LUẬN VĂN:

Các giải pháp thúc đẩy quá trình sắp xếp, đổi mới

doanh nghiệp nhà nước để nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước ở tỉnh Quảng Bình hiện nay

mở đầu

1. Sự cần thiết của đề tài nghiên cứu

Trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,

kinh tế nhà nước mà nòng cốt là doanh nghiệp nhà nước luôn được coi là một công cụ

quan trọng là lực lượng vật chất để điều tiết và định hướng nền kinh tế thị trường theo định

hướng xã hội chủ nghĩa.

Thực hiện chủ trương đổi mới doanh nghiệp, hơn 10 năm qua các doanh nghiệp nhà

nước ở Quảng Bình đã có nhiều chuyển biến tích cực, thực hiện vai trò chủ đạo trong nền

kinh tế tỉnh. Tuy nhiên, bên cạnh những thành công, mặt tích cực, trong quá trình phát triển

doanh nghiệp nhà nước ở tỉnh còn bộc lộ những tồn tại yếu kém, chưa tương xứng với yêu cầu

đòi hỏi và năng lực sẵn có của doanh nghiệp nhà nước. Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX đã

khẳng định:

Trong 5 năm tới cơ bản hoàn thành việc sắp xếp, điều chỉnh cơ cấu, đổi

mới và nâng cao hiệu quả hoạt động các doanh nghiệp nhà nước hiện có, đồng thời

phát triển thêm doanh nghiệp nhà nước mà Nhà nước đầu tư 100% vốn ở một số

ngành, lĩnh vực then chốt và địa bàn quan trọng. Xây dựng một số tập đoàn kinh tế

mạnh trên cơ sở các Tổng công ty nhà nước, có sự tham gia của các thành phần

kinh tế thực hiện tốt các chủ trương cổ phần hóa và đa dạng hóa sở hữu đối với các

doanh nghiệp của Nhà nước không cần nắm giữ 100% vốn; giao, bán, khoán, cho

thuê... các doanh nghiệp loại nhỏ mà Nhà nước không cần nắm giữ; sáp nhập, giải

thể, phá sản những doanh nghiệp hoạt động không hiệu quả và không thực hiện

được các biện pháp trên [5].

Từ thực tế những mặt tồn tại, yếu kém của doanh nghiệp nhà nước

ở Quảng Bình trong thời gian qua và phương hướng, mục tiêu đổi mới phát triển doanh

nghiệp nhà nước trong những năm tới, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa và

hiện đại hóa đất nước. Do vậy việc chọn đề tài: " Các giải pháp thúc đẩy quá trỡnh sắp

xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước để nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước ở

tỉnh Quảng Bỡnh hiện nay " là một vấn đề vừa có tính thời sự cấp bách, vừa có ý nghĩa

về lý luận đối với việc đổi mới, phát triển khu vực doanh nghiệp nhà nước.

2. Mục đích nghiên cứu của đề tài

Làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về doanh nghiệp nhà nước, sự cần thiết phải

đẩy mạnh quá trình sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước cũng như các hình thức sắp

xếp lại doanh nghiệp nhà nước.

Phân tích, đánh giá thực trạng sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước ở tỉnh

Quảng Bình trong những năm vừa qua.

Xác định phương hướng và giải pháp thúc đẩy quá trình sắp xếp, đổi mới doanh

nghiệp nhà nước để nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước ở Quảng Bình trong thời

gian tới.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài

Luận văn không đề cập toàn bộ những vấn đề về sắp xếp, đổi mới trong các doanh

nghiệp nói chung mà chỉ đi sâu nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về sắp xếp,

đổi mới đối với doanh nghiệp nhà nước. Với thực tiễn quá trình sắp xếp, đổi mới doanh

nghiệp nhà nước trên địa bàn tỉnh Quảng Bình từ năm 1998 - 2003 để minh họa cho những

vấn đề lý luận được đề cập trong luận văn.

4. ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài

Hệ thống hóa và làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về doanh nghiệp nhà nước,

vai trò doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế thị trường, xu thế tất yếu của việc sắp xếp,

đổi mới doanh nghiệp nhà nước hiện nay.

Phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động và sắp xếp đổi mới của doanh nghiệp nhà

nước của tỉnh Quảng Bình trong thời gian qua. Từ đó, rút ra ưu điểm tồn tại, chỉ rõ nguyên

nhân của các tồn tại đó.

Đề xuất phương hướng và một số giải pháp cơ bản nhằm đẩy nhanh quá trình sắp

xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước để nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước ở tỉnh

Quảng Bình trong thời gian tới.

5. Bố cục của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn

được trình bày thành 3 chương:

Chương 1: Doanh nghiệp nhà nước và sự cần thiết phải sắp xếp, đổi mới doanh

nghiệp nhà nước trong điều kiện nền kinh tế nhiều thành phần và hội nhập quốc tế.

Chương 2: Thực trạng sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước ở Quảng Bình

trong thời gian qua.

Chương 3: Phương hướng và giải pháp thúc đẩy quá trình sắp xếp, đổi mới doanh

nghiệp nhà nước để góp phần nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước ở Quảng Bình

hiện nay.

Chương 1

Doanh nghiệp nhà nước và sự cần thiết phải sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước

trong điều kiện

nền kinh tế Nhiều thành phần và hội nhập Quốc tế

1.1. Lý luận chung về Doanh nghiệp nhà nước

1.1.1. Quan niệm về doanh nghiệp nhà nước

Doanh nghiệp nhà nước là bộ phận cấu thành quan trọng nhất của kinh tế nhà

nước, quan trọng nhất nhưng không phải đồng nhất và đồng nghĩa với kinh tế nhà nước.

Do vậy phải điểm lại các quan niệm về doanh nghiệp nhà nước có ý nghĩa rất quan trọng

cả về lý luận và thực tiễn. Trên thế giới, khi nghiên cứu hoặc đề xuất phương án cải cách

doanh nghiệp nhà nước, các học giả có quan niệm khác nhau về doanh nghiệp nhà nước,

các định nghĩa pháp lý và học thuật về doanh nghiệp nhà nước của các quốc gia khác nhau

cũng rất khác nhau. ở nước ta quan niệm về doanh nghiệp nhà nước qua các thời kỳ đổi

mới quản lý cũng đã thay đổi rất nhiều và rất nhiều học giả, nhà quản lý đôi khi lẫn lộn

giữa khái niệm doanh nghiệp nhà nước với các khái niệm gần nghĩa khác dẫn đến hiểu sai

lệch về vai trò, vị trí của doanh nghiệp nhà nước và cuối cùng dẫn đến cách thức tổ chức

quản lý, đổi mới doanh nghiệp nhà nước có sự khác nhau giữa các ngành, các địa phương.

Trong điều kiện kinh tế kế hoạch hóa tập trung, doanh nghiệp nhà nước (trước đây

gọi là xí nghiệp quốc doanh) chiếm vai trò độc tôn trong nền kinh tế, đó là những doanh

nghiệp hạch toán kinh tế theo nguyên tắc thu đủ, chi đủ, bao cấp (Trung Quốc gọi là cơ

chế ăn nồi cơm chung, Liên Xô cũ gọi là cơ chế chi phí). Về mặt sở hữu, đó là những

doanh nghiệp do Nhà nước đầu tư vốn 100%, trực tiếp quản lý.

Khi chuyển sang cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, việc chuyển đổi

(cải cách, đổi mới) cơ chế quản lý đối với doanh nghiệp nhà nước luôn là vấn đề trung

tâm. Kết quả là các doanh nghiệp nhà nước không những thay đổi về nguyên tắc hoạt

động, cơ chế quản lý và hạch toán mà còn thay đổi cả cơ cấu sở hữu, phát triển một số

hình thức đan xen sở hữu hoàn toàn mới. Chính vì vậy, Luật doanh nghiệp nhà nước ban

hành ngày 20/4/1995 (lần đầu tiên ở Việt Nam) đã đưa ra khái niệm có tính pháp lý về

doanh nghiệp nhà nước như sau:

Doanh nghiệp nhà nước là tổ chức kinh tế do Nhà nước đầu tư vốn,

thành lập và tổ chức quản lý, hoạt động kinh doanh hoặc hoạt động công ích,

nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội do Nhà nước giao. Doanh nghiệp

nhà nước có tư cách pháp nhân, có các quyền và nghĩa vụ dân sự, tự chịu trách

nhiệm về toàn bộ hoạt động kinh doanh trong phạm vi số vốn do doanh nghiệp

quản lý [1].

Qua gần 10 năm thực hiện, Luật đã có một vai trò rất quan trọng trong việc củng

cố và phát triển doanh nghiệp nhà nước, góp phần tăng cường vai trò chủ đạo của kinh tế

nhà nước, thu hút đầu tư nước ngoài, bảo đảm tính định hướng xã hội của nền kinh tế thị

trường ở nước ta. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, thời gian qua còn nhiều

doanh nghiệp nhà nước hoạt động kém hiệu quả, năng lực cạnh tranh yếu, có nhiều nguyên

nhân dẫn đến tình trạng này như những yếu kém về trình độ quản lý, công nghệ thiết bị lạc

hậu... trong đó, có một nguyên nhân quan trọng là những vướng mắc về thể chế, chính

sách tổ chức quản lý đối với doanh nghiệp nhà nước làm cho khu vực doanh nghiệp này

thiếu tính năng động, tự chủ, tự chịu trách nhiệm. Bên cạnh đó, sau khi Luật doanh nghiệp

nhà nước có hiệu lực thi hành, đã có nhiều văn bản liên quan đến hoạt động của doanh

nghiệp nói chung được ban hành như Luật doanh nghiệp, Luật thuế, Luật thương mại...

Trong đó, hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp theo Luật doanh nghiệp được đổi

mới hơn so với doanh nghiệp hoạt động theo Luật doanh nghiệp nhà nước. Do vậy, để thực

hiện có hiệu quả Nghị quyết Hội nghị lần thứ 3 Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa IX

về sắp xếp, đổi mới, phát triển doanh nghiệp nhà nước nhằm nâng cao hiệu quả và tiến tới

hình thành một mặt bằng pháp lý chung cho mọi loại hình doanh nghiệp, Luật doanh

nghiệp nhà nước đã được Quốc hội thông qua và có hiệu lực từ ngày 1/7/2004, khẳng định:

"Doanh nghiệp nhà nước là tổ chức kinh tế do Nhà nước sở hữu toàn bộ vốn điều lệ hoặc

có cổ phần, vốn góp chi phối, được tổ chức dưới hình thức công ty nhà nước, công ty cổ

phần, công ty trách nhiệm hữu hạn" [15].

1.1.2. Phân loại doanh nghiệp nhà nước

Doanh nghiệp nhà nước có thể được xem xét phân loại theo nhiều tiêu thức khác

nhau. Sau đây là một số cách phân loại chủ yếu:

Xét theo mức độ sở hữu, doanh nghiệp nhà nước có hai loại: Loại doanh nghiệp

nhà nước chỉ có một chủ sở hữu vốn duy nhất là Nhà nước; loại doanh nghiệp nhà nước có

nhiều chủ sở hữu vốn, trong đó nhà nước nắm giữ một phần sở hữu nhất định.

Xét theo mục tiêu kinh tế - xã hội, doanh nghiệp nhà nước được chia thành: doanh

nghiệp hoạt động vì mục tiêu phi lợi nhuận (hoạt động công ích); doanh nghiệp hoạt động vì

mục tiêu lợi nhuận (hoạt động kinh doanh) [8], [7].

Căn cứ vào sự khác nhau về địa vị pháp luật, doanh nghiệp nhà nước có thể chia

thành ba loại:

- Doanh nghiệp nhà nước do chính phủ trực tiếp quản lý, không có đầy đủ địa vị

pháp nhân độc lập: loại doanh nghiệp nhà nước có nguồn vốn từ ngân sách của các cơ quan

chủ quản thuộc chính phủ và các đại biểu chính phủ tham gia vận hành kinh tế mà chủ yếu là

các xí nghiệp liên quan đến quốc kế dân sinh như y tế, giao thông công cộng, điện nước, bưu

chính, đường sắt, sản xuất vũ khí... Hiện nay, loại doanh nghiệp nhà nước này không còn

thấy nhiều ở các nước.

- Doanh nghiệp nhà nước có đầy đủ pháp nhân và toàn bộ tài sản thuộc về nhà

nước: Đây là các doanh nghiệp nhà mà toàn bộ tài sản do nhà nước đầu tư và có đầy đủ địa vị

pháp nhân độc lập. ở các nước trên thế giới loại hình doanh nghiệp này thường thuộc các lĩnh

vực công cộng, lấy việc phục vụ xã hội làm mục tiêu cơ bản, như: đường sắt, bưu chính, điện,

khí, ga, nước sạch... Loại doanh nghiệp nhà nước này là những thực thể kinh tế được lập ra và

kinh doanh dựa vào một pháp quy cụ thể nào đó của nhà nước, đồng thời lệ thuộc vào cơ quan

quản lý của nhà nước, tuy có đầy đủ địa vị pháp nhân độc lập, đồng thời có quyền tự chủ kinh

doanh nhất định trong phạm vi đã xác định nhưng các doanh nghiệp này đều phải lấy một mục

tiêu nào đó của Nhà nước làm tôn chỉ hoạt động kinh doanh và chấp hành sự điều tiết kinh tế

và quản lý nhất định của Chính phủ.

- Doanh nghiệp nhà nước hỗn hợp có địa vị pháp nhân độc lập và Nhà nước nắm

quyền sở hữu một phần tài sản: phần lớn ở các nước tư bản, doanh nghiệp nhà nước hỗn

hợp là hình thức chủ yếu nhất trong mọi loại hình doanh nghiệp nhà nước. Đặc điểm lớn

nhất của loại doanh nghiệp nhà nước này là nhà nước tham dự cổ phần, nhờ đó có thể

khống chế chúng. Nhưng doanh nghiệp nhà nước loại này hoạt động kinh doanh theo

nguyên tắc của doanh nghiệp tư nhân, thu lợi nhuận kinh doanh qua cạnh tranh với các

doanh nghiệp khác, đồng thời, bằng chế độ tham dự, nhà nước có thể triển khai các hoạt

động có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển của đất nước bao gồm những công trình

cơ sở hạ tầng như ngân hàng, đường sắt, đường bộ, vận tải biển và cũng có thể triển khai

mở rộng vào các ngành công nghiệp mới. Doanh nghiệp nhà nước theo chế độ nhà nước

tham dự ngày càng tỏ ra là loại hình doanh nghiệp nhà nước có hiệu quả nhất [9], [10].

Dựa theo cấp độ quản lý, doanh nghiệp nhà nước được chia thành:

- Doanh nghiệp nhà nước địa phương (doanh nghiệp địa phương): là những doanh

nghiệp chịu sự quản lý về mặt hành chính của các cơ quan, ban ngành cấp tỉnh.

- Doanh nghiệp nhà nước Trung ương (doanh nghiệp Trung ương): là những

doanh nghiệp vừa chịu sự quản lý về mặt hành chính của các cơ quan, ban ngành cấp tỉnh

cũng đồng thời chịu sự quản lý và chi phối trực tiếp trực tiếp của các cơ quan quản lý cấp

trên theo ngành dọc như các Tổng công ty (Tổng công ty Điện lực), các liên hiệp xí nghiệp

(liên hiệp xí nghiệp đường sắt), các Cục, Tổng cục…

1.1.3. Vai trò của doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế thị trường

Trong điều kiện phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo

cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, kinh tế nhà nước mà nòng cốt là các doanh

nghiệp nhà nước và hệ thống thể chế kinh tế vĩ mô luôn được xác định là hai công cụ quan

trọng để Nhà nước thực hiện vai trò chủ đạo của mình trong nền kinh tế quốc dân, dẫn dắt

nền kinh tế phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Vai trò của doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế thị trường được thể hiện trên

các mặt chủ yếu sau:

Doanh nghiệp nhà nước có vị trí rất quan trọng, góp phần để kinh tế nhà nước thực

hiện vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân, là động lực thúc đẩy phân bố lại dân cư

theo hướng công nghiệp hóa, hình thành các trung tâm kinh tế văn hóa, đô thị mới, trang bị

lại kỹ thuật, đổi mới công nghệ cho toàn bộ nền kinh tế quốc dân, đào tạo bồi dưỡng cán

bộ kỹ thuật, công nhân lành nghề và tạo thêm điều kiện hạ tầng để phát triển đất nước.

Nhờ liên tục đổi mới hệ thống chính sách đối với doanh nghiệp nhà nước nói riêng

và kinh tế nhà nước nói chung, đã bước đầu hình thành đòn bẩy thu hút và khuyến khích

các thành phần kinh tế khác liên doanh với doanh nghiệp nhà nước, phát huy sức mạnh

tổng hợp của nền kinh tế.

Doanh nghiệp nhà nước là công cụ vật chất để Nhà nước điều tiết nền kinh tế và

hướng dẫn nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Doanh nghiệp nhà

nước đã và đang chiếm vị trí quan trọng trong nhiều ngành kinh tế chủ chốt, bảo đảm các

điều kiện cơ sở hạ tầng, dịch vụ xã hội ngày một tốt hơn. Doanh nghiệp nhà nước giữ vai

trò quyết định trong việc cung cấp những sản phẩm trọng yếu cho nền kinh tế quốc dân,

như điện, xi măng, sắt thép, phân bón, xăng dầu, giấy viết... là lực lượng chủ yếu thực hiện

các chính sách xã hội thông qua các doanh nghiệp công ích, nhờ có doanh nghiệp nhà

nước và lực lượng vũ trang mà chúng ta có khả năng ứng phó có kết quả trong việc khắc

phục ảnh hưởng và hậu quả của thiên tai.

Doanh nghiệp nhà nước góp phần điều tiết cơ cấu nền kinh tế theo hướng công

nghiệp hóa, hiện đại hóa. Sự phát triển mạnh của doanh nghiệp nhà nước trong các ngành

công nghiệp, dịch vụ góp phần tăng nhanh tỷ trọng GDP của các ngành này trong nền kinh

tế; các ngành thuộc cơ sở hạ tầng như: giao thông. năng lượng, bưu chính viễn thông đã

tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế khác phát triển. Doanh nghiệp nhà nước được

thành lập ở vùng núi, vùng có nhiều khó khăn góp phần thay đổi kinh tế vùng lãnh thổ.

Mặc dù đã giảm mạnh về số lượng doanh nghiệp và phần tài trợ của Nhà nước,

doanh nghiệp nhà nước vẫn đạt được nhiều tiến bộ trong việc bảo đảm hầu hết yêu cầu sản

phẩm và dịch vụ công ích, các điều kiện giao thông, điện, nước, thông tin, vật tư, hàng hóa

cho xuất khẩu và thị trường trong nước, đóng góp cho ngân sách nhà nước.

Doanh nghiệp nhà nước đóng vai trò quan trọng trong việc thực hiện các chính

sách xã hội và ổn định kinh tế - xã hội, góp phần cùng với khu vực kinh tế khác giải quyết

các vấn đề việc làm, thu nhập cho người lao động, xóa đói giảm nghèo, phát triển văn hóa

giáo dục, y tế làm cơ sở và nền tảng cho yêu cầu từng bước hình thành chế độ mới.

Tóm lại, doanh nghiệp nhà nước ở nước ta hiện nay vẫn giữ được vai trò quan

trọng trong nền kinh tế, góp phần chủ yếu để kinh tế nhà nước thực hiện được vai trò chủ

đạo, ổn định và phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.

1.1.4. Đặc điểm của doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế thị trường

Là một loại hình trong cộng đồng các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh trong

nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp nhà nước có các đặc trưng chung như mọi doanh

nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác như:

- Là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký

kinh doanh theo quy định nhằm thực hiện các mục đích hoạt động kinh doanh.

- Chức năng của doanh nghiệp bao gồm các hoạt động sản xuất, cung ứng dịch vụ,

trao đổi, hợp tác và tiêu thụ sản phẩm.

- Mục tiêu kinh doanh của doanh nghiệp là tối đa hóa lợi ích kinh tế, trước hết là

mục đích sinh lợi.

- Tư cách pháp nhân của doanh nghiệp là điều kiện cơ bản, quyết định sự tồn tại

của doanh nghiệp trong nền kinh tế.

Ngoài những đặc điểm chung kể trên, các doanh nghiệp nhà nước cũng có những

đặc điểm riêng, đó là:

- Chủ sở hữu tài sản, tiền vốn trong doanh nghiệp nhà nước là Nhà nước dưới hình

thức sở hữu toàn dân. Do vậy, các doanh nghiệp nhà nước thường phải chịu áp lực quản lý

hoặc điều tiết của Chính phủ như giá bán, nguồn cung cấp nguyên liệu, họ không được chủ

động hoàn toàn trong việc lựa chọn các mặt hàng kinh doanh và phương án đầu tư. Hơn

thế, các doanh nghiệp nhà nước thường chịu sự chi phối của không chỉ một cơ quan chủ

quản, mỗi cơ quan lại có một yêu cầu riêng về quản lý, vì vậy một quyết định có tính chiến

lược kinh doanh thường được triển khai chậm, có khi còn mất cả cơ hội do phải trình duyệt

qua nhiều cửa, nhiều cấp quản lý.

- Hoạt động của doanh nghiệp nhà nước ngoài mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận, vẫn

có một số trường hợp lợi nhuận không phải là mục tiêu cơ bản quan trọng nhất (như đối

với doanh nghiệp hoạt động công ích). Vì ngoài việc đầu tư phát triển để thu được lợi

nhuận tối đa, các doanh nghiệp nhà nước đôi khi còn phải đầu tư vào các chương trình phù

hợp với kế hoạch quốc gia hoặc hy sinh lợi nhuận để thực hiện các mục tiêu xã hội.

- Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, doanh nghiệp nhà

nước giữ vai trò then chốt để kinh tế nhà nước thực hiện vai trò chủ đạo và ổn định nền

kinh tế - xã hội. Doanh nghiệp nhà nước đóng vai trò tích cực như cung cấp những dịch

vụ, cơ sở vật chất quan trọng cho nền kinh tế quốc dân, gánh lấy những rủi ro trong sự phát

triển kinh tế; giải quyết một loạt các vấn đề kinh tế - xã hội, đồng thời tiến hành các chức

năng đặc biệt như an ninh, quốc phòng…

Các đặc điểm nêu trên không những có ảnh hưởng và chi phối rất lớn đến công tác

hoạch định cơ chế chính sách tài chính đối với doanh nghiệp nhà nước mà còn ảnh hưởng

đến cơ cấu tổ chức, quản lý doanh nghiệp nhà nước.

1.2. Sự cần thiết phải sắp xếp, đổi mới Doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam

1.2.1. Những yếu kém, tồn tại của doanh nghiệp nhà nước cần được khắc phục

Thực hiện đường lối đổi mới, hơn 10 năm qua khu vực doanh nghiệp nhà nước đã

có nhiều chuyển biến tích cực, thể hiện được vai trò chủ đạo của mình trong nền kinh tế.

Tuy nhiên, bên cạnh những thành công, những mặt tích cực, trong quá trình phát triển

doanh nghiệp nhà nước còn bộc lộ những yếu kém, tồn tại, chưa tương xứng với yêu cầu

và năng lực sẵn có của doanh nghiệp nhà nước, cụ thể là:

- Thứ nhất, hiệu quả sản xuất kinh doanh và sức cạnh tranh của doanh nghiệp nhà

nước còn thấp, chưa tương xứng với điều kiện và lợi thế có được; tốc độ tăng trưởng của

doanh nghiệp nhà nước có biểu hiện giảm dần, nợ khó đòi ngày càng lớn.

Về hiệu quả kinh doanh, mặc dù đã được đầu tư và ưu đãi nhiều từ phía Nhà nước,

sau nhiều lần sắp xếp tổ chức lại và đổi mới cơ chế, nhưng các doanh nghiệp nhà nước vẫn

chưa chứng tỏ được hiệu quả của mình so với khu vực dân doanh, chưa đáp ứng được

mong muốn của Đảng và Nhà nước, chưa tương xứng với tiềm lực và ưu đãi do Nhà nước

dành cho.

Một doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả theo các tiêu chí hiện hành do Bộ Tài

chính quy định, phải đạt các tiêu chuẩn: bảo toàn và phát triển được vốn, phải trích đủ khấu

hao tài sản cố định; lương bình quân phải bằng hoặc vượt mức bình quân của doanh nghiệp

cùng ngành nghề trên địa bàn; trả đầy đủ các khoản nợ đến hạn, nộp đủ các khoản thuế theo

luật định; có lãi và trích lập đủ các quỹ doanh nghiệp như: dự phòng tài chính, trợ cấp mất

việc làm, đầu tư phát triển, khen thưởng, phúc lợi. Nhưng theo số liệu báo cáo năm 2003 của

Bộ Tài chính, trong tổng số 4.800 doanh nghiệp nhà nước thì số doanh nghiệp kinh doanh có

lãi chiếm 77,2% (nếu tính theo chỉ tiêu hiệu quả chỉ chiếm 56%); số doanh nghiệp bị lỗ chiếm

13,5% (nếu tính đủ khấu hao giá trị tài sản cố định thì doanh nghiệp làm ăn thua lỗ còn lớn

hơn), số còn lại là những doanh nghiệp nhà nước chưa có hiệu quả, nằm trong tình trạng khi lỗ,

khi lãi và nếu có lãi cũng chỉ là tượng trưng.

Về khả năng cạnh tranh, các doanh nghiệp nhà nước rất yếu kém, biểu hiện rõ

nhất là chất lượng sản phẩm, sức cạnh tranh yếu kém ngay tại thị trường nội địa, có nhiều

ngành, sản phẩm của doanh nghiệp nhà nước đang được bảo hộ tuyết đối (ưu đãi, độc

quyền) hoặc bảo hộ qua hàng rào thuế quan, trợ cấp (qua ưu đãi tín dụng và bù lỗ, miễn

thuế…) nhưng các doanh nghiệp nhà nước vẫn chưa chứng tỏ khả năng cạnh tranh của

mình, thậm chí nhiều doanh nghiệp lại cố gắng luận chứng để Nhà nước tăng cường các

biện pháp bảo hộ mạnh hơn để duy trì việc làm và thị phần. Theo số liệu nghiên cứu gần

đây của Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho thấy, các mặt hàng như thép, xi măng, phân bón, đồ

điện dân dụng, kính xây dựng, sứ xây dựng, xe đạp, động cơ nổ... đều được bảo hộ bằng cả

công cụ thuế quan và phi thuế quan dẫn đến giá trên thị trường Việt Nam cao hơn giá quốc

tế từ 10-50% tùy mặt hàng. Khả năng cạnh tranh kém của các doanh nghiệp nhà nước thể

hiện ngay trên thị trường nội địa: ở những ngành có khả năng sinh lợi, thị phần của các

doanh nghiệp nhà nước có xu hướng giảm sút nhường chỗ cho khu vực đầu tư nước ngoài

và khu vực ngoài quốc doanh, khả năng cạnh tranh kém của các doanh nghiệp nhà nước

trong điều kiện Việt Nam đã và đang thực hiện cam kết hội nhập quốc tế có nguy cơ dẫn

đến tình hình Nhà nước sẽ phải chịu chi phí rất lớn trong tương lai để trợ cấp, duy trì các

doanh nghiệp nhà nước.

Tình trạng công nợ của doanh nghiệp nhà nước hiện nay là khá nghiêm trọng, nợ quá

hạn, nợ khó đòi có xu hướng ngày càng tăng. Trong số 15,1% nợ quá hạn ngân hàng

thương mại thì doanh nghiệp nhà nước chiếm 64,8%, gây khó khăn lớn đến hoạt động của

ngân hàng. Theo Báo cáo của Bộ Tài chính đến hết năm 2003, tổng số nợ phải trả lên tới

207.778 tỷ đồng (tăng 10% so với năm 2002), trong đó nợ quá hạn là 10.716 tỷ đồng, nợ khó

đòi là 2.748 tỷ đồng, tỷ lệ nợ này không phải là cao so với các nước trên thế giới nhưng khả

năng thanh toán lại rất thấp. Thêm vào đó theo thống kê của Bộ Tài chính, ước tính lượng

hàng hóa tồn kho tại các doanh nghiệp nhà nước hiện lên tới 45.600 tỷ đồng, bằng 12,7% tổng

giá trị tài sản của khối doanh nghiệp nhà nước và 26,2% tổng giá trị tài sản lưu động, trong

số hàng tồn kho trên có khoảng 1.155 tỷ đồng hàng hóa thuộc diện ứ đọng không cần

dùng. Ngoài ra, lượng hàng hóa tồn kho lâu ngày bị kém, bị mất phẩm chất cũng lên tới

445 tỷ đồng. Do hầu hết hàng hóa tồn kho là vật tư, nguyên liệu có từ thời bao cấp, lỗi

thời, không tiêu thụ được và để lâu, chất lượng giảm, kỹ thuật lạc hậu nên các doanh

nghiệp cứ để treo chờ Nhà nước có biện pháp xử lý, điều này làm tăng gánh nặng cho chi

phí bảo quản, cất giữ, gây ứ đọng vốn.

Thứ hai, doanh nghiệp nhà nước còn nhiều về số lượng, nhưng lại nhỏ về quy mô,

dàn trải, chồng chéo về ngành nghề và lãnh thổ, địa phương nên dẫn đến tình trạng manh

mún, hạn chế sự tích tụ, tập trung sản xuất.

Đến tháng 12/2003 cả nước có 4.800 doanh nghiệp với tổng số vốn nhà nước

139.293 tỷ đồng, bình quân mỗi doanh nghiệp là 29 tỷ đồng. Số doanh nghiệp nhà nước có

vốn dưới 5 tỷ đồng còn chiếm tới 42,45%, trong khi đó số doanh nghiệp có vốn trên 10 tỷ

đồng chỉ chiếm 29,89%; số doanh nghiệp nhà nước có vốn dưới 5 tỷ đồng chiếm gần 50%

tổng số doanh nghiệp tại 51 tỉnh, trong đó tại 14 tỉnh số doanh nghiệp nhà nước có vốn

dưới 5 tỷ đồng chiếm trên 75%, cũng tại các địa phương này, hơn 30% số doanh nghiệp

nhà nước có vốn dưới 1 tỷ đồng. Đặc biệt có 6 tỉnh con số này là hơn 50% (Bắc Ninh,

Vĩnh Phúc, Kon Tum, Hà Tây, Nam Định và Hà Nam) [2].

Nhiều doanh nghiệp nhà nước cùng loại hoạt động trong tình trạng chồng chéo về

ngành nghề kinh doanh, cơ quan quản lý và trên cùng một địa bàn, tạo ra sự cạnh tranh

không đáng có trong khu vực doanh nghiệp nhà nước với nhau. Hiện nay trên một sân bay

có đến 4 - 5 doanh nghiệp của Tổng Công ty Hàng không Việt Nam và Cục Hàng không

cùng kinh doanh, vừa chồng chéo vừa cạnh tranh lẫn nhau. Các doanh nghiệp thuộc cùng

một ngành kinh tế kỹ thuật rất phân tán, manh mún, trực thuộc nhiều cơ quan quản lý khác

nhau, điển hình là trong các lĩnh vực thương mại, tư vấn, xây dựng; sự kết hợp, hợp tác

giữa các doanh nghiệp nhà nước với nhau và với doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh

tế khác còn lỏng lẻo và chưa thành nề nếp.

Sự chồng chéo, trùng lặp về ngành nghề, về sản phẩm trong khi thị trường còn

chưa được phát triển và sức mua của nhân dân chưa cao đã dẫn đến tình trạng cạnh tranh

không lành mạnh. Đầu tư dàn trải trong khi nguồn vốn rất hạn hẹp, quan hệ cung cầu luôn

không cân đối.

Thứ ba, trình độ kỹ thuật, công nghệ lạc hậu, đầu tư đổi mới công nghệ chậm đã

hạn chế khả năng cạnh tranh và hội nhập của các doanh nghiệp.

Theo thống kê của Bộ Công nghiệp thì các doanh nghiệp nhà nước được trang bị

máy móc thiết bị từ nhiều nước khác nhau (26% của Liên Xô cũ, 25% của các nước Đông

Âu, 20% của các nước ASEAN và Bắc Âu, trên 18% là các nước khác, còn trong nước chỉ

chế tạo chưa đến 12%) và thuộc các thế hệ khác nhau. Theo kết quả khảo sát 727 thiết bị

và 3 dây chuyền nhập khẩu của 42 cơ sở của một ngành do Viện Khoa học Bảo hộ lao

động thuộc Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam tiến hành gần đây thì đến 76% thiết bị

máy móc nhập khẩu thuộc thế hệ những năm 50 - 60, trên 70% đã hết khấu hao, gần 50%

được tân trang lại.

Theo tài liệu của Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường qua khảo sát nhiều

doanh nghiệp thuộc 7 ngành thì máy móc thiết bị, dây chuyền sản xuất lạc hậu so với thế

giới từ 20 đến 30 năm, trình độ cơ khí hóa, tự động hóa dưới 10%, mức độ hao mòn hữu

hình từ 30 đến 50%; có 38% tài sản cố định ở dạng thanh lý; 52% qua bảo dưỡng, sửa

chữa, hậu quả là chưa tạo ra được các sản phẩm có chất lượng và khả năng cạnh tranh cao.

Một số mặt hàng như cơ khí, sắt thép, xi măng, phân bón, kính xây dựng... có mức giá cao

hơn hàng nhập cùng loại từ 20 đến 40% [6], [3].

Thứ tư, tình trạng thiếu việc làm và lao động dôi dư trong các doanh nghiệp nhà

nước đang là một khó khăn lớn, ảnh hưởng đến việc đẩy nhanh quá trình đổi mới và phát

triển doanh nghiệp nhà nước.

Theo số liệu của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội thì hiện nay số lao động

không có việc làm trong doanh nghiệp nhà nước khoảng 6% nhưng trong thực tế nhiều

doanh nghiệp nhà nước có số lao động quá lớn so với yêu cầu như ở Tổng Công ty Than

Việt Nam, Công ty Gang Thép Thái Nguyên, các nhà máy xi măng địa phương… Số lao

động không có việc làm ở các địa phương chiếm tỷ lệ cao hơn, tiếp đến là ở các Bộ, ngành

trung ương. Các địa phương có số lao động không có việc làm đặc biệt cao là Hải Dương

(33%), Nam Định (27%), Hà Tĩnh (23%), Nghệ An (16%), Hải Phòng (15%). Tổng Công

ty Than dôi dư lao động 30%, Tổng Công ty Lương thực miền Bắc dôi dư lao động 28%.

Tổng Công ty Thép Việt Nam dôi dư lao động 12%.

Bên cạnh đó phần lớn người lao động không qua đào tạo hoặc đào tạo rất hạn chế

nên đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến năng suất lao động của doanh nghiệp. Khi chuyển

sang cơ chế tự chủ của doanh nghiệp thì Nhà nước chưa có cơ chế giám sát về tuyển dụng

lao động, trả công lao động và gắn với hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh

nghiệp nên việc tuyển dụng lao động ở nhiều doanh nghiệp còn rất tùy tiện. Mặt khác, cơ

chế chính sách hiện hành chưa làm cho doanh nghiệp giảm được số lao động dôi dư.

Ngoài ra, phần lớn doanh nghiệp nhà nước ở ta đều được hình thành từ cơ chế tập

trung bao cấp hoặc tiếp quản những cơ sở sản xuất kinh doanh của chế độ cũ. Trong giai

đoạn chuyển tiếp sang cơ chế mới đã cho phép các cơ quan, trường học, quận huyện được

thành lập doanh nghiệp nhà nước để "tự cứu" nên hầu hết không đủ những điều kiện tối

thiểu, trách nhiệm tài sản không được phân định rõ ràng, trang bị quá đơn sơ, đội ngũ giám

đốc và công nhân không được đào tạo có hệ thống, phương hướng sản xuất kinh doanh

không gắn với yêu cầu lâu dài của thị trường. Mặt khác, kinh tế tư nhân còn quá non yếu

nên doanh nghiệp nhà nước chưa thể điều chỉnh cơ cấu thật mạnh theo hướng tập trung

vào những lĩnh vực then chốt của nền kinh tế.

Thứ năm, tình trạng thiếu vốn của doanh nghiệp khá phổ biến. Các doanh nghiệp

nhà nước do Nhà nước đầu tư thành lập nhưng vốn Nhà nước cấp không đủ ở mức tối

thiểu cần thiết cho sản xuất kinh doanh. Có gần 60% số doanh nghiệp nhà nước không có

đủ vốn pháp định theo Nghị định 50/CP của Chính phủ. Vốn Nhà nước trong các doanh

nghiệp chỉ chiếm khoảng 60% tổng số vốn kinh doanh, trong đó các Tổng Công ty là 75%,

các doanh nghiệp do Bộ, ngành quản lý là 45%; các doanh nghiệp do địa phương quản lý

là gần 50%. Trên 50% doanh nghiệp chưa có đủ vốn lưu động cần thiết. Trong số vốn lưu

động hiện có cũng chỉ huy động được cho kinh doanh khoảng 50%, còn lại dưới dạng vật

tư mất phẩm chất, kém phẩm chất hoặc các khoản công nợ không có khả năng thu hồi,

khoản lỗ chưa được bù đắp…

Những mặt hạn chế, yếu kém của doanh nghiệp nhà nước nêu trên xuất phát từ nhiều

nguyên nhân. Có thể khái quát một số nguyên nhân chủ yếu sau:

* Nguyên nhân khách quan

Những vấn đề tồn tại của doanh nghiệp nhà nước có nguyên nhân khách quan là

trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế, cơ chế mới đang hình thành, cơ chế cũ chưa được

xóa bỏ triệt để và nhiều vấn đề do lịch sử để lại nặng nề không thể giải quyết được trong

một sớm một chiều.

Trừ một phần nhỏ số doanh nghiệp được thành lập trong giai đoạn đổi mới, còn đa

phần các doanh nghiệp nhà nước của Việt Nam là kế thừa từ thời bao cấp với các đặc

trưng như công nghệ kỹ thuật lạc hậu, không có nguồn thay thế. Nguồn vốn khấu hao để

tái sản xuất giản đơn cũng chưa đủ do chế độ trích nộp khấu hao vào ngân sách nhà nước

những năm trước đây. Lao động vừa thiếu (thiếu lao động lành nghề), vừa thừa (thừa lao động

không đáp ứng yêu cầu công việc) song chưa có cơ chế giải quyết. Cơ cấu doanh nghiệp

nhà nước không hợp lý, không có khả năng tự đổi mới công nghệ cũng như ngành nghề...

Để thoát khỏi tình trạng đó, chúng ta cũng không thể dùng giải pháp phá đi làm lại

bởi năng lực sản xuất của đất nước và đời sống của nhiều con người trông cậy vào đây mà

chỉ có thể dùng biện pháp gỡ rối dần dần, vừa cải tổ, vừa ổn định kinh tế và xã hội, chính

vì thế hiệu quả của hệ thống doanh nghiệp nhà nước chưa thể cải thiện nhanh.

* Nguyên nhân chủ quan

Thứ nhất, chưa nhận thức thống nhất và đầy đủ nội dung đổi mới và phát triển

doanh nghiệp nhà nước; trong tổ chức thực hiện thiếu kiên quyết, không triệt để và chưa

có giải pháp, chính sách cụ thể phù hợp với yêu cầu đổi mới và phát triển doanh nghiệp

nhà nước.

Vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước và vị trí quan trọng của doanh nghiệp nhà

nước chưa được nhận thức đầy đủ và thống nhất đã gây khó khăn lúng túng khi định

hướng và thực hiện các biện pháp đổi mới doanh nghiệp nhà nước nhất là các biện pháp về

sắp xếp, đa dạng hóa sở hữu doanh nghiệp nhà nước. Quá trình sắp xếp vẫn còn mang tính

chất hành chính, chưa gắn với cơ chế điều chỉnh của thị trường, với Luật phá sản, chưa

quan tâm đầy đủ đến yếu tố chất lượng, hiệu quả và khả năng hội nhập nên kết quả còn

nhiều hạn chế. Ttrong khi không đủ khả năng bảo đảm vốn tối thiểu cho doanh nghiệp nhà

nước hoạt động nhưng nhiều ngành, địa phương cho rằng vị trí của doanh nghiệp nhà nước

được thể hiện qua số lượng lớn, tỷ trọng cao nên vẫn muốn duy trì nhiều doanh nghiệp nhà

nước dẫn đến đầu tư quá phân tán và còn thành lập thêm những doanh nghiệp nhà nước,

trong cổ phần hóa vẫn muốn Nhà nước giữ tỷ lệ cổ phần chi phối…

Một hiện tượng không bình thường là gần đây trong khi việc sắp xếp doanh

nghiệp, thu gọn đầu mối, giải quyết những doanh nghiệp thua lỗ kéo dài, khắc phục tình

trạng thiếu vốn còn đang phải đẩy mạnh thì một số doanh nghiệp nhà nước lại được thành

lập chỉ dựa vào các dự án vay vốn đầu tư xây dựng cơ bản, cơ quan sáng lập doanh nghiệp

nhà nước với tư cách là chủ sở hữu nhưng lại không đảm bảo đủ vốn tối thiểu ban đầu cho

doanh nghiệp nhà nước và không nghiên cứu kỹ thị trường tiêu thụ sản phẩm. Do đó nhiều

doanh nghiệp vừa mới bắt đầu hoạt động đã lâm vào tình trạng nợ nần, sản phẩm không

tiêu thụ được, năng suất lao động thấp, nổi bật là trong các lĩnh vực xi măng lò đứng, mía

đường, gạch Tuy-nen.

Thứ hai, cơ chế chính sách quản lý kinh tế, quản lý doanh nghiệp nhà nước còn

nhiều tồn tại, vướng mắc cần tháo gỡ.

Chính sách tài chính tín dụng tuy đã được sửa đổi, bổ sung nhưng vẫn còn nhiều

điểm chưa phù hợp với loại hình doanh nghiệp nhà nước hoạt động công ích và hoạt động

kinh doanh trong cơ chế thị trường. Nhà nước chưa tạo đủ điều kiện và chưa đòi hỏi đúng

mức để doanh nghiệp nhà nước tự chủ, tự chịu trách nhiệm, năng động trong sản xuất kinh

doanh, tích tụ vốn cho đầu tư và đổi mới công nghệ; chưa xây dựng phát triển được đồng

bộ thị trường vốn để tạo ra sự chu chuyển thông suốt trong toàn xã hội, đáp ứng nhu cầu

vốn của doanh nghiệp.

Đặc biệt vốn ban đầu, doanh nghiệp nhà nước nói chung không được Nhà nước

đầu tư đầy đủ mà chỉ đầu tư vào tài sản cố định. Điều này khiến nhiều doanh nghiệp không

đảm bảo được vốn lưu động tối thiểu. Nguyên nhân là Nhà nước thiếu vốn nhưng lại đầu

tư dàn trải, đồng thời pháp luật cũng không quy định rõ mức vốn Nhà nước phải đầu tư

vào doanh nghiệp, không phân biệt rõ tính chất vốn điều lệ, vốn đầu tư dẫn đến trách

nhiệm về đầu tư vốn của chủ sở hữu nhà nước không rõ ràng và đầy đủ.

Chính sách thuế tuy đã được sửa đổi, bổ sung nhưng vẫn còn nhiều điểm bất hợp

lý, chưa ổn định, chưa chú trọng đầy đủ đến việc nuôi dưỡng nguồn thu và phát triển sản

xuất kinh doanh, tạo điều kiện cho doanh nghiệp tích lũy vốn. Chế độ kế toán chưa tạo

điều kiện và bắt buộc doanh nghiệp nhà nước hạch toán đúng kết quả kinh doanh; phân

phối thu nhập chưa tạo được động lực mạnh mẽ cả đối với người quản lý và người lao

động; chính sách tiền lương và phân phối lợi nhuận để lại doanh nghiệp chưa gắn chặt với

hiệu quả sản xuất kinh doanh. Nhiều cơ chế, chính sách tài chính không còn phù hợp với

cơ chế thị trường nhưng chưa được sửa đổi, chẳng hạn như: quỹ dự phòng rủi ro, quỹ dự

phòng thất nghiệp…

Về quản lý nhà nước, chưa phân định rõ ràng các loại quyền như: quyền quản lý

của Nhà nước đối với doanh nghiệp nhà nước; quyền của cơ quan nhà nước với tư cách là

chủ sở hữu; quyền của đại diện chủ sở hữu trực tiếp đối với doanh nghiệp; quyền sử dụng

vốn và quyền chủ động kinh doanh của doanh nghiệp. Đặc biệt, cơ chế thực thi sở hữu nhà

nước vẫn tỏ ra chưa hiệu quả do một mặt, chúng ta thừa nhận quyền tự chủ khá rộng rãi

của doanh nghiệp, nhưng mặt khác vẫn còn tồn tại chế độ chủ quản hành chính trước kia

như: duyệt dự án đầu tư mới, bổ nhiệm cán bộ chủ chốt, kiểm tra theo chức năng của cơ

quan chủ quản… đã dẫn đến tình trạng doanh nghiệp vừa làm vừa lo, còn cơ quan quản lý

nhà nước vẫn thích can thiệp quá nhiều vào công việc của doanh nghiệp mà không phải

chịu trách nhiệm.

Ngoài ra, cải cách hành chính còn tiến hành chậm, chưa theo kịp đòi hỏi thực tiễn

của tiến trình đổi mới doanh nghiệp nhà nước, việc nâng cao hiệu quả, hiệu lực quản lý

nhà nước đối với doanh nghiệp còn hạn chế, còn gây nhiều phiền hà cho doanh nghiệp,

chưa phát huy đầy đủ quyền tự chủ, tính năng động của doanh nghiệp nhà nước trong cơ

chế thị trường.

Thứ ba, sự chậm trễ trong việc thực hiện chủ trương đa dạng hóa sở hữu và cổ

phần hóa, chưa tạo được cơ chế quản lý năng động có hiệu quả và đã làm hạn chế các

kênh huy động vốn của xã hội cho yêu cầu bù đắp phần thiếu hụt vốn đầu tư của Nhà nước

cho doanh nghiệp nhà nước và chậm khắc phục có hiệu quả tình trạng trì trệ và thiếu trách

nhiệm trong lao động, quản lý sử dụng vốn của nhà nước.

Thứ tư, trình độ năng lực quản lý kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước còn

nhiều yếu kém, bất cập so với yêu cầu hạch toán kinh doanh theo cơ chế thị trường, nhất là

đội ngũ giám đốc doanh nghiệp và cán bộ chủ chốt có vai trò hết sức quan trọng đối với

hoạt động doanh nghiệp nhưng do cơ chế theo dõi, tuyển chọn và đào tạo còn nhiều yếu

kém, bất cập do đó một bộ phận không nhỏ cán bộ chủ chốt của doanh nghiệp nhà nước

hiện nay chưa đáp ứng được yêu cầu, kém năng lực phẩm chất và thiếu trách nhiệm, trong

khi đó việc bãi nhiệm, thay thế lại hết sức khó khăn.

Từ những phân tích trên cho thấy, việc tiếp tục đẩy mạnh sắp xếp, đổi mới doanh

nghiệp nhà nước ở nước ta hiện nay vừa đáp ứng được đòi hỏi bức xúc của thực tiễn, vừa

là một tất yếu khách quan để các doanh nghiệp có thể giữ vững, phát huy vai trò chủ đạo

của mình trong nền kinh tế và chuẩn bị cho quá trình hội nhập khu vực và quốc tế.

1.2.2. Phương hướng và mục tiêu sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước trong

nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa

Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng VI, VII, VIII và các Nghị quyết Ban chấp

hành Trung ương về đổi mới và phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ

nghĩa, hơn 10 năm qua Chính phủ đã triển khai nhiều biện pháp sắp xếp, đổi mới doanh

nghiệp nhà nước và đã đạt được một số kết quả tích cực. Tuy nhiên trong quá trình thực

hiện cũng bộc lộ những tồn tại, yếu kém và cũng còn nhiều vướng mắc cần được tiếp tục

xử lý, tháo gỡ để doanh nghiệp nhà nước thực sự phát huy được vai trò chủ đạo trong nền

kinh tế.

Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX đã khẳng định:

Kinh tế nhà nước phát huy vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, là lực

lượng vật chất quan trọng và là công cụ để Nhà nước định hướng và điều tiết vĩ

mô nền kinh tế. Doanh nghiệp nhà nước giữ các vị trí then chốt, đi đầu ứng

dụng tiến bộ khoa học và công nghệ, nêu gương về năng suất, chất lượng, hiệu

quả kinh tế xã hội và chấp hành pháp luật.

Trong 5 năm tới, cơ bản hoàn thành việc củng cố sắp xếp, điều chỉnh cơ

cấu, đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động các doanh nghiệp nhà nước hiện

có, đồng thời phát triển thêm doanh nghiệp mà Nhà nước đầu tư 100% vốn ở

một số ngành, lĩnh vực then chốt và địa bàn quan trọng. Xây dựng một số tập

đoàn kinh tế mạnh trên cơ sở các Tổng Công ty Nhà nước, có sự tham gia của

các thành phần kinh tế. Thực hiện tốt chủ trương cổ phần hóa và đa dạng hóa sở

hữu đối với các doanh nghiệp mà Nhà nước không nhất thiết nắm giữ 100%

vốn; giao, bán, khoán, cho thuê… các doanh nghiệp loại nhỏ mà Nhà nước

không cần nắm giữ; sáp nhập, giải thể, phá sản những doanh nghiệp hoạt động

không hiệu quả và không thực hiện được các biện pháp trên [5].

Mục tiêu của việc tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển doanh nghiệp nhà nước

trong những năm tới là:

- Xây dựng doanh nghiệp nhà nước đủ mạnh góp phần chủ yếu để kinh tế nhà

nước làm tốt hơn vai trò chủ đạo trong nền kinh tế nhiều thành phần định hướng xã hội chủ

nghĩa.

- Làm cho doanh nghiệp nhà nước có cơ cấu hợp lý, hoạt động có hiệu quả và có

sức cạnh tranh cao, chiếm được thị phần lớn trong các ngành và lĩnh vực kinh tế then chốt

để Nhà nước chi phối, điều khiển được nền kinh tế, bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô và các

cân đối lớn của nền kinh tế.

- Làm nòng cốt đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế và xây dựng công nghiệp sản

xuất tư liệu sản xuất, công nghiệp sản xuất công nghệ cao, công nghiệp quốc phòng, đáp

ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

- Bảo đảm được nhu cầu cần thiết cho an ninh, quốc phòng và các sản phẩm dịch

vụ công ích thiết yếu cho xã hội.

Từ những mặt tồn tại, yếu kém của các doanh nghiệp nhà nước trong thời gian qua

và những phương hướng mục tiêu đổi mới, phát triển doanh nghiệp nhà nước trong những

năm tới để doanh nghiệp nhà nước khắc phục được tình trạng phân tán, manh mún, kinh

doanh kém hiệu quả, thực sự phát huy được vai trò chủ đạo trong nền kinh tế đòi hỏi phải

đẩy mạnh việc tổ chức sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước, trong đó việc đẩy mạnh các

giải pháp cổ phần hóa và chuyển đổi sở hữu đối với các doanh nghiệp nhà nước không cần

nắm giữ hình thức sở hữu nhà nước là vấn đề vừa có tính thời sự cấp bách, vừa có ý nghĩa

lâu dài đối với việc đổi mới khu vực doanh nghiệp nhà nước.

1.3. Các hình thức sắp xếp, chuyển đổi sở hữu Doanh nghiệp

nhà nước

Để giải quyết tình hình khu vực doanh nghiệp nhà nước cồng kềnh về mặt số

lượng, yếu kém về mặt chất lượng, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã và đang tích cực thực

hiện sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước thông qua việc chuyển đổi và đa dạng hóa sở hữu

doanh nghiệp nhà nước theo các hình thức cụ thể sau:

1.3.1. Sáp nhập, hợp nhất, giải thể hoặc phá sản doanh nghiệp nhà nước

Sáp nhập doanh nghiệp là loại giao dịch trong đó một hay một số doanh nghiệp từ

bỏ pháp nhân của mình để gia nhập vào một doanh nghiệp khác và sử dụng pháp nhân của

doanh nghiệp này để hoạt động. Thông thường doanh nghiệp nhận sáp nhập phải có tiềm

lực tài chính, kinh doanh lớn hơn doanh nghiệp bị sáp nhập, doanh nghiệp nhận sáp nhập

sẽ tiếp nhận toàn bộ tài sản, quyền và nghĩa vụ cũng như lợi ích hợp pháp của doanh

nghiệp bị sáp nhập. Sau khi việc sáp nhập được hoàn thành doanh nghiệp bị sáp nhập sẽ

chấm dứt sự tồn tại của mình, còn doanh nghiệp nhận sáp nhập sẽ được hưởng các quyền

lợi và lợi ích hợp pháp, đồng thời cũng chịu trách nhiệm về các khoản nợ chưa thanh toán,

các hợp đồng lao động và các nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp bị sáp nhập.

Khác với hình thức sáp nhập, việc hợp nhất các doanh nghiệp là giao dịch trong

đó hai hoặc một số doanh nghiệp thỏa thuận với nhau hợp nhất lại để hình thành một pháp

nhân mới. Nói một cách đơn giản đó là sự ra đời của một doanh nghiệp mới từ sự kết hợp

một số doanh nghiệp cũ. Các doanh nghiệp tham gia hợp nhất đều từ bỏ pháp nhân của

mình để hình thành một pháp nhân mới. Doanh nghiệp hợp nhất được hưởng các quyền lợi

và lợi ích hợp pháp, chịu trách nhiệm về các khoản nợ chưa thanh toán, các hợp đồng lao

động và và các nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp bị hợp nhất.

Kết quả của việc sáp nhập, hợp nhất doanh nghiệp là việc hình thành một doanh

nghiệp có quy mô lớn hơn trước, nhờ tập trung sản xuất bằng con đường sáp nhập hoặc

hợp nhất doanh nghiệp mà các doanh nghiệp mới đạt được hiệu quả kinh doanh cao hơn,

sự tiết kiệm nhiều hơn trong hoạt động kinh doanh. Hơn thế nữa việc mở rộng quy mô

kinh doanh bằng việc sáp nhập, hợp nhất doanh nghiệp còn đem lại nhiều lợi thế so sánh

hơn so với việc tăng quy mô bằng tăng trưởng nội lực (tái đầu tư lợi nhuận sau thuế), đó là

thời gian đạt được sự tăng trưởng nhanh hơn; khả năng tiết kiệm các chi phí trong đào tạo

nguồn nhân lực; tiết kiệm các chi phí cố định; rút ngắn thời gian kiểm soát và chiếm lĩnh

thị trường... chính vì vậy, sáp nhập hoặc hợp nhất doanh nghiệp cũng là một con đường có

thể lựa chọn để cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế.

Giải thể hoặc phá sản doanh nghiệp nhà nước là giải pháp chấm dứt sự tồn tại của

một doanh nghiệp, song nguyên nhân và cách thức thực hiện giữa chúng lại có sự khác biệt

nhất định.

Một doanh nghiệp nhà nước có thể bị giải thể và chấm dứt sự tồn tại pháp nhân

của mình trong các trường hợp sau đây:

- Hết thời hạn hoạt động ghi trong quyết định thành lập doanh nghiệp mà doanh

nghiệp không xin gia hạn.

- Doanh nghiệp kinh doanh thua lỗ kéo dài song chưa lâm vào tình trạng mất khả

năng thanh toán các khoản nợ đến hạn.

- Doanh nghiệp không thực hiện được các nhiệm vụ do Nhà nước quy định sau khi

đã thực hiện các biện pháp cần thiết.

- Việc tiếp tục duy trì doanh nghiệp nhà nước là không cần thiết.

Khác với giải thể doanh nghiệp, việc phá sản doanh nghiệp là việc chấm dứt sự

tồn tại của doanh nghiệp và thực hiện theo luật về phá sản doanh nghiệp. Một doanh

nghiệp bị phá sản nếu doanh nghiệp kinh doanh thua lỗ kéo dài, sau khi đã áp dụng các

biện pháp cần thiết để khôi phục doanh nghiệp mà vẫn hoàn toàn mất khả năng thanh toán

các khản nợ đến hạn, tổng số nợ lớn hơn tổng giá trị tài sản của doanh nghiệp.

1.3.2. Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước

Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước là việc chuyển đổi hình thức sở hữu từ doanh

nghiệp nhà nước sang công ty cổ phần (doanh nghiệp đa sở hữu) đồng thời chuyển doanh

nghiệp từ chỗ hoạt động theo Luật doanh nghiệp nhà nước sang doanh nghiệp hoạt động

theo các quy định về công ty cổ phần trong Luật doanh nghiệp.

Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước là một xu thế khách quan, một biện pháp

quan trọng để tổ chức lại khu vực doanh nghiệp nhà nước khi chuyển sang nền kinh tế thị

trường. Có thể nêu ra một số căn cứ sau đây:

- Việc cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước là phù hợp với định hướng phát

triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong những năm qua theo đường

lối của Đảng và Chính phủ.

- Tạo điều kiện để các doanh nghiệp thu hút vốn kinh doanh trên thị trường, giải

quyết khó khăn về vốn của các doanh nghiệp

- Giảm nhẹ gánh nặng chi tiêu ngân sách cho các doanh nghiệp mà Nhà nước

không cần duy trì hình thức doanh nghiệp nhà nước.

- Thúc đẩy và tạo tiền đề cho sự hình thành và phát triển thị trường vốn, tạo thêm kênh

huy động vốn mới cho các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường.

Mục tiêu cơ bản của cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước được xác định là:

- Huy động vốn của toàn xã hội để đầu tư đổi mới công nghệ, tạo thêm việc làm,

phát triển và nâng cao khả năng cạnh tranh, thay đổi cơ cấu doanh nghiệp nhà nước.

- Tạo điều kiện để người lao động trong doanh nghiệp cổ phần và những người đã

góp vốn được làm chủ thực sự, thay đổi phương thức quản lý, tạo điều kiện thúc đẩy doanh

nghiệp kinh doanh có hiệu quả, tăng tài sản nhà nước, nâng cao thu nhập của người lao động,

góp phần tăng trưởng kinh tế của đất nước.

Đối tượng cổ phần hóa là doanh nghiệp nhà nước không thuộc diện cần duy trì hình

thức doanh nghiệp nhà nước. Tuy nhiên trong số các doanh nghiệp nhà nước có thể cổ phần

hóa cũng cần phân biệt loại doanh nghiệp nhà nước cần nắm cổ phần chi phối, cổ phần đặc

biệt hoặc loại doanh nghiệp nhà nước có thể hoặc không cần nắm cổ phần hoặc thực hiện

các hình thức chuyển đổi sở hữu khác. Việc phân loại trên đây tạo điều kiện vừa thúc đẩy

quá trình cổ phần hóa, vừa tạo điều kiện phát huy vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước trong

nền kinh tế.

Về hình thức cổ phần hóa, các doanh nghiệp có thể lựa chọn một trong các hình thức

được quy định phù hợp với điều kiện cụ thể của doanh nghiệp, đó là:

- Giữ nguyên giá trị thuộc phần vốn Nhà nước hiện có tại doanh nghiệp, phát hành cổ

phiếu thu hút thêm vốn.

- Bán một phần vốn nhà nước hiện có tại doanh nghiệp.

- Bán toàn bộ phần vốn Nhà nước hiện có tại doanh nghiệp.

1.3.3. Giao doanh nghiệp nhà nước

Giao doanh nghiệp nhà nước là việc chuyển doanh nghiệp nhà nước và tài sản nhà

nước tại doanh nghiệp thành sở hữu của tập thể người lao động có điều kiện ràng buộc

[12].

Đối tượng được giao doanh nghiệp là tập thể người lao động trong doanh nghiệp

do Ban chấp hành Công đoàn đại diện hoặc người được đại hội toàn thể công nhân viên

chức trong doanh nghiệp bầu làm đại diện tự nguyện đăng ký nhận giao.

1.3.4. Bán doanh nghiệp nhà nước

Bán doanh nghiệp nhà nước là sự chuyển đổi sở hữu toàn bộ giá trị tài sản của một

doanh nghiệp nhà nước sang cho các pháp nhân hoặc thể nhân khác [12].

Căn cứ vào quyết định phê duyệt bán doanh nghiệp của cấp có thẩm quyền, giám

đốc doanh nghiệp có trách nhiệm thông báo cho toàn thể người lao động trong doanh

nghiệp và trên các phương tiện thông tin đại chúng để đăng ký danh sách người mua doanh

nghiệp.

Đối tượng được mua doanh nghiệp có thể là tập thể, cá nhân hoặc các pháp nhân

kinh tế có nhu cầu mua doanh nghiệp. Nếu chỉ có một người đăng ký mua thì doanh

nghiệp được bán theo phương thức trực tiếp. Trường hợp có từ hai người đăng ký mua trở

lên thì phải bán doanh nghiệp theo phương thức đấu thầu, giá bán doanh nghiệp được căn cứ

vào giá trị thực tế của doanh nghiệp được người mua và người bán doanh nghiệp chấp nhận,

các vướng mắc về tài sản, tài chính của doanh nghiệp được bên bán xử lý trước khi bán

doanh nghiệp.

1.3.5. Khoán kinh doanh doanh nghiệp nhà nước

Khoán kinh doanh đối với doanh nghiệp nhà nước là phương thức quản lý doanh

nghiệp nhà nước mà bên nhận khoán được giao quyền quản lý doanh nghiệp, đồng thời có

nghĩa vụ thực hiện một số chỉ tiêu, bảo đảm các điều kiện và được hưởng các quyền lợi

theo hợp đồng khoán [12].

Nội dung, các chỉ tiêu và điều kiện khoán kinh doanh được bên giao khoán quy

định và được bên nhận khoán chấp nhận căn cứ vào đặc điểm của từng ngành và kết quả

kinh doanh của doanh nghiệp trên cơ sở xem xét các yêu cầu về bảo toàn vốn nhà nước;

giải quyết việc làm và đóng đủ bảo hiểm cho người lao động; tăng lợi nhuận (hoặc giảm

lỗ) của doanh nghiệp; thực hiện các chính sách của Nhà nước và các hợp đồng đã ký kết.

Bên giao khoán có trách nhiệm kiểm tra, theo dõi việc thực hiện các cam kết trong

hợp đồng nhận khoán, xử lý các trường hợp vi phạm hợp đồng, song không can thiệp vào

việc điều hành hoạt động của người nhận giao khoán và tạo điều kiện thuận lợi cho họ thực

hiện các cam kết đã ghi trong hợp đồng.

1.3.6. Cho thuê doanh nghiệp nhà nước

Cho thuê doanh nghiệp nhà nước là hình thức tạm thời chuyển quyền khai thác, sử

dụng tài sản của doanh nghiệp nhà nước cho các tổ chức, cá nhân khác mà vẫn giữ nguyên

tên gọi, sử dụng các thương hiệu của doanh nghiệp nhà nước mà người nhận thuê phải trả

một khoản bồi hoàn cho Nhà nước dưới dạng tiền thuê [12].

Tùy theo đặc điểm kế thừa hoặc không kế thừa các quyền và nghĩa vụ của doanh

nghiệp cho thuê mà thuê doanh nghiệp nhà nước được chia thành hai loại:

- Thuê tài sản của doanh nghiệp: người thuê nhận thuê toàn bộ các tài sản hợp

thành cơ sở sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp có kèm theo thuê lao động của doanh

nghiệp, nhưng không kế thừa các quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp thuê.

- Thuê doanh nghiệp hoạt động: người thuê nhận toàn bộ tài sản hợp thành cơ sở sản

xuất kinh doanh của doanh nghiệp có kèm theo thuê lao động của doanh nghiệp, đồng thời có

kế thừa các khoản vay, nợ, các hợp đồng kinh tế, các quyền và nghĩa vụ khác của doanh

nghiệp theo thỏa thuận của các bên có liên quan.

Cũng giống như hình thức bán doanh nghiệp, nếu chỉ có một người đăng ký thuê

doanh nghiệp thì cho thuê doanh nghiệp được thực hiện theo phương pháp trực tiếp.

Ngược lại nếu có nhiều người đăng ký thuê doanh nghiệp thi việc cho thuê doanh nghiệp

được thực hiện theo phương thức đấu thầu.

Giá cho thuê doanh nghiệp được xác định căn cứ vào hình thức thuê, giá cho thuê

tối thiểu do người cho thuê quy định, giá trị thực tế của doanh nghiệp là giá thỏa thuận

giữa người cho thuê và người nhận thuê hoặc giá thắng thầu (trường hợp đấu thầu), nhưng

không thấp hơn mức giá tối thiểu của người cho thuê quy định

Tóm lại, quá trình sắp xếp và đổi mới doanh nghiệp nhà nước thông qua việc

chuyển đổi hình thức sở hữu, thay đổi phương thức quản lý và cơ cấu, tổ chức lại doanh

nghiệp nhà nước có thể được thực hiện theo nhiều hình thức và phương thức khác nhau.

Việc xem xét một cách toàn diện các hình thức này cho phép Nhà nước, doanh nghiệp lựa

chọn hình thức và phương pháp thực hiện cụ thể phù hợp với điều kiện của doanh nghiệp,

ngành hoặc địa phương mình, góp phần thúc đẩy quá trình cơ cấu và tổ chức lại khu vực

doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đáp ứng

tốt hơn yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong điều kiện mới.

Chương 2

Thực trạng sắp xếp, đổi mới Doanh nghiệp nhà nước

ở Quảng bình trong thời gian qua

2.1. tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của Doanh nghiệp nhà nước ở Quảng

Bình trong những năm qua

2.1.1. Điều kiện về vị trí địa lý và tự nhiên ảnh hưởng đến quá trình hình thành và

phát triển doanh nghiệp nhà nước ở Quảng Bình

Quảng Bình là một tỉnh thuộc Bắc Trung Bộ, có vị trí chiến lược quan trọng về

nhiều mặt. Trước hết, Quảng Bình án ngữ con đường thông thương đôi miền Nam Bắc của

đất nước, Phía bắc giáp tỉnh Hà Tĩnh, ngăn cách bởi dãy Hoành Sơn chạy theo hướng Tây

sang Đông. Phía nam giáp tỉnh Quảng Trị, có chung địa giới dài 75 km. Phía tây giáp tỉnh

Khăm Muộn của nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào, với đường biên dài 201,87 km.

Phía đông là biển Đông với đường bờ biển dài 116,04 km.

Quảng Bình là một trong những tỉnh có diện tích vào loại nhỏ của miền Trung, có diện tích tự nhiên phần đất liền là 8.037,6 km2. Với đặc điểm địa hình đa dạng, Quảng

Bình được đánh giá là vùng đất có nhiều tiềm năng về tài nguyên thiên nhiên và du lịch.

Về tài nguyên đất, Quảng Bình có nhiều loại, bao gồm: nhóm đất cát phân bố chủ

yếu dọc bờ biển có diện tích 77.490 ha, thuận lợi phát triển các cây lâm nghiệp, các loại

hoa màu, cây thực phẩm, nhóm đất mặn có diện tích 93.328 ha phân bố chủ yếu ở cửa

sông cho phép phát triển nuôi trồng thủy sản nước lợ, trồng cây lương thực và cây công

nghiệp chịu mặn. Nhóm đất phù sa - đây là loại đất chính được sử dụng phát triển cây

lương thực, cây thực phẩm và chăn nuôi. Nhóm đất lầy và than bùn với đặc điểm giàu hữu

cơ, mùn cao rất phù hợp với việc phát triển các loại cây nông nghiệp trên phạm vi toàn

tỉnh.

Về rừng tự nhiên, Quảng Bình có 230.142 ha, trong đó rừng giàu có 81.800 ha,

rừng trung bình có 67.800 ha, rừng nghèo 59.300 ha, rừng phục hồi 21.200 ha, tổng trữ

lượng gỗ: 28.248 triệu m3 với nhiều giống loài quý hiếm như: gỗ mun, trầm hương, huỳnh

nghiến…

Tài nguyên biển, Quảng Bình tương đối lớn về trữ lượng và rất phong phú về loài,

với trữ lượng trên dưới 20 vạn tấn hải sản và có hầu hết các loại hải sản có mặt ở Việt

Nam: 1.605 loài. Biển Quảng Bình có những loài thủy sản mà các tỉnh khác có ít hoặc

không có như: tôm hùm, tôm sú, san hô, mực ống, mực nang... Trong đó mực ống, mực

nang chiếm trữ lượng lớn và có chất lượng cao là một trong những nguồn cung cấp nguyên

liệu quan trọng cho các đơn vị chế biến thủy - hải sản xuất khẩu trên phạm vi toàn tỉnh.

Khoáng sản Quảng Bình phong phú về chủng loại (gần 40 loại khác nhau), trong

đó đáng chú ý là khoáng sản phi kim loại có trữ lượng lớn cho phép phát triển các ngành

công nghiệp vật liệu xây dựng, hóa chất, phân bón.

Khoáng sản dùng làm nhiên liệu có than đá, khai thác phục vụ tại chỗ, khoáng sản

kim loại có kim loại đen, màu, kim loại quý: sắt, mang gan, chì, kẽm có trữ lượng cho

phép khai thác quy mô nhỏ, phục vụ tại chỗ, riêng vàng có trữ lượng lớn đang được thăm

dò trên quy mô lớn.

Khoáng sản phi kim loại có phốt pho rít, phi rít, than bùn có chất lượng cao, thành

phần quặng đơn giản, trữ lượng đáng kể có thể khai thác làm nguyên liệu phân bón và hóa

chất.

Tài nguyên dùng làm nguyên liệu gốm, sứ, phục vụ công nghiệp dân dụng có cao

lanh trữ lượng 36 triệu tấn, cát trắng thạch anh có chất lượng cao, dễ khai thác phục vụ sản

xuất kính dân dụng cao cấp, thủy tinh... có trữ lượng lớn trên 35 triệu tấn [4].

Nguyên liệu cho công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng khá phổ biến và phân bố

rộng khắp như: đá vôi, đá sét xi măng, sét gạch ngói; mạch nước khoáng có độ khoáng hóa

cao, có khả năng dùng trong y học…

Về tiềm năng du lịch, Quảng Bình là vùng đất tiếp biến văn hóa trên cả hai chiều

Bắc - Nam và Đông - Tây, đồng thời cũng là nơi tạo hóa của thiên nhiên để lại nhiều cảnh

quan kỳ vĩ. Đặc biệt là khu danh thắng Phong Nha - Kẻ Bàng vừa qua được UNESCO

công nhận là di sản thiên nhiên thế giới đã thu hút được rất nhiều du khách tham quan, mở

ra tiềm năng phong phú cho việc phát triển các loại hình du lịch như tham quan, thám

hiểm, nghỉ ngơi, nghiên cứu, du lịch sinh thái.

Xuất phát từ những điều kiện trên mà doanh nghiệp nhà nước ở Quảng Bình chủ

yếu tập trung vào một số lĩnh vực như: Quản lý, bảo vệ phát triển tài nguyên rừng, khai

thác chế biến, kinh doanh các loại lâm sản và tài nguyên khác; sản xuất chế biến hải sản và

nuôi trồng thủy sản xuất khẩu; sản xuất khai thác vật liệu xây dựng: xi măng, khai thác đá, sản

xuất gốm sứ; kinh doanh thương mại, du lịch, khách sạn, nhà hàng... Ngoài ra Quảng Bình còn

có các xí nghiệp khai thác công trình thủy lợi, Công ty sản xuất giống cây trồng, giống gia súc,

sản xuất phân bón phục vụ cho sự nghiệp phát triển nông nghiệp trên địa bàn toàn tỉnh.

2.1.2. Tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước ở

Quảng Bình trong những năm qua

Đến hết năm 2002, ở Quảng Bình có 49 doanh nghiệp nhà nước thuộc tỉnh quản lý

(gồm 37 doanh nghiệp kinh doanh và 12 doanh nghiệp công ích), phần lớn các doanh

nghiệp tập trung chủ yếu vào các lĩnh vực như nông, lâm nghiệp có 13 doanh nghiệp

chiếm 27%, với tổng số vốn Nhà nước hiện có là 68,9 tỷ đồng (bình quân mỗi doanh nghiệp

là 5,3 tỷ đồng); lĩnh vực công nghiệp chế biến có 8 doanh nghiệp chiếm 16%, với tổng vốn

nhà nước là 33,3 tỷ đồng (bình quân mỗi doanh nghiệp là 4,2 tỷ đồng); lĩnh vực xây dựng

và vật liệu xây dựng có 5 doanh nghiệp chiếm 10%, với tổng vốn nhà nước là 15,5 tỷ đồng

(bình quân mỗi doanh nghiệp là 3,1 tỷ đồng); lĩnh vực thương mại, du lịch - khách sạn -

nhà hàng có 8 doanh nghiệp chiếm 16%, với tổng vốn nhà nước là 24,7 tỷ đồng (bình quân

mỗi doanh nghiệp là 5,2 tỷ đồng); còn lại là 15 doanh nghiệp thuộc các lĩnh vực khác như

giao thông vận tải, dịch vụ tư vấn, văn hóa - thể thao, dịch vụ công cộng chiếm 31%, với

tổng số vốn nhà nước là 55.053 tỷ đồng, bình quân mỗi doanh nghiệp là 3,7 tỷ đồng (xem

phụ lục 01).

Qua đó có thể khái quát một số đặc trưng cơ bản của các doanh nghiệp nhà nước ở

Quảng Bình đó là: Số lượng doanh nghiệp không nhiều, kinh doanh ở nhiều lĩnh vực kinh

tế - xã hội, đa số có quy mô nhỏ, công nghệ lạc hậu, sản lượng hàng hóa thấp, chủng loại

ít, chất lượng sản phẩm chưa cao,thị trường tiêu thụ hẹp, chủ yếu là nội tỉnh, chưa có các

loại hàng hóa chủ lực; năng lực, trình độ quản lý của đội ngũ cán bộ lãnh đạo nhiều doanh

nghiệp còn yếu, khả năng tiếp cận thị trường còn hạn chế chưa đáp ứng được so với yêu

cầu đổi mới. Có thể đánh giá cụ thể tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhà

nước thuộc tỉnh quản lý qua bảng số liệu dưới đây:

Biểu 2.1: Tổng hợp kết quả sản xuất kinh doanh

của các doanh nghiệp nhà nước tỉnh Quảng Bình (2000-2002)

ĐVT: triệu đồng

Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002

Chỉ tiêu Tổng D.N D.N Tổng D.N D.N Tổng D.N D.N

cộng K.d C.ích cộng K.d C.ích cộng K.d C.ích

- Số lượng 58 46 12 53 41 12 49 37 12

D.nghiệp

- Vốn kinh 531,6 503,8 27,8 556,4 520,8 35,6 693,2 656,2 37

doanh: 212,0 188,7 23,3 206,3 176,3 30,0 214,0 183,9 30,1

+ Vốn Nhà nước 308,6 304,4 4,2 334,1 329 5,1 464,2 457,8 6,4

+ Vốn vay 11,0 10,7 0,26 16,0 15,5 0,5 15,0 14,5 0,5

+ Vốn khác

- Tổng doanh thu 920,9 872,9 48,0 1131 1071 60,0 953,7 895,6 58.1

- Nộp ngân sách: 122,9 121,9 1 116,3 115,4 0,9 118,7 117,8 0,9

Nộp ở địa 36,6 35,3 1 37,1 36,2 0,9 37,8 36,9 0,9

phương

- Lao động 10.66 9585 1.084 10.85 9481 1.374 11.07 9.702 1.374

(người) 9 5 6

- Lãi (+); Lỗ (-) 6,6 5,2 1,4 5,9 4,8 1,1 5,1 3,9 1,2

Nguồn: Sở Tài chính Quảng Bình (2000-2002), Báo cáo tổng hợp tài chính doanh

nghiệp nhà nước Quảng Bình, Quảng Bình [19].

Biểu 2.1 cho thấy, vốn kinh doanh của các doanh nghiệp tăng nhanh trong năm

2002, chủ yếu do tăng cường năng lực sản xuất mới từ các dự án đầu tư được đưa vào sử

dụng: so với năm 2000 tổng vốn trong năm 2002 tăng 30,4%, trong đó vốn của doanh nghiệp

công ích tăng 37%; trong cơ cấu, vốn Nhà nước có tỷ trọng giảm dần từ 40% năm 2000 còn

31% năm 2002, vốn vay ngân hàng có xu hướng tăng từ 58% lên 68%, nguồn vốn khác

cũng tăng đáng kể.

Trong tổng số 214 tỷ vốn Nhà nước, có khoảng 60 tỷ là vốn lưu động thì đến

31/12/2002 các khoản vốn không có khả năng thu hồi vào khoảng 30,4 tỷ đồng, tập trung ở

một số doanh nghiệp như Công ty Xây dựng và vật liệu xây dựng, Công ty Hóa chất, Công

ty Sông Gianh.

Số nộp ngân sách của các doanh nghiệp nhà nước năm 2001 giảm 3%, năm 2002

giảm 5% so với năm 2000, chủ yếu là thuế xuất nhập khẩu giảm. Riêng nộp ngân sách tại

địa phương có tăng nhưng không đáng kể từ 36,6 tỷ đồng năm 2000, lên 37,1 tỷ đồng năm

2001 và 37,8 tỷ đồng năm 2002; các doanh nghiệp công ích nộp ngân sách ổn định khoảng

1 tỷ đồng. Một trong những lý do, đầu tư tăng nhanh trong khi phần thu tại địa phương

chưa cao là do các dự án mới đưa vào sản xuất trong giai đoạn đầu chưa có lãi hoặc đang

bị lỗ và đang được hưởng các ưu đãi về đầu tư.

Lợi nhuận thực hiện của các doanh nghiệp có xu hướng giảm, riêng năm 2002 lợi

nhuận thực hiện là 5,1 tỷ đồng có mức thấp nhất trong 3 năm liên tiếp.

Trong năm 2002, một số doanh nghiệp đã có nhiều cố gắng trong việc đẩy mạnh

sản xuất, tìm kiếm, mở rộng thị trường tiêu thụ, hoạt động sản xuất kinh doanh bước đầu

đã có lãi, nhưng do lỗ lũy kế từ những năm trước lớn đã làm ảnh hưởng đến kết quả kinh

doanh trong năm như Công ty Xây dựng và Vật liệu xây dựng, Công ty Gốm sứ, Công ty

nước Khoáng Bang... Một số doanh nghiệp khác có lợi nhuận tương đối cao và ổn định

như Công ty sông Gianh, Công ty Cao su Việt Trung, Công ty Lâm Công nghiệp Long

Đại, Công ty cấp thoát nước…

Tổng hợp kết quả phân loại doanh nghiệp nhà nước ở tỉnh theo kết quả kinh doanh

trong 3 năm (2000-2002) được thể hiện cụ thể trong biểu sau:

Biểu 2.2: Phân loại doanh nghiệp nhà nước thuộc tỉnh quản lý

theo kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh (2000-2002)

Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002

D.N D.N D.N Chỉ tiêu Tổng D.N Tổng D.N Tổng D.N C.íc C.íc C.íc cộng K.d cộng K.d cộng K.d h h h

58 46 12 53 41 12 49 37 12 - Tổng số doanh

nghiệp:

8 9 8 + Doanh nghiệp có lãi 36 28 34 25 30 22

3 3 4 + Doanh nghiệp hòa 15 12 13 10 14 10

vốn

+ D. nghiệp không có 7 6 1 6 6 - 5 5 -

lãi

Nguồn: Sở Tài chính Quảng Bình (2000-2002), Báo cáo tổng hợp tài chính doanh

nghiệp nhà nước Quảng Bình, Quảng Bình [19].

Kết quả xếp loại ở biểu 2.2 cho thấy doanh nghiệp công ích trong hai năm 2001 và

2002 không có đơn vị bị thua lỗ do doanh nghiệp đã chủ động đẩy mạnh phần hoạt động

kinh doanh để hỗ trợ cho phần công ích. Riêng các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh

vẫn chưa khẳng định được chỗ đứng của mình trong nền kinh tế thị trường, chưa có doanh

nghiệp nào có sự tăng trưởng vượt bậc, thậm chí còn có xu hướng sụt giảm. Năm 2002 số

doanh nghiệp kinh doanh có lãi là 30 doanh nghiệp, nếu so sánh về số lượng giảm 16,7%,

còn xét về tỷ trọng cơ cấu doanh nghiệp có lãi giảm 1% so với năm 2000; số doanh nghiệp

thuộc diện kinh doanh thua lỗ giảm không đáng kể, nguyên nhân trong số 5 doanh nghiệp

bị lỗ năm 2002 đã có đến 3 doanh nghiệp bị lỗ từ năm trước chuyển sang do đang trong

thời kỳ đầu thực hiện các dự án đầu tư đây chuyền sản xuất gồm có: dự án dây chuyền sản

xuất gạch tráng men của Công ty Gốm sứ, dây chuyền sản xuất nước khoáng đóng chai

theo công nghệ mới của Công ty nước khoáng Bang và dây chuyền sản xuất nhôm thanh

của Nhà máy thanh nhôm định hình.

2.1.2.1. Những mặt đạt được của các doanh nghiệp nhà ở Quảng Bình trong

những năm qua

Thực hiện đường lối đổi mới, phát triển kinh tế của Đảng và Nhà nước, trong

những năm qua doanh nghiệp nhà nước thuộc tỉnh quản lý đã có nhiều đóng góp hết sức

quan trọng đối với sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, cụ thể là:

- Doanh nghiệp nhà nước tỉnh đã đóng góp nguồn thu đáng kể cho ngân sách tỉnh,

chiếm tỷ lệ thu cao nhất trong lĩnh vực sản xuất vật chất (bình quân hàng năm chiếm 20%

đến 30% tổng số thu của ngân sách tại địa phương).

- Doanh nghiệp nhà nước tỉnh đã góp phần quan trọng vào quá trình chuyển dịch

cơ cấu kinh tế của tỉnh, tạo việc làm cho người lao động cũng như tích lũy và tăng trưởng

kinh tế nhằm thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa tỉnh nhà.

- Trong những năm gần đây, qua sắp xếp và đổi mới một số doanh nghiệp nhà

nước đã có sự chuyển biến tích cực trong cách nghĩ và hành động - từ cơ chế tập trung quan

liêu bao cấp sang hạch toán kinh doanh theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước,

ngày càng quan tâm nhiều hơn đến hiệu quả kinh tế, lấy đó làm thước đo kết quả sản xuất

kinh doanh của mình. Tư tưởng ỷ lại vào Nhà nước, kinh doanh theo lối bao cấp, thiếu trách

nhiệm dần dần được khắc phục. Các doanh nghiệp dần dần thực sự đi vào hạch toán kinh

doanh, chủ động xây dựng kế hoạch và phương án sản xuất kinh doanh, tìm mọi biện pháp sử

dụng có hiệu quả hơn về lao động, tiền vốn, tài sản của doanh nghiệp, bước đầu kinh

doanh có lãi, thu nhập của người lao động ngày càng tăng, đời sống cán bộ công nhân viên

ngày càng được cải thiện. Một số doanh nghiệp đã phát huy được tính năng động, sáng tạo

trong kinh doanh, chủ động trong việc khai thác tiềm năng và thế mạnh của mình, mạnh

dạn đầu tư vốn, mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh, mở rộng thị trường tiêu thụ sản

phẩm điển hình như: Công ty Phân bón sông Gianh, Xí nghiệp cơ khí tàu thuyền Nhật Lệ...

Trong lĩnh vực xây dựng cơ bản các doanh nghiệp nhà nước đã xây dựng được

nhiều công trình cơ sở hạ tầng kỹ thuật cho tỉnh; các doanh nghiệp nhà nước trong lĩnh vực

xuất nhập khẩu đã cố gắng duy trì và có sự tăng trưởng về kim ngạch xuất khẩu, khai thác

thế mạnh của các mặt hàng xuất khẩu truyền thống như: nông, lâm, thủy, hải sản... góp

phần thúc đẩy sản xuất phát triển, tăng nguồn thu thuế xuất khẩu cho ngân sách Trung

ương và tỉnh.

Các doanh nghiệp nhà nước hoạt động công ích góp phần thực hiện các chính sách

của Đảng và Nhà nước, mang lại lợi ích thiết thực cho nhân dân, góp phần thực hiện mục

tiêu xóa đói, giảm nghèo, giải quyết việc làm, cải thiện đời sống vật chất, tinh thần cho

nhân dân.

Mặc dù đã đạt được một số kết quả nhất định, nhưng cũng phải nhìn nhận rằng các

doanh nghiệp nhà nước của tỉnh hiện nay chưa tương xứng với vai trò, tiềm năng và sự

quan tâm đầu tư của tỉnh, còn bộc lộ nhiều tồn tại, yếu kém mà nếu không được khắc phục

sẽ không thể đứng vững trong xu thế hội nhập khu vực và quốc tế hiện nay.

2.1.2.2. Những yếu kém, tồn tại của doanh nghiệp nhà nước ở Quảng Bình

Sự yếu kém của các doanh nghiệp nhà nước ở Quảng Bình thể hiện trên các mặt

sau đây:

Một là, Hiệu quả sản xuất kinh doanh và sức cạnh tranh của doanh nghiệp nhà

nước thuộc tỉnh quản lý còn thấp, chưa tương xứng với điều kiện và lợi thế hiện có, tốc độ

tăng trưởng có biểu hiện giảm dần, không ít các doanh nghiệp nhà nước còn ỷ lại sự bao

cấp của Nhà nước.

Theo Báo cáo tổng hợp về tài chính của doanh nghiệp nhà nước và kết quả xếp

loại trong năm 2002, trong tổng số 49 doanh nghiệp nhà nước có 61% số doanh nghiệp

kinh doanh có lãi, số vốn nhà nước có tại các doanh nghiệp này là 155,6 tỷ đồng chiếm

73%, doanh thu chiếm 74,5%, số lao động chiếm 78% và thu nộp ngân sách chiếm 79,9%.

Số doanh nghiệp kinh doanh chưa có hiệu quả (hòa vốn) chiếm 29% trong tổng số doanh

nghiệp, có số vốn nhà nước là 35,3 tỷ đồng chiếm 16%, doanh thu chiếm 18,5%, lao động

chiếm 15,2% và thu nộp ngân sách chiếm 15,1%; số doanh nghiệp kinh doanh không có

hiệu quả (thua lỗ) chiếm 4% trong tổng số doanh nghiệp, có số vốn chiếm 11%, doanh thu

chiếm 6,7%, lao động chiếm 7,3% toàn bộ doanh nghiệp nhà nước trên toàn tỉnh (xem phụ

lục 02).

Tỷ suất lợi nhuận trên vốn Nhà nước của doanh nghiệp nhà nước nhìn chung là

thấp và có xu hướng giảm dần, nếu như năm 2000 là 3,5%, năm 2001 là 2,9% thì năm

2002 là 2,4%.

Tình trạng công nợ ở các doanh nghiệp nhà nước tỉnh hiện nay là khá nghiêm

trọng, nợ quá hạn, nợ khó đòi có xu hướng ngày càng tăng. Theo Báo cáo tài chính của các

doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh năm 2002, tổng số nợ phải trả của các doanh nghiệp là 748 tỷ

đồng (vay dài hạn chiếm 30%, nợ khác 2% còn lại là nợ ngắn hạn và nợ ngân sách), gấp

1,5 lần nguồn vốn chủ sở hữu tại các doanh nghiệp nhà nước, trong đó nợ quá hạn 7 tỷ

đồng; tổng số nợ khó đòi của các doanh nghiệp vẫn ở mức cao 10,2 tỷ đồng. Điều này chứng

tỏ các doanh nghiệp nhà nước hoạt động gần như hoàn toàn bằng vốn vay và khả năng

thanh toán nợ thấp. Tình trạng đầu tư, mua sắm tài sản cố định bằng vốn vay là khá phổ

biến tại các doanh nghiệp nhà nước của tỉnh, do phải chịu chi phí trả lãi vay lớn nên giá thành

sản phẩm của các doanh nghiệp nhà nước tỉnh luôn cao hơn so với giá thành của doanh

nghiệp ngoài quốc doanh, dẫn đến khả năng cạnh tranh của sản phẩm kém, hiệu quả kinh

doanh thấp (xem phụ lục 04).

Hai là, các doanh nghiệp nhà nước của tỉnh tuy đã được sắp xếp lại nhưng vẫn

chưa đạt được kết quả như mong muốn, số lượng doanh nghiệp còn nhiều, nhưng lại nhỏ về

quy mô, dàn trải, chồng chéo về ngành nghề kinh doanh.

Việc sắp xếp, tổ chức lại doanh nghiệp nhà nước của tỉnh trong thời gian qua đã

làm thay đổi một bước cơ cấu vốn và lao động tại các doanh nghiệp, có tác động nhất định

tới quá trình tập trung và tích tụ sản xuất. Tuy vậy, hiện nay quy mô của các doanh nghiệp

nhà nước tỉnh vẫn còn rất nhỏ, lẻ, trong số 214 tỷ đồng vốn Nhà nước tại doanh nghiệp thì

bình quân mỗi doanh nghiệp chỉ có 4,3 tỷ đồng vốn, trong đó: có 5 doanh nghiệp có vốn

nhà nước dưới 1 tỷ đồng, chiếm 10,2%, 21 doanh nghiệp có vốn Nhà nước từ 1 - 3 tỷ đồng

chiếm 42,8%; 11 doanh nghiệp có vốn Nhà nước trên 3 - 5 tỷ đồng chiếm 22,5%; 7 doanh

nghiệp có vốn Nhà nước từ trên 5 - 10 tỷ đồng chiếm 14,3%, 3 doanh nghiệp có vốn Nhà

nước từ trên 10 - 20 tỷ đồng chiếm 6,1% và 2 doanh nghiệp có vốn trên 20 tỷ đồng chiếm

4% (xem phụ lục 03).

Trong tổng số 49 doanh nghiệp nhà nước đóng trên địa bàn tỉnh thì có đến 6 lâm

trường, thực hiện nhiệm vụ quản lý và khai thác tài nguyên rừng,

6 doanh nghiệp nhà nước thực hiện nhiệm vụ thi công xây lắp các công trình dân dụng,

giao thông thủy lợi, 3 Công ty tư vấn thiết kế, 2 doanh nghiệp thực hiện nhiệm vụ duy tu,

sửa chữa các công trình giao thông đường bộ từ đó đã tạo ra sự chồng chéo về ngành nghề

kinh doanh cũng như cơ quan quản lý trên cùng một địa bàn.

Ba là, trình độ kỹ thuật và công nghệ thiết bị sản xuất cũ kỹ, lạc hậu, đầu tư chắp

vá, thiếu đồng bộ, công suất huy động thấp, không ổn định, đặc biệt chưa đáp ứng các yêu

cầu chế biến nông lâm hải sản và phát huy thế mạnh của tỉnh.

Theo Báo cáo tổng hợp tài chính doanh nghiệp nhà nước năm 2002, trong tổng tài

sản của doanh nghiệp nhà nước có 46% là tài sản cố định, nhưng chỉ có 65% tài sản cố

định hiện đang sử dụng được coi là có hiệu quả, số tài sản cố định còn lại hoặc là không sử

dụng được, hoặc vẫn sử dụng nhưng do công nghệ quá lạc hậu và cũ nên giá thành sản

phẩm thường cao hơn rất nhiều so với giá thành chung của sản phẩm cùng loại. Theo đánh

giá của Ban đổi mới doanh nghiệp, đa số máy móc thiết bị, dây chuyền sản xuất tại các

doanh nghiệp tỉnh đều lạc hậu so với thế giới từ 15 đến 20 năm, trình độ cơ khí hóa, tự

động hóa rất thấp. Tình hình đó dẫn đến hậu quả là chất lượng sản phẩm thấp, khả năng cạnh

tranh của sản phẩm bị hạn chế mà điển hình nhất là sản phẩm đường kính của Nhà máy

đường Quảng Bình.

Bốn là, tình trạng lao động thiếu việc làm và dôi dư trong các doanh nghiệp nhà

nước của tỉnh là một trở ngại lớn làm chậm tiến trình đổi mới và phát triển doanh nghiệp

nhà nước hiện nay.

Lao động dôi dư đến nay vẫn là vấn đề nan giải ngay cả với các doanh nghiệp đã

hoặc đang thực hiện các hình thức chuyển đổi sở hữu như cổ phần hóa hay bán, khoán, cho

thuê... lý do chủ yếu là từ thời bao cấp, trong các doanh nghiệp nhà nước giám đốc doanh

nghiệp được tự chủ trong tuyển dụng lao động, không có quy định khống chế định mức, dẫn

đến tình trạng giám đốc tuyển chọn quá nhiều lao động so với nhu cầu sản xuất. Hậu quả là

khi các doanh nghiệp tiến hành sắp xếp lại đều có một bộ phận người lao động không đáp

ứng được yêu cầu và trở thành lao động dôi dư. Trong khi theo quy định hiện hành trường

hợp doanh nghiệp chuyển quyền sở hữu, thì người sử dụng lao động kế tiếp vẫn phải thực

hiện hợp đồng lao động với tất cả lao động của doanh nghiệp, điều này đã trở thành vật cản

của quá trình cải cách đổi mới doanh nghiệp, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của

doanh nghiệp nhà nước tỉnh.

Theo báo cáo của Ban đổi mới doanh nghiệp, tính đến ngày 31/12/2002 tại các doanh

nghiệp nhà nước của tỉnh có khoảng 12% số lao động thiếu việc làm, cá biệt ở một số

doanh nghiệp con số này còn lên đến 40%. Điều đáng quan tâm là trong cơ cấu lao động

dôi dư của doanh nghiệp nhà nước ở tỉnh thì chiếm đại đa số là lao động có trình độ thấp,

chưa qua đào tạo hoặc đào tạo hạn chế, trừ một số dự án, nhà máy, xí nghiệp mới đầu tư có

kỹ sư, công nhân được đi đào tạo, bồi dưỡng cả trong và ngoài nước theo chương trình dự

án, các doanh nghiệp còn lại đều có trình độ tay nghề công nhân thấp. Ngay cả một số dự

án mới đầu tư nhưng do thiếu công nhân có tay nghề, thiếu thợ kỹ thuật bậc cao và chuyên

gia, kỹ sư giỏi nên chất lượng sản phẩm kém như: Gạch CERAMIC; nhôm thanh định

hình; nước khoáng…

Năm là, trình độ quản lý của các doanh nghiệp nhà nước ở tỉnh còn yếu, thiếu

năng động, chưa đáp ứng với cơ chế thị trường.

Một số cán bộ quản lý, cán bộ lãnh đạo của các doanh nghiệp vẫn còn tư tưởng ỷ

lại, trông chờ vào sự bao cấp, bảo hộ từ phía Nhà nước. Trong hoạt động kinh doanh vẫn

chưa có sự gắn kết, ràng buộc trách nhiệm giữa người giám đốc với hiệu quả sản xuất kinh

doanh, doanh nghiệp nếu làm ăn thua lỗ, nợ nần thì Nhà nước gánh chịu, trong khi đó trách

nhiệm về vật chất của người giám đốc doanh nghiệp lại không được quy định rõ.

Từ những phân tích trên cho thấy, mặc dù trong những năm qua doanh nghiệp nhà

nước ở Quảng Bình đã có nhiều đóng góp tích cực vào phát triển kinh tế xã hội, thúc đẩy

quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, mở rộng kinh tế đối ngoại, tạo điều kiện và cơ hội

cho kinh tế của tỉnh hội nhập với kinh tế cả nước và khu vực. Bên cạnh đó, các doanh

nghiệp nhà nước ở Quảng Bình vẫn còn bộc lộ nhiều tồn tại, yếu kém. Do vậy, để phát huy

những ưu điểm và vai trò của doanh nghiệp nhà nước trong điều kiện phát triển mới, cần

phải tiếp tục tổ chức sắp xếp lại và đổi mới các doanh nghiệp nhà nước của tỉnh theo đúng

tinh thần Nghị quyết Trung ương 3 của Đảng và chương trình hành động của Chính phủ.

2.2. Cơ sở pháp lý cho việc thực hiện quá trình sắp xếp, đổi mới Doanh nghiệp nhà

nước

Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, Chính phủ đã ban hành hàng loạt quyết

định về đổi mới doanh nghiệp nhà nước và trên thực tế đã tổ chức thực hiện nhiều biện

pháp rất mạnh trên cả hai mảng: sắp xếp tổ chức lại và đổi mới cơ chế quản lý doanh

nghiệp nhà nước.

2.2.1. Đổi mới cơ chế quản lý doanh nghiệp nhà nước

- Theo Quyết định 315/HĐBT các doanh nghiệp phải rà soát lại chức năng hoạt

động kinh doanh, rà soát lại các yếu tố sản xuất kinh doanh như: Thị trường, công nghệ,

vốn, tổ chức lao động, tổ chức bộ máy và cán bộ, soát xét lại tình hình tài chính doanh

nghiệp, chấp hành kỷ luật tài chính, kế toán, thống kê...

- Theo Nghị định 388/HĐBT, các doanh nghiệp nhà nước phải được thành lập lại,

đăng ký lại để loại bỏ những doanh nghiệp làm ăn thua lỗ kéo dài. Như vậy Nghị định 388

như một giải pháp hợp pháp hóa để công nhận những doanh nghiệp nhà nước tồn tại được

trong cơ chế thị trường; đồng thời loại bỏ được những doanh nghiệp chỉ tồn tại trên danh

nghĩa.

- Luật doanh nghiệp nhà nước ban hành tháng 4-1995 và các văn bản hướng dẫn

thi hành đã tạo ra cơ sở pháp lý tổng quát trong quan hệ giữa doanh nghiệp nhà nước với

Nhà nước.

- Về các nội dung cụ thể của cơ chế, đáng chú ý là hai mảng: tài chính và lao động.

Nghị định 27/NĐ-CP (1999) bổ sung, sửa đổi Nghị định 59/NĐ-CP (1996) nhằm xác lập cơ

chế tài chính đối với doanh nghiệp nhà nước. Theo các nghị định này, một loạt cơ chế tài

chính được áp dụng như: Nhà nước giao quyền quản lý và sử dụng vốn, trách nhiệm bảo

toàn và phát triển vốn cho doanh nghiệp. Nhà nước hạn chế dần và tiến đến chấm dứt sự

can thiệp vào công tác quản lý tài chính của doanh nghiệp. Nhà nước có chính sách tái cấp

vốn cho những doanh nghiệp vay vốn tín dụng để mở rộng sản xuất kinh doanh tăng thu

nhập cho ngân sách. Các vấn đề quản lý, sử dụng vốn, tài sản, quản lý doanh thu, chi phí

được giao đầy đủ cho doanh nghiệp, Nhà nước chỉ thực hiện việc kiểm tra, giám sát hoạt

động kinh doanh, công tác quản lý của doanh nghiệp chứ không can thiệp, không làm thay

cho doanh nghiệp. Chính sách phân phối lợi nhuận cũng tập trung vào việc bảo toàn vốn,

mở rộng kinh doanh cho doanh nghiệp nhờ vậy mà hoạt động kinh doanh của doanh

nghiệp không ngừng được mở rộng, hiệu quả kinh tế và khả năng cạnh tranh của nhiều

doanh nghiệp được nâng lên. Về cơ chế sử dụng lao động, theo tinh thần Bộ Luật lao động

(12-1994) đã có một loạt quyết định cho phép doanh nghiệp nhà nước tăng quyền tự chủ

trong sử dụng lao động và trả lương…

2.2.2. Sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước

Các biện pháp sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước trong giai đoạn từ 1990 đến nay

được chia thành 3 đợt sau:

- Đợt thứ nhất, thực hiện trong giai đoạn 1991-1993 theo Quyết định 315/HĐBT

(9-1990) về giải thể và tổ chức lại những doanh nghiệp nhà nước yếu kém, Nghị định

388/HĐBT (11-1991) về nguyên tắc, điều kiện thành lập doanh nghiệp nhà nước, Quyết

định số 202 (6-1992) thí điểm cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước.

- Đợt thứ hai, thực hiện trong giai đoạn 1994-1997 theo Quyết định số 90/TTg và

91/TTg (3-1994) và Chỉ thị 500/TTg (5-1995) về sắp xếp các doanh nghiệp nhà nước giải

thể những liên hiệp xí nghiệp, tổng công ty trước đây, hình thành những tổng công ty có

quy mô lớn (Tổng Công ty 91) và quy mô vừa (Tổng Công ty 90) Nghị định 28/NĐ-CP (5-

1996) về chuyển một số doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần.

- Đợt thứ ba, thực hiện từ giữa năm 1998 đến nay, theo Chỉ thị 20/CT-TTg (4-1998),

Chỉ thị 15/CT-TTg (5-1999), Nghị định 44/NĐ-CP (6-1998) và Nghị định 64/NĐ-CP

(19/6/2002) về cổ phần hóa kết hợp sắp xếp doanh nghiệp nhà nước. Có ba nội dung cơ

bản về sắp xếp, tổ chức lại doanh nghiệp nhà nước được nhấn mạnh là: Sắp xếp doanh

nghiệp nhà nước theo phương án tổng thể từng vùng, ngành, tổ chức lại tổng công ty theo

hướng thí điểm thành lập tập đoàn kinh tế; cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước; Nghị định

số 103/1999/NĐ-CP, Nghị định 49/NĐ-CP bổ sung, sửa đổi Nghị định 103/NĐ-CP về

giao, bán khoán, cho thuê doanh nghiệp nhà nước có quy mô nhỏ, kinh doanh thua lỗ kéo

dài hoặc thuộc ngành nhà nước không năm giữ cổ phần đã được ban hành để có cơ sở sắp

xếp các doanh nghiệp nhà nước nhỏ, yếu kém.

2.3. Thực trạng về quá trình sắp xếp, đổi mới Doanh nghiệp nhà nước ở Quảng bình

trong thời gian qua

2.3.1. Tình hình và kết quả thực hiện sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước ở

Quảng Bình trong những năm qua

Khi tách tỉnh, Quảng Bình có 176 doanh nghiệp nhà nước sản xuất kinh doanh,

dịch vụ trên nhiều lĩnh vực, thuộc sự quản lý của tỉnh và huyện thị, nhìn chung các doanh

nghiệp có quy mô nhỏ, công nghệ lạc hậu, kinh doanh đơn điệu, hiệu quả kinh tế xã hội hạn

chế, gắn liền với thời kỳ bao cấp toàn diện.

Thực hiện Nghị định 388/HĐBT, năm 1991 - 1992 tỉnh đã tổ chức sắp xếp lại

doanh nghiệp, chủ yếu là thu gọn đầu mối, tăng cường quy mô và địa bàn hoạt động bằng

việc sát nhập các doanh nghiệp từ huyện thị vào doanh nghiệp chuyên ngành trực thuộc

tỉnh quản lý, toàn tỉnh có 72 doanh nghiệp nhà nước.

Năm 1995 - 1997, thực hiện Chỉ thị 500/TTg (25/081995) của Thủ tướng Chính phủ,

tỉnh đã tổ chức sắp xếp còn lại 66 doanh nghiệp nhà nước.

Năm 1998, trên cơ sở tăng cường năng lực của doanh nghiệp nhà nước, tỉnh đã

tiến hành sắp xếp bằng việc sáp nhập một số doanh nghiệp có tính chất sản xuất - kinh

doanh tương tự; đồng thời giải thể hai doanh nghiệp nhà nước làm ăn thua lỗ trong nhiều

năm thuộc ngành văn hóa - thương mại, toàn tỉnh còn lại 61 doanh nghiệp nhà nước. Đặc

biệt từ năm 1999 đến nay, thực hiện phương án sắp xếp doanh nghiệp nhà nước do tỉnh

quản lý theo Chỉ thị 20/TTg (21-4-1998) về đẩy mạnh việc sắp xếp, đổi mới quản lý doanh

nghiệp nhà nước, tỉnh đã tập trung chỉ đạo và có các chính sách tích cực hỗ trợ các doanh

nghiệp nhà nước mở rộng sản xuất, nâng cao năng lực và chất lượng kinh doanh - dịch vụ,

ngày càng làm ăn có hiệu quả [21].

Tổng hợp kết quả và các hình thức sắp xếp, chuyển đổi doanh nghiệp nhà nước

trên địa bàn của tỉnh được thể hiện ở bảng dưới đây:

Biểu 2.3: Kết quả sắp xếp, chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp nhà nước

trên địa bàn tỉnh (1998 - 2002)

Hình thức Năm Năm Năm Năm Năm Tổng

1998 1999 2000 2001 2002 số

Sáp nhập 3 1 1 2 0 7

Hợp nhất 0 0 0 0 2 2

Cổ phần hóa 0 0 1 3 3 7

Giao, bán khoán KD, cho 0 0 0 0 0 0

thuê

Giải thể 2 0 0 0 0 2

5 1 2 5 5 18 Tổng số

Nguồn: Sở Tài chính Quảng Bình (1998-2002), Báo cáo tiến độ cổ phần hóa, giao,

bán, khoán và cho thuê doanh nghiệp nhà nước, Quảng Bình [18].

- Về tổ chức sáp nhập các doanh nghiệp nhà nước

Đã tiến hành tổ chức sáp nhập doanh nghiệp nhỏ có nhiều khó khăn trong sản xuất

kinh doanh, trong tổ chức điều hành và thị trường tiêu thụ sản phẩm vào các doanh nghiệp

lớn hơn, cụ thể là: Xí nghiệp Gạch ngói 1-5, Công ty Xây lắp 1, công ty xây lắp 2 Quảng

Bình được sáp nhập vào công ty Xi Măng áng Sơn và đổi tên thành Công ty Xây dựng và

vật liệu xây dựng Quảng Bình; Nhà máy Đông lạnh Đồng Hới được sáp nhập vào Công ty

xuất nhập khẩu Quảng Bình; Xí nghiệp cơ khí Thủy Lợi được sáp nhập vào công ty Cơ

Điện Nông nghiệp Quảng Bình; Công ty Thương mại Nam Quảng Bình được sáp nhập vào

Công ty Thương mại miền núi Quảng Bình; xí nghiệp súc sản Quảng Bình được sáp nhập

vào công ty kinh doanh tổng hợp Quảng Bình.

Sau khi sáp nhập, nhìn chung các doanh nghiệp đã có xây dựng phương án sản xuất

kinh doanh thích hợp, tổ chức bố trí cán bộ hợp lý, đã giải quyết công ăn việc làm và thực

hiện các chính sách cho người lao động, tích cực giải quyết các tồn tại về tài chính, công

nợ…Một số đã có dự án đầu tư để mở rộng và phát triển sản xuất, bước đầu đã đạt được

những kết quả đáng khích lệ trong sản xuất kinh doanh và đóng góp ngân sách cho tỉnh.

- Về hợp nhất các doanh nghiệp nhà nước

Như đã trình bày ở trên, đối với Quảng Bình du lịch là một tiềm năng lớn và đa

dạng, bao gồm du lịch sinh thái, du lịch hang động, du lịch lịch sử, du lịch tắm biển, điều

dưỡng và du lịch lữ hành... nhưng chưa được khai thác đầy đủ, chất lượng còn hạn chế. Do

vậy, việc tổ chức mới Công ty Du lịch Quảng Bình từ hai đơn vị là Công ty Khách sạn -

Du lịch Đồng Hới, Khách sạn Phương Đông và bộ phận quản lý du lịch Phong Nha (Sở

Văn hóa) là bước đi đúng hướng, làm nòng cốt cơ bản để khai thác tiềm năng du lịch hiện

tại và những năm tiếp theo một cách đồng bộ và vững chắc.

Qua quá trình hoạt động, Công ty đã có nhiều chuyển biến tích cực trong các lĩnh

vực tổ chức bộ máy, mở rộng hoạt động kinh doanh - dịch vụ, bước đầu nâng cao được

chất lượng phục vụ ở một số khâu quan trọng, xây dựng các dự án nâng cấp, mở rộng, đầu

tư mới để tăng thêm sản phẩm du lịch và thu hút ngày càng nhiều du khách đến tham quan

du lịch. Theo ước tính trong năm 2003 số lượng du khách đến với Quảng Bình vào khoảng

65-70 ngàn người, đạt mức cao nhất từ trước đến nay.

Việc hình thành tổ chức mới, trên cơ sở hợp nhất những doanh nghiệp đã có để tập

trung đầu mối, tăng cường năng lực, kinh doanh đa ngành, đa sản phẩm, kết hợp với quản

lý những vùng lãnh thổ nhằm khai thác các tiềm năng, thế mạnh của tỉnh… cần thiết được

xây dựng để thực hiện ở một số lĩnh vực trong thời gian tới.

- Về cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước

Tính đến 31/12/2002 tỉnh đã tiến hành cổ phần hóa được 7 doanh nghiệp nhà nước

là Công ty Vận tải ô tô, Công ty Vận tải thủy Đồng Hới, Xí nghiệp Vận tải Lâm sản, Công

ty Điện tử tổng hợp, Xí nghiệp Gạch ngói 1-5, Công ty Cơ điện Nông nghiệp và Công ty

Cơ khí xây dựng công trình, các doanh nghiệp nhà nước đã cổ phần tuy số lượng ít, quy

mô còn nhỏ, hình thức tổ chức không phức tạp, trong sản xuất kinh doanh còn nhiều khó

khăn nhưng là kết quả bước đầu hết sức quan trọng và đáng khích lệ. Điều đáng nói là quy

trình cổ phần hóa đã được triển khai thực hiện một cách đầy đủ và triệt để từ khâu chỉ đạo,

lãnh đạo của Tỉnh ủy, ủy ban nhân dân tỉnh, sự phối hợp hỗ trợ của các ban ngành và tính

chủ động của ban lãnh đạo và tập thể cán bộ công nhân viên các doanh nghiệp trong xây

dựng phương án sản xuất, điều lệ công ty, thực hiện các chế độ đối với người lao động;

việc đánh giá tài sản nhà nước tại doanh nghiệp và xử lý các ưu đãi cho doanh nghiệp một

cách linh hoạt, đồng bộ đã giúp cho quá trình hoạt động của doanh nghiệp sau cổ phần hóa

có nhiều thuận lợi.

Về mặt tư tưởng, mặc dù ban đầu còn có những vướng mắc nhưng khi đã được

phổ biến chính sách của Nhà nước một cách đầy đủ và nhất là quá trình xây dựng phương

án đã thực sự dân chủ bàn bạc… vì vậy cán bộ công nhân viên đã đồng tình với chủ trương

và cách làm. Mặt khác kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của các đơn vị cũng như

quyền lợi của người lao động được giải quyết thỏa đáng, đã thực sự làm cho cán bộ công

nhân viên vừa nâng cao tinh thần trách nhiệm, vừa an tâm hơn trong môi trường kinh

doanh mới.

Trong từng doanh nghiệp, sau khi cổ phần đã có phương án kinh doanh đổi mới vừa

củng cố, tăng cường mở rộng ngành nghề cũ, vừa đăng ký kinh doanh thêm những ngành

nghề mới phù hợp với năng lực hiện có, nhờ vậy chỉ trong một khoảng thời gian ngắn các

doanh nghiệp cổ phần đã đạt được những tín hiệu đáng mừng, doanh thu tăng từ 1,5 đến 2

lần, nộp ngân sách tăng, cụ thể là, Công ty cổ phần sản xuất vật liệu xây dựng 1-5, Công ty

cổ phần Ôtô đã có những kết quả đáng khích lệ. Sản lượng và giá trị sản xuất tăng trên

50%, các khoản nợ được thanh toán sòng phẳng; nộp ngân sách vượt kế hoạch tỉnh giao từ

20-30%, thu nhập của người lao động tăng ổn định (Lương bình quân của công ty cổ sản

xuất vật liệu xây dựng 1-5 là 1,5 triệu đồng/người tăng 90% so với thời điểm trước cổ

phần hóa doanh nghiệp; lợi tức cổ phiếu đã đạt mức cao 4,5%/tháng). Công ty cổ phần

Vận tải thủy Đồng Hới, Công ty cổ phần hóa vận tải và kinh doanh tổng hợp Quảng Bình...

cũng đang triển khai các dự án cải tạo phương tiện, thiết bị; tổ chức thêm ngành nghề kinh

doanh mới, bước đầu đã thu được kết quả khả quan, các doanh nghiệp đều có lãi cao hơn

trước nhiều lần, các tồn đọng về tài chính từng bước được giải quyết, các phát sinh mới về

công nợ ít; việc trích lập các quỹ đã được chú ý, nhất là quỹ phúc lợi là quỹ khuyến khích

sản xuất. Đến hết năm 2002 tình hình hoạt động của các công ty cổ phần thể hiện như sau:

Biểu 2.4: Kết quả hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước

trước và sau cổ phần hóa đến 31/12/ 2002

ĐVT: triệu đồng

Nộp Doanh thu Lợi nhuận Lao động Thu nhập N.Sách Tên Trư Trư Trư Trư Trư Công ty cổ phần Sau Sau Sau Sau Sau ớc ớc ớc ớc ớc CPH CPH CPH CPH CPH CPH CPH CPH CPH CPH

Cty CP Vận tải Ôtô 1.45 1.95 1 14.6 30 42 27 20 312 390

0 0

Cty CP vận tải Thủy 2.43 2699 0 13,2 25 45 20 15 330 415

5

Cty CP vận tải 2.69 3.93 -2 16 45 57 40 31 310 355

KDTH 9 5

Cty CP Điện tử Tin 3.35 4.57 5 14,3 110 150 21 20 415 490

học 0 0

Cty CP S/xuất 5.45 8.35 76,5 150, 350 853 215 237 780 1.50

VLXD 1.5 0 5 9 0

Cty CP Cơ Điện 6.93 7.74 183 234 93 134 150 140 358 610

NN 7 8

Cty CP Cơ khí và 4.30 5.32 19 52 180 221 123 115 530 670

XDCT 8 4

Nguồn: Sở Tài chính Quảng Bình (2002), Báo cáo tổng hợp tài chính doanh

nghiệp cổ phần Quảng Bình, Quảng Bình [20].

Bên cạnh những kết quả đạt được từ hoạt động sản xuất kinh doanh, các hoạt động

của tổ chức Đảng, Công đoàn, Đoàn thanh niên vẫn được coi trọng và có tác dụng tích cực

trong lãnh đạo, trong thực hiện các nghị quyết, các chủ trương chính sách của Đảng, Nhà

nước trong vai trò làm chủ tập thể của các doanh nghiệp, nhất là vai trò tự giám sát và chủ

động thực hiện các nhiệm vụ được giao.

- Về giải thể các doanh nghiệp

Song song với việc sắp xếp, chuyển đổi các doanh nghiệp, trong thời gian qua tỉnh

đã thực hiện giải thể 2 Công ty Vận tải và Dịch vụ thương mại và Công ty nhiếp ảnh

Quảng Bình. Đây là 2 công ty làm ăn thua lỗ trong nhiều năm, lại không có phương án

thay đổi hướng sản xuất kinh doanh cũng như phương án chuyển đổi hình thức sở hữu.

- Về chuyển đổi quản lý

Trong những năm qua, tỉnh đã chuyển 3 doanh nghiệp thuộc ủy ban nhân dân tỉnh

(Công ty Kinh doanh tổng hợp Quảng Bình, Công ty Du lịch Quảng Bình, Công ty sông

Gianh) và 2 doanh nghiệp (Công ty Khách sạn dịch vụ công đoàn, Công ty Kinh doanh

tổng hợp Quảng Bình) từ quản lý sự nghiệp đoàn thể sang hoạt động kinh doanh theo Luật

doanh nghiệp nhà nước, phù hợp với yêu cầu đổi mới quản lý cũng như đáp ứng yêu cầu

mở rộng sản xuất, đa dạng ngành nghề của một số doanh nghiệp lớn, bước đầu đã tạo điều

kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp tổ chức sản xuất kinh doanh - dịch vụ, chủ động giảm

dần các khâu trung gian không cần thiết. Mặt khác đòi hỏi các ngành quản lý kinh tế, kỹ

thuật, quản lý tổng hợp có những đổi mới tích cực để phù hợp với yêu cầu và quản lý

doanh nghiệp nhà nước, hình thức tổ chức quản lý này cũng cần được mở rộng để áp dụng

cho một số doanh nghiệp khác khi tiếp tục triển khai, thực hiện đề án sắp xếp, đổi mới

doanh nghiệp nhà nước trong giai đoạn tới.

Bên cạnh các hình thức sắp xếp và chuyển đổi sở hữu, chuyển đổi quản lý, thời

gian qua các doanh nghiệp nhà nước của Quảng Bình đã thực hiện trên 10 dự án phát triển

lớn, nhỏ và nhiều dự án đầu tư chiều sâu khác với tổng số vốn đầu tư khoảng 250 tỷ đồng.

Phần lớn năng lực mới đã đưa vào sản xuất, thực sự đã làm thay đổi diện mạo của doanh

nghiệp nhà nước Quảng Bình từ việc tăng quy mô, sử dụng công nghệ mới, tiên tiến, đa

dạng sản phẩm với chất lượng đạt tiêu chuẩn trong nước và khu vực, một bộ phận đạt tiêu

chuẩn Châu Âu; ngày càng thu hút nhiều hơn lực lượng lao động trẻ dẫn đến việc sản xuất

kinh doanh đạt kết quả cao hơn, đóng góp ngân sách tốt hơn, góp phần tích cực tăng giá trị

sản xuất công nghiệp và chuyển đổi cơ cấu sản xuất theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại

hóa.

Một số dự án phát triển khác đang được xây dựng và triển khai, trong những năm

tới sẽ làm cho vai trò của doanh nghiệp nhà nước được khẳng định hơn. Đối với Dự án liên

doanh, liên kết với nước ngoài để tiếp nhận công nghệ mới, mở rộng thị trường, đa dạng

hóa sản phẩm theo chất lượng tiêu chuẩn khu vực và thế giới là hướng ưu tiên của một số

doanh nghiệp, vì vậy tỉnh cần có chính sách hỗ trợ và khuyến khích.

Ngoài ra, việc đổi mới phương thức quản lý, như khoán kết quả sản xuất đến

người lao động; huy động các nguồn vốn tự có, vay ưu đãi, liên doanh, liên kết mở rộng thị

trường, giải quyết các loại công nợ tồn đọng, bảo đảm việc làm và thu nhập cho người lao

động.v.v. cũng đã mang lại những sức sống mới cho các doanh nghiệp nhà nước của tỉnh

2.3.2. Một số nhận xét, đánh giá từ kết quả thực hiện sắp xếp, đổi mới doanh

nghiệp nhà nước ở Quảng Bình trong thời gian qua

Mặc dù từ cuối năm 1999 đến nay tiến trình sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà

nước ở Quảng Bình đã đạt được những thành tựu đáng kể, song so với yêu cầu và mục tiêu

đặt ra thì việc tiến hành sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước vẫn còn những hạn chế,

nhiều mục tiêu chưa đạt được, nhiều vướng mắc chưa được giải quyết, đó là:

- Tiến độ triển khai cũng như số lượng các doanh nghiệp của tỉnh được sắp xếp

còn chậm so với kế hoạch đề ra. Theo đề án sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước của

tỉnh đã được Trung ương phê duyệt đến hết năm 2005, số doanh nghiệp có vốn nhà nước

100% hoặc Nhà nước nắm cổ phần chi phối chỉ còn giữ lại 24 doanh nghiệp, trong đó: Doanh

nghiệp kinh doanh là 15 doanh nghiệp và doanh nghiệp công ích là 9 doanh nghiệp, tuy vậy,

đến thời điểm 31/12/2002 số doanh nghiệp nhà nước thuộc tỉnh quản lý vẫn còn 49 doanh

nghiệp.

- Thời gian chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp nhà nước thường kéo dài, do một số

vấn đề vướng mắc phải chờ giải quyết. Một số doanh nghiệp đã có Quyết định cổ phần hóa

nhưng còn một số vấn đề phải chờ trả lời của cơ quan cấp trên nên việc tiến hành diễn ra

chậm, chẳng hạn vấn đề nợ thuế 4,5 tỷ đồng của Nhà máy Bia rượu Quảng Bình, nếu

không xử lý đươc việc xóa nợ thuế thì không thể tiên hành cổ phần hóa được. Hoặc việc

xử lý nợ phải trả cho Quỹ hỗ trợ phát triển trong việc vay vốn đầu tư 2 tàu đánh cá xa bờ

mà hiện không thể trả được nợ của Xí nghiệp Thủy sản Sông Gianh.

- Hình thức chuyển đổi sở hữu chủ yếu mới dừng lại ở việc áp dụng hình thức cổ

phần hóa toàn bộ hoặc một bộ phận doanh nghiệp nhà nước. Các hình thức chuyển đổi

khác như giao, bán, khoán kinh doanh và cho thuê doanh nghiệp chưa được áp dụng. Một

điều đáng nói là thực trạng các doanh nghiệp nhà nước tỉnh thực hiện chuyển đổi đều có

quy mô nhỏ, trình dộ công nghệ lạc hậu, sản xuất kinh doanh kém hiệu quả, lỗ lũy kế và

công nợ mất khả năng thanh toán lớn thì việc áp dụng hình thức cổ phần hóa sẽ mất nhiều

thời gian và hiệu quả không bằng các hình thức giao, bán doanh nghiệp theo nghị định

103/NĐ-CP (10/9/1999) của Chính phủ.

- Đối tượng mua cổ phần trong các doanh nghiệp nhà nước thực hiện cổ phần hóa

chủ yếu là người lao động, nhân viên, cán bộ quản lý trong doanh nghiệp, chưa thu hút

được các cổ đông ngoài doanh nghiệp tham gia. Như vậy vốn thu hút ngoài xã hội không

nhiều, việc huy động một lượng vốn cần thiết để đổi mới công nghệ, mở rộng sản xuất

không được thực hiện. Đây chính là hạn chế trong việc huy động vốn cũng như tập trung

được trí tuệ của xã hội vào việc phát triển doanh nghiệp sau cổ phần hóa.

Kể cả cấp Trung ương cũng như cấp tỉnh đều chưa thiết lập được một cơ chế đồng

bộ và có hiệu lực để thực sự tạo ra sự đột phá và có hiệu lực để thực sự tạo ra sự đột phá

trong quá trình sắp xếp, đổi mới và phát triển doanh nghiệp như xử lý những tồn tại về lao

động dôi dư, tồn tại về tài chính, cơ chế về trách nhiệm của giám đốc doanh nghiệp trong

trường hợp kinh doanh thua lỗ kéo dài gây thất thoát vốn của nhà nước.

2.3.3. Những tồn tại, hạn chế trong thực hiện sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà

nước ở Quảng Bình

- Những khó khăn, tồn tại về nhận thức tư tưởng

Sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước là một chủ trương mới, tuy đã thực hiện

qua một số năm, nhưng về nhận thức tư tưởng, tâm lý của một số ngành quản lý cấp tỉnh

cũng như doanh nghiệp còn chưa chuyển biến kịp.

Về phía cán bộ lãnh đạo doanh nghiệp (Bí thư cấp ủy Đảng, giám đốc, phó giám

đốc doanh nghiệp), vẫn còn tư tưởng bảo thủ, sợ mất đặc quyền, đặc lợi, sợ trách nhiệm cá

nhân trong triển khai thực hiện sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nên còn chần chừ, chưa

quyết tâm triển khai thực hiện phương án sắp xếp doanh nghiệp đã được phê duyệt; đối với

công nhân viên chức doanh nghiệp lại có tâm lý sợ mất quyền lợi nhất định của một công

nhân viên chức nhà nước, sợ sẽ bị sàng lọc, đào thải nếu không đủ năng lực và trình độ

quản lý, kỹ thuật, chuyên môn nghiệp vụ khi doanh nghiệp hoạt động trong một môi

trường mới không có sự bao cấp của nhà nước, do vậy, chủ trương sắp xếp, đổi mới doanh

nghiệp cũng không nhận được sự hưởng ứng nhiệt tình từ những lực lượng này.

Về phía cơ quan quản lý nhà nước, vai trò lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, chính

quyền và của các Sở chủ quản còn hạn chế chưa được coi trọng ở một số nơi, một số

ngành. Không ít cán bộ lãnh đạo Sở, ban ngành, doanh nghiệp đã chưa nhận thức đầy đủ

và thống nhất về vai trò chủ đạo của doanh nghiệp nhà nước, vẫn còn quan điểm cho rằng

vai trò chủ đạo phải được thể hiện qua số lượng lớn, tỷ trọng cao mà chưa chú ý đến hiệu

quả của doanh nghiệp nhà nước nên vẫn muốn duy trì nhiều doanh nghiệp nhà nước ở tất

cả các ngành, nghề khác nhau mà chưa tập trung vào những ngành nghề, lĩnh vực then

chốt để phát huy vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, còn chần chừ thực hiện chủ trương

chuyển đổi sở hữu một bộ phận doanh nghiệp nhà nước sang các thành phần kinh tế khác;

đặc biệt một số ngành, vẫn muốn có trong tay mình một số doanh nghiệp nhà nước đáng

kể để chi phối, nếu sắp xếp, chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp sẽ mất quyền, mất lợi ích. Vì

vậy trong chỉ đạo triển khai vẫn còn nặng về hình thức và có tính chất đối phó. Đây là

nguyên nhân quan trọng dẫn đến việc phối hợp không đồng bộ, thiếu thống nhất giữa các

cấp ủy, chính quyền và đoàn thể, làm cho tiến trình sắp xếp và đổi mới doanh nghiệp nhà

nước diễn ra chậm.

Công tác tuyên truyền, phổ biến chủ trương, chính sách về sắp xếp, đổi mới doanh

nghiệp chưa được quán triệt thường xuyên, sâu rộng tới lãnh đạo và đặc biệt là người lao

động trong các doanh nghiệp. Vì vậy chưa tạo ra sự nhận thức sâu sắc, sự đồng tình ủng hộ

đối với một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước. Có ý kiến cho rằng do còn nhiều khó

khăn, vướng mắc khó khăn trong thực hiện nên cần tiến hành thận trọng, từng bước một

cách vững chắc.

- Những khó khăn, tồn tại trong công tác chỉ đạo, thực hiện

Công tác phổ biến, tập huấn nghiệp vụ sắp xếp, chuyển đổi doanh nghiệp tuy đã

tiến hành ở cả cấp Trung ương và địa phương, nhưng đến nay việc thực hiện vẫn chưa có

sự thống nhất đồng đều ở các địa phương, nhất là quy trình, thủ tục thực hiện, xử lý những

tồn tại về tài chính, giải quyết các chính sách đối với người lao động về nợ lương, nợ bảo

hiểm xã hội; chưa có sự tổng kết đánh giá kịp thời để giải quyết thỏa đáng các vướng mắc

nảy sinh trong thực tiễn, do đó đã dẫn đến tình trạng mỗi địa phương vận dụng một cách

khác nhau trong cả nước.

Sự chỉ đạo, thực hiện từ Trung ương đến địa phương còn thiếu kiên quyết, có giao

kế hoạch hàng năm nhưng lại không kiểm tra, đôn đốc cụ thể địa phương làm tốt cũng như

địa phương làm chưa tốt, thậm chí không thực hiện cũng không sao. Trong chỉ đạo của

tỉnh chưa coi đây là một nhiệm vụ chính trị quan trọng, do vậy mặc dù có đề ra nhưng việc

đôn đốc, nhắc nhở chưa thường xuyên nên đã dẫn đến tình trạng các doanh nghiệp còn né

tránh việc thực hiện sắp xếp, đổi mới; sự phối hợp giữa cấp ủy đảng và chính quyền còn

thiếu nên kết quả chưa cao.

- Những khó khăn, vướng mắc về cơ chế chính sách

Cơ chế chính sách đã ban hành còn nhiều vướng mắc, chưa đồng bộ, chưa cụ thể.

Đây được xem là cản trở lớn đến quá trình sắp xếp và đổi mới doanh nghiệp nhà nước trên

phạm vi cả nước nói chung và Quảng Bình nói riêng. Biểu hiện cụ thể là:

- Về tiêu chí phân loại, sắp xếp doanh nghiệp nhà nước, theo Quyết định số

58/2002/QĐ-TTg ngày 26/04/2002 của Thủ tướng Chính phủ thì Nhà nước vẫn còn nắm

giữ 100% vốn đối với nhiều ngành nghề, lĩnh vực doanh nghiệp, đối với những ngành

nghề lĩnh vực cổ phần hóa tỷ lệ Nhà nước chiếm giữ cổ phần chi phối còn chiếm đa số (áp

dụng cho các doanh nghiệp có vốn từ 5 tỷ đồng trở lên hoạt động sản xuất kinh doanh có lãi

- Chỉ thị 01/2003/CT-TTg). Do vậy, đã làm hạn chế phạm vi các doanh nghiệp thuộc diện

được sắp xếp, chuyển đổi sở hữu theo các hình thức khác nhau. Mặt khác, do chưa có sự

thống nhất về cách tính toán, xác định các tiêu chí cụ thể, đặc biệt là các tiêu chí có tính

định tính cũng như định lượng trong phạm vi cả nước, nên dẫn đến tình trạng các doanh

nghiệp thương có sự vận dụng trong cách tính nhằm đưa doanh nghiệp vào diện được giữ

lại 100% vốn nhà nước.

- Việc phân định rạch ròi về quyền lợi và trách nhiệm của giám đốc doanh nghiệp

tuy đã được đề cập tại Nghị định số 59/NĐ-CP và 27/NĐ-CP nhưng còn hết sức chung

chung; chưa có cơ chế xử lý cụ thể về trách nhiệm của giám đốc khi doanh nghiệp kinh

doanh thua lỗ mà mọi thiệt hại đều dồn vào Nhà nước phải gánh chịu và đây cũng chính là

nguyên nhân mà các giám đốc doanh nghiệp muốn giữ lại tên gọi doanh nghiệp nhà nước

như một "lá bùa hộ mệnh" phòng khi làm ăn thua lỗ có cái để bấu víu mà hoàn toàn không

muốn thực hiện các hình thức sắp xếp và đổi mới doanh nghiệp đặc biệt là các hình thức

chuyển đổi sở hữu

- Hệ thống chính sách và các hướng dẫn về sắp xếp, đổi mới, chuyển đổi sở hữu và

các chính sách liên quan khác của Nhà nước chưa có tính đồng bộ, kịp thời; các hỗ trợ ưu

đãi để khuyến khích chuyển đổi, nhất là quyền lợi trực tiếp cho người lao động trong các

tỉnh nghèo như Quảng Bình chưa thực sự hấp dẫn, cụ thể là:

Nghị định 44/1998/NĐ-CP của Chính phủ về chuyển doanh nghiệp nhà nước

thành công ty cổ ban hành vào ngày 29/6/1998 thì đến ngày 19 tháng 6 năm 2002 mới có

Nghị định 64/2002/NĐ-CP bổ sung, sửa đổi, như vậy, cả một khoảng thời gian dài gần 4

năm, mọi vấn đề vướng mắc, tồn tại nảy sinh trong quá trình thực hiện cổ phần hóa như:

việc quy định tỷ lệ và mức khống chế mua cổ phần lần đầu đối với cá nhân, tổ chức trong

và ngoài doanh nghiệp, tỷ lệ cổ phần ưu đãi đối với cán bộ quản lý doanh nghiệp; việc xác

định giá trị của doanh nghiệp để cổ phần hóa và các chế tài bảo đảm cho người lao động

giữ được cổ phần trong doanh nghiệp đã không được giải quyết kịp thời, do vậy đã tạo ra

những cản trở chính làm chậm tiến trình cổ phần hóa doanh nghiệp trên phạm vi cả nước

cũng như ở Quảng Bình.

Việc giải quyết trợ cấp thôi việc cho người lao động sau 12 tháng kể từ khi công ty

cổ phần đi vào hoạt động do thay đổi công nghệ chậm được giải quyết. Nguyên nhân chủ

yếu là do Bộ Tài chính chậm hướng dẫn thông tư thực hiện Quyết định 177/QĐ-TTg ngày

30/8/1999 về tổ chức và hoạt động của Quỹ hỗ trợ sắp xếp và cổ phần hóa hóa doanh

nghiệp nhà nước, mãi đến ngày 9/6/2000, sau 10 tháng từ khi được ban hành, mới có thông

tư hướng dẫn.

Cơ chế tài chính cho việc thực hiện sắp xếp, chuyển đổi doanh nghiệp nhà nước

sang công ty cổ phần tại Nghị định số 64/2002/NĐ-CP đến nay tuy khá đầy đủ, song vẫn

còn nhiều vấn đề phát sinh trong quá trình thực hiện chậm được giải quyết như:

+ Cơ chế xử lý nợ và tồn đọng của doanh nghiệp nhà nước còn mang tính hành

chính nên chưa xử lý được nợ đọng vay Quỹ hỗ trợ phát triển (do chưa có cơ chế) hoặc xử

lý nợ đọng vay ngân hàng (do quyền sở hữu doanh nghiệp và quyền quản lý về đất đai bị

chia cắt)

+ Việc tính giá trị quyền sử dụng đất vào giá trị doanh nghiệp cổ phần hóa theo

tinh thần Nghị quyết Trung ương 3 còn chậm được nghiên cứu, triển khai. Cơ chế định giá

còn tách rời cơ chế thị trường khi chủ yếu áp dụng cơ chế hội đồng mang nặng tính chủ

quan của cơ quan quản lý nên đã làm cho giá trị doanh nghiệp sau khi xác định không

phản ánh đúng giá trị thực (thấp hơn nhiều) do loại bỏ giá trị vô hình, lợi thế doanh nghiệp.

+ Cơ chế bán đấu giá công khai thông qua định chế trung gian vẫn còn hạn chế,

còn bị chi phối bởi chính sách ưu đãi cho người lao động (cơ chế người lao động được ưu

đãi giảm giá và mua cổ phiếu theo giá sàn) dẫn đến việc cổ phần hóa doanh nghiệp nhà

nước chỉ nằm trong phạm vi nội bộ doanh nghiệp do đó không những không đạt được mục

tiêu đã đề ra (thu hút thêm vốn) mà còn có xu hướng thu hẹp nguồn lực của nhà nước

(thông qua bán rẻ tài sản). Quy định người lao động được mua cổ phiếu ưu đãi sau 3 năm

mới được bán ra thiếu tính linh hoạt và thực chất là không tạo điều kiện cho người lao

động tăng thu nhập thông qua việc mua bán lại cổ phiếu.

+ Quy trình cổ phần hóa còn cứng nhắc, rườm rà; việc xác định giá trị doanh

nghiệp theo cơ chế Hội đồng, giá sàn làm phức tạp và chậm quá trình cổ phần hóa; thiếu

các quy định gắn trách nhiệm của doanh nghiệp trong việc chủ động xử lý tồn tại về tài

chính, lao động dôi dư nên có xu hướng dồn lại khi thực hiện chuyển đổi để được Nhà

nước xử lý tạo ra gánh nặng cho ngân sách nhà nước, tạo kẻ hở cho thất thoát vốn và tài

sản.

Ngoài ra, các ưu đãi đối với các doanh nghiệp tiến hành cổ phần hóa còn mang

tính bình quân, không phụ thuộc vào tình hình hoạt động của doanh nghiệp tại thời điểm

trước cổ phần hóa, do vậy hiệu lực khuyến khích không cao. Theo Thông tư 104/1998/TT-

BTC, đối với doanh nghiệp có vốn tự tích lũy từ 40% giá trị doanh nghiệp trở lên (theo sổ

kế toán) thì tổng giá trị ưu đãi cho cho người lao động không quá 30% giá trị phần vốn

thực tế tại doanh nghiệp mà vốn tự tích lũy có được là do sự nỗ lực của doanh nghiệp. Do

vậy, lẽ ra doanh nghiệp phải được khuyến khích nhiều hơn so với những điều đã quy mới

thực sự tạo động lực cho các doanh nghiệp nhà nước tiến hành cổ phần hóa doanh nghiệp

của mình.

Nghị định số 103/NĐ-CP (10/9/1999), Nghị định 49/2002/NĐ-CP (24/04/2002)

sửa đổi Nghị định 103/CP của Chính phủ về giao, bán, khoán cho thuê doanh nghiệp nhà

nước ra đời nhằm đáp ứng nhu cầu đa dạng hóa các loại hình chuyển đổi sở hữu doanh

nghiệp nhà nước, phù hợp với các doanh nghiệp nhà nước có quy mô nhỏ, hoạt động kém

hiệu quả không thể tiến hành cổ phần hóa được, nhưng đến nay ở Quảng Bình vẫn chưa có

một doanh nghiệp nào thực hiện hình thức giao, bán, khoán cho thuê doanh nghiệp;

nguyên nhân chính không phải ở Quảng Bình không có doanh nghiệp nhà nước cần phải

thực hiện hình thức giao, bán, khoán hoặc cho thuê doanh nghiệp mà vấn đề chính là quy

định tiến hành đa dạng hóa sở hữu với những doanh nghiệp nhà nước độc lập có vốn Nhà

nước dưới 1 tỷ đồng (hoặc 5 tỷ đồng theo Nghị định 49/NĐ-CP của Chính phủ), những

doanh nghiệp có vốn từ 1-5 tỷ đồng phải kinh doanh thua lỗ mới được áp dụng bán, khoán

và cho thuê. Vì thế các đơn vị trực thuộc các doanh nghiệp nhà nước, một số bộ phận (độc

lập) của doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp hạch toán phụ thuộc công ty của tỉnh, sẽ

không thể xếp vào diện thực hiện bán, khoán, cho thuê theo Nghị định này. Trên thực tế,

chính những bộ phận này lại cần được chuyển đổi hình thức sở hữu.

Về tiêu chí quy mô vốn, quy định giới hạn dưới 1tỷ đồng hoặc từ 1-5 tỷ đồng cũng

là những vấn đề bất cập, trong thực tế, có nhiều doanh nghiệp của tỉnh có vốn trên 5 tỷ

đồng thua lỗ kéo dài, không hoạt động trong những ngành, lĩnh vực Nhà nước nhất thiết

phải nắm 100% vốn hoặc giũ cổ phần chi phối, cổ phần đặc biệt mà không thể tiến hành cổ

phần hóa, giải thể, phá sản được. Cả về mặt kinh tế cũng như về mặt xã hội, các doanh

nghiệp này cần được chuyển đổi hình thức sở hữu, nhưng theo quy định chúng lại không

phải là đối tượng của việc bán, khoán, kinh doanh và cho thuê. Điều này đòi hỏi phải có

nhận thức và nhìn nhận lại một cách linh hoạt hơn về việc lựa chọn đối tượng đa dạng hóa

sở hữu trên cơ sở tiêu chí về vốn.

Về đối tượng được mua, nhận khoán và thuê doanh nghiệp cũng còn hạn chế, chủ

yếu tập trung trong nội bộ doanh nghiệp, trong khi đó tỷ lệ cá nhân và tổ chức bên ngoài

tham gia còn quá ít. Chính từ đây xuất hiện mâu thuẫn là: những người có quyền được mua

doanh nghiệp thì thì không có tiền, thiếu kinh nghiệm quản lý; còn những người có khả

năng mua, có khả năng tổ chức kinh doanh thì không thuộc diện mua.

Về hình thức chuyển đổi sở hữu đối với các doanh nghiệp còn cứng nhắc và đơn

điệu. Một trong những trở ngại chính đối với đa dạng hóa sở hữu doanh nghiệp nhà nước ở

Quảng Bình chính là quy định giao, bán, khoán kinh doanh và cho thuê chỉ tiến hành đối

với toàn bộ doanh nghiệp. Quy định cứng nhắc này đã dẫn đến những vấn đề sau:

Hạn chế việc đa dạng hóa sở hữu một bộ phận doanh nghiệp nhà nước, đặc biệt

những doanh nghiệp có nhiều bộ phận độc lập tương đối, rải đều trên địa bàn rộng, thậm

chí hoạt động trong những lĩnh vực khác nhau. Thực tế ở Quảng Bình cho thấy, có những

cá nhân và tổ chức bên ngoài có tiềm lực quản lý và tài chính chỉ muốn thuê, nhận khoán

một bộ phận của doanh nghiệp (ví dụ một số cửa hàng của doanh nghiệp thương mại)

nhưng việc triển khai gặp khó khăn, lúng túng vì Nghị định 103/1999/NĐ-CP chỉ cho phép

tiến hành với toàn bộ doanh nghiệp. Mặc dù hình thức này vẫn được tiến hành trên thực tế,

nhưng nó cho thấy các quy định pháp lý cần có sự điều chỉnh cho phù hợp. Không có

doanh nghiệp nào được khoán kinh doanh và cho thuê trong tổng số doanh nghiệp chuyển

đổi hình thức sở hữu trong thời gian qua ở Quảng Bình đã một phần nói lên những bất cập

của vấn đề này.

Ngoài ra, việc đa dạng hóa sở hữu toàn bộ doanh nghiệp không đủ sức hấp dẫn với

các cá nhân và tổ chức bên ngoài vì tâm lý chung là các nhà đầu tư chỉ muốn bỏ vốn vào các

bộ phận có thể mang lại hiệu quả kinh tế ngay (hoặc sau một thời gian ngắn) sau khi mua,

nhận khoán hoặc nhận thuê doanh nghiệp.

2.4. Kinh nghiệm cải cách, đổi mới doanh nghiệp nhà nước ở một số nước trên thế

giới [22], [23].

ở tất cả các quốc gia trên thế giới đều có doanh nghiệp nhà nước với vai trò cũng

như số lượng nhiều ít khác nhau. Mặc dù quan niệm và cơ chế quản lý doanh nghiệp nhà

nước có sự khác nhau ở các nước nhưng nếu loại trừ sự khác nhau đó vẫn thấy bức tranh

chung là hầu hết các quốc gia đều chủ động thành lập các doanh nghiệp nhà nước và cũng

chủ động đổi mới khu vực kinh tế này cả về mặt xác lập lại quy mô, tỷ trọng và đổi mới cơ

chế quản lý, đánh giá đúng và phân tích rút ra các bài học của các nước sẽ quan trọng đối

với nước ta hiện nay.

2.4.1. Kinh nghiệm đổi mới doanh nghiệp nhà nước ở Trung Quốc

Quá trình cải cách doanh nghiệp nhà nước ở Trung Quốc được bắt đầu từ những

năm 1980 của thế kỷ XX, khi Trung Quốc bắt đầu thực hiện chiến lược "cải cách và mở

cửa" nền kinh tế. Trong quá trình cải cách, các doanh nghiệp quốc hữu vẫn luôn được xác

định là trụ cột của nền kinh tế, có vị trí hết sức quan trọng đối với xây dựng thể chế kinh tế

thị trường xã hội chủ nghĩa màu sắc Trung Quốc. Vì vậy, Trung Quốc coi việc cải cách các

doanh nghiệp quốc hữu là một nhiệm vụ đặc biệt quan trọng, phải kiên định, tìm tòi và

mạnh dạn thực hiện.

Từ sau Hội nghị Trung ương 5 khóa XIV của Đảng Cộng sản Trung Quốc (1995), căn

cứ vào chiến lược phát triển và thực tế phát triển kinh tế - xã hội, Chính phủ Trung Quốc đã

có nhiều cải cách và sự điều chỉnh quan trọng về quyết sách đối với các doanh nghiệp quốc

hữu, thể hiện ở các nội dung cơ bản sau:

- Với tư tưởng lấy chế độ công hữu làm chủ thể, kinh tế quốc hữu làm chủ đạo,

thúc đẩy các hình thức sở hữu khác cùng phát triển nên không giới hạn việc phát triển

doanh nghiệp quốc hữu, chuyển đổi hình thức công hữu sang hình thức sở hữu nhiều thành

phần, khuyến khích phát triển loại hình kinh tế hỗn hợp.

- Sắp xếp tổ chức lại các doanh nghiệp quốc hữu nhằm lành mạnh hóa tình hình tài

chính doanh nghiệp, thông qua các giải pháp điều chỉnh lại cơ cấu nợ, sáp nhập, giải thể,

phá sản doanh nghiệp.

- Thay đổi mạnh từ góc độ chiến lược về chế độ công hữu để thực hiện phương

châm "nắm cái lớn, buông cái nhỏ", nhà nước tập trung nắm các doanh nghiệp then chốt,

có vị trí quan trọng đặc biệt, trọng điểm là các doanh nghiệp quốc hữu lớn, là huyết mạch

của nền kinh tế.

- Thực hiện các hoạt động cải cách nhằm thay đổi chức năng của Chính phủ theo

hướng Chính phủ chỉ kiểm soát và chỉ đạo về chính sách đối với các doanh nghiệp, tách

bạch chức năng của doanh nghiệp và cơ quan hành chính.

- Đổi mới chính sách, cơ chế tài chính doanh nghiệp, thực hiện chính sách giảm

thuế, để lại lợi nhuận cho doanh nghiệp; thúc đẩy công ty hóa, tạo điều kiện cạnh tranh

bình đẳng cho các loại hình doanh nghiệp.

Hội nghị Trung ương 4 khóa XV Đảng Cộng sản Trung Quốc (1999) đã tập trung

thảo luận các biện pháp tiếp tục đẩy mạnh cải cách doanh nghiệp nhà nước, Hội nghị cũng

đã thông qua Nghị quyết: "Một số vấn đề trọng đại về cải cách và phát triển doanh nghiệp

nhà nước" với một số nội dung chính là:

 Tiếp tục thực hiện phương châm " nắm cái lớn, buông cái nhỏ";

 Chuyển nợ thành cổ phần (khuyến khích công nhân và tư nhân mua cổ phần để

thanh toán nợ cho ngân hàng);

 Thực hiện chế độ tiền lương mới cho giám đốc doanh nghiệp;

 Tăng cường sự giám sát doanh nghiệp và vai trò lãnh đạo của Đảng.

Trong 4 biện pháp trên thì 3 biện pháp đầu được coi là "Tam pháp bảo" để xoay

chuyển tình trạng thua lỗ của các doanh nghiệp.

Để thực hiện cải cách doanh nghiệp nhà nước theo các quan điểm định hướng cơ

bản trên. Trung Quốc thực hiện hàng loạt các biện pháp cơ bản sau:

- Điều chỉnh, cơ cấu lại nền kinh tế quốc hữu: Theo hướng này, kinh tế quốc hữu

(kinh tế nhà nước) tập trung vào những ngành nghề quan trong then chốt có liên quan đến

hệ thống huyết mạch của nền kinh tế như tài chính, ngân hàng, thông tin, giao thông, điện

tử, năng lượng, vật liệu cơ bản, công nghiệp quốc phòng, xây dựng cơ sở hạ tầng. Nhà

nước tập trung vốn, tài nguyên cho các tập đoàn doanh nghiệp có thế mạnh, đóng góp phần

lớn cho ngân sách nhà nước; các doanh nghiệp có năng lực cạnh tranh, sức mạnh tài chính

hình thành các tập đoàn lớn ở từng khu vực với đặc điểm đa ngành nghề, đa chế độ sở hữu

và vươn ra ngoài lãnh thổ.

Cải cách chế độ sở hữu doanh nghiệp quốc hữu: Có 4 hình thức chính trong cải

cách chế độ sở hữu và quản lý các doanh nghiệp quốc hữu là sáp nhập; chia tách; bán, giải

thể và phá sản, công ty hóa và cổ phần hóa.

Việc sáp nhập được bắt đầu thực hiện từ 1984, tính đến 1988 đã có 2.856 doanh

nghiệp sáp nhập từ 3.428 doanh nghiệp, riêng năm 1996 có gần 1.200 doanh nghiệp bị sáp

nhập. Đến nay ở trung Quốc đã hình thành 1.630 tập đoàn doanh nghiệp thuộc nhiều lĩnh

vực khác nhau.

Bên cạnh việc sáp nhập, quá trình tách doanh nghiệp cũng được thực hiện như một

biện pháp cải cách doanh nghiệp nhà nước, được hình thành và phát triển từ chế độ khoán

kinh doanh. Qua sàng lọc của thị trường, một bộ phận của doanh nghiệp làm ăn có hiệu

quả sẽ dần tách ra khỏi doanh nghiệp cũ, hình thành các doanh nghiệp mới, tính đến năm

1996, Trung Quốc có 5.980 cơ sở được tách ra khỏi doanh nghiệp cũ.

Việc bán doanh nghiệp ở Trung Quốc áp dụng chủ yếu đối với các doanh nghiệp

nhỏ, không thuộc ngành và lĩnh vực quan trọng huyết mạch của nền kinh tế, trong những

năm 80 thậm chí đến đầu những năm 90 việc bán doanh nghiệp cho các thành phần kinh tế

khác rất hạn chế. Tuy nhiên, từ giữa những năm 90 trở lại đây, đối tượng mua doanh

nghiệp được mở rộng đến tất cả các thành phần kinh tế, thậm chí cho cả các công ty nước

ngoài. Việc bán doanh nghiệp có thể là bán một phần hoặc bán đứt toàn bộ doanh nghiệp,

trong những năm 1998 Trung Quốc đã thực hiện bán hàng loạt doanh nghiệp. Chẳng hạn,

tỉnh Liêu Ninh đã bán 50% số doanh nghiệp nhà nước cho tư nhân, trong đó 684 doanh

nghiệp được bán đứt.

Hình thức phá sản và giải thể doanh nghiệp thua lỗ kéo dài, không có khả năng thanh

toán nợ đến hạn cũng được Trung Quốc quan tâm thực hiện để lành mạnh hóa khu vực doanh

nghiệp nhà nước, Số doanh nghiệp nhà nước bị phá sản chủ yếu là các doanh nghiệp vừa và

nhỏ, kinh doanh kém hiệu quả, không bán hoặc cho thuê được. Nếu như năm 1990 Trung

Quốc mới cho phá sản 32 doanh nghiệp nhà nước thì đến năm 1996 số doanh nghiệp bị phá

sản lên tới 6.000 và đang có xu hướng tăng nhanh. Tuy nhiên việc phá sản doanh nghiệp

cũng gặp khó khăn là phải trợ cấp sinh hoạt phí cơ bản cho công nhân thất nghiệp. Do vậy

Chính phủ Trung Quốc có chính sách sử dụng tiền bán tài sản các doanh nghiệp này để ưu

tiên sắp xếp, giải quyết việc làm cho người lao động.

Một hình thức khác để chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp nhà nước ở Trung Quốc là

công ty hóa và cổ phần hóa. Hình thức công ty hóa được áp dụng cho các doanh nghiệp

nhà nước vừa và lớn và được coi là hình thức cơ bản của doanh nghiệp hiện đại, có thể

khắc phục được các nhược điểm truyền thống của các doanh nghiệp nhà nước ra đời từ thể

chế kinh tế kế hoạch hóa tập trung và mô hình công hữu truyền thống. Ưu điểm cơ bản của

mô hình này là phân định được ranh giới quyền tài sản một cách chặt chẽ. Từ sau khi Luật

Công ty của Trung Quốc ra đời (1993), việc áp dụng hình thức công ty ngày càng trở nên

rộng rãi. Hiện nay có hai hình thức công ty được áp dụng rộng rãi ở Trung Quốc là công ty

Trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần hữu hạn. Việc cải cách doanh nghiệp nhà nước

theo hướng công ty hóa theo đánh giá các học giả Trung Quốc là rất phù hợp với công

cuộc cải cách từng bước chế độ sở hữu ở Trung Quốc hiện nay. Bởi vì, công ty theo nghĩa

rộng còn bao hàm cả chế độ cổ phần với nhiều hình thức quản lý khác nhau.

Cùng với công ty hóa, cổ phần hóa là hình thức chuyển đổi sở hữu được đẩy

mạnh. Trung Quốc quan niệm việc cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước không phải là việc

chuyển từ chế độ công hữu sang chế độ tư hữu mà là hoàn thiện và phát triển hơn nữa chế

độ công hữu, điều chỉnh và làm rõ hơn mối quan hệ tài sản trong chế độ công hữu. Khi

chuyển sang công ty cổ phần, quyền sở hữu tài sản do cổ đông nắm giữ, quyền sở hữu

pháp nhân do hội đồng quản trị nắm giữ, quyền kinh doanh do Tổng giám đốc nắm giữ.

Hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp vì vậy mà hoàn toàn độc lập, hình thành

một cơ chế ràng buộc giữa quyền lực, lợi ích và rủi ro.

- Cải cách chính sách, cơ chế quản lý đối với doanh nghiệp quốc hữu. Những nội

dung cơ bản trong cải cách thể chế quản lý đối với doanh nghiệp nhà nước là: Kiên quyết

tách bạch chức năng của chính quyền (quản lý nhà nước) với chức năng của doanh nghiệp,

chính quyền không can thiệp vào công việc kinh doanh của doanh nghiệp, doanh nghiệp trả

lại cho chính quyền những chức năng xã hội mà lâu nay doanh nghiệp vẫn phải đảm nhận

(xây dựng và quản lý trường học, nhà trẻ, bệnh viện, cơ sở hạ tầng khác…) để tập trung

vào thị trường, nâng cao hiệu quả kinh doanh. Thực hiện cải cánh bộ máy Chính phủ từ

Trung ương tới địa phương. Xây dựng thể chế xí nghiệp hiện đại, được thể hiện ở các nội

dung cơ bản là: Doanh nghiệp thực hiện chế độ pháp nhân, có đầy đủ quyền sở hữu và

quyền kinh doanh (khác với trước đây Nhà nước chỉ trao quyền kinh doanh cho doanh

nghiệp). Nhà nước chỉ là chủ sở hữu phần vốn Nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp như các

cổ đông (thông qua đại diện chủ sở hữu của mình tại doanh nghiệp), không chịu trách

nhiệm vô hạn đối với doanh nghiệp. Mặt khác các doanh nghiệp hoạt động như các công ty

Trách nhiệm hữu hạn hoặc công ty cổ phần như các công ty Nhà nước ở các nước kinh tế

thị trường phát triển. Doanh nghiệp phải hoạt động và chịu trách nhiệm trong phạm vi số

vốn của họ, thực hiện lời ăn lỗ chịu. Do vậy giảm được tình trạng nợ nần và các quyết định

vô trách nhiệm của doanh nghiệp.

- Xây dựng đội ngũ cán bộ kinh doanh thích ứng với đòi hỏi của thị trường, Trung

Quốc rất coi trọng chất lượng đội ngũ các nhà kinh doanh, coi việc thiếu người tài còn

trầm trọng hơn thiếu vốn. Vì vậy đã và đang áp dụng hàng loạt các biện pháp như: bắt

buộc những người quản lý kinh doanh phải tham dự các khóa đào tạo và đào tạo lại, bồi

dưỡng kiến thức quản lý kinh tế, kinh tế thị trường. Chính phủ thực hiện sát hạch, kiểm tra

và sẵn sàng điều chỉnh ban lãnh đạo các doanh nghiệp, đồng thời không ngừng nâng cao

hoàn thiện cơ chế quản lý đối với lãnh đạo doanh nghiệp.

2.4.2. Kinh nghiệm cải cách, đổi mới doanh nghiệp nhà nước ở Liên bang Nga

Tiến trình cải cách doanh nghiệp nhà nước ở Liên Bang Nga được tiến hành theo

hai giai đoạn. Giai đoạn 1: thực hiện tư nhân hóa nhỏ, được thực hiện từ năm 1992, chủ

trương tư nhân hóa các doanh nghiệp nhà nước trong lĩnh vực thương mại, dịch vụ; các

doanh nghiệp nhỏ và vừa trong ngành công nghiệp và xây dựng. Giai đoạn 2: đẩy mạnh tư

nhân hóa đối với hàng loạt doanh nghiệp lớn thuộc các ngành khác được thực hiện từ nửa

cuối năm 90. Tuy nhiên Chính phủ Nga không tư nhân hóa các tài sản Nhà nước là tài

nguyên trong lòng đất, rừng biển, các di sản văn hóa, lịch sử….

Để tiến hành tư nhân hóa và cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, Nhà nước tiến

hành phát không một lượng phiếu tư nhân hóa như nhau cho mọi công dân Nga không kể

tuổi tác, địa vị xã hội và thu nhập. Phiếu tư nhân hóa có thể sử dụng theo các cách thức:

bán đi để lấy tiền tiêu dùng cá nhân; đổi lấy cổ phiếu của các quỹ đầu tư tư nhân hoặc quốc

doanh. Các quỹ này dùng chúng để mua cổ phần của doanh nghiệp và dùng lãi cổ phần thu

được để trả lãi cho những người mua cổ phiếu của mình; đổi trực tiếp lấy cổ phiếu của

doanh nghiệp, các công nhân của doanh nghiệp có thể đổi chúng lấy cổ phiếu với các điều

kiện ưu đãi. Nhà nước đòi hỏi các doanh nghiệp tư nhân hóa phải bán tối thiểu 35% cổ

phiếu của mình để lấy phiếu tư nhân hóa; đồng thời Nhà nước cũng đảm bảo điều kiện

thông tin để mọi người công dân có thể quyết định sử dụng cổ phiếu của mình sao cho có

lợi nhất. Đến năm 1995, đã có gần 40.000 doanh nghiệp đã được tư nhân hóa bằng phiếu

tư nhân hóa, trong số này có tới 70-80% số doanh nghiệp có trình độ kỹ thuật lạc hậu, cũ

kỹ.

Tuy nhiên, những khó khăn trong quá trình chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp ở

Liên bang Nga là: công chúng không có đủ tiền để mua khối lượng tài sản khổng lồ của

Nhà nước (ước tính chỉ có thể mua được 15% giá trị tài sản này), nếu có nhiều biện pháp ưu

đãi (giảm giá, cho vay dài hạn với lãi suất thấp) cũng chỉ có thể mua thêm gấp 2-3 lần tỷ lệ

trên là cùng. Mặt khác, do thực trạng kinh doanh kém hiệu quả, trình độ kỹ thuật - công

nghệ thấp, tình trạng luật pháp yếu kém, tệ nạn tham nhũng… đã không tạo được sự hấp dẫn

cho các nhà đầu tư nước ngoài mua cổ phần. Ngoài ra sự bất đồng trong dư luận xã hội và

thế lực khác nhau trong Quốc Hội và Chính phủ cũng là những trở ngại và gây ra những

bất ổn định trong chính sách và kết quả thực hiện quá trình này.

2.4.3. Kinh nghiệm cải cách, đổi mới doanh nghiệp nhà nước ở Hungary

Trong nền kinh tế xã hội chủ nghĩa ở Hungary trước đây, khu vực kinh tế nhà

nước tạo ra phần lớn thu nhập quốc dân và thu hút hầu hết lực lượng lao động xã hội. Với

quan niệm nền kinh tế thị trường phải dựa trên cơ sở nền tảng là khu vực kinh tế tư nhân

nên khi chuyển sang hệ thống kinh tế mới (từ đầu năm 1990) Hungary thực hiện giảm

mạnh khu vực kinh tế nhà nước thông qua tư nhân hóa phần lớn tài sản thuộc sở hữu nhà

nước mà trước hết là khu vực doanh nghiệp nhà nước, đồng thời khuyến khích xây dựng

mới các công ty, tổ chức kinh tế tư nhân.

Có thể nói việc xây dựng và phát triển khu vực kinh tế tư nhân bằng hai quá trình

diễn ra đồng thời nêu trên là đặc điểm chung của các nước xã hội chủ nghĩa cũ ở Đông Âu

nói chung, Hungary nói riêng trong thời kỳ thực hiện chuyển đổi nền kinh tế theo hướng

dẫn kinh tế thị trường. Trong quá trình đó việc tư nhân hóa các doanh nghiệp, công ty, tổ

chức tài chính, tiền tệ thuộc sở hữu nhà nước trước đây có vai trò rất quan trọng. Quá trình

này được thực hiện phổ biến dưới hình thức bán dần doanh nghiệp cho mọi công dân và cả

nhà đầu tư nước ngoài có khả năng thanh toán theo thị trường. Hình thức tư nhân hóa dưới

dạng phân phát cho không như Liên bang Nga; Cộng hòa Séc; Ba Lan cũng được thực hiện

song rất hãn hữu.

Cổ phần hóa các công ty Nhà nước là một hình thức được Hungary thực hiện để tư

nhân hóa (theo quan niệm của Hungary). Việc cổ phần hóa được thực hiện theo nguyên

tắc: tài sản Nhà nước đưa ra cổ phần phải được định giá theo thị trường và kiểm toán chặt

chẽ; đấu giá công khai; trong số các chủ sở hữu mới phải có một chủ sở hữu nắm đủ số cổ

phiếu để quyết định phương hướng hoạt động của công ty (có thể là Nhà nước hoặc tư

nhân). Mục đích là tránh sự bán tống bán tháo tài sản của Nhà nước hoặc cổ phiếu tập

trung vào những cán bộ lãnh đạo trong doanh nghiệp; mặt khác là để tạo ra một chủ sở hữu

mới thực sự thay thế Nhà nước chiếm hữu và kinh doanh, có quyền chi phối hoạt động của

công ty cổ phần đó, Trên thực tế cổ phần hóa ở Hungary cho thấy Nhà nước không để cho

cán bộ công nhân viên chiếm hữu toàn bộ số cổ phiếu phát hành và cũng không phát

không như một số nước đã làm, tuy có giảm giá ở một mức độ không đáng kể cho số cổ

đông là cán bộ công nhân viên cũ của doanh nghiệp.

2.4.4. Kinh nghiệm cải cách, đổi mới doanh nghiệp nhà nước ở Malaysia

Từ năm 1987, trong chính sách kinh tế mới của Malaysia nhiệm vụ cải cách doanh

nghiệp nhà nước đã được đặt ra, trong đó Chính phủ chủ trương thu hẹp một phần sở hữu

nhà nước bằng việc không chỉ bán các doanh nghiệp nhà nước làm ăn kém hiệu quả, mà

còn bán một số các doanh nghiệp nhà nước hoạt động không có lãi.

Bắt đầu từ năm 1990, đã có 24 doanh nghiệp nhà nước được bán hoặc chuyển

thành công ty hợp doanh, trong số 13 doanh nghiệp thương mại, 4 doanh nghiệp vận tải và

thông tin liên lạc, 2 doanh nghiệp thuộc lĩnh vực tài chính, ngân hàng. Một phần doanh

nghiệp nhà nước còn lại được cho thuê hoặc thực hiện chế độ hợp đồng quản lý.

Quá trình tư nhân hóa ở Malaysia được tiến hành theo hai bước. Trong bước một

các doanh nghiệp nhà nước trước khi bán được cơ cấu, tổ chức lại nhằm tăng thêm sự hấp

dẫn đối với người mua. Trong bước tiếp theo các doanh nghiệp nhà nước được tiến hành tư

nhân hóa theo một khuôn khổ thống nhất. Đặc biệt, Chính phủ Malaysia không tự chọn

những doanh nghiệp nhà nước để tư nhân hóa mà kêu gọi các doanh nghiệp thuộc khu vực

tư nhân chủ động đưa ra đề nghị tư nhân hóa các doanh nghiệp nhà nước. Việc Chính phủ

chấp nhận tư nhân hóa hay không được xem xét trên cơ sở các đề nghị này phải bảo đảm

đưa lại lợi nhuận, tiếp tục thực hiện các mục tiêu xã hội, không tổn hại đến lợi ích của

người lao động trong doanh nghiệp và phù hợp với những yêu cầu của chính sách mới.

Để đảm bảo quyền kiểm soát nhất định của Chính phủ đối với doanh nghiệp nhà

nước đã tư nhân hóa, Chính phủ thường nắm các "cổ phần vàng" cho phép người nắm giữ

chúng có quyền phủ quyết trong các quyết định có liên quan đến thay đổi phương hướng,

chính sách của doanh nghiệp, Chính phủ cũng quy định: ngoài Chính phủ, không có một

cổ đông nào được nắm giữ hơn 10% số cổ phiếu của doanh nghiệp nhà nước đã tư nhân

hóa.

Từ thực tiễn chuyển đổi và đa dạng hóa sở hữu doanh nghiệp nhà nước trong các

nước có nền kinh tế chuyển đổi từ mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế

thị trường và các nước trong khu vực, các bài học có thể rút ra ở đây là:

Một là, chủ trương chuyển đổi và đa dạng hóa sở hữu doanh nghiệp nhà nước là

thống nhất ở các quốc gia. Tuy bước đi, cách thức tiến hành ở từng nước có sự khác biệt

nhất định, song mục đích đều nhằm khắc phục tình trạng kinh doanh kém hiệu quả của

doanh nghiệp nhà nước và làm cho nó thích nghi tốt hơn với điều kiện kinh doanh trong

nền kinh tế thị trường.

Hai là, hình thức đa dạng hóa và chuyển đổi sở hữu trong các nước rất đa dạng.

Tuy nhiên tùy các điều kiện cụ thể mà mỗi nước lựa chọn cho mình hình thức chuyển đổi

nào là cơ bản, phù hợp nhất.

Ba là, quá trình cải cách, chuyển đổi hình thức sở hữu ở các nước luôn gắn liền

với quá trình cải cách hành chính, cải cách cơ chế, chính sách theo hướng xóa bỏ bao cấp

với doanh nghiệp nhà nước, song cũng đồng thời chú trọng giải quyết các vấn đề việc làm

và thu nhập của người lao động.

Bốn là, phải có đề án và lộ trình cải cách, đổi mới cụ thể cho từng giai đoạn với

mục tiêu và biện pháp phù hợp; đồng thời phải có sự quan tâm chỉ đạo sát sao của Chính

phủ.

Chương 3

Phương hướng và giải pháp thúc đẩy

quá trình sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước

để góp phần nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước ở quảng Bình trong thời gian

tới

3.1. các quan điểm cơ bản, mục tiêu và nhiệm vụ về sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp

nhà nước ở tỉnh Quảng bình thời gian tới

3.1.1. Các quan điểm cơ bản về quá trình sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước

ở Quảng Bình thời gian tới

Quan điểm cơ bản trong việc tiếp tục sắp xếp, đổi mới và nâng cao hiệu quả đối

với doanh nghiệp nhà nước của tỉnh trong thời gian tới là:

- Kinh tế nhà nước có vai trò quyết định trong việc giữ vững định hướng xã hội

chủ nghĩa, ổn định chính trị, phát triển kinh tế - xã hội của đất nước nói chung của tỉnh nói

riêng, nên doanh nghiệp nhà nước phải không ngừng đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu

quả, giữ vững vị trí then chốt trong kinh tế của tỉnh, trở thành công cụ vật chất quan trọng

để Nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô, làm lực lượng nòng cốt, góp phần chủ yếu để

kinh tế nhà nước thực hiện vai trò chủ đạo trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội

chủ nghĩa.

- Kiên quyết sắp xếp, điều chỉnh cho được một cơ cấu doanh nghiệp nhà nước hợp

lý, tập trung vào những ngành, lĩnh vực then chốt có ý nghĩa quyết định trong việc thực

hiện các mục tiêu kinh tế xã hội của tỉnh, phát huy được nội lực và các tiềm năng sẵn có

của tỉnh, góp phần quyết định trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh theo mục tiêu

đã đề ra. Đại bộ phận doanh nghiệp nhà nước được giữ lại để củng cố, phát triển phải đạt

được quy mô vừa và lớn, công nghệ tiên tiến. Chuyển các doanh nghiệp nhà nước sang hoạt

động chế độ công ty; đẩy mạnh cổ phần hóa những doanh nghiệp nhà nước mà Nhà nước

không nhất thiết nắm giữ 100% vốn, xem đó là khâu quan trọng để tạo chuyển biến cơ bản

trong việc nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp.

- Tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý doanh nghiệp nhà nước theo hướng giao quyền

tự chủ trong kinh doanh, tự chịu trách nhiệm, hợp tác và cạnh tranh bình đẳng với các

doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác theo pháp luật; phân biệt rõ các chức năng

của cơ quan đại diện quyền sở hữu của Nhà nước và chức năng điều hành sản xuất, kinh

doanh, giao quyền quyết định nhiều hơn đi đôi với đòi hỏi trách nhiệm cao hơn với đại

diện trực tiếp chủ sở hữu tại doanh nghiệp.

- Tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà

nước vừa là nhiệm vụ cấp bách và là nhiệm vụ chiến lược, lâu dài với nhiều khó khăn,

phức tạp. Đối với những vấn đề đã rõ, đã có nghị quyết thì phải khẩn trương, kiên quyết

triển khai thực hiện, những vấn đề chưa đủ rõ thì phải tổ chức thí điểm, vừa làm vừa rút

kinh nghiệm, kịp thời uốn nắn các sai sót, lệch lạc để có bước đi thích hợp, tích cực và

vững chắc.

- Phải tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy Đảng ở tất cả các Sở, Ban ngành

đối với việc sắp xếp, đổi mới để nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước.

3.1.2. Mục tiêu và nhiệm vụ sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước của tỉnh thời

gian tới

Mục tiêu của việc sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước trong thời gian tới là

nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của các doanh nghiệp nhà nước tỉnh, để doanh nghiệp

nhà nước góp phần quan trọng bảo đảm các sản phẩm, dịch vụ công ích thiết yếu của xã

hội và nhu cầu cần thiết của an ninh quốc phòng, là lực lượng nòng cốt đẩy nhanh tăng

trưởng kinh tế của tỉnh, tạo nền tảng cho sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa theo

các mục tiêu kinh tế xã hội của tỉnh đã đề ra trong giai đoạn 2001-2005

Để thực hiện mục tiêu trên nhiệm vụ được đặt ra trong thời gian tới (2001-2005)

là:

- Hoàn thành việc sắp xếp, điều chỉnh cơ cấu doanh nghiệp nhà nước hiện có:

+ Củng cố, tăng cường (kể cả sáp nhập, chuyển giao) để xây dựng một số doanh

nghiệp quan trọng, có quy mô khá lớn, công nghệ tiên tiến... làm nhiệm vụ chủ lực khai

thác những tiềm năng và thế mạnh của tỉnh, đồng thời là nòng cốt và dẫn dắt các doanh

nghiệp khác trong quá trình công nghiệp hóa- hiện đại hóa, đảm bảo cho việc điều chỉnh

cơ cấu kinh tế và các cân đối lớn của tỉnh.

+ Cổ phần hóa phần lớn những doanh nghiệp mà Nhà nước không nhất thiết phải

nắm giữ 100% vốn.

+ Sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước công ích, để các doanh nghiệp này thực

hiện đúng nhiệm vụ công ích, đồng thời chuyển những doanh nghiệp không đủ điều kiện

sang hoạt động kinh doanh nhưng được giao một số nhiệm vụ công ích; thực hiện tổ chức

lại các lâm trường trong tỉnh thành các lâm trường kinh doanh.

+ áp dụng các hình thức phù hợp như giao, bán, khoán, cho thuê doanh nghiệp nhà

nước không cổ phần được; sáp nhập, giải thể, phá sản đối với những doanh nghiệp hoạt

động không hiệu quả.

- Thực hiện chế độ công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên đối với doanh

nghiệp nhà nước giữ 100% vốn, sửa đổi, bổ sung cơ chế, chính sách, hình thành khung

pháp lý đồng bộ đảm bảo quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm trong sản xuất kinh doanh

của doanh nghiệp nhà nước.

- Thực hiện đổi mới và lành mạnh hóa tài chính doanh nghiệp, đổi mới và hiện đại

hóa một bước quan trọng công nghệ và quản lý đại bộ phận doanh nghiệp nhà nước theo

tiến trình chung của cả nước.

Những quan điểm, mục tiêu và nhiệm vụ được đặt ra trong nghị quyết của Đảng về

sắp xếp, đổi mới, phát triển để nâng cao hiệu quả kinh doanh đối với các doanh nghiệp nhà

nước là một trong những căn cứ quan trọng cho việc đưa ra phương hướng và các giải

pháp thúc đẩy quá trình sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước ở Quảng Bình trong thời

gian tới.

3.2. Định hướng cụ thể trong việc thực hiện sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước

để nâng cao hiệu quả các doanh nghiệp nhà nước ở quảng Bình đến năm 2005

3.2.1. Định hướng sắp xếp, đổi mới đối với doanh nghiệp nhà nước hoạt động kinh

doanh

3.2.1.1. Những doanh nghiệp quan trọng cần duy trì 100% vốn nhà nước

Đối với doanh nghiệp nhà nước hoạt động ở những ngành, lĩnh vực then chốt và

địa bàn quan trọng, chiếm thị phần khá lớn đối với các sản phẩm và dịch vụ chủ yếu cần

tiếp tục duy trì 100% vốn nhà nước, gồm các doanh nghiệp hoạt động trong các lĩnh vực

sau:

* Lĩnh vực lâm nghiệp

Công ty Lâm Công nghiệp Long Đại, là một doanh nghiệp kinh doanh gắn với

vùng lãnh thổ lớn phía Tây Nam của tỉnh, vừa quản lý, bảo vệ phát triển tài nguyên rừng,

khai thác, chế biến kinh doanh các loại lâm sản và tài nguyên khác trong lâm phần, vừa

thực hiện nhiệm vụ kinh tế - xã hội với nhiều lao động và dân cư (trong đó có đồng bào

dân tộc). Hiện tại Công ty có 7 Lâm trường và 9 đơn vị sản xuất công nghiệp - dịch vụ

nghề rừng, ngoài việc tổ chức sắp xếp kiện toàn theo Nghị định 178/CP là xác định lại quy

mô, diện tích quản lý rừng của các lâm trường trên cơ sở đó giao cho công ty tổ chức và

quản lý phù hợp với quy định Nhà nước.

Hướng sắp xếp trong thời gian tới là: Tiến hành thu gọn đầu mối từ các Lâm

trường kinh doanh và các Xí nghiệp sản xuất công nghiệp đồng thời vẫn phát huy năng lực

của các cơ sở hiện có.

* Lĩnh vực nông nghiệp

Công ty Cao su Việt Trung, tiếp tục duy trì 100% vốn nhà nước, ngoài nhiệm vụ

được giao, công ty cần tiếp tục thực hiện một số dự án, cụ thể là: Dự án liên doanh chế

biến gỗ cao su và gỗ rừng trồng để xuất khẩu trực tiếp; dự án xây dựng nhà máy chế mủ

cao su để đảm bảo đầu ra cho cao su tiểu điền và nâng cao giá trị xuất khẩu; tiếp tục

nghiên cứu đưa vào thực hiện một số số dự án khác để đa dạng hóa ngành nghề kinh

doanh, phù hợp với yêu cầu thị trường và khả năng của doanh nghiệp đặc biệt các dự án

tạo vùng nguyên liệu cho sản xuất công nghiệp và xuất khẩu như mía, sắn, hồ tiêu…

Công ty Cao su Lệ Ninh, trên cơ sở vẫn duy trì 100% vốn nhà nước nhưng cần tập

trung mọi tiềm lực về tài chính, con người nhằm hoàn thành tốt các nhiệm vụ được giao,

tiếp tục đưa vào thực hiện các dự án tạo giống và chăn nuôi lợn nạc xuất khẩu; tham gia

tích cực các dự án cao su tiểu điền, tạo vùng nguyên liệu cho sản xuất công nghiệp và xuất

khẩu khác.

* Lĩnh vực chế biến hải sản và dịch vụ nuôi trồng thủy sản xuất khẩu

Công ty sông Gianh, là doanh nghiệp kinh doanh tổng hợp, có nhiều đơn vị thành

viên trong cả nước, ngoài sản xuất phân vi sinh, nhiệm vụ trọng tâm của Công ty hiện nay

là tổ chức sản xuất hàng hải sản xuất khẩu bao gồm cả tổ chức tạo giống tôm và nuôi trồng

nguyên liệu theo hướng công nghiệp. Do vậy hướng tổ chức sắp xếp là:

Duy trì vốn Nhà nước đối với Nhà máy thủy sản Đông lạnh Sông Gianh, tạo điều

kiện để công ty tổ chức dịch vụ nghề cá và tổ chức nuôi trồng các loại thủy sản, vừa chủ

động nguồn nguyên liệu vừa tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh và làm nhiệm vụ chủ lực

chế biến hải sản xuất khẩu, dịch vụ nuôi trồng và nghề cá phía Bắc của tỉnh.

Đối với các xí nghiệp thành viên của công ty, nhất là các xí nghiệp kinh doanh ở

ngoại tỉnh cần cũng cố sắp xếp lại phù hợp với yêu cầu đổi mới để có phương án đầu tư

cũng như phương án cổ phần hóa những xí nghiệp thành viên có điều kiện.

Công ty Kinh doanh tổng hợp Quảng Bình, là doanh nghiệp kinh doanh chủ yếu ở

các lĩnh vực như: Khách sạn - nhà hàng, kinh doanh xuất nhập khẩu và hiện đang thực

hiện dự án: Đông lạnh thủy sản và súc sản.

Hướng tổ chức sắp xếp là: Trong năm 2003 thực hiện giai đoạn 1 dự án xây dựng

dây chuyền sản xuất hải sản xuất khẩu, sau đó tiếp tục giai đoạn 2 chế biến súc sản đông lạnh

xuất khẩu làm dịch vụ đầu ra cho ngành chăn nuôi của tỉnh. Khi nhà máy đi vào sản xuất

kinh doanh ổn định sẽ sáp nhập Xí nghiệp Đông lạnh Đồng Hới (tách từ Công ty Xuất

nhập khẩu tỉnh) vào để tập trung đầu mối và tăng quy mô, đồng thời thực hiện việc di dời

xí nghiệp này ra khỏi nội thị theo đúng luật bảo vệ môi trường của Nhà nước.

Đi đôi với dự án đông lạnh, Công ty sẽ tiến hành xây dựng và thực hiện Dự án nuôi

tôm công nghiệp để chủ động nguồn nguyên liệu, đây là đơn vị chủ lực chế biến thủy sản,

súc sản xuất khẩu cho vùng trung tâm và phía Nam tỉnh.

* Lĩnh vực sản xuất công nghiệp - thương mại - xuất khẩu

- Công ty Thương mại tổng hợp Quảng Bình, là doanh nghiệp từ chuyên làm thương

mại đã chuyển đổi cơ cấu đầu tư cho sản xuất công nghiệp bằng các dự án lớn là Nhà máy

thanh nhôm định hình (công suất ban đầu là 2000 tấn/năm, hiện đang đầu tư chiều sâu nâng

lên 3500 tấn/năm) và dự án liên danh sản xuất 13 loại phụ tùng, đồng thời lắp ráp xe gắn

máy có khả năng thu hút trên 1000 lao động trẻ. Hướng sắp xếp là:

Nhà máy nhôm cần giữ 100% vốn Nhà nước, đây vừa là sản phẩm công nghiệp vừa

thay thế hàng nhập khẩu, vừa thay thế nguyên liệu gỗ có thị trường rộng cả nước và có khả

năng xuất khẩu. Cần tăng cường, ổn định sản xuất theo công suất đã mở rộng, đạt chất

lượng tốt, đáp ứng thị hiếu ngày càng cao.

Nhà máy sản xuất phụ tùng và lắp ráp xe gắn máy: Có quy mô sản xuất 360.000 bộ

phụ tùng và lắp ráp khoảng 300.000 xe gắn máy hàng năm. Đây là dự án liên danh với

nước ngoài theo hình thức góp vốn cổ phần, trong đó phía Việt Nam có vốn góp chi phối

(60/40), tuy vậy, phần vốn Nhà nước của tỉnh còn thấp (20%). Để có thể nắm cổ phần chi

phối, bảo đảm lợi ích lâu dài, tỉnh cần có phương án tăng thêm vốn cổ phần hàng năm từ

lợi nhuận được chia.

Sau khi hoàn thành hai dự án trên, Công ty Thương mại tổng hợp nên xem xét để

xây dựng một số dự án sản xuất khác như: Đúc nhôm nguyên liệu phục vụ cho sản xuất

nhôm thanh nhằm tận dụng nhôm phế liệu và giảm nhập khẩu; sản xuất hàng điện tử và đồ

điện dân dụng; tinh chế một số loại khoáng sản và thực hiện một số dự án liên doanh khác

với nước ngoài phù hợp với thị trường bằng nguồn vốn kinh doanh cổ phần hoặc nguồn

vốn ưu đãi.

- Công ty Du lịch Quảng Bình, là doanh nghiệp làm nhiệm vụ chủ lực trong lĩnh

vực khai thác tiềm năng du lịch, một ngành rất quan trọng của tỉnh, trước mắt vẫn cần nắm

giữ 100% vốn nhà nước, khi ổn định sẽ cổ phần hóa một số đơn vị thành viên. Hướng tổ

chức sắp xếp là:

Củng cố và tăng cường bộ máy tổ chức quản lý, xây dựng và thực hiện tốt các dự

án đầu tư, trước hết là khu du lịch Phong Nha - Kẻ Bàng; Suối nước nóng Bang - Thanh

Sơn. Chú trọng tăng thêm các sản phẩm du lịch, mở rộng các tuyến, các tua, các loại hình

du lịch quan trọng khác theo quy hoạch được duyệt. Tăng cường mở rộng du lịch lữ hành,

du lịch với Lào, Thái Lan…

Nâng cấp các nhà hàng, khách sạn về quy mô và chất lượng để đáp ứng nhu cầu

ngày càng cao của du khách trong và ngoài nước, nghiên cứu cổ phần hóa một số đơn vị

thành viên khi có điều kiện.

- Công ty Xuất nhập khẩu Quảng Bình, về cơ bản vẫn giữ nguyên doanh nghiệp

100% vốn Nhà nước, nhưng trước mắt cần chấn chỉnh và nâng cao công tác tổ chức, quản lý,

đảm bảo kinh doanh xuất nhập khẩu có trọng điểm và hiệu quả. Có phương án cụ thể về tổ

chức sản xuất và kinh doanh một số mặt hàng chủ lực của tỉnh, nhất là những sản phẩm từ

các chương trình kinh tế của tỉnh trong nông, lâm, ngư, nghiệp, thủ công nghiệp, hải sản…

Tích cực mở rộng tìm kiếm thị trường trong và ngoài nước để tiêu thụ hàng hóa cho nông

dân.

Tiếp tục thực hiện một số dự án sản xuất công nghiệp, gắn liền với nhiệm vụ địa

và như: Dự hàng khẩu xuất xuất tăng sản bột án

phương cá 1.000 - 2.000 tấn/năm, dự án ván tre ép 3.000 m3/năm, dự án vùng tre nguyên liệu và một

số dự án khác phù hợp với năng lực doanh nghiệp và yêu cầu của thị trường xuất khẩu.

Đối với doanh nghiệp nhà nước kinh doanh những sản phẩm, dịch vụ thiết yếu cho

phát triển sản xuất và nâng cao đời sống vật chất tinh thần của nhân dân, nhất là vùng

nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa cần tiếp tục duy trì 100% vốn nhà nước, gồm các

doanh nghiệp sau:

- Cảng Quảng Bình, là đơn vị quản lý hạ tầng thuộc nguồn vốn ngân sách Nhà

nước cần giữ 100% vốn. Phương án đổi mới, phát triển là: Củng cố tăng cường đội ngũ

cán bộ chủ chốt có đủ năng lực để phát triển dịch vụ hệ thống Cảng Quảng Bình một cách

tốt nhất phục vụ nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội; nâng cao năng lực và quy mô Cảng

Gianh để phục vụ tốt cho xây dựng, sản xuất xi măng và hàng hóa nhập khẩu khác.

- Công ty Xổ số kiến thiết, là doanh nghiệp có vốn Nhà nước 100% theo quy định

chung. Phương án đổi mới phát triển là tổ chức có hiệu quả các loại hình xổ số theo mô

hình thị trường chung vào đầu năm 2005.

- Công ty Cấp thoát nước, trước mắt đang làm nhiệm vụ chủ dự án cấp thoát nước

ở thị xã Đồng Hới và các dự án nước ở trung tâm các huyện thị, sau khi các dự án hoàn

thành, Công ty làm nhiệm vụ kinh doanh cấp nước, nhiệm vụ thoát nước ở thị xã Đồng

Hới sẽ giao cho Công ty công trình công cộng thực hiện.

- Công ty Dược phẩm Quảng Bình, là doanh nghiệp nhà nước sản xuất và kinh

doanh thuốc chữa bệnh, hiện đang thực hiện Dự án sản xuất thuốc viên và thuốc mỡ theo

tiêu chuẩn GMP. Trước mắt Nhà nước vẫn giữ 100% vốn, khi có điều kiện sẽ thực hiện cổ

phần theo hướng Công ty cổ phần Nhà nước nắm giữ cổ phần chi phối.

- Công ty Thương mại miền núi, sau khi sáp nhập thêm Công ty Thương mại Nam

Quảng Bình, nhiệm vụ của Công ty Thương mại miền Núi là nòng cốt lưu thông hàng hóa

nội địa và cung cấp hàng hóa, dịch vụ thiết yếu cho đồng bào miền núi, vùng sâu, vùng xa.

Do vậy, phương án tổ chức sắp xếp là: xây dựng mạng lưới kinh doanh các mặt hàng thiết

yếu kể cả thu mua và chế biến hàng nông lâm sản cho đồng bào dân tộc vùng sâu, vùng xa,

vùng nông thôn một cách hiệu quả theo đúng chế độ, chính sách của Đảng Nhà nước.

- Công ty In Quảng Bình, là một doanh nghiệp thuộc ngành văn hóa, được giao

nhiệm vụ in ấn báo chí và các ấn phẩm thuộc lĩnh vực chính trị - xã hội. Hướng tổ chức,

sắp xếp là: Thực hiện chuyển đổi Công ty In thành Công ty cổ phần, trong đó Nhà nước có

cổ phần chi phối (51%) vào cuối năm 2004.

3.2.1.2. Những doanh nghiệp nhà nước cần sắp xếp, chuyển giao, sáp nhập, hợp

nhất hoặc chuyển đổi hình thức sở hữu khác

* Những doanh nghiệp thực hiện chuyển giao cho Tổng công ty xây dựng miền

Trung:

- Công ty Xây dựng và Vật liệu xây dựng Quảng Bình, ngoài việc phát huy hết

công suất của dây chuyền sản xuất xi măng 8,2 vạn tấn, cần tiếp tục củng cố và mở rộng

quy mô nhà máy sản xuất bao bì đáp ứng sản xuất vỏ bao xi măng cho toàn Tổng Công ty

và thực thi một số dự án khác.

- Công ty Gốm sứ Quảng Bình, khi sáp nhập sẽ nằm trong hệ thống Nhà máy gạch

men CERAMIC của tổng công ty, sẽ có thuận lợi hơn trong điều hành kỹ thuật, tổ chức

sản xuất, tiêu thụ sản phẩm và đầu tư thêm các dự án chế biến sản phẩm từ Cao lanh.

- Công ty nước khoáng Bang, khi sáp nhập sẽ có cơ hội phát triển theo hướng tăng

thị phần và khả năng tiêu thụ sản phẩm từ đó phát huy được hết công suất của dây chuyền

công nghệ (7,5 triệu lít) và dự án nước uống dinh dưỡng khác.

- Công ty Hóa chất Quảng Bình, sẽ tổ chức sản xuất theo hướng đa dạng hóa sản

phẩm của Tổng công ty trên cơ sở củng cố, tăng cường sản xuất đất đèn, khí axetylenoxy

và những sản phẩm hóa chất khác như Bioga, Đôxin, các sản phẩm từ cao su…

* Những doanh nghiệp cần tiến hành hợp nhất:

- Hợp nhất 3 Công ty tư vấn thiết kế, là: công ty tư vấn thiết kế Xây dựng, Công ty

tư vấn thiết kế Giao thông và Công ty tư vấn Thủy lợi, đây là những doanh nghiệp tuy hoạt

động trên những lĩnh vực khác nhau nhưng tính chất công việc gần hoàn toàn giống nhau.

Do vậy, hướng sắp xếp là: vẫn giữ nguyên doanh nghiệp 100% vốn Nhà nước

nhưng đồng thời sẽ tiến hành hợp nhất 3 doanh nghiệp này lại thành một doanh nghiệp với

chức năng nhiệm vụ chính là khảo sát, thiết kế trên cả ba lĩnh vực giao xây dựng, thủy lợi

và giao thông, sau năm 2005 sẽ có kế hoạch cổ phần hóa đối với loại hình doanh nghiệp

này.

- Hợp nhất các lâm trường quản lý rừng: sau khi tách các khu rừng phòng hộ xung

yếu trong khu vực để hình thành ban quản lý rừng phòng hộ (theo Quyết định 187/CP) tỉnh

cần đã tiến hành hợp nhất các lâm trường gồm lâm trường Bố Trạch, lâm trường Bồng Lai,

lâm trường Quảng Trạch, lâm trường Tuyên Hóa, lâm trường Minh Hóa và công ty chế

biến lâm sản xuất khẩu nhằm thiết lập một công ty mới trên cơ sở thu gọn đầu mối, tăng

cường năng lực quản lý, đẩy mạnh công tác bảo vệ rừng rồng, khoanh nuôi, khai thác gỗ

lâm sản tự nhiên; chế biến xuất khẩu các loại sản phẩm từ rừng trồng, đồng thời tổ chức

dịch vụ kỹ thuật lâm nghiệp thu mua và bao tiêu các sản phẩm lâm nghiệp trên địa bàn

toàn tỉnh.

3.2.1.3. Những doanh nghiệp nhà nước cần chuyển đổi sở hữu theo hình thức cổ

phần hóa

Các doanh nghiệp mà Nhà nước không nhất thiết phải nắm giữ 100% vốn nhà

nước thuộc các ngành, lĩnh vực kinh doanh khác nhau cần được tiến hành cổ phần hóa

trong thời gian tới ở Quảng Bình là:

- Công ty Công trình giao thông 1.

- Công ty Công trình giao thông 2.

- Công ty Vật tư nông nghiệp Quảng Bình.

- Xí nghiệp Cơ khí tàu thuyền thủy sản Nhật Lệ.

- Công ty Xây dựng tổng hợp miền núi Quảng Bình.

- Công ty Xây dựng công trình Bình Lợi.

- Công ty phát hành sách và vật phẩm văn hóa Quảng Bình.

- Công ty Khách sạn dịch vụ Nhật Lệ.

- Công ty Bia rượu Quảng Bình.

- Xí nghiệp đánh cá sông Gianh.

3.2.2. Định hướng sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước hoạt động công ích

Các doanh nghiệp nhà nước hoạt động công ích (doanh nghiệp công ích) trên địa bàn

thuộc tỉnh quản lý chủ yếu hoạt động trong các lĩnh vực: kiểm định kỹ thuật phương tiện

giao thông, quản lý thủy nông đầu nguồn, trồng và bảo vệ rừng đầu nguồn, thoát nước đô

thị, ánh sáng đường phố, quản lý, bảo trì hệ thống đường bộ, bến xe, đường thủy. Trên cơ

sở xem xét kết quả hoạt động của các doanh nghiệp trong thời gian qua và những nhiệm vụ

sắp tới, các doanh nghiệp công ích chủ yếu được sắp xếp theo hướng Nhà nước tiếp tục

duy trì 100 vốn, gồm các doanh nghiệp sau:

- Công ty Quản lý khai thác công trình thủy lợi: tập trung quản lý những công

trình đầu mối lớn, có diện tích tưới tiêu rộng, vừa tổ chức khai thác có hiệu quả nguồn

nước hiện có, vừa duy trì bảo dưỡng thường xuyên công trình nhằm nâng cao tuổi thọ và

mở rộng diện phục vụ. Sớm có phương án thực hiện phân cấp các công trình thủy lợi nhỏ

cho các huyện, thị quản lý với sự tham gia của cộng đồng để nâng cao tính chủ động và

hiệu quả.

- Trạm Đăng kiểm phương tiện cơ giới đường bộ: tập trung nâng cao chất lượng và

mở rộng phạm vi phục vụ, đảm bảo tính an toàn cho các phương tiện cơ giới đường bộ

theo đúng quy định của Luật giao thông.

- Công ty Sách thiết bị trường học: phục vụ cho sự nghiệp giáo dục trong toàn tỉnh

ngày càng tốt và chất lượng hơn.

- Công ty Công trình Đô thị Đồng Hới: Cùng với việc mở rộng và phát triển thị xã

Đồng Hới, các hoạt động công ích ngày càng chiếm tỷ trọng cao hơn, ngoài các nhiệm vụ

đã có, cần giao nhiệm vụ thoát nước, quản lý các công trình phúc lợi chung như công viên

vườn hoa, các điểm vui chơi…cùng với một số chức năng quản lý đô thị khác.

- Đoạn quản lý đường Sông: Công tác quản lý đường sông ngày càng được mở

rộng và tăng cường với sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Nhất là hệ thống đường sông

Gianh, đường sông Son, sông Nhật Lệ... luôn được duy tu sửa chữa thường xuyên nhằm

đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu đi lại, vận chuyển hàng hóa trên tuyến đường sông.

- Công ty Giống cây trồng: Là doanh nghiệp phục vụ cho sản xuất nông nghiệp,

trước hết là giống lúa. Nhằm đáp ứng nhu cầu giống cây trồng với khối lượng lớn trên

phạm vi toàn tỉnh, Công ty đã đưa công trình nhà máy chế biến hạt giống và giống lúa do

Đan Mạch tài trợ vào hoạt động và bước đầu đã phát huy được kết quả tốt. Trong thời gian

tới, để tăng cường và nâng cao năng lực hoạt động công ích trong lĩnh vực tạo giống, Công

ty cần có các phương án để nâng cao số lượng, chất lượng cũng như mở rộng thêm các loại

giống cây trồng khác, bảo đảm trong vài ba năm tới phục vụ tốt và toàn diện hơn sản xuất

nông nghiệp của tỉnh.

- Đoạn quản lý đường bộ 1 và Đoạn quản lý đường bộ 2: Do hệ thống đường giao

thông ngày càng phát triển, nhiệm vụ duy tu bảo dưỡng ngày càng mở rộng, do vậy cần

thiết duy trì hai đơn vị trên làm nhiệm vụ công ích. Cần giao thêm nhiệm vụ duy tu bảo

dưỡng hệ thống đường nội thị, đường liên thôn, liên xã. Sau năm 2005 có thể xem xét để

sáp nhập lại thành một doanh nghiệp công ích hoạt động trên phạm vi toàn tỉnh.

- Công ty Điện ảnh Quảng Bình: Là doanh nghiệp thuộc ngành văn hóa, hiện tại

đang đảm nhận nhiệm vụ chiếu phim phục vụ 61 xã miền núi và vùng cao, tuy vây, do

ngân sách dành cho phục vụ chiếu bóng miền núi không nhiều nên số buổi chiếu ngày

càng thu hẹp.

Đối với 3 lâm trường Tuyên Hóa, Minh Hóa, Quảng Trạch về cơ bản vẫn tiếp tục

duy trì 100% vốn nhà nước, đồng thời sẽ tiến hành sắp xếp lại theo hướng hợp nhất cùng 2

lâm trường hoạt động kinh doanh (lâm trường Bố Trạch, lâm trường Bồng Lai) và công ty

chế biến lâm sản xuất khẩu để hình thành một doanh nghiệp mới trên cơ sở chuyển từ hoạt

động công ích sang hoạt động kinh doanh.

Như vậy, đến hết năm 2005, nếu thực hiện sắp xếp và đổi mới theo định hướng

nêu trên thì số doanh nghiệp có vốn nhà nước 100% hoặc nhà nước nắm giữ cổ phần chi

phối ở Quảng Bình còn lại là 24 doanh nghiệp nhà nước, trong đó có 15 doanh nghiệp hoạt

động kinh doanh và 9 doanh nghiệp hoạt động công ích.

3.3. các giải pháp thúc đẩy quá trình sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước để góp

phần nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước ở quảng Bình trong những năm tới

3.3.1. Cần chú trọng công tác tuyên truyền, vận động để các Sở, ban ngành, các

lãnh đạo cũng như người lao động trong doanh nghiệp có nhận thức đúng đắn về chủ

trương, chính sách sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước

Như đã trình bày ở phần trên, sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước là một chủ

trương mới, đồng thời cũng là lĩnh vực hết sức nhạy cảm và phức tạp vì nó thay đổi cả một

thói quen, một tâm lý ngự trị trong một thời gian dài của cơ chế kế hoạch hóa tập trung.

Trong quá trình thực hiện chắc chắn sẽ đụng chạm đến lợi ích của nhiều ban ngành, nhiều

cấp và các tầng lớp nhân dân trong xã hội.

Một nguyên nhân không nhỏ dẫn đến việc thực hiện sắp xếp, đổi mới doanh

nghiệp nhà nước ở Quảng Bình thời gian qua chưa đạt được mục tiêu và yêu cầu đề ra là

do chưa có sự nhận thức đầy đủ, sâu sắc về chủ trương này để quyết tâm thực hiện cho

bằng được. Vì vậy, việc đẩy mạnh hơn nữa công tác tuyên truyền, giải thích mục đích, ý

nghĩa của việc sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước là yếu tố cực kỳ quan trọng, quyết

định đến sự thành bại của quá trình triển khai thực hiện. Nội dung cụ thể là:

Phải làm tốt công tác tư tưởng cho cán bộ, đảng viên ở cả ba cấp của doanh

nghiệp: Cơ quan quản lý cấp trên trực tiếp; cán bộ lãnh đạo phụ trách doanh nghiệp và

toàn thể cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp. Cần làm cho mọi người nhận thức rõ

quan điểm, chủ trương, mục tiêu và nhiệm vụ sắp xếp, đổi mới và nâng cao hiệu quả của

doanh nghiệp nhà nước là nhằm tạo điều kiện cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước, làm cho

khu vực doanh nghiệp nhà nước mạnh lên, có sức cạnh tranh và hiệu quả kinh tế xã hội

cao hơn; thấy được những nhiệm vụ, yêu cầu cụ thể trong mỗi dự án mà Thủ tướng Chính

phủ đã phê duyệt, chương trình chung của Chính phủ và những vấn đề khó khăn, phức tạp

trong quá trình thực hiện để khắc phục. Trên cơ sở đó, xác định rõ trách nhiệm, nhiệm vụ

cụ thể cho từng Sở, ban ngành, từng chức danh trong mỗi cấp và mỗi người lao động trong

doanh nghiệp để quyết tâm thực hiện.

Phổ biến, tập huấn kịp thời các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước, đặc

biệt là nội dung các nghị định của Chính phủ và các thông tư hướng dẫn tới Ban đổi mới

doanh nghiệp tỉnh, lãnh đạo các Sở, ban ngành và nhất là cán bộ quản lý tại các doanh

nghiệp để họ hiểu rõ nội dung và triển khai thực hiện thống nhất; cần phổ biến đến từng

người lao động những nội dung chế độ, chính sách của Nhà nước về mua bán cổ phần, giải

quyết các trường hợp lao động dôi dư, đào tạo lại, bố trí sắp xếp lại việc làm, chế độ bảo

hiểm xã hội, phụ cấp thôi việc, lương hưu trí… để họ thấy rõ quyền lợi, nghĩa vụ của mình

trong quá trình sắp xếp lại doanh nghiệp.

3.3.2. Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp của Đảng và chính quyền cấp tỉnh

trong việc triển khai thực hiện sắp xếp, đổi mới các doanh nghiệp nhà nước thuộc

tỉnh quản lý

Thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 3 của Ban chấp hành Trung ương Đảng

khóa IX và chương trình hành động của Chính phủ về việc tiếp tục sắp xếp, đổi mới và

nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước. ủy ban nhân dân tỉnh đã có quyết định phê

duyệt đề án sắp xếp và đổi mới doanh nghiệp nhà nước của tỉnh quản lý đến năm 2005, với

lộ trình và kế hoạch hết sức cụ thể cho từng năm, vấn đề còn lại ở đây là tổ chức thực hiện

như thế nào.

Từ kinh nghiệm chỉ đạo thực tiễn của tỉnh cũng như các tỉnh bạn thời gian qua cho

thấy, để triển khai thực hiện đề án thành công, trước hết phải có sự lãnh đạo, chỉ đạo trực

tiếp sát sao của Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân và Ban đổi mới doanh

nghiệp tỉnh. Đặc biệt phải nâng cao vai trò chủ động, tích cực và sự phối hợp chặt chẽ giữa

Ban đổi mới phát triển doanh nghiệp tỉnh với các sở quản lý chuyên ngành chỉ đạo cụ thể

ban đổi mới quản lý tại doanh nghiệp. Hướng cụ thể như sau:

- Căn cứ phương án tổng thể và lộ trình sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp của tỉnh,

hàng quý, hàng năm Ban đổi mới doanh nghiệp tỉnh cần phân kỳ cụ thể tiến độ sắp xếp,

đổi mới doanh nghiệp nhà nước tỉnh để trình ủy ban nhân tỉnh thông báo cho các Sở quản

lý chuyên ngành chỉ đạo các doanh nghiệp thực hiện, đồng thời giao nhiệm vụ cụ thể cho

từng thành viên trong Ban và tổ chuyên viên giúp việc hướng dẫn, đôn đốc các doanh

nghiệp thực hiện nghiêm túc. Hàng quý, ủy ban nhân dân tỉnh chủ trì hội nghị yêu cầu các

Sở, ngành phải báo cáo việc thực hiện sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước thuộc Sở,

ngành mình quản lý. Trọng tâm báo cáo, thảo luận nên xoáy vào các vấn đề khó khăn,

vướng mắc cũng như đề xuất các giải pháp nhằm đẩy nhanh tiến độ sắp xếp, đổi mới

doanh nghiệp trong thời gian tới; có chế độ khen thưởng đối với những Sở, những ngành

và doanh nghiệp làm tốt và có hình thức kỷ luật đối với các cá nhân, đơn vị không hoàn

thành nhiệm vụ hoặc gây cản trở làm chậm tiến trình triển khai thực hiện.

- Củng cố hệ thống tổ chức chỉ đạo thực hiện bằng cách tiếp tục kiện toàn Ban đổi

mới doanh nghiệp tỉnh, tiến đến xây dựng quy chế làm việc và phân công phân nhiệm cụ

thể cho các thành viên trong Ban, đối với tổ chuyên viên giúp việc, cần lựa chọn một số

cán bộ có năng lực, nhiệt tình, vững về chuyên môn nghiệp vụ của các Sở, ngành tham gia.

Về tổ chức chỉ đạo, Ban đổi mới doanh nghiệp phải thực sự đóng vai trò đầu mối quan

trọng để nắm bắt tổng hợp kịp thời tình hình sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp trong phạm vi

toàn tỉnh, tham mưu cho ủy ban nhân dân tỉnh xử lý kịp thời các khó khăn vướng mắc nảy

sinh trong quá trình triển khai thực hiện.

- Tăng cường giám sát, kiểm tra đôn đốc của Ban đổi mới doanh nghiệp đối với

công tác giao, bán, khoán kinh doanh, cho thuê và cổ phần hóa tại các doanh nghiệp. Thực

hiện chức năng hướng dẫn giám sát, điều hành và uốn nắn kịp thời những lệch lạc để đảm

bảo việc thực hiện quá trình sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước tỉnh diễn ra theo

đúng tiến độ, đường lối, chủ trương của Đảng và Nhà nước.

- Hàng năm, cần tiến hành tổng kết đánh giá công tác sắp xếp, đổi mới và phát

triển doanh nghiệp nhà nước đã thực hiện được trong năm để rút kinh nghiệm, chỉ ra các

vấn đề chưa thống nhất, còn vướng mắc cần tháo gỡ trong quá trình thực hiện để xin ý kiến

chỉ đạo của Ban đổi mới phát triển doanh nghiệp cũng như xin ý kiến các bộ, ngành Trung

ương để có sự chỉnh lý, bổ sung các chính sách, chế độ cho phù hợp với thực tiễn nhằm

thúc đẩy quá trình sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp theo mục tiêu yêu cầu đề ra của tỉnh.

3.3.3. Giải quyết tốt vấn đề lao động dôi dư nhằm tạo tiền đề cho việc đẩy nhanh

quá trình sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước

Một trong những lực cản tác động đến tiến trình sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp

nhà nước trong thời gian qua ở Quảng Bình là vấn đề việc làm và thu nhập của người lao

động trong doanh nghiệp. Theo ước tính hiện toàn tỉnh có khoảng 469 lao động dôi dư từ

quá trình đổi mới, sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước. Số lao động này chủ yếu là lao động

phổ thông, kỹ năng nghề nghiệp còn hạn chế, trong đó, số có thể đào tạo lại chỉ chiếm

10%. Điều này cho thấy sức ép về việc làm cho số lao động dôi dư này cùng với hàng ngàn

lao động dôi dư của các doanh nghiệp trong quá trình sắp xếp đối với nền kinh tế không

phải là nhỏ. Nếu chúng ta có biện pháp giải quyết phù hợp sẽ có tác động tích cực đến tâm

lý của người lao động trong doanh nghiệp và là cơ sở đẩy nhanh tiến trình sắp xếp, đổi mới

doanh nghiệp nhà nước, đây không chỉ là trách nhiệm của riêng doanh nghiệp hoặc Nhà

nước mà là nhiệm vụ và trách nhiệm chung của cả doanh nghiệp lẫn Nhà nước.

Về phía doanh nghiệp: phải chủ động xây dựng kế hoạch giải quyết lao động dôi

dư trên cơ sở đề án sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp, cụ thể:

- Phân loại lao động để xác định số lao động hợp lý, lao động dôi dư. Chấm dứt

việc tiếp nhận lao động, thuê mướn nhân công thời vụ một cách tùy tiện làm cho năng suất

lao động thấp, tỷ lệ thiếu việc làm, chờ việc cao.

- Đưa ra hướng giải quyết đối với số lao động dôi dư. Cụ thể đối với lao động sắp

đến tuổi nghỉ hưu (người lao động còn dưới 5 năm công tác là đến tuổi nghỉ hưu) có thể trợ

cấp để đảm bảo các chế độ hưu trí cho họ. Đối với số lao động còn lại có thể giải quyết

theo hướng như: tái sử dụng sau khi đào tạo, đào tạo lại hoặc hỗ trợ chuyển sang ngành

nghề mới.

Khi thực hiện sắp xếp lại, doanh nghiệp cần chú ý đến phương án đầu tư và phát

triển sản xuất - kinh doanh để đảm bảo tối đa người lao động có việc làm ở các mới sau

sắp xếp, chuyển đổi sở hữu. Thực hiện trợ cấp đào tạo, đào tạo lại, tạo việc làm mới, chế

độ bảo hiểm đối với người lao động. Trường hợp người lao động tự nguyện thôi việc hoặc

mất việc thì phải giải quyết theo chế độ hiện hành. Nguồn kinh phí để giải quyết chính

sách cho số lao động dôi dư và không có việc làm do doanh nghiệp chịu trách nhiệm (có

thể lấy từ quỹ trợ cấp mất việc làm, từ tiền thu được do chuyển đổi sở hữu). Nếu không đủ

thì lấy quỹ hỗ trợ, sắp xếp và cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, ngoài ra còn được hỗ

trợ thêm từ ngân sách và các nguồn tài chính có thể khác.

Về phía Nhà nước: Ngoài việc hỗ trợ nguồn kinh phí cho doanh nghiệp trong việc

đào tạo, đào tạo lại nghề nghiệp cho người lao động theo các chính sách, chế độ hiện hành

của Nhà nước; trong một số trường hợp cần thiết, tỉnh cần có chính sách riêng nhằm hỗ trợ

bổ sung cho người lao động nghèo tại doanh nghiệp để họ có thể đảm bảo đời sống trong

thời gian đầu bị mất việc (6 tháng đến 1 năm).

Cần có chính sách rõ ràng, cụ thể giải quyết quyền lợi cho người lao động dôi dư

(những người ra khỏi khu vực doanh nghiệp nhà nước). Đặc biệt phải xem xét lại chế độ

trợ cấp đối với người lao động tự nguyện thôi việc từ đó hình thành nguồn trợ cấp thích

hợp và có phương án chi trả sao cho người lao động dôi dư trực tiếp nhận được các khoản

trợ cấp này một cách nhanh chóng kịp thời.

Có chính sách khuyến khích số lao động dôi dư lập nghiệp, tự tạo việc làm mới

như các chính sách ưu đãi về tín dụng, về tiền thuê đất, về thuế sản xuất kinh doanh...

3.3.4. Giải quyết, tháo gỡ những khó khăn vướng mắc, hỗ trợ tài chính cho doanh

nghiệp nhà nước của tỉnh nhằm đẩy nhanh tiến độ thực hiện giao, bán, khoán kinh

doanh và cho thuê doanh nghiệp nhà nước

Nhằm đẩy mạnh quá trình đổi mới và tổ chức lại doanh nghiệp nhà nước ở Quảng

Bình, thực hiện chuyển một bộ các doanh nghiệp nhà nước thành các doanh nghiệp thuộc

các thành phần kinh tế khác qua giao, bán, khoán kinh doanh và cho thuê doanh nghiệp

nhà nước, cần chú trọng thực hiện một số biện pháp cụ thể sau đây:

- Cần xác định rõ, tách và xử lý dứt điểm các khoản nợ tồn đọng của doanh nghiệp

trước khi tiến hành giao, bán, khoán, cho thuê doanh nghiệp.

Xử lý các khoản nợ, đặc biệt là nợ tồn đọng chính là một lúng túng lớn đối với quá

trình bán, khoán, cho thuê doanh nghiệp nhà nước ở Quảng Bình. Lý do là các cá nhân, tổ

chức mua, nhận khoán hoặc nhân thuê lại doanh nghiệp không bao giờ chịu nhận trang trải

các khoản nợ mà trước đây doanh nghiệp đã gây ra. Nhìn chung, đây cũng là điều hợp lý,

tuy nhiên, các khoản nợ mà doanh nghiệp nhà nước đang gánh chịu cũng phải được xử lý

theo hướng trả nợ dứt điểm. Để làm điều này, trước hết, các cơ quan chủ quản

của các doanh nghiệp nhà nước thuộc diện bán, khoán kinh doanh hoặc cho thuê ở tỉnh

phải khắc phục quan niệm lấy đây làm con đường "thoát nợ" đối với các doanh nghiệp yếu

kém nhằm lẩn tránh các khoản nợ phải trả. Những bước sau đây cần triển khai trước khi

bán, khoán, cho thuê doanh nghiệp ở Quảng Bình là:

+ Trước tiên, cần tính toán lại toàn bộ các khoản nợ đã phát sinh, trách nhiệm

thanh toán đối với mỗi khoản, bao gồm cả nợ gốc và lãi phát sinh, trên cơ sở này, xác định

thứ tự ưu tiên thanh toán các khoản.

+ Cân đối các khoản nợ đã được xác định trên đây với tài sản và khả năng thanh

toán hiện tại của doanh nghiệp, nếu doanh nghiệp hoàn toàn không có tài sản để thanh toán

các khoản nợ, cần làm thủ tục phá sản chứ không thể xếp vào loại bán, khoán hoặc cho

thuê. Trong trường hợp doanh nghiệp có tài sản nhưng không thể trả nợ do vốn bị đơn vị

khác chiếm dụng, có thể xử lý theo theo hai cách cơ bản (hoặc kết hợp cả hai): Một là,

đàm phán với cá nhân, tổ chức nhận mua, khoán, nhận thuê để họ nhận cả các khoản nợ

phải trả và nợ phải thu trên cơ sở có kế hoạch thanh toán rõ ràng và có sự cam kết của các

bên có liên quan đến các khoản nợ của doanh nghiệp. Hai là, cơ quan quản lý nhà nước

được ủy ban nhân dân tỉnh ủy quyền đứng ra thu hồi các khoản nợ cũ và thanh toán trả các

khoản phải trả chủ nợ cũ.

Đối với nợ thuế: Để quá trình giao, bán, khoán kinh doanh và cho thuê doanh

nghiệp được thuận lợi, nhanh chóng, Nhà nước nên phân cấp cho các ủy ban nhân tỉnh nói

chung và ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Bình nói riêng được quyết định xóa nợ tồn động

ngân sách với giá trị dưới 500 triệu đồng.

- Cần có chính sách hỗ trợ kinh phí trong quá trình thực hiện việc bán, khoán, cho

thuê doanh nghiệp nhà nước.

Sau khi bán, khoán, cho thuê doanh nghiệp nhà nước, ngân sách sẽ nhận được tiền do

các hoạt động này. Tuy nhiên, các hoạt động liên quan đến bán, khoán, cho thuê doanh

nghiệp lại làm phát sinh những chi phí nhất định (chi phí đánh giá lại doanh nghiệp, chi

phí khắc phục những sự cố, sửa chữa những hỏng hóc, những khoản đầu tư nhỏ để khôi

phục lại trạng thái hoạt động của doanh nghiệp trước khi bán, khoán, cho thuê…). Đối với

doanh nghiệp được cổ phần hóa, những kinh phí này đã có nguồn để trang trải. Tuy nhiên,

đối với các doanh nghiệp được giao, bán, khoán, cho thuê thì không phải doanh nghiệp nào

cũng có đủ kinh phí để tiến hành các hoạt động này, nên hầu hết các doanh nghiệp kinh

doanh thua lỗ ở Quảng Bình thực hiện việc chuyển đổi rơi vào tình trạng bế tắc hoặc chỉ có

thể thực hiện một cách chậm chạp do không xử lý được các khó khăn về mặt tài chính,

không giải quyết được chế độ cho người lao động, mà nhu cầu kinh phí hỗ trợ trong quá

trình thực hiện chuyển đổi lại rất lớn trong khi ngân sách của tỉnh hiện rất hạn hẹp, không

thể đảm đương được. Do vậy, Chính phủ cần có cơ chế chính sách hỗ trợ kinh phí cho các

tỉnh đặc biệt khó khăn như Quảng Bình để tỉnh thành lập quỹ Hỗ trợ sắp xếp doanh nghiệp

theo Quyết định 177/QĐ-TTg (30/08/1999) của Thủ tướng Chính phủ về tổ chức và hoạt

động của Quỹ hỗ trợ sắp xếp và cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước để giải quyết chính

sách đối với người lao động và thanh toán các khoản nợ phải trả đối với trường hợp thu

tiền bán, cho thuê, khoán kinh doanh không đủ chi trả các khoản nói trên.

- Cần bổ sung, hoàn thiện một số chính sách để đẩy mạnh bán, khoán, cho thuê

doanh nghiệp nhà nước

Nghị định 103/1999/NĐ-CP, 49/2002/NĐ-CP (24/2/2002) và các thông tư hướng

dẫn của các Bộ chuyên ngành đã tạo hành lang pháp lý để các doanh nghiệp thực hiện việc

giao, bán, khoán, cho thuê. Tuy nhiên trong quá trình triển khai thực hiện đã xuất hiện một

số vấn đề cần được nghiên cứu bổ sung và hoàn thiện, cụ thể là:

- Về chi phí thực hiện quá trình giao, bán, khoán, cho thuê doanh nghiệp nên quy

định theo tỷ lệ % trên cơ sở giá trị thực tế phần vốn Nhà nước tại doanh nghiệp sẽ hợp lý

hơn và đảm bảo được nguồn chi trả, vì nếu quy định trên cơ sở giá trị thực tế của doanh

nghiệp như hiện nay thì bao gồm cả tiền vay, mà đã vay thì phải trả nên không thể dùng để

chi cho việc giao, bán…

- Cần xem xét lại quy định việc sử dụng tiền bán doanh nghiệp. Hiện nay theo quy

định tại Nghị định 103/NĐ-CP thì tiền bán doanh nghiệp được sử dụng chung cho cả hai

trường hợp là "thanh toán nợ có bảo đảm và nợ đến hạn" là chưa chính xác. Nên quy định

việc sử dụng này cụ thể cho từng hình thức bán doanh nghiệp. Nếu bán tài sản doanh

nghiệp thì tiền bán có thể dùng để trả cho các chủ nợ (kể cả nợ đến hạn và nợ chưa đến

hạn) để giải quyết quyền lợi cho người lao động, còn nếu chỉ bán phần vốn Nhà nước tại

doanh nghiệp thì tiền bán sẽ không phải dùng để trả nợ vì người mua đã kế thừa nghĩa vụ

trả nợ.

- Đối tượng được giao doanh nghiệp là tập thể người lao động, song cần quy định

rõ tập thể những người lao động tự nguyện thực hiện nghị quyết đại hội công nhân viên

chức ít nhất phải chiếm tỷ lệ là bao nhiêu trong tổng số lao động của doanh nghiệp.

- Cần mở rộng loại hình doanh nghiệp thuộc diện bán, khoán, cho thuê. Chúng bao

gồm cả đơn vị trực thuộc doanh nghiệp, bộ phận của doanh nghiệp nhà nước. Có thể chia

tách doanh nghiệp để bán, khoán hoặc cho thuê, mục đích của việc này là cải tạo và hiện

đại hóa từng bước những bộ phận riêng rẽ để có thể bán, khoán, và cho thuê một cách có

hiệu quả, dễ dàng. Những bộ phận nào dễ dàng hiện đại hóa, tổ chức lại hoặc có chủ đầu tư

muốn mua, nhận khoán hoặc cho thuê trước thì có thể tiến hành trước.

- Cần mở rộng đối tượng doanh nghiệp được bán, khoán, cho thuê theo Nghị định

103/1999/NĐ-CP. Đối với doanh nghiệp nhà nước có vốn dưới 5 tỷ đồng, không nhất thiết

là kinh doanh thua lỗ lâu dài, không có khả năng khắc phục, mới được thực hiện giao, bán,

khoán và cho thuê. Đối với những doanh nghiệp thua lỗ kéo dài, nhưng có vốn nhà nước

trên sổ sách trên 5 tỷ đồng không áp dụng một trong các hình thức theo Nghị định

103/199/NĐ-CP được thì nên phân loại và xử lý các khoản lỗ để giảm vốn trên sổ sách tại

doanh nghiệp đến dưới 5 tỷ đồng để có thể áp dụng được một trong các hình thức chuyển

đổi sở hữu tại nghị định này.

- Cần chuyển cơ chế giao, bán, khoán kinh doanh và cho thuê sang thực hiện đấu

thầu bán doanh nghiệp (bao gồm cả giá trị quyền sử dụng đất, vườn cây, rừng trồng) gắn

với điều kiện đảm bảo việc làm cho người lao động và đảm bảo môi sinh.

- Về trình tự thủ tục bán, khoán, kinh doanh hoặc cho thuê doanh nghiệp nhà nước,

trên cơ sở quy định của Nghị định 103/1999/NĐ-CP và các Nghị định có liên quan khác

của Chính phủ, Bộ Kế hoạch và Đầu tư cần sớm ban hành văn bản hướng dẫn cụ thể hơn

quy trình thực hiện bán, khoán kinh doanh, cho thuê doanh nghiệp nhà nước. Trong văn bản,

cần nêu rõ trách nhiệm của các cơ quan chuyên môn giúp ủy ban nhân dân tỉnh.

3.3.5. Đẩy mạnh và thực hiện tốt việc chuyển đổi sở hữu theo hình thức cổ phần

hóa doanh nghiệpn nhà nước

Trên cơ sở phân tích những thuận lợi, khó khăn, trong quá trình thực hiện cổ phần

hóa doanh nghiệp nhà nước của tỉnh những năm qua, các giải pháp nhằm đẩy nhanh tiến

trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước ở Quảng Bình thời gian tới, cụ thể là:

- Cần có cơ chế khuyến khích các doanh nghiệp nhà nước thuộc diện Nhà nước

không cần nắm giữ 100% vốn thực hiện cổ phần hóa. Trong cổ phần hóa cho phép thực

hiện linh hoạt, đa dạng các hình thức bán cổ phiếu để thực sự thu hút vốn của các cá nhân,

tổ chức ngoài doanh nghiệp nhằm tăng thêm nguồn lực phát triển cho doanh nghiệp, nếu

thời gian đầu chưa thu hút được nhiều người mua cổ phiếu thì nhà nước có thể giữ lại một

số cổ phần nhất định và phát hành tiếp khi có đủ điều kiện; tỉnh cũng cần phải có chính

sách ưu đãi cụ thể, đồng thời chỉ đạo các Sở, ban ngành quan tâm tháo gỡ kịp thời các khó

khăn, vướng mắc để tạo điều kiện cho doanh nghiệp phát triển.

- Cần tiếp tục sửa đổi, bổ sung một số cơ chế, chính sách tạo thuận lợi cho cổ phần

hóa doanh nghiệp nhà nước, cụ thể là:

+ Mở rộng đối tượng cổ phần hóa bao gồm cả các doanh nghiệp có quy mô lớn và

các nông lâm, trường quốc doanh; thu hẹp đối tượng nhà nước nắm giữ cổ phần chi phối

theo hướng không căn cứ vào quy mô vốn mà căn cứ vào tính chất ngành nghề kinh doanh

hoặc vị trí của doanh nghiệp đối với sự phát triển kinh tế của vùng, lãnh thổ. Nhà nước chỉ

công bố các danh mục các doanh nghiệp cần nắm giữ 100% vốn còn lại thực hiện đa dạng

hóa sở hữu bằng nhiều hình thức khác nhau theo lộ trình.

+ Bổ sung giá trị hữu hình và vô hình, giá trị quyền sử dụng đất và giá trị vườn

cây, rừng trồng vào giá trị doanh nghiệp để thực hiện việc bán cổ phần.

+ Đổi mới phương thức bán cổ phiếu theo hướng: xóa bỏ quy định doanh nghiệp trực

tiếp bán cổ phiếu, chuyển việc bán cổ phiếu cho một tổ chức tài chính trung gian, việc thực

hiện bán cổ phiếu phải thực hiện qua hình thức đấu thầu để bảo đảm giá trị thực của doanh

nghiệp; xóa bỏ việc bán cổ phiếu ưu đãi theo giá sàn qua cơ chế hội đồng định giá. Người

lao động được dành 30% số cổ phiếu bán ra để mua với giá ưu đãi (nhỏ hơn hoặc bằng

50% giá giao dịch) và bỏ quy định sau 3 năm mới được bán ra.

+ Nên có cơ chế ưu tiên đối với lao động trẻ, nhất là những người đã qua đào tạo

khi tham gia lao động được mua một số lượng cổ phần nhất định với giá giá bán ưu đãi

nhằm khuyến khích, thu hút ngày càng nhiều đội ngũ tri thức trẻ vào làm việc trong các

công ty cổ phần.

- Cần đổi mới hai vấn đề ảnh hưởng trực tiếp làm cho quá trình cổ phần hóa trong

thời gian vừa qua diễn ra chậm đó là quy trình cổ phần hóa và phương pháp định giá doanh

nghiệp cổ phần hóa:

+ Cải tiến cổ phần hóa quy trình cổ phần hóa sao cho bớt hình thức nhưng vẫn giữ

được vai trò kiểm soát của Nhà nước. Trong việc cụ thể hóa các công đoạn để tổ chức thực

hiện cần căn cứ vào tình hình thực tế của từng doanh nghiệp của tỉnh, không nhất thiết

phải qua tất cả các công đoạn, nhưng phải đảm bảo tính chặt chẽ.

+ Cần tiếp tục sửa đổi, bổ sung, cải tiến phương pháp xác định giá trị doanh

nghiệp cổ phần theo hướng đảm bảo nhanh, gọn, bảo toàn được tài sản, tiền vốn của nhà

nước. Tiến đến quy định cụ thể các phương thức đánh giá doanh nghiệp theo thông lệ quốc

tế. Sử dụng các dịch vụ đánh giá thay thế việc đánh giá của các cơ quan quan chức năng

nhà nước nhằm xác định chính xác, khách quan giá trị doanh nghiệp tại thời điểm cổ phần

hóa.

- Hình thành bộ máy chuyên trách thực hiện công tác cổ phần hóa doanh nghiệp ở

tỉnh.

+ Trên cơ sở hoạt động của Ban đổi mới, phát triển doanh nghiệp và tổ chuyên

viên giúp việc tỉnh. Tỉnh nên có kiến nghị với Ban đổi mới doanh nghiệp Trung ương để

xin hình thành riêng một bộ phận công tác chuyên trách trực thuộc ủy ban nhân dân tỉnh

chuyên thực hiện các công việc, nhiệm vụ có liên quan đến công tác sắp xếp các doanh

nghiệp nhà nước trên địa bàn tỉnh trong đó bao hàm cả công tác cổ phần hóa doanh nghiệp

nhà nước.

+ Cần sớm hình thành các cơ quan tư vấn với những chuyên gia giỏi về cổ phần

hóa để tư vấn giúp đỡ các doanh nghiệp thực hiện tốt tất cả các công đoạn trong tiến trình

cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước.

- Xây dựng kế hoạch tổng thể về cổ phần hóa trên địa bàn tỉnh.

Cần tiến hành cổ phần hóa có trọng tâm, trọng điểm, xác định đối tượng và trình tự

tiến hành cổ phần hóa. Nội dung chương trình bao gồm:

+ Xác định số doanh nghiệp mà nhà nước cần nắm giữ 100% vốn, số doanh nghiệp

cần chuyển đổi sang hình thức sở hữu khác.

+ Xác định tổng số doanh nghiệp cần tiến hành cổ phần của từng ngành, lĩnh vực,

trong đó, số doanh nghiệp cổ phần mà Nhà nước cần nắm cổ phần chi phối, cổ phần đặc

biệt…

+ Xây dựng lộ trình cổ phần hóa cho từng ngành, lĩnh vực và từng giai đoạn cụ

thể.

- Quan tâm hỗ trợ các doanh nghiệp nhà nước trong và sau cổ phần.

3.3.6. Đổi mới kịp thời công tác quản lý đối với các doanh nghiệp mà nhà nước cần

nắm giữ 100% vốn nhà nước thuộc tỉnh quản lý

3.3.6.1. Đổi mới công tác quản lý đối với các doanh nghiệp nhà nước hoạt động

công ích

Để đáp ứng yêu cầu quản lý cũng như cung cấp hàng hóa, dịch vụ công cộng cho

các tầng lớp dân cư trên địa bàn tỉnh ngày một tốt hơn, các biện pháp quản lý áp dụng đối

với các doanh nghiệp loại này là:

- Doanh nghiệp cần củng cố tổ chức bộ máy quản lý, điều hành tinh gọn hiệu quả.

Nâng cao vai trò trách nhiệm và quyền lợi của lãnh đạo, cán bộ quản lý và người lao động

từ đó để nâng cao hiệu quả xã hội và hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp

nhà nước hoạt động công ích.

- Về cơ chế tài chính, cần chuyển từ cơ chế quản lý các doanh nghiệp nhà nước

hoạt động công ích sang cơ chế quản lý hoạt động công ích, trên cơ sở đó cần xem xét thực

hiện một số nội dung sau:

Để nâng cao hiệu quả hoạt động công ích cần áp dụng hình thức đấu thầu: trừ

những sản phẩm, dịch vụ trực tiếp phục vụ cho an ninh, quốc phòng và một số sản phẩm

đặc thù đòi hỏi kỹ thuật cao như kiểm đinh kỹ thuật phương tiện giao thông đường bộ, còn

các sản phẩm, dịch vụ thông thường ở tỉnh như quản lý môi trường, hạ tầng đô thị, duy tu

bảo dưỡng cầu đường bộ… đều phải thực hiện thông qua đấu thầu.

Giá sản phẩm dịch, vụ công ích phải được xây dựng trên cơ sở các định mức kinh

tế, kỹ thuật, lao động bảo đảm các đơn vị thực hiện bù đắp được chi phí sản xuất và có

mức lãi hợp lý. Đối với những sản phẩm, dịch vụ không qua đấu thầu thì giá do nhà nước

xây dựng được lấy làm cơ sở để Nhà nước ký hợp đồng với doanh nghiệp, còn đối với sản

phẩm, dịch vụ thực hiện đấu thầu thì giá này được làm cơ sở đấu thầu.

Cơ chế ứng vốn và thanh toán sản phẩm, dịch vụ công ích phải dựa vào tính chất

của từng loại sản phẩm, dịch vụ công ích, có thể cho ứng trước 50% (hoặc một tỷ lệ thích

hợp) trên giá trị sản phẩm, dịch vụ đã thực hiện để đảm đủ vốn cho doanh nghiệp hoạt

động từ đó giảm bớt phần vay vốn ngân hàng và các đối tượng khác nhằm giảm chi phí

cho doanh nghiệp.

Đối với những doanh nghiệp thực hiện sản phẩm, dịch vụ công ích cần được ưu

đãi về tín dụng như được vay vốn ưu đãi của Nhà nước để đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật

cho việc thực hiện sản phẩm, dịch vụ công ích, được vay vốn của các ngân hàng thương

mại quốc doanh không cần tài sản thế chấp để thực hiện việc sản xuất, cung ứng dịch vụ

công ích.

- Về phương thức quản lý, cần đổi mới phương thức giao nhiệm vụ, phương thức

cấp phát tài chính, phương thức tiêu thụ sản phẩm theo hướng: thúc đẩy cạnh tranh, thực

hiện xã hội hóa, nâng cao hiệu quả phục vụ xã hội và hiệu quả sản xuất kinh doanh.

- Về chính sách, cần bổ sung hoàn thiện chính sách theo hướng: coi trọng và

khuyến khích hoạt động công ích, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động công ích, tăng

cường quản lý nhà nước đi đôi với nâng cao tính chủ động sáng tạo và quyền tự chủ cho

doanh nghiệp

3.3.6.2. Đổi mới công tác quản lý đối với các doanh nghiệp nhà nước hoạt động kinh

doanh

Để thực sự tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, đồng

thời nâng cao được hiệu quả quản lý của Nhà nước đối với doanh nghiệp, cần thực hiện

một số các biện pháp sau:

- Cần có cơ chế khuyến khích vật chất, tinh thần và nâng cao trách nhiệm đối với

cán bộ quản lý, nhất là giám đốc doanh nghiệp, cơ chế tuyển chọn đội ngũ giám đốc doanh

nghiệp kế cận cũng như bồi dưỡng, đào tạo, đào tạo lại đội ngũ giám đốc doanh nghiệp

đương nhiệm để có đủ năng lực, trình độ lãnh đạo doanh nghiệp trong cơ chế mới, xử lý

nghiêm minh và kịp thời trách nhiệm của giám đốc doanh nghiệp nhà nước trong trường

hợp để doanh nghiệp làm ăn thua lỗ, thất thoát vốn tài sản của Nhà nước.

- Tiếp tục thực hiện cơ chế trích thưởng và cấp lại theo một tỷ lệ nhất định tính

trên số thuế nộp vượt kế hoạch đối với những doanh nghiệp hoàn thành vượt mức kế hoạch

ngân sách tỉnh giao nhằm khuyến khích, đồng thời tạo thêm nguồn lực tài chính để các

doanh nghiệp tiếp tục đầu tư, mở rộng và phát triển sản xuất, nâng cao hiệu quả hoạt động

kinh doanh

- Cần ban hành các tiêu chí và chế tài buộc doanh nghiệp phải hạch toán chính xác

và báo cáo trung thực tình hình tài chính cũng như kết quả sản xuất kinh doanh, đồng thời

cần đẩy mạnh công tác thanh tra, kiểm tra nhằm nắm bắt chính xác tình hình tài chính và

sản xuất kinh doanh cũng như phát hiện và ngăn chăn kịp thời các sai phạm có thể xảy ra

trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.

- Về lao động, cần khẩn trương áp dụng chính sách hỗ trợ số lao động dôi dư cho

doanh nghiệp, từng bước hỗ trợ đào tạo, nâng cao trình độ lao động đáp ứng được yêu cầu

quản lý cũng như từng phần việc trong doanh nghiệp; giao quyền quyết định cho doanh

nghiệp trong việc tuyển chọn lao động, chịu trách nhiệm bố trí và phân công công tác,

được quyền chủ động trả lương theo năng suất và hiệu quả lao động.

- Cần có cơ chế thuận lợi để các doanh nghiệp dễ dàng tiếp cận các nguồn vốn để

đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh. Các giao dịch tín dụng nhằm thu hút vốn đầu tư có

thể thực hiện thông qua thị trường vốn, thị trường chứng khoán hay các hình thức tín dụng

thương mại khác. Đối với tài sản do doanh nghiệp đầu tư bằng vốn vay và đã trả hết nợ thì

cho phép doanh nghiệp doanh nghiệp đánh giá lại tài sản theo giá thực tế và coi như vốn tự

có của doanh nghiệp để tiếp tục khấu hao, hình thành nguồn vốn tái đầu tư. Nếu doanh

nghiệp thực hiện chuyển đổi sở hữu thì giá trị tài sản này được xác định là vốn tự có để

tính ưu đãi cho người lao động tham gia mua cổ phần.

3.3.7. Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ quản lý doanh nghiệp nhà nước

Đội ngũ quản lý doanh nghiệp nhà nước, đặc biệt là hàng ngũ giám đốc là một

trong các yếu tố quan trọng để doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả, tuy nhiên phải thừa nhận

rằng ở Quảng Bình chưa có những nhà quản lý doanh nghiệp giỏi theo cơ chế thị trường,

vì vậy việc tổ chức đào tạo có tính hệ thống cho đội ngũ cán bộ này là cực kỳ quan trọng.

Hàng năm, các doanh nghiệp phải lên kế hoạch chủ động bồi dưỡng, đào tạo cán bộ quản

lý doanh nghiệp để từng bước có được đội ngũ cán bộ quản lý giỏi đáp ứng yêu cầu quản

lý doanh nghiệp trong cơ chế thị trường; về phía tỉnh cần có sự phối hợp thường xuyên với

các trường Đại học, các Viện nghiên cứu, Trung tâm đạo tạo tổ chức các khóa học để nâng

cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, trình độ quản lý cũng như các kiến thức cập nhật về

kinh tế, tài chính cho đội ngũ cán bộ quản lý doanh nghiệp trên toàn tỉnh nhằm đáp ứng

yêu cầu quản lý trong điều kiện đổi mới doanh nghiệp nhà nước và xu thế hội nhập kinh tế

quốc tế hiện nay.

Bên cạnh đó, việc tuyển chọn giám đốc cũng là yêu cầu bức xúc hiện nay không

chỉ ở Quảng Bình mà còn là vấn đề bức xúc đối với hầu hết các doanh nghiệp trên phạm vi

cả nước. Cơ chế bổ nhiệm, đề bạt như hiện nay là không có hiệu quả, do đó cần có cơ chế

tuyển chọn giám đốc theo hình thức thi tuyển; định kỳ sau 2-3 năm có đánh giá theo tiêu

chuẩn và kết quả công việc thực tế, phân loại, biểu dương, nâng bậc lương, đối với giám

đốc kinh doanh giỏi; những giám đốc không đáp ứng yêu cầu thì thay thế. Đồng thời cũng

cần có chính sách khuyến khích vật chất và tinh thần cho những người có tay nghề cao,

trình độ chuyên môn giỏi, đóng góp nhiều cho doanh nghiệp để họ gắn bó lâu dài với

doanh nghiệp.

3.3.8. Tạo hành lang pháp lý và môi trường kinh doanh thuận lợi cho các doanh

nghiệp sau khi sắp xếp, chuyển đổi hoạt động có hiệu quả

Các doanh nghiệp nhà nước sau khi thực hiện cổ phần hóa cũng như chuyển đổi

sở hữu qua các hình thức giao, bán, khoán kinh doanh, cho thuê doanh nghiệp ở Quảng

Bình nhìn chung có quy mô nhỏ, khả năng tài chính hạn hẹp, vì thế việc vay vốn đầu tư để

đổi mới thiết bị, công nghệ gặp nhiều khó khăn (do không có tài sản để thế chấp khi vay

vốn), mặc dù Chính phủ đã có quy định doanh nghiệp nhà nước chuyển thành công ty cổ

phần được vay vốn không phải thế chấp song thủ tục để được vay vốn vẫn rất phiền hà, các

tổ chức tín dụng cho vay vẫn yêu cầu phải thế chấp. Để tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt

động của doanh nghiệp sau khi chuyển đổi cần thực hiện một số vấn đề sau:

- Về phía nhà nước phải hỗ trợ tạo điều kiện cho doanh nghiệp về hành lang pháp

lý, môi trường đầu tư và ban hành đồng bộ các chính sách tài chính, tín dụng, thuế… theo

hướng tạo điều kiện thuận lợi tối đa cho doanh nghiệp sau chuyển đổi sở hữu nhằm khuyến

khích doanh nghiệp đầu tư đổi mới thiết bị công nghệ để phát triển sản xuất kinh doanh có

hiệu quả.

- Về phía tỉnh ngoài chế độ chung do Nhà nước ban hành thì bên cạnh việc tạo

điều kiện thuận lợi tối đa cho các doanh nghiệp hoạt động, tỉnh cần có chính sách hỗ trợ,

khuyến khích đầu tư, chính sách đào tạo, thu hút lao động đối với các doanh nghiệp theo

các mục tiêu, các chương trình phù hợp với khả năng của ngân sách và tình hình cụ thể của

tỉnh.

Kết luận

Sắp xếp, đổi mới để nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước là

một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta; đồng thời cũng là một vấn đề có tính thời sự

cấp bách, có ý nghĩa lý luận lâu dài đối với việc đổi mới, phát triển khu vực doanh nghiệp

nhà nước trong điều kiện nền kinh tế nhiều thành phần và hội nhập hiện nay. Trong quá

trình đó vừa phải nâng cao, giữ vững được vai trò chủ đạo của doanh nghiệp nhà nước lại

vừa tạo ra động lực để thúc đẩy sự cạnh tranh lành mạnh giữa các doanh nghiệp, góp phần

tạo nên sự tăng trưởng cao và ổn định của nền kinh tế, thực hiện được các mục tiêu định

hướng phát triển kinh tế - xã hội của Đảng đề ra. Chính vì vậy, đề tài: "Các giải pháp thúc

đẩy quá trình sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước để nâng cao hiệu quả doanh

nghiệp nhà nước ở tỉnh Quảng Bình hiện nay", đã tập trung nghiên cứu các nội dung

sau:

1. Hệ thống hóa các lý luận cơ bản về doanh nghiệp nhà nước và các hình thức sắp

xếp, chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp nhà nước; phân tích cả về mặt lý luận và thực tiễn về

sự cần thiết phải sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước để nâng cao hiệu quả hoạt động

của doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam trong điều kiện nền kinh tế nhiều thành phần và

hội nhập quốc tế hiện nay.

2. Từ thực trạng hoạt động sản xuất kinh doanh cũng như thực trạng sắp xếp, đổi

mới doanh nghiệp nhà nước ở Quảng Bình trong thời gian qua, luận văn đã đi sâu phân

tích những kết quả đạt được, chỉ ra những tồn tại, vướng mắc và các nguyên nhân dẫn đến

tồn tại đó.

3. Trên cơ sở các định hướng, giải pháp lớn của Đảng và Nhà nước, đặc biệt là các

mục tiêu, nhiệm vụ sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước của tỉnh trong thời gian tới,

luận văn đã tập trung đề xuất các phương án sắp xếp, đổi mới cho từng doanh nghiệp trên

địa bàn tỉnh, đồng thời đưa ra các giải pháp, kiến nghị có tính khả thi cho việc thực hiện.

Sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam là một vấn đề hoàn toàn mới

đang trong quá trình vừa làm, vừa rút kinh nghiệm, nguồn tài liệu và kinh nghiệm về sắp

xếp, đổi mới doanh nghiệp không nhiều. Vì vậy, kết quả nghiên cứu của đề tài không tránh

khỏi hạn chế và thiếu sót nhất định. Quá trình chỉ đạo và thực tiễn sắp xếp, đổi mới doanh

nghiệp nhà nước sẽ phát sinh nhiều vấn đề mới cần nghiên cứu để giải quyết, tháo gỡ kịp

thời. Do đó các giải pháp được nêu ra trong đề tài chỉ là những đề xuất ban đầu, cần được

tiếp tục nghiên cứu, hoàn chỉnh nhằm đáp ứng tốt hơn các yêu cầu thực tế của việc đổi

mới, phát triển để nâng cao hiệu quả của doanh nghiệp nhà nước trên phạm vi cả nước nói

chung và ở Quảng Bình nói riêng trong giai đoạn tới.

Mục lục

Trang

1 Mở đầu

4 Chương 1: Doanh nghiệp nhà nước và sự cần thiết phải sắp xếp, đổi mới

doanh nghiệp nhà nước trong điều kiện nền kinh tế Nhiều thành phần

và hội nhập Quốc tế

4 1.1. Lý luận chung về doanh nghiệp nhà nước

1.1.1. Quan niÖm về doanh nghiệp nhà nước 4

6 1.1.2. Phân loại doanh nghiệp nhà nước

8 1.1.3. Vai trò của doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế thị trường

1.1.4. Đặc điểm của doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế thị 10

trường

11 1.2. Sự cần thiết phải sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước ở

Việt Nam

1.2.1. Những yếu kém, tồn tại của doanh nghiệp nhà nước cần được 11

khắc phục

1.2.2. Phương hướng và mục tiêu sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà 21

nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa

22 1.3. Các hình thức sắp xếp, chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp nhà

nước

1.3.1. Sáp nhập, hợp nhất, giải thể hoặc phá sản doanh nghiệp nhà 23

nước

1.3.2. Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước 24

1.3.3. Giao doanh nghiệp nhà nước 26

1.3.4. Bán doanh nghiệp nhà nước 26

1.3.5. Khoán kinh doanh doanh nghiệp nhà nước 27

1.3.6. Cho thuê doanh nghiệp nhà nước 27

29 Chương 2: Thực trạng sắp xếp, đổi mới Doanh nghiệp nhà nước ở

Quảng bình trong thời gian qua

29 2.1. Tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp

nhà nước ở Quảng Bình trong những năm qua

2.1.1. Điều kiện về vị trí địa lý và tự nhiên ảnh hưởng đến quá trình 29

hình thành và phát triển doanh nghiệp nhà nước ở Quảng Bình

2.1.2. Tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhà 31

nước ở Quảng Bình trong những năm qua

40 2.2. Cơ sở pháp lý cho việc thực hiện quá trình sắp xếp đổi mới

doanh nghiệp nhà nước

2.2.1. Đổi mới cơ chế quản lý doanh nghiệp nhà nước 40

2.2.2. Sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước 42

43 2.3. Thực trạng về quá trình sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà

nước ở Quảng bình trong thời gian qua

2.3.1. Tình hình và kết quả thực hiện sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp 43

nhà nước ở Quảng Bình trong những năm qua

2.3.2. Một số nhận xét, đánh giá từ kết quả thực hiện sắp xếp, đổi 49

mới doanh nghiệp nhà nước ở Quảng Bình trong thời gian qua

2.3.3. Những tồn tại, hạn chế trong thực hiện sắp xếp, đổi mới doanh 51

nghiệp nhà nước ở Quảng Bình

58 2.4. Kinh nghiệm cải cách, đổi mới doanh nghiệp nhà nước ở một

số nước trên thế giới

2.4.1. Kinh nghiệm đổi mới doanh nghiệp nhà nước ở Trung Quốc 58

2.4.2. Kinh nghiệm cải cách, đổi mới mới doanh nghiệp nhà nước ở 63

Liên bang Nga

2.4.3. Kinh nghiệm cải cách, đổi mới mới doanh nghiệp nhà nước ở 65

Hungari

2.4.4. Kinh nghiệm cải cách, đổi mới doanh nghiệp nhà nước ở 66

Malaysia

68 Chương 3: Phương hướng và giải pháp thúc đẩy quá trình sắp xếp, đổi

mới doanh nghiệp nhà nước để góp phần nâng cao hiệu quả doanh

nghiệp nhà nước ở quảng Bình trong thời gian tới

68 3.1. Các quan điểm cơ bản, mục tiêu và nhiệm vụ về sắp xếp, đổi

mới doanh nghiệp nhà nước ở tỉnh Quảng Bình thời gian tới

3.1.1. Các quan điểm cơ bản về quá trình sắp xếp, đổi mới doanh 68

nghiệp nhà nước ở Quảng Bình thời gian tới

3.1.2. Mục tiêu và nhiệm vụ sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước 69

của tỉnh thời gian tới

71 3.2. Định hướng cụ thể trong việc thực hiện sắp xếp, đổi mới doanh

nghiệp nhà nước để nâng cao hiệu quả các doanh nghiệp nhà nước

ở Quảng Bình đến năm 2005

3.2.1. Định hướng sắp xếp, đổi mới đối với doanh nghiệp nhà nước 71

hoạt động kinh doanh

3.2.2. Định hướng sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước hoạt 78

động công ích

81 3.3. Các giải pháp thúc đẩy quá trình sắp xếp, đổi mới doanh

nghiệp nhà nước để góp phần nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà

nước ở quảng Bình trong những năm tới

3.3.1. Cần chú trọng công tác tuyên truyền, vận động để các Sở, ban 81

ngành, các lãnh đạo cũng như người lao động trong doanh nghiệp có nhận

thức đúng đắn về chủ trương, chính sách sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà

nước

3.3.2. Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp của Đảng và chính 82

quyền cấp tỉnh trong việc triển khai thực hiện sắp xếp, đổi mới các doanh

nghiệp nhà nước thuộc tỉnh quản lý

3.3.3. Giải quyết tốt vấn đề lao động dôi dư nhằm tạo tiền đề cho việc 84

đẩy nhanh quá trình sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước

3.3.4. Giải quyết, tháo gỡ những khó khăn vướng mắc, hỗ trợ tài 86

chính cho doanh nghiệp nhà nước của tỉnh nhằm đẩy nhanh tiến độ thực hiện

giao, bán, khoán kinh doanh và cho thuê doanh nghiệp nhà nước

3.3.5. Đẩy mạnh và thực hiện tốt việc chuyển đổi sở hữu theo hình 90

thức cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước

3.3.6. Đổi mới kịp thời công tác quản lý đối với các doanh nghiệp mà 93

nhà nước cần nắm giữ 100% vốn nhà nước thuộc tỉnh quản lý

3.3.7. Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ quản lý doanh 96

nghiệp nhà nước

3.3.8. Tạo hành lang pháp lý và môi trường kinh doanh thuận lợi cho 97

các doanh nghiệp sau khi sắp xếp, chuyển đổi hoạt động có hiệu quả

98 Kết luận

Danh mục các tài liệu tham khảo

phụ lục