intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Giá trị của các bản hương ước ở các làng, xã Thái Bình trong việc giáo dục ý thức, hình thành nhân cách cho học sinh trung học phổ thông

Chia sẻ: ViZeus ViZeus | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:4

57
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Hương ước là văn bản quy phạm xã hội quy định các quy tắc ứng xử chung do cộng đồng dân cư cùng thỏa thuận đặt ra để điều chỉnh các quan hệ xã hội mang tính tự quản của nhân dân nhằm gìn giữ và phát huy những phong tục tập quán, truyền thống văn hóa tốt đẹp của các địa phương (làng xã). Bài viết này đề cập giá trị của các bản hương ước ở Thái Bình trong việc giáo dục ý thức, hình thành nhân cách cho học sinh trung học phổ thông trong bối cảnh hiện nay.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Giá trị của các bản hương ước ở các làng, xã Thái Bình trong việc giáo dục ý thức, hình thành nhân cách cho học sinh trung học phổ thông

VJE<br /> <br /> Tạp chí Giáo dục, Số 440 (Kì 2 - 10/2018), tr 58-61<br /> <br /> GIÁ TRỊ CỦA CÁC BẢN HƯƠNG ƯỚC Ở CÁC LÀNG, XÃ THÁI BÌNH<br /> TRONG VIỆC GIÁO DỤC Ý THỨC, HÌNH THÀNH NHÂN CÁCH<br /> CHO HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG<br /> Trịnh Thị Hường, Viện Lịch sử Đảng - Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh<br /> Ngày nhận bài: 20/08/2018; ngày sửa chữa: 25/08/2018; ngày duyệt đăng: 28/08/2018.<br /> Abstrast: The village convention is a social normative document with general codes of conduct<br /> agreed by the people which adjust the self-governing social relationships to preserving and<br /> promoting the good traditions and customs of the community (village). Hence, the village<br /> conventions are valuable documents to educate moral sense and good traditions for the people in<br /> general and high school students in particular. This article discusses the values of the village<br /> conventions in Thai Binh in awaness education and personality form for high school students in<br /> the current context.<br /> Keywords: convention value, personality education, student, Thai Binh Province.<br /> 1. Mở đầu<br /> “Hương ước” - hay còn gọi là “tục lệ”, “lệ làng” là<br /> một bản quy ước thành văn có giá trị về mặt văn hóa,<br /> truyền thống, gắn liền với lịch sử, trải qua bao biến cố,<br /> thăng trầm cùng thời gian, hương ước đến nay vẫn còn<br /> được lưu giữ và đóng vai trò rất quan trọng trong việc<br /> bảo tồn, giữ gìn nền văn hóa đặc sắc của dân tộc Việt<br /> Nam. Các bản hương ước của cộng đồng làng xã ở Việt<br /> Nam chứa đựng những phong tục, tập quán, quy tắc ứng<br /> xử trong việc thờ cúng Thành Hoàng làng, người có công<br /> lao to lớn trong việc xây dựng và bảo vệ quê hương đất<br /> nước, cũng như việc thờ cúng tổ tiên, quan hệ gia đình,<br /> quan hệ làng xóm, ma chay, cưới hỏi, quan hệ lao động,<br /> phân xử tranh chấp trong làng, xã... và một phần quan<br /> trọng liên quan đến phân chia, quản lí đất đai, đặc biệt là<br /> đất đai hương hỏa. Những nội dung quy định trong<br /> hương ước được xây dựng vào đầu thế kỉ XX nhằm điều<br /> chỉnh các quan hệ xã hội căn bản phát sinh trong đời sống<br /> nông thôn Việt Nam truyền thống. Do vậy, các bản<br /> hương ước trong cộng đồng làng, xã Việt Nam nói<br /> chung, ở tỉnh Thái Bình nói riêng được coi như “thước<br /> đo chuẩn mực” giúp mỗi cá nhân tự “soi” lại những hành<br /> vi ứng xử, việc làm của mình với người thân, với cộng<br /> đồng làng xã, với toàn xã hội. Hương ước có tác dụng to<br /> lớn trong việc giáo dục tư cách đạo đức cho mỗi cá nhân,<br /> giáo dục cộng đồng, sống và làm việc theo hiến pháp,<br /> pháp luật, giáo dục lòng tự hào dân tộc, tình yêu quê<br /> hương đất nước. Dưới thời kì thống trị của thực dân pháp,<br /> các bản Hương ước là một trong những nhân tố “đề<br /> kháng” của làng, xã chống lại chính sách đồng hóa của<br /> chủ nghĩa thực dân, mặc dù đất nước bị xâm lược, nước<br /> mất nhưng làng xã không mất, những phong tục, tập<br /> quán, những giá trị văn hóa truyền thống vẫn được gìn<br /> giữ và bảo tồn.<br /> <br /> 58<br /> <br /> Vào những năm cuối của thế kỉ XX, đặc biệt trong<br /> gần hai thập niên đầu thế kỉ XXI, quá trình phát triển KTXH Việt Nam đạt được nhiều thành tựu to lớn, diện mạo<br /> của đất nước nói chung, các vùng nông thôn, miền núi<br /> nói riêng có nhiều khởi sắc, đời sống kinh tế vật chất<br /> cũng như nhu cầu văn hóa của người dân không ngừng<br /> được nâng lên. Trong quá trình phát triển với xu thế “đô<br /> thị hóa” diễn ra hết sức nhanh chóng, sự dịch chuyển lao<br /> động từ nông thôn ra thành phố ngày càng nhiều đã dẫn<br /> đến một thực trạng ở nông thôn chủ yếu là người già và<br /> trẻ nhỏ, nên phạm vi tác động của hương ước mới đến<br /> cộng đồng bị thu hẹp lại, mặt khác, nhiều phong tục, tập<br /> quán bị thay đổi, mai một, hoặc thất truyền.<br /> Trước tình hình đó, yêu cầu thực tế đặt ra là cần tăng<br /> cường hơn nữa việc xây dựng và thực hiện hương ước,<br /> quy ước, cũng như điều chỉnh, bổ sung một số nội dung<br /> trong các bản hương ước, quy ước trong cộng đồng.<br /> Ngày 19/6/1998, Thủ tướng Chính phủ đã ra Chỉ thị số<br /> 24/1998/CT-TTg về việc xây dựng và thực hiện hương<br /> ước, quy ước của làng, bản, thôn, ấp, cụm dân cư, trong<br /> đó chỉ thị nhấn mạnh: “Trong những năm gần đây, cùng<br /> với việc không ngừng đổi mới và hoàn thiện hệ thống<br /> pháp luật phục vụ cho yêu cầu quản lí nhà nước, quản lí<br /> xã hội bằng pháp luật, các hương ước, quy ước của làng,<br /> bản, thôn, ấp, cụm dân cư đã góp phần hỗ trợ không nhỏ<br /> trong việc thực hiện pháp luật của Nhà nước, điều chỉnh<br /> các mối quan hệ xã hội mang tính tự quản tại cộng đồng<br /> dân cư ở cơ sở. Hiện nay, thực hiện chủ trương mở rộng<br /> dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy quyền làm chủ của<br /> nhân dân, đặc biệt là ở cơ sở, nhiều địa phương trong cả<br /> nước đã và đang xây dựng và hoàn thiện hương ước, quy<br /> ước làng văn hóa trên cơ sở kế thừa những mặt tích cực<br /> của hương ước cũ, phù hợp với quy định của pháp luật<br /> hiện hành. Tại nhiều địa phương, hương ước, quy ước<br /> Email: tranthihuongbg78@gmail.com<br /> <br /> VJE<br /> <br /> Tạp chí Giáo dục, Số 440 (Kì 2 - 10/2018), tr 58-61<br /> <br /> mới không những góp phần phát huy thuần phong mĩ tục,<br /> đề cao các chuẩn mực đạo lí và đạo đức truyền thống của<br /> dân tộc mà còn là công cụ hỗ trợ đắc lực cho các cuộc<br /> vận động duy trì an ninh trật tự, vệ sinh, môi trường,<br /> phòng chống các tệ nạn xã hội, phát triển sản xuất,<br /> khuyến khích học hành, giải quyết các tranh chấp, vi<br /> phạm nhỏ trong nhân dân, xóa đói, giảm nghèo...”.<br /> Do đó, việc tìm hiểu, tuyên truyền, phổ biến nội dung<br /> các bản hương ước, góp phần giáo dục những nét đẹp văn<br /> hóa truyền thống, hình thành nhân cách Việt Nam cho<br /> cộng đồng dân cư nói chung, cho các thế hệ HS nói riêng<br /> là một việc làm có ý nghĩa thiết thực. Tuy nhiên, do hạn<br /> chế về thời lượng, bài viết chỉ tập trung đề cập giá trị<br /> trong một số lĩnh vực của các bản hương ước ở Thái Bình<br /> vào đầu thế kỉ XX trong việc giáo dục ý thức, hình thành<br /> nhân cách, bồi dưỡng lòng yêu quê hương, đất nước cho<br /> HS trên địa bàn Thái Bình trong bối cảnh hiện nay.<br /> 2. Nội dung<br /> 2.1. Sơ lược về hương ước ở Thái bình đầu thế kỉ XX<br /> Theo sách “Hương ước Thái Bình” của tác giả Nguyễn<br /> Thanh biên soạn do Nhà xuất bản Văn hóa dân tộc ấn hành<br /> vào năm 2000 (tái bản năm 2016), cho biết năm 1992, Sở<br /> Văn hóa Thông tin - Thể thao Thái Bình đã tiến hành sưu<br /> tầm, sao chụp lại những bản hương ước cải lương (hương<br /> ước có điều chỉnh, bổ sung với các bản hương ước cũ) của<br /> các làng xã ở Thái Bình đã soạn thảo từ năm 1922 đến<br /> 1944 hiện còn lưu trữ bản gốc tại kho hương ước của Viện<br /> Thông tin Khoa học xã hội (KHXH) thuộc Trung tâm<br /> KHXH và Nhân văn quốc gia (nay là Viện Hàn lâm<br /> KHXH Việt Nam) cho thấy: trước Cách mạng tháng Tám<br /> 1945, Thái Bình có 810 làng (con số này có lúc dãn ra là<br /> 820 làng, có lúc co lại là 802 làng) với số làng xã có hương<br /> ước là 451 làng, xã. Trong đó: hương ước của xã là 218<br /> bản; hương ước của làng là 187 bản; hương ước của thôn<br /> là 45 bản; hương ước của phố huyện là 01 bản. Trong các<br /> bản hương ước này, chỉ có duy nhất bản hương ước của xã<br /> Đại Hữu, tổng Tân Định, huyện Tiền Hải (nay là xã Tây<br /> Ninh, huyện Tiền Hải) được in typo vào năm 1924, các<br /> bản còn lại đều viết tay và có đầy đủ chữ kí của các kì hào,<br /> lí dịch, hội đồng tộc biểu và chữ kí, con dấu của lí trưởng,<br /> tổng, huyện, phủ, tỉnh, có bản ghi bằng chữ Quốc ngữ, có<br /> bản ghi bằng chữ Hán.<br /> Mỗi làng, xã lại có những điều kiện, đặc điểm khác<br /> nhau, do đó, các bản hương ước cũng có sự khác nhau,<br /> “mỗi làng mỗi vẻ” cả về nội dung, bố cục, hình thức trình<br /> bày. Song nội dung cơ bản mà các bản hương ước đều đề<br /> cập đó là những quy định về trách nhiệm của người dân<br /> đối với nhà nước bảo hộ, với làng xã (nghĩa vụ nộp thuế);<br /> quy định việc sử dụng đất đai, khuyến nông, phát triển<br /> sản xuất, đặc biệt là phát triển sản xuất nông nghiệp; quy<br /> định về việc giữ gìn trật tự an ninh xóm làng; động viên,<br /> <br /> 59<br /> <br /> khuyến khích con em nhân dân tích cực học tập để mở<br /> mang văn minh cho làng xã; quy định về trách nhiệm của<br /> người dân trong việc bảo vệ tài sản công, nhất là những<br /> di sản văn hóa truyền thống như: đình, chùa, đền, miếu,<br /> những danh lam thắng cảnh, việc bảo vệ môi trường; quy<br /> định việc thực hiện thuần phong mĩ tục, phong tục, tập<br /> quán như: các nghi thức hiếu, hỉ, tổ chức hội hè, tế lễ, thờ<br /> cúng, thực hiện các mối quan hệ với người thân trong gia<br /> đình, với cộng đồng làng xóm…<br /> Như vậy về cơ bản, các bản hương ước ở Thái Bình<br /> thời kì này vẫn bảo tồn được những mặt tích cực phù hợp<br /> với nét đặc trưng của văn hóa truyền thống, đó là: gìn giữ<br /> phát huy những thuần phong mĩ tục, đề cao các chuẩn mực<br /> đạo lí và đạo đức truyền thống của dân tộc, bảo vệ các di<br /> tích lịch sử, di sản văn hóa, duy trì an ninh, trật tự, vệ sinh,<br /> môi trường, phòng chống tệ nạn xã hội, phát triển sản xuất,<br /> khuyến khích học hành, giải quyết mâu thuẫn nhỏ trong<br /> cộng đồng làng xóm… Đây chính là những giá trị rất cơ<br /> bản của hương ước cần được tuyên truyền và phổ biến<br /> rộng rãi đến mọi tầng lớp dân cư, đặc biệt là các thế hệ HS<br /> góp phần vào việc giáo dục ý thức tự tôn dân tộc, hình<br /> thành nhân cách Việt Nam trong bối cảnh hiện nay.<br /> 2.2. Giá trị của các bản hương ước ở Thái Bình trong<br /> việc giáo dục ý thức, hình thành nhân cách cho học<br /> sinh trong bối cảnh hiện nay<br /> 2.2.1. Giáo dục học sinh ý thức sống, làm việc theo hiến<br /> pháp, pháp luật<br /> Hương ước, quy ước là một loại văn bản quy phạm,<br /> chứa đựng những nguyên tắc bắt buộc hoặc cho phép cá<br /> nhân, tổ chức được làm hoặc không được làm một việc gì<br /> đó trong cuộc sống hằng ngày tại địa phương, đó là các<br /> quy phạm xã hội do cộng đồng dân cư thỏa thuận đặt ra và<br /> cùng nhau thực hiện. Do đó, cùng với hệ thống pháp luật<br /> hiện hành của nhà nước, các bản hương ước (trong đó có<br /> hương ước xưa và hương ước mới hiện nay được tái lập)<br /> có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc giáo dục ý thức<br /> người dân nói chung, các thế hệ HS nói riêng sống, làm<br /> việc theo hiến pháp, pháp luật. Trên thực tế, hương ước,<br /> quy ước được xây dựng chủ yếu để điều chỉnh các quan<br /> hệ tự quản tại cộng đồng dân cư, những quan hệ trong lĩnh<br /> vực xã hội - dân sự mà pháp luật không điều chỉnh hoặc<br /> chỉ điều chỉnh ở mức độ quy định các nguyên tắc chung<br /> như: việc tổ chức ma chay, cưới xin, bảo vệ trật tự trị an,<br /> phát triển sản xuất, khuyến khích học hành, giữ gìn và phát<br /> huy những giá trị đạo đức truyền thống, giải quyết các<br /> tranh chấp hoặc những vi phạm nhỏ trong nhân dân.<br /> Như vậy, hương ước là một công cụ quan trọng góp<br /> phần quản lí xã hội trong phạm vi làng, xã Việt Nam từ<br /> nhiều thế kỉ qua, trong chế độ phong kiến, hương ước tồn<br /> tại song song với pháp luật của Nhà nước phong kiến<br /> Việt Nam, góp phần giữ gìn bản sắc và phong tục tập<br /> <br /> VJE<br /> <br /> Tạp chí Giáo dục, Số 440 (Kì 2 - 10/2018), tr 58-61<br /> <br /> quán của dân tộc. Khi nói đến hương ước, quy ước là đề<br /> cập đến một thành tố quan trọng trong thể chế quản lí<br /> nông thôn, đề cao tính tự quản, tự trị của làng, xã, là một<br /> nét văn hóa quản lí truyền thống có tính phổ biến.<br /> Trong lời nói đầu của Hương ước làng Hiệp Trung tổng Cát Đàm - phủ Thái Ninh (nay là huyện Thái Thụy<br /> - Thái Bình) được soạn thảo vào năm 1937 ghi: “có nước<br /> phải có làng, làng nhiều mới thành nước, nước có luật lệ,<br /> thời chính trị mới hay, làng có khoán ước thì phong tục<br /> mới tốt, đất lề, quê thói lệnh vua phép làng nhẽ thường<br /> bao giờ cũng vậy… Nay thừa thượng lệnh sức làm hương<br /> ước là mong dân ta đổi tục lệ xưa, theo thời thế mới giữ<br /> vững được con đường phong hóa, gieo ra hạt giống văn<br /> minh… chọn những điều hay, trừ những thói dở, châm<br /> chước cho hợp thời làm thành hương ước…” [2; tr 57].<br /> Trong các hương ước cũng quy định rõ ràng hình thức<br /> xử phạt đối với những người mắc lỗi, điều 41 của hương<br /> ước xã Duyên Mĩ, tổng Thượng Hộ, huyện Duyên Hà<br /> (nay là Hưng Hà - Thái bình) có ghi: “đàn bà, trẻ con<br /> phạm lỗi gì xét ra người phạm lỗi ấy còn ở với cha thì<br /> cha phải chịu, mà còn ở với chồng thì chồng phải chịu,<br /> nếu không có cha, chồng thì chú bác phải chịu” [2; tr 61].<br /> Như vậy, quy phạm trong hương ước là quy phạm xã<br /> hội do nhân dân xây dựng nên và nhân dân tự nguyện<br /> thực hiện dựa trên những phong tục, tập quán của địa<br /> phương và hệ thống pháp luật của nhà nước. Do đó,<br /> những nội dung trong các bản hương ước được tuyên<br /> truyền sâu rộng tới mọi tầng lớp dân cư, các thế hệ HS là<br /> nhân tố rất thuận lợi để đưa pháp luật vào cuộc sống<br /> người dân ở cơ sở.<br /> 2.2.2. Giáo dục tinh thần hiếu học, ý thức vượt khó để<br /> vươn lên trong học tập<br /> Đây là nét đẹp truyền thống ở các làng xã cổ truyền<br /> Thái Bình nói riêng và Bắc Kỳ nói chung và luôn giữ một<br /> vai trò đặc biệt quan trọng trong việc rèn luyện nhân<br /> cách, duy trì bản sắc tốt đẹp của dân tộc. Điều này được<br /> thể hiện khá đậm nét trong quy ước của các bản hương<br /> ước làng, xã ở Thái Bình, hình thức khuyến học phổ biến<br /> ở các làng, xã là dành ruộng học điền để chăm lo sự học<br /> hành cho con em nhân dân. Nhiều làng, xã còn có hình<br /> thức trợ cấp giấy bút cho con em nhà nghèo theo học, xếp<br /> ngôi thứ cho những người đỗ đạt, khen thưởng đối với<br /> những người có công nuôi dưỡng…, hương ước cũng<br /> quy định việc xây dựng trường học, mời thầy về dạy, bố<br /> mẹ là những người có trách nhiệm phải khuyên bảo cho<br /> con em đi học, đến trường. Ở một số làng còn đặt ra lệ<br /> khuyến học là hoãn việc đi lính cho những ai đang bận<br /> việc học tập, những làng, xã đặt ruộng “học điền” dành<br /> ra từ bốn, năm sào đến một mẫu lấy hoa lợi mời thầy giáo<br /> dạy chữ hoặc tặng mỗi người đi học một sào ruộng để lấy<br /> hoa lợi ăn học, một số ít làng xã còn cấp tiền ăn học mỗi<br /> <br /> 60<br /> <br /> tháng từ một đến ba quan làm phí giấy bút cho người đi<br /> học ở xã. Những làng có truyền thống khoa bảng thường<br /> hay tổ chức khảo hạch sĩ tử trước kì thi hương… qua đó,<br /> họ được ôn luyện thử sức trước mùa thi.<br /> Hương ước làng Đại Hữu (nay thuộc xã Tây Ninh<br /> huyện Tiền Hải) có ghi: “nghĩa vụ của cha mẹ phải cho<br /> con cái đi học, ai có con từ 8 tuổi trở lên phải cho con đi<br /> học… người nào nghèo túng quá mà hiếu học làng sẽ cấp<br /> giấy bút cho. Ai có con đến tuổi ấy không cho con đi học<br /> phải phạt một đồng trừ ra… trong làng ai chuyên cần việc<br /> học tập thì được miễn tạp dịch. Ai xuất dương du học<br /> được miễn trừ tạp dịch và xuất sưu người ấy làng sẽ trích<br /> công quỹ nộp cho, còn gia quyến người ấy ở nhà có sự<br /> gì làng phải hết lòng bênh vực” [2; tr 70].<br /> Hương ước làng Tô Xuyên, huyện Phụ Dực (nay là<br /> huyện Quỳnh Phụ) quy định: “trong thôn hương lí cần<br /> phải khuyên bảo cho dân làng nhà ai có con phải cho đi<br /> học, vì trong làng có nhiều người học thì mới có văn<br /> minh tiến hóa được… nhà ai có con từ 8 tuổi phải cho<br /> con ra trường công học tập… cấm không được cho trẻ<br /> em lêu lổng” [2; tr 87]. Hương ước làng Long Mĩ, tổng<br /> Thượng Tầm, phủ Thái Ninh (nay là huyện Thái Thụy)<br /> nhấn mạnh: “việc học là việc rất cần thiết cho con người<br /> ta, vì có học thì trí khôn mới mở mang, kiến thức mới<br /> rộng rãi và mới biết được luân thường đạo lí đối đãi với<br /> xã hội và gia đình. Nước mà văn minh, thịnh vượng cũng<br /> do ở nền giáo dục phổ thông” [2; tr 87].<br /> Do đó, quan niệm “nửa bụng chữ bằng một hũ vàng”<br /> được thể hiện rõ nét trong các bản hương ước nếu được<br /> tuyên truyền, phổ biến rộng rãi sẽ có tác dụng rất thiết<br /> thực trong việc giáo dục thế hệ trẻ ở các làng quê Thái<br /> Bình nói riêng, các làng quê Việt Nam nói chung trong<br /> việc nỗ lực vượt khó để vươn lên trong học tập.<br /> 2.2.3. Giáo dục ý thức bảo vệ các di sản văn hóa, giữ gìn<br /> và phát huy thuần phong, mĩ tục, thực hiện nếp sống văn<br /> minh trong cộng đồng<br /> Hương ước, quy ước được coi như một công cụ hỗ<br /> trợ cho pháp luật để duy trì, phát triển thuần phong mĩ<br /> tục, đề cao các chuẩn mực đạo lí và đạo đức truyền thống<br /> trong sinh hoạt cộng đồng làng, xã, như: cách ứng xử,<br /> giao tiếp, ăn, ở, đi lại, phát triển các hoạt động văn hóa<br /> lành mạnh, xây dựng và phát huy tình làng, nghĩa xóm,<br /> đoàn kết, tương thân, tương ái, hỗ trợ, giúp đỡ lẫn nhau<br /> trong cộng đồng dân cư, bảo vệ môi trường sống, sông,<br /> hồ, danh lam thắng cảnh, đền chùa, đình, miếu, các<br /> nguồn nước, đê điều, phát triển đường làng, ngõ xóm,<br /> trồng cây xanh… cũng như các biện pháp bài trừ các hủ<br /> tục, tệ nạn xã hội và mê tín dị đoan trong việc cưới hỏi,<br /> việc tang, lễ hội, thờ phụng ở địa phương; khuyến khích<br /> những nghi lễ lành mạnh, tiết kiệm, hạn chế ăn uống lãng<br /> phí, tốn kém; phòng chống các tệ nạn xã hội như cờ bạc,<br /> <br /> VJE<br /> <br /> Tạp chí Giáo dục, Số 440 (Kì 2 - 10/2018), tr 58-61<br /> <br /> rượu, chè, trộm cắp, các hành vi vi phạm pháp luật khác<br /> nhằm xây dựng địa bàn trong sạch.<br /> Đề cập việc bảo vệ đường làng, ngõ xóm, Hương ước<br /> làng Nội Trang, tổng Hà Lý, huyện Duyên Hà (nay là<br /> huyện Hưng Hà) quy định: “đường công cấm ai được buộc<br /> trâu, bò và trồng cây trong vườn để thò lò cành lá ra ngoài<br /> đường, cấm dịch dậu lấn đường, ruộng ở chân đường<br /> không được vạc xuống làm hỏng đường”. Để bảo vệ lợi<br /> ích của cộng đồng dân cư, tăng cường tình đoàn kết tình<br /> làng nghĩa xóm và giảm gánh nặng cho dân nghèo, Điều<br /> 36, Chương 2, hương ước làng Hiệp Trung, tổng Cát Đàm,<br /> phủ Thái Ninh (nay là huyện Thái Thụy) ghi rõ: “ngày hội<br /> bổ sưu thuế, cấm không được bày ra ăn uống gì, tính bổ<br /> cho dân làng phải chịu nặng thêm”; hay quy định về việc<br /> tang lễ, Điều 133 ghi: “Việc tang hiếu là cốt ở sự buồn rầu,<br /> thương xót, nếu chỉ chăm ở sự sửa soạn chè chén khoản<br /> đãi tân khách để trả nợ miệng lẫn nhau thì thật là trái lễ.<br /> Nay định những nhà có việc tang hiếu không được giết<br /> trâu bò lợn bày ra ăn uống trước, nếu có người thân tình ở<br /> xa đến phúng chỉ được dùng cơm thường khoản đãi” [2; tr<br /> 60]. Mặc dù được soạn thảo trong những năm đầu thế kỉ<br /> XX khi nước ta còn đang trong chế độ cai trị của thực dân<br /> Pháp, nhưng nhìn chung nội dung các bản hương ước vẫn<br /> đảm bảo được những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân<br /> tộc “thương người như thể thương thân”, “lá lành đùm lá<br /> rách” thể hiện tinh thần đoàn kết, đùm bọc chia sẻ cùng<br /> nhau trong cộng đồng làng xã.<br /> Ngày nay, xu thế toàn cầu hóa đang diễn ra một cách<br /> mạnh mẽ và quyết liệt, với quá trình hội nhập quốc tế<br /> ngày càng sâu rộng, sự ảnh hưởng và giao lưu văn hóa<br /> giữa các quốc gia, dân tộc diễn ra ngày càng mạnh mẽ<br /> với sự đan xen của nhiều luồng văn hóa khác nhau, việc<br /> giữ gìn và bảo tồn các giá trị văn hóa truyền thống càng<br /> được đặt ra một cách cấp bách. Do đó, mỗi quốc gia, dân<br /> tộc cần phải có những giải pháp hữu hiệu để vừa tiếp thu<br /> những giá trị văn minh của nhân loại, đồng thời vừa bảo<br /> vệ những đặc trưng văn hóa truyền thống. Trong bối cảnh<br /> đó, hương ước làng xã là một công cụ quan trọng để lưu<br /> giữ và bảo tồn các giá trị văn hóa truyền thống đa dạng<br /> tại các vùng miền, nó như một “tấm lá chắn” thanh lọc<br /> những yếu tố ngoại lai không phù hợp.<br /> 3. Kết luận<br /> Những năm gần đây, trong quá trình đổi mới, cơ cấu<br /> KT-XH cũng như cảnh quan ở khu vực nông thôn đã có<br /> nhiều chuyển biến tích cực, đời sống vật chất của người<br /> dân không ngừng được nâng lên, hình thức sinh hoạt văn<br /> hóa cũng có những thay đổi để phù hợp với cuộc sống,<br /> cơ chế xã hội mới. Đặc biệt, khi Đảng và nhà nước ta có<br /> chủ trương đẩy mạnh công cuộc chấn hưng nền văn hóa<br /> dân tộc, mỗi làng xã, mỗi dòng tộc càng ý thức rõ hơn<br /> tâm lí “tìm về cội nguồn”, các giá trị văn hóa truyền<br /> <br /> 61<br /> <br /> thống trước đây bị mai một có điều kiện để khôi phục và<br /> phát triển, các hoạt động lễ hội, tu sửa đình, chùa, đền,<br /> miếu, di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh, chăm sóc<br /> nghĩa trang liệt sĩ, giúp đỡ người già không nơi nương<br /> tựa, gia đình nghèo neo đơn, trẻ em vùng sâu vùng xa, đã<br /> trở thành một nét đẹp của văn hóa truyền thống, được<br /> đông đảo mọi tầng lớp dân cư, nhất là thế hệ trẻ học sinh,<br /> sinh viên tham gia tích cực.<br /> Để làm tốt những việc làm có ý nghĩa nêu trên, việc<br /> tăng cường tìm hiểu, tuyên truyền, phổ biến nội dung các<br /> bản hương ước giúp thế hệ trẻ có thêm những hiểu biết về<br /> dòng tộc, về cội nguồn, bồi dưỡng cho các em lòng tự hào<br /> về truyền thống quê hương đất nước, qua đó hình thành<br /> nhân cách Việt Nam cho thế hệ trẻ trong bối cảnh hiện nay<br /> là một việc làm cần thiết. Tuy nhiên trong quá trình thực<br /> hiện, các nhà trường, các thầy cô giáo (đặc biệt là giáo viên<br /> bộ môn Lịch sử), các tổ chức chính trị, đoàn thể xã hội địa<br /> phương cần nghiên cứu kĩ nội dung, đối tượng, để có các<br /> giải pháp phổ biến, tuyên truyền giá trị của các bản hương<br /> ước đến mọi tầng lớp dân cư, nhất là với thế hệ trẻ một<br /> cách phù hợp để đạt hiệu quả giáo dục cao nhất.<br /> Tài liệu tham khảo<br /> [1] Thủ tướng Chính phủ (1998). Chỉ thị số<br /> 24/1998/CT-TTg ngày 19/6/1998 về việc xây dựng<br /> và thực hiện hương ước, quy ước của làng, bản,<br /> thôn, ấp, cụm dân cư.<br /> [2] Nguyễn Thanh (2000). Hương ước Thái Bình. NXB<br /> Văn hóa dân tộc.<br /> [3] Thủ tướng Chính phủ (2018). Quyết định số<br /> 22/2018/QĐ-TTg ngày 8/5/2018 về việc xây dựng,<br /> thực hiện hương ước, quy ước.<br /> [4] Bộ Tư pháp - Bộ Văn hóa Thông tin - Ban thường<br /> trực Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam<br /> (2000). Thông tư liên tịch số 03/2000/TTLT-BTPBTTUBTƯMTTQVN ngày 31/3/2000.<br /> [5] Vũ Duy Mền (2010). Hương ước cổ làng xã Đồng<br /> bằng Bắc Bộ. NXB Chính trị Quốc gia - Sự thật.<br /> [6] Đinh Khắc Thuân (chủ biên, 2006). Tục lệ cổ truyền<br /> làng xã Việt Nam. NXB Khoa học xã hội.<br /> [7] Quốc sử quán triều Nguyễn (2007). Đại Nam thực<br /> lục (tập 8), bản dịch. NXB Giáo dục.<br /> [8] Hương ước xã Hưng Quan, tổng Cát Đàm, phủ Thái<br /> Ninh, tỉnh Thái Bình. Thư viện Viện Thông tin Khoa<br /> học xã hội, Kí hiệu HU 3091.<br /> [9] Hương ước thôn Đàm, xã Tô Xuyên, tổng Tô<br /> Xuyên, huyện Phụ Dực, tỉnh Thái Bình. Thư viện<br /> Viện Thông tin Khoa học xã hội, Kí hiệu HU 3054.<br /> [10] Hương ước xã Đại Hữu, tổng Tân Định, huyện Tiền<br /> Hải, tỉnh Thái Bình. Kí hiệu: HU 3204, Thư viện<br /> Viện Thông tin Khoa học xã hội.<br /> <br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0