BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP HỒ CHÍ MINH ----------------

LÊ ĐÌNH HOÀNG

GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN TÍN DỤNG ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA TẠI NGÂN HÀNG TMCP NGOẠI THƯƠNG CHI NHÁNH BÌNH DƯƠNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

TP.Hồ Chí Minh – Năm 2011

i

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan, luận văn này là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các số liệu, kết

quả trong luận văn là trung thực, các giải pháp đưa ra một cách khách quan, có cơ sở

khoa học theo ý tưởng của bản thân.

Học viên ký tên

Lê Đình Hoàng

ii

MỤC LỤC

Trang

Lời cam đoan ...................................................................................................................... i

Mục lục ............................................................................................................................... ii

Danh mục các từ viết tắt .................................................................................................... vi

Danh mục bảng biểu.......................................................................................................... vii

Lời mở đầu ...................................................................................................................... viii

Chương 1: TỔNG QUAN VỀ TÍN DỤNG NGÂN HÀNG VÀ HOẠT ĐỘNG TÍN

DỤNG NGÂN HÀNG ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA ...........................1

1.1. Những lý luận chung về tín dụng Ngân hàng ..............................................................1

1.1.1. Khái niệm ..................................................................................................................1

1.1.1.1. Khái niệm tín dụng..................................................................................................1

1.1.1.2. Phân tích vận động của một khoản tín dụng ..........................................................1

1.1.2. Bản chất và chức năng của tín dụng ................................................................................2

1.1.2.1. Bản chất của tín dụng .............................................................................................2

1.1.2.2. Chức năng của tín dụng ..........................................................................................2

1.1.3.Vai trò của tín dụng ....................................................................................................3

1.1.4. Các loại tín dụng ngân hàng.......................................................................................3

1.2. Đặc điểm của DNNVV tại Việt Nam và sự cần thiết phát triển DNNVV ...................5

1.2.1. Khái niệm về DNNVV ..............................................................................................5

1.2.2. Đặc điểm của các DNNVV tại Việt Nam .................................................................6

1.2.3. Vai trò của DNNVV trong nền kinh tế thị trường hiện nay ......................................7

1.2.4. Ưu điểm và nhược điểm của DNNVV trong nền kinh tế thị trường hiện nay.........10

1.2.4.1. Ưu điểm của DNNVV...........................................................................................10

1.2.4.2. Nhược điểm của DNNVV ....................................................................................11

1.2.5. Sự cần thiết phải phát triển các DNNVV ................................................................12

1.2.6. Những hạn chế đối với sự phát triển của các DNNVV............................................13

iii

1.2.6.1. Về phía các DNNVV ............................................................................................13

1.2.6.2. Về phía các cơ quan chức năng.............................................................................15

1.2.7. Sự cần thiết của việc hỗ trợ và phát triển tín dụng ngân hàng đối với DNNVV .....16

1.3. Kinh nghiệm phát triển tín dụng DNNVV ở một số nước và bài học kinh nghiệm rút

ra cho Việt Nam .................................................................................................................18

1.3.1. Kinh nghiệm phát triển tín dụng DNNVV ở một số nước.......................................18

1.3.2. Bài học kinh nghiệm rút ra cho Việt Nam ...............................................................21

Kết luận Chương 1 .............................................................................................................22

Chương 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG DOANH NGHIỆP NHỎ

VÀ VỪA TẠI NGÂN HÀNG TMCP NGOẠI THƯƠNG VIỆT NAM – CHI

NHÁNH BÌNH DƯƠNG ................................................................................................23

2.1. Tổng quan về Ngân hàng TMCP Ngoại thương - Chi nhánh Bình Dương ................23

2.1.1. Giới thiệu về Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam ......................................23

2.1.2. Giới thiệu về Ngân hàng TMCP ngoại thương - Chi nhánh Bình Dương ...............24

2.1.2.1. Giới thiệu đôi nét về tỉnh Bình Dương .................................................................25

2.1.2.2. Giới thiệu về Ngân hàng TMCP Ngoại thương – Chi nhánh Bình Dương ..........27

2.2. Thực trạng hoạt động tín dụng DNNVV tại Ngân hàng TMCP Ngoại thương -

Chi nhánh Bình Dương ......................................................................................................28

2.2.1. Phân tích tình hình dư nợ cho vay............................................................................28

2.2.1.1. Dư nợ cho vay theo thành phần kinh tế ...............................................................30

2.2.1.2. Dư nợ cho vay theo ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh .........................................31

2.2.1.3. Dư nợ cho vay theo loại tiền cho vay....................................................................33

2.2.2. Phân tích tình hình dư nợ cho vay DNNVV ............................................................34

2.2.2.1. Dư nợ cho vay DNNVV theo thành phần kinh tế.................................................35

2.2.2.2. Dư nợ cho vay DNNVV theo ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh..........................36

2.2.2.3. Dư nợ cho vay DNNVV theo loại tiền cho vay ....................................................37

iv

2.3. Đánh giá hoạt động tín dụng DNNVV tại Ngân hàng TMCP Ngoại thương - Chi

nhánh Bình Dương .............................................................................................................38

2.3.1. Thực trạng DNNVV và hoạt động tín dụng DNNVV tại Bình Dương ...................38

2.3.1.1. Thực trạng DNNVV tại Bình Dương....................................................................38

2.3.1.2. Thực trạng hoạt động tín dụng DNNVV tại Bình Dương ....................................41

2.3.2. Thuận lợi và khó khăn, hạn chế trong hoạt động tín dụng DNNVV tại Ngân hàng

TMCP Ngoại thương – Chi nhánh Bình Dương ................................................................42

2.3.2.1. Thuận lợi ...............................................................................................................42

2.3.2.2. Khó khăn, tồn tại và hạn chế.................................................................................44

2.3.3. Chỉ tiêu về phát triển tín dụng DNNVV tại Ngân hàng TMCP Ngoại thương – Chi

nhánh Bình Dương .............................................................................................................62

Kết luận Chương 2 .............................................................................................................63

Chương 3: GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN TÍN DỤNG DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ

VỪA TẠI NGÂN HÀNG TMCP NGOẠI THƯƠNG VIỆT NAM - CHI

NHÁNH BÌNH DƯƠNG .................................................................................................64

3.1. Giải pháp đối với bản thân các doanh nghiệp .............................................................64

3.1.1. Giải pháp tạo nên độ tin cậy của doanh nghiệp .......................................................64

3.1.2. Nâng cao chất lượng báo cáo tài chính ....................................................................65

3.1.3. Xây dựng kế hoạch tài chính ngay từ khi khởi sự thành lập doanh nghiệp.............66

3.1.4. Xây dựng phương án kinh doanh khả thi để thuyết phục ngân hàng.......................67

3.1.5. Nâng cao năng lực quản lý.......................................................................................68

3.1.6. Nghiêm túc trong việc thế chấp tài sản bảo đảm .....................................................69

3.1.7. Đẩy mạnh công tác khai thác và ứng dụng công nghệ thông tin .............................70

3.1.8. Liên kết để tăng sức mạnh .......................................................................................71

3.2. Các giải pháp phát triển tín dụng của ngân hàng ........................................................72

3.2.1. Các giải pháp đối với Ngân hàng TMCP Ngoại thương Bình Dương.....................72

3.2.1.1. Xây dựng đối tượng khách hàng DNNVV tiềm năng...........................................72

v

3.2.1.2. Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực ...................................................................72

3.2.1.3. Tăng cường công tác quảng cáo giới thiệu, đưa các tiện ích của dịch vụ ngân

hàng điện tử đến với DNNVV ...........................................................................................74

3.2.1.4. Mở rộng mạng lưới và nâng cao vai trò thẩm định xét duyệt cho vay của các

điểm, phòng giao dịch ........................................................................................................75

3.2.1.5. Cần có chiến lược đẩy mạnh công tác huy động vốn ...........................................76

3.2.1.6. Xây dựng chính sách ưu đãi hợp lý đối với các khách hàng là DNNVV .............78

3.2.2. Giải pháp đối với Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam ...............................79

3.2.2.1. Đơn giản hóa quy trình thẩm định và xét duyệt cho vay ......................................79

3.2.2.2. Xây dựng hệ thống mạng lưới thông tin hiệu quả ................................................81

3.2.2.3. Kiến nghị chỉnh sửa một số điều khoản Chính sách bảo đảm tín dụng của

Vietcombank .....................................................................................................................82

3.3. Các giải pháp hỗ trợ của Nhà Nước, Ngân hàng Nhà nước và các Hiệp hội..............85

3.3.1. Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật.............................................................85

3.3.2. Nâng cao vai trò của Ngân hàng Nhà nước .............................................................87

3.3.3. Nâng cao vai trò của Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam các Hiệp hội doanh nghiệp ..89

3.3.3.1. Vai trò của Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam...........................................................89

3.3.3.2. Vai trò của Hiệp hội doanh nghiệp .......................................................................90

Kết luận Chương 3 .............................................................................................................90

Kết luận ..............................................................................................................................92

Tài liệu tham khảo..............................................................................................................94

vi

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

Agribank: Ngân hàng Nông nghiệp & Phát triển Nông thôn

ATM: máy rút tiền tự động

BIDV: Ngân hàng Đầu tư & Phát triển

CNTT: công nghệ thông tin

DNNVV: doanh nghiệp nhỏ và vừa

NHNN: ngân hàng nhà nước

NHTM: ngân hàng thương mại

NSNN: ngân sách nhà nước

TCTD: tổ chức tín dụng

TMCP: thương mại cổ phần

TNDN: thu nhập doanh nghiệp

TNHH: traùch nhieäm höõu haïn

TTCK: thị trường chứng khoán

TW: Trung ương

VCB hay Vietcombank: Ngân hàng Thương mại Cổ phần Ngoại thương Việt Nam

VCB Bình Dương: Ngân hàng Thương mại Cổ phần Ngoại thương Việt Nam – Chi

nhánh Bình Dương

Vietinbank: Ngân hàng Công thương

UBND: ủy ban nhân dân

vii

DANH MỤC BẢNG BIỂU

Trang

Bảng 1.1: Quy mô DNNVV.................................................................................................6

Bảng 2.1: Số liệu dư nợ qua các thời kỳ ............................................................................29

Bảng 2.2: Tốc độ tăng trưởng dư nợ qua các thời kỳ.........................................................29

Bảng 2.3: Dư nợ theo thành phần kinh tế ..........................................................................30

Bảng 2.4: Tỷ lệ dư nợ theo thành phần kinh tế ..................................................................31

Bảng 2.5: Dư nợ theo ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh ...................................................32

Bảng 2.6: Tỷ lệ dư nợ theo ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh...........................................32

Bảng 2.7: Dư nợ theo loại tiền cho vay..............................................................................33

Bảng 2.8: Dư nợ DNNVV..................................................................................................34

Bảng 2.9: Số liệu dư nợ DNNVV ......................................................................................34

Bảng 2.10: Dư nợ DNNVV theo thành phần kinh tế.........................................................35

Bảng 2.11: Tỷ lệ dư nợ DNNVV theo thành phần kinh tế ................................................36

Bảng 2.12: Dư nợ DNVVN theo ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh..................................36

Bảng 2.13: Tỷ lệ dư nợ DNNVV theo ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh .........................37

Bảng 2.14: Dư nợ DNNVV theo loại tiền cho vay ...........................................................38

Bảng 2.15: Số lượng DNNVV tại Bình Dương phân theo loại hình .................................39

Bảng 2.16: Số lượng DNNVV tại Bình Dương phân theo địa bàn....................................39

Bảng 2.17: Số lượng DNNVV tại Bình Dương phân theo ngành nghề.............................40

Bảng 2.18: Doanh thu và đóng góp NSNN của DNNVV tại Bình Dương........................40

Bảng 2.19: Dư nợ DNNVV của các TCTD tại Bình Dương .............................................41

viii

LỜI MỞ ĐẦU

I. Tính cấp thiết của đề tài:

Năm 2011 được cho là năm thách thức đối với các DNNVV, mặc dù nền kinh tế

đã có những chuyển biến và bước đi tương đối tốt hơn nhưng vẫn còn một số tồn tại đó là

các vấn đề về kinh tế vĩ mô, về chất lượng nguồn nhân lực, về thủ tục hành chính,... mà

trong đó DNNVV có nhiều yếu thế hơn so với các loại hình doanh nghiệp khác. Việc

Nhà nước ban hành hàng loạt các chính sách kinh tế vĩ mô để ổn định phát triển nền kinh

tế, kiềm chế lạm phát, thắt chặt tín dụng,... đã ảnh hưởng trực tiếp đến tình hình hoạt

động sản xuất kinh doanh của các DNNVV trong thời gian qua do không thể tiếp cận

nguồn vốn vay ngân hàng. Trong khi DNNVV là bộ phận quan trọng và có những đóng

góp rất tích cực cho nền kinh tế, cụ thể, theo thống kê mới nhất, cả nước hiện có trên

600.000 DNNVV, chiếm trên 90% số lượng doanh nghiệp với số vốn đăng ký lên gần

2.313.857 tỷ đồng (tương đương 121 tỷ USD). Các DNNVV không chỉ đóng góp đáng kể

vào sự phát triển kinh tế của đất nước, mà còn giúp tạo ra hơn một triệu việc làm mới mỗi

năm, đặc biệt là nguồn lao động chưa qua đào tạo, góp phần xóa đói giảm nghèo, tăng

cường an sinh xã hội,... (hiện các doanh nghiệp này sử dụng trên 50% lao động xã hội và

đóng góp khoảng 40% GDP).

Thấy được tầm quan trọng và đầy tiềm năng cũng như sự đóng góp các hoạt động

sản xuất kinh doanh của bộ phận các DNNVV, tuy nhiên từ thực tế, VCB Bình Dương

với dư nợ khách hàng là doanh nghiệp chiếm trên 90% tổng dư nợ nhưng trong đó tỷ

trọng dư nợ của các DNNVV lại khá hạn chế (thời điểm 30/09/2011 là 16%). Ngoài

những khó khăn của tự bản thân doanh nghiệp đã tạo nên những rào cản trong việc tiếp

cận nguồn vốn vay ngân hàng như tình hình tài chính không rõ ràng, tài sản bảo đảm

thiếu, hạn chế trong việc lập báo cáo xây dựng phương án khả thi,… thì những chính

sách chủ quan từ phía ngân hàng càng làm cho rào cản đó ngày thêm khó khăn. Cụ thể

chỉ tập trung cho vay những khách hàng tiềm năng, tài chính tốt, doanh thu cao, doanh số

giao dịch nhiều, có nguồn thu ngoại tệ, tài sản bảo đảm có giá trị cao,…. Điều này dần

ix

dần đã tạo nên tâm lý chây ỳ trong cán bộ công nhân viên, làm hạn chế việc tiếp thị phát

triển tín dụng DNNVV bởi lý do “vay ít, lãi ít, mất thời gian”, “tập trung cho vay một

doanh nghiệp lớn còn hơn cho vay 10 doanh nghiệp nhỏ”,... Các khách hàng là DNNVV

từ đó cũng dần ngại tìm đến với VCB Bình Dương khi có nhu cầu vay vốn, giao dịch và

vô hình tạo nên những rủi ro tiềm ẩn cho VCB Bình Dương trong cơ cấu dư nợ, do chỉ

tập trung vào những khách hàng lớn mà bỏ lỡ một mảng thị trường DNNVV có nhiều

tiềm năng, làm giảm khả năng cạnh tranh, phát triển thương hiệu của VCB Bình Dương

đến các DNNVV.

Xuất phát từ thực tiễn nói trên, tác giả chọn đề tài “Giải pháp phát triển tín dụng

đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam –

Chi nhánh Bình Dương” làm luận văn tốt nghiệp.

Đây không chỉ là vấn đề của riêng VCB Bình Dương mà còn là vấn đề chung đối

với các ngân hàng thương mại khác trên địa bàn tỉnh, đặc biệt là các ngân hàng lớn có

nguồn gốc quốc doanh như ngân hàng NN & PTNT, BIDV, Vietinbank. Vì vậy, với

những giải pháp trình bày trong luận văn, tác giả hy vọng sẽ góp phần đẩy mạnh công tác

phát triển tín dụng DNNVV tại VCB Bình Dương và một số ngân hàng bạn có quy mô

hoạt động tương tự, góp phần cơ cấu lại danh mục cho vay theo quy mô DNNVV trong

bối cảnh nền kinh tế hiện nay.

II. Mục tiêu nghiên cứu:

Từ những lý luận chung về tín dụng ngân hàng và hoạt động tín dụng ngân hàng

đối với DNNVV, Luận văn phản ánh và đánh giá thực trạng hoạt động tín dụng DNNVV

tại Ngân hàng TMCP Ngoại thương – Chi nhánh Bình Dương.

Trên cơ sở phản ánh, đánh giá và dựa vào những điều kiện thực tế để tìm ra các

giải pháp nhằm mở rộng và phát triển tín dụng DNNVV tại Ngân hàng TMCP Ngoại

thương – Chi nhánh Bình Dương.

x

III. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:

Nghiên cứu các quy định pháp luật hiện hành liên quan đến hoạt động của các tổ

chức tín dụng tại Việt Nam.

Nghiên cứu thực trạng hoạt động tín dụng DNNVV của Ngân hàng TMCP Ngoại

thương – Chi nhánh Bình Dương trên địa bàn tỉnh Bình Dương, những thuận lợi, khó

khăn trong hoạt động tín dụng DNNVV. Đề ra các giải pháp nhằm phát triển tín dụng

DNNVV tại Ngân hàng TMCP Ngoại thương – Chi nhánh Bình Dương.

IV. Phương pháp nghiên cứu:

Phương pháp nghiên cứu được sử dụng là phương pháp duy vật biện chứng, duy

vật lịch sử, đồng thời vận dụng một số phương pháp như phương pháp phân tích, phương

pháp so sánh, thống kê…

V. Kết cấu của luận văn:

Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn được trình bày theo kết cấu như sau:

Chương 1: Tổng quan về tín dụng ngân hàng và hoạt động tín dụng ngân hàng đối

với doanh nghiệp nhỏ và vừa.

Chương 2: Thực trạng hoạt động tín dụng doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Ngân hàng

TMCP Ngoại thương Việt Nam – Chi nhánh Bình Dương.

Chương 3: Giải pháp phát triển tín dụng doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Ngân hàng

TMCP Ngoại thương Việt Nam – Chi nhánh Bình Dương.

Để minh họa cho luận văn, luận văn đã sử dụng số liệu của Ngân hàng TMCP

Ngoại thương – Chi nhánh Bình Dương, các tạp chí, các số liệu trên các trang website,

các báo cáo có liên quan đến tình hình kinh tế tỉnh Bình Dương.

1

Chương 1:

TỔNG QUAN VỀ TÍN DỤNG NGÂN HÀNG VÀ HOẠT ĐỘNG

TÍN DỤNG NGÂN HÀNG ĐỐI VỚI DNNVV

1.1. Những lý luận chung về tín dụng Ngân hàng

1.1.1. Khái niệm

1.1.1.1. Khái niệm tín dụng

Tín dụng (credit) xuất phát từ chữ La Tinh là credo, có nghĩa là tin tưởng, là

tín nhiệm. Tuy nhiên trong thực tế, tùy theo các góc độ nghiên cứu người ta có các

định nghĩa khác nhau về tín dụng. Cụ thể, khi xem xét tín dụng như là một chức

năng cơ bản của ngân hàng thì tín dụng được hiểu như sau:

Tín dụng là một giao dịch về tài sản (tiền hoặc hàng hóa) giữa bên cho

vay (ngân hàng và các định chế tài chính khác) và bên đi vay (cá nhân, doanh

nghiệp và các chủ thể khác) trong đó bên cho vay chuyển giao tài sản cho bên

đi vay sử dụng trong một thời hạn nhất định theo thoả thuận, bên đi vay có

trách nhiệm hoàn trả vô điều kiện vốn gốc và lãi cho bên vay khi đến hạn

thanh toán.

1.1.1.2. Phân tích vận động của một khoản tín dụng

Khi phân tích vận động của tín dụng chúng ta thấy tín dụng là một giao dịch

về tài sản trên cơ sở hoàn trả có các giai đoạn đặc trưng sau:

Một là, tài sản giao dịch trong quan hệ tín dụng ngân hàng có thể dưới hai

hình thái là bằng tiền hoặc bằng tài sản, thường được gọi chung là giá trị tín dụng.

Hai là, bên cho vay khi chuyển giao giá trị tín dụng cho bên đi vay sử dụng

phải có cơ sở để tin rằng bên đi vay sẽ trả đúng hạn.

Ba là, giá trị hoàn trả thông thường phải lớn hơn giá trị lúc cho vay, tức

người đi vay phải trả thêm phần lãi ngoài vốn gốc. Quan hệ tín dụng có thể được

Cấp giá trị tín dụng (1)

biểu diễn theo sơ đồ sau:

Người đi vay (Khách hàng)

Hoàn trả giá trị tín dụng + lãi (2)

Người cho vay (Ngân hàng)

2

1.1.2. Bản chất và chức năng của tín dụng

1.1.2.1. Bản chất của tín dụng

Tín dụng là hình thức vận động của vốn cho vay, phản ánh mối quan hệ kinh tế

giữa chủ thể sở hữu và các chủ thể sử dụng nguồn vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế trên

nguyên tắc hoàn trả có kỳ hạn cả gốc lẫn lãi.

Quan hệ tín dụng ra đời bắt nguồn từ sự xuất hiện mối quan hệ cung cầu về

vốn giữa người đi vay và người cho vay. Quan hệ tín dụng tồn tại trong nhiều nền kinh

tế hàng hóa, nhưng do tính chất của các phương thức sản xuất xã hội khác nhau nên tín

dụng cũng mang những bản chất khác nhau. Và chung quy lại tín dụng mang 3 đặc

điểm cơ bản sau:

- Chỉ thay đổi quyền sử dụng mà không thay đổi quyền sở hữu vốn tín

dụng.

- Khoản tín dụng có thời hạn được xác định do người cho vay và người đi vay

thỏa thuận.

- Người chủ sở hữu tín dụng nhận được khoản thu nhập dưới hình thức lợi

tức.

1.1.2.2. Chức năng của tín dụng

 Tập trung và phân phối lại vốn tiền tệ:

Đây là chức năng cơ bản nhất. Bằng phương pháp tín dụng hay sử dụng đòn

bẩy tín dụng, tập trung các nguồn vốn tiền tệ nhàn rỗi trong xã hội, rồi phân phối lại

dưới hình thức cho vay để đáp ứng các nhu cầu về vốn cho các hoạt động sản xuất,

kinh doanh và đời sống.

Chức năng tập trung và phân phối lại vốn là chức năng cơ bản và có ý nghĩa

to lớn của tín dụng đối với sự phát triển của nền kinh tế xã hội. Nhờ chức năng tập

trung và phân phối lại tiền tệ của tín dụng mà phần lớn nguồn tiền trong xã hội từ

chỗ là tiền “nhàn rỗi” một cách tương đối, đã được huy động và sử dụng cho các

nhu cầu của sản xuất và đời sống, làm cho hiệu quả sử dụng vốn trong toàn xã hội

tăng.

3

 Tiết kiệm tiền mặt và chi phí lưu thông cho xã hội:

Thu hút nhiều đơn vị và cá nhân mở tài khoản tiền gửi. Số lượng tài khoản

ngày càng gia tăng và tiền mặt trong nền kinh tế xã hội sẽ giảm đi một cách tương

ứng. Nhờ đó sẽ tiết kiệm chi phí in ấn, bảo quản tiền mặt, tạo ra văn minh tiền tệ, có

lợi cho xã hội. Khi nhiều đơn vị, nhiều tổ chức cá nhân mở tài khoản ở ngân hàng

thì hầu hết các khoản giao dịch, thanh toán sẽ được thực hiện dưới hình thức chuyển

khoản. Nó đảm bảo an toàn, chính xác, mang lại nhiều lợi ích lớn cho xã hội, tạo

điều kiện cho nền kinh tế - xã hội phát triển.

 Phản ánh và kiểm soát các hoạt động kinh tế:

Khi vốn tín dụng vận động từ chủ thể này sang chủ thể khác, cụ thể là từ

người cho vay sang người đi vay, đòi hỏi người đi vay phải sử dụng đúng mục đích

và phải đảm bảo mang lại hiệu quả để không những tạo ra thu nhập cho chính người

sử dụng vốn mà còn để thực hiện nghĩa vụ của mình đối với người cho vay.

Tín dụng phát triển được là dựa trên cơ sở của sự tín nhiệm. Sự tín nhiệm đó

phải có nền tảng, phải có cơ sở là thực tiễn hoạt động của các đơn vị, cá nhân thể

hiện qua các báo cáo tài chính.

Tất cả những điều nói trên đòi hỏi hoạt động của tín dụng phải được kiểm

soát chặt chẽ để qua đó có thể phát hiện và ngăn chặn những hiện tượng tiêu cực để

làm cho các quan hệ tín dụng được thực hiện một cách bình thường, mang lại hiệu

quả cao cho xã hội, cho các chủ thể có quan hệ tín dụng.

1.1.3.Vai trò của tín dụng

Nói đến vai trò của tín dụng là nói đến tác động của tín dụng đối với nền

kinh tế xã hội. Vai trò của tín dụng bao gồm các vai trò cơ bản sau:

- Một là, tín dụng góp phần thúc đẩy sản xuất lưu thông hàng hóa phát triển:

 Đối với doanh nghiệp: tín dụng góp phần cung ứng vốn, bao gồm: vốn cố

định và vốn lưu động.

 Đối với người dân: tín dụng là cầu nối giữa tiết kiệm và đầu tư.

 Đối với toàn xã hội: tín dụng làm tăng hiệu suất sử dụng đồng vốn.

- Hai là, tín dụng góp phần ổn định tiền tệ, ổn định giá cả.

4

- Ba là, tín dụng góp phần ổn định đời sống, tạo công ăn việc làm và ổn định

trật tự xã hội.

- Cuối cùng có thể nói tín dụng còn có vai trò quan trọng nữa đó là mở rộng

phát triển các mối quan hệ kinh tế đối ngoại và giao lưu quốc tế. Sự phát triển của

tín dụng không những ở trong phạm vi một nước mà còn lan rộng ra phạm vi các

nước trên thế giới, nhờ đó thúc đẩy phát triển quan hệ kinh tế đối ngoại, nhằm giúp

đỡ, hỗ trợ và giải quyết các nhu cầu lẫn nhau trong quá trình đi lên của mỗi nước,

làm cho các nước có điều kiện xích lại gần nhau hơn và cùng nhau phát triển.

1.1.4. Các loại tín dụng ngân hàng

Phân loại tín dụng (chỉ đề cập đến phân loại cho vay mà không đề cập các

hình thức tín dụng khác như bảo lãnh, chiết khấu,…) được chia ra các loại sau:

- Cho vay bất động sản là loại cho vay liên quan đến việc mua sắm và xây

dựng bất động sản nhà ở, đất đai, bất động sản trong lĩnh vực công nghiệp, thương

mại và dịch vụ.

- Cho vay công nghiệp và thương mại là cho vay ngắn hạn để bổ sung vốn

lưu động cho các doanh nghiệp trong lĩnh vực công nghiệp, thương mại và dịch vụ.

- Cho vay nông nghiệp là loại cho vay để trang trải các chi phí sản xuất như

phân bón, thuốc trừ sâu, giống cây trồng, thức ăn gia súc, lao động, nhiên liệu, …

- Cho vay các định chế tài chính bao gồm cấp tín dụng cho các ngân hàng,

công ty tài chính, công ty cho thuê tài chính, công ty bảo hiểm, quỹ tín dụng và các

định chế tài chính khác.

- Cho vay cá nhân là cho vay để đáp ứng các nhu cầu tiêu dùng như mua sắm

các vật dụng, các khoản cho vay để bù đắp các chi phí đời sống thông qua phát hành

thẻ tín dụng.

 Căn cứ thời hạn cho vay, tín dụng được chia làm ba loại như sau:

- Cho vay ngắn hạn: thời gian cho vay tối đa là 12 tháng.

- Cho vay trung hạn: thời gian cho vay từ trên 12 tháng đến 60 tháng.

- Cho vay dài hạn: thời gian cho vay trên 60 tháng.

5

 Căn cứ mức độ tín nhiệm đối với khách hàng cho vay được chia làm hai

loại:

- Cho vay không có bảo đảm bằng tài sản: là loại cho vay không có tài sản

thế chấp, cầm cố hoặc bảo lãnh của bên thứ ba, việc cho vay chỉ dựa vào uy tín của

khách hàng.

- Cho vay có bảo đảm là loại cho vay dựa trên cơ sở các bảo đảm như thế

chấp, cầm cố hoặc bảo lãnh của bên thức ba.

1.2. Đặc điểm của DNNVV tại Việt Nam và sự cần thiết phát triển DNNVV

1.2.1. Khái niệm về DNNVV

Thực ra không có một sự phân loại chung nào được thống nhất về những gì

cấu thành nên một doanh nghiệp “ nhỏ” và “vừa ”. Quy mô của một doanh nghiệp

thường được xác định bởi nhiều chỉ tiêu khác nhau, bao gồm: tài sản, số người lao

động, cơ cấu vốn của chủ sở hữu, nguồn, loại hình tài trợ và lĩnh vực doanh nghiệp

hoạt động. Tại Việt Nam theo Nghị Định số 56/2009/NĐ-CP ngày 30/06/2009 thì

DNNVV được định nghĩa như sau: “DNNVV là cơ sở kinh doanh đã đăng ký giấy

phép hoạt động theo quy định pháp luật, được chia thành ba cấp: siêu nhỏ, nhỏ,

vừa theo quy mô tổng nguồn vốn (tổng nguồn vốn tương đương tổng tài sản được

xác định trong bảng cân đối kế toán của doanh nghiệp) hoặc số lao động bình quân

năm (tổng nguồn vốn là tiêu chí ưu tiên)”, cụ thể như sau:

6

Bảng 1.1: Quy mô DNNVV

Quy mô

Doanh nghiệp nhỏ

Doanh nghiệp vừa

Doanh nghiệp siêu nhỏ

Số lao động

Số lao động

Số lao động Tổng nguồn

Tổng nguồn vốn

vốn

Khu vực

10 người trở xuống

20 tỷ đồng trở xuống

trên 10 đến

I. Nông, lâm nghiệp và thủy sản

từ người 200 người

từ trên 20 tỷ đồng đến 100 tỷ đồng

trên 200 từ người đến 300 người

II. Công nghiệp và xây dựng

10 người trở xuống

20 tỷ đồng trở xuống

trên 10 đến

từ người 200 người

từ trên 20 tỷ đồng đến 100 tỷ đồng

trên 200 từ người đến 300 người

III. Thương mại và dịch vụ

10 người trở xuống

10 tỷ đồng trở xuống

từ trên 10 người đến 50 người

từ trên 10 tỷ đồng đến 50 tỷ đồng

từ trên 50 người đến 100 người

(Nguồn: Nghị Định số 56/2009/NĐ-CP ngày 30/06/2009 của Chính phủ)

Như vậy theo định nghĩa trên DNNVV là loại hình doanh nghiệp thuộc mọi

thành phần kinh kế và chịu ảnh hưởng của các Luật sau:

- Luật doanh nghiệp.

- Luật doanh nghiệp Nhà Nước.

- Luật hợp tác xã.

- Các hộ kinh doanh cá thể đăng ký theo Nghị Định số 02/2000/NĐ-CP ngày

02/02/2000 của Chính Phủ về đăng ký kinh doanh.

Qua đó ta thấy các DNNVV hoạt động rất đa dạng trên mọi lĩnh vực hoạt

động và đa dạng hóa các ngành nghề.

Ở Việt Nam hiện nay khi nói đến DNNVV người ta chỉ chú ý đến quy mô

nguồn vốn đăng ký kinh doanh và quy mô lao động chứ không chú ý đến thành

phần kinh tế. Tuy nhiên theo định nghĩa của thông lệ quốc tế thì “các DNNVV” là

từ chỉ dùng để dành riêng cho các xí nghiệp thuộc thành phần kinh tế tư nhân.

1.2.2. Đặc điểm của các DNNVV Việt Nam

Từ định nghĩa trên ta thấy các DNNVV có một số đặc điểm sau:

7

- Các DNNVV được phân bổ rộng khắp trên địa bàn cả nước, nó không tập

trung vào một số khu vực cũng như lĩnh vực sản xuất nhất định, mà đa dạng hoá về

loại hình hoạt động và hình thức tổ chức, không phân biệt thành phần kinh tế.

- Bộ máy quản lý gọn nhẹ, công tác điều hành thường mang tính trực tiếp, ở

một số doanh nghiệp người quản lý ngoài chức năng quản lý doanh nghiệp còn

kiêm luôn một số vị trí khác, vì vậy làm cho mối quan hệ giữa người lao động và

người quản lý rất chặt chẽ.

- Quy mô sản xuất nhỏ, có tính năng động, linh hoạt, nhạy cảm với những

thay đổi của thị trường.

- Hoạt động chủ yếu ở các ngành thủ công mỹ nghệ, gia công may mặc, sản

xuất các thiết bị linh kiện điện tử; các ngành hàng nhỏ, có giá trị thấp mà các doanh

nghiệp lớn thường không chú ý như: thực phẩm (giò chả, ruốc, bánh đa…), các

ngành chế biến nông sản, gia công may mặc,…

- Dễ thành lập doanh nghiệp do đòi hỏi vốn ít, diện tích mặt bằng không

nhiều, các điều kiện sản xuất đơn giản và dễ chuyển hướng kinh doanh.

- Các DNNVV có khả năng tạo việc làm tăng, nó được xem là cần tập trung

nhiều lao động hơn các doanh nghiệp lớn.

- Sẵn sàng đầu tư vào các lĩnh vực mới: các DNNVV dễ dàng đổi mới trang

thiết bị, công nghệ, thích ứng với cuộc cách mạng khoa học công nghệ.

Từ những đặc điểm này có thể thấy các DNNVV có vai trò quan trọng đối

với sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội.

1.2.3. Vai trò của DNNVV trong nền kinh tế thị trường hiện nay

Hiện nay ở hầu hết các nước, DNNVV đóng vai trò quan trọng chi phối rất

lớn đến công cuộc phát triển kinh tế xã hội. Ở nước ta, DNNVV chiếm trên 90%

tổng số doanh nghiệp với nhiều loại hình kinh tế, bao gồm: doanh nghiệp Nhà nước,

Công ty cổ phần, Công ty liên doanh, doanh nghiệp tư nhân, hợp tác xã, cơ sở sản

xuất, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài,… Điều đó cho thấy DNNVV có vai

trò quan trọng trong nền kinh tế nước ta, thể hiện:

8

- Các DNNVV giữ vai trò quan trọng trong nền kinh tế, chiếm tỷ trọng lớn

trong tổng số các doanh nghiệp hoạt động của cả nước. Vì thế, đóng góp của họ vào

tổng sản lượng và tạo việc làm là rất đáng kể. DNNVV góp phần ổn định xã hội, dễ

dàng được tạo lập với một lượng vốn không lớn, thường xuyên đáp ứng nhu cầu

thay đổi của thị trường, mặc dù số lượng lao động trong mỗi DNNVV không nhiều,

nhưng với số lượng rất lớn khối DNNVV trong nền kinh tế, đã tạo ra phần lớn công

ăn việc làm cho xã hội.

- Các DNNVV có qui mô nhỏ, nên dễ điều chỉnh, thay đổi theo nhu cầu, thị

hiếu của thị trường. DNNVV cung cấp một khối lượng lớn sản phẩm đa dạng,

phong phú và độc đáo về mặt hàng, chủng loại đáp ứng nhu cầu của người tiêu

dùng, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế phát triển và làm cho nền kinh tế năng

động.

- Các DNNVV hỗ trợ đắc lực cho doanh nghiệp quy mô lớn, là cơ sở để hình

thành những doanh nghiệp, tập đoàn kinh tế lớn mạnh trong quá trình phát triển

kinh tế thị trường, tạo nên ngành công nghiệp và dịch vụ phụ trợ quan trọng.

- Các DNNVV đi vào những thị trường ngõ, ngách hỗ trợ các doanh nghiệp

lớn trong việc tiếp cận thị trường, tiêu thụ sản phẩm, cân đối khả năng cung cầu hợp

lý trong xã hội. Mặt khác, DNNVV cũng là những doanh nghiệp vệ tinh cung cấp

các sản phẩm đầu vào, gia công, sản xuất, kinh doanh trong chu kỳ hoạt động của

các doanh nghiệp lớn, làm tăng khả năng hoạt động của các doanh nghiệp trên thị

trường, tạo mối liên kết chặt chẽ giữa các loại hình, các thành phần kinh tế.

- Các DNNVV với quy mô nhỏ, được phân bố rải khắp ở các địa phương,

các vùng lãnh thổ trên cả nước nên DNNVV có khả năng tận dụng các tiềm năng về

lao động, nguyên vật liệu sẵn có ở địa phương và sử dụng các sản phẩm phụ hoặc

phế liệu, phế phẩm của các doanh nghiệp lớn. DNNVV đóng góp phần quan trọng

vào ngân sách, vào sản lượng và tạo công ăn việc làm cho người lao động ở địa

phương, là trụ cột của kinh tế địa phương.

- Các DNNVV góp phần quan trọng trong việc tạo lập sự phát triển cân bằng

và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo vùng lãnh thổ:

9

Trong nền kinh tế luôn tồn tại với nhiều loại hình doanh nghiệp và các quy mô

khác nhau. Thông thường các doanh nghiệp lớn tập trung ở vùng đô thị, có cơ sở hạ

tầng phát triển, nhưng lại không đáp ứng được tất cả yêu cầu của nền kinh tế như

lưu thông hàng hóa, dịch vụ, phát triển ngành nghề truyền thống, tiểu thủ công

nghiệp, giải quyết lao động, ổn định đời sống xã hội của nhân dân…Với chiều

hướng đó sẽ gây tình trạng mất cân đối nghiêm trọng về trình độ phát triển kinh tế,

văn hóa, xã hội giữa thành thị và nông thôn, giữa các vùng, miền.

Sự phát triển của DNNVV góp phần quan trọng trong việc tạo lập sự cân đối

giữa các địa phương. Nó giúp cho vùng sâu, vùng xa, các vùng nông thôn có thể

khai thác được tiềm năng địa phương mình để phát triển các ngành sản xuất và dịch

vụ, tạo ra sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo vùng lãnh thổ. Đây cũng là vấn đề rất

có ý nghĩa để thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn.

- Các DNNVV góp phần tích cực trong việc thu hút vốn đầu tư trong dân cư

và sử dụng vốn, các nguồn lực có hiệu quả tại địa phương. Các DNNVV khi thành

lập không cần quá nhiều vốn, điều này tạo cơ hội cho nhiều tầng lớp dân cư có thể

tham gia đầu tư. DNNVV có thể dễ dàng huy động vốn thông qua quan hệ họ hàng,

bạn bè, người thân. Do đó, DNNVV tạo hiệu quả trong việc huy động, sử dụng các

khoản tiền nhàn rỗi trong dân cư và biến nó thành các khoản vốn đầu tư mang lại

hiệu quả kinh tế cao.

- Các DNNVV sản xuất nhiều mặt hàng xuất khẩu đem lại nhiều ngoại tệ

cho đất nước, đáp ứng nhu cầu thanh toán nhập khẩu và tăng nguồn thu cho ngân

sách Nhà nước.

Ngày nay, với nền kinh tế toàn cầu hóa, mối quan hệ giao lưu mua bán, văn

hóa, xã hội giữa các quốc gia ngày càng phát triển rộng rãi. DNNVV góp phần

quan trọng trong việc khai thác tiềm năng của các ngành nghề truyền thống ở các

địa phương như các ngành nghề thủ công, mỹ nghệ, v.v.v. Bên cạnh đó, sự phát

triển các DNNVV sẽ làm tăng nguồn thu cho ngân sách Nhà nước, góp một phần

đáng kể vào công cuộc thực hiện các mục tiêu kinh tế, xã hội.

10

1.2.4. Ưu điểm và nhược điểm của DNNVV trong nền kinh tế thị trường hiện

nay

1.2.4.1. Ưu điểm của DNNVV

- DNNVV tự do cạnh tranh và bình đẳng hơn so với các doanh nghiệp lớn,

chiếm số lượng đông đảo song quy mô nhỏ, ít phụ thuộc vào Nhà nước, luôn sẵn

sàng bất chấp mọi rủi ro và mạnh dạn khai thác thị trường.

- DNNVV làm cân bằng giữa các vùng, miền trong nước: Các doanh nghiệp

lớn thường tập trung ở các trung tâm kinh tế lớn, nên làm mất đi sự cân bằng giữa

các vùng, miền. Ngược lại, DNNVV tạo được cân đối này, có thể phát triển rộng rãi

ở mọi vùng lãnh thổ và tạo ra những sản phẩm phong phú, đa dạng; cung cấp hàng

hóa và dịch vụ đến từng địa phương xa xôi hẻo lánh.

- DNNVV khai thác được tiềm lực trong nước: Các doanh nghiệp lớn thường

tập trung ở các khu trung tâm kinh tế lớn, nên không khai thác được hết tiềm năng

của đất nước. Ngược lại, DNNVV có thể linh động khai thác nhiều lợi thế về điều

kiện vùng, miền của đất nước như tài nguyên thiên nhiên, lao động, thời tiết, v.v.

DNNVV có lợi thế trong việc tuyển dụng lao động tại địa phương và tận dụng các

tài nguyên, tư liệu sản xuất sẵn có tại địa phương, phát huy sản xuất kinh doanh.

- DNNVV sản xuất hàng hóa thay thế nhập khẩu để thực hiện quá trình công

nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước ở giai đoạn đầu, có thể sản xuất một số mặt

hàng phù hợp với sức mua của dân chúng góp phần ổn định đời sống xã hội, tăng

trưởng và phát triển kinh tế bền vững.

- DNNVV năng động, nhạy bén và dễ thích ứng với sự thay đổi của thị

trường: Quy mô nhỏ và vừa, bộ máy quản lý gọn nhẹ, đơn giản nên phản ứng nhanh

nhạy với sự biến động của thị trường và dễ thực hiện sự phân công lao động.

DNNVV có cơ sở vật chất kỹ thuật, quy mô không lớn nên đổi mới linh hoạt hơn,

dễ dàng phát triển sản xuất hoặc thu hẹp quy mô để tồn tại trong nền kinh tế thị

trường.

- DNNVV dễ dàng tạo lập, có thể hoạt động hiệu quả với chi phí cố định

thấp.

11

1.2.4.2. Nhược điểm của DNNVV

- Hạn chế về khả năng tài chính: Tình trạng thiếu vốn hoặc không có vốn để

mở rộng sản xuất kinh doanh là hiện tượng khá phổ biến của các DNNVV hiện nay.

Với năng lực hạn chế, DNNVV Việt Nam khó có khả năng đầu tư quy trình công

nghệ hiện đại để tạo ra các sản phẩm có giá trị cao, cạnh tranh với các sản phẩm

nước ngoài có tiêu chuẩn quốc tế.

Các ngân hàng cũng e ngại khi cho DNNVV vay vốn vì khả năng gặp rủi ro

lớn khi cho vay. DNNVV cũng rất khó khăn và ít có khả năng huy động được vốn

trên thị trường vì quy mô hoạt động nhỏ. DNNVV luôn ở trong tình trạng thiếu vốn,

khiến cho khả năng thu lợi nhuận không cao.

- Khả năng tiếp cận thị trường kém: Các sản phẩm và dịch vụ do các doanh

nghiệp này cung cấp hiện nay tuy đã có nhiều tiến bộ về chất lượng, nhưng mới chỉ

đáp ứng một phần nhu cầu của người tiêu dùng. Lại thêm quy mô nhỏ bé, năng lực

sản xuất chưa cao, hạn chế về vốn, thiếu khả năng xây dựng và triển khai kế hoạch

tiếp thị sản phẩm, các DNNVV gặp nhiều khó khăn để cạnh tranh trong môi trường

toàn cầu hóa nhanh chóng hiện nay, đặc biệt với sân chơi lớn như WTO.

- Khả năng tiếp thị ra thị trường nước ngoài của DNNVV còn nhiều hạn chế:

Do khối lượng sản phẩm của các DNNVV sản xuất ra còn manh mún, chất lượng

thấp, khó đáp ứng tiêu chuẩn xuất khẩu, chủ yếu là để phục vụ tiêu dùng trong

nước.

- Việc mua nguyên liệu, máy móc thiết bị: DNNVV có quy mô kinh doanh

không lớn, khả năng tài chính hạn hẹp nên thường không được hưởng khoản chiết

khấu giảm giá, ít nhập khẩu trực tiếp mà thường phải qua đại lý trong nước nên chi

phí đầu vào cao.

- Thiếu thông tin, trình độ quản lý doanh nghiệp chưa cao: Trong nền kinh

tế toàn cầu hóa hiện nay, thông tin cũng là một yếu tố đầu vào rất quan trọng cho

hoạt động sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên DNNVV thường gặp nhiều khó khăn

trong việc tiếp cận thông tin thị trường, tiếp cận công nghệ sản xuất và công nghệ

12

quản lý hiện đại trong nước cũng như các nước tiên tiến trong khu vực và trên thế

giới, điều đó dẫn đến trình độ quản lý điều hành trong các DNNVV còn thấp kém.

- Khả năng thu hút được các nhà quản lý và lao động giỏi còn thấp: Vì

DNNVV dễ gặp nhiều rủi ro trong kinh doanh, ít có chính sách đãi ngộ nhân tài,

lương bổng không cao, hay thay đổi hoạt động kinh doanh, nên công việc thường

không ổn định. Do đó, khó có khả năng thu hút được những người lao động có trình

độ cao trong sản xuất kinh doanh và trong quản lý, điều hành.

- Tính liên kết hợp tác kinh doanh của các DNNVV còn kém: Chưa huy động

được nguồn vốn dồi dào, cơ sở hạ tầng vững chắc để thu hút đầu tư, nâng cao chất

lượng sản phẩm, tăng năng lực cạnh tranh.

- DNNVV còn có thể gây ra một số tiêu cực ảnh hưởng đến đời sống kinh tế -

xã hội như: trốn lậu thuế, gây ô nhiễm môi trường, kinh doanh các mặt hàng bị Nhà

nước cấm, kinh doanh sai mục đích v.v. Nhiều DNNVV do chạy theo lợi nhuận quá

mức đã tìm mọi cách để kiếm lời gây tổn thất nghiêm trọng cho xã hội.

1.2.5. Sự cần thiết phải phát triển các DNNVV

DNNVV là bộ phận quan trọng và có những đóng góp rất tích cực cho nền

kinh tế, cụ thể, theo thống kê mới nhất, cả nước hiện có trên 600.000 DNNVV,

chiếm trên 90% số lượng doanh nghiệp với số vốn đăng ký lên gần 2.313.857 tỷ

đồng (tương đương 121 tỷ USD). Các DNNVV không chỉ đóng góp đáng kể vào sự

phát triển kinh tế của đất nước, mà còn giúp tạo ra hơn một triệu việc làm mới mỗi

năm, đặc biệt là nguồn lao động chưa qua đào tạo, góp phần xóa đói giảm nghèo,

tăng cường an sinh xã hội,... (hiện các doanh nghiệp này sử dụng trên 50% lao động

xã hội và đóng góp khoảng 40% GDP). Vì vậy, vấn đề phát triển các DNNVV có ý

nghĩa hết sức quan trọng đối với quá trình xây dựng và phát triển của đất nước.

Qua phân tích đặc điểm, vai trò và những lợi thế của các DNNVV ta thấy

môi trường kinh tế nước ta hiện nay rất thích hợp cho sự phát triển các DNNVV.

Các DNNVV đem lại nhiều lợi ích cho nền kinh tế của đất nước, đồng thời có

những đặc điểm hấp dẫn có thể trợ giúp Chính phủ trong việc thực hiện các mục

tiêu phát triển kinh tế, xây dựng một xã hội công bằng hơn. Chính phủ các nước

13

cũng như Chính phủ Việt Nam đã nhận thức được tầm quan trọng của khu vực

DNNVV đối với nền kinh tế trong điều kiện các DNNVV đã trải qua sự điều chỉnh

và chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường. Vì vậy sự quan tâm đến việc thúc đẩy sự

phát triển các doanh nghiệp này ngày càng tăng. Ngoài việc ban hành Nghị định số

56/2009/NĐ-CP (thay thế Nghị định số 90/2001/NĐ-CP) về trợ giúp phát triển

DNNVV thì dựa trên cơ sở đó Hội đồng khuyến khích phát triển DNNVV và Cục

phát triển DNNVV đã ra đời theo Quyết định số 12/2003/QĐ-TTg và Quyết định số

562/QĐ-KH để tạo điều kiện thuận lợi thúc đẩy sự phát triển của các DNNVV.

Nền kinh tế nước ta đi lên nền kinh tế thị trường từ nền sản xuất nông nghiệp

lạc hậu. Đến nay, hơn 70% lực lượng lao động làm việc trong lĩnh vực sản xuất

nông nghiệp. Sản xuất chủ yếu là nhỏ bé của các hộ gia đình nên việc mở rộng và

phát triển DNNVV rất phù hợp với thực tế nền kinh tế Việt Nam.

1.2.6. Những hạn chế đối với sự phát triển của các DNNVV

Mặc dù có các lợi thế của khu vực kinh tế vừa và nhỏ đối với nền kinh tế và

xã hội nhưng vẫn còn có những vấn đề lớn mà các DNNVV đang gặp phải.

1.2.6.1. Về phía các DNNVV

Thiếu vốn là khó khăn lớn nhất:

Hiện nay các DNNVV đã được Chính phủ tạo điều kiện và cơ hội để phát

triển (đã có quyết định số 14/2009/QĐ-TTg ngày 21/01/2009 ban hành quy chế bảo

lãnh cho doanh nghiệp vay vốn của ngân hàng thương mại: áp dụng đối với các

doanh nghiệp có vốn điều lệ tối đa 20 tỷ đồng và sử dụng tối đa 500 lao động; hay

chương trình hỗ trợ lãi suất được chỉ đạo chú trọng đến các DNNVV, ...), nhưng do

mới, thời gian áp dụng chưa lâu, hiệu quả chưa thật sự rõ ràng, vì vậy mà tài chính

của các doanh nghiệp vẫn chưa nhận được sự hỗ trợ thích đáng. Do đó tình trạng

thiếu vốn vẫn là khó khăn và phổ biến nhất của các DNNVV, trong khi qui mô về

vốn của các DNNVV khá nhỏ, hạn chế, nên khi các doanh nghiệp muốn mở rộng

qui mô sản xuất thì luôn gặp trở ngại lớn về vốn.

Trình độ công nghệ còn lạc hậu:

14

Trình độ quản lý kém, hiệu quả và sức cạnh tranh yếu, ít đầu tư vào lĩnh vực

sản xuất. Hoạt động đầu tư chủ yếu vào những ngành thủ công thô sơ, thâm dụng

lao động nhiều hơn là thâm dụng vốn và kỹ thuật. Phần lớn các doanh nghiệp này

có công nghệ đang sử dụng lạc hậu so với mức trung bình của thế giới từ 3 – 4 thế

hệ.

Khả năng cạnh tranh và hiệu quả hoạt động của các DNNVV thấp, thị

trường tiêu thụ còn nhiều bất cập:

Khả năng cạnh tranh và hiệu quả hoạt động của các DNNVV còn thấp vì

những lý do sau đây:

- Năng suất lao động thấp, chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm cao.

- Quy mô vốn và năng lực tài chính (kể cả vốn của chủ sở hữu và tổng nguồn

vốn) của nhiều DN còn rất nhỏ bé, vừa kém hiệu quả, vừa thiếu tính bền vững.

- Nhận thức chấp hành luật pháp còn hạn chế. Một số DNNVV còn chưa

chấp hành nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật, đặc biệt là các quy định về

thuế, quản lý tài chính, quản lý nhân sự, chất lượng hàng hoá và sở hữu công

nghiệp.

- Sự yếu kém về thương hiệu đã góp phần làm yếu khả năng cạnh tranh. Hầu

hết các DNNVV ở Việt Nam chưa xây dựng được các thương hiệu mạnh, chưa

khẳng định được uy tín và khả năng cạnh tranh trên thị trường khu vực và quốc tế.

Thị trường tiêu thụ của doanh nghiệp còn nhiều hạn chế như thị trường chưa

đa dạng, nhiều doanh nghiệp còn quá phụ thuộc vào một số nhà bao tiêu; thị trường

tiêu thụ chưa ổn định và chưa có tính bền vững, nhiều doanh nghiệp còn làm ăn

theo kiểu “chụp giật”, “ăn xổi”, chưa coi trọng chữ tín trong kinh doanh.

Hoạt động quản lý của Doanh nghiệp còn nhiều bất cập:

Do chế độ thuế của nhà nước còn nhiều bất cập, vì vậy các DNNVV tìm mọi

cách trốn thuế để đem lại lợi ích cho doanh nghiệp của mình. Thực trạng hiện nay

đa phần các doanh nghiệp lớn hay vừa và nhỏ, thực hiện chế độ sổ sách kế toán chủ

yếu là kế toán tài chính, còn về kế toán quản trị hay kế toán chi phí rất ít công ty áp

dụng. Vì thế, các doanh nghiệp khó có thể nhìn nhận một cách chính xác kết quả

15

hoạt động của mình cũng như đường lối kế hoạch phát triển của doanh nghiệp khó

có thể đem lại được kết quả như ý muốn.

Ngoài ra, các DNNVV cũng còn hạn chế trong việc tiếp cận thông tin và

kiến thức về thị trường. Trình độ quản lý của đội ngũ ban lãnh đạo còn nhiều hạn

chế, hầu hết chưa được đầu tư học hỏi, nâng cao trình độ quản lý, việc điều hành

doanh nghiệp còn nặng tính chất gia đình, không chuyên nghiệp.

1.2.6.2. Về phía các cơ quan chức năng

Cơ chế chính sách, thủ tục thành lập doanh nghiệp:

Luật doanh nghiệp đã tạo ra những bước đột phá trong đổi mới tư duy, cải

cách thể chế và thủ tục hành chính trong quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp,

nhưng vẫn còn một số hạn chế, không ít thủ tục gia nhập thị trường còn bất hợp lý,

chi phí cao, thời gian kéo dài, nhất là trong các ngành nghề kinh doanh có điều kiện.

Không ít các cơ quan chức năng, cán bộ, công chức còn tùy tiện đặt thêm nhiều thủ

tục hành chính phiền hà, làm lỡ thời cơ gây tốn kém cho doanh nghiệp.

Sự bất hợp lý về chính sách thuế và môi trường đầu tư:

Hiện nay tính hấp dẫn của môi trường đầu tư tại Việt Nam đang có dấu hiệu

giảm đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Đó là do cơ sở hạ tầng kém phát triển, thủ

tục hành chính rườm rà, yếu kém trong vấn đề minh bạch thông tin, sự bảo hộ của

nhà nước đối với một số công ty, ngành nghề,… đã làm các nhà đầu tư, đặc biệt là

các nhà đầu tư nhỏ, các DNNVV không có nhiều cơ hội trong việc giành lấy thị

trường.

Chính sách thuế cũng còn nhiều bất cập. Thuế thu nhập doanh nghiệp dù đã

giảm nhưng vẫn còn cao. Các thủ tục liên quan đến thuế còn quá rườm rà, phức tạp,

gây khó khăn trở ngại cho doanh nghiệp trong vấn đề kê khai và nộp thuế.

Bất cập trong việc thu thập và tìm hiểu thông tin:

Hiện nay việc tìm kiếm những thông tin chính xác về DNNVV đang tồn tại

và hoạt động tại Việt Nam là rất khó khăn. Một nhà đầu tư khi có ý định muốn đầu

tư vào các DNNVV của Việt Nam thì việc tìm hiểu thông tin về các doanh nghiệp

này là cả một vấn đề, khó có thể tìm hiểu và nắm bắt được những thông tin đầy đủ

16

của doanh nghiệp, hoặc nếu có cũng chưa chắc đã chính xác và tốn kém nhiều chi

phí. Vì vậy các nhà đầu tư sẽ chuyển sang doanh nghiệp nào có đầy đủ thông tin

chính xác, có thể tin tưởng để đầu tư, làm hạn chế sự phát triển mở rộng sản xuất

kinh doanh của các DNNVV, cho dù đây là những doanh nghiệp rất có tiềm năng và

được Nhà nước tạo điều kiện hỗ trợ để phát triển.

1.2.7. Sự cần thiết của việc hỗ trợ và phát triển tín dụng ngân hàng đối với

DNNVV

Trong nền kinh tế thị trường, DNNVV ngày càng khẳng định vai trò không thể

thiếu của mình và có nhiều đóng góp quan trọng cho nền kinh tế quốc dân; để ngày

càng phát triển và tiếp tục có nhiều đóng góp quan trọng cho nền kinh tế thì DNNVV

đòi hỏi cần có nhiều hỗ trợ hơn nữa để khắc phục các yếu kém của mình, trong đó

yêu cầu về vốn là vấn đề thiết yếu nhất. Trong nền kinh tế cũng có nhiều kênh cung ứng

vốn, mà DNNVV có thể tiếp cận như vốn tự có do tích lũy; vốn từ vay mượn bạn bè,

người thân; vốn từ kênh tín dụng thương mại; vốn huy động trên thị trường chứng

khoán và vốn vay ngân hàng,…Trong các kênh cung ứng vốn đó, nguồn vốn vay

ngân hàng được xem là quan trọng và hiệu quả nhất đối với các DNNVV Việt Nam

hiện nay vì những lý do sau:

- Nguồn vốn tự có tích lũy được từ quá trình kinh doanh thường là nhỏ, có giới

hạn nhất định và thông thường là không đủ để các DNNVV có thể đầu tư mở rộng sản

xuất kinh doanh. Nguồn vốn này muốn có số lượng lớn đòi hỏi phải có thời gian tích

lũy lâu dài và thường được các DNNVV ưu tiên sử dụng trước khi có việc cần đến.

Do đó, để nắm bắt cơ hội kinh doanh, theo đuổi kịp tốc độ phát triển kinh tế và có

thể cạnh tranh với các doanh nghiệp khác trong quá trình hội nhập quốc tế, thì ngoài

nguồn vốn tích lũy, các DNNVV Việt Nam cần phải được hỗ trợ từ các nguồn vốn

khác.

- Nguồn vốn vay mượn bạn bè, người thân hay vay nóng thị trường tự do bên

ngoài, từ các cá nhân hay tổ chức cho vay phi chính thức khác: thường là rất hạn chế do

lãi suất cao, thời hạn ngắn, thiếu ổn định và rất hiếm doanh nghiệp nào có thể phát triển

17

mạnh bằng nguồn vốn này, việc vay mượn từ nguồn vốn này dễ phát sinh các vấn đề rối

rắm cho quan hệ của DN sau này,…

- Tín dụng thương mại: nguồn vốn này cũng rất hạn chế do lệ thuộc rất lớn vào

chính sách mua bán chịu của nhà cung cấp và thường có thời hạn ngắn, bản thân

các doanh nghiệp cũng không thể chủ động được nguồn vốn này cả về quy mô, giới

hạn, đối tượng và thời gian. Ngoài ra, ở thị trường Việt Nam hình thức tín dụng

thương mại cũng chưa được phát triển mạnh.

- Nguồn vốn từ thị trường chứng khoán thì càng khó khăn hơn

đối với các DNNVV, để tìm được nguồn vốn từ thị trường này đòi hỏi các doanh

nghiệp phải thoát khỏi hạn chế vốn có của các DNNVV như tình hình tài chính, thực

lực doanh nghiệp, tính minh bạch công khai trong các báo cáo tài chính, khả năng xây

dựng phương án, kế hoạch kinh doanh,…Nhưng các hạn chế này muốn khắc phục đòi

hỏi các DNNVV trước hết phải có vốn để đầu tư phát triển và trở thành các doanh

nghiệp có quy mô lớn hơn. Do đó nguồn vốn huy động từ nguồn này xem như là

chưa khả thi đối với các DNNVV.

Từ đó cho thấy để có nguồn vốn phục vụ phát triển, mở rộng sản xuất kinh

doanh một cách hiệu quả hơn, các DNNVV chỉ còn trông đợi vào nguồn vốn tín

dụng ngân hàng, vì những lý do sau:

+ Khả năng cung ứng vốn của các ngân hàng là không hạn chế: về quy mô

nguồn vốn, thời hạn cho vay, lãi suất,… Dựa vào nhu cầu vốn của doanh nghiệp mà

ngân hàng có các hình thức tín dụng linh hoạt phù hợp, có thể đáp ứng đầy đủ nguồn

vốn lưu động, thường xuyên cho phép doanh nghiệp duy trì sự phát triển ổn định, có

hiệu quả hoặc cung ứng vốn với thời hạn dài để các doanh nghiệp đầu tư thêm máy

móc thiết bị, xây dựng nhà xưởng, đổi mới công nghệ sản xuất, mở rộng cơ sở kinh

doanh,…

+ Cùng với quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, việc cam kết mở rộng thị

trường tài chính dịch vụ càng làm cho các NHTM hoạt động và cung ứng vốn cho

nền kinh tế nhiều hơn. Do đó, các DNNVV sẽ có thể chủ động lựa chọn ngân hàng để

18

vay vốn với mức lãi suất hợp lý, khả năng đáp ứng nhu cầu vốn phù hợp, từ đó góp phần

nâng cao lợi nhuận cho doanh nghiệp.

+ Quá trình tiếp cận vốn vay từ ngân hàng, các DNNVV có thể sử dụng dịch

vụ tư vấn của ngân hàng về các vấn đề liên quan đến tình hình tài chính, cách thức

quản lý, thiết lập các báo cáo tài chính, thẩm định tính hiệu quả của phương án sản

xuất kinh doanh,…Từ đó, giúp các DNNVV có thể từng bước khắc phục được

các hạn chế vốn có của mình.

Xét về phía các ngân hàng, việc mở rộng cho vay các DNNVV trong thời

gian gần đây là một tất yếu. Trong xu hướng và định hướng chung của các NHTM

là đang giảm dần tỷ trọng cho vay đối với các DNNN, tăng nhanh tỷ trọng cho vay

các DNNVV, vì thành phần DNNN đang giảm dần về số lượng và đã lộ dần những hạn

chế nhất định. Với hệ thống mạng lưới chi nhánh của các NHTM trải rộng trên khắp cả

nước là điều kiện thuận lợi để các ngân hàng triển khai dịch vụ ngân hàng bán lẻ -

một dịch vụ rất thích hợp cho các DNNVV để phát triển, do đặc điểm phân bổ rải rác

khắp nơi kể cả ở vùng sâu, vùng xa. Hoạt động của các DNNVV góp phần làm

tăng sản lượng và tốc độ lưu chuyển hàng hóa trong nền kinh tế, làm gia tăng khối

lượng thanh toán giao dịch qua ngân hàng, nhờ đó nguồn vốn huy động của các ngân

hàng cũng sẽ nâng cao do lượng tiền gửi thanh toán của các doanh nghiệp ngày càng

nhiều hơn.

Do đó, xét về mặt hiệu quả tín dụng ngân hàng không chỉ mang lại lợi ích cho

các DNNVV mà nó còn giúp cho các NHTM mở rộng đầu tư tín dụng và phát triển

ổn định.

1.3. Kinh nghiệm phát triển tín dụng DNNVV ở một số nước và bài học kinh

nghiệm rút ra cho Việt Nam

1.3.1. Kinh nghiệm phát triển tín dụng DNNVV ở một số nước

Ngân hàng Thế giới gọi DNNVV là xương sống của nền kinh tế. Trong bất

kỳ thể chế kinh tế nào, DNNVV ngoài việc phát huy kinh tế phồn vinh và tăng thêm

việc làm ra, còn là một bộ phận “thay cũ đổi mới” của thể chế kinh tế đó. Nhận thấy

được tầm quan trọng đó, trên thế giới hiện nay, từ những nước phát triển hay những

19

nước đang phát triển luôn không ngừng tạo động lực cũng như điều kiện để thúc

đẩy cho sự phát triển của khu vực kinh tế này, đặc biệt là sự hỗ trợ về vốn vay. Đó

cũng chính là những bài học kinh nghiệm hết sức quý báu được đúc kết để nước ta

có thể học hỏi nhằm giải quyết những vấn đề về vốn cho hoạt động sản xuất kinh

doanh mà DNNVV Việt Nam đang gặp phải, nhất là trong giai đoạn hiện nay.

Trung Quốc:

Sau hơn 30 năm tiến hành cải cách mở cửa, Trung Quốc đã đạt được nhiều

thành tựu trong các lĩnh vực kinh tế. Vào ngày 16/08/2010, Trung Quốc đã chính

thức trở thành cường quốc kinh tế lớn thứ hai trên thế giới. Theo nhiều chuyên gia

dự báo, Trung Quốc có khả năng sớm vượt Mỹ để trở thành nền kinh tế lớn nhất thế

giới vào năm 2027. Sự thành công này có được một phần là nhờ vào đóng góp lớn

lao của các DNNVV ở Trung Quốc. DNNVV ở Trung Quốc hiện nay chiếm khoảng

99% tổng số doanh nghiệp hiện có, đóng góp cho GDP là hơn 60%, đóng góp về

thuế là hơn 50% và cung cấp 75% công ăn việc làm ở đô thị.

Về chính sách tài chính hỗ trợ DNNVV của Trung Quốc, Nhà nước cấp phát

ngân sách hỗ trợ cho DNNVV bao gồm một mục chỉ tiêu dành riêng nhằm phát

triển DNNVV thông qua việc thành lập quỹ tín dụng nhằm khuyến khích các

DNNVV có tiềm năng tăng cường mở rộng quy mô. Các phòng, ban có liên quan

cũng tích cực theo đuổi việc thiết lập một hệ thống bảo lãnh tín dụng cho DNNVV.

Ưu đãi bao gồm cả giảm trừ và miễn trừ thuế thu nhập, được dành cho các DNNVV

có thể đáp ứng các quy định của nhà nước về số lượng việc làm sẽ được tạo ra trong

mỗi năm, hoặc các DNNVV nằm trong khu vực kinh tế kém phát triển, khu vực

nghèo.

Đài Loan

Nền Công Nghiệp của Đài Loan được đặc trưng chủ yếu bởi các DNNVV

(chiếm tỷ lệ gần 90% tổng số doanh nghiệp ở vùng lãnh thổ này). Ở Đài Loan,

DNNVV tối thiểu phải có từ 5-10 công nhân, vốn trung bình là 1,6 triệu USD là phổ

biến. Các chính sách của chính quyền chủ yếu đặt mục tiêu là gia tăng khả năng sản

20

xuất của các DNNVV và cải thiện các hỗ trợ về tài chính, sản xuất, quản lý, kế toán

và tiếp thị.

Để tạo nguồn vốn, Đài loan đã thành lập Quỹ phát triển DNNVV để giúp

các doanh nghiệp này cải thiện môi trường kinh doanh, đẩy mạnh hợp tác với nhau,

đồng thời hướng dẫn cho quỹ tự phát triển nhằm thúc đẩy các DNNVV phát triển

lành mạnh. Quỹ này cấp tín dụng cho các DNNVV với lãi suất thấp hơn bình

thường của ngân hàng nhằm giúp các doanh nghiệp phát triển theo chuyên ngành

hoặc chuyển hướng ngành nghề khác có hiệu quả hơn.

Singapore

Singapore là một quốc gia nhỏ bé ở khu vực Đông Nam Á, mật độ dân số

cao, nguồn tài nguyên khoáng sản không có, nông nghiệp không phát triển. Nếu so

sánh với các nước khác trong khu vực, Singapore gặp nhiều khó khăn trong quá

trình phát triển. Tuy nhiên, những năm gần đây Singapore có những bước tiến thần

kỳ: tốc độ tăng trưởng cao, GDP bình quân đầu người thuộc nhóm đứng hàng đầu

thế giới, môi trường sống sạch sẽ đứng thứ nhất Châu Á,… Hiện tại số DNNVV của

Singapore chiếm tới 99% tổng số doanh nghiệp, 62% tổng số lao động, 48% tổng số

giá trị gia tăng của Singapore.

Để đạt được những thành tựu này, Chính phủ Singapore đã có nhiều chính

sách đổi mới, trong đó phải kể đến những chính sách hỗ trợ về vốn vay cho

DNNVV sản xuất kinh doanh, tạo điều kiện cho khu vực kinh tế này phát triển.

Việc hỗ trợ của Chính phủ không chỉ dành cho các doanh nghiệp trong nước mà còn

tạo nhiều điều kiện thuận lợi cho cả doanh nghiệp nước ngoài đầu tư vào Singapore.

Những sinh viên tài năng, có ý tưởng tốt nhưng gặp khó khăn đã được Chính phủ

lựa chọn hỗ trợ vốn để thành lập doanh nghiệp, từ đó nhiều người đã khởi nghiệp

thành công và họ đã trở thành doanh nhân xuất sắc. Đặc biệt, những doanh nghiệp

có tính sáng tạo cao, có tiềm năng phát triển trong tương lai cũng được Chính phủ

xem xét hỗ trợ về mặt tài chính.

21

Hàn Quốc

Hàn Quốc cũng rất quan tâm đến phát triển DNNVV và coi đó như một bộ

phận của cơ cấu kinh tế. Để tạo cơ sở pháp lý cho sự tồn tại và phát triển của các

DNNVV cũng như sự ưu tiên hỗ trợ thúc đẩy phát triển các doanh nghiệp này,

Chính phủ Hàn Quốc đã ban hành hàng loạt các sắc luật (12 sắc luật) về DNNVV,

trong đó việc thành lập các tổ chức tín dụng với chức năng chủ yếu là cung cấp vốn,

chuyển giao công nghệ cho các DNNVV có ý nghĩa hết sức quan trọng cho sự phát

triển của nền kinh tế Hàn Quốc.

1.3.2. Bài học kinh nghiệm rút ra cho Việt Nam

Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của đất nước, các DNNVV ngày

càng khẳng định vai trò quan trọng không thể thiếu của mình và có nhiều đóng góp

đáng kể cho sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước. Tuy nhiên, hiện

các DNNVV Việt Nam vẫn phải cần được hỗ trợ nhiều nguồn lực từ nhiều mặt, trong

đó có nguồn lực không thể thiếu và đóng vai trò quan trọng đó là nguồn lực tài chính

- vốn để kinh doanh. Trong các kênh cung ứng vốn hiện nay, kênh tín dụng ngân

hàng ngày càng thể hiện tính tất yếu và hiệu quả của mình đối với đầu tư phát triển các

doanh nghiệp, trong đó có các DNNVV.

Từ đặc điểm nền kinh tế Việt Nam, các DNNVV được phân bổ rộng khắp

trên địa bàn cả nước, nó không tập trung vào một số khu vực cũng như lĩnh vực sản

xuất nhất định, mà đa dạng hóa về loại hình hoạt động và hình thức tổ chức, không

phân biệt thành phần kinh tế. Hệ thống ngân hàng thương mại tại Việt Nam cũng

khá nhiều với các chi nhánh, điểm, phòng giao dịch được phân bố rộng khắp từ đô

thị đến nông thôn, mô hình hoạt động cũng gọn nhẹ và năng động. Vì vậy, Nhà

nước cần phải tăng cường việc tổ chức triển khai và nâng cao hiệu quả thực hiện

các chương trình chính sách hỗ trợ về vốn vay cho các DNNVV thông qua hệ thống

các ngân hàng thương mại này. Nên chọn một số ngân hàng thương mại có uy tín có

mạng lưới chi nhánh rộng hoặc thành lập các tổ chức tín dụng với chức năng chủ

yếu là cung cấp vốn với mức lãi suất ưu đãi cho các DNNVV thực hiện các dự án,

phương án sản xuất kinh doanh thuộc ngành, lĩnh vực khuyến khích như nông

22

nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản, công nghiệp chế biến, chế tạo, các DNNVV hoạt

động có hiệu quả, có tiềm năng phát triển, sử dụng nhiểu lao động, có nguồn thu

ngoại tệ từ việc xuất khẩu,…

Ngoài ra, để tăng tính chủ động cho các ngân hàng thương mại trong việc

phát triển tín dụng đối với loại hình DNNVV, Nhà nước cũng nên đơn giản hóa các

thủ tục, đa dạng các đối tượng DNNVV vay vốn được sự bảo lãnh của Quỹ bảo lãnh

tín dụng.

Kết luận chương 01

Chương 01 đã đưa ra những lý luận cơ bản về tín dụng ngân hàng; về các

DNNVV; những ưu điểm và nhược điểm cũng như vai trò của DNNVV trong nền

kinh tế thị trường hiện nay, từ đó cho thấy sự cần thiết phải phát triển DNNVV,

trong đó việc hỗ trợ và phát triển tín dụng ngân hàng đối với DNNVV là một biện

pháp cấp thiết và hết sức quan trọng trong giai đoạn hiện nay. Chương 01 cũng đã

đưa ra một số bài học kinh nghiệm về vấn đề phát triển DNNVV ở một số nước

trong khu vực, cho thấy tầm quan trọng và sự ưu tiên hỗ trợ phát triển DNNVV

trong các nền kinh tế khác nhau, là cơ sở để Chương 2 đi vào phân tích những thực

trạng, những tồn tại và yếu kém trong việc hỗ trợ tín dụng cho các DNNVV trên địa

bàn tỉnh Bình Dương để có những giải pháp phù hợp kịp thời.

23

Chương 2:

THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ

VỪA TẠI NGÂN HÀNG TMCP NGOẠI THƯƠNG VIỆT NAM –

CHI NHÁNH BÌNH DƯƠNG

2.1. Tổng quan về Ngân hàng TMCP Ngoại thương - Chi nhánh Bình Dương

2.1.1. Giới thiệu về Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam

Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam được thành lập theo Nghị định

115/CP ngày 30/12/1962 trên cơ sở tách ra từ Cục quản lý ngoại hối trực thuộc

Ngân hàng Nhà nước Việt Nam với tên giao dịch là Bank For Foreign Trade of Viet

Nam, viết tắt là VCB hay Vietcombank, và chính thức đi vào hoạt động vào ngày

01/04/1963. Đây là Ngân hàng thương mại quốc doanh, có chức năng duy nhất phục

vụ kinh tế đối ngoại, cho vay xuất nhập khẩu của cả nước, kinh doanh tiền tệ, tín

dụng, dịch vụ ngân hàng đối với các thành phần kinh tế, chủ yếu trong lĩnh vực kinh

tế đối ngoại, tuân theo Luật Ngân hàng Nhà nước và Luật tổ chức tín dụng được

Quốc hội thông qua. Sự ra đời của VCB đánh dấu một bước phát triển quan trọng

trong hoạt động ngân hàng ở Việt Nam.

Trải qua một chặng đường dài đến nay, do thực hiện chủ trương đổi mới của

Đảng và Nhà nước, là ngân hàng thương mại nhà nước đầu tiên được Chính phủ lựa

chọn thực hiện thí điểm cổ phần hoá, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam chính

thức hoạt động với tư cách là một Ngân hàng TMCP vào ngày 02/6/2008 sau khi

thực hiện thành công kế hoạch cổ phần hóa thông qua việc phát hành cổ phiếu lần

đầu ra công chúng, được đổi tên thành Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam

theo giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh số 0103024468 ngày 02/06/2008. Ngày

30/6/2009, cổ phiếu Vietcombank (mã chứng khoán VCB) chính thức được niêm

yết tại Sở Giao dịch Chứng khoán TPHCM.

Trải qua 48 năm xây dựng và phát triển, Vietcombank đã có những đóng góp

quan trọng cho sự ổn định và phát triển của kinh tế đất nước, phát huy tốt vai trò

của một ngân hàng đối ngoại chủ lực, phục vụ hiệu quả phát triển kinh tế cho cả

24

nước, đồng thời tạo ra những ảnh hưởng quan trọng đối với cộng đồng tài chính khu

vực và toàn cầu.

Từ một ngân hàng chuyên doanh phục vụ kinh tế đối ngoại, Vietcombank

ngày nay đã trở thành một ngân hàng đa năng hoạt động đa lĩnh vực, cung cấp cho

khách hàng đầy đủ các dịch vụ tài chính hàng đầu trong thương mại quốc tế; trong

các hoạt động truyền thống như kinh doanh vốn, huy động vốn, tín dụng, tài trợ dự

án…cũng như mảng dịch vụ ngân hàng hiện đại: kinh doanh ngoại tệ và các công

vụ phái sinh, dịch vụ thẻ, ngân hàng điện tử…

Sở hữu hạ tầng kỹ thuật ngân hàng hiện đại, Vietcombank có lợi thế rõ nét

trong việc ứng dụng công nghệ tiên tiến vào xử lý tự động các dịch vụ ngân hàng,

phát triển các sản phẩm, dịch vụ điện tử dựa trên nền tảng công nghệ cao. Các dịch

vụ: VCB Internet Banking, VCB Money, SMS Banking, VCB Cyber Bill

Payment,…đã, đang và sẽ tiếp tục thu hút đông đảo khách hàng bằng sự tiện lợi,

nhanh chóng, an toàn, hiệu quả, dần tạo thói quen thanh toán không dùng tiền mặt

(qua ngân hàng) cho khách hàng.

Sau gần nửa thế kỷ hoạt động trên thị trường, Vietcombank hiện có khoảng

11.500 cán bộ nhân viên, với gần 400 Chi nhánh/Phòng Giao dịch/Văn phòng đại

diện/Đơn vị thành viên trong và ngoài nước, gồm Hội sở chính tại Hà Nội, 1 Sở

Giao dịch, 75 chi nhánh và gần 300 phòng giao dịch trên toàn quốc, 3 công ty con

tại Việt Nam, 2 công ty con tại nước ngoài, 1 văn phòng đại diện tại Singapore, 4

công ty liên doanh, 2 công ty liên kết. Bên cạnh đó, Vietcombank còn phát triển một

hệ thống Autobank với khoảng 16.450 máy ATM và điểm chấp nhận thanh toán thẻ

(POS) trên toàn quốc. Về hoạt động đối ngoại, ngân hàng còn được hỗ trợ bởi mạng

lưới hơn 1.300 ngân hàng có quan hệ đại lý trên 100 quốc gia và vùng lãnh thổ.

Với bề dày hoạt động và đội ngũ cán bộ có chuyên môn vững vàng, nhạy bén

trong môi trường kinh doanh hiện đại, mang tính hội nhập cao…Vietcombank luôn

là sự lựa chọn hàng đầu của các tập đoàn, các doanh nghiệp lớn và của hơn 5,2 triệu

khách hàng cá nhân trong và ngoài nước.

2.1.2. Giới thiệu về Ngân hàng TMCP ngoại thương - Chi nhánh Bình Dương

25

2.1.2.1. Giới thiệu đôi nét về tỉnh Bình Dương

- Vị trí địa lý thuận lợi: Bình Dương là tỉnh thuộc vùng Đông Nam Bộ, nằm

trong vùng chuyển tiếp giữa cao nguyên Nam Trung Bộ với đồng bằng sông Cửu

Long, địa hình chủ yếu là những đồi thấp, thế đất bằng phẳng, nền địa chất ổn định,

vững chắc. Phía bắc giáp Bình Phước, phía nam và tây nam giáp thành phố Hồ Chí

Minh, phía tây giáp Tây Ninh, phía đông giáp Đồng Nai. Tỉnh lỵ của Bình Dương

hiện nay là thị xã Thủ Dầu Một, cách trung tâm thành phố Hồ Chí Minh 30 km.

Diện tích tự nhiên 2.681,01km2 (chiếm 0,83% diện tích cả nước và xếp thứ 42/64

về diện tích tự nhiên). Quỹ đất dồi dào với tổng diện tích 269.554 ha. Trong đó, đất

ở: 5.845 ha, đất nông nghiệp: 215.476 ha, đất lâm nghiệp: 12.791 ha, đất chuyên

dùng: 22.563 ha, đất chưa sử dụng: 12.879 ha.

Bình Dương là tỉnh sở hữu 3 thị xã có dân số đông nhất nước, trong đó có 2 thị

xã có 100% phường, không có xã (Thủ Dầu Một, Dĩ An). Bao gồm Thị xã Thủ Dầu

Một, Thị xã Thuận An, Thị xã Dĩ An, Huyện Bến Cát, Huyện Dầu Tiếng, Huyện

Tân Uyên và Huyện Phú Giáo.

- Dân số và lực lượng lao động dồi dào: Theo kết quả điều tra dân số gần

nhất (01/04/2009) thì dân số Bình Dương là 1.481.550 người, do nền kinh tế ổn

định và phát triển nhanh, trong thời gian qua Bình Dương đã thu hút nhiều dân nhập

cư từ các địa phương khác. Kết quả điều tra dân số năm 2009 cho thấy: Trong 10

năm từ 1999-2009 dân số tỉnh Bình Dương đã tăng gấp đôi, là tỉnh có tốc độ tăng

dân số cao nhất nước với tỷ lệ tăng trung bình 7,3%/năm.

- Kinh tế xã hội: Bắt đầu những năm 90, với chính sách trải thảm đỏ chào đón

các nhà đầu tư, Bình Dương nhanh chóng trở thành địa phương phát triển năng

động nhất trong tứ giác kinh tế trọng điểm của cả nước. Trong bảng xếp hạng chỉ số

năng lực cạnh tranh cấp tỉnh hàng năm, Bình Dương liên tục đứng ở vị trí số 1.

Bình Dương hiện có 28 khu công nghiệp đang hoạt động, trong đó nhiều khu

công nghiệp đã cho thuê hết diện tích đất như Sóng Thần I, Sóng Thần II, Đồng An,

Tân Đông Hiệp A, Việt Hương, Vsip I, Vsip II, .… Các khu công nghiệp trên địa

bàn tỉnh đã thu hút 938 dự án đầu tư, trong đó có 613 dự án đầu tư nước ngoài với

26

tổng vốn 3,483 triệu USD và 225 dự án đầu tư trong nước có số vốn 2.656 tỉ đồng.

Nhằm tăng sự thu hút đầu tư, hiện nay tỉnh đang tập trung hoàn thiện cơ sở hạ tầng

kỹ thuật, đẩy nhanh tiến độ thi công các khu công nghiệp, cụm công nghiệp mới để

phát triển công nghiệp ra các huyện phía bắc của tỉnh (như KCN Mỹ Phước

1,2,3,4,5, KCN Rạch Bắp tại huyện Bến Cát; Khu liên hợp công nghiệp-dịch vụ-đô

thị Bình Dương tại huyện Tân Uyên) tạo nên sự phát triển đồng bộ cho tỉnh.

Mặc dù chịu ảnh hưởng gián tiếp của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu

năm 2008, nhưng kinh tế tỉnh Bình Dương tiếp tục có bước phát triển và phục hồi,

sớm thoát khỏi tình trạng suy giảm và có mức tăng trưởng khá cao. Quy mô GDP

đến năm 2010 đạt khoảng 45.800 tỷ đồng, tương đương 2,9 tỷ Đôla Mỹ. GDP bình

quân đầu người đạt khoảng 30 triệu đồng. Cơ cấu kinh tế của tỉnh là công nghiệp:

65,5%; dịch vụ: 30%; nông nghiệp: 4,5%. Tổng vốn đầu tư toàn xã hội tăng bình

quân 14-15%/năm.

Theo mục tiêu phấn đấu đến năm 2020, để nước ta cơ bản trở thành nước

công nghiệp theo hướng hiện đại thì nông nghiệp giảm xuống còn 15-16%, công

nghiệp và xây dựng 43-44%, dịch vụ 40-41%. Với tốc độ tăng giá trị sản xuất công

nghiệp, dịch vụ luôn ở mức cao như hiện nay thì Bình Dương sẽ là một trong những

tỉnh về đích trước và sớm trở thành tỉnh công nghiệp theo hướng hiện đại.

Với các điều kiện thuận lợi về vị trí địa lý, dân số, cơ sở hạ tầng và kinh tế xã

hội đã tạo cho tỉnh Bình Dương một môi trường đầu tư hấp dẫn thu hút nhiều nhà

đầu tư trong và ngoài nước đến đầu tư, làm việc và an cư lập nghiệp. Đây cũng là cơ

hội và thuận lợi tốt để các TCTD trên địa bàn tỉnh Bình Dương được thành lập, phát

triển, cung cấp các dịch vụ tài chính tổng thể như cho vay, tài trợ thương mại, tiền

gửi, thanh toán, phát hành thẻ ATM,….

Mặc dù hiện nay trên địa bàn tỉnh đã có gần 50 TCTD đang hoạt động, nhưng

số lượng các TCTD đóng trên địa bàn vẫn còn ít so với một số trung tâm kinh tế lớn

như Hồ Chí Minh, Hà Nội. Mạng lưới giao dịch của các TCTD còn thưa thớt, trong

khi số lượng các doanh nghiệp và dân cư trên địa bàn ngày càng đông, vì vậy áp lực

cạnh tranh vẫn chưa cao. Hơn nữa, VCB Bình Dương vẫn có nhiều lợi thế về uy tín,

27

thương hiệu, công nghệ, nguồn vốn và đặc biệt là có đội ngũ Ban lãnh đạo, nhân

viên có trình độ, chuyên môn cao và tâm huyết với ngành nên đã nhận được nhiều

sự cổ vũ và lòng tin từ các khách hàng, là cơ hội và động lực để VCB Bình Dương

phát triển nhanh trong thời gian qua và vươn mình lớn mạnh trong giai đoạn tới.

2.1.2.2. Giới thiệu về Ngân hàng TMCP Ngoại thương – Chi nhánh Bình

Dương

Chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương Bình Dương được thành lập vào ngày

08/07/1998 theo quyết định số 225/1998/QĐ-NHNN của Thống đốc Ngân hàng

Nhà nước Việt Nam, và ngày 01/09/1999 Chi nhánh đã khai trương chính thức đi

vào hoạt động, là thành viên thứ 24 của đại gia đình VCB, một trong những chi

nhánh non trẻ nhất của hệ thống.

So với các chi nhánh khác, khi thành lập VCB Bình Dương đã gặp nhiều khó

khăn nhất định như không được nâng cấp từ phòng giao dịch hay chi nhánh cấp 2,

do vậy không được kế thừa mối quan hệ sẵn có với các doanh nghiệp trên địa bàn,

không được Trung ương tăng cường cán bộ lãnh đạo, hay cán bộ nghiệp vụ, trụ sở

làm việc phải mượn tạm của Ngân hàng Nhà nước tỉnh Bình Dương, đây thực sự là

một quá trình đầy trăn trở trên bước đường tìm hướng đi, có thể nói tất cả đều khởi

đầu từ con số 0.

Cho đến nay trải qua được 12 năm, một chặng đường không dài so với quá

trình hình thành và phát triển của một doanh nghiệp, thì những gì VCB Bình Dương

đạt được hôm nay thật khó có thể hình dung ra, với tinh thần quyết tâm và sự phấn

đấu không mệt mỏi của cán bộ nhân viên chi nhánh, đã mang lại những kết quả hết

sức khả quan. Từ chỗ chi nhánh chỉ đạt được dư nợ tín dụng 14 tỷ VND trong năm

đầu tiên hoạt động (năm 1999), đến cuối năm 2010 con số này là 4.806 tỷ VND,

30/09/2011 là 5.032 tỷ VND và dự kiến đến cuối năm 2011 sẽ là 5.500 tỷ VNĐ

(theo giới hạn tăng trưởng mà Trung ương cho phép).

Ngoài ra, nhằm tạo thế chủ động về vốn để cung ứng cho khách hàng, VCB

Bình Dương cũng luôn coi trọng công tác huy động vốn dưới nhiều hình thức, bên

cạnh việc thực thi các chính sách khách hàng năng động. Nhờ vậy, Chi nhánh luôn

28

đạt được tốc độ tăng trưởng nguồn vốn ở mức cao, đến 30/09/2011 nguồn vốn huy

động của Chi nhánh đạt 5.173 tỷ đồng, tăng 21,3% so với năm 2010, trong đó vốn

VND là 4.264 tỷ đồng, chiếm 82% và vốn huy động bằng ngoại tệ là 36,4 triệu

USD, chiếm 18% trên tổng nguồn vốn huy động.

Bên cạnh công tác huy động vốn và cho vay, VCB Bình Dương đã phát huy

thế mạnh của mình trong lĩnh vực thanh toán quốc tế, đa dạng hóa các sản phẩm

dịch vụ tiên tiến trên nền tảng công nghệ hiện đại. Nhờ thương hiệu Vietcombank

có uy tín trên thị trường quốc tế, với đội ngũ cán bộ thanh toán có chuyên môn

nghiệp vụ cao, nhiệt tình, năng động, nên ngày càng có nhiều khách hàng thực hiện

giao dịch thanh toán qua VCB Bình Dương, chiếm khoảng 36% thị phần thanh toán

quốc tế trên địa bàn.

Bên cạnh việc thực hiện hiệu quả các sản phẩm dịch vụ truyền thống, VCB

Bình Dương đã mạnh dạn triển khai các sản phẩm tiên tiến trên nền tảng công nghệ

hiện đại như các sản phẩm thẻ tín dụng quốc tế (Visa, Master, là ngân hàng độc

quyền phát hành thẻ tín dụng American Express tại Việt Nam), thẻ ATM (connect

24) cũng như các dịch vụ gia tăng trên thẻ, thanh toán online, ngân hàng điện tử,...

Qua đó đem đến cho các khách hàng trên địa bàn sự an toàn, tiện lợi và hài lòng về

chất lượng phục vụ của Vietcombank.

Từ thực tiễn những kết quả đạt được có thể nói VCB Bình Dương đã từng

bước khẳng định sự trưởng thành phát triển của mình và tiếp tục nỗ lực phấn đấu

nhiều hơn nữa mới theo kịp xu thế thời đại, hòa nhập vào cơ chế thị trường, là một

ngân hàng thương mại phục vụ yêu cầu phát triển kinh tế của một tỉnh năng động,

Chi nhánh VCB Bình Dương sẽ tiếp tục mở rộng quy mô, mạng lưới chất lượng

phục vụ, vững bước đồng hành cùng các nhà doanh nghiệp. Chi nhánh sẽ luôn nỗ

lực mang đến cho khách hành sự thành đạt, là người bạn đồng hành đáng tin cậy với

tất cả khách hàng.

2.2. Thực trạng hoạt động tín dụng DNNVV tại Ngân hàng TMCP Ngoại

thương - Chi nhánh Bình Dương

2.2.1. Phân tích tình hình dư nợ cho vay

29

Bảng 2.1: Số liệu dư nợ qua các thời kỳ

Đơn vị tính: triệu đồng

STT

Chỉ tiêu

2009 5.118.117 4.394.012 2.858.163 22.849 1.513.000

2008 4.203.833 3.799.495 2.459.906 10.363 1.329.226

2007 3.578.460 3.017.227 1.849.479 15.585 1.152.163

1 2 3 4 5

2010 5.598.013 4.806.000 3.330.558 14.418 1.461.024 10.132.395 12.001.906 11.052.000 12.697.036 9.159.212 11.219.638 10.457.495 12.285.036 55.500 1,15%

40.189 1,33%

70.451 1,85%

91.800 2,09%

30/09/2011 5.861.257 5.032.000 3.554.887 63.882 1.413.231 9.946.000 9.720.000 77.500 1,54%

6

111

120

80

90

129

Tổng tài sản Dư nợ cho vay Dư nợ ngắn hạn Dư nợ chiết khấu Dư nợ trung, dài hạn Doanh số cho vay Doanh số thu nợ Nợ xấu Tỷ lệ nợ xấu Số lượng khách hàng doanh nghiệp quan hệ tín dụng (Nguồn: Ngân hàng TMCP Ngọai thương - Chi nhánh Bình Dương)

Bảng 2.2: Tốc độ tăng trưởng dư nợ qua các thời kỳ

STT

Chỉ tiêu

2010

1 2 3 4

2007 28,32% 17,89% 8,65% 36,77% 36,25% 44,59% 38,71%

2008 17,48% 25,93% 33,01% -33,51% 15,37% 18,45% 22,50% 75,30%

2009 21,75% 15,65% 16,19% 120,49% 13,83% -7,91% -6,79% 30,30%

9,38% 9,38% 16,53% -36,90% -3,44% 14,88% 17,48% -39,54%

30/09/2011 4,70% 4,70% 6,74% 343,07% -3,27% 39,64%

5

6,67%

12,50%

23,33%

8,11%

7,50%

Tổng tài sản Dư nợ cho vay Dư nợ ngắn hạn Dư nợ chiết khấu Dư nợ trung, dài hạn Doanh số cho vay Doanh số thu nợ Nợ xấu Số lượng khách hàng doanh nghiệp quan hệ tín dụng

(Nguồn: Ngân hàng TMCP Ngọai thương - Chi nhánh Bình Dương)

Qua số liệu tín dụng ở trên có thể thấy dư nợ tín dụng và số lượng khách

hàng có quan hệ tín dụng với VCB Bình Dương không ngừng tăng lên qua các thời

kỳ. Nếu như năm 2007 dư nợ cho vay là 3.017.227 triệu đồng thì đến 30/09/2011 dư

nợ cho vay đã là 5.032.000 triệu đồng. Tốc độ tăng trưởng tín dụng từ năm 2007

đến năm 2009 đạt mức tăng trưởng khá tốt bình quân khoảng 20%/năm. Đến năm

2010 và trong 9 tháng 2011 do phải thực hiện theo chính sách thắt chặt tiền tệ, kiềm

chế lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô của Ngân hàng nhà nước và Vietcombank

30

TW nên chi nhánh cũng chỉ duy trì mức tăng trưởng tín dụng trong giới hạn cho

phép.

Do ảnh hưởng gián tiếp của cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế

toàn cầu kéo dài, khiến không ít doanh nghiệp có tiềm lực tài chính yếu gặp nhiều

khó khăn trong hoạt động sản xuất kinh doanh, cụ thể là: Thị trường tiêu thụ bị thu

hẹp, chi phí nguyên liệu đầu vào tăng đáng kể trong khi nguồn vốn đáp ứng nhu cầu

sản xuất lại hạn chế do chi phí lãi vay cao. Các ngân hàng thương mại cũng hạn chế

cho vay, điều này dẫn đến nhiều doanh nghiệp phải lâm vào tình cảnh khó khăn, sản

xuất bị thu hẹp chỉ mang tính cầm chừng và cuối cùng là phải phá sản do không đủ

sức chịu đựng. Đây cũng là nguyên nhân chính, khiến nợ xấu phát sinh tại chi

nhánh có xu hướng ngày càng tăng, cụ thể nợ xấu năm 2007 là 40.189 triệu đồng,

chiếm 1,33% tổng dư nợ tăng đến năm 2009 là 91.800 triệu đồng, chiếm 2,09%

tổng dư nợ, đến năm 2010 có giảm xuống 55.500 triệu đồng do chi nhánh xử lý một

phần nợ xấu bằng dự phòng rủi ro, chiếm 1,15% tổng dư nợ đến 30/09/2011 nợ xấu

lại tăng lên 77.500 triệu đồng, chiếm 1,54% tổng dư nợ.

2.2.1.1. Dư nợ cho vay theo thành phần kinh tế

Bảng 2.3: Dư nợ theo thành phần kinh tế

Đơn vị tính: triệu đồng

Chỉ tiêu

STT 1 2 3 4 5 6

Công ty CP, TNHH Doanh nghiệp FDI DNNN Doanh nghiệp tư nhân Dư nợ chiết khấu Thể nhân

2007 1.614.566 920.146 438.778 16.254 15.585 11.898

2008 2.132.860 790.828 766.442 19.805 10.363 79.197

2009 2.475.147 1.107.291 610.768 25.046 22.849 152.912

2010 2.922.529 1.076.544 552.690 28.355 14.418 211.464

30/09/2011 3.094.397 947.043 560.367 28.738 63.882 337.573

Cộng

3.017.227

3.799.495

4.394.012

4.806.000

5.032.000

(Nguồn: Ngân hàng TMCP Ngọai thương - Chi nhánh Bình Dương)

31

Bảng 2.4: Tỷ lệ dư nợ theo thành phần kinh tế

Chỉ tiêu

2010

STT 1 2 3 4 5 6

Công ty CP, TNHH Doanh nghiệp FDI DNNN Doanh nghiệp tư nhân Dư nợ chiết khấu Thể nhân Cộng

2007 53,51% 30,50% 14,54% 0,54% 0,52% 0,39% 100%

2008 56,14% 20,81% 20,17% 0,52% 0,27% 2,08% 100%

2009 56,33% 60,81% 25,20% 22,40% 13,9% 11,50% 0,59% 0,57% 0,30% 0,52% 4,40% 3,48% 100% 100%

30/09/2011 61,49% 18,82% 11,14% 0,57% 1,27% 6,71% 100%

(Nguồn: Ngân hàng TMCP Ngọai thương - Chi nhánh Bình Dương)

Để đảm bảo phân tán rủi ro và hiệu quả kinh doanh, chiến lược phát triển tín

dụng của VCB Bình Dương là không phân biệt và cho vay tất cả các thành phần

kinh tế căn cứ vào hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh, khả năng tài chính và uy

tín của khách hàng. Chính vì vậy, VCB Bình Dương có quan hệ tín dụng với hầu

hết các thành phần kinh tế như doanh nghiệp nhà nước, công ty TNHH, công ty cổ

phần, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp tư nhân và thể nhân hộ

gia đình. Trong đó, công ty cổ phần, công ty TNHH luôn có mức dư nợ lớn nhất,

từ năm 2007 đến 30/09/2011 luôn chiếm trên 53% tổng dư nợ.

Tuy nhiên cơ cấu dư nợ cho vay của VCB Bình Dương vẫn còn bị rủi ro khi

dư nợ tín dụng lại tập trung vào một số khách hàng lớn. Dư nợ cho vay DNNVV,

cho vay thể nhân còn hạn chế. Cụ thể, tính đến 30/09/2011 thì 11 khách hàng có dư

nợ lớn nhất của chi nhánh (trên 100 tỷ đồng) là các công ty như Công ty xuất nhập

khẩu Thanh Lễ, Công ty TNHH MTV May mặc Bình Dương (DNNN), Công ty CP

Thép Pomina, Công ty CP Xi măng Hà tiên I, Công ty CP Vinamit, Công ty CP

Tribeco Bình Dương, Công ty TNHH Minh Long I, Công ty CP tập đoàn kỹ nghệ

gỗ Trường Thành, Công ty CP Nhựa Bảo Vân, Công ty CP Hữu Toàn (CP, TNHH)

và Công ty TNHH Giấy Glatz Việt Nam (FDI) có tổng dư nợ là 3.019 tỷ đồng,

chiếm 60% tổng dư nợ.

2.2.1.2. Dư nợ cho vay theo ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh

32

Bảng 2.5: Dư nợ theo ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh

2010

STT 1

2007 612.799

2008 736.722

Đơn vị tính: triệu đồng 30/09/2011 1.129.684

2009 830.468 1.134.216

2

559.696

618.178

637.132

595.944

679.320

3 4 5

377.153 206.982 233.232

388.688 131.842 487.095

580.010 175.760 456.977

615.168 158.598 350.838

567.106 181.152 437.784

6

168.361

182.376

206.519

254.718

291.856

7 8 9

60.345 212.111 95.344

78.650 468.858 78.650

109.850 536.069 101.062

153.792 595.944 100.926

155.992 571.635 110.704

10

44.957

63.072

263.641

360.450

397.528

11

273.964

323.717

272.429

201.852

192.222

Lĩnh vực, ngành hàng Sắt thép, xi măng, vật liệu xây dựng Chế biến lương thực, nước giải khát, thực phẩm; nông sản Nhựa, bao bì, giấy Da giày Kinh doanh xăng dầu Gốm sứ, gạch ceramic, hàng thủ công mỹ nghệ Sản phẩm cơ khí, điện tử, xi mạ Chế biến gỗ Hóa chất, phân bón, dược phẩm Kinh doanh dịch vụ, thương mại du lịch, giáo dục đào tạo, giải trí, tiêu dùng , khác Xây dựng cơ sở hạ tầng KCN, kinh doanh bất động sản

12 Dệt nhuộm, may mặc

172.284

241.648

224.095

283.554

317.016

Cộng

5.032.000

3.017.227 3.799.495 4.394.012 4.806.000 (Nguồn: Ngân hàng TMCP Ngoại thương - Chi nhánh Bình Dương)

Bảng 2.6: Tỷ lệ dư nợ theo ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh

STT 1

2007 20,31%

2008 19,39%

2009 18,90%

2010 23,60%

30/09/2011 22,45%

2

18,55%

16,27%

14,50%

12,40%

13,50%

3 4 5

12,50% 6,86% 7,73%

10,23% 3,47% 12,82%

13,20% 4,00% 10,40%

12,80% 3,30% 7,30%

11,27% 3,60% 8,70%

6

5,58%

4,80%

4,70%

5,30%

5,80%

7 8 9

2,00% 7,03% 3,16%

2,07% 12,34% 2,07%

2,50% 12,20% 2,30%

3,20% 12,40% 2,10%

3,10% 11,36% 2,20%

10

1,49%

1,66%

6,00%

7,50%

7,90%

11

9,08%

8,52%

6,20%

4,20%

3,82%

Lĩnh vực, ngành hàng Sắt thép, xi măng, vật liệu xây dựng Chế biến lương thực, nước giải khát, thực phẩm; nông sản Nhựa, bao bì, giấy Da giày Kinh doanh xăng dầu Gốm sứ, gạch ceramic, hàng thủ công mỹ nghệ Sản phẩm cơ khí, điện tử, xi mạ Chế biến gỗ Hóa chất, phân bón, dược phẩm Kinh doanh dịch vụ, thương mại du lịch, giáo dục đào tạo, giải trí, tiêu dùng , khác Xây dựng cơ sở hạ tầng KCN, kinh doanh bất động sản

12 Dệt nhuộm, may mặc

Cộng

5,71% 1

6,36% 1

5,10% 1

5,90% 1

6,30% 1

(Nguồn: Ngân hàng TMCP Ngoại thương - Chi nhánh Bình Dương)

33

Nếu phân loại theo ngành kinh tế thì đối tượng kinh doanh mà VCB Bình

Dương tham gia tài trợ tín dụng là rất đa dạng với nhiều ngành nghề khác nhau như

sắt thép, xi măng, chế biến lương thực, thực phẩm, kinh doanh nông sản, nhựa, bao

bì, giấy, da giày, gốm sứ, xăng dầu, gỗ, … Dư nợ không có sự tập trung quá lớn vào

một ngành nghề hay lĩnh vực kinh doanh, mà được cấp tương đối đồng đều cho

nhiều ngành nghề khác nhau. Tỷ lệ dư nợ theo từng ngành nghề cũng được duy trì

khá ổn định trong thời gian qua, điều này cho thấy một phần cơ cấu tỷ trọng ngành

tại địa phương, một phần cho thấy sự chủ động của VCB Bình Dương trong việc

lựa chọn các khách hàng ở nhiều ngành nghề khác nhau để phân tán rủi ro và tăng

hiệu quả kinh doanh. Trong đó, dư nợ cho vay sắt thép, xi măng, lương thực, nước

giải khát, nhựa, bao bì và chế biến gỗ chiếm tỷ trọng cao nhất. Đến 30/09/2011 các

ngành nghề này chiếm khoảng 59% trên tổng dư nợ tại VCB Bình Dương.

2.2.1.3. Dư nợ cho vay theo loại tiền cho vay

Bảng 2.7: Dư nợ theo loại tiền cho vay Đơn vị tính: triệu đồng

2008

2007

2009

2010

STT 1 2 3 4

1.758.058 2.796.056 3.247.808 3.050.027 95.600 63,46% 36,54%

78.141 58,27% 41,73%

59.106 73,59% 26,41%

63.900 73,91% 26,09%

30/09/2011 2.962.178 99.496 58,87% 41,13%

Chỉ tiêu Dư nợ VND (triệu đồng) Dư nợ USD (ngàn USD) Tỷ trọng dư nợ VND Tỷ trọng dư nợ USD (Nguồn: Ngân hàng TMCP Ngoại thương - Chi nhánh Bình Dương)

Hiện nay VCB Bình Dương chỉ cho vay 02 đơn vị tiền tệ duy nhất đó là đồng

Việt Nam (VND) và đô la Mỹ (USD). Nếu như trong năm 2009 và năm 2010 dư nợ

vay VND chiếm tỷ trọng khá cao so với USD (đặc biệt là năm 2009) do chính sách

kích cầu của Chính phủ, NHNN xem xét hỗ trợ lãi suất 4% đối với các khoản vay

vốn lưu động và đầu tư tài sản cố định bằng VND trong năm 2009 và hỗ trợ 2% đối

với các trường hợp vay vốn trung dài hạn trong năm 2010. Tuy nhiên sang năm

2011 lãi suất VND và USD có sự chênh lệch đáng kể (lãi suất cho vay VND cao

gần gấp 3 lần so với lãi suất cho vay USD) nên các khách hàng đủ điều kiện vay

USD đã chuyển hướng sang vay USD do chi phí lãi vay rẻ hơn khá nhiều. Vì vậy,

34

đến 30/09/2011 thì tỷ lệ dư nợ giữa VNĐ (chiếm 58,87%) và USD (41,13%) khá

đồng đều nhau.

2.2.2. Phân tích tình hình dư nợ cho vay DNNVV

Bảng 2.8: Dư nợ DNNVV

Đvt: triệu đồng

Chỉ tiêu

2007

2008

2009

2010

STT 1

3.017.227 3.799.495 4.394.012 4.806.000

30/09/2011 5.032.000

2

611.589

766.862 1.087.000

883.000

803.348

3

43

60

65

71

78

nợ

4

20,27%

20,18%

24,74%

18,37%

15,96%

5

Tổng dư nợ (triệu đồng) Dư nợ DNVVN (triệu đồng) Số lượng DNVVN Tỷ dư trọng DNVVN/Tổng dư nợ Tăng trưởng tổng dư nợ

17,89%

25,93%

15,65%

9,38%

4,70%

tuyệt

114.768

155.273

320.138

(204.000)

(79.652)

6

Tăng trưởng dư nợ DNVVN

23,10%

25,39%

41,75%

-18,77%

-9,02%

Số đối Số tương đối

(Nguồn: Ngân hàng TMCP Ngoại thương - Chi nhánh Bình Dương)

Bảng 2.9: Số liệu dư nợ DNNVV

Đvt: triệu đồng

STT

Chỉ tiêu

2009

Dư nợ ngắn hạn Dư nợ chiết khấu Dư nợ trung, dài hạn

2007 611.589 410.201 26.381 175.007

2008 766.862 1.087.000 717.420 511.203 31.632 29.754 337.948 225.905

1 Dư nợ cho vay 2 Doanh số cho vay 3 Doanh số thu nợ 4 Nợ xấu 5

Tỷ lệ nợ xấu

2010 883.000 582.780 9.890 290.330 1.623.541 2.098.725 2.400.114 2.200.126 1.508.773 1.943.452 2.079.976 2.404.126 9.007 1,02%

11.503 1,50%

20.653 1,90%

5.504 0,90%

30/09/2011 803.348 516.238 14.300 272.810 2.154.700 2.234.352 10.765 1,34%

6

71

60

65

43

78

Số lượng khách hàng DNVVN quan hệ tín dụng (Nguồn: Ngân hàng TMCP Ngọai thương - Chi nhánh Bình Dương)

Dư nợ cho vay DNNVV đến 30/09/2011 đạt 803 tỷ đồng, chiếm 15,96%

tổng dư nợ, giảm 79,7 tỷ đồng (tương đương 9,02% so với năm 2010). Nếu như

trong năm 2009, Chi nhánh thực hiện các giải pháp kích cầu của Chính phủ thông

qua việc cho vay hỗ trợ lãi suất nên dư nợ cho vay DNNVV tăng trưởng khá cao,

khoảng 1.087 tỷ đồng, chiếm 24,74% tổng dư nợ, tăng 320 tỷ đồng (tương ứng với

35

41,75%) so với năm 2008. Nhưng đến năm 2010, dưới áp lực phải thực hiện các

chính sách tiền tệ thắt chặt của Ngân hàng Nhà nước, kiểm soát lạm phát và ổn định

kinh tế vĩ mô thì dư nợ cho vay các DNNVV lại dần giảm sút khá đáng kể. Nguyên

nhân một phần là do lãi suất tăng cao, tỷ suất lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh

doanh của các DNNVV không đủ bù đắp chi phí lãi vay. Mặt khác do VCB Bình

Dương chỉ được phép duy trì mức tổng dư nợ cho vay tối đa trong giới hạn Ngân

hàng Nhà nước và Vietcombank TW giao. Vì vậy, VCB Bình Dương đã hạn chế

cho vay và phát triển thêm khách mới là DNNVV, nguồn tín dụng này chủ yếu

được tập trung ưu tiên cho các khách hàng lớn và truyền thống của VCB Bình

Dương.

Điều này nói lên chính sách cho vay của VCB Bình Dương chủ yếu vẫn chỉ

tập trung và dựa vào các khách hàng lớn, có dư nợ và giao dịch nhiều mà chưa chú

trọng đến việc phát triển mở rộng các khách hàng là DNNVV, chưa cân đối đồng

đều được dư nợ giữa các loại hình và quy mô doanh nghiệp. Điều này dẫn đến

trường hợp chỉ cần tình hình tài chính và hoạt động sản xuất kinh doanh của một

hoặc một vài khách hàng lớn gặp khó khăn là đã gây ảnh hưởng nhiều cho Chi

nhánh.

2.2.2.1. Dư nợ cho vay DNNVV theo thành phần kinh tế

Bảng 2.10: Dư nợ DNNVV theo thành phần kinh tế

Đvt: triệu đồng

Chỉ tiêu

2010

59.242

STT 1 2 3 4 5

Công ty CP, TNHH Doanh nghiệp FDI DNNN Doanh nghiệp tư nhân Dư nợ chiết khấu

2007 300.963 186.513 37.552 60.180 26.381

2008 366.330 235.350 46.088 89.339 29.754

2009 535.130 443.089 339.253 283.266 46.534 121.744 100.221 9.890

31.632

30/09/2011 404.325 242.370 41.935 100.419 14.300

Cộng

611.589

766.862 1.087.000 883.000

803.348

(Nguồn: Ngân hàng TMCP Ngoại thương - Chi nhánh Bình Dương)

36

Bảng 2.11: Tỷ lệ dư nợ DNNVV theo thành phần kinh tế Chỉ tiêu

STT 1 2 3 4 5

Công ty CP, TNHH Doanh nghiệp FDI DNNN Doanh nghiệp tư nhân Dư nợ chiết khấu

Cộng

2007 49,21% 30,50% 6,14% 9,84% 4,31% 100%

2008 47,77% 30,69% 6,01% 11,65% 3,88% 100%

2009 49,23% 31,21% 5,45% 11,20% 2,91% 100%

2010 50,18% 32,08% 5,27% 11,35% 1,12% 100%

30/09/2011 50,33% 30,17% 5,22% 12,50% 1,78% 100%

(Nguồn: Ngân hàng TMCP Ngọai thương Việt Nam- Chi nhánh Bình Dương)

Công ty TNHH, công ty cổ phần vẫn là những đối tượng được VCB Bình

Dương quan tâm tài trợ nhiều nhất trong thời gian qua. Dư nợ hai loại hình doanh

nghiệp này luôn chiếm đa số trong tổng dư nợ DNNVV với tỷ lệ dư nợ bình quân từ

năm 2007 đến 30/09/2011 chiếm khoảng 59%. Kế đến, các doanh nghiệp có vốn

đầu tư nước ngoài (FDI) là những đối tượng chiếm mức dư nợ lớn thứ hai với tỷ lệ

dư nợ bình quân từ năm 2007 đến 30/09/2011 chiếm khoảng 37%.

2.2.2.2. Dư nợ cho vay DNNVV theo ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh

Bảng 2.12: Dư nợ DNNVV theo ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh

Đvt: triệu đồng

Lĩnh vực, ngành hàng

2007

2008

2009

2010

-

-

-

30/09/2011 -

-

STT 1

thực,

thực

2

70.088 106.517

130.657 110.905

100.017

Sắt thép, xi măng Chế biến lương phẩm; nông sản

76.449

86.634

3 Nhựa, bao bì, giấy 4 Da giày 5 Kinh doanh xăng dầu

73.542 107.884 130.980 98.312 106.111

72.936 183.594 161.324 207.508 159.735

65.232 142.996 148.619

6

118.404 207.129

297.295 233.554

215.137

Gốm sứ, gạch ceramic, hàng thủ công mỹ nghệ Sản phẩm cơ khí Chế biến gỗ

12.232 42.995 19.326

15.874 39.340 24.540

34.893 33.914 50.546

26.667 27.991 40.177

23.217 22.895 38.641

10

9.113

12.730

11.414

9.007

8.274

11

-

-

-

-

-

7 8 9 Hóa chất, phân bón, dược phẩm Kinh doanh dịch vụ, thương mại du lịch, giáo dục đào tạo, giải trí Xây dựng cơ sở hạ tầng KCN, kinh doanh bất động sản

12 Dệt may

48.988

57.898

50.546

Cộng

40.706 611.589 766.862 1.087.000 883.000

38.320 803.348

(Nguồn: Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam- Chi nhánh Bình Dương)

37

Bảng 2.13: Tỷ lệ dư nợ DNNVV theo ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh

Lĩnh vực, ngành hàng

2007 0,00%

2008 0,00%

2009 0,00%

2010 30/09/2011 0,00%

0,00%

STT 1

lương thực, thực

11,46%

13,89%

12,02%

12,56%

12,45%

2

12,50% 17,64% 17,35%

9,59% 17,08% 12,82%

7,97% 16,89% 19,09%

8,26% 18,27% 18,09%

8,12% 17,80% 18,50%

3 4 5

19,36%

27,01%

27,35%

26,45%

26,78%

6

2,00% 7,03%

2,07% 5,13%

3,21% 3,12%

3,02% 3,17%

2,89% 2,85%

7 8

3,16%

3,20%

4,65%

4,55%

4,81%

9

1,49%

1,66%

1,05%

1,02%

1,03%

10

0,00%

0,00%

0,00%

0,00%

0,00%

11

Sắt thép, xi măng Chế biến phẩm; nông sản Nhựa, bao bì, giấy Da giày Kinh doanh xăng dầu Gốm sứ, gạch ceramic, hàng thủ công mỹ nghệ Sản phẩm cơ khí Chế biến gỗ Hóa chất, phân bón, dược phẩm Kinh doanh dịch vụ, thương mại du lịch, giáo dục đào tạo, giải trí Xây dựng cơ sở hạ tầng KCN, kinh doanh bất động sản

Dệt may

8,01%

7,55%

4,65%

12

Cộng

4,61% 100,00% 100,00% 100,00% 100,00%

4,77% 100,00%

(Nguồn: Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam- Chi nhánh Bình Dương)

Về ngành hàng, VCB Bình Dương đã cho vay hầu hết các ngành nghề, đặc

biệt các ngành nghề là thế mạnh của tỉnh như gốm sứ, da giày, chế biến lương thực,

sản xuất bao bì,… Các ngành nghề này đối với các doanh nghiệp lớn cũng được

VCB Bình Dương tài trợ khá nhiều và chiếm tỷ trọng lớn trong tổng dư nợ. Trong

đó, dư nợ cho vay DNNVV lớn nhất thuộc về ngành gốm sứ, gạch ceramic, hàng

thủ công mỹ nghệ với mức dư nợ tuyệt đối thời điểm 30/09/2011 là 215 tỷ đồng,

chiếm 26,78% tổng dư nợ cho vay DNNVV. Riêng ngành sắt thép và xây dựng cơ

sở hạ tầng, dư nợ cho vay khá lớn và hầu hết là các doanh nghiệp lớn.

2.2.2.3. Dư nợ cho vay DNNVV theo loại tiền cho vay

38

Bảng 2.14: Dư nợ DNNVV theo loại tiền cho vay

Đvt: triệu đồng

STT

2007

Chỉ tiêu

2009

2008 430.008 578.597 847.425 12.950 11.962 11.537 70,31% 75,45% 77,96% 29,69% 24,55% 22,04%

9 tháng 2011 554.666 11.954 69,04% 30,96%

2010 673.641 10.736 76,29% 23,71%

1 Dư nợ VND (triệu đồng) 2 Dư nợ USD (ngàn USD) Tỷ trọng dư nợ VND 3 Tỷ trọng dư nợ USD 4 (Nguồn: Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam- Chi nhánh Bình Dương)

Dư nợ cho vay DNNVV bằng VND thời điểm 30/09/2011 là 555 tỷ đồng,

chiếm 69,04% tổng dư nợ; dư nợ bằng USD là 11,95 triệu USD, chiếm 30,96% tổng

dư nợ DNNVV. Tỷ trọng dư nợ USD có xu hướng tăng lên chủ yếu do lãi suất vay

bằng USD thấp hơn nhiều so với lãi suất vay VND nên các DNNVV có vốn đầu tư

nước ngoài có nguồn thu USD chuyển sang rút vốn vay bằng USD.

2.3. Đánh giá hoạt động tín dụng DNNVV tại Ngân hàng TMCP Ngoại thương-

Chi nhánh Bình Dương

2.3.1 Thực trạng DNNVV và hoạt động tín dụng DNNVV tại Bình Dương

2.3.1.1 Thực trạng DNNVV tại Bình Dương

DNNVV có vị trí quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội của Bình

Dương, tỷ trọng đóng góp của DNNVV trong GDP của tỉnh là 52,7%, giải quyết

việc làm và tăng thu nhập cho gần 300.000 người lao động. Sự phát triển tích cực

của khu vực DNNVV trong những năm qua đã huy động được các nguồn lực xã hội

cho đầu tư phát triển, góp phần ổn định tình hình kinh tế, chính trị và an sinh xã hội

của Bình Dương.

Về số lượng của DNNVV: Theo thống kê của Cục Thống kê Bình Dương,

trong giai đoạn 2006 - 2010, số lượng DNNVV trên địa bàn tỉnh tăng bình quân

18,8%/năm. Số lượng DNNVV hiện nay của Bình Dương là 12.808 doanh nghiệp,

chiếm khoảng 96,3% tổng số doanh nghiệp đăng ký thành lập trên địa bàn tỉnh.

Trong đó, DNNVV trong nước là 11.158 doanh nghiệp, chiếm 87,12% và DNNVV

có vốn đầu tư nước ngoài là 1.650 doanh nghiệp, chiếm 12,88% số lượng DNNVV

của tỉnh.

Về loại hình DNNVV tại Bình Dương:

39

Bảng 2.15: Số lượng DNNVV tại Bình Dương phân theo loại hình

STT Loại hình DNNVV Số lượng DNNVV Tỷ lệ (%)

1 Công ty TNHH 2 thành viên trở lên 2 Công ty TNHH một thành viên 3 Doanh nghiệp tư nhân 4 Doanh nghiệp cổ phần Loại hình khác 5 Tổng cộng 5.853 3.240 2.690 935 90 12.808 45,7 25,3 21 7,3 0,7 100

(Nguồn: Cục Thống kê Bình Dương)

Phần lớn các DNNVV thành lập theo loại hình công ty TNHH 2 thành viên

trở lên (45,7% tổng số DNNVV) và công ty TNHH một thành viên (25,3%), còn lại

là doanh nghiệp tư nhân (21%), doanh nghiệp cổ phần (7,3%) và loại hình khác

(0,7%).

Về phân bố DNNVV theo địa bàn:

Bảng 2.16: Số lượng DNNVV tại Bình Dương phân theo địa bàn

Tỷ lệ (%)

Địa bàn STT Thị xã Thủ Dầu Một 1 Thị xã Thuận An 2 3 Thị xã Dĩ An 4 Huyện Tân Uyên 5 Huyện Bến Cát 6 Huyện Dầu Tiếng và Phú Giáo Tổng cộng Số lượng DNNVV 3.228 3.458 3.176 1.383 1.140 423 12.808 25,2 27 24,8 10,8 8,9 3,3 100

(Nguồn: Cục Thống kê Bình Dương)

Các doanh nghiệp tập trung hầu hết ở khu vực phía Nam của tỉnh, như: Thị

xã Thủ Dầu Một (25,2%), thị xã Thuận An (27%), thị xã Dĩ An (24,8%); còn lại là

các huyện Tân Uyên (10,8%), huyện Bến Cát (8,9%), huyện Dầu Tiếng và huyện

Phú Giáo chiếm tỷ lệ không đáng kể (3,3%).

Về ngành nghề DNNVV:

40

Bảng 2.17: Số lượng DNNVV tại Bình Dương phân theo ngành nghề

STT Ngành nghề

1 Chế biến gỗ và các sản phẩm gỗ 2 May mặc 3 Chế tạo sản phẩm từ kim loại Số lượng DNNVV Tỷ lệ (%) 17 2.177 11,3 1.447 13,7 1.755

4 1.383 10,8

5 1.089 8,5

6 4.316 33,7

Chế tạo sản phẩm từ phi kim loại (gốm sứ, hóa chất, cao su) Thực phẩm và đồ uống Thương nghiệp, khách sạn, nhà hàng và các dịch vụ khác 7 Ngành nghề khác

Tổng cộng 641 12.808 5 100

(Nguồn: Cục Thống kê Bình Dương)

Các DNNVV trên địa bàn tỉnh thường đăng ký thành lập theo hướng đa

ngành nghề. Tuy nhiên, phần lớn tập trung vào các ngành công nghiệp mang tính

gia công, phụ trợ như: ngành công nghiệp chế biến gỗ và các sản phẩm, bán sản

phẩm từ gỗ (17%), may mặc (11,3%), chế biến sản phẩm từ kim loại (13,7%), phi

kim loại như gốm sứ, hóa chất và cao su (10,8%); chế biến thực phẩm và đồ uống

(8,5%) và các ngành thương nghiệp, khách sạn, nhà hàng và các dịch vụ khác

(33,7%)…

Về giải quyết lao động: các DNNVV trên địa bàn tỉnh đã giải quyết việc

làm mới cho 15.000 đến 20.000 lao động hàng năm.

Về doanh thu và đóng góp vào Ngân sách Nhà nước:

Bảng 2.18: Doanh thu và đóng góp NSNN của DNNVV tại Bình Dương

Đvt: tỷ đồng

STT DNNVV Doanh thu thuần Lợi nhuận trước thuế Thuế và các khoản nộp NSNN

1 Khu vực Nhà nước 14.617 502 941

2 Khu vực trong nước 116.144 1.549 2.757

3 Vốn đầu tư nước ngoài 81.180 1.287 2.380

Tổng số 211.941 3.338 6.078

(Nguồn: Cục Thống kê Bình Dương)

41

Với sự đa dạng về ngành nghề và loại hình, khu vực DNNVV đã đóng góp

khoảng 52,7% tổng sản phẩm (GDP) của tỉnh. Đến năm 2010, tổng doanh thu thuần

của các DNNVV là 211.941 tỷ đồng; tổng lợi nhuận trước thuế là 6.078 tỷ đồng;

nộp vào ngân sách nhà nước 3.338 tỷ đồng, chiếm 16,3% tổng thu ngân sách năm

2010 của tỉnh.

2.3.1.2 Thực trạng hoạt động tín dụng DNNVV tại Bình Dương

Trong những năm qua, do ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính và suy thoái

kinh tế toàn cầu từ cuối năm 2007 đến năm 2010 và tiếp tục kéo dài sang năm 2011,

đồng thời thực hiện các biện pháp góp phần kiềm chế lạm phát, tình trạng mặt bằng

lãi suất cao đã gây nhiều khó khăn cho cộng đồng doanh nghiệp của tỉnh nói chung,

đặc biệt đối với khu vực DNNVV với quy mô hạn chế.

Bảng 2.19: Dư nợ DNNVV của các TCTD tại Bình Dương

Tổng dư nợ trên địa bàn

Tổng dư nợ DNNVV

STT Ngân hàng thương mại

Tỷ lệ dư nợ DNNVV/ Tổng dư nợ

Dư nợ

Tỷ lệ (%)

Dư nợ DNNVV

Tỷ lệ (%)

1 VCB Bình Dương BIDV Bình Dương 2 3 Agribank Bình Dương 4 Vietinbank Bình Dương Các TCTD khác 5

5.032 5.500 12.200 4.700 19.797

10,65 11,65 25,83 9,95 41,92

803 950 2360 720 3.196

10,00 11,83 29,39 8,97 39,81

15,96 17,27 19,34 15,32 16,14

Tổng cộng

47.229

8.029

100

17,00

100 (Nguồn: Ngân hàng Nhà nước tỉnh Bình Dương)

Nếu so với tiềm năng, lực lượng cũng như sự đóng góp của các DNNVV thì

tình hình cho vay DNNVV của các TCTD trên địa bàn tỉnh Bình Dương thực sự

còn chưa tương xứng và chưa đáp ứng được nhu cầu về vốn sản xuất kinh doanh

của loại hình doanh nghiệp này. Tính đến 30/09/2011, tổng số dư nợ tín dụng của

DNNVV tại các chi nhánh TCTD trên địa bàn tỉnh là 8.029 tỷ đồng với 1.712

DNNVV, chỉ chiếm 17% tổng dư nợ tín dụng của các TCTD trên địa bàn. Số lượng

DNNVV tiếp cận được với vốn vay chỉ đạt 13,37% tổng số DNNVV. Tỷ lệ dư nợ

DNNVV/tổng dư nợ của các TCTD chỉ dao động từ 15,32% - 19,34%, là khá khiêm

42

tốn so với quy mô hoạt động của các TCTD trên địa bàn. Như vậy, không riêng gì

VCB Bình Dương, các TCTD khác trên địa bàn tỉnh Bình Dương cũng chưa chú

trọng đến công tác cho vay đối với loại hình doanh nghiệp này.

2.3.2. Thuận lợi và khó khăn, hạn chế trong hoạt động tín dụng DNNVV tại

Ngân hàng TMCP Ngoại thương – Chi nhánh Bình Dương

2.3.2.1. Thuận lợi

Thuận lợi từ vị trí, chính sách của tỉnh Bình Dương

Về vị trí địa lý: Tỉnh Bình Dương được thành lập và tách ra từ tỉnh Sông Bé

trước đây vào năm 1997 (bao gồm Bình Dương và Bình Phước), tuy thời gian được

thành lập đến nay mới chỉ khoảng 14 năm, là tương đối ngắn đối với quá trình hình

thành và phát triển của một tỉnh thành nhưng do có vị trí địa lý thuận lợi cùng với

những chính sách chủ trương “trải thảm đỏ” khuyến khích mời gọi đầu tư, đã tạo

nên những thành công ấn tượng trong quá trình phát triển của tỉnh nhà. Trong nhiều

năm liền, Bình Dương liên tục đứng ở vị trí số 1 về xếp hạng chỉ số năng lực cạnh

tranh cấp tỉnh. Hiện nay tỉnh có cơ sở hạ tầng khá hoàn chỉnh, giao thông thuận lợi,

là một trong những tỉnh thành có nhiều khu công nghiệp nhất trên cả nước (28 khu

công nghiêp).

Về chính sách hỗ trợ đối với DNNVV: Thực hiện Nghị định số

56/2009/NĐ-CP ngày 30/06/2009 của Chính phủ về trợ giúp phát triển DNNVV,

Nghị quyết số 22/NQ-CP ngày 5/5/2010 của Chính phủ về việc triển khai thực hiện

Nghị định 56/2009/NĐ-CP và Công văn số 4695/BKHĐT-PTDN ngày 18/07/2011

của Bộ Kế hoạch và Đầu tư về việc xây dựng Kế hoạch phát triển DNNVV giai

đoạn 2011-2015. Để hỗ trợ cho các DNNVV phát huy mọi khả năng và nguồn lực

đẩy mạnh hoạt động sản xuất kinh doanh, UBND tỉnh Bình Dương đã xây dựng Kế

hoạch số 3348/KH-UBND ngày 09/11/2011 về phát triển DNNVV tỉnh Bình Dương

giai đoạn 2011 – 2015. Kế hoạch này nhằm tạo môi trường thuận lợi cho các

DNNVV thuộc mọi thành phần kinh tế phát triển bình đẳng, bền vững, tăng cường

năng lực cạnh tranh nhằm huy động mọi nguồn lực cho đầu tư phát triển, nâng cao

vai trò của các DNNVV trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa của tỉnh.

43

Thông qua kế hoạch này, các chủ trương chính sách của Đảng, Nhà nước về

khuyến khích và trợ giúp phát triển DNNVV được cụ thể hóa, công khai, minh

bạch, giúp các DNNVV phát huy hiệu quả năng lực của mình trong hoạt động đầu

tư và phát triển kinh doanh. Các chỉ tiêu cụ thể như sau:

+ Số lượng DNNVV thành lập mới tăng từ 18 - 19%/năm giai đoạn 2011 –

2015;

+ Tỷ trọng đóng góp của DNNVV vào GDP của tỉnh chiếm 50 -55%;

+ Giải quyết việc làm cho 20.000 - 25.000 lao động/năm;

+ 80% DNNVV có khả năng tiếp cận được với các nguồn vốn vay từ các tổ

chức tín dụng trên địa bàn;

+ 90% DNNVV được trợ giúp pháp lý.

Với Kế hoạch trên, các DNNVV tỉnh Bình Dương sẽ có thêm nhiều cơ hội

để phát huy hết khả năng và vai trò của mình, góp phần vào sự phát triển kinh tế

ngày càng lớn hơn của tỉnh nhà. Đây cũng là cơ hội lớn để VCB Bình Dương có

thể tập trung khai thác và phát triển cho vay đối với loại hình doanh nghiệp này.

Thuận lợi từ phía Vietcombank

VCB Bình Dương là một trong những ngân hàng được thành lập sớm nhất tại

Bình Dương nên có nhiều cơ hội trong việc tiếp cận và phát triển thị trường khách

hàng tiềm năng ngay từ đầu. Hơn nữa thương hiệu Vietcombank vốn đã trở nên

quen thuộc và đã tạo được nhiều sự tín nhiệm từ phía các khách hàng cả trong và

ngoài nước.

Vietcombank có thế mạnh về nguồn vốn, mạng lưới rộng khắp, công nghệ,

tài trợ thương mại (tài trợ xuất nhập khẩu), thanh toán quốc tế, ngoại hối… và đặc

biệt là có truyền thống môi trường làm việc văn minh. Điều này đã giúp VCB Bình

Dương luôn là một trong những sự lựa chọn hàng đầu của các doanh nghiệp trên địa

bàn tỉnh có nhu cầu về quan hệ giao dịch và vay vốn. Đa số các khách hàng là

DNNVV hiện nay của VCB Bình Dương đều tự tìm đến với ngân hàng và có đề

nghị vay vốn.

44

Với thẩm quyền cho vay được Vietcombank TW cho phép là 100 tỷ đồng đối

với cho vay ngắn hạn và 40 tỷ đồng đối với cho vay trung dài hạn, thì VCB Bình

Dương có thể chủ động tiếp cận và thẩm định xét duyệt cho vay các nhu cầu về vốn

của khách hàng là DNNVV. Ngoài ra, các chính sách khuyến khích phát triển khách

hàng DNNVV của Vietcombank TW, đặc biệt là các khách hàng sản xuất xuất khẩu

thông qua việc hỗ trợ nguồn vốn, phí và lãi suất cũng tạo nhiều điều kiện thuận lợi

cho VCB Bình Dương.

Thuận lợi từ phía các khách hàng DNNVV

Số lượng DNNVV đông đảo với 12.808 doanh nghiệp, chiếm 96,3% tổng dố

doanh nghiệp đăng ký thành lập trên địa bàn tỉnh. Các DNNVV đa số hoạt động

trong các lĩnh vực ngành nghề truyền thống của tỉnh như sơn mài, gốm sứ, sản xuất

thu mua và chế biến nông sản, sản xuất vật liệu xây dựng, đồ gỗ, trang trí nội thất,

may mặc, … Là những ngành nghề mà giá trị thặng dư được tạo ra thông qua quá

trình sản xuất, vì vậy VCB Bình Dương có thể theo dõi giám sát nguồn tiền từ lúc

giải ngân đến khi thu nợ, do đó rủi ro được hạn chế và trong tầm kiểm soát.

Các DNNVV thường có mô hình hoạt động khá gọn nhẹ, nhu cầu vốn vay

thấp (dưới 10 tỷ đồng), chỉ hoạt động sản xuất trong một ngành nghề duy nhất và

các yêu cầu của doanh nghiệp cũng khá đơn giản nên ngân hàng không phải tốn

nhiều thời gian trong công tác thẩm định và phục vụ khách hàng, do vậy có thể phát

triển mở rộng cho vay đối tượng khách hàng này.

2.3.2.2. Khó khăn, tồn tại và hạn chế

Về phía doanh nghiệp

+ Rủi ro trong sản xuất kinh doanh:

Các DNNVV là những doanh nghiệp có quy mô vừa phải, vốn ít, phần lớn có

công nghệ sản xuất lạc hậu, sức cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế

còn yếu. Chất lượng sản phẩm không cao, khả năng đa dạng hóa sản phẩm kém,

năng lực khó có thể đáp ứng được các đơn hàng lớn, thị trường tiêu thụ ít và không

ổn định. Khi có dự án sản xuất mới, cần thay đổi máy móc thiết bị, hiện đại hóa dây

chuyền sản xuất, chuyển giao công nghệ… thì doanh nghiệp khó đáp ứng được vì

45

không có vốn. Một mặt, do sản xuất kinh doanh kém hiệu quả, mặt khác do lợi

nhuận để lại để tái đầu tư quá ít, tình trạng “bóc ngắn cắn dài” hay tình trạng khấu

hao nhanh (trong điều kiện kỹ thuật công nghệ biến đổi nhanh chóng)… còn phổ

biến, nên doanh nghiệp dễ bị phá sản trước những sự cố bất thường. Nhất là trong

điều kiện nền kinh tế thế giới nói chung, kinh tế Việt Nam nói riêng vẫn đang chịu

tác động nặng nề của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu năm 2008, thị trường tiêu

thụ bị thu hẹp, khả năng bán sản phẩm hết sức khó khăn,…, thì những rủi ro trong

sản xuất kinh doanh của các DNNVV lại càng bộc lộ rõ hơn bao giờ hết. Và đây

cũng chính là sự lo lắng lớn nhất của ngân hàng khi đầu tư vào DNNVV.

+ Hạn chế trong việc cung cấp thông tin và báo cáo tài chính:

Một trong những khó khăn mà các ngân hàng thường xuyên gặp phải khi thẩm

định cho vay các DNNVV là các doanh nghiệp báo cáo không đúng chế độ kế toán;

số liệu phản ánh không chính xác tình hình sản xuất kinh doanh và tình hình tài

chính của đơn vị mình. Báo cáo cân đối kế toán không được kiểm toán nên không

có độ tin cậy. Bên cạnh đó, hệ thống báo cáo ghi chép và theo dõi hoạt động sản

xuất kinh doanh của doanh nghiệp không có hoặc thiếu. Họ thường lợi dụng các khe

hở của pháp luật để lách thuế, trốn thuế; xây dựng các báo cáo tài chính mang tính

chất đối phó với cơ quan thuế. Vì vậy, không đảm bảo đủ điều kiện vay vốn ngân

hàng do ngân hàng rất khó kiểm soát nguồn chi tiêu và thu nhập của doanh nghiệp.

Báo cáo kế toán của doanh nghiệp còn chưa phản ánh đúng bản chất hoạt động

của doanh nghiệp và không đủ tin cậy. Theo ý kiến của cơ quan thuế và đúc kết từ

công tác thực tế của tác giả, thì phần lớn loại hình DNNVV trên địa bàn tỉnh không

có bộ phận kế toán riêng biệt để ghi chép theo dõi sổ sách hàng ngày, mà các doanh

nghiệp này thường thuê một cán bộ làm công tác hạch toán kế toán, lập các báo cáo

cho cơ quan thuế hàng tháng, quý, năm theo hình thức khoán bán thời gian hoặc

theo mùa vụ cho doanh nghiệp. Cán bộ kế toán này không phải đến doanh nghiệp làm

việc hàng ngày mà chỉ cần một vài giờ trong một tuần hoặc một vài ngày vào cuối

tháng, tùy theo số lượng nghiệp vụ phát sinh của doanh nghiệp nhiều hay ít để tổng

hợp số liệu làm báo cáo nộp cơ quan thuế. Điều này cho thấy báo cáo tài chính của

46

các doanh nghiệp không đủ độ tin cậy nên rất khó cho ngân hàng phân tích các chỉ tiêu

hoạt động kinh doanh phục vụ cho việc cấp tín dụng của ngân hàng đối với doanh

nghiệp.

Việc xuất hiện những hành vi tiêu cực, không minh bạch, vi phạm pháp luật;

đã không ít doanh nghiệp “mất tích” khỏi trụ sở đăng ký thành lập; hầu như không

ai biết doanh nghiệp hoạt động ra sao sau khi được cấp giấy phép. Một số doanh

nghiệp làm trái chức năng được phép, cố ý làm trái pháp luật, buôn lậu, trốn thuế,

sử dụng giấy tờ giả mạo, lừa đảo cơ qua chức năng để thành lập doanh nghiệp, để

xin hoàn thuế giá trị gia tăng (VAT), để góp vốn liên doanh, liên kết, lừa đảo vay

vốn ngân hàng, … cũng tương đối phổ biến đối với các DNNVV.

+ Doanh nghiệp không có đủ tài sản đảm bảo:

Bản thân DNNVV có mức vốn chủ sở hữu rất thấp, giá trị tài sản của doanh

nghiệp nhỏ nên không đủ để đảm bảo cho nhu cầu vay vốn. Trong nhiều trường hợp

tài sản đảm bảo nợ vay không đủ giấy tờ pháp lý về quyền sở hữu, quyền sử dụng

nên rất khó cho ngân hàng trong việc làm thủ tục nhận thế chấp, xét duyệt cho vay.

Các tài sản đảm bảo thông dụng mà DNNVV có thể có là động sản (máy móc

thiết bị, phương tiện vận tải…), bất động sản (quyền sử dụng đất, văn phòng, nhà

xưởng,…). Do có nguồn vốn hạn chế nên máy móc thiết bị hay phương tiện vận tải

của doanh nghiệp thường cũ kỹ, đã hết khấu hao, thiết bị công nghệ lạc hậu, khả

năng thanh khoản rất thấp nên các ngân hàng thường rất e ngại nhận làm tài sản

đảm bảo. Đối với các tài sản thế chấp là bất động sản, giá trị thị trường của quyền

sử dụng đất có thể là rất lớn, các DNNVV phải tốn kém nhiều chi phí để nhận

chuyển nhượng hoặc giải tỏa đền bù để có được mặt bằng sản xuất kinh doanh. Tuy

nhiên, do quy định của pháp luật về đất đai, về cách định giá tài sản đảm bảo tiền

vay của Vietcombank mà giá trị quyền sử dụng đất, bất động sản khác của doanh

nghiệp được định giá khá thấp so với giá trị thực tế, gây nhiều khó khăn cho doanh

nghiệp trong việc tiếp cận nguồn vốn vay ngân hàng do tài sản bảo đảm không đủ.

Các quy định này sẽ được phân tích tại phần định giá tài sản đảm bảo ở phần sau.

47

+ Trình độ quản lý doanh nghiệp còn thấp, nguồn nhân lực còn nhiều

hạn chế:

Yếu kém về nguồn nhân lực đến nay vẫn là khó khăn của DNNVV, nhất là

trong bối cảnh cạnh tranh thu hút nhân tài hiện nay. Các chủ doanh nghiệp, giám

đốc và cán bộ quản lý DNNVV còn kém về kiến thức và kỹ năng quản lý điều hành.

Một bộ phận lớn chủ doanh nghiệp và giám đốc doanh nghiệp tư nhân chưa được

đào tạo bài bản về kinh doanh và quản lý, còn hạn chế về kiến thức kinh tế - xã hội

và kỹ năng quản trị kinh doanh. Từ đó, có khuynh hướng phổ biến là các doanh

nghiệp hoạt động quản lý mang tính cách giả định, thiếu tầm nhìn chiến lược, hạn

chế kiến thức trên nhiều phương diện: quản lý tổ chức, chiến lược cạnh tranh, phát

triển thương hiệu, công nghệ thông tin và truyền thông. Một số chủ doanh nghiệp

mở công ty chỉ vì có sẵn tiền vốn và thích mạo hiểm, nhưng lại thiếu kiến thức cũng

như kỹ năng về kinh doanh nên đã dẫn đến rủi ro và thất bại. Bên cạnh đó, các yếu

tố về quản lý, thực thi pháp luật còn hạn chế dẫn đến tình trạng không định lượng

được rủi ro trong kinh doanh, môi trường lao động trong các DNNVV cũng không

được quan tâm đúng mức nên không thu hút được lao động có tay nghề giỏi, gắn bó

làm việc lâu dài với doanh nghiệp; việc đào tạo nguồn nhân lực cũng chưa được

quan tâm phát triển.

Hầu hết các cơ sở sản xuất kinh doanh manh mún, phân tán, trình độ công

nghệ, thiết bị lạc hậu, lao động thủ công, nên năng suất thấp và sản phẩm không đủ

sức cạnh tranh với các doanh nghiệp lớn, các tập đoàn hùng mạnh. Hoạt động sản

xuất kinh doanh chủ yếu theo thương vụ, chạy theo phong trào mà ít có chiến lược

phát triển lâu dài, bền vững nên dễ đổ bể. Các doanh nghiệp thường bán hàng không

có hợp đồng kinh tế, không tuân thủ chế độ phát hành hóa đơn giá trị gia tăng. Do

đó, ngân hàng không có cơ sở định giá và quyết định việc cho vay, nhiều doanh

nghiệp còn ngần ngại minh bạch tình hình kinh doanh của mình cho các cơ quan có

quan hệ kinh tế.

+ Doanh nghiệp chưa coi trọng việc thu thập thông tin:

48

Đa số các DNNVV không coi trọng việc thu thập thông tin, không đủ nguồn

lực và kỹ năng để nghiên cứu thị trường một cách hiệu quả, thậm chí không dành ra

nhân lực cần thiết tối thiểu để tìm hiểu nhu cầu khách hàng hoặc theo dõi đối thủ

cạnh tranh.

Trong khi các công ty nước ngoài dành rất nhiều thời gian và công sức để phát

triển kế hoạch chiến lược, nhằm xác định các bước cần thực hiện để đạt mục tiêu

trong ngắn hạn và dài hạn thì các công ty trong nước thường không chú ý hoặc thiếu

các kỹ năng cần thiết để phát triển các kế hoạch chiến lược kinh doanh. Từ đó dẫn

tới việc chủ quan hay quá lạc quan về kế hoạch phát triển kinh doanh hoặc đánh giá

thấp những rủi ro, trở ngại liên quan có thể xảy ra, vì thế không gây được niềm tin

đối với ngân hàng trong quá trình xem xét cho vay.

+ Doanh nghiệp chưa coi trọng các dịch vụ tư vấn:

Do bộ máy hoạt động của các DNNVV thường khá đơn giản, không có đầy đủ

các bộ phận chức năng như kế toán, tài chính, kinh doanh, tiếp thị,… nên việc lập

các kế hoạch kinh doanh, tài chính, vay vốn còn nhiều hạn chế, không được cụ thể,

chi tiết và nhiều khi không có tính khả thi so với tình hình thực tế. Trong khi đó các

DNNVV lại ít chú trọng đến các dịch vụ tư vấn như tư vấn thuế, tư vấn tuyển dụng

nhân sự, xây dựng kế hoạch kinh doanh và tài chính, quản lý chiến lược và tiếp thị

kinh doanh,…kết quả dẫn tới các báo cáo kế toán, báo cáo thuế, các kế hoạch tài

chính, phương án kinh doanh,… gửi ngân hàng và các cơ quan hữu quan không

được rõ ràng, minh bạch và thiếu tính chuyên nghiệp,… gây khó khăn, mất nhiều

thời gian cho ngân hàng trong việc kiểm tra và xem xét cho vay, từ đó ảnh hưởng

đến quyết định cho vay của ngân hàng.

Nguyên nhân là do các chủ DNNVV chưa nhận thấy được lợi ích từ các dịch

vụ tư vấn này, mặc dù tốn một khoản chi phí ban đầu nhưng lại mang lại lợi ích lớn

hơn. Hơn nữa, doanh nghiệp có thể nắm bắt được nhiều cơ hội kinh doanh và kinh

nghiệm khi tiếp cận các dịch vụ tư vấn này, về lâu dài có thể chủ động triển khai

các kế hoạch tài chính và kinh doanh của mình mà không cần sự hỗ trợ tư vấn. Một

lý do khác là do giá cả các loại dịch vụ tư vấn, đặc biệt là tư vấn quản lý thường lại

49

quá cao so với khả năng của doanh nghiệp. Ngoài ra, đối với các trường hợp vay

vốn ngân hàng, thì nhiều DNNVV quá chủ quan vào tình hình hoạt động kinh

doanh của mình hoặc dựa vào tài sản bảo đảm có giá trị cao trong khi hồ sơ đề nghị

vay vốn thì không rõ ràng, chi tiết, phương án kinh doanh quá sơ sài, hồ sơ pháp lý

chưa đầy đủ, nhiều trường hợp còn thông qua môi giới tín dụng (hay còn gọi là cò

tín dụng) để tiếp cận ngân hàng. Do đó, gây nhiều trở ngại cho ngân hàng trong việc

tiếp xúc trực tiếp với chủ doanh nghiệp, tìm hiểu tình hình hoạt động của doanh

nghiệp để từ đó có những tư vấn hỗ trợ, giúp doanh nghiệp hoàn chỉnh một bộ hồ sơ

vay vốn và xem xét quyết định cho vay.

Về phía ngân hàng

+ Về việc định giá và nhận thế chấp tài sản bảo đảm:

Hiện nay toàn hệ thống Vietcombank đang áp dụng chính sách bảo đảm tín

dụng được ban hành theo Quyết định số 30/QĐ-VCB.CSTD ngày 20/01/2011 và có

hiệu lực áp dụng từ ngày 01/04/2011. Tuy nhiên, việc áp dụng và triển khai chính

sách này đang còn nhiều bất cập, gây khó khăn cho các chi nhánh trong việc định

giá và nhận thế chấp tài sản bảo đảm, từ đó ảnh hưởng đến khả năng quyết định cho

vay.

Nhìn chung, qua nghiên cứu tổng thể chính sách bảo đảm tín dụng của

Vietcombank Bình Dương, tác giả nhận thấy cách đánh giá tài sản bảo đảm của

Vietcombank là khá khắt khe và thận trọng, có tính phòng ngừa rủi ro cao, bảo đảm

khả năng thu hồi nợ trong trường hợp xử lý tài sản thế chấp.

Riêng đối với các DNNVV, năng lực tài chính có hạn và tài sản bảo đảm cũng

hạn chế, chủ yếu là máy móc thiết bị và tài sản bảo lãnh là đất đai, nhà cửa của các

cá nhân trong công ty. Trong khi công tác xây dựng uy tín, thương hiệu và thị

trường của doanh nghiệp chưa được thiết lập và quan tâm một cách đúng mức nên

khả năng xem xét cho vay trong trường hợp tài sản bảo đảm không đủ giá trị theo

định giá của ngân hàng cũng khó được thông qua. Đây chính là một trong những

khó khăn lớn nhất đối với các DNNVV trong việc tiếp cận nguồn vốn vay ngân

hàng mặc dù phương án, kế hoạch sản xuất kinh doanh là khả thi.

50

Cụ thể xin nêu một số bất cập trong chính sách bảo đảm tín dụng hiện nay mà

có liên quan phổ biến nhất đến các khách hàng là DNNVV của Vietcombank như

sau:

- Quy định tại Khoản 1.1 Mục IV Phụ lục 02 của Category X _ Real

Estate (Bất động sản): trường hợp thế chấp quyền sử dụng đất nông nghiệp của hộ

gia đình, cá nhân được Nhà nước giao đất không thu tiền sử dụng đất thì giá trị định

giá được xác định theo giá đất do Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung

ương quy định mà không khấu trừ giá trị quyền sử dụng đất đối với thời gian đã sử

dụng.

Theo Quyết định số 57/2010/QĐ-UBND ngày 22/12/2010 của UBND Tỉnh

Bình Dương V/v Ban hành quy định bảng giá các loại đất năm 2011 trên địa bàn

tỉnh Bình Dương đối với khu vực thị xã Thủ Dầu Một (là khu vực có giá đất cao

nhất tỉnh Bình Dương hiện nay) thì đất trồng cây lâu năm và đất nông nghiệp khác

tại vị trí 1 (tiếp giáp và cách hàng lang bảo vệ đường bộ trong phạm vi 100 mét) và

khu vực 1 (đất trên địa bàn các xã nằm ven trục đường giao thông do Trung ương và

tỉnh quản lý; các trục đường giao thông trên địa bàn các phường, thị trấn, đầu mối

giao thông, khu thương mại, khu công nghiệp, cụm công nghiệp, khu sản xuất, khu

du lịch, khu dân cư mới) có mức giá cao nhất hiện nay là 190.000 đồng/m2. Riêng

đối với vị trí khác nằm ở các khu vực thị xã, huyện khác thì giá còn thấp hơn.

Với cách định giá như trên thì quá thấp và chưa hợp lý, thực tế giá đền bù

giải phóng mặt bằng của các chủ đầu tư và giá thị trường chuyển nhượng hiện nay

cao hơn rất nhiều (gấp 40 – 50 lần giá theo khung giá UBND tỉnh) và tùy theo các

tuyến đường có vị trí lợi thế khác nhau mà giá đất còn có nhiều mức khác nhau.

- Quy định tại Khoản 1.2 Mục IV Phụ lục 02 Category X _ Real Estate

(Bất động sản): trường hợp tổ chức kinh tế được Nhà nước cho thuê đất trước ngày

01/07/2004 mà đã trả tiền cho thuê đất cho cả thời gian thuê hoặc đã trả trước tiền

thuê đất cho nhiều năm mà thời hạn thuê đất đã trả trước tiền còn lại ít nhất là 05

năm thì được thế chấp quyền sử dụng đất và được định giá trên 2 cơ sở:

51

 Giá trị định giá được xác định theo tích số giá thuê đất hiện hành (nếu có)

nhân (x) trong thời gian thuê còn lại;

 Trường hợp không có giá thuê hiện hành thì xác định theo số tiền thuê đất

còn lại đã thanh toán/trả trước.

Nhưng thực tế phát sinh nhiều trường hợp tổ chức kinh tế thuê đất chính là

những nhà đầu tư tạo lập nên quyền sử dụng đất đó, từ lúc bồi thường, giải phóng

mặt bằng và hỗ trợ tái định cư cho đến khi được cấp Giấy chứng nhận quyền sử

dụng đất thuê, tổng hợp các chi phí doanh nghiệp bỏ ra hình thành nên tài sản là rất

lớn, mặc dù theo quy định tại khoản 5 Điều 2 của Nghị định số 121/2010/NĐ-CP

ngày 30/12/2005 v/v bổ sung khoản 3 Điều 7 Nghị định số 142/2005/NĐ-CP ngày

14/11/2005 thì: “Trường hợp người được Nhà nước cho thuê đất thực hiện ứng

trước tiền bồi thường, hỗ trợ, tái định cư và kinh phí tổ chức thực hiện bồi thường,

giải phóng mặt bằng theo phương án được cấp có thẩm quyền phê duyệt thì được

trừ số tiền đã ứng trước vào tiền thuê đất phải nộp theo phương án được duyệt;

Mức được trừ không được vượt quá số tiền thuê đất phải nộp.

Số tiền bồi thường, hỗ trợ, tái định cư và kinh phí tổ chức thực hiện bồi

thường, giải phóng mặt bằng còn lại chưa được trừ vào tiền thuê đất phải nộp (nếu

có) được tính vào vốn đầu tư của dự án”.

Hiện nay mặc dù đơn giá cho thuê đất một năm của Nhà nước đã được điều

chỉnh tăng lên gấp 3 lần so với quy định trước đây, cụ thể tại địa bàn tỉnh Bình

Dương quy định tối đa bằng 1,5% giá đất theo mục đích sử dụng đất thuê do UBND

tỉnh ban hành (áp dụng kể từ ngày 01/03/2011) nhưng nhìn chung vẫn còn thấp và

lại được điều chỉnh khá chậm (05 năm/lần).

Như vậy, nếu định giá quyền sử dụng đất thuê trong các trường hợp trên và

chỉ căn cứ vào đơn giá thuê đất còn lại đã thanh toán/đã trả trước, thậm chí theo đơn

giá thuê hiện hành thì vẫn thiệt thòi cho các doanh nghiệp thuê đất vì giá trị quyền

sử dụng đất do chính doanh nghiệp tạo lập nên rất cao. Thực tế nếu doanh nghiệp

muốn chuyển nhượng các quyền sử dụng đất thuê Nhà nước cho người sử dụng

52

khác hoặc khi phát mãi tài sản thì giá trị chuyển nhượng chính là giá thị trường giao

dịch bất động sản tại thời điểm chuyển nhượng.

- Quy định tại Khoản 2.1 Mục IV Phụ lục 02 Category X _ Real Estate

(Bất động sản) về định giá tài sản gắn liền với đất không phải là nhà ở: theo

quy định hiện tại, chỉ cho phép định giá tài sản gắn liền với đất không phải là nhà ở

(đủ điều kiện thế chấp chính thức) căn cứ vào một điều kiện duy nhất: không vượt

quá chi phí thực tế và hợp lý để hình thành tài sản, được xác định dựa vào hồ sơ,

chứng từ đầu tư và/hoặc xây dựng và/hoặc quyết toán của chủ đầu tư sau khi khấu

trừ phần giá trị khấu hao tài sản theo thời gian thực tế sử dụng tài sản.

Nhưng thực tế có một số trường hợp khách hàng than phiền khó khăn và

không thể tìm kiếm hoặc thu thập đầy đủ các hồ sơ, chứng từ, hóa đơn,… hình

thành nên tài sản, nguyên nhân do một số công trình xây dựng (nhà xưởng, văn

phòng, công trình phụ…) được thi công từ rất lâu, các tài liệu hạch toán có liên

quan đã lưu giữ qua nhiều thế hệ nhân viên trong doanh nghiệp và bị thất lạc ít

nhiều. Ngoài ra, phát sinh các trường hợp công trình xây dựng đã lâu, trích hết khấu

hao nhưng vẫn giữ nguyên hiện trạng và còn giá trị sử dụng tốt. Vì vậy, nếu chỉ căn

cứ vào điều kiện đã nêu để định giá tài sản gắn liền với đất không phải nhà ở thì

chưa hợp lý, thậm chí là khó thực hiện được trong thực tế.

- Quy định tại Mục III Phụ lục 02 Category VII _Vehicle (Phương tiện

giao thông đường bộ) về mức độ ưu tiên nhận bảo đảm và tỷ lệ cấp tín dụng tối

đa theo giá trị định giá: Đối với tài sản là xe máy chuyên dùng đã qua sử dụng (mã

số VH4): hạn chế nhận thế chấp, theo tác giả là chưa phù hợp. Hiện nay loại

phương tiện vận tải chuyên dùng này vốn được Sở Giao thông Vận tải cấp Giấy

chứng nhận đăng ký như đối với các loại phương tiện vận tải thông thường khác.

Nhiều trường hợp các loại phương tiện vận tải chuyên dùng chỉ mới sử dụng thời

gian ngắn (còn khấu hao) trong ngành xây dựng do các cá nhân/tổ chức kinh tế

nhập/mua về như: xe trộn bê tông, xe ủi, xe lu,… có giá trị khá lớn nhưng không

được áp dụng một tỷ lệ cấp tín dụng là chưa hợp lý.

53

- Quy định tại Khoản 2 Mục IV Phụ lục 02 của Category VII _Vehicle

(Phương tiện giao thông đường bộ) & Category VIII _Vessel (Phương tiện giao

thông đường thủy) về hướng dẫn định giá tài sản bảo đảm: Trường hợp chi

nhánh tự định giá tài sản bảo đảm, thì giá trị tài sản khi định giá (mới 100% hoặc đã

qua sử dụng) phải khấu trừ thuế (nếu có). Theo quy định này thì việc định giá tài

sản đảm bảo thuộc sở hữu cá nhân sẽ khấu trừ phần thuế VAT vào giá trị tài sản là

chưa hợp lý vì khách hàng cá nhân chính là người tiêu dùng cuối cùng bị đánh thuế,

hoặc đối với doanh nghiệp thì thuế nhập khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt và lệ phí trước

bạ đều được tính vào giá trị tài sản và cho phép trích khấu hao.

Như vậy, với chính sách bảo đảm tín dụng như hiện nay của Vietcombank đã

gây nhiều khó khăn và hạn chế cho các chi nhánh, cụ thể là VCB Bình Dương gặp

trở ngại trong việc định giá và nhận thế chấp tài sản bảo đảm, kết quả là định giá

thấp hơn nhiều so với giá thị trường thực tế. Từ đó ảnh hưởng đến các quyết định

cho vay, làm giảm sức cạnh tranh của các chi nhánh và đánh mất nhiều cơ hội tiếp

cận với các khách hàng tiềm năng, cho vay đối với các phương án, dự án khả thi và

hiệu quả.

Những kiến nghị chỉnh sửa những bất cập trong chính sách bảo đảm tín dụng

của Vietcombank nêu trên sẽ được trình bày trong Phần 3.2.8 thuộc Chương 3.

+ Quy trình cho vay còn rườm rà, phức tạp:

Quy trình cho vay của Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam được đánh

giá là một trong những quy trình tín dụng chặt chẽ nhất, nhưng chính sự chặt chẽ

này lại tạo ra một loạt các bước công việc rườm rà, phức tạp, gây tốn kém thời gian

thẩm định cho ngân hàng và khách hàng. Mặc dù hiện nay Vietcombank cũng đã có

một quy trình tín dụng riêng biệt áp dụng cho các DNNVV nhằm chuẩn hoá cũng

như đơn giản hoá thủ tục so với quy trình cho vay các doanh nghiệp lớn, nhưng khi

áp dụng vào thực tế cũng còn khá phức tạp. Việc quy định nhiều phòng ban cùng

tham gia vào quá trình cấp tín dụng với mỗi phòng ban một chức năng khác nhau,

dù đảm bảo tính khách quan trong việc cấp tín dụng, hạn chế rủi ro, nhưng lại tạo ra

khá nhiều công đoạn, nhiều thủ tục giấy tờ không thực sự cần thiết gây mất thời

54

gian, đặc biệt là trong trường hợp sự phối hợp giữa các phòng ban không nhịp

nhàng. Điều này gây hiệu ứng ngược lại với cách làm “một cửa” hiện nay tại các

ngân hàng thương mại cổ phần khác.

+ Ngân hàng chưa đẩy mạnh công tác tiếp thị, mạng lưới chi nhánh còn

thưa thớt:

Vietcombank là một ngân hàng có thương hiệu, được rất nhiều người biết đến,

nhưng họ chỉ biết đây là một ngân hàng với hoạt động cho vay chủ yếu là cho vay

xuất nhập khẩu, cho vay các doanh nghiệp lớn hoặc cho vay theo chỉ định của

Chính phủ chứ chưa biết đến như một ngân hàng cũng cho vay đa dạng các đối

tượng khác như các DNNVV, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI), cá

nhân và hộ gia đình,… Riêng đối với chi nhánh VCB Bình Dương, do lực lượng

cán bộ nhân viên còn thiếu, nên trong thời gian qua chủ yếu tập trung vào các doanh

nghiệp lớn, mà ít quan tâm đến mảng cho vay DNNVV, cho vay cá nhân và hộ gia

đình. Mặc dù hiện nay, với sự chỉ đạo của Vietcombank Trung ương, Chi nhánh

cũng đã bắt đầu đẩy mạnh hoạt động cho vay DNNVV, nhưng chưa thu hút được

một số lượng lớn các khách hàng là DNNVV. Nguyên nhân do công tác phát triển

và tiếp thị chưa được đẩy mạnh và quan tâm đúng mức, chỉ mang tính bộc phát chủ

yếu bằng hình thức phát tờ rơi nên chưa phát huy được hiệu quả cao. Các hình thức

quảng cáo, tiếp thị khác thông qua các phương tiện truyền thông đại chúng như báo

đài, nhà tài trợ, thông qua tiếp thị, tiếp xúc trực tiếp, … còn rất hạn chế. Đa số

khách hàng đến đặt quan hệ tín dụng với ngân hàng xuất phát từ nhu cầu bức thiết

về vốn, khách hàng tự tìm hiểu và tự liên hệ với ngân hàng.

Mạng lưới phòng giao dịch còn thưa thớt, hiện nay VCB Bình Dương có 5

phòng giao dịch, bao gồm Phòng giao dịch số 01 tại trung tâm thị xã Thủ Dầu Một;

Phòng giao dịch Mỹ Phước tại thị trấn Mỹ Phước, huyện Bến Cát; Phòng giao dịch

Phú Chánh tại xã Phú Chánh, thị xã Thủ Dầu Một; Phòng giao dịch Tân Uyên tại

Khu công nghiệp Nam Tân Uyên và Phòng giao dịch Vsip tại thị xã Thuận An. Với

khu vực đầu tư phát triển khách hàng được Tổng giám đốc Vietcombank cho phép

là khu vực tỉnh Bình Dương và tỉnh Bình Phước (VCB Bình Dương có thể cấp tín

55

dụng cho các doanh nghiệp được thành lập, đăng ký kinh doanh tại 02 tỉnh này) thì

hiện nay mạng lưới các phòng giao dịch của VCB Bình Dương đang còn khá thưa

thớt, chưa thể đáp ứng kịp thời cho nhu cầu phát triển của các DNNVV và là một

trong những nguyên nhân cản trở quá trình tiếp cận, thiết lập quan hệ tín dụng với

các DNNVV.

Thêm vào đó, các phòng giao dịch của VCB Bình Dương chủ yếu là phát triển

và cung cấp các dịch vụ ngân hàng bán lẻ, trong đó có cho vay thể nhân với hạn

mức quyền phán quyết tối đa là 500 triệu đồng. Các trường hợp cấp tín dụng vượt

mức 500 triệu đồng và cấp tín dụng cho khách hàng là doanh nghiệp thì phải thông

qua Phòng Khách hàng tại trụ sở chính tái thẩm định và xét duyệt cho vay. Điều này

gây mất thời gian cho công tác thẩm định của ngân hàng và khách hàng, ngoài ra

cũng gây tâm lý e ngại, bị động cho các phòng giao dịch trong công tác tiếp cận và

phát triển các khách hàng là DNNVV.

+ Nhân viên tín dụng còn thiếu và yếu về chuyên môn nghiệp vụ:

Thẩm định dự án đầu tư, phương án sản xuất kinh doanh là một trong những

khâu rất quan trọng trong quá trình phân tích tín dụng nhằm nhận ra các dự án,

phương án khả thi để tài trợ một cách hiệu quả nhất và loại bỏ những dự án không

hiệu quả.

Bình Dương là một trong những khu vực có tốc độ phát triển kinh tế cao nhất

nước, tập trung rất nhiều công ty, nhà máy, xí nghiệp lớn, nhỏ đủ loại với nhiều

ngành nghề khác nhau nên đòi hỏi nhân viên tín dụng cũng phải có trình độ hiểu

biết khá rõ về các ngành nghề đó mới có thể thẩm định một cách chi tiết, chuyên

sâu và chính xác được. Tuy nhiên nhân viên tín dụng tại VCB Bình Dương hầu hết

còn trẻ, tất cả đều có trình độ, nhiệt tình, hàng năm được đào tạo thêm chuyên môn

nghiệp vụ nhưng do hầu hết là nhân viên mới, kinh nghiệm thực tế chưa có, kiến

thức về ngành nghề sản xuất kinh doanh còn hạn chế, khả năng tiếp xúc, tư vấn,

thẩm định và chăm sóc khách hàng chưa tốt và chưa đồng đều; nhân viên được

tuyển dụng từ nhiều tỉnh thành khác nên cũng chưa am hiểu nhiều về đặc thù kinh

tế, xã hội tại địa phương. Do đó, trong công tác chuyên môn còn gặp nhiều khó

56

khăn, đòi hỏi phải được trang bị thêm nhiều kiến thức, kinh nghiệm thực tế ngoài

chương trình đã học ở trường.

Ngoài ra, VCB Bình Dương luôn ở trong tình trạng thiếu nhân viên tín dụng,

đặc biệt là nhân viên có năng lực, có nhiều kinh nghiệm. Một phần do công tác

tuyển dụng và đào tạo chưa kịp thời, chưa có chất lượng cao; một phần do tình hình

cạnh tranh nhân lực trên địa bàn, hiện tượng chảy máu chất xám diễn ra khá phổ

biến và thường xuyên. Điều này gây mất nhiều thời gian và chi phí cho ngân hàng

trong công tác xây dựng lực lượng cán bộ chuyên môn cũng như mất đi nhiều cơ

hội kinh doanh do nguồn lực con người chưa đáp ứng kịp thời. Đây cũng là một

trong những khó khăn lớn hiện nay tại Chi nhánh mà nguyên nhân chủ yếu là do cơ

chế chính sách lương thưởng của Vietcombank, VCB Bình Dương chưa thể giải

quyết triệt để.

Bên cạnh đó, việc phân công công việc cho nhân viên tín dụng cũng chưa thật

sự hợp lý, chưa thể hiện tính chuyên môn hóa cao, không phân công cán bộ tín dụng

phụ trách quản lý khách hàng theo ngành nghề, theo nhóm làm cho mỗi cán bộ tín

dụng phải mất nhiều thời gian để tự tìm hiểu về các ngành nghề khác nhau của

khách hàng mà mình phụ trách. Việc một nhân viên vừa phụ trách khách hàng

doanh nghiệp, vừa phụ trách khách hàng thể nhân làm ảnh hưởng đáng kể đến thời

gian, chất lượng thẩm định hồ sơ tín dụng cũng như công tác chăm sóc và phát triển

khách hàng.

+ Huy động vốn không đáp ứng đủ nhu cầu cho vay:

Trong những năm vừa qua, tốc độ tăng trường tín dụng của Chi nhánh luôn ở

mức khá cao, tuy nhiên trong bối cảnh tình hình huy động vốn ngày càng khó khăn,

Chi nhánh phải chủ động tự cân đối nguồn vốn huy động bằng nhiều hình thức như

rút thăm trúng thưởng, chương trình quà tặng khuyến mãi,… Tuy nhiên, do chính

sách huy động của các ngân hàng thương mại cổ phần tư nhân khác trên địa bàn khá

linh hoạt với mức lãi suất cạnh tranh hơn nhiều so với VCB Bình Dương, kèm theo

nhiều chương trình khuyến mãi quà tặng hấp dẫn, nên đã thu hút một lượng lớn các

57

khách hàng gửi tiền trên địa bàn và gây không ít khó khăn cho VCB trong việc giữ

chân các khách hàng gửi tiền hiện có và phát triển thêm các khách hàng mới.

Trong tình hình khó khăn về nguồn vốn huy động, buộc VCB Bình Dương

phải xem xét cân đối lại nguồn tiền và khả năng cho vay, ưu tiên tập trung nguồn

vốn huy động được cho các khách hàng truyền thống, các khách hàng lớn có giao

dịch nhiều nghiệp vụ với VCB Bình Dương.

Nguồn vốn huy động khó khăn cũng là một trong những nguyên nhân làm

ngân hàng không mặn mà với việc cho vay các DNNVV. Điều này càng gây khó

khăn cho các DNNVV tiếp cận nguồn vốn vay ngân hàng để bổ sung vốn phục vụ

hoạt động sản xuất kinh doanh, nhất là trong bối cảnh tình hình kinh tế khó khăn, lãi

suất tăng cao.

+ Sự hạn chế về thông tin tín dụng:

Trên địa bàn tỉnh Bình Dương, số lượng doanh nghiệp hoạt động rất nhiều,

quan hệ thương mại rất đa dạng và phức tạp, đặc biệt là khu vực DNNVV. Vì vậy,

việc nắm bắt chính xác và kịp thời những thông tin của khách hàng là DNNVV

trong quá trình thẩm định và xét duyệt cho vay của ngân hàng còn gặp nhiều khó

khăn, nhất là những doanh nghiệp mới quan hệ vay vốn lần đầu. Ngân hàng có thể

truy cập thông tin khách hàng và dự án từ nhiều nguồn khác nhau như trung tâm

thông tin tín dụng của NHNN, trung tâm thông tin tín dụng của Vietcombank, các

ngân hàng khác về thực trạng nợ nần, tình hình vay trả nợ, … Tuy nhiên những

nguồn thông tin này thường khá hạn chế và chưa được cập nhật kịp thời. Thông tin

tài chính thì thường là những số liệu quá khứ chưa phản ánh đúng thực tế tình hình

tài chính và khả năng vay trả nợ của khách hàng, trong khi đó những thông tin phi

tài chính có ảnh hưởng quan trọng đến tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh và

khả năng phát triển của khách hàng như cơ cấu tổ chức ban lãnh đạo, các chính sách

định hướng của ngành, thị trường tiêu thụ, đối thủ cạnh tranh,… thì chưa được cập

nhật kịp thời và thông tin đầy đủ.

Ngoài ra, nếu doanh nghiệp đã vay tại nhiều TCTD khác trước khi đến VCB

Bình Dương vay thì khó có thể kiểm soát được chính xác doanh nghiệp đó đã vay

58

với mức dư nợ hiện tại là bao nhiêu? tài sản bảo đảm như thế nào? tình hình vay trả

nợ và uy tín trong giao dịch ra sao? nguồn doanh thu của khách hàng về tài khoản

mở tại ngân hàng nào nhiều hơn? có tương ứng với doanh số ngân hàng mình đã

giải ngân hay không? cũng là vấn đề nan giải.

Và đây cũng chính là những nguyên nhân khiến ngân hàng hạn chế cho vay

đối với các khách hàng là DNNVV.

Về tình hình kinh tế và môi trường kinh doanh

+ Tình hình kinh tế và môi trường kinh doanh còn nhiều hạn chế:

Việt Nam được đánh giá là một trong những quốc gia có môi trường đầu tư

hấp dẫn nhất thế giới do là nước đang phát triển, tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, dân

số đông, trẻ, tình hình chính trị ổn định,… Tuy nhiên Việt Nam vẫn còn khá nghèo

nàn về nguồn lực kinh doanh, và đây đang là một trở ngại lớn đối với các doanh

nghiệp, nhất là các DNNVV. Mặc dù nguồn lao động dồi dào về số lượng nhưng

chất lượng còn hạn chế, khan hiếm nhân lực có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao.

Mô hình kinh doanh của các TCTD còn mang tính độc canh, khoanh vùng và

còn mang nặng dấu ấn của cơ chế cũ. Hoạt động ngân hàng theo luật hiện hành còn

bị thu hút nhiều vào nhiệm vụ quản lý Nhà nước. Vì vậy, các DNNVV khó có thể

tiếp cận được với nguồn vốn ngân hàng một cách trực tiếp. Các tiện ích của Ngân

hàng còn nhiều hạn chế, thị trường bán lẻ còn bỏ ngỏ rất nhiều, tỷ trọng thanh toán

bằng tiền mặt còn cao do tính chuyên nghiệp trong hoạt động ngân hàng còn yếu. Vì

vậy sức mua của một đơn vị tiền tệ đã dần trở nên nhỏ bé so với giá cả hàng hóa.

Môi trường kinh doanh chưa ổn định, pháp luật còn thay đổi thường xuyên làm

ảnh hưởng không nhỏ đến tình hình hoạt động của doanh nghiệp. Thị trường tiêu

thụ trong nước nhỏ bé trong khi thị trường bên ngoài rộng lớn nhưng không ổn

định, thất thường và yêu cầu đòi hỏi về chất lượng sản phẩm cao hơn nhiều so với

thị trường trong nước nên khó xâm nhập hơn.

Việc quy định và thực hiện đăng ký kinh doanh còn một số bất cập như thủ tục

rườm rà, mất nhiều thời gian trong khi đó việc đăng ký kinh doanh qua mạng còn

nhiều hạn chế và chưa phổ biến; chưa thực hiện được việc kiểm tra sau đăng ký kinh

59

doanh; cơ quan đăng ký kinh doanh còn thiếu nhân lực, thiết bị và năng lực kiểm

tra doanh nghiệp theo các nội dung đã đăng ký kinh doanh... Vì vậy, xảy ra không

ít trường hợp các doanh nghiệp không góp vốn như cam kết trong hồ sơ đăng ký kinh

doanh, không báo cáo hoạt động theo quy định, tình trạng các “công ty ma” vẫn còn..

Các thể chế về đầu tư và khuyến khích đầu tư còn một số bất cập, trở ngại, các

ưu đãi đầu tư còn dàn trải, phức tạp, một số lượng rất lớn như các hộ kinh doanh cá

thể, doanh nghiệp tập thể, các trang trại... chưa được hưởng các ưu đãi đầu tư do các cơ

sở này thường được áp dụng hình thức thuế khoán, không thực hiện chế độ báo cáo

tài chính nên không đủ điều kiện hưởng ưu đãi đầu tư theo quy định pháp luật.

Công tác hỗ trợ của các cơ quan pháp luật Bình Dương (Tòa án, Thi hành án,...)

trong việc thụ lý, xử lý các hồ sơ về nợ quá hạn, nợ khó đòi còn nhiều trở ngại, chậm

chạp và mất nhiều thời gian làm cho công tác cấp tín dụng của các NHTM cũng

phải rất chặt chẽ, lựa chọn khách hàng tốt, tài sản bảo đảm có giá trị cao để phòng ngừa

rủi ro.

+ Thông tin thị trường chưa được cập nhật thường xuyên:

So với các nước trên thế giới cũng như các nước trong khu vực, các doanh

nghiệp nước ta phải hoạt động trong điều kiện thông tin không được đầy đủ. Các

doanh nghiệp khó có thể biết được tổng cầu nội địa về loại sản phẩm của doanh

nghiệp mình sẽ thay đổi như thế nào? Tương quan lãi suất giữa đồng nội tệ và ngoại

tệ ra sao?... từ đó có thể có chiến lược kinh doanh, sản xuất phù hợp, đáp ứng đủ

nhu cầu thị trường, không gây ứ đọng trong sản suất hoặc không đáp ứng đủ hàng

hóa cho thị trường. Vì là DNNVV nên nếu sản xuất không hợp lý sẽ ảnh hưởng lớn

đến kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh.

+ Chất lượng dịch vụ còn thấp, cơ sở hạ tầng chưa phát triển:

Bình Dương là tỉnh rất chú trọng đến việc đầu tư cơ sở hạ tầng nhưng vẫn chưa

đáp ứng được nhu cầu về đường giao thông, về mặt bằng sản xuất kinh doanh cho

các DNNVV. Do vốn ít nên nhiều DNNVV không thể thuê đất, thuê nhà xưởng,

văn phòng trong khu công nghiệp để hoạt động sản xuất kinh doanh. Trong khi đó,

để có được đất xây dựng nhà xưởng, làm mặt bằng sản xuất, DNNVV ở ngoài hàng

60

rào khu công nghiệp phải xoay sở trên thị trường thứ cấp với chi phí thuê đất cao và

phải tốn rất nhiều thời gian, điều kiện chật hẹp, giao thông bất tiện, không có dịch

vụ hỗ trợ, không có điều kiện để phát triển. Mặc dù Tỉnh cũng đã có quy hoạch và

tập hợp các doanh nghiệp này vào chung một khu, cụm để tạo điều kiện cho doanh

nghiệp yên tâm sản xuất kinh doanh và phát triển, nhưng mô hình này còn rất hạn

chế (chủ yếu trong ngành gốm, dùng chất đốt là củi) và chỉ xuất phát từ yêu cầu an

toàn vệ sinh môi trường.

Các dịch vụ hỗ trợ sự phát triển của doanh nghiệp còn thiếu và chất lượng

thấp. Nếu có những dịch vụ có chất lượng cao thì đối với bản thân DNNVV rất khó

có thể tiếp cận được. Nhìn chung, đa số các DNNVV chỉ tiếp cận với các dịch vụ

kém chất lượng, thậm chí còn thiếu nhiều dịch vụ cần thiết và thường ít có sự chọn

lựa với những dịch vụ sẵn có. Nhiều dịch vụ hỗ trợ cho sự phát triển của doanh

nghiệp còn chưa phát triển mạnh như: các cơ quan thông tin công cộng, chính

quyền địa phương, các tổ chức xúc tiến thương mại, thị trường chứng khoán, thị

trường tiền tệ, công ty bảo hiểm,…

+ Thị trường tài chính chưa phát triển:

Thị trường tài chính nói chung, thị trường chứng khoán nói riêng luôn là kênh

huy động vốn đắc lực và hiệu quả đối với các doanh nghiệp trên thế giới. Tại Việt

Nam thị trường chứng khoán còn rất non trẻ, chưa phát triển nên chưa thể là kênh

huy động vốn hiệu quả cho doanh nghiệp, đặc biệt là các DNNVV. Hệ thống văn

bản pháp lý về thị trường chứng khoán chưa hoàn chỉnh. Thị trường (bao gồm chính

thức và phi chính thức) chưa được quản lý một cách chặt chẽ, chưa phát triển một

cách lành mạnh và hiệu quả. Các doanh nghiệp trên thị trường chứng khoán hầu hết

mới chỉ là các doanh nghiệp lớn, tình hình tài chính lành mạnh, hoạt động kinh

doanh hiệu quả, thông tin minh bạch, vì vậy được các nhà đầu tư và các ngân hàng

quan tâm. Ngược lại, các DNNVV, rất ít doanh nghiệp được niêm yết trên thị

trường chứng khoán do không đáp ứng được điều kiện về vốn, hiệu quả kinh doanh,

sự minh bạch trong công bố thông tin và nhiều yếu tố khác. Mặt khác, do chủ sở

hữu doanh nghiệp thường có quan hệ mật thiết với nhau, cách quản lý lại theo kiểu

61

gia đình, mô hình công ty vì thế chủ yếu là công ty TNHH, doanh nghiệp tư

nhân,… là những đối tượng không thể niêm yết trên thị trường.

+ Chưa nhận được sự hỗ trợ tích cực từ các Hiệp hội:

Trong bối cảnh hiện nay, khi Việt Nam đã gia nhập tổ chức thương mại thế

giới (WTO) thì vai trò của các hiệp hội doanh nghiệp, hiệp hội ngành nghề là vô

cùng quan trọng. Các hiệp hội này có thể hỗ trợ doanh nghiệp tích cực hơn trong

việc đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá ra nước ngoài, củng cố và mở rộng thị trường

nội địa, xây dựng cơ chế trao đổi thông tin thị trường và khách hàng trong các

doanh nghiệp hội viên; xác định được phương hướng liên kết, liên doanh và hợp tác

trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm trên cơ sở tự nguyện của các hội viên; phản ánh

trung thực ý kiến của các hội viên về các chính sách phát triển sản xuất kinh doanh

lên các cơ quan liên quan; hợp tác giữa các hiệp hội ngành hàng Việt Nam với các

tổ chức hiệp hội ngành hàng quốc tế nhằm nâng cao vị thế và uy tín của các ngành

hàng trong cộng đồng quốc tế; tăng cường hơn sự phối hợp giữa các bộ, ngành và

các hiệp hội thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, thực hiện

các cam kết của Việt Nam đối với WTO.

Thời gian qua, hiệp hội doanh nghiệp tại Việt Nam cũng đã tương đối thành

công trong một số hoạt động như cung cấp thông tin về chính sách, pháp luật; kiến

nghị về chính sách, quy định liên quan đến doanh nghiệp và tập huấn, đào tạo ngắn

hạn. Tuy nhiên, các hiệp hội doanh nghiệp nhìn chung hiệu quả hoạt động chưa cao,

chưa hỗ trợ tích cực cho các doanh nghiệp, nhất là các DNNVV. Ngoài ra, đối với

nhiều DNNVV, việc tham gia vào hiệp hội chỉ mất thời gian, tốn phí mà không

được lợi ích gì, vì vậy họ không mặn mà với việc tham gia vào các hiệp hội. Hoạt

động của các hiệp hội doanh nghiệp tại Việt Nam vẫn còn những khó khăn và tồn

tại sau:

- Vẫn còn hạn chế về hoạt động tư vấn, cung cấp thông tin thị trường, giá cả,

hỗ trợ cho hội viên tiếp cận thị trường trong nước và thị trường xuất khẩu. Việc

cung cấp dịch vụ hỗ trợ kinh doanh cho hội viên còn yếu, chỉ dừng lại ở mức độ

phổ biến thông tin bằng bản tin hay báo chí, tư vấn pháp luật cho từng trường hợp

62

cụ thể và tổ chức đào tạo. Tỷ lệ DNNVV được tham gia vào các chương trình xúc

tiến thương mại trọng điểm của Nhà nước còn thấp; chưa có nhiều chương trình hỗ

trợ xuất khẩu dành riêng cho DNNVV, nhất là các chương trình liên quan đến nâng

cao chất lượng, mẫu mã sản phẩm để có thể xuất khẩu sang các thị trường khu vực

và các thị trường khó tính.

- Thiếu các nguồn lực: các hiệp hội hiện dựa vào bốn nguồn thu nhập là ngân

sách nhà nước, phí thu được từ cung cấp dịch vụ, hội phí và các khoản tài trợ (hội

viên cũng như các tổ chức cá nhân ngoài hội). Tuy nhiên, những nguồn này không

ổn định và không thường xuyên, do vậy các hiệp hội không thể xây dựng và phát

triển hoạt động của mình dựa trên một ngân quỹ xác định.

- Thiếu năng lực, thiếu cán bộ chuyên trách: Tính chuyên nghiệp của các hiệp

hội doanh nghiệp Việt Nam vẫn còn yếu. Các hiệp hội nhỏ và các hiệp hội cấp tỉnh

thường không có cán bộ chuyên trách. Lãnh đạo của hiệp hội thường là các doanh

nhân, họ có ít thời gian để gắn bó với công việc của hiệp hội. Nhìn chung nhân sự

các hiệp hội không được trang bị chuyên môn để cung cấp dịch vụ hỗ trợ cho các

hội viên một cách thỏa đáng.

Nguyên nhân chủ yếu của vấn đề này là vấn đề tài chính, hiệp hội không thể

thuê những người có năng lực làm việc cho mình.

- Thiếu khung pháp lý hoàn chỉnh cho việc xây dựng và phát triển hiệp hội:

Khung pháp lý hiện hành chưa hệ thống hoá một cách chuẩn mực, thủ tục đăng ký

phức tạp, do đó có thể cản trở việc thành lập các hiệp hội doanh nghiệp có tiềm

năng phát triển mạnh và đóng góp vào sự phát triển kinh doanh.

2.3.3. Chỉ tiêu về phát triển tín dụng DNNVV tại Ngân hàng TMCP Ngoại

thương – Chi nhánh Bình Dương

Từ thực trạng cho vay DNNVV tại VCB Bình Dương như đã phân tích phần

trên với những thuận lợi, khó khăn, những mặt còn tồn tại và hạn chế thì có thể nói

công tác tín dụng DNNVV tại VCB Bình Dương đang còn khá yếu, chưa tương

xứng với quy mô hoạt động và sự kỳ vọng của Nhà nước trong việc tăng cường hỗ

trợ vốn vay cho các DNNVV sản xuất kinh doanh.

63

Để có thể đưa ra các kế hoạch và giải pháp phát triển tín dụng DNNVV tại

VCB Bình Dương có tính khả thi trong thực tế cũng như có tiêu chuẩn để đo lường

đánh giá mức độ thực hiện công tác tín dụng DNNVV tại VCB Bình Dương, tác giả

đưa ra một số chỉ tiêu cơ bản để đánh giá về phát triển tín dụng DNNVV tại VCB

Bình Dương như sau:

+ Về tốc độ tăng trưởng dư nợ DNNVV: tối thiểu phải bằng mức tăng trưởng

dư nợ DNNVV và tối đa bằng mức tăng trưởng tổng dư nợ mà VCB TW giao trong

từng thời kỳ.

+ Về tình hình dư nợ DNNVV: Tỷ lệ dư nợ DNNVV trên tổng dư nợ của

VCB Bình Dương tối thiểu phải là 35% (tỷ lệ này tại thời điểm 30/09/2011 của

VCB Bình Dương mới là 15,96%);

+ Tỷ lệ nợ xấu: tỷ lệ nợ xấu trong dư nợ cho vay DNNVV tại VCB Bình

Dương tối đa là 1% (tỷ lệ này tại thời điểm 30/09/2011 của VCB Bình Dương là

1,34%).

Kết luận chương 02

Là một Chi nhánh ngân hàng thương mại lớn của Nhà nước mới cổ phần hóa,

lại mới thành lập chưa lâu, Ngân hàng TMCP Ngoại thương – Chi nhánh Bình

Dương trong những năm vừa qua chưa thực sự quan tâm nhiều đến đối tượng

DNNVV. Vì vậy, dư nợ cho vay nói riêng, các quan hệ giao dịch nói chung của VCB

Bình Dương với DNNVV còn khá hạn chế, tốc độ tăng trưởng chậm và chưa tương

xứng với thế mạnh của ngân hàng, với tiềm năng của các DNNVV trên địa bàn tỉnh.

Qua phân tích thực trạng tình hình cho vay DNNVV tại VCB Bình Dương, có

thể thấy vẫn còn rất nhiều khó khăn, tồn tại, cả về mặt chủ quan lẫn khách quan, từ

bản thân doanh nghiệp đến ngân hàng và những khó khăn đến từ cơ quan nhà

nước, môi trường vĩ mô,… Đây là cơ sở để đưa ra những giải pháp nhằm phát triển

cho vay DNNVV tại VCB Bình Dương.

64

Chương 3:

GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN TÍN DỤNG DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA

TẠI NGÂN HÀNG TMCP NGOẠI THƯƠNG VIỆT NAM –

CHI NHÁNH BÌNH DƯƠNG

3.1. Giải pháp đối với bản thân các doanh nghiệp

Trên thị trường vốn, có khá nhiều phương thức khác nhau để tiếp cận các

nguồn vốn đầu tư, song điều khó khăn nhất đối với đa số các DNNVV là họ không

hội đủ các điều kiện cần thiết để vay vốn, hay không nhận được sự tin tưởng từ phía

các ngân hàng. Vì thế, việc nâng cao năng lực kinh doanh, cũng như đẩy mạnh uy

tín của doanh nghiệp trong mắt các ngân hàng là điều rất cần thiết để doanh nghiệp

có thể tiếp cận các nguồn vốn một cách dễ dàng. Và để tối ưu hóa hoạt động vay

vốn, các DNNVV cần đề ra những nguyên tắc nhất định, “đánh bóng” chính bản

thân mình, từ đó tạo nên độ tin cậy từ phía các ngân hàng tài trợ vốn.

3.1.1. Giải pháp tạo nên độ tin cậy của doanh nghiệp

Trước mỗi quyết định tài trợ vốn, ngân hàng thường căn cứ vào độ tin cậy và

uy tín của doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp muốn sớm nhận được quyết định tài trợ

vốn từ ngân hàng, thì một bộ tài liệu chứng minh độ tin cậy của doanh nghiệp sẽ là

rất cần thiết. Bộ tài liệu này càng trung thực và rõ ràng bao nhiêu thì càng tốt bấy

nhiêu. Ngân hàng sẽ tiến hành xác minh, nếu phát hiện có chi tiết thiếu trung thực,

lập tức họ sẽ đặt chấm hỏi về độ tin cậy của doanh nghiệp.

Doanh nghiệp tuyệt đối không được đề nghị các cá nhân và tổ chức trung gian

làm cò môi giới giới thiệu và làm các thủ tục vay vốn ngân hàng vì dễ phát sinh tiêu

cực, gây nhiều trở ngại cho công tác thẩm định cũng như quyết định cho vay của

ngân hàng.

Phải thực hiện nghiêm túc các thỏa thuận, cam kết với ngân hàng, đặc biệt phải

luôn trả nợ đúng hạn. Định kỳ hoặc đột xuất, các ngân hàng kiểm tra thực tế doanh

nghiệp sau khi cho vay, đây là công việc thường xuyên, không thể thiếu và đã được

quy định cụ thể trong các hợp đồng tín dụng (và việc này cũng đã được pháp luật

quy định). Các nội dung kiểm tra chủ yếu là kiểm tra mục đích sử dụng vốn vay,

65

tình trạng tài sản đảm bảo, tình hình sản xuất kinh doanh, tình hình tài chính,… của

doanh nghiệp. Vì vậy, doanh nghiệp cần tạo điều kiện cho nhân viên ngân hàng

thực hiện tốt các công việc nêu trên. Trường hợp doanh nghiệp gặp khó khăn, hay

tình hình doanh nghiệp có diễn biến xấu hơn trước, thì doanh nghiệp không được

che giấu, mà phải cho ngân hàng biết để cùng nhau tìm biện pháp tháo gỡ, có như

vậy doanh nghiệp mới tạo được sự tin tưởng ở ngân hàng. Ngược lại, nếu doanh

nghiệp có ý định che giấu hoặc vi phạm các thỏa thuận thì chỉ làm cho ngân hàng

cứng rắn hơn trong việc thu hồi nợ, khi đó, doanh nghiệp sẽ càng khó khăn hơn

trong việc duy trì và phát triển quan hệ tín dụng với ngân hàng.

Doanh nghiệp cũng nên có mối quan hệ toàn diện với ngân hàng thông qua

việc sử dụng nhiều sản phẩm, dịch vụ khác như: thẻ, tiền gửi, mua bán ngoại tệ,

thanh toán quốc tế,… Nếu doanh nghiệp có quan hệ tốt với ngân hàng, sử dụng tổng

thể các dịch vụ của ngân hàng thì trong quá trình vay vốn, giao dịch thanh toán,

doanh nghiệp có thể tăng mức độ uy tín và được hưởng lãi suất cũng như các loại

phí khác ưu đãi hơn, được ưu tiên giao dịch hơn những doanh nghiệp chỉ có quan hệ

tín dụng. Qua đó góp phần hỗ trợ lại hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh

nghiệp đạt kết quả tốt hơn.

3.1.2. Nâng cao chất lượng báo cáo tài chính

Một bộ máy kế toán tài chính hiệu quả đóng vai trò rất quan trọng trong việc

tạo dựng độ tin cậy của doanh nghiệp. Thông thường đối với các doanh nghiệp lần

đầu tiên vay vốn thì ngân hàng sẽ yêu cầu cung cấp báo cáo tài chính 03 năm gần

nhất. Một báo cáo tài chính rõ ràng, minh bạch được trình bày một cách có bài bản,

hệ thống và chuyên nghiệp cũng như khả năng giải đáp, cung cấp thuyết minh có

liên quan của doanh nghiệp khi ngân hàng yêu cầu, sẽ tạo nên những ấn tượng tốt

ban đầu thuận tiện cho quá trình hoàn tất một bộ hồ sơ đề nghị vay vốn của doanh

nghiệp.

Thực hiện nghiêm chỉnh Luật doanh nghiệp, luật kế toán và các văn bản liên

quan trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Thực hiện các nghĩa vụ kê khai nộp thuế

đầy đủ, áp dụng các hệ thống kế toán theo đúng chuẩn mực quốc tế, thực hiện chế

66

độ hạch toán kế toán, báo cáo tài chính nghiêm chỉnh công khai... Doanh nghiệp nên

có thêm hệ thống kế toán chi phí và kế toán quản trị ngoài kế toán tài chính để phân

tích đánh giá chính xác hơn kết quả hoạt động kinh doanh của mình.

Nhà quản lý doanh nghiệp hiểu biết về kế toán, tất nhiên không phải để tự

mình làm lấy các công việc lập sổ sách, mà để kiểm tra lại tính chính xác của những

thông tin cấp dưới báo cáo, giúp cho công tác quản lý, điều hành phù hợp với tình

hình thực tế hơn. Một bộ máy kế toán tài chính tốt có tác dụng huy động khai thác

nguồn tài chính nhằm đảm bảo yêu cầu kinh doanh, tổ chức sử dụng vốn của doanh

nghiệp sao cho hiệu quả nhất. Bộ máy kế toán sẽ xác định đúng nhu cầu vốn cần

huy động, lựa chọn nguồn vốn tài trợ phù hợp và phương thức đẩy mạnh kinh doanh

làm cơ sở để huy động vốn, đảm bảo nguồn vốn phát triển hữu ích, từ đó nâng cao

lợi nhuận cho doanh nghiệp.

3.1.3. Xây dựng kế hoạch tài chính ngay từ khi khởi sự thành lập doanh nghiệp

Tài chính luôn là vấn đề khó khăn đối với các DNNVV, nhất là các doanh

nghiệp mới thành lập ở Việt Nam. Để đảm bảo có đủ lượng vốn khởi nghiệp cho

hoạt động của doanh nghiệp, người khởi nghiệp phải dựa vào kế hoạch kinh doanh

và chuẩn bị lượng vốn cần thiết. Khi lập xong kế hoạch chiến lược kinh doanh,

người khởi nghiệp phải biết mình cần bao nhiêu tiền cho chiến lược kinh doanh dự

tính, để xác định số vốn cần thiết ban đầu, cần chia ra từng bước nhỏ như sau:

- Mua hàng và hàng tồn kho: Thời hạn thanh toán cho việc mua nguyên vật

liệu cũng có thể làm giảm lượng tiền cần thiết ban đầu nếu cân đối được với nguồn

thu tiền bán hàng.

- Tiền thuê và trả lương: Một số khoản tiền thuê đã xác định được trong quá

trình hoạt động, những số tiền này hoàn toàn có thể tiên liệu.

- Mua thiết bị và đồ dùng văn phòng.

- Mua sắm công cụ cho việc kinh doanh, hoạt động của doanh nghiệp.

Trong tất cả các hoạt động kinh doanh, người khởi nghiệp nên ưu tiên cho các

khoản bắt buộc phải trả tiền mặt và xem xét lại những khoản có thể thanh toán bằng

67

phương thức khác, nếu là các đại lý phân phối, các công ty thương mại thường được

các nhà cung cấp tài trợ vốn bằng hình thức thành toán gối đầu.

- Quản lý chi phí trong hoạt động kinh doanh, nhất là khâu mua hàng, cần

lập ra một quy trình quản lý mua hàng nghiêm nghặt.

Khi có được các kế hoạch tài chính thật cụ thể và chi tiết cho việc khởi sự

thành lập doanh nghiệp, sẽ giúp doanh nghiệp lên được các kế hoạch thu xếp tài

chính rõ ràng và chính xác. Ngoài nguồn vốn đầu tư ban đầu mà doanh nghiệp đã

bỏ ra, thì doanh nghiệp sẽ xác định được số tiền tối thiểu mà họ cần đề nghị cho một

khoản vay, điều này đảm bảo cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp

được diễn ra như kế hoạch, nhưng với mức chi phí thấp nhất và đạt hiệu quả cao

nhất.

Với các kế hoạch tài chính cụ thể như vậy sẽ giúp doanh nghiệp có nhiều

thuận lợi hơn khi đề nghị ngân hàng tài trợ cho khoản vốn đang còn thiếu hụt, ngân

hàng sẽ thấy được tính chuyên nghiệp, nhu cầu thực sự cũng như khả năng quản lý

và tự chủ tài chính của doanh nghiệp, từ đó, quá trình xem xét và thẩm định cho vay

của ngân hàng sẽ được thuận lợi và nhanh chóng hơn.

3.1.4. Xây dựng phương án kinh doanh khả thi để thuyết phục ngân hàng

Trước hết các doanh nghiệp phải xác định mục tiêu kinh doanh của mình, từ

đó mới có thể vạch ra chiến lược, kế hoạch sản xuất kinh doanh phù hợp.

Doanh nghiệp phải nâng cao khả năng tự xây dựng phương án kinh doanh, dự

án đầu tư khả thi hiệu quả để thuyết phục ngân hàng. Trong điều kiện cạnh tranh hiện

nay, các NHTM thường hay tư vấn và hỗ trợ khách hàng của mình trong việc xây

dựng phương án, dự án kinh doanh khi họ vay vốn. Tuy nhiên, để nâng cao năng lực

quản lý điều hành, đồng thời giảm chi phí giao dịch, các DNNVV không nên xem

nhẹ việc tự thân xây dựng phương án, dự án kinh doanh khi quan hệ vay vốn với

ngân hàng. Việc tự thân các doanh nghiệp lập dự án, phương án kinh doanh có hiệu

quả và khả thi cao chứng tỏ doanh nghiệp đã am hiểu tận tường phương án, dự án kinh

doanh của mình, nắm rõ các đối thủ cạnh tranh, tình hình ngành nghề, tình hình thị

trường, xu hướng và triển vọng thị trường,… Qua đó xác định rõ được điểm mạnh,

68

điểm yếu cũng như những thuận lợi và khó khăn mà doanh nghiệp đang gặp phải.

Cần lưu ý, các ngân hàng chỉ có thể cùng doanh nghiệp giải quyết khó khăn do

thiếu hụt nguồn vốn (vốn lưu động hoặc vốn cố định) chứ không thể giải quyết các

khó khăn liên quan đến chính sách vĩ mô, thị trường tiêu thụ,… Vì vậy, việc nắm rõ

các khó khăn nêu trên cùng với việc có phương hướng giải quyết thoả đáng, có

phương án sản xuất kinh doanh và sử dụng vốn vay hiệu quả, phù hợp với tình hình

thực tế của doanh nghiệp là hết sức quan trọng trong quá trình vay vốn tại ngân

hàng. Doanh nghiệp phải lường trước được các tình huống có thể xảy ra và đưa ra

biện pháp giải quyết kịp thời thì càng dễ thuyết phục các ngân hàng hơn trong việc

cấp tín dụng.

Phương án kinh doanh phải đảm bảo tính trung thực, khách quan, phù hợp tình

hình sản xuất kinh doanh hiện tại, khả năng quản lý, khả năng nguồn vốn tự có của

doanh nghiệp. Khi lập phương án, dự án, doanh nghiệp phải chú ý thiết lập đầy đủ các

yêu cầu như:

- Thị trường các yếu tố đầu vào, đầu ra: giá cả, số lượng, chất lượng, chủng

loại, nguồn và khả năng cung cấp, khả năng tiêu thụ...;

- Tính đúng tính đủ chi phí, lượng hóa các rủi ro có thể xảy ra và biện

pháp phòng ngừa;

- Giá thành sản xuất, giá bán sản phẩm, hiệu quả kinh tế, hiệu quả về mặt xã

hội; nguồn trả nợ chính, nguồn dự phòng nếu có rủi ro xảy ra cũng như tiềm lực phát

triển trong tương lai của doanh nghiệp...

3.1.5. Nâng cao năng lực quản lý

Nâng cao năng lực quản lý điều hành đối với đội ngũ lãnh đạo, tích cực đào

tạo nguồn nhân lực, có chế độ đãi ngộ thích đáng cho những người đứng đầu đóng

vai trò quan trọng, có nhiều đóng góp cho sự phát triển của doanh nghiệp để tránh

hiện tượng chảy máu chất xám từ các DNNVV sang các doanh nghiệp lớn. Áp dụng

các chương trình quản lý kinh tế vào sản xuất, xây dựng doanh nghiệp ngày một

phát triển bền vững. Trong bối cảnh hội nhập ngày càng sâu rộng như hiện nay, cần

đặc biệt chú ý những kỹ năng hữu ích như: kỹ năng quản trị hiệu quả trong môi

69

trường cạnh tranh; kỹ năng lãnh đạo của giám đốc doanh nghiệp; kỹ năng quản lý

sự thay đổi; kỹ năng đàm phán, giao tiếp và quan hệ công chúng; kỹ năng quản lý

thời gian,… Những kỹ năng này kết hợp với các kiến thức quản trị có hiệu quả sẽ

có tác động quyết định đối với các doanh nhân, các nghiệp chủ và các nhà quản lý

doanh nghiệp, trong đó có DNNVV, qua đó làm tăng khả năng cạnh tranh của các

doanh nghiệp.

Đối với giám đốc và các nhà quản lý, để nâng cao khả năng làm việc và giao

dịch quốc tế, tiếp cận các tiêu chuẩn, các thông lệ quốc tế thì cần chú trọng phát

triển những kiến thức, kỹ năng chủ yếu như:

- Năng lực về ngoại ngữ (mặc dù có thể sử dụng người phiên dịch nhưng cần

có ngoại ngữ tối thiểu, hạn chế sự phụ thuộc hoàn toàn vào phiên dịch). Đây có lẽ là

một trong những điểm đáng chú ý nhất đối với các doanh nghiệp ở nước ta, đặc biệt

là các DNNVV.

- Kiến thức cơ bản về văn hoá, xã hội, lịch sử trong kinh doanh quốc tế.

- Giao tiếp quốc tế và xử lý sự khác biệt về văn hoá trong kinh doanh.

- Thông lệ quốc tế trong lĩnh vực/ngành kinh doanh.

3.1.6. Nghiêm túc trong việc thế chấp tài sản bảo đảm

Trong quá trình đi vay, một đòi hỏi tất yếu là khoản vốn vay cần được đảm

bảo bởi tài sản hợp pháp của doanh nghiệp cùng với phương án hoạt động kinh

doanh có hiệu quả.

Doanh nghiệp khi vay vốn cần phải chứng minh cho ngân hàng thấy những tài

sản có giá trị hữu hình và tài sản có giá trị vô hình mà doanh nghiệp đang sở hữu.

Đôi khi tài sản vô hình như giá trị thương hiệu, thị phần, kênh phân phối,… còn có

giá trị lớn hơn rất nhiều so với tài sản hữu hình. Và việc nhờ một tổ chức chuyên

nghiệp định giá doanh nghiệp sẽ rất cần thiết để việc vay vốn của doanh nghiệp

được thực hiện dễ dàng và nhanh chóng hơn.

Một tài sản bảo đảm có giá trị cao, có tính thanh khoản tốt đương nhiên sẽ có

nhiều thuận lợi hơn khi vay vốn ngân hàng. Tuy nhiên đối với những doanh nghiệp

có hạn chế về tài sản bảo đảm, thì doanh nghiệp có thể xem xét đến những tài sản

70

bảo lãnh của bên thứ ba, có thể là những thành viên trong ban lãnh đạo, người thân

hoặc thế chấp hàng tồn kho, hàng hóa luân chuyển trong quá trình hoạt động sản

xuất kinh doanh, đồng thời tập trung vào các vấn đề liên quan đến tiềm năng tài

chính và phi tài chính có thể phát huy, như các mối quan hệ, ngoại giao có lợi trong

quá trình triển khai thực hiện phương án và có thể giới thiệu cho ngân hàng để phát

triển mở rộng hoặc bán chéo các sản phẩm dịch vụ khác. Tập trung hơn nữa vào

việc phân tích tính khả thi của phương án, dự án kinh doanh, những thuận lợi của

thị trường hiện tại và khả năng phát triển trong tương lai, việc giải thích càng chi

tiết, rõ ràng bao nhiêu sẽ càng có lợi cho doanh nghiệp cần vay vốn bấy nhiêu; mức

độ giao dịch, những mặt lợi ngân hàng có thể thu được trong quá trình tài trợ và

quan hệ với doanh nghiệp nhằm làm tăng khả năng thuyết phục và sự tin tưởng từ

phía ngân hàng.

3.1.7. Đẩy mạnh công tác khai thác và ứng dụng công nghệ thông tin

CNTT có thể giúp DNNVV tạo ra cơ hội kinh doanh và tăng khả năng cạnh

tranh với các đối thủ. Tuy nhiên DNNVV trong hầu hết các nước đang phát triển

vẫn còn chậm chạp khi ứng dụng CNTT vào lĩnh vực hoạt động của mình.

Trong quá trình hội nhập quốc tế và cạnh tranh toàn cầu, khai thác hiệu quả

các công cụ CNTT không chỉ nâng cao năng lực chỉ đạo điều hành của doanh

nghiệp mà còn cải thiện khả năng cạnh tranh và tạo ra các cơ hội mới cho doanh

nghiệp. Nhưng hiện nay, việc ứng dụng CNTT còn hạn chế, sự liên kết giữa doanh

nghiệp và các tập đoàn CNTT chưa chặt chẽ, điều này gây nên tình trạng các doanh

nghiệp gặp rất nhiều khó khăn trong việc tìm kiếm các giải pháp ứng dụng CNTT

vào hoạt động sản xuất kinh doanh của mình.

Một doanh nghiệp có khả năng khai thác và ứng dụng CNTT tốt sẽ có nhiều

thuận lợi hơn trong việc vay vốn ngân hàng, ngoài ra cũng là cơ hội để ngân hàng

tiếp thị cung cấp các dịch vụ ngân hàng điện tử cho doanh nghiệp, giúp cho quá

trình giao dịch được tiện lợi, nhanh chóng, tiết kiệm thời gian và công sức cho cả

hai bên.

71

3.1.8. Liên kết để tăng sức mạnh

Trong hoạt động kinh doanh, liên kết, liên doanh vốn là một yêu cầu tự

nhiên để tăng năng suất lao động của mỗi doanh nghiệp. Khi gia nhập WTO, phần lớn

doanh nghiệp nước ta nói chung và tỉnh Bình Dương nói riêng còn là nhỏ và vừa,

thì việc liên kết, liên doanh để bổ sung năng lực, khắc phục yếu kém để tăng năng

lực cạnh tranh lại càng cấp bách. Việc liên kết không chỉ giúp doanh nghiệp giảm giá

thành, tăng chất lượng hàng hóa, còn có thể giúp cho doanh nghiệp nhận được

những đơn hàng lớn mà, mỗi đơn vị không thể đáp ứng, từ đó mở rộng thị trường

tiêu thụ, tạo điều kiện cho doanh nghiệp phát triển trong tương lai.

Có rất nhiều phương thức liên kết, liên doanh hết sức phong phú: giữa các

DNNVV với nhau, giữa DNNVV với doanh nghiệp lớn, giữa doanh nghiệp trong

nước với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, kể cả các tập đoàn lớn, các công

ty xuyên quốc gia,... Liên kết để hỗ trợ nhau trong từng khâu của quá trình kinh

doanh; cũng có thể liên kết để tăng quy mô doanh nghiệp, hình thành những tập đoàn

kinh tế lớn đủ sức đưa doanh nghiệp Việt Nam nói chung và Bình Dương nói riêng ra

thị trường thế giới. Liên kết trong khâu sản xuất là rất quan trọng, như giúp nhau đổi

mới công nghệ, trao đổi kỹ năng quản trị doanh nghiệp, giúp nhau tiền vốn ... song việc

liên kết trong cung ứng vật tư, nguyên liệu, trong tiêu thụ sản phẩm hàng hóa,... cũng

rất cần được quan tâm, vì chính những khâu này giúp tăng thêm giá trị hàng hóa,

đây cũng là những khâu mà lâu nay các doanh nghiệp Việt Nam chưa thực hiện tốt.

DNNVV và doanh nghiệp lớn có thể có mối quan hệ cộng sinh chứ không

phải chỉ cạnh tranh để tiêu diệt lẫn nhau, doanh nghiệp nhỏ có thể làm thầu phụ cho

doanh nghiệp lớn, còn doanh nghiệp lớn có thể giúp doanh nghiệp nhỏ trong hoạch

định chiến lược phát triển, chiến lược sản phẩm, đào tạo nhân sự, công nghệ,… Việc

liên kết giữa các doanh nghiệp sẽ làm tăng sức cạnh tranh của tất cả các doanh nghiệp

và làm gia tăng cơ hội thành công của mỗi doanh nghiệp. Trong quá trình hội nhập

kinh tế quốc tế sâu rộng hơn hiện nay, mỗi doanh nghiệp đều cần liên kết, liên doanh;

đó chính là cạnh tranh trong hợp tác, làm tăng thêm sức mạnh, năng lực cạnh tranh

của mỗi doanh nghiệp cũng như của cả nền kinh tế.

72

3.2. Các giải pháp phát triển tín dụng của ngân hàng

3.2.1. Các giải pháp đối với Ngân hàng TMCP Ngoại thương Bình Dương

3.2.1.1. Xây dựng đối tượng khách hàng DNNVV tiềm năng

Từ thực trạng DNNVV tại Bình Dương với các đặc điểm riêng như phần lớn

là DNNVV trong nước với 11.158 doanh nghiệp, chiếm 87,12% số lượng DNNVV

của tỉnh; về loại hình DNNVV thì chủ yếu là công ty TNHH với 9.093 doanh

nghiệp, chiếm 71% số lượng DNNVV và doanh nghiệp tư nhân là 2.690 doanh

nghiệp, chiếm 21% số lượng DNNVV của tỉnh; các DNNVV tập trung chủ yếu ở 3

khu vực thị xã (thị xã Thủ Dầu Một, Thuận An và Dĩ An) với 9.862 doanh nghiệp,

chiếm 77% số lượng DNNVV; và phần lớn tập trung vào các ngành công nghiệp

truyền thống như chế biến gỗ, may mặc, chế tạo sản phẩm từ kim loại, phi kim loại

(gốm sứ, hóa chất, cao su) với 6.762 doanh nghiệp, chiếm 52,8% số lượng

DNNVV. VCB Bình Dương nên tập trung xây dựng một danh sách các khách hàng

là DNNVV tiềm năng thuộc các đặc điểm trên với các thông tin đầy đủ về chủ

doanh nghiệp, ngành nghề lĩnh vực kinh doanh, kinh nghiệm hoạt động, doanh số,

thị trường tiêu thụ và lịch sử giao dịch với các ngân hàng,… từ đó xây dựng các

chính sách, sản phẩm phù hợp để tiếp cận khách hàng.

Có như vậy, VCB Bình Dương mới có thể chủ động, nâng cao khả năng tiếp

cận và quyết định tài trợ cho các DNNVV có dự án phương án kinh doanh khả thi,

hạn chế các trường hợp từ chối cho vay đối với các khách hàng tốt và qua đó có thể

đẩy mạnh phát triển công tác tín dụng DNNVV.

3.2.1.2. Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực

Quy trình thi tuyển hiện nay của VCB Bình Dương phải trải qua 03 vòng, đó

là:

+ Xét tuyển hồ sơ;

+ Trắc nghiệm kiến thức chuyên môn nghiệp vụ và tiếng Anh;

+ Phỏng vấn.

Vòng xét tuyển hồ sơ chủ yếu lựa chọn những hồ sơ tốt thể hiện qua kết quả

học tập và điểm tốt nghiệp. Tiếp theo là vòng thi thực hành trắc nghiệm với các câu

73

hỏi về kiến thức chuyên môn, trình độ nghiệp vụ được tham khảo từ ngân hàng đề

thi với những câu hỏi khá phổ biến. Còn vòng thi cuối cùng là phỏng vấn thì không

mang ý nghĩa nhiều vì những thí sinh được chọn phỏng vấn là những thi sinh đã

nắm chắc cơ hội trở thành nhân viên của VCB Bình Dương.

Đối với những cán bộ làm công tác tín dụng, do đặc thù công việc, nên đòi hỏi

phải có sự nhanh nhạy, năng động, sáng tạo trong công việc, có khả năng ngoại giao

tốt, có thể làm việc với áp lực cao. Bên cạnh khả năng nắm bắt nhanh các quy trình

quy định trong cho vay thì nhân viên tín dụng cũng phải là người biết vận dụng và

xử lý khôn khéo các tình huống có thể xảy ra trong công tác tín dụng vốn có nhiều

khó khăn và phức tạp. Những điều này không có trường lớp hay trung tâm nào đào

tạo mà nó xuất phát từ bản thân và quá trình học hỏi trau dồi của mỗi người. Thực

tế có nhiều ứng viên trúng tuyển với kết quả học tập và kết quả xét tuyển rất cao

nhưng khi làm việc thì hiệu quả lại không cao và thường xuyên mắc những sai sót.

Xuất phát từ thực tế nói trên, VCB Bình Dương nên mạnh dạn thay đổi khung

thức xét tuyển đặc biệt là đối với các ứng viên cho vị trí cán bộ tín dụng bằng những

vòng thi đòi hỏi khả năng đáp ứng, xử lý công việc cao hơn, bên cạnh bài thi tất yếu

là kiểm tra trình độ chuyên môn, khả năng ngoại ngữ, thì các bài thi khác nên chú

trọng đến các câu hỏi trắc nghiệm về chỉ số IQ, EQ, các bài tập tình huống thực tế.

Đặc biệt là ở vòng thi phỏng vấn, đây là lúc mà người tuyển dụng có cơ hội để tiếp

xúc trực tiếp với người thi tuyển vì vậy phải khai thác tối đa để phát hiện ra những

sở trường và sở đoản, xem họ có phù hợp với vị trí mà mình tuyển dụng hay không?

Trong quá trình sử dụng người lao động, ngân hàng cũng phải thường xuyên tổ

chức các lớp học tập trau dồi kỹ năng, trình độ và các khóa đào tạo giao lưu học hỏi

kinh nghiệm với các TCTD khác, trong đó chú trọng học tập kinh nghiệm từ các

TCTD nước ngoài thông qua các hình thức như cử đi đào tạo tại các trung tâm trong

và ngoài nước, hợp tác liên kết,…. Phối hợp với các trung tâm huấn luyện tổ chức

lớp học ngay tại cơ quan, kết hợp các buổi giao lưu học hỏi kinh nghiệm thực tế để

động viên mọi người tham gia tích cực. Đồng thời phải kết hợp tổ chức kiểm tra

kiến thức chuyên môn định kỳ hoặc đột xuất để đánh giá lại năng lực, quá trình

74

công tác của cán bộ nhân viên để, từ đó có những bồi dưỡng, khen thưởng và hỗ trợ

kịp thời.

Mặc dù Vietcombank đã được cổ phần hóa, cơ chế lương thưởng đã có những

sự điều chỉnh thay đổi nhất định, song vẫn chưa thật sự hợp lý. Cụ thể,

Vietcombank đã xây dựng chế độ lương thưởng căn cứ theo tính chất và hiệu quả

công việc nhưng vẫn chưa thực sự chính xác, khách quan và công bằng. Việc chi trả

lương thưởng theo kiểu cào bằng hiện vẫn còn áp dụng, hiện tượng chảy máu chất

xám vẫn thường xuyên xảy ra. Vì vậy, cần phải có cơ chế đánh giá đúng mức độ và

tính chất công việc của từng người lao động để trả lương; ghi nhận những cống hiến

để khen thưởng xứng đáng và kịp thời những nhân viên làm việc hiệu quả, đồng

thời cũng có các hình thức phê bình, kỷ luật đối với những cá nhân làm việc không

hiệu quả, phạm nhiều lỗi sai sót, qua đó sẽ kích thích tinh thần và nâng cao hiệu

quả, trách nhiệm làm việc của nhân viên hơn. Đồng thời, phải có những chính sách

đãi ngộ thỏa đáng đối với những nhân viên đã gắn bó làm việc lâu năm và có nhiều

cống hiến cho ngân hàng để động viên giữ chân họ lại.

Ngoài ra, đối với công tác tín dụng, do tình hình hoạt động sản xuất kinh

doanh của khách hàng ngày càng phức tạp, ngành nghề đa dạng, vì vậy cần phải có

sự chuyên môn hóa trong phân công công việc. Nhân viên tín dụng cần được phân

công phụ trách khách hàng theo nhóm ngành nghề, theo địa bàn,… để có điều kiện

tìm hiểu sâu hơn về ngành nghề, về khách hàng, nhóm khách hàng mình phụ trách.

Qua đó nâng cao được hiệu quả phục vụ khách hàng, đảm bảo được chất lượng

thẩm định, xét duyệt cho vay và tiết kiệm thời gian trong quá trình giải quyết hồ sơ

vay của khách hàng.

3.2.1.3. Tăng cường công tác quảng cáo giới thiệu, đưa các tiện tích của dịch vụ

ngân hàng điện tử đến với DNNVV

Hiện nay Vietcombank được xem là một trong những ngân hàng hàng đầu tại

Việt Nam về ứng dụng công nghệ thông tin và khoa học kỹ thuật hiện đại vào ngân

hàng với nhiều dịch vụ ngân hàng điện tử như Internet Banking, SMS Banking,

Phone Banking, VCB – Money, VCB – iBanking,…Tuy nhiên nhiều doanh nghiệp,

75

đặc biệt là các DNNVV lại chưa biết đến và chưa sử dụng các dịch vụ ngân hàng

đầy tiện ích này.

Chính vì lẽ đó, trong thời gian tới ngân hàng cần phải đẩy mạnh công tác tuyên

truyền giới thiệu tính năng của các dịch vụ thông qua nhiều hình thức như phát tờ

rơi, dựng pa nô, treo băng rôn, tổ chức các buổi hội thảo, giao lưu trao đổi kinh

nghiệm, giới thiệu và ứng dụng nghiệp vụ ngân hàng bằng cách quảng cáo phát

sóng trên đài, truyền hình,…

Khi các DNNVV có cơ hội tiếp cận được với các dịch vụ tiện ích của ngân

hàng điện tử mà ngân hàng có thể cung cấp, đây vừa là một sự hỗ trợ từ phía ngân

hàng cho các DNNVV trong việc nâng cao nhận thức và khả năng sử dụng các tiện

ích sản phẩm công nghệ ngân hàng, vừa giúp nâng cao thương hiệu uy tín của ngân

hàng và làm cho khoảng cách giữa ngân hàng với các DNNVV gần nhau hơn. Đây

là cơ hội tốt để ngân hàng có thể mở rộng và lựa chọn nhiều khách hàng tiềm năng

có nhu cầu về vốn vay để tài trợ, hoặc bán chéo các sản phẩm dịch vụ ngân hàng

khác.

3.2.1.4. Mở rộng mạng lưới và nâng cao vai trò thẩm định xét duyệt cho vay

của các điểm, phòng giao dịch

Mặc dù là một trong những ngân hàng lớn và ra đời tương đối lâu trên địa bàn

tỉnh, nhưng mạng lưới giao dịch của Chi nhánh còn khá ít, hiện mới chỉ có 05

phòng giao dịch. Các phòng giao dịch của Chi nhánh cũng thường thành lập sau các

ngân hàng khác và cũng chỉ được giao nhiệm vụ chủ yếu là phát triển các sản phẩm

ngân hàng bán lẻ, thành toán và huy động vốn, điều này đã làm mất đi nhiều cơ hội

tiếp cận, tiếp thị cũng như khả năng cạnh tranh chiếm lĩnh thị phần với các ngân

hàng bạn.

Vì vậy, trong thời gian tới VCB Bình Dương cần phải đẩy mạnh hơn nữa công

tác mở rộng mạng lưới xuống các điểm, phòng giao dịch với khoảng cách giữa các

phòng được bố trí một cách hợp lý và thuận tiện cho khách hàng cũng như cho nhu

cầu phát triển sau này. Giao khu vực quản lý, tiếp thị cho từng phòng giao dịch trên

cơ sở nguyện vọng của khách hàng, tránh trường hợp lôi kéo tiếp thị chồng chéo

76

giữa các phòng giao dịch với nhau tạo tâm lý không tốt và mất uy tín đối với khách

hàng.

Phát triển số lượng phòng giao dịch phải kết hợp với nâng cao chất lượng phục

vụ khách hàng, thông qua một số biện pháp như tăng cường mạng lưới và nâng cao

chất lượng phục vụ của các máy rút tiền tự động (ATM), đơn vị chấp nhận thẻ nhằm

tạo nhiều tiện ích hơn cho khách hàng; chủ động tiếp thị tất cả các sản phẩm của

ngân hàng đến khách hàng thông qua nhiều hình thức khác nhau phù hợp với từng

địa bàn; chú trọng công tác chăm sóc khách hàng trước, trong và sau khi giao dịch,

đặc biệt là các khách hàng tốt, có tiềm năng. Đồng thời, Chi nhánh phải mạnh dạn

trao quyền phán quyết với hạn mức lớn hơn, giao chỉ tiêu cho vay phát triển

DNNVV cho các phòng giao dịch để các phòng này có thể chủ động tiếp cận và

xem xét thẩm định cấp tín dụng, phát huy hết vai trò và khả năng của các phòng

giao dịch.

3.2.1.5. Cần có chiến lược đẩy mạnh công tác huy động vốn

Trong bối cảnh nền kinh tế khó khăn và có nhiều biến động bất ổn như hiện

nay, tính thanh khoản của các ngân hàng đang có dấu hiệu suy yếu, vì vậy các ngân

hàng đã đua nhau cạnh tranh ngày càng gay gắt, bằng nhiều hình thức và bằng nhiều

biện pháp để thu hút tiền gửi từ các tổ chức và dân cư.

Vietcombank là một ngân hàng lớn có nguồn vốn dồi dào, nhưng trước sức ép

từ nền kinh tế, từ sự canh tranh của các ngân hàng bạn cũng như mong muốn giữ uy

tín trong các cam kết giải ngân với khách hàng, thời gian qua Vietcombank cũng

phải thực hiện nhiều giải pháp, nhiều chương trình khuyến mãi để tăng cường

nguồn vồn huy động và đây là nhiệm vụ chính trị phải ưu tiên hàng đầu.

Thực hiện chỉ đạo của ngân hàng nhà nước, của Vietcombank TW về kiểm

soát tăng trưởng tín dụng và giới hạn cho vay loại hình phi sản xuất nhằm kiểm soát

lạm phát, điều tiết ổn định kinh tế vĩ mô, VCB Bình Dương đã phải thực hiện nhiều

biện pháp để điều chỉnh lại tình hình dư nợ trong giới hạn cho phép, có căn cứ trên

nguồn vốn tự huy động được. Vì vậy, VCB Bình Dương chỉ ưu tiên tập trung nguồn

vốn giải ngân cho các khách hàng lớn, khách hàng truyền thống, mang lại nhiều lợi

77

ích cho VCB Bình Dương, ngưng cho vay các khách hàng mới. Chính điều này làm

mất đi nhiều cơ hội cho VCB Bình Dương trong quá trình tiếp cận và phát triển mở

rộng các khách hàng tiềm năng, trong đó có các DNNVV. Vì vậy, để giải quyết bài

toán khó khăn về nguồn vốn huy động trong giai đoạn nhạy cảm hiện nay, đáp ứng

nhu cầu vốn sản xuất cho các DNNVV, VCB Bình Dương nói riêng và các ngân

hàng thương mại nói chung cần thực hiện đồng bộ một số giải pháp sau:

- Tăng cường quảng bá, thương hiệu, hình ảnh uy tín của ngân hàng để tạo

được sự tin tưởng của người gửi tiền. Thực hiện bảo hiểm tiền gửi để bảo đảm

quyền lợi cho người gửi tiền.

- Củng cố và mở rộng mạng lưới hoạt động của ngân hàng trên địa bàn bằng

cách đặt thêm các phòng, điểm giao dịch tại các khu vực trung tâm, khu dân cư tập

trung để thu hút tiền tiết kiệm từ các tầng lớp dân cư và tiền gửi từ các cơ quan tổ

chức. Điển hình Tỉnh Bình Dương đang có rất nhiều khu công nghiệp, cụm công

nghiệp hoạt động, các khu vực này tập trung số lượng lớn các doanh nghiệp và công

nhân từ các địa phương khác đến. Do đó, việc phát triển mạng lưới tại đây vừa thu

hút được lượng tiền gửi thanh toán của các doanh nghiệp vừa thu hút được các

khoản tiền gửi tiết kiệm của hàng trăm ngàn công nhân, người lao động.

- Cần đa dạng hóa các hình thức huy động vốn kèm theo các chương trình

khuyến mãi quà tặng hấp dẫn, rút thăm may mắn trúng thưởng với nhiều mức lãi

suất khác nhau, tương ứng với số tiền gửi và thời gian thực gửi khác nhau. Chú

trọng công tác an ninh trong huy động vốn khách hàng bằng các hình thức hỗ trợ

như có xe chuyên dụng, nhân viên thu tiền tận nơi, kiểm đếm hộ tránh trường hợp

khách hàng nhận tiền thiếu, tiền giả,…

- Mở rộng tuyên truyền, tiếp thị đến các cơ quan, đơn vị kinh tế, doanh nghiệp

thực hiện thanh toán lương qua tài khoản. Hiện phí thanh toán lương qua thẻ ATM

của VCB Bình Dương áp dụng khoảng 3.000 – 4.000 đồng/thẻ (chưa VAT) và mức

tối thiểu áp dụng đối với một số khách hàng truyền thống là 1.000 đồng/thẻ (chưa

VAT) vẫn là khá cao so với một số ngân hàng khác như Đông Á, Techcombank,…

với mức phí chỉ 500 đồng/thẻ. Vì vậy, trong thời gian tới VCB Bình Dương cần

78

nâng cao hơn nữa năng lực cạnh tranh thông qua việc phát triển mạng lưới máy

ATM và phát hành thẻ ATM, nâng cao chất lượng dịch vụ và phục vụ của máy

ATM, đẩy mạnh công tác quảng cáo tiếp thị các khách hàng tiềm năng để phát hành

thẻ miễn phí cho cán bộ công nhân viên và giảm dần phí chuyển khoản lương qua

ATM kết hợp với các công tác bán chéo tiếp thị sản phẩm khác như cấp tín dụng, tài

trợ thương mại, dịch vụ ngân hàng điện tử phục vụ 24/24 để tăng khả năng thu hút

khách hàng. Đồng thời, cố gắng lôi kéo liên kết với các công ty bưu chính, điện lực,

cấp nước, thuế,… để thanh toán tiền điện, nước, điện thoại, thuế qua tài khoản ngân

hàng,…

- Phong cách, thái độ phục vụ là những yếu tố quan trọng trong công tác huy

động vốn đòi hỏi các nhân viên ngân hàng phải có thái độ phục vụ lịch sự, niềm nở,

chu đáo. Trong thực hành nghiệp vụ đòi hỏi phải nhanh chóng, chính xác, an toàn,

tạo được sự hài lòng và tin cậy của khách hàng.

Hiện nay các khách hàng gửi tiền chưa có ưu tiên về thứ tự, vì vậy ngân hàng

cần nên thành lập một bộ phận chuyên trách có phòng riêng để nhận tiền gửi và

phục vụ người gửi tiền chu đáo hơn. Ngoài ra, cũng nên tổ chức các cán bộ nhân

viên có kinh nghiệm, có mối quen biết rộng và ngoại giao tốt hoạt động theo tổ,

nhóm chuyên phụ trách công tác huy động vốn và hỗ trợ cho các khách hàng gửi

tiền để nâng cao hiệu quả công tác huy động vốn.

- Cần đơn giản hóa các thủ tục và rút ngắn thời gian hơn nữa để nhanh chóng

giải ngân đối với hình thức cho vay cầm cố sổ tiết kiệm, giấy tờ có giá do

Vietcombank phát hành để nâng cao tính thanh khoản cho các giấy tờ này, tạo điều

kiện thuận lợi cho người gửi tiền có thể vay lại 100% số tiền đã gửi. Có như vậy

mới tạo tâm lý yên tâm thoải mái và thu hút khách hàng gửi tiền lại khi đáo hạn và

các khách hàng mới.

3.2.1.6. Xây dựng chính sách ưu đãi hợp lý đối với các khách hàng là DNNVV

Việc mở rộng phát triển các khách hàng là DNNVV giúp ngân hàng có thể

phân tán rủi ro trong hoạt động tín dụng, tạo cơ hội trong việc tiếp cận với nhiều

ngành nghề và nhiều khách hàng mới, từ đó hỗ trợ lại cho ngân hàng trong công tác

79

xây dựng hệ thống thông tin và quản trị rủi ro tín dụng tốt hơn. Tuy nhiên, thời gian

qua VCB Bình Dương nói riêng và một số ngân hàng thương mại lớn khác nói

chung thường giành sự ưu đãi về phí, lãi suất và tập trung chú trọng phát triển

khách hàng là các doanh nghiệp lớn. Đây là việc cần thiết cho công tác chăm sóc

khách hàng trong bối cảnh tình hình cạnh tranh ngày càng gay gắt như hiện nay

nhưng ngân hàng cần phải xây dựng các chính sách ưu đãi theo hướng mở rộng và

triển khai một cách hài hòa hiệu quả hơn, vừa bảo đảm hiệu quả kinh doanh của

ngân hàng vừa bảo đảm sự bình đẳng cho khách hàng, tránh trường hợp các

DNNVV cảm thấy bị phân biệt đối xử với các khách hàng lớn khác.

Hiện nay khách hàng DNNVV thường chiếm số đông trong danh sách khách

hàng của các ngân hàng, trong đó có VCB Bình Dương, cấp phê duyệt được phân

quyền là phó giám đốc (còn các khách hàng lớn là Giám đốc, Hội đồng tín dụng cơ

sở,…) nên nhiều khách hàng là DNNVV có tình hình giao dịch tốt, có tiềm năng

phát triển vẫn chưa nhận được sự quan tâm hỗ trợ thích đáng từ phía Ban lãnh đạo

ngân hàng. Vì vậy, ngân hàng cần phải xây dựng một hệ thống báo cáo tổng thể tình

hình hoạt động và giao dịch của các khách hàng, trong đó có các khách hàng là

DNNVV theo các chỉ tiêu như doanh số giao dịch tiền gửi, tiền vay, thanh toán

chuyển tiền, chênh lệch chi phí, lợi nhuận thu được từ khách hàng, uy tín trong vay

trả nợ và thực hiện các cam kết thanh toán, tài sản bảo đảm, phân loại nợ và xếp

hạng khách hàng, cần chú trọng đến người đứng đầu doanh nghiệp, tìm hiểu sở

thích và các mối quan hệ có thể khai thác, mức độ giao dịch với VCB so với các

ngân hàng khác,….. Hệ thống này phải được cập nhật định kỳ hàng tháng hay tối

thiểu là hàng quý và thường xuyên được báo cáo hay tạo khả năng truy cập nhanh

đến Ban lãnh đạo, cấp có thẩm quyền để có những xem xét ưu đãi thích đáng và kịp

thời về hỗ trợ vốn vay, lãi suất và các loại phí khác; chủ động, nhanh chóng đưa ra

các quyết định đối với các nhu cầu của khách hàng, qua đó đánh giá hiệu quả trong

quan hệ với khách hàng và định hướng quan hệ trong tương lai.

3.2.2. Giải pháp đối với Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam

3.2.2.1. Đơn giản hóa quy trình thẩm định và xét duyệt cho vay

80

Hiện tại Vietcombank Việt Nam có 02 quy trình cấp tín dụng đối với khách

hàng là doanh nghiệp. Một là Quy trình cho vay theo Quyết định số 36/QĐ-

NHNT.CSTD ngày 28/01/2008 của Tổng giám đốc Ngân hàng TMCP Ngoại

thương Việt Nam (V/v ban hành Quy trình tín dụng đối với doanh nghiệp nhỏ và

vừa). Hai là Quy trình cho vay theo Quyết định số 246/QĐ-NHNT.CSTD ngày

22/07/2008 của Tổng giám đốc Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam (V/v

ban hành Quy trình tín dụng đối với khách hàng Tổ chức). Nhưng thực tế cách áp

dụng và sử dụng các quy trình cho vay lại không phụ thuộc vào tên gọi của quy

trình hay loại hình doanh nghiệp vay vốn mà phụ thuộc vào số tiền vay của khách

hàng. Cụ thể không phân biệt là doanh nghiệp lớn hay DNNVV, khi khoản đề nghị

cấp tín dụng của khách hàng vượt thẩm quyền xét duyệt của VCB Bình Dương đối

với vay vốn lưu động là 100 tỷ đồng và vay vốn đầu tư dự án là 40 tỷ đồng thì phải

áp dụng Quy trình 246, còn dưới mức đó thì phải áp dụng Quy trình 36. Điều này

chưa đúng với tên gọi của Quy trình cũng như làm cho hồ sơ vay trở nên phức tạp

hơn trong công tác thẩm định và xét duyệt đối với các DNNVV có nhu cầu vay vốn

vượt hạn mức phán quyết của VCB Bình Dương. Khi hồ sơ của các DNNVV được

trình lên một cấp cao hơn để thẩm định lại thì thông thường các điều kiện cấp tín

dụng càng được siết chặt hơn và thực tế nhiều trường hợp các DNNVV không thể

đáp ứng đầy đủ các điều kiện này và phải liên hệ với các TCTD khác.

Đây chính là một trong những rào cản lớn nhất cản trở việc mở rộng tín dụng

của ngân hàng đối với các DNNVV. Việc kéo dài thời gian thẩm định hay các thủ

tục vay vốn có thể làm lỡ mất cơ hội kinh doanh của khách hàng, khiến ngân hàng

bỏ lỡ nhiều cơ hội tiếp cận tài trợ cho các khách hàng tốt và các phương án dự án

khả thi, là nguyên nhân làm giảm khả năng cạnh tranh so với các ngân hàng khác,

đặc biệt là các ngân hàng cổ phần, các ngân hàng nước ngoài vốn có quy trình thủ

tục cho vay rất nhanh gọn.

Vì vậy, VCB cần phải nhanh chóng cải thiện, đơn giản hóa các thủ tục, xây

dựng một quy trình cho vay chỉ áp dụng riêng đối với các DNNVV, trong đó vận

dụng linh hoạt giảm bớt một số thủ tục trong thẩm định xét duyệt cho vay. Không

81

quá cứng nhắc hoặc làm việc theo kiểu sợ trách nhiệm, quá cẩn trọng hay đùn đẩy

công việc mà không xét đến cái tổng thể, cái chung, kết hợp hài hoà giữa lợi nhuận

và rủi ro có thể kiểm soát. Sau đây là một số gợi ý về quy trình cho vay của VCB:

- Đối với thủ tục thẩm định đề xuất:

+ Đối với những khoản cấp tín dụng <= 01 tỷ đồng: không cần chấm điểm,

xếp hạng khách hàng, xác định GHTD lần đầu và hàng năm. Phần đề xuất thẩm

định cấp tín dụng chỉ tập trung vào nguồn trả nợ và đánh giá tài sản bảo đảm;

+ Giá trị cấp tín dụng > 01 tỷ đồng và <= 10 tỷ đồng: không cần chấm điểm,

xếp hạng khách hàng và không cần xác định GHTD hàng năm. Phần đề xuất thẩm

định cấp tín dụng nên tập trung làm rõ thị trường tiêu thụ, nguồn trả nợ và đánh giá

tài sản bảo đảm.

- Đối với hồ sơ nên giảm bớt 01 số thủ tục như sau:

+ Giấy đề nghị vay vốn kiêm phương án trả nợ: chỉ cần 01 bản chính (hiện nay

là 02 bản);

+ Hợp đồng tín dụng: chỉ cần 03 bản chính, ngân hàng giữ 02 bản, khách hàng

giữ 01 bản (hiện nay là 04 bản);

+ Hợp đồng thế chấp tài sản là động sản có công chứng/chứng thực: chỉ cần 03

bản chính, ngân hàng giữ 01 bản, khách hàng giữ 01 bản và cơ quan công

chứng/chứng thực giữ 01 bản (hiện nay là 04 bản);

+ Hợp đồng thế chấp tài sản là bất động sản có công chứng/chứng thực: chỉ

cần 04 bản chính, ngân hàng giữ 01 bản, khách hàng giữ 01 bản, cơ quan công

chứng/chứng thực giữ 01 bản, văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất, tài sản gắn

liền với đất giữ 01 bản (hiện nay là 05 bản);

+ Đơn yêu cầu đăng ký giao dịch tài sản là bất động sản bằng fax/email tại

Trung tâm đăng ký giao dịch tài sản ở Thành phố HCM/Đà Nẵng: chỉ cần 01 bản

chính (hiện nay là 02 bản);

3.2.2.2. Xây dựng hệ thống mạng lưới thông tin hiệu quả

Ngân hàng cần phải xây dựng hệ thống thu nhập và xử lý thông tin từ phía

khách hàng được hiệu quả, chính xác và kịp thời, nhất là những thông tin về tình

82

hình tài chính, rủi ro kinh doanh, thị trường tiêu thụ, quan hệ thanh toán,… Tránh

tình trạng thu thập, xử lý thông tin một cách hời hợt, thiếu thực tế hoặc có giá trị

nhưng không được sử dụng hiệu quả.

Để thực hiện được điều này, trước hết ngân hàng cần phải thành lập bộ phận

nghiệp vụ chuyên thu nhập, xử lý và xây dựng hệ thống thông tin tín dụng nội bộ về

ngành nghề, ngành hàng, các quy định chính sách có liên quan, diễn biến thị trường

trong nước và quốc tế,… Khi cần thiết có thể mua các thông tin từ các tổ chức cung

cấp chuyên nghiệp để xây dựng được hệ thống thông tin đa dạng đáp ứng cho công

tác tín dụng trong toàn bộ hệ thống.

Ngoài ra, để có nguồn thông tin chính xác, đa dạng và hữu ích đòi hỏi phải có

sự nỗ lực của ngân hàng trong việc tiếp cận với khách hàng, với thị trường cũng

như cần có sự hỗ trợ từ cơ sở hạ tầng tài chính - tiền tệ phát triển của nền kinh tế, đó

là vấn đề kiện toàn hệ thống thông tin trên mạng. Giải quyết được vấn đề nêu trên

thực sự là một bước đột phá trong quá trình mở rộng, phát triển tín dụng của ngành

ngân hàng đến các doanh nghiệp, đặc biệt là khu vực DNNVV. Bởi lẽ, nó cho phép

ngân hàng có cơ sở để tin vào doanh nghiệp, hiểu đúng khách hàng của mình hơn

và do đó sẽ mạnh dạn hơn khi đáp ứng nhu cầu vốn.

3.2.2.3. Kiến nghị chỉnh sửa một số điều khoản Chính sách bảo đảm tín dụng

của Vietcombank được ban hành theo Quyết định số 30/QĐ-VCB.CSTD ngày

20/01/2011 có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/04/2011.

Đối với các khách hàng là DNNVV, nhất là các khách hàng mới, doanh nghiệp

chưa có uy tín thương hiệu trên thị trường thì mặc dù dự án, phương án có tính khả

thi cao nhưng ngân hàng cũng thường rất quan trọng đến vấn đề tài sản bảo đảm. Vì

vậy không ít trường hợp các khách hàng có tình hình dự án phương án kinh doanh

tốt nhưng không tiếp cận được vốn vay ngân hàng do tài sản bảo đảm không đủ hay

có tính thanh khoản yếu theo đề nghị và đánh giá của ngân hàng.

Hiện nay Chính sách bảo đảm tín dụng của Vietcombank được ban hành theo

Quyết định số 30/QĐ-VCB.CSTD ngày 20/01/2011 có hiệu lực thi hành kể từ ngày

01/04/2011 đang có nhiều bất cập gây khó khăn cho các chi nhánh trong việc đánh

83

giá và định giá tài sản bảo đảm của khách hàng. Từ đó, ảnh hướng đến các quyết

định cấp tín dụng, vì vậy tác giả kiến nghị chỉnh sửa một số điều khoản chính sách

bảo đảm tín dụng của Vietcombank theo hướng như sau:

- Quy định tại Khoản 1.1 Mục IV Phụ lục 02 của Category X _ Real

Estate (Bất động sản): trường hợp thế chấp quyền sử dụng đất nông nghiệp của hộ

gia đình, cá nhân được Nhà nước giao đất không thu tiền sử dụng đất thì giá trị định

giá được xác định theo giá đất do Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung

ương quy định mà không khấu trừ giá trị quyền sử dụng đất đối với thời gian đã sử

dụng.

Kiến nghị Trung ương sửa đổi giá trị định giá được xác định căn cứ theo

giá thị trường thực tế của lô đất nhận thế chấp hoặc của các lô đất lân cận có

cùng vị trí hoặc căn cứ kết quả định giá của tổ chức định giá độc lập. Từ kết

quả định giá này, tùy từng trường hợp đối tượng khách hàng mà VCB có thể xem

xét cho vay 70% hoặc một tỷ lệ lớn hơn giá trị tài sản bảo đảm nhận thế chấp.

- Quy định tại Khoản 1.2 Mục IV Phụ lục 02 Category X _ Real Estate

(Bất động sản): trường hợp tổ chức kinh tế được Nhà nước cho thuê đất trước ngày

01/07/2004 mà đã trả tiền cho thuê đất cho cả thời gian thuê hoặc đã trả trước tiền

thuê đất cho nhiều năm mà thời hạn thuê đất đã trả trước tiền còn lại ít nhất là 05

năm thì được thế chấp quyền sử dụng đất và được định giá trên 2 cơ sở:

 Giá trị định giá được xác định theo tích số giá thuê đất hiện hành (nếu có)

nhân trong thời gian thuê còn lại;

 Trường hợp không có giá thuê hiện hành thì xác định theo số tiền thuê đất

còn lại đã thanh toán/trả trước.

Kiến nghị Trung ương sửa đổi, điều chỉnh theo hướng: sẽ căn cứ (i) kết

quả định giá của tổ chức định giá độc lập hoặc (ii) đơn giá đất sản xuất, kinh

doanh phi nông nghiệp theo khung giá đất do UBND tỉnh, thành phố trực thuộc

Trung ương quy định để định giá quyền sử dụng đất thuộc trường hợp nêu trên

trong điều kiện xác định được tổ chức kinh tế được Nhà nước cho thuê đất chính là

nhà đầu tư tạo lập nên tài sản thông qua việc thực hiện ứng trước tiền bồi thường,

84

hỗ trợ tái định cư và kinh phí tổ chức bồi thường, giải phóng mặt bằng và được cấp

Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo phương án được cấp có thẩm quyền phê

duyệt.

- Quy định tại Khoản 2.1 Mục IV Phụ lục 02 Category X _ Real Estate

(Bất động sản) về định giá tài sản gắn liền với đất không phải là nhà ở: theo

quy định thì hiện tại chỉ cho phép định giá tài sản gắn liền với đất không phải là nhà

ở (đủ điều kiện thế chấp chính thức) căn cứ vào một điều kiện duy nhất: không vượt

quá chi phí thực tế và hợp lý để hình thành tài sản, được xác định dựa vào hồ sơ,

chứng từ đầu tư và/hoặc xây dựng và/hoặc quyết toán của chủ đầu tư sau khi khấu

trừ phần giá trị khấu hao tài sản theo thời gian thực tế sử dụng tài sản.

Kiến nghị Trung ương điều chỉnh, sửa đổi trường hợp định giá tài sản

gắn liền với đất không phải là nhà ở, trong điều kiện nếu khách hàng không thể

thu thập và xuất trình được đầy đủ các hồ sơ chứng từ liên quan đến việc hình thành

tài sản thế chấp thì cơ sở để định giá tài sản là (i) kết quả định giá của tổ chức

định giá độc lập hoặc (ii) đơn giá bồi thường, hỗ trợ đối với nhà ở, công trình

kiến trúc, cây trái và hoa màu trên đất khi Nhà nước thu hồi đất do UBND tỉnh,

thành phố trực thuộc Trung ương ban hành.

- Quy định tại Mục III Phụ lục 02 Category VII _Vehicle (Phương tiện

giao thông đường bộ) về mức độ ưu tiên nhận bảo đảm và tỷ lệ cấp tín dụng tối

đa theo giá trị định giá: Đối với tài sản là xe máy chuyên dùng đã qua sử dụng (mã

số VH4): Hạn chế nhận thế chấp, theo tác giả là chưa phù hợp. Vì vậy, kiến nghị

Trung ương sửa đổi, điều chỉnh bổ sung việc nhận thế chấp các loại xe máy

chuyên dùng đã qua sử dụng (mã số VH4) với tỷ lệ cấp tín dụng tối đa là 40%

vừa bảo đảm an toàn vừa đa dạng các tài sản bảo đảm nhận thế chấp hơn.

- Quy định tại Khoản 2 Mục IV Phụ lục 02 của Category VII _Vehicle

(Phương tiện giao thông đường bộ) & Category VIII _Vessel (Phương tiện giao

thông đường thủy) về hướng dẫn định giá tài sản bảo đảm: Trường hợp Chi

nhánh tự định giá tài sản bảo đảm, thì giá trị tài sản khi định giá (mới 100% hoặc đã

qua sử dụng) phải khấu trừ thuế (nếu có). Theo quy định này thì việc định giá tài

85

sản đảm bảo thuộc sở hữu cá nhân sẽ khấu trừ phần thuế VAT vào giá trị tài sản là

chưa hợp lý. Vì vậy kiến nghị đối với các tài sản đảm bảo là phương tiện giao

thông đường bộ và phương tiện giao thông đường thủy thì các loại thuế, phí

đều được tính vào giá trị tài sản, trừ các loại thuế chủ sở hữu được khấu trừ

hoặc được hoàn thuế (như thuế VAT đầu vào đối với doanh nghiệp).

3.3. Các giải pháp hỗ trợ của Nhà nước, Ngân hàng Nhà nước và các Hiệp hội

3.3.1. Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật

Cần sớm đưa ra Luật DNNVV để tạo hành lang pháp lý cho các DNNVV

yên tâm hoạt động sản xuất kinh doanh. Thực tế hiện nay, các chính sách và cơ

chế vĩ mô của Nhà Nước còn đang trong quá trình điều chỉnh và sửa đổi, hoàn thiện

dần, chưa ổn định làm cho DNNVV chưa thật sự an tâm dồn hết tâm huyết vào kinh

doanh. Những vấn đề trước mắt cần đề cập trong Luật về DNNVV là xác định đối

tượng các doanh nghiệp cần hỗ trợ, tiêu chí phân loại, xác định ngành nghề, lĩnh

vực ưu tiên, ưu đãi, đơn giản hoá thủ tục hành chính... Khi khung pháp lý cho

DNNVV ra đời sẽ khẳng định rõ ràng hơn về chủ trương khuyến khích phát triển

DNNVV của Nhà nước.

Nhà nước cần có những qui định cụ thể đối với DNNVV nhằm lành mạnh

hoá các quan hệ tài chính – tín dụng, nâng cao trình độ quản lý cho các

DNNVV. Trên thực tế, các báo cáo quyết toán của DNNVV thường không đủ độ tin

cậy, gây nhiều khó khăn cho ngân hàng khi thẩm định. Để khai thông các kênh đầu

tư vốn cho các DNNVV, Nhà nước cần:

- Hỗ trợ kinh phí đào tạo và khuyến khích các DNNVV tự đầu tư đúng mức

cho nguồn nhân lực của mình bằng các ưu đãi về thuế và hành chính.

- Nên thiết lập hệ thống thông tin đăng ký tập trung qua mạng máy tính ở cấp

quốc gia để mọi người dân dễ dàng truy cập được thông tin về tài sản thế chấp, cầm

cố, cho thuê và các phương thức giao dịch có đảm bảo khác.

- Tiếp tục đổi mới thể chế các loại thuế liên quan tới các DNNVV theo hướng

mở rộng đối tượng chịu thuế, đơn giản hóa phương pháp và căn cứ tính thuế; giảm

các trường hợp ưu đãi thuế để đơn giản hóa chính sách ưu đãi, tạo cơ hội cho các

86

DNNVV dễ tiếp cận và hưởng các ưu đãi về thuế như miễn, giảm và giãn thời hạn nộp

thuế, khuyến khích tính tự giác của các doanh nghiệp. Hạn chế áp dụng chế độ thuế

khoán và tiến hành áp dụng chế độ thuế phù hợp hơn để khuyến khích các hộ kinh

doanh cá thể thực hiện đăng ký kinh doanh theo Luật Doanh nghiệp.

Kiến nghị sửa đổi khoản 8 điều 3 Nghị định 163/2006/NĐ-CP ngày

29/12/2006 về hàng hóa luân chuyển trong quá trình sản xuất kinh doanh

Nghị định 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006, khoản 8, điều 3 quy định:

“hàng hóa luân chuyển trong quá trình sản xuất kinh doanh là động sản dùng để trao

đổi, mua bán, cho thuê trong phạm vi hoạt động sản xuất, kinh doanh của bên bảo

đảm”. Như vậy theo định nghĩa này thì hàng hóa luân chuyển trong quá trình sản

suất kinh doanh phải thỏa mãn các điều kiện sau:

(i) Là động sản;

(ii) Mục đích của tài sản là doanh nghiệp dùng để trao đổi, mua bán, cho

thuê trong phạm vi kinh doanh của doanh nghiệp.

Điều kiện (i) tương đối dễ hiểu, tuy nhiên điều kiện (ii) lại rất khó áp dụng

trong thực tế. Lấy ví dụ, một loại tài sản là gỗ trong một doanh nghiệp sản xuất gỗ,

nếu doanh nghiệp dùng gỗ này để bán thương mại thì đó là hàng hóa luân chuyển

trong quá trình sản xuất, kinh doanh, nhưng nếu doanh nghiệp dùng để sản xuất bàn

ghế thì không được, hoặc nếu doanh nghiệp bán với mục đích tẩu tán tài sản, trốn

nợ ngân hàng thì đó cũng không được coi là hàng hóa luân chuyển trong quá trình

sản xuất kinh doanh. Như vậy vấn đề đặt ra là, tại thời điểm ngân hàng nhận thế

chấp lô gỗ nêu trên, do lô gỗ có thể được doanh nghiệp dùng để bán thương mại, có

thể đưa vào sản xuất (động thái diễn ra trong tương lai), thì làm sao ngân hàng xác

định được lô gỗ có phải là hàng hóa luân chuyển trong quá trình sản xuất kinh

doanh hay không?

Ngoài ra, có nhiều cách hiểu về hàng hóa luân chuyển. Có ý kiến cho rằng,

hàng hóa luân chuyển trong quá trình sản xuất kinh doanh không chỉ là các loại

hàng hóa, thành phẩm (mã tài khoản trên bảng cân đối kế toán là 156 và 155) mà

còn có cả các loại nguyên, nhiên vật liệu, tư liệu đầu vào, sản phẩm dở dang (mã tài

87

khoản 152,154,..). Vì vậy, khi nhận thế chấp hàng hóa luân chuyển trong quá trình

sản xuất kinh doanh, đối tượng tài sản thế chấp là tất cả các loại nguyên, nhiên vật

liệu đầu vào, tư liệu đầu vào của quá trình xuất, sản phẩm dở dang, thành phẩm,

hàng hóa.

Trong thực tế, nhiều ngân hàng nhận thấy việc nhận thế chấp này là bất cập

vì quy định chưa rõ ràng cũng như thật khó để đảm bảo quyền lợi cho ngân hàng do

việc kiểm soát của ngân hàng rất hạn chế và rất khó. Tuy nhiên, vì nhiều nguyên

nhân, như khách hàng đã đủ điều kiện cho vay không đảm bảo bằng tài sản nên

ngân hàng thực hiện hình thức nhận thế chấp này với mục đích “có còn hơn không”;

do cạnh tranh, hoặc do khách hàng không có tài sản, không đủ điều kiện cho vay

không có đảm bảo bằng tài sản nhưng ngân hàng vẫn muốn cho vay nên đã thực

hiện hình thức nhận thế chấp này để hợp thức hóa khoản vay. Điều này tạo ra hệ lụy

là ngân hàng không lượng hóa được mức độ rủi ro (giá trị tài sản theo báo cáo lớn

nhưng thực tế nhỏ hơn) và gây ra rủi ro tín dụng lớn hơn.

Về bản chất, hàng hóa luân chuyển trong quá trình sản xuất kinh doanh là

các loại hàng hóa có tính chất luân chuyển nhanh và liên tục trong quá trình hoạt

động của doanh nghiệp, do đó luật đã có quy định riêng về loại hình thế chấp đặc

biệt đối với loại tài sản này nhằm tránh các thủ tục rườm rà, phức tạp mà vẫn đảm

bảo quyền lợi cho các bên. Tuy nhiên để luật đi vào cuộc sống, tài sản đảm bảo phải

đúng nghĩa là tài sảm đảm bảo và để đảm bảo quyền lợi của các bên, từ đó ngân

hàng có thể đánh giá một cách chính xác mức độ rủi ro tín dụng, tác giả đề xuất như

sau: Đề nghị sửa đổi khoản 8, điều 3 Nghị định 163/2006/NĐ-CP ngày

29/12/2006 theo hướng quy định rõ thế nào là hàng hóa luân chuyển trong quá

trình sản xuất kinh doanh, theo đó tại thời điểm thế chấp các bên có thể xác

định được ngay để tiến hành thủ tục thế chấp.

3.3.2. Nâng cao vai trò của Ngân hàng Nhà nước

Thứ nhất, xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật trong lĩnh vực tiền tệ,

quản lý ngoại hối, hoạt động ngân hàng công bằng và minh bạch nhằm tạo sự phát

triển và bảo đảm an toàn hệ thống tiền tệ, ngân hàng. Thi hành các chính sách và

88

quy định pháp luật về tiền tệ và ngoại hối góp phần tạo sự phát triển cho các TCTD,

doanh nghiệp.

Thứ hai, hiện nay các DNNVV muốn vay vốn tại các ngân hàng thương mại,

thường chỉ được các ngân hàng cho vay vốn luân chuyển, ít khi được vay vốn trung

dài hạn để đầu tư máy móc thiết bị, khoa học công nghệ vào hoạt động mở rộng sản

xuất kinh doanh. Vì vậy, Ngân hàng Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ cho các

TCTD thành lập các công ty cho thuê tài chính đáp ứng nhu cầu tín dụng cho các

DNNVV.

Thứ ba, Ngân hàng Nhà nước cần thiết lập, phát triển hệ thống thông tin tín

dụng một cách nhanh chóng và phong phú hơn, đặt biệt cung cấp thông tin

DNNVV. Trong các hệ thống thông tin thì Trung tâm Thông tin tín dụng (CIC) là

nguồn cung cấp dữ liệu chính cho ngân hàng, trong đó chỉ cho biết số dư nợ hiện tại

và tình hình trả nợ vay của khách hàng. Thông tin CIC thường không phản ánh kịp

thời cho ngân hàng khi khách hàng có dư nợ tín dụng ở nơi khác, gây mất tính chính

xác thông tin thu thập được. Do vậy, trong thời gian tới Ngân hàng Nhà nước cần

phải hoàn thiện hệ thống thông tin tín dụng để đạt được tính chính xác, kịp thời và

đầy đủ. Ngoài ra, còn có thể cung cấp xếp loại doanh nghiệp, phân tích tình hình

biến động của thị trường và có biện pháp phòng ngừa rủi ro để các TCTD nâng cao

hiệu quả hoạt động kinh doanh

Thứ tư, Ngân hàng Nhà nước cần phải đưa những văn bản hướng dẫn các quy

định về tín dụng của Chính phủ một cách chính xác, kịp thời hơn nữa để các TCTD

thực thi một cách có hiệu quả nhất.

Thứ năm, nâng cao chất lượng của hoạt động thanh tra, kiểm tra, kiểm toán.

Hoạt động thanh tra, kiểm tra, kiểm toán có vai trò quan trọng trong việc giúp

doanh nghiệp hoạt động theo đúng quy định của pháp luật, tránh tình trạng làm ăn

phi pháp, gian lận, trốn thuế, cạnh tranh không lành mạnh, các hành vi tiêu cực…

Các hiện tượng nêu trên, đặc biệt là hành vi gian lận, trốn thuế của doanh nghiệp

còn diễn ra khá phổ biến. Tình trạng nhũng nhiễu của cán bộ thanh tra, tình trạng

89

tiêu cực của doanh nghiệp trong quá trình thanh tra vẫn còn tồn tại. Vì vậy, để tránh

thất thoát tiền thuế của Nhà nước, lành mạnh hóa hoạt động của doanh nghiệp,

Ngân hàng Nhà nước cần tăng cường đẩy mạnh hoạt động thanh tra, kiểm tra, kiểm

toán, đồng thời nâng cao năng lực, phẩm chất đạo đức của cán bộ thanh tra, tránh

tình trạng nhũng nhiễu, tiêu cực của cán bộ thanh tra. Trường hợp phát hiện hành vi

tiêu cực cần xử lý nghiêm khắc.

Thứ sáu, Ngân hàng Nhà nước tỉnh, UBND tỉnh cùng các cơ quan pháp luật

trong tỉnh cũng cần có sự phối hợp, hỗ trợ tích cực các NHTM trong quá trình giải

quyết thu hồi các khoản nợ xấu, nợ tồn đọng. Nên có một ưu tiên về quỹ thời gian, sự

phối hợp giữa các cơ quan có liên quan trong quá trình xử lý để giúp các NHTM tiết

kiệm được thời gian, chi phí. Một mặt, giúp các NHTM nhanh chóng thu hồi vốn để tái

đầu tư, nâng cao hiệu quả hoạt động, mạnh dạn trong quyết định đầu tư cho vay; mặt

khác, nâng cao vai trò trách nhiệm của các doanh nghiệp trong việc sử dụng vốn

vay, nâng cao tính pháp lý, răn đe của pháp luật.

3.3.3. Nâng cao vai trò của Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam và các Hiệp hội

doanh nghiệp

3.3.3.1. Vai trò của Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam

Là một tổ chức phi lợi nhuận, trên cơ sở nhất trí và thảo luận công khai giữa

các thành viên, Hiệp hội Ngân hàng (HHNH) nên đưa ra một quy chế về những

nguyên tắc trong quản lý và kinh doanh ngành ngân hàng mà tất cả các thành viên

phải tuân thủ, đồng thời giám sát sự tuân thủ các nguyên tắc trên, mục đích là để

hạn chế sự cạnh tranh không lành mạnh và ổn định thị trường ngành ngân hàng. Đối

với thành viên vi phạm quy chế, cũng cần quy định các chế tài trừng phạt như phạt

tiền, kiến nghị thay đổi nhà quản lý cao cấp, không trợ giúp vốn, thông báo cho cơ

quan giám sát ngân hàng, loại bỏ tư cách thành viên,.. đối với các ngân hàng thành

viên vi phạm.

Đề cao trách nhiệm của Hiệp hội trong việc bảo vệ quyền lợi hợp pháp của

nhà đầu tư, Hiệp hội phải làm tốt công tác trung gian liên lạc giữa ngân hàng và nhà

đầu tư, thông qua nhiều cách và phương pháp phổ cập kiến thức tài chính ngân hàng

90

cho nhà đầu tư, để nhà đầu tư hiểu được một cách chính xác những nghiệp vụ của

NHTM, tránh những tranh chấp không đáng xảy ra. Đồng thời, Hiệp hội phải chú ý

ngăn chặn những biểu hiện cạnh tranh xấu giữa các ngân hàng, để bảo hộ nhà đầu tư

không bị xâm hại bởi các hành vi cạnh tranh này.

3.3.3.2. Vai trò của Hiệp hội doanh nghiệp

Cải thiện môi trường pháp lý để cho phép các hiệp hội doanh nghiệp được

thành lập, phát triển và thực hiện những chức năng chính của mình. Tuy nhiên, khi

tiến hành xây dựng những quy định mới về các hiệp hội doanh nghiệp, sẽ rất có ích

nếu Chính phủ tham khảo những chuẩn mực và thông lệ của quốc tế trong lĩnh vực

này. Nhìn chung, kinh nghiệm của các nước khác cho thấy các luật, quy định và hệ

thống quản lý đối với các hiệp hội vừa phải hợp lý và tránh sự lạm dụng, vừa đảm

bảo hạn chế gánh nặng kìm hãm sự ra đời của các hiệp hội cũng như cản trở việc

thực hiện các hoạt động hợp lý của họ.

Các hiệp hội doanh nghiệp nên chú trọng phát triển những vấn đề lớn như kỹ

năng vận động chính sách, tức là thuyết phục người nghe, kỹ năng đối thoại giữa

nhà nước và hiệp hội đại diện cho các doanh nghiệp, đảm bảo độc lập về mặt tài

chính, có được nguồn nhân lực tương đối ổn định, khả năng thu hút hội viên và khả

năng phục vụ hội viên.

Kết luận chương 03

Mở rộng tín dụng DNNVV, dù đã được nhận thức và được quan tâm một cách

đúng mực tại Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam nói chung, Chi nhánh Bình

Dương nói riêng, tuy nhiên do bản thân DNNVV còn nhiều hạn chế, các quy định

của ngân hàng còn nhiều thận trọng, cái nhìn về DNNVV còn nhiều khắt khe cũng

như các khuôn khổ pháp lý chung còn có sự bất cập, vì vậy để có thể mở rộng cho

vay DNNVV một cách hiệu quả thì cần phải thực hiện đồng bộ và tổng hợp nhiều

giải pháp, từ vĩ mô đến vi mô. Có khá nhiều giải pháp đã được đề cập trong chương

3, trong đó để đối tượng DNNVV có thể dễ dàng tiếp cận nguồn vốn ngân hàng thì

bản thân doanh nghiệp trước hết phải nỗ lực nhằm nâng cao năng lực tài chính,

nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, tạo lập uy tín đối với ngân hàng; đối với

91

ngân hàng cần nâng cao tinh thần phục vụ, đa dạng hoá và nâng cao chất lượng

sản phẩm, dịch vụ; đối với các cơ quan nhà nước, các hiệp hội cần nâng cao vai trò

quản lý vĩ mô, nâng cao vai trò hỗ trợ DNNVV. Có như vậy, DNNVV mới thực sự có

điều kiện phát huy hết khả năng, phẩm chất của mình, đóng góp vào sự phát triển

chung của đất nước.

92

KẾT LUẬN

Phát triển DNNVV đang là vấn đề được Đảng và Nhà nước rất coi trọng,

được xem là một trong những nhiệm vụ trọng tâm trong chiến lược phát triển

kinh tế - xã hội của Việt Nam. Các DNNVV đang ngày càng có vai trò quan

trọng và trở thành động lực tăng trưởng kinh tế của nền kinh tế. DNNVV đóng góp

đáng kể vào nền kinh tế quốc dân và có vai trò quan trọng trong quá trình sản xuất,

lưu thông hàng hoá, cung ứng dịch vụ, là các vệ tinh gắn kết, hỗ trợ, thúc đẩy sự phát

triển của các doanh nghiệp lớn. Đặc biệt là Việt Nam bước vào hội nhập từ một nền

kinh tế chưa phát triển, việc phát triển DNNVV sẽ góp phần đa dạng hoá các thành

phần kinh tế, góp phần đáng kể vào sự tăng trưởng GDP của đất nước, đẩy nhanh tốc

độ phát triển của nền kinh tế, tạo ra nhiều sản phẩm hàng hoá, dịch vụ cho nền kinh

tế. DNNVV còn góp phần giải quyết công ăn việc làm và ổn định đời sống xã hội

cho hàng triệu lao động.

Một thực trạng là đa phần các DNNVV có quy mô sản xuất kinh doanh

nhỏ và luôn trong tình trạng thiếu vốn cho việc mở rộng sản xuất kinh doanh, đầu tư

cải tiến máy móc, trang thiết bị mới. Tuy nhiên việc tiếp cận vốn của các DNNVV

còn gặp nhiều khó khăn, do vốn ưu đãi phát triển DNNVV từ các nguồn tài trợ trong

và ngoài nước còn hạn chế trong khi đó năng lực của đa phần DNNVV chưa đáp ứng

các điều kiện để có thể huy động từ thị trường chứng khoán. Chính vì vậy, để mở rộng

sản xuất và phát triển hoạt động kinh doanh, DNNVV chủ yếu tiếp cận nguồn vốn

tín dụng Ngân hàng, nhưng việc tiếp cận nguồn vốn này cũng còn một số hạn chế và

khó khăn nhất định.

Trên cơ sở lý luận chung về DNNVV, về tín dụng ngân hàng, vai trò của

DNNVV trong nền kinh tế và cùng với những phân tích hiện trạng hoạt động cho vay

DNNVV của Ngân hàng TMCP Ngoại thương – Chi nhánh Bình Dương, từ đây

rút ra được những mặt ưu điểm, những mặt hạn chế và những khó khăn mà các

DNNVV trên địa bàn tỉnh Bình Dương đang gặp phải. Tác giả đưa ra một số giải

pháp để giúp các DNNVV nâng cao khả năng tiếp cận nguồn vốn tín dụng của

93

ngân hàng, giúp các DNNVV cũng như các NHTM hoạt động có hiệu quả và phát

triển mạnh mẽ, đóng góp nhiều hơn vào quá trình phát triển kinh tế tỉnh Bình

Dương nói riêng và cả nước nói chung trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.

94

TÀI LIỆU THAM KHẢO

I- Các tài liệu:

1. PGS.TS Nguyễn Đăng Dờn, TS Hoàng Đức, TS Trần Huy Hoàng, TS Trầm Xuân

Hương, Th.S Nguyễn Quốc Anh (2005), Tín dụng Ngân hàng, Nhà xuất bản Thống

kê, Tp.HCM.

2. PGS.TS Nguyễn Đăng Dờn (2007), Nghiệp vụ Ngân hàng Trung ương, Nhà xuất

bản Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, Tp.HCM.

3. TS Lê Xuân Bá, TS Trần Kim Hào, TS Nguyễn Hữu Thắng (2006), Doanh nghiệp

nhỏ và vừa của Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, Nhà xuất bản Chính

trị quốc gia, Hà Nội.

4. Trần Huy Hoàng (2003), Quản trị ngân hàng thương mại, NXB Thống kê, TP

HCM.

5. Luật các tổ chức tín dụng số 07/1997/QHX và Luật số 20/2004/QH11 của Quốc

Hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về sửa đổi, bổ sung một số điều của

luật các tổ chức tín dụng.

6. Luật đất đai số 13/2003-QH11.

7. Nghị định 56/2009/NĐ-CP ngày 30/06/2009 về trợ giúp doanh nghiệp nhỏ và

vừa.

8. Nghị định 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 về giao dịch bảo đảm và các văn

bản liên quan về giao dịch bảo đảm.

9. Và một số Quyết định, Nghị định liên quan của Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước

Việt Nam và Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam.

II - Các tạp chí, tài liệu khác và website:

1. Nguyễn Thanh Bình (2008), “Một số giải pháp tài chính hỗ trợ cho sự phát triển

của doanh nghiệp nhỏ và vừa”, Luận văn thạc sĩ kinh tế, Đại học Kinh tế TP.HCM.

2. Hoàng Anh Dũng (2008), “Lập kế hoạch khởi sự cho các doanh nghiệp vừa và

nhỏ Việt Nam”, Luận văn thạc sĩ kinh tế, Đại học Kinh tế TP.HCM.

95

3. Thạc sĩ Nguyễn Quốc Nghi (2011), “Khả năng tiếp cận nguồn tín dụng hỗ trợ của

doanh nghiệp nhỏ và vừa”, Thị trường tài chính tiền tệ, 19 (340), tr. 21-25.

4. Thạc sĩ Nguyễn Quốc Nghi (2011), “Nhân tố nào ảnh hưởng đến lượng cầu tín

dụng chính thức doanh nghiệp nhỏ và vừa”, Thị trường tài chính tiện tệ, 7 (328), tr.

30-32.

5. Thạc sĩ Phạm Hùng Thắng (2011), “Để nâng cao hiệu quả bảo lãnh tín dụng đối

với doanh nghiệp nhỏ và vừa”, Thị trường tài chính tiện tệ, 19 (340), tr. 25-28.

6. Trang Web Cục phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa (ASMED Business

Portal) - www.business.gov.vn/asmed.

7. Trang Web Ngân hàng Nhà nước Việt Nam - www.sbv.vn.

8. Trang web Tổng cục thống kê - www.gso.gov.vn.

9. Trang Web UBND tỉnh Bình Dương - www.binhduong.gov.vn.