intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Gia nhập WTO và các tác động tới quản lý hoạt động ngân hàng thương mại - TS. Đỗ Thị Thủy

Chia sẻ: Pham Xuan Hung Hung | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:59

97
lượt xem
10
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Thực trạng các ngân hàng thương mại trước khi gia nhập WTO, các cam kết của Việt Nam trong lĩnh vực ngân hàng khi gia nhập WTO, tác động của việc gia nhập WTO đến quản lý hoạt động ngân hàng thương mại,... là những nội dung chính trong tài liệu "Gia nhập WTO và các tác động tới quản lý hoạt động ngân hàng thương mại". Mời các bạn cùng tham khảo.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Gia nhập WTO và các tác động tới quản lý hoạt động ngân hàng thương mại - TS. Đỗ Thị Thủy

  1. https://www.vietinbank.vn/web/home/vn/research/13/gia­nhap­wto­va­cac­tac­dong­toi­quan­ly­hoat­dong­nhtm.html Gia nhập WTO và các tác động tới quản lý hoạt động NHTM TS. Đỗ Thị Thủy­VietinBank Xu hướng toàn cầu hoá trên thế giới cùng với việc Việt Nam trở thành thành viên thứ 150  của Tổ chức Thương mại Thế giới ­ WTO vào năm 2007 đã mở ra nhiều cơ hội mới cho mọi  lĩnh vực, mọi doanh nghiệp (DN) trong đó không thể không nói tới ngân hàng ­ một lĩnh vực  hết sức nhạy cảm ở các nước đi lên từ nền kinh tế bao cấp. Việc mở cửa thị trường ngân  hàng, tài chính làm các Ngân hàng Việt Nam phải đối mặt với cạnh tranh gay gắt hơn từ các  ngân hàng nước ngoài đến từ các khu vực tài chính phát triển như Mỹ, Châu Âu, Singapore,  Nhật Bản,.... Do đó vấn đề cấp thiết để tiếp tục tồn tại và phát triển quy mô nhưng vẫn an  toàn, hiệu quả, các Ngân hàng thương mại Việt Nam (NHTM) phải chú trọng đổi mới công  tác quản lý, điều hành. Trong bài viết này, tác giả đi sâu phân tích tác động của việc gia nhập  WTO đến công tác quản lý hoạt động của NHTM. Thực trạng các NHTM trước khi gia nhập WTO Kể từ khi thực hiện đổi mới kinh tế vào năm 1986, ngành ngân hàng Việt Nam đã có những  bước chuyển mình quan trọng, đánh dấu bằng việc chuyển từ hệ thống ngân hàng đơn cấp  sang cơ chế ngân hàng hai cấp với sự phân tách riêng rẽ trong hoạt động của các NHTM với  Ngân hàng Nhà nước. Hoạt động của các ngân hàng trong nước vẫn chiếm ưu thế về thị  phần tiền gửi và cho vay. Các ngân hàng quốc doanh chủ yếu phục vụ các DN thuộc sở hữu  Nhà nước trong khi các NHTM cổ phần mới thành lập tập trung vào các khách hàng DN vừa  và nhỏ, cá nhân. Tuy nhiên, xét về tổng thể, hoạt động của các ngân hàng Việt Nam khi đó  được đánh giá là yếu trên các mặt sau: Về năng lực tài chính: Các ngân hàng trong nước có năng lực tài chính khiêm tốn, quy mô  vốn  hạn chế. Mặc dù vốn điều lệ của các NHTM trong nước đã tăng trưởng gấp nhiều lần,  song mức vốn điều lệ trung bình của cả ngân hàng quốc doanh và NHTM cổ phần vẫn còn  khiêm tốn so với quy mô vốn của các ngân hàng nước ngoài. Tỷ lệ an toàn vốn CAR của các  ngân hàng trong nước đạt thấp, trung bình ở mức 5% trong khi tỷ lệ này tại các ngân hàng  nước ngoài là khoảng 9%. Tỷ lệ an toàn vốn thấp dẫn đến khả năng chống đỡ với các rủi ro  hệ thống yếu, nguồn vốn hạn chế khiến các ngân hàng gặp nhiều khó khăn trong việc cập  nhật, ứng dụng các công nghệ mới và việc phát triển các sản phẩm đa dạng cho khách hàng.  Tỷ lệ nợ xấu ở các ngân hàng trong nước cũng ở mức cao, tiềm ẩn nhiều rủi ro đối với nền  kinh tế. Về hạ tầng công nghệ và hệ thống thanh toán: Do hạn chế về quy mô vốn, các ngân hàng  trong nước cũng gặp khó khăn trong việc ứng dụng công nghệ vào hoạt động. Hạ tầng công 
  2. nghệ và hệ thống thanh toán chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển và nhu cầu của khách  hàng. Về quản trị hoạt động ngân hàng: hệ thống quản trị của ngân hàng trong nước trên tất cả các  mặt như quản trị nguồn nhân lực, quản trị rủi ro đều chưa phù hợp với thông lệ quốc tế. Các  ngân hàng trong nước chưa có các công cụ hiện đại để quản trị rủi ro tín dụng, rủi ro thị  trường, quản lý thanh khoản, hệ thống kiểm tra kiểm soát nội bộ trong ngân hàng lạc hậu,  chưa có tính dự báo sớm với các rủi ro tiềm ẩn trong hoạt động. Công tác quản lý nhân sự  còn nhiều hạn chế, chất lượng lao động tại các ngân hàng trong nước chưa cao, chưa nhanh  nhạy với nhu cầu của thị trường. Các cam kết của Việt Nam trong lĩnh vực ngân hàng khi gia nhập WTO Về tổng thể, các cam kết gia nhập WTO của Việt Nam trong lĩnh vực ngân hàng được đánh  giá là rộng rãi hơn nhiều so với các thành viên WTO khác, tạo ra một sân chơi bình đẳng cho  các ngân hàng, cụ thể: Từ 01/4/2007, các Tổ chức tín dụng (TCTD) nước ngoài được phép thành lập ngân hàng  100% vốn nước ngoài tại Việt Nam. Tuy nhiên, để mở một chi nhánh của NHTM nước ngoài  tại Việt Nam, ngân hàng mẹ phải có tổng tài sản hơn 20 tỷ USD vào cuối năm trước thời  điểm xin mở chi nhánh; để mở ngân hàng liên doanh hoặc ngân hàng 100% vốn nước ngoài,  yêu cầu về vốn của ngân hàng mẹ là 10 tỷ USD; Thời gian hoạt động cũng được nâng lên tối  đa không quá 99 năm so với thời hạn này trước đây là 20 năm. Về phạm vi hoạt động và loại hình dịch vụ ngân hàng, các TCTD nước ngoài hoạt động tại  Việt Nam được cung cấp hầu hết các loại hình dịch vụ ngân hàng như: cho vay, nhận tiền  gửi, cho thuê tài chính, kinh doanh ngoại tệ, các công cụ thị trường tiền tệ, các công cụ tài  chính phái sinh, môi giới tiền tệ, quản lý tài sản, cung cấp dịch vụ thanh toán, tư vấn và  thông tin tài chính. Các chi nhánh ngân hàng nước ngoài không được mở các điểm giao dịch  ngoài trụ sở chi nhánh nhưng được phép lắp đặt và vận hành các máy giao dịch tự động  (ATM) và phát hành thẻ tín dụng như các ngân hàng trong nước. Về việc góp vốn dưới hình  thức mua cổ phần, các TCTD nước ngoài được phép nắm giữ tối đa 30% vốn điều lệ của  ngân hàng trong nước. Tác động của việc gia nhập WTO đến quản lý hoạt động NHTM Để đánh giá những chuyển biến trong công tác quản lý, điều hành của các NHTM nội địa khi  Việt Nam gia nhập WTO, trước hết chúng ta xem xét một số đánh giá sơ bộ một số ưu điểm  của việc gia nhập WTO. Sau hơn 6 năm gia nhập WTO, các NHTM Việt Nam đã đạt được  một số thành quả nhất định đáp ứng được phần nào yêu cầu thay đổi trong hội nhập: Một là: Tạo cơ hội cho các NHTM trong nước tiếp cận vốn quốc tế dễ dàng hơn, tiếp thụ 
  3. kiến thức, kinh nghiệm và công nghệ hiện đại về quản lý và hoạt động ngân hàng khi các  ngân hàng trong nước lựa chọn các ngân hàng nước ngoài danh tiếng làm đối tác chiến lược.  Vì một trong các các cam kết của Việt Nam khi gia nhập WTO của Việt Nam là cho phép các  ngân hàng nước ngoài được đầu tư mua cổ phần của các ngân hàng trong nước.  Do vậy năng lực tài chính trong những năm qua của các NHTM được nâng lên: Cơ cấu và giá  trị vốn điều lệ của hệ thống NHTM đã tăng lên đáng kể. Hầu hết các ngân hàng đều đạt  được mức vốn pháp định là 3000 tỷ theo quy định của Ngân hàng nhà nước. Trong đó, một số  ngân hàng còn có số vốn điều lệ khá cao như: VietinBank, Agribank, Vietcombank, Bidv,  Techcombank,… Giá trị tổng tài sản của các NHTM cũng tăng mạnh, trong giai đoạn từ năm  2007­ 2010, quy mô tài sản của các NHTM đã tăng gấp đôi, từ 1.069 nghìn tỷ lên 2.690 nghìn  tỷ đồng và đạt khoảng 3600 nghìn tỷ đồng vào cuối năm 2012. Về hiệu quả hoạt động: khả  năng sinh lời của cácNHTM, thể hiện qua chỉ tiêu ROA, ROE đều được cải thiện, đa phần  ROE trên 10% và ROA trên 1%. Tính đến tháng 3/2013, đã có 11 ngân hàng thực hiện chào  bán thành công cổ phần cho đối tác nước ngoài đều là các ngân hàng lớn trong khu vực và  trên thế giới, trong đó có 2 NHTM Nhà nước lớn. Việc tăng vốn điều lệ góp phần củng cố  năng lực tài chính, đầu tư đổi mới công nghệ, nâng cao năng lực cạnh tranh của các NHTM  trong nước. Mặt khác, sau khi bán cổ phần cho các đối tác chiến lược nước ngoài các NHTM có thể tận  dụng ưu thế của họ về công nghệ hiện đại, kinh nghiệm quản lý. Mặt khác việc gia nhập  WTO với những cam kết tự do hoá về mặt tài chính cũng tạo động lực cho các NHTM Việt  Nam thực hiện cải tổ toàn diện về mặt tổ chức, năng lực tài chính, khả năng quản trị và ứng  dụng công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ và cải thiện tính minh bạch trong  hoạt động. Hai là: Tạo môi trường kinh doanh thuận lợi hơn cho các nhà cung cấp dịch vụ tài chính, các  NHTM nước ngoài đến từ các khu vực tài chính phát triển làm phong phú các sản phẩm tài  chính hiện đại, tạo kênh cung ứng vốn, kênh dịch vụ đa dạng cho các DN Việt Nam. Việc  này sẽ tạo thêm cơ hội cho TCTD trong nước tiếp cận thị trường tài chính quốc tế đã phát  triển ở mức cao hơn. Chính vì vậy, các NHTM trong nước đã có cơ hội học tập và nâng cao  trình độ quản trị và cung cấp dịch vụ, phát triển các loại hình và kỹ năng kinh doanh mới mà  các ngân hàng trong nước chưa có hoặc có ít kinh nghiệm như: kinh doanh ngoại hối, thanh  toán quốc tế, tín dụng thương mại quốc tế, dịch vụ ngân hàng điện tử, môi giới tiền tệ,  quản lý rủi ro,.v.v.  Ba là: Tạo cơ hội và thúc đẩy các NHTM nói riêng và các DN trong nước nói chung  tích cực 
  4. cạnh tranh thị trường để tồn tại và phát triển, không chỉ ở trong nước mà còn mở rộng hoạt  động ra khu vực và thế giới.  Để tăng khả năng cạnh tranh, nâng cao thị phần, trong vòng 6 năm sau khi gia nhập WTO,  mạng lưới hoạt động của các NHTM cũng được mở rộng với sự gia tăng đáng kể của các  chi nhánh, phòng giao dịch, ATM. Một số NHTM đã mở chi nhánh, văn phòng đại diện ở  Châu Âu, Châu Á. Tuy nhiên, mức độ mở rộng khá chênh lệch phụ thuộc vào chiến lược,  khả năng của từng ngân hàng.  Với việc gia nhập WTO, nhiều DN trong nước đã có cơ hội mở rộng hoạt động ra khu vực  và thế giới, đầu tư ra nước ngoài cũng tăng trưởng đáng kể, là cơ hội để các NHTM gia tăng  doanh số vì họ sẽ trở thành các khách hàng tiềm năng của ngân hàng. Vì vậy, các NHTM,  TCTD sẽ có điều kiện phát triển tốt khi khách hàng ­ những người sử dụng dịch vụ của họ  làm ăn tốt và phát triển. Việc gia nhập WTO có tác động tích cực đối với không chỉ toàn bộ nền kinh tế mà còn với  từng ngành sản xuất dịch vụ cụ thể. Tác động rõ nét nhất là chính sách thương mại, đầu tư   trở nên minh bạch hơn và bình đẳng giữa các thành phần kinh tế. Đây cũng chính là yếu tố  làm cho Việt Nam trở thành môi trường đầu tư hấp dẫn hơn để thu hút các nhà đầu tư nước  ngoài vào Việt Nam. Những thách thức của việc mở cửa thị trường tài chính ngân hàng  Thứ nhất: Hội nhập kinh tế quốc tế đồng nghĩa với việc gia tăng rủi ro và tính nhạy cảm  của thị trường tài chính trong nước đối với các biến động trên thị trường thế giới. Trong  cuộc khủng hoảng tài chính ngân hàng Châu Á năm 1997, Việt Nam không chịu nhiều ảnh  hưởng do nền kinh tế còn khá “ đóng” so với các nền kinh tế khác trong khu vực. Tuy nhiên  sau khi gia nhập WTO, sự liên thông giữa thị trường trong nước và thị trường quốc tế và sự  gia tăng các giao dịch vốn cũng làm tăng rủi ro của hệ thống ngân hàng. Trong khi đó các  ngân hàng trong nước chưa có cơ chế quản lý rủi ro và hệ thống thông tin hiện đại, hiệu  quả, phù hợp với thông lệ quốc tế. Việc mở cửa thị trường tài chính làm các NHTM phải đối  mặt với nhiều rủi ro thị trường: rủi ro về giá, tỷ giá và lãi suất và các rủi ro hệ thống, bắt  nguồn từ sự lan truyền của các cuộc khủng hoảng, các cú sốc kinh tế tài chính khu vực và  trên thế giới. Rủi ro cũng có thể đến từ các DN là khách hàng của ngân hàng do làm ăn thua  lỗ, thất bại trong cạnh tranh. Khi có bất cứ một biến động tài chính nào thì những ngân hàng  quy mô nhỏ dễ bị tổn thương hơn cả. Mặt khác, với những cam kết cắt giảm thuế và xóa bỏ chính sách bảo hộ trong một số lĩnh 
  5. vực, bản thân các DN ­ khách hàng của các NHTM cũng phải chịu sự cạnh tranh gay gắt từ  các DN nước ngoài. Khi hiệu quả hoạt động và tình hình tài chính của các DN trong nước bị  ảnh hưởng, rủi ro về việc gia tăng nợ xấu và sự suy giảm trong chất lượng danh mục cho  vay của các NHTM trong nước cũng gia tăng. Việc gia nhập WTO giúp luồng vốn từ thị trường nước ngoài chảy mạnh vào Việt Nam, kích  hoạt “bong bóng” thị trường chứng khoán và bất động sản. Từ năm 2007 đến năm 2011, dư  nợ tín dụng tăng từ 1.068 nghìn tỷ đồng lên 2.655 nghìn tỷ đồng, tỷ lệ dư nợ trên GDP trung  bình giai đoạn này đạt khoảng 114%, tương đương với mức của Nhật Bản khi nổ ra “bong  bóng” kinh tế năm 1989. Tuy nhiên, chính sách quản lý rủi ro tín dụng không đi kèm với việc  tăng trưởng tín dụng, các công cụ quản lý rủi ro yếu, mang tính hình thức, thiếu độc lập  khách quan, việc tổ chức hạch toán, phân loại nợ, thống kê thông tin tín dụng chưa đảm bảo  tính chính xác, minh bạch. Hệ quả tất yếu là tỷ lệ nợ xấu tăng cao. Theo báo cáo chính thức,  vào cuối năm 2012, tỷ lệ nợ xấu tại các NHTM là 4,47%, tuy nhiên theo ước tính của Ngân  hàng Nhà nước, con số thực có thể cao hơn.   Thứ hai:   Các NHTM trong nước cũng mất dần lợi thế cạnh tranh về khách hàng và hệ thống  phân phối. Sau một thời gian hoạt động, các ngân hàng nước ngoài trở nên ngày càng am hiểu  về thị trường Việt Nam, về văn hóa, thói quen tiêu dùng của khách hàng Việt Nam. Bên cạnh  đó, cùng với việc thâm nhập vào cơ sở khách hàng của các NHTM trong nước và kiểm soát  một số TCTD thông qua hình thức góp vốn, mua cổ phần, các ngân hàng nước ngoài với ưu  thế của mình, một mặt vừa là đối tác chính hỗ trợ về mặt nguồn vốn, công nghệ, kĩ thuật,  năng lực quản lý cho các NHTM trong nước, mặt khác vừa là đối thủ cạnh tranh để giành thị  phần của các NHTM trong nước. Điều này dẫn dến nguy cơ giảm thị phần và chia sẻ khách  hàng do các NHTM trong nước không thể theo kịp các ngân hàng nước ngoài đã có nhiều năm  hoạt động với những sản phẩm dịch vụ hiện đại, giá cả hấp dẫn. Nếu như vào năm 2005,  thị phần tín dụng của các NHTM trong nước chiếm đến hơn 90% thì đến năm 2010, thị phần  tín dụng của ngân hàng trong nước giảm xuống còn khoảng hơn 80%, trong đó, rõ rệt nhất là  sự sụt giảm thị phần tín dụng của các NHTM Nhà nước từ 79,5% vào năm 2005 xuống còn  49,3% vào năm 2010, nhường chỗ cho sự mở rộng thị phần của khối ngân hàng nước ngoài  và liên doanh. Trong một cuộc khảo sát của nhóm tư vấn công ty MCG cũng cho thấy kết  quả về tâm lý chuyển sang sử dụng dịch vụ ngân hàng nước ngoài. Cụ thể có hơn 50% khách  hàng được hỏi sẽ chuyển sang gửi tiền tại ngân hàng nước ngoài nếu họ được phép lựa  chọn; và khoảng 45% khách hàng cá nhân và DN sẽ chuyển sang vay ngân hàng nước ngoài. Yêu cầu của gia nhập WTO đối với quản lý NHTM
  6. Có thể nói, bức tranh hệ thống ngân hàng ở Việt Nam sau gia nhập WTO đã có những  chuyển biến đáng kể. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều thách thức mà các NHTM phải đối mặt như:  quy mô về vốn vẫn còn nhỏ bé, kênh sản phẩm dịch vụ còn nghèo nàn, chất lượng phục vụ,  khả năng quản trị còn nhiều yếu; các NHTM đến nay vẫn chỉ tập trung vào các dịch vụ huy  động và cho vay truyền thống, chất lượng dịch vụ chưa cao. Trong khi đó, các ngân hàng  nước ngoài, các định chế tài chính phi ngân hàng tham gia thị trường Việt Nam ngày càng sâu  rộng, một thị trường được đánh giá là nhiều tiềm năng, với tốc độ tăng trưởng nhanh trong  khi mức độ và trình độ cung cấp dịch vụ tài chính còn ở giai đoạn phát triển ban đầu. Các tổ  chức này sẽ cạnh tranh thị trường mạnh với ngân hàng về các hoạt động huy động vốn cũng  như đầu tư. Do vậy, các NHTM trong nước sẽ đối mặt với nguy cơ mất dần lợi thế về dịch  vụ ngân hàng bán lẻ với mạng lưới các kênh phân phối và cơ sở khách hàng đã có sẵn. Rõ ràng là việc tận dụng các tác động tích cực của việc gia nhập WTO chỉ có được khi “sức  khỏe” nội tại của các NHTM trong nước đủ để cạnh tranh với các ngân hàng nước ngoài.  Điều này đặt ra các yêu cầu mới trong công tác quản lý, điều hành NHTM tại Việt Nam theo  hướng sau:  ­    Về quy mô và năng lực tài chính: các NHTM phải tiếp tục tăng vốn để đảm bảo mức vốn  tự có theo tiêu chuẩn Basel II thông qua việc phát hành cổ phần bổ sung và nguồn vốn từ  Chính phủ. Mua lại, sáp nhập các TCTD, mở rộng nguồn vốn huy động để nâng cấp quy mô  hoạt động và năng lực tài chính. ­    Nâng cao chất lượng tài sản, giảm tỷ lệ nợ xấu và kiểm soát chất lượng tín dụng, kiểm  soát mức độ tăng trưởng tín dụng phù hợp với quy mô vốn huy động và cơ cấu kỳ hạn,… ­    Đổi mới hệ thống quản trị ngân hàng phù hợp với thông lệ quốc tế, hiện đại hóa công cụ  quản trị rủi ro, xây dựng hệ thống kiểm tra kiểm soát nội bộ mạnh, có khả năng cảnh báo  rủi ro sớm và có khả năng kiểm soát hiệu quả rủi ro trong hoạt động tín dụng và quản lý  thanh khoản. ­    Hiện đại hóa hệ thống công nghệ, đầu tư vào cơ sở hạ tầng và công nghệ thông tin như  là bước đi tắt đón đầu, rút ngắn khoảng cách với các đối thủ cạnh tranh, cung cấp tốt hơn  các sản phẩm dịch vụ ngân hàng hiện đại và là phương tiện hỗ trợ cho quản trị ngân hàng. ­    Mở rộng mạng lưới chi nhánh cả trong nước và quốc tế, tăng cường các kênh phân phối  điện tử để gia tăng khả năng tiếp cận dịch vụ của khách hàng, giữ vững thế mạnh trong  mạng lưới phân phối nội địa, đồng thời mở rộng địa bàn hoạt động để thu hút các khách  hàng mới.  ­    Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, có chính sách thu hút nhân tài, tăng cường đào  tạo bồi dưỡng cán bộ về chuyên môn nghiệp vụ và nâng cao ý thức, đạo đức nghề nghiệp.
  7. Cùng với sự thay đổi về công tác quản lý điều hành, các NHTM Việt Nam sẽ được thử thách  để hoạt động tốt hơn và đóng góp nhiều hơn cho sự phát triển bền vững của nền kinh tế./.
  8. http://tapchitaichinh.vn/nghien­cuu­trao­doi/trao­doi­­­binh­luan/nhung­tac­dong­tu­tai­cau­truc­he­thong­ngan­ hang­thuong­mai­den­phat­trien­thi­truong­von­52166.html Những tác động từ tái cấu trúc hệ thống ngân hàng thương mại đến phát triển  thị trường vốn 15:29, 31/07/2014 Ts. Nguyễn Thị Kim Thanh ­ viện trưởng viện chiến lược ngân hàng (NHNN) (Tài chính) Là kênh dẫn vốn hiệu quả  trên thị  trường tài chính ­ tiền tệ, hệ  thống   ngân hàng thương mại  ở Việt Nam có vai trò vô cùng quan trọng trong phát triển thị  trường vốn. Đó là tạo ra các loại hàng hóa cho thị trường chứng khoán, thu hút nguồn  vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế, góp phần làm đa dạng hóa thị  trường vốn thông qua   việc phát hành các loại chứng khoán, trái phiếu. Vai trò của ngân hàng thương mại với thị trường vốn Ngân hàng thương mại (NHTM) có vai trò rất quan trọng trong quá trình hình thành và phát  triển thị trường vốn, cụ thể: Một là, NHTM giải quyết sự thiếu vốn của nền kinh tế, giúp các cá nhân và doanh nghiệp  (DN) có điều kiện sản xuất kinh doanh; NHTM là một nhân tố quyết định trong việc thu hút,   huy động, tích tụ và tập trung các nguồn tài chính nhàn rỗi trong nền kinh tế, góp phần tài trợ  cho nhu cầu về vốn trong quá trình sản xuất kinh doanh; NHTM có khả năng chuyển hóa các  khoản tiền gửi nhỏ lẻvà có các thời hạn ngắn thành các khoản tín dụng có thời hạn dài hơn,   tài trợ kịp thời cho nhu cầu đầu tư phát triển kinh tế ­ xã hội. Hơn nữa, thông qua mạng lưới các chi nhánh, NHTM còn đóng vai trò điều hòa vốn, thu hút  những nguồn vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế, cung cấp các khoản vay và đầu tư  cho những   nơi thiếu vốn, từ  đó góp phần rút ngắn sự  chênh lệch về  khoảng cách tăng trưởng và phát  triển kinh tế giữa các vùng, miền. Hai là, NHTM giữ  vai trò phát hành, đầu tư  trực tiếp, phân phối, bảo lãnh phát hành, kinh  doanh trái phiếu và cho vay chứng khoán trên thị trường chứng khoán (TTCK). Cho đến nay,  việc phát hành trái phiếu của các NHTM chưa phải là một hoạt động thường xuyên và liên   tục. Tuy nhiên, sự  quan tâm lớn của nhà đầu tư  (NĐT) đối với các đợt phát hành trái phiếu   tăng vốn trên thị trường vừa qua đã chứng tỏ tầm ảnh hưởng của trái phiếu ngân hàng, đặc  biệt là đối với các NHTM hoạt động tốt, có uy tín. Việc tham gia bảo lãnh phát hành của các NHTM, không những giúp DN có thể  huy động   được vốn mà còn giúp các NHTM thu thập nhiều thông tin về khách hàng, nhận định chuẩn   xác hơn về giá trị DN cũng như cắt giảm chi phí điều tra, đánh giá; kinh doanh trái phiếu của  các NHTM mới được nghiên cứu và đưa vào hoạt động trong thời gian gần đây. Thêm vào đó, việc bán trái phiếu cho các NHTM là một kênh huy động vốn hiệu quả  bên  cạnh vay trung và dài hạn từ ngân hàng. NHTM tham gia thực hiện các công cụ  phái sinh là  
  9. nhằm bảo hiểm rủi ro giao dịch tài chính cho ngân hàng và khách hàng. Sự  kết hợp giữa thị  trường tiền tệ  với TTCK sẽ  cung cấp cho các NĐT nhiều công cụ  để  kinh doanh và bảo   hiểm rủi ro, đồng thời tăng tính thanh khoản của thị trường. Tuy còn non trẻnhưng TTCK Việt Nam đã chứng tỏ  là một kênh dẫn vốn hữu hiệu, góp   phần không nhỏ trong việc phát triển thị trường vốn. Với đặc thù của nền kinh tế Việt Nam   có tiềm năng vốn trong dân cư  rất lớn, các NHTM đóng một vai trò quan trọng trong việc   phát triển TTCK cũng như thị trường vốn nói chung, thể hiện ở những điểm sau: Thứ nhất, các NHTM đã tạo hàng hóa cho TTCK, góp phần vào việc đa dạng hóa thị trường  thông qua việc phát hành cách loại chứng khoán, trái phiếu của NHTM. Thứ hai, thông qua các hoạt động như tư vấn chứng khoán, bảo lãnh phát hành chứng khoán,   cho vay chứng khoán, NHTM trở thành cấu nối giữa NĐT và TTCK. Thứ  ba, với tiềm lực tài chính lớn mạnh,  NHTM là chủ  thể  đầu tư  trực tiếp trên TTCK.  Ngoài ra, không thể không nhắc tới vai trò của NHTM trong việc  thúc đẩy tính thanh khoản  của thị trường, cũng như điều hòa cung ­ cầu, ổn định TTCK. Có thể nói, các NHTM có vai trò quan trọng trong việc chi phối, phát triển thị  trường vốn ở  Việt Nam, nhất là thị  trường TPCP. Chẳng hạn, sự phát triển của thị trường cổ phiếu trong   những năm 2006 ­ 2007 là do một lượng vốn lớn từ  các NĐT nước ngoài. Đáng chú ý, khi   khủng hoảng xảy ra, dòng vốn nước ngoài giảm mạnh, kéo theo là sự  sụt giảm của thị  trường. Tuy nhiên, đến nay thị trường cổ  phiếu vẫn được duy trì và đang có dấu hiệu phục  hồi do nhiều nguyên nhân, trong đó phải kể đến vai trò của các NHTM vừa tham gia với tư  cách thành viên niêm yết thị  trường, vừa thực hiện bao tiêu phát hành, kinh doanh chứng   khoán, cung cấp chứng khoán hoặc các dịch vụ tài chính... Số liệu thống kê của Ngân hàng Thế giới (WB) so sánh tương quan quy mô kênh dẫn vốn so  với GDP, thì quy mô dẫn vốn qua kênh tín dụng trong nước luôn chiếm tỷ  lệ lớn, thậm chí  trong giai đoạn 2008 ­ 2011, vốn qua kênh tín dụng còn lớn hơn 100% quy mô GDP của nền   kinh tế. Hiện tại,  ước tính vốn ngân hàng trong các DN tại Việt Nam vẫn chiếm hơn 70%   trong khi ở Malaysia chỉ là 4%, Philippines 27%, Thái Lan 40%, Indonesia 35%... Thực tế trên   cho thấy, vai trò quan trọng của hệ thống NHTM Việt Nam trong việc cung ứng vốn cho nền   kinh tế, các ngân hàng đã cùng một lúc thực hiện cả  hai vai trò là cung  ứng vốn ngắn hạn,   vốn trung và dài hạn. Tuy nhiên, vai trò chủ yếu của các NHTM mới chỉ tập trung ở một số hoạt động huy động và   cho vay tín dụng thông thường còn các hoạt động của “một người chơi chính” trên thị trường   vốn trung và dài hạn thì còn hạn chế, mới chỉ có một số ít các ngân hàng hiện diện dưới hình  thức DN niêm yết, kinh doanh môi giới chứng khoán. Điều đó, cũng phản ánh sự mất cân đối   trong cấu trúc hệ thống tài chính của Việt Nam, trong đó TTCK và thị trường trái phiếu chưa  
  10. phát triển tương xứng với thị trường tín dụng, gây sức ép lên hoạt động cấp tín dụng của hệ  thống ngân hàng. Những tác động của tái cấu trúc ngân hàng thương mại tới phát triển thị trường vốn Theo Đề  án “Cơ  cấu lại hệ  thống các tổ  chức tín dụng (TCTD) giai đoạn 2011­2015” ban   hành kèm theo Quyết định số  254/QĐ­TTg ngày 01/3/2012 của Thủ  tướng Chính phủ, mục   tiêu tái cơ  cấu hệ thống TCTD bao gồm: “Cơ cấu lại căn bản, triệt để  và toàn diện các hệ  thống TCTD để đến năm 2020 phát triển được hệ thống các TCTD đa năng theo hướng hiện   đại, hoạt động an toàn, hiệu quả  vững chắc với cấu trúc đa dạng về  sở  hữu, quy mô, loại   hình có khả năng cạnh tranh lớn hơn và dựa trên nền tảng công nghệ, quản trị ngân hàng tiên   tiến phù hợp với thông lệ, chuẩn mực quốc tế về hoạt động ngân hàng nhằm đáp  ứng tốt  hơn nhu cầu về dịch vụ tài chính, ngân hàng của nền kinh tế... Đối với thị trường vốn, ngân hàng không chỉ là chủ thể trực tiếp tham gia vào mảng vốn tín   dụng, mà còn góp phần không nhỏ vào hoạt động của TTCK , với rất nhiều chức năng quan   trọng. Do đó, khi hệ thống ngân hàng đã được lành mạnh, hoạt động hiệu quả thì thị trường   vốn cũng được hưởng rất nhiều những tác động tích cực. Như  đã phân tích  ở  trên, NHTM có vai trò lớn trong việc phát triển thị  trường vốn. Do đó,  việc tái cấu trúc NHTM cũng sẽ  có những tác động không nhỏ  tới việc xây dựng một thị  trường vốn hiện đại, an toàn và hiệu quả, cụ thể: Một là, nâng cao hiệu quả hoạt động của toàn hệ thống ngân hàng, từ đó góp phần phát triển  thị trường vốn. Do đặc thù của nền kinh tế Việt Nam, hệ thống ngân hàng đến nay vẫn đóng vai trò chi phối  trên thị trường vốn, với tỷ lệ vốn tín dụng ngân hàng trung và dài hạn ở mức cao so với trái   phiếu và cổ phiếu. Do đó, hoạt động của ngân hàng có vai trò chủ  chốt, ảnh hưởng rất lớn   tới việc xây dựng và phát triển thị trường vốn. Mục đích cuối cùng của việc tái cơ cấu ngân  hàng là để hướng tới nâng cao hiệu quả hoạt động của các NTHM.  Các NHTM yếu kém sau  khi tái cấu trúc sẽ có sự chuyển biến rõ rệt về  chất, bao gồm các yếu tố  như  vốn, trình độ  quản trị... Vốn tín dụng nói chung và tín dụng trung, dài hạn nói riêng vì thế  sẽ  được đảm  bảo an toàn, hiệu quả. Đối với thị trường vốn, ngân hàng không chỉ là chủ thể trực tiếp tham gia vào mảng vốn tín   dụng, mà còn góp phần không nhỏ vào hoạt động của TTCK, với rất nhiều chức năng quan  trọng. Do đó, khi hệ thống ngân hàng đã được lành mạnh, hoạt động hiệu quả thì thị  trường   vốn cũng được hưởng rất nhiều những tác động tích cực. Hai là, tái cấu trúc ngân hàng góp phần làm ổn định kinh tế vĩ mô, từ đó gián tiếp ổn định thị  trường vốn. Thực tế đã cho thấy, hoạt động ngân hàng luôn có ảnh hưởng lớn tới kinh tế vĩ mô. Một hệ  thống ngân hàng lành mạnh, hoạt động hiệu quả sẽ là tiền đề  vững chắc cho một nền kinh 
  11. tế  ổn định. Ngược lại, hệ thống ngân hàng yếu kém sẽ  là “ngòi nổ” của khủng hoảng kinh  tế. Thị trường vốn tại Việt Nam lệ thuộc rất lớn vào chính sách tài chính, tiền tệ quốc gia. Khi  kinh tế  vĩ mô bất  ổn, lạm phát cao, Chính phủ  buộc phải có những biện pháp điều hành   chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa theo hướng thắt chặt để  kiềm chế  lạm phát và ổn   định kinh tế vĩ mô. Điều này cũng có những ảnh hưởng nhất định đến sự  phát triển của thị  trường vốn. Có thể thấy rõ điều đó qua sự bất ổn của TTCK trong những năm gần đây. Khi  kinh tế  vĩ mô  ổn định, niềm tin của NĐT được củng cố, TTCK sẽ  khởi sắc, góp phần  ổn   định và phát triển thị trường vốn. Ba là, tái cấu trúc ngân hàng góp phần phát triển một thị trường vốn có cấu trúc hợp lý. Hiện nay, tín dụng ngân hàng vẫn đóng vai trò chủ  đạo trong cấu trúc thị  trường vốn . Thị  trường cổ phiếu và trái phiếu tuy đã được chú ý phát triển, nhưng quy mô của hai thị trường   này vẫn còn nhỏ  và tồn tại nhiều hạn chế về mặt hoạt động cũng như  khuôn khổ  pháp lý.  Việc tiếp cận vốn của DN thông qua 2 kênh này vì thế  vẫn còn gặp nhiều khó khăn so với   qua kênh tín dụng ngân hàng. Tái cấu trúc ngân hàng theo hướng  giảm bớt số  lượng ngân hàng và TCTD thông qua sáp  nhập và tái cơ  cấu, đồng thời nâng cao chất lượng tín dụng sẽ   góp phần làm thay đổi sự  chênh lệch này. Khi tín dụng khó tiếp cận hơn do những đòi hỏi khắt khe hơn từ  phía ngân  hàng để  đảm bảo mức độ  rủi ro, tránh nợ  xấu, DN sẽ  buộc phải chuyển sang những hình  thức khác để huy động vốn, bao gồm cổ phiếu và trái phiếu. Từ đó, góp phần cân bằng lại tỷ  trọng vốn giữa thị trường tín dụng và TTCK  theo hướng cân bằng và hợp lý hơn. Tuy nhiên,   muốn đạt được điều đó, thì song song với việc tái cấu trúc ngân hàng phải tập trung phát   triển hai thị  trường cổ  phiếu, trái phiếu, để  đảm bảo nguồn cung vốn cho DN. Nếu không,  vô hình chung DN sẽ bị “bóp chết” giữa 2 gọng kìm, không thể tiếp cận được nguồn vốn để  đảm bảo duy trì hoạt động. Một số gợi ý chính sách Từ  những vấn đề  trên, để  phát triển thị  trường vốn thông qua kênh dẫn vốn là hệ  thống   NHTM, tác giả xin đưa ra một số gợi ý chính sách sau: Một là, đối với thị trường vốn tín dụng ngân hàng, cần nâng cao năng lực thể chế, rà soát các  cơ  chế  chính sách theo hướng thị  trường, tạo môi trường cho các TCTD hoạt động... Các   NHTM nên chủ  động xây dựng lộ  trình thích hợp và kiên quyết thực hiện Thông tư  số  02/2012/TT­NHNN về  phân loại nợ  và trích phòng rủi ro, nhanh chóng áp dụng các chuẩn   mực về phân loại nợ và trích phòng rủi ro theo thông lệ quốc tế; rà soát vốn thực có của các   NHTM để giám sát tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu, thực hiện quản trị rủi ro theo Basel II, tiến tới   Basel III...
  12. Bên cạnh đó, tạo môi trường lành mạnh cho hoạt động ngân hàng thông qua việc điều chỉnh  cơ chế, chính sách một cách phù hợp, điều tiết, khắc phục những khuyết tật của thị trường.   Xây dựng chế tài đủ mạnh để đảm bảo tính công bằng của thị trường. Hai là, tiếp tục hoàn thiện việc tái cơ cấu ngân hàng, đề ra lộ trình minh bạch hướng đến sự  chuyển biến về chất. Giảm sự can thiệp của nhà nước vào hoạt động NHTM, bắt buộc các   ngân hàng phải minh bạch thông tin trong kinh doanh. Ba là, phát huy thế mạnh của NHTM về mạng lưới, khả năng phát triển TTCK phi tập trung   (OTC) thông qua việc tạo khuôn khổ pháp lý khuyến khích NHTM tham gia hoạt động chứng   khoán và thúc đẩy hoạt động sâu rộng hơn của ngân hàng trong TTCK. Bốn là, tập trung, đẩy mạnh phát triển thị  trường trái phiếu DN, tăng tính thanh khoản của  thị trường này trên cơ sở nâng cao mức độ tín nhiệm của DN. Muốn vậy, bên cạnh việc các   DN phải tự củng cố, minh bạch công khai thông tin hoạt động của DN, công bố mục đích rõ  ràng của việc phát hành trái phiếu để  NĐT thấy được hiệu quả  khi bỏ  vốn, thì cũng cần   phải có cơ  chế  làm tăng khả  năng đánh giá tín nhiệm của DN; đánh giá độ  rủi ro của việc  đầu tư vào trái phiếu DN. Từ đó, xây dựng “luật chơi” phù hợp cho thị trường vốn. Năm là, chú trọng và đẩy mạnh phát triển thị  trường OTC với trọng tâm là hoạt động của   các NHTM và công ty chứng khoán. Bên cạnh đó, nâng cao vai trò của trung tâm lưu ký chứng   khoán với trách nhiệm tập trung hóa tất cả hoạt động lưu ký đối với các chứng khoán niêm  yết và đăng ký giao dịch của hai trung tâm giao dịch tại Hà Nội và TP. Hồ  Chí Minh, nhằm   tạo điều kiện thuận lợi cho các giao dịch ngoài sàn do các NHTM, công ty chứng khoán thực  hiện. Sáu là, nâng cao tính minh bạch của TTCK thông qua việc hoàn thiện các quy định pháp lý và   hệ thống xếp hạng (định mức) tín nhiệm. Tài liệu tham khảo: 1. Website của Ngân hàng Thế giới (www.worldbank.org); 2. Website của Ngân hàng Phát triển châu Á (www.asianbondsonline.adb.org); 3. Cổng Thông tin điện tử Chính phủ (www.chinhphu.vn); 4. Vuong, Q.Hoang, Tran Tri Dung (2010), “Vietnam’s Corporate Bond Market, 1990 ­ 2010:   Some   reflections”   (http://www.vietnamica.net/op/   wp­ content/uploads/2010/11/VuongTran.JEPR_.Vol6_.No1_.2011.pdf); 5.   Nguyen   Quoc   Hung   (2011)   “Vietnam’s   Capital   Market:   Young   and   Growing”   (http://   www.ide.go.jp/Japanese/Publish/Download/Report/2011/pdf/107_ch9.pdf).
  13. http://www.abs.vn/news.aspx?newsid=144147&group=MarketUpdate Không có kênh huy động vốn nào tốt cho DN như TTCK  26/07/2011 ­ Đầu tư Chứng khoán điện tử Không có kênh huy động vốn nào tốt cho DN như TTCK khi mà nguồn vốn huy động  được từ phát hành cổ phần cho phép DN được sử dụng mãi mãi, trong khi nếu vay vốn  ngân hàng hay tìm vốn  ở  bất kỳ  kênh nào khác  DN  cũng chỉ   được  sử  dụng trong   khoảng thời gian nhất định. Khó khăn trước mắt với DN, với TTCK là không nhỏ, nhưng các DN niêm yết đều mong   rằng, Chính phủ  sẽ sớm có giải pháp đột phá để  ổn định nền kinh tế  vĩ mô, quan tâm phát  triển TTCK để  thị  trường này thực hiện được chức năng quan trọng nhất là giúp DN huy  động   vốn. "Doanh   nghiệp   đang   chờ   đợi   tín   hiệu   tích   cực   từ   Chính   phủ" Ông   Đặng  Thành  Tâm,   Chủ   tịch  HĐQT   Tổng   CTCP   Phát   triển  Đô   thị   Kinh  Bắc   (KBC) Cần xác định TTCK là kênh huy động vốn trung và dài hạn cho nền kinh tế, là sự phát triển   bậc cao của thị  trường tài chính của một quốc gia. Hiếm có nền kinh tế  phát triển nào mà  không có TTCK. Trong khi đó, nhìn lại sự phát triển của TTCK Việt Nam thì thấy thị trường   đang mất đi vai trò quan trọng của nó. Doanh nghiệp đang mất đi một kênh huy động vốn hiệu quả. Ý nghĩa của việc niêm yết cổ  phiếu trên TTCK với nhiều doanh nghiệp không còn. Sự thực là hiện nay, nền kinh tế đang  phải đối mặt với rất nhiều thách thức như lạm phát cao, lãi suất cao, thâm hụt thương mại   ngày càng nhiều và đầu tư nước ngoài sụt giảm. TTCK khó có thể diễn biến lạc quan trong   mối tương quan như vậy. Tuy nhiên, tôi tin tưởng rằng Chính phủ  sẽ  có chính sách đột phá  để   ổn định kinh tế, tập trung cho các giải pháp để  giảm lạm phát, hạ  lãi suất và đảm bảo  tăng trưởng trong 6 tháng cuối năm,  ổn định an sinh xã hội, nếu không công ăn việc làm sẽ  giảm. Doanh nghiệp đang chờ đợi tín hiệu tích cực từ Chính phủ. Tôi thấy việc Ngân hàng Nhà nước đưa ra chính sách "cấm" cho vay chứng khoán, hay bất   động sản, là không hợp lý, không bình đẳng với các doanh nghiệp, đi ngược với nguyên tắc   của WTO. Muốn dòng vốn đi vào đúng địa chỉ  thì nên điều chỉnh bằng hàng rào kỹ  thuật.   Nếu chỉ  đưa ra chính sách là không vào chỗ  này chỗ  khác thì tiền sẽ  đi đường vòng, rồi nó  
  14. vẫn vào được những chỗ "cấm" đó hoặc người ta phải tìm cách "lách" để đạt được mục tiêu  đưa ra về mặt hình thức mà thôi. Tôi tin khi kinh tế vĩ mô ổn định, có chính sách hỗ trợ doanh nghiệp, TTCK sẽ vận động tốt   hơn và triển vọng thị trường lạc quan hơn. "TTCK đã góp phần tích cực cho thị trường tài chính cũng như thị trường tiền tệ Việt   Nam" Ông Đặng Văn Thành, Chủ tịch HĐQT Sacombank Sau 11 năm hình thành và phát triển, TTCK đã góp phần tích cực cho thị trường tài chính cũng  như thị trường tiền tệ Việt Nam. Qua đó, tạo cơ hội cho doanh nghiệp huy động vốn, phục  vụ tính ổn định của dòng vốn cho các doanh nghiệp phát triển trong hoạt động sản xuất, kinh   doanh. Thực tế, những năm trước đây khi TTCK chưa phát triển, các doanh nghiệp Việt Nam   chủ  yếu trông chờ  dòng vốn từ  bên ngoài hoặc dựa vào vốn vay. Nhưng điều này đã được   thay đổi kể từ khi TTCK phát triển. Bởi đây là thị trường có thể biến vốn ngắn thành dài và  ngược   lại. Tuy nhiên, trong thời gian gần đây, do  ảnh hưởng bởi khủng hoảng và tình hình kinh tế  có   khó khăn, TTCK cũng khó tránh khỏi vòng xoáy đó khiến nhà đầu tư không còn mặn mà như  trước. Vì thế, tôi cho rằng, phía cơ  quan quản lý nhà nước cần có sự  quan tâm nhiều hơn  đến thị  trường này thông qua việc các công cụ  khác nhau, trong đó có đa dạng sản phẩm và  hàng   hóa… "TTCK đã giúp nhiều DN huy động vốn để mở rộng phát triển" Ông Vũ Dương Hiền, Chủ tịch HĐQT Tập đoàn HAPACO Là một trong ba DN tiên phong niêm yết trên TTCK Việt Nam từ ngày đầu mở cửa, 11 năm  qua, HAPACO đã luôn song hành với tất cả thăng trầm của thị trường. Hiện tại, TTCK đang  trong giai đoạn suy thoái, bản thân các DN niêm yết, trong đó có HAPACO cũng chịu  ảnh   hưởng không nhỏ khi mà giá cổ phiếu bị suy giảm nặng nề, khiến DN khó huy động vốn để  thực hiện các mục tiêu đã định. Tuy nhiên, không nên vì thế  mà coi nhẹ  vai trò của TTCK   Việt Nam. TTCK mở  cửa đã giúp nhiều DN huy động vốn, tăng tiềm lực tài chính để  mở  rộng phát triển. Không có kênh huy động vốn nào tốt như TTCK khi mà nguồn vốn huy động   được từ phát hành cổ phần cho phép DN được sử dụng mãi mãi, trong khi nếu vay vốn ngân  hàng hay tìm vốn ở bất kỳ kênh nào khác DN cũng chỉ được sử dụng trong khoảng thời gian   nhất   định.
  15. Tiền thân của HAPACO là Xí nghiệp sản xuất giấy bìa. Khi cổ phần hóa (năm 1998), Công  ty mới có vốn điều lệ 1,25 tỷ đồng. Khi bắt đầu niêm yết (năm 2000), vốn điều lệ của Công  ty là 10,8 tỷ đồng. Bằng việc huy động vốn qua TTCK và lợi nhuận để  lại, đến năm 2008,   Công ty đã có vốn điều lệ 500 tỷ đồng, gồm 15 đơn vị thành viên và hoạt động theo mô hình   công ty mẹ ­ con. Trong khó khăn chung của nền kinh tế, hoạt động kinh doanh và kế hoạch   đầu tư của HAPACO cũng gặp nhiều thách thức, nhưng toàn Tập đoàn quyết tâm biến thách   thức thành cơ  hội với niềm tin sâu sắc rằng, khó khăn sẽ  sớm qua đi để  các DN và toàn   TTCK Việt Nam sẽ tiếp tục phát triển.
  16. Thị trường chứng khoán sơ cấp là bộ phận cấu thành hữu cơ và không thể tách rời của thị  trường chứng khoán. Thị trường sơ cấp là tiền đề cho sự ra đời và phát triển của thị trường  chứng khoán. Thị trường chứng khoán sơ cấp là thị trường phát hành chứng khoán mới hay còn được gọi  là thị trường phát hành. Hoạt động của thị trường sơ cấp tạo ra một kênh huy động vốn đầu tư cho nền kinh tế. Ở  thị trường sơ cấp, người phát hành nhận được tiền từ việc bán chứng khoán. Qua hoạt động  này ở thị trường sơ cấp, các nguồn tiền nhàn rỗi trong dân cư, trong các tổ chức kinh tế, xã  hội được chuyển thành vốn đầu tư dài hạn cho người phát hành chứng khoán. Thị trường sơ  cấp là một kênh phân bổ vốn có hiệu quả. Chính vì vậy, thị trường sơ cấp không những đóng  vai trò tập hợp các nguồn vốn mà còn là công cụ hữu hiệu nhằm nâng cao hiệu quả hoạt  động của nền kinh tế. Thị trường chứng khoán sơ cấp là thị trường hoạt động không liên tục, nó chỉ hoạt động  khi có đợt phát hành chứng khoán mới. Tham gia vào thị trường chứng khoán sơ cấp chủ yếu là các nhà phát hành, các nhà đầu tư và  các nhà bảo lãnh (trường hợp phát hành chứng khoán theo phương thức bảo lãnh phát hành). Tiền bán chứng khoán trên thị trường sơ cấp thuộc về các nhà phát hành, do đó hoạt động ở  thị trường này đã làm tăng vốn đầu tư cho nền kinh tế. Khối lượng và nhịp độ giao dịch ở thị trường sơ cấp thấp hơn nhiều so với thị trường thứ  c ấ p. Thị trường chứng khoán thứ cấp là thị trường giao dịch các chứng khoán đã được phát  hành trên thị trường sơ cấp. Thị trường thứ cấp là nơi giao dịch các chứng khoán đã được phát hành trên thị trường thị  sơ cấp. Thị trường đảm bảo tính thanh khoản cho các chứng khoán đã phát hành. Đây là nơi  trao đổi, mua bán các chứng khoán đã được phát hành. Nhà đầu tư mua đi bán lại chứng  khoán nhằm vào một trong các mục đích: cất giữ tài sản tài chính, nhận một khoản thu nhập  cố định hàng năm, hưởng chênh lệch giá. Thị trường thứ cấp: tạo ra khả năng chuyển đổi chứng khoán thành tiền mặt dễ dàng,  thuận tiện; Tiền thu được ở đây không thuộc về nhà phát hành mà thuộc về nhà đầu tư bán  chứng khoán, nhượng lại quyền sở hữu chứng khoán cho nhà đầu tư khác. Thị trường sơ cấp và Thị trường thứ cấp có mối quan hệ nội tại, thị trường sơ cấp là cơ  sở, là tiền đề; Thị trường thứ cấp là động lực. Không có thị trường sơ cấp thì không có  chứng khoán để lưu thông trên thị trường thứ cấp và ngược lại; nếu không có thị trường thứ  cấp thì thị trường sơ cấp khó hoạt động thuận lợi và trôi chảy. Việc phân biệt Thị trường sơ cấp và Thị trường thứ cấp có tính chất tương đối.
  17. Đặc điểm Thị trường có tính chất cạnh tranh hoàn hảo. Thị trường có tính liên tục. Khối lượng và nhịp độ giao dịch lớn gấp nhiều lần so với thị trường chứng khoán sơ cấp. Hoạt động chủ yếu của thị trường chứng khoán thứ cấp là các nhà đầu tư thực hiện chuyển  giao quyền sở hữu chứng khoán và tiền cho nhau. Cơ cấu Dựa theo tiêu thức nhất định, có thể chia thị trường chứng khoán thứ cấp thành các thị trường  khác nhau: Theo tính chất tổ chức của thị trường: Thị trường chứng khoán tập trung (thị trường chứng khoán có tổ chức): thực hiện mua bán  các loại chứng khoán niêm yết được tổ chức một cách chặt chẽ. Việc giao dịch chủ yếu  được thực hiện theo phương thức khớp lệnh tập trung. Thị trường chứng khoán phi tập trung (OTC ­ over the counter market): là thị trường giao dịch  các chứng khoán chưa niêm yết được các Công ty chứng khoán thực hiện qua mạng thông tin. Theo loại hàng hóa giao dịch trên thị trường: Thị trường cổ phiếu; Thị trường trái phiếu; Thị trường chứng khoán phái sinh.
  18. http://cafef.vn/thi­truong­chung­khoan/thi­truong­chung­khoan­bi­thach­thuc­vai­tro­ han­thu­bieu­cua­nen­kinh­te­20150405060024946.chn Thị trường chứng khoán Việt Nam đã trải qua 15 năm nhiều biến động. Hành trang  mang theo là 50 tỷ USD vốn hóa nhưng với những biến động đi ngược với kinh tế  vĩ mô thì đâu đó trên thị trường vẫn có câu hỏi: Liệu, TTCK đã phát triển đủ tốt  như kỳ vọng của nhà đầu tư? Ai mới nhập môn Thị trường chứng khoán cũng được quen với cụm từ “Hàn thử biểu”. Dần  dà, vai trò của thị trường chứng khoán trong nền kinh tế lớn dần lên qua mười lăm năm thành  lập. Chứng khoán được coi là hàn thử biểu của nền kinh tế bởi nó không những đóng vai trò huy  động vốn đầu tư cho nền kinh tế, cung cấp môi trường đầu tư cho công chúng mà còn đánh  giá giá trị doanh nghiệp và tình hình của nền kinh tế, tạo môi trường giúp Chính phủ thực  hiện chính sách kinh tế vĩ mô. Thế nhưng, thời điểm hiện tại, nhiều thông tin kinh tế vĩ mô tích cực được đưa ra còn thị  trường chứng khoán vẫn loanh quanh đi ngang với thanh khoản 2 sàn niêm yết chỉ trên dưới 2  nghìn tỷ­thậm chí còn có lúc chỉ nhình hơn có số 1 nghìn tỷ. … Như vậy là, chứng khoán gần như không phản ánh được sự tăng trưởng của kinh tế vĩ mô và  hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Dường như Thị trường chứng khoán đã không đóng vai trò “hàn thử biểu” của nền kinh tế­ít  nhất là trong lúc này! http://bizlive.vn/chung­khoan/vai­tro­cua­thi­truong­chung­khoan­trong­nang­cao­tinh­minh­ bach­trong­nen­kinh­te­188285.html http://dantri.com.vn/kinh­doanh/han­thu­bieu­cua­nen­kinh­te­dang­bi­te­liet­1055332.htm
  19. http://wss.com.vn/Tintuc/Chitiettintuc/tabid/315/mid/512/ArticleID/43036/tid/257/dnnprintmode/true/Default.aspx?SkinSrc= %5BG%5DSkins%2F_default%2FNo+Skin&ContainerSrc=%5BG%5DContainers%2F_default%2FNo+Container TTCK Việt Nam: Hàn thử biểu của nền kinh tế? Các cụm từ như "hàn thử biểu sàn TP. HCM", "hàn thử biểu TTCK Việt Nam" đã được sử  dụng khá phổ biến và như vậy, TTCK Việt Nam nghiễm nhiên được khoác lên mình cái  "chức danh" là hàn thử biểu của cả nền kinh tế. Tuy nhiên, điều này cần được xem xét lại. TTCK Việt Nam chỉ được coi là hàn thử biểu của nền kinh tế khi đo lường được "sức khỏe"  của toàn bộ nền kinh tế, chỉ số của thị trường phải thể hiện chu kỳ phát triển của nền kinh  tế, từ đó tạo mối quan hệ chặt chẽ và tương hỗ giữa TTCK và thị trường tài chính. Nó phải  đáp ứng đủ 3 yếu tố chính sau: Quy tụ đầy đủ DN lớn tiêu biểu của mọi ngành nghề Một trong những yếu tố bắt buộc để TTCK Việt Nam trở thành hàn thử biểu của nền kinh  tế, đó là thị trường phải chứa đựng những DN lớn tiêu biểu cho mọi ngành nghề, đại diện  cho một nền kinh tế. Tuy nhiên, theo thống kê, hiện nay, TTCK Việt Nam có 289 DN niêm yết. Con số này còn  quá ít so với con số hàng trăm nghìn DN thực tế đang hoạt động. Mặt khác, các DN niêm yết  chủ yếu là những DN nhỏ và vừa, chưa phải là những DN lớn có sức chi phối nền kinh tế... Về mức vốn hóa của thị trường, năm 2007 đạt khoảng 40% GDP. Song đến thời điểm hiện  tại, TTCK đang suy giảm từng ngày, thì mức vốn hoá thị trường cũng giảm đi tương ứng.  Trong khi đó, theo kế hoạch Chính phủ đặt ra, tới năm 2010, tỷ lệ vốn hóa TTCK phải chiếm  50% GDP và con số này phải tăng đến 70% vào năm 2020. Khi đó, quy mô thị trường mới đủ  lớn để có thể đưa TTCK thực sự trở thành hàn thử biểu của nền kinh tế theo đúng nghĩa của  nó. Giá chứng khoán phản ánh tương đối chính xác giá trị thực của DN niêm yết Một thực tế hiện nay là phần lớn con số tính toán về giá trị thực của cổ phiếu đều chỉ sử  dụng một cách máy móc những số liệu ghi trên báo cáo tài chính của các DN niêm yết; chưa  thể hiện được đầy đủ giá trị nội tại của DN mà nó phản ánh. Ngoài ra, sự kém minh bạch  còn phổ biến, kèm theo đó là những yếu tố thuộc về tài sản vô hình của công ty (trình độ  quản lý, uy tín sản phẩm, nhãn hiệu thương mại, chất lượng sản phẩm...) chưa phản ánh hết  trong báo cáo tài chính. Mặt khác, sự thiếu kiến thức và tâm lý đám đông của NĐT đã và đang tác động mạnh mẽ tới  TTCK. Tâm lý "phải tháo chạy bằng mọi giá" đã đẩy chỉ số VN­Index xuyên thủng 400  điểm. Rõ ràng, tâm lý NĐT chứ không phải phương pháp xác định hay hoạt động kinh doanh  của DN quyết định giá chứng khoán.
  20. Phản ánh tương đối chính xác sự biến động của nền kinh tế Hai năm qua, chúng ta đã chứng kiến những bước thăng trầm của TTCK Việt Nam. Ngày  8/11/2006, VN­Index xuất phát với mức 525,99 điểm, chỉ 4 tháng sau (ngày 12/3/2007) VN­ Index đã leo lên tới đỉnh 1.170,67 điểm, để rồi hiện tại VN­Index đã quay trở lại và thậm chí  phá mốc 400 điểm. Tất nhiên, lên xuống là chuyện bình thường của thị trường, nhưng lên  xuống với biên độ lớn trong thời gian ngắn là bất thường. Và điều này có phản ánh chính xác  sự biến động của nền kinh tế hay không? Câu trả lời là không! Dễ dàng nhận thấy, từ cuối năm 2007 đến nay, VN­Index đã giảm quá  sâu, bất chấp những thông tin rất tốt về hiệu quả sản xuất ­ kinh doanh của đại đa số công  ty niêm yết trên sàn, bất chấp nỗ lực chống lạm phát đã có kết quả bước đầu của Chính  phủ. Ngoài ra, nếu nền kinh tế Việt Nam chủ yếu có 4 kênh đầu tư: TTCK, thị trường tín dụng  trung và dài hạn, thị trường bất động sản và thị trường tiền tệ thì trong thời gian qua, sự ảm  đạm của TTCK dường như cũng chưa ảnh hưởng nhiều tới các thị trường còn lại, nếu có,  thì cũng chỉ như sự ảnh hưởng của một hàng hóa này tới một hàng hóa thay thế khác. Nhìn  vào TTCK, chưa thấy được bức tranh khái quát của toàn bộ nền kinh tế. Như vậy, rõ ràng VN­Index hiện chưa phải là hàn thử biểu của kinh tế Việt Nam.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2