Giao nhạc - Âm nhạc trong lễ Tế giao

VÀI NÉT VỀ LỄ TẾ NAM GIAO

Tế Giao có từ thời thượng cổ ở Trung Hoa, truyền sang Việt Nam tờ thời

vua Lý Anh Tông (1138-1175). Các triều đại phong kiến Việt Nam rất coi trọng lễ

Tế Giao. Trời, theo quan niệm phương Đông là đấng chí tôn, giữ gìn vận mệnh và

ban phát thái bình hạnh phúc cho muôn dân, nên khi tế Trời, đấng Thiên tử phải

giữ vị trí trung gian nối kết giữa Trời - Đất và Con người với vai trò chủ tế. Trong

lịch sử phong kiến Việt Nam, có những ông vua không “chính danh” mà làm chủ

tế lễ Tế Giao đã bị đời sau phê phán, như sự việc Hồ Hán Thương tế Giao không

thành năm 1402, cũng như trường hợp cuối đời Cảnh Hưng (1740-1786) “ Chúa

Trịnh Sâm tranh vào nhiếp tế, năm ấy mất mùa, thóc cao gạo kém, giặc cướp nổi

lên khắp mọi nơi, nhân dân ta thán, đổ lỗi tại chúa Trịnh vào chủ tê Giao nên trời

giáng tai họa trách phạt”... [1]

Đàn Tế Giao của triều Nguyễn là đàn Nam Giao, được xây dựng phía Nam

kinh thành Huế vào năm Bính Dần, niên hiệu Gia Long thứ 5 (1806) [2]. Đàn có 3

tầng : Tầng trên là Đàn thượng, hình tròn (viên đàn); tầng thứ hai là Đàn trung,

hình vuông (phương đàn); tầng dưới cùng là Đàn hạ. Ban đầu, 1 hoặc 2 năm tế

một lần, đến năm 1890, vua Thành Thái định lại 3 năm một lần, tế vào ngày

Tân.

Lễ Tế Giao dưới triều Nguyễn được cử hành rất trang nghiêm, trọng thể với

đầy đủ các nghi thức, lễ thức quy định của một cuộc tế lễ lớn của triều đình. Đào

Duy Anh, tác giả Việt Nam Văn hóa Sử cương đã tóm tắt trình thức cuộc lễ tế Giao

như sau : “ Rửa tay (quán tẩy), dâng trầm (thượng hương), dâng tơ lụa (hiến ngọc

bạch), dâng đồ cúng (hiến phẩm nghi), dâng rượu (tiến tửu), đọc chúc (tuyên

chúc), chia đồ cúng (phân hiến), chia thịt cúng (trí phúc tộ). Trong khi hành lễ,

phải đốt một con trâu cúng trên Tế đàn gọi là “phần sài”… Khi đi thì yên tĩnh mà

khi về thì có cử nhạc”.[3] Một số sử sách, tài liệu đã mô tả về lễ Tế Giao trong

thời kỳ này rất đầy đủ và chi tiết, như sách Khâm Định Đại Nam Hội Điển Sử Lệ

(phần Nhạc chương, Nhạc khí)[4]; Đại Nam Thực Lục ; Tập san Những Người

Bạn Cố Đô Huế [5] ; Âm nhạc Truyền thống Việt Nam của Trần Văn Khê ; Lược

sử Âm nhạc Việt Nam của Thụy Loan và Những Đại Lễ và Vũ Khúc của Vua Chúa

Việt Nam của Đỗ Bằng Đoàn và Đỗ Trọng Huề v.v...đã cho chúng ta những nét

khái quát về âm nhạc sử dụng trong tế Giao (Giao nhạc).

Qua khảo sát các sử liệu, tài liệu trên, chúng tôi tạm tách Giao nhạc làm 3

bộ phận sau, biết rằng, chúng là một thể thống nhất, như mối quan hệ khăng khít

đặc trưng giữa chúng với phần Lễ vậy.

1- DÀN NHẠC TRONG LẾ TẾ GIAO

Theo các tư liệu lịch sử, chúng ta biết được trong lễ Tế Giao qua các đời

vua Nguyễn có sự tham gia diễn tấu của các dàn nhạc có tên gọi như : Nhã nhạc,

Nhạc huyền, Đại nhạc, Ti trúc tế nhạc, Ty chung, Ty khánh, Ty kỳ cổ, Tiểu nhạc

v.v... Những dàn nhạc này được kê trong các trình thức của lễ tế Giao, và có sự

quy định vị trí cho từng loại dàn nhạc ở Đàn thượng, Đàn trung hay Đàn hạ, tùy

theo chức năng của mỗi loại dàn nhạc sử dụng trong tiến trình Lễ. Ở mỗi lễ thức,

các dàn nhạc diễn tấu dưới sự điều khiển hiệu lệnh của quan Thông tán.

Gs. Trần Văn Khê cho biết trong lúc tế lễ dàn nhạc tấu nhạc theo các ca

chương do các ca sinh diễn xướng. Tuy vậy, đọc các bài mô tả chi tiết lễ Tế Giao

của Đỗ Bằng Đoàn - Đỗ Trọng Huề cũng như của L. Cadière,[6] chúng ta thấy, rất

nhiều bước trong các lễ thức, lúc chỉ riêng dàn nhạc tấu, thì không rõ là tấu những

bài bản nào.

Vấn đề tên gọi các dàn nhạc, riêng Cadière, (qua bản dịch của Đặng Như

Tùng, Bửu Ý hiệu đính), chỉ thấy có 2 tên dàn nhạc được tấu trong từng bước lễ là :

nhạc lễ cử...và đại nhạc cử... Trong khi đó, 2 tác giả của Những Đại lễ và Vũ khúc

của Vua chúa Việt Nam thì mô tả, giới thiệu khá chi tiết các loại dàn nhạc và cả số

lượng nhạc cụ, như Nhạc huyền, Nhã nhạc, Đại nhạc, Ty chung, Ty khánh, lại có

cả Phường Bát âm...Tuy vậy, trong trình thức chi tiết các bước lễ, cũng chỉ nghe

tên 2 loại dàn nhạc do quan Thông tán xướng : Bát âm nổi nhạc...và Đại nhạc tác.

Vì vậy, chúng ta không thể biết Bát âm ở đây là dàn Nhạc huyền, dàn Nhã nhạc

hay là Phường Bát âm nêu trên ?

Một số nhạc cụ tại Lễ Tế giao xưa: Biên chung, Ngữ, đàn cầm, Ảnh tư liệu Trung

tâm Bảo Tồn Di tích Cố đô Huế

Ban nhạc trong lễ Tế giao. Ảnh tư liệu Trung tâm Bảo Tồn Di tích Cố đô

Huế

Theo chúng tôi, có thể tác giả dùng tên gọi Bát âm để chỉ Nhạc lễ chính, là

dàn Nhã nhạc biên chế 20 nhạc cụ với 12 chủng loại mà tác giả đã mô tả trước đó.

Dàn nhạc này gần với dàn Nhã nhạc có cơ chế Bát âm mà Khâm định Đại Nam

hội điển sử lệ mô tả và gọi là chính nhạc, đời xưa dùng tế giao miếu. Hơn nữa,

trong quá trình mô tả lễ tế Giao, 2 tác giả Đỗ Bằng Đoàn và Đỗ Trọng Huề đa

giới thiệu 3 dàn nhạc được gọi là Nhã nhạc nhưng có biên chế khác nhau, trong đó

có một dàn, tác giả chú là bát âm :

1- Dàn Nhã nhạc đặt ở Viên đàn : Gồm 20 nhạc cụ, 12 chủng loại đã nói ở

trên.(tr. 20, sách đã dẫn)

2- Dàn Nhã nhạc đặt ở Phương đàn : “Hai bên Đông và Tây đặt Nhã nhạc

(bát âm) hai bộ, mỗi bộ 8 nhạc sinh thự Hòa thanh (?) điều khiển (tr. 21, Sđd)

3- Dàn nhạc đi trong đám rước đến đàn Nam Giao, ở vị trí Trung đạo :

“...sau nữa là các

quan võ. Đến ban Nhã nhạc, có đàn, sáo, hồ, nhị, phách và sênh tiền.” (tr.

24, Sđd)

Lễ Tế Giao triều Nguyễn được mô tả trong sách Những Đại lễ và Vũ khúc

của các Vua Chúa Việt Nam, mặc dù không cho biết thời gian, dưới đời vua nào.

Nhưng căn cứ vào các giai đoạn lễ, trình tự các ca chương diễn xướng trong các lễ

thức, chúng ta có thể đoán định là sự tổng hợp nhiều cuộc tế Giao, nhưng chắc

chắn phần nhiều là cuộc tế Nam Giao năm Duy Tân thứ 9 (1915), cuộc tế Giao mà

nhóm nghiên cứu R. Orband, L. Cadière đã mô tả khá đầy đủ, chi tiết trong Những

Người Bạn Cố Đô Huế, tập 2 - 1915. Dù rằng, về âm nhạc thì chưa được chú

trọng nhiều, các loại nhạc cụ chưa nêu cụ thể, mà chỉ gọi tên nhạc lễ một cách

chung chung (trừ tên gọi dàn Đại nhạc). Tuy nhiên, trong lễ thức Nghinh Thần,

đến đoạn tấu An thành chi chương, thì những dòng sau : “Lúc đầu đánh ba tiếng

chuông, tiếp đến là các loại nhạc cụ đàn dây, sáo, và các dãy chuông rung (lục

lạc). Hát xong ca khúc họ rung ba lần ngữ 3 lần biên khánh. Bắt đầu từ đây họ hát

các ca khúc và họ đệm các loại nhạc cụ, lúc ngừng, lúc trở lại theo điều khiển”

[7] đã cho chúng ta những thông tin quý báu về cách thức diễn tấu, chức năng của

dàn nhạc. Cũng như, từ thông tin này ta có thể xác định dàn nhạc mà các tác giả

gọi là Nhạc lễ, ( và kể cả dàn nhạc Đỗ Bằng Đoàn, Đỗ Trọng Huề gọi là Bát âm)

chính là cơ cấu Bộ Nhã nhạc được mô tả trong sách Khâm định Đại Nam hội điển

sử lệ của Nội các triều Nguyễn. [8] (hoặc ít ra, cũng là dàn Nhạc huyền + dàn Nhã

nhạc mà hai ông Đỗ Bằng Đoàn - Đỗ Trọng Huề cho biết là đặt ở Viên đàn (tr.

20).

Các loại dàn nhạc tham gia diễn tấu trong lễ Tế Giao qua các đời vua triều

Nguyễn, có một số thay đổi không đáng kể về tên gọi, tăng giảm một số chủng

loại nhạc cụ trong dàn nhạc, trong một số lễ thức, và cũng có thể, một số vấn đề,

do nhầm lẫn, hoặc do cách gọi của người xưa không chính xác, người đời sau suy

diễn sai lạc đi v.v...thì những nguyên tắc, quy định có tính chuẩn mực của Nhã

nhạc, vẫn quán xuyến trong thể chế của thể loại nhạc lễ triều Nguyễn nói chung và

Giao nhạc nói riêng. Ít nhất, thì chúng ta cũng thấy các nguyên tắc đó được biểu

hiện bằng cơ chế của 2 loại dàn nhạc mang tính chất khác nhau, nếu không muốn

nói là đối lập, đảm trách trong các lễ thức tế Giao. Đó là dàn Nhã nhạc với dàn

Đại nhạc.[9] (về sau là Tiểu nhạc và Đại nhạc). Hai dàn nhạc này được quy định :

“Khi tế dùng Nhạc huyền và Nhã nhạc, chỉ có lúc xướng phần sài, vọng liệu và

vua thăng đàn, giáng đàn mới dùng Đại nhạc”.[10] Do đó, các dàn nhạc đặt ở

Giao đàn, cũng được sắp xếp theo các vị trí phù hợp với các lễ thức sẽ diễn ra :

Ở Đàn thượng : Dàn Nhã nhạc (trong đó gồm cả bộ Nhạc huyền).

Ở Đàn trung : Dàn Nhã nhạc.

Ở Đàn hạ : Dàn Đại nhạc.

Trong tài liệu Sơ lược Âm nhạc Truyền thống Việt Nam của mình,[11] Gs.

Trần Văn Khê cho biết là từ năm 1828 trở đi, dàn cổ xúy đại nhạc không tấu nhạc

trong hai lễ Phần sài và Vọng liệu nữa. Nhưng ngay trong tiến trình nghi lễ Tế

Giao ngày 31 tháng 3 năm 1915, do L. Cadière tường thuật, ghi chép, Đại nhạc

vẫn đảm trách tấu ở Phần sài, Vọng liệu, vua thăng đàn, giáng đàn, kể cả trong giai

đoạn lễ thành. Tuy nhiên, cả những tài liệu trên đều không cho biết Đại nhạc tấu

những bài bản gì. Cố nhiên là không phải tấu theo các bài nhạc chương như dàn

Nhã nhạc.

2 - NHẠC CHƯƠNG TRONG GIAO NHẠC

Khâm Định Đại Nam Hội điển Sử lệ gọi những khúc hát quy định trong các

loại nhạc lễ cung đình là Nhạc chương. Mặc dù có nhạc cụ dàn Nhã nhạc tấu theo,

nhưng thực chất, đây là thể nhạc Hát, dàn nhạc chỉ giữ vai trò đệm, như ý kiến của

ông Cadière trong lễ Tế Giao năm 1915. Vì vậy, một số tài liêụ còn gọi là bài hát,

ca khúc, hay ca chương...Nhưng để nhấn mạnh về chức năng, tính đặc thù thể

loại,(cũng như không gian và phạm vi diễn xướng duy nhất của chúng là các đại lễ

cung đình), thì Nhạc chương thuộc về một thể loại hát lễ thuần túy chốn triều đình

- Nhã ca,[12] mà tính chất, chức thể tựa như loại Tụng nhạc, một trong năm loại

nhạc cung đình thời Tây Chu ở Trung Hoa. Hoặc có thể, có giềng mối với lối

Nhạc Phủ đời Hán, Ngụy , được Lê Quý Đôn chú giải như sau : “quan nha có

chức vụ chọn lấy những bài thi ca cho phổ vào tiếng đàn tiếng sáo. Người đời sau

gọi những thi ca được quan chức trong Nhạc phủ chọn lấy bảo tồn là Nhạc phủ.

Đầu tiên Hán Vũ Đế định lễ nghi tế Giao và lập ra Nhạc phủ, cho Lý Diên Niên

làm Hiệp luật Đô úy. Nhạc phủ bắt đầu lập ra từ đấy”. [13]

Tuy nhiên, đó là giềng mối xa, với Trung Hoa ; còn giềng mối gần, vẫn có

người cho rằng Nhạc chương gần với lối tán, tụng trong âm nhạc nhà Phật. Mặc

dù vậy, quan niệm nhạc cung đình Việt Nam phỏng theo Nhã nhạc triều Minh bên

Tàu, đã trở thành nếp trong mọi suy nghĩ về văn hóa cung đình, nên nhiều người

vẫn tỏ ra nghi ngờ nhận định này. Theo chúng tôi biết, Âm nhạc Phật giáo không

đơn giản chỉ là tụng, niệm như hiện nay . Bằng những sử liệu về âm nhạc Phật

giáo Việt Nam xuất phát từ nền nghệ thuật Tiên Sơn, Lê Mạnh Thát cho chúng ta

thấy lễ nhạc Phật giáo Việt Nam thế kỷ thứ 5 đã có một thể chế nhạc lễ bao gồm

“ca tán tụng vịnh”. Trong đó, cũng có thể truy tìm mối quan hệ giữa Ca vịnh với

Nhạc chương, Tán tụng với Nhạc khí..

Nếu không muốn nói Nhạc chương là linh hồn của cuộc lễ, thì cũng phải

thừa nhận chúng là nơi chứa đựng và chuyển tải một phần nội dung chủ yếu của

từng lễ thức. Chúng ta đều biết rằng, âm nhạc cung đình chủ yếu để phục vụ lễ lạc,

triều nghi. Vì thế, bộ phận nhạc lễ là quan trọng nhất. Trong 7 loại nhạc lễ cung

đình triều Nguyễn, thì hơn 5 loại đã là nhạc lễ nghi, mà bản thân tên gọi của chúng

đã bao hàm nội dung ý nghĩa, gắn liền với từng cuộc lễ : như Giao nhạc là nhạc

dùng trong lễ tế Nam Giao, Miếu nhạc là nhạc dùng trong lễ Tế Miếu v.v...Trong

mỗi loại nhạc đều được quy định một hệ thống Nhạc chương với bài bản riêng, mà

nội dung của mỗi bài đều phải ứng với nội dung của mỗi lễ thức được sắp xếp theo

trình tự cuộc lễ.

Trong Giao nhạc, Nhạc chương gồm một hệ thống 9 bài (nhã) ca, do ca

sinh và nhạc sinh diễn tấu trong 9 lễ thức khác nhau.

Hệ thống Nhạc chương của Giao nhạc được bộ Lễ quy định là Thành

chương, các chi chương[14] đều mang chữ Thành. Lễ tế Nam Giao dưới thời vua

Minh Mạng, 9 chi chương được diễn tấu trong 9 lễ thức sau :

1. Hiển thành chi chương, tấu trong lễ Phần Sài.

2. Cảnh thành chi chương,tấu trong lễ Thượng hương

3. An thành chi chương, tấu trong lễ Nghinh thần

4. Gia thành chi chương, tấu trong lễ Dâng ngọc, lụa

5. Mỹ thành chi chương, tấu trong lễ Sơ hiến

6. Thụy thành chi chương, tấu trong lễ Á hiến

7. Vĩnh thành chi chương, tấu trong lễ Chung hiến

8. Tuy thành chi chương, tấu trong lễ Tống thần

9. Hựu thành chi chương, tấu trong lễ Vọng liệu

Các chi chương qua các đời vua có thể có sự thay đổi một vài chi tiết không

đáng kể. Cho đến năm 1915, dưới đời vua Duy Tân thứ 9, hệ thống Nhạc chương

trong lễ Tế Giao cũng chỉ thay đổi như sau đây :

1. An thành chi chương, tấu trong lễ Nghinh thần

2. Triệu thành chi chương, tấu trong lễ Dâng ngọc,lụa

3. Tiến thành chi chương, tấu trong lễ Dâng thịt tế

4. Mỹ thành chi chương, tấu trong lễ Sơ hiến

5. Thụy thành chi chương, tấu trong lễ Á hiến

6. Vĩnh thành chi chương, tấu trong lễ Chung hiến

7. Doãn thành chi chương, tấu trong lễ Triệt soạn

8. Hi thành chi chương, tấu trong lễ Tống thần

9. Hựu thành chi chương, tấu trong lễ Vọng liệu

Nhạc chương là một thành tố quan trọng trong các Đại lễ cung đình triều

Nguyễn. Nhạc và Lễ gắn bó như hình và bóng, không những chuyển tải một phần

nội dung chủ yếu của cuộc lễ, mà còn tạo ra nhịp điệu cho tiến trình bởi sự phối

hợp nhịp nhàng giữa các thành tố.

Nhạc lễ nói chung, Nhạc chương nói riêng, với chức thể đặc hữu, đã gắn

kết các thành tố cuộc lễ thành một tổng thể mang tính sân khấu hóa cao. L.

Cadière, người chứng kiến lễ tế Nam Giao năm 1915 có ghi chép về sự phối hợp

giữa Nhạc chương với các động tác hành lễ của vua và các thượng thư như sau :

:“Câu hát đầu vua bước đến chỗ tế lễ; câu hát thứ hai : vua quỳ ; câu hát thứ ba :

vua cất thẻ ngọc vào trong áo ; câu hát thứ tư, năm, sáu : vua dâng lễ ngọc và lụa

; câu hát thứ bảy : vua lấy thẻ ngọc ra và ba câu tiếp : người ta lại đặt các hộp lên

bàn thờ ; câu hát thứ mười một : vua lạy ; câu hát thứ mười hai : vua đứng

dậy”...[15]

Các chi chương tấu trong các lễ thức cũng không phải tùy tiện, mà do bộ Lễ

quy định. Lời ca của các chương khúc (chi chương) này phải phù hợp với nội

dung, ý nghĩa của mỗi lễ thức, được viết bằng chữ Hán theo thể thơ Đường luật,

mỗi câu gồm 4 chữ .

Trong một cuộc lễ, các thể thức hành lễ có thể lặp lại nhau, nhưng các

chương khúc thì mỗi lễ thức đều có một lời ca khác nhau và mỗi cuộc lễ có

khoảng 6 - 10 bài. Sách Khâm Định Đại Nam Hội điển Sử lệ có chép lại toàn bộ

hệ thống Nhạc chương với tổng số là 126 bài. Các chi chương được đánh số và

phân thành 3 nhóm nội dung : Nhóm 1 có 79 bài ; nhóm 2 có 22 bài ; nhóm 3 có

25 bài. Toàn bộ hệ thống Nhạc chương 126 bài (chi chương) đặt trong 10 tổ hợp

chương mang 10 chữ sau : Hòa, Thành, Bình, Phong, Thọ, Huy, Văn, Phúc, Hy,

Khánh.

Giao nhạc được quy định diễn tấu tổ hợp chương có chữ Thành. Tuy vậy,

không phải chỉ gồm 9 chi chương tấu trong tế Giao đã nêu ở trước, mà có đến 17

chi chương có tên gọi. Nếu kể thêm những chi chương trùng tên nhưng khác nội

dung thì phải lên đến 35 bài.( Chương mang chữ Hòa cũng có tình trạng tương tự :

10 chi chương = 36 bài.)

Rất tiếc các sử liệu không để lại bản ký âm của Nhạc chương. Theo Gs.

Trần Văn Khê trong Sơ lược Âm nhạc Truyền thống Việt Nam cho biết G. de

Gironeourt chỉ ghi rằng trong lúc tế Nam giao, người ta nghe lập đi lập lại 3 nốt

mi, xon, la, trên đó bài hát trở đi trở lại chậm rãi và nhấn mạnh như một đoạn kết

bài nghiêm của một cuộc tế lễ trang trọng. Các vấn đề về nghệ thuật, tổ chức của

thể ca hát này sử liệu hầu như không đề cập.

Không như các loại nhạc cung đình khác, Nhạc chương với chức thể đặc thù : về

nội dung của lời ca ; lời bằng chữ Hán ; không độc lập về thể thức, và có thể, âm

điệu mang tính ngâm ngợi, tế tụng theo kiểu giai điệu hóa lời thơ...chỉ tồn tại bó

hẹp trong một không gian diễn xướng duy nhất là tế lễ triều đình, và hẹp hơn nữa

là cúng tế dòng tộc, tổ tiên của nhà Vua...Vì thế, khi triều Nguyễn bước vào giai

đoạn suy thoái, âm nhạc cung đình ngày càng mất dần môi trường diễn xướng,

một số loại thể phù hợp với cơ chế dân gian thì được lưu truyền, gìn giữ, còn Nhạc

chương - một thể tài bác học 100% cung đình thì sớm tàn lụi.

Năm 1960 chính quyền miền Nam cũ có tổ chức tế đàn Nam Giao. Có 2 chi

chương trong hệ thống Nhạc chương mang chữ Thành được phục hồi với gần 40

ca sinh diễn xướng. Đến nay, chỉ hơn 40 năm, nhưng ở Huế, chỉ còn một người

trong số ca sinh ngày trước là ông La Đăng, còn nhớ được 1 bài. Đó là chi chương

Mỹ Thành được hát trong lễ Sơ hiến của Tế Giao.

Theo Nhạc sĩ Nguyễn Đình Sáng trong luận văn Đại học lí luận âm nhạc “ Khảo

sát Nhạc Lễ cung đình Huế”, (người đã tiếp xúc với ông La Đăng và ký âm lại bài

Mỹ Thành) thì “âm nhạc của ca chương Mỹ Thành được xây dựng trên một trục

cố định theo công thức : Mỗi ca từ ứng với một ô nhịp và phần luyến âm tùy theo

lời ca để có thể điều chỉnh giai điệu cho phù hợp...toàn bộ ca chương có 16 câu

nhạc (ứng với 16 câu thơ) nhưng thực ra đều được phát triển trên 2 câu nhạc

chính” (câu 1, 2). Mỹ Thành là một chi chương tấu trong lễ Sơ hiến (lễ dâng rượu

lần thứ nhất), được đánh số 17 trong Khâm Định Đại Nam Hội điển Sử lệ. Toàn

văn lời ca đều bằng chữ Hán

3 - MÚA VĂN - VÕ TRONG TẾ GIAO

Trong lễ tế Nam Giao dưới triều Nguyễn, múa Văn-Võ được múa trong lễ

Sơ hiến, Á hiến và Chung hiến (lễ cúng dâng rượu lần đầu, lần thứ hai và lần cuối).

Múa Văn -Võ được chia làm hai ban : ban Võ (võ vũ ban) và ban Văn (văn vũ

ban). Mỗi ban gồm 64 vũ sinh, lúc trình diễn xếp theo đội hình 8 hàng nên điệu

múa này có tên là Bát dật (8 hàng).

Bát dật trong lễ Tế giao . Ảnh tư liệu Trung tâm Bảo Tồn Di tích Cố đô

Huế

Ban Võ múa trong lễ Sơ hiến. Đội hình 8 hàng “đứng ở phía Đông và phía

Tây dưới dàn nhạc, hai bên quay mặt vào nhau. Nghe xướng : “Sơ hiến lễ”, quan

Tư chung đánh 3 tiếng chuông, bát âm nổi nhạc, thì võ vũ sư phất cờ Tinh dẫn võ

vũ sinh 64 người, chia ra 8 hàng đứng hai bên tả hữu ngoài thềm, quay mặt trở

vào, theo điệu nhạc mà múa. Vũ sinh tay trái cầm cái mộc (khiên) sơn son thiếp

vàng, tay phải cầm cái búa lưỡi thiếp vàng, cán sơn son vừa múa vừa hát. Múa

xong, quan Tư khánh đánh 3 tiếng khánh, võ vũ sư dẫn vũ sinh về chỗ cũ”.[16]

Ban Văn múa trong lễ Á hiến và Chung hiến, cũng triển khai đội hình 8 hàng như

trên, nhưng văn vũ sư cầm cờ Mao; tay trái văn vũ sinh thì cầm ống Thược ( sáo 7

lỗ), tay phải cầm lông đuôi trĩ... Vũ sinh múa Bát dật chỉ toàn nam giới.

Quan sát điệu múa Bát dật trong cuộc tế Nam Giao năm 1915, R. Orband

cũng cho biết : “...có 64 vũ công dân sự (Văn sanh) và 64 vũ công quân sự (Võ

sanh)...các vũ công quân sự mặc áo xanh của các vị quan cấp bậc thấp… bên tay

trái họ cầm một tấm chắn bằng gỗ (can) sơn đỏ thiếp vàng không khắc chữ mà

mang nhiều hình rồng và bên tay phải cầm một loại rìu nhỏ (thích) bằng gỗ, cán

dài sơn son...Các vũ công dân sự cũng mặc áo xanh của các vị quan cấp bậc

thấp,. Họ cầm ở tay trái một ống thược, loại sáo gỗ sơn son có 7 lỗ và bên tay

phải một vũ là một loại gậy ở đầu có sọ con vật thần thoại thiên hinh trên có 3

lông gà”...Ông còn cho biết thêm Võ sinh múa bài Võ Thiện vương, còn Văn sinh

múa bài Văn Thiên đức.[17]

Ca hát - nhảy múa là một hình thái văn hóa tồn tại bằng phương thức diễn

và xướng, mang tính nguyên hợp. Không chỉ là đặc tính của dòng nhạc dân gian,

mà còn biểu hiện ở cả dòng nhạc cổ truyền bác học, cung đình ; không chỉ đối với

Việt Nam, mà hình thái này, cũng là một đặc điểm của âm nhạc Đông Nam Á và

cả Phương Đông nói chung.

Lễ, xét trên góc độ thiết chế văn hóa nhà nước phong kiến, không thể tồn

tại độc lập, mà phải nương nhờ nghệ thuật diễn xướng. Do đó, Lễ - Nhạc là một

tổng thể, và hành lễ thì đã bao hàm cả yếu tố trình diễn. Lễ Tế Giao là một sân

khấu lớn, mà trên đó, Giao nhạc là biểu hiện của Lễ. Các thành tố của nó như Dàn

nhạc, Nhạc chương, múa Văn-Võ là yếu tố vận động và mang chức năng chuyển

tải tinh thần của tế Giao và biểu hiện đầy đủ thể chế của Nhã nhạc vậy.

[1] Theo Đỗ Bằng Đoàn, Đỗ Trọng Huề. Sách đã dẫn, tr. 18

[2] L.Cadière : Tài liệu lịch sử về đàn Nam Giao. Những Người Bạn Cố Đô Huế,

tâp 1-1914, tr. 97

[3] Đào Duy Anh. Việt Nam Văn hóa Sử cương.Nxb Đồng Tháp, 1998,tr. 248.

[4] Nhà Xuất Bản Thuận Hóa, Huế, 1996, các quyển 96, 97, 98, 99.

[5] Nhà Xuất Bản Thuận Hóa, Huế, 1997. Tập 1-1914 và Tập 2 -1915.

[6] L. Cadière : Tế Nam Giao - Nghi lễ tế. Những người bạn Cố Đô Huế, Sđd tr.

99.

[7] Những Người Bạn Cố Đô Huế. Sách đã dẫn, tr. 105

[8] Quyển 99, phần Nhạc chương, Nhạc khí.

[9] Theo quan điểm của nhạc sĩ Vĩnh Phúc trong khảo cứu : Nhã nhạc và các hình

thức tổ chức dàn nhạc cung đình triều Nguyễn, thì dàn Nhạc huyền chỉ là một bộ

phận của dàn Nhã nhạc ..

[10] Đỗ Bằng Đoàn, Đỗ Trọng Huề. Sách đã dẫn, tr. 22

[11] Bản dịch phần nhạc Cung đình trong sách La musique Vietnamienne

traditionnelle cuả chính tác giả. Kể cả Gs. Nguỹễn Thụy Loan trong Lược Sử Âm

nhạc Việt Nam , Nxb Âm nhạc - 1993.

[12] Lê Quý Đôn. Vân Đài Loại Ngữ. Sđd, Tập 2, quyển 6, tr. 139

[13] Lê Quý Đôn : Vân Đài Loại Ngữ. Sđd, Tập 2, Quyển 5, tr. 124.

[14] Khi hành lễ, quan Thông tán thường xướng những chương khúc cụ thể là chi

chương. Ví dụ:” Doãn thành chi chương!” hoặc “Hàm hòa chi chương !”...Vì vậy,

khi gọi tên các bài cụ thể đó, chúng tôi chủ trương dùng chữ Chi chương, hoặc

đôi lúc là chương khúc.

[15] L. Cadière : Tế Nam Giao - Nghi lễ tế. B.A.V.H, tập 2-1915, Nxb Thuận

Hóa, Huế, tr. 106,108,112

[16] Đỗ Bằng Đoàn, Đỗ Trọng Huề. Sđd, tr. 446,447

[17] R. Orband : Tế Nam Giao-Các điệu múa. B.A.V.H, 1915, tr. 135, 137