GÂY MÊ TĨNH MẠCH ĐƠN THUẦN TRONG THÔNG TIM CAN THIỆP Ở TRẺ EM MẮC BỆNH TIM BẨM SINH: HIỆU QUẢ VÀ TAI BIẾN
lượt xem 7
download
Thông tim ở trẻ em là chuyên ngành mới được phát triển tại Việt Nam trong những năm gần đây. Ngoài vai trò không thể thiếu được trong việc chẩn đoán xác định các bệnh tim bẩm sinh (TBS) phức tạp thông tim còn là một phương pháp điều trị hiệu quả đối với nhiều bệnh TBS. Đây là một thủ thuật gây đau vì vậy gây mê là chỉ định bắt buộc trong thông tim ở trẻ em. Trong điều kiện hiện nay, phương pháp gây mê tĩnh mạch đơn thuần không đặt nội khí quản (NKQ) đang được áp dụng cho trẻ em làm thông tim can thiệp...
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: GÂY MÊ TĨNH MẠCH ĐƠN THUẦN TRONG THÔNG TIM CAN THIỆP Ở TRẺ EM MẮC BỆNH TIM BẨM SINH: HIỆU QUẢ VÀ TAI BIẾN
- TCNCYH 38 (5) - 2005 GÂY MÊ TĨNH MẠCH ĐƠN THUẦN TRONG THÔNG TIM CAN THIỆP Ở TRẺ EM MẮC BỆNH TIM BẨM SINH: HIỆU QUẢ VÀ TAI BIẾN Nguyễn Ngọc Tráng1, Nguyễn Lân Hiếu1 Nguyễn Hữu Tú 2 1 Bộ môn Tim mạch – Trường Đại học Y Hà Nội 2 Bộ môn Gây mê hồi sức - Trường Đại học Y Hà Nội Gây mê tĩnh mạch đang được áp dụng thường xuyên cho thông tim can thiệp ở trẻ em. Tuy nhiên ở nước ta vấn đề này còn chưa được nghiên cứu. Mục tiêu nghiên cứu: (1) Xác định hiệu quả của phương pháp gây mê tĩnh mạch trong thông tim ở trẻ em. (2) Đánh giá các tai biến của phương pháp gây mê này. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Gây mê tĩnh mạch được tiến hành với khởi mê bằng Ketamin hoặc Propofol và duy trì mê bằng Propofol trên 41 bệnh nhi có TBS. Huyết động, hô hấp và chất lượng cuộc mê cũng như các tai biến được theo dõi và đánh giá trong suốt cuộc gây mê. Kết quả: 95,2% bệnh nhi có giai đoạn khởi mê tốt; 97,6% có duy trì mê tốt và 100% có thoát mê tốt. 82,3% hồi tỉnh trong vòng 15 phút. Một số tai biến được xác nhận: Ngừng thở và tụt SpO2 thoáng qua lúc khởi mê (4,8%), suy hô hấp nặng phải đặt NKQ (2,4%), tăng tiết đờm dãi nhẹ (4,8%). Kết luận: Gây mê tĩnh mạch đảm bảo hiệu quả vô cảm cho đa số các trường hợp làm thủ thuật tim mạch can thiệp. Từ khóa: Gây mê tĩnh mạch, thông tim can thiệp, hiệu quả vô cảm. I. ĐẶT VẤN ĐỀ 2. Đánh giá, phân tích một số tai biến của phương pháp gây mê này xảy ra trong và sau Thông tim ở trẻ em là chuyên ngành mới được quá trình làm thủ thuật. phát triển tại Việt Nam trong những năm gần đây. Ngoài vai trò không thể thiếu được trong việc chẩn II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP đoán xác định các bệnh tim bẩm sinh (TBS) phức NGHIÊN CỨU tạp thông tim còn là một phương pháp điều trị 1. Đối tượng nghiên cứu hiệu quả đối với nhiều bệnh TBS. Đây là một thủ Các trẻ em bị bệnh TBS đã được thông tim thuật gây đau vì vậy gây mê là chỉ định bắt buộc chẩn đoán và can thiệp tại Viện Tim Mạch Quốc trong thông tim ở trẻ em. Trong điều kiện hiện Gia, bệnh viện Bạch Mai từ tháng 9/2004 đến nay, phương pháp gây mê tĩnh mạch đơn thuần 4/2005. không đặt nội khí quản (NKQ) đang được áp dụng cho trẻ em làm thông tim can thiệp tại Viện Tim 1.1. Tiêu chuẩn chọn bệnh nhân mạch Quốc gia, bệnh viện Bạch Mai. Gây mê tĩnh - Tuổi < 15. mạch đơn thuần đã đảm bảo cho hầu hết các cuộc - Không có chống chỉ định gây mê bằng can thiệp tim mạch thành công. Tuy nhiên, sau Propofol, Ketamin và Fentanyl. một thời gian áp dụng phương pháp vô cảm này, 1.2. Tiêu chuẩn loại trừ bệnh nhân một số tai biến cũng được ghi nhận. Điều này cho - Trẻ bị sốt trên 38oC hoặc đang bị bệnh đường thấy sự cần thiết phải có sự xem xét và đánh giá hô hấp: viêm phế quản phổi, hen. phương pháp gây mê tĩnh mạch đơn thuần để hoàn thiện phương pháp vô cảm áp dụng trong - Có dị ứng với một trong các thuốc mê tĩnh thông tim can thiệp. Vì vậy, chúng tôi tiến hành mạch. nghiên cứu này với các mục tiêu: 2. Phương pháp nghiên cứu 1. Xác định hiệu quả vô cảm của phương 2.1. Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu mô pháp gây mê tĩnh mạch đơn thuần để thực tả tiến cứu hiện thông tim can thiệp ở trẻ em. 2.2. Tiến hành nghiên cứu 2.2.1. Phác đồ gây mê 1
- TCNCYH 38 (5) - 2005 - Trẻ được chuẩn bị trước gây mê: nhịn ăn, đo - Thoát mê: Bệnh nhân thoát mê tại phòng can cân nặng. thiệp hoặc tại bệnh phòng. - Tiền mê bằng Hypnovel tĩnh mạch (nếu cần) 2.2.2. Theo dõi và đánh giá kết quả và được thở oxy 100 %. - Theo dõi trong gây mê: nhịp tim, SpO2, nhịp - Bệnh nhi được khởi mê tùy theo nhóm TBS: thở trên monitoring 5 phút/lần. + Nhóm TBS shunt T - P (thường có tăng áp - Đánh giá chất lượng hồi tỉnh 5 phút/lần và lực ĐMP): Fentanyl 1 - 2µg/kg và Propofol 2,5 - trong vòng một giờ sau khi ngừng mê. 3mg/kg tĩnh mạch chậm trong 30 - 60 giây. - Đánh giá hiệu quả vô cảm (bảng 1) + Nhóm TBS shunt P - T, TBS có cản trở - Đánh giá các dấu hiệu: nôn, buồn nôn, nấc, đường ra (không có tăng áp lực ĐMP trên siêu tăng tiết dịch, ảo giác. âm): Ketamin 0,5 - 1mg/kg. - Duy trì mê: truyền tĩnh mạch Propofol 1 - 3 mg/kg/giờ bằng bơm tiêm điện cho cả hai nhóm, điều chỉnh theo độ mê. Ngừng thuốc ngay khi kết thúc can thiệp. Bảng 1. Đánh giá hiệu quả vô cảm Giai đoạn Tốt Trung bình Kém Êm dịu; hô hấp và tuần Êm dịu; thay đổi hô hấp, Kích động hoặc biến Khởi mê hoàn ổn định tuần hoàn nhưng không nguy chứng hô hấp, tuần hoàn hiểm phải can thiệp Tuần hoàn, hô hấp ổn Tuần hoàn, hô hấp có thay Có biến chứng về tuần Duy trì định; không xuất tiết. Thủ đổi nhưng không cần can hoàn, hô hấp phải điều mê thuật tiến hành bình thiệp, tăng tiết nhẹ trị; tăng tiết nhiều. Thủ thường thuật bị cản trở Tỉnh hoàn toàn êm dịu, Tỉnh quấy khóc, có thay đổi Vật vã, kích động; biến vận động các chi chủ tuần hoàn và hô hấp nhưng chứng tuần hoàn hoặc hô Thoát mê động, tuần hoàn và hô hấp không nguy hiểm hấp phải xử trí. ổn định - Giới: 51,2% nam; 48,8% nữ. - Cân nặng: Cân nặng trung bình: 15,71 ± - Một số đánh giá khác: Thời gian mê: Tính từ 5,21 (8 - 34kg). thời điểm tiêm liều thuốc mê đầu tiên đến thời điểm tiêm liều cuối cùng hoặc ngừng bơm tiêm - Tiền sử gây mê: 8 trẻ được gây mê lần thứ 2 điện. Thời gian can thiệp: Tính từ thời điểm chọc (19,5%). catheter qua da đến thời điểm rút bỏ toàn bộ dụng 2. Chẩn đoán bệnh TBS và thủ thuật cụ can thiệp. Thời gian hồi tỉnh: Tính từ thời điểm - Phân loại theo nhóm TBS: Shunt T - P tiêm liều thuốc mê cuối cùng hoặc ngừng truyền (73,2%) chủ yếu gồm: thông liên nhĩ (TLN), thông thuốc mê bằng bơm tiêm điện đến lúc trẻ mở mắt, liên thất (TLT) và còn ống động mạch (CÔĐM) cử động tay chân và nhận biết được bố mẹ. Shunt P - T (14,6%). 2.3. Thu thập và xử lý số liệu - Thủ thuật: 17 thông tim chẩn đoán - thông Số liệu được thu thập và xử lý bằng chương tim ống lớn (TTOL) (41,5%) so với 24 can thiệp trình Epi - Info 6.0. p < 0,05 được coi là khác biệt điều trị (58,5%). Có 3 trường hợp (12,5%) không có ý nghĩa thống kê. can thiệp điều trị được phải phẫu thuật gồm: CÔĐM lớn không bít được bằng dù Amplatzer; TLN III. KẾT QUẢ nhiều lỗ; hẹp eo động mạch chủ (ĐMC). 1. Đặc điểm bệnh nhi - Tuổi: Tuổi trung bình: 5,72 ± 3,23 (6 tháng - 14 tuổi) 51,2% trẻ từ 5 - 10 tuổi. 2
- TCNCYH 38 (5) - 2005 Bảng 2. Các thủ thuật tim mạch (2) Bé trai 5 tuổi có chẩn đoán TLT, được bít Thủ thuật N % dù Amplatzer: ngay sau khởi mê, SpO2 giảm xuống 57% trong vài giây rồi trở về bình thường ngay. TTOL 17 41,5 Nong van/eo ĐMC 2 4,8 (3) Bé trai 6 tuổi có chẩn đoán TLN, được bít Thăm dò điện sinh lý 1 2,4 dù Amplatzer: Sau 30 phút can thiệp do có bọt khí Bít rò 2 4,9 vào ĐMP nên trẻ có cơn ngừng thở, tím môi và Nong van ĐMP 5 12,2 SpO2 giảm xuống còn 51%. Tiến hành bóp bóng Bít dù Amplatzer 14 34,2 qua Mask, sau 2 phút trẻ tự thở được với SpO2 99%. (TTOL: thông tim ống lớn; ĐMC: động mạch chủ; ĐMP: động mạch phổi). (4) Bé trai 3 tuổi, chẩn đoán CÔĐM, bít dù Amplatzer. Sau khởi mê, SpO2 giảm xuống 32%, 3. Theo dõi gây mê trẻ có cơn ngừng thở, tím môi, thở khò khè, nhiều - Thời gian gây mê: 36,45 ± 22,76 phút (18 - rales ngáy. Xử trí: Bóp bóng Oxy 100% qua mask, 136). hút đờm dãi, thuốc giãn phế quản, lợi tiểu. Hô hấp - Thời gian làm thủ thuật: 29,18 ± 22,23 phút không cải thiện phải đặt NKQ, bóp bóng, SpO2 (10 - 130). tăng lên 100%. Tiếp tục thủ thuật với hô hấp hỗ - Thời gian hồi tỉnh: 10,53 ± 11,12 phút (1 - trợ song lỗ thông quá lớn không thể bít, phải 44). chuyển mổ cấp cứu. - Các trường hợp tai biến: - Các phiền nạn khác: Chúng tôi gặp 2 bệnh nhi (4,8%) có tăng tiết đờm dãi nhẹ và không gặp (1) Bé gái 5 tuổi có chẩn đoán là TLT làm các phiền nạn khác như nôn, nấc, ảo giác. TTOL: ngay sau khởi mê SpO2 giảm đột ngột tới 28% nhưng trở lại 52% và về SpO2 nền là 99% chỉ sau vài giây. Bảng 3. Giá trị trung bình của các thông số ở các thời điểm của cuộc mê Giai đoạn Nhịp tim SpO2 (%) Nhịp thở (lần/ phút) (lần/ phút) Trước khởi mê 114,24 ± 33,36 92,38 ± 10,48 35,63 ± 7,32 Sau khởi mê 117,05 ± 30,59 92,35 ± 13,32 32,08 ± 5,25 Bắt đầu can thiệp 116,8 ± 32,71 93,63 ± 7,93 31,55 ± 5,44 Trong khi can thiệp 113,25 ± 26,4 94,58 ± 7,18 31,63 ± 5,44 Ngừng can thiệp 108,45 ± 18,4 94,5 ± 7,61 30,95 ± 4,7 Tỉnh 107,55 ± 17,62 95,18 ± 7,32 32,70 ± 6,32 Sự thay đổi của các thông số theo dõi ở các thời điểm sau khởi mê so với thông số nền không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05). Bảng 4. Hiệu quả của các giai đoạn gây mê Giai đoạn Tốt Trung bình Kém n % n % n % Khởi mê 39 95,2 1 2,4 1 2,4 Duy trì mê 40 97,6 0 0 1 2,4 Hồi tỉnh 41 100 0 0 0 0 - Thời gian nằm viện: 3,83 ± 1,96 ngày (1 - 13); 80,5% nằm viện từ 1 đến 2 ngày. IV. BÀN LUẬN Kết quả của chúng tôi cho thấy nhóm shunt T - P chiếm đa số (73,2%), còn lại là nhóm có Shunt P 1. Chẩn đoán và thủ thuật thông tim can - T và các bệnh TBS khác. Như vậy, phác đồ gây thiệp mê tĩnh mạch đơn thuần với Propofol trong khởi mê và duy trì mê đã được áp dụng phần lớn cho 3
- TCNCYH 38 (5) - 2005 nhóm có shunt T - P. 14,6% số trẻ có shunt P - T của các tác giả nêu trên. Đây chính là điểm phù được khởi mê bằng Ketamin. Đây là chỉ định thích hợp với sự lựa chọn gây mê tĩnh mạch đơn thuần. hợp vì Ketamin làm giãn đường ra thất phải và làm Tuy nhiên, thời gian gây mê càng kéo dài nguy cơ tăng huyết áp (tâm thu nhiều hơn tâm trương) [1] suy hô hấp, tăng tiết đờm dãi, ngừng thở.... càng nên không làm nặng thêm shunt P - T. tăng. Vì vậy, việc lựa chọn kĩ thuật gây mê NKQ Số trẻ được can thiệp qua da để điều trị là 24 hay mask thanh quản cũng cần được cân nhắc cho (58,5%), nhiều hơn số trẻ được thông tim chẩn các can thiệp tim mạch kéo dài và phức tạp. đoán là 17 (41,5%). Đây là xu hướng phát triển Kết quả nghiên cứu này cho thấy thời gian hồi hiện nay của ngành tim mạch can thiệp. Với sự ra tỉnh của trẻ rất dao động từ 1 đến 44 phút. 32 trẻ đời của nhiều trang thiết bị hiện đại dùng cho can (80%) tỉnh lại trong vòng 15 phút. Chúng tôi lựa thiệp qua da như dù Amplatzer để bít lỗ TLN, bít chọn Propofol và Ketamin là hai thuốc mê có tác ống động mạch và lỗ TLT... chỉ định can thiệp điều dụng ngắn, thời gian hồi tỉnh nhanh. Kết quả trên trị các bệnh TBS ngày càng rộng rãi. Trong nhóm khá phù hợp với thời gian hồi tỉnh của Propofol là bệnh nhi được can thiệp điều trị qua da không 15 - 20 phút [8]. Đồng thời, 100% số trẻ có chất thành công có 3 trẻ, chiếm tỷ lệ 12,5%. Tuy nhiên lượng hồi tỉnh tốt. Tỷ lệ trẻ có biểu hiện tăng tiết đây là 3 trường hợp bất khả kháng do tổn thương đờm dãi khá thấp (4,8%) và không có các dấu TBS chứ không phải do kỹ thuật. Chỉ định phẫu hiệu khác như buồn nôn, nôn, nấc, ảo giác. Ảo thuật ở 3 trẻ này là đúng đắn, tuy nhiên nếu chẩn giác là dấu hiệu thường gặp sau khi gây mê bằng đoán được chính xác thương tổn TBS trẻ sẽ không Ketamin đơn thuần, mặc dù không nguy hiểm phải chịu một cuộc mê và thông tim can thiệp nhưng gây sợ hãi, có hại đến tâm lý trẻ. Có thể không có kết quả. hạn chế hoặc loại bỏ dấu hiệu này khi dùng phối 2. Gây mê trong can thiệp tim mạch hợp Ketamin với các thuốc ngủ hoặc thuốc an thần khác. Có lẽ vì tất cả các bệnh nhi đều được duy trì Can thiệp tim mạch dù để chẩn đoán hay điều mê bằng Propofol nên chúng tôi không gặp dấu trị vẫn là một thủ thuật xâm nhập và gây đau. Đối hiệu này. Thời gian hồi tỉnh trung bình theo nghiên với người lớn vấn đề này có thể được giải quyết cứu này là 10,53 phút, thấp hơn so với nghiên cứu bằng gây tê tại chỗ. Trẻ em không thể hoặc không của Lowerie L và cộng sự là 30 phút [5]. Có thể là muốn hợp tác để tiến hành thủ thuật, nhất là khi do thời gian làm thông tim can thiệp của các tác phải nằm bất động trong một thời gian. Do vậy chỉ giả trên kéo dài hơn nên tổng lượng thuốc phải định gây mê cho trẻ em là bắt buộc [7]. Có nhiều dùng sẽ lớn hơn, kéo dài thời gian hồi tỉnh. Chúng phương pháp gây mê có thể áp dụng cho trẻ em tôi cũng ghi nhận có 4 trường hợp trẻ tỉnh chậm như gây mê có đặt NKQ, đặt mask thanh quản, sau 30 phút, nhưng không có sự khác biệt về tổng gây mê hô hấp đơn thuần và gây mê tĩnh mạch liều thuốc mê cũng như sự khác biệt đáng kể nào đơn thuần. Chúng tôi áp dụng phương pháp gây giữa 4 trẻ này về thể trạng và mức độ nặng bệnh mê tĩnh mạch đơn thuần trong thông tim can thiệp TBS. thông thường, vốn chỉ tiến hành trong một khoảng thời gian ngắn hoặc vừa. Phương pháp gây mê này Nghiên cứu của chúng tôi lấy giá trị của nhịp không đòi hỏi những trang thiết bị phức tạp, khởi tim, nhịp thở, SpO2 trước mê làm giá trị nền. Kết mê nhanh và tỉnh nhanh với các thuốc mê có tác quả thống kê cho thấy sự thay đổi của các thông dụng ngắn. số ở các thời điểm là không có ý nghĩa thống kê (p > 0.05). Cả Propofol và Ketamin sử dụng gây mê Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy thời đều ít làm biến đổi nhịp tim. Ketamin còn có tác gian gây mê trung bình chỉ là 36,45 ± 22,76 phút, dụng ổn định nhịp tim. đặc biệt là ở trẻ em nên do thời gian làm thủ thuật của chúng tôi ngắn: được áp dụng tốt trong tim mạch can thiệp để gây 29,18 ± 22,23 phút. Theo Mason KP, Michna E và mê trẻ em [6]. James JD thì thời gian gây mê trung bình là 52 phút [6]. Còn theo nghiên cứu của Lowerie L, Kết quả cho thấy, có 39 bệnh nhi được khởi mê Weiss AH, Lacombe C lại lên tới 199 phút [5]. Như tốt chiếm tỷ lệ 95,2%. 1 trường hợp được đánh giá vậy thời gian gây mê trung bình theo nghiên cứu là khởi mê trung bình, tụt SpO2 nhưng chưa cần của chúng tôi ngắn hơn nhiều so với nghiên cứu can thiệp gì và 1 trường hợp được đánh giá kém, 4
- TCNCYH 38 (5) - 2005 suy hô hấp phải can thiệp. Nguyên nhân là do tác Ngoài các biến chứng liên quan đến gây mê, dụng ức chế hô hấp làm giảm tần số thở và thể bản thân thủ thuật tim mạch can thiệp cũng có thể tích khí lưu thông của Propofol [1,2]. Trong giai gây ra biến chứng cho trẻ. Một trường hợp tai biến đoạn duy trì mê chỉ có 1 trẻ (2,4%) ở mức trung mà chúng tôi gặp là do khí vào ĐMP. Nguyên bình và 100% bệnh nhi thoát mê tốt. Chỉ có 2 nhân là do thiếu sót trong khâu chuẩn bị dụng cụ, trường hợp có tăng tiết đờm dãi (4,8%) nhẹ chưa không đuổi hết khí trước khi đưa vào cơ thể trẻ, ảnh hưởng tới đường thở phải can thiệp. Đây là mặc dù lượng khí ở đây là rất nhỏ. tác dụng phụ hay gặp của Ketamin. Atropin có thể V. KẾT LUẬN phòng tác dụng phụ này [1,2]. Tuy nhiên thuốc gây nhịp nhanh nên ít được sử dụng trong gây mê Gây mê tĩnh mạch đơn thuần đảm bảo hiệu tim mạch. quả vô cảm cho đa số các trường hợp làm thủ thuật tim mạch can thiệp ở trẻ em với thời gian hồi 3. Tai biến và thủ thuật tim mạch tỉnh trung bình 10,53 ± 11,12 phút. Suy hô hấp lúc khởi mê là tai biến thường gặp Các tai biến chủ yếu của phương pháp gây mê đối với bất kỳ cuộc gây mê nào. Hai trong số bốn này là: ngừng thở và tụt SpO2 thoáng qua lúc khởi trường hợp tai biến đã nêu trên có hiện tượng tụt mê, tăng tiết đờm dãi nhẹ. Tai biến suy hô hấp SpO2 sau tiêm Propofol. Dược động học của nặng có liên quan đến gây mê chỉ xảy ra ở 1 bệnh Propofol cho thấy nồng độ propofol trong huyết nhân có tăng áp lực động mạch phổi nặng. tương lên cao nhanh nếu tiêm nhanh một liều Propofol và có thể làm ức chế hô hấp [1,5]. Tuy TÀI LIỆU THAM KHẢO nhiên, tác dụng của Propofol không kéo dài do 1. Bài giảng gây mê hồi sức, tập 1; Nhà nồng độ thuốc trong huyết tương giảm xuống khi xuất bản Y học 2002. chuyển sang liều duy trì bằng bơm tiêm điện nên 2. American Academy of Pediatrics. trong cả hai trường hợp không cần can thiệp cấp Guidelines for monitoring and management of cứu hô hấp. Để khắc phục tai biến này, liều pediatrics patients during and after sedation for Propofol ban đầu nên được tiêm chậm trong 20 - diagnostic and therapeutic procedures, Pediatrics. 30 giây. Các trường hợp tai biến đều có SpO2 giảm 1992; 89: 1110 -1115. nhanh khi khởi mê nhưng không kéo dài và đáp ứng với điều trị. Như vậy theo dõi lâm sàng chặt 3. EMC: Anesthsésie et réanimation 1; Mason, chẽ trong lúc khởi mê (di động lồng ngực) và SpO2 1992. là điều kiện cơ bản để phát hiện sớm và xử trí kịp 4. Hensley FA. Martin DE. A Practical thời chứng này. approach to Cardiac Anesthesia 2nd ed; Little, Tai biến nặng nhất trong khi làm thủ thuật là Brown Company, 1997. trường hợp trẻ suy hô hấp nặng phải được đặt 5. Lowerie L. Weiss AH. Lacombe C. The NKQ và mổ cấp cứu. Đây là bệnh nhi CÔĐM có pediatric sedation unit: A mechanism for pediatric tăng áp lực ĐM phổi nặng. Tuy Propofol không tác sedation. Pediatrics. 1998; 102: e30. dụng lên áp lực đm phổi nhưng có thể gây tụt 6. Mason KP. Michna E. DiNardo JA. huyết áp, làm đảo Shunt T - P thành P - T, gây Evolution of a protocol for Ketamin-induced thiếu Ô xy nặng hơn. Như vậy, Propofol phải được sedation as an altenative to general anesthesia for tiêm rất chậm và dò liều trong khi theo dõi chặt interventional radiologic procedures in pediatric chẽ huyết áp đm trong thông tim can thiệp. Hơn patients. Pediatric imaging. 2002: 126 - 127. nữa Propofol có lẽ chỉ nên dùng cho các trường 7. Thuốc sử dụng trong gây mê; Nhà xuất hợp TBS có Shunt T - P, không có tăng áp lực ĐM bản Y học, 2003. phổi nặng. Với các trường hợp này Servofluran (thuốc mê bốc hơi) có thể là sự lựa chọn tốt hơn. 8. Suresh S. Hall SC. Sedation in pediatics Thuốc có tác dụng và đào thải nhanh, ít ảnh patients. Indian J Pediatrics. 1996; 63: 13 - 22. hưởng đến huyết động hơn Propofol [4]. Mask thanh quản và thở máy cũng nên được sử dụng để kiểm soát hô hấp cho trẻ. 5
- TCNCYH 38 (5) - 2005 Summary INTRAVENNOUS ANESTHESIA FOR CHILDREN DIAGNOSED CONGENITAL HEART DISEASE UNDERGOING CARDIAC CATHETERIZATION: EFFICIENCY AND COMPLICATIONS Intravenous anesthesia is commonly used in pediatric cardiac catheterization. Objectives: (1) Define the efficiency of this method administered for pediatric cardiac cathterization; (2) Evaluate, analysis some anesthetic complications occurred during and after the producedure. Methods: Either Ketamin or Propofol was used for the induction. Anesthesia was maintained by Propofol infusion. 41 patients who underwent cardiac catheterization were included into the study. Heart rate, SpO2, respiratory rate of patient and the quality as well as the complications of anesthesia were evaluated. Results: The rate of good induction, good maintenance and good recovery were 95,2%; 97,6%; 100%, respectively 82,3% of patients had a recovery time around 15 minutes. The complications of anesthesia were documented: apnea and transient drop of SpO2 occurred in the induction (4,8%), severe respiratory distress (2,4%), increasing secretor sputum (4,8%). Conclusions: Intravenous anesthesia has maitained the efficiency of sedation for pediatric cardiac catheterization. Keywords: intravenous anesthesia, cardiac catheterization, efficiency. 6
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận án Tiến sĩ Y học: Đánh giá hiệu quả giảm đau sau phẫu thuật bụng và tác dụng không mong muốn của Fentanyl, Morphin, Morphin-Ketamin tĩnh mạch theo phương pháp bệnh nhân tự kiểm soát
161 p | 123 | 34
-
Tóm tắt Luận án tiến sĩ Y học: Đánh giá hiệu quả giảm đau sau phẫu thuật bụng và tác dụng không mong muốn của Fentanyl, Morphin, Morphin-Ketamin tĩnh mạch theo phương pháp bệnh nhân tự kiểm soát
49 p | 75 | 4
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn