BỘ Y TẾ
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC Y DƯỢC THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRẦN TÔN
ĐỘT BIẾN KHÁNG THUỐC TRÊN BỆNH NHI HIV/AIDS ĐANG ĐIỀU TRỊ ARV PHÁC ĐỒ BẬC 1 TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
LUẬN ÁN TIẾN SĨ Y HỌC
Thành phố Hồ Chí Minh - Năm 2017
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ Y TẾ
ĐẠI HỌC Y DƯỢC THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRẦN TÔN
ĐỘT BIẾN KHÁNG THUỐC TRÊN BỆNH NHI HIV/AIDS ĐANG ĐIỀU TRỊ ARV PHÁC ĐỒ BẬC 1 TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Chuyên ngành: Vi sinh y học Mã số: 62720115 LUẬN ÁN TIẾN SĨ Y HỌC
Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS. TS. Trương Thị Xuân Liên 2. PGS. TS. Cao Minh Nga
Thành phố Hồ Chí Minh - Năm 2017
i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực và chưa từng được
công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Tác giả luận án
Trần Tôn
ii
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan i
Mục lục ii
Danh mục chữ viết tắt iv
Chữ viết tắt một số thuốc kháng retro vi rút v
Danh mục các bảng vi
Danh mục các biểu đồ, hình, sơ đồ viii
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU 3
1.1. Tổng quan về HIV 3
1.2. Các thuốc kháng retro vi rút và cơ chế kháng thuốc 15
1.3. Điều trị bệnh nhân nhiễm HIV/AIDS 27
1.4. Tình hình HIV kháng thuốc ARV của HIV 32
Chương 2: ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 41
Chương 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 61
3.1. Đặc điểm của mẫu nghiên cứu 62
3.2. Đột biến kháng thuốc ARV lúc bắt đầu điều trị 68
3.3. Đáp ứng virút học sau một năm điều trị 76
3.4. Đột biến kháng thuốc sau một năm điều trị ARV phác đồ bậc 1 82
3.5. Khảo sát một số yếu tố liên quan đến sự xuất hiện đột biến kháng thuốc
ARV 93
Chương 4: BÀN LUẬN 99
4.1. Đột biến kháng thuốc ARV trên bệnh nhi tại thời điểm bắt đầu
điều trị ARV phác đồ bậc 1 99
4.2. Đáp ứng vi rút học sau một năm điều trị ARV phác đồ bậc 1 106
4.3. Đột biến kháng thuốc ARV sau một năm điều trị 110
4.4. Một số yếu tố liên quan đến sự xuất hiện đột biến kháng thuốc ARV 117
4.5. Hạn chế của nghiên cứu 122
iii
KẾT LUẬN 123
KIẾN NGHỊ 124
DANH MỤC CÔNG TRÌNH CÔNG BỐ LIÊN QUAN LUẬN ÁN 125
TÀI LIỆU THAM KHẢO 126
PHỤ LỤC 138
Phụ lục 1: Phiếu thu thập thông tin bệnh nhi tại thời điểm bắt đầu 139
Phụ lục 2: Phiếu thu thập thông tin bệnh nhi tại thời điểm kết thúc 141
Phụ lục 3: Phiếu thu thập và vận chuyển mẫu 145
Phụ lục 4: Phiếu cung cấp thông tin và chấp nhận tham gia nghiên cứu 146
Phụ lục 5: Quy trình xét nghiệm định lượng HIV-1 RNA 149
Phụ lục 6: Quy trình xét nghiệm định týp gen kháng thuốc ARV 159
Phụ lục 7: Tiêu chuẩn bắt đầu điều trị ARV và phác đồ điều trị ARV theo quy định của Bộ Y tế 168
Phụ lục 8: Giai đoạn lâm sàng của hệ thống phân loại US-CDC 171
Phụ lục 9: Phân giai đoạn lâm sàng theo WHO và danh sách các đột biến cần theo dõi theo khuyến cáo của WHO 173
Phụ lục 10: Cây phân loài các chủng vi rút từ mẫu bệnh nhi tham gia nghiên cứu 179
Phụ lục 11: Bảng điểm các đột biến ghi nhận sau 12 tháng điều trị ARV phác đồ bậc 1 181
Phụ lục 12: Danh sách bệnh nhi tham gia nghiên cứu 186
iv
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
AIDS
Acquired Immune Deficiency Syndrome (Hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải)
ART Antiretroviral Therapy (Điều trị bằng kháng retro vi rút)
ARV Antiretrovirus (Kháng retro vi rút)
DNA Deoxyribonucleic acid
gp Glycoprotein
HIV
Human Immunodeficiency Virus (Vi rút gây suy giảm miễn dịch ở người)
KTC 95% Khoảng tin cậy 95%
Lympho T LT
LTRs Long Terminal Repeat Sequences
NIH
National Institute of Health (Viện Sức khỏe Quốc gia – Hoa Kỳ)
NNRTI
Non-Nucleoside Reverse Transcriptase Inhibitor (Thuốc ức chế men sao chép ngược non- nucleoside)
NRL
National Reference Laboratory (Phòng Xét nghiệm chuẩn thức Quốc gia – Úc)
NRTI Inhibitor (Thuốc
Nucleoside Reverse Transcriptase nucleoside ức chế men sao chép ngược)
OPC - PKNT Out Patient Clinic (Phòng khám ngoại trú)
PCR Polymerase Chain Reaction (Phản ứng chuỗi polymerase)
PI Protease Inhibitor (Thuốc ức chế protease)
PLTMC Phòng lây truyền nhiễm HIV từ mẹ sang con
RNA Ribonucleic acid
RT Reverse Transcriptase (Men sao chép ngược)
RT-PCR
Reverse Transcriptase - Polymerase Chain Reaction (Phản ứng sao chép ngược chuỗi polymerase)
TAM
Thymidine Analogue Mutation (đột biến đồng phân Thymidine)
WHO World Health Organization (Tổ chức Y tế Thế Giới)
v
CHỮ VIẾT TẮT MỘT SỐ THUỐC KHÁNG RETRO VI RÚT
Nhóm Tên thuốc viết tắt Tên thuốc đầy đủ
3TC Lamivudine
ABC Abacavir
AZT (ZDV) Zidovudine
NRTIs d4T Stavudine
ddI Didanosine
FTC Emtricitabine
TDF Tenofovir
EFV Efavirenz
NVP Nevirapine
NNRTIs DLV Delavirdin
ETR Etravirine
RPV Rilpivirine
ATV Atazanavir
IDV Indinavir
NFV Nelfinavir
PIs LPV Lopinavir
Ritonavir RTV ( nếu ở dạng booster là “r”, ví dụ: LPV/r)
SQV Saquinavir
vi
Trang
Bảng 1.1. Các thuốc ARV và cơ chế tác dụng chính.
16
Bảng 1.2. Tóm tắt các phác đồ bậc 1 theo hướng dẫn Bộ Y tế
29
Bảng 1.3. Tỷ lệ có đột biến kháng thuốc khi bắt đầu điều trị bằng ARV trong
báo cáo của WHO, 2007-2010
33
Bảng 1.4. Tỷ lệ đáp ứng vi rút học và kháng thuốc sau 12 tháng điều trị ARV
phác đồ bậc 1.
36
Bảng 3.1. Đặc điểm chung của nhóm bệnh nhi tham gia nghiên cứu
62
Bảng 3.2. Nguyên nhân lây nhiễm HIV
63
Bảng 3.3. Phác đồ ARV được dùng cho trẻ trong chương trình phòng lây truyền
HIV từ mẹ sang con
64
Bảng 3.4. Nhiễm trùng cơ hội tại thời điểm bắt đầu điều trị ARV
65
Bảng 3.5. Số lượng lympho T CD4 tại thời điểm bắt đầu điều trị ARV
66
Bảng 3.6. Phác đồ ARV lúc bắt đầu điều trị.
67
Bảng 3.7. Tỷ lệ bệnh nhi có HIV mang đột biến kháng thuốc ARV tại thời
điểm bắt đầu điều trị .
69
Bảng 3.8. Các đột biến kháng thuốc ghi nhận trên bệnh nhi tại thời điểm bắt đầu
điều trị ARV phác đồ bậc 1
69
Bảng 3.9.a – e. Điểm đột biến và mức độ kháng thuốc trên 7 bệnh nhi
70
Bảng 3.10. Tỷ lệ bệnh nhi có HIV mang đột biến có khả năng kháng thấp tại thời
điểm bắt đầu điều trị .
75
Bảng 3.11. Tình trạng bệnh nhi sau 1 năm điều trị ARV tính trên 136 bệnh nhi thu
dung vào nghiên cứu
76
78
Bảng 3.12. Phác đồ ARV lúc 12 tháng sau điều trị
DANH MỤC CÁC BẢNG
vii
Bảng 3.13. Tình trạng tuân thủ điều trị.
79
Bảng 3.14. Đặc điểm các trường hợp có đột biến lúc bắt đầu điều trị nhưng vẫn
đáp ứng vi rút học sau 12 tháng điều trị ARV
81
Bảng 3.15. Tỷ lệ có đột biến kháng thuốc sau 12 tháng điều trị ARV
83
Bảng 3.16. Đặc điểm lâm sàng, miễn dịch các trường hợp có đột biến kháng
84
thuốc sau 12 tháng điều trị ARV
Bảng 3.17. Các đột biến kháng thuốc ghi nhận được trên bệnh nhi có thất bại vi rút
học sau 12 tháng điều trị ARV phác đồ bậc 1
85
Bảng 3.18. Tỷ lệ bệnh nhi có HIV mang đột biến có khả năng gây kháng thấp
sau 12 tháng điều trị ARV phác đồ bậc 1
93
Bảng 3.19. Kết quả phân tích hồi quy đơn biến một số yếu tố liên quan đến sự xuất
hiện đột biến kháng thuốc tại thời điểm bắt đầu điều trị.
93
Bảng 3.20. Kết quả phân tích hồi quy đơn biến một số yếu tố liên quan đến sự xuất
hiện đột biến kháng thuốc sau 1 năm điều trị ARV phác đồ bậc 1
95
Bảng 3.21. Kết quả phân tích hồi quy đa biến một số yếu tố liên quan đến sự xuất
hiện đột biến kháng thuốc sau 1 năm điều trị ARV phác đồ bậc 1
97
viii
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ, HÌNH, SƠ ĐỒ
Biểu đồ:
Trang
Biểu đồ 1.1. Phân bố các đột biến kháng thuốc ARV trên quần thể nhiễm HIV
trước khi bắt đầu điều trị ARV, 2007–2010.
35
Biểu đồ 3.1. Tình hình tham gia chương trình phòng lây truyền HIV từ mẹ sang con
của mẹ và trẻ
63
Biểu đồ 3.2. Giai đoạn lâm sàng (theo WHO) của bệnh nhi tại thời điểm bắt đầu
điều trị
65
Biểu đồ 3.3. Tải lượng HIV-1 của bệnh nhi tại thời điểm bắt đầu điều trị ARV
67
Biểu đồ 3.4. So sánh giai đoạn lâm sàng lúc bắt đầu điều trị và sau 12 tháng điều
trị ARV phác đồ bậc 1
77
Biểu đồ 3.5. So sánh số lượng tế bào LT CD4 lúc bắt đầu điều trị và sau 12 tháng
điều trị ARV phác đồ bậc 1
78
Biểu đồ 3.6. So sánh tải lượng HIV-1 lúc bắt đầu điều trị và sau 12 tháng điều trị
ARV phác đồ bậc 1
80
Biểu đồ 3.7. Các đột biến kháng thuốc sau 12 tháng điều trị
85
Hình:
Hình 1.1. Phân bố thứ týp (subtype) của HIV-1 trên thế giới.
4
Hình 1.2. Cấu trúc HIV
6
Hình 1.3. Bộ gen HIV và cấu trúc virion
7
Hình 1.4. Tế bào Lympho nhiễm HIV cho thấy có nhiều vi rút trên bề mặt tế bào, vi
rút mới hình thành nẩy chồi từ màng tế bào.
10
Hình 1.5. Sự nhận diện tế bào ký chủ của HIV
10
Hình 1.6. Chu kỳ nhân lên của HIV
12
ix
Hình 1.7. Các vị trí tác động của thuốc kháng retro vi rút.
17
Hình 1.8. Cơ chế tác động của NRTIs và NNRTIs.
18
Hình 1.9. Cơ chế kháng thuốc nhóm NRTIs.
20
Hình 1.10. Cơ chế kháng thuốc nhóm NNRTIs.
21
Hình 1.11. Cơ chế tác động và cơ chế kháng thuốc nhóm PIs.
22
Hình 2.1. Đoạn gen được khuếch đại và các mối sử dụng cho xét nghiệm định týp
gen HIV kháng thuốc
52
Hình 2.2. Một kết quả phân tích từ ngân hàng dữ liệu HIV kháng thuốc Đại học
Stanford – Hoa Kỳ
54
Hình 3.1. Đột biến T74S gây kháng NFV thuộc nhóm PIs
70
Hình 3.2. Các đột biến T215A gây kháng AZT và d4T thuộc nhóm NRTIs
71
Hình 3.3. Các đột biến K20I, T74S gây kháng NFV thuộc nhóm PIs
72
Hình 3.4. Đột biến M46L gây kháng thuốc nhóm PIs
74
Hình 3.5. Các đột biến V75LV, T69N có khả năng gây kháng thấp đối với nhóm
NRTIs
76
Hình 3.6. Đột biến M184V,Y215F đối với nhóm NRTIs và đột biến K101E,
G190A đối với nhóm NNRTIs ghi nhận sau 12 tháng điều trị
87
Hình 3.7. Phức hợp đột biến Q151M, F77L, F116Y ghi nhận tại thời điểm sau 12
tháng điều trị ARV
88
Hình 3.8. Đột biến T215N gây kháng thấp các thuốc AZT, d4T
88
Hình 3.9. Đột biến T215S gây kháng thấp các thuốc AZT, d4T
89
Hình 3.10. Đột biến K103N đối với nhóm NNRTIs ghi nhận sau 12 tháng điều trị
ARV
90
Hình 3.11. Đột biến M184V gây kháng các thuốc nhóm NRTIs
91
Hình 3.12. Phức hợp 3 TAMs (D67N, K70R, K219Q) ghi nhận sau 12 tháng
91
x
Hình 3.13. Đột biến Y181V đối với nhóm NNRTIs ghi nhận sau 12 tháng điều trị
ARV
92
Hình 3.14. Đột biến L74V và V75T sau 12 tháng điều trị ARV
92
Sơ đồ:
Sơ đồ 1.1. Diễn biến của nhiễm HIV không điều trị.
14
Sơ đồ 2.1. Tóm tắt quy trình thực hiện
58
Sơ đồ 3.1. Tóm tắt tiến trình nghiên cứu
61
1
MỞ ĐẦU
Cho đến nay nhiễm HIV/AIDS vẫn là căn bệnh còn đặt ra nhiều vấn đề
cần được quan tâm, đặc biệt là vấn đề điều trị đặc hiệu bằng ARV. Các thuốc
đang được dùng chỉ có tác dụng ức chế khả năng nhân lên nhưng không loại
bỏ hoàn toàn vi rút ra khỏi cơ thể. Điều trị bằng ARV làm giảm lượng vi rút
trong máu, cải thiện tình trạng miễn dịch nên làm giảm tỷ lệ mắc các bệnh
nhiễm trùng cơ hội, giúp kéo dài và cải thiện chất lượng cuộc sống cho người
bệnh, đồng thời làm giảm nguy cơ lây nhiễm cho cộng đồng.
Tính đến cuối năm 2015, đã có 106 423 người (trong đó có khoảng 5%
trẻ em) được tiếp cận chương trình điều trị ARV tại 349 cơ sở điều trị ARV ở
tất cả các tỉnh, thành phố trong cả nước với độ bao phủ ước tính gần 42% số
người cần được điều trị [8].
Tuy nhiên, sự xuất hiện các chủng vi rút mang đột biến kháng thuốc là
một trong những nguyên nhân dẫn đến thất bại điều trị, không những hạn chế
hiệu quả điều trị mà còn làm lan truyền các chủng HIV kháng thuốc. Xuất
hiện các chủng vi rút đột biến kháng thuốc phụ thuộc vào nhiều yếu tố như
loại thuốc sử dụng, phác đồ điều trị, tuân thủ của bệnh nhân, liều lượng thuốc,
và các yếu tố của vi rút như số lượng đột biến cần để làm cho chúng trở nên
kháng với các loại ARV, các týp di truyền của vi rút [53], [140].
Theo dõi, phát hiện các chủng kháng thuốc trên những bệnh nhân đang
điều trị là vấn đề cần thiết nhằm nâng cao hiệu quả điều trị, góp phần xây
dựng chiến lược quốc gia dự phòng HIV kháng thuốc.
Những hạn chế trong việc triển khai các xét nghiệm như đo tải lượng vi
rút và theo dõi sự xuất hiện sớm các chủng HIV kháng thuốc để thay đổi phác
đồ điều trị đúng lúc đã làm hạn chế hiệu quả của chương trình điều trị ARV
và có thể làm lan truyền các chủng HIV kháng thuốc trong cộng đồng.
2
Tại Việt Nam, đã có nhiều nghiên cứu về HIV kháng thuốc và các yếu
tố liên quan đến việc xuất hiện đột biến kháng thuốc, nhưng đối tượng của các
nghiên cứu chủ yếu vẫn là người lớn, chưa có nhiều dữ liệu chính thức được
công bố tại Việt Nam trên đối tượng trẻ em, là đối tượng có những đặc điểm
về thể chất, sinh lý khác với người trưởng thành và có nhiều khả năng đã phơi
nhiễm ARV trước đó trong chương trình Dự phòng lây truyền nhiễm HIV từ
mẹ sang con (PLTMC).
Câu hỏi đặt ra là trên đối tượng trẻ em thì tình hình mang đột biến
kháng thuốc trước khi điều trị là như thế nào? Phác đồ điều trị theo quy định
của Bộ Y tế đáp ứng ra sao và có đột biến kháng thuốc xảy như ở người lớn
hay không?
Do đó, chúng tôi nhận thấy cần có những nghiên cứu về đáp ứng vi rút
học và đột biến kháng thuốc ARV trên bệnh nhi HIV/AIDS được điều trị
bằng ARV với mong muốn cung cấp những thông tin khoa học cần thiết góp
phần vào việc nâng cao hiệu quả điều trị cho bệnh nhi nhiễm HIV.
Mục tiêu nghiên cứu:
1. Xác định tỷ lệ bệnh nhi mang chủng HIV có đột biến kháng thuốc ARV
và mô tả đặc điểm các đột biến này tại thời điểm bắt đầu điều trị ARV phác
đồ bậc 1.
2. Xác định tỷ lệ bệnh nhi có đáp ứng về vi rút học sau 12 tháng điều trị
ARV.
3. Xác định tỷ lệ mang chủng HIV có đột biến kháng thuốc ARV và mô tả
đặc điểm các đột biến này ở những bệnh nhi thất bại điều trị về vi rút tại thời
điểm 12 tháng sau điều trị.
4. Khảo sát một số yếu tố ảnh hưởng đến sự xuất hiện đột biến kháng
thuốc trên bệnh nhi đang điều trị bằng ARV.
3
Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. TỔNG QUAN VỀ HIV (HUMAN IMMUNODEFICIENCY VIRUS)
HIV là tác nhân của Hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người
(AIDS). Bệnh được mô tả từ năm 1981 và tác nhân gây bệnh, HIV-1 được
phân lập vào cuối năm 1983 [1].
HIV được xếp vào phân nhóm Lenti vi rút thuộc họ Retro vi rút.
Họ Retro vi rút gồm những vius RNA, có đặc tính chung là có enzyme
sao chép ngược (reverse transcriptase - RT) cho phép sao chép ngược tạo ra
DNA từ RNA trong chu trình nhân lên của vi rút.
Lenti vi rút gồm các vi rút gây các bệnh tiến triển chậm, trong đó có
HIV là vi rút gây bệnh cho người.
Có 2 týp HIV: HIV-1 và HIV-2. Cả hai týp đều lây truyền qua đường
tình dục, đường máu và từ mẹ sang con, và đều gây AIDS. Tuy nhiên, HIV-2
tương đối khó lây truyền hơn và diễn tiến sang bệnh chậm hơn.
HIV-1 là týp lưu hành phổ biến trên toàn thế giới, trong khi HIV-2 tập
trung chủ yếu ở Tây Phi, hiếm gặp ở nơi khác.
Về di truyền: bộ gen của HIV-1 và HIV-2 có cấu trúc di truyền khác
nhau hơn 50%, HIV-2 gần với SIV hơn. Trọng lượng phân tử của các thành
phần cấu trúc cũng có khác biệt.
HIV-1 chia thành 4 phân nhóm: M, O và 2 phân nhóm mới là N và P;
các nhóm có đặc điểm di truyền khác nhau 20%, các thứ týp có đặc điểm di
truyền khác nhau khoảng 5%:
Nhóm M: có thứ týp (subtype) từ A đến K: chiếm hơn 90% trường hợp
nhiễm HIV-1.
4
Nhóm O: gặp khu trú ở Tây - Trung Phi.
Nhóm N: rất hiếm gặp, mới được biết đến từ 1998.
Nhóm P: mới phát hiện từ 2009 ở Cameroon, chủng vi rút gần với SIV
ở loài khỉ gorilla.
Trong trường hợp người bệnh nhiễm hai vi rút khác thứ týp, sẽ có sự tái
tổ hợp chất liệu di truyền trong tế bào nhiễm và tạo ra một “vi rút mới” dưới
dạng “tái tổ hợp” (circulating recombinant forms) - CRFs. Ví dụ như
CRF01_AE là vi rút tái tổ hợp từ hai thứ týp A và E.
Hình 1.1. Phân bố thứ týp (subtype) của HIV-1 trên thế giới “Nguồn: André F. Santos, 2010” [119]
Thứ týp HIV-1 và các CRFs phân bố theo địa lý. Thứ týp A and CRF
A/G phổ biến ở Tây và Trung Phi, thứ týp A là tác nhân chủ yếu ở Nga. Trong
lịch sử, thứ týp B đã từng rất phổ biến ở Châu Âu, Mỹ, Nhật Bản và Úc và là
thứ týp lưu hành được tìm thấy trên nhóm người đồng tính nam ở Châu Âu.
Hiện nay, có khoảng 25% trường hợp nhiễm mới ở Châu Âu là do thứ týp
khác thứ týp B.
5
Thứ týp C chiếm ưu thế ở Nam và Tây Phi, Ấn Độ và Nepal. Thứ týp D
giới hạn chủ yếu ở Đông và Trung Phi. Vi rút tái tổ hợp hai thứ týp A và E
(CRF01_AE) phổ biến ở Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam. Các týp và thứ
týp vi rút có thể ảnh hưởng đến độ nhạy của các xét nghiệm chẩn đoán, định
lượng cũng như tính sinh bệnh học, đáp ứng điều trị và nghiên cứu sản xuất
vaccine [4], [23], [54].
1.1.1. Đặc tính vi rút
HIV là các vi rút có màng bọc, hình khối cầu, đường kính 80 - 110 nm,
có 2 sợi RNA chuỗi dương giống nhau, dài 7 - 11 kb. Hạt virion chứa một
nucleocapsid xoắn ốc bên trong một capsid dạng icosahedral. Vi rút hoàn
chỉnh có cấu trúc gồm 3 lớp:
a. Bao ngoài (envelop)
Màng lipid kép với các gai nhú ra bên ngoài là các phân tử glycoprotein
có trọng lượng 160 kilodalton (gp160) gồm hai thành phần:
- Glycoprotein màng ngoài trọng lượng phân tử 120 kilodalton (gp120)
có vai trò giúp nhận biết thụ thể CD4 trên bề mặt tế bào lympho T CD4 và
một số tế bào khác, nhờ đó vi rút bám được vào tế bào đích.
- Xuyên qua màng lipid là các phân tử glycoprotein có trọng lượng 41
kilodalton (gp41) tham gia vào quá trình hòa màng của vi rút với màng tế bào
nhiễm.
- Các phân tử glycoprotein màng giúp cho vi rút bám và xâm nhập vào
tế bào đích.
b. Vỏ trong (capsid): gồm 2 lớp protein
- Lớp ngoài hình cầu, cấu tạo bởi phân tử protein có trọng lượng phân
tử là 17 kilodalton (p17).
6
- Lớp trong hình trụ, cấu tạo bởi phân tử protein có trọng lượng phân tử
là 24 kilodalton (p24).
c. Lõi nucleocapsid:
- Có hình trụ, bao bọc bởi p24, gồm cấu trúc di truyền của vi rút là 2
chuỗi RNA giống hệt nhau và các enzyme.
RT: là men sao chép ngược dạng hoạt động p66/51 ở HIV-1 và
p68 ở HIV-2, đảm nhiệm sao chép ngược bộ gen RNA của vi rút thành DNA
bổ sung.
Integrase (p31 ở HIV-1 và p34 ở HIV-2): đảm nhiệm sự tích hợp
DNA của vi rút vào nhiễm sắc thể tế bào ký chủ.
Protease (p12): có vai trò cắt các tiền protein thành các protein
cấu trúc hoặc chức năng.
Hình 1.2. Cấu trúc HIV “Nguồn: Mark W. Braun, 2015” [38]
d. Cấu trúc di truyền của HIV: bao gồm 3 gen cấu trúc chính:
7
+ Gen env (envelope) mã hóa cho gp120 và gp41 là các protein bề mặt của
vi rút, có vai trò quan trọng trong quá trình vi rút gắn và xâm nhập vào tế bào
đích.
+ Gen gag (group-specific antigen) mã hóa cho các protein cấu trúc như
protein lõi vi rút, capsid, matrix, nucleocapside.
+ Gen pol (polymerase) bao gồm nhiều gen (rt, prot, …) mã hóa cho các
enzyme quan trọng của vi rút như phức hợp enzyme sao chép ngược (reverse
transcriptase + RNase H), protease và integrase.
Ngoài ra bộ gen của HIV còn có các gen (Tat, Rev, Nef, Vpu, Vif, Vpr)
liên quan đến quá trình điều hòa sự nhân lên và độc lực của vi rút.
Hình 1.3. Bộ gen HIV và cấu trúc virion “Nguồn: Brooks GF., 2010” [73].
Bộ gen vi rút được đóng khung ở hai đầu bởi hai đoạn không mã hóa có
trình tự lặp lại LTRs (Long Terminal Repeat Sequences). Hai vùng này mang
8
các vị trí gắn kết với các protein của tế bào chủ nhằm hoạt hóa quá trình dịch
mã và cũng được kiểm soát bởi các tín hiệu của vi rút.
Tat và rev là các protein điều hòa được tích lũy trong nhân và gắn vào
các vùng định sẵn của RNA vi rút, tương ứng là TAR (transactivation-
response elements hay phân tử đáp ứng hoạt hóa) trên LTR và RRE (rev
response elements hay phân tử đáp ứng rev) trên gen env. Protein tat là một
chất kích hoạt quá trình nhân bản rất mạnh của vùng khởi động trên LTR
(LTR promoter region) và rất cần cho quá trình nhân bản của vi rút trong mọi
hệ thống nuôi cấy in vitro.
Rev cũng là yếu tố quan trọng của nhân giúp chuyển sự biểu hiện sớm
các gen mã hóa protein điều hòa sang các gen mã hóa các protein cấu trúc
được tổng hợp muộn hơn.
Nef có chức năng điều hòa ngược (downregulation) LT CD4 và HLA
lớp I trên bề mặt của tế bào nhiễm HIV-1, và đây có lẽ là một cơ chế giúp vi
rút trốn tránh sự tấn công của LT CD8 gây độc tế bào và tránh được sự nhận
diện của các LT CD4. Nef có thể can thiệp vào quá trình hoạt hóa tế bào LT
bằng cách gắn vào các protein tham gia các con đường truyền tín hiệu nội
bào. HIV-1 không có nef đã được tìm thấy ở một nhóm các bệnh nhân người
Úc không tiến triển bệnh trong thời gian dài (long-term non-progressors). Tuy
nhiên, một số báo cáo gần đây cho thấy một vài bệnh nhân trong số đó đã bắt
đầu có các dấu hiệu bệnh tiến triển cùng với giảm số lượng tế bào LT CD4. Vì
thế, cho dù mất gen nef có thể làm chậm sự nhân lên của vi rút, nhưng không
phải lúc nào cũng ngăn được sự xuất hiện của AIDS.
Vpr có lẽ cần thiết cho quá trình nhân lên của vi rút ở các tế bào không
phân chia ví dụ đại thực bào.Ngoài các yếu tố kích thích khác của tế bào và vi
rút, vpr cũng có thể kích thích HIV-LTR. Gần đây, người ta thấy vpr có vai
9
trò quan trọng trong vận chuyển phức hợp tiền tích hợp của vi rút vào nhân và
có thể làm ngừng chu kỳ tế bào ở G2.
Vpu có vai trò quan trọng trong quá trình nảy chồi của vi rút bởi các đột
biến của vpu khiến các hạt vi rút nằm mãi trên màng tế bào vật chủ. Vpu còn
liên quan tới sự thoái giáng của phức hợp CD4 - gp160 trong lưới nội nguyên
sinh và do đó cho phép gp160 được quay vòng để tạo các hạt vi rút mới.
Một số nghiên cứu gần đây đã nhấn mạnh vai trò của vif trong quá trình
nhân lên của vi rút. Các HIV-1 không có vif không thể nhân bản trong tế bào
lympho T CD4, một số dòng tế bào T (“tế bào không chấp nhận”) hay trong
đại thực bào. Các chủng vi rút không có vif có thể xâm nhập tế bào đích và
khởi động quá trình sao chép ngược nhưng sự tổng hợp DNA tiền vi rút diễn
ra không hoàn chỉnh [23], [44], [54], [126].
1.1.2. Sự nhân lên của vi rút
a. Vi rút gắn và xâm nhập vào tế bào đích:
Phân tử gp120 của vi rút gắn lên thụ thể CD4 (có trên bề mặt tế bào
lympho T CD4 và một số tế bào khác) và các đồng thụ thể (CCR5 hoặc
CXCR4) của tế bào đích, nhờ đó dẫn đến sự thay đổi cấu hình không gian và
làm bộc lộ vị trí tác động của phân tử gp41 tham gia trong quá trình hòa màng
giữa vi rút và tế bào đích. Nucleocapside của vi rút sẽ được phóng thích vào
trong tế bào chất.
10
Hình 1.4. Tế bào lympho nhiễm HIV cho thấy có nhiều vi rút trên bề mặt tế bào, vi rút mới hình thành nẩy chồi từ màng tế bào
“Nguồn Brooks GF., 2010” [73]
Hình 1.5. Sự nhận diện tế bào ký chủ của HIV “Nguồn: Jacquelyn G. Black, 2012” [36]
Quá trình cởi bỏ vỏ capside xảy ra đồng thời hoặc ngay sau khi xâm
nhập. Quá trình này cần có độ pH axit trong môi trường nội bào.
11
b. Quá trình sao chép RNA thành DNA tiền vi rút.
Sau khi có sự cởi bỏ vỏ capside, nhờ có men RT, RNA của vi rút được
sao chép thành DNA bổ sung sợi đơn và sau đó thành sợi đôi.
DNA sợi đôi của vi rút có thể đi qua màng nhân nhờ men integrase, xen
vào trong bộ gen của tế bào đích và được gọi là DNA tiền vi rút. Ở giai đoạn
này vi rút có thể tồn tại lâu dài trong tế bào đích trong trạng thái “ngủ” và
tránh được sự tác động của hệ thống miễn dịch và của các loại thuốc kháng vi
rút.
c. Quá trình sao chép và tổng hợp virion mới:
Khi tế bào đích được hoạt hóa, DNA tiền vi rút cũng bắt đầu quá trình
sao chép và nhân lên. DNA tiền vi rút, nhờ các enzyme của tế bào, sao chép
thành các phân tử RNA là chất liệu di truyền của vi rút sẽ di chuyển ra tế bào
chất tổng hợp protein sớm là những thành phần enzyme cần thiết cho các giai
đoạn nhân lên tiếp theo của vi rút. Các tiền protein được tổng hợp. Nhờ những
enzyme của vi rút và tế bào, các tiền protein này sẽ được phân cắt thành protein
cấu trúc và chức năng.
d. Quá trình đóng gói và giải phóng vi rút ra khỏi tế bào:
Bộ gen vi rút mới được tổng hợp và polypeptide capsid lắp ráp với
nhau để tạo thành vi rút thế hệ sau.
Vi rút trưởng thành qua quá trình nẩy chồi. Các glycoprotein màng bao
vi rút được chèn vào màng tế bào; nucleocapsid vi rút sau đó nẩy chồi qua
màng tại các vị trí bị thay đổi này và tạo được một màng bao ngoài. Quá trình
này giải phóng những hạt virion mới [1], [59], [97].
12
AIDS center 2012”
Hình 1.6. Chu kỳ nhân lên của HIV gồm 7 bước “Nguồn: research website, [25]
1.1.3. Diễn tiến của nhiễm HIV
Diễn tiến tự nhiên của nhiễm HIV có thể kéo dài nhiều năm. Các giai
đoạn bao gồm sơ nhiễm, vi rút tiềm ẩn trong các cơ quan lympho, lâm sàng
không triệu chứng, vi rút nhân lên nhanh, biểu hiện lâm sàng và tử vong. Quá
trình từ sơ nhiễm đến khi có triệu chứng lâm sàng trung bình là 10 năm. Nếu
không điều trị thì bệnh nhân thường chết sau khoảng 2 năm kể từ khi có triệu
chứng.
Giai đoạn 1: HIV xâm nhập vào cơ thể.
Vi rút có thể xâm nhập cơ thể qua các con đường quan hệ tình dục
không an toàn, đường máu, hoặc từ mẹ truyền sang con. Triệu chứng của giai
đoạn nhiễm cấp thường không đặc hiệu, có thể bao gồm mệt mỏi, nhức đầu,
sốt, buồn nôn, phát ban, . . .
13
Giai đoạn 2: Tấn công tế bào đích
Các tế bào đích là tế bào có thụ thể CD4: gồm tế bào lympho T hỗ trợ
đóng vai trò quan trọng trong đáp ứng miễn dịch, tế bào trình diện kháng
nguyên, các đại thực bào, bạch cầu đơn nhân, tế bào tua gai, tế bào langerhan,
tế bào thần kinh đệm.
Tiếp sau giai đoạn sơ nhiễm, có khoảng 50 - 75% trường hợp biểu hiện
hội chứng giống như tăng đơn nhân cấp sau 3 - 6 tuần. Có sụt giảm thoáng
qua số lượng tế bào lympho T CD4 trong giai đoạn sớm. Đáp ứng miễn dịch
với HIV xảy ra từ tuần thứ 1 đến 3 tháng sau khi nhiễm, nồng độ vi rút/máu
giảm xuống và tế bào lympho T CD4 tăng trở lại. Tuy nhiên, đáp ứng miễn
dịch không thể loại trừ HIV hoàn toàn và HIV tồn tại dai dẳng trong các hạch
lympho.
Giai đoạn 3: Sinh sản trong tế bào và gây các hậu quả.
Giai đoạn lâm sàng không triệu chứng kéo dài khoảng 10 năm. Trong
suốt thời gian này, có sự nhân lên liên tục của HIV, ước tính khoảng 10 tỷ
HIV được tạo ra và phá hủy mỗi ngày. Thời gian bán hủy của vi rút trong
huyết tương khoảng 6 giờ và vòng đời của vi rút trung bình khoàng 2,6 ngày.
Khi đã xâm nhiễm vào tế bào, vi rút sử dụng nguồn năng lượng của tế
bào gồm các enzyme để tăng trưởng và nhân lên, hậu quả cuối cùng làm tế
bào bị hủy hoại và chết. Các hiện tượng tạo nên sự phá hủy tế bào lympho T
CD4 bao gồm:
- Hiện tượng hợp bào: khi lympho T CD4 nhiễm HIV, trên bề mặt có
các gp120 của vi rút. Các gp120 này sẽ gắn với các phân tử CD4 của các tế
bào khỏe mạnh bên cạnh tạo thành các hợp bào. Hợp bào bị thay đổi tính chất
và tính thấm, nó không còn chức năng của một tế bào bình thường, sau đó sẽ
bị vỡ.
14
- Hiện tượng ADCC (Antibody Dependent Cellular Cytotoxicity):
kháng nguyên của vi rút có trên bề mặt tế bào lympho T CD4 bị nhiễm sẽ gắn
với phần Fab của kháng thể đặc hiệu kháng gp120. Phần Fc của kháng thể này
sẽ gắn lên thụ thể của nó trên bề mặt tế bào diệt làm cho lympho T CD4 có
gp120 bị tiêu diệt.
- Hiện tượng hoạt hóa bổ thể: một số gp120 tự do trong máu do được
phóng thích từ những lympho bào T CD4 bị nhiễm vi rút sẽ gắn vào các
lympho bào T CD4 khác. Kháng thể kháng gp120 sẽ đến gắn vào gp120 tạo
thành phức hợp kháng nguyên - kháng thể, khi đó hệ bổ thể được hoạt hóa và
cuối cùng lympho T CD4 bị nhiễm này sẽ bị ly giải.
- Hiện tượng siêu kháng nguyên (superantigen): HIV hoạt động như là
một “siêu kháng nguyên”. Chính vì vậy, nó sẽ hoạt hóa không chuyên biệt
nhiều tế bào lympho T hỗ trợ và dẫn đến sự chết của chúng.
- Tế bào chết phóng thích nhiều chất hòa tan có khả năng gây độc cho
những tế bào khác.
- Tế bào tủy xương là tiền thân của lympho T CD4 cũng bị nhiễm, hậu
quả là sự sản sinh lympho T CD4 cũng bị giảm.
Sơ đồ 1.1. Diễn biến của nhiễm HIV không điều trị. “Nguồn: Brooks GF., 2010” [73]
15
Cuối cùng, bệnh nhân sẽ có các triệu chứng do nhiễm trùng cơ hội hoặc
ung thư. Nồng độ vi rút/máu ở giai đoạn này rất cao và khả năng gây độc tế
bào cũng như độc lực của vi rút cũng cao hơn so với giai đoạn mới nhiễm
[23], [107].
1.1.4. Các giai đoạn nhiễm HIV
Theo phân loại của Trung tâm Phòng ngừa và Kiểm soát Dịch bệnh
Hoa Kỳ (US-CDC): dựa trên cơ sở biểu hiện lâm sàng và số lượng tế bào
lympho T CD4. Có 3 nhóm phân loại lâm sàng (A, B, C) và 3 nhóm phân loại
tế bào lympho T CD4 (1, 2, 3) (tham khảo phụ lục 8).
Bên cạnh phân loại US-CDC, Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) cũng đã
công bố hệ thống chia giai đoạn lâm sàng đối với nhiễm HIV gồm 4 giai đoạn
dựa vào biểu hiện lâm sàng và mức độ hoạt động. Sự phân loại của WHO là
một cách tiếp cận để sử dụng trong những nơi có nguồn lực hạn chế và hiện
được dùng rộng rãi ở châu Phi và châu Á (tham khảo phụ lục 9)
1.2. CÁC THUỐC KHÁNG RETRO VI RÚT VÀ CƠ CHẾ KHÁNG
THUỐC
Về lý thuyết, có thể nghiên cứu các thuốc tác động vào các khâu sau:
- Ngăn cản gắn vào các thụ thể tế bào.
- Ngăn cản sự hòa màng và thoát vỏ của vi rút.
- Kìm hãm sự sao chép ngược từ RNA thành DNA
- Ngăn cản sự tích hợp của DNA vi rút vào DNA của tế bào vật chủ.
- Ngăn cản sự sao mã muộn hay sự tổng hợp protein của vi rút.
- Kìm hãm sự lắp ráp hay sự tổ hợp lại của vi rút và sự nẩy chồi.
Ở mỗi giai đoạn trên đều có những cơ chế đặc hiệu và những enzyme
đặc hiệu riêng cho HIV, và như vậy có thể tìm ra các thuốc ức chế thích hợp
16
cho từng giai đoạn. Tuy nhiên, do nhiều khó khăn, các nghiên cứu hiện nay
phần lớn tập trung vào các loại thuốc ức chế enzyme sao chép ngược (reverse
transcriptase - RT), protease và integrase [58], [97].
1.2.1. Các thuốc kháng retro vi rút và cơ chế tác động
Các loại thuốc ARV hiện đang lưu hành có thể chia thành 5 nhóm chính
dựa vào cơ chế tác động của chúng được liệt kê trong Bảng 1.1.
Bảng 1.1. Các thuốc ARV và cơ chế tác dụng chính
Thuốc nucleoside ức
Lamivudin
3TC
Cạnh tranh với các nucleotid
chế men sao chép
tự nhiên gắn xen vào mạch
Stavudin
d4T
ngược (Nucleoside
DNA đang tổng hợp, ức chế
Zidovudin
AZT
Reverse Transcriptase
men RT kéo dài chuỗi.
Emtricitabin
FTC
Inhibitors - NRTIs)
Didanosin
ddI
Abacavir
ABC
Tenofovir
TDF
Thuốc không phải
Nevirapin
NVP
Gắn trực tiếp vào men RT và
nucleoside ức chế men
ức chế hoạt động của men.
Efavirenz
EFV
sao chép ngược (Non -
Delavirdin
DLV
Nucleoside Reverse
Etravirine
ETR
Transcriptase
Rilpivirine
RPV
Inhibitors - NNRTIs)
Thuốc ức chế men
Ritonavir
RTV
Ức chế protease tham gia
protease* (Protease
trong quá trình trưởng thành
Lopinavir
LPV
inhibitor - PIs)
của vi rút.
Saquinavir
SQV
Amprenavir
APV
Indinavir
IDV
Nelfinavir
NFV
Nhóm thuốc Thuốc Cơ chế tác động
17
Atazanavir
ATV
Fosamprenavir
APV
Thuốc ức chế men
Raltegravir
MK-
Ức chế sát nhập DNA vi rút
integrase giúp tích hợp
0518
vào DNA bộ gen của tế bào
gen vi rút vào bộ gen tế
chủ.
GS-9137
Elvitegravir
bào đích
Thuốc ức chế sự hòa
Enfuvirtide
T-20
Ngăn sự hòa màng của vi rút
màng
vào tế bào chủ.
Thuốc tác động lên các
Tranh chấp vị trí gắn với các
đồng thụ thể của vi rút
đồng thụ thể của vi rút. * Các thuốc nhóm PIs thường được dùng dưới dạng phối hợp với RTV (ký hiệu là “r”)
Nhóm thuốc Thuốc Cơ chế tác động
Hình 1.7. Các vị trí tác động của kháng retro vi rút. “Nguồn: Kim Peter S., 2010” [79]
a. Cơ chế tác động của
NRTIs: men sao chép ngược
tổng hợp DNA từ RNA vi rút sử dụng các nucleotid của tế bào. Các
thuốc NRTIs là những nucleotides không mang nhóm –OH ở đầu 3’
trên cấu phần deoxyribose, do cấu trúc tương tự nucleoside tự nhiên
của người nên được xử lý trong tế bào tương tự như nucleoside của
người.
• Men sao chép ngược không thể phân biệt được nucleoside của người
và các chất tương tự nucleoside.
18
• Phân tử thuốc, khi đã gắn vào chuỗi DNA đang được tổng hợp sẽ làm
chặn quá trình nối dài chuỗi polynucleoside không hình thành được liên
kết 5’-3’phosphodiesther.
• Do cơ chế này, NRTIs cũng có thể ngăn cản men của người. Sự ngăn
cản men của người là nguyên nhân của hầu hết các tác dụng phụ và độc
tính. Vì vậy cơ chế hoạt động này giải thích cả tính hiệu quả cũng như
độc tính của thuốc.
b. Cơ chế tác động của NNRTIs: Thuốc NNRTIs gắn trực tiếp túi kỵ
nước nằm sát vùng trung tâm hoạt động của men sao chép ngược, làm
biến đổi hình dạng và thay đổi hoạt tính của men.
Men gắn với NNRTIs không thể hoạt động một cách bình thường.
Việc tạo DNA vi rút từ RNA bị chặn lại.
Vi rút không thể chuyển từ RNA thành DNA, do đó không thể gây
nhiễm tế bào và tạo vi rút mới.
Hình 1.8. Cơ chế tác động của (a) NRTIs và (b) NNRTIs. “Nguồn: Douglas D. Richman, 2001” [114]
19
c. Cơ chế tác động của PIs
Trong quá trình nhân lên trong tế bào bị nhiễm, các tiền protein lớn
được tổng hợp sẽ được men protease cắt thành các protein cấu trúc và chức
năng (các enzyme) cần thiết để tạo thành vi rút mới. Các thuốc nhóm PIs gắn
vào vị trí hoạt động của men protease, ngăn cản sự hình thành các cấu phần
của hạt vi rút mới.
d. Cơ chế tác động của thuốc ức chế men integrase: ức chế sự tích hợp
của DNA vi rút vào DNA của tế bào chủ bằng cách gắn vào DNA vi rút ngay
sau khi được sao chép từ RNA trong bào tương tế bào, tạo thành phức hợp
khá bền vững ngăn cản hoạt động của men integrase ở tất cả các bước của giai
đoạn tích hợp.
e. Cơ chế tác động của nhóm thuốc ức chế hòa màng: gắn trực tiếp vào
gp41, ngăn chặn việc thay đổi cấu hình của phân tử này làm cho vi rút không
thể hòa màng với tế bào đích.
f. Cơ chế tác động của nhóm thuốc tác động lên đồng thụ thể: gắn lên
CCR5 của tế bào đích của HIV nên phong tỏa việc gắn vi rút lên đồng thụ thể
này làm cho HIV không xâm nhập được vào tế bào đích [16], [58], [65], [97],
[105].
1.2.2. Cơ chế kháng thuốc của HIV
Hiện tượng kháng thuốc
Kháng thuốc của HIV được xác định khi có sự hiện diện của các chủng
vi rút mang đột biến kháng thuốc. Đây là những đột biến trên các vùng gen
mã hóa cho các phân tử là đích tác động của thuốc. Dưới áp lực chọn lọc của
ARV, các quần thể vi rút mang đột biến kháng thuốc dần dần chiếm ưu thế
trong cơ thể người bệnh và dẫn đến việc kháng thuốc.
Cơ chế kháng thuốc
20
Với HIV, kháng thuốc là do sự thay đổi (đột biến) trong cấu trúc di
truyền của vi rút. Những đột biến này có thể dẫn đến những thay đổi của một
số protein là vị trí tác động của thuốc, thường là các enzyme có vai trò trong
sự nhân lên của HIV.
Đột biến rất dễ xảy ra ở HIV do HIV nhân lên với tốc độ cực kỳ nhanh
nhưng enzyme sao chép ngược của vi rút lại không có cơ chế sửa chữa những
sai sót trong quá trình sao chép.
a. Cơ chế kháng NRTIs
Hình 1.9. Cơ chế kháng thuốc nhóm NRTIs “Nguồn: Martin M., 2006“ [92]
21
Có hai cơ chế chính gây kháng NRTIs:
- Cơ chế thứ nhất - ngăn cản sự sát nhập của phân tử thuốc: một số đột
biến hoặc nhóm các đột biến trên vùng gen RT có thể ngăn cản sự tích hợp
của phân tử NRTI vào chuỗi DNA đang được tổng hợp.
- Cơ chế thứ hai - loại phân tử thuốc khỏi mạch DNA đang tổng hợp:
liên quan đến sự kích thích các phân tử ATP hay pyrophosphat có trong
lympho bào vốn không tham gia vào quá trình kéo dài chuỗi DNA. Sau khi
được kích thích, các phân tử này tiếp cận vị trí gắn các nucleotide, tác động
lên cầu nối phosphodiesther, tách rời các phân tử thuốc khỏi chuỗi DNA, quá
trình tổng hợp DNA vì thế vẫn được tiếp tục.
b. Cơ chế kháng NNRTIs
Các đột biến gây kháng NNRTIs liên quan đến các axit amin hình
thành túi kỵ nước. Các đột biến tại điểm gắn của NNRTIs trong vùng túi kỵ
nước làm giảm ái lực của thuốc với RT, dẫn đến mất hoạt tính kháng retro vi
rút và thất bại điều trị
Hình 1.10. Cơ chế kháng thuốc nhóm NNRTIs “Nguồn: Martin M., 2006“ [92]
22
Riêng đột biến K103N gây kháng cao với tất cả các NNRTIs lại có một
cơ chế gây kháng khác. Vị trí 103 không phải là một phần của túi kỵ nước.
Tuy nhiên, nó nằm cạnh ngõ vào của túi. K103N không làm thay đổi cấu trúc
của phức hợp RT và NNRTI mà nó tạo nên một cầu hydrogen trên men RT.
Chính cầu hydrogen thêm vào này làm cho ngõ vào túi bị đóng lại nên
NNRTIs rất khó vào được vị trí tác động [58].
c. Cơ chế kháng PIs
Sự hình thành các đột biến chủ yếu làm trung tâm hoạt động của
protease rộng ra, các thuốc PIs không thể bám vào nên không ngăn cản được
hoạt động của protease, việc phân cắt protein vẫn được thực hiện để tạo vi rút
mới. Tuy nhiên, nhiều đột biến trên gen mã hóa protease của HIV gây kháng
PIs lại liên quan đến các axit amin không nằm gần các vị trí gắn của thuốc
nhưng lại làm thay đổi cấu trúc – hình dạng tổng thể của men này và dẫn đến
kháng thuốc [58].
Hình 1.11. Cơ chế tác động và cơ chế kháng thuốc nhóm PIs “Nguồn: HIV webstudy, 2004“ [146]
d. Cơ chế kháng thuốc ức chế men integrase
Chưa được giải thích rõ. Theo nhiều nghiên cứu, có kháng chéo do các
đột biến đơn lẻ như N155H, Q148K/R/H, T66I và E92Q ở vùng trung tâm
23
hoạt động của integrase gây kháng với thuốc ức chế men này [16], [41], [53],
[54].
1.2.3. Xét nghiệm HIV kháng thuốc ARV
Có hai loại xét nghiệm phát hiện HIV kháng thuốc: xét nghiệm kiểu
gen và thử nghiệm kiểu hình.
1.2.3.1. Thử nghiệm kiểu hình kháng thuốc (phenotyping)
Đây là phương pháp chính xác nhưng rất phức tạp và tốn kém, chỉ được
thực hiện ở một vài phòng thí nghiệm trên thế giới. Thử nghiệm kiểu hình chủ
yếu được dùng trong nghiên cứu và xác định lại các đột biến gen gây kháng
thuốc. Các chủng vi rút được nuôi cấy trong môi trường có bổ sung ARV. Kết
quả được xác định bằng tỷ lệ CI 50 hoặ CI 90 (nồng độ ức chế 50 hoặc 90%)
của chủng vi rút cần nghiên cứu so với chủng hoang dại nhạy cảm với thuốc.
Thử nghiệm ở mức độ kiểu hình phụ thuộc rất nhiều các thông số như
số lượng vi rút dùng trong thử nghiệm, loại tế bào dùng làm tế bào chủ cho vi
rút nhân lên và cách thức đánh giá sự nhân lên của vi rút.
1.2.3.2. Xét nghiệm kiểu gen (genotyping): phát hiện các đột biến gen liên
quan đến tính kháng với các loại thuốc ARV của HIV trong máu bệnh nhân
Xét nghiệm kiểu gen là xét nghiệm thông thường được sử dụng trong
phát hiện HIV kháng thuốc.
Các đột biến và kiểu gen cụ thể có trên trang web cơ sở dữ liệu về HIV
kháng thuốc của Đại học Stanford – Hoa Kỳ [67]. Trang web này duy trì và
thường xuyên cập nhật danh mục các đột biến liên quan đến kháng với mỗi
loại thuốc kháng vi rút.
Có nhiều phương pháp khác nhau để xác định kháng thuốc kiểu gen:
24
Kỹ thuật lai chuyên biệt: dựa trên nguyên lý của kỹ thuật PCR và
ELISA. Phương pháp sử dụng một mồi biotinyl hóa cho phản ứng PCR, sau
đó sản phẩm được gắn lên bề mặt các vi giếng, và đem lai với mẫu dò
oligonucleotid có một đầu được gắn enzyme alkaline phosphatase. Xác định
tỷ lệ của chủng hoang dại và đột biến nhờ vào phương pháp đo mật độ quang.
Kỹ thuật phát hiện đột biến điểm với mồi chuyên biệt: sử dụng mồi
chuyên biệt có tính đặc hiệu cao ở đầu 3’ với chủng hoang dại và chủng đột
biến nhằm phát hiện những đột biến chính đã biết.
Kỹ thuật Realtime PCR: sử dụng mẫu dò được đánh dấu đặc hiệu với
chủng đột biến cũng nhằm phát hiện những đột biến chính đã biết.
Chíp gen (Gene chip array): Một bộ chíp gồm vài nghìn giếng nhỏ gắn
hàng triệu các mẫu dò có khả năng lai chuyên biệt với các đoạn trình tự gen
protease và RT liên quan đến đích tác động của các thuốc ARV. Các đột biến
được ghi nhận dựa vào tín hiệu huỳnh quang.
Giải trình tự gen (sequencing): Là sự phối hợp giữa PCR và phương
pháp enzyme học thông qua việc sử dụng bốn loại dideoxynucleotid được
đánh dấu bằng 4 màu khác nhau. Các dideoxynucleotid này không còn khả
năng hình thành cầu nối phosphodiesther và do đó sẽ làm ngưng quá trình
tổng hợp chuỗi, dẫn đến sự hình thành một tập hợp nhiều đoạn DNA có kích
thước cách nhau một nucleotid. Các phân đoạn DNA sẽ được điện di qua
những ống mao quản chứa gel polyacrylamid có khả năng phân tách 2 trình tự
DNA chỉ chênh nhau một nucleotid, kết quả sẽ được xử lý và đọc qua hệ
thống máy vi tính.
Xét nghiệm kháng thuốc được thực hiện khi người bệnh nghi ngờ thất
bại vi rút học khi điều trị bằng ARV. Đối với HIV do số lượng đột biến điểm
25
là rất lớn, kỹ thuật giải trình tự chuỗi là phương pháp được sử dụng nhiều nhất
và chính xác nhất để theo dõi HIV kháng thuốc.
Đồng thời, khi theo dõi đột biến kháng thuốc, cần lưu ý một số vấn đề:
- Bệnh nhân thất bại điều trị không luôn luôn đồng nghĩa với sự xuất
hiện các đột biến kháng thuốc. Không tuân thủ điều trị có thể là nguyên nhân
làm cho tải lượng vi rút tăng do nồng độ thuốc không đủ để ức chế. Cần tăng
cường sự tuân thủ điều trị trước khi đánh giá xuất hiện đột biến kháng thuốc.
- Bệnh nhân có thể kháng với những thuốc chưa từng sử dụng do một
số đột biến gây ra hiện tượng kháng chéo với nhiều thuốc cùng nhóm.
1.2.4. Phân loại đột biến kháng thuốc
Đột biến là sự biến đổi bộ gen HIV, sự biến đổi này dẫn tới sự thay đổi
axit amin so với chủng hoang dại, điều này làm giảm mức độ nhạy cảm của vi
rút đối với thuốc ARV. Trong kết quả kháng thuốc, đột biến được thể hiện
bằng sự kết hợp của các chữ cái và con số.
Chữ cái đầu Con số Chữ cái thứ hai
Tên axit amin của chủng hoang dại Vị trí đột biến Tên axit amin của chủng đột biến
Ví dụ: M184V: đột biến xảy ra tại vị trí 184 biến đổi axit amin Methionin
thành Valin.
- Đột biến chính (major resistance mutation): Chỉ cần 1 đột biến cũng
có thể gây ra kháng thuốc.
- Đột biến phụ (minor resistance mutation): Cần kết hợp nhiều đột
biến mới gây ra tính kháng.
26
- Đột biến đa hình (polymorphism): những khác biệt giữa chủng HIV
trên người nhiễm so với chủng hoang dại nhưng chưa ảnh hưởng đến tính
kháng thuốc.
- Đột biến kháng chéo: đột biến gây tính kháng với nhiều thuốc trong
nhóm. Hiện tượng này gây tính kháng với cả những thuốc mà bệnh nhân chưa
có tiền sử sử dụng.
- Xem xét hiện tượng kháng chéo rất quan trọng khi đổi phác đồ điều
trị cho bệnh nhân, tránh tình trạng sử dụng những loại thuốc không còn hiệu
quả cho bệnh nhân đó.
- Đột biến cần theo dõi (Surveillance Drug Resistance Mutations -
SDRMs): thường là những đột biến kháng thuốc chỉ xuất hiện sau một thời
gian tiếp xúc với ARV; ở bệnh nhân chưa tiếp xúc với ARV, những đột biến
này là chỉ điểm của kháng thuốc do lây truyền nên cần theo dõi, giám sát sự
xuất hiện của chúng để có hướng dẫn kịp thời việc sử dụng phác đồ ARV phù
hợp. Danh sách đột biến cần theo dõi theo WHO được liệt kê trong phụ lục 9.
Cách tính điểm đột biến và mức độ kháng thuốc
Trình tự gen của mẫu bệnh phẩm được so sánh với chủng hoang dại trên
ngân hàng dữ liệu quốc tế về đột biến kháng thuốc ARV của Đai học Stanford
– Hoa Kỳ. Các đột biến sẽ được đánh giá bằng số điểm cụ thể. Mức độ kháng
với một thuốc được đánh giá dựa trên tổng số điểm của các đột biến liên quan
đến tính kháng đối với thuốc đó [67]:
- Nhạy (< 0 - 9 điểm): vi rút vẫn còn nhạy với thuốc.
- Có khả năng kháng thấp (10 - 14 điểm): vi rút mang những đột biến
chưa có khả năng kháng thuốc nhưng có thể kết hợp với nhiều đột biến khác
gây nên tính kháng.
27
- Kháng thấp (15 - 29 điểm): vi rút giảm mức độ nhạy cảm với thuốc,
bệnh nhân có thể đáp ứng không tốt về mặt vi rút khi điều trị.
- Kháng trung bình (30 - 59 điểm): vi rút thể hiện khả năng kháng với
thuốc làm giảm hiệu quả điều trị.
- Kháng cao (≥ 60 điểm): vi rút mang tính kháng cao với thuốc và bệnh
nhân không đáp ứng điều trị về mặt vi rút học.
1.3. ĐIỀU TRỊ BỆNH NHÂN NHIỄM HIV/AIDS
Mục đích điều trị [3], [6]
- Ngăn chặn tối đa và lâu dài quá trình nhân lên của HIV trong cơ thể;
- Phục hồi chức năng miễn dịch;
- Cải thiện sức khỏe và nâng cao chất lượng cuộc sống cho người bệnh.
Nguyên tắc điều trị [6]
- Phối hợp thuốc: dùng phối hợp ít nhất 3 loại thuốc ARV;
- Điều trị sớm: điều trị ngay khi người bệnh đủ tiêu chuẩn nhằm ngăn
chặn khả năng nhân lên của HIV, giảm số lượng HIV trong máu và giảm
phá hủy tế bào miễn dịch;
- Điều trị liên tục, suốt đời: người bệnh cần được điều trị bằng ARV
suốt đời và theo dõi trong suốt quá trình điều trị;
- Đảm bảo tuân thủ điều trị bằng ARV: người bệnh cần thực hiện uống
thuốc đúng liều, đúng giờ, đúng cách theo chỉ định.
1.3.1. Điều trị bằng ARV
1.3.1.1. Tiêu chuẩn bắt đầu điều trị bằng ARV cho trẻ em (theo quyết định
3003/QĐ-BYT ngày 19 tháng 8 năm 2009) [3]
28
Tiêu chuẩn để bắt đầu điều trị bằng ARV ở trẻ em cần dựa vào tình
trạng chẩn đoán nhiễm HIV, lứa tuổi, giai đoạn lâm sàng và giai đoạn miễn
dịch của trẻ:
a. Trẻ có chẩn đoán xác định nhiễm HIV:
• Trẻ < 12 tháng tuổi: điều trị ngay, không phụ thuộc vào giai đoạn lâm
sàng và số lượng tế bào LT CD4.
• Trẻ từ 12 tháng tuổi trở lên, chỉ định khi:
- Giai đoạn lâm sàng 4, không phụ thuộc số lượng tế bào LT CD4.
- Giai đoạn lâm sàng 3, không phụ thuộc số lượng tế bào LT CD4;
Tuy nhiên trẻ mắc lao, LIP, bạch sản dạng lông miệng, giảm tiểu cầu nên điều
trị trước và trì hoãn ARV nếu số lượng tế bào LT CD4 còn ở trên ngưỡng
“Suy giảm nặng” theo lứa tuổi; nếu không làm được xét nghiệm số lượng tế
bào LT CD4 xem xét điều trị ARV.
- Giai đoạn lâm sàng 2 và số lượng tế bào LT CD4 (hoặc tổng số tế
bào lympho) ở dưới ngưỡng “Suy giảm nặng“ theo lứa tuổi
- Giai đoạn lâm sàng 1 và số lượng tế bào LT CD4 ở dưới ngưỡng
“Suy giảm nặng“ theo lứa tuổi
b. Trẻ dưới 18 tháng tuổi chưa có chẩn đoán xác định nhiễm HIV bằng xét
nghiệm vi rút, nhưng được chẩn đoán lâm sàng bệnh HIV/AIDS nặng
1.3.1.2. Các phác đồ điều trị bằng ARV:
29
Bảng 1.2. Tóm tắt các phác đồ bậc 1 theo hướng dẫn Bộ Y tế [3]
Đối tượng Phác đồ
- Phác đồ chính: AZT+3TC+NVP;
- Phác đồ thay thế: Trẻ em chưa tiếp
+ Nếu chống chỉ định AZT → thay thế bằng d4T; xúc NVP hoặc
đã tiếp xúc + Nếu chống chỉ định NVP → thay thế bằng EFV;
(PLTMC) trên + Nếu chống chỉ định AZT và NVP → thay thế bằng d4T
12 tháng và EFV.
+ Nếu chống chỉ định NVP và EFV → thay thế bằng ABC
- Phác đồ chính: AZT+3TC+LPV/r;
Trẻ em dưới 12 - Phác đồ thay thế:
tháng tuổi đã + Nếu chống chỉ định AZT → thay thế bằng d4T hoặc tiếp xúc NVP ABC; (PLTMC)
+ Nếu không có LPV/r → thay thế bằng NVP.
Theo khuyến cáo của WHO năm 2013 [141], nguyên tắc điều trị là lựa
chọn phác đồ đơn giản, ít độc tính và thuận tiện; do đó các phác đồ thuốc
phối hợp được khuyến cáo sử dụng trong phác đồ bậc 1. Phác đồ dùng 1 lần
mỗi ngày bao gồm một viên phối hợp thuốc non-thymidine NRTI là khung
(TDF + FTC hoặc TDF + 3TC) và một NNRTI (EFV) vẫn là ưu tiên lựa cho
người lớn và trẻ trên 3 tuổi. Đối với trẻ dưới 3 tuổi, phác đồ dựa trên khung
PI thường được chọn lựa hơn.
30
1.3.2. Thất bại điều trị
Khám lâm sàng và xét nghiệm đóng vai trò then chốt để lượng giá bệnh
nhân trước khi bắt đầu điều trị bằng ARV cũng như theo dõi đáp ứng điều trị
và các độc tính của thuốc nếu có.
Xét nghiệm tải lượng vi rút được khuyến cáo là công cụ đánh giá hiệu
quả điều trị chính xác nhất hiện nay. Trong trường hợp không làm được xét
nghiệm tải lượng vi rút thường quy để theo dõi hiệu quả điều trị, xét nghiệm
tải lượng vi rút được chỉ định để khẳng định thất bại điều trị.
1.3.2.1. Theo dõi và phát hiện các biểu hiện của thất bại điều trị
- Theo dõi diễn biến của số lượng tế bào lympho T CD4 trong tất cả các
lần xét nghiệm đặc biệt là giữa 2 lần xét nghiệm liên tiếp.
- Khám lâm sàng và phát hiện sự xuất hiện mới của các bệnh nhiễm
trùng cơ hội và các yếu tố nguy cơ gây thất bại điều trị trong tất cả các lần
tái khám.
- Đánh giá mức độ tuân thủ điều trị trong tất cả các lần tái khám. Trường
hợp người bệnh tuân thủ điều trị không tốt, đánh giá các nguyên nhân ảnh
hưởng đến tuân thủ điều trị của người bệnh và tiến hành hỗ trợ tuân thủ điều
trị kịp thời.
1.3.2.2. Các tiêu chuẩn chẩn đoán thất bại điều trị
- Tiêu chuẩn thất bại lâm sàng
Xuất hiện mới hoặc tái phát các bệnh lý giai đoạn lâm sàng 4 (hoặc 3
và 4/trẻ em ≤ 10 tuổi) sau điều trị bằng ARV ít nhất 6 tháng;
- Tiêu chuẩn thất bại miễn dịch
+ Người lớn và trẻ trên 5 tuổi: lympho T CD4 giảm xuống dưới mức
trước khi điều trị hoặc lympho T CD4 liên tục dưới 100 tế bào/mm3 sau hai
31
lần xét nghiệm liên tiếp (cách nhau 6 tháng) và không có căn nguyên nhiễm
trùng gần đây gây giảm lympho T CD4.
+ Trẻ dưới 5 tuổi: lympho T CD4 liên tục dưới 200 tế bào/mm3 hoặc
dưới 10% trong 2 lần xét nghiệm liên tiếp (cách nhau 6 tháng) và không có
căn nguyên nhiễm trùng gần đây gây giảm lympho T CD4.
- Tiêu chuẩn thất bại vi rút học: người bệnh đã điều trị bằng ARV ít
nhất 6 tháng có tải lượng vi rút ≥ 3 log bản sao/ml ở hai lần xét nghiệm cách
nhau 3 tháng sau khi đã được hỗ trợ về tuân thủ điều trị tốt
Khuyến cáo theo dõi tải lượng HIV thường ưu tiên hơn so với theo dõi
bằng lâm sàng và miễn dịch vì tải lượng HIV cung cấp chỉ điểm thất bại điều
trị sớm và chính xác hơn để kịp thời chuyển đổi phác đồ bậc 2, giảm nguy cơ
tích lũy đột biến kháng thuốc và cải thiện tình trạng lâm sàng. Đo tải lượng
HIV cũng giúp phân biệt thất bại điều trị và kém tuân thủ [102] và tiên lượng
nguy cơ lan truyền HIV [95].
Theo khuyến cáo của WHO, ngưỡng phát hiện thất bại điều trị về vi rút
học hiện nay là ≥ 3 log bản sao/ml với 2 lý do chính: (1) hiện tượng blip hay
nồng độ vi rút ở mức thấp không liên tục (50 – 1000 bản sao/ml) có thể xảy ra
trong quá trình điều trị có hiệu quả mà không liên quan đến các yếu tố nguy cơ
gây thất bại điều trị [64]; (2) các nghiên cứu lâm sàng và dịch tễ cho thấy nguy
cơ lan truyền HIV và tiến triển bệnh rất chậm nếu tải lượng HIV dưới 3 log
bản sao/ml [60], [88], [94].
Lưu ý đối với trẻ em
Đáp ứng với nhiễm HIV ở trẻ sơ sinh hoàn toàn khác với ở người lớn.
Nhiễm HIV do mẹ truyền sang thường xuất hiện triệu chứng lâm sàng sau 2
năm. Trẻ nhiễm HIV lúc sinh nếu không được điều trị thường có tiên lượng
rất xấu. Tỷ lệ diễn tiến bệnh nặng trong một vài năm đầu đời rất cao do hệ
thống miễn dịch của trẻ chưa hoàn chỉnh. Do đó từ năm 2010, Tổ chức Y tế
32
thế giới đã khuyến cáo tầm soát sớm nhiễm HIV cho trẻ sơ sinh và điều trị
bằng HAART ngay sau khi chẩn đoán xác định để giảm nguy cơ bệnh nặng
và tử vong cho trẻ [105], [108], [139].
Ở trẻ dưới 18 tháng tuổi, do có thể vẫn còn tồn lưu kháng thể của mẹ
truyền sang nên để chẩn đoán nhiễm HIV cho trẻ dưới 18 tháng tuổi thì không
thể dùng các xét nghiệm huyết thanh học tìm kháng thể kháng HIV như đối
với người lớn và trẻ lớn, mà phải dùng kỹ thuật sinh học phân tử (PCR) để
tìm chất liệu di truyền của HIV trong huyết tương (RNA) hoặc trong tế bào
(DNA pro vi rút) [4], [6].
Trẻ em được bắt đầu điều trị bằng ARV sớm khi số lượng tế bào
lympho T CD4 còn cao nên xét nghiệm tải lượng HIV để theo dõi đáp ứng và
phát hiện thất bại điều trị sẽ hữu dụng hơn. Tuy nhiên, kết quả tải lượng HIV ở
thời điểm sáu tháng đầu sau khi bắt đầu điều trị cần được xem xét cẩn thận vì
trẻ nhỏ cần nhiều thời gian hơn để đạt được ức chế vi rút do tải lượng HIV ở
thời điểm bắt đầu cao hơn nhiều [31].
1.4. TÌNH HÌNH KHÁNG THUỐC ARV CỦA HIV
1.4.1. Kháng thuốc trên bệnh nhân lúc bắt đầu điều trị ARV
Tình hình chung trên thế giới
Theo các nghiên cứu khảo sát tỷ lệ kháng thuốc ARV, có từ 1,0%
[145] đến 8% và trung bình là 5,0% theo kết quả tổng hợp của Tổ chức Y tế
thế giới năm 2012 [140] số người có ít nhất một đột biến kháng ARV bất kỳ
tại thời điểm bắt đầu điều trị. Tỷ lệ có đột biến trên quần thể này có xu hướng
tăng theo thời gian [140] nhất đối với các thuốc NRTIs và NNRTIs; tỷ lệ
kháng với PIs vẫn ở duy trì mức rất thấp (0% - 0,5%).
33
Bảng 1.3. Tỷ lệ có đột biến kháng thuốc khi bắt đầu điều trị bằng ARV trong báo cáo của WHO, năm 2007-2010 [140]
Tỷ lệ hiện mắc các đột biến HIV kháng thuốc %
Loại đột biến
4,8 (3,8–6,0) 3,9 (3,0–4,9) 4,6 (2,2–7,8)
6,8 (4,8–9,0)
2007 (KTC 95%) 2009 2008 2010
1,2 (0,7–2,0) 1,3 (0,8–2,0) 1,1 (0,3–2,2)
1,0 (0.3–2,1)
Đột biến bất kỳ
3,7 (2,5–4,9) 2,4 (1,6–3,3) 3,3 (1,8–5.1)
5,5 (3,8–7,4)
Kháng NRTIs
0,3 (0,0–0,7) 0,4 (0,1–0,8) 0,5 (0,0–1,7)
0,0 (0,0–0,4)
Kháng NNRTIs
Kháng PIs
Tại khu vực Châu Phi, trên nhóm đối tượng trẻ em ghi nhận tỷ lệ kháng
thuốc tại thời điểm bắt đầu điều trị là 5,4% tại Mozambique [132], hay 10%
tại Uganda, và đối với nhóm trẻ dưới 3 tuổi thì tỷ lệ cao hơn đáng kể là 15,2%
[80].
Tại khu vực Đông Nam Á và Nam Á
Tỷ lệ bệnh nhân chưa từng tiếp xúc với ARV (ARV naive) (bao gồm
người cho máu, phụ nữ mang thai, trẻ em, . . . ) mang ít nhất một đột biến
kháng thuốc dao động từ 0% đến 5,2% [27], [30], [40], [43], [49], [70], [86],
[104], [120], [122], [123], [127], [128] . Tuy nhiên, có một khảo sát ở Ấn Độ
thì tỷ lệ mang đột biến kháng thuốc trên quần thể bệnh nhân mới nhiễm chưa
từng tiếp xúc với ARV lên đến 11%, và kết quả trên một nghiên cứu đa trung
tâm khu vực Đông Nam Á năm 2007 – 2009, tỷ lệ này lên đến 13,8 % [113].
Trên đối tượng bắt đầu điều trị bằng ARV (có thể đã từng tiếp xúc với
ARV qua các chương trình điều trị dự phòng), tỷ lệ mang đột biến kháng
thuốc dao động từ 0% đến 6,8% [28], [29], [101] và ghi nhận tỷ lệ đến 10%
trong một khảo sát ở Ấn Độ trên đối tượng học viên trường quân đội [85].
34
Tại Việt Nam
Trong giai đoạn 2001 – 2009, các nghiên cứu HIV kháng thuốc trên
người nhiễm HIV chưa điều trị bằng ARV ghi nhận có 2,9% - 7,6% trường
hợp có đột biến HIV kháng thuốc [50], [112].
Kết quả từ một nghiên cứu cắt ngang - đa trung tâm ở Việt Nam trên
8654 bệnh nhân chưa điều trị bằng ARV năm 2009 có 7,6% bệnh nhân được
phát hiện có đột biến kháng thuốc [111].
Trong một nghiên cứu về tính kháng thuốc được thực hiện tại Thành
phố Hồ Chí Minh vào năm 2002 - 2003, tỷ lệ HIV kháng thuốc trên các đối
tượng là những người nghiện chích ma túy, phụ nữ mại dâm và bệnh nhân
mắc các bệnh lây truyền qua đường tình dục chưa từng tiếp cận với ARV là
6,5% [17]. Kết quả nghiên cứu của Viện Pasteur Thành phố Hồ Chí Minh trên
50 thai phụ chưa tiếp cận ARV [17]; có tỷ lệ HIV kháng thuốc thấp, dưới 5%.
Kết quả từ một nghiên cứu đoàn hệ tại Tp. Hồ Chí Minh, Hải Phòng và
Hải Dương, tỷ lệ người lớn có ít nhất một đột biến kháng với bất kỳ loại
ARV nào tại thời điểm bắt đầu điều trị là 3,5% [13]
Kết quả của một nghiên cứu tại Bệnh viện Nhi trung ương ở trẻ em
miền Bắc thì tỷ lệ trẻ chưa điều trị có đột biến kháng thuốc là 6,4% [111].
Các đột biến thường gặp trên bệnh nhân chưa điều trị
Đột biến kháng thuốc ghi nhận được từ tất cả các nghiên cứu trên chủ
yếu là kháng với các thuốc thuộc nhóm NRTIs và NNRTIs; các đột biến
kháng PIs chưa ghi nhận hoặc có tỷ lệ rất thấp (Biểu đồ 1.1).
35
Biểu đồ 1.1. Phân bố các đột biến kháng thuốc ARV trên quần thể nhiễm HIV trước khi bắt đầu điều trị ARV, năm 2007 – 2010 [140]
Các đột biến thường ghi nhận gây kháng thuốc nhóm NRTIs trên nhóm
đối tượng này là: M41L, A62V, T215S/D/E, M184V. Đối với nhóm NNRTIs
thì các đột biến thường gặp là: K103N, E138A, V179D, V108I. Đột biến
kháng nhóm PIs nếu ghi nhận được thường là các đột biến: L33F, M46I/L,
L90M [129], [137].
1.4.2. Kháng thuốc trên bệnh nhân đang điều trị ARV
1.4.2.1. Tỷ lệ bệnh nhân có HIV kháng thuốc
Kết quả kháng thuốc trên bệnh nhân đang điều trị chủ yếu có được từ
các khảo sát theo dõi sự xuất hiện HIV kháng thuốc theo hướng dẫn của
WHO và thường được đánh giá tại thời điểm 12 tháng sau điều trị phác đồ bậc
1 theo hướng dẫn quốc gia. Thống kê của WHO năm 2012, kết quả sau 12
tháng điều trị thể hiện trong bảng 1.4.
36
Bảng 1.4. Tỷ lệ đáp ứng vi rút học và kháng thuốc sau 12 tháng điều trị bằng ARV phác đồ bậc 1 [140]
Tình trạng sau 12 tháng điều trị ARV phác đồ bậc 1
Khu vực
Châu Phi Đông Phi Nam Phi
Đạt ức chế vi rút (% số người bắt đầu điều trị) (tải lượng HIV <3 log bản sao/ml) 76,6% 79,4% 80,3% 59,9% 71,4% 76,1% Có ít nhất 1 đột biến kháng thuốc (tính trên % số người bắt đầu điều trị) 4,7% 4,3% 4,7% 6,0% 8,9% 5,1%
Tây/Trung Phi Đông Nam Á Chung
Nghiên cứu trên người lớn tại Malawi năm 2008 - 2009 với tỷ lệ mang
đột biến kháng thuốc là 6,1% sau 12 tháng điều trị ARV phác đồ bậc 1 [135].
Theo kết quả từ các nghiên cứu cắt ngang ở khu vực Châu Á, có 4,9%
bệnh nhân có đột biến kháng thuốc xuất hiện sau 6 tháng điều trị bằng ARV
phác đồ bậc 1 tại Thailand năm 2005 [78], ở Ấn Độ năm 2011 [57] có 11,4%
bệnh nhân có đột biến kháng thuốc xuất hiện sau trung bình 30 tháng điều trị
bằng ARV phác đồ bậc 1 , tại Trung Quốc năm 2007 có 3,8% bệnh nhân có
đột biến kháng thuốc xuất hiện sau 12 tháng điều trị bằng ARV phác đồ bậc 1
[113]. Trên bệnh nhi ở Mozambique năm 2007 – 2008, tỷ lệ mang đột biến
kháng thuốc là 10,3% sau 12 tháng điều trị bằng ARV phác đồ bậc 1 [132].
Tại Việt Nam, kết quả từ một nghiên cứu đoàn hệ trên đối tượng người
lớn điều trị bằng ARV phác đồ bậc 1 theo hướng dẫn của Bộ Y tế tại Thành
phố Hồ Chí Minh, Hải Dương và Hải Phòng, tỷ lệ bệnh nhân mang đột biến
kháng thuốc là 2,9% sau 12 tháng điều trị bằng ARV phác đồ bậc 1 [13]. Kết
quả nghiên cứu cắt ngang khác trên người lớn sau 12 tháng điều trị bằng ARV
37
phác đồ bậc 1 tại Thành phố Hồ Chí Minh năm 2009 – 2011, tỷ lệ mang đột
biến kháng thuốc là 7,4% [17].
1.4.2.2. Các đột biến kháng ARV thường gặp
Đột biến ghi nhận được trên nhóm đối tượng này từ tất cả các nghiên
cứu trên chủ yếu cũng là kháng với các thuốc thuộc nhóm NRTIs và NNRTIs;
các đột biến kháng PIs vẫn chưa ghi nhận hoặc có tỷ lệ rất thấp.
Trên bệnh nhân điều trị ARV, các đột biến thường gặp đối với nhóm
thuốc NRTIs (≥ 10%) là M184V, T215Y/F, K70R, D67N, L210W, và K219Q
đều là những đột biến trong danh sách đột biến cần giám sát, theo dõi [129].
Trong đó, M184V là đột biến quan trọng ở vùng trung tâm hoạt động của RT,
gây kháng cao với 3TC.
Các đột biến gây kháng các thuốc AZT và d4T là các thuốc nhóm đồng
phân thymidine thuộc nhóm NRTIs gọi là đột biến kháng thuốc nhóm đồng
phân thymidine hay TAMs [117], [109]. Những đột biến này làm giảm hoạt
tính kháng vi rút của cả d4T và AZT và cũng gây kháng chéo với hầu hết các
thuốc khác thuộc nhóm NRTIs. Các TAMs chính là M41L và T215FY; ở
những bệnh nhân đã tiếp xúc với NRTIs, đôi khi các TAMs như M41L,
L210W và T215Y có thể làm tăng tính nhạy cảm với NNRTIs [71], [46], [48]
[116].
Các nghiên cứu đã xác định được 2 nhóm đột biến TAMs; nhóm TAM1
thường liên quan đến kháng sau dùng d4T, gồm M41L, L210W và T215Y;
nhóm TAM2 gồm D67N, K70R, T215F, và K219EQ thì thường liên quan đến
kháng sau dùng AZT. Các TAMs thường hiện diện theo nhóm sau dùng AZT
hoặc d4T, nhưng cũng có thể bao gồm đột biến của cả 2 nhóm [47].
Dùng AZT và d4T thường gây ra TAMs với tỷ lệ như nhau; AZT và
d4T vẫn có những đột biến khác đặc hiệu hơn với riêng từng thuốc. Vi rút
kháng AZT thường ổn định; một số nghiên cứu trên bệnh nhân đã ngưng AZT
38
do kháng vẫn thấy có một hoặc nhiều đột biến kháng thuốc AZT sau một năm
ngưng dùng AZT [48], [74].
Đột biến chèn hoặc mất axit amin xung quanh vị trí 69 (67 – 70), các
đột biến K65R, L74V, Y115F là những đột biến thường chỉ xuất hiện sau một
thời gian điều trị bằng NRTIs, các đột biến này thường gây kháng với hầu hết
NRTIs, kể cả TDF, nhất là khi có kèm TAMs [67].
Đối với nhóm thuốc NNRTIs, các đột biến thường gặp (≥ 10%) là
K103N, Y181C, G190A đều là những đột biến gây kháng cao (≥ 60 điểm) và
kháng chéo cả nhóm NNRTIs [129]. Trong đó, K103N gây kháng cao với hầu
hết NNRTIs. Hầu hết các đột biến này chỉ được tích lũy sau thời gian điều trị
bằng NNRTIs [67].
Các đột biến thường gặp (≥ 10%) đối với nhóm thuốc PIs là L10F,
L33F, M46I/L, I54V, V82A, I84V, L90M trong đó 6/8 (trừ L10F, L33F) là
đột biến trong danh sách đột biến cần giám sát, theo dõi [129].
1.4.3. Các yếu tố liên quan đến sự xuất hiện đột biến kháng thuốc
Các yếu tố liên quan đến thất bại điều trị và làm xuất hiện chủng HIV
mang đột biến kháng thuốc được phân thành 4 nhóm: (1) yếu tố liên quan đến
HIV; (2) yếu tố về phác đồ điều trị bằng ARV và tương tác thuốc; (3) yếu tố
bệnh nhân; và (4) các yếu tố liên quan đến chương trình chăm sóc - điều trị
HIV/AIDS [140].
1.4.3.1. Yếu tố liên quan đến HIV:
Tính đa biến về di truyền: HIV có tính đa biến di truyền rất cao. Vi rút
phân lập được trên cùng bệnh nhân là một tập hợp những vi rút khác nhau từ
3 - 5% về đặc điểm di truyền. Sự khác nhau này chủ yếu là do men sao chép
ngược trong quá trình đọc mã, đã có những sai sót với tần xuất 5/10.000 –
6,7/10.000 cặp base bị đột biến mỗi chu kỳ (khoảng 5 - 6 đột biến trong một
39
chu kỳ nhân lên) và tốc độ nhân lên của vi rút rất cao (109 - 1010 vi rút/ ngày).
Các đột biến này giúp cho vi rút có khả năng thoát khỏi hệ thống miễn dịch
HIV có mức độ kháng thuốc khác nhau với các loại thuốc ARV. Một
số thuốc có rào cản di truyền thấp, nên vi r út chỉ cần có một đột biến điểm
trên gen đã có thể gây kháng thuốc như các thuốc nhóm NNRTIs hoặc
lamivudine (3TC) thuộc nhóm NRTIs. Một số thuốc khác như các thuốc ức
chế protease (PIs) có rào cản di truyền cao, thì HIV thường cần tích lũy
nhiều đột biến kết hợp mới có thể gây ra kháng thuốc [140].
HIV-2 và HIV-1 nhóm O có tính kháng thuốc tự nhiên với một số
thuốc ARV. Trong các nghiên cứu in vitro, HIV-2 có thể có thể đề kháng với
một số thuốc PIs như Amprenavir và Atazanavir.
1.4.3.2. Yếu tố về phác đồ điều trị ARV và tương tác thuốc
Việc điều trị bằng ARV với phác đồ không “đủ mạnh” nghĩa là kết hợp
ít hơn 3 loại thuốc theo khuyến cáo, hoặc kết hợp 3 loại thuốc ARV không
phù hợp có thể làm gia tăng nguy cơ thất bại vi rút học [42].
Sự tương tác giữa các thuốc (giữa các ARV với nhau hoặc ARV với
thuốc khác như thuốc điều trị lao) có thể làm giảm nồng độ ARV trong máu
xuống dưới mức tối ưu tạo điều kiện cho các chủng vi rút kháng thuốc
xuất hiện [37], [89].
Ngoài ra, các trường hợp có tiếp xúc với thuốc ARV trước khi điều trị
bằng ARV phác đồ bậc một như điều trị không đủ liều, điều trị dự phòng, cũng
có khả năng làm phát sinh các chủng HIV kháng thuốc trước điều trị [26], dẫn
tới thất bại vi rút học nhanh hơn và tích lũy thêm đột biến kháng thuốc mới
[75].
Việc chậm chuyển sang phác đồ bậc 2 có kết hợp các thuốc thuộc
nhóm NRTIs khi bệnh nhân đã có sự tích lũy các đột biến TAMs hay những
40
đột biến khác cũng có thể dẫn đến kháng chéo với một số hoặc tất cả các
NRTIs sẽ được sử dụng trong phác đồ bậc 2 và làm giảm hiệu quả điều trị
[140].
1.4.3.3. Yếu tố người bệnh:
Tuân thủ điều trị được cho là yếu tố quan trọng hàng đầu trong sự
thành công của điều trị bằng ARV. Tuân thủ điều trị kém là một trong những
yếu tố tiên lượng thất bại điều trị [33].
Việc điều trị ngắt quãng, thậm chí chỉ trong vòng vài ngày, có thể sẽ
dẫn đến xuất hiện tình trạng nồng độ thuốc ARV ở dưới mức tối ưu [34].
Việc sử dụng các phác đồ phức hợp với nhiều viên thuốc hoặc kích cỡ các
viên thuốc quá to cũng làm giảm sự tuân thủ điều trị nhất là ở trẻ em [77],
[91]. Trái lại, sử dụng loại thuốc viên phối hợp liều cố định có thể cải thiện
sự tuân thủ điều trị của bệnh nhân [77].
Ngoài ra, trẻ em có nguy cơ xuất hiện đột biến HIV kháng thuốc cao
hơn do việc điều trị của trẻ thường phụ thuộc vào người chăm sóc.
1.4.3.4. Yếu tố liên quan đến chương trình chăm sóc - điều trị HIV/AIDS
Các cơ sở điều trị HIV/AIDS quá đông hoặc thiếu nhân viên sẽ không
có đủ thời gian dành cho tư vấn và củng cố những thông điệp về tuân thủ
điều trị. Việc giảm chất lượng tư vấn và mức độ theo dõi bệnh nhân của các
cơ sở điều trị thuốc ARV có thể làm tăng tình trạng mất dấu, dẫn tới tỷ lệ
gián đoạn điều trị cao hơn và có thêm nhiều người không rõ kết quả điều trị
[45].
Ở các nước có nguồn lực hạn chế, các khó khăn để được tiếp cận với
điều trị bằng ARV liên tục và gián đoạn nhận thuốc (do vấn đề cung ứng
thuốc không đảm bảo tính liên tụ và đầy đủ) góp phần vào việc việc gia tăng
nguy cơ xuất hiện đột biến HIV kháng thuốc [76].
41
Chương 2
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
2.1.1. Đối tượng nghiên cứu
Bệnh nhi nhiễm HIV bắt đầu đuợc điều trị bằng thuốc ARV theo phác đồ
bậc 1 tại hai phòng khám ngoại trú thuộc bệnh viện Nhi Đồng 1 và bệnh viện
Nhi Đồng 2 Thành phố Hồ Chí Minh.
2.1.2. Tiêu chuẩn chọn mẫu
- Tuổi bệnh nhân ≤ 15
- Trẻ đủ tiêu chuẩn điều trị bằng thuốc ARV phác đồ bậc 1 theo quy
định của Bộ Y tế (phụ lục 7).
- Cha mẹ hoặc người giám hộ đồng ý và xác định vào giấy cam kết
tham gia vào nghiên cứu.
2.1.3. Tiêu chuẩn loại trừ
- Những bệnh nhi đang tham gia nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng
hoặc nghiên cứu lâm sàng khác.
- Bệnh nhi đã hoặc đang được điều trị bằng ARV trước khi được tiếp
cận để vào nghiên cứu
Lưu ý: những bệnh nhi đã điều trị bằng ARV trước đó từ chương trình phòng
lây truyền nhiễm HIV từ mẹ sang con vẫn được đưa vào nhóm nghiên cứu
nếu đủ tiêu chuẩn bắt đầu điều trị phác đồ bậc 1 theo qui định của Bộ Y tế.
2.1.4. Địa điểm và thời gian nghiên cứu
Nghiên cứu được thực hiện tại Viện Pasteur Thành phố Hồ Chí Minh,
Bệnh viện Nhi Đồng 1 và bệnh viện Nhi Đồng 2 Thành phố Hồ Chí Minh từ
tháng 11 năm 2011 đến tháng 9 năm 2014.
42
2.2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.2.1. Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu tiền cứu, mô tả cắt ngang trên cùng quần thể bệnh nhi lúc
bắt đầu điều trị và sau 12 tháng điều trị bằng ARV theo phác đồ bậc 1.
2.2.2. Cỡ mẫu: được tính theo công thức:
Z2 (1- α /2 ) x p x (1-p)
n = -----------------------------
d 2
Với:
- p: trị số mong muốn của tỷ lệ.
Chọn p = 7,4% (Tỷ lệ đột biến kháng thuốc trên bệnh nhân nhiễm HIV
sau 12 tháng điều trị bằng ARV phác đồ bậc 1 theo điều tra cắt ngang tại
Thành phố Hồ Chí Minh năm 2009 – 2011 của tác giả Huỳnh Hoàng Khánh
Thư) [17]
- α = 0,05
- Z2 (1- α /2 ) là hệ số tin cậy; với mức ý nghĩa α = 5% thì Z2 (1- α /2 )= 1,96
- d: sai số, mong muốn độ chính xác từ 95% trở lên nên chọn d = 5%
Do đó, cỡ mẫu tối thiểu cần phải có để thực hiện đề tài là: n = 105
Để đảm bảo thu dung đủ cỡ mẫu cần thiết, cần phải tính thêm 15% chết
và mất dấu của bệnh nhi sau 12 tháng điều trị ARV (5% chết và 10% mất dấu
– không theo dõi tiếp được đến 12 tháng [128]). Như vậy, số bệnh nhi tối
thiểu cần thu dung lúc bắt đầu điều trị là: 105 + 15,8; làm tròn thành 121
2.2.3. Phương pháp chọn mẫu
Chọn mẫu toàn bộ
2.2.4. Các biến số nghiên cứu
- Tuổi: được tính theo tháng dựa trên ngày sinh.
43
- Giới tính: có 2 giá trị nam và nữ.
- Nơi cư trú: Tp. Hồ Chí Minh, hoặc tỉnh/thành phố khác (ghi cụ thể tên
tỉnh/thành phố).
- Đường lây truyền: mẹ sang con hay đường khác (ghi cụ thể), hoặc
không rõ nếu không có dữ liệu
- Các dữ liệu về việc tham gia phòng lây truyền nhiễm HIV từ mẹ sang
con: có tham gia hay không, nếu có thì ghi nhận phác đồ và thời gian đã dùng
thuốc, hoặc không rõ nếu không có dữ liệu
- Giai đoạn lâm sàng theo WHO lúc bắt đầu và sau 12 tháng điều trị
ARV: I, II, III hoặc IV (theo phụ lục 9), hoặc không rõ nếu không có dữ liệu
- Các nhiễm trùng cơ hội: có hay không, nếu có thì ghi nhận loại bệnh,
phác đồ và thời gian điều trị.
- Số lượng tế bào LT CD4 lúc bắt đầu và sau 12 tháng điều trị ARV: tính
bằng tỷ lệ % của LT CD4 trong tổng số tế bào lympho trong máu, hoặc ghi
“không rõ” nếu không có dữ liệu.
- Phác đồ ARV được sử dụng lúc bắt đầu.
- Có thay đổi phác đồ không, nếu có ghi nhận phác đồ mới, lý do và thời
điểm thay đổi phác đồ.
- Tình trạng tuân thủ: số lần tái khám không đúng hẹn và đếm số thuốc
còn lại lúc tái khám
- Tải lượng HIV lúc bắt đầu và sau 12 tháng điều trị ARV: tính bằng đơn
vị log bản sao/ml.
- Xét nghiệm định týp gen HIV kháng thuốc lúc bắt đầu và kết thúc:
o Xác định có đột biến (theo ngân hàng dữ liệu HIV kháng thuốc
Đại học Stanford – Hoa Kỳ) hay không?
o Xác định tỷ lệ bệnh nhi có đột biến.
44
o Xác định vị trí đột biến và khả năng gây kháng thuốc của đột
biến (điểm đột biến, kháng thuốc gì và mức độ kháng).
2.2.5. Nội dung nghiên cứu
2.2.5.1. Mô tả đặc điểm mẫu nghiên cứu
- Tuổi bắt đầu điều trị, giới, nơi cư trú
- Dữ liệu về tham gia chương trình phòng lây truyền nhiễm HIV từ mẹ
sang con và tiếp cận ARV
2.2.5.2. Xác định một số đặc điểm lâm sàng và sinh học lúc bắt đầu điều trị
ARV
- Giai đoạn lâm sàng theo WHO.
- Nhiễm trùng cơ hội.
- Số lượng tế bào LT CD4 trong máu.
- Thứ týp di truyền của vi rút.
- Tải lượng vi rút (HIV RNA trong huyết tương).
- Phác đồ điều trị.
2.2.5.3. Mô tả đột biến kháng thuốc lúc bắt đầu điều trị ARV
- Xác định đột biến.
- Tỷ lệ đột biến.
- Đặc điểm các đột biến: điểm và mức độ gây kháng thuốc.
- Tìm hiểu mối liên quan giữa đột biến với các yếu tố dân số - xã hội,
tiếp cận ARV trong chương trình phòng lây truyền nhiễm HIV từ mẹ sang
con, số lượng tế bào LT CD4, tải lượng vi rút, các nhiễm trùng cơ hội, giai
đoạn lâm sàng.
2.2.5.4. Mô tả tình trạng đáp ứng sau 12 tháng điều trị
- Tỷ lệ chết, mất dấu, chuyển đi, chuyển phác đồ.
- Giai đoạn lâm sàng theo WHO.
45
- Số lượng tế bào LT CD4.
- Tải lượng HIV.
- Phân loại kết quả đáp ứng vi rút học tại thời điểm 12 tháng sau điều trị
(mục 2.3.4).
2.2.5.5. Mô tả đột biến kháng thuốc sau 12 tháng điều trị ARV phác đồ 1
- Xác định đột biến.
- Tỷ lệ đột biến.
- Đặc điểm các đột biến: điểm và mức độ gây kháng thuốc.
- Tìm hiểu mối liên quan giữa đột biến với các yếu tố dân số - xã hội,
tiếp cận ARV trong chương phòng lây truyền nhiễm HIV từ mẹ sang con, số
lượng tế bào LT CD4, tải lượng vi rút, các nhiễm trùng cơ hội, giai đoạn lâm
sàng, đột biến có sẵn tại thời điểm bắt đầu điều trị ARV, tuân thủ điều trị.
2.3. CÁC BƯỚC TIẾN HÀNH NGHIÊN CỨU
- Khám, chọn bệnh.
- Tham vấn tham gia nghiên cứu, lấy phiếu xác nhận đồng ý.
- Lấy mẫu máu thời điểm bắt đầu điều trị ARV phác đồ bậc 1:
+ Xét nghiệm định lượng HIV RNA bằng kỹ thuật Real-time PCR để
chọn ra những mẫu có nồng độ vi rút ≥ 3 log bản sao/ml (1000 bản sao/ml)
+ Tiến hành giải trình tự gen phát hiện và phân tích đặc điểm các đột
biến kháng thuốc đối với những mẫu có nồng độ vi rút ≥ 3 log bản sao/ml.
- Theo dõi bệnh nhi trong 12 ± 1 tháng theo quy định của Bộ Y tế.
- Ghi nhận việc tuân thủ điều trị.
- Lấy mẫu máu thời điểm 12 ± 1 tháng sau khi điều trị ARV phác đồ bậc
1 hoặc ngay trước khi chuyển đổi sang phác đồ bậc 2:
+ Xét nghiệm định lượng HIV RNA bằng kỹ thuật Real-time PCR để
chọn ra những mẫu có nồng độ vi rút ≥ 3 log bản sao/ml.
46
+ Tiến hành giải trình tự gen phát hiện và phân tích đặc điểm các đột
biến kháng thuốc đối với những mẫu có nồng độ vi rút ≥ 3 log bản sao/ml.
2.3.1. Khám, chọn bệnh
Chúng tôi đã phối hợp với bệnh viện Nhi Đồng 1 và bệnh viện Nhi
Đồng 2 tuyển chọn đội ngũ tham gia nghiên cứu bao gồm:
o Giám sát viên: giám sát hoạt động thu thập dữ liệu và mẫu máu.
o Tất cả các bác sĩ, điều dưỡng và tư vấn viên được tập huấn nắm rõ về
quy trình và tham gia sàng lọc, tuyển chọn bệnh nhi.
2.3.1.1. Tiến trình tiếp nhận bệnh nhi
Các bệnh nhi HIV/AIDS đến khám và điều trị tại bệnh viện Nhi Đồng 1
và bệnh viện Nhi Đồng 2 được các bác sĩ lâm sàng khám để phân loại giai
đoạn lâm sàng và tiến hành các xét nghiệm cần thiết (đếm số lượng tế bào
lympho T CD4, công thức máu và chức năng gan,…). Đối với các bệnh nhi
đủ các tiêu chuẩn điều trị dựa trên lâm sàng và/hoặc miễn dịch theo hướng
dẫn quốc gia về chẩn đoán và điều trị HIV/AIDS, Bộ Y tế, 2009 [3], và chưa
dùng ARV trước đó, cha/mẹ hoặc người giám hộ được tư vấn để đưa vào
nghiên cứu, thực hiện các xét nghiệm tiếp theo và sau đó cho thuốc điều trị.
Nhóm cha mẹ hoặc người giám hộ của bệnh nhi sẽ trải qua quá trình tư vấn
giới thiệu về mục đích và nội dung nghiên cứu và tìm hiểu xem có muốn cho
bệnh nhi tham gia nghiên cứu hay không.
2.3.1.2. Tiến trình thu nhận bệnh nhi tham gia vào nghiên cứu
Sau khi tư vấn, nếu không đồng ý tham gia, bệnh nhi này vẫn được điều
trị bằng ARV theo quy trình hiện có tại cơ sở điều trị. Nếu đồng ý, cha mẹ
hoặc người giám hộ của bệnh nhi sẽ xác nhận vào “Phiếu đồng ý tham gia vào
nghiên cứu” với chữ ký xác nhận của cha mẹ hoặc người giám hộ của bệnh
nhi và cán bộ tư vấn (Phụ lục 4).
47
Mỗi bệnh nhi tham gia vào nghiên cứu có một mã số nghiên cứu riêng
biệt được quy định. Thông tin đăng ký được ghi vào “Phiếu thu thập và vận
chuyển mẫu” bao gồm ngày lấy mẫu máu, ngày bắt đầu điều trị, mã số bệnh
nhi (Phụ lục 3)
2.3.2. Thu thập dữ liệu và lấy bệnh phẩm
2.3.2.1. Thu thập dữ liệu và mẫu máu tại thời điểm bắt đầu nghiên cứu
Mỗi bệnh nhi được thu thập các thông tin sau:
- Đặc điểm dân số xã hội, tình trạng lâm sàng, điều trị bằng ARV trước
đó (phòng lây truyền nhiễm HIV từ mẹ sang con), phác đồ ARV đã sử dụng
và thời điểm bắt đầu. Danh sách các dữ liệu cần thu thập được thể hiện tại
Phụ lục 1. Các dữ liệu này được thu thập từ bệnh án chuẩn của Bộ Y tế ban
hành hiện có tại các cơ sở điều trị.
- Thu thập mẫu máu, xử lý, vận chuyển và bảo quản mẫu được ghi nhận
để kiểm soát chất lượng của các mẫu đã lấy.
- Ngày đầu tiên đến nhận thuốc, mỗi bệnh nhi được lấy máu để tiến hành
xét nghiệm tải lượng vi rút và xét nghiệm HIV kháng thuốc trước khi bắt đầu
điều trị ARV. Thuốc được bắt đầu điều trị ngay và không phụ thuộc vào kết
quả xét nghiệm kháng thuốc ARV.
2.3.2.2. Thu thập dữ liệu và lấy máu tại thời điểm 12 ± 1 tháng sau điều trị
(thời điểm kết thúc nghiên cứu)
- Sau thời gian điều trị theo quy định (12 tháng đối với bệnh nhi còn duy
trì phác đồ bậc 1 và bệnh nhi chuyển sang phác đồ bậc 2 trong thời gian
nghiên cứu), tiến hành lấy mẫu máu tại thời điểm kết thúc. Ghi nhận số bệnh
nhi mất dấu và chuyển đi trong thời gian nghiên cứu.
+ Tất cả các mẫu này được làm xét nghiệm đo tải lượng HIV.
48
+ Các mẫu có tải lượng HIV ≥ 3 log bản sao/ml được làm xét nghiệm
phát hiện đột biến kháng thuốc.
- Các dữ liệu theo dõi sự thu thập mẫu từ các bệnh nhi tại thời điểm 12
tháng sau điều trị ARV (thời điểm kết thúc) được trình bày trong Phụ lục 2.
Nhóm kỹ thuật đã làm việc trực tiếp với các nhân viên tại cơ sở điều trị
để xác định thời điểm kết thúc nghiên cứu kể từ thời điểm bắt đầu triển khai.
Tất cả các phân loại bệnh nhi tại thời điểm kết thúc của cơ sở điều trị được
ghi nhận và xác minh trong quá trình phân tích. Theo dõi, giám sát việc thu
thập dữ liệu và mẫu máu được tiến hành định kỳ và thường xuyên tại điểm
triển khai nghiên cứu.
2.3.2.3. Thu thập, vận chuyển, xử lý, theo dõi mẫu
Cách lấy máu:
Tại thời điểm bắt đầu nghiên cứu, nhóm bệnh nhi đã được đăng ký
tham gia vào nghiên cứu tại cơ sở điều trị được lấy mẫu máu vào buổi sáng
của ngày nhận thuốc ARV đầu tiên.
Tại thời điểm kết thúc nghiên cứu, các bệnh nhi vẫn còn duy trì phác đồ
bậc 1 lúc 12 tháng sau khi bắt đầu sử dụng thuốc ARV hay các bệnh nhi
chuyển sang phác đồ bậc 2 được tiến hành lấy máu. Mẫu máu thu thập từ
bệnh nhi chuyển sang phác đồ bậc 2 được lấy trước khi bệnh nhi uống thuốc
phác đồ bậc 2. Ngoài xét nghiệm đếm số lượng tế bào lympho T CD4, công
thức máu, men gan theo thường quy, bệnh nhi được lấy thêm 5 ml máu để đo
tải lượng vi rút và xét nghiệm định týp gen HIV kháng thuốc. Với các bệnh
nhi không đến tái khám và nhận thuốc theo lịch (có thể sớm hoặc trễ hơn ± 1
tháng) cũng được lấy mẫu. Mẫu sau khi lấy được vận chuyển về phòng xét
nghiệm để được tách huyết tương và lưu vào tủ đông sâu (-700C). Quy trình
lấy mẫu được thực hiện theo đúng quy định của phòng xét nghiệm. Các kỹ
49
thuật viên đã được huấn luyện tiến hành lấy 5ml máu tĩnh mạch các bệnh nhi
có đủ tiêu chuẩn và đồng ý tham gia vào nghiên cứu, tại các thời điểm đã
5 ml máu được lấy vào ống có chất chống đông EDTA để tiến hành
được xác định. Qui trình thu thập và xử lý mẫu được thực hiện như sau:
xét nghiệm tải lượng vi rút và phân tích gen tìm đột biến kháng thuốc. Đảo
Máu được để ở nhiệt độ thường (20-300C) và chuyển ngay đến
nhẹ để tránh làm đông máu hoặc tán huyết.
phòng xét nghiệm HIV/AIDS - Viện Pasteur Thành phố Hồ Chí Minh (không
Tại phòng xét nghiệm HIV/AIDS - Viện Pasteur Thành phố Hồ Chí
quá 6 giờ sau khi lấy máu).
Minh, máu được ly tâm với tốc độ 2500 vòng trong 10 phút. Huyết tương
được chia vào 4 ống nắp vặn giữ được ở nhiệt độ âm 700C. Mỗi mẫu được hút
bằng đầu col lọc riêng để tránh nhiễm chéo giữa các mẫu. Một ống dùng đo
tải lượng vi rút, một ống dùng cho xét nghiệm phân tích gen kháng thuốc và
các ống còn lại để lưu và sử dụng khi cần.
2.3.3. Tiến hành xét nghiệm
Các mẫu được xét nghiệm tại phòng xét nghiệm HIV/AIDS - Viện
Các mẫu máu lấy tại thời điểm bắt đầu nghiên cứu được xét nghiệm
Pasteur Thành phố Hồ Chí Minh.
đo tải lượng HIV và định týp gen HIV kháng thuốc để xác định tỷ lệ hiện
Các mẫu lấy tại thời điểm kết thúc cho những bệnh nhi chuyển sang
nhiễm HIV kháng thuốc ở thời điểm ban đầu trước khi điều trị bằng ARV.
phác đồ bậc 2 và những bệnh nhi còn duy trì phác đồ điều trị bằng ARV bậc 1
tại thời điểm 12 ± 1 tháng được đo tải lượng vi rút và những mẫu có tải lượng
vi rút ≥ 3 log bản sao/ml được làm xét nghiệm định týp gen HIV kháng thuốc
để xác định tỷ lệ xuất hiện HIV kháng thuốc sau một năm điều trị bằng ARV.
50
Đo tải lượng HIV và xét nghiệm định týp gen HIV kháng thuốc được
thực hiện với các kỹ thuật chuẩn thức được công nhận đạt tiêu chuẩn ISO
15189:2007 và đã tham gia vào hệ thống ngoại kiểm tra chất lượng quốc tế
(EQAs).
2.3.3.1. Đo tải lượng HIV: kỹ thuật real time PCR (tham khảo quy trình xét
nghiệm trong Phụ lục 5)
RNA được tách chiết từ huyết tương bằng hệ thống máy tự động
MagNa Pure 96 của Roche. Sử dụng kỹ thuật real-time RT-PCR với kit
Generic HIV Charge Viral – Biocentric (ngưỡng phát hiện 250 bản sao/ml) để
xác định nồng độ HIV-1 RNA tự do trong máu tại thời điểm thực hiện xét
nghiệm kháng thuốc.
2.3.3.2. Phát hiện các đột biến kháng thuốc: kỹ thuật giải trình tự (tham
khảo quy trình xét nghiệm trong Phụ lục 6)
Những bệnh phẩm có nồng độ HIV RNA ≥ 3 log bản sao/ml được
khuếch đại và giải trình tự trên vùng gen pol (dài khoảng 1800 bps) là vùng
gen mã hóa cho các enzyme RT (reverse transcriptase) và Prot (protease) là
đích tác động của các thuốc ARV thuộc các nhóm NRTIs, NNRTIs và PIs
đang được sử dụng tại Việt Nam. Dựa trên những khác biệt trong 2 vùng gen
trên của chủng HIV xét nghiệm được với chủng HIV-1 hoang dại HBX2 để
xác định những đột biến liên quan đến tính kháng với các thuốc ARV.
Kết quả giải trình tự được phân tích bằng phần mềm DNAStar
Lasergene 12 Core Suite. Trình tự nucleotide của mẫu sau khi phân tích sẽ
được so sánh với ngân hàng dữ liệu quốc tế về HIV kháng thuốc – Stanford
(Hoa Kỳ) để xác định các đột biến liên quan đến tính kháng thuốc ARV.
Các đột biến được ghi nhận khi sự thay đổi nucleotide xảy ra đồng thời
trên cả hai mạch xuôi, ngược của chuỗi DNA của vi rút và dẫn đến sự thay
51
đổi axit amin. Đột biến có thể là sự thay đổi một nucleotide, sự tồn tại đồng
thời nhiều nucleotide tại cùng một vị trí, sự mất hay chèn thêm một hay nhiều
bộ ba mã hóa.
Các bước thực hiện như sau:
i) Tách chiết thu nhận HIV RNA: sử dụng hệ thống máy tự động
MagNA pure 96 hoặc MagNA pure LC 2.0.
ii) Khuếch đại vùng gen pol từ HIV RNA: gồm 3 bước
- Giai đoạn phiên mã ngược chuyển RNA thành cDNA bằng men AMV:
sử dụng mồi IN3.
- Giai đoạn PCR1 (khuếch đại đoạn gen pol có kích thước 2400bp) sử
dụng mồi FP0 và RP0.
- Giai đoạn nested-PCR hay PCR2 (khuếch đại đoạn pol có kích thước
1770bp) sử dụng mồi FP1 và RP1.
iii) Tinh sạch sản phẩm sau phản ứng PCR
Sử dụng bộ sinh phẩm Qiaquick PCR purification kit – Qiagen.
iv) Phản ứng PCR sequencing
Sản phẩm PCR sau khi tinh sạch được khuếch đại để tạo ra các phân
đoạn DNA khác nhau được đánh dấu huỳnh quang, sử dụng sinh phẩm
Bigdye®Terminator v3.1 sequencing với 4 mồi xuôi FP1, FP2, FP3, FP4 và 3
mồi ngược RP1, RP2, RP3.
52
Hình 2.1. Đoạn gen được khuếch đại và các mồi sử dụng cho xét nghiệm định týp gen HIV kháng thuốc
v) Thực hiện giải trình tự
Sử dụng hệ thống máy giải trình tự ABI3130XL
Các phân đoạn DNA được khuếch đại trong phản ứng giải trình tự có
đầu tận cùng là các dideoxyribonucleotide triphosphate (ddNTP) được đánh
dấu huỳnh quang do đó chúng sẽ phát ra ánh sáng huỳnh quang khi đi qua hệ
thống chiếu sáng bằng tia laser của máy. Các tín hiệu màu sẽ được chuyển
thành tín hiệu điện và hiển thị trên màn hình vi tính. Mỗi đỉnh biểu hiện cho
một nucleotide và mỗi màu biểu hiện cho một loại nucleotide xác định.
vi) Phân tích trình tự: dùng phần mềm DNASTAR
Kết quả giải trình tự của một đoạn DNA được thể hiện ở dạng một
chuỗi sắc phổ bốn màu đại diện cho bốn loại nucleotide, đồng thời cũng được
đọc thành một dãy các ký tự liên tục tương ứng với các nucleotide A, T, C, G
trên phần mềm phân tích trình tự. Vùng gen pol trên mỗi mẫu được khuếch
53
đại thành công sẽ được giải trình tự trên 7 mồi, gồm 4 mồi xuôi và 3 mồi
ngược. Chương trình SegMan của phần mềm DNASTAR sẽ nối các đoạn
trình tự “gối đầu” lên nhau thành một đoạn trình tự dài là toàn bộ vùng gen
pol.
Chương trình SegMan sẽ đọc các nucleotide bằng cách so sánh các
trình tự mạch xuôi và mạch ngược với nhau. Tuy nhiên, tại một số vị trí
nucleotide, chương trình đọc không chính xác và đòi hỏi người thực hiện kỹ
thuật phải phân tích trên toàn bộ chuỗi gen để phát hiện và chỉnh sửa các vị trí
mà chương trình cho kết quả chưa chính xác.
vii) Phân tích kết quả:
Trình tự sau khi được phân tích và chỉnh sửa sẽ được phân tích và biện
luận trên cơ sở dữ liệu về HIV kháng thuốc của Đại học Stanford để đưa ra
các thông tin về đột biến kháng thuốc, điểm đột biến và mức độ kháng với
từng loại thuốc.
54
Hình 2.2. Một kết quả phân tích từ ngân hàng dữ liệu HIV kháng thuốc Đại học Stanford – Hoa Kỳ
55
2.3.4. Phân loại kết quả đáp ứng vi rút học tại thời điểm 12 tháng sau
điều trị ARV phác đồ bậc 1
Tại thời điểm 12 tháng hoặc thời điểm chuyển sang phác đồ bậc 2, bệnh
nhi tham gia vào nghiên cứu được phân loại dựa vào thời điểm kết thúc và kết
quả xét nghiệm. Các kết quả bao gồm [134]:
2.3.4.1. Ức chế được vi rút hay dự phòng HIV kháng thuốc thành công
Được xác định khi bệnh nhân vẫn đang điều trị bằng ARV phác đồ
bậc 1 tại thời điểm 12 tháng và có tải lượng HIV < 3 log bản sao/ml.
Số bệnh nhân vẫn còn duy trì phác đồ bậc 1 có tải lượng HIV < 3 log bản sao/ml
= ------------------------------------------------------------------------------------------------ Tổng số bệnh nhân tại thời điểm bắt đầu – (số tử vong + số chuyển đi)
2.3.4.2. Ức chế được vi rút tại thời điểm chuyển phác đồ
Những bệnh nhi có tải lượng vi rút dưới ngưỡng phát hiện tại thời điểm
chuyển phác đồ thì được phân loại vào nhóm “ức chế được vi rút tại thời điểm
chuyển phác đồ” do cách chuyển phác đồ dựa vào lâm sàng không tương
thích với tiêu chí vi rút học hay chuyển phác đồ chưa cần thiết.
2.3.4.3. Có khả năng có HIV kháng thuốc: bao gồm (1) + (2)
(1): Những bệnh nhi vẫn điều trị phác đồ bậc 1 (hay phác đồ thay thế
phác đồ bậc 1) ở thời điểm 12 tháng sau khi bắt đầu điều trị bằng ARV, với
tải lượng vi rút ≥ 3 log bản sao/ml và không phát hiện có đột biến liên quan
HIV kháng thuốc tại điểm kết thúc được phân loại có khả năng kháng thuốc.
Điều này là do những bệnh nhi này tuân thủ chưa tốt với phác đồ điều trị hoặc
khả năng có đột biến HIV kháng thuốc hiện diện ở mức độ chưa xác định
được theo các phương pháp định kiểu gen tiêu chuẩn.
Số bệnh nhân có tải lượng HIV ≥ 3 log bản sao/ml và không có đột biến kháng thuốc (1)= ----------------------------------------------------------------------------------------------------------------- Tổng số bệnh nhân tại thời điểm bắt đầu – (số tử vong + số chuyển đi)
56
(2): Những bệnh nhi không theo dõi được hoặc những bệnh nhi ngừng
điều trị trong vòng 12 tháng kể từ lúc bắt đầu điều trị bằng ARV với phác đồ
bậc 1 và những bệnh nhi không thu thập được mẫu để thực hiện xét nghiệm
cũng được phân loại vào nhóm có khả năng có HIV kháng thuốc.
Số bệnh nhân không theo dõi hoặc ngừng điều trị trong 12 tháng
(2) = ----------------------------------------------------------------------------- Tổng số bệnh nhân tại thời điểm bắt đầu – (số tử vong + số chuyển đi)
2.3.4.4. HIV kháng thuốc:
Được định nghĩa là có sự hiện diện của ít nhất một đột biến gây kháng
với một hoặc nhiều loại thuốc của phác đồ bậc 1. Các đột biến được phân loại
theo cơ sở dữ liệu HIV kháng thuốc của Stanford.
- HIV kháng thuốc trước điều trị bằng ARV: Được xác định khi có
hiện diện các đột biến kháng thuốc lúc bắt đầu điều trị bằng ARV.
Tổng số bệnh nhân có đột biến kháng thuốc lúc bắt đầu điều trị ARV
= ---------------------------------------------------------------------------------------------
Tổng số mẫu được khuyếch đại và giải trình tự thành công
- HIV kháng thuốc tại thời điểm 12 tháng sau điều trị bằng ARV
phác đồ bậc 1: được xác định khi gồm đủ các điều kiện dưới đây:
+ Vẫn đang điều trị bằng ARV phác đồ bậc 1 tại thời điểm 12
tháng sau khi bắt đầu điều trị hoặc vào thời điểm trước khi chuyển sang
phác đồ ARV bậc 2 nhưng vẫn trong vòng 12 tháng sau điều trị;
+ Có tải lượng HIV tại thời điểm trên ≥ 3 log bản sao/ml;
+ Có hiện diện các đột biến kháng thuốc ARV.
Số bệnh nhân có tải lượng HIV ≥ 3 log bản sao/ml và có đột biến kháng thuốc = ---------------------------------------------------------------------------------------
Tổng số bệnh nhân tại thời điểm bắt đầu – (số tử vong + số chuyển đi)
2.3.4.5. HIV kháng thuốc không được phân loại
57
Những bệnh nhi tử vong hoặc chuyển đi tại điểm kết thúc có thể không
được phân loại. Do vậy, bệnh nhi chuyển đi và và tử vong sẽ được loại ra khỏi
tử số và mẫu số trước khi ước tính tỷ lệ hiện nhiễm của HIV kháng thuốc tại
điểm kết thúc.
2.4. XỬ LÝ SỐ LIỆU
Thực hiệu nhập dữ liệu kép (data double entries) các dữ liệu được liệt
kê ở trên bằng phần mềm EpiData V3.01.
Dữ liệu được phân tích và xử lý bằng phần mềm thống kê Stata 12
(Stata Coroparation, College Station,TX, USA).
Phân tích thống kê sử dụng các kiểm định chi bình phương hoặc Fisher
exact.
Mô hình hồi quy logistic đơn biến và đa biến được sử dụng để tìm hiểu
các yếu tố liên quan đến tình trạng xuất hiện HIV mang đột biến kháng thuốc
trên bệnh nhi tại thời điểm bắt đầu điều trị và 12 tháng sau điều trị phác đồ
bậc 1 theo hướng dẫn của Bộ Y tế Việt Nam, tính toán tỉ số chênh (OR) và
khoảng tin cậy 95%. Mối tương quan có nghĩa thống kê khi p<0,05.
58
Sơ đồ 2.1. Tóm tắt quy trình thực hiện
2.5. HẠN CHẾ SAI SỐ
Để hạn chế sai số, nhóm nghiên cứu đã thực hiện các biện pháp sau:
- Nhóm nghiên cứu phối hợp với bệnh viện Nhi Đồng 1 và bệnh viện Nhi
Đồng 2 tuyển chọn đội ngũ tham gia nghiên cứu bao gồm:
Giám sát viên: giám sát hoạt động thu thập dữ liệu và mẫu máu.
59
Tất cả các bác sĩ, điều dưỡng và tư vấn viên được tập huấn nắm rõ
về quy trình và tham gia sàng lọc, tuyển chọn bệnh nhi. Trong đó, một người
chịu trách nhiệm chính; các nhân viên thu thập thông tin bệnh nhi, một nhân
viên lấy mẫu, lưu trữ và vận chuyển mẫu; một nhân viên ghi nhận các thông
tin trong quá trình theo dõi bệnh nhi và báo cáo các số liệu thu thập.
- Tất cả mẫu máu thu thập đều được kiểm soát chặt chẽ điều kiện bảo
quản, vận chuyển và tình trạng lúc tiếp nhận mẫu. Tất cả mẫu không đạt yêu
cầu đều không được sử dụng.
- Tất cả các xét nghiệm đo tải lượng HIV và định týp gen HIV kháng
thuốc được thực hiện tại Phòng xét nghiệm HIV/AIDS – Viện Pasteur Thành
phố Hồ Chí Minh là đơn vị đã được công nhận đạt chuẩn phòng xét nghiệm Y
khoa theo ISO 15189:2007 và được Tổ chức Y tế Thế giới công nhận là
phòng xét nghiệm tham chiếu Quốc gia về xét nghiệm định týp gen HIV
kháng thuốc.
- Định kỳ mỗi 3 tháng, các nghiên cứu viên của Viện Pasteur Thành phố
Hồ Chí Minh đến 2 đơn vị thu thập mẫu để kiểm tra, đối chiếu lại tất cả các
dữ liệu ghi nhận trên các phiếu thu thập dữ liệu tại thời điểm bắt đầu và kết
thúc với hồ sơ bệnh án của bệnh nhi lưu tại đơn vị.
- Dữ liệu được nhập kép để kiểm soát sai sót do nhập liệu trước khi phân
tích dữ liệu.
- Các xét nghiệm đo tải lượng HIV và PCR trong xét nghiệm giải trình tự
gen đều được thực hiện kèm các mẫu chứng dương và chứng âm để kiểm soát
chất lượng của xét nghiệm.
2.6. ĐẠO ĐỨC TRONG NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu là một hoạt động trong khuôn khổ Dự án “Hỗ trợ nâng cấp
hệ thống phòng xét nghiệm HIV/AIDS của Viện Pasteur Thành phố Hồ Chí
60
Minh và xây dựng hệ thống phòng xét nghiệm HIV chuẩn thức tại khu vực
phía Nam, giai đoạn 2010 - 2011” - do Trung tâm Kiểm soát và Phòng chống
bệnh tật Hoa Kỳ (CDC Hoa Kỳ) viện trợ từ Quỹ cứu trợ khẩn cấp về phòng
chống HIV/AIDS của Tổng thống Hoa kỳ (PEFFAR) đã được Bộ Y tế Việt
Nam phê duyệt cho phép thực hiện theo quyết định số 5401/QĐ-BYT ngày
31/12/2010 và được sự đồng ý phối hợp thực hiện của Bệnh viện Nhi đồng 1
(theo hợp đồng số 317/HĐ-PAS ngày 09 tháng 11 năm 2012) và Bệnh viện
Nhi đồng 2 (theo hợp đồng số 177/PAS-LAM ngày 03 tháng 9 năm 2012).
Cha/mẹ hoặc người giám hộ của trẻ tham gia nghiên cứu được giải
thích rõ nội dung, mục đích nghiên cứu và ký cam kết đồng ý tham gia nghiên
cứu.
Nghiên cứu đảm bảo tính bí mật thông tin cá nhân của đối tượng tham
gia nghiên cứu.
Mẫu máu làm xét nghiệm cho nghiên cứu được lấy với thể tích chỉ 5ml
như khi xét nghiệm thường quy nên không ảnh hưởng đến sức khỏe bệnh nhi.
Kết quả xét nghiệm tải lượng HIV và định týp gen HIV kháng thuốc tại
thời điểm kết thúc nghiên cứu được thông báo ngay cho bệnh viện nơi lấy
mẫu để bác sĩ điều trị có biện pháp củng cố tuân thủ điều trị và điều chỉnh
phác đồ phù hợp cho bệnh nhi nếu cần.
61
Chương 3
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu đã triển khai tại Bệnh viện Nhi đồng 1 và Bệnh viện Nhi
đồng 2, Thành phố Hồ Chí Minh. Từ tháng 11 năm 2011 đến tháng 9 năm
2014, chúng tôi đã thu dung được 136 bệnh nhi đủ tiêu chuẩn tham gia vào
nghiên cứu, trong đó có 86 bệnh nhi tại Bệnh viện Nhi Đồng 1 và 50 bệnh nhi
tại Bệnh viện Nhi Đồng 2; sau 12 tháng điều trị bằng ARV phác đồ bậc 1, còn
lại 121 bệnh nhi đã được lấy mẫu lần 2 để phân tích. Tóm tắt tiến trình nghiên
cứu được thể hiện trong sơ đồ 3.1.
Sơ đồ 3.1. Tóm tắt tiến trình nghiên cứu
62
3.1. ĐẶC ĐIỂM CỦA MẪU NGHIÊN CỨU
3.1.1. Đặc điểm nền của mẫu nghiên cứu
Các đặc điểm dân số - xã hội của bệnh nhi tại thời điểm bắt đầu điều trị
được mô tả trong Bảng 3.1.
Bảng 3.1. Đặc điểm chung nhóm bệnh nhi tham gia nghiên cứu (n=136)
Đặc tính Số lượng (n) Tỷ lệ %
Nam 69 50,7 Giới Nữ 67 49,3
< 18 tháng 41 30,1
≥ 18 tháng 95 69,9 Tuổi phát hiện nhiễm HIV
Trung vị 37,7 tháng (IQR: 15,5 – 66,7)
< 9 tháng 22 16,2
9 - < 18 tháng 14 10,3
18 - < 60 tháng 47 34,6
Tuổi lúc bắt đầu điều trị bằng ARV ≥ 60 tháng 53 39,0
Trung vị 47,5 tháng (IQR: 17,3 – 91,3)
Tp. Hồ Chí Minh 66 48,6 Nơi cư ngụ
Tỉnh/thành phố khác 70 51,5
Nhận xét:
Trong số 136 bệnh nhi được đưa vào nghiên cứu có 50,7% là nam. Tuổi
trung vị của bệnh nhi tham gia nghiên cứu là 47,5 tháng (IQR: 17,3 – 91,3),
nhóm trẻ từ 18 tháng tuổi trở lên chiếm 73,6%.
63
48,6% bệnh nhi được đưa vào nghiên cứu cư trú tại Thành phố Hồ Chí
Minh, còn lại ở tỉnh/thành phố khác.
Bảng 3.2. Nguyên nhân lây nhiễm HIV (n=136)
Đường lây truyền Số lượng (n) Tỷ lệ %
Mẹ - con 129 94,9
Không rõ 7 5,1
Nhận xét:
129/136 (94,9%) trẻ được các bác sĩ lâm sàng ghi nhận bị lây nhiễm
HIV do lây truyền từ mẹ sang con; còn lại không rõ đường lây truyền do trẻ
đến từ các trung tâm nuôi dưỡng trẻ mồ côi, khuyết tật.
Các dữ liệu về tiếp cận chương trình phòng chống HIV/AIDS (chăm
sóc – điều trị) và dùng ARV cho mẹ và con để phòng ngừa lây truyền HIV từ
mẹ sang con được mô tả trong Biểu đồ 3.1
Biểu đồ 3.1. Tình hình tham gia chương trình phòng lây truyền nhiễm HIV từ mẹ sang con của mẹ (a) và trẻ (b) (n=136)
Nhận xét:
Trong số 136 trẻ thu dung vào nghiên cứu, chỉ ghi nhận được 6/136
(4,4%) trường hợp mẹ có tham gia chương trình phòng lây truyền nhiễm HIV
64
từ mẹ sang con; trong đó 3 mẹ chỉ được phát hiện nhiễm lúc chuyển dạ (sử
dụng phác đồ liều đơn NVP và sau đó là AZT) và có đến 85,3% mẹ không
tham gia chương trình phòng lây truyền nhiễm HIV từ mẹ sang con. Chỉ có
8,1% trẻ được dùng ARV trong chương trình phòng lây truyền nhiễm HIV từ
mẹ sang con (5/6 trẻ có mẹ tham gia chương trình phòng lây truyền nhiễm
HIV từ mẹ sang con thuộc nhóm này) và đến 80,9% trẻ được ghi nhận không
được dùng ARV trong chương trình phòng lây truyền nhiễm HIV từ mẹ sang
con, 11% trẻ dữ liệu không rõ về việc tham gia chương trình phòng lây truyền
nhiễm HIV từ mẹ sang con. Có 1 trẻ có mẹ tham gia chương trình phòng lây
truyền nhiễm HIV từ mẹ sang con nhưng trẻ lại không được dùng thuốc
phòng ngừa
Bảng 3.3. Phác đồ ARV được dùng cho trẻ trong chương trình phòng lây truyền nhiễm HIV từ mẹ sang con (n=11)
Phác đồ ARV dự phòng Số lượng (n) Tỷ lệ %
Sd NVP + AZT 10 90,9
*Sd NVP: liều đơn NVP
AZT 1 9,1
Nhận xét:
Trong số 11 trẻ được dùng thuốc ARV trong chương trình phòng lây
truyền nhiễm HIV từ mẹ sang con, 10 trẻ được sử dụng phác đồ gồm liều đơn
NVP và tiếp theo là AZT trong 7 ngày (2 trẻ) hoặc 28 ngày (8 trẻ); chỉ có 1
trẻ được dùng chỉ AZT trong 28 ngày.
Như vậy, có tất cả 8,8% (12/136) trẻ có tiếp cận ARV trong chương
trình phòng lây truyền nhiễm HIV từ mẹ sang con bao gồm: 5 cặp mẹ - con
đều được uống ARV dự phòng; 6 trẻ được dùng ARV nhưng mẹ không được
dùng; và có 1 trẻ không được dùng nhưng lại có mẹ được dùng ARV.
65
Không có trẻ nào thuộc nhóm nghiên cứu được ghi nhận có dùng ARV
khác ngoài chương trình phòng lây truyền nhiễm HIV từ mẹ sang con
3.1.2. Giai đoạn lâm sàng, số lượng LT CD4 tại thời điểm bắt đầu điều trị
57
60 50
bằng ARV
i
33
31
14
40
30 20
h n h n ệ b ố S
1
10
I
II
III
IV
Không rõ
0
Giai đoạn lâm sàng
Biểu đồ 3.2. Giai đoạn lâm sàng (theo WHO) của bệnh nhi tại thời điểm bắt đầu điều trị (n=136)
Nhận xét:
Tại thời điểm bắt đầu điều trị, có đến 34,6% (47/136) trẻ có giai đoạn
lâm sàng muộn III – IV.
Các thông tin về nhiễm trùng cơ hội được mô tả trong Bảng 3.4.
Bảng 3.4. Nhiễm trùng cơ hội tại thời điểm bắt đầu điều trị ARV (n=136)
Nhiễm trùng cơ hội Số lượng (n) Tỷ lệ %
Có 46 33,8
Không 90 66,2
Ngoài ra, nghiên cứu cũng ghi nhận có 5,1 % (7/136) trẻ có HBsAg
dương tính; 3,7% (5/136) có anti HCV dương tính và 2,2% (3/136) có kháng
nguyên Cryptococcus dương tính tại thời điểm bắt đầu điều trị bằng ARV.
66
Nhận xét:
Có 33,8% (46/136) trẻ được ghi nhận có nhiễm trùng cơ hội tại thời
điểm bắt đầu điều trị bằng ARV, trong đó có đến 52,2% (24/46) trường hợp
mắc lao và phải điều trị lao tại thời điểm bắt đầu điều trị. Có một trường hợp
lâm sàng giai đoạn III nhưng đã điều trị hết nhiễm trùng cơ hội truớc khi bắt
đầu ARV
Có 130 trẻ thu thập được dữ liệu về xét nghiệm đếm tế bào LT CD4 tại
thời điểm bắt đầu điều trị, kết quả như sau:
Bảng 3.5. Số lượng lympho T CD4 tại thời điểm bắt đầu điều trị ARV (n=130)
Số lượng (n) Tỷ lệ % Số lượng tế bào LT CD4 trên tổng số lympho trong máu
< 15% 70 53,8
15 - < 20% 20 15,4
20 - < 25% 21 16,2
≥ 25% 19 14,6
Trung vị 14,3% (IQR: 2,72 – 22,64)
Nhận xét:
Có đến 53,8% trẻ có tình trạng suy giảm miễn dịch nặng với số lượng
tế bào lympho T CD4 dưới 15% lúc bắt đầu điều trị bằng ARV.
3.1.3. Tải lượng vi rút tại thời điểm bắt đầu điều trị:
Tất cả 136 bệnh nhi tại thời điểm bắt đầu điều trị ARV đều được lấy
mẫu đo tải lượng HIV trong huyết tương, kết quả tải lượng vi rút trung bình
67
của nhóm bênh nhi tham gia nghiên cứu là 5,71 log bản sao/ml (3,3 – 8,5 log
bản sao/ml).
Biểu đồ 3.3. Tải lượng HIV-1 của bệnh nhi tại thời điểm bắt đầu điều trị ARV (n=136)
Nhận xét:
Tất cả đều mang tải lượng HIV-1 trên ≥ 3 log bản sao/ml; trong đó có
đến 81,6% trẻ có nồng độ vi rút trong huyết tương rất cao ≥ 5 log bản sao/ml.
3.1.4. Thứ týp di truyền của vi rút:
Trình tự đoạn gel pol (1800bp) thu được sau khi giải trình tự trên tất cả
136 mẫu thu được tại thời điểm bắt đầu điều trị ARV cũng được dùng xác
định thứ typ di truyền của vi rút, kết quả hầu hết trẻ (134/136) mang vi rút
thuộc thứ týp CRF01_AE (98,5%) (Phụ lục 10)
3.1.5. Phác đồ ARV sử dụng bắt đầu điều trị
Bảng 3.6. Phác đồ ARV lúc bắt đầu điều trị (n=136)
Nhóm phác đồ Phác đồ Số lượng (n) Tỷ lệ (%)
2NRTIs + 1NNRTI 120 88,2
d4T/3TC/NVP 6 4,4
68
Nhóm phác đồ Phác đồ Số lượng (n) Tỷ lệ (%)
d4T/3TC/EFV 5 3,7
AZT/3TC/NVP 39 28,7
AZT/3TC/EFV 70 51,5
3NRTIs 7 5,1
d4T/3TC/ABC 4 2,9
AZT/3TC/ABC 3 2,2
2NRTIs + 1PI 9 6,6
AZT/3TC/LPV/r 6 4,4
d4T/3TC/LPV/r 3 2,2
Nhận xét:
100% trẻ được dùng phác đồ có 3TC; 86,8% phác đồ có AZT và 13,2%
phác đồ có d4T, 51,2% phác đồ có EFV; 33,1% phác đồ có NVP; và 6,6%
phác đồ có LPV/r.
Phác đồ được dùng nhiều nhất (88,2%) là phác đồ gồm 2NRTIs +
1NNRTI; trong đó phác đồ gồm AZT/3TC/NVP và AZT/3TC/EFV là 2 phác
đồ chuẩn theo quy định của Bộ Y tế [3].
3.2. ĐỘT BIẾN KHÁNG THUỐC ARV LÚC BẮT ĐẦU ĐIỀU TRỊ
3.2.1. Tỷ lệ đột biến kháng thuốc và các đột biến ghi nhận
Tất cả mẫu huyết tương từ 136 bệnh nhi đều được thực hiện xét nghiệm
định týp gen HIV kháng thuốc để tìm đột biến kháng thuốc tại thời điểm bắt
đầu điều trị ARV. Kết quả thể hiện trong Bảng 3.7.
69
Bảng 3.7. Tỷ lệ bệnh nhi có HIV mang đột biến kháng ARV tại thời điểm bắt đầu điều trị (n=136)
Nhóm thuốc Số bệnh nhi mang đột biến (n) Tỷ lệ %
2 1,5 NRTI
1 0,7 NNRTI
4 2,9 PI
7 5,1 Tổng cộng
Nhận xét:
Có 5,1% (7/136) bệnh nhi mang chủng HIV có ít nhất 1 đột biến kháng
thuốc tại thời điểm bắt đầu điều trị bằng ARV. Không ghi nhận trường hợp
nào có đột biến kháng đồng thời 2 - 3 nhóm thuốc ARV.
Bảng 3.8. Các đột biến kháng thuốc ghi nhận được trên bệnh nhi tại thời điểm bắt đầu điều trị ARV phác đồ bậc 1 (n=7)
Đột biến ghi nhận
Bệnh nhi Kháng PIs Kháng NRTIs Kháng NNRTIs
- - T74S DR-PED1-027
T215A - - DR-PED1-060
T215A - - DR-PED1-066
- - K20I, T74S DR-PED2-022
- N348I - DR-PED2-030
- - K20I, T74S DR-PED2-039
(-) Không ghi nhận đột biến kháng thuốc
- - M46L DR-PED2-043
70
Nhận xét:
Trên mỗi bệnh nhi chỉ ghi nhận được 1 – 2 đột biến kháng thuốc
3.2.2. Đặc điểm các đột biến ghi nhận được tại thời điểm bắt đầu điều trị
ARV phác đồ bậc 1:
Các Bảng 3.9 từ a – e mô tả đặc điểm đột biến ghi nhận được trên các
trường hợp có đột biến kháng thuốc ARV lúc bắt đầu điều trị.
Thuốc PI ATV/r DRV/r FPV/r
Bảng 3.9.a. Điểm đột biến và mức độ kháng thuốc ở bệnh nhi DR-PED1-027
IDV/r LPV/r NFV/r
SQV/r TPV/r
0
0
0
0
0
0
0
T74S
15
0
0
0
0
0
0
0
15
Điểm tổng cộng
Nhạy
Nhạy
Nhạy Nhạy Nhạy
Nhạy
Nhạy
Mức độ kháng
Kháng thấp
Điểm và mức độ kháng thuốc được phân tích theo ngân hàng dữ liệu HIV kháng thuốc của Đại học Stanford [66]
Hình 3.1. Đột biến T74S gây kháng NFV thuộc nhóm PIs
71
Nhận xét:
Đột biến T74S ghi nhận được ở bệnh nhi này gây kháng thấp (15 điểm)
với NFV thuộc nhóm PIs
Bảng 3.9.b. Điểm đột biến và mức độ kháng thuốc trên các bệnh nhi DR-PED1-060 và DR-PED1-066
3TC
ABC
AZT
D4T
DDI
FTC
TDF
Thuốc RTIs
10
20
20
10
0
5
T215A
0
10
20
20
10
0
5
0
Điểm tổng cộng
Nhạy
Nhạy
Có khả năng kháng thấp
Có khả năng kháng thấp
Kháng thấp
Kháng thấp
Có khả năng Mức độ kháng thấp kháng Điểm và mức độ kháng thuốc được phân tích theo ngân hàng dữ liệu HIV kháng thuốc của Đại học Stanford [66]
Hình 3.2. Đột biến T215A gây kháng AZT và d4T thuộc nhóm NRTIs
Nhận xét:
Đột biến T215A ghi nhận được ở 2 bệnh nhi này gây kháng thấp (20
điểm) với AZT và d4T thuộc nhóm NRTIs
72
Thuốc PI ATV/r DRV/r FPV/r
Bảng 3.9.c. Điểm đột biến và mức độ kháng thuốc ở các bệnh nhi DR-PED2-022 và DR-PED2-039
IDV/r LPV/r NFV/r
SQV/r TPV/r
0
0
0
K20I
0
0
0
10
0
0
0
0
T74S
0
0
0
15
0
0
0
0
0
0
0
25
0
Điểm tổng cộng
Nhạy
Nhạy
Nhạy Nhạy Nhạy
Nhạy
Nhạy
Mức độ kháng
Kháng thấp
Điểm và mức độ kháng thuốc được phân tích theo ngân hàng dữ liệu HIV kháng thuốc của Đại học Stanford [66]
Hình 3.3. Các đột biến K20I, T74S gây kháng NFV thuộc nhóm PIs
Nhận xét:
2 đột biến K20I và T74S cùng hiện diện gây kháng thấp (25 điểm) với
NFV thuộc nhóm PIs trên 2 bệnh nhi này
73
Bảng 3.9.d. Điểm đột biến và mức độ kháng thuốc ở bệnh nhi DR-PED2-030
3TC ABC AZT
D4T DDI FTC TDF EFV ETR NVP RPV
Thuốc RTIs
N348I
-
-
10
10
-
-
-
10
0
15
0
0
0
10
10
0
0
0
10
0
15
0
Điểm tổng cộng
Nhạy Nhạy
Nhạy Nhạy Nhạy
Nhạy
Nhạy
Mức độ kháng
Kháng thấp
Có khả năng kháng thấp
Có khả năng kháng thấp
Có khả năng kháng thấp
Điểm và mức độ kháng thuốc được phân tích theo ngân hàng dữ liệu HIV kháng thuốc của Đại học Stanford [66] Nhận xét:
Đột biến N384I gây kháng thấp (15 điểm) với NPV thuộc nhóm
NNRTIs, và có khả năng gây kháng EFV thuộc nhóm NNRTIs và AZT, d4T
thuộc nhóm NRTIs
Thuốc PI ATV/r DRV/r FPV/r
Bảng 3.9.e. Điểm đột biến và mức độ kháng thuốc ở bệnh nhi DR-PED2-043
IDV/r LPV/r NFV/r
SQV/r TPV/r
M46L
10
0
10
10
10
15
0
0
10
0
10
10
10
15
0
0
Điểm tổng cộng
Nhạy
Nhạy
Nhạy
Kháng thấp
Mức độ kháng
Có khả năng kháng thấp
Có khả năng kháng thấp
Có khả năng kháng thấp
Có khả năng kháng thấp Điểm và mức độ kháng thuốc được phân tích theo ngân hàng dữ liệu HIV kháng thuốc của Đại học Stanford [66]
74
Hình 3.4. Đột biến M46L gây kháng thuốc nhóm PI
Nhận xét:
Đột biến M46L ghi nhận được ở bệnh nhi này gây kháng thấp (15
điểm) với NFV, đồng thời có khả năng gây kháng thấp ATV, FTV và LPV
thuộc nhóm PIs; trong đó, LPV là thuốc chủ yếu được sử dụng trong phác đồ
bậc 2 tại Việt Nam.
Trong số bệnh nhi có đột biến liên quan đến kháng thuốc chỉ có 1
trường hợp (DR-PED2-030) cả mẹ và con có dùng ARV chương trình phòng
lây truyền nhiễm HIV từ mẹ sang con. Trong đó, mẹ được dùng AZT 2 tuần
trước sinh và liều đơn NVP lúc chuyển dạ và tiếp tục bằng AZT + 3TC thêm
1 tuần sau sinh; bệnh nhi được cho dùng phối hợp liều đơn NVP và tiếp tục
bằng AZT trong 4 tuần. Đột biến ghi nhận trong trường hợp này là N348I là
đột biến gây kháng thuốc nhóm NNRTIs và đồng thời làm giảm nhạy cảm
(tiềm năng kháng) với thuốc nhóm NRTIs
75
Ngoài ra, nghiên cứu cũng phát hiện được một số đột biến có khả năng
gây kháng thuốc (đột biến tiềm năng kháng thuốc – potential resistance) với
tỷ lệ như trong Bảng 3.10.
Bảng 3.10. Tỷ lệ bệnh nhi có HIV mang đột biến có khả năng gây kháng thấp tại thời điểm bắt đầu điều trị (n=136)
Nhóm thuốc Tỷ lệ % Số bệnh nhi mang đột biến (n) Đột biến ghi nhận
NRTIs 8 5,9 T69N, V75L, N348I
NNRTIs 2 V179D/E 1,5
PIs 5 3,7 L10I/V, K20I, L33I
76
Hình 3.5. Các đột biến V75LV, T69N có khả năng gây kháng thấp đối với nhóm NRTIs
3.3. ĐÁP ỨNG VI RÚT HỌC SAU MỘT NĂM ĐIỀU TRỊ
3.3.1. Tình trạng bệnh nhi sau một năm điều trị ARV phác đồ bậc 1
Bảng 3.11. Tình trạng bệnh nhi sau một năm điều trị ARV tính trên 136 bệnh nhi thu dung vào nghiên cứu
Tình trạng bệnh nhi Số lượng (n) Tỷ lệ %
Duy trì phác đồ 1 121 89,0
Tử vong 7 5,1
Mất dấu (không theo dõi được) 8 5,9
Tổng cộng 136 100,0
Nhận xét:
Tại thời điểm 12 ± 1 tháng sau điều trị bằng ARV (T2), có 89%
(121/136) bệnh nhi vẫn được tiếp tục duy trì phác đồ bậc 1; 5,9% (8/136)
bệnh nhi mất dấu, không có bệnh nhân ghi nhận ngưng điều trị hoặc chuyển
77
đi; 5,1% (7/136) bệnh nhi tử vong, không có trường hợp nào chuyển phác đồ
bậc 2 do thất bại điều trị.
Thời gian từ lúc bắt đầu điều trị đến lúc chết của 7 bệnh nhi trong
nghiên cứu trung bình là 39 ngày (dao động từ 2 ngày – 125 ngày), tất cả
trường hợp tử vong này đều có giai đoạn lâm sàng III – IV lúc bắt đầu điều trị
140
ARV phác đồ bậc 1
118
120
Bắt đầu điều trị
100
80
Sau 12 tháng
i
57
60
h n h n ệ b ố S
33
40
31
14
20
1
1
1
1
0
0
I
II
II
IV
Không rõ
Giai đoạn lâm sàng
Biểu đồ 3.4. So sánh giai đoạn lâm sàng lúc bắt đầu điều trị (n=136) và sau 12 tháng điều trị (n=121) ARV phác đồ bậc 1
Nhận xét:
Về mặt lâm sàng ghi nhận có chuyển biến tích cực khi có đến 119/121
(98,3 %) trẻ có lâm sàng theo WHO giai đoạn I – II sau 12 tháng điều trị bằng
ARV phác đồ bậc 1, tỷ lệ này là 64,7% lúc bắt đầu điều trị. Tuy nhiên, vẫn
còn ghi nhận 1 trường hợp lâm sàng theo WHO giai đoạn III sau một năm
điều trị bằng ARV.
Tình trạng miễn dịch sau 12 tháng điều trị được đánh giá thông qua kết
quả xét nghiệm đếm số lượng tế bào lympho T CD4 lần gần nhất so với thời
78
điểm kết thúc nghiên cứu. Kết quả được mô tả và so sánh với lúc bắt đầu điều
80
70 (53,8%)
69 (57,0%)
70
Bắt đầu điều trị Sau 12 tháng
60
trị được biểu thị trong Biểu đồ 3.5.
i
p<0,001
50
40
h n h n ệ b ố S
30
25 (20,7%)
20 (15,4%)
21(16,2%)
19 (14,6%)
18 (14,9%)
20
9 (7,4%)
10
0
< 15%
15 - 20%
20 - 25%
> 25%
LT CD4
*p thu nhận từ phép kiểm chi bình phương
Biểu đồ 3.5 . So sánh số lượng tế bào LT CD4 lúc bắt đầu điều trị (n=130) và sau 12 tháng điều trị (n=121) ARV phác đồ bậc 1
Nhận xét:
Số lượng lympho T CD4 gia tăng đáng kể sau một năm điều trị bằng
ARV, chỉ còn 7,4% bệnh nhi có số lượng lympho T CD4 dưới 15%, phần lớn
(77,7%) bệnh nhi có số lượng LT CD4 trên 20% trong khi lúc bắt đầu điều trị
có đến 53,8% bệnh nhi có số lượng LT CD4 dưới 15%.
3.3.2. Phác đồ điều trị tại thời điểm kết thúc
Bảng 3.12. Phác đồ ARV lúc 12 tháng sau điều trị (n=121)
Số lượng (n) Tỷ lệ % Phác đồ ARV lúc 12 tháng sau điều trị
2NRTIs + 1NNRTI 110 90,9
3NRTIs 1 0,8
2NRTIs + 1PI 10 8,3
79
Hầu hết trẻ được sử dụng phác đồ có d4T ở thời điểm bắt đầu điều trị
đều được đổi sang phác đồ không có d4T theo quy định; chỉ còn 5% (6/121)
trẻ, vẫn được sử dụng phác đồ có d4T lúc 12 tháng sau điều trị bằng ARV.
Tất cả trẻ có thay đổi cân nặng đều được điều chỉnh liều thuốc phù hợp cân
nặng.
Nghiên cứu ghi nhận rất nhiều trường hợp được thay đổi thuốc ở cả hai
bệnh viện. Lý do thay đổi thuốc chủ yếu là đổi sang thuốc kết hợp và thiếu
máu. Ngoài ra, thay đổi thuốc điều trị còn do dị ứng NVP, hết thuốc dạng
sirop phải đổi thuốc viên và ngược lại, điều trị lao và kết thúc điều trị lao, . . .
. Một điểm cần lưu ý là vẫn có tình trạng hết dạng thuốc này (sirop, thuốc kết
hợp) phải chuyển sang dạng thuốc khác (thuốc viên, thuốc rời), hoặc thậm chí
hết loại thuốc này phải đổi sang loại thuốc khác.
Tình trạng tuân thủ điều trị được ghi nhận thông qua đếm số thuốc còn
lại khi bệnh nhi tái khám và việc tái khám đúng lịch hẹn, bệnh nhi được ghi
nhận là “kém tuân thủ“ khi có ít nhất một lần ghi nhận đến tái khám muộn so
với lịch hẹn hoặc đếm thuốc còn lại khi tái khám định kỳ ghi nhận còn nhiều
hơn số ngày đã sử dụng. Bảng 3.12 mô tả tình trạng tuân thủ điều trị của bệnh
nhi.
Bảng 3.13. Tình trạng tuân thủ điều trị (n=121)
Tuân thủ điều trị Số lượng (n) Tỷ lệ %
Kém 14 11,6
Tốt 107 88,4
Nhận xét:
Có 14 trường hợp ghi nhận kém tuân thủ điều trị ít nhất một lần.
3.3.3. Tỷ lệ dự phòng HIV kháng thuốc thành công:
80
Sau 12 tháng điều trị, có 7 bệnh nhi tử vong, 8 bệnh nhi không theo dõi
được, không có bệnh nhi chuyển đi, còn lại 121 trẻ tiếp tục được điều trị và
theo dõi, tất cả bệnh nhi này được lấy mẫu kiểm tra tải lượng HIV để đánh giá
đáp ứng vi rút học, kết quả được mô tả trong Biểu đồ 3.6.
Biểu đồ 3.6. So sánh tải lượng vi rút lúc bắt đầu điều trị và sau 12 tháng điều
trị bằng ARV
Nhận xét:
Kết quả xét nghiệm đo tải lượng vi rút trên 121 bệnh nhi còn tiếp tục
theo dõi sau 12 tháng có chuyển biến rất tốt so với thời điểm bắt đầu điều trị,
có đến 106 (87,6%) trẻ đạt được ức chế vi rút với tải lượng HIV dưới 3 log
bản sao/ml (<3 log bản sao/ml) và chỉ có 15 (12,4%) trường hợp có tải lượng
≥ 3 log bản sao/ml.
Tỷ lệ dự phòng HIV kháng thuốc thành công sau 12 tháng điều trị bằng
ARV (là tỷ lệ bệnh nhân có tải lượng HIV dưới 3 log bản sao/ml sau 12 tháng
điều trị bằng ARV trên tổng số bệnh nhân tham gia nghiên cứu trừ đi số tử
vong và chuyển đi [138]) là 82,2% (106/129).
Tất cả 7 trường hợp có đột biến kháng thuốc lúc bắt đầu điều trị đều có
kết quả xét nghiệm tải lượng HIV dưới 3 log bản sao/ml sau 12 tháng điều trị
bằng ARV.
81
Bảng 3.14. Đặc điểm các trường hợp có đột biến lúc bắt đầu điều trị nhưng
vẫn đáp ứng vi rút học sau 12 tháng điều trị ARV (n=7)
Phác đồ điều trị
Mã bệnh nhi
Đột biến lúc bắt đầu điều trị
Giai đoạn lâm sàng lúc bắt đầu điều trị
Số lượng LT CD4 lúc bắt đầu điều trị (%)
Giai đoạn lâm sàng sau 12 tháng
Số lượng LT CD4 sau 12 tháng (%)
PHÒNG LÂY TRUYỀN NHIỄM HIV TỪ MẸ SANG CON
II
30,43
Không
AZT/3TC/NVP
40,70
I
T74S gây kháng thấp NFV (PIs)
DR- PED1- 027
I
III
0,00
Không
AZT/3TC/NVP
17,24
DR- PED1- 060
T215A gây kháng thấp AZT, d4T (NRTIs)
I
Không
AZT/3TC/ABC
I
32,86
Không có dữ liệu
DR- PED1- 066
T215A gây kháng thấp AZT, d4T (NRTIs)
I
I
15,77
Không
AZT/3TC/NVP
47,00
DR- PED2- 022
K20I,T74S gây kháng thấp NFV (PIs)
I
I
30,00
Có
AZT/3TC/LPV
33,00
DR- PED2- 030
N348I gây kháng thấp NVP (NNRTIs)
I
I
14,00
Không
AZT/3TC/EFV
24,58
DR- PED2- 039
K20I,T74S gây kháng thấp NFV (PIs)
I
I
21,00
Không
AZT/3TC/EFV
26,19
M46L gây kháng thấp NFV (PIs)
DR- PED2- 043
Nhận xét:
82
Có 2 bệnh nhi được điều trị bằng phác đồ ARV bậc 1 có 1 loại thuốc
ARV được dự báo mức độ kháng thấp. 4 bệnh nhi có đột biến gây kháng thấp
với các thuốc thuộc nhóm PIs được điều trị bằng phác đồ không có thuốc
thuộc nhóm PIs.
Bệnh nhi mã số DR-PED1-060 có giai đoạn lâm sàng lúc bắt đầu điều
trị là III, số lượng LT CD4 rất thấp, đột biến ghi nhận lúc bắt đầu điều trị là
T215A gây kháng thấp AZT, phác đồ điều trị là AZT/3TC/NVP. Tuy nhiên,
sau 12 tháng vẫn đạt mức ức chế vi rút, lâm sàng và số lượng LT CD4 cải
thiện tốt.
3.3.4. Khả năng có HIV kháng thuốc:
Theo hướng dẫn của WHO, bệnh nhân có tải lượng vi rút ≥ 3 log bản
sao/ml nhưng không giải trình tự được hoặc không phát hiện được đột biến
HIV kháng thuốc và bệnh nhân không theo dõi được trong khoảng 12 tháng là
có khả năng có HIV kháng thuốc. Kết quả nghiên cứu cho thấy:
Số bệnh nhi có tải lượng vi rút ≥ 3 log bản sao/ml và không phát hiện
được đột biến HIV kháng thuốc hoặc không giải trình tự được ở thời điểm
kết thúc là 6.
Số bệnh nhi không theo dõi được trong khoảng 12 tháng là 8.
Như vậy, tỷ lệ bệnh nhi có khả năng có HIV kháng thuốc sau một năm
điều trị bằng ARV là 10,9% (14/129).
3.4. ĐỘT BIẾN KHÁNG THUỐC SAU MỘT NĂM ĐIỀU TRỊ ARV
PHÁC ĐỒ BẬC 1
3.4.1. Tỷ lệ đột biến kháng thuốc ARV và các đột biến ghi nhận sau một
năm điều trị.
Tất cả 15 bệnh nhi có tải lượng HIV ≥ 3 log bản sao/ml được thực hiện
xét nghiệm giải trình tự tìm đột biến kháng thuốc. 12/15 mẫu được giải trình
tự thành công và 9 mẫu có đột biến kháng thuốc.
83
HIV kháng thuốc tại thời điểm 12 tháng sau điều trị bằng ARV
phác đồ bậc 1: được xác định khi gồm đủ các điều kiện dưới đây:
+ Vẫn đang điều trị bằng ARV phác đồ bậc 1 tại thời điểm 12
tháng sau khi bắt đầu điều trị hoặc vào thời điểm trước khi chuyển sang
phác đồ ARV bậc 2 nhưng vẫn trong vòng 12 tháng sau điều trị;
+ Có tải lượng HIV tại thời điểm trên ≥ 3 log bản sao/ml;
+ Có hiện diện các đột biến kháng thuốc ARV.
Số bệnh nhân có tải lượng HIV ≥ 3 log bản sao/ml và có đột biến kháng thuốc
Do đó, các tỷ lệ bệnh nhân có đột biến kháng thuốc được tính theo công thức:
= --------------------------------------------------------------------------------------
Tổng số bệnh nhân tại thời điểm bắt đầu – (số tử vong + số chuyển đi) Bảng 3.15. Tỷ lệ có đột biến kháng thuốc sau 12 tháng điều trị ARV (n=129)
Nhóm thuốc Tỷ lệ % Số bệnh nhi mang đột biến kháng thuốc (n)
2,3 3 Chỉ kháng NRTIs
Cả 2 nhóm RTI 4,7 6
PI 0,0 0
7,0 9 Tổng cộng
Nhận xét:
Có 7,0% (9/129) bệnh nhi mang chủng HIV có ít nhất 1 đột biến kháng
thuốc tại thời điểm 12 tháng sau điều trị bằng ARV trong đó tất cả đều mang
đột biến kháng nhóm NRTIs, 4,7% (6/129) kháng đồng thời 2 nhóm NNRTIs
và NRTIs. Không có đột biến nào kháng nhóm PIs được ghi nhận.
84
Bảng 3.16. Đặc điểm lâm sàng, miễn dịch các trường hợp có đột biến kháng thuốc sau 12 tháng điều trị ARV (n=9)
Phác đồ điều trị
Mã bệnh nhi
Giai đoạn lâm sàng lúc bắt đầu điều trị
Số lượng LT CD4 lúc bắt đầu điều trị (%)
Giai đoạn lâm sàng sau 12 tháng
Số lượng LT CD4 sau 12 tháng (%)
Phòng lây truyền nhiễm HIV từ mẹ sang con
II* 19,52 Không AZT/3TC/NVP 24,00 I
II 1,65 Không D4T/3TC/NVP 10,93 I
III* 29,19 Không AZT/3TC/NVP 30,22 I
I 7,86 Không AZT/3TC/EFV 28,46 I DR- PED1-005 DR- PED1-025 DR- PED1-031 DR- PED1-033
III 32,00 Không D4T/3TC/NVP 42,75 I DR- PED1-035
I 10,00 Không AZT/3TC/EFV 22,46 I
III* 25,00 không AZT/3TC/NVP 25,00 I
39,25 III* Không D4T/3TC/NVP 33,81 I
37,00 IV* không D4T/3TC/ABC III 23,00
DR- PED1-061 DR- PED2-003 DR- PED2-015 DR- PED2-021 *Bệnh nhi mắc lao và điều trị lao lúc bắt đầu điều trị
Nhận xét:
Một bệnh nhi (DR-PED2-021) có lâm sàng không cải thiện và số lượng
LT CD4 giảm so với lức bắt đầu điều trị.
85
i
h n h n ệ b ố S
10 9 8 7 6 5 4 3 2 1 0
i
V 4 7 L
T 5 7 V
L 8 8 1 Y
M 5 7 V
F 5 1 1 Y
S 5 1 2 T
E 1 0 1 K
* R 0 7 K
V 1 8 1 Y
N 5 1 2 T
N 3 0 1 K
A 0 9 1 G
* N 7 6 D
V 4 8 1 M
* F 5 1 2 T
M 1 5 1 Q
s I P g n á h K
s I T R N g n á h k
Kháng NRTIs
Kháng NNRTIs
ỉ
s I T R N N g n á h k
ỉ
h C
n ế b t ộ đ 1 t ấ h n t Í
h C
s I T R m ó h n 2 ả c g n á h K
Đột biến ghi nhận
*Đột biến TAMs (Thymidine Analogue Mutations: Các đột biến đồng phân Thymidine)
Biểu đồ 3.7. Các đột biến kháng thuốc sau 12 tháng điều trị (n=9)
Bảng 3. 17. Các đột biến kháng thuốc ghi nhận được trên bệnh nhi có thất bại vi rút học sau 12 tháng điều trị ARV phác đồ bậc 1 (n=9) Đột biến ghi nhận Bệnh nhi
Kháng NRTIs Kháng NNRTIs Kháng PIs
DR-PED1-005 M184V, T215F K101E, G190A -
DR-PED1-025 T69N*, V75M, F77L*, Y188L - F116Y*, Q151M
DR-PED1-031 T215N - -
DR-PED1-033 T215S - -
DR-PED1-035 M184V K103N, H221Y* -
DR-PED1-061 M184V K103N -
DR-PED2-003 D67N, K70R, M184V, G190A - K219Q*
86
Đột biến ghi nhận Bệnh nhi
Kháng NRTIs Kháng NNRTIs Kháng PIs
DR-PED2-015 V75S*, M184V Y181V -
(-) Không ghi nhận đột biến kháng thuốc *Đột biến có khả năng gây kháng thấp, khi kết hợp với các đột biến khác thì làm gia tăng mức độ kháng thuốc [66]
DR-PED2-021 - - L74V, V75T, Y115F, M184V
Nhận xét:
Đột biến M184V được phát hiện ở 6/9 bệnh nhi; một bệnh nhi mang
phức hợp 3 đột biến TAMs (D67N, K70R và K219Q), và 1 bệnh nhi mang
phức hợp đột biến Q151M, F77Lvà F116Y.
3.4.2. Đặc điểm các đột biến ghi nhận sau 12 tháng điều trị ARV phác đồ
bậc 1 của 9 bệnh nhi:
Bảng điểm các đột biến ghi nhận được trên 9 trường hợp có đột biến
Bệnh nhi DR-PED1-005:
kháng thuốc ARV sau 12 tháng điều trị được thể hiện trong Phụ lục 11.
Các đột biến M184V và T215F trên bệnh nhi này gây kháng cao với
3TC, FTC, kháng trung bình với ABC, AZT và d4T, và kháng thấp với ddI
thuộc nhóm NRTIs.
Các đột biến K101E, G190A gây kháng cao NVP, kháng trung bình
EFV và kháng thấp với ETR, RPV nhóm NNRTIs
87
Bệnh nhi DR-PED1-025:
Hình 3.6. Đột biến M184V, T215F đối với nhóm NRTIs và đột biến K101E, G190A đối với nhóm NNRTIs ghi nhận sau 12 tháng điều trị
Các đột biến T69N, V75M và phức hợp đột biến Q151M, F77L, F116Y
ghi nhận trên bệnh nhi này gây kháng cao với ABC, AZT, d4T, ddI, và kháng
thấp với các thuốc còn lại thuộc nhóm NRTIs.
Đột biến Y188L gây kháng cao NVP, EFV và RPV, kháng thấp với
ETR thuộc nhóm NNRTIs
88
Hình 3.7. Phức hợp đột biến Q151M, F77L, F116Y ghi nhận sau 12 tháng
Bệnh nhi DR-PED1-031:
điều trị ARV
Đột biến T215N ghi nhận trên bệnh nhi này gây kháng thấp với các
thuốc AZT, d4T thuộc nhóm NRTIs.
Hình 3.8. Đột biến T215N gây kháng thấp các thuốc AZT, d4T
89
Bệnh nhi DR-PED1-033:
Đột biến T215S trên bệnh nhi này gây kháng thấp với AZT, d4T thuộc
nhóm NRTIs.
Bệnh nhi DR-PED1-035:
Hình 3.9. Đột biến T215S gây kháng thấp AZT, d4T
M184V gây kháng cao với 3TC, FTC; kháng thấp với ABC nhưng có
khả năng làm tăng tính nhạy cảm (-10 điểm) với các thuốc AZT, d4T, TDF
thuộc nhóm NRTIs.
Các đột biến K103N và H221Y trên bệnh nhi này gây kháng cao NVP
và EFV thuộc nhóm NNRTIs
90
Bệnh nhi DR-PED1-061:
Hình 3.10. Đột biến K103N đối với nhóm NNRTIs ghi nhận sau 12 tháng điều trị ARV
M184V gây kháng cao với 3TC, FTC; kháng thấp với ABC nhưng có
khả năng làm tăng tính nhạy cảm (-10 điểm) với các thuốc AZT, d4T, TDF
thuộc nhóm NRTIs.
Đột biến K103N trên bệnh nhi này gây kháng cao NVP và EFV thuộc
nhóm NNRTIs
91
Bệnh nhi DR-PED2-003:
Hình 3.11. Đột biến M184V gây kháng các thuốc thuộc nhóm NRTIs
Phức hợp 3 TAMs (D67N, K70R và K219Q) và đột biến M184V ghi
nhận cùng lúc trên bệnh nhi này gây kháng cao với 3TC, FTC; kháng trung
bình với AZT, d4T và kháng thấp với ABC, ddI thuộc nhóm NRTIs.
Đột biến G190A gây kháng cao NVP, và kháng trung bình EFV và
RPV, thuộc nhóm NNRTIs
Hình 3.12. Phức hợp 3 TAMs (D67N, K70R, K219Q) ghi nhận sau 12 tháng
92
Bệnh nhi DR-PED2-015:
Các đột biến V75S và M184V ghi nhận trên bệnh nhi này gây kháng
cao với 3TC, FTC và kháng thấp với ABC, ddI thuộc nhóm NRTIs.
Đột biến Y181V gây kháng cao NVP, ETR và RPV, kháng trung bình
với EFV thuộc nhóm NNRTIs
Bệnh nhi DR-PED2-021:
Hình 3.13. Đột biến Y181V đối với nhóm NNRTIs ghi nhận sau 12 tháng điều trị ARV
Các đột biến L74V, V75T, Y115F và M184V ghi nhận trên bệnh nhi
này gây kháng cao với 3TC, ABC, ddI, FTC; kháng trung bình với d4T và
kháng thấp với TDF nhóm NRTIs.
Hình 3.14. Đột biến L74V và V75T sau 12 tháng điều trị ARV
93
Ngoài ra, nghiên cứu cũng phát hiện được một số đột biến có khả năng
gây kháng thấp (potential resistance) được liệt kê trong Bảng 3.18.
Bảng 3.18. Tỷ lệ bệnh nhi có HIV mang đột biến có khả năng gây kháng thấp sau 12 tháng điều trị ARV phác đồ bậc 1 (n=129)
Nhóm thuốc Tỷ lệ % Đột biến Số bệnh nhi mang đột biến (n=129)
NRTIs 3 2,3
T69N, V75S, F77L, F116Y, K219Q
NNRTIs 1 0,8 V179D
PIs 2 1,6 L10I, L10V
Nhận xét:
K219Q tuy chỉ là đột biến có khả năng gây kháng thấp nhưng lại là một
trong những đột biến TAMs có thể gây giảm nhạy cảm với AZT và d4T [67].
3.5. KHẢO SÁT MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN ĐẾN SỰ XUẤT HIỆN
ĐỘT BIẾN KHÁNG THUỐC ARV
3.5.1. Yếu tố liên quan đến sự xuất hiện đột biến kháng thuốc tại thời
điểm bắt đầu điều trị
Bảng 3.19. Kết quả phân tích hồi quy đơn biến các yếu tố liên quan đến sự
xuất hiện đột biến kháng thuốc tại thời điểm bắt đầu điều trị (n=136)
Số lượng (n=136) Phân tích đơn biến
Yếu tố OR (95% KTC) p
Có đột biến kháng thuốc n (%) Không đột biến kháng thuốc n (%)
Nơi cư trú
3 (4,5) 63 (95,5) 1 Tp. Hồ Chí Minh
4 (5,7) 66 (94,3) 1,1 (0,5 – 2,4) 0,758 Tỉnh/thành phố khác
94
Số lượng (n=136) Phân tích đơn biến
Yếu tố OR (95% KTC) p
Có đột biến kháng thuốc n (%) Không đột biến kháng thuốc n (%)
Nhóm tuổi bắt đầu điều trị ARV
2 (5,7) 33 (94,3) < 18 tháng 1
4 (8,3) 44 (91,7) 18 tháng - 5 tuổi 1,5 (0,3 - 8,7) 0,651
1 (1,9) 52 (98,1) Trên 5 tuổi 0,3 (0,0 - 3,6) 0,356
Giới
Nữ 3 (4,5) 64 (95,5) 1
Nam 4 (5,8) 65 (94,2) 1,3 (0,3 - 6,1) 0,728
Đã từng tiếp xúc với ARV
Không 6 (5,0) 118 (95,0) 1
Có 1 (8,3) 11 (91,7) 1,8 (0,2 - 16,2) 0,606
Giai đoạn lâm sàng theo WHO
I, II 6 (6,8) 82 (93,2) 1
III, IV 1 (2,1) 46 (97,9) 0,3 (0,0 - 2,5) 0,268
Số lượng tế bào LT CD4
<15% 2 (2,9) 68 (97,1) 1
15 - 20% 1 (5,0) 19 (95,0) 1,8 (0,2 - 20,8) 0,642
20 – 25% 1 (4,8) 20 (95,2) 1,7 (0.1 - 19,7) 0,671
>25% 2 (10,5) 17 (89,5) 4,0 (0,5 - 30,5) 0,181
1,0 (0,4 – 2,6) 0,971 Tải lượng vi rút lúc bắt đầu điều trị (cao hơn mỗi log bản sao/ml
Nhận xét:
Các yếu tố dân số - xã hội như nơi cư trú, nhóm tuổi bắt đầu điều trị,
giới, yếu tố tiếp xúc ARV trước khi bắt đầu điều trị (chương trình phòng lây
95
truyền nhiễm HIV từ mẹ sang con), tình trạng lâm sàng, số lượng lympho T
CD4 và tải lượng vi rút trong máu đều không có liên quan đến sự xuất hiện
đột biến kháng thuốc tại thời điểm bắt đầu điều trị (p>0,05).
3.5.2. Yếu tố liên quan đến đột biến kháng thuốc ARV sau một năm điều
trị
Bảng 3.20. Kết quả phân tích hồi quy đơn biến các yếu tố liên quan đến sự xuất hiện đột biến kháng thuốc sau một năm điều trị ARV (n=121)
Số lượng (n=121) Phân tích đơn biến
Yếu tố OR (95% KTC) p
Có đột biến kháng thuốc n (%) Không có đột biến kháng thuốc n (%)
Nơi cư trú
Tp. Hồ Chí Minh 4 (6,5) 58 (93,5) 1
Tỉnh/thành phố khác 5 (8,5) 54 (91,5) 1,3 (0,3 - 5,3) 0,673
Tuổi bắt đầu điều trị bằng ARV
< 18 tháng 5 (17,2) 24 (82,8) 1
18 - < 60 tháng 2 (4,5) 42 (95,5) 0,2 (0,0 - 1,3) 0,092
≥ 60 tháng 2 (4,2) 46 (95,8) 0,2 (0,0 - 1,2) 0,073
Giới
3 (4,9) Nữ 58 (95,1) 1
Nam 6 (10,0) 54 (90,0) 2,2 (0,5 - 9,1) 0,287
Giai đoạn lâm sàng theo WHO lúc bắt đầu điều trị
I, II 4 (4,9) 77 (95,1) 1
III, IV 5 (12,8) 34 (87,2) 2,4 (0,6 - 9,6) 0,202
96
Số lượng (n=121) Phân tích đơn biến
Yếu tố OR (95% KTC) p
Có đột biến kháng thuốc n (%) Không có đột biến kháng thuốc n (%)
Nhiễm trùng cơ hội tại thời điểm bắt đầu điều trị
Không Có 4 (4,5) 5 (15,2) 84 (95,5) 28 (84,8) 1 3,8 (0,9 - 14,9) 0,061
Mắc lao và điều trị lao cùng lúc ART
Không 4 (4,1) 93 (95,9) 1
Có 5 (20,8) 19 (79,2) 6,1 (1,5 - 24,9) 0,011
Số lượng LT CD4 (%) lúc bắt đầu điều trị
1
< 15 ≥ 15 3 (4,9) 6 (10,7) 58 (95,1) 50 (89,3) 1,0 (0,99 - 1,02) 0,251
5,2 (1,9 - 14,1) 0,001 Tải lượng vi rút lúc bắt đầu điều trị (cao hơn mỗi log bản sao/ml)
0,6 (0,4 - 0,9) 0,011 Số lượng LT CD4 sau 12 tháng tăng mỗi 5% so với lúc bắt đầu điều trị
Số lượng LT CD4 (%) lúc kết thúc
< 15 1 (11,1) 8(88,9) 1
≥ 15 8 (7,1) 104 (92,9) 1,0 (0,96-1,02) 0,665
Nhận xét:
Chưa thấy có sự liên quan giữa các yếu tố về dân số - xã hội như nơi cư
trú, giới, đến sự xuất hiện của HIV kháng thuốc sau một năm điều trị bằng
ARV theo hướng dẫn của Bộ Y tế.
Việc tiếp xúc ARV trước khi bắt đầu điều trị (qua chương trình phòng
lây truyền nhiễm HIV từ mẹ sang con), số lượng LT CD4 lúc bắt đầu và sau
12 tháng điều trị hay có sẵn đột biến kháng thuốc lúc bắt đầu điều trị cũng
97
chưa thấy có liên quan đến sự xuất hiện của HIV kháng thuốc sau một năm
điều trị bằng ARV.
Các biến số độc lập có p<0,250 được tiếp tục đưa vào mô hình hồi quy
đa biến để phân tích mối liên quan đến khả năng xuất hiện đột biến kháng
thuốc. Kết quả trình bày trong Bảng 3.21.
Bảng 3.21. Kết quả phân tích hồi quy đa biến các yếu tố liên quan đến sự
xuất hiện đột biến kháng thuốc sau một năm điều trị ARV phác đồ bậc 1
Số lượng (n=121) Phân tích đa biến
Yếu tố p aOR (95% KTC) Có đột biến kháng thuốc n (%) Không có đột biến kháng thuốc n (%)
Tuổi bắt đầu điều trị bằng ARV
< 18 tháng 5 (17,2) 24 (82,8)
1
18 - < 60 tháng ≥ 60 tháng 2 (4,5) 2 (4,2) 42 (95,5) 46 (95,8) 0,978 1,0 (0,1 - 9,1) 1,6 (0,1 - 17,4) 0,708
Giai đoạn lâm sàng theo WHO lúc bắt đầu điều trị
I, II 4 (4,9) 77 (95,1) 1
III, IV 5 (12,8) 34 (87,2) 2,0 (0,2 - 15,6) 0,523
Nhiễm trùng cơ hội tại thời điểm bắt đầu điều trị
Có 4 (4,5) 84 (95,5) 1
Không 5 (15,2) 28 (84,8) 0,5 (0,0 - 7,7) 0,628
Mắc lao và điều trị lao cùng lúc điều trị bằng ARV
Không 4 (4,1) 93 (95,9) 1
Có 5 (20,8) 19 (79,2) 2,9 (0,3 - 30,1) 0,467
5,0 (1,2 - 20,9) 0,025 Tải lượng vi rút lúc bắt đầu điều trị (cao hơn mỗi log bản sao/ml)
98
Số lượng (n=121) Phân tích đa biến
Yếu tố p aOR (95% KTC) Có đột biến kháng thuốc n (%) Không có đột biến kháng thuốc n (%)
0,7 (0,5 - 1,2) 0,259 Số lượng LT CD4 tăng mỗi 5% so với lúc bắt đầu điều trị
Nhận xét:
Tuổi bắt đầu điều trị, giai đoạn lâm sàng lúc bắt đầu điều trị không thấy
có liên quan đến sự xuất hiện của HIV kháng thuốc sau một năm điều trị bằng
ARV phác đồ bậc 1
Tình trạng mắc lao và điều trị lao lúc bắt đầu và trong quá trình điều trị
bằng ARV dường như làm tăng khả năng xuất hiện của HIV kháng thuốc sau
một năm điều trị bằng ARV (OR=6,1; p=0,011) khi phân tích đơn biến. Tuy
nhiên khi đưa vào mô hình phân tích đa biến thì sự khác biệt không có ý nghĩa
(p=0,467).
Khi phân tích đơn biến, sự gia tăng số lượng tế bào lympho T CD4
trong quá trình điều trị bằng ARV (tăng mỗi 5% so với lúc bắt đầu điều trị)
làm giảm khả năng xuất hiện của HIV kháng thuốc sau một năm điều trị bằng
ARV (OR=0,6; p=0,011). Tuy nhiên khi đưa vào mô hình phân tích đa biến
cũng thấy sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p=0,259).
Phân tích đa biến sự liên quan giữa tải lượng HIV tại thời điểm bắt đầu
điều trị và sự xuất hiện đột biến kháng thuốc sau một năm điều trị bằng ARV
cho thấy, khi tải lượng HIV cao hơn 1 log bản sao/ml sẽ làm tăng khả năng
xuất hiện đột biến kháng thuốc gấp 5 lần (p=0,025) so với bệnh nhi có tải
lượng HIV ở mức thấp hơn.
99
Chương 4
BÀN LUẬN
4.1. ĐỘT BIẾN KHÁNG THUỐC ARV TRÊN BỆNH NHI TẠI THỜI
ĐIỂM BẮT ĐẦU ĐIỀU TRỊ ARV PHÁC ĐỒ BẬC 1
4.1.1. Đặc điểm nền của mẫu nghiên cứu
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy có 69,9% trẻ được phát hiện
nhiễm HIV ở thời điểm đã trên 18 tháng, điều này cho thấy trẻ tiếp cận với
dịch vụ xét nghiệm muộn. Đa số trẻ (73,6%) được điều trị muộn khi đã trên
18 tháng, trong đó 39% trên 5 tuổi (Bảng 3.1). Theo khuyến cáo của Tổ chức
y tế thế giới, trẻ em sinh ra từ mẹ có huyết thanh dương tính với HIV cần
được làm xét nghiệm sinh học phân tử ở thời điểm từ 4 - 6 tuần tuổi và điều
trị bằng ARV ngay khi phát hiện trẻ đã nhiễm HIV không cần đợi chỉ số
lympho T CD4 giảm hay có triệu chứng lâm sàng như ở người lớn [139]. Tỷ
lệ trẻ được phát hiện nhiễm HIV dưới 18 tháng tuổi trong nghiên cứu của
chúng tôi là 30,1%, thấp hơn so với nghiên cứu tại Malawi [81] là 50% và
tương đương với nghiên cứu trên trẻ em tại Mozambique là 34,5% [132]. Kết
quả này phản ánh tình trạng kết nối chưa tốt giữa cơ sở sản khoa và cơ sở
chăm sóc - điều trị HIV cho trẻ em. Theo một nghiên cứu tại Việt Nam của
tác giả Cao Thị Thanh Thủy [18], tỷ lệ phát hiện nhiễm HIV ở nhóm trẻ tự
đến hay chuyển từ khoa/phòng khác cao hơn gấp 2,1 lần (KTC 95%: 1,3 –
3,4; p<0,001) so với nhóm trẻ từ cơ sở sản khoa chuyển đến. Mặc dù dịch vụ
chẩn đoán nhiễm HIV bằng kỹ thuật PCR trên mẫu máu lấy trên giấy thấm
(DBS) đã được triển khai rộng rãi từ năm 2009 ở các tỉnh phía Nam nhưng tỷ
lệ trẻ sinh từ mẹ nhiễm HIV được làm xét nghiệm sớm từ 4 - 6 tuần tuổi còn
thấp, đa số trẻ chỉ được phát hiện nhiễm HIV khi bị bệnh phải nhập viện. Do
đó, cần tăng cường hơn nữa sự kết nối giữa chương trình phòng lây truyền
100
nhiễm HIV từ mẹ sang con với chương trình chăm sóc – điều trị cho trẻ em
sinh ra từ mẹ nhiễm HIV.
Hầu hết bệnh nhi (94,9%) trong nghiên cứu này nhiễm HIV là do lây
truyền từ mẹ, kết quả này phù hợp với các nghiên cứu khác trên thế giới và
Việt Nam [11, 80, 121]. Một số trẻ không có thông tin về tình trạng nhiễm
của mẹ.
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy trong số trẻ nhiễm HIV, tỷ
lệ mẹ và/hoặc con được uống ARV dự phòng trong phòng lây truyền nhiễm
HIV từ mẹ sang con ở mức rất thấp chỉ 8,8%. Tỷ lệ này trong nghiên cứu trên
trẻ em ở Mozambique năm 2008 là 10,9% [132]. Theo báo cáo của Bộ Y tế
năm 2013 [5] ước tính khoảng 43% phụ nữ mang thai nhiễm HIV không tham
gia chương trình phòng lây truyền nhiễm HIV từ mẹ sang con. Tỷ lệ phòng
lây truyền nhiễm HIV từ mẹ sang con thấp trong nghiên cứu này còn có thể
do hai bệnh viện tham gia nghiên cứu là tuyến điều trị nhi lớn tại khu vực
phía Nam nên tập trung những trường hợp đã có triệu chứng mới đến khám
(tiếp cận muộn do mẹ không hoặc ít quan tâm đến tình trạng nhiễm của cả mẹ
và con). Do đó, cần có các biện pháp nhằm tăng cường khả năng tiếp cận
chương phòng lây truyền nhiễm HIV từ mẹ sang con của phụ nữ mang thai.
Theo hướng dẫn mới của Bộ Y tế [6], phụ nữ mang thai và trẻ em dưới 5 tuổi
nhiễm HIV sẽ được điều trị bằng ARV ngay mà không cần chờ có dấu hiệu
lâm sàng hoặc suy giảm miễn dịch. Điều trị bằng ARV sớm sẽ có hiệu quả tốt
hơn và làm giảm tỷ lệ lây truyền từ mẹ sang con.
Tại thời điểm bắt đầu điều trị, tải lượng vi rút trung bình ghi nhận trong
nghiên cứu này là 5,71 log bản sao/ml (3,3 – 8,5 log bản sao/ml). Kết quả này
cũng tương tự kết quả trong nghiên cứu của Đỗ Thị Nhàn trên đối tượng
người lớn tại thời điểm bắt đầu điều trị là 5,57 log bản sao/ml (96,8% bệnh
nhân có tải lượng HIV ≥ 3,70 log bản sao/ml) [13].
101
Tỷ lệ cao trẻ có tải lượng HIV trong máu cao, trên 5 log bản sao/ml,
tình trạng miễn dịch kém với số lượng tế bào lympho T CD4 dưới 15%, lâm
sàng giai đoạn III – IV với các nhiễm trùng cơ hội – đặc biệt là lao là những
chỉ điểm của việc điều trị muộn có thể do phát hiện nhiễm HIV muộn, tiếp
cận dịch vụ y tế muộn hoặc còn hạn chế chỉ định các xét nghiệm để theo dõi
bệnh nhi. Kết quả này cũng tương đồng với kết quả nghiên cứu tương tự tại
Mozambique với 92,5% trẻ đã có bệnh tiến triển (giai đoạn lâm sàng III – IV)
và 55,5% có suy giảm miễn dịch nặng với số lượng tế bào lympho T CD4 ≤
15% [132] ; trong nghiên cứu tại Mali có đến 77,3% trẻ có giai đoạn lâm sàng
III – IV với 70,1% có suy giảm miễn dịch nặng tại thời điểm bắt đầu điều trị
[61], hay tại Uganda, 71,3% trẻ được bắt đầu điều trị với giai đoạn lâm sàng
là III-IV [80]. Tiếp cận điều trị muộn cũng là vấn đề chung của bệnh nhân tại
Việt Nam khi trên đối tượng người lớn cũng có đến 56,1% bắt đầu điều trị với
giai đoạn lâm sàng III – IV và 91,2% có số lượng tế bào lympho T CD4 dưới
250/mm3 [13]. Bộ Y tế Việt Nam cũng đã có một số hướng dẫn cho việc tăng
cường tiếp cận cũng như tiếp cận sớm hơn với chương trình điều trị cho bệnh
nhân nhiễm HIV/AIDS như quyết định số 3047/QĐ-BYT năm 2015 [6].
Tình trạng nhiễm trùng cơ hội ghi nhận trên 33,8% trẻ với trên một nửa
là lao (chiếm 17,6% trên tổng số bệnh nhi tham gia nghiên cứu). Kết quả này
thấp hơn so với nghiên cứu trên trẻ em ở Ghana năm 2013 với tỷ lệ trẻ mắc
lao lên đến 47,6% [83] nhưng cao hơn so với nghiên cứu tại Bệnh viện Nhi
trung ương với tỷ lệ lao là 5,7% [24]. Trên người lớn tại Việt Nam tỷ lệ đồng
nhiễm lao/HIV là 21,5% - 28,1% tại thời điểm bắt đầu điều trị [15, 22]. Kết
quả nghiên cứu của tác giả Cao Minh Nga năm 2005, tỷ lệ đồng nhiễm HIV
và lao trên nhóm nghiện chích ma túy người lớn lên đến 70,2% [12]. Như
vậy, đồng nhiễm lao/HIV là một vấn đề cần được lưu ý trong chăm sóc – điều
trị cho bệnh nhi HIV/AIDS tại Việt Nam
102
Tỷ lệ trẻ nhiễm HIV có HBsAg và Anti HCV dương tính trong nghiên
cứu này lần lượt là 5,1% và 3,7%, kết quả này cũng tương đương với kết quả
một nghiên cứu khác trên trẻ em HIV/AIDS đều trị bằng ARV tại Việt Nam
[11] lần lượt là 3,3% và 1,7%. Tỷ lệ này thấp hơn kết quả nghiên cứu tỷ lệ
viêm gan B ở trẻ em nhiễm HIV ở Nigeria là 6% - 7,7% [69, 118] và tỷ lệ
Anti-HCV dương tính ở trẻ em nhiễm HIV ở Nigeria là 5,2%. Kết quả trên
một nghiên cứu ở người lớn tại Việt Nam [20] cũng cho kết quả tỷ lệ đồng
nhiễm, HIV/HBV và HIV/HCV lần lượt là 5,3% và 20% có lẽ do người lớn
nhiễm HIV tại Việt Nam có nhiều đối tượng là người nghiện chích ma túy là
nhóm đối tượng có tỷ lệ đồng nhiễm HIV/HCV rất cao có thể từ 76,8% [12]
đến 96,2% [131].
Kết quả định thứ týp của vi rút trên nhóm bệnh nhi nghiên cứu chủ yếu
là thứ týp tái tổ hợp CRF01_AE (98,5%), kết quả này phù hợp với các kết quả
nghiên cứu khác về thứ týp HIV chủ yếu lưu hành tại Việt Nam [14],[39],
[50], [111], [125].
4.1.2. Tỷ lệ đột biến kháng thuốc ARV tại thời điểm bắt đầu điều trị
Trong nghiên cứu của chúng tôi, tỷ lệ kháng thuốc ARV ở trẻ em tại
thời điểm bắt đầu điều trị là 5,1%, kết quả này tương đồng với nghiên cứu tại
Mozambique trên nhóm đối tượng trẻ em với thiết kế nghiên cứu tương tự
cũng ghi nhận tỷ lệ kháng thuốc tại thời điểm bắt đầu điều trị là 5,4% [132].
Nghiên cứu trên 319 trẻ em bắt đầu điều trị tại Uganda, tỷ lệ trẻ mang vi rút
có đột biến kháng thuốc ở mức cao hơn là 10%, và đối với nhóm trẻ dưới 3
tuổi thì tỷ lệ cao hơn đáng kể là 15,2% [80].
Kết quả trên bệnh nhi này cũng tương đồng với các nghiên cứu trên
người lớn tại Việt Nam của Viện Vệ sinh Dịch tễ trung ương [98] và Viện
Pasteur Thành phố Hồ Chí Minh, tỷ lệ kháng thuốc trước điều trị dưới 5%
[10, 52]. Theo báo cáo của Tổ chức Y tế thế giới năm 2008 thì tỷ lệ kháng
103
thuốc trước điều trị trên người lớn tại Châu Á và Châu Phi là 5%. Tỷ lệ kháng
thuốc trước điều trị thấp có thể do sự tiếp cận với điều trị bằng ARV tại các
nước có nguồn lực hạn chế tương đối muộn hơn so với các nước phát triển (tỷ
lệ kháng thuốc trước điều trị cao, có thể lên đến 16% [140])
Tỷ lệ kháng thuốc trước điều trị trong nghiên cứu của chúng tôi thấp
hơn so với nghiên cứu của Bệnh viện Nhi trung ương năm 2010 - 2011 là
17,8% [24]; nghiên cứu trên người lớn chưa điều trị ARV bị viêm màng não
tại Thành phố Hồ Chí Minh thì tỷ lệ là 6,4% [125] và trên một nghiên cứu đa
trung tâm (Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng, Khánh Hòa và Cần Thơ) thì tỷ lệ
kháng thuốc trên người lớn trước điều trị là 7,6% [50].
Kết quả nghiên cứu đa trung tâm tại khu vực Châu Mỹ La tinh năm
2010 (Brazil, Argentina, Mexico) trên trẻ em chưa tiếp xúc với ARV (bao
gồm không tham gia chương trình phòng lây truyền nhiễm HIV từ mẹ sang
con), tỷ lệ trẻ mang chủng HIV có đột biến kháng thuốc là 8,7% [121]. Tỷ lệ
này hơi cao hơn so với kết quả trong nghiên cứu của chúng tôi, có thể do
chương trình điều trị bằng ARV đã được triển khai sớm hơn, từ năm 2002, ở
khu vực này nên tỷ lệ kháng thuốc lây truyền cao hơn.
Trong nghiên cứu này, tỷ lệ trẻ có đột biến kháng thuốc đối với từng
nhóm thuốc lần lượt là 1,5%, 0,7% và 2,9% đối với nhóm thuốc NRTIs,
NNRTIs, PIs và đều ở cấp độ thấp (dưới 5%) [55]. Kết quả này cũng tương
đồng với kết quả trong nghiên cứu ở người lớn tại Việt Nam [13, 125] là 1,2 -
3,7%, 2,3 - 2,5% và 0 - 1,6% lần lượt đối với nhóm thuốc NRTIs, NNRTIs,
và PIs. Kết quả này thấp hơn so với kết quả trên trẻ em trong nghiên cứu tại
Mozambique năm 2008 với tỷ lệ kháng là 5,4% và 1,8% lần lượt với NRTIs
và NNRTs [132] và nghiên cứu tại Nam Phi trên nhóm trẻ không tiếp xúc với
ARV trước đó thì tỷ lệ kháng là 25%, 11% và 1% lần lượt với NNRTIs,
NRTIs và PIs [82].
104
4.1.3. Đặc điểm các đột biến kháng thuốc ARV trên bệnh nhi tại thời
điểm bắt đầu điều trị
Các đột biến liên quan đến kháng thuốc ARV ghi nhận trong nghiên
cứu này tại thời điềm bắt đầu điều trị bao gồm T215A, N348I, M46L, T74S
(Bảng 3.8) đều chỉ gây kháng thấp. Kết quả này cũng tương đồng với kết quả
của một số nghiên cứu khác trên trẻ em như nghiên cứu đa trung tâm tại Châu
Mỹ La tinh [121] với các đột biến gây kháng không cao phát hiện đơn lẻ (chỉ
có một đột biến/bệnh nhi) tại thời điểm bắt đầu điều trị.
Trong nghiên cứu của Bệnh viện Nhi trung ương [24], các đột biến phát
hiện trên quần thể bệnh nhi chưa điều trị lại là các đột biến K65R, Q151M
hay đột biến chèn xung quanh vị trí 69; là những đột biến gây kháng cao mà
theo y văn là rất khó xuất hiện ở quần thể bệnh nhân chưa điều trị mà phải là
những bệnh nhi đã trải qua quá trình điều trị tương đối lâu [67].
Các đột biến ghi nhận kháng nhóm NRTIs là T215A, T69N và V75L.
Trong đó T215A là đột biến gây kháng thấp với D4T, AZT và có khả năng
kháng thấp ABC và ddI, đột biến này cũng là đột biến thường ghi nhận được
ở những quần thể chưa điều trị với ARV. Theo ngân hàng dữ liệu HIV kháng
thuốc của Đại học Stanford, T215A thường được tích lũy ở những vi rút mang
T215Y/F là những đột biến gây kháng thấp đến cao với các thuốc thuộc nhóm
NRTIs. Hai đột biến còn lại thì T69N có khả năng kháng thấp với ddI, còn
V75L thì có khả năng kháng thấp với D4T và ddI. Không có đột biến TAMs
nào được phát hiện trong quần thể nghiên cứu. Kết quả này phù hợp với đặc
điểm của quần thể nghiên cứu ở giai đoạn trước điều trị vì các đột biến TAMs
thường xuất hiện muộn, sau khi điều trị bằng ARV một thời gian.
Đối với nhóm thuốc NNRTIs: Đây là nhóm có rào cản di truyền thấp,
sự xuất hiện một đột biến chính cũng có thể gây kháng chéo với phần lớn các
thuốc trong nhóm. Đột biến chính được ghi nhận trong quần thể nghiên cứu là
105
N348I là đột biến gây kháng thấp với NVP, có khả năng kháng thấp với EFV,
đồng thời kháng chéo cả với AZT và D4T thuộc nhóm NRTI, sự xuất hiện đột
biến này thường là sau khi bệnh nhân có tiếp cận với ARV và đột biến này có
ảnh hưởng đến đáp ứng điều trị với các phác đồ có NVP và AZT [144]. Đột
biến này được phát hiện trên một bệnh nhi trong nghiên cứu của chúng tôi
(DR-PED2-030) đã được tham gia chương trình phòng lây truyền nhiễm HIV
từ mẹ sang con và cả mẹ và con đều được cho dùng NVP, kết quả này phù
hợp với tiền sử dùng thuốc ARV trên bệnh nhi này (DR-PED2-030). 2 đột
biến khác được ghi nhận là V179D và V179E có khả năng gây kháng thấp với
cả 4 thuốc trong nhóm NNRTIs.
Trong nghiên cứu trên trẻ em tại Mozambique, có 4/13 (30,7%) trẻ có
tiếp xúc với ARV trong chương trình phòng lây truyền nhiễm HIV từ mẹ sang
con phát hiện được đột biến kháng thuốc lúc bắt đầu điều trị; và việc tiếp xúc
với NVP lúc sinh tiên lượng khả năng xuất hiện đột biến kháng thuốc nhóm
NNRTIs lúc bắt đầu điều trị (OR 35,7; KTC 95%: 4,1 – 310,6; p <0,001)
[132].
Đột biến kháng nhóm thuốc PIs ghi nhận được trong nghiên cứu này là
M46L và T74S (Bảng 3.10) gây kháng thấp với Nelfinavir; đột biến phụ được
ghi nhận là K20I tuy khi xuất hiện đơn lẻ chỉ có khả năng kháng thấp với
NFV, nhưng những vi rút tích lũy đồng thời K20I và T74S thì có khả năng
kháng thấp với NFV. Trong nghiên cứu đã có 2 bệnh nhi (DR-PED2-022 và
DR-PED2-039) tồn tại đồng thời 2 đột biến này. Tuy nhiên, thuốc ức chế men
Protease này (NFV) hiện không còn được dùng ở nhiều nước, trong đó có
Việt Nam. Đối với LPV, là loại thuốc nhóm PIs đang dùng phổ biến ở Việt
Nam trong phác đồ bậc 2 ở người lớn và trong một số trường hợp ở cả người
lớn và trẻ em trong phác đồ bậc 1 nếu trước đó bệnh nhân có tiền sử tiếp xúc
với ARV có sử dụng NNRTIs (như trong chương trình phòng lây truyền
nhiễm HIV từ mẹ sang con) thì chỉ phát hiện 1 trường hợp có đột biến M46L
106
có khả năng kháng thấp (potential resistance) [67]. Một số đột biến phụ khác
ghi nhận được bao gồm L10I/V, L33I trong nhóm bệnh nhi này, nhưng xuất
hiện đơn lẻ nên chưa ảnh hưởng đến độ nhạy của các thuốc ức chế men
protease.
Trong nghiên cứu của chúng tôi có 7 trường hợp trẻ có đột biến kháng
thuốc tại thời điểm bắt đầu điều trị nhưng chỉ có một trường hợp trẻ có tiền sử
dùng ARV trong chương trình phòng lây truyền nhiễm HIV từ mẹ sang con.
Phân tích tương quan giữa sự xuất hiện đột biến kháng thuốc với tiền sử dùng
thuốc ARV trong chương trình phòng lây truyền nhiễm HIV từ mẹ sang con
thì không thấy có sự tương quan. Kết quả này khác biệt so với một số nghiên
cứu khác trên thế giới đã đề cập đến việc dùng thuốc ARV trước đó thì có khả
năng có đột biến kháng thuốc tại thời điểm bắt đầu điều trị cao hơn so với
người chưa dùng thuốc [62, 140] hay kết quả của nghiên cứu tại Nam Phi thì
trong số trẻ tiếp xúc với ARV trong chương trình phòng lây truyền nhiễm
HIV từ mẹ sang con có 57%, 15%, và 1% trẻ có đột biến kháng lần lượt
kháng nhóm NNRTIs, NRTIs và PIs [82]. Nguyên nhân có thể do bệnh nhi
được tiếp cận điều trị muộn, không có tiếp xúc ARV trong thời gian dài nên
các chủng vi rút mang đột biến tạm thời bị yếm thế so với các chủng vi rút
hoang dại.
4.2. ĐÁP ỨNG VI RÚT HỌC SAU MỘT NĂM ĐIỀU TRỊ ARV PHÁC
ĐỒ BẬC 1
4.2.1. Tình trạng bệnh nhi sau một năm điều trị ARV phác đồ bậc 1
Sau một năm điều trị, có 89% bệnh nhi vẫn được tiếp tục duy trì phác
đồ bậc 1; tỷ lệ này ở nhóm đối tượng người trưởng thành trong nghiên cứu
của Đỗ Thị Nhàn là 82,8% [13]. Số bệnh nhi vẫn duy trì phác đồ bậc một sau
1 năm điều trị bằng ARV cao hơn so với mức khuyến cáo của Tổ chức Y tế
107
thế giới cho thấy việc điều trị cho bệnh nhi ở hai bệnh viện Nhi đồng 1 và 2
Thành phố Hồ Chí Minh được tổ chức và quản lý tốt.
Về mặt lâm sàng, nghiên cứu chúng tôi ghi nhận có đến 98,3% bệnh
nhi đạt giai đoạn lâm sàng I – II sau 12 tháng điều trị phác đồ bậc 1, tỷ lệ này
trong nghiên cứu trên người lớn tại Việt Nam là 71,4% [13]. Về số lượng tế
bào lympho T CD4, sau 1 năm điều trị, chỉ còn 7,4% bệnh nhi có số lượng tế
bào lympho T CD4 dưới 15%. Kết quả ở nhóm đối tượng người trưởng thành
trong nghiên cứu của Đỗ Thị Nhàn là chỉ còn 6,6% bệnh nhân có số lượng
lympho T CD4 dưới 100/mm3 [13].
Kết quả này phản ảnh tình hình điều trị, theo dõi điều trị và đáp ứng
điều trị trên bệnh nhi Việt Nam là khá tốt với tỷ lệ cao vẫn duy trì phác đồ bậc
1 và có những chuyển biến rất tích cực về lâm sàng và số lượng tế bào
lympho T CD4.
4.2.2. Tỷ lệ dự phòng HIV kháng thuốc thành công
Kết quả tỷ lệ dự phòng HIV kháng thuốc thành công (có tải lượng HIV
dưới 3 log bản sao/ml) sau một năm điều trị là 82,2%, vượt ngưỡng khuyến
cáo của Tổ chức Y tế Thế giới là 70%. Theo báo cáo của Tổ chức Y tế thế
giới năm 2012 về HIV kháng thuốc trong giai đoạn 2007 - 2010, tỷ lệ dự
phòng HIV kháng thuốc thành công ở Anh là 87,7%; tại Trung Quốc là
85,7%; tại Nigeria là 89,6%; ở các nước Đông Nam Á là 71,4%, Cambodia là
81% [72], Tây và Trung Phi là 59,9%, Đông Phi là 79,4% [140]; ở Việt Nam,
trong nghiên cứu trên người lớn là 84,8% [13]. Trong nghiên cứu thiết kế
tương tự tại Mozambique trên đối tượng trẻ em năm 2008 [132] thì tỷ lệ dự
phòng HIV kháng thuốc thành công chỉ đạt 77%.
Nghiên cứu của chúng tôi cũng ghi nhận các bệnh nhi có đột biến HIV
kháng thuốc tại thời điểm bắt đầu điều trị vẫn đạt ngưỡng ức chế tải vi rút (tải
lượng HIV < 3log bản sao/ml) sau 12 tháng. Tất cả 7 bệnh nhi có đột biến
HIV kháng thuốc lúc bắt đầu điều trị đều đạt được dự phòng HIV kháng
108
thuốc lúc 12 tháng sau điều trị (có tải lượng HIV dưới 3 log bản sao/ml).
Trong số này có 2 bệnh nhi có đột biến kháng thấp với NRTIs, 1 bệnh nhi có
đột biến kháng thấp với NNRTIs và 4 bệnh nhi có đột biến kháng thấp với
PIs. 2 bệnh nhi có đột biến với nhóm NRTIs được điều trị với phác đồ ARV
mà 1 loại thuốc trong phác đồ đó được dự báo là có kháng ở mức độ thấp
(Bảng 3.14). Vì vậy, việc kết hợp ít nhất 3 thuốc trong phác đồ điều trị là rất
quan trong để đem lại hiệu quả điều trị.
Kết quả đạt tỷ lệ dự phòng HIV kháng thuốc cao trong nghiên cứu của
chúng tôi phù hợp với việc thực hành dự phòng HIV kháng thuốc của chương
trình điều trị bằng ARV tại Việt Nam. Từ cuối năm 2005, Bộ Y tế Việt Nam
đã thực hiện việc chuẩn hóa phác đồ và quy trình điều trị. Tất cả các bệnh
nhân (đối với trẻ em là cha/mẹ hoặc người giám hộ) trước khi vào điều trị
bằng ARV đều được tập huấn về phác đồ điều trị và sự cần thiết của tuân thủ
điều trị. Tư vấn tuân thủ điều trị được kiểm tra và nhắc nhở mỗi lần bệnh
nhân đến tái khám và lĩnh thuốc [2].
Các bệnh nhân đều được kê đơn theo hướng dẫn của Bộ Y tế, thuốc
ARV được cung ứng liên tục, đáp ứng đủ nhu cầu không để tình trạng không
có thuốc gây gián đoạn điều trị. Tỷ lệ bệnh nhi đạt mức tuân thủ điều trị cao
88,4% (Bảng 3.13). Như vậy có thể thấy là việc thực hành trong chương trình
điều trị bằng ARV đã có tác động tích cực đối với tỷ lệ đạt được dự phòng
HIV kháng thuốc ở mức cao và tỷ lệ có đột biến HIV kháng thuốc thấp.
Điều này cũng cho thấy các phác đồ bậc 1 theo hướng dẫn của Bộ Y tế
trong chương trình chăm sóc điều trị bệnh nhi nhiễm HIV/AIDS vẫn còn hiệu
lực tốt.
4.2.3. Tỷ lệ bệnh nhi có khả năng có HIV kháng thuốc
Nghiên cứu chúng tôi ghi nhận có 10,9% bệnh nhi có khả năng có HIV
kháng thuốc bao gồm các bệnh nhi sau 12 tháng điều trị có tải lượng HIV ≥ 3
109
log bản sao/ml nhưng không phát hiện đột biến HIV kháng thuốc (4,7%) và
các bệnh nhân mất dấu, không theo dõi được đến 12 tháng (6,2%). Theo
hướng dẫn của Tổ chức Y tế Thế giới, các bệnh nhân này được xếp vào nhóm
có khả năng kháng thuốc [138]. Các bệnh nhân này có khả năng có gián đoạn
điều trị và/hoặc tuân thủ điều trị kém dẫn đến nguy cơ nồng độ thuốc đủ ức
chế vi rút làm tăng nguy cơ thất bại điều trị.
Tỷ lệ này tương đồng với kết quả nghiên cứu trên người lớn ở Việt
Nam [13] là 12,3% nhưng thấp hơn kết quả của một số báo cáo khác trên thế
giới như ở Châu Phi có thể lên đến 34,1%, hay tại khu vực Đông Nam Á là
19,7% [140]. Kết quả nghiên cứu trên bệnh nhi Mozambique thì tỷ lệ này là
10,6% nhưng tất cả đều là bệnh nhi mất dấu.
Phân tích sâu hơn về nguyên nhân thì kết quả có khả năng có HIV
kháng thuốc trên các nghiên cứu trên đều cao chủ yếu do bệnh nhân mất dấu,
không theo dõi được, còn kết quả của chúng tôi thì tỷ lệ bệnh nhi mất dấu
không nhiều có thể do hai cơ sở điều trị trong nghiên cứu của chúng tôi là các
cơ sở điều trị lớn với quy trình chăm sóc – theo dõi bệnh nhi nghiêm ngặt và
tốt hơn nên số lượng bệnh nhi mất dấu ít hơn. Điều này cho thấy công tác
quản lý ca bệnh tốt góp phần rất lớn vào thành công của chương trình điều trị.
4.2.4. HIV kháng thuốc không phân loại
Nghiên cứu chúng tôi ghi nhận được 5,1% (Bảng 3.10) trẻ tử vong sau
trung bình 39 ngày (dao động từ 2 ngày – 125 ngày) kể từ lúc bắt đầu điều trị
bằng ARV và tất cả đều có giai đoạn lâm sàng III – IV lúc bắt đầu. Kết quả
này cũng tương đồng với kết quả của nghiên cứu tương tự tại Mozambique
với tỷ lệ tử vong là 5% [132], thấp hơn so với nghiên cứu tại Cambodia với tỷ
lệ tử ở trẻ vong là 6,1% sau 12 tháng điều trị [72].
Một nghiên cứu tại Kenya báo cáo có đến 13,4% trẻ tử vong sau trung
bình 35 ngày sau khi bắt đầu điều trị bằng ARV và trung bình 8,4% tử vong
sau 1 năm bắt đầu điều trị bằng ARV chủ yếu liên quan đến giai đoạn lâm
110
sàng nặng (giai đoạn IV – WHO), thiếu máu nặng (Hb < 9g/dl) hoặc Z score
cân nặng/chiều cao < -2 [136]. Điều này cho thấy tầm quan trọng của tăng
cường tiếp cận với chương trình chẩn đoán sớm và điều trị sớm nhiễm HIV
cho trẻ nhằm giảm tỷ lệ tử vong cho trẻ nhiễm HIV/AIDS như trong khuyến
cáo của WHO năm 2010 [139].
4.3. ĐỘT BIẾN KHÁNG THUỐC ARV SAU MỘT NĂM ĐIỀU TRỊ
4.3.1. Tỷ lệ bệnh nhi có đột biến kháng thuốc ARV sau 12 tháng điều trị
phác dồ bậc 1
Kết quả nghiên cứu cho thấy tỷ lệ bệnh nhi có HIV kháng thuốc sau 12
tháng điều trị phác đồ bậc 1 theo hướng dẫn của Bộ Y tế là 7,0%, kết quả này
hơi cao hơn so với một số nghiên cứu trên người lớn nhưng lại thấp hơn kết
quả nghiên cứu khác trên bệnh nhi. Kết quả nghiên cứu trên người lớn ở Việt
Nam thì tỷ lệ này là 2,9% [13]. Theo báo cáo của Tổ chức Y tế Thế giới giai
đoạn 2007 – 2010, tỷ lệ có đột biến HIV kháng thuốc sau 12 tháng điều trị
chung cho các khu vực châu Phi và Đông Nam Á (Ấn Độ và Indonesia) là
5,1% [140]; tại khu vực Trung Phi tỷ lệ HIV kháng thuốc là 6%. Mozambique
thực hiện theo dõi HIV kháng thuốc theo quy trình do WHO khuyến cáo tại
trên nhóm đối tượng bệnh nhi năm 2008, kết quả cho thấy sau 12 tháng điều
trị tỷ lệ HIV kháng thuốc là 10,3% [132].
Một trong những lý giải về tỷ lệ kháng thuốc ở trẻ em có thể là do trẻ
em dễ bị tình trạng nôn ói sau dùng thuốc hơn, làm cho nồng độ thuốc trong
máu không đạt yêu cầu nên khả năng xuất hiện kháng thuốc cao hơn so với
người lớn. Đây là điều cần lưu ý trong thực hành chăm sóc – điều trị cho bệnh
nhi nhiễm HIV/AIDS. Ngoài ra, có thể do ở thời điểm bắt đầu điều trị bằng
ARV, bệnh nhi đã mang chủng HIV có đột biến kháng thuốc nhưng với tỷ lệ
thấp (dưới 10 - 20%) và bị lấn át bởi các chủng hoang dại; khi điều trị, dưới
áp lực chọn lọc do có sự hiện diện của ARV, các chủng HIV kháng thuốc dần
dần chiếm ưu thế và được phát hiện ở thời điểm 12 tháng sau điều trị.
111
Sau 12 tháng điều trị bằng ARV, có 9,3% (15/129) trẻ có tải lượng HIV
≥ 3 log bản sao/ml. Trong số 12/15 trường hợp giải trình tự thành công, có 3
trường hợp (2,3%) không phát hiện được đột biến gây kháng thuốc; 9 trường
hợp (7,0%) có đột biến kháng với ít nhất một loại thuốc ARV; trong đó 3
trường hợp (2,3%) chỉ mang đột biến kháng nhóm NRTIs và 6 trường hợp
(4,7%) mang cùng lúc các đột biến kháng với nhóm thuốc NRTIs và NNRTIs;
không phát hiện trường hợp nào mang đột biến kháng thuốc nhóm PIs. So với
kết quả của nghiên cứu tương tự tại Mozambique, có 8,8% có đột biến kháng
với ít nhất một loại thuốc ARV, trong đó 8% mang cùng lúc các đột biến
kháng với nhóm thuốc NRTIs và NNRTIs, còn lại 1 trường hợp (0,9%) chỉ
mang đột biến kháng nhóm NRTIs, không phát hiện trường hợp nào mang đột
biến kháng thuốc nhóm PIs.
Tuy nhiên, so với kết quả nghiên cứu trên người lớn tại Việt Nam và
một số dữ liệu từ các báo cáo khác trên thế giới thì tỷ lệ có đột biến kháng
thuốc sau 12 tháng điều trị bằng ARV trong nghiên cứu của chúng tôi hơi
khác biệt. Trong nghiên cứu của chúng tôi thì tỷ lệ kháng với nhóm thuốc
NRTIs cao hơn đối với nhóm thuốc NNRTIs nhưng các nghiên cứu trên
người lớn thì tỷ lệ kháng nhóm thuốc NNRTIs là cao hơn [13, 115]. Nguyên
nhân có thể là do vấn đề dạng thuốc sử dụng, thuốc nhóm NNRTIs chủ yếu ở
Việt Nam là NVP có dạng sirop nên dễ được trẻ “chấp nhận” hơn các thuốc
nhóm NRTIs đa phần là dạng viên sẽ dễ gây nôn ói hoặc trong một số trường
hợp không có thuốc quy cách cho trẻ em mà phải dùng dạng thuốc viên của
người lớn bẻ nhỏ để chia liều có thể làm lượng thuốc được hấp thu không đủ
để đạt nồng độ ức chế vi rút, gây nguy cơ phát sinh chủng vi rút mang đột
biến kháng thuốc.
Trong nghiên cứu này, chúng tôi cũng ghi nhận được có 6/9 bệnh nhi
có đột biến HIV kháng thuốc với đồng thời cả nhóm NNRTIs và nhóm NRTIs
(Bảng 3.17). Các đột biến này được dự báo là có mức kháng trung bình đến
112
cao với 1 đến cả 3 thuốc ARV trong phác đồ mà bệnh nhi đang điều trị; trong
đó có một trường hợp (DR-PED2-025) kháng cả 3 thứ thuốc, đồng thời tình
trạng miễn dịch cũng giảm và lâm sàng không chuyển biến đáng kể (Bảng
3.16). Tuy nhiên, tất cả bệnh nhi này, tại thời điểm 12 tháng, vẫn chưa được
đánh giá có thất bại điều trị với phác đồ bậc 1 để chuyển đổi sang phác đồ phù
hợp. Điều này cho thấy tầm quan trọng của việc thực hiện xét nghiệm đo tải
lượng HIV định kỳ để theo dõi đáp ứng điều trị của bệnh nhân, nhằm phát
hiện sớm thất bại điều trị với phác đồ bậc 1 để chuyển đổi sang phác đồ phù
hợp, tránh tích lũy thêm đột biến kháng thuốc mới.
4.3.2. Đặc điểm đột biến kháng thuốc sau một năm điều trị bằng ARV
Đối với nhóm thuốc NRTIs: nghiên cứu đã ghi nhận một số đột biến
chính như D67N, K70R, L74V, V75M, V75T, Y115F, Q151M, M184V,
T215F, T215S, T215N. Trong số này đột biến M184V được ghi nhận trên 6
trường hợp là đột biến thường xuất hiện sớm và là đột biến đơn duy nhất làm
gia tăng tính kháng với 3TC lên 1000 lần, đồng thời cũng gây kháng thấp với
ddI và ABC. Tuy nhiên, sự tích lũy đột biến này lại làm tăng tính nhạy cảm
với AZT, d4T và TDF. Đột biến V75M gây kháng cao với d4T và kháng
trung bình với ddI. Q151M là một đột biến gây kháng chéo với tất cả các
thuốc thuộc nhóm NRTI, trong đó gây kháng cao với AZT, d4T, ddI và ABC.
Sự xuất hiện của Q151M thường kết hợp với sự biểu hiện của hai trong số 4
đột biến khác như A62V, V75I, F77L, và F116Y. Trong nghiên cứu cũng đã
ghi nhận một bệnh nhi (PED1-025) mang phức hợp đột biến này (Q151M,
F77L và F116Y). Ngoài ra còn có sự xuất hiện của 4 trong số 6 đột biến
TAMs gây kháng chéo trong nhóm thuốc này là D67N, K70R, T215F,
K219Q, trong đó ghi nhận 1 trường hợp (PED2-003) xuất hiện tổ hợp 3
TAMs (D67N, K70R và K219Q).
Trong số 9 bệnh nhi mang đột biến kháng thuốc, nghiên cứu của chúng
tôi ghi nhận đến 66,7% (6/9) có đột biến M184V, tỷ lệ này cao hơn so với kết
113
quả nghiên cứu ở người lớn Việt Nam là 38,5% [13], cũng như trong báo cáo
của WHO là 58,7% [140]. Đột biến này gây kháng cao với 3TC nên cần lưu ý
trong theo dõi bệnh nhân điều trị [67].
Trong một nghiên cứu ở Ý, tỷ lệ đột biến M184V trên nhóm bệnh nhân
có thất bại vi rút học với phác đồ bậc 1 là 53,5% và khi phân tích đa biến, đột
biến này được ghi nhận là có liên quan đến tình trạng đáp ứng bất tương xứng
giữa miễn dịch và vi rút học (OR 25,48; KTC 95%: 1,43 – 453,93; p=0,001)
nghĩa là bệnh nhân có thất bại vi rút học nhưng số lượng tế bào lympho T
CD4 vẫn tiếp tục tăng [99]. Điều này cho thấy xét nghiệm đo tải lượng vi rút
là cần thiết trong theo dõi bệnh nhân điều trị bằng ARV.
M184V gây hiện tượng tái nhạy cảm với AZT dẫn tới giảm IC50 từ 50
- 60%. Tái nhạy cảm với Stavudine dẫn tới giảm IC50 30%. Tuy vậy, hiện
tượng tái nhạy cảm chỉ có ý nghĩa về lâm sàng khi không có quá 3 đột biến
khác gây kháng AZT hoặc d4T. Nghiên cứu kiểu hình của 9000 mẫu bệnh
phẩm cho thấy sự phối hợp của M41L, L210W và T215Y làm giảm nhạy cảm
với AZT trên 10 lần ở 79% số ca. Nếu có thêm M184V, chỉ 52% số ca có độ
nhạy AZT giảm trên 10 lần. M184V còn làm tăng tính nhạy cảm với
Tenofovir [142].
Các đột biến gây kháng cao và kháng chéo cũng đã được phát hiện qua
nghiên cứu này như phức hợp đột biến Q151M, F77L và F116FY, hay tổ hợp
3 TAMs (D67N, K70R, K219Q) là những dạng đột biến gây đa kháng với hầu
hết các thuốc nhóm NRTIs. Điều này sẽ ảnh hưởng đến hiệu quả của các phác
đồ bậc 2 đang sử dụng tại Việt Nam hiện tại (gồm 2 thuốc nhóm NRTIs và 1
thuốc nhóm PIs). Tuy nhiên, tỷ lệ này còn rất thấp (mỗi dạng đột biến trên chỉ
phát hiện trên 1 bệnh nhi (0,8%) và nghiên cứu cũng chưa phát hiện được
trường hợp nào mang đột biến K65R là đột biến gây kháng cao với TDF,
thuốc thuộc nhóm NRTIs thường được dùng thay thế trong phác đồ bậc 2,
trong khi báo cáo của WHO, tỷ lệ mang đột biến này sau 12 tháng điều trị lên
114
đến 10,4% [140] và trong một nghiên cứu khác trên trẻ em Châu Phi thì tỷ lệ
mang đột biến K65R là 1,8% [132] sau 12 tháng điều trị phác đồ có d4T.
Nghiên cứu ghi nhận 6/9 trường hợp mang chủng vi rút có các đột biến
kháng với cả hai nhóm thuốc NRTIs và NNRTIs (Bảng 3.14); các đột biến
này có thể gây kháng mức độ cao và kháng chéo nhiều thuốc trong các phác
đồ bậc 1 đang sử dụng tại Việt Nam. Đây là nguyên nhân sẽ dẫn đến thất bại
điều trị và xuất hiện đột biến kháng thuốc mới [35, 96, 133].
Đối với nhóm thuốc NNRTIs: là nhóm thuốc có rào cản di truyền thấp
(chỉ cần một đột biến chính đã đủ để gây ra tính kháng thuốc), nghiên cứu đã
ghi nhận 5 trong số 9 đột biến kháng chính với nhóm NNRTIs theo ngân hàng
dữ liệu Stanford [67],bao gồm K101E, K103N, Y181V, Y188L và G190A.
Các đột biến này gây đa kháng với tất cả các thuốc nhóm NNRTIs.
Các đột biến kháng thuốc nhóm NNRTIs trong nghiên cứu của chúng
tôi cũng tương đồng với kết quả của các nghiên cứu khác trên nhóm bệnh
nhân có sử dụng thuốc nhóm NNRTIs trong phác đồ. Do đây là nhóm thuốc
có rào cản di truyền thấp nên chỉ cần một đột biến đơn lẻ có thể gây kháng
thuốc mức độ cao với một hoặc nhiều NNRTIs. Khi đã có K103N hoặc
Y188L thì việc dùng các NNRTIs là không còn được khuyến cáo nữa.
Đột biến K103N, một đột biến tương đối phổ biến, làm tăng 20-30 lần
mức độ kháng thuốc với tất cả các NNRTIs [90]. Do đó, trong các hướng dẫn
chuyển đổi phác đồ bậc 2 hiện tại của Việt Nam và thế giới thường không có
thuốc nhóm này nếu bệnh nhân đã được dùng một thuốc bất kỳ nhóm
NNRTIs trước đó.
K101E gây kháng thuốc mức độ thấp với tất cả các NNRTIs. Kháng
mức độ vừa với EFV và DLV và kháng mức thấp với NVP.
115
G109A gây kháng mức cao với NVP và mức vừa với EFV và DLV.
G190S và Y188C/L/H là các đột biến gây kháng mức độ cao với cả NVP và
EFV [67].
Y181V làm tăng kháng NVP và đáp ứng với EFV chỉ tạm thời [67].
Đối với nhóm thuốc PIs: Không tìm thấy đột biến chính nào kháng với
các thuốc PIs. Đột biến phụ trong nhóm kháng PIs duy nhất được tìm thấy là
L10I/V không làm giảm mức độ nhạy cảm với bất kỳ thuốc nào.
Chưa ghi nhận các đột biến gây kháng nhóm PIs (Bảng 3.15) trong
nghiên cứu này là kết quả phù hợp với quần thể nghiên cứu và thực tế sử dụng
thuốc tại Việt Nam do PIs chưa được sử dụng nhiều trong phác đồ bậc 1 và đa
số bệnh nhi (93%) của nghiên cứu này không dùng thuốc nhóm PIs (Bảng
3.10). Kết quả này cũng phù hợp với các ghi nhận khác trên thế giới như
trong các nghiên cứu đánh giá phác đồ bậc 1 chứa LPV/r, FPV/r hoặc SQV/r,
không có các đột biến chính kháng PIs xuất hiện ở các bệnh nhân thất bại điều
trị và tỷ lệ xuất hiện các đột biến phụ là thấp. Sự xuất hiện đột biến chính
kháng PIs ở bệnh nhân thất bại với phác đồ có boosted PI – kể cả PI đơn trị –
là hiếm [84].
Trong nghiên cứu của chúng tôi, sau 12 tháng điều trị bằng ARV phác
đồ bậc 1, có 6/15 bệnh nhi có tải lượng HIV ≥ 3 log bản sao/ml nhưng không
phát hiện được đột biến kháng thuốc; trong đó, 3/15 không giải trình tự được
và 3/15 giải trình tự không ghi nhận đột biến kháng thuốc. Các trường hợp
này cần được đánh giá thêm về tuân thủ điều trị vì kém tuân thủ cũng có thể
dẫn đến tải lượng vi rút cao. Tỷ lệ bệnh nhân đang điều trị bằng ARV bậc 1
tại Bệnh viện Bệnh Nhiệt đới trung ương có thất bại về vi rút học (có tải
lượng HIV trên 3 log bản sao/ml) nhưng không có đột biến HIV kháng thuốc
là 5% [19, 21]. Theo một nghiên cứu thực hiện tại Campuchia năm 2009, tỷ lệ
này là 20% [110]. Trong một nghiên cứu tại Mehico năm 2010, trong số
348 bệnh nhân có thất bại vi rút, 17,5% bệnh nhân (61/348) không phát hiện
116
được đột biến kháng thuốc [134]. Theo dõi 247 bệnh nhân tại hai trung tâm
điều trị tại Cộng hoà Congo năm 2009 thấy có 32,2% và 26,7% bệnh nhân có
tải lượng HIV RNA ≥ 3 log bản sao/ml nhưng không có đột biến kháng thuốc
[56].
Nguyên nhân của tình trạng này có thể một số yếu tố được cho là có
ảnh hưởng đến việc ức chế hoàn toàn sự nhân lên của vi rút, như việc kém
tuân thủ, những yếu tố liên quan đến dược động học của thuốc như chuyển
hoá, hấp thu, tương tác thuốc, chỉ số lympho T CD4 trước điều trị thấp, tải
lượng vi rút trước điều trị cao, . . . hay hiện tượng “blip” (tăng tải lượng vi rút
thoáng qua ở mức không cao và sau đó về lại dưới ngưỡng); do đó những
bệnh nhi này cần được theo dõi tiếp và kiểm tra lại sau đó để xác định có thất
bại điều trị thật sự hay không. Ngoài ra, do phương pháp giải trình tự gen hiện
nay chỉ phát hiện được đột biến kháng thuốc nếu nó chiếm khoảng 10 - 20%
quần thể vi rút [75, 140]. Do đó nếu chủng kháng thuốc của HIV chỉ biểu hiện
dưới dạng các quần thể nhỏ có thể không phát hiện được trong nhiều tháng tới
nhiều năm sau điều trị [103] và có thể tái xuất hiện khi điều trị được tái khởi
động với những thuốc đã bị kháng, ảnh hưởng xấu tới kết quả điều trị [87].
Đã có những công bố cho thấy việc kéo dài các phác đồ điều trị bằng
ARV không hiệu quả sẽ làm tăng tích lũy các đột biến TAMs (Thymidine
associated mutations) [43] gây đa kháng với các thuốc nhóm NRTIs có thể
làm ảnh hưởng đến hiệu quả của phác đồ ARV bậc 2 [68, 143]. Để tránh việc
xuất hiện và tích lũy các đột biến các đột biến kháng thuốc, cần phải phát
hiện sớm các trường hợp thất bại điều trị để chuyển phác đồ điều trị phù hợp
[124].
Hiện nay xét nghiệm đo tải lượng HIV đã được xác định là một trong
các xét nghiệm cần thiết để theo dõi đáp ứng điều trị. Thực tế tại Việt Nam
hiện nay, chi phí cho phác đồ bậc 2 cao hơn gấp nhiều lần so với phác đồ
117
ARV bậc 1 [9] và chi phí cho xét nghiệm tải lượng HIV hiện nay đã giảm.
Quyết định số 3047/QĐ-BYT của Bộ Y tế Việt Nam năm 2015 [6] cũng đã
hướng dẫn về việc mở rộng xét nghiệm đo tải lượng HIV thường quy trong
theo dõi bệnh nhân đang điều trị ARV.
4.4. MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN ĐẾN SỰ XUẤT HIỆN ĐỘT BIẾN
KHÁNG THUỐC ARV
4.4.1. Yếu tố liên quan đến sự xuất hiện đột biến kháng thuốc tại thời
điểm bắt đầu điều trị
Trong nghiên cứu tại Uganda năm 2010 – 2011 trên 319 trẻ tại thời
điểm bắt đầu điều trị bằng ARV phác đồ bậc 1 đã ghi nhận các yếu tố như tiền
sử dùng ARV trong chương phòng lây truyền nhiễm HIV từ mẹ sang con, tình
trạng lympho T CD4 thấp lúc bắt đầu điều trị và tuổi bắt đầu điều trị ở trẻ có
liên quan đến sự xuất hiện HIV kháng thuốc ở trẻ em tại thời điểm bắt đầu
điều trị [80]. Nghiên cứu tại Mozambique cho thấy tiền sử dùng NVP trong
chương trình phòng lây truyền nhiễm HIV từ mẹ sang con, liên quan đến việc
xuất hiện đột biến kháng thuốc nhóm NNRTIs lúc bắt đầu điều trị [132].
Trong nghiên cứu trên người lớn ở Việt Nam [13] thì các yếu tố như tiền sử
sử dụng ARV trước khi bắt đầu điều trị bằng ARV phác đồ bậc 1, bệnh nhân
bị lây nhiễm HIV qua đường tiêm chích ma túy, tuổi lúc bắt đầu điều trị và
bệnh sử đang điều trị lao lúc bắt đầu điều trị là các yếu tố có ảnh hưởng đến
sự xuất hiện của HIV kháng thuốc tại thời điểm bắt đầu điều trị. Kết quả
nghiên cứu của chúng tôi chưa ghi nhận sự liên quan giữa các yếu tố như tuổi
bắt đầu điều trị ở trẻ, tiền sử dùng ARV trong chương phòng lây truyền nhiễm
HIV từ mẹ sang con, tình trạng lâm sàng - miễn dịch lúc bắt đầu điều trị, nồng
độ vi rút /máu hay bệnh sử đang điều trị lao, nhiễm trùng cơ hội lúc bắt đầu
điều trị với sự xuất hiện của HIV kháng thuốc tại thời điểm bắt đầu điều trị
118
(Bảng 3. 19). Có thể là do trong nghiên cứu của chúng tôi, chỉ phát hiện 7
trường hợp có đột biến gây kháng thuốc tại thời điểm bắt đầu điều trị.
4.4.2. Yếu tố liên quan đến sự xuất hiện đột biến kháng thuốc sau 12
tháng điều trị bằng ARV phác đồ bậc 1
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy các yếu tố về dân số - xã hội
như tuổi bắt đầu điều trị, giới, nơi cư trú, không liên quan đến sự xuất hiện
chủng HIV mang đột biến kháng thuốc sau 12 tháng điều trị phác đồ bậc 1.
Kết quả này phù hợp với một nghiên cứu khác trên trẻ em như nghiên cứu tại
Mozambique [132] cũng thấy không có sự liên quan. Kết quả này hơi khác
với kết quả nghiên cứu trên người lớn tại Việt Nam [13] với ghi nhận tuổi bắt
đầu điều trị có liên quan đến sự xuất hiện HIV kháng thuốc sau 12 tháng điều
trị phác đồ bậc 1 trong khi các yếu tố về giới và nơi cư trú thì không liên
quan.
Trong báo cáo của WHO [140] trên người lớn, yếu tố sử dụng ARV
trước điều trị có liên quan đến sự xuất hiện đột biến kháng thuốc sau 12 tháng
điều trị. Kết quả nghiên cứu trên trẻ em tại Mozambique cũng ghi nhận sự
tương quan giữa việc dùng ARV trong chương phòng lây truyền nhiễm HIV
từ mẹ sang con với sự xuất hiện đột biến kháng thuốc sau 12 tháng điều trị
cho trẻ khi phân tích đa biến (OR 6,4; KTC 95%: 1,2 – 33,8; p=0,02) [132].
Trong nghiên cứu của chúng tôi, chỉ có 12 trẻ (8,8%) ghi nhận có tiếp xúc với
ARV trong chương trình phòng lây truyền nhiễm HIV từ mẹ sang con nhưng
không tìm thấy mối tương quan có ý nghĩa thống kê đến sự xuất hiện đột biến
kháng thuốc trước điều trị. Kết quả của chúng tôi phù hợp với kết quả nghiên
cứu trên người lớn tại Việt Nam [13] và một số nghiên cứu khác [19, 135,
144].
Kết quả nghiên cứu chúng tôi không ghi nhận sự liên quan giữa tình
trạng nhiễm trùng cơ hội (p=0,628) và giai đoạn lâm sàng lúc bắt đầu điều trị
(p=0,523) đến sự xuất hiện đột biến kháng thuốc sau 12 tháng điều trị; mắc
119
lao và điều trị lao lúc bắt đầu điều trị dường như có liên quan đến sự xuất hiện
HIV kháng thuốc sau 12 tháng điều trị ARV khi phân tích đơn biến (OR 6,1;
KTC 95%: 1,5 – 24,9; p=0,011), nhưng khi đưa vào phân tích đa biến thì sự
tương quan không có ý nghĩa thống kê (p=0,467) (Bảng 3.21). Kết quả này
phù hợp với các nghiên cứu khác cả trên người lớn [13] và trẻ em [132].
Kém tuân thủ điều trị làm nồng độ thuốc trong máu không được duy trì
liên tục ở mức có thể ức chế vi rút nên làm tăng nguy cơ phát sinh đột biến
kháng thuốc [57, 63, 130]; kết quả nghiên cứu trên trẻ em tại Mozambique
ghi nhận yếu tố tuân thủ điều trị kém có liên quan đến sự xuất hiện đột biến
kháng thuốc sau 12 tháng điều trị [132]. Kết quả của chúng tôi không ghi
nhận mối tương quan này. Trong phần lớn các nghiên cứu khác đánh giá về
tuân thủ điều trị cho thấy tỷ lệ tuân thủ trung bình chỉ là 70%, và có tới một
nửa số bệnh nhân không tuân thủ giờ uống thuốc [32], [93], [100], [106].
Trong nghiên cứu của chúng tôi có 88,4% ghi nhận tuân thủ tốt việc uống
thuốc và 11,6% (14/121) trường hợp ghi nhận không tuân thủ ít nhất một lần
(người nhà báo và đếm số thuốc còn lại lúc tái khám). Tuy nhiên, chúng tôi
chưa thấy có sự liên quan giữa việc không tuân thủ với sự xuất hiện của các
đột biến kháng thuốc sau 12 tháng. Mặt khác, có thể do cha/mẹ hoặc người
giám hộ bệnh nhi thường không khai báo về tình trạng không tuân thủ do lo
sợ bị phê bình, sợ bị con/em mình bị loại khỏi chương trình điều trị miễn phí
[135].
Kết quả nghiên cứu trên trẻ em tại Cambodia cho thấy trẻ mồ côi có
nguy cơ cao bị thất bại điều trị có thể do sự hạn chế trong hỗ trợ tuân thủ điều
trị và khuyến cáo cần có sự tăng cường hỗ trợ tuân thủ điều trị cho nhóm đối
tượng này [72]. Ngoài ra, ở góc độ chương trình, cũng cần lưu ý việc đảm
bảo nguồn cung cấp thuốc liên tục vì nghiên cứu vẫn ghi nhận một số trường
hợp phải thay đổi thuốc vì lý do hết thuốc.
120
Có sẵn đột biến kháng thuốc lúc bắt đầu điều trị tiên lượng khả năng
thất bại điều trị và tăng đột biến kháng thuốc đã được đề cập trong báo cáo
của WHO, trong các nghiên cứu trên bệnh nhân người lớn tại Việt Nam [13],
và trong một số nghiên cứu khác [66, 135] cũng như trong nghiên cứu trên
trẻ em ở Mozambique (OR 47,0; KTC 95%: 1,1 – 2111,8; p=0,04) [132].
Tuy nhiên, kết quả của chúng tôi lại không thấy có sự liên quan dù tại thời
điểm bắt đầu điều trị đã phát hiện 7 trường hợp có đột biến kháng thuốc. Kết
quả này có thể do tất cả bệnh nhi trong nghiên cứu đều được dùng thuốc với
phác đồ chuẩn phối hợp 3 thuốc nên dù có đột biến kháng với một thuốc thì
vi rút vẫn bị ức chế bởi 2 thuốc còn lại trong phác đồ. Ngoài ra, các đột biến
phát hiện tại thời điểm bắt đầu điều trị trên quần thể bệnh nhi của nghiên cứu
này đều chỉ gây kháng thuốc mức độ thấp nên phác đồ điều trị chuẩn vẫn có
hiệu quả tốt.
Một số nghiên cứu cho thấy có sự liên quan của số lượng lympho T
CD4 thấp tại thời điểm bắt đầu điều trị với khả năng xuất hiện vi rút có đột
biến kháng thuốc [51, 52, 96]. Kết quả của chúng tôi không thấy sự tương
quan này (p=0,251), kết quả này cũng tương đồng với nghiên cứu trên bệnh
nhân người lớn tại Việt Nam [13], và trong một số nghiên cứu khác [7, 19]
cũng như trong nghiên cứu trên trẻ em ở Mozambique [132] hay ở Cambodia
[72].
Kết quả nghiên cứu trên người lớn Việt Nam cho thấy số lượng
lympho T CD4 tăng mỗi 50 tế bào/mm3 ở thời điểm kết thúc so với mức lúc
bắt đầu điều trị thì nguy cơ phát triển đột biến HIV kháng thuốc giảm xuống
44%, dao động từ 41% đến 76%, hay nói khác đi, nguy cơ đột biến HIV
kháng thuốc giảm đi gần một nửa [13]. Tuy nhiên, kết quả phân tích của
chúng tôi cho thấy có thể có sự liên quan khi số lượng lympho T CD4 tăng
mỗi 5% ở thời điểm sau 12 tháng điều trị bằng ARV so với mức ban đầu thì
121
nguy cơ phát triển đột biến HIV kháng thuốc giảm xuống trong phân tích đơn
biến (OR 0,6; KTC 95%: 0,4 - 0,9; p=0,011), nhưng khi đưa vào phân tích đa
biến thì sự liên quan này lại không có ý nghĩa thống kê (p=0,259), kết quả
này phù hợp với kết quả nghiên cứu trên đối tượng trẻ em ở Mozambique
[132].
Tải lượng vi rút lúc bắt đầu điều trị là yếu tố duy nhất chúng tôi ghi
nhận có thể liên quan đến sự xuất hiện của HIV kháng thuốc sau 12 tháng
điều trị. Trong nghiên cứu của chúng tôi, tải lượng HIV của bệnh nhi tại thời
điểm bắt đầu điều trị càng cao thì nguy cơ xuất hiện đột biến kháng thuốc sau
một năm điều trị bằng ARV càng cao, cứ tải lượng vi rút cao hơn 1 log bản
sao/ml thì nguy cơ xuất hiện đột biến kháng thuốc tăng gấp 5 lần (OR 5,0;
KTC 95%: 1,2 – 20,9 lần; p=0,025) so với bệnh nhi có tải lượng HIV mức
thấp hơn. Kết quả này phù hợp với kết quả nghiên cứu trên người lớn tại Việt
Nam khi tải lượng vi rút cao hơn mỗi log bản sao/ml thì nguy cơ xuất hiện
đột biến HIV kháng thuốc lũy tích sau 12 tháng điều trị bằng ARV tăng lên
3,8 lần (OR 3,8 KTC 95%: 1,5 – 9,4 lần) và khi bệnh nhân có tải lượng HIV
lúc bắt đầu điều trị ≥ 5,65 log bản sao/ml thì nguy cơ xuất hiện đột biến HIV
Trong báo cáo của WHO, tải lượng HIV cao được xem như là một chỉ số dự
kháng thuốc mới tăng thêm 6,53 lần (OR 6,53; KTC 95%: 1,23 - 34,61) [13].
báo về nguy cơ xuất hiện của HIV kháng thuốc [140]. Nguyên nhân của tình
trạng này có thể do bệnh nhân tiếp cận điều trị muộn và như vậy có khả năng
đã tích lũy một số đột biến kháng thuốc tự nhiên nhưng với tỷ lệ nhỏ (< 20%)
nên chưa phát hiện được lúc bắt đầu điều trị. Quần thể vi rút mang đột biến
kháng thuốc này sẽ tăng lên chiếm ưu thế dưới áp lực chọn lọc của thuốc do
bệnh nhân được điều trị nên phát hiện được sau một thời gian điều trị bằng
ARV.
122
4.5. HẠN CHẾ CỦA NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu được thực hiện với cỡ mẫu được Tổ chức Y tế Thế giới
khuyến cáo cho giám sát sự xuất hiện HIV kháng thuốc trên bệnh nhân đang
điều trị tại các nước đang phát triển và chỉ được thực hiện tại bệnh viện Nhi
đồng 1 và bệnh viện Nhi đồng 2 Thành phố Hồ Chí Minh. Số các cặp mẹ -
con có tham gia vào chương trình phòng lây truyền HIV từ mẹ sang con ở giai
đoạn trẻ được đưa vào điều trị trong nghiên cứu còn thấp, một số bệnh nhi
không có đầy đủ các thông tin về tình trạng nhiễm của mẹ, tiền sử phơi nhiễm
với ARV của con, tuân thủ điều trị trong nghiên cứu chỉ được ghi nhận thông
qua đếm số thuốc còn lại sau mỗi lần tái khám và việc đến tái khám đúng hẹn,
có thể làm hạn chế các phân tích về những yếu tố liên quan đến sự xuất hiện
HIV kháng thuốc .
Ngoài ra, hai cơ sở điều trị tham gia nghiên cứu là hai bệnh viện Nhi
đồng lớn nhất của khu vực phía Nam nên việc chăm sóc, theo dõi và điều trị
cho bệnh nhi tuân thủ quy trình nghiêm ngặt hơn so với tuyến cơ sở; mặt
khác, do là các cơ sở điều trị tuyến cuối nên đối tượng bệnh nhi đưa vào
nghiên cứu cũng có thể có những trường hợp có bệnh cảnh lâm sàng nặng và
phức tạp hơn nên kết quả từ nghiên cứu có thể chưa đại diện được hoàn toàn
cho tình hình điều trị bằng ARV chung cho bệnh nhi nhiễm HIV/AIDS tại
Việt Nam.
123
KẾT LUẬN
Từ kết quả của nghiên cứu “HIV kháng thuốc và đột biến kháng
thuốc trên bệnh nhi HIV/AIDS đang điều trị ARV phác đồ bậc 1 tại Thành
phố Hồ Chí Minh” trên 136 bệnh nhi tham gia nghiên cứu từ tháng 11 năm
2011 đến tháng 7 năm 2014, chúng tôi rút ra một số kết luận như sau:
1. Tỷ lệ bệnh nhi mang chủng HIV có đột biến kháng thuốc ở thời điểm bắt
đầu điều trị là 5,1%; trong đó, 1,5% kháng thuốc nhóm NRTIs; 0,7%
kháng thuốc nhóm NNRTIs và 2,9% kháng thuốc nhóm PIs (NFV).
2. Tỷ lệ bệnh nhi đạt dự phòng kháng thuốc thành công sau 12 tháng điều trị
bằng ARV là 82,2%, vượt ngưỡng mong đợi của WHO là trên 70%; tỷ lệ
bệnh nhi có khả năng có HIV kháng thuốc sau 12 tháng điều trị bằng ARV
là 10,9%.
3. Tỷ lệ bệnh nhi mang chủng HIV có đột biến kháng thuốc sau một năm
điều trị bằng ARV phác đồ bậc 1 là 7,0%; trong đó, đã ghi nhận được
những đột biến có liên quan đến kháng chéo nhiều thuốc cùng lúc như các
đột biến TAMs, hay phức hợp đột biến Q151M, F77L và F116Y.
4. Yếu tố liên quan đến sự xuất hiện chủng HIV có đột biến kháng thuốc trên
đối tượng bệnh nhi: tải lượng HIV lúc bắt đầu điều trị cao hơn 1 log bản
sao/ml thì nguy cơ xuất hiện đột biến kháng thuốc tăng gấp 5 lần sau một
năm điều trị bằng ARV so với bệnh nhi có tải lượng HIV mức thấp hơn.
124
KIẾN NGHỊ
Trên cơ sở kết quả và các phân tích của nghiên cứu, nhằm tăng cường
hiệu quả của chương trình chăm sóc – điều trị cho người nhiễm HIV/AIDS,
đặc biệt là với đối tượng trẻ em, chúng tôi có một số kiến nghi như sau
1. Cần có các biện pháp can thiệp nhằm tăng cường khả năng tiếp cận
chương phòng lây truyền nhiễm HIV từ mẹ sang con của phụ nữ mang thai
và sự liên kết giữa chương trình phòng lây truyền nhiễm HIV từ mẹ sang
con với chương trình chăm sóc – điều trị cho trẻ em sinh ra từ mẹ nhiễm
HIV nhằm giảm tỷ lệ lây truyền mẹ sang con và trẻ sinh ra được tiếp cận
chẩn đoán sớm nhiễm HIV và điều trị sớm ngay sau khi phát hiện nhiễm.
2. Tỷ lệ bệnh nhi mang chủng HIV có đột biến kháng thuốc sau 12 tháng
điều trị vẫn ở mức thấp. Tuy nhiên, đã ghi nhận được những đột biến có
liên quan đến kháng chéo nhiều thuốc cùng lúc đối với các thuốc đang
được sử dụng tại Việt Nam. Do đó, cần tiếp tục triển khai thực hiện những
nghiên cứu và giám sát tình trạng kháng thuốc trên quần thể lớn hơn và
trên diện rộng hơn để có thể cập nhật thông tin về tình hình kháng thuốc
kịp thời cho hướng dẫn Quốc gia về điều trị cho bệnh nhi nhiễm
HIV/AIDS.
3. Tải lượng vi rút tại thời điểm bắt đầu điều trị cao là yếu tố liên quan đến
việc xuất hiện HIV có đột biến kháng thuốc, do đó cần có những biện pháp
tăng cường hơn nữa việc theo dõi bệnh nhi điều trị bằng xét nghiệm tải
lượng HIV để phát hiện sớm các trường hợp thất bại điều trị và chuyển đổi
phác đồ phù hợp.
125
DANH MỤC CÁC CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
1. Trần Tôn và Trương Thị Xuân Liên (2015), “Đặc điểm sinh học và tình
hình kháng thuốc ARV ở trẻ em nhiễm HIV ở thời điểm bắt đầu trị tại
hai bệnh viện Nhi Đồng 1 và 2 Thành phố Hồ Chí Minh”, Tạp chí Y học
Dự phòng, số 5 (165), tr. 180 - 186.
2. Trần Tôn và Trương Thị Xuân Liên (2015), “Virologic response and
drug resistance among HIV/AIDS pediatric patients under first line anti-
retroviral therapy for 12 months at two Children Hospitals no. 1 and no.
2 in Ho Chi Minh City, Vietnam”, Vietnam Journal of Infectious
Diseases (VJID), pp. 60 - 63.
126
TÀI LIỆU THAM KHẢO
TÀI LIỆU TIẾNG VIỆT
1. Bộ môn Vi sinh - Đại học Y Dược Tp. Hồ Chí Minh (2009), “HIV/AIDS”, Vi
rút học, tr. 204-213.
2. Bộ Y Tế (2006), Quy trình Chăm sóc và điều trị HIV/AIDS.
3. Bộ Y Tế (2009), Hướng dẫn chẩn đoán và điều trị bệnh nhân HIV/AIDS.
4. Bộ Y Tế (2013), Hướng dẫn xét nghiệm trong phòng chống HIV/AIDS”, Nhà
xuất bản Y học, tr. 62-99
5. Bộ Y Tế (2014), Báo cáo chương trình phòng, chống HIV/AIDS tại Việt Nam
năm 2013.
6. Bộ Y Tế (2015), Hướng dẫn chẩn đoán và điều trị bệnh nhân HIV/AIDS.
7. Nguyễn Hữu Chí (2007), “Đặc điểm kháng ARV của bệnh nhân AIDS thất bại điều trị với HAART tại Bệnh viện Bệnh Nhiệt đới”. Báo cáo tại Hội nghị khoa học Bệnh viện Bệnh Nhiệt đới Tp Hồ chí Minh.
8. Cục phòng chống HIV/AIDS – Bộ Y tế (2016), Báo cáo công tác phòng,
chống HIV/AIDS năm 2015 và các nhiệm vụ trọng tâm năm 2016.
9. Bùi Đức Dương và cs. (2010), Dự báo nhu cầu và ngân sách sử dụng thuốc
ARV tại Việt Nam (2011-2015)
10. Trương Thị Xuân Liên và cs. (2007), Đánh giá tỷ lệ kháng thuốc ARV trong can thiệp điều trị dự phòng lây nhiễm HIV từ mẹ sang con tại TP.HCM. Đề tài nghiên cứu cấp bộ.
11. Nguyễn Thanh Long, Bùi Đức Dương, Lê Thị Hường và cs. (2013), “Đánh giá đáp ứng lâm sàng và miễn dịch ở bệnh nhân HIV/AIDS trẻ em điều trị bằng thuốc ARV tại Việt Nam”, Y học Thực hành, số (889+890), tr. 255- 261.
12. Cao Minh Nga, Nguyễn Ngọc Lan, Cao Mỹ Hà (2005), “Tình trạng nhiễm HCV, HBV, HIV và lao trên các đối tượng nghiện chích ma túy”, Y Học Tp. Hồ Chí Minh, số 9(1), tr. 73-78.
13. Đỗ Thị Nhàn (2014), Nghiên cứu tình trạng HIV kháng thuốc trên bệnh nhân đang được quản lý điều trị ARV phác đồ bậc 1 tại một số tỉnh, thành phố, Luận án Tiến sĩ Y tế công cộng, Viện Vệ sinh Dịch tễ Trung ương.
14. Phạm Hồng Nhung, M. Al Jawhari, Nguyễn Yên Bình và cs. (2010), “Kiểu gen và các đột biến kháng thuốc ở bệnh nhân HIV chưa điều trị tại Hà Nội năm 2009”, Y học Thực hành, số (742+743), tr. 471-474.
15. Phạm Duy Quang, Đỗ Thị Nhàn, Nguyễn Bùi Đức và cs. (2010), “Các yếu tố tương quan mắc lao ở bệnh nhân HIV thu dung điều trị ARV phác đồ bậc 1”, Y học Thực hành số (742+743), tr. 481-484.
127
16. Huỳnh Hoàng Khánh Thư (2010), Tìm hiểu tình kháng thuốc ARV của virus HIV trên các bệnh nhân nhiễm HIV, Luận văn Thạc sĩ Di truyền học, Đai học Khoa học Tự nhiên Tp. HCM.
17. Huỳnh Hoàng Khánh Thư và cs. (2011), “Đáp ứng virus học và HIV kháng thuốc sau 12 và 24 tháng điều trị ARV phác đồ 1 tại Tp. Hồ Chí Minh”, Tạp chí Truyền nhiễm Việt Nam, số 01(5), tr. 47-50.
18. Cao Thị Thanh Thủy (2014), Tình trạng nhiễm HIV ở trẻ dưới 18 tháng tuổi phơi nhiễm HIV và đánh giá hiệu quả điều trị ARV tại Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Y tế công cộng, Viện Vệ sinh Dịch tễ Trung ương.
19. Trần Thị Phương Thúy (2012), Nghiên cứu tình trạng HIV kháng thuốc ARV trên bệnh nhân HIV/AIDS điều trị ARV tại Bệnh viện Bệnh Nhiệt đới trung ương, Luận án Tiến sĩ Y học, Học viện Quân Y.
20. Trần Thị Phương Thúy và cs. (2011), Đánh giá kết quả điều trị ARV ở bệnh nhân HIV/AIDS tại phòng khám ngoại trú Bệnh viện Bệnh nhiệt đới Trung ương. Đề tài nghiên cứu cấp cơ sở, Bệnh viện Bệnh Nhiệt đới trung ương.
21. Phan Trung Tiến (2010), ”Nghiên cứu lâm sàng, cận lâm sàng bệnh nhân HIV/AIDS được chỉ định điều trị ARV tại bệnh viện Trung ương Huế”, Y học Thực hành số (889+890), tr. 313-6.
22. Nguyễn Văn Tư (2013),” Đánh giá tình hình nhiễm lao trên bệnh nhâ HIV/AIDS tại khoa chăm sóc và điều trị từ 2006 đến 2010”, Y học Thực hành, số (889+890), tr. 313-316.
23. Viện Pasteur TP. Hồ Chí Minh (2014), Tài liệu tập huấn xét nghiệm HIV, tr.
1-11
24. Lê Thị Yên và cs. (2013), “Đặc điểm lâm sàng và tỷ lệ đột biến kháng thuốc Antiretroviral ở trẻ nhiễm HIV”, Y học Thực hành, số (889+890), tr. 362-365.
TÀI LIỆU TIẾNG ANH
25. AIDS Research Center Website (2012),
www.adarc.org/hiv_replication_632.html.
26. Andreotti M. et al. (2007), "Resistance mutation patterns in plasma and breast milk of HIV-infected women receiving highly-active antiretroviral therapy for mother-to-child transmission prevention", AIDS, 21(17), pp. 2360-2362.
27. Apisarnthanarak, A. and L.M. Mundy (2008), "Antiretroviral Drug Resistance among Antiretroviral-Naive Individuals with HIV Infection of Unknown Duration in Thailand", Clinical Infectious Diseases, 46(10), pp. 1630- 1631.
128
28. Apisarnthanarak A. et al. (2008), "Antiretroviral drug resistance among antiretroviral-naive persons with recent HIV infection in Thailand", HIV Med, 9(5), pp. 322-325.
29. Auwanit W. et al. (2009), "Detection of drug resistance-associated and background mutations in human immunodeficiency virus type 1 CRF01_AE protease and reverse transcriptase derived from drug treatment-naive patients residing in central Thailand", AIDS Res Hum Retroviruses, 25(6), pp. 625-31.
30. Ayouba A. et al. (2009), "Low prevalence of HIV type 1 drug resistance mutations in untreated, recently infected patients from Burkina Faso, Cote d'Ivoire, Senegal, Thailand, and Vietnam, the ANRS 12134 study", AIDS Res Hum Retroviruses, 25(11), pp. 1193-1196.
31. Babiker A. et al. (2011), "First-line antiretroviral therapy with a protease inhibitor versus non-nucleoside reverse transcriptase inhibitor and switch at higher versus low viral load in HIV-infected children, an open- label, randomised phase 2/3 trial", Lancet Infect Dis, 11(4), pp. 273- 283.
32. Bangsberg D.R. et al. (2000), "Adherence to protease inhibitors, HIV-1 viral load, and development of drug resistance in an indigent population", AIDS, 14(4), pp. 357-366.
33. Bannister W.P. et al. (2011), "Estimating prevalence of accumulated HIV-1 drug resistance in a cohort of patients on antiretroviral therapy", J Antimicrob Chemother, 66(4), pp. 901-911.
34. Bennett D.E. et al. (2008), "The World Health Organization's global strategy for prevention and assessment of HIV drug resistance", Antivir Ther, 13 Suppl 2, pp. 1-13.
35. Bennett D.E. et al. (2012), "HIV drug resistance early warning indicators in cohorts of individuals starting antiretroviral therapy between 2004 and 2009, World Health Organization global report from 50 countries", Clin Infect Dis, 54 Suppl 4, pp. S280-289.
36. Black J.G. (2012), Microbiology Principles and Explotation 8th edition.
Chapter 10, pp. 270-307.
37. Boulle A. et al. (2008), "Outcomes of nevirapine- and efavirenz-based therapy when coadministered with rifampicin-based
antiretroviral antitubercular therapy", JAMA, 300(5), pp. 530-539.
38. Braun M.W. (2015), Pathology C601/C602 Slides & Laboratory Units,
Indiana University School of Medicine.
39. Buonaguro L., M.L. Tornesello, and F.M. Buonaguro (2007), "Human Immunodeficiency Virus Type 1 Subtype Distribution in the Worldwide Epidemic, Pathogenetic and Therapeutic Implications", Journal of Virology, 81(19), pp. 10209-10219.
129
40. Castillo J. et al. (2009), "Surveillance of HIV type 1 drug resistance among naive patients from Venezuela", AIDS Res Hum Retroviruses, 25(12), pp. 1329-1333.
41. Charpentier, C., et al. (2002), "Co-evolution and competition of viral populations with distinct resistance genotypes in patients failing treatment with PIs", Antiviral Therapy (suppl 1), pp. S55.
42. Chomat A.M. et al. (2009), "Knowledge, beliefs, and health care practices relating to treatment of HIV in Vellore, India", AIDS Patient Care STDS, 23(6), pp. 477-484.
43. Chonwattana W., Leelawiwat W., Kittinunvorakoon C. et al. (2007), "The prevalence of transmitted HIV-1 drug resistance in recently HIV-1 infected injecting drug users in Bangkok", presented at the 4th International AIDS Society Conference on HIV Pathogensis and Treatment and Prevention; Sydney, Australia, 2007 July 22–25.
44. Collins K.L. et al. (1998), "HIV-1 Nef protein protects infected primary cells against killing by cytotoxic T lymphocytes", Nature, 391(6665), pp. 397-401.
45. Cornell M. et al. (2010), "Temporal changes in programme outcomes among adult patients initiating antiretroviral therapy across South Africa, 2002- 2007", AIDS, 24(14), pp. 2263-2270.
46. Costagliola D et al. (2001), “Presence of thymidine-associated mutations and response to d4T, abacavir and ddI in the control arm of the Narval ANRS 088 trial”, 8th Conference on Retroviruses and Opportunistic Infections in Chicago - USA, abstract 450.
to
47. Cozzi-Lepri A et al. (2005), “Thymidine analogue mutation profiles: factors associated with acquiring specific profiles and their effect of virologic therapy”, 12th Conference on Retroviruses and response Opportunistic Infections in Boston – USA, abstract 708.
48. Craig C et al. (2002), “Nucleoside reverse transcriptase inhibitor-associated resistance substitutions and susceptibility to abacavir, didanosine and stavudine”, Antivir Ther,7, pp. S27
49. De Gascun C.F. et al. (2012), "Documented prevalence of HIV type 1 antiretroviral transmitted drug resistance in Ireland from 2004 to 2008", AIDS Res Hum Retroviruses, 28(3), pp. 276-281.
50. Dean J. et al. (2011), "Prevalence of HIV type 1 antiretroviral drug resistance in Vietnam, a multicenter study", AIDS Res Hum
mutations Retroviruses, 27(7), pp. 797-801.
51. Deeks S.G. et al. (1999), "HIV RNA and CD4 cell count response to protease inhibitor therapy in an urban AIDS clinic, response to both initial and salvage therapy", AIDS, 13(6), pp. F35-43.
130
52. Demeter L.M. et al. (2001), "Predictors of virologic and clinical outcomes in HIV-1-infected patients receiving concurrent treatment with indinavir, zidovudine, and lamivudine, AIDS Clinical Trials Group Protocol 320", Ann Intern Med, 135(11), pp. 954-964.
53. Descamps D. et al. (2000), "Mechanisms of virologic failure in previously untreated HIV-infected patients from a trial of induction-maintenance therapy. Trilege (Agence Nationale de Recherches sur le SIDA 072) Study Team)". JAMA, 283(2), pp. 205-211.
54. Desrosiers R.C. (2007), "Nonhuman Lentiviruses", In Fields Virology, 5th.
Lippincott Williams & Wilkins.
55. Duc N.B. et al. (2012), "Surveillance of transmitted HIV drug resistance using matched plasma and dried blood spot specimens from voluntary counseling and testing sites in Ho Chi Minh City, Vietnam, 2007-2008", Clin Infect Dis, 54 Suppl 4, pp. S343-347.
56. Edidi S, B.C., Monleau M. et al. (2009), "Low level of HIV resistance to antiretroviral in the Democratic Republic of Congo in clinics using national guideline of ART but presence of K65R in tenofovir naive patients", Presented in the 7th European HIV Drug Resistance Workshop 2009, Stockholm, Sweden, p. Abstract 26.
57. Ekstrand, M.L. et al. (2011), "Suboptimal adherence associated with virological failure and resistance mutations to first-line highly active antiretroviral therapy (HAART) in Bangalore, India", Int Health, 3(1), pp. 27-34.
58. Francois Clavel et al. (2004), "Mechanisms of HIV Drug Resistance, A Primer", The PRN Notebook. Physicians’ Research Network, Inc.® , New York City, 9.
59. Freed EO, M.M. (2007), "HIV and their replication", In Fields Virology, 5th,
Lippincott Williams & Wilkins.
60. Gale, H.B., et al. (2013), "Is frequent CD4+ T-lymphocyte count monitoring necessary for persons with counts ≥ 300 cells/uL and HIV-1 suppression?", Clin Infect Dis, 56(9), pp. 1340-1343.
61. Germanaud D. et al. (2010), "Level of viral load and antiretroviral resistance after 6 months of non-nucleoside reverse transcriptase inhibitor first-line treatment in HIV-1-infected children in Mali", J Antimicrob Chemother, 65(1), pp. 118-124.
62. Hamers R.L. et al. (2013), "Emerging HIV-1 drug resistance after roll-out of antiretroviral therapy in sub-Saharan Africa", Curr Opin HIV AIDS, 8(1), pp. 19-26.
63. Hanson D.L. et al. (2009), "HIV type 1 drug resistance in adults receiving highly active antiretroviral therapy in Abidjan, Cote d'Ivoire", AIDS Res Hum Retroviruses, 25(5), pp. 489-495.
131
64. Havlir D.V. et al. (2001), "Prevalence and predictive value of intermittent
viremia with combination hiv therapy", JAMA, 286(2), pp. 171-179.
65. Hazuda D.J. et al. (2000), "Inhibitors of Strand Transfer That Prevent Integration and Inhibit HIV-1 Replication in Cells", Science, 287(5453), pp. 646-650.
among HIV-infected
individuals
initiating
66. Hingankar N.K. et al. (2012), "Initial virologic response and HIV drug resistance first-line antiretroviral therapy at 2 clinics in Chennai and Mumbai, India", Clin Infect Dis, 54 Suppl 4, pp. S348-354.
67. HIV drug resistance database,
http,//sierra2.stanford.edu/sierra/servlet/JSierra?action=sequenceInput.
68. Hosseinipour M.C. et al. (2009), "The public health approach to identify antiretroviral therapy failure, high-level nucleoside reverse transcriptase inhibitor resistance among Malawians failing first-line antiretroviral therapy", AIDS, 23(9), pp. 1127-1134.
69. Ikpeme E.E., O.M. Etukudo, and U.E. Ekrikpo (2013), "Seroprevalence of HBV and HIV co-infection in children and outcomes following highly active antiretroviral therapy (HAART) in Uyo, South-South Nigeria", Afr Health Sci, 13(4), pp. 955-961.
70. Iqbal H.S., Sunil S.S., Saravanan S., et al. (2010), "High- level resistance to certain NNRTIs in association with aminoacid substitutions and K122E- K49R/ KR polymorphisms among recently infected HIV patients in India", Presented at the XVIII International AIDS Conference; Vienna, Austria, 2010 July 18–23.
71. Izopet J et al. (1999), “Mutations conferring resistance to zidovudine diminish the anti-viral effect of stavudine plus didanosine”, J Med Virol, 59, pp. 507-511.
72. Janssens B. et al. (2007), "Effectiveness of highly active antiretroviral therapy in HIV-positive children, evaluation at 12 months in a routine program in Cambodia", Pediatrics, 120(5),pp. e1134-1140.
73. Jawetz, M.a.A.s. (2010), "Chapter 44. AIDS and Lentiviruses", Medical
Microbiology 25th edition.
74. Jeeninga RE et al (2001), “Evolution of AZT resistance in HIV-1: the 41-70 intermediate that is not observed in vivo has a replication defect”, Virology, 283, pp. 294-305.
75. Jordan M.R. et al. (2008), "World Health Organization surveys to monitor HIV in sentinel
resistance prevention and associated
factors
drug antiretroviral treatment sites", Antiviral Therapy, 13(2), pp. 15-23.
76. Jordan M.R. (2011), "Assessments of HIV drug resistance mutations in
resource-limited settings", Clin Infect Dis, 52(8), pp. 1058-1060.
132
77. Juday T. et al. (2011), "Factors associated with complete adherence to HIV
combination antiretroviral therapy", HIV Clin Trials, 12(2), pp. 71-78.
78. Karnkawinpong O. A.S., Korianudom S. (2006), "Viral load, genotypic drug resistance assay in AIDS patients treated with d4T+3TC +NVP regimen, from routine to research", Presented at the XVI International AIDS Conference; Toronto, Canada, 2006 August 13–18.
79. Kim P.S. and S.W. Read (2010), "Nanotechnology and HIV, potential applications for treatment and prevention", Wiley Interdiscip Rev Nanomed Nanobiotechnol, 2(6), pp. 693-702.
80. Kityo C. et al. (2016), "HIV Drug Resistance Among Children Initiating First- Line Antiretroviral Treatment in Uganda", AIDS Res Hum Retroviruses, ahead of print. doi:10.1089/aid.2015.0215.
81. Krug A., R.C. Pattinson, and D.J. Power (2004), "Why children die, an under- 5 health care survey in Mafikeng region", S Afr Med J, 94(3), pp. 202- 206.
82. Kuhn L. et al. (2014), "Drug resistance among newly diagnosed HIV-infected children in the era of more efficacious antiretroviral prophylaxis", AIDS, 28(11), pp. 1673-1678.
83. Kukoyi O. et al. (2016), "Viral load monitoring and antiretroviral treatment outcomes in a pediatric HIV cohort in Ghana", BMC Infectious Diseases, 16(1), pp. 1-9.
84. Kuritzkes D.R. (2011), "Drug Resistance in HIV-1", Current opinion in
virology, 1(6), pp. 582-589.
85. Lall M. et al. (2008), "Profile of primary resistance in HIV-1-infected treatment-naive individuals from Western India", AIDS Res Hum Retroviruses, 24(7), pp. 987-990.
86. Leelawiwat W., McNicholl J., Kongpechsatit O., et al. (2011), "Prevalence of HIV-1 drug resistance in recently HIV-infected men who have sex with men (MSM) in Thailand", Presented at the 6th International AIDS Society Conference on HIV Pathogensis and Treatment and Prevention, Rome, Italy, implications for PrEP.
87. Li JZ et al. (2011), "Low frequence HIV -1 drug resistance mutations and risk of NNRTI based antiretrroviral treatment failure", JAMA, (305), pp. 1327-1335.
88. Loutfy M.R. et al. (2013), "Systematic Review of HIV Transmission between Heterosexual Serodiscordant Couples where the HIV-Positive Partner Is Fully Suppressed on Antiretroviral Therapy", PLoS ONE, 8(2), pp. e55747.
133
89. Maartens G., E. Decloedt, and K. Cohen (2009), "Effectiveness and safety of antiretrovirals with rifampicin, crucial issues for high-burden countries", Antivir Ther, 14(8), pp. 1039-1043.
90. Mackie N. (2006), "Chapter 2", Antiretroviral resistance in clinical practice.
91. Maggiolo F. et al. (2003), "Once-a-day therapy for HIV infection, a controlled, randomized study in antiretroviral-naive HIV-1-infected patients", Antivir Ther, 8(4), pp. 339-346.
92. Massachusetts Medical society, HIV web study, www. HIVwebstudy. org.
93. Ministry of Health Vietnam (2010), The Fourth country report on following up the implementation to The declaration of Commitment on HIV and AIDS General of Vietnam Administration of HIV/AIDs Control.
94. Mocroft A. et al. (2010), "Is it safe to discontinue primary Pneumocystis jiroveci pneumonia prophylaxis in patients with virologically suppressed HIV infection and a CD4 cell count <200 cells/microL", Clin Infect Dis, 51(5), pp. 611-619.
95. Montaner J.S. et al. (1998), "A randomized, double-blind trial comparing combinations of nevirapine, didanosine, and zidovudine for HIV- infected patients, the INCAS Trial. Italy, The Netherlands, Canada and Australia Study", JAMA, 279(12), pp. 930-937.
96. Montaner J.S. et al. (2010), "Association of highly active antiretroviral therapy coverage, population viral load, and yearly new HIV diagnoses in British Columbia, Canada, a population-based study", Lancet, 376(9740), pp. 532-539.
97. Moore J.P. and R.W. Doms (2003), "The entry of entry inhibitors, a fusion of science and medicine", Proc Natl Acad Sci USA, 100(19), pp. 10598- 10602.
98. Nguyen H.T. et al. (2008), "HIV drug resistance threshold survey using specimens from voluntary counselling and testing sites in Hanoi, Vietnam", Antivir Ther, 13 Suppl 2, pp. 115-121.
to highly
responses
99. Nicastri E. et al. (2003), "High prevalence of M184 mutation among patients with viroimmunologic discordant active antiretroviral therapy and outcomes after change of therapy guided by genotypic analysis", J Clin Microbiol, 41(7), pp. 3007-3012.
100. Nieuwkerk P.T. et al. (2001), "Limited patient adherence to highly active antiretroviral therapy for HIV-1 infection in an observational cohort study", Arch Intern Med, 161(16), pp. 1962-1968.
101. Nuntachit N., Chaiwarith R., Praparattanapan J., et al (2011), "Prevalence of primary HIV drug resistance in Chiang Mai University Hospital Cohort", Presented at the 6th International AIDS Society Conference on
134
HIV Pathogensis and Treatment and Prevention; Rome, Italy, July 17– 20.
102. Orrell C. et al. (2007), "Conservation of first-line antiretroviral treatment regimen where therapeutic options are limited", Antivir Ther, 12(1), pp. 83-88.
103. Palmer S. et al. (2006), "Selection and persistence of non-nucleoside reverse transcriptase inhibitor-resistant HIV-1 in patients starting and stopping non-nucleoside therapy", AIDS, 20(5), pp. 701-710.
104. Parboosing R. et al. (2011), "Resistance to antiretroviral drugs in newly diagnosed, young treatment-naive HIV-positive pregnant women in the province of KwaZulu-Natal, South Africa", J Med Virol, 83(9), pp. 1508-1513.
105. Patel K. et al. (2008), "Long-Term Effectiveness of Highly Active Antiretroviral Therapy on the Survival of Children and Adolescents with HIV Infection, A 10-Year Follow-Up Study", Clinical Infectious Diseases, 46(4), pp. 507-515.
106. Paterson D.L. et al. (2000), "Adherence to protease inhibitor therapy and outcomes in patients with HIV infection", Ann Intern Med, 133(1), pp. 21-30.
107. Patrick M.K.,
J.B.
Johnston, and C. Power
(2002),
"Lentiviral Neuropathogenesis, Comparative Neuroinvasion, Neurotropism, Neurovirulence, and Host Neurosusceptibility", Journal of Virology, 76(16), pp. 7923-7931.
108. Paul M.E.S., W.T. (2003), Pediatric human immunodeficiency virus infection,
In Pediatric Allergy, Principles and Practice. Mosby.
didanosine
stavudine
receiving
plus
109. Pellegrin I et al. (1999), “Emergence of zidovudine and multidrug-resistance mutations in the HIV-1 reverse transcriptase gene in therapy-naive patients combination therapy”, STADI Group.
110. Phan V., Z.M., Koole O., et al. (2009), "Impact of prolonged detectable HIV RNA after HAART failure in a CRF01-AE infected cohort, pathway and accumulation of resistance mutations", Presented in 7th European HIV Drug Resistance Workshop 2009, Stockholm, Sweden, 2009.
111. Phung T.T.B. et al. (2015), "Characterization of drug resistance mutations in ART-naïve HIV-1 infected children in Northern Vietnam", Asian Pacific Journal of Tropical Disease, 5(9), pp. 691-694.
112. Quang V.M., Chinh N.T., Huy V.X. et al (2011), "HIV drug resistance and virological response in treatment-naïve HIV patients in a developing country, what is implication", Presented in the 6th IAS Conference on HIV Pathogensis Treatment and Prevention; Rome, Italy, 2011.
135
113. Ramadhani H.O. et al. (2007), "Predictors of incomplete adherence, virologic failure, and antiviral drug resistance among HIV-infected adults receiving antiretroviral therapy in Tanzania", Clin Infect Dis, 45(11), pp. 1492-1498.
114. Richman D.D. (2001), "HIV chemotherapy", Nature, 410(6831), p. 995-1001.
115. Ruan Y. et al. (2010), "Virologic outcomes of first-line HAART and associated factors among Chinese patients with HIV in three sentinel antiretroviral treatment sites", Trop Med Int Health, 15(11), pp. 1357- 1363.
116. Ruffault A et al. (2000), “Impact of zidovudine-lamivudine resistance mutations on phenotypic susceptibility of HIV-1 isolates to abacavir and stavudine using a HeLa LacZ CD4 CCR5 cell indicator assay”, Antivir Ther, 5, pp. 45.
117. Ruiz L et al. (2000) “Prevalence of zidovudine and lamivudine resistance- related mutations in the absence of active zidovudine or lamivudine use in a large multi-centred comparative trial of genotyping and standard of care - the Havanna trial”, Antivir Ther, 5, abstract 59
118. Sadoh A.E., Sadoh W. E. , Iduoriyekemwen N. J. (2011), "HIV co-infection with hepatitis B and C viruses among Nigerian children in an antiretroviral treatment programme", SA Journal of Children Health, 5(1), pp. 7-10.
119. Santos A.F. and M.A. Soares (2010), "HIV Genetic Diversity and Drug
Resistance", Viruses, 2(2), pp. 503-531.
120. Sirivichayakul S. et al. (2008), "HIV drug resistance transmission threshold
survey in Bangkok, Thailand", Antivir Ther, 13 Suppl 2, pp. 109-113.
121. Soto-Ramirez L.E. et al. (2010), "HIV Drug Resistance-Associated Mutations in Antiretroviral Naive HIV-1-Infected Latin American Children", Adv Virol, pp. 407476.
122. Soundararajan L. et al. (2007), "Characterization of HIV-1 isolates from antiretroviral drug-naive children in southern India", AIDS Res Hum Retroviruses, 23(9), pp. 1119-1126.
123. Sungkanuparph S. et al. (2011), "HIV-1 drug resistance mutations among antiretroviral-naive HIV-1-infected patients in Asia, results from the TREAT Asia Studies to Evaluate Resistance-Monitoring Study", Clin Infect Dis, 52(8), pp. 1053-1057.
124. Sutthent R. et al. (2005), "HIV-1 drug resistance in Thailand, before and after National Access to Antiretroviral Program", J Clin Virol, 34(4), pp. 272- 276.
136
125. Thao V.P. et al. (2012), "HIV-1 drug resistance in antiretroviral-naive individuals with HIV-1-associated tuberculous meningitis initiating antiretroviral therapy in Vietnam", Antivir Ther, 17(5), pp. 905-913.
126. Thomas J. Hope, D.T., Structure (2000), "Expression and Regulation of HIV
genome", HIV Insite Knowledge Base Chapter.
127. Thorat S.R. et al. (2011), "Surveillance of transmitted HIV type 1 drug resistance among HIV type 1-positive women attending an antenatal clinic in Kakinada, India", AIDS Res Hum Retroviruses, 27(12), pp. 1291-1297.
128. Truong H.M., Lindan C., Kellogg T. et al. (2009), "HIV-1 primary drug resistance and recent infection in a prospective cohort of men attending", Presented at 18th International HIV Drug Resistance Workshop; Fort Myers, United States, 2009 June 9–13.
129. University of R.o.S. (2014), HIV-1 Drug resistance Mutations, Potential
Applications for POC Genotyping Resistance.
130. Van Vaerenbergh K. (2001), "Study of the impact of HIV genotypic drug resistance testing on therapy efficacy", Verh K Acad Geneeskd Belg, 63(5), pp. 447-473.
131. Van V.T.T. and T.T. Phuong (2010), "Co-infection of hepatitis B virus, hepatitis C virus in HIV positive patients at Bach Mai hospital, Hanoi, Vietnam", Presented at 27th NRL Workshop on Serology in Melbourne - Australia, 2010.
132. Vaz P., et al. (2012), "Surveillance of HIV drug resistance in children receiving antiretroviral therapy, a pilot study of the World Health Organization's generic protocol in Maputo, Mozambique", Clin Infect Dis, 54 Suppl 4, pp. S369-374.
133. Vergne L. et al. (2002), "Resistance to antiretroviral treatment in Gabon, need for implementation of guidelines on antiretroviral therapy use and HIV-1 drug resistance monitoring in developing countries", J Acquir Immune Defic Syndr, 29(2), pp. 165-168.
134. Vidal-Laurencio E., C.-L.L., Flores-Gaxiola A., et al. (2010), "Genotypic resistance in patients with two or more ARV combinations in Mexico. Result of a pilot program", Presented in 8th European HIV Drug Resistance Wokshop 2010, Sorrento, Italy, 2010.
135. Wadonda-Kabondo N. et al. (2012), "Prevalence of HIV drug resistance before and 1 year after treatment initiation in 4 sites in the Malawi antiretroviral treatment program", Clin Infect Dis, 54 Suppl 4, pp. S362-368.
136. Wamalwa D.C. et al. (2010), "Predictors of mortality in HIV-1 infected children on antiretroviral therapy in Kenya, a prospective cohort", BMC Pediatrics, 10(1), pp. 1-8.
137
137. Wensing A.M. et al. (2014), "2014 Update of the drug resistance mutations in
HIV-1" Top Antivir Med, 22(3), pp. 642-650.
138. WHO (2006), Protocol for surveillance of transmitted HIV drug resistance in
resource-limited settings.
139. WHO (2010), Antiretroviral therapy for HIV infection in infants and children,
towards universal access.
140. WHO (2012), WHO HIV drug resistance report 2012
141. WHO (2013), The use of antiretroviral drugs for treating and preventing HIV
infection.
142. Wolf P.B.a.E. (2011), "HIV Resistance and Viral Tropism Testing", HIV book, https,//hivbook.com/tag/transmission-of-resistant-hiv-strains/.
143. Wong J.K. et al. (1997), "Reduction of HIV-1 in blood and lymph nodes following potent antiretroviral therapy and the virologic correlates of treatment failure", Proceedings of the National Academy of Sciences of the United States of America, 94(23), pp. 12574-12579.
144. Yap S.H. et al. (2007), "N348I in the connection domain of HIV-1 reverse transcriptase confers zidovudine and nevirapine resistance", PLoS Med, 4(12), pp. e335.
145. Yu D. et al. (2011), "HIV drug resistance assessment in the Western Pacific region. A systematic review", AIDS Rev, 13(4), pp. 214-226.
146. Zdanowicz M.M. (2006), "The Pharmacology of HIV Drug Resistance", American Journal of Pharmaceutical Education, 70(5), pp. 100.
138
DANH SÁCH CÁC PHỤ LỤC
Phụ lục 1: Phiếu thu thập thông tin bệnh nhân tại thời điểm bắt đầu điều trị ARV (T1)
Phụ lục 2: Phiếu thu thập thông tin bệnh nhân tại thời điểm kết thúc (T2)
Phụ lục 3: Phiếu thu thập và vận chuyển mẫu của phòng khám ngoại trú
Phụ lục 4: Phiếu đồng ý tham gia nghiên cứu theo dõi HIV kháng thuốc
Phụ lục 5: Quy trình xét nghiệm đo tải lượng HIV
Phụ lục 6: Quy trình xét nghiệm định týp gen HIV kháng thuốc
Phụ lục 7: Tiêu chuẩn điều trị ARV và phác đồ điều trị theo quy định của Bộ Y tế
Phụ lục 8: Giai đoạn lâm sàng của hệ thống phân loại US-CDC.
Phụ lục 9: Giai đoạn lâm sàng theo WHO và danh sách các đột biến cần theo dõi theo khuyến cáo của WHO
Phụ lục 10: Cây phân loài các chủng virus từ mẫu bệnh nhi tham gia nghiên
cứu
Phụ lục 11: Bảng điểm các đột biến ghi nhận sau 12 tháng điều trị ARV phác
đồ bậc 1
Phụ lục 12: Danh sách bệnh nhi tham gia nghiên cứu
139
Phụ lục 1 PHIẾU THU THẬP THÔNG TIN BỆNH NHÂN
Tại thời điểm bắt đầu (thời điểm bắt đầu điểu trị ARV)
Tên người thu thập: _____________________
Mã số bệnh nhi: _________________________
Ngày: __ _ tháng __ __năm __ __ d d m m y y Tên cơ sở điều trị: _________________
Thông tin tổng quát Ghi chú Giới
1 [ ] Nam 2 [ ] Nữ
Ngày tháng năm sinh
Hoặc Ngày ________ [ ] đoán [ ] không rõ Tháng________ [ ] đoán [ ] không rõ Năm _________[ ] đoán [ ] không rõ
____/_____/_______ (dd/mm/yyyy) [ ] Không rõ
Nơi cư ngụ
1 [ ] Nội thành Tp. HCM - Quận: ___________________ 2 [ ] Ngoại thành Tp.HCM – Ghi rõ __________________ 2 [ ] Tỉnh khác (ghi rõ) ____________
Yếu tố nguy cơ, nếu có
1[ ] Lây truyền mẹ-con 2[ ] Khác, ghi rõ............................................. 9 [ ] Không rõ
Dữ liệu PLTMC Thuốc sử dụng PLTMC cho mẹ
0 [ ] Không sử dụng 1 [ ] sdNVP Ngày: __ __/__ __/__ __ [ ] Không rõ 2 [ ] sdNVP + AZT/3TC Ngày: __ __/__ __/__ __ [ ] Không rõ 3 [ ] AZT 28 + sdNVP Ngày: __ __/__ __/__ __ [ ] Không rõ 4 [ ] HAART:…………… Ngày __ __/__ __/__ __ [ ] Không rõ 5 [ ] Khác, ghi rõ __________________________________ 9 [ ] Không rõ Thời gian sử dụng PLTMC: ……….. ngày [ ] Không rõ
Thuốc sử dụng PLTMC cho con
0 [ ] Không sử dụng 1 [ ] sdNVP Ngày: __ __/__ __/__ __ [ ] Không rõ 2 [ ] sdNVP + AZT/3TC Ngày: __ __/__ __/__ __ [ ] Không rõ 3 [ ] Khác, ghi rõ __________________________________ 9 [ ] Không rõ
Thời gian dùng: ______________ Thời gian dùng: ______________
Ngày khẳng định nhiễm HIV cho trẻ
Date: __ __/__ __/__ __ [ ] Không rõ
Kỹ thuật: Tìm kháng thể [ ] PCR[ ]
140
Thuốc ARV đã sử dụng cho trẻ ngoài chương PLTMC
1 [ ] Có 2 [ ] Không Loại dịch vụ : 1 [ ] Tự mua 2 [ ] Phòng khám tư 3 [ ] Khác, ghi rõ __________________________________ Thời gian dùng: từ___/____/_______ đến ____/____/______ Hoặc số tháng dùng: ______________________ Thuốc đã dùng: 1 [ ] d4T, liều:….mg/kg hoặc …………..mg/ngày 2 [ ] 3TC, liều:…mg/kg hoặc …………..mg/ngày 3 [ ] AZT , liều:….mg/kg hoặc …………..mg/ngày 4 [ ] ABC , liều:….mg/kg hoặc …………..mg/ngày 5 [ ] NVP , liều:….mg/kg hoặc …………..mg/ngày 6 [ ] EFV , liều:….mg/kg hoặc …………..mg/ngày 7 [ ] LPV/r , liều:….mg/kg hoặc …………..mg/ngày 8 [ ] Khác:……… , liều:….mg/kg hoặc …………..mg/ngày 9 [ ] Khác:……… , liều:….mg/kg hoặc …………..mg/ngày
Dạng viên[ ] ,viên kết hợp[ ], sirop[ ] Dạng viên[ ] ,viên kết hợp[ ], sirop[ ] Dạng viên[ ] ,viên kết hợp[ ], sirop[ ] Dạng viên[ ] ,viên kết hợp[ ], sirop[ ] Dạng viên[ ] ,viên kết hợp[ ], sirop[ ] Dạng viên[ ] ,viên kết hợp[ ], sirop[ ] Dạng viên[ ] ,viên kết hợp[ ], sirop[ ] Dạng viên[ ] ,viên kết hợp[ ], sirop[ ] Dạng viên[ ] ,viên kết hợp[ ], sirop[ ]
____/_____/_______ (dd/mm/yyyy) 9 [ ] Không rõ
Giai đoạn____________ 9 [ ] Không rõ
Thông tin lâm sàng Ngày đăng ký khám tại phòng khám Giai đoạn lâm sàng - WHO Cân nặng
___________kg 9 [ ] Không rõ
Chiếu cao
Điều trị nhiễm trùng cơ hội tại thời điềm bắt đầu điều trị ARV
CD4
VL
Thuốc điều trị ARV bắt đầu tại cơ sở
Dạng viên[ ] ,viên kết hợp[ ], sirop[ ] Dạng viên[ ] ,viên kết hợp[ ], sirop[ ] Dạng viên[ ] ,viên kết hợp[ ], sirop[ ] Dạng viên[ ] ,viên kết hợp[ ], sirop[ ] Dạng viên[ ] ,viên kết hợp[ ], sirop[ ] Dạng viên[ ] ,viên kết hợp[ ], sirop[ ] Dạng viên[ ] ,viên kết hợp[ ], sirop[ ] Dạng viên[ ] ,viên kết hợp[ ], sirop[ ] Dạng viên[ ] ,viên kết hợp[ ], sirop[ ]
___________ cm 9 [ ] Không rõ 1 [ ] Có 2 [ ] Không Phác đồ OI__________________ Nếu có, 1[ ] PCP 2[ ] Nấm họng 3[ ] Lao: Đã chẩn đoán bằng X-quang[ ] , chưa X-quang[ ] 4[ ] LIP 5[ ] Viêm phổi vi trùng Ngày bắt đầu _____/_____/____ 6[ ] P. marneffei 7[ ] Khác, ghi rõ_____________________________ Số lượng ____________cells/mm3 hoặc ____________ % Giá trị của xét nghiệm ngay thởi điểm bắt đầu điều trị ARV Ngày ____/____/_____(dd/mm/yyyy) 9 [ ] Không rõ ________bản sao/ml Ngày:___/___/___ (dd/mm/yyyy) 9 [ ] Không rõ 1 [ ] d4T, liều:………….mg/kg hoặc …………..mg/ngày 2 [ ] 3TC, liều:………….mg/kg hoặc ………….mg/ngày 3 [ ] AZT , liều………….mg/kg hoặc ………….mg/ngày 4 [ ] ABC , liều………….mg/kg hoặc ………….mg/ngày 5 [ ] NVP , ………….mg/kg hoặc ………….mg/ngày 6 [ ] EFV , ………….mg/kg hoặc ………….mg/ngày 7 [ ] LPV/r , ………….mg/kg hoặc ………….mg/ngày 8 [ ] Khác:……… , liều……….mg/kg hoặc ……….mg/ngày 9 [ ] Khác:……… , liều……….mg/kg hoặc ……….mg/ngày Ngày: __ __/__ __/__ __ d d m m y y
Ngày đầu tiên cấp thuốc Ngày và giờ rút máu
Ngày: __ __/__ __/__ __ Giờ : ___ :____ d d m m y y
Tên nhân viên rút máu
___________
Phụ lục 2
141
PHIẾU THU THẬP THÔNG TIN BỆNH NHÂN Tại thời điểm kết thúc
Tên người thu thập: _____________________
Mã số bệnh nhi: _________________________
Ngày: __ _ tháng __ __năm __ __ d d m m y y Tên cơ sở điều trị: _________________
Thông tin tổng quát Ghi chú Giới
1 [ ] Nam 2 [ ] Nữ
Ngày tháng năm sinh
____/_____/_______ (dd/mm/yyyy)
____/_____/_______ (dd/mm/yyyy)
Ngày kết thúc
Tình trạng kết thúc
1 [ ] Duy trì phác đồ 1 2 [ ] Chuyển sang phác đổ bậc 2 3 [ ] Ngừng điều trị 4 [ ] Tử vong 5 [ ] Không theo dõi được 6 [ ] Chuyển đi
Sẽ được kiểm tra và xác minh bởi các chuyên gia hay giám sát viên khi xử lý số liệu
3 tháng: giai đoạn____________ 9 [ ] Không rõ
Thông tin lâm sàng (cho những BN tử vong, chuyển sang phác đồ bậc 2, không theo dõi được và duy trì phác đồ bấc 1) Giai đoạn lâm sàng theo WHO sau:
6 tháng: giai đoạn____________ 9 [ ] Không rõ
9 tháng: giai đoạn____________ 9 [ ] Không rõ
Lúc kết thúc: giai đoạn____________ 9 [ ] Không rõ
Cân nặng sau:
3 tháng: ___________kg 9 [ ] Không rõ
6 tháng: ___________kg 9 [ ] Không rõ
9 tháng: ___________kg 9 [ ] Không rõ
Lúc kết thúc: ___________kg 9 [ ] Không rõ
Chiếu cao ở lúc kết thúc
3 tháng: ___________cm 9 [ ] Không rõ
6 tháng: ___________cm 9 [ ] Không rõ
9 tháng: ___________cm 9 [ ] Không rõ
Điều trị OIs giữa lúc bắt đầu và kết thúc
Phác đồ OI__________________ Ngày bắt đầu _____/_____/____
CD4
Lúc kết thúc: ___________cm 9 [ ] Không rõ 1 [ ] Có 2 [ ] Không Nếu có, 1[ ] PCP, ngày chẩn đoán _____/_____/____ 2[ ] Nấm họng, ngày chẩn đoán _____/_____/____ 3[ ] Lao, ngày chẩn đoán bằng X-quang_____/_____/____ 4[ ] LIP, ngày chẩn đoán _____/_____/____ 5[ ] Viêm phổi vi trùng, ngày chẩn đoán_____/_____/____ 6[ ] P. marneffei, ngày chẩn đoán _____/_____/____ 7[ ] Khác, ghi rõ_____, ngày chẩn đoán _____/_____/____ Số lượng ________/mm3, __________%, ngày ____/____/_____ Số lượng ________/mm3, __________%, ngày ____/____/_____ Số lượng ________/mm3, __________%, ngày ____/____/_____ Số lượng ________/mm3, __________%, ngày ____/____/_____ 9 [ ] Không thực hiện
VL ở thời điểm kết thúc
Thuốc điều trị ARV bắt đầu tại cơ sở
Ngày đầu tiên cấp thuốc
Dạng viên[ ] , sirop[ ] Dạng viên[ ] , sirop[ ] Dạng viên[ ] , sirop[ ] Dạng viên[ ] , sirop[ ] Dạng viên[ ] , sirop[ ] Dạng viên[ ] , sirop[ ] Dạng viên[ ] , sirop[ ] Dạng viên[ ] , sirop[ ] Dạng viên[ ] , sirop[ ]
________bản sao/ml 9 [ ] Không rõ 1 [ ] d4T, liều:….mg/kg 2 [ ] 3TC, liều:…mg/kg 3 [ ] AZT , liều:….mg/kg 4 [ ] ABC , liều:….mg/kg 5 [ ] NVP , liều:….mg/kg 6 [ ] EFV , liều:….mg/kg 7 [ ] LPV/r , liều:….mg/kg 8 [ ] Khác:……… , liều:….mg/kg 9 [ ] Khác:……… , liều:….mg/kg Ngày: __ __/__ __/__ __ d d m m y y
Thay đổi thuốc điều trị ARV giữa lúc bắt đầu và kết thúc
1 [ ] d4T, liều:….mg/kg 2 [ ] 3TC, liều:…mg/kg
Dạng viên[ ] , sirop[ ] Dạng viên[ ] , sirop[ ]
Ngày thay đổi: ____/____/_____ Lý do thay đổi;
142
1[ ] AE cấp 2[ ]AE kéo dài 3[ ]Lao 4[ ]Khác, ghi rõ__________________
Dạng viên[ ] , sirop[ ] Dạng viên[ ] , sirop[ ] Dạng viên[ ] , sirop[ ] Dạng viên[ ] , sirop[ ] Dạng viên[ ] , sirop[ ] Dạng viên[ ] , sirop[ ] Dạng viên[ ] , sirop[ ]
Thay đổi thuốc điều trị ARV giữa lúc bắt đầu và kết thúc
Ngày thay đổi: ____/____/_____ Lý do thay đổi; 1[ ] AE cấp 2[ ]AE kéo dài 3[ ]Lao 4[ ]Khác, ghi rõ__________________
Dạng viên[ ] , sirop[ ] Dạng viên[ ] , sirop[ ] Dạng viên[ ] , sirop[ ] Dạng viên[ ] , sirop[ ] Dạng viên[ ] , sirop[ ] Dạng viên[ ] , sirop[ ] Dạng viên[ ] , sirop[ ] Dạng viên[ ] , sirop[ ] Dạng viên[ ] , sirop[ ]
Thay đổi thuốc điều trị ARV giữa lúc bắt đầu và kết thúc
Ngày thay đổi: ____/____/_____ Lý do thay đổi; 1[ ] AE cấp 2[ ]AE kéo dài 3[ ]Lao 4[ ]Khác, ghi rõ__________________
Dạng viên[ ] , sirop[ ] Dạng viên[ ] , sirop[ ] Dạng viên[ ] , sirop[ ] Dạng viên[ ] , sirop[ ] Dạng viên[ ] , sirop[ ] Dạng viên[ ] , sirop[ ] Dạng viên[ ] , sirop[ ] Dạng viên[ ] , sirop[ ] Dạng viên[ ] , sirop[ ]
Thuốc điều trị ARV lúc kết thúc
Ngày chuyển sang phác đồ bậc 2 (nếu có): ____/____/_____
Dạng viên[ ] , sirop[ ] Dạng viên[ ] , sirop[ ] Dạng viên[ ] , sirop[ ] Dạng viên[ ] , sirop[ ] Dạng viên[ ] , sirop[ ] Dạng viên[ ] , sirop[ ] Dạng viên[ ] , sirop[ ] Dạng viên[ ] , sirop[ ] Dạng viên[ ] , sirop[ ]
Thông tin tự khai về kém tuân thủ điều trị
3 [ ] AZT , liều:….mg/kg 4 [ ] ABC , liều:….mg/kg 5 [ ] NVP , liều:….mg/kg 6 [ ] EFV , liều:….mg/kg 7 [ ] LPV/r , liều:….mg/kg 8 [ ] Khác:……… , liều:….mg/kg 9 [ ] Khác:……… , liều:….mg/kg 1 [ ] d4T, liều:….mg/kg 2 [ ] 3TC, liều:…mg/kg 3 [ ] AZT , liều:….mg/kg 4 [ ] ABC , liều:….mg/kg 5 [ ] NVP , liều:….mg/kg 6 [ ] EFV , liều:….mg/kg 7 [ ] LPV/r , liều:….mg/kg 8 [ ] Khác:……… , liều:….mg/kg 9 [ ] Khác:……… , liều:….mg/kg 1 [ ] d4T, liều:….mg/kg 2 [ ] 3TC, liều:…mg/kg 3 [ ] AZT , liều:….mg/kg 4 [ ] ABC , liều:….mg/kg 5 [ ] NVP , liều:….mg/kg 6 [ ] EFV , liều:….mg/kg 7 [ ] LPV/r , liều:….mg/kg 8 [ ] Khác:……… , liều:….mg/kg 9 [ ] Khác:……… , liều:….mg/kg 1 [ ] d4T, liều:….mg/kg 2 [ ] 3TC, liều:…mg/kg 3 [ ] AZT , liều:….mg/kg 4 [ ] ABC , liều:….mg/kg 5 [ ] NVP , liều:….mg/kg 6 [ ] EFV , liều:….mg/kg 7 [ ] LPV/r , liều:….mg/kg 8 [ ] Khác:……… , liều:….mg/kg 9 [ ] Khác:……… , liều:….mg/kg 1 [ ] Có 2 [ ] Không Nếu có,
- Ngày ____/____/_____, thuốc quên_______,
số ngày quên__________
- Ngày ____/____/_____, thuốc quên_______,
số ngày quên__________
- Ngày ____/____/_____, thuốc quên_______,
số ngày quên__________
- Ngày ____/____/_____, thuốc quên_______,
số ngày quên__________
Thông tin kém tuân thủ ghi nhận bằng cách đếm thuốc
1 [ ] Có 2 [ ] Không Nếu có,
- Ngày ____/____/_____, thuốc quên_______,
số liều quên__________
- Ngày ____/____/_____, thuốc quên_______,
số liều quên__________
- Ngày ____/____/_____, thuốc quên_______,
số liều quên__________
- Ngày ____/____/_____, thuốc quên_______,
số liều quên__________
143
Ngày và giờ rút máu
Tên nhân viên rút máu
Ngày: __ __/__ __/__ __ Giờ : ___ :____ d d m m y y giờ phút ___________________________________________
144
Ngày tái khám và nhận thuốc Số thuốc (hoặc ngày) được phát
Ngày tái khám
Ngày nhận thuốc
Thuốc ml/viên Thuốc ml/viên Thuốc ml/viên
Ngày đến
Ngày hẹn
Ngày đến
Ngày hẹn
145
Phụ lục 3 PHIẾU THU THẬP VÀ VẬN CHUYỂN MẪU
(dành cho phòng khám ngoại trú)
Ngày bắt đầu triển khai
Ngày: / /20…
Ngày kết thúc nghiên cứu
Ngày: / /20…
Thời điểm
[1] Bắt đầu [2] Kết thúc
Người vận chuyển mẫu:
……………………………... Giờ: …..:….. , ngày: / /20…
Số lượng mẫu:
………………/mẫu
Người nhận mẫu:
……………………………………….
Vận chuyển mẫu đến phòng xét nghiệm
(phần này do nhân viên phòng xét nghiệm ghi)
Giờ: ……:……. Ngày: / /20…
Ngày bắt đầu
Số lượng máu
STT
Số mã bệnh nhi
Ngày, giờ lấy máu
Tên nhân viên lấy mẫu
điều trị ARV
lấy trong ống
/ /20….
/ /20….
giờ:phút
(ml)
1
Dán mã số vào đây
2
Dán mã số vào đây
3
Dán mã số vào đây
4
Dán mã số vào đây
5
Dán mã số vào đây
6
Dán mã số vào đây
7
Dán mã số vào đây
8
Dán mã số vào đây
9
Dán mã số vào đây
10
Dán mã số vào đây
146
Phụ lục 4 Bệnh viện Nhi Đồng: ..........
PHIẾU CUNG CẤP THÔNG TIN VÀ CHẤP THUẬN THAM GIA NGHIÊN CỨU “THEO DÕI HIV KHÁNG THUỐC SAU 12 THÁNG TRÊN BỆNH NHÂN ĐƯỢC ĐIỀU TRỊ ARV PHÁC ĐỒ BẬC 1”
Nghiên cứu viên chính: Bác sĩ Trần Tôn
Cơ quan quản lý : Viện Pasteur Tp. Hồ CHí Minh
Xin chào, tên tôi là (tên của bác sỹ hay y tá), và tôi là (bác sỹ hay y tá) đang làm việc tại (tên của cơ sở điều trị). Giới thiệu : Cho đến nay vẫn chưa có thuốc chữa khỏi hẳn bệnh AIDS. Các lọai thuốc kháng HIV (được gọi chung là ARV) có tác dụng ngăn chặn sự phát triển của vi rút, giúp cho người bệnh cải thịện được tình trạng sức khỏe, giảm tỷ lệ mắc các bệnh nhiễm trùng cơ hội và kéo dài thời gian sống. Các loại thuốc này không diệt được hoàn toàn virus do đó phải uống suốt đời và phải uống đều đặn, đủ liều theo chỉ dẫn của bác sĩ chữa trị cho các bé. Tuy nhiên sau một thời gian dùng thuốc, có thể sẽ có sự xuất hiện các chủng viruslờn thuốc và làm giảm hiệu quả điều trị. Mục đích của nghiên cứu: Với nghiên cứu này, chúng tôi sẽ theo dõi và phát hiện các chủng virus HIV kháng thuốc trong máu của các bé trong quá trình một năm kể từ khi các bé bắt đầu được bác sĩ cho uống thuốc ARV. Kết quả của nghiên cứu sẽ sử dụng cho việc theo dõi quá trình điều trị của các bé và góp phần cải thiện chương trình điều trị triển khai trên toàn quốc. Tiến trình thực hiện Bệnh nhi sẽ được mời tham gia nghiên cứu khi con anh/chị bắt đầu điều trị ARV tại phòng khám này. Nếu anh/chị đồng ý cho bé tham gia vào nghiên cứu, các điều sau đây sẽ thực: 1. Anh/chị nói với bác sỹ/y tá điều trị cho con anh/chị là anh/chị đồng ý cho bé tham gia nghiên cứu. Khi bé bắt đầu điều trị điều trị ARV, ngòai các lần xét nghiệm bình thường theo quy định, chúng tôi sẽ lấy thêm một lượng máu khoảng 5 ml từ tĩnh mạch. Mẫu máu sẽ được rút trong ngày đầu tiên bé nhận thuốc. Chúng tôi sẽ thu thập máu lần thứ 2 trong vòng 1 năm kể từ ngày bé bắt đầu điều trị ARV. Bác sỹ và y tá của bé sẽ cho anh/chị biết khi nào mẫu máu thứ 2 sẽ được lấy. Chúng tôi sẽ lấy máu 2 đến 3 lần trong nghiên cứu này.
2. Các anh chị cũng sẽ được hỏi một số các thông tin liên quan trong quá trình uống thuốc ARV, các thông tin này sẽ được giữ bí mật và chỉ có bác sỹ trực tiếp điều trị mới được biết để có quyết định điều trị phù hợp cho các bé.
147
3. Mẫu máu của bé sẽ được thực hiện thêm 2 xét nghiệm: đo nồng độ virustrong máu và phát hiện virusHIV kháng thuốc. Xét nghiệm này cho biết hiệu quả của các thuốc bé sử dụng.
4. Trong trường hợp, kết quả xét nghiệm của bé cho thấy có virusHIV kháng thuốc xuất hiện, bác sỹ điều trị có thể thay đổi thuốc phù hợp khi cần thiết (phác đồ bậc 1 thay thế hay phác đồ bậc 2).
5. Kết quả xét nghiệm sẽ được lưu vào hồ sơ bệnh án. Chỉ bác sỹ điều trị cho anh/chị mới biết kết quả xét nghiệm, và sẽ trao đổi với anh/chị để có thể đưa ra các quyết định điều trị hiệu quả.
6. Các thông tin cá nhân sẽ được thu thập vào phiếu được mã hóa và chỉ có bác sỹ điều trị trực tiếp cho các bé mới biết các thông tin này. Một số thông tin định kỳ, như tuổi, giới tính và tình trạng lâm sàng, kết quả xét nghiệm thường qui của các bé sẽ được thu thập từ các hồ sơ bệnh án của bé.
7. Các kết quả nghiên cứu sẽ được công bố (tại hội nghị khoa học hay bài báo). Tuy nhiên, không có bất cứ thông tin cá nhân nào có thể định danh những người tham gia vào nghiên cứu.
Nguy cơ /sự không thoải mái 1. Việc lấy 5ml máu trong các lần xét nghiệm có thể hơi bất tiện cho bé như đau, vết bầm nhỏ tại điểm lấy máu nhưng hầu như không gây ra những nguy cơ đáng kể nào. Cán bộ lấy máu sẽ sử dụng những dụng cụ lấy máu phù hợp để làm giảm tối đa bất tiện của bé. Lợi ích 1. Bệnh nhi sẽ được xét nghiệm nồng độ virusHIV trong máu và phát hiện HIV kháng
thuốc.
2. Các kết quả của cả hai xét nghiệm trong nghiên cứu này sẽ giúp chúng ta biết nhiều hơn về HIV trong khu vực và hoạt động điều trị ARV cho bệnh nhi tại cơ sở điều trị này tốt như thế nào.
Quyền của các bệnh nhi Sự tham gia vào nghiên cứu này là hoàn toàn tự nguyện. Anh/chị có thể không cho bé tham gia nghiên cứu này và vẫn nhận tất cả các dịch vụ chăm sóc thường qui tại cơ sở điều trị. Anh/chị có thể cho bé rút ra khỏi nghiên cứu bất cứ khi nào mà không có ảnh hưởng hay có hậu quả nào liên quan đến điều trị và chăm sóc của các bé cũng như không cần tiến hành thêm một thủ tục nào. Các bé sẽ được chuyển sang quy trình điều trị và chăm sóc theo thường quy. Anh/chị sẽ được giữ một bản photo phiếu đăng ký này. Anh/chị có thể hỏi bất kỳ câu hỏi nào liên quan đến nghiên cứu này hoặc phiếu đồng ý tham gia nghiên cứu bây giờ hay trong tương lai. Nếu có bất cứ câu hỏi nào trong quá trình tham gia nghiên cứu hay quyền lợi liên quan hay các thương tích xuất hiện, anh/chị có thể liên lạc với______________________ với số điện thoại sau ______________ tại địa chỉ:_____________________. Ngoài ra anh/chị có thể hỏi các tư vấn viên tại các điểm tư vấn. Anh/chị cũng có thể gọi cho người này nếu bạn có câu hỏi hoặc các quan tâm về quyền của bạn trong nghiên cứu này. Trong nghiên cứu này sẽ có khỏang 130 người tham gia trong năm đầu tiên. Bảo vệ quyền riêng tư
148
Tên, địa chỉ và số điện thoại sẽ không được thu thập trong bất kỳ một phiếu thu thập hay một báo cáo. Nghiên cứu sẽ chỉ báo cáo một nhóm các kết quả. Một mã số nghiên cứu sẽ được sử dụng thay vì tên của bé. Tất cả các thông tin chúng tôi thu thập sẽ được giữ bí mật và vô danh. Các chi phí Thuốc ARV được cung cấp miễn phí theo quy định của Bộ Y tế. Anh/chị sẽ không phải trả chi phí cho các xét nghiệm đã nêu trên trong nghiên cứu này Sau khi nghiên cứu kết thúc, các bé sẽ được tiếp tục chăm sóc và điều trị theo quy định của chương trình quốc gia về chăm sóc điều trị bệnh nhân nhiễm HIV/AIDS đã được Bộ Y tế ban hành. Ngân sách Kế hoạch khẩn cấp của tổng thống Hoa kỳ, Viện Pasteur Tp. HCM sẽ tài trợ và tổ chức nghiên cứu này. Chấp thuận
- Tôi đã hiểu lý do cần tiến hành nghiên cứu này. - Tôi đã đọc hoặc có người đã đọc cho tôi nghe về tất cả các thông tin được cung cấp
và nghiên cứu viên đã giải thích về nghiên cứu này cho tôi.
- Tôi hiểu có thể có các nguy cơ liên quan đến việc tham gia vào nghiên cứu. - Tôi sẽ nhận được một bản photo của phiếu cung cấp thông tin vá chấp thuận cho
con tôi tham gia nghiên cứu này sau khi có đủ chữ ký và ngày tháng
Tôi đã hiểu các thông tin về nghiên cứu mà tôi đã được cung cấp ở dạng trình bày viết và dạng trình bày nói. Tôi đã có cơ hội để đặt câu hỏi và tôi đồng ý cho con tôi tham gia vào nghiên cứu này. Tham gia nghiên cứu này có nghĩa là con tôi sẽ được xét nghiệm tải lượng virusvà theo dõi sự xuất hiện virusHIV kháng thuốc miễn phí. Tôi chấp nhận cho con tôi tham gia vào nghiên cứu như được giải thích như trên và đồng ý cho lấy máu, trả lời một số câu hỏi và làm xét nghiệm tải lượng virusvà HIV kháng thuốc. Tên của cha mẹ hoặc người giám hộ bệnh nhân và chữ ký: ____________
Tên và chữ ký của bác sỹ hoặc y tá: : _____________________________
Ngày:
168
Phụ lục 7
Tiêu chuẩn bắt đầu điều trị và phác đồ điều trị ARV cho trẻ em
(Theo QĐ 3003 /QĐ-BYT ngày 19 tháng 8 năm 2009 Về việc ban hành “Hướng dẫn chẩn đoán và điều trị HIV/AIDS”)
I. Tiêu chuẩn bắt đầu điều trị
Tiêu chuẩn để bắt đầu điều trị bằng ARV ở trẻ em cần dựa vào tình trạng chẩn đoán nhiễm HIV, lứa tuổi, giai đoạn lâm sàng và giai đoạn miễn dịch của trẻ.
1. Trẻ có chẩn đoán xác định nhiễm HIV:
• Trẻ < 12 tháng tuổi: điều trị ngay, không phụ thuộc vào giai đoạn lâm sàng và tế bào CD4.
• Trẻ từ 12 tháng tuổi trở lên, chỉ định khi:
- Giai đoạn lâm sàng 4, không phụ thuộc tế bào CD4.
- Giai đoạn lâm sàng 3, không phụ thuộc tế bào CD4; Tuy nhiên trẻ mắc lao, LIP, bạch sản dạng lông miệng, giảm tiểu cầu nên điều trị trước và trì hoãn ARV nếu tế bào CD4 còn ở trên ngưỡng “Suy giảm nặng” theo lứa tuổi; nếu không làm được xét nghiệm tế bào CD4 xem xét điều trị ARV.
- Giai đoạn lâm sàng 2 và tế bào CD4 (hoặc tổng số tế bào lympho) ở dưới ngưỡng “Suy giảm nặng“ theo lứa tuổi
- Giai đoạn lâm sàng 1 và tế bào CD4 ở dưới ngưỡng “Suy giảm nặng“ theo lứa tuổi
2. Trẻ dưới 18 tháng tuổi chưa có chẩn đoán xác định nhiễm HIV bằng xét
nghiệm virus, nhưng được chẩn đoán lâm sàng bệnh HIV/AIDS nặng
II. Các phác đồ điều trị
Bắt đầu điều trị
− Chỉ định phác đồ bậc 1 cho tất cả trẻ em bắt đầu được điều trị. Cần chú ý tiền sử tiếp xúc với NVP (mẹ hoặc trẻ đã được DPLTMC bằng phác đồ có NVP trong vòng 12 tháng) để lựa chọn phác đồ phù hợp;
− Cấp thuốc ARV và hướng dẫn lại cho cha, mẹ/người chăm sóc về các loại thuốc trẻ được điều trị, cách sử dụng, lịch cấp thuốc, lịch hẹn tái khám. Đảm bảo cha mẹ/người chăm sóc có kế hoạch tuân thủ điều trị và biết cách xử trí khi gặp khó khăn.
− Hướng dẫn cách bảo quản thuốc tại nhà. Riêng đối với d4T và LPV/r dạng nhũ dịch, cần bảo quản lạnh.
169
− Chọn dạng thuốc (nước, viên) phù hợp cho từng trẻ và theo lứa tuổi, cân nặng. Trẻ < 10 kg nên sử dụng dạng thuốc nước; dạng thuốc viên phối hợp liều cố định có tác dụng tăng cường khả năng tuân thủ điều trị của trẻ.
− Liều lượng thuốc được tính theo cân nặng hoặc diện tích da (xem phụ lục 4). Cần tính liều để chọn viên thuốc có hàm lượng phù hợp với cân nặng của từng trẻ, không nên cắt viên thuốc nhỏ hơn 1/2viên
− Lưu ý các tương tác thuốc khi lựa chọn phác đồ
Các phác đồ điều trị bậc 1
1. Phác đồ cho trẻ em bắt đầu được điều trị bằng ARV (trừ trường hợp trẻ đã tiếp xúc với NVP qua DPLTMC trong vòng 12 tháng).
1.1. Phác đồ chính:
AZT + 3TC + NVP
Chỉ định: Cho tất cả trẻ em bắt đầu điều trị ARV chưa tiếp xúc với NVP hoặc đã tiếp xúc (qua DPLTMC) cách đây trên 12 tháng.
Lưu ý:
o Liều NVP ban đầu bằng nửa liều điều trị, cần tăng đủ liều sau 2 tuần điều trị.
o Uống cách đều 12 giờ, có thể uống thuốc lúc đói hoặc lúc no.
o Xét nghiệm Hgb, ALT trước điều trị, sau 1 tháng và sau đó 6 tháng/lần hoặc khi nghi
ngờ có thiếu máu hoặc ngộ độc gan
o Không điều trị phác đồ này cho trẻ có Hgb < 80 g/l; Nếu đang điều trị Hgb < 70g/l
cần thay AZT
o Thận trọng khi sử dụng NVP trên trẻ có ATL tăng gấp 2,5 lần trị số bình
thường và trẻ đang điều trị lao bằng phác đồ có rifampicin
1.2. Các phác đồ thay thế
a. Phác đồ d4T + 3TC + NVP
Chỉ định: Sử dụng phác đồ này khi trẻ không dùng được AZT.
Lưu ý:
o Liều NVP ban đầu bằng nửa liều điều trị, cần tăng đủ liều sau 2 tuần điều trị.
o Uống cách đều 12 giờ, có thể uống thuốc lúc đói hoặc lúc no.
o Xét nghiệm ALT trước điều trị, sau 1 tháng và sau đó 6 tháng/lần
o Thận trọng khi sử dụng NVP trên trẻ có ATL > 2,5 lần trị số bình thường và trẻ đang
điều trị lao bằng phác đồ có rifampicin.
b. Phác đồ AZT + 3TC + EFV
Chỉ định: Sử dụng phác đồ này cho trẻ không dùng được d4T và NVP, hoặc đang điều trị lao phác đồ có rifampicin nhưng trên 3 tuổi và cân nặng >10kg
Lưu ý:
o Uống AZT + 3TC cách nhau 12 giờ , EFV uống một lần vào buổi tối, cách bữa ăn 2-
3 giờ.
170
o Xét nghiệm Hgb trước điều trị, sau 1 tháng và sau đó 6 tháng/lần hoặc khi nghi ngờ
có thiếu máu.
o Không điều trị phác đồ này khi Hgb < 80 g/l. Nếu đang điều trị, Hgb <70g/l, thay
AZT.
o Không điều trị phác đồ này cho trẻ dưới 3 tuổi hoặc cân nặng <10kg, trẻ nữ vị thành
niên có thai trong 3 tháng đầu, hoặc trẻ bị bệnh tâm thần (tiền sử và hiện tại).
c. Phác đồ d4T + 3TC + EFV
Chỉ định: Sử dụng phác đồ này cho trẻ không dùng được NVP và AZT, hoặc đang điều trị lao phác đồ có rifampicin nhưng trên 3 tuổi và cân nặng >10kg.
Lưu ý:
o Uống d4T + 3TC cách nhau 12 giờ , EFV uống một lần vào buổi tối, cách bữa
ăn 2-3 giờ.
o Không điều trị phác đồ này cho trẻ dưới 3 tuổi hoặc cân nặng <10kg, trẻ nữ vị thành
niên có thai trong 3 tháng đầu, hoặc trẻ bị bệnh tâm thần (tiền sử và hiện tại).
d. Phác đồ ba thuốc NRTI: AZT hoặc d4T + 3TC + ABC
Chỉ định: Sử dụng phác đồ này cho trẻ không sử dụng được NVP và EFV hoặc đang điều trị lao bằng phác đồ có rifampicin nhưng dưới 3 tuổi và cân nặng <10kg. Nên hạn chế dùng phác đồ này.
2. Phác đồ cho trẻ dưới 12 tháng tuổi đã tiếp xúc với NVP (mẹ hoặc trẻ được điều trị DPLTMC bằng phác đồ có NVP):
4.2.1. Phác đồ chính: AZT + 3TC + LPV/r
Chỉ định: Sử dụng phác đồ này cho tất cả các trẻ dưới 12 tháng tuổi đã tiếp xúc với NVP qua DPLTMC
4.2.2. Phác đồ thay thế:
a. d4T + 3TC + LPV/r
Chỉ định: Sử dụng phác đồ này cho trẻ có chống chỉ định hoặc không dung nạp được AZT.
b. ABC + 3TC + LPV/r
Chỉ định: Sử dụng phác đồ này cho trẻ có chống chỉ định hoặc không dung nạp được AZT, d4T
c. AZT + 3TC + NVP hoặc d4T + 3TC + NVP
Chỉ định: Sử dụng phác đồ này khi không có LPV/r
171
Phụ lục 8
Giai đoạn lâm sàng của hệ thống phân loại US-CDC
Loại A
- Nhiễm HIV không triệu chứng
- Nhiễm HIV cấp (tiên phát) với bệnh lý kèm theo hoặc bệnh sử nhiễm
HIV cấp
- Bệnh hạch lympho toàn thể dai dẳng.
Loại B: tình trạng bệnh có triệu chứng mà không bao gồm những bệnh được
liệt kê ở phân loại lâm sàng C. Ví dụ bao gồm, nhưng không giới hạn:
- U mạch trực khuẩn
- Nhiễm nấm candida, miệng hầu
- Nhiễm nấm candida âm hộ - âm đạo dai dẳng, thường xuyên, hoặc đáp
ứng kém với điều trị
- Loạn sản cổ tử cung (trung bình hoặc nặng)/ung thư cổ tử cung tại chỗ
- Những triệu chứng thực thể, như là sốt (38,50C) hoặc tiêu chảy kéo dài
hơn 1 tháng
- Bạch sản miệng
- Herpes zoster (bệnh zona), với ít nhất 2 đợt bệnh khác nhau hoặc lan
rộng
- Xuất huyết giảm tiểu cầu tự phát
- Bệnh do Listeria monocytogens
- Bệnh viêm tiểu khung, đặc biệt nếu biến chứng áp xe ống vòi trứng
- Bệnh thần kinh ngoại vi
Loại C: những bệnh xác định AIDS
172
- Nhiễm nấm candida phế quản, khí quản, hoặc phổi
- Nhiễm nấm candida thực quản
- Ung thư cổ tử cung, có xâm nhập (những bệnh lý này phải có ít nhất 1
trong những tiêu chuẩn sau: a) Những bệnh lý được quy cho nhiễm
HIV hoặc là biểu hiện của suy giảm miễn dịch qua trung gian tế bào;
hoặc b) Những bệnh lý do quá trình diễn biến lâm sàng hoặc đòi hỏi xử
trí phức tạp hơn do hậu quả của nhiễm HIV)
- Nhiễm nấm Coccidioides immitis lan tỏa hoặc ngoài phổi
- Nhiễm Cryptococcus ngoài phổi
- Nhiễm Cryptosporidium mạn tính ở ruột (kéo dài hơn 1 tháng)
- Bệnh do Cytomegalovirus (ngoài gan, lách, hoặc hạch)
- Viêm võng mạc do Cytomegalovirus (với mất thị lực)
- Bệnh não, liên quan đến HIV
- Herpes simplex: loét mạn tính (kéo dài hơn 1 tháng); hoặc viêm phế
quản, viêm phổi, hoặc viêm thực quản
- Nhiễm trùng do Histoplasma capsulatum lan tỏa hoặc ngoài phổi
- Isosporiasis mạn tính ở ruột (kéo dài hơn 1 tháng)
- Kaposi’s sarcoma, Lymphoma Burkitt, Lymphoma nguyên bào miễn
dịch , Lymphoma tiên phát ở não
- Mycobacterium avium complex hoặc M. kansasii lan tỏa hoặc ngoài
phổi
- Mycobacterium tuberculosis, bất kỳ vị trí (phổi hoặc ngoài phổi)
- Mycobacterium, loài khác hoặc không định danh được loài, lan tỏa
hoặc ngoài phổi
173
- Pneumocystis pneumonia
- Viêm phổi tái diễn
- Bệnh não chất trắng đa ổ tiến triển
- Nhiễm trùng huyết do Salmonella, tái diễn
- Toxoplasmosis não
- Hội chứng suy mòn do HIV.
174
Phụ lục 9
Phân giai đoạn lâm sàng theo WHO
Lâm sàng giai đoạn I: Không triệu chứng
o Không có triệu chứng
o Bệnh lý hạch lympho toàn thân dai dẳng.
o Tiền sử nhiễm trovirus cấp tính
o Và/hoặc hoạt động mức độ 1: Không có triệu chứng, hoạt động bình thường
Lâm sàng giai đoạn II: Giai đoạn sớm (nhẹ)
o Sút cân dưới 10% trọng lượng cơ thể
o Biểu hiện nhẹ tại da và niêm mạc (viêm tiết bã nhờn, nấm họng, loét miệng
tái diễn, viêm góc miệng)
o Zona trong vòng 5 năm gần đây
o Nhiễm trùng đường hô hấp trên tái phát (Viêm xoang do vi khuẩn)
o Và/hoặc hoạt động mức độ 2: Có biểu hiện triệu chứng nhưng vẫn hoạt động
bình thường
Lâm sàng giai đoạn III: Bệnh mức độ trung bình
o Sút cân trên 10% trọng lượng cơ thể
o Tiêu chảy mãn tính không rõ nguyên nhân trên 1 tháng
o Sốt kéo dài không rõ nguyên nhân (không liên tục hay liên tục) với thời gian
trên 1 tháng
o Nhiễm nấm Candida ở miệng
o Bạch sản dạng lông ở miệng
o Lao phổi trong vòng 1 năm gần đây
o Nhiễm vi khuẩn nặng (viêm phổi, viêm cơ mủ)
o Và/hoặc hoạt động Mức độ 3: Nằm liệt giường dưới 50% số ngày trong
tháng trước đó
Lâm sàng giai đoạn IV: Bệnh nặng, AIDS
175
o Hội chứng suy mòn do HIV (sụt >10% trọng lượng cơ thể, cộng với tiêu
chảy mạn tính không rõ căn nguyên > 1 tháng, hoặc mệt mỏi và sốt kéo dài
không rõ căn nguyên > 1 tháng)
o Viêm phổi do Pneumocystis jiroveci
o Bệnh do Toxoplasma ở não
o Bệnh do Cryptosporidia có tiêu chảy, > 1 tháng
o Bệnh do Isoproriasis có tiêu chảy, > 1 tháng
o Nhiễm nấm Cryptococcus, ngoài phổi
o Bệnh do Cytomegalovirus ở cơ quan khác ngoài gan, lách, hoặc hạch
o Nhiễm Herpes simplex virus da và niêm mạc > 1 tháng hoặc ở nội tạng
o Bệnh lý não trắng đa ổ tiến triển (PML)
o Bệnh nấm lưu hành ở địa phương có biểu hiện lan toả toàn thân (như nấm
Histoplasma, Penicillium)
o Bệnh nấm Candida thực quản, khí quản, phế quản hoặc phổi
o Nhiễm các Mycobacteria không phải lao lan toả toàn thân
o Nhiễm khuẩn huyết Salmonella không phải thương hàn
o Lao ngoài phổi
o U lympho
o Sarcoma Kaposi
o Bệnh lý não do HIV (Biểu hiện trên lâm sàng bằng rối loạn khả năng tri thức
và/hoặc rối loạn chức năng vận động ảnh hưởng đến sinh hoạt hàng ngày,
tiến triiển trong vài tuần hoặc vài tháng, mà không có bệnh lý nào khác ngoài
HIV là nguyên nhân gây ra các triệu chứng này
o Và/hoặc hoạt động Mức độ 4: Nằm liệt giường trên 50% số ngày trong tháng
trước đó
176
DANH SÁCH CÁC ĐỘT BIẾN CẦN THEO DÕI (SDRMs)
Đột biến với NRTIs
Tỷ lệ đột biến
Mức độ kháng kiểu hình
Điểm(1)
Đột biến
3TC
ABC
AZT
TDF
Đột biến cần giám sát
Bệnh nhân chưa tiếp xúc ARV
Bệnh nhân đã điều trị ARV
% không có thêm đột biến chính khác(2)
(1)Điểm tính mức độ kháng thuốc theo ngân hàng dữ liệu kháng thuốc HIV của Stanford, (2)
tỷ lệ mẫu bệnh nhân có đột biến kháng thuốc không có thêm đột biến chính khác kháng
NRTIs (điểm ≥ 30)/tổng số mẫu có đột biến kháng thuốc.
177
Đột biến với NNRTIs
Tỷ lệ đột biến
Mức độ kháng kiểu hình
Điểm(1)
Đột biến
NVP
EFV
ETR
RPV
Đột biến cần giám sát
Bệnh nhân chưa tiếp xúc ARV
Bệnh nhân đã điều trị ARV
% không có thêm đột biến chính khác(2)
(1)Điểm tính mức độ kháng thuốc theo ngân hàng dữ liệu kháng thuốc HIV của Stanford, (2)
tỷ lệ mẫu bệnh nhân có đột biến kháng thuốc không có thêm đột biến chính khác kháng
NNRTIs (điểm ≥ 60/tổng số mẫu có đột biến kháng thuốc.
178
Đột biến với PIs
Tỷ lệ đột biến
Mức độ kháng kiểu hình
Điểm(1)
Đột biến
ATV
DRV
LPV
% không có thêm đột biến chính khác(2)
Bệnh nhân chưa tiếp xúc ARV
Bệnh nhân đã điều trị ARV
Đột biến cần giám sát
(1)Điểm tính mức độ kháng thuốc theo ngân hàng dữ liệu kháng thuốc HIV của Stanford, (2)
tỷ lệ mẫu bệnh nhân có đột biến kháng thuốc không có thêm đột biến chính khác kháng PIs
(điểm ≥ 30)/tổng số mẫu có đột biến kháng thuốc.
179
Phụ lục 10 Cây phân loài các chủng virus từ mẫu bệnh nhi tham gia nghiên cứu
180
181
Phụ lục 11
BẢNG ĐIỂM ĐỘT BIẾN VÀ MỨC ĐỘ KHÁNG ARV SAU 12 THÁNG ĐIỀU
TRỊ PHÁC ĐỒ BẬC 1
Điểm đột biến và mức độ kháng thuốc ở bệnh nhi DR-PED1-005
3TC
ABC
AZT
D4T
DDI
FTC
TDF
Thuốc NRTIs
M184V
60
15
-10
-10
10
60
-10
T215F
5
15
45
45
15
5
15
65
30
35
35
25
65
5
Điểm tổng cộng
Nhạy
Mức độ kháng
Kháng cao
Kháng trung bình
Kháng trung bình
Kháng trung bình
Kháng thấp
Kháng cao
Thuốc NNRTIs
EFV
ETR
NVP
RPV
K101E
10
30
10
15
G190A
10
60
10
40
Điểm tổng cộng
20
90
20
55
Mức độ kháng
Kháng trung bình Kháng thấp Kháng cao Kháng thấp
Điểm đột biến và mức độ kháng thuốc ở bệnh nhi DR-PED1-025
3TC
ABC AZT
D4T
DDI
FTC
TDF
Thuốc NRTIs
T69N
0
5
5
10
0
0
0
V75M
0
10
40
15
0
0
0
F77L
5
10
10
10
5
5
10
F116Y
5
10
10
10
5
5
10
Q151M
15
60
60
60
15
15
60
25
95
125
105
25
25
80
Điểm tổng cộng
Mức độ kháng
Kháng thấp
Kháng cao
Kháng cao
Kháng cao
Kháng cao
Kháng thấp
Kháng thấp
182
EFV
ETR
NVP
RPV
Thuốc NNRTIs
Y188L
60
15
60
60
60
15
60
60
Điểm tổng cộng
Mức độ kháng
Kháng cao
Kháng thấp
Kháng cao
Kháng cao
Điểm đột biến và mức độ kháng thuốc ở bệnh nhi DR-PED1-031
3TC ABC AZT
D4T DDI FTC TDF
Thuốc NRTIs
T215N
0
10
20
20
10
0
10
0
10
20
20
10
0
10
Điểm tổng cộng
Nhạy
Nhạy
Mức độ kháng
Kháng thấp
Kháng thấp
Có khả năng kháng thấp
Có khả năng kháng thấp
Có khả năng kháng thấp
Điểm đột biến và mức độ kháng thuốc ở bệnh nhi DR-PED1-033
3TC ABC AZT
D4T DDI FTC TDF
Thuốc RTIs
T215S
0
10
20
20
10
0
5
0
10
20
20
10
0
5
Điểm tổng cộng
Nhạy
Nhạy Nhạy
Mức độ kháng
Kháng thấp
Kháng thấp
Có khả năng kháng thấp
Có khả năng kháng thấp
183
Điểm đột biến và mức độ kháng thuốc ở bệnh nhi DR-PED1-035
3TC
ABC
AZT
D4T
DDI
FTC
TDF
Thuốc RTIs
M184V
60
15
-10
-10
10
60
-10
60
15
-10
-10
10
60
-10
Điểm tổng cộng
Nhạy Nhạy
Nhạy
Mức độ kháng
Kháng cao
Kháng thấp
Kháng cao
Có khả năng kháng thấp
EFV
ETR
NVP
RPV
Thuốc RTIs
K103N
60
0
60
0
H221Y
10
10
10
10
70
10
70
10
Điểm tổng cộng
Mức độ kháng
Kháng cao
Có khả năng kháng thấp
Kháng cao
Có khả năng kháng thấp
Điểm đột biến và mức độ kháng thuốc ở bệnh nhi DR-PED1-061
3TC
ABC
AZT
D4T
DDI
FTC
TDF
Thuốc RTIs
M184V
60
15
-10
-10
10
60
-10
60
15
-10
-10
10
60
-10
Điểm tổng cộng
Nhạy Nhạy
Nhạy
Mức độ kháng
Kháng cao
Kháng thấp
Kháng cao
Có khả năng kháng thấp
184
Thuốc RTIs
EFV
ETR
NVP
RPV
K103N
60
0
60
0
Điểm tổng cộng
60
0
60
0
Mức độ kháng
Kháng cao Nhạy Kháng cao Nhạy
Điểm đột biến và mức độ kháng thuốc ở bệnh nhi DR-PED2-003
3TC
ABC AZT
D4T
DDI
FTC TDF
Thuốc RTIs
D67N
0
5
15
15
5
0
5
K70R
0
0
30
15
0
0
0
M184V
60
15
-10
-10
10
60
-10
K219Q
0
5
10
10
5
0
5
60
25
45
30
20
60
10
Điểm tổng cộng
Mức độ kháng
Kháng cao
Kháng thấp
Kháng thấp
Kháng cao
Kháng trung bình
Kháng trung bình
Có khả năng kháng thấp
EFV ETR NVP RPV
Thuốc RTIs
G190A
40
10
60
10
40
10
60
10
Điểm tổng cộng
Mức độ kháng
Kháng cao
Kháng trung bình
Có khả năng kháng thấp
Có khả năng kháng thấp
185
Điểm đột biến và mức độ kháng thuốc ở bệnh nhi DR-PED2-015
Thuốc RTIs
3TC
ABC
AZT
D4T
DDI
FTC TDF
V75S
0
0
0
10
10
0
0
M184V
60
15
-10
-10
10
60
-10
Điểm tổng cộng
60
15
-10
0
20
60
-10
Mức độ kháng
Nhạy Nhạy
Nhạy
Kháng cao
Kháng thấp
Kháng thấp
Kháng cao
Thuốc RTIs Y181V
EFV 30
ETR 60
NVP 60
RPV 60
Điểm tổng cộng
30
60
60
60
Mức độ kháng
Kháng cao
Kháng cao
Kháng cao
Kháng trung bình
Điểm đột biến và mức độ kháng thuốc ở bệnh nhi DR-PED2-021
Thuốc RTIs
3TC
ABC
AZT
D4T
DDI
FTC
TDF
L74V
0
30
0
0
60
0
0
V75T
0
10
0
60
30
0
0
Y115F
0
45
0
0
0
0
15
M184V
60
15
10
60
-10
-10
-10
M184V+Y15F
-
-
-
-
-
-
10
M184V+L74V
-
15
-
-
-
-
-
60
115
-10
50
100
60
15
Điểm tổng cộng
Mức độ kháng
Nhạy
Kháng cao
Kháng cao
Kháng trung bình
Kháng cao
Kháng cao
Kháng thấp
Ghi chú: Điểm và mức độ kháng thuốc được phân tích theo ngân hàng dữ liệu HIV kháng thuốc của Đại học Stanford [66]