intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Ebook Quảng Ninh 30 năm đổi mới cùng đất nước (1986-2016): Phần 2

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:92

9
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Nội dung cuốn sách "Quảng Ninh 30 năm đổi mới cùng đất nước" được trình bày cụ thể như sau: Quảng Ninh trước ngưỡng cửa của công cuộc đổi mới toàn diêṇ do đảng khởi xướng và lãnh đạo; Quảng Ninh thực thi và phát triển đường lối đổi mới: thành tựu, hạn chế, nguyên nhân và bài học kinh nghiệm; Quảng Ninh tiếp tục thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện, đồng bộ. Mời các bạn cùng tham khảo nội dung phần 2 dưới đây!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Ebook Quảng Ninh 30 năm đổi mới cùng đất nước (1986-2016): Phần 2

  1. Chương III QUẢng nInh TIẾP TỤC ThỰC hIỆn CÔng CUỘC ĐỔI MỚI TOÀn DIỆn, ĐỒng BỘ
  2. Đổi mới cùng đất nước I. DỰ BÁO TÌNH HÌNH, KHÓ KHĂN, THÁCH THỨC VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI QUẢNG NINH SAU 30 NĂM ĐỔI MỚI 1. Dự báo tình hình Những năm tới, tình hình thế giới, khu vực tiếp tục có những diễn biến phức tạp, nhưng hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế chủ yếu. Quá trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế tiếp tục được đẩy mạnh. Châu Á - Thái Bình Dương, trong đó có khu vực Đông Nam Á tiếp tục là trung tâm phát triển năng động, có vị trí địa kinh tế - chính trị chiến lược ngày càng quan trọng trên thế giới. Tuy nhiên, tranh chấp lãnh thổ, chủ quyền biển, đảo tiếp tục diễn ra gay gắt. Sự thắng thế của làn sóng dân túy có thể dẫn đến những kết quả khó đoán, bất ngờ và tác động bất ổn đến nền chính trị các nước, các khu vực và thế giới. ASEAN trở thành cộng đồng kinh tế, tiếp tục phát huy vai trò quan trọng trong duy trì hòa bình, ổn định, thúc đẩy hợp tác, liên kết kinh tế trong khu vực nhưng cũng đứng trước nhiều khó khăn, thách thức. Xu thế vừa toàn cầu hóa, vừa phi toàn cầu hóa, phát triển tách biệt tương đối, đề cao lợi ích quốc gia, dân tộc gắn với chủ nghĩa dân tộc cực đoan cũng là những xu hướng mới trong quan hệ quốc tế cần quan tâm. Bên cạnh đó, các vấn đề mang tính toàn cầu khác cũng đã và đang gây ra không ít tác động tiêu cực cho tình hình thế giới, như chiến tranh cục bộ, xung đột và chạy đua vũ trang, xung đột sắc tộc, tôn giáo, hoạt động can thiệp, lật đổ, khủng bố, tranh chấp lãnh thổ, tài nguyên... Ngoài ra là các vấn đề an ninh phi truyền thống, như sự biến đổi khí hậu ngày càng nghiêm trọng, chiến tranh mạng, an ninh năng lượng, cạn kiệt tài nguyên... đều trực tiếp tác động ít nhiều tới sự phát triển của nước ta. Trong nước, sau 30 năm đổi mới, vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế ngày càng được nâng cao, tạo ra những tiền đề quan 302
  3. trọng để thực hiện nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Kinh tế nước ta đang lấy lại đà tăng trưởng, nhưng vẫn còn nhiều khó khăn, thách thức. Mười năm tới là giai đoạn nước ta hội nhập sâu rộng hơn vào nền kinh tế quốc tế khi thực hiện đầy đủ các cam kết, tham gia các hiệp định thương mại khu vực và thế giới, tạo ra nhiều cơ hội phát triển sản xuất, kinh doanh, xuất khẩu và thu hút đầu tư, nhưng đồng thời cũng chịu nhiều sức ép mở cửa thị trường, cạnh tranh kinh tế quốc tế. Một số hiệp định thương mại tự do thế hệ mới có sự điều chỉnh do thay đổi về đường lối đối ngoại của các nước lớn tác động trực tiếp tới nền kinh tế nước ta. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư mở ra nhiều cơ hội song cũng đặt ra không ít thách thức, có thể làm gia tăng nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế của nước ta so với các nước trong khu vực và thế giới, nếu không tận dụng được thời cơ. Năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế nước ta còn thấp; sức ép về cân đối ngân sách, về nợ công, nợ xấu ngân hàng ngày càng gia tăng. Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” chưa được ngăn chặn có hiệu quả đang làm suy giảm niềm tin của nhân dân đối với Đảng. Các thế lực thù địch, phần tử cơ hội đẩy mạnh thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình” với nhiều phương thức và thủ đoạn mới ngày càng nguy hiểm... Trong tỉnh, thành tựu phát triển kinh tế - xã hội đạt được trong những năm qua đã tạo ra thế và lực mới. Môi trường đầu tư ngày càng được cải thiện, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội được tăng cường, các dự án động lực được triển khai đồng bộ, như đường cao tốc, cảng hàng không; các trung tâm du lịch dịch vụ, trung tâm công nghiệp được hình thành rõ nét, các hoạt động dịch vụ phát triển nhanh. Cơ cấu kinh tế tiếp tục có sự chuyển dịch tích cực; chất lượng tăng trưởng có nhiều cải thiện; lợi thế của từng ngành, từng địa phương được phát huy; các doanh nghiệp bước đầu thích nghi với quá trình hội nhập, tự chủ hơn trong cơ chế thị trường. Bên cạnh đó, Quảng Ninh có vị thế quan trọng trong Vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc, tam giác kinh tế Hà Nội - Hải Phòng 303
  4. Đổi mới cùng đất nước - Quảng Ninh, đồng thời nằm trong các khu vực hợp tác kinh tế với Trung Quốc và các nước ASEAN nên có điều kiện thuận lợi cho sự phát triển. Tuy nhiên, tỉnh vẫn phải đối mặt với các mâu thuẫn, thách thức, hạn chế, yếu kém đã được nhận diện và các yếu tố mới do tiếp tục thực hiện đổi mới hệ thống chính trị từ tỉnh đến cơ sở gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại kinh tế, chuyển đổi phương thức phát triển theo hướng bền vững. Mô hình tăng trưởng chủ yếu vẫn theo chiều rộng; quy mô kinh tế còn nhỏ; một số động lực phát triển của tỉnh trước đây nay không còn phù hợp, còn thiếu những động lực phát triển mới; năng suất, chất lượng và sức cạnh tranh của các doanh nghiệp còn thấp; chất lượng nguồn nhân lực còn yếu; thiên tai, dịch bệnh, biến đổi khí hậu, ô nhiễm môi trường, trật tự, an toàn xã hội còn tiềm ẩn nhiều nguy cơ khó lường. 2. Khó khăn, thách thức và những vấn đề đặt ra Trong sự vận động chung của đất nước, được hội tụ bởi nhiều lợi thế cạnh tranh cùng với những thành tựu đạt được qua 30 năm đổi mới, Quảng Ninh trong những năm tới đứng trước rất nhiều thời cơ, thuận lợi, song cũng phải đối mặt với không ít khó khăn, thách thức. Đó là những mâu thuẫn, vướng mắc, nút thắt, điểm nghẽn nảy sinh trong quá trình phát triển do cả yếu tố khách quan và chủ quan mang lại cần phải nhận diện một cách khách quan, khoa học. Để từ đó xây dựng được hệ thống các giải pháp dựa trên tầm nhìn chiến lược, tư duy đột phá, trên cơ sở bám sát thực tiễn, cùng quyết tâm chính trị cao, từ đó vững bước trên con đường tiếp tục đổi mới toàn diện, đồng bộ, sớm trở thành một trong những đầu tàu kinh tế của Miền Bắc và cả nước. Theo đó, có thể khái lược một số thách thức, mâu thuẫn sau: 2.1. Không ngừng đổi mới hoạt động tổng kết thực tiễn, bổ sung lý luận làm căn cứ khoa học xây dựng chiến lược phát triển trong tầm nhìn tới năm 2021 và tiếp theo 304
  5. Đổi mới là tất yếu khách quan, yêu cầu sống còn, là sự nghiệp cách mạng to lớn, quá trình cải biến sâu sắc, toàn diện và triệt để. Không chỉ hòa mình cùng sự nghiệp đổi mới của đất nước, tỉnh Quảng Ninh còn đi trước, đón đầu, tận dụng những cơ hội mang đến từ sự nghiệp đổi mới chung để vận dụng sáng tạo vào thực tiễn, với nhiều cách làm mới, đột phá, hiệu quả. Có được điều đó một phần quan trọng là do Quảng Ninh luôn coi trọng công tác tổng kết thực tiễn, đúc rút những vấn đề mang tính lý luận, tính quy luật, trong mỗi giai đoạn, trong suốt thời kỳ đổi mới 30 năm qua, làm cơ sở khoa học cho việc hoạch định chiến lược phát triển và công tác chỉ đạo, điều hành thực tiễn. Công tác tổng kết thực tiễn ngày càng có ý nghĩa quan trọng với một tỉnh có nhiều đặc thù riêng, với các giá trị tiềm năng khác biệt, cơ hội nổi trội, lợi thế cạnh tranh, rất cần được nghiên cứu một cách bài bản, khoa học để định vị rõ và có bước đi đúng đắn, tránh cách tư duy và cách làm ngắn hạn, kinh nghiệm chủ nghĩa, thậm chí tùy tiện. Nhìn lại hoạt động tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận của tỉnh Quảng Ninh những năm qua có thể thấy rất nhiều kết quả tích cực, song so với yêu cầu của công cuộc đổi mới toàn diện và đồng bộ thì có thế thấy vẫn chưa tương xứng. Kết quả tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận có những thời điểm chưa kịp thời cung cấp cơ sở khoa học cho hoạch định chiến lược phát triển của tỉnh. Việc tổng kết có những lĩnh vực mới dừng lại ở tổng hợp, thống kê thuần túy; những bài học cơ bản được rút ra chưa thực sự trở thành vấn đề mang tính lý luận, bị cắt khúc theo giai đoạn, xé lẻ theo “tư duy nhiệm kỳ”, chưa xuyên suốt cả quá trình đổi mới, một số vấn đề đặt ra bức thiết từ thực tiễn của Quảng Ninh nhưng chậm được nhận diện và xử lý. Chính vì vậy, có những giai đoạn phát triển, công tác phân tích, dự báo chưa theo kịp tình hình dẫn đến việc đặt ra một số chỉ tiêu, mục tiêu, giải pháp phát triển còn chưa phù hợp, mang tính chủ quan, thậm chí sai lệch, nên gặp lúng túng khi triển khai thực hiện, gây lãng phí về các nguồn lực điều chỉnh, chưa khai thác tốt nhiều lĩnh vực là tiềm năng, lợi thế so sánh cạnh tranh của tỉnh, bỏ lỡ không ít cơ hội phát triển. Sau 305
  6. Đổi mới cùng đất nước 25 năm đổi mới, trước thềm Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIII, Quảng Ninh chưa xây dựng được một chiến lược, quy hoạch phát triển trước mắt và lâu dài phù hợp; công tác quy hoạch và quản lý quy hoạch chưa đúng tầm, chưa hiệu quả. Năng lực thể chế hóa và quản lý, tổ chức thực hiện của các cấp chính quyền còn hạn chế, nhất là trong việc giải quyết các vấn đề kinh tế - xã hội bức xúc... Những hạn chế trên có yếu tố khách quan do Quảng Ninh là tỉnh đi đầu trong việc thí điểm những cách làm mới chưa có tiền lệ trong thực tiễn, nên hệ thống thể chế nói chung còn nhiều thiếu khuyết, đồng thời có nguyên nhân chủ quan do các cấp ủy, chính quyền còn chưa coi trọng đúng mức công tác trên, tư duy và năng lực tổng kết, nghiên cứu lý luận của nhiều cán bộ còn hạn chế, chưa thực sự mạnh dạn, quyết tâm vươn đến cái mới, tiến bộ. Thời gian tới, công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận càng cần được tỉnh Quảng Ninh coi trọng, trước những đòi hỏi từ thực tiễn phát triển trở thành tỉnh có cơ cấu kinh tế dịch vụ, công nghiệp vào năm 2020 và những xu thế phát triển mới của đất nước và thế giới, nhất là xu hướng phát triển văn minh sinh thái, “kinh tế xanh”, kinh tế tri thức, đô thị thông minh, cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư với nền tảng công nghệ cao, trí tuệ thông minh, công nghệ thực tế ảo, internet vạn vật, yêu cầu về năng suất - năng lực lao động trình độ cao theo phổ tiêu chuẩn quốc tế, yêu cầu về nâng cao trình độ và năng lực lãnh đạo của Đảng trước yêu cầu, nhiệm vụ mới, đổi mới kinh tế gắn với đổi mới chính trị... Những tổng kết và nghiên cứu trên cung cấp cho Quảng Ninh nguồn cứ liệu, dữ liệu, luận cứ, luận chứng khoa học làm căn cứ tin cậy cho công tác hoạch định chiến lược phát triển chung, với tầm nhìn dài hạn, cũng như những quyết sách phát triển trong từng giai đoạn, có chất lượng, theo hướng coi trọng chất lượng, hiệu quả tăng trưởng và phát triển bền vững; mạnh dạn lựa chọn các giải pháp mang tính đột phá, phát huy tiềm năng lợi thế, giải quyết mâu thuẫn, thách thức; trên cơ sở nhận diện và định vị lại giá trị của tỉnh Quảng Ninh để xác định rõ hơn mục tiêu và định hướng phát triển trong giai đoạn tiếp theo. 306
  7. 2.2. Giải quyết mâu thuẫn giữa tốc độ tăng trưởng và chất lượng phát triển trong bối cảnh cuộc cách mạng 4.0 đang diễn ra mạnh mẽ Sau 30 năm đổi mới, Quảng Ninh trở thành một trong những tỉnh phát triển mạnh, nằm trong nhóm các địa phương có tốc độ tăng trưởng cao nhất toàn quốc, nhất là trong 15 năm gần đây. Quy mô bề rộng và tiềm lực nội sinh của nền kinh tế tăng mạnh, nhất là trong 5 năm (2011 - 2015) tăng gấp 2 lần so với năm 2010. Quảng Ninh đã trở thành trung tâm kinh tế lớn của cả nước, từng bước khẳng định vị thế, vai trò là địa bàn động lực trong Vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng, đang tạo ra thế và lực mới rất quan trọng cho sự phát triển lâu dài của tỉnh. Nhìn lại 30 năm đổi mới, có thể hình dung một cách khái quát, Quảng Ninh đã đạt được những thành tựu quan trọng, có những bước phát triển nhanh, nhiều lĩnh vực có sự phát triển đột phá. Tuy nhiên, trong sự phát triển đó vẫn còn tiềm ẩn nhiều yếu tố thiếu bền vững, thực chất, như: Mô hình tăng trưởng tuy có xu hướng chuyển dịch tốt hơn nhưng vẫn dựa nhiều vào tài nguyên hữu hạn và nhân công giá rẻ, nhất là than; chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp; chỉ số ICOR cao; tỷ trọng ngành dịch vụ trong cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm; kết cấu hạ tầng chưa đồng bộ và chậm xây dựng được những công trình mang tính chiến lược, động lực như đường cao tốc, sân bay, đường sắt, các thiết chế văn hóa thể thao... Công nghiệp và đô thị phát triển “nóng” để lại hậu quả môi trường nghiêm trọng; hàm lượng khoa học - công nghệ trong sản xuất chưa cao, xuất khẩu chủ yếu là những sản phẩm thô chưa qua chế biến; tính chủ động trong đề xuất cơ chế, chính sách phát triển theo liên kết vùng còn yếu giữa các địa phương trong tỉnh và giữa tỉnh với các tỉnh, thành phố lân cận; hoạt động sản xuất, kinh doanh của nhiều doanh nghiệp còn khó khăn, nhất là các doanh nghiệp nhỏ và vừa... Những chỉ báo trên cho thấy rõ giữa tốc độ tăng trưởng và chất lượng tăng trưởng chưa đồng đều, tương xứng trong 307
  8. Đổi mới cùng đất nước chiến lược phát triển của tỉnh, có những mặt ngày càng mâu thuẫn nếu không tháo gỡ, sẽ tạo rào cản, trở lực lớn cho quá trình đi lên. Điều đó đặt ra yêu cầu bức thiết về cơ cấu lại nền kinh tế, không chỉ chú trọng tốc độ tăng trưởng, bề rộng của nền kinh tế, mà còn cần chất lượng chiều sâu trong phát triển, định vị lại hệ giá trị và thế mạnh, thiết kế lại chiến lược phát triển của tỉnh lấy các ngành dịch vụ phục vụ đẳng cấp có giá trị gia tăng cao dựa vào lợi thế các di sản, các ngành sản xuất giàu hàm lượng tri thức, khoa học và tính kết nối thông minh làm rường cột trong phát triển, xây dựng Quảng Ninh trở thành địa bàn động lực, xứng đáng là cực tăng trưởng quan trọng của Vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, của vành đai kinh tế vịnh Bắc Bộ. Quảng Ninh đã và đang thực hiện được điều đó, để hướng tới một tương lai phát triển chất lượng và bền vững hơn. 2.3. Giải quyết mâu thuẫn giữa tiềm năng lớn chưa được giải phóng toàn diện với một số thể chế, cơ chế, chính sách đang kìm hãm sự phát triển, trong khi nguồn lực bị hạn chế cả về con người và vật chất Quảng Ninh được ví như hình ảnh nước Việt Nam thu nhỏ, có vị trí chiến lược về chính trị, kinh tế, quốc phòng - an ninh và đối ngoại; có biên giới trên bộ, trên biển và trên không với Trung Quốc; nằm trong Khu vực hợp tác “Hai hành lang, một vành đai kinh tế Việt - Trung”, hợp tác liên vùng vịnh Bắc Bộ, hành lang kinh tế Nam Ninh - Xin-ga-po, cầu nối quan trọng của hợp tác kinh tế ASEAN - Trung Quốc. Quảng Ninh có nhiều cảnh quan có giá trị toàn cầu, như vịnh Hạ Long, vịnh Bái Tử Long, có hơn hai nghìn hòn đảo chiếm hơn 2/3 số đảo cả nước (2.077/2.779), trải dài theo đường ven biển hơn 250km chia thành nhiều lớp; có nguồn tài nguyên, khoáng sản phong phú, đa dạng, với trữ lượng than lớn nhất Đông Nam Á; có bề dày văn hoá lâu đời, với xã hội, con người là nơi hội tụ, giao thoa, thống nhất trong đa dạng của nền văn minh sông Hồng. Quảng Ninh là một cái nôi của giai cấp công nhân Việt Nam trên vùng đất quần tụ tinh hoa từ nhiều 308
  9. miền của đất nước với 22 dân tộc anh em tạo nên sự giao thoa và kết tinh nền văn hóa đa sắc, thống nhất trong đa dạng... Những đặc điểm trên tạo nên các giá trị tiềm năng khác biệt, cơ hội nổi trội, lợi thế cạnh tranh của tỉnh Quảng Ninh mà những địa phương khác không có hoặc có nhưng không đủ mạnh, để phát triển những ngành, lĩnh vực mũi nhọn, như trung tâm dịch vụ du lịch, giải trí hàng đầu Việt Nam; kinh tế biên mậu và kinh tế biển trong vai trò là trung tâm giao thương quốc tế lớn và hiện đại của vùng kinh tế Bắc Bộ, đồng thời hội nhập kinh tế với khu vực Đông Bắc Á, sẽ là cầu nối hiệu quả giữa Trung Quốc và ASEAN; sản xuất than, vật liệu xây dựng và trung tâm nhiệt điện lớn nhất Việt Nam... Với những ưu thế cạnh tranh và vượt trội như vậy, song đến nay, với quy mô và tiềm lực kinh tế hiện tại, cho thấy nhiều tiềm năng phát triển của Quảng Ninh vẫn chưa được giải phóng một cách toàn diện. Ngay cả một số ngành có lợi thế rất lớn, như du lịch, thương mại, kinh tế biển... cũng chưa thực sự phát triển tương xứng với tiềm năng, thế mạnh của tỉnh. Đứng trước nhiều cơ hội phát triển, nhưng nếu không biết tận dụng, khai thác hiệu quả, có chiến lược đúng đắn, cách làm bài bản, khoa học thì những cơ hội, lợi thế đó sẽ khó được hiện thực hóa. Đặc biệt, nhiều trở lực do chính yếu tố chủ quan, nhất là một số thể chế, cơ chế, chính sách ở tầm vĩ mô đang kìm hãm sự phát triển. Đây là điều Đảng bộ và nhân dân Quảng Ninh vẫn hết sức trăn trở, để làm sao tận dụng và khai thác tối đa những nguồn lực, tiềm năng, thế mạnh, đặc biệt của mình. Trong nhiều nhiệm kỳ, Quảng Ninh vẫn chậm phát hiện những vấn đề đặt ra trong thực tiễn chưa có quy định hoặc không còn phù hợp để mạnh dạn đề xuất với Trung ương điều chỉnh; năng lực lãnh đạo, trình độ của đội ngũ, đặc biệt là cán bộ cấp xã... còn hạn chế, yếu kém so với nhiệm vụ được giao và yêu cầu của thực tiễn. Dù là một tỉnh phát triển mạnh, có số thu ngân sách lớn, nhưng Quảng Ninh vẫn còn rất thiếu nguồn lực kinh tế để đầu tư cho những hạng mục, công trình trọng điểm tạo sự phát triển bứt phá... 309
  10. Đổi mới cùng đất nước Quảng Ninh là tỉnh có nhiều sáng tạo, đổi mới, cách làm chưa có tiền lệ. Bởi vậy, những vướng mắc về thể chế, cơ chế, chính sách, nguồn lực càng bộc lộ rõ, là lực cản rất lớn trong quá trình phát triển. Việc tháo gỡ những nút thắt, điểm nghẽn về thể chế, chính sách, nguồn lực ở cấp độ vĩ mô, vi mô do đó có vai trò quyết định đối với việc hiện thực hóa khát vọng phát triển của Đảng bộ và nhân dân tỉnh Quảng Ninh. Do đó, trong thời kỳ đổi mới, nhất là những năm gần đây, từ kiểm chứng và đòi hỏi của thực tiễn, Quảng Ninh là tỉnh có nhiều đề xuất với Trung ương về các cơ chế, chính sách thông thoáng, rộng đường cho sự phát triển, trong đó có cả những cơ chế mang tính đặc thù và được Trung ương ủng hộ tích cực, như phê duyệt cho phép tỉnh thực hiện 7 nhóm cơ chế, chính sách đặc thù bao gồm: (1) Đồng ý cho tỉnh được áp dụng một số cơ chế, chính sách ưu đãi hiện đang áp dụng cho các tỉnh, thành phố, các khu kinh tế và các cơ chế, chính sách đặc thù phù hợp để triển khai thực hiện có kết quả những kiến nghị của tỉnh Quảng Ninh đã được Bộ Chính trị đồng ý tại Kết luận 47-KL/TW. (2) Hỗ trợ ngân sách trung ương đầu tư thực hiện dự án cải tạo môi trường tổng thể. (3) Bổ sung một số công trình hạ tầng quan trọng có ý nghĩa động lực, như đường cao tốc Hải Phòng - Hạ Long, Hạ Long - Móng Cái, sân bay Vân Đồn vào định hướng phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng giao thông của cả nước. Xây dựng cơ chế kêu gọi đầu tư nước ngoài và được ưu tiên hỗ trợ một phần ngân sách để xây dựng nguồn thu xuất nhập khẩu qua địa bàn từ nay đến năm 2020. (4) Thành lập trường đại học đa ngành Quảng Ninh và các bệnh viện đạt chuẩn quốc tế tại Hạ Long, Vân Đồn, Móng Cái. (5) Thí điểm cho phép tỉnh được quy định mức phí, lệ phí hợp lý do Chính phủ, Bộ Tài chính quy định phát sinh trên địa bàn; được cấp phép đối với hàng hoá xuất nhập khẩu hiện do Bộ Công thương và các bộ quản lý chuyên ngành cấp; được xây dựng, bổ sung và quyết định một số chính sách trong thu hồi, đền bù, giải phóng mặt bằng giao đất để bảo đảm có quỹ đất sạch thu hút nhà đầu tư. (6) Đẩy mạnh triển khai và 310
  11. nâng mức vốn đầu tư các công trình kết cấu hạ tầng quan trọng tuyến biên giới, hải đảo từ nguồn vốn hỗ trợ đầu tư phát triển có mục tiêu hàng năm; ưu tiên vốn ODA để tỉnh đầu tư phát triển hạ tầng quan trọng về giao thông, ứng phó biến đổi khí hậu, y tế, giáo dục... (7) Đồng ý mở rộng mức vay nợ các công trình từ nguồn phát hành trái phiếu để triển khai thực hiện một số dự án quan trọng trong tỉnh, nhưng bảo đảm tổng mức dư nợ không vượt quá mức 100% vốn đầu tư xây dựng cơ bản hàng năm. Đó chỉ là một ví dụ trong rất nhiều những đề xuất mang tính đột phá của Quảng Ninh được Trung ương đánh giá cao và tích cực ủng hộ. Dự báo trong giai đoạn tiếp theo, không ít vướng mắc về thể chế, cơ chế, chính sách đặc thù, đột phá vẫn còn chậm được tháo gỡ; năng lực kinh tế nội tại của tỉnh còn thấp so với mục tiêu phát triển; nguồn lực để thực hiện các mục tiêu chiến lược gặp nhiều khó khăn; kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội chưa tạo động lực đủ mạnh; việc khắc phục các tồn tại, hạn chế sẽ cần có độ trễ thời gian... Trong khi đó, yêu cầu, nhiệm vụ ngày càng nặng nề, nhưng nguồn nhân lực chất lượng, nhất là những cán bộ chủ chốt trong hệ thống chính trị vẫn còn thiếu, tiếp tục là những trở lực trong phát triển của tỉnh Quảng Ninh. Việc tuyển chọn, đầu tư, đào tạo, vun đắp và thu hút, sử dụng, đãi ngộ nhân tài cần có những bước đi đột phá hơn nữa, để Quảng Ninh thực trở thành “mảnh đất lành” hội tụ nguồn nhân lực chất lượng và tâm huyết phục vụ cho sự nghiệp phát triển của tỉnh. Chuẩn bị được một nguồn cán bộ và nhân lực chất lượng, nhất là đội ngũ cán bộ chủ chốt sẽ quyết định sự thành công của Quảng Ninh trong tương lai. 2.4. Nhận diện bước chuyển từ phát triển “kinh tế nâu” sang “kinh tế xanh”; mâu thuẫn giữa phát triển kinh tế, quá trình đô thị hóa nhanh và giải quyết những vấn đề xã hội, môi trường nảy sinh, sự chênh lệch trong phát triển giữa các vùng, miền, thành phần kinh tế và các tầng lớp dân cư 311
  12. Đổi mới cùng đất nước Do điều kiện tự nhiên quy định, khi vừa là vựa than lớn nhất Đông Nam Á, vừa là mảnh đất của những danh lam, thắng cảnh tự nhiên, văn hóa nổi tiếng, nên Quảng Ninh phát triển song trùng cả những ngành “kinh tế nâu” và “kinh tế xanh” trong cùng một hệ sinh thái kinh tế - xã hội. Đây là đặc thù riêng có của Quảng Ninh, phát sinh nhiều xung đột nội sinh, không dễ giải quyết trong quá trình phát triển. Công nghiệp than là ngành sản xuất gắn liền với sự phát triển kinh tế - xã hội - văn hóa Quảng Ninh, không chỉ mang lại nguồn thu chủ yếu cho tỉnh, mà sự ổn định và phát triển, nâng cao được hiệu quả sản xuất - kinh doanh than là điều kiện then chốt để giải quyết được vấn đề việc làm và các vấn đề xã hội khác trên địa bàn tỉnh. Tuy nhiên, mặt trái của ngành công nghiệp khai thác than là những hệ lụy về ô nhiễm môi trường, cạn kiệt nguồn tài nguyên, an toàn lao động, nguy cơ sạt lở, ngập lụt nguy hiểm ở chân các bãi thải và khai trường khai thác than... Trong 30 năm đổi mới, trong hoạch định phát triển, có những giai đoạn, tỉnh Quảng Ninh quá chú trọng phát triển “nóng” các ngành công nghiệp nặng, nhất là khai thác than với công nghệ còn lạc hậu gây ô nhiễm, thất thoát tài nguyên, chưa giải quyết được hài hòa giữa khai thác tài nguyên, phát triển đô thị với bảo vệ môi trường, phòng chống thiên tai và ứng phó với biến đổi khí hậu. Ngành công nghiệp khai thác than, nhiệt điện, xi- măng...nếu không hiện đại hóa, quản lý tốt, đẩy mạnh công tác hoàn nguyên sẽ xung đột rất lớn với các ngành dịch vụ du lịch, công nghiệp văn hóa vốn dựa vào nền tảng của môi trường tự nhiên trong lành, thắng cảnh tươi đẹp có một không hai của Quảng Ninh, cùng hệ các giá trị văn hóa - lịch sử có bề dày trầm tích của vùng đất hàng nghìn năm văn hiến. Việc bảo tồn và phát huy bền vững các giá trị của Di sản - Kỳ quan thiên nhiên thế giới vịnh Hạ Long, các khu danh thắng, di tích văn hóa - lịch sử, bảo vệ môi trường sinh thái trong lành chính là linh hồn trong phát triển của Quảng Ninh. Để giải quyết mối xung đột giữa hai trụ cột phát triển của tỉnh, Quảng Ninh xác định, sự tăng trưởng trọng tâm dựa trên cơ cấu lại kinh tế và 312
  13. chuyển đổi phương thức phát triển theo hướng giảm dần việc dựa vào các yếu tố không bền vững, như tài nguyên hữu hạn than và đất và tăng dần các yếu tố bền vững, nhất là dựa vào vị trí địa chính trị, kinh tế tri thức, khoa học - công nghệ, tiêu dùng, đầu tư, xuất khẩu, cảnh quan, văn hóa, truyền thống lịch sử... để phát triển. Chú trọng phát triển, nâng cao tỷ trọng và chất lượng dịch vụ; phát triển du lịch một cách toàn diện theo quy hoạch, có trọng tâm, trọng điểm gắn với bảo vệ môi trường; bảo tồn và khai thác có hiệu quả di sản thiên nhiên, văn hóa. Theo đó, cơ cấu thu ngân sách phụ thuộc vào ngành than giảm từ 67% năm 2011 xuống còn 47% năm 2015. Năm 2016, giá trị sản xuất công nghiệp chỉ còn chiếm 21,9% trong GRDP của tỉnh. Tăng cường quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường; chủ động phòng, chống thiên tai, ứng phó với biến đổi khí hậu và nước biển dâng. Nâng cao hiệu quả, hiệu lực của chính quyền trong quản lý tài nguyên, khoáng sản; quản lý tốt quy hoạch bảo vệ môi trường, thực thi các giải pháp giảm thiểu ô nhiễm môi trường không khí, nguồn nước và đất, nhất là vùng có hoạt động khai thác khoáng sản; nâng cao chất lượng quan trắc môi trường, vận hành có hiệu quả hệ thống trạm quan trắc môi trường tự động để đánh giá số liệu và có giải pháp khắc phục khi cần thiết. Sử dụng hợp lý và có hiệu quả các nguồn tài nguyên thiên nhiên, phối hợp với ngành than xây dựng và triển khai Đề án tổng thể về khắc phục hậu quả môi trường do quá trình khai thác than trên địa bàn. Xây dựng và triển khai đề án di dân tổng thể ra khỏi vùng sạt lở, nguy hiểm và quy hoạch bố trí dân cư phòng, tránh thiên tai trên địa bàn tỉnh giai đoạn 2016 - 2020 và định hướng đến năm 2025... Quảng Ninh cũng là tỉnh có tốc độ đô thị hóa rất nhanh. Hiện nay, tỉnh Quảng Ninh đang xây dựng Chương trình phát triển đô thị của tỉnh đến năm 2030 với mục tiêu hệ thống đô thị sẽ có 5 thành phố trực thuộc tỉnh. Ngoài những lợi thế, mặt trái của quá trình mở cửa, tăng trưởng kinh tế và đô thị hóa nhanh trên cũng tạo nên nhiều vấn đề xã hội từng là “điểm nóng” của tỉnh Quảng Ninh, đơn cử như tình trạng buôn bán, 313
  14. Đổi mới cùng đất nước sử dụng trái phép chất ma túy và lây nhiễm HIV/AIDS, tình hình tội phạm diễn biến phức tạp. Những năm 90 của thế kỷ XX, tỉnh Quảng Ninh lọt vào danh sách đứng trong tốp 10 tỉnh, thành có tỷ lệ nhiễm HIV/AIDS được phát hiện trên dân số của tỉnh ở mức cao. Quảng Ninh cũng là địa bàn mà các loại tội phạm tập trung hoạt động tương đối phức tạp (trung bình mỗi năm khởi tố 1.654 vụ, 2.482 bị can). Trong đó, tội phạm về trật tự xã hội luôn chiếm tỷ lệ lớn, tội phạm về kinh tế và chức vụ có xu hướng tăng dần, tội phạm về ma túy diễn biến phức tạp với thủ đoạn ngày càng tinh vi, mang tính quốc tế... Những vấn đề xã hội Quảng Ninh gặp phải trong quá trình phát triển là hệ quả của quá trình “nhận thức về mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ, công bằng xã hội, về giải quyết một số vấn đề xã hội chưa thật cụ thể, rõ ràng, như các tệ nạn xã hội: ma túy, mại dâm”1(1) xảy ra ở cả cấp độ vĩ mô quốc gia và cấp độ vi mô ở nhiều địa phương của nước ta gặp phải, như Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận - thực tiễn qua 30 năm đổi mới của Đảng ta nhận định. Những vấn đề xã hội phát sinh và phức tạp là do việc nghiêng lệch cán cân phát triển về phát triển kinh tế, chưa xem trọng đúng mức với việc đi đôi quản lý xã hội; sự đổi mới tư duy, nâng cao nhận thức về giải quyết các vấn đề xã hội, về quản lý xã hội còn chuyển biến chậm, có lúc, có nơi bị coi nhẹ; chưa nhận thức đầy đủ vai trò, tầm quan trọng của việc giải quyết các vấn đề xã hội, của mô hình, phương thức phát triển xã hội, quản lý phát triển xã hội trong các chiến lược phát triển. Chưa xác định rõ trách nhiệm giải quyết các vấn đề xã hội của cấp ủy, chính quyền các cấp... Trong quá trình phát triển, cùng với sự tổng kết thực tiễn, đúc rút kinh nghiệm để đổi mới trong từng bước phát triển, Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Quảng Ninh nhận thức ngày càng rõ hơn mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng chính sách phát triển; vai trò của chính sách xã hội, sự thống nhất và kết hợp hài hòa giữa chính sách kinh tế và chính sách xã hội, nên từng 314
  15. bước có những điều chỉnh kịp thời, trình độ quản lý xã hội ngày càng nâng cao, ban hành nhiều nghị quyết và thực hiện có hiệu quả về quản lý xã hội, quản lý đô thị, về văn hóa, y tế, giáo dục, an sinh xã hội, xóa đói, giảm nghèo..., hướng tới việc hài hòa hóa giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội an toàn, thân thiện, hạnh phúc, văn minh. Thực tiễn 30 năm đổi mới, trên bình diện chung của cả nước, Đảng ta cũng thẳng thắn nhìn nhận: “Phân hóa giàu nghèo có xu hướng gia tăng, phân tầng xã hội theo xu hướng không hợp thức diễn biến phức tạp... Một bộ phận nhân dân chưa được hưởng thụ một cách công bằng các thành quả của công cuộc đổi mới. Bất bình đẳng xã hội về thu nhập, giáo dục, y tế, văn hóa, an sinh xã hội,... chậm được đổi mới”(2). Sự phát triển của tỉnh Quảng Ninh trong 30 năm đổi mới cũng không tránh khỏi những mâu thuẫn đặt ra từ sự chênh lệch ngày càng lớn về mức độ, trình độ phát triển, sự phân hóa giàu nghèo, phân tầng xã hội giữa các vùng, miền, các tầng lớp dân cư, nhất là giữa những vùng lõi đô thị trung tâm phát triển của tỉnh với các vùng phụ biên, giữa đồng bằng với miền núi, hải đảo. Tốc độ phát triển rất nhanh ở các vùng đô thị hạt nhân trung tâm của tỉnh càng khiến khoảng cách chênh lệch trên ngày một lớn, có thể gây nên những hệ lụy tiêu cực, đòi hỏi cần kíp phải giải quyết. Mặc dù có nhiều quyết sách mạnh mẽ và hiệu quả đầu tư cho những khu vực khó khăn của tỉnh, nhưng đến năm 2016, thu nhập bình quân đầu người các xã khu vực III của tỉnh Quảng Ninh (xã có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn nhất) trung bình đạt 11,71 triệu đồng/người/năm, thấp hơn 7,4 lần thu nhập bình quân đầu người của tỉnh; tổng số hộ nghèo và cận nghèo trên địa bàn 22 xã đặc biệt khó khăn của tỉnh là 9.685 hộ, chiếm 64,57% tổng số hộ dân trên địa bàn, cao gấp 8,37 lần so với tỷ lệ nghèo và cận nghèo chung của tỉnh; cao gấp 11 lần tỷ lệ hộ nghèo và cận nghèo ở các xã khu vực I; trong đó tỷ lệ hộ nghèo chiếm 43,91%, cao gấp 14 lần tỷ lệ hộ nghèo ở các xã khu vực I; sự chênh lệch về hưởng thụ các dịch vụ cơ bản và mức hưởng thụ giữa vùng dân tộc thiểu số, miền núi và đô thị còn khá lớn, kết quả 315
  16. Đổi mới cùng đất nước giảm nghèo chưa bền vững, nguy cơ tái nghèo còn tiềm ẩn, sản xuất còn nhỏ lẻ, manh mún... Có thể thấy, sự chênh lệch trên là rất lớn; trong bức tranh về phát triển của tỉnh, ngoài những gam màu tươi sáng chủ đạo về sự phát triển mạnh mẽ, vượt bậc, vẫn còn rải rác những “điểm tối”, “vùng lõm” trong phát triển. Thời gian tới, việc thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các vùng, miền, tầng lớp dân cư sẽ là một nhiệm vụ trọng tâm tỉnh Quảng Ninh hướng tới thực hiện, với quan điểm phát triển chung hưởng, hài hòa, toàn dân đều được thụ hưởng thành quả của sự nghiệp đổi mới; mục tiêu kinh tế và mục tiêu xã hội phải bảo đảm tính đồng bộ, công bằng và bình đẳng cho mọi người dân, mọi vùng, miền, mọi giai tầng xã hội, khắc phục tình trạng phân hóa xã hội quá mức, bất bình đẳng do tác động tiêu cực của cơ chế thị trường..., đưa sự phát triển của Quảng Ninh ngày càng toàn diện hơn, mọi sự phát triển đều hướng tới người dân và người dân phải thực sự được hưởng lợi từ những thành quả đó. 2.5. Dự báo lộ trình hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng để phát triển trong tương quan với việc phải giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, xây dựng Quảng Ninh thành khu vực phòng thủ vững chắc về quốc phòng - an ninh, đồng thời là phòng tuyến hợp tác, cạnh tranh kinh tế quốc tế Với vị trí địa lý đặc thù và việc xác định thực hiện hội nhập ngay từ sớm, nên quá trình hội nhập quốc tế của Quảng Ninh diễn ra mạnh mẽ. Quá trình hiện thực hóa đường lối đối ngoại và hội nhập quốc tế của Đảng, Nhà nước tại tỉnh Quảng Ninh được diễn ra sáng tạo, đổi mới liên tục từ thấp lên cao, từ hẹp đến rộng, toàn diện và có chiều sâu. Trước khi mở cửa biên giới, Quảng Ninh là một tỉnh miền núi, ven biển, như một ngõ cụt, nơi “sơn cùng, thủy tận”. Sau khi mở cửa, Quảng Ninh từ một tỉnh phụ thuộc hoàn toàn vào trợ cấp của Trung ương đã có sự bứt phá nhanh, trở thành một trong những đầu tàu phát triển của khu vực phía Bắc. Mở cửa và hội nhập là một động lực phát triển quan trọng 316
  17. của Quảng Ninh. Đặc biệt 10 năm trở lại đây, quá trình hội nhập quốc tế của tỉnh có những chuyển biến lớn về chất mang tính đột phá, từ nhận thức, tư duy đến hành động. Trong quá trình triển khai thực hiện, công tác đối ngoại của tỉnh có nhiều khởi sắc, quan hệ hợp tác quốc tế không ngừng được mở rộng và ngày càng đi vào chiều sâu, thực chất. Tỉnh chính thức thiết lập quan hệ đối ngoại với 13 địa phương nước ngoài, có quan hệ kinh tế thương mại trên 70 quốc gia và vùng lãnh thổ, xúc tiến quan hệ với một số đối tác mới, tiềm năng. Bên cạnh việc đẩy mạnh mở rộng hợp tác quốc tế, nâng cao hiệu quả hội nhập quốc tế về kinh tế, tỉnh Quảng Ninh còn thúc đẩy cải thiện môi trường đầu tư, môi trường sản xuất, kinh doanh; đổi mới, sáng tạo phương thức xúc tiến đầu tư; tạo điều kiện thuận lợi để các dự án nước ngoài đã được cấp phép triển khai hoạt động. Hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng cùng đường lối, chính sách đối ngoại linh hoạt là chất xúc tác mạnh khơi thông nhiều tiềm năng của tỉnh, tạo xung lực tăng trưởng và phát triển của Quảng Ninh. Tuy nhiên, với vị trí trọng yếu về quốc phòng - an ninh, trong hội nhập và đường lối đối ngoại, Quảng Ninh luôn quán triệt và kiên định thực hiện quan điểm phải giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, xây dựng Quảng Ninh thành khu vực phòng thủ vững chắc về quốc phòng - an ninh một cách tích cực, chủ động, đồng thời là phòng tuyến hợp tác, cạnh tranh kinh tế quốc tế. Đây là vấn đề mang tính chiến lược, là nguyên tắc bất biến, phải được thực hiện thường xuyên ở một địa bàn tiền tiêu của Tổ quốc như Quảng Ninh. 317
  18. Đổi mới cùng đất nước II. QUAN ĐIỂM, MỤC TIÊU VÀ NHỮNG ĐỊNH HƯỚNG LỚN 1. Quan điểm Trên cơ sở quy hoạch lại không gian phát triển: “Một tâm - Hai tuyến - Đa chiều - Hai mũi đột phá”, trong đó, một tâm là thành phố Hạ Long; hai tuyến gồm phía Đông và phía Tây, hai mũi đột phá là Đặc khu kinh tế Vân Đồn và Khu kinh tế cửa khẩu Móng Cái, tỉnh Quảng Ninh đề ra các quan điểm cơ bản là: (1) Phát triển con người, cải thiện dân sinh làm mục đích. (2) Thử nghiệm, đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, phát triển kinh tế xanh, công nghiệp văn hóa, công nghiệp giải trí làm định hướng. (3) Cải cách thể chế, cơ chế, chính sách và biện pháp điều hành làm đột phá. (4) Phát triển hạ tầng, cải cách hành chính đồng bộ, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao làm nền tảng. (5) Ứng dụng, chuyển giao và làm chủ khoa học công nghệ, tăng năng suất các yếu tố tổng hợp và định hướng thị trường làm động lực. (6) Phát triển văn hóa, xây dựng văn minh sinh thái, tiết kiệm tài nguyên và bảo vệ môi trường làm trọng điểm. Cùng với quán triệt các quan điểm cơ bản trên đây, công cuộc đổi mới toàn diện, đồng bộ ở Quảng Ninh những năm tới cũng bám sát triết lý phát triển: Tích cực chuyển đổi phương thức phát triển theo hướng bền vững dựa vào 3 trụ cột: thiên nhiên, con người, văn hóa kết hợp với xu thế hòa bình, hợp tác và hội nhập; trên cơ sở đó đổi mới hệ thống chính trị và xây dựng nền hành chính hiện đại; phát triển công nghiệp dịch vụ, công nghiệp văn hóa, giải trí dựa trên nền tảng công nghiệp sáng tạo. 2. Mục tiêu 2.1. Mục tiêu tổng quát Phấn đấu đến năm 2020, xây dựng Quảng Ninh trở thành tỉnh có cơ cấu kinh tế dịch vụ, công nghiệp; là trung tâm du lịch chất lượng cao 318
  19. của khu vực, một trong những cực tăng trưởng kinh tế của miền Bắc với hạ tầng kinh tế - xã hội, hạ tầng kỹ thuật đô thị đồng bộ; nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, giảm nghèo bền vững; tổ chức đảng và hệ thống chính trị vững mạnh; giữ vững chủ quyền biên giới; bảo đảm an ninh chính trị và trật tự, an toàn xã hội; bảo vệ và cải thiện rõ rệt môi trường sinh thái; gìn giữ và phát huy bản sắc văn hóa, sức mạnh đại đoàn kết các dân tộc; bảo tồn và phát huy bền vững các giá trị của Di sản - Kỳ quan thiên nhiên thế giới vịnh Hạ Long và các khu danh thắng, di tích lịch sử. 2.2. Các chỉ tiêu chủ yếu - Về kinh tế: + Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân đạt 11 - 12%/năm; + Tổng sản phẩm trên địa bàn bình quân đầu người đến năm 2020 đạt 7.000 - 8.000 USD; + Cơ cấu ngành kinh tế đến năm 2020: Dịch vụ 48 - 49%; công nghiệp - xây dựng 47 - 48%; nông, lâm nghiệp, thuỷ sản 3 - 5%; + Thu ngân sách nội địa tăng tối thiểu 10%/năm, thu xuất nhập khẩu phấn đấu đạt và vượt chỉ tiêu kế hoạch Trung ương giao(4); + Tổng kim ngạch xuất khẩu tăng bình quân 3 - 5%/năm; + Tổng vốn đầu tư phát triển trên địa bàn bình quân tăng trên 10%/năm; + Năng suất lao động xã hội bình quân tăng 15 - 16%/năm. - Về xã hội, đến năm 2020: + Tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt từ 84 - 89%; + Số bác sĩ/1 vạn dân đạt trên 12 bác sĩ; + Tỷ lệ bao phủ bảo hiểm y tế đạt trên 90%; + Tỷ lệ hộ nghèo giảm 0,7%/năm (theo tiêu chí mới). (4) Do thuế xuất nhập khẩu phụ thuộc vào chính sách hội nhập quốc tế và sự điều tiết của Trung ương theo từng giai đoạn. 319
  20. Đổi mới cùng đất nước - Về môi trường, đến năm 2020: + Tỷ lệ che phủ rừng đạt 54 - 55%; + Tỷ lệ chất thải rắn sinh hoạt được thu gom đạt trên 92%, tỷ lệ chất thải y tế được thu gom, xử lý đạt 100%/năm; + Tỷ lệ dân cư thành thị được sử dụng nước sạch trên 98% và dân cư nông thôn được sử dụng nước hợp vệ sinh trên 98%. - Về xây dựng Đảng, phấn đấu hằng năm: Số tổ chức cở sở đảng được đánh giá chất lượng trong sạch, vững mạnh đạt 50% (theo quy định mới(5); Đảng viên hoàn thành tốt nhiệm vụ trở lên đạt trên 75% trở lên; Kết nạp đảng viên từ 4 - 5%. 3. Những định hướng lớn Để đạt được mục tiêu đề ra, bên cạnh những nhiệm vụ, giải pháp mới đề ra, cần tiếp tục duy trì thực hiện những giải pháp đột phá của nhiệm kỳ trước trên cơ sở điều chỉnh phù hợp với tình hình thực tiễn bảo đảm thiết thực, hiệu quả. Một số định hướng lớn cho giai đoạn 2015 - 2020 như sau: Thứ nhất, tăng trưởng kinh tế bảo đảm chỉ tiêu đề ra trên nền tảng phát triển bền vững, bảo đảm tiến bộ, công bằng xã hội, bảo vệ môi trường, quốc phòng - an ninh vững chắc. Nâng cao chất lượng và tỷ trọng các ngành dịch vụ, nhất là du lịch; phát triển công nghiệp bền vững gắn với bảo vệ môi trường; thực hiện tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững gắn với xây dựng nông thôn mới, phát triển sản xuất nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa tập trung, hướng tới xuất khẩu. (5) Theo Hướng dẫn số 27-HD/BTCTW, ngày 25-9-2014, của Ban Tổ chức Trung ương: “Số tổ chức cơ sở đảng được phân loại trong sạch vững mạnh không nên vượt quá 50% tổng số tổ chức cơ sở đảng của huyện, thị, thành ủy và đảng ủy trực thuộc tỉnh”. 320
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
6=>0