intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Gốm sứ Việt trong thương mại quốc tế

Chia sẻ: Dong Thi Hoan | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:4

80
lượt xem
10
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Gốm sứ Việt trong thương mại quốc tế sẽ cho chúng ta một cái nhìn chi tiết nhất về thời gian ra đời phát triển của gốm sứ, thời gian gốm sứ xuất hiện trên thị trường thế giới, cuối cùng là sự phát triển của gốm sứ cho đến ngày hôm nay. Mời các bạn tham khảo tài liệu.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Gốm sứ Việt trong thương mại quốc tế

  1. GỐM SỨ VIỆT TRONG THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ Đồng Thị Hồng Hoàn Có lẽ  ít loai đồ  vật nào lại đuợc sử  dụng phổ biến và gần gũi với con người trong mọi   thời đại như gốm sứ, từ đồ dùng thiết yếu trong đời sống sinh hoạt, tín ngưỡng… cho đến trang   trí nội thất kiến trúc hay vật liệu cho công trình xây dựng.  Qua các nghiên cứu khảo cổ, cho thấy   gốm Việt Nam đã xuất hiện uớc chừng cách ngày nay gần 1 vạn năm, vào giai đoạn cuối của  văn hoá Hoà Bình đầu văn hoá Bắc Sơn và gắn bó suốt chặng đường dài của lịch sử người Việt.  Theo kết quả của các cuộc khai quật trong vòng 20 năm trở lại đây, tổ tiên người Việt cách đây  5000 đến 4000 năm đã biết sử dụng bàn xoay thành thục, biết trang trí lên gốm bằng những nét   khắc tinh xảo, chủ yếu là hoa văn răng lược, khắc vạch, làn sóng…             Theo tài liệu nghiên cứu  “Lịch sử đồ gốm”­ của Nguyễn Văn Tuấn: thời kỳ Bắc thuộc lần   thứ  3 (603­939), đồ  gốm Việt nam đã xuất cảng sang  Ả  Rập, Nam Thái Bình Dương ­   khách  thương Ả Rập Ibn Khurdadhbih đã từng viết về cuộc du hành của ông ghé qua Long Biên trước  khi đến Quảng Châu.  Vào thời Tiền Lê(980­1009), khu vực Quảng Ninh ­ sát Hải Phòng có cảng Vân Đồn sầm   uất, sự  trao đổi hàng hóa với các nước đã  ảnh hưởng rõ trên gốm qua các di vật gốm sứ   ảnh  hưởng nước men  ảnh hưởng văn hóa Chăm, Hoa,  Ấn Độ, Hồi Giáo… đồ  men ngọc được sản  xuất nhiều.        Năm 1010 với sự ra đời và phát triển của kinh thành Thăng Long(Hà Nội), đã tác động mạnh  đến hoạt động kinh tế của khu vực xung quanh kinh thành. Quá trình khai quật khảo cổ, người ta đã   tìm thấy dấu vết của nhiều làng gốm xưa nằm sâu dưới lòng đất. Đó là những di tích nhà cổ, lò  gốm, sân gạch và nhiều phế  vật bằng gốm điển hình  ở  miền Bắc: Chu Đậu(Hải Dương), Bát  Tràng(Hà Nội), Phù Lãng(Bắc Ninh), Quảng Ninh… và nhiều địa điểm ở  miền Trung, miền Nam  như: Bình Định, Binh Dương, Sài Gòn…   Khai quật Hoàng thành Thăng Long, nghiên cứu gốm cổ  Việt Nam (hợp tác Việt nam­   Nhật bản) và các di tích khác cùng thời kỳ  ta thấy, gốm thời Lý­Trần ngoài phục vụ  đời sống  sinh hoạt, còn đáp ứng nhu cầu xây dựng, trang trí và thờ cúng ở công trình kiến trúc tín ngưỡng  Phật giáo và cung đình. Nhưng, sản phẩm đồ  gốm gia dụng thời Trần không còn vẻ  thanh nhã   như thời Lý mà tạo dáng vững chắc, giản dị. Đồ gốm hoa lam dưới men thời Trần là một thành   tựu lớn làm căn bản cho nghề  gốm để  các đời sau kế  thừa và phát triển. Vào thời  Hồ  (1400­ 1407), gốm Chu Đậu xuất hiện nhiều nơi gồm các sản phẩm men trắng, hoa văn màu chàm…  Thế kỷ XV, nhà Lê đã giành được chính quyền từ ách áp bức, đô hộ của Trung Quốc và đưa   đất nước tiến lên một giai đoạn phát triển mới, thanh bình, thịnh trị. Với sự  quan tâm và khuyến  khích của nhà nước mới, xuất hiện nhiều vùng lò gốm mới được hình thành, điển hình là gốm Chu  Đậu ở lưu vực Sông Hồng và khu vực gần cảng Hội An, gốm sứ mang nhiều phong cách chế tác   mới cả  về  mặt tạo hình và trang trí sản phẩm, khác hẳn so với gốm sứ  Trung Quốc trước đây.  Người Nhật bắt đầu nhập cảng gốm Việt để dùng trong Trà Đạo. Việc khám phá ra tàu cổ Hội  An năm 1999 đã mang lại một sự hiểu biết sâu sắc về chất lượng gốm sứ của Việt Nam được sản  xuất khoảng giữa thế kỷ XV. Nhiều làng gốm Việt Nam đã trở thành một trung tâm gốm nổi tiếng   1
  2. được triều đình chọn cung cấp đồ  cống phẩm cho nhà Minh, Trung Quốc và xuất khẩu ra nước   ngoài. Sách “Dư địa chí” của Nguyễn Trãi, đầu thế kỷ XV cũng ghi “Làng Bát Tràng làm nghề bát   chén, trước đây mỗi lần cống nạp Trung Quốc, làng Bát Tràng phải nộp 70 bộ bát chén…”. Oueda  Tokoumosouke trong “Đồ  gốm Nhật Bản”(La ceramique Japonnaise) Nhà XB Le Roux Paris, 1873  trang 78, 87, 90, 93… cho rằng: từ năm 1596­ 1873, ở Nhật bản có nhiều thợ gốm giỏi bắt chước và  làm theo gốm cổ Việt Nam, mà họ gọi là gốm Giao Chỉ. Tác giả Morimura Kenichi trong hội thảo:   “đồ gốm sứ Việt Nam và mối quan hệ Việt Nam ­ Nhật Bản”,  đã đưa ra nhận xét rằng: chính đồ  gốm sứ Việt Nam giai đoạn thế kỷ XV­XVI đã có ảnh hưởng và có mối quan hệ mật thiết với quá   trình hình thành các dòng phái trà đạo của Nhật Bản. Năm 1980, một phát hiện lý thú của ông Makato Anabuki, về chiếc bình gốm hoa lam cổ  Chu Ðậu cao 54 cm hiện trưng bày tại Bảo tàng quốc gia Tokapi Saray ở Istanbul (Thổ Nhĩ Kỳ),  ở  quanh vai có 13 chữ  Hán: “Thái Hòa bát niên ­ Nam Sách châu, tượng nhân Bùi Thị  Hý bút  “(dịch: Năm Thái Hòa thứ tám (1450), tại châu Nam Sách, người thợ Bùi Thị Hý viết). Gần đây,  việc trục vớt những tàu cổ đắm ở vùng biển Pandanan (Philippine), vùng biển Cù Lao Chàm (Hội   An, Đà Nẵng), cho thấy nhiều hiện vật gốm đều là gốm Chu Đậu, chứng tỏ  gốm Chu Đậu đã  xuất khẩu với số lượng lớn cách đây 7­ 8 thế kỷ. Thời kỳ ấy, gốm Chu Đậu đã đạt được 4 tiêu   chuẩn ở đỉnh điểm mà văn hoá gốm đòi hỏi: mỏng như giấy, trong như ngọc, trắng như ngà, kêu   như chuông. Chuyến tàu cuối cùng chở gốm Chu Đậu xuất đi Tây Ban Nha năm 1999 được phát lộ  qua kết quả khảo cổ con tàu đắm ở Cù Lao Chàm­ thu vớt 27 vạn sản phẩm gốm cao cấp có xuất  sứ từ Chu Đậu. Đây chỉ là sản phẩm trong một năm của các nghệ nhân Chu Đậu, vậy trong 200   năm phát triển rực rỡ, các nghệ  nhân Chu Đậu đã sản xuất một khối lượng sản phẩm là bao   nhiêu? Hiện nay ở hầu hết các nước Đông Nam Á, cùng với 46 bảo tàng trên thế giới có tiêu bản  gốm Chu Đậu, chiếc bình cổ  của Bùi Thị  Hý  ở  bảo tàng Thổ  Nhỹ  Kỳ  được bảo hộ  tới 1 triệu   USD và những sản phẩm gốm Chu Đậu cổ được bán với giá hàng trăm ngàn USD trên thế giới là   chuyện bình thường. Cuối thế kỷ  XV dưới triều Lê (1428­1527) có nhiều sản phẩm gốm phong  phú và được lưu thông rộng rãi, loại sứ trắng hoa lam, hoa xanh, đặc biệt phát triển, đồ  gốm sứ  Việt Nam xuất cảng mạnh sang  Ả  Rập, nam Thái Bình Dương. Các sản phẩm Chu Đậu hiện  nay được tìm thấy rất nhiều nơi trên thế giới từ Ai Cập, Trung Cận Đông, đến toàn bộ các nước   ở  Đông Nam Á và rất nhiều  ở  Nhật Bản,  mở  đầu cho thời kỳ  xuất khẩu đồ  gốm sang nước  ngoài phát triển mạnh mẽ. Tk XV­XVII là giai đoạn phát triển mạnh mẽ  của ngành sản xuất  gốm xuất khẩu Việt Nam qua thuyền buôn Trung Quốc, Nhật Bản, các nước Đông Nam Á và  các nước phương Tây. Thế  kỷ  XVI dưới triều Mạc (1527­1592) và thế  kỷ  XVII­ XVIII sau này, còn ghi lại   trong các cuốn sách ghi chép lại của các thương nhân Châu Âu đến Đại Việt buôn bán vào thế  kỷ  17­18 (Lịch sử  vương quốc Đàng Ngoài,  Một chuyến du hành đến Đàng Ngoài năm 1688',  Những người Châu Âu ở nước An Nam,...) đều có ghi chép về các sản phẩm gốm, sứ của người   Việt tinh xảo không thua gì Trung Hoa. Nhiều bình lớn, bình hương có niên hiệu thời Mạc được   bảo tồn  ở một số đình chùa và các sưu tập ở Việt Nam và quốc tế. Nhiều nghệ nhân gốm còn  lưu danh trên sản phẩm của mình, tiêu biểu là Đặng Mậu Nghiệp, tự  Huyền Thông, quê  ở  xã  Hùng Thắng, huyện Thanh Lâm,  phủ  Nam Sách  (nay thuộc xã Minh Tân,  Nam Thanh,  Hải  Dương). Những minh văn đắp nổi, khắc chìm còn lưu rõ trên sản phẩm gốm thời Mạc. Kết quả  khảo cổ khu vực khảo cổ cảng thị Domea  ở Tiên Lãng, Hải Phòng đã tìm thấy cả chục ngàn di  vật gốm dòng Chu Đậu thế kỷ XVI­XVII , thời kỳ này gốm Việt Nam phát triển trong một bối cảnh   2
  3. kinh tế mới của đất nước và khu vực. Hoạt động mậu dịch hàng hải khu vực Đông Nam Á càng trở  nên sôi động, lôi cuốn các nước trong khu vực vào hệ thống buôn bán châu Á và với thị trường thế giới   đang hình thành. Sử  sách các cuốn du ký còn ghi hàng vạn đồ  gốm Việt Nam được xuất cảng  sang Inđônêxia thế kỷ XVI­XVII. Thời Hậu Lê (1593 ­ 1789). Nhà Lê được hai họ Nguyễn ­ Trịnh nỗ lực phù tá năm 1593   đánh bại nhà Mạc trở  về  Thăng Long. Sau thời kỳ  chiến tranh dữ  dội, các trung tâm gốm nổi  tiếng ở Chu Đậu, Thanh Lâm gần quê hương của vua Mạc vị tàn phá nặng nề  nên tàn lụi dần.   Từ thế kỷ XVII đến XVIII, nghề gốm hoạt động ở vùng Bát Tràng, Thổ Hà… chuyên sản xuất   loại gốm sinh hoạt và thờ  cúng theo phong cách mới. Các đề  tài bắt nguồn từ  Phật giáo mất   dần, thay thế  bằng các đề  tài Nho giáo như  tứ  linh, tam hữu, tam đa, lục bảo... Cuối thế  kỷ  XVIII nghề gốm Việt Nam suy thoái dần vì nhiều nguyên nhân, nội tại và ngoại lai. Đồ  tự  khí,  trang trí tại chùa chiền dần dần thay thế  bằng loại đồ  gốm sứ  Trung Quốc và châu Âu (điển   hình là ở các lăng mộ vua Nguyễn). Đồ gốm gia dụng không có gì đặc sắc chỉ dùng để phục vụ  giới bình dân, từ cuối TK XVII, nhất là từ TK XVIII, việc xuất khẩu và buôn bán đồ  gốm Việt   Nam ở Đông Nam Á bị giảm sút, gốm sứ chất lượng cao của Trung Quốc tràn xuống thị trường   Đông Nam Á.  Hiện nay có rất nhiều làng gốm ở Việt Nam được phục hồi dần, trong đó phải kể đến gốm   Bát Tràng (Hà Nội), gốm Móng Cái, Đông Triều (Quảng Ninh), gốm Phù Lãng (Bắc Ninh), tuy   muộn mằn hơn các nơi khác nhưng gốm Chu Đậu (Hải Dương) cũng đang tìm lại nghề thất truyền   của làng. Miền Trung có gốm Thanh Hà (Hội An), Gõ (Phú Yên), độc đáo hơn cả là gốm Bàu Trúc   (Ninh Thuận); Miền Nam gần đây xuất gốm Lai Thiệu(Bình Dương), Biên Hòa (Đồng Nai), gốm  Sài Gòn…Sản phẩm gốm sứ của Việt Nam phong phú, từ những đồ vật phục vụ sinh hoạt như lọ  đựng tăm, gạt tàn thuốc lá, bát đĩa...đến những sản phẩm gốm sứ trang trí như tượng, lọ hoa, bình,   đôn, tranh… Hiện nay, xí nghiệp gốm Chu Đậu ra đời để  khôi phục giữ  gìn bằng được  “thần thái   phong cách gốm cổ Chu Đậu”. Sau một năm sản xuất, xí nghiệp đã có lô hàng đầu tiên 8490 sản   phẩm xuất khẩu trị giá 20.000 USD. Thế là sau 400 năm Chu Đậu lại có hàng xuất cho Tây Ban   Nha – nơi chuyến cuối cùng được xuất sang ở thế kỷ thứ XVII. Các loại gốm được ưa chuộng hiện nay vẫn là gốm men ngọc truyền thống với hoa văn  khắc chìm hoặc in nổi trong lòng bát, lòng đĩa dưới màu men ngọc trong suốt, cho ta một vẻ đẹp  dịu dàng, sâu đậm; gốm hoa lam với lối trang trí dưới men nhưng không khắc vạch và chỉ vẽ lối   nhẹ nhàng như thủy mặc; gốm da lươn mang một màu vàng sẫm. Họa tiết trên sản phẩm được  gắn liền với những hình  ảnh quen thuộc trong đời sống văn hóa Việt như  chú bé thổi sáo trên   lưng trâu, cây đa cổng làng, mái chùa, hồ  sen…Hiện nay, sản phẩm và thương hiệu gốm Việt   Nam đã có mặt tại nhiều nước trên thế giới và khẳng định được vị trí của mình. Trong bối cảnh hiện nay, trước sự suy thoái của nền kinh tế thế giới, nhiều quốc gia lâm  vào tình trạng khó khăn, lạm phát tăng cao nên người tiêu dùng đang thắt chặt chi tiêu. Mặt hàng   gốm sứ  xuất khẩu của Việt Nam, chủ yếu là mặt hàng gốm sứ  mỹ  nghệ  và đồ  trang trí, sức   mua đã giảm mạnh. Dự báo trong những tháng tới, do ảnh hưởng của tình hình kinh tế thế giới   3
  4. tiếp tục gặp khó khăn nên xuất khẩu các mặt hàng gốm sứ mỹ nghệ và gia dụng của Việt Nam   sẽ  khó có thể  tăng cao, mặc dù theo chu kỳ  chung hàng năm, thì xuất khẩu các mặt hàng này   thường tăng mạnh vào các tháng cuối năm. Ngành gốm cổ  xưa ít ghi danh những tác giả  trên sản phẩm của mình, có lẽ  vì thế  mà   suốt cả vạn năm nghề gốm cổ truyền chỉ ghi danh  Đặng Mậu Nghiệp, tự Huyền Thông, quê ở  xã Hùng Thắng, huyện Thanh Lâm, phủ Nam Sách (Hải Dương), mới đây lại được nghe tên Bùi   Thị  Hý qua dòng chữ  trên bình cổ   ở  bảo tàng Thổ  Nhĩ Kỳ  do phát hiện của ông Đại sư  Nhật :  "Thái hòa bát niên (1450) Nam Sách châu, tương nhân Bùi Thị Hý bút”…  để lại sản phẩm giá trị  cho quốc gia và quốc tế.   Nhưng ngành gốm hiện nay phát triển còn ghi lại sáng tạo của những   người thực sự  có tâm huyết và công lao với ngành gốm hiện đại như  Nguyễn Văn Y, Lê Quốc   Lộc, Nguyễn Trọng Niết, Lê Ngọc Hân, Lê Duy Ngoạm, Cao Trọng Thiềm, Nguyễn Trọng   Đoan… Thiết nghĩ nếu ngành gốm có thêm nhiều tác có tài năng và tâm huyết, chắc chắn các sản   phẩm gốm Việt nam sẽ được lưu danh mãi mãi trên thương trường quốc tế mà còn là những tác   phẩm độc nhất được ghi danh ở những bảo tàng nghệ thuật uy tín quốc tế như sản phẩm của Bùi  Thị Hý ở Nam Sách Hải Dương. Tài liệu tham khảo: 1. Viện Nghệ thuật “Mỹ thuật Lê Sơ”­ Nhà XB Văn hóa 1978 2. Viện khảo cổ học “Những phát hiện mới về khảo cổ học”­ Nhà XBKHXH 1995 3. Viện Mỹ thuật­Trường ĐH Mỹ Thuật Hà Nội, Trường ĐH Mỹ Thuật CN  “Nguyễn Văn   Y với mỹ thuật ứng dụng”­ Nhà XB Mỹ thuật 1999 4. Hội Mỹ thuật Viêt Nam­ “Mỹ thuật ứng dụng Việt nam đương đại”­ Nhà XB Mỹ thuật  2003 5. Viện Khảo cổ học “Hoàng Thành Thăng Long”­ Nhà XB Văn hóa thông tin 2006 6. Trần Văn Tuấn “Lịch sử đồ gốm”­ http://www.sfa­antiques.com 7. Trần Khánh Chương“Gốm Việt Nam từ đất nung đến sứ”­ 470tr, Nhà XB Mỹ thuật 2004 8. Bùi ngọc Tuấn ­ “Đồ gốm cổ truyền Việt Nam” ­ Web: http://www.thuvien­ebook.com 9. “Vài nét về  đồ  Gốm Việt Nam trên thị  trường Gốm quốc tế  vào thế  kỷ  14 đến thế  kỷ   17”­ Web: http://gosanh.vn 10. Vũ   Úy   ­   “Gốm   Chu   Đậu   bừng   tỉnh   sau   400   năm   thất   truyền ”­   Web:  http://www.vietnamnet.com.vn 11. Hồ Trung Tú “Vẻ đẹp Chu Đậu” – Web: http://vietbao.vn 12. Quốc Bảo “Đề tài Phật giáo trong gốm cổ Việt nam”­ Web: http://covat.net 13. Viện thông tin khoa học xã hội “Nghề  gốm Thổ  Hà ­ Bắc Giang (Ảnh chụp trước năm  1935)” Web http://www.issi.gov.vn 4
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2