Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học (Tập 2): Phần 1
lượt xem 6
download
Phần 1 của giáo trình "Chủ nghĩa xã hội khoa học (Tập 2)" cung cấp cho học viên những nội dung về: liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức trong cách mạng xã hội chủ nghĩa; nguồn lực con người trong cách mạng xã hội chủ nghĩa; vấn đề dân tộc trong cách mạng xã hội chủ nghĩa;... Mời các bạn cùng tham khảo!
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học (Tập 2): Phần 1
- QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM TỔNG CỤC CHÍNH TRỊ ----- CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC Tập II NHÀ XUẤT BẢN QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN – 2007
- QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM TỔNG CỤC CHÍNH TRỊ GIÁO TRÌNH CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC Tập II (Dùng cho đào tạo cán bộ chính trị cấp phân đội, bậc đại học) HÀ NỘI - 2007
- * BAN BIÊN SOẠN: 1. Đại tá, TS Lê Như Cử (Chủ biên) 2. Đại tá, TS Mẫn Văn Mai 3. Đại tá, TS Nguyễn Đức Tiến 4. Đại tá, TS Nguyễn Tiến Sĩ 5. Đại tá, TS Lê Đại Nghĩa 6. Đại tá, Th.S Phí Văn Du 7. Đại tá, TS Nguyễn Văn Vinh 8. Đại tá, TS Nguyễn Văn Dũng 9. Thượng tá, Th.S Đinh Văn Lễ
- LỜI NÓI ĐẦU Thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội trên thế giới và ở nước ta, đặc biệt là công cuộc đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo 20 năm qua đã chỉ rõ: nhờ vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin mà trực tiếp là các nguyên lý của chủ nghĩa xã hội khoa học, cách mạng nước ta đã thu được nhiều thành tựu to lớn. Thực tiễn đó góp phần quan trọng giúp việc nhận thức con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng sáng rõ. Vì vậy, việc học tập môn chủ nghĩa xã hội khoa học trong các trường đại học nói chung và ở các học viện, nhà trường quân đội nói riêng đã trở thành một nhiệm vụ quan trọng của quá trình giáo dục đào tạo cán bộ của Đảng ta. Đối với Học viện chính trị quân sự, để nâng cao chất lượng, hoàn thiện mô hình mục tiêu đào tạo, bồi dưỡng chính uỷ, chính trị viên trong quân đội nhằm thực hiện tốt Nghị quyết 51 của Bộ Chính trị, đòi hỏi phải đổi mới nội dung, chương trình, phương pháp dạy - học. Việc biên soạn cuốn chủ nghĩa xã hội khoa học tập 2 - dùng cho đào tạo cán bộ chính trị cấp phân đội bậc đại học trong quân đội nhằm đáp ứng yêu cầu cấp thiết ấy. Được sự chỉ đạo chặt chẽ của Thủ trưởng Tổng cục chính trị, Học viện Chính trị quân sự tổ chức biên soạn cuốn chủ nghĩa xã hội khoa học tập 2. Đây là công trình khoa học do tập thể cán bộ, giảng viên Khoa Chủ nghĩa xã hội khoa học, Học viện Chính trị quân sự biên soạn, Đại tá, TS Lê Như Cử làm chủ biên. Cuốn sách gồm 10 chương, trình bày những nguyên lý, quy luật của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Trong quá trình biên soạn, tập thể tác giả đã tham khảo các giáo trình tài liệu có liên quan và dựa vào thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta và thực tiễn xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng trong những năm qua để làm phong phú thêm nội dung cuốn sách. Giáo trình dùng làm tài liệu giảng dạy, học tập và nghiên cứu môn chủ nghĩa xã hội khoa học trong các học viện, nhà trường quân đội. TỔNG CỤC CHÍNH TRỊ
- Chương I LIÊN MINH GIỮA GIAI CẤP CÔNG NHÂN VỚI GIAI CẤP NÔNG DÂN VÀ ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC TRONG CÁCH MẠNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA I. CƠ CẤU XÃ HỘI - GIAI CẤP XÃ HỘI CHỦ NGHĨA 1. Khái niệm cơ cấu xã hội - giai cấp xã hội chủ nghĩa Cơ cấu xã hội - giai cấp là một loại hình của cơ cấu xã hội. Do đó, nghiên cứu cơ cấu xã hội - giai cấp nói chung, cơ cấu xã hội - giai cấp xã hội chủ nghĩa nói riêng cần làm rõ khái niệm cơ cấu xã hội. Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật lịch sử, xã hội dưới bất cứ hình thức nào cũng là sự tác động lẫn nhau giữa người với người. Vì vậy, xã hội loài người bao giờ cũng là một cộng đồng có cơ cấu phức tạp bao gồm nhiều mối quan hệ giữa người với người, các cộng đồng người hay các nhóm xã hội, các tập đoàn xã hội có thể coi là yếu tố xuất phát để cấu tạo nên cơ cấu xã hội. Sự hình thành các cộng đồng người trong xã hội theo quy luật khách quan, không phụ thuộc vào ý thức của con người như các giai cấp, dân tộc. Một số cộng đồng người được thành lập do sự giác ngộ, sự tự giác của các thành viên kết hợp với những điều kiện khách quan nhất định như các tổ chức đảng, công đoàn, đoàn thanh niên, hội phụ nữ… Cơ cấu xã hội bao gồm tất cả những cộng đồng người không những được hình thành một cách khách quan trong lịch sử mà còn cả những cộng đồng người được tạo lập một cách ý thức. Như vậy, cơ cấu xã hội là sự phân chia xã hội thành những cộng đồng người khác nhau theo những dấu hiệu nhất định và sự tác động qua lại giữa các cộng đồng ấy trên các lĩnh vực của đời sống xã hội tạo thành những quan hệ xã hội. Cơ cấu xã hội bao gồm các loại hình như: cơ cấu xã hội - giai cấp, cơ cấu xã hội - dân số, cơ cấu xã hội - dân cư, cơ cấu xã hội - nghề nghiệp, cơ cấu xã hội - dân tộc, cơ cấu xã hội - tôn giáo… Trong các loại hình của cơ cấu xã hội thì cơ cấu xã hội - giai cấp là hạt nhân, giữ vai trò quyết định đối với tất cả cơ cấu xã hội nói chung. Tuy nhiên, trong cơ cấu xã hội mỗi loại hình đều có một vị trí nhất định không thể thay thế, đồng thời giữa chúng luôn có sự tác động ảnh hưởng lẫn nhau trong một cơ cấu xã hội thống nhất. Do đó, nếu quy cơ cấu xã hội chỉ còn là cơ cấu xã hội - giai cấp mà
- không tính đến các loại hình khác của cơ cấu xã hội hoặc ngược lại, không thấy được vai trò quyết định của cơ cấu xã hội - giai cấp đều là phiến diện dẫn đến sai lầm trong hoạt động thực tiễn. Cơ cấu xã hội - giai cấp là một bộ phận cơ cấu xã hội, bao gồm các giai cấp, tầng lớp xã hội và các mối quan hệ tác động giữa chúng lẫn nhau, phản ánh địa vị, lợi ích kinh tế, chính trị, xã hội của nó trong một hệ thống sản xuất nhất định. Trong xã hội có giai cấp, mỗi xã hội cụ thể bao giờ cũng có một cơ cấu xã hội - giai cấp đặc trưng cho xã hội đó. Trong các chế độ người bóc lột người thì trong cơ cấu xã hội - giai cấp của nó bao giờ cũng tồn tại hai giai cấp cơ bản đối lập nhau về địa vị. Sự đối lập ấy sẽ dẫn đến cuộc đấu tranh giai cấp không khoan nhượng giữa hai giai cấp cơ bản ấy: nô lệ với chủ nô, nông nô với địa chủ phong kiến, vô sản với tư sản. Đỉnh cao của những cuộc đấu tranh giai cấp này là một cuộc cách mạng xã hội, trước hết là trên lĩnh vực chính trị, với việc xoá bỏ cơ cấu xã hội - giai cấp cũ, thiết lập và xây dựng một cơ cấu xã hội - giai cấp mới cao hơn. Cho đến ngày nay, lịch sử phát triển cơ cấu xã hội - giai cấp của xã hội loài người đã từng trải qua bốn loại hình cơ bản khác nhau là: cơ cấu xã hội - giai cấp của xã hội nô lệ, cơ cấu xã hội - giai cấp của xã hội phong kiến, cơ cấu xã hội - giai cấp của xã hội tư bản chủ nghĩa và cơ cấu xã hội - giai cấp của xã hội xã hội chủ nghĩa. Cơ cấu xã hội - giai cấp xã hội chủ nghĩa ra đời và phát triển là kết quả tất yếu của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Mặt khác, việc xây dựng cơ cấu xã hội - giai cấp mới đòi hỏi khách quan của chính cuộc cách mạng ấy, sự thành công hay thất bại của cuộc cách mạng này phụ thuộc nhiều đến sự phát triển và hoàn thiện của cơ cấu xã hội - giai cấp xã hội chủ nghĩa. Cơ cấu xã hội - giai cấp xã hội chủ nghĩa là một hệ thống gồm giai cấp công nhân, giai cấp nông dân, đội ngũ trí thức và các tầng lớp lao động khác có quan hệ tác động lẫn nhau trên cơ sở chế độ kinh tế - chính trị xã hội chủ nghĩa, với địa vị kinh tế - xã hội và những lợi ích xác đáng của người làm chủ xã hội. Cơ cấu xã hội - giai cấp xã hội chủ nghĩa là một loại cơ cấu xã hội - giai cấp phát triển trong lịch sử, khác về chất so với cơ cấu xã hội - giai cấp trước đó. Sự khác về chất đó được phản ánh ở một số đặc điểm nổi bật sau đây:
- Giai cấp công nhân giữ vai trò chủ đạo trong cơ cấu xã hội - giai cấp xã hội chủ nghĩa. Thông qua Đảng Cộng sản, giai cấp công nhân trở thành giai cấp lãnh đạo, quyết định xu hướng vận động phát triển của xã hội xã hội chủ nghĩa. Tính chất hữu ái, gắn bó và tương trợ giúp đỡ lẫn nhau giữa các bộ phận cấu thành trong cơ cấu xã hội - giai cấp xã hội chủ nghĩa. Các giai cấp và tầng lớp xã hội trong cơ cấu xã hội - giai cấp xã hội chủ nghĩa đã trưởng thành và phát triển ở trình độ ngày càng cao. Có sự thống nhất cao về chính trị, tư tưởng ngày càng tiến tới sự đồng nhất về xã hội. Giai cấp bóc lột và các nguyên nhân tồn tại bóc lột bị thủ tiêu. Những đặc điểm của cơ cấu xã hội - giai cấp xã hội chủ nghĩa chỉ được phát triển và hoàn thiện khi chủ nghĩa xã hội đã được xây dựng và phát triển trên cơ sở của chính nó. Sự phát triển đó là khách quan nhưng lại phụ thuộc rất lớn vào tác động chủ quan từ chủ trương, chính sách của Đảng Cộng sản và Nhà nước xã hội chủ nghĩa. ở thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội còn tồn tại nền kinh tế nhiều thành phần, giữa các giai cấp, tầng lớp còn có sự khác nhau về hình thức sở hữu đối với tư liệu sản xuất, về tổ chức lao động, về mức độ thu nhập. Sự cùng tồn tại, vừa thống nhất, vừa đấu tranh dưới sự định hướng của giai cấp công nhân thông qua đội tiên phong của nó là Đảng Cộng sản để các giai cấp và tầng lớp xã hội đoàn kết chặt chẽ với nhau cùng phấn đấu củng cố và xây dựng chủ nghĩa xã hội. 2. Xu hướng biến đổi của cơ cấu xã hội - giai cấp xã hội chủ nghĩa Quá trình biến động phát triển của cơ cấu xã hội - giai cấp xã hội chủ nghĩa được diễn ra theo bốn xu hướng chủ yếu sau đây: Sự xích lại gần nhau dần từng bước giữa các giai tầng xã hội trong quan hệ với tư liệu sản xuất. Xu hướng này được thể hiện thông qua việc từng bước hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa từ thấp đến cao, sự hợp tác trong sản xuất để cùng góp phần phát triển lực lượng sản xuất làm cho xã hội ngày càng phát triển. Sự xích lại gần nhau về tính chất lao động. Xu hướng này được thể hiện thông qua đẩy mạnh cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại và sự áp dụng những tiến bộ của nó trong quá trình phát triển lực lượng sản xuất và công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước trong thời kỳ quá độ.
- Sự xích lại gần nhau trong quan hệ phân phối tư liệu tiêu dùng. Xu hướng này diễn ra chủ yếu liên quan đến việc thực hiện ngày càng hoàn thiện nguyên tắc phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế. Sự xích lại gần nhau trong tiến bộ đời sống tinh thần. Xu hướng này được thể hiện trực tiếp thông qua cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực tư tưởng và văn hoá. Xu hướng này tác động trực tiếp đến sự xích lại gần nhau và xoá bỏ dần mâu thuẫn giữa thành thị và nông thôn, lao động trí óc và lao động chân tay. Những xu hướng trên đây không diễn ra biệt lập mà có quan hệ biện chứng với nhau. Sự thể hiện những xu hướng đó diễn ra không đồng đều về nhịp độ giữa các giai đoạn khác nhau và ở những vùng khác nhau, nhưng đó là những biểu hiện chung mang tính quy luật của sự biến đổi cơ cấu xã hội - giai cấp xã hội chủ nghĩa. 3. Tính quy luật của sự biến đổi cơ cấu xã hội - giai cấp xã hội chủ nghĩa Sự biến đổi của cơ cấu xã hội - giai cấp xã hội chủ nghĩa phụ thuộc vào tình hình kinh tế, chính trị, xã hội và mối quan hệ trong và ngoài nước. Có thể nêu lên một số vấn đề có tính quy luật cuả sự biến đổi đó như sau: Sự biến đổi của cơ cấu xã hội - giai cấp xã hội chủ nghĩa gắn liền và được quy định bởi sự biến động của cơ cấu kinh tế, của cơ cấu thành phần kinh tế. Trong giai đoạn đầu của chủ nghĩa xã hội còn tồn tại nền kinh tế nhiều thành phần, tất yếu đưa tới một cơ cấu xã hội - giai cấp đa dạng và phức tạp vì nhân tố kinh tế và nhân tố xã hội luôn đan xen lẫn nhau, ảnh hưởng và tác động lẫn nhau. Khi cơ cấu xã hội - giai cấp mới đã hình thành lại có tác động trực tiếp tới phát triển và củng cố cơ cấu kinh tế tạo cho nó đi đúng quỹ đạo của chủ nghĩa xã hội. Quá trình biến đổi cơ cấu xã hội - giai cấp xã hội chủ nghĩa là một quá trình diễn ra dần từng bước và là một quá trình liên tục trong suốt thời kỳ quá độ. Quá trình biến đổi này càng đa dạng phức tạp ở giai đoạn đầu của thời kỳ quá độ, nhưng sẽ dần ổn định khi nền kinh tế xã hội chủ nghĩa đã ổn định, lực lượng sản xuất được phát triển và quá trình công nghiệp hoá triển khai có kết quả. Cơ cấu xã hội - giai cấp xã hội chủ nghĩa biến đổi và phát triển trong mối quan hệ vừa đấu tranh vừa liên minh, vừa xích lại gần nhau tiến tới từng bước xoá bỏ hiện tượng bóc lột giai cấp trong xã hội. Việc đấu tranh trong cơ cấu xã hội - giai cấp không phải là loại trừ nhau mà là cùng giúp nhau phát triển lực lượng sản
- xuất theo đúng hướng, hoạt động sản xuất kinh doanh theo đúng pháp luật, xây dựng tinh thần cộng đồng hữu ái để cùng nhau xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đấu tranh và liên minh đó là hai mặt của một quá trình thống nhất để dẫn tới sự xích lại gần nhau giữa các giai tầng trong xã hội. Tính thống nhất của cơ cấu xã hội - giai cấp xã hội chủ nghĩa thể hiện thông qua xu hướng phát triển về số lượng và chất lượng của giai cấp công nhân. Đây là lực lượng giữ vai trò chủ đạo, trung tâm trong quá trình định hướng phát triển xã hội. Tính thống nhất ấy còn được thể hiện thông qua sự liên minh và xích lại gần nhau giữa giai cấp công nhân, giai cấp nông dân, đội ngũ trí thức trong quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. II. Liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức trong cách mạng xã hội chủ nghĩa 1. Vị trí, vai trò của liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức trong cách mạng xã hội chủ nghĩa Trong lịch sử nhân loại, từ khi xuất hiện giai cấp và đấu tranh giai cấp cho đến nay đã hình thành nhiều kiểu liên minh giai cấp. Tuỳ theo bản chất và mục tiêu chính trị của mỗi giai cấp mà trong lịch sử cũng hình thành các kiểu liên minh khác nhau. Khác với các hình thức liên minh giai cấp khác, liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức là hình thức hợp tác đặc biệt giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức trong cuộc đấu tranh nhằm lật đổ chế độ tư bản chủ nghĩa, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản. Sự liên minh giai cấp này khác về chất so với các liên minh từng có trong lịch sử. Nếu như liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức là hình thức liên minh toàn diện, lâu dài, bền vững, dựa trên sự thống nhất về lợi ích căn bản thì trái lại, các kiểu hợp tác liên minh cũ là nhất thời, vụ lợi. Giai cấp bóc lột thường lợi dụng các giai tầng để tạo động lực xóa bỏ chế độ cũ. Nhưng ngay sau khi xác lập được địa vị thống trị của mình, do bản chất bóc lột, họ quay lại phản bội ngay chính người đồng minh của mình. Tổng kết phong trào cách mạng 1848 - 1849 ở châu Âu, C.Mác khẳng định: Chúng ta thấy rằng nông dân, những người tiểu tư sản đều dần dần đứng về phía giai cấp vô sản, dần dần bị đẩy về phía đối lập công khai với chế độ cộng hoà chính thức và bị nền cộng hoà này coi là kẻ thù. Khác với kiểu liên minh của giai cấp tư sản, liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức khẳng định rõ vai trò lãnh đạo của
- giai cấp công nhân thông qua đội tiền phong là Đảng Cộng sản nhằm xoá bỏ mọi hình thức áp bức bóc lột và xoá bỏ giai cấp nói chung, xây dựng chế độ xã hội mới, đưa lại quyền tự do, dân chủ thực sự cho nhân dân lao động. Vị trí, vai trò của liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức được khẳng định xuyên suốt quá trình cách mạng xã hội chủ nghĩa. Trong giai đoạn đấu tranh giành chính quyền, thiết lập chuyên chính vô sản, khối liên minh này là lực lượng có ý nghĩa quyết định đến sự thắng lợi cách mạng của giai cấp công nhân. Điều này V.I.Lênin đã từng chỉ dẫn: “Không có sự đồng tình và ủng hộ của đại đa số nhân dân lao động đối với giai cấp vô sản thì cách mạng vô sản không thể thực hiện được”1. Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, việc củng cố, tăng cường khối liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức là nguyên tắc tối cao của chuyên chính vô sản. V.I.Lênin khẳng định: “Nguyên tắc tối cao của chuyên chính vô sản là duy trì khối liên minh giữa giai cấp vô sản và nông dân để giai cấp vô sản có thể giữ vững được vai trò lãnh đạo và chính quyền nhà nước” 2. Nguyên tắc này được xem xét từ các phương diện chủ yếu sau: - Xét về nguyên tắc tập hợp lực lượng cách mạng của chuyên chính vô sản thì khối liên minh này đã tập hợp được những giai cấp và tầng lớp xã hội đông đảo và mạnh nhất trong các giai tầng xã hội. Trong đó, giai cấp công nhân lại là giai cấp tiên tiến phát triển cao nhất trong thời đại chuyên chính vô sản. - Xét về nguyên tắc lãnh đạo xã hội trong thời đại chuyên chính thì người lãnh đạo cao nhất và duy nhất chỉ là giai cấp công nhân thông qua đội tiền phong của nó là Đảng Cộng sản. Nhưng vai trò lãnh đạo đó chỉ giữ vững và thực hiện được ở một số nước tiểu nông chiếm đa số khi Đảng tổ chức và lãnh đạo được khối liên minh này. - Xét về lợi ích cơ bản thì nguyên tắc cao nhất và mục tiêu của chuyên chính vô sản là vì lợi ích toàn thể nhân dân lao động. Việc liên minh vừa đáp ứng yêu cầu lợi ích, vừa là cơ sở xã hội của Nhà nước chuyên chính vô sản để thực hiện hai chức năng, hai nhiệm vụ chiến lược là bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội. 1 V.I.Lênin, Toàn tập, tập 39, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva 1977, tr.251. 2 V.I.Lênin, Toàn tập, tập 44, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva 1977, tr.57.
- Như vậy, sức mạnh và độ bền vững của khối liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức là thể hiện sức mạnh của Đảng, của Nhà nước va tính hiện thực của quyền làm chủ xã hội của nhân dân lao động, đó là những yếu tố cơ bản của chuyên chính vô sản. Việc tăng cường, củng cố khối liên minh còn là cơ sở để xây dựng, hoàn thiện cơ cấu giai cấp xã hội mới dưới chủ nghĩa xã hội. Do đặc điểm kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội mà cơ cấu giai cấp xã hội còn đa dạng, phức tạp, không thuần nhất. Thông qua việc củng cố khối liên minh, dưới sự lãnh đạo của Đảng của giai cấp công nhân góp phần hình thành phát triển cơ cấu giai cấp xã hội mới đó là: giai cấp công nhân, giai cấp nông dân tập thể và đội ngũ trí thức xã hội chủ nghĩa. Vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin, Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn giương cao ngọn cờ đại đoàn kết toàn dân tộc. Đó là đường lối chiến lược, là nguồn gốc sức mạnh và động lực to lớn để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Để xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, việc củng cố, tăng cường khối liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức giữ vai trò nòng cốt. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng đã chỉ rõ: “Đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, dưới sự lãnh đạo của Đảng là đường lối chiến lược nhất quán của cách mạng Việt Nam; là nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu và là nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” 1. 2. Tính tất yếu khách quan của liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức trong cách mạng xã hội chủ nghĩa Từ thực tế phong trào cách mạng của giai cấp công nhân ở châu Âu (Pháp, Anh) khoảng giữa đến cuối thế kỷ XIX, C.Mác, Ph.Ăngghen đã tổng kết thành lý luận khoa học một hệ thống các vấn đề cơ bản nhất của cách mạng vô sản, trong đó có vấn đề liên minh công nông. Nhiều cuộc cách mạng của giai cấp công nhân Pháp bị thất bại, chủ yếu do không lôi kéo, không liên minh được với người “bạn đồng minh tự nhiên” là giai cấp nông dân. Vì vậy, cách mạng vô sản bị thất bại thảm khốc. V.I.Lênin đã phát triển sáng tạo và đúng đắn những tư tưởng của C. Mác, Ph.Ăngghen về liên minh công nông trong thời đại mới và đã lãnh đạo thành 1 Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 2006, tr. 40, 41.
- công trên thực tế liên minh này trong Cách mạng tháng Mười Nga năm 1917 và bước đầu của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Về mặt thuật ngữ, chủ nghĩa Mác - Lê nin chỉ ghi “liên minh công -nông”- bộ phận cơ bản nhất trong lực lượng cách mạng của quần chúng lao động rộng lớn dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Nhưng trong tư tưởng và trên thực tế cách mạng, không bao giờ các nhà lý luận Mác - Lênin lại chỉ thấy hai giai cấp công nhân và nông dân, không bao giờ tách biệt hai giai cấp ấy. Trái lại, bao giờ tư tưởng cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin cũng là: liên minh công nông và các tầng lớp lao động khác. Đặc biệt rõ khi Lênin nhấn mạnh ý nghĩa của chuyên chính vô sản trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội rằng: “Chuyên chính vô sản là một hình thức đặc biệt liên minh... giữa giai cấp vô sản, đội tiên phong của những người lao động với đông đảo các tầng lớp lao động không phải vô sản (tiểu tư sản, tiểu chủ, nông dân, trí thức...”1. Như vậy, liên minh giai cấp không chỉ bó hẹp liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân mà còn liên minh với các tầng lớp xã hội khác. Vận dụng đúng đắn và sáng tạo phát triển và cụ thể hoá tư tưởng cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, Đảng Cộng sản Việt Nam đã cho rằng, trong các tầng lớp lao động khác ngoài giai cấp công nhân và giai cấp nông dân thì đội ngũ trí thức có vai trò quan trọng nhất. Thuật ngữ “liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức” được Đảng ta dùng lần đầu tiên trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII (1991). Thuật ngữ này được sử dụng và phát triển trong các văn kiện đại hội của Đảng. Hiện nay, trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần IX, X, Đảng ta dùng thuật ngữ: liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức. Để cách mạng xã hội chủ nghĩa thắng lợi, liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức là một tất yếu, xuất phát từ các lý do sau: Xuất phát từ đòi hỏi của cách mạng xã hội chủ nghĩa. Cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa có nội dung khác về chất so với các cuộc cách mạng xã hội từng có trong lịch sử, nó đòi hỏi sự tham gia tự giác của hàng chục triệu quần chúng được giác ngộ. Trong cuộc cách mạng này, đòi hỏi giai cấp công nhân không những phải phát huy vai trò là giai cấp lao động trung tâm, mà 1 .I.Lênin, Toàn tập, tập 38, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva 1977, tr.57.
- còn phải giành được sự đồng tâm, hiệp lực cao của nông dân và trí thức, tạo thành sức mạnh tổng hợp vật chất và tinh thần cho cách mạng. Điều này đặc biệt quan trọng đối với một nước nông nghiệp lạc hậu, nông dân chiếm đa số của dân cư đi lên chủ nghĩa xã hội. Trong quá trình đó, việc gắn nông nghiệp với công nghiệp với khoa học công nghệ trong một cơ cấu kinh tế quốc dân thống nhất là một đòi hỏi khách quan mà bất kỳ nước nông nghiệp nào muốn tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội. Do nhu cầu lợi ích đặt ra cho từng giai tầng xã hội. Nói nhu cầu lợi ích chính là nói đến những đòi hỏi khách quan cần được thoả mãn để các giai tầng tồn tại và phát triển. Trong giai đoạn đấu tranh giành chính quyền là nhu cầu tất yếu phải dựa vào nhau đấu tranh lật đổ giai cấp thống trị, xoá bỏ áp bức bóc lột. Trong giai đoạn xây dựng chủ nghĩa xã hội nhu cầu liên minh công nhân, nông dân, trí thức có bước phát triển mới. Đó là nhu cầu hợp tác cùng nhau xây dựng và bảo vệ chế độ xã hội mới vì lợi ích của các giai tầng xã hội. Giai cấp công nhân chỉ có thể làm tròn sứ mệnh lịch sử của mình nếu tập hợp liên minh được với số đông, tiêu biểu là nông dân và trí thức. Ngược lại, giai cấp nông dân và trí thức tìm thấy ở giai cấp công nhân đồng minh quan trọng có ý nghĩa quyết định nhất để thực hiện nhu cầu giải phóng của mình. Nếu không có sự lãnh đạo, dìu dắt của giai cấp công nhân thì mọi tiềm năng, lợi ích của nông dân và trí thức không thể được thực hiện và phát huy tốt nhất. Như vậy, ba lực lượng chính trị xã hội là giai cấp công nhân- giai cấp nông dân- đội ngũ trí thức không thể tách rời nhau trong quá trình cách mạng xã hội chủ nghĩa. Để xây dựng và phát triển liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, điều có ý nghĩa quyết định là phải đặt khối liên minh này dưới sự lãnh đạo của Đảng tiên phong của giai cấp công nhân. Đối với cách mạng Việt Nam, tính tất yếu và sự cần thiết khách quan của liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức còn xuất phát từ truyền thống lâu đời của tinh thần dân tộc, tinh thần yêu nước thương nòi; truyền đoàn kết dân tộc để dựng nước và giữ nước hàng ngàn năm của dân tộc Việt Nam. Đỉnh cao của truyền thống đó thể hiện ở thời đại Hồ Chí Minh. Bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức ở nước ta là sự kế tục và phát triển tất yếu của liên minh đó từ giai đoạn cách mạng đấu tranh giành chính quyền, với những yêu cầu,
- nội dung và hình thức mới. Khối liên minh này đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, thực hiện đường lối cách mạng nhất quán là: Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. 3. Những nội dung cơ bản của liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội a. Nội dung chính trị của liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức Nhu cầu và lợi ích chính trị cơ bản nhất của giai cấp công nhân, giai cấp nông dân, đội ngũ trí thức có sự thống nhất với nhau và phù hợp với lợi ích của toàn thể nhân dân lao động và của dân tộc. Đó là: được hoàn toàn giải phóng khỏi chế độ tư hữu, áp bức, bóc lột, bất công; làm chủ xã hội thông qua nhà nước của dân, do dân và vì dân đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Thực tế lịch sử nói lên rằng bản chất chính trị- tư tưởng của giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và trí thức tuy có những khác biệt và mâu thuẫn nhưng không đối kháng. Khi thực hiện liên minh không thể kết hợp các lợi ích trong lĩnh vực chính trị tư tưởng bằng cách dung hoà các lập trường, quan điểm chính trị của các giai tầng khác nhau mà có thể giải phóng triệt để giai cấp công nhân, giai cấp nông dân, đội ngũ trí thức và nhân dân lao động. Chỉ có liên minh trên cơ sở lập trường chính trị của giai cấp công nhân, hệ tư tưởng Mác - Lênin thì mới có thể kết hợp đúng đắn các lợi ích và thực hiện lợi ích chính trị cơ bản nhất của giai cấp công nhân, giai cấp nông dân, đội ngũ trí thức và của cả dân tộc. Chính vì vậy, trong quá trình lãnh đạo khối liên minh, Đảng của giai cấp công nhân phải luôn luôn có lập trường tư tưởng chính trị đúng đắn và kiên định, phát hiện kịp thời những biểu hiện mâu thuẫn, những lệch lạc về chính trị, tư tưởng trong giai cấp công nhân, giai cấp nông dân, đội ngũ trí thức... để uốn nắn kịp thời, tránh để liên minh đi chệch hướng mục tiêu chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản. Liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức ở Việt Nam là do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo theo lập trường chính trị - tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với liên minh xuất phát từ yêu cầu khách quan của quá trình thực hiện các lợi ích cơ bản của giai cấp công nhân, giai cấp nông dân, đội ngũ trí thức và của cả dân tộc, là một nội dung chính trị có tính nguyên tắc, mang ý nghĩa là điều kiện quyết định trước tiên của liên minh. Nội dung chính trị của liên minh
- giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức là bộ phận trọng yếu của nội dung, phương thức đổi mới và từng bước hoàn thiện cả hệ thống chính trị và nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Trong đó, liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức phải thể hiện rõ là lực lượng nòng cốt của mặt trận Tổ quốc, là nền tảng vững chắc của Nhà nước đang từng bước được củng cố, phát triển và hoàn thiện theo hướng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, nhà nước của dân, do dân, vì dân. Trong mối quan hệ chung của hệ thống chính trị trên cả nước, dưới góc độ liên minh, cần cụ thể hoá về đổi mới nội dung, cơ cấu tổ chức, phương thức hoạt động của hệ thống chính trị trong các xí nghiệp công nghiệp, trong các tổ chức cơ sở nông thôn và trong các tổ chức chính trị xã hội của đội ngũ trí thức. Chỉ qua đây, bản thân giai cấp công nhân, giai cấp nông dân, đội ngũ trí thức mới có sự biến chuyển tích cực, văn minh, hiện đại theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Khi giai cấp công nhân, giai cấp nông dân, đội ngũ trí thức và cả liên minh đều trưởng thành thì sẽ phát huy một cách vững chắc ở trình độ cao hơn, vai trò làm đội quân chủ lực trực tiếp bảo vệ Tổ quốc độc lập thống nhất, bảo vệ và phát huy những thành quả cách mạng, bảo vệ Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa đang ngày càng được hoàn thiện. b. Nội dung kinh tế của liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức Đây là nội dung liên minh cơ bản nhất. Sự liên minh đó trước hết là ở việc các giai cấp và tầng lớp có quyền sở hữu và sử dụng các tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội và tài nguyên của đất nước để phục vụ cho lợi ích và cuộc sống của chính họ. Nội dung liên minh về kinh tế còn thể hiện ở quan hệ quản lý và phát triển nền kinh tế cũng như trong quan hệ phân phối sản phẩm xã hội. Về thực chất nội dung kinh tế của liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức là quá trình kết hợp các lợi ích kinh tế thông qua hai khâu rất cơ bản: - Phát hiện các nhu cầu kinh tế đã nảy sinh của giai cấp công nhân, giai cấp nông dân, đội ngũ trí thức và của toàn xã hội trong từng chặng đường, bước đi của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đặc biệt là trong điều kiện kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
- - Các chủ thể chủ động trong các hoạt động kinh tế để thoả mãn một cách tối ưu những nhu cầu kinh tế của mình trong những điều kiện rất cụ thể. Trong sự chủ động hoạt động kinh tế đó, chủ thể nhà nước vừa là một chủ thể hoạt động kinh tế, vừa có vai trò quản lý hành lang pháp lý và điều tiết những hoạt động kinh tế. Cả hai khâu trên nếu được thực hiện đúng thì mới là kết hợp đúng đắn các lợi ích kinh tế của giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức và toàn xã hội. Nếu một trong hai khâu mắc sai lầm thì các lợi ích của chủ thể sẽ mâu thuẫn với nhau làm mất ổn định, rối loạn, đổ vỡ chế độ xã hội chủ nghĩa. c. Nội dung văn hoá - xã hội của liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức Mọi nội dung chính trị, kinh tế của liên minh đều hướng vào những mục tiêu xã hội, đó là phục vụ việc đáp ứng ngày càng tốt hơn những nhu cầu vật chất và tinh thần của mọi giai tầng trong xã hội. Đối với nội dung văn hoá- xã hội của liên minh cần tập trung làm tốt một số vấn đề: Từng bước khắc phục sự tăng khoảng cách phân hoá giàu nghèo trong giai cấp công nhân, giai cấp nông dân, đội ngũ trí thức và xã hội với phương châm: vừa khuyến khích làm giàu hợp pháp luật, vừa xoá đói giảm nghèo chủ yếu từ việc tạo điều kiện cho mọi người trong xã hội có cơ hội vươn lên. Có chương trình, chính sách, cơ chế và giải pháp cụ thể về giải quyết việc làm cho các giai tầng và các nhóm xã hội, nhất là đối với thanh niên, học sinh, bộ đội hoàn thành nghĩa vụ… Từng bước nâng cao dân trí cho toàn dân. Trên cơ sở phát triển kinh tế mà từng bước nâng cao điều kiện ăn, ở, đi lại, y tế, giáo dục, văn nghệ, thể dục thể thao và đấu tranh loại trừ dần tệ nạn quan liêu tham nhũng mất dân chủ, những hủ tục ở nông thôn . Việc quy hoạch và phát triển công nghiệp đô thị phải gắn với quy hoạch và phát triển nông thôn mới. Đây là một vấn đề xã hội mà nhà nước cần có những chính sách cụ thể để tập trung đầu tư cho nông dân - nông nghiệp - nông thôn theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn. d. Nội dung quân sự của liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức
- Nội dung liên minh này được thể hiện ở việc giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức cùng nhau tham gia xây dựng nền quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, quân đội nhân dân và tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc khi bị xâm lược. Sự liên minh này không chỉ đáp ứng lợi ích về chính trị là được sống trong một xã hội hoà bình, ấm no, tự do, hạnh phúc, mà còn đáp ứng về lợi ích kinh tế là sự phát triển dân giàu, nước mạnh của cả giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức. Nội dung liên minh về quân sự được thể hiện cả bằng lực lượng con người, cả cơ sở vật chất và trang bị kỹ thuật, cả về việc hoạch định các chiến lược quân sự và phát triển nghệ thuật quân sự. Các nội dung liên minh tồn tại trong mối quan hệ thống nhất biện chứng. Mỗi một nội dung có vị trí, vai trò khác nhau trong quá trình thực hiện khối liên minh. Trong các nội dung đó thì nội dung kinh tế là cơ sở, nền tảng, nội dung chính trị là định hướng cơ bản, quyết định bản chất, nội dung văn hoá- xã hội và nội dung quân sự có ý nghĩa quan trọng bảo đảm độ bền vững của khối liên minh công- nông và trí thức trong cách mạng xã hội chủ nghĩa . II. NHỮNG GIẢI PHÁP CƠ BẢN NHẰM CỦNG CỐ VÀ TĂNG CƯỜNG LIÊN MINH GIỮA GIAI CẤP CÔNG NHÂN VỚI GIAI CẤP NÔNG DÂN VÀ ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC TRONG XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI 1. Xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa vững mạnh Xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa thật sự vững mạnh là phương hướng hàng đầu có vai trò quyết định đến việc củng cố, tăng cường khối liên minh trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa là thành quả cách mạng của nhân dân lao động mà nền tảng xã hội của nó là sự liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức. Việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa có tác động mạnh mẽ đến việc củng cố, tăng cường khối liên minh trước hết và chủ yếu là ở tính định hướng lập trường giai cấp công nhân cũng như cơ chế, nội dung, những điều kiện vật chất, tinh thần để đảm bảo cho khối liên minh được thực hiện trong cải tạo và xây dựng chế độ mới. Thực tiễn quá trình củng cố, tăng cường khối liên minh cho thấy, không thể có sự đoàn kết, hợp tác liên minh chặt chẽ giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức khi mà tổ chức Đảng, cán bộ nhà nước yếu kém, mất dân chủ, tha hoá về lối sống và năng lực công tác
- yếu. Vì vậy, việc xây dựng hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa thực sự của dân, do dân, vì dân là điều kiện cơ bản nhất để củng cố và tăng cường sự liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Để có một hệ thống chính trị đáp ứng với yêu cầu đó, trước hết phải tăng cường sự lãnh đạo của Đảng tiền phong của giai cấp công nhân. Cùng với tăng cường sự lãnh đạo của Đảng phải nâng cao hiệu lực quản lý Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Hiệu lực quản lý nhà nước làm cho đường lối chính trị của Đảng Cộng sản được thể chể hoá, cụ thể hoá bằng các đạo luật, bằng các chính sách cụ thể đáp ứng yêu cầu nguyện vọng chính đáng của các giai tầng xã hội. Đảng tiên phong của giai cấp công nhân và nhà nước xã hội chủ nghĩa là người đại diện cho giai cấp công nhân về mặt chính trị và tổ chức. Vì vậy, sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, hiệu lực quản lý cao của nhà nước là sự đảm bảo chắc chắn có sức thuyết phục nhất về vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân trong quá trình củng cố khối liên minh với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức. Như vậy, xây dựng hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa thực sự vững mạnh, có chất lượng cao là giải pháp hàng đầu có vai trò quyết định đối với việc củng cố tăng cường khối liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. 2- Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là cơ sở kinh tế của liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức. Đây là điều kiện, con đường cơ bản và chủ yếu nhất để phát triển giai cấp công nhân về cả số lượng và chất lượng. Đó cũng là những tiền đề và điều kiện có tính quyết định để cải tạo nền nông nghiệp lạc hậu, đưa nông nghiệp lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá vừa tạo điều kiện, vừa đòi hỏi trí thức ngày càng tham gia đóng góp nhiều trí tuệ để phát triển nền nông nghiệp hiện đại, một nền khoa học - công nghệ tiên tiến. Đẩy mạnh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước nhằm phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất, trên cơ sở đó từng bước hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, góp phần cải thiện, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân lao động, đó là “chất keo” kinh tế tạo nên sự kết dính tốt nhất để củng cố,
- tăng cường khối liên minh. Để đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước góp phần củng cố, tăng cường khối liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, đòi hỏi trong xây dựng đường lối, chính sách của Đảng và nhà nước xã hội chủ nghĩa cần có chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đúng đắn, từng bước công nghiệp hoá, hiện đại hoá để xây dựng cơ cấu kinh tế mới: công - nông nghiệp - dịch vụ hiện đại. Mặt khác, tạo điều kiện, môi trường pháp lý để các ngành, các bộ phận trong cơ cấu kinh tế hỗ trợ, thúc đẩy nhau cùng phát triển. Đối với Việt Nam, đất nước bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở một điểm xuất phát thấp, lại bị chiến tranh tàn phá nặng nề, do đó, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước trở thành một yêu cầu bức thiết, không những đáp ứng đòi hỏi xây dựng nền kinh tế vững mạnh mà còn đáp ứng yêu cầu xây dựng, tăng cường khối liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức ngày càng phát triển. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng Cộng sản Việt Nam đã chỉ rõ: “Chúng ta tranh thủ các cơ hội thuận lợi do bối cảnh quốc tế tạo ra và tiềm năng, lợi thế của nước ta để rút ngắn quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa gắn với phát triển kinh tế tri thức”1. Hiện nay, Đảng và Nhà nước ta chủ trương đẩy mạnh hơn nữa công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn, giải quyết đồng bộ các vấn đề nông nghiệp, nông thôn và nông dân. Khuyến khích phát triển các ngành công nghiệp công nghệ cao, công nghiệp chế tác, công nghiệp phần mềm và công nghiệp hỗ trợ có lợi thế cạnh tranh, tạo nhiều sản phẩm xuất khẩu và thu hút nhiều lao động. Tạo điều kiện để các thành phần kinh tế tham gia phát triển sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu, sản xuất tư liệu sản xuất quan trọng theo hướng hiện đại; ưu tiên thu hút đầu tư của các tập đoàn kinh tế và các công ty xuyên quốc gia. Mặt khác, chúng ta có chính sách khuyến khích thu hút vốn trong và ngoài nước đầu tư thực hiện một số dự án quan trọng về khai thác dầu khí, lọc dầu và hoá dầu, luyện kim, cơ khí chế tạo, hoá chất cơ bản, phân bón, vật liệu xây dựng, xây dựng các kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội. Để thực hiện tốt chủ trương của Đảng và Nhà nước, đòi hỏi phải tập trung sức người, cơ sở vật chất kỹ thuật, tinh thần nhiệt tình sáng tạo của cả giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức. Do đó, đây là môi
- trường thuận lợi để công nhân, nông dân, trí thức phát triển tài năng, cống hiến ngày càng nhiều cho đất nước. 3. Phát triển nền nông nghiệp hiện đại và xây dựng nông thôn mới Phát triển nền nông nghiệp hiện đại và xây dựng nông thôn mới vừa đáp ứng với yêu cầu và tạo tiền đề cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá, vừa đặt ra những đòi hỏi khách quan đối với chính nền công nghiệp. Đồng thời, đáp ứng với lợi ích của giai cấp công nhân trong việc thực hiện mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội của mình, và thoả mãn nguyện vọng của giai cấp nông dân là thoát khỏi cảnh nghèo nàn và lạc hậu. Mặt khác, phát triển nền nông nghiệp hiện đại và xây dựng nông thôn mới cũng là điều kiện và tiền đề quan trọng làm cho quan hệ giữa đội ngũ trí thức với giai cấp nông dân và giai cấp công nhân ngày càng gắn bó hơn, tạo điều kiện để từng bước xoá bỏ sự cách biệt giữa nông thôn và thành thị. Khi đề cập vai trò của nền sản xuất nông nghiệp đối với việc giải phóng nông dân, Ph.Ăngghen đã chỉ rõ: “Điều chủ yếu cũng là phải làm cho nông dân hiểu rằng chúng ta chỉ có thể cứu vãn và bảo tồn được tài sản của họ bằng cách biến tài sản đó thành tài sản hợp tác xã và thành những doanh nghiệp hợp tác xã”1. Đối với nước ta hiện nay, đường lối nhất quán của Đảng ta là: “Phát triển toàn diện nông nghiệp…”, “giải quyết đồng bộ các vấn đề nông nghiệp, nông thôn và nông dân”2. Theo quan điểm đó, chúng ta phải chuyển dịch mạnh cơ cấu nông nghiệp và kinh tế nông thôn theo hướng tạo ra giá trị gia tăng ngày càng cao, gắn với công nghiệp chế biến và thị trường, thực hiện cơ khí hoá, điện khí hoá, thuỷ lợi hoá, đưa nhanh tiến bộ khoa học- kỹ thuật và công nghệ sinh học vào sản xuất, nâng cao năng suất, chất lượng và sức cạnh tranh phù hợp với đặc điểm từng vùng, từng địa phương. Khẩn trương xây dựng quy hoạch phát triển nông thôn và thực hiện chương trình xây dựng nông thôn mới có môi trường lành mạnh, hình thành các khu dân cư đô thị hoá với kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội đồng bộ. Không ngừng nâng cao trình độ dân trí, chuyển dịch cơ cấu lao động ở nông thôn theo hướng giảm tỷ trọng lao động làm nông nghiệp, tăng tỷ trọng lao động làm công nghiệp và dịch vụ. Tạo điều kiện để lao động nông thôn có việc làm trong và ngoài khu 1 Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 40. 1 C.Mác, Ph.Ăng ghen, Toàn tập, tập 22, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 1995, tr. 737. 2 Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 2006, tr. 29.
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học (Dùng cho các trường đại học, cao đẳng)
0 p | 6680 | 607
-
Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học - GS. TS. Đỗ Nguyên Phương, TS. Nguyễn Viết Thông (đồng chủ biên)
179 p | 1333 | 520
-
Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học - GS.TS. Đỗ Nguyên Phương, TS. Nguyễn Viết Thông
180 p | 1190 | 193
-
Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học (Dành cho bậc Đại học không chuyên Lý luận Chính trị)
65 p | 500 | 69
-
Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học (Chủ biên: TS. Hoàng Chí Bảo)
144 p | 180 | 34
-
Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học - Nguyễn Viết Thông
170 p | 127 | 34
-
Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học (dùng trong các trường đại học, cao đẳng)
179 p | 107 | 26
-
Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học: Chương X
10 p | 227 | 20
-
Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học: Phần 1
121 p | 54 | 18
-
Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học: Phần 2
152 p | 41 | 17
-
Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học (Dành cho bậc đại học hệ chuyên lý luận chính trị): Phần 2
168 p | 54 | 14
-
Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học: Phần 1 - GS. TS. Đỗ Nguyên Phương
278 p | 41 | 13
-
Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học (Dành cho bậc đại học hệ chuyên lý luận chính trị): Phần 1
199 p | 19 | 12
-
Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học: Phần 2 - GS. TS. Đỗ Nguyên Phương
283 p | 36 | 10
-
Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học: Chương VIII
12 p | 164 | 8
-
Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học: Chương IV
14 p | 143 | 7
-
Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học (Tập 2): Phần 2
100 p | 26 | 6
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn