
1
PHẦN I.
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Cơ sở lí luận:
- Ngày 28 tháng 8 năm 2020, Bộ y tế ban hành quyết định số 3781/QĐ-
BYT về việc ban hành “Kế hoạch hành động quốc gia về chăm sóc sức khoẻ
sinh sản, sức khoẻ tình dục cho vị thành niên, thanh niên giai đoạn 2020 –
2025”. Quyết định nêu rõ, Sức khỏe sinh sản và sức khỏe tình dục là những yếu
tố quan trọng có ý nghĩa quyết định tới sự phát triển lành mạnh về thể chất và
tinh thần của vị thành niên, thanh niên. Đầu tư cho chăm sóc sức khoẻ sinh sản,
sức khoẻ tình dục là đầu tư cho sự phát triển của quốc gia, dân tộc, góp phần
nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đóng góp vào sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa của đất nước…
- Trong những thập kỷ vừa qua, thế giới - kể cả Việt Nam đã có những
thay đổi đáng kể. Những thay đổi này ảnh hưởng rất lớn đến thanh thiếu niên.
Lớp trẻ ngày nay phải được chuẩn bị cho một tương lai với những thách thức
lớn hơn. Nhận thức về tình bạn, tình yêu, hôn nhân và sinh sản đang dần thay
đổi. Điều này đòi hỏi lớp trẻ phải có hiểu biết và được chuẩn bị kỹ càng trước
khi đưa ra những quyết định có ảnh hưởng đến tương lai của mình.
- Học sinh lớp 8 đang ở độ tuổi từ 13 – 14, đây là lứa tưổi mà trong cơ thể
các em diễn ra sự dậy thì rất mạnh mẽ cả ở nam lẫn nữ, là giai đoạn chuyển tiếp
từ trẻ con thành người lớn – người ta gọi là tuổi vị thành niên. Rất nhiều sự đổi
khác về thể chất lẫn tinh thần, tình cảm và khả năng hòa nhập cộng đồng của các
em. Các em cảm thấy rất bỡ ngỡ trước những thay đổi kỳ lạ của cơ thể mình,
thậm chí có em còn hoang mang lo sợ không biết phải đối mặt như thế nào, nên
các em cần được chia sẻ thổ lộ với người lớn, nhất là thầy cô giáo và cha mẹ
mình. Hơn thế nữa, ở tuổi này các em thường hay tò mò, thích thử những cảm
giác lạ, nếu không được giáo dục đúng cách về giới tính thì những hậu quả khôn
lường sẽ xảy đến với các em như yêu sớm, quan hệ tình dục sớm, mang thai sớm
hoặc mắc các bệnh lây qua đường tình dục ...
- Giáo dục sức khoẻ sinh sản không nên chỉ tập trung vào việc truyền đạt
kiến thức mà còn phải gây được ảnh hưởng tới hành vi hiện tại cũng như sau này
của lớp trẻ. Loại hình giáo dục này cần chú trọng vào việc phát triển kỹ năng
sống cho các em như kỹ năng xác định điều đúng sai, kỹ năng ra quyết định...

2
Khi những kỹ năng này được phát triển thì sự tự tin và tự trọng của các em cũng
sẽ tăng lên, đây là những yếu tố quan trọng quyết định hành vi của các em.
- Để đạt được mục tiêu trên, một yêu cầu lớn đặt ra là phải sử dụng linh
hoạt các phương pháp dạy học trong quá trình giáo dục sức khoẻ sinh sản. Đề tài
này tôi đưa ra giải pháp lồng ghép kiến thức về sức khoẻ sinh sản trong các tiết
học ở chương trình sinh học 8, cùng với việc tổ chức các hoạt động tuyên
truyền, các trò chơi và cuộc thi tìm hiểu về sức khoẻ sinh sản tuổi vị thành niên
nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục cho các em.
1.2. Cơ sở thực tiễn
- Sau một thời gian giảng dạy bộ môn Sinh học 8 - phần Sinh sản, tôi
nhận thấy một điều nổi lên rõ rệt đó là các em cảm thấy ngượng ngùng khi học
những bài này, xấu hổ không dám xem các hình vẽ trong sách giáo khoa hoặc
khi nghe giáo viên giảng bài các em đã không dám nhìn về phía giáo viên. Tiếp
theo nữa là các em chưa thể mạnh dạn để ngồi vào thảo luận sôi nổi một vấn đề
nào đó hoặc nếu có cố gắng trao đổi thì cũng chỉ là qua loa lấy lệ vì trong nhóm
có cả nam lẫn nữ. Một vấn đề nữa khiến tôi rất lo ngại đó là ở tuổi này một số
em đã bắt đầu xuất hiện những tình cảm vượt xa so với tình bạn mà các em cho
rằng đó là tình yêu. Tình cảm nam nữ đã ảnh hưởng khá nhiều đến việc học tập
của các em, mà cụ thể là các em đã chểnh mảng, lơ là trong việc học, không chú
ý bài trong từng tiết học… Thậm chí còn nguy hiểm hơn nữa là các em đã bắt
đầu hẹn hò theo kiểu người lớn, các em biết yêu và xa hơn là một số em nghỉ
học để lấy vợ lấy chồng gây ra những hậu quả khó lường cho bản thân các em,
gia đình và xã hội. Qua thực tế đó tôi thấy việc giáo dục cho các em vấn đề sức
khẻ sinh sản tuổi vị thành niên là vô cùng quan trọng và cần thiết để các em hình
thành cho mình ý thức đúng đắn về những điều xung quanh tuổi dậy thì của
mình, để từ đó các em làm chủ được hành vi của mình.
- Trong chương trình của sách giáo khoa thì chương Sinh sản được dạy
vào cuối năm học lớp 8, nhưng tôi nhận thấy các trẻ em ngày nay có tuổi dậy thì
sớm hơn rất nhiều. Các em có nhiều thay đổi ở cuối năm lớp 7 về đến lớp 8, nên
tôi mạnh dạn đưa chương trình giáo dục sức khoẻ sinh sản dạy tích hợp các bài
ở phần đầu chương trình và tổ chức các hoạt động sớm cho các em để các em
nắm bắt được các vấn đề về sức khoẻ sinh sản ngay từ đầu năm học.
Xuất phát từ những cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn nêu trên, tôi đã chọn

3
đề tài: “Giải pháp giáo dục sức khoẻ sinh sản tuổi vị thành niên góp phần ngăn
ngừa nạn tảo hôn thông qua môn sinh học lớp 8 tại trường PTDTBT THCS Tìa
Dình”.
2. Giới hạn đề tài:
- Sáng kiến “Giải pháp giáo dục sức khoẻ sinh sản tuổi vị thành niên góp
phần ngăn ngừa nạn tảo hôn thông qua môn sinh học lớp 8 tại trường PTDTBT
THCS Tìa Dình” đã được áp dụng cho học sinh khối 8 trường PTDTBT THCS
Tìa Dình - Điện Biên Đông trong năm học 2020 - 2021.
- Phạm vi nghiên cứu: Nội dung môn sinh học 8, kết hợp mở rộng kiến
thức liên quan về giáo dục giới tính, sức khoẻ sinh sản cho các em.
- Phạm vi triển khai thực hiện: Là học sinh khối 8 (8A1 + 8A2 + 8A3) -
Trường PTDTBT THCS Tìa Dình.
Phần II.
NỘI DUNG
1. Thực trạng vấn đề
1.1. Thuận lợi:
- Học sinh: Ngoan ngoãn, yêu thích hứng thú khi học môn Sinh học.
+ Ở lứa tuổi này các em có ý thức học tập tốt hơn và tinh thần tự giác cao.
+ Các em thường có những tìm tòi về sự biến đổi của cơ thể mình, vì vậy
các em thích tìm hiểu các vấn đề về giới tính.
- Giáo viên:
+ Giáo viên có nhiều năm giảng dạy chương trình sinh học 8, nên đã có
nhiều hiểu biết về tâm sinh lý của các em.
+ Đã được tham gia các lớp đào tạo, bồi dưỡng phương pháp dạy học tích cực.
+ Đã nhận thức được sự quan trọng của chương trình giáo dục sức khoẻ
sinh sản cho các em.
+ Giáo viên sử dụng thành thạo máy tính và máy chiếu, sử dụng thường
xuyên trong khai thác thông tin bộ môn qua mạng internet đồng thời thường
xuyên ứng dụng công nghệ thông tin trong các giờ lên lớp.

4
- Cơ sở vật chất, thiết bị dạy học của nhà trường ngày càng hiện đại, đáp
ứng yêu cầu giảng dạy cho giáo viên.
1.2. Khó khăn:
- Các em đang ở tuổi dậy thì nên đa phần các em rất ngại ngùng khi phải
nói ra hay trao đổi một vấn đề nào đó về giới tính.
- Một số em do cơ thể chậm phát triển so với bạn bè cùng lứa nên trong
quá trình học tập, trao đổi, thảo luận các em có phần mặc cảm, tự ti.
- Do biến đổi về tâm sinh lý, các em có thể hiểu và giải thích được vấn đề
nhưng lại mau quên.
- Sự quan tâm đến việc học hành, giáo dục con em của phần lớn bà con
địa phương chưa được chú trọng, chủ yếu giao trắng cho nhà trường.
- Các em học sinh còn rụt rè, e ngại, xấu hổ khi nói đến các vấn đề liên
quan đến giới tính, sức khỏe sinh sản,...
1.3 Hạn chế:
- Trên địa bàn mà trường tôi trực thuộc, học sinh 100% các em là dân tộc
thiểu số (Mông, Thái, Lào trong đó 80% là dân tộc mông), điều kiện kinh tế
còn rất khó khăn, năng lực nhận thức hạn chế, vận dụng chưa cao, kiến thức xã
hội yếu, nên đòi hỏi giáo viên ngoài việc giảng dạy kiến thức cho các em, kết
hợp lồng ghép “Giải pháp giáo dục sức khoẻ sinh sản tuổi vị thành niên góp
phần ngăn ngừa nạn tảo hôn thông qua môn sinh học lớp 8 tại trường PTDTBT
THCS Tìa Dình” đòi hỏi phải khéo léo, kiên trì, có kinh nghiệm, am hiểu tình
hình địa phương.
- Đời sống của bà con tương đối nghèo nàn, trình độ dân trí thấp nên việc
hỗ trợ của gia đình cùng tư vấn cho các em về sức khoẻ sinh sản còn hạn chế.
1.4. Những yêu cầu đặt ra, cần đạt được:
- Được sự quan tâm đầu tư của các cấp ủy đảng, của ngành giáo dục của
các nhà trường đối với công tác giảng dạy bộ môn sinh học ở trường THCS nói
chung với việc lồng ghép giáo dục sức khoẻ sinh sản cho học sinh thông qua
chương trình sinh học 8 nói riêng.
- Giáo viên đã phân loại kiến thức giáo dục giới tính sức khoẻ sinh sản
dựa vào nội dung bài học, khả năng nhận thức của các em từ đó đưa ra những

5
phương pháp dạy học kết hợp lồng ghép cụ thể cho từng bài và tổ chức các hoạt
động hiệu quả.
- Sử dụng các phương pháp dạy học theo hướng tích cực. Khơi gợi được
tính thích khám phá, say mê nghiên cứu của các em.
- Các em ngoài việc lĩnh hội được trọn vẹn kiến thức về sinh học người
trong chương trình sinh học 8 một cách vững chắc mà còn cơ bản hình thành và
phát triển được các kỹ năng nắm bắt, hiểu, vận dụng và xử lý được các kiến
thức đó vào cuộc sống, vào việc vệ sinh cơ thể, tránh xa các tác động xấu ảnh
hưởng đến học tập và tương lai của các em.
- Bên cạnh nhiều phụ huynh quan tâm đến việc học tập của con em mình
vẫn còn không ít phụ huynh hầu như không quan tâm, để mặc các em muốn học
thì học, không học thì thôi, hoặc ép các em bỏ học đi làm phụ giúp gia đình. Để
các em lập gia đình sớm.., việc giáo dục các em thông qua mối quan hệ giữa nhà
trường - gia đình - xã hội thiếu hiệu quả.
- Đa số các em học sinh thường rất yêu thích bộ môn sinh học nhất là sinh
học 8 vì môn sinh học 8 cung cấp một số kiến thức cơ bản về cấu tạo và chức
năng của các hệ cơ quan trong cơ thể người. Qua đó giúp các em học sinh hiểu
và vận dụng các kiến thức đó vào cuộc sống, vào việc vệ sinh cơ thể, tránh xa
các tác động xấu ảnh hưởng đến bản thân. Nâng cao năng lực nhận thức và các
kỹ năng sống cần thiết khác.
2. Những giải pháp thực hiện
2.1. Khảo sát:
- Dựa vào số liệu các năm trước về tình trạng học sinh lớp 8 nghỉ học lấy
vợ, lấy chồng (Thống kê ngày 09/09/2020):
Năm học Số học sinh nghỉ học lấy vợ, chồng Tổng
Nam Nữ
2017-2018 0 2 2
2018-2019 0 2 2
2019-2020 1 1 2