Estrogen và bệnh tim mạch
lượt xem 2
download
Tần suất của bệnh tim mạch có sự khác biệt rõ rệt giữa nam giới và nữ giới, một phần là do sự khác biệt về yếu tố nguy cơ và hormone. Các số liệu dịch tễ cho thấy phụ nữ trong tuổi kinh nguyệt phần lớn được bảo vệ khỏi bệnh mạch vành so với nam giới cùng độ tuổi. Tần suất bệnh lý xơ vữa động mạch thấp ở phụ nữ trước mãn kinh, sau đó tăng lên sau mãn kinh, để đạt tỉ lệ ngang với nam giới ở độ tuổi 60 và có thể giảm trở về mức như trước mãn kinh khi được điều trị estrogen.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Estrogen và bệnh tim mạch
- Tổng Quan Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 6 * 2018 ESTROGEN VÀ BỆNH TIM MẠCH Nguyễn Hoài Nam* Tần suất của bệnh tim mạch có sự khác biệt estrogen ở vú. Raloxifene có tác động tương tự rõ rệt giữa nam giới và nữ giới, một phần là do nhưng yếu hơn so với estrogen, có thể làm giảm sự khác biệt về yếu tố nguy cơ và hormone. Các nồng độ Lp (a) lipoprotein nhiều hơn estrogen số liệu dịch tễ cho thấy phụ nữ trong tuổi kinh và gần đây được sử dụng trong điều trị loãng nguyệt phần lớn được bảo vệ khỏi bệnh mạch xương. Phytoestrogens, được chiết xuất từ nhiều vành so với nam giới cùng độ tuổi. Tần suất loại thực vật, có cả tác dụng đồng vận và đối bệnh lý xơ vữa động mạch thấp ở phụ nữ trước kháng trên thụ thể estrogen và các tác dụng mãn kinh, sau đó tăng lên sau mãn kinh, để đạt tương tự estrogen có thể giúp làm giảm các triệu tỉ lệ ngang với nam giới ở độ tuổi 60 và có thể chứng và các biểu hiện lâm sàng ở tuổi mãn giảm trở về mức như trước mãn kinh khi được kinh. Tibolone là một steroide tổng hợp có cấu điều trị estrogen. Quan điểm gần đây cho rằng tế trúc tương tự progestogen được chuyển hóa bào nội mạch một khi không còn ở trạng thái thành các chất có hoạt tính của estrogen và bình thường sẽ làm tác dụng bảo vệ tim mạch androgen tại các mô khác nhau và cũng được sử của estrogen nội sinh và ngoại sinh không còn dụng trong liệu pháp hormone thay thế. nữa. và các tác dụng có lợi khác của estrogen là phụ thuộc vào tế bào nội mạc và liên quan đến Cấu trúc và chức năng các thụ thể của estrogen: thụ thể. ER-α và ER-β Ở phụ nữ bị xơ vữa động mạch sớm, người ESTROGEN VÀ THỤ THỂ ESTROGEN ta quan sát được sự giảm số lượng thụ thể ER Estrogen trong liệu pháp hormone thay thế trên thành của các động mạch bị xơ vữa. Thụ thể Các chất điều hòa estrogen chọn lọc (SERMs) estrogen hiện diện ở lớp cơ thành động mạch là một nhóm hợp chất khác có tác dụng tương tự chủ và động mạch vành. Thụ thể của estrogen estrogen ở nội mạc mạch máu và xương nhưng được hoạt hóa sau khi gắn kết với estrogen, có tác dụng kháng estrogen ở tuyến vú và nội ngoài ra bởi các yếu tố tăng trưởng khi đạt nồng mạc tử cung. Estrogen hỗn hợp chiết xuất từ độ estrogen tại chỗ cao hay thấp (như ở nam giới nước tiểu ngựa cái, conjugated equine estrogens và phụ nữ mãn kinh). Khi có sự gắn kết với (CEE), ở Hoa Kỳ thường được dùng điều trị và estrogen, thụ thể estrogen chuyển dạng để gắn đã được sử dụng trong phần lớn các nghiên cứu kết với các chuỗi AND đặc hiệu hoặc các phần tử lâm sàng trên phụ nữ mãn kinh. CEE hoặc các đáp ứng với ái lực cao và điều hành quá trình dạng uống hay dán ngoài da của estrogen tổng chuyển mã trên gen đích. Có hàng trăm đồng hợp kết hợp với một progestogen uống để ngừa dạng của gen điều hòa cũng như tổng hợp sự quá sản nội mạc tử cung. Tamoxifen, một dẫn receptor ER α và ER β đã được xác định, tổng xuất không steroide của triphenylethylene được hợp nên các đồng dạng khác nhau. Thụ thể ER α sử dụng trong điều trị ung thư vú nhờ chức được tìm thấy ở tế bào thành mạch và cơ tim ở cả năng điều hòa thụ thể estrogen chọn lọc, có tác hai giới và được tìm thấy ít hơn ở động mạch dụng hoạt hóa thụ thể estrogen ở một số mô như vành xơ vữa trong một nghiên cứu nhỏ ở phụ nữ tử cung nhưng có tác dụng kháng thụ thể chưa mãn kinh. *Bệnhviện Phục Hồi Chức Năng – Điều Trị Bệnh Nghề Nghiệp TPHCM Tác giả liên lạc: Ths.BS.CKII. Nguyễn Hoài Nam ĐT: 0918190988 Email: bsnam2009@gmail.com 26 Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Nhân Dân Gia Định 2018
- Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 6 * 2018 Tổng Quan Tác động hệ thống của estrogen angiotensinogen và giảm hoạt tính renin và men Tác động trên nồng độ lipid huyết thanh chuyển dạng angiotensin ở người sử dụng CEE. Estrogens tác động có lợi lên chuyển hóa Hơn nữa, estrogen làm giảm tác dụng của lipids và lipoproteins, nhưng tác động này phụ angiotensin II bằng cách giảm tổng hợp hoặc thuộc vào loại estrogen được sử dụng, đường giảm số lượng receptor của angiotensin II. Tác vào, sự kết hợp với loại nào của progestogen. động này thấy rõ nhất ở thùy trước tuyến yên. Hormone sinh dục và sự điều hòa thể tích máu Tuy nhiên, tác động này chỉ chiếm 1/3 hiệu quả bảo vệ hệ tim mạch của estrogen trên lâm sàng. Mặc dù có tác dụng dãn mạch, tác dụng của Estrogen qua da ít có tác động lên nồng độ lipid estrogen trong việc giảm mức huyết áp là không huyết thanh so với estrogen uống có lẽ do không rõ ràng, có thể do tác động làm gia tăng thể tích có tác dụng qua gan lần đầu. Tác động của huyết tương của estrogen. Tác động gia tăng thể estrogen chủ yếu do tác động liên quan đến thụ tích máu của estrogen phần lớn thứ phát từ tác thể estrogen lên gen tổng hợp apoprotein. Nhìn động gây giữ natri. Vì vậy, hiệu quả dãn mạch chung, estrogen đường uống làm giảm sự tích tụ của estrogen thông qua sự thay đổi trên hệ cholesterol accumulation ở mô ngoại biên và làm renin–angiotensin có thể cân bằng với tác dụng gia tăng bài tiết cholesterol qua mật. Đặc biệt, gia tăng thể tích dịch nội mạch của hormone này estrogen làm giảm 5 – 15% nồng độ cholesterol nên ít ảnh hưởng lên mức huyết áp. toàn phần và LDL do sự gia tăng thụ thể cũng Tác động của hormone sinh dục lên chức năng như tăng thoái giáng và thải LDL tại gan Liệu của tim pháp hormone thay thế cho thấy có thể làm giảm Sự gia tăng thể tích nhát bóp và cung lượng nồng độ remnant lipoprotein particles (RLPs), tim cũng như sự giảm kháng lực mạch máu các yếu tố có tính sinh xơ vữa mạnh nhất đồng cũng quan sát được ở người sử dụng liệu pháp thời làm rối loạn chức năng tế bào nội mạc, một hormone thay thế. Phần lớn nghiên cứu khảo sát yếu tố nguy cơ tim mạch độc lập ở phụ nữ. phân suất tống máu thất trái qua siêu âm là Tác động của hormone sinh dục nữ trên hệ không thay đổi. Estrogen có tác dụng trực tiếp, thống dòng máu cơ quan và mức huyết áp. gia tăng và duy trì co bóp cơ tim, gia tăng thể Việc điều trị estrogen ở phụ nữ bệnh mạch tích cuối tâm thu thất trái, giảm phân suất tống vành làm chậm quá trình thiếu máu cục bộ và máu thất trái và giảm thời gian đổ đầy thất so gia tăng ngưỡng gắng sức khi làm nghiệm pháp với phụ nữ mới mãn kinh. Liệu pháp hormone gắng sức. Tuy nhiên, các tác động này qua trung thay thế làm gia tăng vận tốc đỉnh tâm thu và gian của tế bào nội mạc nhiều hơn là tác động giảm thời gian gia tốc của phổ doppler liên tục dãn mạch trực tiếp. Tác động của estrogen hoặc qua van động mạch chủ ở thời điểm 10 tuần và 1 progestin ngoại sinh lên huyết áp ít rõ ràng hơn. năm sau điều trị. Thuốc ngừa thai đường uống liên quan và gây Tác động của hormone sinh dục lên các yếu tố tăng huyết áp thực sự ở một số người(6). dãn mạch phụ thuộc tế bào nội mạc mạch máu Tác động của estrogen trên hệ renin– Việc tiếp xúc cấp tính và kéo dài với các dạng angiotensin khác nhau của estrogen làm gia tăng dự trữ dãn Trong các nghiên cứu, tăng angiotensinogen mạch phụ thuộc tế bào nội mạc của mạch vành ở phụ nữ sử dụng thuốc ngừa thai uống mức và gia tăng phân bố của mạch máu vùng cẳng gấp 2 - 4 lần, ở phụ nữ đang mang thai(6). tay ở phụ nữ mãn kinh có xơ vữa mạch mức độ Estrogen cũng gây tăng hoạt tính của renin trong trung bình – nhẹ hoặc có yếu tố nguy cơ bệnh huyết tương. Các tác động này làm gia tăng tổng mạch vành cũng như ở phụ nữ mãn kinh khỏe hợp angiotensin I. Có sự gia tăng nồng độ mạnh. Các tác động này được thấy ở cả các mạch Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Nhân Dân Gia Định 2018 27
- Tổng Quan Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 6 * 2018 máu lớn cũng như các tiểu động mạch. Điều này máu là kém ưu thế hơn so với sự gia tăng của cho thấy estrogen có vai trò chủ chốt trong việc các yếu tố bất hoạt chúng cũng như sự giảm thúc đẩy tổng hợp, giải phóng, cung cấp hoặc của một số yếu tố khác trong dòng thác đông đáp ứng với endothelial-derived relaxing factor máu. Ngoài ra, việc ức chế sự tương tác giữa (EDRF) hoặc các yếu tố điều hòa trương lực tiểu cầu và tế bào nội mạc sẽ làm giảm các tín mạch máu phụ thuộc tế bào nội mạc khác. Các hiệu co thắt và gây tăng sinh cơ trơn thành yếu tố khác từ tế bào nội mạc như prostacyclin mạch có liên quan đến tiểu cầu. (PGI2) và endothelial-derived hyperpolarizing Tác động của estrogen lên các marker của quá factor (EDHF) cũng góp phần vào sự dãn mạch trình viêm phụ thuộc tế bào nội mạc. Prostacyclin là một C-reactive protein (CRP) là yếu tố tiên đoán chất dãn mạch mạnh với cơ chế dãn mạch khác mạnh nhất của biến cố tim mạch ở phụ nữ khỏe so với EDRF. Vì estrogen có vai trò điều hòa mạnh. Có bằng chứng cho thấy nồng độ CRP gia chuyển hóa của các prostanoid, hormone này có tăng ở phụ nữ mãn kinh có uống estrogen không thể ảnh hưởng lên khả năng dãn mạch phụ phải là kết quả của một đáp ứng viêm mà là do thuộc tế bào nội mạc qua tác động lên việc tổng sự hoạt hóa chuyển hóa tại gan, mặc dù estrogen PGI2. Tác động của progesterone ít rõ ràng hơn. làm giảm các marker viêm khác như E-selectin, Tuy nhiên, một số dữ liệu cho thấy progesterone VCAM-1, ICAM-1 thrombomodulin hòa tan. làm giảm các tác động trên của estrogen. Estrogen là một yếu tố dãn mạch Tác dụng chống oxy hóa của estrogen Estrogen có ảnh hưởng lên trương lực và Estradiol và estrone có khả năng ức chế quá chức năng mạch máu theo hướng dãn mạch và trình oxy hóa của methylinoleate khi phơi nhiễm không được thấy rõ trên lâm sàng do tác dụng tia cực tím và các microsomal phospholipid với giữ Natri, nước. Sự dãn mạch của estrogen làm Fe3+ADP. Các gốc oxy hóa được sản xuất tại chỗ ức chế quá trình tăng sinh trên mạch máu, một có thể ức chế khả năng dãn mạch phụ thuộc tế thành phần trung tâm của cả tăng huyết áp và xơ bào nội mạc bằng cách bất hoạt các yếu tố EDRF vữa mạch máu, có thể giúp làm giảm tiến triển trên đường di chuyển từ tế bào nội mạc đến cơ của bệnh mạch máu. Tuy nhiên, kết quả nghiên trơn thành mạch cũng như qua tác dụng co cứu không cho thấy vai trò bảo bệ tim mạch của mạch trực tiếp. Vì vậy việc thay đổi cán cân cân liệu pháp hormone thay thế ở phụ nữ mãn kinh bằng giữa các chất oxy hóa và chống oxy hóa tại có tăng huyết áp. chỗ có tác động lên chức năng dãn mạch phụ thuộc tế bào nội mạc. TÁC DỤNG TRỰC TIẾP CỦA ESTROGEN LÊN MẠCHMÁU Tác động của hormone sinh dục lên quá trình đông cầm máu và sự hình thành huyết khối. Sử dụng estrogen kéo dài có liên quan đến Hiện nay đã có chứng cứ rõ ràng cho thấy sự giảm nồng độ rennin, men chuyển dạng việc sử dụng liệu pháp hormone thay thế làm angiotensin, endothelin, và giảm hoạt động của gia tăng huyết khối nội mạch bao gồm huyết gen tổng hợp thụ thể angiotensin II type I đồng khối tĩnh mạch sâu và thuyên tắc phổi. Sự kết thời làm gia tăng tỉ lệ nitric oxide /endothelin- hợp giữa estrogen liều cao và chuyển vị 1trong huyết tương. Tác động hệ thống của các Leiden làm gia tăng rõ rệt nguy cơ huyết khối sự thay đổi này là sự dãn mạch(8). Estrogens có tĩnh mạch. Estrogen ở liều điều trị thay thế có thể gây dãn mạch trong thời gian ngắn bằng cả vẻ ức chế sự kết tập tiểu cầu và quá trình đông hai cách: có hoặc không qua trung gian tế bào máu đồng thời làm gia tăng quá trình tiêu sợi nội mạc. Sự giảm sút chức năng của estrogen, do huyết. Sự gia tăng nhẹ của các yếu tố đông sự giảm nồng độ estrogen hay giảm số lượng thụ thể ER α chức năng trên thành mạch và trong tế 28 Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Nhân Dân Gia Định 2018
- Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 6 * 2018 Tổng Quan bào nội mạc có thể là một nguy cơ tim mạch gia tăng tỉ lệ biến cố thuyên tắc mạch do huyết đáng quan tâm vì có thể dẫn đến rối loạn chức khối và bệnh lý túi mật. Có sự gia tăng tỉ lệ năng tế bào nội mạc và làm phát triển mảng xơ biến cố mạch vành trong năm đầu sau điều trị vữa. Tuy nhiên, một số tác động của estrogen lên và sự giảm biến cố mạch vành trong năm điều các mô ngoài mạch máu có thể làm mất các tác trị thứ 4 và thứ 5. Các kết quả này có lẽ do tác dụng có lợi này. Hiện tại chưa có loại estrogen dụng của CEE, medroxyprogesterone, hoặc cả nào tác động chọn lọc trên thành mạch(8). hai hormone lên các mô không phải mạch LIỆU PHÁP HORMONE THAY THẾ VÀ máu, như tác động trên gan có thể làm thay đổi cân bằng của hệ thống đông cầm máu và BỆNH TIM MẠCH TRONG CÁC gia tăng biến cố thuyên tắc do huyết khối(7). NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG Một nghiên cứu khác là nghiên cứu Papworth Những biện pháp đã được thực hiện để làm Hormone Replacement Therapy giảm nguy cơ bệnh tim mạch trong vài thập kỷ Atherosclerosis Study, sử dụng 17β-estradiol qua là thay đổi lối sống và điều trị thuốc. Liệu dán qua da đơn độc hay phối hợp với pháp hormone thay thế là một biện pháp điều trị norethisterone ở phụ nữ mãn kinh có bệnh thuốc đã được xem là có hiệu quả bảo vệ tim mạch vành cũng cho thấy việc điều trị mạch đối với phụ nữ mãn kinh(5). hormone thay thế không có hiệu quả phòng Các nghiên cứu quan sát ngừa thứ phát biến cố tim mạch(2). Từ các Nhiều nghiên cứu quan sát cho thấy sử dụng nghiên cứu này, có thể kết luận liệu pháp estrogen ngoại sinh có lẽ có tác dụng bảo vệ tim hormone thay thế không nên được sử dụng để mạch. Trong các nghiên cứu bệnh chứng, đoàn phòng ngừa thứ phát bệnh tim mạch. hệ hay cắt ngang trong cộng đồng về estrogen Nghiên cứu Women's Health Initiative (dưới dạng CEE), nguy cơ tương đối của bệnh (WHI) được thực hiện, sử dụng CEE (0,625mg) + tim mạch giảm 35 - 50% ở người có sử dụng MPA (2,5mg) mỗi ngày. Nghiên cứu được estrogen so với người không sử dụng(5). Nhìn ngưng sau 5,2 năm vì có sự gia tăng nguy cơ ung chung, kết quả từ các nghiên cứu quan sát ủng thư vú cũng như nguy cơ nhồi máu cơ tim hộ cho quan điểm liệu pháp hormone thay thế không tử vong và tử vong liên quan đến bệnh có vai trò bảo vệ hệ tim mạch. Tuy nhiên, trong mạch vành, đặc biệt trong vòng một năm đầu. một nghiên cứu gần đây trên phụ nữ đã có sẵn Nguy cơ huyết khối tĩnh mạch cũng gia tăng gấp bệnh tim mạch, điều trị hormone là có hại. Có sự đôi. Một nhóm khác bao gồm 10,739 phụ nữ đã gia tăng biến cố mạch vành trên phụ nữ bắt đầu cắt tử cung sử dụng CCE hoặc giả dược vẫn liệu pháp hormone thay thế sau khi nhồi máu cơ đang được tiến hành. Các nghiên cứu lâm sàng tim(1). ngẫu nhiên trên phụ nữ mãn kinh không cho Các nghiên cứu lâm sàng ngẫu nhiên thấy vai trò bảo vệ tim mạch như các nghiên cứu quan sát. Có nhiều sự giải thích cho sự không The Heart and Estrogen/Progestin thống nhất này đã được nêu ra. Replacement Study (HERS) là nghiên cứu lâm sàng ngẫu nhiên lớn đầu tiên đánh giá hiệu Lý do của sự không đồng nhất giữa các kết quả quả phòng ngừa thứ phát ở phụ nữ mãn kinh nghiên cứu đã mắc bệnh mạch vành thông qua đánh giá Hạn chế của các nghiên cứu tác động của liệu pháp hormone thay thế với Dạng estrogen chính trong các nghiên cứu CEE kết hợp medroxyprogesterone với thời lâm sàng là CEE, dạng thường được sử dụng ở gian điều trị trung bình là 4,1 năm. Kết quả Hoa kỳ, trong khi 17β-estradiol được sử dụng chung của nghiên cứu không làm giảm tỉ lệ phổ biến hơn ở Châu Âu. Tuy nhiên chưa có biến cố có liên quan với mạch vành nhưng làm Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Nhân Dân Gia Định 2018 29
- Tổng Quan Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 6 * 2018 nghiên cứu lâm sàng hay quan sát lớn nào về tác mà không kích thích tuyến vú và nội mạc tử dụng phòng ngừa tiên phát của 17β-estradiol đối cung và tác động trên hệ đông máu theo với bệnh lý tim mạch(4). Các kết quả không đồng hướng làm tăng tiêu sợi huyết hơn nên có tác nhất từ nhiều nghiên cứu trước đây có lẽ do sự dụng làm giảm nguy cơ thuyên tắc mạch do khác nhau về thành phần, liều lượng của từng huyết khối. loại hormone, đường vào của thuốc cũng như Cuối cùng, nhóm phytoestrogens, và chất có thời gian điều trị khác nhau trong các nghiên hoạt tính estrogen mạnh nhất trong nhóm này cứu hay sự khác biệt trong dân số nghiên cứu, được chiết xuất từ đậu nành, đặc biệt khi được liều lượng, công thức điều trị và sự kết hợp hoặc loại trừ nhóm glucose có hiệu quả trên lipid máu không kết hợp với progesterone. và chức năng tế bào nội mạc trong một số nghiên Tình trạng của tế bào nội mạc mạch máu cứu. Tuy nhiên, do chưa có các dữ kiện về dự Các chứng cứ lâm sàng và thực nghiệm cho hậu lâm sàng, nên chưa có khuyến cáo sử dụng thấy tác động của estrogen phụ thuộc vào tình phytoestrogen trong phòng ngừa tiên phát bệnh trạng của tế bào nội mạc mạch máu và sự có mặt tim mạch. hay không của xơ vữa thành mạch. Tuy nhiên, KẾT LUẬN VÀ HƯỚNG NGHIÊN CỨU MỚI mạch vành xơ vữa không đáp ứng với estrogen Dựa trên những tác dụng có lợi của estrogen một phần từ việc thiếu hụt các receptor của trên nhiều mô và chức năng của cơ thể, bao gồm estrogen trên mạch vành xơ vữa. hệ tim mạch, các nhà lâm sàng hy vọng việc sử Các điều trị thay thế cho liệu pháp hormone dụng estrogen đơn thuần hay phối hợp với Do việc sử dụng liệu pháp điều trị thay thế progesterone trong điều trị hormone thay thế ở truyền thống bằng estrogen có nhiều bất lợi, các phụ nữ mãn kinh có thẻ bảo vệ hệ tim mạch. Tuy nhà khoa học đang nghiên cứu các điều trị thay nhiên, kết quả của các nghiên cứu lâm sàng thế để hạn chế tác dụng không mong muốn của chẳng những không cho thấy vai trò bảo vệ hệ estrogen. tim mạch của liệu pháp hormone thay thế mà còn gây tác động có hại trên hệ tim mạch. Điều trị thay thế đầu tiên bao gồm các chất điều hòa thụ thể estrogen chọn lọc (SERMs), là Có vẻ như việc điều trị hormone thay thế ở những phức hợp estrogen không steroide với các phụ nữ mãn kinh là có hại vì làm gia tăng biến tác dụng tương tự estrogen (trên lipoprotein và cố tim mạch và nguy cơ huyết khối tĩnh mạch. xương) cũng như tác dụng kháng estrogen trên Sự không đồng nhất giữa các kết quả nghiên tuyến vú và nội mạc tử cung. cứu quan sát và nghiên cứu lâm sàng có thể do loại, liều cao estrogen được dùng trong các Raloxifene làm giảm nồng độ LDL- nghiên cứu lâm sàng, tác dụng đối kháng với cholesterol và fibrinogen nhưng không ảnh estrogen của progesterone trong liệu pháp hưởng lên nồng độ HDL. Raloxifene không hormone thay thế phối hợp, tuổi của người cho thấy lợi ích so với giả dược trong phòng tham gia nghiên cứu lâm sàng và tình trạng ngừa bệnh tim mạch và biến cố mạch máu của tế bào nội mạc mạch máu cũng như giai trong nghiên cứu MORE, tuy nhiên có sự giảm đoạn tiến triển của mảng xơ vữa. tỉ lệ biến cố mạch máu ở người có nguy cơ bệnh tim mạch cao(3). Nguy cơ cao của biến cố mạch vành và đột quị não xuất hiện sớm sau điều trị hormone thay Một nhóm thuốc khác được gọi là các chất thế trong hai nghiên cứu HERS và WHI có thể điều hòa hoạt tính estrogen chọn lọc tại mô do huyết khối, thể hiện tác dụng cộng hưởng (STEAR), trong đó tibolone là đại diện đầu giữa tình trạng tăng đông tương đối và tác dụng tiên. Tibolone dùng để kiểm soát các triệu của estrogen uống, hoặc do tác dụng gây viêm chứng tiền mãn kinh và duy trì mật độ xương 30 Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Nhân Dân Gia Định 2018
- Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 6 * 2018 Tổng Quan của estrogen uống làm vỡ mảng xơ vữa không 3. Clarkson TB, Anthony MS, Jerome CP (1998). Lack of effect of raloxifene on coronary artery atherosclerosis of ổn định(4). postmenopausal monkeys. J Clin Endocrinol Metab 83: 721-726. Tuy nhiên không thể bỏ qua các nghiên cứu 4. Elizabeth BC (2003). An epidemiologist looks at hormones and heart disease in women. J Clin Endocrinol Metab 88: 4031-4042. cho thấy tác dụng có lợi của estrogen trong giai 5. Grodstein F, Stampfer M (1995). Epidemiology of coronary đoạn sớm của mảng xơ vữa ở phụ nữ tiền mãn heart disease and estrogen replacement in postmenopausal women. Progress Cardiol 38: 199-210. kinh và những năm đầu sau mãn kinh. Vì vậy, 6. Hodis HN, Mack MJ, Azen SP et al (2003). [for the Women's việc sử dụng estrogen ở liều thấp hơn hoặc kết Estrogen-Progestin Lipid-Lowering Hormone Atherosclerosis hợp với các progestone khác nhau, hay sử dụng Regression Trial Research Group]. Hormone therapy and the progression of coronary artery atherosclerosis in các đồng vận estrogen mới bao gồm SERM, sự postmenopausal women. N Engl J Med 349: 535-545. kết hợp giữa SERM hay phytoestrogens với liều 7. Hulley S, Grady D, Bush T et al (1998). Randomized trial of thấp estrogen và chọn thời điểm can thiệp tốt estrogen plus progestin for secondary prevention of coronary heart disease in postmenopausal women: Heart and hơn sẽ là xu hướng tương lai cho liệu pháp EstrogenProgestin Replacement Study (HERS) Research group. hormone thay thế. Tuy nhiên, ở thời điểm hiện JAMA 280: 605-613. 8. Mendelsohn ME and Karas RH (1999). The Protective Effects of tại, việc sử dụng liệu pháp hormone thay thế để Estrogen on the Cardiovascular System. N Engl J Med; phòng ngừa tiên phát hay thứ phát bệnh tim 340:1801-1811. mạch không được khuyến cáo. 9. Writing Group for the WHI Investigators (2002). Risks and benefits of estrogen plus progestin in healthy postmenopausal TÀI LIỆU THAM KHẢO women. Principal results from the Women’s Health Initiative randomized controlled trial. JAMA; 288: 321–333. 1. Alexander KP, Newby LK, Hellkamp AS et al (2001). Initiation of HRT after acute myocardial infarction is associated with more cardiac events during follow-up. J Am Coll Cardiol 38: 1-7. Ngày nhận bài báo: 15/06/2018 2. Clarke SC, Kelleher T, Lloyd _Jones H, Slack M, Schofiel PM Ngày bài báo được đăng: 10/11/2018. (2002). A study of hormone replacement therapy in postmenopausal women with ischemic heart disease; the Papworth HRT atherosclerosis study. Br J Obstet Gynecol 109: 1056-1062. Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Nhân Dân Gia Định 2018 31
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn