BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP HỒ CHÍ MINH ----------------
LÊ ĐÌNH HOÀNG
GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN TÍN DỤNG ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA TẠI NGÂN HÀNG TMCP NGOẠI THƯƠNG CHI NHÁNH BÌNH DƯƠNG
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
TP.Hồ Chí Minh – Năm 2011
i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan, luận văn này là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các số liệu, kết
quả trong luận văn là trung thực, các giải pháp đưa ra một cách khách quan, có cơ sở
khoa học theo ý tưởng của bản thân.
Học viên ký tên
Lê Đình Hoàng
ii
MỤC LỤC
Trang
Lời cam đoan ...................................................................................................................... i
Mục lục ............................................................................................................................... ii
Danh mục các từ viết tắt .................................................................................................... vi
Danh mục bảng biểu.......................................................................................................... vii
Lời mở đầu ...................................................................................................................... viii
Chương 1: TỔNG QUAN VỀ TÍN DỤNG NGÂN HÀNG VÀ HOẠT ĐỘNG TÍN
DỤNG NGÂN HÀNG ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA ...........................1
1.1. Những lý luận chung về tín dụng Ngân hàng ..............................................................1
1.1.1. Khái niệm ..................................................................................................................1
1.1.1.1. Khái niệm tín dụng..................................................................................................1
1.1.1.2. Phân tích vận động của một khoản tín dụng ..........................................................1
1.1.2. Bản chất và chức năng của tín dụng ................................................................................2
1.1.2.1. Bản chất của tín dụng .............................................................................................2
1.1.2.2. Chức năng của tín dụng ..........................................................................................2
1.1.3.Vai trò của tín dụng ....................................................................................................3
1.1.4. Các loại tín dụng ngân hàng.......................................................................................3
1.2. Đặc điểm của DNNVV tại Việt Nam và sự cần thiết phát triển DNNVV ...................5
1.2.1. Khái niệm về DNNVV ..............................................................................................5
1.2.2. Đặc điểm của các DNNVV tại Việt Nam .................................................................6
1.2.3. Vai trò của DNNVV trong nền kinh tế thị trường hiện nay ......................................7
1.2.4. Ưu điểm và nhược điểm của DNNVV trong nền kinh tế thị trường hiện nay.........10
1.2.4.1. Ưu điểm của DNNVV...........................................................................................10
1.2.4.2. Nhược điểm của DNNVV ....................................................................................11
1.2.5. Sự cần thiết phải phát triển các DNNVV ................................................................12
1.2.6. Những hạn chế đối với sự phát triển của các DNNVV............................................13
iii
1.2.6.1. Về phía các DNNVV ............................................................................................13
1.2.6.2. Về phía các cơ quan chức năng.............................................................................15
1.2.7. Sự cần thiết của việc hỗ trợ và phát triển tín dụng ngân hàng đối với DNNVV .....16
1.3. Kinh nghiệm phát triển tín dụng DNNVV ở một số nước và bài học kinh nghiệm rút
ra cho Việt Nam .................................................................................................................18
1.3.1. Kinh nghiệm phát triển tín dụng DNNVV ở một số nước.......................................18
1.3.2. Bài học kinh nghiệm rút ra cho Việt Nam ...............................................................21
Kết luận Chương 1 .............................................................................................................22
Chương 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG DOANH NGHIỆP NHỎ
VÀ VỪA TẠI NGÂN HÀNG TMCP NGOẠI THƯƠNG VIỆT NAM – CHI
NHÁNH BÌNH DƯƠNG ................................................................................................23
2.1. Tổng quan về Ngân hàng TMCP Ngoại thương - Chi nhánh Bình Dương ................23
2.1.1. Giới thiệu về Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam ......................................23
2.1.2. Giới thiệu về Ngân hàng TMCP ngoại thương - Chi nhánh Bình Dương ...............24
2.1.2.1. Giới thiệu đôi nét về tỉnh Bình Dương .................................................................25
2.1.2.2. Giới thiệu về Ngân hàng TMCP Ngoại thương – Chi nhánh Bình Dương ..........27
2.2. Thực trạng hoạt động tín dụng DNNVV tại Ngân hàng TMCP Ngoại thương -
Chi nhánh Bình Dương ......................................................................................................28
2.2.1. Phân tích tình hình dư nợ cho vay............................................................................28
2.2.1.1. Dư nợ cho vay theo thành phần kinh tế ...............................................................30
2.2.1.2. Dư nợ cho vay theo ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh .........................................31
2.2.1.3. Dư nợ cho vay theo loại tiền cho vay....................................................................33
2.2.2. Phân tích tình hình dư nợ cho vay DNNVV ............................................................34
2.2.2.1. Dư nợ cho vay DNNVV theo thành phần kinh tế.................................................35
2.2.2.2. Dư nợ cho vay DNNVV theo ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh..........................36
2.2.2.3. Dư nợ cho vay DNNVV theo loại tiền cho vay ....................................................37
iv
2.3. Đánh giá hoạt động tín dụng DNNVV tại Ngân hàng TMCP Ngoại thương - Chi
nhánh Bình Dương .............................................................................................................38
2.3.1. Thực trạng DNNVV và hoạt động tín dụng DNNVV tại Bình Dương ...................38
2.3.1.1. Thực trạng DNNVV tại Bình Dương....................................................................38
2.3.1.2. Thực trạng hoạt động tín dụng DNNVV tại Bình Dương ....................................41
2.3.2. Thuận lợi và khó khăn, hạn chế trong hoạt động tín dụng DNNVV tại Ngân hàng
TMCP Ngoại thương – Chi nhánh Bình Dương ................................................................42
2.3.2.1. Thuận lợi ...............................................................................................................42
2.3.2.2. Khó khăn, tồn tại và hạn chế.................................................................................44
2.3.3. Chỉ tiêu về phát triển tín dụng DNNVV tại Ngân hàng TMCP Ngoại thương – Chi
nhánh Bình Dương .............................................................................................................62
Kết luận Chương 2 .............................................................................................................63
Chương 3: GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN TÍN DỤNG DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ
VỪA TẠI NGÂN HÀNG TMCP NGOẠI THƯƠNG VIỆT NAM - CHI
NHÁNH BÌNH DƯƠNG .................................................................................................64
3.1. Giải pháp đối với bản thân các doanh nghiệp .............................................................64
3.1.1. Giải pháp tạo nên độ tin cậy của doanh nghiệp .......................................................64
3.1.2. Nâng cao chất lượng báo cáo tài chính ....................................................................65
3.1.3. Xây dựng kế hoạch tài chính ngay từ khi khởi sự thành lập doanh nghiệp.............66
3.1.4. Xây dựng phương án kinh doanh khả thi để thuyết phục ngân hàng.......................67
3.1.5. Nâng cao năng lực quản lý.......................................................................................68
3.1.6. Nghiêm túc trong việc thế chấp tài sản bảo đảm .....................................................69
3.1.7. Đẩy mạnh công tác khai thác và ứng dụng công nghệ thông tin .............................70
3.1.8. Liên kết để tăng sức mạnh .......................................................................................71
3.2. Các giải pháp phát triển tín dụng của ngân hàng ........................................................72
3.2.1. Các giải pháp đối với Ngân hàng TMCP Ngoại thương Bình Dương.....................72
3.2.1.1. Xây dựng đối tượng khách hàng DNNVV tiềm năng...........................................72
v
3.2.1.2. Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực ...................................................................72
3.2.1.3. Tăng cường công tác quảng cáo giới thiệu, đưa các tiện ích của dịch vụ ngân
hàng điện tử đến với DNNVV ...........................................................................................74
3.2.1.4. Mở rộng mạng lưới và nâng cao vai trò thẩm định xét duyệt cho vay của các
điểm, phòng giao dịch ........................................................................................................75
3.2.1.5. Cần có chiến lược đẩy mạnh công tác huy động vốn ...........................................76
3.2.1.6. Xây dựng chính sách ưu đãi hợp lý đối với các khách hàng là DNNVV .............78
3.2.2. Giải pháp đối với Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam ...............................79
3.2.2.1. Đơn giản hóa quy trình thẩm định và xét duyệt cho vay ......................................79
3.2.2.2. Xây dựng hệ thống mạng lưới thông tin hiệu quả ................................................81
3.2.2.3. Kiến nghị chỉnh sửa một số điều khoản Chính sách bảo đảm tín dụng của
Vietcombank .....................................................................................................................82
3.3. Các giải pháp hỗ trợ của Nhà Nước, Ngân hàng Nhà nước và các Hiệp hội..............85
3.3.1. Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật.............................................................85
3.3.2. Nâng cao vai trò của Ngân hàng Nhà nước .............................................................87
3.3.3. Nâng cao vai trò của Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam các Hiệp hội doanh nghiệp ..89
3.3.3.1. Vai trò của Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam...........................................................89
3.3.3.2. Vai trò của Hiệp hội doanh nghiệp .......................................................................90
Kết luận Chương 3 .............................................................................................................90
Kết luận ..............................................................................................................................92
Tài liệu tham khảo..............................................................................................................94
vi
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Agribank: Ngân hàng Nông nghiệp & Phát triển Nông thôn
ATM: máy rút tiền tự động
BIDV: Ngân hàng Đầu tư & Phát triển
CNTT: công nghệ thông tin
DNNVV: doanh nghiệp nhỏ và vừa
NHNN: ngân hàng nhà nước
NHTM: ngân hàng thương mại
NSNN: ngân sách nhà nước
TCTD: tổ chức tín dụng
TMCP: thương mại cổ phần
TNDN: thu nhập doanh nghiệp
TNHH: traùch nhieäm höõu haïn
TTCK: thị trường chứng khoán
TW: Trung ương
VCB hay Vietcombank: Ngân hàng Thương mại Cổ phần Ngoại thương Việt Nam
VCB Bình Dương: Ngân hàng Thương mại Cổ phần Ngoại thương Việt Nam – Chi
nhánh Bình Dương
Vietinbank: Ngân hàng Công thương
UBND: ủy ban nhân dân
vii
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Trang
Bảng 1.1: Quy mô DNNVV.................................................................................................6
Bảng 2.1: Số liệu dư nợ qua các thời kỳ ............................................................................29
Bảng 2.2: Tốc độ tăng trưởng dư nợ qua các thời kỳ.........................................................29
Bảng 2.3: Dư nợ theo thành phần kinh tế ..........................................................................30
Bảng 2.4: Tỷ lệ dư nợ theo thành phần kinh tế ..................................................................31
Bảng 2.5: Dư nợ theo ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh ...................................................32
Bảng 2.6: Tỷ lệ dư nợ theo ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh...........................................32
Bảng 2.7: Dư nợ theo loại tiền cho vay..............................................................................33
Bảng 2.8: Dư nợ DNNVV..................................................................................................34
Bảng 2.9: Số liệu dư nợ DNNVV ......................................................................................34
Bảng 2.10: Dư nợ DNNVV theo thành phần kinh tế.........................................................35
Bảng 2.11: Tỷ lệ dư nợ DNNVV theo thành phần kinh tế ................................................36
Bảng 2.12: Dư nợ DNVVN theo ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh..................................36
Bảng 2.13: Tỷ lệ dư nợ DNNVV theo ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh .........................37
Bảng 2.14: Dư nợ DNNVV theo loại tiền cho vay ...........................................................38
Bảng 2.15: Số lượng DNNVV tại Bình Dương phân theo loại hình .................................39
Bảng 2.16: Số lượng DNNVV tại Bình Dương phân theo địa bàn....................................39
Bảng 2.17: Số lượng DNNVV tại Bình Dương phân theo ngành nghề.............................40
Bảng 2.18: Doanh thu và đóng góp NSNN của DNNVV tại Bình Dương........................40
Bảng 2.19: Dư nợ DNNVV của các TCTD tại Bình Dương .............................................41
viii
LỜI MỞ ĐẦU
I. Tính cấp thiết của đề tài:
Năm 2011 được cho là năm thách thức đối với các DNNVV, mặc dù nền kinh tế
đã có những chuyển biến và bước đi tương đối tốt hơn nhưng vẫn còn một số tồn tại đó là
các vấn đề về kinh tế vĩ mô, về chất lượng nguồn nhân lực, về thủ tục hành chính,... mà
trong đó DNNVV có nhiều yếu thế hơn so với các loại hình doanh nghiệp khác. Việc
Nhà nước ban hành hàng loạt các chính sách kinh tế vĩ mô để ổn định phát triển nền kinh
tế, kiềm chế lạm phát, thắt chặt tín dụng,... đã ảnh hưởng trực tiếp đến tình hình hoạt
động sản xuất kinh doanh của các DNNVV trong thời gian qua do không thể tiếp cận
nguồn vốn vay ngân hàng. Trong khi DNNVV là bộ phận quan trọng và có những đóng
góp rất tích cực cho nền kinh tế, cụ thể, theo thống kê mới nhất, cả nước hiện có trên
600.000 DNNVV, chiếm trên 90% số lượng doanh nghiệp với số vốn đăng ký lên gần
2.313.857 tỷ đồng (tương đương 121 tỷ USD). Các DNNVV không chỉ đóng góp đáng kể
vào sự phát triển kinh tế của đất nước, mà còn giúp tạo ra hơn một triệu việc làm mới mỗi
năm, đặc biệt là nguồn lao động chưa qua đào tạo, góp phần xóa đói giảm nghèo, tăng
cường an sinh xã hội,... (hiện các doanh nghiệp này sử dụng trên 50% lao động xã hội và
đóng góp khoảng 40% GDP).
Thấy được tầm quan trọng và đầy tiềm năng cũng như sự đóng góp các hoạt động
sản xuất kinh doanh của bộ phận các DNNVV, tuy nhiên từ thực tế, VCB Bình Dương
với dư nợ khách hàng là doanh nghiệp chiếm trên 90% tổng dư nợ nhưng trong đó tỷ
trọng dư nợ của các DNNVV lại khá hạn chế (thời điểm 30/09/2011 là 16%). Ngoài
những khó khăn của tự bản thân doanh nghiệp đã tạo nên những rào cản trong việc tiếp
cận nguồn vốn vay ngân hàng như tình hình tài chính không rõ ràng, tài sản bảo đảm
thiếu, hạn chế trong việc lập báo cáo xây dựng phương án khả thi,… thì những chính
sách chủ quan từ phía ngân hàng càng làm cho rào cản đó ngày thêm khó khăn. Cụ thể
chỉ tập trung cho vay những khách hàng tiềm năng, tài chính tốt, doanh thu cao, doanh số
giao dịch nhiều, có nguồn thu ngoại tệ, tài sản bảo đảm có giá trị cao,…. Điều này dần
ix
dần đã tạo nên tâm lý chây ỳ trong cán bộ công nhân viên, làm hạn chế việc tiếp thị phát
triển tín dụng DNNVV bởi lý do “vay ít, lãi ít, mất thời gian”, “tập trung cho vay một
doanh nghiệp lớn còn hơn cho vay 10 doanh nghiệp nhỏ”,... Các khách hàng là DNNVV
từ đó cũng dần ngại tìm đến với VCB Bình Dương khi có nhu cầu vay vốn, giao dịch và
vô hình tạo nên những rủi ro tiềm ẩn cho VCB Bình Dương trong cơ cấu dư nợ, do chỉ
tập trung vào những khách hàng lớn mà bỏ lỡ một mảng thị trường DNNVV có nhiều
tiềm năng, làm giảm khả năng cạnh tranh, phát triển thương hiệu của VCB Bình Dương
đến các DNNVV.
Xuất phát từ thực tiễn nói trên, tác giả chọn đề tài “Giải pháp phát triển tín dụng
đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam –
Chi nhánh Bình Dương” làm luận văn tốt nghiệp.
Đây không chỉ là vấn đề của riêng VCB Bình Dương mà còn là vấn đề chung đối
với các ngân hàng thương mại khác trên địa bàn tỉnh, đặc biệt là các ngân hàng lớn có
nguồn gốc quốc doanh như ngân hàng NN & PTNT, BIDV, Vietinbank. Vì vậy, với
những giải pháp trình bày trong luận văn, tác giả hy vọng sẽ góp phần đẩy mạnh công tác
phát triển tín dụng DNNVV tại VCB Bình Dương và một số ngân hàng bạn có quy mô
hoạt động tương tự, góp phần cơ cấu lại danh mục cho vay theo quy mô DNNVV trong
bối cảnh nền kinh tế hiện nay.
II. Mục tiêu nghiên cứu:
Từ những lý luận chung về tín dụng ngân hàng và hoạt động tín dụng ngân hàng
đối với DNNVV, Luận văn phản ánh và đánh giá thực trạng hoạt động tín dụng DNNVV
tại Ngân hàng TMCP Ngoại thương – Chi nhánh Bình Dương.
Trên cơ sở phản ánh, đánh giá và dựa vào những điều kiện thực tế để tìm ra các
giải pháp nhằm mở rộng và phát triển tín dụng DNNVV tại Ngân hàng TMCP Ngoại
thương – Chi nhánh Bình Dương.
x
III. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Nghiên cứu các quy định pháp luật hiện hành liên quan đến hoạt động của các tổ
chức tín dụng tại Việt Nam.
Nghiên cứu thực trạng hoạt động tín dụng DNNVV của Ngân hàng TMCP Ngoại
thương – Chi nhánh Bình Dương trên địa bàn tỉnh Bình Dương, những thuận lợi, khó
khăn trong hoạt động tín dụng DNNVV. Đề ra các giải pháp nhằm phát triển tín dụng
DNNVV tại Ngân hàng TMCP Ngoại thương – Chi nhánh Bình Dương.
IV. Phương pháp nghiên cứu:
Phương pháp nghiên cứu được sử dụng là phương pháp duy vật biện chứng, duy
vật lịch sử, đồng thời vận dụng một số phương pháp như phương pháp phân tích, phương
pháp so sánh, thống kê…
V. Kết cấu của luận văn:
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn được trình bày theo kết cấu như sau:
Chương 1: Tổng quan về tín dụng ngân hàng và hoạt động tín dụng ngân hàng đối
với doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Chương 2: Thực trạng hoạt động tín dụng doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Ngân hàng
TMCP Ngoại thương Việt Nam – Chi nhánh Bình Dương.
Chương 3: Giải pháp phát triển tín dụng doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Ngân hàng
TMCP Ngoại thương Việt Nam – Chi nhánh Bình Dương.
Để minh họa cho luận văn, luận văn đã sử dụng số liệu của Ngân hàng TMCP
Ngoại thương – Chi nhánh Bình Dương, các tạp chí, các số liệu trên các trang website,
các báo cáo có liên quan đến tình hình kinh tế tỉnh Bình Dương.
1
Chương 1:
TỔNG QUAN VỀ TÍN DỤNG NGÂN HÀNG VÀ HOẠT ĐỘNG
TÍN DỤNG NGÂN HÀNG ĐỐI VỚI DNNVV
1.1. Những lý luận chung về tín dụng Ngân hàng
1.1.1. Khái niệm
1.1.1.1. Khái niệm tín dụng
Tín dụng (credit) xuất phát từ chữ La Tinh là credo, có nghĩa là tin tưởng, là
tín nhiệm. Tuy nhiên trong thực tế, tùy theo các góc độ nghiên cứu người ta có các
định nghĩa khác nhau về tín dụng. Cụ thể, khi xem xét tín dụng như là một chức
năng cơ bản của ngân hàng thì tín dụng được hiểu như sau:
Tín dụng là một giao dịch về tài sản (tiền hoặc hàng hóa) giữa bên cho
vay (ngân hàng và các định chế tài chính khác) và bên đi vay (cá nhân, doanh
nghiệp và các chủ thể khác) trong đó bên cho vay chuyển giao tài sản cho bên
đi vay sử dụng trong một thời hạn nhất định theo thoả thuận, bên đi vay có
trách nhiệm hoàn trả vô điều kiện vốn gốc và lãi cho bên vay khi đến hạn
thanh toán.
1.1.1.2. Phân tích vận động của một khoản tín dụng
Khi phân tích vận động của tín dụng chúng ta thấy tín dụng là một giao dịch
về tài sản trên cơ sở hoàn trả có các giai đoạn đặc trưng sau:
Một là, tài sản giao dịch trong quan hệ tín dụng ngân hàng có thể dưới hai
hình thái là bằng tiền hoặc bằng tài sản, thường được gọi chung là giá trị tín dụng.
Hai là, bên cho vay khi chuyển giao giá trị tín dụng cho bên đi vay sử dụng
phải có cơ sở để tin rằng bên đi vay sẽ trả đúng hạn.
Ba là, giá trị hoàn trả thông thường phải lớn hơn giá trị lúc cho vay, tức
người đi vay phải trả thêm phần lãi ngoài vốn gốc. Quan hệ tín dụng có thể được
Cấp giá trị tín dụng (1)
biểu diễn theo sơ đồ sau:
Người đi vay (Khách hàng)
Hoàn trả giá trị tín dụng + lãi (2)
Người cho vay (Ngân hàng)
2
1.1.2. Bản chất và chức năng của tín dụng
1.1.2.1. Bản chất của tín dụng
Tín dụng là hình thức vận động của vốn cho vay, phản ánh mối quan hệ kinh tế
giữa chủ thể sở hữu và các chủ thể sử dụng nguồn vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế trên
nguyên tắc hoàn trả có kỳ hạn cả gốc lẫn lãi.
Quan hệ tín dụng ra đời bắt nguồn từ sự xuất hiện mối quan hệ cung cầu về
vốn giữa người đi vay và người cho vay. Quan hệ tín dụng tồn tại trong nhiều nền kinh
tế hàng hóa, nhưng do tính chất của các phương thức sản xuất xã hội khác nhau nên tín
dụng cũng mang những bản chất khác nhau. Và chung quy lại tín dụng mang 3 đặc
điểm cơ bản sau:
- Chỉ thay đổi quyền sử dụng mà không thay đổi quyền sở hữu vốn tín
dụng.
- Khoản tín dụng có thời hạn được xác định do người cho vay và người đi vay
thỏa thuận.
- Người chủ sở hữu tín dụng nhận được khoản thu nhập dưới hình thức lợi
tức.
1.1.2.2. Chức năng của tín dụng
Tập trung và phân phối lại vốn tiền tệ:
Đây là chức năng cơ bản nhất. Bằng phương pháp tín dụng hay sử dụng đòn
bẩy tín dụng, tập trung các nguồn vốn tiền tệ nhàn rỗi trong xã hội, rồi phân phối lại
dưới hình thức cho vay để đáp ứng các nhu cầu về vốn cho các hoạt động sản xuất,
kinh doanh và đời sống.
Chức năng tập trung và phân phối lại vốn là chức năng cơ bản và có ý nghĩa
to lớn của tín dụng đối với sự phát triển của nền kinh tế xã hội. Nhờ chức năng tập
trung và phân phối lại tiền tệ của tín dụng mà phần lớn nguồn tiền trong xã hội từ
chỗ là tiền “nhàn rỗi” một cách tương đối, đã được huy động và sử dụng cho các
nhu cầu của sản xuất và đời sống, làm cho hiệu quả sử dụng vốn trong toàn xã hội
tăng.
3
Tiết kiệm tiền mặt và chi phí lưu thông cho xã hội:
Thu hút nhiều đơn vị và cá nhân mở tài khoản tiền gửi. Số lượng tài khoản
ngày càng gia tăng và tiền mặt trong nền kinh tế xã hội sẽ giảm đi một cách tương
ứng. Nhờ đó sẽ tiết kiệm chi phí in ấn, bảo quản tiền mặt, tạo ra văn minh tiền tệ, có
lợi cho xã hội. Khi nhiều đơn vị, nhiều tổ chức cá nhân mở tài khoản ở ngân hàng
thì hầu hết các khoản giao dịch, thanh toán sẽ được thực hiện dưới hình thức chuyển
khoản. Nó đảm bảo an toàn, chính xác, mang lại nhiều lợi ích lớn cho xã hội, tạo
điều kiện cho nền kinh tế - xã hội phát triển.
Phản ánh và kiểm soát các hoạt động kinh tế:
Khi vốn tín dụng vận động từ chủ thể này sang chủ thể khác, cụ thể là từ
người cho vay sang người đi vay, đòi hỏi người đi vay phải sử dụng đúng mục đích
và phải đảm bảo mang lại hiệu quả để không những tạo ra thu nhập cho chính người
sử dụng vốn mà còn để thực hiện nghĩa vụ của mình đối với người cho vay.
Tín dụng phát triển được là dựa trên cơ sở của sự tín nhiệm. Sự tín nhiệm đó
phải có nền tảng, phải có cơ sở là thực tiễn hoạt động của các đơn vị, cá nhân thể
hiện qua các báo cáo tài chính.
Tất cả những điều nói trên đòi hỏi hoạt động của tín dụng phải được kiểm
soát chặt chẽ để qua đó có thể phát hiện và ngăn chặn những hiện tượng tiêu cực để
làm cho các quan hệ tín dụng được thực hiện một cách bình thường, mang lại hiệu
quả cao cho xã hội, cho các chủ thể có quan hệ tín dụng.
1.1.3.Vai trò của tín dụng
Nói đến vai trò của tín dụng là nói đến tác động của tín dụng đối với nền
kinh tế xã hội. Vai trò của tín dụng bao gồm các vai trò cơ bản sau:
- Một là, tín dụng góp phần thúc đẩy sản xuất lưu thông hàng hóa phát triển:
Đối với doanh nghiệp: tín dụng góp phần cung ứng vốn, bao gồm: vốn cố
định và vốn lưu động.
Đối với người dân: tín dụng là cầu nối giữa tiết kiệm và đầu tư.
Đối với toàn xã hội: tín dụng làm tăng hiệu suất sử dụng đồng vốn.
- Hai là, tín dụng góp phần ổn định tiền tệ, ổn định giá cả.
4
- Ba là, tín dụng góp phần ổn định đời sống, tạo công ăn việc làm và ổn định
trật tự xã hội.
- Cuối cùng có thể nói tín dụng còn có vai trò quan trọng nữa đó là mở rộng
phát triển các mối quan hệ kinh tế đối ngoại và giao lưu quốc tế. Sự phát triển của
tín dụng không những ở trong phạm vi một nước mà còn lan rộng ra phạm vi các
nước trên thế giới, nhờ đó thúc đẩy phát triển quan hệ kinh tế đối ngoại, nhằm giúp
đỡ, hỗ trợ và giải quyết các nhu cầu lẫn nhau trong quá trình đi lên của mỗi nước,
làm cho các nước có điều kiện xích lại gần nhau hơn và cùng nhau phát triển.
1.1.4. Các loại tín dụng ngân hàng
Phân loại tín dụng (chỉ đề cập đến phân loại cho vay mà không đề cập các
hình thức tín dụng khác như bảo lãnh, chiết khấu,…) được chia ra các loại sau:
- Cho vay bất động sản là loại cho vay liên quan đến việc mua sắm và xây
dựng bất động sản nhà ở, đất đai, bất động sản trong lĩnh vực công nghiệp, thương
mại và dịch vụ.
- Cho vay công nghiệp và thương mại là cho vay ngắn hạn để bổ sung vốn
lưu động cho các doanh nghiệp trong lĩnh vực công nghiệp, thương mại và dịch vụ.
- Cho vay nông nghiệp là loại cho vay để trang trải các chi phí sản xuất như
phân bón, thuốc trừ sâu, giống cây trồng, thức ăn gia súc, lao động, nhiên liệu, …
- Cho vay các định chế tài chính bao gồm cấp tín dụng cho các ngân hàng,
công ty tài chính, công ty cho thuê tài chính, công ty bảo hiểm, quỹ tín dụng và các
định chế tài chính khác.
- Cho vay cá nhân là cho vay để đáp ứng các nhu cầu tiêu dùng như mua sắm
các vật dụng, các khoản cho vay để bù đắp các chi phí đời sống thông qua phát hành
thẻ tín dụng.
Căn cứ thời hạn cho vay, tín dụng được chia làm ba loại như sau:
- Cho vay ngắn hạn: thời gian cho vay tối đa là 12 tháng.
- Cho vay trung hạn: thời gian cho vay từ trên 12 tháng đến 60 tháng.
- Cho vay dài hạn: thời gian cho vay trên 60 tháng.
5
Căn cứ mức độ tín nhiệm đối với khách hàng cho vay được chia làm hai
loại:
- Cho vay không có bảo đảm bằng tài sản: là loại cho vay không có tài sản
thế chấp, cầm cố hoặc bảo lãnh của bên thứ ba, việc cho vay chỉ dựa vào uy tín của
khách hàng.
- Cho vay có bảo đảm là loại cho vay dựa trên cơ sở các bảo đảm như thế
chấp, cầm cố hoặc bảo lãnh của bên thức ba.
1.2. Đặc điểm của DNNVV tại Việt Nam và sự cần thiết phát triển DNNVV
1.2.1. Khái niệm về DNNVV
Thực ra không có một sự phân loại chung nào được thống nhất về những gì
cấu thành nên một doanh nghiệp “ nhỏ” và “vừa ”. Quy mô của một doanh nghiệp
thường được xác định bởi nhiều chỉ tiêu khác nhau, bao gồm: tài sản, số người lao
động, cơ cấu vốn của chủ sở hữu, nguồn, loại hình tài trợ và lĩnh vực doanh nghiệp
hoạt động. Tại Việt Nam theo Nghị Định số 56/2009/NĐ-CP ngày 30/06/2009 thì
DNNVV được định nghĩa như sau: “DNNVV là cơ sở kinh doanh đã đăng ký giấy
phép hoạt động theo quy định pháp luật, được chia thành ba cấp: siêu nhỏ, nhỏ,
vừa theo quy mô tổng nguồn vốn (tổng nguồn vốn tương đương tổng tài sản được
xác định trong bảng cân đối kế toán của doanh nghiệp) hoặc số lao động bình quân
năm (tổng nguồn vốn là tiêu chí ưu tiên)”, cụ thể như sau:
6
Bảng 1.1: Quy mô DNNVV
Quy mô
Doanh nghiệp nhỏ
Doanh nghiệp vừa
Doanh nghiệp siêu nhỏ
Số lao động
Số lao động
Số lao động Tổng nguồn
Tổng nguồn vốn
vốn
Khu vực
10 người trở xuống
20 tỷ đồng trở xuống
trên 10 đến
I. Nông, lâm nghiệp và thủy sản
từ người 200 người
từ trên 20 tỷ đồng đến 100 tỷ đồng
trên 200 từ người đến 300 người
II. Công nghiệp và xây dựng
10 người trở xuống
20 tỷ đồng trở xuống
trên 10 đến
từ người 200 người
từ trên 20 tỷ đồng đến 100 tỷ đồng
trên 200 từ người đến 300 người
III. Thương mại và dịch vụ
10 người trở xuống
10 tỷ đồng trở xuống
từ trên 10 người đến 50 người
từ trên 10 tỷ đồng đến 50 tỷ đồng
từ trên 50 người đến 100 người
(Nguồn: Nghị Định số 56/2009/NĐ-CP ngày 30/06/2009 của Chính phủ)
Như vậy theo định nghĩa trên DNNVV là loại hình doanh nghiệp thuộc mọi
thành phần kinh kế và chịu ảnh hưởng của các Luật sau:
- Luật doanh nghiệp.
- Luật doanh nghiệp Nhà Nước.
- Luật hợp tác xã.
- Các hộ kinh doanh cá thể đăng ký theo Nghị Định số 02/2000/NĐ-CP ngày
02/02/2000 của Chính Phủ về đăng ký kinh doanh.
Qua đó ta thấy các DNNVV hoạt động rất đa dạng trên mọi lĩnh vực hoạt
động và đa dạng hóa các ngành nghề.
Ở Việt Nam hiện nay khi nói đến DNNVV người ta chỉ chú ý đến quy mô
nguồn vốn đăng ký kinh doanh và quy mô lao động chứ không chú ý đến thành
phần kinh tế. Tuy nhiên theo định nghĩa của thông lệ quốc tế thì “các DNNVV” là
từ chỉ dùng để dành riêng cho các xí nghiệp thuộc thành phần kinh tế tư nhân.
1.2.2. Đặc điểm của các DNNVV Việt Nam
Từ định nghĩa trên ta thấy các DNNVV có một số đặc điểm sau:
7
- Các DNNVV được phân bổ rộng khắp trên địa bàn cả nước, nó không tập
trung vào một số khu vực cũng như lĩnh vực sản xuất nhất định, mà đa dạng hoá về
loại hình hoạt động và hình thức tổ chức, không phân biệt thành phần kinh tế.
- Bộ máy quản lý gọn nhẹ, công tác điều hành thường mang tính trực tiếp, ở
một số doanh nghiệp người quản lý ngoài chức năng quản lý doanh nghiệp còn
kiêm luôn một số vị trí khác, vì vậy làm cho mối quan hệ giữa người lao động và
người quản lý rất chặt chẽ.
- Quy mô sản xuất nhỏ, có tính năng động, linh hoạt, nhạy cảm với những
thay đổi của thị trường.
- Hoạt động chủ yếu ở các ngành thủ công mỹ nghệ, gia công may mặc, sản
xuất các thiết bị linh kiện điện tử; các ngành hàng nhỏ, có giá trị thấp mà các doanh
nghiệp lớn thường không chú ý như: thực phẩm (giò chả, ruốc, bánh đa…), các
ngành chế biến nông sản, gia công may mặc,…
- Dễ thành lập doanh nghiệp do đòi hỏi vốn ít, diện tích mặt bằng không
nhiều, các điều kiện sản xuất đơn giản và dễ chuyển hướng kinh doanh.
- Các DNNVV có khả năng tạo việc làm tăng, nó được xem là cần tập trung
nhiều lao động hơn các doanh nghiệp lớn.
- Sẵn sàng đầu tư vào các lĩnh vực mới: các DNNVV dễ dàng đổi mới trang
thiết bị, công nghệ, thích ứng với cuộc cách mạng khoa học công nghệ.
Từ những đặc điểm này có thể thấy các DNNVV có vai trò quan trọng đối
với sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội.
1.2.3. Vai trò của DNNVV trong nền kinh tế thị trường hiện nay
Hiện nay ở hầu hết các nước, DNNVV đóng vai trò quan trọng chi phối rất
lớn đến công cuộc phát triển kinh tế xã hội. Ở nước ta, DNNVV chiếm trên 90%
tổng số doanh nghiệp với nhiều loại hình kinh tế, bao gồm: doanh nghiệp Nhà nước,
Công ty cổ phần, Công ty liên doanh, doanh nghiệp tư nhân, hợp tác xã, cơ sở sản
xuất, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài,… Điều đó cho thấy DNNVV có vai
trò quan trọng trong nền kinh tế nước ta, thể hiện:
8
- Các DNNVV giữ vai trò quan trọng trong nền kinh tế, chiếm tỷ trọng lớn
trong tổng số các doanh nghiệp hoạt động của cả nước. Vì thế, đóng góp của họ vào
tổng sản lượng và tạo việc làm là rất đáng kể. DNNVV góp phần ổn định xã hội, dễ
dàng được tạo lập với một lượng vốn không lớn, thường xuyên đáp ứng nhu cầu
thay đổi của thị trường, mặc dù số lượng lao động trong mỗi DNNVV không nhiều,
nhưng với số lượng rất lớn khối DNNVV trong nền kinh tế, đã tạo ra phần lớn công
ăn việc làm cho xã hội.
- Các DNNVV có qui mô nhỏ, nên dễ điều chỉnh, thay đổi theo nhu cầu, thị
hiếu của thị trường. DNNVV cung cấp một khối lượng lớn sản phẩm đa dạng,
phong phú và độc đáo về mặt hàng, chủng loại đáp ứng nhu cầu của người tiêu
dùng, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế phát triển và làm cho nền kinh tế năng
động.
- Các DNNVV hỗ trợ đắc lực cho doanh nghiệp quy mô lớn, là cơ sở để hình
thành những doanh nghiệp, tập đoàn kinh tế lớn mạnh trong quá trình phát triển
kinh tế thị trường, tạo nên ngành công nghiệp và dịch vụ phụ trợ quan trọng.
- Các DNNVV đi vào những thị trường ngõ, ngách hỗ trợ các doanh nghiệp
lớn trong việc tiếp cận thị trường, tiêu thụ sản phẩm, cân đối khả năng cung cầu hợp
lý trong xã hội. Mặt khác, DNNVV cũng là những doanh nghiệp vệ tinh cung cấp
các sản phẩm đầu vào, gia công, sản xuất, kinh doanh trong chu kỳ hoạt động của
các doanh nghiệp lớn, làm tăng khả năng hoạt động của các doanh nghiệp trên thị
trường, tạo mối liên kết chặt chẽ giữa các loại hình, các thành phần kinh tế.
- Các DNNVV với quy mô nhỏ, được phân bố rải khắp ở các địa phương,
các vùng lãnh thổ trên cả nước nên DNNVV có khả năng tận dụng các tiềm năng về
lao động, nguyên vật liệu sẵn có ở địa phương và sử dụng các sản phẩm phụ hoặc
phế liệu, phế phẩm của các doanh nghiệp lớn. DNNVV đóng góp phần quan trọng
vào ngân sách, vào sản lượng và tạo công ăn việc làm cho người lao động ở địa
phương, là trụ cột của kinh tế địa phương.
- Các DNNVV góp phần quan trọng trong việc tạo lập sự phát triển cân bằng
và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo vùng lãnh thổ:
9
Trong nền kinh tế luôn tồn tại với nhiều loại hình doanh nghiệp và các quy mô
khác nhau. Thông thường các doanh nghiệp lớn tập trung ở vùng đô thị, có cơ sở hạ
tầng phát triển, nhưng lại không đáp ứng được tất cả yêu cầu của nền kinh tế như
lưu thông hàng hóa, dịch vụ, phát triển ngành nghề truyền thống, tiểu thủ công
nghiệp, giải quyết lao động, ổn định đời sống xã hội của nhân dân…Với chiều
hướng đó sẽ gây tình trạng mất cân đối nghiêm trọng về trình độ phát triển kinh tế,
văn hóa, xã hội giữa thành thị và nông thôn, giữa các vùng, miền.
Sự phát triển của DNNVV góp phần quan trọng trong việc tạo lập sự cân đối
giữa các địa phương. Nó giúp cho vùng sâu, vùng xa, các vùng nông thôn có thể
khai thác được tiềm năng địa phương mình để phát triển các ngành sản xuất và dịch
vụ, tạo ra sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo vùng lãnh thổ. Đây cũng là vấn đề rất
có ý nghĩa để thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn.
- Các DNNVV góp phần tích cực trong việc thu hút vốn đầu tư trong dân cư
và sử dụng vốn, các nguồn lực có hiệu quả tại địa phương. Các DNNVV khi thành
lập không cần quá nhiều vốn, điều này tạo cơ hội cho nhiều tầng lớp dân cư có thể
tham gia đầu tư. DNNVV có thể dễ dàng huy động vốn thông qua quan hệ họ hàng,
bạn bè, người thân. Do đó, DNNVV tạo hiệu quả trong việc huy động, sử dụng các
khoản tiền nhàn rỗi trong dân cư và biến nó thành các khoản vốn đầu tư mang lại
hiệu quả kinh tế cao.
- Các DNNVV sản xuất nhiều mặt hàng xuất khẩu đem lại nhiều ngoại tệ
cho đất nước, đáp ứng nhu cầu thanh toán nhập khẩu và tăng nguồn thu cho ngân
sách Nhà nước.
Ngày nay, với nền kinh tế toàn cầu hóa, mối quan hệ giao lưu mua bán, văn
hóa, xã hội giữa các quốc gia ngày càng phát triển rộng rãi. DNNVV góp phần
quan trọng trong việc khai thác tiềm năng của các ngành nghề truyền thống ở các
địa phương như các ngành nghề thủ công, mỹ nghệ, v.v.v. Bên cạnh đó, sự phát
triển các DNNVV sẽ làm tăng nguồn thu cho ngân sách Nhà nước, góp một phần
đáng kể vào công cuộc thực hiện các mục tiêu kinh tế, xã hội.
10
1.2.4. Ưu điểm và nhược điểm của DNNVV trong nền kinh tế thị trường hiện
nay
1.2.4.1. Ưu điểm của DNNVV
- DNNVV tự do cạnh tranh và bình đẳng hơn so với các doanh nghiệp lớn,
chiếm số lượng đông đảo song quy mô nhỏ, ít phụ thuộc vào Nhà nước, luôn sẵn
sàng bất chấp mọi rủi ro và mạnh dạn khai thác thị trường.
- DNNVV làm cân bằng giữa các vùng, miền trong nước: Các doanh nghiệp
lớn thường tập trung ở các trung tâm kinh tế lớn, nên làm mất đi sự cân bằng giữa
các vùng, miền. Ngược lại, DNNVV tạo được cân đối này, có thể phát triển rộng rãi
ở mọi vùng lãnh thổ và tạo ra những sản phẩm phong phú, đa dạng; cung cấp hàng
hóa và dịch vụ đến từng địa phương xa xôi hẻo lánh.
- DNNVV khai thác được tiềm lực trong nước: Các doanh nghiệp lớn thường
tập trung ở các khu trung tâm kinh tế lớn, nên không khai thác được hết tiềm năng
của đất nước. Ngược lại, DNNVV có thể linh động khai thác nhiều lợi thế về điều
kiện vùng, miền của đất nước như tài nguyên thiên nhiên, lao động, thời tiết, v.v.
DNNVV có lợi thế trong việc tuyển dụng lao động tại địa phương và tận dụng các
tài nguyên, tư liệu sản xuất sẵn có tại địa phương, phát huy sản xuất kinh doanh.
- DNNVV sản xuất hàng hóa thay thế nhập khẩu để thực hiện quá trình công
nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước ở giai đoạn đầu, có thể sản xuất một số mặt
hàng phù hợp với sức mua của dân chúng góp phần ổn định đời sống xã hội, tăng
trưởng và phát triển kinh tế bền vững.
- DNNVV năng động, nhạy bén và dễ thích ứng với sự thay đổi của thị
trường: Quy mô nhỏ và vừa, bộ máy quản lý gọn nhẹ, đơn giản nên phản ứng nhanh
nhạy với sự biến động của thị trường và dễ thực hiện sự phân công lao động.
DNNVV có cơ sở vật chất kỹ thuật, quy mô không lớn nên đổi mới linh hoạt hơn,
dễ dàng phát triển sản xuất hoặc thu hẹp quy mô để tồn tại trong nền kinh tế thị
trường.
- DNNVV dễ dàng tạo lập, có thể hoạt động hiệu quả với chi phí cố định
thấp.
11
1.2.4.2. Nhược điểm của DNNVV
- Hạn chế về khả năng tài chính: Tình trạng thiếu vốn hoặc không có vốn để
mở rộng sản xuất kinh doanh là hiện tượng khá phổ biến của các DNNVV hiện nay.
Với năng lực hạn chế, DNNVV Việt Nam khó có khả năng đầu tư quy trình công
nghệ hiện đại để tạo ra các sản phẩm có giá trị cao, cạnh tranh với các sản phẩm
nước ngoài có tiêu chuẩn quốc tế.
Các ngân hàng cũng e ngại khi cho DNNVV vay vốn vì khả năng gặp rủi ro
lớn khi cho vay. DNNVV cũng rất khó khăn và ít có khả năng huy động được vốn
trên thị trường vì quy mô hoạt động nhỏ. DNNVV luôn ở trong tình trạng thiếu vốn,
khiến cho khả năng thu lợi nhuận không cao.
- Khả năng tiếp cận thị trường kém: Các sản phẩm và dịch vụ do các doanh
nghiệp này cung cấp hiện nay tuy đã có nhiều tiến bộ về chất lượng, nhưng mới chỉ
đáp ứng một phần nhu cầu của người tiêu dùng. Lại thêm quy mô nhỏ bé, năng lực
sản xuất chưa cao, hạn chế về vốn, thiếu khả năng xây dựng và triển khai kế hoạch
tiếp thị sản phẩm, các DNNVV gặp nhiều khó khăn để cạnh tranh trong môi trường
toàn cầu hóa nhanh chóng hiện nay, đặc biệt với sân chơi lớn như WTO.
- Khả năng tiếp thị ra thị trường nước ngoài của DNNVV còn nhiều hạn chế:
Do khối lượng sản phẩm của các DNNVV sản xuất ra còn manh mún, chất lượng
thấp, khó đáp ứng tiêu chuẩn xuất khẩu, chủ yếu là để phục vụ tiêu dùng trong
nước.
- Việc mua nguyên liệu, máy móc thiết bị: DNNVV có quy mô kinh doanh
không lớn, khả năng tài chính hạn hẹp nên thường không được hưởng khoản chiết
khấu giảm giá, ít nhập khẩu trực tiếp mà thường phải qua đại lý trong nước nên chi
phí đầu vào cao.
- Thiếu thông tin, trình độ quản lý doanh nghiệp chưa cao: Trong nền kinh
tế toàn cầu hóa hiện nay, thông tin cũng là một yếu tố đầu vào rất quan trọng cho
hoạt động sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên DNNVV thường gặp nhiều khó khăn
trong việc tiếp cận thông tin thị trường, tiếp cận công nghệ sản xuất và công nghệ
12
quản lý hiện đại trong nước cũng như các nước tiên tiến trong khu vực và trên thế
giới, điều đó dẫn đến trình độ quản lý điều hành trong các DNNVV còn thấp kém.
- Khả năng thu hút được các nhà quản lý và lao động giỏi còn thấp: Vì
DNNVV dễ gặp nhiều rủi ro trong kinh doanh, ít có chính sách đãi ngộ nhân tài,
lương bổng không cao, hay thay đổi hoạt động kinh doanh, nên công việc thường
không ổn định. Do đó, khó có khả năng thu hút được những người lao động có trình
độ cao trong sản xuất kinh doanh và trong quản lý, điều hành.
- Tính liên kết hợp tác kinh doanh của các DNNVV còn kém: Chưa huy động
được nguồn vốn dồi dào, cơ sở hạ tầng vững chắc để thu hút đầu tư, nâng cao chất
lượng sản phẩm, tăng năng lực cạnh tranh.
- DNNVV còn có thể gây ra một số tiêu cực ảnh hưởng đến đời sống kinh tế -
xã hội như: trốn lậu thuế, gây ô nhiễm môi trường, kinh doanh các mặt hàng bị Nhà
nước cấm, kinh doanh sai mục đích v.v. Nhiều DNNVV do chạy theo lợi nhuận quá
mức đã tìm mọi cách để kiếm lời gây tổn thất nghiêm trọng cho xã hội.
1.2.5. Sự cần thiết phải phát triển các DNNVV
DNNVV là bộ phận quan trọng và có những đóng góp rất tích cực cho nền
kinh tế, cụ thể, theo thống kê mới nhất, cả nước hiện có trên 600.000 DNNVV,
chiếm trên 90% số lượng doanh nghiệp với số vốn đăng ký lên gần 2.313.857 tỷ
đồng (tương đương 121 tỷ USD). Các DNNVV không chỉ đóng góp đáng kể vào sự
phát triển kinh tế của đất nước, mà còn giúp tạo ra hơn một triệu việc làm mới mỗi
năm, đặc biệt là nguồn lao động chưa qua đào tạo, góp phần xóa đói giảm nghèo,
tăng cường an sinh xã hội,... (hiện các doanh nghiệp này sử dụng trên 50% lao động
xã hội và đóng góp khoảng 40% GDP). Vì vậy, vấn đề phát triển các DNNVV có ý
nghĩa hết sức quan trọng đối với quá trình xây dựng và phát triển của đất nước.
Qua phân tích đặc điểm, vai trò và những lợi thế của các DNNVV ta thấy
môi trường kinh tế nước ta hiện nay rất thích hợp cho sự phát triển các DNNVV.
Các DNNVV đem lại nhiều lợi ích cho nền kinh tế của đất nước, đồng thời có
những đặc điểm hấp dẫn có thể trợ giúp Chính phủ trong việc thực hiện các mục
tiêu phát triển kinh tế, xây dựng một xã hội công bằng hơn. Chính phủ các nước
13
cũng như Chính phủ Việt Nam đã nhận thức được tầm quan trọng của khu vực
DNNVV đối với nền kinh tế trong điều kiện các DNNVV đã trải qua sự điều chỉnh
và chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường. Vì vậy sự quan tâm đến việc thúc đẩy sự
phát triển các doanh nghiệp này ngày càng tăng. Ngoài việc ban hành Nghị định số
56/2009/NĐ-CP (thay thế Nghị định số 90/2001/NĐ-CP) về trợ giúp phát triển
DNNVV thì dựa trên cơ sở đó Hội đồng khuyến khích phát triển DNNVV và Cục
phát triển DNNVV đã ra đời theo Quyết định số 12/2003/QĐ-TTg và Quyết định số
562/QĐ-KH để tạo điều kiện thuận lợi thúc đẩy sự phát triển của các DNNVV.
Nền kinh tế nước ta đi lên nền kinh tế thị trường từ nền sản xuất nông nghiệp
lạc hậu. Đến nay, hơn 70% lực lượng lao động làm việc trong lĩnh vực sản xuất
nông nghiệp. Sản xuất chủ yếu là nhỏ bé của các hộ gia đình nên việc mở rộng và
phát triển DNNVV rất phù hợp với thực tế nền kinh tế Việt Nam.
1.2.6. Những hạn chế đối với sự phát triển của các DNNVV
Mặc dù có các lợi thế của khu vực kinh tế vừa và nhỏ đối với nền kinh tế và
xã hội nhưng vẫn còn có những vấn đề lớn mà các DNNVV đang gặp phải.
1.2.6.1. Về phía các DNNVV
Thiếu vốn là khó khăn lớn nhất:
Hiện nay các DNNVV đã được Chính phủ tạo điều kiện và cơ hội để phát
triển (đã có quyết định số 14/2009/QĐ-TTg ngày 21/01/2009 ban hành quy chế bảo
lãnh cho doanh nghiệp vay vốn của ngân hàng thương mại: áp dụng đối với các
doanh nghiệp có vốn điều lệ tối đa 20 tỷ đồng và sử dụng tối đa 500 lao động; hay
chương trình hỗ trợ lãi suất được chỉ đạo chú trọng đến các DNNVV, ...), nhưng do
mới, thời gian áp dụng chưa lâu, hiệu quả chưa thật sự rõ ràng, vì vậy mà tài chính
của các doanh nghiệp vẫn chưa nhận được sự hỗ trợ thích đáng. Do đó tình trạng
thiếu vốn vẫn là khó khăn và phổ biến nhất của các DNNVV, trong khi qui mô về
vốn của các DNNVV khá nhỏ, hạn chế, nên khi các doanh nghiệp muốn mở rộng
qui mô sản xuất thì luôn gặp trở ngại lớn về vốn.
Trình độ công nghệ còn lạc hậu:
14
Trình độ quản lý kém, hiệu quả và sức cạnh tranh yếu, ít đầu tư vào lĩnh vực
sản xuất. Hoạt động đầu tư chủ yếu vào những ngành thủ công thô sơ, thâm dụng
lao động nhiều hơn là thâm dụng vốn và kỹ thuật. Phần lớn các doanh nghiệp này
có công nghệ đang sử dụng lạc hậu so với mức trung bình của thế giới từ 3 – 4 thế
hệ.
Khả năng cạnh tranh và hiệu quả hoạt động của các DNNVV thấp, thị
trường tiêu thụ còn nhiều bất cập:
Khả năng cạnh tranh và hiệu quả hoạt động của các DNNVV còn thấp vì
những lý do sau đây:
- Năng suất lao động thấp, chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm cao.
- Quy mô vốn và năng lực tài chính (kể cả vốn của chủ sở hữu và tổng nguồn
vốn) của nhiều DN còn rất nhỏ bé, vừa kém hiệu quả, vừa thiếu tính bền vững.
- Nhận thức chấp hành luật pháp còn hạn chế. Một số DNNVV còn chưa
chấp hành nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật, đặc biệt là các quy định về
thuế, quản lý tài chính, quản lý nhân sự, chất lượng hàng hoá và sở hữu công
nghiệp.
- Sự yếu kém về thương hiệu đã góp phần làm yếu khả năng cạnh tranh. Hầu
hết các DNNVV ở Việt Nam chưa xây dựng được các thương hiệu mạnh, chưa
khẳng định được uy tín và khả năng cạnh tranh trên thị trường khu vực và quốc tế.
Thị trường tiêu thụ của doanh nghiệp còn nhiều hạn chế như thị trường chưa
đa dạng, nhiều doanh nghiệp còn quá phụ thuộc vào một số nhà bao tiêu; thị trường
tiêu thụ chưa ổn định và chưa có tính bền vững, nhiều doanh nghiệp còn làm ăn
theo kiểu “chụp giật”, “ăn xổi”, chưa coi trọng chữ tín trong kinh doanh.
Hoạt động quản lý của Doanh nghiệp còn nhiều bất cập:
Do chế độ thuế của nhà nước còn nhiều bất cập, vì vậy các DNNVV tìm mọi
cách trốn thuế để đem lại lợi ích cho doanh nghiệp của mình. Thực trạng hiện nay
đa phần các doanh nghiệp lớn hay vừa và nhỏ, thực hiện chế độ sổ sách kế toán chủ
yếu là kế toán tài chính, còn về kế toán quản trị hay kế toán chi phí rất ít công ty áp
dụng. Vì thế, các doanh nghiệp khó có thể nhìn nhận một cách chính xác kết quả
15
hoạt động của mình cũng như đường lối kế hoạch phát triển của doanh nghiệp khó
có thể đem lại được kết quả như ý muốn.
Ngoài ra, các DNNVV cũng còn hạn chế trong việc tiếp cận thông tin và
kiến thức về thị trường. Trình độ quản lý của đội ngũ ban lãnh đạo còn nhiều hạn
chế, hầu hết chưa được đầu tư học hỏi, nâng cao trình độ quản lý, việc điều hành
doanh nghiệp còn nặng tính chất gia đình, không chuyên nghiệp.
1.2.6.2. Về phía các cơ quan chức năng
Cơ chế chính sách, thủ tục thành lập doanh nghiệp:
Luật doanh nghiệp đã tạo ra những bước đột phá trong đổi mới tư duy, cải
cách thể chế và thủ tục hành chính trong quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp,
nhưng vẫn còn một số hạn chế, không ít thủ tục gia nhập thị trường còn bất hợp lý,
chi phí cao, thời gian kéo dài, nhất là trong các ngành nghề kinh doanh có điều kiện.
Không ít các cơ quan chức năng, cán bộ, công chức còn tùy tiện đặt thêm nhiều thủ
tục hành chính phiền hà, làm lỡ thời cơ gây tốn kém cho doanh nghiệp.
Sự bất hợp lý về chính sách thuế và môi trường đầu tư:
Hiện nay tính hấp dẫn của môi trường đầu tư tại Việt Nam đang có dấu hiệu
giảm đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Đó là do cơ sở hạ tầng kém phát triển, thủ
tục hành chính rườm rà, yếu kém trong vấn đề minh bạch thông tin, sự bảo hộ của
nhà nước đối với một số công ty, ngành nghề,… đã làm các nhà đầu tư, đặc biệt là
các nhà đầu tư nhỏ, các DNNVV không có nhiều cơ hội trong việc giành lấy thị
trường.
Chính sách thuế cũng còn nhiều bất cập. Thuế thu nhập doanh nghiệp dù đã
giảm nhưng vẫn còn cao. Các thủ tục liên quan đến thuế còn quá rườm rà, phức tạp,
gây khó khăn trở ngại cho doanh nghiệp trong vấn đề kê khai và nộp thuế.
Bất cập trong việc thu thập và tìm hiểu thông tin:
Hiện nay việc tìm kiếm những thông tin chính xác về DNNVV đang tồn tại
và hoạt động tại Việt Nam là rất khó khăn. Một nhà đầu tư khi có ý định muốn đầu
tư vào các DNNVV của Việt Nam thì việc tìm hiểu thông tin về các doanh nghiệp
này là cả một vấn đề, khó có thể tìm hiểu và nắm bắt được những thông tin đầy đủ
16
của doanh nghiệp, hoặc nếu có cũng chưa chắc đã chính xác và tốn kém nhiều chi
phí. Vì vậy các nhà đầu tư sẽ chuyển sang doanh nghiệp nào có đầy đủ thông tin
chính xác, có thể tin tưởng để đầu tư, làm hạn chế sự phát triển mở rộng sản xuất
kinh doanh của các DNNVV, cho dù đây là những doanh nghiệp rất có tiềm năng và
được Nhà nước tạo điều kiện hỗ trợ để phát triển.
1.2.7. Sự cần thiết của việc hỗ trợ và phát triển tín dụng ngân hàng đối với
DNNVV
Trong nền kinh tế thị trường, DNNVV ngày càng khẳng định vai trò không thể
thiếu của mình và có nhiều đóng góp quan trọng cho nền kinh tế quốc dân; để ngày
càng phát triển và tiếp tục có nhiều đóng góp quan trọng cho nền kinh tế thì DNNVV
đòi hỏi cần có nhiều hỗ trợ hơn nữa để khắc phục các yếu kém của mình, trong đó
yêu cầu về vốn là vấn đề thiết yếu nhất. Trong nền kinh tế cũng có nhiều kênh cung ứng
vốn, mà DNNVV có thể tiếp cận như vốn tự có do tích lũy; vốn từ vay mượn bạn bè,
người thân; vốn từ kênh tín dụng thương mại; vốn huy động trên thị trường chứng
khoán và vốn vay ngân hàng,…Trong các kênh cung ứng vốn đó, nguồn vốn vay
ngân hàng được xem là quan trọng và hiệu quả nhất đối với các DNNVV Việt Nam
hiện nay vì những lý do sau:
- Nguồn vốn tự có tích lũy được từ quá trình kinh doanh thường là nhỏ, có giới
hạn nhất định và thông thường là không đủ để các DNNVV có thể đầu tư mở rộng sản
xuất kinh doanh. Nguồn vốn này muốn có số lượng lớn đòi hỏi phải có thời gian tích
lũy lâu dài và thường được các DNNVV ưu tiên sử dụng trước khi có việc cần đến.
Do đó, để nắm bắt cơ hội kinh doanh, theo đuổi kịp tốc độ phát triển kinh tế và có
thể cạnh tranh với các doanh nghiệp khác trong quá trình hội nhập quốc tế, thì ngoài
nguồn vốn tích lũy, các DNNVV Việt Nam cần phải được hỗ trợ từ các nguồn vốn
khác.
- Nguồn vốn vay mượn bạn bè, người thân hay vay nóng thị trường tự do bên
ngoài, từ các cá nhân hay tổ chức cho vay phi chính thức khác: thường là rất hạn chế do
lãi suất cao, thời hạn ngắn, thiếu ổn định và rất hiếm doanh nghiệp nào có thể phát triển
17
mạnh bằng nguồn vốn này, việc vay mượn từ nguồn vốn này dễ phát sinh các vấn đề rối
rắm cho quan hệ của DN sau này,…
- Tín dụng thương mại: nguồn vốn này cũng rất hạn chế do lệ thuộc rất lớn vào
chính sách mua bán chịu của nhà cung cấp và thường có thời hạn ngắn, bản thân
các doanh nghiệp cũng không thể chủ động được nguồn vốn này cả về quy mô, giới
hạn, đối tượng và thời gian. Ngoài ra, ở thị trường Việt Nam hình thức tín dụng
thương mại cũng chưa được phát triển mạnh.
- Nguồn vốn từ thị trường chứng khoán thì càng khó khăn hơn
đối với các DNNVV, để tìm được nguồn vốn từ thị trường này đòi hỏi các doanh
nghiệp phải thoát khỏi hạn chế vốn có của các DNNVV như tình hình tài chính, thực
lực doanh nghiệp, tính minh bạch công khai trong các báo cáo tài chính, khả năng xây
dựng phương án, kế hoạch kinh doanh,…Nhưng các hạn chế này muốn khắc phục đòi
hỏi các DNNVV trước hết phải có vốn để đầu tư phát triển và trở thành các doanh
nghiệp có quy mô lớn hơn. Do đó nguồn vốn huy động từ nguồn này xem như là
chưa khả thi đối với các DNNVV.
Từ đó cho thấy để có nguồn vốn phục vụ phát triển, mở rộng sản xuất kinh
doanh một cách hiệu quả hơn, các DNNVV chỉ còn trông đợi vào nguồn vốn tín
dụng ngân hàng, vì những lý do sau:
+ Khả năng cung ứng vốn của các ngân hàng là không hạn chế: về quy mô
nguồn vốn, thời hạn cho vay, lãi suất,… Dựa vào nhu cầu vốn của doanh nghiệp mà
ngân hàng có các hình thức tín dụng linh hoạt phù hợp, có thể đáp ứng đầy đủ nguồn
vốn lưu động, thường xuyên cho phép doanh nghiệp duy trì sự phát triển ổn định, có
hiệu quả hoặc cung ứng vốn với thời hạn dài để các doanh nghiệp đầu tư thêm máy
móc thiết bị, xây dựng nhà xưởng, đổi mới công nghệ sản xuất, mở rộng cơ sở kinh
doanh,…
+ Cùng với quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, việc cam kết mở rộng thị
trường tài chính dịch vụ càng làm cho các NHTM hoạt động và cung ứng vốn cho
nền kinh tế nhiều hơn. Do đó, các DNNVV sẽ có thể chủ động lựa chọn ngân hàng để
18
vay vốn với mức lãi suất hợp lý, khả năng đáp ứng nhu cầu vốn phù hợp, từ đó góp phần
nâng cao lợi nhuận cho doanh nghiệp.
+ Quá trình tiếp cận vốn vay từ ngân hàng, các DNNVV có thể sử dụng dịch
vụ tư vấn của ngân hàng về các vấn đề liên quan đến tình hình tài chính, cách thức
quản lý, thiết lập các báo cáo tài chính, thẩm định tính hiệu quả của phương án sản
xuất kinh doanh,…Từ đó, giúp các DNNVV có thể từng bước khắc phục được
các hạn chế vốn có của mình.
Xét về phía các ngân hàng, việc mở rộng cho vay các DNNVV trong thời
gian gần đây là một tất yếu. Trong xu hướng và định hướng chung của các NHTM
là đang giảm dần tỷ trọng cho vay đối với các DNNN, tăng nhanh tỷ trọng cho vay
các DNNVV, vì thành phần DNNN đang giảm dần về số lượng và đã lộ dần những hạn
chế nhất định. Với hệ thống mạng lưới chi nhánh của các NHTM trải rộng trên khắp cả
nước là điều kiện thuận lợi để các ngân hàng triển khai dịch vụ ngân hàng bán lẻ -
một dịch vụ rất thích hợp cho các DNNVV để phát triển, do đặc điểm phân bổ rải rác
khắp nơi kể cả ở vùng sâu, vùng xa. Hoạt động của các DNNVV góp phần làm
tăng sản lượng và tốc độ lưu chuyển hàng hóa trong nền kinh tế, làm gia tăng khối
lượng thanh toán giao dịch qua ngân hàng, nhờ đó nguồn vốn huy động của các ngân
hàng cũng sẽ nâng cao do lượng tiền gửi thanh toán của các doanh nghiệp ngày càng
nhiều hơn.
Do đó, xét về mặt hiệu quả tín dụng ngân hàng không chỉ mang lại lợi ích cho
các DNNVV mà nó còn giúp cho các NHTM mở rộng đầu tư tín dụng và phát triển
ổn định.
1.3. Kinh nghiệm phát triển tín dụng DNNVV ở một số nước và bài học kinh
nghiệm rút ra cho Việt Nam
1.3.1. Kinh nghiệm phát triển tín dụng DNNVV ở một số nước
Ngân hàng Thế giới gọi DNNVV là xương sống của nền kinh tế. Trong bất
kỳ thể chế kinh tế nào, DNNVV ngoài việc phát huy kinh tế phồn vinh và tăng thêm
việc làm ra, còn là một bộ phận “thay cũ đổi mới” của thể chế kinh tế đó. Nhận thấy
được tầm quan trọng đó, trên thế giới hiện nay, từ những nước phát triển hay những
19
nước đang phát triển luôn không ngừng tạo động lực cũng như điều kiện để thúc
đẩy cho sự phát triển của khu vực kinh tế này, đặc biệt là sự hỗ trợ về vốn vay. Đó
cũng chính là những bài học kinh nghiệm hết sức quý báu được đúc kết để nước ta
có thể học hỏi nhằm giải quyết những vấn đề về vốn cho hoạt động sản xuất kinh
doanh mà DNNVV Việt Nam đang gặp phải, nhất là trong giai đoạn hiện nay.
Trung Quốc:
Sau hơn 30 năm tiến hành cải cách mở cửa, Trung Quốc đã đạt được nhiều
thành tựu trong các lĩnh vực kinh tế. Vào ngày 16/08/2010, Trung Quốc đã chính
thức trở thành cường quốc kinh tế lớn thứ hai trên thế giới. Theo nhiều chuyên gia
dự báo, Trung Quốc có khả năng sớm vượt Mỹ để trở thành nền kinh tế lớn nhất thế
giới vào năm 2027. Sự thành công này có được một phần là nhờ vào đóng góp lớn
lao của các DNNVV ở Trung Quốc. DNNVV ở Trung Quốc hiện nay chiếm khoảng
99% tổng số doanh nghiệp hiện có, đóng góp cho GDP là hơn 60%, đóng góp về
thuế là hơn 50% và cung cấp 75% công ăn việc làm ở đô thị.
Về chính sách tài chính hỗ trợ DNNVV của Trung Quốc, Nhà nước cấp phát
ngân sách hỗ trợ cho DNNVV bao gồm một mục chỉ tiêu dành riêng nhằm phát
triển DNNVV thông qua việc thành lập quỹ tín dụng nhằm khuyến khích các
DNNVV có tiềm năng tăng cường mở rộng quy mô. Các phòng, ban có liên quan
cũng tích cực theo đuổi việc thiết lập một hệ thống bảo lãnh tín dụng cho DNNVV.
Ưu đãi bao gồm cả giảm trừ và miễn trừ thuế thu nhập, được dành cho các DNNVV
có thể đáp ứng các quy định của nhà nước về số lượng việc làm sẽ được tạo ra trong
mỗi năm, hoặc các DNNVV nằm trong khu vực kinh tế kém phát triển, khu vực
nghèo.
Đài Loan
Nền Công Nghiệp của Đài Loan được đặc trưng chủ yếu bởi các DNNVV
(chiếm tỷ lệ gần 90% tổng số doanh nghiệp ở vùng lãnh thổ này). Ở Đài Loan,
DNNVV tối thiểu phải có từ 5-10 công nhân, vốn trung bình là 1,6 triệu USD là phổ
biến. Các chính sách của chính quyền chủ yếu đặt mục tiêu là gia tăng khả năng sản
20
xuất của các DNNVV và cải thiện các hỗ trợ về tài chính, sản xuất, quản lý, kế toán
và tiếp thị.
Để tạo nguồn vốn, Đài loan đã thành lập Quỹ phát triển DNNVV để giúp
các doanh nghiệp này cải thiện môi trường kinh doanh, đẩy mạnh hợp tác với nhau,
đồng thời hướng dẫn cho quỹ tự phát triển nhằm thúc đẩy các DNNVV phát triển
lành mạnh. Quỹ này cấp tín dụng cho các DNNVV với lãi suất thấp hơn bình
thường của ngân hàng nhằm giúp các doanh nghiệp phát triển theo chuyên ngành
hoặc chuyển hướng ngành nghề khác có hiệu quả hơn.
Singapore
Singapore là một quốc gia nhỏ bé ở khu vực Đông Nam Á, mật độ dân số
cao, nguồn tài nguyên khoáng sản không có, nông nghiệp không phát triển. Nếu so
sánh với các nước khác trong khu vực, Singapore gặp nhiều khó khăn trong quá
trình phát triển. Tuy nhiên, những năm gần đây Singapore có những bước tiến thần
kỳ: tốc độ tăng trưởng cao, GDP bình quân đầu người thuộc nhóm đứng hàng đầu
thế giới, môi trường sống sạch sẽ đứng thứ nhất Châu Á,… Hiện tại số DNNVV của
Singapore chiếm tới 99% tổng số doanh nghiệp, 62% tổng số lao động, 48% tổng số
giá trị gia tăng của Singapore.
Để đạt được những thành tựu này, Chính phủ Singapore đã có nhiều chính
sách đổi mới, trong đó phải kể đến những chính sách hỗ trợ về vốn vay cho
DNNVV sản xuất kinh doanh, tạo điều kiện cho khu vực kinh tế này phát triển.
Việc hỗ trợ của Chính phủ không chỉ dành cho các doanh nghiệp trong nước mà còn
tạo nhiều điều kiện thuận lợi cho cả doanh nghiệp nước ngoài đầu tư vào Singapore.
Những sinh viên tài năng, có ý tưởng tốt nhưng gặp khó khăn đã được Chính phủ
lựa chọn hỗ trợ vốn để thành lập doanh nghiệp, từ đó nhiều người đã khởi nghiệp
thành công và họ đã trở thành doanh nhân xuất sắc. Đặc biệt, những doanh nghiệp
có tính sáng tạo cao, có tiềm năng phát triển trong tương lai cũng được Chính phủ
xem xét hỗ trợ về mặt tài chính.
21
Hàn Quốc
Hàn Quốc cũng rất quan tâm đến phát triển DNNVV và coi đó như một bộ
phận của cơ cấu kinh tế. Để tạo cơ sở pháp lý cho sự tồn tại và phát triển của các
DNNVV cũng như sự ưu tiên hỗ trợ thúc đẩy phát triển các doanh nghiệp này,
Chính phủ Hàn Quốc đã ban hành hàng loạt các sắc luật (12 sắc luật) về DNNVV,
trong đó việc thành lập các tổ chức tín dụng với chức năng chủ yếu là cung cấp vốn,
chuyển giao công nghệ cho các DNNVV có ý nghĩa hết sức quan trọng cho sự phát
triển của nền kinh tế Hàn Quốc.
1.3.2. Bài học kinh nghiệm rút ra cho Việt Nam
Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của đất nước, các DNNVV ngày
càng khẳng định vai trò quan trọng không thể thiếu của mình và có nhiều đóng góp
đáng kể cho sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước. Tuy nhiên, hiện
các DNNVV Việt Nam vẫn phải cần được hỗ trợ nhiều nguồn lực từ nhiều mặt, trong
đó có nguồn lực không thể thiếu và đóng vai trò quan trọng đó là nguồn lực tài chính
- vốn để kinh doanh. Trong các kênh cung ứng vốn hiện nay, kênh tín dụng ngân
hàng ngày càng thể hiện tính tất yếu và hiệu quả của mình đối với đầu tư phát triển các
doanh nghiệp, trong đó có các DNNVV.
Từ đặc điểm nền kinh tế Việt Nam, các DNNVV được phân bổ rộng khắp
trên địa bàn cả nước, nó không tập trung vào một số khu vực cũng như lĩnh vực sản
xuất nhất định, mà đa dạng hóa về loại hình hoạt động và hình thức tổ chức, không
phân biệt thành phần kinh tế. Hệ thống ngân hàng thương mại tại Việt Nam cũng
khá nhiều với các chi nhánh, điểm, phòng giao dịch được phân bố rộng khắp từ đô
thị đến nông thôn, mô hình hoạt động cũng gọn nhẹ và năng động. Vì vậy, Nhà
nước cần phải tăng cường việc tổ chức triển khai và nâng cao hiệu quả thực hiện
các chương trình chính sách hỗ trợ về vốn vay cho các DNNVV thông qua hệ thống
các ngân hàng thương mại này. Nên chọn một số ngân hàng thương mại có uy tín có
mạng lưới chi nhánh rộng hoặc thành lập các tổ chức tín dụng với chức năng chủ
yếu là cung cấp vốn với mức lãi suất ưu đãi cho các DNNVV thực hiện các dự án,
phương án sản xuất kinh doanh thuộc ngành, lĩnh vực khuyến khích như nông
22
nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản, công nghiệp chế biến, chế tạo, các DNNVV hoạt
động có hiệu quả, có tiềm năng phát triển, sử dụng nhiểu lao động, có nguồn thu
ngoại tệ từ việc xuất khẩu,…
Ngoài ra, để tăng tính chủ động cho các ngân hàng thương mại trong việc
phát triển tín dụng đối với loại hình DNNVV, Nhà nước cũng nên đơn giản hóa các
thủ tục, đa dạng các đối tượng DNNVV vay vốn được sự bảo lãnh của Quỹ bảo lãnh
tín dụng.
Kết luận chương 01
Chương 01 đã đưa ra những lý luận cơ bản về tín dụng ngân hàng; về các
DNNVV; những ưu điểm và nhược điểm cũng như vai trò của DNNVV trong nền
kinh tế thị trường hiện nay, từ đó cho thấy sự cần thiết phải phát triển DNNVV,
trong đó việc hỗ trợ và phát triển tín dụng ngân hàng đối với DNNVV là một biện
pháp cấp thiết và hết sức quan trọng trong giai đoạn hiện nay. Chương 01 cũng đã
đưa ra một số bài học kinh nghiệm về vấn đề phát triển DNNVV ở một số nước
trong khu vực, cho thấy tầm quan trọng và sự ưu tiên hỗ trợ phát triển DNNVV
trong các nền kinh tế khác nhau, là cơ sở để Chương 2 đi vào phân tích những thực
trạng, những tồn tại và yếu kém trong việc hỗ trợ tín dụng cho các DNNVV trên địa
bàn tỉnh Bình Dương để có những giải pháp phù hợp kịp thời.
23
Chương 2:
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ
VỪA TẠI NGÂN HÀNG TMCP NGOẠI THƯƠNG VIỆT NAM –
CHI NHÁNH BÌNH DƯƠNG
2.1. Tổng quan về Ngân hàng TMCP Ngoại thương - Chi nhánh Bình Dương
2.1.1. Giới thiệu về Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam
Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam được thành lập theo Nghị định
115/CP ngày 30/12/1962 trên cơ sở tách ra từ Cục quản lý ngoại hối trực thuộc
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam với tên giao dịch là Bank For Foreign Trade of Viet
Nam, viết tắt là VCB hay Vietcombank, và chính thức đi vào hoạt động vào ngày
01/04/1963. Đây là Ngân hàng thương mại quốc doanh, có chức năng duy nhất phục
vụ kinh tế đối ngoại, cho vay xuất nhập khẩu của cả nước, kinh doanh tiền tệ, tín
dụng, dịch vụ ngân hàng đối với các thành phần kinh tế, chủ yếu trong lĩnh vực kinh
tế đối ngoại, tuân theo Luật Ngân hàng Nhà nước và Luật tổ chức tín dụng được
Quốc hội thông qua. Sự ra đời của VCB đánh dấu một bước phát triển quan trọng
trong hoạt động ngân hàng ở Việt Nam.
Trải qua một chặng đường dài đến nay, do thực hiện chủ trương đổi mới của
Đảng và Nhà nước, là ngân hàng thương mại nhà nước đầu tiên được Chính phủ lựa
chọn thực hiện thí điểm cổ phần hoá, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam chính
thức hoạt động với tư cách là một Ngân hàng TMCP vào ngày 02/6/2008 sau khi
thực hiện thành công kế hoạch cổ phần hóa thông qua việc phát hành cổ phiếu lần
đầu ra công chúng, được đổi tên thành Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam
theo giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh số 0103024468 ngày 02/06/2008. Ngày
30/6/2009, cổ phiếu Vietcombank (mã chứng khoán VCB) chính thức được niêm
yết tại Sở Giao dịch Chứng khoán TPHCM.
Trải qua 48 năm xây dựng và phát triển, Vietcombank đã có những đóng góp
quan trọng cho sự ổn định và phát triển của kinh tế đất nước, phát huy tốt vai trò
của một ngân hàng đối ngoại chủ lực, phục vụ hiệu quả phát triển kinh tế cho cả
24
nước, đồng thời tạo ra những ảnh hưởng quan trọng đối với cộng đồng tài chính khu
vực và toàn cầu.
Từ một ngân hàng chuyên doanh phục vụ kinh tế đối ngoại, Vietcombank
ngày nay đã trở thành một ngân hàng đa năng hoạt động đa lĩnh vực, cung cấp cho
khách hàng đầy đủ các dịch vụ tài chính hàng đầu trong thương mại quốc tế; trong
các hoạt động truyền thống như kinh doanh vốn, huy động vốn, tín dụng, tài trợ dự
án…cũng như mảng dịch vụ ngân hàng hiện đại: kinh doanh ngoại tệ và các công
vụ phái sinh, dịch vụ thẻ, ngân hàng điện tử…
Sở hữu hạ tầng kỹ thuật ngân hàng hiện đại, Vietcombank có lợi thế rõ nét
trong việc ứng dụng công nghệ tiên tiến vào xử lý tự động các dịch vụ ngân hàng,
phát triển các sản phẩm, dịch vụ điện tử dựa trên nền tảng công nghệ cao. Các dịch
vụ: VCB Internet Banking, VCB Money, SMS Banking, VCB Cyber Bill
Payment,…đã, đang và sẽ tiếp tục thu hút đông đảo khách hàng bằng sự tiện lợi,
nhanh chóng, an toàn, hiệu quả, dần tạo thói quen thanh toán không dùng tiền mặt
(qua ngân hàng) cho khách hàng.
Sau gần nửa thế kỷ hoạt động trên thị trường, Vietcombank hiện có khoảng
11.500 cán bộ nhân viên, với gần 400 Chi nhánh/Phòng Giao dịch/Văn phòng đại
diện/Đơn vị thành viên trong và ngoài nước, gồm Hội sở chính tại Hà Nội, 1 Sở
Giao dịch, 75 chi nhánh và gần 300 phòng giao dịch trên toàn quốc, 3 công ty con
tại Việt Nam, 2 công ty con tại nước ngoài, 1 văn phòng đại diện tại Singapore, 4
công ty liên doanh, 2 công ty liên kết. Bên cạnh đó, Vietcombank còn phát triển một
hệ thống Autobank với khoảng 16.450 máy ATM và điểm chấp nhận thanh toán thẻ
(POS) trên toàn quốc. Về hoạt động đối ngoại, ngân hàng còn được hỗ trợ bởi mạng
lưới hơn 1.300 ngân hàng có quan hệ đại lý trên 100 quốc gia và vùng lãnh thổ.
Với bề dày hoạt động và đội ngũ cán bộ có chuyên môn vững vàng, nhạy bén
trong môi trường kinh doanh hiện đại, mang tính hội nhập cao…Vietcombank luôn
là sự lựa chọn hàng đầu của các tập đoàn, các doanh nghiệp lớn và của hơn 5,2 triệu
khách hàng cá nhân trong và ngoài nước.
2.1.2. Giới thiệu về Ngân hàng TMCP ngoại thương - Chi nhánh Bình Dương
25
2.1.2.1. Giới thiệu đôi nét về tỉnh Bình Dương
- Vị trí địa lý thuận lợi: Bình Dương là tỉnh thuộc vùng Đông Nam Bộ, nằm
trong vùng chuyển tiếp giữa cao nguyên Nam Trung Bộ với đồng bằng sông Cửu
Long, địa hình chủ yếu là những đồi thấp, thế đất bằng phẳng, nền địa chất ổn định,
vững chắc. Phía bắc giáp Bình Phước, phía nam và tây nam giáp thành phố Hồ Chí
Minh, phía tây giáp Tây Ninh, phía đông giáp Đồng Nai. Tỉnh lỵ của Bình Dương
hiện nay là thị xã Thủ Dầu Một, cách trung tâm thành phố Hồ Chí Minh 30 km.
Diện tích tự nhiên 2.681,01km2 (chiếm 0,83% diện tích cả nước và xếp thứ 42/64
về diện tích tự nhiên). Quỹ đất dồi dào với tổng diện tích 269.554 ha. Trong đó, đất
ở: 5.845 ha, đất nông nghiệp: 215.476 ha, đất lâm nghiệp: 12.791 ha, đất chuyên
dùng: 22.563 ha, đất chưa sử dụng: 12.879 ha.
Bình Dương là tỉnh sở hữu 3 thị xã có dân số đông nhất nước, trong đó có 2 thị
xã có 100% phường, không có xã (Thủ Dầu Một, Dĩ An). Bao gồm Thị xã Thủ Dầu
Một, Thị xã Thuận An, Thị xã Dĩ An, Huyện Bến Cát, Huyện Dầu Tiếng, Huyện
Tân Uyên và Huyện Phú Giáo.
- Dân số và lực lượng lao động dồi dào: Theo kết quả điều tra dân số gần
nhất (01/04/2009) thì dân số Bình Dương là 1.481.550 người, do nền kinh tế ổn
định và phát triển nhanh, trong thời gian qua Bình Dương đã thu hút nhiều dân nhập
cư từ các địa phương khác. Kết quả điều tra dân số năm 2009 cho thấy: Trong 10
năm từ 1999-2009 dân số tỉnh Bình Dương đã tăng gấp đôi, là tỉnh có tốc độ tăng
dân số cao nhất nước với tỷ lệ tăng trung bình 7,3%/năm.
- Kinh tế xã hội: Bắt đầu những năm 90, với chính sách trải thảm đỏ chào đón
các nhà đầu tư, Bình Dương nhanh chóng trở thành địa phương phát triển năng
động nhất trong tứ giác kinh tế trọng điểm của cả nước. Trong bảng xếp hạng chỉ số
năng lực cạnh tranh cấp tỉnh hàng năm, Bình Dương liên tục đứng ở vị trí số 1.
Bình Dương hiện có 28 khu công nghiệp đang hoạt động, trong đó nhiều khu
công nghiệp đã cho thuê hết diện tích đất như Sóng Thần I, Sóng Thần II, Đồng An,
Tân Đông Hiệp A, Việt Hương, Vsip I, Vsip II, .… Các khu công nghiệp trên địa
bàn tỉnh đã thu hút 938 dự án đầu tư, trong đó có 613 dự án đầu tư nước ngoài với
26
tổng vốn 3,483 triệu USD và 225 dự án đầu tư trong nước có số vốn 2.656 tỉ đồng.
Nhằm tăng sự thu hút đầu tư, hiện nay tỉnh đang tập trung hoàn thiện cơ sở hạ tầng
kỹ thuật, đẩy nhanh tiến độ thi công các khu công nghiệp, cụm công nghiệp mới để
phát triển công nghiệp ra các huyện phía bắc của tỉnh (như KCN Mỹ Phước
1,2,3,4,5, KCN Rạch Bắp tại huyện Bến Cát; Khu liên hợp công nghiệp-dịch vụ-đô
thị Bình Dương tại huyện Tân Uyên) tạo nên sự phát triển đồng bộ cho tỉnh.
Mặc dù chịu ảnh hưởng gián tiếp của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu
năm 2008, nhưng kinh tế tỉnh Bình Dương tiếp tục có bước phát triển và phục hồi,
sớm thoát khỏi tình trạng suy giảm và có mức tăng trưởng khá cao. Quy mô GDP
đến năm 2010 đạt khoảng 45.800 tỷ đồng, tương đương 2,9 tỷ Đôla Mỹ. GDP bình
quân đầu người đạt khoảng 30 triệu đồng. Cơ cấu kinh tế của tỉnh là công nghiệp:
65,5%; dịch vụ: 30%; nông nghiệp: 4,5%. Tổng vốn đầu tư toàn xã hội tăng bình
quân 14-15%/năm.
Theo mục tiêu phấn đấu đến năm 2020, để nước ta cơ bản trở thành nước
công nghiệp theo hướng hiện đại thì nông nghiệp giảm xuống còn 15-16%, công
nghiệp và xây dựng 43-44%, dịch vụ 40-41%. Với tốc độ tăng giá trị sản xuất công
nghiệp, dịch vụ luôn ở mức cao như hiện nay thì Bình Dương sẽ là một trong những
tỉnh về đích trước và sớm trở thành tỉnh công nghiệp theo hướng hiện đại.
Với các điều kiện thuận lợi về vị trí địa lý, dân số, cơ sở hạ tầng và kinh tế xã
hội đã tạo cho tỉnh Bình Dương một môi trường đầu tư hấp dẫn thu hút nhiều nhà
đầu tư trong và ngoài nước đến đầu tư, làm việc và an cư lập nghiệp. Đây cũng là cơ
hội và thuận lợi tốt để các TCTD trên địa bàn tỉnh Bình Dương được thành lập, phát
triển, cung cấp các dịch vụ tài chính tổng thể như cho vay, tài trợ thương mại, tiền
gửi, thanh toán, phát hành thẻ ATM,….
Mặc dù hiện nay trên địa bàn tỉnh đã có gần 50 TCTD đang hoạt động, nhưng
số lượng các TCTD đóng trên địa bàn vẫn còn ít so với một số trung tâm kinh tế lớn
như Hồ Chí Minh, Hà Nội. Mạng lưới giao dịch của các TCTD còn thưa thớt, trong
khi số lượng các doanh nghiệp và dân cư trên địa bàn ngày càng đông, vì vậy áp lực
cạnh tranh vẫn chưa cao. Hơn nữa, VCB Bình Dương vẫn có nhiều lợi thế về uy tín,
27
thương hiệu, công nghệ, nguồn vốn và đặc biệt là có đội ngũ Ban lãnh đạo, nhân
viên có trình độ, chuyên môn cao và tâm huyết với ngành nên đã nhận được nhiều
sự cổ vũ và lòng tin từ các khách hàng, là cơ hội và động lực để VCB Bình Dương
phát triển nhanh trong thời gian qua và vươn mình lớn mạnh trong giai đoạn tới.
2.1.2.2. Giới thiệu về Ngân hàng TMCP Ngoại thương – Chi nhánh Bình
Dương
Chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương Bình Dương được thành lập vào ngày
08/07/1998 theo quyết định số 225/1998/QĐ-NHNN của Thống đốc Ngân hàng
Nhà nước Việt Nam, và ngày 01/09/1999 Chi nhánh đã khai trương chính thức đi
vào hoạt động, là thành viên thứ 24 của đại gia đình VCB, một trong những chi
nhánh non trẻ nhất của hệ thống.
So với các chi nhánh khác, khi thành lập VCB Bình Dương đã gặp nhiều khó
khăn nhất định như không được nâng cấp từ phòng giao dịch hay chi nhánh cấp 2,
do vậy không được kế thừa mối quan hệ sẵn có với các doanh nghiệp trên địa bàn,
không được Trung ương tăng cường cán bộ lãnh đạo, hay cán bộ nghiệp vụ, trụ sở
làm việc phải mượn tạm của Ngân hàng Nhà nước tỉnh Bình Dương, đây thực sự là
một quá trình đầy trăn trở trên bước đường tìm hướng đi, có thể nói tất cả đều khởi
đầu từ con số 0.
Cho đến nay trải qua được 12 năm, một chặng đường không dài so với quá
trình hình thành và phát triển của một doanh nghiệp, thì những gì VCB Bình Dương
đạt được hôm nay thật khó có thể hình dung ra, với tinh thần quyết tâm và sự phấn
đấu không mệt mỏi của cán bộ nhân viên chi nhánh, đã mang lại những kết quả hết
sức khả quan. Từ chỗ chi nhánh chỉ đạt được dư nợ tín dụng 14 tỷ VND trong năm
đầu tiên hoạt động (năm 1999), đến cuối năm 2010 con số này là 4.806 tỷ VND,
30/09/2011 là 5.032 tỷ VND và dự kiến đến cuối năm 2011 sẽ là 5.500 tỷ VNĐ
(theo giới hạn tăng trưởng mà Trung ương cho phép).
Ngoài ra, nhằm tạo thế chủ động về vốn để cung ứng cho khách hàng, VCB
Bình Dương cũng luôn coi trọng công tác huy động vốn dưới nhiều hình thức, bên
cạnh việc thực thi các chính sách khách hàng năng động. Nhờ vậy, Chi nhánh luôn
28
đạt được tốc độ tăng trưởng nguồn vốn ở mức cao, đến 30/09/2011 nguồn vốn huy
động của Chi nhánh đạt 5.173 tỷ đồng, tăng 21,3% so với năm 2010, trong đó vốn
VND là 4.264 tỷ đồng, chiếm 82% và vốn huy động bằng ngoại tệ là 36,4 triệu
USD, chiếm 18% trên tổng nguồn vốn huy động.
Bên cạnh công tác huy động vốn và cho vay, VCB Bình Dương đã phát huy
thế mạnh của mình trong lĩnh vực thanh toán quốc tế, đa dạng hóa các sản phẩm
dịch vụ tiên tiến trên nền tảng công nghệ hiện đại. Nhờ thương hiệu Vietcombank
có uy tín trên thị trường quốc tế, với đội ngũ cán bộ thanh toán có chuyên môn
nghiệp vụ cao, nhiệt tình, năng động, nên ngày càng có nhiều khách hàng thực hiện
giao dịch thanh toán qua VCB Bình Dương, chiếm khoảng 36% thị phần thanh toán
quốc tế trên địa bàn.
Bên cạnh việc thực hiện hiệu quả các sản phẩm dịch vụ truyền thống, VCB
Bình Dương đã mạnh dạn triển khai các sản phẩm tiên tiến trên nền tảng công nghệ
hiện đại như các sản phẩm thẻ tín dụng quốc tế (Visa, Master, là ngân hàng độc
quyền phát hành thẻ tín dụng American Express tại Việt Nam), thẻ ATM (connect
24) cũng như các dịch vụ gia tăng trên thẻ, thanh toán online, ngân hàng điện tử,...
Qua đó đem đến cho các khách hàng trên địa bàn sự an toàn, tiện lợi và hài lòng về
chất lượng phục vụ của Vietcombank.
Từ thực tiễn những kết quả đạt được có thể nói VCB Bình Dương đã từng
bước khẳng định sự trưởng thành phát triển của mình và tiếp tục nỗ lực phấn đấu
nhiều hơn nữa mới theo kịp xu thế thời đại, hòa nhập vào cơ chế thị trường, là một
ngân hàng thương mại phục vụ yêu cầu phát triển kinh tế của một tỉnh năng động,
Chi nhánh VCB Bình Dương sẽ tiếp tục mở rộng quy mô, mạng lưới chất lượng
phục vụ, vững bước đồng hành cùng các nhà doanh nghiệp. Chi nhánh sẽ luôn nỗ
lực mang đến cho khách hành sự thành đạt, là người bạn đồng hành đáng tin cậy với
tất cả khách hàng.
2.2. Thực trạng hoạt động tín dụng DNNVV tại Ngân hàng TMCP Ngoại
thương - Chi nhánh Bình Dương
2.2.1. Phân tích tình hình dư nợ cho vay
29
Bảng 2.1: Số liệu dư nợ qua các thời kỳ
Đơn vị tính: triệu đồng
STT
Chỉ tiêu
2009 5.118.117 4.394.012 2.858.163 22.849 1.513.000
2008 4.203.833 3.799.495 2.459.906 10.363 1.329.226
2007 3.578.460 3.017.227 1.849.479 15.585 1.152.163
1 2 3 4 5
2010 5.598.013 4.806.000 3.330.558 14.418 1.461.024 10.132.395 12.001.906 11.052.000 12.697.036 9.159.212 11.219.638 10.457.495 12.285.036 55.500 1,15%
40.189 1,33%
70.451 1,85%
91.800 2,09%
30/09/2011 5.861.257 5.032.000 3.554.887 63.882 1.413.231 9.946.000 9.720.000 77.500 1,54%
6
111
120
80
90
129
Tổng tài sản Dư nợ cho vay Dư nợ ngắn hạn Dư nợ chiết khấu Dư nợ trung, dài hạn Doanh số cho vay Doanh số thu nợ Nợ xấu Tỷ lệ nợ xấu Số lượng khách hàng doanh nghiệp quan hệ tín dụng (Nguồn: Ngân hàng TMCP Ngọai thương - Chi nhánh Bình Dương)
Bảng 2.2: Tốc độ tăng trưởng dư nợ qua các thời kỳ
STT
Chỉ tiêu
2010
1 2 3 4
2007 28,32% 17,89% 8,65% 36,77% 36,25% 44,59% 38,71%
2008 17,48% 25,93% 33,01% -33,51% 15,37% 18,45% 22,50% 75,30%
2009 21,75% 15,65% 16,19% 120,49% 13,83% -7,91% -6,79% 30,30%
9,38% 9,38% 16,53% -36,90% -3,44% 14,88% 17,48% -39,54%
30/09/2011 4,70% 4,70% 6,74% 343,07% -3,27% 39,64%
5
6,67%
12,50%
23,33%
8,11%
7,50%
Tổng tài sản Dư nợ cho vay Dư nợ ngắn hạn Dư nợ chiết khấu Dư nợ trung, dài hạn Doanh số cho vay Doanh số thu nợ Nợ xấu Số lượng khách hàng doanh nghiệp quan hệ tín dụng
(Nguồn: Ngân hàng TMCP Ngọai thương - Chi nhánh Bình Dương)
Qua số liệu tín dụng ở trên có thể thấy dư nợ tín dụng và số lượng khách
hàng có quan hệ tín dụng với VCB Bình Dương không ngừng tăng lên qua các thời
kỳ. Nếu như năm 2007 dư nợ cho vay là 3.017.227 triệu đồng thì đến 30/09/2011 dư
nợ cho vay đã là 5.032.000 triệu đồng. Tốc độ tăng trưởng tín dụng từ năm 2007
đến năm 2009 đạt mức tăng trưởng khá tốt bình quân khoảng 20%/năm. Đến năm
2010 và trong 9 tháng 2011 do phải thực hiện theo chính sách thắt chặt tiền tệ, kiềm
chế lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô của Ngân hàng nhà nước và Vietcombank
30
TW nên chi nhánh cũng chỉ duy trì mức tăng trưởng tín dụng trong giới hạn cho
phép.
Do ảnh hưởng gián tiếp của cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế
toàn cầu kéo dài, khiến không ít doanh nghiệp có tiềm lực tài chính yếu gặp nhiều
khó khăn trong hoạt động sản xuất kinh doanh, cụ thể là: Thị trường tiêu thụ bị thu
hẹp, chi phí nguyên liệu đầu vào tăng đáng kể trong khi nguồn vốn đáp ứng nhu cầu
sản xuất lại hạn chế do chi phí lãi vay cao. Các ngân hàng thương mại cũng hạn chế
cho vay, điều này dẫn đến nhiều doanh nghiệp phải lâm vào tình cảnh khó khăn, sản
xuất bị thu hẹp chỉ mang tính cầm chừng và cuối cùng là phải phá sản do không đủ
sức chịu đựng. Đây cũng là nguyên nhân chính, khiến nợ xấu phát sinh tại chi
nhánh có xu hướng ngày càng tăng, cụ thể nợ xấu năm 2007 là 40.189 triệu đồng,
chiếm 1,33% tổng dư nợ tăng đến năm 2009 là 91.800 triệu đồng, chiếm 2,09%
tổng dư nợ, đến năm 2010 có giảm xuống 55.500 triệu đồng do chi nhánh xử lý một
phần nợ xấu bằng dự phòng rủi ro, chiếm 1,15% tổng dư nợ đến 30/09/2011 nợ xấu
lại tăng lên 77.500 triệu đồng, chiếm 1,54% tổng dư nợ.
2.2.1.1. Dư nợ cho vay theo thành phần kinh tế
Bảng 2.3: Dư nợ theo thành phần kinh tế
Đơn vị tính: triệu đồng
Chỉ tiêu
STT 1 2 3 4 5 6
Công ty CP, TNHH Doanh nghiệp FDI DNNN Doanh nghiệp tư nhân Dư nợ chiết khấu Thể nhân
2007 1.614.566 920.146 438.778 16.254 15.585 11.898
2008 2.132.860 790.828 766.442 19.805 10.363 79.197
2009 2.475.147 1.107.291 610.768 25.046 22.849 152.912
2010 2.922.529 1.076.544 552.690 28.355 14.418 211.464
30/09/2011 3.094.397 947.043 560.367 28.738 63.882 337.573
Cộng
3.017.227
3.799.495
4.394.012
4.806.000
5.032.000
(Nguồn: Ngân hàng TMCP Ngọai thương - Chi nhánh Bình Dương)
31
Bảng 2.4: Tỷ lệ dư nợ theo thành phần kinh tế
Chỉ tiêu
2010
STT 1 2 3 4 5 6
Công ty CP, TNHH Doanh nghiệp FDI DNNN Doanh nghiệp tư nhân Dư nợ chiết khấu Thể nhân Cộng
2007 53,51% 30,50% 14,54% 0,54% 0,52% 0,39% 100%
2008 56,14% 20,81% 20,17% 0,52% 0,27% 2,08% 100%
2009 56,33% 60,81% 25,20% 22,40% 13,9% 11,50% 0,59% 0,57% 0,30% 0,52% 4,40% 3,48% 100% 100%
30/09/2011 61,49% 18,82% 11,14% 0,57% 1,27% 6,71% 100%
(Nguồn: Ngân hàng TMCP Ngọai thương - Chi nhánh Bình Dương)
Để đảm bảo phân tán rủi ro và hiệu quả kinh doanh, chiến lược phát triển tín
dụng của VCB Bình Dương là không phân biệt và cho vay tất cả các thành phần
kinh tế căn cứ vào hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh, khả năng tài chính và uy
tín của khách hàng. Chính vì vậy, VCB Bình Dương có quan hệ tín dụng với hầu
hết các thành phần kinh tế như doanh nghiệp nhà nước, công ty TNHH, công ty cổ
phần, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp tư nhân và thể nhân hộ
gia đình. Trong đó, công ty cổ phần, công ty TNHH luôn có mức dư nợ lớn nhất,
từ năm 2007 đến 30/09/2011 luôn chiếm trên 53% tổng dư nợ.
Tuy nhiên cơ cấu dư nợ cho vay của VCB Bình Dương vẫn còn bị rủi ro khi
dư nợ tín dụng lại tập trung vào một số khách hàng lớn. Dư nợ cho vay DNNVV,
cho vay thể nhân còn hạn chế. Cụ thể, tính đến 30/09/2011 thì 11 khách hàng có dư
nợ lớn nhất của chi nhánh (trên 100 tỷ đồng) là các công ty như Công ty xuất nhập
khẩu Thanh Lễ, Công ty TNHH MTV May mặc Bình Dương (DNNN), Công ty CP
Thép Pomina, Công ty CP Xi măng Hà tiên I, Công ty CP Vinamit, Công ty CP
Tribeco Bình Dương, Công ty TNHH Minh Long I, Công ty CP tập đoàn kỹ nghệ
gỗ Trường Thành, Công ty CP Nhựa Bảo Vân, Công ty CP Hữu Toàn (CP, TNHH)
và Công ty TNHH Giấy Glatz Việt Nam (FDI) có tổng dư nợ là 3.019 tỷ đồng,
chiếm 60% tổng dư nợ.
2.2.1.2. Dư nợ cho vay theo ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh
32
Bảng 2.5: Dư nợ theo ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh
2010
STT 1
2007 612.799
2008 736.722
Đơn vị tính: triệu đồng 30/09/2011 1.129.684
2009 830.468 1.134.216
2
559.696
618.178
637.132
595.944
679.320
3 4 5
377.153 206.982 233.232
388.688 131.842 487.095
580.010 175.760 456.977
615.168 158.598 350.838
567.106 181.152 437.784
6
168.361
182.376
206.519
254.718
291.856
7 8 9
60.345 212.111 95.344
78.650 468.858 78.650
109.850 536.069 101.062
153.792 595.944 100.926
155.992 571.635 110.704
10
44.957
63.072
263.641
360.450
397.528
11
273.964
323.717
272.429
201.852
192.222
Lĩnh vực, ngành hàng Sắt thép, xi măng, vật liệu xây dựng Chế biến lương thực, nước giải khát, thực phẩm; nông sản Nhựa, bao bì, giấy Da giày Kinh doanh xăng dầu Gốm sứ, gạch ceramic, hàng thủ công mỹ nghệ Sản phẩm cơ khí, điện tử, xi mạ Chế biến gỗ Hóa chất, phân bón, dược phẩm Kinh doanh dịch vụ, thương mại du lịch, giáo dục đào tạo, giải trí, tiêu dùng , khác Xây dựng cơ sở hạ tầng KCN, kinh doanh bất động sản
12 Dệt nhuộm, may mặc
172.284
241.648
224.095
283.554
317.016
Cộng
5.032.000
3.017.227 3.799.495 4.394.012 4.806.000 (Nguồn: Ngân hàng TMCP Ngoại thương - Chi nhánh Bình Dương)
Bảng 2.6: Tỷ lệ dư nợ theo ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh
STT 1
2007 20,31%
2008 19,39%
2009 18,90%
2010 23,60%
30/09/2011 22,45%
2
18,55%
16,27%
14,50%
12,40%
13,50%
3 4 5
12,50% 6,86% 7,73%
10,23% 3,47% 12,82%
13,20% 4,00% 10,40%
12,80% 3,30% 7,30%
11,27% 3,60% 8,70%
6
5,58%
4,80%
4,70%
5,30%
5,80%
7 8 9
2,00% 7,03% 3,16%
2,07% 12,34% 2,07%
2,50% 12,20% 2,30%
3,20% 12,40% 2,10%
3,10% 11,36% 2,20%
10
1,49%
1,66%
6,00%
7,50%
7,90%
11
9,08%
8,52%
6,20%
4,20%
3,82%
Lĩnh vực, ngành hàng Sắt thép, xi măng, vật liệu xây dựng Chế biến lương thực, nước giải khát, thực phẩm; nông sản Nhựa, bao bì, giấy Da giày Kinh doanh xăng dầu Gốm sứ, gạch ceramic, hàng thủ công mỹ nghệ Sản phẩm cơ khí, điện tử, xi mạ Chế biến gỗ Hóa chất, phân bón, dược phẩm Kinh doanh dịch vụ, thương mại du lịch, giáo dục đào tạo, giải trí, tiêu dùng , khác Xây dựng cơ sở hạ tầng KCN, kinh doanh bất động sản
12 Dệt nhuộm, may mặc
Cộng
5,71% 1
6,36% 1
5,10% 1
5,90% 1
6,30% 1
(Nguồn: Ngân hàng TMCP Ngoại thương - Chi nhánh Bình Dương)
33
Nếu phân loại theo ngành kinh tế thì đối tượng kinh doanh mà VCB Bình
Dương tham gia tài trợ tín dụng là rất đa dạng với nhiều ngành nghề khác nhau như
sắt thép, xi măng, chế biến lương thực, thực phẩm, kinh doanh nông sản, nhựa, bao
bì, giấy, da giày, gốm sứ, xăng dầu, gỗ, … Dư nợ không có sự tập trung quá lớn vào
một ngành nghề hay lĩnh vực kinh doanh, mà được cấp tương đối đồng đều cho
nhiều ngành nghề khác nhau. Tỷ lệ dư nợ theo từng ngành nghề cũng được duy trì
khá ổn định trong thời gian qua, điều này cho thấy một phần cơ cấu tỷ trọng ngành
tại địa phương, một phần cho thấy sự chủ động của VCB Bình Dương trong việc
lựa chọn các khách hàng ở nhiều ngành nghề khác nhau để phân tán rủi ro và tăng
hiệu quả kinh doanh. Trong đó, dư nợ cho vay sắt thép, xi măng, lương thực, nước
giải khát, nhựa, bao bì và chế biến gỗ chiếm tỷ trọng cao nhất. Đến 30/09/2011 các
ngành nghề này chiếm khoảng 59% trên tổng dư nợ tại VCB Bình Dương.
2.2.1.3. Dư nợ cho vay theo loại tiền cho vay
Bảng 2.7: Dư nợ theo loại tiền cho vay Đơn vị tính: triệu đồng
2008
2007
2009
2010
STT 1 2 3 4
1.758.058 2.796.056 3.247.808 3.050.027 95.600 63,46% 36,54%
78.141 58,27% 41,73%
59.106 73,59% 26,41%
63.900 73,91% 26,09%
30/09/2011 2.962.178 99.496 58,87% 41,13%
Chỉ tiêu Dư nợ VND (triệu đồng) Dư nợ USD (ngàn USD) Tỷ trọng dư nợ VND Tỷ trọng dư nợ USD (Nguồn: Ngân hàng TMCP Ngoại thương - Chi nhánh Bình Dương)
Hiện nay VCB Bình Dương chỉ cho vay 02 đơn vị tiền tệ duy nhất đó là đồng
Việt Nam (VND) và đô la Mỹ (USD). Nếu như trong năm 2009 và năm 2010 dư nợ
vay VND chiếm tỷ trọng khá cao so với USD (đặc biệt là năm 2009) do chính sách
kích cầu của Chính phủ, NHNN xem xét hỗ trợ lãi suất 4% đối với các khoản vay
vốn lưu động và đầu tư tài sản cố định bằng VND trong năm 2009 và hỗ trợ 2% đối
với các trường hợp vay vốn trung dài hạn trong năm 2010. Tuy nhiên sang năm
2011 lãi suất VND và USD có sự chênh lệch đáng kể (lãi suất cho vay VND cao
gần gấp 3 lần so với lãi suất cho vay USD) nên các khách hàng đủ điều kiện vay
USD đã chuyển hướng sang vay USD do chi phí lãi vay rẻ hơn khá nhiều. Vì vậy,
34
đến 30/09/2011 thì tỷ lệ dư nợ giữa VNĐ (chiếm 58,87%) và USD (41,13%) khá
đồng đều nhau.
2.2.2. Phân tích tình hình dư nợ cho vay DNNVV
Bảng 2.8: Dư nợ DNNVV
Đvt: triệu đồng
Chỉ tiêu
2007
2008
2009
2010
STT 1
3.017.227 3.799.495 4.394.012 4.806.000
30/09/2011 5.032.000
2
611.589
766.862 1.087.000
883.000
803.348
3
43
60
65
71
78
nợ
4
20,27%
20,18%
24,74%
18,37%
15,96%
5
Tổng dư nợ (triệu đồng) Dư nợ DNVVN (triệu đồng) Số lượng DNVVN Tỷ dư trọng DNVVN/Tổng dư nợ Tăng trưởng tổng dư nợ
17,89%
25,93%
15,65%
9,38%
4,70%
tuyệt
114.768
155.273
320.138
(204.000)
(79.652)
6
Tăng trưởng dư nợ DNVVN
23,10%
25,39%
41,75%
-18,77%
-9,02%
Số đối Số tương đối
(Nguồn: Ngân hàng TMCP Ngoại thương - Chi nhánh Bình Dương)
Bảng 2.9: Số liệu dư nợ DNNVV
Đvt: triệu đồng
STT
Chỉ tiêu
2009
Dư nợ ngắn hạn Dư nợ chiết khấu Dư nợ trung, dài hạn
2007 611.589 410.201 26.381 175.007
2008 766.862 1.087.000 717.420 511.203 31.632 29.754 337.948 225.905
1 Dư nợ cho vay 2 Doanh số cho vay 3 Doanh số thu nợ 4 Nợ xấu 5
Tỷ lệ nợ xấu
2010 883.000 582.780 9.890 290.330 1.623.541 2.098.725 2.400.114 2.200.126 1.508.773 1.943.452 2.079.976 2.404.126 9.007 1,02%
11.503 1,50%
20.653 1,90%
5.504 0,90%
30/09/2011 803.348 516.238 14.300 272.810 2.154.700 2.234.352 10.765 1,34%
6
71
60
65
43
78
Số lượng khách hàng DNVVN quan hệ tín dụng (Nguồn: Ngân hàng TMCP Ngọai thương - Chi nhánh Bình Dương)
Dư nợ cho vay DNNVV đến 30/09/2011 đạt 803 tỷ đồng, chiếm 15,96%
tổng dư nợ, giảm 79,7 tỷ đồng (tương đương 9,02% so với năm 2010). Nếu như
trong năm 2009, Chi nhánh thực hiện các giải pháp kích cầu của Chính phủ thông
qua việc cho vay hỗ trợ lãi suất nên dư nợ cho vay DNNVV tăng trưởng khá cao,
khoảng 1.087 tỷ đồng, chiếm 24,74% tổng dư nợ, tăng 320 tỷ đồng (tương ứng với
35
41,75%) so với năm 2008. Nhưng đến năm 2010, dưới áp lực phải thực hiện các
chính sách tiền tệ thắt chặt của Ngân hàng Nhà nước, kiểm soát lạm phát và ổn định
kinh tế vĩ mô thì dư nợ cho vay các DNNVV lại dần giảm sút khá đáng kể. Nguyên
nhân một phần là do lãi suất tăng cao, tỷ suất lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh
doanh của các DNNVV không đủ bù đắp chi phí lãi vay. Mặt khác do VCB Bình
Dương chỉ được phép duy trì mức tổng dư nợ cho vay tối đa trong giới hạn Ngân
hàng Nhà nước và Vietcombank TW giao. Vì vậy, VCB Bình Dương đã hạn chế
cho vay và phát triển thêm khách mới là DNNVV, nguồn tín dụng này chủ yếu
được tập trung ưu tiên cho các khách hàng lớn và truyền thống của VCB Bình
Dương.
Điều này nói lên chính sách cho vay của VCB Bình Dương chủ yếu vẫn chỉ
tập trung và dựa vào các khách hàng lớn, có dư nợ và giao dịch nhiều mà chưa chú
trọng đến việc phát triển mở rộng các khách hàng là DNNVV, chưa cân đối đồng
đều được dư nợ giữa các loại hình và quy mô doanh nghiệp. Điều này dẫn đến
trường hợp chỉ cần tình hình tài chính và hoạt động sản xuất kinh doanh của một
hoặc một vài khách hàng lớn gặp khó khăn là đã gây ảnh hưởng nhiều cho Chi
nhánh.
2.2.2.1. Dư nợ cho vay DNNVV theo thành phần kinh tế
Bảng 2.10: Dư nợ DNNVV theo thành phần kinh tế
Đvt: triệu đồng
Chỉ tiêu
2010
59.242
STT 1 2 3 4 5
Công ty CP, TNHH Doanh nghiệp FDI DNNN Doanh nghiệp tư nhân Dư nợ chiết khấu
2007 300.963 186.513 37.552 60.180 26.381
2008 366.330 235.350 46.088 89.339 29.754
2009 535.130 443.089 339.253 283.266 46.534 121.744 100.221 9.890
31.632
30/09/2011 404.325 242.370 41.935 100.419 14.300
Cộng
611.589
766.862 1.087.000 883.000
803.348
(Nguồn: Ngân hàng TMCP Ngoại thương - Chi nhánh Bình Dương)
36
Bảng 2.11: Tỷ lệ dư nợ DNNVV theo thành phần kinh tế Chỉ tiêu
STT 1 2 3 4 5
Công ty CP, TNHH Doanh nghiệp FDI DNNN Doanh nghiệp tư nhân Dư nợ chiết khấu
Cộng
2007 49,21% 30,50% 6,14% 9,84% 4,31% 100%
2008 47,77% 30,69% 6,01% 11,65% 3,88% 100%
2009 49,23% 31,21% 5,45% 11,20% 2,91% 100%
2010 50,18% 32,08% 5,27% 11,35% 1,12% 100%
30/09/2011 50,33% 30,17% 5,22% 12,50% 1,78% 100%
(Nguồn: Ngân hàng TMCP Ngọai thương Việt Nam- Chi nhánh Bình Dương)
Công ty TNHH, công ty cổ phần vẫn là những đối tượng được VCB Bình
Dương quan tâm tài trợ nhiều nhất trong thời gian qua. Dư nợ hai loại hình doanh
nghiệp này luôn chiếm đa số trong tổng dư nợ DNNVV với tỷ lệ dư nợ bình quân từ
năm 2007 đến 30/09/2011 chiếm khoảng 59%. Kế đến, các doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài (FDI) là những đối tượng chiếm mức dư nợ lớn thứ hai với tỷ lệ
dư nợ bình quân từ năm 2007 đến 30/09/2011 chiếm khoảng 37%.
2.2.2.2. Dư nợ cho vay DNNVV theo ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh
Bảng 2.12: Dư nợ DNNVV theo ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh
Đvt: triệu đồng
Lĩnh vực, ngành hàng
2007
2008
2009
2010
-
-
-
30/09/2011 -
-
STT 1
thực,
thực
2
70.088 106.517
130.657 110.905
100.017
Sắt thép, xi măng Chế biến lương phẩm; nông sản
76.449
86.634
3 Nhựa, bao bì, giấy 4 Da giày 5 Kinh doanh xăng dầu
73.542 107.884 130.980 98.312 106.111
72.936 183.594 161.324 207.508 159.735
65.232 142.996 148.619
6
118.404 207.129
297.295 233.554
215.137
Gốm sứ, gạch ceramic, hàng thủ công mỹ nghệ Sản phẩm cơ khí Chế biến gỗ
12.232 42.995 19.326
15.874 39.340 24.540
34.893 33.914 50.546
26.667 27.991 40.177
23.217 22.895 38.641
10
9.113
12.730
11.414
9.007
8.274
11
-
-
-
-
-
7 8 9 Hóa chất, phân bón, dược phẩm Kinh doanh dịch vụ, thương mại du lịch, giáo dục đào tạo, giải trí Xây dựng cơ sở hạ tầng KCN, kinh doanh bất động sản
12 Dệt may
48.988
57.898
50.546
Cộng
40.706 611.589 766.862 1.087.000 883.000
38.320 803.348
(Nguồn: Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam- Chi nhánh Bình Dương)
37
Bảng 2.13: Tỷ lệ dư nợ DNNVV theo ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh
Lĩnh vực, ngành hàng
2007 0,00%
2008 0,00%
2009 0,00%
2010 30/09/2011 0,00%
0,00%
STT 1
lương thực, thực
11,46%
13,89%
12,02%
12,56%
12,45%
2
12,50% 17,64% 17,35%
9,59% 17,08% 12,82%
7,97% 16,89% 19,09%
8,26% 18,27% 18,09%
8,12% 17,80% 18,50%
3 4 5
19,36%
27,01%
27,35%
26,45%
26,78%
6
2,00% 7,03%
2,07% 5,13%
3,21% 3,12%
3,02% 3,17%
2,89% 2,85%
7 8
3,16%
3,20%
4,65%
4,55%
4,81%
9
1,49%
1,66%
1,05%
1,02%
1,03%
10
0,00%
0,00%
0,00%
0,00%
0,00%
11
Sắt thép, xi măng Chế biến phẩm; nông sản Nhựa, bao bì, giấy Da giày Kinh doanh xăng dầu Gốm sứ, gạch ceramic, hàng thủ công mỹ nghệ Sản phẩm cơ khí Chế biến gỗ Hóa chất, phân bón, dược phẩm Kinh doanh dịch vụ, thương mại du lịch, giáo dục đào tạo, giải trí Xây dựng cơ sở hạ tầng KCN, kinh doanh bất động sản
Dệt may
8,01%
7,55%
4,65%
12
Cộng
4,61% 100,00% 100,00% 100,00% 100,00%
4,77% 100,00%
(Nguồn: Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam- Chi nhánh Bình Dương)
Về ngành hàng, VCB Bình Dương đã cho vay hầu hết các ngành nghề, đặc
biệt các ngành nghề là thế mạnh của tỉnh như gốm sứ, da giày, chế biến lương thực,
sản xuất bao bì,… Các ngành nghề này đối với các doanh nghiệp lớn cũng được
VCB Bình Dương tài trợ khá nhiều và chiếm tỷ trọng lớn trong tổng dư nợ. Trong
đó, dư nợ cho vay DNNVV lớn nhất thuộc về ngành gốm sứ, gạch ceramic, hàng
thủ công mỹ nghệ với mức dư nợ tuyệt đối thời điểm 30/09/2011 là 215 tỷ đồng,
chiếm 26,78% tổng dư nợ cho vay DNNVV. Riêng ngành sắt thép và xây dựng cơ
sở hạ tầng, dư nợ cho vay khá lớn và hầu hết là các doanh nghiệp lớn.
2.2.2.3. Dư nợ cho vay DNNVV theo loại tiền cho vay
38
Bảng 2.14: Dư nợ DNNVV theo loại tiền cho vay
Đvt: triệu đồng
STT
2007
Chỉ tiêu
2009
2008 430.008 578.597 847.425 12.950 11.962 11.537 70,31% 75,45% 77,96% 29,69% 24,55% 22,04%
9 tháng 2011 554.666 11.954 69,04% 30,96%
2010 673.641 10.736 76,29% 23,71%
1 Dư nợ VND (triệu đồng) 2 Dư nợ USD (ngàn USD) Tỷ trọng dư nợ VND 3 Tỷ trọng dư nợ USD 4 (Nguồn: Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam- Chi nhánh Bình Dương)
Dư nợ cho vay DNNVV bằng VND thời điểm 30/09/2011 là 555 tỷ đồng,
chiếm 69,04% tổng dư nợ; dư nợ bằng USD là 11,95 triệu USD, chiếm 30,96% tổng
dư nợ DNNVV. Tỷ trọng dư nợ USD có xu hướng tăng lên chủ yếu do lãi suất vay
bằng USD thấp hơn nhiều so với lãi suất vay VND nên các DNNVV có vốn đầu tư
nước ngoài có nguồn thu USD chuyển sang rút vốn vay bằng USD.
2.3. Đánh giá hoạt động tín dụng DNNVV tại Ngân hàng TMCP Ngoại thương-
Chi nhánh Bình Dương
2.3.1 Thực trạng DNNVV và hoạt động tín dụng DNNVV tại Bình Dương
2.3.1.1 Thực trạng DNNVV tại Bình Dương
DNNVV có vị trí quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội của Bình
Dương, tỷ trọng đóng góp của DNNVV trong GDP của tỉnh là 52,7%, giải quyết
việc làm và tăng thu nhập cho gần 300.000 người lao động. Sự phát triển tích cực
của khu vực DNNVV trong những năm qua đã huy động được các nguồn lực xã hội
cho đầu tư phát triển, góp phần ổn định tình hình kinh tế, chính trị và an sinh xã hội
của Bình Dương.
Về số lượng của DNNVV: Theo thống kê của Cục Thống kê Bình Dương,
trong giai đoạn 2006 - 2010, số lượng DNNVV trên địa bàn tỉnh tăng bình quân
18,8%/năm. Số lượng DNNVV hiện nay của Bình Dương là 12.808 doanh nghiệp,
chiếm khoảng 96,3% tổng số doanh nghiệp đăng ký thành lập trên địa bàn tỉnh.
Trong đó, DNNVV trong nước là 11.158 doanh nghiệp, chiếm 87,12% và DNNVV
có vốn đầu tư nước ngoài là 1.650 doanh nghiệp, chiếm 12,88% số lượng DNNVV
của tỉnh.
Về loại hình DNNVV tại Bình Dương:
39
Bảng 2.15: Số lượng DNNVV tại Bình Dương phân theo loại hình
STT Loại hình DNNVV Số lượng DNNVV Tỷ lệ (%)
1 Công ty TNHH 2 thành viên trở lên 2 Công ty TNHH một thành viên 3 Doanh nghiệp tư nhân 4 Doanh nghiệp cổ phần Loại hình khác 5 Tổng cộng 5.853 3.240 2.690 935 90 12.808 45,7 25,3 21 7,3 0,7 100
(Nguồn: Cục Thống kê Bình Dương)
Phần lớn các DNNVV thành lập theo loại hình công ty TNHH 2 thành viên
trở lên (45,7% tổng số DNNVV) và công ty TNHH một thành viên (25,3%), còn lại
là doanh nghiệp tư nhân (21%), doanh nghiệp cổ phần (7,3%) và loại hình khác
(0,7%).
Về phân bố DNNVV theo địa bàn:
Bảng 2.16: Số lượng DNNVV tại Bình Dương phân theo địa bàn
Tỷ lệ (%)
Địa bàn STT Thị xã Thủ Dầu Một 1 Thị xã Thuận An 2 3 Thị xã Dĩ An 4 Huyện Tân Uyên 5 Huyện Bến Cát 6 Huyện Dầu Tiếng và Phú Giáo Tổng cộng Số lượng DNNVV 3.228 3.458 3.176 1.383 1.140 423 12.808 25,2 27 24,8 10,8 8,9 3,3 100
(Nguồn: Cục Thống kê Bình Dương)
Các doanh nghiệp tập trung hầu hết ở khu vực phía Nam của tỉnh, như: Thị
xã Thủ Dầu Một (25,2%), thị xã Thuận An (27%), thị xã Dĩ An (24,8%); còn lại là
các huyện Tân Uyên (10,8%), huyện Bến Cát (8,9%), huyện Dầu Tiếng và huyện
Phú Giáo chiếm tỷ lệ không đáng kể (3,3%).
Về ngành nghề DNNVV:
40
Bảng 2.17: Số lượng DNNVV tại Bình Dương phân theo ngành nghề
STT Ngành nghề
1 Chế biến gỗ và các sản phẩm gỗ 2 May mặc 3 Chế tạo sản phẩm từ kim loại Số lượng DNNVV Tỷ lệ (%) 17 2.177 11,3 1.447 13,7 1.755
4 1.383 10,8
5 1.089 8,5
6 4.316 33,7
Chế tạo sản phẩm từ phi kim loại (gốm sứ, hóa chất, cao su) Thực phẩm và đồ uống Thương nghiệp, khách sạn, nhà hàng và các dịch vụ khác 7 Ngành nghề khác
Tổng cộng 641 12.808 5 100
(Nguồn: Cục Thống kê Bình Dương)
Các DNNVV trên địa bàn tỉnh thường đăng ký thành lập theo hướng đa
ngành nghề. Tuy nhiên, phần lớn tập trung vào các ngành công nghiệp mang tính
gia công, phụ trợ như: ngành công nghiệp chế biến gỗ và các sản phẩm, bán sản
phẩm từ gỗ (17%), may mặc (11,3%), chế biến sản phẩm từ kim loại (13,7%), phi
kim loại như gốm sứ, hóa chất và cao su (10,8%); chế biến thực phẩm và đồ uống
(8,5%) và các ngành thương nghiệp, khách sạn, nhà hàng và các dịch vụ khác
(33,7%)…
Về giải quyết lao động: các DNNVV trên địa bàn tỉnh đã giải quyết việc
làm mới cho 15.000 đến 20.000 lao động hàng năm.
Về doanh thu và đóng góp vào Ngân sách Nhà nước:
Bảng 2.18: Doanh thu và đóng góp NSNN của DNNVV tại Bình Dương
Đvt: tỷ đồng
STT DNNVV Doanh thu thuần Lợi nhuận trước thuế Thuế và các khoản nộp NSNN
1 Khu vực Nhà nước 14.617 502 941
2 Khu vực trong nước 116.144 1.549 2.757
3 Vốn đầu tư nước ngoài 81.180 1.287 2.380
Tổng số 211.941 3.338 6.078
(Nguồn: Cục Thống kê Bình Dương)
41
Với sự đa dạng về ngành nghề và loại hình, khu vực DNNVV đã đóng góp
khoảng 52,7% tổng sản phẩm (GDP) của tỉnh. Đến năm 2010, tổng doanh thu thuần
của các DNNVV là 211.941 tỷ đồng; tổng lợi nhuận trước thuế là 6.078 tỷ đồng;
nộp vào ngân sách nhà nước 3.338 tỷ đồng, chiếm 16,3% tổng thu ngân sách năm
2010 của tỉnh.
2.3.1.2 Thực trạng hoạt động tín dụng DNNVV tại Bình Dương
Trong những năm qua, do ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính và suy thoái
kinh tế toàn cầu từ cuối năm 2007 đến năm 2010 và tiếp tục kéo dài sang năm 2011,
đồng thời thực hiện các biện pháp góp phần kiềm chế lạm phát, tình trạng mặt bằng
lãi suất cao đã gây nhiều khó khăn cho cộng đồng doanh nghiệp của tỉnh nói chung,
đặc biệt đối với khu vực DNNVV với quy mô hạn chế.
Bảng 2.19: Dư nợ DNNVV của các TCTD tại Bình Dương
Tổng dư nợ trên địa bàn
Tổng dư nợ DNNVV
STT Ngân hàng thương mại
Tỷ lệ dư nợ DNNVV/ Tổng dư nợ
Dư nợ
Tỷ lệ (%)
Dư nợ DNNVV
Tỷ lệ (%)
1 VCB Bình Dương BIDV Bình Dương 2 3 Agribank Bình Dương 4 Vietinbank Bình Dương Các TCTD khác 5
5.032 5.500 12.200 4.700 19.797
10,65 11,65 25,83 9,95 41,92
803 950 2360 720 3.196
10,00 11,83 29,39 8,97 39,81
15,96 17,27 19,34 15,32 16,14
Tổng cộng
47.229
8.029
100
17,00
100 (Nguồn: Ngân hàng Nhà nước tỉnh Bình Dương)
Nếu so với tiềm năng, lực lượng cũng như sự đóng góp của các DNNVV thì
tình hình cho vay DNNVV của các TCTD trên địa bàn tỉnh Bình Dương thực sự
còn chưa tương xứng và chưa đáp ứng được nhu cầu về vốn sản xuất kinh doanh
của loại hình doanh nghiệp này. Tính đến 30/09/2011, tổng số dư nợ tín dụng của
DNNVV tại các chi nhánh TCTD trên địa bàn tỉnh là 8.029 tỷ đồng với 1.712
DNNVV, chỉ chiếm 17% tổng dư nợ tín dụng của các TCTD trên địa bàn. Số lượng
DNNVV tiếp cận được với vốn vay chỉ đạt 13,37% tổng số DNNVV. Tỷ lệ dư nợ
DNNVV/tổng dư nợ của các TCTD chỉ dao động từ 15,32% - 19,34%, là khá khiêm
42
tốn so với quy mô hoạt động của các TCTD trên địa bàn. Như vậy, không riêng gì
VCB Bình Dương, các TCTD khác trên địa bàn tỉnh Bình Dương cũng chưa chú
trọng đến công tác cho vay đối với loại hình doanh nghiệp này.
2.3.2. Thuận lợi và khó khăn, hạn chế trong hoạt động tín dụng DNNVV tại
Ngân hàng TMCP Ngoại thương – Chi nhánh Bình Dương
2.3.2.1. Thuận lợi
Thuận lợi từ vị trí, chính sách của tỉnh Bình Dương
Về vị trí địa lý: Tỉnh Bình Dương được thành lập và tách ra từ tỉnh Sông Bé
trước đây vào năm 1997 (bao gồm Bình Dương và Bình Phước), tuy thời gian được
thành lập đến nay mới chỉ khoảng 14 năm, là tương đối ngắn đối với quá trình hình
thành và phát triển của một tỉnh thành nhưng do có vị trí địa lý thuận lợi cùng với
những chính sách chủ trương “trải thảm đỏ” khuyến khích mời gọi đầu tư, đã tạo
nên những thành công ấn tượng trong quá trình phát triển của tỉnh nhà. Trong nhiều
năm liền, Bình Dương liên tục đứng ở vị trí số 1 về xếp hạng chỉ số năng lực cạnh
tranh cấp tỉnh. Hiện nay tỉnh có cơ sở hạ tầng khá hoàn chỉnh, giao thông thuận lợi,
là một trong những tỉnh thành có nhiều khu công nghiệp nhất trên cả nước (28 khu
công nghiêp).
Về chính sách hỗ trợ đối với DNNVV: Thực hiện Nghị định số
56/2009/NĐ-CP ngày 30/06/2009 của Chính phủ về trợ giúp phát triển DNNVV,
Nghị quyết số 22/NQ-CP ngày 5/5/2010 của Chính phủ về việc triển khai thực hiện
Nghị định 56/2009/NĐ-CP và Công văn số 4695/BKHĐT-PTDN ngày 18/07/2011
của Bộ Kế hoạch và Đầu tư về việc xây dựng Kế hoạch phát triển DNNVV giai
đoạn 2011-2015. Để hỗ trợ cho các DNNVV phát huy mọi khả năng và nguồn lực
đẩy mạnh hoạt động sản xuất kinh doanh, UBND tỉnh Bình Dương đã xây dựng Kế
hoạch số 3348/KH-UBND ngày 09/11/2011 về phát triển DNNVV tỉnh Bình Dương
giai đoạn 2011 – 2015. Kế hoạch này nhằm tạo môi trường thuận lợi cho các
DNNVV thuộc mọi thành phần kinh tế phát triển bình đẳng, bền vững, tăng cường
năng lực cạnh tranh nhằm huy động mọi nguồn lực cho đầu tư phát triển, nâng cao
vai trò của các DNNVV trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa của tỉnh.
43
Thông qua kế hoạch này, các chủ trương chính sách của Đảng, Nhà nước về
khuyến khích và trợ giúp phát triển DNNVV được cụ thể hóa, công khai, minh
bạch, giúp các DNNVV phát huy hiệu quả năng lực của mình trong hoạt động đầu
tư và phát triển kinh doanh. Các chỉ tiêu cụ thể như sau:
+ Số lượng DNNVV thành lập mới tăng từ 18 - 19%/năm giai đoạn 2011 –
2015;
+ Tỷ trọng đóng góp của DNNVV vào GDP của tỉnh chiếm 50 -55%;
+ Giải quyết việc làm cho 20.000 - 25.000 lao động/năm;
+ 80% DNNVV có khả năng tiếp cận được với các nguồn vốn vay từ các tổ
chức tín dụng trên địa bàn;
+ 90% DNNVV được trợ giúp pháp lý.
Với Kế hoạch trên, các DNNVV tỉnh Bình Dương sẽ có thêm nhiều cơ hội
để phát huy hết khả năng và vai trò của mình, góp phần vào sự phát triển kinh tế
ngày càng lớn hơn của tỉnh nhà. Đây cũng là cơ hội lớn để VCB Bình Dương có
thể tập trung khai thác và phát triển cho vay đối với loại hình doanh nghiệp này.
Thuận lợi từ phía Vietcombank
VCB Bình Dương là một trong những ngân hàng được thành lập sớm nhất tại
Bình Dương nên có nhiều cơ hội trong việc tiếp cận và phát triển thị trường khách
hàng tiềm năng ngay từ đầu. Hơn nữa thương hiệu Vietcombank vốn đã trở nên
quen thuộc và đã tạo được nhiều sự tín nhiệm từ phía các khách hàng cả trong và
ngoài nước.
Vietcombank có thế mạnh về nguồn vốn, mạng lưới rộng khắp, công nghệ,
tài trợ thương mại (tài trợ xuất nhập khẩu), thanh toán quốc tế, ngoại hối… và đặc
biệt là có truyền thống môi trường làm việc văn minh. Điều này đã giúp VCB Bình
Dương luôn là một trong những sự lựa chọn hàng đầu của các doanh nghiệp trên địa
bàn tỉnh có nhu cầu về quan hệ giao dịch và vay vốn. Đa số các khách hàng là
DNNVV hiện nay của VCB Bình Dương đều tự tìm đến với ngân hàng và có đề
nghị vay vốn.
44
Với thẩm quyền cho vay được Vietcombank TW cho phép là 100 tỷ đồng đối
với cho vay ngắn hạn và 40 tỷ đồng đối với cho vay trung dài hạn, thì VCB Bình
Dương có thể chủ động tiếp cận và thẩm định xét duyệt cho vay các nhu cầu về vốn
của khách hàng là DNNVV. Ngoài ra, các chính sách khuyến khích phát triển khách
hàng DNNVV của Vietcombank TW, đặc biệt là các khách hàng sản xuất xuất khẩu
thông qua việc hỗ trợ nguồn vốn, phí và lãi suất cũng tạo nhiều điều kiện thuận lợi
cho VCB Bình Dương.
Thuận lợi từ phía các khách hàng DNNVV
Số lượng DNNVV đông đảo với 12.808 doanh nghiệp, chiếm 96,3% tổng dố
doanh nghiệp đăng ký thành lập trên địa bàn tỉnh. Các DNNVV đa số hoạt động
trong các lĩnh vực ngành nghề truyền thống của tỉnh như sơn mài, gốm sứ, sản xuất
thu mua và chế biến nông sản, sản xuất vật liệu xây dựng, đồ gỗ, trang trí nội thất,
may mặc, … Là những ngành nghề mà giá trị thặng dư được tạo ra thông qua quá
trình sản xuất, vì vậy VCB Bình Dương có thể theo dõi giám sát nguồn tiền từ lúc
giải ngân đến khi thu nợ, do đó rủi ro được hạn chế và trong tầm kiểm soát.
Các DNNVV thường có mô hình hoạt động khá gọn nhẹ, nhu cầu vốn vay
thấp (dưới 10 tỷ đồng), chỉ hoạt động sản xuất trong một ngành nghề duy nhất và
các yêu cầu của doanh nghiệp cũng khá đơn giản nên ngân hàng không phải tốn
nhiều thời gian trong công tác thẩm định và phục vụ khách hàng, do vậy có thể phát
triển mở rộng cho vay đối tượng khách hàng này.
2.3.2.2. Khó khăn, tồn tại và hạn chế
Về phía doanh nghiệp
+ Rủi ro trong sản xuất kinh doanh:
Các DNNVV là những doanh nghiệp có quy mô vừa phải, vốn ít, phần lớn có
công nghệ sản xuất lạc hậu, sức cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế
còn yếu. Chất lượng sản phẩm không cao, khả năng đa dạng hóa sản phẩm kém,
năng lực khó có thể đáp ứng được các đơn hàng lớn, thị trường tiêu thụ ít và không
ổn định. Khi có dự án sản xuất mới, cần thay đổi máy móc thiết bị, hiện đại hóa dây
chuyền sản xuất, chuyển giao công nghệ… thì doanh nghiệp khó đáp ứng được vì
45
không có vốn. Một mặt, do sản xuất kinh doanh kém hiệu quả, mặt khác do lợi
nhuận để lại để tái đầu tư quá ít, tình trạng “bóc ngắn cắn dài” hay tình trạng khấu
hao nhanh (trong điều kiện kỹ thuật công nghệ biến đổi nhanh chóng)… còn phổ
biến, nên doanh nghiệp dễ bị phá sản trước những sự cố bất thường. Nhất là trong
điều kiện nền kinh tế thế giới nói chung, kinh tế Việt Nam nói riêng vẫn đang chịu
tác động nặng nề của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu năm 2008, thị trường tiêu
thụ bị thu hẹp, khả năng bán sản phẩm hết sức khó khăn,…, thì những rủi ro trong
sản xuất kinh doanh của các DNNVV lại càng bộc lộ rõ hơn bao giờ hết. Và đây
cũng chính là sự lo lắng lớn nhất của ngân hàng khi đầu tư vào DNNVV.
+ Hạn chế trong việc cung cấp thông tin và báo cáo tài chính:
Một trong những khó khăn mà các ngân hàng thường xuyên gặp phải khi thẩm
định cho vay các DNNVV là các doanh nghiệp báo cáo không đúng chế độ kế toán;
số liệu phản ánh không chính xác tình hình sản xuất kinh doanh và tình hình tài
chính của đơn vị mình. Báo cáo cân đối kế toán không được kiểm toán nên không
có độ tin cậy. Bên cạnh đó, hệ thống báo cáo ghi chép và theo dõi hoạt động sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp không có hoặc thiếu. Họ thường lợi dụng các khe
hở của pháp luật để lách thuế, trốn thuế; xây dựng các báo cáo tài chính mang tính
chất đối phó với cơ quan thuế. Vì vậy, không đảm bảo đủ điều kiện vay vốn ngân
hàng do ngân hàng rất khó kiểm soát nguồn chi tiêu và thu nhập của doanh nghiệp.
Báo cáo kế toán của doanh nghiệp còn chưa phản ánh đúng bản chất hoạt động
của doanh nghiệp và không đủ tin cậy. Theo ý kiến của cơ quan thuế và đúc kết từ
công tác thực tế của tác giả, thì phần lớn loại hình DNNVV trên địa bàn tỉnh không
có bộ phận kế toán riêng biệt để ghi chép theo dõi sổ sách hàng ngày, mà các doanh
nghiệp này thường thuê một cán bộ làm công tác hạch toán kế toán, lập các báo cáo
cho cơ quan thuế hàng tháng, quý, năm theo hình thức khoán bán thời gian hoặc
theo mùa vụ cho doanh nghiệp. Cán bộ kế toán này không phải đến doanh nghiệp làm
việc hàng ngày mà chỉ cần một vài giờ trong một tuần hoặc một vài ngày vào cuối
tháng, tùy theo số lượng nghiệp vụ phát sinh của doanh nghiệp nhiều hay ít để tổng
hợp số liệu làm báo cáo nộp cơ quan thuế. Điều này cho thấy báo cáo tài chính của
46
các doanh nghiệp không đủ độ tin cậy nên rất khó cho ngân hàng phân tích các chỉ tiêu
hoạt động kinh doanh phục vụ cho việc cấp tín dụng của ngân hàng đối với doanh
nghiệp.
Việc xuất hiện những hành vi tiêu cực, không minh bạch, vi phạm pháp luật;
đã không ít doanh nghiệp “mất tích” khỏi trụ sở đăng ký thành lập; hầu như không
ai biết doanh nghiệp hoạt động ra sao sau khi được cấp giấy phép. Một số doanh
nghiệp làm trái chức năng được phép, cố ý làm trái pháp luật, buôn lậu, trốn thuế,
sử dụng giấy tờ giả mạo, lừa đảo cơ qua chức năng để thành lập doanh nghiệp, để
xin hoàn thuế giá trị gia tăng (VAT), để góp vốn liên doanh, liên kết, lừa đảo vay
vốn ngân hàng, … cũng tương đối phổ biến đối với các DNNVV.
+ Doanh nghiệp không có đủ tài sản đảm bảo:
Bản thân DNNVV có mức vốn chủ sở hữu rất thấp, giá trị tài sản của doanh
nghiệp nhỏ nên không đủ để đảm bảo cho nhu cầu vay vốn. Trong nhiều trường hợp
tài sản đảm bảo nợ vay không đủ giấy tờ pháp lý về quyền sở hữu, quyền sử dụng
nên rất khó cho ngân hàng trong việc làm thủ tục nhận thế chấp, xét duyệt cho vay.
Các tài sản đảm bảo thông dụng mà DNNVV có thể có là động sản (máy móc
thiết bị, phương tiện vận tải…), bất động sản (quyền sử dụng đất, văn phòng, nhà
xưởng,…). Do có nguồn vốn hạn chế nên máy móc thiết bị hay phương tiện vận tải
của doanh nghiệp thường cũ kỹ, đã hết khấu hao, thiết bị công nghệ lạc hậu, khả
năng thanh khoản rất thấp nên các ngân hàng thường rất e ngại nhận làm tài sản
đảm bảo. Đối với các tài sản thế chấp là bất động sản, giá trị thị trường của quyền
sử dụng đất có thể là rất lớn, các DNNVV phải tốn kém nhiều chi phí để nhận
chuyển nhượng hoặc giải tỏa đền bù để có được mặt bằng sản xuất kinh doanh. Tuy
nhiên, do quy định của pháp luật về đất đai, về cách định giá tài sản đảm bảo tiền
vay của Vietcombank mà giá trị quyền sử dụng đất, bất động sản khác của doanh
nghiệp được định giá khá thấp so với giá trị thực tế, gây nhiều khó khăn cho doanh
nghiệp trong việc tiếp cận nguồn vốn vay ngân hàng do tài sản bảo đảm không đủ.
Các quy định này sẽ được phân tích tại phần định giá tài sản đảm bảo ở phần sau.
47
+ Trình độ quản lý doanh nghiệp còn thấp, nguồn nhân lực còn nhiều
hạn chế:
Yếu kém về nguồn nhân lực đến nay vẫn là khó khăn của DNNVV, nhất là
trong bối cảnh cạnh tranh thu hút nhân tài hiện nay. Các chủ doanh nghiệp, giám
đốc và cán bộ quản lý DNNVV còn kém về kiến thức và kỹ năng quản lý điều hành.
Một bộ phận lớn chủ doanh nghiệp và giám đốc doanh nghiệp tư nhân chưa được
đào tạo bài bản về kinh doanh và quản lý, còn hạn chế về kiến thức kinh tế - xã hội
và kỹ năng quản trị kinh doanh. Từ đó, có khuynh hướng phổ biến là các doanh
nghiệp hoạt động quản lý mang tính cách giả định, thiếu tầm nhìn chiến lược, hạn
chế kiến thức trên nhiều phương diện: quản lý tổ chức, chiến lược cạnh tranh, phát
triển thương hiệu, công nghệ thông tin và truyền thông. Một số chủ doanh nghiệp
mở công ty chỉ vì có sẵn tiền vốn và thích mạo hiểm, nhưng lại thiếu kiến thức cũng
như kỹ năng về kinh doanh nên đã dẫn đến rủi ro và thất bại. Bên cạnh đó, các yếu
tố về quản lý, thực thi pháp luật còn hạn chế dẫn đến tình trạng không định lượng
được rủi ro trong kinh doanh, môi trường lao động trong các DNNVV cũng không
được quan tâm đúng mức nên không thu hút được lao động có tay nghề giỏi, gắn bó
làm việc lâu dài với doanh nghiệp; việc đào tạo nguồn nhân lực cũng chưa được
quan tâm phát triển.
Hầu hết các cơ sở sản xuất kinh doanh manh mún, phân tán, trình độ công
nghệ, thiết bị lạc hậu, lao động thủ công, nên năng suất thấp và sản phẩm không đủ
sức cạnh tranh với các doanh nghiệp lớn, các tập đoàn hùng mạnh. Hoạt động sản
xuất kinh doanh chủ yếu theo thương vụ, chạy theo phong trào mà ít có chiến lược
phát triển lâu dài, bền vững nên dễ đổ bể. Các doanh nghiệp thường bán hàng không
có hợp đồng kinh tế, không tuân thủ chế độ phát hành hóa đơn giá trị gia tăng. Do
đó, ngân hàng không có cơ sở định giá và quyết định việc cho vay, nhiều doanh
nghiệp còn ngần ngại minh bạch tình hình kinh doanh của mình cho các cơ quan có
quan hệ kinh tế.
+ Doanh nghiệp chưa coi trọng việc thu thập thông tin:
48
Đa số các DNNVV không coi trọng việc thu thập thông tin, không đủ nguồn
lực và kỹ năng để nghiên cứu thị trường một cách hiệu quả, thậm chí không dành ra
nhân lực cần thiết tối thiểu để tìm hiểu nhu cầu khách hàng hoặc theo dõi đối thủ
cạnh tranh.
Trong khi các công ty nước ngoài dành rất nhiều thời gian và công sức để phát
triển kế hoạch chiến lược, nhằm xác định các bước cần thực hiện để đạt mục tiêu
trong ngắn hạn và dài hạn thì các công ty trong nước thường không chú ý hoặc thiếu
các kỹ năng cần thiết để phát triển các kế hoạch chiến lược kinh doanh. Từ đó dẫn
tới việc chủ quan hay quá lạc quan về kế hoạch phát triển kinh doanh hoặc đánh giá
thấp những rủi ro, trở ngại liên quan có thể xảy ra, vì thế không gây được niềm tin
đối với ngân hàng trong quá trình xem xét cho vay.
+ Doanh nghiệp chưa coi trọng các dịch vụ tư vấn:
Do bộ máy hoạt động của các DNNVV thường khá đơn giản, không có đầy đủ
các bộ phận chức năng như kế toán, tài chính, kinh doanh, tiếp thị,… nên việc lập
các kế hoạch kinh doanh, tài chính, vay vốn còn nhiều hạn chế, không được cụ thể,
chi tiết và nhiều khi không có tính khả thi so với tình hình thực tế. Trong khi đó các
DNNVV lại ít chú trọng đến các dịch vụ tư vấn như tư vấn thuế, tư vấn tuyển dụng
nhân sự, xây dựng kế hoạch kinh doanh và tài chính, quản lý chiến lược và tiếp thị
kinh doanh,…kết quả dẫn tới các báo cáo kế toán, báo cáo thuế, các kế hoạch tài
chính, phương án kinh doanh,… gửi ngân hàng và các cơ quan hữu quan không
được rõ ràng, minh bạch và thiếu tính chuyên nghiệp,… gây khó khăn, mất nhiều
thời gian cho ngân hàng trong việc kiểm tra và xem xét cho vay, từ đó ảnh hưởng
đến quyết định cho vay của ngân hàng.
Nguyên nhân là do các chủ DNNVV chưa nhận thấy được lợi ích từ các dịch
vụ tư vấn này, mặc dù tốn một khoản chi phí ban đầu nhưng lại mang lại lợi ích lớn
hơn. Hơn nữa, doanh nghiệp có thể nắm bắt được nhiều cơ hội kinh doanh và kinh
nghiệm khi tiếp cận các dịch vụ tư vấn này, về lâu dài có thể chủ động triển khai
các kế hoạch tài chính và kinh doanh của mình mà không cần sự hỗ trợ tư vấn. Một
lý do khác là do giá cả các loại dịch vụ tư vấn, đặc biệt là tư vấn quản lý thường lại
49
quá cao so với khả năng của doanh nghiệp. Ngoài ra, đối với các trường hợp vay
vốn ngân hàng, thì nhiều DNNVV quá chủ quan vào tình hình hoạt động kinh
doanh của mình hoặc dựa vào tài sản bảo đảm có giá trị cao trong khi hồ sơ đề nghị
vay vốn thì không rõ ràng, chi tiết, phương án kinh doanh quá sơ sài, hồ sơ pháp lý
chưa đầy đủ, nhiều trường hợp còn thông qua môi giới tín dụng (hay còn gọi là cò
tín dụng) để tiếp cận ngân hàng. Do đó, gây nhiều trở ngại cho ngân hàng trong việc
tiếp xúc trực tiếp với chủ doanh nghiệp, tìm hiểu tình hình hoạt động của doanh
nghiệp để từ đó có những tư vấn hỗ trợ, giúp doanh nghiệp hoàn chỉnh một bộ hồ sơ
vay vốn và xem xét quyết định cho vay.
Về phía ngân hàng
+ Về việc định giá và nhận thế chấp tài sản bảo đảm:
Hiện nay toàn hệ thống Vietcombank đang áp dụng chính sách bảo đảm tín
dụng được ban hành theo Quyết định số 30/QĐ-VCB.CSTD ngày 20/01/2011 và có
hiệu lực áp dụng từ ngày 01/04/2011. Tuy nhiên, việc áp dụng và triển khai chính
sách này đang còn nhiều bất cập, gây khó khăn cho các chi nhánh trong việc định
giá và nhận thế chấp tài sản bảo đảm, từ đó ảnh hưởng đến khả năng quyết định cho
vay.
Nhìn chung, qua nghiên cứu tổng thể chính sách bảo đảm tín dụng của
Vietcombank Bình Dương, tác giả nhận thấy cách đánh giá tài sản bảo đảm của
Vietcombank là khá khắt khe và thận trọng, có tính phòng ngừa rủi ro cao, bảo đảm
khả năng thu hồi nợ trong trường hợp xử lý tài sản thế chấp.
Riêng đối với các DNNVV, năng lực tài chính có hạn và tài sản bảo đảm cũng
hạn chế, chủ yếu là máy móc thiết bị và tài sản bảo lãnh là đất đai, nhà cửa của các
cá nhân trong công ty. Trong khi công tác xây dựng uy tín, thương hiệu và thị
trường của doanh nghiệp chưa được thiết lập và quan tâm một cách đúng mức nên
khả năng xem xét cho vay trong trường hợp tài sản bảo đảm không đủ giá trị theo
định giá của ngân hàng cũng khó được thông qua. Đây chính là một trong những
khó khăn lớn nhất đối với các DNNVV trong việc tiếp cận nguồn vốn vay ngân
hàng mặc dù phương án, kế hoạch sản xuất kinh doanh là khả thi.
50
Cụ thể xin nêu một số bất cập trong chính sách bảo đảm tín dụng hiện nay mà
có liên quan phổ biến nhất đến các khách hàng là DNNVV của Vietcombank như
sau:
- Quy định tại Khoản 1.1 Mục IV Phụ lục 02 của Category X _ Real
Estate (Bất động sản): trường hợp thế chấp quyền sử dụng đất nông nghiệp của hộ
gia đình, cá nhân được Nhà nước giao đất không thu tiền sử dụng đất thì giá trị định
giá được xác định theo giá đất do Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương quy định mà không khấu trừ giá trị quyền sử dụng đất đối với thời gian đã sử
dụng.
Theo Quyết định số 57/2010/QĐ-UBND ngày 22/12/2010 của UBND Tỉnh
Bình Dương V/v Ban hành quy định bảng giá các loại đất năm 2011 trên địa bàn
tỉnh Bình Dương đối với khu vực thị xã Thủ Dầu Một (là khu vực có giá đất cao
nhất tỉnh Bình Dương hiện nay) thì đất trồng cây lâu năm và đất nông nghiệp khác
tại vị trí 1 (tiếp giáp và cách hàng lang bảo vệ đường bộ trong phạm vi 100 mét) và
khu vực 1 (đất trên địa bàn các xã nằm ven trục đường giao thông do Trung ương và
tỉnh quản lý; các trục đường giao thông trên địa bàn các phường, thị trấn, đầu mối
giao thông, khu thương mại, khu công nghiệp, cụm công nghiệp, khu sản xuất, khu
du lịch, khu dân cư mới) có mức giá cao nhất hiện nay là 190.000 đồng/m2. Riêng
đối với vị trí khác nằm ở các khu vực thị xã, huyện khác thì giá còn thấp hơn.
Với cách định giá như trên thì quá thấp và chưa hợp lý, thực tế giá đền bù
giải phóng mặt bằng của các chủ đầu tư và giá thị trường chuyển nhượng hiện nay
cao hơn rất nhiều (gấp 40 – 50 lần giá theo khung giá UBND tỉnh) và tùy theo các
tuyến đường có vị trí lợi thế khác nhau mà giá đất còn có nhiều mức khác nhau.
- Quy định tại Khoản 1.2 Mục IV Phụ lục 02 Category X _ Real Estate
(Bất động sản): trường hợp tổ chức kinh tế được Nhà nước cho thuê đất trước ngày
01/07/2004 mà đã trả tiền cho thuê đất cho cả thời gian thuê hoặc đã trả trước tiền
thuê đất cho nhiều năm mà thời hạn thuê đất đã trả trước tiền còn lại ít nhất là 05
năm thì được thế chấp quyền sử dụng đất và được định giá trên 2 cơ sở:
51
Giá trị định giá được xác định theo tích số giá thuê đất hiện hành (nếu có)
nhân (x) trong thời gian thuê còn lại;
Trường hợp không có giá thuê hiện hành thì xác định theo số tiền thuê đất
còn lại đã thanh toán/trả trước.
Nhưng thực tế phát sinh nhiều trường hợp tổ chức kinh tế thuê đất chính là
những nhà đầu tư tạo lập nên quyền sử dụng đất đó, từ lúc bồi thường, giải phóng
mặt bằng và hỗ trợ tái định cư cho đến khi được cấp Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất thuê, tổng hợp các chi phí doanh nghiệp bỏ ra hình thành nên tài sản là rất
lớn, mặc dù theo quy định tại khoản 5 Điều 2 của Nghị định số 121/2010/NĐ-CP
ngày 30/12/2005 v/v bổ sung khoản 3 Điều 7 Nghị định số 142/2005/NĐ-CP ngày
14/11/2005 thì: “Trường hợp người được Nhà nước cho thuê đất thực hiện ứng
trước tiền bồi thường, hỗ trợ, tái định cư và kinh phí tổ chức thực hiện bồi thường,
giải phóng mặt bằng theo phương án được cấp có thẩm quyền phê duyệt thì được
trừ số tiền đã ứng trước vào tiền thuê đất phải nộp theo phương án được duyệt;
Mức được trừ không được vượt quá số tiền thuê đất phải nộp.
Số tiền bồi thường, hỗ trợ, tái định cư và kinh phí tổ chức thực hiện bồi
thường, giải phóng mặt bằng còn lại chưa được trừ vào tiền thuê đất phải nộp (nếu
có) được tính vào vốn đầu tư của dự án”.
Hiện nay mặc dù đơn giá cho thuê đất một năm của Nhà nước đã được điều
chỉnh tăng lên gấp 3 lần so với quy định trước đây, cụ thể tại địa bàn tỉnh Bình
Dương quy định tối đa bằng 1,5% giá đất theo mục đích sử dụng đất thuê do UBND
tỉnh ban hành (áp dụng kể từ ngày 01/03/2011) nhưng nhìn chung vẫn còn thấp và
lại được điều chỉnh khá chậm (05 năm/lần).
Như vậy, nếu định giá quyền sử dụng đất thuê trong các trường hợp trên và
chỉ căn cứ vào đơn giá thuê đất còn lại đã thanh toán/đã trả trước, thậm chí theo đơn
giá thuê hiện hành thì vẫn thiệt thòi cho các doanh nghiệp thuê đất vì giá trị quyền
sử dụng đất do chính doanh nghiệp tạo lập nên rất cao. Thực tế nếu doanh nghiệp
muốn chuyển nhượng các quyền sử dụng đất thuê Nhà nước cho người sử dụng
52
khác hoặc khi phát mãi tài sản thì giá trị chuyển nhượng chính là giá thị trường giao
dịch bất động sản tại thời điểm chuyển nhượng.
- Quy định tại Khoản 2.1 Mục IV Phụ lục 02 Category X _ Real Estate
(Bất động sản) về định giá tài sản gắn liền với đất không phải là nhà ở: theo
quy định hiện tại, chỉ cho phép định giá tài sản gắn liền với đất không phải là nhà ở
(đủ điều kiện thế chấp chính thức) căn cứ vào một điều kiện duy nhất: không vượt
quá chi phí thực tế và hợp lý để hình thành tài sản, được xác định dựa vào hồ sơ,
chứng từ đầu tư và/hoặc xây dựng và/hoặc quyết toán của chủ đầu tư sau khi khấu
trừ phần giá trị khấu hao tài sản theo thời gian thực tế sử dụng tài sản.
Nhưng thực tế có một số trường hợp khách hàng than phiền khó khăn và
không thể tìm kiếm hoặc thu thập đầy đủ các hồ sơ, chứng từ, hóa đơn,… hình
thành nên tài sản, nguyên nhân do một số công trình xây dựng (nhà xưởng, văn
phòng, công trình phụ…) được thi công từ rất lâu, các tài liệu hạch toán có liên
quan đã lưu giữ qua nhiều thế hệ nhân viên trong doanh nghiệp và bị thất lạc ít
nhiều. Ngoài ra, phát sinh các trường hợp công trình xây dựng đã lâu, trích hết khấu
hao nhưng vẫn giữ nguyên hiện trạng và còn giá trị sử dụng tốt. Vì vậy, nếu chỉ căn
cứ vào điều kiện đã nêu để định giá tài sản gắn liền với đất không phải nhà ở thì
chưa hợp lý, thậm chí là khó thực hiện được trong thực tế.
- Quy định tại Mục III Phụ lục 02 Category VII _Vehicle (Phương tiện
giao thông đường bộ) về mức độ ưu tiên nhận bảo đảm và tỷ lệ cấp tín dụng tối
đa theo giá trị định giá: Đối với tài sản là xe máy chuyên dùng đã qua sử dụng (mã
số VH4): hạn chế nhận thế chấp, theo tác giả là chưa phù hợp. Hiện nay loại
phương tiện vận tải chuyên dùng này vốn được Sở Giao thông Vận tải cấp Giấy
chứng nhận đăng ký như đối với các loại phương tiện vận tải thông thường khác.
Nhiều trường hợp các loại phương tiện vận tải chuyên dùng chỉ mới sử dụng thời
gian ngắn (còn khấu hao) trong ngành xây dựng do các cá nhân/tổ chức kinh tế
nhập/mua về như: xe trộn bê tông, xe ủi, xe lu,… có giá trị khá lớn nhưng không
được áp dụng một tỷ lệ cấp tín dụng là chưa hợp lý.
53
- Quy định tại Khoản 2 Mục IV Phụ lục 02 của Category VII _Vehicle
(Phương tiện giao thông đường bộ) & Category VIII _Vessel (Phương tiện giao
thông đường thủy) về hướng dẫn định giá tài sản bảo đảm: Trường hợp chi
nhánh tự định giá tài sản bảo đảm, thì giá trị tài sản khi định giá (mới 100% hoặc đã
qua sử dụng) phải khấu trừ thuế (nếu có). Theo quy định này thì việc định giá tài
sản đảm bảo thuộc sở hữu cá nhân sẽ khấu trừ phần thuế VAT vào giá trị tài sản là
chưa hợp lý vì khách hàng cá nhân chính là người tiêu dùng cuối cùng bị đánh thuế,
hoặc đối với doanh nghiệp thì thuế nhập khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt và lệ phí trước
bạ đều được tính vào giá trị tài sản và cho phép trích khấu hao.
Như vậy, với chính sách bảo đảm tín dụng như hiện nay của Vietcombank đã
gây nhiều khó khăn và hạn chế cho các chi nhánh, cụ thể là VCB Bình Dương gặp
trở ngại trong việc định giá và nhận thế chấp tài sản bảo đảm, kết quả là định giá
thấp hơn nhiều so với giá thị trường thực tế. Từ đó ảnh hưởng đến các quyết định
cho vay, làm giảm sức cạnh tranh của các chi nhánh và đánh mất nhiều cơ hội tiếp
cận với các khách hàng tiềm năng, cho vay đối với các phương án, dự án khả thi và
hiệu quả.
Những kiến nghị chỉnh sửa những bất cập trong chính sách bảo đảm tín dụng
của Vietcombank nêu trên sẽ được trình bày trong Phần 3.2.8 thuộc Chương 3.
+ Quy trình cho vay còn rườm rà, phức tạp:
Quy trình cho vay của Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam được đánh
giá là một trong những quy trình tín dụng chặt chẽ nhất, nhưng chính sự chặt chẽ
này lại tạo ra một loạt các bước công việc rườm rà, phức tạp, gây tốn kém thời gian
thẩm định cho ngân hàng và khách hàng. Mặc dù hiện nay Vietcombank cũng đã có
một quy trình tín dụng riêng biệt áp dụng cho các DNNVV nhằm chuẩn hoá cũng
như đơn giản hoá thủ tục so với quy trình cho vay các doanh nghiệp lớn, nhưng khi
áp dụng vào thực tế cũng còn khá phức tạp. Việc quy định nhiều phòng ban cùng
tham gia vào quá trình cấp tín dụng với mỗi phòng ban một chức năng khác nhau,
dù đảm bảo tính khách quan trong việc cấp tín dụng, hạn chế rủi ro, nhưng lại tạo ra
khá nhiều công đoạn, nhiều thủ tục giấy tờ không thực sự cần thiết gây mất thời
54
gian, đặc biệt là trong trường hợp sự phối hợp giữa các phòng ban không nhịp
nhàng. Điều này gây hiệu ứng ngược lại với cách làm “một cửa” hiện nay tại các
ngân hàng thương mại cổ phần khác.
+ Ngân hàng chưa đẩy mạnh công tác tiếp thị, mạng lưới chi nhánh còn
thưa thớt:
Vietcombank là một ngân hàng có thương hiệu, được rất nhiều người biết đến,
nhưng họ chỉ biết đây là một ngân hàng với hoạt động cho vay chủ yếu là cho vay
xuất nhập khẩu, cho vay các doanh nghiệp lớn hoặc cho vay theo chỉ định của
Chính phủ chứ chưa biết đến như một ngân hàng cũng cho vay đa dạng các đối
tượng khác như các DNNVV, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI), cá
nhân và hộ gia đình,… Riêng đối với chi nhánh VCB Bình Dương, do lực lượng
cán bộ nhân viên còn thiếu, nên trong thời gian qua chủ yếu tập trung vào các doanh
nghiệp lớn, mà ít quan tâm đến mảng cho vay DNNVV, cho vay cá nhân và hộ gia
đình. Mặc dù hiện nay, với sự chỉ đạo của Vietcombank Trung ương, Chi nhánh
cũng đã bắt đầu đẩy mạnh hoạt động cho vay DNNVV, nhưng chưa thu hút được
một số lượng lớn các khách hàng là DNNVV. Nguyên nhân do công tác phát triển
và tiếp thị chưa được đẩy mạnh và quan tâm đúng mức, chỉ mang tính bộc phát chủ
yếu bằng hình thức phát tờ rơi nên chưa phát huy được hiệu quả cao. Các hình thức
quảng cáo, tiếp thị khác thông qua các phương tiện truyền thông đại chúng như báo
đài, nhà tài trợ, thông qua tiếp thị, tiếp xúc trực tiếp, … còn rất hạn chế. Đa số
khách hàng đến đặt quan hệ tín dụng với ngân hàng xuất phát từ nhu cầu bức thiết
về vốn, khách hàng tự tìm hiểu và tự liên hệ với ngân hàng.
Mạng lưới phòng giao dịch còn thưa thớt, hiện nay VCB Bình Dương có 5
phòng giao dịch, bao gồm Phòng giao dịch số 01 tại trung tâm thị xã Thủ Dầu Một;
Phòng giao dịch Mỹ Phước tại thị trấn Mỹ Phước, huyện Bến Cát; Phòng giao dịch
Phú Chánh tại xã Phú Chánh, thị xã Thủ Dầu Một; Phòng giao dịch Tân Uyên tại
Khu công nghiệp Nam Tân Uyên và Phòng giao dịch Vsip tại thị xã Thuận An. Với
khu vực đầu tư phát triển khách hàng được Tổng giám đốc Vietcombank cho phép
là khu vực tỉnh Bình Dương và tỉnh Bình Phước (VCB Bình Dương có thể cấp tín
55
dụng cho các doanh nghiệp được thành lập, đăng ký kinh doanh tại 02 tỉnh này) thì
hiện nay mạng lưới các phòng giao dịch của VCB Bình Dương đang còn khá thưa
thớt, chưa thể đáp ứng kịp thời cho nhu cầu phát triển của các DNNVV và là một
trong những nguyên nhân cản trở quá trình tiếp cận, thiết lập quan hệ tín dụng với
các DNNVV.
Thêm vào đó, các phòng giao dịch của VCB Bình Dương chủ yếu là phát triển
và cung cấp các dịch vụ ngân hàng bán lẻ, trong đó có cho vay thể nhân với hạn
mức quyền phán quyết tối đa là 500 triệu đồng. Các trường hợp cấp tín dụng vượt
mức 500 triệu đồng và cấp tín dụng cho khách hàng là doanh nghiệp thì phải thông
qua Phòng Khách hàng tại trụ sở chính tái thẩm định và xét duyệt cho vay. Điều này
gây mất thời gian cho công tác thẩm định của ngân hàng và khách hàng, ngoài ra
cũng gây tâm lý e ngại, bị động cho các phòng giao dịch trong công tác tiếp cận và
phát triển các khách hàng là DNNVV.
+ Nhân viên tín dụng còn thiếu và yếu về chuyên môn nghiệp vụ:
Thẩm định dự án đầu tư, phương án sản xuất kinh doanh là một trong những
khâu rất quan trọng trong quá trình phân tích tín dụng nhằm nhận ra các dự án,
phương án khả thi để tài trợ một cách hiệu quả nhất và loại bỏ những dự án không
hiệu quả.
Bình Dương là một trong những khu vực có tốc độ phát triển kinh tế cao nhất
nước, tập trung rất nhiều công ty, nhà máy, xí nghiệp lớn, nhỏ đủ loại với nhiều
ngành nghề khác nhau nên đòi hỏi nhân viên tín dụng cũng phải có trình độ hiểu
biết khá rõ về các ngành nghề đó mới có thể thẩm định một cách chi tiết, chuyên
sâu và chính xác được. Tuy nhiên nhân viên tín dụng tại VCB Bình Dương hầu hết
còn trẻ, tất cả đều có trình độ, nhiệt tình, hàng năm được đào tạo thêm chuyên môn
nghiệp vụ nhưng do hầu hết là nhân viên mới, kinh nghiệm thực tế chưa có, kiến
thức về ngành nghề sản xuất kinh doanh còn hạn chế, khả năng tiếp xúc, tư vấn,
thẩm định và chăm sóc khách hàng chưa tốt và chưa đồng đều; nhân viên được
tuyển dụng từ nhiều tỉnh thành khác nên cũng chưa am hiểu nhiều về đặc thù kinh
tế, xã hội tại địa phương. Do đó, trong công tác chuyên môn còn gặp nhiều khó
56
khăn, đòi hỏi phải được trang bị thêm nhiều kiến thức, kinh nghiệm thực tế ngoài
chương trình đã học ở trường.
Ngoài ra, VCB Bình Dương luôn ở trong tình trạng thiếu nhân viên tín dụng,
đặc biệt là nhân viên có năng lực, có nhiều kinh nghiệm. Một phần do công tác
tuyển dụng và đào tạo chưa kịp thời, chưa có chất lượng cao; một phần do tình hình
cạnh tranh nhân lực trên địa bàn, hiện tượng chảy máu chất xám diễn ra khá phổ
biến và thường xuyên. Điều này gây mất nhiều thời gian và chi phí cho ngân hàng
trong công tác xây dựng lực lượng cán bộ chuyên môn cũng như mất đi nhiều cơ
hội kinh doanh do nguồn lực con người chưa đáp ứng kịp thời. Đây cũng là một
trong những khó khăn lớn hiện nay tại Chi nhánh mà nguyên nhân chủ yếu là do cơ
chế chính sách lương thưởng của Vietcombank, VCB Bình Dương chưa thể giải
quyết triệt để.
Bên cạnh đó, việc phân công công việc cho nhân viên tín dụng cũng chưa thật
sự hợp lý, chưa thể hiện tính chuyên môn hóa cao, không phân công cán bộ tín dụng
phụ trách quản lý khách hàng theo ngành nghề, theo nhóm làm cho mỗi cán bộ tín
dụng phải mất nhiều thời gian để tự tìm hiểu về các ngành nghề khác nhau của
khách hàng mà mình phụ trách. Việc một nhân viên vừa phụ trách khách hàng
doanh nghiệp, vừa phụ trách khách hàng thể nhân làm ảnh hưởng đáng kể đến thời
gian, chất lượng thẩm định hồ sơ tín dụng cũng như công tác chăm sóc và phát triển
khách hàng.
+ Huy động vốn không đáp ứng đủ nhu cầu cho vay:
Trong những năm vừa qua, tốc độ tăng trường tín dụng của Chi nhánh luôn ở
mức khá cao, tuy nhiên trong bối cảnh tình hình huy động vốn ngày càng khó khăn,
Chi nhánh phải chủ động tự cân đối nguồn vốn huy động bằng nhiều hình thức như
rút thăm trúng thưởng, chương trình quà tặng khuyến mãi,… Tuy nhiên, do chính
sách huy động của các ngân hàng thương mại cổ phần tư nhân khác trên địa bàn khá
linh hoạt với mức lãi suất cạnh tranh hơn nhiều so với VCB Bình Dương, kèm theo
nhiều chương trình khuyến mãi quà tặng hấp dẫn, nên đã thu hút một lượng lớn các
57
khách hàng gửi tiền trên địa bàn và gây không ít khó khăn cho VCB trong việc giữ
chân các khách hàng gửi tiền hiện có và phát triển thêm các khách hàng mới.
Trong tình hình khó khăn về nguồn vốn huy động, buộc VCB Bình Dương
phải xem xét cân đối lại nguồn tiền và khả năng cho vay, ưu tiên tập trung nguồn
vốn huy động được cho các khách hàng truyền thống, các khách hàng lớn có giao
dịch nhiều nghiệp vụ với VCB Bình Dương.
Nguồn vốn huy động khó khăn cũng là một trong những nguyên nhân làm
ngân hàng không mặn mà với việc cho vay các DNNVV. Điều này càng gây khó
khăn cho các DNNVV tiếp cận nguồn vốn vay ngân hàng để bổ sung vốn phục vụ
hoạt động sản xuất kinh doanh, nhất là trong bối cảnh tình hình kinh tế khó khăn, lãi
suất tăng cao.
+ Sự hạn chế về thông tin tín dụng:
Trên địa bàn tỉnh Bình Dương, số lượng doanh nghiệp hoạt động rất nhiều,
quan hệ thương mại rất đa dạng và phức tạp, đặc biệt là khu vực DNNVV. Vì vậy,
việc nắm bắt chính xác và kịp thời những thông tin của khách hàng là DNNVV
trong quá trình thẩm định và xét duyệt cho vay của ngân hàng còn gặp nhiều khó
khăn, nhất là những doanh nghiệp mới quan hệ vay vốn lần đầu. Ngân hàng có thể
truy cập thông tin khách hàng và dự án từ nhiều nguồn khác nhau như trung tâm
thông tin tín dụng của NHNN, trung tâm thông tin tín dụng của Vietcombank, các
ngân hàng khác về thực trạng nợ nần, tình hình vay trả nợ, … Tuy nhiên những
nguồn thông tin này thường khá hạn chế và chưa được cập nhật kịp thời. Thông tin
tài chính thì thường là những số liệu quá khứ chưa phản ánh đúng thực tế tình hình
tài chính và khả năng vay trả nợ của khách hàng, trong khi đó những thông tin phi
tài chính có ảnh hưởng quan trọng đến tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh và
khả năng phát triển của khách hàng như cơ cấu tổ chức ban lãnh đạo, các chính sách
định hướng của ngành, thị trường tiêu thụ, đối thủ cạnh tranh,… thì chưa được cập
nhật kịp thời và thông tin đầy đủ.
Ngoài ra, nếu doanh nghiệp đã vay tại nhiều TCTD khác trước khi đến VCB
Bình Dương vay thì khó có thể kiểm soát được chính xác doanh nghiệp đó đã vay
58
với mức dư nợ hiện tại là bao nhiêu? tài sản bảo đảm như thế nào? tình hình vay trả
nợ và uy tín trong giao dịch ra sao? nguồn doanh thu của khách hàng về tài khoản
mở tại ngân hàng nào nhiều hơn? có tương ứng với doanh số ngân hàng mình đã
giải ngân hay không? cũng là vấn đề nan giải.
Và đây cũng chính là những nguyên nhân khiến ngân hàng hạn chế cho vay
đối với các khách hàng là DNNVV.
Về tình hình kinh tế và môi trường kinh doanh
+ Tình hình kinh tế và môi trường kinh doanh còn nhiều hạn chế:
Việt Nam được đánh giá là một trong những quốc gia có môi trường đầu tư
hấp dẫn nhất thế giới do là nước đang phát triển, tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, dân
số đông, trẻ, tình hình chính trị ổn định,… Tuy nhiên Việt Nam vẫn còn khá nghèo
nàn về nguồn lực kinh doanh, và đây đang là một trở ngại lớn đối với các doanh
nghiệp, nhất là các DNNVV. Mặc dù nguồn lao động dồi dào về số lượng nhưng
chất lượng còn hạn chế, khan hiếm nhân lực có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao.
Mô hình kinh doanh của các TCTD còn mang tính độc canh, khoanh vùng và
còn mang nặng dấu ấn của cơ chế cũ. Hoạt động ngân hàng theo luật hiện hành còn
bị thu hút nhiều vào nhiệm vụ quản lý Nhà nước. Vì vậy, các DNNVV khó có thể
tiếp cận được với nguồn vốn ngân hàng một cách trực tiếp. Các tiện ích của Ngân
hàng còn nhiều hạn chế, thị trường bán lẻ còn bỏ ngỏ rất nhiều, tỷ trọng thanh toán
bằng tiền mặt còn cao do tính chuyên nghiệp trong hoạt động ngân hàng còn yếu. Vì
vậy sức mua của một đơn vị tiền tệ đã dần trở nên nhỏ bé so với giá cả hàng hóa.
Môi trường kinh doanh chưa ổn định, pháp luật còn thay đổi thường xuyên làm
ảnh hưởng không nhỏ đến tình hình hoạt động của doanh nghiệp. Thị trường tiêu
thụ trong nước nhỏ bé trong khi thị trường bên ngoài rộng lớn nhưng không ổn
định, thất thường và yêu cầu đòi hỏi về chất lượng sản phẩm cao hơn nhiều so với
thị trường trong nước nên khó xâm nhập hơn.
Việc quy định và thực hiện đăng ký kinh doanh còn một số bất cập như thủ tục
rườm rà, mất nhiều thời gian trong khi đó việc đăng ký kinh doanh qua mạng còn
nhiều hạn chế và chưa phổ biến; chưa thực hiện được việc kiểm tra sau đăng ký kinh
59
doanh; cơ quan đăng ký kinh doanh còn thiếu nhân lực, thiết bị và năng lực kiểm
tra doanh nghiệp theo các nội dung đã đăng ký kinh doanh... Vì vậy, xảy ra không
ít trường hợp các doanh nghiệp không góp vốn như cam kết trong hồ sơ đăng ký kinh
doanh, không báo cáo hoạt động theo quy định, tình trạng các “công ty ma” vẫn còn..
Các thể chế về đầu tư và khuyến khích đầu tư còn một số bất cập, trở ngại, các
ưu đãi đầu tư còn dàn trải, phức tạp, một số lượng rất lớn như các hộ kinh doanh cá
thể, doanh nghiệp tập thể, các trang trại... chưa được hưởng các ưu đãi đầu tư do các cơ
sở này thường được áp dụng hình thức thuế khoán, không thực hiện chế độ báo cáo
tài chính nên không đủ điều kiện hưởng ưu đãi đầu tư theo quy định pháp luật.
Công tác hỗ trợ của các cơ quan pháp luật Bình Dương (Tòa án, Thi hành án,...)
trong việc thụ lý, xử lý các hồ sơ về nợ quá hạn, nợ khó đòi còn nhiều trở ngại, chậm
chạp và mất nhiều thời gian làm cho công tác cấp tín dụng của các NHTM cũng
phải rất chặt chẽ, lựa chọn khách hàng tốt, tài sản bảo đảm có giá trị cao để phòng ngừa
rủi ro.
+ Thông tin thị trường chưa được cập nhật thường xuyên:
So với các nước trên thế giới cũng như các nước trong khu vực, các doanh
nghiệp nước ta phải hoạt động trong điều kiện thông tin không được đầy đủ. Các
doanh nghiệp khó có thể biết được tổng cầu nội địa về loại sản phẩm của doanh
nghiệp mình sẽ thay đổi như thế nào? Tương quan lãi suất giữa đồng nội tệ và ngoại
tệ ra sao?... từ đó có thể có chiến lược kinh doanh, sản xuất phù hợp, đáp ứng đủ
nhu cầu thị trường, không gây ứ đọng trong sản suất hoặc không đáp ứng đủ hàng
hóa cho thị trường. Vì là DNNVV nên nếu sản xuất không hợp lý sẽ ảnh hưởng lớn
đến kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh.
+ Chất lượng dịch vụ còn thấp, cơ sở hạ tầng chưa phát triển:
Bình Dương là tỉnh rất chú trọng đến việc đầu tư cơ sở hạ tầng nhưng vẫn chưa
đáp ứng được nhu cầu về đường giao thông, về mặt bằng sản xuất kinh doanh cho
các DNNVV. Do vốn ít nên nhiều DNNVV không thể thuê đất, thuê nhà xưởng,
văn phòng trong khu công nghiệp để hoạt động sản xuất kinh doanh. Trong khi đó,
để có được đất xây dựng nhà xưởng, làm mặt bằng sản xuất, DNNVV ở ngoài hàng
60
rào khu công nghiệp phải xoay sở trên thị trường thứ cấp với chi phí thuê đất cao và
phải tốn rất nhiều thời gian, điều kiện chật hẹp, giao thông bất tiện, không có dịch
vụ hỗ trợ, không có điều kiện để phát triển. Mặc dù Tỉnh cũng đã có quy hoạch và
tập hợp các doanh nghiệp này vào chung một khu, cụm để tạo điều kiện cho doanh
nghiệp yên tâm sản xuất kinh doanh và phát triển, nhưng mô hình này còn rất hạn
chế (chủ yếu trong ngành gốm, dùng chất đốt là củi) và chỉ xuất phát từ yêu cầu an
toàn vệ sinh môi trường.
Các dịch vụ hỗ trợ sự phát triển của doanh nghiệp còn thiếu và chất lượng
thấp. Nếu có những dịch vụ có chất lượng cao thì đối với bản thân DNNVV rất khó
có thể tiếp cận được. Nhìn chung, đa số các DNNVV chỉ tiếp cận với các dịch vụ
kém chất lượng, thậm chí còn thiếu nhiều dịch vụ cần thiết và thường ít có sự chọn
lựa với những dịch vụ sẵn có. Nhiều dịch vụ hỗ trợ cho sự phát triển của doanh
nghiệp còn chưa phát triển mạnh như: các cơ quan thông tin công cộng, chính
quyền địa phương, các tổ chức xúc tiến thương mại, thị trường chứng khoán, thị
trường tiền tệ, công ty bảo hiểm,…
+ Thị trường tài chính chưa phát triển:
Thị trường tài chính nói chung, thị trường chứng khoán nói riêng luôn là kênh
huy động vốn đắc lực và hiệu quả đối với các doanh nghiệp trên thế giới. Tại Việt
Nam thị trường chứng khoán còn rất non trẻ, chưa phát triển nên chưa thể là kênh
huy động vốn hiệu quả cho doanh nghiệp, đặc biệt là các DNNVV. Hệ thống văn
bản pháp lý về thị trường chứng khoán chưa hoàn chỉnh. Thị trường (bao gồm chính
thức và phi chính thức) chưa được quản lý một cách chặt chẽ, chưa phát triển một
cách lành mạnh và hiệu quả. Các doanh nghiệp trên thị trường chứng khoán hầu hết
mới chỉ là các doanh nghiệp lớn, tình hình tài chính lành mạnh, hoạt động kinh
doanh hiệu quả, thông tin minh bạch, vì vậy được các nhà đầu tư và các ngân hàng
quan tâm. Ngược lại, các DNNVV, rất ít doanh nghiệp được niêm yết trên thị
trường chứng khoán do không đáp ứng được điều kiện về vốn, hiệu quả kinh doanh,
sự minh bạch trong công bố thông tin và nhiều yếu tố khác. Mặt khác, do chủ sở
hữu doanh nghiệp thường có quan hệ mật thiết với nhau, cách quản lý lại theo kiểu
61
gia đình, mô hình công ty vì thế chủ yếu là công ty TNHH, doanh nghiệp tư
nhân,… là những đối tượng không thể niêm yết trên thị trường.
+ Chưa nhận được sự hỗ trợ tích cực từ các Hiệp hội:
Trong bối cảnh hiện nay, khi Việt Nam đã gia nhập tổ chức thương mại thế
giới (WTO) thì vai trò của các hiệp hội doanh nghiệp, hiệp hội ngành nghề là vô
cùng quan trọng. Các hiệp hội này có thể hỗ trợ doanh nghiệp tích cực hơn trong
việc đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá ra nước ngoài, củng cố và mở rộng thị trường
nội địa, xây dựng cơ chế trao đổi thông tin thị trường và khách hàng trong các
doanh nghiệp hội viên; xác định được phương hướng liên kết, liên doanh và hợp tác
trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm trên cơ sở tự nguyện của các hội viên; phản ánh
trung thực ý kiến của các hội viên về các chính sách phát triển sản xuất kinh doanh
lên các cơ quan liên quan; hợp tác giữa các hiệp hội ngành hàng Việt Nam với các
tổ chức hiệp hội ngành hàng quốc tế nhằm nâng cao vị thế và uy tín của các ngành
hàng trong cộng đồng quốc tế; tăng cường hơn sự phối hợp giữa các bộ, ngành và
các hiệp hội thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, thực hiện
các cam kết của Việt Nam đối với WTO.
Thời gian qua, hiệp hội doanh nghiệp tại Việt Nam cũng đã tương đối thành
công trong một số hoạt động như cung cấp thông tin về chính sách, pháp luật; kiến
nghị về chính sách, quy định liên quan đến doanh nghiệp và tập huấn, đào tạo ngắn
hạn. Tuy nhiên, các hiệp hội doanh nghiệp nhìn chung hiệu quả hoạt động chưa cao,
chưa hỗ trợ tích cực cho các doanh nghiệp, nhất là các DNNVV. Ngoài ra, đối với
nhiều DNNVV, việc tham gia vào hiệp hội chỉ mất thời gian, tốn phí mà không
được lợi ích gì, vì vậy họ không mặn mà với việc tham gia vào các hiệp hội. Hoạt
động của các hiệp hội doanh nghiệp tại Việt Nam vẫn còn những khó khăn và tồn
tại sau:
- Vẫn còn hạn chế về hoạt động tư vấn, cung cấp thông tin thị trường, giá cả,
hỗ trợ cho hội viên tiếp cận thị trường trong nước và thị trường xuất khẩu. Việc
cung cấp dịch vụ hỗ trợ kinh doanh cho hội viên còn yếu, chỉ dừng lại ở mức độ
phổ biến thông tin bằng bản tin hay báo chí, tư vấn pháp luật cho từng trường hợp
62
cụ thể và tổ chức đào tạo. Tỷ lệ DNNVV được tham gia vào các chương trình xúc
tiến thương mại trọng điểm của Nhà nước còn thấp; chưa có nhiều chương trình hỗ
trợ xuất khẩu dành riêng cho DNNVV, nhất là các chương trình liên quan đến nâng
cao chất lượng, mẫu mã sản phẩm để có thể xuất khẩu sang các thị trường khu vực
và các thị trường khó tính.
- Thiếu các nguồn lực: các hiệp hội hiện dựa vào bốn nguồn thu nhập là ngân
sách nhà nước, phí thu được từ cung cấp dịch vụ, hội phí và các khoản tài trợ (hội
viên cũng như các tổ chức cá nhân ngoài hội). Tuy nhiên, những nguồn này không
ổn định và không thường xuyên, do vậy các hiệp hội không thể xây dựng và phát
triển hoạt động của mình dựa trên một ngân quỹ xác định.
- Thiếu năng lực, thiếu cán bộ chuyên trách: Tính chuyên nghiệp của các hiệp
hội doanh nghiệp Việt Nam vẫn còn yếu. Các hiệp hội nhỏ và các hiệp hội cấp tỉnh
thường không có cán bộ chuyên trách. Lãnh đạo của hiệp hội thường là các doanh
nhân, họ có ít thời gian để gắn bó với công việc của hiệp hội. Nhìn chung nhân sự
các hiệp hội không được trang bị chuyên môn để cung cấp dịch vụ hỗ trợ cho các
hội viên một cách thỏa đáng.
Nguyên nhân chủ yếu của vấn đề này là vấn đề tài chính, hiệp hội không thể
thuê những người có năng lực làm việc cho mình.
- Thiếu khung pháp lý hoàn chỉnh cho việc xây dựng và phát triển hiệp hội:
Khung pháp lý hiện hành chưa hệ thống hoá một cách chuẩn mực, thủ tục đăng ký
phức tạp, do đó có thể cản trở việc thành lập các hiệp hội doanh nghiệp có tiềm
năng phát triển mạnh và đóng góp vào sự phát triển kinh doanh.
2.3.3. Chỉ tiêu về phát triển tín dụng DNNVV tại Ngân hàng TMCP Ngoại
thương – Chi nhánh Bình Dương
Từ thực trạng cho vay DNNVV tại VCB Bình Dương như đã phân tích phần
trên với những thuận lợi, khó khăn, những mặt còn tồn tại và hạn chế thì có thể nói
công tác tín dụng DNNVV tại VCB Bình Dương đang còn khá yếu, chưa tương
xứng với quy mô hoạt động và sự kỳ vọng của Nhà nước trong việc tăng cường hỗ
trợ vốn vay cho các DNNVV sản xuất kinh doanh.
63
Để có thể đưa ra các kế hoạch và giải pháp phát triển tín dụng DNNVV tại
VCB Bình Dương có tính khả thi trong thực tế cũng như có tiêu chuẩn để đo lường
đánh giá mức độ thực hiện công tác tín dụng DNNVV tại VCB Bình Dương, tác giả
đưa ra một số chỉ tiêu cơ bản để đánh giá về phát triển tín dụng DNNVV tại VCB
Bình Dương như sau:
+ Về tốc độ tăng trưởng dư nợ DNNVV: tối thiểu phải bằng mức tăng trưởng
dư nợ DNNVV và tối đa bằng mức tăng trưởng tổng dư nợ mà VCB TW giao trong
từng thời kỳ.
+ Về tình hình dư nợ DNNVV: Tỷ lệ dư nợ DNNVV trên tổng dư nợ của
VCB Bình Dương tối thiểu phải là 35% (tỷ lệ này tại thời điểm 30/09/2011 của
VCB Bình Dương mới là 15,96%);
+ Tỷ lệ nợ xấu: tỷ lệ nợ xấu trong dư nợ cho vay DNNVV tại VCB Bình
Dương tối đa là 1% (tỷ lệ này tại thời điểm 30/09/2011 của VCB Bình Dương là
1,34%).
Kết luận chương 02
Là một Chi nhánh ngân hàng thương mại lớn của Nhà nước mới cổ phần hóa,
lại mới thành lập chưa lâu, Ngân hàng TMCP Ngoại thương – Chi nhánh Bình
Dương trong những năm vừa qua chưa thực sự quan tâm nhiều đến đối tượng
DNNVV. Vì vậy, dư nợ cho vay nói riêng, các quan hệ giao dịch nói chung của VCB
Bình Dương với DNNVV còn khá hạn chế, tốc độ tăng trưởng chậm và chưa tương
xứng với thế mạnh của ngân hàng, với tiềm năng của các DNNVV trên địa bàn tỉnh.
Qua phân tích thực trạng tình hình cho vay DNNVV tại VCB Bình Dương, có
thể thấy vẫn còn rất nhiều khó khăn, tồn tại, cả về mặt chủ quan lẫn khách quan, từ
bản thân doanh nghiệp đến ngân hàng và những khó khăn đến từ cơ quan nhà
nước, môi trường vĩ mô,… Đây là cơ sở để đưa ra những giải pháp nhằm phát triển
cho vay DNNVV tại VCB Bình Dương.
64
Chương 3:
GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN TÍN DỤNG DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA
TẠI NGÂN HÀNG TMCP NGOẠI THƯƠNG VIỆT NAM –
CHI NHÁNH BÌNH DƯƠNG
3.1. Giải pháp đối với bản thân các doanh nghiệp
Trên thị trường vốn, có khá nhiều phương thức khác nhau để tiếp cận các
nguồn vốn đầu tư, song điều khó khăn nhất đối với đa số các DNNVV là họ không
hội đủ các điều kiện cần thiết để vay vốn, hay không nhận được sự tin tưởng từ phía
các ngân hàng. Vì thế, việc nâng cao năng lực kinh doanh, cũng như đẩy mạnh uy
tín của doanh nghiệp trong mắt các ngân hàng là điều rất cần thiết để doanh nghiệp
có thể tiếp cận các nguồn vốn một cách dễ dàng. Và để tối ưu hóa hoạt động vay
vốn, các DNNVV cần đề ra những nguyên tắc nhất định, “đánh bóng” chính bản
thân mình, từ đó tạo nên độ tin cậy từ phía các ngân hàng tài trợ vốn.
3.1.1. Giải pháp tạo nên độ tin cậy của doanh nghiệp
Trước mỗi quyết định tài trợ vốn, ngân hàng thường căn cứ vào độ tin cậy và
uy tín của doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp muốn sớm nhận được quyết định tài trợ
vốn từ ngân hàng, thì một bộ tài liệu chứng minh độ tin cậy của doanh nghiệp sẽ là
rất cần thiết. Bộ tài liệu này càng trung thực và rõ ràng bao nhiêu thì càng tốt bấy
nhiêu. Ngân hàng sẽ tiến hành xác minh, nếu phát hiện có chi tiết thiếu trung thực,
lập tức họ sẽ đặt chấm hỏi về độ tin cậy của doanh nghiệp.
Doanh nghiệp tuyệt đối không được đề nghị các cá nhân và tổ chức trung gian
làm cò môi giới giới thiệu và làm các thủ tục vay vốn ngân hàng vì dễ phát sinh tiêu
cực, gây nhiều trở ngại cho công tác thẩm định cũng như quyết định cho vay của
ngân hàng.
Phải thực hiện nghiêm túc các thỏa thuận, cam kết với ngân hàng, đặc biệt phải
luôn trả nợ đúng hạn. Định kỳ hoặc đột xuất, các ngân hàng kiểm tra thực tế doanh
nghiệp sau khi cho vay, đây là công việc thường xuyên, không thể thiếu và đã được
quy định cụ thể trong các hợp đồng tín dụng (và việc này cũng đã được pháp luật
quy định). Các nội dung kiểm tra chủ yếu là kiểm tra mục đích sử dụng vốn vay,
65
tình trạng tài sản đảm bảo, tình hình sản xuất kinh doanh, tình hình tài chính,… của
doanh nghiệp. Vì vậy, doanh nghiệp cần tạo điều kiện cho nhân viên ngân hàng
thực hiện tốt các công việc nêu trên. Trường hợp doanh nghiệp gặp khó khăn, hay
tình hình doanh nghiệp có diễn biến xấu hơn trước, thì doanh nghiệp không được
che giấu, mà phải cho ngân hàng biết để cùng nhau tìm biện pháp tháo gỡ, có như
vậy doanh nghiệp mới tạo được sự tin tưởng ở ngân hàng. Ngược lại, nếu doanh
nghiệp có ý định che giấu hoặc vi phạm các thỏa thuận thì chỉ làm cho ngân hàng
cứng rắn hơn trong việc thu hồi nợ, khi đó, doanh nghiệp sẽ càng khó khăn hơn
trong việc duy trì và phát triển quan hệ tín dụng với ngân hàng.
Doanh nghiệp cũng nên có mối quan hệ toàn diện với ngân hàng thông qua
việc sử dụng nhiều sản phẩm, dịch vụ khác như: thẻ, tiền gửi, mua bán ngoại tệ,
thanh toán quốc tế,… Nếu doanh nghiệp có quan hệ tốt với ngân hàng, sử dụng tổng
thể các dịch vụ của ngân hàng thì trong quá trình vay vốn, giao dịch thanh toán,
doanh nghiệp có thể tăng mức độ uy tín và được hưởng lãi suất cũng như các loại
phí khác ưu đãi hơn, được ưu tiên giao dịch hơn những doanh nghiệp chỉ có quan hệ
tín dụng. Qua đó góp phần hỗ trợ lại hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp đạt kết quả tốt hơn.
3.1.2. Nâng cao chất lượng báo cáo tài chính
Một bộ máy kế toán tài chính hiệu quả đóng vai trò rất quan trọng trong việc
tạo dựng độ tin cậy của doanh nghiệp. Thông thường đối với các doanh nghiệp lần
đầu tiên vay vốn thì ngân hàng sẽ yêu cầu cung cấp báo cáo tài chính 03 năm gần
nhất. Một báo cáo tài chính rõ ràng, minh bạch được trình bày một cách có bài bản,
hệ thống và chuyên nghiệp cũng như khả năng giải đáp, cung cấp thuyết minh có
liên quan của doanh nghiệp khi ngân hàng yêu cầu, sẽ tạo nên những ấn tượng tốt
ban đầu thuận tiện cho quá trình hoàn tất một bộ hồ sơ đề nghị vay vốn của doanh
nghiệp.
Thực hiện nghiêm chỉnh Luật doanh nghiệp, luật kế toán và các văn bản liên
quan trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Thực hiện các nghĩa vụ kê khai nộp thuế
đầy đủ, áp dụng các hệ thống kế toán theo đúng chuẩn mực quốc tế, thực hiện chế
66
độ hạch toán kế toán, báo cáo tài chính nghiêm chỉnh công khai... Doanh nghiệp nên
có thêm hệ thống kế toán chi phí và kế toán quản trị ngoài kế toán tài chính để phân
tích đánh giá chính xác hơn kết quả hoạt động kinh doanh của mình.
Nhà quản lý doanh nghiệp hiểu biết về kế toán, tất nhiên không phải để tự
mình làm lấy các công việc lập sổ sách, mà để kiểm tra lại tính chính xác của những
thông tin cấp dưới báo cáo, giúp cho công tác quản lý, điều hành phù hợp với tình
hình thực tế hơn. Một bộ máy kế toán tài chính tốt có tác dụng huy động khai thác
nguồn tài chính nhằm đảm bảo yêu cầu kinh doanh, tổ chức sử dụng vốn của doanh
nghiệp sao cho hiệu quả nhất. Bộ máy kế toán sẽ xác định đúng nhu cầu vốn cần
huy động, lựa chọn nguồn vốn tài trợ phù hợp và phương thức đẩy mạnh kinh doanh
làm cơ sở để huy động vốn, đảm bảo nguồn vốn phát triển hữu ích, từ đó nâng cao
lợi nhuận cho doanh nghiệp.
3.1.3. Xây dựng kế hoạch tài chính ngay từ khi khởi sự thành lập doanh nghiệp
Tài chính luôn là vấn đề khó khăn đối với các DNNVV, nhất là các doanh
nghiệp mới thành lập ở Việt Nam. Để đảm bảo có đủ lượng vốn khởi nghiệp cho
hoạt động của doanh nghiệp, người khởi nghiệp phải dựa vào kế hoạch kinh doanh
và chuẩn bị lượng vốn cần thiết. Khi lập xong kế hoạch chiến lược kinh doanh,
người khởi nghiệp phải biết mình cần bao nhiêu tiền cho chiến lược kinh doanh dự
tính, để xác định số vốn cần thiết ban đầu, cần chia ra từng bước nhỏ như sau:
- Mua hàng và hàng tồn kho: Thời hạn thanh toán cho việc mua nguyên vật
liệu cũng có thể làm giảm lượng tiền cần thiết ban đầu nếu cân đối được với nguồn
thu tiền bán hàng.
- Tiền thuê và trả lương: Một số khoản tiền thuê đã xác định được trong quá
trình hoạt động, những số tiền này hoàn toàn có thể tiên liệu.
- Mua thiết bị và đồ dùng văn phòng.
- Mua sắm công cụ cho việc kinh doanh, hoạt động của doanh nghiệp.
Trong tất cả các hoạt động kinh doanh, người khởi nghiệp nên ưu tiên cho các
khoản bắt buộc phải trả tiền mặt và xem xét lại những khoản có thể thanh toán bằng
67
phương thức khác, nếu là các đại lý phân phối, các công ty thương mại thường được
các nhà cung cấp tài trợ vốn bằng hình thức thành toán gối đầu.
- Quản lý chi phí trong hoạt động kinh doanh, nhất là khâu mua hàng, cần
lập ra một quy trình quản lý mua hàng nghiêm nghặt.
Khi có được các kế hoạch tài chính thật cụ thể và chi tiết cho việc khởi sự
thành lập doanh nghiệp, sẽ giúp doanh nghiệp lên được các kế hoạch thu xếp tài
chính rõ ràng và chính xác. Ngoài nguồn vốn đầu tư ban đầu mà doanh nghiệp đã
bỏ ra, thì doanh nghiệp sẽ xác định được số tiền tối thiểu mà họ cần đề nghị cho một
khoản vay, điều này đảm bảo cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
được diễn ra như kế hoạch, nhưng với mức chi phí thấp nhất và đạt hiệu quả cao
nhất.
Với các kế hoạch tài chính cụ thể như vậy sẽ giúp doanh nghiệp có nhiều
thuận lợi hơn khi đề nghị ngân hàng tài trợ cho khoản vốn đang còn thiếu hụt, ngân
hàng sẽ thấy được tính chuyên nghiệp, nhu cầu thực sự cũng như khả năng quản lý
và tự chủ tài chính của doanh nghiệp, từ đó, quá trình xem xét và thẩm định cho vay
của ngân hàng sẽ được thuận lợi và nhanh chóng hơn.
3.1.4. Xây dựng phương án kinh doanh khả thi để thuyết phục ngân hàng
Trước hết các doanh nghiệp phải xác định mục tiêu kinh doanh của mình, từ
đó mới có thể vạch ra chiến lược, kế hoạch sản xuất kinh doanh phù hợp.
Doanh nghiệp phải nâng cao khả năng tự xây dựng phương án kinh doanh, dự
án đầu tư khả thi hiệu quả để thuyết phục ngân hàng. Trong điều kiện cạnh tranh hiện
nay, các NHTM thường hay tư vấn và hỗ trợ khách hàng của mình trong việc xây
dựng phương án, dự án kinh doanh khi họ vay vốn. Tuy nhiên, để nâng cao năng lực
quản lý điều hành, đồng thời giảm chi phí giao dịch, các DNNVV không nên xem
nhẹ việc tự thân xây dựng phương án, dự án kinh doanh khi quan hệ vay vốn với
ngân hàng. Việc tự thân các doanh nghiệp lập dự án, phương án kinh doanh có hiệu
quả và khả thi cao chứng tỏ doanh nghiệp đã am hiểu tận tường phương án, dự án kinh
doanh của mình, nắm rõ các đối thủ cạnh tranh, tình hình ngành nghề, tình hình thị
trường, xu hướng và triển vọng thị trường,… Qua đó xác định rõ được điểm mạnh,
68
điểm yếu cũng như những thuận lợi và khó khăn mà doanh nghiệp đang gặp phải.
Cần lưu ý, các ngân hàng chỉ có thể cùng doanh nghiệp giải quyết khó khăn do
thiếu hụt nguồn vốn (vốn lưu động hoặc vốn cố định) chứ không thể giải quyết các
khó khăn liên quan đến chính sách vĩ mô, thị trường tiêu thụ,… Vì vậy, việc nắm rõ
các khó khăn nêu trên cùng với việc có phương hướng giải quyết thoả đáng, có
phương án sản xuất kinh doanh và sử dụng vốn vay hiệu quả, phù hợp với tình hình
thực tế của doanh nghiệp là hết sức quan trọng trong quá trình vay vốn tại ngân
hàng. Doanh nghiệp phải lường trước được các tình huống có thể xảy ra và đưa ra
biện pháp giải quyết kịp thời thì càng dễ thuyết phục các ngân hàng hơn trong việc
cấp tín dụng.
Phương án kinh doanh phải đảm bảo tính trung thực, khách quan, phù hợp tình
hình sản xuất kinh doanh hiện tại, khả năng quản lý, khả năng nguồn vốn tự có của
doanh nghiệp. Khi lập phương án, dự án, doanh nghiệp phải chú ý thiết lập đầy đủ các
yêu cầu như:
- Thị trường các yếu tố đầu vào, đầu ra: giá cả, số lượng, chất lượng, chủng
loại, nguồn và khả năng cung cấp, khả năng tiêu thụ...;
- Tính đúng tính đủ chi phí, lượng hóa các rủi ro có thể xảy ra và biện
pháp phòng ngừa;
- Giá thành sản xuất, giá bán sản phẩm, hiệu quả kinh tế, hiệu quả về mặt xã
hội; nguồn trả nợ chính, nguồn dự phòng nếu có rủi ro xảy ra cũng như tiềm lực phát
triển trong tương lai của doanh nghiệp...
3.1.5. Nâng cao năng lực quản lý
Nâng cao năng lực quản lý điều hành đối với đội ngũ lãnh đạo, tích cực đào
tạo nguồn nhân lực, có chế độ đãi ngộ thích đáng cho những người đứng đầu đóng
vai trò quan trọng, có nhiều đóng góp cho sự phát triển của doanh nghiệp để tránh
hiện tượng chảy máu chất xám từ các DNNVV sang các doanh nghiệp lớn. Áp dụng
các chương trình quản lý kinh tế vào sản xuất, xây dựng doanh nghiệp ngày một
phát triển bền vững. Trong bối cảnh hội nhập ngày càng sâu rộng như hiện nay, cần
đặc biệt chú ý những kỹ năng hữu ích như: kỹ năng quản trị hiệu quả trong môi
69
trường cạnh tranh; kỹ năng lãnh đạo của giám đốc doanh nghiệp; kỹ năng quản lý
sự thay đổi; kỹ năng đàm phán, giao tiếp và quan hệ công chúng; kỹ năng quản lý
thời gian,… Những kỹ năng này kết hợp với các kiến thức quản trị có hiệu quả sẽ
có tác động quyết định đối với các doanh nhân, các nghiệp chủ và các nhà quản lý
doanh nghiệp, trong đó có DNNVV, qua đó làm tăng khả năng cạnh tranh của các
doanh nghiệp.
Đối với giám đốc và các nhà quản lý, để nâng cao khả năng làm việc và giao
dịch quốc tế, tiếp cận các tiêu chuẩn, các thông lệ quốc tế thì cần chú trọng phát
triển những kiến thức, kỹ năng chủ yếu như:
- Năng lực về ngoại ngữ (mặc dù có thể sử dụng người phiên dịch nhưng cần
có ngoại ngữ tối thiểu, hạn chế sự phụ thuộc hoàn toàn vào phiên dịch). Đây có lẽ là
một trong những điểm đáng chú ý nhất đối với các doanh nghiệp ở nước ta, đặc biệt
là các DNNVV.
- Kiến thức cơ bản về văn hoá, xã hội, lịch sử trong kinh doanh quốc tế.
- Giao tiếp quốc tế và xử lý sự khác biệt về văn hoá trong kinh doanh.
- Thông lệ quốc tế trong lĩnh vực/ngành kinh doanh.
3.1.6. Nghiêm túc trong việc thế chấp tài sản bảo đảm
Trong quá trình đi vay, một đòi hỏi tất yếu là khoản vốn vay cần được đảm
bảo bởi tài sản hợp pháp của doanh nghiệp cùng với phương án hoạt động kinh
doanh có hiệu quả.
Doanh nghiệp khi vay vốn cần phải chứng minh cho ngân hàng thấy những tài
sản có giá trị hữu hình và tài sản có giá trị vô hình mà doanh nghiệp đang sở hữu.
Đôi khi tài sản vô hình như giá trị thương hiệu, thị phần, kênh phân phối,… còn có
giá trị lớn hơn rất nhiều so với tài sản hữu hình. Và việc nhờ một tổ chức chuyên
nghiệp định giá doanh nghiệp sẽ rất cần thiết để việc vay vốn của doanh nghiệp
được thực hiện dễ dàng và nhanh chóng hơn.
Một tài sản bảo đảm có giá trị cao, có tính thanh khoản tốt đương nhiên sẽ có
nhiều thuận lợi hơn khi vay vốn ngân hàng. Tuy nhiên đối với những doanh nghiệp
có hạn chế về tài sản bảo đảm, thì doanh nghiệp có thể xem xét đến những tài sản
70
bảo lãnh của bên thứ ba, có thể là những thành viên trong ban lãnh đạo, người thân
hoặc thế chấp hàng tồn kho, hàng hóa luân chuyển trong quá trình hoạt động sản
xuất kinh doanh, đồng thời tập trung vào các vấn đề liên quan đến tiềm năng tài
chính và phi tài chính có thể phát huy, như các mối quan hệ, ngoại giao có lợi trong
quá trình triển khai thực hiện phương án và có thể giới thiệu cho ngân hàng để phát
triển mở rộng hoặc bán chéo các sản phẩm dịch vụ khác. Tập trung hơn nữa vào
việc phân tích tính khả thi của phương án, dự án kinh doanh, những thuận lợi của
thị trường hiện tại và khả năng phát triển trong tương lai, việc giải thích càng chi
tiết, rõ ràng bao nhiêu sẽ càng có lợi cho doanh nghiệp cần vay vốn bấy nhiêu; mức
độ giao dịch, những mặt lợi ngân hàng có thể thu được trong quá trình tài trợ và
quan hệ với doanh nghiệp nhằm làm tăng khả năng thuyết phục và sự tin tưởng từ
phía ngân hàng.
3.1.7. Đẩy mạnh công tác khai thác và ứng dụng công nghệ thông tin
CNTT có thể giúp DNNVV tạo ra cơ hội kinh doanh và tăng khả năng cạnh
tranh với các đối thủ. Tuy nhiên DNNVV trong hầu hết các nước đang phát triển
vẫn còn chậm chạp khi ứng dụng CNTT vào lĩnh vực hoạt động của mình.
Trong quá trình hội nhập quốc tế và cạnh tranh toàn cầu, khai thác hiệu quả
các công cụ CNTT không chỉ nâng cao năng lực chỉ đạo điều hành của doanh
nghiệp mà còn cải thiện khả năng cạnh tranh và tạo ra các cơ hội mới cho doanh
nghiệp. Nhưng hiện nay, việc ứng dụng CNTT còn hạn chế, sự liên kết giữa doanh
nghiệp và các tập đoàn CNTT chưa chặt chẽ, điều này gây nên tình trạng các doanh
nghiệp gặp rất nhiều khó khăn trong việc tìm kiếm các giải pháp ứng dụng CNTT
vào hoạt động sản xuất kinh doanh của mình.
Một doanh nghiệp có khả năng khai thác và ứng dụng CNTT tốt sẽ có nhiều
thuận lợi hơn trong việc vay vốn ngân hàng, ngoài ra cũng là cơ hội để ngân hàng
tiếp thị cung cấp các dịch vụ ngân hàng điện tử cho doanh nghiệp, giúp cho quá
trình giao dịch được tiện lợi, nhanh chóng, tiết kiệm thời gian và công sức cho cả
hai bên.
71
3.1.8. Liên kết để tăng sức mạnh
Trong hoạt động kinh doanh, liên kết, liên doanh vốn là một yêu cầu tự
nhiên để tăng năng suất lao động của mỗi doanh nghiệp. Khi gia nhập WTO, phần lớn
doanh nghiệp nước ta nói chung và tỉnh Bình Dương nói riêng còn là nhỏ và vừa,
thì việc liên kết, liên doanh để bổ sung năng lực, khắc phục yếu kém để tăng năng
lực cạnh tranh lại càng cấp bách. Việc liên kết không chỉ giúp doanh nghiệp giảm giá
thành, tăng chất lượng hàng hóa, còn có thể giúp cho doanh nghiệp nhận được
những đơn hàng lớn mà, mỗi đơn vị không thể đáp ứng, từ đó mở rộng thị trường
tiêu thụ, tạo điều kiện cho doanh nghiệp phát triển trong tương lai.
Có rất nhiều phương thức liên kết, liên doanh hết sức phong phú: giữa các
DNNVV với nhau, giữa DNNVV với doanh nghiệp lớn, giữa doanh nghiệp trong
nước với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, kể cả các tập đoàn lớn, các công
ty xuyên quốc gia,... Liên kết để hỗ trợ nhau trong từng khâu của quá trình kinh
doanh; cũng có thể liên kết để tăng quy mô doanh nghiệp, hình thành những tập đoàn
kinh tế lớn đủ sức đưa doanh nghiệp Việt Nam nói chung và Bình Dương nói riêng ra
thị trường thế giới. Liên kết trong khâu sản xuất là rất quan trọng, như giúp nhau đổi
mới công nghệ, trao đổi kỹ năng quản trị doanh nghiệp, giúp nhau tiền vốn ... song việc
liên kết trong cung ứng vật tư, nguyên liệu, trong tiêu thụ sản phẩm hàng hóa,... cũng
rất cần được quan tâm, vì chính những khâu này giúp tăng thêm giá trị hàng hóa,
đây cũng là những khâu mà lâu nay các doanh nghiệp Việt Nam chưa thực hiện tốt.
DNNVV và doanh nghiệp lớn có thể có mối quan hệ cộng sinh chứ không
phải chỉ cạnh tranh để tiêu diệt lẫn nhau, doanh nghiệp nhỏ có thể làm thầu phụ cho
doanh nghiệp lớn, còn doanh nghiệp lớn có thể giúp doanh nghiệp nhỏ trong hoạch
định chiến lược phát triển, chiến lược sản phẩm, đào tạo nhân sự, công nghệ,… Việc
liên kết giữa các doanh nghiệp sẽ làm tăng sức cạnh tranh của tất cả các doanh nghiệp
và làm gia tăng cơ hội thành công của mỗi doanh nghiệp. Trong quá trình hội nhập
kinh tế quốc tế sâu rộng hơn hiện nay, mỗi doanh nghiệp đều cần liên kết, liên doanh;
đó chính là cạnh tranh trong hợp tác, làm tăng thêm sức mạnh, năng lực cạnh tranh
của mỗi doanh nghiệp cũng như của cả nền kinh tế.
72
3.2. Các giải pháp phát triển tín dụng của ngân hàng
3.2.1. Các giải pháp đối với Ngân hàng TMCP Ngoại thương Bình Dương
3.2.1.1. Xây dựng đối tượng khách hàng DNNVV tiềm năng
Từ thực trạng DNNVV tại Bình Dương với các đặc điểm riêng như phần lớn
là DNNVV trong nước với 11.158 doanh nghiệp, chiếm 87,12% số lượng DNNVV
của tỉnh; về loại hình DNNVV thì chủ yếu là công ty TNHH với 9.093 doanh
nghiệp, chiếm 71% số lượng DNNVV và doanh nghiệp tư nhân là 2.690 doanh
nghiệp, chiếm 21% số lượng DNNVV của tỉnh; các DNNVV tập trung chủ yếu ở 3
khu vực thị xã (thị xã Thủ Dầu Một, Thuận An và Dĩ An) với 9.862 doanh nghiệp,
chiếm 77% số lượng DNNVV; và phần lớn tập trung vào các ngành công nghiệp
truyền thống như chế biến gỗ, may mặc, chế tạo sản phẩm từ kim loại, phi kim loại
(gốm sứ, hóa chất, cao su) với 6.762 doanh nghiệp, chiếm 52,8% số lượng
DNNVV. VCB Bình Dương nên tập trung xây dựng một danh sách các khách hàng
là DNNVV tiềm năng thuộc các đặc điểm trên với các thông tin đầy đủ về chủ
doanh nghiệp, ngành nghề lĩnh vực kinh doanh, kinh nghiệm hoạt động, doanh số,
thị trường tiêu thụ và lịch sử giao dịch với các ngân hàng,… từ đó xây dựng các
chính sách, sản phẩm phù hợp để tiếp cận khách hàng.
Có như vậy, VCB Bình Dương mới có thể chủ động, nâng cao khả năng tiếp
cận và quyết định tài trợ cho các DNNVV có dự án phương án kinh doanh khả thi,
hạn chế các trường hợp từ chối cho vay đối với các khách hàng tốt và qua đó có thể
đẩy mạnh phát triển công tác tín dụng DNNVV.
3.2.1.2. Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực
Quy trình thi tuyển hiện nay của VCB Bình Dương phải trải qua 03 vòng, đó
là:
+ Xét tuyển hồ sơ;
+ Trắc nghiệm kiến thức chuyên môn nghiệp vụ và tiếng Anh;
+ Phỏng vấn.
Vòng xét tuyển hồ sơ chủ yếu lựa chọn những hồ sơ tốt thể hiện qua kết quả
học tập và điểm tốt nghiệp. Tiếp theo là vòng thi thực hành trắc nghiệm với các câu
73
hỏi về kiến thức chuyên môn, trình độ nghiệp vụ được tham khảo từ ngân hàng đề
thi với những câu hỏi khá phổ biến. Còn vòng thi cuối cùng là phỏng vấn thì không
mang ý nghĩa nhiều vì những thí sinh được chọn phỏng vấn là những thi sinh đã
nắm chắc cơ hội trở thành nhân viên của VCB Bình Dương.
Đối với những cán bộ làm công tác tín dụng, do đặc thù công việc, nên đòi hỏi
phải có sự nhanh nhạy, năng động, sáng tạo trong công việc, có khả năng ngoại giao
tốt, có thể làm việc với áp lực cao. Bên cạnh khả năng nắm bắt nhanh các quy trình
quy định trong cho vay thì nhân viên tín dụng cũng phải là người biết vận dụng và
xử lý khôn khéo các tình huống có thể xảy ra trong công tác tín dụng vốn có nhiều
khó khăn và phức tạp. Những điều này không có trường lớp hay trung tâm nào đào
tạo mà nó xuất phát từ bản thân và quá trình học hỏi trau dồi của mỗi người. Thực
tế có nhiều ứng viên trúng tuyển với kết quả học tập và kết quả xét tuyển rất cao
nhưng khi làm việc thì hiệu quả lại không cao và thường xuyên mắc những sai sót.
Xuất phát từ thực tế nói trên, VCB Bình Dương nên mạnh dạn thay đổi khung
thức xét tuyển đặc biệt là đối với các ứng viên cho vị trí cán bộ tín dụng bằng những
vòng thi đòi hỏi khả năng đáp ứng, xử lý công việc cao hơn, bên cạnh bài thi tất yếu
là kiểm tra trình độ chuyên môn, khả năng ngoại ngữ, thì các bài thi khác nên chú
trọng đến các câu hỏi trắc nghiệm về chỉ số IQ, EQ, các bài tập tình huống thực tế.
Đặc biệt là ở vòng thi phỏng vấn, đây là lúc mà người tuyển dụng có cơ hội để tiếp
xúc trực tiếp với người thi tuyển vì vậy phải khai thác tối đa để phát hiện ra những
sở trường và sở đoản, xem họ có phù hợp với vị trí mà mình tuyển dụng hay không?
Trong quá trình sử dụng người lao động, ngân hàng cũng phải thường xuyên tổ
chức các lớp học tập trau dồi kỹ năng, trình độ và các khóa đào tạo giao lưu học hỏi
kinh nghiệm với các TCTD khác, trong đó chú trọng học tập kinh nghiệm từ các
TCTD nước ngoài thông qua các hình thức như cử đi đào tạo tại các trung tâm trong
và ngoài nước, hợp tác liên kết,…. Phối hợp với các trung tâm huấn luyện tổ chức
lớp học ngay tại cơ quan, kết hợp các buổi giao lưu học hỏi kinh nghiệm thực tế để
động viên mọi người tham gia tích cực. Đồng thời phải kết hợp tổ chức kiểm tra
kiến thức chuyên môn định kỳ hoặc đột xuất để đánh giá lại năng lực, quá trình
74
công tác của cán bộ nhân viên để, từ đó có những bồi dưỡng, khen thưởng và hỗ trợ
kịp thời.
Mặc dù Vietcombank đã được cổ phần hóa, cơ chế lương thưởng đã có những
sự điều chỉnh thay đổi nhất định, song vẫn chưa thật sự hợp lý. Cụ thể,
Vietcombank đã xây dựng chế độ lương thưởng căn cứ theo tính chất và hiệu quả
công việc nhưng vẫn chưa thực sự chính xác, khách quan và công bằng. Việc chi trả
lương thưởng theo kiểu cào bằng hiện vẫn còn áp dụng, hiện tượng chảy máu chất
xám vẫn thường xuyên xảy ra. Vì vậy, cần phải có cơ chế đánh giá đúng mức độ và
tính chất công việc của từng người lao động để trả lương; ghi nhận những cống hiến
để khen thưởng xứng đáng và kịp thời những nhân viên làm việc hiệu quả, đồng
thời cũng có các hình thức phê bình, kỷ luật đối với những cá nhân làm việc không
hiệu quả, phạm nhiều lỗi sai sót, qua đó sẽ kích thích tinh thần và nâng cao hiệu
quả, trách nhiệm làm việc của nhân viên hơn. Đồng thời, phải có những chính sách
đãi ngộ thỏa đáng đối với những nhân viên đã gắn bó làm việc lâu năm và có nhiều
cống hiến cho ngân hàng để động viên giữ chân họ lại.
Ngoài ra, đối với công tác tín dụng, do tình hình hoạt động sản xuất kinh
doanh của khách hàng ngày càng phức tạp, ngành nghề đa dạng, vì vậy cần phải có
sự chuyên môn hóa trong phân công công việc. Nhân viên tín dụng cần được phân
công phụ trách khách hàng theo nhóm ngành nghề, theo địa bàn,… để có điều kiện
tìm hiểu sâu hơn về ngành nghề, về khách hàng, nhóm khách hàng mình phụ trách.
Qua đó nâng cao được hiệu quả phục vụ khách hàng, đảm bảo được chất lượng
thẩm định, xét duyệt cho vay và tiết kiệm thời gian trong quá trình giải quyết hồ sơ
vay của khách hàng.
3.2.1.3. Tăng cường công tác quảng cáo giới thiệu, đưa các tiện tích của dịch vụ
ngân hàng điện tử đến với DNNVV
Hiện nay Vietcombank được xem là một trong những ngân hàng hàng đầu tại
Việt Nam về ứng dụng công nghệ thông tin và khoa học kỹ thuật hiện đại vào ngân
hàng với nhiều dịch vụ ngân hàng điện tử như Internet Banking, SMS Banking,
Phone Banking, VCB – Money, VCB – iBanking,…Tuy nhiên nhiều doanh nghiệp,
75
đặc biệt là các DNNVV lại chưa biết đến và chưa sử dụng các dịch vụ ngân hàng
đầy tiện ích này.
Chính vì lẽ đó, trong thời gian tới ngân hàng cần phải đẩy mạnh công tác tuyên
truyền giới thiệu tính năng của các dịch vụ thông qua nhiều hình thức như phát tờ
rơi, dựng pa nô, treo băng rôn, tổ chức các buổi hội thảo, giao lưu trao đổi kinh
nghiệm, giới thiệu và ứng dụng nghiệp vụ ngân hàng bằng cách quảng cáo phát
sóng trên đài, truyền hình,…
Khi các DNNVV có cơ hội tiếp cận được với các dịch vụ tiện ích của ngân
hàng điện tử mà ngân hàng có thể cung cấp, đây vừa là một sự hỗ trợ từ phía ngân
hàng cho các DNNVV trong việc nâng cao nhận thức và khả năng sử dụng các tiện
ích sản phẩm công nghệ ngân hàng, vừa giúp nâng cao thương hiệu uy tín của ngân
hàng và làm cho khoảng cách giữa ngân hàng với các DNNVV gần nhau hơn. Đây
là cơ hội tốt để ngân hàng có thể mở rộng và lựa chọn nhiều khách hàng tiềm năng
có nhu cầu về vốn vay để tài trợ, hoặc bán chéo các sản phẩm dịch vụ ngân hàng
khác.
3.2.1.4. Mở rộng mạng lưới và nâng cao vai trò thẩm định xét duyệt cho vay
của các điểm, phòng giao dịch
Mặc dù là một trong những ngân hàng lớn và ra đời tương đối lâu trên địa bàn
tỉnh, nhưng mạng lưới giao dịch của Chi nhánh còn khá ít, hiện mới chỉ có 05
phòng giao dịch. Các phòng giao dịch của Chi nhánh cũng thường thành lập sau các
ngân hàng khác và cũng chỉ được giao nhiệm vụ chủ yếu là phát triển các sản phẩm
ngân hàng bán lẻ, thành toán và huy động vốn, điều này đã làm mất đi nhiều cơ hội
tiếp cận, tiếp thị cũng như khả năng cạnh tranh chiếm lĩnh thị phần với các ngân
hàng bạn.
Vì vậy, trong thời gian tới VCB Bình Dương cần phải đẩy mạnh hơn nữa công
tác mở rộng mạng lưới xuống các điểm, phòng giao dịch với khoảng cách giữa các
phòng được bố trí một cách hợp lý và thuận tiện cho khách hàng cũng như cho nhu
cầu phát triển sau này. Giao khu vực quản lý, tiếp thị cho từng phòng giao dịch trên
cơ sở nguyện vọng của khách hàng, tránh trường hợp lôi kéo tiếp thị chồng chéo
76
giữa các phòng giao dịch với nhau tạo tâm lý không tốt và mất uy tín đối với khách
hàng.
Phát triển số lượng phòng giao dịch phải kết hợp với nâng cao chất lượng phục
vụ khách hàng, thông qua một số biện pháp như tăng cường mạng lưới và nâng cao
chất lượng phục vụ của các máy rút tiền tự động (ATM), đơn vị chấp nhận thẻ nhằm
tạo nhiều tiện ích hơn cho khách hàng; chủ động tiếp thị tất cả các sản phẩm của
ngân hàng đến khách hàng thông qua nhiều hình thức khác nhau phù hợp với từng
địa bàn; chú trọng công tác chăm sóc khách hàng trước, trong và sau khi giao dịch,
đặc biệt là các khách hàng tốt, có tiềm năng. Đồng thời, Chi nhánh phải mạnh dạn
trao quyền phán quyết với hạn mức lớn hơn, giao chỉ tiêu cho vay phát triển
DNNVV cho các phòng giao dịch để các phòng này có thể chủ động tiếp cận và
xem xét thẩm định cấp tín dụng, phát huy hết vai trò và khả năng của các phòng
giao dịch.
3.2.1.5. Cần có chiến lược đẩy mạnh công tác huy động vốn
Trong bối cảnh nền kinh tế khó khăn và có nhiều biến động bất ổn như hiện
nay, tính thanh khoản của các ngân hàng đang có dấu hiệu suy yếu, vì vậy các ngân
hàng đã đua nhau cạnh tranh ngày càng gay gắt, bằng nhiều hình thức và bằng nhiều
biện pháp để thu hút tiền gửi từ các tổ chức và dân cư.
Vietcombank là một ngân hàng lớn có nguồn vốn dồi dào, nhưng trước sức ép
từ nền kinh tế, từ sự canh tranh của các ngân hàng bạn cũng như mong muốn giữ uy
tín trong các cam kết giải ngân với khách hàng, thời gian qua Vietcombank cũng
phải thực hiện nhiều giải pháp, nhiều chương trình khuyến mãi để tăng cường
nguồn vồn huy động và đây là nhiệm vụ chính trị phải ưu tiên hàng đầu.
Thực hiện chỉ đạo của ngân hàng nhà nước, của Vietcombank TW về kiểm
soát tăng trưởng tín dụng và giới hạn cho vay loại hình phi sản xuất nhằm kiểm soát
lạm phát, điều tiết ổn định kinh tế vĩ mô, VCB Bình Dương đã phải thực hiện nhiều
biện pháp để điều chỉnh lại tình hình dư nợ trong giới hạn cho phép, có căn cứ trên
nguồn vốn tự huy động được. Vì vậy, VCB Bình Dương chỉ ưu tiên tập trung nguồn
vốn giải ngân cho các khách hàng lớn, khách hàng truyền thống, mang lại nhiều lợi
77
ích cho VCB Bình Dương, ngưng cho vay các khách hàng mới. Chính điều này làm
mất đi nhiều cơ hội cho VCB Bình Dương trong quá trình tiếp cận và phát triển mở
rộng các khách hàng tiềm năng, trong đó có các DNNVV. Vì vậy, để giải quyết bài
toán khó khăn về nguồn vốn huy động trong giai đoạn nhạy cảm hiện nay, đáp ứng
nhu cầu vốn sản xuất cho các DNNVV, VCB Bình Dương nói riêng và các ngân
hàng thương mại nói chung cần thực hiện đồng bộ một số giải pháp sau:
- Tăng cường quảng bá, thương hiệu, hình ảnh uy tín của ngân hàng để tạo
được sự tin tưởng của người gửi tiền. Thực hiện bảo hiểm tiền gửi để bảo đảm
quyền lợi cho người gửi tiền.
- Củng cố và mở rộng mạng lưới hoạt động của ngân hàng trên địa bàn bằng
cách đặt thêm các phòng, điểm giao dịch tại các khu vực trung tâm, khu dân cư tập
trung để thu hút tiền tiết kiệm từ các tầng lớp dân cư và tiền gửi từ các cơ quan tổ
chức. Điển hình Tỉnh Bình Dương đang có rất nhiều khu công nghiệp, cụm công
nghiệp hoạt động, các khu vực này tập trung số lượng lớn các doanh nghiệp và công
nhân từ các địa phương khác đến. Do đó, việc phát triển mạng lưới tại đây vừa thu
hút được lượng tiền gửi thanh toán của các doanh nghiệp vừa thu hút được các
khoản tiền gửi tiết kiệm của hàng trăm ngàn công nhân, người lao động.
- Cần đa dạng hóa các hình thức huy động vốn kèm theo các chương trình
khuyến mãi quà tặng hấp dẫn, rút thăm may mắn trúng thưởng với nhiều mức lãi
suất khác nhau, tương ứng với số tiền gửi và thời gian thực gửi khác nhau. Chú
trọng công tác an ninh trong huy động vốn khách hàng bằng các hình thức hỗ trợ
như có xe chuyên dụng, nhân viên thu tiền tận nơi, kiểm đếm hộ tránh trường hợp
khách hàng nhận tiền thiếu, tiền giả,…
- Mở rộng tuyên truyền, tiếp thị đến các cơ quan, đơn vị kinh tế, doanh nghiệp
thực hiện thanh toán lương qua tài khoản. Hiện phí thanh toán lương qua thẻ ATM
của VCB Bình Dương áp dụng khoảng 3.000 – 4.000 đồng/thẻ (chưa VAT) và mức
tối thiểu áp dụng đối với một số khách hàng truyền thống là 1.000 đồng/thẻ (chưa
VAT) vẫn là khá cao so với một số ngân hàng khác như Đông Á, Techcombank,…
với mức phí chỉ 500 đồng/thẻ. Vì vậy, trong thời gian tới VCB Bình Dương cần
78
nâng cao hơn nữa năng lực cạnh tranh thông qua việc phát triển mạng lưới máy
ATM và phát hành thẻ ATM, nâng cao chất lượng dịch vụ và phục vụ của máy
ATM, đẩy mạnh công tác quảng cáo tiếp thị các khách hàng tiềm năng để phát hành
thẻ miễn phí cho cán bộ công nhân viên và giảm dần phí chuyển khoản lương qua
ATM kết hợp với các công tác bán chéo tiếp thị sản phẩm khác như cấp tín dụng, tài
trợ thương mại, dịch vụ ngân hàng điện tử phục vụ 24/24 để tăng khả năng thu hút
khách hàng. Đồng thời, cố gắng lôi kéo liên kết với các công ty bưu chính, điện lực,
cấp nước, thuế,… để thanh toán tiền điện, nước, điện thoại, thuế qua tài khoản ngân
hàng,…
- Phong cách, thái độ phục vụ là những yếu tố quan trọng trong công tác huy
động vốn đòi hỏi các nhân viên ngân hàng phải có thái độ phục vụ lịch sự, niềm nở,
chu đáo. Trong thực hành nghiệp vụ đòi hỏi phải nhanh chóng, chính xác, an toàn,
tạo được sự hài lòng và tin cậy của khách hàng.
Hiện nay các khách hàng gửi tiền chưa có ưu tiên về thứ tự, vì vậy ngân hàng
cần nên thành lập một bộ phận chuyên trách có phòng riêng để nhận tiền gửi và
phục vụ người gửi tiền chu đáo hơn. Ngoài ra, cũng nên tổ chức các cán bộ nhân
viên có kinh nghiệm, có mối quen biết rộng và ngoại giao tốt hoạt động theo tổ,
nhóm chuyên phụ trách công tác huy động vốn và hỗ trợ cho các khách hàng gửi
tiền để nâng cao hiệu quả công tác huy động vốn.
- Cần đơn giản hóa các thủ tục và rút ngắn thời gian hơn nữa để nhanh chóng
giải ngân đối với hình thức cho vay cầm cố sổ tiết kiệm, giấy tờ có giá do
Vietcombank phát hành để nâng cao tính thanh khoản cho các giấy tờ này, tạo điều
kiện thuận lợi cho người gửi tiền có thể vay lại 100% số tiền đã gửi. Có như vậy
mới tạo tâm lý yên tâm thoải mái và thu hút khách hàng gửi tiền lại khi đáo hạn và
các khách hàng mới.
3.2.1.6. Xây dựng chính sách ưu đãi hợp lý đối với các khách hàng là DNNVV
Việc mở rộng phát triển các khách hàng là DNNVV giúp ngân hàng có thể
phân tán rủi ro trong hoạt động tín dụng, tạo cơ hội trong việc tiếp cận với nhiều
ngành nghề và nhiều khách hàng mới, từ đó hỗ trợ lại cho ngân hàng trong công tác
79
xây dựng hệ thống thông tin và quản trị rủi ro tín dụng tốt hơn. Tuy nhiên, thời gian
qua VCB Bình Dương nói riêng và một số ngân hàng thương mại lớn khác nói
chung thường giành sự ưu đãi về phí, lãi suất và tập trung chú trọng phát triển
khách hàng là các doanh nghiệp lớn. Đây là việc cần thiết cho công tác chăm sóc
khách hàng trong bối cảnh tình hình cạnh tranh ngày càng gay gắt như hiện nay
nhưng ngân hàng cần phải xây dựng các chính sách ưu đãi theo hướng mở rộng và
triển khai một cách hài hòa hiệu quả hơn, vừa bảo đảm hiệu quả kinh doanh của
ngân hàng vừa bảo đảm sự bình đẳng cho khách hàng, tránh trường hợp các
DNNVV cảm thấy bị phân biệt đối xử với các khách hàng lớn khác.
Hiện nay khách hàng DNNVV thường chiếm số đông trong danh sách khách
hàng của các ngân hàng, trong đó có VCB Bình Dương, cấp phê duyệt được phân
quyền là phó giám đốc (còn các khách hàng lớn là Giám đốc, Hội đồng tín dụng cơ
sở,…) nên nhiều khách hàng là DNNVV có tình hình giao dịch tốt, có tiềm năng
phát triển vẫn chưa nhận được sự quan tâm hỗ trợ thích đáng từ phía Ban lãnh đạo
ngân hàng. Vì vậy, ngân hàng cần phải xây dựng một hệ thống báo cáo tổng thể tình
hình hoạt động và giao dịch của các khách hàng, trong đó có các khách hàng là
DNNVV theo các chỉ tiêu như doanh số giao dịch tiền gửi, tiền vay, thanh toán
chuyển tiền, chênh lệch chi phí, lợi nhuận thu được từ khách hàng, uy tín trong vay
trả nợ và thực hiện các cam kết thanh toán, tài sản bảo đảm, phân loại nợ và xếp
hạng khách hàng, cần chú trọng đến người đứng đầu doanh nghiệp, tìm hiểu sở
thích và các mối quan hệ có thể khai thác, mức độ giao dịch với VCB so với các
ngân hàng khác,….. Hệ thống này phải được cập nhật định kỳ hàng tháng hay tối
thiểu là hàng quý và thường xuyên được báo cáo hay tạo khả năng truy cập nhanh
đến Ban lãnh đạo, cấp có thẩm quyền để có những xem xét ưu đãi thích đáng và kịp
thời về hỗ trợ vốn vay, lãi suất và các loại phí khác; chủ động, nhanh chóng đưa ra
các quyết định đối với các nhu cầu của khách hàng, qua đó đánh giá hiệu quả trong
quan hệ với khách hàng và định hướng quan hệ trong tương lai.
3.2.2. Giải pháp đối với Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam
3.2.2.1. Đơn giản hóa quy trình thẩm định và xét duyệt cho vay
80
Hiện tại Vietcombank Việt Nam có 02 quy trình cấp tín dụng đối với khách
hàng là doanh nghiệp. Một là Quy trình cho vay theo Quyết định số 36/QĐ-
NHNT.CSTD ngày 28/01/2008 của Tổng giám đốc Ngân hàng TMCP Ngoại
thương Việt Nam (V/v ban hành Quy trình tín dụng đối với doanh nghiệp nhỏ và
vừa). Hai là Quy trình cho vay theo Quyết định số 246/QĐ-NHNT.CSTD ngày
22/07/2008 của Tổng giám đốc Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam (V/v
ban hành Quy trình tín dụng đối với khách hàng Tổ chức). Nhưng thực tế cách áp
dụng và sử dụng các quy trình cho vay lại không phụ thuộc vào tên gọi của quy
trình hay loại hình doanh nghiệp vay vốn mà phụ thuộc vào số tiền vay của khách
hàng. Cụ thể không phân biệt là doanh nghiệp lớn hay DNNVV, khi khoản đề nghị
cấp tín dụng của khách hàng vượt thẩm quyền xét duyệt của VCB Bình Dương đối
với vay vốn lưu động là 100 tỷ đồng và vay vốn đầu tư dự án là 40 tỷ đồng thì phải
áp dụng Quy trình 246, còn dưới mức đó thì phải áp dụng Quy trình 36. Điều này
chưa đúng với tên gọi của Quy trình cũng như làm cho hồ sơ vay trở nên phức tạp
hơn trong công tác thẩm định và xét duyệt đối với các DNNVV có nhu cầu vay vốn
vượt hạn mức phán quyết của VCB Bình Dương. Khi hồ sơ của các DNNVV được
trình lên một cấp cao hơn để thẩm định lại thì thông thường các điều kiện cấp tín
dụng càng được siết chặt hơn và thực tế nhiều trường hợp các DNNVV không thể
đáp ứng đầy đủ các điều kiện này và phải liên hệ với các TCTD khác.
Đây chính là một trong những rào cản lớn nhất cản trở việc mở rộng tín dụng
của ngân hàng đối với các DNNVV. Việc kéo dài thời gian thẩm định hay các thủ
tục vay vốn có thể làm lỡ mất cơ hội kinh doanh của khách hàng, khiến ngân hàng
bỏ lỡ nhiều cơ hội tiếp cận tài trợ cho các khách hàng tốt và các phương án dự án
khả thi, là nguyên nhân làm giảm khả năng cạnh tranh so với các ngân hàng khác,
đặc biệt là các ngân hàng cổ phần, các ngân hàng nước ngoài vốn có quy trình thủ
tục cho vay rất nhanh gọn.
Vì vậy, VCB cần phải nhanh chóng cải thiện, đơn giản hóa các thủ tục, xây
dựng một quy trình cho vay chỉ áp dụng riêng đối với các DNNVV, trong đó vận
dụng linh hoạt giảm bớt một số thủ tục trong thẩm định xét duyệt cho vay. Không
81
quá cứng nhắc hoặc làm việc theo kiểu sợ trách nhiệm, quá cẩn trọng hay đùn đẩy
công việc mà không xét đến cái tổng thể, cái chung, kết hợp hài hoà giữa lợi nhuận
và rủi ro có thể kiểm soát. Sau đây là một số gợi ý về quy trình cho vay của VCB:
- Đối với thủ tục thẩm định đề xuất:
+ Đối với những khoản cấp tín dụng <= 01 tỷ đồng: không cần chấm điểm,
xếp hạng khách hàng, xác định GHTD lần đầu và hàng năm. Phần đề xuất thẩm
định cấp tín dụng chỉ tập trung vào nguồn trả nợ và đánh giá tài sản bảo đảm;
+ Giá trị cấp tín dụng > 01 tỷ đồng và <= 10 tỷ đồng: không cần chấm điểm,
xếp hạng khách hàng và không cần xác định GHTD hàng năm. Phần đề xuất thẩm
định cấp tín dụng nên tập trung làm rõ thị trường tiêu thụ, nguồn trả nợ và đánh giá
tài sản bảo đảm.
- Đối với hồ sơ nên giảm bớt 01 số thủ tục như sau:
+ Giấy đề nghị vay vốn kiêm phương án trả nợ: chỉ cần 01 bản chính (hiện nay
là 02 bản);
+ Hợp đồng tín dụng: chỉ cần 03 bản chính, ngân hàng giữ 02 bản, khách hàng
giữ 01 bản (hiện nay là 04 bản);
+ Hợp đồng thế chấp tài sản là động sản có công chứng/chứng thực: chỉ cần 03
bản chính, ngân hàng giữ 01 bản, khách hàng giữ 01 bản và cơ quan công
chứng/chứng thực giữ 01 bản (hiện nay là 04 bản);
+ Hợp đồng thế chấp tài sản là bất động sản có công chứng/chứng thực: chỉ
cần 04 bản chính, ngân hàng giữ 01 bản, khách hàng giữ 01 bản, cơ quan công
chứng/chứng thực giữ 01 bản, văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất, tài sản gắn
liền với đất giữ 01 bản (hiện nay là 05 bản);
+ Đơn yêu cầu đăng ký giao dịch tài sản là bất động sản bằng fax/email tại
Trung tâm đăng ký giao dịch tài sản ở Thành phố HCM/Đà Nẵng: chỉ cần 01 bản
chính (hiện nay là 02 bản);
3.2.2.2. Xây dựng hệ thống mạng lưới thông tin hiệu quả
Ngân hàng cần phải xây dựng hệ thống thu nhập và xử lý thông tin từ phía
khách hàng được hiệu quả, chính xác và kịp thời, nhất là những thông tin về tình
82
hình tài chính, rủi ro kinh doanh, thị trường tiêu thụ, quan hệ thanh toán,… Tránh
tình trạng thu thập, xử lý thông tin một cách hời hợt, thiếu thực tế hoặc có giá trị
nhưng không được sử dụng hiệu quả.
Để thực hiện được điều này, trước hết ngân hàng cần phải thành lập bộ phận
nghiệp vụ chuyên thu nhập, xử lý và xây dựng hệ thống thông tin tín dụng nội bộ về
ngành nghề, ngành hàng, các quy định chính sách có liên quan, diễn biến thị trường
trong nước và quốc tế,… Khi cần thiết có thể mua các thông tin từ các tổ chức cung
cấp chuyên nghiệp để xây dựng được hệ thống thông tin đa dạng đáp ứng cho công
tác tín dụng trong toàn bộ hệ thống.
Ngoài ra, để có nguồn thông tin chính xác, đa dạng và hữu ích đòi hỏi phải có
sự nỗ lực của ngân hàng trong việc tiếp cận với khách hàng, với thị trường cũng
như cần có sự hỗ trợ từ cơ sở hạ tầng tài chính - tiền tệ phát triển của nền kinh tế, đó
là vấn đề kiện toàn hệ thống thông tin trên mạng. Giải quyết được vấn đề nêu trên
thực sự là một bước đột phá trong quá trình mở rộng, phát triển tín dụng của ngành
ngân hàng đến các doanh nghiệp, đặc biệt là khu vực DNNVV. Bởi lẽ, nó cho phép
ngân hàng có cơ sở để tin vào doanh nghiệp, hiểu đúng khách hàng của mình hơn
và do đó sẽ mạnh dạn hơn khi đáp ứng nhu cầu vốn.
3.2.2.3. Kiến nghị chỉnh sửa một số điều khoản Chính sách bảo đảm tín dụng
của Vietcombank được ban hành theo Quyết định số 30/QĐ-VCB.CSTD ngày
20/01/2011 có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/04/2011.
Đối với các khách hàng là DNNVV, nhất là các khách hàng mới, doanh nghiệp
chưa có uy tín thương hiệu trên thị trường thì mặc dù dự án, phương án có tính khả
thi cao nhưng ngân hàng cũng thường rất quan trọng đến vấn đề tài sản bảo đảm. Vì
vậy không ít trường hợp các khách hàng có tình hình dự án phương án kinh doanh
tốt nhưng không tiếp cận được vốn vay ngân hàng do tài sản bảo đảm không đủ hay
có tính thanh khoản yếu theo đề nghị và đánh giá của ngân hàng.
Hiện nay Chính sách bảo đảm tín dụng của Vietcombank được ban hành theo
Quyết định số 30/QĐ-VCB.CSTD ngày 20/01/2011 có hiệu lực thi hành kể từ ngày
01/04/2011 đang có nhiều bất cập gây khó khăn cho các chi nhánh trong việc đánh
83
giá và định giá tài sản bảo đảm của khách hàng. Từ đó, ảnh hướng đến các quyết
định cấp tín dụng, vì vậy tác giả kiến nghị chỉnh sửa một số điều khoản chính sách
bảo đảm tín dụng của Vietcombank theo hướng như sau:
- Quy định tại Khoản 1.1 Mục IV Phụ lục 02 của Category X _ Real
Estate (Bất động sản): trường hợp thế chấp quyền sử dụng đất nông nghiệp của hộ
gia đình, cá nhân được Nhà nước giao đất không thu tiền sử dụng đất thì giá trị định
giá được xác định theo giá đất do Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương quy định mà không khấu trừ giá trị quyền sử dụng đất đối với thời gian đã sử
dụng.
Kiến nghị Trung ương sửa đổi giá trị định giá được xác định căn cứ theo
giá thị trường thực tế của lô đất nhận thế chấp hoặc của các lô đất lân cận có
cùng vị trí hoặc căn cứ kết quả định giá của tổ chức định giá độc lập. Từ kết
quả định giá này, tùy từng trường hợp đối tượng khách hàng mà VCB có thể xem
xét cho vay 70% hoặc một tỷ lệ lớn hơn giá trị tài sản bảo đảm nhận thế chấp.
- Quy định tại Khoản 1.2 Mục IV Phụ lục 02 Category X _ Real Estate
(Bất động sản): trường hợp tổ chức kinh tế được Nhà nước cho thuê đất trước ngày
01/07/2004 mà đã trả tiền cho thuê đất cho cả thời gian thuê hoặc đã trả trước tiền
thuê đất cho nhiều năm mà thời hạn thuê đất đã trả trước tiền còn lại ít nhất là 05
năm thì được thế chấp quyền sử dụng đất và được định giá trên 2 cơ sở:
Giá trị định giá được xác định theo tích số giá thuê đất hiện hành (nếu có)
nhân trong thời gian thuê còn lại;
Trường hợp không có giá thuê hiện hành thì xác định theo số tiền thuê đất
còn lại đã thanh toán/trả trước.
Kiến nghị Trung ương sửa đổi, điều chỉnh theo hướng: sẽ căn cứ (i) kết
quả định giá của tổ chức định giá độc lập hoặc (ii) đơn giá đất sản xuất, kinh
doanh phi nông nghiệp theo khung giá đất do UBND tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương quy định để định giá quyền sử dụng đất thuộc trường hợp nêu trên
trong điều kiện xác định được tổ chức kinh tế được Nhà nước cho thuê đất chính là
nhà đầu tư tạo lập nên tài sản thông qua việc thực hiện ứng trước tiền bồi thường,
84
hỗ trợ tái định cư và kinh phí tổ chức bồi thường, giải phóng mặt bằng và được cấp
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo phương án được cấp có thẩm quyền phê
duyệt.
- Quy định tại Khoản 2.1 Mục IV Phụ lục 02 Category X _ Real Estate
(Bất động sản) về định giá tài sản gắn liền với đất không phải là nhà ở: theo
quy định thì hiện tại chỉ cho phép định giá tài sản gắn liền với đất không phải là nhà
ở (đủ điều kiện thế chấp chính thức) căn cứ vào một điều kiện duy nhất: không vượt
quá chi phí thực tế và hợp lý để hình thành tài sản, được xác định dựa vào hồ sơ,
chứng từ đầu tư và/hoặc xây dựng và/hoặc quyết toán của chủ đầu tư sau khi khấu
trừ phần giá trị khấu hao tài sản theo thời gian thực tế sử dụng tài sản.
Kiến nghị Trung ương điều chỉnh, sửa đổi trường hợp định giá tài sản
gắn liền với đất không phải là nhà ở, trong điều kiện nếu khách hàng không thể
thu thập và xuất trình được đầy đủ các hồ sơ chứng từ liên quan đến việc hình thành
tài sản thế chấp thì cơ sở để định giá tài sản là (i) kết quả định giá của tổ chức
định giá độc lập hoặc (ii) đơn giá bồi thường, hỗ trợ đối với nhà ở, công trình
kiến trúc, cây trái và hoa màu trên đất khi Nhà nước thu hồi đất do UBND tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương ban hành.
- Quy định tại Mục III Phụ lục 02 Category VII _Vehicle (Phương tiện
giao thông đường bộ) về mức độ ưu tiên nhận bảo đảm và tỷ lệ cấp tín dụng tối
đa theo giá trị định giá: Đối với tài sản là xe máy chuyên dùng đã qua sử dụng (mã
số VH4): Hạn chế nhận thế chấp, theo tác giả là chưa phù hợp. Vì vậy, kiến nghị
Trung ương sửa đổi, điều chỉnh bổ sung việc nhận thế chấp các loại xe máy
chuyên dùng đã qua sử dụng (mã số VH4) với tỷ lệ cấp tín dụng tối đa là 40%
vừa bảo đảm an toàn vừa đa dạng các tài sản bảo đảm nhận thế chấp hơn.
- Quy định tại Khoản 2 Mục IV Phụ lục 02 của Category VII _Vehicle
(Phương tiện giao thông đường bộ) & Category VIII _Vessel (Phương tiện giao
thông đường thủy) về hướng dẫn định giá tài sản bảo đảm: Trường hợp Chi
nhánh tự định giá tài sản bảo đảm, thì giá trị tài sản khi định giá (mới 100% hoặc đã
qua sử dụng) phải khấu trừ thuế (nếu có). Theo quy định này thì việc định giá tài
85
sản đảm bảo thuộc sở hữu cá nhân sẽ khấu trừ phần thuế VAT vào giá trị tài sản là
chưa hợp lý. Vì vậy kiến nghị đối với các tài sản đảm bảo là phương tiện giao
thông đường bộ và phương tiện giao thông đường thủy thì các loại thuế, phí
đều được tính vào giá trị tài sản, trừ các loại thuế chủ sở hữu được khấu trừ
hoặc được hoàn thuế (như thuế VAT đầu vào đối với doanh nghiệp).
3.3. Các giải pháp hỗ trợ của Nhà nước, Ngân hàng Nhà nước và các Hiệp hội
3.3.1. Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật
Cần sớm đưa ra Luật DNNVV để tạo hành lang pháp lý cho các DNNVV
yên tâm hoạt động sản xuất kinh doanh. Thực tế hiện nay, các chính sách và cơ
chế vĩ mô của Nhà Nước còn đang trong quá trình điều chỉnh và sửa đổi, hoàn thiện
dần, chưa ổn định làm cho DNNVV chưa thật sự an tâm dồn hết tâm huyết vào kinh
doanh. Những vấn đề trước mắt cần đề cập trong Luật về DNNVV là xác định đối
tượng các doanh nghiệp cần hỗ trợ, tiêu chí phân loại, xác định ngành nghề, lĩnh
vực ưu tiên, ưu đãi, đơn giản hoá thủ tục hành chính... Khi khung pháp lý cho
DNNVV ra đời sẽ khẳng định rõ ràng hơn về chủ trương khuyến khích phát triển
DNNVV của Nhà nước.
Nhà nước cần có những qui định cụ thể đối với DNNVV nhằm lành mạnh
hoá các quan hệ tài chính – tín dụng, nâng cao trình độ quản lý cho các
DNNVV. Trên thực tế, các báo cáo quyết toán của DNNVV thường không đủ độ tin
cậy, gây nhiều khó khăn cho ngân hàng khi thẩm định. Để khai thông các kênh đầu
tư vốn cho các DNNVV, Nhà nước cần:
- Hỗ trợ kinh phí đào tạo và khuyến khích các DNNVV tự đầu tư đúng mức
cho nguồn nhân lực của mình bằng các ưu đãi về thuế và hành chính.
- Nên thiết lập hệ thống thông tin đăng ký tập trung qua mạng máy tính ở cấp
quốc gia để mọi người dân dễ dàng truy cập được thông tin về tài sản thế chấp, cầm
cố, cho thuê và các phương thức giao dịch có đảm bảo khác.
- Tiếp tục đổi mới thể chế các loại thuế liên quan tới các DNNVV theo hướng
mở rộng đối tượng chịu thuế, đơn giản hóa phương pháp và căn cứ tính thuế; giảm
các trường hợp ưu đãi thuế để đơn giản hóa chính sách ưu đãi, tạo cơ hội cho các
86
DNNVV dễ tiếp cận và hưởng các ưu đãi về thuế như miễn, giảm và giãn thời hạn nộp
thuế, khuyến khích tính tự giác của các doanh nghiệp. Hạn chế áp dụng chế độ thuế
khoán và tiến hành áp dụng chế độ thuế phù hợp hơn để khuyến khích các hộ kinh
doanh cá thể thực hiện đăng ký kinh doanh theo Luật Doanh nghiệp.
Kiến nghị sửa đổi khoản 8 điều 3 Nghị định 163/2006/NĐ-CP ngày
29/12/2006 về hàng hóa luân chuyển trong quá trình sản xuất kinh doanh
Nghị định 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006, khoản 8, điều 3 quy định:
“hàng hóa luân chuyển trong quá trình sản xuất kinh doanh là động sản dùng để trao
đổi, mua bán, cho thuê trong phạm vi hoạt động sản xuất, kinh doanh của bên bảo
đảm”. Như vậy theo định nghĩa này thì hàng hóa luân chuyển trong quá trình sản
suất kinh doanh phải thỏa mãn các điều kiện sau:
(i) Là động sản;
(ii) Mục đích của tài sản là doanh nghiệp dùng để trao đổi, mua bán, cho
thuê trong phạm vi kinh doanh của doanh nghiệp.
Điều kiện (i) tương đối dễ hiểu, tuy nhiên điều kiện (ii) lại rất khó áp dụng
trong thực tế. Lấy ví dụ, một loại tài sản là gỗ trong một doanh nghiệp sản xuất gỗ,
nếu doanh nghiệp dùng gỗ này để bán thương mại thì đó là hàng hóa luân chuyển
trong quá trình sản xuất, kinh doanh, nhưng nếu doanh nghiệp dùng để sản xuất bàn
ghế thì không được, hoặc nếu doanh nghiệp bán với mục đích tẩu tán tài sản, trốn
nợ ngân hàng thì đó cũng không được coi là hàng hóa luân chuyển trong quá trình
sản xuất kinh doanh. Như vậy vấn đề đặt ra là, tại thời điểm ngân hàng nhận thế
chấp lô gỗ nêu trên, do lô gỗ có thể được doanh nghiệp dùng để bán thương mại, có
thể đưa vào sản xuất (động thái diễn ra trong tương lai), thì làm sao ngân hàng xác
định được lô gỗ có phải là hàng hóa luân chuyển trong quá trình sản xuất kinh
doanh hay không?
Ngoài ra, có nhiều cách hiểu về hàng hóa luân chuyển. Có ý kiến cho rằng,
hàng hóa luân chuyển trong quá trình sản xuất kinh doanh không chỉ là các loại
hàng hóa, thành phẩm (mã tài khoản trên bảng cân đối kế toán là 156 và 155) mà
còn có cả các loại nguyên, nhiên vật liệu, tư liệu đầu vào, sản phẩm dở dang (mã tài
87
khoản 152,154,..). Vì vậy, khi nhận thế chấp hàng hóa luân chuyển trong quá trình
sản xuất kinh doanh, đối tượng tài sản thế chấp là tất cả các loại nguyên, nhiên vật
liệu đầu vào, tư liệu đầu vào của quá trình xuất, sản phẩm dở dang, thành phẩm,
hàng hóa.
Trong thực tế, nhiều ngân hàng nhận thấy việc nhận thế chấp này là bất cập
vì quy định chưa rõ ràng cũng như thật khó để đảm bảo quyền lợi cho ngân hàng do
việc kiểm soát của ngân hàng rất hạn chế và rất khó. Tuy nhiên, vì nhiều nguyên
nhân, như khách hàng đã đủ điều kiện cho vay không đảm bảo bằng tài sản nên
ngân hàng thực hiện hình thức nhận thế chấp này với mục đích “có còn hơn không”;
do cạnh tranh, hoặc do khách hàng không có tài sản, không đủ điều kiện cho vay
không có đảm bảo bằng tài sản nhưng ngân hàng vẫn muốn cho vay nên đã thực
hiện hình thức nhận thế chấp này để hợp thức hóa khoản vay. Điều này tạo ra hệ lụy
là ngân hàng không lượng hóa được mức độ rủi ro (giá trị tài sản theo báo cáo lớn
nhưng thực tế nhỏ hơn) và gây ra rủi ro tín dụng lớn hơn.
Về bản chất, hàng hóa luân chuyển trong quá trình sản xuất kinh doanh là
các loại hàng hóa có tính chất luân chuyển nhanh và liên tục trong quá trình hoạt
động của doanh nghiệp, do đó luật đã có quy định riêng về loại hình thế chấp đặc
biệt đối với loại tài sản này nhằm tránh các thủ tục rườm rà, phức tạp mà vẫn đảm
bảo quyền lợi cho các bên. Tuy nhiên để luật đi vào cuộc sống, tài sản đảm bảo phải
đúng nghĩa là tài sảm đảm bảo và để đảm bảo quyền lợi của các bên, từ đó ngân
hàng có thể đánh giá một cách chính xác mức độ rủi ro tín dụng, tác giả đề xuất như
sau: Đề nghị sửa đổi khoản 8, điều 3 Nghị định 163/2006/NĐ-CP ngày
29/12/2006 theo hướng quy định rõ thế nào là hàng hóa luân chuyển trong quá
trình sản xuất kinh doanh, theo đó tại thời điểm thế chấp các bên có thể xác
định được ngay để tiến hành thủ tục thế chấp.
3.3.2. Nâng cao vai trò của Ngân hàng Nhà nước
Thứ nhất, xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật trong lĩnh vực tiền tệ,
quản lý ngoại hối, hoạt động ngân hàng công bằng và minh bạch nhằm tạo sự phát
triển và bảo đảm an toàn hệ thống tiền tệ, ngân hàng. Thi hành các chính sách và
88
quy định pháp luật về tiền tệ và ngoại hối góp phần tạo sự phát triển cho các TCTD,
doanh nghiệp.
Thứ hai, hiện nay các DNNVV muốn vay vốn tại các ngân hàng thương mại,
thường chỉ được các ngân hàng cho vay vốn luân chuyển, ít khi được vay vốn trung
dài hạn để đầu tư máy móc thiết bị, khoa học công nghệ vào hoạt động mở rộng sản
xuất kinh doanh. Vì vậy, Ngân hàng Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ cho các
TCTD thành lập các công ty cho thuê tài chính đáp ứng nhu cầu tín dụng cho các
DNNVV.
Thứ ba, Ngân hàng Nhà nước cần thiết lập, phát triển hệ thống thông tin tín
dụng một cách nhanh chóng và phong phú hơn, đặt biệt cung cấp thông tin
DNNVV. Trong các hệ thống thông tin thì Trung tâm Thông tin tín dụng (CIC) là
nguồn cung cấp dữ liệu chính cho ngân hàng, trong đó chỉ cho biết số dư nợ hiện tại
và tình hình trả nợ vay của khách hàng. Thông tin CIC thường không phản ánh kịp
thời cho ngân hàng khi khách hàng có dư nợ tín dụng ở nơi khác, gây mất tính chính
xác thông tin thu thập được. Do vậy, trong thời gian tới Ngân hàng Nhà nước cần
phải hoàn thiện hệ thống thông tin tín dụng để đạt được tính chính xác, kịp thời và
đầy đủ. Ngoài ra, còn có thể cung cấp xếp loại doanh nghiệp, phân tích tình hình
biến động của thị trường và có biện pháp phòng ngừa rủi ro để các TCTD nâng cao
hiệu quả hoạt động kinh doanh
Thứ tư, Ngân hàng Nhà nước cần phải đưa những văn bản hướng dẫn các quy
định về tín dụng của Chính phủ một cách chính xác, kịp thời hơn nữa để các TCTD
thực thi một cách có hiệu quả nhất.
Thứ năm, nâng cao chất lượng của hoạt động thanh tra, kiểm tra, kiểm toán.
Hoạt động thanh tra, kiểm tra, kiểm toán có vai trò quan trọng trong việc giúp
doanh nghiệp hoạt động theo đúng quy định của pháp luật, tránh tình trạng làm ăn
phi pháp, gian lận, trốn thuế, cạnh tranh không lành mạnh, các hành vi tiêu cực…
Các hiện tượng nêu trên, đặc biệt là hành vi gian lận, trốn thuế của doanh nghiệp
còn diễn ra khá phổ biến. Tình trạng nhũng nhiễu của cán bộ thanh tra, tình trạng
89
tiêu cực của doanh nghiệp trong quá trình thanh tra vẫn còn tồn tại. Vì vậy, để tránh
thất thoát tiền thuế của Nhà nước, lành mạnh hóa hoạt động của doanh nghiệp,
Ngân hàng Nhà nước cần tăng cường đẩy mạnh hoạt động thanh tra, kiểm tra, kiểm
toán, đồng thời nâng cao năng lực, phẩm chất đạo đức của cán bộ thanh tra, tránh
tình trạng nhũng nhiễu, tiêu cực của cán bộ thanh tra. Trường hợp phát hiện hành vi
tiêu cực cần xử lý nghiêm khắc.
Thứ sáu, Ngân hàng Nhà nước tỉnh, UBND tỉnh cùng các cơ quan pháp luật
trong tỉnh cũng cần có sự phối hợp, hỗ trợ tích cực các NHTM trong quá trình giải
quyết thu hồi các khoản nợ xấu, nợ tồn đọng. Nên có một ưu tiên về quỹ thời gian, sự
phối hợp giữa các cơ quan có liên quan trong quá trình xử lý để giúp các NHTM tiết
kiệm được thời gian, chi phí. Một mặt, giúp các NHTM nhanh chóng thu hồi vốn để tái
đầu tư, nâng cao hiệu quả hoạt động, mạnh dạn trong quyết định đầu tư cho vay; mặt
khác, nâng cao vai trò trách nhiệm của các doanh nghiệp trong việc sử dụng vốn
vay, nâng cao tính pháp lý, răn đe của pháp luật.
3.3.3. Nâng cao vai trò của Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam và các Hiệp hội
doanh nghiệp
3.3.3.1. Vai trò của Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam
Là một tổ chức phi lợi nhuận, trên cơ sở nhất trí và thảo luận công khai giữa
các thành viên, Hiệp hội Ngân hàng (HHNH) nên đưa ra một quy chế về những
nguyên tắc trong quản lý và kinh doanh ngành ngân hàng mà tất cả các thành viên
phải tuân thủ, đồng thời giám sát sự tuân thủ các nguyên tắc trên, mục đích là để
hạn chế sự cạnh tranh không lành mạnh và ổn định thị trường ngành ngân hàng. Đối
với thành viên vi phạm quy chế, cũng cần quy định các chế tài trừng phạt như phạt
tiền, kiến nghị thay đổi nhà quản lý cao cấp, không trợ giúp vốn, thông báo cho cơ
quan giám sát ngân hàng, loại bỏ tư cách thành viên,.. đối với các ngân hàng thành
viên vi phạm.
Đề cao trách nhiệm của Hiệp hội trong việc bảo vệ quyền lợi hợp pháp của
nhà đầu tư, Hiệp hội phải làm tốt công tác trung gian liên lạc giữa ngân hàng và nhà
đầu tư, thông qua nhiều cách và phương pháp phổ cập kiến thức tài chính ngân hàng
90
cho nhà đầu tư, để nhà đầu tư hiểu được một cách chính xác những nghiệp vụ của
NHTM, tránh những tranh chấp không đáng xảy ra. Đồng thời, Hiệp hội phải chú ý
ngăn chặn những biểu hiện cạnh tranh xấu giữa các ngân hàng, để bảo hộ nhà đầu tư
không bị xâm hại bởi các hành vi cạnh tranh này.
3.3.3.2. Vai trò của Hiệp hội doanh nghiệp
Cải thiện môi trường pháp lý để cho phép các hiệp hội doanh nghiệp được
thành lập, phát triển và thực hiện những chức năng chính của mình. Tuy nhiên, khi
tiến hành xây dựng những quy định mới về các hiệp hội doanh nghiệp, sẽ rất có ích
nếu Chính phủ tham khảo những chuẩn mực và thông lệ của quốc tế trong lĩnh vực
này. Nhìn chung, kinh nghiệm của các nước khác cho thấy các luật, quy định và hệ
thống quản lý đối với các hiệp hội vừa phải hợp lý và tránh sự lạm dụng, vừa đảm
bảo hạn chế gánh nặng kìm hãm sự ra đời của các hiệp hội cũng như cản trở việc
thực hiện các hoạt động hợp lý của họ.
Các hiệp hội doanh nghiệp nên chú trọng phát triển những vấn đề lớn như kỹ
năng vận động chính sách, tức là thuyết phục người nghe, kỹ năng đối thoại giữa
nhà nước và hiệp hội đại diện cho các doanh nghiệp, đảm bảo độc lập về mặt tài
chính, có được nguồn nhân lực tương đối ổn định, khả năng thu hút hội viên và khả
năng phục vụ hội viên.
Kết luận chương 03
Mở rộng tín dụng DNNVV, dù đã được nhận thức và được quan tâm một cách
đúng mực tại Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam nói chung, Chi nhánh Bình
Dương nói riêng, tuy nhiên do bản thân DNNVV còn nhiều hạn chế, các quy định
của ngân hàng còn nhiều thận trọng, cái nhìn về DNNVV còn nhiều khắt khe cũng
như các khuôn khổ pháp lý chung còn có sự bất cập, vì vậy để có thể mở rộng cho
vay DNNVV một cách hiệu quả thì cần phải thực hiện đồng bộ và tổng hợp nhiều
giải pháp, từ vĩ mô đến vi mô. Có khá nhiều giải pháp đã được đề cập trong chương
3, trong đó để đối tượng DNNVV có thể dễ dàng tiếp cận nguồn vốn ngân hàng thì
bản thân doanh nghiệp trước hết phải nỗ lực nhằm nâng cao năng lực tài chính,
nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, tạo lập uy tín đối với ngân hàng; đối với
91
ngân hàng cần nâng cao tinh thần phục vụ, đa dạng hoá và nâng cao chất lượng
sản phẩm, dịch vụ; đối với các cơ quan nhà nước, các hiệp hội cần nâng cao vai trò
quản lý vĩ mô, nâng cao vai trò hỗ trợ DNNVV. Có như vậy, DNNVV mới thực sự có
điều kiện phát huy hết khả năng, phẩm chất của mình, đóng góp vào sự phát triển
chung của đất nước.
92
KẾT LUẬN
Phát triển DNNVV đang là vấn đề được Đảng và Nhà nước rất coi trọng,
được xem là một trong những nhiệm vụ trọng tâm trong chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội của Việt Nam. Các DNNVV đang ngày càng có vai trò quan
trọng và trở thành động lực tăng trưởng kinh tế của nền kinh tế. DNNVV đóng góp
đáng kể vào nền kinh tế quốc dân và có vai trò quan trọng trong quá trình sản xuất,
lưu thông hàng hoá, cung ứng dịch vụ, là các vệ tinh gắn kết, hỗ trợ, thúc đẩy sự phát
triển của các doanh nghiệp lớn. Đặc biệt là Việt Nam bước vào hội nhập từ một nền
kinh tế chưa phát triển, việc phát triển DNNVV sẽ góp phần đa dạng hoá các thành
phần kinh tế, góp phần đáng kể vào sự tăng trưởng GDP của đất nước, đẩy nhanh tốc
độ phát triển của nền kinh tế, tạo ra nhiều sản phẩm hàng hoá, dịch vụ cho nền kinh
tế. DNNVV còn góp phần giải quyết công ăn việc làm và ổn định đời sống xã hội
cho hàng triệu lao động.
Một thực trạng là đa phần các DNNVV có quy mô sản xuất kinh doanh
nhỏ và luôn trong tình trạng thiếu vốn cho việc mở rộng sản xuất kinh doanh, đầu tư
cải tiến máy móc, trang thiết bị mới. Tuy nhiên việc tiếp cận vốn của các DNNVV
còn gặp nhiều khó khăn, do vốn ưu đãi phát triển DNNVV từ các nguồn tài trợ trong
và ngoài nước còn hạn chế trong khi đó năng lực của đa phần DNNVV chưa đáp ứng
các điều kiện để có thể huy động từ thị trường chứng khoán. Chính vì vậy, để mở rộng
sản xuất và phát triển hoạt động kinh doanh, DNNVV chủ yếu tiếp cận nguồn vốn
tín dụng Ngân hàng, nhưng việc tiếp cận nguồn vốn này cũng còn một số hạn chế và
khó khăn nhất định.
Trên cơ sở lý luận chung về DNNVV, về tín dụng ngân hàng, vai trò của
DNNVV trong nền kinh tế và cùng với những phân tích hiện trạng hoạt động cho vay
DNNVV của Ngân hàng TMCP Ngoại thương – Chi nhánh Bình Dương, từ đây
rút ra được những mặt ưu điểm, những mặt hạn chế và những khó khăn mà các
DNNVV trên địa bàn tỉnh Bình Dương đang gặp phải. Tác giả đưa ra một số giải
pháp để giúp các DNNVV nâng cao khả năng tiếp cận nguồn vốn tín dụng của
93
ngân hàng, giúp các DNNVV cũng như các NHTM hoạt động có hiệu quả và phát
triển mạnh mẽ, đóng góp nhiều hơn vào quá trình phát triển kinh tế tỉnh Bình
Dương nói riêng và cả nước nói chung trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
94
TÀI LIỆU THAM KHẢO
I- Các tài liệu:
1. PGS.TS Nguyễn Đăng Dờn, TS Hoàng Đức, TS Trần Huy Hoàng, TS Trầm Xuân
Hương, Th.S Nguyễn Quốc Anh (2005), Tín dụng Ngân hàng, Nhà xuất bản Thống
kê, Tp.HCM.
2. PGS.TS Nguyễn Đăng Dờn (2007), Nghiệp vụ Ngân hàng Trung ương, Nhà xuất
bản Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, Tp.HCM.
3. TS Lê Xuân Bá, TS Trần Kim Hào, TS Nguyễn Hữu Thắng (2006), Doanh nghiệp
nhỏ và vừa của Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, Nhà xuất bản Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
4. Trần Huy Hoàng (2003), Quản trị ngân hàng thương mại, NXB Thống kê, TP
HCM.
5. Luật các tổ chức tín dụng số 07/1997/QHX và Luật số 20/2004/QH11 của Quốc
Hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về sửa đổi, bổ sung một số điều của
luật các tổ chức tín dụng.
6. Luật đất đai số 13/2003-QH11.
7. Nghị định 56/2009/NĐ-CP ngày 30/06/2009 về trợ giúp doanh nghiệp nhỏ và
vừa.
8. Nghị định 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 về giao dịch bảo đảm và các văn
bản liên quan về giao dịch bảo đảm.
9. Và một số Quyết định, Nghị định liên quan của Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước
Việt Nam và Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam.
II - Các tạp chí, tài liệu khác và website:
1. Nguyễn Thanh Bình (2008), “Một số giải pháp tài chính hỗ trợ cho sự phát triển
của doanh nghiệp nhỏ và vừa”, Luận văn thạc sĩ kinh tế, Đại học Kinh tế TP.HCM.
2. Hoàng Anh Dũng (2008), “Lập kế hoạch khởi sự cho các doanh nghiệp vừa và
nhỏ Việt Nam”, Luận văn thạc sĩ kinh tế, Đại học Kinh tế TP.HCM.
95
3. Thạc sĩ Nguyễn Quốc Nghi (2011), “Khả năng tiếp cận nguồn tín dụng hỗ trợ của
doanh nghiệp nhỏ và vừa”, Thị trường tài chính tiền tệ, 19 (340), tr. 21-25.
4. Thạc sĩ Nguyễn Quốc Nghi (2011), “Nhân tố nào ảnh hưởng đến lượng cầu tín
dụng chính thức doanh nghiệp nhỏ và vừa”, Thị trường tài chính tiện tệ, 7 (328), tr.
30-32.
5. Thạc sĩ Phạm Hùng Thắng (2011), “Để nâng cao hiệu quả bảo lãnh tín dụng đối
với doanh nghiệp nhỏ và vừa”, Thị trường tài chính tiện tệ, 19 (340), tr. 25-28.
6. Trang Web Cục phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa (ASMED Business
Portal) - www.business.gov.vn/asmed.
7. Trang Web Ngân hàng Nhà nước Việt Nam - www.sbv.vn.
8. Trang web Tổng cục thống kê - www.gso.gov.vn.
9. Trang Web UBND tỉnh Bình Dương - www.binhduong.gov.vn.