Gia nhập WTO và các tác động tới quản lý hoạt động ngân hàng thương mại - TS. Đỗ Thị Thủy
lượt xem 10
download
Thực trạng các ngân hàng thương mại trước khi gia nhập WTO, các cam kết của Việt Nam trong lĩnh vực ngân hàng khi gia nhập WTO, tác động của việc gia nhập WTO đến quản lý hoạt động ngân hàng thương mại,... là những nội dung chính trong tài liệu "Gia nhập WTO và các tác động tới quản lý hoạt động ngân hàng thương mại". Mời các bạn cùng tham khảo.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Gia nhập WTO và các tác động tới quản lý hoạt động ngân hàng thương mại - TS. Đỗ Thị Thủy
- https://www.vietinbank.vn/web/home/vn/research/13/gianhapwtovacactacdongtoiquanlyhoatdongnhtm.html Gia nhập WTO và các tác động tới quản lý hoạt động NHTM TS. Đỗ Thị ThủyVietinBank Xu hướng toàn cầu hoá trên thế giới cùng với việc Việt Nam trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại Thế giới WTO vào năm 2007 đã mở ra nhiều cơ hội mới cho mọi lĩnh vực, mọi doanh nghiệp (DN) trong đó không thể không nói tới ngân hàng một lĩnh vực hết sức nhạy cảm ở các nước đi lên từ nền kinh tế bao cấp. Việc mở cửa thị trường ngân hàng, tài chính làm các Ngân hàng Việt Nam phải đối mặt với cạnh tranh gay gắt hơn từ các ngân hàng nước ngoài đến từ các khu vực tài chính phát triển như Mỹ, Châu Âu, Singapore, Nhật Bản,.... Do đó vấn đề cấp thiết để tiếp tục tồn tại và phát triển quy mô nhưng vẫn an toàn, hiệu quả, các Ngân hàng thương mại Việt Nam (NHTM) phải chú trọng đổi mới công tác quản lý, điều hành. Trong bài viết này, tác giả đi sâu phân tích tác động của việc gia nhập WTO đến công tác quản lý hoạt động của NHTM. Thực trạng các NHTM trước khi gia nhập WTO Kể từ khi thực hiện đổi mới kinh tế vào năm 1986, ngành ngân hàng Việt Nam đã có những bước chuyển mình quan trọng, đánh dấu bằng việc chuyển từ hệ thống ngân hàng đơn cấp sang cơ chế ngân hàng hai cấp với sự phân tách riêng rẽ trong hoạt động của các NHTM với Ngân hàng Nhà nước. Hoạt động của các ngân hàng trong nước vẫn chiếm ưu thế về thị phần tiền gửi và cho vay. Các ngân hàng quốc doanh chủ yếu phục vụ các DN thuộc sở hữu Nhà nước trong khi các NHTM cổ phần mới thành lập tập trung vào các khách hàng DN vừa và nhỏ, cá nhân. Tuy nhiên, xét về tổng thể, hoạt động của các ngân hàng Việt Nam khi đó được đánh giá là yếu trên các mặt sau: Về năng lực tài chính: Các ngân hàng trong nước có năng lực tài chính khiêm tốn, quy mô vốn hạn chế. Mặc dù vốn điều lệ của các NHTM trong nước đã tăng trưởng gấp nhiều lần, song mức vốn điều lệ trung bình của cả ngân hàng quốc doanh và NHTM cổ phần vẫn còn khiêm tốn so với quy mô vốn của các ngân hàng nước ngoài. Tỷ lệ an toàn vốn CAR của các ngân hàng trong nước đạt thấp, trung bình ở mức 5% trong khi tỷ lệ này tại các ngân hàng nước ngoài là khoảng 9%. Tỷ lệ an toàn vốn thấp dẫn đến khả năng chống đỡ với các rủi ro hệ thống yếu, nguồn vốn hạn chế khiến các ngân hàng gặp nhiều khó khăn trong việc cập nhật, ứng dụng các công nghệ mới và việc phát triển các sản phẩm đa dạng cho khách hàng. Tỷ lệ nợ xấu ở các ngân hàng trong nước cũng ở mức cao, tiềm ẩn nhiều rủi ro đối với nền kinh tế. Về hạ tầng công nghệ và hệ thống thanh toán: Do hạn chế về quy mô vốn, các ngân hàng trong nước cũng gặp khó khăn trong việc ứng dụng công nghệ vào hoạt động. Hạ tầng công
- nghệ và hệ thống thanh toán chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển và nhu cầu của khách hàng. Về quản trị hoạt động ngân hàng: hệ thống quản trị của ngân hàng trong nước trên tất cả các mặt như quản trị nguồn nhân lực, quản trị rủi ro đều chưa phù hợp với thông lệ quốc tế. Các ngân hàng trong nước chưa có các công cụ hiện đại để quản trị rủi ro tín dụng, rủi ro thị trường, quản lý thanh khoản, hệ thống kiểm tra kiểm soát nội bộ trong ngân hàng lạc hậu, chưa có tính dự báo sớm với các rủi ro tiềm ẩn trong hoạt động. Công tác quản lý nhân sự còn nhiều hạn chế, chất lượng lao động tại các ngân hàng trong nước chưa cao, chưa nhanh nhạy với nhu cầu của thị trường. Các cam kết của Việt Nam trong lĩnh vực ngân hàng khi gia nhập WTO Về tổng thể, các cam kết gia nhập WTO của Việt Nam trong lĩnh vực ngân hàng được đánh giá là rộng rãi hơn nhiều so với các thành viên WTO khác, tạo ra một sân chơi bình đẳng cho các ngân hàng, cụ thể: Từ 01/4/2007, các Tổ chức tín dụng (TCTD) nước ngoài được phép thành lập ngân hàng 100% vốn nước ngoài tại Việt Nam. Tuy nhiên, để mở một chi nhánh của NHTM nước ngoài tại Việt Nam, ngân hàng mẹ phải có tổng tài sản hơn 20 tỷ USD vào cuối năm trước thời điểm xin mở chi nhánh; để mở ngân hàng liên doanh hoặc ngân hàng 100% vốn nước ngoài, yêu cầu về vốn của ngân hàng mẹ là 10 tỷ USD; Thời gian hoạt động cũng được nâng lên tối đa không quá 99 năm so với thời hạn này trước đây là 20 năm. Về phạm vi hoạt động và loại hình dịch vụ ngân hàng, các TCTD nước ngoài hoạt động tại Việt Nam được cung cấp hầu hết các loại hình dịch vụ ngân hàng như: cho vay, nhận tiền gửi, cho thuê tài chính, kinh doanh ngoại tệ, các công cụ thị trường tiền tệ, các công cụ tài chính phái sinh, môi giới tiền tệ, quản lý tài sản, cung cấp dịch vụ thanh toán, tư vấn và thông tin tài chính. Các chi nhánh ngân hàng nước ngoài không được mở các điểm giao dịch ngoài trụ sở chi nhánh nhưng được phép lắp đặt và vận hành các máy giao dịch tự động (ATM) và phát hành thẻ tín dụng như các ngân hàng trong nước. Về việc góp vốn dưới hình thức mua cổ phần, các TCTD nước ngoài được phép nắm giữ tối đa 30% vốn điều lệ của ngân hàng trong nước. Tác động của việc gia nhập WTO đến quản lý hoạt động NHTM Để đánh giá những chuyển biến trong công tác quản lý, điều hành của các NHTM nội địa khi Việt Nam gia nhập WTO, trước hết chúng ta xem xét một số đánh giá sơ bộ một số ưu điểm của việc gia nhập WTO. Sau hơn 6 năm gia nhập WTO, các NHTM Việt Nam đã đạt được một số thành quả nhất định đáp ứng được phần nào yêu cầu thay đổi trong hội nhập: Một là: Tạo cơ hội cho các NHTM trong nước tiếp cận vốn quốc tế dễ dàng hơn, tiếp thụ
- kiến thức, kinh nghiệm và công nghệ hiện đại về quản lý và hoạt động ngân hàng khi các ngân hàng trong nước lựa chọn các ngân hàng nước ngoài danh tiếng làm đối tác chiến lược. Vì một trong các các cam kết của Việt Nam khi gia nhập WTO của Việt Nam là cho phép các ngân hàng nước ngoài được đầu tư mua cổ phần của các ngân hàng trong nước. Do vậy năng lực tài chính trong những năm qua của các NHTM được nâng lên: Cơ cấu và giá trị vốn điều lệ của hệ thống NHTM đã tăng lên đáng kể. Hầu hết các ngân hàng đều đạt được mức vốn pháp định là 3000 tỷ theo quy định của Ngân hàng nhà nước. Trong đó, một số ngân hàng còn có số vốn điều lệ khá cao như: VietinBank, Agribank, Vietcombank, Bidv, Techcombank,… Giá trị tổng tài sản của các NHTM cũng tăng mạnh, trong giai đoạn từ năm 2007 2010, quy mô tài sản của các NHTM đã tăng gấp đôi, từ 1.069 nghìn tỷ lên 2.690 nghìn tỷ đồng và đạt khoảng 3600 nghìn tỷ đồng vào cuối năm 2012. Về hiệu quả hoạt động: khả năng sinh lời của cácNHTM, thể hiện qua chỉ tiêu ROA, ROE đều được cải thiện, đa phần ROE trên 10% và ROA trên 1%. Tính đến tháng 3/2013, đã có 11 ngân hàng thực hiện chào bán thành công cổ phần cho đối tác nước ngoài đều là các ngân hàng lớn trong khu vực và trên thế giới, trong đó có 2 NHTM Nhà nước lớn. Việc tăng vốn điều lệ góp phần củng cố năng lực tài chính, đầu tư đổi mới công nghệ, nâng cao năng lực cạnh tranh của các NHTM trong nước. Mặt khác, sau khi bán cổ phần cho các đối tác chiến lược nước ngoài các NHTM có thể tận dụng ưu thế của họ về công nghệ hiện đại, kinh nghiệm quản lý. Mặt khác việc gia nhập WTO với những cam kết tự do hoá về mặt tài chính cũng tạo động lực cho các NHTM Việt Nam thực hiện cải tổ toàn diện về mặt tổ chức, năng lực tài chính, khả năng quản trị và ứng dụng công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ và cải thiện tính minh bạch trong hoạt động. Hai là: Tạo môi trường kinh doanh thuận lợi hơn cho các nhà cung cấp dịch vụ tài chính, các NHTM nước ngoài đến từ các khu vực tài chính phát triển làm phong phú các sản phẩm tài chính hiện đại, tạo kênh cung ứng vốn, kênh dịch vụ đa dạng cho các DN Việt Nam. Việc này sẽ tạo thêm cơ hội cho TCTD trong nước tiếp cận thị trường tài chính quốc tế đã phát triển ở mức cao hơn. Chính vì vậy, các NHTM trong nước đã có cơ hội học tập và nâng cao trình độ quản trị và cung cấp dịch vụ, phát triển các loại hình và kỹ năng kinh doanh mới mà các ngân hàng trong nước chưa có hoặc có ít kinh nghiệm như: kinh doanh ngoại hối, thanh toán quốc tế, tín dụng thương mại quốc tế, dịch vụ ngân hàng điện tử, môi giới tiền tệ, quản lý rủi ro,.v.v. Ba là: Tạo cơ hội và thúc đẩy các NHTM nói riêng và các DN trong nước nói chung tích cực
- cạnh tranh thị trường để tồn tại và phát triển, không chỉ ở trong nước mà còn mở rộng hoạt động ra khu vực và thế giới. Để tăng khả năng cạnh tranh, nâng cao thị phần, trong vòng 6 năm sau khi gia nhập WTO, mạng lưới hoạt động của các NHTM cũng được mở rộng với sự gia tăng đáng kể của các chi nhánh, phòng giao dịch, ATM. Một số NHTM đã mở chi nhánh, văn phòng đại diện ở Châu Âu, Châu Á. Tuy nhiên, mức độ mở rộng khá chênh lệch phụ thuộc vào chiến lược, khả năng của từng ngân hàng. Với việc gia nhập WTO, nhiều DN trong nước đã có cơ hội mở rộng hoạt động ra khu vực và thế giới, đầu tư ra nước ngoài cũng tăng trưởng đáng kể, là cơ hội để các NHTM gia tăng doanh số vì họ sẽ trở thành các khách hàng tiềm năng của ngân hàng. Vì vậy, các NHTM, TCTD sẽ có điều kiện phát triển tốt khi khách hàng những người sử dụng dịch vụ của họ làm ăn tốt và phát triển. Việc gia nhập WTO có tác động tích cực đối với không chỉ toàn bộ nền kinh tế mà còn với từng ngành sản xuất dịch vụ cụ thể. Tác động rõ nét nhất là chính sách thương mại, đầu tư trở nên minh bạch hơn và bình đẳng giữa các thành phần kinh tế. Đây cũng chính là yếu tố làm cho Việt Nam trở thành môi trường đầu tư hấp dẫn hơn để thu hút các nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam. Những thách thức của việc mở cửa thị trường tài chính ngân hàng Thứ nhất: Hội nhập kinh tế quốc tế đồng nghĩa với việc gia tăng rủi ro và tính nhạy cảm của thị trường tài chính trong nước đối với các biến động trên thị trường thế giới. Trong cuộc khủng hoảng tài chính ngân hàng Châu Á năm 1997, Việt Nam không chịu nhiều ảnh hưởng do nền kinh tế còn khá “ đóng” so với các nền kinh tế khác trong khu vực. Tuy nhiên sau khi gia nhập WTO, sự liên thông giữa thị trường trong nước và thị trường quốc tế và sự gia tăng các giao dịch vốn cũng làm tăng rủi ro của hệ thống ngân hàng. Trong khi đó các ngân hàng trong nước chưa có cơ chế quản lý rủi ro và hệ thống thông tin hiện đại, hiệu quả, phù hợp với thông lệ quốc tế. Việc mở cửa thị trường tài chính làm các NHTM phải đối mặt với nhiều rủi ro thị trường: rủi ro về giá, tỷ giá và lãi suất và các rủi ro hệ thống, bắt nguồn từ sự lan truyền của các cuộc khủng hoảng, các cú sốc kinh tế tài chính khu vực và trên thế giới. Rủi ro cũng có thể đến từ các DN là khách hàng của ngân hàng do làm ăn thua lỗ, thất bại trong cạnh tranh. Khi có bất cứ một biến động tài chính nào thì những ngân hàng quy mô nhỏ dễ bị tổn thương hơn cả. Mặt khác, với những cam kết cắt giảm thuế và xóa bỏ chính sách bảo hộ trong một số lĩnh
- vực, bản thân các DN khách hàng của các NHTM cũng phải chịu sự cạnh tranh gay gắt từ các DN nước ngoài. Khi hiệu quả hoạt động và tình hình tài chính của các DN trong nước bị ảnh hưởng, rủi ro về việc gia tăng nợ xấu và sự suy giảm trong chất lượng danh mục cho vay của các NHTM trong nước cũng gia tăng. Việc gia nhập WTO giúp luồng vốn từ thị trường nước ngoài chảy mạnh vào Việt Nam, kích hoạt “bong bóng” thị trường chứng khoán và bất động sản. Từ năm 2007 đến năm 2011, dư nợ tín dụng tăng từ 1.068 nghìn tỷ đồng lên 2.655 nghìn tỷ đồng, tỷ lệ dư nợ trên GDP trung bình giai đoạn này đạt khoảng 114%, tương đương với mức của Nhật Bản khi nổ ra “bong bóng” kinh tế năm 1989. Tuy nhiên, chính sách quản lý rủi ro tín dụng không đi kèm với việc tăng trưởng tín dụng, các công cụ quản lý rủi ro yếu, mang tính hình thức, thiếu độc lập khách quan, việc tổ chức hạch toán, phân loại nợ, thống kê thông tin tín dụng chưa đảm bảo tính chính xác, minh bạch. Hệ quả tất yếu là tỷ lệ nợ xấu tăng cao. Theo báo cáo chính thức, vào cuối năm 2012, tỷ lệ nợ xấu tại các NHTM là 4,47%, tuy nhiên theo ước tính của Ngân hàng Nhà nước, con số thực có thể cao hơn. Thứ hai: Các NHTM trong nước cũng mất dần lợi thế cạnh tranh về khách hàng và hệ thống phân phối. Sau một thời gian hoạt động, các ngân hàng nước ngoài trở nên ngày càng am hiểu về thị trường Việt Nam, về văn hóa, thói quen tiêu dùng của khách hàng Việt Nam. Bên cạnh đó, cùng với việc thâm nhập vào cơ sở khách hàng của các NHTM trong nước và kiểm soát một số TCTD thông qua hình thức góp vốn, mua cổ phần, các ngân hàng nước ngoài với ưu thế của mình, một mặt vừa là đối tác chính hỗ trợ về mặt nguồn vốn, công nghệ, kĩ thuật, năng lực quản lý cho các NHTM trong nước, mặt khác vừa là đối thủ cạnh tranh để giành thị phần của các NHTM trong nước. Điều này dẫn dến nguy cơ giảm thị phần và chia sẻ khách hàng do các NHTM trong nước không thể theo kịp các ngân hàng nước ngoài đã có nhiều năm hoạt động với những sản phẩm dịch vụ hiện đại, giá cả hấp dẫn. Nếu như vào năm 2005, thị phần tín dụng của các NHTM trong nước chiếm đến hơn 90% thì đến năm 2010, thị phần tín dụng của ngân hàng trong nước giảm xuống còn khoảng hơn 80%, trong đó, rõ rệt nhất là sự sụt giảm thị phần tín dụng của các NHTM Nhà nước từ 79,5% vào năm 2005 xuống còn 49,3% vào năm 2010, nhường chỗ cho sự mở rộng thị phần của khối ngân hàng nước ngoài và liên doanh. Trong một cuộc khảo sát của nhóm tư vấn công ty MCG cũng cho thấy kết quả về tâm lý chuyển sang sử dụng dịch vụ ngân hàng nước ngoài. Cụ thể có hơn 50% khách hàng được hỏi sẽ chuyển sang gửi tiền tại ngân hàng nước ngoài nếu họ được phép lựa chọn; và khoảng 45% khách hàng cá nhân và DN sẽ chuyển sang vay ngân hàng nước ngoài. Yêu cầu của gia nhập WTO đối với quản lý NHTM
- Có thể nói, bức tranh hệ thống ngân hàng ở Việt Nam sau gia nhập WTO đã có những chuyển biến đáng kể. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều thách thức mà các NHTM phải đối mặt như: quy mô về vốn vẫn còn nhỏ bé, kênh sản phẩm dịch vụ còn nghèo nàn, chất lượng phục vụ, khả năng quản trị còn nhiều yếu; các NHTM đến nay vẫn chỉ tập trung vào các dịch vụ huy động và cho vay truyền thống, chất lượng dịch vụ chưa cao. Trong khi đó, các ngân hàng nước ngoài, các định chế tài chính phi ngân hàng tham gia thị trường Việt Nam ngày càng sâu rộng, một thị trường được đánh giá là nhiều tiềm năng, với tốc độ tăng trưởng nhanh trong khi mức độ và trình độ cung cấp dịch vụ tài chính còn ở giai đoạn phát triển ban đầu. Các tổ chức này sẽ cạnh tranh thị trường mạnh với ngân hàng về các hoạt động huy động vốn cũng như đầu tư. Do vậy, các NHTM trong nước sẽ đối mặt với nguy cơ mất dần lợi thế về dịch vụ ngân hàng bán lẻ với mạng lưới các kênh phân phối và cơ sở khách hàng đã có sẵn. Rõ ràng là việc tận dụng các tác động tích cực của việc gia nhập WTO chỉ có được khi “sức khỏe” nội tại của các NHTM trong nước đủ để cạnh tranh với các ngân hàng nước ngoài. Điều này đặt ra các yêu cầu mới trong công tác quản lý, điều hành NHTM tại Việt Nam theo hướng sau: Về quy mô và năng lực tài chính: các NHTM phải tiếp tục tăng vốn để đảm bảo mức vốn tự có theo tiêu chuẩn Basel II thông qua việc phát hành cổ phần bổ sung và nguồn vốn từ Chính phủ. Mua lại, sáp nhập các TCTD, mở rộng nguồn vốn huy động để nâng cấp quy mô hoạt động và năng lực tài chính. Nâng cao chất lượng tài sản, giảm tỷ lệ nợ xấu và kiểm soát chất lượng tín dụng, kiểm soát mức độ tăng trưởng tín dụng phù hợp với quy mô vốn huy động và cơ cấu kỳ hạn,… Đổi mới hệ thống quản trị ngân hàng phù hợp với thông lệ quốc tế, hiện đại hóa công cụ quản trị rủi ro, xây dựng hệ thống kiểm tra kiểm soát nội bộ mạnh, có khả năng cảnh báo rủi ro sớm và có khả năng kiểm soát hiệu quả rủi ro trong hoạt động tín dụng và quản lý thanh khoản. Hiện đại hóa hệ thống công nghệ, đầu tư vào cơ sở hạ tầng và công nghệ thông tin như là bước đi tắt đón đầu, rút ngắn khoảng cách với các đối thủ cạnh tranh, cung cấp tốt hơn các sản phẩm dịch vụ ngân hàng hiện đại và là phương tiện hỗ trợ cho quản trị ngân hàng. Mở rộng mạng lưới chi nhánh cả trong nước và quốc tế, tăng cường các kênh phân phối điện tử để gia tăng khả năng tiếp cận dịch vụ của khách hàng, giữ vững thế mạnh trong mạng lưới phân phối nội địa, đồng thời mở rộng địa bàn hoạt động để thu hút các khách hàng mới. Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, có chính sách thu hút nhân tài, tăng cường đào tạo bồi dưỡng cán bộ về chuyên môn nghiệp vụ và nâng cao ý thức, đạo đức nghề nghiệp.
- Cùng với sự thay đổi về công tác quản lý điều hành, các NHTM Việt Nam sẽ được thử thách để hoạt động tốt hơn và đóng góp nhiều hơn cho sự phát triển bền vững của nền kinh tế./.
- http://tapchitaichinh.vn/nghiencuutraodoi/traodoibinhluan/nhungtacdongtutaicautruchethongngan hangthuongmaidenphattrienthitruongvon52166.html Những tác động từ tái cấu trúc hệ thống ngân hàng thương mại đến phát triển thị trường vốn 15:29, 31/07/2014 Ts. Nguyễn Thị Kim Thanh viện trưởng viện chiến lược ngân hàng (NHNN) (Tài chính) Là kênh dẫn vốn hiệu quả trên thị trường tài chính tiền tệ, hệ thống ngân hàng thương mại ở Việt Nam có vai trò vô cùng quan trọng trong phát triển thị trường vốn. Đó là tạo ra các loại hàng hóa cho thị trường chứng khoán, thu hút nguồn vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế, góp phần làm đa dạng hóa thị trường vốn thông qua việc phát hành các loại chứng khoán, trái phiếu. Vai trò của ngân hàng thương mại với thị trường vốn Ngân hàng thương mại (NHTM) có vai trò rất quan trọng trong quá trình hình thành và phát triển thị trường vốn, cụ thể: Một là, NHTM giải quyết sự thiếu vốn của nền kinh tế, giúp các cá nhân và doanh nghiệp (DN) có điều kiện sản xuất kinh doanh; NHTM là một nhân tố quyết định trong việc thu hút, huy động, tích tụ và tập trung các nguồn tài chính nhàn rỗi trong nền kinh tế, góp phần tài trợ cho nhu cầu về vốn trong quá trình sản xuất kinh doanh; NHTM có khả năng chuyển hóa các khoản tiền gửi nhỏ lẻvà có các thời hạn ngắn thành các khoản tín dụng có thời hạn dài hơn, tài trợ kịp thời cho nhu cầu đầu tư phát triển kinh tế xã hội. Hơn nữa, thông qua mạng lưới các chi nhánh, NHTM còn đóng vai trò điều hòa vốn, thu hút những nguồn vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế, cung cấp các khoản vay và đầu tư cho những nơi thiếu vốn, từ đó góp phần rút ngắn sự chênh lệch về khoảng cách tăng trưởng và phát triển kinh tế giữa các vùng, miền. Hai là, NHTM giữ vai trò phát hành, đầu tư trực tiếp, phân phối, bảo lãnh phát hành, kinh doanh trái phiếu và cho vay chứng khoán trên thị trường chứng khoán (TTCK). Cho đến nay, việc phát hành trái phiếu của các NHTM chưa phải là một hoạt động thường xuyên và liên tục. Tuy nhiên, sự quan tâm lớn của nhà đầu tư (NĐT) đối với các đợt phát hành trái phiếu tăng vốn trên thị trường vừa qua đã chứng tỏ tầm ảnh hưởng của trái phiếu ngân hàng, đặc biệt là đối với các NHTM hoạt động tốt, có uy tín. Việc tham gia bảo lãnh phát hành của các NHTM, không những giúp DN có thể huy động được vốn mà còn giúp các NHTM thu thập nhiều thông tin về khách hàng, nhận định chuẩn xác hơn về giá trị DN cũng như cắt giảm chi phí điều tra, đánh giá; kinh doanh trái phiếu của các NHTM mới được nghiên cứu và đưa vào hoạt động trong thời gian gần đây. Thêm vào đó, việc bán trái phiếu cho các NHTM là một kênh huy động vốn hiệu quả bên cạnh vay trung và dài hạn từ ngân hàng. NHTM tham gia thực hiện các công cụ phái sinh là
- nhằm bảo hiểm rủi ro giao dịch tài chính cho ngân hàng và khách hàng. Sự kết hợp giữa thị trường tiền tệ với TTCK sẽ cung cấp cho các NĐT nhiều công cụ để kinh doanh và bảo hiểm rủi ro, đồng thời tăng tính thanh khoản của thị trường. Tuy còn non trẻnhưng TTCK Việt Nam đã chứng tỏ là một kênh dẫn vốn hữu hiệu, góp phần không nhỏ trong việc phát triển thị trường vốn. Với đặc thù của nền kinh tế Việt Nam có tiềm năng vốn trong dân cư rất lớn, các NHTM đóng một vai trò quan trọng trong việc phát triển TTCK cũng như thị trường vốn nói chung, thể hiện ở những điểm sau: Thứ nhất, các NHTM đã tạo hàng hóa cho TTCK, góp phần vào việc đa dạng hóa thị trường thông qua việc phát hành cách loại chứng khoán, trái phiếu của NHTM. Thứ hai, thông qua các hoạt động như tư vấn chứng khoán, bảo lãnh phát hành chứng khoán, cho vay chứng khoán, NHTM trở thành cấu nối giữa NĐT và TTCK. Thứ ba, với tiềm lực tài chính lớn mạnh, NHTM là chủ thể đầu tư trực tiếp trên TTCK. Ngoài ra, không thể không nhắc tới vai trò của NHTM trong việc thúc đẩy tính thanh khoản của thị trường, cũng như điều hòa cung cầu, ổn định TTCK. Có thể nói, các NHTM có vai trò quan trọng trong việc chi phối, phát triển thị trường vốn ở Việt Nam, nhất là thị trường TPCP. Chẳng hạn, sự phát triển của thị trường cổ phiếu trong những năm 2006 2007 là do một lượng vốn lớn từ các NĐT nước ngoài. Đáng chú ý, khi khủng hoảng xảy ra, dòng vốn nước ngoài giảm mạnh, kéo theo là sự sụt giảm của thị trường. Tuy nhiên, đến nay thị trường cổ phiếu vẫn được duy trì và đang có dấu hiệu phục hồi do nhiều nguyên nhân, trong đó phải kể đến vai trò của các NHTM vừa tham gia với tư cách thành viên niêm yết thị trường, vừa thực hiện bao tiêu phát hành, kinh doanh chứng khoán, cung cấp chứng khoán hoặc các dịch vụ tài chính... Số liệu thống kê của Ngân hàng Thế giới (WB) so sánh tương quan quy mô kênh dẫn vốn so với GDP, thì quy mô dẫn vốn qua kênh tín dụng trong nước luôn chiếm tỷ lệ lớn, thậm chí trong giai đoạn 2008 2011, vốn qua kênh tín dụng còn lớn hơn 100% quy mô GDP của nền kinh tế. Hiện tại, ước tính vốn ngân hàng trong các DN tại Việt Nam vẫn chiếm hơn 70% trong khi ở Malaysia chỉ là 4%, Philippines 27%, Thái Lan 40%, Indonesia 35%... Thực tế trên cho thấy, vai trò quan trọng của hệ thống NHTM Việt Nam trong việc cung ứng vốn cho nền kinh tế, các ngân hàng đã cùng một lúc thực hiện cả hai vai trò là cung ứng vốn ngắn hạn, vốn trung và dài hạn. Tuy nhiên, vai trò chủ yếu của các NHTM mới chỉ tập trung ở một số hoạt động huy động và cho vay tín dụng thông thường còn các hoạt động của “một người chơi chính” trên thị trường vốn trung và dài hạn thì còn hạn chế, mới chỉ có một số ít các ngân hàng hiện diện dưới hình thức DN niêm yết, kinh doanh môi giới chứng khoán. Điều đó, cũng phản ánh sự mất cân đối trong cấu trúc hệ thống tài chính của Việt Nam, trong đó TTCK và thị trường trái phiếu chưa
- phát triển tương xứng với thị trường tín dụng, gây sức ép lên hoạt động cấp tín dụng của hệ thống ngân hàng. Những tác động của tái cấu trúc ngân hàng thương mại tới phát triển thị trường vốn Theo Đề án “Cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng (TCTD) giai đoạn 20112015” ban hành kèm theo Quyết định số 254/QĐTTg ngày 01/3/2012 của Thủ tướng Chính phủ, mục tiêu tái cơ cấu hệ thống TCTD bao gồm: “Cơ cấu lại căn bản, triệt để và toàn diện các hệ thống TCTD để đến năm 2020 phát triển được hệ thống các TCTD đa năng theo hướng hiện đại, hoạt động an toàn, hiệu quả vững chắc với cấu trúc đa dạng về sở hữu, quy mô, loại hình có khả năng cạnh tranh lớn hơn và dựa trên nền tảng công nghệ, quản trị ngân hàng tiên tiến phù hợp với thông lệ, chuẩn mực quốc tế về hoạt động ngân hàng nhằm đáp ứng tốt hơn nhu cầu về dịch vụ tài chính, ngân hàng của nền kinh tế... Đối với thị trường vốn, ngân hàng không chỉ là chủ thể trực tiếp tham gia vào mảng vốn tín dụng, mà còn góp phần không nhỏ vào hoạt động của TTCK , với rất nhiều chức năng quan trọng. Do đó, khi hệ thống ngân hàng đã được lành mạnh, hoạt động hiệu quả thì thị trường vốn cũng được hưởng rất nhiều những tác động tích cực. Như đã phân tích ở trên, NHTM có vai trò lớn trong việc phát triển thị trường vốn. Do đó, việc tái cấu trúc NHTM cũng sẽ có những tác động không nhỏ tới việc xây dựng một thị trường vốn hiện đại, an toàn và hiệu quả, cụ thể: Một là, nâng cao hiệu quả hoạt động của toàn hệ thống ngân hàng, từ đó góp phần phát triển thị trường vốn. Do đặc thù của nền kinh tế Việt Nam, hệ thống ngân hàng đến nay vẫn đóng vai trò chi phối trên thị trường vốn, với tỷ lệ vốn tín dụng ngân hàng trung và dài hạn ở mức cao so với trái phiếu và cổ phiếu. Do đó, hoạt động của ngân hàng có vai trò chủ chốt, ảnh hưởng rất lớn tới việc xây dựng và phát triển thị trường vốn. Mục đích cuối cùng của việc tái cơ cấu ngân hàng là để hướng tới nâng cao hiệu quả hoạt động của các NTHM. Các NHTM yếu kém sau khi tái cấu trúc sẽ có sự chuyển biến rõ rệt về chất, bao gồm các yếu tố như vốn, trình độ quản trị... Vốn tín dụng nói chung và tín dụng trung, dài hạn nói riêng vì thế sẽ được đảm bảo an toàn, hiệu quả. Đối với thị trường vốn, ngân hàng không chỉ là chủ thể trực tiếp tham gia vào mảng vốn tín dụng, mà còn góp phần không nhỏ vào hoạt động của TTCK, với rất nhiều chức năng quan trọng. Do đó, khi hệ thống ngân hàng đã được lành mạnh, hoạt động hiệu quả thì thị trường vốn cũng được hưởng rất nhiều những tác động tích cực. Hai là, tái cấu trúc ngân hàng góp phần làm ổn định kinh tế vĩ mô, từ đó gián tiếp ổn định thị trường vốn. Thực tế đã cho thấy, hoạt động ngân hàng luôn có ảnh hưởng lớn tới kinh tế vĩ mô. Một hệ thống ngân hàng lành mạnh, hoạt động hiệu quả sẽ là tiền đề vững chắc cho một nền kinh
- tế ổn định. Ngược lại, hệ thống ngân hàng yếu kém sẽ là “ngòi nổ” của khủng hoảng kinh tế. Thị trường vốn tại Việt Nam lệ thuộc rất lớn vào chính sách tài chính, tiền tệ quốc gia. Khi kinh tế vĩ mô bất ổn, lạm phát cao, Chính phủ buộc phải có những biện pháp điều hành chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa theo hướng thắt chặt để kiềm chế lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô. Điều này cũng có những ảnh hưởng nhất định đến sự phát triển của thị trường vốn. Có thể thấy rõ điều đó qua sự bất ổn của TTCK trong những năm gần đây. Khi kinh tế vĩ mô ổn định, niềm tin của NĐT được củng cố, TTCK sẽ khởi sắc, góp phần ổn định và phát triển thị trường vốn. Ba là, tái cấu trúc ngân hàng góp phần phát triển một thị trường vốn có cấu trúc hợp lý. Hiện nay, tín dụng ngân hàng vẫn đóng vai trò chủ đạo trong cấu trúc thị trường vốn . Thị trường cổ phiếu và trái phiếu tuy đã được chú ý phát triển, nhưng quy mô của hai thị trường này vẫn còn nhỏ và tồn tại nhiều hạn chế về mặt hoạt động cũng như khuôn khổ pháp lý. Việc tiếp cận vốn của DN thông qua 2 kênh này vì thế vẫn còn gặp nhiều khó khăn so với qua kênh tín dụng ngân hàng. Tái cấu trúc ngân hàng theo hướng giảm bớt số lượng ngân hàng và TCTD thông qua sáp nhập và tái cơ cấu, đồng thời nâng cao chất lượng tín dụng sẽ góp phần làm thay đổi sự chênh lệch này. Khi tín dụng khó tiếp cận hơn do những đòi hỏi khắt khe hơn từ phía ngân hàng để đảm bảo mức độ rủi ro, tránh nợ xấu, DN sẽ buộc phải chuyển sang những hình thức khác để huy động vốn, bao gồm cổ phiếu và trái phiếu. Từ đó, góp phần cân bằng lại tỷ trọng vốn giữa thị trường tín dụng và TTCK theo hướng cân bằng và hợp lý hơn. Tuy nhiên, muốn đạt được điều đó, thì song song với việc tái cấu trúc ngân hàng phải tập trung phát triển hai thị trường cổ phiếu, trái phiếu, để đảm bảo nguồn cung vốn cho DN. Nếu không, vô hình chung DN sẽ bị “bóp chết” giữa 2 gọng kìm, không thể tiếp cận được nguồn vốn để đảm bảo duy trì hoạt động. Một số gợi ý chính sách Từ những vấn đề trên, để phát triển thị trường vốn thông qua kênh dẫn vốn là hệ thống NHTM, tác giả xin đưa ra một số gợi ý chính sách sau: Một là, đối với thị trường vốn tín dụng ngân hàng, cần nâng cao năng lực thể chế, rà soát các cơ chế chính sách theo hướng thị trường, tạo môi trường cho các TCTD hoạt động... Các NHTM nên chủ động xây dựng lộ trình thích hợp và kiên quyết thực hiện Thông tư số 02/2012/TTNHNN về phân loại nợ và trích phòng rủi ro, nhanh chóng áp dụng các chuẩn mực về phân loại nợ và trích phòng rủi ro theo thông lệ quốc tế; rà soát vốn thực có của các NHTM để giám sát tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu, thực hiện quản trị rủi ro theo Basel II, tiến tới Basel III...
- Bên cạnh đó, tạo môi trường lành mạnh cho hoạt động ngân hàng thông qua việc điều chỉnh cơ chế, chính sách một cách phù hợp, điều tiết, khắc phục những khuyết tật của thị trường. Xây dựng chế tài đủ mạnh để đảm bảo tính công bằng của thị trường. Hai là, tiếp tục hoàn thiện việc tái cơ cấu ngân hàng, đề ra lộ trình minh bạch hướng đến sự chuyển biến về chất. Giảm sự can thiệp của nhà nước vào hoạt động NHTM, bắt buộc các ngân hàng phải minh bạch thông tin trong kinh doanh. Ba là, phát huy thế mạnh của NHTM về mạng lưới, khả năng phát triển TTCK phi tập trung (OTC) thông qua việc tạo khuôn khổ pháp lý khuyến khích NHTM tham gia hoạt động chứng khoán và thúc đẩy hoạt động sâu rộng hơn của ngân hàng trong TTCK. Bốn là, tập trung, đẩy mạnh phát triển thị trường trái phiếu DN, tăng tính thanh khoản của thị trường này trên cơ sở nâng cao mức độ tín nhiệm của DN. Muốn vậy, bên cạnh việc các DN phải tự củng cố, minh bạch công khai thông tin hoạt động của DN, công bố mục đích rõ ràng của việc phát hành trái phiếu để NĐT thấy được hiệu quả khi bỏ vốn, thì cũng cần phải có cơ chế làm tăng khả năng đánh giá tín nhiệm của DN; đánh giá độ rủi ro của việc đầu tư vào trái phiếu DN. Từ đó, xây dựng “luật chơi” phù hợp cho thị trường vốn. Năm là, chú trọng và đẩy mạnh phát triển thị trường OTC với trọng tâm là hoạt động của các NHTM và công ty chứng khoán. Bên cạnh đó, nâng cao vai trò của trung tâm lưu ký chứng khoán với trách nhiệm tập trung hóa tất cả hoạt động lưu ký đối với các chứng khoán niêm yết và đăng ký giao dịch của hai trung tâm giao dịch tại Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh, nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các giao dịch ngoài sàn do các NHTM, công ty chứng khoán thực hiện. Sáu là, nâng cao tính minh bạch của TTCK thông qua việc hoàn thiện các quy định pháp lý và hệ thống xếp hạng (định mức) tín nhiệm. Tài liệu tham khảo: 1. Website của Ngân hàng Thế giới (www.worldbank.org); 2. Website của Ngân hàng Phát triển châu Á (www.asianbondsonline.adb.org); 3. Cổng Thông tin điện tử Chính phủ (www.chinhphu.vn); 4. Vuong, Q.Hoang, Tran Tri Dung (2010), “Vietnam’s Corporate Bond Market, 1990 2010: Some reflections” (http://www.vietnamica.net/op/ wp content/uploads/2010/11/VuongTran.JEPR_.Vol6_.No1_.2011.pdf); 5. Nguyen Quoc Hung (2011) “Vietnam’s Capital Market: Young and Growing” (http:// www.ide.go.jp/Japanese/Publish/Download/Report/2011/pdf/107_ch9.pdf).
- http://www.abs.vn/news.aspx?newsid=144147&group=MarketUpdate Không có kênh huy động vốn nào tốt cho DN như TTCK 26/07/2011 Đầu tư Chứng khoán điện tử Không có kênh huy động vốn nào tốt cho DN như TTCK khi mà nguồn vốn huy động được từ phát hành cổ phần cho phép DN được sử dụng mãi mãi, trong khi nếu vay vốn ngân hàng hay tìm vốn ở bất kỳ kênh nào khác DN cũng chỉ được sử dụng trong khoảng thời gian nhất định. Khó khăn trước mắt với DN, với TTCK là không nhỏ, nhưng các DN niêm yết đều mong rằng, Chính phủ sẽ sớm có giải pháp đột phá để ổn định nền kinh tế vĩ mô, quan tâm phát triển TTCK để thị trường này thực hiện được chức năng quan trọng nhất là giúp DN huy động vốn. "Doanh nghiệp đang chờ đợi tín hiệu tích cực từ Chính phủ" Ông Đặng Thành Tâm, Chủ tịch HĐQT Tổng CTCP Phát triển Đô thị Kinh Bắc (KBC) Cần xác định TTCK là kênh huy động vốn trung và dài hạn cho nền kinh tế, là sự phát triển bậc cao của thị trường tài chính của một quốc gia. Hiếm có nền kinh tế phát triển nào mà không có TTCK. Trong khi đó, nhìn lại sự phát triển của TTCK Việt Nam thì thấy thị trường đang mất đi vai trò quan trọng của nó. Doanh nghiệp đang mất đi một kênh huy động vốn hiệu quả. Ý nghĩa của việc niêm yết cổ phiếu trên TTCK với nhiều doanh nghiệp không còn. Sự thực là hiện nay, nền kinh tế đang phải đối mặt với rất nhiều thách thức như lạm phát cao, lãi suất cao, thâm hụt thương mại ngày càng nhiều và đầu tư nước ngoài sụt giảm. TTCK khó có thể diễn biến lạc quan trong mối tương quan như vậy. Tuy nhiên, tôi tin tưởng rằng Chính phủ sẽ có chính sách đột phá để ổn định kinh tế, tập trung cho các giải pháp để giảm lạm phát, hạ lãi suất và đảm bảo tăng trưởng trong 6 tháng cuối năm, ổn định an sinh xã hội, nếu không công ăn việc làm sẽ giảm. Doanh nghiệp đang chờ đợi tín hiệu tích cực từ Chính phủ. Tôi thấy việc Ngân hàng Nhà nước đưa ra chính sách "cấm" cho vay chứng khoán, hay bất động sản, là không hợp lý, không bình đẳng với các doanh nghiệp, đi ngược với nguyên tắc của WTO. Muốn dòng vốn đi vào đúng địa chỉ thì nên điều chỉnh bằng hàng rào kỹ thuật. Nếu chỉ đưa ra chính sách là không vào chỗ này chỗ khác thì tiền sẽ đi đường vòng, rồi nó
- vẫn vào được những chỗ "cấm" đó hoặc người ta phải tìm cách "lách" để đạt được mục tiêu đưa ra về mặt hình thức mà thôi. Tôi tin khi kinh tế vĩ mô ổn định, có chính sách hỗ trợ doanh nghiệp, TTCK sẽ vận động tốt hơn và triển vọng thị trường lạc quan hơn. "TTCK đã góp phần tích cực cho thị trường tài chính cũng như thị trường tiền tệ Việt Nam" Ông Đặng Văn Thành, Chủ tịch HĐQT Sacombank Sau 11 năm hình thành và phát triển, TTCK đã góp phần tích cực cho thị trường tài chính cũng như thị trường tiền tệ Việt Nam. Qua đó, tạo cơ hội cho doanh nghiệp huy động vốn, phục vụ tính ổn định của dòng vốn cho các doanh nghiệp phát triển trong hoạt động sản xuất, kinh doanh. Thực tế, những năm trước đây khi TTCK chưa phát triển, các doanh nghiệp Việt Nam chủ yếu trông chờ dòng vốn từ bên ngoài hoặc dựa vào vốn vay. Nhưng điều này đã được thay đổi kể từ khi TTCK phát triển. Bởi đây là thị trường có thể biến vốn ngắn thành dài và ngược lại. Tuy nhiên, trong thời gian gần đây, do ảnh hưởng bởi khủng hoảng và tình hình kinh tế có khó khăn, TTCK cũng khó tránh khỏi vòng xoáy đó khiến nhà đầu tư không còn mặn mà như trước. Vì thế, tôi cho rằng, phía cơ quan quản lý nhà nước cần có sự quan tâm nhiều hơn đến thị trường này thông qua việc các công cụ khác nhau, trong đó có đa dạng sản phẩm và hàng hóa… "TTCK đã giúp nhiều DN huy động vốn để mở rộng phát triển" Ông Vũ Dương Hiền, Chủ tịch HĐQT Tập đoàn HAPACO Là một trong ba DN tiên phong niêm yết trên TTCK Việt Nam từ ngày đầu mở cửa, 11 năm qua, HAPACO đã luôn song hành với tất cả thăng trầm của thị trường. Hiện tại, TTCK đang trong giai đoạn suy thoái, bản thân các DN niêm yết, trong đó có HAPACO cũng chịu ảnh hưởng không nhỏ khi mà giá cổ phiếu bị suy giảm nặng nề, khiến DN khó huy động vốn để thực hiện các mục tiêu đã định. Tuy nhiên, không nên vì thế mà coi nhẹ vai trò của TTCK Việt Nam. TTCK mở cửa đã giúp nhiều DN huy động vốn, tăng tiềm lực tài chính để mở rộng phát triển. Không có kênh huy động vốn nào tốt như TTCK khi mà nguồn vốn huy động được từ phát hành cổ phần cho phép DN được sử dụng mãi mãi, trong khi nếu vay vốn ngân hàng hay tìm vốn ở bất kỳ kênh nào khác DN cũng chỉ được sử dụng trong khoảng thời gian nhất định.
- Tiền thân của HAPACO là Xí nghiệp sản xuất giấy bìa. Khi cổ phần hóa (năm 1998), Công ty mới có vốn điều lệ 1,25 tỷ đồng. Khi bắt đầu niêm yết (năm 2000), vốn điều lệ của Công ty là 10,8 tỷ đồng. Bằng việc huy động vốn qua TTCK và lợi nhuận để lại, đến năm 2008, Công ty đã có vốn điều lệ 500 tỷ đồng, gồm 15 đơn vị thành viên và hoạt động theo mô hình công ty mẹ con. Trong khó khăn chung của nền kinh tế, hoạt động kinh doanh và kế hoạch đầu tư của HAPACO cũng gặp nhiều thách thức, nhưng toàn Tập đoàn quyết tâm biến thách thức thành cơ hội với niềm tin sâu sắc rằng, khó khăn sẽ sớm qua đi để các DN và toàn TTCK Việt Nam sẽ tiếp tục phát triển.
- Thị trường chứng khoán sơ cấp là bộ phận cấu thành hữu cơ và không thể tách rời của thị trường chứng khoán. Thị trường sơ cấp là tiền đề cho sự ra đời và phát triển của thị trường chứng khoán. Thị trường chứng khoán sơ cấp là thị trường phát hành chứng khoán mới hay còn được gọi là thị trường phát hành. Hoạt động của thị trường sơ cấp tạo ra một kênh huy động vốn đầu tư cho nền kinh tế. Ở thị trường sơ cấp, người phát hành nhận được tiền từ việc bán chứng khoán. Qua hoạt động này ở thị trường sơ cấp, các nguồn tiền nhàn rỗi trong dân cư, trong các tổ chức kinh tế, xã hội được chuyển thành vốn đầu tư dài hạn cho người phát hành chứng khoán. Thị trường sơ cấp là một kênh phân bổ vốn có hiệu quả. Chính vì vậy, thị trường sơ cấp không những đóng vai trò tập hợp các nguồn vốn mà còn là công cụ hữu hiệu nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của nền kinh tế. Thị trường chứng khoán sơ cấp là thị trường hoạt động không liên tục, nó chỉ hoạt động khi có đợt phát hành chứng khoán mới. Tham gia vào thị trường chứng khoán sơ cấp chủ yếu là các nhà phát hành, các nhà đầu tư và các nhà bảo lãnh (trường hợp phát hành chứng khoán theo phương thức bảo lãnh phát hành). Tiền bán chứng khoán trên thị trường sơ cấp thuộc về các nhà phát hành, do đó hoạt động ở thị trường này đã làm tăng vốn đầu tư cho nền kinh tế. Khối lượng và nhịp độ giao dịch ở thị trường sơ cấp thấp hơn nhiều so với thị trường thứ c ấ p. Thị trường chứng khoán thứ cấp là thị trường giao dịch các chứng khoán đã được phát hành trên thị trường sơ cấp. Thị trường thứ cấp là nơi giao dịch các chứng khoán đã được phát hành trên thị trường thị sơ cấp. Thị trường đảm bảo tính thanh khoản cho các chứng khoán đã phát hành. Đây là nơi trao đổi, mua bán các chứng khoán đã được phát hành. Nhà đầu tư mua đi bán lại chứng khoán nhằm vào một trong các mục đích: cất giữ tài sản tài chính, nhận một khoản thu nhập cố định hàng năm, hưởng chênh lệch giá. Thị trường thứ cấp: tạo ra khả năng chuyển đổi chứng khoán thành tiền mặt dễ dàng, thuận tiện; Tiền thu được ở đây không thuộc về nhà phát hành mà thuộc về nhà đầu tư bán chứng khoán, nhượng lại quyền sở hữu chứng khoán cho nhà đầu tư khác. Thị trường sơ cấp và Thị trường thứ cấp có mối quan hệ nội tại, thị trường sơ cấp là cơ sở, là tiền đề; Thị trường thứ cấp là động lực. Không có thị trường sơ cấp thì không có chứng khoán để lưu thông trên thị trường thứ cấp và ngược lại; nếu không có thị trường thứ cấp thì thị trường sơ cấp khó hoạt động thuận lợi và trôi chảy. Việc phân biệt Thị trường sơ cấp và Thị trường thứ cấp có tính chất tương đối.
- Đặc điểm Thị trường có tính chất cạnh tranh hoàn hảo. Thị trường có tính liên tục. Khối lượng và nhịp độ giao dịch lớn gấp nhiều lần so với thị trường chứng khoán sơ cấp. Hoạt động chủ yếu của thị trường chứng khoán thứ cấp là các nhà đầu tư thực hiện chuyển giao quyền sở hữu chứng khoán và tiền cho nhau. Cơ cấu Dựa theo tiêu thức nhất định, có thể chia thị trường chứng khoán thứ cấp thành các thị trường khác nhau: Theo tính chất tổ chức của thị trường: Thị trường chứng khoán tập trung (thị trường chứng khoán có tổ chức): thực hiện mua bán các loại chứng khoán niêm yết được tổ chức một cách chặt chẽ. Việc giao dịch chủ yếu được thực hiện theo phương thức khớp lệnh tập trung. Thị trường chứng khoán phi tập trung (OTC over the counter market): là thị trường giao dịch các chứng khoán chưa niêm yết được các Công ty chứng khoán thực hiện qua mạng thông tin. Theo loại hàng hóa giao dịch trên thị trường: Thị trường cổ phiếu; Thị trường trái phiếu; Thị trường chứng khoán phái sinh.
- http://cafef.vn/thitruongchungkhoan/thitruongchungkhoanbithachthucvaitro hanthubieucuanenkinhte20150405060024946.chn Thị trường chứng khoán Việt Nam đã trải qua 15 năm nhiều biến động. Hành trang mang theo là 50 tỷ USD vốn hóa nhưng với những biến động đi ngược với kinh tế vĩ mô thì đâu đó trên thị trường vẫn có câu hỏi: Liệu, TTCK đã phát triển đủ tốt như kỳ vọng của nhà đầu tư? Ai mới nhập môn Thị trường chứng khoán cũng được quen với cụm từ “Hàn thử biểu”. Dần dà, vai trò của thị trường chứng khoán trong nền kinh tế lớn dần lên qua mười lăm năm thành lập. Chứng khoán được coi là hàn thử biểu của nền kinh tế bởi nó không những đóng vai trò huy động vốn đầu tư cho nền kinh tế, cung cấp môi trường đầu tư cho công chúng mà còn đánh giá giá trị doanh nghiệp và tình hình của nền kinh tế, tạo môi trường giúp Chính phủ thực hiện chính sách kinh tế vĩ mô. Thế nhưng, thời điểm hiện tại, nhiều thông tin kinh tế vĩ mô tích cực được đưa ra còn thị trường chứng khoán vẫn loanh quanh đi ngang với thanh khoản 2 sàn niêm yết chỉ trên dưới 2 nghìn tỷthậm chí còn có lúc chỉ nhình hơn có số 1 nghìn tỷ. … Như vậy là, chứng khoán gần như không phản ánh được sự tăng trưởng của kinh tế vĩ mô và hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Dường như Thị trường chứng khoán đã không đóng vai trò “hàn thử biểu” của nền kinh tếít nhất là trong lúc này! http://bizlive.vn/chungkhoan/vaitrocuathitruongchungkhoantrongnangcaotinhminh bachtrongnenkinhte188285.html http://dantri.com.vn/kinhdoanh/hanthubieucuanenkinhtedangbiteliet1055332.htm
- http://wss.com.vn/Tintuc/Chitiettintuc/tabid/315/mid/512/ArticleID/43036/tid/257/dnnprintmode/true/Default.aspx?SkinSrc= %5BG%5DSkins%2F_default%2FNo+Skin&ContainerSrc=%5BG%5DContainers%2F_default%2FNo+Container TTCK Việt Nam: Hàn thử biểu của nền kinh tế? Các cụm từ như "hàn thử biểu sàn TP. HCM", "hàn thử biểu TTCK Việt Nam" đã được sử dụng khá phổ biến và như vậy, TTCK Việt Nam nghiễm nhiên được khoác lên mình cái "chức danh" là hàn thử biểu của cả nền kinh tế. Tuy nhiên, điều này cần được xem xét lại. TTCK Việt Nam chỉ được coi là hàn thử biểu của nền kinh tế khi đo lường được "sức khỏe" của toàn bộ nền kinh tế, chỉ số của thị trường phải thể hiện chu kỳ phát triển của nền kinh tế, từ đó tạo mối quan hệ chặt chẽ và tương hỗ giữa TTCK và thị trường tài chính. Nó phải đáp ứng đủ 3 yếu tố chính sau: Quy tụ đầy đủ DN lớn tiêu biểu của mọi ngành nghề Một trong những yếu tố bắt buộc để TTCK Việt Nam trở thành hàn thử biểu của nền kinh tế, đó là thị trường phải chứa đựng những DN lớn tiêu biểu cho mọi ngành nghề, đại diện cho một nền kinh tế. Tuy nhiên, theo thống kê, hiện nay, TTCK Việt Nam có 289 DN niêm yết. Con số này còn quá ít so với con số hàng trăm nghìn DN thực tế đang hoạt động. Mặt khác, các DN niêm yết chủ yếu là những DN nhỏ và vừa, chưa phải là những DN lớn có sức chi phối nền kinh tế... Về mức vốn hóa của thị trường, năm 2007 đạt khoảng 40% GDP. Song đến thời điểm hiện tại, TTCK đang suy giảm từng ngày, thì mức vốn hoá thị trường cũng giảm đi tương ứng. Trong khi đó, theo kế hoạch Chính phủ đặt ra, tới năm 2010, tỷ lệ vốn hóa TTCK phải chiếm 50% GDP và con số này phải tăng đến 70% vào năm 2020. Khi đó, quy mô thị trường mới đủ lớn để có thể đưa TTCK thực sự trở thành hàn thử biểu của nền kinh tế theo đúng nghĩa của nó. Giá chứng khoán phản ánh tương đối chính xác giá trị thực của DN niêm yết Một thực tế hiện nay là phần lớn con số tính toán về giá trị thực của cổ phiếu đều chỉ sử dụng một cách máy móc những số liệu ghi trên báo cáo tài chính của các DN niêm yết; chưa thể hiện được đầy đủ giá trị nội tại của DN mà nó phản ánh. Ngoài ra, sự kém minh bạch còn phổ biến, kèm theo đó là những yếu tố thuộc về tài sản vô hình của công ty (trình độ quản lý, uy tín sản phẩm, nhãn hiệu thương mại, chất lượng sản phẩm...) chưa phản ánh hết trong báo cáo tài chính. Mặt khác, sự thiếu kiến thức và tâm lý đám đông của NĐT đã và đang tác động mạnh mẽ tới TTCK. Tâm lý "phải tháo chạy bằng mọi giá" đã đẩy chỉ số VNIndex xuyên thủng 400 điểm. Rõ ràng, tâm lý NĐT chứ không phải phương pháp xác định hay hoạt động kinh doanh của DN quyết định giá chứng khoán.
- Phản ánh tương đối chính xác sự biến động của nền kinh tế Hai năm qua, chúng ta đã chứng kiến những bước thăng trầm của TTCK Việt Nam. Ngày 8/11/2006, VNIndex xuất phát với mức 525,99 điểm, chỉ 4 tháng sau (ngày 12/3/2007) VN Index đã leo lên tới đỉnh 1.170,67 điểm, để rồi hiện tại VNIndex đã quay trở lại và thậm chí phá mốc 400 điểm. Tất nhiên, lên xuống là chuyện bình thường của thị trường, nhưng lên xuống với biên độ lớn trong thời gian ngắn là bất thường. Và điều này có phản ánh chính xác sự biến động của nền kinh tế hay không? Câu trả lời là không! Dễ dàng nhận thấy, từ cuối năm 2007 đến nay, VNIndex đã giảm quá sâu, bất chấp những thông tin rất tốt về hiệu quả sản xuất kinh doanh của đại đa số công ty niêm yết trên sàn, bất chấp nỗ lực chống lạm phát đã có kết quả bước đầu của Chính phủ. Ngoài ra, nếu nền kinh tế Việt Nam chủ yếu có 4 kênh đầu tư: TTCK, thị trường tín dụng trung và dài hạn, thị trường bất động sản và thị trường tiền tệ thì trong thời gian qua, sự ảm đạm của TTCK dường như cũng chưa ảnh hưởng nhiều tới các thị trường còn lại, nếu có, thì cũng chỉ như sự ảnh hưởng của một hàng hóa này tới một hàng hóa thay thế khác. Nhìn vào TTCK, chưa thấy được bức tranh khái quát của toàn bộ nền kinh tế. Như vậy, rõ ràng VNIndex hiện chưa phải là hàn thử biểu của kinh tế Việt Nam.
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Thị trường tài chính Việt Nam thực trạng và tác động của việc Việt Nam gia nhập WTO
7 p | 3312 | 1039
-
Cơ hội và thách thức đối với hệ thống ngân hàng Việt nam khi gia nhập WTO
5 p | 2455 | 928
-
Các cam kết WTO ảnh hưởng thế nào đến bảo hiểm?
3 p | 614 | 208
-
“Cuộc cách mạng” trong ngành bảo hiểm
2 p | 474 | 147
-
Ngân hàng thương mại Việt Nam: Điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội
10 p | 397 | 67
-
VIỆN NGHIÊN CỨU QUẢN LÝ KINH TẾ TRUNG ƯƠNG TÁC ĐỘNG CỦA HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ ĐỐI VỚI NỀN KINH TẾ SAU BA NĂM VIỆT NAM GIA NHẬP WTO
243 p | 162 | 30
-
10 năm Việt Nam gia nhập WTO: Những vấn đề đặt ra đối với lĩnh vực tài chính
4 p | 66 | 5
-
Nghiên cứu giải pháp nâng cao hiệu quả chất lượng quản trị nhân sự - khoa học công nghệ trong lĩnh vực ngân hàng TMCP tại thành phố Hồ Chí Minh
6 p | 51 | 4
-
Thị trường nội địa Việt Nam: Tiềm lực và chính sách phát triển
7 p | 48 | 3
-
Nhiệm vụ kế toán quản trị tại doanh nghiệp trong thời kỳ hội nhập WTO
6 p | 64 | 3
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn