
Xoắn Thừng Tinh Hoàn
A- Đại Cương
1- Bối cảnh :
Xoắn thừng tinh hoàn là một cấp cứu niệu khoa thực sự và cần được phân biệt
với các than phiền về đau tinh hoàn khác bởi vì sự chậm trễ trong chẩn đoán và xử trí
có thể dẫn đến mất tinh hoàn. Ở thiếu niên nam, xoắn tinh hoàn là nguyên nhân gây
mất tinh hoàn thường gặp nhất.
2- Sinh bệnh học
Tinh hoàn được bao bọc bởi màng bao tinh hoàn (tunica vaginalis), tạo một
khoảng trống lớn hơn ở 2/3 phía trước của tinh hoàn nơi các dịch từ nhiều nguồn khác
nhau có thể dồn đến. Màng bao tinh hoàn dính vào mặt sau ngoài của tinh hoàn, khiến
tinh hoàn ít khả năng di chuyển trong bìu.
Ở những bệnh nhân có màng bao tinh hoàn dính cao bất thường, tinh hoàn có
thể xoay tự do trên thừng tinh trong màng bao tinh hoàn (xoắn tinh hoàn trong màng
bao=intravaginal testicular torsion). Bất thường bẩm sinh này, gọi là dấu hiệu bất
thường của quả lắc chuông (the bell clapper deformity) dẫn đến trục dài của tinh hoàn
nằm ngang thay vì theo trục thẳng của cơ thể.
Bất thường bẩm sinh này hiện diện ở khoảng 12% đàn ông, 40% trong số đó có
luôn bất thường này ở tinh hoàn bên kia. Bất thường quả lắc chuông (the bell clapper
deformity) khiến tinh hoàn xoay trên thừng tinh, gây tắc tĩnh mạch và tụ máu, với hệ
quả là thiếu máu động mạch và hoại tử tinh hoàn. Các bằng chứng thực nghiệm cho
thấy cần xoắn 720° để gây rối loạn lưu lượng máu ở động mạch tinh hoàn và dẫn đến
thiếu máu.

Ở trẻ sơ sinh, tinh hoàn thường chưa xuống đến bìu, nơi nó sẽ dính với màng
bao tinh hoàn. Tính di động lúc này của tinh hoàn khiến nó dễ bị xoắn (xoắn tinh hoàn
ngoài màng bao=extravaginal testicular torsion). Ngoài ra, tinh hoàn không dính đầy
đủ với thành của bìu thường xảy ra ở 7-10 ngày đầu tiên của cuộc sống.
3- Tần Xuất
Ở Mỹ
Tần xuất xoắn thừng tinh hoàn ở người dưới 25 tuổi khoảng 1/4000. Tinh hoàn
trái thường bị xoắn nhiều hơn. Đối với trường hợp xoắn thừng tinh hoàn ở trẻ sơ sinh,
70% xảy ra trước khi sanh và 30% sau khi sanh.
4- Tử vong/Bệnh Tật
Cấp cứu niệu khoa này cần được chẩn đoán nhanh chóng, chuyển ngay đến
khoa niệu và khẩn trương điều trị để cứu sống tinh hoàn. Tỉ lệ cứu sống 100% gặp ở
những bệnh nhân được tháo xoắn trong vòng 6 giờ kể từ lúc đau; 20% nếu sau 12 giờ;
và 0% sống sót nếu tháo xoắn tiến hành sau 24 giờ.
5- Giới Tính
Xoắn thừng tinh hoàn chỉ xảy ra ở đàn ông.
6- Tuổi Tác
Xoắn thừng tinh hoàn thường xảy ra ở người dưới 30 tuổi, cao nhất trong
khoảng 12-18 tuổi. Đỉnh điểm ở 14 tuổi, mặc dù một đỉnh điểm phụ thấp hơn có thể
xảy ra trong năm đầu tiên của cuộc đời.
B- LÂM SÀNG
1- Bệnh Sử
Đau nghiêm trọng xảy ra cấp tính ở một bên bìu.

50% bịnh nhân có tiền sử những đợt đau tinh hoàn gián cách trước đây sau đó
tự khỏi (xoắn và tự tháo xoắn).
Đau có thể khởi phát chậm hơn, nhưng không điển hình cho cơn đau do xoắn
tinh hoàn.
Xoắn có thể xảy ra trong lúc đang làm việc, có liên quan đến chấn thương, hoặc
xảy ra trong khi ngủ và có những biểu hiện sau:
Sưng bìu
Buồn nôn và nôn (20-30%)
Đau bụng (20-30%)
Sốt (16%)
Tiểu lắt nhắt (4%)
2- Lâm Sàng
Đau tinh hoàn khi nắn; vị trí cao hơn tinh hoàn bên kia
Tinh hoàn nằm ngang
Sưng phù tinh hoàn; phù toàn bộ bìu
Bìu sung huyết đỏ
Mất phản xạ thừng tinh cùng bên
Thường không bớt đau khi nâng bìu, (nâng bìu có thể giảm đau khi viêm mào
tinh hoàn = dấu hiệu Prehn)
Sốt (không thường xuyên)
3- Nguyên Nhân

Bất thường bẩm sinh; bất thường quả lắc chuông (bell clapper deformity)
Tinh hoàn không xuống bìu đầy đủ
Hoạt động thường ngày, sinh hoạt tình dục
Chấn thương
Tập luyện thể lực
Phản xạ thừng tinh
Khí hậu lạnh
C- CHẨN ĐOÁN PHÂN BIỆT
- Viêm ruột thừa cấp
- Viêm mào tinh hoàn
- Hoại tử Fournier
- Thoát vị
- Tràn dịch màng tinh hoàn
- Viêm tinh hoàn
- Viêm ruột thừa trẻ em
Các vấn đề khác
- Vỡ tinh hoàn do chấn thương
- Tụ máu tinh hoàn do chấn thương
- Xoắn các phần phụ của tinh hoàn

D- XÉT NGHIỆM
1- Phòng Xét Nghiệm
Tổng phân tích nước tiểu
Thường là bình thường.
Hiện diện của bạch cầu ở 30% bịnh nhân có xoắn tinh hoàn; do đó không nên
dựa trên bạch cầu để loại trừ chẩn đoán.
Công Thức Máu: CTM bình thường hoặc tăng bạch cầu có khi đến 60% số bịnh
nhân xoắn tinh hoàn.
Các proteins giai đoạn cấp (C-reactive protein =CRP): Tăng proteins giai đoạn
cấp CRP, được dùng để phân biệt bịnh lý viêm (viêm mào tinh hoàn=epididymitis) với
các nguyên nhân không viêm (xoắn tinh hoàn=testicular torsion) đối với một trường
hợp đau ở bìu. Tuy nhiên kết quả còn đang tiếp tục được đánh giá vì cỡ mẫu nghiên
cứu chưa đủ lớn để mang tính thuyết phục.
2- Chẩn Đoán Hình Ảnh
Chẩn đoán xoắn thừng tinh hoàn là một chẩn đoán lâm sàng. Chẩn đoán hình
ảnh thường không cần thiết. Việc chỉ định chúng làm tốn kém thời gian quí giá khi
việc điều trị cơ bản là phẫu thuật.
Nếu chẩn đoán không chắc chắn, có thể dùng scan phóng xạ (radionuclide
scans) 2 tinh hoàn để đánh giá lưu lượng máu đến và phân biệt xoắn với các nguyên
nhân khác.
Scan bất thường ở xoắn thừng tinh hoàn khi nó chứng minh được có giảm hấp
thu ở tinh hoàn bị tổn thương, gợi ý cho thấy không có máu đến bên xoắn.
Scan phóng xạ (Radionuclide scans) có độ chính xác đến 90-100% để phát hiện
lưu lượng máu đến tinh hoàn.

