn với bản gốc trong tiếng Pháp. Âm điệu thơ là lạ, vần chân

liền hoặc cách quãng, với số chữ so le. Bản dịch bám rất sát nguyên bản, cả từ và

điệu.

Nguyên bản:

La cigale et la fourmi

La Cigale, ayant chanté

Tout l’été,

Se trouva fort dépeurvue

Quand la bise fut venue;

Pas un seul petit morceau

De mouche ou de vermisseau.

Bản dịch năm 1907 - (Đăng Cổ tùng báo, số 823, ngày 24 tháng 10):

Trên cây có một con ve (6)

Hát hết mùa hè, mùa lạnh kiết xo (8)

Bắc phong càng thổi càng lo (6)

Mùa sâu bọ hết, ăn nhờ vào đâu? (8)

Bản dịch năm 1914 - (Đông Dương tạp chí, số 40, ngày 19 tháng 02):

Ve sầu kêu ve ve

Suốt mùa hè

83 “La cigale et la fourmi » (Con Ve và cái Kiến), xuất bản trong Đông Dương tạp chí số 40, 19/02/1914

Đến kỳ gió bấc thổi

122

Nguồn cơn thật bối rối

Để hiểu rõ hơn sự tiến triển của bản dịch, trước hết phải hiểu thêm một chút

về phép gieo vần truyền thống của người Việt. Trong một chương trong Việt Nam phong tục với tiểu tựa ‹‹Những dạng thức đặc biệt trong diễn đạt của chúng ta ››84,

Phan Kế Bính đã lý giải rằng thể lục bát là thể thơ truyền thống mang tính thuần

Việt. Những lời bình chú cũng như cách dùng mà ông đưa ra có thể lý giải cho vấn

đề mà chúng ta đang tìm hiểu:

1. ‹‹ Dạng vần sáu-tám ›› - (thượng lục hạ bát)

Còn gọi là thể Kiều. Trong thể loại này, câu đầu có 6 cụm âm tiết, câu thứ hai

có 8 cụm âm và âm thứ sáu của câu hai hợp vần với âm cuối trong câu đầu

tiên. Bốn câu thơ với ba cặp hợp vần tạo nên một đoạn nhỏ. Các bản truyện

thơ của ta thường được viết theo dạng này.

2. Biến thể ‹‹ lục-bát ›› còn được gọi là thể thơ ‹‹ Phạm - công ››

Theo thể loại này thì câu đầu có sáu âm và câu hai có tám âm nhưng âm thứ

tư của câu hai hợp vần với âm cuối câu một. Những người học cao không

thường dùng thể thơ này, chỉ có những người ít học mới dùng nó.

Nhờ sự hướng dẫn này, chúng ta có thể lý giải được sự tiến triển giữa hai bản

dịch năm 1907 và năm 1914:

Bản dịch năm 1907 Bản dịch năm 1914

‹‹Trên cây có một con ve Hát hết mùa hè, mùa lạnh kiết xo Bắc phong càng thổi càng lo Ruồi, sâu bọ hết, ăn nhờ vào đâu? ››

‹‹ Ve sầu kêu ve ve Suốt mùa hè Đến kỳ gió bấc thổi Nguồn cơn thật bối rối Một miếng cũng chẳng còn Ruồi bọ không một con …›› (Thể không tuân theo phép giao vần truyền thống của người Việt)

84 xuất bản năm 1915 trên Đông Dương tạp chí

( Thể Phạm-công hay biến thể lục bát)

123

Chú giải của Phan Kế Bính khiến chúng ta nghĩ rằng Nguyễn Văn Vĩnh

không qua đào tạo bởi hệ thống giáo dục truyền thống của Việt Nam với những

người thầy có qui tắc bất di bất dịch về sự hoàn mỹ của văn chương. Thuộc thế hệ

nhà văn mới, Nguyễn Văn Vĩnh đã bắt đầu con đường sáng tác, dịch thuật thơ ca

bằng việc du nhập vào Bắc Kỳ những thể thức thơ mới, chủ yếu mượn vận luật từ

tiếng Pháp. Bất cứ khi nào có thể, ông áp dụng ngay những thể thức mới vào bản

dịch của mình, song song với việc hệ thống hoá cách dùng của quốc ngữ, lối chữ mà

theo ông, phải trở thành chữ viết tương lai của dân tộc Việt Nam.

Về phương diện này, chúng ta hãy lấy lại bản gốc Con ve và cái kiến và so

sánh với bản dịch năm 191485 của Nguyễn Văn Vĩnh để làm ví dụ:

1. La Cigale, ayant chanté ‹‹ Ve sầu kêu ve ve

Tout l'été, Suốt mùa hè

Se trouva fort dépourvue Đến kỳ gió bấc thổi

Quand la bise fut venue. Nguồn cơn thật bối rối

5. Pas un seul petit morceau Một miếng cũng chẳng còn

De mouche ou de vermisseau Ruồi bọ không một con

Elle alla crier famine Vác miệng chịu khúm núm

Chez la Fourmi sa voisine, Sang chị kiến hàng xóm

La priant de lui prêter Xin cùng chị cho vay

10. Quelque grain pour subsister Răm ba hạt qua ngày

Jusqu'à la saison nouvelle “Từ nay sang tháng hạ

“Je vous paierai”, lui dit-elle, Em lại xin đem trả,

« Avant l'août, foi d'animal, Trước thu, thề đất giời !

Intérêt et principal.” Xin đủ cả vốn lời. »

15. La Fourmi n'est pas prêteuse (a) Tính kiến ghét vay cậy (a)

C'est là son moindre défaut (b) Trăm thói, thói này vi. (b)

«Que faisiez-vous au temps chaud?» (b) « Nắng ráo chú làm gì?» (b)

85 Bản dịch đúng như kh i xuất hiện trên Đông Dương tạp chí, số 40 (19/02/1914), tr.14.

Dit-elle à cette emprunteuse (a). Kiến hỏi ve như vậy. (a)

124

Nuit et jour à tout venant (c) Ve rằng: luôn đêm ngày(e)

20. Je chantais, ne vous déplaise (d) Tôi hát, thiết86 gì bác

Vous chantiez? j'en suis fort aise: (a) Kiến rằng: xưa chú hát (e)

Et bien! dansez maintenant (c) Nay thử múa coi đây.

Có sự giống nhau đến kinh ngạc trong cách đặt câu trong hai văn bản này.

Trước hết là sự hiện diện của câu thơ thứ hai chỉ có 3 âm tiết trong bản tiếng Việt

(kết cấu từ những câu có 5 âm tiết) giống với bản tiếng Pháp (kết cấu từ những câu

có 7 âm tiết). Mặt khác, từ câu 1 đến câu 14, La Fontaine đã dùng cách sắp xếp đơn giản nhất của luật gieo vần trong tiếng Pháp để có được tổ hợp vần bằng87 và

Nguyễn Văn Vĩnh tuân theo rất giống (từ câu 1 đến câu 14) cách gieo vần này, dù

nó không nằm trong luật gieo vần truyền thống của tiếng Việt. Bản dịch của Nguyễn Văn Vĩnh không thể dùng tổ hợp vần dương88 và âm89 được như La

Fontaine đã làm, bởi vì tiếng Việt, do không có âm ‹‹ e›› câm, nên không thể mượn

được. Ngược lại, những âm điệu tương tự được dùng rất hay ở những từ nằm cuối

mỗi hai tổ nhịp âm, theo cách mà La Fontaine sử dụng và trên cùng số lượng câu

thơ.

Từ câu 15 đến hết bài, La Fontaine sử dụng vần ôm (a b b a, c d d c), Nguyễn

Văn Vĩnh cũng làm vậy ở đoạn bốn câu đầu (a b b a) nhưng không dùng nữa trong

đoạn thứ hai. Ông kết thúc câu tự do hơn bằng cách cho một vài âm tiết trong số chúng hợp vần với nhau, một cách rất cân đối90 [Ve rằng – La Cigale répond ; Kiến

rằng – la Fourmi répond: (e e)] tạo cảm giác hụt hơi và thêm phần bi thảm, trong ý

đồ làm rõ bối cảnh mặt đối mặt.

86 Hiện tại, từ này viết là ‹‹ thiệt ›› chứ không phải là ‹‹ thiết ›› (điều này chứng tỏ sự chưa vững của quốc ngữ vào thời biên dịch của Nguyễn Văn Vĩnh) 87Vần bằng : 2 câu thơ có vần dương luân phiên với hai câu có vần âm. 88 Vần dương : những vần không tận cùng bằng ‹‹ e ›› câm. 89 Vần âm: những vần tận cùng bằng ‹‹ e ›› câm. 90 Không theo cách gieo song hành các cặp âm đối nhau như trong phép gieo vần truyền thống của tiếng Việt. 91 Sở dĩ dùng khái niệm ‹‹mang tính phương Tây›› hơn là ‹‹mang tính Pháp›› là bởi vì phép gieo vần của Pháp vay mượn nhiều từ kỹ thuật sắp câu của người Hy -lạp và La-tinh, mà ta thấy rõ trong đa số các bài thơ tiếng Pháp nói chung.

Phân tích trên cho thấy rằng, việc vay mượn các biện pháp tu từ văn chương phương Tây91 trong tiếng Việt diễn ra ở cả hình thức bên ngoài và nội dung bên

125

trong. Về mặt hình thức, thể hiện ở những câu ứng trong hệ gieo vần mà La

Fontaine dùng từ câu 1 đến câu 19; về mặt nội dung, thể hiện ở sự tiếp thu tinh thần

tự do đã làm rõ đặc tính của La Fontaine trong việc biên soạn Truyện ngụ ngôn, thế

kỷ XVII (xem thêm bản dịch của Nguyễn Văn Vĩnh từ câu 19 đến hết.)

Tuy vậy, không thể cho rằng Nguyễn Văn Vĩnh bê nguyên vào văn chương

truyền thống của Việt Nam bản mẫu của Pháp, bằng cách vay mượn một cách máy

móc các vận luật trong ngôn ngữ này. Đúng là Nguyễn Văn Vĩnh có một ý muốn

bám theo sát nhất có thể nội dung gốc của văn bản tiếng Pháp. Tuy nhiên, việc vay

mượn các phương pháp tu từ của phương Tây không mang tính hệ thống mà chỉ

được dùng để chuyển tải tinh thần của bản gốc cao nhất có thể.

Trong một đề dẫn đăng kèm với bản dịch truyện ‹‹Con ve và cái kiến›› ở đề

mục có tên là ‹‹ Miếng bánh đã chọn của người An Nam ›› trên tạp chí Revue

Indochinoise (tháng 3, năm 1912) Nguyễn Văn Vĩnh tự hào giới thiệu:

Đây là một trong những mẩu truyện ngụ ngôn rất hiếm hoi của La Fontaine

mà chúng tôi đã biên dịch thành công sang tiếng An Nam, từng câu thơ một,

gần như từng từ một, kèm trong bản dịch là những ngữ điệu rất An Nam, một

thể loại không xa lạ với nền thơ ca Hán –Việt. Chúng tôi đã cố gắng giữ

nguyên nhịp thơ tiếng Pháp bằng cách theo sát độ dài của từng câu thơ và

trật tự các vần âm có trong bản gốc, các vần dương tương ứng với âm

‹‹bình›› của người An Nam và các vần âm tương ứng với âm ‹‹trắc››.

Lời dẫn này bộc lộ rõ quyết tâm giữ lấy lượng độc giả truyền thống của

Nguyễn Văn Vĩnh. Ông tiếp nhận ‹‹ một ngữ điệu rất An Nam, một thể loại không

xa lạ với thơ ca Hán-Việt››. Làm như thế, ông hy vọng tạo ra được một cầu nối văn

hoá, một hệ quy chiếu chung, để một văn bản bất kì được hiểu trọn vẹn trong tổng

thể ý nghĩa nguyên bản của nó, dù đôi lúc sai lệch trong quá trình biên dịch là khó

tránh.

126

Chính vì vậy, khi giới thiệu bản dịch của Nguyễn Văn Vĩnh trên tạp chí Revue Indochinoise, Vayrac92 - một người bạn thân của Nguyễn Văn Vĩnh coi đây

là dịp để giới thiệu với độc giả Pháp những phẩm chất của người bạn Việt Nam mà

ông yêu quý:

Bản dịch của ông Vĩnh với độ chính xác mực thước và với sự lịch lãm hiếm

hoi giúp cho dân An Nam thưởng thức tác phẩm của nhà ngụ ngôn lừng danh mà

không hề làm biến dạng nó. Với việc thường dịch từng từ, ông Vĩnh thậm chí còn

biết chuyển tải sự chuyển động của từng vần thơ của La Fontaine:

Il ouvre un large bec, laisse tomber sa proie

ouvrir bec large immense, aussitôt tomber perdre proie

Ngụ ngôn Con ve và Cái kiến được chuyển thể từng từ và từng câu một.93

Đánh giá của Vayrac chú trọng đến ‹‹ độ chuẩn xác ›› trong việc biên dịch và

đến việc người dịch ‹‹không xuyên tạc, làm biến tướng văn bản ››, từng vần thơ

tiếng Pháp phải được dịch ‹‹ từng từ một ››. Khi nhắc đến văn phong dịch mang tính

‹‹ lịch lãm hiếm có ›› của Nguyễn Văn Vĩnh, cái nhìn của Vayrac là cái nhìn của

một người Pháp, bị chinh phục bởi một bản dịch theo sát bản gốc trong khi vẫn bảo

toàn từng sự vận động trong câu thơ gốc của La Fontaine.

Tóm lại, có thể khẳng định rằng, việc Nguyễn Văn Vĩnh nỗ lực thay đổi bản

dịch từ thể loại lục bát hoặc song thất lục bát của văn chương truyền thống, vốn đã

được mọi người quen thuộc, đến một bản dịch tự do hơn về âm luật. Qua hoạt động

biên dịch của mình, ông đã tìm cách trải nghiệm các phương thức ngôn ngữ và

phong cách khác nhau vì mục tiêu đổi mới nền quốc văn của dân tộc đồng thời bắc

một nhịp cầu nối liền sự hiểu biết giữa văn hóa giữa Đông và Tây ở một thời điểm

mà hố sâu ngăn cách giữa hai nền văn hóa là vô cùng to lớn.

Cho đến nay, vẫn chưa có bản dịch nào vượt được bản dịch của Nguyễn Văn

92 E. Vayrac – nhân viên Toà Công sứ tối cao Bắc Kì (cuối năm 1909), quản đốc tạp chí Revue Indochinoise giữa những năm 1911 – 1912; Hiệu trưởng trường Quốc tử giám (1912 – 1920) 93 CAOM (Center d’archive nationl d’outre mer – Văn khố quốc qia hải ngoại), RSTNF 5219 (phông lưu trữ thống sứ Bắc Kỳ bộ mới): trích báo cáo của Vayrac (17 tháng hai 1937), trang 1-2.

Vĩnh hồi đầu thế kỷ. Bản dịch truyện ngụ ngôn ‹‹Con ve và con kiến›› là bản dịch

127

duy nhất gần đến như vậy với bản gốc, cả trong chiều sâu nội dung lẫn vỏ ngoài

hình thức. Thành quả này cũng như những nỗ lực của Nguyễn Văn Vĩnh trong công

cuộc cải cách chữ quốc ngữ nói chung đã gây một ảnh hưởng lớn trong nền văn học

nước ta, đóng vai trò tiền phong cho sự ra đời của thể loại thơ mới. Để rồi từ đó,

Tản Đà tiếp nối cho ra đời những vần thơ hiện đại đặc sắc, cho đến khi Tình già của

Phan Khôi xuất hiện làm bùng phát lên trào lưu Thơ mới (1932 – 1945) phát triển

rực rỡ, chấn động văn đàn và là bước chuyển mình mạnh mẽ của nền văn học Việt

Nam.

2.3.2 Tiểu thuyết

So với các thể loại văn học khác, tiểu thuyết là loại hình sinh sau đẻ muộn.

Tuy nhiên, do những ưu thế vượt bậc của mình, tiểu thuyết vươn lên vị trí chủ đạo

trong nền văn học hiện đại.

Tại Việt Nam, truyền thống văn chương của chúng ta thường nghiêng về thơ

hơn là văn xuôi. Bởi đặc điểm của thơ là nghiêng về tình cảm, còn văn xuôi lại

thiên về lý trí. Người Việt Nam cho rằng chỉ có thơ mới thể hiện đến cùng tâm tư

của mình, mới đưa tâm hồn con người hoà vào cái « Đạo » bao la của trời đất. Còn

văn xuôi, đặc biệt là tiểu thuyết nặng tính sắp đặt nên thường có tính giả tạo, không

đáng xem trọng.

Từ cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, do những yếu tố lịch sử, đời sống xã hội

của Việt Nam đã có nhiều thay đổi. Văn hoá, văn minh phương Tây tràn vào nước

ta làm cho cái nhìn về con người, về xã hội khác đi nhiều so với trước. Công chúng

không còn mặn mà với các thể loại cũ mà háo hức tìm đến với văn xuôi, nhất là thể

loại truyện ngắn và tiểu thuyết. Đây là yếu tố quan trọng để tiểu thuyết giành lấy vị

trí quan trọng trong nền văn học Việt Nam hiện đại.

Trong quá trình hình thành tiểu thuyết thế hệ 1913 – 1932, khi công việc

sáng tác của các nhà văn chưa có thành tựu gì nổi bật thì tiểu thuyết dịch đóng một

vai trò rất quan trọng. Nó không chỉ đáp ứng thú tiêu khiển của độc giả mà còn giúp

các tác giả có ý niệm về một loại hình nghệ thuật mới, một khuynh hướng mới.

128

Để chuẩn bị cho một nền tiểu thuyết mới, việc dịch chính là một công tác dự

bị để đưa đến việc sáng tác. Bởi vì trong giai đoạn hình thành thể loại tiểu thuyết,

các tác phẩm dịch có vai trò cung cấp kinh nghiệm và cảm hứng mới mẻ cho những

người sáng tác. Nhờ tiểu thuyết dịch, các nhà tân học mới rút ra được cách dùng

văn, học được nghệ thuật viết tiểu thuyết. Từ đó, họ bắt đầu nghĩ tới việc sáng tác

những bộ tiểu thuyết riêng cho nước mình.

Những tiểu thuyết dịch đầu tiên ở Việt Nam là thể loại « Truyện Tàu », tức

tiểu thuyết chương hồi của Trung Quốc. Nam Bộ là mảnh đất đầu tiên ươm mầm

cho sự phát triển của thể lại tiểu thuyết này, như chúng tôi đã đề cập đến ở phần trên

của luận án. Ở miền Bắc, Đông Dương tạp chí chính là tờ báo tiên phong trong việc

giới thiệu các tiểu thuyết dịch từ Trung Quốc.

Như vậy, với số lượng không nhỏ các tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc được

lựa chọn kĩ càng đăng trên Đông Dương tạp chí, độc giả và các nhà văn ở Bắc Kỳ

đã có thể thâu thái được một hình thức văn chương mỹ thuật lại vừa giữ được luân

lý tinh thần theo quan điểm mỹ học của Nho giáo.

Qua những trang dịch trên Đông Dương tạp chí, các nhà văn có điều kiện

trau dồi quốc ngữ vì mạch văn quốc ngữ đã trở nên quen thuộc với họ. Tuy rằng

công chúng Bắc Bộ không hồ hởi đón nhận truyện Tàu như công chúng Nam Bộ

nhưng không vì thế mà ảnh hưởng của thể loại này kém đi.

Hoàng Ngọc Phách, một nhà văn sớm theo Tây học cũng thừa nhận trong

thời điểm ông viết Tố Tâm, “cùng với những sách dịch truyện Tàu ra, các nhà văn

lúc bấy giờ có viết truyện cũng dựa vào sự báo ứng, cái thuyết nhân quả, là ảnh

hưởng của những pho tiểu thuyết Tàu”. [53]

Nhờ học tập “truyện Tàu”, các nhà văn đã thử viết về những con người,

những sự kiện lịch sử cụ thể ở Việt Nam và gởi gắm vào đó lòng yêu nước thầm

kín. Điều này thể hiện qua nhiều tác phẩm từ Hưng Đạo Vương của Phan Kế Bính,

Giọt máu chung tình, Gia Long tẩu quốc của Tân Dân Tử đến Nặng gánh cang

thường, Nhơn tình ấm lạnh của Hồ Biểu Chánh; từ Vua bà Triệu Ẩu của Nguyễn Tử

129

Siêu, Lê Triều Lý Thị của Phạm Minh Kiên đến Đường gươm họ Lý của Văn

Tuyền…

Theo Bùi Văn Lợi trong Luận án Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam từ những năm

đầu thế kỷ XX đến 1945, có đến 47 tiểu thuyết lịch sử được viết trong quãng thời

gian này với những tiểu thuyết gia như: Nguyễn Tử Siêu, Ngô Tất Tố, Lan Khai,

Phan Trần Chúc, Nguyễn Triệu Luật. Trong đó, chúng ta dễ dàng nhận thấy có

nhiều nét tương đồng của tiểu thuyết lịch sử Việt Nam với “Truyện Tàu” về đề tài

lịch sử ở kết cấu, nghệ thuật miêu tả nhân vật và cách dẫn truyện. Tất nhiên, mức độ

ảnh hưởng đậm nhạt ở từng tác giả, tác phẩm là có khác nhau.

Ảnh hưởng rõ nét nhất của “Truyện Tàu” đối với các tiểu thuyết gia Việt

Nam chủ yếu ở hai thập niên đầu của thế kỷ XX. Sau đó, khi các tiểu thuyết phương

Tây được giới thiệu trên các tờ báo quốc ngữ (mà Đông Dương tạp chí là tờ báo có

số lượng tác phẩm lớn nhất), mức độ ảnh hưởng của “Truyện Tàu” có giảm đi. Các

nhà văn Việt Nam có thêm cơ hội mới để nâng tầm tác phẩm của mình khi tiếp thu

những bản dịch các tiểu thuyết từ phương Tây được chọn lọc.

Ở chặng đường đầu thế kỷ XX, khi mà ở Nam Bộ, cơn sốt “Truyện Tàu” vẫn

chưa hạ nhiệt thì Đông Dương tạp chí đã uốn nắn thị hiếu độc giả bằng hàng loạt

tiểu thuyết hấp dẫn của phương Tây. Những người thuộc thế hệ tiên phong như

Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh rất tâm huyết trong việc làm thế nào để định minh

về thể loại này. Như Phạm Quỳnh đã có lần bộc bạch: “Lối tiểu thuyết trong văn

chương ta thật chưa có phương châm vậy. Đương lúc bấy giờ việc giải nghĩa rõ tiểu

thuyết là gì và bàn qua phép làm tiểu thuyết ở các nước Âu Mỹ thế nào, tưởng cũng

có thể giúp cho nghề tiểu thuyết nước ta một đôi lần vậy”. [53]

Sự trăn trở này của đội ngũ dịch thuật Đông Dương tạp chí rất quan trọng

trong việc định hướng mảng văn học dịch phương Tây khi mà tiểu thuyết Việt Nam

được viết theo mô hình phương Tây vẫn đang ở bước thể nghiệm, dò dẫm từng

bước một và việc nhận thức về thể loại của các tác giả Việt vẫn còn khá mơ hồ.

Như vậy, những tiểu thuyết dịch trên Đông Dương tạp chí, nhất là các tiểu

thuyết phương Tây rất bổ ích cho sự hình thành của tiểu thuyết Việt Nam về sau. Từ

130

những công trình dịch đầu tiên mang tính giới thiệu về học thuật tạp chí đã chỉ dẫn,

cung cấp những hiểu biết ban đầu về một thể loại còn mới mẻ. Đó cũng là một tiền

đề quan trọng để các nhà văn, các nhà nghiên cứu nắm bắt được những vấn đề cốt

yếu của thể loại này và đưa ra được những quan niệm của riêng mình. Khác với

“Truyện Tàu”, tiểu thuyết phương Tây với “chất văn xuôi” và phản ánh những sự

việc mang tính có thực đã làm thay đổi quan niệm của các nhà văn, nhà nghiên cứu

về thể loại này.

Về mặt thể loại, những tiểu thuyết dịch của văn học phương Tây đã cung cấp

mô hình cho tiểu thuyết lãng mạn và tiểu thuyết hiện thực Việt Nam. Với dòng tiểu

thuyết lãng mạn, nhóm Tự lực văn đoàn được biết đến như là đại diện xuất sắc nhất.

Các nhân vật chính trong tiểu thuyết của họ không còn mang “những tính cách

trưởng giả, quí phái” mà rất đa dạng. Vai vế của các nhân vật cũng không còn đóng

vai trò quan trọng. Về lối viết, các nhà tiểu thuyết Tự lực văn đoàn đã “đem phương

pháp khoa học của Thái Tây áp dụng vào văn chương Việt Nam”, do đó câu văn

cũng gãy gọn, sáng sủa hơn. Tiểu thuyết của Tự lực văn đoàn đều có cách phân tích

tâm lý nhân vật sắc sảo, cách dựng chuyện tự nhiên.

Ở dòng văn học hiện thực, có hàng loạt các tên tuổi lớn như Nguyễn Công

Hoan, Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố, Nam Cao, Nguyên Hồng mà những tác phẩm

của họ chịu ảnh hưởng không ít từ những bản dịch, những lời giới thiệu, những lời

đề dẫn về các tác giả Balzac, Flaubert, Stendhal, Hugo…Tất nhiên, sự hình thành và

phát triển của dòng tiểu thuyết này một phần do xuất phát từ thực tế của điều kiện

lịch sử, đời sống Việt Nam thời bấy giờ nhưng không thể phủ nhận rằng các tác

phẩm văn học phương Tây với những vấn đề về đề tài, chủ đề, cốt truyện, nghệ

thuật xây dựng nhân vật đã tác động không nhỏ tới nó.

Đó là chưa kể đến việc từ năm 1915, Đông Dương tạp chí mở riêng mục Một

lối văn Nôm do Nguyễn Khắc Hiếu đảm nhận với bút danh Tản Đà. Mục bao gồm

những bài bút ký của ông, căn cứ vào cuộc đời để phát biểu tư tưởng của mình như

Luận về ăn ngon, Thằng người ngây cưỡi con ngựa hay...Những bài bút ký ngắn có

vẻ như những đoản thiên quốc văn đầu tiên của Phạm Duy Tốn cũng đã sớm định

131

hình một thể loại khá mới cho nền văn học nước ta: truyện ngắn tả chân với những

tên tuổi nổi bật về sau như Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Nam Cao....

2.3.3 Kịch

Kịch là một thể loại mới, có nguồn gốc từ phương Tây và du nhập vào Việt

Nam trong những năm đầu thế kỷ XX. Kịch ra đời để đáp ứng những nhu cầu thị

hiếu của lớp công chúng mới. Dù rằng trước đó nước ta cũng đã có những thể loại

tuồng, chèo. Tuy vậy, trong bối cảnh xã hội giao thời đầu thế kỷ XX, lớp thị dân

mới đã nảy sinh những nhu cầu mới theo sự thay đổi của tâm thức xã hội. Những

cải biến ở thể loại tuồng, chèo cũng đã đem lại một số thành tựu nhất định tuy nhiên

vẫn không cứu vãn nổi tình hình. Nói như Nguyễn Văn Vĩnh trong Đông Dương tạp

chí, thì sân khấu ta xưa chỉ là một ước thể, “nghĩa là chỉ dùng những cách phác diễn

ra cho người ta biết việc thế nào mà thôi, chứ không cần phải tả cho in sự thực”.

Tuy là một thể loại văn học sinh sau đẻ muộn nhưng kịch lại có ý nghĩa đặc

biệt. Có thể nói, cùng với Tiểu thuyết và Thơ Mới, sự ra đời và phát triển của kịch

nói đã tạo một bước ngoặt trong lịch sử văn học Việt Nam. Kịch là một trong ba

loại hình văn học bên cạnh tự sự và trữ tình. Nó được coi là một loại hình nghệ

thuật tổng hợp, vừa thuộc về sân khấu vừa thuộc về văn học.

Như đã trình bày, để hiện đại hoá, văn học Việt Nam cần phát triển các thể

loại mới. Trữ tình vốn là thế mạnh của nền văn học trung đại, vì vậy cần phải ưu

tiên hơn cho thể loại tự sự và kịch. Về mặt cải cách ngôn ngữ văn học, thể loại này

rất thích hợp để làm hình mẫu cho sự ra đời những tác phẩm văn học mang tính

hiện đại.

Ngôn ngữ kịch là một hệ thống ngôn ngữ mang tính hành động, tức là thứ

ngôn ngữ mang đặc tính tranh luận, biện bác, tác động trực tiếp và thúc đẩy mâu

thuẫn, xung đột tăng tiến tạo kịch tính với những sắc thái tấn công phản công; thăm

dò lảng tránh; chất vấn chối cãi; thuyết phục phủ nhận; cầu xin từ chối; đe doạ, coi

thường. Hệ thống ngôn ngữ ấy có nhiệm vụ mô tả chân dung nhân vật kịch bằng

một loạt các thao tác, hành động.

Ngoài ra, ngôn ngữ kịch cũng thể hiện cao độ đặc tính sống động, giàu chất

132

thông tục của ngôn ngữ đời thường. Khác với hình thái ngôn ngữ mang tính ước lệ;

cách điệu trong ngôn ngữ truyền thống như tuồng, chèo hoặc cải lương, ngôn ngữ

kịch nói không sử dụng thứ ngôn ngữ xa lạ với đời sống mà sử dụng ngôn ngữ hội

thoại giản dị, tự nhiên, gần với cuộc sống thường ngày. Tuy nhiên, sự giản dị tự

nhiên ấy không mâu thuẫn với cách nói năng giàu ẩn ý và mang tính hình tượng mà

có ý nghĩa triết lý sâu xa – điều thường có và phải có trong tác phẩm kịch. Là một

hình thái ngôn ngữ nghệ thuật, ngôn ngữ trong tác phẩm kịch phải đạt đến trình độ

nghệ thuật điêu luyện.

Chính vì những đặc điểm này, khi kịch du nhập vào Việt Nam, các nhà

nghiên cứu, biên khảo lịch sử văn học Việt Nam cận – hiện đại đều thống nhất với

nhau ở một điểm đó là coi đây là những sự kiện mới có ý nghĩa quyết định, làm

thay đổi diện mạo của cả nền văn học. Bởi với sự ra đời và phát triển của thể loại

này, văn học Việt Nam đã gia nhập vào quỹ đạo của nền văn học thế giới.

Với tư cách một thể loại văn học, cũng giống như ở tiểu thuyết, thoạt đầu,

một số kịch bản Việt Nam được phóng tác từ kịch nước ngoài; sau đó, những kịch

bản thuần Việt mới xuất hiện.

Văn xuôi tự sự và kịch vốn rất gần gũi, vì thế, việc chuyển thể từ truyện ngắn

truyện vừa rất dễ xảy ra: Từ 1920, một vở kịch mang tên Ai giết người? đã được

diễn ở rạp Quảng Lạc. Tác giả kịch bản nói rõ mình phỏng theo truyện ngắn cùng

tên của Mân Châu Nguyễn Mạnh Bổng in trên Nam Phong. Về sau, các tiểu thuyết

nổi tiếng như Nửa chừng xuân, Đoạn tuyệt, Lá ngọc cành vàng… đều có lúc được

chuyển thể đề diễn trên sân khấu.

Một trong những dấu hiệu quan trọng nhất, chứng tỏ một thể tài văn học đã

hình thành đó là nhiều nhà văn tìm đến thử sức ở lĩnh vực kịch. Bắt đầu hình thành

một loại tác gia ở Việt Nam: những nhà viết kịch. Đó là Nam Xương (các vở Chàng

ngốc, Ông Tây An Nam), Vũ Đình Long (Toà án lương tâm, Chén thuốc độc), Vi

Huyền Đắc (Kim tiền) Đoàn Phú Tứ (Ngã ba). Một số tác giả trên còn viết cả các

thể tài khác, nhưng họ vẫn nổi hơn cả ở lĩnh vực kịch.

Ngược lại, một số tác giả khác, chủ yếu làm thơ viết truyện, cũng có lúc tạt

133

ngang sang kịch. Thái Phỉ có Học làm sang, Phùng Bảo Thạch có Văn Sĩ, Vũ Trọng

Phụng có Không một tiếng vang, Khái Hưng có Tục lụy và Đồng bệnh, Thâm Tâm

có nhiều kịch ngắn đăng ở Tiểu thuyết thứ bảy, và báo Bắc Hà. Đó là chưa kể các

kịch thơ của Phạm Huy Thông, Hàn Mặc Tử, Phan Khắc Khoan v.v…

Quá trình thâm nhập của thể loại kịch có thể kể từ việc thực dân Pháp đưa

vào chương trình học ở Việt Nam nhiều tác phẩm văn học Pháp, trong đó có kịch

bản văn học. Do đó, nhiều người xuất thân từ nhà trường Pháp Việt đã nắm bắt sơ

bộ về kịch bản, sân khấu và chính họ chứ không ai khác đã cầm lá cờ tiên phong

trong việc xây dựng nền kịch nói nước ta.

Nhắc đến sự ra đời của thể loại này ở Việt Nam, người ta thường kể ra những

cái tên quen thuộc như Trần Tuấn Khải, Thế Lữ, Vũ Đình Long, Vi Huyền Đắc. Ít

người biết rằng, bên cạnh những đóng góp của các nhân vật này thì đã có nhiều nỗ

lực trước đó của những người làm văn học, văn hoá. Một trong số đó là Nguyễn

Văn Vĩnh với tờ Đông Dương tạp chí. Đóng góp của Đông Dương tạp chí đối với thể loại này chủ yếu là trên phương diện kịch bản.94

Kịch rất được Nguyễn Văn Vĩnh ưa chuộng. Từ năm 1914, ông cho ra mắt

bản dịch trích đoạn vở kịch Trưởng giả học làm sang, với nhan đề "Sự lựa chọn của

một tầng lớp" (1914/ số 77). Đến đầu năm 1915, Đông Dương tạp chí còn đăng một

đoạn kịch Kẻ bủn xỉn với tựa đề “Harpagon vừa khám phá chiếc hộp bị mất cắp”

(1915/ số 6). Kể từ năm 1915, tạp chí đăng mục "Giới thiệu kịch nghệ của người

Pháp" (1915/ số 18 và 19), song song với nhiều bản dịch của kịch Molière đăng

trong tạp chí: le Bourgeois Gentillhomme (số7 đến 27) và Tartuffe (số 28 đến 51) để

giới thiệu rộng rãi hơn nữa thể loại này đến với công chúng.

Khi giới thiệu 2 kịch bản kể trên, Nguyễn Văn Vĩnh còn gợi ý để đưa hai vở

94 Ngay từ thời cổ đại, trong lịch sử văn học và nghệ thuật phương Tây đã tồn tại thuật ngữ Drame. Bản thân thuật ngữ này đã cho ta thấy rất rõ đời sống hai mặt của tác phẩm kịch: đời sống v ăn học thể hiện ở phương diện kịch bản còn đời sống sân khấu được thể hiện ở phương diện vở diễn. Dù tồn tại ở phương diện nào đi nữa thì đều được gọi là kịch. Tuy nhiên, khi kịch du nhập vào Việt Nam, để phân biệt với tuồng, chèo và cải lương, người ta thường gọi là kịch nói. Theo thời gian, nó trở thành tên gọi chính thức được cả giới văn học và sân khấu thừa nhận.

kịch ấy lên sân khấu. Khi dịch vở kịch La Tartuffe, ông viết:

134

“Trước khi in ra bản dịch này, tôi đã thử dịch theo điệu tuồng ta, nhưng

không thể dịch được. Điệu tuồng ta phải có đối, mà hễ câu nệ cho đối cho

chọi thì lạc mất nguyên văn. Duy chỉ có lối lục bát và lối ngâm, thỉnh thoảng

đưa vài câu phú, lại châm tiếng trợ ngữ vào, là theo được điệu Tây, mà diễn

được gọi là đôi chút tinh thần văn Tây ra. Cho nên tôi theo lối ấy, có lẽ khi

dịch xong đem ra rạp, mà thử hát, mượn giọng nói của phường tuồng, mà

bắt chước giọng “diễn thơ” của Tây. Lấy văn ta dịch văn Tây, chẳng qua là

mượn cái ước thể của mình có sẵn, để mà tả những điều mình chưa tả bao

giờ”. (1915/ số 28, tr.225)

Ông tin rằng, theo đà tiến triển của tư duy nghệ thuật mới, các nhà văn đầu

thế kỉ sẽ viết kịch theo phương pháp của châu Âu cốt “diễn ra cho người ta trông

thấy, nghe thấy, cho người ta cảm giác một cái quang cảnh đặt ra, đã y như là sự

thật vậy”. Tuy nghệ thuật viết kịch ở ta nhiều mặt còn đang ở trong tình trạng ấu trĩ

nhưng riêng sự có mặt của nó, việc nó gia nhập vào đời sống văn học, đã góp phần

đánh dấu những bước chuyển biến trong hệ thống thể loại mà người ta sẽ thấy kéo

Những chia sẻ trên của chủ bút Đông Dương tạp chí một lần nữa khẳng định

dài trong suốt mấy chục năm ròng.

những đóng góp không nhỏ của tờ báo trong việc phát triển một loại hình sân khấu

mới, làm phong phú thêm đời sống văn hoá, văn học của dân tộc.

Để thấy được tính tiên phong trong việc phát triển thể loại mới này của Đông

Dương tạp chí, chúng ta hãy thử làm phép so sánh với tình hình sân khấu ở Nam Bộ

vào cùng thời điểm trên.

Trước khi kịch nói được giới thiệu ở miền Bắc, ở miền Nam, công chúng đã

biết tới loại hình này. Vào năm 1863 đã có các gánh hát Tây qua diễn tại Sài Gòn để

giải sầu cho khách viễn chinh, ban đầu họ hát tại nhà của Thủy Sư Đề đốc tại nơi

gọi là Công trường Đồng hồ (Place de l’Horloge) góc Tự Do và Nguyễn Du ngày

nay, lúc ấy nhà thờ lớn chưa có. Từ năm 1907 tại Sài Gòn đã có ấn hành tờ Tạp chí

Sân khấu (Saigon théâtre) giới thiệu, phê bình các vở diễn tại nhà hát Đô Thành.

Năm 1918, Lê Quang Liêm (Đốc Phủ Bảy) cộng tác với ký giả Đặng Thúc Liêng

135

cho công diễn vở kịch Hoàng tử Cảnh du Tây hay còn gọi là Gia Long tẩu quốc.

Đây là vở được viết theo lối văn biền ngẫu, được diễn theo cách nói lối, phong cách

giống kịch cổ điển Pháp, hoàn toàn không có ca nhạc gì trong đó (trước đó, diễn

kịch thường hay kết hợp với ca nhạc) và là vở kịch có nội dung ca ngợi Đại Pháp

[90].

Dù được giới thiệu đầu tiên tại Nam Bộ, thể loại kịch nói ở vùng đất này đã

không phát sâu rộng hơn để thành trào lưu dẫn đầu cả nước trong giai đoạn đầu thế

kỷ XX. Người dân Nam Bộ thời điểm này vẫn chuộng loại hình nghệ thuật Cải

lương hơn hết.

Tiền thân của nghệ thuật Cải lương nghệ thuật Carabộ. Carabộ có nguồn gốc

từ loại hình đàn ca tài tử - một hình thức ca nhạc dân gian. Theo nhiều tài liệu và

các nghệ nhân kể lại, những người chơi nhạc tài tử xuất hiện từ năm 1890 ở miền Đông Nam Bộ.95 Từ năm 1910 đến 1914 ở Nam Bộ nở rộ hàng loạt các ban đàn ca

tài tử. Theo ông Trần Văn Khải cho biết: “bài Tứ đại oán cải biên thành lối carabộ

năm 1914, lúc đầu là văn kể chuyện do cô Ba Đắc ca, có dàn nhạc tài tử mặc quốc

phục ngồi trang nghiêm trên bộ ván tứ. Đến năm 1915, ông phó Mười Hai ở Vĩnh

Long qui tựu anh em tài tử, rồi cho ba người thủ vai Bùi ông, Bùi Kiệm, Nguyệt

Nga, đứng trên ván vừa ca vừa ra bộ” [90]. Đây là sự hình thành hình thức sân khấu

đầu tiên ở Nam Bộ.

Bên cạnh sự phát triển của loại hình đàn ca tài tử Nam Bộ, loại hình cải

lương còn được hình thành nên từ sự cách tân của nghệ thuật hát bội.

Sau khi độc chiếm Đông Dương, người Pháp ở Sài Gòn mở nhà hát Tây, để

các đoàn nghệ thuật Pháp sang biểu diễn. Sự biểu diễn nghệ thuật ấy nhằm phục vụ

người Pháp, nhưng những trí thức, những người thân Pháp thường vào xem, điều ấy

95  Tài tử” nghĩa là những người chơi nhạc tuỳ hứng, tự do đàn hát, ứng tác, không mang tính chuyên nghiệp, không phải là một nghề kiếm sống. Để ra đời một nhóm nhạc tài tử thì trước đó cần có những nghệ nhân chơi đàn tự do, chỉ để mua vui bạn bè, giải trí cá nhân. Sau đó, người nọ truyền lại người kia, truyền nghề lẫn nhau đi tới việc hình thành các nhóm nhạc đàn ca, trở thành trào lưu chơi nhạc trong những ngày vui.

tác động tới những người Việt có tư tưởng đổi mới. “Xem cách trình diễn với màn,

136

cảnh, có thời gian tạm nghỉ diễn để khán giả có thể giải lao, lại có những tấm

phông, đề sơn thuỷ, panô; không có trống chầu đưa hơi, không có dàn nhạc người lộ

liễu, không có điệu bộ ước lệ như hát bội”. [121]

Thêm vào đó, với sự tác động của văn học Pháp, qua những vở nhạc kịch

Opera rất gần với cải lương, các soạn giả, diễn viên hát bội đã nghĩ đến cải cách hát

ca. Sự hợp tác các soạn giả với diễn viên đã không ngừng cải cách hát bội, đầu tiên

là cải cách điệu hát Nam của tuồng gần với hình thức hát nói của kịch Tây, “Gánh

này diễn nửa hát bội, nửa kịch, xiêm y áo giáp thì mượn xưa nhưng diễn tả thì đã

theo tân thời, nói lối xuông không hát Nam, hát Khách”. Hình thức diễn tuồng do

cải cách hát bội gọi là hát bộ, nghĩa là hình thức diễn có điệu bộ minh hoạ cho lời

ca. Đây là tiền thân của nghệ thuật ca diễn cải lương.

Mãi đến năm 1925, soạn giả Trung Tín mới thử khuấy động sự quan tâm của

công chúng dành Sài Gòn cho kịch nói một lần nữa bằng việc viết các vở như Toa

toa moa moa, Kẻ ăn mắm, người khát nước… trong đó có xen lẫn vài điệu hát cải

lương, nhưng lại không công diễn trên sân khấu.

Trong khi đó, tại Hà Nội, năm 1911 Nhà hát TP Hà Nội mới xây dựng xong.

Ngày 25.4.1920, tại đây đã diễn vở Người bệnh tưởng (Le malade imaginaire) của

Molière do Nguyễn Văn Vĩnh dịch sang tiếng tiếng Việt. Báo chí đã ghi nhận sự

kiện này và “mong rằng sân khấu Việt Nam sẽ diễn những vở hài kịch theo lối Thái

Tây để bổ ích cho nhân tâm, phong tục nước nhà” (Thực Nghiệp dân báo số

7/1920).

Sau đó, công chúng được xem những vở kịch khác như Ai giết người của Tô Giang

- phỏng theo truyện ngắn của Mân Châu in trên Nam Phong tạp chí số 28, rồi Già

kén kẹn hom của Phạm Ngọc Khôi, rồi Mảnh gương đời, Bình địa ba đào của Trần

Tuấn Khải v.v…Sân khấu kịch nói Việt Nam đang đi những bước đầu tiên trên

đường hình thành. Thế nhưng, phải đợi đến ngày 22.10.1921 người ta mới thật sự

tin tưởng vào loại hình nghệ thuật này. Đó là này công diễn vở kịch Chén thuốc độc

của Vũ Đình Long (tại Nhà hát Hà Nội)  do Bắc Kỳ Công thương Đồng nghiệp Ái

hữu tổ chức. Sự kiện này đã đánh dấu một cột mốc quan trọng cho sân khấu kịch

137

nói.[122]

Như vậy, cùng một bối cảnh xã hội chịu sự tiếp nhận, ảnh hưởng của sân

khấu Pháp, cùng một nhu cầu công chúng đòi hỏi một nền văn hoá nghệ thuật mới

nhưng đã dẫn đến những con đường phát triển nghệ thuật khác nhau ở miền Nam và

miền Bắc.   Sự ra đời của cải lương ở Nam Bộ như cái gạch nối giữa sân khấu cổ

truyền với nghệ thuật kịch nói phương Tây, là một biểu hiện độc đáo của sự tiếp

nhận ảnh hưởng của văn hóa phương Tây thông qua sự cải biên cho thích hợp với

thói quen của công chúng. Trong khi đó, ở miền Bắc, kịch nói được tiếp nhận trực

tiếp, bắt rễ ngay và nhanh chóng phát triển trở thành một loại hình nghệ thuật tân kỳ

rất được yêu thích.

Nhìn lại quá trình du nhập kịch - một hình thức nghệ thuật phương Tây vào

nước ta những năm đầu thế kỷ XX và sự vận động của nó cho đến nay, có thể lý

giải phần nào tình trạng “đi trước về sau” của văn học Nam Bộ. Sự du nhập tiểu

thuyết theo hình thức phương Tây vào nước ta, phần nào cũng có đặc điểm giống

như cách du nhập kịch nói. Có thể thấy rằng, một mặt các trí thức Nam Bộ rất nhạy

bén trong việc tiếp thu cái mới đến từ bên ngoài, mặt khác họ lại bộc lộ thói quen

nửa vời, thiếu triệt để, thiếu đồng bộ, đi sâu dứt điểm đối với những nhân tố ngoại

sinh. Điều này không chỉ trong lĩnh vực văn học, nghệ thuật mà rộng ra cả các lĩnh

vực khác của văn hóa. Tính chất nước đôi - vừa tỏ ra nhạy bén với cái mới đến từ

bên ngoài lại vừa có gì đó dè dặt, dị ứng với cái lạ - khiến trí thức Nam Bộ đầu thế

kỉ thường không tìm kiếm đến thấu đáo những giá trị mới, nhân tố mới của văn hóa,

nghệ thuật thế giới mà nôn nóng, vội vã ứng dụng, cải biến ngay vào thực tế nhân

danh “dân tộc hóa”, “bản địa hóa”. Điều này dẫn đến hậu quả các giá trị mới ít khi

nào được nhận thức đầy đủ mà bị biến dạng, sai lạc so với nguyên bản nên việc vận

dụng nó cũng không sao tránh khỏi cục bộ, bó hẹp, dẫn đến sự trì trệ, luẩn quẩn. Vì

thế, ban đầu văn học quốc ngữ miền Nam có ưu thế hơn để phát triển nhưng chính

miền Bắc lại vượt lên và gặt hái thành tựu ở chặng về sau.

Tiểu kết:

138

Một trong những đóng góp quan trọng của Đông Dương tạp chí trong việc

xây dựng chữ quốc ngữ - ngôn ngữ văn học của dân tộc là cải cách chữ quốc ngữ và

rèn luyện câu văn xuôi tiếng Việt. Ý thức được tầm quan trọng của lối chữ mới đối

với sự phát triển văn hóa dân tộc, ban biên tập tạp chí đã vạch ra phương hướng cải

cách bài bản để chữ quốc ngữ ngày càng hoàn thiện hơn, phát huy hết lợi thế của

nó. Đây là điều khiến cho Đông Dương tạp chí được các nhà nghiên cứu về lịch sử

báo chí và văn học đánh giá như là viên gạch xây đắp nền móng cho nền quốc văn

nước nhà.

Ở lĩnh vực dịch thuật, có thể nói rằng, đội ngũ dịch giả của Đông Dương tạp

chí là những nhà tiên phong ở Bắc Kỳ. Từ phong trào dịch thuật văn học phương

Tây mà Đông Dương tạp chí gầy dựng, đội ngũ dịch giả ở Bắc Kỳ đã mau chóng

phát triển cả về số lượng lẫn chất lượng, đóng góp rất lớn cho công cuộc hiện đại

hoá nền văn học nước nhà giai đoạn đầu thế kỷ XX. Chính quyết tâm ưu tiên lựa

chọn dịch các tác phẩm phương Tây đã làm cho Đông Dương tạp chí có một bản

sắc khác hẳn những tờ báo quốc ngữ ở Nam Bộ trước đó và những thành công của

họ đã chứng minh tính đúng đắn của con đường mà họ đã lựa chọn.

Đóng góp của Đông Dương tạp chí trong việc hình thành các thể loại văn

học ở Việt Nam đầu thế kỷ chủ yếu thông qua các tác phẩm dịch thuật. Bởi qua dịch

thuật, những thể loại mới được du nhập, tạo nên những tương tác để làm biến đổi

cấu trúc bên trong của thể lại cũ và từng bước làm thay đổi mối tương quan về cơ

cấu thể loại nói chung. Những đóng góp này thể hiện rõ nét ở các thể loại thơ, tiểu

thuyết và kịch. Nhìn chung, những đóng góp trong việc hình thành các thể loại mới

chưa rõ nét như mong đợi của những nhà nghiên cứu sau này nhưng ở giai đoạn đầu

thế kỷ, khi mà tờ báo đóng vai trò tiên phong, phát quang bụi rậm để tạo ra đường

mới cho nền văn học quốc ngữ nước nhà còn non trẻ thì những đóng góp của nó là

vô cùng to lớn.

139

CHƯƠNG 3: NHỮNG ĐÓNG GÓP CỦA ĐÔNG DƯƠNG TẠP CHÍ TRONG QUÁ TRÌNH HIỆN ĐẠI HOÁ VĂN HOÁ VIỆT NAM ĐẦU THẾ KỶ XX

3.1. Chủ trương hiện đại hoá văn hoá dân tộc của Đông Dương tạp chí

3.1.1 Mối liên hệ văn hoá – văn học trong Đông Dương tạp chí

Mục tiêu chính của Đông Dương tạp chí như được nói đến trong chương trình 96 của tờ báo đó là quảng bá và phổ cập khoa học và kĩ thuật phương Tây đến

người Việt nhằm mục đích đưa Việt Nam trở thành một nước văn minh, hiện đại,

“phát triển như là Châu Âu”. Để làm được điều đó phải tác động vào nhiều mặt của

xã hội như tư tưởng, học thuật, phong tục, tập quán. Đổi mới văn hoá dân tộc vì thế

là một nhiệm vụ bức thiết được đặt ra cho ban biên tập tờ báo.

Văn học, nghệ thuật cùng với triết học, chính trị, tôn giáo, đạo đức, phong

96 “Chương trình” (Đông Dương tạp chí số 1, trang 2-4): “Tờ riêng ấy đặt tên là Đông Dương tạp chí, nguyên mục đích là đem các thuật hay nghề mới Thái -tây mà dạy phổ thông cho người An Nam”.

tục… là những bộ phận hợp thành của toàn thể cấu trúc văn hoá. Nếu văn hoá thể

140

hiện quan niệm và cách ứng xử của con người trước thế giới, thì văn học là hoạt

động lưu giữ những thành quả đó một cách sinh động nhất [124]. Văn học biểu hiện

văn hoá, cho nên văn học là tấm gương của văn hoá. Trong các tác phẩm văn học

được lựa chọn giới thiệu trên Đông Dương tạp chí, ta tìm thấy hình ảnh của văn hoá

Việt Nam ở thời điểm đầu thế kỷ XX. Đó là một nền văn hoá cổ truyền nặng ảnh

hưởng của Nho giáo, chịu sự ảnh hưởng to lớn của người láng giềng Trung Quốc

nhưng lại xa lạ với các nền văn hoá Âu Mỹ. Nền văn hoá ấy giàu giá trị tinh thần

nhưng lạc hậu ở phương diện văn minh kỹ thuật, công nghệ. Do đặc trưng đó, để

gầy dựng các giá trị văn minh phương Tây, ban biên tập tạp chí đã phải bắt đầu từ

những bài viết chứa các khái niệm đơn giản nhất về triết học, y học, luật pháp v.v...

Văn hoá tác động đến văn học không chỉ ở đề tài mà còn ở toàn bộ bầu khí

quyển tinh thần bao bọc hoạt động sáng tạo của nhà văn và hoạt động tiếp nhận của

độc giả. Không gian văn hoá cổ truyền có sự giao lưu với văn hoá phương Tây đã

chi phối cách ban biên tập Đông Dương tạp chí xử lý đề tài, thể hiện chủ đề, xây

dựng nhân vật, sử dụng thủ pháp nghệ thuật… trong quá trình giới thiệu tác phẩm

đến với độc giả. Đó là các tác phẩm được giới thiệu cả bằng chữ Hán, chữ quốc ngữ

và tiếng Pháp trong giai đoạn đầu của tạp chí; là các tác phẩm dịch thuật thiên về

văn học phương Tây, đặc biệt là văn học Pháp; là những tác phẩm cổ điển mang hơi

hướm của thông điệp chống triều đình phong kiến. Những tác phẩm này cung cấp

kiến thức về những thể loại mới rất bổ ích để làm giàu nền văn học nước nhà. Bên

cạnh đó, độc giả của tạp chí, với tầm đón đợi hướng về tác phẩm, cũng được rèn

luyện về thị hiếu thẩm mỹ trong một môi trường văn hoá nhất định. Chính không

gian văn hoá cởi mở, hội nhập, giao lưu với phương Tây đầu thế kỷ đã tạo điều kiện

thuận lợi cho một nền văn học mới phát triển.

Một ví dụ rất rõ nét cho trường hợp văn hoá chi phối đến đường hướng phát

triển văn học là xu hướng nghiên cứu về văn hoá dân gian của Đông Dương tạp chí.

Chủ bút Nguyễn Văn Vĩnh và các cây bút trong ban biên tập như Phạm Quỳnh,

Phan Kế Bính đều rất hứng thú với việc quay lại tìm hiểu những bản sắc riêng của

dân tộc mình. Phan Kế Bính có hẳn một chuyên mục tên là Việt Nam phong tục

141

nghiên cứu sâu về văn hoá dân gian Việt Nam. Còn đối với chủ bút Nguyễn Văn

Vĩnh, các bài hát dân gian An Nam có một sức thu hút đặc biệt. Vào năm 1904, tại

Ban giáo dục đồng đẳng, ông đã thực hiện một buổi chuyện trò thân mật về chủ đề

này. Năm 1907, ông thực hiện một buổi nói chuyện khác về chủ đề các bài hát về

các ngành nghề. Vào năm 1916, ông đã đem đến cho các thính giả của mình một sự

ngạc nhiên thú vị qua việc tổ chức buổi giới thiệu các nét đẹp hồn nhiên và các giá trị thi vị của các bài hát dân gian xứ Hà Đông và các vùng phụ cận97 trích trong

tuyển tập Trẻ con hát, trẻ con chơi.

Xu hướng này thực chất xuất phát từ phong trào tìm hiểu vấn đề văn hoá dân

gian – một vấn đề rất thời thượng ở các nước phương Tây giai đoạn đầu thế kỷ XX

– mà ban biên tập Đông Dương tạp chí là những người chịu ảnh hưởng rất lớn. Hội

nghị quốc tế đầu tiên về văn hoá dân gian được tổ chức tại Paris năm 1900. Và từ

năm 1905 đến năm 1949, một người Bỉ tên là Arnold Van Gennep đã tổ chức tại

Mercure, Pháp các buổi họp mặt hai tháng một lần về vấn đề dân tộc học và văn hoá

dân gian. Trước đó, tác phẩm của Alfred de Nore, “Phong tục và truyền thống ở các tỉnh của Pháp” (1846)98 đã đánh dấu một tuyển tập các thông tin mang tầm quốc

gia. Ở Pháp, mối quan tâm dành cho văn hoá dân gian chỉ bắt đầu suy tàn vào

những năm 20 của thế kỉ trước.

Trong tinh thần đó, chúng ta có thể căn cứ vào những dữ liệu văn học của

Đông Dương tạp chí để tìm hiểu bức tranh văn hoá của xã hội đương thời. Chẳng

hạn, thông qua nội dung tái hiện của văn học quốc ngữ Việt Nam đầu thế kỷ XX,

người ta có thể chứng minh cho quá trình thâm nhập của văn hoá Tây Âu trong xã

hội thời kỳ này, cũng như khoảng cách văn hoá của người trí thức Tây học so với

người sĩ phu bị buộc chặt vào những tín điều Nho giáo.

Nếu nền văn hoá Việt Nam đầu thế kỷ XX chi phối hoạt động và sự phát triển

97 Ghi chú của Nguyễn Văn Tố, lời đề tựa trong bài báo của Nguyễn Văn Vĩnh về chủ đề « Văn hoá dân gian » [BSEMT (Bulletin de la société d'enseignement mutuel du tonkîn - Hội Truyền bá Quốc ngữ Bắc Kỳ , 1936, trang 57). 98 Hiệu đính năm 2000 bởi Nhà xuất bản Grande Fontaine.

của văn học trên Đông Dương tạp chí, thì ngược lại, hoạt động văn học của tạp chí

142

cũng tác động đến môi trường văn hóa mà nó bén rễ. Những nhà văn tiên phong của

tạp chí như Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh, Trần Trọng Kim, Phạm Duy Tốn,

Phan Kế Bính… cũng đồng thời là những nhà văn hoá lớn của dân tộc.

Phạm Quỳnh là nhà văn hoá nổi tiếng với các bài khảo luận về văn hóa Việt

Nam, với chủ đề trải rộng từ Tục ngữ ca dao, tới Việt Nam thi ca, tới Văn chương

trong lối hát ả đào. Nhiều tác phẩm của ông liên kết những vấn đề của học thuật Âu

Tây và phân tích, so sánh chúng với các khái niệm quen thuộc của người Việt Nam99. Phan Kế Bính là tên tuổi quen thuộc với bộ sách biên khảo như Việt Nam

phong tục, là nghiên cứu có tính phản biện về thuần phong mỹ tục của Việt Nam;

Hán Việt văn khảo" (1918) bàn về văn chương chữ Hán ở Trung Quốc, Việt Nam và

triết học Trung Quốc; các sách viết về danh nhân Việt Nam: "Nam hải dị nhân"

(1909), "Hưng Đạo Đại vương" (1912).

Có lẽ so với Phạm Quỳnh, Phan Kế Bính, vốn rất quen thuộc với độc giả

Việt Nam hiện đại với cương vị những nhà văn hoá, chủ bút Nguyễn Văn Vĩnh ít

được biết đến với vai trò này hơn. Nhưng thực ra, ông là người đã đóng góp công

sức rất lớn cho nỗ lực phục hưng các giá trị truyền thống Việt Nam. Nguyễn Văn

Tố, trong cùng bài báo « Văn hoá dân gian » năm 1936, đã ghi nhận đóng góp lớn

của Nguyễn Văn Vĩnh trong việc nghiên cứu vấn đề dân tộc học của người Việt

Nam ở Bắc Kỳ:

“một số các tác phẩm có thể bắt nguồn từ các buổi hội thảo và các buổi trò

chuyện của ông ấy, bằng tiếng Pháp hay tiếng Việt, tầm quan trọng của

chúng cũng không hề kém các nghiên cứu của ông về các chính thể, phong tục

tập quán ở Bắc Kỳ. Bắt đầu từ độ tuổi năm mươi, luôn theo đuổi miệt mài cho

đến khi ông qua đời, chính điều này đã lấp đầy cuộc sống cũng như mang lại

cho ông tiếng tăm vượt ra ngoài vùng Bắc Kỳ. Bằng những hình thức đa

99 Trong bài Cái quan niệm người quân tử trong triết học đạo Khổng ông có phần phân tích và so sánh giữa quan niệm người quân tử của đạo Khổng và người "chính nhân" (là chữ ông dùng cho l'honnête homme) trong văn hóa Pháp. Hoặc những bài Văn hóa Pháp đối với tiền đồ nước Nam hay Công cuộc chấn chỉnh quốc gia ở nước Pháp và khôi phục cổ điển ở nước Nam .

dạng: sự thông tin liên lạc với Ban địa lý Hà Nội, các bài kí đọc trước một số

143

các ban hội địa phương, các báo cáo được phổ biến trong các buổi hội họp

của Ban đại diện nhân dân, các nghiên cứu liên quan đến các phong tục tập

quán của người dân An Nam kết hợp lại, ông có lẽ đã tiến hành các cuộc điều

tra về tư tưởng của chúng ta. Chúng ta có thể nói rằng có một sự liên hệ giữa

các cơ sở vật chất nằm rải rác trong một đại công trình có thể chỉ ra một nền văn minh của người Việt Nam”.100

Bằng nghệ thuật ngôn từ, họ những nhà văn – nhà văn hoá đấu tranh, phê

phán những biểu hiện phản văn hoá, đồng thời khẳng định những giá trị văn hoá

dân tộc, nhân bản và tiến bộ. Dù là phản ứng trước những làn sóng văn hoá tiêu cực

hay cổ vũ cho sự tiếp biến văn hoá, họ - những trí thức sáng tác tinh hoa cũng là

những người tiên phong mở ra hướng nhìn về vận hội mới của văn hoá dân tộc.

3.1.2 Đổi mới văn hoá Việt Nam dựa trên nền tảng đổi mới học thuật

Về bản chất, cuộc xung đột Pháp – Việt là một cuộc chiến tranh xâm lược để

giành thuộc địa, nhưng bên cạnh đó, ở vị trí thứ yếu cũng là cuộc đụng đầu giữa hai

nền văn minh. Nền văn minh công nghiệp đem lại sự giàu có và phát triển cho

phương Tây, giúp nó đủ sức mạnh để lấn lướt, chi phối và thống trị các dân tộc

nhược tiểu. Nền văn minh nông nghiệp lạc hậu, sức sản xuất yếu kém, bằng lòng

với những giá trị cổ truyền mà không tự thay đổi để phát triển. Cuộc xung đột đó đã

đánh thức tinh thần tự phê phán nơi những người trí thức có ít nhiều suy nghĩ về

tiền đồ của dân tộc trong một thế giới đang chuyển biến với nhiều xáo trộn và đang

bị các thế lực tư sản ở phương Tây mưu đồ sắp xếp lại.

Đối với Nguyễn Văn Vĩnh, chủ bút Đông Dương tạp chí “đứng trước nền

văn minh Âu châu đang lan tràn, Á châu phải lựa chọn giữa hai thái độ: tiến bước

theo Âu châu hay quay lưng lại nó. Còn đấu tranh chỉ với những phương tiện đã có

sẵn của chúng ta thì đã quá chậm rồi và không thể nào những phương tiện đó sẽ

100 BSEMT, 1936, trang 59-62.

tăng lên gấp mười lần và dù cho rằng nhân dân An Nam nhìn chung đã có đức tính

144

kiên nhẫn đó”101. Để giải quyết xung đột giữa hai nền văn minh, giải pháp duy nhất

theo Nguyễn Văn Vĩnh là tiếp nhận nó, thích nghi với nó để tìm một con đường đi

cho dân tộc mình. Ông tin rằng chúng ta sẽ không mất nước bởi “chúng ta là một

nòi giống mềm dẻo để có một cá tính”. Chúng ta đã không đánh mất mình khi chịu

ách đô hộ hàng ngàn năm của giặc Tàu thì cũng không thể nào mất được bởi sự có

mặt của người phương Tây. Điều quan trọng là tận dụng sự giao lưu giữa hai nền

văn minh để tiếp nhận lấy những gì tinh túy nhất: “Chúng ta đã biết rút ra những

điều có lợi trong khi tiếp xúc với người Tầu, nó đã tạo ra nhân cách quá khứ của

chúng ta. Chúng ta phải biết lợi dụng sự tiếp xúc với Pháp, nó sẽ tạo ra nhân cách

của chúng ta trong tương lai”.

Nguyễn Văn Vĩnh cho rằng, việc lĩnh ngộ văn hóa Pháp để làm giàu cho văn

hóa Việt Nam, xây dựng một công trình ngôn ngữ và văn học nước nhà thông qua

công cụ chữ quốc ngữ… tất cả cho thấy một khả năng không thể chối bỏ trong việc

biến tham vọng phục hưng Việt Nam trở thành hiện thực. Ông hy vọng những kiến

thức và phương pháp của người phương Tây có thể giúp người Việt nắm trong tay

những phương tiện để thay đổi định mệnh, cho phép họ đánh trả lại người Trung

Quốc và chế độ phong kiến tập quyền, chế độ mà quyền lực chỉ nằm trong tay một

số người nhất định.

Trong bối cảnh như thế, mục tiêu mà tạp chí nhắm tới là đưa độc giả Việt

Nam đến gần với những phương pháp mới trên nhiều lĩnh vực nghiên cứu của

phương Tây. Điều này được thực hiện thông qua báo chí - một phương tiện truyền

thông mới mà ngay cả hình thức của nó cũng đã tiếp cận một phương thức đặc thù

về sự truyền bá thông tin và hiểu biết của phương Tây. Bằng cách này, kiến thức

không chỉ còn dành riêng cho một thiểu số ưu tú mà có thể được tiếp cận một cách

đơn giản hơn bằng một công cụ hiệu quả hơn: chữ quốc ngữ và dịch thuật.

Những bài viết phân tích những lợi ích cuả việc học theo tư tưởng phương

101 Nguyễn Văn Vĩnh, Một công thức khác rút ra từ nền giáo dục cổ truyền, L’Annam Nouveau , số 155 ngày 24/7/1932.

Tây được trình bày trong đợt xuất bản đầu tiên của Đông Dương tạp chí (1913 -

145

1914) thông qua các bài viết chủ yếu của các cây bút: Phan Kế Bính, Phạm Quỳnh

và Nguyễn Văn Vĩnh. Chúng cho ta hiểu phần nào về những băn khoăn hiện hữu

trong tâm trí của người Việt Nam đương thời trước sự gặp gỡ với văn hóa phương

Tây.

Ý tưởng chủ đạo nằm trong tất cả các bài viết trên Đông Dương tạp chí mà

chúng tôi đã nghiên cứu đều thể hiện một điều: nếu Việt Nam muốn giữ vững vị trí

là một đất nước có nền văn hóa lớn thì Việt Nam không nên khăng khăng giữ lấy

mô hình lỗi thời của Trung Quốc mà ngay chính họ cũng đã bắt đầu thay đổi.

Ngược lại, người Việt Nam cần phải ý thức được lợi ích của việc theo đuổi mô hình

phương Tây.

Đối với ban biên tập, sự thành công của phương Tây không phải do tư duy

của họ đến từ các nguồn khác với chúng ta, cũng không phải là do thần kinh hay

tâm hồn của họ, mà là do phương thức và cách tổ chức của họ đối với các lĩnh vực

của đời sống nhằm sử dụng đúng đắn các nguồn lực. Các phương thức, đó chính là

thứ tạo nên sức mạnh cho phương Tây và đã giúp cho các nước này khắc phục thiên

nhiên, giải thích các hiện tượng bằng luận cứ khoa học (chứ không phải bằng niềm

tin vào sức mạnh của các thế lực “siêu nhiên” như ở Việt Nam). Do vậy, họ đã làm

chủ được thế giới.

Trong các bài viết về văn hoá của mình, ban biên tập Đông Dương tạp chí đã

cho thấy rõ họ dùng chính văn học – một bộ phận của văn hoá để tác động ngược

trở lại nó. Vì thế, một mặt, ban biên tập chỉ rõ những thói hư tật xấu của người

Việt, phân tích điểm mạnh, điểm yếu của văn hoá, phong tục Việt Nam (chuyên

mục Xét tật mình, Việt Nam phong tục), một mặt tích cực hướng dẫn độc giả đi

theo những phương pháp tư duy của người phương Tây qua các bài dịch thuật về

văn học, triết học.

Theo những người thực hiện Đông Dương tạp chí, nếu muốn tiến đến văn

minh hiện đại thì phải nắm lấy những phương pháp của người phương Tây. Tuy

nhiên, những phương pháp ấy cũng sẽ trở nên vô dụng nếu không có được tinh thần

khoa học, không có được những tư tưởng tiến bộ của họ, cũng giống như việc có

146

một cỗ máy trong tay mà không biết cách vận hành. Vì thế, việc cần làm là phải gầy

dựng tinh thần khoa học, bồi đắp về mặt tư tưởng để cuộc cách mạng văn hoá, văn

học và khoa học kỹ thuật của Việt Nam có cơ hội thành công. Do đó, ban biên tập

Đông Dương tạp chí phát triển một chương trình để bồi đắp kiến thức ở các lĩnh

vực văn chương, văn hóa và tư tưởng phương Tây mà đặc biệt là của Pháp. Những

lĩnh vực này được đảm bảo luôn gắn kết chặt chẽ với văn chương, văn hóa và tư

tưởng Việt Nam. Bởi họ cho rằng, muốn tiến bộ không có nghĩa là phải từ bỏ những

di sản và bản sắc riêng của mình. Mà ngược lại, việc quan tâm đến cái khác mình có

một tác động như một dạng “bản lai diện mục” - trông người mà thấy được mình rõ

hơn. Từ đó, người Việt Nam có thể có những nhận thức đặc biệt đối với nền văn

hoá của riêng mình.

Mặc dù cùng chung tinh thần với Đông Kinh nghĩa thục trong việc chọn con

đường dịch thuật để phổ biến kiến thức cho quốc dân nhưng cách làm của ban biên

tập Đông Dương tạp chí có khác những sĩ phu đi trước. Những người thực hiện

Đông Dương tạp chí chủ trương quảng bá kiến thức phương Tây bằng cách tiếp cận

trực tiếp văn bản gốc chứ không thông qua bản dịch bằng tiếng Trung Quốc. Họ

muốn tạo ra một hệ thống các tác phẩm dịch thuật có chất lượng cao được thể hiện

bằng chữ quốc ngữ nhằm đối trọng với làn sóng « Tân thư » đến từ Trung Quốc mà

theo ban biên tập của tạp chí, những sách này chỉ đem đến cho người Việt một cái

nhìn manh mún và sai lệch.

Bên cạnh việc học hỏi và tiếp thu nền văn minh phương Tây, Đông Dương

tạp chí còn nỗ lực thu hẹp khoảng cách giữa hai nền văn hoá Đông – Tây. Họ hy

vọng rằng, thông qua dịch thuật, hai nền văn hoá có thể bổ sung cho nhau, làm

phong phú lẫn nhau.

Ban biên tập mời gọi những nhà Nho thích đọc những bài viết phương Tây

trong Đông Dương tạp chí hãy tìm dịch hay tóm lược các sách Tàu để cho độc giả

có thể thật sự so sánh của hai nền văn hoá : “Những văn Âu châu dịch ra đây, nhất

là các bậc nho gia nên xét, bằng xem ra thấy thánh hiền Âu Á có chỗ chí khí tương

đồng, hoặc cũng có nơi kiến thức tương phản, thì cũng nên lược sách Nho ra dịch

147

mà gửi cho chúng tôi, để đăng vào mục này cho ai nấy so sánh những văn hay hai

xứ”.

Bằng con đường dịch thuật, thông qua các tác phẩm văn học, Đông Dương

tạp chí giúp cho độc giả hiểu được một cách khá tinh tế chiều sâu tư duy của

phương Tây. Vì thế, chúng ta có thể gọi Đông Dương tạp chí là một tạp chí văn

hóa, cho dù ở lần xuất bản đầu (1913-1914), nó giữ vai trò phổ biến thông tin mang

tính chính trị, kinh tế và bị đánh giá như là một công cụ tuyên truyền. Về phần

mình, chúng tôi nhận thấy rằng qua công tác xây dựng ngôn ngữ cũng như tổng thể

các bài dịch, tờ báo là một công trình văn hóa mang tầm vóc lớn, vượt lên trên mọi

toan tính chính trị và những mối liên quan với chính quyền thực dân.

3.1.3 Đổi mới văn hoá Việt Nam dựa trên các giá trị cộng hoà

3.1.3.1 Giá trị của Công giáo và giá trị của thể chế cộng hoà ở Bắc Kì

Sự lan truyền của các giá trị cộng hoà không hề diễn ra mạnh mẽ ở Đông

Dương. Điều này một phần là do đa số các trí thức Việt Nam thời đó rất kiên quyết

trong việc gìn giữ các giá trị Khổng giáo của riêng họ, phần khác là do giáo hội

Công giáo đã hiện diện trên vùng đất này và thực hiện nhiệm vụ truyền giáo của họ

ngay từ thế kỉ XVI. Hơn nữa, giữa giáo hội Công giáo và chính quyền thuộc địa

không phải lúc nào cũng tìm được tiếng nói chung. Thậm chí, sự phản kháng của

giáo hội còn gây nhiều khó khăn hơn cho nền cộng hoà Pháp. Do đó, không khó

hiểu khi các tài liệu đã chỉ ra rằng ở Đông Dương, chính trị và tôn giáo tồn tại đối

nghịch nhau nhưng đồng thời bổ sung cho nhau.

Thực ra, ở các nước Tây Âu, mâu thuẫn giữa giáo hội và chế độ quân chủ đã

nảy sinh từ rất sớm. Khởi nguồn từ những lời truyền dạy của Đức Chúa về tầm quan

trọng của việc phải “trả lại cho Cesar những gì của Cesar”, “trả lại cho Chúa những

gì thuộc về Chúa” (Matthieu 22, 17), giáo hội thể hiện thái độ của mình rất rõ ràng:

148

chối bỏ việc phong vương (Jean 6, 15), không chấp nhận một vương miện nào ngoài vòng vương miện bằng gai của Đức Chúa. 102

Mâu thuẫn này chỉ được giải quyết từ hiệp ước Worms (1122)103. Tuy nhiên,

nó vẫn âm ỉ tồn tại vì cả hai đều muốn độc chiếm về quyền lực. Các phong trào hiện

đại đòi tách biệt giáo hội với chính thể quốc gia, rằng giáo hội không được nhúng

tay vào các lãnh vực ngoài phận sự của mình vẫn diễn ra liên tục.

Ở Đông Dương, khuynh hướng ngoại đạo của nền Đệ tam cộng hoà đã

được khẳng định một cách mạnh mẽ, nhất là trong lĩnh vực giáo dục. Bằng việc

thiết lập các trường học bắt buộc, miễn phí và theo khuynh hướng ngoại đạo, thể

chế cộng hoà đã nỗ lực chiếm lại địa hạt giáo dục - lĩnh vực mấu chốt của việc hình

thành các giá trị tinh thần. Báo cáo của các cha xứ tại Bắc Kỳ có thể được xem là ví

dụ cho tình trạng thù nghịch giữa các nhà truyền giáo ở Bắc Kỳ đối với nền chính trị cộng hoà 104.Bản báo cáo của Cha Gaspar Moreno (10/7/1914) tiết lộ:

Mối quan hệ giữa các nhà truyền giáo và các giáo dân thường không dễ chịu

bởi vì thật sự là, từ nhiều năm, nó bị ảnh hưởng bởi các tác động chính trị

không mấy hữu nghị của nước Pháp, đã giáng những nguyên tắc không hợp

tình lên các bậc trí thức xứ Bắc Kỳ, làm băng hoại đi các phong tục tốt đẹp

với cách thức bắt nguồn từ việc làm cho dân bản xứ có quá nhiều kì vọng, bởi

lẽ nền giáo dục vô thần đã làm mất đi ở họ những đức tin cao đẹp và thay vào

đó là một sự khô khan, cằn cỗi, gây nhiều khó khăn cho việc đồng hoá các tư

tưởng giúp tạo ra một con người chuẩn mực dựa trên các nguyên tắc của đạo

Thiên Chúa.

102 Rémi Brague, Con đường La Mã, Paris, Gallimard, mục luận, 1999 (nhà xuất bản Criterion, 1992) trang 255 (trích từ chương VIII, Giáo hội La Mã, trang 193- 225).

103 Hiệp ước giữa hoàng đế Henri V và đức Giáo hoàng Calixte chấm dứt các tranh cãi về các lễ tấn phong. Với hoà ước Worms, hoàng đế đã bãi bỏ lễ tấn phong tinh thần (bởi thập giá và vòng hào quang). Bên cạnh đó, triều đình tiến hành việc công nhận tự do bầu cử của Giáo hội (giám mục và giáo chủ).

104 Hồ sơ « Các giáo sĩ thừa sai ở Đông Dương » (01/10/1924) xuất bản bởi Ban điều hành các vấn đề chính trị và người bản địa của Chính quyền Đông Dương [CAOM- NF 1475].

Báo cáo của Cha Estaquio Garcia (29/6/1914):

149

Chính quyền đã có sẵn những trường học do họ quản lý từ nhiều năm, và

dân chúng bản địa, qua đó đã được uốn nắn một cách tự nhiên thông qua

giáo dục, những kẻ đi học chiếm số đông và đến từ nhiều nơi khác nhau. Sự

giáo dục ở những nơi này hoàn toàn theo khuynh hướng vô thần, tên gọi hết

sức linh thiêng của Chúa trời như được phổ biến thì không hề xuất hiện lấy

một lần trong bất kì quyển sách nào, lược giảm tất cả mọi thứ có liên quan

đến tôn giáo có nét giống với các châm ngôn có nghĩa tổng quát và thậm chí

cả nền tảng đạo đức hoàn toàn tự nhiên mà chúng ta có thể bắt gặp trong

các tác giả có khuynh hướng đa thần của người dân bản xứ (…) chúng ta

cần phải khẩn trương thành lập một trường Đạo nơi mà ta có thể đào tạo

các bậc trí thức có nền tảng Công giáo và từ đó có thể đánh bại các định

kiến gây ra bởi chính nhóm người của chúng ta, để có thể bảo vệ những giáo

dân hiền lành khỏi sự phá hoại của đám quỉ ma đã gây ra trong vòng nhiều

năm qua theo một cách vừa bạo lực nhưng cũng rất xảo trá và đạo đức giả,

nhất là khi nó nấp dưới lớp vỏ của sự im lặng, nguỵ trang bởi những tên gọi

ấn tượng của vinh quang, của phát triển văn minh, những thứ mà các mỹ từ

cao đẹp đó thể hiện thật ra không gì khác hơn… sự suy đồi (nhấn mạnh

trong từ tiếng Tây Ban Nha) từ mọi lẽ.

Cũng theo cách đó, những người ra sức bảo vệ nền cộng hoà cũng thể hiện

một mối cựu thù đối với các giáo sĩ thừa sai. Một tác phẩm của Camille Paris

(1858- 1908) được xuất bản năm 1905 và có tiêu đề “Các giáo sĩ thừa sai ở châu Á” 105 cũng hé lộ phần nào về thái độ thù nghịch giữa các thành viên Hội Tam Điểm

Bắc Kỳ với các nhà truyền giáo:

Tôi tin chắc rằng đây chính là điểm khởi đầu cho sự suy đồi, chống lại xã

hội, được ủng hộ bởi các giáo sĩ thừa sai. Luật lệ áp dụng cho giáo đoàn và

105 Những đoạn trích của tác phẩm này đã được hợp tuyển dưới dạng một quyển tài liệu nhỏ (“Sách Camille Paris”), Hội Tam Điểm Đông Dương, Hà Nội, 1909, trang 27] vào tháng 1 năm 1 908, trong dịp tưởng nhớ do hội Tam Điểm Pháp tại Đông Dương tổ chức nhằm vinh danh tác giả (người vừa bị ám sát bởi một mũi tên tẩm độc).

những quyền miễn trừ đã giúp tăng số lượng lẫn quyền lực của họ, mỗi

150

chuyến tàu từ nước Pháp lại trút xuống những nhóm giáo sĩ mới ở Đông

Dương và ở Trung Quốc. Dưới một sự khoan dung đặc biệt hào phóng, sự

giáo dục vô thần hoàn toàn bị bỏ mặc, các giáo huấn ngoại đạo, không đủ

lực, thiếu cơ sở vật chất và thầy dạy. Các giáo sĩ chiếm đoạt các tài sản căn

bản, họ xây dựng các trường đạo khắp nơi hay xây dựng các gia đình Pháp,

thực hiện ý đồ của họ: nắm giữ dân Việt Nam trong sự lầm lạc đễ nhằm hoãn

lại vô thời hạn sự nối kết về mặt đạo đức giữa hai dân tộc, điều mà chỉ có thể

xảy ra khi xã hội hoàn toàn độc lập với tôn giáo.

Cũng như ở chính quốc, hai thế lực này cũng công khai đối đầu nhau ở Đông

Dương, phe này buộc tội phe kia sai lầm một cách có hệ thống. Cuộc chiến giữa các

giá trị cộng hoà và các giá trị Thiên Chúa giáo đã được người Việt Nam nhanh

chóng tham gia và lựa vị trí cho mình dựa theo đức tin và quyền lợi riêng của họ,

mặc dù có không ít người trong số họ vẫn còn bối rối khi phải đối mặt với hai lực

lượng đối nghịch đến từ Pháp, vì cả hai đều có vẻ như là đại diện cho những chân lí

bất biến.

3.1.3.2 Sự lựa chọn các giá trị cộng hoà của Đông Dương tạp chí

Có thể thấy rằng, sự chọn lựa giá trị Công giáo hay cộng hoà diễn ra khá

thú vị khi những tờ báo và tạp chí viết bằng chữ quốc ngữ ra đời trong giai đoạn đầu

thế kỉ tại Bắc Kỳ (Đông Dương tạp chí, Trung Bắc tân văn, Nam Phong tạp chí)

được thực hiện bởi những người Việt Nam đã chọn cho mình những giá trị mang

đến bởi thể chế cộng hoà. Trong khi đó, tờ báo đầu tiên tại Nam Kỳ (Gia Định báo),

cũng viết bằng chữ quốc ngữ, lại tỏ rõ nhiệt tâm ủng hộ Công giáo.

Có lẽ do Gia Định báo ra đời trước ở Nam Kỳ, khi mà sự truyền bá chữ

quốc ngữ được thực hiện bởi những bản viết của các cha nhà thờ dựa vào phát kiến

của Alexandre de Rhodes (mà thời điểm đó, ngay ở chính quốc, nhà vua nước Pháp

cũng phải chịu sự ảnh hưởng của giáo hội). Còn ở Bắc Kỳ, sau thất bại của sự kiện

Đông Kinh nghĩa thục năm 1907, chữ quốc ngữ đã trở thành công cụ để thể hiện chí

151

khí yêu nước của các bậc trí thức, dựa trên hình thức trọng thị tương tự của Cộng

hoà Pháp đối với tiếng mẹ đẻ của họ.

Sự lựa chọn giá trị cộng hoà với các “luận cứ Tây phương” phổ biến bởi

Đông Dương tạp chí đã làm đẹp lòng chính quốc (cho dù không được ủng hộ hoàn

toàn bởi những người Pháp ở Bắc Kỳ) nhưng lại bị phản đối kịch liệt bởi các nhân vật đại diện cho công giáo lúc bấy giờ. Một bài báo106 xuất hiện trên một tờ báo ủng hộ công giáo có tên gọi Tương lai xứ Bắc Kì 107 năm 1917, đã công kích nền văn

học phương Tây được Đông Dương tạp chí và Trung Bắc tân văn phổ biến (chính

xác hơn là quan điểm đạo đức được chuyển tải thông qua hình thức văn học này) và

nêu nó là một ví dụ điển hình cho trạng thái thù nghịch giữa đạo Thiên Chúa và nền

cộng hoà ở chính quốc. Tác giả của bài báo đã kết án Nguyễn Văn Vĩnh khi phổ

biến rộng rãi các bản dịch các tác phẩm văn học “thiếu đạo đức” từ Gil Bas xứ

Santillane và Ba chàng lính ngự lâm trong những chuyên mục phổ biến chữ quốc

ngữ của ông.

Đông Dương tạp chí, qua các chuyên mục của mình, đã cố gắng mang lại

cái giá trị cốt yếu nhất về các tư tưởng cộng hoà. Qua đó, nước Pháp được giới thiệu

như một mô hình hoàn hảo đáng noi theo. Tuy nhiên, không phải vô cớ mà cả

Nguyễn Văn Vĩnh và Phạm Quỳnh – những người rất tin tưởng vào các giá trị Khổng giáo108 – lại đồng thời là những người nhiệt tình tham gia vào việc truyền bá

106 Trích CAOM- GGI 65 407: đoạn trích từ “Tương lai xứ Bắc Kì” ngày 15, 16 tháng 1, 1917. 107 Tờ báo được thành lập năm 1884, có mối quan hệ rất gần gũi với Ban truyền giáo ở nước ngoài tại Paris. Ban truyền giáo nước ngoài có những tờ báo riêng, có sức ảnh hưởng lớn đến ban quản trị. Do đó, vào tháng 8 năm 1908, trong một buổi họp mặt ở Oudinot, Klobukowski đã xác nhận rằng các ban này sở hữu hai tờ báo (Tiếng vọng tại Bắc Kì, Tương Lai Xứ Bắc Kì) và họ mới vừa thu nhận tờ Báo Hải Phòng [trích bài báo của Gilles de Gantes, có tựa đề “Sự tầm thường và sức ảnh hưởng: báo chí Pháp ở thuộc địa Đông Dương (1902- 1928)” - IHPOM, Aix- en- provence, số 24, 1993, trang 75]. 108 Một mặt, cả Nguyễn Văn Vĩnh và Phạm Quỳnh lên án rất mạnh mẽ những tư tư ởng bảo thủ, trì trệ của Khổng giáo gây cản trở cho sự tiến bộ của xã hội, mặt khác họ kêu gọi duy trì những tư tưởng tiến bộ của học thuyết này (xem các bài Một công thức khác rút ra từ nền giáo dục cổ truyền, L’Annam Nouveau, số 155 ngày 24/7/1932 và Tinh hoa An Nam, L’Annam Nouveau, số 178, 179, 180 ngày 13,16, 20/10/1932, Xu hướng hiện nay của đường lối chính trị đối với người bản xứ, L’Annam Nouveau, từ số 349 đến số 351 ngày 14 đến 21/6/1934 của Nguyễn Văn Vĩnh; Phạm Quỳnh, Tiểu luận viết bằng tiếng Pháp trong thời gian 1922 -1923, Sđd).

vào Bắc Kỳ hình ảnh đẹp đẽ của nước Pháp với các giá trị toàn cầu và tầm quan

152

trọng của việc thấu hiểu bản chất của cả hai nền văn hoá. Có thể hiểu rằng, thái độ

ủng hộ của họ với các luận điểm Tây phương là một cách thích nghi với hoàn cảnh

bị đô hộ. Họ tìm cách tiếp thu các tri thức phương Tây, điều mà họ tin rằng rất cần

thiết cho người dân Việt Nam, nhưng với một cách gợi mở chứ không phải bằng cách đối đầu với những kẻ đô hộ. 109

Việc gắn bó với Khổng giáo cũng cũng phần nào giải thích cho lý do vì sao họ

có hứng thú với luận điểm cộng hòa hơn là với luận điểm của Công giáo. Những giá

trị cộng hòa, vốn được tạo dựng bởi những tư tưởng nhân văn và nhất là có thể được

sử dụng như một công cụ đòn bẩy để chống lại chính quyền thực dân - những người

luôn lấy các giá trị đó làm mục tiêu cho các hoạt động của mình. Bởi trên thực tế,

có vẻ khá khó khăn cho một thế lực mà phương châm là “Tự do - Bình đẳng - Bác

ái" thực hiện hành vi đô hộ dã man với các nước thuộc địa. Các cơ quan đại diện

của Pháp tại các nước thuộc địa phải thực hiện triệt để các luận điểm cộng hòa như

họ rao giảng, điều này có thể giúp cho người dân Việt Nam có cơ hội chỉ trích những thiếu sót của chính quyền thực dân.110

Ngoài ra, Nguyễn Văn Vĩnh và Phạm Quỳnh đã từng là thành viên của Hội

Tam điểm Pháp vào những năm cuối của thập niên 20 của thế kỷ trước. Lúc này, cả

hai đều có mối quan tâm đặc biệt đến các giá trị nhân văn được truyền bá bởi nước

Cộng hòa Pháp nhưng mỗi người theo một cách khác nhau. Nguyễn Văn muốn phát

109 Phạm Quỳnh “Một vấn đề giáo dục dựa trên chủng tộc. Làm sao nước Pháp có thể tiến hành giáo dục cho người Việt Nam?” (22/7/1922). Bản trích của Bảng Thông tin của Học viện Khoa học đạo đức và chính trị , Paris, Felix Alcan, 1923, trang 11. 110 Trên thực tế, nước Pháp đã lún sâu vào một tình thế đầy mâu thuẫn trong các giá trị cộng hoà mà nó mang lại. Một mặt, chính phủ Pháp phải cố gắng để hợp pháp hoá việc mở rộng thuộc địa (vốn trái ngược với tư tưởng “Tự do – bình đẳng – bác ái”). Mặt khác, họ phải ra sức thuyết phục người Việt Nam tin vào nền giáo dục nước Pháp đã mang tới, tin vào những điều đẹp đẽ họ đang làm cho người bản xứ (mà họ, những kẻ thực dân đóng vai trò chủ chốt), nhằm tránh bị mất mặt, và cũng có thể tiếp tục khai thác công khai trên đất thuộc địa.

triển quyền công dân tại các xứ ở Việt Nam còn Phạm Quỳnh quan tâm đến sự kết

153

hợp các giá trị cao đẹp nhất tồn tại trong mỗi nền văn hóa, trong khía cạnh vượt qua từng nền văn hóa đó để đạt đến một giá trị toàn cầu.111

Tuy nhiên, khi chọn lựa những tư tưởng mà nước Cộng hòa Pháp mong muốn

truyền bá ra thế giới qua việc phổ biến các bản dịch văn chương Pháp hay triết học,

đạo đức phương Tây, Nguyễn Văn Vĩnh không hề lo lắng về việc góp phần làm lan

rộng văn hóa thuộc địa của Pháp lên đất nước của mình. Bởi thực ra, ông chỉ sử

dụng các yếu tố của luồng tư tưởng này như những công cụ để có thể giúp Việt

Nam bước vào một kỷ nguyên mới của lịch sử, với những tiến bộ vượt bậc và giúp

mối quan hệ thuộc địa giữa người Pháp và người Việt Nam bớt căng thẳng hơn.

Ông cho rằng, việc nắm bắt được các phương thức đang được sử dụng ở các nước

Phương Tây như lịch sử, văn chương, tâm lí học, ngữ học, sư phạm, nghệ thuật sân

khấu phương Tây cùng với những nghiên cứu khác nhau về thành ngữ tục ngữ và

văn hóa dân gian, sẽ cho phép người Việt Nam nâng cao hiểu biết và xây dựng nền

văn hóa mới phù hợp với bản sắc của chính mình.

Ước muốn đồng hóa nền triết học, chính trị phương Tây, các nhà trí thức Việt

Nam đầu thế kỷ XX như Nguyễn Văn Vĩnh luôn có ý thức giải phóng và đổi mới

đất nước mình thông qua một quá trình văn hóa. Nền văn chương hiện đại mà chúng

ta đang có chính là sản phẩm của những cố gắng đó. Đó là sản phẩm của một sự

tổng hợp, sáng tạo mà ở đó, tinh thần phê phán của Tây phương và sự nghiêm ngặt

của khoa học được sử dụng để tấn công vào quá khứ lạc hậu của Việt Nam và cũng

đồng thời bảo tồn các giá trị đáng quý nhất.

Đông Dương tạp chí đã bắt đầu công việc này bằng cách xông vào những lĩnh

vực có thể trực tiếp thay đổi nhận thức của độc giả như: canh tân giáo dục, đổi mới

phong tục tập quán và vấn đề nữ quyền – một vấn đề còn tương đối mới mẻ trong

111 "Hội tam điểm Pháp, một chính thể hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực từ thiện và phát triển, mục tiêu là tìm kiếm sự thật, nghiên cứu về nền đạo đức trên toàn thế giới, nghiên cứu về khoa học, nghệ thuật và thành thiện. Nguyên tắc hàng đầu của nó là sự tự do tối cao của nhận thức và tình đoàn kết giữa con người. Hội giúp con người trở nên độc lập với các đức tin. Hội có tôn chỉ là "Tự Do, Bình Đẳng, Bác Ái" (Trích trong luật Grand Orient của Pháp phát hành năm 1877).

bối cảnh xã hội Việt Nam đầu thế kỷ XX.

154

3.2. Đông Dương tạp chí và vấn đề canh tân giáo dục

Như đã trình bày, mục tiêu chính của Đông Dương tạp chí là quảng bá và

phổ cập khoa học và kĩ thuật phương Tây đến người Việt. Đây cũng chính là mục

tiêu của tầng lớp trí thức của các nước vùng Viễn Đông theo tấm gương duy tân

thành công của Nhật Bản khi họ nhận thấy được sự cần thiết phải nắm lấy chiếc

chìa khóa khoa học phương Tây để mau chóng đưa dân tộc mình bước vào cánh cửa

văn minh, tiến bộ.

Trong bối cảnh như thế, mục tiêu mà tạp chí nhắm tới là đưa độc giả Việt

Nam đến gần với những phương pháp mới trên nhiều lĩnh vực nghiên cứu của

phương Tây. Để chiếm lĩnh được những phương pháp này, con đường duy nhất là

giáo dục. Trên Đông Dương tạp chí, ngoài văn học, giáo dục là đề tài nghiên cứu

chiếm dung lượng lớn nhất trong suốt 6 năm hiện hữu của tờ báo. Có vẻ như đối với

ban biên tập, giáo dục là phương tiện hữu hiệu nhất để tác động đến độc giả, nhất là

lớp độc giả trẻ tuổi, những người đóng vai trò quyết định cho sự thay đổi xã hội.

3.2.1. Về tính hiệu quả của nền giáo dục truyền thống

Việc quan tâm đến giáo dục một cách đặc biệt như vậy đối với một tờ báo có

xuất phát ban đầu là một công cụ tuyên truyền của chính quyền thực dân có thể giải

thích một phần lớn bởi tinh thần Khổng giáo. Ở một xứ sở ảnh hưởng bởi Nho giáo

như Việt Nam, học hành là yếu tố bắt buộc để tu thân và trở thành hiền nhân quân

tử. Chúng ta có thể khẳng định một điều rằng, mặc dù đa số các thành viên của ban

biên tập đều đã được đào tạo bởi phương Tây nhưng đa phần trong số họ vẫn còn

mang nặng tinh thần Nho học và dù sao đi chăng nữa thì độc giả mà họ nhắm tới

cũng là độc giả mang nặng tâm thức phương Đông. Vì vậy, giáo dục là vấn đề

không thể coi nhẹ. Hơn nữa, khi những người sống trong một quốc gia có tinh thần

Khổng giáo muốn đề cập đến một tinh thần khác họ như tinh thần phương Tây thì

chắc chắn không thể không đặt nặng vấn đề giáo dục hay ít nhất là tìm một lối học

tốt hơn, nhất là trong bối cảnh mà mô hình giáo dục mới được đem đến bởi chính

quyền bảo hộ khiến cho người ta phải đặt nghi vấn về tính hữu hiệu của hệ thống

giáo dục truyền thống.

155

Sự đụng độ giữa hai nền văn minh phương Đông và phương Tây lúc bấy giờ

đã đặt ra nhiều câu hỏi day dứt về tính hiệu quả của phương thức giáo dục cổ

truyền. Rõ ràng, đứng trước sự áp đảo của những thành tựu từ nền văn minh phương

Tây đang lan tràn thì ngay cả những người yêu nước bảo thủ nhất cũng phải thừa

nhận một sự thực là giáo dục theo phương thức phương Tây hiệu quả hơn. Điều ấy

được minh chứng qua khả năng tạo dựng những lĩnh vực nghiên cứu chuyên biệt

của người phương Tây, vốn rất khác với mô hình giáo dục Khổng giáo chỉ khuyến

khích con người tiếp cận thế giới một cách tổng quan.

Chính vì thế, kể từ số 2 năm 1913, câu hỏi về tính hiệu quả hệ thống giáo

dục truyền thống được đặt ra trong bài viết mang tên “Học hành”. Trong đó, tác giả

bài báo, chủ bút Nguyễn Văn Vĩnh, chỉ trích việc sử dụng những sách vở căn bản

của Khổng Tử:

““Mấy nghìn năm nay ta học sách thánh hiền mà nghề nông-tang vẫn không

thấy ai giỏi…Tôi thiết nghĩ rằng đạo Khổng Mạnh đến tận ngày nay cũng

không ai bài bác được là vì chỉ dạy những lý tất-nhiên trong xã hội, chớ

không dạy ra ngoài. Mà những lý tất-nhiên thì người ta dù không học tất

cũng phải biết đại khái, mà biết lắm cũng chẳng được việc gì…Nói tổng lại

thì đạo Khổng Mạnh là một đạo nên học để mà biết lý tưởng đời trước,

nhưng mà ai nấy học sách thánh phải muốn biết được hơn thánh, vì nếu bây

giờ ta học không bằng nhà nho Châu thì chẳng hóa ra sự tiến hóa của giống ta dật lùi du”112. Nguyễn Văn Vĩnh lấy ví dụ về cuốn Đại học113 của Nho giáo. Ông chỉ ra

rằng cuốn sách này dạy chúng ta phải biết tất cả mọi thứ, nhưng lại không dạy cách

để đạt được điều đó: “Đại học thì dạy người ta cách vật, nhưng thế nào là cách vật

chả bảo”. Điều này giải thích lý do tại sao người Việt Nam học biết bao sách thánh

hiền mà không có một người nào đó có một kỹ năng thực sự trong các ngành nghề

112 Nguyễn Văn Vĩnh, mục Tạp luận. 113 Một trong “Tứ thư” của Nho học Trung Quốc gồm Đại học, Trung Dung, Luận ngữ, Mạnh Tử.

hữu ích như là nông nghiệp.

156

Theo Nguyễn Văn Vĩnh, có một thực tế là những cuốn sách của bậc hiền

thánh cổ xưa không chứa tất cả các kiến thức của con người. Để xã hội phát triển,

con người cần phải được bổ sung bằng các kiến thức mới không ngừng cập nhật:

“nhà Nho ta đi học thường cứ cho kinh sử của thánh hiền để lại là tóm cả bao nhiêu

điều phải biết ở cả đó, rồi lại không biết cho rằng nước nào cũng vậy, thánh hiền kế

thế nhau, ông đời trước dạy điều biết trước, ông đời sau lại nhân điều dạy trước mà

học thêm ra và dạy thêm ra, mỗi ngày một rộng”.

Trong thực tế, theo ông, hệ thống giáo dục này của Nho học là vô ích vì

những người theo Nho học chỉ khăng khăng giữ lấy những điều họ đã được học

trong các sách thánh hiền. Họ muốn tìm hiểu tất cả mọi thứ, nhưng trong thực tế, họ

không học bất cứ điều gì khác hơn so với các sách vở đó.

Suy nghĩ này của Nguyễn Văn Vĩnh cũng được Phạm Quỳnh chia sẻ trong

các bài viết của mình.

Trong mục Học cũ học mới114, Phạm Quỳnh nêu lên vấn đề xây dựng nền

học mới trong bối cảnh Việt Nam đã có một nền giáo dục dựa theo mô hình Trung

Hoa. Hệ thống giáo dục mà ông gọi là “nền học cũ” phải đương đầu với “nền học

mới”, vốn rất khác biệt với căn bản tư duy của người phương Đông. Theo ông, Việt

Nam đang trải qua một buổi giao thời khó khăn, đó là lí do vì sao chúng ta phải hiểu

vấn đề giáo dục cho tường tận để không phạm sai lầm trong việc lựa chọn con

đường để đi cho dân tộc vì con đường đó có ảnh hưởng rất lớn tới tương lai.

Phạm Quỳnh cố gắng nêu lên điểm khác biệt giữa hai nền giáo dục Đông –

Tây. Ông nhấn mạnh rằng các nước Châu Âu đều coi trọng các lĩnh vực học thuật

như nhau và họ phân ra làm ba lĩnh vực riêng biệt: lý học, thực học và văn tự. Trong

khi đó, tại Trung Quốc và Việt Nam người ta lại chuộng từ chương - một lối học

“hư văn”. Vì thế theo ông, trong khi Châu Âu tiến bộ hàng ngày nhờ vào tinh thần

cởi mở đó thì Trung Quốc và Việt Nam lại giẫm chân tại chỗ: “cứ lấy 9 quyển Tứ

114 Đông Dương tạp chí số 5.

thư ngũ kinh làm thánh thư, cho là tổng hợp cả các sự vật trong trời đất, trong loài

157

người, bàn đi bàn lại sách cũ, không sáng được một tư tưởng hay một học thuyết gì

mới. Chỉ bởi cái học hư văn ấy nên sự học hành không tấn hóa được.”

Theo Phạm Quỳnh, ở Việt Nam, kiến thức về nhiều lĩnh vực khoa học đều có

nhưng không được đầu tư nghiên cứu nghiêm chỉnh như ở Châu Âu. Một số người

Việt bỏ công nghiên cứu về thiên nhiên hay về kỹ thuật ứng dụng thì thông thường

cũng không đạt được kết quả tích cực “vì ta thường chuộng uẩn ảo huyển diệu hơn

là rõ ràng, thực nghiệm và quan sát sự vật cũng không có phép tắc nhất định. Mỗi

người xét một cách, người nào cũng lấy ý kiến riêng làm nhẽ thực chính sác. Thành

ra rút lại thì chỉ có văn tự là học kỹ”.

Thế nhưng, ngay cả văn tự cũng không được phát triển thấu đáo vì các nhà

Nho cứ phải tìm dùng những từ thật khó, thật hiếm và những điển cố sâu xa, ít

người biết: “Cái tệ tập ấy nhân tuấn mãi thành ra tính chất tự nhiên”. Giáo dục Việt

Nam vốn theo hình mẫu của Trung Quốc, mà trong suốt ba ngàn năm, “nước Tàu

chỉ học huấn cổ”, có nghĩa là chỉ luận về cổ thư. Vì thế, đi theo mô hình này, trí tuệ

Việt Nam không thể nảy sinh được một tư tưởng hay triết thuyết gì mới lạ.

Đi xa hơn nữa, trong bài viết của mình, Phạm Quỳnh còn nhận định Trung

Quốc trong hai ngàn năm qua chưa nảy sinh ra một nhà tư tưởng lớn nào như

Bacon, Spinoza, Kant, Comte của phương Tây, những người mà tư tưởng mới lạ

của họ đã thay đổi nền học thuật của thế giới. Điều ấy do sĩ tử phải luôn lo học chữ

Hán không ngừng nghỉ. Các nhà Nho phải bỏ cả một đời để học chữ Hán nên rốt

cuộc không không còn thì giờ để dành cho tư tưởng: “học chữ còn chưa đủ, lúc nào

học tư tưởng”.

Theo Phạm Quỳnh, nền giáo dục truyền thống quá đặt nặng về văn học tạo ra

thói “hư văn” làm cản trở tất cả mọi lĩnh vực học thuật khác “chính bởi cái hiếu hư

văn ấy cho nên sự học hành không tiến hóa được. Nước ta còn học lại nước Tầu, tất

cái tệ hư văn lại còn tệ hơn nữa. Muốn cho học mới khỏi nhầm như học cũ thì phải

tiệt cái tính chất hư văn ấy đi”. Cho nên, ông đưa ra giải pháp “đem các lý tưởng là

gốc cho sự học cũ đời xưa cùng sự học mới thời này” và theo ông, cần phải giải

thích rõ về hai khuynh hướng cũ và mới để có thể hiểu được thấu đáo hai hệ thống

158

khác nhau: “điều gì giống nhau, điều gì khác nhau, điều gì phản đối, điều gì dung

hóa”.

Con đường mà Phạm Quỳnh vạch ra cho đất nước của mình chính là sự dung

hòa của hai nền học thuật: “tôi tin rằng sự học mới ta mai sau này là cách dung hóa cái cổ học nước ta với cái tân học thời nay”.115

Trong mục Tân học cổ bình luận (Đông Dương tạp chí số 8), chủ đề này một lần nữa được Phạm Quỳnh đào xới kỹ hơn116. Trong đó Phạm Quỳnh trở lại ý tưởng

dung hòa hai nền học thuật mà ông đã trình bày trước kia. Trong đó, ông nhấn mạnh

về ý tưởng tiệm tiến, tức là mọi thay đổi phải được diễn tiến từ từ. Như thế, nền học

cũ sẽ dần dà biến đổi và nền học mới cũng sẽ từ từ phát huy: “tất học cái học cũ

phải dần dần biên cải đi, học mới dần dần thâu nhập vào, hai cái dung hóa lẫn nhau,

nhiên hậu mới thành được một cái nền học chắc chắn.”

Để dẫn chứng, ông lấy thí dụ ở môn Hóa học, một lĩnh vực khoa học mới, là

thông thường các thành tố có thể được trộn lẫn theo hai phương pháp: hoặc là hai

thành tố sẽ hòa lẫn với nhau mà vẫn giữ đặc tính của riêng mình, và nếu cần cũng

có thể tách rời ra được; hoặc hai thành tố sẽ hòa lẫn với nhau để trở thành một thành

tố mới, và hầu như sẽ không thể tách phân ra được nữa. Theo đó, Phạm Quỳnh cho

rằng hai hệ thống văn hóa, tân và cựu, không chỉ pha lẫn, mà còn có thể dung hòa,

đến độ khó có thể phân biệt được đâu là nguồn gốc Trung Hoa đâu là nguồn gốc

Phương Tây: "hai chất đã dụng luyện làm thành ra hồn Nam Việt”.

Ông còn cho rằng chuyện sĩ tử cựu học và Tây học kình chống nhau trong

một nước cũng giống như anh em trong một nhà mà kình chống nhau, điều ấy thật

là vô ích. Nhóm đầu tiên cần phải chấm dứt phỉ bang nền Tây học là “đê tiện”, là”

thô thiển” hay “nhăng nhố”, bởi vì “cái Tây học có ích lợi gì thì tôi tưởng các ông

115 Chỉ mới 21 tuổi, Phạm Quỳnh đã đặt nền móng tư tưởng qua bài báo này và ông luôn giữ chí hướng đó trong suốt một thời gian dài ngay cả sau Đông Dương tạp chí. Ý tưởng dung hòa hai nền học thuật được tìm thấy trong nhiều bài viết của ông sau đó. 116 Bài này được viết như một dạng “tự ngôn” tức là lời nói đầu cho đề mục. ( Trang 9, 10)

cũng đã mục kích biết rồi, không phải nói nữa.” Ngoài ra, nhóm Tây học cũng

159

không nên cho là nền Nho học là “hủ bại”. Vì theo ông, Nho học “có hủ bại nữa

thời cái hủ bại ấy đã lâu năm lắm rồi, sâu trong não chất rồi”, không thể loại bỏ nó

trong chốc lát. Nho học vẫn có thể dùng được, nếu biết được những hạn chế của nó:

“tôi giám quyết rằng cũng không hủ bại lắm đâu, chỉ cần bỏ đi cái phần nó khiến

cho Nho học bị đình trệ. […] Học cũ ta chỉ phải cái hiểu hư văn nó làm cho ngưng

trệ lại mà không tiến hóa lên được, cái thói ấy tiệt đi thì nghĩa lý thánh hiền ứng

dụng thời nay mới dùng được”.

Cuối bài, Phạm Quỳnh bày tỏ ý muốn thêm vào Đông Dương tạp chí hai

chuyên mục Tân học bình luận và Cổ học bình luận. Thông qua hai chuyên mục

này, ông sẽ giới thiệu đến độc giả những tư tưởng hay đẹp trong các sách vở Trung

Hoa và phương Tây và sẽ diễn giải những tư tưởng ấy ra tiếng Việt.

Hai bài viết kể trên của Phạm Quỳnh cho ta hiểu được mục đích dung hòa hai

nền văn hóa và xu hướng hợp tác song phương Pháp Việt mà ông đeo đuổi. Nghĩa

là, tạo mối tương quan giữa chế độ thực dân và người bị trị dựa trên thuyết hòa hợp.

Đó cũng là tinh thần chủ đạo của Đông Dương tạp chí với chủ trương khai hóa nền

giáo dục qua lăng kính hợp tác Pháp Việt.

Trong Việt Nam phong tục đăng trên Đông Dương tạp chí năm 1915, Phan Kế

Bính cũng trình bày rất rõ tham vọng tác động tới ý thức của người đọc về tính cấp

thiết của việc thay đổi phương pháp giáo dục. Trích đoạn sau đây giúp chúng ta

hiểu được rõ hơn cái nhìn của ban biên tập thời bấy giờ về giáo dục truyền thống:

“Xưa nay lối khoa cử của ta là một con đường cho bọn sĩ phu. Sĩ phu có do

con đường ấy xuất thân mới là chính đồ, mà sự vinh hạnh về sau cũng bởi đó

mà ra cả. Bởi vậy nhân tâm nước mình say mê bia đá bảng vàng, cố sức mà

dùi mài truyện hiền kinh thánh, có người đầu bạc mà vẫn chịu khó đeo bộ lều

chiếu để đua ganh vối bọn thiếu niên. Mà rút lại thì có gì đâu, học cũng

chẳng qua là học văn chương, thi cũng chẳng qua là thi văn chương. […] Vậy

mà ta mê mẩn mấy trăn năm nay vẫn chưa tỉnh hết. […] Thiết tưởng làm sao

cũng phải có một phen đổi hết cách cũ mà dùng toàn cách mới có ngày mong

đến được cõi tân hóa. Xem như các nước bên Á Đông ta, như nước Tàu, Nhật,

160

trước cũng thi cử như ta, mà họ bỏ đi đã lâu rồi. Duy ta còn khăng khăng giữ

mãi, không biết bao giờ mới đổi được.”

Tất cả các bài viết về chủ đề “học cũ, học mới” trên Đông Dương tạp chí đều

thể hiện ý tưởng chủ đạo: nếu Việt Nam muốn giữ vững vị trí là một đất nước có

nền văn hóa lớn thì không nên khăng khăng giữ lấy mô hình lỗi thời của Trung

Quốc (mà ngay cả Trung Quốc cũng đã bắt đầu thay đổi). Ngược lại, chúng ta phải

ý thức được lợi ích của việc theo đuổi mô hình phương Tây trong bối cảnh lịch sử

thời bấy giờ.

3.2.2 Những phương pháp mới cho giáo dục

Ban biên tập Đông Dương tạp chí hoàn toàn tin tưởng vào tính ưu việt của hệ

thống giáo dục phương Tây. Đối với họ, những kỹ thuật của phương Tây đều được

xây dựng trên nền tảng của những phương pháp đã được minh chứng và đã trải qua

nhiều thực nghiệm. Những phương pháp đó chính là sự kết tinh của một tinh thần

gọi là tinh thần khoa học. Hệ thống giáo dục này, vì thế, có nhiều điểm hữu ích

cũng giống như hệ tư tưởng đã thoát thai ra chúng.

Bởi thế mà những chuyên mục mới chiếm nhiều trang nhất trong Đông

Dương tạp chí chính là những chuyên mục giới thiệu những phương pháp trong

giáo dục. Mục đích chính của các chuyên mục này nhằm giúp người Việt Nam biết

cách học như thế nào bởi họ vốn đã quen với lối học thuộc lòng. Và ban biên tập hy

vọng rằng, một khi nắm được phương pháp mới, được phát triển tinh thần khoa học,

độc giả sẽ dễ dàng tiếp thu những kiến thức mới, có được một cái nhìn khoa học

như người phương Tây.

Từ số 3, Đông Dương tạp chí đã mở mục Sư phạm khoa do Trần Trọng Kim

đảm trách để bàn về việc giáo dục nước nhà. Trong những bài viết ở mục này, Trần

Trọng Kim đã nhận định lại một cách xác đáng những bất cập của nền giáo dục

truyền thống. Theo đó, “ở nhà thì cha mẹ bắt con phải biết năm ba điều phép theo

thói thường, còn đi học thì thầy chỉ biết lấy roi vọt giọa nạt để ép trẻ học cho nhớ

mặt chữ và câu sách mà thôi, chứ chưa hề biết cách tìm phương kế để luyện tập cho

đứa trẻ ngày sau lớn lên thành một người khôn khéo, biết suy nghĩ, biết làm phải

161

trái, biết mến điều thật, ghét điều giả, yêu của đẹp, chê của xấu, trọng điều lành,

khinh điều ác.”

Chính vì thế, Trần Trọng Kim đề xuất phải tìm kiếm những phương pháp

mới để giáo dục cho trẻ: “Chúng tôi thiết tưởng rằng những sự giáo hóa có ích lợi

thế nào và can hệ cho dân một nước là thế nào, thì người ta bây giờ cũng đã hiểu ít

nhiều rồi. Chỉ hiềm một nỗi rằng cách giáo dục thế nào là phải đạo thì còn ít người

biết, cho nên chúng tôi xin thỉnh thoảng lấy sự giáo dục nói chuyện cho những

người xem báo nghe. Hay dở ta sẽ bàn luận với nhau, như thế những sự học ích nước ta rồi cũng một ngày tấn hóa được”.117

Cũng với tinh thần đó, trên Đông Dương tạp chí số 11, tháng 7 năm 1913,

Trần Trọng Kim có bài viết mang tên Giáo dục là thế nào với nhận định: ở Việt

Nam, ai cũng nói về giáo dục nhưng không ai tìm hiểu về nguyên tắc và mục tiêu

của giáo dục. Thông thường, xã hội vẫn đồng tình với định nghĩa “giáo là dạy, dục

là nuôi”. Theo Trần Trọng Kim, không thể hiểu nghĩa giáo dục đơn thuần chỉ có

thế. “Ta cứ bảo giáo là dạy, dục là nuôi, nuôi con cho lớn, dạy con cho khôn, thế là

giáo dục chứ không xem xét xem nuôi thì thế nào là nuôi, mà dạy thì thế nào là dạy

và dạy bảo thì phải làm sao”.

Thực ra Trần Trọng Kim muốn đánh động đến tầng lớp trí thức về sự cần

thiết đặt câu hỏi vì sao và như thế nào để có được một sự giáo dục hoàn hảo cho con

trẻ; nghĩa là quan tâm đến phương pháp giáo dục, nghiên cứu lĩnh vực này một cách

khoa học. Nói cách khác là quan tâm đến lí thuyết và phương pháp của giáo dục.

Trần Trọng Kim phân tích trong phần dẫn luận của mình mục đích của giáo

dục và dẫn chứng ra nhiều quan niệm mà theo ông là không phù hợp:

“Có người bảo rằng sự giáo dục cốt chỉ làm cho thân mình được sung

sướng, ý ấy tôi dám chắc không đủ, bởi vì sự sung sướng mỗi người hiểu mỗi

cách. […] Thế thì cái ý sung sướng cũng phải thay đổi không nhất định, vậy

thì lấy nó làm cốt giáo dục thế nào được? Có người lại nói rằng chủ ý sự

117 “Cách dạy bảo trẻ con”, Đông Dương tạp chí số 3

giáo dục là khai hóa những năng khiếu (faculties) người ta cho đến thập

162

toàn? Có phải là bao nhiêu những khiếu chất của người ta phải khai hóa cả

cho đến cực điểm không? Nghĩa là trong xã hội phải toàn là người thông

thái hết cả? Nhưng mà xét ở đời có người thông minh, có kẻ ngu đần, người

giỏi làm việc giỏi, người dở làm việc dở, mỗi người làm một việc đều có ích

lợi cho xã hội cả. Nếu dạy người nào cũng cho đến cực điểm cả thì dạy thế

nào được, mà lại chẳng hại cho xã hội lắm hay sao? Thí dụ như trong một

nước mà ai cũng chỉ chuyên về tư tưởng thì còn lấy ai mà làm ruộng, ai mà

gánh phân?”

Ông kêu gọi độc giả suy nghĩ về những điểm tiêu cực trong nền giáo dục

truyền thống của Việt Nam và noi theo lối giáo dục của người Pháp: “tìm trong cách

giáo dục của ta thường dùng tự xưa đến nay xem có những cái gì hư tệ, và xem có

thể bắt chước cách giáo dục nước Pháp được chút nào không?”.

Sự đam mê đặc biệt của Trần Trọng Kim đối với lĩnh vực giáo dục giải thích

vì sao ông muốn đem phương pháp sư phạm của Tây phương về áp dụng cho xã hội

Việt Nam. Cũng không ngạc nhiên lắm nếu chúng ta biết rằng Trần Trọng Kim đã

từng được đào tạo ở Pháp. Nhận thấy nền giáo dục truyền thống có vẻ thiếu sự rõ

ràng, chính xác, ông chủ trương lối học mang tính khoa học của Tây phương. Cũng

như Phan Kế Bính khi viết về đề tài văn minh, Phạm Quỳnh viết về văn hóa hay

Nguyễn Văn Vĩnh viết về ngôn ngữ, những bài viết về giáo dục của Trần Trọng

Kim đều nhấn mạnh tầm quan trọng của việc phân tích rõ đề tài nghiên cứu để tránh

những sai lầm. Tinh thần này của ban biên tập Đông Dương tạp chí cho thấy yêu

cầu về tính khúc chiết, khoa học của các bài viết luôn được nêu cao. Ban biên tập

muốn đem đến cho độc giả những bài viết thật rõ ràng và chính xác. Họ cố gắng

phát triển những định nghĩa cụ thể để chấm dứt tình trạng mông lung của nền giáo

dục truyền thống mà theo họ, nó cản trở tính hiệu quả trong tư duy. Tất cả đều thể

hiện mong muốn phát triển tinh thần khoa học ở Việt Nam. Đây chính là điểm tiến

bộ của Đông Dương tạp chí khi mà triết lý Trung Hoa ảnh hưởng rất nặng nề đến

các trí thức Việt Nam và óc tư tưởng thực dụng hầu như không được khuyến khích

vào thời điểm ấy.

163

Sau mục Sư phạm khoa, bắt đầu từ số 20, Đông Dương tạp chí mở riêng một

mục mới chuyên về giáo dục với tên gọi là Gõ đầu trẻ do Nguyễn Đỗ Mục phụ

trách. Từ số 20 đến số 45, chuyên mục này đăng những bài bàn về việc đổi mới nội

dung, cách thức giáo dục trẻ con.

Với quan niệm “Việc dạy bảo trẻ con, nước nào cũng lấy làm hệ trọng từ lúc

mới vỡ lòng, vậy nên việc dạy và việc học phải dùng hết cách mà sửa đổi luôn luôn.”118, qua những bài viết của mình, Nguyễn Đỗ Mục làm nổi bật lên tầm quan

trọng của phương pháp đúng đắn khi dạy trẻ, chẳng hạn như phải biết lựa tính trẻ,

phải hiểu trẻ để có những cách thức thích hợp làm cho sự dạy và sự học có hiệu quả.

Nguyễn Đỗ Mục cho rằng, đối với trẻ, sự học và sự chơi không khác gì nhau.

Người thầy phải làm sao để sự học cũng vui vẻ, sung sướng như sự chơi để trẻ vui

lòng mà không trốn học. Dạy trẻ phải như nói chuyện với trẻ, câu cú phải gãy gọn,

ngọt ngào, êm ái làm cho trẻ vui tai mà nghe. “Các nhà giáo dục bên nước Đại-pháp

xưa nay vẫn hay chọn những truyện cổ-tích có tư-tưởng, có luân-lý để làm bài cho trẻ học, thực là lựa tính trẻ một cách rất khôn ngoan”119. Theo ông, nên tránh dạy trẻ

theo kiểu truyền thống, chỉ cho học bằng mồm (cứ ê a thuộc lòng mà không biết sự

vật ra sao) mà bài nào cũng phải cho học bằng mắt. Ví dụ, muốn dạy trẻ cái quạt

máy thì không thể cứ cho học thuộc hai từ “quạt máy” mà ít nhất phải vẽ hình nó ra hoặc cho thấy sự vật thật120. Đặc biệt, người thầy cần phải tạo tư tưởng cạnh tranh,

ganh đua cho các cậu trẻ. Vì trong bất cứ nghề gì, đặc biệt là nghề học, càng cạnh tranh bao nhiêu thì càng tiến bộ bấy nhiêu121.

Nguyễn Đỗ Mục cũng nhấn mạnh vai trò của giáo dục thể chất trong nhà

trường. Ông cho rằng, bên cạnh việc dạy cho trẻ trí khôn thì cũng nên lấy thể dục

làm một khoa học phổ thông vì “nếu học-trò không có thể-giục, thì dẫu sống lâu

118 “Gõ đầu trẻ”, Đông Dương tạp chí số 20. 119 “Gõ đầu trẻ”, Đông Dương tạp chí số 22. 120 “Gõ đầu trẻ”, Đông Dương tạp chí số 23. 121 “Gõ đầu trẻ”, Đông Dương tạp chí số 25. 122 “Gõ đầu trẻ”, Đông Dương tạp chí số 28.

tám chín mươi, hay là ngoại trăm, mà lúc nào cũng gầy-gò, lệt-bệt trói chẳng nổi con gà, thì còn giúp việc Nhà-nước làm sao nổi” 122.

164

Là một nhà giáo dục, Nguyễn Đỗ Mục ý thức sâu sắc rằng giáo dục trẻ con là

một yếu tố mang tính quyết định trong công cuộc cải cách phong tục:

“Tôi thiết-tưởng muốn cải-lương phong tục, không gì bằng cải-lương việc dạy trẻ, để theo lối tân-học ngày nay mà đúc thành một bộ óc mới”123. Vì thế, phương pháp

học tập cũng rất được Nguyễn Đỗ Mục chú trọng. Ông cho rằng việc giáo dục phải

căn cứ vào tâm sinh lý của trẻ. Trẻ con thường hay chuộng lạ, cái gì ít thì thích,

nhiều thì chán mà việc học của ta xưa kia hầu như diễn ra quanh năm, không điều

độ, muốn thì nửa đêm gà gáy cũng bắt trẻ học. Để cho trẻ không chán việc học thì

phải cho trẻ nghỉ ngơi, có năm học phải có mùa hè, học mãi trong sách thì lâu lâu

cũng phải cho đi xem thực tế để mãn nguyện tính chuộng lạ của trẻ, trẻ thích chí thì sự học mới tấn tới được124.

Do đó, tính hợp lý của chương trình giáo dục phải được chú trọng. Dạy trẻ

phải theo thứ tự, không được vội vàng, lớp nào phải có chương trình của lớp ấy,

điều giản dị học trước, điều cao xa học sau. Thường thì thầy nào cũng muốn học trò

mình chóng giỏi nhưng “dục tốc bất đạt”, phải theo thứ tự, có đầu có đuôi, có nền tảng thì mới không bị tắt khúc125. Đặc biệt, việc đổi mới vật chất, phương tiện dạy

và học cũng rất quan trọng để nâng cao chất lượng giáo dục. Nhà trường không phải

là những bàn ghế lổng chổng và bảng đen nham nhở, mà phải có “quả cầu, thước đồ

bản”, sắm sửa những sách truyện, tranh vẽ có ích cho việc học; các thầy thì phải có

chương trình, các thứ sổ sách nhà trường chứ không phải chỉ “mấy cái bút chì xanh

đỏ và cái đồng hồ quả quít”; học trò thì không thể chỉ một quản bút, một lọ mực, một tập giấy mà phải có tập đồ, đèn học.v.v..126 Triết lý giáo dục kể trên của

Nguyễn Đỗ Mục có thể xem là bước khởi đầu của bộ môn tâm lý sư phạm mà ngày

nay các trường đại học chuyên ngành sư phạm đã đưa vào chương trình giảng dạy.

Chia sẻ quan điểm này với Nguyễn Đỗ Mục, Nguyễn Văn Vĩnh cũng có

123 “Gõ đầu trẻ”, Đông Dương tạp chí số 31. 124 “Gõ đầu trẻ”, Đông Dương tạp chí số 34. 125 “Gõ đầu trẻ”, Đông Dương tạp chí số 43. 126“Gõ đầu trẻ”, Đông Dương tạp chí số 44

những bài viết bàn về phương pháp giáo dục trẻ hiệu quả. Ông phản đối cách giáo

165

dục trẻ thiếu khoa học của các bậc cha mẹ. Theo ông, quan tâm đến sự học hành của

con cái không có nghĩa là phải ngồi bên cạnh để kèm cặp trẻ từng câu từng chữ,

điều mà nếu thiếu hiểu biết sẽ phản tác dụng:

“Có những người cha tự biến mình thành những thầy giáo của nhà trường

đối với những đứa con của mình và vì vậy bắt các con phải làm công việc

học ở lớp hai lần, thực là vất vả cho những đứa trẻ, đối với chúng, việc học

tập trở thành một việc bị cưỡng bức không ngừng…

Ngược lại có những người cha khoán trắng cho nhà trường việc giáo dục và

đào tạo những con cái của mình, và trong việc này ông ta không cả định kì

để ý xem xét việc học của con. Lấy cớ là vì hoàn toàn không biết gì về giáo

dục, hay là vì công việc bận quá. Nhất là khi ông ta đã lo đến tìm được một

người có đủ trình độ, trả tiền cho họ để họ chăm sóc con cái học hành.

Có những bà mẹ cũng quyết tâm kèm cặp con cái học bài. Nhưng có quyết

tâm thôi không phải là bao giờ cũng đã đầy đủ, khi mà không thạo nghề. Và

vì vậy mà chúng ta có khi đã được chứng kiến những cảnh đau thương là

những đứa trẻ bị đày đoạ vì phải học tập quá mức vì người mẹ ép buộc

chúng phải học. Những đứa trẻ khốn khổ, chỉ được rời bỏ ghế nhà trường để

bị đóng đinh vào bàn học ở gia đình hay đơn giản là để bị đóng đinh vào ghế

đẩu ở bên một tấm phản, nhìn thèm thuồng ra sân, đàn gà và đàn chim mổ

thóc, nghe tiếng động ở ngoài phố với một lòng mong muốn điên cuồng được

trốn nhảy ra ngoài cửa sổ ngay từ lần đầu ba mẹ sơ ý; nhiều khi lại phải trả

lời những câu hỏi được đặt ra một cách sai lạc không đúng với những bài

học hay bài làm, mà bà mẹ chẳng hiểu một tí gì cả. Những cái cốc đầu không

đúng chỉ dẫn tới làm thằng bé khốn khổ ngu đần thêm. Cứ thế làm cho nó

chán nản mệt mỏi về việc học tập, làm cho hạnh phúc gia đình trở thành mối bất hạnh sâu sắc nhất”127.

Khi viết những dòng này, Nguyễn Văn Vĩnh cho thấy ông là một người am

hiểu về tâm lý trẻ nhỏ. Những cuốn sách mà ông đọc được của phương Tây về giáo 127 Nhời đàn bà (Cần hiểu tâm lý nhu cầu của trẻ ), Đông Dương tạp chí số 10, Jeudi 17 Juillet 1913; Đông Dương tạp chí số 14, Jeudi 14 Aout 1913 viết dưới bút danh Đào Thị Loan.

166

dục tỏ ra khá hữu ích để ông vạch ra một nền giáo dục mới khoa học và tiến bộ hơn.

Ở chuyên mục Nhời đàn bà, trong vai một người phụ nữ nuôi con, ông viết:

“Trong một quyển sách dạy con gọi là “Emile” của ông Rousseau làm ra,

cậu nó có đọc cho tôi nghe, thì có dạy rằng: Trẻ con còn bé đã nên cho nó

biết ngay cái giá mọi vật ở quanh mình nó, khó nhọc thế nào mới lấy được.

Nó đòi cái gì đáng cho chơi thì nên để nó bò đến nơi, hoặc cầm tay nó mà

đưa cho nó với lấy; hoặc để trên cao thì nâng nó lên cho nó với để nó suy

xét cái gì xa, cái gì gần, cái gì dễ lấy, cái gì khó lấy. Như thế thì trẻ còn bé

đã suy được viễn cận dị nan, về sau nhớn nó có trí cách vật. Trẻ con đứa

nào cha mẹ nuông quá, nó đòi cái gì cũng cho, về sau nhớn lên được quyền cao chức trọng nó hay có tính áp chế”.128

Có thể nói rằng, giáo dục là chủ đề luôn giữ một vị trí quan trọng trong Đông

Dương tạp chí. Ngay từ số 42 ngày 5/3/1914, một chuyên mục gồm 8 trang đã

được triển khai mang tên là Tân học văn tập bao gồm Văn chương khoa và Sư phạm

khoa, mỗi chương gồm 4 trang và tập san này hiện diện cho tới cuối 1914. Sau đó,

kể từ 1915, thêm một phần sư phạm khác được đính kèm vào mỗi số báo cho tới

ngày 17/3/1918 – năm ra ấn bản sách Nam học niên khóa - bộ sách giáo khoa nho

nhỏ nhanh chóng trở thành một phần quan trọng của tạp chí. Kể từ năm 1919, Đông

Dương tạp chí trở thành một tạp chí chuyên về sư phạm, gọi là Đông Dương học

báo.

Khoan xét đến mức độ thành công của những tham vọng đã được ban biên

tập đề ra ban đầu, rõ ràng là Đông Dương tạp chí đã đem đến cho độc giả những

phương pháp lí luận của phương Tây thông qua những chuyên mục về giáo dục.

Những bài viết trong những chuyên mục khác của tạp chí, tuy không thuộc chủ đề

giáo dục nhưng cũng giúp ích cho độc giả về mặt phương pháp như Kỹ thuật nuôi

trẻ, Vệ sinh, Luật, Kinh tế, Thuật thương mại, Thời tiết, Thị trường, Hối đoái

128 Đông Dương tạp chí số 13.

v.v…tất cả đều là những bộ môn khoa học hoàn toàn mới mẻ.

167

Vượt qua những khó khăn của những người đi tiên phong, ban biên tập Đông

Dương tạp chí đã rất nỗ lực trong việc phổ biến rộng rãi những kiến thức mới đến

cho quần chúng, với hy vọng khơi dậy ở nơi họ một lối tư duy, phương pháp khoa

học như người phương Tây. Có thể xem Đông Dương tạp chí như một “trường học”

buổi giao thời cho tất cả mọi người. Với những triết lí giáo dục mới mẻ, tiến bộ,

trong suốt sáu năm tồn tại, Đông Dương tạp chí đã tạo nên những sự vận động đổi

mới quan trọng, mang tính đột phá trong lĩnh vực văn hóa cho xã hội Việt Nam đầu

thế kỉ XX. Và đối với quá trình đổi mới của đất nước ta ở thời điểm này, những bài

học đó vẫn còn nguyên giá trị.

3.3. Đông Dương tạp chí và vấn đề đổi mới phong tục, tập quán

3.3.1 Chuyên mục Xét tật mình

Nhắc đến vấn đề đổi mới phong tục trên Đông Dương tạp chí, người ta

thường nghĩ ngay đến chủ bút Nguyễn Văn Vĩnh, mặc dù tờ báo này có một chuyên

mục rất hay do Phan Kế Bính phụ trách có tên là Việt Nam phong tục. Tình huống

thú vị này xuất phát từ thực tế rằng Việt Nam phong tục là tuyển tập những tập tục

tốt đẹp của Việt Nam thời xưa. Lập ra chuyên mục này, ban biên tập gửi gắm vào

đó nguyện vọng bảo tồn những cái hay, cái đẹp của văn hoá dân tộc. Tuy nhiên, bên

cạnh những cái hay, cái đẹp cần gìn giữ, phát huy. Những người thực hiện Đông

Dương tạp chí nhận thấy rằng việc cần kíp không kém là phải đổi mới những phong

tục tập quán lạc hậu, những thói hư tật xấu đã ăn sâu vào trong máu của người Việt.

Có như thế, giống nòi Việt Nam mới hiểu biết hơn, tiến bộ hơn để giữ lấy quyền tự

chủ, tự cường của dân tộc. Để làm được điều này, không ai thích hợp hơn chủ bút

của tờ báo: Nguyễn Văn Vĩnh.

Được biết đến như là một nhà chính trị thất bại nhưng trong lĩnh vực văn

hoá, ông lại được đánh giá là một nhà cải cách gặt hái không ít thành công. Kể từ

năm 1907, khi biết đến sức mạnh của báo chí, nhà in và nghệ thuật trong việc tác

động đến xã hội, Nguyễn Văn Vĩnh đã từ bỏ cuộc đời công chức để xúc tiến cuộc

cách mạng văn hoá và xã hội trong xã hội cổ truyền Việt Nam. Báo chí, niềm say

168

mê của ông là một diễn đàn để tranh luận, trao đổi ý kiến, để tấn công vào mọi vấn

đề xã hội và chính trị của thời đại mà ông đang sống. Lúc bấy giờ, ít có trí thức Tây

học nào có được nhiều hiểu biết thực tế cả về các vấn đề nông thôn, thành thị như

Nguyễn Văn Vĩnh.

Theo những người từng tiếp xúc với Nguyễn Văn Vĩnh, ấn tượng mạnh nhất

về ông qua các câu chuyện là ông muốn xây dựng một nước Việt Nam thực sự hiện

đại, phát triển như là Châu Âu. Điều làm ông bận tâm hơn cả là ghi tên Việt Nam

lên bản đồ các nước “văn minh”. Để làm được việc đó, ông ra sức cổ vũ chữ quốc

ngữ, hô hào người dân cởi bỏ những hủ tục, học nếp sống văn minh, giữ gìn vệ sinh,

chăm sóc sức khỏe theo cách của người phương Tây.

Cuộc cách mạng văn hoá xã hội trên báo chí của ông một mặt là những tác

phẩm dịch về chủ đề văn học tư tưởng, một mặt là những bài viết tấn công vào

những hủ tục và thói hư, tật xấu của người Việt. Trên Đông Dương tạp chí, ông lập

một chuyên mục có tên là Xét tật mình trong đó tổng hợp mọi công thức của ông

chống lại những gì mà ông coi là nhược điểm của xã hội Việt Nam, những tập quán

gắn liền với việc chửa đẻ, tục ăn trầu, sự đồi bại, thói mê tín dị đoan… Loạt bài Xét

tật mình một mảng rất điển hình cho phong cách chính luận của Nguyễn Văn Vĩnh

và tư tưởng cải cách của ông. Với giọng điệu châm biếm đôi khi hơi quá quắt của

ông, những thói tệ mà ông vạch ra làm nhiều người không mấy dễ chịu. Nhưng

Nguyễn Văn Vĩnh vốn là một người rất kiên định với những gì mà mình đã tin

tưởng. Dựa vào một phương châm của người Pháp: “Tout dire, pour tout connaitre,

pour tout guérir - Nói hết, để biết hết, để chữa hết”, ông cho rằng cách hiệu quả

nhất để loại bỏ những tính xấu, những hủ tục là công khai những thói xấu, hủ tục đó

ra để người đời soi vào đó mà sửa, các thiết chế của Nhà nước hay chính quyền

cũng nhìn vào đó để có những điều chỉnh cho thích hợp. Đó không phải là sự bêu

xấu dân tộc, hay coi thường nguồn gốc của mình mà là một cách xây dựng, mở lối

cho những điều tốt đẹp. Theo Nguyễn Văn Vĩnh: “Tự biết dại ấy là đã giơ chân

bước vào đường văn minh đó”. Từ những năm trước đây, khi sang Pháp dự đấu xảo,

trong lá thư gửi người bạn Phan Duy Tốn của mình, ông đã bộc lộ suy nghĩ này:

169

“Nhận thấy sự còn kém của mình, có phải là xấu xa gì đâu? Trên đời này người nào

thấy được chỗ kém của mình, người ấy đã gần đi đến chỗ tiến bộ”.

Nguyễn Văn Vĩnh cho rằng, từ sự va chạm dữ dội với nước Pháp thực dân,

dân tộc Việt Nam sẽ biết tìm ra sức mạnh và sự phân định đủ để trừ bỏ những tệ nạn

xã hội, các tập quán và những thói tục của nó vốn là sản phẩm lỗi của thời đại quá

khứ. Suy nghĩ này cho thấy cách tiếp cận vấn đề rất Tây của ông và bộc lộ một

tham vọng rõ ràng rằng Việt Nam, một khi được cải cách sẽ có thể có một cấp độ

văn hoá ngang hàng với cấp độ văn hoá của kẻ đô hộ.

Chính vì lẽ đó mà khi phác họa ra bức chân dung “người Việt xấu xí”,

Nguyễn Văn Vĩnh không hề tỏ ra e dè hay khoan nhượng.

Có thể kể ra những chủ đề chính của một số bài Xét tật mình như sau: về các

nết xấu và hủ tục (Đông Dương tạp chí số 6), tính ỷ lại trong cuộc sống (Đông

Dương tạp chí số 8), ăn gian nói dối (Đông Dương tạp chí số 9), coi ăn uống là việc

quan trọng hàng đầu (Đông Dương tạp chí số 10), phụ nghề, ham danh (Đông

Dương tạp chí số 11), không biết tính trước tính sau dự phòng cho lâu dài (Đông

Dương tạp chí số 12), tính bán tín bán nghi không dứt khoát (Đông Dương tạp chí

số 13), ăn mặc suồng sã hớ hênh (Đông Dương tạp chí số 14), tật huyền hồ về nhận

thức tư tưởng (Đông Dương tạp chí số 15), lối học cổ hủ thông qua tiếng Trung

Hoa, tác hại đến hoạt động trí tuệ của dân tộc (Đông Dương tạp chí số 16), lợi dụng

đau khổ của đồng bào để trục lợi (Đông Dương tạp chí số 17), những khuyết tật

trong hoạt động trí thức (Đông Dương tạp chí số 18), nạn đồng bóng dị đoan (Đông

Dương tạp chí số 19), hay viết thư tố cáo nặc danh (Đông Dương tạp chí số 20),

vụng nói chuyện do hoạt động tư duy kém (Đông Dương tạp chí số 21), gì cũng

cười (Đông Dương tạp chí số 22), ham mê cờ bạc (Đông Dương tạp chí số 29)...

Việt Nam là một nước nông nghiệp lạc hậu nên còn nhiều hủ tục và tư tưởng

tiểu nông, cản trở không ít đến sự phát triển của đất nước. Một trong số đó là lối

nghĩ “trọng miếng giữa làng”, lấy miếng ăn làm qui chuẩn cho những thước đo

quan hệ xã hội, nhất là ở vùng nông thôn.

170

Về việc này, Nguyễn Văn Vĩnh có một bài viết khá gay gắt và thấm thía trên

Đông Dương tạp chí số 10. Theo ông, ở nông thôn, cái thói xấu đáng hổ thẹn nhất,

cần lên án và loại trừ là thói coi việc ăn uống là việc quan trọng hàng đầu trong

quan hệ xã hội, “hạch nhau từ miếng thịt nắm xôi, làm cho người ở chốn hương

thôn điêu đứng về cái nợ miệng”.

Chính vì “trọng miếng giữa làng” nên người Việt thành ra thích “ma to giỗ

lớn”. Người Việt Nam vốn trọng tình cảm, lễ nghĩa, coi trọng mối quan hệ với họ

hàng làng xóm, việc ma chay, cúng giỗ đương nhiên phải có. Thế nhưng, tổ chức

“ma to dỗ lớn” như một cách để trả nợ miệng, trong khi nhà không có cái mà ăn,

phải bán cả ruộng vườn thì hóa ra lại là một tội ác:

“Ăn đâu mà lại có, mẹ người ta chết cũng đòi ăn, bố người ta già cũng đòi

ăn. Không có cảnh nào làm cho người nhà quê An Nam nên xấu hổ bằng cái

cảnh một nhà tấp nập, người chết nằm trong áo quan, người sống thì kẻ khóc

người rên, mà chồng còn phải đi cầm trâu bán ruộng, vợ thì tất tả đi mượn

nồi mượn niêu, trước giường thờ thì thân hào kỳ lão, cụ nọ ông kia thứ tự

ngồi nhìn nhau đợi mâm cơm nai rượu cho được”.

Chính vì cái hủ tục đó mà đời sống người nông dân khốn đốn “tiền buôn

bán chẳng có, đi vay nợ về làm mấy mâm cỗ để giữ thể diện với hàng xóm”. Quá

bức xúc trước những thói tệ vô lý, dã man đó, ông Vĩnh dường như không giữ

được bình tĩnh nữa:

“Nhục! Nhục! là nhục cả bọn khu khu thủ cựu, giữ thói giã man, nhà người

ta chết cha than khóc, còn vác miệng đến đòi ăn. Nhục là nhục những đồ

quanh năm bỏ sõng hai tay chỉ nay đi giỗ này, mai đi chay nọ, làm cho việc

đãi khách vốn là cái thảo, là việc cầu thân, mà sinh ra một cái nợ phải nhăn

nhó. Nhục, nhục cho xã hội nước Nam, tưởng đoàn tụ nhau mà cùng giữ yên

chung, mà đồng tâm hiệp lực đưa nhau cho mỗi ngày một dảo bước lên cõi

sung sướng, lên cõi khôn ngoan, chẳng hóa ra hội tụ để mà tranh nhau thịt

lợn thịt gà, để mà ghen tị nhau miếng to miếng nhỏ, đầu cánh phao câu, để

mà tị nhau chiếu trên chiếu dưới, bát đầy bát vơi. Miếng thịt là miếng nhục!”

171

Ở các nước văn minh người ta ghét nhất sự ỷ lại. Đến mức cha mẹ dù có

vất vả cũng sống giản dị với nghề của mình, thấy con ăn nên làm ra, giàu có thì

mừng cho con chứ không muốn nhờ cậy. Chỉ khi nào thật sự già yếu quá, túng

thiếu quá mới yêu cầu con cái giúp đỡ. Dân ta thì ngược lại. Nhiều người có thói

quen coi việc được sống dựa vào sự giàu có của người khác là một vinh dự. Đến

độ thấy người sang bắt quàng làm họ; một người làm quan cả họ được nhờ; có

người bỏ cả việc đang làm để bám vào người khác mà ăn không ngồi rồi. Vì thế

người nghèo thì không khá hơn do lười lao động, người giàu thì phải tìm cách bất

lương để có thêm tiền chu cấp cho họ hàng; người làm quan thì phải ra sức hà

hiếp, chèn ép dân để ăn hối lộ. Cứ thế, đất nước quanh quẩn trong đói nghèo, lạc

hậu:

“Phải trông vào hai tay mình mà có ăn, tựa hồ như một cái nhục. Ai có

được anh em chú bác hoặc con cháu làm nên mà nương nhờ, thì lấy làm

vinh hạnh. Người làm nên cho họ được nhờ cậy, thì lấy làm một nghĩa vụ

danh giá. Vì một lí tưởng ỷ lại ấy, cho nên trong nước thực lắm kẻ ăn

không. Trong một họ, có người làm quan, hoặc có người giàu có, thì từ

ông bà, cha mẹ, chú bác, anh em, ai cũng trông vào đấy cả. Ví bằng

đương có nghề gì làm ăn, thì hình như cũng phải bỏ nghề đi mà nhờ. Mà

người làm nên quan cả, nếu để cho thân thích phải làm nghề hèn kiếm ăn,

tự hồ cho như là một điều bạc ác, diết dóng”.

Theo ông, cái tệ này rất nguy hiểm. “Nếu nước Nam ta mà cứ để vậy mãi

cái phong tục nhờ vả, trông cậy lẫn nhau, thì càng ngày trong nước càng thêm

giống sâu bọ, công nghệ không sao tiến hóa được, việc bán buôn không sao thịnh được, mà trong đám thượng lưu cũng sai mất cái đường hy vọng” 129.

Thói chuộng hư danh cũng là một thói xấu bị lên án trong chuyên mục

này. Người Việt Nam vốn có tính cần cù chịu khó, hay lam hay làm nhưng lại hay

đứng núi này trông núi nọ, không biết coi trọng công việc hiện tại của mình, xem

129 “Xét tật mình”, Đông Dương tạp chí số 8.

thường việc lao động chân tay:

172

“…Tay cầm cày mà mắt vẫn trông bọn dài lưng tốn vải, lúc nào quăng

được cái cày có ích, mà cầm lấy cái bút lông thỏ vẽ hươu vẽ vượn, tả cảnh

trên giời dưới biển, thì cũng quăng đi ngay. Người đi buôn, người làm thợ

thì lúc nào bất đắc dĩ phải vất vả thì vất vả. Đến khi nhờ cái chàng cái

đục, cái kim cái chỉ, mà có đồng dư, thì đi lo ngay cái hàn cái bát chi chi,

nghề nhà giao cho lũ đầy tớ không thèm làm nữa. Còn nhà nho thì khôn

học, gia công đèn sách, cũng chẳng qua cố lấy đôi hia cái lọng, khi đã

được rồi như người được câu thần chú mở cái cửa công đường. Làm đến

quan chữ nghĩa xưa không dùng đâu đến nữa, thì cái cần lao đó có gọi là cần lao hữu dụng được không?” 130

Ngoài thói chuộng hư danh, thói mê tín dị đoan cũng là một căn bệnh lâu

năm của người Việt. Nguyễn Văn Vĩnh viết mấy bài liền để lên án thói tục này.

Bài viết Hội kiếp Bạc đăng trên Đông Dương tạp chí số 14 là một ví dụ. Qua bài

viết, ông phê phán nạn buôn thần bán thánh, mượn một bậc công thần như Hưng

Đạo Đại Vương để mưu lợi cá nhân:

“Ai cũng nên biết rằng vua phong cho ông Trần Hưng Đạo làm thượng

đẳng thần, dựng lên đền cho thiên vạn cổ cúng vái cũng đã hình như bên

đại Pháp dựng tượng đồng để báo ơn mấy bậc đại hiền nhân có công to

với nhà nước, để cho đời sau thấy đó thì nhớ đến sự nghiệp của người xưa

chứ không phải là để bắt ma mà chữa bệnh cho mấy người đàn bà hiếm

muộn đâu”.

Từ sự mông muội của người dân, nơi linh thiêng trở nên xô bồ bát nháo:

“Năm nào đến hôm hội này, sân đền Kiếp Bạc cũng còn la liệt chỗ này một

đám, chỗ kia một đám mấy anh thầy cúng gõ trống gõ thanh la xúm quanh

mình người đàn bà nhăn da đỏ mắt, ngẳng cổ môi thâm, quăn queo uốn éo,

khi khóc khi cười. Thầy ốp già thì xưng bậy xưng bạ, có khi một người đến 36

130 Đông Dương tạp chí số 11

con ma làm”.

173

Ông đề xuất: “Cái tệ đồng bóng thực là hại lắm, tưởng nên nhân dịp này mà

tỏ cái dại và cái càn dở làm nhục thần tủi thánh”.

Cũng là vấn đề đức tin, nhưng trong Đông Dương tạp chí số 13, Nguyễn Văn

Vĩnh tập trung phê phán tật bán tín bán nghi, không dứt khoát của người Việt. Ông

lấy ví dụ rằng tuy không ít người đi nhà thờ làm lễ, nhưng đến các phủ điện chùa có

tiếng là linh thiêng thì cũng lễ vái không kém ai, với quan điểm: “bên cha cũng lễ,

bên mẹ cũng vái”. Những người theo Phật giáo hoặc tin vào sự linh thiêng của các

thánh thần thì khỏi nói. Họ tụng kinh niệm Phật, miệng không ngớt “Nam mô A di

đà Phật” nhưng không có chút hiểu biết gì về Phật pháp. Sự lễ bái cầu lợi này tạo cơ

hội cho các cùa chiền, đền đài biến thành nơi buôn thần bán Phật:

“Người An Nam ta có một điều, không biết là hay hay là dở, là tôn giáo cũng

vậy mà làm việc gì cũng vậy, tin chẳng ra tin, mà không tin cũng chẳng ra

không tin. Bởi vậy nên không có điều gì là thực nhiệt thành cả. […] Vì một

cái lý tưởng đó, người An Nam sinh ra tâm thần bất định. Không những việc

tôn giáo, ra đến việc đời hàng ngày cũng vậy, làm gì không có nhiệt thành

quyết đoán; cứ do dự, thấy người ta làm thì mình cũng làm mà chẳng suy

trước tính sau. Chẳng hỏi nhẽ tại làm sao mà mình làm, làm rồi nó ra thế

nào. […] Bởi dân mình lòng tin không quyết, tôn giáo không chỉ, cho nên

chùa chiền thành ra những cửa hiệu buôn thần bán Phật, mà người đi lễ cũng

không biết, cứ tiền trăm bạc chục đem vào mà cúng”.

Ngoài ra, Nguyễn Văn Vĩnh cũng mổ xẻ một tật xấu mà nhiều người vẫn cứ

cho là một đức tính tốt của người Việt: tính hay cười.

“An Nam ta có một thói lạ là thế nào cũng cười. Người ta khen cũng cười,

người ta chê cũng cười. Hay cũng hì, mà dở cũng hì; phải cũng hì, quấy cũng hì.

Nhăn răng hì một tiếng, mọi việc hết nghiêm trang”.

Ông đã chỉ ra rằng cái cười không đúng lúc đúng chỗ chẳng những không

tích cực mà còn gây phản cảm:

“Xét ra cái cười của ta nhiều khi có cái vô tình độc ác; có cách láo xược

khinh người; có câu chửi người ta; có nghĩa yên chí không phải nghe hết lời

174

người ta mà đã rèm (bác bỏ) trước ý tưởng người ta; không phải nhìn kỹ việc

người ta làm mà đã chê sẵn công cuộc người ta. […] Không gì bực mình

bằng rát cổ bỏng họng, mỏi lưỡi tê môi để mà hỏi ý một người, mà người ấy

chỉ đáp bằng một tiếng hì, khen chẳng ơn, mắng chẳng cãi, hỏi chẳng thưa,

trước sau chỉ có miệng cười hì, thì ai là không phải phát tức”.

Cái cách ứng xử kiểu “gì cũng cười” như vậy, theo Nguyễn Văn Vĩnh, là

“cách đãi kẻ dưới một cách thô tục, người có giáo dục đãi đứa ở cũng không nỡ

thế”. Theo ông, thói quen “gì cũng cười” của người Việt là một thái độ không đúng

mực chứ không phải là “cách của người hiền” như người ta vẫn tưởng: “Nó làm cho

ta hình như (là) kẻ xấc láo, không coi ai ra gì. Mà nên phân cái xấc láo là cái nết

tiểu nhân với cái cười đời là một cách cười kín đáo” (Xét tật mình - Đông Dương

tạp chí số 22).

Một tính xấu nữa của người Việt cũng bị đem ra mổ xẻ không thương tiếc:

tính gian dối, đối phó, biển lận, nhất là khi tiếp xúc với chính quyền. “Lên đến quan,

người thì có nói không, người không nói có, thi nhau đứa nào điêu ngoa đứa ấy

được. Mà các quan An - nam ta thì cũng đã biết chán ra rồi. Cho nên ông quan thực

thanh liêm, biết thương dân là những ông biết, cứ mỗi lần có đứa đi kiện nhau, đét

cho mỗi bên vài roi, đuổi nó về”.

Theo Nguyễn Văn Vĩnh, “nết xấu ấy lại là một nết cũ do lối xã hội ta mà ra”.

Ông giải thích rằng, từ xưa chịu sự áp chế của người Trung Quốc, người Việt sinh

ra cái tính ấy. Do quan lại lúc nào cũng tìm cách “dối dân em để có tiền nên dân

cũng tìm cách dối lại cho đỡ nạn”. Dân đen phải cõng trên mình cái “lễ” với quan,

nhưng thực bụng không phục cái “lễ” ấy, sinh ra ức chế, phản đối ngầm. Ngoài mặt

thì tuân phục để yên thân nhưng bên trong thì gây hấn, khích bác. (Xét tật mình -

Đông Dương tạp chí số 9).

Trong những thói quen người Việt cần phải sửa, có cả tính không biết cách

cần kiệm, dự phòng. Điều này thoạt nghe thì thấy vô lý, bởi người Việt Nam vốn

được xem như một dân tộc chịu khó, tiết kiệm. Tuy nhiên, theo Nguyễn Văn Vĩnh,

cái chịu khó tiết kiệm đó không khoa học nên nghèo vẫn hoàn nghèo. Người nhà

175

quê chỉ có hai cách tiết kiệm: “một là giấu đi. Bạc nén chứa từng chum, nhà lò xếp

tiền kẽm hàng vạn, mà vẫn ăn gio bọ chấu, cái áo chẳng dám may, cái nhà nát chẳng

dám cất lại. Hai là của ấy đem ra phá cho nó sướng tay, được lúc nào hay lúc ấy, tội

gì mà giữ”.

Cả hai cách này đều không tạo ra của cải, không đóng góp gì cho xã hội.

Nhìn ra được những hạn chế từ thói quen của đồng bào mình, Nguyễn Văn Vĩnh

cũng đồng thời phân tích những căn nguyên tạo ra cách hành xử đó. Theo ông,

nguyên nhân sâu xa hơn của việc này là do những bất an của xã hội phong kiến:

“xét trong gốc rễ cái tật ấy, thì tại nước Nam ta ngày xưa dân không được vững.

Phần thì quan hà hiếp, mồ hôi nước mắt quanh năm, ăn nhịn, để dành có được đồng

dư thì “đèn giời” hay dòm đến, mà đèn giời của quan thời cổ, soi vào đâu nấy rõ công lý ra thì ít, làm choáng anh phú hộ thì nhiều”131.

Không chỉ cần phải thay đổi về cách tiêu xài, người Việt cũng cần phải học

cách ăn mặc cho ý tứ, văn minh lịch sự. Theo chủ bút Đông Dương tạp chí, “người

mình có cách che thân thể sỗ sã quá”. Cả đàn ông lẫn đàn bà đều không để ý chuyện

ăn mặc, đâm ra bị người phương Tây chê là kém văn minh: “Có ông thì đứng giữa

đường cái, quần kéo khỏi đầu gối, chẳng sợ người chướng mắt. Người đàn bà ta

cũng vậy, ngồi giữa chợ mà cho con bú, hoặc sốc quần aó một cách tự do quá, quen

coi da thịt mình như một khúc gỗ, không quản ngại mắt người đi đường”.

Lý do cho những cử chỉ vô ý tứ này xuất phát từ “nết người đàn bà An Nam

không bao giờ vì thấy da thịt người đàn ông mà động lòng. Điều ấy chắc nghiệm ra

một vạn người như một. Cho nên tha hồ người đàn ông tự do sỗ sã. Người đàn bà

thấy qua dễ cũng không tưởng gì đến nỗi cúi đầu nhìn xuống đâu”. Về phía người

đàn ông thì: “xưa nay, cái luân lý nghiêm của nước ta, nó làm cho mình bao giờ có

tơ tưởng đến người có chồng con. Người đàn bà bồng con là người không ai dám.

131 Nguyễn Văn Vĩnh, “Xét tật mình” (Thói không biết cần kiệm, dự phòng cho lâu dài), Đông Dương tạp chí số 12, Jeudi 31 Juillet 1913.

Dầu trong ngọc trắng ngà cũng không ai dám thèm, dám để mắt vào nhìn nữa. Đứa

176

con bồng trên tay hình như là mốc cắm giới kỳ phận của ai rồi. Lòng người đàn bà nào cũng tin như thế, cho nên đã con mọn thì có quyền suồng sã”132.

Tuy nhiên, ông cho rằng không thể lấy lý do vì cái tục nước mình quen xuề

xoà với những người đã có gia đình để mà ăn mặc suồng sã. Cái gì hay nên học, cái

gì tệ nên bỏ: “tôi ngẫm cho nghĩ, hễ khi nào hai giống người đã ở lộn với nhau, thì

giống người sức kém, văn minh kém phải theo người sức hơn, văn minh hơn trong

những điều trái nhau đến nỗi chướng mắt. Cái lệ nhường nhịn ấy là một cái lệ xã

hội”.

Ngoài những thói tật “sờ sờ trước mắt”, người Việt có những tật mà tuy

không mấy người chú ý nhưng lại “can dự đến hết mọi điều”. Đó là tật “huyền hồ về tư tưởng”133. Nếu như những tật xấu như coi trọng miếng ăn, gì cũng cười, ăn

mặc thiếu ý tứ là những vấn đề thường gặp ở tầng lớp lao động chân tay thì bệnh

“huyền hồ về tư tưởng” lại là vấn đề của giới trí thức:

“Xét trong văn chương, điều gì cũng toàn là huyền hồ giả dối hết cả, không

cái gì là thực. Người làm thơ thì ngâm cảnh núi Thái Sơn, sông Hoàng Hà,

giời cao, bể rộng. Núi Tản Viên, Nhị hà sờ sờ trước mắt thì không ứng bao

giờ, […] thành ra đến hát cũng hát cho người, cảnh mình thì như mù mắt điếc

tai. Mượn chữ người mượn cả đến phong tục, tính tình, chứ không biết dung

vật liệu mượn ấy mà gây dựng văn chương riêng, cho nó có nét riêng đặc

biệt”.

Chính vì căn bệnh này của người Việt đã ngăn trở việc đổi mới phong tục,

tiến tới văn minh:

“Văn chương ta thì chí để mà tô điểm vẽ rồng vẽ phượng. Việc hay có ít thì

suýt ra nhiều, cho nên sự thật với cái hư văn xa nhau lắm lắm, tư tưởng

132 Nguyễn Văn Vĩnh, “Xét tật mình” (Ăn mặc suồng sã, hớ hênh), Đông Dương tạp chí số 14, Jeudi 14 Aout 1913. 133 Nguyễn Văn Vĩnh, “Xét tật mình” , (Huyền hồ về nhận thức, tư tưởng), Đông Dương tạp chí số 15, Jeudi 21 Aout 1913.

không hợp với tính tình, cảm động nhân tâm một cách giả dối cho nên không

177

thấy hiệu nghiệm đến phong tục. Vậy tôi tưởng ta muốn noi văn minh Thái

tây, nên tập lấy lối tả tính tình, lối văn chương chân thật. Mà kể được thực

tình dù xấu, dù hay, nên vinh hạnh ở cái bút khéo, chớ nên hổ thẹn hẹp hòi”.

Thực ra, căn bệnh này đã được các trí thức trong ban biên tập mổ xẻ rất

nhiều trong hầu hết các bài viết trên Đông Dương tạp chí. Họ kêu gọi đổi mới giáo

dục, đổi mới tư tưởng, học tập văn minh phương Tây cũng đều nhằm mục đích để

chữa căn bệnh này của người Việt. Tuy nhiên, để có sự chuyển biến, rất cần thiết

phải nói đi nói lại, cho đến khi người Việt thông suốt thì thôi: “Tật mình xin cứ bàn

mãi, dù thay mục sách cũng cứ giữ một chủ ý đó cho mình biết bệnh, mà thầy cũng

dễ thuốc thang. Bên Xét tật mình thì xin tệ nhà cứ moi móc cho ra chân răng kẽ tóc,

mà nết người thì ta cũng mượn nhời hay dịch lại để đồng bào cùng noi theo”.

Để giúp dân ta tiến bộ, điều quan trọng là nhận rõ dân tộc mình đang đứng ở

đâu trên bước đường văn minh. Theo Nguyễn Văn Vĩnh, “Người An Nam ta, trình

độ văn minh ở một quãng thực lạ. […] Bảo dân ta là một dân trẻ con thì không phải,

mà bảo là dân đã trưởng thành cũng không được. Học vấn thì thực là tạp”.

Điều éo le là, mặc dù vậy, người dân lại có tính bảo thủ, chẳng chịu thừa

nhận cái hay, cái tốt để bước đến văn minh, tiến bộ. Việc học hành là một ví dụ:

“Xưa nay phần đông người Việt học không có qui thức, cứ học tràn đi, thấy

cắt nghĩa nghe càng khó bao nhiêu, lại càng cho sự học của mình làm hay

bấy nhiêu. Có khi học mãi không hiểu được, mà trí không nghĩ đến điều mình

học, không biết suy rộng ra, thấy nhời các tiên nho dạy hay thì thuộc lòng

mà yên trí rằng không có điều gì hay hơn nữa và nên học hơn nữa”.

Chính bởi suy nghĩ này, họ không chịu tiếp thu cái mới, cái hay:

“Bản quán đã thí nghiệm một việc nhật báo này thì biết. Trong mục phổ

thông, bản báo đem những điều dễ mà dịch ra trước, nhiên hậu mới luận đến

những điều cao xa, triết học, thuần lý học thì người xem báo nói rằng: ta có

phải là trẻ con đâu mà dạy ta sơ học? Thế mà có đem điều cao mà luận thì

nhiều người nghe không vỡ? Nhưng mà kẻ xem không vỡ không chịu rằng

không vỡ không tệ bằng những người không hiểu mà cứ làm như ta hiểu thừa

178

đi, lại còn có ý chưa được cao luận bằng báo Tàu. […] Đã từng thấy có kẻ

đọc xong tờ báo mà khen rằng: Khéo kiếm chuyện! mà chê rằng: nhật báo

chê cả giời! Người nói rằng: Bẻm nhỉ! Có kẻ xem trong cả một bài mới thấy

một vài nơi có điểm câu buồn cười, thì cười, nhưng mà cái cười ở chỗ hay vặt, quên cả đến nghĩa lý bài luận”.134

Ông kết thúc bài viết bằng một lời than: “khó thay, việc khai hoá một dân tộc

học vấn dở dang như nước Nam nhà ta”.

Bài viết này của Nguyễn Văn Vĩnh khiến ta nhớ đến mấy câu thơ của Tản Đà

Nguyễn Khắc Hiếu:

“Dân hai nhăm triệu ai người lớn

Nước bốn nghìn năm vẫn trẻ con”

(Mậu Thìn Xuân cảm -1932)

Thật đúng là những tư tưởng lớn gặp nhau!

Tiếp tục với chủ đề tấn công vào các khiếm khuyết trong lĩnh vực tư tưởng

của người Việt, Nguyễn Văn Vĩnh còn chỉ ra một căn bệnh nữa cũng cần phải chỉnh

đốn: “bệnh ngồi thừ”.

“Giống người An Nam ta, và nhiều giống ở Á châu có một tính truyền nhiễm

lâu đời là tính ngồi thừ, không làm gì và cũng không nghĩ gì cả. Như ta nói

rằng con ruồi đậu mép cũng chẳng buồn xua. […] Nhiều kẻ cũng có đầu óc,

có chân, có tay mà như không kể đến, sống không ai biết, chết không ai hay,

chẳng can dự gì đến nhân quần xã hội”.

Tác giả đề nghị: “Đó là một tật nên sửa. Mình nên học lấy cách sống của các

giống minh mẫn bên châu Âu, nhiên hậu mới lo toan được đến cách gầy cho có

quốc thể, có mặt mũi trong trường ganh đua thế giới”.

Qua mảng đề tài về những thói hư tật xấu của người Việt, có thể thấy sự sắc

sảo và thẳng thắn của ngòi bút Nguyễn Văn Vĩnh. Từ những hiện tượng tưởng

chừng như nhỏ nhặt trong đời sống, ông đã khái quát thành một cách ứng xử, một

134 “Xét tật mình”, Những khuyết tật trong hoạt động tri thức của dân ta , Đông Dương tạp chí số 18.

thái độ sống của người Việt để nhìn vào đó, người ta có thể sửa mình. Văn minh

179

phong tục của dân tộc từ đó mới được đắp bồi, phát triển. Có như vậy, Việt Nam

mới đạt được mục đích thoát khỏi ách đô hộ nhanh hơn và theo cách tốt hơn, như được trình bày trong câu đề “Nói hết, để biết hết, để chữa hết”.135

Qua chuyên mục này, bài học mà ban biên tập Đông Dương tạp chí muốn

nhắn nhủ với độc giả là: vấn đề không phải là theo đuổi mô hình Tây phương một

cách liều lĩnh mà phải phân tích kĩ càng những khuyết điểm của người Việt Nam để

có thể sửa đổi và tiến bộ. Theo họ, những khuyết điểm chính của người Việt Nam

chủ yếu nằm ở cách mà họ tổ chức xã hội: “Các tật xấu của ta hết thảy chỉ có một

cái căn, là cái cách đoàn thể, cách lập hương thôn, sinh ra một cách giáo dục riêng làm cho người ta lớn lên, hội một cái ý thắt buộc về phận làm người, về xã hội”.136

Vì cách tổ chức của xã hội Việt Nam không được toàn diện, nên cải cách là hết

sức cần thiết. Do đó, cần phải theo những phương pháp mới.

3.3.2. Chuyên mục Việt Nam phong tục

Kể từ năm 1915, trong mục Bổ Quốc Sử trên Đông Dương tạp chí, với loạt

bài Việt Nam phong tục, Phan Kế Bính cũng cung cấp một cái nhìn thú vị phong tục

tập quán của người Việt Nam, thông qua lăng kính đặc biệt của một nhà trí thức am

tường cả Hán học lẫn Tây học. Các bài viết trong chuyên mục này sau đó được tập

hợp lại thành cuốn sách mang tên Việt Nam phong tục và nhanh chóng trở thành

một tác phẩm được yêu thích rộng rãi, không chỉ trong dân gian mà ngay cả với giới

nghiên cứu về văn học, văn hoá.

Mặc dù là một trí thức của nền văn hóa Nho học, Phan Kế Bính quan tâm sâu

sắc đến các phong tục tập quán dân gian, những điều mà theo ông, đại diện cho một

bộ phận quan trọng của văn hoá dân tộc và từ đó tạo nên hình ảnh hiện đại của nền

văn minh quốc gia.

Việt Nam phong tục được Phan Kế Bính chia thành ba thiên: thiên thứ nhất

135 Phần đầu của mục Đông Dương tạp chí, 1913 số 6 (19/7), trang 4 - 5 136 Phần đầu của mục Đông Dương tạp chí, 1913 số 6 (19/7), trang 4 - 5

về “phong tục trong gia tộc”, thiên thứ hai về “phong tục trong hương đảng” và

180

thiên thứ ba là “những phong tục trong xã hội”. Qua từng thiên viết một, Phan Kế

Bính đã lần lượt tái hiện lại đời sống sinh hoạt, lễ nghi, tổ chức của xã hội cổ truyền

Việt Nam với những chi tiết cụ thể và sống động.

Mở đầu cuốn sách của mình, ông giới thiệu: “Mỗi nước có một nền phong

tục riêng. Phong tục ấy kì thuỷ hoặc bởi tự một vài người rồi bắt chước nhau ra

thành thói quen. Hoặc bởi phong thổ và cách chính trị, cách giáo dục trong nước mà

thành ra. Hoặc bởi cái phong trào ở ngoài tràn vào rồi mà dần dần nhiễm thành tục”.

Rất uyên bác, Phan Kế Bính giới thiệu các phong tục kèm theo các huyền

thoại đã sinh ra nó với lời giải thích rất kỹ càng. Với tinh thần phân tích và phê bình

cao, sau khi đã giới thiệu các khái niệm đó, ông lại đưa vào mỗi cuối chương một

lời bình chú. Hành động này mục đích là để giáo dục dân chúng, những người mà

theo ông có thể mở mang tri thức nhờ vào chữ quốc ngữ. Ông cũng hy vọng chuyên

mục này mang đến cho người dân một tầm nhìn đúng đắn và giúp họ suy xét một

cách khách quan về các hành vi của mình.

Tuy mục đích chính của chuyên mục là giới thiệu nhằm lưu giữ những nét

đẹp của văn hoá dân gian, tuy nhiên, không phải vì thế mà Phan Kế Bính chỉ ghi

chép lại những phong tục hay mà bỏ qua những hủ tục. Tất cả những ưu khuyết của

một nền văn hoá cứ thế bước vào trang biên khảo của ông như nó vốn có, sống động

và chân thực với một tinh thần khoa học cao: “Dưới này tôi sẽ phân ra từng chương,

từng điều theo thứ tự, từ gia tộc đến hương đảng rồi ra đến xã hội mà kể lần lần từng điều, điều gì có sự tích gì cũng xin kể cả”137.

Với tinh thần đó, Phan Kế Bính khá thẳng thắn trong việc chỉ ra các mặt trái

của phong tục tập quán của dân tộc. Trước hết là tục mê tín dị đoan, đức tin vô lí,

tầm phào, với đủ loại thánh thần:

“Tại sao ở Châu Á, các vị thần lại được bái quá mức như vậy, họ có thể bảo

vệ đất nước hay làm cho chúng ta giàu có như những quốc gia Châu Âu đâu?

Chỉ nguyên nhân này thôi cũng đủ để thấy sự sai lầm trong các tín ngưỡng

137 Lời giới thiệu.

của chúng ta rồi [quyển I, trang 84]. […] Chúng ta không biết do đâu mà

181

thánh thần ma quỷ lại trở nên kì bí nhưng chúng ta biết được mình phải tốn

biết bao là tiền cho các thứ đồ vật này, thật là một khoản tiền tiêu vô lý!

(quyển I, trang 119)”.

Trong vấn đề tôn giáo, Phan Kế Bính đã chọn một cách tiếp cận tích cực và

mang tính khoa học, với mong muốn thuyết phục người dân Việt Nam từ bỏ sự mê

tín hão huyền về những vấn đề có liên quan đến các thế lực siêu nhiên. Với cảm

hứng từ các cuộc tranh luận của những người ủng hộ thuyết vô thần ở Pháp, ông

thấy rõ các thách thức khi đối mặt với các hoạt động liên quan đến tôn giáo ở Việt

Nam. Bài viết của ông về Phật giáo cho thấy một tầm nhìn sâu rộng về lĩnh vực này

cũng như những tác động của nó trong đời sống của người Việt:

“Theo như đạo pháp được rao giảng, cái thiện và cái ác sẽ nhận được

thưởng phạt công minh, lời giảng đó là một sự răn dạy đủ cho mọi người.

Nhưng than ôi chúng ta chẳng quan tâm gì hơn đến các nguyên tắc suông và

còn thêm vào đó những lời đạo biến chất. Người ta tin vào những điều mê tín

và có rất ít người có thể hiểu được các thuyết giáo cao siêu. […] Do vậy, sự

sùng bái này chẳng giúp gì cho việc liên kết con người ta lại mà còn gây

phương hại đến các di sản, điều này bị gây ra bởi một niềm tin sai lạc. […]

Có rất nhiều chùa chiền nay đã trở thành nơi trú ngụ cho những kẻ gian ác”.

(quyển I, trang 124 – 125).

Vấn đề vệ sinh có vẻ là vấn đề Phan Kế Bính trăn trở nhất khi ông đề cập

đến văn minh phong tục Việt Nam, từ ăn uống, sinh đẻ đến việc chôn cất, mồ mả.

Đoạn văn dưới đây nói về các mộ phần bộc lộ khá rõ điều đó:

“Có rất nhiều ngôi mộ lại nằm rất gần khu vực ao hồ và các con sông mà

người ta lấy nước để sử dụng bị ô nhiễm bởi sự thối rữa của các xác chết,

điều này rất gây hại cho việc vệ sinh. Chúng ta rất tin tưởng vào thuật phong

thủy, có những người này thì được chôn ở đây, những người khác lại chôn ở

kia, ngang dọc lẫn lộn, không có chút trật tự. Do vậy hay làm người ta bối

rối và lầm lẫn giữa mộ này với mộ kia. Cho dù những hành vi này chẳng

182

mấy quan trọng nhưng nó lại không phù hợp với nền văn minh và tôi tin

tưởng rằng mọi người phải cải cách chuyện này.

Giả sử như chúng ta làm theo các tập quán Châu Âu, ở mỗi địa phương ta

tìm một nơi xa cách khỏi các ao hồ hay sông ngòi để bảo vệ nguồn nước làm

chỗ đặt nghĩa trang. Khi ta chôn cất ai đó, ta phải chôn họ thật sâu và phải

theo trật tự bởi vì như vậy hợp lý hơn và khi ta đến thăm một ngôi mộ nào đó

thì sẽ dễ dàng và thuận tiện hơn (quyển I, trang 135 – 136)”.

Từ đó, Phan Kế Bính kết luận rằng phương thức của Châu Âu thì hợp lý hơn

và thuận tiện hơn.

Những ghi chép về tục sinh đẻ của người Việt bổ sung thêm cho mối lo ngại

về vấn đề vệ sinh trong các phong tục cổ truyền Việt Nam: “nhưng chỉ hiềm ta khi

xưa chưa hiểu cách vệ sinh trong khi sinh sản, nào là nằm than, uống nước tiểu, rất

là một cách làm cho sinh bệnh, không trách đàn bà ta nhiều người hay sinh ra hậu

sản mà ốm mòn”.

Vấn đề Phan Kế Bính nêu ra cách đây gần một trăm năm cho đến tận ngày

nay vẫn chưa khắc phục được triệt để, nhất là ở các vùng nông thôn. Và từ đó, ta

cũng thấy được sự tiến bộ của ông khi những lời khuyên ông đưa ra rất khoa học:

“Cứ như Châu Âu, khi sinh sản, các bà đỡ, cô đỡ chuyên môn đến đỡ, có

thuốc thang, ăn uống sạch sẽ. Khi còn thơ ấu nuôi nấng có điều độ, từ lúc

cho bú, lúc cho ngủ, lúc cho chơi cũng có thì giờ, thì thực là hợp với cách vệ

sinh. Khi biết học thì cho vào trường học, dạy dỗ có thứ tự, có khuôn phép.

Đến lúc khôn lớn, mặc sức mà lập thân, không cần gì phải lo lắng thay cho

nữa. Bởi vậy con nít ít bệnh tật mà nhiều người thông thái, lại gây cái tính tự

lập cho con”.

Nhìn chung, đối với Phan Kế Bính, điều quan trọng nhất sau khi xem xét lại

hệ thống các phong tục, tập quán là người Việt Nam phải biết tự giải phóng mình

183

khỏi các phong tục lạc hậu và thực thi phong tục bằng một phương pháp có lợi hơn.138

Cũng như Nguyễn Văn Vĩnh đã viết rằng các khiếm khuyết của người Việt

Nam bắt nguồn từ giáo dục, Phan Kế Bính cũng thấy được tầm quan trọng của việc

phải mang phương pháp sư phạm mới trong hệ thống giáo dục Việt Nam và chỉ có

một cuộc cải cách giáo dục thật sự mới có thể giúp thay đổi cả xã hội.

3.4. Đông Dương tạp chí và vấn đề nữ quyền

Vấn đề nữ quyền trên Đông Dương tạp chí chủ yếu thể hiện trong chuyên

mục Nhời đàn bà phụ trách bởi chủ bút Nguyễn Văn Vĩnh với bút danh Đào Thị

Loan (Loan là tên con gái Nguyễn Văn Vĩnh).

Thực ra chuyên mục này đã được Nguyễn Văn Vĩnh lập ra trong thời gian

làm chủ bút tờ Đăng Cổ tùng báo. Đây là chuyên mục mà chủ đề không chỉ liên

quan đến chị em phụ nữ mà còn nói rộng hơn đến các vấn đề lớn trong xã hội. Điều

đặc biệt là các vấn đề này được nhìn nhận với vị thế của một người phụ nữ.

Qua chuyên mục này, ông muốn có một tiếng nói đại diện cho một bộ phận

đông đảo công dân mà vị thế của họ còn khá mờ nhạt bởi quan niệm trọng nam

khinh nữ. Khi Đăng Cổ tùng báo bị đóng cửa, mục Nhời đàn bà của Nguyễn Văn

Vĩnh cũng đành phải dừng lại. Nhưng sáu năm sau, khi Nguyễn Văn Vĩnh chủ

trương ra tờ Đông Dương tạp chí vào năm 1913 thì mục Nhời đàn bà lại tái xuất

hiện, vẫn dưới bút danh Đào Thị Loan, bài đầu tiên đăng trên Đông Dương tạp chí

số 5.

Nguyễn Văn Vĩnh rất quan tâm đến các vấn đề của phụ nữ trong các mối

quan hệ gia đình và xã hội. Các bài viết của ông khá đa dạng, bao quát hầu hết các

vấn đề liên quan đến hạnh phúc gia đình và sự tiến bộ của phụ nữ ở giai đoạn lịch

sử lúc bấy giờ. Có thể thấy rõ điều này qua hệ thống các bài viết được liệt kê dưới

138 Ví dụ như các thủ tục khai hội. Vì lý do này hay lý do khác, nó không chỉ vô dụng mà còn rất tốn kém, cần phải loại bỏ càng sớm càng tốt (Phan Kế Bính, sđd)

đây:

184

-   Cần trị thói xấu ăn chơi, cờ bạc, hát xướng của đàn ông, Đông Dương tạp chí

số 5, Jeudi 12 Juin 1913.

-   Phải biết chăm sóc bản thân để giữ chồng, Đông Dương tạp chí số 6, Jeudi 19

Juin 1913.

-   Vấn đề sinh đẻ, Đông Dương tạp chí số 8, Jeudi 3 Juillet 1913; Đông Dương

tạp chí số 9, Jeudi 3 Juillet 1913; Đông Dương tạp chí số 11, Jeudi 24 Juillet

1913.

-   Giữ vệ sinh khi sinh đẻ theo khoa học, Đông Dương tạp chí số 12, Jeudi 31

Juillet 1913.

-   Vấn đề giáo dục con cái, Đông Dương tạp chí số 7, Jeudi 26 Juin 1913.

-   Cần hiểu tâm lý nhu cầu của trẻ, Đông Dương tạp chí số 10, Jeudi 17 Juillet

1913, Đông Dương tạp chí số 14, Jeudi 14 Aout 1913.

-   Dạy con từ thưở còn thơ, Đông Dương tạp chí số 13, Jeudi 7 Aout 1913,

Đông Dương tạp chí số 14, Jeudi 14 Aout 1913.

- Vấn đề ăn mặc của người phụ nữ, Đông Dương tạp chí số 15, Jeudi 21 Aout

1913.

-   Công dung ngôn hạnh, Đông Dương tạp chí số 16, Jeudi 28 Aout 1913.

-   Biểu dương lòng từ thiện của chị em phụ nữ, Đông Dương tạp chí số 17,

Jeudi 4 Septembre 1913.

- Tết Trung thu, (Vai trò của người phụ nữ trong gia đình), Đông Dương tạp

chí số 19, Jeudi 18 Septembre 1913.

- Phê phán nạn múa may đồng bóng ở các hội đền, Đông Dương tạp chí số 20,

Jeudi 25 Septembre 1913.

- Con sâu đổ sầu nồi canh, Đông Dương tạp chí số 21, Jeudi 2 Octobre 1913.

- Lắm vợ, Đông Dương tạp chí số 22, Jeudi 9 Octobre 1913.

- Cách sung sướng, Đông Dương tạp chí số 38, Jeudi 5 Fevrier 1914.

Trong những bài viết đầu tiên đăng trên mục Nhời đàn bà trên Đăng Cổ tùng

báo, Nguyễn Văn Vĩnh đã tỏ rõ quan điểm phụ nữ cần phải được học hành để tiến

185

bộ khi ông phê phán quan điểm của một số người (được mặc định là “các ông”),

cho rằng người phụ nữ học chữ quốc ngữ dễ lăng nhăng, không chung thuỷ:

“Nhiều ông cứ nói rằng: gái học biết chữ hay đa tình. Ông có vợ biết chữ, lại

lo rằng vợ viết thơ (thư) cho giai…Điều ấy các quan anh dậy thế, quả là hẹp

quá. […] Những ông sợ vợ biết chữ hay viết thơ cho giai, là những ông

không có tài trí gì, chỉ những mong vợ ngu dốt, cứ theo gia huấn mà thờ

chuộng chồng, chớ không để cho vợ cứ tuỳ tâm tưởng mà phục...”.

Là người am tường các vấn đề xã hội, Nguyễn Văn Vĩnh hiểu rõ hơn ai hết

những áp lực mà người phụ nữ Việt Nam phải chịu trong xã hội cổ truyền còn nhiều

thói tục lạc hậu. Trong các thói tục ấy, tệ “con sâu đổ sầu nồi canh” đã làm cho

không ít chị em phải điêu đứng.

Ông lấy ví dụ rằng nhà có mấy chị em, lỡ có một cô hư hỏng cách này hay

cách kia là tất cả các cô khác cũng bị mang tiếng, cha mẹ cũng bị chụp mũ “gia

phong không nghiêm”; người phụ nữ Việt Nam vì thế mà thiệt thòi lại càng thêm

thiệt thòi: “Thế mới biết cái nghĩa gia tộc của người nước Nam mình thực nặng.

Làm thân con gái, chẳng những chất hàng phỉ phong, mà còn phải trông nom từng

giờ từng phút đàn em dại, lại còn phải tuỳ cái kiên nhẫn của hai đứng thân. Người lỡ ra mà hiểu lầm cái danh phận một chút thì hại ra một đời”.139

Theo ông, “Con sâu đổ sầu nồi canh” là một thái độ xã hội vơ đũa cả nắm về

đạo đức rất đáng lên án. Điều này cần phải được loại bỏ để bảo vệ quyền lợi chính

đáng cho chị em. Muốn như vậy, cần phải cải cách phong tục. Cái gì dở nên bỏ, cái

hay nên tiếp tục lưu truyền: “Ân oán xem ra tuỳ cảnh. Ai vì đó mà thiệt thòi, thì làm

cho điều hủ lậu nên lập tức cải lương. Ai nhờ đó mà vẻ vang hơn người thì lấy làm

luân lý hay nên giữ làm đạo học thiên cổ phải theo của dân An Nam ta”.

Nguyễn Văn Vĩnh thường phân tích vai trò quan trọng của người phụ nữ

trong gia đình và xã hội. Ông cho rằng người phụ nữ không phải là đồ trang sức để

trang trí cho đàn ông và cũng không nên tự biến mình thành đồ trang sức hay là

139 “Con sâu đổ sầu nồi canh”, Đông Dương tạp chí số 21, Jeudi 2 Octobre 1913.

“một vật quí để đàn ông nuôi mà chơi”. Trong bài trả lời cho báo Phụ Nữ tân văn,

186

ông bày tỏ cái nhìn về nữ quyền khá ngộ nghĩnh. Đó là phụ nữ Việt Nam đang có

cái nữ quyền mà phụ nữ phương Tây phấn đấu để đạt được nhưng lại không biết

đến điều đó, lại đòi có vị trí hiện tại mà phụ nữ Châu Âu đang muốn thoát ra. Bởi vì

thực tế, người phụ nữ Việt Nam có vị trí rất quan trọng trong gia đình. Tuy thua

thiệt hơn đàn ông trong các mối quan hệ xã hội vì những quan niệm lạc hậu, phong

kiến nhưng phụ nữ là “nội tướng” trong giang sơn nhỏ của họ. Họ chính là người

“tay hòm chìa khóa”, lo lắng quán xuyến mọi công việc trong ngoài: “Cứ thiển ý tôi

thì thế giới Âu Tây, từ chiến tranh chi hậu, dường như đang gây dựng cho phụ nữ

một cái địa vị khác rồi nó ra cái địa vị như phụ nữ ở nước Nam ta. Mà phụ nữ nước

ta, đương ở cái địa vị đó thì hình như lại đương thèm muốn một địa vị nào khác, có

lẽ rồi nó ra cái địa vị như phụ nữ Âu Tây vậy”.

Đặt mình ở cương vị người phụ nữ, viết về các vấn đề của phụ nữ, Nguyễn

Văn Vĩnh thực sự muốn trở thành một người bạn đáng tin cậy, một chuyên gia tư

vấn của chị em, giúp họ mở mang hiểu biết, có những kiến thức cơ bản về khoa học

thường thức để chăm sóc gia đình và có cuộc sống tốt đẹp hơn. Bằng việc kí tên

dưới bài viết như là một người phụ nữ, ông có cái cớ thuận lợi để viết về những vấn

đề khá riêng của chị em như là việc ăn mặc, sinh đẻ, bú mớm, vệ sinh cá nhân…mà

không sợ bị cả hai phái cả nam lẫn nữ phản đối, bởi quan niệm xã hội thời bấy giờ

còn rất phong kiến.

Trong bài viết đăng trên Đông Dương tạp chí số 15, vấn đề văn minh trong

trang phục được ông trình bày khá thú vị. Theo ông, ăn mặc là một mặt quan trọng

của văn minh. Người phụ nữ Việt Nam tuy rằng ăn mặc kín đáo nhưng vẫn chưa

phù hợp lắm: “Trong cách ăn mặc không có cái tao nhã. Người xa xỉ lại xa xỉ quá,

tỏ ra cái cách không phải làm mà có tiền. Người xuềnh xoàng thì lại xuềnh xoàng

quá. Nhiều khi trông con người ra đường thì tuyệt trần lịch sự, mà cởi cái áo ngoài

ra thì hết cả thanh tao”.

Theo ông, văn minh trong ăn mặc cũng là cách thể hiện vị thế của người phụ

nữ. Người đàn bà nên chú trọng đến cách ăn mặc để vừa đẹp cho mình lại vừa văn

187

minh cho xã hội. Ông kết luận: “tôi thiết tưởng trong nghề làm dáng cũng có luân

lý. Chớ nên lẫn sự tao nhã trong cách ăn mặc với cái nết làm đỏm là một tính xấu”.

Qua bài viết của mình, Nguyễn Văn Vĩnh mang đến cho người đọc nhiều

khám phá thú vị về trang phục của phụ nữ Việt Nam đầu thế kỷ 20: thói quen ăn

mặc kín đáo của họ, tâm lí ưa cái đẹp giản dị, chất phác, không thích sự nổi bật,

khác người: “Người đàn bà nước Nam nết thuần, khăn áo cũng thuần. Nghề làm

dáng thực vụng. Cái nón, cái khăn, đôi dép, cặp áo, một nghìn người như nhau cả

một nghìn. Hơn kém nhau chẳng qua ở cái đường ngôi, cái mái tóc, cái giọt khăn,

cái đuôi gà, vuông tròn, ngay lệch khác nhau một chút mà thôi, sành mắt mới phân

biệt được”.

Có lẽ nhiều nhất trên chuyên mục Nhời đàn bà vẫn là những bài viết chỉ dạy

cho người phụ nữ cách giữ vệ sinh, cách nuôi con theo tinh thần khoa học. Nguyễn

Văn Vĩnh viết khoảng 5,6 bài viết liền về vấn đề này. Điều này cũng dễ hiểu bởi

việc sinh đẻ là một việc vô cùng hệ trọng không những đối với bản thân người phụ

nữ mà đối với cả loài người nói chung, vì đó là điều kiện khởi đầu để nòi giống

được phát triển khoẻ mạnh. Tuy vậy, ở nước ta thời bấy giờ, việc sinh đẻ nhiều nơi

vẫn chưa theo khoa học, không đảm bảo sức khoẻ của bà mẹ và em bé. Thấy được

“trong cái việc tầm thường săn nom bú mớm, có cái chức phận nhớn nhao, gây nên

giống nòi mạnh bạo mai sau của nước nhà”, trong bài bàn về việc sinh đẻ trên Đông

Dương tạp chí số 12, Nguyễn Văn Vĩnh bàn rất kĩ càng việc đỡ đẻ theo phương

pháp của các ông “đốc tờ”. Từ việc phải chú ý mời các bà đỡ đã được huấn luyện,

đến việc phải chuẩn bị mua sắm những dụng cụ chuyên dùng như bông băng vô

trùng, các loại thuốc…vì “thiếu những thứ ấy thì dù bà đỡ hay ông “đốc tờ” giỏi

mấy cũng không làm tốt được”. Ông phản đối những quan niệm hủ lậu như quan

niệm phải dùng dao nứa để cắt rốn, vì nó dễ gây bệnh uốn ván cho trẻ sơ sinh.

Phụ nữ Việt Nam sau khi sinh xong thường có tục kiêng ăn rất kĩ. Điều này

là phản khoa học vì cơ thể không được cung cấp các chất bổ cần thiết sẽ khó hồi

phục, ảnh hưởng tới sức khỏe cả mẹ lẫn con. Hiểu được nguyên nhân của quan

niệm sai lầm đó là do suy nghĩ sợ ăn đồ bổ thì khí huyết sung mãn, vết thương lâu

188

lành, Nguyễn Văn Vĩnh cũng phân tích, giảng giải cặn kẽ đúng sai để chị em hiểu

mà biết cách chăm sóc sức khỏe theo khoa học: “Lý ấy là một lý sai. Có thương thì

cốt giữ chỗ thương cho sạch, dùng những thứ thuốc trùng, thuốc tím của Tây,

thường gọi là thuốc Be – măng mà rức luôn đi thì không sung không đau, hà tất

phải nhịn ăn cho nó xanh xao gầy mòn người đi. Phải nên biết rằng người mạnh thì

như cái thang đứng vững với giặc bệnh, mà người yếu thì không chống lại được với những vi trùng”.140

Một trong những hủ tục của người dân Việt Nam thể hiện tư tưởng trọng

nam khinh nữ rõ nét là coi việc sinh đẻ là một việc nhơ nhớp, bẩn thỉu. Vì thế người

vợ phải tìm một xó tối tăm, khuất mắt mà nằm để tránh không cho ông chồng nhìn

thấy mà ảnh hưởng không tốt. Nguyễn Văn Vĩnh kịch liệt phản đối quan niệm hủ

lậu và dã man này. Ông viết: “Bấy nhiêu điều nghĩ ra thực là giã man vô cùng. Nếu

còn tin những điều giã man dại dột ấy, thì cách dưỡng dục trẻ con làm sao cho tiến

hoá được”, […] việc sinh đẻ là cái việc to nhớn nhất trong phận sự vợ chồng, ảnh hưởng đến chất lượng nòi giống mai sau”.141

Thiếu hiểu biết trong cách nuôi dạy con cái cũng là một vấn đề lớn ảnh

hưởng đến chất lượng cuộc sống của người phụ nữ. Chính vì không biết cách nuôi

con theo khoa học mà người phụ nữ phải vất vả hơn rất nhiều so với tính chất của

công việc. Họ tốn thêm rất nhiều sức lực và thời gian, vừa ảnh hưởng tới bản thân

mình vừa thiệt thòi cho chồng con, ảnh hưởng tới hạnh phúc gia đình. Hiểu được

vấn đề này, hàng loạt những lời khuyên được chủ bút Đông Dương tạp chí đưa ra

để các bà các chị theo đó mà áp dụng. Ví dụ:

“Dạy dỗ là làm cho trẻ con hiểu được nghĩa lý mọi điều. Cho nó bú thì phải

liệu giờ, đợi cho nó đói mới nên cho nó bú thì nó hiểu được rằng bú là để đỡ

đói. Ví bằng bạ lúc nào cũng nhét vú vào miệng nó thì đứa trẻ không hiểu bú

140Đông Dương tạp chí số 8 141 Đông Dương tạp chí số 9

để làm gì, lại không ngon miệng mà rồi tập thói quen ăn uống không có cữ,

189

không biết tại làm sao mà ăn. Nó lại suy ra một việc ăn ra việc khác, rồi thì sinh ra có tính làm gì không biết tại sao mà làm”.142

Bên cạnh các bài viết về vệ sinh khi sinh nở, cách nuôi dạy con cái, chuyên

mục Nhời đàn bà cũng cung cấp những lời khuyên để phụ nữ biết cách chăm sóc

bản thân, giữ mình cho đẹp đẽ, tươi tắn để bảo vệ hạnh phúc gia đình (“Phải biết

chăm sóc bản thân để giữ chồng”, Đông Dương tạp chí số 6, Jeudi 19 Juin 1913).

Tuy nhiên, nếu người đàn ông quá tệ bạc thì họ cũng nên dũng cảm mà phản kháng

lại, không để đàn ông lộng hành (“Lắm vợ”, Đông Dương tạp chí số 22, Jeudi 9

Octobre 1913; “Cần trị thói xấu ăn chơi, cờ bạc, hát xướng của đàn ông”, Đông

Dương tạp chí số 5, Jeudi 12 Juin 1913). Để có cuộc sống hạnh phúc, có đời sống

tinh thần phong phú, người phụ nữ nên trau dồi công dung ngôn hạnh, năng làm từ

thiện, hướng tới cộng đồng (“Tết Trung thu - Vai trò của người phụ nữ trong gia

đình”, Đông Dương tạp chí số 19, Jeudi 18 Septembre 1913; “Công dung ngôn

hạnh”, Đông Dương tạp chí số 16, Jeudi 28 Aout 1913; “Biểu dương lòng từ thiện

của chị em phụ nữ”, Đông Dương tạp chí số 17, Jeudi 4 Septembre 1913).

Đây là những biểu hiện rõ nét nhất về vấn đề nữ quyền của ban biên tập

Đông Dương tạp chí. Bởi xét cho cùng, nữ quyền chính là quyền được sống mạnh

khoẻ, hạnh phúc, được tôn trọng, yêu thương, được cảm thấy có ích của người phụ

nữ. Có lẽ không ít người đọc hiện đại khi nghiên cứu về tờ báo này đã trông các bài

viết rõ nét về những vấn đề nữ quyền như việc hô hào phụ nữ nâng cao trình độ,

việc tham gia bầu cử v.v…Nguyện vọng này là chính đáng. Tuy nhiên, cần phải đặt

vấn đề nữ quyền của tờ báo vào đúng bối cảnh xã hội Việt Nam những năm 1913,

1914 để thấy được sự tiến bộ của nó. Thời điểm đó, phần lớn dân chúng còn mù

chữ, vị trí người đàn bà được mặc định là ở gia đình. Thế nên, giáo dục họ ý thức

được về quyền lợi của mình trước hết phải bắt đầu từ những bước thấp nhất là giúp

họ tự bảo vệ mình khỏi bệnh tật, khỏi những thói tục xấu của xã hội trọng nam

khinh nữ, giúp họ có kiến thức nuôi dạy con, chăm sóc gia đình. Khi những bước

142 Đông Dương tạp chí số 7, 10,14

đầu tiên đã chắc chắn rồi, những bước tiếp theo như quyền được đến trường, quyền

190

được có tiếng nói trong xã hội mới dần dần tiếp theo sau. Đây cũng là phương pháp

chung, áp dụng cho mọi lĩnh vực của Đông Dương tạp chí trong việc phổ biến kiến

thức cho người dân: phải đi từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp.

Theo dõi các bài viết sau này của chủ bút Đông Dương tạp chí trên báo

L’Annam Nouveau, chúng ta sẽ thấy vấn đề nữ quyền được tiếp tục với mức độ cao

hơn.

Trong bài viết “Giáo dục con gái của chúng ta”, L’Annam Nouveau, các số

38, 39, 40 từ ngày 10 - 17/6/1931, sau khi trình bày vai trò quan trọng của người

phụ nữ trong gia đình, Nguyễn Văn Vĩnh khẳng định: “Các bà hãy yên tâm, chúng

tôi không đi đến nói là các bà phải học tất cả để làm bếp và các việc trong nhà. Các

bà hoàn toàn tự do để làm theo các sở trường của mình để trở thành giáo sư, kỹ sư,

luật gia, nhà báo, nhà chính trị, cầu thủ thể thao, nhà vô địch, nhà diễn thuyết, hoạ

sĩ, nhạc sĩ. Không một nghề nào đóng cửa lại ngăn cản các bà…”

Ông cũng cho rằng phải nhanh chóng loại bỏ quan niệm cho người đàn bà là

một trang sức, được lấy về cho mọi người xem và để “thoả mãn những sự hợm

mình nông nổi”. Phụ nữ phải tự ý thức về giá trị của bản thân mình. Giá trị đích

thực phải do chính họ tạo ra bởi sự hiểu biết và các phẩm chất cần thiết khác chứ

không phải vì sắc đẹp hay của cải của cha mẹ:

“Các cô gái trẻ, các cô hãy học đọc, học viết, học tính. Tôi không cấm các

cô biết lịch sử, địa lý, khoa học tự nhiên. Các cô có quyền như tất cả mọi

người biết tất cả kì quan mà đầu óc chúng ta có thể tiếp thu được. Các cô

hãy nghiên cứu để biết những lí luận về vi trùng học, những dung dịch hoà

tan và những chất lửng lơ không hoà tan, học về những bài học vệ sinh.

Nhưng trước tiên các cô phải học làm các công việc nội trợ trong nhà, biết

cách sử dụng những người làm trong nhà hay là tự làm lấy không cần người

giúp việc. Các cô hãy tự mình là một giá trị và không phải chỉ có giá trị vì

những của cải của bố mẹ để lại cho, cũng không phải vì lợi thế sắc đẹp của

thân hình, nó chỉ tồn tại trong một thời điểm…”.

191

Có đọc những phản hồi của các nữ độc giả gửi về cho chuyên mục Nhời đàn

bà mới thấy hết được những tác động tích cực của tờ báo đến giới nữ lưu nước nhà.

Lá thư của độc giả Nguyễn Thị Bổng đăng trên Đông Dương tạp chí số 29 là một ví

dụ:

“Em là Nguyễn Thị Bổng ở hàng Đào, kính gửi vài lời nhờ Đông Dương

báo quán đăng vào mà thăm chị. Nữ lưu ta, cứ hẹp nghĩ như em, thì em

tưởng chỉ có chị là một người nghị luận giỏi giang, để làm cho các em trong

bọn đồng bào cũng được thơm lây, rằng có người ra ăn nói chọi với đời. Vả

lại chúng em thì hãy còn ngu dại, học thầy chả tày học bạn, chị là một

người bạn cách xa chúng em, mà chúng em chỉ được giao kết mấy những

nhời ăn tiếng nói của chị mà thôi; những nhời lý thú của chị khuyên răn bàn

bạc, thực là cho chúng em thêm một cái quà quí báu”.

Độc giả Ph.TH.M (thư đăng trên Đông Dương tạp chí số 30) thì thú nhận đã

“theo bút nghiên văn quốc ngữ nhiều hơn”, theo gương Đào Thị Loan mà tập tành

viết lách để “góp phần xoá bỏ vô số thói hư tật xấu của giới nam nhi, trẻ cũng như

già, ở nông thôn và đặc biệt là thành thị gây biết bao thiệt hại cho gia đình và đất

nước”.

Từ những bài viết của Nguyễn Vĩnh Vĩnh với bút danh Đào Thị Loan ở mục

Nhời đàn bà, nhiều độc giả khắp cả nước đã thấy được cảm hứng với những vấn đề

của phụ nữ nói riêng và xã hội Việt Nam nói chung. Họ viết thư trao đổi, góp thêm

tiếng nói cho chuyên mục. Những vấn đề họ đặt ra được “Đào Thị Loan” biến thành

những bài nghị luận rất hay. Ví dụ, từ phản hồi của độc giả về hủ tục lấy chồng

sớm, chuyên mục có ngay một bài viết phê phán hủ tục này với tên gọi là “Đào

nương đáp lại”: “Gái mới lớn nhị đào vừa hé, trăng chưa tròn đã phải vu quy. Thật

là miệng còn hơi sữa đã phải cho con bú, rồi đẻ soành soạch hàng năm, bao nhiêu

143 Đông Dương tạp chí số 31

nét xuân xinh tươi trên mặt trên người đã rủ nhau tàn lụi dần. Nên nhớ vu quy là kết thúc cuộc đời người con gái trong sung sướng nhất, nào phải vội vàng chi đâu?”143

192

Rõ ràng là, những bài viết trên chuyên mục Nhời đàn bà của Đông Dương

tạp chí đã cất lên những tiếng nói về nữ quyền đầu tiên trong thời điểm mà xã hội

Việt Nam mới dò dẫm những bước đầu tiên thoát ra khỏi ảnh hưởng của chế phong

kiến nhiều lạc hậu. Đây là một trong những đóng góp quan trọng của tờ báo vào

phong trào hiện đại hoá nền văn hoá Việt Nam mà ban biên tập chủ xướng.

Tiểu kết:

Đông Dương tạp chí đã đóng góp rất lớn vào việc tìm lại các di sản riêng của

người Việt Nam, chủ yếu thông qua đường vòng bằng các chuyên mục có liên quan

đến phong tục tập quán, các câu tục ngữ, nền văn học bằng chữ Nôm hay bằng các

loại văn chương truyền khẩu (Việt Nam phong tục, Gương phong tục, bản dịch Kim

Vân Kiều có bình chú). Qua các bài viết đa dạng về văn hoá, ban biên tập Đông

Dương tạp chí đã cho thấy quyết tâm của họ trong việc biến xã hội cổ truyền Việt

Nam thành một xã hội văn minh, hiện đại như là phương Tây. Điểm cốt lõi trong

công việc này, theo họ, là phải nhận thức được những hạn chế của quá khứ để giúp

chúng ta tránh được chúng trong tương lai. Bên cạnh đó, người Việt Nam phải chọn

được cho mình những phương pháp thích hợp. Đó chính là những phương pháp đến

từ phương Tây được điều chỉnh cho phù hợp với bản sắc của người Việt. Tất nhiên,

tham vọng của họ chưa bộc lộ được trọn vẹn qua các bài viết ở giai đoạn này bởi

đây là giai đoạn mở đường cho những tư tưởng mới của một tờ báo quốc ngữ mang

tính tiên phong ở Bắc Kỳ. Những nhân vật chủ chốt của tờ báo như Nguyễn Văn

Vĩnh, Phạm Quỳnh, Trần Trọng Kim sẽ lần lượt có những bài viết chuyên sâu hơn

trong chặng đường hoạt động về sau của họ. Tuy nhiên, từ những viên gạch đầu tiên

này, đã có những biến chuyển không nhỏ đối với nhận thức của độc giả khi đó. Đây

là những đóng góp to lớn của Đông Dương tạp chí trong việc hiện đại hoá nền văn

hoá Việt Nam.

193

KẾT LUẬN

Sự ra đời của Đông Dương tạp chí là kết quả của một quá trình vận động,

chuyển biến của bối cảnh chính trị - xã hội và nền văn học, văn hoá Việt Nam từ

nửa cuối thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX khi mà sự can thiệp ngày càng sâu rộng của

người Pháp ở Đông Dương cùng với nền văn minh xa lạ mà họ mang theo như một

cơn chấn động mạnh đã làm cho nền văn học cổ truyền bị lung lay tới tận gốc rễ.

Do chính sách của chính quyền thuộc địa, hệ thống giáo dục Hán học ở nước

ta dần bị thu hẹp. Trong khi đó, hệ thống nhà trường Pháp Việt và luồng văn hóa, tư

tưởng phương Tây ngày càng lan rộng, hình thành tầng lớp trí thức mới: trí thức

Tây học. Tầng lớp này hào hứng với tiếp nhận và truyền bá những luồng tư tưởng

mới, đặc biệt là văn học phương Tây. Từ đó, xuất hiện một lớp nhà văn mới, dần đi

vào con đường chuyên nghiệp.

Bên cạnh đó, sự phổ biến mạnh mẽ của chữ quốc ngữ từ nửa sau thế kỷ XIX

đã góp phần quan trọng cho sự thay đổi diện mạo của nền văn học, văn hoá Việt

Nam. Những thành tựu của báo chí quốc ngữ, đặc biệt là báo chí quốc ngữ Nam Bộ

là tiền đề rất thuận lợi cho sự ra đời và phát triển của Đông Dương tạp chí.

Mối liên hệ giữa Đông Dương tạp chí với chính quyền thuộc địa rất phức tạp.

Trong bối cảnh chính phủ Pháp gấp rút tìm kiếm sự tán thành của nhân dân thuộc địa

để đối trọng với âm mưu lật đổ từ Trung Quốc, chính quyền thực dân thấy rằng trước

hết cần phải phát triển một tờ báo vừa là để phổ biến chữ quốc ngữ giải phóng người

Việt Nam khỏi ách khái niệm và văn hóa liên lụy chữ Nho, vừa làm công tác giáo

dục để tạo ra một lớp dân chúng mới chịu ảnh hưởng của văn hoá Pháp. Đông

Dương tạp chí từ khi xuất hiện đã lan truyền tư tưởng tích cực về một văn minh

Pháp hiện đại, vì thế trở thành công cụ hoàn hảo để hoàn thành nhiệm vụ này.

Tuy nhiên, trong quá trình hoạt động, Đông Dương tạp chí đã phát triển xa

hơn theo định hướng của chính quyền. Mục tiêu phổ biến những giá trị nhân văn của

Pháp ở thuộc địa nhằm cắt đứt sự ảnh hưởng của Trung Quốc đối với Việt Nam đã

194

được Nguyễn Văn Vĩnh nắm lấy, biến thành cơ hội để phục vụ cho ý đồ riêng của

ông, vốn không đơn giản là tuyên truyền cho chính phủ.

Có thể khẳng định rằng, Đông Dương tạp chí dần dần không chỉ là công cụ

của riêng thực dân Pháp mà đã được chủ động sử dụng, khai thác để trở thành công

cụ đấu tranh cho sự tiến hóa của xã hội Việt Nam đầu thế kỉ XX. Ban biên tập Đông

Dương tạp chí đã tận dụng sự hiện diện của người Pháp, nước Pháp để làm khuôn

mẫu noi theo, tìm học văn hóa phương Tây để tiếp thu những khoa học và kỹ thuật

mà nhờ vào đó các nước phương Tây trở nên cường thịnh.

Tinh thần của Đông Dương tạp chí là sự tiếp nối tinh thần của Đông Kinh

nghĩa thục khi mà các lực lượng yêu nước và tiến bộ ở Việt Nam ngày càng ý thức

sâu sắc về sự khủng hoảng, bất lực của chế độ phong kiến và xã hội truyền thống

kiểu châu Á ở nước ta, đồng thời cũng thấy rõ không thể cứu nước nếu không canh

tân đất nước. Cùng với những luồng tư tưởng mới (từ tân thư, tân văn, tri thức có

nguồn gốc phương Tây), với phong trào vận động cải cách, duy tân (Duy tân, Đông

du, Đông Kinh nghĩa thục) Đông Dương tạp chí không những đã góp thêm vào

quyết tâm duy tân ấy một tiếng nói mạnh mẽ mà còn bằng những hành động quyết

liệt hòng đưa đất nước mau bước trên con đường văn minh.

Nguyễn Văn Vĩnh và các cộng sự của ông ở Đông Dương tạp chí không phải

là những người sáng tạo ra chữ quốc ngữ. Trước họ rất lâu, các giáo sĩ phương Tây

đã tạo ra chữ quốc ngữ vì mục đích truyền bá tôn giáo. Và trong vòng mấy trăm

năm, chữ quốc ngữ mới chỉ được sử dụng trong một phạm vi hẹp.

Đông Dương tạp chí cũng không phải là tờ báo đầu tiên sử dụng chữ quốc

ngữ để viết báo, vì trước đó một số tờ báo như Gia Định báo, Lục tỉnh tân văn,

Nông cổ mín đàm… đã thực hiện điều này. Tuy nhiên, những nỗ lực đó vẫn chỉ giới

hạn ở phạm vi những thử nghiệm bước đầu, chưa đạt được những thành tựu như

mong muốn. Chỉ đến khi Đông Dương tạp chí ra đời, với khả năng nhạy bén trong

việc nắm bắt cái mới, với những nỗ lực không biết mệt mỏi của đội ngũ cầm bút,

biết sử dụng báo chí như một công cụ đắc dụng để tuyên truyền, cổ vũ cho chữ quốc

ngữ một cách hệ thống và bài bản, xoá đi một số điểm khác biệt giữa ba miền, chữ

195

quốc ngữ mới thực sự lan truyền một cách rộng rãi, bắt rễ bền vững trong đời sống

xã hội và trở thành thứ chữ viết chính thức của dân tộc, góp phần vào việc xây dựng

một nền văn học lớn mạnh hơn.

Có thể thấy rằng, Đông Dương tạp chí là một diễn đàn đã tập hợp được

những cây bút tinh hoa nhất thời bấy giờ. Trước yêu cầu xây dựng một nền quốc

văn mới, bồi bổ văn hoá dân tộc, những người thực hiện Đông Dương tạp chí chủ

trương xây dựng và phổ biến chữ quốc ngữ, dung hoà học thuật Á - Âu để làm giàu

cho nền văn học nước nhà, đặt ra vai trò của báo chí trong việc khai hoá dân trí.

Đông Dương tạp chí cũng đóng vai trò rất quan trọng trong việc truyền bá

văn hóa Đông – Tây thông qua con đường khảo cứu và dịch thuật. Với những nỗ

lực của ông và các cộng sự, các tri thức mới mẻ của phương Tây đã được giới thiệu

đến độc giả Việt Nam qua hàng loạt các bài khảo cứu về đủ mọi lĩnh vực từ triết

học yếu lược, luân lý học, các bài viết về vệ sinh, cách phòng bệnh cho đến các tác

phẩm văn học, thơ, truyện ngắn….

Chỉ trong một khoảng thời gian ngắn tồn tại của tờ báo, với nỗ lực và sức

làm việc phi thường của đội ngũ những người cầm bút, dường như phần lớn những

tinh hoa của văn học Pháp thuộc đủ mọi thể loại được chuyển sang quốc ngữ. Từ

những vụng về, lủng củng ban đầu, vừa dịch vừa rút kinh nghiệm, họ đã có những

bản dịch uyển chuyển, thanh thoát, vừa giữ được tinh thần của nguyên tác vừa phù

hợp với cách cảm nhận của người đọc.

Bằng việc sử dụng các phương thức mới từ phương Tây (có tính phân tích và

phê bình), thông qua các bài viết đa dạng ở các lĩnh vực lịch sử, văn chương, ngôn

ngữ học, ngữ văn, dân tộc học, địa lí, v..v… thể hiện bằng chữ quốc ngữ, tạp chí đã

144 Mô hình chú trọng xây dựng một nền văn chương riêng, thể hiện được tâm hồn của người dân. Mô hình này thể hiện qua việc: phổ biến kiến thức khoa học (mở cá c thư viện khoa học thường thức, các tuyển tập văn chương phổ biến); bảo tồn các di sản quốc gia (gồm cả các công trình xây dựng và văn hoá dân gian)

hướng người Việt Nam đến việc tìm lại một bản sắc Việt riêng biệt và xây dựng một hình thức mới cho chủ nghĩa yêu nước khá gần với mô hình cộng hoà Pháp144.

196

Như vậy, với tư cách là một “trường học” buổi giao thời, Đông Dương tạp

chí đã tạo nên những sự vận động đổi mới trong mọi lĩnh vực văn hóa xã hội, học

thuật, tư tưởng. Có thể nói rằng, Đông Dương tạp chí đã kế thừa và phát huy tinh

thần của phong trào Duy tân lúc đó. Về khách quan, Đông Dương tạp chí là một cột

mốc đánh dấu sự thay đổi của cục diện văn hoá và thúc đẩy nền văn học, văn hoá

Việt Nam đi vào một con đường mới.

197

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1.   Đào Duy Anh (2002), Việt Nam văn hoá sử cương, Nxb Văn hoá thông tin, Hà Nội.

2.   Nguyễn Kim Anh (2004), Tiểu thuyết Nam Bộ cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX, Nxb.

Đại học Quốc gia Tp. Hồ Chí Minh.

3.   Hoài Anh (2001), Chân dung văn học, Nxb Hội nhà văn, TP Hồ Chí Minh.

4.   Vũ Tuấn Anh (2001), Văn học Việt Nam hiện đại, nhận thức và thẩm định, Nxb

Khoa học xã hội, Hà Nội.

5.   Lại Nguyên Ân, Bùi Văn Trọng Cường (2004), Từ điển văn học Việt Nam – từ

nguồn gốc đến thế kỷ 19, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.

6.   Vũ Bằng (2004), Mười bốn gương mặt nhà văn đồng nghiệp, Nxb Hội nhà văn, Hà

Nội.

7.   Vũ Bằng (2000), Tuyển tập, tập 1, Bốn mươi năm nói láo, Nxb Văn học, Hà Nội.

8.   Đỗ Quang Chính (1972), Lịch sử chữ quốc ngữ, Tủ sách Ra khơi, Sài Gòn.

9.   Hồng Chương (1985), 120 năm báo chí Việt Nam, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh.

10.  Nguyễn Văn Dân (2004), Phương pháp luận nghiên cứu văn học, Nxb Khoa học xã

hội, Hà Nội.

11.  Chu Xuân Diên (2009), Cơ sở Văn hoá Việt Nam, Nxb. Đại học Quốc gia Thành

phố Hồ Chí Minh.

12.   Phạm Văn Diêu (1970), Việt Nam văn học giảng bình, Hoành Sơn xuất bản, Sài

Gòn.

13.   Phạm Cao Dương (1972), Nhập môn lịch sử các nền văn minh thế giới, tập 1, Tủ

sách phổ thông sử học sài Gòn.

14.   Nguyễn Duy Diễn, Bằng Phong (1961), Luận đề về Đông Dương tạp chí với Nguyễn Văn Vĩnh, Phan Kế Bính, Nguyễn Đỗ Mục, Khai Trí xuất bản, Sài Gòn.

15.   Nguyễn Sinh Duy (2004), Trương Vĩnh Ký, cuốn sổ bình sanh, Nxb Văn học,

Trung tâm nghiên cứu quốc học.

16.   Kiêm Đạt (1958), Nguyễn Văn Vĩnh với Đông Dương tạp chí, Tạp chí Giáo dục

phổ thông, số 25, ngày 15/10/1958.

17.   Nguyễn Đình Đăng (2004), Nhà báo Nguyễn Văn Vĩnh và sự ra đời của chữ quốc

ngữ, báo Quân đội Nhân dân, số 15657, ngày 28/11/2004.

18.  Đặng Anh Đào (2001), Gió Đông gió Tây: ảnh hưởng và giao thoa trong văn học

Việt Nam hiện đại. Hợp tuyển công trình nghiên cứu, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

19.  Phan Cự Đệ chủ biên (2004), Văn học Việt Nam thế kỷ XX, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

20.   Hà Minh Đức chủ biên (1998), Lý luận văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

A.   TÀI LIỆU TIẾNG VIỆT

198

21.   Đinh Văn Đức (2005), Các bài giảng về lịch sử tiếng Việt thế kỷ XX, Nxb Đại học

Quốc gia Hà Nội.

22.  Kim Định (1967), Căn bản triết lý trong văn hóa Việt Nam, Thanh Bình xuất bản,

Sài Gòn.

23.  Hoàng Lại Giang (2005), Trương Vĩnh Ký, bi kịch muôn đời, Nxb Kim Đồng, Hà

Nội.

24.   Nguyễn Thiện Giáp (2004), Dụng học Việt ngữ, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.

25.  Nguyễn Thị Lệ Hà, Những đóng góp của Nguyễn Văn Vĩnh với việc phát triển báo chí tiếng Việt và truyền bá chữ quốc ngữ, Viện Sử học, Viện Khoa học Xã hội Việt Nam.

26.  Nguyễn Thị Lệ Hà, Nguyễn Văn Vĩnh với việc cổ vũ và truyền bá chữ quốc ngữ đầu

thế kỷ XX, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử số 5.2004.

27.   Dương Quảng Hàm (1996), Việt Nam văn học sử yếu, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.

28.   Dương Quảng Hàm (2005), Việt Nam thi văn hợp tuyển, Nxb Trẻ, TP Hồ Chí

Minh.

29.   Cao Xuân Hạo (2001), Tiếng Việt, văn Việt, người Việt, Nxb Trẻ, Tp Hồ Chí Minh.

30.  Nguyễn Văn Hạnh, Huỳnh Như Phương (1995), Lý luận văn học, vấn đề và suy

nghĩ, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

31.  Vũ Quang Hào (2001), Ngôn ngữ báo chí, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.

32.  Lê Huy Hòa – Hoàng Đức Nhuận tuyển chọn và giới thiệu (2000), Văn hóa Việt

Nam – truyền thống và hiện đại, Nxb Văn hóa, Hà Nội.

33.  Nguyễn Văn Hoàn, Bức thư ngỏ gửi các nhà nghiên cứu Truyện Kiều ở miền Nam về ý nghĩa cuộc tranh luận giữa Phạm Quỳnh và Ngô Đức Kế, Nghiên cứu văn học, Hà Nội, số 12-1960.

34.   Tân Phong Hiệp (1958), Nguyễn Văn Vĩnh – người có công to với nền quốc văn lúc

mới phôi thai, Tạp chí Bách khoa, số 32.

35.   Đỗ Đức Hiểu, Nguyễn Huệ Chi, Phùng Văn Tửu, Trần Hữu Tá (2004), Từ điển

văn học bộ mới, Nxb Thế giới, Hà Nội.

36.  Đỗ Quang Hưng chủ biên; Nguyễn Thành, Dương Trung Quốc (2000), Lịch sử báo

chí Việt Nam 1865 -1945 Nhà xuất bản Đại học quốc gia Hà Nội.

37.   Lê Quang Hưng (2004), “Ông Nguyễn Văn Vĩnh”, Thiếu Sơn toàn tập, tập 1, Nxb

Văn học, Hà Nội, tr.77-81.

38.   Lê Quang Hưng (2004), “Bài học Nguyễn Văn Vĩnh”, Thiếu Sơn toàn tập, tập 2,

Nxb Văn học, Hà Nội, tr 92-97.

39.   Hồ Công Khanh (2004), Chữ quốc ngữ và những vấn đề liên quan đến thư pháp,

Nxb Văn nghệ thành phố Hồ Chí Minh.

40.   Vũ Ngọc Khánh (2008), Người có vấn đề trong sử nước ta, Nxb Văn hóa thông

tin, Hà Nội.

199

41.   Lưu Trung Khảo (1960), Vai trò tạp chí trong văn chương Việt Nam: Đông Dương

tạp chí, Tạp chí Hiện đại, 9/1960.

42.   Tạ Ký (1994), Việt Nam thi văn trích giảng, Nxb Tổng hợp Đồng Tháp.

43.   Châu Hải Kỳ (1959), Phạm Quỳnh và Nguyễn Văn Vĩnh, Tạp chí Giáo dục phổ

thông, số 36, ngày 15/4/1959.

44.  Mã Giang Lân chủ biên (2000), Quá trình hiện đại hoá văn học Việt Nam 1900-

1945, Nxb Văn hoá thông tin, Hà Nội.

45.   Thanh Lãng (1972), Phê bình văn học thế hệ 1932, Phong trào Văn hoá xuất bản,

Sài Gòn.

46.   Đinh Xuân Lâm, Nguyễn Văn Hồng (1998), Xu hướng đổi mới trong lịch sử Việt

Nam, Nxb Văn hóa thông tin.

47.   Di Linh (2007), Làm phim, vẽ tranh về học giả Nguyễn Văn Vĩnh, báo Thể thao

&Văn hóa, số 55, 8/5/2007.

48.   Nguyễn Tấn Long (2000), Việt Nam thi nhân tiền chiến toàn tập, Nxb Văn học, TP

Hồ Chí Minh.

49.  Bùi Văn Lợi (1999), Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam từ những năm đầu thế kỷ XX đến

1945, Luận án Tiến sĩ Ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.

50.   Phan Ngọc (2004), Bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.

51.  Nguyễn Bá Lương, Luận đề về nhóm Đông Dương tạp chí, Tao Đàn xuất bản.

52.   Phan Ngọc (2006), Sự tiếp xúc văn hóa Việt Nam với Pháp, Nxb Văn hóa thông tin

và Viện Văn hóa, Hà Nội.

53.  Vũ Bạch Ngô (1991), Việc dịch thuật xuất hiện bao giờ trong văn học nước nhà?

Tạp chí Kiến thức ngày nay.

54.   Phạm Thế Ngũ (1998), Việt Nam văn học sử giản ước tân biên, tập 3, Nxb Tổng

hợp Đồng Tháp.

55.   Hoàng Nguyên (2005), Học giả Nguyễn Văn Vĩnh: ta tắm ao ta, báo An ninh thế

giới, số 44, 3/2005.

56.   Lê Nguyễn (2005), Xã hội Việt Nam thời Pháp thuộc - nhân vật và sự kiện lịch sử,

Nxb Văn hóa thông tin.

57.  Võ Văn Nhơn (2008), Tiểu thuyết Nam Bộ cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX, Luận án Tiến sĩ Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn (Đại học Quốc gia Tp. Hồ Chí Minh).

58.   Vũ Ngọc Phan (1951), Nhà văn hiện đại, tập 1, Nxb Vĩnh Thịnh, Hà Nội.

59.   Trần Quang (2000), Các thể loại chính luận báo chí, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà

Nội.

60.   Nguyễn Phan Quang (1999), Việt Nam thế kỷ XIX (1802 – 1884), Nxb Tp. Hồ Chí

Minh.

61.   Nguyễn Phan Quang, Võ Xuân Đàn (2000), Lịch sử Việt Nam từ nguồn gốc đến

năm 1884, Nxb TP. Hồ Chí Minh.

200

62.   Phạm Quỳnh (2003), Luận giải văn học và triết học, Nxb Văn hóa thông tin, Trung

tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây xuất bản, Hà Nội.

63.   Phạm Quỳnh (2007), Tiểu luận viết bằng Tiếng Pháp trong thời gian 1922-1932,

Nxb Tri thức, Hà Nội.

64.  Lê Văn Siêu (1974), Văn học sử thời kháng Pháp (1858-1945), Nxb Trí Đăng, Sài

Gòn.

65.   Thiếu Sơn, Bài học Nguyễn Văn Vĩnh-Những danh nhân chính khách một thời,

Nxb Lao động, Hà Nội, 1993

66.   Thiếu Sơn (1933), Phê bình và cảo luận, Nxb Nam Ký, Hà Nội.

67.   Thiếu Sơn (1961), Ông Phan Khôi đã phê bình ông Nguyễn Văn Vĩnh như thế

nào? Tạp chí Bách khoa.

68.  Thiếu Sơn (2006), Những văn nhân chính khách một thời, Nxb Công an Nhân dân,

Hà Nội.

69.  Trần Việt Sơn (1958), Luận đề về nhóm Đông Dương tạp chí với Nguyễn Văn Vĩnh, Phan Kế Bính, Nguyễn Đỗ Mục, Nxb Thăng Long, Sài Gòn (dùng trong các kỳ thi trung học).

70.  Hà Văn Tấn (2005), Đến với lịch sử văn hoá Việt Nam, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội. 71.  Nhất Tâm (1957), Nguyễn Văn Vĩnh (1882 – 1936), Tủ sách những mảnh gương

Tân Việt, Sài Gòn.

72.  Nguyễn Sỹ Tế, Vũ Khắc Khoan (1961), Luận đề về Nam Phong tạp chí, Tao Đàn

xuất bản, Sài Gòn.

73.  Nguyễn Thị Minh Thái (2005), Phê bình tác phẩm văn học nghệ thuật trên báo chí,

Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.

74.  Trịnh Vân Thanh, (2008), Thành ngữ điển tích danh nhân từ điển, Nxb văn học, Hà

Nội.

75.  Nguyễn Thành (2001), Từ điển thư tịch báo chí Việt Nam, Nxb Văn hoá thông tin,

Hà Nội.

76.  Phạm Minh Thảo (2003), Nghệ thuật ứng xử của người Việt, Nxb Văn hóa thông

tin, Hà Nội.

77.  Trịnh Văn Thảo (2014), Ba thế hệ trí thức người Việt, Nhà xuất bản Thế giới, Hà

Nội.

78.  Nguyễn Quang Thân (2007), Nguyễn Văn Vĩnh, người đi tìm giá trị văn hóa, báo

Thể thao & Văn hóa, 23/9/2007.

79.  Trần Ngọc Thêm (2000), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

80.  Nguyễn Ngọc Thiện biên soạn, sưu tầm (2002), Tranh luận văn nghệ thế kỉ XX,

Nxb Lao động, Hà Nội.

81.  Nguyễn Thiêm (2008), Chuyện về một hậu duệ của học giả Nguyễn Văn Vĩnh, báo

An ninh thế giới, số 728, 2/2008.

201

82.  Đỗ Lai Thúy (2006), Nguyễn Văn Vĩnh, một người Nam mới đầu tiên, Tạp chí Văn

hóa Nghệ thuật, số 8-2006.

83.  Bùi Đức Tịnh (2002), Những bước đầu của báo chí, truyện ngắn, tiểu thuyết và thơ

mới (1865-1932), Nxb Thành phố Hồ Chí Minh.

84.  Huỳnh Văn Tòng (1973), Lịch sử báo chí Việt Nam từ khởi thuỷ đến năm 1930, Trí

Đăng xuất bản, Sài Gòn.

85.  Hoàng Tuệ (1996), Ngôn ngữ và đời sống xã hội – văn hóa, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 86.

87.  Nguyễn Văn Trung (1968), Lược khảo văn học, tập 3, Nam Sơn xuất bản, Sài Gòn.

88.  Nguyễn Văn Trung (1974), Chữ, văn quốc ngữ thời kỳ đầu Pháp thuộc, Nam Sơn

xuất bản, Sài Gòn.

89.   Nguyễn Văn Trung (1974), Chủ đích Nam Phong, Nxb Trí Đăng, Sài Gòn.

90.  Nguyễn Tùng (1999), Nguyễn Văn Vĩnh – chiếc cầu giao lưu văn hóa Đông-Tây,

báo Giáo dục và Thời đại, số 25/1999.

91.   Lê Trí Viễn, Phan Côn, Nguyễn Đình Chú, Huỳnh Lý, Lê Hoài Nam (1965), Giáo trình lịch sử văn học Việt Nam giai đoạn 1858 – đầu thế kỷ XX, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

92.   Viện Mác – Lênin (1978), Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, tập 1, Nxb Sách giáo

khoa Mác-Lênin, Hà Nội.

93.   Viện Mác – Lênin (1999), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị Quốc gia,

Hà Nội.

94.   Viện Mác – Lênin (1999), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị Quốc gia,

Hà Nội.

95.  Viện sân khấu (1987), Lịch sử sân khấu Việt Nam, tập 2, Viện sân khấu xuất bản,

Hà Nội

96.  Nguyễn Đình Vĩnh (2008), Vai trò của văn học dịch đối với quá trình hiện đại hoá tiểu thuyết Việt Nam giai đoạn nửa đầu thế kỷ XX, Luận án Tiến sĩ Ngữ văn, Viện Văn học.

97.   Hoàng Xuân Việt (2007), Tìm hiểu lịch sử chữ quốc ngữ, Nxb Văn hóa thông tin,

Hà Nội.

98.   Nguyễn Vỹ (1994), Văn thi sĩ tiền chiến, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.

B.  TÀI LIỆU TIẾNG NƯỚC NGOÀI

99.   Yukichi Fukuzawa (2009), An Outline of a Theory of Civilization, translated by David A. Dilwoth and G. Cameron Hurst III, with an Introduction by Takenori Inoki, Sophia University, Tokyo.

100.

Book, U.S.A

Niall Ferguson (2012), Civilization: The West and the Rest, Penguin

202

101.

Doumer Paul (1930), L'indochine francaise (souvenirs), Editions Vuibert,

France.

102.

Christopher E. Goscha & Thomas Engelberg, Falling Out of Touch. A study on Vietnamese communist policy towards an emerging Cambodian communist movement, 1930-1975, Clayton, Victoria: Centre of Southeast Asian studies, Monash Asia Institute, Monash university, Monash Paper 35, 1995, 165 p.

103.

Christopher E. Goscha (1995), Vietnam or Indochina? Contesting Concepts of Space in Vietnamese Nationalism, 1887-1954, Copenhague: Nordic Institute of Asian Studies, 154 p.

104.

Christopher E. Goscha & Benoît de Tréglodé (sous la dir.) (2004), Le Viêt Nam depuis 1945 = The birth of aParty-State / Vietnamsince 1945: naissance d'un Etat-Parti, Paris: Les Indes Savantes, 463 p.

105.

Christopher E. Goscha (2012), Going Indochinese: Contesting Concepts of Space and Place in French Indochina, 1885-1945, Copenhagen: Nordic Institute of Asian Studies, NIAS Classic series no. 3, 163 p. Ouvrage traduit en français sous le titre Indochine ou Vietnam (Paris, Vendémiaire, 2015).

106.

Emmanuelle Affidi (2008), Ðông Dương Tạp Chí (1913-1919), une tentative de diffusion du discours et de la science de l’Occident au Tonkin: l’interculturalité, un enjeu colonial entre savoir et pouvoir (1906-1936).

C.   TÀI LIỆU TIẾNG NƯỚC NGOÀI DỊCH RA TIẾNG VIỆT

107.  Yoshiharu Tsuboi (1999), Nước Đại Nam đối diện với Pháp và Trung Hoa, Nxb

Trẻ.

108.  Maurice Durand (1998) “Thế giới truyện Nôm” (L’Univers des Truyen Nom), Nxb

Văn Hoá.

109.  Trần Văn Thảo (2014), Ba thế hệ trí thức người Việt, Nhà xuất bản Thế giới, Hà

Nội.

TÀI LIỆU THAM KHẢO TRÊN MẠNG INTERNET

110.   Xuân Ba (2006), Con trai học giả Nguyễn Văn Vĩnh và một tên phố ở miền Nam

nước Pháp, Nguồn:

http://www.tienphong.vn, 4/3/2006.

111.   Vũ Đức Âu Vĩnh Hiền (2007), Nguyễn Văn Vĩnh và Đông Dương tạp chí,

Nguồn:

http://www.nuiansongtra.net, 15/4/2007.

112.   Lê Hồng Thiện (2008), “Ghế thơ” của học giả Nguyễn Văn Vĩnh, Nguồn:

http://vnca.cand.com.vn, 1/10/2008.

113.   H.Thương (2009), Chiếu phim về học giả Nguyễn Văn Vĩnh, Nguồn:

http://www.thethaovanhoa.vn, 10/4/2009.

114.   Hoàng Tiến (2007), Dịch giả Nguyễn Văn Vĩnh (1882 – 1936), Nguồn:

203

http://www.dongtac.net, 12/5/2007.

115.   Bông Tố (2009), Ái nữ của học giả Nguyễn Văn Vĩnh, Nguồn: http://www.tienphong.vn, 28/1/2009.

116.   Đoan Trang (2008), Chuyện làm báo ở Sài Gòn trước 1975, Nguồn: http://vns.hnuc.edu.vn, 30/11/2008.

117.   Anh Vũ (2009), Chân dung thật của học giả Nguyễn Văn Vĩnh, Nguồn: http://www.chungta.com, 20/4/2009.

118.   Trang web của gia đình Nguyễn Văn Vĩnh, Nguồn: http://www.nguyenvanvinh.net , 22/3/2011

119.   Hoàng Tiến, Dịch giả Nguyễn Văn Vĩnh – chiếc cầu nối văn hóa Đông Tây,

Nguồn:

www.chungta.com, 02/06/2010

120.

'THE MODERN BARBARIAN': NGUYEN VAN VINH AND THE

COMPLEXITY OF ...

08/08/2012 121.   Kim Vân Kiều – Cuốn phim truyện đầu tiên của điện ảnh Việt Nam, Nguồn:

http://www.yobanbe.zing.vn, 18/08/2012.

122.

Lịch sử hình thành và phát triển kịch nói Nam Bộ, nguồn:

http://nhahatkichthanhpho.vn/index.php/gioi-thieu/lich-su-hinh-thanh/doan-kinh-

noi-nam-bo/29-doan-kich-noi-nam-bo, 20/03/2016

123.

Lê Minh Quốc, Về vở kịch mở đầu cho sân khấu kịch Việt Nam, nguồn:

http://leminhquoc.vn/the-loai-khac/bien-khao/953-ve-vo-kich-mo-dau-cho-san-

khau-kich-noi-viet-nam.html, 18/03/2016

124.

Trần Đình Sử, Khái niệm diễn ngôn trong nghiên cứu văn học hôm nay,

nguồn: https://trandinhsu.wordpress.com/2013/03/04/khai-niem-dien-ngon-trong-

nghien-cuu-van-hoc-hom-nay/, 20/03/2016.

Huỳnh Như Phương, Văn học và văn hoá truyền thống, nguồn:

125.

http://nhavantphcm.com.vn/tac-pham-chon-loc/nghien-cuu-phe-binh/van-

hoc-va-van-hoa-huynh-nhu-phuong.html. 01/07/2016

204

CÁC TÁC PHẨM CỦA NGUYỄN VĂN VĨNH

126.   Thực Trí, Ma to dỗ nhớn, Đại Nam đăng cổ tùng báo, số 796 ngày 18/4/1907.

127.   Tân Nam Tử, Thói tệ, Đại Nam đăng cổ tùng báo, số 802 ngày 30/5/1907.

128.   Lý Nhỡ, Lính tuần lính lệ, Đại Nam đăng cổ tùng báo, số 803 ngày 6/6/1907.

129.   Tân Nam Tử, Phán, ký, Đại Nam đăng cổ tùng báo, số 806 ngày 27/6/1907.

130.   Nguyễn Văn Vĩnh, Hội dịch sách Bắc kỳ, Đại Nam đăng cổ tùng báo, số 810 ngày

25/7/1907.

131.   Tân Nam Tử, Duy Tân, Đại Nam đăng cổ tùng báo, số 812 ngày 08/8/1907.

132.   Nguyễn Văn Vĩnh, Hội dịch sách, Đại Nam đăng cổ tùng báo, số 813 ngày

25/7/1907 và số 814 ngày 22/8/1907.

133.   Tân Nam Tử, Tư tưởng Nam kỳ, Đại Nam đăng cổ tùng báo, số 815 ngày

29/8/1907.

134.   Tân Nam Tử, Chết vì gạo, Đại Nam đăng cổ tùng báo, số 818 ngày 19/9/1907.

135.   Tân Nam Tử, Hội Kiếp Bạc, Đại Nam đăng cổ tùng báo, số 820 ngày 03/10/1907.

136.   Tân Nam Tử, Truyện ăn mày, Đại Nam đăng cổ tùng báo, số 822 ngày 17/10/1907.

137.   Nguyễn Văn Vĩnh, Phiên mổ bò, Đại Nam đăng cổ tùng báo, số 823 ngày

24/10/1907.

138.   Tân Nam Tử, Đốt pháo, Đại Nam đăng cổ tùng báo, số 824 ngày 31/10/1907.

139.   Tân Nam Tử, Nhời tạ người khen chê, Đại Nam đăng cổ tùng báo.

140.   Nguyễn Văn Vĩnh, Từ triều đình Huế trở về, L’Annam Nouveau, từ số 282 ngày

19/10/1933 đến số 298 ngày 14/12/1933.

141.   Nguyễn Văn Vĩnh, Ông Bạch Thái Bưởi từ trần, L’Annam Nouveau, số 155 ngày

24/7/1932.

142.   Nguyễn Văn Vĩnh, Ông Nguyễn Hữu Thu từ trần, L’Annam Nouveau, số 164 ngày

28/8/1932.

143.   Nguyễn Văn Vĩnh, Giáo dục con gái của chúng ta, L’Annam Nouveau, số 38, 39,

40 từ ngày 10 - 17/6/1931.

144.   Nguyễn Văn Vĩnh, Vai trò của người cha trong giáo dục, L’Annam Nouveau, số

120 ngày 24/3/1932.

145.   Nguyễn Văn Vĩnh, Sự trở về của vua Bảo Đại trong một ngày gần, L’Annam

Nouveau, số 131 ngày 01/5/1932.

146.   Nguyễn Văn Vĩnh, Bộ mặt thật của vấn đề giáo dục, L’Annam Nouveau, số 144,

145 ngày 14 và 19/6/1932.

147.   Nguyễn Văn Vĩnh, Một công thức khác rút ra từ nền giáo dục cổ truyền, L’Annam

Nouveau, số 155 ngày 24/7/1932.

148.   Nguyễn Văn Vĩnh, Tinh hoa An Nam, L’Annam Nouveau, số 178, 179, 180 ngày

13,16, 20/10/1932.

205

149.   Nguyễn Văn Vĩnh, Phố cổ Hà Nội, L’Annam Nouveau, số 140 ngày 2/6/1932.

150.   Nguyễn Văn Vĩnh, Việc lập lại các kỳ thi văn chương chữ Nho, L’Annam

Nouveau, số 203 ngày 08/01/1933.

151.   Nguyễn Văn Vĩnh, Văn chương yêu nước, L’Annam Nouveau, số 203 ngày

08/01/1933.

152.   Nguyễn Văn Vĩnh, Chữ quốc ngữ đổi mới, L’Annam Nouveau, số 115 đến số 118

tháng 3/1932.

153.   Nguyễn Văn Vĩnh, Quyển sách đầu tiên được in ra bằng chữ quốc ngữ đổi mới,

L’Annam Nouveau, số 139 ngày 29/5/1932.

154.   Nguyễn Văn Vĩnh, Chính tả trong chữ quốc ngữ, L’Annam Nouveau, số 174, 175

ngày 25 và 29/9/1932.

155.   Nguyễn Văn Vĩnh, Để có một từ ngữ đồng nhất dành cho báo chí bản xứ,

L’Annam Nouveau,1932.

156.   Nguyễn Văn Vĩnh, Tiếng Pháp, tiếng để tranh luận, L’Annam Nouveau, số 466

ngày 01/8/1935.

157.   Nguyễn Văn Vĩnh, Tết, một phong tục cảm động của một dân tộc đói nghèo,

L’Annam Nouveau, số 208 ngày 26/3/1933.

158.   Nguyễn Văn Vĩnh, Nghiên cứu về ngày Tết, L’Annam Nouveau, số 415 ngày

03/02/1935.

159.   Nguyễn Văn Vĩnh, Thương mại An Nam, L’Annam Nouveau, số 07 năm 1931.

160.   Nguyễn Văn Vĩnh, Báo chí và nhà in, L’Annam Nouveau, số 29 ngày 10/5/1931.

161.   Nguyễn Văn Vĩnh, Thức ăn thịt và người An Nam, L’Annam Nouveau, số 34 ngày

28/5/1931.

162.   Nguyễn Văn Vĩnh, Những vấn đề đời sống vật chất của người An Nam, L’Annam

Nouveau, số 133 ngày 08/5/1932.

163.   Nguyễn Văn Vĩnh, Cái rét, L’Annam Nouveau, số 310 ngày 25/1/1934.

164.   Nguyễn Văn Vĩnh, Tiền bạc, L’Annam Nouveau, số 155 ngày 24/7/1932.

165.   Nguyễn Văn Vĩnh, Những người giàu nghèo khổ, L’Annam Nouveau, số 471 ngày

18/8/1935.

166.   Nguyễn Văn Vĩnh, Báo chí bản xứ tự do, L’Annam Nouveau, số 27, 28 ngày 03 và

07/5/1931.

167.   Nguyễn Văn Vĩnh, Chống Pháp, L’Annam Nouveau, số 268 ngày 27/8/1933.

168.   Nguyễn Văn Vĩnh, Báo chí An Nam tự do, L’Annam Nouveau, số 379 ngày

27/9/1934

169.   Nguyễn Văn Vĩnh, Những mắc mứu đầu tiên của chế độ lập hiến, L’Annam

Nouveau, số 159 ngày 07/8/1932.

170.   Nguyễn Văn Vĩnh, Ông Phạm Quỳnh thượng thư, L’Annam Nouveau, số 183 ngày

30/10/1932.

206

171.   Nguyễn Văn Vĩnh, Thư Phan Chu Trinh gửi toàn quyền Đông Dương.

172.   Nguyễn Văn Vĩnh, Xu hướng hiện nay của đường lối chính trị đối với người bản

xứ, L’Annam Nouveau, từ số 349 đến số 351 ngày 14 đến 21/6/1934.

173.   Nguyễn Văn Vĩnh, Những của cải của người An Nam, L’Annam Nouveau, số 155

ngày 24/7/1932.

174.   Nguyễn Văn Vĩnh, Ăn đói mặc rét, L’Annam Nouveau, số 204 ngày 12/1/1933.

175.   Nguyễn Văn Vĩnh, Giầy dép, L’Annam Nouveau, số 206 ngày 09/01/1933.

176.   Nguyễn Văn Vĩnh, Kẻ trộm và kẻ cướp, L’Annam Nouveau, số 207 ngày

22/1/1933.

177.   Nguyễn Văn Vĩnh, Sự cùng khổ của việc di dân, L’Annam Nouveau, số 214 ngày

23/2/1933.

178.   Nguyễn Văn Vĩnh, Vấn đề nước sạch ở các làng quê chúng ta, L’Annam Nouveau,

số 251 ngày 02/7/1933.

179.   Nguyễn Văn Vĩnh, Những bất bình của người An Nam trong kinh tế khủng hoảng,

L’Annam Nouveau, số 155 ngày 24/7/1932.

180.   Nguyễn Văn Vĩnh, Một tháng với những người đi tìm vàng, L’Annam Nouveau, từ

số 526 ngày 1/3/1936 đến số 538 ngày 12/4/1936.

181.   Nguyễn Văn Vĩnh, Những bài hát trẻ con, L’Annam Nouveau, số 436,441,458

/1935.

182.   Nguyễn Văn Vĩnh, Xét tật mình, Đông Dương tạp chí số 8, Jeudi 3 Juillet 1913.

183.   Nguyễn Văn Vĩnh, Xét tật mình (Tính biển lận, ăn gian nói dối), Đông Dương

tạp chí số 9, Jeudi 3 Juillet 1913.

184.   Nguyễn Văn Vĩnh, Xét tật mình (Thói ăn uống), Đông Dương tạp chí số 10, Jeudi

17 Juillet 1913.

185.   Nguyễn Văn Vĩnh, Xét tật mình (Thói làm biếng), Đông Dương tạp chí số 11,

Jeudi 24 Juillet 1913.

186.   Nguyễn Văn Vĩnh, Xét tật mình (Thói không biết cần kiệm, dự phòng cho lâu

dài), Đông Dương tạp chí số 12, Jeudi 31 Juillet 1913.

187.   Nguyễn Văn Vĩnh, Xét tật mình, (Tính bán tín bán nghi không dứt khoát), Đông

Dương tạp chí số 13, Jeudi 7 Aout 1913.

188.   Nguyễn Văn Vĩnh, Xét tật mình (Ăn mặc suồng sã, hớ hênh), Đông Dương tạp

chí số 14, Jeudi 14 Aout 1913.

189.   Nguyễn Văn Vĩnh, Xét tật mình, (Huyền hồ về nhận thức, tư tưởng), Đông

Dương tạp chí số 15, Jeudi 21 Aout 1913.

190.   Nguyễn Văn Vĩnh, Xét tật mình, (Lối học cổ hủ), Đông Dương tạp chí số 16,

Jeudi 28 Aout 1913.

191.   Nguyễn Văn Vĩnh, Xét tật mình, (Lợi dụng khó khăn của người khác để trục lợi),

Đông Dương tạp chí số 17, Jeudi 4 Septembre 1913.

207

192.   Nguyễn Văn Vĩnh, Xét tật mình, (Những khiếm khuyết trong hoạt động tri thức),

Đông Dương tạp chí số 18, Jeudi 11 Septembre 1913.

193.   Nguyễn Văn Vĩnh, Xét tật mình, (Hội kiếp bạc, tính mê tín dị đoan), Đông

Dương tạp chí số 19, Jeudi 18 Septembre 1913.

194.   Nguyễn Văn Vĩnh, Xét tật mình (Thư nặc danh), Đông Dương tạp chí số 20,

Jeudi 25 Septembre 1913.

195.   Nguyễn Văn Vĩnh, Xét tật mình (Vụng nói chuyện), Đông Dương tạp chí số 21,

Jeudi 2 Octobre 1913.

196.   Nguyễn Văn Vĩnh, Xét tật mình (Gì cũng cười), Đông Dương tạp chí số 22, Jeudi

9 Octobre 1913.

197.   Nguyễn Văn Vĩnh, Xét tật mình (Cờ bạc), Đông Dương tạp chí số 29, Jeudi 27

Novembre 1913.

198.   Nguyễn Văn Vĩnh, Chữ Nho nên học hay nên bỏ, Đông Dương tạp chí số 31,

Jeudi 11 Decembre 1913.

199.   Đào Thị Loan, Nhời đàn bà (Cần trị thói xấu ăn chơi, cờ bạc, hát xướng của đàn

ông), Đông Dương tạp chí số 5, Jeudi 12 Juin 1913.

200.   Đào Thị Loan, Nhời đàn bà (Phải biết chăm sóc bản thân để giữ chông, Đông

Dương tạp chí số 6, Jeudi 19 Juin 1913.

201.   Đào Thị Loan, Nhời đàn bà (Vấn đề sinh đẻ), Đông Dương tạp chí số 8, Jeudi 3 Juillet 1913; Đông Dương tạp chí số 9, Jeudi 3 Juillet 1913; Đông Dương tạp chí số 11, Jeudi 24 Juillet 1913.

202.   Đào Thị Loan, Nhời đàn bà (Giữ vệ sinh khi sinh đẻ theo khoa học), Đông

Dương tạp chí số 12, Jeudi 31 Juillet 1913.

203.   Đào Thị Loan, Nhời đàn bà (Vấn đề giáo dục con cái) ,Đông Dương tạp chí số 7,

Jeudi 26 Juin 1913.

204.   Đào Thị Loan, Nhời đàn bà (Cần hiểu tâm lý nhu cầu của trẻ), Đông Dương tạp chí số 10, Jeudi 17 Juillet 1913, Đông Dương tạp chí số 14, Jeudi 14 Aout 1913.

205.   Đào Thị Loan, Nhời đàn bà (Dạy con từ thưở còn thơ), Đông Dương tạp chí số

13, Jeudi 7 Aout 1913, Đông Dương tạp chí số 14, Jeudi 14 Aout 1913.

206.   Đào Thị Loan, Nhời đàn bà (Vấn đề ăn mặc của người phụ nữ, Đông Dương tạp

chí số 15, Jeudi 21 Aout 1913.

207.   Đào Thị Loan, Nhời đàn bà (Công dung ngôn hạnh), Đông Dương tạp chí số 16,

Jeudi 28 Aout 1913.

208.   Đào Thị Loan, Nhời đàn bà (Biểu dương lòng từ thiện của chị em phụ nữ), Đông

Dương tạp chí số 17, Jeudi 4 Septembre 1913.

209.   Đào Thị Loan, Nhời đàn bà (Tết Trung thu), Đông Dương tạp chí số 19, Jeudi 18

Septembre 1913.

210.   Đào Thị Loan, Nhời đàn bà (Phê phán nạn múa may đồng bóng ở các hội đền),

Đông Dương tạp chí số 20, Jeudi 25 Septembre 1913.

208

211.   Đào Thị Loan, Nhời đàn bà,“Con sâu đổ dầu nồi canh”, Đông Dương tạp chí số

21, Jeudi 2 Octobre 1913.

212.   Đào Thị Loan, Nhời đàn bà, “Lắm vợ”, Đông Dương tạp chí số 22, Jeudi 9

Octobre 1913.

213.

Đào Thị Loan, Nhời đàn bà (Phản hồi độc giả), Đông Dương tạp chí số 29,

Jeudi 27 Novembre 1913.

214.   Đào Thị Loan, Nhời đàn bà (Thư của độc giả), Đông Dương tạp chí số 30, Jeudi

4 Decembre 1913.

215.   Đào Thị Loan, Nhời đàn bà, “Đào nương đáp lại”, Đông Dương tạp chí số 31,

Jeudi 11 Decembre 1913.

216.   Đào Thị Loan, Nhời đàn bà (Thư của độc giả), Đông Dương tạp chí số 32, Jeudi

18 Decembre 1913

217.   Đào Thị Loan, Nhời đàn bà, Đông Dương tạp chí số 33, Jeudi 25 Decembre

1913.

218.   Đào Thị Loan, Nhời đàn bà, Đông Dương tạp chí số 35, Jeudi 8 Janvier 1914.

219.   Đào Thị Loan, Nhời đàn bà-“Cách sung sướng”,Đông Dương tạp chí số 38,

Jeudi 5 Fevrier 1914.

220.   Đào Thị Loan, Nhời đàn bà, Đông Dương tạp chí số 41, Jeudi 28 Fevrier 1914.

221.   Tân Nam Tử, Phương trâm, Đông Dương tạp chí số 1, Jeudi 15 Mai 1913; Đông

Dương tạp chí số 2, Jeudi 22 Mai 1913.

222.   Nguyễn Văn Vĩnh dịch ra quốc âm, Văn chương, Đông Dương tạp chí số 2, Jeudi

22 Mai 1913.

223.   Nguyễn Văn Vĩnh, Triết học (Luận về ngôn ngữ và văn từ), Đông Dương tạp chí

số 2, Jeudi 22 Mai 1913.

224.   Nguyễn Văn Vĩnh, Phương trâm, Đông Dương tạp chí số 3, Jeudi 29 Mai 1913.

225.   Nguyễn Văn Vĩnh dịch ra quốc âm, Văn chương-Pháp văn tạp thái (trích “Traité du Vide” của Blaise Pascal”), Đông Dương tạp chí số 3, Jeudi 29 Mai 1913, Đông Dương tạp chí số 4, Jeudi 5 Juin 1913; Đông Dương tạp chí số 5, Jeudi 12 Juin 1913.

226.   Nguyễn Văn Vĩnh dịch quốc âm, Pháp văn hợp thái (tác phẩm của ông Maurice Maeterlinck, người Tỉ lợi thì (Belgique)), Đông Dương tạp chí số 7, Jeudi 26 Juin 1913; Đông Dương tạp chí số 8, Jeudi 3 Juillet 1913.

227.   Nguyễn Văn Vĩnh diễn Nôm, Văn chương - Pháp văn tạp thái (trích “Le Docteaur Pascal” của Emile Zola), ), Đông Dương tạp chí số 11, Jeudi 24 Juillet 1913.

228.   Nguyễn Văn Vĩnh diễn quốc âm, Pháp văn tạp thái (Thơ La Fontane diễn quốc

âm), Đông Dương tạp chí số 14, Jeudi 14 Aout 1913.

229.   Nguyễn Văn Vĩnh diễn quốc âm, Luân lý học (Tự do luận), Đông Dương tạp chí

số 15, Jeudi 21 Aout 1913.

209

230.   Nguyễn Văn Vĩnh diễn quốc âm, Luân lý học (Phận sự vợ chồng trước khi lấy

nhau), Đông Dương tạp chí số 16, Jeudi 28 Aout 1913.

231.   Nguyễn Văn Vĩnh diễn quốc âm, Luân lý học (Linh tính luận), Đông Dương tạp

chí số 17, Jeudi 4 Septembre 1913.

232.   Nguyễn Văn Vĩnh diễn quốc âm, Pháp văn tạp thái (Thơ La Fontane diễn quốc

âm), Đông Dương tạp chí số 18, Jeudi 11 Septembre 1913.

233.   Nguyễn Văn Vĩnh diễn quốc âm, Pháp văn tạp thái, Đông Dương tạp chí số 21,

Jeudi 2 Octobre 1913.

234.   Nguyễn Văn Vĩnh, Bắc Kỳ thứ dân nghị viện, Đông Dương tạp chí số 23, Jeudi

16 Octobre 1913.

235.   Nguyễn Văn Vĩnh, Nghị viện, Đông Dương tạp chí số 24, Jeudi 23 Octobre 1913.

236.   Nguyễn Văn Vĩnh, Tội sách Tầu (Le crime des Lives Chinois), Đông Dương tạp

chí số 28, Jeudi 20 Novembre 1913.

237.   Nguyễn Văn Vĩnh diễn Nôm, Luân lý học (Người ta sống ở đời không phải cốt cầu lấy sướng thân - P Janet), Đông Dương tạp chí số 28, Jeudi 20 Novembre 1913.

238.   Nguyễn Văn Vĩnh diễn Nôm, Luân lý học (Lợi riêng, trích sách “Nghĩa vụ triết

học của Ferraz), Đông Dương tạp chí số 29, Jeudi 27 Novembre 1913.

239.   Nguyễn Văn Vĩnh, Luận về việc du học, Đông Dương tạp chí số 30, Jeudi 4

Decembre 1913.

240.   Nguyễn Văn Vĩnh diễn Nôm, Luân lý học (“Luân lý mà làm theo lợi chung thì kết quả ra thế nào?”- Victor Cousin), Đông Dương tạp chí số 30, Jeudi 4 Decembre 1913; Đông Dương tạp chí số 31, Jeudi 11 Decembre 1913.

241.   Nguyễn Văn Vĩnh diễn Nôm, Luân lý học (“Luân lý mà theo nhân tình”- trích “Vô tôn giáo thuyết” của Ch. Secre1tan), Đông Dương tạp chí số 32, Jeudi 18 Decembre 1913; Đông Dương tạp chí số 33, Jeudi 25 Decembre 1913.

242.   Nguyễn Văn Vĩnh diễn Nôm, Luân lý học (Quyển luận – trích “Luân lý” của P.

Janet),Đông Dương tạp chí số 34, Jeudi 1er Janvier 1914.

243.   Nguyễn Văn Vĩnh diễn Nôm, Luân lý học (Trách nhiệm – Trích “Luân lý giáo

khoa”của H. Marion), Đông Dương tạp chí số 35, Jeudi 8 Janvier 1914.

244.   Nguyễn Văn Vĩnh diễn Nôm, Luân lý học (Thiện ác có thưởng phạt, trích “Triết học giáo khoa” của A. Jacques, J. Simon và E. Saisset), Đông Dương tạp chí số 36, Jeudi 15 Janvier 1914.

245.   Nguyễn Văn Vĩnh, Tết, Đông Dương tạp chí số 37, Jeudi 22 Janvier 1914.

246.   Nguyễn Văn Vĩnh diễn Nôm, Luân lý học (Trách nhiệm luận), Đông Dương tạp

chí số 39, Jeudi 12 Fevrier 1914.

247.   Nguyễn Văn Vĩnh diễn Nôm, Luân lý học (Ưng thưởng ưng phạt luận), Đông

Dương tạp chí số 40, Jeudi 19 Fevrier 1914.

210

248.   Nguyễn Văn Vĩnh diễn Nôm theo điệu vần Tây, Văn chương –Pháp văn tạp thái, (Thơ ngụ ngôn La Fontane (Con ve và con kiến)), Đông Dương tạp chí số 40, Jeudi 19 Fevrier 1914.

249.   Nguyễn Văn Vĩnh diễn Nôm, Luân lý học (Hạnh phúc ở trong sự quên mình),

Đông Dương tạp chí số 41, Jeudi 28 Fevrier 1914.

250.   Tân Nam Tử, Văn chương An Nam, Đông Dương tạp chí số 9, Jeudi 3 Juillet

1913.

251.   Thơ ngụ ngôn của La Fontaine tiên sanh; Nguyễn Văn Vĩnh dịch, Nxb Trung Bắc

Tân Văn, Hà Nội 1919.

252.   Chuyện trẻ con / Charles Perrault; Nguyễn Văn Vĩnh dịch, Nxb Hương Sơn, 1950.

253.   Tình bạn: châm ngôn; Nguyễn Văn Vĩnh dịch, Nxb Trẻ, TP Hồ Chí Minh.

254.   Kim Vân Kiều, Nguyễn Văn Vĩnh dịch, Nxb Văn học, 1994.

255.   Nguyễn Văn Vĩnh, Kim Vân Kiều tân diễn Pháp văn, đăng trên Đông Dương tạp

chí từ số 18.

256.   Tiểu thuyết Miếng Da Lừa / Honoré de Balzac; Nguyễn Văn Vĩnh dịch, đăng trên

Đông Dương Tạp Chí.

257.   Truyện Gin Ba-la (Gilblas de Santillace, de Lesage); Nguyễn Văn Vĩnh diễn

Nôm, bắt đầu đăng trên Đông Dương tạp chí từ số 13, 14, 16, 17,18, 19

258.   Nguyễn Văn Vĩnh, Hương Sơn hành trình, khởi đăng trên Đông Dương tạp chí

từ số 41.

PHỤ LỤC

LƯỢC TRÍCH MỤC LỤC NHỮNG SỐ BÁO

ĐÔNG DƯƠNG TẠP CHÍ CÒN LẠI

A.   THƯ VIỆN QUỐC GIA

SỐ 1 (15 – 5 – 1913): TIN SAU CÙNG CHƯƠNG-TRÌNH. – Dân quán chủ nhân. QUAN TỪ. – 10 Tờ thông-đạt của quan Thống-sứ về việc ngăn giữ những kẻ phao-ngôn loạn-ngữ; - 20 Tờ thông-đạt về việc tư thăng-chức và tư mề-đay cho các ông Tham, ông Phán và ông Ký các tỉnh. ĐIỆN-BÁO. – Đại-pháp – Đông-Dương – Trung-Hoa – Âu-châu chi đông – Manille. PHƯƠNG-TRÂM – Tân-nam-tử. VIỆC TRÁI-PHÁ – Nguyên-ủy – Đám ma hai quan tư bị hại – Các diễn-văn – Các lời viếng – Cách trừng-trị - Hội-đồng Đề-hình – Lưới Giời khó tránh – Các tùng phạm – Tin sau cùng. CẨN CÁO – Bản-quán. CÁCH MUA BÁO. SỐ 2 (22 – 5 – 1913): CAN-BẠCH Điện-báo CHỦ-NGHĨA. Bản-quán. PHƯƠNG-TRÂM (GỐC-LOẠN) Chủ-bút THỜI-SỰ ĐÔNG-DƯƠNG. HÀ-NỘI. NÔNG-LUẬN, (PHÉP KHIẾN NƯỚC LÀM RUỘNG Ở BẮC-KỲ VÀ MẠN BẮC TRUNG-KỲ). Công bộ chuyên môn J.-A.LANGON TẠP-LUẬN, HỌC-HÀNH T.N.T LANG-SA VẠN TUẾ! Dịch Pháp-văn ra. Bạch-văn-Thâm. VĂN-CHƯƠNG, Pháp văn tạp thái. On annonce, on attend… AN. FRANCE TRIẾT HỌC. Luận về ngôn ngữ văn từ. N.V.V. SỐ 3 (29 – 5 – 1913) ĐIỆN-BÁO PHƯƠNG-TRÂM, Ta phải cầu thân, Chủ-bút. CHU TRI, việc bầu Nghị-viện Việc khám xét tri – tình. TẠP-SỰ, Hà-nội, Đông-dương. Vạn-quốc lịch-sử. CÁCH PHÒNG CÁC BỆNH TRUYỀN NHIỄM, Lê-văn-Chỉnh. SƯ-PHẠM-KHOA, Cách dạy trẻ con, Trần-Trọng-Kim. NÔNG-LUẬN, về việc khiến nước làm ruộng etc, LANGON. VIỆC BÀU NGHỊ-VIỆN

VĂN-CHƯƠNG, Le respect que l’on porte à l’antiquité…de Pascal, traduit en annamite par N.V.V. DƯỠNG ANH NHI PHÁP TÀI VẶT: Đào-công CHU TRI (án tòa lai cảo) CẨN BẠCH. SỐ 4 (5 – 6 – 1913) KÍNH-KHẢI THỜI SỰ TỔNG THUẬT, Thinker ĐIỆN-BÁO PHƯƠNG-TRÂM, Nền Pháp-Việt, Chủ-bút. QUAN TỪ TẠP-SỰ, Hà-nội, Đông-Dương, N.X. Hiệp VĂN-CHƯƠNG, Le respect que l’on porte à l’antiquité…de Pascal, traduit en annamite par N.V.V. MÃI HÓA MÔI DẪN. CIGARETTES DIVA. DƯỠNG ANH NHI PHÁP NÔNG-LUẬN, về việc khiến nước làm ruộng etc, LANGON. VIỆC BUÔN BÁN CAN DỰ VỚI THỜI SỰ. LAI-KIỂU TÀI VẶT CHI-TRI (án tòa lai cảo) CẨN BẠCH. SỐ 5 (12 – 6 – 1913) KÍNH-KHẢI THỜI SỰ TỔNG THUẬT, Thinker. ĐIỆN-BÁO HỌC CŨ HỌC MỚI QUAN TỪ ĐÔNG-DƯƠNG THỜI SỰ QUAN TOÀN QUYỀN VÀO KINH LỢI NGƯỜI ĐI TRƯỚC. NHỜI ĐÀN-BÀ. NÔNG-LUẬN, về việc khiến nước làm ruộng etc, LANGON. VĂN-CHƯƠNG, Le respect que l’on porte à l’antiquité…de Pascal, traduit en annamite par N.V.V. LAI-KIỂU. DƯỠNG ANH NHI PHÁP. TÀI-VẶT. Đào-Công. CHU-TRI (án tòa lai cảo). CẨN-BẠCH. TRÀNG SĨ-HOẠN. SỐ 6 (19 – 6 – 1913) CẨN-CÁO TIN SAU CÙNG THỜI SỰ TỔNG THUẬT, Thinker.

ĐIỆN-BÁO. XÉT TẬT MÌNH, V. QUAN TỪ ĐÔNG-DƯƠNG THỜI SỰ. PHÁT PHẦN THƯỞNG. NHỜI ĐÀN-BÀ, Đào-thị-Loan. LỢI NGƯỜI ĐI TRƯỚC LUẬN VỀ NGHỀ BAY, Trương-phi. TÀI VẶT, Đào-Công. CẨN-BẠCH. SỐ 7 (26 – 6 – 1913) KÍNH-KHẢI CẨN-CÁO THỜI SỰ TỔNG THUẬT, Thinker. ĐIỆN-BÁO. XÉT TẬT MÌNH II, V. QUAN-BÁO TRÍCH LỤC. ĐÔNG-DƯƠNG THỜI SỰ. NHỜI ĐÀN-BÀ, Đào-thị-Loan. PHÁP VĂN HỢP THÁI, “La Sagesse et la Destinée” de Maurice Maeterlinek, Phạm Quỳnh diễn-nôm. CÔNG LUẬN, Cách viết các tên riêng, T.N.T. TÀI VẶT, Đào-công. VIỆC BUÔN BÁN, Bình-Chuẩn. SỐ 8 (3 – 7 – 1913) KÍNH-KHẢI CẨN-CÁO THỜI SỰ TỔNG THUẬT, Thinker. ĐIỆN-BÁO. XÉT TẬT MÌNH III, V. QUAN-BÁO TRÍCH LỤC. ĐÔNG-DƯƠNG THỜI SỰ. NHỜI ĐÀN-BÀ, Đào-thị-Loan TÂN HỌC CỔ HỌC BÌNH LUẬN, P – Q. VĂN-CHƯƠNG, Je suis convaincu que l’humanité…d’An. France, traduit en annamite par N.V.V. TỰ DO DIỄN ĐÀNG, Ngô-vi-Lâm. TÀI VẶT, Đào-công. VIỆC BUÔN BÁN, Bình-Chuẩn. LỢI NGƯỜI ĐI TRƯỚC. SỐ 9 (10 – 7 – 1913) KÍNH-KHẢI CẨN-CÁO THỜI SỰ TỔNG THUẬT, Thinker. ĐIỆN-BÁO. XÉT TẬT MÌNH IV, V. QUAN-BÁO TRÍCH LỤC.

ĐÔNG-DƯƠNG THỜI SỰ. NHỜI ĐÀN-BÀ, Đào-thị-Loan VĂN-CHƯƠNG AN-NAM, T.N.T. CÔNG NGHIỆP NƯỚC LANG-SA, về việc khiến nước làm ruộng etc. LANGON TỰ DO DIỄN ĐÀNG, Vương-vĩnh-Tuy. TÀI VẶT, Đào-công. VIỆC BUÔN BÁN, Bình-Chuẩn. SỐ 10 (17 – 7 – 1913) KÍNH-KHẢI CẨN-CÁO THỜI SỰ TỔNG THUẬT, Thinker. ĐIỆN-BÁO. XÉT TẬT MÌNH V, V. QUAN-BÁO LƯỢC LỤC. ĐÔNG-DƯƠNG THỜI SỰ. NHỜI ĐÀN-BÀ, Đào-thị-Loan HỢP-QUẦN, Hội Công-Ích. BÁO THÊM TRANG, Bản-quán. CÔNG NGHIỆP NƯỚC LANG-SA, về việc khiến nước làm ruộng etc. LANGON CÔNG LUẬN, T.N.T. TỰ DO DIỄN ĐÀNG, Nguyễn-văn-Dũ. TÀI VẶT, Đào-công. VIỆC BUÔN BÁN, Bình-Chuẩn. SỐ 11 (24 – 7 – 1913) KÍNH-KHẢI CẨN-CÁO THỜI SỰ TỔNG THUẬT, Thinker. ĐIỆN-BÁO. XÉT TẬT MÌNH VI, V. QUAN-BÁO LƯỢC LỤC. ĐÔNG-DƯƠNG THỜI SỰ. NHỜI ĐÀN-BÀ, Đào-thị-Loan HỢP-QUẦN, Hội Công-Ích. VĂN-CHƯƠNG, N.V.V. diễn nôm, Pháp-văn hợp thái, Extrait du Docteur Pascal: Emile Zola. SƯ PHẠM KHOA, Trần-Trọng-Kim. TỰ DO DIỄN ĐÀNG, Một phường công-hiệu, Nguyễn-Đình-Quế. VIỆC BUÔN BÁN, Bình-Chuẩn. ĐÁP LẠI CÁC THƠ. SỐ 12 (31 – 7 – 1913) KÍNH-KHẢI CẨN-CÁO THỜI SỰ TỔNG THUẬT, Thinker. ĐIỆN-BÁO. XÉT TẬT MÌNH VII, V. QUAN-BÁO LƯỢC LỤC.

ĐÔNG-DƯƠNG THỜI SỰ. NHỜI ĐÀN-BÀ, Đào-thị-Loan CÁCH BUÔN BÁN LANG-SA, Bình-Chuẩn. VĂN-CHƯƠNG, Nam văn hợp thái, Bát-cổ. DỊCH BÁO TÂY RA, Les chinois et les annamites, par henry. TỰ DO DIỄN ĐÀNG, Bùi-quí-Luận. VIỆC BUÔN BÁN, Bình-Chuẩn. SỐ 13 (7 – 8 – 1913) KÍNH-KHẢI CẨN-CÁO THỜI SỰ TỔNG THUẬT, Thinker. ĐIỆN-BÁO. XÉT TẬT MÌNH VIII, V. QUAN-BÁO LƯỢC LỤC. ĐÔNG-DƯƠNG THỜI SỰ. NHỜI ĐÀN-BÀ, Đào-thị-Loan BÀI BIỆN NHỊ THẬP TỨ HIẾU, Ngô-vi-Lâm. CÁCH BUÔN BÁN LANG-SA, Bình-Chuẩn. VĂN-CHƯƠNG TỰ DO DIỄN ĐÀNG, Lê. ĐÁP LẠI CÁC THƠ VIỆC BUÔN BÁN, Bình-chuẩn. CHUYỆN GIN BA – LA, (Gil Blas de Santilane, de Lesage), N.V.V. diễn nôm. SỐ 14 (14 – 8 – 1913) KÍNH-KHẢI CẨN-CÁO THỜI SỰ TỔNG THUẬT, Thinker. ĐIỆN-BÁO. XÉT TẬT MÌNH IX, V. QUAN-BÁO LƯỢC LỤC. ĐÔNG-DƯƠNG THỜI SỰ. NHỜI ĐÀN-BÀ, Đào-thị-Loan. CÁCH BUÔN BÁN LANG-SA, Bình-Chuẩn. VĂN-CHƯƠNG, Lê-quí-Đôn. TỰ DO DIỄN ĐÀNG, Bài chúc-mừng, Yên-Bình Huấn-đạo, Ng.-vinh-Chỉnh. VIỆC BUÔN BÁN, Bình-chuẩn. GIL BLAS DE SANTILLANE, tiểu-thuyết Lesage soạn, N.V.V. diễn-nôm. COURS DE LANGUE ANNAMITE (Sách dạy tiếng Annam), G. Saintonge. SỐ 15 (21 – 8 – 1913) KÍNH-KHẢI CẨN-CÁO THỜI SỰ TỔNG THUẬT, Thinker. ĐIỆN-BÁO. XÉT TẬT MÌNH X, V. TẬT CÓ THUỐC LUÂN LÝ HỌC, Dịch pháp-văn ra. QUAN BÁO LƯỢC LỤC

ĐÔNG DƯƠNG THỜI SỰ NƯỚC LỤT NHỜI ĐÀN-BÀ, Đào-thị-Loan. CÁCH BUÔN BÁN LANG-SA,IV, Bình-Chuẩn. VĂN-CHƯƠNG, Les Fables la Fontaine traduites en annamite par N.V.V, La Jeune Veure. TỰ DO DIỄN ĐÀNG, Dạy con từ thuở còn thơ, Ng.-vinh-Chỉnh. VIỆC BUÔN BÁN, Bình-chuẩn. GIL BLAS DE SANTILLANE, tiểu-thuyết Lesage soạn, N.V.V. diễn-nôm. QUỐC NGỮ CHỈ NAM, Bảng thứ nhất, Dạy 23 chữ cái. COURS DE LANGUE ANNAMITE (Sách dạy tiếng Annam), G. Saintonge. SỐ 16 (28 – 8 – 1913) TIN SAU CÙNG THỜI SỰ TỔNG THUẬT, Thinker. ĐIỆN-BÁO. XÉT TẬT MÌNH XI, V. LUÂN LÝ HỌC, Dịch pháp-văn ra. QUAN BÁO LƯỢC LỤC ĐÔNG DƯƠNG THỜI SỰ NHỜI ĐÀN-BÀ, Đào-thị-Loan. LUÂN LÝ HỌC TỰ DO DIỄN ĐÀNG, Dạy con từ thuở còn thơ, Ng.-vinh-Chỉnh. NƯỚC LỤT HỘI LẠC QUYÊN CÁCH BUÔN BÁN LANG-SA,IV, Bình-Chuẩn. QUỐC NGỮ CHỈ NAM, Bảng thứ nhì, Lối viết các chữ cái. GIL BLAS DE SANTILLANE, tiểu-thuyết Lesage soạn, N.V.V. diễn-nôm. SỐ 17 (4 – 9 – 1913) THỜI SỰ TỔNG THUẬT, Đ.-D.-C.-T. ĐIỆN-BÁO. XÉT TẬT MÌNH XII, V. LUÂN LÝ HỌC, Dịch pháp-văn ra. QUAN BÁO LƯỢC LỤC ĐÔNG DƯƠNG THỜI SỰ NƯỚC LỤT NHỜI ĐÀN-BÀ, Đào-Thị-Loan. LUÂN LÝ HỌC CÁCH BUÔN BÁN LANG-SA VI, Bình-Chuẩn. VIỆC BUÔN BÁN, Bình-chuẩn. HỘI LẠC QUYÊN. GIL BLAS DE SANTILLANE, tiểu-thuyết Lesage soạn, N.V.V. diễn-nôm. SỐ 18 (11 – 9 – 1913) THỜI SỰ TỔNG THUẬT, Thinker.. ĐIỆN-BÁO. XÉT TẬT MÌNH XIII, V. QUAN BÁO LƯỢC LỤC ĐÔNG DƯƠNG THỜI SỰ

NƯỚC LỤT VIỆC TRÁI PHÁ LUẬN VỀ ĐÊ, B.Q. LUÂN LÝ HỌC. NAM VĂN HỢP THÁI – KIM-VÂN-KIỀU, Tân diễn pháp văn. VĂN-CHƯƠNG, Les Fables la Fontaine traduites en annamite par N.V.V, Le Corbeau et le Renard. TỰ DO DIỄN ĐÀNG, Dạy con từ thuở còn thơ, Ng.-vinh-Chỉnh. VIỆC BUÔN BÁN, Bình-chuẩn. HỘI LẠC QUYÊN. GIL BLAS DE SANTILLANE, tiểu-thuyết Lesage soạn, N.V.V. diễn-nôm. SỐ 19 (18 – 9 – 1913) THỜI SỰ TỔNG THUẬT, Thinker.. ĐIỆN-BÁO. XÉT TẬT MÌNH XIV, Hội kiếp bạc, V. QUAN BÁO LƯỢC LỤC ĐÔNG DƯƠNG THỜI SỰ HỘI CỜ NHỜI ĐÀN-BÀ, Đào-Thị-Loan. LUÂN LÝ HỌC. TỰ DO DIỄN ĐÀNG, Dạy con từ thuở còn thơ, Ng.-vinh-Chỉnh. NAM VĂN HỢP THÁI – KIM-VÂN-KIỀU, Tân diễn pháp văn. VIỆC BUÔN BÁN, Bình-chuẩn. SỔ QUYÊN CỨU KẺ BỊ LỤT. GIL BLAS DE SANTILLANE, Tiểu-thuyết Lesage soạn, N.V.V. diễn-nôm. SỐ 20 (25 – 9 – 1913) THỜI SỰ TỔNG THUẬT, Thinker.. ĐIỆN-BÁO. XÉT TẬT MÌNH XV, Nặc danh đầu thư, V. QUAN BÁO LƯỢC LỤC ĐÔNG DƯƠNG THỜI SỰ AN-VỤ NƯỚC LÊN NHỜI ĐÀN-BÀ, Đào-thị-Loan. LUẬN VỀ ĐÊ, Ngô-vi-Lâm. GÕ ĐẦU TRẺ, Nguyễn-đỗ-Mục. CÁCH BUÔN BÁN LANG-SA VI, Bình-Chuẩn NAM VĂN HỢP THÁI – KIM-VÂN-KIỀU, Tân diễn pháp văn. TỰ DO DIỄN ĐÀNG, Tính quẩn lo quanh, Nguyễn-đỗ-Mục. VIỆC BUÔN BÁN, Bình-chuẩn. SỔ QUYÊN CỨU KẺ BỊ LỤT. GIL BLAS DE SANTILLANE, tiểu-thuyết Lesage soạn, N.V.V. diễn-nôm. SỐ 21 (2 – 10 – 1913) THỜI SỰ TỔNG THUẬT, Thinker.. ĐIỆN-BÁO. XÉT TẬT MÌNH XVI, Vụng nói truyện, V.

QUAN BÁO LƯỢC LỤC ĐÔNG DƯƠNG THỜI SỰ NHỜI ĐÀN-BÀ, Con-xâu đổ đầu nồi-canh, Đào-thị-Loan. LUẬN VỀ ĐÊ, Phạm-xuân-Khôi. GÕ ĐẦU TRẺ, II, Nguyễn-đỗ-Mục. VĂN-CHƯƠNG, Pháp văn hợp thái. LÝ TÀI LUẬN, Việc chưng thuế rượu, J. Mordaing. NAM VĂN HỢP THÁI – KIM-VÂN-KIỀU, Tân diễn pháp văn. TỰ DO DIỄN ĐÀNG, Tờ các thiên-hộ và phố-trưởng kêu về việc giả-bạc. VIỆC BUÔN BÁN, Bình-chuẩn. SỔ QUYÊN CỨU KẺ BỊ LỤT. GIL BLAS DE SANTILLANE, tiểu-thuyết Lesage soạn, N.V.V. diễn-nôm. SỐ 22 (9 – 10 – 1913) THỜI SỰ TỔNG THUẬT, Thinker.. ĐIỆN-BÁO. XÉT TẬT MÌNH XVII. Gì cũng cười, V. QUAN BÁO LƯỢC LỤC ĐÔNG DƯƠNG THỜI SỰ TỬ-TIẾT, Hà-nguyên-Thực. NHỜI ĐÀN BÀ, Lắm vợ, Đào-thị-Loan. GÕ ĐẦU TRẺ, III, Nguyễn-đỗ-Mục. LUẬN VỀ ĐÊ, Nguyễn-trọng-Thuật. CÁCH BUÔN BÁN LANG-SA VIII, Bình-Chuẩn TỰ DO DIỄN ĐÀNG, Phong tục cải lương, Lê-văn-Phúc. VIỆC BUÔN BÁN, Bình-chuẩn. SỔ QUYÊN CỨU KẺ BỊ LỤT. GIL BLAS DE SANTILLANE, tiểu-thuyết Lesage soạn, N.V.V. diễn-nôm. SỐ 23 (16 – 10 – 1913) THỜI SỰ TỔNG THUẬT, Thinker.. ĐIỆN-BÁO. Bắc-kỳ thứ-dân Nghị-viện, Hội-đồng tại Hà-nội ngày 25 octobre 1913. Danh sách - các vấn đề. QUAN BÁO LƯỢC LỤC ĐÔNG DƯƠNG THỜI SỰ LUẬN VỀ ĐÊ, Trần-đức-Trọng. GÕ ĐẦU TRẺ, IV, Nguyễn-đỗ-Mục. TỰ DO DIỄN ĐÀNG, Thánh cũng có lúc nhầm, Nguyễn-đỗ-Mục. VIỆC BUÔN BÁN, Bình-chuẩn. SỔ QUYÊN CỨU KẺ BỊ LỤT. GIL BLAS DE SANTILLANE, tiểu-thuyết Lesage soạn, N.V.V. diễn-nôm. SỐ 24 (23 – 10 – 1913) THỜI SỰ TỔNG THUẬT, Thinker.. ĐIỆN-BÁO. NGHỊ-VIỆN, Vĩnh. QUAN BÁO LƯỢC LỤC ĐÔNG DƯƠNG THỜI SỰ

LUẬN VỀ ĐÊ, Trần-đức-Trọng. GÕ ĐẦU TRẺ, V, Nguyễn-đỗ-Mục. LÝ TÀI LUẬN, Việc chưng thuế rượu, J. Mordaing. NAM VĂN HỢP THÁI – KIM-VÂN-KIỀU, Tân diễn pháp văn. TỰ DO DIỄN ĐÀNG, Thế nào gọi là buôn, Nguyễn-đình-Quế. VIỆC BUÔN BÁN, Bình-chuẩn. SỔ QUYÊN CỨU KẺ BỊ LỤT. GIL BLAS DE SANTILLANE, tiểu-thuyết Lesage soạn, N.V.V. diễn-nôm. SỐ 25 (30 – 10 – 1913) THỜI SỰ TỔNG THUẬT, Đ.-D.-C.-T. ĐIỆN-BÁO. NGHỊ-VIỆN,Vĩnh. BÀI DIỄN THUYẾT của quan Thống-sứ Bắc-kỳ Destenay, đọc tại Thượng-nghị hội-viện, ngày 25 octobre 1913. QUAN BÁO LƯỢC LỤC ĐÔNG DƯƠNG THỜI SỰ GÕ ĐẦU TRẺ, VI, Nguyễn-đỗ-Mục. VIỆC BUÔN BÁN, Bình-chuẩn. SỔ QUYÊN CỨU KẺ BỊ LỤT. GIL BLAS DE SANTILLANE, tiểu-thuyết Lesage soạn, N.V.V. diễn-nôm. SỐ 26 (6 – 11 – 1913) THỜI SỰ TỔNG THUẬT, Đ.-D.-C.-T. ĐIỆN-BÁO. CÁC CÔNG VIỆC CỦA NGHỊ VIỆN QUAN BÁO LƯỢC LỤC ĐÔNG DƯƠNG THỜI SỰ GÕ ĐẦU TRẺ, VII, Nguyễn-đỗ-Mục. LUẬN VỀ THUỐC, J.H.H. Phương, quan thầy thuốc ở Sơn-la. LUẬN VỀ ĐÊ, Bùi-phụ-Kinh, tri-huyện de Hiệp-hòa. TỰ DO DIỄN ĐÀNG, Không cần, Nguyễn-đỗ-Mục. VIỆC BUÔN BÁN, Bình-chuẩn. SỔ QUYÊN CỨU KẺ BỊ LỤT. GIL BLAS DE SANTILLANE, tiểu-thuyết Lesage soạn, N.V.V. diễn-nôm. SỐ 27 (13 – 11 – 1913) THỜI SỰ TỔNG THUẬT, Thinker.. ĐIỆN-BÁO. VỠ LÒNG NGHỀ TỰ TRỊ, Vĩnh. QUAN BÁO LƯỢC LỤC ĐÔNG DƯƠNG THỜI SỰ CÁC CÔNG VIỆC CỦA NGHỊ VIỆN VĂN-CHƯƠNG, Les Fables de Florian traduites en annamite pas Ích, Les Grillon. GÕ ĐẦU TRẺ, VIII, Nguyễn-đỗ-Mục. LUẬN VỀ ĐÊ, Bùi-phụ-Kinh, tri-huyện de Hiệp-hòa. LÝ TÀI LUẬN, Việc chưng thuế rượu, J. Mordaing. LUẬN VỀ THUỐC, J.H.H. Phương, quan thầy thuốc ở Sơn-la

TỰ DO DIỄN ĐÀNG, Không cần, Nguyễn-đỗ-Mục. VIỆC BUÔN BÁN, Bình-chuẩn. GIL BLAS DE SANTILLANE, tiểu-thuyết Lesage soạn, N.V.V. diễn-nôm. COURS DE LANGUE ANNAMITE (Sách dạy tiếng Annam), G. Saintonge. SỐ 28 (20 – 11 – 1913) THỜI SỰ TỔNG THUẬT, Thinker.. ĐIỆN-BÁO. TỘI SÁCH TÀU, Vĩnh. QUAN BÁO LƯỢC LỤC ĐÔNG DƯƠNG THỜI SỰ CÁC CÔNG VIỆC CỦA NGHỊ VIỆN. ĐỒ TỐT LẮM KẺ LÀM GIAN. TỰ DO DIỄN ĐÀNG, Mừng nước-lụt, Phạm-tùng-Sơn. NGƯỜI ĐAU NÊN BIẾT. LUÂN LÝ HỌC, Nguyễn-văn-Vĩnh diễn-nôm. VĂN-CHƯƠNG, Pháp văn hợp thái, J.J. Rousseau. TRIẾT HỌC YẾU LƯỢC LUẬN VỀ ĐÊ, Ngô-vi-Lâm. GÕ ĐẦU TRẺ, IX, Nguyễn-đỗ-Mục. LUẬN VỀ THUỐC, J.H.H. Phương, quan thầy thuốc ở Sơn-la VIỆC BUÔN BÁN, Bình-chuẩn. RẠP HÁT TUỒNG TÂY. GIL BLAS DE SANTILLANE, tiểu-thuyết Lesage soạn, N.V.V. diễn-nôm. COURS DE LANGUE ANNAMITE (Sách dạy tiếng Annam), G. Saintonge. SỐ 29 (27 – 11 – 1913) THỜI SỰ TỔNG THUẬT, Thinker.. ĐIỆN-BÁO. XÉT TẬT MÌNH XVIII, Cờ-bạc, V. QUAN BÁO LƯỢC LỤC ĐÔNG DƯƠNG THỜI SỰ CÁC CÔNG VIỆC CỦA NGHỊ VIỆN. XẢO-KỸ TIẾN BỘ, Nguyễn-văn-Nghiệt. NHỜI ĐÀN-BÀ, Nguyễn-thị-Bổng. GÕ ĐẦU TRẺ, X, Nguyễn-đỗ-Mục. LUÂN LÝ HỌC, Nguyễn-văn-Vĩnh diễn-nôm. NGƯỜI ĐAU NÊN BIẾT, L.V.B. VĂN-CHƯƠNG, Pháp văn hợp thái, Le Loup et l’Agneau, de la Fontaine traduit en annamite. TRIẾT HỌC YẾU LƯỢC NAM VĂN HỢP THÁI – KIM-VÂN-KIỀU, Tân diễn pháp văn. LUẬN VỀ ĐÊ, Đinh-huy-Giễn. LUẬN VỀ THUỐC, J.H.H. Phương, quan thầy thuốc ở Sơn-la TỰ DO DIỄN ĐÀNG, Thai-sản, Nguyễn-đình-Quế. SỔ QUYÊN CỨU KẺ BỊ LỤT. VIỆC BUÔN BÁN, Bình-chuẩn. RẠP HÁT TUỒNG TÂY.

GIL BLAS DE SANTILLANE, tiểu-thuyết Lesage soạn, N.V.V. diễn-nôm. COURS DE LANGUE ANNAMITE (Sách dạy tiếng Annam), G. Saintonge. SỐ 30 (4 – 12 – 1913) THỜI SỰ TỔNG THUẬT, Thinker.. ĐIỆN-BÁO. LUẬN VỀ VIỆC DU HỌC, V. QUAN BÁO LƯỢC LỤC ĐÔNG DƯƠNG THỜI SỰ CÁC CÔNG VIỆC CỦA NGHỊ VIỆN. GÕ ĐẦU TRẺ, XI, Nguyễn-đỗ-Mục. LUẬN VỀ VIỆC THUỐC, J.H.H. Phương, quan thầy thuốc ở Sơn-la NHỜI ĐÀN-BÀ, Ph. Th. M. ĐẤU-GIÁ. LUẬN VỀ ĐÊ, Nguyễn-trọng-Lạc. NAM VĂN HỢP THÁI – KIM-VÂN-KIỀU, Tân diễn pháp văn. LUÂN LÝ HỌC, Nguyễn-văn-Vĩnh diễn-nôm. NGƯỜI ĐAU NÊN BIẾT, L.V.B. TRIẾT HỌC YẾU LƯỢC DÂN NAM KỲ AI MỘ QUAN TOÀN QUYỀN. LÝ TÀI LUẬN, Việc chưng thuế rượu, J. Mordaing. TỰ DO DIỄN ĐÀNG, Bùi-quí-Luận. SỔ QUYÊN CỨU KẺ BỊ LỤT. VIỆC BUÔN BÁN, Bình-chuẩn. RẠP HÁT TUỒNG TÂY. GIL BLAS DE SANTILLANE, tiểu-thuyết Lesage soạn, N.V.V. diễn-nôm. COURS DE LANGUE ANNAMITE (Sách dạy tiếng Annam), G. Saintonge. SỐ 31 (11 – 12 – 1913) THỜI SỰ TỔNG THUẬT, Thinker.. ĐIỆN-BÁO. CHỮ NHO NÊN ĐỂ HAY LÀ NÊN BỎ, V. QUAN BÁO LƯỢC LỤC ĐÔNG DƯƠNG THỜI SỰ NHỜI ĐÀN BÀ, Đào-nương đáp lại, Đào-thị-Loan. TRUYỆN TRẺ XEM, Truyện anh mường về chơi Hà-nội, Ngã-thị-Quỉ. GÕ ĐẦU TRẺ, XII, Nguyễn-đỗ-Mục. LUẬN VỀ VIỆC THUỐC, J.H.H. Phương, quan thầy thuốc ở Sơn-la. ĐẤU-GIÁ, Lĩnh-chưng bán rượu ở Bắc-kỳ và ở miền bắc xứ Trung-kỳ. LUẬN VỀ ĐÊ, Nguyễn-đình-Chủ. NAM VĂN HỢP THÁI – KIM-VÂN-KIỀU, Tân diễn pháp văn. LUÂN LÝ HỌC, Nguyễn-văn-Vĩnh diễn-nôm. TRIẾT HỌC YẾU LƯỢC DÂN NAM KỲ AI MỘ QUAN TOÀN QUYỀN. LÝ TÀI LUẬN, Việc chưng thuế rượu, J. Mordaing. VIỆC BUÔN BÁN, Bình-chuẩn. GIL BLAS DE SANTILLANE, tiểu-thuyết Lesage soạn, N.V.V. diễn-nôm. COURS DE LANGUE ANNAMITE (Sách dạy tiếng Annam), G. Saintonge. SỐ 32 (18 – 12 – 1913)

THỜI SỰ TỔNG THUẬT, Thinker.. ĐIỆN-BÁO. VIỆC ĐẤU GIÁ LĨNH CHƯNG BÁN RƯỢU, V. QUAN BÁO LƯỢC LỤC ĐÔNG DƯƠNG THỜI SỰ NHỜI ĐÀN BÀ, Thưa chị Loan. GÕ ĐẦU TRẺ, XIII, Nguyễn-đỗ-Mục. DƯỠNG ANH NHI PHÁP, J.H.H. Phương. ĐÁP BÙI-QUÂN VỀ VIỆC LẤY VỢ LẼ, Biện lại bài luận tự-do, Madame Đoan. ĐẤU GIÁ. Lĩnh-chưng việc vận tải và đóng chai các thứ rượu an-nam ở Bắc-kỳ và ở miền bắc xứ Trung-kỳ. LUẬN VỀ ĐÊ, Bùi-quí-Luận. LUÂN LÝ HỌC, Nguyễn-văn-Vĩnh diễn-nôm. TRIẾT HỌC YẾU LƯỢC VĂN-CHƯƠNG, Pháp văn hợp thái, thơ Đại-pháp diễn ra thơ nôm, Ng.-văn-Ích. LÝ TÀI LUẬN, Việc chưng thuế rượu, J. Mordaing. NAM VĂN HỢP THÁI – KIM-VÂN-KIỀU, Tân diễn pháp văn. TỰ DO DIỄN ĐÀNG, Đáp bài biện chữ vu chữ tượng của ông Nguyễn-đỗ-Mục, Ngô-vi-Lâm. VIỆC BUÔN BÁN, Bình-chuẩn. GIL BLAS DE SANTILLANE, tiểu-thuyết Lesage soạn, N.V.V. diễn-nôm. COURS DE LANGUE ANNAMITE (Sách dạy tiếng Annam), G. Saintonge. SỐ 33 (25 – 12 – 1913) THỜI SỰ TỔNG THUẬT, Thinker.. ĐIỆN-BÁO. CHỮ QUỐC-NGỮ, V. QUAN BÁO LƯỢC LỤC ĐÔNG DƯƠNG THỜI SỰ NHỜI ĐÀN BÀ, Đào-thị-Loan. GÕ ĐẦU TRẺ, XIV, Nguyễn-đỗ-Mục. DƯỠNG ANH NHI PHÁP, J.H.H. Phương. LUẬN VỀ ĐÊ, N.D.H. NGHỊ-ĐỊNH, Cải lương nghị-định ngày 9 decembre 1908 và 7 janvier 1910 về sự học Pháp-Việt tốt-nghiệp. LUÂN LÝ HỌC, Nguyễn-văn-Vĩnh diễn-nôm. TRIẾT HỌC YẾU LƯỢC VĂN-CHƯƠNG, Vua Zémire nước Ba-ty học lịch sử Anatole France. LUẬN VỀ THUỐC, Gia chuyền kinh-nghiệm an nam, Ng.-vinh-Chỉnh. PHÁP-LUẬT, Nguyễn-Trác. NAM VĂN HỢP THÁI – KIM-VÂN-KIỀU, Tân diễn pháp văn. TỰ DO DIỄN ĐÀNG, Nguyễn-mạnh-Bổng. VIỆC BUÔN BÁN, Bình-chuẩn. GIL BLAS DE SANTILLANE, tiểu-thuyết Lesage soạn, N.V.V. diễn-nôm. COURS DE LANGUE ANNAMITE (Sách dạy tiếng Annam), G. Saintonge. SỐ 34 (1 – 1 – 1914) THỜI SỰ TỔNG THUẬT, Thinker..

ĐIỆN-BÁO. VIỆC DÂN AN-NAM TIỄN QUAN TOÀN QUYỀN, V. QUAN BÁO LƯỢC LỤC ĐÔNG DƯƠNG THỜI SỰ NHỜI ĐÀN BÀ, Nguyễn-thị-Bổng. GÕ ĐẦU TRẺ, XV, Nguyễn-đỗ-Mục. NGHỊ-ĐỊNH, Cải lương nghị-định ngày 9 decembre 1908 và 7 janvier 1910 về sự học Pháp-Việt tốt-nghiệp. BÀI NGHĨA SÁCH, Chữ tượng là thợ, Nguyễn-đỗ-Mục. LUÂN LÝ HỌC, Nguyễn-văn-Vĩnh diễn-nôm. TRIẾT HỌC YẾU LƯỢC VĂN-CHƯƠNG, Truyện con chó Sói và con Dê-sồm, Ng.-văn-Ích diễn-nôm. NGHỀ LÀM PHÁO, A Barbotin. NAM VĂN HỢP THÁI – KIM-VÂN-KIỀU, Tân diễn pháp văn. LUẬN VỀ ĐÊ LUẬN VỀ THUỐC, Gia chuyền kinh-nghiệm an nam, Ng.-vinh-Chỉnh. TỰ DO DIỄN ĐÀNG, Lắm vợ, Nguyễn-đình-Quế. VIỆC BUÔN BÁN, Bình-chuẩn. GIL BLAS DE SANTILLANE, tiểu-thuyết Lesage soạn, N.V.V. diễn-nôm. COURS DE LANGUE ANNAMITE (Sách dạy tiếng Annam), G. Saintonge. SỐ 35 (8 – 1 – 1914) THỜI SỰ TỔNG THUẬT, Thinker.. ĐIỆN-BÁO. CÁC HỘI AN-NAM, V. QUAN BÁO LƯỢC LỤC ĐÔNG DƯƠNG THỜI SỰ NHỜI ĐÀN BÀ, Đào-thị-Loan. NGHỊ-ĐỊNH, Cải lương nghị-định ngày 9 decembre 1908 và 7 janvier 1910 về sự học Pháp-Việt tốt-nghiệp. NĂM HẾT TẾT ĐẾN, Nguyễn-đỗ-Mục. NGHỀ LÀM PHÁO, A Barbotin. LUÂN LÝ HỌC, Nguyễn-văn-Vĩnh diễn-nôm. TRIẾT HỌC YẾU LƯỢC THẾ NÀO LÀ VĂN MINH, Phan-kế-Bính. VIỆC BUÔN BÁN, Bình-chuẩn. GIL BLAS DE SANTILLANE, tiểu-thuyết Lesage soạn, N.V.V. diễn-nôm. COURS DE LANGUE ANNAMITE (Sách dạy tiếng Annam), G. Saintonge. SỐ 36 (15 – 1 – 1914) THỜI SỰ TỔNG THUẬT, Thinker.. ĐIỆN-BÁO. MỪNG-PHÚNG LỄ-TẾT, V. QUAN BÁO LƯỢC LỤC ĐÔNG DƯƠNG THỜI SỰ NHỜI ĐÀN BÀ, Nguyễn-thị-Bổng. VUI RA BẰNG TẾT, Nguyễn-đỗ-Mục. DƯỠNG ANH NHI PHÁP, J.H.H. Phương. NGHỊ-ĐỊNH, Cải lương nghị-định ngày 9 decembre 1908 và 7 janvier 1910 về sự

học Pháp-Việt tốt-nghiệp. LUÂN LÝ HỌC, Nguyễn-văn-Vĩnh diễn-nôm. TRIẾT HỌC YẾU LƯỢC TỰ DO DIỄN ĐÀNG, Phẩm-hàm, Trần-đức-Tiến. VIỆC BUÔN BÁN, Bình-chuẩn. GIL BLAS DE SANTILLANE, tiểu-thuyết Lesage soạn, N.V.V. diễn-nôm. COURS DE LANGUE ANNAMITE (Sách dạy tiếng Annam), G. Saintonge. SỐ 37 (22 – 1 – 1914) THỜI SỰ TỔNG THUẬT, Thinker.. ĐIỆN-BÁO. TẾT, V. QUAN BÁO LƯỢC LỤC ĐÔNG DƯƠNG THỜI SỰ NHỜI ĐÀN BÀ, Trần-thị-Thắm NĂM MỚI NÓI MỞ HÀNG, P.K.B. DƯỠNG ANH NHI PHÁP, J.H.H. Phương. NGẪM NGHĨ VÀI CÂU VỀ ÂU Á VĂN-MINH, Thái-kiến-Quang. LUẬN VỀ ĐÊ, J. Descaves. DIỄN LUẬN NGHĨA SÁCH ĐẠI HỌC, P.K.B. NGHỊ-ĐỊNH, Cải lương nghị-định ngày 9 decembre 1908 và 7 janvier 1910 về sự học Pháp-Việt tốt-nghiệp. LUẬN VỀ THUỐC, Gia chuyền kinh-nghiệm an nam, Ng.-vinh-Chỉnh. TRIẾT HỌC YẾU LƯỢC. VĂN-CHƯƠNG, Pháp văn hợp thái, Tự-đắc. NAM VĂN HỢP THÁI – KIM-VÂN-KIỀU, Tân diễn pháp văn. TỰ DO DIỄN ĐÀNG, Bàn nguyên nhân, Ngô-vi-Lâm. VIỆC BUÔN BÁN, Bình-chuẩn. GIL BLAS DE SANTILLANE, tiểu-thuyết Lesage soạn, N.V.V. diễn-nôm. COURS DE LANGUE ANNAMITE (Sách dạy tiếng Annam), G. Saintonge. SỐ 38 (5 – 2 – 1914) KHAI BÚT, V. ĐIỆN-BÁO ĐÔNG-DƯƠNG THỜI SỰ. NHỜI ĐÀN BÀ, Đào-thị-Loan. DƯỠNG ANH NHI PHÁP, J.H.H. Phương. NGẪM NGHĨ VÀI CÂU VỀ ÂU Á VĂN-MINH, Thái-kiến-Quang. CÁCH LÀM CHO TỐT LÚA. LUẬN VỀ THUỐC, Gia chuyền kinh-nghiệm an nam, Ng.-Vinh-Chỉnh. VIỆC BUÔN BÁN, Bình-chuẩn. QUAN BÁO LƯỢC LỤC TRIẾT HỌC YẾU LƯỢC VĂN-CHƯƠNG, Pháp văn hợp thái, Tự-đắc. TỪ PHÚ THI CA, Nguyễn-Tràng-Xuân. GIL BLAS DE SANTILLANE, tiểu-thuyết Lesage soạn, N.V.V. diễn-nôm. COURS DE LANGUE ANNAMITE (Sách dạy tiếng Annam), G. Saintonge. SỐ 39 (12 – 2 – 1914)

THỜI SỰ TỔNG THUẬT, Đ.D.T.C. ĐIỆN-BÁO. ÂU Á VĂN-MINH, V. QUAN BÁO LƯỢC LỤC ĐÔNG DƯƠNG THỜI SỰ NHỜI ĐÀN BÀ, Trần-Thị-Thắm. DƯỠNG ANH NHI PHÁP, J.H.H. Phương. BÓN RUỘNG DIỄN LUẬN NGHĨA SÁCH ĐẠI HỌC, P.K.B. TRIẾT HỌC YẾU LƯỢC LUÂN LÝ HỌC, Nguyễn-Văn-Vĩnh diễn-nôm TỪ PHÚ THI CA, Nguyễn-Tân-Bổng. NAM VĂN HỢP THÁI – KIM-VÂN-KIỀU, Tân diễn pháp văn. TỰ DO DIỄN ĐÀNG, Cách giữ cho khỏi túng, Đặng-Đình-Điển. VIỆC BUÔN BÁN, Bình-Chuẩn. GIL BLAS DE SANTILLANE, tiểu-thuyết Lesage soạn, N.V.V. diễn-nôm. COURS DE LANGUE ANNAMITE (Sách dạy tiếng Annam), G. Saintonge. SỐ 40 (19 – 2 – 1914) THỜI SỰ TỔNG THUẬT, Đ.D.T.C. ĐIỆN-BÁO TIẾNG AN-NAM, Vào chương trình Trung-học Đại-pháp, V. QUAN BÁO LƯỢC LỤC ĐÔNG DƯƠNG THỜI SỰ NHỜI ĐÀN BÀ, Nguyễn-thị-Bổng. DIỄN LUẬN NGHĨA SÁCH ĐẠI HỌC, P.K.B. SÂU ĂN LÚA BÓN RUỘNG TRIẾT HỌC YẾU LƯỢC LUÂN LÝ HỌC, Nguyễn-văn-Vĩnh diễn-nôm VĂN-CHƯƠNG, Pháp văn hợp thái, thơ La Fontaine, N.V.V. diễn nôm. TỪ PHÚ THI CA, Trần-quang-Khương. NAM VĂN HỢP THÁI – KIM-VÂN-KIỀU, Tân diễn pháp văn. VIỆC BUÔN BÁN, Bình-chuẩn. GIL BLAS DE SANTILLANE, tiểu-thuyết Lesage soạn, N.V.V. diễn-nôm. COURS DE LANGUE ANNAMITE (Sách dạy tiếng Annam), G. Saintonge. SỐ 41 (26 – 2 – 1914) THỜI SỰ TỔNG THUẬT, Đ.D.T.C. ĐIỆN-BÁO HƯƠNG SƠN HÀNH TRÌNH, V. QUAN BÁO LƯỢC LỤC ĐÔNG DƯƠNG THỜI SỰ NHỜI ĐÀN BÀ, Đào-thị-Loan. HỘI HÈ RƯỚC SÁCH, B. CŨNG LUẬN VỀ TẾT, Nguyễn-đỗ-Mục. TRIẾT HỌC YẾU LƯỢC LUÂN LÝ HỌC, Nguyễn-văn-Vĩnh diễn-nôm TỪ PHÚ THI CA

NAM VĂN HỢP THÁI – KIM-VÂN-KIỀU, Tân diễn pháp văn. TỰ DO DIỄN ĐÀNG, Nguyễn-tràng-Xuân. VIỆC BUÔN BÁN, Bình-chuẩn. GIL BLAS DE SANTILLANE, tiểu-thuyết Lesage soạn, N.V.V. diễn-nôm. COURS DE LANGUE ANNAMITE (Sách dạy tiếng Annam), G. Saintonge. SỐ 42 (5 – 3 – 1914) THỜI SỰ TỔNG THUẬT, Đ.D.T.C. ĐIỆN-BÁO HƯƠNG SƠN HÀNH TRÌNH (tiếp theo), V. QUAN BÁO LƯỢC LỤC ĐÔNG DƯƠNG THỜI SỰ NAM VĂN HỢP THÁI – KIM-VÂN-KIỀU, Tân diễn pháp văn. TÂN HỌC VĂN TẬP, Văn-chương khoa và Sư-phạm học khoa (của các hội viên Trí-Tri soạn và dịch ra).

-   Văn-chương khoa: dịch sách hay Đại-pháp và dịch thơ La Fontaine -   Sư-phạm học khoa: Tập làm bài luận, Toán pháp, Luân-lý.

VIỆC BUÔN BÁN, Bình-chuẩn. GIL BLAS DE SANTILLANE, tiểu-thuyết Lesage soạn, N.V.V. diễn-nôm. COURS DE LANGUE ANNAMITE (Sách dạy tiếng Annam), G. Saintonge. SỐ 43 (12 – 3 – 1914) THỜI SỰ TỔNG THUẬT, Đ.D.T.C. ĐIỆN-BÁO HƯƠNG SƠN HÀNH TRÌNH (tiếp theo), V. QUAN BÁO LƯỢC LỤC ĐÔNG DƯƠNG THỜI SỰ GÕ ĐẦU TRẺ, XVI, Nguyễn-đỗ-Mục. NAM VĂN HỢP THÁI – KIM-VÂN-KIỀU, Tân diễn pháp văn. TÂN HỌC VĂN TẬP, Văn-chương khoa và Sư-phạm học khoa (của các hội viên Trí-Tri soạn và dịch ra).

-   Văn-chương khoa: dịch sách hay Đại-pháp và dịch thơ La Fontaine; TỪ PHÚ THI

CA.

-   Sư-phạm học khoa: Luận quốc ngữ, Toán pháp, Luân-lý.

VIỆC BUÔN BÁN, Bình-chuẩn. GIL BLAS DE SANTILLANE, tiểu-thuyết Lesage soạn, N.V.V. diễn-nôm. COURS DE LANGUE ANNAMITE (Sách dạy tiếng Annam), G. Saintonge. SỐ 44 (19 – 3 – 1914) THỜI SỰ TỔNG THUẬT, Đ.D.T.C. ĐIỆN-BÁO HƯƠNG SƠN HÀNH TRÌNH (tiếp theo), V. QUAN BÁO LƯỢC LỤC ĐÔNG DƯƠNG THỜI SỰ GÕ ĐẦU TRẺ, XVII, Nguyễn-đỗ-Mục. TÂN HỌC VĂN TẬP: - VĂN CHƯƠNG KHOA: Con chim phải tên – Thơ La Fontaine diễn nôm – Thằng ăn trộm khiếm nhã – Hiện tại với tương lai – Kim-vân-kiều tân diễn pháp văn – Từ phú thi ca. - SƯ PHẠM HỌC KHOA: Luận quốc ngữ - Luân lý – Cách trí. VIỆC BUÔN BÁN, Bình-chuẩn.

GIL BLAS DE SANTILLANE, tiểu-thuyết Lesage soạn, N.V.V. diễn-nôm. COURS DE LANGUE ANNAMITE (Sách dạy tiếng Annam), G. Saintonge. SỐ 45 (26 – 3 – 1914) THỜI SỰ TỔNG THUẬT, Đ.D.T.C. ĐIỆN-BÁO HƯƠNG SƠN HÀNH TRÌNH (bài cuối), V. QUAN BÁO LƯỢC LỤC ĐÔNG DƯƠNG THỜI SỰ NHỜI ĐÀN BÀ, Nguyễn-thị-Bổng. GÕ ĐẦU TRẺ, XVIII, Nguyễn-đỗ-Mục. TÂN HỌC VĂN TẬP:

-   VĂN CHƯƠNG KHOA: Chó rừng và chó giữ nhà còm, thơ La Fontaine diễn nôm

– Truyện hai cha con với con lừa – Lòng bác-ái – Đời người – Từ phú thi ca. -   SƯ PHẠM HỌC KHOA: Luận quốc ngữ - Luân lý – Toán pháp – Nam –sử.

VIỆC BUÔN BÁN, Bình-chuẩn. GIL BLAS DE SANTILLANE, tiểu-thuyết Lesage soạn, N.V.V. diễn-nôm. COURS DE LANGUE ANNAMITE (Sách dạy tiếng Annam), G. Saintonge. SỐ 46 (2 – 4 – 1914 ) THỜI SỰ TỔNG THUẬT, Đ.D.T.C. ĐIỆN-BÁO NGHỊ VIỆN SẮP HỌP, V. QUAN BÁO LƯỢC LỤC ĐÔNG DƯƠNG THỜI SỰ TỰ DO DIỄN ĐÀNG, Phạm-huy-Hổ. TÂN HỌC VĂN TẬP:

-   VĂN CHƯƠNG KHOA: Con lừa mang hòm sắc, thơ La Fontaine diễn nôm – Con sông - Ở với ai cũng phải lễ phép thế - Kim-vân-kiều tân diễn pháp văn - Từ phú thi ca.

-   SƯ PHẠM HỌC KHOA: Luận quốc ngữ - Luân lý – Toán pháp – Cách trí - Nam

–sử.

VIỆC BUÔN BÁN, Bình-chuẩn. GIL BLAS DE SANTILLANE, tiểu-thuyết Lesage soạn, N.V.V. diễn-nôm. COURS DE LANGUE ANNAMITE (Sách dạy tiếng Annam), G. Saintonge. SỐ 47 (9 – 4 – 1914) THỜI SỰ TỔNG THUẬT, Đ.D.T.C. ĐIỆN-BÁO GÕ ĐẦU TRẺ, XIX, Nguyễn-đỗ-Mục. QUAN BÁO LƯỢC LỤC ĐÔNG DƯƠNG THỜI SỰ NHỜI ĐÀN BÀ, Đào-thị-Loan. TU THÂN KHOA VIỆC BUÔN BÁN, Bình-chuẩn. GIL BLAS DE SANTILLANE, tiểu-thuyết Lesage soạn, N.V.V. diễn-nôm. TÂN HỌC VĂN TẬP:

-   VĂN CHƯƠNG KHOA: Chó rừng và chó giữ nhà, thơ La Fontaine diễn nôm –

Ngẫm nghĩ sự đời ngắn ngủi - Từ phú thi ca.

-   SƯ PHẠM HỌC KHOA: : Luận quốc ngữ - Luân lý – Toán pháp – Dictée.

COURS DE LANGUE ANNAMITE (Sách dạy tiếng Annam), G. Saintonge. SỐ 48 (16 – 4 – 1914) THỜI SỰ TỔNG THUẬT, Đ.D.T.C. ĐIỆN-BÁO PHẬN LÀM DÂN, V. QUAN BÁO LƯỢC LỤC ĐÔNG DƯƠNG THỜI SỰ NHỜI ĐÀN BÀ, Đào-thị-Loan. TU THÂN KHOA VIỆC BUÔN BÁN, Bình-chuẩn. TIỀN QUYÊN NƯỚC LỤT. GIL BLAS DE SANTILLANE, tiểu-thuyết Lesage soạn, N.V.V. diễn-nôm. TÂN HỌC VĂN TẬP:

-   VĂN CHƯƠNG KHOA: Triều đình vua sư tử, thơ La Fontaine diễn nôm – Quyến-

luyến quê-hương – Kim-vân-kiều tân diễn pháp văn - Từ phú thi ca.

-   SƯ PHẠM HỌC KHOA: Luận quốc ngữ - Luân lý – Toán pháp – Nam sử.

COURS DE LANGUE ANNAMITE (Sách dạy tiếng Annam), G. Saintonge. SỐ 49 (23 – 4 – 1914) THỜI SỰ TỔNG THUẬT, Đ.D.T.C. ĐIỆN-BÁO PHẬN LÀM DÂN II, V. QUAN BÁO LƯỢC LỤC ĐÔNG DƯƠNG THỜI SỰ NHỜI ĐÀN BÀ, Đào-thị-Loan. VIỆC BUÔN BÁN, Bình-chuẩn. TIỀN QUYÊN NƯỚC LỤT. GIL BLAS DE SANTILLANE, tiểu-thuyết Lesage soạn, N.V.V. diễn-nôm. TÂN HỌC VĂN TẬP:

-   VĂN CHƯƠNG KHOA: Con lừa đội lốt sư tử, thơ La Fontaine diễn nôm – Tư

tưởng của ông Pascal – Ngẫm-nghĩ sự đời ngắn ngủi - Từ phú thi ca.

-   SƯ PHẠM HỌC KHOA: Luận quốc ngữ - Luân lý – Toán pháp – Nam sử.

COURS DE LANGUE ANNAMITE (Sách dạy tiếng Annam), G. Saintonge. SỐ 50 (30 – 4 – 1914) THỜI SỰ TỔNG THUẬT, Đ.D.T.C. ĐIỆN-BÁO PHẬN LÀM DÂN III, V. QUAN BÁO LƯỢC LỤC ĐÔNG DƯƠNG THỜI SỰ NHỜI ĐÀN BÀ, Đào-thị-Loan. GÕ ĐẦU TRẺ XX, Nguyễn-đỗ-Mục. TU THÂN KHOA VIỆC BUÔN BÁN, Bình-chuẩn. TIỀN QUYÊN NƯỚC LỤT. GIL BLAS DE SANTILLANE, tiểu-thuyết Lesage soạn, N.V.V. diễn-nôm. TÂN HỌC VĂN TẬP:

-   VĂN CHƯƠNG KHOA: Hai con la, thơ La Fontaine diễn nôm – Ba người văn

nhân – Quả địa cầu – Kim-vân-kiều tân diễn pháp văn - Từ phú thi ca.

-   SƯ PHẠM HỌC KHOA: Luận quốc ngữ - Luân lý – Toán pháp – Cách trí - Nam

sử.

COURS DE LANGUE ANNAMITE (Sách dạy tiếng Annam), G. Saintonge. SỐ 51 (7 – 5 – 1914) THỜI SỰ TỔNG THUẬT, Đ.D.T.C. ĐIỆN-BÁO CHỮ QUỐC NGỮ, L.Đ. QUAN BÁO LƯỢC LỤC ĐÔNG DƯƠNG THỜI SỰ NHỜI ĐÀN BÀ, Đào-thị-Loan. CẢI LƯƠNG NGHỀ HÍ KỊCH. VIỆC BUÔN BÁN, Bình-chuẩn. GIL BLAS DE SANTILLANE, tiểu-thuyết Lesage soạn, N.V.V. diễn-nôm. TÂN HỌC VĂN TẬP:

-   VĂN CHƯƠNG KHOA: Bò cái, Dê cái, Cừu cái, lập hội với sư-tử, thơ La

Fontaine diễn nôm – Sự học – Đạo đức – Văn học - Từ phú thi ca.

-   SƯ PHẠM HỌC KHOA: Luận quốc ngữ - Luân lý – Toán pháp – Cách trí - Nam

sử.

COURS DE LANGUE ANNAMITE (Sách dạy tiếng Annam), G. Saintonge. SỐ 52 (14 – 5 – 1914) THỜI SỰ TỔNG THUẬT, Đ.D.T.C. ĐIỆN-BÁO TIẾM ĐỊA HỮU ĐẠO HỒ? QUAN BÁO LƯỢC LỤC ĐÔNG DƯƠNG THỜI SỰ NHỜI ĐÀN BÀ, Đào-thị-Loan. TU THÂN KHOA VIỆC BUÔN BÁN, Bình-chuẩn. GIL BLAS DE SANTILLANE, tiểu-thuyết Lesage soạn, N.V.V. diễn-nôm. TÂN HỌC VĂN TẬP:

-   VĂN CHƯƠNG KHOA: Con chó Sói với bức tượng, thơ La Fontaine diễn nôm – Ba nhời hay – Cái vấn đề số mệnh người ta – Kim-vân-kiều tân diễn pháp văn - Từ phú thi ca.

-   SƯ PHẠM HỌC KHOA: Luận quốc ngữ - Luân lý – Toán pháp – Cách trí - Nam

sử.

COURS DE LANGUE ANNAMITE (Sách dạy tiếng Annam), G. Saintonge. SỐ 53: VĂN-CHƯƠNG: - HÁN VĂN: Truyện Tô-tần và Trương-nghi (Văn sử ký), Phan-kế-Bính diễn nôm. - VĂN NÔM: Văn quốc-ngữ trường Nam – Đào hoa mộng ký, Phạm-quang-Sán, huấn-đạo Hưng-nhân diễn nôm. Bài Tự-tình của ông Ca Bá Nhạ. KIM-VÂN-KIỀU tân diễn pháp văn. SỐ 54: VĂN-CHƯƠNG: - HÁN VĂN: Chuyện Mao-Toại (Sử ký), Phan-kế-Bính diễn nôm.

- VĂN NÔM: Văn quốc-ngữ trường Nam – Đào hoa mộng ký, Phạm-quang-Sán, huấn-đạo Hưng-nhân diễn nôm Bài Tự-tình của ông Ca Bá Nhạ (tiếp). KIM-VÂN-KIỀU tân diễn pháp văn. SỐ 55: VĂN-CHƯƠNG: - PHÁP VĂN: Cái thể thống của tư tưởng (Pascal, Pensées), N.V.V. diễn nôm - HÁN VĂN: Quách-Ngôi tụ tiến (Chiến quốc sách), Phan-kế-Bính diễn nôm. - VĂN NÔM: Đào hoa mộng ký, Phạm-quang-Sán, huấn-đạo Hưng-nhân diễn nôm. Bài Tự-tình của ông Ca Bá Nhạ(tiếp) KIM-VÂN-KIỀU tân diễn pháp văn. CUỘC THI THƠ. SỐ 56: VĂN-CHƯƠNG: - HÁN VĂN: Chuyện Dự-nhượng báo thù (chiến quốc sách), Phan-kế-Bính diễn nôm. - VĂN NÔM: Đào hoa mộng ký, Phạm-quang-Sán, huấn-đạo Hưng-nhân diễn nôm. Bài Tự-tình của ông Ca Bá Nhạ (tiếp). KIM-VÂN-KIỀU tân diễn pháp văn. SỐ 57: VĂN-CHƯƠNG: - PHÁP VĂN: Hồn người chiến sĩ bảo gì nghe không (A. France), N.V.V. diễn nôm - HÁN VĂN: Đầy thì đổ (Tuân tử), Gặp may nhờ dịp (Úc-ty-tử), Phan-kế-Bính diễn nôm. Bài Tự-tình của ông Ca Bá Nhạ (tiếp). KIM-VÂN-KIỀU tân diễn pháp văn. SỐ 58: VĂN-CHƯƠNG: - PHÁP VĂN: Tự tư-tưởng (A. Guenard), N.V.V. diễn nôm - HÁN VĂN: Tùy thời (Lưu-tử), Phan-kế-Bính diễn nôm. - VĂN NÔM: Đào hoa mộng ký, Phạm-quang-Sán, huấn-đạo Hưng-nhân diễn nôm . Bài Tự-tình của ông Ca Bá Nhạ (tiếp). KIM-VÂN-KIỀU tân diễn pháp văn. SỐ 59: VĂN-CHƯƠNG: - PHÁP VĂN: Nghĩa vong kỷ và nghĩa vị kỷ (Stendehal), N.V.V. diễn nôm - HÁN VĂN: Bài ký sự chơi núi Bao-thiền (Vương-an-Thạch), Phan-kế-Bính diễn nôm. GƯƠNG PHONG TỤC. KIM-VÂN-KIỀU tân diễn pháp văn. SỐ 60: VĂN-CHƯƠNG: - PHÁP VĂN: Vâng lời (Esdouard Laboulaye), Phạm Duy Tốn diễn nôm - HÁN VĂN: Bài ký sự đền siêu-nhiên (Tô-thức), Phan-kế-Bính diễn nôm. GƯƠNG PHONG TỤC. CHUYỆN HOA TIÊN. KIM-VÂN-KIỀU tân diễn pháp văn.

SỐ 61: VĂN-CHƯƠNG: - PHÁP VĂN: Sao mình lại có nghĩa vụ đối với mình (V.Cousin), N.V.V. diễn nôm - HÁN VĂN: Ngoi rồi là thuốc độc (Đông-lai-tử), Phan-kế-Bính diễn nôm. GƯƠNG PHONG TỤC. CHUYỆN HOA-TIÊN. KIM-VÂN-KIỀU tân diễn pháp văn. SỐ 62: VĂN-CHƯƠNG: - PHÁP VĂN: Nhát (J.J.Rousseau), N.V.V. diễn nôm - HÁN VĂN: Bài ký sự ở miếu Trung-tiết Bảo-khánh (La-cung-Tiên)), Phan-kế-Bính diễn nôm. GƯƠNG PHONG TỤC. KIM-VÂN-KIỀU tân diễn pháp văn. SỐ 63: VĂN-CHƯƠNG: - PHÁP VĂN: Mối đồng tâm thiêng liêng, N.V.V. diễn nôm - HÁN VĂN: Bài phú tiền Xích Bích, Phan-kế-Bính diễn nôm. - VĂN NÔM: Bài ca tặng những người đi tòng chinh, Bùi-đức-Long. GƯƠNG PHONG TỤC. KIM-VÂN-KIỀU tân diễn pháp văn. BÌNH PHẨM SÁCH MỚI: Sơ-học độc-bản. SỐ 64: VĂN-CHƯƠNG: - PHÁP VĂN: Mối đồng tâm thiêng liêng (tiếp), N.V.V. diễn nôm - HÁN VĂN: Bài phú hậu Xích Bích, Phan-kế-Bính diễn nôm. GƯƠNG PHONG TỤC. CHUYỆN HOA-TIÊN. KIM-VÂN-KIỀU tân diễn pháp văn. SỐ 65: VĂN-CHƯƠNG: - PHÁP VĂN: Hòa phải ra hòa thì ta mới hòa (R. Poincaré), N.V.V. diễn nôm - HÁN VĂN: Bài ký Nhạc-dương-lâu (Phạm-trọng-Yêm), Tự-Trân dịch nôm. GƯƠNG PHONG TỤC. CHUYỆN HOA-TIÊN. KIM-VÂN-KIỀU tân diễn pháp văn. SỐ 66: VĂN-CHƯƠNG: - HÁN VĂN: Bài tiểu-chuyện của Ngụy-văn-đế (Cổ văn). GƯƠNG PHONG TỤC. CHUYỆN HOA-TIÊN. KIM-VÂN-KIỀU tân diễn pháp văn. BÌNH PHẨM SÁCH MỚI :Thơ ngụ ngôn của La Fontaine tiên-sanh. SỐ 67: VĂN-CHƯƠNG: - HÁN VĂN: Chuyện Khuất-Nguyên (Sử ký).

GƯƠNG PHONG TỤC. CHUYỆN HOA-TIÊN. KIM-VÂN-KIỀU tân diễn pháp văn. SỐ 68: VĂN-CHƯƠNG: - HÁN VĂN: Chuyện Khuất-Nguyên (tt)(Sử ký). GƯƠNG PHONG TỤC. CHUYỆN HOA-TIÊN. KIM-VÂN-KIỀU tân diễn pháp văn. SỐ 69: VĂN-CHƯƠNG: - VĂN Ý ĐẠI-LỊ: Truyện Boccace - HÁN VĂN: Bài ký Đào-hoa-nguyên (Tân Đào-uyên-minh), Tự-Trân dịch nôm. - VĂN NÔM: Người cô-quán với báo Đông-dương, Hội xá Nguyễn Mạnh Bổng. GƯƠNG PHONG TỤC. KIM-VÂN-KIỀU tân diễn pháp văn. SỐ 70: VĂN-CHƯƠNG: - VĂN HI-LẠP: Thuận vợ thuận chồng (Plutarque), Nguyễn-văn-Vĩnh diễn nôm. - HÁN VĂN: Bài tựa hội Lan-đình, P.K.B diễn nôm. - VĂN NÔM: Thơ mừng sinh nhật báo. KIM-VÂN-KIỀU tân diễn pháp văn. CHUYỆN HOA-TIÊN. SỐ 71: VĂN-CHƯƠNG: - PHÁP VĂN: Chân can-đảm (Vaurenargues), N.V.V. diễn nôm - HÁN VĂN: Chuyện ông Vô-danh, P.K.B diễn nôm. GƯƠNG PHONG TỤC. CHUYỆN HOA-TIÊN. KIM-VÂN-KIỀU tân diễn pháp văn. SỐ 72: VĂN-CHƯƠNG: - PHÁP VĂN: Kẻ thiếu-niên (J.J.Rousseau), Cung-đình-Huệ diễn nôm - HÁN VĂN: Truyện trinh-tiết (Tình-sử), P.K.B diễn nôm. GƯƠNG PHONG TỤC. CHUYỆN HOA-TIÊN. KIM-VÂN-KIỀU tân diễn pháp văn. SỐ 73: VĂN-CHƯƠNG: - PHÁP VĂN: Cái cao thú của sự học (A. Thiery), N.V.V. diễn nôm - HÁN VĂN: Đức Khổng-Tử và ngươi Hạng-Thác, P.K.B lược dịch. GƯƠNG PHONG TỤC. KIM-VÂN-KIỀU tân diễn pháp văn. BÌNH PHẨM SÁCH MỚI: Thơ ngụ ngôn La Fontaine. SỐ 74: VĂN-CHƯƠNG: - PHÁP VĂN: Lẽ phải thường, N.V.V. diễn nôm

- HÁN VĂN: Bài tựa tiễn Lý-Nguyên về đất Bàn-cốc, P.K.B diễn nôm. GƯƠNG PHONG TỤC. CHUYỆN HOA-TIÊN. KIM-VÂN-KIỀU tân diễn pháp văn. SỐ 75: VĂN-CHƯƠNG: - PHÁP VĂN: Lời khấn, cầu hòa bình (Buffon), N.V.V. diễn nôm - HÁN VĂN: Chuyện Tư-mã Tương-như và nàng Trác-văn-Quân (Tình-sử), P.K.B diễn nôm. GƯƠNG PHONG TỤC. CHUYỆN HOA-TIÊN. KIM-VÂN-KIỀU tân diễn pháp văn. SỐ 76: VĂN-CHƯƠNG: - PHÁP VĂN: Sự cảm giác và sự lý ức (Helvétius), N.V.V. diễn nôm - HÁN VĂN: Bài phú ghét con nhặng xanh (Âu-dương-Tu), P.K.B diễn nôm. GƯƠNG PHONG TỤC. KIM-VÂN-KIỀU tân diễn pháp văn. BÌNH PHẨM SÁCH MỚI: Chuyện trẻ con của Perrault tiên-sanh, N.V.V diễn nôm. SỐ 77: VĂN-CHƯƠNG: - PHÁP VĂN: Ký ức cũng là cảm giác (Helvétius), N.V.V. diễn nôm - HÁN VĂN: Non-bộ gỗ (Tô-lão-Toàn), P.K.B diễn nôm. GƯƠNG PHONG TỤC. CHUYỆN HOA-TIÊN KIM-VÂN-KIỀU tân diễn pháp văn. SỐ 78: VĂN-CHƯƠNG: - PHÁP VĂN: Luân lý và nghĩa vị kỷ (Helvétius), N.V.V. diễn nôm - HÁN VĂN: Yêu hoa sen (Chu đôn Di), P.K.B diễn nôm. GƯƠNG PHONG TỤC. CHUYỆN HOA-TIÊN KIM-VÂN-KIỀU tân diễn pháp văn. SỐ 79: VĂN-CHƯƠNG: - PHÁP VĂN: Sự ghen tuông trong tình bạn hữu (De Avila), Đ.T.L diễn nôm - HÁN VĂN: Gốc loạn bởi tự không yêu nhau (Mặc-tử), P.K.B diễn nôm. GƯƠNG PHONG TỤC. CHUYỆN HOA-TIÊN KIM-VÂN-KIỀU tân diễn pháp văn. SỐ 80: VĂN-CHƯƠNG: - PHÁP VĂN: Hài kịch “Giả đạo đức” (Le Tartuffe, Comédie en vers de Molière), N.V.V dịch. - HÁN VĂN: Bài ký sự núi Thạch-chung (Tô-đông-Pha), P.K.B diễn nôm. GƯƠNG PHONG TỤC. KIM-VÂN-KIỀU tân diễn pháp văn.

SỐ 81: VĂN-CHƯƠNG: - PHÁP VĂN: Hài kịch “Giả đạo đức” (Le Tartuffe, Comédie en vers de Molière), N.V.V dịch. - HÁN VĂN: Bài ký sự yết đền bà Siếu-mẫu (Hoàng-tỉnh-Tăng), P.K.B diễn nôm. GƯƠNG PHONG TỤC. KIM-VÂN-KIỀU tân diễn pháp văn. SỐ 82: VĂN-CHƯƠNG: - PHÁP VĂN: Hài kịch “Giả đạo đức” (Le Tartuffe, Comédie en vers de Molière), N.V.V dịch. - HÁN VĂN: Tỳ-bà-hành diễn âm. GƯƠNG PHONG TỤC. KIM-VÂN-KIỀU tân diễn pháp văn. SỐ 83: VĂN-CHƯƠNG: - PHÁP VĂN: Hài kịch “Giả đạo đức” (Le Tartuffe, Comédie en vers de Molière), N.V.V dịch. GƯƠNG PHONG TỤC. CHUYỆN HOA-TIÊN. KIM-VÂN-KIỀU tân diễn pháp văn. SỐ 84: VĂN-CHƯƠNG: - PHÁP VĂN: Hài kịch “Giả đạo đức” (Le Tartuffe, Comédie en vers de Molière), N.V.V dịch. - HÁN VĂN: Chuyện ông Bùi-Độ và một quan tham-tướng (Tình-sử), P.K.B diễn nôm. GƯƠNG PHONG TỤC. KIM-VÂN-KIỀU tân diễn pháp văn. BÌNH PHẨM SÁCH MỚI: Nữ giới ca. SỐ 85: VĂN-CHƯƠNG: - PHÁP VĂN: Hài kịch “Giả đạo đức” (Le Tartuffe, Comédie en vers de Molière), N.V.V dịch. - HÁN VĂN: Chuyện thôn Tam-nghĩa (Tình-sử), P.K.B diễn nôm. GƯƠNG PHONG TỤC. KIM-VÂN-KIỀU tân diễn pháp văn. BÌNH PHẨM SÁCH MỚI: Sách nói về phép nuôi con, Trần Trọng Kim. SỐ 86: VĂN-CHƯƠNG: - PHÁP VĂN: Hài kịch “Giả đạo đức” (Le Tartuffe, Comédie en vers de Molière), N.V.V dịch. - HÁN VĂN: Chuyện người đàn bà dữ tợn (Tình-sử), P.K.B diễn nôm. GƯƠNG PHONG TỤC. CHUYỆN HOA-TIÊN. BÌNH PHẨM SÁCH MỚI, Nguyễn Đỗ Mục. SỐ 87:

VĂN-CHƯƠNG: - PHÁP VĂN: Hài kịch “Giả đạo đức” (Le Tartuffe, Comédie en vers de Molière), N.V.V dịch. - HÁN VĂN: Chuyện hai vợ chồng bậc cao hiền (Tình-sử), P.K.B diễn nôm. GƯƠNG PHONG TỤC. CHUYỆN HOA-TIÊN. BÌNH PHẨM SÁCH MỚI, Bùi-đình-Tá. SỐ 88: VĂN-CHƯƠNG: - PHÁP VĂN: Hài kịch “Giả đạo đức” (Le Tartuffe, Comédie en vers de Molière), N.V.V dịch. - HÁN VĂN: Chuyện vua Đường Minh-hoàng và nàng Dương quí-phi (Tình-sử), P.K.B diễn nôm. GƯƠNG PHONG TỤC. CHUYỆN HOA-TIÊN. SỐ 89: VĂN-CHƯƠNG: - PHÁP VĂN: Công phu (L.Carrau), T.T diễn nôm. - HÁN VĂN: Chuyện ma-lặc (Tình-sử), P.K.B diễn nôm. GƯƠNG PHONG TỤC. CHUYỆN HOA-TIÊN. KIM-VÂN-KIỀU tân diễn pháp văn. SỐ 90: VĂN-CHƯƠNG: - PHÁP VĂN: Công phu,tt(L.Carrau), T.T diễn nôm. - HÁN VĂN: Thuốc bất-tử (Chiến-quốc-sách), P.K.B diễn nôm. GƯƠNG PHONG TỤC. CHUYỆN HOA-TIÊN. BÌNH PHẨM SÁCH MỚI, Phạm-huy-Lục. SỐ 91: VĂN-CHƯƠNG: - PHÁP VĂN: Công phu,tt(L.Carrau), T.T diễn nôm. - HÁN VĂN: Chuyện Tôn-thúc-Ngao (Sử-ký), P.K.B lược dịch. GƯƠNG PHONG TỤC. CHUYỆN HOA-TIÊN. KIM-VÂN-KIỀU tân diễn pháp văn. BÌNH PHẨM SÁCH MỚI, Phạm-Quỳnh. SỐ 92: VĂN-CHƯƠNG: - PHÁP VĂN: Người và các vũ trụ (A. France). - HÁN VĂN: Chuyện Nhiếp-Chính báo thù cho Nghiêm-Toại (Chiến quốc sách), P.K.B diễn nôm. GƯƠNG PHONG TỤC. CHUYỆN HOA-TIÊN. BÌNH PHẨM SÁCH MỚI, Thân-trọng-Huề. SỐ 93:

VĂN-CHƯƠNG: - PHÁP VĂN: Người và các vũ trụ,tt (A. France). - HÁN VĂN: Gương vỡ lại lành (Tình-sử), P.K.B dịch. GƯƠNG PHONG TỤC. CHUYỆN HOA-TIÊN. BÌNH PHẨM SÁCH MỚI, Ph.K.B. SỐ 94: VĂN-CHƯƠNG: - PHÁP VĂN: Caractère anti-scientifique de la théorie de la force (De Lanessan),V. diễn nôm. - HÁN VĂN: Chuyện Thạch-sùng và nàng Lục-châu (Tình-sử), P.K.B dịch. GƯƠNG PHONG TỤC. CHUYỆN HOA-TIÊN. KIM-VÂN-KIỀU tân diễn pháp văn. BÌNH PHẨM SÁCH MỚI, Nguyễn-bá-Trác. SỐ 95: VĂN-CHƯƠNG: - PHÁP VĂN: Caractère anti-scientifique de la théorie de la force etc (De Lanessan),V. diễn nôm. - HÁN VĂN: Chuyện Lạc-hòa và nàng Thuận-nương (Tình-sử), P.K.B dịch. GƯƠNG PHONG TỤC. KIM-VÂN-KIỀU tân diễn pháp văn. BÌNH PHẨM SÁCH MỚI, Thân-trọng-Huề SỐ 96: VĂN-CHƯƠNG: - PHÁP VĂN: Caractère anti-scientifique de la théorie de la force etc (De Lanessan),V. diễn nôm. - HÁN VĂN: Bài Qui-khứ-lai-từ, Trương-phục-Hứa diễn nôm. GƯƠNG PHONG TỤC. KIM-VÂN-KIỀU tân diễn pháp văn. BÌNH PHẨM SÁCH MỚI, Phan-kế-Bính. SỐ 97: VĂN-CHƯƠNG: - PHÁP VĂN: Caractère anti-scientifique de la théorie de la force etc (De Lanessan),V. diễn nôm. - HÁN VĂN: Bụng khoát đạt, Ph.K.B dịch nôm GƯƠNG PHONG TỤC. CHUYỆN HOA-TIÊN. KIM-VÂN-KIỀU tân diễn pháp văn. SỐ 98: VĂN-CHƯƠNG: - PHÁP VĂN: Nhân loại chung cục (A. France), học trò tràng Sĩ-hoạn dich nôm. - VĂN NÔM ĐÀNG TRONG : Quẹt lọ nghẹ - Đi trùng-cửu, Quốc-tử-giám. GƯƠNG PHONG TỤC. CHUYỆN HOA-TIÊN. KIM-VÂN-KIỀU tân diễn pháp văn.

SỐ 99: VĂN-CHƯƠNG: - PHÁP VĂN: Cái cảnh nên thơ trong việc nội trợ (P.Janet), B.N. Ng. Hữu Khả diễn nôm. - HÁN VĂN: Bụng khoát đạt (tiếp theo), Ph.K.B dịch nôm. - VĂN NÔM ĐÀNG TRONG : Mặt trời mọc – Núi Thiên-ấn, Quốc-tử giám. GƯƠNG PHONG TỤC. KIM-VÂN-KIỀU tân diễn pháp văn. SỐ 100: VĂN-CHƯƠNG: - PHÁP VĂN: sách của Lamennais, X. diễn nôm. GƯƠNG PHONG TỤC. KIM-VÂN-KIỀU tân diễn pháp văn SỐ 101: VĂN-CHƯƠNG: - PHÁP VĂN: Cho đến cùng (A. France), N.Đ.X diễn nôm - HÁN VĂN: Lòng thanh tĩnh, Ph.K.B dịch nôm. GƯƠNG PHONG TỤC. KIM-VÂN-KIỀU tân diễn pháp văn. SỐ 102: VĂN-CHƯƠNG: - PHÁP VĂN: Sự chết (A. France), học trò trường sĩ hoạn dịch nôm. - HÁN VĂN: Hứng thú của người hiền đạt, Ph.K.B dịch nôm. GƯƠNG PHONG TỤC. KIM-VÂN-KIỀU tân diễn pháp văn. BÌNH PHẨM SÁCH MỚI, Trần-văn-Quang. SỐ 103: VĂN-CHƯƠNG: - PHÁP VĂN: Tính đủng đỉnh và lòng từ bi (A. France), học trò trường sĩ hoạn dịch nôm. - HÁN VĂN: Phóng khoáng điềm đạm (trích trong “Độc thư lạc thú), Ph.K.B dịch nôm. GƯƠNG PHONG TỤC. KIM-VÂN-KIỀU tân diễn pháp văn. SỐ 104: VĂN-CHƯƠNG: - PHÁP VĂN: Hối hận và lương tâm (Chateaubriand), học trò trường sĩ hoạn dịch nôm. - VĂN NÔM CỔ: Bài kinh nghĩa “Mẹ ơi con muốn lấy chồng”. GƯƠNG PHONG TỤC. KIM-VÂN-KIỀU tân diễn pháp văn. SỐ 114 VÀ 115: TIỂU THUYẾT TÂY DIỄN NÔM: truyện Miếng Da Lừa của H. de Balzac,

Nguyễn-văn-Vĩnh diễn nôm.

TIỂU THUYẾT TÀU: Đông-chu-liệt-quốc, Nguyễn-đỗ-Mục. TÂN HỌC VĂN TẬP: Văn quốc-ngữ, Phạm-văn-Hữu. Cách-trí, Đoàn-trọng-Phan. Tập đọc, Nguyễn-đỗ-Mục. Giảng nghĩa và học thuộc lòng, Phan-kế-Bính. Nam-sử, Trần-trọng-Kim

VĂN-CHƯƠNG: Pháp văn, Nguyễn-văn-Trác. Hán-văn, Phan-kế-Bính. Kim-vân-kiều, Nguyễn-văn-Vĩnh. Bình phẩm sách mới, Trương-quí-Bình CÔNG VĂN TẬP. SỐ 116: TIỂU THUYẾT TÂY DIỄN NÔM: truyện Miếng Da Lừa của H. de Balzac,

Nguyễn-văn-Vĩnh diễn nôm.

BỔ QUỐC-SỬ : Đại-nam nhất thống chí, Cụ Cao-xuân-Dục tổng tài,

Phan-kế-Bính ước dịch.

TÂN HỌC VĂN TẬP: Văn quốc-ngữ, Phạm-văn-Hữu. Cách-trí, Đoàn-trọng-Phan. Tập đọc, Nguyễn-đỗ-Mục. Giảng nghĩa và học thuộc lòng, Phan-kế-Bính. Nam-sử, Trần-trọng-Kim VĂN-CHƯƠNG: Pháp văn TIỂU THUYẾT TÀU: Đông-chu-liệt-quốc, Nguyễn-đỗ-Mục. SỐ 117: TIỂU THUYẾT TÂY DIỄN NÔM: truyện Miếng Da Lừa của H. de Balzac,

Nguyễn-văn-Vĩnh diễn nôm.

BỔ QUỐC-SỬ : Đại-nam nhất thống chí, Cụ Cao-xuân-Dục tổng tài,

Phan-kế-Bính ước dịch.

TÂN HỌC VĂN TẬP: Văn quốc-ngữ, Phạm-văn-Hữu. Cách-trí, Đoàn-trọng-Phan. Tập đọc, Nguyễn-đỗ-Mục. Giảng nghĩa và học thuộc lòng, Phan-kế-Bính. Nam-sử, Trần-trọng-Kim VĂN-CHƯƠNG: Pháp văn, Nguyễn-văn-Trác. Hán-văn, Phan-kế-Bính. Văn nôm, Đ.-t.-Canh. Kim-vân-kiều, Nguyễn-văn-Vĩnh. Bình phẩm sách mới, Trương-quí-Bình TIỂU THUYẾT TÀU: Đông-chu-liệt-quốc, Nguyễn-đỗ-Mục. SỐ 118: TIỂU THUYẾT TÂY DIỄN NÔM: truyện Miếng Da Lừa của H. de Balzac, Nguyễn-văn-Vĩnh diễn nôm. CÔNG VĂN TẬP. TÂN HỌC VĂN TẬP: Văn quốc-ngữ, Phạm-văn-Hữu. Cách-trí, Đoàn-trọng-Phan. Luân lý, Nguyễn-đỗ-Mục.

Giảng nghĩa và học thuộc lòng, Phan-kế-Bính. Nam-sử, Trần-trọng-Kim PHÁP VĂN TẬP TIỂU THUYẾT TÀU: Đông-chu-liệt-quốc, Nguyễn-đỗ-Mục. SỐ 119: TIỂU THUYẾT TÂY DIỄN NÔM: truyện Miếng Da Lừa của H. de Balzac, Nguyễn-văn-Vĩnh diễn nôm. BỔ QUỐC-SỬ : Đại-nam nhất thống chí, Cụ Cao-xuân-Dục tổng tài,

Phan-kế-Bính ước dịch.

TÂN HỌC VĂN TẬP: Văn quốc-ngữ, Phạm-văn-Hữu. Cách-trí, Đoàn-trọng-Phan. Tập đọc, Nguyễn-đỗ-Mục. Giảng nghĩa và học thuộc lòng, Phan-kế-Bính. Nam-sử, Trần-trọng-Kim VĂN-CHƯƠNG: Pháp văn, Nguyễn-văn-Trác. Hán-văn, Phan-kế-Bính. Văn nôm, Đ.-t.-Canh. Kim-vân-kiều, Nguyễn-văn-Vĩnh. Sách Nam-sử của ông Trần-trọng-Kim, Nguyễn-dực-Văn. THIỆT HÀNH ĐIỆN-HỌC Sách dạy những điều cần kíp cho những thợ An-nam làm các máy điện-khí, Alexis Lân, Ingénieur Electricien, soạn. SỐ 120: TIỂU THUYẾT TÂY DIỄN NÔM: truyện Miếng Da Lừa của H. de Balzac, Nguyễn-văn-Vĩnh diễn nôm. TIỂU THUYẾT TÀU: Đông-chu-liệt-quốc, Nguyễn-đỗ-Mục. TÂN HỌC VĂN TẬP: Văn quốc-ngữ, Phạm-văn-Hữu. Cách-trí, Đoàn-trọng-Phan. Luân lý, Nguyễn-đỗ-Mục. Giảng nghĩa và học thuộc lòng, Phan-kế-Bính. Nam-sử, Trần-trọng-Kim VĂN-CHƯƠNG: Pháp văn, Nguyễn-văn-Trác. Hán-văn, Phan-kế-Bính. Văn nôm, Đ.-t.-Canh. Kim-vân-kiều, Nguyễn-văn-Vĩnh. Bình phẩm sách mới, Nguyễn-đỗ-Mục. THIỆT HÀNH ĐIỆN-HỌC Sách dạy những điều cần kíp cho những thợ An-nam làm các máy điện-khí, Alexis Lân, Ingénieur Electricien, soạn. SỐ 121: TIỂU THUYẾT TÂY DIỄN NÔM: truyện Miếng Da Lừa của H. de Balzac,

Nguyễn-văn-Vĩnh diễn nôm. TIỂU THUYẾT TÀU: Đông-chu-liệt-quốc, Nguyễn-đỗ-Mục. TÂN HỌC VĂN TẬP: Văn quốc-ngữ, Phạm-văn-Hữu. Cách-trí, Đoàn-trọng-Phan. Tập đọc, Nguyễn-đỗ-Mục. Giảng nghĩa và học thuộc lòng, Phan-kế-Bính. Nam-sử, Trần-trọng-Kim VĂN-CHƯƠNG: Pháp văn, Nguyễn-văn-Trác. Hán-văn, Phan-kế-Bính. Văn nôm, Đ.-t.-Canh. Kim-vân-kiều, Nguyễn-văn-Vĩnh. Bình phẩm sách mới, Nguyễn-thị-Duyên. THIỆT HÀNH ĐIỆN-HỌC Sách dạy những điều cần kíp cho những thợ An-nam làm các máy điện-khí, Alexis Lân, Ingénieur Electricien, soạn. SỐ 122 và 123: TIỂU THUYẾT TÂY DIỄN NÔM: truyện Miếng Da Lừa của H. de Balzac, Nguyễn-văn-Vĩnh diễn nôm. CÔNG-VĂN-TẬP TÂN HỌC VĂN TẬP: Văn quốc-ngữ, Phạm-văn-Hữu. Cách-trí, Đoàn-trọng-Phan. Luân lý, Nguyễn-đỗ-Mục. Giảng nghĩa và học thuộc lòng, Phan-kế-Bính. Nam-sử, Trần-trọng-Kim VĂN-CHƯƠNG: Pháp văn, Nguyễn-văn-Trác. Hán-văn, Phan-kế-Bính. Văn nôm, Đ.-t.-Canh. Kim-vân-kiều, Nguyễn-văn-Vĩnh. Bình phẩm sách mới, Nguyễn-thị-Duyên. THIỆT HÀNH ĐIỆN-HỌC Sách dạy những điều cần kíp cho những thợ An-nam làm các máy điện-khí, Alexis Lân, Ingénieur Electricien, soạn. SỐ 124: TIỂU THUYẾT TÂY DIỄN NÔM: truyện Miếng Da Lừa của H. de Balzac, Nguyễn-văn-Vĩnh diễn nôm. TIỂU THUYẾT TÀU: Đông-chu-liệt-quốc, Nguyễn-đỗ-Mục. TÂN HỌC VĂN TẬP: Văn quốc-ngữ, Phạm-văn-Hữu. Cách-trí, Đoàn-trọng-Phan. Luân lý, Nguyễn-đỗ-Mục. Giảng nghĩa và học thuộc lòng, Phan-kế-Bính. Nam-sử, Trần-trọng-Kim

VĂN-CHƯƠNG: Pháp văn, Nguyễn-văn-Trác. Hán-văn, Phan-kế-Bính. Văn nôm, Đ.-t.-Canh. Kim-vân-kiều, Nguyễn-văn-Vĩnh. CÔNG-VĂN-TẬP THIỆT HÀNH ĐIỆN-HỌC (Hết) Sách dạy những điều cần kíp cho những thợ An-nam làm các máy điện-khí, Alexis Lân, Ingénieur Electricien, soạn. SỐ 126: TIỂU THUYẾT TÂY DIỄN NÔM: truyện Miếng Da Lừa của H. de Balzac, Nguyễn-văn-Vĩnh diễn nôm. BỔ QUỐC-SỬ : Đại-nam nhất thống chí, Cụ Cao-xuân-Dục tổng tài, Phan-kế- Bính ước dịch. TÂN HỌC VĂN TẬP: Văn quốc-ngữ, Phạm-văn-Hữu. Cách-trí, Đoàn-trọng-Phan. Tập đọc, Nguyễn-đỗ-Mục. Giảng nghĩa và học thuộc lòng, Phan-kế-Bính. Nam-sử, Trần-trọng-Kim PHÁP VĂN TẬP TIỂU THUYẾT TÀU: Đông-chu-liệt-quốc, Nguyễn-đỗ-Mục. SỐ 128: TIỂU THUYẾT TÂY DIỄN NÔM: truyện Miếng Da Lừa của H. de Balzac, Nguyễn-văn-Vĩnh diễn nôm. BỔ QUỐC-SỬ : Đại-nam nhất thống chí, Cụ Cao-xuân-Dục tổng tài, Phan-kế- Bính ước dịch. TÂN HỌC VĂN TẬP: Văn quốc-ngữ, Phạm-văn-Hữu. Cách-trí, Đoàn-trọng-Phan. Tập đọc, Nguyễn-đỗ-Mục. Giảng nghĩa và học thuộc lòng, Phan-kế-Bính. Nam-sử, Trần-trọng-Kim VĂN-CHƯƠNG: Pháp văn, Nguyễn-văn-Trác. Hán-văn, Phan-kế-Bính. Văn nôm, Đ.-t.-Canh. Kim-vân-kiều, Nguyễn-văn-Vĩnh. TIỂU THUYẾT TÀU: Đông-chu-liệt-quốc, Nguyễn-đỗ-Mục. SỐ 129: TIỂU THUYẾT TÂY DIỄN NÔM: truyện Miếng Da Lừa của H. de Balzac, Nguyễn-văn-Vĩnh diễn nôm. CÔNG VĂN TẬP TÂN HỌC VĂN TẬP: Văn quốc-ngữ, Phạm-văn-Hữu. Cách-trí, Đoàn-trọng-Phan. Luân lý, Nguyễn-đỗ-Mục.

Giảng nghĩa và học thuộc lòng, Phan-kế-Bính. Nam-sử, Trần-trọng-Kim VĂN-CHƯƠNG: Pháp văn, Nguyễn-văn-Trác. Hán-văn, Phan-kế-Bính. Văn nôm, Đ.-t.-Canh. Kim-vân-kiều, Nguyễn-văn-Vĩnh. TIỂU THUYẾT TÀU: Đông-chu-liệt-quốc, Nguyễn-đỗ-Mục. SỐ 130: TIỂU THUYẾT TÂY DIỄN NÔM: truyện Miếng Da Lừa của H. de Balzac, Nguyễn-văn-Vĩnh diễn nôm. BỔ QUỐC-SỬ: Đại-nam nhất thống chí, Cụ Cao-xuân-Dục tổng tài, Phan-kế- Bính ước dịch. TÂN HỌC VĂN TẬP: Văn quốc-ngữ, Phạm-văn-Hữu. Cách-trí, Đoàn-trọng-Phan. Tập đọc, Nguyễn-đỗ-Mục. Giảng nghĩa và học thuộc lòng, Phan-kế-Bính. Nam-sử, Trần-trọng-Kim CÔNG VĂN TẬP TIỂU THUYẾT TÀU: Đông-chu-liệt-quốc, Nguyễn-đỗ-Mục. SỐ 131: TIỂU THUYẾT TÂY DIỄN NÔM: truyện Miếng Da Lừa của H. de Balzac, Nguyễn-văn-Vĩnh diễn nôm. BỔ QUỐC-SỬ: Đại-nam nhất thống chí, Cụ Cao-xuân-Dục tổng tài, Phan-kế- Bính ước dịch. TÂN HỌC VĂN TẬP: Văn quốc-ngữ, Phạm-văn-Hữu. Cách-trí, Đoàn-trọng-Phan. Luân lý, Nguyễn-đỗ-Mục. Giảng nghĩa và học thuộc lòng, Phan-kế-Bính. Nam-sử, Trần-trọng-Kim VĂN-CHƯƠNG: Pháp văn Hán-văn, Phan-kế-Bính. Văn nôm Kim-vân-kiều, Nguyễn-văn-Vĩnh. TIỂU THUYẾT TÀU: Đông-chu-liệt-quốc, Nguyễn-đỗ-Mục. SỐ 132: TIỂU THUYẾT TÂY DIỄN NÔM: truyện Miếng Da Lừa của H. de Balzac, Nguyễn-văn-Vĩnh diễn nôm. BỔ QUỐC-SỬ: Đại-nam nhất thống chí, Cụ Cao-xuân-Dục tổng tài, Phan-kế- Bính ước dịch. TÂN HỌC VĂN TẬP: Văn quốc-ngữ, Phạm-văn-Hữu. Cách-trí, Đoàn-trọng-Phan.

Tập đọc, Nguyễn-đỗ-Mục. Giảng nghĩa và học thuộc lòng, Phan-kế-Bính. Nam-sử, Trần-trọng-Kim VĂN-CHƯƠNG: Pháp văn Hán-văn, Phan-kế-Bính. Văn nôm Kim-vân-kiều, Nguyễn-văn-Vĩnh. TIỂU THUYẾT TÀU: Đông-chu-liệt-quốc, Nguyễn-đỗ-Mục. *BỔ SUNG (dựa theo những tài liệu tìm được): - Từ số 24 đến số 49: Đông Dương Tạp Chí mở mục VIỆT NAM PHONG TỤC, đăng những bài khảo cứu về phong tục nước nhà của ông Phan Kế Bính. - Từ năm 1915: ĐDTC mở mục MỘT LỐI VĂN NÔM do Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu đảm nhận. - Từ năm 1916: ĐDTC mở mục VIỆT HÁN VĂN KHẢO, đăng những bài khảo cứu, bàn về văn chương chữ Hán ở Trung Quốc, Việt Nam và triết học Trung Quốc của Phan Kế Bính.

B.   THƯ VIỆN THÔNG TIN KHOA HỌC XÃ HỘI

ĐÔNG DƯƠNG TẠP CHÍ SỐ 63 (Thứ 5 ngày 30/7/1914)

-   Thời sự tổng thuật – Trần Văn Quang.

-   Điện báo.

-   Chinh-đốn lại cách cai-trị dân-xã III (Réorganisation de la commune Annamite).

-   Đông Dương thời sự.

-   Nhời đàn bà (Propos de famme): Nết người lớn – Đào Thị Loan

-   Tu thân khoa: XII – Thế nào gọi là cái thân bị trăm thức mùi đời xúm lại mà trêu

ghẹo mình – Ph. K. Bính.

-   Thứ thuốc lá – giống ở địa hạt Bắc-Kạn , Thống sử phủ lai cáo.

-   Nói về vệ sinh

-   Tiểu thuyết: Gil-Blas de Santillane, số 51 – Nguyễn Văn Vĩnh diễn nôm

-   Tự do diễn đàn – Phạm Quan Sán lai kiều.

-   Việc buôn bán.

TÂN HỌC VĂN TẬP

-   Văn chương khoa

o   Đống của với hai người (Le trésor et les deux hommes) – Nguyễn Văn Vĩnh

diễn nôm.

o   Bể nhớn (L’ocean – suite et fin) – Phạm Quỳnh diễn nôm.

o   Làm con phải hiếu (Piété filiale).

o   Người đau nên biết (A ceux qui soaffrent) – Thái Xuyên , Hoàng Quận

Công.

o   Gốc văn chương (Trích lục cổ - văn diễn nôm) – Ph. K. Bính.

o   Từ phú thi ca (Le coin des poètes) – Nguyễn Khách Doanh.

-   Công văn tập (Recueli des Actes Officiels)

o   Nghị định của quan Toàn quyền Đông dương về việc lập thêm ban học chế

thuốc ở tràng học thuốc Đông dương.

o   Đơn xin khẩn thổ.

o   Quan lại thăng chuyển (Nominations et mutations).

-   Sư phạm học khoa

o   Người câu cá – Phạm Văn Hữu.

o   Si vương tiên – Phạm Văn Hữu.

o   Toán pháp.

o   Luận lý: Phải trọng của cải người ta – Trần Trọng Kim.

o   Nam sử.

ĐÔNG DƯƠNG TẠP CHÍ SỐ 64 (Thứ 5 ngày 6/8/1914)

-   Tờ quan thống sứ hiểu dụ cho dân xứ bắc kỳ.

-   Thời sự tổng thuật Đ.D.T.C.

-   Điện báo.

-   Chỉnh đốn lại cách cai trị dân xã iv.

-   Đông dương thời sự.

-   Nhời đàn bà: có duyên.

-   Gõ đầu trẻ: XXII

-   Tu thân khoa: XIII – Thế nào gọi là cái thân tự trong mình nảy ra trăm thứ ác niệm

làm hại cho mình.

-   Tiểu thuyết: Gil-Blas de Santillane, số 52 – Nguyễn Văn Vĩnh diễn nôm.

-   Dưỡng anh nhi pháp (bài nối).

-   Giây thép quan toàn quyền Sarraut giã từ Đông Dương.

-   Tự do diễn đàn.

-   Việc buôn bán.

TÂN HỌC VĂN TẬP

-   Văn chương khoa

o   Thần chết và lão tiều phu – Nguyễn Văn Vĩnh.

o   Làm con phải hiếu, bài thứ 4 – Thái Xuyên, Hoàng Quận Công.

o   Bác phu điếm độc long (bài nối) – Đàm Duy Huyền.

o   Nam Văn hợp thái: Kim Vân Kiều – Nguyễn Văn Vĩnh.

o   Người đau nên biết.

-   Công văn tập

o   Tờ thông tư về việc đấu xảo ở thành Marsellie năm 1916.

o   Yết thị về việc khẩn thổ.

o   Nghị định về việc phân xã.

o   Vệ sinh thân thể người ta.

o   Quan lại thăng chuyển.

-   Sư phạm khoa học

o   Làm bài.

o   Tổ kiến.

o   Toán pháp

o   Luận lý: phải trọng danh giá người ta.

o   Nam sử - Trần Trọng Kim.

ĐÔNG DƯƠNG TẠP CHÍ SỐ 65 (Thứ 5, ngày 13/8/1914)

-   Thời sự tổng thuật, Đ. D. T. C.

-   Điện báo.

-   Tranh chiến luận (La geurre).

-   Đông Dương thời sự.

-   Thi ký lục: Sở xe lửa Đông Dương, Hạt Bắc.

-   Tình Pháp với Anh (France et Angleterre).

-   Tiểu thuyết Gil-Blas de Santillane, số 53 – Nguyễn Văn Vĩnh diễn nôm.

-   Tu thân khoa: XIV – Thế nào gọi là cái thân phát ra trăm thức ác niệm làm hại cho

người – Ph. K. Bính.

-   Việc buôn bán.

TÂN HỌC VĂN TẬP

-   Văn chương khoa

o   Con gà sống và hạt trân châu – Ph. K. Bính.

o   Làm con phải hiếu, bài thứ 5 – Thái Xuyên, Hoàng Quận Công.

o   Bác phu điếm độc long (bài nối) – Đàm Duy Huyền.

o   Người đau nên biết.

-   Công văn tập

o   Nghị định chỉnh đốn lại các phố Hà Nội.

o   Quan lại thăng chuyển.

-   Sư phạm khoa học

o   Cái bảng đen ở lớp học.

o   Cây thông.

o   Toán pháp

o   Nam sử - Trần Trọng Kim.

ĐÔNG DƯƠNG TẠP CHÍ SỐ 66 (Thứ 5, ngày 20/8/1914)

-   Thời sự tổng thuật, Đ. D. T. C.

-   Điện báo.

-   Cách giao thiệp của các nước văn minh.

-   Đông Dương thời sự.

-   Tình Pháp với Anh (bài nối).

-   Tiểu thuyết Gil-Blas de Santillane, số 54 – Nguyễn Văn Vĩnh diễn nôm.

-   Tu thân khoa: XIV – Thế nào gọi là cái thân phát ra trăm thức ác niệm làm hại cho

người – Ph. K. Bính.

-   Việc buôn bán.

TÂN HỌC VĂN TẬP

-   Văn chương khoa

o   Con dơi và hai con cầy – Nguyễn Văn Vĩnh.

o   Làm con phải hiếu, bài thứ 6 – Thái Xuyên, Hoàng Quận Công.

o   Bác phu điếm độc long (bài nối) – Đàm Duy Huyền.

o   Nam văn hợp thái: Kim Vân Kiều

o   Người đau nên biết.

-   Công văn tập

o   Nghị định chỉnh đốn lại các phố Hà Nội (tiếp).

o   Quan lại thăng chuyển.

-   Sư phạm khoa học

o   Anh bé con mạnh bạo.

o   Đi đường.

o   Luân lý: cách mình phải ăn ở với mọi người.

o   Nam sử - Trần Trọng Kim.

ĐÔNG DƯƠNG TẠP CHÍ SỐ 67 (Thứ 5, ngày 27/8/1914)

-   Thời sự tổng thuật, Đ. D. T. C.

-   Điện báo.

-   Quân lực các nước cừ địch.

-   Đông Dương thời sự.

-   Cách dịch các tiếng tên xứ, tên người Âu Châu ra chữ Quốc ngữ.

-   Tu thân khoa (bài nối).

-   Cuộc lạc quyền để cứu giúp những kẻ phải nạn binh cách.

-   Tiểu thuyết Gil-Blas de Santillane, số 55 – Nguyễn Văn Vĩnh diễn nôm.

-   Tu thân khoa: XIV – Thế nào gọi là cái thân phát ra trăm thức ác niệm làm hại cho

người – Ph. K. Bính.

-   Dưỡng Anh nhi Pháp.

-   Việc buôn bán.

TÂN HỌC VĂN TẬP

-   Văn chương khoa

o   Hai chàng ăn trộm với con lừa – Nguyễn Văn Vĩnh.

o   Sự trả giá – Phạm Quỳnh diễn nôm.

o   Làm con phải hiếu, bài thứ 7 – Thái Xuyên, Hoàng Quận Công.

o   Người đau nên biết.

o   Tập văn nôm: một cuộc say – Phạm Duy Tốn.

-   Công văn tập

o   Quan quyền toàn quyền Đông Dương, thưởng thụ đệ ngũ đẳng bội tinh.

o   Nghị định về việc phân xã

o   Nghị định cấp tiền tuất.

o   Yết thị về việc bán gỗ ở tỉnh Quảng Yên.

o   Yết thị về việc khẩn thổ.

o   Tờ thông tư về việc dùng nước ăn.

o   Quan lại thăng chuyển.

-   Sư phạm khoa học

o   Vật làm hại ở trong nhà.

o   Truyện chiêm bao

o   Nam sử - Trần Trọng Kim.

o   Dictée.

ĐÔNG DƯƠNG TẠP CHÍ SỐ 68 (Thứ 5, ngày 3/9/1914)

-   Thời sự tổng thuật, Đ. D. T. C.

-   Điện báo.

-   Lòng trung nghĩa của dân bản xứ với đại Pháp.

-   Đông Dương thời sự.

-   Tiểu thuyết Gil-Blas de Santillane, số 56 – Nguyễn Văn Vĩnh diễn nôm.

-   Dưỡng anh nhi pháp.

-   Việc buôn bán.

TÂN HỌC VĂN TẬP

-   Văn chương khoa

o   Người giết cọp – Nguyễn Văn Vĩnh.

o   Làm con phải hiếu, bài thứ 8 – Thái Xuyên, Hoàng Quận Công.

o   Nam văn hợp thái: Kim Vân Kiều.

o   Tập văn nôm: truyện gàn – Phạm Duy Tốn.

o   Người đau nên biết.

o   Thú vui tự nhiên.

o   Từ phú thi ca – Tòng Sơn, Vũ Đình Khôi.

-   Công văn tập

o   Chỉ dụ lập bằng trung học bên xứ Đông Dương.

o   Nghị định về tiền phụ cấp của các ông giám thí trong kì thi trung đẳng học.

o   Quan lại thăng chuyển.

-   Sư phạm khoa học

o   Trẻ con đấm cửa người ta – Phạm Văn Hữu.

o   Vừa vô ích, vừa làm hại – Phạm Văn Hữu.

o   Luân lý: Nhân đức – Trần Trọng Kim.

o   Dictée.

ĐÔNG DƯƠNG TẠP CHÍ SỐ 69 (thứ 5 ngày 10/09/1914)

-   Thời sự tổng thuật (Courrier de la Semaine).

-   Điện báo (Dépéckes).

-   Đồn bậy (Les faux bruits).

-   Đông Dương thời sự (A travers l’Indochine).

-   Tu thân khoa: XVI – kén chất.

-   Tiểu thuyết Gil-Blas de Santillance, số 57 – Nguyễn Văn Vĩnh diễn nôm.

-   Gõ đầu trẻ XXIII – Nguyễn Đỗ Mục.

-   Việc buôn bán.

TÂN HỌC VĂN TẬP

-   Văn chương khoa

o   Chó sói và giàn nho – Nguyễn Văn Vĩnh.

o   Ái tình (L’amour) – Platon (Le Banquet) – Phạm Quỳnh diễn nghĩa.

o   Làm con phải hiếu, bài thứ 9 – Thái Xuyên , Hoàng Quận Công.

o   Tập văn Nôm (Essai de prose annamite): Đồng bóng (Hài đâm).

o   Người đau nên biết (A ceux qui soaffrent) – Phạm Duy Tốn.

o   Tiếng mùa thu – Ph. K. Bính.

o   Từ phú thi ca (Le coin des poètes) – Nguyễn Hồng Nguyên.

-   Công văn tập (Recueli des Actes Officiels)

o   Nghị định quan toàn quyền định thể lệ các thương nghị hội viên và bản tỉnh

hội viên từ chức.

o   Nghị định quan toàn quyền về việc cấp tiền giả lại cho những người chở rau

và các thứ quả ở trên Vân Nam về.

o   Nghị định về việc phân xã.

o   Nghị định cấp tiền tuất.

o   Quan lại thăng chuyển (Nominations et mutations)

-   Sư phạm học khoa

o   Muốn giầu – Phạm Văn Hữu.

o   Tết Trung Nguyên – Phạm Văn Hữu.

o   Toán Pháp.

o   Bài cách tri: Không khí (bài nối số báo 44).

o   Luân lý: tổng kết – Trần Trọng Kim.

o   Gõ đầu trẻ - Nguyễn Đỗ Mục.

ĐÔNG DƯƠNG TẠP CHÍ SỐ 70 (thứ 5 ngày 17/09/1914)

-   Thời sự tổng thuật (Courrier de la Semaine).

-   Điện báo (Dépéckes).

-   Đông Dương thời sự (A travers l’Indochine).

-   Nhời đàn bà: Biết thì thưa thốt, không biết thì dựa cột mà nghe - Đào Thị Loan.

-   Tu thân khoa: XVII – thêm sức

-   Gõ đầu trẻ XXIV – Nguyễn Đỗ Mục.

-   Tiểu thuyết Gil-Blas de Santillance, số 58 – Nguyễn Văn Vĩnh diễn nôm.

-   Tự do diễn đàng – Phạm Quang Sán.

-   Việc buôn bán.

TÂN HỌC VĂN TẬP

-   Văn chương khoa

o   Con sư tử và con muỗi mắt – Nguyễn Văn Vĩnh.

o   Làm con phải hiếu, bài thứ 10 – Thái Xuyên , Hoàng Quận Công.

o   Trích lục văn ông Chamfort – Bùi Đình Thình diễn nôm

o   Nam văn hợp thái: Kim Vân Kiều.

o   Người đau nên biết (A ceux qui soaffrent) – Phạm Duy Tốn.

-   Công văn tập (Recueli des Actes Officiels)

o   Tờ thông tư quan Thống sứ về việc tuyển lính An Nam.

o   Nghị định quan Thống sứ Bắc Kỳ về việc tuyển bổ các ông hậu bổ mới thi

ra.

o   Nghị định về việc phân xã.

o   Cách làm thứ miến song thần.

o   Quan lại thăng chuyển (Nominations et mutations)

-   Sư phạm học khoa

o   Ném gạch, ném đá – Phạm Văn Hữu.

o   Người làm ruộng, người làm thợ với người đi buôn – Phạm Văn Hữu.

o   Toán Pháp.

o   Nam sử: Đời Nhà Trần (1225 – 1400) – Trần Trọng Kim.

ĐÔNG DƯƠNG TẠP CHÍ SỐ 71 (thứ 5 ngày 24/09/1914)

-   Thời sự tổng thuật (Courrier de la Semaine).

-   Điện báo (Dépéckes).

-   Cách viết các tên người, tên xứ ra chữ Quốc ngữ - Bản quán.

-   Đông Dương thời sự (A travers l’Indochine).

-   Trích lục các báo bên Tây sang về việc tranh chiến.

-   Gõ đầu trẻ XXV – Nguyễn Đỗ Mục.

-   Tiểu thuyết Gil-Blas de Santillance, số 59 – Nguyễn Văn Vĩnh diễn nôm.

-   Việc buôn bán.

TÂN HỌC VĂN TẬP

-   Văn chương khoa

o   Con mèo giả và con chuột nhắt – Nguyễn Văn Vĩnh.

o   Giả thương người - Thái Văn Toản diễn nôm.

o   Làm con phải hiếu, bài thứ 11 – Thái Xuyên , Hoàng Quận Công.

o   Tập văn nôm: Thề cá trê chui ống.

-   Sư phạm học khoa

o   Toán Pháp.

o   Cách trí: nước

o   Dictée.

ĐÔNG DƯƠNG TẠP CHÍ SỐ 72 (thứ 5 ngày 1/10/1914)

-   Thời sự tổng thuật (Courrier de la Semaine).

-   Điện báo (Dépéckes).

-   Đâu cũng là nghĩa – Bản quán chủ bút.

-   Báo thay hình dạng – Bản quán chủ nhân.

-   Đông Dương thời sự (A travers l’Indochine).

-   Việc buôn bán.

TÂN HỌC VĂN TẬP

-   Văn chương khoa

o   Chó Sài với chó Sói đến kiện nhau trước con Khỉ – Nguyễn Văn Vĩnh.

o   Làm con phải hiếu, bài thứ 12 – Thái Xuyên , Hoàng Quận Công.

o   Truyện Ông Hoàng với con Họa mi – Phạm Duy Tốn diễn nôm.

o   Nam văn hợp thái: Kim Vân Kiều.

o   Bình phẩm sách mới.

o   Người đau nên biết.

o   Viếng đám cổ chiến trường.

o   Từ phú thi ca.

-   Công văn tập (Recueli des Actes Officiels)

o   Tờ thông tư số 231 ngày 16 tháng 9 năm 1914 về báo Đông Dương tạp chí

và tờ Pháp Việt thông báo.

o   Nghị định về việc phân xã.

o   Nghị định cấp tiền tuất.

o   Quan lại thăng chuyển.

-   Học luật lệ An Nam: Án văn.

-   Sư phạm học khoa

o   Nói dối – Phạm Văn Hữu.

o   Chọn bạn – Phạm Văn Hữu.

o   Toán Pháp.

o   Cách trí: nhời dặn

o   Dictée: rằm tháng 8.

ĐÔNG DƯƠNG TẠP CHÍ SỐ 73 (thứ 5 ngày 8/10/1914)

-   Thời sự tổng thuật (Courrier de la Semaine).

-   Điện báo (Dépéckes).

-   Đức Hàm Nghi tình nguyện Tùng Chinh – Thân Trọng Huê.

-   Đông Dương thời sự (A travers l’Indochine).

-   Việc buôn bán.

TÂN HỌC VĂN TẬP

-   Văn chương khoa

o   Con Thỏ và con Rùa – Nguyễn Văn Vĩnh.

o   Làm con phải hiếu, bài thứ 13 – Thái Xuyên , Hoàng Quận Công.

o   Hai người Hắc chủng với quyển sách – Phạm Duy Tốn.

o   Cách ngôn của ông La Rochefoucault.

o   Người đau nên biết.

o   Nhời anh bán cam – Ph. K. Bính.

-   Sư phạm học khoa

o   Ma quỉ – Phạm Văn Hữu.

o   Nhà quê – Phạm Văn Hữu.

o   Cách trí: sức ép không khí.

o   Tập đọc: Con Voi, Sư tử cộc.

o   Nam sử: Đời nhà Trần (bài nối).

ĐÔNG DƯƠNG TẠP CHÍ SỐ 74 (thứ 5 ngày 15/10/1914)

-   Thời sự tổng thuật (Courrier de la Semaine).

-   Điện báo (Dépéckes).

-   Luật lệ - Phạm Quang Sán.

-   Đông Dương thời sự (A travers l’Indochine).

-   Việc buôn bán.

TÂN HỌC VĂN TẬP

-   Văn chương khoa

o   Con Chuột nhắt, con Mèo, con Gà sống non – Nguyễn Văn Vĩnh.

o   Làm con phải hiếu, bài thứ 14 – Thái Xuyên , Hoàng Quận Công.

o   Vỡ lòng học hay.

o   Nhời anh bán cam – Ph. K. Bính.

o   Nam văn hợp thái: Kim Vân Kiều.

o   Người đau nên biết.

o   Bình phẩm sách mới: Kim Vân Kiều tập cú

-   Công văn tập

o   Nghị định quan toàn quyền thi hành chỉ dụ vua về việc thay đổi cái quyền

xử án các tỉnh.

o   Chỉ dụ vua Duy Tân ngày 31 tháng 7 năm 1914 về việc chỉnh đốn lại các

ngạch lương các thuộc viên An Nam ở Bắc Kỳ.

o   Nghị định quan toàn quyền ngày 27 tháng 9 năm 1914 về việc cấp tiền phụ cấp cho những người làm việc sở Lục lộ coi làm đường hỏa xa từ Vinh vào Đồng Hà.

o   Nghị định quan toàn quyền thi hành cái chỉ dụ vua về việc tăng lương các

thuộc viên.

o   Cách làm thứ miển song thần.

o   Quan lại thăng chuyển.

-   Học luật lệ An Nam: án văn.

-   Sư phạm học khoa

o   Sự giáo dục – T. T. K.

o   Sư phạm học khoa – Trần Trọng Kim

o   Toán Pháp.

o   Luận lý: Đói cho sạch, rách cho thơm; Kính trọng người già cả.

o   Cách trí: giống người.

ĐÔNG DƯƠNG TẠP CHÍ SỐ 75 (thứ 5 ngày 22/10/1914)

-   Thời sự tổng thuật (Courrier de la Semaine).

-   Điện báo (Dépéckes).

-   Đông Dương thời sự (A travers l’Indochine).

-   Tiểu thuyết Gil-Blas de Santillance, số 60 – Nguyễn Văn Vĩnh diễn nôm.

-   Việc buôn bán.

-   Học luật lệ An Nam.

TÂN HỌC VĂN TẬP

-   Văn chương khoa

o   Con Gấu và hai bác Lái – Nguyễn Văn Vĩnh.

o   Làm con phải hiếu, bài thứ 15 – Thái Xuyên , Hoàng Quận Công.

o   Nói đừng cầu kỳ.

o   Dân Đại pháp.

o   Xem sách.

o   Người đau nên biết.

o   Chí khí của một người hiền.

o   Từ phú thi ca.

-   Công văn tập

o   Tờ thông tư quan Thống sứ về việc chỉnh đốn lại việc trạm.

o   Nghị định tính lương hưu bổng cho công chức các sở thuộc về thành phố

trước năm 1908.

o   Tờ thông tư quan toàn quyền kể các chỉ dụ về việc bãi thuế nhập cảng đem

về Mẫu quốc những đồ vật thực.

o   Nghị định cấp tiền tuất.

o   Nghị định phân xã.

o   Nói về việc khẩn điền.

o   Quan lại thăng chuyển.

-   Học luật lệ An Nam: án văn.

-   Sư phạm học khoa

o   Mùa thu – Phạm Văn Hữu.

o   Người thành phố với người nhà quê – Phạm Văn Hữu

o   Toán Pháp.

o   Luận lý: tham thực cực thân, vâng lời cha mẹ.

o   Tập đọc: xe hỏa, quả địa cầu.

o   Cách trí: việc tiêu hóa.

o   Nam sử: Đời nhà Trần (bài nối).

ĐÔNG DƯƠNG TẠP CHÍ SỐ 76 (thứ 5 ngày 29/10/1914)

-   Thời sự tổng thuật (Courrier de la Semaine).

-   Điện báo (Dépéckes).

-   Đông Dương thời sự (A travers l’Indochine).

-   Tiểu thuyết Gil-Blas de Santillance, số 61 – Nguyễn Văn Vĩnh diễn nôm.

-   Việc buôn bán.

TÂN HỌC VĂN TẬP

-   Văn chương khoa

o   Con Chó sói và đàn gà tây – Nguyễn Văn Vĩnh.

o   Làm con phải hiếu, bài thứ 16 – Thái Xuyên , Hoàng Quận Công.

o   Bài răn anh nịnh thần – Phạm Duy Tốn.

o   Nam văn hợp thái: Kim Vân Kiều.

o   Người đau nên biết: bệnh cúm.

o   Không tham là quí.

o   Bình phẩm sách mới: truyện thanh mai.

o   Từ phú thi ca (Le coin des poètes) – Hoàng Cảnh Tuân.

-   Công văn tập (Recueli des Actes Officiels)

o   Nghị định quan toàn quyền thi hành chỉ dụ đổi giấy lấy bạc.

o   Nghị định thi hành chỉ dụ bãi việc tiêu tiền kẽm 1 đồng su ăn sáu.

o   Nghị định quan toàn quyền tha thuế muối.

o   Nghị định được phép bán rượu 25 phân ở xứ Bắc kỳ và phía Trung kỳ.

o   Nghị định cấp tiền tuất.

o   Sự giồng dâu chăn tầm.

o   Quan lại thăng chuyển (Nominations et mutations)

-   Học luật lệ An Nam: Án văn.

-   Sư phạm học khoa

o   Sư phạm khoa lý luận: thể dục - Trần Trọng Kim.

o   Cô dâu – Phạm Văn Hữu.

o   Cần phải làm – Phạm Văn Hữu.

o   Toán Pháp.

o   Cách tri: Nhà tràng, việc tiêu hóa.

ĐÔNG DƯƠNG TẠP CHÍ SỐ 77 (thứ 5 ngày 5/11/1914)

-   Thời sự tổng thuật (Courrier de la Semaine).

-   Điện báo (Dépéckes).

-   Đông Dương thời sự (A travers l’Indochine).

-   Tiểu thuyết Gil-Blas de Santillance, số 62 – Nguyễn Văn Vĩnh diễn nôm.

-   Việc buôn bán.

TÂN HỌC VĂN TẬP

-   Văn chương khoa

o   Con gà trống và con hồ li – Nguyễn Văn Vĩnh.

o   Làm con phải hiếu, bài thứ 17 – Thái Xuyên , Hoàng Quận Công.

o   Kén chàng rể.

o   Cái hợm dở.

o   Thật thà là cha quỷ quái – Ph. K. Bính.

o   Người đau nên biết: bệnh cúm.

-   Công văn tập (Recueli des Actes Officiels)

o   Nghị định thiết quân luật ở đạo quan binh thứ nhất, thứ nhì và thứ ba và

những tỉnh Lạng Sơn, Lào Kay và Yên Bay.

o   Nghị định lập hai tòa án quan binh ở những hạt đã thiết quân luật.

o   Nghị định về những sách An Nam vào chương trình trung học trong kì thi tú

tài tây mà bộ đã duyệt y.

o   Tờ thông tư quan thống sứ về việc ngày hội đồng Thượng nghị viện.

o   Sự giồng dâu chăn tầm (bài nối).

o   Quan lại thăng chuyển (Nominations et mutations)

-   Học luật lệ An Nam: án văn

-   Sư phạm học khoa

o   Thể dục ở nhà.

o   Thổi cơm – Phạm Văn Hữu.

o   Nước lã – Phạm Văn Hữu.

o   Toán Pháp.

o   Luận lý: con nhà có hiếu, ngủ để dưỡng sức – Trần Trọng Kim.

o   Cách trí: việc hô hấp.

ĐÔNG DƯƠNG TẠP CHÍ SỐ 78 (thứ 5 ngày 12/11/1914)

-   Thời sự tổng thuật (Courrier de la Semaine).

-   Điện báo (Dépéckes).

-   Báo mới của Bản quán.

-   Đông Dương thời sự (A travers l’Indochine).

-   Quan lại thăng chuyển.

-   Gõ đầu trẻ XXVI – Nguyễn Đỗ Mục.

-   Tu thân khoa: XIII – Đúc Óc; XIV - Tụ hồn.

-   Truyện Ông phủ ca ở Nam Kỳ

-   Tiểu thuyết Gil-Blas de Santillance, số 63 – Nguyễn Văn Vĩnh diễn nôm.

-   Dưỡng anh nhi pháp.

-   Tự do diễn đàn.

-   Việc buôn bán.

TÂN HỌC VĂN TẬP

-   Văn chương khoa

o   Truyện hai con dê cái – Nguyễn Văn Vĩnh.

o   Sự tìm tòi xét học.

o   Làm con phải hiếu, bài thứ 18 – Thái Xuyên , Hoàng Quận Công.

o   Nam văn hợp thái – Kim Vân Kiều.

o   Người đau nên biết.

o   Nóng mát tại mình.

o   Từ phú thi ca

-   Sư phạm học khoa

o   Thể dục ở nhà trường.

o   Luận Quốc ngữ: nhật báo cũ

o   Luận lý: làm người phải lập thân.

o   Cách trí: Việc tuần hoàn.

o   Toán pháp: phép đếm và phép viết.

-   Học luật lệ An Nam.

ĐÔNG DƯƠNG TẠP CHÍ SỐ 79 (thứ 5 ngày 19/11/1914)

-   Thời sự tổng thuật (Courrier de la Semaine).

-   Tin sau cùng.

-   Bắc kỳ Thượng nghị Hội viện: Đại hội đồng năm 1914

-   Đông Dương thời sự (A travers l’Indochine).

-   Việc buôn bán.

TÂN HỌC VĂN TẬP

-   Văn chương khoa

o   Con chó bị chủ xẻo tai – Nguyễn Văn Vĩnh.

o   Làm con phải hiếu, bài thứ 19 – Thái Xuyên , Hoàng Quận Công.

o   Địa vị nước Pháp trong cuộc văn minh.

o   Đám cãi nhau.

o   Nhân đàm: đũa cả nắm, khó bẻ.

o   Người đau nên biết.

o   Mộng ảo vô băng.

o   Từ phú thi ca.

-   Học luật lệ An Nam: Án văn.

-   Sư phạm học khoa

o   Thể dục ở nhà trường (bài nối)

o   Luận Quốc ngữ: quả quýt.

o   Toán Pháp.

o   Cách trí: việc tuần hoàn.

o   Nam sử - Trần Thánh Tôn (1258 – 1278).

o   Tập đọc: Ông Phệnh.

ĐÔNG DƯƠNG TẠP CHÍ SỐ 80 (thứ 5 ngày 26/11/1914)

-   Thời sự tổng thuật (Courrier de la Semaine).

-   Điện báo (Dépéckes).

-   Nước Hy Lạp mến phục nước Đại Pháp.

-   Tiểu thuyết Gil-Blas de Santillance, số 64 – Nguyễn Văn Vĩnh diễn nôm.

-   Đông Dương thời sự (A travers l’Indochine).

-   Gõ đầu trẻ - XXVII

-   Việc buôn bán.

TÂN HỌC VĂN TẬP

-   Văn chương khoa

o   Sếu mượn lông công – Nguyễn Văn Vĩnh.

o   Những con quạ.

o   Người đau nên biết.

o   Làm con phải hiếu, bài thứ 20 – Thái Xuyên , Hoàng Quận Công.

o   Hai người Hắc chủng với quyển sách – Phạm Duy Tốn.

o   Cách ngôn của ông La Rochefoucault.

o   Nhời anh bán cam – Ph. K. Bính.

-   Công văn tập

o   Tờ thông tư của quan Thống sứ.

o   Nghị định về đất bãi mới bồi của xã Bồ Đình.

o   Nghị định cải sáp dân xã.

o   Nghị định phân xã.

o   Nghị định cấp tiền tuất.

o   Quan lại thăng chuyển.

-   Sư phạm học khoa

o   Thể thao ở nhà trường (bài nối).

o   Luận quốc ngữ: đồng hồ.

o   Luận lý: cần phải vận động; giữ gìn sức khỏe.

o   Cách trí: nói về người.

o   Tập đọc: điếu hút thuốc lào.

ĐÔNG DƯƠNG TẠP CHÍ SỐ 81 (thứ 5 ngày 3/12/1914)

-   Thời sự tổng thuật : trận lớn ở trên sông Marne.

-   Điện báo (Dépéckes).

-   Bắc kỳ Thượng nghị hội viện: bản biên kỳ Hội đồng ngày 15/11/1914.

-   Đông Dương thời sự (A travers l’Indochine).

-   Dịch báo Tây.

-   Tiểu thuyết Gil-Blas de Santillance, số 65 – Nguyễn Văn Vĩnh diễn nôm.

-   Việc buôn bán.

TÂN HỌC VĂN TẬP

-   Văn chương khoa

o   Con lợn, con dê cái và con cừu – Nguyễn Văn Vĩnh.

o   Làm con phải hiếu, bài thứ 21 – Thái Xuyên , Hoàng Quận Công.

o   Cái mặt ngoài.

o   Nam văn hợp thái: Kim Vân Kiều.

o   Người đau nên biết.

o   Tham giả vô ích.

-   Học luật lệ An Nam; Án văn.

-   Sư phạm học khoa

o   Trí dục.

o   Luận quốc ngữ: viết thư gửi quýt cho bạn.

o   Luận lý: cha bảo phải nghe; đừng uống nước lã

o   Toán Pháp.

o   Cách trí: Bộ xương

o   Tập đọc: vườn hoa

o   Nam sử: Trần Nhân Tôn

ĐÔNG DƯƠNG TẠP CHÍ SỐ 82 (thứ 5 ngày 10/12/1914)

-   Thời sự tổng thuật (Courrier de la Semaine).

-   Điện báo (Dépéckes).

-   Cách viết chữ quốc ngữ.

-   Bắc kỳ thượng nghị hội viện.

-   Đông Dương thời sự (A travers l’Indochine).

-   Nhà nho.

-   Tin bên Tầu.

-   Dịch báo Tây.

-   Tiểu thuyết Gil-Blas de Santillance, số 66 – Nguyễn Văn Vĩnh diễn nôm.

-   Việc buôn bán.

TÂN HỌC VĂN TẬP

-   Văn chương khoa

o   Mặt trời và loài ếch – Nguyễn Văn Vĩnh.

o   Nghĩa đoàn thể.

o   Làm con phải hiếu, bài thứ 22 – Thái Xuyên , Hoàng Quận Công.

o   Người đau nên biết.

-   Công văn tập

o   Nghị định cấp tiền tuất.

o   Nghị định phân xã.

o   Đấu giá lĩnh trưng đẳng gỗ.

o   Quan lại thăng chuyển.

-   Sư phạm học khoa

o   Trí dục (bài nối).

o   Luận quốc ngữ: rơm.

o   Toán Pháp.

o   Luận lý: anh em đồng bào; phòng bệnh truyền nhiễm.

.

o   Tập đọc: ăn vội; cái thuyền

o   Cách trí: việc tiêu hóa.

o   Nam sử: giặc Mông Cổ

ĐÔNG DƯƠNG TẠP CHÍ SỐ 83 (thứ 5 ngày 17/12/1914)

-   Thời sự tổng thuật : tham chánh viện Đông Dương.

-   Điện báo (Dépéckes).

-   Bắc kỳ thượng nghị hội viện: biên bản kỳ hội đồng ngày 19/11/1914

-   Đông Dương thời sự (A travers l’Indochine).

-   Tin bên Tầu.

-   Dịch báo Tây.

-   Tiểu thuyết Gil-Blas de Santillance, số 67 – Nguyễn Văn Vĩnh diễn nôm.

-   Việc buôn bán.

TÂN HỌC VĂN TẬP

-   Văn chương khoa

o   Anh chàng đứng tuổi với hai chị nhân ngãi – Nguyễn Văn Vĩnh.

o   Làm con phải hiếu, bài thứ 23 – Thái Xuyên , Hoàng Quận Công.

o   Nam văn hợp thái : Kim Vân Kiều.

o   Văn nôm.

o   Người đau nên biết.

o   Văn quốc ngữ.

o   Hai con mắt.

-   Học luật lệ An Nam; Án văn

-   Sư phạm học khoa

o   Tập làm văn Quốc ngữ: Thợ gặt; Đi chân.

o   Toán Pháp.

o   Luận lý: có người có việc; tình yêu mến anh em.

o   Tập đọc: ra ngõ gặp gái.

o   Nam sử: giặc Mông Cổ (bài nối)

ĐÔNG DƯƠNG TẠP CHÍ SỐ 84 (thứ 5 ngày 24/12/1914)

-   Thời sự tổng thuật : đấu xảo mỹ nghệ.

-   Điện báo (Dépéckes).

-   Dịch báo Tây.

-   Bắc kỳ thượng nghị hội viện: biên bản kỳ hội đồng ngày 20/11/1914

-   Đông Dương thời sự

-   Tiểu thuyết Gil-Blas de Santillance, số 68 – Nguyễn Văn Vĩnh diễn nôm.

-   Việc buôn bán.

TÂN HỌC VĂN TẬP

-   Văn chương khoa

o   Con Sư tử, con Lang và con Hồ – Nguyễn Văn Vĩnh.

o   Thế nào mới thật là can đảm.

o   Làm con phải hiếu, bài thứ 24 – Thái Xuyên , Hoàng Quận Công.

o   Người đau nên biết.

o   Nhân đàm: tay không lại hoàn tay không; tình thủy chung với bạn.

-   Công văn tập

o   Nghị định bãi huyện Hoàn Long.

o   Nghị định phân xã.

o   Nghị định cấp tiền tuất.

o   Quan lại thăng chuyển.

-   Sư phạm học khoa

o   Trí dục (bài nối)

o   Tập làm văn Quốc ngữ: người đi bán; nuông con.

o   Toán Pháp.

o   Luận lý: không tham của người; chú cũng như cha.

o   Tập đọc: gọi gà; bợm nghề đá cầu.

o   Nam sử: giặc Mông Cổ (bài nối).

ĐÔNG DƯƠNG TẠP CHÍ SỐ 85 (thứ 5 ngày 31/12/1914)

-   Thời sự tổng thuật : đấu xảo mỹ nghệ.

-   Điện báo (Dépéckes).

-   Cách viết chữ Quốc ngữ.

-   Nhời đàn bà.

-   Nhà nho.

-   Bắc kỳ thượng nghị hội viện: biên bản kỳ hội đồng 11/1914

-   Đông Dương thời sự

-   Tiểu thuyết Gil-Blas de Santillance, số 68 – Nguyễn Văn Vĩnh diễn nôm.

-   Việc buôn bán.

TÂN HỌC VĂN TẬP

-   Văn chương khoa

o   Con lừa và con chó con – Nguyễn Văn Vĩnh.

o   Đàn bà nước Nam.

o   Tựa.

o   Người đi đường với con chó.

o   Nam văn hợp thái: Kim Vân Kiều.

o   Hỡi người có bệnh.

o   Dịch cổ văn: ma ở đâu?

o   Nhân đàm: cưới vợ lẽ.

-   Học luật lệ An Nam; Án văn

-   Sư phạm học khoa

o   Mẹo làm văn Quốc ngữ.

o   Tập làm văn Quốc ngữ: cá săn sắt chết; ông lão làm vườn.

o   Toán Pháp.

o   Luận lý: năng tập thể thao; ăn mặc quí hồ sạch.

o   Tập đọc: giời mưa; văn minh cái đầu

o   Am ta: sự cạnh tranh; Bắc bình vương.

ĐÔNG DƯƠNG TẠP CHÍ SỐ 104 – 105 (thứ 5 ngày ?/?/191?)

-   Tiểu thuyết Tây diễn nôm: Lỗ Bình Sơn phiêu lưu ký (tt) – Nguyễn Sĩ Giác diễn

nôm

ĐÔNG DƯƠNG TẠP CHÍ SỐ 108 - 135

-   Truyện miếng da lừa – Nguyễn Văn Vĩnh diễn nôm.

o   Tiều truyện ông BalZac.

o   Truyện cái bùa.

-   Bộ quốc sử: đại nam nhất thống chí

-   Tân học văn tập

o   Văn quốc ngữ

§   Nước (Ấu học)

§   Thức dậy (Tiểu học)

o   Luân lý

§   Làm người chớ nên nói dối (Tiểu học)

o   Toán pháp

o   Cách tri

§   Tạp vật học: các súc vật người ta nuôi

o   Giảng nghĩa và học thuộc lòng: văn chất

o   Nam sử

-   Văn chương

o   Pháp văn

§   Nhời của một người quí phái mắng con

§   Kẻ lười

o   Hán văn: thư đáp Lưu nhất Tượng

o   Âu văn: một người ngộ đạo (tt)

o   Kim Vân Kiều

-   Tiểu thuyết tàu diễn nôm: Đông chu liệt quốc

ĐÔNG DƯƠNG TẠP CHÍ SỐ 136

-   Bộ quốc sử: Đại nam nhất thống chí (tt)

-   Tân học văn tập

o   Văn quốc ngữ

§   Cái bàn viết của ông thầy

§   Máy bay

o   Toán pháp

§   Cách đếm tiền bạc

§   Tính nhân

o   Cách tri

§   Tạp vật học: những súc vật người ta nuôi (tt)

o   Địa dư: Bắc kỳ chính trị

o   Tập đọc: mặt trời mọc

o   Nam sử

-   Văn chương

o   Pháp văn

§   Tự tử

§   Những người biền lận

o   Âu văn: một người ngộ đạo (tt)

o   Kim Vân Kiều

-   Tiểu thuyết tàu diễn nôm: Đông chu liệt quốc

ĐÔNG DƯƠNG TẠP CHÍ SỐ 137

-   Diễn kịch đại pháp: Người biền lận

-   Bộ quốc sử: Đại nam nhất thống chí (tt)

-   Tân học văn tập

o   Văn quốc ngữ

§   Đi chơi

§   Sân học trò chơi

o   Luân lý: chớ nên làm khổ giống vật

o   Toán pháp

§   Thước tây

§   Tính chia

o   Cách tri

§   Tạp vật học: những súc vật nhà nuôi (tt)

o   Địa dư: Bắc kỳ chính trị (tt)

o   Giảng nghĩa và học thuộc lòng: Học như đắp núi

o   Nam sử

-   Công văn tập

o   Âm tín người đi

o   Biệt lập xã danh

o   Quan lại thăng chuyển

-   Tiểu thuyết tàu diễn nôm: Đông chu liệt quốc

ĐÔNG DƯƠNG TẠP CHÍ SỐ 138

-   Diễn kịch đại pháp: Người biền lận (tt)

-   Bộ quốc sử: Việt Nam khai quốc chí truyện

-   Tân học văn tập

o   Văn quốc ngữ

§   Hay quên

§   Nhà ở với nhà trường

o   Toán pháp

§   Thước tây (tt)

§   Tính chia (tt)

o   Cách tri

§   Tạp vật học: những súc vật nhà nuôi (học ôn)

o   Địa dư: địa thế và diện tích

o   Tập đọc: ba loài trong trời đất

o   Nam sử

-   Văn chương

o   Pháp văn

§   Nói dối

o   Âu văn: một người ngộ đạo (tt)

o   Hán văn: chuyện Chu mãi thần

o   Kim Vân Kiều

-   Tiểu thuyết tàu diễn nôm: Đông chu liệt quốc

ĐÔNG DƯƠNG TẠP CHÍ SỐ 139

-   Diễn kịch đại pháp: Người biện lận (tt)

-   Bộ quốc sử: Việt Nam khai quốc chí truyện (tt)

-   Tân học văn tập

o   Văn quốc ngữ

§   Con bươm bướm

§   Nhà anh

o   Toán pháp

§   Lít

§   Tính chia (tt)

o   Cách tri

§   Tạp vật học: những súc vật nhà nuôi

o   Địa dư: Xứ Trung kỳ

o   Giảng nghĩa và học thuộc lòng: Chí của thánh hiền

o   Nam sử

-   Công văn tập

o   Âm tín người đi

o   Lính An Nam tại Pháp

o   Quan lại thăng chuyển

-   Tiểu thuyết tàu diễn nôm: Đông chu liệt quốc

ĐÔNG DƯƠNG TẠP CHÍ SỐ 140

-   Diễn kịch đại pháp: Người biện lận (tt)

-   Bộ quốc sử: Việt Nam khai quốc chí truyện (tt)

-   Tân học văn tập

o   Văn quốc ngữ

§   Đêm lại kê gối nằm ngủ, anh có nghĩ ngợi gì không?

§   Dốt nát

o   Luân lý: tiết kiệm

o   Toán pháp

§   Lít (tt)

§   Tính chia (tt)

o   Cách tri

§   Tạp vật học: các súc vật nhà nuôi

o   Địa dư: Xứ Trung kỳ

o   Giảng nghĩa và học thuộc lòng: Chí của thánh hiền

o   Nam sử

-   Văn chương

o   Pháp văn

§   Tưởng tượng

§   Lá cờ

o   Hán văn: Lời bàn của Lý Khắc

o   Văn nôm: thơ vịnh câu

o   Âu văn: một người ngộ đạo (tt)

o   Kim Vân Kiều

-   Tiểu thuyết tàu diễn nôm: Đông chu liệt quốc (tt)

ĐÔNG DƯƠNG TẠP CHÍ SỐ 141

-   Diễn kịch đại pháp: Bệnh tưởng

-   Bộ quốc sử: Việt Nam khai quốc chí truyện (tt)

-   Tân học văn tập

o   Văn quốc ngữ

§   Phong cảnh nhà quê lúc tối

§   Lá rụng

o   Toán pháp

§   Tính đố

o   Cách tri

§   Tạp vật học: các súc vật nhà nuôi

o   Địa dư: Xứ Trung kỳ

o   Tập đọc: rằm tháng tám

o   Nam sử: việc giao thiệp với những nước ngoại dương

-   Công văn tập

o   Lính An Nam tại Pháp

o   Âm tín người đi

o   Quan lại thăng chuyển

o   Yết thị khẩn đất công

-   Tiểu thuyết tàu diễn nôm: Đông chu liệt quốc

ĐÔNG DƯƠNG TẠP CHÍ SỐ 142

-   Diễn kịch đại pháp: Bệnh tưởng (tt)

-   Bộ quốc sử: Việt Nam khai quốc chí truyện (tt)

-   Tân học văn tập

o   Văn quốc ngữ

§   Tiếng ồn trong lớp học

§   Nước

o   Luân lý: đừng có nói dối

o   Giảng nghĩa và học thuộc lòng: học phải thế nào

o   Toán pháp

§   Tính đố

o   Cách tri

§   Tạp vật học: công nghệ

o   Địa dư: kỹ nghệ xứ Trung kỳ

o   Nam sử: việc giao thiệp với những nước ngoại dương

-   Văn chương

o   Pháp văn

§   Chuyện hai con chó kết bạn

o   Hán văn

§   Diễn bài ca “Thất tịch”

§   Chuyện Súc Cao toàn được nghĩa cha con vua tôi

o   Âu văn: một người ngộ đạo (tt)

o   Kim Vân Kiều

-   Tiểu thuyết tàu diễn nôm: Đông chu liệt quốc

ĐÔNG DƯƠNG TẠP CHÍ SỐ 143

-   Diễn kịch đại pháp: Bệnh tưởng (tt)

-   Bộ quốc sử: Việt Nam khai quốc chí truyện (tt)

ĐÔNG DƯƠNG TẠP CHÍ SỐ 148

-   Tiểu thuyết tàu diễn nôm: Đông chu liệt quốc (tt)

ĐÔNG DƯƠNG TẠP CHÍ SỐ 149

-   Dịch sách ngoại quốc: học thuật của Richard trưởng giả - Tiểu truyện ông

Benjamen Franklin

-   Bộ quốc sử: Việt Nam khai quốc chí truyện (tt)

-   Tân học văn tập

o   Văn quốc ngữ

§   Bàn ghế nhà trường

§   Mặt trời mọc

o   Luân lý: người gian dối nói chẳng ai tin

o   Giảng nghĩa và học thuộc lòng: Ưu lạc

o   Toán pháp

§   Tính đố

§   Tính nhẩm

o   Địa dư: xứ nam kỳ

o   Nam sử

-   Văn chương

o   Pháp văn

§   Giáo dục sai lầm

§   Đời người là quí. Chuyện mấy cái lọ đẹp

o   Hán văn: gia sản một bức tranh

o   Thơ nôm: cung oán (tt)

o   Kim Vân Kiều

o   Bình phẩm sách mới: Đào hoa mộng ký

-   Tiểu thuyết tàu diễn nôm: Đông chu liệt quốc (tt)

ĐÔNG DƯƠNG TẠP CHÍ SỐ 150

-   Dịch sách ngoại quốc: học thuật của Richard trưởng giả - Tiểu truyện ông

Benjamen Franklin (tt)

-   Bộ quốc sử: Việt Nam khai quốc chí truyện (tt)

-   Tân học văn tập

o   Văn quốc ngữ

§   Gà – vịt

§   Người làm ruộng

o   Tập đọc: trèo cây bắt chim

o   Giảng nghĩa và học thuộc lòng: tứ hương

o   Toán pháp

§   Tính đố

o   Cách tri

§   Tạp vật học: nghề đánh cá

o   Nam sử

-   Văn chương

o   Pháp văn

§   Lúc niên thiếu và sự bần cùng

§   Sự tranh luận

o   Hán văn: gia sản một bức tranh (tt)

o   Thơ nôm: cung oán (tt)

o   Văn nôm: lòng ước muốn của loài người

-   Tiểu thuyết tàu diễn nôm: Đông chu liệt quốc (tt)

ĐÔNG DƯƠNG TẠP CHÍ SỐ 151

-   Dịch sách ngoại quốc: học thuật của Richard trưởng giả (tt)

o   Bệnh Thấp cốt nói chuyện với ông Franklin

o   Cách giữ mình cho mạnh khỏe luôn luôn

o   Cách hà tiện cho nước mỗi năm 10 vạn đồng

-   Bộ quốc sử: Việt Nam khai quốc chí truyện (tt)

-   Tân học văn tập

o   Văn quốc ngữ

§   Chợ

§   Ơn nghĩa

o   Luân lý: uống rượu là một sự hại

o   Toán pháp

§   Tính đố

o   Cách tri

§   Tạp vật học: nghề làm nước mắm

o   Địa dư: xứ cao miên

o   Nam sử: giặc giã ở trong nước

-   Văn chương

o   Pháp văn

§   Quan Thống tướng

§   Chuyện cái mũi

o   Hán văn

§   Gia sản một bức tranh (tt)

§   Tỳ bà hành

o   Thơ nôm: cung oán (tt)

o   Cuộc thơ đồ

-   Tiểu thuyết tàu diễn nôm: Đông chu liệt quốc (tt)

ĐÔNG DƯƠNG TẠP CHÍ SỐ 152

-   Diễn kịch đại pháp: Tục ca lệ

-   Bộ quốc sử: Việt Nam khai quốc chí truyện (tt)

-   Tân học văn tập

o   Văn quốc ngữ

§   Cây cối ở nhà quê

§   Gặt lúa

o   Tập đọc: một khu đất

o   Toán pháp

§   Tính đố

o   Cách tri

§   Tạp vật học: đồ ăn trữ

o   Nam sử

-   Văn chương

o   Pháp văn

§   Mỹ lệ và đạo lý của học thuật

§   Chuyện cái mũi (tt)

o   Hán văn

§   Chuyện Đường Bích và nàng Hoàng Tiểu Nga

o   Thơ nôm: cung oán (tt)

o   Cuộc thơ đồ

o   Văn nôm: cảnh vật tự nhiên

-   Công văn tập

o   Âm tín người đi

o   Lính An Nam tại Pháp

o   Quan lại thăng chuyển

o   Yết thị khẩn đất công

ĐÔNG DƯƠNG TẠP CHÍ SỐ 153

-   Diễn kịch đại pháp: Tục ca lệ

-   Công văn tập

o   Âm tín người đi

o   Quan lại thăng chuyển

o   Yết thị khẩn đất công

-   Tân học văn tập

o   Văn quốc ngữ

§   Cha mẹ tôi

§   Thợ nề

o   Giảng nghĩa và học thuộc lòng: quí ở người

o   Toán pháp

§   Tính đố

o   Cách tri

§   Tạp vật học: công nghệ

o   Địa dư: xứ cao miên

o   Nam sử: Pháp lan tây ra Bắc kỳ

-   Văn chương

o   Pháp văn

§   Người cho vay lãi giả đạo đức

§   Nói về những người có quyền tước

o   Hán văn

§   Chuyện Đường Bích và nàng Hoàng Tiểu Nga (tt)

o   Thơ nôm

§   Cung oán

o   Cuộc thơ đồ

o   Văn nôm

§   Bướm viếng hoa

-   Tiểu thuyết tàu diễn nôm: Đông chu liệt quốc (tt)

ĐÔNG DƯƠNG TẠP CHÍ SỐ 154

-   Diễn kịch đại pháp: Tục ca lệ

-   Bộ Quốc sử: Việt Nam khai Quốc chí truyện (tt)

-   Tân học văn tập

o   Văn quốc ngữ

§   Nhà tôi

§   Xã hội

o   Luân lý:

§   Người ta cần phải đúng mực

o   Giảng nghĩa và học thuộc lòng: Lòng táo động và lòng an tĩnh

o   Toán pháp

§   Tính đố

o   Địa dư: Nước Ai Lao

o   Nam sử

-   Văn chương

o   Pháp văn

§   Đi hỏi vợ

o   Hán văn

§   Đỗ thập nương

-   Tiểu thuyết tàu diễn nôm: Đông chu liệt quốc (tt).

NAM HỌC NIÊN KHÓA SỐ 2 - Ngày 8/9/1918

-   COURS ENFANTIN (Lớp đồng ấu)

o   A.B.C

-   COURS PREPARATOIRE (Lớp dự bị)

o   Luân lý

§   Bài thứ 6: giữ lễ phép với người ngoài

§   Bài thứ 7: đứa trẻ biết chào hỏi lễ phép

§   Bài thứ 8: thấy khách đến nhà phải giữ lễ phép

§   Bài thứ 9: người vô phép, ai cũng chê trách

§   Bài thứ 10: học ôn

o   Tập đọc

o   Ám tả

§   Bài thứ 6: công cha mẹ

§   Bài thứ 7: hai hàm răng

§   Bài thứ 8: con ngựa

§   Bài thứ 9: thi bơi chải

§   Bài thứ 10: cái thước kẻ

o   Văn quốc ngữ

§   Bài thứ 3: thổi cơm

§   Bài thứ 4: làm đèn

o   Toán pháp

§   Bài thứ 6: tính cộng

§   Bài thứ 7: tính cộng (tt)

§   Bài thứ 8: tính trừ

§   Bài thứ 9: tính trừ (tt)

§   Bài thứ 10: giao dịch

§   Kỳ hà học: bài thứ 2 – tập vẽ

o   Tạp vật học

o   Địa dư

o   Nam sử

-   COURS ELEMENTAIRE (Lớp sơ đẳng)

o   Luân lý

o   Tập đọc

o   Ám tả

§   Bài thứ 6: quyển lịch

§   Bài thứ 7: chuyện ông Lê như Hồ

§   Bài thứ 8: cửa kính

§   Bài thứ 9: cây trầu không

§   Bài thứ 10: các thứ trà

o   Văn quốc ngữ

§   Bài thứ 3

§   Bài thứ 4

o   Toán pháp

§   Bài thứ 6: giá trị của các con số

§   Bài thứ 7: con số không

§   Bài thứ 8: số mười

§   Bài thứ 9: hàng chục

§   Bài thứ 10: từ 10 đến 19

§   Kỳ hà học: bài thứ 2

o   Tạp vật học

o   Địa dư

NAM HỌC NIÊN KHÓA SỐ 9 - Ngày 27/10/1918

-   COURS ENFANTIN (Lớp đồng ấu)

o   A.B.C

-   COURS PREPARATOIRE (Lớp dự bị)

o   Luân lý

§   Bài thứ 41: tính hay hờn giỗi

§   Bài thứ 42: hờn giỗi sinh ra tính xấu khác

§   Bài thứ 43: người ta không ưa được tính hờn giỗi

§   Bài thứ 44: tính hờn giỗi hay phải khổ

§   Bài thứ 45: học ôn

o   Tập đọc

o   Ám tả

§   Bài thứ 41: bữa ăn cơm

§   Bài thứ 42: cá vàng

§   Bài thứ 43: áo đẹp

§   Bài thứ 44: cây ăn quả

§   Bài thứ 45: uống nước lã

o   Văn quốc ngữ

§   Bài thứ 17

§   Bài thứ 18

o   Toán pháp

§   Bài thứ 41: thước tây

§   Bài thứ 42: thước thẳng

§   Bài thứ 43: thước gấp

§   Bài thứ 44: thước quấn

§   Bài thứ 45: bài tập

§   Kỳ hà học: bài thứ 9 – đường xiên

o   Tạp vật học

§   Vệ sinh về việc hô hấp

§   Nên giữ cho nhà thoáng khí

§   ở nhà quê lành hơn ở thành thị

o   Địa dư: không khí gió, gió mùa, bão

o   Nam sử

-   COURS ELEMENTAIRE (Lớp sơ đẳng)

o   Luân lý

o   Tập đọc

o   Ám tả

§   Bài thứ 41: áo quần

§   Bài thứ 42: soi gương

§   Bài thứ 43: chịu khó học

§   Bài thứ 44: lọ mực

§   Bài thứ 45: núi non bộ

o   Văn quốc ngữ

§   Bài thứ 17

§   Bài thứ 18

o   Toán pháp

§   Bài thứ 41: thế nào là cộng

§   Bài thứ 42: không cộng được các vật khác nhau

§   Bài thứ 43: dấu tính cộng

§   Bài thứ 44 + 45: bảng tính cộng

§   Kỳ hà học: bài thứ 9 - góc

o   Tạp vật học

§   Vệ sinh về các cơ thể ngũ quan

o   Địa dư

o   Nam sử

NAM HỌC NIÊN KHÓA SỐ 10 - Ngày 3/11/1918

-   COURS ENFANTIN (Lớp đồng ấu)

o   A.B.C

-   COURS PREPARATOIRE (Lớp dự bị)

o   Luân lý

§   Bài thứ 46: không nên nói xấu ai

§   Bài thứ 47: không nên nói vu cho ai

§   Bài thứ 48: hay nói xấu và nói vu thì ai cũng ghét

§   Bài thứ 49: tính hay nói xấu và nói vu

§   Bài thứ 50: học ôn

o   Tập đọc

o   Ám tả

§   Bài thứ 46: con trâu

§   Bài thứ 47: câu cá

§   Bài thứ 48: đùa nhảm

§   Bài thứ 49: một đứa trẻ không biết phòng xa

§   Bài thứ 50: quả đựng mứt

o   Văn quốc ngữ

§   Bài thứ 19

§   Bài thứ 20

o   Toán pháp

§   Bài thứ 46: bài tập

§   Bài thứ 47: bài tập

§   Bài thứ 48: bài tập

§   Bài thứ 49: bài tập

§   Bài thứ 50: bài tập

§   Kỳ hà học: bài thứ 10 – tập vẽ

o   Tạp vật học

§   Bệnh truyền nhiễm và bệnh thời khí

§   Bệnh ho lao

o   Địa dư: hơi nước, mây, mưa

o   Nam sử

-   COURS ELEMENTAIRE (Lớp sơ đẳng)

o   Luân lý

o   Tập đọc

o   Ám tả

§   Bài thứ 46: ngày giờ

§   Bài thứ 47: tiền mở hàng

§   Bài thứ 48: sưởi lửa

§   Bài thứ 49: vẻ bảng

§   Bài thứ 50: quyển truyện

o   Văn quốc ngữ

§   Bài thứ 19

§   Bài thứ 20

o   Toán pháp

§   Bài thứ 46 và 47: bảng tính cộng

§   Bài thứ 48, 49, 50: tính cộng (tt)

§   Kỳ hà học: bài thứ 10 - góc giáp cạnh, góc đối đầu

o   Tạp vật học

§   Vệ sinh về tai

§   Vệ sinh về mồm

o   Địa dư

o   Nam sử

NAM HỌC NIÊN KHÓA SỐ 11 - Ngày 10/11/1918

-   COURS ENFANTIN (Lớp đồng ấu)

o   A.B.C

-   COURS PREPARATOIRE (Lớp dự bị)

o   Luân lý

§   Bài thứ 51: một người học trò công bằng

§   Bài thứ 52: một đứa trẻ không công bằng

§   Bài thứ 53: tính không công bằng

§   Bài thứ 54: công bằng là một tính tốt

§   Bài thứ 55: học ôn

o   Tập đọc

o   Ám tả

§   Bài thứ 51: bệnh đau mắt

§   Bài thứ 52: cởi trâu

§   Bài thứ 53: áo mùa rét

§   Bài thứ 54: kính đen

§   Bài thứ 55: không nên chơi nghịch diêm

o   Văn quốc ngữ

§   Bài thứ 21: thổi cơm

§   Bài thứ 22: làm đèn

o   Toán pháp

§   Bài thứ 51 đến 55: tính trừ nhẩm

§   Kỳ hà học: bài thứ 11 – đường gióng nhau

o   Tạp vật học

§   Bệnh đau mắt

§   Cách chữa bệnh đau mắt

§   Cách phòng bệnh đau mắt

o   Địa dư

o   Nam sử

-   COURS ELEMENTAIRE (Lớp sơ đẳng)

o   Luân lý

o   Tập đọc o   Ám tả

§   Bài thứ 51: gà chọi §   Bài thứ 52: giẻ rách §   Bài thứ 53: một đứa trẻ biết giúp cha §   Bài thứ 54: tính nhẩm §   Bài thứ 55: người ta nên biết tự làm lấy việc

o   Văn quốc ngữ

§   Bài thứ 21 §   Bài thứ 22

o   Toán pháp

§   Bài thứ 51: cộng hai số nguyên có nhiều con số §   Bài thứ 52: cộng hai số nguyên có nhiều con số §   Bài thứ 53: cộng số nguyên có nhiều con số §   Bài thứ 54 và 55: cách viết và đặt những chữ số §   Kỳ hà học: bài thứ 11 – góc bằng nhau, góc to, góc nhỏ

o   Tạp vật học: vệ sinh về da o   Địa dư o   Nam sử

NAM HỌC NIÊN KHÓA SỐ 12 - Ngày 17/11/1918

-   COURS ENFANTIN (Lớp đồng ấu)

o   A.B.C

-   COURS PREPARATOIRE (Lớp dự bị)

o   Luân lý

§   Bài thứ 56: một anh học trò nản chí §   Bài thứ 57: chuyện một người kiên nhẫn §   Bài thứ 58: kiên nhẫn là một tính rất quí báu §   Bài thứ 59: ta phải kiên nhẫn §   Bài thứ 60: học ôn

o   Tập đọc o   Ám tả

§   Bài thứ 56: quả địa cầu §   Bài thứ 57: người thợ mộc biết chữ §   Bài thứ 58: đôi giày da §   Bài thứ 59: hóc xương cá §   Bài thứ 60: xin nghỉ phép

o   Văn quốc ngữ

§   Bài thứ 23 §   Bài thứ 24

o   Toán pháp

§   Bài thứ 56: tính nhân §   Bài thứ 57: tính nhân (tt) §   Bài thứ 58: tính nhân (tt)

§   Bài thứ 59: bài tập §   Bài thứ 60: học ôn §   Kỳ hà học: bài thứ 12 – tập vẽ

o   Tạp vật học: các bệnh truyền nhiễm o   Địa dư o   Nam sử

-   COURS ELEMENTAIRE (Lớp sơ đẳng)

o   Luân lý o   Tập đọc o   Ám tả

§   Bài thứ 56: lược chải đầu §   Bài thứ 57: sổ biên thóc §   Bài thứ 58: mùa nước lên §   Bài thứ 59: đếm nan quạt §   Bài thứ 60: đắm thuyền

o   Văn quốc ngữ

§   Bài thứ 23 §   Bài thứ 24

o   Toán pháp

§   Bài thứ 56 và 57: phép thử §   Bài thứ 58 và 59: tính nhẩm §   Bài thứ 60: học ôn §   Kỳ hà học: bài thứ 12 – cách lập và chia góc

o   Tạp vật học: động vật o   Địa dư o   Nam sử

DANH MỤC CÔNG TRÌNH LIÊN QUAN

ĐẾN ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU

1.   Những đánh giá mới về Nguyễn Văn Vĩnh trong thời gian gần đây

(2008), Tập san Khoa học xã hội và nhân văn số 45, Đại học Quốc

gia TP. Hồ Chí Minh, Trường Đại học KHXH&NV.

2.   Nguyễn Văn Vĩnh và văn hoá Đông – Tây (2011), Tạp chí Đại học

Sài Gòn số chuyên đề Bình Luận Văn học Niên giám 2010, Hội

nghiên cứu và giảng dạy Văn học TP. Hồ Chí Minh.

3.   Nguyễn Văn Vĩnh phê phán thói hư tật xấu của người Việt (2012),

Tạp chí Đại học Sài Gòn số chuyên đề Bình Luận Văn học niên giám

2011, Hội nghiên cứu và giảng dạy Văn học TP. Hồ Chí Minh.

4.   Đông Dương tạp chí với việc phát triển chữ Quốc ngữ - Ngôn ngữ

văn học của dân tộc (2015), Kỷ yếu Hội thảo Quốc gia Chữ Quốc

ngữ: sự hình thành phát triển và những đóng góp vào văn hoá Việt

Nam, Khoa Văn học và Ngôn Ngữ Trường Đại học KHXH&NV TP.

Hồ Chí Minh, Trường Đại học Phú Yên, Viện nghiên cứu phát triển

phương Đông.

5.   Truyện ngụ ngôn “Con ve và cái kiến” và nỗ lực cải cách ngôn ngữ

dịch thuật của Nguyễn Văn Vĩnh (2015), Tạp chí Đại học Sài Gòn số

chuyên đề Bình Luận Văn học Niên giám 2015, Hội nghiên cứu và

giảng dạy Văn học TP. Hồ Chí Minh.

6.   Vấn đề đổi mới giáo dục nước nhà – Khảo sát trên Đông Dương tạp

chí (2015), Tạp chí Khoa học Văn hoá và Du lịch số 25, Trường cao

đẳng Văn hoá nghệ thuật và Du lịch Sài Gòn.