intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Giải quyết tranh chấp trực tuyến: những bất cập trong khung pháp lý và giải pháp

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:11

4
lượt xem
1
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết phân tích một số điểm thiếu sót, bất cập về mặt pháp lý liên quan đến giải quyết tranh chấp trực tuyến, tập trung chủ yếu vào giải quyết tranh chấp bằng trọng tài trực tuyến và hoà giải trực tuyến, đề xuất một số giải pháp pháp lý để tạo khung pháp lý thuận lợi cho giải quyết tranh chấp trực tuyến tại Việt Nam trong thời gian tới.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Giải quyết tranh chấp trực tuyến: những bất cập trong khung pháp lý và giải pháp

  1. GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP TRỰC TUYẾN: NHỮNG BẤT CẬP TRONG KHUNG PHÁP LÝ VÀ GIẢI PHÁP Nguyễn Minh Hằng Hà Công Anh Bảo TÓM TẮT Dựa trên nguyên tắc thừa nhận giá trị pháp lý của các thông điệp dữ liệu, Việt Nam đã ban hành một số văn bản pháp luật tạo khung pháp lý cho việc giải quyết tranh chấp trực tuyến. Bài viết phân tích một số điểm thiếu sót, bất cập về mặt pháp lý liên quan đến giải quyết tranh chấp trực tuyến, tập trung chủ yếu vào giải quyết tranh chấp bằng trọng tài trực tuyến và hoà giải trực tuyến. Trên cơ sở tham khảo một số kinh nghiệm về xây dựng khung pháp lý về trọng tài/hoà giải trực tuyến ở Trung Quốc và Châu Âu, bài viết đề xuất một số giải pháp pháp lý để tạo khung pháp lý thuận lợi cho giải quyết tranh chấp trực tuyến tại Việt Nam trong thời gian tới. Từ khoá: ODR, trọng tài trực tuyến, hoà giải trực tuyến, Việt Nam 1. Khung pháp lý hiện hành của Việt Nam về giải quyết tranh chấp trực tuyến Dù Việt Nam chưa có văn bản pháp luật riêng về giải quyết tranh chấp trực tuyến (Online Dispute Resolution, sau đây viết tắt là ODR) nhưng các văn bản pháp luật hiện hành cũng đã và đang có những quy định khác nhau về phương thức này, cụ thể là: Thứ nhất, pháp luật Việt Nam thừa nhận giá trị pháp lý của các thông điệp dữ liệu điện tử là tương đương văn bản. Khoản 2 Điều 16 Luật Trọng tài thương mại 2010 quy định thỏa thuận trọng tài được xác lập qua trao đổi giữa các bên bằng thư điện tử được coi là hình thức thỏa thuận tương đương văn bản. Đây là yếu tố quan trọng đầu tiên tạo cơ sở pháp lý cho cơ chế ODR nói chung và cơ chế của trọng tài trực tuyến nói riêng. Mặc dù quy định này chỉ đề cập đến phương thức xác lập thoả  PGS, TS, Tổng thư ký Trung tâm Hoà giải thương mại quốc tế Việt Nam (VICMC), GVCC Khoa Luật, ĐH Ngoại Thương; Email: hangnm@ftu.edu.vn  TS, HGV VICMC, GV Khoa Luật, ĐH Ngoại Thương 105
  2. thuận trọng tài, nhưng đồng thời cũng tạo cơ sở pháp lý cho việc nộp tài liệu, chứng cứ thông qua phương tiện điện tử. Thứ hai, thừa nhận giá trị pháp lý của chữ ký điện tử. Theo Luật Giao dịch điện tử năm 2005, chữ ký điện tử được định nghĩa là được tạo ra dưới dạng từ, chữ viết, chữ số, ký hiệu, âm thanh hoặc dưới dạng khác bằng phương tiện điện tử, gắn liền hoặc kết hợp một cách logic với thông điệp dữ liệu và có khả năng xác nhận người ký thông điệp dữ liệu và xác nhận sự đồng ý của người đó với nội dung thông điệp dữ liệu được ký.88 Cũng theo Luật Giao dịch điện tử năm 2005, chữ ký điện tử của một cá nhân được gắn vào thông điệp dữ liệu sẽ có giá trị pháp lý tương đương với chữ ký của cá nhân đó được gắn với một tài liệu bằng văn bản89 nếu: • Phương pháp tạo chữ ký điện tử cho phép xác minh được người ký và chứng tỏ được sự chấp thuận của người ký đối với nội dung của thông điệp dữ liệu; và • Phương pháp đó là đủ tin cậy và phù hợp với mục đích mà theo đó thông điệp dữ liệu được tạo ra và gửi đi. Thứ ba, Bộ luật tố tụng dân sự 2015 (BLTTDS 2015) đã đưa ra một số quy định mới liên quan đến dữ liệu điện tử và việc ứng dụng công nghệ thông tin và quá trình giải quyết tranh chấp tại tòa án. Ví dụ, Điều 94 và 95 BLTTDS 2015 đã bổ sung dữ liệu điện tử là chứng cứ có thể được thu thập. Ngoài ra, các thủ tục như gửi đơn khởi kiện, cấp, tống đạt và thông báo có thể được thực hiện bằng phương tiện điện tử, nhằm hướng tới mục tiêu xây dựng tòa án điện tử. Các quy định này khẳng định giá trị pháp lý của các chứng cứ được lập, lưu trữ dưới hình thức các dữ liệu điện tử. Sự khẳng định này không chỉ có ý nghĩa cho quy trình tố tụng tại toà án mà còn là yếu tố thúc đẩy cho việc sử dụng chứng cứ điện tử trong tố tụng trọng tài hay trong quá trình hoà giải. 2. Một số bất cập trong khung pháp lý về giải quyết tranh chấp trực tuyến tại Việt Nam Mặc dù Việt Nam đã xây dựng một số quy định nền tảng ban đầu để triển khai ODR nhưng vẫn còn một số bất cập. Phần này sẽ phân tích, đánh giá những khó khăn, bất cập trong khung pháp lý về ODR ở Việt Nam. 88 Quy định tại Khoản 1, Điều 21, Luật Giao dịch điện tử năm 2005. 89 Quy định tại Khoản 1, Điều 21, Luật Giao dịch điện tử năm 2005. 106
  3. Thứ nhất, chưa có sự ghi nhận chính thức trong các văn bản luật của Việt Nam về phương thức hoà giải trực tuyến, trọng tài trực tuyến hay toà án trực tuyến mà mới chỉ có các quy định về công nhận giá trị pháp lý của các thông điệp dữ liệu và chữ ký điện tử. Thứ hai, chưa có văn bản hướng dẫn về thu thập và đánh giá chứng cứ điện tử nên khó áp dụng trong thực tiễn. Về mặt nguyên tắc thì các chứng cứ điện tử được thừa nhận có giá trị tương đương văn bản nhưng trên thực tế thì vẫn còn nhiều khó khăn khi áp dụng các chứng cứ điện tử, ví dụ như tiêu chí để đánh giá tính toàn vẹn của một thông điệp dữ liệu, hay để xác thực một chứng cứ điện tử do một bên tranh chấp cung cấp.90 Thứ ba, quy định về bảo mật thông tin, dữ liệu điện tử chưa cụ thể, khiến các bên tranh chấp e ngại lựa chọn hình thức giải quyết tranh chấp này. Trong môi trường trực tuyến, các bên tranh chấp rất quan tâm đến việc làm thế nào để xác nhận danh tính của phía bên kia và vấn đề bảo mật thông tin được các nhà cung cấp dịch vụ ODR thực hiện như thế nào? Đặc biệt là đối với doanh nghiệp, các thông tin về cách thức kinh doanh, bí mật kinh doanh có thể bị công khai hoặc đánh cắp bởi sự tấn công của virus hoặc hacker (tin tặc). Vấn đề bảo vệ dữ liệu cá nhân cũng chưa được đề cao. Hiện nay, các quy định cấm mua bán, tiết lộ thông tin khách hàng còn rất chung chung, và cũng chưa có biện pháp xử lý nghiêm khắc khi để lộ thông tin khách hàng, dẫn đến tình trạng mua bán dữ liệu, thông tin cá nhân trên Internet diễn ra ngày càng nhiều91. Những “lỗ hổng” này khiến các bên tranh chấp vẫn chưa thực sự ưu tiên ODR dù nhận thấy những lợi ích phương thức giải quyết tranh chấp này mang lại. Thứ tư, hầu hết các đơn vị cung cấp dịch vụ trọng tài và hoà giải thương chưa có quy tắc giải quyết tranh chấp trực tuyến và vì vậy chưa tạo điều kiện cho ODR phát triển. Ở Việt Nam hiện nay, chỉ có Trung tâm Hoà giải Việt Nam (VMC) ban hành quy tắc hoà giải trực tuyến. Trung tâm Trọng tài quốc tế Hà Nội (HIAC) có 90 Lê Văn Thiệp (2016), Luận án Tiến sĩ Luật học, Pháp luật thương mại điện tử ở Việt Nam hiện nay, Học viện Khoa học xã hội. 91 An Thiện, “Lỗ hồng” pháp lý trong quản lý dữ liệu cá nhân, Báo điện tử Đại biểu nhân dân, Xem tại: https://www.daibieunhandan.vn/lo-hong-phap-ly-trong-quan-ly-du-lieu-ca-nhan-xacrpbbvi8-57503 (truy cập ngày 05/06/2021) 107
  4. các nội dung về trọng tài trực tuyến và hoà giải trực tuyến trong Quy tắc trọng tài và Quy tắc hoà giải của mình. VMC và HIAC cũng là hai tổ chức đầu tiên tại Việt Nam xây dựng nền tảng công nghệ nhằm giải quyết tranh chấp trực tuyến. Tuy vậy, Khoản 1 Điều 25 Quy tắc tố tụng của Trung tâm Trọng tài quốc tế Việt Nam (VIAC) hay Khoản 1 Điều 26 Quy tắc tố tụng của Trung tâm Trọng tài quốc tế Hà Nội (HIAC) đều đang trao quyền cho các bên trong tranh chấp lựa chọn hình thức giải quyết tranh chấp trực tuyến. Điều này khiến cho việc giải quyết tranh chấp trực tuyến đôi khi rất khó thực hiện nếu một bên, ví dụ như bên Bị đơn không thiện chí và không tích cực tham gia giải quyết tranh chấp. Đây cũng là một trong những lý do khiến cho nhiều vụ tranh chấp hay cụ thể là các phiên xử tại các trung tâm trọng tài không thể tiến hành trực tuyến dù trong giai đoạn dịch bệnh Covid-19. Thứ năm, các lo lắng của các bên khi tham gia giải quyết tranh chấp trực tuyến, ví dụ như vấn đề bảo mật, cách xử lý các sự cố về kỹ thuật, hay việc đảm bảo quyền tranh tụng của các bên trong các phiên xử trực tuyến, có tồn tại hay không những rào cản hay khó khăn cho các nhân chứng tham dự phiên xử trực tuyến sẽ không thể được giải quyết nếu không có các quy định cụ thể tại các văn bản pháp luật có liên quan hoặc tại quy tắc trọng tài trực tuyến hay hoà giải trực tuyến của các đơn vị cung cấp dịch vụ giải quyết tranh chấp. 3. Kinh nghiệm quốc tế trong việc xây dựng khung pháp lý cho giải quyết tranh chấp trực tuyến 3.1. Khung pháp lý cho sự hình thành trọng tài trực tuyến ở Trung Quốc Sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế Trung Quốc khi trở thành nền kinh tế lớn thứ hai trên thế giới cũng mang đến nhiều tranh chấp thương mại phức tạp và không lường trước được92. Khi hệ thống tư pháp đối mặt với những thách thức mới, các doanh nghiệp có xu hướng lựa chọn các phương thức giải quyết tranh chấp thay thế như trọng tài trực tuyến hoà giải trực tuyến do các tổ chức tư nhân cung cấp. Các biện pháp ODR ngày càng phát triển tại Trung Quốc, trong đó có trọng tài thương mại trực truyến. 92 Xu Guojian, 2019, China: Internaitonal Arbitration2019, https://iclg.com/practice-areas/international- arbitration-laws-and-regulations/china, truy cập ngày 9/4/2020. 108
  5. Mặc dù Trung Quốc chưa ban hành đạo luật cụ thể nào về ODR, trong đó có trọng tài trực tuyến, nhưng cũng không có bất kỳ quy định nào loại trừ các phương thức này. Các quy định về trọng tài thương mại truyền thống và các quy định pháp luật có liên quan đã tạo nền tảng cho hoạt động của trọng tài trực tuyến ở Trung Quốc phát triển, cụ thể: - Thừa nhận giá trị pháp lý của hợp đồng được lập dưới dạng điện tử: Pháp luật hợp đồng của Trung Quốc lần đầu tiên thừa nhận tính hợp lệ của hợp đồng dưới dạng điện tử vào năm 1999,93 theo cách lý giải hình thức bằng văn của một hợp đồng nghĩa là bản ghi nhớ hợp đồng, thư hoặc thư điện tử (bao gồm cả bức điện, telex, fax, trao đổi dữ liệu điện tử và thư điện tử), v.v. có khả năng thể hiện nội dung của nó dưới dạng hữu hình.94 Tuy nhiên tại thời điểm đó, để triển khai được trọng tài trực tuyến ở Trung Quốc là chưa đầy đủ cơ sở pháp lý khi trong quá trình giải quyết tranh chấp cần có sự xác nhận chữ ký của các bên. Khi hội đồng trọng tài ra phán quyết cũng phải có chữ ký xác nhận để có thể cho công nhận và thi hành phán quyết. - Thừa nhận giá trị pháp lý của chữ ký điện tử: Trước bối cảnh giao dịch trực tuyến ngày càng phát triển, đòi hỏi phải có công cụ để xác nhận sự đồng ý của các chủ thể tham gia giao dịch, Trung Quốc đã ban Luật Chữ ký Điện tử năm 200495, trong đó có các quy định cụ thể về dạng văn bản96, yêu cầu đối với mẫu bản gốc97, yêu cầu bảo quản tài liệu98, tính trung thực của bất kỳ thông điệp dữ liệu nào làm bằng chứng99, gửi và nhận bất kỳ thông điệp dữ liệu nào,100 chữ ký điện tử và chứng nhận101, v.v. Luật chữ ký điện tử đã cung cấp một số quy định toàn diện, kỹ lưỡng và chi tiết về thương mại điện tử, và chính thức đặt nền tảng pháp lý cho phát triển của trọng tài trực tuyến ở Trung Quốc. 93 Điều 10 Luật Hợp đồng năm 1999, Thông qua tại kỳ họp thứ 9 của Quốc hội Trung Hoa ngày 15/3/1999 94 Điều 11 Luật Hợp đồng Trung Quốc năm 1999 95 Luật Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa về Chữ ký Điện tử, được thông qua tại cuộc họp lần thứ 11 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội Nhân dân lần thứ X của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa ngày 28/08/2004, được ban hành và có hiệu lực từ ngày 01/04/2005. 96 Luật Chữ kí điện tử, Điều 4. 97 Luật Chữ kí điện tử, Điều 5. 98 Luật Chữ kí điện tử, Điều 6. 99 Luật Chữ kí điện tử, Điều 8. 100 Luật Chữ kí điện tử, Điều 9 – 11. 101 Luật Chữ kí điện tử, Điều 13 – 26. 109
  6. - Công nhận thủ tục và quy tắc của trung tâm trọng tài, tạo điều kiện cho sự phát triển của các quy tắc trọng tài trực tuyến. Dù không có các quy định cụ thể nhằm điều chỉnh trọng tài trực tuyến ở quốc gia mình, nhưng trong quá trình triển khai thì các trung tâm trọng tài trực tuyến của ở Trung Quốc đã dựa trên nền tảng pháp lý có sẵn để ban hành các quy tắc về trọng tài trực tuyến nhằm có thể triển khai một cách thuận lợi trong thực tiễn. Trong quy tắc tố tụng của mình, các trung tâm trọng tài đã đưa ra quy định cụ thể về hình thức của thoả thuận trọng tài, về tính xác thực của các bên, thời gian giải quyết tranh chấp, phương thức xét xử, cách xác định chứng cứ (Hội đồng trọng tài có thể đánh giá tính xác thực của dữ liệu điện tử thông qua quá trình tạo, thu thập, lưu trữ và truyền dữ liệu điện tử, và cũng có thể sử dụng chữ ký điện tử, tem thời gian, dấu vân tay, lưu ký của bên thứ ba hoặc blockchain hoặc các phương tiện kỹ thuật tương đương khác), cách lập phán quyết trọng tài điện tử (phán quyết trọng tài dưới dạng văn bản điện tử, có chữ ký điện tử của các bên trong tranh chấp theo quy định tại Luật chữ ký điện tử 2004). Mặc dù phán quyết có thể ở dưới dạng văn bản điện tử, tuy nhiên, trong trường hợp có bất kỳ bên nào cần sự trợ giúp của tòa án để thi hành phán quyết thì phán quyết phải được in ra dưới dạng văn bản giấy. 3.2. Khung pháp lý cho sự hình thành hoà giải trực tuyến tại Châu Âu Số lượng người dùng internet ngày càng tăng ở Liên minh châu Âu (EU), với hơn một nửa dân số sử dụng mạng internet thường xuyên, đã tác động đến sự phát triển của mô hình TMĐT từ doanh nghiệp đến người tiêu dùng. Tuy nhiên, vẫn còn tồn tại rào cản về việc giải quyết khiếu nại khi chưa có các biện pháp giải quyết tranh chấp hiệu quả trong lĩnh vực này. Điều này có thể hiểu được khi các mặt hàng hay đối tượng của khiếu nại thông thường có giá trị nhỏ, rất khó để giải quyết tại tòa án hay trọng tài vì chi phí giải quyết tranh chấp thường lớn hơn hoặc thủ tục phức tạp. Do đó, người tiêu dùng thường không có ý định hoặc cố gắng đòi lại quyền lợi cho mình. Điều này đã đòi hỏi Châu Âu phải xây dựng những phương thức giải quyết tranh chấp phù hợp, trong đó có hòa giải trực tuyến. - Xây dựng các quy định pháp lý của hòa giải trực tuyến dựa trên nền tảng của hòa giải truyền thống: Chỉ thị hòa giải 2008/52/EC về một số khía cạnh hòa giải về 110
  7. dân sự và thương mại của Nghị viện và Hội đồng Châu Âu 102 là tiền đề cho EU triển khai hòa giải trực tuyến. Chỉ thị này bao gồm hòa giải người tiêu dùng,103 đảm bảo rằng hòa giải trực tuyến có thể được thực hiện, và văn kiện số 9 của Chỉ thị khẳng định rằng "Chỉ thị này không ngăn cản việc sử dụng công nghệ truyền thông hiện đại trong quá trình hòa giải”. Chỉ thị cho phép các bên hòa giải đạt được một thỏa thuận giống như phán quyết của Tòa. Theo đó, các thỏa thuận đó sẽ được công nhận và thi hành trong EU theo các điều kiện giống nhau như phán quyết của tòa án và trọng tài. Chỉ thị này là cơ sở quan trọng, nền tảng để xây dựng niềm tin cho người dân EU đối với phương pháp hòa giải nói chung và hòa giải bằng trực tuyến nói riêng. - Ban hành quy định cụ thể về hòa giải trực tuyến: Sau thời gian triển khai chỉ thị hòa giải năm 2008 và cùng với đó là việc ban hành các quy định về bảo vệ người tiêu dùng,104 đến năm 2013 EU đã ban hành quy định trực tiếp về ODR cho người tiêu dùng - Quy định số 524/2013, đồng thời kết hợp ban hành Chỉ thị số 2013/11 về ADR.105 Dựa trên Quy định này, EU đã xây dựng một nền tảng ODR cung cấp thông tin tổng hợp, cụ thể về giải quyết tranh chấp trực tuyến, kết nối người khiếu nại với tổ chức cung cấp dịch vụ giải quyết tranh chấp, cung cấp một công cụ quản lý hồ sơ điện tử với chế độ bảo mật thông tin, có thể được sử dụng bởi các nhà cung cấp dịch vụ giải quyết tranh chấp trên nguyên tắc tự nguyện. 102 Chỉ thị hòa giải áp dụng trong hòa giải dân sự và thương mại, nơi các bên ở tại các quốc gia thành viên khác nhau, ngoại trừ Đan Mạch, Chỉ thị hòa giải, Điều 1. 103 được bổ sung bởi các nguyên tắc được nêu trong Khuyến nghị Cộng đồng châu Âu về Nghị quyết đồng thuận của các tranh chấp liên quan đến người tiêu dùng, xem tại: Communication from the Commission on Widening Consumer Access to Alternative Dispute Resolution, COM (2001) 161 bản cuối (tháng 4, 2001). 104 Directive 2009/22/EC of the European Parliament and of the Council of 23 April 2009 on injunctions for the protection of consumers' interests 105 ADR nhằm mục đích giải quyết nhanh, linh hoạt đối với những tranh chấp có giá trị nhỏ giữa người tiêu dùng và thương nhân, xem tại: Recital 5 of Council Directive 2013/11/EU of 21 May 2013 on Alternative Dispute Resolution for Consumer. Chỉ thị năm 2013 đã hàm chứa một số quy định cho phép sử dụng công nghệ thông tin trong quá trình sử dụng phương pháp ADR để GQTC tiêu dùng như: Điều 5 khoản 2 quy định các quốc gia thành viên của EU phải bảo đảm rằng các tổ chức cung cấp phương thức ADR phải “duy trì và cập nhật một website để cung cấp cho các bên truy cập dễ dàng các thông tin liên quan đến thủ tục ADR và cho phép người tiêu dùng nộp đơn khởi kiện và cung cấp các bằng chứng một cách trực tuyến” Điều 8 điểm a yêu cầu các quốc gia thành viên của EU phải bảo đảm tính hiệu quả của các thủ tục ADR, trong đó, nhấn mạnh đến việc phải bảo đảm là các thủ tục này có sẵn và được tiếp cận trực tuyến hoặc không trực tuyến một cách dễ dàng đối với cả hai bên tranh chấp, dù họ ở bất kỳ đâu. 111
  8. - Chú trọng bảo vệ thông tin cá nhân của các bên tham gia giải quyết tranh chấp: Để triển khai hiệu quả hệ thống ODR của mình thì yếu tố bảo mật thông tin được EU chú trọng tới. Vì ODR được áp dụng trên phạm vi toàn bộ EU, do đó các cơ quan, tổ chức tham gia vào nền tảng này đều phải đảm bảo nghiêm ngặt về bảo mật và phải tuân thủ các quy tắc bảo vệ dữ liệu cá nhân106. Các chủ thể tham gia nền tảng ODR cần được thông báo về nguyên tắc bảo mật cũng như về quyền của họ được bảo vệ thông tin của cá nhân/tổ chức. Các thông tin này chỉ có thể được tiết lộ với sự đồng ý của các bên liên quan. 3.3. Một số kinh nghiệm quốc tế Một số bài học sau đây có thể được rút ra từ nghiên cứu kinh nghiệm từ Trung Quốc và Châu Âu: - Một là, sự ghi nhận chính thức về tính hợp pháp của phương thức giải quyết tranh chấp trực tuyến là cần thiết để tạo niềm tin cho người dân, cho doanh nghiệp sử dụng các phương thức này. Đây là bài học từ Châu Âu, theo đó, việc hoà giải trực tuyến các tranh chấp giữa nhà cung cấp dịch vụ với người tiêu dùng được ghi nhận và khuyến khích trong các Chỉ thị về hoà giải của Châu Âu, từ đó tạo niềm tin cho người tiêu dùng Châu Âu sử dụng các nền tảng trực tuyến để hoà giải, giải quyết tranh chấp. - Hai là, bài học từ Châu Âu cho thấy vấn đề đảm bảo bảo mật quá trình giải quyết tranh chấp là một trong các yếu tố then chốt thúc đẩy các bên sử dụng các phương thức trực tuyến để giải quyết tranh chấp. Bảo mật các thông tin cá nhân thông qua các nền tảng trực tuyến đáng tin cậy và các quy tắc hoà giải chặt chẽ quy định rõ trách nhiệm của các bên liên quan. - Ba là, khi chưa có các quy định đầy đủ về giải quyết tranh chấp trực tuyến thì các quy định cụ thể của các trung tâm trọng tài, trung tâm hoà giải cung cấp dịch vụ trực tuyến là yếu tố quan trọng để thu hút các cá nhân, tổ chức tham gia giải quyết tranh chấp. Đây là bài học từ các trung tâm trọng tài, trung tâm hoà giải tại Trung Quốc. Dựa trên nền tảng các quy định pháp luật, các trung tâm này đã rất nhanh chóng ban hành các Quy tắc giải quyết tranh chấp trực tuyến nhằm có những 106 Các nguyên tắc này được quy định tại Chỉ thị 95/46/EC và Qui định số 45/2001. 112
  9. hướng dẫn cụ thể hơn cho cả hội đồng trọng tài, hoà giải viên và các bên tham gia giải quyết tranh chấp. Các hướng dẫn này sẽ giúp các bên bớt e dè khi sử dụng các dịch vụ trực tuyến để giải quyết tranh chấp. 4. Một số đề xuất hoàn thiện khung pháp lý cho giải quyết tranh chấp trực tuyến tại Việt Nam Từ nghiên cứu những thuận lợi, bất cập về mặt pháp lý khi áp dụng ODR tại Việt Nam, cũng như những phân tích về trọng tài trực tuyến tại Trung Quốc và hoà giải trực tuyến tại Châu Âu, bài viết đưa ra một số đề xuất về mặt pháp lý để thúc đẩy sự phát triển của giải quyết tranh chấp trực tuyến tại Việt Nam như sau: Thứ nhất, bổ sung những quy định ghi nhận về giải quyết tranh chấp trực tuyến trong các văn bản pháp luật có liên quan. Để giúp cơ quan giải quyết tranh chấp cũng như các bên trong tranh chấp hiểu và sử dụng hiệu quả phương thức giải quyết tranh chấp trực tuyến, cần có những quy định cụ thể về phạm vi tranh chấp, thẩm quyền giải quyết tranh chấp, trình tự, thủ tục giải quyết tranh chấp và thừa nhận kết quả giải quyết tranh chấp bằng ODR trong BLTTDS, Luật Trong tài thương mại và Nghị định 22/2017 về hoà giải thương mại. Thứ hai, các tổ chức cung cấp dịch vụ ODR chủ động đưa ra quy tắc liên quan tới giải quyết tranh chấp trực tuyến. Hiện nay, một số Trung tâm trọng tài Việt Nam đã có sự lồng ghép công nghệ thông tin vào quy tắc của mình, chủ yếu là chấp nhận việc gửi đơn kiện và hồ sơ có liên quan của vụ việc đến trung tâm,107 tuy nhiên điều này chưa thực sự tạo sự chú ý đến các bên tham gia giải quyết tranh chấp cũng như chưa phản ánh được bản chất thực sự của ODR như quá trình xét xử, thực thi phán quyết. Ngay cả khi một số trung tâm áp dụng phiên họp giải quyết tranh chấp trực tuyến (video conference) trong một số vụ tranh chấp,108 hoạt động này cũng không mang tính chất phổ biến và chuyên nghiệp. Vì vậy, để thúc đẩy và đảm bảo sự phát triển của trọng tài trực tuyến thì các trung tâm cung cấp dịch vụ ODR cần phải xây 107 Điều 3 Quy tắc tố tụng của Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam, Điều 13 Qui tắc tố tụng trọng tài của Trung tâm trọng tài quốc tế Tp Hồ Chí Minh. 108 Thi Hồng, 2020, VIAC tổ chức các phiên họp GQTC trực tuyến phòng ngừa dịch Covid-19, http://www.viac.vn/tin-tuc-su-kien/viac-to-chuc-cac-phien-hop-giai-quyet-tranh-chap-truc-tuyen-phong- ngua-dich-covid19-n837.html 113
  10. dựng các quy tắc ODR cụ thể để có thể kiểm soát, triển khai một cách có hiệu quả, tránh những vấn đề vi phạm về thủ tục tố tụng. Thứ ba, hoàn thiện pháp luật tố tụng dân sự về chứng cứ điện tử. Cần bổ sung các quy định về thu thập chứng cứ điện tử trong Bộ luật tố tụng dân sự để đảm bảo tính xác thực, hợp pháp để chứng minh các yêu cầu của các bên tranh chấp. Ngoài ra, Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao cần ban hành văn bản hướng dẫn về trình tự, thủ tục thu thập, lưu giữ chứng cứ điện tử, án lệ đối với các vụ án kinh doanh thương mại được thực hiện bằng phương tiện điện tử. Thứ tư, hoàn thiện hành lang pháp lý về bảo mật thông tin, dữ liệu điện tử. Để đảm bảo bảo mật thông tin của các bên trong tranh chấp trực tuyến, cần đưa ra quy định cụ thể yêu cầu đơn vị cung cấp dịch vụ ODR đầu tư cho hệ thống bảo mật, an ninh mạng theo một tiêu chuẩn nhất định để mã hoá dữ liệu thông tin, hạn chế thấp nhất việc bị tấn công hay rò rỉ dữ liệu. Ngoài ra, cần quy định các chế tài phù hợp, đảm bảo tính răn đe đối với hành vi cố ý để lộ thông tin của tranh chấp được giải quyết bằng hình thức trực tuyến. Khi quy định về bảo mật thông tin chi tiết, cụ thể, sẽ đảm bảo vấn đề bảo mật thông tin của các bên trong tranh chấp, từ đó tạo dựng niềm tin của họ với phương thức giải quyết tranh chấp này. Từ đó, với những hiệu quả mà phương thức này mang lại cũng như mức độ bảo mật thông tin cao, ODR sẽ sớm trở thành một phương thức giải quyết tranh chấp phổ biến trong tương lai. 5. Kết luận Giải quyết tranh chấp trực tuyến, với những lợi ích về giảm thời gian, chi phí cho các bên tranh chấp, là một trong các lựa chọn cho các cá nhân, tổ chức, đặc biệt là các doanh nghiệp khi thực hiện hoạt động kinh doanh-thương mại. Dịch bệnh Covid-19 bùng phát từ năm 2019 đến nay là một cú hích quan trọng cho sự phát triển của ODR. Tuy nhiên, các doanh nghiệp Việt Nam vẫn còn rất e dè khi sử dụng dịch vụ ODR. Có nhiều lý do, song một trong các lý do quan trọng đó là còn một số những bất cập về mặt pháp lý. Việc bổ sung các quy định về chứng cứ điện tử, về bảo mật thông tin là cần thiết để thúc đẩy ODR tại Việt Nam. Việc xây dựng một nền tảng trực tuyến đáng tin cậy và một quy tắc giải quyết tranh chấp trực tuyến đầy 114
  11. đủ cũng là một giải pháp đối với các đơn vị cung cấp dịch vụ giải quyết tranh chấp trực tuyến. TÀI LIỆU THAM KHẢO I. Tài liệu tham khảo nước ngoài 1. Anon, (2018). ONLINE DISPUTE RESOLUTION IN THE E.U.[online] Xem tại: https://www.to.camcom.it/sites/default/files/opportunita- europa/escuderopresentation_on_odr_in_the_eu_turin.pdf [truy cập ngày 15/05/2021]. 2. Esther van den Heuvel (1997), Online Dispute Resolution as a Solution for Cross-border E-disputes: An instruction to ODR, OECD. 3. Xu Guojian, 2019, China: Internaitonal Arbitration2019, https://iclg.com/practice-areas/international-arbitration-laws-and-regulations/china, truy cập ngày 15/05/2021. 2. Tài liệu tham khảo tiếng Việt 1. Hà Công Anh Bảo, Lên Thị Mỹ Hạnh (2017), GQTC trực tuyến- khả năng áp dụng tại Việt Nam, Tạp chí kinh tế đối ngoại số 93, tr.3. 2. Lê Văn Thiệp (2016), Luận án Tiến sĩ Luật học, Pháp luật thương mại điện tử ở Việt Nam hiện nay, Học viện xã hội. 3. Phan Thị Thanh Thuỷ (2015), Những vấn đề lý luận về giải quyết tranh chấp thương mại bằng các biện pháp thay thế, Khoa học Kiểm sát, số 08/2015. 4. Thông báo 5/2018 của Tòa án tối cao về một số vấn đề về thi hành phán quyết của trọng tài được ban hành ngày 22/2/2018, xem tại http://gongbao.court.gov.cn/Details/b0d8e4daf3ef64b977a53b1a9f9149.html, truy cập ngày 17/05/2021. 115
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
689=>2