2
trong nghiên cứu hiện tại. Sau khi hai mô hình nghiên cứu được đề xuất và thang đo dự thảo đầu tiên được
hình thành. Luận án này sử dụng phương pháp nghiên cứu gồm hai giai đoạn: nghiên cứu sơ bộ và khảo sát
chính thức. Trong nghiên cứu sơ bộ, hai cuộc thảo luận nhóm với năm giảng viên giảng dạy môn quản trị
nguồn nhân lực và mười nhân viên tuyến đầu đã được tiến hành để đánh giá nội dung thang đo của hai nghiên
cứu. Trong giai đoạn định lượng tiếp theo của nghiên cứu sơ bộ, một cuộc khảo sát với 50 nhân viên tuyến đầu
đã được thực hiện để điều chỉnh thang đo. Độ tin cậy Cronbach's alpha và phân tích nhân tố khám phá (EFA)
được sử dụng để đánh giá sơ bộ các thang đo bằng phần mềm SPSS (Nguyễn Đình Thọ, 2011). Sau đó, mẫu
gồm 452 nhân viên tuyến đầu làm việc tại các ngân hàng và sân bay ở Việt Nam đã được sử dụng để phân tích
dữ liệu cho Nghiên cứu 1 và Nghiên cứu 2.
1.4. Đóng góp của nghiên cứu
Luận án này đáp ứng lời kêu gọi từ các nghiên cứu trước đây nhằm điều tra tác động của hành vi khiếm
nhã tại nơi làm việc đối với đời sống cá nhân (hạnh phúc chủ quan) và công việc của nhân viên (hiệu quả công
việc); và khám phá những yếu tố nào có thể làm giảm bớt tác động có hại của nó. Luận án này đóng góp vào
cơ sở lý thuyết về hành vi khiếm nhã tại nơi làm việc thông qua một số điểm chính sau.Thứ nhất, tác động của
hành vi khiếm nhã đến hạnh phúc chủ quan vẫn chưa được khám phá. Các nghiên cứu trước đây tập trung vào
việc điều tra các yếu tố làm tăng mức độ hạnh phúc chủ quan của nhân viên trong khi các yếu tố có thể làm
giảm mức độ hạnh phúc chủ quan (ví dụ hành vi khiếm nhã) vẫn còn hạn chế, đặc biệt là trong bối cảnh ngành
dịch vụ. Thứ hai, còn thiếu các nghiên cứu điều tra vai trò trung gian của sự giao thoa giữa công việc và gia
đình trong mối liên hệ giữa hành vi khiếm nhã và kết quả của nó. Các nghiên cứu thực nghiệm hiếm khi nghiên
cứu vai trò trung gian tiềm tàng của việc làm giàu nguồn lực gia đình thông qua công việc trong mối liên hệ
giữa hành vi khiếm nhã và kết quả của nó (Agrawal & Mahajan, 2021), đặc biệt là mối liên hệ giữa hành vi
khiếm nhã và sự hạnh phúc chủ quan của nhân viên. Luận án này lấp đầy khoảng trống này bằng cách điều tra
tác động của hành vi khiếm nhã đối với hạnh phúc chủ quan của nhân viên thông qua vai trò trung gian của
làm giàu nguồn lực gia đình thông qua công việc. Thứ ba, những phát hiện về mối liên hệ giữa hành vi khiếm
nhã và hiệu quả công việc là không nhất quán. Mặc dù mối quan hệ giữa hành vi khiếm nhã tại nơi làm việc
và hiệu quả công việc của nhân viên đã được kiểm tra nhưng kết quả nghiên cứu vẫn chưa nhất quán (Cheng
và cộng sự, 2020; Shin và cộng sự, 2022) và cần nhiều nghiên cứu hơn nhằm sáng tỏ vấn đề này. Luận án này
đóng góp cho lý thuyết bảo tồn nguồn lực bằng cách xem xét sự căng thẳng tâm lý đóng vai trò trung gian giữa
tác động của hành vi khiếm nhã ở nơi làm việc và hiệu quả công việc của nhân viên. Thứ tư, nghiên cứu về tác
động của hành vi khiếm nhã từ các nguồn khác nhau đến nhân viên chưa nhận được nhiều sự quan tâm của các
học giả. Luận án đáp ứng lời kêu gọi từ các nghiên cứu trước đây nhằm điều tra tác động của hành vi khiếm
nhã từ các nguồn khác nhau (Schilpzand và cộng sự, 2016; Vasconcelos, 2020) và hệ quả của nó. Cụ thể, luận
án này lấp đầy khoảng trống này bằng cách nghiên cứu hành vi khiếm nhã từ các nguồn bên trong tổ chức
(hành vi khiếm nhã của người giám sát và đồng nghiệp) và bên ngoài tổ chức (hành vi khiếm nhã của khách
hàng). Thứ năm, các biến đóng vai trò điều tiết nhằm làm giảm tác động của hành vi khiếm nhã và là yếu tố
tiềm năng để bảo vệ nguồn lực cá nhân (ví dụ: chiến lược đối phó, chánh niệm) vẫn chưa được nghiên cứu
rộng rãi trong các nghiên cứu về hành vi khiếm nhã. Thông qua việc hiểu cơ chế qua đó các chiến lược đối
phó và chánh niệm làm giảm tác động tiêu cực của hành vi khiếm nhã tại nơi làm việc từ các nguồn gây hấn
khác nhau, luận án này có thể giúp các nhà quản lý có những biện pháp can thiệp hiệu quả nhằm giảm tác động
tiêu cực của hành vi khiếm nhã, từ đó nâng cao hạnh phúc chủ quan và hiệu quả công việc của nhân viên.