BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA

HỒ CHÍ MINH

HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN

NGÔ THỊ HƯƠNG

GIỮ GÌN VÀ PHÁT HUY BẢN SẮC VĂN HÓA CÁC DÂN

TỘC THIỂU SỐ VÙNG ĐÔNG BẮC

VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC

HÀ NỘI - 2019

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA

HỒ CHÍ MINH

HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN

NGÔ THỊ HƯƠNG

GIỮ GÌN VÀ PHÁT HUY BẢN SẮC VĂN HÓA CÁC DÂN

TỘC THIỂU SỐ VÙNG ĐÔNG BẮC

VIỆT NAM HIỆN NAY

CHUYÊN NGÀNH: TRIẾT HỌC

MÃ SỐ: 9229001

LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

1. GS, TS. Nguyễn Văn Huyên

2. PGS, TS. Bùi Thị Thanh Hương

HÀ NỘI - 2019

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.

Các kết quả nghiên cứu trong luận án là trung thực, có nguồn gốc

xuất xứ rõ ràng và chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công

trình khoa học nào.

Tác giả luận án

Ngô Thị Hương

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1

1. Tính cấp thiết của đề tài ................................................................................ 1

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án............................................. 2

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................. 3

4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu ................................................... 3

5. Đóng góp mới của luận án ............................................................................ 5

6. Ý nghĩa của luận án ....................................................................................... 6

7. Kết cấu của luận án ....................................................................................... 6

Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN

ĐẾN ĐỀ TÀI VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI LUẬN ÁN ........ 7

1.1. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án .............................. 7

1.1.1. Nghiên cứu về văn hóa, bản sắc văn hóa, bản sắc văn hóa các

dân tộc thiểu số .............................................................................................. 7

1.1.2. Nghiên cứu về giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc

thiểu số vùng Đông Bắc .............................................................................. 23

1.2. Đánh giá tình hình nghiên cứu và những vấn đề đặt ra đối với luận án ....... 27

Tiểu kết chương 1 .......................................................................................... 31

Chương 2: LÝ LUẬN VỀ GIỮ GÌN VÀ PHÁT HUY BẢN SẮC VĂN

HÓA CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ VÙNG ĐÔNG BẮC VIỆT NAM ..... 32

2.1. Bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số .................................................... 32

2.1.1. Văn hóa và bản sắc văn hóa .............................................................. 32

2.1.2. Những vấn đề cơ bản của bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số .............. 42

2.2. Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số vùng

Đông Bắc ........................................................................................................ 45

2.2.1. Bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số vùng Đông Bắc ...................... 45

2.2.2. Thực chất của việc giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số

vùng Đông Bắc ............................................................................................... 67

2.3. Những yếu tố tác động đến việc giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa

các dân tộc thiểu số. ...................................................................................... 77

Tiểu kết chương 2 .......................................................................................... 81

Chương 3: THỰC TRẠNG GIỮ GÌN VÀ PHÁT HUY BẢN SẮC VĂN

HÓA CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ VÙNG ĐÔNG BẮC VIỆT NAM ........... 82

3.1. Thành tựu của giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc

thiểu số vùng Đông Bắc................................................................................. 82

3.1.1. Thành tựu của việc giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa vật thể .......... 83

3.1.2. Thành tựu của việc giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa phi

vật thể .......................................................................................................... 88

3.2. Hạn chế của giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số

vùng Đông Bắc ................................................................................................ 95

3.2.1. Hạn chế của việc giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa vật thể ............. 95

3.2.2. Hạn chế của việc giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa phi vật thể .... 99

3.3. Nguyên nhân và một số vấn đề đặt ra đối với việc giữ gìn và phát

huy bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số vùng Đông Bắc ...................... 105

3.3.1. Nguyên nhân của thực trạng giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa

các dân tộc thiểu số vùng Đông Bắc. ........................................................ 105

3.3.2. Một số vấn đề đặt ra ........................................................................ 120

Tiểu kết chương 3 .......................................................................................... 125

Chương 4: MỘT SỐ QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO

HIỆU QUẢ GIỮ GÌN VÀ PHÁT HUY BẢN SẮC VĂN HÓA CÁC

DÂN TỘC THIỂU SỐ VÙNG ĐÔNG BẮC VIỆT NAM ....................... 126

4.1. Một số quan điểm nâng cao hiệu quả giữ gìn và phát huy bản sắc

văn hóa các dân tộc thiểu số vùng Đông Bắc ............................................ 126

4.1.1. Giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số theo nguyên tắc

thống nhất trong đa dạng và tiên tiến hóa nền văn hóa Việt Nam ................... 126

4.1.2. Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số gắn với nâng

cao đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào ............................................ 129

4.1.3. Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số bằng

việc phát huy vai trò chủ thể của đồng bào dân tộc thiểu số .................... 131

4.2. Những giải pháp chủ yếu nâng cao hiệu quả giữ gìn và phát huy

bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số vùng Đông Bắc .............................. 134

4.2.1. Nâng cao chất lượng và đa dạng hóa hình thức, nội dung giáo dục,

tuyên truyền về việc giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số ... 134

4.2.2. Xây dựng đội ngũ làm công tác văn hóa đáp ứng yêu cầu giữ gìn,

phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số .......................................... 140

4.2.3. Đầu tư một cách cân xứng, hài hòa giữa nguồn lực kinh tế và

nguồn lực phát triển văn hóa ..................................................................... 142

4.2.4. Nâng cao trình độ, năng lực của đồng bào các dân tộc thiểu số với tư

cách là chủ thể của giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa của dân tộc mình ......... 145

Tiểu kết chương 4 .......................................................................................... 149

KẾT LUẬN .................................................................................................. 150

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 153

PHỤ LỤC

DANH MỤC CÁC CỤM TỪ VIẾT TẮT

VH : Văn hóa

VHDT : Văn hóa dân tộc

BSVH : Bản sắc văn hóa

BSVHDT : Bản sắc văn hóa dân tộc

DT : Dân tộc

BSDT : Bản sắc dân tộc

DTTS : Dân tộc thiểu số

1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

VH tạo nên diện mạo đặc thù của mỗi một DT. Khi nhắc đến một DT

nào người ta thường nghĩ đến nền VH của DT đó, cũng như muốn tìm hiểu một

DT nào, cách tốt nhất là tìm hiểu nền VH của họ, vì nó là hồn cốt của DT, là nét đặc

trưng căn bản để phân biệt DT này với DT khác. BSVH của mỗi DT chính là cái

cốt lõi, đặc trưng, bản chất nhất của VHDT, nó là bản chất, linh hồn, cốt cách, bản

lĩnh của một DT. Do đó, giữ được BSVH thì DT còn, mất BSVH thì có thể DT đó

mất vĩnh viễn.

Chính vì vậy Đảng Cộng sản Việt Nam luôn chủ trương xây dựng nền VH

Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc DT - thực chất, đó là xây dựng, phát triển, giữ

gìn BSDT Việt Nam, trong đó có BSVH các DT.

Ngày nay, xã hội hiện đại với toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế, phát triển khoa

học - công nghệ, kinh tế thị trường... đang tác động nhiều tới BSVHDT nói chung,

BSVH tộc người nói riêng. BSVH các DTTS cũng đang đứng trước những thách

thức, có nguy cơ mai một, lệch lạc, mờ nhạt... Nhiều yếu tố không lành mạnh thâm

nhập vào nhận thức và cuộc sống vốn trong lành của đồng bào các DTTS, tạo nên

sự lai tạp trong cách nghĩ, lối sống của đồng bào, có xu hướng làm mờ nhạt và mất

đi BSVH truyền thống vốn có của các DTTS.

Vùng Đông Bắc Việt Nam là vùng đất sinh sống của hơn hai mươi DT, chủ

yếu là các DTTS không nằm ngoài xu thế chung của cả nước. BSVH của đồng bào

các DTTS nơi đây vô cùng phong phú, đa dạng về các sắc thái biểu hiện thông qua

các giá trị VH vật thể và VH phi vật thể nhưng đều chứa đựng những giá trị VH đặc

trưng, cốt lõi tồn tại lâu đời trong lịch sử như tinh thần đoàn kết, gắn bó, giúp đỡ lẫn

nhau; lối sống giản dị, mộc mạc, chân tình, hài hòa với con người, với thiên nhiên

núi rừng Đông Bắc; sự sáng tạo, cần cù, chịu khó trong lao động, sự thích ứng cao

với thiên nhiên có phần khắc nghiệt và luôn biết cách đảm bảo sự cân bằng tâm lý...

Những giá trị VH này đã tạo nên cốt cách, bản lĩnh của cả cộng đồng các DTTS

vùng Đông Bắc, giúp cho đồng bào tồn tại, phát triển bền vững trong lịch sử. Bối

2

cảnh và các điều kiện của toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, nhất là quá trình phát

triển kinh tế thị trường và xây dựng xã hội hiện đại ở nước ta hiện nay, một mặt đã

tạo ra những điều kiện thuận lợi cho đồng bào các DTTS tiếp tục duy trì, tồn tại,

phát triển các giá trị VH theo hướng hiện đại, mặt khác cũng làm cho các giá

trị VH đó bị pha tạp, biến đổi thậm chí mai một, mất dần BSVHDT như một

thách thức lớn.

Tình hình đó đang đặt ra vấn đề bức xúc hiện nay là làm thế nào để hội nhập

quốc tế và phát triển kinh tế thị trường, xây dựng xã hội hiện đại để phát triển nhanh

mà vẫn giữ gìn và phát huy được BSVH các DTTS; làm thế nào để giữ gìn, phát huy

BSVH các DTTS vùng Đông Bắc một cách hiệu quả để biến sức mạnh VH vùng

Đông Bắc vào sức mạnh chung của sự phát triển đất nước; giải pháp nào để có thể

nâng cao hiệu quả việc giữ gìn và phát huy BSVH các DTTS vùng Đông Bắc góp

phần đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới? Vấn đề này có ý nghĩa thiết thực đối

với sự phát triển vùng Đông Bắc nói riêng và cả nước nói chung, bởi “VH thực sự là

nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng đảm bảo sự

phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc”[34]. Với lý do đó, nghiên cứu sinh

chọn vấn đề “Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số vùng

Đông Bắc Việt Nam hiện nay” làm đề tài luận án Tiến sĩ triết học của mình.

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án

- Mục đích của luận án

Trên cơ sở lý luận về giữ gìn và phát huy BSVH, luận án phân tích để làm rõ

thực trạng của việc giữ gìn, phát huy BSVH các DTTS vùng Đông Bắc Việt Nam

hiện nay; từ đó đưa ra một số quan điểm và các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả

của việc giữ gìn và phát huy BSVH các DTTS ở đây.

- Nhiệm vụ nghiên cứu

+ Khái quát tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài và xác định

những vấn đề luận án cần tiếp tục giải quyết.

+ Phân tích làm rõ những vấn đề lý luận về BSVH các DTTS và việc

giữ gìn, phát huy BSVH các DTTS vùng Đông Bắc Việt Nam.

3

+ Phân tích làm rõ thực trạng của việc giữ gìn, phát huy BSVH các

DTTS vùng Đông Bắc Việt Nam hiện nay, chỉ ra nguyên nhân của thực trạng

đó và xác định những vấn đề đặt ra đối với việc giữ gìn và phát huy BSVH

các DTTS vùng Đông Bắc Việt Nam hiện nay.

+ Đề xuất quan điểm và một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả

của việc giữ gìn, phát huy BSVH các DTTS vùng Đông Bắc Việt Nam trong thời

gian tới.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

- Đối tượng nghiên cứu: Vấn đề giữ gìn và phát huy BSVH các DTTS

vùng Đông Bắc Việt Nam.

- Phạm vi nghiên cứu:

+ Luận án nghiên cứu việc giữ gìn và phát huy BSVH các DTTS vùng

Đông Bắc nước ta trong thời kỳ đổi mới, khi Việt Nam đẩy mạnh công nghiệp

hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế.

+ Vùng Đông Bắc theo sự phân chia của Tổng cục Thống kê gồm 10

tỉnh: Lạng Sơn, Cao Bằng, Hà Giang, Tuyên Quang, Thái Nguyên, Bắc Kạn, Yên

Bái, Lào Cai, Bắc Giang, Phú Thọ. Tuy nhiên, luận án chỉ nghiên cứu BSVH các

DTTS ở 6 tỉnh: Lạng Sơn, Cao Bằng, Hà Giang, Tuyên Quang, Thái Nguyên, Bắc

Kạn vì ở đó đậm nét các BSVH vùng này.

+ BSVH các DTTS vùng Đông Bắc được thể hiện hết sức đa dạng.

Trong khuôn khổ một luận án tiến sĩ, luận án chỉ tập trung nghiên cứu BSVH

đó ở một số khía cạnh của VH vật thể và VH phi vật thể; chủ thể, nội dung,

cách thức giữ gìn, phát huy BSVH các DTTS.

+ Trong các Văn kiện của Đảng và Nhà nước ta, thuật ngữ “dân tộc”

được sử dụng với cả nghĩa rộng để chỉ DT quốc gia (nation) và cả nghĩa hẹp

để chỉ tộc người (ethnic). Trong luận án này, thuật ngữ các DTTS được sử

dụng đồng nghĩa với khái niệm tộc người (ethnic) - tức là theo cách gọi chung

ở nước ta hiện nay.

4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

- Cơ sở lý luận.

4

Luận án được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin,

tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp

luật của Nhà nước về việc giữ gìn và phát huy BSVH các DTTS trong chiến

lược phát triển kinh tế - xã hội của cả nước nói chung, DTTS vùng Đông Bắc

nói riêng. Luận án kế thừa kết quả nghiên cứu của một số công trình khoa

học, tài liệu tổng kết thực tiễn của cơ quan Đảng, Nhà nước và địa phương

liên quan đến đề tài.

- Phương pháp nghiên cứu.

Luận án sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng, duy vật lịch sử

và các phương pháp nghiên cứu khoa học cụ thể như: lịch sử và logic, phân tích

và tổng hợp, quy nạp và diễn dịch, so sánh, lý luận gắn với thực tiễn, tham quan,

quan sát thực tế…, cụ thể:

Luận án sử dụng phương pháp luận biện chứng duy vật để nhìn nhận sự

vật, hiện tượng VH, BSVH vùng Đông Bắc ở trạng thái vận động, phát triển;

giữa các hiện tượng VH có mối quan hệ biện chứng với nhau; các sự vật, hiện

vật VH đều phải rất cụ thể và chúng tồn tại trong điều kiện lịch sử nhất định.

Phương pháp duy vật lịch sử được sử dụng để nghiên cứu các hiện tượng

VH, BSVH trong mối quan hệ với tồn tại xã hội và nó chịu sự tác động, quy

định bởi tồn tại xã hội.

Phương pháp kết hợp phân tích và tổng hợp được sử dụng để làm rõ các

khái niệm ở chương 2 như khái niệm VH, BSVH, BSVH các DTTS....

Các phương pháp phân tích - tổng hợp, lịch sử và logic, so sánh còn được

sử dụng trong việc đánh giá về thực trạng giữ gìn, phát huy BSVH các DTTS

vùng Đông Bắc hiện nay.

Phương pháp tham quan, quan sát thực tế các bảo tàng, các lễ hội, một số

địa bàn vùng đồng bào các DTTS sinh sống.

Luận án sử dụng tư liệu thực tế, thu thập thông tin, số liệu của các địa

phương vùng Đông Bắc, cụ thể số liệu của 6 tỉnh Lạng Sơn, Cao Bằng, Bắc Kạn,

5

Thái Nguyên, Hà Giang, Tuyên Quang để phân tích, khái quát thực trạng giữ

gìn, phát huy BSVH các DTTS ở đây.

5. Đóng góp mới của luận án

- Từ góc độ triết học, luận án đã tiếp cận, nghiên cứu VH, BSVH,

BSVH các DTTS vùng Đông Bắc không chỉ dưới dạng hình thức biểu hiện,

mà ở các tầng lớp bên trong của chúng, như phương thức sống và phương

thức lao động sáng tạo ra các giá trị VH. Trên cơ sở lý luận về giữ gìn, phát

huy BSVH, luận án đã khái quát được những vấn đề và những nội dung đặc

thù về việc giữ gìn, phát huy BSVH các DTTS vùng Đông Bắc nước ta.

- Luận án đã phân tích, làm rõ được trước sự phát triển của kinh tế - xã

hội, sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, sự nỗ lực của hệ thống chính trị ở cơ

sở cũng như sự chủ động, tích cực, tự giác của đồng bào các DTTS mà các giá

trị VH vật thể và các giá trị VH phi vật thể cơ bản vẫn tiếp tục được giữ gìn,

phát huy trong chính đời sống của đồng bào. Bên cạnh đó luận án cũng phân

tích, làm rõ được sự mai một, mất dần BSVH biểu hiện trong VH vật thể và

VH phi vật thể của đồng bào các DTTS trước tác động của kinh tế thị trường,

của toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế cũng như sự hạn chế về nhận thức, hoạt

động kém hiệu quả của các chủ thể trong việc giữ gìn, phát huy BSVH đó.

- Luận án đã đưa ra được một số quan điểm hợp lý cần được quán triệt sâu

sắc, đó là: Giữ gìn, phát huy BSVH các DTTS theo nguyên tắc thống nhất trong đa

dạng và tiên tiến hóa nền VH Việt Nam; gắn với nâng cao đời sống vật chất và tinh

thần của đồng bào; phát huy vai trò chủ thể của đồng bào. Trên cơ sở đó, luận án đã

đưa ra những giải pháp cụ thể, khả thi để nâng cao hiệu quả giữ gìn, phát huy

BSVH các DTTS vùng Đông Bắc trong bối cảnh và điều kiện hiện nay như là:

Nâng cao chất lượng và đa dạng hóa hình thức, nội dung giáo dục, tuyên truyền;

Xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác văn hóa đáp ứng yêu cầu giữ gìn, phát huy

bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số; Đầu tư một cách hài hòa, cân xứng giữa mục

tiêu phát triển kinh tế với mục tiêu phát triển văn hóa; Nâng cao trình độ, năng lực

của đồng bào các dân tộc thiểu số với tư cách là chủ thể giữ gìn, phát huy bản sắc

văn hóa của dân tộc mình.

6

6. Ý nghĩa của luận án

- Ý nghĩa lý luận:

+ Kết quả nghiên cứu của luận án góp phần làm phong phú và sâu hơn

lý luận về giữ gìn, phát huy BSVHDT, đặc biệt là của các DTTS vùng Đông

Bắc Việt Nam.

+ Cung cấp cơ sở khoa học cho công tác hoạch định chiến lược, chính

sách phát triển VH ở đồng bào các DTTS vùng Đông Bắc nước ta.

- Ý nghĩa thực tiễn:

Luận án là tài liệu tham khảo cho công tác nghiên cứu, giảng dạy và

học tập trong các cơ quan nghiên cứu chuyên ngành và các trường Đại học,

Cao đẳng ở nước ta.

7. Kết cấu của luận án

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, Luận án

được kết cấu thành 4 chương với 10 tiết.

7

Chương 1

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI

VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI LUẬN ÁN

1.1. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án

1.1.1. Nghiên cứu về văn hóa, bản sắc văn hóa, bản sắc văn hóa các

dân tộc thiểu số

* Tình hình nghiên cứu về VH

VH là lĩnh vực rộng lớn của xã hội, nó cũng là lĩnh vực khoa học cơ

bản của khoa học xã hội và nhân văn. Nghiên cứu về VH đã được đề cập từ

xa xưa trong lịch sử khoa học nhân loại. Cho đến ngày nay, VH vẫn là đề tài

vừa cơ bản vừa cấp thiết tiếp tục được các nhà khoa học, các nhà hoạt động

VH, các tổ chức quốc tế nghiên cứu, mổ xẻ dưới nhiều góc độ khác nhau.

Trước hết, nghiên cứu VH là nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản, chung

nhất, xác định bản chất, cấu trúc và đặc điểm của VH. Có thể kể đến một số

công trình tiêu biểu sau:

Công trình “Văn hóa nguyên thủy” của E.B.Tylor [151] đã quan niệm

VH là tổng thể phức hợp bao gồm tri thức, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức,

luật pháp, phong tục và bất cứ năng lực và tập quán nào được lĩnh hội bởi con

người với tư cách thành viên của xã hội.

Quan niệm về VH của Tylor như trên, thực chất chỉ đi vào một khía

cạnh của VH đó là các giá trị tinh thần, còn các giá trị vật chất không được

ông đề cập đến và nó nằm ngoài khái niệm VH.

Hội nghị thế giới về chính sách văn hóa do UNESCO tổ chức tại

Mexico từ ngày 26-7 đến ngày 6-8-1982 đã thông qua Tuyên bố chung, trong

đó nêu rõ bản chất của VH là tổng thể những nét nổi bật về tinh thần, vật chất,

trí tuệ và tình cảm đặc trưng cho một xã hội hay một nhóm xã hội. Nó không

chỉ gồm nghệ thuật và văn học mà còn cả lối sống, các quyền cơ bản của con

người, các hệ thống giá trị, truyền thống và tín ngưỡng.

8

Định nghĩa về VH của UNESCO năm 1982 đã trình bày một cách có hệ

thống và toàn diện các thành tố của VH theo nghĩa rộng nhất của nó. Quán

triệt tinh thần cơ bản trên, nhân dịp phát động Thập kỷ thế giới phát triển văn

hóa (1988-1997) trên phạm vi toàn cầu, ngài Tổng giám đốc UNESCO

Federico Mayor đã nhấn mạnh thêm rằng: “VH là tổng thể sống động các hoạt

động sáng tạo trong quá khứ và trong hiện tại. Qua các thế kỷ, hoạt động sáng

tạo ấy đã hình thành nên một hệ thống các giá trị, các truyền thống và các thị hiếu -

những yếu tố xác định đặc tính riêng của DT....”[90; 33,34]. Quan điểm của ngài

Mayor thể hiện rõ bản chất của VH là hoạt động sáng tạo của con người tạo ra các

giá trị, và nó làm nên đặc tính riêng của các DT để phân biệt DT này với DT khác.

Như vậy, các nhà khoa học, các nhà hoạt động VH, các tổ chức quốc tế

đã nhận diện VH ở các góc độ khác nhau, qua đó vấn đề bản chất của VH

được bộc lộ. Có công trình tiếp cận VH theo nghĩa hẹp, chỉ bao gồm các giá

trị tinh thần, có công trình tiếp cận VH theo nghĩa rộng, bao gồm cả các hoạt

động sáng tạo của con người và kết quả của hoạt động sáng tạo đó là các giá

trị vật chất và tinh thần.

Trong định nghĩa VH của mình, Hồ Chí Minh cũng đã chỉ ra các thành tố

chủ yếu tạo nên VH đó là ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn

giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ sinh hoạt hàng ngày về ăn, mặc, ở và các

phương thức sử dụng. Đồng thời, Hồ Chí Minh cũng nhấn mạnh đặc trưng sáng tạo

và phát minh của VH và chỉ ra mục tiêu của VH là vì sự sinh tồn và mục đích của

cuộc sống con người. Mặc dầu Người không bàn sâu về VH, song hoàn toàn có thể

khẳng định đó là những quan điểm có giá trị khoa học về VH.

Trong Tuyển tập “Khái niệm và quan niệm về văn hóa”[41], tác giả Trần Độ

đã tiếp cận VH dưới góc độ hoạt động sáng tạo của con người theo hướng chân,

thiện, mỹ. Tác giả cho rằng: “VH là những quá trình hoạt động sáng tạo của con

người theo hướng chân, thiện, mỹ và các sản phẩm của hoạt động đó được lưu

truyền từ đời này qua đời khác. Những cái đó có tác dụng phát triển các lực lượng

9

bản chất của con người, bao gồm cả lực lượng thể chất và lực lượng tinh thần (ý

thức, khả năng sáng tạo) do đó, làm cho xã hội tiến bộ”[41;16].

Công trình “Văn hóa và đổi mới”[42] của Phạm Văn Đồng đã tiếp cận

VH theo nghĩa rộng nhất, theo đó VH là tất cả những gì không phải thiên

nhiên, nghĩa là tất cả những gì do con người, ở trong con người và liên quan

trực tiếp nhất đến con người. VH theo tác giả đó chính là những gì do con

người sáng tạo ra, tất cả những gì có trong con người như tâm tư, tình cảm, tư

tưởng, lý tưởng... và cả những gì có trong mối quan hệ với con người. Đồng

thời, tác giả đã khu biệt VH với thiên nhiên.

Công trình “Đại cương văn hóa phương Đông”[139] do Lương Duy

Thứ (chủ biên) đã tiếp cận VH theo nghĩa rộng, đó là hệ thống các giá trị vật chất

và tinh thần được hình thành, lưu truyền và phát triển qua quá trình sáng tạo của con

người trong sự tương tác với môi trường VH với hình thái ý thức xã hội, mặc dù

hình thái ý thức xã hội (chính trị, triết học, VH, nghệ thuật...) là một thành tố của

VH. VH không chỉ bao gồm văn minh tinh thần mà còn bao gồm cả văn minh vật

chất (văn vật, cảnh quan, kiến trúc...). Trong công trình này, tác giả cũng đề cập đến

nội dung của VH được xác định trong VH nhận thức (nhân sinh quan, thế giới

quan, triết học, mỹ học, văn học, nghệ thuật...) các thành tựu của VH ứng xử (bao

gồm các thang giá trị trong cách ứng xử với thiên nhiên và ứng xử với con người,

với gia đình, với xã hội...) các thành tựu của VH tổ chức đời sống (bao gồm các

thang giá trị trong cách tổ chức đời sống gia đình, cộng đồng, xã hội...). Như vậy,

không thể coi VH là tất cả mà VH chỉ là những thành tựu được thăng hoa thành vẻ

đẹp. Cũng không thể hiểu VH quá hẹp, ví dụ như nâng cao trình độ VH, thường chỉ

dùng để chỉ học vấn, kiến thức ...

Công trình “Văn hóa, một số vấn đề lý luận”[88] của tác giả Trường

Lưu, trong phần tiếp cận khái niệm, bản chất VH, tác giả đã cho rằng VH là

sản phẩm cụ thể gắn với cái DT, những thành tựu và tinh hoa của nó góp vào

kho tàng sáng tạo của loài người. Ngoài tính DT, VH còn có tính nhân loại

10

phổ quát mang đậm dấu ấn nhân tính tạo nên giá trị nhân văn. Bất cứ sáng tạo

của lĩnh vực nào mang tính giá trị, gắn với lợi ích con người đều bao hàm ý

nghĩa nhân văn ở cấp độ khác nhau, trực tiếp hoặc gián tiếp theo đặc thù của

mỗi lĩnh vực. Như vậy, tác giả đã tiếp cận VH ở góc độ hoạt động sáng tạo ra

các giá trị và đồng thời tác giả cũng chỉ ra tính chất của VH đó là tính DT

(gắn với các điều kiện đặc thù của DT) và tính nhân loại (hướng tới các giá trị

chung mang tính phổ quát).

Công trình “Văn hóa và phát triển”[59] của tác giả Đỗ Huy đã lược

khảo các quan niệm về VH ở phương Đông và phương Tây theo dòng lịch sử,

quan niệm Mácxít và quan niệm của Hồ Chí Minh về bản chất của VH. Trên

cơ sở đó, tác giả đưa ra quan niệm của mình về VH, nó chính là tổng thể các

giá trị do con người tạo ra, đó là các giá trị vật chất, các giá trị tinh thần và

bản thân sự phát triển của con người. Tác giả cho rằng, trong VH, cả ba giá trị

này đều tương tác và gắn bó với nhau. Trong các giá trị vật chất có các giá trị tinh

thần và trong các giá trị tinh thần đều hàm chứa các giá trị vật chất. Trong hai giá trị

đó cũng hàm chứa sự phát triển năng lực bản chất của con người.

Tóm lại, các nhà nghiên cứu, các nhà hoạt động VH trên thế giới cũng

như ở Việt Nam đã có sự nhận diện VH là khác nhau về độ rộng hẹp của vấn

đề, về giới hạn phạm trù của các hệ thống, lĩnh vực VH; về thành tố, cấu trúc,

đặc trưng của VH, về mối quan hệ giữa VH học với các khoa học khác, chứ

không phải khác nhau về cái gốc, cái nền, cái tổng quát, cái đại thể của VH.

* Tình hình nghiên cứu về BSVH

Công trình “Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam”[130] của tác giả Trần

Ngọc Thêm đã vận dụng cách tiếp cận hệ thống - cấu trúc kết hợp với phương

pháp so sánh - loại hình để tiến hành khảo sát VH Việt Nam trong một bức

tranh toàn cảnh, trên cơ sở so sánh nó với những nền VH xa (của thế giới) là

VH các DT phương Tây và một nền VH gần (của khu vực) có liên hệ mật

thiết là VH Trung Hoa, đồng thời chỉ ra được những mối liên hệ mang tính

11

quy luật chặt chẽ giữa các thành tố (trên bình diện đồng đại) và giữa các thời

kỳ phát triển (trên bình diện lịch đại) của VH Việt Nam. Công trình đi tìm

những nét bản sắc - đó là những đặc trưng cơ bản cần thiết cho việc hiểu VH

Việt Nam cùng những quy luật hình thành và phát triển của chúng. Những đặc

trưng đó được biểu hiện trong VH nhận thức, VH tổ chức cộng đồng, VH ứng

xử với môi trường tự nhiên, VH ứng xử với môi trường xã hội.

Công trình “Bản sắc văn hóa Việt Nam”[101] của Phan Ngọc, sau khi

giới thiệu định nghĩa sơ bộ về VH, tác giả đã sử dụng định nghĩa này để tìm

hiểu BSVH Việt Nam. Trên cơ sở tiếp cận VH không phải ở những vật mà là

hệ thống những quan hệ, tác giả đã khảo sát các yếu tố Tổ Quốc, Gia đình,

Thân phận, Diện mạo một cách sơ lược trong sự khu biệt với một số VH khác

để nêu bật BSVH Việt Nam.

Bài viết “Văn hóa, phát huy bản sắc và hội nhập”[61] của tác giả

Nguyễn Văn Huyên đã quan niệm BSVH như một tụ điểm chói sáng, chiết

xuất và hội kết muôn vàn vòng sáng đa sắc của toàn bộ tinh hoa VH các sắc

tộc của toàn DT. Trên cơ sở đó, tác giả cũng đưa ra quan niệm về BSVHDT,

đó chính là bộ gen, là nhân lõi của bản chất VH của mỗi DT, là cái cốt lõi bên

trong tựa như tấm căn cước của mỗi DT.

Công trình nghiên cứu“Bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc -

vai trò của nghiên cứu và giáo dục”[120] bao gồm nhiều bài viết của nhiều

tác giả đề cập đến vấn đề VH và BSVHDT. Bài viết “Về tính bền vững và

biến đổi trong bản sắc văn hóa dân tộc”[120;178] của tác giả Hồ Anh Dũng

đã đề cập đến quan niệm, đặc trưng, kết cấu của VH và BSVHDT, làm cơ sở

để tìm hiểu tính bền vững và biến đổi trong BSVHDT. Từ đó, tác giả đi đến

khẳng định: Trong công cuộc đổi mới, phát triển nền kinh tế thị trường, mở

cửa, giao lưu, hợp tác với các nước có chế độ chính trị khác nhau thì chỉ có

dựa trên cơ sở giữ gìn và phát huy tốt BSVHDT, chúng ta mới có nội lực để

tiếp thu được những tinh hoa VH của thời đại, làm tăng nguồn lực để phát

12

triển nhanh và bền vững. “Bản sắc văn hóa dân tộc bắt nguồn từ bản lĩnh dân

tộc”[120;52] của tác giả Hồ Lê đã xem xét vấn đề BSVHDT theo hai bình

diện: BSVH của DT Việt Nam và BSVH của từng DT trong nước Việt Nam.

Đồng thời, tác giả cũng khẳng định bản lĩnh DT là cội nguồn của bản sắc DT,

BSVHDT cũng có tác động ngược lại củng cố bản lĩnh DT, giúp cho DT tự

tin, phát huy tốt hơn bản lĩnh của mình để vượt qua các thử thách của lịch sử.

Công trình “Giá trị truyền thống trước những thách thức của toàn cầu

hóa”[64] do tác giả Nguyễn Trọng Chuẩn và tác giả Nguyễn Văn Huyên (đồng

chủ biên) gồm nhiều bài viết về vấn đề BSVH như: “Toàn cầu hóa và một số

vấn đề đặt ra đối với bản sắc văn hóa Việt Nam”[64;223] của tác giả Nguyễn

Văn Huyên; “Bản sắc văn hóa dân tộc trong xu thế toàn cầu hóa”[64;236] của

tác giả Trần Văn Bính. Tác giả bài viết cho rằng, BSVH không chỉ biểu hiện rõ

rệt trong đạo đức, trong lối sống, trong các hoạt động nghệ thuật mà còn tiềm ẩn

trong phong tục tập quán, những cách cảm nhận riêng về thế giới về không gian

và thời gian.

Công trình “Bản sắc văn hóa dân tộc”[129] của tác giả Hồ Bá Thâm đã

chỉ ra bản chất của BSVHDT, tác giả cho rằng BSVHDT đó là một kiểu tổ hợp,

kết hợp những phẩm chất, những giá trị VH nội sinh và ngoại sinh tạo thành linh

hồn, sức sống bền vững của DT, có những nét ưu trội hơn một số DT khác,

mang tính ổn định trong quá trình lịch sử đấu tranh và xây dựng của DT đó.

Trong bài viết “Bản sắc và giao lưu văn hóa - từ góc nhìn Triết

học”[113], tác giả Bùi Thanh Quất cũng đưa ra quan niệm về BSVH, tác giả cho

rằng, BSVH không phải là cái trừu tượng khó thấy mà được hiển lộ ra trong đời

sống hàng ngày của mỗi người và cả cộng đồng. Đó là những nét riêng để phân

biệt được người Việt Nam với các cộng đồng DT khác trên thế giới. Nét riêng đó

được thể hiện từ nếp sống của mỗi thành viên trong gia đình với nhau đến cách

ứng xử của cả DT với các DT khác.

Cuốn sách “Bản sắc dân tộc và hiện đại hóa văn hóa Việt Nam, mấy

13

vấn đề lý luận và thực tiễn”[21], tác giả Thành Duy cho rằng, tất cả những

yếu tố tạo nên BSDT của VH, đó là điều kiện tồn tại và phát triển của mỗi

DT. Cho nên, giữa lịch sử phát triển của DT với lịch sử hình thành BSVHDT

có mối quan hệ hữu cơ, biện chứng, không thể tách rời. Tác giả chỉ ra sự

thống nhất giữa tính DT của VH với BSVHDT: “Tính chất DT thể hiện trong

cộng đồng người hình thành trong lịch sử, trong ngôn ngữ, trong ý thức cộng

đồng, trong tâm lý DT, trong phong tục, tập quán, lối sống, trong sinh hoạt

kinh tế và nói chung là biểu hiện VH trong mỗi cộng đồng. Tính chất DT ấy,

chính là BSVH của mỗi DT”[21;17].

Tác giả cũng khẳng định BSDT cũng như BSVHDT không phải là bất

biến, cố hữu, không bao giờ thay đổi, mặc dù nó hình thành trong truyền

thống và gắn với truyền thống VH lâu đời của DT mà nó phát triển trong sự

vận động của môi trường tự nhiên và điều kiện kinh tế - xã hội nhất định, gắn

với thể chế chính trị của một xã hội cụ thể.

Cuốn sách “Giá trị văn hóa Việt Nam - truyền thống và biến đổi”[134]

do tác giả Ngô Đức Thịnh (chủ biên) đã quan niệm BSVH là một tổng thể các

đặc trưng của VH, được hình thành, tồn tại và phát triển suốt quá trình lịch sử

lâu dài của DT. Các đặc trưng VH ấy mang tính bền vững, trường tồn, trừu

tượng và tiềm ẩn, muốn nhận biết được BSVH phải thông qua vô vàn những

sắc thái VH, với tư cách là sự biểu hiện của BSVH ấy. Tác giả cũng cho rằng,

nhiều khi hiểu BSVH chính là các giá trị VH khi coi đó như là cái căn cước,

cái đặc thù của mỗi cộng đồng, phân biệt nó với cộng đồng khác.

Tất cả các bài viết, các công trình khoa học này đã phân tích sâu sắc và

toàn diện về bản chất, nội dung, vai trò, vị trí của BSVHDT những vấn đề

phải đối mặt của BSVHDT trong bối cảnh toàn cầu hóa, đẩy mạnh công

nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội

chủ nghĩa. Qua đó, cung cấp cơ sở khoa học cho việc hoạch định và tổ chức

triển khai các nội dung trong quan điểm, đường lối, chính sách phát triển VH

của Đảng và Nhà nước ta.

14

Có thể nói, các sách, các bài viết, các công trình nghiên cứu đã tiếp cận

vấn đề BSVH, BSVHDT từ nhiều góc độ khác nhau nhưng đều có điểm

chung là chỉ ra bản chất của VH chính là quá trình hoạt động sáng tạo của con

người. Kết quả của quá trình hoạt động sáng tạo đó chính là hệ thống các giá

trị vật chất và tinh thần. Trong hệ thống các giá trị đó, có những giá trị đặc

trưng, cốt lõi, tinh túy nhất và là cái để phân biệt DT này với DT khác và

được gọi là BSVHDT. Các nhà nghiên cứu cũng đều khẳng định BSVHDT

chính là sức mạnh nội sinh để đưa đất nước phát triển bền vững trong thời kỳ

mở cửa, hội nhập quốc tế. Từ đó, đi đến kết luận cần thiết phải giữ gìn và phát

huy BSVHDT và đưa ra một số định hướng và giải pháp nhằm giữ gìn, phát

huy BSVHDT trong bối cảnh mở cửa, hội nhập quốc tế sâu rộng.

Tuy nhiên, thực tiễn đất nước và thời đại luôn vận động, do đó đặt ra

yêu cầu cho công tác nghiên cứu lý luận là phải tiếp tục làm rõ hơn nhiều vấn

đề đã, đang và sẽ nảy sinh trong quá trình giữ gìn và phát huy BSVHDT để có

những giải pháp kịp thời nhằm nâng cao hiệu quả của việc giữ gìn và phát huy

BSVHDT.

* Tình hình nghiên cứu về BSVH các DTTS

Việt Nam có 54 DT anh em, mỗi DT đều góp vào sự hình thành sắc thái VH

chung của cả nước bằng những đặc trưng VH riêng độc đáo, tạo nên một nền

VH Việt Nam thống nhất trong đa dạng. Ngoài DT Kinh chiếm đa số, 53

DTTS còn lại cư trú đan xen, rải rác khắp các vùng miền trong cả nước,

nhưng tập trung chủ yếu ở các vùng núi, vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới,

có đời sống vật chất kém phát triển hơn so với DT Kinh. Tuy vậy, nhưng

chính ở DTTS lại là nơi chứa đựng nhiều giá trị VH độc đáo thu hút sự quan

tâm, chú ý của nhiều nhà nghiên cứu, nhà khoa học trong và ngoài nước,

trong đó có công trình nghiên cứu từ rất sớm như: “Thai, kadai và

indonesiens” (Những tộc người nói ngôn ngữ Thái, Kađai và Inđônêxia)[5]

của P.K.Benedct. Công trình này đã đề cập đến phong tục, tập quán, ngôn

15

ngữ, đặc điểm DT học của một số tộc người nói ngôn ngữ Thái, Kađai và

Inđônêxia ở Việt Nam. Thông qua các hoạt động nghiên cứu đào tạo, trao đổi,

hợp tác khoa học, các học giả nước ngoài cũng tìm hiểu, nhận xét, đánh giá về

VH các DTTS vùng miền núi phía Bắc như công trình nghiên cứu: “Mấy

nhận xét về lý luận và thực tiễn một chuyến đi thăm các dân tộc thiểu số ở

Tây Bắc và Việt Bắc”[49] của A.G.Haudricourt. Ngoài ra, còn có công trình

nghiên cứu “Những xu hướng phát triển ở vùng núi phía Bắc Việt Nam”[16]

của Donovan, qua công trình này đã góp phần giới thiệu về VH các DTTS ở

miền núi phía Bắc với bạn bè quốc tế, để họ có cái nhìn rõ hơn về sự thống

nhất trong đa dạng của nền VH Việt Nam. Ngoài sự hợp tác trong lĩnh vực

nghiên cứu đào tạo, còn có sự hợp tác trong lĩnh vực xóa đói giảm nghèo, bảo

vệ môi trường sinh thái, do đó, các học giả nước ngoài cũng có những nghiên

cứu trong lĩnh vực này như: “Socio-economic Overview of the Northern

Mountain Region and the Project and poverty reduction in the Northern

Mountain Region of Vietnam” (Tổng quan tình hình kinh tế - xã hội khu vực

miền núi phía Bắc và dự án xóa đói giảm nghèo ở khu vực miền núi phía Bắc

Việt Nam)[74] của Neil Jamieson; “Rethinking Approaches to Ethenic

Minority Develoment, the case of Vietnam” (Nghĩ lại cách tiếp cận chương

trình phát triển DTTS, trường hợp Việt Nam)[75] ….

Trên cơ sở tình hình kinh tế - xã hội của khu vực miền núi phía Bắc,

những nghiên cứu, báo cáo này đã đưa ra một số khuyến nghị về việc bổ

sung, hoàn thiện đường lối, chính sách cho phù hợp với tình hình thực tiễn

của các DTTS, qua đó, góp phần phát huy vai tṛò của VH với tư cách là năng

lực nội sinh của người DTTS trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội.

Ở trong nước cũng có nhiều công trình nghiên cứu về VH các DTTS

như: “Một số vấn đề về phát triển văn hóa các dân tộc thiểu số”[121] của tập

thể các tác giả. Cuốn sách gồm nhiều bài viết của các tác giả về vấn đề cái

chung, cái riêng trong sự phát triển nền VH Việt Nam. Cái riêng đó chính là

16

VH tộc người, VH của từng DT cụ thể sinh sống trong lãnh thổ Việt Nam,

góp vào nền VH chung thống nhất những nét VH độc đáo, đặc sắc, đặc trưng

của từng DT. Cũng trong cuốn sách này, tác giả Ngô Đức Thịnh có bài viết

“Về sự thâm nhập và xuất hiện cái mới trong văn hóa các dân tộc thiểu

số”[121], tác giả đã phân tích, làm rõ trong VH các DTTS, các hiện tượng VH

mới dần dần xuất hiện và nảy sinh do sự phát triển nội tại của nền VH mỗi

DT, là sản phẩm của quá trình giao lưu, ảnh hưởng VH giữa các DT, giữa các

nước đang diễn ra hết sức sống động hiện nay. Tác giả đã đưa ra những chỉ

dẫn về sự xuất hiện các hiện tượng VH mới trong cả VH vật chất lẫn VH tinh

thần. Qua đó, giúp chúng ta nhận diện được xu hướng biến đổi của VH các

DTTS trong bối cảnh kinh tế - xã hội mới hiện nay. Từ đó, cung cấp những cơ

sở khoa học cho việc hoạch định các chiến lược phát triển VH ở vùng các

DTTS nước ta.

Trong sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay, VH có thể

là động lực phát triển kinh tế - xã hội, ngược lại cũng có thể là áp lực kìm hãm sự

phát triển kinh tế - xã hội. Do đó, việc quản lý xã hội trên cơ sở những lý luận và

thực tiễn về VH tộc người, về VH vùng là hết sức cần thiết. Do đó, các công trình

“Tìm hiểu văn hóa vùng các dân tộc thiểu số”[110] của tác giả Lò Giàng Páo; “Sắc

thái văn hóa địa phương và tộc người trong chiến lược phát triển đất nước ”[108]

của nhà xuất bản Khoa học xã hội; “Xu hướng biến đổi cấu trúc văn hóa vùng ở các

tỉnh phía Bắc Việt Nam”[58] của tác giả Lại Phi Hùng.... đã gợi lên những vấn đề

chung như: Sắc thái VH tộc người, sắc thái VH địa phương (VH vùng), sự thống

nhất trong đa dạng của nền VH Việt Nam, những xu hướng biến đổi cơ bản về VH

ở các tỉnh phía Bắc trong những năm đổi mới... để các nhà làm công tác quản lí VH

tham khảo trong khi làm quy hoạch và chỉ đạo cụ thể VH vùng các DTTS. Đặc biệt,

trong cuốn “Văn hóa các dân tộc Tây Bắc”[7] của tập thể các tác giả nhóm đề tài

khoa học cấp nhà nước do tác giả Trần Văn Bính (chủ biên) đã đánh giá, phân tích

tương đối toàn diện, khách quan về thực trạng đời sống VH của một số DTTS vùng

17

Tây Bắc trong công cuộc đổi mới, đồng thời dự báo xu hướng, đề xuất những giải

pháp vừa cơ bản, vừa cấp bách nhằm tiếp tục phát triển đời sống VH các DT trên

địa bàn dưới tác động của sự phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ

nghĩa. Cuốn sách là tài liệu tham khảo hữu ích đối với các nhà nghiên cứu và hoạt

động trên lĩnh vực VH, giáo dục, VH nghệ thuật có liên quan đến chủ đề DTTS ở

nước ta.

Việc nghiên cứu để xây dựng VH vùng các DTTS nhằm bảo vệ, phát

huy những giá trị VHDT không những về mặt tinh thần, các tri thức truyền

thống, văn học nghệ thuật, những tình cảm, thuần phong mỹ tục mà còn cả về

mặt vật chất như các mặt VH đảm bảo cuộc sống như ăn, mặc, ở, đi lại, môi

trường VH....Tiêu biểu cho lĩnh vực nghiên cứu này là các công trình: “Văn

hóa các dân tộc thiểu số từ một góc nhìn”[102] của tác giả Vi Hồng Nhân;

“Đời sống văn hóa các dân tộc thiểu số trong quá trình công nghiệp hóa, hiện

đại hóa”[9] do Trần Văn Bính (chủ biên)... Những công trình này đã trình bày

một cách tổng quát một số giá trị độc đáo, cơ bản nhất trong VH các tộc

người. Những giá trị đó không những bảo đảm cho sự tồn tại của các tộc

người trong lịch sử mà nếu biết phát huy tốt sẽ tạo điều kiện để các tộc người

phát triển trong điều kiện hiện nay.

Trong công trình “Văn hóa, văn hóa tộc người và văn hóa Việt

Nam”[133], tác giả Ngô Đức Thịnh cũng bàn đến VH tộc người, thực trạng và

sự biến đổi VH các tộc người thiểu số. Dựa trên góc độ tiếp cận VH và phát

triển, tác giả chỉ ra thực trạng VH các DTTS ở các khía cạnh: cơ cấu xã hội cổ

truyền của các DTTS, về VH vật chất, về VH tinh thần, các khuynh hướng

biến đổi đời sống VH các DTTS. Trên cơ sở đó, tác giả chỉ ra những vấn đề

đặt ra trong phát triển VH các DTTS. Những vấn đề vừa thuộc các khía cạnh

nhận thức của con người, nhất là của những người quản lý, lại vừa thuộc khía

cạnh cơ chế, tổ chức thực hiện. Từ đó cung cấp cho bạn đọc bức tranh tổng

quát về thực trạng VH các DTTS ở nước ta, là cơ sở để các nhà hoạch định

18

chính sách, các nhà nghiên cứu đưa ra những chính sách, biện pháp nhằm

phát triển VH ở vùng các DTTS.

Nghiên cứu cơ bản về VH từng DT là một hướng nghiên cứu lâu dài

của DT học và nhiều bộ môn khoa học xã hội và nhân văn. Qua các công trình

nghiên cứu, những đặc trưng cơ bản về lịch sử, kinh tế, xã hội, VH của các

DT được làm sáng tỏ, tiêu biểu là các tác phẩm: “Sơ lược giới thiệu các nhóm

Tày - Nùng - Thái ở Việt Nam”[83] của nhóm tác giả Lã Văn Lô, Đặng

Nghiêm Vạn; “Người Dao ở Việt Nam”[35] của Bế Viết Đẳng và nhiều tác

giả; “Văn hóa Tày - Nùng”[82] của Lã Văn Lô, Hà Văn Thư; “Văn hóa tín

ngưỡng Tày, Nùng” [76] do tác giả Vũ Ngọc Khánh chủ biên; “Các dân tộc

thiểu số ở Việt Nam thế kỷ XX”[119] của tập thể các tác giả; “Tín ngưỡng dân

gian Tày, Nùng”[172] của tác giả Nguyễn Thị Yên; “Văn hóa dân gian Tày,

Nùng ở Việt Nam”[126] của tác giả Hà Đình Thành. Nhìn chung, các công

trình kể trên một mặt đã làm sáng rõ một phần về thực trạng kinh tế, xã hội và

VH của các DT, mặt khác đã từng bước đi sâu tìm hiểu, khám phá các đặc

trưng, BSVH từng DT, nhất là các DTTS đông, trình độ phát triển xã hội

tương đối cao, có ảnh hưởng đối với các DT láng giềng như DT Tày, Nùng cư

trú ở vùng thung lũng Đông Bắc, DT Mông, Dao cư trú ở vùng rẻo cao Đông

Bắc, từ đó đặt ra những vấn đề cần được tiếp tục nghiên cứu lý giải.

Vùng Đông Bắc nước ta là nơi tập trung nhiều thành phần DTTS và có

nền VH đa dạng, đậm đà bản sắc của các DTTS nên từ lâu đã thu hút sự quan

tâm chú ý nghiên cứu của nhiều nhà khoa học ở nhiều góc độ và mức độ

nghiên cứu khác nhau. Có những cuốn sách được viết trên cơ sở sưu tầm, biên

soạn thông qua đó giới thiệu cho người đọc những nét khát quát, cơ bản nhất

các nền VH đa dạng, độc đáo của các DTTS ở vùng này. Tiêu biểu là cuốn

sách “Văn hóa các dân tộc vùng Đông Bắc Việt Nam”[96] của tác giả Hoàng

Nam. Tác giả đã nghiên cứu môi trường địa lý tự nhiên và môi trường lịch sử

nhân văn cho sự hình thành và phát triển VH truyền thống của các DT vùng

19

Đông Bắc; nghiên cứu những đặc trưng VH truyền thống, thể hiện qua VH

vật thể, VH phi vật thể và nghiên cứu những nhân tố VH mới, cùng xu hướng

phát triển của VH vùng Đông Bắc trong những thập kỷ tới.

Cuốn sách này phân tích những nét khái quát nhưng tiêu biểu về VH

các DT ở vùng Đông Bắc, đặc biệt là những nét VH độc đáo, đa dạng của các

DTTS ở vùng này. Điều đó cũng phản ánh những tiềm năng về thiên nhiên, về

con người và đặc biệt là về VH của các DTTS trên con đường phát triển.

Cuốn sách “Đông Bắc - vùng đất, con người”[107] nằm trong bộ sách

“Văn hóa các vùng miền” của nhà xuất bản Quân đội nhân dân, cung cấp

thông tin tổng quát về khu vực Đông Bắc của nước ta với sự đa dạng của VH

truyền thống các DT, với nhiều danh lam thắng cảnh phong phú mà thiên

nhiên ban tặng và với sự đổi thay vươn dạy mạnh mẽ của một vùng kinh tế

mới. Đặc biệt, những di tích thắng cảnh nổi tiếng, những nét đẹp trong VH

dân gian được đề cập tới giúp cho bạn đọc hiểu thêm về vùng đất và con

người vùng Đông Bắc - khu vực đang hòa mình vào sự chuyển nhịp sôi động

mà vẫn giữ được nhiều giá trị bản sắc truyền thống của DT.

Song song với việc giới thiệu VH các DTTS, nhiều nhà khoa học đã đi

sâu vào phân tích những giá trị VH đậm đà bản sắc của các DTTS vùng Đông

Bắc như: “Văn hóa ẩm thực các dân tộc thiểu số vùng Đông Bắc”[116] của

Dương Sách - Dương Thị Đào - Lã Vinh. Thông qua cuốn sách này, BSVH

các DTTS vùng Đông Bắc được biểu hiện ra qua sắc thái VH cụ thể, đó là VH

ẩm thực. Đây là giá trị VH vật chất vô cùng độc đáo, đa dạng. Đặc biệt, qua

VH ẩm thực, ta thấy được sự đa dạng thông qua những món ăn theo phong tục

gắn với những ngày lễ, tết với kỹ thuật chế biến tỉ mỉ, khéo léo và những món

ăn hàng ngày của đồng bào các DTTS nơi đây. Những nét VH này phần nào

phản ánh nguồn gốc lịch sử, điều kiện tự nhiên, đời sống vật chất của đồng

bào các DTTS ở vùng này.

Thực tiễn cho thấy, xã hội luôn vận động, thay đổi và phát triển. Trong xã

hội ngày nay, vận động, thay đổi và phát triển của xã hội càng ngày càng diễn ra

20

nhanh hơn, mạnh hơn, sâu sắc và toàn diện hơn. Trong bối cảnh đó, VH của tộc

người nói chung và VH mưu sinh nói riêng cũng thay đổi để thích ứng. Cùng với

nghiên cứu VH các cộng đồng tộc người, việc điều tra, nghiên cứu về VH mưu sinh

của các cộng đồng ấy ở những thời điểm nhất định là công việc cần thiết. Do đó,

cuốn sách “Văn hóa mưu sinh của các dân tộc thiểu số vùng Đông Bắc Việt

Nam”[10] của tác giả Trần Bình chẳng những góp phần hiểu biết toàn diện hơn về

VH tộc người, mà còn thu thập được các dữ liệu cần thiết cho việc tìm hiểu sự thay

đổi, thích ứng của các cộng đồng trong các giai đoạn của lịch sử. Cũng như các

thành tố khác của VH tộc người, VH mưu sinh có thể cung cấp các dữ liệu quan

trọng trong việc tìm hiểu nguồn gốc, quá trình tộc người, quá trình thiên di, ảnh

hưởng VH … của các tộc người cụ thể. Từ đó có thể giúp các nhà hoạch định và

thực thi các chính sách hỗ trợ, phát triển, cụ thể là các chương trình, dự án phát triển

kinh tế - xã hội có tính chiến lược cho từng tộc người, từng khu vực lãnh thổ cụ thể.

Ngoài các công trình nghiên cứu về VH các DTTS vùng Đông Bắc nói

chung, còn có các cuốn sách, luận án đi sâu vào giới thiệu các giá trị VH độc

đáo của một tộc người cụ thể trong phạm vi toàn vùng. Đặc biệt, ở vùng thung

lũng Đông Bắc, VH các DT Tày, Nùng nổi lên như là VH tiêu biểu của vùng

nên hai DT này từ lâu đã thu hút sự quan tâm, chú ý của nhiều nhà nghiên

cứu. Tiêu biểu là luận án tiến sĩ Lịch sử “Trang phục cổ truyền của người

Nùng ở Đông Bắc Việt Nam”[4] của Lê Văn Bé; luận án tiến sĩ Nhân học

“Truyền thống và biến đổi trong tập quán ăn uống của người Tày vùng Đông

Bắc Việt Nam”[17] của Ma Ngọc Dung; cuốn sách “Nhà sàn truyền thống của

người Tày vùng Đông Bắc Việt Nam”[18] của tác giả Ma Ngọc Dung. Các

công trình này đã nghiên cứu VH vật chất của các DTTS, trước hết thể hiện

trên các phương diện ăn uống, nhà ở, trang phục, dụng cụ sinh hoạt, công cụ

sản xuất.... Trong VH vật chất, thường được các nhà DT học gọi là “VH đảm

bảo đời sống”, ta thấy ở đây vừa là sự thể hiện của trình độ phát triển sức sản

xuất của xã hội, vừa là kết tinh những nét đặc thù của mỗi DT trong điều kiện

21

môi trường và xã hội nhất định. Bên cạnh những giá trị truyền thống trong

trang phục, kiến trúc nhà ở, trong tập quán ăn uống, tác giả luận án, cuốn sách

đã chỉ ra sự biến đổi trong các giá trị ấy dưới tác động của kinh tế thị trường

và hội nhập quốc tế.

Trong đời sống tinh thần, các hình thức tín ngưỡng, nghi lễ, phong tục

và lễ hội cũng được các nhà nghiên cứu quan tâm, chú ý. Đặc biệt là những

thập kỷ gần đây, cùng với sự đổi mới của đất nước, các hình thức trên có

chiều hướng phục hồi và phát triển. Do vậy, bên cạnh những mặt tích cực,

nhiều truyền thống tốt đẹp và sắc thái VH độc đáo được phục hồi, làm phong

phú đời sống VH cơ sở, BSVH các DT được giữ gìn và phát huy thì cũng có

không ít các tệ nạn và tiêu cực có cơ hội trỗi dậy làm phương hại đến thuần

phong mỹ tục của các DT. Hơn thế nữa, đây là lĩnh vực nghiên cứu rất nhạy

cảm, chứa đựng nhiều truyền thống VH lâu đời, BSVH của DT lại biến đổi

không ngừng, luôn cập nhật với đời sống hiện đại. Thí dụ, các hình thức tôn

giáo, tín ngưỡng, các nghi lễ cưới xin, ma chay, lễ hội của các DTTS không

chỉ riêng các nhà khoa học mà cả các nhà quản lý xã hội từ trung ương đến

địa phương cũng quan tâm để tìm ra các giải pháp hữu hiệu. Có thể kể đến

một số công trình nghiên cứu theo hướng này như: “Văn hóa truyền thống

người Dao ở Hà Giang”[52] do Phạm Quang Hoan, Đào Đình Quý (chủ

biên), “Các dân tộc ở Hà Giang”[23] do Lê Duy Đại, Triệu Đức Thanh (chủ

biên), “Lễ hội Lồng Tồng của dân tộc Tày ở Lạng Sơn”[109], luận án tiến sĩ

Lịch sử của Hoàng Văn Páo; “Tang ma của người Nùng Phàn Slình ở tỉnh

Thái Nguyên”[100], luận án tiến sĩ chuyên ngành Lịch sử của Nguyễn Thị

Ngân; “Nét đẹp văn hóa xứ Lạng ”[1] của tác giả Đặng Thế Anh; “Ứng xử

của người Dao đỏ ở Sa Pa trong việc cư trú, khai thác và bảo vệ rừng, nguồn

nước”[53] của tác giả Phạm Công Hoan; “Văn hóa truyền thống dân tộc Tày

ở Tuyên Quang”[124] do Nguyễn Ngọc Thanh (chủ biên).

Những cuốn sách, luận án trên đã khái quát bức tranh VH, tín ngưỡng

22

đậm đà BSVH của các tộc người Dao, Tày, Nùng ở một địa phương cụ thể

thuộc vùng Đông Bắc. Với đặc điểm điều kiện tự nhiên, điều kiện cư trú và

lịch sử hình thành, các DTTS đã xây dựng hệ thống VH tinh thần độc đáo,

đậm đà BSVHDT, đó là một kho tàng văn học và nghệ thuật dân gian phong

phú, những hình thức lễ hội, tín ngưỡng phong phú, đa dạng, cách ứng xử

biểu hiện mối quan hệ giữa con người với thiên nhiên trong quá trình mưu

sinh của đồng bào các DTTS. Điều đó giúp cho các nhà quản lý ở địa phương có

căn cứ khoa học cho việc đề xuất những giải pháp nhằm khắc phục những ảnh

hưởng tiêu cực, phát huy những mặt tích cực trong VH truyền thống của các DT ở

địa phương mình, góp phần xây dựng đời sống VH mới ở cơ sở.

Các công trình nghiên cứu trên đã làm sáng tỏ nhiều vấn đề về VH các

DTTS, đặc trưng VH vùng các DTTS thông qua các sắc thái biểu hiện của nó

như ngôn ngữ, tín ngưỡng tôn giáo, phong tục tập quán, VH nghệ thuật, tri

thức bản địa đến việc ăn, mặc, ở, đi lại.... Dưới tác động của quá trình toàn

cầu hóa, hội nhập quốc tế, công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển kinh tế

thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thì các sắc thái VH này đang có xu

hướng biến đổi theo cả chiều hướng tích cực và tiêu cực. Do đó, không chỉ

riêng các nhà khoa học mà cả các nhà quản lý xã hội từ trung ương đến địa

phương cũng quan tâm để tìm ra các giải pháp hữu hiệu nhằm khắc phục

những biểu hiện tiêu cực, phát huy mặt tích cực trong VH các DTTS.

Các sách, bài viết, luận án, luận văn đã đi sâu nghiên cứu, phân tích,

đánh giá BSVH các DTTS vùng Đông Bắc từ rất nhiều góc tiếp cận khác

nhau làm cho kho tàng VH của các DTTS vùng Đông Bắc trở nên ngày càng

phong phú, có giá trị hơn. Bên cạnh những cuốn sách có tính chất sưu tầm,

biên soạn, ghi chép lại một cách hệ thống các giá trị VH của các DTTS ở mức

độ khái quát ở phạm vi rộng hơn như VH vùng, miền thì còn có những cuốn

sách, luận án nghiên cứu chuyên sâu, phân tích những giá trị VH đậm đà bản

sắc của một DTTS thuộc phạm vi một tỉnh. Đặc biệt, có những công trình

23

nghiên cứu đã đề cập đến sự biến đổi của BSVH các DTTS dưới tác động của

quá trình hội nhập. Chúng cung cấp cơ sở khoa học cho việc khẳng định tầm

quan trọng và sự cần thiết phải đề ra những giải pháp giữ gìn, phát huy

BSVH các DTTS trong quá trình phát triển hiện nay.

1.1.2. Nghiên cứu về giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc

thiểu số vùng Đông Bắc

Từ việc nhận thức đúng đắn vai trò, vị trí của VH, BSVH trong quá

trình phát triển, các nhà lãnh đạo, nhà nghiên cứu, nhà khoa học đã đi đến

khẳng định cần thiết phải giữ gìn và phát huy BSVHDT trước yêu cầu của sự

nghiệp đổi mới, hội nhập quốc tế. Điều này đã được phản ánh rõ trong các bài

viết được tập hợp lại trong cuốn “Bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân

tộc - vai trò của nghiên cứu và giáo dục”[120]. Cụ thể đó là các bài viết

sau:“Giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc trong quá trình công nghiệp hóa, hiện

đại hóa”[120;13] của tác giả Nguyễn Thế Nghĩa; “Bảo tồn và phát huy các

giá trị văn hóa truyền thống trong bối cảnh kinh tế hàng hóa và thị

trường”[120;69] của tác giả Cao Tự Thanh; “Nghĩ về cơ sở thực tiễn cho việc

giáo dục ý thức bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc hiện

nay”[120;125] của tác giả Trần Thị Thu Lương; “Công tác nghiên cứu và

giáo dục trong việc bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc”[120;140]

của tác giả Phạm Hữu Mý; “Bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc

trong sự nghiệp bảo vệ di sản văn hóa”[120;152] của tác giả Nguyễn Quốc

Hùng; “Vài suy nghĩ về hiện trạng bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân

tộc”[120;172] của tác giả Truyện Thị Thùy Trang; “Mấy suy nghĩ về vấn đề

giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc trong lĩnh vực giáo dục”[120;191] của tác

giả Nguyễn Văn Thức; “Vài suy nghĩ về bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa

dân tộc”[120;209] của tác giả Trần Bình Minh; “Nghiên cứu để bảo tồn và

phát huy bản sắc văn hóa dân tộc”[120;221] của tác giả Đặng Văn Thắng.

Các bài viết trên đều đưa ra những quan điểm riêng về VH, BSVH và lý luận

24

tại sao cần phải giữ gìn và phát huy BSVHDT trong thời kỳ công nghiệp hóa,

hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Từ đó, các tác giả đã đưa ra những giải pháp

mang tính tổng quát nhằm giữ gìn và phát huy BSVHDT trong điều kiện mới.

Cuốn sách “Giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc”[112] do Trần Quang

Phúc biên soạn trên cơ sở tập hợp, chọn lọc từ các nguồn tài liệu khác nhau.

Cuốn sách tập trung giải quyết các vấn đề lý luận về VH, BSVHDT, tầm quan

trọng của việc giữ gìn và phát huy BSVHDT, những giá trị VH cần phải giữ

gìn. Từ đó, cung cấp cho độc giả bức tranh toàn cảnh về nền VH Việt Nam

với những giá trị đậm đà BSDT.

Bên cạnh những công trình nghiên cứu, các sách viết về VH các DTTS,

đặc biệt VH các DTTS vùng miền núi phía Bắc, còn có luận án, bài báo nghiên

cứu về VH và việc giữ gìn và phát huy BSVH ở vùng này như: Luận án tiến sĩ

triết học “Mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với giữ gìn và phát huy bản sắc

văn hóa các dân tộc thiểu số ở Miền núi phía Bắc nước ta hiện nay”[73] của

Hoàng Thị Hương. Luận án góp phần làm rõ hơn quan niệm về BSVHDT từ

cách tiếp cận của triết học thông qua phân tích một số vấn đề phương pháp luận,

khái niệm, cấu trúc phương thức biểu hiện. Luận án cũng có những đánh giá,

phân tích về BSVH của các DTTS ở miền núi phía Bắc thông qua các phương

thức biểu hiện của nó trong đời sống xã hội như: phong tục tập quán, ngôn ngữ,

trang phục, kiến trúc nhà ở, VH ẩm thực, tri thức bản địa, kho tàng văn học nghệ

thuật dân gian… biểu hiện cách thức tư duy, lối sống, lý tưởng thẩm mỹ và phản

ánh chiều sâu thế giới quan, nhân sinh quan của các DTTS ở miền núi phía Bắc

nước ta. Trên cơ sở phân tích thực trạng giải quyết mối quan hệ giữa phát triển

kinh tế với giữ gìn và phát huy BSVH các DTTS ở miền núi phía Bắc hiện nay,

luận án đề xuất một số phương hướng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giải

quyết mối quan hệ này ở miền núi phía Bắc. Đây là nguồn tài liệu hữu ích cung

cấp cơ sở lý luận và thực tiễn để tác giả nghiên cứu sâu hơn việc giữ gìn và phát

huy BSVH các DTTS vùng Đông Bắc.

25

Bài báo “Một số giải pháp nhằm giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa

dân tộc trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở miền núi - dân tộc

thiểu số”[147] của Bùi Xuân Trường, trên cơ sở phân tích những biến đổi

trong các sắc thái biểu hiện của BSVHDT dưới tác động của sự nghiệp công

nghiệp hóa, hiện đại hóa ở miền núi, tác giả đã nêu ra một số giải pháp nhằm

giữ gìn và phát huy BSVHDT ở vùng này.

Ngoài ra, còn có một số bài được đăng trên các tạp chí như: “Giữ gìn

và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, một nhu cầu phát triển của xã hội hiện

đại”[80] của tác giả Lương Quỳnh Khuê, “Gắn phát triển con người Việt Nam

hiện đại với giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc”[143] của tác giả

Đặng Hữu Toàn, “Việc giữ gìn và phát huy “bản sắc dân tộc”, “bản sắc văn

hóa””[81] của Đỗ Nam Liên, “Giữ gìn và phát huy giá trị văn hóa truyền

thống ở Việt Nam trước tác động của toàn cầu hóa”[150] của tác giả Nguyễn

Đình Tường, “Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trong quá trình

phát triển kinh tế thời kỳ hội nhập quốc tế”[72] của Hoàng Thị Hương. Các

bài viết này đã đề cập đến BSVHDT ở các góc độ khác nhau như: VH học,

DT học, triết học... nhưng đều có điểm chung là chỉ ra những tác động tiêu

cực của toàn cầu hóa, của hội nhập quốc tế đến BSVHDT. Qua đó, các tác giả

cũng đưa ra một số giải pháp nhằm góp phần xây dựng chiến lược giữ gìn và

phát huy BSVHDT Việt Nam hiện nay.

Giữ gìn và phát huy BSVH các DTTS vùng Đông Bắc cũng được các

nhà khoa học đề cập đến ở những mức độ khác nhau. Có công trình nghiên

cứu nhằm bảo tồn, giữ gìn và phát huy một sắc thái biểu hiện nào đó của

BSVHDT. Có công trình nghiên cứu nhằm giữ gìn và phát huy BSVH của

một DTTS cụ thể ở một tỉnh thuộc vùng Ðông Bắc. Tiêu biểu là công trình

“Nghiên cứu, bảo tồn và phát triển ngôn ngữ văn hóa một số dân tộc thiểu số

ở Việt Bắc”[84] do Nguyễn Văn Lộc (chủ biên) đã trình bày cơ sở lí luận của

việc bảo tồn và phát triển VH, ngôn ngữ một số DTTS ở Việt Bắc. Đánh giá

26

thực trạng VH, ngôn ngữ của một số DTTS vùng Việt Bắc trong giai đoạn

hiện nay và công tác bảo tồn, phát triển ở các địa phương. Đồng thời chỉ ra

phương hướng và điều kiện bảo tồn, phát triển VH, ngôn ngữ các dân DTTS.

Cuốn sách góp phần quan trọng vào việc bảo tồn và phát triển ngôn ngữ -

công cụ lưu giữ và thể hiện BSVH tộc người. Ngoài ra, cuốn sách còn cung

cấp cơ sở lý luận và thực tiễn cho việc hoạch định và thực hiện các chính sách

phát triển VH DTTS ở Việt Bắc.

Cuốn sách “Phát triển bền vững văn hóa tộc người trong quá trình hội

nhập ở vùng Ðông Bắc”[140] do Vương Xuân Tình - Trần Hồng Hạnh (chủ

biên) đã đánh giá tính bền vững của VH tộc người vùng Đông Bắc dựa vào

năm chỉ báo đó là: Chấp nhận đa dạng VH, giữ gìn ngôn ngữ tộc người, giữ

gìn BSVH tộc người, ý thức tự giác tộc người và VH góp phần phát triển kinh

tế - xã hội. Việc đánh giá đó được thực hiện ở cộng đồng làng bản, khu dân

cư của các tộc người - nơi lưu giữ và là môi trường tốt nhất cho thực hành VH

của họ. Đồng thời, trong công trình nghiên cứu này, tác giả c ̣òn đi sâu phân

tích tác động của hội nhập đến sự bền vững của tộc người ở nơi đây ra sao.

Việc xem xét tác động của hội nhập chủ yếu trên ba phương diện: xu hướng

tác động, phương thức tác động và hệ quả của tác động ấy đến sự bền vững VH và

đời sống các tộc người vùng Đông Bắc. Kết quả của nghiên cứu đó góp phần cung

cấp những căn cứ khoa học cho việc hoạch định, bổ sung, phát triển đường lối,

chính sách phát triển VH - xã hội vùng Đông Bắc nước ta.

Trên cơ sở các giá trị VH và BSVH các DTTS được các nhà nghiên

cứu VH dân gian, DT học và nghiên cứu tôn giáo sưu tầm, biên soạn, phân

tích, mổ xẻ, một số luận án chuyên ngành triết học trong những năm gần đây

đã hướng vào nghiên cứu thực trạng giữ gìn và phát huy BSVH của một tộc

người trong phạm vi địa bàn một tỉnh, hay BSVH của một tộc người ở một số

tỉnh vùng Đông Bắc qua đó cũng đề xuất một số giải pháp nhằm giữ gìn và phát

huy BSVH của DT đó trong giai đoạn hiện nay. Tiêu biểu là một số luận án sau:

“Giữ gìn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống tộc người Tày ở Thái

27

Nguyên hiện nay”[105] của Nguyễn Thị Nội, “Giữ gìn và phát huy bản sắc

văn hóa dân tộc Tày trong điều kiện kinh tế thị trường ở một số tỉnh Đông

Bắc Việt Nam hiện nay”[70] của Lê Thị Kim Hưng… Tiếp cận từ góc độ triết

học, tác giả của các luận án này đã nghiên cứu giá trị VH truyền thống hay

BSVH của tộc người Tày ở khía cạnh VH vật chất và VH tinh thần. Từ đó,

các tác giả cũng có sự đánh giá, phân tích thực trạng giữ gìn, phát huy BSVH

ở cả hai khía cạnh đó. Trên cở sở xác định nguyên nhân và những vấn đề đặt

ra đối với việc giữ gìn, phát huy BSVH tộc người Tày, các tác giả đã vạch ra

phương hướng và những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của việc giữ gìn,

phát huy BSVH dân tộc Tày trong điều kiện kinh tế thị trường ở một số tỉnh

Đông Bắc hiện nay.

Các sách, bài viết, luận án, đã đi sâu nghiên cứu, phân tích, đánh giá

thực trạng giữ gìn và phát huy BSVHDT ở các góc độ khác nhau như: DT

học, triết học, VH học. Từ đó, cung cấp cơ sở khoa học cho việc khẳng định

tầm quan trọng và sự cần thiết phải đề ra những giải pháp giữ gìn, phát huy

BSVH các DTTS trong quá trình phát triển hiện nay.

Đối với vùng Đông Bắc, các công trình nghiên cứu mới chỉ dừng lại ở

nghiên cứu thực trạng giữ gìn và phát huy BSVHDT thông qua một sắc thái cụ thể

nào đó hoặc nghiên cứu thực trạng giữ gìn và phát huy BSVH của một tộc người ở

một tỉnh thuộc vùng Đông Bắc như Tày, Mông, Dao. Đồng thời các tác giả cũng đã

đưa ra những giải pháp cho việc giữ gìn và phát huy BSVH của các DT này trong

điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế hiện nay.

1.2. Đánh giá tình hình nghiên cứu và những vấn đề đặt ra đối với luận án

- Đánh giá tình hình nghiên cứu.

VH và BSVHDT ngày càng được các nhà khoa học thuộc nhiều lĩnh

vực nghiên cứu, phân tích, mổ xẻ trên nhiều phương diện. Thông qua nhiều

công trình nghiên cứu từ nhiều góc độ tiếp cận khác nhau đó, vấn đề bản chất,

nội dung, vai trò, vị trí của VH và BSVHDT được làm rõ và sâu sắc hơn.

Các công trình nghiên cứu dù ở góc độ tiếp cận nào cũng đều thống nhất

28

khẳng định vai trò của VH chính là nền tảng tinh thần, là mục tiêu, động lực của sự

phát triển; khẳng định BSVHDT chính là sức mạnh nội sinh trong sự phát triển bền

vững của đất nước. Những công trình nghiên cứu đó đã góp phần cung cấp cơ sở

khoa học cho việc hoạch định và tổ chức triển khai các nội dung trong quan điểm,

đường lối, chính sách phát triển VH của Đảng và Nhà nước ta.

Điểm chung của các công trình nghiên cứu trên đều khẳng định bản chất của

VH chính là các giá trị vật chất và giá trị tinh thần (theo nghĩa rộng) hoặc chỉ là các

giá trị tinh thần (theo nghĩa hẹp). Nghiên cứu, tiếp thu các quan điểm của các tác giả

trong các công trình nghiên cứu trên, tác giả luận án đã tiếp cận VH dưới dạng VH

vật thể và VH phi vật thể.

Bàn về BSVH, trong các công trình nghiên cứu được tổng quan, các tác giả

cũng có điểm chung là chỉ ra BSVH chính là những giá trị đặc trưng, cốt lõi, tinh

túy nhất của mỗi một nền VH, thể hiện hồn cốt của một DT, phân biệt DT này với

DT khác. Tác giả luận án cũng đã tiếp thu cách tiếp cận này để làm rõ BSVH các

DTTS vùng Đông Bắc.

VH và BSVH các DTTS ở nước ta nói chung và ở vùng Đông Bắc nói

riêng đã được đề cập nhiều trong những công trình của các nhà khoa học, các

đề tài, các luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ, …. Có những cuốn sách được viết

trên cơ sở sưu tầm, biên soạn thông qua đó giới thiệu cho người đọc những

nét khái quát, cơ bản nhất các nền VH đa dạng, độc đáo của các DTTS ở nước

ta, có công trình nghiên cứu VH của các DTTS trong phạm vi một vùng

nhưng cũng có công trình nghiên cứu một tộc người cụ thể ở một địa bàn nhất

định (một vùng, một tỉnh); cũng có công trình nghiên cứu đề cập đến sự biến

đổi của BSVH các DTTS trong quá trình phát triển. Các công trình đó cung

cấp cơ sở khoa học cho việc khẳng định tầm quan trọng và sự cần thiết phải

đề ra những giải pháp nhằm giữ gìn, phát huy BSVH các DTTS trong quá

trình phát triển hiện nay.

Giữ gìn và phát huy BSVH các DTTS nói chung và BSVH các DTTS

29

vùng Đông Bắc nói riêng cũng đã được đề cập đến trong nhiều công trình khoa

học, những luận án tiến sĩ. Tuy nhiên, có công trình nghiên cứu việc giữ gìn và

phát huy BSVHDT trong mối quan hệ với phát triển kinh tế, các công trình khác

nghiên cứu việc giữ gìn và phát huy BSVH trong một phạm vi hẹp, đó là của

một tộc người cụ thể hoặc một sắc thái nào đó trong BSVH của các DTTS ở

vùng Đông Bắc nước ta. Các công trình nghiên cứu trên cũng đã phân tích thực

trạng cũng như xu hướng biến đổi BSVH của một tộc người cụ thể của một tỉnh

hay trong phạm vi toàn vùng Đông Bắc. Kết quả của các công trình nghiên cứu

đó chính là những chất liệu quan trọng giúp cho tác giả luận án có thể khái quát,

tổng hợp để bổ sung chất liệu cho luận án của mình. Mặc dù vậy, việc nghiên

cứu giữ gìn và phát huy BSVH các DTTS ở vùng Đông Bắc nước ta chưa có

công trình nào đề cập một cách trực tiếp, hệ thống, chuyên sâu, nhất là nghiên

cứu từ chuyên ngành Triết học.

- Những vấn đề đặt ra đối với luận án.

Tình hình nghiên cứu trên đã đặt ra cho luận án một số vấn đề cần tiếp

tục và giải quyết sau:

Thứ nhất, nghiên cứu lý luận về VH, BSVH, BSVH các DTTS trên cơ

sở thực tiễn mới. Cụ thể, luận án sẽ phải làm sáng tỏ quan niệm về BSVHDT

nói chung, BSVH các DTTS nói riêng; quan niệm về giữ gìn, phát huy BSVH

các DTTS nhằm làm cơ sở lý luận cho việc giải quyết những nhiệm vụ nghiên

cứu của luận án.

Thứ hai, tác giả nghiên cứu những đặc điểm tự nhiên, dân cư, kinh tế -

xã hội truyền thống góp phần tạo nên BSVH của đồng bào các DTTS vùng

Đông Bắc, nghiên cứu sự đa dạng trong BSVH của đồng bào các DTTS thông

qua các giá trị VH vật thể và các giá trị VH phi vật thể. Từ đó chỉ ra những

đặc trưng cơ bản trong BSVH các DTTS vùng Đông Bắc. Tác giả cũng

nghiên cứu, làm rõ quan niệm về giữ gìn, phát huy và sự thống nhất giữa giữ

gìn, phát huy BSVH các DTTS trên cả ba phương diện: chủ thể, nội dung,

30

cách thức giữ gìn và phát huy. Tác giả chỉ ra các yếu tố tác động đến việc giữ

gìn, phát huy BSVH các DTTS vùng Đông Bắc, đặc biệt là các yếu tố khách

quan như sự phát triển kinh tế thị trường, toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế.

Thứ ba, phân tích thực trạng giữ gìn, phát huy BSVH các DTTS vùng

Đông Bắc nước ta hiện nay theo hai hướng thành tựu và hạn chế. Đánh giá

thành tựu và hạn chế tập trung chủ yếu vào các giá trị VH vật thể và các giá

trị VH phi vật thể. Từ đó, tác giả chỉ ra nguyên nhân của thực trạng và những

vẫn đề đặt ra đối với việc giữ gìn và phát huy BSVH các DTTS vùng Đông

Bắc nước ta.

Thứ tư, luận án đưa ra một số quan điểm và giải pháp nhằm nâng cao

hiệu quả việc giữ gìn và phát huy BSVH các DTTS ở vùng này trong quá

trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế thị trường

định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập khu vực và quốc tế.

31

Tiểu kết chương 1

VH đã và đang thâm nhập vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, nó giữ

một vị trí, vai trò vô cùng quan trọng trong sự phát triển. Điều đó từ lâu đã

được các nhà nghiên cứu khoa học nhận thức đến. Đặc biệt, ngày nay, trong

xu thế mở cửa và hội nhập quốc tế thì vấn đề VH, BSVHDT càng được sự thu

hút, quan tâm, chú ý của các nhà lãnh đạo, nhà quản lý, nhà khoa học ở các

lĩnh vực khác nhau.

Luận án đã khái quát được một số công trình nghiên cứu của các tác giả

thuộc các lĩnh vực khác nhau về bản chất, đặc trưng của VH, BSVH. Tuy có

sự nhận diện VH là khác nhau về độ rộng hẹp của vấn đề, về thành tố, cấu

trúc, đặc trưng của VH nhưng không có sự khác nhau về cái gốc, cái nền, cái

tổng quát, cái đại thể của VH.

VH các DTTS nói chung và VH các DTTS vùng Đông Bắc nói riêng vô

cùng phong phú và đa dạng, góp phần tạo nên một nền VH Việt Nam thống nhất

trong đa dạng. Do nhu cầu tồn tại và phát triển, từ lâu các DTTS đã xây dựng được

nhiều giá trị VH truyền thống tạo nên BSVHDT. Trong số các giá trị đó, có những

giá trị đã lỗi thời lạc hậu, nhưng cũng có nhiều giá trị tốt đẹp, đã phát huy tác động

tích cực trong đời sống và tồn tại mãi với thời gian, nó đã tạo nên sức sống, giúp các

DT vượt qua những thử thách cam go của lịch sử đề tồn tại và phát triển. Những giá

trị đó đều được phản ánh trong những thành tựu nghiên cứu của các nhà khoa học

trên các lĩnh vực, đặc biệt trên lĩnh vực VH, VH dân gian và VH các DT, DT học,

... mà luận án đã khái quát và trình bày.

Luận án cũng đã trình bày được một số công trình của các tác giả đi sâu vào

phân tích, mổ xẻ những biến động trong BSVH dưới tác động của quá trình mở của

và hội nhập. Qua đó, các tác giả cũng đề xuất những giải pháp nhằm giữ gìn, phát

huy BSVH các DTTS - sức mạnh nội sinh để các DTTS tồn tại và phát triển.

Thực tiễn luôn biến đổi, mặt khác trong lĩnh vực VH các DTTS nói chung và

các DTTS vùng Đông Bắc nói riêng còn nhiều vấn đề cần được lý giải, đặc biệt

dưới góc độ triết học. Do đó, luận án tiếp tục nghiên cứu vấn đề giữ gìn và phát huy

BSVH các DTTS vùng Đông Bắc Việt Nam hiện nay dưới góc độ triết học.

32

Chương 2

LÝ LUẬN VỀ GIỮ GÌN VÀ PHÁT HUY BẢN SẮC VĂN HÓA CÁC

DÂN TỘC THIỂU SỐ VÙNG ĐÔNG BẮC VIỆT NAM

2.1. Bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số

2.1.1. Văn hóa và bản sắc văn hóa

VH là một hiện tượng xã hội, nó bao trùm, lan tỏa, thâm nhập, đan xen

vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Việc tìm hiểu, nhận diện về VH diễn ra

từ nhiều thế kỷ nay.

Ở phương Đông, một trong những trung tâm VH lớn là Trung Quốc, từ

thời cổ đại, “văn hóa” có nghĩa ban đầu là những nét xăm mình nhằm nhận ra

và phân biệt người này với người khác hay còn có ý nghĩa tôn giáo, chiếm

lĩnh quyền lực siêu nhiên. Theo Hán Tự, “văn” là đẹp, “hóa” là trở thành, cải

biến; VH với nghĩa chung là làm cho cái gì đó, việc gì đó trở nên có ý nghĩa

và có giá trị đối với con người. Sau đó, VH được hiểu là cách biểu thị chung

của hai khái niệm “Văn trị” và “Giáo hóa”, tức là “VH ở đây là giáo hóa đối

lập với vũ lực”[48;15]. Dùng “Văn trị” tức là dùng “cái đẹp” để giáo dục, cảm

hóa con người.

Ở phương Tây, “VH là một từ gốc Latinh Colère với nghĩa khai khẩn,

vỡ hoang đất đai..., sau trở thành cultura nghĩa là cày cấy, gieo trồng, chăm

sóc.... Từ nghĩa vun trồng gắn với nghề nông, ngôn ngữ cultura dần thêm

những nghĩa mới là vun trồng tinh thần, được hiểu là có học vấn, có giáo dục,

sự mở mang trí tuệ tinh thần con người”[48; 15-16].

Đến thế kỷ XV - XVI, với sự xuất hiện và phát triển của khoa học, kỹ

thuật, nhất là sáng tạo nghệ thuật, VH được quan tâm nhiều hơn đến các yếu

tố sáng tạo, phát minh. Trong phát minh, sáng chế, sáng tạo nghệ thuật, bản

chất, vai trò của VH thể hiện đậm nét.

Mặc dù có mặt sớm trong đời sống ngôn ngữ ở cả phương Đông và

phương Tây, tuy thế phải đến thế kỷ XVIII từ VH mới được sử dụng như

thuật ngữ khoa học. Và từ đây, VH đã trở thành một khái niệm được nhiều

nhà nghiên cứu, phân tích đề cập trong các ngành khoa học nhân văn: DT

33

học, xã hội học, sử học.... Khái niệm VH vì vậy cũng trở nên đa nghĩa, phong

phú hơn. Tuy mấy thập kỷ vừa qua, do vị trí, vai trò của VH càng ngày càng

được khẳng định trong đời sống nhân loại cũng như sự phát triển bền vững của các

quốc gia, khái niệm VH ngày càng được nhắc đến nhiều hơn, trở nên phổ biến và

thâm nhập vào trong mọi hoạt động của con người và không thể tách rời trong tất cả

lĩnh vực của đời sống xã hội như: VH lao động, VH học đường, VH lãnh đạo, VH

kinh doanh, VH giao thông, VH mạng, VH tiêu dùng....

Từ các góc độ tiếp cận khác nhau, các chuyên gia trong mỗi lĩnh vực đều

muốn đưa ra định nghĩa của chính mình về khái niệm này. Do đó mà đến nay đã có

hàng trăm định nghĩa về VH. Những định nghĩa này bổ sung cho nhau góp phần

làm giàu thêm tri thức của nhân loại về VH.

Qua rất nhiều định nghĩa về VH, khái quát lại khái niệm “văn hóa”

được quy về hai cách hiểu chính: theo nghĩa rộng và theo nghĩa hẹp.

Theo nghĩa rộng, VH là toàn bộ các giá trị vật chất và tinh thần do con

người sáng tạo ra trong lịch sử thông qua quá trình hoạt động của con người

nhằm thỏa mãn những nhu cầu vật chất và tinh thần của con người.

Theo nghĩa hẹp, VH chỉ một mặt, một lĩnh vực của đời sống xã hội, đó là đời

sống tinh thần của xã hội, phân biệt đời sống VH với đời sống vật chất như kinh tế.

Các lĩnh vực hoạt động cụ thể của đời sống con người như VH trong lĩnh vực sinh

hoạt, trong đời sống tôn giáo, tâm linh, trong lễ hội, phong tục, tập quán, trong đạo

đức, lối sống của cá nhân, cộng đồng, của một dân tộc….

VH được hiểu theo nghĩa hẹp, cũng thể hiện rõ trong cách khu biệt các

lĩnh vực trong một xã hội như: Lĩnh vực kinh tế, lĩnh vực chính trị, lĩnh vực

xã hội, lĩnh vực VH.

Mỗi định nghĩa VH đều có tính hợp lý bởi đó là phạm trù rộng lớn, mà

nhà khoa học khai thác nó trong các góc độ khác nhau nhưng nó giúp người ta

hình dung được thế nào là VH, VH gồm những gì. Sự khác biệt là do cách

tiếp cận, mục tiêu nghiên cứu. Nhưng tất cả đều thống nhất trên những vấn đề

chung nhất, căn bản nhất được thể hiện ở các đặc trưng sau:

Thứ nhất, VH là đặc trưng riêng có của con người, là sản phẩm do con

người sáng tạo ra trong quá trình lịch sử lâu dài của mình, do đó, VH mang

34

đậm “tính người”. Những sản phẩm VH được tạo ra thông qua hoạt động sáng

tạo của con người. Hoạt động đó diễn ra cả ở ba lĩnh vực cơ bản: con người

không ngừng học tập, rèn luyện, phát triển mọi năng lực vốn có để hoàn thiện

chính mình, tạo cho mình một nhân cách VH đáp ứng yêu cầu của xã hội;

Con người không ngừng hoạt động đấu tranh, cải tạo để hoàn thiện xã hội của

mình, làm cho mỗi cá nhân, cộng đồng có cuộc sống ngày càng hạnh phúc,

vươn tới những lý tưởng cao đẹp; con người không ngừng hoạt động khám

phá tự nhiên, cải tạo, chinh phục, thích ứng với tự nhiên để trên cái nền đại tự

nhiên, xây dựng thiên nhiên VH hoàn thiện, hoàn mỹ. Chính nhờ các hoạt

động sáng tạo này mà xã hội cũng không ngừng phát triển.

Thứ hai, VH là những gì có giá trị. Không phải mọi cái con người làm

ra đều là VH, mà chỉ những gì con người làm ra mang giá trị mới là VH. Tất

cả những gì hướng đến chân, thiện, mỹ là VH.

VH còn là phương thức hoạt động sống của con người. Đó là phương

thức hoạt động cải tạo thế giới để sáng tạo ra những giá trị chiếm hữu, sử

dụng những giá trị đã có nhằm tạo ra những giá trị mới của VH. Bản thân hoạt

động của con người cũng chứa đựng những giá trị. Chúng được thể hiện ra ở

mọi lĩnh vực hoạt động, biểu hiện trong hành vi ứng xử của con người với tự

nhiên, với xã hội và với bản thân. Tuy nhiên, chỉ những hoạt động nào là tích

cực hướng tới sự nảy nở và phát triển, có ích cho cuộc sống của con người,

nâng cao trí tuệ và đạo đức của con người thì hoạt động ấy mới được xem là

VH. Những hoạt động nào đối lập với tính chất và mục đích ấy đều xa lạ với

VH, thậm chí phản VH. Thực tế cho thấy, chiến tranh xâm lược tàn bạo và

phi nhân tính, khủng bố dưới mọi hình thức, sự tàn phá môi trường sinh thái,

lối sống trụy lạc, thác loạn, tội phạm và tội ác... cho đến những biến dạng

trong quan hệ xã hội của con người bởi ma lực của đồng tiền, trong cơ chế thị

trường như chủ nghĩa cá nhân cực đoan, thói giả dối và chủ nghĩa cơ hội, tệ

quan liêu và tham nhũng... đều là những hành vi phản VH. Khu biệt những

hoạt động VH và những hoạt động phản VH để thấy rõ khái niệm VH chỉ

dung nạp những cái gì tốt đẹp, tích cực, tiến bộ, phát triển, bồi dưỡng và phát

huy nhân tính, xứng đáng với con người.

35

Thứ ba, VH vừa có tính ổn định bền vững vừa có tính biến đổi, phát triển vì VH luôn được giữ gìn, kế thừa và sáng tạo. VH kết tinh những giá trị do con người sáng tạo ra, được con người gìn giữ, bảo tồn và lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, hình thành những giá trị VH truyền thống tương đối ổn định, bền vững. Cùng với dòng chảy của thời gian, những giá trị VH truyền thống này thường xuyên được giữ gìn, lọc bỏ và kế thừa những hạt nhân hợp lý, phù hợp với từng giai đoạn lịch sử. Đồng thời đó cũng là quá trình thường xuyên sáng tạo, bổ sung những giá trị VH mới. Thực chất đây chính là quá trình đấu tranh giữa cái mới và cái cũ, giữa cái tiên tiến và cái lạc hậu để tiếp nối cái truyền thống trong cuộc sống hiện đại. Do đó, VH là một quá trình luôn tích lũy, kế thừa, lọc bỏ, nâng cao diễn ra như một dòng chảy liên tục, điều đó làm cho VH luôn biến đổi và phát triển.

Thứ tư, VH có tính giai cấp, có tính DT và nhân loại. Tính giai cấp của VH được

thể hiện ở sự quy định của hệ tư tưởng của giai cấp cầm quyền đối với phương hướng

phát triển VH, nội dung, ý thức hệ của VH. VH phát triển theo chiều hướng tiến bộ, tích

cực hay bảo thủ, lạc hậu là phụ thuộc vào bản chất giai cấp của VH định hướng. Ngoài

ra, mỗi một nền VH đều gắn với một DT nhất định, do con người của DT đó sáng tạo ra,

do đó, nó mang đậm bản lĩnh, cốt cách của DT. Mặt khác, những giá trị VH có thể vượt

qua không gian của một DT để vươn tới giá trị chung mang tính phổ quát được nhân loại

thừa nhận và nó trở thành tài sản chung của nhân loại. Do vậy, VH còn mang tính nhân

loại. Chẳng hạn, nhiều nhà nghiên cứu và hoạt động VH đã xem chân, thiện, mỹ (cái

thật, cái tốt, cái đẹp) là hệ giá trị phổ quát của VH, vấn đề khác nhau là ở chỗ hệ giá trị

phổ quát này được cụ thể hóa và được lựa chọn như thế nào đối với từng DT, từng giai

tầng xã hội trong các thời gian và không gian khác nhau. Vì thế, VH luôn mang tính giai

cấp, tính DT và tính nhân loại.

Qua các định nghĩa về VH kể trên, có thể thấy VH được chia thành hai lĩnh vực chính là VH vật chất và VH tinh thần. Tuy nhiên, trong VH vật chất lại hàm chứa lượng tinh thần trong đó. Ví dụ như: Những bộ trang phục, những ngôi nhà, những dụng cụ sinh hoạt… tuy nó là vật chất nhưng chứa đựng tâm tư, tình cảm, thẩm mỹ, sự sáng tạo của chủ thể tạo ra nó, mà những yếu tố đó

36

lại thuộc giá trị tinh thần. Còn VH tinh thần cũng hàm chứa VH vật chất, bởi nếu không được vật chất hóa thì không ai nhìn thấy được. Ví dụ như tín ngưỡng, lễ nghi hay hội họa, điêu khắc, âm nhạc… thuộc về VH tinh thần nhưng nó được vật chất hóa để tồn tại, đó là những cử chỉ, hoạt động thực hiện, những bức tranh, những nhạc cụ, những điệu múa…. Do đó, để tránh sự lẫn lộn trên, nên căn cứ vào hình thái biểu hiện của VH để chia VH thành VH vật thể và VH phi vật thể.

VH vật thể là dạng VH biểu hiện dưới dạng vật thể hữu hình mà ta có thể nhận biết được bằng xúc giác. Bao gồm các sản phẩm vật chất do con người làm ra nhằm phục vụ nhu cầu vật chất của con người.

Theo nghĩa đó, VH vật thể bao gồm: Nhà ở; trang phục; ẩm thực; công

cụ lao động, sản xuất, sinh hoạt.

VH phi vật thể là dạng VH biểu hiện dưới dạng phi vật thể, vô hình. Bao gồm các sản phẩm do con người làm ra thỏa mãn nhu cầu tinh thần của con người.

Theo nghĩa này, VH phi vật thể bao gồm: Ngôn ngữ; tôn giáo; phong tục tập quán; lễ hội; nghệ thuật (âm nhạc, hội họa, vũ điệu, văn chương, sân khấu…); tri thức dân gian; lối tư duy, suy nghĩ, hành vi (ứng xử).

VH như phân tích ở trên là phạm trù rộng lớn, phức tạp, có nhiều cách định nghĩa khác nhau. Mỗi định nghĩa đều có lý của nó. Trong luận án này, để thuận lợi cho việc nghiên cứu, giải quyết các nhiệm vụ, thực hiện mục đích luận án đề ra, Nghiên cứu sinh lựa chọn cách hiểu VH theo cách chia VH vật thể và VH phi vật thể.

Bản sắc văn hóa Theo Từ điển Tiếng Việt do viện Ngôn ngữ thuộc Viện khoa học xã hội Việt Nam ấn hành thì bản sắc chỉ “màu sắc, tính chất riêng tạo thành đặc điểm chính”[106;31]. Như vậy, với cách hiểu đó, bản sắc chính là dấu hiệu để phân biệt sự vật này với sự vật khác. Thuật ngữ bản sắc thường được gắn với VH. Do có nhiều cách tiếp cận khác nhau mà các nhà khoa học cũng có nhiều ý kiến khác nhau về BSVH. Có người tiếp cận từ góc độ bản chất thì cho rằng BSVH là cái ổn định, là cái hồn của đời sống VH hoặc tiếp cận theo góc đặc thù thì cho rằng BSVH là những nét VH ưu trội, đặc thù, cái định hình làm nên tính riêng biệt, độc đáo của một nền VH, so với nền VH khác.

37

Theo tác giả Nguyễn Văn Huyên, “BSVHDT là bộ gen, là nhân lõi của bản chất VH của mỗi DT, nơi hội tụ các phẩm chất tinh túy đặc sắc nhất của DT, là cái lõi bên trong tựa như tấm căn cước của mỗi DT”. “BSVH như vậy, có thể hình dung như một tụ điểm chói sáng, chiết xuất và hội kết muôn vàn vòng sáng đa sắc của toàn bộ tinh hoa VH các sắc tộc của toàn DT”[61;31-35].

Tác giả Huỳnh Khái Vinh thì cho rằng: “BSVH là một hệ thống giá trị VH đã được định hình, phát triển trong suốt lịch sử của DT đến mức trở thành “thẻ căn cước” mang đậm diện mạo trí tuệ, tâm hồn và phong cách VH trong hoạt động xã hội và trong cả sinh hoạt cá nhân”[64;282].

Tác giả Nguyễn Đăng Duy quan niệm, “BSVH là nét riêng biệt biểu

hiện ra trong nếp sống của một quốc gia hay một cộng đồng người”[20;239].

Cũng như quan niệm trên, tác giả Bùi Thanh Quất nói rõ hơn, “BSVH không

phải là cái gì trừu tượng khó thấy, mà nó là điều được hiển lộ ra trong đời

sống hàng ngày của mỗi người và cả cộng đồng, theo cách làm cho chúng ta

có thể thấy và phân biệt được người Việt Nam với các cộng đồng DT khác trên thế

giới, từ nếp sống của mỗi thành viên trong gia đình với nhau đến cách ứng xử của

cả DT với các DT khác”[113;29]. Như vậy, tác giả đã quan niệm BSVH là những

nét riêng biệt, đặc thù, dấu hiệu để nhận diện một cộng đồng, một quốc gia.

Tác giả Ngô Đức Thịnh cũng đưa ra quan niệm về BSVH, “BSVH được

hiểu như là tổng thể các đặc trưng của VH, được hình thành, tồn tại và phát triển

suốt quá trình lịch sử lâu dài của DT. Các đặc trưng VH ấy mang tính bền vững,

trường tồn, trừu tượng và tiềm ẩn, do vậy muốn nhận biết bản sắc phải thông qua vô

vàn các sắc thái VH, với tư cách là sự biểu hiện của BSVH ấy. Nếu BSVH là cái

trừu tượng, tiềm ẩn, bền vững thì các sắc thái biểu hiện của nó lại tương đối cụ thể,

bộc lộ và khả biến hơn”[132;31].

Từ các quan điểm trên, có thể khái quát: BSVH là hệ thống các giá trị

đặc trưng, bản chất của một nền VH được hình thành, tồn tại, phát triển trong

lịch sử và được biểu hiện thông qua nhiều sắc thái VH, là những nét đặc thù,

độc đáo, dấu hiệu để nhận biết một nền VH và phân biệt với nền VH khác.

Cấu trúc của BSVH gồm các giá trị bản chất, đặc trưng tồn tại ở tầng

diện trong cùng, tầng diện sâu nhất của BSVH. Sự tồn tại của nó được biểu

38

hiện thông qua thế giới quan và nhân sinh quan. Tầng diện bên ngoài đó là

các sắc thái VH. Tầng diện này thể hiện sự phong phú, đa dạng, sự biến đổi

của BSVH trong đời sống xã hội. Các sắc thái VH này được thể hiện thông

qua các giá trị VH vật thể (nhà ở, trang phục, ẩm thực, tư liệu sinh hoạt, lao

động) và VH phi vật thể (ngôn ngữ, phong tục tập quán, lễ hội, tín ngưỡng tôn

giáo, nghệ thuật…).

Yếu tố cốt lõi tạo nên BSVH đó là hệ thống các giá trị, mà cụ thể đó là

các giá trị VH truyền thống. Các giá trị này vừa mang tính đặc trưng, bản chất

cho một nền VH vừa mang tính độc đáo, riêng biệt, đặc thù để phân biệt một

nền VH này với một nền VH khác.

Hệ thống các giá trị đặc trưng, bản chất là những giá trị tốt đẹp, tiêu biểu

cho một nền VH, được chắt lọc, lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác trong

suốt chiều dài phát triển của lịch sử. Các giá trị đó tạo nên nền tảng vững chắc,

điểm tựa cho mỗi cộng đồng, DT trên hành trình phát triển cùng nhân loại. Các

giá trị đó kết tinh lại trong quan niệm, tư tưởng, triết lý, trong đạo đức và cách

ứng xử phản ánh diện mạo, tinh thần, tâm hồn và tình cảm của cả một cộng

đồng, một DT, có trong các sản phẩm vật thể và phi vật thể của VH.

BSVH là tinh hoa của DT, là tổng hợp những truyền thống quý báu của

DT. Nó là cái cốt lõi, là bộ khung, là giá đỡ toàn bộ nền VH, tạo nên cái hồn

của một nền VH. Chẳng hạn, đối với nền VH Việt Nam thì BSVH bao gồm

những giá trị bền vững, những tinh hoa của cộng đồng các DT Việt Nam được

vun đắp nên qua lịch sử hàng ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước.

Đó là lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự cường DT, tinh thần đoàn kết, tính

cộng đồng gắn kết cá nhân - gia đình - làng xã - Tổ quốc; lòng nhân ái, bao

dung, trọng nghĩa tình, đạo lý; đức tính cần cù, sáng tạo trong lao động; sự

tinh tế trong ứng xử, giản dị trong lối sống…. BSVHDT còn đậm nét cả trong

các hình thức biểu hiện mang tính DT đậm nét.

Tính độc đáo, riêng biệt, đặc thù là cái riêng có của một nền VH, gắn

liền với đặc tính của chủ thể, là cái tiêu biểu cho họ, là đặc điểm nhận biết và

phân biệt họ với những DT khác. Cái đặc thù (cái khác biệt) đó là do cốt cách

sống riêng của con người và cộng đồng người ở vùng đó có sự khác biệt với

39

các nơi khác mà nguồn gốc sâu xa là do điều kiện lịch sử, điều kiện địa lý và

phong tục tập quán lâu ngày ở vùng lãnh thổ đó quy định.

Một nền VH có vững mạnh, có khả năng tỏa sáng, ảnh hưởng ra bên ngoài biên giới quốc gia hay không phải do bản sắc của VH đó có rõ nét hay không, có độc đáo hay không. Do đó, một nền VH có bản sắc càng đậm nét, càng độc đáo sẽ càng có bản lĩnh, càng bền vững và càng có điều kiện phát triển. Chính BSVH là cái chống đỡ lại những tấn công từ bên ngoài.

Trong một nền VH, các giá trị đặc trưng, bản chất luôn mang tính ổn định, bền vững, trừu tượng và tiềm ẩn. BSVH sở dĩ luôn mang tính ổn định, bền vững vì nó được kết tinh, hun đúc thông qua quá trình lao động sản xuất của con người và được lưu giữ, kế thừa theo chiều dài lịch sử. Nó được ví như dòng phù sa ngày càng được bồi đắp và được hóa thân trong màu xanh của cỏ cây, hoa lá. Nó không tồn tại một mình ở đâu đó do ta bắt gặp được như một sự vật cụ thể mà nó tồn tại một cách trừu tượng, tiềm ẩn thông qua muôn vàn các sắc thái biểu hiện khác nhau. Do đó các sắc thái VH là cái biểu hiện bên ngoài của BSVH và nó có tính tương đối cụ thể, bộc lộ và biến đổi hơn.

Sự ổn định ở đây chính là sự ổn định của cái tinh túy, cái cốt lõi, cái hồn cốt, còn sự biến đổi thuộc về hình thức biểu hiện. Ví dụ, chủ nghĩa yêu nước là giá trị VH truyền thống mang đậm BSVH Việt Nam, nó được hình thành, phát triển qua hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước của toàn thể DT Việt Nam. Cho tới ngày nay, nó không chỉ được gìn giữ ổn định mà còn được bồi đắp thêm những nội dung mới, với những hình thức biểu hiện mới. Nếu như trước đây, chủ nghĩa yêu nước biểu hiện qua sự đấu tranh kiên cường chống giặc ngoại xâm, bảo vệ bờ cõi DT, cần cù lao động sản xuất để sinh tồn và phát triển thì ngày nay chủ nghĩa yêu nước biểu hiện qua sự vươn lên chống nghèo nàn và lạc hậu; phấn đấu học tập, rèn luyện, cần cù lao động, vận dụng sáng tạo những thành tựu của cách mạng khoa học công nghệ để làm ra nhiều của cải, làm giàu cho đất nước…..

BSVH là cái ổn định, nhưng không có nghĩa là nó không thay đổi. BSVH cũng không phải chỉ là cái khác biệt, chỉ có ở một nền VH. Sự khác biệt chỉ là tương đối vì với tư cách là cái riêng, nó luôn bao hàm cái chung, tức những đặc trưng chung của VH. Sự khác biệt giữa các nền VH là ở mức

40

độ ít nhiều, cao thấp hay kết cấu, quan hệ giữa các yếu tố cấu thành của một nền VH. Chính điều này tạo nên “gen” VH hay “BSVH”.

BSVH không phải là một thực thể nhất thành, cố định, bất biến mà nó

vận động, biến đổi không ngừng. BSVH là những giá trị cô đọng nhất, tinh

túy nhất được hình thành, tồn tại, phát triển theo chiều dài lịch sử. Những giá

trị đó thông qua các nấc thang lịch sử mà không ngừng được kế thừa, lọc bỏ,

đổi mới, bổ sung và phát triển cho phù hợp với giai đoạn lịch sử mới. Con

đường vận động, phát triển của BSVH phức tạp hơn nhiều so với các lĩnh vực

kinh tế, chính trị, điều kiện xã hội, lịch sử. Nó không phải đi theo đường

thẳng, không phải VH thời đại sau bao giờ cũng cao hơn thời đại trước, có

những yếu tố VH cổ mà văn minh ngày nay chưa thể vượt qua. BSVH vận

động, biến đổi theo trình độ dân trí, qua giao lưu VH thời đại, nhưng vận

động, tiếp biến rồi cũng xoay quanh cái gốc, trở về cái cội nguồn.

Nếu không có sự ổn định, bền vững thì nền VH không có bản sắc, trái

lại, nếu không có sự biến đổi, phát triển thì nền VH của các DT sẽ trở nên

nghèo nàn và không thể đứng vững trước sự lấn át của các nền VH khác. Điều

này giúp cho chúng ta có cái nhìn biện chứng hơn về sự biến đổi các giá trị

VH trong đời sống hiện đại. Dưới tác động của điều kiện kinh tế, chính trị,

VH, xã hội, những giá trị VH truyền thống đã có sự va đập, thử thách. Có giá

trị VH truyền thống được thay đổi diện mạo, sắc thái biểu hiện để phù hợp với

đời sống hiện đại. Tuy nhiên, dù biến đổi thế nào đi chăng nữa, cái căn bản,

cái gốc, cái cốt lõi cần được giữ gìn, bởi lẽ nó chính là cốt cách, linh hồn tạo

nên bản lĩnh của DT, là dưỡng chất tạo nên sức sống trường tồn của DT trong

mọi giai đoạn lịch sử. Do đó, một DT đánh mất BSVH thì thực chất DT đó đã

đánh mất chính mình. Và ngược lại, một DT giữ vững được BSVH của DT

mình thì đó chính là chìa khóa cho sự tồn tại và phát triển. Nhà thơ Huy Cận

từng viết: “Một DT qua các biến cố lịch sử một lúc nào đó, một thời đại nào

đó có thể mất độc lập, bị người ngoài đô hộ nhưng nếu DT ấy vẫn giữ được

tiếng nói của mình, vẫn giữ được vốn văn nghệ dân gian, vẫn giữ và phát

41

triển được BSVH của mình thì DT ấy vẫn nắm chắc trong tay chìa khóa của

sự giải phóng, chìa khóa của tự do, độc lập”[11;48].

Do đó, bên cạnh việc chấp nhận sự thay đổi về cách biểu hiện của

BSVH, chúng ta cần phải nâng cao bản lĩnh và đề ra những biện pháp hữu

hiệu để không làm mất đi cái cốt cách, linh hồn trong BSVHDT.

Trong BSVH luôn là thể thống nhất của hai mặt: tính tiên tiến và tính

đậm đà bản sắc; tính DT và tính nhân loại. Một nền VH vừa luôn chứa đựng

những giá trị đặc trưng cốt lõi, được hình thành trong lịch sử mang tính đậm

đà bản sắc nhưng đồng thời, qua thời gian với những biến cố của lịch sử, nó

có sự giao lưu, tiếp xúc với những nền VH khác nên đã chắt lọc được những

tinh hoa VH để làm mới nền VH của mình, tạo nên một nền VH vừa tiên tiến

vừa đậm đà bản sắc. Mặt khác, những giá trị VH được hình thành trong lịch

sử luôn được cải biến, lọc bỏ cho phù hợp với xã hội mới nên bản thân nó

cũng mang tính tiên tiến, còn các giá trị VH mới được tiếp thu, gia nhập vào BSVH

cũng được bản địa hóa để phù hợp với đặc trưng, tính cách của chủ thể nền VH nên

qua thử thách thời gian nó trở nên đậm đà bản sắc. Đây là tính biện chứng trong

quá trình hình thành, phát triển của BSVHDT.

BSVHDT cũng là sự thống nhất giữa tính DT và tính nhân loại. BSVH

luôn gắn với một chủ thể nhất định, đó là một cộng đồng người nhất định, một

DT nhất định, nên nó mang tính cách, cốt cách, bản lĩnh của DT sáng tạo ra

nó với những đặc thù về điều kiện tự nhiên, hoàn cảnh lịch sử, điều kiện kinh

tế riêng, tạo nên BSVHDT. Bản thân BSVHDT cũng mang tính nhân loại

(tính chung của VH). Nếu không tính nhân loại ở đâu ra nếu không từ các nền

VH cụ thể. Cái chung luôn luôn tồn tại trong cái riêng và thông qua cái riêng

mà biểu hiện sự tồn tại của mình.

Tóm lại, trong bất cứ một nền VH nào đều có những giá trị đặc trưng, cốt lõi

(gọi là BSVH) được hình thành trong quá trình lịch sử, trải qua thời gian, những giá

trị đó vừa thể hiện sự đậm đà bản sắc vừa thể hiện sự tiên tiến, vừa mang đậm tính

cách của chủ thể sáng tạo ra nó vừa chứa đựng những giá trị chung của nhân loại.

BSVH khi gắn với chủ thể của nó (BSVHDT) thường được biểu hiện qua những

42

giá trị VH vật thể (nhà ở; trang phục; ẩm thực; công cụ lao động, sản xuất, sinh

hoạt) và VH phi vật thể (ngôn ngữ; tôn giáo; phong tục tập quán; lễ hội; nghệ thuật

(âm nhạc, hội họa, vũ điệu, văn chương, sân khấu…); tri thức dân gian; lối tư duy,

suy nghĩ, hành vi (ứng xử)).

2.1.2. Những vấn đề cơ bản của bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số

Mỗi một quốc gia, DT trong quá trình tồn tại, phát triển đã tạo nên một

nền VH với những giá trị đặc trưng, bản chất, cốt lõi và được biểu hiện ra

bằng những sắc thái, diện mạo mang dấu ấn của quốc gia, DT đó. Cái làm nên

sự khác biệt DT này với DT khác đó là BSVHDT.

“Dân tộc” ở đây được hiểu theo hai nghĩa chính là DT quốc gia (nation)

và tộc người (ethnic). DT quốc gia là “cộng đồng người ổn định làm thành

nhân dân một nước, có ý thức về sự thống nhất của mình, gắn bó với nhau bởi

quyền lợi chính trị, kinh tế, truyền thống VH và truyền thống đấu tranh

chung”[106;247]. Ví dụ như DT Việt Nam, DT Nhật Bản, DT Trung Hoa...

Một DT quốc gia gồm nhiều tộc người với nhiều ngôn ngữ, phong tục tập

quán, nếp sống VH khác nhau. Tộc người là “cộng đồng người có tên gọi, địa

vực cư trú, ngôn ngữ, đặc điểm sinh hoạt và VH riêng”[106;1008]. Ví dụ như

tộc người Mông, tộc người Dao, tộc người Tày. DT Việt Nam (national) có 54 tộc

người (ethnic): Tày, Mông, Êđê, Nùng, Thái….

Từ hai cấp độ của khái niệm DT, có thể hiểu VHDT theo hai cấp độ

khác nhau. Cấp độ thứ nhất, VHDT là VH của DT - quốc gia. Ví dụ: VH Việt

Nam, VH Trung Hoa, VH Nhật Bản.... Cấp độ thứ hai, VHDT là VH của DT

- tộc người. Ví dụ: VH Tày, VH Nùng, VH Dao.... Như vậy, VHDT là một bộ

phận của VH nhân loại, VH của DT - tộc người là bộ phận của VHDT - quốc

gia, của VH vùng, miền.

Dưới góc độ nghiên cứu của đề tài, luận án chủ yếu xem xét khái niệm

DT, VHDT ở phạm vi tộc người (ethnic) và VH tộc người nhưng luôn được

đặt trong mối quan hệ với DT - quốc gia (nation) vì giữa chúng có mối quan

hệ gắn bó chặt chẽ.

Trong đại gia đình các DT Việt Nam, ngoài DT Kinh chiếm đa số (87%

dân số), 53 DT còn lại chiếm 13% dân số cả nước nên được gọi là các DTTS.

43

Các DTTS mặc dù có số lượng dân cư ít nhưng trong quá trình hình thành,

tồn tại và phát triển, tộc người nào cũng có nền VH truyền thống với những

giá trị cốt lõi, ổn định, tinh túy nhất được hình thành trong những điều kiện tự

nhiên, xã hội - lịch sử, kinh tế, chính trị của riêng mình. Chính điều đó đã tạo

ra một tính hữu thể riêng tự phân biệt với các tộc người khác, trước hết về mặt

tự nhiên, sau đó là về diện mạo, phẩm chất, năng lực sáng tạo. Sự tự phân

biệt, tự xác định đó tạo ra những cái gọi là BSVH tộc người.

Khi tồn tại trong một quốc gia thống nhất thì BSVH các DTTS vẫn

mang những đặc trưng cơ bản của BSVH Việt Nam như: “Có lòng yêu nước

nồng nàn, ý chí tự cường DT, tinh thần đoàn kết, tính cộng đồng gắn kết cá

nhân, gia đình, làng nước, lòng nhân ái bao dung, trọng nghĩa tình đạo lý, đầu

óc thực tế, tinh thần cần cù, sáng tạo trong lao động, tế nhị trong ứng xử, giản

dị trong lối sống”[29;56]. Bên cạnh đó, do đặc thù về điều kiện tự nhiên, hoàn

cảnh lịch sử nên mỗi DTTS còn có những sắc thái VH riêng, độc đáo góp

phần tạo nên một nền VH Việt Nam phong phú, đa dạng. Đồng thời nó cũng

góp phần tạo nên bản sắc riêng, độc đáo của nền VH Việt Nam trong cộng

đồng VH khu vực và thế giới.

BSVH các DTTS là hệ thống các giá trị đặc trưng, bản chất, cô đọng

nhất, bền vững nhất, tinh túy nhất của DT - tộc người thiểu số cụ thể, được

DT sáng tạo ra trong lịch sử, là những nét độc đáo, riêng biệt của mỗi DT,

làm cho DT này không thể lẫn với DT khác và góp phần làm phong phú, đa

dạng nền VH của cả cộng đồng DT (quốc gia).

Quan niệm BSVH các DTTS là hệ thống các giá trị, cho thấy trong

BSVH các DTTS chỉ dung nạp những hiện tượng VH có ích, có ý nghĩa tích

cực góp phần vào sự phát triển đời sống vật chất và tinh thần của cộng đồng

các DTTS. Tuy nhiên, cũng cần có quan điểm lịch sử - cụ thể để xem xét vấn

đề này, bởi VH của mỗi tộc người được hình thành và tồn tại và phát triển

trong những điều kiện tự nhiên, kinh tế, chính trị, lịch sử riêng nên có những

sắc thái, diện mạo riêng tạo nên tính DT của VH. Cho nên, có những hiện

tượng VH là có ích, có giá trị đối với tộc người này nhưng lại không được

đánh giá là như vậy đối với tộc người khác hoặc trong thời gian này nó có ích,

44

phát huy tác dụng và được coi là có giá trị nhưng thời gian khác với những điều

kiện khác thì nó lại không phù hợp và không phát huy được tác dụng nữa.

BSVH các DTTS bất biến hay biến đổi?. Thực tế cho thấy BSVH các

DTTS cũng tồn tại theo quy luật chung, nó vừa có tính ổn định bền vững vừa

có tính biến đổi, phát triển. Nó có tính ổn định, bền vững bởi vì BSVH các

DTTS bao gồm những giá trị VH chung đã được cá biệt hóa. Chúng ta biết

rằng cái chung không bao giờ tồn tại biệt lập ở bên ngoài mà tồn tại trong

từng cái riêng cụ thể. Mỗi sự vật, hiện tượng đều là một thể thống nhất bao

gồm những thuộc tính, những mối liên hệ chung giống những sự vật, hiện

tượng khác và những thuộc tính, những mối liên hệ đặc thù chỉ riêng nó có.

Tuy nhiên, khi tồn tại ở trong cái riêng, cái chung thường phải quan hệ, tác

động qua lại với cái đặc thù, đơn nhất nên nhiều khi nó bị cá biệt hóa và biểu

hiện ra không hoàn toàn giống cái chung ấy ở trong những cái riêng khác.

Mặt khác, BSVHDT gồm những giá trị VH độc đáo riêng của mỗi DT. Những

giá trị VH này được coi là riêng khi xét nó trong mối tương quan với những DT

khác, còn khi xét trong phạm vi một DT thì những nét VH độc đáo của DT ấy là

những giá trị chung của cả cộng đồng DT ấy sáng tạo nên và được kết tinh qua

nhiều thế hệ. Khi đó, những giá trị VH đó là chung cho cả cộng đồng DT đó và

mang tính ổn định, bền vững.

Tính biến đổi, phát triển của BSVH các DTTS cũng diễn ra theo sự vận

động, phát triển của xã hội. Những yếu tố mới trong sự phát triển của xã hội thường

xuyên tác động, va đập với những giá trị VH truyền thống của các DTTS làm cho

những sắc thái biểu hiện của nó có sự biến đổi để thích ứng. Ở đó, diễn ra quá trình

chọn lọc tự nhiên, những sắc thái VH còn giá trị được giữ lại và cải biến cho phù

hợp với xã hội mới, những yếu tố VH không còn phù hợp đã trở nên lỗi thời, lạc

hậu sẽ bị đào thải. Đồng thời là sự tiếp nhận các giá trị VH mới của xã hội hiện đại

trên nền tảng của giá trị truyền thống, tức các yếu tố VH mới được bản địa hóa để

gia nhập vào BSVH các DTTS.

Tóm lại, không có một nền VH nào hình thành và phát triển được nếu

không thể hiện được tâm hồn, trí tuệ, bản lĩnh, sức sáng tạo của DT. VH chỉ

tồn tại, phát triển khi chứa đựng và thể hiện đầy đủ bản sắc DT đã sáng tạo ra

45

nó. Mỗi DT hay tộc người trong quá trình hình thành phương thức sống và

hoạt động để ứng phó với hoàn cảnh, đã vừa tiếp thu, tiếp biến các giá trị để

nâng cao tinh thần tự chủ, tự cường, tạo nên các tố chất riêng biệt của từng

DT, cái riêng ấy chính là BSVH tộc người. Nó được thể hiện qua thế giới

quan, nhân sinh quan, cách thức tư duy, lối sống, lý tưởng thẩm mỹ và được

biểu hiện cụ thể thông qua các giá trị VH vật thể (nhà ở truyền thống, trang

phục truyền thống, ẩm thực truyền thống, công cụ lao động, sản xuất) và các

giá trị VH phi vật thể (ngôn ngữ, phong tục tập quán, tín ngưỡng, tôn giáo, lễ

hội, nghệ thuật dân gian và tri thức bản địa). Những giá trị này luôn chịu sự

tác động của sự biến đổi kinh tế - xã hội và môi trường tự nhiên.

2.2. Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số vùng

Đông Bắc

2.2.1. Bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số vùng Đông Bắc

2.2.1.1. Đặc điểm tự nhiên, dân cư vùng Đông Bắc tạo nên bản sắc văn hóa

* Đặc điểm tự nhiên:

Đông Bắc nước ta là một vùng miền núi rộng lớn, kéo dài từ thung lũng sông

Hồng ra đến vịnh Bắc Bộ bao gồm các tỉnh: Hà Giang, Tuyên Quang, Cao Bằng,

Lạng Sơn, Lào Cai, Yên Bái, Bắc Kạn, Thái Nguyên, Phú Thọ, Bắc Giang. Vùng

lãnh thổ này có tổng diện tích chiếm tới trên 1/6 diện tích cả nước. Phía Bắc và Tây

Bắc giáp các tỉnh Vân Nam, Quảng Tây và Quảng Đông của nước Trung Quốc;

phía Tây và Tây Nam giáp sông Hồng và phía Nam giáp các tỉnh đồng bằng Bắc

Bộ. Trong công trình này, chúng tôi chỉ đề cập đến các tỉnh vùng Việt Bắc cũ: Cao

Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Hà Giang.

Vùng Đông Bắc Việt Nam còn được gọi là vùng miền núi phía Bắc Sông

Hồng. Đây là vùng núi thấp hoặc trung bình, xen giữa những vùng đồi rộng lớn, có

những đỉnh núi cao và một số cao nguyên đá vôi. Nhìn chung, địa hình vùng Đông

Bắc không mấy hiểm trở. Một đặc điểm nổi bật của địa lý nơi đây là sự kiến tạo các

cánh cung quay lưng ra biển, tạo nên những dải thung lũng rộng lớn với những con

sông, suối và những cánh đồng trù phú. Khí hậu ở đây hầu hết đều là nhiệt đới ẩm,

gió mùa, một phần á nhiệt đới. Đó chính là điều kiện cơ bản để tạo nên đặc trưng về

đời sống kinh tế, VH - xã hội của các DTTS nơi đây.

46

Là vùng đất á nhiệt đới, núi non trùng điệp, đây vốn là địa bàn tập trung

nhiều loại động vật, thực vật quý. Về động vật, vùng Đông Bắc có nhiều động

vật hoang dã lớn như: hổ, báo, gấu, sơn dương, lợn rừng, hươu, nai.... Thực

vật phát triển thành nhiều tầng, với những đặc điểm khác nhau, từ thân cao,

tán rộng đến cây vừa, cây thấp, dây leo, từ thân gỗ đến họ tre, nứa thân rỗng,

từ lá to đến lá vừa, lá kim..., tạo nên một thảm thực vật hết sức phong phú. Ở

vùng này có nhiều loại gỗ quý thuộc hàng tứ thiết như: đinh, lim, sến, táu,

nghiến.... Bên cạnh thực vật, vùng Đông Bắc còn có nhiều tài nguyên khoáng

sản như: mỏ than, mỏ thiếc, mỏ sắt, mỏ đồng, mỏ apatit, mỏ đá quý....

Với hệ thống sông ngòi phong phú như sông Lô, sông Gâm, sông Bằng,

sông Cầu, sông Kỳ Cùng và các chi lưu của chúng tạo nên nguồn nước dồi

dào cho việc phát triển nông nghiệp lúa nước và đánh bắt thủy sản. Ngoài các

sông suối ra, vùng Đông Bắc còn có một số hồ nước ngọt tự nhiên và hồ nhân

tạo như: hồ Ba Bể, hồ Núi Cốc, hồ Năm Cắt…. Đó là nguồn cung cấp nước

ngọt phục vụ cho đời sống đồng bào, vừa là nguồn thủy sản vô tận, lại là

đường giao thông quan trọng để giao lưu hàng hóa, tre, nứa, gỗ... tạo nên tổng

thể kinh tế - VH đầy tiềm năng.

Tóm lại, môi trường tự nhiên vùng Đông Bắc rất đa dạng, ở đây vừa có

núi cao, sông lớn, có vùng thấp, vùng cao, các cánh đồng, có thung lũng, có

biên giới quốc gia.... Do đó, vùng này gần như có đủ các yếu tố mang tính đại

diện cho cả nước. Sự đa dạng về địa hình cũng là một yếu tố tạo nên sự đa

dạng trong phân bố dân cư của vùng Đông Bắc.

* Đặc điểm dân cư, tộc người.

Đông Bắc là nơi cư trú của hơn 20 DTTS chủ yếu như: Tày, Nùng,

Mông, Dao, Sán Chay, Thái, Giáy, Lào, Bố Y, Pà Thẻn, Lô Lô, Ngái, Hoa,

Cơ lao, Pu Péo, Phù Lá....

Là địa bàn có nhiều DTTS cư trú (3.866.129 người) chiếm 46,4% dân

số toàn vùng và chiếm 31,5% dân số DTTS cả nước. Tuy nhiên, số lượng dân

số các DTTS không đều. Có DT đông dân cư như DT Tày (1.373.249 người)

chiếm 84,4%. Dưới 1 triệu người và trên 5 trăm nghìn người có DT Nùng,

Mông, Dao. Có DT có số dân ít như Pu Péo (634 người), Ngái (664 người)....

47

Ngoài ra, có sự phân bố dân cư không đều giữa các tỉnh trong vùng

Đông Bắc cụ thể: có 4 tỉnh có tỷ lệ % DTTS chiếm số đông như: Cao bằng

(94.2%), Hà Giang (86,7%), Bắc Kạn (86,6%), Lạng Sơn (83%). Tuyên

Quang là tỉnh có tỷ lệ % DTTS chiếm ở mức trung bình là (53,7%), Còn Thái

Nguyên có tỷ lệ % DTTS chiếm dưới 50% là (26,8%).

Các DTTS ở Đông Bắc phân bố xen kẽ lẫn nhau, tuy nhiên, bên cạnh

đó cũng có nơi có sự phân bố tập trung theo làng, bản. Có xã chủ yếu là người

Tày, hoặc người Nùng, người H’Mông, người Dao....

Một đặc điểm rất rõ nét đó là do hoàn cảnh lịch sử và hoàn cảnh sống

nên ở vùng Đông Bắc xuất hiện sự phân bố dân cư theo vùng. Cụ thể, vùng

thung lũng là địa vực cư trú chủ yếu của người Tày, người Nùng. Vùng rẻo

giữa và rẻo cao là địa vực cư trú chủ yếu của người H’Mông, người Dao. Còn

các DT khác thì xen kẽ nhau cả ở hai vùng. Chính đặc điểm này đã tạo nên

vùng Đông Bắc với hai vùng VH tiêu biểu đó là VH Tày - Nùng đặc trưng

cho VH vùng thung lũng, VH H’Mông - Dao đặc trưng cho VH vùng cao.

Mặc dù có hoàn cảnh lịch sử riêng với sự xuất hiện ở các thời điểm là

khác nhau, nhưng các DTTS vùng Đông Bắc sớm gắn bó đoàn kết với nhau

trong chống thiên tai và chống giặc ngoại xâm, cùng chung lưng đấu cật với

DT Kinh để dựng nước và giữ nước cho đến ngày nay.

2.2.1.2. Đặc điểm kinh tế - xã hội truyền thống

Đặc điểm kinh tế truyền thống của đồng bào các DTTS vùng Đông Bắc

chịu ảnh hưởng nhiều bởi địa hình cư trú và môi trường tự nhiên. Ở vùng thung

lũng, đồng bào khai phá đất đai, tạo dựng nên những cánh đồng ruộng để trồng cấy

lúa nước, khai phá thêm đất đồi để trồng ngô, lúa nương, các loại cây đậu, đỗ, bầu

bí…. Ở vùng cao, với đặc điểm núi dốc nhiều, nhiều núi đá, ít sông ngòi, khí hậu

lạnh, mùa đông khô mưa ít, mùa hè ẩm mưa nhiều…. Do đó, đồng bào làm nghề

trồng trọt chủ yếu ở trên cạn, khai phá đất dốc để làm nương, trồng các loại cây

lương thực, thực phẩm, cây dược liệu…, ngoài trồng trọt, bà con còn chăn nuôi, làm

nghề thủ công như dệt, mộc, đan lát, làm ngói, rèn….

Kinh tế truyền thống của đồng bào các DTTS vùng Đông Bắc là nền

kinh tế tự cấp, tự túc, nguồn sống chính là trồng trọt. Vùng thấp trồng lúa

48

nước, vùng cao trồng lúa nương và ngô. Chăn nuôi và nghề thủ công tương

đối phát triển nhưng chưa tách thành nghề riêng. Với môi trường tự nhiên là

rừng núi nên kinh tế hái lượm và săn bắn vẫn giữ vai trò quan trọng trong

cuộc sống của đồng bào.

Hệ thống công cụ lao động, sản xuất của đồng bào chủ yếu là công cụ

thủ công, thô sơ, giản đơn như công cụ chặt phá gồm có dao, rìu, búa… chủ

yếu để khai phá đất hoang thành ruộng và phát rừng làm nương; công cụ làm

đất như cày, bừa, cuốc, mai, gậy chọc lỗ; công cụ thu hoạch như hái (ruộng),

hép (nương); công cụ vận chuyển có gùi, đôi sọt cùng với chiếc đòn.

Với điều kiện tự nhiên miền núi có địa hình, khí hậu phức tạp cùng với

hệ thống công cụ lao động thủ công, thô sơ nên nền kinh tế của đồng bào kém

phát triển. Năng suất lao động thấp, chỉ đủ phục vụ nhu cầu tiêu dùng trong

một mùa vụ nhất định. Có nơi vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn,

hiện tượng đói ăn vẫn thường xuyên diễn ra. Dẫn đến đời sống kinh tế - xã

hội của đồng bào còn gặp nhiều khó khăn.

Địa hình phức tạp, giao thông chia cắt, cộng với một nền kinh tế khép

kín, do đó đồng bào các DTTS nơi đây ít được tiếp xúc với môi trường bên

ngoài, ít có cơ hội được giao lưu, học hỏi với các vùng khác. Hệ thống giáo

dục chưa phát triển “Trước cách mạng tháng Tám năm 1945, cả vùng Đông

Bắc chỉ có vài chục trường tiểu học ở các tỉnh. Có một trường Cao đẳng tiểu

học (tương đương với trung học cơ sở ngày nay) duy nhất đặt ở Lạng Sơn, do

đó, về cơ bản đồng bào các DT là mù chữ”[96;44]. Do đó, trình độ dân trí của

đồng bào các DTTS vùng Đông Bắc còn thấp nên đã hình thành trong họ lối

tư duy chất phác, nguyên thủy.

Chính môi trường tự nhiên cũng như đặc điểm kinh tế - xã hội trên là

cơ sở để nảy sinh, tồn tại và phát triển một nền VH đa dạng giàu bản sắc của

đồng bào các DTTS vùng Đông Bắc.

2.2.1.3. Những biểu hiện chủ yếu của bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số

vùng Đông Bắc

Cư trú trên một địa hình đa dạng với môi trường tự nhiên phong phú,

các DTTS vùng Đông Bắc đã sáng tạo nên nhiều giá trị VH độc đáo, giàu bản

49

sắc mang tính đặc trưng cho toàn vùng. Có thể nói, BSVH các DTTS vùng

Đông Bắc như một rừng hoa ngập tràn sắc hương. Mỗi một sắc hương biểu

trưng cho sắc đẹp của một DT và góp phần tạo nên sự đa dạng trong BSVH

các DTTS vùng Đông Bắc. Sự đa dạng đó được biểu hiện thông qua các giá

trị VH vật thể và VH phi vật thể.

* Những biểu hiện của BSVH trong VH vật thể.

VH vật thể của các DTTS vùng Đông Bắc được thể hiện thông qua nhà

ở truyền thống, trang phục truyền thống, ẩm thực truyền thống và công cụ lao

động, sản xuất, sinh hoạt. Những giá trị VH này chịu ảnh hưởng bởi các điều

kiện tự nhiên, truyền thống lịch sử của đồng bào các DTTS nơi đây. Một mặt

nó phản ánh thế giới quan với những quan niệm hết sức sơ khai, nguyên thủy

về vũ trụ, mặt khác nó phản ánh nhân sinh quan với những quan niệm về sự

sống, cái chết, về mối quan hệ giữa con người với thiên nhiên, giữa con người

với con người và với cộng đồng xã hội.

Nhà ở truyền thống: Các DTTS vùng Đông Bắc có những kiểu kiến

trúc nhà ở truyền thống phù hợp với điều kiện tự nhiên miền núi, biên giới,

điều kiện kinh tế và tập quán sinh sống của DT. Đối với các DT sống định cư,

ổn định ở vùng thung lũng như DT Tày, Nùng… thì kiến trúc nhà ở truyền

thống của họ là nhà sàn. Sàn nhà cao khoảng trên dưới 180cm, đủ chiều cao

để người có thể đi lại bình thường dưới gầm sàn. Thông thường bình diện nền

nhà có hình chữ nhật, với chiều rộng là 8m, chiều sâu là 12m. Nhà có hai mái,

mái trước và mái sau, với chiều dài của mái trước bằng 4/5 chiều dài của mái

sau, lợp ngói máng. Nhà có hai cửa ra vào: cửa trước mở ở phía trước, gian

giữa; còn cửa sau mở ở bên hông cuối gian đặt giường nam giới. Bên ngoài

của sau có một sàn nhỏ để nước. Ngôi nhà sàn của DT Tày, Nùng là sự thể

hiện một cách điển hình kiểu không gian ba tầng, đó là tầng đất, tầng sàn và

tầng gác. Nó phản ánh thế giới ba tầng tương ứng với ba mường: Mường trời,

Mường đất và Mường nước (mường dưới mặt đất). Trong đó, tầng đất là gầm

sàn - nơi dành cho công cụ sản xuất, gia súc, gia cầm; tầng sàn là sàn nhà

dành cho người ở và đồ gia dụng phục vụ nhu cầu hàng ngày của con người;

tầng gác dành làm kho chứa lương thực.

50

Các DT sống ở vùng rẻo cao với lối sống du canh, du cư như DT

H’Mông, Dao thì kiến trúc nhà ở truyền thống của họ thường là những nhà ở

đơn giản, tạm bợ như nhà nền đất phên vách nứa, nhà sàn tre nứa lá. Ngôi nhà

thông thường của đồng bào là nhà ba gian hai mái. Mái nhà lợp bằng cỏ

gianh. Nhà có hai cửa ra vào: một cửa chính mở ở gian giữa, phía trước nhà; một

cửa phụ ở mở gian cạnh, phía sau nhà. Đối với các DT (H’Mông, Dao) đã định

canh, định cư thì họ làm nhà trình tường với kiến trúc độc đáo bởi hàng rào đá được

xếp bao quanh ngôi nhà.

Một đặc điểm chung trong kiến trúc ngôi nhà truyền thống của đồng bào vùng thấp và đồng bào các DT vùng cao đều được xây dựng theo kết cấu có bộ khung chịu đỡ toàn bộ trọng lực của ngôi nhà. Bộ khung này làm hoàn toàn bằng nguyên liệu gỗ quý được lựa chọn cẩn thận, kỹ lưỡng. Cách thức sử dụng không gian trong ngôi nhà của đồng bào các DTTS nơi đây phụ thuộc vào tập quán của từng DT, tuy nhiên đều có những điểm chung nhất định bởi chịu sự chi phối bởi các yếu tố tâm linh, tín ngưỡng. Kiến trúc nhà ở của các DTTS vùng Đông Bắc cho thấy thế giới quan, nhân sinh quan, cách thức tư duy, lối sống, lý tưởng thẩm mỹ của mỗi DT, điều đó được thể hiện qua cách chọn đất, hướng đất để dựng nhà, hình thù mái nhà, cách bố trí không gian trong ngôi nhà…. Cụ thể, xuất phát từ quan niệm về một thế giới đa thần, vạn vật hữu linh mà ngay khi chọn đất, làm nhà, đồng bào các DTTS nơi đây đều tiến hành các nghi lễ cúng thổ công nhằm chọn được chỗ đất đẹp để dựng nhà; khi chọn được nguyên liệu cũng tiến hành cúng thần rừng để báo cáo vì e sợ sự trừng phạt của các vị thần đối với gia chủ. Hướng nhà được đồng bào chọn chủ yếu dựa vào núi, mặt hướng ra phía nam để đón ánh nắng mặt trời ấm áp cũng như đón khí dương vào nhà để tiếp thêm năng lượng, sinh khí để mọi thành viên trong gia đình luôn được khỏe mạnh. Vật liệu dựng nhà đều được khai thác từ thiên nhiên và được lựa chọn cẩn thận: Chọn cây không được cụt ngọn vì nếu dựng nhà phải cây cụt ngọn thì khác gì nhà không có nóc (không có tôn ti trật tự), cây sâu gốc thì không vững bền cũng như gia chủ không được khỏe mạnh. Lối tư duy, suy nghĩ chân thật, giản dị này cũng chứa đựng nhiều tính triết lý nhân sinh. Bởi không đơn thuần chỉ dựng ngôi nhà để ở, mà nó còn liên quan đến cả cuộc sống sau này của các thành viên

51

trong gia đình. Ngôi nhà với bộ khung chịu lực được đan kết bởi các cây thẳng, không sâu gốc được ví như người đàn ông khỏe mạnh - trụ cột của gia đình, tượng trưng cho khí dương; cầu thang đi lên ngôi nhà sàn của người Tày, Nùng được kết cấu 9 bậc, tượng trưng cho 9 vía của người phụ nữ. Trong nghi thức vào nhà mới của người Dao cũng biểu thị sự kết hợp của âm và dương như nghi thức đốt lửa vào nhà mới phải do một người đàn ông và một người đàn bà, một người mang mệnh thủy, một người mang mệnh hỏa là người đốt lửa. Quan niệm này phải chăng chịu ảnh hưởng của Thuyết âm dương (vạn vật trong trời đất được sản sinh nhờ sự kết hợp của hai khí âm và dương).

Trang phục truyền thống: Trang phục truyền thống của các DTTS vùng Đông Bắc vô cùng phong phú và đa dạng, mỗi DT đều có trang phục truyền thống với các loại màu sắc, kiểu dáng và trang sức đi kèm đặc trưng riêng cho DT mình. Cũng như kiến trúc nhà ở truyền thống, trang phục truyền thống của đồng bào các DTTS nơi đây phản ánh điều kiện tự nhiên và tập quán sinh sống của từng DT. Đối với các DT sống ở vùng thung lũng như DT Tày, Nùng, Giáy, trang phục tương đối giản dị, chân phương với màu sắc chủ đạo là màu chàm, nguyên liệu từ bông do chính đồng bào tự trồng bông dệt vải. Còn ngược lại, các DT sống ở vùng rẻo cao như DT H’Mông, Dao, Pà Thẻn thì quần áo rực rỡ sắc màu, cắt may cầu kỳ, thêu thùa sặc sỡ, họa tiết công phu và kèm theo nhiều vật trang trí, trang sức đa dạng.…

Những bộ trang phục truyền thống của đồng bào các DTTS vùng Đông Bắc ngoài chức năng che chở cơ thể, bảo vệ cơ thể con người khỏi những tác động bất lợi của tự nhiên, còn là phương tiện làm đẹp cho con người. Quần áo với màu sắc, kiểu dáng và hoa văn trang trí là phương tiện thể hiện tài năng, sự khéo léo và thị hiếu thẩm mỹ của mỗi DT, thể hiện BSVHDT đậm nét.

Ẩm thực truyền thống: Là cư dân miền núi làm nghề trồng trọt và chăn nuôi theo lối tự cung, tự cấp nên đồng bào các DTTS vùng Đông Bắc nước ta sử dụng nguồn thực phẩm có nguồn gốc động vật và thực vật rất phong phú, bao gồm động vật chăn nuôi trong gia đình và động vật do săn bắn được; các loại rau trồng và cả các loại rau thu hái được trong tự nhiên. Nguồn thực phẩm đa dạng nên đòi hỏi cách chế biến cũng rất đa dạng tạo nên nhiều món ăn truyền thống đậm đà bản sắc DT, mang đậm nét đặc trưng của vùng.

52

Về lương thực, từ gạo tẻ, ngoài để nấu cơm các DT còn chế biến làm

bánh tẻ, làm bún, làm bánh cuốn hay nấu cháo loãng húp thay cho nước uống.

Gạo nếp được chế biến thành xôi với đủ các màu sắc: xanh, đỏ, vàng, đen,

ngoài ra còn để chế biến các loại bánh chưng, bánh dày, bánh gai, bánh chuối,

bánh rợm, bánh tro, bánh trôi, bánh khảo.

Các DT sống ở vùng rẻo cao với nguồn lương thực chủ yếu là lúa nương và ngô thì đồng bào chế biến thành món mèn mén. Thực phẩm cũng vô cùng phong phú và đa dạng cả về cách thức chế biến như món khau nhục (của DT Nùng) được chế biến từ thịt lợn; thịt quay (lợn quay, vịt quay cả con); canh thịt gà nấu với gừng, nghệ, món thắng cố của DT H’Mông; món thịt lợn ướp chua, món cháo chua của người Dao…. Do hoàn cảnh sống ở miền núi, tiện nghi sinh hoạt còn thiếu thốn, xa chợ búa nên đòi hỏi các DTTS phải có cách thức bảo quản thực phẩm để ăn quanh năm, vì vậy đồng bào dù sống ở vùng thung lũng hay vùng rẻo cao cũng đều có những cách thức bảo quản thực phẩm rất độc đáo như ướp muối phơi khô, sấy khô hoặc ngâm trong nước muối hay trong nước mỡ lợn. Sự đa dạng, độc đáo trong các món ăn truyền thống cũng như cách bảo quản thực phẩm thể hiện sự đảm đang, khéo léo, tinh tế và sự thích ứng với điều kiện vùng miền của đồng bào DTTS nơi đây.

Công cụ lao động, sản xuất, sinh hoạt: Chính sự đa dạng trong địa hình vùng Đông Bắc mà đã quy định sự đa dạng trong các công cụ lao động, sản xuất của các DTTS ở vùng này. Điều đó chứng tỏ sự thông minh, sáng tạo, sự linh hoạt thích nghi với những hoàn cảnh tự nhiên khác nhau. Với những vùng thung lũng - nơi của những cánh đồng lúa nước, để sản xuất đồng bào sáng tạo ra những chiếc cày, bừa, cuốc, mai để làm đất, chiếc dao, chiếc rìu để phát quang đồi núi trồng các cây họ đỗ, ngô, bí…. Với những vùng cao, nhiều núi đá, để canh tác thuận lợi, họ cũng nghiên cứu rèn những chiếu cuốc, chiếc thuổng, dao, dìu, búa phù hợp với canh tác nương rẫy. Đặc biệt, sự sáng tạo ra chiếc thuổng và chiếc gậy chọc lỗ tra hạt được coi là sự phát minh sáng tạo phù hợp với địa hình có nhiều núi đá vôi. Các phương tiện vận chuyển như gùi để khoác sau lưng đã giúp đồng bào các DTTS vận chuyển dễ dàng trong địa hình dốc đá.

Tóm lại, các giá trị VH vật thể của đồng bào các DTTS vùng Đông Bắc

53

được sáng tạo bắt nguồn từ cơ sở tồn tại xã hội, đó chính là điều kiện địa lý, môi trường tự nhiên vùng Đông Bắc có những yếu tố đan xen, vừa có núi cao, sông dài, vừa có những thung lũng với những cánh đồng màu mỡ…. Tất cả các giá trị VH vật thể được tạo nên từ sự kết hợp giữa các nguyên vật liệu có sẵn trong thiên nhiên với sự chăm chỉ, cần cù, khéo léo của đôi bàn tay và sự sáng tạo, giàu trí tưởng tượng của khối óc để tạo nên những ngôi nhà với những nét kiến trúc độc đáo, những bộ trang phục với kiểu dáng và những họa tiết hoa văn đặc sắc, những món ăn với cách chế biến tinh xảo và đặc biệt là hệ thống công cụ lao động, sản xuất độc đáo phù hợp với từng điều kiện địa hình khác nhau, thể hiện khả năng ứng phó với môi trường tự nhiên một cách linh hoạt.

* Những biểu hiện của BSVH trong VH phi vật thể.

VH phi vật thể của các DTTS vùng Đông Bắc được thể hiện thông qua

ngôn ngữ, tín ngưỡng tôn giáo, phong tục tập quán, lễ hội, tri thức bản địa và

nghệ thuật dân gian.

Ngôn ngữ: Mỗi một DTTS vùng Đông Bắc nước ta đều có một ngôn

ngữ riêng - ngôn ngữ tộc người. Chính ngôn ngữ này là phương tiện giao tiếp

trong nội bộ của DT. Ngoài ra, đồng bào các DTTS nơi đây còn giao tiếp với

nhau bằng ngôn ngữ chung của cả vùng như: ở vùng thung lũng, do DT Tày,

Nùng chiếm số đông (88%) dân số toàn vùng, mặt khác tiếng Tày và tiếng

Nùng lại rất gần nhau cả về ngữ âm, từ vựng và cả cú pháp nên trong quá

trình giao tiếp ở trong vùng này, tiếng Tày và tiếng Nùng từ lâu đã trở thành

tiếng phổ thông trong vùng, được các DT khác sử dụng làm phương tiện giao

tiếp chung cho toàn vùng. Ở vùng cao, do số lượng dân cư DT H’Mông đông

và cư trú trải rộng hầu hết vùng rẻo cao Đông Bắc nên tiếng nói của DT này

đã được các DT khác sử dụng làm công cụ giao tiếp chung của cả vùng trong

việc mua bán, việc liện quan đến hành chính nhà nước, việc học hành.… Mặc

dù các DTTS vùng Đông Bắc giao tiếp với nhau bằng ngôn ngữ của DT mình

hay ngôn ngữ vùng nhưng vẫn có sự liên hệ chặt chẽ với ngôn ngữ quốc gia

(Tiếng Việt) điều đó góp phần tạo nên một nền VH thống nhất trong đa dạng.

Phong tục tập quán.

Đồng bào các DTTS vùng Đông Bắc có hệ thống phong tục, tập quán

54

phong phú, đang dạng. Mỗi một DT đều có những phong tục, tập quán riêng

phản ánh đặc điểm lịch sử cũng như môi trường cư trú của tộc người. Đó là

những tập quán liên quan đến hoạt động sản xuất - biểu hiện mối quan hệ giữa

con người với thiên nhiên đậm nét thông qua các tri thức sản xuất nông

nghiệp như tập quán canh tác “thổ canh hốc đá” - một tập quán canh tác riêng

thích ứng với điều kiện tự nhiên vùng núi đá. Đây là kỹ thuật canh tác truyền

thống và khá độc đáo ở những nơi có diện tích đá nhiều hơn đất ở vùng cao

Hà Giang, Cao Bằng, Lạng Sơn…. Để có đất sản xuất, đồng bào đã gùi từng

gùi đất lấp đầy các hốc đá để trồng cây lương thực mà chủ yếu là ngô. Tập

quán sản xuất này thể hiện sức sống mạnh mẽ, tinh thần giữ đất, giữ làng, dù

khó khăn đến đâu, các DT vẫn tìm tòi sáng tạo, duy trì cuộc sống, từng bước

vươn lên xoá đói, giảm nghèo.

Phong tục tập quán liên quan đến chu kì đời người như sinh nở, cưới

xin, tang ma, … cũng hết sức đa dạng, phản ánh những giá trị nhân văn trong

ứng xử giữa con người với nhau trong xã hội.

Tập quán sinh đẻ và nuôi dậy con cái: Phụ nữ các DT Tày, Nùng,

Mông, Dao khi mang thai và sinh nở đều có những kiêng kị rất tốt cho thai

phụ như kiêng làm việc nặng, kiêng ăn những đồ lạ, kiêng sát sinh và tham

gia vào những hoạt động gây căng thẳng thần kinh.… Được người thân chăm

sóc cẩn thận, chu đáo, bồi bổ. Khi sinh nở cũng được gia đình nội ngoại hai

bên cùng chăm nom cho cả bà mẹ và đứa nhỏ. Đứa trẻ được đầy tháng cũng

được gia đình làm lễ cúng mụ. Trong quá trình nuôi dậy đứa trẻ, đồng bào

thường sử dụng phương pháp truyền khẩu thực hành, trực tiếp truyền dạy cho

đứa trẻ các phương pháp làm ăn ngay và những phong tục tập quán, những

cách ứng xử trong cộng đồng ngay từ khi còn nhỏ. Với trình độ dân trí thấp,

hạn chế nhiều khả năng mà trong tập quán sinh đẻ và nuôi dạy con cái của

đồng bào các DTTS vùng Đông Bắc chứa đựng nhiều hạt nhân hợp lý, biểu

hiện mối quan hệ ứng xử rất nhân văn giữa mọi người với nhau.

Tục lệ cưới xin: Những đôi trai gái đồng bào DTTS được tự do tìm hiểu

và yêu thương nhau, quen nhau trong những ngày hội xuân, những ngày lễ tết,

họ ưng nhau thì về báo cáo với bố mẹ để chọn ngày lành tháng tốt cử hành lễ

55

cưới. Lễ cưới được tiến hành nhiều bước để có dịp để hai bên gia đình có cơ

hội giao lưu, hiểu nhau hơn. Trong đám cưới còn có sự tham gia của âm nhạc

rất vui nhộn, là sự đối đáp nhau giữa hai bên gia đình thông qua điệu hát Cỏ

lẩu (hát quan lang), đối với đồng bào Dao còn có nghi thức dạy bảo dâu khi

mới về nhà chồng….

Lễ sinh nhật: Khi cha mẹ lớn tuổi, đối với đồng bào Mông, Dao (trên

40 tuổi), Đồng bào Tày, Nùng (trên 50 tuổi) được con cái tổ chức sinh nhật

hay mừng thọ vào ngày sinh của cha mẹ. Đây là cách báo hiếu của con cái đối

với cha mẹ. Quan niệm của đồng bào đến tuổi ngoài 40, ngoài 50 mới tổ chức

sinh nhật hay mừng thọ vì khi đó con cái đã lớn và có điều kiện để báo hiếu

bố mẹ. Đây là phong tục rất tốt đẹp, nó giáo dưỡng con người từ ý thức đến

hành động đều hướng về cội nguồn, hướng đến các giá trị nhân văn.

Tang ma: Đạo hiếu của đồng bào các DTTS không chỉ biểu hiện thông

qua các mối quan hệ trong cuộc sống thường nhật, thông qua việc báo hiếu

trong lễ sinh nhật mà còn được biểu hiện đậm nét trong tang ma. Đó là những

nghi thức của người sống dành cho người quá cố để cầu mong linh hồn người

quá cố sớm trở về với tổ tiên. Đối với đồng bào các DTTS vùng Đông Bắc,

thủ tục tang ma được tiến hành rất nghiêm ngặt và bắt buộc phải có sự tham

gia của đội ngũ các thầy Tào (thầy cúng) với những nghi thức mang đậm màu

sắc của Đạo giáo. Trong tang ma hội tụ đủ các yếu tố nghệ thuật diễn xướng,

âm nhạc, hội họa và bao trọn mối quan hệ giữa người sống với người sống,

giữa người sống với người đã mất thông qua các thủ tục trong tang ma.

Tóm lại, thông qua các phong tục tập quán của đồng bào các DTTS

vùng Đông Bắc, các giá trị nhân văn được biểu hiện đậm nét. Lối sống chân

thật, giản dị nhưng giàu lòng nhân ái, sự đoàn kết, giúp đỡ nhau trong đời

sống kinh tế cũng như đời sống tinh thần là những nét VH chủ đạo trong đời

sống của đồng bào tồn tại qua bao thế hệ đến nay.

Tín ngưỡng, tôn giáo: Do hoàn cảnh lịch sử thường xuyên phải thiên

di, do sự áp bức bóc lột của thế lực nhà Hán nên khi dư cư vào vùng Đông

Bắc Việt Nam và cư trú ở vùng rừng núi có địa thế khó khăn, hiểm trở cùng

với môi trường tự nhiên không thuận lợi, hoạt động kinh tế khó khăn…. Đó

56

chính là cơ sở để đồng bào tin vào số phận, tin vào lực lượng siêu nhiên dẫn

đến tín ngưỡng, tôn giáo.

Đồng bào các DTTS vùng Đông Bắc đều thực hành tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, tín ngưỡng liên quan đến cộng đồng, tín ngưỡng liên quan đến tự nhiên, tín ngưỡng liên quan đến sản xuất và tín ngưỡng liên quan đến vòng đời người… tạo nên hệ thống tín ngưỡng đa dạng, phong phú.

Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên: Thờ cúng tổ tiên là một tín ngưỡng, một tập tục truyền thống có vị trí hết sức đặc biệt trong đời sống tinh thần của DT Việt Nam nói chung và các DTTS vùng Đông Bắc nói riêng. Bàn thờ thường được đặt trang trọng ở chính giữa ngôi nhà, trong đó phía cao nhất là thờ Phật, thờ Khổng và thờ Đạo giáo. Đồng bào thường thờ cúng tổ tiên vào những ngày mùng một và ngày rằm hàng tháng, ngoài ra còn được thờ cúng vào các dịp lễ, tết. Một mặt, thể hiện sự tưởng nhớ về những người đã khuất, mặt khác đó là thể hiện sự thành kính, cầu mong tổ tiên che chở, phù hộ độ trì cho các thành viên trong gia đình bình an, may mắn.

Tín ngưỡng liên quan đến cộng đồng: Ngoài thờ cúng tổ tiên trong gia đình, dòng họ, đồng bào các DTTS vùng Đông Bắc còn có một số tín ngưỡng chung của cộng đồng: Trong phạm vi thôn bản, người Tày thờ thổ công (Cốc bản), thổ địa, thờ các vị thánh trong vùng mà họ gọi là thấn (thần), đây là các vị thần chung của bản, mường, là người bảo vệ cho làng bản, mùa màng (có nhiều cách gọi tên các vị thần bản, mường như: Mường Pha Hán, Man Phia Tiên, Nàng tiên chúa Ngọc Cần...). Các vị thần chung của cộng đồng được người Nùng cúng lễ vào dịp tết Nguyên đán và mùa xuân hàng năm. Người Dao có tục thờ Bàn Hồ là nhân vật huyền thoại, được coi là thủy tổ của dân tộc Dao, được nhắc tới trong truyện kể dân gian, thần tích và các truyện thơ. Giống như thần núi Tản Viên của người Mường, Bàn Hồ hay Bàn Vương của người Dao ngoài việc được thờ trong các gia đình, dòng họ còn được thờ chung ở các đền thờ công cộng của bản, mường.

Tín ngưỡng liên quan đến tự nhiên: Đồng bào các DTTS ở khu vực miền núi phía Bắc hiện vẫn còn tôn thờ rất nhiều các hiện tượng tự nhiên. Người Mông, người Nùng, người Tày... ở một số địa phương trong khu vực thờ thần rừng với những truyền thuyết cổ xưa về sự linh thiêng của những khu

57

rừng cấm, rừng thiêng và hiện vẫn còn những khu rừng cấm có địa thế đẹp trong bản, mường với những quy định “bất khả xâm phạm” cùng lễ hội cúng thần rừng độc đáo được tổ chức hàng năm.

Tín ngưỡng liên quan đến sản xuất: Đa phần các DTTS vùng Đông Bắc đều sinh sống bằng nghề trồng trọt, chăn nuôi. Vì vậy các loại hình tín ngưỡng liên quan đến sản xuất nông nghiệp có mặt trong đời sống tôn giáo, tín ngưỡng của hầu hết đồng bào. Người Tày, người Nùng, người Dao... đều tin vạn vật có linh hồn, tin có các vị thần hỗ trợ cho mùa màng sản xuất, vì vậy, hàng năm, vào mùa xuân (trước vụ mùa sản xuất), đồng bào các DT nói trên đều có những nghi lễ xuống đồng (còn gọi là lễ hội Lồng Tồng, lễ cầu mùa) nhằm cầu xin thần linh phù hộ cho một mùa màng thuận lợi, bội thu, vạn vật phong đăng, phồn thực.

Tín ngưỡng liên quan đến vòng đời: Nghi lễ vòng đời là những nghi lễ thể hiện tín ngưỡng liên quan đến cá nhân con người từ khi sinh ra đến khi chết. Nghi lễ vòng đời người là nghi lễ mà gia đình, tộc họ, cộng đồng thực hiện cho mỗi con người qua các giai đoạn như sinh nở, trưởng thành, lễ hỏi, cưới, chữa bệnh, tang ma…. Các DTTS vùng Đông Bắc có một hệ thống các nghi lễ vòng đời rất đa dạng, phong phú. Mỗi DT đều có những kiêng kỵ và những lễ nghi nhất định xoay quanh các mốc thời gian quan trọng trong chù kỳ của một đời người từ khi sinh ra cho đến khi chết. Tất cả hệ thống tín ngưỡng trên đều phản ánh mối quan hệ giữa con người với tự nhiên, con người với con người, con người với thế giới thần linh. Thông qua quá trình thực hành tín ngưỡng là sự đoàn kết giữa các thành viên trong cộng đồng để cùng thực hiện những nhiệm vụ chung của cộng đồng, đồng thời là sự răn dạy, giáo dục đạo đức, cách ứng xử nhân văn giữa con người với tự nhiên và giữa con người với xã hội.

Lễ hội: Lễ hội của đồng bào các DTTS số vùng Đông Bắc vô cùng đa dạng, độc đáo, nó là một trong những thành tố quan trọng của VH, tạo nên BSVH đậm nét. Có thể kể đến những lễ hội tiêu biểu như: Lễ hội Lồng Tồng - quy tụ những sắc thái VH đặc trưng nhất của DT Tày, lễ hội cầu Mùa của DT Dao, lễ hội Nhảy lửa của DT Pà Thẻn, lễ hội Gầu Tào của DT H’Mông.… Các lễ hội dân gian này chính là tâm điểm của sinh hoạt cộng đồng, quy tụ các thành viên trong cộng đồng thành một khối thống nhất để cùng đoàn kết

58

thực hiện những lễ nghi với thần linh, mong ước một năm mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu, vạn vật sinh sôi nảy nở, phát triển; cầu mong sức khỏe, cuộc sống an khang thịnh vượng, bản làng yên ấm.

Cùng với các nghi lễ đó là phần mọi thành viên cùng giao hòa trong

không khí vui tươi của phần hội. Phần này là điều kiện để các thành viên khoe

tài năng khiếu: múa, hát, thổi khèn, chơi nhạc cụ DT… và các môn thể thao

truyền thống. Đồng bào các DTTS đến với lễ hội như trút bỏ mọi nỗi lo

thường nhật để hòa mình vào không khí vừa linh thiêng vừa náo nhiệt. Đây

cũng là dịp để đồng bào được thư giãn nghỉ ngơi sau những tháng ngày làm

việc vất vả, có thời gian tâm tình, chia sẻ với nhau tạo nên mối liên kết bền

vững trong cộng đồng.

Ở lễ hội có sự quy tụ mọi sắc thái VH của đồng bào các DTTS như trang

phục, ngôn ngữ, VH nghệ thuật (ca, múa, biểu diễn nhạc cụ DT…), trò chơi dân

gian, ẩm thực.… Có thể nói việc tổ chức lễ hội thường xuyên một mặt đáp ứng nhu

cầu sinh hoạt VH, nâng cao đời sống tinh thần của các DT. Mặt khác, đó cũng là

cách để giữ gìn, phát huy BSVH các DTTS vùng Đông Bắc.

Tri thức bản địa: Trải qua quá trình sinh tồn và phát triển lâu dài trong điều

kiện tự nhiên khắc nghiệt, các DTTS vùng Đông Bắc đã đúc kết nên kho tàng tri

thức riêng phong phú, chứa đựng nhiều giá trị, thể hiện rõ nét BSVH độc đáo. Kho

tàng tri thức bản địa của các DTTS không chỉ phản ánh khả năng chinh phục thiên

nhiên mà còn có giá trị nhất định về mặt khoa học, lịch sử và nhân văn.

Với tri thức về thiên nhiên (khí hậu, đất đai) của vùng miền núi Đông

Bắc, các DTTS vùng Đông Bắc đã hình thành được những kinh nghiệm quý

báu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác như kinh nghiệm bảo vệ rừng đầu

nguồn, nắm bắt khí hậu, thổ nhưỡng để có những cách thức làm ăn phù hợp,

nắm bắt được quy luật sinh học của những giống cây trồng phù hợp với khí

hậu, thổ nhưỡng vùng Đông Bắc. Tri thức trong việc dự đoán thời tiết căn cứ

vào sự thay đổi của các loài động vật, thực vật. Tri thức bản địa còn được thể

hiện ở kinh nghiệm chữa bệnh bằng các loại thuốc nam (được chế biến từ các

bộ phận của thực vật và động vật) - những sản vật có sẵn trong rừng. Đây là loại tri

59

thức cần thiết được giữ gìn và phát huy trong đời sống cộng đồng để bảo vệ sức

khỏe và chữa bệnh cho cộng đồng tộc người và cộng đồng khác tộc, là yếu tố tạo

nên nét đặc sắc, độc đáo trong BSVH các DTTS vùng Đông Bắc.

Nghệ thuật dân gian: Trong quá trình hình thành và phát triển, mỗi

DTTS vùng Đông Bắc tạo dựng nên một kho tàng VH văn nghệ đậm đà BSVHDT

và phong phú về các loại hình. Bao gồm truyện thần thoại, truyện cổ tích kể về

nguồn gốc vũ trụ, các hiện tượng tự nhiên và muôn vật; kể về nguồn gốc loài người

và các DT; kể về công cuộc chinh phục tự nhiên và sáng tạo VH.

Trong quá trình lý giải tự nhiên và khám phá nguồn gốc loài người, đồng bào

các DTTS vùng Đông Bắc cũng đã phản ánh khát vọng và niềm tin chinh phục tự

nhiên của mình. Mặc dù vẫn ẩn trong hình tượng các vị thần hoặc người khổng lồ

có sức mạnh phi thường song thực chất đó là khát vọng của con người, những

người đã ý thức được rằng mình chính là chủ nhân của vạn vật, của vũ trụ này.

Không chỉ phản ánh khát vọng chinh phục thiên nhiên, đồng bào DTTS

miền núi phía Bắc còn có những truyện phản ánh quá trình sáng tạo VH với những

sản phẩm VH quan trọng đầu tiên đánh dấu cuộc sống “văn minh” của họ. Con

người thời xưa đều hình dung giống lúa ban đầu là giống lúa quý, được trời và thần

linh ban phát cho con người. Hạt lúa ban đầu to như quả bầu, quả bí, tự mọc, tự lớn

và tự bò về nhà. Việc con người tìm ra và giữ gìn được lúa là một thành quả đáng

kể làm thay đổi căn bản phương thức lao động của con người thời đó. Vì thế, loài

người luôn coi trọng và thờ vị thần lúa rất chu đáo….

Một số DT có truyện kể về nguồn gốc nơi ở, nhà ở, tập tục như DT

H’Mông. Thần thoại DT Tày còn có truyện kể về nguồn gốc của cây bông,

nghề trồng bông, dệt vải, nguồn gốc của đàn tính, sáo và hát lượn….

Truyện Pựt Luông tạo ra vẻ đẹp trần gian của DT Tày là một sáng tạo đặc sắc

riêng có của tộc người này.

Vẫn là cách tư duy thần thoại, là kết quả của niềm tin thiêng liêng vào

sự hiện hữu của thần linh, người Tày đã hình dung rằng vẻ đẹp của thế gian,

những sáng tạo nghệ thuật tinh tế cũng là do đấng thần siêu phàm tạo nên. Dù

vậy, truyện kể này cũng cho thấy trí tưởng tượng phong phú cùng với ý thức

60

và tình yêu lao động, nghệ thuật của đồng bào được nảy nở từ rất sớm. Những

sản phẩm VH tinh thần ấy đã góp phần làm cho cuộc sống của đồng bào thêm

tươi vui, lạc quan.

Ngoài ra, trong kho tàng VH văn nghệ dân gian của đồng bào các DTTS

có vô số các làn điệu dân ca như: hát then, hát lượn của DT Tày, hát Sli của DT

Nùng, tiếng khèn của DT Mông, La Hủ…, những nhạc cụ độc đáo như: Đàn

tính của DT Tày, trống, thanh la, chũm chọe, chuông nhạc, tù và của DT Dao,

khèn trúc, kèn lá, nhị, đàn môi, sáo của DT Mông…, các trò chơi tập thể như:

ném còn, đánh quay, múa sư tử, múa võ, đua ngựa, bắn nỏ…..Sự phong phú, đa

dạng trong kho tàng VH, văn nghệ đã thể hiện tinh thần lạc quan, yêu đời và có

tâm hồn nghệ sĩ, yêu ca nhạc, hát múa của đồng bào các DTTS vùng Đông Bắc

mặc dù trong điều kiện tự nhiên có nhiều yếu tố khắc nghiệt.

Tóm lại, Đông Bắc - vùng đất giàu truyền thống cách mạng, nơi hội tụ

của hơn 20 DTTS, là khu vực đang hòa mình vào sự chuyển nhịp sôi động mà

vẫn giữ được nhiều sắc thái VH độc đáo. Những giá trị sáng tạo đó thể hiện

mối quan hệ của các DTTS vùng Đông Bắc với thiên nhiên thông qua các giá

trị VH vật thể, các tri thức sản xuất nông nghiệp; với xã hội thông qua các

phong tục tập quán, lễ hội; với nhân sinh quan thông qua các nghi lễ vòng đời

người; với vũ trụ và thế giới tự nhiên đã được siêu nhiên hóa thông qua các

loại hình tín ngưỡng, tôn giáo; với lý tưởng thẩm mỹ thông qua các sáng tạo

VH nghệ thuật….

2.2.1.4. Những đặc trưng cơ bản của bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số

vùng Đông Bắc

Bức tranh VH của các DTTS vùng Đông Bắc là vô cùng đa dạng,

phong phú. Sự đa dạng, phong phú đó được thể hiện qua các sắc thái VH.

Theo thời gian với những biến cố của lịch sử như sự phát triển kinh tế - XH,

sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, sự nghiệp đổi mới, quá

trình hội nhập quốc tế và quá trình toàn cầu hóa đã và đang tác động một cách

sâu rộng vào đất nước ta, và nó cũng ảnh hưởng đến đời sống VH của các

DTTS nói chung và các DTTS vùng Đông Bắc nói riêng theo cả hai hướng:

tích cực và tiêu cực. Các sắc thái biểu hiện của BSVH các DTTS vùng Đông

61

Bắc cũng có sự biến đổi. Mặc dù, sự biến đổi đó diễn ra theo nhiều chiều

hướng khác nhau nhưng vẫn mang đậm những giá trị đặc trưng, bản chất, cốt

lõi vốn có. Thông qua các sắc thái biểu hiện của BSVH các DTTS vùng Đông

Bắc, chúng ta có thể chỉ ra những đặc trưng cơ bản sau:

Thứ nhất, VH các DTTS vùng Đông Bắc thể hiện thế giới quan thần bí,

sơ khai, tín ngưỡng vạn vật hữu linh ăn sâu, bám rễ vào mọi khía cạnh của

đời sống.

Thế giới với tất cả những yếu tố vốn có của nó luôn lôi cuốn, thúc đẩy

con người tìm hiểu về nó. Có thể thấy đồng bào các dân DTTS vùng Đông

Bắc Việt Nam cũng có những quan niệm khá thú vị về thế giới xung quanh.

Thông qua các truyền thuyết dân gian, dân ca, truyện cổ, cho thấy đồng bào

DTTS vùng Đông Bắc quan niệm vũ trụ được tạo ra một cách huyền bí từ một

vị thần, mỗi DT lại gọi vị thần đó bằng các tên gọi khác nhau. Chẳng hạn, DT

Tày gọi vị thần tạo ra vũ trụ là Pụt Luông, DT H’Mông gọi là Ông chày.

Đồng bào quan niệm vũ trụ gồm ba tầng: tầng trên cao là trời, nơi trú

ngụ của Ngọc Hoàng và các vị thần, tổ tiên. Tầng giữa là mặt đất, là nơi cư

trú của con người. Tầng dưới mặt đất là âm phủ là nơi giam hãm của những

linh hồn con người sau khi chết. Các DTTS vùng Đông Bắc đều quan niệm, khi con

người sống làm được nhiều việc tốt, hữu ích, giúp đỡ mọi người thì sau khi chết đi,

linh hồn sẽ được lên trời, đoàn tụ với tổ tiên. Nếu khi sống làm nhiều việc ác thì sau

khi chết sẽ bị đầy xuống âm ti địa ngục và bị giam hãm ở đó. Quan niệm này đã

góp phần giáo dưỡng con người với những đức tính hướng thiện, ăn ở hiền lành,

phúc đức, làm ăn thật thà, lương thiện, chân thành giúp đỡ nhau trong những cơn

hoạn nạn, khó khăn, không mưu mô, tính toán thiệt hơn, dạy bảo nhau tránh xa điều

ác, tránh xa điều gây hại đến đồng bào. Chính những đức tính tốt đẹp đó đã tạo nên

bản chất con người DTTS Đông Bắc.

Ngoài ra, các DTTS nơi đây còn tin vào vạn vật hữu linh, coi tất cả mọi vật

xung quanh con người đều có hồn, coi núi, sông đều có thần. Do đó, ngoài thờ cúng

tổ tiên, họ còn thờ cả thổ công và các vị thần. Cầu xin thổ công và các vị thần diệt

trừ sâu bọ phá hoại mùa màng, cầu xin các vị thần phù hộ cho cây lúa, cây ngô phát

triển tươi tốt, cho gia súc, gia cầm phát triển đầy chuồng. Với niềm tin và mong

62

muốn như vậy, nên đã nảy sinh nghề cúng bái trong nhân gian để thực hiện các nghi

lễ đối với các vị thần nhằm cầu an, cầu tự, đuổi ma, trừ tà, giải hạn, chữa bệnh cho

người và cho gia súc. Quan niệm này cũng là nguyên nhân để đồng bào tổ chức

nhiều lễ hội: Lễ hội cầu mưa, các lễ hội cúng thần núi, thần sông, thần nông nghiệp

được tổ chức rộng rãi ở vùng này.

Như vậy, thế giới vô hình trong quan niệm và tưởng tượng của các DTTS

vùng Đông Bắc hết sức sinh động và cụ thể. Có thể hình dung trong quan niệm của

họ thì thế giới là một thể thống nhất của ba cõi: cõi trời, cõi người và cõi âm ti địa

ngục. Trong đó, cõi người là trung tâm mà ở đó bất kỳ sự vật nào từ cỏ cây, sông

núi, đất đai đều có linh hồn. Sự mô hình hóa một cõi trời, nơi yên nghỉ của những

gia đình, dòng họ, làng bản ... của những linh hồn con người đã từng trú ngụ trên

mặt đất chính là sự phản ánh khát vọng về một cuộc sống vĩnh hằng sau cái chết

của con người. Đồng thời giáo dục cho những người đang sống làm thật nhiều việc

tốt, tránh xa điều ác để sau khi chết đi linh hồn được sống sung sướng nơi cõi trời

mà không bị đày đọa, tra tấn nơi âm ti địa ngục. Ở đây, ta thấy tư tưởng của Phật

Giáo đã len lỏi vào tư tưởng, đời sống của các DTTS vùng Đông Bắc, mặc dù ở

vùng này rất ít thấy hệ thống chùa chiền.

Ngoài ra, theo quan niệm nơi đây, để linh hồn con người sau khi chết

được lên trời đoàn tụ với tổ tiên, thì cần sự giúp đỡ của hệ thống các thầy Tào,

thầy Mo với những nghi lễ mang đậm ảnh hưởng của Đạo giáo. Với vai trò

chủ đạo trong thực hành nghi lễ, các thầy Tào, thầy Mo đã thực hiện hành

trình đưa linh hồn người quá cố lên trời bằng những nghi lễ nhuốm màu sắc

thần bí. Con đường đến với tổ tiên của người quá cố cũng thần bí, thế giới

thần linh nơi tổ tiên trú ngụ cũng cực kỳ thần bí, chỉ có các thầy Tào, thầy Mo

mới có khả năng tiếp xúc và họ cũng là trung gian để kết nối thế giới người

sống với thế giới người chết. Điều này đã phản ánh rõ thế giới quan thần bí sơ

khai của đồng bào các DTTS vùng Đông Bắc.

Thứ hai, VH các DTTS vùng Đông Bắc đề cao đời sống tinh thần, sống

đoàn kết, hài hòa, tình nghĩa.

Các DTTS vùng Đông Bắc rất đề cao đời sống tinh thần, tâm linh, luôn

có cách giải tỏa những lo âu, phiền muộn, đảm bảo sự cân bằng tâm lý thông

63

qua các nghi lễ liên quan đến chu kỳ đời người. Các nghi lễ đều tập trung vào

việc chăm sóc phần đời sống tinh thần cho con người từ lúc sinh ra cho đến

khi mất đi. Chẳng hạn, có những đôi vợ chồng hiếm muộn thì luôn đặt niềm

tin vào lễ cầu tự để mong được có con cái. Trẻ sinh ra mong muốn được hay

ăn chóng lớn và được che chở, bảo vệ bởi các bà mụ thì có lễ cúng đầy tháng.

Đến khi trưởng thành để đảm bảo rằng người nam giới có khả năng tham gia

vào những việc hệ trọng trong gia đình, dòng họ thì thực hiện lễ cấp sắc

(người Dao). Đến lúc dựng vợ gả chồng thì có nghi lễ đám cưới, trong cuộc

sống chẳng may ốm đau, bệnh tật thì tiến hành lễ cúng đuổi tà ma, lễ kỳ yên

giải hạn, cầu mát. Khi cha mẹ có tuổi (thường ngoài 50 tuổi) thì con cái làm lễ

mừng sinh nhật, lễ mừng thọ. Sau khi mất lại thực hiện nghi lễ tang ma....

Việc chăm lo đến đời sống tinh thần của bản thân mình cũng là điều

kiện để chăm lo đời sống tinh thần cho cả cộng đồng. Tất cả các nghi lễ liên

quan đến chu kỳ đời người như trên đều được thực hiện cầu kỳ, nghiêm túc

theo những quy định của từng cộng đồng DT và có sự tham gia của các thành

viên trong gia đình, dòng họ, làng bản tạo nên sự cố kết bền chặt. Ngoài ra, sự

cố kết cộng đồng được thể hiện thông qua các nghi lễ trong phạm vi làng bản

như nghi lễ cúng thổ công - người cai quản một làng, một bản. Các nghi lễ

liên quan đến thiên nhiên như nghi lễ cúng thần sông, thần suối, thần rừng,

nghi lễ cầu mưa, nghi lễ xuống đồng... với những quy định chung của cả cộng

đồng, yêu cầu các thành viên trong cộng đồng cùng thực hiện đã tạo nên sợi

dây vô hình liên kết các thành viên lại với nhau, tạo nên sự cố kết bền chặt

trong phạm vi làng bản.

Như vậy, các nghi lễ liên quan đến chu kỳ đời người cũng như các nghi

lễ liên quan đến thiên nhiên không chỉ giúp con người giải tỏa và cân bằng

tâm lý mà còn tạo ra sợi dây vô hình cố kết gia đình, dòng họ, làng bản. Trong

cuộc sống cũng như trong nghi lễ, các DTTS vùng Đông Bắc ứng xử với nhau

chủ yếu bằng tình làng, nghĩa xóm, ít khi xảy ra tranh chấp, bon chen. Đời

sống tự cấp, tự túc tạo ra cho họ cuộc sống đùm bọc, giúp đỡ lẫn nhau. Mối

quan hệ cộng đồng còn được thể hiện rõ trong lao động sản xuất, đó là hình

thức đổi công giữa các nhóm gia đình, đáp ứng về mặt nhân lực theo tinh thần

64

tự nguyện. Các chuẩn mực đạo đức xã hội hầu như không cần ghi chép, tự

thân mỗi người trong bản được tiếp thu và thấm nhuần qua các thế hệ. Từ đó

tự mình biết cách ứng xử hài hòa với những người xung quanh tạo nên nét

VH đẹp của cộng đồng các DTTS vùng Đông Bắc.

Trong cách ứng xử với thiên nhiên, đồng bào các DTTS luôn sống hài

hòa với thiên nhiên, hòa mình vào thiên nhiên của núi rừng Đông Bắc. Coi

trọng thiên nhiên nên hàng năm đồng bào các DTTS nơi đây vẫn tiến hành

các nghi lễ biểu hiện sự tôn kính thiên nhiên như lễ cúng thần rừng, thần

sông, thần suối hay bất cứ một vật nào mà họ cho là có linh thiêng. Các nghi

lễ nông nghiệp cũng được thực hiện hàng năm trong phạm vi làng bản hay

liên bản cũng thể hiện sự coi trọng thiên nhiên nhằm cầu mong sự mưa thuận,

gió hòa, vạn vật sinh sôi, nảy nở. Đây là cách ứng xử nhằm hướng tới các giá

trị nhân văn.

Thứ ba, VH các DTTS vùng Đông Bắc đề cao đức tính cần cù, thông

minh, sáng tạo và khả năng thích ứng với môi trường tự nhiên khắc nghiệt.

Điều kiện tự nhiên của vùng Đông Bắc vô cùng khắc nghiệt, mùa hè

nóng bức, mùa đông thì lạnh buốt cộng với thiên tai như hạn hán, lũ quét; có

nơi lại quanh năm sương mù bao phủ khiến đất đai khô cằn, rửa trôi, bạc mầu

không thuận lợi cho phát triển nông nghiệp. Tuy vậy bà con các DTTS vùng

Đông Bắc vẫn cần cù lao động sản xuất để sinh tồn và phát triển. Từ trẻ đến

già, cả cộng đồng lao động bền bỉ, cần mẫn trong bất cứ hoàn cảnh thời tiết

nào. Cũng chính trong cuộc sống lao động đó hình thành đức tính cần cù, chịu

thương, chịu khó trong lao động sản xuất của đồng bào.

Cũng qua quá trình lao động sản xuất, sự thông minh, sáng tạo của

đồng bào được bộc lộ rõ nét trong việc chế tạo ra công cụ lao động, hình

thành những tập quán canh tác đặc thù. Những chiếc cày, sản phẩm của nghề

rèn, cấu tạo cái cuốc, con dao đều phù hợp với canh tác vùng miền núi. Dù

canh tác nương rẫy hay canh tác ruộng nước, bà con đều sáng tạo ra những

công cụ lao động phù hợp. Chẳng hạn, trong canh tác nương rẫy, bà con đã

tạo ra những chiếc thuổng để đào củ mài, chiếc dao uốn cong làm cào bổ hốc

tra ngô, cây vót nhọn chọc hố tra lúa nương.... Trong canh tác, đồng bào các

65

DTTS vùng Đông Bắc biết xen canh, gối vụ, biết kết hợp nương rẫy với khai

thác rừng tự nhiên, dược liệu quý. Vùng thung lũng thì kết hợp giữa cây lúa

nước với thả cá, chăn nuôi và các nghề phụ... nên đã tạo ra những sản phẩm

chất lượng cao mang đậm nét BSVH tộc người, những sản phẩm rượu ngô,

rượu men lá, vải thổ cẩm, các loại thuốc lá chữa bệnh... ngày càng khẳng định

được giá trị trong cuộc sống hiện đại.

Ngoài ra, sự thông minh sáng tạo và khả năng thích ứng với điều kiện

tự nhiên khắc nghiệt còn được biểu hiện thông qua trang phục, nhà ở, ẩm

thực. Sống ở nơi địa hình phức tạp, khí hậu khắc nghiệt nên các DTTS nơi

đây đã xây dựng nên những ngôi nhà có kiến trúc độc đáo, phù hợp với địa

bàn cư trú của DT mình. Ngay cả trong cùng một DT, nhưng phân bố ở những

địa bàn khác nhau lại có kiến trúc nhà ở khác nhau. Điều này không phụ thuộc

vào họ thuộc nhóm nào mà phụ thuộc vào điều kiện thời tiết và địa bàn họ

sinh sống. Chẳng hạn, nơi khí hậu mát về mùa hè và lạnh về mùa đông thì để

chống chọi với cái lạnh của vùng núi đá phía Bắc đồng bào ở đây thường làm

nhà trình tường. Ở phía Tây và Tây Nam, khí hậu nóng ẩm hơn thì đồng bào

làm nhà đất hoặc nhà sàn.

Sự đa dạng về trang phục với nhiều họa tiết hoa văn thể hiện sự sáng

tạo, khéo léo của các chị em phụ nữ DTTS vùng Đông Bắc. Với sự cần cù, chăm

chỉ, khéo léo chị em đã tạo ra những sản phẩm mang dấu ấn của tộc người và có

chất lượng cao như vải thổ cẩm. Ngoài phục vụ nhu cầu tiêu dùng trong nội bộ tộc

người, sản phẩm còn là mặt hàng có giá trị cao trong trao đổi.

Sự thông minh, sáng tạo còn được thể hiện trong lĩnh vực ẩm thực với

những món ăn đa dạng, độc đáo. Với ưu thế về nguồn nguyên liệu tự nhiên có

sẵn trong vùng, các DTTS nơi đây đã tận dụng và tạo nên những món ăn độc

đáo, mang đặc trưng riêng của từng DT, chẳng hạn rau rớn, rau ngót rừng, rau

tầm bóp, rau tập tàng ... cùng với những lá cây rừng có thể chế biến để tạo ra

đồ uống vừa có tác dụng giải khát vừa có tác dụng bồi bổ sức khỏe và chữa

bệnh cho con người (các bệnh về gan, thận, xương khớp). Đồng thời, sự tinh

tế và sáng tạo còn được thể hiện trong cả cách thức chế biến và bảo quản thực

phẩm. Với địa hình khó khăn, hiểm trở, xa phiên chợ cùng với lối làm ăn tự

66

cung tự cấp nên các DTTS vùng Đông Bắc đã biết cách bảo quản thực phẩm

rất sáng tạo như: thịt muối, trứng muối, thịt sấy khô treo gác bếp, thịt làm lạp

xưởng để gác bếp ăn quanh năm, cho thịt vào túi bóng buộc chặt thả xuống

đáy giếng .... Trong chế biến món ăn, đồng bào đã biết sử dụng nguồn gia vị

có sẵn trong thiên nhiên hoặc do trồng được để chế biến những món ăn mang

đậm hương vị của tộc người như thảo quả, hạt dổi, gừng, giềng, lá móc mật...

Những sáng tạo từ nhỏ đến lớn, bao quát mọi thời điểm, phương diện

của cuộc sống thường nhật cho chúng ta thấy, mặc dù sinh sống ở những địa

bàn khó khăn, điều kiện thiên nhiên khắc nghiệt, nhưng đồng bào các DTTS

Đông Bắc không khuất phục trước những khó khăn mà vẫn bám trụ quê

hương, cần mẫn, chịu thương, chịu khó lao động sản xuất để vươn lên. Đồng

thời, không ngừng tìm tòi, khám phá để tìm ra phương thức sinh tồn phù hợp

với điều kiện tự nhiên vốn có.

Thứ tư, VH các DTTS vùng Đông Bắc thể hiện cách tư duy tự nhiên, chân

thật, phản ánh lối sống giản dị, mộc mạc.

Lối tư duy tự nhiên, chân thật xuất phát từ hoàn cảnh lịch sử cũng như

điều kiện tồn tại và phát triển. Sống ở nơi có điều kiện giao thông không

thuận lợi, địa hình khó khăn, đời sống vật chất của các DTTS vùng Đông Bắc

rất chật vật và nghèo khó. Bà con cũng ít được học hành, tiếp xúc với những

thành tựu văn minh. Để sinh tồn và phát triển trong điều kiện như vậy, bà con

thường chỉ tin vào những thứ mắt thấy, tai nghe, những thứ cụ thể, thiết thực.

Trong quá trình lao động sản xuất và sinh tồn, đồng bào đều chủ yếu tự mình

quan sát trực tiếp các hiện tượng thiên nhiên cũng như những điều kiện sản

xuất xung quanh để có cách thức sản xuất và tạo ra công cụ lao động phù hợp,

chủ yếu là công cụ lao động thô sơ và cách thức làm ăn giản đơn. Những kinh

nghiệm của người trước, thế hệ trước thường được truyền lại cho con cháu

bằng cách trực tiếp, thị phạm.

Quan hệ giữa người với người, quan hệ với cộng đồng được diễn ra chủ

yếu theo tính chất chân thật, tin tưởng lẫn nhau. Bà con hầu như không biết

lừa dối. Bản chất con người mộc mạc, giản dị, bộc trực, nghĩ gì nói đó, nói thế

nào làm như vậy, không giấu giếm, không khéo léo, ngụy tạo. Lối sống bình

67

dị thể hiện trong cung cách sinh hoạt, trong trang phục, ẩm thực cũng như

trong cách bài trí ngôi nhà. Chính những điều này đã tạo nên một không gian

sinh tồn đậm chất nguyên sơ của các DTTS vùng Đông Bắc. Đến với các

DTTS nơi đây, con người dường như được thực sự hòa mình vào thiên nhiên

của cỏ cây, non nước, mây trời, hòa mình vào với cộng đồng những con

người chất phác, mộc mạc, giản dị nhưng tình cảm lại hết sức nồng ấm với

tập quán hiếu khách, trọng khách, với sự nhân đạo, nhân văn vốn có.

2.2.2. Thực chất của việc giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số

vùng Đông Bắc

2.2.2.1. Lý luận về giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số

Theo Từ điển Tiếng Việt thì giữ gìn là “giữ cho được nguyên vẹn, không bị

mất mát, tổn hại”[106;406]. Song song với giữ gìn là phải chống lại sự tác động có

hại từ các yếu tố bên ngoài. Tuy nhiên, đứng trên quan điểm của chủ nghĩa duy vật

biện chứng thì giữ gìn được thực hiện cả ở hai trạng thái, đó là giữ gìn nguyên gốc

và giữ gìn có chọn lọc, bổ sung và phát triển.

BSVH các DTTS vô cùng phong phú, đa dạng, độc đáo. Đó là hệ thống

các giá trị đặc trưng tinh túy được hình thành trong quá trình tồn tại và phát

triển của các tộc người gắn với hoàn cảnh lịch sử và hoàn cảnh tự nhiên, môi

trường vùng núi. Các giá trị này hàm chứa nhiều giá trị nhân văn, lịch sử tộc

người … và có ý nghĩa là nền tảng tinh thần vững chắc cho các DTTS tồn tại

và phát triển từ trước đến nay. Do đó, cần thiết phải giữ gìn nguyên gốc các

giá trị đó để các DTTS phát triển một cách bền vững trong hiện tại cũng như

trong tương lai. Đồng thời nhằm giáo dục cho các thế hệ sau về lịch sử hình

thành, quá trình tồn tại và phát triển, từ đó nâng cao ý thức tự giác tộc người,

lòng tự hào về các giá trị mà ông cha họ đã sáng tạo nên trong quá trình tồn

tại và phát triển. Trên cơ sở đó, họ tiếp nối truyền thống, các thế hệ sau phát

triển và sáng tạo thêm nhiều giá trị độc đáo mang bản sắc tộc người, góp phần

củng cố thêm nền tảng tinh thần vững chắc của cộng đồng.

Giữ gìn chọn lọc là quá trình chọn lọc và giữ lại giá trị tích cực, hạt nhân hợp lý, đồng thời loại bỏ, khắc phục những gì đã trở nên lạc hậu, trở thành lực cản của các DTTS nói chung và DTTS vùng Đông Bắc nói riêng.

68

Chính trong sự vận động, phát triển liên tục, BSVHDT luôn là một quá trình thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập, đó là những giá trị tích cực, giá trị tinh túy, cốt lõi với những cái đã trở nên lạc hậu, những cái không còn phù hợp khi tồn tại trong một giai đoạn mới với những điều kiện tự nhiên - xã hội mới. Từ đó, diễn ra quá trình phủ định biện chứng. Nếu trong tự nhiên, sự phủ định biện chứng diễn ra do chính bản thân sự vật thực hiện thì trong xã hội, phủ định biện chứng diễn ra thông qua sự tác động của con người, con người là chủ thể thực hiện. Trong sự tồn tại và phát triển BSVHDT, con người sẽ kế thừa những hạt nhân hợp lý, có giá trị đối với sự phát triển của các DTTS, giữ lại cả những yếu tố tuy không còn phù hợp với xã hội hiện đại nhưng sự tồn tại của nó không ngăn cản sự phát triển mà nó mang đậm BSVH của các DTTS (thực chất là giữ lại cả những yếu tố trung tính) đồng thời loại bỏ những yếu tố đã trở nên lạc hậu, không còn phù hợp, kìm hãm, ngăn cản sự phát triển của các DTTS.

Để thực hiện tốt được quá trình này cần phân định được đâu là lạc hậu, đâu là các yếu tố trung tính, đâu là cái còn giá trị, là hạt nhân hợp lý trong BSVH các DTTS và thực tiễn xã hội chính là tiêu chuẩn để phân định, đánh giá, kiểm chứng phân loại. Chỉ có thể dựa trên sự phân định này mới có thể định hướng một cách đúng đắn quá trình giữ gìn BSVH. Qua đó mới khắc phục được bệnh chủ quan duy ý chí hay tự phát trong nhận thức và hoạt động thực tiễn.

Bên cạnh việc giữ gìn có chọn lọc, cũng cần phải có sự bổ sung và phát triển để BSVH các DTTS càng ngày càng phong phú, đa dạng. Trên cơ sở những giá trị truyền thống, giá trị nền tảng, cốt lõi được giữ lại cũng cần bổ sung thêm những giá trị mới phù hợp với hoàn cảnh tự nhiên - xã hội của các DTTS. Chính thông qua quá trình không ngừng lao động sản xuất, các DT đã sáng tạo thêm những giá trị VH mới, những giá trị này ngày càng được bổ sung vào BSVHDT. Đồng thời những giá trị được kế thừa lại trong lịch sử cũng được cải tiến cho phù hợp với xã hội mới và thực tiễn xã hội chính là công cụ để “gọt rũa” những giá trị đó.

Để bổ sung và phát triển theo hướng tiên tiến thì cần có sự giao lưu, trao đổi, tiếp thu tinh hoa VH của các DT khác (trong phạm vi vùng, quốc gia, khu vực, thế giới). Giao lưu, trao đổi VH là quy luật tồn tại và phát triển của

69

mọi nền VH trong mọi thời đại. Đối với BSVH các DTTS, sự giao lưu, trao đổi chính là một điều kiện để phát triển, để rũ bỏ những lạc hậu, những yếu tố lỗi thời, không phù hợp, đồng thời tiếp thu có chọn lọc những giá trị tích cực trong tinh hoa VH của DT khác. Sự giao lưu và hội nhập chính “là sự tác động qua lại giữa các yếu tố nội sinh và ngoại sinh của quá trình phát triển”[131;142]. Qua đó, trên cơ sở của các yếu tố nội sinh, yếu tố chủ đạo mà tiếp thu các yếu tố ngoại sinh và qua thực tiễn chuyển các yếu tố ngoại sinh gia nhập vào BSVH của các DTTS. Không có sự trao đổi hoặc sự trao đổi bị đứt đoạn thì cả VH, xã hội của một cộng đồng đều có thể rơi vào trì trệ, suy thoái.

Như vậy, giữ gìn nguyên gốc, giữ gìn có chọn lọc và có bổ sung và

phát triển là một quá trình phủ định biện chứng vô tận. Thông qua đó, những

hạt nhân hợp lý, có giá trị được giữ lại, cải tiến, những yếu tố lỗi thời, lạc hậu

bị loại bỏ đồng thời bổ sung thêm những giá trị mới làm cho BSVH các

DTTS phong phú, đa dạng, độc đáo và tiên tiến.

Phát huy đúng nghĩa của nó là làm cho những cái vốn có trong một sự

vật, hiện tượng được sống dậy, được vận động, được phong phú thêm, mạnh

thêm; các yếu tố vốn có trong sự vật, hiện tượng, quá trình tác động lẫn nhau

và lan tỏa sang sự vật, hiện tượng, quá trình khác, làm cho chúng sống động,

mạnh mẽ hơn. Theo nghĩa tích cực thì, phát huy là “làm cho cái hay, cái tốt

tỏa tác dụng và tiếp tục nảy nở thêm”[106;768]. Thực chất của phát huy là

thúc đẩy cái hay, cái tốt cho nảy nở nhiều hơn trở thành nền tảng, động lực

của quá trình phát triển.

Phát huy BSVH các DTTS chính là việc làm cho những yếu tố độc đáo,

những giá trị đặc sắc của BSVH của mỗi DT đó một mặt được thể hiện ra

trong cuộc sống, không bị mai một, bị đánh mất. Đồng thời, tạo điều kiện cho

các giá trị đó được lan tỏa, nảy nở và phát triển để giữ được vai trò là sức

mạnh nội sinh cho sự phát triển của các DTTS.

Giữ gìn và phát huy BSVH các DTTS là hai mặt thống nhất của quá trình vận động. Giữ gìn giúp phát hiện, giữ lại những hạt nhân hợp lý, tích cực, khắc phục loại bỏ những yếu tố lạc hậu, kìm hãm phát triển và bổ sung những nhân tố mới để BSVHDT đa dạng, phong phú và tiên tiến. Tuy nhiên,

70

nếu chỉ dừng lại ở giữ gìn thì BSVH các DTTS luôn tồn tại dưới dạng tiềm năng, nguồn năng lượng, nguồn vốn cho sự phát triển. Chỉ khi những giá trị tích cực, hạt nhân hợp lý ấy được phát huy tác dụng trong đời sống hiện thực thì những giá trị trong BSVHDT mới thực sự trở thành sức mạnh nội sinh cho sự phát triển của các DTTS. Chính trong quá trình phát huy BSVH các DTTS mà các giá trị hạt nhân, hợp lý, những giá trị tích cực được giữ gìn, không bị mai một, bị đánh mất, thậm chí ngày càng tồn tại bền chặt hơn. Giữ gìn luôn là tiền đề, điều kiện để phát huy. Phát huy là hình thức tốt nhất để giữ gìn và nâng chất lượng của giữ gìn từ giữ cho nguyên vẹn thành giữ cho nảy nở, phát triển.

Giữ gìn và phát huy BSVH các DTTS là một quá trình thống nhất và biện chứng. Không thể giữ gìn để phát huy, mà giữ gìn và phát huy là công việc song song, đồng thời. BSVH các DTTS không thể tự cô lập mình để giữ khư khư cái vốn có của mình, của cha ông để lại mà phải gắn kết với mở rộng, giao lưu, trao đổi với các DT khác trong phạm vi vùng miền, quốc gia, khu vực và thế giới. Tiếp thu có chọn lọc cái hay, cái tiến bộ trong VH của các DT khác, đồng thời chống tất cả những gì là lạc hậu, lỗi thời trong phong tục, tập quán, lề thói cũ để tạo ra diện mạo mới cho mình. Trong luận án, việc giữ gìn và phát huy BSVH các DTTS vùng Đông Bắc được tiến hành song song, đồng thời, đó là khơi dậy, huy động tất cả các giá trị trong BSVH các DTTS để làm cho chúng tạo điều kiện cho các giá trị VH đó được nở rộ, làm phong phú nền VH.

2.2.2.2. Chủ thể, nội dung, cách thức giữ gìn và phát huy bản sắc văn

hóa các dân tộc thiểu số vùng Đông Bắc

Chủ thể giữ gìn và phát huy: Giữ gìn và phát huy BSVH các DTTS vùng Đông Bắc là một quá trình được thực hiện bởi các chủ thể Đảng, chính quyền nhà nước, hệ thống chính trị ở các địa phương; các cơ quan làm công tác VH, các cơ sở giáo dục (nhà trường) và chính đồng bào các DTTS vùng Đông Bắc với những nội dung và cách thức phù hợp.

Bước đầu tiên, quan trọng nhất, khởi đầu cho quá trình thực hiện giữ gìn và phát huy BSVH được đạt hiệu quả đó là các cấp ủy đảng, chính quyền, hệ thống chính trị các địa phương có nhận thức đúng đắn về việc cần thiết phải giữ gìn và phát huy BSVH các DTTS, từ sự nhận thức đúng đắn để có

71

những chỉ đạo đúng đắn.

- Các cấp ủy đảng và chính quyền địa phương cần bám sát tình hình thực tiễn, xuất phát từ thực trạng giữ gìn BSVH các DTTS để hoạch định những chủ trương, chính sách, chương trình, kế hoạch, dự án kịp thời và phù hợp với điều kiện lịch sử, kinh tế, phong tục, tâm lý của đồng bào. Các nghị quyết, chỉ thị, kế hoạch thực hiện đều cần được xây dựng trên tinh thần tôn trọng BSVH của đồng bào các DTTS.

- Các tổ chức trong hệ thống chính trị như Đoàn thanh niên, Hội phụ nữ, Mặt trận, Hội cựu chiến binh có trách nhiệm giữ gìn và phát huy BSVH các DT. Tùy theo chức năng của mình, mỗi tổ chức cụ thể hóa các chính sách giữ gìn và phát huy BSVH các DTTS của chính quyền các cấp, gương mẫu thực hiện và vận động đồng bào thực hiện; đồng thời gần gũi nắm bắt nguyện vọng và những ý kiến đóng góp của đồng bào để tham mưu cho Đảng và chính quyền.

- Các cơ quan VH địa phương cũng như trung ương như các phòng, ban, sở VH; các viện bảo tàng, viện nghiên cứu VH với đội ngũ cán bộ chuyên trách hoạt động VH của mình là những chủ thể trực tiếp thực hiện giữ gìn và phát huy BSVH các DTTS. Trên cơ sở chức năng và khả năng chuyên môn của mình, cần tích cực triển khai các hoạt động sưu tầm, phục dựng, tôn tạo, đề xuất chính sách, biện pháp giữ gìn và phát huy cụ thể; phát hiện kịp thời những sự biến đổi BSVH trong thực tế, khả năng bảo tồn, phát triển cũng như nguy cơ mất đi của những giá trị VH để kịp thời tư vấn, tham mưu cho cơ quan Đảng và chính quyền.

- Nhà trường là một môi trường rất tốt cho việc giáo dục, tuyên truyền những nét VH đậm đà BS của các DTTS và ý thức giữ gìn, phát huy BSVH đó cho các thế hệ học sinh thông qua chủ thể là các thầy cô giáo. Do đó, bên cạnh việc truyền dạy kiến thức, nhà trường cũng cần quan tâm thường xuyên đến việc giáo dục, tuyên truyền BSVH của đồng bào các DTTS trong vùng từ cấp mầm non trở đi thông qua các chương trình chính khóa và ngoại khóa.

- Bản thân đồng bào các DTTS chính là chủ thể sáng tạo và hưởng thụ các giá trị VH do cộng đồng DT mình sáng tạo ra, do đó bản thân đồng bào chính là chủ thể đặc biệt, có vai trò quan trọng nhất trong việc duy trì, gìn giữ và phát huy các giá trị VH giàu bản sắc đó. Đồng bào các DT cần được tạo

72

mọi điều kiện để nâng cao trình độ học vấn, có đời sống vật chất no ấm, ổn định, đó là cơ sở để đồng bào có thể tiếp tục sáng tạo, tham gia tự giác bảo vệ, bảo tồn những giá trị VH của DT mình. Ở bất cứ một DT nào cũng cần phát huy vai trò của các già làng, trưởng bản, do đó cần tận dụng uy tín của họ đối với cộng đồng, hướng vào nhiệm vụ giữ gìn và phát huy BSVH của các DT.

Nội dung, cách thức giữ gìn và phát huy: BSVH các DTTS vùng Đông Bắc vô cùng phong phú, đa dạng, độc đáo được thể hiện ra qua các giá trị VH vật thể và VH phi vật thể. Các giá trị VH này được các DTTS vùng Đông Bắc sáng tạo nên trong quá trình lao động sản xuất, truyền thống đấu tranh chống thiên tai, địch họa, hoạt động sống về vật chất và tinh thần, thông qua trao đổi, giao lưu, học hỏi với các nền VH khác và đồng thời nó phản ánh thế giới quan, nhân sinh quan, cách thức tư duy, lý tưởng của mỗi tộc người trong quá trình phát triển. Trải qua thời gian, các giá trị này ngày càng được hun đúc, bồi đắp và làm giàu có thêm, trở thành nguồn lực nội sinh cho các DTTS trên con đường phát triển. Sở dĩ BSVH các DTTS vùng Đông Bắc giữ được vai trò đó là do nó luôn được giữ gìn và phát huy trong mọi giai đoạn lịch sử. Quá trình giữ gìn và phát huy luôn được thực hiện cả trong giá trị VH vật thể lẫn giá trị VH phi vật thể.

Các giá trị VH vật thể: giữ gìn và phát huy giá trị vật thể VH các DTTS vùng Đông Bắc phải diễn ra ở mọi yếu tố biểu hiện của nó như nhà ở truyền thống; trang phục truyền thống; ẩm thực truyền thống; công cụ lao động, sản xuất, sinh hoạt. - Nhà ở truyền thống: mỗi DTTS vùng Đông Bắc đều có ngôi nhà truyền thống với kiến trúc riêng của DT mình. Nhà ở truyền thống của các DTTS vùng Đông Bắc phản ánh sự tinh tế, khéo léo, khả năng linh hoạt của các tộc người trong mối quan hệ giao hòa với thiên nhiên và nó phản ánh rõ nét BSVH của tộc người. Do đó, mỗi cộng đồng cần lưu giữ ngôi nhà cổ truyền của DT mình để bảo lưu các giá trị VH của ngôi nhà đồng thời giáo dục cho các thế hệ sau những giá trị tốt đẹp đó. Hiện tại, do nhiều nguyên nhân, trong một số chi tiết của ngôi nhà có thể dùng các vật liệu thay thế vật liệu truyền thống nhưng vẫn cần đảm bảo các đặc điểm cơ bản của ngôi nhà truyền thống như cấu trúc, màu sắc, mặt bằng sinh hoạt.

73

- Trang phục truyền thống cũng là một kết quả sáng tạo tuyệt vời của các tộc người vùng Đông Bắc, trên cái nền tự nhiên vùng miền núi, mỗi DT đã tạo ra những bộ trang phục mang đặc trưng riêng của DT mình. Do đó, mỗi DT cần giữ gìn bộ trang phục truyền thống của DT mình, đặc biệt là trong những dịp lễ tết, nhất là khi cần khẳng định BSDT mình với các tộc người khác thì bộ trang phục truyền thống vô cùng có ý nghĩa. Trong điều kiện đổi thay về môi trường và điều kiện kinh tế - xã hội hiện nay thì nguyên liệu, quá trình làm ra và hoàn thiện của bộ trang phục truyền thống có thể thay đổi, chẳng hạn có thể dùng máy thay cho khâu tay, nhưng vẫn phải đảm bảo những đặc điểm truyền thống như màu sắc, hoa văn, kích thước….

- Với ẩm thực truyền thống, mỗi tộc người nên lưu giữ những món ăn truyền thống có tác dụng bồi bổ sức khỏe và chữa bệnh, giữ gìn và truyền lại cho thế hệ sau những cách thức chế biến món ăn và cách thức bảo quản thực phẩm độc đáo mang đặc trưng tộc người. Đồng thời, phát huy sự khéo léo của đôi bàn tay, sự tinh tế, nhạy bén của khối óc để tận dụng những nguyên liệu tự nhiên vào chế biến và bảo quản thực phẩm như đồng bào các DTTS vẫn làm. Trong điều kiện ngày nay đang có sự báo động về nguồn thực phẩm bẩn và sử dụng hóa chất cấm trong bảo quản thực phẩm một cách tràn lan trên phạm vi cả nước, đặt ra vấn đề phải giữ gìn cách chế biến, cách bảo quản truyền thống, cho dù sẽ phức tạp hơn, mất công hơn so với sử dụng những chất phụ gia “bẩn” đang lan tràn trong xã hội.

- Với công cụ lao động, sản xuất, sinh hoạt, đây là hệ thống các công cụ lao động được làm ra phù hợp với đặc điểm địa hình đa dạng, tập quán sinh sống của đồng bào DTTS vùng Đông Bắc. Chủ yếu các công cụ này đều được tạo ra dưới dạng thủ công nên nó mang đặc điểm thô sơ, giản đơn. Hiện tại bên cạnh nhiều công cụ vẫn giữ được vai trò trong xã hội ngày nay, đã có công cụ bị thay thế bởi thành tựu mới của khoa học công nghệ. Sự thay thế công cụ sản xuất là nhu cầu tất yếu trong phát triển, không nên chối bỏ việc sử dụng những công cụ thuận tiện và giảm nhẹ sức người hơn, nhằm làm cho hoạt động sản xuất của bà con đỡ vất vả. Nhưng ngay trong quá trình làm ra những công cụ mới, vẫn đặc biệt cần lưu ý đảm bảo sự phù hợp của công cụ đối với tập quán canh tác rất đặc thù ở Đông Bắc. Đồng thời nên đẩy mạnh

74

việc bảo quản, giữ gìn những công cụ truyền thống để giáo dục cho thế hệ sau hiểu biết thêm VH tộc người trong từng giai đoạn lịch sử nhất định gắn với những điều kiện ở thời điểm đó. Mặt khác, tiếp tục phát huy những công cụ vẫn có tác dụng đối với điều kiện hiện nay trong điều kiện môi trường tự nhiên đặc biệt vùng Đông Bắc.

Giữ gìn và phát huy các giá trị VH vật thể của các DTTS vùng Đông Bắc được thực hiện thông qua các cách thức cơ bản như: giữ gìn thông qua hệ thống bảo tồn, bảo tàng chuyên nghiệp; đầu tư về cơ sở vật chất và sự trợ giúp của khoa học kỹ thuật hiện đại; phục dựng, ghi lại, lưu giữ, phổ biến thông qua các phương tiện khoa học kỹ thuật hiện đại; phục dựng, tái tạo, giữ gìn, phát huy thông qua xây dựng những mô hình làng VH, làng VH du lịch cộng đồng do chính đồng bào các DTTS giữ gìn trong đời sống của mỗi gia đình, dòng họ, làng bản với không gian VH chân thực. Chẳng hạn, trong mỗi gia đình, cần phát huy cao độ sự truyền dạy và thực hành thường xuyên, trực tiếp trong cuộc sống hàng ngày.

Các giá trị VH phi vật thể như ngôn ngữ, phong tục tập quán, tín ngưỡng tôn giáo, lễ hội, tri thức bản địa và nghệ thuật dân gian cũng cần được nhận diện, giữ gìn và phát huy một cách tích cực.

- Ngôn ngữ mỗi tộc người là công cụ lưu giữ và thể hiện BSVH tộc người. Giữ gìn ngôn ngữ tộc người cần được thực hiện cả ở hai dạng tiếng nói và chữ viết. Tiếng nói và chữ viết đều là công cụ thể hiện tư duy, nó không chỉ có vai trò quan trọng trong giao tiếp hàng ngày mà còn là công cụ hữu hiệu trong việc trao truyền (tiếng nói trao truyền trực tiếp, chữ viết trao truyền gián tiếp) cho thế hệ sau những giá trị tinh túy trong VH tộc người. Giữ gìn tiếng nói cần được thực hiện qua hai cách cơ bản đó là truyền dạy trực tiếp trong cuộc sống hàng ngày bằng cách: Thứ nhất, các thế hệ thường xuyên giao tiếp với nhau bằng ngôn ngữ tộc người; Thứ hai, được thực hiện qua trường lớp, đó là mở các lớp dạy ngôn ngữ tộc người.

- Với phong tục tập quán, mỗi DT cần lưu giữ, trao truyền cho các thế hệ sau những hạt nhân hợp lý và tốt đẹp trong phong tục tập quán của DT mình. Các giá trị tốt đẹp đó được thể hiện trong cách thức tổ chức sản xuất, cách thức bộc lộ tình cảm, mối quan hệ giữa con người với thiên nhiên, cũng

75

như trong các tập tục liên quan đến chu kì đời người như sinh đẻ, cưới xin, lễ sinh nhật, tang ma….

Phong tục tập quán biểu hiện rõ nhất giá trị tốt đẹp của của cộng đồng, cho thấy sự sáng tạo, linh hoạt trong lao động sản xuất; sự đoàn kết, yêu thương, giúp đỡ lẫn nhau trong mọi hoàn cảnh; sự ứng xử hài hòa, cởi mở, chân thật; sự hiếu thảo, thành kính với cha mẹ…. Cần phát huy những giá trị tốt đẹp này trong cuộc sống hiện nay, làm cho những giá trị này được lan tỏa trong cộng đồng tạo nên sức mạnh để đồng bào các DTTS ổn định và phát triển trong bối cảnh kinh tế thị trường, giao lưu và hội nhập quốc tế.

Cách thức giữ gìn và phát huy có thể được thực hiện qua các hình thức tư liệu hóa dưới hình thức văn bản, băng đĩa được cất trữ và giới thiệu trong các bảo tàng các cấp từ trung ương đến địa phương; giới thiệu, quảng bá trên truyền hình; truyền dạy trực tiếp cho các thế hệ được diễn ra từ trong gia đình đến nhà trường và ngoài xã hội; đặc biệt thực hành thường xuyên trong cuộc sống cộng đồng chính là cách giữ gìn và phát huy được hiệu quả nhất.

- Tín ngưỡng tôn giáo là sinh hoạt VH, tín ngưỡng chứa đựng nhiều giá trị tốt đẹp của đồng bào các DTTS được phản ánh trong các lễ nghi, nghi thức thờ cúng tổ tiên và các vị thần. Các giá trị đó vẫn đang tiếp tục góp phần quan trọng vào việc củng cố, nâng cao đời sống tinh thần cho đồng bào các DTTS vùng Đông Bắc. Do đó, cách giữ gìn và phát huy các giá trị này thông qua việc nghiên cứu, sưu tầm, ghi chép dưới dạng tư liệu hóa; phục dựng, trao truyền (truyền dạy) trong chính đời sống hàng ngày của các DTTS nơi đây.

Lễ hội là sinh hoạt VH cộng đồng của đồng bào các DTTS vùng Đông Bắc, trong lễ hội chứa đựng các hạt nhân hợp lý có giá trị như củng cố sự cố kết cộng đồng, bồi dưỡng tinh thần lạc quan, tin yêu vào cuộc sống, thỏa mãn nhu cầu sinh hoạt VH tinh thần của đồng bào, thể hiện tài năng cá nhân như may thêu trang phục truyền thống, món ăn truyền thống, ca, múa những bài hát truyền thống và sự khéo léo trong chơi nhạc cụ DT…. Do đó rất cần giữ gìn và phát huy những giá trị tốt đẹp này trong cộng đồng để từ đó nâng cao đời sống tinh thần cho đồng bào. Cách thức giữ gìn được thực hiện trên cơ sở nghiên cứu, sưu tầm dưới dạng tư liệu hóa; tiến hành phục dựng lại và lưu trữ trong các đĩa DVD tại các bảo tàng; duy trì trong chính đời sống của đồng bào các DTTS.

76

- Tri thức bản địa là toàn bộ hiểu biết của cộng đồng về tự nhiên, xã hội và bản thân con người, được tích lũy trong trường kỳ lịch sử qua kinh nghiệm (trải nghiệm) của bản thân cộng đồng đó. Đây là những giá trị vô cùng quý, chứa đựng những nét độc đáo của VH tộc người, nó có vai trò quan trọng trong sản xuất, sinh hoạt, trong chữa bệnh…. Vì vậy, rất cần thiết để giữ gìn, phát huy nó trong cuộc sống bằng cách: trao truyền cho các thế hệ kế cận thông qua trí nhớ, truyền miệng và thực hành xã hội. Nó giúp con người có được những ứng xử thích hợp với môi trường tự nhiên, điều hòa các quan hệ xã hội, những hiểu biết cần thiết trong sản xuất, trong dưỡng sinh và trị bệnh. Đồng thời cần tăng cường những hoạt động giữ gìn, phát huy các tri thức này thông qua sưu tầm, khảo cứu, hệ thống, lưu giữ bởi những cơ quan VH các cấp, đặc biệt các viện nghiên cứu có tính chất chuyên sâu.

- Nghệ thuật dân gian của các DTTS vùng Đông Bắc chứa đựng nhiều giá trị VH độc đáo, đặc sắc. Đó là những câu truyện cổ, ca dao, tục ngữ, các làn điệu dân ca cùng với các nhạc cụ đi kèm. Nó phản ánh lịch sử tộc người, đời sống vật chất, đời sống tinh thần của các DTTS nơi đây. Do đó, giữ gìn và phát huy kho tàng VH nghệ thuật dân gian của các DTTS ở vùng này nhằm giáo dục cho thế hệ sau về lịch sử tộc người, góp phần củng cố ý thức tộc người và ý thức vươn lên trong mọi hoàn cảnh, hình thành niềm tự hào về truyền thống. Cách thức giữ gìn và phát huy được thực hiện thông qua việc ghi chép, truyền dạy trong các lớp học, các câu lạc bộ, truyền miệng và thực hành trong chính đời sống cộng đồng.

Cách thức giữ gìn và phát huy BSVH phi vật thể của các DTTS vùng Đông Bắc nước ta được thực hiện cả ở trạng thái tĩnh và trạng thái động. Ở trạng thái tĩnh là giữ chúng trong sách vở, các ghi chép, mô tả trong các băng hình (video), băng tiếng (audio), ảnh (photo album). Tất cả các giá trị VH phi vật thể này có thể lưu giữ trong các kho lưu VH ở trung ương và địa phương. Ở trạng thái động là bảo tồn các giá trị VH phi vật thể đó ngay trong chính đời sống cộng đồng. Cộng đồng chính là môi trường không chỉ sản sinh ra các hiện tượng VH phi vật thể mà còn là nơi tốt nhất bảo tồn, làm giàu thêm và phát huy nó trong đời sống xã hội.

Thực chất của việc giữ gìn và phát huy các giá trị VH vật thể và VH

77

phi vật thể là nhằm giữ gìn, phát huy những giá trị cốt lõi, bản chất, những cái làm nên sức mạnh nội sinh để các DTTS vùng Đông Bắc tồn tại và phát triển, đó là : lòng tự hào dân tộc; tinh thần đoàn kết, sống hài hòa tình nghĩa; tính cần cù, thông minh, sáng tạo và khả năng thích ứng cao với môi trường tự nhiên; lối sống giản dị, mộc mạc, tự nhiên, chân thật và tấm lòng hướng thiện….

Tóm lại, giữ gìn và phát huy BSVH các DTTS vùng Đông Bắc là đưa các giá trị của BSVHDT này vào cuộc sống, làm cho chúng sống động, chúng vận động cùng với mọi hoạt động sống của các tầng lớp nhân dân. Giữ gìn và phát huy BSVHDT cũng là làm cho những yếu tố bản sắc ngày càng đậm đà thêm, mặt khác làm cho chúng ngày càng tiên tiến và hiện đại, bằng cách bổ sung, tiếp nhận những yếu tố mới, chất mới của VH các DT khác trong nước và thế giới.

2.3. Những yếu tố tác động đến việc giữ gìn, phát huy bản sắc văn

hóa các dân tộc thiểu số.

Giữ gìn và phát huy BSVHDT nói chung và BSVH các DTTS vùng Đông Bắc nói riêng đều chịu sự tác động bởi các yếu tố khách quan và chủ quan. Tuy nhiên, đối với bối cảnh hiện nay, việc giữ gìn, phát huy BSVH các DTTS chịu sự tác động trực tiếp nhất của những yếu tố khách quan đó là sự phát triển của nền kinh tế thị trường, của toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế. Trong đó, nền kinh tế thị trường là yếu tố tác động mạnh mẽ nhất theo cả hai hướng tích cực và tiêu cực.

Một trong những tác động tích cực của kinh tế thị trường đối với việc giữ gìn, phát huy BSVH các DTTS vùng Đông Bắc đó chính là tính chủ động, sáng tạo, độc lập trong suy nghĩ và hành động của đồng bào các DTTS được nâng cao. Dưới tác động của nền kinh tế thị trường, đồng bào các DTTS đã chủ động tiếp thu phương thức sản xuất, kỹ thuật canh tác và kinh nghiệm tiếp cận thị trường để phát triển kinh tế gia đình, địa phương với những ngành nghề, sản phẩm đặc thù, ưu thế của vùng. Chẳng hạn, người Mông, Dao đã biết áp dụng phương thức sản xuất, kỹ thuật canh tác mới vào trồng một số loại cây công nghiệp trên diện rộng nhằm phục vụ mục đích thương mại như: thảo quả, hồi, chè, thuốc lá, quýt, cam, chanh, lê, mận và đã hình thành một số

78

vùng chuyên canh trồng các loại cây thương mại ở phạm vi lớn như: trồng lê ở Tràng Định (Lạng Sơn), trồng quýt ở Bắc Sơn, Bình Gia (Lạng Sơn), trồng cam, chanh ở Vị Xuyên, Bắc Quang (Hà Giang), trồng chè đắng ở Thạch An (Cao Bằng), trồng hồi ở các cánh rừng của đồng bào Tày, Nùng, Mông, Dao ở huyện Lộc Bình (Lạng Sơn), Bắc Mê (Hà Giang), trồng chè shan tuyết ở huyện Đồng Văn, huyện Hoàng Shu Phì (Hà Giang), huyện Tràng Định (Lạng Sơn), huyện Na Hang (Tuyên Quang)… Ngoài các loại cây trồng mang tính thương mại, đồng bào các DTTS cũng tích cực phát triển các ngành nghề thủ công (rèn, đan lát, thêu thùa) để tạo ra các sản phẩm chất lượng phục vụ người tiêu dùng. Thông qua thị trường, các loại hàng hóa này nhanh chóng phổ biến khắp các vùng miền trong cả nước góp phần xóa đói giảm nghèo, nâng cao thu nhập đồng thời góp phần duy trì, giữ gìn các ngành nghề thủ công truyền thống, các sản phẩm đặc trưng, độc đáo mang tính bản sắc của đồng bào các DTTS vùng Đông Bắc.

Thứ hai, khi thị trường mở rộng, sự giao lưu về kinh tế, VH giữa đồng bào các DTTS vùng Đông Bắc với người Kinh được diễn ra thường xuyên và mạnh mẽ hơn sẽ tạo điều kiện cho các yếu tố VH được va đập, cọ xát, khi đó các yếu tố VH lạc hậu, không phù hợp với điều kiện mới sẽ bị đào thải, loại bỏ đồng thời các yếu tố VH mang đậm bản sắc tiếp tục được khẳng định, duy trì, phát huy và bổ sung thêm các yếu tố VH mới làm cho VH của đồng bào các DTTS vùng Đông Bắc vừa tiên tiến vừa đậm đà BSDT.

Thứ ba, kinh tế du lịch phát triển trong điều kiện kinh tế thị trường sẽ tạo điều kiện cho các giá trị VH giàu bản sắc của đồng bào các DTTS vùng Đông Bắc được quảng bá, giới thiệu ở mọi vùng miền trong cả nước và trên thế giới. Từ đó, tạo động lực cho đồng bào tiếp tục giữ gìn, phát huy các giá trị VH đó - coi đó chính là nguồn vốn cho sự phát triển kinh tế địa phương.

Thứ tư, sự tác động của kinh tế thị trường làm cho đời sống vật chất của đồng bào các DTTS không ngừng được nâng cao, khi đời sống vật chất no đủ sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho đồng bào tiếp tục duy trì, sáng tạo và hưởng thụ các giá trị VH do chính DT mình tạo ra, đồng thời tạo điều kiện vật chất cho việc giữ gìn, phát huy BSVH thông qua việc xây dựng các bảo tàng tư nhân, bảo tàng địa phương, nhà VH hay sử dụng các phương tiện tiên tiến

79

để giữ gìn, bảo quản các giá trị VH giàu bản sắc được tốt hơn.

Bên cạnh những tác động tích cực trên, sự tác động của kinh tế thị trường cũng làm xuất hiện những mặt tiêu cực trong quá trình giữ gìn, phát huy BSVH các DTTS vùng Đông Bắc như:

Trong nền kinh tế thị trường, với mục đích lợi nhuận đã làm cho một bộ phận đồng bào các DTTS tha hóa, biến chất đi ngược lại với bản tính hiền lành, lương thiện, thật thà, chất phác vốn có của đồng bào. Xuất hiện hiện tượng sản xuất kinh doanh, buôn bán trái pháp luật, hủy hoại môi trường tự nhiên. Sự ganh gét, đố kị, cạnh tranh không lành mạnh, hủy hoại lẫn nhau xuất hiện thay thế cho các giá trị đạo đức truyền thống như sự đoàn kết, tình nghĩa, yêu thương đùm bọc, giúp đỡ lẫn nhau…

Nền kinh tế thị trường đã làm nhịp sống sôi động, hối hả tăng lên, một bộ phận đồng bào chỉ chú tâm chăm lo phát triển kinh tế, thu lợi nhuận mà dần dần lãng quên việc thực hành các giá trị VH truyền thống. Đó cũng chính là một phần lí do để các giá trị VH truyền thống bị mai một, vắng bóng trong đời sống của đồng bào.

Dưới tác động của nền kinh tế thị trường đã làm phái sinh nhiều yếu tố phản VH. Trước sự kích của cái mới mẻ, đặc biệt giới thanh niên vùng đồng bào các DTTS nhanh chóng tiếp cận và du nhập những yếu tố phản VH như lối sống trụy lạc, thác loạn, lối sống thờ ơ, vô cảm, vô trách nhiệm, coi trọng đồng tiền, ăn chơi lêu lổng… dần dần từ bỏ các giá trị VH truyền thống tốt đẹp của DT mình. Đồng thời nảy sinh ý thức cho rằng những giá trị VH truyền thống là lạc hậu, cổ súy, tôn sùng các giá trị VH mới.

Kinh tế thị trường phát triển tạo điều kiện thuận lợi cho việc lưu thông hàng hóa từ miền xuôi lên miền ngược. Sự đa dạng về hàng hóa của người Kinh cùng với những mặt hàng sản xuất theo kiểu công nghiệp với mẫu mã bắt mắt, giá cả hợp lý đã tràn nan khắp các khu chợ của đồng bào DTTS. Từ đó đồng bào đã lựa chọn những hàng hóa công nghiệp thay thế cho các sản phẩm truyền thống. Đồng nghĩa với việc đó, những làng nghề và những sản phẩm thủ công truyền thống ít có điều kiện để tồn tại, dần dần bị mai một. Ngoài ra, đứng trước người Kinh, một bộ phận đồng bào các DTTS luôn có tâm lí tự ti, mặc cảm, e ngại khi thực hành các giá trị VH truyền thống của DT

80

mình vì cho rằng nó lạc hậu, lâu dần, các giá trị VH này cũng đi vào mai một và mất chỗ đứng trong đời sống của đồng bào.

Như vậy, trước sự tác động của nền kinh tế thị trường, một mặt tạo điều kiện thuận lợi cho các giá trị VH truyền thống mang tính bản sắc của đồng bào được giữ gìn, phát huy tốt hơn, mặt khác, nó cũng làm nảy sinh những yếu tố phản VH, làm lai tạp, biến đổi những giá trị VH truyền thống tốt đẹp và nguy cơ mai một, vắng bóng dần những giá trị VH vật thể và VH phi vật thể trong chính đời sống của đồng các DTTS vùng Đông Bắc.

Toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế cũng có sự tác động hai mặt đến việc giữ gìn, phát huy BSVHDT nói chung và BSVH các DTTS vùng Đông Bắc nói riêng. Tuy nhiên, đối với vùng Đông Bắc, sự tác động này chưa diễn ra trên diện rộng khắp các vùng miền mà chủ yếu diễn ra ở các khu vực thành thị và các vùng giáp ranh, còn vùng sâu, vùng xa, vùng xa xôi hẻo lánh có địa hình phức tạp, giao thông chia cắt, điều kiện cơ sở vật chất thiếu thốn ít bị tác động hơn.

Với tác động tích cực của toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế đem lại đã giúp cho đồng bào các DTTS chủ yếu ở vùng có giao thông thuận lợi thu hút được đầu tư quốc tế vào sản xuất, tiêu thụ các sản phẩm bản địa đặc sắc của mình, đầu tư khai thác phát triển du lịch VH, tăng cường giao lưu, học hỏi kinh nghiệm sản xuất kinh doanh, mở mang dân trí, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần. Mặt khác, tạo điều kiện cho đồng bào tiếp cận với những luồng VH mới, tiến bộ trong khu vực và trên thế giới. Từ đó tiếp thu có chọn lọc để bổ sung, làm mới, phát triển VH truyền thống cho phù hợp với xã hội hiện đại, làm giàu có thêm VH của DT mình đồng thời khắc phục được những lạc hậu, sự không phù hợp trong VH truyền thống của đồng bào.

Bên cạnh những mặt tích cực trên, mặt trái của toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế đã làm biến đổi, lai tạp nhiều giá trị VH truyền thống của đồng bào các DTTS. Nhiều giá trị VH truyền thống đang đứng trước nguy cơ biến mất do giới trẻ học đòi theo cái mới du nhập từ bên ngoài vào một cách ồ ạt thiếu kiểm soát, chọn lọc, đồng thời ca tụng, cổ súy cho VH ngoại lai, thờ ơ, quay lưng lại những giá trị VH truyền thống. Những lối sống không lành mạnh xa lạ với chính đồng bào các DTTS đó là lối sống thác loạn, vô tâm, vô

81

cảm, coi trọng vật chất… của một bộ phận tầng lớp thanh niên khu vực thành thị và đang có chiều hướng lan ra các vùng giáp ranh. Nhiều giá trị đạo đức bị coi nhẹ trước sự tấn công của những yếu tố phản VH, phản tiến bộ được du nhập trong quá trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế. Tất cả điều đó đang đặt ra nguy cơ mai một, biến mất một nền VH đậm đà BSDT của đồng bào các DTTS vùng Đông Bắc.

Tiểu kết chương 2

VH là hệ thống các giá trị do con người sáng tạo ra trong quá trình lịch sử. Trong VH có những giá trị đặc trưng, bản chất, cốt lõi mang tính bền vững tạo nên BSVH. BSVH luôn gắn với một DT nhất định với những đặc điểm riêng về điều kiện tự nhiên, hoàn cảnh lịch sử, điều kiện kinh tế - xã hội riêng và nó chính là cơ sở để phân biệt DT này với DT khác, là tấm thẻ căn cước hay tấm chứng minh thư của các DT trong quá trình giao lưu và hội nhập.

BSVH các DTTS vùng Đông Bắc vô cùng phong phú, đa dạng và độc đáo được quy định bởi những đặc điểm về điều kiện địa lý, môi trường tự nhiên, hoàn cảnh lịch sử và điều kiện kinh tế - xã hội vùng miền núi. Sự phong phú, đa dạng trong BSVH các DTTS vùng Đông Bắc được thể hiện qua các sắc thái VH vật thể (kiến trúc nhà ở truyền thống, trang phục, ẩm thực) và VH phi vật thể (ngôn ngữ, phong tục tập quán, lễ hội, tri thức bản địa và kho tàng VH nghệ thuật dân gian). Trong sự phong phú, đa dạng là những giá trị đặc trưng, bản chất, cốt lõi, những giá trị chung tiềm ẩn sâu trong các sắc thái VH đó.

Quá trình giữ gìn và phát huy BSVH các DTTS vùng Đông Bắc được thực hiện nhằm giữ gìn, phát huy những giá trị cốt lõi, bản chất, những cái làm nên sức mạnh nội sinh để các DTTS nơi đây tồn tại và phát triển. Cách thức giữ gìn và phát huy các giá trị VH vật thể và các giá trị VH phi vật thể được thực hiện cả ở hai trạng thái tĩnh (giữ gìn thông qua hệ thống bảo tồn, bảo tàng chuyên nghiệp; ghi chép trong sách vở, sao chép, chụp chiếu trong các video, audio…) và trạng thái động được thực hiện trong chính đời sống hàng ngày của cộng đồng các DTTS vùng Đông Bắc.

Trong quá trình giữ gìn, phát huy BSVH các DTTS vùng Đông Bắc đã chịu sự tác động bởi những yếu tố khách quan và chủ quan. Tuy nhiên, trong bối cảnh hiện nay, sự tác động của nền kinh tế thị trường được xem là yếu tố tác động trực tiếp nhất, mạnh mẽ nhất theo cả hai chiều hướng tích cực và tiêu cực.

82

Chương 3

THỰC TRẠNG GIỮ GÌN VÀ PHÁT HUY BẢN SẮC VĂN HÓA

CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ VÙNG ĐÔNG BẮC VIỆT NAM

Giữ gìn và phát huy BSVHDT có vai trò to lớn đối với sự tồn tại và

phát triển bền vững của mỗi quốc gia, trong đó có Việt Nam. Nó khơi dậy ý

chí tự lực, tự cường; sự đoàn kết, tương thân tương ái; đức tính cần cù, chịu

thương, chịu khó và sự sáng tạo cao trong lao động, sản xuất… tạo nên sức mạnh

nội sinh thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển. Trong đó, BSVH của đồng bào các

DTTS nói chung và BSVH của đồng bào các DTTS vùng Đông Bắc nói riêng,

ngoài vai trò tạo nên sự đa dạng trong nền VH Việt Nam, nó cũng có vai trò quan

trọng trong việc duy trì sự tồn tại và phát triển của chính bản thân đồng bào.

3.1. Thành tựu của giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc

thiểu số vùng Đông Bắc

Xây dựng nền VH Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc DT là mục tiêu và

chính sách xuyên suốt, nhất quán của Đảng và Nhà nước ta. Điều đó xuất phát

từ vai trò, vị trí của VH “VH là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu,

động lực phát triển bền vững đất nước”, là nội lực - sức mạnh nội sinh của đất

nước trong quá trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế. Trong đó, giữ gìn và

phát huy BSVHDT nói chung và BSVH các DTTS nói riêng có ý nghĩa quan

trọng không chỉ trong xây dựng nền VH Việt Nam tiên tiến, đậm đà BSDT mà

nó còn có vai trò to lớn đối với sự tồn tại và phát triển bền vững của quốc gia,

của mỗi DT trong cộng đồng quốc gia đa DT. Các giá trị VH truyền thống tốt

đẹp được khơi dậy sẽ tạo nên sức mạnh nội sinh thúc đẩy kinh tế - xã hội phát

triển.

Từ nhận thức đúng đắn vai trò đó, trong những năm qua, Đảng và Nhà

nước đã ban hành nhiều chủ trương, đường lối, chính sách VH nhằm giữ gìn,

phát huy BSVH nói chung và BSVH của đồng bào các DTTS nói riêng.

Chính quyền địa phương vùng Đông Bắc cũng đã có những Chỉ thị,

83

Nghị quyết, kế hoạch thực hiện việc giữ gìn và phát huy BSVH các DTTS tại

địa phương thông qua việc giữ gìn và phát huy các giá trị VH vật thể và các

giá trị VH phi vật thể.

Sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy đảng, sự tuyên truyền,

giáo dục của các cơ quan chuyên môn về ý thức giữ gìn, phát huy BSVHDT

đã có tác động rất lớn đến ý thức giữ gìn và phát huy BSVH của đồng bào các

DTTS. Đồng bào cũng nêu cao tinh thần tự giác, tham gia tích cực và cũng đã

đạt được những thành tựu nhất định vào việc giữ gìn, phát huy các giá trị VH

vật thể và các giá trị VH phi vật thể của DT mình.

3.1.1. Thành tựu của việc giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa vật thể Thành tựu trong việc giữ gìn và phát huy các giá trị VH vật thể được thể hiện thông qua việc giữ gìn nhà ở truyền thống, trang phục truyền thống và ẩm thực truyền thống của đồng bào các DTTS vùng Đông Bắc.

* Về nhà ở truyền thống: Trước xu thế giao lưu VH giữa các DT, các vùng trong phạm vi trong và ngoài nước diễn ra mạnh mẽ, xu thế đồng hóa tự nhiên về mặt VH là điều dễ nhận thấy. Tuy nhiên, với ý thức giữ gìn và phát huy BSVH, ở nhiều vùng, đồng bào vẫn bảo lưu và duy trì được những ngôi nhà truyền thống của DT mình. Chiếm phần lớn trong các ngôi nhà truyền thống là những ngôi nhà sàn được xây dựng từ những vật liệu tự nhiên như tre, gỗ, nứa, lợp bằng cỏ gianh. Ở một số vùng, nhiều ngôi nhà trình tường với hàng rào đá xếp xung quanh tạo nên những quần thể ấm cúng. Ở những nơi này, bà con người Mông, người Dao, người Nùng vẫn làm ăn, sinh sống với những tập quán lâu đời và độc đáo.

Kiến trúc nhà ở của nhân dân nhiều thôn, bản vẫn còn lưu giữ được nét truyền thống DT. Đồng bào cũng có những biện pháp cải tạo để chống xuống cấp. Đối với việc xây dựng mới ngôi nhà theo kiến trúc truyền thống, đồng bào thường mời các già làng, trưởng bản, những nghệ nhân còn lưu giữ được kiến trúc truyền thống để tư vấn nhằm bảo lưu nguyên vẹn ngôi nhà của cha ông để lại. Hiện tại, với sự phát triển của dân số, sự dần khan hiếm của những vật liệu tự nhiên, để xây dựng những ngôi nhà mới, đồng bào phải tìm những vật liệu mới thay thế, song dù nguyên liệu được thay thế bằng nguyên liệu mới (như xi măng, sắt, thép, mái

84

lợp prôximăng, lợp tôn…) nhưng về mặt kiến trúc, một số nơi, đồng bào vẫn đảm bảo nguyên vẹn kiến trúc truyền thống. Đây chính là sự biểu hiện của ý thức bảo lưu BSVH của DT mình. Cùng với lưu giữ, đồng bào các DTTS cũng có sự chủ động thay đổi những yếu tố không còn phù hợp, chẳng hạn, trong kiến trúc nhà ở truyền thống của người Tày, Nùng, gầm sàn chính là nơi nhốt gia súc, trên sàn là mặt bằng sinh hoạt của cả gia đình. Nhưng hiện nay, số gia đình vẫn giữ tập quán đó còn rất ít, để giữ gìn vệ sinh, bà con đã nhốt gia súc, gia cầm ra một vị trí riêng, tách bạch với nơi ở của cả gia đình.

Về bố trí mặt bằng sinh hoạt, cho dù sống trong nhà truyền thống hay nhà theo kiến trúc mới, đồng bào các DTTS vùng Đông Bắc vẫn bố trí một số vị trí (bàn thờ, bếp, giường ngủ, nơi cất hạt giống và lương thực) theo cách truyền thống của DT mình. Tuy nhiên, ở những DT khác nhau, tỷ lệ lưu giữ cách thức bố trí ấy cũng không giống nhau: “DT Nùng 84,1%; Dao 100%; Tày 62,9%”[140;200].

Các yếu tố mới tiếp nhận từ xã hội hiện đại không chỉ là các nguyên vật

liệu mà còn cả các tiện nghi hiện đại như ti vi, tủ lạnh, trang thiết bị phục vụ

nhu cầu sinh hoạt. Chính sự hiện đại hóa trên cái nền truyền thống vẫn đảm

bảo cho các DTTS duy trì, tiếp nối truyền thống nhưng phù hợp hơn với xã

hội hiện đại, làm đẹp hơn và tôn thêm niềm tự hào của đồng bào các DTTS về

vẻ đẹp trong VH vật thể của DT mình. Điều này cho thấy khả năng sáng tạo,

thích nghi của đồng bào các DTTS không những được duy trì mà còn được

phát huy trong điều kiện mới.

Ngôi nhà truyền thống với kết cấu cũng như mặt bằng sinh hoạt được duy trì

không chỉ để duy trì không gian sinh hoạt thông thường mà là cơ sở, môi trường để

đồng bào duy trì phong tục tập quán, các hình thức tín ngưỡng trong gia đình.

* Về trang phục truyền thống:

Ngoài việc lưu giữ được kiến trúc nhà ở truyền thống của DT mình,

đồng bào các DTTS vùng Đông Bắc còn lưu giữ, duy trì được trang phục

truyền thống trong đời sống hàng ngày, nhất là vào các dịp lễ, tết trong năm.

Đây chính là nét VH nổi bật, đặc trưng nhất để nhận diện tộc người. Do điều

kiện tự nhiên, xã hội và VH mà mỗi tộc người đều có trang phục riêng. Trang

85

phục DT không chỉ có tác dụng che chở và bảo vệ cơ thể mà nó còn thể hiện

giá trị thẩm mỹ và trình độ khéo léo, cẩn thận, cầu kỳ từng chi tiết của các chị

em phụ nữ DTTS. Mặc dù dưới tác động của giao lưu VH, nhất là của toàn

cầu hóa trong bối cảnh hiện nay, trang phục thường là yếu tố dễ biến đổi nhất

nhưng trong đời sống hàng ngày, nhất là ngày lễ, tết đồng bào các DTTS vùng

Đông Bắc vẫn duy trì mặc trang phục truyền thống của DT mình.

Về cơ bản, đa số bà con DTTS vẫn rất tự hào về trang phục riêng của

DT mình. Những khi nông nhàn, những người phụ nữ trong các thôn bản lại

cần cù, tỉ mỉ trút mọi tình cảm, sự tinh tế của mình để tạo ra những bộ trang

phục đẹp nhất dùng cho các dịp hội hè, cưới xin, lễ tết. Trong cuộc sống hiện

đại, có thể ngày thường bà con cũng sử dụng những trang phục hiện đại như

người Kinh, tuy nhiên những bộ trang phục mang đậm BSDT vẫn được coi

như trang phục trang trọng nhất mà ai cũng tự hào sử dụng trong những dịp

quan trọng của cuộc sống cộng đồng. Ở vùng Đông Bắc, đi đến bất cứ nơi nào

có bà con DTTS sinh sống, cũng đều thấy tình cảm bà con dành cho trang

phục DT mình cũng như ý thức giữ gìn BSVHDT mình.

Ở Cao Bằng, đồng bào DT Nùng vẫn giữ được nét VH truyền thống từ

ngàn đời của cha ông để lại thông qua trang phục của mình. Hầu hết đồng bào

DT Nùng, nhất là phụ nữ hàng ngày vẫn mặc những bộ quần áo chàm do mình

tự dệt nhuộm. Xã Phúc Sen, huyện Quảng uyên có 423 hộ với 1.932 nhân khẩu,

100% đều là DT Nùng…. , điều đáng trân trọng là bà con luôn có ý thức gìn giữ

những nét VH truyền thống của DT mình, thể hiện thông qua việc bà con vẫn

luôn giữ và mặc trang phục DT. Ngay cả một số người mặc dù thoát ly đi làm

cán bộ nhà nước nhưng khi về đến nhà vẫn thay và mặc trang phục của DT

mình.… Chị Nhan Thị Yêm, xóm Pắc Rằng, xã Phúc Sen tươi tắn trong trang

phục vải chàm của DT Nùng An khoe: “Tất cả bộ trang phục tôi mặc đều do tôi

tự dệt, nhuộm và cắt may. Đồng bào chúng tôi rất ít mua những bộ quần áo thời

trang về mặc. Vào lúc nông nhàn, chúng tôi lại lên rừng tìm nguyên liệu mang

về dệt, nhuộm vải để may mặc. Đây là nghề từ cha ông để lại rồi nên chúng tôi

muốn gìn giữ và luôn tự hào về trang phục của đồng bào mình”[3].

Đối với đồng bào DT H’Mông Tuyên Quang, với ý thức giữ gìn

86

BSVHDT mình, các thế hệ trước luôn duy trì, truyền dạy cho các thế hệ sau

cách may trang phục truyền thống để mặc trong cuộc sống hàng ngày cũng

như trong các ngày lễ, tết. Phụ nữ H’Mông thường có trang phục thêu hoa văn

sặc sỡ, họa tiết tinh xảo, đẹp mắt thể hiện sự khéo léo trên từng đường thêu,

mũi chỉ. Những bé gái khi mới lớn lên đã được mẹ truyền dạy cách dệt vải,

thêu thùa, tập may trang phục truyền thống của mình, sau những giờ làm việc

đồng áng, chị em, bà cháu lại cùng quây quần bên nhau để thêu những bộ

trang phục truyền thống cho bản thân và gia đình.

Không chỉ người H’Mông, mà người Dao đỏ ở vùng Đông Bắc cũng tự

tay thêu những bộ trang phục truyền thống. Vào thời gian rảnh rỗi, các bà, các

mẹ vẫn thường xuyên dạy cho nhau cách thêu thùa, may quần áo truyền

thống. Người già dạy cho người trẻ, người thêu đẹp dạy cho người thêu chưa

thạo, không ai muốn thua kém, ai cũng muốn tự tay may, thêu trang phục cho

mình và gia đình. Nét đẹp của bộ trang phục DT Dao đỏ luôn được gìn giữ,

bảo tồn như “báu vật”, là biểu tượng đại diện cho BSVHDT. Các bản làng

người Dao ở các tỉnh vùng Đông Bắc đã thực hiện khá tốt việc truyền dạy cho

con cháu cách giữ gìn, phát huy trang phục DT mình.

Để làm ra bộ trang phục truyền thống, bà con chủ yếu là thêu tay, các

em nhỏ đã được bà, mẹ, chị dạy cách chọn vải, cắt, dạy thêu từng đường kim,

mũi chỉ, cách thêu các hoa văn, họa tiết trên từng bộ phận, những công việc

này đòi hỏi sự khéo léo, tinh tế nhất là sự tỉ mỉ của người thêu mới có thể làm

hoàn chỉnh bộ trang phục. Thế hệ trẻ người DTTS, trong đó chủ yếu là các em

nữ thường xuyên được mẹ, bà hay các chị em trong gia đình dạy cách làm bộ

trang phục truyền thống của cả nam và nữ.… Ý thức được tầm quan trọng của

việc giữ gìn trang phục DT, các em rất thích thú khi được học, còn những phụ

nữ lớn và trung tuổi hầu như ai cũng biết thêu, khâu trang phục DT.

Không chỉ học cách để làm mà hiện nay trong cuộc sống sinh hoạt, một số

đồng bào DTTS vẫn duy trì việc mặc trang phục trong lao động sản xuất. Trang

phục không chỉ để mặc mà còn thể hiện tính thẩm mỹ, tín ngưỡng và tâm linh,

cách nhận biết DT này với DT khác. Do đó, trong những dịp lễ hội, cưới xin,

đồng bào DTTS luôn mặc trang phục truyền thống của họ. “Việc thực hành các

87

nghi lễ đặc biệt của DT (đám cưới, đám tang, lễ cấp sắc…) khiến cho người Dao

vẫn duy trì và sử dụng trang phục truyền thống. Theo người Dao, trong một số

nghi lễ đặc biệt, như tang ma, hoặc cấp sắc, mặc trang phục truyền thống là

cách tốt nhất để tổ tiên hoặc thần linh nhận diện được mình. Tương tự người

Dao, người Nùng ở Lạng Sơn và Thái Nguyên cũng vẫn giữ được trang phục

cưới và trang phục truyền thống của họ”[140;186].

Cứ như vậy, qua nhiều thế hệ trang phục truyền thống của đồng bào

các DTTS vùng Đông Bắc được bảo tồn trong cuộc sống hàng ngày. Đó cũng

chính là yếu tố quan trọng nhất để VH của đồng bào không bị mai một hay

hòa tan trong quá khứ, hiện tại và tương lai.

* Về ẩm thực truyền thống:

Trong đời sống hàng ngày, đồng bào các DTTS vùng Đông Bắc vẫn

duy trì được các món ăn truyền thống có tác dụng bồi bổ và trị bệnh. Sự sáng

tạo trong chế biến món ăn và bảo quản thực phẩm vẫn được đồng bào duy trì

và trao truyền qua các thế hệ. Các món ăn mang đặc trưng và bản sắc của tộc

người không những được duy trì trong đời sống hàng ngày mà nó còn được

lan tỏa đến các tộc người khác tiếp nhận như món khau nhục (Tày, Nùng);

Thắng cố (H’Mông), lợn quay lá mác mật (Tày, Nùng); thịt lợn muối chua

(Dao), rượu men lá (Tày, Nùng, Dao); rượu ngô (H’Mông); các loại bánh như

bánh trứng kiến, bánh Oóc pò, xôi ngũ sắc…

Các món ăn truyền thống này vẫn được duy trì đầy đủ và không thể

không có trong các lễ hội của đồng bào các DTTS vùng Đông Bắc. Đó chính

là lễ vật để dâng cúng thần linh, biểu thị sự tôn kính với thần linh (tổ tiên, thổ

công, thần rừng, thần núi, thần sông, thần nông nghiệp…).

Trong thực tế, khá nhiều gia đình DTTS Đông Bắc có điều kiện để

trang bị tủ lạnh, lò vi sóng, lò nướng, bà con cũng tận dụng được chức năng

vốn có của các tiện nghi hiện đại đó, giúp cho việc bếp núc thuận tiện hơn.

Đồng thời, thay vì những quy trình cẩn trọng, nghiêm ngặt khi chế biến thực

phẩm, bà con cũng tận dụng những chất phụ gia đang rất nhiều và rất dễ mua

trên thị trường. Dù vậy, với những mâm cỗ cúng tổ tiên, thần linh, bà con vẫn

88

cẩn thận chuẩn bị theo “quy trình” truyền thống, cho dù nhiều khi việc chuẩn

bị diễn ra cả tháng trước sự kiện. Điều đó cho thấy sự trân trọng đối với

những giá trị VH đã được ông cha trao truyền lại.

Như vậy, các giá trị VH vật thể của đồng bào các DTTS vẫn tiếp tục được lưu giữ, duy trì và phát huy trong chính đời sống của đồng bào. Đó là sự thể hiện ý thức giữ gìn BSVH - ý thức tự hào DT của đồng bào các DTTS. Giữ gìn bản sắc đó cũng là điều kiện để phát huy sự sáng tạo, cần cù, khéo léo, lý tưởng thẩm mỹ trong thiết kế kiến trúc nhà ở, trong may trang phục với hình dáng và họa tiết độc đáo, trong những món ăn giản dị có nguồn gốc từ tự nhiên nhưng rất giàu dinh dưỡng.

Việc giữ gìn và phát huy được thực hiện ở nội dung là các giá trị VH vật thể, nhưng ẩn sau đó là giữ gìn và duy trì một lối sống giản dị, hòa đồng với thiên nhiên, làm cho con người luôn bình dị, tư tưởng cởi mở, lạc quan tin yêu vào cuộc sống. Điều này rất cần trong xã hội ngày nay, khi nền kinh tế thị trường với những mặt trái tác động làm cho con người xa dần bản tính thật thà, hiền lành, lương thiện vốn có.

Tóm lại, cùng với sự quan tâm, nỗ lực chỉ đạo của các cấp ủy Đảng, chính quyền Nhà nước cùng sự tự ý thức giữ gìn BSVH của đồng bào các DTTS, các giá trị VH vật thể của đồng bào các DTTS vùng Đông Bắc không những được giữ gìn mà còn được cải biến, bổ sung, phát triển cho phù hợp hơn với xã hội hiện đại, điều đó góp phần tạo nên sợi dây bền chặt gắn quá khứ với hiện tại và tương lai trong đời sống VH của đồng bào DTTS vùng Đông Bắc.

3.1.2. Thành tựu của việc giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa phi

vật thể

Các giá trị VH phi vật thể của đồng bào các DTTS được giữ gìn và phát huy thông qua việc giữ gìn ngôn ngữ DT; phong tục, tập quán; tôn giáo, tín ngưỡng và nghệ thuật dân gian.

Về ngôn ngữ DT: Các DTTS vùng Đông Bắc, đặc biệt là lớp người trung niên và người già luôn ý thức được việc giữ gìn ngôn ngữ mẹ đẻ, họ thường xuyên sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ để giao tiếp trong gia đình, dòng họ, đặc biệt trong những dịp chung của cộng đồng như đám cưới, đám tang, lễ hội ....

89

Trong giao tiếp gia đình, đồng bào DTTS thường sử dụng ngôn ngữ mẹ

đẻ để giao tiếp giữa vợ với chồng, các anh chị em trong gia đình, bố mẹ và

con cái. Theo kết quả điều tra của nhóm tác giả Vương Xuân Tình, Trần Hồng

Hạnh trong công trình “Phát triển bền vững văn hóa tộc người trong quá

trình hội nhập ở vùng Đông Bắc” thì 100% vợ chồng người Dao ở hai tỉnh

Lạng Sơn và Thái Nguyên sử dụng ngôn ngữ DT mình để nói chuyện với

nhau, tỷ lệ này ở người Tày là 59,2%, người Nùng là 28%. Sử dụng ngôn ngữ

DT mình để nói chuyện với bố mẹ ở người Dao vẫn triệt để hơn cả (100%),

người Tày là 58,7%, người Nùng là 25,5% (người Nùng sử dụng song ngữ,

tiếng DT mình và ngôn ngữ phổ thông là 70,2%). Sử dụng ngôn ngữ để giao

tiếp với ông bà, người Dao vẫn đạt tỷ lệ 100% sử dụng ngôn ngữ DT mình,

còn người Tày và người Nùng tỷ lệ này là 40%, 10,5%. Do đó, người Tày và

người Nùng thường sử dụng song ngữ để giao tiếp (cả tiếng DT mình và ngôn

ngữ phổ thông với tỷ lệ lần lượt là 53,3% và 81,6%). Sử dụng ngôn ngữ để

nói chuyện với anh chị em thì 100% người Dao sử dụng ngôn ngữ DT mình,

còn tỷ lệ này ở người Tày là 48%, người Nùng là 28%. Người Tày, người

Nùng thường sử dụng song ngữ để giao tiếp với anh chị em. Sử dụng ngôn

ngữ nói chuyện đồng tộc cũng được DT Dao sử dụng ở mức độ cao là 90%,

người Tày là 58% và người Nùng là 32,7%. Người Tày, người Nùng cũng

thường xuyên sử dụng song ngữ trong nói chuyện với đồng tộc với tỷ lệ 32%

và 57,1%. Đặc biệt cả người Dao, người Tày, người Nùng ở hai tỉnh Lạng

Sơn và Thái Nguyên đều 100% sử dụng ngôn ngữ DT mình trong thờ cúng tổ

tiên và trong cúng đám ma[140;168-173].

DT H’Mông - DT có ý thức gìn giữ bản sắc rất cao nên gần như 100%

đồng bào H’Mông duy trì và sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ thường xuyên trong

giao tiếp hàng ngày cũng như trong các dịp lễ, tết quan trọng.

Như vậy, việc sử dụng ngôn ngữ DT mình vẫn được đồng bào DTTS

thường xuyên sử dụng để giao tiếp trong gia đình cũng như với đồng tộc.

Trong đám cưới, đám ma, thờ cúng tổ tiên càng thể hiện rõ ý thức duy trì và

sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ của đồng bào DTTS vùng Đông Bắc. Điều đó cho

thấy ý thức gìn giữ cũng như lòng tự hào về ngôn ngữ mẹ đẻ của đồng bào.

90

Ngoài việc thực hành ngôn ngữ trong sinh hoạt hàng ngày, đồng bào

các DTTS còn có ý thức giữ gìn ngôn ngữ thông qua việc thành lập các câu

lạc bộ sử dụng ngôn ngữ DT. Hoạt động của các câu lạc bộ này nhằm truyền

dạy ngôn ngữ DT cho các thành viên của câu lạc bộ thuộc người đồng tộc và

cả những người khác tộc. Một mặt để duy trì ngôn ngữ mẹ đẻ qua các thế hệ,

mặt khác, qua đó giúp cho các thế hệ sau cũng như những người khác tộc hiểu

thêm về phong tục, tập quán, VH của từng DT.

Câu lạc bộ sử dụng ngôn ngữ DT Dao xã Bình Xa, huyện Hàm Yên,

tỉnh Tuyên Quang là câu lạc bộ hoạt động thường xuyên và hiệu quả. Chị Lý

Thị Hằng, chủ nhiệm câu lạc bộ cho biết, hiện nay, do nhu cầu giao lưu VH,

phát triển kinh tế mà tiếng nói DT Dao ở lớp trẻ không còn được quan tâm,

chú trọng. Do đó, câu lạc bộ sử dụng ngôn ngữ DT Dao được thành lập giúp

các thành viên không chỉ là người DT Dao mà còn các DT khác cùng sinh

sống trên địa bàn thôn, xã được tìm hiểu, trau dồi, bổ sung thêm vốn từ, hiểu

về phong tục, tập quán, VH của DT Dao.

Chị Vương Thị Viên, 26 tuổi, thành viên câu lạc bộ sử dụng ngôn ngữ

DT Dao xã Bình Xa, Hàm Yên, Tuyên Quang tâm sự, chị là người DT La Chí

ở tỉnh Hà Giang lấy chồng làm dâu con của DT Dao tại xã. Mới đầu về nhà

chồng, do bất đồng ngôn ngữ khiến cho chị rất khó khăn trong sinh hoạt hàng

ngày. Ngay khi câu lạc bộ được thành lập, chị đã đăng ký tham gia sinh hoạt.

Tại đây, chị không chỉ được học nghe, học nói tiếng DT Dao mà còn được

giao lưu, học tập các bài dân ca truyền thống, luyện tập các điệu múa, bài hát

của DT Dao. Nhờ vậy, chị hiểu hơn về nét VH cũng như giá trị truyền thống

của DT Dao. Chị không chỉ học cho bản thân mà còn tích lũy để dạy cho các

con biết tiếng nói, biết hát các bài ca truyền thống của DT Dao.

Bằng những hành động thiết thực đó, bản thân đồng bào các DTTS

vùng Đông Bắc đang nỗ lực gìn giữ ngôn ngữ DT. Tạo điều kiện để góp phần

tích cực vào việc bảo tồn, gìn giữ, phát huy BSVH cho thế hệ mai sau.

Về Phong tục tập quán: BSVH các DTTS vùng Đông Bắc được thể

hiện thông qua phong tục tập quán của cư dân bản địa nơi đây và ngày nay,

nó vẫn được đồng bào các DTTS giữ gìn, thực hành, lưu truyền, cải tiến cho

91

phù hợp với xã hội hiện đại. Cùng với sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của các

cấp ủy đảng, chính quyền địa phương và các phòng ban chuyên môn là sự nỗ

lực, nhiệt tình của đồng bào các DTTS vùng Đông Bắc trong việc duy trì các

phong tục, tập quán tốt đẹp, những cái đã trở thành bản sắc đóng góp vào sự

nghiệp chung của đất nước trong việc cố kết cộng đồng, xây dựng tình cảm

tốt đẹp giữa người với người, tinh thần trách nhiệm của cá nhân với cộng

đồng (làng, bản, vùng, miền, đất nước), ca ngợi đức tính lao động cần cù, chịu

thương chịu khó, sự sáng tạo, sự thích nghi trong mọi điều kiện, hoàn cảnh….

Hiện nay, tại một số địa phương vùng Đông Bắc, các phong tục gắn với

những nghi lễ liên quan đến chu kì đời người như: sinh đẻ, trưởng thành, cưới

xin, tang ma… vẫn được duy trì và thực hành đúng tuần tự. Đối với những

cặp vợ chồng người Nùng chậm có con thì họ hay tiến hành nghi lễ “cầu tự” nhằm

an ủi về mặt tâm lý cũng như thực hành phong tục truyền thống của DT. Sau khi

sinh em bé được 1 tháng, 100% các DTTS vùng Đông Bắc đều tiến hành lễ cúng

đầy tháng cho em bé. Đối với bé trai khi trưởng thành, một số đồng bào Dao vẫn

tiến hành lễ cấp sắc, nhằm đảo bảo cho người con trai đã trưởng thành có thể lo

được mọi chuyện trong gia đình cũng như ngoài xã hội. Chính do nét đặc sắc, độc

đáo này trong phong tục “Lễ cấp sắc” của người Dao mà hiện nay “Lễ cấp sắc” đã

được công nhận là di sản VH phi vật thể cấp quốc gia.

Đặc sắc nhất trong phong tục tập quán của đồng bào các DTTS vùng

Đông Bắc chính là phong tục trong đám cưới và đám tang. Mỗi DT có một

sắc thái riêng, vô cùng độc đáo, mang đậm bản sắc DT.

Mặc dù hiện nay, đời sống có nhiều thay đổi, các nghi lễ trong phong

tục tập quán cũng có nhiều thay đổi theo, tuy nhiên, đồng bào vẫn giữ được và

duy trì những nét cơ bản truyền thống và loại bỏ nhiều thủ tục rườm rà.

Không kéo dài hai ngày đêm như trước, nhiều đám cưới hiện chỉ diễn ra gọn

nhẹ, loại bỏ những thủ tục rườm rà, nhưng vẫn giữ được nét đặc sắc của VH

tộc người. Các nghi thức xin dâu, hát giao duyên, lễ se tơ hay nghi thức níu

giữ cô dâu vẫn được thực hiện đầy đủ trong đám cưới…. Từ già đến trẻ, trong

mỗi gia đình, tiếng nói của DT luôn được duy trì, các phong tục tập quán

cũng được bà con có ý thức gìn giữ và phát huy. Những nghi lễ quan trọng

92

của DT được tổ chức, trao truyền từ đời này sang đời khác. Cứ như vậy, qua

nhiều thế hệ, BSVH của người Tày, Nùng, Dao ... đã được bảo tồn trong cuộc

sống hàng ngày và đó cũng là yếu tố quan trọng nhất để VH của đồng bào

không bị mai một hay hòa tan trong quá khứ, hiện tại và tương lai.

Ngoài các nghi lễ trong đám cưới được loại bỏ, rút gọn mà vẫn đảm

bảo được nét đặc sắc, truyền thống thì các nghi lễ trong đám tang cũng được

rút gọn còn những bước quan trọng, cơ bản. Chẳng hạn, trong số 34 nghi lễ

tang ma truyền thống của người chết bình thường, hiện nay, đồng bào Nùng

Phàn Slình ở Thái Nguyên cũng như các tỉnh vùng Đông Bắc đã giản tiện chỉ

còn 20 nghi lễ. Mỗi nghi lễ tuy giữ nguyên đầu lễ, nhưng các lễ thức đã thay

đổi chi tiết cho phù hợp. Một số nghi lễ được gộp chung một lễ tế của con

cháu trong gia đình cho giản tiện. Một số nghi lễ khác chủ yếu làm lễ mang

tính hình thức cho đủ lễ để con cháu yên tâm. Một vài sự kiêng kị trong đám

tang vẫn còn duy trì, một vài sự kiêng kị thái quá đã được bỏ đi.

Các nghi lễ liên quan đến xây dựng nhà cửa vẫn được đồng bào duy trì và

thực hiện theo phong tục truyền thống từ các khâu xem ngày, động thổ, dựng nhà cho

đến khi lên nhà mới. Tất cả các khâu đều thực hiện một cách cẩn thận và chu đáo bởi

theo quan niệm của đồng bào việc xây dựng nhà cửa còn liên quan trực tiếp tới bình

an và sức khỏe của những người thân trong gia đình.

Để giữ gìn nhiều phong tục, tập quán tốt đẹp, ngoài việc thực hành trong đời

sống hàng ngày, đồng bào các DTTS đã kết hợp với chính quyền địa phương thực

hiện thành công nhiều dự án phục dựng, bảo tồn phong tục tập quán tốt đẹp của đồng

bào như: tỉnh Thái Nguyên thực hiện thành công dự án phục dựng, bảo tồn đám

cưới của người Tày ở xã Lam Vỹ (Định Hóa), Lễ cưới truyền thống của DT Dao,

xã Mỹ Yên (Đại Từ), Lễ cấp sắc DT Dao Lô Gang xã Yên Đổ (Phú Lương). Tỉnh

Bắc Kạn đã bảo tồn 4 dự án VH phi vật thể của các DT trong tỉnh, trong đó,

có đám cưới người Nùng Giang tại huyện Pắc Nặm, Lễ nghi đám tang của

người Nùng tại huyện Na Rì.

Về tín ngưỡng, tôn giáo: Hiện nay đồng bào các DTTS vùng Đông Bắc

vẫn duy trì và thực hành thường xuyên các nghi lễ thờ cúng như nghi lễ thờ

cúng tổ tiên, nghi lễ cúng thổ công, nghi lễ cúng các vị thần nông nghiệp

93

thông qua các lễ hội trong năm. Đặc biệt là nghi lễ thờ cúng tổ tiên luôn được

đồng bào chú trọng thực hiện vào những ngày mùng 1, ngày 15 hàng tháng,

ngày giỗ, ngày tết. Đó là dịp để đồng bào bày tỏ lòng biết ơn đối với tổ tiên và

các vị thần linh đã che chở, bảo vệ mùa màng cũng như sự bình an cho mọi

thành viên trong gia đình. Tuy nhiên, quá trình và các bước, cách thức thực

hiện các nghi lễ cũng được thay đổi cho phù hợp với thời đại mới trên cơ sở

nền tảng truyền thống vẫn được duy trì. Điều đó góp phần gìn giữ, bảo lưu

các phong tục tập quán tốt đẹp của đồng bào các DTTS vùng Đông Bắc một

cách phù hợp với xã hội hiện đại.

Về lễ hội: Trong một thời gian khá dài, do ảnh hưởng bởi phong trào

bài trừ mê tín dị đoan và sự nhận thức của các cấp chính quyền về giá trị VH

truyền thống của đồng bào các DTTS mà các lễ hội của đồng bào đã vắng

bóng dần trong đời sống cộng đồng. Nhưng ngày nay, với sự công nhận của

Đảng và chính quyền về các giá trị VH truyền thống của đồng bào các DTTS

- nét VH đặc sắc, đặc trưng làm nên bản sắc DT, góp phần nâng cao đời sống tinh

thần cho đồng bào và sự phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương nên cũng vì thế mà

các lễ hội truyền thống đang được phục hồi mạnh mẽ ở khu vực này. Tiêu biểu là

dân tộc H’Mông với lễ hội Gầu Tào, lễ hội chợ tình Khâu Vai (Hà Giang); DT Tày,

Nùng với lễ hội Lồng Tồng, DT Dao với lễ hội Tết Nhảy. Các lễ hội này được đồng

bào phục hồi và duy trì ngoài mục đích tổ chức sinh hoạt VH để nâng cao đời sống

tinh thần cho mọi thành viên, còn nhằm mục đích duy trì nét VH truyền thống của

đồng bào để phát triển du lịch. Do đó, duy trì lễ hội chính là một giải pháp kép mà

chính quyền và nhân dân các DT vùng Đông Bắc đã và đang thực hiện nhằm vừa

giữ gìn, phát huy BSVHDT vừa phát triển kinh tế du lịch để tăng thu nhập và cải

thiện đời sống cho đồng bào.

Về nghệ thuật dân gian: Đây là một loại hình VH phi vật thể đang được chính quyền và đồng bào các DTTS vùng Đông Bắc chú trọng giữ gìn, phát huy. Họ đang tích cực truyền đạy cho thế hệ sau các làn điệu dân ca, các điệu múa và cách thức sử dụng nhạc cụ DT. Trong gia đình, người già dạy cho người trẻ, cho con cháu. Ngoài cộng đồng thì được những nghệ nhân tích cực truyền dạy cho các thành viên trong câu lạc bộ, trong bản làng tạo nên một không khí phấn khởi, tự hào

94

về những giá trị đặc sắc trong kho tàng VH nghệ thuật của đồng bào các DTTS vùng Đông Bắc. Do đó, ở các tỉnh vùng Đông Bắc đã thành lập nhiều câu lạc bộ văn nghệ do chính đồng bào tự tổ chức thành lập, như câu lạc bộ hát Then - đàn tính của DT Tày, câu lạc bộ hát Páo dung của DT Dao, câu lạc bộ hát dân ca của DT H’Mông, câu lạc bộ hát Sli của DT Nùng…. Các câu lạc bộ này không chỉ truyền dạy cho nhau các làn điệu dân ca mà còn tổ chức giao lưu và đi biểu diễn ở các sự kiện trong và ngoài tỉnh. Điều đó không chỉ duy trì, giữ gìn mà còn quảng bá, giới thiệu vốn VH nghệ thuật truyền thống của các các DTTS tới các vùng miền trong phạm vi cả nước. Cụ thể: Ngành VH tỉnh Lạng Sơn đã tổ chức truyền dạy được 1 lớp hát Sli DT Nùng tại thôn Tềnh Slung, xã Gia Cát, huyện Cao Lộc; 1 lớp hát Lượn của DT Tày tại xã Khuất Xã, huyện Lộc Bình… gần 15 lớp hát Then - đàn tính cho các hạt nhân văn nghệ quần chúng tổ chức tại Trung tâm VH thông tin tỉnh và tại các huyện như Văn Lăng, Chi Lăng, Bình Gia, Văn Quan… đưa loại hình hát Then vào chương trình đào tạo tại trường trung cấp VH nghệ thuật tỉnh…[158]. Tỉnh Tuyên Quang đã tổ chức nghiên cứu, sưu tầm, bảo tồn các làn điệu dân ca, dân vũ các DT Dao, Cao Lan, Pà Thẻn, Tày, Nùng, Mông. Biên soạn, xuất bản các cuốn sách: "Bước đầu tìm hiểu dân ca DT Tày, Sán Dìu, Cao Lan"; Tập thơ Tày "Nhớ Pác Tạ". In các đĩa VCD: "Hát ru, hát giao duyên DT Dao"; "Then Tày Tuyên Quang". Đến nay, Nghi lễ Then, hát Páo dung của DT Dao đã được công nhận di sản VH phi vật thể quốc gia [162].

Tóm lại, các giá trị VH truyền thống tạo nên BSVH của các DTTS vùng Đông Bắc đang được giữ gìn và phát huy nhờ vào sự nỗ lực của các cấp ban ngành, chính quyền địa phương và sự tham gia nhiệt tình từ phía đồng bào các DTTS. Ngành VH và các chính quyền các cấp cũng thay đổi phương thức hoạt động, từ cách làm thay “áp đặt” sang cách khuyến khích đồng bào chủ động, tích cực tổ chức, thực hiện các hoạt động VH truyền thống tại cộng đồng trong không gian VH do chính đồng bào tạo nên. Trong các hoạt động VH, vai trò tự quản của cộng đồng được phát huy thông qua các già làng, nghệ nhân… Người dân ở các bản làng, thôn xóm đã nâng cao lòng tự hào, tự tôn về giá trị truyền thống của DT mình, tham gia ngày càng nhiều hơn vào các hoạt động giữ gìn giá trị truyền thống. Nhờ những nỗ lực đó, BSVH được khơi dậy, phát huy, tinh thần yêu quê hương đất nước, tinh thần đoàn kết, yêu thương đùm bọc lẫn nhau trong

95

cộng đồng các DT, truyền thống cần cù, chịu khó trong lao động sản xuất, sự tuân thủ các quy định nghiêm ngặt của bản làng, thôn xóm, tính tổ chức kỷ luật khá cao trong gia đình, trong sinh hoạt tại cộng đồng, nhiều hủ tục bị đẩy lùi nhường chỗ cho những yếu tố VH mới tiến bộ nảy nở và phát triển…. Những giá trị tốt đẹp đó đang được khơi dậy, lan tỏa và phát huy tác dụng trong công cuộc phát triển kinh tế - xã hội ở vùng đồng bào các DTTS nói riêng và của sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước nói chung.

3.2. Hạn chế của giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu

số vùng Đông Bắc

3.2.1. Hạn chế của việc giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa vật thể

Mặc dù được sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp, ban ngành chuyên

môn và chính quyền địa phương trong việc đa dạng hóa các hình thức giữ gìn, phát

huy các giá trị VH vật thể, nhưng các giá trị VH này vẫn đang dần vắng bóng và có

nguy cơ biến mất theo thời gian và sự ra đi của các thế hệ người già. Hiện ở các

vùng thành thị và vùng ráp ranh thành thị, kể cả vùng nông thôn phát triển, các giá

trị VH vật thể như nhà cửa, trang phục, ẩm thực truyền thống hầu như không còn

tồn tại trong đời sống mà đâu đó chỉ còn tồn tại trong kí ức của những người già với

sự tiếc nuối về những gì đã biến mất. Các thế hệ sau, thế hệ con cháu của họ không

muốn duy trì, phục dựng lại ngôi nhà truyền thống, trang phục truyền thống, ẩm

thực truyền thống, bởi theo lý giải của họ, một phần là do sự khan hiếm về nguyên

liệu, một phần là do sự bất tiện trong sinh hoạt, trong lao động sản xuất và sự thay

đổi thẩm mỹ trong giới trẻ so với thời trước. Chính vì thế mà họ dần lãng quên, từ

chối tiếp nhận và không có ý thức duy trì các giá trị VH mà cha ông để lại,

thay vào đó là sự tiếp nhận các yếu tố mới gắn với điều kiện kinh tế hiện đại.

Thậm chí, vì nhu cầu kinh tế trước mắt, nhiều gia đình đã bán đi ngôi nhà

truyền thống của tổ tiên.

Trong đời sống hàng ngày, những tiện nghi hiện đại, những trang phục

của người Kinh, những món ăn mới có tính chất công nghiệp đã dần thay thế

các yếu tố truyền thống. Việc thay đổi từ truyền thống sang hiện đại cũng là

một nhu cầu có tính tất yếu của sự phát triển xã hội. Bà con DTTS cũng cần

phải được thụ hưởng những thành tựu văn minh, đáng tiếc là cùng với sự mất

96

dần đi của những yếu tố truyền thống, việc bảo tồn, lưu giữ lại được tiến hành

khá chậm và không thật sự tích cực. Giới trẻ các DTTS sinh ra và lớn lên

trong thời hiện đại ít được tiếp xúc trực tiếp với những giá trị VH cũ, do đó

vốn hiểu biết về VH truyền thống còn hạn hẹp, mơ hồ dẫn tới họ không quý

trọng các giá trị VH truyền thống của cha ông. Một bộ phận giới trẻ ít biết

ngôi nhà truyền thống, trang phục truyền thống hay món ăn truyền thống của

DT mình như thế nào, giá trị tiềm ẩn ra sao…. Đây chính là dấu hiệu mất dần

cội nguồn.

Về nhà ở truyền thống: Hiện nay, chỉ có 27,5% số hộ DT Tày có nhà ở

truyền thống của DT mình, kết quả đó của DT Nùng là 24,6%, DT Dao là

37,9%, chỉ có DT H’Mông thì tỷ lệ này còn khá cao chiếm 74%[166;160].

Như vậy, số lượng gia đình đồng bào các DTTS còn duy trì ngôi nhà truyền

thống của mình còn rất ít, chủ yếu ở những gia đình còn thế hệ người già

chung sống, những gia đình vợ chồng trẻ khi ra ở riêng là đã xây dựng nhà

theo kiến trúc mới, hoặc có những gia đình vẫn xây theo kiểu dáng kiến trúc

ngôi nhà truyền thống nhưng đã thay thế hoàn toàn bằng nguyên liệu mới như

sắt, xi măng, gạch, mái lợp prô xi măng hay mái lợp tôn… những nguyên liệu

bằng gỗ, tre, nứa, lá hiếm khi thấy xuất hiện. Chính điều này đang làm mất đi

vẻ đẹp tự nhiên, độc đáo mang tính bản sắc của đồng bào các DTTS vùng

Đông Bắc. Đồng thời không gian VH ở các bản làng vùng đồng bào các

DTTS đang dần mất đi cái riêng vốn có mà đang dần hòa lẫn vào cái chung

như những làng của người Kinh với những ngôi nhà mái bằng lợp gạch ngói

và Prô xi măng.

Về sử dụng trang phục truyền thống cũng có thực trạng tương tự. Hiện

nay đồng bào các DTTS ở thành thị và một số khu vực nông thôn giáp gianh

thành thị đã không còn mặc trang phục DT trong cuộc sống hàng ngày. Thế

hệ trẻ thì chỉ mặc trong những ngày quy định (đối với học sinh trường DT nội

trú và một vài trường khác quy định mặc trang phục DT vào ngày thứ hai

hàng tuần). Những người già và người trung niên thì mặc trang phục DT chủ

yếu vào ngày lễ, tết (lễ hội, đám cưới, đám tang). Qua khảo sát của tác giả

Hoàng Thị Hương ở đối tượng là học sinh phổ thông người DTTS cho thấy

97

trang phục DT được lựa chọn thấp nhất (0,5% với đối tượng thành thị, 30%

với đối tượng nông thôn); sử dụng trang phục DT trong những ngày đặc biệt

đối với đồng bào DT Tày, Nùng chiếm khoảng 70%. Mức độ sử dụng thường

xuyên trong mọi sinh hoạt (ở nhà, đi chợ, đi làm việc, những ngày đặc biệt)

với DT Dao, H’Mông chiếm khoảng 70%[73;122]. Kết quả này cho thấy, sự

mai một về trang phục DT đã diễn ra trong một thời gian khá dài và mức độ

khác nhau giữa các DT nhưng đều diễn ra mạnh nhất ở khu vực thành thị, sau

đó lan tỏa đến khu vực giáp ranh và vùng nông thôn.

Đồng thời với việc ít duy trì mặc trang phục truyền thống thì việc trồng

bông, trồng lanh, trồng cây chàm, nghề nhuộm chàm, dệt vải, may mặc, thêu

thùa của một số DT đã dần vắng bóng cả ở khu vực thành thị lẫn vùng nông

thôn. Thế hệ trẻ người DTTS ngày nay không biết may trang phục truyền thống

của DT mình do không thiết tha với nó, không thấy được hết ý nghĩa của bộ

trang phục truyền thống của DT mình nên thờ ơ, không quan tâm, còn thế hệ

cha mẹ do bận công việc đồng áng, nương rẫy hoặc một bộ phận đi làm công ty

nên cũng không có thời gian may, thêu trang phục truyền thống cũng như dạy

con cái cách may thêu trang phục truyền thống của DT mình, trong khi may

trang phục truyền thống mất nhiều thời gian, công sức. Vì thế, sự lựa chọn của

họ là trang phục công nghiệp may sẵn được bày bán với giá rẻ ngoài chợ. Điều

này đang báo hiệu về sự mai một giá trị VH mang tính bản sắc diễn ra ở đồng

bào các DTTS vùng Đông Bắc. Trong khi việc tự trồng bông, trồng lanh, tự dệt

vải, nhuộm vải và may khâu những bộ trang phục truyền thống đã rèn rũa khả

năng thẩm mỹ, đức tính cần cù, chịu thương, chịu khó, kiên nhẫn, đảm đang

của các chị em phụ nữ đồng bào DTTS. Tuy nhiên, những hoạt động này ngày

nay đã vắng bóng trong đời sống hiện đại. Do đó, nó cũng ảnh hưởng nhất định

đến việc giáo dục, thực hành cho thế hệ sau những đức tính tốt đẹp đó.

Về ẩm thực truyền thống: Ngoài sự mai một trong kiến trúc nhà ở, trang

phục truyền thống, đồng bào các DTTS vùng Đông Bắc cũng đang đối diện

với sự mai một ẩm thực truyền thống. Các món ăn được chế biến theo phương

pháp cổ truyền đang dần bị thay thế bởi các phương pháp chế biến mới làm

mất đi hương vị truyền thống mang tính đặc trưng của từng DT. Ví dụ món

98

lạp xưởng của DT Tày, Nùng được chế biến từ thịt lợn rừng và các loại gia vị

như hồi, quế và gừng gió mọc tự nhiên trên núi đá, …, nhưng do sự khan

hiếm các loại gia vị trên, đồng bào đã dùng các loại gừng trồng ở miền xuôi

hay gừng trồng trên ruộng đất kết hợp với thịt lợn nuôi bằng cám công

nghiệp, làm mất đi hương vị thơm ngon vốn có của món ăn. Thậm chí để tiết

kiệm thời gian, công sức cũng như tiền bạc, có những gia đình còn sử dụng

những chất gia vị, chất bảo quản Trung Quốc trôi nổi kém chất lượng để ướp,

tẩm món ăn, gây tổn hại đến sức khỏe người sử dụng.

Dường như các món ăn truyền thống chỉ được các thế hệ người già và

người trung niên duy trì và còn nhớ cách chế biến của nó, còn thế hệ người trẻ,

nhất là thế hệ người trẻ đi công tác hay đi học, làm ăn xa nhà thì hầu như lãng

quên cách chế biến vì không thường xuyên duy trì và thực hành nó trong cuộc

sống hàng ngày, họ quen dần với thói quen trong cuộc sống công nghiệp nên đồ

ăn, thức uống chủ yếu mua sẵn ngoài chợ hoặc là chế biến món ăn đơn giản chứ

không chú ý đến những món ăn truyền thống của DT mình với cách chế biến cầu

kì. Theo kết quả phỏng vấn sâu và điều tra về việc có biết và thường xuyên chế

biến món ăn truyền thống của DT mình đối với các em học sinh trường trung

học phổ thông nội trú tỉnh Thái Nguyên và trường vùng cao Việt Bắc, kết quả

cho thấy chỉ có 30% học sinh trả lời biết chế biến món ăn truyền thống của DT

mình nhưng không chế biến thường xuyên do bận học hành và không đủ nguyên

liệu tự nhiên để thực hành, 70% học sinh trả lời không biết chế biến món ăn

truyền thống, thậm chí không biết cả món ăn truyền thống, đặc trưng của DT

mình là món nào. Như vậy, chúng ta thấy rõ ràng có sự khác nhau giữa các thế

hệ trong việc duy trì chế biến món ăn truyền thống. Đối với thế hệ người già thì

vẫn còn ý thức gìn giữ và thường xuyên thực hành các món ăn truyền thống

không chỉ trong các dịp lễ tết, mà còn trong đời sống sinh hoạt hàng ngày, nhưng

đối với lớp trẻ thì hầu như họ lãng quên và thờ ơ. Nếu tình trạng này kéo dài

thường xuyên thì sớm muộn món ăn truyền thống cùng cách thức chế biến của

nó sẽ mất đi cùng với sự mất đi của thế hệ người già, thế hệ sau sẽ không ai biết

về món ăn truyền thống cũng như cách thức chế biến của nó nữa. Và như thế,

chính bản thân họ đã đánh mất đi BSVH của DT mình.

99

Như vậy, với nhịp sống thời hội nhập, phát triển kinh tế thị trường mà

nhiều yếu tố trong VH truyền thống của đồng bào các DTTS dần mai một, đi

vào lãng quên. Đối với người cao tuổi, đó là cảm giác nuối tiếc nhưng đối với

thế hệ trẻ thì họ xem đó là sự tất yếu trong quá trình phát triển nên không có ý

thức giữ gìn, bảo lưu hoặc nếu có cũng là sự cách tân theo trào lưu mới nên

không còn gìn giữ được nét đậm đà bản sắc trong kho tàng VH của đồng bào

các DTTS vùng Đông Bắc.

3.2.2. Hạn chế của việc giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa phi

vật thể

Bên cạnh sự nỗ lực của các cấp, ban ngành, phòng ban chuyên môn và chính

quyền địa phương là sự nhiệt tình tham gia của đồng bào các DTTS vùng Đông Bắc

trong việc giữ gìn, phát huy BSVH nói chung và các giá trị VH phi vật thể nói

riêng, do đó đã đạt được những thành tựu có ý nghĩa quan trọng trong sự nghiệp

xây dựng nền VH Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc DT. Tuy nhiên, bên cạnh

những thành tựu đạt được, cùng với tốc độ phát triển nhanh chóng của nền kinh tế

thị trường, của hội nhập, của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nhiều giá trị

VH phi vật thể bị mai một, mất mát, biểu hiện ở nhiều sắc thái như: ngôn ngữ,

phong tục tập quán, tín ngưỡng, tôn giáo, lễ hội và nghệ thuật dân gian với những

mức độ khác nhau ở các sắc thái biểu hiện BSVHDT

Về ngôn ngữ: Thế hệ người cao tuổi các DTTS cư trú ở vùng sâu, vùng

xa vẫn biết và sử dụng ngôn ngữ DT để giao tiếp với nhau, tuy nhiên, đối với

thế hệ trẻ thì mức độ duy trì giao tiếp bằng ngôn ngữ DT mình đã giảm, thay

vào đó là việc sử dụng ngôn ngữ phổ thông. Ở các khu vực thành thị thì gần

như các thế hệ chủ yếu giao tiếp với nhau bằng tiếng phổ thông, không quen

và dần lãng quên đi ngôn ngữ của DT mình, chính điều đó đã làm mai một

dần đi tiếng DT, mất khả năng trao truyền qua các thế hệ. Xu hướng này tiếp

tục lan dần đến khu vực giáp ranh thành thị và vùng nông thôn, hiện tượng

giao tiếp bằng tiếng phổ thông và không còn khả năng giao tiếp bằng tiếng

DT đang là một hiện tượng phổ biến.

Kết quả khảo sát của tác giả Hoàng Thị Hương cho thấy, mức độ sử

dụng được ngôn ngữ DT ở đối tượng là học sinh trung học phổ thông người

100

DT Tày, Nùng, H’Mông, Dao…ở vùng II, vùng III của các tỉnh Đông Bắc là

70% sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ thành thạo, biết ở mức độ vừa phải là 25%, biết

một ít là 0,5%, không biết là 0%. Khảo sát mức độ sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ ở

đối tượng cũng là học sinh trung học phổ thông người Tày, Nùng, H’Mông,

Dao ở vùng I (thành thị) cho kết quả ngược lại, sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ

thành thạo là 0,5%, biết ở mức độ vừa phải (nghe được ít nhưng không nói

được) là 25%, không biết là 70%.[73;121] Như vậy, biểu hiện sự mai một

ngôn ngữ DT đang diễn ra ở các vùng là khác nhau, mức độ trầm trọng đang

diễn ra ở khu vực thành thị đang có xu hướng lan dần đến các khu vực khác.

Chính việc ít duy trì giao tiếp ngôn ngữ DT trong gia đình (giữa ông bà - cha

mẹ - các con, cháu) và ngoài cộng đồng nên qua thời gian, ngôn ngữ DT sẽ bị

mai một dần qua các thế hệ. Đặc biệt, đối với thế hệ trẻ sau này hoàn toàn sẽ

không còn khả năng giao tiếp bằng ngôn ngữ DT, trong khi ngôn ngữ là công

cụ lưu giữ và thể hiện BSVHDT.

Về phong tục tập quán và lễ hội truyền thống:

Đồng bào các DTTS vùng Đông bắc, đặc biệt là đồng bào cư trú ở vùng

sâu, vùng xa, do điều kiện khó khăn về giao thông, về thông tin liên lạc, về sự

tiếp xúc, tiếp cận với những tiến bộ khoa học kỹ thuật nên chưa biết chắt lọc

những tinh hoa trong BSVHDT để gìn giữ, phát huy đồng thời loại bỏ những

hủ tục, tập quán lạc hậu ảnh hưởng đến đời sống tinh thần, vật chất của đồng

bào. Đó là những hủ tục liên quan đến chữa bệnh bằng cúng bái, khi gia đình

có người thân bị ốm đau, họ không được đưa đến cơ sở y tế để chữa trị mà

được giữ ở nhà để mời thầy cúng về cúng vì cho rằng người thân bị ma nhập.

Hay tập tục tảo hôn thường diễn ra ở DT H’Mông, thực hiện đám tang nhiều

ngày của các DT Tày, Nùng, H’Mông, những kiêng kị khắt khe trong đám

tang, trong sinh đẻ… làm ảnh hưởng đến mọi mặt cuộc sống của đồng bào…

Ngoài ra còn tồn tại niềm tin đến mê muội vào các lực lượng siêu nhiên

có quyền uy vạn năng nên đồng bào vẫn duy trì và thực hành những nghi lễ

với những thủ tục rườm rà, lễ vật nhiều gây lãng phí. Đối với những gia đình

khó khăn về kinh tế thì những hủ tục, tập quán lạc hậu này là một gánh nặng

kinh tế đè lên họ….

101

Như vậy, mặc dù xã hội đã phát triển nhưng đồng bào ở vùng sâu, vùng

xa vẫn chưa thoát khỏi được những lạc hậu, những hủ tục. Tác giả luận án đã

có dịp chứng kiến đám tang của người Nùng ở Thái Nguyên, một gia đình có

6 người con (3 trai, 3 gái), khi người cha mất đi, mỗi người con phải dâng

cúng cha một con lợn thịt và mấy con gà, dải bên cạnh thi thể người cha để

thầy cúng làm lễ mấy tiếng, thậm chí mất cả ngày làm lễ. Cúng xong, lợn gà

được mang ra nấu nướng để bầy cỗ. Với số lượng lợn, gà nhiều như vậy, để

sống trong nhiều giờ (kể cả khi thời tiết nóng) đã bốc mùi được mang ra chế

biến ăn trong những ngày tang ma, vừa lãng phí vừa mất vệ sinh… Do đó, rất

cần có sự giản lược về thủ tục và lễ vật để đồng bào các DTTS thoát khỏi tư

tưởng nặng nề, tập trung làm ăn, phát triển kinh tế gia đình để cải thiện cuộc sống.

Bà con DTTS thường ngại giao lưu, tiếp xúc với người ngoài làng,

ngoài bản, người DT khác, họ khép mình trong cộng đồng của mình, với họ,

tất cả truyền thống tổ tiên để lại là tốt đẹp, thế hệ sau cần phải tiếp nối, giữ

gìn nguyên vẹn những truyền thống, tập quán đó. Do đó, họ lưu giữ, gìn giữ

những truyền thống tốt đẹp, lưu giữ ngay cả những hủ tục, tập quán lạc hậu và

giáo dục cho thế hệ sau ý thức gìn giữ đó. Nó đã hằn sâu vào nếp ăn, nếp nghĩ

của đồng bào các DTTS vùng sâu, vùng xa, làm cho đời sống tinh thần và đời

sống vật chất của họ thiếu thốn và luôn tồn tại trong sự lạc hậu, khó có thể

thoát ra khi chưa thay đổi được nhận thức trong đồng bào.

Đối với đồng bào các DTTS cư trú ở vùng thành thị và vùng giáp ranh

thành thị, do sự tác động của nền kinh tế thị trường nên ngoài những tác động

tích cực, nó cũng gây ra những ảnh hưởng tiêu cực, trong đó có làm mai một,

mất mát, biến tướng một số phong tục tập quán tốt đẹp và một số lễ hội truyền

thống của đồng bào DTTS vùng Đông Bắc. Chẳng hạn, nhiều người lợi dụng

phong tục, tập quán tốt đẹp của DT để đạt được những mục đích riêng của

mình, như tục “cướp vợ” của người H’Mông. Bản chất tốt đẹp của phong tục

này là khi đôi trai gái đã thuận tình, để tiết kiệm thời gian và tiền bạc thì nhà

trai tiến hành tục “cướp vợ”. Lợi dụng phong tục này mà hiện nay, một số trai

bản người H’Mông đã cố tình cướp vợ trong khi người con gái không đồng ý,

dẫn đến cảnh giằng co, la hét và cảm giác không an toàn khi người con gái ra

102

đường, điều này làm cho phong tục tốt đẹp của người H’Mông bị biến dạng,

biến tướng theo hướng phản tiến bộ.

Thực tế còn có tình trạng những sinh hoạt VH không còn chú ý, quan

tâm đầy đủ đến yếu tố VH nữa mà chú tâm đến yếu tố kinh tế, lợi nhuận.

Chẳng hạn, các lễ hội diễn ra trong năm của đồng bào các DTTS không còn

quan tâm chăm lo đến các nghi lễ mang tính cộng đồng có tác dụng gắn kết

các thành viên với nhau để cùng thực hiện các nhiệm vụ chung mà chủ yếu

quan tâm đến các hoạt động kinh tế trong đó như quảng cáo các mặt hàng.

Những nét đẹp trong phong tục cúng Thần rừng, cúng thần Thổ công, tục đi

tết bố mẹ vợ, những bài văn dạy con cháu cách ứng xử với tự nhiên và con

người… đều bị mất đi trước lối sống gấp gáp, chóng vánh của con người

trong một nền kinh tế thị trường đặt lợi nhuận tối đa lên hàng đầu. Đặc biệt,

đối với những gia đình sống ở thành thị mải làm ăn, kinh doanh, buôn bán nên

cũng thờ ơ với những phong tục truyền thống của DT mình, mặc dù những

phong tục tập quán đó có ý nghĩa tốt đẹp trong việc cố kết cộng đồng (thành

viên trong gia đình, dòng họ, bản làng); giáo dục những điều hay, lẽ phải

(uống nước nhớ nguồn, yêu thương, đùm bọc lẫn nhau)… như tục thờ cúng tổ

tiên, thờ các vị thần, phong tục trong đám cưới, đám tang…

Trong những ngày giỗ, ngày tết trong năm của DT mình, đồng bào các

DTTS thường phải tụ họp để cùng nấu nướng những món ăn truyền thống của

DT để dâng cúng tổ tiên, qua đó cũng ôn lại gốc gác lịch sử của cha ông để

nhắc nhở, giáo dục con cháu đời sau biết về cội nguồn, về ý nghĩa của những

ngày giỗ, ngày tết. Nhưng với cuộc sống hối hả của nền kinh tế thị trường,

nhiều gia đình đã bỏ qua các phong tục tập quán này, hoặc có chú ý đến cũng

chỉ qua loa, chẳng hạn mua gói bánh, gói kẹo bán ở chợ về đặt lên bàn thờ,

thắp hương là xong.

Nếu như trước đây, các phong tục trong đám cưới, đám tang được thực hiện nghiêm ngặt theo quy trình nhất định của từng DT, thì ngày nay, đồng bào các DTTS ở các vùng thành thị, giáp ranh thành thị và các gia đình trẻ hầu như không thực hiện, thậm chí không còn biết đến phong tục truyền thống của DT mình, thay vào đó là sự “Kinh hóa”, tiến hành theo phong tục của

103

người Kinh. Chiều hướng này đang tiếp tục diễn ra và lan tỏa đến vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa. Nếu tình trạng này diễn ra lâu dài thì một thời gian không xa, BSVH của đồng bào các DTTS sẽ bị lu mờ, các thế hệ trẻ về sau sẽ không còn biết đến các giá trị VH cổ truyền của DT. Qua tìm hiểu học sinh, sinh viên là người DTTS đang theo học tại các trường DT nội trú cũng như một số trường đại học thuộc Đại học Thái Nguyên thì được biết các em cũng không biết đến hoặc lơ mơ về các phong tục tập quán của DT mình. Lý do các em đưa ra là do từ bé chỉ chú tâm học hành những kiến thức ở trường lớp và cũng do cảnh sống xa nhà từ nhỏ nên cũng không được tham gia vào các hoạt động VH truyền thống của DT nên đã bỏ hổng một kiến thức quan trọng về những giá trị trong kho tàng VH truyền thống của DT.

Những lễ hội truyền thống như: lễ hội Gầu Tào của DT H’Mông, lễ hội chợ tình Khâu Vai (Hà Giang), lễ hội Lồng Tồng của DT Tày, Nùng, lễ hội Tết Nhảy của DT Dao đã bị thay đổi cả về phần lễ lẫn phần hội cũng như sự giảm thiểu về đối tượng tham gia. Tất cả đều có sự giản lược đến mức sơ sài không còn nguyên giá trị mang dấu ấn đậm đà bản sắc của từng DT. Điều đó xuất phát từ khâu tổ chức cũng như từ tâm lý của đồng bào các DTTS khi tham gia lễ hội, họ không còn tâm trạng háo hức, phẩn khởi, nhiệt tình như trước. Thế hệ trẻ thì dường như thờ ơ bởi họ có thú vui mới bên những chiếc điện thoại hay máy tính với những trò chơi game, chát zalo, facebook, messeger…Đó cùng là lý do vì sao các lễ hội của đồng bào các DTTS dần bị phai nhạt trong đời sống cộng đồng, mất dần ý nghĩa giáo dục, cố kết cộng đồng, cân bằng tâm lý cho đồng bào sau những ngày lao động vất vả.

Về nghệ thuật dân gian: Nghệ thuật dân gian thể hiện trong điệu múa, bài hát, nhạc cụ của đồng bào các DTTS vùng Đông Bắc cũng đang bị mai một nghiêm trọng. Tỷ lệ duy trì VH truyền thống này ở người Tày là 29,4%, người Nùng là 27,63%, người Dao là 35,41% và người H’Mông là 56,87%. Trong đó, chỉ có 3,4% hộ người Tày là biết điệu múa truyền thống của DT mình, người Nùng là 0,9%, người H’Mông là 15,7%, người Dao là 5,7%. 8,2% hộ người Tày có các thành viên của hộ biết hát bài hát truyền thống, tỷ lệ này ở người Nùng là 7,1%, người H’Mông là 28,7%, người Dao là 10,8%. Về sử dụng nhạc cụ truyền thống, chỉ

104

có 2,2% hộ người Tày biết sử dụng nhạc cụ truyền thống của DT mình, tỷ lệ này ở người Nùng là 0,9%, người H’Mông là 15,1%, người Dao là 3,4%[166;171-174].

Như vậy, việc duy trì VH truyền thống của DT ít được thực hiện, đặc biệt

thế hệ trẻ, sinh viên không biết những điệu múa, bài hát, nhạc cụ truyền thống

của DT mình. Số ít biết đến thì cũng chỉ tồn tại ở người già (lưu lại trong trí nhớ

và cũng không còn khả năng biểu diễn) và những người tham gia vào đội văn

nghệ ở địa phương. Trong các đám cưới, không còn tồn tại những làn điệu dân

ca truyền thống mà thay vào đó là nhạc trẻ, nhạc rốc… trong các phiên chợ tình,

chợ phiên, hội xuân, trai gái không còn giao lưu với nhau qua các làn điệu Sli,

lượn… mà thay vào đó là mỗi người trên tay chiếc điện thoại để chụp hình, tạo

dáng, lướt web, chơi game. Không gian đậm BSDT giờ đã lùi vào quá khứ để

mở ra không gian với những yếu tố cũ, mới đan xen tạo nên sự hỗn tạp.

Nhìn chung, xung quanh việc giữ gìn và phát BSVH các DTTS vùng

Đông Bắc đang đặt ra nhiều vấn đề khá phức tạp. Đó là sự mai một dần

những giá trị VH truyền thống do sự tiếp nhận cái mới một cách ồ ạt - hệ quả

của quá trình giao lưu, tiếp xúc và hội nhập. Cũng chính do quá trình này mà

hiện tượng Kinh hóa đang diễn ra mạnh mẽ ở vùng Đông Bắc, mạnh nhất là ở

khu vực thành phố, thị trấn và những vùng giáp ranh. Giao lưu, tiếp xúc là tốt

khi biết học hỏi những giá trị tốt đẹp của DT khác để bổ sung và làm mới nền

VH của DT mình, để cải biến những hủ tục, lạc hậu đưa DT mình phát triển đi

lên nhưng trên thực tế sự giao lưu, tiếp xúc đã làm cho một bộ phận đồng bào

các DTTS tự ti, mặc cảm từ đó chối bỏ những giá trị truyền thống tốt đẹp của

DT mình để chạy theo cái mới, thậm chí tiếp nhận cả những cái phản động,

tiêu cực, phản tiến bộ… Biểu hiện này đang hủy hoại, làm nghèo đi nền VH,

đời sống tinh thần của các DTTS, làm mai một đi nhiều giá trị VH truyền

thống của DTTS nói riêng và nền VH Việt Nam nói chung.

Như vậy, nền kinh tế thị trường với sự mở cửa hội nhập đã tác động

mạnh mẽ đến đời sống tinh thần của đồng bào các DTTS vùng Đông Bắc.

Nhiều giá trị truyền thống bị biến dạng, lai tạp, giới trẻ quay lưng lại với giá

trị truyền thống để chạy theo cái mới, làm mai một, mất dần BSVDHT.

105

3.3. Nguyên nhân và một số vấn đề đặt ra đối với việc giữ gìn và

phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số vùng Đông Bắc

3.3.1. Nguyên nhân của thực trạng giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa

các dân tộc thiểu số vùng Đông Bắc.

3.3.1.1. Nguyên nhân của thành tựu

*Nguyên nhân khách quan

Giữ gìn, phát huy BSVH các DTTS vùng Đông Bắc trong thời gian qua

đã đạt được những thành tựu quan trọng, điều đó bắt nguồn từ nguyên nhân

khách quan đó là sự phát triển của kinh tế - xã hội.

Trong những năm qua, sự thay đổi mạnh mẽ bộ mặt kinh tế đất nước đã

và đang tác động tích cực đến việc giữ gìn và phát huy BSVH nói chung và

BSVH các DTTS vùng Đông Bắc nói riêng. Những thành tựu của kinh tế

đang là yếu tố đắc lực cho Đảng, Nhà nước, các cơ quan chuyên môn sử dụng

để nâng cao hiệu quả của việc giữ gìn, phát huy BSVHDT và đó cũng là cơ sở

để Đảng, Nhà nước đưa ra chủ trương, đường lối, chương trình, kế hoạch cụ

thể giao cho các phòng ban chuyên môn thực hiện thông qua cấp phát về

nguồn kinh phí. Cùng với đó là sự tiến bộ của khoa học - kỹ thuật cho phép sử

dụng những công cụ lưu giữ hiện đại thông qua băng đĩa, đầu thu, đầu ghi âm,

máy quay… , các trang thiết bị hiện đại để trưng bày, bảo quản trong các bảo

tàng, thư viện. Qua đó, các giá trị VH vật thể và phi vật thể có điều kiện được

giữ gìn tốt hơn.

Ngoài ra, sự phát triển kinh tế đã tạo điều kiện để nâng cao đời sống vật chất và đời sống tinh thần của đồng bào các DTTS. Đời sống vật chất được cải thiện, nâng cao thông qua việc sử dụng các phương tiện, tiện nghi sinh hoạt hiện đại (ti vi, xe máy, tủ lạnh, máy giặt, điều hòa…) trong chính ngôi nhà truyền thống của đồng bào; sử dụng các loại trang phục truyền thống trên nền chất liệu mới; những món ăn truyền thống kết hợp với những món ăn mới làm tăng chất lượng bữa ăn. Đời sống vật chất thay đổi làm cho đời sống tinh thần cũng từng bước được nâng lên. Để thuận lợi trong giao tiếp, trong làm ăn, buôn bán, trong học hành, trong việc tiếp cận những thông tin mới…, đồng bào đã thành thạo hơn với việc sử dụng ngôn ngữ phổ thông, ngoại ngữ

106

bên cạnh tiếng mẹ đẻ. Nhiều gia đình vùng đồng bào DTTS có điều kiện kinh tế khấm khá đã sẵn sàng chi ra một khoản tiền để đầu tư cho con cái học thêm ngoại ngữ, đầu tư cho con du học nước ngoài. Khoa học kỹ thuật phát triển và việc vận dụng nó vào sản xuất làm cho đồng bào các DTTS giảm cho phí sản xuất, thời gian, lao động mà vẫn đem lại hiệu quả kinh tế cao, giúp cho đồng bào có thêm thời gian nông nhàn để chăm lo đến đời sống tinh thần, tham gia tích cực vào những phong trào, hoạt động VH của địa phương như: phong trào xây dựng nông thôn mới, tham gia vào nhiều hoạt động văn nghệ quần chúng, các câu lạc bộ văn nghệ để tiếp tục gìn giữ, bảo lưu nhiều nhiều lễ hội đặc sắc, nhiều phong tục tập quán tốt đẹp, nhiều làn điệu dân ca, bài múa truyền thống. Với sự phát triển kinh tế trong thời kỳ mở cửa, hội nhập, đồng bào các DTTS có điều kiện giao lưu, tiếp xúc để tự tin hơn, lạc quan hơn và tự hào hơn về giá trị VH truyền thống của DT mình đồng thời học hỏi, tiếp thu được nhiều giá trị VH mới của DT khác, nền VH khác để làm mới nền VH của DT mình, đẩy lùi được những lạc hậu, mê tín dị đoan.

* Nguyên nhân chủ quan Thứ nhất, sự quan tâm của Đảng và Nhà nước trong việc giữ gìn, phát

huy BSVH các DTTS.

Vùng Đông Bắc nước ta là nơi tập trung nhiều thành phần DT với BSVH đặc trưng, phong phú, đa dạng, là nền tảng tinh thần cho đồng bào các DTTS nơi đây tồn tại và phát triển. Nhận thức được điều đó, Đảng và Nhà nước ta trước sau như một luôn chủ trương giữ gìn, phát huy BSVH các DTTS một cách có chọn lọc được thể hiện trong các Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng, trong Hiến pháp và Pháp luật của Nhà nước.

Trong Nghị quyết trung ương 5 khóa VIII, Đảng ta đã nhấn mạnh: “Coi trọng và bảo tồn, phát huy những giá trị truyền thống và xây dựng, phát triển những giá trị mới về VH, văn học, nghệ thuật của các DTTS. Bảo tồn và phát triển ngôn ngữ, chữ viết của các DT. Đi đôi với việc sử dụng ngôn ngữ, chữ viết phổ thông, khuyến khích thế hệ trẻ thuộc đồng bào các DTTS học tập, hiểu biết và sử dụng thành thạo tiếng nói, chữ viết của các DT mình. Phát hiện, bồi dưỡng, tổ chức lực lượng sáng tác, sưu tầm, nghiên cứu, phổ biến các giá trị VH, văn học, nghệ thuật của các DTTS”[29;69].

107

Có thể nói, đây chính là một quan điểm có ý nghĩa triết lý chỉ đạo rất quan

trọng và sâu sắc đối với việc giữ gìn và phát huy BSVHDT nói chung, BSVH của

các DTTS nói riêng trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Nó

định hướng cho việc khơi dậy và nhân lên những giá trị ưu tú của VHDT, VH tộc

người từ lâu đời để thúc đẩy công cuộc phát triển đất nước hiện nay.

Trong các chỉ thị về sau, Đảng ta vẫn tiếp tục chủ trương giữ gìn, phát

huy tinh hoa VH truyền thống của các DTTS.

Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương (khóa VIII) tại Đại

hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng cũng nêu rõ: “Bảo tồn và phát huy

các di sản VHDT, các giá trị VH, nghệ thuật, ngôn ngữ, chữ viết và thuần

phong mỹ tục của các DT”[30;90].

Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X về các văn kiện trình

Đại hội XI ngày 12/01/2011 nêu rõ: “Xây dựng nền VH Việt Nam tiên tiến, đậm đà

BSDT, vừa kế thừa, phát huy những truyền thống VH tốt đẹp của cộng đồng các DT

Việt Nam, vừa tiếp thu tinh hoa VH nhân loại… ”[32;40].

Trong Nghị quyết Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương

khóa XI về xây dựng và phát triển VH, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu

phát triển bền vững đất nước đã đưa ra nhiệm vụ cụ thể là “Giữ gìn và phát

huy di sản VH các DTTS, nhất là tiếng nói, chữ viết, trang phục, lễ hội truyền

thống, các giá trị VH tích cực trong tôn giáo, tín ngưỡng”[33].

Đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng cũng đề ra nhiệm

vụ “Huy động sức mạnh của toàn xã hội nhằm bảo tồn, phát huy các giá trị

VH truyền thống DT; khích lệ sáng tạo các giá trị VH mới, tiếp thu tinh hoa

VH nhân loại, làm giàu VHDT”[34;129].

Như vậy, thông qua các văn kiện, nghị quyết, cho thấy rõ sự nâng cao

không ngừng nhận thức của Đảng về vấn đề giữ gìn và phát huy BSVHDT

nói chung và BSVH các DTTS nói riêng và nhận thức đó luôn bám sát với

tình hình, điều kiện mới.

Trong điều kiện kinh tế thị trường và giao lưu quốc tế, Đảng ta nhấn mạnh việc quan tâm giữ gìn và nâng cao BSVH đồng thời phải đấu tranh chống sự xâm nhập của các yếu tố phản VH, những khuynh hướng lai căng, mất gốc, khuynh

108

hướng sùng bái đồng tiền mà bất chấp đạo lý, coi thường các giá trị nhân văn. Những yếu tố này xuất hiện là do mặt trái của nền kinh tế thị trường tác động và là một trong những hệ quả của quá trình giao lưu quốc tế. Do đó, dựa vào màng lọc là BSVH, một mặt chúng ta tiếp nhận các giá trị mà nền kinh tế thị trường và quá trình giao lưu quốc tế mang lại, một mặt chúng ta phải chủ động đào thải, loại bỏ những cái đi ngược với thuần phong mỹ tục của DT.

Đảng đã nhận thấy được rằng, bên cạnh tính tất yếu của những giá trị VH mới được tạo ra, được tiếp thu từ nhân loại thì có nguy cơ mai một, mất dần BSVH của DT cũng như BSVH của các DTTS. Do đó, Đảng ta chủ trương tích cực giữ gìn và phát huy các thành tố của VH như tiếng nói, chữ viết, trang phục, lễ hội truyền thống, những giá trị VH trong phong tục, tập quán, tín ngưỡng, tôn giáo….

Cùng với đường lối, chính sách của Đảng, nhà nước Việt Nam đã ban hành nhiều luật và nghị định nhằm giữ gìn, phát huy các giá trị VH, đỉnh cao là Luật di sản văn hóa năm 2001 (sửa đổi, bổ sung năm 2009). Trong Luật di sản văn hóa, ngoài tính hệ thống và bao quát của nó, lần đầu tiên các di sản VH phi vật thể được đưa vào nội dung quản lí và điều chỉnh của bộ luật này. Đây là bước phát triển trong việc hoàn chỉnh bộ Luật di sản văn hóa mà không phải quốc gia hiện đại nào cũng đạt được. Đây cũng là giai đoạn đầu tiên chúng ta có được sự hội nhập quốc tế khá toàn diện về phương diện VH, tạo nên sự gắn kết trên phương diện luật pháp và hoạt động bảo tồn VH giữa Việt Nam và quốc tế. Trên cơ sở bộ luật, từ đó đến nay, nhà nước Việt Nam đã ban hành rất nhiều chính sách VH cụ thể nhằm bảo tồn, phát triển các giá trị VH truyền thống, trong đó có giá trị VH của DTTS vùng Đông Bắc. Với điều kiện còn khó khăn của một nước đang phát triển, nhà nước Việt Nam đã tích cực, chủ động giữ gìn những giá trị VHDT, được tổ chức VH quốc tế UNESCO đánh giá cao.

Những văn kiện, nghị quyết của Đảng đã được chính phủ, chính quyền các cấp, các ngành, các vùng, miền, các tầng lớp nhân dân hưởng ứng tham gia và đạt được những thành tựu quan trọng, có ý nghĩa góp phần vào mục tiêu xây dựng nền VH Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc DT có tính DT, nhân văn, dân chủ và khoa học.

Thứ hai, hệ thống chính trị cơ sở đã có nhiều nỗ lực trong việc cụ thể hóa

109

chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về việc giữ gìn, phát huy BSVH các DTTS vùng Đông Bắc thông qua nhiều hình thức phong phú, đa dạng.

Hầu hết các địa phương vùng Đông Bắc, đã xác định được công tác giữ

gìn và phát huy BSVHDT là một trong những nhiệm vụ quan trọng trong thời

kỳ hội nhập và thực hiện có hiệu quả Nghị quyết TW 5 (khóa VIII), về xây

dựng và phát triển nền VH Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc DT, Nghị

quyết TW 9 (khóa XI) về xây dựng và phát triển VH, con người Việt Nam đáp

ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước. Tỉnh ủy, ủy ban nhân dân các tỉnh

vùng Đông Bắc đã nỗ lực chỉ đạo, ban hành các chương trình, nghị quyết, kế

hoạch chuyên đề về giữ gìn BSVH các DTTS trên địa bàn. Tỉnh ủy các tỉnh

đã đưa mục tiêu, nhiệm vụ giữ gìn, phát triển VH các DTTS vào nghị quyết

của từng nhiệm kỳ, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.

Để đạt được mục tiêu, nhiệm vụ đó, ủy ban nhân dân các tỉnh đã chỉ

đạo các sở VH thể thao và du lịch xây dựng kế hoạch cụ thể và triển khai thực

hiện. Kế hoạch cụ thể được thể hiện chi tiết qua các đề án trình ủy ban nhân

dân tỉnh phê duyệt và đang được thực hiện. Chẳng hạn tỉnh Tuyên Quang

thực hiện đề án “Bảo tồn và phát triển VH các DTTS trên địa bàn tỉnh giai

đoạn 2016 - 2020”[161] với nội dung nghiên cứu, sưu tầm các giá trị VH

truyền thống các DTTS, xây dựng, bảo tồn làng VH du lịch, hỗ trợ phát triển

một số làng nghề truyền thống, phục dựng bảo tồn một số lễ hội truyền thống

của các DTTS; tổ chức ngày hội VH các DT cấp tỉnh, cấp huyện; tổ chức thi,

tìm hiểu và hát dân ca; dàn dựng, biểu diễn các điệu hát - múa đặc sắc, tiêu

biểu của các DT. “Đề án giáo dục kỹ năng sống và VH truyền thống các

DTTS cho học sinh phổ thông trên địa bàn tỉnh Hà Giang giai đoạn 2016 -

2020”[159] với nội dung quan trọng là giáo dục cho học sinh những giá trị

VH truyền thống của các DT trên địa bàn, giúp học sinh hình hành, phát triển,

rèn luyện, biểu diễn một số nhạc cụ DT như: Khèn, sáo, các làn điệu dân ca

bằng ngôn ngữ dân DT; biết thêu, dệt và làm các sản phẩm truyền thống của

địa phương như khèn Mông, thêu đan váy, áo, túi, sách, khăn, mũ… để phục

vụ khách du lịch và giữ gìn BSDT; Sở VH thể thao và du lịch tỉnh Lạng Sơn

thực hiện đề án “Bảo tồn và phát huy tiếng nói, chữ viết và kiến trúc nhà ở

110

người DTTS trên địa bàn tỉnh giai đoạn 2015 - 2020”[157], đề án triển khai

việc đưa tiếng nói, chữ viết các DTTS vào giảng dạy trong các nhà trường,

khuyến khích, hướng dẫn quần chúng nhân dân tham gia sáng tạo, bảo tồn,

truyền dạy và phát huy các giá trị VH truyền thống của đồng bào các DT như

hát then, sli, lượn… tạo điều kiện thuận lợi cho việc hình thành và phát triển

các câu lạc bộ VH, nghệ thuật đáp ứng nhu cầu sáng tạo và hưởng thụ VH; Sở

VH, thể thao và du lịch tỉnh Thái Nguyên thực hiện đề án “Bảo tồn, phát triển

VH các DTTS tỉnh Thái Nguyên đến năm 2020”[165]. Trong đề án này có các

dự án thành phần là: Dự án “Khôi phục, bảo tồn tinh hoa VH truyền thống các

DTTS của các huyện Định Hóa, Đại Từ, Phú Lương, Đồng Hỷ, Võ Nhai”; dự

án “Đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực, phát huy hiệu quả các thiết chế VH

cơ sở vùng đồng bào các DTTS”; dự án “Gắn kết phát triển kinh tế và bảo

tồn, phát triển VH các DTTS của các huyện Định Hóa, Đại Từ, Phú Lương,

Đồng Hỷ, Võ Nhai”; dự án “Giới thiệu, quảng bá các sản phẩm VH nghệ

thuật và các di sản VH tiêu biểu của các DTTS và đưa giáo dục VH truyền

thống các DT vào trường học thuộc địa bàn các huyện Định Hóa, Đại Từ, Phú

Lương, Đồng Hỷ, Võ Nhai”; dự án “Chương trình hoạt động, lễ hội và biểu

diễn VH, nghệ thuật các DT cấp huyện, cấp tỉnh, tham gia cấp vùng, quốc gia

giai đoạn 2014 - 2020”.

Với tư duy linh hoạt, nhạy bén, các cấp ủy, chính quyền ở các tỉnh

vùng Đông Bắc ngoài những chương trình, chuyên đề phát triển VH riêng còn

ban hành các chương trình, nghị quyết, kế hoạch chuyên đề về phát triển du

lịch gắn với giữ gìn và phát huy BSVH các DTTS. Chủ trương “lấy VH để

phát triển du lịch, lấy du lịch để bảo tồn, phát triển VH” xem VH là tài

nguyên du lịch có giá trị… đã thể hiện rõ sự gắn kết giữa kinh tế và VH trong

quá trình phát triển vùng đồng bào các DTTS vùng Đông Bắc. Do đó, vấn đề

giữ gìn và phát huy BSVHDT được chú trọng, quan tâm và khai thác nhằm

hướng tới sự phát triển hài hòa, kinh tế tăng trưởng mà vẫn giữ gìn, bảo lưu

được các giá trị VH truyền thống. Sự gắn kết này được thể hiển hiện rõ trong

việc xây dựng các mô hình làng VH. Từ khi mô hình này đi vào hoạt động đã

thu hút được một lượng lớn khách du lịch đến thăm quan và trải nghiệm, góp

111

phần tăng thu nhập và cải thiện cuộc sống cho đồng bào các DTTS đồng thời

vẫn giữ gìn, bảo lưu, khơi dậy, phát huy các giá trị VH vật thể và phi vật thể.

Các cấp địa phương cũng đã kết hợp với đồng bào các DTTS xây dựng

các mô hình làng VH như làng VH du lịch Bản Quyên xã Điềm Mặc, huyện

Định Hóa, Thái Nguyên; làng VH truyền thống DT Tày bản Pác Ngòi, xã

Nam Mẫu, huyện Ba Bể, Bắc Kạn; bản VH Khuổi Ky của DT Tày (Cao

Bằng); Hà Giang xây dựng được 29 làng VH của các DT Tày ở thành phố Hà

Giang, DT Dao ở Hoàng Su Phì, Xín Mần, DT Mông ở Quản Bạ, Đồng Văn, Mèo

Vạc; làng VH du lịch cộng đồng Quỳnh Sơn, Bắc Sơn, Lạng Sơn. Mô hình làng

VH đã nhận được sự đồng tình hưởng ứng từ phía đồng bào các DTTS, trong đó

phục dựng lại ngôi nhà truyền thống, duy trì mặc trang phục truyền thống trong sinh

hoạt hàng ngày, chế biến món ăn truyền thống để phục vụ bản thân, gia đình và du

khách….Sự tham gia tích cực của các cấp chính quyền và người dân đã đáp ứng

được hai mục tiêu lớn đó là vừa phát triển kinh tế du lịch vừa giữ gìn và phát huy

được BSVH tộc người. Có thể nói đây là hướng bảo tồn đúng đắn và phù hợp với

thực tiễn. Sự xuất hiện các làng bản VH đã tạo động lực dấy lên phong trào khôi

phục, bảo tồn các giá trị VH vật thể của đồng bào các DTTS ở các địa phương.

Những hoạt động đa dạng trên cho thấy công tác giữ gìn, phát huy

BSVH các DTTS từ phía cấp ủy, chính quyền, các tổ chức trong hệ thống

chính trị, các cơ quan quản lý VH vùng Đông Bắc đã được triển khai tích cực,

góp phần quan trọng vào nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho đồng bào các

DTTS vùng Đông Bắc.

Thứ ba, sự phát huy vai trò chủ động, tích cực, tự giác của đồng bào

các DTTS với tư cách là chủ thể của nền VH.

Bản thân đồng bào các DTTS chính là chủ thể của nền VH của họ, do đó, nền VH đó có được giữ gìn, phát huy hay không ngoài sự tác động bởi các yếu tố bên ngoài như sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, các bộ ban ngành và chính quyền địa phương thì vai trò quyết định vẫn chính là bản thân đồng bào các DTTS. Nếu như Đảng, Nhà nước, cơ quan chuyên môn và chính quyền địa phương có quan tâm, tạo mọi điều kiện đến đâu đi chăng nữa mà đồng bào các DTTS không tiếp nhận, không chủ động, tự giác phối kết hợp thì công tác

112

giữ gìn, phát huy BSVH các DTTS cũng chỉ là sự cưỡng ép từ bên trên mà không đạt được hiệu quả. Do đó, có lúc, có nơi, Nhà nước làm thay cho đồng bào như tự phục dựng lại các ngôi nhà truyền thống, phục dựng lại các giá trị VH phi vật thể… không đúng bản chất của nó, làm mất đi vẻ đẹp đậm đà bản sắc trong VH của đồng bào các DTTS và các giá trị VH đó cũng chỉ được lưu giữ, trưng bày trong các bảo tàng, trong băng đĩa, sách vở mà không thực sự được sống trong chính đời sống của đồng bào. Vì thế, ý thức tự giác và tích cực tham gia vào duy trì, thực hiện các các giá trị VH giàu BSDT của đồng bào các DTTS sẽ không chỉ giúp cho các giá trị đó tồn tại bền vững trong đời sống đồng bào mà nó mới thực sự đóng vai trò là nền tảng tinh thần để đồng bào các DTTS vươn lên hòa nhập theo xu thế phát triển.

Thực tế hiện nay, các thế hệ người già của đồng bào các DTTS vẫn luôn thường trực ý thức gìn giữ vốn liếng của cha ông, họ vẫn đang thường xuyên duy trì, thực hành, trao truyền cho thế hệ sau những vốn liếng tốt đẹp đó. Họ luôn nuối tiếc những giá trị VH đã mất mát, mai một và cũng đang mong muốn được tham gia vào khôi phục để gìn giữ BSVH cho thế hệ mai sau. Các nghệ nhân cũng đang miệt mài lan tỏa những giá trị tinh hoa đến cộng đồng, đến thế hệ trẻ thông qua việc mở lớp truyền dạy các giá trị VH phi vật thể như mở lớp dạy ngôn ngữ DT, dân ca, dân vũ, sử dụng nhạc cụ truyền thống, các bài hát, điệu múa truyền thống. Tuyên truyền, giáo dục mọi người cùng tham gia vào việc duy trì, giữ gìn, phát huy các giá trị đó. Họ luôn có ý thức tự hào về kho tàng VH của DT đồng thời luôn biết tự làm mới nền VH của DT mình bằng cách loại bỏ những yếu tố đã trở nên lỗi thời, lạc hậu, cản trở sự phát triển, tiếp thu cái hay, tiến bộ, tích cực trong VH các DT khác kể cả trong nước và quốc tế, góp phần tạo nên một nền VH tiên tiến, đậm đà BSDT, trở thành nền tảng tinh thần, sức mạnh nội sinh cho đồng bào các DTTS vươn lên, phát triển.

3.3.1.1. Nguyên nhân của hạn chế

* Nguyên nhân khách quan

Những hạn chế của việc giữ gìn, phát huy BSVH các DTTS vùng Đông

Bắc trong những năm qua bắt nguồn từ những nguyên nhân khách quan đó là

sự tác động tiêu cực của nền kinh tế thị trường, của quá trình công nghiệp

hóa, hiện đại hóa, của toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế.

113

Sự tác động tiêu cực của nền kinh tế thị trường như bàn tay vô hình làm

đảo lộn nhiều giá trị, chuẩn mực truyền thống, làm lu mờ BSVHDT, nhiều giá

trị VH truyền thống mang tính bản sắc của đồng bào các DTTS vùng Đông

Bắc bị biến dạng, mai một. Khát vọng lợi nhuận trong kinh tế đã dẫn đến sự

bất chấp mà hủy hoại môi trường tự nhiên và phá hoại môi trường VH. Không

gian VH rừng, bản làng vốn là cơ sở để nảy sinh, tồn tại nhiều giá trị VH có

nguy cơ bị phá mất để xây dựng các thủy điện, các khu công nghiệp, các dự

án quốc gia. Quá trình di dân đã làm ảnh hưởng lớn đến việc duy trì và thực

hành các hoạt động VH mang tính bản sắc của đồng bào các DTTS. Các nguồn tài

nguyên để tạo dựng nên các giá trị VH vật thể ngày càng khan hiếm. Sự mải mê tập

trung phát triển kinh tế, sự cạnh tranh trong làm ăn làm cho đồng bào các DTTS ít

chú ý thậm chí lãng quên các giá trị VH truyền thống cũng như việc thực hành nó

trong đời sống hàng ngày. Những giá trị VH nghệ thuật như ca dao, tục ngữ, làn

điệu dân ca, điệu múa truyền thống, nhạc cụ truyền thống không được trao truyền,

truyền dạy cho thế hệ sau trong nội bộ gia đình, dòng họ; các lễ hội truyền thống

của DT thưa thớt người tham gia. Bản chất của đồng bào các DTTS luôn thật

thà, chất phác, giản dị, cần cù, chịu thương, chịu khó, thích nghi với mọi hoàn

cảnh khắc nghiệt nhưng khi bước vào nền kinh tế thị trường, một bộ phận nảy

sinh tâm lý thụ động, ỷ lại, trông chờ vào kết quả lao động của người khác,

ham chơi, sa đà vào các tụ điểm tệ nạn, làm biến đổi bản chất tự nhiên của

mình. Để có tiền, có lợi nhuận cao, họ chấp nhận mọi cách làm ăn phi pháp:

buôn lậu, buôn thuốc phiện, làm hàng chất lượng kém.... Lợi dụng địa hình

khó khăn, hiểm trở, giáp biên giới, nhiều đối tượng là đồng bào DTTS vùng

Đông Bắc đã trực tiếp cầm đầu hoặc tham gia vào đường dây buôn bán ma

túy với số lượng lớn. Nhiều thanh niên thoát ly khỏi bản làng xuống các thành

phố làm ăn đã sớm thích nghi với cuộc sống sôi động, tiêu xài hoang phí, thay

đổi dần bản tính hiền lành, lương thiện, giản dị, mộc mạc của người DTTS.

Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa cũng đang tạo ra những sản

phẩm mới hiện đại, làm cho đồng bào choáng ngợp trước tính hữu dụng cao

của những sản phẩm mới, từ đó họ cho rằng những cái thuộc về truyền thống

là lạc hậu nên cần bỏ qua. Hoặc do tư tưởng cho rằng hiện đại hóa là làm cho

114

cái truyền thống được hiện đại nên các sản phẩm VH như vải thổ cẩm, trang

phục DT đã bị hiện đại hóa, cách tân… làm mất đi sự đa dạng, phong phú

mang đậm đà BSDT của đồng bào các DTTS vùng Đông Bắc. Ngoài ra,

những ngành nghề thủ công đang có xu hướng bị thu hẹp lại, thậm chí mất

chỗ đứng do những sản phẩm công nghiệp đa dạng về chủng loại, mẫu mã,

giá rẻ hơn xuất hiện tràn lan trên thị trường.

Toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế đem đến nhiều giá trị mới nhưng

cũng kéo theo những hiện tượng phản VH, phản tiến bộ khiến cho đồng bào

các DTTS vốn trình độ dân trí không cao, đã tiếp thu một cách thiếu chọn lọc,

kể cả những yếu tố trái với thuần phong mỹ tục của DT mình nên đã tạo ra sự

lai căng, mất gốc. Giới trẻ người DTTS đã có sự thay đổi lớn từ bên trong

(nhận thức, tư duy, lối sống, cách ứng xử) cho đến những biểu hiện bên ngoài

(trang phục, ngoại hình). Trên một mức độ nhất định, bản chất hiếu khách và

chân thật đã dần mất đi thay vào đó là sự chèo kéo, bán hàng với giá cắt cổ ở

một vài tụ điểm du lịch. Nhiều trẻ em lang thang, cơ nhỡ xuất hiện xin tiền du

khách, sự gian dối trong kinh doanh xuất hiện (bán hàng kém chất lượng,

hàng nhái, hàng giả, hàng trốn lậu thuế…). Trai gái mặc váy ngắn, quần soóc,

nhuộm tóc, xăm mình, ăn mặc lố lăng, cung cách giao tiếp, ứng xử thiếu VH

đã xuất hiện ở một bộ phận giới trẻ người DTTS. Những biểu hiện của sự lệch

lạc trong tư duy, trong lối sống của một bộ phận giới trẻ người DTTS vùng

Đông Bắc là do họ tiếp nhận một cách ồ ạt thiếu chọn lọc những luồng VH

ngoại lai, phản tiến bộ, du nhập trong quá trình hội nhập.

* Nguyên nhân chủ quan

Thứ nhất, nhận thức chưa đầy đủ của các cấp, ban ngành từ trung ương đến

địa phương và bản thân đồng bào các DTTS về việc giữ gìn, phát huy BSVHDT.

Trong suốt quá trình nhận thức của Đảng từ trước đổi mới đến nay, có những thời gian do quá nhấn mạnh việc xây dựng nền VH mới, phê phán và bài trừ VH phong kiến, lạc hậu, trong chỉ đạo đã có nhận thức không đúng về các giá trị VH truyền thống của đồng bào. Chẳng hạn, do sự thiếu hiểu biết về BSVH của đồng bào các DTTS vùng Đông Bắc nên các cấp chính quyền, đặc biệt các cơ quan chuyên môn về VH chưa phân định được đâu là mặt sinh

115

hoạt VH cộng đồng - mang tính bản sắc, đâu là sinh hoạt tín ngưỡng của đồng bào; chưa nhận thức được đầy đủ các mặt tích cực và hạn chế trong các nghi lễ liên quan đến chu kì đời người và các nghi lễ liên quan đến sản xuất nên đã đồng nhất nó với cái cũ, cái lạc hậu, cái mê tín đị đoan; hoạt động tổ chức lễ hội, múa hát, vui chơi tập thể, đi chợ phiên bị coi là những hoạt động gây tốn kém về thời gian, tiền bạc. Do vậy, đã có những hành động cứng nhắc mang tính cấm đoán, dẹp bỏ phong tục đó, hạn chế việc tổ chức các sinh hoạt VH cộng đồng… làm ảnh hưởng đến tâm lý chung của đồng bào. Với bà con DT, những người vô cùng hồn hậu, chất phác, chỉ cần một việc làm nhỏ nào đó có tính chất không thiện chí cũng có thể khiến đồng bào dần mất niềm tin vào Đảng và chính quyền, làm giảm sút ý thức duy trì những giá trị VH làm nên bản sắc của cộng đồng, tạo nên sự hẫng hụt, trống trải về mặt tinh thần của đồng bào các DTTS, trong khi đó, kinh tế vùng đồng bào chưa thoát khỏi tình trạng kém phát triển, đời sống đồng bào gặp nhiều khó khăn, thiếu thốn cả về vật chất và tinh thần.

Bước vào thời kỳ đổi mới, Đảng ta tiếp tục chủ trương gìn giữ và phát huy BSVHDT, trong đó có chủ trương khôi phục những giá trị VH truyền thống của đồng bào các DTTS từng bị xóa bỏ và mất mát. Nhưng trong quá trình thực hiện, do nhận thức không đầy đủ về tính hai mặt của truyền thống, không phân tách được đâu là mặt tích cực, đâu là mặt tiêu cực nên đã khôi phục một cách tràn lan thiếu kiểm soát. Do đó, các tập quán lạc hậu, các hủ tục đã trỗi dậy và tác động, gây ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống tinh thần, vật chất của đồng bào các DTTS.

Trình độ, năng lực của đội ngũ cán bộ chuyên môn, đặc biệt là cán bộ chuyên môn ở cơ sở, trong nhận thức và giải quyết công việc còn lúng túng, do không được đào tạo bài bản, đúng chuyên ngành về VH DTTS nên còn hạn chế trong kiến thức về mảng này. Do đó, chưa có những cách làm hiệu quả, còn thụ động trong quá trình thực hiện các nhiệm vụ liên quan đến giữ gìn, phát huy BSVH các DTTS. Vì thế, những hủ tục, tập quán lạc hậu vẫn tồn tại trong đời sống đồng bào các DTTS vùng sâu, vùng xa bên cạnh sự mai một, mất mát nhiều phong tục, tập quán tốt đẹp ở vùng thành phố, thị trấn và các vùng giáp ranh hay một số giá trị VH truyền thống bị biến dạng, lai tạp mà chưa có sự định hướng đúng đắn của các cơ quan chuyên môn tại cơ sở.

116

Nhà trường chưa nhận thức được đầy đủ vai trò, ý nghĩa của BSVH đối với sự tồn tại, phát triển của đồng bào các DTTS nên mới chỉ chú tâm đến giảng dạy kiến thức chuyên môn, chưa có sự quan tâm, sâu sát đến việc giáo dục, tuyên truyền các giá trị VH truyền thống làm nên BSVH của đồng bào các DTTS cho các em học sinh. Mặt khác, do bản thân các thầy cô một bộ phận là giáo viên từ miền xuôi lên cũng không hiểu biết rõ về BSVH của đồng bào các DTTS, không biết tiếng DT nên đó cũng là trở ngại lớn để các thầy cô tuyên truyền, giáo dục ý thức giữ gìn BSVHDT. Đối với các thầy cô bản thân là đồng bào DTTS, nhưng do thời gian phần lớn là học tập xa nhà nên không thường xuyên tham gia vào các hoạt động VH của gia đình, địa phương nên cũng có sự mờ nhạt về BSVH của DT mình, mặt khác, do có những hạn chế nhất định trong cách thức thực hiện nên đã làm suy giảm lòng nhiệt tình, sôi nổi của thầy cô trong việc tuyên truyền, giáo dục về BSVHDT cho các em học sinh.

Bản thân đồng bào các DTTS, đặc biệt là bộ phận sinh sống ở các thành phố, thị trấn và các vùng giáp ranh chỉ tập trung vào làm ăn, phát triển kinh tế nên thờ ơ, quay lưng lại với các giá trị VH truyền thống của DT mình, không nhận thức được các giá trị VH truyền thống mang đậm đà BSDT chính là nguồn vốn cho sự phát triển bền vững mà cho rằng đó là sản phẩm của xã hội phong kiến, là cổ hủ, là lạc hậu cần xóa bỏ. Các tầng lớp thanh niên sinh ra và lớn lên ở vùng này ít khi, thậm chí không được tham gia vào vào các hoạt động VH trong gia đình, dòng họ cho đến xã phường, thị trấn cho nên họ nhận thức mờ nhạt về các giá trị VH truyền thống của DT mình. Từ đó, không có ý thức giữ gìn, phát huy. Họ tiếp nhận cái mới nhanh hơn, mạnh hơn trong khi không có cái truyền thống làm nền tảng, làm màng lọc. Từ đó, tiếp nhận một cách ồ ạt, cả những mặt tích cực, cả những mặt phản VH, đi ngược lại thuần phong, mỹ tục, làm xói mòn BSVH của DT. Một bộ phận trẻ thoát ly ra khỏi cộng đồng DT do đi làm ăn hoặc học tập thì có tâm lí tự ti về VH của DT mình trước DT Kinh vì họ cho rằng VH của DTTS là lạc hậu, là cổ hủ. Vì vậy, họ thường che dấu, không dám thể hiện ra, dần dần lãng quên và học tập theo VH của người Kinh một cách hoàn toàn. Chính sự nhận thức chưa đầy đủ đó, cũng như chưa thực sự nhận thức hết được cái hay, cái đẹp trong BSVH của DT mình nên một bộ phận đồng bào

117

có thái độ “cổ súy” cho cái mới mà thờ ơ, quay lưng lại với những giá trị VH truyền thống của DT mình. Đó cũng là lý do những giá trị VH truyền thống tạo nên BSVHDT đang dần mai một, biến mất trong đời sống của đồng bào các DTTS vùng Đông Bắc.

Thứ hai, hoạt động kém hiệu quả của các chủ thể trong việc giữ gìn,

phát huy BSVH các DTTS.

Đảng, Nhà nước, các cơ quan chức năng và chính quyền địa phương

các tỉnh vùng Đông Bắc đã có những cách thức giữ gìn và phát huy BSVH

các DTTS khá phong phú và đa dạng. Tuy nhiên, hiệu quả của những cách

thức này chưa cao, chưa đạt được kết quả như mong muốn.

Việc đầu tư cho mục tiêu phát triển VH ở vùng đồng bào các DTTS

mặc dù đã tăng đáng kể trong những năm gần đây nhưng vẫn còn thấp so với

sự đầu tư cho lĩnh vực kinh tế. Do đó, kinh phí đầu tư cho công tác nghiên

cứu, sưu tầm, phục dựng, lưu giữ các giá trị VHDT chưa thực sự đáp ứng

được nhu cầu của việc giữ gìn kho tàng VH các DTTS. Kinh phí hạn hẹp dẫn

đến việc nghiên cứu, sưu tầm, kiểm kê, giữ gìn, phát huy những giá trị VH

thiếu tính toàn diện và chưa kịp thời.

Công tác nghiên cứu, sưu tầm VH các DTTS được thực hiện bởi các tổ

chức, các nhà khoa học, các cơ quan chuyên môn như sở VH ở các địa

phương chưa theo một chương trình thống nhất, đang ở tình trạng vừa tản

mạn, vừa trùng lặp, làm chậm tiến độ thực hiện và lãng phí thời gian, tiền bạc.

Khâu bảo tồn, lưu giữ tư liệu còn giản đơn, thiếu khoa học, trình độ

chuyên môn của cán bộ làm công tác bảo tồn, tư liệu … còn hạn chế và thiếu

phương tiện kỹ thuật, đặc biệt là phương tiện kỹ thuật hiện đại.

Trong một số giai đoạn, lĩnh vực, việc phát huy VH truyền thống các

DTTS chưa được quán triệt đầy đủ nên trong chỉ đạo và thực hiện còn có biểu

hiện ngần ngại, thiếu quyết đoán, né tránh nhất là những vấn đề khó khăn,

phức tạp, nhạy bén có liên quan đến VH tâm linh, ngôn ngữ, phong tục…

Sưu tầm, nghiên cứu VH chưa gắn với duy trì và phát huy, khiến cho

các giá trị VH được nghiên cứu, sưu tầm mới dừng lại ở sản phẩm được tư

118

liệu hóa chứ chưa thực sự được phát huy trong cộng đồng. Các bảo tàng ở địa

phương vắng bóng khách tham quan tìm hiểu. Những dịp trưng bày, giới thiệu

cũng thưa thớt người tham gia. Điều này có lẽ xuất phát từ thực trạng tuyên

truyền, quảng bá, giới thiệu chưa cuốn hút, chưa làm nổi bật giá trị đặc sắc,

độc đáo trong VH truyền thống của đồng bào các DTTS cũng như các tư liệu,

hiện vật trưng bày kém đa dạng, phong phú, sự sắp xếp thiếu hợp lý… là

những lý do khiến khách tham quan vắng bóng dần.

Quá trình phục dựng các giá trị VH phi vật thể như phong tục tập quán,

tín ngưỡng tôn giáo, lễ hội, âm nhạc chưa thực sự đặt nó trong môi trường sản

sinh và tồn tại vốn có của nó, tách khỏi môi trường VH sẽ làm mất đi giá trị

và ý nghĩa nhân bản. Chẳng hạn, các nghi lễ Then, Mo, Tào, Pụt của người

Tày, Nùng được sản sinh trong các dịp cúng mừng sinh nhật, mừng thọ, cầu

yên giải hạn, trong các đám tang… Do đó, phục dựng phải gắn với chính môi

trường nó xuất hiện thì mới phản ánh được hết ý nghĩa thực của nó.

Các điệu múa, điệu hát cũng xuất hiện trong những môi trường cụ thể

và chỉ có trong môi trường đó, nó mới thể hiện được hết ý nghĩa của mình.

Chẳng hạn hát quan làng (cỏ lẩu) của người Tày là dạng hát đối đáp trong

đám cưới, hát then trong chúc tụng, trong cấp sắc, trong cầu mùa đều có nội

dung riêng. Do đó, phục dựng lại các điệu múa, điệu hát một cách cơ học

trong các lễ hội, làng VH như hiện tại cũng làm mất mát một phần nhất định

cái hay, cái đẹp của di sản.

Nhiều địa phương chưa biết cách tuyên truyền, giáo dục để đồng bào nhận thức được hết cái hay, cái đẹp trong BSVH của DT mình để từ đó có ý thức giữ gìn và phát huy trong cuộc sống. Sự tuyên truyền, giáo dục được thực hiện qua loa, cho xong việc, chưa có trọng tâm, trọng điểm, chưa thực sự lấy đồng bào với BSVH độc đáo làm đối tượng trực tiếp để tuyên truyền, giáo dục. Do đó, bản thân đồng bào vẫn còn thờ ơ trước sự mai một dần của nhiều giá trị VH truyền thống của DT mình.

Các cơ quan VH, các cấp chính quyền, có nơi thì làm thay đồng bào trong việc giữ gìn và phát huy BSVH của họ, có nơi thì áp đặt những cách

119

thức cho đồng bào thực hiện, chưa đưa họ vào vị thế chủ thể trực tiếp trong việc giữ gìn và phát huy. Chính tình trạng “áp đặt”, làm thay, “quốc dân hóa” các hoạt động VH truyền thống đã làm lu mờ vai trò chủ thể của VH truyền thống, thậm chí làm cho đồng bào các DTTS bất bình, quay lưng với những gì được cho là BSVH của DT mình. Vì thế, đồng bào ở nhiều nơi còn xa lạ với chính BSVH của DT mình.

Việc giữ gìn và phát huy BSVH các DT thông qua phát huy vai trò của các nghệ nhân, khuyến khích họ truyền dạy, lan tỏa những giá trị VH truyền thống giàu bản sắc cho cộng đồng, cho các thế hệ là một mắt khâu quan trọng, song hiện tại các cơ quan, chính quyền địa phương chưa có chính sách bồi dưỡng và khuyến khích thỏa đáng, cho nên một bộ phận các nghệ nhân chưa thiết tha, tâm huyết với công việc truyền dạy. Đặc biệt, đối với các thầy cúng, do tâm lí tự ti khi một bộ phận cán bộ chuyên môn chưa khéo léo trong tuyên truyền, giáo dục quy họ về đội ngũ những người hoạt động mê tín dị đoan nên họ dần bỏ nghề, cùng theo đó là những kiến thức về các quy trình trong phong tục tập quán, tín ngưỡng tôn giáo, lễ hội… cũng bị mai một theo.

Sự lồng ghép nội dung giáo dục, tuyên truyền về BSVH của đồng bào các DTTS vào các chương trình chính khóa và ngoại khóa ở các nhà trường chưa thực sự phát huy tốt và hiệu quả đạt được chưa cao. Các hoạt động đó diễn ra chủ yếu về mặt hình thức, chưa thực sự khơi dạy được ở các em học sinh ý thức tìm hiểu về VH của DT mình cũng như ý thức giữ gìn, phát huy BSVH đó trong cộng đồng. Các thầy cô chưa thực sự tâm huyết với nhiệm vụ này, do đó chưa có những cách giáo dục, tuyên truyền một cách thuyết phục khiến cho hoạt động giữ gìn, phát huy BSVH của đồng bào các DTTS diễn ra trong các nhà trường chưa đạt hiệu quả.

Bản thân đồng bào các DTTS vùng Đông Bắc, do điều kiện kinh tế còn khó khăn, họ phải tranh thủ vận dụng những điều mới mẻ do quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển kinh tế thị trường đem đến để tập trung phát triển kinh tế nên cũng lãng quên việc thực hành cũng như trao truyền các giá trị VH truyền thống cho các thế hệ trong gia đình cũng như dòng họ, bản làng. Một số nơi đồng bào vẫn duy trì, gìn giữ và phát huy bằng cách thực hành trong cuộc sống cũng như truyền dạy trong gia đình, trong các câu lạc

120

bộ nhưng không được thường xuyên, liên tục nên sự tiếp nhận của giới trẻ mờ nhạt, trong khi các yếu tố VH mới đầy hấp dẫn xuất hiện do quá trình toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế mang lại diễn ra một cách mạnh mẽ làm cho giới trẻ bị cuốn theo, lấn át những yếu tố truyền thống.

Như vậy, những cách thức mà chính quyền địa phương, cơ quan chức

năng, và bản thân đồng bào đang thực hiện nhằm nỗ lực giữ gìn và phát huy

BSVH của các DTTS vẫn còn nhiều hạn chế, bất cập do đó hiệu quả đạt được

chưa cao. BSVH của đồng bào các DTTS vẫn đang đứng trước nguy cơ mai

một, biến dạng, nhiều giá trị VH truyền thống đã bị lùi về quá khứ nhường

chỗ cho các yếu tố VH mới thâm nhập, làm lai tạp trong cách sống, cách nghĩ

của đồng bào.

3.3.2. Một số vấn đề đặt ra 3.3.2.1.Khoảng cách giữa lý luận và thực tiễn trong việc giữ gìn, phát

huy bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số vùng Đông Bắc

Trong đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước luôn thể hiện chủ trương phát triển VH vùng đồng bào các DTTS, trong đó có nhiệm vụ giữ gìn, phát huy BSVH các DTTS, để BSVH thực sự trở thành điểm tựa, sức mạnh nội sinh để các DTTS vươn lên trong quá trình phát triển, hội nhập. Trong các chương trình mục tiêu quốc gia về VH, trong các đề án bảo tồn, phát huy di sản VH vật thể, phi vật thể của các DTTS, luôn đề ra mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp để thực hiện. Tuy nhiên, khi thực tiễn giải quyết lại gặp nhiều vướng mắc, không đạt được hiệu quả như mong muốn, chưa tương xứng với sự phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào các DTTS. Cụ thể, nhiều cấp ban ngành từ trung ương đến địa phương đã triển khai thực hiện các chương trình về VH vùng đồng bào các DTTS một cách cứng nhắc, thiếu linh hoạt, không bám sát vào tình hình cụ thể của từng vùng. Việc tổ chức thực hiện còn thiếu tập trung, chưa đồng bộ, không kiên quyết, dẫn đến thực trạng nhiều vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn vẫn tồn tại nhiều hủ tục, tập quán lạc hậu, hiện tượng mê tín, dị đoan có chiều hướng phát triển ảnh hưởng đến đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào, trong khi những năm 50 của thế kỷ XX, Đảng đã có chủ trương vận động bà con xóa bỏ các tập tục lạc hậu ở vùng đồng bào các DTTS.

121

Chủ trương giữ gìn và phát huy BSVH các DTTS được quán triệt trong các nghị quyết, chỉ thị và được cụ thể hóa bằng những kế hoạch, chương trình do Bộ VH thể thao và du lịch, Sở VH các tỉnh tổ chức thực hiện như: tổ chức các ngày hội VH các DTTS cấp vùng, cấp tỉnh, cấp huyện; tổ chức hội thảo chuyên đề bảo tồn và phát huy di sản VH vật thể, phi vật thể của đồng bào DTTS; tổ chức nghiên cứu, sưu tầm, phục dựng các giá trị VH truyền thống. Tuy nhiên, kết quả đạt được chưa cao, đối tượng tham dự trong ngày hội VH các DTTS cũng chỉ tập trung chủ yếu là các nghệ nhân, các đội văn nghệ quần chúng tại các địa phương. Các hội thảo thì chủ yếu là các nhà khoa học, các nhà quản lý trong lĩnh vực VH. Nghiên cứu, sưu tầm, phục dựng cũng chỉ đảm bảo giữ gìn ở trạng thái “tĩnh”, chưa vận dụng để phát huy thực sự trong đời sống của đồng bào. Do đó, nhiều giá trị VH đậm đà BSDT vẫn bị biến mất, mai một, mất bản sắc, biến dạng trước những tác động của nền kinh tế thị trường, xu thế toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế.

Chủ trương giữ gìn, phát huy BSVH các DTTS thông qua nhiều mô hình kinh tế du lịch do các tỉnh, các địa phương thực hiện như “mô hình làng VH du lịch, làng VH cộng đồng, các tua du lịch qua các vùng di sản Việt Bắc…” nhưng hiệu quả đạt được từ mô hình này chưa cao. Nhiều giá trị truyền thống cũng chỉ được giữ gìn nhằm mục đích phát triển du lịch, chứ chưa được thực hiện xuất phát từ nhu cầu nâng cao đời sống tinh thần của đồng bào, do đó, để phục vụ thị hiếu khách du lịch, những giá trị VH này đã bị pha tạp, cải biến. Đồng bào chưa biết khai thác những giá trị VH truyền thống giàu bản sắc để phục vụ du lịch như tổ chức bán các sản phẩm đặc trưng của vùng trong các buổi chợ phiên, các khu du lịch. Hạn chế, kiểm soát các hàng hóa xuất xứ Trung Quốc đang được bán tràn lan ở khu du lịch. Đồng bào chú ý quá mức đến hiệu quả kinh tế từ du lịch mà chưa thực sự coi trọng đến hiệu quả giữ gìn, phát huy BSVH các DTTS. Việc tổ chức các buổi triển lãm, trưng bày các giá trị VH vật thể tại các bảo tàng địa phương chưa thu hút được đông đảo quần chúng tham quan, mới chủ yếu là học sinh các cấp trên địa bàn thăm quan theo tổ chức tại nhà trường dưới hình thức đi trải nghiệm. Do đó, chưa đạt hiệu quả trong việc tuyên truyền những giá trị VH đậm đà bản sắc đến với mọi tầng lớp, mọi thành phần DT.

122

Như vậy, giữa lý luận và thực tiễn còn là một khoảng cách khá xa. Chủ trương, đường lối là đúng đắn nhưng quá trình thực hiện lại vấp phải những vướng mắc do những những nguyên nhân khách quan và chủ quan nên không đạt được kết quả hoàn hoàn như mục tiêu chủ trương đề ra. Do đó, cần thiết phải nghiên cứu, nắm chắc chủ trương, đường lối để từ đó vận dụng linh hoạt, sáng tạo có hiệu quả vào thực tiễn dể đạt được những hiệu quả tốt nhất.

3.3.2.2. Những bất cập giữa yêu cầu phát triển kinh tế với yêu cầu giữ

gìn và phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số vùng Đông Bắc.

Vùng Đông Bắc thuộc vùng trung du và miền núi phía Bắc, địa hình phức tạp, kinh tế còn nhiều khó khăn. Ngoại trừ thành phố, thị xã, thị trấn còn các vùng khác trong các tỉnh đều là vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn - nơi đồng bào các DTTS sinh sống là chủ yếu. Trong những năm gần đây, Nhà nước đã có nhiều chính sách ưu tiên phát triển kinh tế miền núi, vùng đồng bào các DTTS như chính sách hỗ trợ đất sản xuất, đất ở, nhà ở và nước sinh hoạt cho hộ đồng bào DTTS nghèo, đời sống khó khăn; chính sách hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội như cho vay vốn để phát triển sản xuất; dạy nghề đối với học sinh DTTS nội trú… chính sách hỗ trợ di dân thực hiện định canh, định cư cho đồng bào các DTTS … , chính sách ưu tiên phát triển kinh tế vùng đồng bào các DTTS số sinh sống, trong đó có vùng Đông Bắc, nhằm mục đích cải thiện đời sống vật chất cho đồng bào, giảm tỷ lệ nghèo, đưa vùng Đông Bắc hòa chung vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa của đất nước.

Với chủ trương, chính sách phát triển kinh tế là chủ yếu, trọng tâm, chính sách phát triển VH các DTTS vùng Đông Bắc ít được chú ý và đề cập đến, đã tạo ra một sự chênh lệch khá lớn trong yêu cầu phát triển kinh tế với yêu cầu phát triển VH, trong đó có giữ gìn và phát huy BSVH các DTTS.

Mặt khác, chính sự đặc biệt ưu tiên cho phát triển kinh tế, tập trung vào phát triển công nghiệp khai thác, chế biến khoáng sản, nông sản, lâm sản mà làm cho đồng bào các DTTS bị cuốn hút mạnh vào yêu cầu phát triển kinh tế, phát triển nền sản xuất hàng hóa. Sự tập trung vào phát triển kinh tế với nền sản xuất hàng hóa là chủ đạo đã làm cho bản thân đồng bào các DTTS thờ ơ, thiếu quan tâm, thậm trí quay lưng lại với các giá trị VH truyền thống, chỉ chăm lo đến đời sống vật chất mà không chú tâm đến đời sống tinh thần.

123

Đồng bào ít thực hành các giá trị VH truyền thống như tham gia lễ hội truyền thống, thực hành các loại hình VH tâm linh (các nghi thức thờ cúng trong gia đình, dòng họ, cộng đồng); ít tham gia vào các ngày hội VH các DTTS các cấp (quốc gia, khu vực, tỉnh, huyện); thiếu quan tâm đến việc giáo dục, trao truyền cho thế hệ sau các giá trị VH của DT mình. Chính điều đó đã làm cho VH truyền thống với những phong tục, tập quán tốt đẹp bị đứt quãng… Sự cân đối không hài hòa giữa yêu cầu phát triển kinh tế với yêu cầu phát triển VH đã làm giảm sức lan tỏa của các giá trị VH truyền thống đến mọi tầng lớp nhân dân. Môi trường VH (bản làng, rừng, chợ…) - nơi sản sinh, nuôi dưỡng các giá trị VH đã thay đổi theo hướng phục vụ cho phát triển kinh tế, làm mất đi vẻ đẹp nguyên sơ, nguyên thủy của nó. Nhiều bản làng đã bị quy hoạch ra chỗ mới để nhường chỗ cho các dự án quốc gia, những khu công nghiệp, những nhà máy; những cánh rừng bạt ngàn - nơi diễn ra các lễ hội đã bị chặt phá, khai thác thành đồi trọc; các chợ phiên không còn là nơi diễn ra các hoạt động VH đặc trưng, nơi bán các sản phẩm VH do chính bàn tay khéo léo của các chị em phụ nữ người DTTS làm ra, thay vào đó là các sản phẩm kém chất lượng, giá rẻ có xuất xứ từ Trung Quốc được bày bán tràn lan. Tất cả điều đó đều hướng tới mục tiêu phát triển kinh tế, tuy nhiên nó không bền vững vì sự phát triển không dựa trên nền tảng truyền thống. Do đó, cần thiết phải có giải pháp đồng thời hai mục tiêu, hai nhiệm vụ là vừa phát triển kinh tế, vừa phát triển VH. Nâng cao đời sống vật chất đồng thời cũng phải nâng cao đời sống tinh thần cho đồng bào các DTTS vùng Đông Bắc để nó thực sự trở thành nội lực cho sự phát triển bền vững.

3.3.3.3. Mâu thuẫn giữa hiện đại và truyền thống trong quá trình giữ

gìn, phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số vùng Đông Bắc

Xu thế toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế đã tác động mạnh mẽ và sâu rộng đến mọi vùng miền của đất nước ta, vùng Đông Bắc cũng nằm trong sự tác động nhanh và mạnh mẽ đó, bởi vị trí đặc biệt tiếp giáp với thủ đô - trung tâm kinh tế, VH, chính trị của cả nước và có đường biên giới kéo dài tiếp giáp với nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Trung Hoa (Cao Bằng, Lạng Sơn, Hà Giang). Bên cạnh sự giao lưu về kinh tế thì đó là sự giao lưu, tiếp xúc về VH. Nhiều yếu tố VH mới xuất hiện, thâm nhập tạo nên sự pha tạp trong VH của đồng bào các DTTS vùng Đông Bắc.

124

Bên cạnh nhu cầu bảo vệ, giữ gìn cái truyền thống là nhu cầu tiếp thu cái mới, cái hiện đại. Nếu như cố gìn giữ những vật dụng, những tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất truyền thống - kết quả của nền sản xuất thủ công thì sẽ không tiếp cận được những vật dụng, tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất hiện đại - kết quả của nền sản xuất công nghiệp phát triển. Những bộ trang phục truyền thống, những món ăn chế biến cầu kỳ với những loại gia vị tự nhiên sẽ không còn thuận lợi, nhanh gọn trong xã hội với nhịp điệu và tốc độ diễn ra nhanh, mạnh của nền kinh tế thị trường. Những nếp nhà sàn xinh xắn, nhà trình tường, nhà đất không còn đủ nguyên liệu để làm khi những loại gỗ càng ngày càng hiếm do nạn chặt phá rừng bừa bãi, trong khi các nguyên liệu hiện đại: Prô xi măng, sắt, thép, xi măng, tấm lợp ngày càng phổ biến với giá thành hợp lý. Ngôn ngữ phổ thông, ngoại ngữ đang là lợi thế trong giao dịch, trong việc làm, trong các thủ tục hành chính…; những bài hát nhạc rốc, nhạc rimix, nhạc nước ngoài đang trở nên hót, là sự lựa chọn có giới trẻ, thanh niên, sinh viên…; những phương pháp chữa bệnh mới dựa trên sự phát triển của khoa học công nghệ, của y học hiện đại đang được phổ biến trong các bệnh viện, các cơ sở y tế đang dần thay thế những phương pháp chữa bệnh bằng kinh nghiệm dân gian, gia truyền…; những lối tư duy nhạy bén, phong cách sống thoáng, thích hưởng thụ, sự cạnh tranh “mạnh được, yếu thua” trong nền kinh tế thị trường, sự chạy theo lợi ích vật chất mà chà đạp không thương tiếc nên những quan hệ thân thích (làng xóm, bạn bè, anh em, láng giềng) đang len lỏi vào đời sống vốn giản dị, hiền lành, chất phác, chịu thương, chịu khó, đoàn kết, đùm bọc lẫn nhau trong gia đình, dòng họ, bản làng…

Tất cả những yếu tố VH mới đó đang lan tỏa, xâm nhập vào trong đời sống của đồng bào các DTTS, nó va chạm với các yếu tố VH truyền thống tạo nên sự mâu thuẫn giữa yếu tố mới với yếu tố cũ, đan xen, đấu tranh và phủ định lẫn nhau. Nếu tiếp nhận hoàn toàn cái mới thì cái truyền thống sẽ bị đẩy lùi vào quá khứ. Nếu đóng của, khép mình, chối bỏ, phủ nhận cái hiện đại thì bản thân đồng bào các DTTS vùng Đông Bắc sẽ rơi vào lạc hậu, chậm phát triển. Do đó, bản thân đồng bào các DTTS cần phải được nâng cao trình độ nhận thức để biết kết hợp hài hòa giữa truyền thống và hiện đại trong việc giữ gìn, phát huy BSVH các DTTS vùng Đông Bắc, làm cho nền VH của đồng bào vừa tiên tiến, vừa đậm đà bản sắc DT.

125

Tiểu kết chương 3

Vùng Đông Bắc là nơi tập trung hơn 20 DTTS cùng chung sống, trong đó

phân bố rộng rãi, đan xen lẫn nhau giữa các vùng. Nếu như vùng thấp với địa hình

thung lũng, đồng bào DT Tày, Nùng chiếm số đông và VH của họ mang tính đặc

trưng của vùng thì vùng cao với địa hình trườn dốc, đồng bào H’Mông, Dao chiếm

số đông và VH của họ cũng mang đặc trưng của vùng cao. Các giá trị VH của đồng

bào các DTTS nơi đây vô cùng phong phú, độc đáo được hình thành và tồn tại, phát

triển cùng với sự hình thành, tồn tại và phát triển của tộc người, nó là yếu tố đóng

vai trò là nền tảng tinh thần, sức mạnh nội sinh để các DTTS phát triển bền vững

trong quá khứ, hiện tại và tương lai.

Nhận thức được vai trò đó, Đảng, Nhà nước cũng có những chủ trương,

đường lối, chính sách và được các ban ngành chuyên môn, chính quyền địa

phương cụ thể hóa thành các chương trình, kế hoạch cụ thể để giữ gìn, phát

huy BSVH của đồng bào các DTTS vùng Đông Bắc.

Trong những năm qua, được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước cùng với sự

nỗ lực của chính quyền địa phương và bản thân đồng bào các DTTS, nên công tác

giữ gìn, phát huy BSVH các DTTS vùng Đông Bắc đã đạt được những thành tựu

nhất định, góp phần bảo lưu, gìn giữ nhiều giá trị VH tốt đẹp, góp phần xây dựng

nền VH Việt Nam tiên tiến, đậm đà BSDT. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu

đạt được, công tác giữ gìn, phát huy cũng gặp phải những vướng mắc, những hạn

chế nhất định do những nguyên nhân khách quan (sự tác động tiêu cực của nền kinh

tế thị trường, của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, toàn cầu hóa và hội nhập

quốc tế) và nguyên nhân chủ quan (nhận thức chưa đầy đủ và hoạt động kém hiệu

quả của các cấp, ban ngành và chính quyền từ trung ương đến địa phương và bản

thân đồng bào các DTTS).

Trước thực trạng đó, các chủ thể giữ gìn, phát huy cần nhận thức được

những vấn đề đặt ra cần giải quyết để có những biện pháp hữu hiệu nhằm

nâng cao hiệu quả của công tác giữ gìn, phát huy BSVH các DTTS Đông Bắc.

126

Chương 4

MỘT SỐ QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ GIỮ

GÌN VÀ PHÁT HUY BẢN SẮC VĂN HÓA CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ

VÙNG ĐÔNG BẮC VIỆT NAM

4.1. Một số quan điểm nâng cao hiệu quả giữ gìn và phát huy bản

sắc văn hóa các dân tộc thiểu số vùng Đông Bắc

4.1.1. Giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số theo nguyên

tắc thống nhất trong đa dạng và tiên tiến hóa nền văn hóa Việt Nam

Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc (54 DT). Do đó, nền VH Việt

Nam là nền VH thống nhất của 54 DT anh em, mỗi một DT đều có những nét

VH riêng biệt của mình, đều góp những mảng màu rực rỡ trong bức tranh VH

Việt Nam đa sắc màu. Vì thế, BSVHDT Việt Nam là sự hòa hợp biện chứng

BSVH của các DT, giữa chúng có sự ảnh hưởng, tác động qua lại lẫn nhau, bổ

sung cho nhau, làm phong phú nền VH Việt Nam thống nhất và củng cố sự

thống nhất quốc gia - DT.

Nghị quyết của hội nghị lần thứ V của Ban Chấp hành trung ương

Đảng chỉ rõ: “Hơn 50 DT sống trên đất nước ta đều có những giá trị và sắc

thái VH riêng. Các giá trị và sắc thái đó bổ sung cho nhau làm phong phú

thêm nền VH Việt Nam, củng cố sự thống nhất DT là cơ sở để giữ vững sự

bình đẳng và phát huy tính đa dạng VH của các DT anh em”[29;57].

Do đó, để giữ gìn và phát huy BSVH các DTTS vùng Đông Bắc trước

hết chúng ta cần quán triệt sâu sắc mối quan hệ biện chứng giữa những giá trị

VH chung - cơ sở của sự thống nhất VH với những sắc thái VH riêng độc đáo

biểu hiện của sự đa dạng trong gia tài VH của các DTTS vùng Đông Bắc.

Nghĩa là phát huy được sự đa dạng trong khi vẫn đảm bảo được sự thống

nhất, không chỉ chăm chút quá khứ và các truyền thống địa phương mà cần

nhận rõ và đánh thức tiềm năng bí ẩn, quý giá trong sắc thái VH của các DT

để cùng hướng tới những giá trị, những tiêu chí chung có lợi cho sự tiến bộ.

Những giá trị chung có lợi cho sự tiến bộ ấy chính là “lòng yêu nước nồng

nàn, ý chí tự cường DT, tinh thần đoàn kết, tính cộng đồng gắn kết cá nhân -

gia đình - làng nước; lòng nhân ái bao dung, trọng nghĩa tình đạo lý; đầu óc

127

thực tế; đức tính cần cù sáng tạo trong lao động; tế nhị trong cư xử, giản dị

trong lối sống”[29;23]. Những giá trị chung này được biểu hiện cụ thể hóa

khác nhau ở những DT khác nhau. Vì thế, sẽ có những cách thức biểu hiện

khác nhau của cùng một giá trị nên cần tránh tư tưởng miệt thị, DT hẹp hòi,

cực đoan, coi cách thức biểu hiện của DT có dân số chiếm số đông trong

vùng, trong cả nước là giá trị chung áp đặt các DT khác có số dân ít hơn, tình

hình kinh tế - xã hội kém hơn phải lệ thuộc. Càng tránh tư tưởng tự ti DT,

không dám khẳng định bản sắc riêng của DT mình. Nếu như vậy sẽ làm

nghèo nàn cái riêng, sớm muộn cái riêng sẽ bị đồng hóa và biến mất.

Sự đa dạng trong cái riêng của VH các DT được thể hiện trong VH vật

thể (nhà ở, trang phục, ẩm thực, công cụ lao động, sản xuất, sinh hoạt…) và

VH phi vật thể (ngôn ngữ, phong tục tập quán, tín ngưỡng tôn giáo, lễ hội,

nghệ thuật, tri thức dân gian…). Tất cả những cái riêng đó là do hoàn cảnh,

điều kiện và trình độ canh tác, đời sống kinh tế - xã hội của các DT phát triển

không đồng đều. Vì vậy, nền VH của các DT đều mang những sắc thái riêng

biệt. Lấy ví dụ về kiến trúc nhà ở, cùng sinh sống ở vùng Đông Bắc, nhưng

mỗi một DT có một kiểu kiến trúc nhà ở riêng: Người H’Mông với kiến trúc

nhà trình tường, người Tày, Nùng với kiến trúc nhà sàn, người Dao với kiến

trúc nhà đất… Về trang phục, chúng ta thấy thị hiếu thẩm mỹ riêng về màu

sắc, hình dáng, họa tiết hoa văn… của mỗi DT, nếu như người H’Mông và

người Dao với những bộ trang phục rực rỡ kèm theo nhiều họa tiết hoa văn thì

người Tày và người Nùng giản dị với những bộ trang phục màu chàm, ít họa

tiết. Cái riêng của nghệ thuật của từng DT được thể hiện từ văn vần đến văn

xuôi, từ thêu đan đến vẽ, nhiều màu sắc, bố cục hình khối trong hội họa, điêu

khắc, từ các điệu múa, bài hát đến các loại nhạc khí như đàn tính, khèn,….

Cái riêng phong phú, đa dạng của nền VH các DTTS đã được thống nhất bởi

cái chung của nền VH Việt Nam. Do đó, luôn phải quán triệt quan điểm giữ gìn và

phát huy cái riêng luôn phải dựa trên nguyên tắc thống nhất trong đa dạng. Ngoài

ra, còn phải đảm bảo nguyên tắc tiên tiến hóa nền VH Việt Nam.

Tiên tiến hóa nền VH Việt Nam là đảm bảo nền VH Việt Nam không

rơi vào trì trệ, lạc hậu, kìm hãm sự phát triển. Tuy nhiên, ở đây cần nhận thức

128

đầy đủ và đúng đắn rằng không phải tiên tiến là chỉ các giá trị chỉ có trong

tương lai, mà nó có cả ngay trong bản thân truyền thống. Truyền thống mang

trong mình sự thống nhất giữa hai yếu tố lạc hậu và tiên tiến.

Ngay trong truyền thống VH của các DTTS vùng Đông Bắc cũng có

những yếu tố đã trở nên lạc hậu, lỗi thời, không phù hợp và có cả những yếu

tố có giá trị tích cực trong xã hội hiện đại thì nó là tiên tiến. Do đó, cần nhìn

nhận theo quan điểm biện chứng, tránh quan điểm siêu hình để lọc bỏ những

yếu tố cũ đã trở nên lạc hậu, kìm hãm sự phát triển, thúc đẩy, cải tiến những

giá trị cũ có tác dụng tích cực theo hướng cấu trúc lại, bổ sung nội dung mới

cho thích hợp với xã hội mới.

Đồng thời, trong quá trình tiếp xúc, giao thoa với các nền VH khác cần

chủ động, tích cực tiếp thu những giá trị VH mới, cải biến nó phù hợp với VH

DT để tạo nên một nền VH Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc DT. Một nền

VH không tiếp thu tinh hoa VH của DT khác, của nhân loại để làm mới mình

thì một nền VH đó luôn nghèo nàn, trì trệ, chậm phát triển và nó sẽ kéo theo

sự chậm phát triển trong lĩnh vực kinh tế - xã hội của DT.

Do đó, BSVHDT không phải chỉ là những giá trị truyền thống được

truyền từ đời này sang đời khác mà qua thời gian, nó được lọc bỏ, cải biến vừa

được tiếp thu những giá trị mới phù hợp với đời sống VH của DT. Ví dụ, ngôi

nhà sàn truyền thống của các DT Tày, Nùng biểu hiện giá trị lịch sử, giá trị nghệ

thuật của đồng bào cần được tiếp tục duy trì trong xã hội hiện đại nhưng cũng

cần cải biến, thay đổi để phù hợp hơn với xã hội hiện đại như cần thoát ly

chuồng gia súc dưới gầm sàn ra phạm vi riêng cách xa nơi ở để không gây ô

nhiễm môi trường, ảnh hưởng đến sức khỏe của đồng bào DT. Cần thiết kê lại

cách bố trí mặt bằng trong sinh hoạt theo hướng bình đẳng, hài hòa thống nhất

không có sự phân biệt, phân chia ranh giới theo hướng bất bình đẳng như kiểu

thiết kế hai cầu thang, hai bếp lửa trong ngôi nhà sàn của người Tày. Một cầu

thang và một bếp lửa chỉ dành cho đàn ông và khách trong gia đình, phụ nữ

không được bén mảng đến, chỉ được sử dụng cầu thang và bếp lửa được thiết kế

dành riêng cho phụ nữ trong gia đình. Hay trong tập quán của người Nùng vùng

Đông Bắc, con dâu không được ngồi chung mâm cơm với bố chồng… những

129

thứ truyền thống đã trở nên lạc hậu, có ảnh hưởng đến đời sống của đồng bào thì

cần được xóa bỏ, thay đổi, có truyền thống không ảnh hưởng xấu đến đời sống

của đồng bào mà cũng không có tác dụng thúc đẩy sự phát triển (yếu tố trung

tính), nhưng nó hàm chứa những thông tin liên quan đến lịch sử tộc người thì

nên được duy trì, phát huy để giáo dục cho thế hệ sau nguồn gốc lịch sử tộc

người. Còn những truyền thống có vai trò tích cực kích thích sự phát triển, động

lực của sự phát triển (thể hiện sự tiên tiến) thì nên khuyến khích duy trì, phát

huy, tạo điều kiện, môi trường để nó tồn tại và phát triển hoặc cấu trúc lại, cải

biên, bổ sung và phát triển mới. Có như vậy, mới góp phần tiên tiến hóa nền VH

Việt Nam. Nếu chỉ chú tâm đến giữ gìn quá khứ một cách nguyên vẹn mà không

lọc bỏ, cải tiến thì Việt Nam sẽ trở thành bảo tàng của quá khứ.

4.1.2. Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số gắn với

nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào

Chủ trương giữ gìn BSVH các DTTS không phải là để các giá trị đó không

mất đi mà phải phát huy nó trong đời sống để đạt được những mục tiêu, cụ thể mục

tiêu ở đây là đời sống vật chất và đời sống tinh thần được nâng cao.

Giữ gìn và phát huy BSVH các DTTS là giữ gìn, phát huy nền tảng tinh

thần của đồng bào các DTTS trong quá trình phát triển. Đó chính là quá trình

khơi dậy, phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp như lòng yêu quê

hương, đất nước, đức tính cần cù, sáng tạo trong lao động, sản xuất, chịu

thương, chịu khó vượt qua mọi điều kiện khắc nghiệt về địa hình, khí hậu để

tiếp tục sinh tồn và phát triển; tinh thần đoàn kết cộng đồng, dòng họ, thôn

bản, làng xã… Những giá trị này được khơi dậy, phát huy sẽ tạo nên một sức

mạnh to lớn để đồng bào các DTTS vùng Đông Bắc phát triển vươn lên theo

kịp sự phát triển chung của đất nước. Những yếu tố đó được khơi dậy, phát

huy và có ý nghĩa khi nó tham gia vào cải thiện và nâng cao đời sống vật chất

như xóa đói, giảm nghèo, tăng trưởng kinh tế, nâng cao thu nhập, giải quyết

việc làm, nâng cao chất lượng cuộc sống. Đồng thời với việc đời sống vật

chất được cải thiện, thì đời sống tinh thần cũng được nâng cao. Đồng bào các

DTTS có điều kiện hơn để tham gia các hoạt động tinh thần như tham gia lễ

hội, tham gia vào sáng tạo và hưởng thụ các giá trị tinh thần.

130

Như vậy, giữ gìn và phát huy BSVH gắn với nâng cao đời sống vật chất

và tinh thần của đồng bào các DTTS vùng Đông Bắc là hai nhiệm vụ, hai mục

tiêu gắn kết, bổ trợ lẫn nhau để tạo nên sự phát triển bền vững. Giữ gìn và

phát huy BSVH các DTTS là điều kiện, là nguồn vốn cho sự phát triển kinh tế

nhằm nâng cao đời sống vật chất, đời sống tinh thần cho đồng bào. Nguồn

vốn này tồn tại dưới hai dạng: dạng tiềm ẩn tồn tại thông qua con người - chủ

thể của quá trình phát triển kinh tế với đầy đủ đức tính yêu nước, cần cù,

thông minh, sáng tạo, chịu thương, chịu khó, đoàn kết, ý chí vươn lên… và

dạng hiện hữu thông qua các giá trị VH vật thể (nhà ở, trang phục, ẩm thực)

và giá trị VH phi vật thể (ngôn ngữ, phong tục tập quán, lễ hội, kho tàng VH

nghệ thuật, tri thức bản địa…) - đối tượng khám phá, tìm hiểu của khách du

lịch. Nếu biết cách khai thác tốt dạng hiện hữu này để phát triển ngành du lịch

(du lịch VH) thì sẽ đem lại hiệu quả kinh tế cao khi mà hiện nay xu hướng tìm

về BSVH các DTTS đang được các du khách quan tâm.

Trong những năm gần đây, để nâng cao đời sống vật chất - tinh thần

cho đồng bào các DTTS, Đảng và Nhà nước đã có những chính sách, chương

trình thực hiện nhằm tăng cường phát triển kinh tế ở các địa phương ở vùng

đồng bào các DTTS như: Quyết định 134/2004/QĐ - TTg của Thủ tướng

chính phủ về một số chính sách hỗ trợ đất sản xuất, đất nhà ở và nước sinh

hoạt cho đồng bào DTTS nghèo, đời sống khó khăn; chương trình 135 giai

đoạn II; Quyết định 32/QĐ-TTg về chính sách cho vay vốn và phát triển sản

xuất… và một số chương trình, dự án khác.

Thực hiện những chính sách trên, các tỉnh vùng Đông Bắc đã xác định đặt sự

phát triển của tỉnh trong chiến lược phát triển chung của cả nước và vùng trung du

và miền núi phía Bắc. Mở rộng quan hệ hợp tác với bên ngoài trên tất cả các lĩnh

vực: kinh tế, VH, giáo dục, y tế… đồng thời chủ động hội nhập quốc tế, dựa vào hội

nhập để phát triển. Tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển VH xã hội, đảm bảo

cho mọi người dân có cơ hội tham gia vào công việc chung và hưởng thụ các thành

quả của sự phát triển, giảm khoảng cách chênh lệch về mức sống giữa các tầng lớp

dân cư và giữa các vùng trong tỉnh, thực hiện chính sách xóa đói giảm nghèo, nâng

cao mức sống, mức hưởng thụ các giá trị vật chất và tinh thần. Khi đời sống vật

131

chất và tinh thần được nâng cao thì cũng là điều kiện để giữ gìn, phát huy BSVH

các DTTS được tốt hơn.

4.1.3. Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số bằng

việc phát huy vai trò chủ thể của đồng bào dân tộc thiểu số

Thực tế cho thấy, sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước

thông qua chủ trương, chính sách, pháp luật chỉ thực sự phát huy khi nhận

được sự đồng thuận và tham gia tích cực của đồng bào các DTTS. Do đó, để

phát huy tốt vai trò chủ thể của đồng bào các DTTS trong việc giữ gìn và phát

huy BSVH của DT mình, cần chú ý:

Trong quá trình cụ thể hóa chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng,

Nhà nước thông qua các chương trình, dự án, phải chú ý đến điều kiện kinh tế

- xã hội và sự đa dạng của từng vùng, từng DT; chú trọng tính đặc thù của

từng DT để có những hình thức, bước đi và giải pháp hiệu quả, phù hợp với

thực tiễn địa phương nhằm phát huy vai trò chủ động, tích cực, làm chủ của

đồng bào các DTTS.

Các cơ quan chức năng, chính quyền địa phương cần có những biện

pháp cụ thể để tuyên truyền, giáo dục cho đồng bào nhận thức được tầm quan

trọng của việc giữ gìn, phát huy BSVHDT và vai trò chủ thể chính thuộc về

đồng bào các DTTS, bởi họ chính là chủ nhân của nền VH do họ cùng cộng

đồng sáng tạo ra đồng thời họ chính là chủ thể duy trì, thực hành và hưởng

thụ các giá trị VH giàu bản sắc đó. Cần giúp họ nhận ra vấn đề BSVH của họ

được duy trì, gìn giữ, phát huy trong cuộc sống và được trao truyền qua các

thế hệ là phụ thuộc chính vào sự tham gia tích cực của bản thân đồng bào,

không nên có thái độ và tâm lý dựa dẫm, ỷ lại, trông chờ vào sự giúp đỡ của

nhà nước. Nhà nước chỉ tạo điều kiện giúp đỡ về cơ sở vật chất, tinh thần và

nguồn lực, kỹ thuật. Mọi sự giúp đỡ đó chỉ phát huy tác dụng khi được đồng

bào chủ động tiếp nhận và biến thành những hành động cụ thể.

Sở dĩ cần nhấn mạnh điều này bởi những năm qua, để thực hiện các

chương trình phát triển VH, mọi cái (để thực hiện chương trình đó) từ ngân

sách, cán bộ thực hiện đến việc xây dựng thiết chế VH cho đồng bào các

DTTS đều là của nhà nước, từ phía nhà nước. Do đó, cái VH mà chúng ta

132

đang làm cho đồng bào các DTTS thường mang “dấu ấn nhà nước”, điều đó

tạo nên tính ỷ lại của các tộc người vào nhà nước, nếu nhà nước không quan

tâm đầu tư thì họ mặc kệ. Mặt khác, các chương trình, dự án được thực thi

thường không có sự tham gia của chính đồng bào các DTTS nên nó tạo ra một

tâm lý thờ ơ với những gì họ đang được nhận. Do đó, cần thiết phải coi việc

giữ gìn và phát huy BSVH của đồng bào các DTTS là hoạt động tự thân của

đồng bào, đồng bào là chủ thể thực hiện và hưởng thụ các giá trị VH, dưới sự

định hướng của nhà nước.

Để phát huy tốt vai trò chủ thể của đồng bào các DTTS trong việc giữ

gìn và phát huy BSVH của DT mình, các cơ quan chức năng, chính quyền địa

phương cần có những chính sách tạo điều kiện để đồng bào nâng cao trình độ

dân trí, tăng cường sự hiểu biết. Chỉ khi trình độ dân trí được nâng cao, nhận

thức về chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước mới được sáng

tỏ, đồng bào mới vận dụng được một cách linh hoạt vào trong cuộc sống.

Đồng thời, trên cơ sở của sự hiểu biết, đồng bào mới nhận thức được mặt nào

là tích cực, là giá trị để tiếp tục có những hành động giữ gìn, duy trì và tiếp

tục phát huy nó trong cuộc sống; loại bỏ dần những hủ tục, tập quán lạc hậu,

những mặt tiêu cực, không còn phù hợp với xã hội mới, đề kháng được những

yếu tố VH ngoại lai đang tác động, len lỏi, xâm nhập vào đời sống của đồng

bào - những yếu tố không phù hợp với thuần phong, mỹ tục của đồng bào, với

giá trị tốt đẹp của DT.

Thực tế, trong thời gian qua, để nâng cao trình độ dân trí cho đồng bào,

Chính phủ đã ban hành nhiều chính sách như: miễn giảm học phí, cấp không

giấy viết, sách giáo khoa, thực hiện chính sách cử tuyển, ưu tiên điểm cho con

em đồng bào các DTTS, miền núi khi thi vào các trường Đại học, chuyên

nghiệp… Vì vậy, sự nghiệp giáo dục đồng bào các DTTS vùng Đông Bắc đã

có những tiến bộ vượt bậc. Giáo dục mầm non đã phát triển sâu rộng từ các

thị xã, thị trấn đến các vùng nông thôn. Tại các thôn bản đều có trường hoặc

các lớp cấp I. Nhiều xã, cụm xã có trường tiểu học và trung học cơ sở. Tất cả

các huyện đều có trường trung học phổ thông. Hệ thống các trường DT nội trú

từ Trung ương đến địa phương đã tạo điều kiện cho con em đồng bào các

133

DTTS vùng sâu, vùng xa có nhiều cơ hội học tập. Đến năm 2010, toàn vùng

Đông Bắc có 1744 trường phổ thông với 560.974 học sinh [144; 647-651].

Cùng với hệ thống các trường công lập, được sự đầu tư của trung ương và địa

phương, mạng lưới các trường DT nội trú bao gồm 4 trường DT nội trú cấp

tỉnh và các trường DT nội trú cấp huyện. Ngoài ra, trường phổ thông Vùng

cao Việt Bắc là trường DT nội trú duy nhất của cả nước có 3 hệ đào tạo (trung

học Phổ thông, Dự bị đại học DT và Trung học cơ sở) với quy mô trên 1800

em/năm thuộc 21 tỉnh với 29 DT trên tổng số 53 DTTS cả nước.

Cùng với kết quả đạt được, trong quá trình phát triển giáo dục tại vùng

Đông Bắc vẫn bộc lộ một số hạn chế: năm 2010, tất cả các tỉnh đạt chuẩn giáo

dục phổ cập trung học cơ sở, tuy nhiên kết quả đạt được chưa thực sự vững

chắc. Chương trình phổ cập giáo dục tiểu học đã hoàn thành cách đây 10 năm

nhưng đến năm 2010 các tỉnh Hà Giang, Cao Bằng mới đạt phổ cập giáo dục

tiểu học nói chung, chưa đạt chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi.

Điều kiện dạy và học ở bậc mầm non và phổ thông các cấp còn thiếu thốn.

Đây chính là nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng bỏ học của học sinh phổ

thông trong những năm qua tuy có giảm nhưng vẫn chiếm tỷ lệ khá cao.

Thống kê cho thấy, năm 2011 - 2012, 15 tỉnh miền núi phía Bắc có 9.790 học

sinh bỏ học, trong đó nhiều nhất là học sinh trung học phổ thông có 6.795,

trung học sơ sở có 2.682 (một số tỉnh có học sinh bỏ học nhiều của vùng này

là: Bắc Kạn và Hà Giang). Lực lượng lao động có trình độ đại học, cao đẳng

của vùng thấp so với cả nước, chỉ chiếm 1,2% trong khi trung bình của cả

nước là 12%[140;106]. Đây cũng chính là một trong những nguyên nhân dẫn

đến trình độ dân trí của đồng bào các DTTS vùng Đông Bắc còn hạn chế, dẫn

đến chưa thực sự phát huy tốt vai trò chủ thể của đồng bào trong việc thực

hiện những chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước nói chung

và nhiệm vụ giữ gìn và phát huy BSVH các DTTS trong vùng nói riêng.

Do đó, trong thời gian tới, cần tiếp tục nhân rộng mô hình phát triển

giáo dục gắn với tình hình thực tế của địa phương để góp phần nâng cao trình

độ dân trí cho đồng bào các DTTS để đồng bào thực sự phát huy tốt vai trò

chủ thể của mình.

134

4.2. Những giải pháp chủ yếu nâng cao hiệu quả giữ gìn và phát

huy bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số vùng Đông Bắc

Trong quá trình phát triển VH vùng đồng bào các DTTS, Đảng, Nhà

nước và chính quyền địa phương cũng đã rất nỗ lực trong việc giữ gìn và phát

huy BSVH các DTTS thông qua các nhiệm vụ cụ thể. Bản thân đồng bào các

DTTS cũng đã nhận thức được tầm quan trọng của việc giữ gìn và phát huy

BSVH của DT mình và cũng đang nỗ lực tham gia vào nhiệm vụ đó. Tuy

nhiên, do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan mà hiệu quả đạt được

từ vấn đề này chưa cao. Do đó, cần thiết phải nhìn nhận vấn đề một cách

khách quan trên cơ sở những yếu tố đặc thù vùng miền để đưa ra những giải

phù hợp trên cơ sở quán triệt những quan điểm nhằm nâng cao hiệu quả giữ

gìn và phát huy BSVH các DTTS vùng Đông Bắc. Những giải pháp đó tập

trung vào chủ thể giữ gìn, phát huy đó là Đảng, Nhà nước, chính quyền địa

phương, các cơ quan, cán bộ chuyên môn và bản thân đồng bào các DTTS.

4.2.1. Nâng cao chất lượng và đa dạng hóa hình thức, nội dung giáo dục,

tuyên truyền về việc giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số

BSVH các DTTS nói chung và BSVH hóa các DTTS vùng Đông Bắc

nói riêng được ví như một rừng hoa ngập tràn sắc hương. Mỗi một loài hoa có

vẻ đẹp riêng, có hương thơm riêng tạo nên giá trị riêng - bản sắc riêng cho

mình. Bản sắc ấy có vai trò quan trọng, nền tảng vững chắc - điểm tựa tinh

thần cho mỗi DT tồn tại và phát triển trong quá khứ, hiện tại và tương lai. Tuy

nhiên, không phải trong mọi giai đoạn, cái hay, cái đẹp, cái giá trị trong

BSVH các DTTS đều được nhận thức đúng và việc giữ gìn, phát huy nó được

thực hiện tốt. Do đó, rất cần thiết phải có sự tuyên truyền sâu rộng đến toàn

xã hội về BSVH các DTTS và việc giữ gìn, phát huy nó trong thời đại hiện

nay - thời đại phát triển kinh tế thị trường, toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế.

Thông qua việc tuyên truyền, quán triệt trong các cấp ủy Đảng và chính

quyền cơ sở về vai trò, trách nhiệm đối với công tác giữ gìn và phát huy BSVH các

DTTS, trên cơ sở chủ trương, đường lối chung của Đảng, chính sách, pháp luật của

Nhà nước, các cấp ủy Đảng và chính quyền địa phương, các ngành chức năng cần

cụ thể hóa gắn với đặc điểm tình hình riêng của vùng miền, địa phương, cơ sở để có

135

những giải pháp phù hợp. Tránh sự cứng nhắc, khô cứng, thiếu linh hoạt mà ảnh

hưởng đến hiệu quả của công tác giữ gìn, phát huy.

Các cấp ban ngành, cơ quan chuyên môn tại địa phương cần đa dạng

hóa các hình thức tuyên truyền nhằm giáo dục cho đồng bào các DTTS hiểu

về BSVHDT mình. Bởi “vô tri bất mộ” - không thấu hiểu hết cái hay, cái đẹp

của BSVHDT mình thì không thể yêu mến, trân trọng, giữ gìn và quảng bá

cái hay, cái đẹp ấy ra được. Có thể nói, đây là giải pháp quan trọng nhất trong

số các giải pháp. Bởi lẽ, khi nói đến việc giữ gìn, phát huy BSVH các DTTS

thì chủ thể của nó không ai khác chính là con người có ý thức. Nếu không có

nhận thức đúng, không hiểu được giá trị độc đáo của BSVHDT mình thì sẽ

không có những hành động đúng và có thể xảy ra theo hai xu hướng cực

đoan, đó là coi VH truyền thống là lạc hậu, là cổ hủ, là mê tín dị đoan - là sản

phẩm của xã hội cũ nên chối bỏ, phủ nhận, đoạn tuyệt với nó, tiếp nhận cái

mới lạ trong quá trình giao lưu - hội nhập dẫn đến mất gốc, mất bản sắc. Xu

hướng thứ hai đó là coi trọng tất cả những gì trong VH truyền thống là tốt nên

khư khư bảo vệ, giữ gìn nguyên xi, kể cả nó lỗi thời, lạc hậu, cản trở, kìm

hãm sự phát triển. Do đó, rất cần sự tuyên truyền, giáo dục của các cấp ban

ngành, chính quyền địa phương, đặc biệt là đội ngũ cán bộ làm công tác VH ở

cơ sở qua nhiều hình thức đa dạng, phong phú.

Thứ nhất, thông qua phương tiện thông tin đại chúng: Trong thời đại

bùng nổ thông tin như hiện nay thì các phương tiện thông tin đại chúng có tác

động nhanh, mạnh đến việc truyền tải thông tin. Hệ thống thông tin này bao

gồm các phương tiện: phát thanh, truyền hình, internet, sách vở, báo chí…

Các phương tiện thông tin này có vai trò quan trọng trong việc cung cấp

những kiến thức cơ bản về tất cả các lĩnh vực từ kinh tế, chính trị, giáo dục, y

tế, VH, kể cả những chương trình giải trí đến với đồng bào các DTTS, nó

cũng là phương tiện kết nối các tỉnh, các vùng, các nước, các khu vực, các DT

lại với nhau. Điều đó góp phần gia tăng sự đoàn kết DT và nâng cao nhận

thức, sự hiểu biết của đồng bào về tất cả các lĩnh vực trong đó có vấn đề giữ gìn,

phát huy BSVH.

Trong các phương tiện thông tin trên, tuyên truyền qua đài phát thanh và

136

truyền hình tại các bản làng, thôn xóm là có hiệu quả mạnh nhất, vì nó trực tiếp và

gần gũi nhất với đồng bào. Do đó, cần chuẩn bị nội dung phù hợp, tăng tần suất và

thời lượng phát sóng, đặc biệt sử dụng ngôn ngữ DT trong quá trình tuyên truyền

vừa tăng hiệu quả của việc tuyên truyền, vừa trực tiếp giữ gìn ngôn ngữ trong chính

đời sống của cộng đồng. Các kênh truyền hình của địa phương thường xuyên phát

sóng những chương trình về ca ngợi những nét đẹp trong BSVH các DTTS ở địa

phương mình để từ đó hình thành cho đồng bào ý thức tự hào DT, tự hào với những

nét đẹp trong VH truyền thống của cha ông để lại và có ý thức giữ gìn, phát huy

trong đời sống hiện đại.

Các ấn phẩm báo chí của nhà nước và địa phương phát hành nên tăng

cường bổ sung hơn nữa những chuyên mục về giới thiệu và ca ngợi BSVH các

DTTS ở địa phương và lưu hành rộng rãi đến các vùng sâu, vùng xa, vùng đặc

biệt khó khăn để đồng bào nơi đây có cơ hội tiếp cận được những thông tin hữu

ích trong việc tìm hiểu về chính BSVH của DT mình, địa phương mình. Với hệ

thống internet và cáp quang mới chủ yếu phổ biến ở thành phố, thị xã, thị trấn và

các vùng nông thôn giáp ranh, còn các vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn

thì chưa được tiếp cận. Đây là một sự thiệt thòi trong việc tiếp cận những tri thức

mới trong lĩnh vực VH cũng như trong tất cả các lĩnh vực khác. Tuy nhiên, đối với

các vùng đã phổ biến thì nó cũng có tác động hai mặt: Một mặt, nó đem đến cơ

hội cho đồng bào được tiếp cận những giá trị VH mới của quốc tế, khu vực, quốc

gia và các DT khác trong cộng đồng các DT Việt Nam, từ đó, nâng cao khả năng

học hỏi, tiếp thu những giá trị chung của nhân loại để làm giàu có thêm BSVH của

DT mình. Mặt khác, chính điều đó cũng đặt đồng bào các DTTS vào tình thế khó

có thể duy trì được bản sắc khi các yếu tố ngoại lai được hỗ trợ bởi phương tiện

hiện đại đã tác động nhanh, mạnh vào giới trẻ, tầng lớp thanh niên, làm cho họ

thay đổi cách nghĩ, cách làm, cách cảm… dẫn đến lệch lạc trong suy nghĩ, hành

vi, phản nghịch với những giá trị truyền thống - cái làm nên bản sắc được tôn tạo,

duy trì, tiếp nối qua bao thế hệ. Do đó, cần phải tuyên truyền sâu rộng đến tầng

lớp này để họ nhận ra những giá trị tốt đẹp trong VH truyền thống của DT mình,

từ đó, họ tiếp nhận cái mới một cách chủ động, tích cực thông qua màng lọc là

BSVH của DT mình.

137

Thứ hai, thông qua hệ thống giáo dục quốc dân: Ngoài tuyên truyền

thông qua hệ thống thông tin đại chúng, các cấp ban ngành cần kết hợp với

việc truyên truyền thông qua hệ thống trường lớp với chủ thể tuyên truyền là

các thầy cô giáo và tổ chức đoàn thanh niên trong nhà trường. Nhà trường cần

bố trí trong chương trình học những tiết vừa đảm bảo kiến thức chung vừa

cung cấp thêm những kiến thức về BSVH các DTTS trên địa bàn. Các trường

học từ cấp mầm non cũng nên giáo dục, truyền dạy, những bài hát, bài múa,

của đồng bào các DTTS trong các chương trình văn nghệ của nhà trường và

các hội thi văn nghệ các cấp, qua đó, góp phần giáo dục cho các em ngay khi

còn nhỏ những giá trị VH đặc sắc trong kho tàng VH nghệ thuật của đồng bào

các DTTS. Các nhà trường, nhất là các trường ở thị trấn, thành phố nên

thường xuyên tổ chức các buổi ngoại khóa thăm quan bảo tàng tại các địa

phương, thăm quan, trải nghiệm trong các làng VH du lịch, làng VH cộng

đồng, để các em cảm nhận được những nét đẹp trong VH của đồng bào các

DTTS trong thực tế. Từ đó, hình thành trong các em lòng tự hào DT, ý thức

bảo bệ BSDT ngay từ khi còn nhỏ.

Tại các trường Đại học, Cao đẳng, Trung cấp chuyên nghiệp, đoàn thanh

niên và hội sinh viên ở các nhà trường này nên thành lập các câu lạc bộ của từng

DTTS, các câu lạc bộ này thường xuyên có những hoạt động trong việc giữ gìn,

khơi dậy, lan tỏa BSVH tộc người trong những hoạt động ngoại khóa.

Thứ ba, tuyên truyền thông qua các hoạt động VH ở địa phương: Một hình thức nữa cần được thực hiện để tuyên truyền mọi tầng lớp tham gia vào việc giữ gìn, phát huy BSVH các DTTS vùng Đông Bắc đó là, thông qua các hoạt động VH văn nghệ ở địa phương, các hội thi văn nghệ, các ngày hội VH các DTTS các cấp (toàn quốc, vùng, tỉnh, huyện), qua triển lãm ở bảo tàng địa phương… Ngày hội VH các DTTS ở các cấp chính là ngày đồng bào phô diễn những nét đẹp trong VH truyền thống của DT mình thông qua những bộ trang phục lộng lẫy, những điệu múa, bài hát truyền thống say đắm lòng người, tái diễn lại những phong tục tập quán đậm đà giá trị nhân văn, mang đậm bản sắc tộc người. Từ đó, đồng bào các DTTS tự hào hơn về BSVH của DT mình. Họ sẽ có ý thức gìn giữ và phát huy nó tốt hơn trong đời sống và trao truyền qua các thế hệ.

138

Vì vậy, chính quyền địa phương, các ban ngành chức năng (Sở VH, phòng VH cần phối hợp với đồng bào DTTS thường xuyên, đều đặn tổ chức ngày hội VH các DTTS các cấp để duy trì truyền thống trong xã hội hiện đại và tạo điều kiện để nâng cao đời sống tinh thần, nâng cao mức sáng tạo và hưởng thụ các giá trị VH do chính đồng bào sáng tạo nên.

Tuy nhiên, quá trình tổ chức cũng cần có sự chuẩn bị chu đáo, chặt chẽ từ khâu tổ chức cho đến nội dung chương trình thể hiện, tránh sự hời hợt, tổ chức cho xong lần, như vậy sẽ không những không duy trì và phát huy, lan tỏa được những giá trị VH truyền thống mang đậm bản sắc của đồng bào các DTTS mà còn thất vọng, tạo tâm lý chán nản của đội biểu diễn văn nghệ, các nghệ nhân và khán giả theo dõi. Khiến cho họ không nhiệt tình tham gia biểu diễn hoặc có cũng chỉ là xuất phát từ tâm lý tham gia cho xong lần, không truyền được cảm hứng đến cho khán giả để họ hiểu, yêu mến về những giá trị trong kho tàng VH các DTTS. Nội dung chương trình cần được đa dạng hóa, hình thức tổ chức cần có sự đổi mới qua mỗi lần tổ chức để thu hút sự đông đảo đồng bào tham gia, tạo tâm lý nuối tiếc qua mỗi lần kết thúc ngày hội để họ hồ hởi, phấn khởi chờ đợi những ngày hội của các năm tiếp theo diễn ra. Khi đó chính là lòng tự hào DT được nâng cao, ý thức về giữ gìn, phát huy BSVH của DT mình được quan tâm sâu sắc.

Đồng bào các DTTS thường có tâm lý cho rằng mình là những chủ nhân của nền VH của DT mình nên hiểu rõ nhất về nền VH đó, những trên thực tế, không phải ai cũng thấy được hết cái hay, cái đẹp trong VH của DT mình. Vì vậy, hình thức tuyên truyền cho đồng bào trong các buổi triển lãm, trưng bày trong các bảo tàng địa phương cần tập trung vào giới thiệu những ấn phẩm sưu tầm vốn VH cổ truyền của họ cùng với đó là sự đánh giá, ca ngợi cái hay, cái đẹp trong BSVH của mỗi DT một cách khách quan, khoa học của những nhà VH có uy tín, đặc biệt là những nhà khoa học là người DTTS. Các ấn phẩm trình bày ngắn gọn, rõ ràng, xúc tích, hình ảnh đẹp thể hiện rõ sự trân trọng, nâng niu VHDT của các tác giả và người trình bày trước công chúng. Cách tuyên truyền này vừa tránh được sự khô khan, cứng nhắc vừa giúp đồng bào tự thấy được sự hiểu biết về VH và cội nguồn DT của mình còn hạn chế mà quan tâm tìm hiểu nhiều hơn vấn đề này với ý thức tự hào DT.

139

Thứ tư, thông qua thiết chế gia đình, dòng họ, bản làng: Đây chính là môi trường cho sự hình thành, tồn tại và phát triển các giá trị VH của đồng bào các DTTS vùng Đông Bắc. Để các giá trị VH này tiếp tục được duy trì, phát huy qua các thế hệ thì bản thân mỗi gia đình, dòng họ cần tiếp tục thực hành một cách thường xuyên. Các ngày lễ tết, lễ hội, các phong tục tập quán của DT, các bậc cha mẹ, các bậc trưởng họ nên thường xuyên tổ chức tham gia và nhắc nhở các thành viên trong gia đình, dòng họ tích cực tham gia để gìn giữ BSVH tộc người. Các bậc ông bà, cha mẹ nên tích cực trao truyền cho thế hệ con cháu BSVH của tộc người mình thông qua những câu truyện kể, những hoạt động truyền dạy ngôn ngữ, dân ca, dân vũ cũng như những tri thức dân gian.

Đối với bản làng, sự tuyên truyền, giáo dục về BSVHDT và ý thức giữ gìn, phát huy BSVH các DTTS vùng Đông Bắc cần tiếp tục được thực hiện thông qua các nghệ nhân, các già làng, trưởng bản - người có uy tín trong cộng đồng. Bởi lẽ, họ là người đúc kết, hội tụ, gìn giữ được những nét bản sắc độc đáo của DT, có kinh nghiệm và uy tín tổ chức các hoạt động VH, là trụ cột trong các hoạt động VH, tiếng nói của họ có giá trị cao và được nể trọng trong cộng đồng. Họ có khả năng khơi dậy được ý thức giữ giữ gìn, phát huy BSVH của DT trong cộng đồng bằng những việc làm cụ thể như tổ chức các hoạt động VH truyền dạy cho đồng bào trong cộng đồng những giá trị BSVH như ngôn ngữ, cách may trang phục truyền thống, các điệu múa, bài hát truyền thống, các phong tục tập quán tốt đẹp của DT…. Đây là lớp người có vai trò không thể thay thế trong thực hiện công tác tuyên truyền, giáo dục giữ gìn BSVH của DT. Do đó, chính quyền địa phương cần nắm bắt được đội ngũ các nghệ nhân, già làng, trưởng bản còn lưu giữ được trong mình những nét đẹp trong BSVH của các DTTS để có những chính sách ưu tiên, khuyến khích, động viên để họ tích cực tuyên truyền cho đồng bào trong dòng họ, bản làng thấy được cái hay, cái đẹp trong BSVH của mình từ đó có ý thức giữ gìn, phát huy nó trong đời sống cộng đồng. Chính quyền địa phương cần tạo mọi điều kiện về cơ sở vật chất, có chính sách bồi dưỡng, hỗ trợ để các nghệ nhân tổ chức các lớp dạy cho đồng bào các DTTS về các giá trị VH phi vật thể của đồng bào. Có như vậy mới tạo động lực để họ thiết tha duy trì, trao truyền những giá trị VH giàu bản sắc trong cộng đồng.

140

4.2.2. Xây dựng đội ngũ làm công tác văn hóa đáp ứng yêu cầu giữ

gìn, phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số

Đội ngũ cán bộ tại các địa phương vùng Đông Bắc thì nhiều, nhưng đội

ngũ làm công tác liên quan và trực tiếp đến VH các DTTS còn thiếu. Đặc biệt,

ở cấp cơ sở chỉ định biên một cán bộ phụ trách toàn bộ lĩnh vực VH - xã hội

rộng lớn. Đội ngũ cán bộ VH ở cơ sở vùng đồng bào các DTTS có ý nghĩa to

lớn cả về phương diện chính trị và phương diện VH. Họ vừa là người dại diện

cho DT mình tham gia quản lý, điều hành bộ máy ở cơ sở, vừa là người triển

khai, tổ chức thực hiện các nhiệm vụ VH thông tin, vừa giữ gìn và phát huy

BSVH của chính DT mình. Do đó, để công tác giữ gìn và phát huy BSVH các

DTTS có hiệu quả thì việc đào tạo, bồi dưỡng năng lực đội ngũ cán bộ quản

lý và hoạt động trong lĩnh vực VH hiện đang là đòi hỏi cấp bách.

Trước tiên, cần phải làm nghiêm túc hơn nữa khâu tuyển chọn. Muốn

có được nguồn cán bộ làm công tác VH đủ, có trình độ chuyên môn, có phẩm

chất đạo đức tốt, nhiệt huyết, đam mê, tận tâm với công việc thì khâu tuyển

chọn vô cùng quan trọng. Để có đội ngũ cán bộ làm công tác VH có trình độ

chuyên môn cần tuyển chọn người được đào tạo chính quy, đúng chuyên

ngành VH. Có như vậy, mới đảm bảo được mặt chuyên môn, tránh tình trạng

tuyển chọn trái ngành xong về đi làm lại tiếp tục cử đi học theo diện vừa học,

vừa làm. Tuyển chọn như vậy sẽ được một lực lượng cán bộ không làm được

việc ngay mà lại mất thời gian, kinh phí đào tạo lại. Mặt khác, ngoài trình độ

chuyên môn, cũng cần tập trung vào đối tượng có niềm đam mê, tâm huyết

với lĩnh vực VH, nhất là VH các DTTS. Muốn vậy, nguồn tuyển chọn cần

được chắt lọc, tập trung vào đối tượng là người DTTS. Các cơ quan địa

phương cần phối hợp chặt chẽ với Bộ VH và du lịch, Bộ giáo dục và đào tạo

tháo gỡ vướng mắc trong khâu tuyển sinh để tuyển chọn được những hạt nhân

VH cơ sở đưa vào đào tạo tập trung dưới dạng cử tuyển.

Đối với các em học sinh đang theo học tại các trường DT nội trú tỉnh, dự bị đại học mà có khả năng về lĩnh vực VH - nghệ thuật của đồng bào các DTTS hay có sự am hiểu, đam mê về nghiên cứu, tìm hiểu BSVH của các DT tại địa phương thì thầy cô, gia đình nên phân tích, hướng các em theo học tại

141

các trường VH nghệ thuật cấp tỉnh, các trường đại học, cao đẳng có chuyên ngành VH, VHDTTS… để các em phát huy được sở trường, thế mạnh. Từ đó, nuôi dưỡng niềm đam mê, nhiệt huyết, tận tâm với nghề cùng với những chính sách ưu đãi của địa phương tạo điều kiện để các em trở về quê hương công tác. Có như vậy mới tạo ra được một lực lượng cán bộ mạnh về chuyên môn, giàu có về phẩm chất để tham gia hoàn thành tốt nhiệm vụ giữ gìn và phát huy BSVH các DTTS trong vùng, trong tỉnh.

Cần có kế hoạch ưu tiên đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ nghiên cứu VH các DTTS. Nên có chế độ đãi ngộ thích hợp, coi đó là sự động viên để họ an tâm công tác, đóng góp vào công việc giữ gìn và phát huy BSVH các DTTS.

Đối với đội ngũ cán bộ VH chuyên tham gia vào những hoạt động liên quan đến mảng VH các DTTS, cần có chế độ đãi ngộ thích đáng để khuyến khích họ toàn tâm, toàn ý cho công việc, thường xuyên xuống cơ sở để nắm bắt tình hình, tuyên truyền đồng bào giữ gìn những nét đẹp trong VH truyền thống, loại bỏ những hủ tục, tập quán lạc hậu, tiếp thu những giá trị mới nhằm nâng cao đời sống vật chất và đời sống tinh thần cho đồng bào. Đối với cán bộ VH cấp huyện thị và thành phố, cần đủ về số lượng và đảm bảo về chất lượng chuyên môn, có sự phân bổ cho hợp lý, tránh tình trạng chỉ tập trung đội ngũ cán bộ vào mảng thể thao và du lịch, tập trung vào những mảng nổi như các hoạt động phong trào mà thiếu đi đội ngũ cán bộ VH chuyên về mảng nghiên cứu, sưu tầm, tuyên truyền, quản lý các hoạt động VH của đồng bào các DTTS. Thực tế mới có cấp tỉnh là Sở VH mới có đội ngũ chuyên sâu về lĩnh vực này, còn cấp huyện (phòng VH) và cấp xã thì đội ngũ cán bộ VH vẫn bao quát chung mọi lĩnh vực. Trong khi, ở cơ sở - nơi gần gũi nhất với đồng bào rất cần có đội ngũ am hiểu chuyên sâu về lĩnh vực VH các DTTS, từ đó, họ mới nắm bắt, tuyên truyền và giải quyết kịp thời mọi vướng mắc liên quan đến mọi hoạt động VH của đồng bào các DTTS.

Với nguồn cán bộ VH tại cơ sở không qua đào tạo chính quy mà được luân chuyển từ vị trí khác sang thì cần yêu cầu đi học tập, bồi dưỡng, tập huấn chuyên ngành để hoàn thiện và nâng cao kiến thức chuyên môn. Chính quyền cơ sở cần khuyến khích cán bộ VH tham gia những đề tài nghiên cứu khoa học hay những sáng kiến liên quan đến công tác giữ gìn và phát huy BSVH

142

các DTTS ở địa phương, vừa để họ rèn rũa nâng cao kiến thức chuyên môn, sự am hiểu, về BSVH các DTTS tại địa phương, vừa để họ có cơ hội kiểm chứng những ý tưởng về giải pháp giữ gìn và phát huy BSVH trên thực tế. Có như vậy, mới đào tạo được đội ngũ cán bộ VH tại cơ sở mạnh về chất lượng, dày dạn kinh nghiệm để hiện thực hóa mọi chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước.

Cần phát huy vai trò của các trí thức người DT đã nghỉ hưu trong sưu tầm, giới thiệu vốn VH truyền thống của họ. Bản thân họ là những người dày dạn kinh nghiệm, có tri thức về vốn VH truyền thống của đồng bào các DTTS, có niềm đam mê, sự tận tâm, tận tụy, nên các ngành chức năng cần có sự hợp tác dưới vai trò là các cộng tác viên, để cùng tham gia vào công tác giữ gìn và phát huy BSVH các DTTS nhằm đạt được hiệu quả cao.

Với một đội ngũ làm công tác VH đủ mạnh về số lượng và chất lượng (có trình độ chuyên môn, kinh nghiệm, phẩm chất, đạo đức nghề nghiệp) thì mới đảm bảo được tiến độ và hiệu quả của công việc. Thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước một cách linh hoạt, tránh cứng nhắc, bảo thủ, có tư duy biện chứng để nhìn nhận khách quan những mặt tích cực, mặt hạn chế trong BSVH các DTTS, để có cách thức giải quyết phù hợp trên cơ sở nhận thức được vai trò, vị trí địa lý cũng như hoàn cảnh lịch sử của đồng bào các DTTS tại địa phương. Đồng thời, tham mưu cho các cấp kết hợp hài hòa giữa chính sách kinh tế với chính sách VH. Tránh tập trung cho sự phát triển kinh tế mà hủy hoại các giá trị VH.

Tóm lại, trong bối cảnh hiện nay, cần thiết phải xây dựng một đội ngũ làm công tác VH có chuyên môn, lương tâm và bản lĩnh nghề nghiệp thì trong công tác giữ gìn và phát huy BSVH các DTTS mới không làm biến dạng các giá trị truyền thống do xu hướng thị trường, thương mại hóa chi phối hay sự mất mát vĩnh viễn những giá trị VH truyền thống do những hành vi thiếu hiểu biết khoa học gây ra.

4.2.3. Đầu tư một cách cân xứng, hài hòa giữa nguồn lực kinh tế và

nguồn lực phát triển văn hóa

Cần khẳng định một thực tế rằng, các tỉnh vùng Đông Bắc do vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên không thuận lợi cùng với trình độ dân trí chưa cao, nên

143

đồng bào các DTTS nơi đây có đời sống vật chất còn thiếu thốn, sản xuất chủ yếu dựa vào nông nghiệp. Đặc biệt, các vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào DTTS, hệ thống giao thông thủy lợi, điện, đường, trường, trạm còn thiếu thốn, nhiều khó khăn. Do đó, những năm vừa qua, nhà nước đã có nhiều chương trình, dự án lớn tập trung cho phát triển kinh tế, cải thiện sinh hoạt và nâng cao đời sống vật chất cho đồng bào vùng này. Sự tập trung quá mức để đầu tư cho phát triển kinh tế, cho đời sống vật chất mà chưa để ý hoặc coi nhẹ sự đầu tư cho lĩnh vực VH. Dẫn đến đời sống vật chất dần được cải thiện nhưng kéo theo sự mai một, mất dần bản sắc của đồng bào các DTTS vùng Đông Bắc, làm cho đời sống tinh thần suy giảm, ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững. Vì thế, rất cần có sự đầu tư lớn trong lĩnh vực VH trong đó có sự đầu tư cho việc giữ gìn và phát huy BSVH các DTTS để BSVH thực sự trở thành điểm tựa, sức mạnh nội sinh đưa vùng Đông Bắc tiến kịp xu thế phát triển chung của đất nước.

Sự đầu tư để phát triển VH có thể huy động từ nhiều nguồn lực: Ngân sách nhà nước, doanh nghiệp, đóng góp của nhân dân, nguồn viện trợ của các cá nhân, tổ chức trong nước và quốc tế, các nguồn vốn hợp pháp khác. Huy động sự tham gia của nhiều lực lượng xã hội vào công tác giữ gìn và phát huy BSVH Các DTTS như: Các nhà quản lý, nhà khoa học, nhà VH, các doanh nghiệp, các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là bản thân đồng bào các DTTS, họ chính là chủ thể chính trong việc giữ gìn và phát huy BSVH của DT mình.

Với nguồn lực đầu tư của nhà nước, cần tiếp tục phát huy và nâng cao hiệu quả. Đây chính là nguồn lực chủ yếu trong mục tiêu giữ gìn và phát huy BSVH các DTTS ở các tỉnh vùng Đông Bắc. Do điều kiện khó khăn, nguồn ngân sách địa phương hạn hẹp nên trong mục tiêu giữ gìn, phát huy BSVH các DTTS ngân sách trung ương chiếm tới 70%, ngân sách địa phương chiếm 20%, còn lại là nguồn vốn hợp pháp khác.

Trong ngân sách trung ương cần có sự phân bổ, điều chỉnh hợp lý về chính sách đầu tư để đạt hiệu quả cao nhất, tránh sự dàn trải mà cần xác định được nội dung ưu tiên để đầu tư của nhà nước có tính trọng tâm, trọng điểm, đủ mạnh để giải quyết những nhiệm vụ ưu tiên.

Ngoài nguồn đầu tư của nhà nước, cũng cần tăng cường hơn nữa nguồn vốn từ địa phương và nguồn vốn từ xã hội hóa. Trong những năm gần đây,

144

vùng đồng bào các DTTS nói chung và đồng bào các DTTS vùng Đông Bắc nói riêng đã được hưởng nhiều chính sách ưu tiên, nhằm thúc đẩy kinh tế phát triển, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần. Trong tổng thể nguồn vốn đầu tư về các tỉnh vùng Đông Bắc cũng như nguồn vốn địa phương, cần có sự phân bổ hài hòa giữa nguồn vốn đầu tư cho phát triển kinh tế với nguồn vốn đầu tư cho phát triển VH trên địa bàn của tỉnh. Có những chính sách ưu tiên, khuyến khích, tạo điều kiện để cho các doanh nghiệp tư nhân đầu tư kinh doanh trong lĩnh vực VH du lịch như: kinh doanh nhà hàng ẩm thực DT, xây dựng các làng VH du lịch, khu sinh thái ở vùng đồng bào DTTS, xây dựng bảo tàng VH DTTS tư nhân…. Đây cũng là cách thu hút vốn đầu tư vào lĩnh vực giữ gìn và phát huy BSVH các DTTS trên địa bàn. Ngoài ra, với việc tạo được hành lang pháp lý, môi trường làm việc cho các doanh nghiệp tư nhân trên địa bàn yên tâm làm ăn kinh doanh, tăng thu nhập, từ đó kêu gọi các doanh nghiệp đó, bản thân đồng bào các DTTS là chủ các doanh nghiệp công tác trong và ngoài nước cùng tham gia đóng góp nguồn vốn xã hội hóa cho các nhiệm vụ như: phục dựng các ngôi nhà truyền thống, thành lập các câu lạc bộ, đội văn nghệ quần chúng dân gian, các hội thi, hội diễn, các lễ hội …. Có như vậy mới huy động được tổng thể nguồn vốn để thực hiện được những nhiệm vụ cụ thể như: Đầu tư vốn cho công tác nghiên cứu, sưu tầm, phục dựng các giá trị VH của đồng bào các DTTS một cách liên tục, cấp kinh phí để tổ chức các hoạt động VH nhằm tuyên truyền đồng thời duy trì, thực hiện các hoạt động VH cộng đồng như tổ chức ngày hội VH các cấp, tổ chức trưng bày, triển lãm các giá trị VH vật thể, phi vật thể, tổ chức các hội thi, hội diễn, tổ chức các buổi tập huấn, các hội thảo để trao đổi tri thức, kinh nghiệm của các nhà quản lý, nhà khoa học, nghệ nhân trong việc giữ gìn và phát huy BSVH các DTTS. Đồng thời, có nguồn kinh phí để động viên, khuyến khích, hỗ trợ cho các nghệ nhân đồng bào DTTS đang nắm giữ những giá trị VH phi vật thể và đang có những hoạt động trao truyền các giá trị VH đó cho cộng đồng, cho thế hệ sau.

Ngoài việc huy động tổng thể các nguồn vốn đầu tư, các tỉnh vùng Đông Bắc cũng cần huy động mọi lực lượng cùng chung tay vào nhiệm vụ giữ gìn và phát huy BSVH các DTTS trên địa bàn. Vì vậy, cần nâng cao vai

145

trò lãnh đạo của đảng bộ, sự quản lý của chính quyền, vai trò vận động đồng bào các DTTS của các tổ chức chính trị - xã hội trong việc giữ gìn và phát huy BSVH của họ là rất quan trọng. Đối với đồng bào các DTTS vùng Đông Bắc, đặc biệt là ở những nơi vùng sâu, vùng xa, trình độ dân trí còn thấp, đa số đồng bào vẫn thường quen tư duy theo lối trực quan, trực giác, chỉ tin vào kinh nghiệm và những điều mắt thấy tai nghe. Vì vậy, trong sự nghiệp cách mạng nói chung, giữ gìn và phát huy BSVH các DTTS nói riêng cần thiết phải có sự lãnh đạo, định hướng sáng suốt của các tổ chức Đảng, chính quyền đoàn thể, sự hướng dẫn và gương mẫu của các cán bộ đảng viên, lực lượng quan trọng mang tính quyết định đó chính là bản thân đồng bào các DTTS với sự hưởng ứng, nhiệt tình cùng chung tay vào giữ gìn và phát huy các giá trị tốt đẹp trong VH của DT mình.

4.2.4. Nâng cao trình độ, năng lực của đồng bào các dân tộc thiểu số với

tư cách là chủ thể của giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa của dân tộc mình

Bản thân đồng bào các DTTS vùng Đông Bắc, nhất là đồng bào cư trú ở vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn, do giao thông chia cắt, địa hình hiểm trở, sự giao lưu, tiếp xúc với các nguồn thông tin liên lạc còn hạn chế cho nên trình độ dân trí rất thấp so với mặt bằng chung của đất nước. Trình độ dân trí thấp ảnh hưởng đến khả năng tiếp thu các chủ trương, đường lối của Đảng còn chậm, khả năng chọn lọc những giá trị VH mới, kế thừa có chọn lọc các giá trị VH truyền thống còn kém và thiếu linh hoạt, dễ bị tư tưởng chạy theo cái mới chi phối hoặc tư tưởng bảo thủ ôm khư khư quá khứ, từ chối giao lưu, tiếp xúc, tiếp nhận cái mới một cách tích cực. Trình độ dân trí thấp là nguyên nhân dẫn đến sự kém hiệu quả trong sự phối kết hợp giữa các cơ quan chính quyền, các ban ngành trong việc chung tay giữ gìn và phát huy BSVH các DTTS. Do đó, cần nâng cao trình độ dân trí cho đồng bào bằng cách đẩy mạnh giáo dục và đào tạo. Giáo dục là quốc sách hàng đầu của mọi quốc gia, vì nó là nền tảng tri thức, cơ sở tạo ra nhân tài cho đất nước. Sự lạc hậu, tiên tiến của một DT biểu hiện trước hết ở sự lạc hậu hay tiên tiến của giáo dục. Hồ Chí Minh đã từng nói: “một DT dốt là một DT yếu”. Cho nên, để chiến thắng được nghèo nàn, lạc hậu, giữ gìn được BSVH thì cần phát triển giáo dục, mở mang dân trí.

146

Nhiệm vụ đầu tiên là tăng cường giáo dục trong nhà trường để vừa nâng cao trình độ học vấn vừa nâng cao sự hiểu biết xã hội cho thế hệ trẻ đồng bào các DTTS một cách bài bản. Muốn vậy, cần phải tiếp tục nghiên cứu, đổi mới nội dung, chương trình, phương pháp giáo dục cho phù hợp với đồng bào các DTTS, lồng ghép giáo dục giá trị VH truyền thống của đồng bào các DTTS trong vùng vào chương trình chính khóa (thông qua các bài giảng trong môn học giáo dục công dân, môn lịch sử, môn văn học…) và các hoạt động ngoại khóa của các nhà trường nhằm vừa giáo dục tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống vừa giáo dục lòng tự hào DT và ý thức giữ gìn, phát huy BSVHDT.

Kết hợp có hiệu quả chương trình mục tiêu quốc gia về giáo dục với chương trình mục tiêu quốc gia về VH ở các tỉnh vùng Đông Bắc. Chính nguồn vốn trong chương trình mục tiêu quốc gia về giáo dục tạo điểu kiện để xây dựng mới các trường DT nội trú của tỉnh và của huyện, tạo điều kiện cho con em đồng bào các DTTS ở vùng khó khăn đến trường miễn phí và có chính sách thu hút các thầy cô giáo vùng xuôi lên công tác được học tập, bồi dưỡng tiếng DT để nắm được BSVH của đồng bào các DTTS, từ đó có cách giáo dục, tuyên truyền đến các em học sinh ý thức gìn giữ, phát huy bản sắc đó trong cộng đồng.

Thầy cô trong nhà trường kết hợp với các tổ chức hội ở địa phương (thôn, bản) như hội phữ, đoàn thanh niên đến vận động đồng bào có con em đến độ tuổi đi học và con em đang học dang dở tiếp tục tới trường nhằm thực hiện tốt việc xóa mù chữ và phổ cập trung học đối với các em là người DTTS. Đối với các già làng, trưởng bản không biết chữ phổ thông, nhà nước cần mở các lớp bổ túc để họ biết chữ phổ thông, từ đó họ mới tìm hiểu, tiếp thu, nắm vững được chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của nhà nước, đồng thời tham gia vào tuyên truyền, hướng dẫn cho đồng bào trong bản thực hiện tốt mọi chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của nhà nước và các quy định của địa phương.

Ngoài việc nâng cao trình độ dân trí thông qua giáo dục trong hệ thống nhà trường thì việc giao lưu, tiếp xúc với các DT khác trong vùng và thường xuyên tiếp cận với hệ thống phương tiện thông tin như sách vở, báo chí, đài phát thanh, truyền hình, Internet… cũng là cách để mở mang hiểu biết, nâng cao trình độ dân trí cho đồng bào các DTTS. Trong thời buổi công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh

147

tế thị trường và hội nhập quốc tế như hiện nay, trình độ dân trí được coi là nền tảng của sự phát triển. Do đó, nếu đồng bào các DTTS vùng Đông Bắc sống khép kín, cô lập, không có sự giao lưu tiếp xúc với các DT khách trong và ngoài vùng thì không thể nâng cao được sự hiểu biết. Chính sự phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế như hiện nay là cơ hội để các DT được giao lưu, tiếp xúc với nhau trên mọi lĩnh vực. Từ đó, tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau, chia sẻ những kinh nghiệm trong lao động sản xuất, tìm hiểu và học hỏi những cái hay, cái đẹp trong VH của các DT khác để trên cái nền truyền thống, các DT tự làm mới mình, phát triển kinh tế, VH của DT mình lên theo kịp xu thế phát triển chung của đất nước.

Sự tăng cường các phương tiện thông tin như sách, báo, đài phát thanh, truyền hình, Internet đến những bản vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn, không chỉ giúp cho đồng bào ở các vùng này tiếp cận được với chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước một cách thường xuyên, thông suốt và trực tiếp nhất mà còn giúp cho đồng bào các DTTS nâng cao sự hiểu biết về những kiến thức bổ ích liên quan đến sức khỏe, mô hình kinh nghiệm phát triển kinh tế, giáo dục, VHDT, hướng dẫn sản xuất,… trên các kênh truyền hình như VTV1, VTV2, VTV3 và các kênh truyền hình địa phương. Đội ngũ cán bộ VH cơ sở cần nêu cao tinh thần trách nhiệm trong việc tuyên truyền, định hướng cho đồng bào DTTS lựa chọn, theo dõi các chương trình liên quan đến VHDT như những kênh truyền hình có phát sóng giới thiệu về VH độc đáo, đặc sắc của các DT cũng như những việc làm cụ thể mà các DT đang thực hiện để tham gia trực tiếp vào việc giữ gìn, phát huy BSVH của DT họ. Từ đó, giúp cho đồng bào các DTTS cảm thấy tự tin hơn, tự hào hơn về những giá trị trong kho tàng VH của DT mình và có ý thức, hành động giữ gìn, phát huy nó.

Như vậy, cần phát huy tốt vai trò của giáo dục trong nhà trường, bên cạnh việc nâng cao trình độ học vấn, các nhà trường cần có những cách thức để nâng cao sự hiểu biết nói chung của đồng bào các DTTS về các lĩnh vực xã hội thông qua chương trình chính khóa cũng như chương trình ngoại khóa. Các trung tâm giáo dục thường xuyên, trung tâm dạy nghề ở các huyện do phòng lao động thương binh xã hội kết hợp với các trường nghề tổ chức đào tạo tại địa phương cũng cần lồng ghép vào chương trình giảng dạy để giáo dục các em là học sinh DTTS phải nhận thức được đúng đắn các giá trị VH

148

truyền thống của DT mình và có những cách thức thực hiện để duy trì, phát huy những giá trị đó trong cộng đồng.

Trình độ dân trí của đồng bào các DTTS vùng Đông Bắc cũng được nâng cao do sự giao lưu, hội nhập, sự va chạm, tiếp xúc giữa các DT trong phạm vi toàn quốc, khu vực, tỉnh, huyện và sự tiếp cận với các phương tiện thông tin đại chúng như sách vở, báo chí, đài phát thanh, truyền hình, internet. Do đó, các tỉnh vùng Đông Bắc cần tăng cường đầu tư, đặc biệt sự đầu tư điện lưới quốc gia đến các thôn bản vùng sâu vùng xa để họ có cơ hội sử dụng các phương tiện thông tin trên. Đối với sách vở, tạp chí vẫn đang được nhà nước cấp phát miễn phí đến các huyện, xã vùng đặc biệt khó khăn để nâng cao dân trí cho đồng bào nhưng hiệu quả đạt được chưa cao từ chương trình này. Sách, báo, tạp chí cấp phát về các huyện, xã thì nhiều nhưng số lượng đến tay bản thân đồng bào các DTTS thì ít. Mặt khác, nhu cầu đọc, tìm hiểu của đồng bào chưa cao, trong điều kiện kinh tế còn eo hẹp, đồng bào chỉ tập trung làm ăn, lên nương rẫy cả ngày không có thời gian tìm hiểu, có nơi thì khả năng đọc chữ phổ thông còn hạn chế nên khó khăn trong việc nghiên cứu, tìm hiểu. Do đó, vấn đề đặt ra là chính quyền địa phương cần kết hợp với các tổ chức ban ngành khảo sát, thống kê số lượng người chưa biết đọc, biết viết chữ phổ thông để có những phương án giáo dục bổ túc dành cho đối tượng là đồng bào các DTTS không biết chữ nhằm xóa tình trạng mù chữ hiện vẫn còn ở một số vùng sâu, vùng xa. Chỉ khi xóa được tình trạng này thì đồng bào mới tiếp cận được dễ dàng các nguồn tri thức cần thiết, trong đó có các tri thức về giữ gìn, phát huy BSVH các DTTS.

Tóm lại, khi trình độ dân trí của đồng bào các DTTS vùng Đông Bắc được nâng cao, họ sẽ chủ động, tự giác, tích cực tiếp thu nhanh, nhạy với các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước, nhận thức được những giá trị tích cực, cái hay, cái đẹp trong BSVH của DT mình để từ đó củng cố niềm tin, lòng tự hào DT, ý thức tự giác tộc người, không ngừng phát huy, phát triển BSVH của tộc người mình cho phù hợp với xu thế mới đồng thời thấy được cái không phù hợp, cái hủ tục, tập quán lạc hậu, cổ hủ trong VH truyền thống để từ đó loại bỏ dần trong cuộc sống của đồng bào. Có như vậy, BSVH của đồng bào các DTTS vùng Đông Bắc mới không ngừng được giữ gìn và phát huy trong đời sống cộng đồng.

149

Tiểu kết chương 4

Trong thời kỳ phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, các tỉnh vùng Đông Bắc cần nhận thức rõ vai trò, vị trí của BSVH các DTTS trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội nói chung, trong việc nâng cao đời sống tinh thần cho đồng bào các DTTS nói riêng. Từ sự nhận thức đúng đắn, cần có những hành động cụ thể, thiết thực, phù hợp với nguyên tắc chung và những đặc điểm riêng của vùng miền, DT để có những giải pháp phù hợp nhằm nâng cao hiệu quả của việc giữ gìn và phát huy các DTTS vùng Đông Bắc. Trong quá trình thực hiện, cần phải dựa trên nguyên tắc thống nhất trong đa dạng và tiên tiến hóa nền VH Việt Nam, đồng thời phải gắn với việc nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho đồng bào các DTTS và phát huy tốt vai trò chủ thể chính là đồng bào các DTTS. Những quan điểm đó phải được quán triệt một cách đồng bộ, xuyên suốt, trong hệ thống đường lối, chủ trương, sách sách của Đảng, Nhà nước và trong quá trình tổ chức, triển khai, thực hiện thông qua những giải pháp chủ yếu: Tiếp tục nâng cao và đa dạng hóa các hình thức, nội dung tuyên truyền nhằm nâng cao nhận thức của toàn xã hội về việc giữ gìn, phát huy BSVH các DTTS; xây dựng đội ngũ làm công tác VH đủ mạnh về số lượng và chất lượng để hoàn thành tốt nhiệm vụ hiện thực hóa chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về lĩnh vực VH, trong đó có vấn đề giữ gìn và phát huy BSVH các DTTS; Nhà nước và các địa phương cần đầu tư nguồn lực một cách hài hòa, cân xứng giữa nguồn lực kinh tế với nguồn lực phát triển VH; Nâng cao trình độ dân trí cho đồng bào các DTTS vùng Đông Bắc để họ phát huy tối đa vai trò chủ thể trong việc giữ gìn và phát huy BSVH của DT mình.

Hệ thống giải pháp này vừa mang tính chiến lược, vừa có tính cụ thể, vừa phù hợp với đặc thù của vùng trong quá trình phát triển nhằm góp phần nâng cao hiệu quả của việc giữ gìn và phát huy BSVH các DTTS trong địa bàn.

150

KẾT LUẬN

BSVH các DTTS vừa mang những đặc trưng cơ bản của BSVH Việt Nam vừa có những sắc thái VH riêng, độc đáo, đặc thù tạo nên nền VH Việt Nam phong phú, đa dạng. Cái riêng, cái đặc thù làm nên BSVH các DTTS xuất phát từ những điều kiện tự nhiên, hoàn cảnh lịch sử, điều kiện kinh tế - xã hội cụ thể.

BSVH các DTTS vùng Đông Bắc trong những điều kiện cụ thể của vùng có những biểu hiện phong phú, đa dạng trong VH vật thể (nhà ở; trang phục; ẩm thực; tư liệu sinh hoạt, lao động) và VH phi vật thể (ngôn ngữ, phong tục tập quán, lễ hội, tín ngưỡng, tôn giáo, nghệ thuật và tri thức bản địa). Những đặc trưng cơ bản của BSVH vùng Đông Bắc là: Thế giới quan thần bí, tín ngưỡng vạn vật hữu linh ăn sâu bám rễ vào mọi khía cạnh của đời sống xã hội; đề cao đời sống tinh thần, sống đoàn kết, hài hòa, tình nghĩa; đức tính cần cù, thông minh, sáng tạo và khả năng thích ứng với môi trường tự nhiên khắc nghiệt; cách tư duy tự nhiên, chân thật, phản ánh một lối sống giản dị, mộc mạc.

Từ lý luận về giữ gìn, phát huy BSVH các DTTS, luận án trình bày vấn đề giữ gìn, phát huy BSVH các DTTS vùng Đông Bắc Việt Nam thông qua việc giữ gìn, phát huy các giá trị VH vật thể và giá trị VH phi vật thể. Đây là một quá trình thống nhất giữa giữ gìn với phát huy nhằm làm cho BSVH của các DTTS vùng Đông Bắc được lưu giữ, không bị mất mát, tổn hại và làm cho cái hay, cái tốt của BSVH lan tỏa tác dụng, tiếp tục làm nảy nở thêm trong cuộc sống để đóng vai trò làm sức mạnh nội sinh đưa các DTTS hòa nhập theo xu thế chung của cả nước, đóng góp vào xây dựng nền VH Việt Nam tiên tiến, đậm đà BSDT và thống nhất trong đa dạng.

Luận án đã đánh giá và khái quát những thành tựu và hạn chế trong quá trình giữ gìn, phát huy BSVH các DTTS vùng Đông Bắc. Đảng, Nhà nước, chính quyền địa phương và đặc biệt là sự tham gia tích cực, chủ động của đồng bào các DTTS vào việc giữ gìn, phát huy BSVH của đồng bào mà những nội dung trong BSVH của đồng bào (VH vật thể và VH phi vật thể) được quan tâm giữ gìn, phát huy với nhiều hình thức phong phú, đa dạng. Bản thân đồng bào các DTTS dưới sự tuyên truyền, giáo dục của các cơ quan chuyên môn đã có những sự nhận thức đúng đắn về BSVH của DT mình, đã phát huy cao vai trò chủ thể của mình trong việc sáng tạo và hưởng thụ các giá trị VH đồng thời là chủ thể trong việc giữ gìn, phát huy BSVH.

151

Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được, nhiệm vụ giữ gìn và phát huy BSVH của đồng bào các DTTS vẫn còn nhiều hạn chế. Hạn chế đó xuất phát từ bản thân chủ thể là Nhà nước, chính quyền địa phương, đồng bào các DTTS với những cách thức thực hiện chưa phù hợp, chưa sát, chưa đúng trọng tâm, triệt để. Do đó nhiều giá trị VH truyền thống mang đậm đà bản sắc đang dần mai một trước tác động của nền kinh tế thị trường, của giao lưu và hội nhập quốc tế. Các yếu tố thuộc về VH vật thể như nhà ở truyền thống, trang phục truyền thống, ẩm thực truyền thống … vắng bóng dần trong cuộc sống của đồng bào, chỉ còn tồn tại thưa thớt ở những bản vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn. Các giá trị VH phi vật thể ít được đồng bào thực hiện, đặc biệt là giới trẻ thì quay lưng lại với những giá trị truyền thống, tiếp nhận những yếu tố VH ngoại lai, đi ngược lại với thuần phong mỹ tục của DT tạo nên sự lai căng, mất gốc.

Thực trạng đó bắt nguồn từ những nguyên nhân khách quan (những tác động tiêu cực của nền kinh tế thị trường, của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế…) và nguyên nhân chủ quan (nhận thức chưa đầy đủ và hoạt động kém hiệu quả của các cấp ban ngành, chính quyền địa phương và bản thân đồng bào các DTTS). Trong quá trình thực hiện việc giữ gìn và phát huy BSVH các DTTS vùng Đông Bắc cũng đặt ra một số vấn đề đòi hỏi phải có quan điểm và giải pháp đúng đắn, phù hợp.

Để phát huy một cách vững chắc thành quả đạt được và khắc phục, loại bỏ dần những hạn chế yếu kém trong giữ gìn và phát huy BSVH các DTTS cần quán triệt các quan điểm cơ bản như: Phải theo nguyên tắc thống nhất trong đa dạng và tiên tiến hóa nền VH Việt Nam; gắn với nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào các DTTS; bằng việc phát huy vai trò chủ thể của đồng bào. Những quan điểm đó phải được quán triệt một cách đồng bộ, xuyên suốt trong hệ thống đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước và trong toàn bộ quá trình tổ chức, triển khai thực hiện thông qua một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của việc giữ gìn và phát huy BSVH các DTTS. Trên cơ sở đó phát huy tối đa vai trò của các chủ thể với các cách thức tiên tiến, phù hợp với từng nội dung trong BSVH của các DTTS nhằm phát huy sức mạnh nội sinh đưa đồng bào các DTTS vùng Đông Bắc phát triển đi lên, đồng thời góp phần xây dựng nền VH Việt Nam tiên tiến, đậm đà BSDT.

152

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ

1. Ngô Thị Hương (2014), “Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người

Nùng ở Thái nguyên”. Tạp chí Dân tộc học, số 167 tháng 11.

2. Nguyễn Thị Lan Hương, Ngô Thị Hương (2015), “Tín ngưỡng

nông nghiệp của người Nùng ở Thái Nguyên ”. Tạp chí Dân tộc

học, số 169 tháng 11.

3. Ngô Thị Hương (2016), “Thực trạng sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng

của người Nùng ở Thái Nguyên hiện nay”. Tạp chí Giáo dục và xã

hội, số đặc biệt, tháng 5.

4. Ngô Thị Hương, Lê Kiều Anh (2017), “Đa dạng về bản sắc văn

hóa các dân tộc thiểu số vùng Đông Bắc Việt Nam”. Tạp chí Giáo

dục và xã hội, số đặc biệt, tháng 1.

5. Ngô Thị Hương (2018), “Một số giải pháp nhằm giữ gìn, phát huy

giá trị văn hóa truyền thống của các dân tộc thiểu số vùng Đông Bắc

Việt Nam”. Tạp chí Giáo dục và xã hội, số đặc biệt kì 1, tháng 6

6. Ngô Thị Hương, Lê Kiều Anh (2019), “Giữ gìn và phát huy bản

sắc văn hóa các dân tộc thiểu số thông qua hình thức tuyên truyền,

giáo dục”. Tạp chí Dạy và Học ngày nay, kì 2 tháng 3 năm 2019.

7. Ngô Thị Hương (2019), “Bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số vùng

Đông Bắc Việt Nam”. Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 6.

153

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Đặng Thế Anh (2012), Nét đẹp văn hóa xứ lạng. Nxb Văn hóa dân tộc.

2. Huỳnh Công Bá (2015), Đặc trưng và sắc thái văn hóa vùng – tiểu vùng

ở Việt Nam. Nxb Thuận Hóa.

3. Báo Caobang.vn cập nhật ngày 19/01/2015, Bảo tồn, phát huy giá trị

trang phục các dân tộc.

4. Lê Văn Bé (2001), Trang phục cổ truyền của người Nùng ở Đông Bắc

Việt Nam. Luận án tiến sĩ Lịch sử, Viện dân tộc học, Hà Nội.

5. P.K.Benedct (1944), Thai, Kadai và Indonesiens (Những tộc người nói ngôn

ngữ Thái, Kadai và Indonêsiên. Tập san hội nghiên cứu Đông Dương.

6. Nguyễn Chí Bền (2010), Văn hóa Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh

tế quốc tế. Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội.

7. Trần Văn Bính (chủ biên) (2004), Văn hóa các dân tộc Tây Bắc. Đề tài

khoa học cấp nhà nước.

8. Trần Văn Bính (2015), Văn hóa Việt Nam trên đường đổi mới – thời cơ

và thách thức. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

9. Trần Văn Bính (2006), Đời sống văn hóa các dân tộc thiểu số trong quá

trình công nghiệp hóa hiện đại hóa. Nxb Quân đội nhân dân.

10. Trần Bình (2011), Văn hóa mưu sinh của các dân tộc thiểu số vùng Đông

Bắc Việt Nam. Nxb Thời đại.

11. Huy Cận (1994), Suy nghĩ về bản sắc văn hóa dân tộc. Nxb Chính trị

Quốc gia, Hà Nội.

12. Bùi Thị Kim Chi (2014), Một số vấn đề đặt ra trong việc giữ gìn và phát

huy giá trị văn hóa tộc người. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

13. Hoàng Chương (2009), Thực trạng vấn đề bảo tồn và phát huy văn hóa

dân tộc. Tạp chí Tuyên giáo (6).

14. Nguyễn Văn Dân (2011), Con người và văn hóa Việt Nam trong thời kỳ

154

đổi mới và hội nhập. Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

15. Khổng Diễn (chủ biên) (1996), Những đặc điểm kinh tế - xã hội của các

dân tộc miền núi phía Bắc. Nxb Khoa học xã hội.

16. Donovan (1997), Những xu hướng phát triển ở vùng núi phía Bắc Việt

Nam. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

17. Ma Ngọc Dung (2005), Truyền thống và biến đổi trong tập quán ăn uống

của người Tày vùng Đông Bắc Việt Nam. Luận án tiến sĩ Nhân học, Viện

dân tộc học, Hà Nội.

18. Ma Ngọc Dung (2013), Nhà sàn truyền thống của người Tày vùng Đông

Bắc Việt Nam. Nxb Thời đại.

19. Đinh Xuân Dũng (chủ biên) (2013), Văn hóa trong chiến lược phát triển

của Việt Nam. Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.

20. Nguyễn Đăng Duy (2002), Văn hóa học Việt Nam, Nxb Văn hóa - Thông

tin, Hà Nội.

21. Thành Duy (2006), Bản sắc dân tộc và hiện đại hóa văn hóa Việt Nam

mấy vấn đề lý luận và thực tiễn. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

22. Phạm Đức Dương (2002). Từ văn hóa đến văn hóa học. Nxb Văn hóa

thông tin Hà Nội.

23. Lê Duy Đại, Triệu Đức Thanh (chủ biên) (2004), Các dân tộc ở Hà

Giang. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

24. Vũ Quang Đán, Bảo tồn văn hóa các dân tộc thiểu số Tuyên Quang, http:

Cinet.gov.vn ngày 18/1/2010 (Bộ Văn hóa, thể thao và du lịch).

25. Đảng Cộng sản Việt Nam (2007), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 51. Nxb

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

26. Đảng Cộng sản Việt Nam (1986), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc

lần thứ VI. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

27. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc

lần thứ VII. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

28. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc

155

lần thứ VIII. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

29. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban

Chấp hành Trung ương khóa VIII. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

30. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc

lần thứ IX. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

31. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc

lần thứ X. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

32. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc

lần thứ XI. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

33. Đảng Cộng sản Việt Nam (2014), Văn kiện Hội nghị lần thứ IX, Ban

chấp hành Trung ương Đảng khóa XI. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

34. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc

lần thứ XII. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

35. Bế Viết Đẳng (1971), Người Dao ở Việt Nam. Nxb Khoa học xã hội.

36. Bế Viết Đẳng (1978), Các dân tộc ít người ở Việt Nam (các tỉnh phía

Bắc). Nxb Khoa học xã hội.

37. Bế Viết Đẳng (chủ biên) (1993), Những biến đổi về kinh tế - văn hóa ở

các tỉnh miền núi phía Bắc, Nxb Khoa học xã hội.

38. Bế Viết Đẳng (chủ biên) (1996), Các dân tộc thiểu số trong sự phát triển

kinh tế - xã hội miền núi. Nxb Văn hóa dân tộc.

39. Nguyễn Khoa Điềm (chủ biên) (2002), Xây dựng và phát triển nền văn hóa

Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

40. Nịnh Văn Độ (chủ biên) (2003), Văn hoá truyền thống các dân tộc Tày,

Dao, Sán Dìu ở Tuyên Quang. Nxb Văn hoá dân tộc, Hà Nội.

41. Trần Độ (1986), Khái niệm và quan niệm về văn hóa. Viện Văn hóa, Hà Nội.

42. Phạm Văn Đồng (1994), Văn hóa và đổi mới. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

43. Phạm Duy Đức (chủ biên) (2010), Phát triển văn hóa Việt Nam giai đoạn

2011 - 2020 - Những vấn đề về phương pháp luận. Nxb Chính trị quốc

156

gia, Hà Nội.

44. Phạm Duy Đức (chủ biên) (2010), Thành tựu trong xây dựng và phát

triển văn hóa Việt Nam giai đoạn 25 năm đổi mới (1986 - 2010). Nxb

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

45. Phạm Duy Đức (chủ biên) (2010), Phát triển văn hóa Việt Nam giai đoạn

2011 - 2020 - Xu hướng và giải pháp. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

46. Thanh Hà (2010), Bảo tồn di sản văn hóa phi vật thể từ cơ sở ở Tuyên

Quang. Http:www.tuyenquang.gov.vn ngày 18/10/2010.

47. Phạm Minh Hạc (1996), Phát triển văn hóa, giữ gìn và phát huy bản sắc dân

tộc kết hợp với tinh hoa nhân loại. Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

48. Đỗ Đình Hãng (chủ biên) (2007), Lý luận văn hóa và đường lối văn hóa

của Đảng. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

49. A.G.Haudricourt (1973), Mấy nhận xét về lý luận và thực tiễn một chuyến đi

thăm các dân tộc thiểu số ở Tây Bắc và Việt Bắc. Tạp chí Ngôn ngữ, số 3.

50. Đinh Thị Hoa (2006), Nhân tố chủ quan với việc giữ gìn và phát huy bản sắc

văn hóa dân tộc Mường ở tỉnh Phú Thọ hiện nay. Luận văn thạc sĩ Triết học,

học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh.

51. Đỗ Thị Hòa (2003), Trang phục các dân tộc thiểu số nhóm ngôn ngữ Việt

- Mường và Tày - Thái. Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.

52. Phạm Quang Hoan, Đào Đình Quý (chủ biên) (1999), Văn hóa truyền

thống người Dao ở Hà Giang. Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.

53. Phạm Công Hoan (2015), Ứng xử của người Dao đỏ ở SaPa trong việc cư

trú, khai thác và bảo vệ rừng, nguồn nước. Nxb Khoa học xã hội.

54. Lê Thị Thúy Hoàn (2010), Nhà sàn truyền thống của cư dân Tày ở Chiêm

Hóa (Tuyên Quang). Luận án tiến sĩ Văn hóa học, Học viện Khoa học xã hội.

55. Hội đồng nhân dân tỉnh Bắc Kạn (2015), Nghị quyết về việc thông qua Quy

hoạch phát triển sự nghiệp văn hóa tỉnh Bắc Kạn đến năm 2020, tầm nhìn

đến năm 2030. Lưu tại Văn phòng HĐND tỉnh Bắc Kạn.

56. http://.baohagiang.vn ngày 08/07/2010, Hà Giang phát huy thế mạnh

157

làng văn hóa du lịch.

57. http://www.baohagiang.vn ngày1/2/2018, Gương sáng nghệ nhân dân

gian trong đồng bào dân tộc thiểu số.

58. Lại Phi Hùng (2013), Xu hướng biến đổi cấu trúc văn hóa vùng ở các

tỉnh phía Bắc Việt Nam. Nxb Đại học Kinh tế quốc dân.

59. Đỗ Huy (2005), Văn hóa và phát triển. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

60. Nguyễn Văn Huyên (1998), Giá trị truyền thống nhân lõi và sức sống

bên trong của sự phát triển đất nước, dân tộc. Tạp chí Triết học, số 04.

61. Nguyễn Văn Huyên (1998), Văn hóa, phát huy bản sắc và hội nhập. Tạp

chí Cộng Sản, tháng 6/1998.

62. Nguyễn Văn Huyên (1999), Công nghiệp hóa - hiện đại hóa và vấn đề

giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc. Tạp chí Triết học, số 01.

63. Nguyễn Văn Huyên (2001), Văn hóa đạo đức trong quá trình phát triển

kinh tế thị trường ở Việt Nam. Tạp chí Triết học, số 09 (127).

64. Nguyễn Văn Huyên, Nguyễn Trọng Chuẩn (2002), Giá trị truyền thống trước

thách thức của toàn cầu hóa. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

65. Nguyễn Văn Huyên (2003), Văn hóa với tiềm năng hoạt động sáng tạo

của con người. Tạp chí Triết học, số 03.

66. Nguyễn Văn Huyên (2005), Văn hóa và văn hóa chính trị từ cách tiếp

cận của triết học chính trị Mác xít. Tạp chí Triết học, số 5 (168).

67. Nguyễn Văn Huyên (Chủ biên) (2006), Văn hóa mục tiêu và động lực

của sự phát triển xã hội. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

68. Nguyễn Văn Huyên (Chủ biên) (2007), Chính trị học - những vẫn đề lý

luận và thực tiễn. Nxb Lý luận Chính trị, Hà Nội.

69. Nguyễn Chí Huyên (Chủ biên) (2000), Nguồn gốc lịch sử tộc người vùng

biên giới phía Bắc Việt Nam. Nxb Văn hoá dân tộc, Hà Nội.

70. Lê Thị kim Hưng (2019), Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc

Tày trong điều kiện kinh tế thị trường ở một số tỉnh Đông Bắc Việt Nam

hiện nay. Luận án tiến sĩ Triết học, trường Đại học Khoa học xã hội và

158

Nhân văn, Hà Nội.

71. Nguyễn Đắc Hưng (2010), Văn hóa Việt Nam giàu bản sắc. Nxb Chính

trị quốc gia, Hà Nội.

72. Hoàng Thị Hương (2010), Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc

trong quá trình phát triển kinh tế thời kỳ hội nhập quốc tế. Tạp chí Triết

học số 10 (233).

73. Hoàng Thị Hương (2012), Mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với giữ gìn

và phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số ở miền núi phía Bắc

nước ta hiện nay. Luận án tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị - Hành

chính quốc gia, Hà Nội.

74. Neil Jamieson (2000), Socio-economic Overview of the Northern

Mountain Region and the Project and poverty reduction in the Northern

Mountain Region of Vietnam (Tổng quan tình hình kinh tế - xã hội khu

vực miền núi phía Bắc và dự án xóa đói giảm nghèo ở khu vực miền núi

phía Bắc Việt Nam). Báo cáo của Ngân hàng thế giới.

75. Neil Jamieson (2000), Rethinking Approaches to Ethenic Minority

Develoment, the case of Vietnam (Nghĩ lại cách tiếp cận chương trình

phát triển DTTS, trường hợp Việt Nam). Báo cáo của Ngân hàng thế giới.

76. Vũ Ngọc Khánh (chủ biên) (1997), Văn hóa tín ngưỡng Tày, Nùng. Viện

nghiên cứu văn hóa dân gian, Hà Nội.

77. Vũ Ngọc Khánh (1998), Sơ lược truyền thống văn hóa dân tộc thiểu số

Việt Nam. Nxb Giáo dục, Hà Nội.

78. Vũ Khánh (Chủ biên) (2009), Người Tày ở Việt Nam. Nxb Thông tấn, Hà Nội.

79. Nguyễn Đình Khoa (1983), Các dân tộc ở Việt Nam. Nxb Khoa học xã

hội, Hà Nội.

80. Lương Quỳnh Khuê (1997), Xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản

sắc dân tộc. Tạp chí Cộng sản số 3,1997 (2).

81. Đỗ Nam Liên (2001), Việc giữ gìn và phát huy “bản sắc dân tộc”, “bản

159

sắc văn hóa”. Tạp chí Khoa học xã hội, số 4(50).

82. Lã Văn Lô, Hà Văn Thư (1984), Văn hóa Tày - Nùng. Nxb Văn hóa.

83. Lã Văn Lô, Đặng Nghiêm Vạn (1968), Sơ lược giới thiệu các nhóm Tày -

Nùng - Thái ở Việt Nam. Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

84. Nguyễn Văn Lộc (chủ biên) (2014), Nghiên cứu, bảo tồn và phát triển ngôn

ngữ văn hóa một số dân tộc thiểu số ở Việt Bắc. Nxb Đại học Thái Nguyên.

85. Hoàng Lương (2002), Lễ hội truyền thống của các dân tộc thiểu số ở

miền Bắc Việt Nam. Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.

86. Hoàng Xuân Lương (2002), Bản sắc văn hóa dân tộc Mông và giải pháp

giữ gìn, phát huy các giá trị của nó ở Việt Nam hiện nay. Luận án tiến sĩ

Triết học, trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, Hà Nội.

87. Nguyễn Thị Lượng (2008), Nét đẹp trong đám cưới của người Tày. Tạp

chí Văn hóa dân tộc, số 11.

88. Trường Lưu (1999), Văn hóa, một số vấn đề lý luận. Nxb Chính trị.

89. Trường Lưu (2003), Toàn cầu hóa và vấn đề bảo tồn văn hóa dân tộc.

Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

90. Federricoe Mayor (1998), Diễn văn tại lễ phát động Thập kỷ thế giới phát triển

văn hóa, UNESCO, Paris.

91. V.M.Mezhuev (2012), Tư tưởng văn hóa, khái luận về triết học văn hóa.

Nxb Chính trị quốc gia - sự thật, Hà Nội.

92. Hồ chí Minh toàn tập, tập 4 (2000). Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

93. Furuata Moto (1998), Chính sách dân tộc của Đảng cộng sản Việt Nam.

Luận án tiến sĩ.

94. Hoàng Nam (1998), Bước đầu tìm hiểu về văn hóa tộc người, văn hóa Việt

Nam. Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.

95. Hoàng Nam (2002), Đặc trưng văn hóa cổ truyền các dân tộc Việt Nam.

Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.

96. Hoàng Nam (2004), Văn hóa các dân tộc vùng Đông Bắc Việt Nam.

160

Trường Đại học Văn hóa, Hà Nội.

97. Hoàng Tuấn Nam (1999), Việc tang lễ cổ truyền của người Tày. Nxb Văn

hóa dân tộc, Hà Nội.

98. Nguyễn Thị Nga (2009), Vấn đề giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân

tộc Dao ở tỉnh Hà Giang hiện nay. Luận văn thạc sĩ Triết học, Học viện

chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh.

99. Đỗ Thị Hằng Nga (2009), Vấn đề kế thừa và phát huy bản sắc văn hóa

dân tộc Mông ở tỉnh Hà Giang hiện nay. Luận văn thạc sĩ Triết học, Học

viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh.

100. Nguyễn Thị Ngân (2009), Tang ma của người Nùng Phàn Slình ở tỉnh

Thái Nguyên. Luận án tiến sĩ chuyên ngành Lịch sử, trường Đại học

Khoa học xã hội và nhân văn, Hà Nội.

101. Phan Ngọc (1998), Bản sắc văn hóa Việt Nam. Nxb Đại học quốc gia Hà Nội.

102. Vi Hồng Nhân (2004), Văn hóa các dân tộc thiểu số từ một góc nhìn.

Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.

103. Nông Thị Nhình (2000), Âm nhạc dân gian các dân tộc Tày - Nùng -

Dao Lạng Sơn. Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.

104. Nông Thị Nhình (2004), Nét chung và riêng của âm nhạc trong diễn

xướng then Tày - Nùng. Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.

105. Nguyễn Thị Nội (2017), Giữ gìn và phát huy giá trị văn hóa truyền

thống tộc người Tày ở Thái Nguyên hiện nay. Luận án tiến sĩ Triết học,

trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, Hà Nội.

106. Từ điển Tiếng Việt (2000). Nxb Đà Nẵng.

107. Đông Bắc - vùng đất, con người (2010). Nxb Quân đội nhân dân.

108. Sắc thái văn hóa địa phương và tộc người trong chiến lược phát triển

đất nước (1998). Nxb Khoa học xã hội.

109. Hoàng Văn Páo (2009), Lễ hội Lồng Thồng của dân tộc Tày ở Lạng Sơn.

Luận án tiến sĩ Lịch sử, Viện khoa học xã hội Việt Nam.

110. Lò Giàng Páo (1997), Tìm hiểu văn hóa vùng các dân tộc thiểu số. Nxb

161

Văn hóa dân tộc, Hà Nội.

111. Giàng A Páo- Lâm Tâm (1979), Truyền thống của dân tộc Mèo đoàn kết

đấu tranh bảo vệ Tổ quốc Việt Nam. Nxb Văn hóa, Hà Nội.

112. Trần Quang Phúc (2013), Giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc. Nxb Lao

động xã hội.

113. Bùi Thanh Quất (2005), Bản sắc và giao lưu văn hóa - từ góc nhìn Triết

học. Tạp chí Triết học số 5.

114. Hồ Sĩ Quý (1999), Tìm hiểu về văn hóa và văn minh. Nxb Chính trị quốc

gia, Hà Nội.

115. Trương Hữu Quýnh (1998), Các nền văn minh trên đất nước Việt Nam.

Nxb Giáo dục, Hà Nội.

116. Dương Sách - Dương Thị Đào - Lã Vinh (2005), Văn hóa ẩm thực các

dân tộc thiểu số vùng Đông Bắc. Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.

117. Trần Hữu Sơn (1996), Văn hoá Mông. Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.

118. Tập thể các tác giả (2015), Văn hóa với động lực của sự nghiệp đổi mới.

Nxb Chính trị quốc gia - sự thật, Hà Nội.

119. Tập thể các tác giả (2001), Các dân tộc thiểu số ở Việt Nam thế kỷ XX.

Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

120. Tập thể các tác giả (1999), Bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc -

vai trò của nghiên cứu và giáo dục. Nxb Thành phố Hồ Chí Minh.

121. Tập thể các tác giả (1987), Một số vấn đề về phát triển văn hóa các dân

tộc thiểu số. Nxb Văn hóa dân tộc.

122. Hoàng Đức Thạch (2009), Giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc

trong thực hiện chính sách dân tộc ở tỉnh Hà Giang. Luận văn thạc sĩ

Triết học, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh.

123. Thái Nguyên: Hội thảo lượn cổ dân tộc Tày trong hội Lồng Tồng.

http://www.dulichvn.org.vn ngày 29/10/2010 (Tổng cục Du lịch).

124. Nguyễn Ngọc Thanh (chủ biên) (2016), Văn hóa truyền thống dân tộc

162

Tày ở Tuyên Quang. Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

125. Triệu Đức Thanh ( 1998), Người Dao ở Hà Giang. Kỷ yếu hội thảo, Hà Nội.

126. Hà Đình Thành (2010), Văn hóa dân gian Tày, Nùng ở Việt Nam. Viện

nghiên cứu văn hóa dân gian, Hà Nội.

127. Song Thành (2010), Hồ Chí Minh - nhà văn hóa kiệt xuất. Nxb Chính trị

quốc gia Hà Nội.

128. Lê Ngọc Thắng - Lâm Bá Nam (1990), Bản sắc văn hóa các dân tộc ở

Việt Nam. Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.

129. Hồ Bá Thâm (2012), Văn hóa và bản sắc văn hóa dân tộc. Nxb Văn hóa

- Thông tin.

130. Trần Ngọc Thêm (1997), Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam. Nxb Thành

phố Hồ Chí Minh.

131. Trần Ngọc Thêm (1998), Cơ sở văn hoá Việt Nam, Nxb giáo dục, Hà Nội.

132. Ngô Đức Thịnh: Văn hóa dân gian và bản sắc văn hóa dân tộc. Tạp chí

Cộng sản, 2001 (3).

133. Ngô Đức Thịnh (2006), Văn hóa, văn hóa tộc người và văn hóa Việt

Nam. Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

134. Ngô Đức Thịnh (chủ biên) (2011), Giá trị văn hóa Việt Nam truyền

thống và biến đổi. Nxb Chính trị quốc gia - sự thật, Hà Nội.

135. Đàm Hoàng Thụ (1998), Bảo tồn và phát huy di sản văn hóa nghệ thuật

ở nước ta hiện nay. Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.

136. Trần Thị Phương Thúy (2010), Văn hóa tộc người H’Mông ở Lào Cai trong

quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Luận văn thạc sĩ Văn hóa học.

137. Nguyễn Đắc Thủy (2009), Bảo tồn và phát huy di sản lễ hội để phát

triển du lịch ở Phú Thọ hiện nay. Luận văn thạc sĩ Văn hóa học.

138. Hoàng Thu Thủy (2014), Quá trình thực hiện chính sách dân tộc của Đảng ở

một số tỉnh miền núi Đông Bắc Việt Nam từ năm 1996 đến năm 2010. Luận án

tiến sĩ Lịch sử, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.

139. Lương Duy Thứ (1996) Đại cương văn hóa Phương Đông. Nxb giáo dục,

163

Hà Nội.

140. Vương Xuân Tình - Trần Hồng Hạnh (chủ biên) (2012), Phát triển bền

vững văn hóa tộc người trong quá trình hội nhập ở vùng Đông Bắc. Nxb

Khoa học xã hội, Hà Nội.

141. Tỉnh ủy Lạng Sơn (2016), Nghị quyết của Ban thường vụ Tỉnh ủy về bảo

tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa tỉnh Lạng Sơn. Lưu tại văn phòng

Tỉnh ủy Lạng Sơn.

142. Tỉnh ủy Lạng Sơn (2016), Báo cáo tổng kết 5 năm thực hiện kết luận số 12-

KL/TU, ngày 25/5/2011 của ban thường vụ Tỉnh ủy về việc tiếp tục thực hiện

Nghị quyết số 13-NQ/TU, ngày 19/4/2007 về bảo tồn và phát huy vốn di sản

văn hóa tỉnh, Số 39/BC-TU. Lưu tại Văn phòng Tỉnh ủy Lạng Sơn.

143. Đặng Hữu Toàn (2000), Gắn phát triển con người Việt Nam hiện đại với giữ

gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc. Tạp chí Triết học số 4 (116).

144. Tổng cục Thống kê (2009), Tổng điều tra dân số. Tổng cục Thống kê Hà Nội.

145. Lê Quang Trang - Nguyễn Trọng Hoài (tuyển chọn và giới thiệu) (2001),

Những vấn đề văn hóa Việt Nam hiện đại. Nxb Giáo dục, Hà Nội.

146. Lê Quang Trang - Nguyễn Trọng Hoài (tuyển chọn và giới, thiệu) (2001),

Những vấn đề văn hóa Việt Nam hiện đại. Nxb Giáo dục, Hà Nội.

147. Bùi Xuân Trường (1998), Một số giải pháp nhằm giữ gìn và phát huy bản sắc

văn hóa dân tộc trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở miền núi –

dân tộc thiểu số. Tạp chí Dân tộc học, số 4.

148. Nông Quốc Tuấn (1998), Trang phục cổ truyền nhóm Dao Đỏ ở huyện

chợ Đồn tỉnh Bắc Cạn. Bảo tàng Văn hoá các dân tộc Việt Nam.

149. Tuyenquang.gov.vn, ngày 5/7/2017, Bảo tồn bản sắc văn hóa dân tộc

Dao Thanh Y.

150. Nguyễn Đình Tường (2006), Giữ gìn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống

ở Việt Nam trước tác động của toàn cầu hóa. Tạp chí Triết học số 5 (180).

151. E.B.Tylor (1871), Văn hóa nguyên thủy, Huyền Giang dịch, Xb Tạp chí văn

hóa nghệ thuật - Hà Nội (2000).

164

152. Ủy ban quốc gia về thập kỷ quốc tế phát triển văn hóa (1992), Thập kỷ thế giới

phát triển văn hóa. Bộ Văn hóa, thông tin và thể thao xuất bản, Hà Nội.

153. Ủy ban nhân dân tỉnh Cao Bằng (2017), Báo cáo về việc thực hiện nhiệm vụ

xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở. Lưu tại Văn phòng UBND tỉnh Cao Bằng.

154. Ủy ban nhân dân tỉnh Cao Bằng (2017), Kế hoạch tổ chức ngày Hội văn hóa

dân tộc Mông tỉnh Cao Bằng lần thứ nhất, năm 2018 và ngày Hội văn hóa dân

tộc Mông huyện Bảo Lâm, tỉnh Cao Bằng năm 2018. Lưu tại Văn phòng

UBND tỉnh Cao Bằng.

155. Ủy ban nhân dân tỉnh Cao Bằng (2019), Báo cáo tổng kết 10 năm thực hiện

chiến lược phát triển văn hóa Việt Nam đến năm 2020. Lưu tại Văn phòng

UBND tỉnh Cao Bằng.

156. Ủy ban nhân dân tỉnh Lạng Sơn (2014), Kế hoạch triển khai thực hiện chiến

lược và và chương trình hành động thực hiện chiến lược công tác dân tộc đến

năm 2020 của Thủ tướng chính phủ trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn, số 52/KH-

UBND. Lưu tại Văn phòng UBND tỉnh Lạng Sơn.

157. Ủy ban nhân dân tỉnh Lạng Sơn (2017), Kế hoạch thực hiện Nghị quyết số 25

- NQ/TU ngày 31/8/2016 của Ban thường vụ Tỉnh ủy về bảo tồn và phát huy

giá trị di sản văn hóa tỉnh Lạng sơn, giai đoạn 2016 - 2020 và những năm tiếp

theo, số 32/KH-UBND. Lưu tại Văn phòng UBND tỉnh Lạng Sơn.

158. Ủy ban nhân dân tỉnh Lạng Sơn, Sở văn hóa thể thao và du lịch (2017),

Kế hoạch thực hiện Nghị Quyết số 25 - NQ/TU ngày 31/8/2016 của Ban

thường vụ Tỉnh ủy về bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa tỉnh Lạng

Sơn từ nay đến năm 2020. Lưu tại Sở Văn hóa thể thao và du lịch tỉnh

Lạng Sơn.

159. Ủy ban nhân dân tỉnh Hà Giang (2016), Quyết định ban hành đề án giáo

dục kỹ năng sống và văn hóa truyền thống các dân tộc thiểu số cho học

sinh phổ thông trên địa bàn tỉnh Hà Giang giai đoạn 2016 - 2020, số

597/QĐ - UBND. Lưu tại Văn phòng UBND tỉnh Hà Giang.

165

160. Ủy ban nhân dân tỉnh Bắc Kạn (2015), Kế hoạch thực hiện nghị quyết số

33 NQ/TW ngày 09 tháng 6 năm 2014 của Ban chấp hành trung ương

Đảng khóa XI về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam

đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước (kèm theo Quyết định số:

153/Đ - UBND ngày 04/02/2015 của UBND tỉnh Bắc Kạn). Lưu tại Văn

phòng UBND tỉnh Bắc Kạn.

161. Ủy ban nhân dân tỉnh Tuyên Quang (2012), Quyết định về việc phê duyệt

Quy hoạch phát triển sự nghiệp văn hóa tỉnh Tuyên Quang đến năm

2020, số 526/QĐ - UBND. Lưu tại Văn phòng UBND tỉnh Tuyên Quang.

162. Ủy ban nhân dân tỉnh Tuyên Quang, Sở văn hóa, thể thao và du lịch

(2015), Báo cáo Đánh giá công tác kiểm kê, sưu tầm, bảo quản, trưng

bày, tuyên truyền di sản văn hóa truyền thống điển hình của các dân tộc

thiểu số Việt Nam trên địa bàn tỉnh Tuyên Quang, từ năm 2010 đến hết

năm 2014. Lưu tại Sở văn hóa, thể thao và du lịch.

163. Ủy ban nhân dân tỉnh Tuyên Quang (2017),Kế hoạch triển khai thực

hiện chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa đến năm 2020,

tầm nhìn 2030 trên địa bàn tỉnh Tuyên Quang, số 66/KH-UBND. Lưu tại

Văn phòng UBND tỉnh Tuyên Quang.

164. Ủy ban nhân dân tỉnh Thái Nguyên (2017), Chương trình phát triển văn

hóa, thể thao và du lịch tỉnh Thái Nguyên, giai đoạn 2017 - 2020. Lưu tại

Văn phòng UBND tỉnh Thái Nguyên.

165. Ủy ban nhân dân tỉnh Thái Nguyên (2015), Kế hoạch Thực hiện Đề án “Bảo

tồn, phát triển văn hóa các dân tộc thiểu số tỉnh Thái Nguyên đến năm 2020”,

Số 30/KH – UBND. Lưu tại Văn phòng UBND tỉnh Thái Nguyên.

166. Ủy ban dân tộc, Tổng quan thực trạng kinh tế - xã hội của 53 dân tộc

thiểu số (5/2017) - Tiểu dự án hỗ trợ giảm nghèo PRPP - UBDT do

UNDP và Irish Aid tài trợ - Lưu hành nội bộ, Hà Nội.

167. Lê Thị Thanh Vân (2009), Phong tục và tín ngưỡng tôn giáo của người

Nùng ở huyện Đồng Hỷ, Thái Nguyên. Luận văn thạc sĩ Lịch sử, trường

166

Đại học Sư phạm Thái Nguyên.

168. Hoàng Vinh (1997), Một số vấn đề về bảo tồn và phát triển di sản văn

hóa dân tộc. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

169. Vụ Văn hoá dân tộc - Bộ Văn hóa Thông tin (2005), Bảo tồn và phát

triển văn hóa dân tộc Mông (kỷ yếu hội thảo). In tại Công ty In và Văn

hóa phẩm, Hà Nội.

170. Vụ Văn hoá dân tộc - Bộ Văn hóa Thông tin (2007), Bảo tồn lễ hội dân

gian các dân tộc thiểu số thời kỳ đổi mới (kỷ yếu hội thảo). Nxb Văn hóa

Thông tin, Hà Nội.

171. Trần Quốc Vượng (chủ biên) (2008), Cơ sở văn hóa Việt Nam. Nxb Giáo dục.

172. Nguyễn Thị Yên (2009), Tín ngưỡng dân gian Tày, Nùng. Nxb Khoa học

xã hội.

PL1

PHỤ LỤC

Biểu 1: Số lượng dân tộc thiểu số chính của một số tỉnh vùng Đông Bắc

(đơn vị: người)

Hà Giang Bắc Kạn Cao Bằng Tuyên Quang Thái Nguyên Lạng Sơn

Tỉnh Dân tộc Tày 186.621 213.827 168.230 204.443 138.360 274.165

Nùng 79.100 153.517 28.652 16.350 70.673 330.421

Mông 268.696 55134 20.512 19.593 8.734 1.347

Dao 122.037 53.112 55.847 101.049 27.870 27.262

(Nguồn: Điều tra thực trạng tình hình kinh tế - xã hội của 53 dân tộc thiểu số

năm 2015)

Biểu 2: Số hộ và tỷ lệ hộ dân tộc thiểu số vùng Đông Bắc có nhà ở truyền

thống của dân tộc mình (đơn vị: hộ)

121.878 Tày 27,5%

59.719 Nùng 24,6%

166.866 Mông 74%

67.831 Dao 37,9%

(Nguồn: Tác giả tính toán dựa trên kết quả Điều tra thực trạng tình hình kinh

tế - xã hội của 53 dân tộc thiểu số năm 2015)

Biểu 3: Số người dân tộc thiểu số và tỷ lệ người dân tộc thiểu số vùng

Đông Bắc biết tiếng dân tộc mình (đơn vị: người)

Tày 1.464.794 92,2%

Nùng 853.224 93,1%

Mông 1.054.406 99,5%

Dao 726.431 98,3%

(Nguồn: Tác giả tính toán dựa trên kết quả Điều tra thực trạng tình hình kinh

tế - xã hội của 53 dân tộc thiểu số năm 2015)

PL2

Biểu 4: Số hộ và tỷ lệ hộ dân tộc thiểu số vùng Đông Bắc biết điệu múa

truyền thống của dân tộc mình (đơn vị: hộ)

15.041 3,4% Tày

2.300 0,9% Nùng

35.371 15,7% Mông

10.275 5,7% Dao

(Nguồn: Tác giả tính toán dựa trên kết quả Điều tra thực trạng tình hình kinh

tế - xã hội của 53 dân tộc thiểu số năm 2015)

Biểu 5: Số hộ và tỷ lệ hộ dân tộc thiểu số vùng Đông Bắc có các thành

viên của hộ biết hát bài hát truyền thống (đơn vị: hộ)

36.543 8,2% Tày

17.285 7,1% Nùng

64.735 28,7% Mông

19.334 10,8% Dao

(Nguồn: Tác giả tính toán dựa trên kết quả Điều tra thực trạng tình hình kinh

tế - xã hội của 53 dân tộc thiểu số năm 2015)

Biểu 6: Số hộ và tỷ lệ hộ dân tộc thiểu số vùng Đông Bắc biết sử dụng

nhạc cụ truyền thống của dân tộc mình (đơn vị: hộ)

9.838 2,2& Tày

2.264 0,9% Nùng

34.054 15,1% Mông

6.133 3,4% Dao

(Nguồn: Tác giả tính toán dựa trên kết quả Điều tra thực trạng tình hình kinh

tế - xã hội của 53 dân tộc thiểu số năm 2015)

PL3

Biểu 7. Các dự án sưu tầm, bảo tồn và phát huy di sản văn hóa phi vật

thể ở một số tỉnh vùng Đông Bắc

STT Tên dự án

Tên địa phương thực hiện Bắc Kạn

Sinh hoạt dân ca dân tộc Cao Lan

1

Năm thực hiện 1998 Đám cưới người Dao 1999 2000 Hội Lồng tồng 2001 Y phục cổ truyền người Dao (đỏ + trắng) 2002 Nghề dệt thổ cẩm dân tộc Dao 2003 Then cổ của dân tộc Tày 2004

2005

2006

2007 Sưu tầm lễ đặt tên con (người Dao Tiền) Tổng điều tra di sản văn hóa phi vật thể các dân tộc thuộc ngữ hệ Tày - Thái Một số hình thức sinh hoạt văn hóa sông nước của cư dân bản địa vùng hồ Ba Bể Bảo tồn làn điệu Lượn Slương dân tộc Tày, huyện Na Rì

2008 Đám cưới người Nùng Giang

2009

2010

2011

2012

Dự án bảo tồn và phát triển Làng văn hóa truyền thống dân tộc Tày, bản Pác Ngòi, Nam Mẫu, Ba Bể Nghi lễ đám tang người Nùng, xã Dương Sơn, Na Rì Phục dựng lễ hội Lồng tồng , Bằng Sơn, Ngân Sơn Dự án, sưu tầm, bảo tồn “Thơ Lẩu - thơ đám cưới” của người Tày ở xã Nghiên Loan, Pắc Nặm

Cao Bằng 2

1998 Lễ Quá tang – Tẩu Sai (dân tộc Dao) 1999 Hội lễ dân tộc Ngạn

PL4

Sli, lượn dân tộc Tày, Nùng

2000 2002 Nghề dệt thổ cẩm dân tộc Tày 2004 Điều tra văn hóa phi vật thể 2005 Nghệ thuật hát then Cao Bằng 2006 Văn hóa một làng cổ người Tày 2008 Dân ca giá hai dân tộc Nùng, Cao Bằng

2009

2009

2011

2012

3 Hà Giang

Sưu tầm, nghiên cứu dân ca, dân vũ của người Dao đỏ Bảo tồn làng văn hóa truyền thống dân tộc Tày tại xóm Khuổi Ky, Đàm Thủy, Trùng Khánh Nghiên cứu, phục dựng đám cưới dân tộc Dao đỏ Sưu tầm, bảo tồn nghệ thuật Lượn then tứ quý dân tộc Tày 1997 Lễ hộ dân tộc Pà Thẻn 1998 Tết tháng bày (dân tộc La Chí) 1999 Lễ tế trời của dân tộc Lô Lô 2000 Hát dân ca dân tộc Bố Y

2001

Những nghề thủ công tiêu biểu của người H’Mông Sinh hoạt hát giao duyên dân tộc La Chí

2002 2003 Lễ mừng thọ của người Suồng 2004 Lễ mừng thọ của người Phù Lá 2005 Tết khu Cù Tê dân tộc La Chí 2006 Các làn điệu dân ca của dân tộc Tày - Hà Giang 2007 Lễ đặt tên cho người Dao đại bản 2008 Sưu tầm dân ca dân tộc Nùng U

4 Lạng Sơn

1998 Then cấp sắc 1999 Lễ hội Lồng tồng dân tộc Tày 2000 Then Kỳ yên 2001 Mo Nùng (trong tang lễ dân tộc)

PL5

2002 Hát Lượn dân tộc Tày 2003 Hát Sli của người Nùng Phàn Sình 2004 Hát Si của người Nùng Cháo ở Cao Lộc 2005 Hát ví dân tộc Tày huyện Bắc Sơn

2006 Lễ hội tình yêu xã Quốc Khánh, huyện Tràng Định, Lạng Sơn

2011

2012

2013 2007 Hát Lượn dân tộc Tày, Bàng Mạc, Chi Lăng Sưu tầm hát Sắng cọ người Sán Chí 2008 Nghiên cứu, phục dựng lễ hội Ná Nhèm, xã Trấn Yên, huyện Bắc Sơn Nghiên cứu, phục dựng lễ hội Háng Ví, xã Chiến Thắng, huyện Chi Lăng Nghiên cứu, phục dựng lễ hội Nàng Hai, xã Chí minh, huyện Tràng Định

2014 Lễ Sinh Nhật (Chúc thọ) người Nùng Lạng Sơn

5

Thái Nguyên

1998 Đám cưới Tày 1999 Lễ nhận rể và đưa dâu dân tộc Tày 2000 Lễ Cưới, đưa dâu dân tộc Sán Dìu 2002 Nghề dệt thổ cẩm của dân tộc Cao Lan 2003 Nghề làm thuốc nam người Dao

2004 Lễ cấp sắc của dân tộc Dao Lô Gang (Phú Lương)

2005 Tổng điều tra văn hóa phi vật thể vùng ATK

2007

2008

2015- 2016 Tổ chức lễ hội Oóc pò (ra đồng) dân tộc Nùng – Đồng Hỷ Bảo tồn nghề làm con rối và biêu diễn rối cạn tại Thẩm Rộc, Bình yên, Định Hóa, Thái Nguyên Khôi phục, bảo tồn tinh hoa văn hóa truyền thống các dân tộc thiểu số của các huyện Định Hóa, Đồng Hỷ, Phú Lương, Võ Nhai, Đại Từ

PL6

6

Tuyên Quang

1998 Hát Sình ca dân tộc Cao Lan 1999 Hát ru và hát giao duyên dân tộc Dao 2002 Then khỏa quan dân tộc Tày

2003 Hát Páo Dung trong lễ tục của người Dao ở Na Hang

2004 Điều tra văn hóa dân tộc Sán Dìu

2005

2006

2007 Tổng điều tra di sản văn hóa phi vật thể tỉnh Tuyên Quang Tổng điều tra và bảo tồn di sản văn hóa phi vật thể tỉnh Tuyên Quang (tiếp tục từ năm 2005 chuyển sang) Tổng điều tra di sản văn hóa phi vật thể (chuyển tiếp từ năm 2006)

2008 Tổng điều tra di sản văn hóa phi vật thể ở ATK