intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Hiện trạng đường di cư qua đập ở hồ chứa phước hòa và khả năng thích ứng cho tôm càng xanh (Macrobrachium Rosenbergii)

Chia sẻ: Nguyễn Thảo | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:11

31
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết này nhằm đưa ra các đánh giá về hiện trạng và khả năng thích ứng của ĐDCQĐ ở PH cho TCX (M. rosenbergii) cũng như khả năng đi qua ĐDCQĐ dựa trên đặc điểm sinh học của TCX, từ đó đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của ĐDCQĐ ở PH khi xác định TCX là đối tượng mục tiêu của ĐDCQĐ.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Hiện trạng đường di cư qua đập ở hồ chứa phước hòa và khả năng thích ứng cho tôm càng xanh (Macrobrachium Rosenbergii)

  1. TUYEÅN TAÄP KEÁT QUAÛ KHOA HOÏC & COÂNG NGHEÄ 2017 - 2018 HIỆN TRẠNG ĐƯỜNG DI CƯ QUA ĐẬP Ở HỒ CHỨA PHƯỚC HÒA VÀ KHẢ NĂNG THÍCH ỨNG CHO TÔM CÀNG XANH (Macrobrachium rosenbergii) CURRENT STATE OF FISH-PASSAGE IN PHUOC HOA RESERVOIR AND ADAPTION POSSIBILITY FOR FRESHWATER GIANT PRAWN (Macrobrachium rosenbergii) Vũ Văn Hiếu1, Vũ Cẩm Lương2, Nguyễn Nghĩa Hùng1, Trần Hồng Thủy2, Di Tiến Học2, Nguyễn Tuyết Kiều Diễm2 1 Viện Khoa học Thủy lợi miền Nam 2 Đại học Nông lâm Thành phố Hồ Chí Minh TÓM TẮT Đường di cư qua đập (ĐDCQĐ) ở hồ chứa Phước Hòa (PH) được xây dựng năm 2011 trên địa bàn xã An Thái, huyện Phú Giáo, tỉnh Bình Dương nhằm giảm thiểu các tác động của đập PH đối với các loài thủy sản di cư, trong đó có tôm càng xanh (Macrobrachium rosenbergii). Tuy nhiên, kết quả hai đợt khảo sát trong mùa mưa (tháng 7/2017) và mùa khô (tháng 3/2018) cho thấy tình trạng xói lở, lắng đọng bùn cát và rác thải xuất hiện tại một số vị trí trên ĐDCQĐ; việc quản lý ĐDCQĐ còn nhiều chồng chéo, chưa có cơ quan hay bộ phận quản lý trực tiếp; người dân vẫn thường xuyên đi vào khu vực ĐDCQĐ để đánh bắt cá; và ĐDCQĐ chỉ hoạt động chủ yếu trong mùa mưa (từ tháng 5 đến tháng 11 hàng năm), trong khi các tháng còn lại trong năm thì hầu như không có nước để hoạt động. Thêm vào đó, ĐDCQĐ nằm cách xa đập Phước Hòa, vận tốc nước tại nhiều điểm trên ĐDCQĐ còn lớn cũng như độ sâu và nền đáy của ĐDCQĐ chưa phù hợp có thể là các nguyên nhân khiến TCX chưa có sử dụng ĐDCQĐ ở PH trong thời gian qua. Trong khi, tôm càng xanh (TCX) là một trong các loài thủy đặc sản đặc trưng và có giá trị kinh tế cao ở lưu vực sông Đồng Nai và đang chịu tác động mạnh của các đập nước xây ở vùng cửa sông. Thêm vào đó, qua nghiên cứu tổng quan cho thấy, TCX có động lực di cư mang tính bản năng; tập tính di chuyển, dinh dưỡng và sinh sản phù hợp với việc di chuyển qua ĐDCQĐ nếu được thiết kế phù hợp. Do đó, bài viết này nhằm đưa ra các đánh giá về hiện trạng và khả năng thích ứng của ĐDCQĐ ở PH cho TCX (M. rosenbergii) cũng như khả năng đi qua ĐDCQĐ dựa trên đặc điểm sinh học của TCX, từ đó đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của ĐDCQĐ ở PH khi xác định TCX là đối tượng mục tiêu của ĐDCQĐ. Từ khóa: Đường di cư qua đập, Phước Hòa, tác động của đập, tôm càng xanh. ABSTRACTS The fish-passage in Phuoc Hoa Reservoir was constructed in 2011 at An Thai commune, Phu Giao district, Binh Duong province to minimize the impact of the dam on aquatic species migration, including the giant freshwater prawn (Macrobrachium rosenbergii). However, the survey results in the rainy season (July 2017) and the dry VIEÄN KHOA HOÏC THUÛY LÔÏI MIEÀN NAM 183
  2. TUYEÅN TAÄP KEÁT QUAÛ KHOA HOÏC & COÂNG NGHEÄ 2017 - 2018 season (March 2018) showed that there are many problems related to the fish-passage such as the appearance of erosion, sedimentation and rubbish in several locations on the fish-passge, overlapping management of the fish-passage, without management from any direct agencies or organizations, usually-carry-out-fishing-activities-in-the- fish-passage fishermen, main operation of fish-passage in the rainy season (from May to November) and lack of water for fish-passage operation in the dry seasons (from December to April) . In addition, what the fish-passage is located far from Phuoc Hoa Dam and has strong water velocity in several sites; the depth and bottom of the fish- passage is not suitable for the giant freshwater prawn are the reasons why the prawn has not used the fish-passage last time. While M. rosenbergii is one of the most special and valuable aquatic species in the Dong Nai river basin and is strongly impacted by dams in estuary. Moreover, the literature review proved that the instinctive migratory motivation and the movement, nutrition and reproduction behavior of M. rosenbergii are suitable for passing fish-passage if properly designed. Thereby, this article aims to provide an assessment of the state of the fish-passage in Phuoc Hoa as well as adaptability for the giant freshwater prawn (M. rosenbergii) and the fishway-passing ability of the prawn based on the biological characteristics of M. rosenbergii in order to provide solutions for improving the effectiveness of the fish-passage in Phuoc Hoa and identifying M. rosenbergii as the main target for the design and construction of fish-passage. Keywords: Fish-passage, Phuoc Hoa, the impact of dam, the giant freshwater prawn. 1. ĐẶT VẤN ĐỀ Nghiên cứu về ĐDCQĐ đã được thực hiện nhiều trên thế giới, tuy nhiên đây là vấn đề mới ở Việt Nam cả ở khía cạnh lý thuyết và thực tiễn. ĐDCQĐ đầu tiên và duy nhất của Việt Nam ở đập thủy lợi Phước Hòa sau gần 7 năm đưa vào sử dụng hiện vẫn chưa có các nghiên cứu đánh giá hiệu quả và hiện trạng. Mặt khác, ĐDCQĐ ở Phước Hòa thuộc lưu vực sông Bé (một phụ lưu của hệ thống sông Đồng Nai) nơi có số lượng các thủy sản di cư có tiềm năng di chuyển qua ĐDCQĐ rất đa dạng như tôm càng xanh (M. rosenbergii), cá chình hoa (Anguilla marmorata), cá linh (Henicorhynchus siamensis), cá dảnh (Puntioplites proctozysron), cá lăng (Mystus nemurus), cá chốt sọc (Mystus mysticetus) (Vũ Vi An và Nguyễn Nguyễn Du, 2011)… Trong đó, TCX được xem là loài cần được ưu tiên theo dõi, bảo vệ và xây dựng ĐDCQĐ vì: (1) là loài di cư sinh sản giữa các vùng nước lợ và ngọt nên chịu tác động lớn bởi các đập nước ở vùng cửa sông, thậm chí có thể biến mất khỏi các lưu vực sông trong tự nhiên nếu các bãi đẻ không được duy trì ở trên dòng chính và phụ lưu của sông; (2) là loài thủy sản kinh tế được công nhận trong khu vực và trên thế giới; (3) là loài thủy sản bản địa đặc trưng ở khu vực xung quanh ĐDCQĐ ở Phước Hòa. Do đó, nghiên cứu này nhằm đánh giá hiện trạng ĐDCQĐ ở đập thủy lợi Phước Hòa và khả năng thích ứng cho TCX để đề xuất các giải pháp điều chỉnh, sửa chữa phù hợp đối với ĐDCQĐ ở PH cho đối tượng mục tiêu là loài TCX (M. rosenbergii). 184 VIEÄN KHOA HOÏC THUÛY LÔÏI MIEÀN NAM
  3. TUYEÅN TAÄP KEÁT QUAÛ KHOA HOÏC & COÂNG NGHEÄ 2017 - 2018 2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1. Phương pháp khảo sát thực địa Nghiên cứu đã khảo sát thực địa hai đợt đại diện cho mùa mưa (7/2017) và mùa khô (3/2018) tại khu vực ĐDCQĐ ở PH. Trong quá trình khảo sát, tiến hành quan sát, chụp ảnh và ghi nhận các thông tin về hiện trạng ĐDCQĐ ở PH, kết hợp khảo sát bằng bảng câu hỏi soạn sẵn đối với 21 ngư dân; 3 cán bộ Phòng thủy sản thuộc Sở NN&PTNT hai tỉnh Bình Dương và Bình Phước; 2 cán bộ Ban Quản lý đập PH; 2 cán bộ phụ trách mảng nông nghiệp và thủy sản của hai xã An Thái và An Linh tỉnh Bình Dương. Nội dung bảng câu hỏi điều tra khảo sát bao gồm: thời gian hoạt động của ĐDCQĐ trong năm, tình trạng người dân vào khu vực ĐDCQĐ để đánh bắt cá, hiệu quả của ĐDCQĐ, tình trạng xạt lở hai bên bờ ĐDCQĐ, hiện trạng quản lý ĐDCQĐ… 2.2. Phương pháp chuyên gia Tiến hành trao đổi với một số chuyên gia đã từng làm dự án hoặc tư vấn cho dự án xây dựng ĐDCQĐ ở PH ở Viện Nghiên cứu Nuôi trồng thủy sản 2, Viện Khoa học Thủy lợi miền Nam, Ban quản lý (BQL) đập Phước Hòa cũng như các chuyên gia về thủy sản tại Trường Đại học Nông Lâm, Trường Đại học Khoa học tự nhiên và Trường Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh. 2.3. Phương pháp tổng quan tài liệu Tiến hành tổng quan tài liệu các kết quả nghiên cứu trong và ngoài nước về đặc điểm sinh học của TCX liên quan tới khả năng di cư qua ĐDCQĐ. 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 3.1. Giới thiệu về thiết kế ĐDCQĐ ở hồ thủy lợi Phước Hòa Đường di cư qua ở PH được thiết kế theo mô hình ĐDCQĐ dạng kênh tự nhiên với chiều dài 1,9 km, độ dốc dọc theo ĐDCQĐ thay đổi từ 0,7 đến 1,43% và vận tốc nước được giới hạn dưới 0,6 m/giây. ĐDCQĐ được chia làm 3 phần: (1) Đoạn cửa ra phía trên ĐDCQĐ: Bao gồm đoạn được xây dựng tường bao với chiều dài 144 m (hình 1) ra tới cống ngầm qua đường dân sinh. Trong cống ngầm có kết hợp van điều tiết nước: Tiết diện chữ nhật, cửa van bằng thép, đóng mở bằng máy vít chạy điện kết hợp thủ công (hình 2); (2) Đoạn đường dẫn chính: Tính từ van khóa nước xuống tới cửa vào ĐDCQĐ, trong đó, phần lớn là đoạn kênh đất, chỉ có khoảng 400 m đoạn kênh được lót đá cuội tạo thành các dốc nhám (hình 3). Thêm vào đó, nhiều hồ nghỉ cho cá được bố trí dọc theo chiều dài của ĐDCQĐ (hình 4); (3) Cửa vào phía dưới ĐDCQĐ: Cửa vào ĐDCQĐ dạng kênh đất có lót lớp đá cuội bên dưới (không được bê tông hóa) và được đặt ở vị trí cách xa thân đập PH (hình 9 và hình 12). VIEÄN KHOA HOÏC THUÛY LÔÏI MIEÀN NAM 185
  4. TUYEÅN TAÄP KEÁT QUAÛ KHOA HOÏC & COÂNG NGHEÄ 2017 - 2018 Hình 1. Đoạn cửa vào được xây dựng tường bao Hình 2. Van khóa điều tiết nước cho ĐDCQĐ Lớp đá cuội Hình 3. Lớp đá cuội được lót dưới nền ĐDCQĐ Hồ nghỉ cho cá Hình 4. Khu nghỉ cho cá được bố trí trên ĐDCQĐ ở PH 3.2. Hiện trạng đường di cư qua đập ở hồ chứa Phước Hòa - Về cơ sở hạ tầng ĐDCQĐ: Sau hơn 6 năm đưa vào sử dụng, hiện nay ĐDCQĐ đã xuống cấp nhiều so với thiết kế ban đầu. Cụ thể, (1) hai bờ của ĐDCQĐ bị xói lở tại nhiều vị trí: Qua hai đợt khảo sát cả trong mùa mưa và mùa khô cho thấy nhiều vị trí tại hai bên bờ ĐDCQĐ đã bị xói lở nghiêm trọng do hai bờ kênh không được gia cố bê tông hoặc trồng cây (hình 5); (2) tại nhiều vị trí trên ĐDCQĐ đã bị lắng đọng bùn cát và rác thải nằm trong ĐDCQĐ vào mùa khô (hình 6). 186 VIEÄN KHOA HOÏC THUÛY LÔÏI MIEÀN NAM
  5. TUYEÅN TAÄP KEÁT QUAÛ KHOA HOÏC & COÂNG NGHEÄ 2017 - 2018 Hình 5. Xói lở bờ ĐDCQĐ (tháng 2/2017) Hình 6. Rác thải nằm trong ĐDCQĐ - Về hiện trạng quản lý ĐDCQĐ: Kết quả khảo sát cho thấy, việc quản lý ĐDCQĐ ở PH còn nhiều chồng chéo, chưa có cơ quan hay bộ phận quản lý trực tiếp nào. Cụ thể, khảo sát BQL đập PH và Ủy ban nhân dân xã An Thái thì BQL cho rằng họ chỉ quản lý về thủy lợi và điều tiết nước cho đập Phước Hòa, trong đó có điều tiết nước cho ĐDCQĐ chứ không quản lý về việc khai thác và quản lý nguồn lợi thủy sản tại đây (việc này thuộc trách nhiệm quản lý của chính quyền xã An Thái). Thêm vào đó, theo đại diện của phòng Thủy sản của Sở NN và PTNT tỉnh Bình Phước cho rằng ĐDCQĐ thuộc về quyền quản lý của tỉnh Bình Dương và về phía tỉnh Bình Dương thì lại cho rằng ĐDCQĐ thuộc quyền quản lý của dự án thủy lợi PH mà trực tiếp là BQL đập PH. Mặt khác, các văn bản qui định về quản lý nguồn lợi thủy sản và khai thác thủy sản được các cơ quan ban hành cũng chỉ mang tính chất chung chung, chủ yếu là cho khu vực đập chứ không có một văn bản cụ thể nào cho ĐDCQĐ (hình 7). Hình 7. Quy chế đánh bắt cá ở khu vực đập PH (có áp dụng cho cả ĐDCQĐ) - Về tình trạng vi phạm các quy định về đánh bắt thủy sản trong ĐDCQĐ ở PH: Kết quả khảo sát cũng cho thấy, tình trạng người dân vào khu vực ĐDCQĐ ở PH để đánh bắt thủy hải sản diễn ra thường xuyên và khó kiểm soát. Các hình thức người dân đánh bắt thủy sản trong ĐDCQĐ bao gồm đi câu, đặt lú hoặc giăng lưới bắt cá tại các khu vực nghỉ, lối vào ĐDCQĐ (hình 8 và hình 9). VIEÄN KHOA HOÏC THUÛY LÔÏI MIEÀN NAM 187
  6. TUYEÅN TAÄP KEÁT QUAÛ KHOA HOÏC & COÂNG NGHEÄ 2017 - 2018 Hình 8. Người dân câu cá trên ĐDCQĐ Hình 9. Người dân đặt lú ở lối vào ĐDCQĐ - Về hiện trạng vận hành của ĐDCQĐ: Kết quả khảo sát cũng cho thấy, ĐDCQĐ được cung cấp nước để hoạt động chủ yếu vào mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 11 hàng năm, còn trong mùa khô (từ khoảng tháng 12 năm trước đến tháng 4 năm sau) thì van điều tiết nước ở đầu trên của ĐDCQĐ bị khóa để ưu tiên cho việc tích trữ nước trong hồ (hình 10 và hình 11). Mặt khác, tại một số vị trí trên ĐDCQĐ có vận tốc nước lên tới 0,9 m/giây (Vũ Vi An và nnk, 2013) vượt quá giới hạn cho phép 0,6 m/giây theo thiết kế ban đầu của ĐDCQĐ. Hình 10. Nước bị chặn vào mua khô (3/2018) Hình 11. Nước được xả vào mùa mưa (7/2017) 3.3. Khả năng thích ứng của ĐDCQĐ ở PH cho đối tượng TCX a. Sự cần thiết phải xây dựng ĐDCQĐ cho TCX - Sự di cư qua đập ảnh hưởng tới sự tồn vong của TCX tại các lưu vực sông trong tự nhiên: TCX (M. rosenbergii) là loài di cư sinh sản giữa nước mặn (lợ) và nước ngọt nên nếu đường di cư của chúng bị chặn bởi các chướng ngại vật trên sông như các đập nước, cống ngăn mặn… thì sẽ tác động tiêu cực tới TCX: (1) TCX bị giới hạn trong một phần nhất định của sông: Từ khi đập PH được xây dựng, TCX không thể vượt qua đập này để lên thượng nguồn nên bị giới hạn trong phạm vi từ đập PH tới vùng cửa sông Đồng Nai. Khi bị giới hạn trong một phạm vi nhất định như vậy thì khả năng tồn tại của chúng trong tự nhiên cũng bị suy giảm do dễ dàng trở thành mục tiêu của các hoạt động đánh bắt quá mức, động vật săn mồi hoặc khi gặp các sự cố về môi trường…; (2) Làm chậm hoặc ngăn cản quá trình di cư xuống bãi đẻ của TCX: Vào mùa sinh sản, đập PH 188 VIEÄN KHOA HOÏC THUÛY LÔÏI MIEÀN NAM
  7. TUYEÅN TAÄP KEÁT QUAÛ KHOA HOÏC & COÂNG NGHEÄ 2017 - 2018 đã làm chậm hoặc ngăn cản quá trình di cư xuống bãi đẻ nằm ở vùng cửa sông của các cá thể TCX trưởng thành phía trên đập PH. Khi các cá thể TCX trưởng thành mang trứng không thể ra được vùng cửa sông thì ấu trùng của TCX phải nở trong nước ngọt và những ấu trùng này sẽ phải nhanh chóng theo dòng nước để ra vùng nước lợ nếu không trong vòng 4 - 5 ngày ấu trùng sẽ chết (Ling, 1969). Điều này sẽ ảnh hưởng tới việc duy trì sự hiện diện của loài TCX ở phía trên đập PH trong tương lai nếu không có giải pháp phục hồi đường di cư cho chúng; (3) Bị tổn thương hoặc tử vong khi đi qua tuabin hoặc đập tràn: TCX trưởng thành phía trên đập PH khi đi qua đập tràn hoặc tuabin để xuống bãi đẻ ở vùng cửa sông trong mùa sinh sản thì thường bị tổn thương hoặc thậm chí có thể gây tử vong. - TCX là một trong các loài có giá trị kinh tế cao: Ở Việt Nam, TCX là một trong các loài thủy sản đặc trưng ở các tỉnh Nam Bộ và hiện rất được chú trọng sản xuất và ương nuôi vì tôm có giá trị kinh tế cao, được tiêu thụ trong nước và xuất khẩu. Theo báo cáo của Tổng cục Thủy sản năm 2016, kim ngạch xuất khẩu tôm của Việt Nam đạt hơn 3,1 tỷ USD, trong đó, tôm chân trắng chiếm 62,1%, tôm sú chiếm gần 29,5%, TCX và tôm biển khác chiếm 8,3%. Ngày 18/1/2018, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Kế hoạch hành động quốc gia phát triển ngành tôm Việt Nam đến năm 2025, trong đó xác định TCX là một trong các đối tượng trọng điểm để tập trung phát triển trong thời gian tới. Cụ thể, tổng sản lượng TCX đạt 30.000 tấn trong giai đoạn 2017 - 2020 và 50.000 tấn trong giai đoạn 2021-2025. - TCX là loài bản địa ở khu vực sông Bé: TCX phân bố rộng ở các khu vực Nam Á và Đông Nam Á, Tây Thái Bình Dương, Bắc châu Úc, Nam Trung Quốc và Đài Loan, từ vùng nhiệt đới đến cận nhiệt đới (Nandlal và Pickering, 2005). Ở Việt Nam, TCX phân bố từ Khánh Hòa trở vào, tập trung chủ yếu ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long và lưu vực sông Đồng Nai (trong đó có phụ lưu sông Bé thuộc hai tỉnh Bình Dương và Bình Phước). b. Khả năng di cư qua ĐDCQĐ dựa trên đặc điểm sinh học của TCX: - TCX có động lực di cư qua ĐDCQĐ do vòng đời của chúng cần cả môi trường nước lợ (hoặc mặn) và nước ngọt: Vòng đời của TCX có thể chia làm 3 giai đoạn: (1) Giai đoạn ấu trùng: Trong môi trường thiên nhiên, những con cái mang trứng di chuyển qua các độ mặn khác nhau xuống vùng cửa sông để trứng nở và ấu trùng phát triển (Ismael and New, 2000). Tất cả các giai đoạn ấu trùng đều cần môi trường nước lợ, tương ứng với độ mặn từ 20 - 40‰. Ấu trùng có thể nở ở cả vùng nước lợ và nước ngọt, tuy nhiên những ấu trùng nở trong nước ngọt sẽ phải nhanh chóng theo dòng nước để di chuyển ra vùng cửa sông (nơi có môi trường nước lợ) nếu không chúng sẽ chết trong vòng 4 - 5 ngày sau khi nở (Ling, 1969); (2) Giai đoạn hậu ấu trùng: Trong điều kiện tự nhiên, ở giai đoạn hậu ấu trùng thường ở lại trong vùng nước lợ trong 1 - 2 tuần sau đó bắt đầu di cư chầm chậm lên thượng nguồn nơi có độ mặn thấp hơn. Khi chúng khoảng 1 tháng tuổi, chúng có thể di chuyển khá nhanh. Sau 2 tháng tuổi, chúng có thể bơi ngược các dòng nước mạnh hoặc vượt qua các ghềnh sông bằng cách sử dụng khả năng bò của mình. Chúng có thể bò qua các đê hoặc đập cao 2 – 3 m miễn sao có một chút nước nhỏ giọt trên đê hoặc đập đó (Michael, 2002). Thực tế cho thấy TCX có thể di cư VIEÄN KHOA HOÏC THUÛY LÔÏI MIEÀN NAM 189
  8. TUYEÅN TAÄP KEÁT QUAÛ KHOA HOÏC & COÂNG NGHEÄ 2017 - 2018 với khoảng cách trên 200 km tính từ vùng cửa sông (Upadhyay et al., 2014); (3) Giai đoạn trưởng thành: Sự biến đổi từ giai đoạn ấu trùng sang giai đoạn hậu ấu trùng cũng đánh dấu sự kết thúc chu kỳ sống của chúng trong môi trường nước lợ. Từ giai đoạn này, chúng bắt đầu quá trình di chuyển một cách chủ động theo hướng dòng chảy và có thể vượt qua những nơi có dòng chảy mạnh bằng cách bò bám chặt vào nền đáy của sông. Chúng có thể di cư vào trong các hồ nội đồng hoặc vượt qua các đê bằng cách di chuyển vòng qua các dòng suối hoặc khe nước nằm quanh đê. Từ khi bắt đầu quá trình di cư lên thượng nguồn đến lúc trưởng thành, chúng ở lại môi trường nước ngọt trong một thời gian dài (Ling, 1969). Tôm trưởng thành giao vỹ và đẻ trướng trong môi trường nước ngọt, nhưng khi ôm trứng và ấp trứng, chúng có xu hướng di chuyển ra vùng nước lợ (John, 2009). Con cái mang trứng Trứng Nước ngọt Con đực trưởng thành Hậu ấu trùng Cửa sông Ấu trùng Hình 12. Vòng đời của TCX (M. rosenbergii) (Nguồn: Nandlal, S. et al., 2005). - Tập tính di chuyển của TCX có thể được sử dụng để thiết kế mô hình ĐDCQĐ phù hợp: Sau 2 tháng tuổi, TCX đã có thể bơi ngược các dòng nước mạnh, vượt qua các đê cao 2 – 3 m hoặc ghềnh sông bằng cách sử dụng khả năng bò của mình (Michael, 2002). Khi trưởng thành, chúng bắt đầu quá trình di chuyển một cách chủ động theo hướng dòng nước và có xu hướng di chuyển bằng cách bò bám chặt vào nền đáy để vượt qua những nơi có dòng nước chảy mạnh (Ling, 1969). - Tập tính dinh dưỡng có thể được sử dụng để giúp TCX tìm thấy cửa vào của ĐDCQĐ: TCX là loài ăn tạp: (1) Ở giai đoạn ấu trùng, TCX ăn hầu hết động vật phù du (chủ yếu là động vật giáp xác nhỏ), sâu nhỏ và giai đoạn ấu trùng của các loài giáp xác 190 VIEÄN KHOA HOÏC THUÛY LÔÏI MIEÀN NAM
  9. TUYEÅN TAÄP KEÁT QUAÛ KHOA HOÏC & COÂNG NGHEÄ 2017 - 2018 khác; (2) Giai đoạn hậu ấu trùng và trưởng thành, TCX ăn tạp, háu ăn, ăn cả thực vật và động vật (Nandlal and Pickering, 2005). - Tập tính sinh sản của TCX có thể được sử dụng để xây dựng cơ chế và thời gian vận hành ĐDCQĐ một cách hợp lý: Ở các vùng ôn đới, TCX sinh sản vào mùa hè, trong khi ở các vùng nhiệt đới, TCX sinh sản khi bắt đầu mùa mưa. Chúng có thể đẻ trứng hai lần hoặc nhiều hơn trong một mùa sinh sản (Ling, 1969). c. Khả năng thích ứng của ĐDCQĐ ở PH cho đối tượng TCX - Về mô hình thiết kế: ĐDCQĐ ở PH được thiết kế theo mô hình ĐDCQĐ dạng kênh tự nhiên, đây là mô hình được ứng dụng cho đa loài (Schmutz et al., 2015). Do đó, mô hình thiết kế này hoàn toàn phù hợp với loài TCX (M. rosenbergii). - Về cửa vào ĐDCQĐ: Vị trí cửa vào phía dưới ĐDCQĐ nằm ở nơi dòng chảy của sông khá chậm và nằm cách khá xa (khoảng hơn 500m) so với đập PH nên đã không tận dụng được dòng nước chảy qua đập tràn và cửa xả của đập PH để thu hút các loài thủy sản ở đây tìm thấy vị trí của cửa vào ĐDCQĐ (hình 12). Thêm vào đó, bề rộng cửa vào cũng khá nhỏ cũng có thể là một trong những khó khăn cho các loài thủy sản có thể tìm thấy cửa vào ĐDCQĐ. Cửa vào phía trên ĐDCQĐ Đập PH Cửa vào phía dưới ĐDCQĐ Hình 13. Vị trí cửa vào ĐDCQĐ ở PH (Nguồn: Bản đồ Google) - Về vận tốc nước trong ĐDCQĐ: Vận tốc nước trong ĐDCQĐ được duy trì trong giới hạn 0,6 m/giây, chỉ một số vị trí vượt giới hạn trên với vận tốc 0,9 m/giây (Vũ Vi An và nnk, 2013). Mặc dù, chưa có nghiên cứu cụ thể về khả năng bơi/bò của TCX nhưng có thể nhận thấy rằng vận tốc nước trong ĐDCQĐ (dạng kênh tự nhiên) ở PH luôn thấp hơn vận tốc nước ở sông Bé – nơi mà TCX thường di chuyển ngược sông để lên thượng nguồn trước khi đập Phước Hòa được xây dựng. - Mực nước trong ĐDCQĐ: Qua đợt khả sát cho thấy, một số vị trí trong ĐDCQĐ có mực nước khá thấp, có thể thấy nền đáy của kênh (hình 3), trong khi, tập tính của TCX là loài sống đáy và thường di chuyển bám chặt vào đáy để di chuyển qua các nơi có dòng chảy mạnh nên cần một độ sâu nhất định để kích thích TCX di chuyển. VIEÄN KHOA HOÏC THUÛY LÔÏI MIEÀN NAM 191
  10. TUYEÅN TAÄP KEÁT QUAÛ KHOA HOÏC & COÂNG NGHEÄ 2017 - 2018 - Nền đáy ĐDCQĐ: Đa phần nền đáy của ĐDCQĐ là nền đất (hình 14) và chỉ có một số đoạn dốc mới có lớp đá cuội (hình 13) nên cũng có thể làm giảm khả năng di chuyển ngược dòng nước đối với TCX (do TCX thường có tập tính lẩn trốn trong các khe rãnh và bám vào nền đáy có độ ma sát cao để di chuyển qua các đoạn nước chảy siết). Hình 14. Nền đáy lót đá cuội của ĐDCQĐ Hình 15. Nền đáy bằng đất trong ĐDCQĐ 4. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 4.1. Kết luận - Hiện trạng cơ sở hạ tầng ĐDCQĐ đã xuống cấp song vẫn đảm bảo yêu cầu về hoạt động, trong khi hiện trạng quản lý ĐDCQĐ còn nhiều bất cập, không có cơ quan hay tổ chức nào quản lý trực tiếp và tình trạng người dân vào khu vực ĐDCQĐ để đánh bắt cá còn diễn ra thường xuyên mà không bị cơ quan hay tổ chức nào ngăn chặn. - Tôm càng xanh là một trong các đối tượng cần được xây dựng ĐDCQĐ do đóng vai trò quan trọng về kinh tế, là đối tượng chịu tác động nặng nề bởi các đập nước trên sông và là loài bản địa ở lưu vực sông Đồng Nai. - Khả năng di cư qua ĐDCQĐ là hoàn toàn khả thi khi TCX có động lực di cư mang tính bản năng, tập tính di chuyển, dinh dưỡng và sinh sản phù hợp với việc di chuyển qua ĐDCQĐ nếu được thiết kế phù hợp. - Mô hình thiết kế đường di cư qua đập ở Phước Hòa ứng dụng cho đa loài, nên hoàn toàn phù hợp trong việc ứng dụng cho TCX, tuy nhiên do cửa vào phía dưới ĐDCQĐ nằm cách xa đập Phước Hòa, vận tốc nước tại một số điểm trên ĐDCQĐ còn lớn (vượt quá giới hạn 0,6 m/giây) hay độ sâu mực nước và nền đáy chưa phù hợp có thể là các lý do TCX chưa có sử dụng ĐDCQĐ ở Phước Hòa trong thời gian qua. 4.2. Kiến nghị - Nghiên cứu giải pháp khắc phục vị trí chưa hợp lý của ĐDCQĐ ở PH. - Nghiên cứu cơ chế quản lý hiệu quả ĐDCQĐ ở Phước Hòa ở khía cạnh xử lý rác thải và bùn lắng, thành lập đơn vị chuyên trách, quản lý hoạt động khai thác cá trên ĐDCQĐ. - Tiến hành các nghiên cứu, thiết kế ĐDCQĐ phù hợp và hiệu quả cho đối tượng TCX ở các vùng cửa sông bị ảnh hưởng bởi đập chắn. 192 VIEÄN KHOA HOÏC THUÛY LÔÏI MIEÀN NAM
  11. TUYEÅN TAÄP KEÁT QUAÛ KHOA HOÏC & COÂNG NGHEÄ 2017 - 2018 TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Ismael, D. and New, M. B. (2000). Biology In: New, M.B., Valenti, W.C. (Eds.) Freshwater Prawn Culture, the Farming of Macrobrachium rosenbergii. Blackwell Science, Oxford. pp. 69-90 [2] John, E. (2009). Physico-chemical studies of river Pumba and distribution of prawn, Macrobrachium rosenbergii . Journal of Environmental Biology. 2009;30(5):709–712. [3] Ling, S.W. (1969). General biology and development of Macrobrachiumrosenbergii. FAO, Fisheries Representative 57: 589-606. [4] Michael B. New (2002). Farming freshwater prawns. a manula for the culture of the giant river prawn (Macrobrachium rosenbergii) FAO Fisheries Technical Paper. 2002;(428, 212) [5] Nandlal, S., and Pickering, T. (2005). Freshwater Prawns Macrobrachium rosenbergii in Pacific Island countries. Marine Studies Program, The University of the South Pacific. [6] Schmutz, S. and C. Mielach (2015). Review of Existing Research on Fish Passage through Large Dams and its Applicability to Mekong Mainstream Dams. MRC Technical Paper No. 48. Mekong River Commission, Phnom Penh, Cambodia. [7] Soesanto, V., Adisukresno, S. and Escritor, G. L. (1980). Báo cáo khóa học đào tạo Nuôi tôm nước ngọt Châu Á và Thái Bình Dương, 1980. [8] Upadhyay A. S, Kulkarni B. G and Pandey A. K (2014). Migration in prawns with special reference to light and water current as inducers in Macrobrachium rosenbergii . J. Exp. Zool. India Vol. 17, No. 1, pp. 33-48, 2014. [9] Valenti, W.C. & Daniels, W. (2000). Freshwater prawn culture: the farming of Macrobrachium rosenbergii. Recirculation hatchery systems and management. In M.B. New & W.C. Valenti, eds. pp. 69-90. Oxford, England, Blackwell Science. [10] Vũ Vi An và Nguyễn Nguyễn Du (2011). Báo cáo tạm thời quản lý thủy sản Phước Hòa sông Bé. Gói thầu MT4, Dự án Thủy Lợi Phước Hòa. Viện Nghiên Cứu Nuôi Trồng Thủy Sản 2. [11] Vũ Vi An, Nguyễn Minh Niên và Nguyễn Nguyễn Du (2013). Đánh giá kết quả bước đầu về đường dẫn cá ở đập Phước Hòa. Gói thầu MT4, Dự án Thủy Lợi Phước Hòa. Viện Nghiên Cứu Nuôi Trồng Thủy Sản 2. Phản biện: PGS. TS. Lương Văn Thanh VIEÄN KHOA HOÏC THUÛY LÔÏI MIEÀN NAM 193
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0