Hát cửa đình

500 năm về trước, tại đình làng Đông Ngạc, huyện Từ Liêm (Hà Nội) đã diễn

ra lễ hội đầu xuân cầu phúc trong không khí đại lễ trang nghiêm, hào hùng.

Trong ngày hội lớn đó 8 giáp trong làng cùng nhau thưởng đào ở đình làng.

Các cô đào hát những bài thơ ca ngợi thành hoàng làng và cầu phúc cho dân

làng. Lê Đức Mao đã thay mặt 8 giáp viết 9 bài văn để các giáp đọc và khen

thưởng cho các cô đào. Đó là tư liệu sớm nhất để khẳng định ca trù đã có mặt

trong văn hóa Việt Nam từ thế kỷ XV. Từ thế kỷ XV đến đầu thế kỷ XX, hát

cửa đình là một sinh hoạt không thể thiếu trong mỗi dịp tế thần Thành hoàng

làng, trở thành một nét đẹp của văn hóa Việt Nam. Những cuộc hát cửa đình

này đều do các giáo phường đảm nhiệm

Ở thế kỷ XV ca trù đã là một bộ môn hoàn chỉnh về lối chơi

(qua phát hiện tư liệu sớm nhất về ca trù Việt Nam)

Trước đây nhiều nhà nghiên cứu cho rằng ca trù có từ thời Lý - Trần -Hồ, thế kỷ

XI, XII khi căn cứ vào các bức chạm khắc ở các chùa Phật Tích (Bắc Ninh), Thái

Lạc (Hưng Yên) và mấy chữ ả đào, đào nương trong các sách cổ Đại Việt sử ký

toàn thư, Việt sử tiêu án, Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Công dư tiệp

ký.

Gần đây với các tài liệu khảo cổ học, mỹ thuật học và nhất là tài liệu bằng chữ

Hán Nôm xác thực và tin cậy, chúng ta chỉ mới có tài liệu về ca trù sớm nhất là

khoảng thế kỷ XV. Căn cứ về khảo cổ học là các bức chạm khắc đàn đáy - một

cây đàn 3 dây đặc biệt chỉ dùng riêng trong ca trù, tìm thấy ở các ngôi đình làng,

chùa làng ở Bắc bộ thế kỷ XVI. Tư liệu chữ viết là bài Đại nghĩ bát giáp thưởng

đào giải văn của Tiến sĩ Lê Đức Mao (1462- 1529) trong sách Lê tộc gia phả

(A.1855) soạn trước năm 1505, tức là khoảng cuối thế kỷ XV đầu thế kỷ XVI.

Đây chính là tư liệu sớm nhất mang hai chữ Ca trù. Đây cũng là Bài thơ cổ nhất

hiện biết có hai chữ Ca trù lần đầu tiên có mặt trong văn học viết.

Bài thơ cho chúng ta thông tin quan trọng: ngôi đình Đông Ngạc, xã Đông Ngạc,

huyện Từ Liêm, Hà Nội có trước năm 1500 và hát cửa đình đã có trước năm 1500.

Bài thơ cho ta mường tượng ra không khí đại lễ trang nghiêm, hào hùng của lễ hội

đầu xuân cầu phúc của làng Đông Ngạc hồi cuối thế kỷ XV. Trong ngày hội lớn

của làng Đông Ngạc bấy giờ có ít nhất là 8 giáp, đã cùng nhau thưởng đào ở đình

làng. Các cô đào hát những bài thơ ca ngợi thành hoàng làng và cầu phúc cho dân

làng.

Trong bài thơ này, chữ “ca trù” xuất hiện hai lần: Thọ bôi kể chục, ca trù điểm

trăm và Mừng nay tiệc ca trù thị yến. Ở câu thơ thứ nhất, chữ “ca trù” cho thấy

đây là lối hát dùng thẻ (trù) để thưởng cho người hát người đàn (đào và kép). Mỗi

khi thấy hay, người cầm chầu gõ một tiếng “chát” vào tang trống để thưởng và khi

đó sẽ thả một thẻ tre (mỗi thẻ tương ứng một số tiền) vào chiếc chậu thau (để tiếng

ném thẻ vào chậu thau sẽ báo cho đào kép biết là làng thưởng khiến cho họ hát

càng hay hơn nữa). Ở câu thơ thứ hai cho thấy tiệc ca trù được mở để thờ thần.

Hát thờ ở cửa đình Đông Ngạc cho thấy cái trống chầu đã có vai trò riêng: để

thưởng và để phạt (để khen và để chê), điều này nói lên rằng việc thưởng thức ca

nhạc đã đạt được đến một chuẩn mực, một trình độ đáng kể. Chính việc khen chê

như vậy (khen gọi là thưởng đào, hoặc thướng đào) đã góp phần nâng cao các

thành tố trong cuộc biểu diễn lên một trình độ mới. Tiếng hát, tiếng phách của đào

nương, tiếng đàn đáy của kép và lời thơ đã có cái tiêu chuẩn để đánh giá. Trải qua

nhiều thế kỷ, tục hát thờ thần ở đình Đông Ngạc vẫn được duy trì và tạo thêm

nhiều yếu tố văn hóa đặc sắc, trong đó có lệ thưởng đào thị yến đã trở thành một

nét đẹp về sự trân trọng của cộng đồng đối với nghệ thuật và nghệ sỹ.

Thế kỷ XVI - Ca trù gắn với ngôi đình làng ở Bắc bộ

Thế kỷ XVI sự phát triển và phổ biến của ca trù được ghi nhận bằng các bức chạm

khắc dân gian tại các đình làng. Các bức chạm đình Lỗ Hạnh (huyện Hiệp Hoà,

tỉnh Bắc Giang) và đình Tây Đằng (xã Tây Đằng, huyện Ba Vì, Hà Nội) đều có

các bức chạm hoặc tượng hình người cầm đàn đáy. Đình Tây Đằng có tượng tròn

hình người đứng cầm đàn đáy. Đình Lỗ Hạnh có bức chạm tiên nữ ngồi trên mình

con hươu cầm đàn đáy và một bức chạm khác có cả đám nhạc công đang hòa nhạc

trong đó có 1 người đàn ông ngồi cầm đàn đáy. Hình ảnh này cho thấy ca trù đã có

mặt trong những sinh hoạt văn hóa dân gian tại các làng quê và có mặt trong điêu

khắc đình làng.

Ở chùa Cói (Thần Tiên tự), xã Hợp Thịnh, huyện Tam Dương, tỉnh Vĩnh Phúc

cũng có bức chạm người phụ nữ gảy đàn đáy. Tiếc rằng hiện vật đã bị cháy cùng

với ngôi chùa, và chúng ta chỉ còn lại bức ảnh chụp bức chạm này. Đây là tư liệu

mỹ thuật về đàn đáy duy nhất hiện biết tìm thấy ở một ngôi chùa.

Qua những hình chạm người cầm đàn đáy ở các đình, đền, có thể thấy rằng: dàn

đáy đã trở nên phổ biến ở thế kỷ XVI, ở đồng bằng Bắc bộ. Đàn đáy mới đầu được

sử dụng trong các cuộc hoà nhạc, cùng với các nhạc khí khác trong một đám đông

(có khi có cả người múa), mà người đàn có thể là nam, có thể là nữ với tư thế là

đứng hoặc ngồi. Về sau ca quán thính phòng ra đời, đàn đáy là loại đàn duy nhất

trong cuộc hát.

Thế kỷ XVII và XVIII nghi lễ hát cửa đình rất thịnh trong các làng quê

Tiếp tục dòng chảy của của điêu khắc đình làng từ thế kỷ trước, sang đến thế kỷ

XVII và XVIII chúng ta vẫn bắt gặp sự ghi nhận của dân gian đối với cây đàn đáy.

Điều này càng chứng tỏ cây đàn đáy đã có một chỗ đứng trong đời sống và phong

tục dân gian, và hoạt động diễn xướng ca trù đã trở thành một nét sinh hoạt phổ

biến tại các đình làng dân gian.

Những ngôi đình có niên đại thế kỷ XVII như đình Đại Phùng (xã Đại Phùng,

huyện Đan Phượng, Hà Nội), đình Hoàng Xá (xã Liên Bạt, huyện Ứng Hòa, Hà

Nội), đình Xốm (xã Hùng Lô, huyện Phong Châu, tỉnh Phú Thọ) hiện còn giữ các

bức chạm những người đang sử dụng đàn đáy. Đặc biệt ở đình Đại Phùng đặc tả

hộc đàn ở mặt sau hộp đàn đáy, còn bức chạm ở đình Xốm miêu tả cả đám nhạc

công đang hòa nhạc.

Hai ngôi đền có niên đại thế kỷ XVIII là đền Tam Lang (xã Ích Hậu, huyện Can

Lộc, tỉnh Hà Tĩnh) và đền Lê Khôi (huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh) cũng cho các

cứ liệu rất cụ thể về đàn đáy, phách và sinh hoạt diễn xướng ca trù ở thế kỷ XVIII.

Các bức chạm này có nét điêu khắc tinh tế hơn chứ không còn vẻ mộc mạc thô

phác của các bức chạm trước đó. Điều này thể hiện rõ nhất là những đặc tả về

trang phục và vũ điệu mềm mại của các nghệ sĩ dân gian. Các nghệ sĩ đã mang

trang phục của nghi lễ hát thờ, với chiếc mũ trên đầu, hoặc búi tóc gọn ghẽ và khá

kiểu cách, và những bộ trang phục của những vũ công chuyên nghiệp. Đây cũng là

tư liệu rất quý, làm cơ sở cho việc phục hồi các nghi thức hát thờ tại các đình đền

trong dân gian.

Về các nhạc cụ và trình diễn các nhạc cụ, các bức chạm này không những miêu tả

một cảnh hòa nhạc vui vẻ, với sự góp mặt của đàn đáy và cỗ phách, của sáo, trống

cơm, chũm chọe. Điều này cho biết trong sinh hoạt ca trù tại các cuộc vui mang

tính cộng đồng như thế, ngoài đàn đáy và phách, sự góp mặt của các nhạc cụ khác

càng làm cho không khí thêm rộn ràng và ca trù trong lúc này không chỉ có ba thứ

nhạc cụ là trống chầu, đàn đáy và phách như ca trù về sau.

Như vậy, qua các ngôi đình có các bức chạm các cảnh sinh hoạt ca trù và việc sử

dụng cây đàn đáy, chúng ta biết ca trù có mặt ở các tỉnh Bắc Giang, Vĩnh Phúc,

Phú Thọ, Hà Tây, Hà Tĩnh.

Nguồn tư liệu văn bia cũng cho biết giáo phường ca trù đã phục vụ hát thờ ở khắp

vùng đồng bằng châu thổ Bắc bộ. Đó là các tỉnh Hà Tây (cũ), Vĩnh Phúc, Bắc

Giang, Hải Dương, Nam Định. Tỉnh có nhiều bia nhất là Hà Tây cũ (33 bia), trong

đó các huyện có nhiều bia là Quốc Oai (10 bia), Phúc Thọ (8 bia), Thạch Thất và

Đan Phượng (mỗi huyện 6 bia). Trong các huyện của các tỉnh thì huyện Lập

Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc có nhiều bia nhất, với 19 bia. Hà Nội có 11 bia, chủ yếu ở

ngoại thành và đều thuộc thế kỷ XVIII. Các tỉnh Bắc Giang, Hải Dương, Nam

Định mỗi tỉnh 1 bia. Những tỉnh thành khác, tuy không có các văn bia ghi nhận

nhưng thực tế, sinh hoạt ca trù đã có mặt ở hầu khắp các làng quê mỗi dịp tế thần.

Các bản hương ước, tục lệ của các làng quê có ghi nhận về những ngày tiệc lớn

trong làng đều có hát thờ ở cửa đình, nhiều khi là kéo dài vài ba ngày thậm chí cả

nửa tháng trời.

Hát cửa đình là hát thờ nên các bài bản đều có quy định khá thống nhất, trở thành

một lệ tục. Mỗi giáo phường được quy định được phép hát ở các cửa đình mà

mình được Ty giáo phường phân chia. Hàng năm, cứ đến ngày tế lễ ở các làng này

là các giáo phường lại xách đàn phách đến hát hầu trước cửa đình theo lệ. Đi hát

như vậy gọi là hát lệ.

Các ả đào đứng trước điện, tay cầm lá phách hát các bài hát thờ như Thét nhạc,

Bắc phản, Hát Giai, Độc phú...trong tiếng hòa âm của các nhạc khí. Giáo phường

được mời đến hát nhất định sẽ hỏi cho bằng được tên huý của các Thánh thờ trong

đình để khi hát đến những chữ ấy thì tránh đi. Các cô đầu hát đến những câu có

chữ ấy thì hát thật nhỏ, và tránh đi; ví như chữ Hiển thì đọc là Hởn, chữ Lã thì đọc

là Lữ. Nếu cô đầu không nhớ ra, cứ thế hát thẳng không kiêng thì người cầm chầu

sẽ gõ liên hồi vào tang trống và cho ngừng cuộc hát. Bấy giờ người quản giáp của

giáo phường phải đến nói khó với các cụ trong làng để xin cho làm lễ tạ với thánh

và xin các cụ chiếu cố cho. Khi ấy, người đào nương sẽ biện cơi trầu , đến trước

điện làm lễ tạ lỗi với Thánh và các quan viên.

Trong làng, người được làng tín nhiệm cầm chầu phải là người am hiểu về âm

luật, biết thưởng thức ca trù và là đại diện cho cả làng để khen chê đào nương,

bình luận và tán thưởng về các ngón đàn, các luyến láy của giọng ca. Thưởng phải

công minh thì làng mới phục, vì nếu thưởng “rộng rãi” thì làng tốn tiền, thưởng

mà “hẹp” thì đào nương chê là ky bo, chê là không biết nghe hát nghe đàn. Có khi,

người cầm chầu mà không biết thưởng thức, không biết khen ngợi những câu hát

công phu, những tiếng phách cao siêu, những tiếng đàn bén quyện mà đào kép

công phu rèn tập, gặp phải cô đào đanh đá, cô ta sẽ hát một câu khiến người cầm

chầu phải xấu hổ mà bỏ roi chầu không dám cầm chầu nữa. Làng tôi ở Đường

Lâm, năm xưa đã xảy ra chuyện ấy, khiến cho cô đào phải hát rằng: “Nào những

ông nghè ông cống ở đâu/ Để cho ông lão móm ngồi câu con trạch vàng”. Ông lão

móm ấy đã phải bỏ cuộc. Vì thế dân gian vẫn bảo: “Ở đời có bốn thứ ngu/ Làm

mai, Lãnh nợ, Gác cu, Cầm chầu”.

Lại có chuyện nực cười mà một đào nương già (hiện còn sống) đã kể lại với chúng

tôi rằng: Bà đi hát ở một làng kia, khi hát, các thẻ tre thả xuống rất nhiều làm cho

đào kép rất phấn chấn, bà đã nhẩm đếm được đến hàng trăm thẻ. Thế nhưng cuối

cuộc hát, khi làng đếm thẻ để trả tiền cho giáo phường thì chỉ thấy có vài chục thẻ!

Lại có chuyện khi người cầm chầu thưởng tiếng “chát” vào tang trống, nhưng chú

nhỏ ngồi bên cạnh lại buồn ngủ quên cả việc ném thẻ khiến cho đào kép không

vui, nên hát qua loa cho xong chuyện mà về.

Đã nửa thiên niên kỷ trôi qua, hát cửa đình là một sinh hoạt văn hóa tinh thần rất

độc đáo của người Việt trên khắp châu thổ Bắc bộ và Bắc Trung bộ. Vẻ đẹp của ca

trù là vẻ đẹp của sự hoà quyện giữa văn chương và âm nhạc vừa hoang sơ mộc

mạc mà khúc triết tinh tế, dân gian mà bác học. Đó là “chút hương hỏa của tổ tiên”

để lại cho cháu con hôm nay.