BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ Y TẾ
VIỆN VỆ SINH DỊCH TỄ TRUNG ƢƠNG
-----------------*-------------------
NGUYỄN THỊ MINH TÂM
HIỆU QUẢ ĐIỀU TRỊ
NGHIỆN CHẤT DẠNG THUỐC PHIỆN
BẰNG THUỐC METHADONE TẠI TỈNH
ĐIỆN BIÊN, LAI CHÂU VÀ YÊN BÁI, 2014-2015
LUẬN ÁN TIẾN SỸ Y TẾ CÔNG CỘNG
HÀ NỘI - 2018
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ Y TẾ
VIỆN VỆ SINH DỊCH TỄ TRUNG ƢƠNG
-----------------*-------------------
NGUYỄN THỊ MINH TÂM
HIỆU QUẢ ĐIỀU TRỊ
NGHIỆN CHẤT DẠNG THUỐC PHIỆN
BẰNG THUỐC METHADONE TẠI TỈNH ĐIỆN BIÊN,
LAI CHÂU VÀ YÊN BÁI, 2014-2015
Chuyên ngành: Y tế công cộng
Mã số: 62.72.03.01
LUẬN ÁN TIẾN SỸ CHUYÊN NGÀNH: Y TẾ CÔNG CỘNG
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: 1. GS.TS. Nguyễn Thanh Long
2. PGS.TS. Nguyễn Thị Lan Anh
HÀ NỘI- 2018
i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan công trình nghiên cứu “Hiệu quả điều trị nghiện
chất dạng thuốc phiện bằng thuốc Methadone tại tỉnh Điện Biên, Lai
Châu và Yên Bái, 2014-2015” là của riêng tôi.
Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực và chưa được công
bố trong bất kỳ một công trình nào khác.
Tác giả luận án
(Đã ký)
Nguyễn Thị Minh Tâm
ii
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận án tốt nghiệp này, em xin được chân thành cảm ơn
Lãnh đạo Cục Phòng, chống HIV/AIDS, Bộ môn Y tế công cộng, Phòng Sau
đại học Viện Vệ sinh Dịch tễ trung ương, các thầy giáo, cô giáo trong suốt
thời gian qua đã quan tâm, tạo điều kiện thuận lợi giúp em học tập, nghiên
cứu và hoàn thành luận án.
Với tấm lòng biết ơn và kính trọng, em xin bày tỏ lòng biết ơn chân
thành và sâu sắc đến GS.TS.Nguyễn Thanh Long, PGS.TS. Nguyễn Thị Lan
Anh, người thầy mẫu mực, tận tâm đã dành thời gian dạy dỗ, hướng dẫn, động
viên, giúp đỡ em trong quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thiện luận án.
Em xin trân trọng cảm ơn các nhà khoa học, các Thầy, cô trong các hội
đồng đã quan tâm, dành thời gian nghiên cứu luận án và có nhiều góp ý sâu
sắc, khoa học và thiết thực giúp em hoàn thiện luận án.
Em xin chân thành cảm ơn Sở Y tế, Trung tâm phòng chống HIV/AIDS
03 tỉnh Điện Biên, Lai Châu và Yên Bái và các cơ sở điều trị Methadone của
03 tỉnh đã tạo điều kiện thuận lợi để em tiến hành nghiên cứu. Em xin bày tỏ
lòng biết ơn sâu sắc đối với các đồng chí lãnh đạo và cán bộ nhân viên Cục
Phòng, chống HIV/AIDS, Bộ Y tế và các đồng nghiệp ở các trường đại học,
các viện nghiên cứu đã luôn quan tâm tạo điều kiện giúp đỡ, động viên em
trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu.
Cuối cùng, em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới gia đình, bạn bè đã
luôn luôn quan tâm, chia sẻ, động viên, giúp đỡ em trong suốt quá trình học
tập, nghiên cứu và hoàn thành luận án.
Nguyễn Thị Minh Tâm
iii
MỤC LỤC
ĐẶT VẤN ĐỀ .................................................................................................. 1 Chƣơng 1: TỔNG QUAN .............................................................................. 4 1.1. Tổng quan các khái niệm ................................................................. 4 1.2. Tình hình sử dụng ma túy và nhiễm HIV/AIDS ............................. 6 1.3. Các phương pháp điều trị nghiện chất dạng thuốc phiện .............. 15 1.4. Điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc Methadone trên thế giới và ở Việt Nam .................................................................. 19 Chƣơng 2: ĐỐI TƢỢNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ............. 39 2.1. Đối tượng, thời gian và địa điểm nghiên cứu ................................ 39 2.2. Phương pháp nghiên cứu ............................................................... 41 2.3. Các hoạt động can thiệp ................................................................. 46 2.4. Phương pháp thu thập số liệu ........................................................ 51 2.5. Phương pháp xử lý số liệu ............................................................. 53 2.6. Các biện pháp khống chế sai số ..................................................... 54 2.7. Đạo đức nghiên cứu ....................................................................... 54 2.8. Sơ đồ nghiên cứu ........................................................................... 55 Chƣơng 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ........................................................ 56 3.1. Thực trạng sử dụng ma túy và tình trạng sức khỏe, xã hội của đối tượng nghiên cứu trước khi điều trị Methadone ................................... 56 3.2. Hiệu quả của điều trị Methadone ................................................... 67 3.3. Một số yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả điều trị ............................. 73 Chƣơng 4: BÀN LUẬN ................................................................................. 84 4.1. Thực trạng sử dụng ma túy và tình trạng sức khỏe, xã hội của đối tượng nghiên cứu trước khi điều trị Methadone ................................... 84 4.2. Hiệu quả của điều trị Methadone ................................................... 99 4.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả điều trị ................................ 106 4.4. Hạn chế của nghiên cứu ............................................................... 112 KẾT LUẬN .................................................................................................. 114 KHUYẾN NGHỊ .......................................................................................... 116 TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC
iv
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
AIDS : Acquired Immune Deficiency Syndrome - Hội chứng suy
giảm miễn dịch mắc phải
ARV : Antiretroviral - Thuốc kháng retrovirus
BCS : Bao cao su
BKT : Bơm kim tiêm
BTTX : Bạn tình thường xuyên
CDTP : Chất dạng thuốc phiện
CSĐT : Cơ sở điều trị
CSHQ : Chỉ số hiệu quả
CTGTH : Can thiệp giảm tác hại
HBV : Hepatitis B virus - Viêm gan B
HCV : Hepatitis C virus - Viêm gan C
HIV : Human Immunodeficiency Virus - Virus gây suy giảm
miễn dịch ở người/Hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải
NCMT : Nghiện chích ma túy
NCC Nguy cơ cao
IBBS : Integrated Biological and Behavioural Surveillance - Giám
sát hành vi kết hợp với giám sát huyết thanh học
QHTD : Quan hệ tình dục
PNBD : Phụ nữ bán dâm
SDMT : Sử dụng ma túy
UNODC : United Nations Office on Drugs and Crime - Cơ quan
phòng, chống ma túy và tội phạm Liên Hợp Quốc
UNAIDS : The Joint United Nations Programme on HIV/AIDS -
Chương trình Phối hợp của Liên Hợp Quốc về HIV/ AIDS
WHO : World Health Organization - Tổ chức Y tế thế giới
v
DANH MỤC BIỂU ĐỒ VÀ HÌNH ẢNH
Biểu đồ 1. 1. Tỷ lệ nhiễm HIV phân theo tuổi .................................................. 7
Biểu đồ 1. 2. Số các trường hợp nhiễm HIV phân theo giới 1993-2015 ..... 8
Biểu đồ 1. 3. Số các trường hợp nhiễm HIV phân theo đường lây 1993-2015
........................................................................................................................... 8
Biểu đồ 1. 4. Tỷ lệ nhiễm HIV trong các nhóm nguy cơ cao 1994-2015 ......... 9
Biểu đồ 3.1. Tiền sử bệnh tật của đối tượng nghiên cứu ................................ 65
Biểu đồ 3.2. Tỷ lệ dương tính heroin trong nước tiểu theo dõi 12 tháng ....... 68
Biểu đồ 3.3. Thay đổi chất lượng cuộc sống trước-sau điều trị ...................... 69
Biểu đồ 3.4. Tỷ lệ đối tượng bỏ điều trị (n = 300) .......................................... 72
Biểu đồ 3.5. Một số nguyên nhân bỏ điều trị của đối tượng nghiên cứu ........ 72
vi
DANH MỤC BẢNG
Bảng 3.1. Đặc điểm nhân khẩu học của đối tượng nghiên cứu ...................... 56
Bảng 3.2. Trình độ học vấn, việc làm của đối tượng nghiên cứu ................... 57
Bảng 3.3. Tình trạng hôn nhân, gia đình của đối tượng nghiên cứu .............. 58
Bảng 3. 4. Mâu thuẫn trong gia đình và hành vi vi phạm pháp luật ............... 59
Bảng 3. 5. Đặc điểm tiếp cận điều trị của đối tượng nghiên cứu .................... 60
Bảng 3. 6. Tiền sử sử dụng chất gây nghiện của đối tượng nghiên cứu ......... 60
Bảng 3. 7. Hình thức sử dụng theo loại chất gây nghiện của đối tượng ......... 61
Bảng 3. 8. Tiền sử cai nghiện ma túy của đối tượng nghiên cứu ................... 63
Bảng 3. 9. Hành vi quan hệ tình dục của đối tượng nghiên cứu ..................... 64
Bảng 3. 10. Chất lượng cuộc sống của đối tượng nghiên cứu ........................ 65
Bảng 3. 11. Khả năng lao động của đối tượng nghiên cứu ............................. 66
Bảng 3.12. Thay đổi sử dụng chất gây nghiện trước-sau điều trị ................... 67
Bảng 3.13. Thay đổi hành vi quan hệ tình dục trước-sau điều trị ................... 68
Bảng 3.14. Thay đổi khả năng lao động trước-sau điều trị ............................. 69
Bảng 3. 15. Tỷ lệ sử dụng ma tuý trong quá trình điều trị và tỷ lệ bỏ điều trị…73
Bảng 3.16. Một số yếu tố ảnh hưởng đến sử dụng ma túy trong quá trình điều
trị (đơn biến) .................................................................................................... 73
Bảng 3. 17. Một số yếu tố ảnh hưởng đến sử dụng ma túy trong quá trình điều
trị (đa biến) ...................................................................................................... 76
Bảng 3.18. Một số yếu tố ảnh hưởng đến bỏ điều trị (đơn biến) .................... 78
Bảng 3. 19. Một số yếu tố liên quan đến bỏ điều trị (đa biến) ........................ 80
1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Đại dịch ma túy đã và đang là vấn nạn của nhiều quốc gia trên thế giới
và là nguyên nhân chính gây ra đại dịch HIV/AIDS. Đại dịch kép ―ma túy và
HIV/AIDS‖ ở Việt Nam gây ảnh hưởng nặng nề đến từng cá nhân, gia đình,
tác động trực tiếp đến sự phát triển kinh tế, văn hóa và trật tự, an toàn xã hội
của đất nước [31, 33].
Trên Thế giới, công tác phòng, chống ma túy và phòng chống
HIV/AIDS đã được triển khai tích cực trong nhiều năm qua và thu được
những kết quả đáng ghi nhận nhưng vẫn còn phải đối mặt với nhiều khó khăn,
thách thức. Nhiều biện pháp cai nghiện, điều trị nghiện ma túy đã được triển
khai nhưng không có biện pháp nào có thể điều trị khỏi hẳn cho người nghiện
ma túy. Trước đây, nghiện ma túy vẫn được coi là ―tệ nạn xã hội‖, người
nghiện ma túy được gọi là ―con nghiện‖, là những người có nhân cách yếu,
đua đòi, hư hỏng…nên không từ bỏ được ma túy. Nhưng cuộc cách mạng
khoa học thần kinh trên thế giới hơn 20 năm qua đã chứng minh: nghiện ma
túy là một bệnh não, tái phát, mãn tính và cần phải được điều trị lâu dài. Do
vậy, các biện pháp điều trị duy trì bằng thuốc đã được triển khai với mục đích
là làm giảm sử dụng ma túy bất hợp pháp, dự phòng lây nhiễm HIV và các
bệnh lây truyền qua đường máu cho những người nghiện.
Hiện nay, các thuốc phổ biến được sử dụng để điều trị cho người
nghiện chất dạng thuốc phiện là Methadone, Buprenorphine và Naltrexone,
trong đó thuốc Methadone được sử dụng rộng rãi nhất. Điều trị nghiện các
chất dạng thuốc phiện bằng thuốc Methadone đã được triển khai tại Mỹ từ
năm 1965, đến nay đã được mở rộng ra trên 80 quốc gia trong đó có nhiều
nước phát triển như Anh, Pháp, Mỹ, Úc, Canada...Các nghiên cứu trên thế
2
giới đều cho thấy rõ hiệu quả của điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện
bằng thuốc Methadone trong giảm sử dụng ma tuý bất hợp pháp, giảm nguy
cơ lây nhiễm HIV, giảm tội phạm liên quan đến ma túy đồng thời còn lại các
lợi ích về kinh tế và trật tự an toàn cho xã hội.
Tại Việt Nam, điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc
Methadone (sau đây gọi là điều trị Methadone) bắt đầu được nghiên cứu tại
Viện Sức khỏe Tâm thần - Bệnh viện Bạch Mai từ năm 1996 đến năm 2002.
Năm 2008, điều trị Methadone được triển khai thí điểm tại thành phố Hồ Chí
Minh và thành phố Hải Phòng. Cho đến nay đã được triển khai rộng rãi tại 54
tỉnh, thành phố. Một số nghiên cứu tại Việt Nam cho thấy điều trị Methadone
có hiệu quả trong việc làm giảm sử dụng ma túy bất hợp pháp [24], các hành
vi nguy cơ lây nhiễm HIV [23, 24], cải thiện chất lượng cuộc sống và sức
khỏe cho những người nghiện CDTP được tham gia điều trị [9].
Các tỉnh miền núi phía Bắc thường có điều kiện kinh tế, địa lý khó
khăn, là nơi có nhiều người nghiện ma túy và khả năng tiếp cận với dịch vụ y
tế, dịch vụ chăm sóc sức khỏe còn nhiều bất cập. Hơn nữa, các tỉnh miền núi
phía Bắc thường có đường biên giới dài; tình hình vận chuyển, buôn bán và
sử dụng ma túy trên địa bàn diễn ra hết sức phức tạp và khó kiểm soát làm
cho công tác điều trị bằng thuốc Methadone gặp nhiều thách thức. Trình độ
văn hoá thấp cùng với nhiều thách thức xã hội và kinh tế như nghèo đói, lạm
dụng chất ma túy, bất bình đẳng trong chăm sóc y tế cũng là nguy cơ gián tiếp
làm lây truyền HIV trong đồng bào dân tộc thiểu số [25]. Việc triển khai các
hoạt động can thiệp như chương trình bơm kim tiêm, chương trình Methadone
là rất cần thiết nhằm giảm tác hại do ma túy gây ra trong đó có nguy cơ lây
nhiễm HIV trong nhóm đồng bào dân tộc thiểu số nói riêng và nhân dân miền
núi phía Bắc nói chung [25].
3
Với các đặc điểm trên thì triển khai chương trình Methadone tại các
tỉnh miền núi sẽ mang lại hiệu quả như thế nào? có khác biệt so với các tỉnh,
thành phố như Hồ Chí Minh, Hải Phòng không? Hiện nay, chưa có nghiên
cứu về hiệu quả của điều trị nghiện CDTP bằng thuốc Methadone ở khu vực
miền núi của cả nước nói chung và các tỉnh miền núi phía Bắc nói riêng.
Chính vì vậy, chúng tôi tiến hành nghiên cứu: ―Hiệu quả điều trị nghiện chất
dạng thuốc phiện bằng thuốc Methadone tại tỉnh Điện Biên, Lai Châu và
Yên Bái, 2014-2015‖ với mục tiêu:
1. Mô tả thực trạng sử dụng ma túy và tình trạng sức khỏe, xã hội của
người nghiện ma tuý trước khi được điều trị thay thế nghiện các chất dạng
thuốc phiện bằng thuốc Methadone tại tỉnh Điện Biên, Lai Châu và Yên Bái,
2014-2015.
2. Đánh giá hiệu quả của điều trị nghiện chất dạng thuốc phiện bằng
thuốc Methadone tại tỉnh Điện Biên, Lai Châu và Yên Bái, 2014-2015.
3. Xác định một số yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả điều trị nghiện chất
dạng thuốc phiện bằng thuốc Methadone tại tỉnh Điện Biên, Lai Châu và Yên Bái
2014-2015.
4
Chƣơng 1
TỔNG QUAN
1.1. Tổng quan các khái niệm
1.1.1. Chất ma túy
Ma túy là các chất gây nghiện, chất hướng thần được quy định trong
các danh mục do Chính phủ ban hành [26].
1.1.2. Chất gây nghiện
Theo Tổ chức Y tế thế giới, chất gây nghiện là ―chất hóa học sau khi
được hấp thu sẽ làm thay đổi chức năng thực thể và tâm lý của người sử
dụng‖ [8].
1.1.3. Chất dạng thuốc phiện (CDTP)
Chất dạng thuốc phiện (opiats, opioid) là tên gọi chung cho nhiều chất
như thuốc phiện, Morphine, Heroin, Methadone, Buprenorphine, LAAM… có
biểu hiện lâm sàng tương tự và tác động vào cùng điểm tiếp nhận tương tự ở
não [10, 120].
1.1.4. Khái niệm về nghiện chất
Nghiện chất là tình trạng bắt buộc phải sử dụng chất gây nghiện bất
chấp những tác hại của chúng [10].
1.1.5. Khái niệm về ngƣời nghiện CDTP
Người nghiện CDTP là người sử dụng lặp đi lặp lại nhiều lần CDTP với
liều lượng ngày càng tăng, dẫn đến trạng thái nhiễm độc chu kỳ, mạn tính, bị
lệ thuộc về thể chất và tâm thần vào chất đó [10].
5
1.1.6. Khái niệm về điều trị thay thế
Điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế là việc sử
dụng thuốc thay thế để điều trị cho người nghiện chất dạng thuốc phiện [6].
1.1.7. Cai nghiện
Cai nghiện là ngừng sử dụng hoặc giảm đáng kể chất ma túy mà người
nghiện thường sử dụng (nghiện) dẫn đến việc xuất hiện hội chứng cai, vì vậy
bệnh nhân cần phải được điều trị [10].
1.1.8. Hội chứng cai
Hội chứng cai là trạng thái phản ứng của cơ thể khi cắt hoặc giảm chất
ma tuý đang sử dụng ở những người nghiện ma tuý. Biểu hiện lâm sàng của
hội chứng cai khác nhau phụ thuộc vào loại ma tuý đang sử dụng [10].
1.1.9. Khái niệm về HIV
HIV (Human Immunodeficiency Virus) là loại virus gây ra hội chứng
suy giảm miễn dịch mắc phải ở người [27].
1.1.10. Tuân thủ điều trị
Là tình trạng bệnh nhân đang trong chương trình điều trị tại thời điểm
sau 12 tháng tham gia điều trị [10, 131].
1.1.11. Bỏ điều trị
Là tình trạng bệnh nhân không còn điều trị tại thời điểm sau 12 tháng
tham gia điều trị [10, 131].
1.1.12. Chất lƣợng cuộc sống
Chất lượng cuộc sống liên quan đến sức khỏe (HRQOL) là một thước đo
quan trọng về nhận thức của bệnh nhân về bệnh tật của họ. Nhận thức này bao
6
gồm các lĩnh vực: sức khỏe thể chất, sức khỏe tâm thần, các mối quan hệ xã
hội và môi trường [130].
1.2. Tình hình sử dụng ma túy và nhiễm HIV/AIDS
1.2.1. Tình hình sử dụng ma túy
Theo báo cáo đến năm 2015, toàn quốc thống kê được 201.180 người
nghiện ma túy có hồ sơ quản lý. Trong đó, 72,4% đang sống ngoài xã hội,
9,2% trong các cơ sở cai nghiện, 18,4% trong các trại tạm giam, nhà tạm giữ,
cơ sở giáo dục, trường giáo dưỡng. Một số địa phương có tỷ lệ người sử dụng
ma túy tổng hợp cao, bao gồm: Đà Nẵng 85%, Tây Ninh 61%, Trà Vinh 49%,
TP. Hồ Chí Minh 48% [36].
Độ tuổi của người nghiện có xu hướng ngày càng trẻ hoá (năm 1996, số
người nghiện dưới 30 tuổi chiếm tỷ lệ 42%, năm 2001 là 57,7%, đến năm
2010 là 68,3%), tỷ lệ người nghiện là nữ đang gia tăng (từ 3,15%, năm 1996
lên 4,5%, năm 2006) [8]. Theo báo cáo năm 2015, có tới 76% người NCMT
có độ tuổi dưới 35 [36].
Trước đây, người nghiện ma tuý chủ yếu sử dụng thuốc phiện, sái thuốc
phiện và chỉ có một tỉ lệ rất nhỏ sử dụng heroin. Đến nay, người nghiện sử
dụng heroin là chủ yếu (chiếm khoảng 70%), đồng thời sử dụng cả ma tuý
tổng hợp, thuốc hướng thần... Hình thức sử dụng ma tuý đa dạng hơn, không
còn là hút thuốc phiện, cần sa, hít heroin mà mở rộng sang các hình thức tiêm,
chích heroin, uống ma tuý tổng hợp.v.v. Tỷ lệ người nghiện sử dụng ma tuý
bằng đường tiêm chích đã tăng mạnh, từ 7,6 % năm 1996 lên 46,4% năm
2001, 66,3% năm 2006 và lên trên 71% năm 2010 [36]. Theo giám sát trọng
điểm lồng ghép hành vi trong các nhóm nguy cơ cao tại Việt Nam năm 2014,
13,1% trong số họ cho biết có sử dụng chung bơm kim tiêm trong vòng 1
7
tháng qua [5], đây là nguyên nhân trực tiếp làm lây lan nhanh HIV trong
nhóm tiêm chích ma tuý.
1.2.2.Tình hình dịch HIV/AIDS
Tính đến cuối năm 2016, cả nước hiện có 215.621 người nhiễm HIV,
88.668 bệnh nhân AIDS và 90.181 người nhiễm HIV tử vong.
Trong 6 năm qua, tiếp tục ghi nhận số người nhiễm HIV, bệnh nhân
AIDS và tử vong hằng năm giảm, số trường hợp HIV dương tính phát hiện
năm 2010 từ 17.800 xuống còn 9.912 ca năm 2016, tử vong giảm từ 3.300 ca
năm 2010 xuống 2.131 ca năm 2016, số bệnh nhân AIDS từ 8.900 ca năm
2015 xuống còn khoảng 5.876 ca năm 2016 [36].
Người nhiễm HIV trong độ tuổi 20-40 chiếm tới khoảng 60%-85% số
ca được báo cáo trong giai đoạn 1993-2015. Tỉ lệ này cao nhất vào năm 2004
(85,95%). Đến năm 2015, số người nhiễm HIV trong độ tuổi 20-40 vẫn chiếm
100%
90%
,
,
,
,
80%
,
,
,
,
,
6 6 2
5 7 2
6 6 2
6 8 2
,
6 0 3
,
,
9 1 3
1 8 2
1 3 3
2 5 3
70%
,
,
2 9 3
1 0 4
,
,
1 1 4
,
9 2 4
,
60%
6 4 4
1 5 4
4 4
6 9 2 6 2 3
0 4 4
50%
,
5 2 3
,
,
,
,
,
40%
,
,
,
,
8 5 3
2 6 4
,
0 1 4
,
,
5 4 5
1 4 5
,
9 5 5
2 5 5
6 0 5
,
,
3 5 5
30%
,
3 3 5
3 2 5
3 5 4
,
8 0 5
,
,
,
1 6 4
,
2 4 4
9 0 4
3 7 3
6 8 3
,
20%
0 3
1 5 3
9 2 3
8 0 3
,
5 5 2
,
,
10%
9 7 1
8 4 1
1 3 1
0%
'
'
'
'
'
'
'
'
'
'
'
'
'
5 9
9 9
3 9
4 9
6 9
7 9
8 9
3 0
7 0
0 0
1 0
2 0
4 0
5 0
6 0
8 0
9 0
3 1 0 2
4 1 0 2
5 1 0 2
1 1 0 2
0 1 0 2
2 1 0 2
0-14
15-19
20-29
30-39
40-49
>=50
KR
tới 74% (được nêu trong biểu đồ 1.1) [18].
Biểu đồ 1. 1. Tỷ lệ nhiễm HIV phân theo tuổi
8
Tỷ lệ số ca báo cáo nhiễm HIV là nữ có xu hướng gia tăng. Năm 2015
tỷ lệ này chiếm 34,1% các trường hợp nhiễm HIV báo cáo, tỷ lệ này tăng gấp
100%
,
,
,
,
,
,
,
,
,
,
,
,
,
,
,
7 1 1
8 1 1
,
3 2 1
6 2 1
2 3 1
7 3 1
0 4 1
1 4 1
90%
,
7 5 1
,
1 6 1
,
,
1 9 1
2 9 1
8 9 1
,
,
7 0 2
,
2 4 2
5 5 2
3 8 2
3 9 2
8 0 3
5 1 3
4 3 3
4 3 3
1 4 3
80%
70%
60%
50%
,
,
,
,
,
,
,
,
,
,
,
,
,
,
,
3 8 8
2 8 8
,
7 7 8
4 7 8
8 6 8
3 6 8
0 6 8
9 5 8
40%
,
3 4 8
,
9 3 8
,
,
9 0 8
8 0 8
2 0 8
,
,
3 9 7
,
8 5 7
5 4 7
7 1 7
7 0 7
2 9 6
5 8 6
6 6 6
6 6 6
9 5 6
30%
20%
10%
0%
'
'
'
'
'
'
'
'
'
'
'
'
'
3 9
4 9
5 9
6 9
7 9
8 9
9 9
0 0
1 0
2 0
3 0
4 0
5 0
6 0
7 0
8 0
9 0
3 1 0 2
4 1 0 2
5 1 0 2
0 1 0 2
1 1 0 2
2 1 0 2
Nam Nữ
3 lần so với năm 1993 (được nêu trong biểu đồ 1.2) [18].
Biểu đồ 1. 2. Số các trƣờng hợp nhiễm HIV phân theo giới 1993-2015
Tỷ lệ số ca báo cáo nhiễm HIV lây truyền qua đường tình dục năm
2015 là 50,8%, tăng gấp hơn 5 lần năm 1993 (được nêu trong biểu đồ 1.3)
100%
90%
80%
70%
60%
50%
40%
30%
20%
10%
0%
'
'
'
'
'
'
'
'
'
'
'
'
'
6 9
3 9
4 9
5 9
7 9
8 9
9 9
0 0
1 0
2 0
3 0
4 0
5 0
6 0
7 0
8 0
9 0
3 1 0 2
4 1 0 2
5 1 0 2
0 1 0 2
1 1 0 2
2 1 0 2
Không rõ
Mẹ Truyền sang con
Đường Tình dục
Đường Máu
[18].
Biểu đồ 1. 3. Số các trường hợp nhiễm HIV phân theo đường lây 1993-2015
9
Dịch HIV/AIDS ở Việt Nam tập trung chủ yếu ở ba nhóm quần thể có
hành vi nguy cơ lây truyền HIV cao: người tiêm chích ma túy, nam tình dục
đồng giới và phụ nữ mại dâm. Theo kết quả giám sát trọng điểm 2015, tỷ lệ
hiện nhiễm HIV trong nhóm nam NCMT, PNMD, MSM tương ứng là 9,3%,
2,7% và 5,1%. So với giai đoạn đỉnh điểm của dịch năm 2002 thì tỉ lệ HIV
trong nhóm NCMT giảm hơn 3 lần, nhóm PNBD giảm hơn 2 lần. Tỉ lệ hiện
nhiễm HIV trong nhóm MSM trong giai đoạn 2011-2015 dao động từ khoảng
NCMT
PNBD
MSM
35,0
29,3 29,3
30,0
28,6
25,6
25,0
23,9
23,1
22,7
20,2
20,5
20,3
20,0
18,4
17,3
16,6
15,0
14,9
17,2 13,4
11,6 10,7
13,4
10,5
10,0
10,9
9,3
6,7
5,9
4,0
4,4
3,6
5,0
5,1
4,2 3,9 3,1
3,8 3,5 4,7
0,6 1,0 0,7 1,5
3,8
3,5 4,6
3,5
2,9
2,4
2,7
2,6 2,5
2,3
0,0
94 95 96 97 98 99 00' 01' 02' 03' 04' 05' 06' 07' 08' 09' 10' 11' 12' 13' 14' 15'
2,3%-6,7% (được nêu trong biểu đồ1.4) [18].
Biểu đồ 1. 4. Tỷ lệ nhiễm HIV trong các nhóm nguy cơ cao 1994-2015
Dịch HIV/AIDS đã xảy ra ở tất cả tỉnh, thành phố với 99,8% số
quận/huyện và trên 80,3% số xã/phường. Số người nhiễm HIV chủ yếu tập
trung các tỉnh miền Bắc, vùng đồng bằng sông Cửu Long và miền Đông Nam
Bộ, khu vực có số người nhiễm HIV cao là các tỉnh miền núi Tây Bắc và các
huyện miền núi Nghệ An và Thanh Hóa. Thành phố lớn Hà Nội và Hồ Chí
Minh có số lượng lớn người nhiễm HIV với diễn biến dịch phức tạp, khó
kiểm soát.
10
1.2.3. Đặc điểm của ngƣời sử dụng và tiêm chích ma túy tại Việt Nam
1.2.3.1. Đặc điểm về sử dụng ma túy
Người nghiện ma tuý chủ yếu đang sử dụng heroin [36]. Việc sử dụng
nhiều heroin dẫn tới việc tiêm chích tăng cao do nhu cầu về liều lượng ngày
càng tăng của các đối tượng sử dụng heroin [13, 29, 36, 86] và làm tăng khả
năng lây nhiễm HIV [37].
Tuổi bắt đầu sử dụng ma tuý là khoảng 20 tuổi [42]. Đây là độ tuổi dễ
lôi kéo, rủ rê, gặp phải nhiều vấn đề về tâm lý, vì vậy họ sử dụng heroin để
giảm áp lực cũng như thư giãn [42]. Với xu hướng độ tuổi người nghiện có xu
hướng ngày càng trẻ như hiện nay, việc giáo dục từ sớm về công tác phòng
chống ma tuý, tăng cường kiến thức, nhận thức của thanh thiếu niên ngay từ
khi còn ngồi trong ghế nhà trường là rất quan trọng trong công tác kiểm soát
ma tuý, tệ nạn xã hội.
Có tỷ lệ khá cao người sử dụng ma túy có thời gian sử dụng ma tuý từ
5-10 năm (33,3%) [25]. Rất nhiều trường hợp bị shock thuốc và là nguyên
nhân trực tiếp gây tử vong, ảnh hưởng lớn đến sức khoẻ của họ.
Hầu hết người nghiện ma túy đã tham gia cai nghiện ma tuý với các
hình thức khác nhau: cai nghiện tại trung tâm, tự mua thuốc để cai, cai nghiện
ở cơ sở tư nhân, cắt cơn tại cộng đồng và cai khan nhưng đa số đều tái nghiện
do thèm muốn ma tuý, bị bạn bè rủ rê, buồn chán, thất vọng [15, 25, 129].
Dùng chung BKT và các dụng cụ tiêm chích là nguyên nhân chính làm
lây truyền HIV trong nhóm người NCMT. Các nghiên cứu gần đây nhất cho
thấy tỷ lệ này vẫn đang ở mức cao [5]. Theo giám sát trọng điểm lồng ghép
hành vi trong các nhóm nguy cơ cao tại Việt Nam năm 2014, 13,1% trong số
họ cho biết có sử dụng chung bơm kim tiêm trong vòng 1 tháng qua. Tỷ lệ
này vẫn cao ở một số tỉnh như Sơn La (38%), Kiên Giang (34%), Đắc Lắc
(32%), Gia Lai (22,7%) [5].
11
Người NCMT tin rằng nguy cơ lây nhiễm HIV qua quan hệ tình dục
thấp hơn qua việc dùng chung các dụng cụ tiêm chích [124], do vậy thường ít
thực hành hành vi tình dục an toàn so với hành vi tiêm chích an toàn [15].
Nghiên cứu tại thành phố Hồ Chí Minh cho thấy chỉ 50% người NCMT có
quan hệ tình dục với GMD trong 4 tuần qua sử dụng bao cao su [58].
Kết quả này khuyến khích việc tiếp tục đẩy mạnh tuyên truyền sử dụng
bao cao su khi quan hệ tình dục, đặc biệt với các đối tượng nguy cơ cao. Quan
hệ tình dục không an toàn đã được chứng minh là nguyên nhân lây nhiễm
HIV cũng như các bệnh truyền nhiễm khác trong cộng đồng [85]. Vì vậy, việc
giảm thiểu quan hệ tình dục không an toàn sẽ có ý nghĩa quan trọng trong việc
phòng chống HIV, đặc biệt ở các tỉnh miền núi.
1.2.3.2. Đặc điểm kinh tế và xã hội của ngƣời nghiện ma túy
Hiện nay, độ tuổi sử dụng ma tuý tại Việt Nam đang có xu hướng trẻ
hoá, độ tuổi dưới 30 chiếm tỷ lệ lớn [34, 35]. Tuy nhiên, ở các tỉnh miền núi
phía Bắc như Thái Nguyên, Hòa Bình, Tuyên Quang thì tuổi trên 30 lại chiếm
tỷ lệ lớn [1, 42]. Điều này có thể do người nghiện tại các tỉnh miền núi phía
Bắc có thời gian sử dụng thuốc phiện lâu hơn ở các tỉnh đồng bằng và thành
phố lớn. Hầu hết người sử dụng ma túy là nam giới (95%) [25], có gia đình
(59%) [1, 79].
Báo cáo của Bộ Lao động Thương binh và Xã hội Việt Nam cho thấy
phần lớn người nghiện ma túy có trình độ văn hoá thấp, 69% có trình độ văn
hoá dưới trung học phổ thông, đặc biệt là ở trong các đồng bào dân tộc miền
núi [2, 99].
Hầu hết những người sử dụng ma túy không có việc làm ổn định hoặc
làm nghề tự do [99]. Họ có thu nhập thấp hơn so với thống kê về bình quân
thu nhập đầu người của Ngân hàng Thế giới Worldbank (khoảng 4 triệu
12
đồng/tháng) [121]. Địa bàn miền núi khó khăn trong việc phát triển kinh tế
cũng ảnh hưởng tới thu nhập cùa người sử dụng ma túy.
Nhiều người trong số họ là trụ cột gia đình, trong khi đó, họ còn mất
tiền để mua các loại ma tuý Số tiền chi tiêu cho ma tuý gấp 3 lần thu nhập
của các đối tượng nghiện [2]. Khoản tiền phải trả cho ma tuý này góp phần
lớn gây nên gánh nặng về kinh tế cho các gia đình và là lý do dẫn tới các hành
vi phạm pháp như trộm cắp, cướp giật gây ảnh hưởng đến an ninh, an toàn và
gây bất ổn trong xã hội. Chính vì vậy, cần có các biện pháp giúp giảm liều
lượng ma tuý, hỗ trợ cai nghiện, ngoài ra cần xử lý nghiêm các hành vi buôn
bán, sử dụng ma tuý.
Những người nghiện ma túy cũng là đối tượng có tiền án, tiền sự. Báo
cáo của Bộ Lao động Thương binh và Xã hội cho thấy, có 38% đối tượng có
tiền án tiền sự, 11% có tên trong hồ sơ do nhà nước quản lý [2]. Tuy nhiên, ở
các thành phố lớn tỷ lệ này khá cao, như ở Hải phòng tỷ lệ có hành vi phạm
pháp là 40,8%, tỷ lệ có tiền sự là 13,0% [25]. Do người nghiện ma tuý thiếu
tiền mua thuốc để dùng thoả mãn cơn nghiện. Các đối tượng phạm pháp dưới
nhiều hình thức đa dạng khác nhau như bài bạc, cá độ, trộm cướp, buôn lậu,
buôn bán vận chuyển chất gây nghiện và nhiều loại hình phạm pháp khác.
Tuy nhiên, các hành vi vi phạm pháp luật nhằm mục đích tạo thu nhập nhanh
chóng để có thể mua và sử dụng chất gây nghiện, thoả mãn cơn nghiện.
Nghiện ma tuý và vi phạm pháp luật luôn song hành cùng nhau, nối tiếp nhau
và tạo ra vòng nghiệt ngã khiến cho người nghiện ma tuý ngày càng nghiện
trầm trọng hơn. Điều trị nghiện CDTP bằng thuốc Methadone là một trong
những phương pháp hữu hiệu trong việc giảm tình trạng phạm pháp ở trong
nhóm người sử dụng ma tuý [33, 73].
13
1.2.4. Tình hình ma túy và nhiễm HIV/AIDS tại Điện Biên, Lai Châu và Yên Bái
Điện Biên, Lai Châu và Yên Bái nằm trong khu vực Tây Bắc của Việt
Nam. Khu vực Tây Bắc là một trong những khu vực trọng điểm về ma túy và
HIV/AIDS, nghiện chích ma túy là một trong những nguy cơ lây nhiễm HIV
chủ yếu ở khu vực này. Trong năm 2015, số người nhiễm HIV/100.000 người
tại khu vực này là 256 người (cao hơn so với toàn quốc là 223 người). Tỷ lệ
nhiễm HIV trong nhóm người nghiện chích ma túy và phụ nữ bán dâm trong
năm 2015 tại khu vực này cũng cao hơn trung bình toàn quốc, lần lượt là
9,9% (toàn quốc 9,3%), 3,1% (toàn quốc 2,7%) [19].
Tại khu vực Tây Bắc, lây nhiễm HIV trong nhóm NCMT chủ yếu do sử
dụng chung bơm kim tiêm. Ngoài hành vi tiêm chích không an toàn người
NCMT còn có hành vi quan hệ tình dục không an toàn nên HIV còn lây
truyền từ nhóm người NCMT sang vợ và bạn tình của họ và từ những người
này HIV lại có thể truyền sang những nam giời bình thường [19].
a) Tình hình nghiện ma túy và nhiễm HIV/AIDS tại tỉnh Điện Biên
Tính đến ngày 30/12/2016 trên địa bàn tỉnh Điện Biên có 9.669 người
nghiện ma túy có hồ sơ quản lý. Loại ma túy sử dụng chủ yếu là heroin chiếm
78,4%; hình thức sử dụng chủ yếu qua con đường tiêm chích, tỷ lệ nhiễm HIV
ở nhóm tiêm chích ma túy là 30%. Đến tháng 12/2016 lũy tích các trường hợp
nhiễm HIV là 6.867 trường hợp, trong đó còn sống quản lý được 3.195 người.
Lũy tích bệnh nhân AIDS 5.210 người; còn sống 1.741 người; Lũy tích tử
vong 3.469 người. Dịch HIV/AIDS xẩy ra chủ yếu trong nhóm người nghiện
chích ma túy. Lây nhiễm HIV chủ yếu qua đường máu (59%). Tình hình dịch
HIV/AIDS đang có xu hướng giảm ở các huyện thị trọng điểm, tuy nhiên dịch
còn diễn biến phức tạp, lan ra vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc, khu
vực biên giới và có xu hướng trẻ hóa về độ tuổi. Điện Biên bắt đầu triển khai
14
chương trình Methadone từ năm 2011, đến 9/2014 có 5 cơ sở điều trị cho
1.445 bệnh nhân [28].
b) Tình hình nghiện ma túy và nhiễm HIV/AIDS tại tỉnh Yên Bái
Đến 31/12/2016 toàn tỉnh Yên Bái có 2.586 người nghiện ma túy hiện
còn sống, được quản lý, ngoài xã hội có 2.250 người. Tuy nhiên số lượng
người nghiện chích ma túy thực tế trong cộng đồng rất biến động, khó kiểm
soát. Đến 31/12/2016 số người nhiễm HIV đang còn sống là 4.081 trường
hợp, đối tượng nhiễm chiếm tỷ lệ cao nhất là nhóm nghiện chích ma túy
40,28% (tăng 4,18% so năm 2015). Dịch tập trung ở nhóm có hành vi nguy cơ
cao: nhóm NCMT, nhóm mại dâm, người mắc bệnh lây truyền qua đường tình
dục. Yên Bái bắt đầu triển khai chương trình Methadone năm 2014, có 2 cơ
sở và điều trị cho 227 bệnh nhân [30].
c) Tình hình nghiện ma túy và nhiễm HIV/AIDS tại tỉnh Lai Châu
Số nghiện chích ma tuý của tỉnh tính đến thời điểm hết tháng 11/2016
là 3.393 người (số liệu báo cáo của Công an tỉnh Lai Châu). Ca nhiễm đầu tiên
được phát hiện tại Lai Châu vào năm 2001, đến 31/12/2016 đã có 94/108 xã,
phường thuộc 8 huyện, thành phố trong toàn tỉnh có người nhiễm HIV. Số
nhiễm HIV đang còn sống và quản lý được là 1.971 người. Nhiễm HIV chủ
yếu tập trung ở nam giới (chiếm 67%), nguyên nhân chủ yếu là lây truyền qua
đường máu do tiêm chích ma túy; chủ yếu ở độ tuổi lao động (15-24 tuổi) là
19,82% và (25-49 tuổi) là 74,01%. Phân bố HIV/AIDS còn sống theo nhóm
dân tộc: dân tộc Thái chiếm tỷ lệ 0,64%, dân tộc Kinh là 0,59%, dân tộc Mông
0,2%, dân tộc Dao là 0,09%; ngoài ra còn một số nhóm dân tộc thiểu số khác.
Tình hình lây nhiễm HIV/AIDS vẫn còn diễn biến phức tạp và tập chung ở
địa bàn có tỷ lệ tiêm chích ma túy cao. Lai Châu bắt đầu triển khai chương
trình Methadone từ tháng 9/2013, đến 9/2014 có 3 cơ sở điều trị cho 1.097
bệnh nhân [29].
15
1.3. Các phƣơng pháp điều trị nghiện chất dạng thuốc phiện
1.3.1. Các phƣơng pháp điều trị trạng thái cai CDTP
1.3.1.1. Mục tiêu
- Giảm nhẹ các triệu chứng của hội chứng cai.
- Giúp hồi phục lại sự dung nạp của hệ thần kinh do thời gian sử dụng
CDTP kéo dài.
- Giảm mức độ lệ thuộc về thể chất.
- Hỗ trợ cho điều trị dài hạn để thay đổi lối sống.
1.3.1.2. Điều trị trạng thái cai
Người nghiện sử dụng CDTP nhiều lần, CDTP sẽ tác động vào các thụ
thể ở não (chủ yếu là thụ thể muy ()) và làm giảm liên tục lượng Adenosin
Mono Phosphate (AMP) vòng trong cơ thể. Vì vậy, cơ thể phải đối phó lại với
sự thiếu hụt AMP vòng bằng cách tăng cường sản xuất men Adenylcyclase
(men tổng hợp AMP vòng). Khi trong cơ thể có CDTP, nhờ cơ chế bù trừ mà
cơ thể vẫn giữ được sự cân bằng sản xuất AMP vòng. Từ đó xuất hiện trạng
thái quen thuốc (nghiện). Nếu ngừng CDTP đột ngột, thụ thể vẫn quen đáp
ứng với nồng độ cao CDTP, lúc này Endorphin sẵn có trong cơ thể sẽ thay thế
CDTP, nhưng Endorphin bị giáng hoá rất nhanh, không thoả mãn được nhu
cầu của cơ thể, hậu quả là không còn kìm hãm nổi sự bài tiết quá dư thừa men
Adenylcyclase làm cho lượng AMP vòng cao vọt lên khác thường, xuất hiện
trạng thái bệnh lý đặc biệt gọi là hội chứng cai.
Các triệu chứng của hội chứng cai nặng dần lên đặc biệt trong 3 ngày
đầu, sau đó giảm dần và đến ngày thứ 7 (chậm nhất là ngày thứ 10) tự nó sẽ
mất đi dù có dùng thuốc hay không dùng thuốc.
Điều trị trạng thái cai nhằm hỗ trợ bệnh nhân vượt qua hội chứng cai
một cách nhẹ nhàng hơn, nhưng tình trạng đói CDTP trường diễn ở các thụ
thể vẫn còn. Sau một thời gian ngắn do sự thôi thúc của trạng thái đói CDTP
16
trường diễn và hoàn cảnh tâm lý xã hội, bệnh nhân lại tìm đến CDTP (tái
nghiện).
1.3.1.3. Hạn chế của điều trị trạng thái cai
Điều trị trạng thái cai có thể đem lại những lợi ích, nhưng không chấm
dứt được việc sử dụng CDTP.
Trên thực tế, tỷ lệ tái sử dụng các CDTP sau điều trị trạng thái cai rất
cao, thời gian sau điều trị trạng thái cai càng dài thì tỷ lệ tái sử dụng CDTP
càng cao.
1.3.1.4. Các phương pháp điều trị trạng thái cai đã được áp dụng tại Việt Nam
- Điều trị trạng thái cai bằng các thuốc hướng thần;
- Điều trị trạng thái cai bằng thuốc y học cổ truyền;
- Điều trị trạng thái cai bằng châm cứu;
- Điều trị trạng thái cai bằng Clonidine.
Ngoài ra còn có các phương pháp điều trị trạng thái cai khác:
- Không dùng thuốc, cai khô;
- Liệu pháp vật lý (xoa bóp, bấm huyệt…);
- Liệu pháp tâm lý (thư giãn, liệu pháp nhóm, liệu pháp gia đình, liệu
pháp nhận thức hành vi….) [4].
1.3.2. Các phƣơng pháp điều trị duy trì lâu dài
Mục tiêu:
- Vừa điều trị sự phụ thuộc về cơ thể vừa điều trị sự phụ thuộc về tâm thần;
- Giảm tác hại của CDTP gây ra và chống tái nghiện;
- Phục hồi nhân cách và phục hồi chức năng tâm lý xã hội, tiến tới thay
đổi lối sống không cần chất gây nghiện.
17
1.3.2.1. Điều trị phục hồi tại Trung tâm
Ở nước ta điều trị phục hồi tại các Trung tâm Giáo dục, Chữa bệnh,
Lao động - Xã hội (gọi tắt là Trung tâm) do Bộ Lao động, Thương binh và Xã
hội quản lý. Hoạt động của Trung tâm bao gồm: điều trị trạng thái cai, giáo
dục, lao động, dạy nghề, phục hồi chức năng tâm lý xã hội. Thời gian điều trị
phục hồi tại Trung tâm thường kéo dài 2 năm hoặc lâu hơn. Phương pháp này
đem lại một số lợi ích, nhưng khi bệnh nhân trở về cộng đồng tỷ lệ tái nghiện
vẫn rất cao.
1.3.2.2. Điều trị phục hồi tại cộng đồng
Bệnh nhân có thể được điều trị trạng thái cai tại nhà, tại trung tâm. Sau
điều trị trạng thái cai, việc điều trị phục hồi được thực hiện chủ yếu tại gia
đình và cộng đồng. Các phương pháp điều trị đa dạng: thuốc, tư vấn, liệu
pháp tâm lý, giáo dục, lao động, giải trí, học nghề….
Ưu điểm của phương pháp này là bệnh nhân sau khi được điều trị tái
hoà nhập cộng đồng tốt hơn, nhưng nếu thời gian điều trị chưa đủ dài (thông
thường điều trị kéo dài ít nhất một năm) thì tỷ lệ tái nghiện vẫn rất cao [4].
1.3.3. Điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế
1.3.3.1. Mục tiêu
- Mục tiêu trước mắt: giảm các triệu chứng của hội chứng cai. Giảm thèm
nhớ và giảm sử dụng CDTP bất hợp pháp. Nâng cao sức khỏe cho bệnh nhân.
- Mục tiêu trung hạn: Tăng khả năng có việc làm, chịu trách nhiệm bản thân.
- Mục tiêu dài hạn: Đảm nhiệm các trách nhiệm với xã hội, đóng góp
cho cộng đồng.
1.3.3.2. Tác dụng của điều trị thay thế
18
- Giảm hoặc làm mất các triệu chứng của hội chứng cai; giảm hoặc làm
mất các cơn thèm nhớ CDTP; ngăn chặn cảm giác "phê" nếu vẫn tiếp tục sử
dụng CDTP, thời gian điều trị càng dài thì hiệu quả điều trị càng cao.
- Giảm đáng kể việc sử dụng CDTP; ngăn ngừa lây nhiễm HIV và các
bệnh lây truyền qua đường máu khác.
- Giảm nguy cơ tử vong do sốc quá liều và giảm các hành vi phạm pháp.
1.3.3.3. Các thuốc điều trị thay thế phổ biến
a) Thuốc Methadone
Methadone là CDTP tổng hợp, đồng vận toàn phần với các thụ thể của
CDTP (μ, κ và δ), hấp thu qua đường uống nên không cần sử dụng đường
tiêm; thời gian tác dụng kéo dài trung bình 24 giờ nên bệnh nhân chỉ cần uống
1 lần/24 giờ; ít gây dung nạp nên không phải tăng liều; dễ dàng kiểm soát việc
sử dụng, giá thành rẻ…Vì vậy, Methadone đã được lựa chọn là một trong
những phương pháp điều trị thay thế nghiện các CDTP tự nhiên, bất hợp pháp
có hiệu quả trên thế giới kể từ năm 1964 tới nay.
Khi điều trị bằng thuốc Methadone, liều Methadone phải phù hợp với
từng bệnh nhân, bắt đầu với liều thấp, tăng từ từ và duy trì ở liều đạt hiệu quả
tối ưu. Kết hợp với tư vấn, chăm sóc và điều trị y tế khác. Thời gian điều trị
phải đủ dài, thời gian càng dài hiệu quả điều trị càng cao [4].
b) Thuốc Buprenorphine
Buprenorphine là CDTP bán tổng hợp, đồng vận một phần với các thụ
thể của CDTP (vừa có tác dụng đồng vận với các thụ thể (μ và nociceptin),
vừa có tác dụng đối vận với các thụ thể (κ và δ) của CDTP) nên nó được sử
dụng để điều trị nghiện các CDTP giống như Methadone nhưng an toàn hơn
(ít nguy cơ tử vong khi sử dụng quá liều), tuy nhiên giá thành điều trị cao hơn
nhiều so với Methadone.
19
Điểm mạnh của điều trị bằng thuốc Buprenorphine:
- Có thể điều trị cách nhật, thậm chí 3 ngày trong một tuần. Tác dụng
không mong muốn rất nhẹ, chỉ gây ra trong thời gian đầu và giảm dần theo
thời gian.
- Hội chứng cai nhẹ, xuất hiện trong vòng 3-5 ngày từ lần sử dụng
Burprenorphine cuối cùng.
Hạn chế của thuốc Burprenorphine: giá thành đắt, sự kiểm soát
Burprenorphine (viên) ở thị trường tự do khó khăn hơn Methadone [4].
c) Thuốc Naltrexone
Naltrexone là một chất đối vận với CDTP thông qua việc chiếm chỗ của
các phân tử CDTP tại các thụ thể, cũng như ngăn chặn sự tiếp cận của CDTP
với các thụ thể của nó.
Naltrexone được sử dụng điều trị duy trì chống tái nghiện CDTP có kết
quả tốt nếu kết hợp với liệu pháp tâm lý và rất hiệu quả ở những bệnh nhân có
động lực tốt. Thời gian điều trị tối đa phụ thuộc từng cá thể, nhưng không
dưới một năm để có thể thay đổi hành vi.
Liệu pháp này đã được áp dụng trên thế giới và tại Việt Nam nhưng hạn
chế chủ yếu của liệu pháp này là tỷ lệ bệnh nhân bỏ điều trị rất cao [4].
1.4. Điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc Methadone
trên thế giới và ở Việt Nam
1.4.1. Trên Thế giới
Điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc đã có một lịch sử
lâu dài hơn 50 năm. Điều trị nghiện CDTP bằng thuốc Methadone đã được
Vincent Dole và Marie Nyswander triển khai lần đầu tiên tại Mỹ, năm 1964
20
[125]. Tính đến cuối năm 2014, đã có hơn 80 quốc gia trên thế giới triển khai
điều trị nghiện CDTP bằng thuốc. Methadone và Buprenorphine là 02 thuốc
chính thường được lựa chọn trong điều trị. Ngoài ra, tại một số quốc gia còn
cung cấp một số dịch vụ khác như morphine và codein phóng thích chậm, và
điều trị heroin hỗ trợ (HAT) [111].
Số cơ sở điều trị thường tỷ lệ thuận với số người tham gia điều trị, tỷ lệ
này thường rất cao ở các nước phát triển như Mỹ, Australia, các nước ở châu
Âu. Theo ước tính, có khoảng 61% người nghiện CDTP đã được tham gia
điều trị tại Tây Âu, tỉ lệ này tương đối cao ở Iran (42,6%) và tại cộng hòa
Czech (40%). Điều trị nghiện CDTP cũng được triển khai tại nhiều nước
Châu Á Đông Âu, Trung Đông và Bắc Phi [54, 112].
Tuy nhiên, độ bao phủ của điều trị nghiện CDTP vẫn còn thấp. Theo ước
tính toàn cầu về độ bao phủ của chương trình điều trị nghiện CDTP đến cuối
năm 2014 cho thấy chỉ có khoảng 6% đến 12% người nghiện CDTP được tham
gia điều trị. Độ bao phủ vẫn rất thấp tại một số vùng như là vùng cận –Sahara
của Châu Phi, Châu Mỹ Latinh và Châu Á. Tại Châu Á, một số nước có tỷ lệ
nghiện chích ma túy đã được ghi nhận là nguyên nhân chính gây lây nhiễm
HIV, độ bao phủ của chương trình điều trị nghiện CDTP bằng thuốc là rất thấp,
dưới 3% số người nghiện CDTP như tại Indonesia, Myanmar [54, 112].
1.4.2. Hiệu quả của điều trị nghiện CDTP bằng thuốc Methadone
Trải qua hơn 50 năm, với một lịch sử lâu dài, điều trị nghiện CDTP
bằng thuốc Methadone đã được chứng minh là phương pháp điều trị nghiện
CDTP có hiệu quả nhất. Nhiều nghiên cứu đã chứng minh hiệu quả trong việc
làm giảm sử dụng heroin [43, 51, 75], dự phòng lây nhiễm HIV [64, 88], tăng
tuân thủ điều trị ARV [98], giảm tỷ lệ tử vong trong số những bệnh nhân tham
gia điều trị Methadone [65], giảm hành vi phạm pháp [72, 88].
21
1.4.2.1. Làm giảm sử dụng ma túy bất hợp pháp
Hiệu quả của điều trị nghiện CDTP bằng thuốc Methadone trong việc
giảm sử dụng ma tuý bất hợp pháp được thể hiện trong nhiều nghiên cứu khác
nhau:
Nghiên cứu vào giữa thập kỷ 80 của Ball JC và Ross A về hiệu quả của
việc điều trị Methadone cho thấy 77% bệnh nhân ngừng sử dụng heroin bằng
đường tiêm chích trong 6 tháng đầu tiên tham gia điều trị, sau 4 đến 5 năm
điều trị tỷ lệ bệnh nhân ngừng sử dụng heroin tăng lên tới 92%, 96% bệnh
nhân báo cáo không dùng ma túy tổng hợp và 83% bệnh nhân không dùng
cocaine [88].
Nghiên cứu của Simpson DD, Sells SB tại Mỹ trên 1.856 bệnh nhân
điều trị Methadone về tình hình sử dụng ma tuý hàng ngày trong 3 năm cho
thấy: tỷ lệ sử dụng ma túy hàng ngày trước điều trị 02 tháng là 100%, sau 01
năm điều trị bằng thuốc Methadone tỷ lệ này giảm xuống còn 36% và sau 03
năm điều trị tỉ lệ này giảm 22% [117].
Nghiên cứu của Jeganathan và cộng sự tại Malaysia trên 216 bệnh nhân
trong giai đoạn 2005-2008 cũng cho thấy điểm số sử dụng heroin sau 12
tháng giảm rõ rệt, điểm số khác biệt là 2.01 (p<0.001) [86].
Tại Việt Nam, tác giả Vũ Văn Công trong nghiên cứu tại Hải Phòng
năm 2009 cho thấy điều trị Methadone đã đem lại hiệu quả rõ rệt trong việc
làm giảm sử dụng ma túy: số ngày trung bình bệnh nhân dùng heroin trước
khi vào điều trị Methadone so với sau điều trị Methadone 30 ngày, 30-60
ngày và trên 60 ngày là 29,1; 12,4; 2,3 và 0,5 [17].
Nghiên cứu thuần tập trên 965 bệnh nhân tham gia điều trị Methadone
trong 2 năm tại Thành phố Hải Phòng và Thành phố Hồ Chí Minh cho thấy: tỷ lệ
sử dụng heroin giảm đáng kể nhất là sau 3 tháng từ 100% xuống còn 34,6% tại
22
Hải Phòng và 36,2% tại thành phố Hồ Chí Minh. Con số này giảm còn 22,9% tại
Hải Phòng và 14,6% tại thành phố Hồ Chí Minh sau 2 năm điều trị [117].
1.4.2.2. Làm giảm hành vi nguy cơ lây nhiễm HIV trong nhóm nghiện
chích ma tuý
Điều trị Methadone cũng làm giảm các hành vi nguy cơ lây nhiễm HIV
như tiêm chích ma túy, sử dụng chung bơm kim tiêm, có nhiều bạn tình hay
bán dâm. Sử dụng thuốc Methadone bằng đường uống làm giảm nguy cơ lây
nhiễm HIV trong nhóm người nghiện các CDTP do giảm việc tiêm chích,
giảm tỷ lệ sử dụng chung BKT.
1.4.2.3. Giảm hành vi tiêm chích ma túy và dùng chung bơm kim tiêm
David S. Metzger và cộng sự đã tiến hành một nghiên cứu so sánh hiệu
quả của điều trị Methadone ở nhóm người TCMT tham gia điều trị
Methadone và không điều trị Methadone, 152 người tham gia điều trị
Methadone và 103 người không tham gia điều trị được theo dõi trong 18
tháng. Các chỉ số về hành vi và HIV được thu thập sau mỗi 6 tháng. Kết quả
nghiên cứu cho thấy tình trạng tiêm chích ma túy ở nhóm tham gia điều trị
Methadone giảm rõ rệt so với nhóm người không tham gia điều trị
Methadone. Ở bệnh nhân điều trị Methadone tiếp tục còn tiêm chích ma túy,
tỷ lệ tiêm chích heroin hàng tuần là 33%, giảm rõ rệt so với nhóm người
không điều trị Methadone là 69% (p<0,01). Hành vi dùng chung BKT ở đối
tượng không tham gia điều trị Methadone cũng cao hơn trong nhóm bệnh
nhân Methadone (tỷ lệ tiêm chích nhưng không dùng chung BKT là 48%
trong nhóm điều trị Methadone so với 24% nhóm không điều trị; 70% đối
tượng không điều trị Methadone báo cáo có hành vi dùng chung BKT so với
34% bệnh nhân thuộc nhóm Methadone có hành vi này (p<0,01) [76].
Nghiên cứu của Ball JC, Lange WR, Meyers CP, Friedman SR, điều trị
bằng thuốc Methadone làm giảm nguy cơ lây nhiễm HIV (1998), nghiên cứu
23
được thực hiện trong 3 năm tại thành phố New York, Philadelphia và
Baltimore cho thấy hiệu quả của điều trị Methadone giúp làm giảm tiêm chích
ma tuý, giảm dùng chung bơm kim tiêm trong nhóm nghiện chích heroin. Kết
quả nghiên cứu cho thấy người nghiện chích ma tuý khi bỏ điều trị
Methadone càng lâu thì nguy cơ tái sử dụng ma tuý càng cao, tỷ lệ quay lại
tiêm chích sau 1-3 tháng bỏ điều trị là 45,5%, sau 4-6 tháng bỏ điều trị 57,6%,
sau 7-9 tháng bỏ điều trị là 72,7%, sau 12 tháng bỏ điều trị là 82,1% [107].
Tại Trung Quốc, Trung tâm đào tạo Methadone Quốc gia tại Viện
nghiên cứu lạm dụng ma túy Vân Nam đã được thành lập năm 2003 nhằm
cung cấp hỗ trợ về kỹ thuật – lâm sàng và chịu trách nhiệm đào tạo cho nhân
viên y tế làm việc tại các phòng khám điều trị Methadone. Từ tháng 3 đến
tháng 6 năm 2004, 8 phòng khám Methadone đầu tiên được thành lập: 2
phòng khám ở Tứ Xuyên, 1 phòng khám ở Vân Nam, 2 phòng khám ở Quế
Châu, 1 phòng khám ở Quảng Tây, và 2 phòng khám ở Triết Giang. Kết quả
thu được trên 1.153 bệnh nhân tại 8 phòng khám Methadone ở Trung Quốc rất
khả quan: tỷ lệ tiêm chích ma túy đã giảm từ 69,1% xuống còn 8,9%; số lượt
tiêm chích từ 90 lần/tháng giảm xuống 2 lần/tháng. Số liệu này cho thấy hành
vi tiêm chích ma túy giảm rõ rệt [81].
Nghiên cứu của Jeganathan và cộng sự tại Malaysia trên 216 bệnh nhân
trong giai đoạn 2005-2008 cũng cho thấy điểm thay đổi hành vi nguy cơ lây
nhiễm HIV sau 12 tháng thay đổi rõ rệt, điểm số khác biệt là 7,64 (p<0,001) [86].
Tác giả Vũ Văn Công trong nghiên cứu tại Hải Phòng năm 2009, cho
thấy: điều trị Methadone đã đem lại hiệu quả với việc giảm tỷ lệ sử dụng ma
túy và dùng chung bơm kim tiêm trong cộng đồng người nghiện ma túy. Tỷ lệ
bệnh nhân trước khi vào điều trị Methadone sử dụng chung bơm kim tiêm khi
chích ma túy là 24% đã giảm xuống còn 12,7% chỉ sau 3 tháng điều trị [17].
24
Trong nghiên cứu đánh giá đề án thí điểm điều trị Methadone tại Việt
Nam: trước điều trị khoảng từ 11%- 30% bệnh nhân có sử dụng chung bơm
kim tiêm, sau 12 tháng điều trị, tỷ lệ sử dụng chung bơm kim tiêm trong số
những người tiếp tục có hành vi tiêm chích ma túy rất thấp, không đáng kể và
sau 24 tháng chỉ còn 2% bệnh nhân có hành vi dùng chung bơm kim tiêm
trong nhóm bệnh nhân tiếp tục sử dụng ma túy [7].
1.4.2.4. Cải thiện hành vi tình dục không an toàn
Nghiên cứu của Metzger DS và cộng sự về hành vi lây nhiễm HIV và
tình trạng lây nhiễm HIV qua đường máu ở 02 nhóm người tiêm chích ma tuý
được điều trị và không được điều trị thay thế bằng thuốc Methadone. Sau 18
tháng cho thấy: việc sử dụng BCS khi QHTD trong nhóm điều trị Methadone
cao hơn trong nhóm không được điều trị (15% so với 12%, p<0,01) [76].
Cùng với việc dừng hoặc giảm mức độ sử dụng ma túy và tiêm chích
không an toàn, các hành vi nguy cơ lây nhiễm HIV qua quan hệ tình dục trong
nhóm bệnh nhân tham gia điều trị đã có sự cải thiện đáng kể. Tỷ lệ bệnh nhân
sử dụng bao cao su thường xuyên trong quan hệ tình dục kể cả với bạn tình
thường xuyên (vợ, người yêu), cũng như trong quan hệ tình dục mại dâm.
Trước điều trị, tỷ lệ sử dụng bao cao su thường xuyên với bạn tình thường
xuyên và phụ nữ mại dâm lần lượt là 36,3% và 92,9% thì sau 12 tháng điều trị
tỷ lệ này đã tăng lên lần lượt là 37,5% va 95,8%, sau 24 tháng điều trị tỷ lệ
này đã là 43,9% và 96,8% [76].
Những thay đổi tích cực về giảm tỷ lệ sử dụng bơm kim tiêm chung
trong tiêm chích ma túy và tăng tỷ lệ thường xuyên sử dụng bao cao su khi
quan hệ tình dục trong nhóm bệnh nhân tham gia điều trị Methadone sẽ góp
phần dự phòng lây nhiễm HIV từ quần thể những người NCMT sang bạn tình
của họ và cộng đồng. Điều này có ý nghĩa rất quan trọng trước thực trạng lây
25
nhiễm HIV từ nam giới có hành vi nguy cơ cao sang bạn tình nữ đang có xu
hướng gia tăng tại Việt Nam.
1.4.2.5. Làm giảm tỷ lệ lây nhiễm HIV trong nhóm nghiện chích ma tuý
Nghiên cứu tại Mỹ cho thấy người NCMT không được điều trị bằng
Methadone có tỷ lệ huyết thanh dương tính với HIV tăng từ 21% tới trên 51%
sau 5 năm theo dõi; với nhóm người NCMT được điều trị bằng Methadone, tỷ
lệ này chỉ tăng từ 13% đến 21% [43].
Metzger DS và cộng sự tiến hành nghiên cứu về tình trạng lây nhiễm
HIV qua đường máu ở 02 nhóm người tiêm chích ma tuý được điều trị và
không được điều trị bằng thuốc Methadone. Kết quả nghiên cứu cho thấy tại
thời điểm bắt đầu điều trị Methadone tỷ lệ nhiễm HIV ở nhóm được điều trị là
11%, tỉ lệ nhiễm HIV ở nhóm không được điều trị là 18%. Sau 18 tháng
nghiên cứu, tỉ lệ xét nghiệm dương tính với HIV ở nhóm được điều trị 15%, tỉ
lệ này ở nhóm không được điều trị là 33%, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê
với p<0,01 [76].
Trong nghiên cứu tại Việt Nam, sau 12 tháng điều trị, chỉ phát hiện một
trường hợp nhiễm HIV mới trong tổng số 760 bệnh nhân âm tính khi mới bắt
đầu điều trị. Tỷ lệ này thấp hơn rất nhiều so với tỷ lệ nhiễm HIV mới trong
quần thể người nghiện chích ma túy tại Việt Nam, ước tính từ khoảng 2%-4%
trong 1 năm [8].
1.4.2.6. Cải thiện sức khỏe cho bệnh nhân tham gia điều trị
Nghiên cứu tại Malaysia sau 2 năm cho thấy cả 4 yếu tố trong chất
lượng cuộc sống (thể chất, tâm thần, mối quan hệ xã hội và môi trường) đều
được cải thiện rõ rệt (p<0.001) đặc biệt là chỉ số về sức khỏe tâm thần tăng
20% sau 2 năm điều trị [77].
26
Kết quả nghiên cứu tại Hải Phòng và TP Hồ Chí Minh trong giai đoạn
thí điểm trên 6 cơ sở điều trị Methadone hoạt động từ tháng 4/2008 cho thấy:
tỷ lệ bệnh nhân có nguy cơ trầm cảm giảm từ 80% xuống còn 15% sau 12
tháng điều trị Methadone. Đánh giá thang điểm Chất lượng sống của Tổ chức
Y tế Thế giới tăng lên: về thể chất (81 so với 69), tâm lý (69 so với 56) và xã
hội (56 so với 50) [8].
Tỷ lệ tử vong ở người nghiện heroin tham gia điều trị Methadone thấp
hơn ở nhóm người không được điều trị từ 3 đến 4 lần tùy theo nghiên cứu.
Theo nghiên cứu của Trường Y tế công cộng, đại học Nam Trung, Trung
Quốc, chất lượng cuộc sống của những người tham gia điều trị cũng được cải
thiện rõ rệt, sức khoẻ thể chất và sức khoẻ tâm thần là những lĩnh vực được
cải thiện đáng kể nhất trong những người nghiện CDTP được điều trị
Methadone [102]. Bên cạnh đó, Methadone cũng giúp bệnh nhân hồi phục
khả năng lao động và cải thiện các mối quan hệ trong xã hội [102, 120].
1.4.2.7. Làm giảm hoạt động tội phạm
Nhiều báo cáo và nghiên cứu đã cho thấy người nghiện ma túy thường
có một tỷ lệ phạm tội rất cao, như là buôn bán ma túy, cướp giật, đột nhập và
ăn trộm, ăn cắp, lừa đảo… các hoạt động tội phạm này thường liên quan đến
việc cần tiền để mua ma túy. Tại Mỹ năm 1999 có 6,3 triệu người trong diện
bị cải tạo, giam giữ trong nhà tù, hoặc quản chế tại cộng đồng, trong đó có
21% người phạm tội liên quan đến ma túy. Theo báo cáo của Cục điều tra
Liên bang Mỹ (FBI), năm 1980 có 580.900 vụ bắt giữ liên quan đến tội phạm
ma túy, chiếm 5,6% của tất cả các vụ bắt giữ, năm 1999 có 1.532.200 vụ bắt
giữ về ma túy, chiếm 10,9% tất cả các vụ bắt giữ [114].
Khi tham gia điều trị Methadone, với liều thích hợp thuốc Methadone
phong tỏa các thụ thể tiếp nhận, ngăn chặn các hiệu ứng phấn khích của ma
túy, ngoài ra còn được điều trị bằng các liệu pháp tâm lý, tạo việc làm, có cơ
27
hội để cải thiện cuộc sống của mình, tái hòa nhập cộng đồng, tham gia các
hoạt động bình thường của xã hội [109].
Nghiên cứu của Ball JC, Ross A, hiệu quả điều trị Methadone đã giảm
đáng kể số ngày liên quan đến phạm tội trung bình mỗi năm: số ngày liên
quan đến phạm tội trung bình trước điều trị là 237,5. Sau 4 tháng điều trị
Methadone số ngày liên quan đến phạm tội trung bình giảm xuống còn 69,3,
sau 3 năm tỷ lệ này là 12,4, sau 6 năm là 14,5 [106].
Nghiên cứu của McGlothlin WH, Anglin MD cho thấy tỉ lệ ngày liên
quan đến tội phạm sau khi điều trị 01 năm đã giảm từ 31,3% xuống còn 12%
[81].
Kết quả thu được trên 1.153 bệnh nhân tại 8 phòng khám Methadone ở
Trung Quốc rất khả quan: hành vi tội phạm giảm từ 20,7% xuống còn 3,8% và
chỉ có 8 trường hợp huyết thanh chuyển sang HIV (+) trong vòng 12 tháng [81].
Tại Việt Nam, mâu thuẫn trong gia đình, xã hội cũng giảm mạnh khi
bệnh nhân tham gia điều trị Methadone. Nếu như trước điều trị trên 40% bệnh
nhân (khi còn nghiện ma túy) có tiền án, tiền sự thì sau 12 tháng tham gia
điều trị Methadone, tỷ lệ bệnh nhân tiếp tục có các hành vi vi phạm pháp luật
được ghi nhận còn rất thấp (2,11%) và tỷ lệ này tiếp tục giảm chỉ còn 1,34%
sau 24 tháng điều trị [8].
1.4.2.8. Làm tăng cơ hội có việc làm
Nhiều kết quả nghiên cứu cũng đã khẳng định điều trị Methadone giúp
bệnh nhân giữ được việc làm và có nhiều cơ hội tìm kiếm việc làm cũng như
có việc làm trở lại.
Trong nghiên cứu của Simpson DD, Sells SB, nghiên cứu can thiệp
hiệu quả điều trị nghiện ma tuý: tỷ lệ người có việc làm sau một năm điều trị
đã tăng lên 33%, sau điều trị 03 năm tỷ lệ này đã tăng lên gần 60% [117].
28
Kết quả nghiên cứu tại Hải Phòng và TP Hồ Chí Minh trong giai đoạn
thí điểm trên 6 cơ sở điều trị Methadone hoạt động từ tháng 4/2008 cho thấy:
tỷ lệ người tham gia điều trị có việc làm tăng từ 55% lên 66% (p=0,028) [8].
1.4.2.9. Hiệu quả kinh tế và xã hội của điều trị Methadone
Theo kết quả nghiên cứu của NIDA (1991) qua các dữ liệu, báo cáo của
cơ quan điều trị lạm dụng ma túy thành phố New York, đã ước tính chi phí
hàng năm của người nghiện CDTP tại thành phố New York, như sau: chi phí
của người nghiện không được điều trị và trên đường phố là 43.000USD/1năm,
chi phí cho người nghiện bị đi tù là 34.000 USD/1năm, chương trình điều trị
cai nghiện tại nhà là 11.000 USD/1năm, cho điều trị bằng thuốc Methadone là
2.400 USD/1 năm [95, 125].
Một nghiên cứu khác của trung tâm điều trị nghiện rượu và ma tuý
California trên 150.000 bệnh nhân (CALDATA) đã cho thấy: cứ 01 USD chi
cho điều trị nghiện CDTP bằng thuốc Methadone sẽ tích kiệm được 07 USD
cho tương lai. Điều trị nghiện CDTP bằng thuốc Methadone là phương pháp
điều trị hiệu quả, chi phí thấp [56].
Theo nghiên cứu về hiệu quả điều trị quốc gia của Anh (NTORS-Study
UK), ước tính cứ 1 đôla đầu tư vào chương trình điều trị nghiện CDTP bằng
Methadone thì sẽ tiết kiệm được 3 đôla cho các chi phí pháp lý. Nghiên cứu
tại Hoa Kỳ đăng trên Tạp chí Hàn lâm quốc gia năm 1990 số 1 cho thấy điều
trị bằng thuốc Methadone cần khoảng 4.000 đô la/năm, trong khi chi phí phải
trả cho việc giam giữ khoảng 20.200 đến 23.500 đô la/năm; chi phí điều trị
bệnh tật cho người nghiện ma túy nhiễm HIV/AIDS cần khoảng 109.000 đô
la/năm. Tại Úc, chi phí điều trị nghiện CDTP bằng thuốc chỉ cần 6.096 đô la
Úc trong khi biện pháp cai nghiện trong trung tâm cần 11.125 đô la Úc, và
giam giữ trong tù mất 73.840 đô la Úc; chi phí trên chưa tính đến các chi phí
tiết kiệm được do không dùng thuốc phiện trong thời gian cai và sau cai. Theo
29
kinh nghiệm quốc tế, điều trị Methadone sẽ giúp cộng đồng tiết kiệm được từ
7 đến 10 lần các chi phí liên quan đến luật pháp, hành pháp, y tế, xã hội, bảo
hiểm, hải quan v.v [42].
Tóm lại, cho đến thời điểm hiện nay điều trị nghiện CDTP bằng thuốc
Methadone vẫn là một biện pháp điều trị nghiện CDTP hiệu quả, Methadone
được coi là ―tiêu chuẩn vàng‖ trong điều trị nghiện CDTP.
1.4.2.10. Tuân thủ điều trị, bỏ điều trị
Để các quốc gia đặt mục tiêu tiếp cận phổ cập dự phòng, chăm sóc
người nghiện chích ma túy nhiễm HIV, Tổ chức Y tế thế giới đã sử dụng chỉ
số mức độ tuân thủ điều trị của bệnh nhân để đánh giá hiệu quả và chất lượng
điều trị [131]. Theo Tổ chức Y tế thế giới, tỷ lệ tuân thủ điều trị của bệnh
nhân sau 1 năm đạt từ 60%-80% là mức trung bình và trên 80% được coi là
điều trị thành công. Dựa trên khuyến nghị của Tổ chức Y tế thế giới, hướng
dẫn điều trị nghiện các CDTP bằng thuốc Methadone của Bộ Y tế cũng quy
định thời gian tối thiểu điều trị là 1 năm để đảm bảo hiệu quả điều trị [11].
Đối lập với tuân thủ điều trị là tỷ lệ bỏ điều trị, đây cũng là chỉ số được các
nghiên cứu đo lường để đánh giá hiệu quả điều trị, tỷ lệ này càng thấp thì hiệu
quả điều trị càng cao [131].
Tỷ lệ này khác nhau tùy thuộc từng quốc gia và từng vùng trong mỗi
quốc gia. Nghiên cứu tại Hải Phòng cho thấy tỷ lệ tuân thủ điều trị sau 1 năm
là 86,4%, năm thứ 2 là 83,5% và năm thứ ba giảm xuống còn 77,7% [63].
Nghiên cứu ở các quốc gia khác cho thấy tỷ lệ bỏ trị sau 12 tháng trong một
nghiên cứu tại Đài Loan là 41,6% [69]; tại Trung Quốc tỷ lệ này chỉ đạt
55,2% sau 12 tháng và 43% sau 24 tháng [103]; 74,4% sau 12 tháng tại Israel
[83] và 72% sau 12 tháng, 49,8% sau 24 tháng tại Canada [48, 95].
30
1.4.2.11. Các yếu tố ảnh hƣởng đến hiệu quả điều trị
a) Các yếu tố ảnh hƣởng đến việc tiếp tục sử dụng heroin trong qua
trình điều trị
Một trong những mục tiêu chính của điều trị bằng thuốc Methadone là
giúp bệnh nhân giảm, tiến tới ngừng sử dụng ma túy [10, 117]. Để đánh giá
hiệu quả này của điều trị Methadone, nhiều nghiên cứu đã tập trung vào đánh
giá chỉ số tiếp tục sử dụng heroin trong quá trình điều trị và xác định các yếu
tố ảnh hưởng đến việc tiếp tục sử dụng heroin.
Kết quả từ nhiều nghiên cứu trên thế giới đều cho thấy điều trị nghiện
các CDTP bằng thuốc Methadone giúp bệnh nhân giảm và tiến tới ngừng sử
dụng ma túy. Xu hướng giảm sử dụng ma túy bất hợp pháp ở bệnh nhân khi
tham gia điều trị cả về tần suất và số lượng đều rất nhanh. Nghiên cứu đầu
tiên về Methadone tại Việt Nam cho thấy: từ 100% bệnh nhân sử dụng ma túy
trước khi tham gia điều trị với tần suất sử dụng khá cao (trung bình 4-5
lần/ngày), sau 2 năm tham gia điều trị đã giảm xuống còn 14,6% tại Hải
Phòng và 22,9% tại thành phố Hồ Chí Minh [59]. Nghiên cứu tại Trung Quốc
cho thấy có tới 75% bệnh nhân còn tiếp tục sử dụng heroin nhiều hơn 1 lần
trong tháng tại thời điểm sau 1 năm tham gia điều trị [123]. Trong một nghiên
cứu thực hiện tại Tứ Xuyên có 44,9% bệnh nhân báo cáo tiếp tục sử dụng
Heroin hoặc có xét nghiệm nước tiểu dương tính trong vòng 30 ngày trước
thời điểm nghiên cứu [66].
Có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng đến việc tiếp tục sử dụng heroin trong
khi tham gia điều trị Methadone của bệnh nhân (1) các yếu tố về nhân khẩu
học xã hội như: tuổi, giới, trình độ học vấn, việc làm, thu nhập ổn định; (2)
các bệnh lý đồng nhiễm trên bệnh nhân: điều trị ARV, bệnh lao, HBV, HCV
31
hay (3) các yếu tố khác liên quan: mối quan hệ với gia đình, mối quan hệ bạn
bè và xã hội...
Một số nghiên cứu được tiến hành cho thấy mối quan hệ giữa các đặc
điểm nhân khẩu học với tình trạng sử dụng chất gây nghiện của bệnh nhân
trong quá trình điều trị. Nghiên cứu tại Việt Nam về hiệu quả của điều trị
Methadone cũng cho thấy tuổi có ảnh hưởng đến việc tiếp tục sử dụng heroin
trong quá trình tham gia điều trị [123]. Bệnh nhân có việc làm ổn định có xu
hướng ít sử dụng chất gây nghiện trong khi điều trị Methadone [59], những
người sống chung với bạn tình lại có nguy cơ sử dụng heroin trong quá trình
điều trị cao hơn nhóm sống độc thân [127]. Nghiên cứu tiến hành tại Quảng
Đông, Trung Quốc đưa ra kết luận nữ giới có xu hướng tiếp tục sử dụng heroin
trong quá trình điều trị cao hơn so với nam giới và bệnh nhân lệ thuộc vào kinh
tế có xu hướng tiếp tục sử dụng cao heroin cao hơn nhóm không lệ thuộc [71].
Theo một nghiên cứu tiến hành tại Quảng Đông, Trung Quốc đánh giá
các yếu tố ảnh hưởng đến việc tiếp tục sử dụng heroin sau khi tham gia điều
trị cho thấy tiền sử sử dụng chất gây nghiện của bệnh nhân được xác định là
một yếu tố có ảnh hưởng đến việc tiếp tục sử dụng heroin của họ sau 1 năm
điều trị methadone, bệnh nhân có tiền sử tiêm chích ma túy có xu hướng ít sử
dụng heroin trong quá trình điều trị hơn nhóm bệnh nhân không có tiền sử
tiêm chích là gần 20% (OR=0,81) [71].
Nghiên cứu tại Trung quốc cho thấy bệnh nhân thường xuyên gặp gỡ
bạn là người đang sử dụng ma túy có xu hướng tái sử dụng heroin cao hơn
nhóm không gặp lại bạn nghiện [66, 71]. Bệnh nhân có nhiều bạn tình cũng có
nguy cơ tăng sử dụng heroin trong quá trình điều trị [71].
Bệnh nhân có mối quan hệ trong gia đình không tốt có xu hướng tiếp
tục sử dụng heroin trong quá trình điều trị cao hơn nhóm có mối quan hệ tốt
32
trong gia đình [71, 96]. Theo một nghiên cứu cắt ngang tiến hành tại tỉnh
Chiết Giang và Giang Tây, Trung Quốc trên 560 bệnh nhân, nhóm không
nhận được sự hỗ trợ của gia đình thì có nguy cơ sử dụng ma túy bất hợp pháp
trong quá trình điều trị cao hơn nhóm có hỗ trợ [68].
Nhiều nghiên cứu cho thấy tình trạng nhiễm HIV của bệnh nhân có ảnh
hưởng đến việc tiếp tục sử dụng heroin trong quá trình điều trị của bệnh nhân
[59, 69, 71, 123, 127].
Nghiên cứu tại Việt Nam cho thấy bệnh nhân điều trị Methadone đồng
thời với điều trị ARV, điều trị lao có xu hướng sử dụng chất gây nghiện cao
hơn nhóm bệnh nhân Methadone không tham gia điều trị ARV, điều trị lao
[59, 123]. Kết quả này cũng tương tự như nghiên cứu được tiến hành tại
Trung Quốc: bệnh nhân HIV dương tính có xu hướng tiếp tục sử dụng chất
gây nghiện trong quá trình điều trị cao hơn nhóm HIV âm tính [69, 71].
Bệnh nhân thường xuyên bỏ uống thuốc có xu hướng sử dụng heroin
cao hơn nhóm tuân thủ điều trị tốt 3,7 lần tại thành phố Hồ Chí Minh [59].
Kết quả tương tự cũng được chứng minh trong một nghiên cứu tại Trung
Quốc:bệnh nhân thường xuyên bỏ uống thuốc có xu hướng tiếp tục sử dụng
heroin cao hơn gần 6 lần so với nhóm uống thuốc đều đặn [96] hoặc cao hơn
gần 2 lần so với nhóm tốt trong một nghiên cứu khác cũng tiến hành tại Trung
Quốc [71].
Liều điều trị cũng có ảnh hưởng đến việc tiếp tục sử dụng ma túy trong
quá trình điều trị [40, 51, 71, 127]. Một số nghiên cứu cho thấy liều thuốc
Methadone thấp thì tỷ lệ tiếp tục sử dụng ma túy trong quá trình điều trị càng
cao [51, 127] hoặc kết quả của một nghiên cứu tại Thụy Điển cho thấy liều
điều trị càng cao thì số ngày sử dụng heroin càng ít [40]. Tuy nhiên, vẫn có
33
những nghiên cứu đã cho thấy liều điều trị không có mối liên quan đến việc
tiếp tục sử dụng heroin của bệnh nhân [96].
b) Các yếu tố ảnh hƣởng đến bỏ điều trị
Có rất nhiều thách thức để một bệnh nhân có thể duy trì điều trị
Methadone. Các nghiên cứu trước đây đã chỉ ra các yếu tố chính ảnh hưởng đến
việc bỏ trị của bệnh nhân bao gồm (1) các yếu tố nhân khẩu, kinh tế xã hội [84],
(2) mức độ và tình trạng sử dụng heroin [52, 62], (3) các bệnh lý kèm theo trong
quá trình điều trị [127], (4) chuyên môn, chất lượng dịch vụ điều trị [61].
Nghiên cứu thực hiện từ năm 1993 bởi W.S. Condelli cho thấy yếu tố
tuổi của bệnh nhân là một trong những yếu tố ảnh hưởng đến việc duy trì điều
trị. Bệnh nhân dưới 25 tuổi có xu hướng bỏ trị cao hơn những ngườilớn tuổi
hơn [47]. Nghiên cứu thuần tập được tiến hành năm 2015 tại Ireland cũng cho
kết quả tương tự: những người lớn tuổi, sống độc thân và ổn định về kinh tế
thì tỷ lệ duy trì điều trị cao hơn nhóm ngược lại [49].
Năm 2008 Haskew và cộng sự cho thấy tuổi của bệnh nhân, điểm số về độ
tin cậy của bệnh nhân và tình trạng có việc làm của bệnh nhân có mối liên quan
đến việc duy trì điều trị của bệnh nhân đó. Bệnh nhân trẻ, điểm tin cậy thấp và
không có việc làm ổn định có nguy cơ bỏ trị cao hơn nhóm còn lại [56].
Trong một nghiên cứu so sánh đặc điểm hai nhóm bệnh nhân điều trị
Methadone tại Tel-Aviv, Israel và Las Vegas, Nevada cho thấy sau 1 năm
điều trị, bệnh nhân ở Tel-Aviv có tỷ lệ duy trì điều trị cao hơn bệnh nhân ở
Las Vegas (73,6% với 61,6%) trong đó bệnh nhân ở Las Vegas lớn tuổi hơn
và nhiều người là nữ giới hơn [82]. Một nghiên cứu đươc tiến hành trên nhóm
bệnh nhân tham gia điều trị tại Đài Loan cũng cho thấy nữ giới có nguy cơ bỏ
trị cao hơn nhóm nam giới [67]. Tuy nhiên, nghiên cứu được tiến hành tại
34
Israel năm 2007 lại cho thấy việc duy trì điều trị tương tự cho cả nam lẫn nữ
[92].
Yếu tố xã hội khác cũng có ảnh hưởng đến việc duy trì điều trị của
bệnh nhân là sống cùng với người sử dụng CDTP. Tỷ lệ bỏ trị cao thường gặp
ở những người sống cùng với người sử dụng CDTP (HR=2,71) so với bệnh
nhân không sống cùng người nghiện CDTP [44].
Các yếu tố ảnh hưởng đến tuân thủ điều trị trong nhóm bệnh nhân tại
Tuyên Quang - một tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam - cho thấy: trình độ học
vấn, nghề nghiệp và tình trạng kinh tế của bệnh nhân cũng có ảnh hưởng đến
việc tuân thủ điều trị [78].
Nhiều nghiên cứu trên thế giới đã chứng minh mối quan hệ giữa việc tái
sử dụng chất dạng thuốc phiện và thời gian điều trị Methadone và liều điều trị.
Bệnh nhân điều trị bằng thuốc Methadone trong một khoảng thời gian dài thì ít
sử dụng CDTP hơn. Bệnh nhân điều trị với liều thuốc Methadone thấp có nguy
cơ tái sử dụng heroin cao hơn, bệnh nhân có liều thuốc Methadone cao liên
quan đến việc duy trì điều trị tốt hơn và giảm sử dụng ma túy bất hợp pháp
[72].
Nghiên cứu được tiến hành tại Đài Loan năm 2007 cho thấy khoảng
cách từ nhà đến cơ sở điều trị quá xa là một yếu tố làm tăng tỷ lệ bỏ trị của
bệnh nhân tham gia điều trị Methadone [51].
Kết quả từ một nghiên cứu tại Tây Ban Nha từ năm 1996 cho thấy liều
thuốc Methadone cao hơn 80mg/ngày, bệnh nhân trên 30 tuổi, sống cùng gia
đình hoặc có bạn tình thường xuyên có xu hướng tuân thủ điều trị tốt hơn
nhóm có liều thuốc Methadone thấp hơn 80mg/ngày, nhóm trẻ tuổi, độc thân
[105]. Một số yếu tố có tác động tỷ lệ thuận với tỷ lệ tuân thủ điều trị của
bệnh nhân như sự ổn định về mặt xã hội (đã lập gia đình, có nghề nghiệp ổn
35
định, không có tiền sử bị bắt giam), bệnh nhân đã từng điều trị trước đây, liều
thuốc điều trị cao và động cơ điều trị tốt cũng được đưa ra trong một nghiên
cứu tại Mỹ năm 1993 [118].
Một nghiên cứu được tiến hành năm 2010 tại Vân Nam, Trung Quốc
cho thấy bệnh nhân bỏ trị sớm có liên quan đến dân tộc, khả năng tiếp cận với
cơ sở điều trị, sống cùng với người sử dụng ma túy và liều điều trị
Methadone. Liều điều trị Methadone cao là một khuyến cáo để duy trì điều trị
của bệnh nhân. Kết quả từ nghiên cứu này đã đưa ra tỷ lệ tuân thủ điều trị của
bệnh nhân sau 1 tháng, 3 tháng và 6 tháng lần lượt là 94%, 75% và 57%.
Không có mối tương quan giữa liều điều trị với việc bỏ trị trong giai đoạn hai
tháng đầu, tuy nhiên sau 3 tháng điều trị, liều trung bình càng cao (trên
60mg/ngày) thì tỷ lệ bỏ trị càng thấp [44].
Kết quả tương tự cũng được chứng minh bởi một nghiên cứu khác thực
hiện tại Malaysia năm 2010, liều điều trị Methadone thấp nhất phải đạt
40mg/ngày mới đủ giữ bệnh nhân ổn định trong chương trình, tránh hành vi
tái sử dụng ma túy và với liều ít nhất 80mg/ngày mới đem lại hiệu quả điều trị
tốt nhất. Liều điều trị càng cao thì mức độ duy trì điều trị càng tốt [111,54].
Trong số những bệnh nhân còn duy trì điều trị, 80% trong số họ có mức liều
điều trị trên 80mg/ngày và 20% còn lại có mức liều điều trị trong khoảng từ
40-79mg/ngày [115].
Một nghiên cứu thuần tập được tiến hành để phân tích mối quan hệ
giữa liều điều trị và việc duy trì điều trị của bệnh nhân tại Quảng Châu, Trung
Quốc cho rằng liều điều trị Methadone cao chính là yếu tố góp phần làm tăng
tỷ lệ duy trì điều trị [70].
Một số các yếu tố khác cũng có thể ảnh hưởng đến việc duy trì điều trị
của bệnh nhân. Theo Sarasvita và cộng sự, các yếu tố dự báo mạnh nhất về sự
36
duy trì là liều thuốc Methadone, sau đó là sự tương tác giữa việc cho mang
thuốc về nhà và kinh nghiệm cung cấp dịch vụ của từng cơ sở điều trị. Kết
quả của nghiên cứu này kết luận: không thể chỉ dựa vào dược lực học của
thuốc Methadone để duy trì mà còn cần thúc đẩy việc tiếp cận thông tin về
việc cho phép mang thuốc về nhà [90].
Một nghiên cứu thuần tập theo dõi 697 bệnh nhân thuộc hai cơ sở điều
trị Methadone tại Hà Nội, Việt Nam trong vòng 4 năm liên tục (2009-2013)
cho thấy bệnh nhân có tiền sử tiêm chích ma túy, dương tính với HBV và
HCV, đang được điều trị bằng thuốc kháng virus thường có tỷ lệ bỏ trị cao
hơn các nhóm còn lại [127].
Theo một nghiên cứu trên 351 người sử dụng heroin hàng ngày hoặc
hàng tuần đã được nhận vào 1 trong 17 chương trình điều trị Methadone được
tài trợ công khai tại Mỹ cho thấy: các yếu tố ảnh hưởng đến tuân thủ điều trị
bao gồm (1) bệnh nhân đánh giá đạt về chất lượng dịch vụ hỗ trợ xã hội họ
nhận được trong tháng đầu tiên (gia đình, pháp luật, giáo dục, nghề nghiệp và
dịch vụ hỗ trợ tài chính); (2) bệnh nhân đánh giá cao về mức độ dễ tiếp cận
của chương trình và (3) bệnh nhân được thông báo về liều điều trị của họ [46].
Năm 2010, Kelly và các cộng sự đã kết luận: bệnh nhân hài lòng với chương
trình điều trị thì có thời gian duy trì điều trị ít nhất 1 năm [61].
1.4.3. Điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc Methadone
tại Việt Nam
1.4.3.1. Tình hình triển khai điều trị
Điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc Methadone được
triển khai thí điểm vào năm 2008 tại Thành phố Hải Phòng và Thành phố Hồ Chí
Minh. Tính đến hết 31/12/2015, chương trình điều trị Methadone đã được triển
khai tại 57/63 tỉnh, thành phố với 240 cơ sở và điều trị cho 43.720 bệnh nhân.
37
Đến 30/6/2017, chương trình điều trị Methadone đã được triển khai tại
63/63 tỉnh, thành phố với 294 cơ sở và điều trị cho 51.979 bệnh nhân.
Tính từ thời điểm thí điểm năm 2008 cho đến nay, hệ thống văn bản
quy phạm pháp luật và hướng dẫn chuyên môn kỹ thuật về điều trị nghiện các
chất dạng thuốc phiện bằng thuốc Methadone (điều trị Methadone) về cơ bản
đã được hoàn thiện, với việc ban hành 02 Nghị định của Chính phủ, 01 Chỉ thị
và 01 Quyết định của Thủ tướng Chính phủ, 08 Thông tư và Thông tư liên
tịch và 07 hướng dẫn chuyên môn. Hệ thống các văn bản và hướng dẫn
chuyên môn này đã hướng dẫn toàn diện về điều kiện hoạt động, tổ chức điều
trị, phác đồ điều trị (tại cộng đồng, trong trại giam và trong các cơ sở cai
nghiện bắt buộc), việc cung ứng và quản lý thuốc, cơ chế chính sách về ngân
sách hỗ trợ cho các đối tượng chính sách tham gia điều trị, phí và lệ phí và
khung giá dịch vụ điều trị. Đặc biệt, đã hướng dẫn cụ thể việc cấp phát thuốc
Methadone tại xã, phường và tại gia đình, qua đó tạo điều kiện tiếp cận điều
trị và duy trì tuân thủ điều trị cho người bệnh [3].
1.4.3.2. Hiệu quả điều trị
Nghiên cứu thuần tập tại Hải Phòng và Thành phố Hồ Chí Minh năm
2009-2011 cho thấy các hiệu quả sau [14]:
- Làm giảm đáng kể hành vi sử dụng ma túy trong nhóm bệnh nhân tham
gia điều trị: trước khi tham gia điều trị 100% bệnh nhân sử dụng heroin, sau 24
tháng tỷ lệ này chỉ còn 12,4%.
- Giảm đáng kể các hành vi nguy cơ lây nhiễm HIV: trước điều trị có
tới 83,2% bệnh nhân có hành vi tiêm chích ma túy, sau 24 tháng tham gia điều
trị giảm xuống còn 6,7% trong nhóm bệnh nhân tiếp tục sử dụng ma túy.
Những thay đổi tích cực về giảm tỷ lệ sử dụng chung bơm kim tiêm và tăng tỷ
lệ thường xuyên sử dụng bao cao su trong nhóm bệnh nhân tham gia điều trị
Methadone đã góp phần dự phòng lây nhiễm HIV từ nhóm những người tiêm
38
chích ma túy sang bạn tình của họ và cộng đồng, góp phần quan trọng trong
việc giảm lây nhiễm HIV và các bệnh lây truyền qua đường máu như Viêm
gan B, C, giang mai. Sau 24 tháng tham gia điều trị, chỉ phát hiện 01 trường
hợp nhiễm mới HIV.
- Bệnh nhân tham gia điều trị Methadone đã có sự cải thiện về mặt sức
khỏe (thể chất, tâm thần và chất lượng cuộc sống). Đa số bệnh nhân cải thiện
về sức khỏe, chuyển biến tích cực về thái độ cũng như cuộc sống sau một thời
gian điều trị. Thời gian tham gia điều trị càng dài thì mức độ ổn định về sức
khỏe thể chất, tâm thần và chất lượng cuộc sống của bệnh nhân càng cao.
- Chương trình cũng đem lại nhiều lợi ích về an ninh, xã hội. Tỷ lệ bệnh
nhân có hành vi vi phạm pháp luật đã giảm từ 39,1% % xuống chỉ còn 1,6%
sau 24 tháng tham gia vào chương trình điều trị. Mâu thuẫn trong gia đình, xã
hội cũng giảm mạnh. Tỷ lệ bệnh nhân có các hành vi bán và cầm cố đồ đạc,
nói dối hoặc thậm chí cưỡng ép người thân để có tiền sử dụng ma túy giảm
nhanh chóng từ 86,8% trước điều trị xuống 2,3% sau 24 tháng điều trị.
- Điều trị Methadone đã mang lại hiệu quả rõ rệt về kinh tế cho cá
nhân, gia đình bệnh nhân. Tỷ lệ bệnh nhân có việc làm trước điều trị là 55,7%
đã tăng lên 75,9% sau 24 tháng điều trị.
Các nghiên cứu trên được thực hiện trong thời gian đầu triển khai
chương trình Methadone, tập trung ở các thành phố lớn là Thành phố Hồ Chí
Minh, Hải Phòng. Trong khi đó các tỉnh miền núi phía Bắc có số lượng người
nghiện ma túy cao, phần lớn là đồng bào dân tộc có thói quen sử dụng thuốc
phiện lâu năm, địa bàn miền núi đi lại khó khăn làm giảm khả năng tiếp cận
với dịch vụ y tế nói chung và dịch vụ về điều trị nghiện nói riêng lại chưa có
nghiên cứu về hiệu quả của điều trị nghiện CDTP bằng thuốc Methadone. Do
vậy, cần có thêm các nghiên cứu về hiệu quả của điều trị Methadone tại khu
vực này để cung cấp thêm các bằng chứng về hiệu quả cho chương trình
Methadone ở Việt Nam nói chung và đặc thù đối với cộng đồng dân tộc ở các
tỉnh miền núi nói riêng.
39
Chƣơng 2
ĐỐI TƢỢNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tƣợng, thời gian và địa điểm nghiên cứu
2.1.1. Đối tƣợng tham gia nghiên cứu định lƣợng
300 người nghiện các chất dạng thuốc phiện bắt đầu tham gia điều trị
bằng thuốc Methadone tại thời điểm nghiên cứu tại tỉnh Điện Biên, Lai Châu,
Yên Bái (tháng 10/2014 đến tháng 12/2014).
2.1.1.1. Tiêu chuẩn lựa chọn: đối tượng nghiên cứu cần đáp ứng được các
tiêu chí sau:
a) Là người nghiện các chất dạng thuốc phiện bắt đầu tham gia điều trị
(trong vòng 3 tháng) tại thời điểm nghiên cứu trong năm 2014.
- Đáp ứng các điều kiện được quy định tại Quyết định số 3140/QĐ-
BYT do Bộ Y tế ban hành. Cụ thể:
+ Là người nghiện các CDTP theo tiêu chuẩn chẩn đoán của Bộ Y tế.
+ Từ 18 tuổi trở lên (trường hợp người từ 16 đến dưới 18 tuổi thì cha
hoặc mẹ hoặc người giám hộ hợp pháp của người đó phải tự nguyện và cam
kết bằng văn bản về tuân thủ phác đồ điều trị nghiện các CDTP bằng thuốc
Methadone).
+ Phải có đơn tự nguyện tham gia điều trị bằng thuốc Methadone.
+ Không có chống chỉ định sử dụng thuốc Methadone.
b) Tự nguyện tham gia nghiên cứu: Những người đạt tiêu chuẩn nêu
trên được mời tham gia nghiên cứu trong ngày đầu tiên khi họ tới cơ sở điều
trị Methadone. Nếu bệnh nhân không đồng ý tham gia nghiên cứu này vẫn
được tham gia điều trị Methadone như bình thường.
c) Có đủ sức khỏe để tham gia nghiên cứu.
40
2.1.1.2. Tiêu chuẩn loại trừ
- Những đối tượng không đủ sức khỏe để tham gia nghiên cứu.
- Những đối tượng không đồng ý tham gia nghiên cứu.
2.1.2. Đối tƣợng tham gia nghiên cứu định tính
Phỏng vấn sâu:
- 9 nhân viên y tế làm việc tại cơ sở điều trị Methadone.
- 6 bệnh nhân tham gia nghiên cứu.
- 6 người nhà của bệnh nhân tham gia nghiên cứu.
- 3 thảo luận nhóm: mỗi nhóm 6-8 bệnh nhân đang tham gia nghiên cứu.
2.1.3. Thời gian nghiên cứu
Từ tháng 10/2014 đến tháng 12/2015.
2.1.4. Địa điểm nghiên cứu
Nghiên cứu được tiến hành tại 06 cơ sở điều trị Methadone tại 3 tỉnh
Điện Biên, Lai Châu và Yên Bái. Mỗi tỉnh lựa chọn 2 cơ sở điều trị
Methadone, tùy thuộc vào số lượng cơ sở hiện có tại mỗi tỉnh.
Tiêu chuẩn lựa chọn cơ sở điều trị Methadone: 1) hợp tác với nhóm
nghiên cứu; 2) dễ tiếp cận đối tượng nghiên cứu ; 3) có hồ sơ bảo quản tốt.
Điện Biên, Lai Châu và Yên Bái được lựa chọn là tỉnh triển khai nghiên
cứu vì đây là tỉnh trọng điểm về ma túy và HIV ở miền núi phía Bắc. Số
người nghiện ma túy tăng lên hàng năm và có từ 2.400 đến 8.600 người
nghiện ma túy vào cuối năm 2013. Trong số các trường hợp nhiễm HIV còn
sống thì có đến 70% là người tiêm chích ma túy, tỷ lệ hiện nhiễm HIV trong
nhóm nghiện chích ma túy còn rất cao vào cuối năm 2013 (Điện Biên: 30%,
Lai Châu: 27,7%). Điện Biên, Lai Châu và Yên Bái bắt đầu triển khai chương
trình Methadone từ cuối năm 2011.
41
2.2. Phƣơng pháp nghiên cứu
2.2.1. Thiết kế nghiên cứu
2.2.1.1. Nghiên cứu định lƣợng
Nghiên cứu can thiệp cộng đồng so sánh trước sau không có nhóm
chứng nhằm đánh giá hiệu quả điều trị nghiện các CDTP bằng thuốc
Methadone khi bắt đầu tham gia điều trị và tại thời điểm sau 12 tháng tham
gia điều trị trên cùng nhóm đối tượng.
2.2.1.2. Nghiên cứu định tính
Để phân tích và làm rõ hơn hiệu quả điều trị và một số yếu tố ảnh hưởng
đến hiệu quả điều trị. Sử dụng phương pháp phỏng vấn sâu và thảo luận nhóm.
2.2.2. Cỡ mẫu và cách chọn mẫu
2.2.2.2. Cỡ mẫu và chọn mẫu cho nghiên cứu định lƣợng
Cỡ mẫu tối thiểu được tính theo công thức so sánh hai tỷ lệ trước và sau
can thiệp
√ ̅ ̅) √ ) ))
)
Trong đó:
n Cỡ mẫu tối thiểu cho mỗi nhóm
Độ tin cậy lấy ở ngưỡng xác suất α=5% (lấy bằng 1,96) Z(1-α/2)
z1-β hệ số lực mẫu, (lực mẫu 90%), z1-β = 1,28
p1 Tỷ lệ đối tượng sử dụng heroin tại TP. Hồ Chí Minh (2009)
trước can thiệp là p=0,362 [113]
p2 Tỷ lệ đối tượng sử dụng heroin tại TP. Hồ Chí Minh (2009)
sau 12 tháng can thiệp là p=0,222 [113]
Tỷ lệ trung bình (p1+p2)/2 ̅
42
Thay số tính toán theo lý thuyết n = 219 là cỡ mẫu tối thiểu cho
mỗi nhóm trước và sau can thiệp, dự phòng thêm 15% nên cỡ mẫu cần
lấy là n=252.
Phương pháp chọn mẫu
Toàn bộ bệnh nhân bắt đầu tham gia điều trị nghiện các CDTP bằng
thuốc Methadone tại 3 tỉnh Điện Biên, Lai Châu, Yên Bái trong thời gian từ
tháng 10/2014 đến tháng 12/2014. Đến hết tháng 12/2014 có tổng cộng 300
bệnh nhân tham gia nghiên cứu, lấy toàn bộ 300 bệnh nhân.
Sau 12 tháng điều trị có 56 người bỏ tham gia nghiên cứu, số còn lại
244 bệnh nhân tham gia nghiên cứu cả 2 vòng. Để đảm bảo độ chính xác
trong tính toán các chỉ số hiệu quả khi so sánh trước và sau điều trị 12 tháng,
các số liệu được tính toán theo một cỡ mẫu nghiên cứu là 244 người tham gia
đủ cả 2 vòng nghiên cứu.
2.2.2.3. Cỡ mẫu và chọn mẫu cho nghiên cứu định tính
Để phân tích và làm rõ hơn hiệu quả điều trị và một số yếu tố ảnh
hưởng đến hiệu quả điều trị, các đối tượng sau đây đã được chọn vào mẫu
nghiên cứu định tính:
- Phỏng vấn sâu 9 nhân viên y tế làm việc tại cơ sở điều trị Methadone
tại 3 tỉnh nghiên cứu, mỗi tỉnh chọn 03 người: 01 người là lãnh đạo cơ sở điều
trị, 01 người là bác sĩ điều trị; 01 người là cán bộ tư vấn.
- Phỏng vấn sâu 6 người nhà của bệnh nhân đang tham gia điều trị Methadone.
- Phỏng vấn sâu 6 bệnh nhân đang tham gia điều trị Methadone tại 6 cơ sở
điều trị đáp ứng các tiêu chí đa dạng về tuổi, nơi ở, thời gian điều trị Methadone.
- Thực hiện 3 thảo luận nhóm (mỗi tỉnh 01 thảo luận nhóm): mỗi nhóm
6-8 bệnh nhân đang tham gia nghiên cứu.
43
2.2.3. Biến số và chỉ số nghiên cứu (Chi tiết trong Phụ lục 1)
2.2.3.1. Mô tả đặc điểm của ngƣời nghiện CDTP tham gia điều trị
* Đặc điểm xã hội học:
- Giới tính, tuổi, dân tộc, tôn giáo.
- Tình trạng hôn nhân, trình độ học vấn, nghề nghiệp, tình trạng việc làm,
khả năng lao động.
- Mối quan hệ với gia đình, mâu thuẫn trong gia đình.
* Tình trạng sử dụng ma túy (CDTP và các loại ma túy khác):
Tuổi bắt đầu sử dụng ma túy, thời gian sử dụng ma túy, loại ma túy sử
dụng, hình thức sử dụng, tần suất sử dụng , sốc thuốc do sử dụng ma túy quá
liều, tiền sử cai nghiện ma túy, lý do tái nghiện.
* Hành vi nguy cơ:
Tiêm chích ma túy, quan hệ tình dục không an toàn.
* Tình trạng sức khỏe:
Tình trạng mắc các bệnh khác, sự hài lòng với sức khỏe, chất lượng
cuộc sống.
2.2.3.2. Đánh giá hiệu quả điều trị
- Hiệu quả điều trị được đánh giá trên cơ sở so sánh các chỉ số nghiên cứu sau
12 tháng điều trị so sánh với các chỉ số ban đầu để đánh giá hiệu quả can
thiệp, cỡ mẫu sử dụng là 244 người tham gia đủ cả 2 vòng nghiên cứu. Do tất
cả các phân tích đều mang tính chất mô tả nên tất cả các so sánh sẽ được thực
hiện ở mức độ ý nghĩa 0,05 hoặc 0,01 (khoảng tin cậy 95% hoặc 99%).
- Các chỉ số đánh giá hiệu quả điều trị:
iệu quả giảm sử dụng CDTP eroin, thuốc phiện ,
- So sánh tỷ lệ % bệnh nhân tự khai sử dụng CDTP khi bắt đầu tham gia
điều trị và sau 12 tháng điều trị.
44
- So sánh tỷ lệ % xét nghiệm nước tiểu (+) với CDTP khi bắt đầu tham
gia điều trị và sau 12 tháng điều trị.
iệu quả thay đ i hành vi nguy c trong nh m người bệnh đang tham gia
điều trị Methadone:
- So sánh tỷ lệ % bệnh nhân tiêm chích ma túy khi bắt đầu tham gia điều
trị và sau 12 tháng điều trị.
- So sánh tỷ lệ % bệnh nhân sử dụng BCS khi QHTD với PNBD khi bắt
đầu tham gia điều trị và sau 12 tháng điều trị;
iệu quả cải thiện sức khỏe của bệnh nhân
So sánh tỷ lệ % bệnh nhân tự đánh giá về chất lượng cuộc sống trước và
sau 12 tháng tham gia điều trị.
iệu quả về mặt xã hội:
So sánh tỷ lệ % bệnh nhân có khả năng lao động trước và sau 12 tháng
tham gia điều trị.
2.2.3.3. Các yếu tố ảnh hƣởng tới hiệu quả điều trị
a) Các yếu tố ảnh hƣởng đến tiếp tục sử dụng heroin trong quá trình điều trị
- Các yếu tố xã hội (tuổi, dân tộc, trình độ học vấn, tình trạng hôn nhân, nghề
nghiệp, thu nhập, mâu thuẫn trong gia đình).
- Tình trạng sử dụng ma túy (thời gian sử dụng ma túy, sống cùng người sử
dụng ma túy, bạn tình tiêm chích ma túy, tiền sử có tiêm chích ma túy, tiền sử
cai nghiện ma túy).
- Điều trị bệnh lý khác (điều trị HIV).
b) Các yếu tố ảnh hƣởng đến bỏ điều trị
- Các yếu tố xã hội (tuổi, dân tộc, trình độ học vấn, tình trạng hôn nhân, nghề nghiệp,
thu nhập, mâu thuẫn trong gia đình, khoảng cách từ nhà đến cơ sở điều trị).
- Tình trạng sử dụng ma túy (thời gian sử dụng ma túy, sống cùng người sử dụng
ma túy, bạn tình tiêm chích ma túy, sử dụng CDTP trong quá trình điều trị).
45
2.2.3.4. Cách tính các chỉ số nghiên cứu
- Tỷ lệ bệnh nhân tiếp tục sử dụng CDTP trong quá trình điều trị: số bệnh
nhân có kết quả heroin trong nước tiểu dương tính bất kỳ trong 12 tháng điều
trị trên tổng số bệnh nhân.
- Tỷ lệ bệnh nhân bỏ điều trị: số bệnh nhân bỏ điều trị/rút khỏi chương trình
điều trị trên tổng số bệnh nhân.
- Nguyên nhân bỏ điều trị: tỷ lệ giữa các nguyên nhân như tự nguyện dừng điều
trị, tử vong, bị bắt giam, chuyển cơ sở điều trị khác hoặc bỏ không rõ lý do
- Hướng dẫn tính điểm chất lượng cuộc sống (CLCS WHOQOL-BRIEF):
gồm 6 thành tố:
1. Thành tố sức khoẻ thể chất: gồm 7 tiểu mục.
2. Thành tố sức khoẻ tâm thần: gồm 6 tiểu mục.
3. Thành tố quan hệ xã hội: gồm 3 tiểu mục.
4. Thành tố môi trường: gồm 8 tiểu mục.
5. Chất lượng cuộc sống tổng quát: 2 tiểu mục.
Bộ công cụ đo lường CLCS WHOQOL-BRIEF ở Việt Nam được chấm
điểm với mức cao nhất là 24 câu hỏi (4 thành tố chính) x 5 = 120 và mức thấp
nhất là 24 câu hỏi x 1 = 24. Điểm càng cao thì CLCS càng cao. Bên cạnh đó,
một số câu hỏi được thiết kế để đo theo chiều hướng nghịch nên cần thiết phải
điều chỉnh lại mức điểm tương ứng đối với những câu hỏi này khi phân tích
và tính điểm CLCS (bao gồm 3 câu: câu 3, câu 4 và câu 26).
1. Thành tố sức khoẻ thể chất=(6-C3)+(6-C4)+C10+C15+C16+C17+C18
2. Thành tố sức khoẻ tâm thần= C5 + C6 + C7 + C11 + C19 + (6-C26)
3. Thành tố quan hệ xã hội= C20 + C21 + C22
4. Thành tố môi trường= C8 + C9 + C12 + C13 + C14 + C23 + C24 + C25
Sau đó, điểm của từng thành tố được quy đổi theo thang điểm 100 (Chi
tiết trong phụ lục 3).
46
2.3. Các hoạt động can thiệp
2.3.1. Các bƣớc can thiệp
- Bước 1: Xác định Tỉnh Điện Biên (thành phố Điện Biên Phủ, huyện
địa điểm nghiên cứu Điện Biên)
Tỉnh Lai Châu (thị xã Lai Châu, huyện Phong Thổ)
Tỉnh Yên Bái (thành phố Yên Bái, thị xã Nghĩa Lộ)
- Bước 2: Chọn đối Bệnh nhân đủ điều kiện tham gia điều trị bằng
tượng nghiên cứu thuốc Methadone
- Bước 3: Tiếp nhận
các đối tượng nghiên Đồng ý tham gia Từ chối tham gia
cứu
- Bước 4: Tiến hành Điều trị bằng thuốc
các hoạt động can Methadone kèm dịch vụ
thiệp hỗ trợ về sức khỏe, xã
hội.
- Bước 5: Theo dõi, Phỏng vấn, quan sát, xét
giám sát đánh giá kết nghiệm về các chỉ số tại thời
quả điểm sau 12 tháng
- Bước 6: Phân tích, Đánh giá, so sánh kết quả đạt
báo cáo kết quả được sau can thiệp với trước
can thiệp.
Hình 2. 1. Sơ đồ các bƣớc triển khai nghiên cứu can thiệp
47
2.3.2. Nội dung các hoạt động can thiệp
- Điều trị cho người nghiện CDTP bằng thuốc Methadone: Đây là biện
pháp chính để đạt được các mục tiêu và hiệu quả của chương trình;
- Tư vấn và hỗ trợ tâm lý xã hội;
- Triển khai các dịch vụ hỗ trợ xã hội khác ngoài cộng đồng;
- Theo dõi quá trình điều trị nghiện các CDTP bằng thuốc Methadone.
2.3.3. Triển khai điều trị nghiện các CDTP bằng thuốc Methadone
Thực hiện theo Nghị định số 96/2012/NĐ-CP ngày 15/11/2012 của
Chính phủ quy định về điều trị nghiện các CDTP bằng thuốc thay thế, thông
tư số 12/2013/TT-BYT ngày 12/4/2013 của Bộ trưởng Bộ Y tế quy định chi
tiết một số điều của Nghị định số 96/2012/NĐ-CP ngày 15/11/2012 của Chính
phủ quy định về điều trị nghiện các CDTP bằng thuốc thay thế và, Quyết định
số 3140/QĐ-BYT ngày 30/8/2010 của Bộ trưởng Bộ Y tế ban hành ―Hướng
dẫn điều trị thay thế nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc
Methadone‖ [10, 16].
1 Thành lập c sở điều trị Methadone:
Việc thành lập và bố trí một cơ sở điều trị Methadone phải bao gồm:
- Về diện tích: Cơ sở phải bố trí các phòng sau, mỗi phòng có diện tích
tối thiểu là 10 m2 để đảm bảo thực hiện các hoạt động chuyên môn:
+ Phòng/khu vực đón tiếp và phòng chờ cho bệnh nhân, người nhà
bệnh nhân ngồi trước khi vào khám, tư vấn, uống thuốc hàng ngày.
+ Phòng tư vấn trước, trong và sau điều trị.
+ Phòng khám, lập hồ sơ bệnh án và theo dõi điều trị.
+ Phòng xét nghiệm gồm hai khu vực: khu vực lấy mẫu máu và bệnh
phẩm xét nghiệm; khu vực lấy mẫu nước tiểu.
48
+ Phòng cấp phát thuốc Methadone: Bố trí thuận tiện cho bệnh nhân đi
từ khu vực đón tiếp vào uống thuốc hàng ngày.
+ Kho bảo quản thuốc Methadone: đảm bảo điều kiện theo quy định về
quản lý thuốc gây nghiện.
- Về trang thiết bị, vật tư:
Ống nghe, cân sức khỏe, máy đo huyết áp, giường bệnh, bơm thuốc
Methadone, v.v… Một số thuốc, thiết bị cấp cứu, thiết bị quản lý, theo dõi
bệnh nhân theo quy định của Bộ Y tế.
- Về nhân sự: Cơ sở điều trị Methadone hoạt động tất cả các ngày trong
tuần ( kể cả ngày lễ và ngày nghỉ ).
Số lượng: tùy vào khả năng cung cấp dịch vụ mà bố trí số lượng nhân
sự cho phù hợp, bao gồm các nhóm:
+ Nhóm điều trị (bác sỹ, điều dưỡng): thực hiện khám lâm sàng, đánh
giá tình trạng bệnh nhân, xác định liều điều trị, kê đơn, tư vấn, theo dõi điều
trị và xử trí các vấn đề phát sinh.
+ Nhóm tư vấn (tư vấn viên): tham gia theo dõi tình trạng bệnh nhân, tư
vấn trước, trong khi điều trị.
+ Cấp phát và bảo quản thuốc (dược sỹ): quản lý thuốc Methadone, cấp
phát và giám sát bệnh nhân uống thuốc Methadone.
+ Nhóm hành chính (nhân viên hành chính): tiếp đón bệnh nhân, lưu
trữ các số liệu, quản lý hồ sơ bệnh án, sổ sách và làm báo cáo hàng
tháng/quý/năm và đột xuất theo yêu cầu.
+ Bảo vệ (nhân viên bảo vệ): bảo đảm an ninh trật tự khu vực cơ sở
điều trị 24/24h hàng ngày.
3 Khám lâm sàng và xét nghiệm:
- Nội dung thăm khám: Đánh giá sức khỏe chung, sức khỏe tâm thần,
các triệu chứng có liên quan đến sử dụng ma túy.
49
- Chẩn đoán nghiện CDTP: Theo ―Hướng dẫn chẩn đoán người nghiện
ma túy nhóm Opiat (CDTP)‖ của Bộ Y tế [12]
- Xét nghiệm: Thực hiện các xét nghiệm thường quy như công thức
máu; chức năng gan: ALT (SGPT), AST (SGOT); xét nghiệm nước tiểu tìm
CDTP bằng test nhanh. Một số xét nghiệm cần thiết khác: xét nghiệm tìm
kháng thể kháng HIV, xét nghiệm HBsAg phát hiện nhiễm vi rút viêm gan B,
xét nghiệm Anti HCV tầm soát viêm gan C (nếu cơ sở có điều kiện). Các xét
nghiệm được thực hiện theo đúng hướng dẫn chuyên môn qui định của Bộ Y
tế [20].
- Lập hồ sơ bệnh án: Theo mẫu bệnh án điều trị bằng thuốc Methadone
quy định (do Bộ Y tế ban hành).
- Làm thẻ và cấp thẻ điều trị theo mẫu qui định.
- Xây dựng lịch điều trị và tư vấn liều điều trị đầu tiên.
4 Tiến hành điều trị bằng thuốc Methadone:
Khi có chỉ định điều trị, hàng ngày bệnh nhân đến cơ sở điều trị
Methadone để uống thuốc và theo dõi điều trị. Bệnh nhân uống thuốc trước
mặt nhân viên y tế.
- Theo dõi lâm sàng: sức khỏe, các hành vi nguy cơ cao tiếp diễn trong
quá trình điều trị và tiến triển của các bệnh lý kèm theo.
- Xét nghiệm nước tiểu: Mục đích để chẩn đoán, đánh giá hiệu quả điều
trị, giúp điều chỉnh liều Methadone thích hợp và kiểm tra việc sử dụng đồng
thời CDTP khác trong quá trình điều trị.
Nguyên tắc xét nghiệm nước tiểu: Đảm bảo bệnh nhân không biết
trước, có giám sát chặt chẽ của nhân viên y tế khi lấy mẫu nước tiểu, không
sử dụng loại test nhanh có phản ứng chéo với Methadone. Xét nghiệm phải
đảm bảo khách quan, chính xác và được thực hiện tối đa 2 lần/tháng.
50
- Theo dõi tuân thủ điều trị:
Bệnh nhân phải uống Methadone hàng ngày dưới sự giám sát của cán bộ y tế
để đảm bảo điều trị hiệu quả, tránh nguy cơ tái sử dụng ma túy.
Thực hiện một số biện pháp hỗ trợ tuân thủ điều trị bao gồm: Tư vấn
cho bệnh nhân và gia đình. Phối hợp với gia đình, cộng đồng và các tổ chức
xã hội trong việc động viên bệnh nhân tuân thủ điều trị.
- Tư vấn, bao gồm: tư vấn cá nhân; tư vấn nhóm; tư vấn cho gia đình
trước và trong quá trình điều trị.
Đánh giá bệnh nhân về tiền sử sử dụng ma túy, các vấn đề liên quan đến pháp
luật, tài chính và các vấn đề tâm lý xã hội khác. Cung cấp kiến thức cơ bản về
điều trị nghiện các CDTP bằng thuốc Methadone: tác dụng của điều trị
Methadone, quy trình điều trị, tác dụng không mong muốn của thuốc, ưu và
nhược điểm; các quy định khác có liên quan.
Tần suất tư vấn:
+ Trước điều trị: Mỗi bệnh nhân được thực hiện tư vấn cá nhân một lần
và tư vấn nhóm, giáo dục nhóm 1 lần.
+ Trong quá trình điều trị: (1) Tuần đầu tiên điều trị: tư vấn cá nhân về
tuân thủ điều trị 2 lần. (2) Tuần thứ 2 - tuần thứ 4: mỗi tuần 1 lần. (3) Từ
tháng thứ 2 - tháng thứ 6: 1 tháng 1 lần. (4) Từ tháng thứ 7 trở đi: tùy thuộc
tình hình thực tế của bệnh nhân để tiến hành tư vấn nhưng ít nhất 3 tháng 1
lần.
- Các dịch vụ hỗ trợ khác:
+ Phối hợp với các đơn vị có liên quan trong ngành y tế thực hiện việc
chuyển gửi bệnh nhân đến các dịch vụ tư vấn, chăm sóc và điều trị
HIV/AIDS, hoặc các loại bệnh khác khi cần thiết.
51
+ Phối hợp với ngành Lao động - Thương binh - Xã hội, UBND
xã/phường để bệnh nhân được hỗ trợ trong việc đào tạo nghề và tìm việc làm,
hỗ trợ tái hòa nhập cộng đồng.
5 Theo dõi, đánh giá hiêu quả điều trị:
Đối tượng nghiên cứu được theo dõi để đánh giá sự thay đổi các chỉ số
nghiên cứu theo thời gian: ban đầu (trước điều trị) và sau 12 tháng điều trị.
Hiệu quả điều trị được đánh giá trên cơ sở so sánh các chỉ số nghiên cứu sau
12 tháng so sánh với các chỉ số ban đầu, cỡ mẫu sử dụng là 244 người tham
gia đủ cả 2 vòng nghiên cứu.
2.4. Phƣơng pháp thu thập số liệu
2.4.1. Nghiên cứu định lƣợng
- Thu thập số liệu sử dụng bảng hỏi bán cấu trúc thông qua phỏng vấn
300 bệnh nhân. Câu hỏi được xây dựng dựa vào câu hỏi điều tra hành vi của
Bộ Y tế và chất lượng cuộc sống của Tổ chức Y tế Thế giới được chỉnh sửa
cho phù hợp với hoàn cảnh thực tế ở Việt Nam.
+ Câu hỏi điều tra hành vi: chủ yếu bao gồm các câu hỏi về tình trạng
sử dụng ma túy, hành vi nguy cơ lây nhiễm HIV (tiêm chích ma túy, quan hệ
tình dục không an toàn).
+ Câu hỏi về chất lượng cuộc sống: bao gồm các câu hỏi đo lường nhận
thức của bệnh nhân về bệnh tật của họ. Nhận thức này bao gồm các lĩnh vực:
sức khỏe thể chất, sức khỏe tâm thần, các mối quan hệ xã hội và môi trường
(môi trường tiếp cận với các dịch vụ y tế, môi trường gia đình, môi trường
tiếp cận với các dịch vụ chăm sóc xã hội).
- Xét nghiệm nước tiểu bệnh nhân để tìm heroin được thực hiện tại
Trung tâm Phòng chống HIV/AIDS tỉnh Điện Biên, Lai Châu, Yên Bái.
52
2.4.2. Nghiên cứu định tính
- Phỏng vấn sâu bệnh nhân tham gia nghiên cứu nhằm thu thập các thông tin
cá nhân của họ, về quá trình tham gia và tuân thủ điều trị Methadone, các khó
khăn gặp phải trong quá trình điều trị, đánh giá của họ về hiệu quả, tác động
của chương trình Methadone.
- Thảo luận nhóm với bệnh nhân tham gia nghiên cứu nhằm thu thập các thông
tin về tính hiệu quả của điều trị Methadone, lý do tiếp tục sử dụng heroin hay
bỏ điều trị, rào cản với việc duy trì điều trị Methadone cũng như gợi ý giải
pháp tăng tuân thủ điều trị.
- Phỏng vấn sâu người nhà của bệnh nhân tham gia nghiên cứu nhằm thu thập
các thông tin về hiệu quả, tác động của điều trị Methadone đối với bệnh nhân,
các khó khăn, rào cản khi tham gia điều trị.
- Phỏng vấn sâu các đối tượng là cán bộ lãnh đạo Trung tâm phòng chống
HIV/AIDS tỉnh,thành phố, cán bộ y tế làm việc trực tiếp tại cơ sở điều trị
Methadone (bác sỹ, tư vấn viên) nhằm thu thập các thông tin cá nhân của
người được phỏng vấn (bao gồm tình trạng gia đình, chuyên môn, kinh
nghiệm công tác theo các lĩnh vực, công việc hiện tại...); Hoàn cảnh và lý do
tham gia công tác trong lĩnh vực điều trị Methadone; Nhận định chung về
điều trị Methadone: tính hiệu quả, các dịch vụ được cung cấp, khó khăn,
thuận lợi của bệnh nhân trong điều trị; Khó khăn, thuận lợi của cán bộ làm
việc trong chương trình Methadone; Lý do tiếp tục sử dụng Heroin hay bỏ
điều trị của bệnh nhân và giải pháp của phòng khám.
53
2.5. Phƣơng pháp xử lý số liệu
2.5.1. Nghiên cứu định lƣợng
- Phần mềm Epi Info cho Window được sử dụng cho nhập và lưu trữ số liệu
của dữ liệu đã thu thập (điều tra cắt ngang, kết quả xét nghiệm).
- Sau khi liên kết các dữ liệu nhận dạng cá nhân, nghiên cứu sử dụng phần
mềm STATA 12 để tiến hành các thống kê mô tả, so sánh và phân tích.
- So sánh sự khác biệt các chỉ tiêu giữa các mốc thời gian bằng kiểm định Chi
bình phương cho các biến định tính hay t-test cho các biến định lượng với
mức ý nghĩa thống kê là p<0,05.
- Mô hình hồi quy logistic đa biến được áp dụng để xác định một số yếu ảnh
hưởng tới hiệu quả điều trị (bao gồm ảnh hưởng đến việc tiếp tục sử dụng
heroin trong quá trình điều trị và bỏ điều trị). Thuật toán stepwise forward với
giá trị ngưỡng p≤0,2 được áp dụng nhằm chọn ra các biến đưa vào mô hình
rút gọn. Các biến số với giá trị p>0,2 bị loại khỏi mô hình rút gọn. Giá trị
p<0,05 xem xét có ý nghĩa thống kê.
2.5.2. Nghiên cứu định tính
Phương pháp phân tích theo chủ đề (thematic analysis):
- Sau khi hoàn thành mỗi cuộc phỏng vấn hoặc thảo luận nhóm, cán bộ
nghiên cứu có trách nhiệm kiểm tra đảm bảo chất lượng của file ghi âm, đặt
tên file theo mã số bệnh nhân và gửi file cho cán bộ chịu trách nhiệm giải
băng.
- Băng được gỡ và được cán bộ nghiên cứu đọc toàn bộ các gỡ băng,
tổng hợp lại các ý kiến của người trả lời theo chủ đề, so sánh thông tin giữa
những người được hỏi trong cùng nhóm (bệnh nhân, cán bộ y tế) và đối lập
thông tin giữa các nhóm với nhau (constant comparative method). Sau đó,
54
nghiên cứu viên đọc lại từng trường hợp để tìm cách giải thích thông tin được
cung cấp liên hệ với bối cảnh cuộc sống của họ (contextualize findings).
2.6. Các biện pháp khống chế sai số
Các biện pháp khống chế sau sẽ được áp dụng trong nghiên cứu:
- Điều tra viên và giám sát viên được tập huấn thống nhất về phương
pháp điều tra, được thử nghiệm bộ công cụ và thực hành kỹ năng điều tra.
- Quá trình điều tra; quá trình điều trị được giám sát chặt chẽ thông qua
hoạt động giám sát thực địa và kiểm tra chất lượng phiếu điều tra cũng như hồ
sơ bệnh án điều trị.
- Tất cả các giám sát viên và điều tra viên phải là những người có kinh
nghiệm trong nghiên cứu xã hội học và được tập huấn đầy đủ.
- Các phiếu điều tra cần được kiểm tra và làm sạch ngay tại cộng đồng.
2.7. Đạo đức nghiên cứu
- Đề cương nghiên cứu được Hội đồng đạo đức của Cục Phòng, chống
HIV/AIDS thông qua tại quyết định 189/QĐ-AIDS ngày 10/10/2014 và
127/QĐ-AIDS ngày 23/7/2015.
- Các đối tượng tham gia nghiên cứu là hoàn toàn tự nguyện: mỗi người
tham gia nghiên cứu sẽ ký bản thỏa thuận đồng ý tham gia nghiên cứu.
- Các thông tin về đối tượng nghiên cứu được đảm bảo bí mật: các
phiếu điều tra sẽ được lưu trữ tại Cục Phòng, chống HIV/AIDS. Việc thu
thập, xử lý số liệu sẽ được phân biệt bằng mã số để đảm bảo tính bí mật. Kết
quả xét nghiệm tìm heroin sẽ không được kết nối với thông tin nhận dạng của
người tham gia.
55
2.8. Sơ đồ nghiên cứu
Hình 2. 2. Sơ đồ nghiên cứu
56
Chƣơng 3
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1. Thực trạng sử dụng ma túy và tình trạng sức khỏe, xã hội của đối
tƣợng nghiên cứu trƣớc khi điều trị Methadone
3.1.1. Đặc điểm nhân khẩu, xã hội, việc làm của đối tƣợng nghiên cứu
Bảng 3.1. Đặc điểm nhân khẩu học của đối tƣợng nghiên cứu
Đặc điểm Yên Bái (n=99) Tổng (n=300)
Điện Biên (n=101)
n %
8 8,1
Lai Châu (n=100) n % n % 18 17,8 25 25,0 43 42,6 36 36,0 29 28,7 29 29,0 11 10,9 10 10,0 n % 51 17,0 29 29,3 108 36,0 49 49,5 107 35,7 34 11,3 13 13,1
101 100 99 99,0 1,0 0,0 0 1 97 99,0 297 99,3 0,7 1,0 2 1
2 2,0 2
Nhóm tuổi <30 30-39 40-49 ≥50 Giới tính Nam Nữ Dân tộc Kinh Tày Thái Khác
62 61,4 39 39,0 2,0 35 34,7 41 41,0 2,0 18 18,0 2 75 75,8 176 58,7 14 10 10,1 4,7 81 27,0 5,1 9,7 29 9,1 5 9
Nhận xét:
Trong tổng số 300 đối tượng nghiên cứu hầu hết nằm trong độ tuổi từ
30 đến 49 tuổi (71,7%). Tại tỉnh Điện Biên các đối tượng tập trung chủ yếu
trong độ tuổi từ 30-39 tuổi (42.6%), trong khi đó tại tỉnh Yên Bái có 49,5%
đối tượng nằm trong độ tuổi từ 40-49 tuổi. Có 99,3% bệnh nhân là nam. Dân
tộc Kinh chiếm hơn một nửa tổng số đối tượng tham gia nghiên cứu (58,7%).
57
Dân tộc Thái chủ yếu tập trung ở các tỉnh Điện Biên (34,7%) và Lai Châu
(41,0%).
Bảng 3.2. Trình độ học vấn, việc làm của đối tƣợng nghiên cứu
Yên Bái (n=99) Tổng (n=300) Đặc điểm
Lai Điện Châu Biên (n=100) (n=101) N % N % N % n % Trình độ học vấn
THPT 38 37,6 20 20,0 47 48,0 105 35,1 >THPT 8 7,9 7 7,0 11 11,2 26 8,7 Nghề nghiệp Thất nghiệp 8 7,9 7 7,0 9 9,1 24 8,0 Lao động tự do 83 82,2 88 88,0 78 78,8 249 83,0 Công nhân, cán bộ viên chức 1 1,0 1 1,0 7 7,1 9 3,0 Khác 9 8,9 4 4,0 5 5,1 18 6,0 57 56,4 53 53,0 56 56,6 166 55,3 Công việc hiện tại ổn định 86 85,2 70 70,0 67 67,7 223 74,3 Thu nhập cá nhân TB SD TB SD TB SD TB SD 3,1 3,0 3,4 2,0 3,3 1,6 3,3 2,3 Thu nhập hiện tại (triệu đồng) Nhận xét: Phần lớn các đối tượng có trình độ học vấn dưới trung học phổ thông (56,2%), đặc biệt thấp hơn ở tỉnh Lai Châu (73,0%) và đang làm nghề lao động tự do (83,0%). Trong tổng số 300 người, có 166 người có công việc ổn định (chiếm 55,3%). Phần lớn các đối tượng đều có thu nhập cá nhân (74,3%). Thu nhập trung bình của đối tượng là 3,3 triệu đồng. 58 Bảng 3.3. Tình trạng hôn nhân, gia đình của đối tƣợng nghiên cứu Yên Bái
(n=99) Tổng
(n=300) Đặc điểm Lai
Châu
(n=100) Điện
Biên
(n=101)
N % n % N % Tình trạng hôn nhân Độc thân
Kết hôn, sống chung bạn tình
Ly dị, ly thân, góa 31 30,7 28 28,0
56 55,5 66 66,0
6,0
14 13,9 6 20
55
24 n %
79 26,3
20,2
55,6 177 59,0
44 14,7
24,2 Ngƣời sống cùng Bố
Mẹ
Vợ
Con
Anh/chị/em
Họ hang
Bạn bè
Người yêu/bạn tình
Một mình
Không ổn định 39,4 116 38,7
46,5 143 47,7
50,5 159 53,0
52,5 163 54,3
47 15,7
12,1
3,7
11
3,0
0,7
2
1,0
0,7
2
0,0
4,3
13
6,1
1,0
3
1,0
4,0
12
1,0 39 38,6 38 38,0 39
56 55,5 41 41,0 46
47 46,5 62 62,0 50
51 50,5 60 60,0 52
21 20,8 14 14,0 12
3
2
6
1
0
1
0
1
1
6
3
4
1
0
2
1
5
6 5,9
1,0
1,0
4,0
2,0
5,9 2,0
0,0
1,0
3,0
0,0
5,0 Ngƣời sống cùng sử dụng ma
túy 3
0
1
1
1 50,0 1 20,0
3 60,0
0,0
16,7 1 20,0
0,0
16,7 0
0,0
16,7 0 0
0
1
0
0 0,0
0,0
100,0
0,0
0,0 4
3
3
1
1 33,3
25,0
25,0
8,3
8,3 Bố/mẹ
Vợ
Con
Anh/chị/em
Họ hang Nhận xét: Có 59% đối tượng kết hôn và đang sống chung với vợ chồng, bạn tình, 14,7% đối tượng đã li dị/ly thân/góa và có khoảng 26,3% đang sống độc thân. Có trên một nửa các đối tượng được phỏng vấn đang sống chung với vợ (53%) với con (54,3%) và sống cùng với mẹ (47,7%) với bố (38,7%). Trong đó có tới 33,3% đối tượng được phỏng vấn sống chung với bố/mẹ có nghiện 59 chích ma túy và 25% đối tượng sống chung với vợ và 25% đối tượng sống chung với con là người nghiện chích ma túy. Bảng 3. 4. Mâu thuẫn trong gia đình và hành vi vi phạm pháp luật Điện Lai Yên Bái Tổng Biên Châu (n=99) (n=300) Đặc điểm (n=101) (n=100) n % n % n % n % 6 5,9 0 0,0 1 1,0 7 2,3 Cuộc sống mâu thuẫn, bất đồng 86 85,2 67 67,0 61 62,2 214 71,6 Hành vi vi phạm pháp luật từ trƣớc tới nay Bán đồ cá nhân 51 50,5 38 38,0 28 28,6 117 39,1 Cầm đồ cá nhân 50 49,5 43 43,0 28 28,6 121 40,5 Nói dối gia đình 54 53,5 31 31,0 39 39,8 124 41,5 Lấy tiền của gia đình 67 66,3 30 30,0 35 35,7 132 44,2 Bán đồ đạc gia đình 41 40,6 16 16,0 18 18,4 75 25,1 Cầm đồ đạc gia đình 36 35,6 12 12,0 17 17,4 65 21,7 Đe dọa người thân 2 2,0 2 2,0 1 1,0 5 1,7 Tiền án, tiền sự 32 31,7 13 13,0 19 19,4 64 21,4 Nhận xét: Trong tổng số 300 đối tượng nghiên cứu có 7 đối tượng có mâu thuẫn, bất đồng trong cuộc sống (2,3%). Đa số các đối tượng đều có hành vi phạm pháp (71,6%). Những hành vi phạm pháp/gây mâu thuẫn gia đình hay gặp nhất là lấy tiền của gia đình (44,2%), nói dối (41,5%), cầm đồ (40,5%) hoặc bán đồ cá nhân (39,1%). Ngoài ra, các hành vi như bán, cầm đồ gia đình (25,1% và 21,7%) cũng chiếm tỷ lệ đáng kể. Có 21,4% đối tượng có tiền án, tiền sự. 60 Bảng 3. 5. Đặc điểm tiếp cận điều trị của đối tƣợng nghiên cứu Yên Bái
(n=99) Tổng
(n=300) Đặc điểm Điện
Biên
(n=101)
N % Lai
Châu
(n=100)
n % n % n % Khoảng cách từ nhà
đến cơ sở điều trị < 5km
5-10 km
> 10km 47,3
32,6
20,1 47 46,5 46 46,0 48 49,5 141
97
38 37,6 39 39,0 20 20,6
60
16 15,8 15 15,0 29 29,9 Phƣơng tiện đến cơ sở
điều trị 3 5 5,2 Xe đạp
Xe máy
Ô tô
Khác 15 14,9
23
3,0
85 84,2 90 90,0 78 80,4 253
5
0,0
17
7,0 0,0
1,0 5,2
9,3 0
1 5
9 0
7 7,7
84,9
1,7
5,7 Nhận xét: Gần một nửa đối tượng nghiên cứu có khoảng cách từ nhà đến cơ sở điều trị dưới 5 km (47,3%). 20,1% bệnh nhân ở cách xa cơ sở điều trị trên10km. Phương tiện các đối tượng chủ yếu sử dụng là xe máy (84,9%). 3.1.2. Thực trạng sử dụng ma túy và tình trạng sức khỏe 3.1.2.1. Thực trạng sử dụng chất gây nghiện Bảng 3. 6. Tiền sử sử dụng chất gây nghiện của đối tƣợng nghiên cứu Đặc điểm Tổng
(n=300)
N % Loại ma túy đã sử dụng Heroin
Thuốc phiện
Khác Điện Biên
(n=101)
n %
61,2
37,3
1,5
16,9 41
25
1
13 Lai Châu
(n=100)
N %
51,5
48,5
0,0
4,8 35
33
0
4 Yên Bái
(n=99)
n %
67,0 141 60,8
37,9
88
30,9
1,3
3
2,1
10,7
27
10,9 65
30
2
10 Sử dụng kim tiêm mà ngƣời
khác đã hoặc vừa sử dụng 61 Đặc điểm Điện Biên
(n=101)
n % Lai Châu
(n=100)
N % Yên Bái
(n=99)
n % Tổng
(n=300)
N % Thời gian sử dụng ma túy (năm) < 2 năm
2-5 năm
5-10 năm
10-20 năm
> 20 năm 4
9,6
30
28,8
33
30,1
24
24,7
6,9
7
SD TB 2
28
35
26
8
TB
21,3
Tuổi bắt đầu sử dụng ma túy
Thời gian sử dụng ma túy (năm) 9,1
255,
Số tiền trung bình phải trả cho
4
ma túy (nghìn đồng) 7
2,0
21
28,3
22
35,4
18
26,3
8,1
5
SD TB
7,9
6,1
266,
8 19,0 7,5
6,6
9,2
144,
250,
1
0 13
4,1
79
30,6
90
33,7
68
24,5
7,1
20
SD TB
20,7 7,9 20,3
9,5
10,1 7,1
300,
463,
399,
4
1
5 4,8
29,3
33,3
25,2
7,4
SD
7,8
6,6
323,
8 Nhận xét: Hai loại ma tuý được sử dụng nhiều nhất là heroin và thuốc phiện (60,8% và 37,9%). Tỷ lệ sử dụng chung bơm kim tiêm chung là 10,7%. Hầu hết các đối tượng có thời gian sử dụng ma tuý trên 2 năm (95,2%). Tuổi bắt đầu sử dụng ma tuý của đối tượng trung bình là 20,3. Ngoài ra, số tiền trung bình phải trả cho ma tuý là 300 nghìn đồng/ngày. Bảng 3. 7. Hình thức sử dụng theo loại chất gây nghiện của đối tƣợng Đặc điểm Hình thức sử dụng ma túy Heroin Không sử dụng
Uống/cắn
Hút/hít
Tiêm/chích Morphin Không sử dụng
Hút/hít Điện Biên
(n=101)
n %
1,0
1,0
31,7
66,3
100
0,0 1
1
32
67
101
0 Lai Châu
(n=100)
N %
2,0
2
1,0
1
30,0
30
67,0
67
98,0
98
2,0
2 Yên Bái
Tổng
(n=99)
(n=300)
n %
N %
5,1
5
8
2,7
1,0
1
3
1,0
29,0
87
25,3
25
68,7 202 67,3
68
99,0 297 99,0
98
1,0
3
1,0
1 62 Đặc điểm Thuốc phiện 64
1
36
0 Điện Biên
(n=101)
n %
63,4
1,0
35,6
0,0 Lai Châu
(n=100)
N %
76,0
76
0,0
0
23,0
23
1,0
1 Yên Bái
(n=99)
n %
66
0
31
2 Tổng
(n=300)
N %
66,7 206 68,7
0,3
1
0,0
30,0
90
31,3
1,0
3
2,0 101
0 Không sử dụng
Uống/cắn
Hút/hít
Tiêm/chích
Amphetamines/
Methamphetamin
Không sử dụng
Hút/hít
Thuốc lắc Không sử dụng
Uống/cắn
Hút/hít 98
2
1 100
0,0
97,0
2,0
1,0 99,0
1,0
99,0
1,0
0,0 Cần sa Không sử dụng
Hút/hít 97
4 Tài mà 99
1
99
1
0
96,0 100 100
0,0
0
4,0
97,0
97
98,0
3,0
3
2,0 99
0
97
2
0
98
1
98
1 100 299 99,7
0,3
1
0,0
98,0 294 98,0
1,7
5
2,0
0,3
1
0,0
99,0 295 98,3
1,7
5
1,0
99,0 294 98,0
2,0
6
1,0 Không sử dụng
Hút/hít
Thuốc ngủ Không sử dụng
Uống/cắn
Hút/hít 99
2
92
9
0 91,1
8,9
0,0 99,0
0,0
1,0 Khác Không sử dụng
Uống/cắn
Hút/hít 94
2
5
5 99
0
1
93,1 100 100
0,0
0
2,0
0,0
0
5,0
7,0
7
5,0 96
2
1
94
2
3
17 97,0 287 95,7
3,7
11
2,0
0,7
2
1,0
95,0 288 96,0
1,3
4
2,0
2,7
8
3,0
9,7
29
17,4 Từng shock thuốc do quá liều Tỷ lệ sử dụng heroin cao (60,8%), trong đó có tới 67,3% đối tượng tiêm chích heroin. Trong số những người sử dụng thuốc phiện thì chủ yếu sử dụng bằng đường hút/hít (30%). Các ma túy khác sử dụng với số lượng ít, chủ yếu bằng đường hút, hít, cắn thuốc. Có khoảng 9,7% các đối tượng từng sốc thuốc do sử dụng quá liều. 63 Bảng 3. 8. Tiền sử cai nghiện ma túy của đối tƣợng nghiên cứu Điện Biên
(n=101) Lai Châu
(n=100) Đặc điểm n %
89 88,1 n %
49 49,0 Tổng
Yên Bái
(n=300)
(n=99)
N %
N %
73 73,7 211 70,3 Cai nghiện ma túy
Thời gian cai nghiện gần nhất
đến nay < 2 năm
2-5 năm
5-10 năm
> 10 năm 26 34,7
43 57,3
6,7
1,3 5
1 5 13,9
26 72,2
4 11,1
2,8
1 19 28,8
50 28,3
31 47,0 100 56,5
22 12,4
13 19,7
2,8
4,6 3 5 Hình thức sử dụng cai nghiện 24 27,3 20 40,8 33 48,5 77 37,6 1
1,1
9 10,2 2
3 4,1
6,1 1
2 1,5
2,9 4
14 2,0
6,8 Cai nghiện tập trung tại trung
tâm
Cơ sở tư nhân
Cắt cơn tại cộng đồng (Y tế
công)
Tự mua thuốc cai
Cai khan
Khác 34 38,6
17 19,3
3,4 3 12 24,5
12 24,5
0,0 0 18 26,5
12 17,7
2,9 2 64 31,2
41 20,0
2,4 5 Lý do tái nghiện
Bạn bè rủ rê
Thèm muốn ma túy
Buồn chán, thất vọng 42 47,7
53 60,2
27 30,7 33 68,8
35 71,4
9 18,4 42 59,2 117 56,5
44 62,0 132 63,5
55 26,4
19 26,8 Nhận xét: Hầu hết các đối tượng đều tham gia cai nghiện ma tuý (70,3%). Đa số các đối tượng có thời gian cai nghiện gần đây nhất là từ 2 năm đến 5 năm (56,5%). Hình thức sử dụng cai nghiện chủ là cai nghiện tại trung tâm và tự mua thuốc để cai (37,6% và 31,2%). Ngoài ra, còn một số hình thức cai nghiện khác được sử dụng là cai nghiện ở cơ sở tư nhân (2,0%), cắt cơn tại cộng đồng (6,8%) và cai khan (20,0%). Lý do tái nghiện chủ yếu của đối tượng là thèm muốn ma tuý và bạn bè rủ rê (63,5% và 56,5%), một phần do sự buồn chán, thất vọng (26,4%). 64 3.1.2.2. Hành vi quan hệ tình dục Bảng 3. 9. Hành vi quan hệ tình dục của đối tƣợng nghiên cứu Yên Bái
(n=99) Tổng
(n=300) Đặc điểm Điện
Biên
(n=101) Lai
Châu
(n=100)
n % n % n % Từng quan hệ tình dục
Quan hệ tình dục lần gần nhất 8 Trong vòng 6 tháng qua
Từ 06 - 12 tháng
Trên 12 tháng qua 8,1 10 10,5 10 10,3
5,3 17 17,5 5 n %
100 99,0 95 95,0 97 98,0 292 97,3
61 61,6 80 84,2 70 72,2 211 72,5
9,6
28
30 30,3
52 17,9
49 49,5 49 51,6 49 51,0 147 50,7 16 16,2 11 11,6 21 21,7 48 16,5 4 25,0 2 33,3 3 42,9 9 31,0 1 3,5 1 9,1 4 19,1 6 9,8 Sử dụng BCS khi quan hệ tình
dục gần nhất
Từng quan hệ tình dục với phụ
nữ bán dâm
Sử dụng BCS khi quan hệ tình
dục với phụ nữ bán dâm
Quan hệ tình dục với gái bán
dâm có tiêm chích Nhận xét: Hầu hết các đối tượng từng quan hệ tình dục (97,3%). Trong đó, phần lớn đối tượng đã quan hệ tình dục gần nhất trong vòng 6 tháng trở lại (72,5%). Có 50,7% đối tượng sử dụng bao cao su trong lần quan hệ gần nhất. Ngoài ra, có 16,5% đã từng quan hệ tình dục với phụ nữ bán dâm nhưng chỉ có 31% sử dụng BCS khi quan hệ tình dục. 9,8% quan hệ tình dục với gái mại dâm có tiêm chích. 65 %
35,0 3.1.2.3. Tình trạng sức khỏe và chất lƣợng cuộc sống 32,3 30,0 25,7 24,4 25,0 15,0 20,0 16,8 16,8 15,2 11,7 10,7 10,1 9,1 9,1 10,0 5,0 3,0 5,0 2,0 2,0 1,0 0,0 Lai Châu
(n=100) Yên Bái
(n=99) Điện Biên
(n=101) Tổng
(n=300)
Viêm gan B Viêm gan C Nhiễm trùng cơ hội Điều trị ARV Biểu đồ 3.1. Tiền sử bệnh tật của đối tƣợng nghiên cứu Nhận xét: Có 24,4% đối tượng đã từng mắc viêm gan C, 11,7% mắc viêm gan B. Có 10,7% đối tượng được điều trị ARV. Bảng 3. 10. Chất lƣợng cuộc sống của đối tƣợng nghiên cứu Đặc điểm Điện Biên
(n=101) Lai Châu
(n=100) Yên Bái
(n=99) Tổng
(n=300) n % n % n % n % Đánh giá chất lƣợng cuộc sống 1 2 8 11 8,1 Xấu
Trung bình
Tốt 1,0
71 70,3
29 28,7 2,0
87 87,0
11 11,0 3,7
67 67,7 225 75,0
64 21,3
24 24,2 Mức độ hài lòng với sức khỏe
của mình 4 26 Không hài long
Bình thường
Hài long 4,0
72 72,0
24 24,0 12 12,1
8,7
10
9,9
56 56,6 182 60,7
54 53,5
92 30,7
31 31,3
37 36,6
TB SD TB SD TB SD TB SD 66 59,3 13,4 58,7 12,2 62,7 12,1 60,2 12,7
60,9 11,5 60,4 10,8 62,4 14,1 61,2 12,2
50,7 11,8 46,6 14,9 53,8 15,1 50,3 14,2
58,9 10,1 55,3 10,1 62,2 12,6 58,8 11,3 Sức khỏe thể chất
Sức khỏe tâm thần
Mối quan hệ xã hội
Môi trƣờng Nhận xét: Phần lớn các đối tượng có chất lượng cuộc sống trung bình (75%) trong đó mức độ hài lòng về sức khỏe của đối tượng chủ yếu ở mức bình thường (60,7%). Khi chấm điểm chất lượng cuộc sống trên thang 100 điểm, sức khỏe thể chất trung bình là 60,2 điểm, sức khỏe tâm thần là 61,2 điểm, mối quan hệ xã hội trung bình là 50,3 điểm và môi trường trung bình là 50,3 điểm. Bảng 3. 11. Khả năng lao động của đối tƣợng nghiên cứu Lai Châu
(n=100) Yên Bái
(n=99) Tổng
(n=300) Đặc điểm Điện
Biên
(n=101)
n % n % n % n % Chủ động học tập và lao động Không
Đôi khi
Thường xuyên
Tham gia công việc 42 41,6 47
28 27,7 22
31 30,7 31 7 47,0 40 42,6 129 43,7
78 26,4
22,0 28 29,8
88 29,8
31,0 26 27,7
37 12,5
15,0 15 15,6
72 24,2
27,0 19 19,8
58,0 62 64,6 188 63,3 Không
Đôi khi
Thường xuyên
Tự phục vụ cá nhân 6,9 15
26 25,7 27
68 67,3 58 9 3
6 3
5 3
3,0
5,9 21
92 91,1 76 3,0
3,1
3,0
21,0
32 10,7
5,2
76,0 89 91,8 257 86,2 Không
Đôi khi
Thường xuyên
Nhận xét: Tỷ lệ đối tượng không chủ động học tập và lao động chiếm 43,7%. Có 63,3% đối tượng thường xuyên tham gia lao động. Còn lại là những đối tượng không tham gia (12,5%) và đôi khi tham gia (24,2%). Khả năng tự phục vụ cá nhân phần lớn của đối tượng ở mức độ thường xuyên (86,2%). 67 3.2. Hiệu quả của điều trị Methadone 3.2.1. Hiệu quả về thay đổi sử dụng chất gây nghiện và hành vi nguy cơ Bảng 3.12. Thay đổi sử dụng chất gây nghiện trƣớc-sau điều trị Giá trị
p Đặc điểm Sau 12 tháng
điều trị
(n=244) Bắt đầu
điều trị
(n=244)
n %
36,2
88 n %
39 16,5 <0,01* Sử dụng chất gây nghiện 30 ngày
trƣớc nghiên cứu Heroin
Morphin
Thuốc phiện
Amphetamines/ Methamphetamin
Cần sa
Thuốc ngủ
Khác 77
6
7
0
1
1
4
57 31,7
2,5
2,9
0,0
0,4
0,4
1,6
23,7 26
4
2
2
2
2
7
30 10,9 <0,01*
1,7
0,52*
0,8 0,18**
0,8 0,25**
0,8 0,62**
0,8 0,62**
2,9
0,34*
12,7 <0,01* Tiêm chích ma túy 30 ngày trƣớc
nghiên cứu * Chi-square test; ** Fisher-exact test Nhận xét: Bảng trên thể hiện tình trạng sử dụng chất gây nghiện của các đối tượng trước và sau 12 tháng điều trị do đối tượng tự khai báo. Theo đó, tỷ lệ người sử dụng chất gây nghiện giảm từ 36,2% khi bắt đầu tham gia điều trị xuống 16,5% sau 12 tháng điều trị. Trong đó, tỷ lệ người sử dụng heroin giảm từ 31,7% xuống 10,9%. Các kết quả này có ý nghĩa thống kê (p<0,01). Tỷ lệ đối tượng tiêm chích giảm từ 23,7% xuống 12,7% sau 12 tháng điều trị. Kết quả này có ý nghĩa thống kê (p<0,01). 68 Biểu đồ 3.2. Tỷ lệ dƣơng tính heroin trong nƣớc tiểu theo dõi 12 tháng Biểu đồ 3.2 cho thấy tỷ lệ xét nghiệm heroin dương tính trong nước tiểu qua 12 tháng. Kết quả cho thấy tỷ lệ bệnh nhân có xét nghiệm dương tính giảm từ 100% ở tháng 1 xuống còn 0,6% ở tháng 12. Sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê (p<0,01). Bảng 3.13. Thay đổi hành vi quan hệ tình dục trƣớc-sau điều trị Giá trị p Đặc điểm Bắt đầu ĐT
(n=244)
n %
51,3
120
16,2
38
36,8
7 Sau 12 tháng
ĐT (n=244)
N %
51,4
112
19,3
42
40,0
6 0,98*
0,39*
0,85* 5 12,2 3 6,7 0,47** 3 60,0 2 66,7 1,00** Sử dụng BCS
Từng quan hệ với phụ nữ bán dâm
Thường xuyên sử dụng BCS khi quan
hệ với gái mái dâm trong 1 tháng qua
Từng quan hệ với phụ nữ mại dâm có
tiêm chích
Thường xuyên sử dụng BCS khi quan
hệ với gái mái dâm có tiêm chích * Chi-square test; ** Fisher-exact test Nhận xét: 69 Kết quả nghiên cứu cho thấy hành vi sử dụng bao cao su không có sự thay đổi đáng kể, tỷ lệ thường xuyên sử dụng bao cao su tăng từ 36,8% lên 40,0%. Kết quả này không có ý nghĩa thống kê. 3.2.2. Hiệu quả về thay đổi chất lƣợng cuộc sống Biểu đồ 3.3. Thay đổi chất lƣợng cuộc sống trƣớc-sau điều trị Nhận xét: Nhìn chung, các đối tượng tham gia nghiên cứu có chất lượng cuộc sống tốt hơn sau 12 tháng điều trị. Điểm sức khoẻ thể chất của đối tượng tăng từ 60,0 khi bắt đầu điều trị lên 63,1 sau 12 tháng điều trị. Các mối quan hệ xã hội cũng tăng từ 50,3 lên 53,7. Ngoài ra điểm chất lượng cuộc sống về tâm lý và môi trường cũng tăng. Các kết quả này có ý nghĩa thống kê (p<0,05). 3.2.3. Hiệu quả về thay đổi khả năng lao động Bảng 3.14. Thay đổi khả năng lao động trƣớc-sau điều trị 70 p-value* Bắt đầu ĐT
(n=244) Sau 12 tháng
ĐT (n=244) Đặc điểm Chủ động học tập và lao động 0,13 Không
Đôi khi
Thường xuyên 100
67
73 Tham gia công việc gia đình, nội trợ 0,75 31
61
150 Không
Đôi khi
Thường xuyên
Tự phục vụ cá nhân 0,34 Không
Đôi khi
Thường xuyên n %
41,7
27,9
30,4
12,8
25,2
62,0
3,3
9,1
87,7 8
22
213 n %
48,6
20,3
31,1
11,2
23,7
65,2
2,1
6,2
91,7 117
49
75
27
57
157
5
15
221 * Chi-square test Nhận xét: Tỷ lệ tự phục vụ cá nhân tăng sau 12 tháng tham gia điều trị (từ 87,7% lên 91,7%). Ngoài ra, mức độ tham gia công việc gia, nội trợ đình tăng từ 87,2% lên 89% và học tập/lao động ngoài xã hội cũng tăng từ 96,8% lên 97,9%. Tuy nhiên, sự thay đổi này không có ý nghĩa thống kê. 3.2.4. Một số hiệu quả khác Nghiên cứu định tính bổ sung thêm hiệu quả của chương trình điều trị Methadone về kinh tế, xã hội và an ninh trật tự tại địa bàn triển khai điều trị. Nhóm nghiên cứu phỏng vấn 06 bệnh nhân tham gia nghiên cứu, triển khai 03 thảo luận nhóm bệnh nhân tham gia điều trị và phỏng vấn 06 người nhà của bệnh nhân để tìm hiểu những lợi ích mà bệnh nhân có được khi tham gia điều trị Methadone. Các ý kiến đều cho thấy tham gia chương trình đã mang lại lợi ích về sức khỏe và kinh tế cho bệnh nhân và gia đình của họ. 71 “Khi tham gia điều trị methadone thì sức khỏe, kinh tế gia đình n đỡ đi, ngày xưa ch i ma túy n khác. Trước đây khi dùng heroin em chỉ c 45 kg thôi, bây giờ lên được 54kg rồi ”(Bệnh nhân nam, 24 tuổi, tại Điện Biên). “Lợi ích thì nhiều, đầu tiên chưa muốn vào nhưng khi vào thấy lợi ích về kinh tế nên tiếp tục uống thuốc. Trước đây mỗi ngày em tiêu 400 – 500 nghìn đồng mua heroin, bây giờ không mất tiền này nữa”. (Bệnh nhân nam, 31 tuổi, tại Yên Bái). Không chỉ bệnh nhân và người nhà bệnh nhân thấy rõ rệt nhất nhưng lợi ích mà chương trình Methadone mang lại; các cán bộ y tế là người quản lý và các bác sỹ, tư vấn viên là người trực tiếp chăm sóc, điều trị cho bệnh nhân cũng thấy được sự thay đổi rõ rệt về ngoại hình, tính cách và những lợi ích về kinh tế, an ninh, xã hội của chương trình: “Lợi ích thì là giảm và dừng bệnh nhân dùng ma túy. Bệnh nhân tham gia thì c thay đ i, thứ nhất là ngoại hình, thể chất, lưu ý đến cách ăn mặc, giao tiếp khi vào điều trị tại c sở và trong quan hệ với gia đình và xã hôi thì cũng thay đ i. C những bệnh nhân khi vào đây thì cũng đã tìm được công việc n định. Bệnh nhân giảm hẳn hành vi vi phạm pháp luật. Trước đây bệnh nhân vi phạm rất cao, thì khi vào đây thì số vi phạm rất thấp” (bác sỹ nữ, 51 tuổi, tại Lai Châu). 72 3.2.5. Tình hình bỏ điều trị của bệnh nhân tham gia nghiên cứu [VALUE]% Điều trị Bỏ trị [VALUE]% Biểu đồ 3.4. Tỷ lệ đối tƣợng bỏ điều trị (n = 300) Nhận xét: Tổng cộng, có 56 đối tượng ngừng điều trị Methadone chiếm 18,7%. Biểu đồ 3.5. Một số nguyên nhân bỏ điều trị của đối tƣợng nghiên cứu 73 Trong số 56 đối tượng ngừng điều trị Methadone có 66,1% ngừng điều trị không rõ lí do, 19,6% chuyển đi cơ sở khác, 8,9% bị bắt giam, 3,6% tử vong và 1,8% tự nguyện dừng điều trị. 3.3. Một số yếu tố ảnh hƣởng đến hiệu quả điều trị Bảng 3. 15. Tỷ lệ sử dụng ma tuý trong quá trình điều trị và tỷ lệ bỏ điều trị n % Đặc điểm
Sử dụng ma tuý trong quá trình điều trị MMT
(n=300) Không
Có Bỏ điều trị MMT (n=300) Tiếp tục điều trị
Bỏ điều trị 202
98
244
56 67,3
32,7
81,3
18,7 Tỷ lệ bệnh nhân sử dụng ma tuý trong quá trình điều trị MMT chiếm 32,7% và tỷ lệ bỏ điều trị tính đến thời điểm sau một năm can thiệp chiếm 18,7%. 3.3.1. Một số yếu tố ảnh hƣởng đến sử dụng ma túy trong quá trình điều trị Methadone Bảng 3.16. Một số yếu tố ảnh hƣởng đến sử dụng ma túy trong quá trình điều trị (đơn biến) Đặc điểm 95% CI OR 1
1,69
1,79
1,55 Nhóm tuổi
<30
30-39
40-49
≥50
Dân tộc
Kinh
Tày
Thái
Khác 1
3,45
1,36
2,11 0,78
0,83
0,58
1,11
0,77
0,93 3,64
3,85
4,13
10,67
2,41
4,74 Trình độ học vấn 74 Đặc điểm 95% CI Tình trạng hôn nhân Độc thân
Kết hôn, sống chung với bạn tình
Ly dị, ly thân, góa 1
1,77
3,99 Nghề nghiệp
Thất nghiệp
Lao động tự do
Công nhân, cán bộ viên chức
Khác: nội trợ và hƣu trí 1
0,84
1,33
0,09 0,33
0,30
0,94
1,71
0,35
0,27
0,01 0,99
1,80
3,32
9,29
2,02
6,47
1,05 Có công việc ổn định tại thời điểm nghiên
cứu Không
Có 1
0,77 0,47 1,25 Có thu nhập cá nhân tại thời điểm nghiên
cứu Không
Có 1
0,68 Ngƣời thân sống cùng sử dụng ma túy Không
Có 1
0,40 Mâu thuẫn trong gia đình Không
Có 1
0,34 Đã từng cai nghiện ma túy Không
Có 1
1,08 Thời gian đã từng sử dụng ma túy <2 năm
2-5 năm
5-10 năm
10-20 năm
>20 năm 1
2,25
2,48
4,08
2,35 Đã từng tiêm chích ma túy Không
Có 1
1,15 0,39
0,08
0,04
0,63
0,45
0,50
0,80
0,37
0,68 1,18
1,88
2,88
1,84
11,19
12,17
20,79
14,81
1,95 Sử dụng ma túy 30 ngày trƣớc thời điểm 75 Đặc điểm 95% CI OR nghiên cứu
Không
Có 1
1,62 0,97 2,69 Tiêm chích ma túy 30 ngày trƣớc thời
điểm nghiên cứu Không
Có 1
1,28 Hút thuốc lá
Không
Có 1
0,71 Uống rƣợu bia Không
Có Quan hệ tình dục với phụ nữ bán dâm Không
Có 1
0,97
1
0,56 0,72
0,35
0,60
0,27 2,26
1,44
1,58
1,16 Kết quả hồi quy đơn biến cho thấy các yếu tố: dân tộc, trình độ học vấn, tình trạng hôn nhân, nghề nghiệp, và sử dụng ma túy 30 ngày trước thời điểm nghiên cứu là những yếu tố có ảnh hưởng đến việc tiếp tục sử dụng ma túy của bệnh nhân trong quá trình điều trị. Bệnh nhân thuộc dân tộc Tày có nguy cơ tiếp tục sử dụng ma túy cao hơn nhóm bệnh nhân là người dân tộc Kinh (OR = 3,45 với p<0,05). Bệnh nhân có trình độ trung học phổ thông ít nguy cơ tiếp tục sử dụng ma túy hơn so với nhóm bệnh nhân có trình độ học vấn thấp hơn (OR = 0,57; p<0,05). Bệnh nhân hưu trí hoặc nội trợ ít nguy cơ tiếp tục sử dụng ma túy hơn nhóm bệnh nhân thất nghiệp (OR=0,09 và p-value<0,01). Bệnh nhân sử dụng ma túy 30 ngày trước thời điểm nghiên cứu có nguy cơ tiếp tục sử dụng ma túy trong quá trình điều trị hơn nhóm bệnh nhân không sử dụng (OR=1,62 và p-value<0,05). 76 Bảng 3. 17. Một số yếu tố ảnh hƣởng đến sử dụng ma túy trong quá trình điều trị (đa biến) Đặc điểm Sử dụng ma tuý trong
quá trình điều trị
95% CI
OR Dân tộc (Kinh - ref) 0,94; 12,07
1,00; 3,87
1,10; 7,75 Tày
Thái
Khác 3,37*
1,97**
2,92** 0,90; 4,16
2,54; 17,55 Tình trạng hôn nhân (Độc thân - ref)
Kết hôn/sống chung với bạn tình
Ly dị/Ly thân/Góa 1,93*
6,68*** Thu nhập cá nhân (Không -ref) 0,32; 1,25 Có 0,63 Ngƣời thân sử dụng ma tuý (Không - ref) 0,04; 1,34 Có 0,24 Sử dụng ma túy 30 ngày trƣớc thời điểm nghiên
cứu (Không - ref) Có 2,49*** 1,37; 4,55 Thời gian đã từng sử dụng ma túy (<2 năm - ref) 10-20 năm 0,94; 3,36
0,06; 0,35 1,78*
0,15***
255 Nhận xét: Hằng số
Quan sát
*** p<0,01, ** p<0,05, * p<0,1 Toàn bộ 17 biến số đã được tính toán đơn biến đều được đưa vào mô hình hồi quy đa biến để nhằm hiệu chỉnh và tìm hiểu sự ảnh hưởng đến hành vi tiếp tục sử dụng ma tuý trong quá trình điều trị. Kết quả của mô hình hồi quy tuyến tính đa biến có hiệu chỉnh cho thấy chỉ còn lại 6 biến số: dân tộc, tình trạng hôn nhân, thu nhập cá nhân, người thân sử dụng ma tuý, sử dụng ma túy 30 ngày trước thời điểm nghiên cứu và thời gian đã từng sử dụng ma tuý được giữ lại mô hình với p≤0,2. Còn lại các biến bị loại bỏ khỏi mô hình do p>0,2. 77 Bệnh nhân thuộc nhóm dân tộc Thái và dân tộc thiểu số khác có nguy cơ sử dụng ma túy trong quá trình điều trị cao hơn nhóm bệnh nhân thuộc dân tộc Kinh (OR lần lượt là 1,97 và 2,92; p<0,05). Bệnh nhân đã ly dị, ly thân, góa có nguy cơ sử dụng ma tuý trong quá trình điều trị Methadone cao hơn 6,68 lần so với nhóm bệnh nhân độc thân (OR = 6,68; p<0,01). Bệnh nhân sử dụng ma túy 30 ngày trước thời điểm nghiên cứu có nguy cơ tiếp tục sử dụng ma túy trong quá trình điều trị cao hơn 2,49 lần so với nhóm bệnh nhân không sử dụng (OR=2,49 và p-value<0,01). Có nhiều nguyên nhân khác nhau làm bệnh nhân tiếp tục sử dụng heroin trong quá trình điều trị: -Do tính chất kỹ thuật của điều trị Methadone. Nhiều bệnh nhân bị nhiễm HIV, vừa điều trị nghiện CDTP, vừa điều trị bằng thuốc kháng vi rút HIV (ARV). Hai thuốc này tương tác với nhau, làm giảm nồng độ thuốc Methadone trong máu, khi chưa đủ liều thuốc Methadone, bệnh nhân sẽ dùng thêm heroin. “Số bệnh nhân từ 6 tháng đến 1 năm thì 80% kết quả xét nghiệm eroin âm tính. 20% c kết quả dư ng tính là do bệnh nhân này c tư ng tác với thuốc ARV, phụ thuộc vào phác đồ điều trị ARV. Nhưng mình điều chỉnh liều dần dần thì cũng đỡ đi, c bệnh nhân lên đến 400mg‖ (bác sĩ nam, 52 tuổi, tại Điện Biên). Kể cả khi bệnh nhân không bị nhiễm HIV, khi chưa đủ liều thuốc Methadone bệnh nhân cũng sẽ dùng thêm heroin: ―Dùng cả heroin chỉ trong 6 tháng đầu điều trị thôi. Lúc đ thuốc ít h n ma túy đã ch i nên dùng thêm heroin, khi thuốc methadone nhiều h n thì không dùng nữa và dùng thêm heroin cũng không thấy thích gì.‖ (bệnh nhân nam, 26 tuổi, tại Lai Châu). 78 -Do bệnh nhân thử dùng thêm heroin để xem có cảm giác ―phê, sướng‖ như khi chưa điều trị hay không? Đây cũng là lý do được các bệnh nhân nêu ra khi mới bắt đầu tham gia điều trị. ―Thời gian đầu em vẫn vừa uống methadone vừa dùng thêm heroin xem thế nào? nhưng dùng lúc khác. Uống thuốc bu i sáng thì dùng thêm heroin bu i chiều, tối. Rồi em bị bắt đi cai nghiện. Khi ra trại em xin uống lại methadone, bây giờ em không dùng thêm heroin nữa‖ (bệnh nhân nam, 29 tuổi, tại Điện Biên). 3.3.2. Một số yếu tố ảnh hƣởng đến bỏ điều trị Methadone của bệnh nhân Bảng 3.18. Một số yếu tố ảnh hƣởng đến bỏ điều trị (đơn biến) Đặc điểm Nhóm tuổi
<30
30-39
40-49
≥50
Dân tộc
Kinh
Tày
Thái
Khác Trình độ học vấn Tình trạng hôn nhân Độc thân
Kết hôn, sống chung với bạn tình
Ly dị, ly thân, góa Nghề nghiệp
Thất nghiệp
Lao động tự do
Công nhân, cán bộ viên chức
Khác Có công việc ổn định tại thời điểm nghiên cứu Không OR
1
0,98
0,41
0,84
1
2,24
0,70
0,64
1
1,31
0,18
1
1,04
0,29
1
0,88
0,48
0,76
1 95% CI
2,15
0,44
1,01
0,17
2,43
0,29
7,16
0,70
1,44
0,34
1,98
0,21
2,39
0,72
1,39
0,02
2,01
0,54
1,08
0,08
2,49
0,31
4,99
0,05
3,78
0,15 79 Đặc điểm 95% CI Có Có thu nhập cá nhân tại thời điểm nghiên cứu Không
Có Mâu thuẫn trong gia đình Không
Có Thời gian đã từng sử dụng ma túy <2 năm
2-5 năm
5-10 năm
10-20 năm
>20 năm Đã từng tiêm chích ma túy Không
Có OR
0,45
1
0,83
1
1,80
1
0,44
0,60
0,26
0,56
1
1,89 0,25
0,44
0,34
0,12
0,17
0,06
0,11
0,94 0,82
1,60
9,59
1,69
2,19
1,11
2,92
3,79 Sử dụng ma túy 30 ngày trƣớc thời điểm
nghiên cứu
Không
Có 1
0,48 0,24 2,96 Tiêm chích ma túy 30 ngày trƣớc thời điểm
nghiên cứu
Không
Có Sử dụng ma túy trong thời gian điều trị MMT Không
Có Khoảng cách từ nhà đến cơ sở điều trị < 5km
5-10 km
> 10km 1
0,70
1
1,43
1
3,15
3,59 0,33
0,78
1,51
1,59 1,48
2,61
6,56
8,08 Nhận xét: Kết quả hồi quy đơn biến cho thấy các yếu tố: tuổi, tình trạng hôn nhân, công việc ổn định, thời gian đã từng sử dụng ma túy trước khi tham gia điều trị Methadone, sử dụng ma túy 30 ngày trước thời điểm nghiên cứu, và khoảng cách từ nhà đến cơ sở điều trị là những yếu tố có ảnh hưởng đến việc bỏ điều trị của bệnh nhân. 80 Bệnh nhân trong độ tuổi từ 40-49 ít nguy cơ bỏ trị hơn nhóm bệnh nhân dưới 30 tuổi (OR=0,41; p<0,05). Bệnh nhân góa vợ/chồng, ly thân hoặc ly hôn ít nguy cơ bỏ điều trị hơn nhóm độc thân (OR=0,29; p<0,05). Bệnh nhân có công việc ổn định ít nguy cơ bỏ điều trị hơn nhóm không có việc làm ổn định (OR = 0,45; p<0,01). Bệnh nhân có thời gian sử dụng ma túy trước khi vào điều trị càng dài thì càng ít nguy cơ bỏ điều trị, bệnh nhân sử dụng ma túy từ 10-20 năm có nguy cơ bỏ điều trị thấp hơn nhóm bệnh nhân sử dụng dưới 2 năm (OR = 0,26; p<0,05). Bệnh nhân sử dụng ma túy 30 ngày trước thời điểm nghiên cứu ít có nguy cơ bỏ điều trị hơn bệnh nhân không sử dụng (OR = 0,48; p<0,05). Bệnh nhân có khoảng cách từ nhà đến cơ sở điều trị xa trên 5km có nguy cơ bỏ điều trị cao hơn bệnh nhân có khoảng cách dưới 5km (cao hơn 3,15 lần với bệnh nhân có khoảng cách từ 5-10km và, 3,59 lần với bệnh nhân có khoảng cách trên 10km) (p<0,01). Bảng 3. 19. Một số yếu tố liên quan đến bỏ điều trị (đa biến) Đặc điểm Bỏ điều trị trong quá
trình điều trị MMT
95% CI OR Nhóm tuổi (<30 - ref) 0,11; 0,64 40-49 0,26*** Dân tộc (Kinh - ref) 0,64; 13,12
0,10; 0,71
0,08; 1,37 Tày
Thái
Khác 2,90
0,27***
0,33 Trình độ học vấn ( 0,03; 1,81 >THPT 0,22 Tình trạng hôn nhân (Độc thân - ref) 0,02; 0,58 Ly dị, ly thân, góa 0,12*** 81 Công việc ổn định (Không - ref) 0,13; 0,57 Có 0,27*** Sử dụng ma túy 30 ngày trƣớc thời điểm nghiên
cứu (Không - ref) Có 0,35** 0,15; 0,84 Thời gian đã từng sử dụng ma tuý (<2 năm -
ref) 2-5 năm
10-20 năm 0,49
0,34** 0,20; 1,16
0,11; 0,99 Khoảng cách từ nhà đến cơ sở điều trị (<5km -
ref) 5-10 km
>10 km 2,44**
2,75** 1,02; 5,80
1,07; 7,11 1,92
1,06
263 0,85; 4,33
0,43; 2,58 Sử dụng ma túy trong quá trình điều trị (Không
- ref)
Có
Hằng số
Quan sát
*** p<0,01, ** p<0,05, * p<0,1 Toàn bộ 14 biến số đã được tính toán đơn biến đều được đưa vào mô hình hồi quy đa biến để nhằm hiệu chỉnh và tìm hiểu yếu tố liên quan đến tình trạng bỏ điều trị ở bệnh nhân. Kết quả của mô hình hồi quy tuyến tính đa biến đã hiệu chỉnh cho thấy chỉ còn lại 9 biến số: nhóm tuổi, dân tộc, trình độ học vấn, tình trạng hôn nhân, công việc ổn định, sử dụng ma túy 30 ngày trước thời điểm nghiên cứu, thời gian đã từng sử dụng ma tuý, khoảng cách từ nhà đến cơ sở điều trị và sử dụng ma tuý trong quá trình điều trị được giữ lại mô hình với p≤0,2. Còn lại các biến bị loại bỏ khỏi mô hình do p>0,2. Bệnh nhân trong độ tuổi từ 40-49 có ít nguy cơ bỏ điều trị hơn nhóm bệnh nhân dưới 30 tuổi (OR=0,26; p<0,01). Bệnh nhân là người dân tộc Thái ít nguy cơ bỏ điều trị hơn nhóm bệnh nhân nhóm dân tộc Kinh (OR= 0,27; p <0,01). Bệnh nhân đã ly dị, ly thân, góa ít có nguy cơ bỏ điều trị hơn so với nhóm bệnh 82 nhân độc thân (OR = 0,12; p<0,01). Bệnh nhân có công việc ổn định ít nguy cơ bỏ điều trị hơn nhóm không có việc làm ổn định (OR = 0,27; p<0,01). Bệnh nhân có thời gian sử dụng ma túy trước khi vào điều trị càng dài thì càng ít nguy cơ bỏ điều trị, bệnh nhân sử dụng ma túy từ 10-20 năm có nguy cơ bỏ điều trị thấp hơn nhóm bệnh nhân sử dụng dưới 2 năm (OR = 0,34; p<0,05). Bệnh nhân sử dụng ma túy 30 ngày trước thời điểm nghiên cứu ít có nguy cơ bỏ điều trị hơn bệnh nhân không sử dụng (OR = 0,35; p<0,05). Bệnh nhân có khoảng cách từ nhà đến cơ sở điều trị xa trên 5km có nguy cơ bỏ điều trị cao hơn bệnh nhân có khoảng cách dưới 5km (cao hơn 2,44 lần với bệnh nhân có khoảng cách từ 5-10km và, 2,75 lần với bệnh nhân có khoảng cách trên 10km) (p<0,05). Có nhiều nguyên nhân khác nhau làm bệnh nhân bỏ điều trị. -Nguyên nhân từ phía bệnh nhân: +Kết quả thảo luận nhóm và phỏng vấn sâu bệnh nhân cho thấy do bệnh nhân thử bỏ điều trị để xem có bỏ được cả heroin và methadone hay không? “Em uống được 3 tháng rồi bỏ để xem c thể bỏ được methadone hay không” (Bệnh nhân tham gia thảo luận nhóm tại Yên Bái). “Tôi nghĩ cứ uống cái này để bỏ được ma túy xong sẽ nghỉ. Tôi biết cái này n cũng rất c hại, nhiều cái lắm” (bệnh nhân nam, 29 tuổi, Điện Biên). “Bỏ trị thì cái thứ nhất là vì bệnh nhân. C những bệnh nhân tuy đã tuyên truyền điều trị methadone phải điều trị lâu dài, tuy nhiên bệnh nhân và người nhà bệnh nhân muốn trải nghiệm, điều trị được 9 tháng đến 1 năm thì xin nghỉ xem c bỏ được hẳn methadone không. Thì trong quá trình tôi tham gia ở đây thì c tư ng đối các trường hợp như thế. C nhiều bệnh nhân và người nhà cư ng quyết muốn ra khỏi chư ng trình xem ra được không?” (bác sĩ nam, 52 tuổi, Điện Biên). + Do vi phạm pháp luật, bị bắt vì tiếp tục phạm tội 83 “Bỏ ở đây n nhiều lý do anh ạ. Bệnh nhân bị bắt cũng nhiều vì ở đây tội phạm, họ cũng hay buôn bán sử dụng trái phép. Một số thì tử vong giai đoạn cuối do AIDS, 1 số thì tự bỏ và 1 số thì đi làm ăn xa tự bỏ”( bác sĩ điều trị, nam, 36 tuổi, Yên Bái). -Nguyên nhân từ phía chương trình: chương trình không được triển khai trên diện rộng, điều trị Methadone phải đến cơ sở điều trị để uống thuốc hàng ngày gây khó khăn cho bệnh nhân đặc biệt là địa bàn miền núi, người dân sống ở xa các cơ sở y tế. “Em uống thuốc được 6 tháng, rồi đi ch i xa không c chỗ uống thuốc nên bỏ luôn”(bệnh nhân nam, 21 tuổi, Yên Bái). “Cái thứ 2 là ngày nào cũng phải đến c sở uống thuốc. Cũng c người thấy bức xúc, họ bảo là tôi mất cả bu i sáng hoặc bu i chiều, thì ai thuê tôi làm nữa lâu rồi thì bỏ trị luôn”(tư vấn viên, nữ, 32 tuổi, Điện Biên). “Nhà tôi đến đây đi bộ mất 2 tiếng, hôm nào c con cháu đèo đi thì uống, hôm nào con cháu bận thì nghỉ uống”(bệnh nhân nam, 52 tuổi, Lai Châu). “Thứ nhất là em nghĩ các huyện chưa mở rộng khắp nên bệnh nhân phải đi xa tới đây uống thuốc, ngày nào cũng phải đến uống, nên với những bệnh nhân điều trị lâu, họ mong muốn c thuốc gì phát về mấy ngày mới phải uống 1 lần thì tốt, trong quá trình tư vấn c trao đ i ngoài lề thì bệnh nhân cũng n i thế, nhất là trong những ngày mưa thì họ lại ngại” (tư vấn viên, 28 tuổi, Lai Châu). -Do yếu tố xã hội: người nghiện ma túy thường bị cộng đồng, xã hội kỳ thị. Do vậy, họ không muốn cộng đồng biết mình là người nghiện và đang điều trị methadone. Bản thân người nghiện cũng mặc cảm về tình trạng nghiện của mình. “Sự kỳ thị của gia đình, cộng đồng hoặc là bản thân họ tự kỳ thị, bệnh nhân này thường là hay mặc cảm nên họ tự phân biệt kỳ thị”( tư vấn viên, nữ, 32 tuổi, Điện Biên). 84 Kết quả nghiên cứu cho thấy hiệu quả của điều trị thay thế chất gây nghiện bằng Methadone. Khi bắt đầu tham gia điều trị, đa số các đối tượng tham gia nghiên cứu sử dụng heroin. Hầu hết các đối tượng đã thử các hình thức can nghiện khác nhau nhưng đều thất bại. Ngoài ra, các đối tượng cho rằng mình có chất lượng cuộc sống ở mức trung bình, chỉ có số ít không hài lòng với sức khoẻ bản thân. Điều trị nghiện các CDTP bằng thuốc Methadone có tác động tích cực trong việc giảm sử dụng chất gây nghiện, hành vi nguy cơ như tiêm chích và giúp tăng chất lượng cuộc sống của các đối tượng nghiên cứu. Tỷ lệ dương tính heroin trong nước tiểu theo dõi 12 tháng giảm nhanh sau khi điều trị Methadone (chỉ còn 0,6% tháng thứ 12). Có khoảng một phần năm số đối tượng bỏ điều trị. 4.1. Thực trạng sử dụng ma túy và tình trạng sức khỏe, xã hội của đối tƣợng nghiên cứu trƣớc khi điều trị Methadone 4.1.1. Đặc điểm nhân khâu, xã hội, việc làm của đối tƣợng nghiên cứu 4.1.1.1. Thông tin chung Trong tổng số 300 đối tượng nghiên cứu, hầu hết nằm trong độ tuổi từ 30 đến 49 tuổi (71,7%). Có 99,3% bệnh nhân là nam. Dân tộc Kinh chiếm hơn một nửa tổng số đối tượng tham gia nghiên cứu (58,7%). Dân tộc Thái chủ yếu tập trung ở các tỉnh Điện Biên (34,7%) và Lai Châu (41,0%). Phần lớn các đối tượng có trình độ học vấn dưới trung học phổ thông (56,2%); đang 85 sống chung với vợ chồng, bạn tình (59,0%) và đang làm nghề lao động tự do (83,0%). Hiện nay, độ tuổi sử dụng ma tuý tại Việt Nam đang có xu hướng trẻ hoá, độ tuổi dưới 30 chiếm tỷ lệ lớn [34, 35]. Tuy nhiên kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy phần lớn các đối tượng tham gia nghiên cứu này trên 30 tuổi (83%). Kết quả này cũng tương đồng với nghiên cứu trong nhóm nghiện chích ma túy tại Hòa Bình, Tuyên Quang, Bắc Kạn năm 2014 [42] và Thái Nguyên năm 2015 [1], nhưng cao hơn tuổi của đối tượng tham gia nghiên cứu tại Hải Phòng và Thành phố Hồ Chí Minh (44,3%) [13]. Kết quả này có thể do người nghiện tại các tỉnh miền núi phía Bắc có thời gian sử dụng thuốc phiện lâu hơn ở các tỉnh đồng bằng và thành phố lớn. Ngoài ra, có thể do các đối tượng nghiện ma tuý trẻ tuổi đang đi làm tại các vùng, miền khác nên địa phương không quản lý được và không tham gia điều trị chất thay thế bằng Methadone. Hầu hết các đối tượng tham gia nghiên cứu là nam giới. Điều này phù hợp với báo cáo của Bộ Lao động Thương binh và Xã hội về công tác cai nghiện ma tuý khi mà trên cả nước, có 95% đối tượng nghiện ma tuý là nam giới [25]. Ngoài ra, hầu hết các đối tượng nghiện ma tuý là dân tộc Kinh (58,7%), tỷ lệ này thấp hơn trong nghiên cứu tại 3 tỉnh miền núi phía Bắc năm 2014 (66,7%) [42] tiếp theo là dân tộc Thái (27%), và đang sống cùng vợ/chồng, bạn tình. Dân tộc Kinh chiếm hơn một nửa tổng số đối tượng tham gia nghiên cứu (58,7%). Dân tộc Thái chủ yếu tập trung ở các tỉnh Điện Biên (34,7%) và Lai Châu (41,0%). Điều này cũng phù hợp với đặc điểm về dân tộc của các tỉnh vùng Tây bắc [38]. Có hơn một nửa (59%) đối tượng kết hôn và đang sống chung với vợ chồng, và có khoảng một phần tư (26,3%) đang sống độc thân. Kết quả này 86 cũng tương tự như các nghiên cứu được tiến hành ở các tỉnh miền núi phía Bắc [1, 79]. Về trình độ học vấn, kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy khoảng một nửa số đối tượng tham gia có trình độ học vấn dưới trung học phổ thông. Kết quả này tương đồng với một số nghiên cứu đã được thực hiện tại các tỉnh miền núi Việt Nam [99] cũng như báo cáo của Bộ Lao động Thương binh và Xã hội Việt Nam cũng cho thấy trình độ văn hoá thấp của các đối tượng nghiện ma tuý khi mà có 69% đối tượng có trình độ văn hoá dưới trung học phổ thông [2]. Việc này có thể được giải thích do tại các tỉnh miền núi phía bắc, hệ thống giáo dục còn chưa phát triển. Giao thông, đi lại tại các tỉnh này cũng khó khăn, khiến việc phát triển giáo dục càng khó khăn. Vì vậy trình độ học vấn tại các địa bản này còn thấp. Ngoài ra, có thể thấy rằng trình độ văn hoá thấp cùng với nhiều thách thức xã hội và kinh tế như nghèo đói, lạm dụng chất ma túy, bất bình đẳng trong chăm sóc y tế cũng là nguy cơ gián tiếp làm lây truyền HIV trong đồng bào dân tộc thiểu số [25]. 4.1.1.2. Nghề nghiệp và thu nhập Trong tổng số 300 người, có 166 người có công việc ổn định chiếm 55,3%. Phần lớn, các đối tượng đều có thu nhập cá nhân (74,3%). Thu nhập trung bình của đối tượng chủ yếu là 3,3 triệu đồng. Hầu hết các đối tượng tham gia nghiên cứu làm nghề tự do (83%). Kết quả này tương đồng với nghiên cứu của Nguyễn Văn Hưng và cộng sự [99]. Điều này có thể giải thích bởi những người nghiện ma tuý bị suy giảm sức khoẻ dẫn đến khả năng lao động của họ giảm [93]. Ngoài ra, những đối tượng này còn gặp phải sự phân biệt đối xử từ cộng đồng, chủ lao động [126] nên khả năng có được việc làm của họ càng khó khăn. Những rào cản này tại những nước phát triển như Việt Nam lại càng lớn khi nhận thức về nghiện ma tuý, HIV/AIDS còn chưa cao và các biện pháp phòng chống còn gặp nhiều 87 khó khăn tại các tỉnh miền núi [64, 126]. Do hoàn cảnh như vậy nên các đối tượng không có việc làm ổn định, phần lớn làm các nghề tự do. Thu nhập trung bình của các đối tượng trong nghiên cứu là 3,3 triệu đồng/tháng. Mức thu nhập này thấp hơn so với thống kê về bình quân thu nhập đầu người của Ngân hàng Thế giới Worldbank (khoảng 4 triệu đồng/tháng) [121]. Địa bàn nghiên cứu là các tỉnh miền núi, có khó khăn trong việc phát triển kinh tế. Ngoài ra, việc giảm sút sức lao động cũng ảnh hưởng tới thu nhập của các đối tượng nghiện ma tuý [126]. Phần lớn gia đình của các đối tượng này có số người sống phụ thuộc về kinh tế từ 2 người trở lên, trong khi đó, họ còn mất tiền để mua các loại ma tuý. Những vấn đề này cho thấy gánh nặng kinh tế nặng nề ở các gia đình có người sử dụng chất gây nghiện tại các địa bàn nghiên cứu. Kết quả này cho thấy sự cấp thiết của việc áp dụng các phương pháp cai nghiện, điều trị nghiện nhằm giảm sức ép về kinh tế ở các gia đình có người nghiện ma tuý. Hiện nay, tại Việt Nam, chương trình điều trị Methadone của Chính phủ có thể coi như một phương pháp hữu hiệu trong việc điều trị nghiện ma tuý (CDTP), qua đó giảm các gánh nặng kinh tế tại các gia đình. 4.1.1.3. Mâu thuẫn gia đình và hành vi phạm pháp của đối tượng nghiên cứu Trong tổng số 300 đối tượng nghiên cứu có 7 đối tượng có mâu thuẫn, bất đồng trong cuộc sống (2,3%). Đa số các đối tượng đều có hành vi phạm pháp (71,6%). Những hành vi phạm pháp/gây mâu thuẫn gia đình hay gặp nhất là lấy tiền của gia đình (44,2%), nói dối (41,5%), cầm đồ (40,5%) hoặc bán đồ cá nhân (39,1%). Ngoài ra, các hành vi như bán, cầm đồ gia đình (25,1% và 21,7%) cũng chiếm tỷ lệ đáng kể. Có 21,4% đối tượng có tiền án, tiền sự. Kết quả này thấp hơn so với báo cáo của Bộ Lao động Thương binh và Xã hội. Theo báo cáo đó, có 38% đối tượng có tiền án tiền sự, 11% có tên 88 trong hồ sơ do nhà nước quản lý [2]. Tuy nhiên, kết quả này lại cao hơn so với nghiên cứu được thực hiện năm 2015 tại Hải Phòng khi tỷ lệ có hành vi phạm pháp là 40,8%, tỷ lệ có tiền sự là 13,0% [25]. Lý do việc này là do các tỉnh miền núi phía Bắc thường có đường biên giới dài; tình hình vận chuyển, buôn bán và sử dụng ma túy trên địa bàn diễn ra hết sức phức tạp và khó kiểm soát. Ngoài ra, tình hình tội phạm ở các tỉnh này cũng khó kiểm soát hơn so với các vùng đồng bằng vì các đặc điểm văn hoá – kinh tế - xã hội đặc trưng. Ngoài ra, tỷ lệ này cũng có thể do người nghiện ma tuý thiếu tiền mua thuốc để dùng thoả mãn cơn nghiện. Các đối tượng phạm pháp dưới nhiều hình thức đa dạng khác nhau như bài bạc, cá độ, trộm cướp, buôn lậu, buôn bán vận chuyển chất gây nghiện và nhiều loại hình phạm pháp khác. Tuy nhiên, các hành vi vi phạm pháp luật nhằm mục đích tạo thu nhập nhanh chóng để có thể mua và sử dụng chất gây nghiện, thoả mãn cơn nghiện. Khi thoả mãn cơn nghiện hoặc trong cơn phê, các đối tượng không thể kiểm soát hành vi cá nhân nên dễ dàng phạm pháp ở các mức độ khác nhau. Tóm lại, nghiện ma tuý và vi phạm pháp luật là hai phạm trù luôn song hành cùng nhau, hơn thế nữa còn là hai phạm trù nối tiếp nhau và tạo ra vòng nghiệt ngã khiến cho đối tượng nghiện ma tuý ngày càng trầm trọng hơn. Mặt khác, bên cạnh những hành vi phạm pháp, những mâu thuẫn gia đình và xã hội cũng tạo ra những tiêu cực nhất định đến người nghiện ma tuý này. Những mâu thuẫn xuất phát từ nội bộ gia đình có thể khiến các đối tượng nghiện ma tuý cảm thấy chán nản hoặc bị dồn nén. Trong khi đó, vai trò của gia đình là nơi vỗ về, an ủi và là nguồn động lực lớn để các đối tượng nghiện có thể hoàn lương. Tuy nhiên, mâu thuẫn trong gia đình lại là yếu tố phản vai trò đó. Ngoài ra, các mâu thuẫn ngoài xã hội cộng dồn lại có thể đẩy đối tượng đến giới hạn cùng cực và sẵn sàng gây ra các hành vi phạm pháp bất chấp các giá trị đạo đức hoặc tình cảm gia đình. Điều đó có thể là mầm mống 89 cho những bất ổn, rối loạn trật tự xã hội tại các địa phương này. Cần các biện pháp tích cực đẩy mạnh hành vi cai nghiện ở các đối tượng này. Điều trị nghiện các CDTP bằng thuốc methadone có thể là một trong những phương pháp hữu hiệu trong việc giảm tình trạng phạm pháp ở trong nhóm đối tượng người sử dụng ma tuý trong nghiên cứu [33, 73]. 4.1.1.4. Tiếp cận điều trị Gần một nửa đối tượng nghiên cứu có khoảng cách từ nhà đến cơ sở điều trị dưới 5 km (47,3%). 20,1% bệnh nhân ở cách xa cơ sở điều trị trên10km. Phương tiện các đối tượng chủ yếu sử dụng là xe máy (84,9%). Đây cũng là phương tiện được người dân Việt Nam sử dụng nhiều nhất. Ngoài ra, đặc điểm kinh tế của đối tượng và địa hình sinh sống nên nhiều đối tượng sử dụng xe máy để di chuyển. Bên cạnh đó, công tác cai nghiện và phục hồi cho người nghiện ma túy đã và đang được triển khai đồng bộ trên cả nước. Hệ thống văn bản pháp luật dành cho đối tượng nghiện ma túy cũng không ngừng sửa đổi, hoàn thiện giúp hỗ trợ tối đa cho công tác điều trị cai nghiện và phục hồi cho đối tượng này. Nhiều mô hình cai nghiện tiên tiến trên thế giới đã và đang được thử nghiệm, áp dụng tại Việt Nam. Nhiều giải pháp và mô hình được đưa ra thử nhiệm và áp dụng nhằm tăng cường hỗ trợ điều trị cho người nghiện ma túy. Tuy nhiên, khoảng cách địa lý và điều kiện cơ sở vật chất là một trong những yếu tố then chốt ảnh hưởng khả năng tiếp cận điều trị của đối tượng. Nhiều nghiên cứu và báo cáo đã khẳng định, khoảng cách càng xa thì khả năng tiếp cận điều trị càng kém. Điều này dễ dàng giải thích rằng khó khăn di chuyển về mặt khoảng cách khiến các đối tượng khó tuân thủ pháp đồ điều trị, chưa kể tính chất thời tiết hoặc đặc điểm địa hình càng gây cản trở và khó khăn cho đối tượng trong tiếp cận và tuân thủ điều trị. Trong nghiên cứu này, mức độ ảnh hưởng của khoảng cách và phương tiện di chuyển đến tiếp cận điều trị, tuân 90 thủ điều trị hoặc hiệu quả điều trị được trình bày rõ ràng hơn ở những phần sau. Mặt khác, ngoài khoảng cách gây khó khăn điều trị cho đối tượng, đặc điểm khu vực sinh sống cũng là một yếu tố song hành. Những đối tượng tham gia nghiên cứu đều ở các tỉnh miền núi, ở các huyện xa trung tâm nên đặc điểm địa hình gập gềnh và khó di chuyển. Số lượng các tuyến đường giao thông chính cũng rất hạn chế, chủ yếu là đường dân sinh hoặc đường đất hoặc tuyến đường rải nhựa rất hạn chế. Mặc dù gần một nửa số đối tượng trong nghiên cứu có khoảng cách từ nhà đến cơ sở y tế dưới 5 km, nhưng với đặc điểm địa bàn như trên, khó khăn tiếp cận điều trị là một điều dễ hiểu. 4.1.2. Thực trạng sử dụng ma tuý và tình trạng sức khỏe 4.1.2.1. Thực trạng sử dụng chất gây nghiện Hai loại ma tuý được sử dụng nhiều nhất là heroin và thuốc phiện (60,8% và 37,9%). Tỷ lệ sử dụng chung bơm kim tiêm chung là 10,7%. Hầu hết các đối tượng có thời gian sử dụng ma tuý trên 2 năm (95,2%). Tuổi bắt đầu sử dụng ma tuý của đối tượng trung bình là 20,3. Tỷ lệ sử dụng heroin cao, trong đó có 67,3% đối tượng tiêm chích heroin. Ngoài ra, số tiền trung bình phải trả cho ma tuý là 300 nghìn đồng/ngày. Tỷ lệ sốc ma túy là 9,7%. Kết quả nghiên cứu cho thấy loại ma tuý được sử dụng nhiều nhất là Heroin. Kết quả này tương đồng với báo cáo của Uỷ ban Quốc gia Phòng chống AIDS và Phòng chống Tệ nạn Ma tuý Mại dâm khi mà người nghiện ma tuý chủ yếu đang sử dụng heroin [36]. Việc sử dụng nhiều heroin dẫn tới việc tiêm chích tăng cao do nhu cầu về liều lượng ngày càng tăng của các đối tượng sử dụng heroin [86]. Theo kết quả nghiên cứu, có tới gần 70% đối tượng tiêm chích heroin. Tỷ lệ này tương đồng với kết quả về tỷ lệ sử dụng ma tuý bằng đường tiêm chích năm 2010 [36] nhưng thấp hơn trong nghiên 91 cứu tại Hải phòng và thành phố Hồ chí Minh năm 2011, 2014 [13, 29]. Trong đó, có 10,7% đối tượng đã sử dụng chung bơm kim tiêm. Kết quả này thấp hơn so với giám sát trọng điểm lồng ghép hành vi trong các nhóm nguy cơ cao tại Việt Nam năm 2014 (13,1%) [36]. Việc tiêm chích của các đối tượng này sẽ làm tăng khả năng lây nhiễm HIV [37]. Những kết quả này cho thấy tác hại của việc tiêm chích ma tuý, đặc biệt là dùng chung bơm kim tiêm. Những việc làm này sẽ gây ảnh hưởng tới sự phát triển của kinh tế, xã hội và gia tăng các vấn đề sức khoẻ ở cộng đồng. Vì vậy cần có biện pháp điều trị, cai nghiện ma tuý nói chung và heroin nói riêng tại các địa bàn nghiên cứu nhằm hạn chế tình trạng tiêm chích ma tuý, qua đó giảm nguy cơ lây nhiễm HIV, giúp tăng cường trật tự xã hội và cải thiện kinh tế. Trong số các đối tượng tham gia nghiên cứu, có khoảng 38% đối tượng sử dụng thuốc phiện. Kết quả này cao hơn nhiều so với báo cáo về công tác cai nghiện ma tuý tại Việt Nam năm 2011 (khoảng 1,2% đến 1,4%). Kết quả này có thể do việc trồng thuốc phiện tại các tỉnh miền núi còn phổ biến. Các đối tượng dễ dàng tiếp cận với các nguồn cung cấp thuốc phiện hoặc do tự trồng. Vì vậy, tỷ lệ sử dụng thuốc phiện tại ba tỉnh miền núi phía bắc trong nghiên cứu cao hơn so với trên cả nước. Ngoài ra, có một số ít đối tượng sử dụng các loại ma tuý như Amphetamine/Methamphetamine (ma tuý tổng hợp). Kết quả này tương tự như báo cáo về tình hình sử dụng chất ngây nghiện tại Việt Nam [2]. Dù tỷ lệ này còn thấp, nhưng cần lưu ý các nhân viên y tế và các cấp chính quyền vì loại ma tuý này có tác hại rất lớn tới sức khoẻ của người sử dụng [2]. Tỷ lệ lớn các đối tượng tham gia nghiên cứu có thời gian sử dụng ma tuý từ 5-10 năm (33,3%). Kết quả này tương đồng với nghiên cứu của Hoàng Đình Cảnh được thực hiện tại Việt Nam [25]. Ngoài ra, có những trường hợp bị shock thuốc. Shock thuốc ma túy có thể là nguyên nhân trực tiếp gây tử 92 vong, ảnh hưởng lớn đến sức khoẻ của bệnh nhân. Điều này yêu cầu các địa phương cần có các biện pháp can thiệp giảm nguy cơ shock thuốc do sử dụng quá liều, giúp tăng cường sức khoẻ, chất lượng cuộc sống và giảm tử vong ở các đối tượng nghiện ma tuý. Tuổi bắt đầu sử dụng ma tuý ở các đối tượng nghiên cứu là khoảng 20 tuổi. Đây là độ tuổi dễ lôi kéo, rủ rê, gặp phải nhiều vấn đề về tâm lý, vì vậy họ sử dụng heroin để giảm áp lực cũng như thư giãn [42]. Với xu hướng độ tuổi người nghiện có xu hướng ngày càng trẻ hoá độ tuổi sử dụng ma tuý như hiện nay, việc giáo dục từ sớm về công tác phòng chống ma tuý, tăng cường kiến thức, nhận thức của thanh thiếu niên ngay từ khi còn ngồi trong ghế nhà trường là rất quan trọng trong công tác kiểm soát ma tuý, tệ nạn xã hội. Số tiền trung bình trả cho ma tuý của các đối tượng tham gia nghiên cứu là khoảng 300 nghìn đồng/ngày. Số tiền này còn vượt quá số tiền thu nhập trung bình theo tháng của các đối tượng tham gia nghiên cứu. Kết quả này tương tự thông báo về công tác cai nghiện ma tuý khi mà tính trên cả nước, chi tiêu cho ma tuý gấp 3 lần thu nhập của các đối tượng nghiện [2]. Khoản tiền phải trả cho ma tuý này góp phần lớn gây nên gánh nặng về kinh tế cho các gia đình. Điều này làm giảm kinh tế gia đình và xã hội, ngoài ra còn có thể dẫn tới các hành vi phạm pháp như trộm cắp, cướp giật gây ảnh hưởng đến an ninh, an toàn và gây bất ổn trong xã hội. Chính vì vậy, cần có các biện pháp giúp giảm liều lượng ma tuý, hỗ trợ cai nghiện, ngoài ra cần xử lý nghiêm các hành vi buôn bán, sử dụng ma tuý. 4.1.2.2. Tình hình cai nghiện ma tuý Hầu hết các đối tượng đều tham gia cai nghiện ma tuý (70,3%). Đa số các đối tượng có thời gian cai nghiện gần đây nhất là từ 2 năm đến 5 năm (56,5%). Hình thức sử dụng cai nghiện chủ là cai nghiện tại trung tâm và tự mua thuốc để cai (37,6% và 31,2%). Ngoài ra, còn một số hình thức cai 93 nghiện khác được sử dụng là cai nghiện ở cơ sở tư nhân (2,0%), cắt cơn tại cộng đồng (6,8%) và cai khan (20,0%). Lý do tái nghiện chủ yếu của đối tượng là thèm muốn ma tuý và bạn bè rủ rê (63,5% và 56,5%), một phần do sự buồn chán, thất vọng (26,4%). Kết quả nghiên cứu cho thấy phần lớn các đối tượng đã từng cai nghiện ma tuý. Tỷ lệ này (70,3%) thấp hơn so với nghiên cứu của Hoàng Đình Cảnh thực hiện ở Hải Phòng và Thành phố Hồ Chí Minh [25]. Kết quả này có thể được giải thích bởi địa bàn nghiên cứu của nghiên cứu này là vùng miền núi. Tại đây, khả năng tiếp cận với các dịch vụ cai nghiện còn nhiều khó khăn [97]. Ngoài ra, việc tuyên truyền về ma tuý tại những địa bàn này cũng không được thuận lợi, người nghiện ít biết đến các hình thức cai nghiện. Do vậy, tỷ lệ đối tượng đã từng cai nghiện ma tuý sẽ thấp hơn so với nghiên cứu tại các vùng đồng bằng. Kết quả này cũng cho thấy việc cần cải thiện độ bao phủ, tăng khả năng tiếp cận các dịch vụ cho các đối tượng nghiện ma tuý tại 3 tỉnh thuộc địa bàn nghiên cứu cũng như các tỉnh miền núi. Qua đó có thể tăng tỷ lệ cai nghiện của các đối tượng nghiên cứu cũng như chất lượng cai nghiện ma tuý. Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy hơn một nửa đối tượng tự mua thuốc cai nghiện hoặc cai khan. Những hình thức này thường không có kết quả tốt. Ngoài ra, kết quả này cũng cho sự cần thiết về tuyên truyền kiến thức về các hình thức cai nghiện cũng như khả năng tiếp cận với các dịch vụ này tại cộng đồng. Ngoài ra, cần đẩy mạnh các hình thức cai nghiện tại cộng đồng với sự giám sát của các cán bộ y tế, đặc biệt là tại các tỉnh miền núi khi tình trạng giao thông, đi lại còn nhiều khó khăn. Lý do tái nghiện phần lớn là do thèm ma tuý. Các nghiên cứu về cơ chế sinh học thần kinh của nghiện ma túy cũng đã cho thấy thèm muốn ma túy là nguyên nhân chính gây tái nghiện ma túy [15, 129]. Khi đã nghiện ma túy, 94 chất ma túy liên tục kích hoạt não bộ ở nơi mà bình thường chỉ được kích hoạt bởi những kích thích tố như thức ăn, nước uống, nguy hiểm và tình dục. Qua quá trình lâu dài, động cơ dùng chất ma túy được các tác nhân kích thích (môi trường, con người, khách thể) liên kết với việc sử dụng chất ma túy kích hoạt, tạo ra sự khao khát hoặc thèm muốn sử dụng và gây ra tái nghiện, cho dù sau một thời gian dài không sử dụng ma túy. Điều này cho chúng ta hiểu biết vì sao các triệu chứng cai nghiện đơn thuần chưa đủ để giải thích đầy đủ về hiện tượng nghiện, thậm chí ở những người đã cắt cơn hoàn toàn, có thể tái nghiện trở lại khi gặp phải các yếu tố về môi trường thúc đẩy [105, 128]. Sử dụng phương pháp điều trị nghiện các CDTP bằng thuốc thay thế có thể giúp làm mất các triệu chứng của hội chứng cai; giảm hoặc làm mất các cơn thèm nhớ CDTP; ngăn chặn cảm giác "phê" nếu vẫn tiếp tục sử dụng CDTP, thời gian điều trị càng dài thì hiệu quả điều trị càng cao [38]. Ngoài ra, nhiều nghiên cứu đã chứng minh chương trình có hiệu quả trong việc làm giảm sử dụng heroin [43], dự phòng lây nhiễm HIV [64], tăng tuân thủ điều trị ARV [98] và giảm tỷ lệ tử vong trong số những bệnh nhân tham gia điều trị Methadone [65]. Bạn bè rủ rê cũng là lí do chính đẫn đến việc tái nghiện. Kết quả này phù hợp với nghiên cứu được thực hiện bởi Asghar Mohammadpoorasl và cộng sự khi việc tái nghiện được minh chứng là chịu ảnh hưởng lớn bởi bạn bè, người xung quanh [116]. Ngoài ra, một số đối tượng do cảm thấy buồn chán nên đã sử dụng lại ma tuý. Kết quả này gợi ý cho việc sử dụng cách cai nghiện, điều trị nghiện hợp lý, áp dụng được trên cộng đồng, qua đó giảm tỷ lệ nghiện ma tuý trong cộng đồng và xây dựng các nhóm đồng đẳng cùng tham gia cai nghiện, điều trị nghiện ma tuý, có sự giám sát của các cán bộ, nhân viên y tế. Tạo công ăn việc làm cho các đối tượng này là việc cần thiết 95 để giảm tỷ lệ tái nghiện cũng như tạo ra nguồn thu nhập cho các đối tượng nghiện ma tuý [32]. 4.1.2.3. Hành vi nguy cơ của đối tƣợng nghiên cứu a) Hành vi tiêm chích Dùng chung BKT và các dụng cụ tiêm chích là nguyên nhân chính làm lây truyền HIV trong nhóm người NCMT. Các nghiên cứu gần đây nhất cho thấy tỉ lệ này vẫn đang ở mức cao [5]. Trong nghiên cứu của chúng tôi, khoảng 60% đối tượng nghiên cứu tiêm chích ma tuý. Trong đó 10,7% sử dụng kim tiêm chung với các đối tượng khác. Theo giám sát trọng điểm lồng ghép hành vi trong các nhóm nguy cơ cao tại Việt Nam năm 2014, 13,1% trong số họ cho biết có sử dụng chung bơm kim tiêm trong vòng 1 tháng qua. Tỷ lệ này vẫn cao ở một số tỉnh như Sơn La (38%), Kiên Giang (34%), Đắc Lắc (32%), Gia Lai (22,7%) [5]. Các tỷ lệ này cao hơn so với nghiên cứu chúng tôi. Lý giải cho việc này có thể do tại các tỉnh trong nghiên cứu này vẫn nhiều người sử dụng thuốc phiện, mà hình thức sử dụng của loại ma tuý này là hút/hít. Vì vậy tỷ lệ người sử dụng bơm kim tiêm giảm. Nghiên cứu bệnh – chứng tại Bắc Ninh cho thấy 13,3% đối tượng nghiên cứu đã sử dụng lại BKT đã qua sử dụng của người khác ít nhất là 1 lần trong 6 tháng qua [87]. Ở Thanh Hóa, 15% người NCMT báo cáo có sử dụng chung BKT trong 1 tháng qua [119]. Các kết quả này đều cao hơn so với nghiên cứu của chúng tôi tại 3 tỉnh miền núi phía bắc. Các nghiên cứu đều khẳng định người NCMT sử dụng chung BKT thì khả năng lây nhiễm HIV cao hơn những người không sử dụng chung BKT [57, 93]. Người NCMT dùng chung BKT có nguy cơ nhiễm HIV cao gấp 6,7 lần so với người NCMT không dùng chung BKT [22]. Các lý do sử dụng chung BKT và tái sử dụng BKT bẩn được người NCMT đưa ra là do áp lực 96 ―peer‖, thiếu tiền mua ma túy, thiếu BKT sạch và sợ bị công an bắt [97, 116]. Việc sử dụng các biện pháp cai nghiện nhằm giảm mức độ, liều lượng sử dụng chất gây nghiện có thể giúp giảm tiêm chích ma tuý [73]. Qua đó, hạn chế việc lây truyền HIV trong nhóm đối tượng nghiện ma tuý và cộng đồng. b) Hành vi quan hệ tình dục Hầu hết các đối tượng từng quan hệ tình dục (97,3%). Trong đó, phần lớn đối tượng đã quan hệ tình dục gần nhất trong vòng 6 tháng trở lại (72,5%). Có 50,7% đối tượng sử dụng bao ca su trong lần quan hệ gần nhất. Ngoài ra, có 16,5% đã từng quan hệ tình dục với phụ nữ bán dâm nhưng chỉ có 31% sử dụng BCS khi quan hệ tình dục. 9,8% quan hệ tình dục với gái mại dâm có tiêm chích. Trong nghiên cứu này, chỉ có một nửa số đối tượng sử dụng bao cao su trong lần quan hệ tình dục gần nhất. Rất ít đối tượng sử dụng bao cao su khi quan hệ tình dục với đối tượng nguy cơ. Mối quan hệ giữa nghiện ma túy và hành vi tình dục rất phức tạp. Tần suất sử dụng ma túy tương quan với sự gia tăng hoạt động tình dục, cũng như tần suất quan hệ tình dục không an toàn. Tỷ lệ sử dụng bao cao su khi quan hệ tình dục với gái mại dâm trong nghiên cứu này là 30%, thấp hơn kết quả của HSS+ 2014 (63,3%) [5]. Người NCMT tin rằng nguy cơ lây nhiễm HIV qua quan hệ tình dục thấp hơn qua việc dùng chung các dụng cụ tiêm chích [124], do vậy thường ít thực hành hành vi tình dục an toàn so với hành vi tiêm chích an toàn [15], Nghiên cứu tại thành phố Hồ Chí Minh cho thấy chỉ 50% người NCMT có quan hệ tình dục với GMD trong 4 tuần qua sử dụng bao cao su [58]. Kết quả này cũng cao hơn so với nghiên cứu ở Indonesia [85]. Trong một nghiên cứu trên 26.982 người tiêm chích ma túy ở 22 thành phố ở Hoa Kỳ, hơn 80% có quan hệ tình dục không được bảo vệ trong vòng 30 ngày trước đây [41], kết quả nghiên cứu này cao hơn nhiều so với nghiên cứu của 97 chúng tôi. Trong một nghiên cứu trên người NCMT (trong đó khoảng 10% nhiễm HIV) tại London cho thấy 80% đã từng quan hệ tình dục trong vòng sáu tháng trước, 68% không bao giờ sử dụng bao cao su với bạn tình thường xuyên và 34% không bao giờ sử dụng bao cao su với bạn tình không thường xuyên [126], kết quả của nghiên cứu này cũng cao hơn trong nghiên cứu của chúng tôi. Những kết quả này có thể do thành công trong việc tuyên truyền về hành vi nguy cơ và các chương trình phát bao cao su tại cộng đồng. Tuy nhiên, tỷ lệ không sử dụng bao cao su vẫn còn cao. Kết quả này khuyến khích việc tiếp tục đẩy mạnh tuyên truyền sử dụng bao cao su khi quan hệ tình dục, đặc biệt với các đối tượng nguy cơ cao. Quan hệ tình dục không an toàn đã được chứng minh là nguyên nhân lây nhiễm HIV cũng như các bệnh truyền nhiễm khác trong cộng đồng [85]. Vì vậy, việc giảm thiểu quan hệ tình dục không an toàn sẽ có ý nghĩa quan trọng trong việc phòng chống HIV, đặc biệt ở các tỉnh miền núi. 4.1.2.4. Chất lƣợng cuộc sống của đối tƣợng nghiên cứu Phần lớn các đối tượng có chất lượng cuộc sống trung bình (75,0%). Trong đó, mức độ hài lòng về sức khỏe của đối tượng chủ yếu ở mức bình thường (60,7%). Khi chấm điểm chất lượng cuộc sống trên thang 100 điểm, sức khỏe thể chất trung bình là 60,2 điểm, sức khỏe tâm thần là 61,2 điểm, mối quan hệ xã hội trung bình là 50,3 điểm và môi trường trung bình là 58,8 điểm. Chất lượng cuộc sống của phần lớn các đối tượng khi bắt đầu tham gia điều trị ở mức trung bình. Có 21,3% cho rằng chất lượng cuộc sống của mình ở mức tốt. Kết quả này cao hơn so với nghiên cứu của Hoàng Đình Cảnh ở Hải Phòng và thành phố Hồ Chí Minh [14]. Tuy nhiên, tỷ lệ đối tượng hài lòng với sức khoẻ của mình thấp hơn so với nghiên cứu đó [14]. Điểm về mối quan hệ xã hội của các đối tượng là thấp nhất. 98 Kết quả này tương đồng với một số nghiên cứu trên thế giới khi mà các đối tượng nghiện ma tuý phải đối mặt với những khó khăn trong giao tiếp xã hội và sự kì thị từ gia đình, cộng đồng. Sự kì thị từ gia đình đã được Li và cộng sự chỉ ra là nguyên nhân chính gây nên các vấn đề về sức khoẻ tâm thần của người nghiện ma tuý. Nghiên cứu của Fischer và các cộng sự cũng chỉ ra điểm số thấp về chất lượng cuộc sống, đặc biệt ở các vấn đề xã hội của đối tượng nghiện ma tuý [53]. Kết quả này khuyến nghị các cán bộ y tế giúp tăng cường kiến thức, nhận thức. Giảm sự kì thị ở cộng đồng, có các biện pháp giúp đỡ, lập các nhóm đồng đẳng cung cấp các thông tin về các hành vi không an toàn, biện pháp để thay đổi hành vi nguy cơ cao, đồng thời cung cấp các vật dụng như bơm kim tiêm sạch, bao cao su. Qua đó nâng cao chất lượng cuộc sống cho các đối tượng nghiện ma tuý, đặc biệt là về vấn đề quan hệ xã hội. Ngoài ra, sức khoẻ thể chất của các đối tượng này cũng ở mức trung bình. Điều này có thể do ảnh hưởng bởi thuốc phiện tới sức khoẻ. Nghiên cứu trên giới cũng đã cho thấy chất lượng cuộc sống tương tự như kết quả nghiên cứu của chúng tôi [53]. Kết quả này cho thấy cần có sự hỗ trợ từ phía y tế và cộng đồng trong việc hỗ trợ cái đối tượng nghiện ma tuý trong việc nâng cao hoạt động thể lực cũng như chất lượng cuộc sống, giúp họ có được việc làm ổn định. Như vậy, những hình thức hỗ trợ như nhóm đồng đẳng, hỗ trợ y tế, hỗ trợ trong hoạt động thể lực là rất cần thiết trong việc nâng cao sức khoẻ cũng như chất lượng cuộc sống cho các đối tượng nghiện ma tuý. Bên cạnh đó, điều trị nghiện các CDTP bằng thuốc Methadone cũng giúp bệnh nhân hồi phục khả năng lao động và cải thiện các mối quan hệ trong xã hội, đem lại những hiệu quả rõ rệt về mặt kinh tế [73]. 99 4.2. Hiệu quả của điều trị Methadone Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy tỷ lệ sử dụng chất gây nghiện giảm, đặc biệt là sử dụng heroin, giảm tỷ lệ tiêm chích ma túy. Bên cạnh đó, kết quả nghiên cứu cũng cho thấy chất lượng cuộc sống của các đối tượng nghiên cứu được cải thiện. 4.2.1. Hiệu quả về giảm sử dụng ma túy trong đối tƣợng nghiên cứu Tỷ lệ người sử dụng chất gây nghiện giảm từ 36,2% khi bắt đầu tham gia điều trị xuống còn 16,5% sau 12 tháng tham gia điều trị. Trong đó, tỷ lệ người sử dụng heroin giảm từ 31,7% xuống 10,9%. Các kết quả này có ý nghĩa thống kê (p<0,01). Điều trị Methadone đã cho thấy hiệu quả rõ rệt trong việc giảm sử dụng ma túy. Về mặt dược lý, Methadone là một CDTP tổng hợp, đồng vận với các CDTP, nó cùng tác động trên các thụ thể μ của các CDTP ở não, gắn chặt vào các thụ thể μ và chiếm lấy các thụ thể này, với liều vừa đủ Methadone chiếm hết các thụ thể μ và ngăn chặn tác dụng của các CDTP khác. Do vậy, với liều vừa đủ, Methadone làm giảm sự thèm muốn các CDTP, ―khóa‖ tác động phê sướng của heroin nên bệnh nhân sẽ giảm dần tiến tới ngừng sử dụng heroin. Tuy nhiên, trong quá trình điều trị, nếu chưa đủ liều thuốc Methadone hoặc muốn tìm lại cảm giác ―phê sướng‖ của heroin, một số người vẫn còn sử dụng các chất ma túy trong quá trình điều trị Methadone [12, 21]. Kết quả nghiên cứu của đề tài cũng chứng minh lý thuyết Methadone làm giảm sử dụng ma túy bất hợp pháp là phù hợp với thực tiễn: Tỷ lệ người sử dụng chất gây nghiện giảm hơn một nửa so với khi bắt đầu tham gia điều trị, đặc biệt là việc sử dụng heroin. Kết quả này tương đồng với một số nghiên cứu được thực hiện tại Việt Nam và trên thế giới [14, 76]. 100 Nghiên cứu của Simpson DD, Sells SB tại Mỹ trên 1.856 bệnh nhân điều trị Methadone về tình hình sử dụng ma tuý hàng ngày trong 3 năm cho thấy: tỷ lệ sử dụng ma túy hàng ngày trước điều trị 02 tháng là 100%, sau 01 năm điều trị bằng thuốc Methadone tỷ lệ này giảm xuống còn 36% và sau 03 năm điều trị tỉ lệ này giảm 22% [117]. Nghiên cứu của Jeganathan và cộng sự tại Malaysia trên 216 bệnh nhân trong giai đoạn 2005-2008 cũng cho thấy điểm số sử dụng Heroin sau 12 tháng giảm rõ rệt, điểm số khác biệt là 2.01 (p<0,001) [86]. Nghiên cứu thuần tập trên 965 bệnh nhân tham gia điều trị Methadone trong 2 năm tại Thành phố Hải Phòng và Thành phố Hồ Chí Minh cho thấy: tỷ lệ sử dụng Heroin giảm đáng kể nhất là sau 3 tháng từ 100% xuống còn 34,6% tại Hải Phòng và 36,2% tại thành phố Hồ Chí Minh. Con số này giảm còn 22,9% tại Hải Phòng và 14,6% tại thành phố Hồ Chí Minh sau 2 năm điều trị [14]. Việc xác định bệnh nhân đang điều trị Methdone có tiếp tục dùng thêm ma túy nữa hay không, trong nghiên cứu này chúng tôi dựa vào sự tự giác trả lời của đối tượng nghiên cứu khi được hỏi, đồng thời còn dựa vào kết quả xét nghiệm nước tiểu bằng que thử nhanh định kỳ 1 tháng/1 lần xét nghiệm. Tỷ lệ bệnh nhân dương tính với heroin khi xét nghiệm nước tiểu đã giảm từ 100% (khi bắt đầu tham gia điều trị Methadone) xuống còn 0,6% (sau 12 tháng điều trị Methadone), sự khác biệt giữa trước điều trị với sau điều trị 12 tháng có ý nghĩa thống kê với p<0,001. Kết quả này cũng tương đồng với các nghiên cứu khác trên thế giới và ở Việt Nam [72]. Nghiên cứu thuần tập tại Hải Phòng và Hồ Chí Minh năm 2009-2011 chi thất: tỷ lệ bệnh nhân dương tính với ma túy khi xét nghiệm nước tiểu đã giảm từ 100% (trước điều trị Methadone) xuống là 17,2% (sau 12 tháng điều trị Methadone) và 12,4% (sau 24 tháng điều trị Methadone), sự khác biệt giữa 101 trước điều trị với sau điều trị 12 tháng và 24 tháng có ý nghĩa thống kê với p<0,001 [14]. Kết quả này giúp khẳng định hiệu quả trực tiếp của chương trình điều trị MMT tại Việt Nam, đặc biệt ở các tỉnh miền núi. Khi điều trị bằng Methadone, nhu cầu sử dụng ma túy giảm đã giúp giảm tần suất, liều lượng sử dụng chất gây nghiện bất hợp pháp, đây cũng là yếu tố giúp giảm tỷ lệ tiêm chích ma túy. 4.2.2. Hiệu quả đạt đƣợc về giảm hành vi tiêm chích ma túy Giảm thiểu tác hại của ma túy là làm giảm bớt chừng nào tốt chừng đó những hậu quả tai hại do việc sử dụng ma túy gây ra, ảnh hưởng đến cá nhân, gia đình và xã hội. Ngưng sử dụng ma túy là một chọn lựa lý tưởng để giảm thiểu tai hại, nhưng không phải tất cả các đối tượng sử dụng ma túy đều có thể thực hiện được. Trong quá trình điều trị Methadone, việc ngưng sử dụng mà tuý, đặc biệt là tiêm chích ma tuý mang lợi hiệu quả lớn từ chương trình điều trị đến đối tượng. Kết quả nghiên cứu của đề tài cho thấy tỷ lệ bệnh nhân có TCMT đã giảm từ 23,7% (khi bắt đầu tham gia điều trị) xuống 12,7% (sau 12 tháng điều trị), sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê với p<0,01. Kết quả này cũng tương đồng với các nghiên cứu trên thế giới và ở Việt Nam. Nghiên cứu tại Hải Phòng và thành phố Hồ Chí Minh 2009-2011 cho thất tỷ lệ bệnh nhân có TCMT đã giảm từ 83,2% (trước ĐT) xuống 8,2 % (sau 12 tháng ĐT) (p<0,001) [14]. Nghiên cứu tại 3 thành phố của Mỹ năm 1998 chi thấy người nghiện chích ma tuý khi bỏ điều trị thay thế bằng thuốc Methadone càng lâu thì nguy cơ tái sử dụng ma tuý càng cao, tỷ lệ quay lại tiêm chích sau 1-3 tháng bỏ 102 điều trị là 45,5%, sau 4-6 tháng bỏ điều trị 57,6%, sau 7-9 tháng bỏ điều trị là 72,7%, sau 12 tháng bỏ điều trị là 82,1% [107]. Kết quả thu được trên 1.153 bệnh nhân tại 8 phòng khám Methadone ở Trung Quốc cũng rất khả quan: tỷ lệ tiêm chích ma túy đã giảm từ 69,1% xuống còn 8,9%; số lượt tiêm chích từ 90 lần/tháng giảm xuống 2 lần/tháng. Số liệu này cho thấy hành vi tiêm chích ma túy giảm rõ rệt [81]. Nhìn chung, kết quả nghiên cứu này cũng như các nghiên cứu khác trên thế giới đều chỉ ra lợi ích của chương trình điều trị Methadone. Đây là một trong những tác động tốt từ chương trình điều trị Methadone. Việc điều trị nghiện ma túy bằng Methadone cũng đã góp phần làm giảm tỷ lệ tiêm chích ma túy trong nhóm bệnh nhân tham gia điều trị, từ đó giúp giảm nguy cơ lây truyền các bệnh qua đường máu như HIV. Mặt khác trên cả nước nói chung, khi tham gia điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc Methadone tại các cơ sở y tế, bệnh nhân còn được cung cấp thông tin về các biện pháp can thiệp giảm nguy cơ lây nhiễm HIV như: tình dục an toàn, không dùng chung bơm kim tiêm… Đối với bệnh nhân có HIV dương tính sẽ được giới thiệu chuyển gửi và điều trị sớm giúp giảm khả năng lây nhiễm cho người khác. Ngoài lợi ích chính giảm hành vi tiêm chích ở nhóm đối tượng, dễ dàng thấy các lợi ích thứ cấp song hành cùng chương trình điều trị Methadone. 4.2.3. Cải thiện chất lƣợng cuộc sống của bệnh nhân Chất lượng cuộc sống của các bệnh nhân tham gia điều trị Methadone được cải thiện rõ rệt. Điểm sức khoẻ thể chất của đối tượng tăng từ 60,0 khi bắt đầu điều trị lên 63,1 sau 12 tháng điều trị. Các mối quan hệ xã hội cũng tăng từ 50,3 lên 53,7. Ngoài ra điểm chất lượng cuộc sống về tâm lý và môi trường cũng tăng. Các kết quả này có ý nghĩa thống kê (p<0,05). 103 Kết quả này tương đồng với nghiên cứu của Tam và các cộng sự khi mà chất lượng cuộc sống của các đối tượng nghiên cứu tăng sau khi điều trị Methadone [80]. Nghiên cứu cho thấy, Methadone giúp cho bệnh nhân giảm lệ thuộc vào các chất gây nghiện qua đó giảm nguy cơ mắc các vấn đề sức khoẻ thể chất và tâm lý ở các đối tượng sử dụng chất gây nghiện [91]. Bên cạnh đó, việc tham gia điều trị Methadone giúp giảm kì thị với bệnh nhân và cải thiện các mối quan hệ xã hội, từ đó giúp bệnh nhân tái hòa nhập với cộng đồng [104]. Nghiên cứu cũng cho thấy mức độ tham gia các hoạt động ở gia đình và xã hội của các đối tượng tham gia nghiên cứu tăng. Điều này có thể giải thích bởi sức khoẻ của các đối tượng tham gia điều trị Methadone được cải thiện, hoà nhập hơn với cộng đồng [91, 104]. Tuy nhiên, sự khác biệt chưa cao. Điều này có thể do thời gian theo dõi ngắn, cần thêm các nghiên cứu có thời gian lâu hơn nhằm đánh giá chuẩn xác hơn về mức độ thay đổi chất lượng cuộc sống ở các đối tượng tham gia điều trị Methadone. Nghiên cứu này cũng cho kết quả tương tự như một số nghiên cứu tại Việt Nam và trên thế giới. Kết quả nghiên cứu tại Hải Phòng và TP Hồ Chí Minh trong giai đoạn thí điểm trên 6 cơ sở điều trị Methadone hoạt động từ tháng 4/2008 cho thấy chất lượng cuộc sống của bệnh nhân tốt lên sau can thiệp, chỉ số trả lời từ tốt trở lên chỉ chiếm 15% trước điều trị đã tăng lên 52,5% sau 12 tháng điều trị và tiếp tục tăng lên 55,1% sau 24 tháng tháng điều trị Methadone, sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê với p<0,01 [14]. Nghiên cứu tại Malaysia sau 2 năm cho thấy cả 4 yếu tố trong chất lượng cuộc sống (thể chất, tâm thần, mối quan hệ xã hội và môi trường) đều được cải thiện rõ rệt (p<0,01) đặc biệt là chỉ số về sức khỏe tâm thần tăng 20% sau 2 năm điều trị [73]. 104 4.2.4. Các hiệu quả khác 4.2.4.1. Thay đổi hành vi quan hệ tình dục không an toàn Trong nghiên cứu này, không có sự thay đổi đáng kể các hành vi tình dục không an toàn. Điều này có thể giải thích là tệ nạn mại dâm không phổ biến ở các tỉnh miền núi, do đó việc quan hệ tình dục của bệnh nhân với phụ nữ bán dâm không phổ biến. 4.2.4.2. Khả năng lao dộng của bệnh nhân Kết quả nghiên cứu cho thấy, sau khi tham gia điều trị methadone, bệnh nhân đã có sự thay đổi về khả năng lao động: tự phục vụ được các nhu cầu cá nhân, tham gia các công việc gia đình và các hoạt động xã hội. Tuy nhiên, sự thay đổi này không có ý nghĩa thống kê. Nghiên cứu định tính bổ sung thêm hiệu quả của chương trình điều trị Methadone về kinh tế, xã hội và an ninh trật tự tại địa bàn triển khai điều trị. 4.2.5. Thực trạng bỏ điều trị ở bệnh nhân Bỏ điều trị với nhiều nguyên nhân khác nhau, song tựu chung lại chính các đối tượng có thể lại rơi vào một vòng tròn luẩn quẩn khi nghiện mà vẫn không từ bỏ được, không tiếp dục dùng thuốc Methadone, bằng cách này hay cách khác các đối tượng bỏ điều trị cần kiếm tiền cho bằng được để đốt vào các chất gây nghiện. Sau 12 tháng tham gia điều trị, có tổng cộng 56 đối tượng không còn trong chương trình điều trị và tham gia nghiên cứu, chiếm 18,7%. Tỷ lệ này cao hơn so với nghiên cứu thực hiện ở Thái Nguyên (8,7%) và Hải Phòng, thành phố Hồ Chí Minh (11,7%) [1, 14]. Điều này có thể giải thích do địa dư khu vực các tỉnh trên là đồng bằng hoặc giáp đồng bằng nên yếu tố giao thông, đi lại thuận tiện hơn cho bệnh nhân điều trị. Vì vậy, tính cam kết và tuân thủ điều trị cao hơn trong nghiên cứu này. Mặt khác, ở một số các nghiên 105 cứu khác chỉ ra sự tự tin cai nghiện ma tuý của đối tượng sau khi tham gia điều trị Methadone một thời gian. Dẫn đến hiện tượng, sau một khoảng thời gian dài tham gia điều trị, một số đối tượng điều trị không còn cảm giác thèm nhớ, và nghĩ bản thân có thể từ bỏ được ma túy, không cần dùng đến Methadone nên làm đơn xin rút khỏi chương trình điều trị. Tuy nhiên, cũng có một số trường hợp khác do ốm đau, hoàn cảnh gia đình khó khăn không nên cũng tự ý bỏ, vì vậy các đối tượng dễ dàng lại vướng vào một vòng luẩn quẩn, ma túy không bỏ được trong khi đó lại không đến cơ sở điều trị Methadone để uống thuốc, buộc lòng phải làm mọi cách để có tiền mua ma tuý. Nhiều nguyên nhân nói trên đều có thể thấy kết quả không khả quan sau khi bỏ điều trị Methadone, và hầu hết các trường hợp đều ảnh hưởng trực tiếp đến đối tượng nghiện. Mặt khác, những người chịu hệ luỵ bên cạnh bản thân người nghiện ma tuý chính là những người thân, gia đình. Chịu ảnh hưởng cả về mặt tâm lý hoặc kinh tế do các đối tượng nghiện có thể sử dụng tiền của gia đình để thoả mãn nhu cầu nghiện chất của bản thân sau khi bỏ điều trị. So với một số kết quả khác trên thế giới [48, 69, 83, 95, 103], bỏ điều trị là một vấn đề đáng lưu ý và nhấn mạnh các nhà thực thi chính sách cần tìm hiểu. Một số yếu tố liên quan giúp xác định hướng nguyên nhân bỏ điều trị được trình bày ở phần sau. Tuy nhiên, cần thiết có các nghiên cứu sâu hơn về lý do bỏ điều trị hoặc quay lại chương trình đặc biệt trên nhóm bệnh nhân quay lại điều trị. Ngoài ra, cần chú trọng tập huấn cho các cán bộ y tế thuộc tất cả các cơ sở điều trị Methadone để khai thác chi tiết hơn thông tin về lý do bỏ điều trị hoặc ra khỏi chương trình được ghi nhận đầy đủ và chính xác. 106 4.3. Các yếu tố ảnh hƣởng đến hiệu quả điều trị 4.3.1. Các yếu tố ảnh hƣởng đến việc tiếp tục sử dụng ma túy trong quá trình điều trị Trong nghiên cứu này, tỷ lệ tiếp tục sử dụng Heroin được đánh giá căn cứ theo hai nguồn thông tin: bệnh nhân tự khai báo còn sử dụng Heroin trước thời điểm nghiên cứu và kết quả xét nghiệm nước tiểu dương tính trước thời điểm nghiên cứu 30 ngày. Tỷ lệ tự khai báo còn tiếp tục sử dụng chất gây nghiện của bệnh nhân trong nghiên cứu này giảm từ 36,2% trước điều trị xuống còn 16,5% sau 1 năm triển khai điều trị, trong đó sử dụng Heroin chỉ chiếm 10,9% tại thời điểm 1 năm triển khai điều trị. Kết quả xét nghiệm tìm heroin trong nước tiểu cho thấy tỷ lệ này giảm từ 100% khi bắt đầu điều trị xuống chỉ còn 0,6% tại thời điểm sau 12 tháng điều trị. Tỷ lệ tiếp tục sử dụng heroin trong nghiên cứu này cũng tương tự kết quả nghiên cứu thí điểm được tiến hành tại Việt Nam từ năm 2009 và trong một nghiên cứu trích lục bệnh án tại một số tỉnh/thành phố lớn diễn ra cùng thời điểm với nghiên cứu này [123, 127]. Kết quả này tốt hơn nhiều so với những nghiên cứu tương tự khác trên thế giới như tại Trung Quốc là 42,9% sau 2 năm [66] và tại Switzerland là 62% sau 2 năm [50]. Tương tự như các nghiên cứu khác trên thế giới, nghiên cứu này sử dụng phương pháp phân tích sống còn để xác định khoảng thời gian dự kiến và các yếu tố ảnh hưởng đến việc tiếp tục sử dụng ma túy trong nhóm bệnh nhân tham gia điều trị Methadone. Mô hình hồi quy đơn biến được ứng dụng để xác định mức độ ảnh hưởng của từng yếu tố đến việc tiếp tục sử dụng ma túy của bệnh nhân và mô hình hồi quy đa biến được ứng dụng để xác định mối quan hệ tương hỗ giữa các yếu tố với nhau đến tỷ lệ tiếp tục sử dụng heroin trong nhóm bệnh nhân tham gia điều trị. 107 Hầu hết các yếu tố về nhân khẩu học, các yếu tố về gia đình và đặc điểm sử dụng ma túy của bệnh nhân đều được đưa vào mô hình hồi quy đơn biến để đánh giá mức độ ảnh hưởng của từng yếu tố đến việc tiếp tục sử dụng heroin của bệnh nhân. Kết quả mô hình hồi quy đơn biến cho thấy các yếu tố: dân tộc, trình độ học vấn, tình trạng hôn nhân, nghề nghiệp, và sử dụng ma túy 30 ngày trước thời điểm nghiên cứu là những yếu tố có ảnh hưởng đến việc tiếp tục sử dụng ma túy của bệnh nhân trong quá trình điều trị. Sau khi tiến hành thử nghiệm mức độ ảnh hưởng của từng yếu tố đến việc tiếp tục sử dụng ma túy của bệnh nhân, nhóm nghiên cứu đã đưa đồng thời các yếu tố này vào chạy chung trong một mô hình hồi quy đa biến để xem mức độ ảnh hưởng của các yếu tố đó có thay đổi và tương tác lẫn nhau hay không. Kết quả của mô hình hồi quy đa biến cho thấy các yếu tố: dân tộc, tình trạng hôn nhân, sử dụng ma túy 30 ngày trước thời điểm nghiên cứu tiếp tục là những yếu tố ảnh hưởng đến việc tiếp tục sử dụng ma túy của bệnh nhân trong quá trình điều trị. Trình độ học vấn và nghề nghiệp không còn là yếu tố ảnh hưởng khi đưa vào mô hình hồi quy tuyến tính đa biến. Bệnh nhân thuộc nhóm dân tộc Thái và dân tộc thiểu số khác có nguy cơ sử dụng ma túy trong quá trình điều trị cao hơn nhóm bệnh nhân thuộc dân tộc Kinh (OR lần lượt là 1,97 và 2,92; p<0,05). Đặc điểm về dân tộc được xem xét vì địa bàn thực hiện nghiên cứu là các tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam. Tại cả 3 tỉnh triển khai nghiên cứu thì dân tộc thiểu số lại chiếm tỷ lệ dân số cao hơn dân tộc Kinh khi so sánh với các tỉnh đồng bằng Bắc Bộ. Tại Điện Biên và Lai Châu, tỷ lệ dân số là người dân tộc Thái chiếm tỷ lệ cao nhất, sau đó đến dân tộc Mông. Nhưng tại tỉnh Yên Bái, tỷ lệ dân số là người dân tộc Tày lại chiếm tỷ lệ cao nhất [38]. Đồng bào dân tộc thiểu số khác chủ 108 yếu sống ở vùng sâu, vùng xa, nhiều nơi vẫn còn trồng cây thuốc phiện. Khi bệnh nhân chưa đạt liều duy trì và nơi ở cách xa cơ sở điều trị methodone thì việc còn tiếp tục sử dụng heroin, thuốc phiện trong quá trình tham gia điều trị là có thể xẩy ra. Tuy nhiên, để hiểu sâu hơn vấn đề này cần có thêm các nghiên cứu định tính. Mỗi quốc gia có một đặc điểm riêng về dân tộc, như tại Trung Quốc, trong một nghiên cứu tiến hành trên hơn 2.000 bệnh nhân cũng cho thấy nhóm dân tộc thiểu số tại một số tỉnh miền núi có nguy cơ tiếp tục sử dụng chất gây nghiện cao hơn nhóm dân tộc Hán [100]. Yếu tố về tình trạng hôn nhân ít được các nghiên cứu trên thế giới nhắc đến nhưng kết quả nghiên cứu này cho thấy bệnh nhân đã ly dị, ly thân, góa có nguy cơ sử dụng ma tuý trong quá trình điều trị Methadone cao hơn 6,68 lần so với nhóm bệnh nhân độc thân (OR = 6,68; p<0,01). Kết quả này cũng tương tự với nghiên cứu được tiến hành tại Trung Quốc năm 2015, bệnh nhân đã ly hôn hoặc góa có nguy cơ tiếp tục sử dụng chất gây nghiện trong quá trình điều trị bao gồm cả heroin và methamphetamine cao hơn nhóm độc thân 1,9 lần [100]. Bệnh nhân sử dụng ma túy 30 ngày trước thời điểm nghiên cứu có nguy cơ tiếp tục sử dụng ma túy trong quá trình điều trị cao hơn 2,49 lần so với nhóm bệnh nhân không sử dụng (OR=2,49 và p-value<0,01). Kết quả này cũng tương tự như các nghiên cứu khác trên thế giới [68]. Nhiều yếu tố được coi là có ảnh hưởng đến việc tiếp tục sử dụng heroin trong nhóm bệnh nhân tham gia điều trị nhưng không được tìm thấy trong nghiên cứu này như: tuổi, giới, có thu nhập cá nhân [71, 113, 123], tiền sử sử dụng heroin lâu năm [68]; bệnh nhân có tần suất sử dụng ma túy cao tại thời điểm bắt đầu điều trị thì tỷ lệ tiếp tục sử dụng ma túy của họ cũng cao [123, 127]; bệnh nhân có HIV dương tính cũng được coi là một yếu tố ảnh hưởng 109 đến việc tiếp tục sử dụng heroin trong quá trình điều trị [109, 123, 127]. Một yếu tố khác cũng được ghi nhận trong các nghiên cứu tiến hành tại Việt Nam [127], Trung Quốc [68] và Châu Âu [40] là liều Methadone trung bình trên 60mg/ngày có ảnh hưởng rõ rệt làm giảm tỷ lệ tiếp tục sử dụng Heroin trong nhóm bệnh nhân tham gia điều trị nhưng không được đề cập đến tại nghiên cứu này do hạn chế của nghiên cứu về việc lấy dữ liệu về liều của bệnh nhân không chính xác. Đang tham gia điều trị bằng thuốc ARV cũng làm tăng nguy cơ tiếp tục sử dụng heroin trong quá trình điều trị [123, 127] nhưng không được tìm thấy trong nghiên cứu này. Mối tương quan này là do tương tác thuốc giữa thuốc ARV và Methadone dẫn đến làm giảm nồng độ Methadone trong máu ở những bệnh nhân điều trị ARV [45, 55, 74, 94]. Trong giai đoạn mới điều trị liều duy trì Methadone có ảnh hưởng ít nhiều đến việc tiếp tục sử dụng Heroin do bệnh nhân chưa đạt được liều duy trì nhưng với bệnh nhân đã ổn định liều (bệnh nhân điều trị Methadone từ 2 năm trở lên) thì liều điều trị Methadone không có liên quan tới hành vi tiếp tục sử dụng heroin trong nhóm bệnh nhân đang điều trị. 4.3.2. Các yếu tố ảnh hƣởng đến bỏ điều trị Phân tích một số yếu tố ảnh hưởng đến bỏ điều trị cho thấy: các yếu tố tuổi, dân tộc, tình trạng hôn nhân, công việc ổn định, thời gian đã từng sử dụng ma túy trước khi tham gia điều trị Methadone, sử dụng ma túy 30 ngày trước thời điểm nghiên cứu, và khoảng cách từ nhà đến cơ sở điều trị là những yếu tố có ảnh hưởng đến việc bỏ điều trị của bệnh nhân. Bệnh nhân trong độ tuổi từ 40-49 có ít nguy cơ bỏ điều trị hơn nhóm bệnh nhân dưới 30 tuổi (OR=0,26; p<0,01), kết quả này cũng tương tự như một số kết quả ghi nhận từ nghiên cứu tương tự tại Việt Nam, Trung Quốc và 110 Mỹ [47, 95, 101, 110, 123, 127]. Những bệnh nhân trẻ tuổi thường thiếu động lực điều trị, thiếu niềm tin vào liệu pháp điều trị và còn chưa xác định được mục đích sống nên quyết tâm duy trì điều trị kém những bệnh nhân lớn tuổi [47]. Đặc thù các tỉnh khu vực Tây Bắc là địa hình đi lại khó khăn nên giảm khả năng tiếp cận với dịch vụ y tế [99]. Ngoài ra, việc những người điều trị Methadone phải chịu sự kì thị lớn từ cộng đồng cũng gây cản trở trong việc tiếp tục tham gia điều trị thay thế [122]. Bệnh nhân là người dân tộc Thái ít nguy cơ bỏ điều trị hơn nhóm bệnh nhân nhóm dân tộc Kinh (OR=0,26; p<0,01), Một nghiên cứu được tiến hành năm 2010 tại Vân Nam, Trung Quốc cho thấy bệnh nhân bỏ trị sớm có liên quan đến dân tộc [44]. Đây là nghiên cứu đầu tiên ghi nhận kết quả này, cần có các nghiên cứu sâu hơn về dân tộc học, tập tục, thói quen và văn hóa của các đồng bào dân tộc miền núi phía Bắc để giải thích cho kết quả. Bệnh nhân có việc làm ổn định cũng được ghi nhận là có mối tương quan với tỷ lệ tuân thủ điều trị. Bệnh nhân có công việc ổn định ít nguy cơ bỏ điều trị hơn nhóm không có việc làm ổn định (OR = 0,27; p<0,01). Kết quả này là tương đồng với kết quả nghiên cứu tại Tây An, Trung Quốc [101]. Bệnh nhân có thời gian sử dụng ma túy trước khi vào điều trị càng dài thì càng ít nguy cơ bỏ điều trị, bệnh nhân sử dụng ma túy từ 10-20 năm có nguy cơ bỏ điều trị thấp hơn nhóm bệnh nhân sử dụng dưới 2 năm (OR = 0,34; p<0,05). Bệnh nhân sử dụng ma túy 30 ngày trước thời điểm nghiên cứu ít có nguy cơ bỏ điều trị hơn bệnh nhân không sử dụng (OR = 0,35; p<0,05). Một số nghiên cứu tại Trung Quốc cho thấy bệnh nhân có lịch sử lạm dụng ma túy lâu hơn thì khả năng bỏ điều trị ít hơn [101, 108]. Tuy nhiên kết quả nghiên cứu của Lin và Cox tiến hành năm 2012 [48, 69] lại không tìm thấy mối tương quan này. 111 Bệnh nhân có khoảng cách từ nhà đến cơ sở điều trị xa trên 5km có nguy cơ bỏ điều trị cao hơn bệnh nhân có khoảng cách dưới 5km (cao hơn 2,44 lần với bệnh nhân có khoảng cách từ 5-10km và, 2,75 lần với bệnh nhân có khoảng cách trên 10km) (p<0,05). Kết quả này cũng tương đồng với một số nghiên cứu khác trên thế giới. Nghiên cứu được tiến hành tại Đài Loan năm 2007 cho thấy khoảng cách từ nhà đến cơ sở điều trị quá xa là một yếu tố làm tăng tỷ lệ bỏ điều trị trong nhóm bệnh nhân methadone [67]. Nghiên cứu tại Trung Quốc năm 2009 cũng cho thấy bệnh nhân mất thời gian đi tới cơ sở điều trị methadone trên 30 phút mỗi ngày có nguy cơ bỏ điều trị cao 1,63 lần sau 12 tháng tham gia điều trị [44]. Nghiên cứu tại Pháp năm 2014 cũng cho thấy việc gặp khó khăn tới cơ sở điều trị là yếu tố ảnh hưởng đến việc tuân thủ điều trị [89]. Kết quả này hoàn toàn phù hợp với tình hình thực tế của địa phương. Các cơ sở điều trị methadone đều đặt ở Trung tâm y tế huyện hoặc Trung tâm phòng, chống HIV/AIDS của tỉnh. Ba tỉnh tham gia nghiên cứu là 03 tỉnh miền núi phía Bắc, địa bàn đi lại khó khăn, khoảng cách bệnh nhân phải đi lại để đến cơ sở điều trị uống thuốc hàng ngày là một trở ngại lớn đối với cá nhân bệnh nhân. Đây cũng là khó khăn chung khi tiếp cận với các dịch vụ y tế của đồng bào ở các tỉnh miền núi [99, 122]. Để giảm khó khăn trong việc đi lại cho bệnh nhân, các tỉnh miền núi cần nhanh chóng mở các cơ sở cấp phát thuốc tại tuyến xã. Yếu tố hôn nhân ít được các nghiên cứu tìm thấy mối tương quan nhưng lại được tìm thấy trong nghiên cứu này. Bệnh nhân đã ly dị, ly thân, góa ít có nguy cơ bỏ điều trị hơn so với nhóm bệnh nhân độc thân (OR = 0,12; p<0,01). Bệnh nhân tiếp tục sử dụng heroin trong quá trình điều trị là một yếu tố được các nghiên cứu quan tâm. Nghiên cứu tiến hành tại Thái Nguyên năm 112 2015 cho thấy những đối tượng còn tiếp tục sử dụng heroin trong quá trình điều trị có khả năng bỏ điều trị gấp 2,24 lần những đối tượng không có hành vi này [1], và nghiên cứu tại Trung Quốc năm 2014 là 5,72 lần [60]. Trong nghiên cứu này, nhóm sử dụng heroin trong quá trình điều trị có nguy cơ bỏ điều trị cao gấp 1,92 lần so với nhóm không sử dụng. Mặc dù giá trị OR không có ý nghĩa thống kê nhưng đây là chỉ số quan trọng và có ý nghĩa đo lường. Để khắc phục hạn chế về mặt thống kê của chỉ số này các nghiên cứu sau cần tăng cỡ mẫu nghiên cứu. Một yếu tố được tìm thấy có mối liên hệ với tuân thủ điều trị của bệnh nhân ở nhiều nghiên cứu tương tự tại Việt Nam, Đài Loan, Trung Quốc, Mỹ và Canada là liều điều trị duy trì Methadone hàng ngày [39, 48, 51, 62, 69, 84, 101] lại không được đưa ra trong nghiên cứu này vì hạn chế của nghiên cứu là thiếu dữ liệu về liều điều trị chi tiết của bệnh nhân. Kết quả này cũng gợi ý cho chương trình điều trị Methadone muốn đạt được hiệu quả cao giảm tỷ lệ bỏ trị của bệnh nhân. Chương trình cần chú trọng đến công tác tư vấn, đặc biệt đối với những người trẻ tuổi, là người dân tộc Kinh, đã có gia đình nhưng li dị hoặc góa, không có việc làm ổn định, có sử dụng heroin trước thời điểm nghiên cứu. Chương trình cũng cần nhanh chóng mở các cơ sở cấp phát thuốc tại xã để giảm khoảng cách đi lại cho bệnh nhân và hướng tới sử dụng các loại thuốc điều trị có thể cho phép bệnh nhân mang về nhà. 4.4. Hạn chế của nghiên cứu Bên cạnh những ưu điểm và kết quả nổi bật của nghiên cứu, nghiên cứu vẫn tồn tại một số hạn chế nhất định. Sau một năm điều trị can thiệp, 56 bệnh nhân bỏ điều trị và rút khỏi nghiên cứu. Tình trạng không thể theo dõi thông tin những bệnh nhân bỏ điều trị tạo ra sai số trong nghiên cứu, kéo theo phản 113 ánh chưa chính xác hiệu quả điều trị MMT. Nhìn chung, đây là một hạn chế của nghiên cứu đánh giá trước-sau can thiệp trên cùng một nhóm đối tượng. Vì vậy, đề xuất các nghiên cứu sau sử dụng thiết kế nghiên cứu chặt chẽ và quy mô hơn để có thể theo dõi sát sao thông tin sức khoẻ của bệnh nhân, kể cả bệnh nhân bỏ điều trị. Mặt khác, hạn chế về mặt thông kê cũng là một vấn đề cần lưu ý trong nghiên cứu này, trong phân tích hồi quy đơn biến và đa biến đã sử dụng, nhiều biến số mang ý nghĩa tiên lượng cho nghiên cứu, tuy nhiên kiểm định thống kê giá trị p chưa ủng hộ. Vì vậy, khuyến nghị các nghiên cứu sau thực hiện với cỡ mẫu lớn hơn để khác phục hạn chế về mặt thống kê. Hơn nữa, một số yếu tố tiên lượng bị giới hạn thống kê đã bị loại bỏ ra khỏi kết quả mô hình hồi quy đa biến, nghiên cứu này cũng nhấn mạnh các nghiên cứu sau tập trung khai thác các biến số liên quan đó. 114 1. Thực trạng sử dụng ma túy và tình trạng sức khỏe, xã hội của đối tƣợng nghiên cứu trƣớc khi điều trị Methadone - Đặc điểm nhân khẩu học: Người nghiện các chất dạng thuốc phiện tham gia điều trị Methadone tại 3 tỉnh hầu hết nằm trong độ tuổi từ 30 đến 49 tuổi, là nam giới dân, dân tộc Kinh, trình độ học vấn dưới trung học phổ thông. - Sử dụng ma tuý: Hầu hết có thời gian sử dụng ma túy trên 2 năm. Loại ma tuý được sử dụng nhiều nhất là Heroin, chủ yếu sử dụng bằng đường tiêm chích. Hầu hết các đối tượng đã đi cai nghiện ma túy nhưng đều thất bại. Bắt đầu có tình trạng sử dụng ma túy tổng hợp trong nhóm bệnh nhân điều trị. - Tình trạng sức khoẻ: tỷ lệ khá cao mắc các bệnh lây nhiễm qua đường máu như viêm gan C (24,4%), viêm gan B (11,7%) và đang điều trị ARV (10,7%). - Chất lượng cuộc sống: Phần lớn có chất lượng cuộc sống trung bình. Trên thang 100 điềm, lần lượt các khía cạnh là sức khỏe thể chất (60,2), sức khỏe tâm thần (61,2 điểm), mối quan hệ xã hội (50,3) và môi trường (58,8). 2. Hiệu quả điều trị Methadone Hiệu quả điều trị nhấn mạnh về giảm sử dụng chất gây nghiện, giảm hành vi nguy cơ làm lây truyền HIV và cải thiện chất lượng cuộc sống của bệnh nhân. Cụ thể như sau: - Hiệu quả về giảm sử dụng chất gây nghiện: Tỷ lệ người sử dụng chất gây nghiện giảm từ 36,2% xuống còn 16,5% sau điều trị. 115 Tỷ lệ người sử dụng heroin giảm từ 31,7% xuống còn 10,9% (p<0,01). Kết quả xét nghiệm heroin dương tính trong nước tiểu giảm từ 100% xuống còn 0,6% sau 12 tháng (p <0,01). - Hiệu quả về thay đổi hành vi nguy cơ lây nhiễm HIV: Tỷ lệ bệnh nhân tiêm chích ma túy giảm từ 23,7% xuống còn 12,7% sau 12 tháng (p <0,01). - Hiệu quả về chất lượng cuộc sống: Điểm sức khoẻ thể chất của đối tượng tăng từ 60,0 lên 63,1 sau điều trị. Mối quan hệ xã hội cũng tăng từ 50,3 lên 53,7 (p<0,05) sau điều trị. 3. Yếu tố ảnh hƣởng đến hiệu quả điều trị Methadone - Yếu tố ảnh hưởng đến tiếp tục sử dụng heroin: dân tộc thiểu số, đã ly dị/ly thân/goá), sử dụng ma túy 30 ngày trước thời điểm nghiên cứu. - Yếu tố ảnh hưởng đến bỏ điều trị Methadone: tuổi trẻ (<30), người dân tộc Kinh, vẫn đang độc thân, công việc bất ổn, mới sử dụng ma túy, sử dụng ma túy 30 ngày trước thời điểm nghiên cứu, và ở xa cơ sở điều trị. 116 1. Với những kết quả đạt được của nghiên cứu, đề nghị mở rộng điều trị Methadone ra tất cả các huyện của 3 tỉnh nghiên cứu, các tỉnh miền núi phía Bắc và các tỉnh, thành phố trên toàn quốc; góp phần giảm tác hại do ma túy gây ra cho các cá nhân, gia đình và xã hội. 2. Còn nhiều yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả điều trị, do vậy cần cải thiện dịch vụ điều trị Methodone. Tăng cường tư vấn đối với các trường hợp bệnh nhân có nguy cơ tiếp tục sử dụng heroin trong quá trình điều trị methadone và có nguy cơ bỏ điều trị. Mở rộng dịch vụ điều trị tới tất cả các huyện, tới tuyến xã/phường để giảm khoảng cách đi lại, tạo điều kiện cho người nghiện CDTP tiếp cận tới dịch vụ điều trị Methadone. 3. Cần tiến hành các nghiên cứu sâu hơn về dân tộc học, phong tục, văn hóa của các đồng bào dân tộc miền núi phía Bắc để giải thích cho sự khác biệt về hiệu quả điều trị giữa các bệnh nhân thuộc các dân tộc khác nhau. 1. Nguyễn Thị Minh Tâm, Nguyễn Thanh Long, Nguyễn Hoàng Long, Nguyễn Thị Lan Anh, Lê Thị Thanh Xuân, Lê Thị Hương, Nguyễn Hữu Thắng (2015), ―Một số đặc điểm xã hội và sử dụng ma túy của bệnh nhân mới điều trị Methadone tại Điện Biên, Lai Châu và Yên Bái năm 2014‖, Tạp chí Y học dự phòng, Tập XXV, số 10 (170) 2015, tr 268-278. 2. Nguyễn Thị Minh Tâm, Nguyễn Thanh Long, Nguyễn Thị Lan Anh, (2017), ―Đánh giá hiệu quả điều trị nghiện chất dạng thuốc phiện bằng thuốc methadone tại 3 tỉnh miền núi phía Bắc‖, Tạp chí Y học dự phòng, Tập XXVII, số 9 (27) 2017, tr 104-113. ii TIẾNG VIỆT 1. Đào Thị Minh An và các cộng sự. (2015), "Xác suất bỏ trị theo thời gian và yếu tố ảnh hưởng tới bỏ trị ở những bệnh nhân điều trị cai nghiện tại 6 cơ sở điều trị Methadone tỉnh Thái Nguyên", Tạp chí Y học dự phòng. Tập XXV, số 10 (170) 2015, tr. 259-267. 2. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (2011), Báo cáo công tác cai nghiện ma tuý tại Việt Nam thời gian qua. 3. Bộ Y tế (2017), Báo cáo triển khai điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc Methadone, à Nội. 4. Bộ Y tế (2016), Tài liệu đào tạo Điều trị thay thế nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc Methadone, Nhà xuất bản Y học, Hà Nội. 5. Bộ Y tế (2015), Kết quả giám sát trọng điểm IV lồng ghép hành vi trong các nh m nguy c cao tại Việt Nam năm 2014, à Nội. 6. Bộ Y tế (2014), Báo cáo t ng kết công tác phòng, chống IV/AIDS năm 2013 và định hướng kế hoạch năm 2014. 7. Bộ Y tế (2012), Điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc Methadone. Tài liệu chuyên khảo dành cho bác sỹ, à Nội. 8. Bộ Y tế (2012), Tài liệu tham khảo Điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc Methadone, à Nội. 9. Bộ Y Tế (2011), S tay thông tin điều trị Methadone dành cho bệnh nhân, à Nội. 10. Bộ Y tế (2010), Quyết định số 3140/QĐ-BYT, ướng dẫn điều trị thay thế nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc methadone, à Nội. iii 11. Bộ Y tế (2007), Đề án triển khai thí điểm điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc Methadone tại ải Phòng và thành phố ồ Chí Minh. 12. Bộ Y tế (2007), Quyết định số 5075/QĐ-BYT, ướng dẫn chẩn đoán người nghiện ma tuý nh m Opiats chất dạng thuốc phiện , à Nội. 13. Hoàng Đình Cảnh và Nguyễn Thanh Long (2013), "Một số đặc điểm của người nghiện ma túy (các chất dạng thuốc phiện) trước khi tham gia điều trị Methadone tại thành phố Hồ Chí Minh và Hải Phòng", Tạp chí Y học dự phòng. Tập XXIII, số 6 (142), tr. 164-170. 14. Hoàng Đình Cảnh, Nguyễn Thanh Long và Nguyễn Văn Hưng (2013), "Đánh giá hiệu quả điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng Methadone tại thành phố Hồ Chí Minh và Hải Phòng (2009-2011)", Tạp chí Y học Việt Nam. Tập 409, tr 7-13. 15. Vũ Văn Chiểu (2010), "Yếu tố ảnh hưởng đến hành vi tình dục không an toàn của người tiêm chích ma túy tại Việt Nam", Tạp chí Y học Thực hành. 189-193. 16. Chính phủ (2012), Nghị định số 96/NĐ-CP quy định về điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế, à Nội. 17. Vũ Văn Công và Dương Thị Hương (2009), "Hiệu quả triển khai điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng methadone tại Hải Phòng, năm 2009", Tạp chí Y học dự phòng. 23(2), pp. 66-71. 18. Cục Phòng chống HIV/AIDS (2016), Công tác phòng, chống HIV/AIDS Khu vực Tây Bắc, Hội nghị về công tác phòng, chống HIV/AIDS năm 2016 khu vực Tây Bắc - Sơn La. 19. Cục Phòng chống HIV/AIDS (2015), Kết quả công tác phòng, chống IV/AIDS năm 2015 và kế hoạch năm 2016, Hội nghị về công tác phòng, chống HIV/AIDS năm 2015 - Hà Nội. iv 20. Cục Phòng chống HIV/AIDS (2013), ướng dẫn xét nghiệm trong phòng chống IV/AIDS, Kỷ yếu hội nghị quốc gia về công tác xét nghiệm trong phòng chống HIV/AIDS, Nhà xuất bản y học, Hà Nội. 21. FHI 360 (2009), Tư ng tác thuốc trong điều trị duy trì nghiện chất dạng thuốc phiện, Chuyên đề về Buprenorphine và Methadone. 22. Nguyễn Thị Thu Hà (2015), "Tỷ lệ nhiễm HIV và một số yếu tố liên quan trong nhóm nam nghiện chích ma túy tại Gia Lai năm 2014", Tạp chí Y học dự phòng. Tập XXV, số 10 (170), Tr. 157-162. 23. Trần Vũ Hoàng (2013), iệu quả điều trị Methadone lên sức khỏe tâm thần, chất lượng cuộc sống và tái hòa nhập công đồng trong những người nghiện chích ma túy tại Việt Nam, à Nội. 24. Nguyễn Thanh Long và Hoàng Đình Cảnh và cộng sự (2009), "Bước đầu đánh giá kết quả triển khai thí điểm điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc Methadone tại Việt Nam", Tạp chí Y học Việt Nam. 356, tr. 6-10. 25. Trần Đại Quang, Nguyễn Anh Tuấn và Nguyễn Trần Hiển (2013), "Tổng quan nghiên cứu về nguy cơ nhiễm HV/AIDS trong các nhóm dân tộc thiểu số tại Việt Nam và trên Thế giới", Tạp chí Y học dự phòng Tập XXIII, số 7 (143), tr. 52-55. 26. Quốc Hội (2008), Luật Phòng, chống ma túy năm 2000 và Luật sửa đ i b sung một số điều của Luật phòng, chống ma túy năm 2008. 27. Quốc Hội (2007), Luật phòng, chống nhiễm vi rút gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch ở người IV/AIDS . 28. Sở Y tế Điện Biên (2016), Báo cáo công tác phòng, chống IV/AIDS năm 2016 tỉnh Điện Biên. 29. Sở Y tế Lai Châu (2016), Báo cáo công tác phòng, chống IV/AIDS năm 2016 tỉnh Lai Châu. v 30. Sở Y tế Yên Bái (2016), Báo cáo công tác phòng, chống IV/AIDS năm 2016 tỉnh Yên Bái. 31. Thủ tướng Chính phủ (2012), Chiến lược quốc gia phòng, chống IV/AIDS đến năm 2020 và tầm nhìn 2030, Quyết định số 608/QĐ- TTg, Hà Nội. 32. Trường Đại học Y Hà Nội (2017), Sưu tầm bài dự thi xuất sắc nhất – Cuộc thi viết về trải nghiệm phục hồi năm 2017. 33. UNFPA (2006), IV và Nam giới c quan hệ tình dục đồng giới ở Châu Á - Thái Bình Dư ng: Tập hợp các thực hành mới nhất của UNAIDS, à Nội. 34. Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc (2015), Tình hình, kết quả công tác phòng, chống tội phạm, tệ nạn xã hội và xây dựng phong trào toàn dân bảo vệ ANTQ 6 tháng đầu năm 2015. 35. Ủy ban nhân dân TP. Hồ Chí Minh (2012), Tình hình, kết quả công tác phòng, chống ma túy trong năm 2011 và 6 tháng đầu năm 2012. 36. Ủy ban quốc gia phòng chống AIDS và phòng chống tệ nạn ma túy mại dâm (2016), Báo cáo t m tắt tình hình công tác phòng, chống AIDS và phòng, chống tệ nạn ma túy, mại dâm năm 2015 và nhiệm vụ trọng tâm năm 2016, ội nghị trực tuyến toàn quốc triển khai công tác năm 2016. 37. Ủy ban quốc gia phòng chống AIDS và phòng chống tệ nạn ma túy mại dâm (2012), Chiến lược Quốc gia phòng chống IV/AIDS ở Việt Nam đến năm 2020 và tầm nhìn 2030. 38. Văn hóa Việt Nam (2016), Vùng văn h a dân tộc Tây Bắc Văn a Tây Bắc , truy cập ngày, tại trang web https://vanhoanvietnam.blogspot.com/2016/04/vung-van-hoa-dan-toc- tay-bac-van-hoa.html. vi TIẾNG ANH 39. Y. P. Bao và các cộng sự. (2009), "A meta-analysis of retention in methadone maintenance by dose and dosing strategy", Am J Drug Alcohol Abuse. 35(1), tr. 28-33. 40. M. Baumeister và các cộng sự. (2014), "Association between methadone dose and concomitant cocaine use in methadone maintenance treatment: a register-based study", Subst Abuse Treat Prev Policy. 9, tr. 46. 41. R. E. Booth, C. F. Kwiatkowski và D. D. Chitwood (2000), "Sex related HIV risk behaviors: differential risks among injection drug users, crack smokers, and injection drug users who smoke crack", Drug Alcohol Depend. 58(3), tr. 219-26. 42. A. Boys, J. Marsden và J. Strang (2001), "Understanding reasons for drug use amongst young people: a functional perspective", Health Educ Res. 16(4), tr. 457-69. 43. L. M. Camacho và các cộng sự. (1997), "Maintenance of HIV risk reduction among injection opioid users: a 12 month posttreatment follow-up", Drug Alcohol Depend. 47(1), tr. 11-8. 44. Y. Che và các cộng sự. (2010), "Predictors of early dropout in methadone maintenance treatment program in Yunnan province, China", Drug Alcohol Rev. 29(3), tr. 263-70. 45. S. M. Clarke và các cộng sự. (2001), "The pharmacokinetics of methadone in HIV-positive patients receiving the non-nucleoside reverse transcriptase inhibitor efavirenz", Br J Clin Pharmacol. 51(3), tr. 213-7. 46. W. S. Condelli (1993), "Strategies for increasing retention in methadone programs", J Psychoactive Drugs. 25(2), tr. 143-7. vii 47. W. S. Condelli và G. H. Dunteman (1993), "Exposure to methadone programs and heroin use", Am J Drug Alcohol Abuse. 19(1), tr. 65-78. 48. J. Cox và các cộng sự. (2013), "Predictors of methadone program non- retention for opioid analgesic dependent patients", J Subst Abuse Treat. 44(1), tr. 52-60. 49. C. D. Darker và các cộng sự. (2016), "Demographic and clinical factors predicting retention in methadone maintenance: results from an Irish cohort", Ir J Med Sci. 185(2), tr. 433-41. 50. A. Dobler-Mikola và các cộng sự. (2005), "Patterns of heroin, cocaine, and alcohol abuse during long-term methadone maintenance treatment", J Subst Abuse Treat. 29(4), tr. 259-65. 51. F. Faggiano và các cộng sự. (2003), "Methadone maintenance at different dosages for opioid dependence", Cochrane Database Syst Rev(3), tr. Cd002208. 52. A. Fareed và các cộng sự. (2010), "Methadone maintenance dosing guideline for opioid dependence, a literature review", J Addict Dis. 29(1), tr. 1-14. 53. J. A. Fischer và các cộng sự. (2013), "Quality of life of people who inject drugs: characteristics and comparisons with other population samples", Qual Life Res. 22(8), tr. 2113-21. 54. L. Gowing và các cộng sự. (2004), "Substitution treatment of injecting opioid users for prevention of HIV infection", Cochrane Database Syst Rev(4), tr. Cd004145. 55. V. A. Gruber và E. F. McCance-Katz (2010), "Methadone, buprenorphine, and street drug interactions with antiretroviral medications", Curr HIV/AIDS Rep. 7(3), tr. 152-60. viii 56. M. Haskew và các cộng sự. (2008), "Patterns of adherence to oral methadone: implications for prescribers", J Subst Abuse Treat. 35(2), tr. 109-15. 57. N. T. Hien và các cộng sự. (2001), "Risk factors of HIV infection and needle sharing among injecting drug users in Ho Chi Minh City, Vietnam", J Subst Abuse. 13(1-2), tr. 45-58. 58. N. T. Hien và các cộng sự. (2000), "The social context of HIV risk behaviour by drug injectors in Ho Chi Minh City, Vietnam", AIDS Care. 12(4), tr. 483-95. 59. T. V. Hoang và các cộng sự. (2015), "Impact of a methadone maintenance therapy pilot in Vietnam and its role in a scaled-up response", Harm Reduct J. 12, tr. 39. 60. H. Jiang và các cộng sự. (2014), "Factors associated with one year retention to methadone maintenance treatment program among patients with heroin dependence in China", Subst Abuse Treat Prev Policy. 9, tr. 11. 61. S. M. Kelly và các cộng sự. (2010), "The role of patient satisfaction in methadone treatment", Am J Drug Alcohol Abuse. 36(3), tr. 150-4. 62. S. M. Kelly và các cộng sự. (2011), "Predictors of methadone treatment retention from a multi-site study: a survival analysis", Drug Alcohol Depend. 117(2-3), tr. 170-5. 63. P. M. Khue và các cộng sự. (2017), "A longitudinal and case-control study of dropout among drug users in methadone maintenance treatment in Haiphong, Vietnam", Harm Reduct J. 14(1), tr. 59. 64. C. F. Kwiatkowski và R. E. Booth (2001), "Methadone maintenance as HIV risk reduction with street-recruited injecting drug users", J Acquir Immune Defic Syndr. 26(5), tr. 483-9. ix 65. M. W. Langendam và các cộng sự. (2001), "The impact of harm- reduction-based methadone treatment on mortality among heroin users", Am J Public Health. 91(5), tr. 774-80. 66. L. Li và các cộng sự. (2012), "Concurrent heroin use among methadone maintenance clients in China", Addict Behav. 37(3), tr. 264-8. 67. C. K. Lin và các cộng sự. (2015), "Factors associated with methadone treatment duration: a Cox regression analysis", PLoS One. 10(4), tr. e0123687. 68. C. Lin, Z. Wu và R. Detels (2011), "Family support, quality of life and concurrent substance use among methadone maintenance therapy clients in China", Public Health. 125(5), tr. 269-74. 69. H. C. Lin và các cộng sự. (2013), "Predictors for dropping-out from methadone maintenance therapy programs among heroin users in southern Taiwan", Subst Use Misuse. 48(1-2), tr. 181-91. 70. E. Liu và các cộng sự. (2009), "Correlates of methadone client retention: a prospective cohort study in Guizhou province, China", Int J Drug Policy. 20(4), tr. 304-8. 71. X. Luo và các cộng sự. (2016), "Concurrent Heroin Use and Correlates among Methadone Maintenance Treatment Clients: A 12-Month Follow-up Study in Guangdong Province, China", Int J Environ Res Public Health. 13(3). 72. R. P. Mattick và các cộng sự. (2009), "Methadone maintenance therapy versus no opioid replacement therapy for opioid dependence", Cochrane Database Syst Rev(3), tr. Cd002209. 73. R. P. Mattick và các cộng sự. (2002), "Methadone maintenance therapy versus no opioid replacement therapy for opioid dependence", Cochrane Database Syst Rev(4), tr. Cd002209. x 74. E. F. McCance-Katz, L. E. Sullivan và S. Nallani (2010), "Drug interactions of clinical importance among the opioids, methadone and buprenorphine, and other frequently prescribed medications: a review", Am J Addict. 19(1), tr. 4-16. 75. W. H. McGlothlin và M. D. Anglin (1981), "Shutting off methadone. Costs and benefits", Arch Gen Psychiatry. 38(8), tr. 885-92. 76. D. S. Metzger và các cộng sự. (1993), "Human immunodeficiency virus seroconversion among intravenous drug users in- and out-of-treatment: an 18-month prospective follow-up", J Acquir Immune Defic Syndr. 6(9), tr. 1049-56. 77. R. Musa, A. Z. Abu Bakar và U. Ali Khan (2012), "Two-year outcomes of methadone maintenance therapy at a clinic in Malaysia", Asia Pac J Public Health. 24(5), tr. 826-32. 78. L. H. Nguyen và các cộng sự. (2017), "Adherence to methadone maintenance treatment and associated factors among patients in Vietnamese mountainside areas", Subst Abuse Treat Prev Policy. 12(1), tr. 31. 79. L. H. Nguyen và các cộng sự. (2017), "Quality of life and healthcare service utilization among methadone maintenance patients in a mountainous area of Northern Vietnam", Health Qual Life Outcomes. 15(1), tr. 77. 80. T. T. Nguyen và các cộng sự. (2012), "Methadone maintenance therapy in Vietnam: an overview and scaling-up plan", Adv Prev Med. 2012, tr. 732484. 81. L. Pang và các cộng sự. (2007), "Effectiveness of first eight methadone maintenance treatment clinics in China", Aids. 21 Suppl 8, tr. S103-7. xi 82. E. Peles và các cộng sự. (2008), "One-year and cumulative retention as predictors of success in methadone maintenance treatment: a comparison of two clinics in the United States and Israel", J Addict Dis. 27(4), tr. 11-25. 83. E. Peles, V. Rados và M. Adelson (2007), "Characterization of former heroin addict patients with Hepatitis C virus antibodies in a methadone maintenance treatment (MMT) clinic in israel", Subst Use Misuse. 42(9), tr. 1477-84. 84. E. Peles, S. Schreiber và M. Adelson (2006), "Factors predicting retention in treatment: 10-year experience of a methadone maintenance treatment (MMT) clinic in Israel", Drug Alcohol Depend. 82(3), tr. 211-7. 85. E. Pisani và các cộng sự. (2003), "Sexual behavior among injection drug users in 3 indonesian cities carries a high potential for HIV spread to noninjectors", J Acquir Immune Defic Syndr. 34(4), tr. 403-6. 86. J. Premila Devi và các cộng sự. (2012), "The Effectiveness of Methadone Maintenance Therapy Among Opiate - Dependants Registered with Hospital Raja Perempuan Zainab II Kota Bharu, Kelantan", Malays J Med Sci. 19(4), tr. 17-22. 87. V. M. Quan và các cộng sự. (2009), "Risks for HIV, HBV, and HCV infections among male injection drug users in northern Vietnam: a case-control study", AIDS Care. 21(1), tr. 7-16. 88. H. M. Rhoades và các cộng sự. (1998), "Retention, HIV risk, and illicit drug use during treatment: methadone dose and visit frequency", Am J Public Health. 88(1), tr. 34-9. xii 89. P. Roux và các cộng sự. (2014), "Predictors of non-adherence to methadone maintenance treatment in opioid-dependent individuals: implications for clinicians", Curr Pharm Des. 20(25), tr. 4097-105. 90. R. Sarasvita và các cộng sự. (2012), "Predictive factors for treatment retention in methadone programs in Indonesia", J Subst Abuse Treat. 42(3), tr. 239-46. 91. I. Schafer và các cộng sự. (2010), "Effects of psychiatric comorbidity on treatment outcome in patients undergoing diamorphine or methadone maintenance treatment", Psychopathology. 43(2), tr. 88-95. 92. M. Schiff, S. Levit và R. C. Moreno (2007), "Retention and illicit drug use among methadone patients in Israel: a gender comparison", Addict Behav. 32(10), tr. 2108-19. 93. C. M. Schumacher và các cộng sự. (2009), "Social injecting and other correlates of high-risk sexual activity among injecting drug users in northern Vietnam", Int J Drug Policy. 20(4), tr. 352-6. 94. H. Stocker và các cộng sự. (2004), "Nevirapine significantly reduces the levels of racemic methadone and (R)-methadone in human immunodeficiency virus-infected patients", Antimicrob Agents Chemother. 48(11), tr. 4148-53. 95. C. J. Strike và các cộng sự. (2005), "Factors predicting 2-year retention in methadone maintenance treatment for opioid dependence", Addict Behav. 30(5), tr. 1025-8. 96. S. G. Sullivan và các cộng sự. (2014), "Continued drug use during methadone treatment in China: a retrospective analysis of 19,026 service users", J Subst Abuse Treat. 47(1), tr. 86-92. 97. D. C. Thanh, K. M. Moland và K. Fylkesnes (2009), "The context of HIV risk behaviours among HIV-positive injection drug users in Viet xiii Nam: moving toward effective harm reduction", BMC Public Health. 9, tr. 98. 98. S. Uhlmann và các cộng sự. (2010), "Methadone maintenance therapy promotes initiation of antiretroviral therapy among injection drug users", Addiction. 105(5), tr. 907-13. 99. H. Van Nguyen và các cộng sự. (2017), "Stigmatization among methadone maintenance treatment patients in mountainous areas in northern Vietnam", Harm Reduct J. 14(1), tr. 1. 100. R. Wang và các cộng sự. (2015), "Illicit Heroin and Methamphetamine Use among Methadone Maintenance Treatment Patients in Dehong Prefecture of Yunnan Province, China", PLoS One. 10(7), tr. e0133431. 101. X. Wei và các cộng sự. (2013), "A study of 6-year retention in methadone maintenance treatment among opioid-dependent patients in Xi'an", J Addict Med. 7(5), tr. 342-8. 102. L. Xiao và các cộng sự. (2010), "Quality of life of outpatients in methadone maintenance treatment clinics", J Acquir Immune Defic Syndr. 53 Suppl 1, tr. S116-20. 103. L. Zhang và các cộng sự. (2013), "Methadone maintenance treatment participant retention and behavioural effectiveness in China: a systematic review and meta-analysis", PLoS One. 8(7), tr. e68906. 104. K. Zhou và các cộng sự. (2017), "Relationships between received and perceived social support and health-related quality of life among patients receiving methadone maintenance treatment in Mainland China", Subst Abuse Treat Prev Policy. 12(1), tr. 33. 105. Alan I L (1998), "Addiction is a brain disease and it matters", National Institute of Justice Journal. xiv 106. J. C. Ball và A. Ross (1991), "The effectiveness of methadone maintenance treatment: Patients, programs, services, and outcome", New York, NY, US: Springer-Verlag Publishing. 107. John C. Ball và các cộng sự. (1988), "Reducing the Risk of AIDS Through Methadone Maintenance Treatment", Journal of Health and Social Behavior. 29(3), tr. 214-226. 108. X. B. Cao và các cộng sự. (2012), "Characteristics and associated factors of long-term retention for methadone maintenance treatment patients", Zhonghua Yu Fang Yi Xue Za Zhi. 46(11), tr. 995-8. 109. Wen Chen và các cộng sự. (2013), "Predictors of continued HIV-risk behaviors among drug users in methadone maintenance therapy program in China--a prospective study", Harm reduction journal. 10, tr. 23-23. 110. Wayne Hall (1996), "Methadone Maintenance Treatment as a Crime Control Measure", Crime and Justice Bulletin. 29. 111. Harm Reduction International (2014), The Global State of Harm Reduction 2014. 112. Harm Reduction International (2010), The Global State of Harm Reduction 2010, key issues for broadening the response. 113. Tran Vu Hoang và các cộng sự. (2015), "Impact of a methadone maintenance therapy pilot in Vietnam and its role in a scaled-up response", Harm Reduction Journal. 12(1), tr. 39. 114. John P. Walters (2001), Drug Treatment in the Criminal Justice System, Office of National Drug Control Policy. 115. Nasir Mohamad và các cộng sự. (2010), "Better retention of Malaysian opiate dependents treated with high dose methadone in methadone maintenance therapy", Harm reduction journal. 7, tr. 30-30. xv 116. D. Dwayne Simpson (1993), "Drug treatment evaluation research in the United States", Psychology of Addictive Behaviors. 7(2), tr. 120-128. 117. D. Dwayne Simpson và S. B. Sells (1982), "Effectiveness of treatment for drug abuse", Advances in Alcohol & Substance Abuse. 2(1), tr. 7-29. 118. D. Simpson và George Joe (1993), Motivation as a predictor of early dropout from drug abuse treatment, Vol. 30, 357-368. 119. Son V. H (2009), Risk behavior among injecting drug users in Thanh Hoa province, Vietnam, 3rd International Conference on Reproductive Health and Social Sciences Research. Bangkok: Mahidol University. 120. The College of Physicians of Ontario (2005), Methadone maintenance guidelines. 121. The World Bank (2015), GDP per capita (current US$). 122. Bach Xuan Tran và các cộng sự. (2016), "Health status and health service utilization in remote and mountainous areas in Vietnam", Health and quality of life outcomes. 14, tr. 85-85. 123. Bach Xuan Tran và các cộng sự. (2012), "Multilevel predictors of concurrent opioid use during methadone maintenance treatment among drug users with HIV/AIDS", PloS one. 7(12), tr. e51569-e51569. 124. Trung Nam Tran và các cộng sự. (2004), "Drug use, sexual behaviours and practices among male drug users in Hanoi, Vietnam—a qualitative study", International Journal of Drug Policy. 15(3), tr. 182-188. 125. U.S. Department of health and human services (2005), Medication Assisted Treatment For Opioid Addiction in Opioid Treatment Programs. 126. UNODC (2014), World Drug Report 2014. 127. VM Nong và các cộng sự. (2014), A retrospective cohort study of adherence, retention, and concurrent opioid use among methadone xvi maintenance treatment patients in Vietnam, The 20th International AIDS Conference. 128. World Health Organization (WHO) (2012), Guidance on prevention of viral Hepatitis B and C among People who inject drugs. 129. World Health Organization (WHO) (2010), ICD 10 (1). 130. World Health Organization (WHO) The World Health Organization Quality of Life (WHOQOL). 131. World Health Organization (WHO), United Nations Office on Drugs and Crime (UNODC) và The Joint United Nations Programme on HIV/AIDS (UNAIDS) (2012), Technical guide for countries to set targets for universal access to HIV prevention, treatment and care for injecting drug users. xvii Phụ lục 1: Bảng biến số và chỉ số nghiên cứu Phƣơng Phân loại TT Biến số Khái niệm pháp thu biến số thập Đặc điểm thông tin nhân khẩu học Thông tin chung 1 Giới tính Nhị phân Đối tượng là nam
giới hay nữ giới Phỏng
vấn 2 Tuổi Định lượng,
liên tục Phỏng
vấn Tuổi tính theo năm
dương lịch đến thời
điểm điều tra 3 Dân tộc Định danh Dân tộc hiện tại của
đối tượng nghiên cứu Phỏng
vấn Trình độ học vấn và việc làm 4 Trình độ học vấn Thứ bậc Phỏng
vấn Cấp học cao nhất của
đối tượng nghiên cứu
(theo Bộ GD-ĐT) 5 Nghề nghiệp Định danh Phỏng
vấn Nghề nghiệp hiện tại
của đối tượng nghiên
cứu. 6 Công việc ổn định Nhị phân Công việc hiện tại có
ổn định hay không Phỏng
vấn 7 Thu nhập cá nhân Nhị phân Có hay không có thu
nhập cá nhân Phỏng
vấn xviii Phƣơng Phân loại TT Biến số Khái niệm pháp thu biến số thập 8 Thu nhập hiện tại Định danh/
định lượng Phỏng
vấn Nguồn thu nhập
chính/ số tiền cụ thể
/tháng Tình trạng hôn nhân, gia đình 9 Tình trạng hôn nhân Định danh Phỏng
vấn Tình trạng hôn nhân
hiện tại của đối tượng
nghiên cứu Định danh 10 Hiện sống với ai Phỏng
vấn Đối tượng hiện đang
sống với người thân
(bố mẹ, vợ, con, anh
chị, bạn bè, người
yêu) hoặc sống một
mình. Có/không Nhị phân 11 Phỏng
vấn Có sống chung với
người sử dụng ma
túy không Định danh 12 Trả lời theo 7 nhóm
đối tượng Phỏng
vấn Nếu có sống chung
với người nghiện
ma túy thì đó là ai Mâu thuẫn bất đồng trong cuộc sống Nhị phân 13 Có hay không có mâu
thuẫn, bất đồng Phỏng
vấn Mâu thuẫn, bất
đồng trong cuộc
sống xix Phƣơng Phân loại TT Biến số Khái niệm pháp thu biến số thập 14 Định danh Phỏng
vấn Mâu thuẫn, bất
đồng trong cuộc
sống với ai Chọn lựa trả lời theo
9 nhóm Mâu thuẫn trong gia đình Định danh 15 Trả lời theo 8 hành vi
liên quan Phỏng
vấn Đã có hành vi lừa
dối trong gia đình
để lấy tiền từ trước
tới nay Định danh 16 Trả lời theo 8 hành vi
liên quan Phỏng
vấn Đã có hành vi lừa
dối trong gia đình
để lấy tiền trong 30
ngày qua Tiếp cận điều trị 17 Định danh Khoảng cách từ nhà
đến cơ sở điều trị Liệt kê các nhóm
khoảng cách (3 nhóm) Phỏng
vấn Định danh 18 Phỏng
vấn Liệt kê tên các phương
tiện Phương tiện dùng
để đi lại khi đến
uống thuốc hàng
ngày Sử dụng chất gây nghiện Tiền sử sử dụng ma túy xx Phƣơng Phân loại TT Biến số Khái niệm pháp thu biến số thập 19 Thời gian sử dụng
ma túy lần đầu tiên Năm bắt đầu sử dụng
ma túy của đối tượng Địnhlượng,
liên tục Phỏng
vấn 20 Định danh Loại ma túy sử
dụng lần đầu tiên Phỏng
vấn Liệt kê 11 loại ma túy
có thể đã sử dụng lần
đầu tiên 21 Định danh Các loại ma túy đã
từng sử dụng Phỏng
vấn Liệt kê 11 loại ma túy
đã sử dụng trước đây:
heroin, thuốc phiện,
hồng phiến, thuốc
lắc... 22 Định lượng Số lần sử dụng ma
túy theo ngày Phỏng
vấn Tần suất sử dụng
của từng loại ma
túy 23 Định danh Phỏng
vấn Hình thức sử dụng
của từng loại ma
túy Hình thức sử dụng:
Tiêm chích, hút, hít,
uống 24 Định lượng Phỏng
vấn Số tiền trung bình
mua ma túy (theo
ngày) Số tiền bệnh nhân bỏ
ra để mua ma túy sử
dụng Tiền sử về các hình thức cai nghiện ma túy đã từng tham gia 25 Đã từng cai nghiện Nhị phân Có hay chưa lần nào
cai nghiện Phỏng
vấn 26 Số lần cai nghiện Tính số lần đã từng đi Liên tục Phỏng xxi Phƣơng Phân loại TT Biến số Khái niệm pháp thu biến số thập cai nghiện vấn 27 Lý do tái nghiện Nêu 4 nhóm lý do Định danh Phỏng
vấn 28 Thời gian tái nghiện Liên tục Phỏng
vấn Thời gian (tháng) từ
khi cai nghiện đến
khi tái nghiện tháng 29 Định danh Hình thức cai
nghiện gần đây nhất Nêu 6 hình thức khác
nhau Phỏng
vấn 30 Định danh Lần cai nghiện gần
nhất Thời gian cai nghiện
gần nhất Phỏng
vấn 31 Liên tục Tổng thời gian sử
dụng ma túy Thời gian nghiện tính
bằng năm Phỏng
vấn 32 Nhị phân Tiền sử có shock
khi sử dụng ma tuý Phỏng
vấn Có hay chưa có lần bị
shock khi sử dụng ma
túy Tiền sử về hành vi nguy cơ cao 33 Nhị phân Hành vi sử dụng lại
BKT của người khác Phỏng
vấn Đã từng sử dụng
chung BKT khi
TCMT 34 Nhị phân Xét nghiệm nước
tiểu dương tính với
ma túy Tỷ lệ xét nghiệm
nhanh nước tiểu
dương tính với ma
túy trên tổng số Lấy nước
tiểu bệnh
nhân làm
XN xxii Phƣơng Phân loại TT Biến số Khái niệm pháp thu biến số thập người xét nghiệm Hành vi sử dụng chất gây nghiện trong 30 ngày qua 35 Định danh Phỏng
vấn Loại ma túy sử
dụng trong vòng 30
ngày qua Liệt kê 11 loại ma túy
có thể sử dụng trong
30 ngày qua: heroin,
thuốc phiện, hồng
phiến, thuốc lắc... 36 Định lượng Số lần sử dụng ma
túy theo ngày Phỏng
vấn Tần suất sử dụng
ma túy trong 30
ngày qua 37 Định danh Phỏng
vấn Hình thức sử dụng
ma túy trong 30
ngày qua Hình thức sử dụng:
Tiêm chích, hút, hít,
uống 38 Có hoặc không Nhị phân Phỏng
vấn Hành vi sử dụng lại
bơm kim tiêm trong
30 ngày qua Hành vi sử dụng chất kích thích khác 39 Hành vi hút thuốc lá Có hoặc không Nhị phân Phỏng
vấn 40 Định danh Liệt kê các mức độ sử
dụng theo tần suất Phỏng
vấn Tần suất sử dụng
rượu, bia, đồ uống
có cồn xxiii Phƣơng Phân loại TT Biến số Khái niệm pháp thu biến số thập 41 Định danh Liệt kê các mức độ sử
dụng Phỏng
vấn Số lượng sử dụng
trung bình trong
ngày Hành vi quan hệ tình dục 42 Quan hệ tình dục Nhị phân Đối tượng nghiên cứu
đã từng có QHTD Phỏng
vấn 43 Lần quan hệ tình
dục gần đây nhất Thời gian QHTD lần
gần nhất Định danh,
thứ bậc Phỏng
vấn 44 Nhị phân Sử dụng BCS lần
QHTD gần đây nhất Phỏng
vấn Hành vi sử dụng BCS
lần QHTD gần đây
nhất của đối tượng
nghiên cứu 45 Nhị phân Quan hệ tình dục
với GMD Phỏng
vấn Đối tượng nghiên cứu
đã từng có QHTD
với GMD 46 Định lượng,
liên tục Phỏng
vấn Số lần QHTD với
GMD trong 30 ngày
qua Số lần QHTD với
GMD trong 30 ngày
qua của đối tượng
nghiên cứu 47 Thứ bậc Liệt kê mức độ sử
dụng BCS khi QHTD Phỏng
vấn Tần suất sử dụng
BCS khi QHTD với
GMD trong 30 ngày
qua 48 Quan hệ tình dục Đối tượng nghiên cứu Nhị phân Phỏng xxiv Phƣơng Phân loại TT Biến số Khái niệm pháp thu biến số thập với GMD có TCMT đã từng có QHTD vấn với GMD có TMCT 49 Thứ bậc Phỏng
vấn Tần suất sử dụng
BCS khi QHTD với
GMD có TCMT
trong vòng 30 ngày
qua Mức độ đối tượng
Nghiên cứu sử dụng
BCS trong QHTD với
GMD có TCMT (3
mức độ) Tình trạng sức khỏe, chất lƣợng cuộc sống 50 Định danh Liệt kê các bệnh
thường gặp Phỏng
vấn Có mắc một số
bệnh thường gặp
trên người NCMT 51 Thứ bậc Tự đánh giá theo 5 cấp
độ Phỏng
vấn Đánh giá chất lượng
cuộc sống 52 Thứ bậc Tự đánh giá theo 5 cấp
độ Phỏng
vấn Đánh giá mức độ
hài lòng với sức
khỏe của mình 53 Thứ bậc Tự đánh giá theo 5 cấp
độ Phỏng
vấn Tình trạng sức khỏe
trong 2 tuần qua 54 Khả năng lao động Danh mục Phỏng
vấn Tự đánh giá theo các
mức độ xxv Phụ lục 2: BỘ CÂU HỎI PHỎNG VẤN BỆNH NHÂN METHADONE (1. Lai Châu 2. Điện Biên 3. Yên Bái) (1. Lai Châu 2. Phong Th 3. Noong Bua 4. Thanh Xư ng 5. Nghĩa Lộ 6. Tp. Yên Bái) (Mã tỉnh/Mã CS/Mã nghiên cứu A1 Ngày phỏng vấn Ngày / Tháng / Năm A2 Thời gian bắt đầu phỏng vấn Giờ / phút A3 Thời gian kết thúc phỏng vấn Giờ / phút A4 Họ tên cán bộ phỏng vấn Chữ ký xxvi 1 PHẦN I: THÔNG TIN CHUNG Ngày / Tháng / Năm Giới tính 2 1. Nam
2. Nữ Bạn thuộc dân tộc nào? Điền mã số tư ng ứng 3 xxvii PHẦN II: TRÌNH ĐỘ HỌC VẤN VÀ VIỆC LÀM Trình độ học vấn (lớp cao nhất đã đạt được)? 0. Trình độ 0 = Không đi học 1. Trình độ 1 = Tiểu học: lớp 1-5 2. Trình độ 2 = TH cơ sở: lớp 6-9 5 Điền mã số tư ng ứng 3. Trình độ 3 = THPT: lớp 10-12 4. Trình độ 4 = Trung cấp/ Dạy nghề (1-2 năm) 5. Trình độ 5= Cao đẳng/ Đại học (3-6 năm) 6. Trình độ 6 = Sau đại học (Thạc sỹ, Tiến sĩ) Nghề nghiệp hiện nay của bạn là gì? 7 Điền mã số tư ng ứng 1. Thất nghiệp
2. Lao động tự do
3. Làm ruộng
4. Công nhân
5. Cán bộ, công chức
6. Lái xe
7. Dịch vụ, nhà hàng
8. Học sinh, sinh viên
9. Khác- ghi rõ(………....................................) Công việc hiện tại của bạn có ổn định không? 8 1. Có 2. Không Điền mã số tư ng ứng Bạn có thu nhập cá nhân không? Điền mã số tư ng ứng 9 1. Có C. Thu nhập 2. Không 10 Thu nhập hiện tại của bạn? xxviii Tình trạng hôn nhân hiện nay của bạn: 1- Độc thân (chưa bao giờ kết hôn) 2- Đã kết hôn 3- Tái hôn 6 4- Sống cùng bạn tình nhưng chưa kết hôn PHẦN III: TÌNH TRẠNG GIA ĐÌNH/XÃ HỘI 5- Ly thân 6- Ly hôn 7- Góa Bạn đang sống với ai? 1- Có 2- Không 1. Bố 2. Mẹ 3. Vợ 4. Con 5. Anh, chị, em 12 6. Họ hàng 7. Bạn bè 8. Người yêu/bạn tình 9. Một mình 10. Không ổn định Những người sống cùng bạn có ai sử dụng ma túy không? 13 1. Có 2. Không 1- Có 2- xxix Không 1- Bố và/hoặc mẹ 2- Vợ 3- Con 14 4- Anh, chị, em 5- Họ hàng 6- Bạn bè 7- Người yêu/bạn tình Trong cuộc sống bạn có mâu thuẫn, bất đồng với ai không? 1. Có 15 Điền mã số tư ng ứng 2. Không 1. Mẹ 2. Bố 16 3. Vợ 4. Con cái 5. Anh, chị, em 6. Họ hàng 7. Bạn bè 8. Hàng xóm 9. Người khác- ghi rõ xxx (………....................................) PHẦN IV: TÌNH TRẠNG VI PHẠM PHÁP LUẬT Bạn đã từng có hành vi sau trong gia đình không?
(1- Có; 2- Không) 1. Bán đồ dùng của bản thân 2. Cầm đồ dùng của bản thân 3. Nói dối gia đình để có tiền mua ma túy 17 4. Lấy tiền của gia đình 5. Bán đồ đạc của gia đình 6. Cầm đồ đạc của gia đình 7. Đe dọa cưỡng ép người thân 8. Tiền án/tiền sự xxxi Khoảng cách từ nhà bạn đến cơ sở điều trị là bao xa? 74 1. < 5km Điền mã số tư ng ứng 2. 5-10 km 3. > 10km Bạn đến cơ sở điều trị bằng phương tiện nào? 1. Xe đạp 75 Điền mã số tư ng ứng 2. Xe máy 3. Ô tô 4. Khác (ghi rõ: ......................) PHẦN V: TIẾP CẬN ĐIỀU TRỊ xxxii Lần đầu tiên bạn sử dụng bất kì loại ma túy nào là khi bạn (Tuổi) bao nhiêu tuổi? 18 (Hoặc năm bắt đầu sử dụng) 1. Heroin 2. Morphin 3. Thuốc phiện 4. Amphetamines/Methamphetamin 5. Thuốc lắc 19 6. Cần sa 7. Tài mà 8. Dorlagan 9. Phenobarbital (thuốc ngủ) 10. Benzodiazepam (Seduxen) 11. Khác- ghi rõ (………....................................) nghiện nào dưới đây và theo hình thức nào? 0. Không sử dụng; 1. Uống Cắn ; 2. ít; 3. út; 4. Tiêm dưới da; 5. Tiêm chích trực tiếp vào ven . C thể chọn nhiều loại chất gây nghiện đã từng sử dụng . 1. Heroin 20 2. Morphin 3. Thuốc phiện 4. Amphetamines/Methamphetamin 5. Thuốc lắc 6. Cần sa 7. Tài mà 8. Thuốc ngủ (Dorlagan, Phenobarbital, Seduxen) 9. Khác- ghi rõ (………....................................) Khi tiêm chích ma túy, bạn đã bao giờ sử dụng lại BKT mà người khác đã hoặc vừa sử dụng không? 22 1. Có xxxiii 2. Không 3. Không tiêm chích ma túy Bạn đã bao giờ cai nghiện ma túy chưa? 1. Có 23 2. Không Nếu có, bạn đã bao nhiêu lần tham gia cai nghiện ma túy? 1. Cai nghiện tập trung tại TT 06 2. Cai nghiện tại cơ sở tư nhân 24 3. Cắt cơn tại cộng đồng (Y tế công) 4. Tự mua thuốc cai 5. Cai khan (không dùng thuốc) 6. Khác- ghi rõ (………...................................) 25 Tháng/Năm 26 Điền mã số tư ng ứng 1. Cai nghiện tập trung tại trung tâm
2. Cai nghiện tại cơ sở tư nhân
3. Cắt cơn tại cộng đồng (Y tế công)
4. Tự mua thuốc cai
5. Cai khan (không dùng thuốc)
6. Khác- ghi rõ(………...................................) Lý do tái nghiện của bạn là gì? (1- Có; 2- Không) 1. Bạn bè rủ rê 27 2. Thèm muốn ma túy 3. Buồn chán, thất vọng 4. Khác-ghi rõ (………...................................) Thời gian từ khi cai nghiện đến khi tái nghiện: Dài nhất 28 Ngắn nhất xxxiv 29 lâu? Năm / tháng Bạn đã bao giờ bị shock do sử dụng ma túy quá liều chưa? 1. Có 30 2. Không III. Hành vi sử dụng ma túy trong 30 ngày qua 0. Không dùng; 1. Uống Cắn ; 2. ít; 3. út; 4. Tiêm dưới da; 5. Tiêm chích trực tiếp vào ven . Có thể chọn nhiều loại chất gây nghiện đã từng sử dụng . 21 1. Heroin ) (Nếu ít hơn 1 lần/ngày, ghi số lần/tháng
2. Morphin ) (Nếu ít hơn 1 lần/ngày, ghi số lần/tháng
3. Thuốc phiện (Nếu ít hơn 1 lần/ngày, ghi số lần/tháng ) 4. Amphetamines/Methamphetamin ) (Nếu ít hơn 1 lần/ngày, ghi số lần/tháng
5. Thuốc lắc ) (Nếu ít hơn 1 lần/ngày, ghi số lần/tháng
6. Cần sa ) (Nếu ít hơn 1 lần/ngày, ghi số lần/tháng
7. Tài mà ) (Nếu ít hơn 1 lần/ngày, ghi số lần/tháng
8. Thuốc ngủ (Dorlagan, Phenobarbital, Seduxen) )
(Nếu ít hơn 1 lần/ngày, ghi số lần/tháng
9. Khác- ghi rõ (………....................................) (Nếu ít hơn 1 lần/ngày, ghi số lần/tháng ) Số tiền trung bình bạn phải chi trả cho 1 lần dùng chất ma xxxv túy là bao nhiêu? 33 Hiện tại, bạn có hút thuốc lá không? 1. Có 36 Điền mã số tư ng ứng 2. Không cồn thường xuyên không? 1. 1-2 lần/tháng 2. 1-2 lần/tuần 37 3. 3-4 lần/tuần 4. 1 lần/ngày 5. >2 lần/ngày 6. Không uống 38 0. Không uống rượu 1. Thỉnh thoảng uống rượu 2. 25 ml/ngày (chén nhỏ) 3. 50-100 ml/ngày (chén lớn) Điền mã số tư ng ứng 4. 250 ml/ngày 5. 500 ml/ngày 6. >500ml/ngày xxxvi xxxvii Bạn đã từng quan hệ tình dục bao giờ chưa? 1. Có 2. Không 60 Bao gồm cả quan hệ tình dục qua âm đạo và qua hậu môn. 1. Trong vòng 6 tháng qua 2. Từ 06-12 tháng 61 3. Trên 12 tháng qua 4. Chưa bao giờ không? Điền mã số tư ng ứng 1. Có 62 2. Không 9. Không nhớ xxxviii Bạn đã từng QHTD với phụ nữ bán dâm chưa? Điền mã số tư ng ứng 63 1. Có 2. Không 3. Không nhớ/Không trả lời Số lần quan hệ tình dục QHTD với phụ nữ bán dâm bao 64 nhiêu lần? thường xuyên sử dụng BCS khi QHTD với phụ nữ bán dâm không? 65 1. Tất cả các lần Điền mã số tư ng ứng 2. Lúc có lúc không 3. Không bao giờ Bạn đã từng QHTD với phụ nữ mại dâm có tiêm chích chưa? 66 1. Có 2. Không 3. Không biết dụng BCS khi QHTD không? 1. Tất cả các lần 67 2. Lúc có lúc không Điền mã số tư ng ứng 3. Không bao giờ xxxix Bạn đã bao giờ bị các bệnh dưới đây chưa? Mã câu trả lời cho từng bệnh: 1. C 2. Không 3. Không trả lời 7.1. Viêm gan B Điền mã số tư ng ứng 7.2. Viêm gan C 7.3. Nhiễm trùng cơ hội Điền mã số tư ng ứng 7.4. Điều trị ARV M7 7.5. Bệnh khác (ghi rõ ..................................) Điền mã số tư ng ứng Điền mã số tư ng ứng Điền mã số tư ng ứng xl Rất xấu Xấu Tốt Rất tốt Trung
bình 1 3 4 5 2 1. Bạn đánh giá chất lƣợng cuộc sống của bạn
ở mức độ nào? Rất không
hài lòng Không
hài lòng Bình
thường Hài
lòng Rất hài
lòng 1 3 4 5 2 2. Bạn hài lòng với sức khỏe của mình ở mức
độ nào? Không Nhiều Ít Trung
bình Rất
nhiều 1 2 3 4 5 3. Khi bị đau đớn trong cơ thể thì những cơn
đau đó cản trở đến việc mà bạn muốn làm ở
mức độ nào? 1 3 4 5 2 4. Để có thể hoạt động bình thường trong cuộc
sống hàng ngày, bạn cần được uống thuốc hoặc
điều trị nhiều ở mức độ nào? 1 3 4 5 2 5. Bạn thấy thích thú với cuộc sống của bạn ở
mức độ nào? 1 3 4 5 2 6. Bạn thấy cuộc sống của bạn có ý nghĩa nhiều
ở mức độ nào? Kém Tốt Rất tốt Tương
đối 1 5 2 3 4 7. Khi làm việc gì đó thì bạn có khả năng tập
trung ở mức độ nào? 1 5 2 3 4 8. Bạn thấy yên tâm với cuộc sống hàng ngày
của bạn ở mức độ nào? 1 2 3 4 5 9. Bạn thấy môi trường tự nhiên nơi bạn sống
trong lành ở mức độ nào? Một chút Gần đủ xli Không
chút nào Tương
đối Hoàn
toàn đủ 1 2 3 4 5 10. Bạn có đủ sức lực cho các hoạt động trong
cuộc sống hàng ngày ở mức độ nào? 12. Bạn có đủ tiền để trang trải các nhu cầu của 1 2 3 4 5 mình ở mức độ nào? Không
hài lòng Bình
thường Hài lòng Rất hài
lòng Rất
không
hài lòng 1 2 3 4 5 11. Bạn bằng lòng với ngoại hình của bạn ở
mức độ nào? Khá dễ Dễ dàng Khá khó
khăn Rất dễ
dàng Không
dễ chút
nào 1 2 3 4 5 13.Đối với những thông tin (tin tức) muốn tìm
hiểu, bạn có thể tìm kiến được dễ dàng ở mức
độ nào? 1 2 3 4 5 14. Bạn có cơ hội được giải trí nhiều như bạn
muốn không? 1 2 3 4 5 15. Việc đi lại (vận động đi tới đi lui) của bạn
dễ dàng ở mức độ nào? Không
hài lòng Bình
thường Hài lòng Rất hài
lòng Rất
không
hài lòng 1 2 3 4 5 16. Bạn hài lòng với giấc ngủ của bạn ở mức độ
nào? 1 2 3 4 5 17. Bạn hài lòng với khả năng thực hiện các
hoạt động hàng ngày của bạn ở mức độ nào? 1 2 3 4 5 18. Bạn hài lòng với khả năng làm việc của bạn
ở mức độ nào? 1 2 3 4 5 19. Bạn hài lòng với bản thân mình ở mức độ
nào? Bình
thường Hài lòng xlii Rất
không
hài lòng Không
hài lòng Rất hài
lòng 1 2 3 4 5 20. Bạn hài lòng với các mối quan hệ cá nhân
của bạn ở mức độ nào? 1 2 3 4 5 1 2 3 4 5 22. Bạn hài lòng với mức độ hỗ trợ của bạn bè ở
mức độ nào? 1 2 3 4 5 23. Trong hai tuần qua, bạn hài lòng với những
tiện nghi nơi bạn sống ở mức độ nào? 1 2 3 4 5 24. Bạn hài lòng với khả năng sử dụng được các
dịch vụ y tế mà bạn cần ở mức độ nào? 1 2 3 4 5 25. Bạn hài lòng như thế nào đối phương tiện di
chuyển của bạn? Ít khi Không
bao giờ Thỉnh
thoảng Thường
xuyên Luôn
luôn 1 2 3 4 5 26. Bạn có thường xuyên có những tâm trạng
tiêu cực như chán nản, tuyệt vọng, lo âu, trầm
cảm không? Xin trân trọng cám ơn bạn đã tham gia trả lời câu hỏi! xliii CÂU HỎI PHỎNG VẤN SÂU LÃNH ĐẠO CƠ SỞ ĐIỀU TRỊ 1. Anh/Chị cho biết vị trí làm việc hiện nay trong cơ sở điều trị Methadone, Anh/Chị đã làm công tác này được bao lâu? Trình độ cơ bản của Anh/chị là gì? Anh/Chị đã tham gia các khóa học nào về điều trị nghiện? 2. Theo Anh/Chị chương trình điều trị Methadone hiện nay gặp các khó khăn, thuận lợi gì? Theo Anh/Chị cần làm gì để khắc phục các khó khăn đó? 3. Anh/Chị có gặp khó khăn gì trong công tác không? Đó là những khó khăn gì? 4. Mô hình tổ chức điều trị hiện nay như thế nào? Có phù hợp với địa phương không? Nếu cần cải thiện thì phải làm như thế nào? 5. Theo Anh/Chị chương trình methadone mang lại những kết quả gì? Có những hạn chế gì? Đó là những hạn chế nào? 6. Anh/Chị thấy bệnh nhân tham gia điều trị thay đổi như thế nào? Có nhiều trường hợp vẫn sử dụng ma túy trong quá trình điều trị không? Theo A/C là vì sao? Để giảm việc sử dụng ma túy trong quá trình điều trị cần làm gì? 7. Theo Anh/Chị có nhiều bệnh nhân bỏ trị không? Vì sao? Anh/chị có liên hệ với bệnh nhân để tìm hiểu lý do không? Đó là những nguyên nhân nào? Nguyên nhân nào là chủ yếu? để giảm tỷ lệ bỏ trị cần phải làm gì? 8. Anh/chị có đề xuất gì để cải thiện chất lượng dịch vụ điều trị không?Và có kiến nghị gì cho Sở Y tế, Bộ Y tế? xliv CÂU HỎI PHỎNG VẤN SÂU BÁC SĨ ĐIỀU TRỊ 1. Anh/Chị cho biết vị trí làm việc hiện nay trong cơ sở điều trị Methadone, Anh/Chị đã làm công tác này được bao lâu? Trình độ cơ bản của Anh/chị là gì? Anh/Chị đã tham gia các khóa học nào về điều trị nghiện? 2. Theo Anh/Chị chương trình điều trị Methadone hiện nay gặp các khó khăn, thuận lợi gì? Theo Anh/Chị cần làm gì để khắc phục các khó khăn đó? 3. Anh/Chị có gặp khó khăn gì trong công tác không? Đó là những khó khăn gì? 4. Mô hình tổ chức điều trị hiện nay như thế nào? Có phù hợp với địa phương không? Nếu cần cải thiện thì phải làm như thế nào? 5. Theo Anh/Chị chương trình methadone mang lại những kết quả gì? Có những hạn chế gì? Đó là những hạn chế nào? 6. Anh/Chị thấy bệnh nhân tham gia điều trị thay đổi như thế nào? Có nhiều trường hợp vẫn sử dụng ma túy trong quá trình điều trị không? Theo Anh/Chị là vì sao? Để giảm việc sử dụng ma túy trong quá trình điều trị cần làm gì? 7. Theo Anh/Chị có nhiều bệnh nhân bỏ trị không? Vì sao? Anh/chị có liên hệ với bệnh nhân để tìm hiểu lý do không? Đó là những nguyên nhân nào? Nguyên nhân nào là chủ yếu? để giảm tỷ lệ bỏ trị cần phải làm gì? 8. Anh/chị có đề xuất gì để cải thiện chất lượng dịch vụ điều trị không?Và có kiến nghị gì cho Sở Y tế, Bộ Y tế? xlv CÂU HỎI PHỎNG VẤN SÂU TƢ VẤN VIÊN 1. Anh/Chị cho biết vị trí làm việc hiện nay trong cơ sở điều trị Methadone, Anh/Chị đã làm công tác này được bao lâu? Trình độ cơ bản của Anh/chị là gì? Anh/Chị đã tham gia các khóa học nào về điều trị nghiện? 2. Theo Anh/Chị chương trình điều trị Methadone hiện nay gặp các khó khăn, thuận lợi gì? Theo Anh/Chị cần làm gì để khắc phục các khó khăn đó? 3. Mô hình tổ chức điều trị hiện nay như thế nào? Có phù hợp với địa phương không? Nếu cần cải thiện thì phải làm như thế nào? 4. Theo Anh/Chị chương trình methadone mang lại những kết quả gì? Có những hạn chế gì? Đó là những hạn chế nào? 5. Anh/Chị thấy bệnh nhân tham gia điều trị thay đổi như thế nào? Có nhiều trường hợp vẫn sử dụng ma túy trong quá trình điều trị không? Theo A/C là vì sao? Với những trường hợp vẫn sử dụng ma túy thì Anh/Chị xử lý như thế nào? Để giảm việc sử dụng ma túy trong quá trình điều trị cần làm gì? 6. Anh/Chị thấy bệnh nhân tham gia điều trị thay đổi như thế nào? Có nhiều trường hợp vẫn sử dụng ma túy trong quá trình điều trị không? Theo Anh/Chị là vì sao? Để giảm việc sử dụng ma túy trong quá trình điều trị cần làm gì? 7. Theo Anh/Chị có nhiều bệnh nhân bỏ trị không? Vì sao? Anh/chị có liên hệ với bệnh nhân để tìm hiểu lý do không? Đó là những nguyên nhân nào? Nguyên nhân nào là chủ yếu? để giảm tỷ lệ bỏ trị cần phải làm gì? xlvi CÂU HỎI PHỎNG VẤN SÂU BỆNH NHÂN 1. Anh/Chị tham gia điều trị Methadone được lâu chưa? 2. Trước đây A/C hay sử dụng loại ma túy nào? 3. Anh/Chị cho biết liều đang dùng là bao nhiêu không? Khi uống thuốc thấy thế nào? Có gì khó chịu không? 4. Trong quá trình điều trị có thỉnh thoảng bỏ liều không? Vì sao? Đã bao giờ bỏ trị chưa? Vì sao? 5. Có thỉnh thoảng dùng thêm heroin hay chất gây nghiện khác không? Vì sao? 6. A/C đánh giá thế nào về cơ sở Methadone hiện nau: cơ sở vật chất, cán bộ y tế, địa điểm? thời gian uống thuốc? 7. Anh/Chị hài lòng gì về cơ sở điều trị, không hài lòng gì? 8. Anh chị được hỗ trợ những gì từ cơ sở điều trị? 9. Có yêu cầu gì đối với cơ sở điều trị không? xlvii CÂU HỎI THẢO LUẬN NHÓM BỆNH NHÂN 1. Anh/Chị tham gia điều trị Methadone được lâu chưa? 2. Trước đây A/C hay sử dụng loại ma túy nào? 3. Anh/Chị cho biết liều đang dùng là bao nhiêu không? Khi uống thuốc thấy thế nào? Có gì khó chịu không? 4. Trong quá trình điều trị có thỉnh thoảng bỏ liều không? Vì sao? Đã bao giờ bỏ trị chưa? Vì sao? Có ai liên hệ khi bỏ liều hoặc bỏ trị không? 5. Có thỉnh thoảng dùng thêm heroin hay chất gây nghiện khác không? Vì sao? 6. A/C đánh giá thế nào về cơ sở MMTnày: cơ sở VC, cán bộ y tế, địa điểm? thời gian uống thuốc? 7. Anh/Chị hài lòng gì về cơ sở điều trị, không hài lòng gì? 8. Anh chị được hỗ trợ những gì từ cơ sở điều trị? 9. Có yêu cầu gì đối với cơ sở điều trị không? xlviii CÂU HỎI PHỎNG VẤN SÂU NGƢỜI NHÀ BỆNH NHÂN 1. Người thân (con, chồng...) của Anh/Chị tham gia điều trị được lâu chưa? 2. Trước khi tham gia điều trị, con bác sử dụng ma túy gì? Bao lâu rồi? bác có những gì phiền muộn về con của mình? 3. Khi tham gia điều trị, bác có thấy con mình thay đổi gì không? Là những thay đổi nào? 4. Bác thấy cán bộ y tế ở đây thế nào? Có giúp đỡ gì cho con bác và gia đình bác không? Chính quyền địa phương có giúp gì không? 5. Bác thấy chương trình này có ưu, nhược điểm gì? Cần làm gì để khắc phục? xlix Phụ lục 3: Bảng quy đổi điểm CLCS 35 100 36 88 37
38
39
40 94
94
100
100Chƣơng 4
BÀN LUẬN
KẾT LUẬN
KHUYẾN NGHỊ
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CÔNG BỐ
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
MÃ SỐ BỆNH NHÂN:
MÃ TỈNH
MÃ CƠ SỞ ĐIỀU TRỊ
MÃ SỐ NGHIÊN CỨU:
Ngày sinh
Điền mã số tư ng ứng
1. Kinh
2. Hoa
3. Nùng
4. Dao
5. Mường
6. Tày
7. Thái
8. Khác -ghi rõ: (……………………..)
A. Trình độ học vấn
B. Việc làm
Nếu không (mã số bằng 2),
chuyển sang phần III
Số tiền (đồng):
,
,
Điền mã số tư ng ứng
Điền mã số tư ng ứng
Nếu không (MS bằng 2),
chuyển sang câu 15
Nếu có, đó là ai
( Tham khảo, kiểm tra và đối chiếu với câu 12)
Nếu không (MS bằng 2),
chuyển sang câu F7
Nếu có, bạn thường mâu thuẫn với ai? (1- Có; 2- Không)
Từ trƣớc
Trong 30
tới nay
ngày qua
Từ trƣớc
tới nay
Trong 30
ngày qua
PHẦN VI: VẤN ĐỀ SỬ DỤNG CHẤT GÂY NGHIỆN
I. Tiền sử sử dụng ma túy
Lần đó, bạn đã sử dụng loại ma túy nào?
Điền mã số tư ng ứng
Trước khi tham gia điều trị, bạn đã sử dụng những chất gây
Tần suất
sử dụng cao
Hình thức
sử dụng
nhất
(lần/ngày)
Điền mã số tư ng ứng
II. Tiền sử về các hình thức cai nghiện ma túy mà bạn đã tham gia
Điền mã số tư ng ứng
Nếu không (mã số bằng 2),
chuyển sang câu D11
(Trả lời tất cả các khả năng sau)
Số lần
Lần gần đây nhất, bạn cai nghiện là khi nào?
Lần đó, bạn sử dụng hình thức cai nghiện nào?
Năm/tháng/ngày
Cho đến nay, tổng số thời gian bạn sử dụng ma túy là bao
Điền mã số tư ng ứng
Nếu không (MS bằng 2),
chuyển sang phần III
Tần suất
Trong 30 ngày qua, bạn sử dụng chất gây nghiện nào
dưới đây và theo hình thức nào
(số lần/ngày)
Hình thức
sử dụng
Số tiền:
Lƣu ý: Số tiền 1 lần dùng có thể khác với số tiền một
lần mua
IV. Hành vi sử dụng các chất kích thích khác
Trong 30 ngày qua, bạn có sử dụng rượu, bia, đồ uống có
Điền mã số tư ng ứng
Nếu bệnh nhân không uống
(mã 6), chuyển sang phần VI
Một ngày, trung bình bạn uống bao nhiêu? (đối với rượu)
PHẦN VII: QUAN HỆ TÌNH DỤC
Điền mã số tư ng ứng
Nếu không (mã số bằng 2)
phần VIII
Lần gầy đây nhất, bạn quan hệ tình dục là khi nào?
Điền mã số tư ng ứng
Nếu chƣa bao giờ
(Mã số bằng 4)
phần VIII
Lần quan hệ tình dục đó, bạn có sử dụng bao cao su
A. Quan hệ tình dục với Gái mại dâm
Nếu câu trả lời là “không” hoặc “không nhớ/
không trả lời” (mã số bằng 2 hoặc 3)
phần B
Trong vòng 1 tháng qua, bạn
Không nhớ 99
Nếu không lần nào ghi: “00” câu 66
Trong 1 tháng qua, bạn có
Điền mã số tư ng ứng
Nếu câu trả lời là “không” hoặc “không biết” (mã
số bằng 2 hoặc 3) phần B
Nếu có, bạn có thường xuyên sử
PHẦN VIII: TÌNH TRẠNG SỨC KHỎE
I. Sức khỏe tổng quát
CHẤT LƢỢNG CUỘC SỐNG (Khoanh tròn số tƣơng ứng)
Câu hỏi: Trong hai tuần qua,…
Câu hỏi: Trong hai tuần qua,…
Không
Câu hỏi: Trong hai tuần qua,…
Câu hỏi: Trong hai tuần qua,…
Câu hỏi: Trong hai tuần qua,…
Câu hỏi: Trong hai tuần qua,…
Câu hỏi: Trong hai tuần qua,…
Câu hỏi: Trong hai tuần qua,…
21. Bạn hài lòng với đời sống tình dục của bạn ở
mức độ nào?
(nếu bệnh nhân nói không có, thì hỏi bệnh
nhân có hài lòng với tình trạng không có đó
không ?)
Câu hỏi: Trong hai tuần qua,…
Sức khoẻ thể chất
Sức khoẻ tâm thần
Quan hệ xã hội
Môi trƣờng
Điểm
gốc
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
Điểm
quy đổi
0
6
19
25
31
44
50
56
69
75
81
94
100
Điểm
gốc
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
26
27
28
29
30
Điểm
quy đổi
0
6
6
13
19
19
25
31
31
38
44
44
50
56
56
63
69
69
75
81
81
88
94
94
100
Điểm
gốc
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
26
27
28
29
30
31
32
33
34
Điểm
quy đổi
0
6
6
13
13
19
19
25
31
31
38
38
44
44
50
56
56
63
63
69
69
75
81
81
88
88
94
94
Điểm
gốc
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
26
27
28
29
30
31
32
33
34
35
Điểm
quy đổi
0
6
6
13
13
19
19
25
25
31
31
38
38
44
44
50
50
56
56
63
63
69
69
75
75
81
81
88