BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ Y TẾ

VIỆN VỆ SINH DỊCH TỄ TRUNG ƢƠNG

-----------------*-------------------

NGUYỄN THỊ MINH TÂM

HIỆU QUẢ ĐIỀU TRỊ

NGHIỆN CHẤT DẠNG THUỐC PHIỆN

BẰNG THUỐC METHADONE TẠI TỈNH

ĐIỆN BIÊN, LAI CHÂU VÀ YÊN BÁI, 2014-2015

LUẬN ÁN TIẾN SỸ Y TẾ CÔNG CỘNG

HÀ NỘI - 2018

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ Y TẾ

VIỆN VỆ SINH DỊCH TỄ TRUNG ƢƠNG

-----------------*-------------------

NGUYỄN THỊ MINH TÂM

HIỆU QUẢ ĐIỀU TRỊ

NGHIỆN CHẤT DẠNG THUỐC PHIỆN

BẰNG THUỐC METHADONE TẠI TỈNH ĐIỆN BIÊN,

LAI CHÂU VÀ YÊN BÁI, 2014-2015

Chuyên ngành: Y tế công cộng

Mã số: 62.72.03.01

LUẬN ÁN TIẾN SỸ CHUYÊN NGÀNH: Y TẾ CÔNG CỘNG

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: 1. GS.TS. Nguyễn Thanh Long

2. PGS.TS. Nguyễn Thị Lan Anh

HÀ NỘI- 2018

i

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan công trình nghiên cứu “Hiệu quả điều trị nghiện

chất dạng thuốc phiện bằng thuốc Methadone tại tỉnh Điện Biên, Lai

Châu và Yên Bái, 2014-2015” là của riêng tôi.

Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực và chưa được công

bố trong bất kỳ một công trình nào khác.

Tác giả luận án

(Đã ký)

Nguyễn Thị Minh Tâm

ii

LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành luận án tốt nghiệp này, em xin được chân thành cảm ơn

Lãnh đạo Cục Phòng, chống HIV/AIDS, Bộ môn Y tế công cộng, Phòng Sau

đại học Viện Vệ sinh Dịch tễ trung ương, các thầy giáo, cô giáo trong suốt

thời gian qua đã quan tâm, tạo điều kiện thuận lợi giúp em học tập, nghiên

cứu và hoàn thành luận án.

Với tấm lòng biết ơn và kính trọng, em xin bày tỏ lòng biết ơn chân

thành và sâu sắc đến GS.TS.Nguyễn Thanh Long, PGS.TS. Nguyễn Thị Lan

Anh, người thầy mẫu mực, tận tâm đã dành thời gian dạy dỗ, hướng dẫn, động

viên, giúp đỡ em trong quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thiện luận án.

Em xin trân trọng cảm ơn các nhà khoa học, các Thầy, cô trong các hội

đồng đã quan tâm, dành thời gian nghiên cứu luận án và có nhiều góp ý sâu

sắc, khoa học và thiết thực giúp em hoàn thiện luận án.

Em xin chân thành cảm ơn Sở Y tế, Trung tâm phòng chống HIV/AIDS

03 tỉnh Điện Biên, Lai Châu và Yên Bái và các cơ sở điều trị Methadone của

03 tỉnh đã tạo điều kiện thuận lợi để em tiến hành nghiên cứu. Em xin bày tỏ

lòng biết ơn sâu sắc đối với các đồng chí lãnh đạo và cán bộ nhân viên Cục

Phòng, chống HIV/AIDS, Bộ Y tế và các đồng nghiệp ở các trường đại học,

các viện nghiên cứu đã luôn quan tâm tạo điều kiện giúp đỡ, động viên em

trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu.

Cuối cùng, em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới gia đình, bạn bè đã

luôn luôn quan tâm, chia sẻ, động viên, giúp đỡ em trong suốt quá trình học

tập, nghiên cứu và hoàn thành luận án.

Nguyễn Thị Minh Tâm

iii

MỤC LỤC

ĐẶT VẤN ĐỀ .................................................................................................. 1 Chƣơng 1: TỔNG QUAN .............................................................................. 4 1.1. Tổng quan các khái niệm ................................................................. 4 1.2. Tình hình sử dụng ma túy và nhiễm HIV/AIDS ............................. 6 1.3. Các phương pháp điều trị nghiện chất dạng thuốc phiện .............. 15 1.4. Điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc Methadone trên thế giới và ở Việt Nam .................................................................. 19 Chƣơng 2: ĐỐI TƢỢNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ............. 39 2.1. Đối tượng, thời gian và địa điểm nghiên cứu ................................ 39 2.2. Phương pháp nghiên cứu ............................................................... 41 2.3. Các hoạt động can thiệp ................................................................. 46 2.4. Phương pháp thu thập số liệu ........................................................ 51 2.5. Phương pháp xử lý số liệu ............................................................. 53 2.6. Các biện pháp khống chế sai số ..................................................... 54 2.7. Đạo đức nghiên cứu ....................................................................... 54 2.8. Sơ đồ nghiên cứu ........................................................................... 55 Chƣơng 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ........................................................ 56 3.1. Thực trạng sử dụng ma túy và tình trạng sức khỏe, xã hội của đối tượng nghiên cứu trước khi điều trị Methadone ................................... 56 3.2. Hiệu quả của điều trị Methadone ................................................... 67 3.3. Một số yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả điều trị ............................. 73 Chƣơng 4: BÀN LUẬN ................................................................................. 84 4.1. Thực trạng sử dụng ma túy và tình trạng sức khỏe, xã hội của đối tượng nghiên cứu trước khi điều trị Methadone ................................... 84 4.2. Hiệu quả của điều trị Methadone ................................................... 99 4.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả điều trị ................................ 106 4.4. Hạn chế của nghiên cứu ............................................................... 112 KẾT LUẬN .................................................................................................. 114 KHUYẾN NGHỊ .......................................................................................... 116 TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC

iv

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

AIDS : Acquired Immune Deficiency Syndrome - Hội chứng suy

giảm miễn dịch mắc phải

ARV : Antiretroviral - Thuốc kháng retrovirus

BCS : Bao cao su

BKT : Bơm kim tiêm

BTTX : Bạn tình thường xuyên

CDTP : Chất dạng thuốc phiện

CSĐT : Cơ sở điều trị

CSHQ : Chỉ số hiệu quả

CTGTH : Can thiệp giảm tác hại

HBV : Hepatitis B virus - Viêm gan B

HCV : Hepatitis C virus - Viêm gan C

HIV : Human Immunodeficiency Virus - Virus gây suy giảm

miễn dịch ở người/Hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải

NCMT : Nghiện chích ma túy

NCC Nguy cơ cao

IBBS : Integrated Biological and Behavioural Surveillance - Giám

sát hành vi kết hợp với giám sát huyết thanh học

QHTD : Quan hệ tình dục

PNBD : Phụ nữ bán dâm

SDMT : Sử dụng ma túy

UNODC : United Nations Office on Drugs and Crime - Cơ quan

phòng, chống ma túy và tội phạm Liên Hợp Quốc

UNAIDS : The Joint United Nations Programme on HIV/AIDS -

Chương trình Phối hợp của Liên Hợp Quốc về HIV/ AIDS

WHO : World Health Organization - Tổ chức Y tế thế giới

v

DANH MỤC BIỂU ĐỒ VÀ HÌNH ẢNH

Biểu đồ 1. 1. Tỷ lệ nhiễm HIV phân theo tuổi .................................................. 7

Biểu đồ 1. 2. Số các trường hợp nhiễm HIV phân theo giới 1993-2015 ..... 8

Biểu đồ 1. 3. Số các trường hợp nhiễm HIV phân theo đường lây 1993-2015

........................................................................................................................... 8

Biểu đồ 1. 4. Tỷ lệ nhiễm HIV trong các nhóm nguy cơ cao 1994-2015 ......... 9

Biểu đồ 3.1. Tiền sử bệnh tật của đối tượng nghiên cứu ................................ 65

Biểu đồ 3.2. Tỷ lệ dương tính heroin trong nước tiểu theo dõi 12 tháng ....... 68

Biểu đồ 3.3. Thay đổi chất lượng cuộc sống trước-sau điều trị ...................... 69

Biểu đồ 3.4. Tỷ lệ đối tượng bỏ điều trị (n = 300) .......................................... 72

Biểu đồ 3.5. Một số nguyên nhân bỏ điều trị của đối tượng nghiên cứu ........ 72

vi

DANH MỤC BẢNG

Bảng 3.1. Đặc điểm nhân khẩu học của đối tượng nghiên cứu ...................... 56

Bảng 3.2. Trình độ học vấn, việc làm của đối tượng nghiên cứu ................... 57

Bảng 3.3. Tình trạng hôn nhân, gia đình của đối tượng nghiên cứu .............. 58

Bảng 3. 4. Mâu thuẫn trong gia đình và hành vi vi phạm pháp luật ............... 59

Bảng 3. 5. Đặc điểm tiếp cận điều trị của đối tượng nghiên cứu .................... 60

Bảng 3. 6. Tiền sử sử dụng chất gây nghiện của đối tượng nghiên cứu ......... 60

Bảng 3. 7. Hình thức sử dụng theo loại chất gây nghiện của đối tượng ......... 61

Bảng 3. 8. Tiền sử cai nghiện ma túy của đối tượng nghiên cứu ................... 63

Bảng 3. 9. Hành vi quan hệ tình dục của đối tượng nghiên cứu ..................... 64

Bảng 3. 10. Chất lượng cuộc sống của đối tượng nghiên cứu ........................ 65

Bảng 3. 11. Khả năng lao động của đối tượng nghiên cứu ............................. 66

Bảng 3.12. Thay đổi sử dụng chất gây nghiện trước-sau điều trị ................... 67

Bảng 3.13. Thay đổi hành vi quan hệ tình dục trước-sau điều trị ................... 68

Bảng 3.14. Thay đổi khả năng lao động trước-sau điều trị ............................. 69

Bảng 3. 15. Tỷ lệ sử dụng ma tuý trong quá trình điều trị và tỷ lệ bỏ điều trị…73

Bảng 3.16. Một số yếu tố ảnh hưởng đến sử dụng ma túy trong quá trình điều

trị (đơn biến) .................................................................................................... 73

Bảng 3. 17. Một số yếu tố ảnh hưởng đến sử dụng ma túy trong quá trình điều

trị (đa biến) ...................................................................................................... 76

Bảng 3.18. Một số yếu tố ảnh hưởng đến bỏ điều trị (đơn biến) .................... 78

Bảng 3. 19. Một số yếu tố liên quan đến bỏ điều trị (đa biến) ........................ 80

1

ĐẶT VẤN ĐỀ

Đại dịch ma túy đã và đang là vấn nạn của nhiều quốc gia trên thế giới

và là nguyên nhân chính gây ra đại dịch HIV/AIDS. Đại dịch kép ―ma túy và

HIV/AIDS‖ ở Việt Nam gây ảnh hưởng nặng nề đến từng cá nhân, gia đình,

tác động trực tiếp đến sự phát triển kinh tế, văn hóa và trật tự, an toàn xã hội

của đất nước [31, 33].

Trên Thế giới, công tác phòng, chống ma túy và phòng chống

HIV/AIDS đã được triển khai tích cực trong nhiều năm qua và thu được

những kết quả đáng ghi nhận nhưng vẫn còn phải đối mặt với nhiều khó khăn,

thách thức. Nhiều biện pháp cai nghiện, điều trị nghiện ma túy đã được triển

khai nhưng không có biện pháp nào có thể điều trị khỏi hẳn cho người nghiện

ma túy. Trước đây, nghiện ma túy vẫn được coi là ―tệ nạn xã hội‖, người

nghiện ma túy được gọi là ―con nghiện‖, là những người có nhân cách yếu,

đua đòi, hư hỏng…nên không từ bỏ được ma túy. Nhưng cuộc cách mạng

khoa học thần kinh trên thế giới hơn 20 năm qua đã chứng minh: nghiện ma

túy là một bệnh não, tái phát, mãn tính và cần phải được điều trị lâu dài. Do

vậy, các biện pháp điều trị duy trì bằng thuốc đã được triển khai với mục đích

là làm giảm sử dụng ma túy bất hợp pháp, dự phòng lây nhiễm HIV và các

bệnh lây truyền qua đường máu cho những người nghiện.

Hiện nay, các thuốc phổ biến được sử dụng để điều trị cho người

nghiện chất dạng thuốc phiện là Methadone, Buprenorphine và Naltrexone,

trong đó thuốc Methadone được sử dụng rộng rãi nhất. Điều trị nghiện các

chất dạng thuốc phiện bằng thuốc Methadone đã được triển khai tại Mỹ từ

năm 1965, đến nay đã được mở rộng ra trên 80 quốc gia trong đó có nhiều

nước phát triển như Anh, Pháp, Mỹ, Úc, Canada...Các nghiên cứu trên thế

2

giới đều cho thấy rõ hiệu quả của điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện

bằng thuốc Methadone trong giảm sử dụng ma tuý bất hợp pháp, giảm nguy

cơ lây nhiễm HIV, giảm tội phạm liên quan đến ma túy đồng thời còn lại các

lợi ích về kinh tế và trật tự an toàn cho xã hội.

Tại Việt Nam, điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc

Methadone (sau đây gọi là điều trị Methadone) bắt đầu được nghiên cứu tại

Viện Sức khỏe Tâm thần - Bệnh viện Bạch Mai từ năm 1996 đến năm 2002.

Năm 2008, điều trị Methadone được triển khai thí điểm tại thành phố Hồ Chí

Minh và thành phố Hải Phòng. Cho đến nay đã được triển khai rộng rãi tại 54

tỉnh, thành phố. Một số nghiên cứu tại Việt Nam cho thấy điều trị Methadone

có hiệu quả trong việc làm giảm sử dụng ma túy bất hợp pháp [24], các hành

vi nguy cơ lây nhiễm HIV [23, 24], cải thiện chất lượng cuộc sống và sức

khỏe cho những người nghiện CDTP được tham gia điều trị [9].

Các tỉnh miền núi phía Bắc thường có điều kiện kinh tế, địa lý khó

khăn, là nơi có nhiều người nghiện ma túy và khả năng tiếp cận với dịch vụ y

tế, dịch vụ chăm sóc sức khỏe còn nhiều bất cập. Hơn nữa, các tỉnh miền núi

phía Bắc thường có đường biên giới dài; tình hình vận chuyển, buôn bán và

sử dụng ma túy trên địa bàn diễn ra hết sức phức tạp và khó kiểm soát làm

cho công tác điều trị bằng thuốc Methadone gặp nhiều thách thức. Trình độ

văn hoá thấp cùng với nhiều thách thức xã hội và kinh tế như nghèo đói, lạm

dụng chất ma túy, bất bình đẳng trong chăm sóc y tế cũng là nguy cơ gián tiếp

làm lây truyền HIV trong đồng bào dân tộc thiểu số [25]. Việc triển khai các

hoạt động can thiệp như chương trình bơm kim tiêm, chương trình Methadone

là rất cần thiết nhằm giảm tác hại do ma túy gây ra trong đó có nguy cơ lây

nhiễm HIV trong nhóm đồng bào dân tộc thiểu số nói riêng và nhân dân miền

núi phía Bắc nói chung [25].

3

Với các đặc điểm trên thì triển khai chương trình Methadone tại các

tỉnh miền núi sẽ mang lại hiệu quả như thế nào? có khác biệt so với các tỉnh,

thành phố như Hồ Chí Minh, Hải Phòng không? Hiện nay, chưa có nghiên

cứu về hiệu quả của điều trị nghiện CDTP bằng thuốc Methadone ở khu vực

miền núi của cả nước nói chung và các tỉnh miền núi phía Bắc nói riêng.

Chính vì vậy, chúng tôi tiến hành nghiên cứu: ―Hiệu quả điều trị nghiện chất

dạng thuốc phiện bằng thuốc Methadone tại tỉnh Điện Biên, Lai Châu và

Yên Bái, 2014-2015‖ với mục tiêu:

1. Mô tả thực trạng sử dụng ma túy và tình trạng sức khỏe, xã hội của

người nghiện ma tuý trước khi được điều trị thay thế nghiện các chất dạng

thuốc phiện bằng thuốc Methadone tại tỉnh Điện Biên, Lai Châu và Yên Bái,

2014-2015.

2. Đánh giá hiệu quả của điều trị nghiện chất dạng thuốc phiện bằng

thuốc Methadone tại tỉnh Điện Biên, Lai Châu và Yên Bái, 2014-2015.

3. Xác định một số yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả điều trị nghiện chất

dạng thuốc phiện bằng thuốc Methadone tại tỉnh Điện Biên, Lai Châu và Yên Bái

2014-2015.

4

Chƣơng 1

TỔNG QUAN

1.1. Tổng quan các khái niệm

1.1.1. Chất ma túy

Ma túy là các chất gây nghiện, chất hướng thần được quy định trong

các danh mục do Chính phủ ban hành [26].

1.1.2. Chất gây nghiện

Theo Tổ chức Y tế thế giới, chất gây nghiện là ―chất hóa học sau khi

được hấp thu sẽ làm thay đổi chức năng thực thể và tâm lý của người sử

dụng‖ [8].

1.1.3. Chất dạng thuốc phiện (CDTP)

Chất dạng thuốc phiện (opiats, opioid) là tên gọi chung cho nhiều chất

như thuốc phiện, Morphine, Heroin, Methadone, Buprenorphine, LAAM… có

biểu hiện lâm sàng tương tự và tác động vào cùng điểm tiếp nhận tương tự ở

não [10, 120].

1.1.4. Khái niệm về nghiện chất

Nghiện chất là tình trạng bắt buộc phải sử dụng chất gây nghiện bất

chấp những tác hại của chúng [10].

1.1.5. Khái niệm về ngƣời nghiện CDTP

Người nghiện CDTP là người sử dụng lặp đi lặp lại nhiều lần CDTP với

liều lượng ngày càng tăng, dẫn đến trạng thái nhiễm độc chu kỳ, mạn tính, bị

lệ thuộc về thể chất và tâm thần vào chất đó [10].

5

1.1.6. Khái niệm về điều trị thay thế

Điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế là việc sử

dụng thuốc thay thế để điều trị cho người nghiện chất dạng thuốc phiện [6].

1.1.7. Cai nghiện

Cai nghiện là ngừng sử dụng hoặc giảm đáng kể chất ma túy mà người

nghiện thường sử dụng (nghiện) dẫn đến việc xuất hiện hội chứng cai, vì vậy

bệnh nhân cần phải được điều trị [10].

1.1.8. Hội chứng cai

Hội chứng cai là trạng thái phản ứng của cơ thể khi cắt hoặc giảm chất

ma tuý đang sử dụng ở những người nghiện ma tuý. Biểu hiện lâm sàng của

hội chứng cai khác nhau phụ thuộc vào loại ma tuý đang sử dụng [10].

1.1.9. Khái niệm về HIV

HIV (Human Immunodeficiency Virus) là loại virus gây ra hội chứng

suy giảm miễn dịch mắc phải ở người [27].

1.1.10. Tuân thủ điều trị

Là tình trạng bệnh nhân đang trong chương trình điều trị tại thời điểm

sau 12 tháng tham gia điều trị [10, 131].

1.1.11. Bỏ điều trị

Là tình trạng bệnh nhân không còn điều trị tại thời điểm sau 12 tháng

tham gia điều trị [10, 131].

1.1.12. Chất lƣợng cuộc sống

Chất lượng cuộc sống liên quan đến sức khỏe (HRQOL) là một thước đo

quan trọng về nhận thức của bệnh nhân về bệnh tật của họ. Nhận thức này bao

6

gồm các lĩnh vực: sức khỏe thể chất, sức khỏe tâm thần, các mối quan hệ xã

hội và môi trường [130].

1.2. Tình hình sử dụng ma túy và nhiễm HIV/AIDS

1.2.1. Tình hình sử dụng ma túy

Theo báo cáo đến năm 2015, toàn quốc thống kê được 201.180 người

nghiện ma túy có hồ sơ quản lý. Trong đó, 72,4% đang sống ngoài xã hội,

9,2% trong các cơ sở cai nghiện, 18,4% trong các trại tạm giam, nhà tạm giữ,

cơ sở giáo dục, trường giáo dưỡng. Một số địa phương có tỷ lệ người sử dụng

ma túy tổng hợp cao, bao gồm: Đà Nẵng 85%, Tây Ninh 61%, Trà Vinh 49%,

TP. Hồ Chí Minh 48% [36].

Độ tuổi của người nghiện có xu hướng ngày càng trẻ hoá (năm 1996, số

người nghiện dưới 30 tuổi chiếm tỷ lệ 42%, năm 2001 là 57,7%, đến năm

2010 là 68,3%), tỷ lệ người nghiện là nữ đang gia tăng (từ 3,15%, năm 1996

lên 4,5%, năm 2006) [8]. Theo báo cáo năm 2015, có tới 76% người NCMT

có độ tuổi dưới 35 [36].

Trước đây, người nghiện ma tuý chủ yếu sử dụng thuốc phiện, sái thuốc

phiện và chỉ có một tỉ lệ rất nhỏ sử dụng heroin. Đến nay, người nghiện sử

dụng heroin là chủ yếu (chiếm khoảng 70%), đồng thời sử dụng cả ma tuý

tổng hợp, thuốc hướng thần... Hình thức sử dụng ma tuý đa dạng hơn, không

còn là hút thuốc phiện, cần sa, hít heroin mà mở rộng sang các hình thức tiêm,

chích heroin, uống ma tuý tổng hợp.v.v. Tỷ lệ người nghiện sử dụng ma tuý

bằng đường tiêm chích đã tăng mạnh, từ 7,6 % năm 1996 lên 46,4% năm

2001, 66,3% năm 2006 và lên trên 71% năm 2010 [36]. Theo giám sát trọng

điểm lồng ghép hành vi trong các nhóm nguy cơ cao tại Việt Nam năm 2014,

13,1% trong số họ cho biết có sử dụng chung bơm kim tiêm trong vòng 1

7

tháng qua [5], đây là nguyên nhân trực tiếp làm lây lan nhanh HIV trong

nhóm tiêm chích ma tuý.

1.2.2.Tình hình dịch HIV/AIDS

Tính đến cuối năm 2016, cả nước hiện có 215.621 người nhiễm HIV,

88.668 bệnh nhân AIDS và 90.181 người nhiễm HIV tử vong.

Trong 6 năm qua, tiếp tục ghi nhận số người nhiễm HIV, bệnh nhân

AIDS và tử vong hằng năm giảm, số trường hợp HIV dương tính phát hiện

năm 2010 từ 17.800 xuống còn 9.912 ca năm 2016, tử vong giảm từ 3.300 ca

năm 2010 xuống 2.131 ca năm 2016, số bệnh nhân AIDS từ 8.900 ca năm

2015 xuống còn khoảng 5.876 ca năm 2016 [36].

Người nhiễm HIV trong độ tuổi 20-40 chiếm tới khoảng 60%-85% số

ca được báo cáo trong giai đoạn 1993-2015. Tỉ lệ này cao nhất vào năm 2004

(85,95%). Đến năm 2015, số người nhiễm HIV trong độ tuổi 20-40 vẫn chiếm

100%

90%

,

,

,

,

80%

,

,

,

,

,

6 6 2

5 7 2

6 6 2

6 8 2

,

6 0 3

,

,

9 1 3

1 8 2

1 3 3

2 5 3

70%

,

,

2 9 3

1 0 4

,

,

1 1 4

,

9 2 4

,

60%

6 4 4

1 5 4

4 4

6 9 2 6 2 3

0 4 4

50%

,

5 2 3

,

,

,

,

,

40%

,

,

,

,

8 5 3

2 6 4

,

0 1 4

,

,

5 4 5

1 4 5

,

9 5 5

2 5 5

6 0 5

,

,

3 5 5

30%

,

3 3 5

3 2 5

3 5 4

,

8 0 5

,

,

,

1 6 4

,

2 4 4

9 0 4

3 7 3

6 8 3

,

20%

0 3

1 5 3

9 2 3

8 0 3

,

5 5 2

,

,

10%

9 7 1

8 4 1

1 3 1

0%

'

'

'

'

'

'

'

'

'

'

'

'

'

5 9

9 9

3 9

4 9

6 9

7 9

8 9

3 0

7 0

0 0

1 0

2 0

4 0

5 0

6 0

8 0

9 0

3 1 0 2

4 1 0 2

5 1 0 2

1 1 0 2

0 1 0 2

2 1 0 2

0-14

15-19

20-29

30-39

40-49

>=50

KR

tới 74% (được nêu trong biểu đồ 1.1) [18].

Biểu đồ 1. 1. Tỷ lệ nhiễm HIV phân theo tuổi

8

Tỷ lệ số ca báo cáo nhiễm HIV là nữ có xu hướng gia tăng. Năm 2015

tỷ lệ này chiếm 34,1% các trường hợp nhiễm HIV báo cáo, tỷ lệ này tăng gấp

100%

,

,

,

,

,

,

,

,

,

,

,

,

,

,

,

7 1 1

8 1 1

,

3 2 1

6 2 1

2 3 1

7 3 1

0 4 1

1 4 1

90%

,

7 5 1

,

1 6 1

,

,

1 9 1

2 9 1

8 9 1

,

,

7 0 2

,

2 4 2

5 5 2

3 8 2

3 9 2

8 0 3

5 1 3

4 3 3

4 3 3

1 4 3

80%

70%

60%

50%

,

,

,

,

,

,

,

,

,

,

,

,

,

,

,

3 8 8

2 8 8

,

7 7 8

4 7 8

8 6 8

3 6 8

0 6 8

9 5 8

40%

,

3 4 8

,

9 3 8

,

,

9 0 8

8 0 8

2 0 8

,

,

3 9 7

,

8 5 7

5 4 7

7 1 7

7 0 7

2 9 6

5 8 6

6 6 6

6 6 6

9 5 6

30%

20%

10%

0%

'

'

'

'

'

'

'

'

'

'

'

'

'

3 9

4 9

5 9

6 9

7 9

8 9

9 9

0 0

1 0

2 0

3 0

4 0

5 0

6 0

7 0

8 0

9 0

3 1 0 2

4 1 0 2

5 1 0 2

0 1 0 2

1 1 0 2

2 1 0 2

Nam Nữ

3 lần so với năm 1993 (được nêu trong biểu đồ 1.2) [18].

Biểu đồ 1. 2. Số các trƣờng hợp nhiễm HIV phân theo giới 1993-2015

Tỷ lệ số ca báo cáo nhiễm HIV lây truyền qua đường tình dục năm

2015 là 50,8%, tăng gấp hơn 5 lần năm 1993 (được nêu trong biểu đồ 1.3)

100%

90%

80%

70%

60%

50%

40%

30%

20%

10%

0%

'

'

'

'

'

'

'

'

'

'

'

'

'

6 9

3 9

4 9

5 9

7 9

8 9

9 9

0 0

1 0

2 0

3 0

4 0

5 0

6 0

7 0

8 0

9 0

3 1 0 2

4 1 0 2

5 1 0 2

0 1 0 2

1 1 0 2

2 1 0 2

Không rõ

Mẹ Truyền sang con

Đường Tình dục

Đường Máu

[18].

Biểu đồ 1. 3. Số các trường hợp nhiễm HIV phân theo đường lây 1993-2015

9

Dịch HIV/AIDS ở Việt Nam tập trung chủ yếu ở ba nhóm quần thể có

hành vi nguy cơ lây truyền HIV cao: người tiêm chích ma túy, nam tình dục

đồng giới và phụ nữ mại dâm. Theo kết quả giám sát trọng điểm 2015, tỷ lệ

hiện nhiễm HIV trong nhóm nam NCMT, PNMD, MSM tương ứng là 9,3%,

2,7% và 5,1%. So với giai đoạn đỉnh điểm của dịch năm 2002 thì tỉ lệ HIV

trong nhóm NCMT giảm hơn 3 lần, nhóm PNBD giảm hơn 2 lần. Tỉ lệ hiện

nhiễm HIV trong nhóm MSM trong giai đoạn 2011-2015 dao động từ khoảng

NCMT

PNBD

MSM

35,0

29,3 29,3

30,0

28,6

25,6

25,0

23,9

23,1

22,7

20,2

20,5

20,3

20,0

18,4

17,3

16,6

15,0

14,9

17,2 13,4

11,6 10,7

13,4

10,5

10,0

10,9

9,3

6,7

5,9

4,0

4,4

3,6

5,0

5,1

4,2 3,9 3,1

3,8 3,5 4,7

0,6 1,0 0,7 1,5

3,8

3,5 4,6

3,5

2,9

2,4

2,7

2,6 2,5

2,3

0,0

94 95 96 97 98 99 00' 01' 02' 03' 04' 05' 06' 07' 08' 09' 10' 11' 12' 13' 14' 15'

2,3%-6,7% (được nêu trong biểu đồ1.4) [18].

Biểu đồ 1. 4. Tỷ lệ nhiễm HIV trong các nhóm nguy cơ cao 1994-2015

Dịch HIV/AIDS đã xảy ra ở tất cả tỉnh, thành phố với 99,8% số

quận/huyện và trên 80,3% số xã/phường. Số người nhiễm HIV chủ yếu tập

trung các tỉnh miền Bắc, vùng đồng bằng sông Cửu Long và miền Đông Nam

Bộ, khu vực có số người nhiễm HIV cao là các tỉnh miền núi Tây Bắc và các

huyện miền núi Nghệ An và Thanh Hóa. Thành phố lớn Hà Nội và Hồ Chí

Minh có số lượng lớn người nhiễm HIV với diễn biến dịch phức tạp, khó

kiểm soát.

10

1.2.3. Đặc điểm của ngƣời sử dụng và tiêm chích ma túy tại Việt Nam

1.2.3.1. Đặc điểm về sử dụng ma túy

Người nghiện ma tuý chủ yếu đang sử dụng heroin [36]. Việc sử dụng

nhiều heroin dẫn tới việc tiêm chích tăng cao do nhu cầu về liều lượng ngày

càng tăng của các đối tượng sử dụng heroin [13, 29, 36, 86] và làm tăng khả

năng lây nhiễm HIV [37].

Tuổi bắt đầu sử dụng ma tuý là khoảng 20 tuổi [42]. Đây là độ tuổi dễ

lôi kéo, rủ rê, gặp phải nhiều vấn đề về tâm lý, vì vậy họ sử dụng heroin để

giảm áp lực cũng như thư giãn [42]. Với xu hướng độ tuổi người nghiện có xu

hướng ngày càng trẻ như hiện nay, việc giáo dục từ sớm về công tác phòng

chống ma tuý, tăng cường kiến thức, nhận thức của thanh thiếu niên ngay từ

khi còn ngồi trong ghế nhà trường là rất quan trọng trong công tác kiểm soát

ma tuý, tệ nạn xã hội.

Có tỷ lệ khá cao người sử dụng ma túy có thời gian sử dụng ma tuý từ

5-10 năm (33,3%) [25]. Rất nhiều trường hợp bị shock thuốc và là nguyên

nhân trực tiếp gây tử vong, ảnh hưởng lớn đến sức khoẻ của họ.

Hầu hết người nghiện ma túy đã tham gia cai nghiện ma tuý với các

hình thức khác nhau: cai nghiện tại trung tâm, tự mua thuốc để cai, cai nghiện

ở cơ sở tư nhân, cắt cơn tại cộng đồng và cai khan nhưng đa số đều tái nghiện

do thèm muốn ma tuý, bị bạn bè rủ rê, buồn chán, thất vọng [15, 25, 129].

Dùng chung BKT và các dụng cụ tiêm chích là nguyên nhân chính làm

lây truyền HIV trong nhóm người NCMT. Các nghiên cứu gần đây nhất cho

thấy tỷ lệ này vẫn đang ở mức cao [5]. Theo giám sát trọng điểm lồng ghép

hành vi trong các nhóm nguy cơ cao tại Việt Nam năm 2014, 13,1% trong số

họ cho biết có sử dụng chung bơm kim tiêm trong vòng 1 tháng qua. Tỷ lệ

này vẫn cao ở một số tỉnh như Sơn La (38%), Kiên Giang (34%), Đắc Lắc

(32%), Gia Lai (22,7%) [5].

11

Người NCMT tin rằng nguy cơ lây nhiễm HIV qua quan hệ tình dục

thấp hơn qua việc dùng chung các dụng cụ tiêm chích [124], do vậy thường ít

thực hành hành vi tình dục an toàn so với hành vi tiêm chích an toàn [15].

Nghiên cứu tại thành phố Hồ Chí Minh cho thấy chỉ 50% người NCMT có

quan hệ tình dục với GMD trong 4 tuần qua sử dụng bao cao su [58].

Kết quả này khuyến khích việc tiếp tục đẩy mạnh tuyên truyền sử dụng

bao cao su khi quan hệ tình dục, đặc biệt với các đối tượng nguy cơ cao. Quan

hệ tình dục không an toàn đã được chứng minh là nguyên nhân lây nhiễm

HIV cũng như các bệnh truyền nhiễm khác trong cộng đồng [85]. Vì vậy, việc

giảm thiểu quan hệ tình dục không an toàn sẽ có ý nghĩa quan trọng trong việc

phòng chống HIV, đặc biệt ở các tỉnh miền núi.

1.2.3.2. Đặc điểm kinh tế và xã hội của ngƣời nghiện ma túy

Hiện nay, độ tuổi sử dụng ma tuý tại Việt Nam đang có xu hướng trẻ

hoá, độ tuổi dưới 30 chiếm tỷ lệ lớn [34, 35]. Tuy nhiên, ở các tỉnh miền núi

phía Bắc như Thái Nguyên, Hòa Bình, Tuyên Quang thì tuổi trên 30 lại chiếm

tỷ lệ lớn [1, 42]. Điều này có thể do người nghiện tại các tỉnh miền núi phía

Bắc có thời gian sử dụng thuốc phiện lâu hơn ở các tỉnh đồng bằng và thành

phố lớn. Hầu hết người sử dụng ma túy là nam giới (95%) [25], có gia đình

(59%) [1, 79].

Báo cáo của Bộ Lao động Thương binh và Xã hội Việt Nam cho thấy

phần lớn người nghiện ma túy có trình độ văn hoá thấp, 69% có trình độ văn

hoá dưới trung học phổ thông, đặc biệt là ở trong các đồng bào dân tộc miền

núi [2, 99].

Hầu hết những người sử dụng ma túy không có việc làm ổn định hoặc

làm nghề tự do [99]. Họ có thu nhập thấp hơn so với thống kê về bình quân

thu nhập đầu người của Ngân hàng Thế giới Worldbank (khoảng 4 triệu

12

đồng/tháng) [121]. Địa bàn miền núi khó khăn trong việc phát triển kinh tế

cũng ảnh hưởng tới thu nhập cùa người sử dụng ma túy.

Nhiều người trong số họ là trụ cột gia đình, trong khi đó, họ còn mất

tiền để mua các loại ma tuý Số tiền chi tiêu cho ma tuý gấp 3 lần thu nhập

của các đối tượng nghiện [2]. Khoản tiền phải trả cho ma tuý này góp phần

lớn gây nên gánh nặng về kinh tế cho các gia đình và là lý do dẫn tới các hành

vi phạm pháp như trộm cắp, cướp giật gây ảnh hưởng đến an ninh, an toàn và

gây bất ổn trong xã hội. Chính vì vậy, cần có các biện pháp giúp giảm liều

lượng ma tuý, hỗ trợ cai nghiện, ngoài ra cần xử lý nghiêm các hành vi buôn

bán, sử dụng ma tuý.

Những người nghiện ma túy cũng là đối tượng có tiền án, tiền sự. Báo

cáo của Bộ Lao động Thương binh và Xã hội cho thấy, có 38% đối tượng có

tiền án tiền sự, 11% có tên trong hồ sơ do nhà nước quản lý [2]. Tuy nhiên, ở

các thành phố lớn tỷ lệ này khá cao, như ở Hải phòng tỷ lệ có hành vi phạm

pháp là 40,8%, tỷ lệ có tiền sự là 13,0% [25]. Do người nghiện ma tuý thiếu

tiền mua thuốc để dùng thoả mãn cơn nghiện. Các đối tượng phạm pháp dưới

nhiều hình thức đa dạng khác nhau như bài bạc, cá độ, trộm cướp, buôn lậu,

buôn bán vận chuyển chất gây nghiện và nhiều loại hình phạm pháp khác.

Tuy nhiên, các hành vi vi phạm pháp luật nhằm mục đích tạo thu nhập nhanh

chóng để có thể mua và sử dụng chất gây nghiện, thoả mãn cơn nghiện.

Nghiện ma tuý và vi phạm pháp luật luôn song hành cùng nhau, nối tiếp nhau

và tạo ra vòng nghiệt ngã khiến cho người nghiện ma tuý ngày càng nghiện

trầm trọng hơn. Điều trị nghiện CDTP bằng thuốc Methadone là một trong

những phương pháp hữu hiệu trong việc giảm tình trạng phạm pháp ở trong

nhóm người sử dụng ma tuý [33, 73].

13

1.2.4. Tình hình ma túy và nhiễm HIV/AIDS tại Điện Biên, Lai Châu và Yên Bái

Điện Biên, Lai Châu và Yên Bái nằm trong khu vực Tây Bắc của Việt

Nam. Khu vực Tây Bắc là một trong những khu vực trọng điểm về ma túy và

HIV/AIDS, nghiện chích ma túy là một trong những nguy cơ lây nhiễm HIV

chủ yếu ở khu vực này. Trong năm 2015, số người nhiễm HIV/100.000 người

tại khu vực này là 256 người (cao hơn so với toàn quốc là 223 người). Tỷ lệ

nhiễm HIV trong nhóm người nghiện chích ma túy và phụ nữ bán dâm trong

năm 2015 tại khu vực này cũng cao hơn trung bình toàn quốc, lần lượt là

9,9% (toàn quốc 9,3%), 3,1% (toàn quốc 2,7%) [19].

Tại khu vực Tây Bắc, lây nhiễm HIV trong nhóm NCMT chủ yếu do sử

dụng chung bơm kim tiêm. Ngoài hành vi tiêm chích không an toàn người

NCMT còn có hành vi quan hệ tình dục không an toàn nên HIV còn lây

truyền từ nhóm người NCMT sang vợ và bạn tình của họ và từ những người

này HIV lại có thể truyền sang những nam giời bình thường [19].

a) Tình hình nghiện ma túy và nhiễm HIV/AIDS tại tỉnh Điện Biên

Tính đến ngày 30/12/2016 trên địa bàn tỉnh Điện Biên có 9.669 người

nghiện ma túy có hồ sơ quản lý. Loại ma túy sử dụng chủ yếu là heroin chiếm

78,4%; hình thức sử dụng chủ yếu qua con đường tiêm chích, tỷ lệ nhiễm HIV

ở nhóm tiêm chích ma túy là 30%. Đến tháng 12/2016 lũy tích các trường hợp

nhiễm HIV là 6.867 trường hợp, trong đó còn sống quản lý được 3.195 người.

Lũy tích bệnh nhân AIDS 5.210 người; còn sống 1.741 người; Lũy tích tử

vong 3.469 người. Dịch HIV/AIDS xẩy ra chủ yếu trong nhóm người nghiện

chích ma túy. Lây nhiễm HIV chủ yếu qua đường máu (59%). Tình hình dịch

HIV/AIDS đang có xu hướng giảm ở các huyện thị trọng điểm, tuy nhiên dịch

còn diễn biến phức tạp, lan ra vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc, khu

vực biên giới và có xu hướng trẻ hóa về độ tuổi. Điện Biên bắt đầu triển khai

14

chương trình Methadone từ năm 2011, đến 9/2014 có 5 cơ sở điều trị cho

1.445 bệnh nhân [28].

b) Tình hình nghiện ma túy và nhiễm HIV/AIDS tại tỉnh Yên Bái

Đến 31/12/2016 toàn tỉnh Yên Bái có 2.586 người nghiện ma túy hiện

còn sống, được quản lý, ngoài xã hội có 2.250 người. Tuy nhiên số lượng

người nghiện chích ma túy thực tế trong cộng đồng rất biến động, khó kiểm

soát. Đến 31/12/2016 số người nhiễm HIV đang còn sống là 4.081 trường

hợp, đối tượng nhiễm chiếm tỷ lệ cao nhất là nhóm nghiện chích ma túy

40,28% (tăng 4,18% so năm 2015). Dịch tập trung ở nhóm có hành vi nguy cơ

cao: nhóm NCMT, nhóm mại dâm, người mắc bệnh lây truyền qua đường tình

dục. Yên Bái bắt đầu triển khai chương trình Methadone năm 2014, có 2 cơ

sở và điều trị cho 227 bệnh nhân [30].

c) Tình hình nghiện ma túy và nhiễm HIV/AIDS tại tỉnh Lai Châu

Số nghiện chích ma tuý của tỉnh tính đến thời điểm hết tháng 11/2016

là 3.393 người (số liệu báo cáo của Công an tỉnh Lai Châu). Ca nhiễm đầu tiên

được phát hiện tại Lai Châu vào năm 2001, đến 31/12/2016 đã có 94/108 xã,

phường thuộc 8 huyện, thành phố trong toàn tỉnh có người nhiễm HIV. Số

nhiễm HIV đang còn sống và quản lý được là 1.971 người. Nhiễm HIV chủ

yếu tập trung ở nam giới (chiếm 67%), nguyên nhân chủ yếu là lây truyền qua

đường máu do tiêm chích ma túy; chủ yếu ở độ tuổi lao động (15-24 tuổi) là

19,82% và (25-49 tuổi) là 74,01%. Phân bố HIV/AIDS còn sống theo nhóm

dân tộc: dân tộc Thái chiếm tỷ lệ 0,64%, dân tộc Kinh là 0,59%, dân tộc Mông

0,2%, dân tộc Dao là 0,09%; ngoài ra còn một số nhóm dân tộc thiểu số khác.

Tình hình lây nhiễm HIV/AIDS vẫn còn diễn biến phức tạp và tập chung ở

địa bàn có tỷ lệ tiêm chích ma túy cao. Lai Châu bắt đầu triển khai chương

trình Methadone từ tháng 9/2013, đến 9/2014 có 3 cơ sở điều trị cho 1.097

bệnh nhân [29].

15

1.3. Các phƣơng pháp điều trị nghiện chất dạng thuốc phiện

1.3.1. Các phƣơng pháp điều trị trạng thái cai CDTP

1.3.1.1. Mục tiêu

- Giảm nhẹ các triệu chứng của hội chứng cai.

- Giúp hồi phục lại sự dung nạp của hệ thần kinh do thời gian sử dụng

CDTP kéo dài.

- Giảm mức độ lệ thuộc về thể chất.

- Hỗ trợ cho điều trị dài hạn để thay đổi lối sống.

1.3.1.2. Điều trị trạng thái cai

Người nghiện sử dụng CDTP nhiều lần, CDTP sẽ tác động vào các thụ

thể ở não (chủ yếu là thụ thể muy ()) và làm giảm liên tục lượng Adenosin

Mono Phosphate (AMP) vòng trong cơ thể. Vì vậy, cơ thể phải đối phó lại với

sự thiếu hụt AMP vòng bằng cách tăng cường sản xuất men Adenylcyclase

(men tổng hợp AMP vòng). Khi trong cơ thể có CDTP, nhờ cơ chế bù trừ mà

cơ thể vẫn giữ được sự cân bằng sản xuất AMP vòng. Từ đó xuất hiện trạng

thái quen thuốc (nghiện). Nếu ngừng CDTP đột ngột, thụ thể vẫn quen đáp

ứng với nồng độ cao CDTP, lúc này Endorphin sẵn có trong cơ thể sẽ thay thế

CDTP, nhưng Endorphin bị giáng hoá rất nhanh, không thoả mãn được nhu

cầu của cơ thể, hậu quả là không còn kìm hãm nổi sự bài tiết quá dư thừa men

Adenylcyclase làm cho lượng AMP vòng cao vọt lên khác thường, xuất hiện

trạng thái bệnh lý đặc biệt gọi là hội chứng cai.

Các triệu chứng của hội chứng cai nặng dần lên đặc biệt trong 3 ngày

đầu, sau đó giảm dần và đến ngày thứ 7 (chậm nhất là ngày thứ 10) tự nó sẽ

mất đi dù có dùng thuốc hay không dùng thuốc.

Điều trị trạng thái cai nhằm hỗ trợ bệnh nhân vượt qua hội chứng cai

một cách nhẹ nhàng hơn, nhưng tình trạng đói CDTP trường diễn ở các thụ

thể vẫn còn. Sau một thời gian ngắn do sự thôi thúc của trạng thái đói CDTP

16

trường diễn và hoàn cảnh tâm lý xã hội, bệnh nhân lại tìm đến CDTP (tái

nghiện).

1.3.1.3. Hạn chế của điều trị trạng thái cai

Điều trị trạng thái cai có thể đem lại những lợi ích, nhưng không chấm

dứt được việc sử dụng CDTP.

Trên thực tế, tỷ lệ tái sử dụng các CDTP sau điều trị trạng thái cai rất

cao, thời gian sau điều trị trạng thái cai càng dài thì tỷ lệ tái sử dụng CDTP

càng cao.

1.3.1.4. Các phương pháp điều trị trạng thái cai đã được áp dụng tại Việt Nam

- Điều trị trạng thái cai bằng các thuốc hướng thần;

- Điều trị trạng thái cai bằng thuốc y học cổ truyền;

- Điều trị trạng thái cai bằng châm cứu;

- Điều trị trạng thái cai bằng Clonidine.

Ngoài ra còn có các phương pháp điều trị trạng thái cai khác:

- Không dùng thuốc, cai khô;

- Liệu pháp vật lý (xoa bóp, bấm huyệt…);

- Liệu pháp tâm lý (thư giãn, liệu pháp nhóm, liệu pháp gia đình, liệu

pháp nhận thức hành vi….) [4].

1.3.2. Các phƣơng pháp điều trị duy trì lâu dài

Mục tiêu:

- Vừa điều trị sự phụ thuộc về cơ thể vừa điều trị sự phụ thuộc về tâm thần;

- Giảm tác hại của CDTP gây ra và chống tái nghiện;

- Phục hồi nhân cách và phục hồi chức năng tâm lý xã hội, tiến tới thay

đổi lối sống không cần chất gây nghiện.

17

1.3.2.1. Điều trị phục hồi tại Trung tâm

Ở nước ta điều trị phục hồi tại các Trung tâm Giáo dục, Chữa bệnh,

Lao động - Xã hội (gọi tắt là Trung tâm) do Bộ Lao động, Thương binh và Xã

hội quản lý. Hoạt động của Trung tâm bao gồm: điều trị trạng thái cai, giáo

dục, lao động, dạy nghề, phục hồi chức năng tâm lý xã hội. Thời gian điều trị

phục hồi tại Trung tâm thường kéo dài 2 năm hoặc lâu hơn. Phương pháp này

đem lại một số lợi ích, nhưng khi bệnh nhân trở về cộng đồng tỷ lệ tái nghiện

vẫn rất cao.

1.3.2.2. Điều trị phục hồi tại cộng đồng

Bệnh nhân có thể được điều trị trạng thái cai tại nhà, tại trung tâm. Sau

điều trị trạng thái cai, việc điều trị phục hồi được thực hiện chủ yếu tại gia

đình và cộng đồng. Các phương pháp điều trị đa dạng: thuốc, tư vấn, liệu

pháp tâm lý, giáo dục, lao động, giải trí, học nghề….

Ưu điểm của phương pháp này là bệnh nhân sau khi được điều trị tái

hoà nhập cộng đồng tốt hơn, nhưng nếu thời gian điều trị chưa đủ dài (thông

thường điều trị kéo dài ít nhất một năm) thì tỷ lệ tái nghiện vẫn rất cao [4].

1.3.3. Điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế

1.3.3.1. Mục tiêu

- Mục tiêu trước mắt: giảm các triệu chứng của hội chứng cai. Giảm thèm

nhớ và giảm sử dụng CDTP bất hợp pháp. Nâng cao sức khỏe cho bệnh nhân.

- Mục tiêu trung hạn: Tăng khả năng có việc làm, chịu trách nhiệm bản thân.

- Mục tiêu dài hạn: Đảm nhiệm các trách nhiệm với xã hội, đóng góp

cho cộng đồng.

1.3.3.2. Tác dụng của điều trị thay thế

18

- Giảm hoặc làm mất các triệu chứng của hội chứng cai; giảm hoặc làm

mất các cơn thèm nhớ CDTP; ngăn chặn cảm giác "phê" nếu vẫn tiếp tục sử

dụng CDTP, thời gian điều trị càng dài thì hiệu quả điều trị càng cao.

- Giảm đáng kể việc sử dụng CDTP; ngăn ngừa lây nhiễm HIV và các

bệnh lây truyền qua đường máu khác.

- Giảm nguy cơ tử vong do sốc quá liều và giảm các hành vi phạm pháp.

1.3.3.3. Các thuốc điều trị thay thế phổ biến

a) Thuốc Methadone

Methadone là CDTP tổng hợp, đồng vận toàn phần với các thụ thể của

CDTP (μ, κ và δ), hấp thu qua đường uống nên không cần sử dụng đường

tiêm; thời gian tác dụng kéo dài trung bình 24 giờ nên bệnh nhân chỉ cần uống

1 lần/24 giờ; ít gây dung nạp nên không phải tăng liều; dễ dàng kiểm soát việc

sử dụng, giá thành rẻ…Vì vậy, Methadone đã được lựa chọn là một trong

những phương pháp điều trị thay thế nghiện các CDTP tự nhiên, bất hợp pháp

có hiệu quả trên thế giới kể từ năm 1964 tới nay.

Khi điều trị bằng thuốc Methadone, liều Methadone phải phù hợp với

từng bệnh nhân, bắt đầu với liều thấp, tăng từ từ và duy trì ở liều đạt hiệu quả

tối ưu. Kết hợp với tư vấn, chăm sóc và điều trị y tế khác. Thời gian điều trị

phải đủ dài, thời gian càng dài hiệu quả điều trị càng cao [4].

b) Thuốc Buprenorphine

Buprenorphine là CDTP bán tổng hợp, đồng vận một phần với các thụ

thể của CDTP (vừa có tác dụng đồng vận với các thụ thể (μ và nociceptin),

vừa có tác dụng đối vận với các thụ thể (κ và δ) của CDTP) nên nó được sử

dụng để điều trị nghiện các CDTP giống như Methadone nhưng an toàn hơn

(ít nguy cơ tử vong khi sử dụng quá liều), tuy nhiên giá thành điều trị cao hơn

nhiều so với Methadone.

19

Điểm mạnh của điều trị bằng thuốc Buprenorphine:

- Có thể điều trị cách nhật, thậm chí 3 ngày trong một tuần. Tác dụng

không mong muốn rất nhẹ, chỉ gây ra trong thời gian đầu và giảm dần theo

thời gian.

- Hội chứng cai nhẹ, xuất hiện trong vòng 3-5 ngày từ lần sử dụng

Burprenorphine cuối cùng.

Hạn chế của thuốc Burprenorphine: giá thành đắt, sự kiểm soát

Burprenorphine (viên) ở thị trường tự do khó khăn hơn Methadone [4].

c) Thuốc Naltrexone

Naltrexone là một chất đối vận với CDTP thông qua việc chiếm chỗ của

các phân tử CDTP tại các thụ thể, cũng như ngăn chặn sự tiếp cận của CDTP

với các thụ thể của nó.

Naltrexone được sử dụng điều trị duy trì chống tái nghiện CDTP có kết

quả tốt nếu kết hợp với liệu pháp tâm lý và rất hiệu quả ở những bệnh nhân có

động lực tốt. Thời gian điều trị tối đa phụ thuộc từng cá thể, nhưng không

dưới một năm để có thể thay đổi hành vi.

Liệu pháp này đã được áp dụng trên thế giới và tại Việt Nam nhưng hạn

chế chủ yếu của liệu pháp này là tỷ lệ bệnh nhân bỏ điều trị rất cao [4].

1.4. Điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc Methadone

trên thế giới và ở Việt Nam

1.4.1. Trên Thế giới

Điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc đã có một lịch sử

lâu dài hơn 50 năm. Điều trị nghiện CDTP bằng thuốc Methadone đã được

Vincent Dole và Marie Nyswander triển khai lần đầu tiên tại Mỹ, năm 1964

20

[125]. Tính đến cuối năm 2014, đã có hơn 80 quốc gia trên thế giới triển khai

điều trị nghiện CDTP bằng thuốc. Methadone và Buprenorphine là 02 thuốc

chính thường được lựa chọn trong điều trị. Ngoài ra, tại một số quốc gia còn

cung cấp một số dịch vụ khác như morphine và codein phóng thích chậm, và

điều trị heroin hỗ trợ (HAT) [111].

Số cơ sở điều trị thường tỷ lệ thuận với số người tham gia điều trị, tỷ lệ

này thường rất cao ở các nước phát triển như Mỹ, Australia, các nước ở châu

Âu. Theo ước tính, có khoảng 61% người nghiện CDTP đã được tham gia

điều trị tại Tây Âu, tỉ lệ này tương đối cao ở Iran (42,6%) và tại cộng hòa

Czech (40%). Điều trị nghiện CDTP cũng được triển khai tại nhiều nước

Châu Á Đông Âu, Trung Đông và Bắc Phi [54, 112].

Tuy nhiên, độ bao phủ của điều trị nghiện CDTP vẫn còn thấp. Theo ước

tính toàn cầu về độ bao phủ của chương trình điều trị nghiện CDTP đến cuối

năm 2014 cho thấy chỉ có khoảng 6% đến 12% người nghiện CDTP được tham

gia điều trị. Độ bao phủ vẫn rất thấp tại một số vùng như là vùng cận –Sahara

của Châu Phi, Châu Mỹ Latinh và Châu Á. Tại Châu Á, một số nước có tỷ lệ

nghiện chích ma túy đã được ghi nhận là nguyên nhân chính gây lây nhiễm

HIV, độ bao phủ của chương trình điều trị nghiện CDTP bằng thuốc là rất thấp,

dưới 3% số người nghiện CDTP như tại Indonesia, Myanmar [54, 112].

1.4.2. Hiệu quả của điều trị nghiện CDTP bằng thuốc Methadone

Trải qua hơn 50 năm, với một lịch sử lâu dài, điều trị nghiện CDTP

bằng thuốc Methadone đã được chứng minh là phương pháp điều trị nghiện

CDTP có hiệu quả nhất. Nhiều nghiên cứu đã chứng minh hiệu quả trong việc

làm giảm sử dụng heroin [43, 51, 75], dự phòng lây nhiễm HIV [64, 88], tăng

tuân thủ điều trị ARV [98], giảm tỷ lệ tử vong trong số những bệnh nhân tham

gia điều trị Methadone [65], giảm hành vi phạm pháp [72, 88].

21

1.4.2.1. Làm giảm sử dụng ma túy bất hợp pháp

Hiệu quả của điều trị nghiện CDTP bằng thuốc Methadone trong việc

giảm sử dụng ma tuý bất hợp pháp được thể hiện trong nhiều nghiên cứu khác

nhau:

Nghiên cứu vào giữa thập kỷ 80 của Ball JC và Ross A về hiệu quả của

việc điều trị Methadone cho thấy 77% bệnh nhân ngừng sử dụng heroin bằng

đường tiêm chích trong 6 tháng đầu tiên tham gia điều trị, sau 4 đến 5 năm

điều trị tỷ lệ bệnh nhân ngừng sử dụng heroin tăng lên tới 92%, 96% bệnh

nhân báo cáo không dùng ma túy tổng hợp và 83% bệnh nhân không dùng

cocaine [88].

Nghiên cứu của Simpson DD, Sells SB tại Mỹ trên 1.856 bệnh nhân

điều trị Methadone về tình hình sử dụng ma tuý hàng ngày trong 3 năm cho

thấy: tỷ lệ sử dụng ma túy hàng ngày trước điều trị 02 tháng là 100%, sau 01

năm điều trị bằng thuốc Methadone tỷ lệ này giảm xuống còn 36% và sau 03

năm điều trị tỉ lệ này giảm 22% [117].

Nghiên cứu của Jeganathan và cộng sự tại Malaysia trên 216 bệnh nhân

trong giai đoạn 2005-2008 cũng cho thấy điểm số sử dụng heroin sau 12

tháng giảm rõ rệt, điểm số khác biệt là 2.01 (p<0.001) [86].

Tại Việt Nam, tác giả Vũ Văn Công trong nghiên cứu tại Hải Phòng

năm 2009 cho thấy điều trị Methadone đã đem lại hiệu quả rõ rệt trong việc

làm giảm sử dụng ma túy: số ngày trung bình bệnh nhân dùng heroin trước

khi vào điều trị Methadone so với sau điều trị Methadone 30 ngày, 30-60

ngày và trên 60 ngày là 29,1; 12,4; 2,3 và 0,5 [17].

Nghiên cứu thuần tập trên 965 bệnh nhân tham gia điều trị Methadone

trong 2 năm tại Thành phố Hải Phòng và Thành phố Hồ Chí Minh cho thấy: tỷ lệ

sử dụng heroin giảm đáng kể nhất là sau 3 tháng từ 100% xuống còn 34,6% tại

22

Hải Phòng và 36,2% tại thành phố Hồ Chí Minh. Con số này giảm còn 22,9% tại

Hải Phòng và 14,6% tại thành phố Hồ Chí Minh sau 2 năm điều trị [117].

1.4.2.2. Làm giảm hành vi nguy cơ lây nhiễm HIV trong nhóm nghiện

chích ma tuý

Điều trị Methadone cũng làm giảm các hành vi nguy cơ lây nhiễm HIV

như tiêm chích ma túy, sử dụng chung bơm kim tiêm, có nhiều bạn tình hay

bán dâm. Sử dụng thuốc Methadone bằng đường uống làm giảm nguy cơ lây

nhiễm HIV trong nhóm người nghiện các CDTP do giảm việc tiêm chích,

giảm tỷ lệ sử dụng chung BKT.

1.4.2.3. Giảm hành vi tiêm chích ma túy và dùng chung bơm kim tiêm

David S. Metzger và cộng sự đã tiến hành một nghiên cứu so sánh hiệu

quả của điều trị Methadone ở nhóm người TCMT tham gia điều trị

Methadone và không điều trị Methadone, 152 người tham gia điều trị

Methadone và 103 người không tham gia điều trị được theo dõi trong 18

tháng. Các chỉ số về hành vi và HIV được thu thập sau mỗi 6 tháng. Kết quả

nghiên cứu cho thấy tình trạng tiêm chích ma túy ở nhóm tham gia điều trị

Methadone giảm rõ rệt so với nhóm người không tham gia điều trị

Methadone. Ở bệnh nhân điều trị Methadone tiếp tục còn tiêm chích ma túy,

tỷ lệ tiêm chích heroin hàng tuần là 33%, giảm rõ rệt so với nhóm người

không điều trị Methadone là 69% (p<0,01). Hành vi dùng chung BKT ở đối

tượng không tham gia điều trị Methadone cũng cao hơn trong nhóm bệnh

nhân Methadone (tỷ lệ tiêm chích nhưng không dùng chung BKT là 48%

trong nhóm điều trị Methadone so với 24% nhóm không điều trị; 70% đối

tượng không điều trị Methadone báo cáo có hành vi dùng chung BKT so với

34% bệnh nhân thuộc nhóm Methadone có hành vi này (p<0,01) [76].

Nghiên cứu của Ball JC, Lange WR, Meyers CP, Friedman SR, điều trị

bằng thuốc Methadone làm giảm nguy cơ lây nhiễm HIV (1998), nghiên cứu

23

được thực hiện trong 3 năm tại thành phố New York, Philadelphia và

Baltimore cho thấy hiệu quả của điều trị Methadone giúp làm giảm tiêm chích

ma tuý, giảm dùng chung bơm kim tiêm trong nhóm nghiện chích heroin. Kết

quả nghiên cứu cho thấy người nghiện chích ma tuý khi bỏ điều trị

Methadone càng lâu thì nguy cơ tái sử dụng ma tuý càng cao, tỷ lệ quay lại

tiêm chích sau 1-3 tháng bỏ điều trị là 45,5%, sau 4-6 tháng bỏ điều trị 57,6%,

sau 7-9 tháng bỏ điều trị là 72,7%, sau 12 tháng bỏ điều trị là 82,1% [107].

Tại Trung Quốc, Trung tâm đào tạo Methadone Quốc gia tại Viện

nghiên cứu lạm dụng ma túy Vân Nam đã được thành lập năm 2003 nhằm

cung cấp hỗ trợ về kỹ thuật – lâm sàng và chịu trách nhiệm đào tạo cho nhân

viên y tế làm việc tại các phòng khám điều trị Methadone. Từ tháng 3 đến

tháng 6 năm 2004, 8 phòng khám Methadone đầu tiên được thành lập: 2

phòng khám ở Tứ Xuyên, 1 phòng khám ở Vân Nam, 2 phòng khám ở Quế

Châu, 1 phòng khám ở Quảng Tây, và 2 phòng khám ở Triết Giang. Kết quả

thu được trên 1.153 bệnh nhân tại 8 phòng khám Methadone ở Trung Quốc rất

khả quan: tỷ lệ tiêm chích ma túy đã giảm từ 69,1% xuống còn 8,9%; số lượt

tiêm chích từ 90 lần/tháng giảm xuống 2 lần/tháng. Số liệu này cho thấy hành

vi tiêm chích ma túy giảm rõ rệt [81].

Nghiên cứu của Jeganathan và cộng sự tại Malaysia trên 216 bệnh nhân

trong giai đoạn 2005-2008 cũng cho thấy điểm thay đổi hành vi nguy cơ lây

nhiễm HIV sau 12 tháng thay đổi rõ rệt, điểm số khác biệt là 7,64 (p<0,001) [86].

Tác giả Vũ Văn Công trong nghiên cứu tại Hải Phòng năm 2009, cho

thấy: điều trị Methadone đã đem lại hiệu quả với việc giảm tỷ lệ sử dụng ma

túy và dùng chung bơm kim tiêm trong cộng đồng người nghiện ma túy. Tỷ lệ

bệnh nhân trước khi vào điều trị Methadone sử dụng chung bơm kim tiêm khi

chích ma túy là 24% đã giảm xuống còn 12,7% chỉ sau 3 tháng điều trị [17].

24

Trong nghiên cứu đánh giá đề án thí điểm điều trị Methadone tại Việt

Nam: trước điều trị khoảng từ 11%- 30% bệnh nhân có sử dụng chung bơm

kim tiêm, sau 12 tháng điều trị, tỷ lệ sử dụng chung bơm kim tiêm trong số

những người tiếp tục có hành vi tiêm chích ma túy rất thấp, không đáng kể và

sau 24 tháng chỉ còn 2% bệnh nhân có hành vi dùng chung bơm kim tiêm

trong nhóm bệnh nhân tiếp tục sử dụng ma túy [7].

1.4.2.4. Cải thiện hành vi tình dục không an toàn

Nghiên cứu của Metzger DS và cộng sự về hành vi lây nhiễm HIV và

tình trạng lây nhiễm HIV qua đường máu ở 02 nhóm người tiêm chích ma tuý

được điều trị và không được điều trị thay thế bằng thuốc Methadone. Sau 18

tháng cho thấy: việc sử dụng BCS khi QHTD trong nhóm điều trị Methadone

cao hơn trong nhóm không được điều trị (15% so với 12%, p<0,01) [76].

Cùng với việc dừng hoặc giảm mức độ sử dụng ma túy và tiêm chích

không an toàn, các hành vi nguy cơ lây nhiễm HIV qua quan hệ tình dục trong

nhóm bệnh nhân tham gia điều trị đã có sự cải thiện đáng kể. Tỷ lệ bệnh nhân

sử dụng bao cao su thường xuyên trong quan hệ tình dục kể cả với bạn tình

thường xuyên (vợ, người yêu), cũng như trong quan hệ tình dục mại dâm.

Trước điều trị, tỷ lệ sử dụng bao cao su thường xuyên với bạn tình thường

xuyên và phụ nữ mại dâm lần lượt là 36,3% và 92,9% thì sau 12 tháng điều trị

tỷ lệ này đã tăng lên lần lượt là 37,5% va 95,8%, sau 24 tháng điều trị tỷ lệ

này đã là 43,9% và 96,8% [76].

Những thay đổi tích cực về giảm tỷ lệ sử dụng bơm kim tiêm chung

trong tiêm chích ma túy và tăng tỷ lệ thường xuyên sử dụng bao cao su khi

quan hệ tình dục trong nhóm bệnh nhân tham gia điều trị Methadone sẽ góp

phần dự phòng lây nhiễm HIV từ quần thể những người NCMT sang bạn tình

của họ và cộng đồng. Điều này có ý nghĩa rất quan trọng trước thực trạng lây

25

nhiễm HIV từ nam giới có hành vi nguy cơ cao sang bạn tình nữ đang có xu

hướng gia tăng tại Việt Nam.

1.4.2.5. Làm giảm tỷ lệ lây nhiễm HIV trong nhóm nghiện chích ma tuý

Nghiên cứu tại Mỹ cho thấy người NCMT không được điều trị bằng

Methadone có tỷ lệ huyết thanh dương tính với HIV tăng từ 21% tới trên 51%

sau 5 năm theo dõi; với nhóm người NCMT được điều trị bằng Methadone, tỷ

lệ này chỉ tăng từ 13% đến 21% [43].

Metzger DS và cộng sự tiến hành nghiên cứu về tình trạng lây nhiễm

HIV qua đường máu ở 02 nhóm người tiêm chích ma tuý được điều trị và

không được điều trị bằng thuốc Methadone. Kết quả nghiên cứu cho thấy tại

thời điểm bắt đầu điều trị Methadone tỷ lệ nhiễm HIV ở nhóm được điều trị là

11%, tỉ lệ nhiễm HIV ở nhóm không được điều trị là 18%. Sau 18 tháng

nghiên cứu, tỉ lệ xét nghiệm dương tính với HIV ở nhóm được điều trị 15%, tỉ

lệ này ở nhóm không được điều trị là 33%, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê

với p<0,01 [76].

Trong nghiên cứu tại Việt Nam, sau 12 tháng điều trị, chỉ phát hiện một

trường hợp nhiễm HIV mới trong tổng số 760 bệnh nhân âm tính khi mới bắt

đầu điều trị. Tỷ lệ này thấp hơn rất nhiều so với tỷ lệ nhiễm HIV mới trong

quần thể người nghiện chích ma túy tại Việt Nam, ước tính từ khoảng 2%-4%

trong 1 năm [8].

1.4.2.6. Cải thiện sức khỏe cho bệnh nhân tham gia điều trị

Nghiên cứu tại Malaysia sau 2 năm cho thấy cả 4 yếu tố trong chất

lượng cuộc sống (thể chất, tâm thần, mối quan hệ xã hội và môi trường) đều

được cải thiện rõ rệt (p<0.001) đặc biệt là chỉ số về sức khỏe tâm thần tăng

20% sau 2 năm điều trị [77].

26

Kết quả nghiên cứu tại Hải Phòng và TP Hồ Chí Minh trong giai đoạn

thí điểm trên 6 cơ sở điều trị Methadone hoạt động từ tháng 4/2008 cho thấy:

tỷ lệ bệnh nhân có nguy cơ trầm cảm giảm từ 80% xuống còn 15% sau 12

tháng điều trị Methadone. Đánh giá thang điểm Chất lượng sống của Tổ chức

Y tế Thế giới tăng lên: về thể chất (81 so với 69), tâm lý (69 so với 56) và xã

hội (56 so với 50) [8].

Tỷ lệ tử vong ở người nghiện heroin tham gia điều trị Methadone thấp

hơn ở nhóm người không được điều trị từ 3 đến 4 lần tùy theo nghiên cứu.

Theo nghiên cứu của Trường Y tế công cộng, đại học Nam Trung, Trung

Quốc, chất lượng cuộc sống của những người tham gia điều trị cũng được cải

thiện rõ rệt, sức khoẻ thể chất và sức khoẻ tâm thần là những lĩnh vực được

cải thiện đáng kể nhất trong những người nghiện CDTP được điều trị

Methadone [102]. Bên cạnh đó, Methadone cũng giúp bệnh nhân hồi phục

khả năng lao động và cải thiện các mối quan hệ trong xã hội [102, 120].

1.4.2.7. Làm giảm hoạt động tội phạm

Nhiều báo cáo và nghiên cứu đã cho thấy người nghiện ma túy thường

có một tỷ lệ phạm tội rất cao, như là buôn bán ma túy, cướp giật, đột nhập và

ăn trộm, ăn cắp, lừa đảo… các hoạt động tội phạm này thường liên quan đến

việc cần tiền để mua ma túy. Tại Mỹ năm 1999 có 6,3 triệu người trong diện

bị cải tạo, giam giữ trong nhà tù, hoặc quản chế tại cộng đồng, trong đó có

21% người phạm tội liên quan đến ma túy. Theo báo cáo của Cục điều tra

Liên bang Mỹ (FBI), năm 1980 có 580.900 vụ bắt giữ liên quan đến tội phạm

ma túy, chiếm 5,6% của tất cả các vụ bắt giữ, năm 1999 có 1.532.200 vụ bắt

giữ về ma túy, chiếm 10,9% tất cả các vụ bắt giữ [114].

Khi tham gia điều trị Methadone, với liều thích hợp thuốc Methadone

phong tỏa các thụ thể tiếp nhận, ngăn chặn các hiệu ứng phấn khích của ma

túy, ngoài ra còn được điều trị bằng các liệu pháp tâm lý, tạo việc làm, có cơ

27

hội để cải thiện cuộc sống của mình, tái hòa nhập cộng đồng, tham gia các

hoạt động bình thường của xã hội [109].

Nghiên cứu của Ball JC, Ross A, hiệu quả điều trị Methadone đã giảm

đáng kể số ngày liên quan đến phạm tội trung bình mỗi năm: số ngày liên

quan đến phạm tội trung bình trước điều trị là 237,5. Sau 4 tháng điều trị

Methadone số ngày liên quan đến phạm tội trung bình giảm xuống còn 69,3,

sau 3 năm tỷ lệ này là 12,4, sau 6 năm là 14,5 [106].

Nghiên cứu của McGlothlin WH, Anglin MD cho thấy tỉ lệ ngày liên

quan đến tội phạm sau khi điều trị 01 năm đã giảm từ 31,3% xuống còn 12%

[81].

Kết quả thu được trên 1.153 bệnh nhân tại 8 phòng khám Methadone ở

Trung Quốc rất khả quan: hành vi tội phạm giảm từ 20,7% xuống còn 3,8% và

chỉ có 8 trường hợp huyết thanh chuyển sang HIV (+) trong vòng 12 tháng [81].

Tại Việt Nam, mâu thuẫn trong gia đình, xã hội cũng giảm mạnh khi

bệnh nhân tham gia điều trị Methadone. Nếu như trước điều trị trên 40% bệnh

nhân (khi còn nghiện ma túy) có tiền án, tiền sự thì sau 12 tháng tham gia

điều trị Methadone, tỷ lệ bệnh nhân tiếp tục có các hành vi vi phạm pháp luật

được ghi nhận còn rất thấp (2,11%) và tỷ lệ này tiếp tục giảm chỉ còn 1,34%

sau 24 tháng điều trị [8].

1.4.2.8. Làm tăng cơ hội có việc làm

Nhiều kết quả nghiên cứu cũng đã khẳng định điều trị Methadone giúp

bệnh nhân giữ được việc làm và có nhiều cơ hội tìm kiếm việc làm cũng như

có việc làm trở lại.

Trong nghiên cứu của Simpson DD, Sells SB, nghiên cứu can thiệp

hiệu quả điều trị nghiện ma tuý: tỷ lệ người có việc làm sau một năm điều trị

đã tăng lên 33%, sau điều trị 03 năm tỷ lệ này đã tăng lên gần 60% [117].

28

Kết quả nghiên cứu tại Hải Phòng và TP Hồ Chí Minh trong giai đoạn

thí điểm trên 6 cơ sở điều trị Methadone hoạt động từ tháng 4/2008 cho thấy:

tỷ lệ người tham gia điều trị có việc làm tăng từ 55% lên 66% (p=0,028) [8].

1.4.2.9. Hiệu quả kinh tế và xã hội của điều trị Methadone

Theo kết quả nghiên cứu của NIDA (1991) qua các dữ liệu, báo cáo của

cơ quan điều trị lạm dụng ma túy thành phố New York, đã ước tính chi phí

hàng năm của người nghiện CDTP tại thành phố New York, như sau: chi phí

của người nghiện không được điều trị và trên đường phố là 43.000USD/1năm,

chi phí cho người nghiện bị đi tù là 34.000 USD/1năm, chương trình điều trị

cai nghiện tại nhà là 11.000 USD/1năm, cho điều trị bằng thuốc Methadone là

2.400 USD/1 năm [95, 125].

Một nghiên cứu khác của trung tâm điều trị nghiện rượu và ma tuý

California trên 150.000 bệnh nhân (CALDATA) đã cho thấy: cứ 01 USD chi

cho điều trị nghiện CDTP bằng thuốc Methadone sẽ tích kiệm được 07 USD

cho tương lai. Điều trị nghiện CDTP bằng thuốc Methadone là phương pháp

điều trị hiệu quả, chi phí thấp [56].

Theo nghiên cứu về hiệu quả điều trị quốc gia của Anh (NTORS-Study

UK), ước tính cứ 1 đôla đầu tư vào chương trình điều trị nghiện CDTP bằng

Methadone thì sẽ tiết kiệm được 3 đôla cho các chi phí pháp lý. Nghiên cứu

tại Hoa Kỳ đăng trên Tạp chí Hàn lâm quốc gia năm 1990 số 1 cho thấy điều

trị bằng thuốc Methadone cần khoảng 4.000 đô la/năm, trong khi chi phí phải

trả cho việc giam giữ khoảng 20.200 đến 23.500 đô la/năm; chi phí điều trị

bệnh tật cho người nghiện ma túy nhiễm HIV/AIDS cần khoảng 109.000 đô

la/năm. Tại Úc, chi phí điều trị nghiện CDTP bằng thuốc chỉ cần 6.096 đô la

Úc trong khi biện pháp cai nghiện trong trung tâm cần 11.125 đô la Úc, và

giam giữ trong tù mất 73.840 đô la Úc; chi phí trên chưa tính đến các chi phí

tiết kiệm được do không dùng thuốc phiện trong thời gian cai và sau cai. Theo

29

kinh nghiệm quốc tế, điều trị Methadone sẽ giúp cộng đồng tiết kiệm được từ

7 đến 10 lần các chi phí liên quan đến luật pháp, hành pháp, y tế, xã hội, bảo

hiểm, hải quan v.v [42].

Tóm lại, cho đến thời điểm hiện nay điều trị nghiện CDTP bằng thuốc

Methadone vẫn là một biện pháp điều trị nghiện CDTP hiệu quả, Methadone

được coi là ―tiêu chuẩn vàng‖ trong điều trị nghiện CDTP.

1.4.2.10. Tuân thủ điều trị, bỏ điều trị

Để các quốc gia đặt mục tiêu tiếp cận phổ cập dự phòng, chăm sóc

người nghiện chích ma túy nhiễm HIV, Tổ chức Y tế thế giới đã sử dụng chỉ

số mức độ tuân thủ điều trị của bệnh nhân để đánh giá hiệu quả và chất lượng

điều trị [131]. Theo Tổ chức Y tế thế giới, tỷ lệ tuân thủ điều trị của bệnh

nhân sau 1 năm đạt từ 60%-80% là mức trung bình và trên 80% được coi là

điều trị thành công. Dựa trên khuyến nghị của Tổ chức Y tế thế giới, hướng

dẫn điều trị nghiện các CDTP bằng thuốc Methadone của Bộ Y tế cũng quy

định thời gian tối thiểu điều trị là 1 năm để đảm bảo hiệu quả điều trị [11].

Đối lập với tuân thủ điều trị là tỷ lệ bỏ điều trị, đây cũng là chỉ số được các

nghiên cứu đo lường để đánh giá hiệu quả điều trị, tỷ lệ này càng thấp thì hiệu

quả điều trị càng cao [131].

Tỷ lệ này khác nhau tùy thuộc từng quốc gia và từng vùng trong mỗi

quốc gia. Nghiên cứu tại Hải Phòng cho thấy tỷ lệ tuân thủ điều trị sau 1 năm

là 86,4%, năm thứ 2 là 83,5% và năm thứ ba giảm xuống còn 77,7% [63].

Nghiên cứu ở các quốc gia khác cho thấy tỷ lệ bỏ trị sau 12 tháng trong một

nghiên cứu tại Đài Loan là 41,6% [69]; tại Trung Quốc tỷ lệ này chỉ đạt

55,2% sau 12 tháng và 43% sau 24 tháng [103]; 74,4% sau 12 tháng tại Israel

[83] và 72% sau 12 tháng, 49,8% sau 24 tháng tại Canada [48, 95].

30

1.4.2.11. Các yếu tố ảnh hƣởng đến hiệu quả điều trị

a) Các yếu tố ảnh hƣởng đến việc tiếp tục sử dụng heroin trong qua

trình điều trị

Một trong những mục tiêu chính của điều trị bằng thuốc Methadone là

giúp bệnh nhân giảm, tiến tới ngừng sử dụng ma túy [10, 117]. Để đánh giá

hiệu quả này của điều trị Methadone, nhiều nghiên cứu đã tập trung vào đánh

giá chỉ số tiếp tục sử dụng heroin trong quá trình điều trị và xác định các yếu

tố ảnh hưởng đến việc tiếp tục sử dụng heroin.

Kết quả từ nhiều nghiên cứu trên thế giới đều cho thấy điều trị nghiện

các CDTP bằng thuốc Methadone giúp bệnh nhân giảm và tiến tới ngừng sử

dụng ma túy. Xu hướng giảm sử dụng ma túy bất hợp pháp ở bệnh nhân khi

tham gia điều trị cả về tần suất và số lượng đều rất nhanh. Nghiên cứu đầu

tiên về Methadone tại Việt Nam cho thấy: từ 100% bệnh nhân sử dụng ma túy

trước khi tham gia điều trị với tần suất sử dụng khá cao (trung bình 4-5

lần/ngày), sau 2 năm tham gia điều trị đã giảm xuống còn 14,6% tại Hải

Phòng và 22,9% tại thành phố Hồ Chí Minh [59]. Nghiên cứu tại Trung Quốc

cho thấy có tới 75% bệnh nhân còn tiếp tục sử dụng heroin nhiều hơn 1 lần

trong tháng tại thời điểm sau 1 năm tham gia điều trị [123]. Trong một nghiên

cứu thực hiện tại Tứ Xuyên có 44,9% bệnh nhân báo cáo tiếp tục sử dụng

Heroin hoặc có xét nghiệm nước tiểu dương tính trong vòng 30 ngày trước

thời điểm nghiên cứu [66].

Có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng đến việc tiếp tục sử dụng heroin trong

khi tham gia điều trị Methadone của bệnh nhân (1) các yếu tố về nhân khẩu

học xã hội như: tuổi, giới, trình độ học vấn, việc làm, thu nhập ổn định; (2)

các bệnh lý đồng nhiễm trên bệnh nhân: điều trị ARV, bệnh lao, HBV, HCV

31

hay (3) các yếu tố khác liên quan: mối quan hệ với gia đình, mối quan hệ bạn

bè và xã hội...

Một số nghiên cứu được tiến hành cho thấy mối quan hệ giữa các đặc

điểm nhân khẩu học với tình trạng sử dụng chất gây nghiện của bệnh nhân

trong quá trình điều trị. Nghiên cứu tại Việt Nam về hiệu quả của điều trị

Methadone cũng cho thấy tuổi có ảnh hưởng đến việc tiếp tục sử dụng heroin

trong quá trình tham gia điều trị [123]. Bệnh nhân có việc làm ổn định có xu

hướng ít sử dụng chất gây nghiện trong khi điều trị Methadone [59], những

người sống chung với bạn tình lại có nguy cơ sử dụng heroin trong quá trình

điều trị cao hơn nhóm sống độc thân [127]. Nghiên cứu tiến hành tại Quảng

Đông, Trung Quốc đưa ra kết luận nữ giới có xu hướng tiếp tục sử dụng heroin

trong quá trình điều trị cao hơn so với nam giới và bệnh nhân lệ thuộc vào kinh

tế có xu hướng tiếp tục sử dụng cao heroin cao hơn nhóm không lệ thuộc [71].

Theo một nghiên cứu tiến hành tại Quảng Đông, Trung Quốc đánh giá

các yếu tố ảnh hưởng đến việc tiếp tục sử dụng heroin sau khi tham gia điều

trị cho thấy tiền sử sử dụng chất gây nghiện của bệnh nhân được xác định là

một yếu tố có ảnh hưởng đến việc tiếp tục sử dụng heroin của họ sau 1 năm

điều trị methadone, bệnh nhân có tiền sử tiêm chích ma túy có xu hướng ít sử

dụng heroin trong quá trình điều trị hơn nhóm bệnh nhân không có tiền sử

tiêm chích là gần 20% (OR=0,81) [71].

Nghiên cứu tại Trung quốc cho thấy bệnh nhân thường xuyên gặp gỡ

bạn là người đang sử dụng ma túy có xu hướng tái sử dụng heroin cao hơn

nhóm không gặp lại bạn nghiện [66, 71]. Bệnh nhân có nhiều bạn tình cũng có

nguy cơ tăng sử dụng heroin trong quá trình điều trị [71].

Bệnh nhân có mối quan hệ trong gia đình không tốt có xu hướng tiếp

tục sử dụng heroin trong quá trình điều trị cao hơn nhóm có mối quan hệ tốt

32

trong gia đình [71, 96]. Theo một nghiên cứu cắt ngang tiến hành tại tỉnh

Chiết Giang và Giang Tây, Trung Quốc trên 560 bệnh nhân, nhóm không

nhận được sự hỗ trợ của gia đình thì có nguy cơ sử dụng ma túy bất hợp pháp

trong quá trình điều trị cao hơn nhóm có hỗ trợ [68].

Nhiều nghiên cứu cho thấy tình trạng nhiễm HIV của bệnh nhân có ảnh

hưởng đến việc tiếp tục sử dụng heroin trong quá trình điều trị của bệnh nhân

[59, 69, 71, 123, 127].

Nghiên cứu tại Việt Nam cho thấy bệnh nhân điều trị Methadone đồng

thời với điều trị ARV, điều trị lao có xu hướng sử dụng chất gây nghiện cao

hơn nhóm bệnh nhân Methadone không tham gia điều trị ARV, điều trị lao

[59, 123]. Kết quả này cũng tương tự như nghiên cứu được tiến hành tại

Trung Quốc: bệnh nhân HIV dương tính có xu hướng tiếp tục sử dụng chất

gây nghiện trong quá trình điều trị cao hơn nhóm HIV âm tính [69, 71].

Bệnh nhân thường xuyên bỏ uống thuốc có xu hướng sử dụng heroin

cao hơn nhóm tuân thủ điều trị tốt 3,7 lần tại thành phố Hồ Chí Minh [59].

Kết quả tương tự cũng được chứng minh trong một nghiên cứu tại Trung

Quốc:bệnh nhân thường xuyên bỏ uống thuốc có xu hướng tiếp tục sử dụng

heroin cao hơn gần 6 lần so với nhóm uống thuốc đều đặn [96] hoặc cao hơn

gần 2 lần so với nhóm tốt trong một nghiên cứu khác cũng tiến hành tại Trung

Quốc [71].

Liều điều trị cũng có ảnh hưởng đến việc tiếp tục sử dụng ma túy trong

quá trình điều trị [40, 51, 71, 127]. Một số nghiên cứu cho thấy liều thuốc

Methadone thấp thì tỷ lệ tiếp tục sử dụng ma túy trong quá trình điều trị càng

cao [51, 127] hoặc kết quả của một nghiên cứu tại Thụy Điển cho thấy liều

điều trị càng cao thì số ngày sử dụng heroin càng ít [40]. Tuy nhiên, vẫn có

33

những nghiên cứu đã cho thấy liều điều trị không có mối liên quan đến việc

tiếp tục sử dụng heroin của bệnh nhân [96].

b) Các yếu tố ảnh hƣởng đến bỏ điều trị

Có rất nhiều thách thức để một bệnh nhân có thể duy trì điều trị

Methadone. Các nghiên cứu trước đây đã chỉ ra các yếu tố chính ảnh hưởng đến

việc bỏ trị của bệnh nhân bao gồm (1) các yếu tố nhân khẩu, kinh tế xã hội [84],

(2) mức độ và tình trạng sử dụng heroin [52, 62], (3) các bệnh lý kèm theo trong

quá trình điều trị [127], (4) chuyên môn, chất lượng dịch vụ điều trị [61].

Nghiên cứu thực hiện từ năm 1993 bởi W.S. Condelli cho thấy yếu tố

tuổi của bệnh nhân là một trong những yếu tố ảnh hưởng đến việc duy trì điều

trị. Bệnh nhân dưới 25 tuổi có xu hướng bỏ trị cao hơn những ngườilớn tuổi

hơn [47]. Nghiên cứu thuần tập được tiến hành năm 2015 tại Ireland cũng cho

kết quả tương tự: những người lớn tuổi, sống độc thân và ổn định về kinh tế

thì tỷ lệ duy trì điều trị cao hơn nhóm ngược lại [49].

Năm 2008 Haskew và cộng sự cho thấy tuổi của bệnh nhân, điểm số về độ

tin cậy của bệnh nhân và tình trạng có việc làm của bệnh nhân có mối liên quan

đến việc duy trì điều trị của bệnh nhân đó. Bệnh nhân trẻ, điểm tin cậy thấp và

không có việc làm ổn định có nguy cơ bỏ trị cao hơn nhóm còn lại [56].

Trong một nghiên cứu so sánh đặc điểm hai nhóm bệnh nhân điều trị

Methadone tại Tel-Aviv, Israel và Las Vegas, Nevada cho thấy sau 1 năm

điều trị, bệnh nhân ở Tel-Aviv có tỷ lệ duy trì điều trị cao hơn bệnh nhân ở

Las Vegas (73,6% với 61,6%) trong đó bệnh nhân ở Las Vegas lớn tuổi hơn

và nhiều người là nữ giới hơn [82]. Một nghiên cứu đươc tiến hành trên nhóm

bệnh nhân tham gia điều trị tại Đài Loan cũng cho thấy nữ giới có nguy cơ bỏ

trị cao hơn nhóm nam giới [67]. Tuy nhiên, nghiên cứu được tiến hành tại

34

Israel năm 2007 lại cho thấy việc duy trì điều trị tương tự cho cả nam lẫn nữ

[92].

Yếu tố xã hội khác cũng có ảnh hưởng đến việc duy trì điều trị của

bệnh nhân là sống cùng với người sử dụng CDTP. Tỷ lệ bỏ trị cao thường gặp

ở những người sống cùng với người sử dụng CDTP (HR=2,71) so với bệnh

nhân không sống cùng người nghiện CDTP [44].

Các yếu tố ảnh hưởng đến tuân thủ điều trị trong nhóm bệnh nhân tại

Tuyên Quang - một tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam - cho thấy: trình độ học

vấn, nghề nghiệp và tình trạng kinh tế của bệnh nhân cũng có ảnh hưởng đến

việc tuân thủ điều trị [78].

Nhiều nghiên cứu trên thế giới đã chứng minh mối quan hệ giữa việc tái

sử dụng chất dạng thuốc phiện và thời gian điều trị Methadone và liều điều trị.

Bệnh nhân điều trị bằng thuốc Methadone trong một khoảng thời gian dài thì ít

sử dụng CDTP hơn. Bệnh nhân điều trị với liều thuốc Methadone thấp có nguy

cơ tái sử dụng heroin cao hơn, bệnh nhân có liều thuốc Methadone cao liên

quan đến việc duy trì điều trị tốt hơn và giảm sử dụng ma túy bất hợp pháp

[72].

Nghiên cứu được tiến hành tại Đài Loan năm 2007 cho thấy khoảng

cách từ nhà đến cơ sở điều trị quá xa là một yếu tố làm tăng tỷ lệ bỏ trị của

bệnh nhân tham gia điều trị Methadone [51].

Kết quả từ một nghiên cứu tại Tây Ban Nha từ năm 1996 cho thấy liều

thuốc Methadone cao hơn 80mg/ngày, bệnh nhân trên 30 tuổi, sống cùng gia

đình hoặc có bạn tình thường xuyên có xu hướng tuân thủ điều trị tốt hơn

nhóm có liều thuốc Methadone thấp hơn 80mg/ngày, nhóm trẻ tuổi, độc thân

[105]. Một số yếu tố có tác động tỷ lệ thuận với tỷ lệ tuân thủ điều trị của

bệnh nhân như sự ổn định về mặt xã hội (đã lập gia đình, có nghề nghiệp ổn

35

định, không có tiền sử bị bắt giam), bệnh nhân đã từng điều trị trước đây, liều

thuốc điều trị cao và động cơ điều trị tốt cũng được đưa ra trong một nghiên

cứu tại Mỹ năm 1993 [118].

Một nghiên cứu được tiến hành năm 2010 tại Vân Nam, Trung Quốc

cho thấy bệnh nhân bỏ trị sớm có liên quan đến dân tộc, khả năng tiếp cận với

cơ sở điều trị, sống cùng với người sử dụng ma túy và liều điều trị

Methadone. Liều điều trị Methadone cao là một khuyến cáo để duy trì điều trị

của bệnh nhân. Kết quả từ nghiên cứu này đã đưa ra tỷ lệ tuân thủ điều trị của

bệnh nhân sau 1 tháng, 3 tháng và 6 tháng lần lượt là 94%, 75% và 57%.

Không có mối tương quan giữa liều điều trị với việc bỏ trị trong giai đoạn hai

tháng đầu, tuy nhiên sau 3 tháng điều trị, liều trung bình càng cao (trên

60mg/ngày) thì tỷ lệ bỏ trị càng thấp [44].

Kết quả tương tự cũng được chứng minh bởi một nghiên cứu khác thực

hiện tại Malaysia năm 2010, liều điều trị Methadone thấp nhất phải đạt

40mg/ngày mới đủ giữ bệnh nhân ổn định trong chương trình, tránh hành vi

tái sử dụng ma túy và với liều ít nhất 80mg/ngày mới đem lại hiệu quả điều trị

tốt nhất. Liều điều trị càng cao thì mức độ duy trì điều trị càng tốt [111,54].

Trong số những bệnh nhân còn duy trì điều trị, 80% trong số họ có mức liều

điều trị trên 80mg/ngày và 20% còn lại có mức liều điều trị trong khoảng từ

40-79mg/ngày [115].

Một nghiên cứu thuần tập được tiến hành để phân tích mối quan hệ

giữa liều điều trị và việc duy trì điều trị của bệnh nhân tại Quảng Châu, Trung

Quốc cho rằng liều điều trị Methadone cao chính là yếu tố góp phần làm tăng

tỷ lệ duy trì điều trị [70].

Một số các yếu tố khác cũng có thể ảnh hưởng đến việc duy trì điều trị

của bệnh nhân. Theo Sarasvita và cộng sự, các yếu tố dự báo mạnh nhất về sự

36

duy trì là liều thuốc Methadone, sau đó là sự tương tác giữa việc cho mang

thuốc về nhà và kinh nghiệm cung cấp dịch vụ của từng cơ sở điều trị. Kết

quả của nghiên cứu này kết luận: không thể chỉ dựa vào dược lực học của

thuốc Methadone để duy trì mà còn cần thúc đẩy việc tiếp cận thông tin về

việc cho phép mang thuốc về nhà [90].

Một nghiên cứu thuần tập theo dõi 697 bệnh nhân thuộc hai cơ sở điều

trị Methadone tại Hà Nội, Việt Nam trong vòng 4 năm liên tục (2009-2013)

cho thấy bệnh nhân có tiền sử tiêm chích ma túy, dương tính với HBV và

HCV, đang được điều trị bằng thuốc kháng virus thường có tỷ lệ bỏ trị cao

hơn các nhóm còn lại [127].

Theo một nghiên cứu trên 351 người sử dụng heroin hàng ngày hoặc

hàng tuần đã được nhận vào 1 trong 17 chương trình điều trị Methadone được

tài trợ công khai tại Mỹ cho thấy: các yếu tố ảnh hưởng đến tuân thủ điều trị

bao gồm (1) bệnh nhân đánh giá đạt về chất lượng dịch vụ hỗ trợ xã hội họ

nhận được trong tháng đầu tiên (gia đình, pháp luật, giáo dục, nghề nghiệp và

dịch vụ hỗ trợ tài chính); (2) bệnh nhân đánh giá cao về mức độ dễ tiếp cận

của chương trình và (3) bệnh nhân được thông báo về liều điều trị của họ [46].

Năm 2010, Kelly và các cộng sự đã kết luận: bệnh nhân hài lòng với chương

trình điều trị thì có thời gian duy trì điều trị ít nhất 1 năm [61].

1.4.3. Điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc Methadone

tại Việt Nam

1.4.3.1. Tình hình triển khai điều trị

Điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc Methadone được

triển khai thí điểm vào năm 2008 tại Thành phố Hải Phòng và Thành phố Hồ Chí

Minh. Tính đến hết 31/12/2015, chương trình điều trị Methadone đã được triển

khai tại 57/63 tỉnh, thành phố với 240 cơ sở và điều trị cho 43.720 bệnh nhân.

37

Đến 30/6/2017, chương trình điều trị Methadone đã được triển khai tại

63/63 tỉnh, thành phố với 294 cơ sở và điều trị cho 51.979 bệnh nhân.

Tính từ thời điểm thí điểm năm 2008 cho đến nay, hệ thống văn bản

quy phạm pháp luật và hướng dẫn chuyên môn kỹ thuật về điều trị nghiện các

chất dạng thuốc phiện bằng thuốc Methadone (điều trị Methadone) về cơ bản

đã được hoàn thiện, với việc ban hành 02 Nghị định của Chính phủ, 01 Chỉ thị

và 01 Quyết định của Thủ tướng Chính phủ, 08 Thông tư và Thông tư liên

tịch và 07 hướng dẫn chuyên môn. Hệ thống các văn bản và hướng dẫn

chuyên môn này đã hướng dẫn toàn diện về điều kiện hoạt động, tổ chức điều

trị, phác đồ điều trị (tại cộng đồng, trong trại giam và trong các cơ sở cai

nghiện bắt buộc), việc cung ứng và quản lý thuốc, cơ chế chính sách về ngân

sách hỗ trợ cho các đối tượng chính sách tham gia điều trị, phí và lệ phí và

khung giá dịch vụ điều trị. Đặc biệt, đã hướng dẫn cụ thể việc cấp phát thuốc

Methadone tại xã, phường và tại gia đình, qua đó tạo điều kiện tiếp cận điều

trị và duy trì tuân thủ điều trị cho người bệnh [3].

1.4.3.2. Hiệu quả điều trị

Nghiên cứu thuần tập tại Hải Phòng và Thành phố Hồ Chí Minh năm

2009-2011 cho thấy các hiệu quả sau [14]:

- Làm giảm đáng kể hành vi sử dụng ma túy trong nhóm bệnh nhân tham

gia điều trị: trước khi tham gia điều trị 100% bệnh nhân sử dụng heroin, sau 24

tháng tỷ lệ này chỉ còn 12,4%.

- Giảm đáng kể các hành vi nguy cơ lây nhiễm HIV: trước điều trị có

tới 83,2% bệnh nhân có hành vi tiêm chích ma túy, sau 24 tháng tham gia điều

trị giảm xuống còn 6,7% trong nhóm bệnh nhân tiếp tục sử dụng ma túy.

Những thay đổi tích cực về giảm tỷ lệ sử dụng chung bơm kim tiêm và tăng tỷ

lệ thường xuyên sử dụng bao cao su trong nhóm bệnh nhân tham gia điều trị

Methadone đã góp phần dự phòng lây nhiễm HIV từ nhóm những người tiêm

38

chích ma túy sang bạn tình của họ và cộng đồng, góp phần quan trọng trong

việc giảm lây nhiễm HIV và các bệnh lây truyền qua đường máu như Viêm

gan B, C, giang mai. Sau 24 tháng tham gia điều trị, chỉ phát hiện 01 trường

hợp nhiễm mới HIV.

- Bệnh nhân tham gia điều trị Methadone đã có sự cải thiện về mặt sức

khỏe (thể chất, tâm thần và chất lượng cuộc sống). Đa số bệnh nhân cải thiện

về sức khỏe, chuyển biến tích cực về thái độ cũng như cuộc sống sau một thời

gian điều trị. Thời gian tham gia điều trị càng dài thì mức độ ổn định về sức

khỏe thể chất, tâm thần và chất lượng cuộc sống của bệnh nhân càng cao.

- Chương trình cũng đem lại nhiều lợi ích về an ninh, xã hội. Tỷ lệ bệnh

nhân có hành vi vi phạm pháp luật đã giảm từ 39,1% % xuống chỉ còn 1,6%

sau 24 tháng tham gia vào chương trình điều trị. Mâu thuẫn trong gia đình, xã

hội cũng giảm mạnh. Tỷ lệ bệnh nhân có các hành vi bán và cầm cố đồ đạc,

nói dối hoặc thậm chí cưỡng ép người thân để có tiền sử dụng ma túy giảm

nhanh chóng từ 86,8% trước điều trị xuống 2,3% sau 24 tháng điều trị.

- Điều trị Methadone đã mang lại hiệu quả rõ rệt về kinh tế cho cá

nhân, gia đình bệnh nhân. Tỷ lệ bệnh nhân có việc làm trước điều trị là 55,7%

đã tăng lên 75,9% sau 24 tháng điều trị.

Các nghiên cứu trên được thực hiện trong thời gian đầu triển khai

chương trình Methadone, tập trung ở các thành phố lớn là Thành phố Hồ Chí

Minh, Hải Phòng. Trong khi đó các tỉnh miền núi phía Bắc có số lượng người

nghiện ma túy cao, phần lớn là đồng bào dân tộc có thói quen sử dụng thuốc

phiện lâu năm, địa bàn miền núi đi lại khó khăn làm giảm khả năng tiếp cận

với dịch vụ y tế nói chung và dịch vụ về điều trị nghiện nói riêng lại chưa có

nghiên cứu về hiệu quả của điều trị nghiện CDTP bằng thuốc Methadone. Do

vậy, cần có thêm các nghiên cứu về hiệu quả của điều trị Methadone tại khu

vực này để cung cấp thêm các bằng chứng về hiệu quả cho chương trình

Methadone ở Việt Nam nói chung và đặc thù đối với cộng đồng dân tộc ở các

tỉnh miền núi nói riêng.

39

Chƣơng 2

ĐỐI TƢỢNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

2.1. Đối tƣợng, thời gian và địa điểm nghiên cứu

2.1.1. Đối tƣợng tham gia nghiên cứu định lƣợng

300 người nghiện các chất dạng thuốc phiện bắt đầu tham gia điều trị

bằng thuốc Methadone tại thời điểm nghiên cứu tại tỉnh Điện Biên, Lai Châu,

Yên Bái (tháng 10/2014 đến tháng 12/2014).

2.1.1.1. Tiêu chuẩn lựa chọn: đối tượng nghiên cứu cần đáp ứng được các

tiêu chí sau:

a) Là người nghiện các chất dạng thuốc phiện bắt đầu tham gia điều trị

(trong vòng 3 tháng) tại thời điểm nghiên cứu trong năm 2014.

- Đáp ứng các điều kiện được quy định tại Quyết định số 3140/QĐ-

BYT do Bộ Y tế ban hành. Cụ thể:

+ Là người nghiện các CDTP theo tiêu chuẩn chẩn đoán của Bộ Y tế.

+ Từ 18 tuổi trở lên (trường hợp người từ 16 đến dưới 18 tuổi thì cha

hoặc mẹ hoặc người giám hộ hợp pháp của người đó phải tự nguyện và cam

kết bằng văn bản về tuân thủ phác đồ điều trị nghiện các CDTP bằng thuốc

Methadone).

+ Phải có đơn tự nguyện tham gia điều trị bằng thuốc Methadone.

+ Không có chống chỉ định sử dụng thuốc Methadone.

b) Tự nguyện tham gia nghiên cứu: Những người đạt tiêu chuẩn nêu

trên được mời tham gia nghiên cứu trong ngày đầu tiên khi họ tới cơ sở điều

trị Methadone. Nếu bệnh nhân không đồng ý tham gia nghiên cứu này vẫn

được tham gia điều trị Methadone như bình thường.

c) Có đủ sức khỏe để tham gia nghiên cứu.

40

2.1.1.2. Tiêu chuẩn loại trừ

- Những đối tượng không đủ sức khỏe để tham gia nghiên cứu.

- Những đối tượng không đồng ý tham gia nghiên cứu.

2.1.2. Đối tƣợng tham gia nghiên cứu định tính

Phỏng vấn sâu:

- 9 nhân viên y tế làm việc tại cơ sở điều trị Methadone.

- 6 bệnh nhân tham gia nghiên cứu.

- 6 người nhà của bệnh nhân tham gia nghiên cứu.

- 3 thảo luận nhóm: mỗi nhóm 6-8 bệnh nhân đang tham gia nghiên cứu.

2.1.3. Thời gian nghiên cứu

Từ tháng 10/2014 đến tháng 12/2015.

2.1.4. Địa điểm nghiên cứu

Nghiên cứu được tiến hành tại 06 cơ sở điều trị Methadone tại 3 tỉnh

Điện Biên, Lai Châu và Yên Bái. Mỗi tỉnh lựa chọn 2 cơ sở điều trị

Methadone, tùy thuộc vào số lượng cơ sở hiện có tại mỗi tỉnh.

Tiêu chuẩn lựa chọn cơ sở điều trị Methadone: 1) hợp tác với nhóm

nghiên cứu; 2) dễ tiếp cận đối tượng nghiên cứu ; 3) có hồ sơ bảo quản tốt.

Điện Biên, Lai Châu và Yên Bái được lựa chọn là tỉnh triển khai nghiên

cứu vì đây là tỉnh trọng điểm về ma túy và HIV ở miền núi phía Bắc. Số

người nghiện ma túy tăng lên hàng năm và có từ 2.400 đến 8.600 người

nghiện ma túy vào cuối năm 2013. Trong số các trường hợp nhiễm HIV còn

sống thì có đến 70% là người tiêm chích ma túy, tỷ lệ hiện nhiễm HIV trong

nhóm nghiện chích ma túy còn rất cao vào cuối năm 2013 (Điện Biên: 30%,

Lai Châu: 27,7%). Điện Biên, Lai Châu và Yên Bái bắt đầu triển khai chương

trình Methadone từ cuối năm 2011.

41

2.2. Phƣơng pháp nghiên cứu

2.2.1. Thiết kế nghiên cứu

2.2.1.1. Nghiên cứu định lƣợng

Nghiên cứu can thiệp cộng đồng so sánh trước sau không có nhóm

chứng nhằm đánh giá hiệu quả điều trị nghiện các CDTP bằng thuốc

Methadone khi bắt đầu tham gia điều trị và tại thời điểm sau 12 tháng tham

gia điều trị trên cùng nhóm đối tượng.

2.2.1.2. Nghiên cứu định tính

Để phân tích và làm rõ hơn hiệu quả điều trị và một số yếu tố ảnh hưởng

đến hiệu quả điều trị. Sử dụng phương pháp phỏng vấn sâu và thảo luận nhóm.

2.2.2. Cỡ mẫu và cách chọn mẫu

2.2.2.2. Cỡ mẫu và chọn mẫu cho nghiên cứu định lƣợng

Cỡ mẫu tối thiểu được tính theo công thức so sánh hai tỷ lệ trước và sau

can thiệp

√ ̅ ̅) √ ) ))

)

Trong đó:

n Cỡ mẫu tối thiểu cho mỗi nhóm

Độ tin cậy lấy ở ngưỡng xác suất α=5% (lấy bằng 1,96) Z(1-α/2)

z1-β hệ số lực mẫu, (lực mẫu 90%), z1-β = 1,28

p1 Tỷ lệ đối tượng sử dụng heroin tại TP. Hồ Chí Minh (2009)

trước can thiệp là p=0,362 [113]

p2 Tỷ lệ đối tượng sử dụng heroin tại TP. Hồ Chí Minh (2009)

sau 12 tháng can thiệp là p=0,222 [113]

Tỷ lệ trung bình (p1+p2)/2 ̅

42

Thay số tính toán theo lý thuyết n = 219 là cỡ mẫu tối thiểu cho

mỗi nhóm trước và sau can thiệp, dự phòng thêm 15% nên cỡ mẫu cần

lấy là n=252.

Phương pháp chọn mẫu

Toàn bộ bệnh nhân bắt đầu tham gia điều trị nghiện các CDTP bằng

thuốc Methadone tại 3 tỉnh Điện Biên, Lai Châu, Yên Bái trong thời gian từ

tháng 10/2014 đến tháng 12/2014. Đến hết tháng 12/2014 có tổng cộng 300

bệnh nhân tham gia nghiên cứu, lấy toàn bộ 300 bệnh nhân.

Sau 12 tháng điều trị có 56 người bỏ tham gia nghiên cứu, số còn lại

244 bệnh nhân tham gia nghiên cứu cả 2 vòng. Để đảm bảo độ chính xác

trong tính toán các chỉ số hiệu quả khi so sánh trước và sau điều trị 12 tháng,

các số liệu được tính toán theo một cỡ mẫu nghiên cứu là 244 người tham gia

đủ cả 2 vòng nghiên cứu.

2.2.2.3. Cỡ mẫu và chọn mẫu cho nghiên cứu định tính

Để phân tích và làm rõ hơn hiệu quả điều trị và một số yếu tố ảnh

hưởng đến hiệu quả điều trị, các đối tượng sau đây đã được chọn vào mẫu

nghiên cứu định tính:

- Phỏng vấn sâu 9 nhân viên y tế làm việc tại cơ sở điều trị Methadone

tại 3 tỉnh nghiên cứu, mỗi tỉnh chọn 03 người: 01 người là lãnh đạo cơ sở điều

trị, 01 người là bác sĩ điều trị; 01 người là cán bộ tư vấn.

- Phỏng vấn sâu 6 người nhà của bệnh nhân đang tham gia điều trị Methadone.

- Phỏng vấn sâu 6 bệnh nhân đang tham gia điều trị Methadone tại 6 cơ sở

điều trị đáp ứng các tiêu chí đa dạng về tuổi, nơi ở, thời gian điều trị Methadone.

- Thực hiện 3 thảo luận nhóm (mỗi tỉnh 01 thảo luận nhóm): mỗi nhóm

6-8 bệnh nhân đang tham gia nghiên cứu.

43

2.2.3. Biến số và chỉ số nghiên cứu (Chi tiết trong Phụ lục 1)

2.2.3.1. Mô tả đặc điểm của ngƣời nghiện CDTP tham gia điều trị

* Đặc điểm xã hội học:

- Giới tính, tuổi, dân tộc, tôn giáo.

- Tình trạng hôn nhân, trình độ học vấn, nghề nghiệp, tình trạng việc làm,

khả năng lao động.

- Mối quan hệ với gia đình, mâu thuẫn trong gia đình.

* Tình trạng sử dụng ma túy (CDTP và các loại ma túy khác):

Tuổi bắt đầu sử dụng ma túy, thời gian sử dụng ma túy, loại ma túy sử

dụng, hình thức sử dụng, tần suất sử dụng , sốc thuốc do sử dụng ma túy quá

liều, tiền sử cai nghiện ma túy, lý do tái nghiện.

* Hành vi nguy cơ:

Tiêm chích ma túy, quan hệ tình dục không an toàn.

* Tình trạng sức khỏe:

Tình trạng mắc các bệnh khác, sự hài lòng với sức khỏe, chất lượng

cuộc sống.

2.2.3.2. Đánh giá hiệu quả điều trị

- Hiệu quả điều trị được đánh giá trên cơ sở so sánh các chỉ số nghiên cứu sau

12 tháng điều trị so sánh với các chỉ số ban đầu để đánh giá hiệu quả can

thiệp, cỡ mẫu sử dụng là 244 người tham gia đủ cả 2 vòng nghiên cứu. Do tất

cả các phân tích đều mang tính chất mô tả nên tất cả các so sánh sẽ được thực

hiện ở mức độ ý nghĩa 0,05 hoặc 0,01 (khoảng tin cậy 95% hoặc 99%).

- Các chỉ số đánh giá hiệu quả điều trị:

iệu quả giảm sử dụng CDTP eroin, thuốc phiện ,

- So sánh tỷ lệ % bệnh nhân tự khai sử dụng CDTP khi bắt đầu tham gia

điều trị và sau 12 tháng điều trị.

44

- So sánh tỷ lệ % xét nghiệm nước tiểu (+) với CDTP khi bắt đầu tham

gia điều trị và sau 12 tháng điều trị.

iệu quả thay đ i hành vi nguy c trong nh m người bệnh đang tham gia

điều trị Methadone:

- So sánh tỷ lệ % bệnh nhân tiêm chích ma túy khi bắt đầu tham gia điều

trị và sau 12 tháng điều trị.

- So sánh tỷ lệ % bệnh nhân sử dụng BCS khi QHTD với PNBD khi bắt

đầu tham gia điều trị và sau 12 tháng điều trị;

iệu quả cải thiện sức khỏe của bệnh nhân

So sánh tỷ lệ % bệnh nhân tự đánh giá về chất lượng cuộc sống trước và

sau 12 tháng tham gia điều trị.

iệu quả về mặt xã hội:

So sánh tỷ lệ % bệnh nhân có khả năng lao động trước và sau 12 tháng

tham gia điều trị.

2.2.3.3. Các yếu tố ảnh hƣởng tới hiệu quả điều trị

a) Các yếu tố ảnh hƣởng đến tiếp tục sử dụng heroin trong quá trình điều trị

- Các yếu tố xã hội (tuổi, dân tộc, trình độ học vấn, tình trạng hôn nhân, nghề

nghiệp, thu nhập, mâu thuẫn trong gia đình).

- Tình trạng sử dụng ma túy (thời gian sử dụng ma túy, sống cùng người sử

dụng ma túy, bạn tình tiêm chích ma túy, tiền sử có tiêm chích ma túy, tiền sử

cai nghiện ma túy).

- Điều trị bệnh lý khác (điều trị HIV).

b) Các yếu tố ảnh hƣởng đến bỏ điều trị

- Các yếu tố xã hội (tuổi, dân tộc, trình độ học vấn, tình trạng hôn nhân, nghề nghiệp,

thu nhập, mâu thuẫn trong gia đình, khoảng cách từ nhà đến cơ sở điều trị).

- Tình trạng sử dụng ma túy (thời gian sử dụng ma túy, sống cùng người sử dụng

ma túy, bạn tình tiêm chích ma túy, sử dụng CDTP trong quá trình điều trị).

45

2.2.3.4. Cách tính các chỉ số nghiên cứu

- Tỷ lệ bệnh nhân tiếp tục sử dụng CDTP trong quá trình điều trị: số bệnh

nhân có kết quả heroin trong nước tiểu dương tính bất kỳ trong 12 tháng điều

trị trên tổng số bệnh nhân.

- Tỷ lệ bệnh nhân bỏ điều trị: số bệnh nhân bỏ điều trị/rút khỏi chương trình

điều trị trên tổng số bệnh nhân.

- Nguyên nhân bỏ điều trị: tỷ lệ giữa các nguyên nhân như tự nguyện dừng điều

trị, tử vong, bị bắt giam, chuyển cơ sở điều trị khác hoặc bỏ không rõ lý do

- Hướng dẫn tính điểm chất lượng cuộc sống (CLCS WHOQOL-BRIEF):

gồm 6 thành tố:

1. Thành tố sức khoẻ thể chất: gồm 7 tiểu mục.

2. Thành tố sức khoẻ tâm thần: gồm 6 tiểu mục.

3. Thành tố quan hệ xã hội: gồm 3 tiểu mục.

4. Thành tố môi trường: gồm 8 tiểu mục.

5. Chất lượng cuộc sống tổng quát: 2 tiểu mục.

Bộ công cụ đo lường CLCS WHOQOL-BRIEF ở Việt Nam được chấm

điểm với mức cao nhất là 24 câu hỏi (4 thành tố chính) x 5 = 120 và mức thấp

nhất là 24 câu hỏi x 1 = 24. Điểm càng cao thì CLCS càng cao. Bên cạnh đó,

một số câu hỏi được thiết kế để đo theo chiều hướng nghịch nên cần thiết phải

điều chỉnh lại mức điểm tương ứng đối với những câu hỏi này khi phân tích

và tính điểm CLCS (bao gồm 3 câu: câu 3, câu 4 và câu 26).

1. Thành tố sức khoẻ thể chất=(6-C3)+(6-C4)+C10+C15+C16+C17+C18

2. Thành tố sức khoẻ tâm thần= C5 + C6 + C7 + C11 + C19 + (6-C26)

3. Thành tố quan hệ xã hội= C20 + C21 + C22

4. Thành tố môi trường= C8 + C9 + C12 + C13 + C14 + C23 + C24 + C25

Sau đó, điểm của từng thành tố được quy đổi theo thang điểm 100 (Chi

tiết trong phụ lục 3).

46

2.3. Các hoạt động can thiệp

2.3.1. Các bƣớc can thiệp

- Bước 1: Xác định Tỉnh Điện Biên (thành phố Điện Biên Phủ, huyện

địa điểm nghiên cứu Điện Biên)

Tỉnh Lai Châu (thị xã Lai Châu, huyện Phong Thổ)

Tỉnh Yên Bái (thành phố Yên Bái, thị xã Nghĩa Lộ)

- Bước 2: Chọn đối Bệnh nhân đủ điều kiện tham gia điều trị bằng

tượng nghiên cứu thuốc Methadone

- Bước 3: Tiếp nhận

các đối tượng nghiên Đồng ý tham gia Từ chối tham gia

cứu

- Bước 4: Tiến hành Điều trị bằng thuốc

các hoạt động can Methadone kèm dịch vụ

thiệp hỗ trợ về sức khỏe, xã

hội.

- Bước 5: Theo dõi, Phỏng vấn, quan sát, xét

giám sát đánh giá kết nghiệm về các chỉ số tại thời

quả điểm sau 12 tháng

- Bước 6: Phân tích, Đánh giá, so sánh kết quả đạt

báo cáo kết quả được sau can thiệp với trước

can thiệp.

Hình 2. 1. Sơ đồ các bƣớc triển khai nghiên cứu can thiệp

47

2.3.2. Nội dung các hoạt động can thiệp

- Điều trị cho người nghiện CDTP bằng thuốc Methadone: Đây là biện

pháp chính để đạt được các mục tiêu và hiệu quả của chương trình;

- Tư vấn và hỗ trợ tâm lý xã hội;

- Triển khai các dịch vụ hỗ trợ xã hội khác ngoài cộng đồng;

- Theo dõi quá trình điều trị nghiện các CDTP bằng thuốc Methadone.

2.3.3. Triển khai điều trị nghiện các CDTP bằng thuốc Methadone

Thực hiện theo Nghị định số 96/2012/NĐ-CP ngày 15/11/2012 của

Chính phủ quy định về điều trị nghiện các CDTP bằng thuốc thay thế, thông

tư số 12/2013/TT-BYT ngày 12/4/2013 của Bộ trưởng Bộ Y tế quy định chi

tiết một số điều của Nghị định số 96/2012/NĐ-CP ngày 15/11/2012 của Chính

phủ quy định về điều trị nghiện các CDTP bằng thuốc thay thế và, Quyết định

số 3140/QĐ-BYT ngày 30/8/2010 của Bộ trưởng Bộ Y tế ban hành ―Hướng

dẫn điều trị thay thế nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc

Methadone‖ [10, 16].

1 Thành lập c sở điều trị Methadone:

Việc thành lập và bố trí một cơ sở điều trị Methadone phải bao gồm:

- Về diện tích: Cơ sở phải bố trí các phòng sau, mỗi phòng có diện tích

tối thiểu là 10 m2 để đảm bảo thực hiện các hoạt động chuyên môn:

+ Phòng/khu vực đón tiếp và phòng chờ cho bệnh nhân, người nhà

bệnh nhân ngồi trước khi vào khám, tư vấn, uống thuốc hàng ngày.

+ Phòng tư vấn trước, trong và sau điều trị.

+ Phòng khám, lập hồ sơ bệnh án và theo dõi điều trị.

+ Phòng xét nghiệm gồm hai khu vực: khu vực lấy mẫu máu và bệnh

phẩm xét nghiệm; khu vực lấy mẫu nước tiểu.

48

+ Phòng cấp phát thuốc Methadone: Bố trí thuận tiện cho bệnh nhân đi

từ khu vực đón tiếp vào uống thuốc hàng ngày.

+ Kho bảo quản thuốc Methadone: đảm bảo điều kiện theo quy định về

quản lý thuốc gây nghiện.

- Về trang thiết bị, vật tư:

Ống nghe, cân sức khỏe, máy đo huyết áp, giường bệnh, bơm thuốc

Methadone, v.v… Một số thuốc, thiết bị cấp cứu, thiết bị quản lý, theo dõi

bệnh nhân theo quy định của Bộ Y tế.

- Về nhân sự: Cơ sở điều trị Methadone hoạt động tất cả các ngày trong

tuần ( kể cả ngày lễ và ngày nghỉ ).

Số lượng: tùy vào khả năng cung cấp dịch vụ mà bố trí số lượng nhân

sự cho phù hợp, bao gồm các nhóm:

+ Nhóm điều trị (bác sỹ, điều dưỡng): thực hiện khám lâm sàng, đánh

giá tình trạng bệnh nhân, xác định liều điều trị, kê đơn, tư vấn, theo dõi điều

trị và xử trí các vấn đề phát sinh.

+ Nhóm tư vấn (tư vấn viên): tham gia theo dõi tình trạng bệnh nhân, tư

vấn trước, trong khi điều trị.

+ Cấp phát và bảo quản thuốc (dược sỹ): quản lý thuốc Methadone, cấp

phát và giám sát bệnh nhân uống thuốc Methadone.

+ Nhóm hành chính (nhân viên hành chính): tiếp đón bệnh nhân, lưu

trữ các số liệu, quản lý hồ sơ bệnh án, sổ sách và làm báo cáo hàng

tháng/quý/năm và đột xuất theo yêu cầu.

+ Bảo vệ (nhân viên bảo vệ): bảo đảm an ninh trật tự khu vực cơ sở

điều trị 24/24h hàng ngày.

3 Khám lâm sàng và xét nghiệm:

- Nội dung thăm khám: Đánh giá sức khỏe chung, sức khỏe tâm thần,

các triệu chứng có liên quan đến sử dụng ma túy.

49

- Chẩn đoán nghiện CDTP: Theo ―Hướng dẫn chẩn đoán người nghiện

ma túy nhóm Opiat (CDTP)‖ của Bộ Y tế [12]

- Xét nghiệm: Thực hiện các xét nghiệm thường quy như công thức

máu; chức năng gan: ALT (SGPT), AST (SGOT); xét nghiệm nước tiểu tìm

CDTP bằng test nhanh. Một số xét nghiệm cần thiết khác: xét nghiệm tìm

kháng thể kháng HIV, xét nghiệm HBsAg phát hiện nhiễm vi rút viêm gan B,

xét nghiệm Anti HCV tầm soát viêm gan C (nếu cơ sở có điều kiện). Các xét

nghiệm được thực hiện theo đúng hướng dẫn chuyên môn qui định của Bộ Y

tế [20].

- Lập hồ sơ bệnh án: Theo mẫu bệnh án điều trị bằng thuốc Methadone

quy định (do Bộ Y tế ban hành).

- Làm thẻ và cấp thẻ điều trị theo mẫu qui định.

- Xây dựng lịch điều trị và tư vấn liều điều trị đầu tiên.

4 Tiến hành điều trị bằng thuốc Methadone:

Khi có chỉ định điều trị, hàng ngày bệnh nhân đến cơ sở điều trị

Methadone để uống thuốc và theo dõi điều trị. Bệnh nhân uống thuốc trước

mặt nhân viên y tế.

- Theo dõi lâm sàng: sức khỏe, các hành vi nguy cơ cao tiếp diễn trong

quá trình điều trị và tiến triển của các bệnh lý kèm theo.

- Xét nghiệm nước tiểu: Mục đích để chẩn đoán, đánh giá hiệu quả điều

trị, giúp điều chỉnh liều Methadone thích hợp và kiểm tra việc sử dụng đồng

thời CDTP khác trong quá trình điều trị.

Nguyên tắc xét nghiệm nước tiểu: Đảm bảo bệnh nhân không biết

trước, có giám sát chặt chẽ của nhân viên y tế khi lấy mẫu nước tiểu, không

sử dụng loại test nhanh có phản ứng chéo với Methadone. Xét nghiệm phải

đảm bảo khách quan, chính xác và được thực hiện tối đa 2 lần/tháng.

50

- Theo dõi tuân thủ điều trị:

Bệnh nhân phải uống Methadone hàng ngày dưới sự giám sát của cán bộ y tế

để đảm bảo điều trị hiệu quả, tránh nguy cơ tái sử dụng ma túy.

Thực hiện một số biện pháp hỗ trợ tuân thủ điều trị bao gồm: Tư vấn

cho bệnh nhân và gia đình. Phối hợp với gia đình, cộng đồng và các tổ chức

xã hội trong việc động viên bệnh nhân tuân thủ điều trị.

- Tư vấn, bao gồm: tư vấn cá nhân; tư vấn nhóm; tư vấn cho gia đình

trước và trong quá trình điều trị.

Đánh giá bệnh nhân về tiền sử sử dụng ma túy, các vấn đề liên quan đến pháp

luật, tài chính và các vấn đề tâm lý xã hội khác. Cung cấp kiến thức cơ bản về

điều trị nghiện các CDTP bằng thuốc Methadone: tác dụng của điều trị

Methadone, quy trình điều trị, tác dụng không mong muốn của thuốc, ưu và

nhược điểm; các quy định khác có liên quan.

Tần suất tư vấn:

+ Trước điều trị: Mỗi bệnh nhân được thực hiện tư vấn cá nhân một lần

và tư vấn nhóm, giáo dục nhóm 1 lần.

+ Trong quá trình điều trị: (1) Tuần đầu tiên điều trị: tư vấn cá nhân về

tuân thủ điều trị 2 lần. (2) Tuần thứ 2 - tuần thứ 4: mỗi tuần 1 lần. (3) Từ

tháng thứ 2 - tháng thứ 6: 1 tháng 1 lần. (4) Từ tháng thứ 7 trở đi: tùy thuộc

tình hình thực tế của bệnh nhân để tiến hành tư vấn nhưng ít nhất 3 tháng 1

lần.

- Các dịch vụ hỗ trợ khác:

+ Phối hợp với các đơn vị có liên quan trong ngành y tế thực hiện việc

chuyển gửi bệnh nhân đến các dịch vụ tư vấn, chăm sóc và điều trị

HIV/AIDS, hoặc các loại bệnh khác khi cần thiết.

51

+ Phối hợp với ngành Lao động - Thương binh - Xã hội, UBND

xã/phường để bệnh nhân được hỗ trợ trong việc đào tạo nghề và tìm việc làm,

hỗ trợ tái hòa nhập cộng đồng.

5 Theo dõi, đánh giá hiêu quả điều trị:

Đối tượng nghiên cứu được theo dõi để đánh giá sự thay đổi các chỉ số

nghiên cứu theo thời gian: ban đầu (trước điều trị) và sau 12 tháng điều trị.

Hiệu quả điều trị được đánh giá trên cơ sở so sánh các chỉ số nghiên cứu sau

12 tháng so sánh với các chỉ số ban đầu, cỡ mẫu sử dụng là 244 người tham

gia đủ cả 2 vòng nghiên cứu.

2.4. Phƣơng pháp thu thập số liệu

2.4.1. Nghiên cứu định lƣợng

- Thu thập số liệu sử dụng bảng hỏi bán cấu trúc thông qua phỏng vấn

300 bệnh nhân. Câu hỏi được xây dựng dựa vào câu hỏi điều tra hành vi của

Bộ Y tế và chất lượng cuộc sống của Tổ chức Y tế Thế giới được chỉnh sửa

cho phù hợp với hoàn cảnh thực tế ở Việt Nam.

+ Câu hỏi điều tra hành vi: chủ yếu bao gồm các câu hỏi về tình trạng

sử dụng ma túy, hành vi nguy cơ lây nhiễm HIV (tiêm chích ma túy, quan hệ

tình dục không an toàn).

+ Câu hỏi về chất lượng cuộc sống: bao gồm các câu hỏi đo lường nhận

thức của bệnh nhân về bệnh tật của họ. Nhận thức này bao gồm các lĩnh vực:

sức khỏe thể chất, sức khỏe tâm thần, các mối quan hệ xã hội và môi trường

(môi trường tiếp cận với các dịch vụ y tế, môi trường gia đình, môi trường

tiếp cận với các dịch vụ chăm sóc xã hội).

- Xét nghiệm nước tiểu bệnh nhân để tìm heroin được thực hiện tại

Trung tâm Phòng chống HIV/AIDS tỉnh Điện Biên, Lai Châu, Yên Bái.

52

2.4.2. Nghiên cứu định tính

- Phỏng vấn sâu bệnh nhân tham gia nghiên cứu nhằm thu thập các thông tin

cá nhân của họ, về quá trình tham gia và tuân thủ điều trị Methadone, các khó

khăn gặp phải trong quá trình điều trị, đánh giá của họ về hiệu quả, tác động

của chương trình Methadone.

- Thảo luận nhóm với bệnh nhân tham gia nghiên cứu nhằm thu thập các thông

tin về tính hiệu quả của điều trị Methadone, lý do tiếp tục sử dụng heroin hay

bỏ điều trị, rào cản với việc duy trì điều trị Methadone cũng như gợi ý giải

pháp tăng tuân thủ điều trị.

- Phỏng vấn sâu người nhà của bệnh nhân tham gia nghiên cứu nhằm thu thập

các thông tin về hiệu quả, tác động của điều trị Methadone đối với bệnh nhân,

các khó khăn, rào cản khi tham gia điều trị.

- Phỏng vấn sâu các đối tượng là cán bộ lãnh đạo Trung tâm phòng chống

HIV/AIDS tỉnh,thành phố, cán bộ y tế làm việc trực tiếp tại cơ sở điều trị

Methadone (bác sỹ, tư vấn viên) nhằm thu thập các thông tin cá nhân của

người được phỏng vấn (bao gồm tình trạng gia đình, chuyên môn, kinh

nghiệm công tác theo các lĩnh vực, công việc hiện tại...); Hoàn cảnh và lý do

tham gia công tác trong lĩnh vực điều trị Methadone; Nhận định chung về

điều trị Methadone: tính hiệu quả, các dịch vụ được cung cấp, khó khăn,

thuận lợi của bệnh nhân trong điều trị; Khó khăn, thuận lợi của cán bộ làm

việc trong chương trình Methadone; Lý do tiếp tục sử dụng Heroin hay bỏ

điều trị của bệnh nhân và giải pháp của phòng khám.

53

2.5. Phƣơng pháp xử lý số liệu

2.5.1. Nghiên cứu định lƣợng

- Phần mềm Epi Info cho Window được sử dụng cho nhập và lưu trữ số liệu

của dữ liệu đã thu thập (điều tra cắt ngang, kết quả xét nghiệm).

- Sau khi liên kết các dữ liệu nhận dạng cá nhân, nghiên cứu sử dụng phần

mềm STATA 12 để tiến hành các thống kê mô tả, so sánh và phân tích.

- So sánh sự khác biệt các chỉ tiêu giữa các mốc thời gian bằng kiểm định Chi

bình phương cho các biến định tính hay t-test cho các biến định lượng với

mức ý nghĩa thống kê là p<0,05.

- Mô hình hồi quy logistic đa biến được áp dụng để xác định một số yếu ảnh

hưởng tới hiệu quả điều trị (bao gồm ảnh hưởng đến việc tiếp tục sử dụng

heroin trong quá trình điều trị và bỏ điều trị). Thuật toán stepwise forward với

giá trị ngưỡng p≤0,2 được áp dụng nhằm chọn ra các biến đưa vào mô hình

rút gọn. Các biến số với giá trị p>0,2 bị loại khỏi mô hình rút gọn. Giá trị

p<0,05 xem xét có ý nghĩa thống kê.

2.5.2. Nghiên cứu định tính

Phương pháp phân tích theo chủ đề (thematic analysis):

- Sau khi hoàn thành mỗi cuộc phỏng vấn hoặc thảo luận nhóm, cán bộ

nghiên cứu có trách nhiệm kiểm tra đảm bảo chất lượng của file ghi âm, đặt

tên file theo mã số bệnh nhân và gửi file cho cán bộ chịu trách nhiệm giải

băng.

- Băng được gỡ và được cán bộ nghiên cứu đọc toàn bộ các gỡ băng,

tổng hợp lại các ý kiến của người trả lời theo chủ đề, so sánh thông tin giữa

những người được hỏi trong cùng nhóm (bệnh nhân, cán bộ y tế) và đối lập

thông tin giữa các nhóm với nhau (constant comparative method). Sau đó,

54

nghiên cứu viên đọc lại từng trường hợp để tìm cách giải thích thông tin được

cung cấp liên hệ với bối cảnh cuộc sống của họ (contextualize findings).

2.6. Các biện pháp khống chế sai số

Các biện pháp khống chế sau sẽ được áp dụng trong nghiên cứu:

- Điều tra viên và giám sát viên được tập huấn thống nhất về phương

pháp điều tra, được thử nghiệm bộ công cụ và thực hành kỹ năng điều tra.

- Quá trình điều tra; quá trình điều trị được giám sát chặt chẽ thông qua

hoạt động giám sát thực địa và kiểm tra chất lượng phiếu điều tra cũng như hồ

sơ bệnh án điều trị.

- Tất cả các giám sát viên và điều tra viên phải là những người có kinh

nghiệm trong nghiên cứu xã hội học và được tập huấn đầy đủ.

- Các phiếu điều tra cần được kiểm tra và làm sạch ngay tại cộng đồng.

2.7. Đạo đức nghiên cứu

- Đề cương nghiên cứu được Hội đồng đạo đức của Cục Phòng, chống

HIV/AIDS thông qua tại quyết định 189/QĐ-AIDS ngày 10/10/2014 và

127/QĐ-AIDS ngày 23/7/2015.

- Các đối tượng tham gia nghiên cứu là hoàn toàn tự nguyện: mỗi người

tham gia nghiên cứu sẽ ký bản thỏa thuận đồng ý tham gia nghiên cứu.

- Các thông tin về đối tượng nghiên cứu được đảm bảo bí mật: các

phiếu điều tra sẽ được lưu trữ tại Cục Phòng, chống HIV/AIDS. Việc thu

thập, xử lý số liệu sẽ được phân biệt bằng mã số để đảm bảo tính bí mật. Kết

quả xét nghiệm tìm heroin sẽ không được kết nối với thông tin nhận dạng của

người tham gia.

55

2.8. Sơ đồ nghiên cứu

Hình 2. 2. Sơ đồ nghiên cứu

56

Chƣơng 3

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

3.1. Thực trạng sử dụng ma túy và tình trạng sức khỏe, xã hội của đối

tƣợng nghiên cứu trƣớc khi điều trị Methadone

3.1.1. Đặc điểm nhân khẩu, xã hội, việc làm của đối tƣợng nghiên cứu

Bảng 3.1. Đặc điểm nhân khẩu học của đối tƣợng nghiên cứu

Đặc điểm Yên Bái (n=99) Tổng (n=300)

Điện Biên (n=101)

n %

8 8,1

Lai Châu (n=100) n % n % 18 17,8 25 25,0 43 42,6 36 36,0 29 28,7 29 29,0 11 10,9 10 10,0 n % 51 17,0 29 29,3 108 36,0 49 49,5 107 35,7 34 11,3 13 13,1

101 100 99 99,0 1,0 0,0 0 1 97 99,0 297 99,3 0,7 1,0 2 1

2 2,0 2

Nhóm tuổi <30 30-39 40-49 ≥50 Giới tính Nam Nữ Dân tộc Kinh Tày Thái Khác

62 61,4 39 39,0 2,0 35 34,7 41 41,0 2,0 18 18,0 2 75 75,8 176 58,7 14 10 10,1 4,7 81 27,0 5,1 9,7 29 9,1 5 9

Nhận xét:

Trong tổng số 300 đối tượng nghiên cứu hầu hết nằm trong độ tuổi từ

30 đến 49 tuổi (71,7%). Tại tỉnh Điện Biên các đối tượng tập trung chủ yếu

trong độ tuổi từ 30-39 tuổi (42.6%), trong khi đó tại tỉnh Yên Bái có 49,5%

đối tượng nằm trong độ tuổi từ 40-49 tuổi. Có 99,3% bệnh nhân là nam. Dân

tộc Kinh chiếm hơn một nửa tổng số đối tượng tham gia nghiên cứu (58,7%).

57

Dân tộc Thái chủ yếu tập trung ở các tỉnh Điện Biên (34,7%) và Lai Châu

(41,0%).

Bảng 3.2. Trình độ học vấn, việc làm của đối tƣợng nghiên cứu

Yên Bái (n=99) Tổng (n=300) Đặc điểm

Lai Điện Châu Biên (n=100) (n=101) N % N % N % n % Trình độ học vấn

THPT 38 37,6 20 20,0 47 48,0 105 35,1

>THPT 8 7,9 7 7,0 11 11,2 26 8,7

Nghề nghiệp

Thất nghiệp 8 7,9 7 7,0 9 9,1 24 8,0

Lao động tự do 83 82,2 88 88,0 78 78,8 249 83,0

Công nhân, cán bộ viên chức 1 1,0 1 1,0 7 7,1 9 3,0

Khác 9 8,9 4 4,0 5 5,1 18 6,0

57 56,4 53 53,0 56 56,6 166 55,3 Công việc hiện tại ổn định

86 85,2 70 70,0 67 67,7 223 74,3 Thu nhập cá nhân

TB SD TB SD TB SD TB SD

3,1 3,0 3,4 2,0 3,3 1,6 3,3 2,3 Thu nhập hiện tại (triệu đồng)

Nhận xét:

Phần lớn các đối tượng có trình độ học vấn dưới trung học phổ thông

(56,2%), đặc biệt thấp hơn ở tỉnh Lai Châu (73,0%) và đang làm nghề lao

động tự do (83,0%). Trong tổng số 300 người, có 166 người có công việc ổn

định (chiếm 55,3%). Phần lớn các đối tượng đều có thu nhập cá nhân (74,3%).

Thu nhập trung bình của đối tượng là 3,3 triệu đồng.

58

Bảng 3.3. Tình trạng hôn nhân, gia đình của đối tƣợng nghiên cứu

Yên Bái (n=99) Tổng (n=300) Đặc điểm Lai Châu (n=100)

Điện Biên (n=101) N % n % N %

Tình trạng hôn nhân

Độc thân Kết hôn, sống chung bạn tình Ly dị, ly thân, góa 31 30,7 28 28,0 56 55,5 66 66,0 6,0 14 13,9 6 20 55 24 n % 79 26,3 20,2 55,6 177 59,0 44 14,7 24,2

Ngƣời sống cùng

Bố Mẹ Vợ Con Anh/chị/em Họ hang Bạn bè Người yêu/bạn tình Một mình Không ổn định

39,4 116 38,7 46,5 143 47,7 50,5 159 53,0 52,5 163 54,3 47 15,7 12,1 3,7 11 3,0 0,7 2 1,0 0,7 2 0,0 4,3 13 6,1 1,0 3 1,0 4,0 12 1,0 39 38,6 38 38,0 39 56 55,5 41 41,0 46 47 46,5 62 62,0 50 51 50,5 60 60,0 52 21 20,8 14 14,0 12 3 2 6 1 0 1 0 1 1 6 3 4 1 0 2 1 5 6 5,9 1,0 1,0 4,0 2,0 5,9 2,0 0,0 1,0 3,0 0,0 5,0

Ngƣời sống cùng sử dụng ma túy

3 0 1 1 1 50,0 1 20,0 3 60,0 0,0 16,7 1 20,0 0,0 16,7 0 0,0 16,7 0 0 0 1 0 0 0,0 0,0 100,0 0,0 0,0 4 3 3 1 1 33,3 25,0 25,0 8,3 8,3 Bố/mẹ Vợ Con Anh/chị/em Họ hang

Nhận xét:

Có 59% đối tượng kết hôn và đang sống chung với vợ chồng, bạn tình,

14,7% đối tượng đã li dị/ly thân/góa và có khoảng 26,3% đang sống độc thân.

Có trên một nửa các đối tượng được phỏng vấn đang sống chung với vợ

(53%) với con (54,3%) và sống cùng với mẹ (47,7%) với bố (38,7%). Trong

đó có tới 33,3% đối tượng được phỏng vấn sống chung với bố/mẹ có nghiện

59

chích ma túy và 25% đối tượng sống chung với vợ và 25% đối tượng sống

chung với con là người nghiện chích ma túy.

Bảng 3. 4. Mâu thuẫn trong gia đình và hành vi vi phạm pháp luật

Điện Lai Yên Bái Tổng

Biên Châu (n=99) (n=300) Đặc điểm (n=101) (n=100)

n % n % n % n %

6 5,9 0 0,0 1 1,0 7 2,3 Cuộc sống mâu thuẫn,

bất đồng

86 85,2 67 67,0 61 62,2 214 71,6 Hành vi vi phạm pháp

luật từ trƣớc tới nay

Bán đồ cá nhân 51 50,5 38 38,0 28 28,6 117 39,1

Cầm đồ cá nhân 50 49,5 43 43,0 28 28,6 121 40,5

Nói dối gia đình 54 53,5 31 31,0 39 39,8 124 41,5

Lấy tiền của gia đình 67 66,3 30 30,0 35 35,7 132 44,2

Bán đồ đạc gia đình 41 40,6 16 16,0 18 18,4 75 25,1

Cầm đồ đạc gia đình 36 35,6 12 12,0 17 17,4 65 21,7

Đe dọa người thân 2 2,0 2 2,0 1 1,0 5 1,7

Tiền án, tiền sự 32 31,7 13 13,0 19 19,4 64 21,4

Nhận xét:

Trong tổng số 300 đối tượng nghiên cứu có 7 đối tượng có mâu thuẫn,

bất đồng trong cuộc sống (2,3%). Đa số các đối tượng đều có hành vi phạm

pháp (71,6%). Những hành vi phạm pháp/gây mâu thuẫn gia đình hay gặp nhất

là lấy tiền của gia đình (44,2%), nói dối (41,5%), cầm đồ (40,5%) hoặc bán đồ

cá nhân (39,1%). Ngoài ra, các hành vi như bán, cầm đồ gia đình (25,1% và

21,7%) cũng chiếm tỷ lệ đáng kể. Có 21,4% đối tượng có tiền án, tiền sự.

60

Bảng 3. 5. Đặc điểm tiếp cận điều trị của đối tƣợng nghiên cứu

Yên Bái (n=99) Tổng (n=300) Đặc điểm

Điện Biên (n=101) N % Lai Châu (n=100) n % n % n %

Khoảng cách từ nhà đến cơ sở điều trị

< 5km 5-10 km > 10km

47,3 32,6 20,1 47 46,5 46 46,0 48 49,5 141 97 38 37,6 39 39,0 20 20,6 60 16 15,8 15 15,0 29 29,9

Phƣơng tiện đến cơ sở điều trị

3 5 5,2

Xe đạp Xe máy Ô tô Khác 15 14,9 23 3,0 85 84,2 90 90,0 78 80,4 253 5 0,0 17 7,0 0,0 1,0 5,2 9,3 0 1 5 9 0 7 7,7 84,9 1,7 5,7

Nhận xét:

Gần một nửa đối tượng nghiên cứu có khoảng cách từ nhà đến cơ sở

điều trị dưới 5 km (47,3%). 20,1% bệnh nhân ở cách xa cơ sở điều trị

trên10km. Phương tiện các đối tượng chủ yếu sử dụng là xe máy (84,9%).

3.1.2. Thực trạng sử dụng ma túy và tình trạng sức khỏe

3.1.2.1. Thực trạng sử dụng chất gây nghiện

Bảng 3. 6. Tiền sử sử dụng chất gây nghiện của đối tƣợng nghiên cứu

Đặc điểm

Tổng (n=300) N % Loại ma túy đã sử dụng

Heroin Thuốc phiện Khác

Điện Biên (n=101) n % 61,2 37,3 1,5 16,9 41 25 1 13 Lai Châu (n=100) N % 51,5 48,5 0,0 4,8 35 33 0 4 Yên Bái (n=99) n % 67,0 141 60,8 37,9 88 30,9 1,3 3 2,1 10,7 27 10,9 65 30 2 10

Sử dụng kim tiêm mà ngƣời khác đã hoặc vừa sử dụng

61

Đặc điểm

Điện Biên (n=101) n % Lai Châu (n=100) N % Yên Bái (n=99) n % Tổng (n=300) N % Thời gian sử dụng ma túy (năm)

< 2 năm 2-5 năm 5-10 năm 10-20 năm > 20 năm

4 9,6 30 28,8 33 30,1 24 24,7 6,9 7 SD TB

2 28 35 26 8 TB 21,3 Tuổi bắt đầu sử dụng ma túy Thời gian sử dụng ma túy (năm) 9,1 255, Số tiền trung bình phải trả cho 4 ma túy (nghìn đồng) 7 2,0 21 28,3 22 35,4 18 26,3 8,1 5 SD TB 7,9 6,1 266, 8 19,0 7,5 6,6 9,2 144, 250, 1 0 13 4,1 79 30,6 90 33,7 68 24,5 7,1 20 SD TB 20,7 7,9 20,3 9,5 10,1 7,1 300, 463, 399, 4 1 5 4,8 29,3 33,3 25,2 7,4 SD 7,8 6,6 323, 8

Nhận xét:

Hai loại ma tuý được sử dụng nhiều nhất là heroin và thuốc phiện

(60,8% và 37,9%). Tỷ lệ sử dụng chung bơm kim tiêm chung là 10,7%. Hầu

hết các đối tượng có thời gian sử dụng ma tuý trên 2 năm (95,2%). Tuổi bắt

đầu sử dụng ma tuý của đối tượng trung bình là 20,3. Ngoài ra, số tiền trung

bình phải trả cho ma tuý là 300 nghìn đồng/ngày.

Bảng 3. 7. Hình thức sử dụng theo loại chất gây nghiện của đối tƣợng

Đặc điểm

Hình thức sử dụng ma túy

Heroin

Không sử dụng Uống/cắn Hút/hít Tiêm/chích

Morphin

Không sử dụng Hút/hít Điện Biên (n=101) n % 1,0 1,0 31,7 66,3 100 0,0 1 1 32 67 101 0 Lai Châu (n=100) N % 2,0 2 1,0 1 30,0 30 67,0 67 98,0 98 2,0 2 Yên Bái Tổng (n=99) (n=300) n % N % 5,1 5 8 2,7 1,0 1 3 1,0 29,0 87 25,3 25 68,7 202 67,3 68 99,0 297 99,0 98 1,0 3 1,0 1

62

Đặc điểm

Thuốc phiện

64 1 36 0

Điện Biên (n=101) n % 63,4 1,0 35,6 0,0 Lai Châu (n=100) N % 76,0 76 0,0 0 23,0 23 1,0 1 Yên Bái (n=99) n % 66 0 31 2 Tổng (n=300) N % 66,7 206 68,7 0,3 1 0,0 30,0 90 31,3 1,0 3 2,0

101 0

Không sử dụng Uống/cắn Hút/hít Tiêm/chích Amphetamines/ Methamphetamin Không sử dụng Hút/hít Thuốc lắc

Không sử dụng Uống/cắn Hút/hít 98 2 1

100 0,0 97,0 2,0 1,0 99,0 1,0 99,0 1,0 0,0 Cần sa

Không sử dụng Hút/hít 97 4

Tài mà

99 1 99 1 0 96,0 100 100 0,0 0 4,0 97,0 97 98,0 3,0 3 2,0 99 0 97 2 0 98 1 98 1 100 299 99,7 0,3 1 0,0 98,0 294 98,0 1,7 5 2,0 0,3 1 0,0 99,0 295 98,3 1,7 5 1,0 99,0 294 98,0 2,0 6 1,0

Không sử dụng Hút/hít Thuốc ngủ

Không sử dụng Uống/cắn Hút/hít 99 2 92 9 0

91,1 8,9 0,0 99,0 0,0 1,0 Khác

Không sử dụng Uống/cắn Hút/hít

94 2 5 5 99 0 1 93,1 100 100 0,0 0 2,0 0,0 0 5,0 7,0 7 5,0 96 2 1 94 2 3 17 97,0 287 95,7 3,7 11 2,0 0,7 2 1,0 95,0 288 96,0 1,3 4 2,0 2,7 8 3,0 9,7 29 17,4 Từng shock thuốc do quá liều

Tỷ lệ sử dụng heroin cao (60,8%), trong đó có tới 67,3% đối tượng tiêm

chích heroin. Trong số những người sử dụng thuốc phiện thì chủ yếu sử dụng

bằng đường hút/hít (30%). Các ma túy khác sử dụng với số lượng ít, chủ yếu

bằng đường hút, hít, cắn thuốc. Có khoảng 9,7% các đối tượng từng sốc thuốc

do sử dụng quá liều.

63

Bảng 3. 8. Tiền sử cai nghiện ma túy của đối tƣợng nghiên cứu

Điện Biên (n=101) Lai Châu (n=100) Đặc điểm

n % 89 88,1 n % 49 49,0 Tổng Yên Bái (n=300) (n=99) N % N % 73 73,7 211 70,3

Cai nghiện ma túy Thời gian cai nghiện gần nhất đến nay

< 2 năm 2-5 năm 5-10 năm > 10 năm 26 34,7 43 57,3 6,7 1,3 5 1 5 13,9 26 72,2 4 11,1 2,8 1 19 28,8 50 28,3 31 47,0 100 56,5 22 12,4 13 19,7 2,8 4,6 3 5

Hình thức sử dụng cai nghiện

24 27,3 20 40,8 33 48,5 77 37,6

1 1,1 9 10,2 2 3 4,1 6,1 1 2 1,5 2,9 4 14 2,0 6,8

Cai nghiện tập trung tại trung tâm Cơ sở tư nhân Cắt cơn tại cộng đồng (Y tế công) Tự mua thuốc cai Cai khan Khác 34 38,6 17 19,3 3,4 3 12 24,5 12 24,5 0,0 0 18 26,5 12 17,7 2,9 2 64 31,2 41 20,0 2,4 5

Lý do tái nghiện Bạn bè rủ rê Thèm muốn ma túy Buồn chán, thất vọng 42 47,7 53 60,2 27 30,7 33 68,8 35 71,4 9 18,4 42 59,2 117 56,5 44 62,0 132 63,5 55 26,4 19 26,8

Nhận xét:

Hầu hết các đối tượng đều tham gia cai nghiện ma tuý (70,3%). Đa số

các đối tượng có thời gian cai nghiện gần đây nhất là từ 2 năm đến 5 năm

(56,5%). Hình thức sử dụng cai nghiện chủ là cai nghiện tại trung tâm và tự

mua thuốc để cai (37,6% và 31,2%). Ngoài ra, còn một số hình thức cai

nghiện khác được sử dụng là cai nghiện ở cơ sở tư nhân (2,0%), cắt cơn tại

cộng đồng (6,8%) và cai khan (20,0%). Lý do tái nghiện chủ yếu của đối

tượng là thèm muốn ma tuý và bạn bè rủ rê (63,5% và 56,5%), một phần do

sự buồn chán, thất vọng (26,4%).

64

3.1.2.2. Hành vi quan hệ tình dục

Bảng 3. 9. Hành vi quan hệ tình dục của đối tƣợng nghiên cứu

Yên Bái (n=99) Tổng (n=300) Đặc điểm Điện Biên (n=101)

Lai Châu (n=100) n % n % n %

Từng quan hệ tình dục Quan hệ tình dục lần gần nhất

8

Trong vòng 6 tháng qua Từ 06 - 12 tháng Trên 12 tháng qua 8,1 10 10,5 10 10,3 5,3 17 17,5 5

n % 100 99,0 95 95,0 97 98,0 292 97,3 61 61,6 80 84,2 70 72,2 211 72,5 9,6 28 30 30,3 52 17,9 49 49,5 49 51,6 49 51,0 147 50,7

16 16,2 11 11,6 21 21,7 48 16,5

4 25,0 2 33,3 3 42,9 9 31,0

1 3,5 1 9,1 4 19,1 6 9,8

Sử dụng BCS khi quan hệ tình dục gần nhất Từng quan hệ tình dục với phụ nữ bán dâm Sử dụng BCS khi quan hệ tình dục với phụ nữ bán dâm Quan hệ tình dục với gái bán dâm có tiêm chích

Nhận xét:

Hầu hết các đối tượng từng quan hệ tình dục (97,3%). Trong đó, phần

lớn đối tượng đã quan hệ tình dục gần nhất trong vòng 6 tháng trở lại (72,5%).

Có 50,7% đối tượng sử dụng bao cao su trong lần quan hệ gần nhất. Ngoài ra,

có 16,5% đã từng quan hệ tình dục với phụ nữ bán dâm nhưng chỉ có 31% sử

dụng BCS khi quan hệ tình dục. 9,8% quan hệ tình dục với gái mại dâm có

tiêm chích.

65

% 35,0

3.1.2.3. Tình trạng sức khỏe và chất lƣợng cuộc sống

32,3

30,0 25,7 24,4 25,0

15,0

20,0 16,8 16,8 15,2

11,7 10,7 10,1 9,1 9,1 10,0 5,0 3,0 5,0 2,0 2,0 1,0

0,0

Lai Châu (n=100) Yên Bái (n=99) Điện Biên (n=101) Tổng (n=300) Viêm gan B Viêm gan C Nhiễm trùng cơ hội Điều trị ARV

Biểu đồ 3.1. Tiền sử bệnh tật của đối tƣợng nghiên cứu

Nhận xét:

Có 24,4% đối tượng đã từng mắc viêm gan C, 11,7% mắc viêm gan B.

Có 10,7% đối tượng được điều trị ARV.

Bảng 3. 10. Chất lƣợng cuộc sống của đối tƣợng nghiên cứu

Đặc điểm Điện Biên (n=101) Lai Châu (n=100) Yên Bái (n=99) Tổng (n=300)

n % n % n % n % Đánh giá chất lƣợng cuộc sống

1 2 8 11 8,1

Xấu Trung bình Tốt

1,0 71 70,3 29 28,7 2,0 87 87,0 11 11,0 3,7 67 67,7 225 75,0 64 21,3 24 24,2

Mức độ hài lòng với sức khỏe của mình

4 26

Không hài long Bình thường Hài long 4,0 72 72,0 24 24,0

12 12,1 8,7 10 9,9 56 56,6 182 60,7 54 53,5 92 30,7 31 31,3 37 36,6 TB SD TB SD TB SD TB SD

66

59,3 13,4 58,7 12,2 62,7 12,1 60,2 12,7 60,9 11,5 60,4 10,8 62,4 14,1 61,2 12,2 50,7 11,8 46,6 14,9 53,8 15,1 50,3 14,2 58,9 10,1 55,3 10,1 62,2 12,6 58,8 11,3 Sức khỏe thể chất Sức khỏe tâm thần Mối quan hệ xã hội Môi trƣờng

Nhận xét:

Phần lớn các đối tượng có chất lượng cuộc sống trung bình (75%) trong

đó mức độ hài lòng về sức khỏe của đối tượng chủ yếu ở mức bình thường

(60,7%). Khi chấm điểm chất lượng cuộc sống trên thang 100 điểm, sức khỏe

thể chất trung bình là 60,2 điểm, sức khỏe tâm thần là 61,2 điểm, mối quan hệ

xã hội trung bình là 50,3 điểm và môi trường trung bình là 50,3 điểm.

Bảng 3. 11. Khả năng lao động của đối tƣợng nghiên cứu

Lai Châu (n=100) Yên Bái (n=99) Tổng (n=300) Đặc điểm

Điện Biên (n=101) n % n % n % n % Chủ động học tập và lao động

Không Đôi khi Thường xuyên Tham gia công việc 42 41,6 47 28 27,7 22 31 30,7 31

7

47,0 40 42,6 129 43,7 78 26,4 22,0 28 29,8 88 29,8 31,0 26 27,7 37 12,5 15,0 15 15,6 72 24,2 27,0 19 19,8 58,0 62 64,6 188 63,3

Không Đôi khi Thường xuyên Tự phục vụ cá nhân 6,9 15 26 25,7 27 68 67,3 58

9

3 6 3 5

3 3,0 5,9 21 92 91,1 76 3,0 3,1 3,0 21,0 32 10,7 5,2 76,0 89 91,8 257 86,2

Không Đôi khi Thường xuyên Nhận xét:

Tỷ lệ đối tượng không chủ động học tập và lao động chiếm 43,7%. Có

63,3% đối tượng thường xuyên tham gia lao động. Còn lại là những đối tượng

không tham gia (12,5%) và đôi khi tham gia (24,2%). Khả năng tự phục vụ cá

nhân phần lớn của đối tượng ở mức độ thường xuyên (86,2%).

67

3.2. Hiệu quả của điều trị Methadone

3.2.1. Hiệu quả về thay đổi sử dụng chất gây nghiện và hành vi nguy cơ

Bảng 3.12. Thay đổi sử dụng chất gây nghiện trƣớc-sau điều trị

Giá trị p Đặc điểm Sau 12 tháng điều trị (n=244)

Bắt đầu điều trị (n=244) n % 36,2 88 n % 39 16,5 <0,01*

Sử dụng chất gây nghiện 30 ngày trƣớc nghiên cứu

Heroin Morphin Thuốc phiện Amphetamines/ Methamphetamin Cần sa Thuốc ngủ Khác

77 6 7 0 1 1 4 57 31,7 2,5 2,9 0,0 0,4 0,4 1,6 23,7 26 4 2 2 2 2 7 30 10,9 <0,01* 1,7 0,52* 0,8 0,18** 0,8 0,25** 0,8 0,62** 0,8 0,62** 2,9 0,34* 12,7 <0,01*

Tiêm chích ma túy 30 ngày trƣớc nghiên cứu

* Chi-square test; ** Fisher-exact test

Nhận xét: Bảng trên thể hiện tình trạng sử dụng chất gây nghiện của

các đối tượng trước và sau 12 tháng điều trị do đối tượng tự khai báo. Theo

đó, tỷ lệ người sử dụng chất gây nghiện giảm từ 36,2% khi bắt đầu tham gia

điều trị xuống 16,5% sau 12 tháng điều trị. Trong đó, tỷ lệ người sử dụng

heroin giảm từ 31,7% xuống 10,9%. Các kết quả này có ý nghĩa thống kê

(p<0,01). Tỷ lệ đối tượng tiêm chích giảm từ 23,7% xuống 12,7% sau 12

tháng điều trị. Kết quả này có ý nghĩa thống kê (p<0,01).

68

Biểu đồ 3.2. Tỷ lệ dƣơng tính heroin trong nƣớc tiểu theo dõi 12 tháng

Biểu đồ 3.2 cho thấy tỷ lệ xét nghiệm heroin dương tính trong nước tiểu

qua 12 tháng. Kết quả cho thấy tỷ lệ bệnh nhân có xét nghiệm dương tính giảm

từ 100% ở tháng 1 xuống còn 0,6% ở tháng 12. Sự khác biệt này có ý nghĩa

thống kê (p<0,01).

Bảng 3.13. Thay đổi hành vi quan hệ tình dục trƣớc-sau điều trị

Giá trị p

Đặc điểm

Bắt đầu ĐT (n=244) n % 51,3 120 16,2 38 36,8 7 Sau 12 tháng ĐT (n=244) N % 51,4 112 19,3 42 40,0 6 0,98* 0,39* 0,85*

5 12,2 3 6,7 0,47**

3 60,0 2 66,7 1,00**

Sử dụng BCS Từng quan hệ với phụ nữ bán dâm Thường xuyên sử dụng BCS khi quan hệ với gái mái dâm trong 1 tháng qua Từng quan hệ với phụ nữ mại dâm có tiêm chích Thường xuyên sử dụng BCS khi quan hệ với gái mái dâm có tiêm chích

* Chi-square test; ** Fisher-exact test

Nhận xét:

69

Kết quả nghiên cứu cho thấy hành vi sử dụng bao cao su không có sự

thay đổi đáng kể, tỷ lệ thường xuyên sử dụng bao cao su tăng từ 36,8% lên

40,0%. Kết quả này không có ý nghĩa thống kê.

3.2.2. Hiệu quả về thay đổi chất lƣợng cuộc sống

Biểu đồ 3.3. Thay đổi chất lƣợng cuộc sống trƣớc-sau điều trị

Nhận xét:

Nhìn chung, các đối tượng tham gia nghiên cứu có chất lượng cuộc

sống tốt hơn sau 12 tháng điều trị. Điểm sức khoẻ thể chất của đối tượng

tăng từ 60,0 khi bắt đầu điều trị lên 63,1 sau 12 tháng điều trị. Các mối quan

hệ xã hội cũng tăng từ 50,3 lên 53,7. Ngoài ra điểm chất lượng cuộc sống về

tâm lý và môi trường cũng tăng. Các kết quả này có ý nghĩa thống kê

(p<0,05).

3.2.3. Hiệu quả về thay đổi khả năng lao động

Bảng 3.14. Thay đổi khả năng lao động trƣớc-sau điều trị

70

p-value*

Bắt đầu ĐT (n=244) Sau 12 tháng ĐT (n=244) Đặc điểm

Chủ động học tập và lao động

0,13

Không Đôi khi Thường xuyên 100 67 73

Tham gia công việc gia đình, nội trợ

0,75

31 61 150

Không Đôi khi Thường xuyên Tự phục vụ cá nhân

0,34

Không Đôi khi Thường xuyên n % 41,7 27,9 30,4 12,8 25,2 62,0 3,3 9,1 87,7 8 22 213 n % 48,6 20,3 31,1 11,2 23,7 65,2 2,1 6,2 91,7 117 49 75 27 57 157 5 15 221

* Chi-square test

Nhận xét:

Tỷ lệ tự phục vụ cá nhân tăng sau 12 tháng tham gia điều trị (từ 87,7%

lên 91,7%). Ngoài ra, mức độ tham gia công việc gia, nội trợ đình tăng từ

87,2% lên 89% và học tập/lao động ngoài xã hội cũng tăng từ 96,8% lên

97,9%. Tuy nhiên, sự thay đổi này không có ý nghĩa thống kê.

3.2.4. Một số hiệu quả khác

Nghiên cứu định tính bổ sung thêm hiệu quả của chương trình điều trị

Methadone về kinh tế, xã hội và an ninh trật tự tại địa bàn triển khai điều trị.

Nhóm nghiên cứu phỏng vấn 06 bệnh nhân tham gia nghiên cứu, triển

khai 03 thảo luận nhóm bệnh nhân tham gia điều trị và phỏng vấn 06 người

nhà của bệnh nhân để tìm hiểu những lợi ích mà bệnh nhân có được khi tham

gia điều trị Methadone. Các ý kiến đều cho thấy tham gia chương trình đã

mang lại lợi ích về sức khỏe và kinh tế cho bệnh nhân và gia đình của họ.

71

“Khi tham gia điều trị methadone thì sức khỏe, kinh tế gia đình n đỡ

đi, ngày xưa ch i ma túy n khác. Trước đây khi dùng heroin em chỉ c 45 kg

thôi, bây giờ lên được 54kg rồi ”(Bệnh nhân nam, 24 tuổi, tại Điện Biên).

“Lợi ích thì nhiều, đầu tiên chưa muốn vào nhưng khi vào thấy lợi ích

về kinh tế nên tiếp tục uống thuốc. Trước đây mỗi ngày em tiêu 400 – 500

nghìn đồng mua heroin, bây giờ không mất tiền này nữa”. (Bệnh nhân nam,

31 tuổi, tại Yên Bái).

Không chỉ bệnh nhân và người nhà bệnh nhân thấy rõ rệt nhất nhưng lợi

ích mà chương trình Methadone mang lại; các cán bộ y tế là người quản lý và

các bác sỹ, tư vấn viên là người trực tiếp chăm sóc, điều trị cho bệnh nhân

cũng thấy được sự thay đổi rõ rệt về ngoại hình, tính cách và những lợi ích về

kinh tế, an ninh, xã hội của chương trình:

“Lợi ích thì là giảm và dừng bệnh nhân dùng ma túy. Bệnh nhân tham

gia thì c thay đ i, thứ nhất là ngoại hình, thể chất, lưu ý đến cách ăn mặc,

giao tiếp khi vào điều trị tại c sở và trong quan hệ với gia đình và xã hôi thì

cũng thay đ i. C những bệnh nhân khi vào đây thì cũng đã tìm được công

việc n định. Bệnh nhân giảm hẳn hành vi vi phạm pháp luật. Trước đây bệnh

nhân vi phạm rất cao, thì khi vào đây thì số vi phạm rất thấp” (bác sỹ nữ, 51

tuổi, tại Lai Châu).

72

3.2.5. Tình hình bỏ điều trị của bệnh nhân tham gia nghiên cứu

[VALUE]%

Điều trị

Bỏ trị [VALUE]%

Biểu đồ 3.4. Tỷ lệ đối tƣợng bỏ điều trị (n = 300)

Nhận xét:

Tổng cộng, có 56 đối tượng ngừng điều trị Methadone chiếm 18,7%.

Biểu đồ 3.5. Một số nguyên nhân bỏ điều trị của đối tƣợng nghiên cứu

73

Trong số 56 đối tượng ngừng điều trị Methadone có 66,1% ngừng điều

trị không rõ lí do, 19,6% chuyển đi cơ sở khác, 8,9% bị bắt giam, 3,6% tử

vong và 1,8% tự nguyện dừng điều trị.

3.3. Một số yếu tố ảnh hƣởng đến hiệu quả điều trị

Bảng 3. 15. Tỷ lệ sử dụng ma tuý trong quá trình điều trị và tỷ lệ bỏ điều trị

n %

Đặc điểm Sử dụng ma tuý trong quá trình điều trị MMT (n=300)

Không Có

Bỏ điều trị MMT (n=300)

Tiếp tục điều trị Bỏ điều trị 202 98 244 56 67,3 32,7 81,3 18,7

Tỷ lệ bệnh nhân sử dụng ma tuý trong quá trình điều trị MMT chiếm

32,7% và tỷ lệ bỏ điều trị tính đến thời điểm sau một năm can thiệp chiếm 18,7%.

3.3.1. Một số yếu tố ảnh hƣởng đến sử dụng ma túy trong quá trình điều

trị Methadone

Bảng 3.16. Một số yếu tố ảnh hƣởng đến sử dụng ma túy trong quá trình

điều trị (đơn biến)

Đặc điểm 95% CI OR

1 1,69 1,79 1,55

Nhóm tuổi <30 30-39 40-49 ≥50 Dân tộc Kinh Tày Thái Khác 1 3,45 1,36 2,11

0,78 0,83 0,58 1,11 0,77 0,93 3,64 3,85 4,13 10,67 2,41 4,74 Trình độ học vấn

74

Đặc điểm 95% CI

THPT OR 1 0,57 0,74

Tình trạng hôn nhân

Độc thân Kết hôn, sống chung với bạn tình Ly dị, ly thân, góa 1 1,77 3,99

Nghề nghiệp Thất nghiệp Lao động tự do Công nhân, cán bộ viên chức Khác: nội trợ và hƣu trí 1 0,84 1,33 0,09

0,33 0,30 0,94 1,71 0,35 0,27 0,01 0,99 1,80 3,32 9,29 2,02 6,47 1,05

Có công việc ổn định tại thời điểm nghiên cứu

Không Có 1 0,77

0,47 1,25

Có thu nhập cá nhân tại thời điểm nghiên cứu

Không Có 1 0,68

Ngƣời thân sống cùng sử dụng ma túy

Không Có 1 0,40

Mâu thuẫn trong gia đình

Không Có 1 0,34

Đã từng cai nghiện ma túy

Không Có 1 1,08

Thời gian đã từng sử dụng ma túy

<2 năm 2-5 năm 5-10 năm 10-20 năm >20 năm 1 2,25 2,48 4,08 2,35

Đã từng tiêm chích ma túy

Không Có 1 1,15

0,39 0,08 0,04 0,63 0,45 0,50 0,80 0,37 0,68 1,18 1,88 2,88 1,84 11,19 12,17 20,79 14,81 1,95 Sử dụng ma túy 30 ngày trƣớc thời điểm

75

Đặc điểm 95% CI OR

nghiên cứu Không Có 1 1,62

0,97 2,69

Tiêm chích ma túy 30 ngày trƣớc thời điểm nghiên cứu

Không Có 1 1,28

Hút thuốc lá Không Có 1 0,71

Uống rƣợu bia

Không Có

Quan hệ tình dục với phụ nữ bán dâm

Không Có 1 0,97 1 0,56 0,72 0,35 0,60 0,27 2,26 1,44 1,58 1,16

Kết quả hồi quy đơn biến cho thấy các yếu tố: dân tộc, trình độ học

vấn, tình trạng hôn nhân, nghề nghiệp, và sử dụng ma túy 30 ngày trước thời

điểm nghiên cứu là những yếu tố có ảnh hưởng đến việc tiếp tục sử dụng ma

túy của bệnh nhân trong quá trình điều trị.

Bệnh nhân thuộc dân tộc Tày có nguy cơ tiếp tục sử dụng ma túy cao

hơn nhóm bệnh nhân là người dân tộc Kinh (OR = 3,45 với p<0,05). Bệnh

nhân có trình độ trung học phổ thông ít nguy cơ tiếp tục sử dụng ma túy hơn so

với nhóm bệnh nhân có trình độ học vấn thấp hơn (OR = 0,57; p<0,05). Bệnh

nhân hưu trí hoặc nội trợ ít nguy cơ tiếp tục sử dụng ma túy hơn nhóm bệnh

nhân thất nghiệp (OR=0,09 và p-value<0,01). Bệnh nhân sử dụng ma túy 30

ngày trước thời điểm nghiên cứu có nguy cơ tiếp tục sử dụng ma túy trong quá

trình điều trị hơn nhóm bệnh nhân không sử dụng (OR=1,62 và p-value<0,05).

76

Bảng 3. 17. Một số yếu tố ảnh hƣởng đến sử dụng ma túy trong quá trình

điều trị (đa biến)

Đặc điểm

Sử dụng ma tuý trong quá trình điều trị 95% CI OR

Dân tộc (Kinh - ref)

0,94; 12,07 1,00; 3,87 1,10; 7,75

Tày Thái Khác 3,37* 1,97** 2,92**

0,90; 4,16 2,54; 17,55

Tình trạng hôn nhân (Độc thân - ref) Kết hôn/sống chung với bạn tình Ly dị/Ly thân/Góa 1,93* 6,68***

Thu nhập cá nhân (Không -ref)

0,32; 1,25

Có 0,63

Ngƣời thân sử dụng ma tuý (Không - ref)

0,04; 1,34

Có 0,24

Sử dụng ma túy 30 ngày trƣớc thời điểm nghiên cứu (Không - ref)

Có 2,49*** 1,37; 4,55

Thời gian đã từng sử dụng ma túy (<2 năm - ref)

10-20 năm

0,94; 3,36 0,06; 0,35

1,78* 0,15*** 255

Nhận xét:

Hằng số Quan sát *** p<0,01, ** p<0,05, * p<0,1

Toàn bộ 17 biến số đã được tính toán đơn biến đều được đưa vào mô

hình hồi quy đa biến để nhằm hiệu chỉnh và tìm hiểu sự ảnh hưởng đến hành vi

tiếp tục sử dụng ma tuý trong quá trình điều trị. Kết quả của mô hình hồi quy

tuyến tính đa biến có hiệu chỉnh cho thấy chỉ còn lại 6 biến số: dân tộc, tình

trạng hôn nhân, thu nhập cá nhân, người thân sử dụng ma tuý, sử dụng ma túy

30 ngày trước thời điểm nghiên cứu và thời gian đã từng sử dụng ma tuý được

giữ lại mô hình với p≤0,2. Còn lại các biến bị loại bỏ khỏi mô hình do p>0,2.

77

Bệnh nhân thuộc nhóm dân tộc Thái và dân tộc thiểu số khác có nguy

cơ sử dụng ma túy trong quá trình điều trị cao hơn nhóm bệnh nhân thuộc dân

tộc Kinh (OR lần lượt là 1,97 và 2,92; p<0,05). Bệnh nhân đã ly dị, ly thân,

góa có nguy cơ sử dụng ma tuý trong quá trình điều trị Methadone cao hơn

6,68 lần so với nhóm bệnh nhân độc thân (OR = 6,68; p<0,01). Bệnh nhân sử

dụng ma túy 30 ngày trước thời điểm nghiên cứu có nguy cơ tiếp tục sử dụng

ma túy trong quá trình điều trị cao hơn 2,49 lần so với nhóm bệnh nhân không

sử dụng (OR=2,49 và p-value<0,01).

Có nhiều nguyên nhân khác nhau làm bệnh nhân tiếp tục sử dụng

heroin trong quá trình điều trị:

-Do tính chất kỹ thuật của điều trị Methadone. Nhiều bệnh nhân bị

nhiễm HIV, vừa điều trị nghiện CDTP, vừa điều trị bằng thuốc kháng vi rút

HIV (ARV). Hai thuốc này tương tác với nhau, làm giảm nồng độ thuốc

Methadone trong máu, khi chưa đủ liều thuốc Methadone, bệnh nhân sẽ dùng

thêm heroin.

“Số bệnh nhân từ 6 tháng đến 1 năm thì 80% kết quả xét nghiệm eroin

âm tính. 20% c kết quả dư ng tính là do bệnh nhân này c tư ng tác với

thuốc ARV, phụ thuộc vào phác đồ điều trị ARV. Nhưng mình điều chỉnh liều

dần dần thì cũng đỡ đi, c bệnh nhân lên đến 400mg‖ (bác sĩ nam, 52 tuổi, tại

Điện Biên).

Kể cả khi bệnh nhân không bị nhiễm HIV, khi chưa đủ liều thuốc

Methadone bệnh nhân cũng sẽ dùng thêm heroin:

―Dùng cả heroin chỉ trong 6 tháng đầu điều trị thôi. Lúc đ thuốc ít h n

ma túy đã ch i nên dùng thêm heroin, khi thuốc methadone nhiều h n thì không

dùng nữa và dùng thêm heroin cũng không thấy thích gì.‖ (bệnh nhân nam, 26

tuổi, tại Lai Châu).

78

-Do bệnh nhân thử dùng thêm heroin để xem có cảm giác ―phê, sướng‖

như khi chưa điều trị hay không? Đây cũng là lý do được các bệnh nhân nêu

ra khi mới bắt đầu tham gia điều trị.

―Thời gian đầu em vẫn vừa uống methadone vừa dùng thêm heroin xem

thế nào? nhưng dùng lúc khác. Uống thuốc bu i sáng thì dùng thêm heroin bu i

chiều, tối. Rồi em bị bắt đi cai nghiện. Khi ra trại em xin uống lại methadone,

bây giờ em không dùng thêm heroin nữa‖ (bệnh nhân nam, 29 tuổi, tại Điện

Biên).

3.3.2. Một số yếu tố ảnh hƣởng đến bỏ điều trị Methadone của bệnh nhân

Bảng 3.18. Một số yếu tố ảnh hƣởng đến bỏ điều trị (đơn biến)

Đặc điểm

Nhóm tuổi <30 30-39 40-49 ≥50 Dân tộc Kinh Tày Thái Khác

Trình độ học vấn

THPT

Tình trạng hôn nhân

Độc thân Kết hôn, sống chung với bạn tình Ly dị, ly thân, góa

Nghề nghiệp Thất nghiệp Lao động tự do Công nhân, cán bộ viên chức Khác

Có công việc ổn định tại thời điểm nghiên cứu Không OR 1 0,98 0,41 0,84 1 2,24 0,70 0,64 1 1,31 0,18 1 1,04 0,29 1 0,88 0,48 0,76 1 95% CI 2,15 0,44 1,01 0,17 2,43 0,29 7,16 0,70 1,44 0,34 1,98 0,21 2,39 0,72 1,39 0,02 2,01 0,54 1,08 0,08 2,49 0,31 4,99 0,05 3,78 0,15

79

Đặc điểm 95% CI

Có Có thu nhập cá nhân tại thời điểm nghiên cứu

Không Có

Mâu thuẫn trong gia đình

Không Có

Thời gian đã từng sử dụng ma túy

<2 năm 2-5 năm 5-10 năm 10-20 năm >20 năm

Đã từng tiêm chích ma túy

Không Có OR 0,45 1 0,83 1 1,80 1 0,44 0,60 0,26 0,56 1 1,89 0,25 0,44 0,34 0,12 0,17 0,06 0,11 0,94 0,82 1,60 9,59 1,69 2,19 1,11 2,92 3,79

Sử dụng ma túy 30 ngày trƣớc thời điểm nghiên cứu Không Có 1 0,48 0,24 2,96

Tiêm chích ma túy 30 ngày trƣớc thời điểm nghiên cứu Không Có

Sử dụng ma túy trong thời gian điều trị MMT

Không Có

Khoảng cách từ nhà đến cơ sở điều trị

< 5km 5-10 km > 10km 1 0,70 1 1,43 1 3,15 3,59 0,33 0,78 1,51 1,59 1,48 2,61 6,56 8,08

Nhận xét:

Kết quả hồi quy đơn biến cho thấy các yếu tố: tuổi, tình trạng hôn nhân,

công việc ổn định, thời gian đã từng sử dụng ma túy trước khi tham gia điều

trị Methadone, sử dụng ma túy 30 ngày trước thời điểm nghiên cứu, và

khoảng cách từ nhà đến cơ sở điều trị là những yếu tố có ảnh hưởng đến việc

bỏ điều trị của bệnh nhân.

80

Bệnh nhân trong độ tuổi từ 40-49 ít nguy cơ bỏ trị hơn nhóm bệnh nhân

dưới 30 tuổi (OR=0,41; p<0,05). Bệnh nhân góa vợ/chồng, ly thân hoặc ly

hôn ít nguy cơ bỏ điều trị hơn nhóm độc thân (OR=0,29; p<0,05). Bệnh nhân

có công việc ổn định ít nguy cơ bỏ điều trị hơn nhóm không có việc làm ổn

định (OR = 0,45; p<0,01).

Bệnh nhân có thời gian sử dụng ma túy trước khi vào điều trị càng dài

thì càng ít nguy cơ bỏ điều trị, bệnh nhân sử dụng ma túy từ 10-20 năm có

nguy cơ bỏ điều trị thấp hơn nhóm bệnh nhân sử dụng dưới 2 năm (OR =

0,26; p<0,05).

Bệnh nhân sử dụng ma túy 30 ngày trước thời điểm nghiên cứu ít có

nguy cơ bỏ điều trị hơn bệnh nhân không sử dụng (OR = 0,48; p<0,05). Bệnh

nhân có khoảng cách từ nhà đến cơ sở điều trị xa trên 5km có nguy cơ bỏ điều

trị cao hơn bệnh nhân có khoảng cách dưới 5km (cao hơn 3,15 lần với bệnh

nhân có khoảng cách từ 5-10km và, 3,59 lần với bệnh nhân có khoảng cách

trên 10km) (p<0,01).

Bảng 3. 19. Một số yếu tố liên quan đến bỏ điều trị (đa biến)

Đặc điểm

Bỏ điều trị trong quá trình điều trị MMT 95% CI OR

Nhóm tuổi (<30 - ref)

0,11; 0,64

40-49 0,26***

Dân tộc (Kinh - ref)

0,64; 13,12 0,10; 0,71 0,08; 1,37

Tày Thái Khác 2,90 0,27*** 0,33

Trình độ học vấn (

0,03; 1,81

>THPT 0,22

Tình trạng hôn nhân (Độc thân - ref)

0,02; 0,58

Ly dị, ly thân, góa 0,12***

81

Công việc ổn định (Không - ref)

0,13; 0,57

Có 0,27***

Sử dụng ma túy 30 ngày trƣớc thời điểm nghiên cứu (Không - ref)

Có 0,35** 0,15; 0,84

Thời gian đã từng sử dụng ma tuý (<2 năm - ref)

2-5 năm 10-20 năm 0,49 0,34** 0,20; 1,16 0,11; 0,99

Khoảng cách từ nhà đến cơ sở điều trị (<5km - ref)

5-10 km >10 km 2,44** 2,75** 1,02; 5,80 1,07; 7,11

1,92 1,06 263 0,85; 4,33 0,43; 2,58

Sử dụng ma túy trong quá trình điều trị (Không - ref) Có Hằng số Quan sát *** p<0,01, ** p<0,05, * p<0,1

Toàn bộ 14 biến số đã được tính toán đơn biến đều được đưa vào mô

hình hồi quy đa biến để nhằm hiệu chỉnh và tìm hiểu yếu tố liên quan đến tình

trạng bỏ điều trị ở bệnh nhân. Kết quả của mô hình hồi quy tuyến tính đa biến

đã hiệu chỉnh cho thấy chỉ còn lại 9 biến số: nhóm tuổi, dân tộc, trình độ học

vấn, tình trạng hôn nhân, công việc ổn định, sử dụng ma túy 30 ngày trước

thời điểm nghiên cứu, thời gian đã từng sử dụng ma tuý, khoảng cách từ nhà

đến cơ sở điều trị và sử dụng ma tuý trong quá trình điều trị được giữ lại mô

hình với p≤0,2. Còn lại các biến bị loại bỏ khỏi mô hình do p>0,2.

Bệnh nhân trong độ tuổi từ 40-49 có ít nguy cơ bỏ điều trị hơn nhóm bệnh

nhân dưới 30 tuổi (OR=0,26; p<0,01). Bệnh nhân là người dân tộc Thái ít nguy

cơ bỏ điều trị hơn nhóm bệnh nhân nhóm dân tộc Kinh (OR= 0,27; p <0,01).

Bệnh nhân đã ly dị, ly thân, góa ít có nguy cơ bỏ điều trị hơn so với nhóm bệnh

82

nhân độc thân (OR = 0,12; p<0,01). Bệnh nhân có công việc ổn định ít nguy cơ

bỏ điều trị hơn nhóm không có việc làm ổn định (OR = 0,27; p<0,01).

Bệnh nhân có thời gian sử dụng ma túy trước khi vào điều trị càng dài

thì càng ít nguy cơ bỏ điều trị, bệnh nhân sử dụng ma túy từ 10-20 năm có

nguy cơ bỏ điều trị thấp hơn nhóm bệnh nhân sử dụng dưới 2 năm (OR =

0,34; p<0,05). Bệnh nhân sử dụng ma túy 30 ngày trước thời điểm nghiên cứu

ít có nguy cơ bỏ điều trị hơn bệnh nhân không sử dụng (OR = 0,35; p<0,05).

Bệnh nhân có khoảng cách từ nhà đến cơ sở điều trị xa trên 5km có nguy cơ

bỏ điều trị cao hơn bệnh nhân có khoảng cách dưới 5km (cao hơn 2,44 lần với

bệnh nhân có khoảng cách từ 5-10km và, 2,75 lần với bệnh nhân có khoảng

cách trên 10km) (p<0,05).

Có nhiều nguyên nhân khác nhau làm bệnh nhân bỏ điều trị.

-Nguyên nhân từ phía bệnh nhân:

+Kết quả thảo luận nhóm và phỏng vấn sâu bệnh nhân cho thấy do bệnh

nhân thử bỏ điều trị để xem có bỏ được cả heroin và methadone hay không?

“Em uống được 3 tháng rồi bỏ để xem c thể bỏ được methadone hay

không” (Bệnh nhân tham gia thảo luận nhóm tại Yên Bái).

“Tôi nghĩ cứ uống cái này để bỏ được ma túy xong sẽ nghỉ. Tôi biết cái

này n cũng rất c hại, nhiều cái lắm” (bệnh nhân nam, 29 tuổi, Điện Biên).

“Bỏ trị thì cái thứ nhất là vì bệnh nhân. C những bệnh nhân tuy đã

tuyên truyền điều trị methadone phải điều trị lâu dài, tuy nhiên bệnh nhân và

người nhà bệnh nhân muốn trải nghiệm, điều trị được 9 tháng đến 1 năm thì

xin nghỉ xem c bỏ được hẳn methadone không. Thì trong quá trình tôi tham

gia ở đây thì c tư ng đối các trường hợp như thế. C nhiều bệnh nhân và

người nhà cư ng quyết muốn ra khỏi chư ng trình xem ra được không?” (bác

sĩ nam, 52 tuổi, Điện Biên).

+ Do vi phạm pháp luật, bị bắt vì tiếp tục phạm tội

83

“Bỏ ở đây n nhiều lý do anh ạ. Bệnh nhân bị bắt cũng nhiều vì ở đây

tội phạm, họ cũng hay buôn bán sử dụng trái phép. Một số thì tử vong giai

đoạn cuối do AIDS, 1 số thì tự bỏ và 1 số thì đi làm ăn xa tự bỏ”( bác sĩ điều

trị, nam, 36 tuổi, Yên Bái).

-Nguyên nhân từ phía chương trình: chương trình không được triển

khai trên diện rộng, điều trị Methadone phải đến cơ sở điều trị để uống thuốc

hàng ngày gây khó khăn cho bệnh nhân đặc biệt là địa bàn miền núi, người

dân sống ở xa các cơ sở y tế.

“Em uống thuốc được 6 tháng, rồi đi ch i xa không c chỗ uống thuốc

nên bỏ luôn”(bệnh nhân nam, 21 tuổi, Yên Bái).

“Cái thứ 2 là ngày nào cũng phải đến c sở uống thuốc. Cũng c

người thấy bức xúc, họ bảo là tôi mất cả bu i sáng hoặc bu i chiều, thì ai

thuê tôi làm nữa lâu rồi thì bỏ trị luôn”(tư vấn viên, nữ, 32 tuổi, Điện Biên).

“Nhà tôi đến đây đi bộ mất 2 tiếng, hôm nào c con cháu đèo đi thì uống,

hôm nào con cháu bận thì nghỉ uống”(bệnh nhân nam, 52 tuổi, Lai Châu).

“Thứ nhất là em nghĩ các huyện chưa mở rộng khắp nên bệnh nhân

phải đi xa tới đây uống thuốc, ngày nào cũng phải đến uống, nên với những

bệnh nhân điều trị lâu, họ mong muốn c thuốc gì phát về mấy ngày mới phải

uống 1 lần thì tốt, trong quá trình tư vấn c trao đ i ngoài lề thì bệnh nhân

cũng n i thế, nhất là trong những ngày mưa thì họ lại ngại” (tư vấn viên, 28

tuổi, Lai Châu).

-Do yếu tố xã hội: người nghiện ma túy thường bị cộng đồng, xã hội kỳ

thị. Do vậy, họ không muốn cộng đồng biết mình là người nghiện và đang

điều trị methadone. Bản thân người nghiện cũng mặc cảm về tình trạng

nghiện của mình.

“Sự kỳ thị của gia đình, cộng đồng hoặc là bản thân họ tự kỳ thị, bệnh

nhân này thường là hay mặc cảm nên họ tự phân biệt kỳ thị”( tư vấn viên, nữ,

32 tuổi, Điện Biên).

84

Chƣơng 4

BÀN LUẬN

Kết quả nghiên cứu cho thấy hiệu quả của điều trị thay thế chất gây

nghiện bằng Methadone. Khi bắt đầu tham gia điều trị, đa số các đối tượng

tham gia nghiên cứu sử dụng heroin. Hầu hết các đối tượng đã thử các hình

thức can nghiện khác nhau nhưng đều thất bại. Ngoài ra, các đối tượng cho

rằng mình có chất lượng cuộc sống ở mức trung bình, chỉ có số ít không hài

lòng với sức khoẻ bản thân. Điều trị nghiện các CDTP bằng thuốc Methadone

có tác động tích cực trong việc giảm sử dụng chất gây nghiện, hành vi nguy

cơ như tiêm chích và giúp tăng chất lượng cuộc sống của các đối tượng

nghiên cứu. Tỷ lệ dương tính heroin trong nước tiểu theo dõi 12 tháng giảm

nhanh sau khi điều trị Methadone (chỉ còn 0,6% tháng thứ 12). Có khoảng

một phần năm số đối tượng bỏ điều trị.

4.1. Thực trạng sử dụng ma túy và tình trạng sức khỏe, xã hội của đối

tƣợng nghiên cứu trƣớc khi điều trị Methadone

4.1.1. Đặc điểm nhân khâu, xã hội, việc làm của đối tƣợng nghiên cứu

4.1.1.1. Thông tin chung

Trong tổng số 300 đối tượng nghiên cứu, hầu hết nằm trong độ tuổi từ

30 đến 49 tuổi (71,7%). Có 99,3% bệnh nhân là nam. Dân tộc Kinh chiếm

hơn một nửa tổng số đối tượng tham gia nghiên cứu (58,7%). Dân tộc Thái

chủ yếu tập trung ở các tỉnh Điện Biên (34,7%) và Lai Châu (41,0%). Phần

lớn các đối tượng có trình độ học vấn dưới trung học phổ thông (56,2%); đang

85

sống chung với vợ chồng, bạn tình (59,0%) và đang làm nghề lao động tự do

(83,0%).

Hiện nay, độ tuổi sử dụng ma tuý tại Việt Nam đang có xu hướng trẻ

hoá, độ tuổi dưới 30 chiếm tỷ lệ lớn [34, 35]. Tuy nhiên kết quả nghiên cứu

của chúng tôi cho thấy phần lớn các đối tượng tham gia nghiên cứu này trên

30 tuổi (83%). Kết quả này cũng tương đồng với nghiên cứu trong nhóm

nghiện chích ma túy tại Hòa Bình, Tuyên Quang, Bắc Kạn năm 2014 [42] và

Thái Nguyên năm 2015 [1], nhưng cao hơn tuổi của đối tượng tham gia

nghiên cứu tại Hải Phòng và Thành phố Hồ Chí Minh (44,3%) [13]. Kết quả

này có thể do người nghiện tại các tỉnh miền núi phía Bắc có thời gian sử

dụng thuốc phiện lâu hơn ở các tỉnh đồng bằng và thành phố lớn. Ngoài ra, có

thể do các đối tượng nghiện ma tuý trẻ tuổi đang đi làm tại các vùng, miền

khác nên địa phương không quản lý được và không tham gia điều trị chất thay

thế bằng Methadone.

Hầu hết các đối tượng tham gia nghiên cứu là nam giới. Điều này phù

hợp với báo cáo của Bộ Lao động Thương binh và Xã hội về công tác cai

nghiện ma tuý khi mà trên cả nước, có 95% đối tượng nghiện ma tuý là nam

giới [25]. Ngoài ra, hầu hết các đối tượng nghiện ma tuý là dân tộc Kinh

(58,7%), tỷ lệ này thấp hơn trong nghiên cứu tại 3 tỉnh miền núi phía Bắc năm

2014 (66,7%) [42] tiếp theo là dân tộc Thái (27%), và đang sống cùng

vợ/chồng, bạn tình.

Dân tộc Kinh chiếm hơn một nửa tổng số đối tượng tham gia nghiên

cứu (58,7%). Dân tộc Thái chủ yếu tập trung ở các tỉnh Điện Biên (34,7%) và

Lai Châu (41,0%). Điều này cũng phù hợp với đặc điểm về dân tộc của các

tỉnh vùng Tây bắc [38].

Có hơn một nửa (59%) đối tượng kết hôn và đang sống chung với vợ

chồng, và có khoảng một phần tư (26,3%) đang sống độc thân. Kết quả này

86

cũng tương tự như các nghiên cứu được tiến hành ở các tỉnh miền núi phía

Bắc [1, 79].

Về trình độ học vấn, kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy khoảng

một nửa số đối tượng tham gia có trình độ học vấn dưới trung học phổ thông.

Kết quả này tương đồng với một số nghiên cứu đã được thực hiện tại các tỉnh

miền núi Việt Nam [99] cũng như báo cáo của Bộ Lao động Thương binh và

Xã hội Việt Nam cũng cho thấy trình độ văn hoá thấp của các đối tượng

nghiện ma tuý khi mà có 69% đối tượng có trình độ văn hoá dưới trung học

phổ thông [2]. Việc này có thể được giải thích do tại các tỉnh miền núi phía

bắc, hệ thống giáo dục còn chưa phát triển. Giao thông, đi lại tại các tỉnh này

cũng khó khăn, khiến việc phát triển giáo dục càng khó khăn. Vì vậy trình độ

học vấn tại các địa bản này còn thấp. Ngoài ra, có thể thấy rằng trình độ văn

hoá thấp cùng với nhiều thách thức xã hội và kinh tế như nghèo đói, lạm dụng

chất ma túy, bất bình đẳng trong chăm sóc y tế cũng là nguy cơ gián tiếp làm

lây truyền HIV trong đồng bào dân tộc thiểu số [25].

4.1.1.2. Nghề nghiệp và thu nhập

Trong tổng số 300 người, có 166 người có công việc ổn định chiếm

55,3%. Phần lớn, các đối tượng đều có thu nhập cá nhân (74,3%). Thu nhập

trung bình của đối tượng chủ yếu là 3,3 triệu đồng.

Hầu hết các đối tượng tham gia nghiên cứu làm nghề tự do (83%). Kết

quả này tương đồng với nghiên cứu của Nguyễn Văn Hưng và cộng sự [99].

Điều này có thể giải thích bởi những người nghiện ma tuý bị suy giảm sức

khoẻ dẫn đến khả năng lao động của họ giảm [93]. Ngoài ra, những đối tượng

này còn gặp phải sự phân biệt đối xử từ cộng đồng, chủ lao động [126] nên

khả năng có được việc làm của họ càng khó khăn. Những rào cản này tại

những nước phát triển như Việt Nam lại càng lớn khi nhận thức về nghiện ma

tuý, HIV/AIDS còn chưa cao và các biện pháp phòng chống còn gặp nhiều

87

khó khăn tại các tỉnh miền núi [64, 126]. Do hoàn cảnh như vậy nên các đối

tượng không có việc làm ổn định, phần lớn làm các nghề tự do.

Thu nhập trung bình của các đối tượng trong nghiên cứu là 3,3 triệu

đồng/tháng. Mức thu nhập này thấp hơn so với thống kê về bình quân thu

nhập đầu người của Ngân hàng Thế giới Worldbank (khoảng 4 triệu

đồng/tháng) [121]. Địa bàn nghiên cứu là các tỉnh miền núi, có khó khăn

trong việc phát triển kinh tế. Ngoài ra, việc giảm sút sức lao động cũng ảnh

hưởng tới thu nhập của các đối tượng nghiện ma tuý [126]. Phần lớn gia đình

của các đối tượng này có số người sống phụ thuộc về kinh tế từ 2 người trở

lên, trong khi đó, họ còn mất tiền để mua các loại ma tuý. Những vấn đề này

cho thấy gánh nặng kinh tế nặng nề ở các gia đình có người sử dụng chất gây

nghiện tại các địa bàn nghiên cứu. Kết quả này cho thấy sự cấp thiết của việc

áp dụng các phương pháp cai nghiện, điều trị nghiện nhằm giảm sức ép về

kinh tế ở các gia đình có người nghiện ma tuý. Hiện nay, tại Việt Nam,

chương trình điều trị Methadone của Chính phủ có thể coi như một phương

pháp hữu hiệu trong việc điều trị nghiện ma tuý (CDTP), qua đó giảm các

gánh nặng kinh tế tại các gia đình.

4.1.1.3. Mâu thuẫn gia đình và hành vi phạm pháp của đối tượng nghiên cứu

Trong tổng số 300 đối tượng nghiên cứu có 7 đối tượng có mâu thuẫn,

bất đồng trong cuộc sống (2,3%). Đa số các đối tượng đều có hành vi phạm

pháp (71,6%). Những hành vi phạm pháp/gây mâu thuẫn gia đình hay gặp

nhất là lấy tiền của gia đình (44,2%), nói dối (41,5%), cầm đồ (40,5%) hoặc

bán đồ cá nhân (39,1%). Ngoài ra, các hành vi như bán, cầm đồ gia đình

(25,1% và 21,7%) cũng chiếm tỷ lệ đáng kể. Có 21,4% đối tượng có tiền án,

tiền sự.

Kết quả này thấp hơn so với báo cáo của Bộ Lao động Thương binh và

Xã hội. Theo báo cáo đó, có 38% đối tượng có tiền án tiền sự, 11% có tên

88

trong hồ sơ do nhà nước quản lý [2]. Tuy nhiên, kết quả này lại cao hơn so

với nghiên cứu được thực hiện năm 2015 tại Hải Phòng khi tỷ lệ có hành vi

phạm pháp là 40,8%, tỷ lệ có tiền sự là 13,0% [25]. Lý do việc này là do các

tỉnh miền núi phía Bắc thường có đường biên giới dài; tình hình vận chuyển,

buôn bán và sử dụng ma túy trên địa bàn diễn ra hết sức phức tạp và khó kiểm

soát. Ngoài ra, tình hình tội phạm ở các tỉnh này cũng khó kiểm soát hơn so

với các vùng đồng bằng vì các đặc điểm văn hoá – kinh tế - xã hội đặc trưng.

Ngoài ra, tỷ lệ này cũng có thể do người nghiện ma tuý thiếu tiền mua thuốc

để dùng thoả mãn cơn nghiện. Các đối tượng phạm pháp dưới nhiều hình thức

đa dạng khác nhau như bài bạc, cá độ, trộm cướp, buôn lậu, buôn bán vận

chuyển chất gây nghiện và nhiều loại hình phạm pháp khác. Tuy nhiên, các

hành vi vi phạm pháp luật nhằm mục đích tạo thu nhập nhanh chóng để có thể

mua và sử dụng chất gây nghiện, thoả mãn cơn nghiện. Khi thoả mãn cơn

nghiện hoặc trong cơn phê, các đối tượng không thể kiểm soát hành vi cá

nhân nên dễ dàng phạm pháp ở các mức độ khác nhau. Tóm lại, nghiện ma

tuý và vi phạm pháp luật là hai phạm trù luôn song hành cùng nhau, hơn thế

nữa còn là hai phạm trù nối tiếp nhau và tạo ra vòng nghiệt ngã khiến cho đối

tượng nghiện ma tuý ngày càng trầm trọng hơn.

Mặt khác, bên cạnh những hành vi phạm pháp, những mâu thuẫn gia

đình và xã hội cũng tạo ra những tiêu cực nhất định đến người nghiện ma tuý

này. Những mâu thuẫn xuất phát từ nội bộ gia đình có thể khiến các đối tượng

nghiện ma tuý cảm thấy chán nản hoặc bị dồn nén. Trong khi đó, vai trò của

gia đình là nơi vỗ về, an ủi và là nguồn động lực lớn để các đối tượng nghiện

có thể hoàn lương. Tuy nhiên, mâu thuẫn trong gia đình lại là yếu tố phản vai

trò đó. Ngoài ra, các mâu thuẫn ngoài xã hội cộng dồn lại có thể đẩy đối

tượng đến giới hạn cùng cực và sẵn sàng gây ra các hành vi phạm pháp bất

chấp các giá trị đạo đức hoặc tình cảm gia đình. Điều đó có thể là mầm mống

89

cho những bất ổn, rối loạn trật tự xã hội tại các địa phương này. Cần các biện

pháp tích cực đẩy mạnh hành vi cai nghiện ở các đối tượng này. Điều trị

nghiện các CDTP bằng thuốc methadone có thể là một trong những phương

pháp hữu hiệu trong việc giảm tình trạng phạm pháp ở trong nhóm đối tượng

người sử dụng ma tuý trong nghiên cứu [33, 73].

4.1.1.4. Tiếp cận điều trị

Gần một nửa đối tượng nghiên cứu có khoảng cách từ nhà đến cơ sở

điều trị dưới 5 km (47,3%). 20,1% bệnh nhân ở cách xa cơ sở điều trị

trên10km. Phương tiện các đối tượng chủ yếu sử dụng là xe máy (84,9%).

Đây cũng là phương tiện được người dân Việt Nam sử dụng nhiều nhất.

Ngoài ra, đặc điểm kinh tế của đối tượng và địa hình sinh sống nên nhiều đối

tượng sử dụng xe máy để di chuyển.

Bên cạnh đó, công tác cai nghiện và phục hồi cho người nghiện ma túy

đã và đang được triển khai đồng bộ trên cả nước. Hệ thống văn bản pháp luật

dành cho đối tượng nghiện ma túy cũng không ngừng sửa đổi, hoàn thiện giúp

hỗ trợ tối đa cho công tác điều trị cai nghiện và phục hồi cho đối tượng này.

Nhiều mô hình cai nghiện tiên tiến trên thế giới đã và đang được thử nghiệm,

áp dụng tại Việt Nam. Nhiều giải pháp và mô hình được đưa ra thử nhiệm và

áp dụng nhằm tăng cường hỗ trợ điều trị cho người nghiện ma túy. Tuy nhiên,

khoảng cách địa lý và điều kiện cơ sở vật chất là một trong những yếu tố then

chốt ảnh hưởng khả năng tiếp cận điều trị của đối tượng. Nhiều nghiên cứu và

báo cáo đã khẳng định, khoảng cách càng xa thì khả năng tiếp cận điều trị

càng kém. Điều này dễ dàng giải thích rằng khó khăn di chuyển về mặt

khoảng cách khiến các đối tượng khó tuân thủ pháp đồ điều trị, chưa kể tính

chất thời tiết hoặc đặc điểm địa hình càng gây cản trở và khó khăn cho đối

tượng trong tiếp cận và tuân thủ điều trị. Trong nghiên cứu này, mức độ ảnh

hưởng của khoảng cách và phương tiện di chuyển đến tiếp cận điều trị, tuân

90

thủ điều trị hoặc hiệu quả điều trị được trình bày rõ ràng hơn ở những phần

sau.

Mặt khác, ngoài khoảng cách gây khó khăn điều trị cho đối tượng, đặc

điểm khu vực sinh sống cũng là một yếu tố song hành. Những đối tượng tham

gia nghiên cứu đều ở các tỉnh miền núi, ở các huyện xa trung tâm nên đặc

điểm địa hình gập gềnh và khó di chuyển. Số lượng các tuyến đường giao

thông chính cũng rất hạn chế, chủ yếu là đường dân sinh hoặc đường đất hoặc

tuyến đường rải nhựa rất hạn chế. Mặc dù gần một nửa số đối tượng trong

nghiên cứu có khoảng cách từ nhà đến cơ sở y tế dưới 5 km, nhưng với đặc

điểm địa bàn như trên, khó khăn tiếp cận điều trị là một điều dễ hiểu.

4.1.2. Thực trạng sử dụng ma tuý và tình trạng sức khỏe

4.1.2.1. Thực trạng sử dụng chất gây nghiện

Hai loại ma tuý được sử dụng nhiều nhất là heroin và thuốc phiện

(60,8% và 37,9%). Tỷ lệ sử dụng chung bơm kim tiêm chung là 10,7%. Hầu

hết các đối tượng có thời gian sử dụng ma tuý trên 2 năm (95,2%). Tuổi bắt

đầu sử dụng ma tuý của đối tượng trung bình là 20,3. Tỷ lệ sử dụng heroin

cao, trong đó có 67,3% đối tượng tiêm chích heroin. Ngoài ra, số tiền trung

bình phải trả cho ma tuý là 300 nghìn đồng/ngày. Tỷ lệ sốc ma túy là 9,7%.

Kết quả nghiên cứu cho thấy loại ma tuý được sử dụng nhiều nhất là

Heroin. Kết quả này tương đồng với báo cáo của Uỷ ban Quốc gia Phòng

chống AIDS và Phòng chống Tệ nạn Ma tuý Mại dâm khi mà người nghiện

ma tuý chủ yếu đang sử dụng heroin [36]. Việc sử dụng nhiều heroin dẫn tới

việc tiêm chích tăng cao do nhu cầu về liều lượng ngày càng tăng của các đối

tượng sử dụng heroin [86]. Theo kết quả nghiên cứu, có tới gần 70% đối

tượng tiêm chích heroin. Tỷ lệ này tương đồng với kết quả về tỷ lệ sử dụng

ma tuý bằng đường tiêm chích năm 2010 [36] nhưng thấp hơn trong nghiên

91

cứu tại Hải phòng và thành phố Hồ chí Minh năm 2011, 2014 [13, 29]. Trong

đó, có 10,7% đối tượng đã sử dụng chung bơm kim tiêm. Kết quả này thấp

hơn so với giám sát trọng điểm lồng ghép hành vi trong các nhóm nguy cơ

cao tại Việt Nam năm 2014 (13,1%) [36]. Việc tiêm chích của các đối tượng

này sẽ làm tăng khả năng lây nhiễm HIV [37]. Những kết quả này cho thấy

tác hại của việc tiêm chích ma tuý, đặc biệt là dùng chung bơm kim tiêm.

Những việc làm này sẽ gây ảnh hưởng tới sự phát triển của kinh tế, xã hội và

gia tăng các vấn đề sức khoẻ ở cộng đồng. Vì vậy cần có biện pháp điều trị,

cai nghiện ma tuý nói chung và heroin nói riêng tại các địa bàn nghiên cứu

nhằm hạn chế tình trạng tiêm chích ma tuý, qua đó giảm nguy cơ lây nhiễm

HIV, giúp tăng cường trật tự xã hội và cải thiện kinh tế.

Trong số các đối tượng tham gia nghiên cứu, có khoảng 38% đối tượng

sử dụng thuốc phiện. Kết quả này cao hơn nhiều so với báo cáo về công tác

cai nghiện ma tuý tại Việt Nam năm 2011 (khoảng 1,2% đến 1,4%). Kết quả

này có thể do việc trồng thuốc phiện tại các tỉnh miền núi còn phổ biến. Các

đối tượng dễ dàng tiếp cận với các nguồn cung cấp thuốc phiện hoặc do tự

trồng. Vì vậy, tỷ lệ sử dụng thuốc phiện tại ba tỉnh miền núi phía bắc trong

nghiên cứu cao hơn so với trên cả nước.

Ngoài ra, có một số ít đối tượng sử dụng các loại ma tuý như

Amphetamine/Methamphetamine (ma tuý tổng hợp). Kết quả này tương tự

như báo cáo về tình hình sử dụng chất ngây nghiện tại Việt Nam [2]. Dù tỷ lệ

này còn thấp, nhưng cần lưu ý các nhân viên y tế và các cấp chính quyền vì

loại ma tuý này có tác hại rất lớn tới sức khoẻ của người sử dụng [2].

Tỷ lệ lớn các đối tượng tham gia nghiên cứu có thời gian sử dụng ma

tuý từ 5-10 năm (33,3%). Kết quả này tương đồng với nghiên cứu của Hoàng

Đình Cảnh được thực hiện tại Việt Nam [25]. Ngoài ra, có những trường hợp

bị shock thuốc. Shock thuốc ma túy có thể là nguyên nhân trực tiếp gây tử

92

vong, ảnh hưởng lớn đến sức khoẻ của bệnh nhân. Điều này yêu cầu các địa

phương cần có các biện pháp can thiệp giảm nguy cơ shock thuốc do sử dụng

quá liều, giúp tăng cường sức khoẻ, chất lượng cuộc sống và giảm tử vong ở

các đối tượng nghiện ma tuý.

Tuổi bắt đầu sử dụng ma tuý ở các đối tượng nghiên cứu là khoảng 20

tuổi. Đây là độ tuổi dễ lôi kéo, rủ rê, gặp phải nhiều vấn đề về tâm lý, vì vậy

họ sử dụng heroin để giảm áp lực cũng như thư giãn [42]. Với xu hướng độ

tuổi người nghiện có xu hướng ngày càng trẻ hoá độ tuổi sử dụng ma tuý như

hiện nay, việc giáo dục từ sớm về công tác phòng chống ma tuý, tăng cường

kiến thức, nhận thức của thanh thiếu niên ngay từ khi còn ngồi trong ghế nhà

trường là rất quan trọng trong công tác kiểm soát ma tuý, tệ nạn xã hội.

Số tiền trung bình trả cho ma tuý của các đối tượng tham gia nghiên

cứu là khoảng 300 nghìn đồng/ngày. Số tiền này còn vượt quá số tiền thu

nhập trung bình theo tháng của các đối tượng tham gia nghiên cứu. Kết quả

này tương tự thông báo về công tác cai nghiện ma tuý khi mà tính trên cả

nước, chi tiêu cho ma tuý gấp 3 lần thu nhập của các đối tượng nghiện [2].

Khoản tiền phải trả cho ma tuý này góp phần lớn gây nên gánh nặng về kinh

tế cho các gia đình. Điều này làm giảm kinh tế gia đình và xã hội, ngoài ra

còn có thể dẫn tới các hành vi phạm pháp như trộm cắp, cướp giật gây ảnh

hưởng đến an ninh, an toàn và gây bất ổn trong xã hội. Chính vì vậy, cần có

các biện pháp giúp giảm liều lượng ma tuý, hỗ trợ cai nghiện, ngoài ra cần xử

lý nghiêm các hành vi buôn bán, sử dụng ma tuý.

4.1.2.2. Tình hình cai nghiện ma tuý

Hầu hết các đối tượng đều tham gia cai nghiện ma tuý (70,3%). Đa số

các đối tượng có thời gian cai nghiện gần đây nhất là từ 2 năm đến 5 năm

(56,5%). Hình thức sử dụng cai nghiện chủ là cai nghiện tại trung tâm và tự

mua thuốc để cai (37,6% và 31,2%). Ngoài ra, còn một số hình thức cai

93

nghiện khác được sử dụng là cai nghiện ở cơ sở tư nhân (2,0%), cắt cơn tại

cộng đồng (6,8%) và cai khan (20,0%). Lý do tái nghiện chủ yếu của đối

tượng là thèm muốn ma tuý và bạn bè rủ rê (63,5% và 56,5%), một phần do

sự buồn chán, thất vọng (26,4%).

Kết quả nghiên cứu cho thấy phần lớn các đối tượng đã từng cai nghiện

ma tuý. Tỷ lệ này (70,3%) thấp hơn so với nghiên cứu của Hoàng Đình Cảnh

thực hiện ở Hải Phòng và Thành phố Hồ Chí Minh [25]. Kết quả này có thể

được giải thích bởi địa bàn nghiên cứu của nghiên cứu này là vùng miền núi.

Tại đây, khả năng tiếp cận với các dịch vụ cai nghiện còn nhiều khó khăn

[97]. Ngoài ra, việc tuyên truyền về ma tuý tại những địa bàn này cũng không

được thuận lợi, người nghiện ít biết đến các hình thức cai nghiện. Do vậy, tỷ

lệ đối tượng đã từng cai nghiện ma tuý sẽ thấp hơn so với nghiên cứu tại các

vùng đồng bằng. Kết quả này cũng cho thấy việc cần cải thiện độ bao phủ,

tăng khả năng tiếp cận các dịch vụ cho các đối tượng nghiện ma tuý tại 3 tỉnh

thuộc địa bàn nghiên cứu cũng như các tỉnh miền núi. Qua đó có thể tăng tỷ lệ

cai nghiện của các đối tượng nghiên cứu cũng như chất lượng cai nghiện ma

tuý.

Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy hơn một nửa đối tượng tự mua thuốc

cai nghiện hoặc cai khan. Những hình thức này thường không có kết quả tốt.

Ngoài ra, kết quả này cũng cho sự cần thiết về tuyên truyền kiến thức về các

hình thức cai nghiện cũng như khả năng tiếp cận với các dịch vụ này tại cộng

đồng. Ngoài ra, cần đẩy mạnh các hình thức cai nghiện tại cộng đồng với sự

giám sát của các cán bộ y tế, đặc biệt là tại các tỉnh miền núi khi tình trạng

giao thông, đi lại còn nhiều khó khăn.

Lý do tái nghiện phần lớn là do thèm ma tuý. Các nghiên cứu về cơ chế

sinh học thần kinh của nghiện ma túy cũng đã cho thấy thèm muốn ma túy là

nguyên nhân chính gây tái nghiện ma túy [15, 129]. Khi đã nghiện ma túy,

94

chất ma túy liên tục kích hoạt não bộ ở nơi mà bình thường chỉ được kích hoạt

bởi những kích thích tố như thức ăn, nước uống, nguy hiểm và tình dục. Qua

quá trình lâu dài, động cơ dùng chất ma túy được các tác nhân kích thích (môi

trường, con người, khách thể) liên kết với việc sử dụng chất ma túy kích hoạt,

tạo ra sự khao khát hoặc thèm muốn sử dụng và gây ra tái nghiện, cho dù sau

một thời gian dài không sử dụng ma túy. Điều này cho chúng ta hiểu biết vì

sao các triệu chứng cai nghiện đơn thuần chưa đủ để giải thích đầy đủ về hiện

tượng nghiện, thậm chí ở những người đã cắt cơn hoàn toàn, có thể tái nghiện

trở lại khi gặp phải các yếu tố về môi trường thúc đẩy [105, 128].

Sử dụng phương pháp điều trị nghiện các CDTP bằng thuốc thay thế có

thể giúp làm mất các triệu chứng của hội chứng cai; giảm hoặc làm mất các

cơn thèm nhớ CDTP; ngăn chặn cảm giác "phê" nếu vẫn tiếp tục sử dụng

CDTP, thời gian điều trị càng dài thì hiệu quả điều trị càng cao [38]. Ngoài ra,

nhiều nghiên cứu đã chứng minh chương trình có hiệu quả trong việc làm

giảm sử dụng heroin [43], dự phòng lây nhiễm HIV [64], tăng tuân thủ điều

trị ARV [98] và giảm tỷ lệ tử vong trong số những bệnh nhân tham gia điều

trị Methadone [65].

Bạn bè rủ rê cũng là lí do chính đẫn đến việc tái nghiện. Kết quả này

phù hợp với nghiên cứu được thực hiện bởi Asghar Mohammadpoorasl và

cộng sự khi việc tái nghiện được minh chứng là chịu ảnh hưởng lớn bởi bạn

bè, người xung quanh [116]. Ngoài ra, một số đối tượng do cảm thấy buồn

chán nên đã sử dụng lại ma tuý. Kết quả này gợi ý cho việc sử dụng cách cai

nghiện, điều trị nghiện hợp lý, áp dụng được trên cộng đồng, qua đó giảm tỷ

lệ nghiện ma tuý trong cộng đồng và xây dựng các nhóm đồng đẳng cùng

tham gia cai nghiện, điều trị nghiện ma tuý, có sự giám sát của các cán bộ,

nhân viên y tế. Tạo công ăn việc làm cho các đối tượng này là việc cần thiết

95

để giảm tỷ lệ tái nghiện cũng như tạo ra nguồn thu nhập cho các đối tượng

nghiện ma tuý [32].

4.1.2.3. Hành vi nguy cơ của đối tƣợng nghiên cứu

a) Hành vi tiêm chích

Dùng chung BKT và các dụng cụ tiêm chích là nguyên nhân chính làm

lây truyền HIV trong nhóm người NCMT. Các nghiên cứu gần đây nhất cho

thấy tỉ lệ này vẫn đang ở mức cao [5]. Trong nghiên cứu của chúng tôi,

khoảng 60% đối tượng nghiên cứu tiêm chích ma tuý. Trong đó 10,7% sử

dụng kim tiêm chung với các đối tượng khác.

Theo giám sát trọng điểm lồng ghép hành vi trong các nhóm nguy cơ

cao tại Việt Nam năm 2014, 13,1% trong số họ cho biết có sử dụng chung

bơm kim tiêm trong vòng 1 tháng qua. Tỷ lệ này vẫn cao ở một số tỉnh như

Sơn La (38%), Kiên Giang (34%), Đắc Lắc (32%), Gia Lai (22,7%) [5]. Các

tỷ lệ này cao hơn so với nghiên cứu chúng tôi. Lý giải cho việc này có thể do

tại các tỉnh trong nghiên cứu này vẫn nhiều người sử dụng thuốc phiện, mà

hình thức sử dụng của loại ma tuý này là hút/hít. Vì vậy tỷ lệ người sử dụng

bơm kim tiêm giảm.

Nghiên cứu bệnh – chứng tại Bắc Ninh cho thấy 13,3% đối tượng

nghiên cứu đã sử dụng lại BKT đã qua sử dụng của người khác ít nhất là 1 lần

trong 6 tháng qua [87]. Ở Thanh Hóa, 15% người NCMT báo cáo có sử dụng

chung BKT trong 1 tháng qua [119]. Các kết quả này đều cao hơn so với

nghiên cứu của chúng tôi tại 3 tỉnh miền núi phía bắc.

Các nghiên cứu đều khẳng định người NCMT sử dụng chung BKT thì

khả năng lây nhiễm HIV cao hơn những người không sử dụng chung BKT

[57, 93]. Người NCMT dùng chung BKT có nguy cơ nhiễm HIV cao gấp 6,7

lần so với người NCMT không dùng chung BKT [22]. Các lý do sử dụng

chung BKT và tái sử dụng BKT bẩn được người NCMT đưa ra là do áp lực

96

―peer‖, thiếu tiền mua ma túy, thiếu BKT sạch và sợ bị công an bắt [97, 116].

Việc sử dụng các biện pháp cai nghiện nhằm giảm mức độ, liều lượng sử

dụng chất gây nghiện có thể giúp giảm tiêm chích ma tuý [73]. Qua đó, hạn

chế việc lây truyền HIV trong nhóm đối tượng nghiện ma tuý và cộng đồng.

b) Hành vi quan hệ tình dục

Hầu hết các đối tượng từng quan hệ tình dục (97,3%). Trong đó, phần

lớn đối tượng đã quan hệ tình dục gần nhất trong vòng 6 tháng trở lại (72,5%).

Có 50,7% đối tượng sử dụng bao ca su trong lần quan hệ gần nhất. Ngoài ra,

có 16,5% đã từng quan hệ tình dục với phụ nữ bán dâm nhưng chỉ có 31% sử

dụng BCS khi quan hệ tình dục. 9,8% quan hệ tình dục với gái mại dâm có

tiêm chích.

Trong nghiên cứu này, chỉ có một nửa số đối tượng sử dụng bao cao su

trong lần quan hệ tình dục gần nhất. Rất ít đối tượng sử dụng bao cao su khi

quan hệ tình dục với đối tượng nguy cơ. Mối quan hệ giữa nghiện ma túy và

hành vi tình dục rất phức tạp. Tần suất sử dụng ma túy tương quan với sự gia

tăng hoạt động tình dục, cũng như tần suất quan hệ tình dục không an toàn.

Tỷ lệ sử dụng bao cao su khi quan hệ tình dục với gái mại dâm trong

nghiên cứu này là 30%, thấp hơn kết quả của HSS+ 2014 (63,3%) [5].

Người NCMT tin rằng nguy cơ lây nhiễm HIV qua quan hệ tình dục

thấp hơn qua việc dùng chung các dụng cụ tiêm chích [124], do vậy thường ít

thực hành hành vi tình dục an toàn so với hành vi tiêm chích an toàn [15],

Nghiên cứu tại thành phố Hồ Chí Minh cho thấy chỉ 50% người NCMT có

quan hệ tình dục với GMD trong 4 tuần qua sử dụng bao cao su [58].

Kết quả này cũng cao hơn so với nghiên cứu ở Indonesia [85]. Trong

một nghiên cứu trên 26.982 người tiêm chích ma túy ở 22 thành phố ở Hoa

Kỳ, hơn 80% có quan hệ tình dục không được bảo vệ trong vòng 30 ngày

trước đây [41], kết quả nghiên cứu này cao hơn nhiều so với nghiên cứu của

97

chúng tôi. Trong một nghiên cứu trên người NCMT (trong đó khoảng 10%

nhiễm HIV) tại London cho thấy 80% đã từng quan hệ tình dục trong vòng

sáu tháng trước, 68% không bao giờ sử dụng bao cao su với bạn tình thường

xuyên và 34% không bao giờ sử dụng bao cao su với bạn tình không thường

xuyên [126], kết quả của nghiên cứu này cũng cao hơn trong nghiên cứu của

chúng tôi. Những kết quả này có thể do thành công trong việc tuyên truyền về

hành vi nguy cơ và các chương trình phát bao cao su tại cộng đồng. Tuy

nhiên, tỷ lệ không sử dụng bao cao su vẫn còn cao.

Kết quả này khuyến khích việc tiếp tục đẩy mạnh tuyên truyền sử dụng

bao cao su khi quan hệ tình dục, đặc biệt với các đối tượng nguy cơ cao. Quan

hệ tình dục không an toàn đã được chứng minh là nguyên nhân lây nhiễm

HIV cũng như các bệnh truyền nhiễm khác trong cộng đồng [85]. Vì vậy, việc

giảm thiểu quan hệ tình dục không an toàn sẽ có ý nghĩa quan trọng trong việc

phòng chống HIV, đặc biệt ở các tỉnh miền núi.

4.1.2.4. Chất lƣợng cuộc sống của đối tƣợng nghiên cứu

Phần lớn các đối tượng có chất lượng cuộc sống trung bình (75,0%).

Trong đó, mức độ hài lòng về sức khỏe của đối tượng chủ yếu ở mức bình

thường (60,7%). Khi chấm điểm chất lượng cuộc sống trên thang 100 điểm,

sức khỏe thể chất trung bình là 60,2 điểm, sức khỏe tâm thần là 61,2 điểm,

mối quan hệ xã hội trung bình là 50,3 điểm và môi trường trung bình là 58,8

điểm.

Chất lượng cuộc sống của phần lớn các đối tượng khi bắt đầu tham gia

điều trị ở mức trung bình. Có 21,3% cho rằng chất lượng cuộc sống của mình

ở mức tốt. Kết quả này cao hơn so với nghiên cứu của Hoàng Đình Cảnh ở

Hải Phòng và thành phố Hồ Chí Minh [14]. Tuy nhiên, tỷ lệ đối tượng hài

lòng với sức khoẻ của mình thấp hơn so với nghiên cứu đó [14]. Điểm về mối

quan hệ xã hội của các đối tượng là thấp nhất.

98

Kết quả này tương đồng với một số nghiên cứu trên thế giới khi mà các

đối tượng nghiện ma tuý phải đối mặt với những khó khăn trong giao tiếp xã

hội và sự kì thị từ gia đình, cộng đồng. Sự kì thị từ gia đình đã được Li và

cộng sự chỉ ra là nguyên nhân chính gây nên các vấn đề về sức khoẻ tâm thần

của người nghiện ma tuý. Nghiên cứu của Fischer và các cộng sự cũng chỉ ra

điểm số thấp về chất lượng cuộc sống, đặc biệt ở các vấn đề xã hội của đối

tượng nghiện ma tuý [53].

Kết quả này khuyến nghị các cán bộ y tế giúp tăng cường kiến thức,

nhận thức. Giảm sự kì thị ở cộng đồng, có các biện pháp giúp đỡ, lập các

nhóm đồng đẳng cung cấp các thông tin về các hành vi không an toàn, biện

pháp để thay đổi hành vi nguy cơ cao, đồng thời cung cấp các vật dụng như

bơm kim tiêm sạch, bao cao su. Qua đó nâng cao chất lượng cuộc sống cho

các đối tượng nghiện ma tuý, đặc biệt là về vấn đề quan hệ xã hội.

Ngoài ra, sức khoẻ thể chất của các đối tượng này cũng ở mức trung

bình. Điều này có thể do ảnh hưởng bởi thuốc phiện tới sức khoẻ. Nghiên cứu

trên giới cũng đã cho thấy chất lượng cuộc sống tương tự như kết quả nghiên

cứu của chúng tôi [53]. Kết quả này cho thấy cần có sự hỗ trợ từ phía y tế và

cộng đồng trong việc hỗ trợ cái đối tượng nghiện ma tuý trong việc nâng cao

hoạt động thể lực cũng như chất lượng cuộc sống, giúp họ có được việc làm

ổn định.

Như vậy, những hình thức hỗ trợ như nhóm đồng đẳng, hỗ trợ y tế, hỗ

trợ trong hoạt động thể lực là rất cần thiết trong việc nâng cao sức khoẻ cũng

như chất lượng cuộc sống cho các đối tượng nghiện ma tuý. Bên cạnh đó,

điều trị nghiện các CDTP bằng thuốc Methadone cũng giúp bệnh nhân hồi

phục khả năng lao động và cải thiện các mối quan hệ trong xã hội, đem lại

những hiệu quả rõ rệt về mặt kinh tế [73].

99

4.2. Hiệu quả của điều trị Methadone

Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy tỷ lệ sử dụng chất gây

nghiện giảm, đặc biệt là sử dụng heroin, giảm tỷ lệ tiêm chích ma túy. Bên

cạnh đó, kết quả nghiên cứu cũng cho thấy chất lượng cuộc sống của các đối

tượng nghiên cứu được cải thiện.

4.2.1. Hiệu quả về giảm sử dụng ma túy trong đối tƣợng nghiên cứu

Tỷ lệ người sử dụng chất gây nghiện giảm từ 36,2% khi bắt đầu tham

gia điều trị xuống còn 16,5% sau 12 tháng tham gia điều trị. Trong đó, tỷ lệ

người sử dụng heroin giảm từ 31,7% xuống 10,9%. Các kết quả này có ý

nghĩa thống kê (p<0,01).

Điều trị Methadone đã cho thấy hiệu quả rõ rệt trong việc giảm sử dụng

ma túy. Về mặt dược lý, Methadone là một CDTP tổng hợp, đồng vận với

các CDTP, nó cùng tác động trên các thụ thể μ của các CDTP ở não, gắn chặt

vào các thụ thể μ và chiếm lấy các thụ thể này, với liều vừa đủ Methadone

chiếm hết các thụ thể μ và ngăn chặn tác dụng của các CDTP khác. Do vậy,

với liều vừa đủ, Methadone làm giảm sự thèm muốn các CDTP, ―khóa‖ tác

động phê sướng của heroin nên bệnh nhân sẽ giảm dần tiến tới ngừng sử dụng

heroin. Tuy nhiên, trong quá trình điều trị, nếu chưa đủ liều thuốc Methadone

hoặc muốn tìm lại cảm giác ―phê sướng‖ của heroin, một số người vẫn còn sử

dụng các chất ma túy trong quá trình điều trị Methadone [12, 21].

Kết quả nghiên cứu của đề tài cũng chứng minh lý thuyết Methadone

làm giảm sử dụng ma túy bất hợp pháp là phù hợp với thực tiễn: Tỷ lệ người

sử dụng chất gây nghiện giảm hơn một nửa so với khi bắt đầu tham gia điều

trị, đặc biệt là việc sử dụng heroin. Kết quả này tương đồng với một số nghiên

cứu được thực hiện tại Việt Nam và trên thế giới [14, 76].

100

Nghiên cứu của Simpson DD, Sells SB tại Mỹ trên 1.856 bệnh nhân điều

trị Methadone về tình hình sử dụng ma tuý hàng ngày trong 3 năm cho thấy: tỷ

lệ sử dụng ma túy hàng ngày trước điều trị 02 tháng là 100%, sau 01 năm điều

trị bằng thuốc Methadone tỷ lệ này giảm xuống còn 36% và sau 03 năm điều trị

tỉ lệ này giảm 22% [117].

Nghiên cứu của Jeganathan và cộng sự tại Malaysia trên 216 bệnh nhân

trong giai đoạn 2005-2008 cũng cho thấy điểm số sử dụng Heroin sau 12

tháng giảm rõ rệt, điểm số khác biệt là 2.01 (p<0,001) [86].

Nghiên cứu thuần tập trên 965 bệnh nhân tham gia điều trị Methadone

trong 2 năm tại Thành phố Hải Phòng và Thành phố Hồ Chí Minh cho thấy: tỷ lệ

sử dụng Heroin giảm đáng kể nhất là sau 3 tháng từ 100% xuống còn 34,6% tại

Hải Phòng và 36,2% tại thành phố Hồ Chí Minh. Con số này giảm còn 22,9% tại

Hải Phòng và 14,6% tại thành phố Hồ Chí Minh sau 2 năm điều trị [14].

Việc xác định bệnh nhân đang điều trị Methdone có tiếp tục dùng thêm

ma túy nữa hay không, trong nghiên cứu này chúng tôi dựa vào sự tự giác trả

lời của đối tượng nghiên cứu khi được hỏi, đồng thời còn dựa vào kết quả xét

nghiệm nước tiểu bằng que thử nhanh định kỳ 1 tháng/1 lần xét nghiệm. Tỷ lệ

bệnh nhân dương tính với heroin khi xét nghiệm nước tiểu đã giảm từ 100%

(khi bắt đầu tham gia điều trị Methadone) xuống còn 0,6% (sau 12 tháng điều

trị Methadone), sự khác biệt giữa trước điều trị với sau điều trị 12 tháng có ý

nghĩa thống kê với p<0,001. Kết quả này cũng tương đồng với các nghiên cứu

khác trên thế giới và ở Việt Nam [72].

Nghiên cứu thuần tập tại Hải Phòng và Hồ Chí Minh năm 2009-2011

chi thất: tỷ lệ bệnh nhân dương tính với ma túy khi xét nghiệm nước tiểu đã

giảm từ 100% (trước điều trị Methadone) xuống là 17,2% (sau 12 tháng điều

trị Methadone) và 12,4% (sau 24 tháng điều trị Methadone), sự khác biệt giữa

101

trước điều trị với sau điều trị 12 tháng và 24 tháng có ý nghĩa thống kê với

p<0,001 [14].

Kết quả này giúp khẳng định hiệu quả trực tiếp của chương trình điều

trị MMT tại Việt Nam, đặc biệt ở các tỉnh miền núi. Khi điều trị bằng

Methadone, nhu cầu sử dụng ma túy giảm đã giúp giảm tần suất, liều lượng sử

dụng chất gây nghiện bất hợp pháp, đây cũng là yếu tố giúp giảm tỷ lệ tiêm

chích ma túy.

4.2.2. Hiệu quả đạt đƣợc về giảm hành vi tiêm chích ma túy

Giảm thiểu tác hại của ma túy là làm giảm bớt chừng nào tốt chừng đó

những hậu quả tai hại do việc sử dụng ma túy gây ra, ảnh hưởng đến cá nhân,

gia đình và xã hội. Ngưng sử dụng ma túy là một chọn lựa lý tưởng để giảm

thiểu tai hại, nhưng không phải tất cả các đối tượng sử dụng ma túy đều có thể

thực hiện được. Trong quá trình điều trị Methadone, việc ngưng sử dụng mà

tuý, đặc biệt là tiêm chích ma tuý mang lợi hiệu quả lớn từ chương trình điều

trị đến đối tượng.

Kết quả nghiên cứu của đề tài cho thấy tỷ lệ bệnh nhân có TCMT đã

giảm từ 23,7% (khi bắt đầu tham gia điều trị) xuống 12,7% (sau 12 tháng điều

trị), sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê với p<0,01. Kết quả này cũng tương

đồng với các nghiên cứu trên thế giới và ở Việt Nam.

Nghiên cứu tại Hải Phòng và thành phố Hồ Chí Minh 2009-2011 cho

thất tỷ lệ bệnh nhân có TCMT đã giảm từ 83,2% (trước ĐT) xuống 8,2 % (sau

12 tháng ĐT) (p<0,001) [14].

Nghiên cứu tại 3 thành phố của Mỹ năm 1998 chi thấy người nghiện

chích ma tuý khi bỏ điều trị thay thế bằng thuốc Methadone càng lâu thì nguy

cơ tái sử dụng ma tuý càng cao, tỷ lệ quay lại tiêm chích sau 1-3 tháng bỏ

102

điều trị là 45,5%, sau 4-6 tháng bỏ điều trị 57,6%, sau 7-9 tháng bỏ điều trị là

72,7%, sau 12 tháng bỏ điều trị là 82,1% [107].

Kết quả thu được trên 1.153 bệnh nhân tại 8 phòng khám Methadone ở

Trung Quốc cũng rất khả quan: tỷ lệ tiêm chích ma túy đã giảm từ 69,1%

xuống còn 8,9%; số lượt tiêm chích từ 90 lần/tháng giảm xuống 2 lần/tháng.

Số liệu này cho thấy hành vi tiêm chích ma túy giảm rõ rệt [81].

Nhìn chung, kết quả nghiên cứu này cũng như các nghiên cứu khác trên

thế giới đều chỉ ra lợi ích của chương trình điều trị Methadone. Đây là một

trong những tác động tốt từ chương trình điều trị Methadone. Việc điều trị

nghiện ma túy bằng Methadone cũng đã góp phần làm giảm tỷ lệ tiêm chích

ma túy trong nhóm bệnh nhân tham gia điều trị, từ đó giúp giảm nguy cơ lây

truyền các bệnh qua đường máu như HIV. Mặt khác trên cả nước nói chung,

khi tham gia điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc Methadone

tại các cơ sở y tế, bệnh nhân còn được cung cấp thông tin về các biện pháp

can thiệp giảm nguy cơ lây nhiễm HIV như: tình dục an toàn, không dùng

chung bơm kim tiêm… Đối với bệnh nhân có HIV dương tính sẽ được giới

thiệu chuyển gửi và điều trị sớm giúp giảm khả năng lây nhiễm cho người

khác. Ngoài lợi ích chính giảm hành vi tiêm chích ở nhóm đối tượng, dễ dàng

thấy các lợi ích thứ cấp song hành cùng chương trình điều trị Methadone.

4.2.3. Cải thiện chất lƣợng cuộc sống của bệnh nhân

Chất lượng cuộc sống của các bệnh nhân tham gia điều trị Methadone

được cải thiện rõ rệt. Điểm sức khoẻ thể chất của đối tượng tăng từ 60,0 khi

bắt đầu điều trị lên 63,1 sau 12 tháng điều trị. Các mối quan hệ xã hội cũng

tăng từ 50,3 lên 53,7. Ngoài ra điểm chất lượng cuộc sống về tâm lý và môi

trường cũng tăng. Các kết quả này có ý nghĩa thống kê (p<0,05).

103

Kết quả này tương đồng với nghiên cứu của Tam và các cộng sự khi mà

chất lượng cuộc sống của các đối tượng nghiên cứu tăng sau khi điều trị

Methadone [80]. Nghiên cứu cho thấy, Methadone giúp cho bệnh nhân giảm

lệ thuộc vào các chất gây nghiện qua đó giảm nguy cơ mắc các vấn đề sức

khoẻ thể chất và tâm lý ở các đối tượng sử dụng chất gây nghiện [91]. Bên

cạnh đó, việc tham gia điều trị Methadone giúp giảm kì thị với bệnh nhân và

cải thiện các mối quan hệ xã hội, từ đó giúp bệnh nhân tái hòa nhập với cộng

đồng [104]. Nghiên cứu cũng cho thấy mức độ tham gia các hoạt động ở gia

đình và xã hội của các đối tượng tham gia nghiên cứu tăng. Điều này có thể

giải thích bởi sức khoẻ của các đối tượng tham gia điều trị Methadone được

cải thiện, hoà nhập hơn với cộng đồng [91, 104]. Tuy nhiên, sự khác biệt chưa

cao. Điều này có thể do thời gian theo dõi ngắn, cần thêm các nghiên cứu có

thời gian lâu hơn nhằm đánh giá chuẩn xác hơn về mức độ thay đổi chất

lượng cuộc sống ở các đối tượng tham gia điều trị Methadone.

Nghiên cứu này cũng cho kết quả tương tự như một số nghiên cứu tại

Việt Nam và trên thế giới. Kết quả nghiên cứu tại Hải Phòng và TP Hồ Chí

Minh trong giai đoạn thí điểm trên 6 cơ sở điều trị Methadone hoạt động từ

tháng 4/2008 cho thấy chất lượng cuộc sống của bệnh nhân tốt lên sau can

thiệp, chỉ số trả lời từ tốt trở lên chỉ chiếm 15% trước điều trị đã tăng lên

52,5% sau 12 tháng điều trị và tiếp tục tăng lên 55,1% sau 24 tháng tháng

điều trị Methadone, sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê với p<0,01 [14].

Nghiên cứu tại Malaysia sau 2 năm cho thấy cả 4 yếu tố trong chất

lượng cuộc sống (thể chất, tâm thần, mối quan hệ xã hội và môi trường) đều

được cải thiện rõ rệt (p<0,01) đặc biệt là chỉ số về sức khỏe tâm thần tăng

20% sau 2 năm điều trị [73].

104

4.2.4. Các hiệu quả khác

4.2.4.1. Thay đổi hành vi quan hệ tình dục không an toàn

Trong nghiên cứu này, không có sự thay đổi đáng kể các hành vi tình

dục không an toàn. Điều này có thể giải thích là tệ nạn mại dâm không phổ

biến ở các tỉnh miền núi, do đó việc quan hệ tình dục của bệnh nhân với phụ

nữ bán dâm không phổ biến.

4.2.4.2. Khả năng lao dộng của bệnh nhân

Kết quả nghiên cứu cho thấy, sau khi tham gia điều trị methadone, bệnh

nhân đã có sự thay đổi về khả năng lao động: tự phục vụ được các nhu cầu cá

nhân, tham gia các công việc gia đình và các hoạt động xã hội. Tuy nhiên, sự

thay đổi này không có ý nghĩa thống kê.

Nghiên cứu định tính bổ sung thêm hiệu quả của chương trình điều trị

Methadone về kinh tế, xã hội và an ninh trật tự tại địa bàn triển khai điều trị.

4.2.5. Thực trạng bỏ điều trị ở bệnh nhân

Bỏ điều trị với nhiều nguyên nhân khác nhau, song tựu chung lại chính

các đối tượng có thể lại rơi vào một vòng tròn luẩn quẩn khi nghiện mà vẫn

không từ bỏ được, không tiếp dục dùng thuốc Methadone, bằng cách này hay

cách khác các đối tượng bỏ điều trị cần kiếm tiền cho bằng được để đốt vào

các chất gây nghiện.

Sau 12 tháng tham gia điều trị, có tổng cộng 56 đối tượng không còn

trong chương trình điều trị và tham gia nghiên cứu, chiếm 18,7%. Tỷ lệ này

cao hơn so với nghiên cứu thực hiện ở Thái Nguyên (8,7%) và Hải Phòng,

thành phố Hồ Chí Minh (11,7%) [1, 14]. Điều này có thể giải thích do địa dư

khu vực các tỉnh trên là đồng bằng hoặc giáp đồng bằng nên yếu tố giao

thông, đi lại thuận tiện hơn cho bệnh nhân điều trị. Vì vậy, tính cam kết và

tuân thủ điều trị cao hơn trong nghiên cứu này. Mặt khác, ở một số các nghiên

105

cứu khác chỉ ra sự tự tin cai nghiện ma tuý của đối tượng sau khi tham gia

điều trị Methadone một thời gian. Dẫn đến hiện tượng, sau một khoảng thời

gian dài tham gia điều trị, một số đối tượng điều trị không còn cảm giác thèm

nhớ, và nghĩ bản thân có thể từ bỏ được ma túy, không cần dùng đến

Methadone nên làm đơn xin rút khỏi chương trình điều trị. Tuy nhiên, cũng có

một số trường hợp khác do ốm đau, hoàn cảnh gia đình khó khăn không nên

cũng tự ý bỏ, vì vậy các đối tượng dễ dàng lại vướng vào một vòng luẩn quẩn,

ma túy không bỏ được trong khi đó lại không đến cơ sở điều trị Methadone để

uống thuốc, buộc lòng phải làm mọi cách để có tiền mua ma tuý. Nhiều

nguyên nhân nói trên đều có thể thấy kết quả không khả quan sau khi bỏ điều

trị Methadone, và hầu hết các trường hợp đều ảnh hưởng trực tiếp đến đối

tượng nghiện. Mặt khác, những người chịu hệ luỵ bên cạnh bản thân người

nghiện ma tuý chính là những người thân, gia đình. Chịu ảnh hưởng cả về mặt

tâm lý hoặc kinh tế do các đối tượng nghiện có thể sử dụng tiền của gia đình

để thoả mãn nhu cầu nghiện chất của bản thân sau khi bỏ điều trị.

So với một số kết quả khác trên thế giới [48, 69, 83, 95, 103], bỏ điều

trị là một vấn đề đáng lưu ý và nhấn mạnh các nhà thực thi chính sách cần tìm

hiểu. Một số yếu tố liên quan giúp xác định hướng nguyên nhân bỏ điều trị

được trình bày ở phần sau. Tuy nhiên, cần thiết có các nghiên cứu sâu hơn về

lý do bỏ điều trị hoặc quay lại chương trình đặc biệt trên nhóm bệnh nhân

quay lại điều trị. Ngoài ra, cần chú trọng tập huấn cho các cán bộ y tế thuộc

tất cả các cơ sở điều trị Methadone để khai thác chi tiết hơn thông tin về lý do

bỏ điều trị hoặc ra khỏi chương trình được ghi nhận đầy đủ và chính xác.

106

4.3. Các yếu tố ảnh hƣởng đến hiệu quả điều trị

4.3.1. Các yếu tố ảnh hƣởng đến việc tiếp tục sử dụng ma túy trong quá

trình điều trị

Trong nghiên cứu này, tỷ lệ tiếp tục sử dụng Heroin được đánh giá căn

cứ theo hai nguồn thông tin: bệnh nhân tự khai báo còn sử dụng Heroin trước

thời điểm nghiên cứu và kết quả xét nghiệm nước tiểu dương tính trước thời

điểm nghiên cứu 30 ngày. Tỷ lệ tự khai báo còn tiếp tục sử dụng chất gây

nghiện của bệnh nhân trong nghiên cứu này giảm từ 36,2% trước điều trị

xuống còn 16,5% sau 1 năm triển khai điều trị, trong đó sử dụng Heroin chỉ

chiếm 10,9% tại thời điểm 1 năm triển khai điều trị. Kết quả xét nghiệm tìm

heroin trong nước tiểu cho thấy tỷ lệ này giảm từ 100% khi bắt đầu điều trị

xuống chỉ còn 0,6% tại thời điểm sau 12 tháng điều trị. Tỷ lệ tiếp tục sử dụng

heroin trong nghiên cứu này cũng tương tự kết quả nghiên cứu thí điểm được

tiến hành tại Việt Nam từ năm 2009 và trong một nghiên cứu trích lục bệnh án

tại một số tỉnh/thành phố lớn diễn ra cùng thời điểm với nghiên cứu này [123,

127]. Kết quả này tốt hơn nhiều so với những nghiên cứu tương tự khác trên

thế giới như tại Trung Quốc là 42,9% sau 2 năm [66] và tại Switzerland là

62% sau 2 năm [50].

Tương tự như các nghiên cứu khác trên thế giới, nghiên cứu này sử

dụng phương pháp phân tích sống còn để xác định khoảng thời gian dự kiến

và các yếu tố ảnh hưởng đến việc tiếp tục sử dụng ma túy trong nhóm bệnh

nhân tham gia điều trị Methadone. Mô hình hồi quy đơn biến được ứng dụng

để xác định mức độ ảnh hưởng của từng yếu tố đến việc tiếp tục sử dụng ma

túy của bệnh nhân và mô hình hồi quy đa biến được ứng dụng để xác định

mối quan hệ tương hỗ giữa các yếu tố với nhau đến tỷ lệ tiếp tục sử dụng

heroin trong nhóm bệnh nhân tham gia điều trị.

107

Hầu hết các yếu tố về nhân khẩu học, các yếu tố về gia đình và đặc

điểm sử dụng ma túy của bệnh nhân đều được đưa vào mô hình hồi quy đơn

biến để đánh giá mức độ ảnh hưởng của từng yếu tố đến việc tiếp tục sử dụng

heroin của bệnh nhân.

Kết quả mô hình hồi quy đơn biến cho thấy các yếu tố: dân tộc, trình độ

học vấn, tình trạng hôn nhân, nghề nghiệp, và sử dụng ma túy 30 ngày trước

thời điểm nghiên cứu là những yếu tố có ảnh hưởng đến việc tiếp tục sử dụng

ma túy của bệnh nhân trong quá trình điều trị.

Sau khi tiến hành thử nghiệm mức độ ảnh hưởng của từng yếu tố đến

việc tiếp tục sử dụng ma túy của bệnh nhân, nhóm nghiên cứu đã đưa đồng

thời các yếu tố này vào chạy chung trong một mô hình hồi quy đa biến để

xem mức độ ảnh hưởng của các yếu tố đó có thay đổi và tương tác lẫn nhau

hay không.

Kết quả của mô hình hồi quy đa biến cho thấy các yếu tố: dân tộc, tình

trạng hôn nhân, sử dụng ma túy 30 ngày trước thời điểm nghiên cứu tiếp tục

là những yếu tố ảnh hưởng đến việc tiếp tục sử dụng ma túy của bệnh nhân

trong quá trình điều trị. Trình độ học vấn và nghề nghiệp không còn là yếu tố

ảnh hưởng khi đưa vào mô hình hồi quy tuyến tính đa biến.

Bệnh nhân thuộc nhóm dân tộc Thái và dân tộc thiểu số khác có nguy

cơ sử dụng ma túy trong quá trình điều trị cao hơn nhóm bệnh nhân thuộc dân

tộc Kinh (OR lần lượt là 1,97 và 2,92; p<0,05). Đặc điểm về dân tộc được

xem xét vì địa bàn thực hiện nghiên cứu là các tỉnh miền núi phía Bắc Việt

Nam. Tại cả 3 tỉnh triển khai nghiên cứu thì dân tộc thiểu số lại chiếm tỷ lệ

dân số cao hơn dân tộc Kinh khi so sánh với các tỉnh đồng bằng Bắc Bộ. Tại

Điện Biên và Lai Châu, tỷ lệ dân số là người dân tộc Thái chiếm tỷ lệ cao

nhất, sau đó đến dân tộc Mông. Nhưng tại tỉnh Yên Bái, tỷ lệ dân số là người

dân tộc Tày lại chiếm tỷ lệ cao nhất [38]. Đồng bào dân tộc thiểu số khác chủ

108

yếu sống ở vùng sâu, vùng xa, nhiều nơi vẫn còn trồng cây thuốc phiện. Khi

bệnh nhân chưa đạt liều duy trì và nơi ở cách xa cơ sở điều trị methodone thì

việc còn tiếp tục sử dụng heroin, thuốc phiện trong quá trình tham gia điều trị

là có thể xẩy ra. Tuy nhiên, để hiểu sâu hơn vấn đề này cần có thêm các

nghiên cứu định tính.

Mỗi quốc gia có một đặc điểm riêng về dân tộc, như tại Trung Quốc,

trong một nghiên cứu tiến hành trên hơn 2.000 bệnh nhân cũng cho thấy

nhóm dân tộc thiểu số tại một số tỉnh miền núi có nguy cơ tiếp tục sử dụng

chất gây nghiện cao hơn nhóm dân tộc Hán [100].

Yếu tố về tình trạng hôn nhân ít được các nghiên cứu trên thế giới nhắc

đến nhưng kết quả nghiên cứu này cho thấy bệnh nhân đã ly dị, ly thân, góa

có nguy cơ sử dụng ma tuý trong quá trình điều trị Methadone cao hơn 6,68

lần so với nhóm bệnh nhân độc thân (OR = 6,68; p<0,01). Kết quả này cũng

tương tự với nghiên cứu được tiến hành tại Trung Quốc năm 2015, bệnh nhân

đã ly hôn hoặc góa có nguy cơ tiếp tục sử dụng chất gây nghiện trong quá

trình điều trị bao gồm cả heroin và methamphetamine cao hơn nhóm độc thân

1,9 lần [100].

Bệnh nhân sử dụng ma túy 30 ngày trước thời điểm nghiên cứu có nguy

cơ tiếp tục sử dụng ma túy trong quá trình điều trị cao hơn 2,49 lần so với

nhóm bệnh nhân không sử dụng (OR=2,49 và p-value<0,01). Kết quả này

cũng tương tự như các nghiên cứu khác trên thế giới [68].

Nhiều yếu tố được coi là có ảnh hưởng đến việc tiếp tục sử dụng heroin

trong nhóm bệnh nhân tham gia điều trị nhưng không được tìm thấy trong

nghiên cứu này như: tuổi, giới, có thu nhập cá nhân [71, 113, 123], tiền sử sử

dụng heroin lâu năm [68]; bệnh nhân có tần suất sử dụng ma túy cao tại thời

điểm bắt đầu điều trị thì tỷ lệ tiếp tục sử dụng ma túy của họ cũng cao [123,

127]; bệnh nhân có HIV dương tính cũng được coi là một yếu tố ảnh hưởng

109

đến việc tiếp tục sử dụng heroin trong quá trình điều trị [109, 123, 127]. Một

yếu tố khác cũng được ghi nhận trong các nghiên cứu tiến hành tại Việt Nam

[127], Trung Quốc [68] và Châu Âu [40] là liều Methadone trung bình trên

60mg/ngày có ảnh hưởng rõ rệt làm giảm tỷ lệ tiếp tục sử dụng Heroin trong

nhóm bệnh nhân tham gia điều trị nhưng không được đề cập đến tại nghiên

cứu này do hạn chế của nghiên cứu về việc lấy dữ liệu về liều của bệnh nhân

không chính xác.

Đang tham gia điều trị bằng thuốc ARV cũng làm tăng nguy cơ tiếp tục

sử dụng heroin trong quá trình điều trị [123, 127] nhưng không được tìm thấy

trong nghiên cứu này. Mối tương quan này là do tương tác thuốc giữa thuốc

ARV và Methadone dẫn đến làm giảm nồng độ Methadone trong máu ở

những bệnh nhân điều trị ARV [45, 55, 74, 94]. Trong giai đoạn mới điều trị

liều duy trì Methadone có ảnh hưởng ít nhiều đến việc tiếp tục sử dụng Heroin

do bệnh nhân chưa đạt được liều duy trì nhưng với bệnh nhân đã ổn định liều

(bệnh nhân điều trị Methadone từ 2 năm trở lên) thì liều điều trị Methadone

không có liên quan tới hành vi tiếp tục sử dụng heroin trong nhóm bệnh nhân

đang điều trị.

4.3.2. Các yếu tố ảnh hƣởng đến bỏ điều trị

Phân tích một số yếu tố ảnh hưởng đến bỏ điều trị cho thấy: các yếu tố

tuổi, dân tộc, tình trạng hôn nhân, công việc ổn định, thời gian đã từng sử

dụng ma túy trước khi tham gia điều trị Methadone, sử dụng ma túy 30 ngày

trước thời điểm nghiên cứu, và khoảng cách từ nhà đến cơ sở điều trị là những

yếu tố có ảnh hưởng đến việc bỏ điều trị của bệnh nhân.

Bệnh nhân trong độ tuổi từ 40-49 có ít nguy cơ bỏ điều trị hơn nhóm

bệnh nhân dưới 30 tuổi (OR=0,26; p<0,01), kết quả này cũng tương tự như

một số kết quả ghi nhận từ nghiên cứu tương tự tại Việt Nam, Trung Quốc và

110

Mỹ [47, 95, 101, 110, 123, 127]. Những bệnh nhân trẻ tuổi thường thiếu động

lực điều trị, thiếu niềm tin vào liệu pháp điều trị và còn chưa xác định được

mục đích sống nên quyết tâm duy trì điều trị kém những bệnh nhân lớn tuổi

[47]. Đặc thù các tỉnh khu vực Tây Bắc là địa hình đi lại khó khăn nên giảm

khả năng tiếp cận với dịch vụ y tế [99]. Ngoài ra, việc những người điều trị

Methadone phải chịu sự kì thị lớn từ cộng đồng cũng gây cản trở trong việc

tiếp tục tham gia điều trị thay thế [122].

Bệnh nhân là người dân tộc Thái ít nguy cơ bỏ điều trị hơn nhóm bệnh

nhân nhóm dân tộc Kinh (OR=0,26; p<0,01), Một nghiên cứu được tiến hành

năm 2010 tại Vân Nam, Trung Quốc cho thấy bệnh nhân bỏ trị sớm có liên

quan đến dân tộc [44]. Đây là nghiên cứu đầu tiên ghi nhận kết quả này, cần

có các nghiên cứu sâu hơn về dân tộc học, tập tục, thói quen và văn hóa của

các đồng bào dân tộc miền núi phía Bắc để giải thích cho kết quả.

Bệnh nhân có việc làm ổn định cũng được ghi nhận là có mối tương

quan với tỷ lệ tuân thủ điều trị. Bệnh nhân có công việc ổn định ít nguy cơ bỏ

điều trị hơn nhóm không có việc làm ổn định (OR = 0,27; p<0,01). Kết quả

này là tương đồng với kết quả nghiên cứu tại Tây An, Trung Quốc [101].

Bệnh nhân có thời gian sử dụng ma túy trước khi vào điều trị càng dài

thì càng ít nguy cơ bỏ điều trị, bệnh nhân sử dụng ma túy từ 10-20 năm có

nguy cơ bỏ điều trị thấp hơn nhóm bệnh nhân sử dụng dưới 2 năm (OR =

0,34; p<0,05). Bệnh nhân sử dụng ma túy 30 ngày trước thời điểm nghiên cứu

ít có nguy cơ bỏ điều trị hơn bệnh nhân không sử dụng (OR = 0,35; p<0,05).

Một số nghiên cứu tại Trung Quốc cho thấy bệnh nhân có lịch sử lạm dụng

ma túy lâu hơn thì khả năng bỏ điều trị ít hơn [101, 108]. Tuy nhiên kết quả

nghiên cứu của Lin và Cox tiến hành năm 2012 [48, 69] lại không tìm thấy

mối tương quan này.

111

Bệnh nhân có khoảng cách từ nhà đến cơ sở điều trị xa trên 5km có

nguy cơ bỏ điều trị cao hơn bệnh nhân có khoảng cách dưới 5km (cao hơn

2,44 lần với bệnh nhân có khoảng cách từ 5-10km và, 2,75 lần với bệnh nhân

có khoảng cách trên 10km) (p<0,05). Kết quả này cũng tương đồng với một

số nghiên cứu khác trên thế giới. Nghiên cứu được tiến hành tại Đài Loan

năm 2007 cho thấy khoảng cách từ nhà đến cơ sở điều trị quá xa là một yếu tố

làm tăng tỷ lệ bỏ điều trị trong nhóm bệnh nhân methadone [67]. Nghiên cứu

tại Trung Quốc năm 2009 cũng cho thấy bệnh nhân mất thời gian đi tới cơ sở

điều trị methadone trên 30 phút mỗi ngày có nguy cơ bỏ điều trị cao 1,63 lần

sau 12 tháng tham gia điều trị [44]. Nghiên cứu tại Pháp năm 2014 cũng cho

thấy việc gặp khó khăn tới cơ sở điều trị là yếu tố ảnh hưởng đến việc tuân

thủ điều trị [89].

Kết quả này hoàn toàn phù hợp với tình hình thực tế của địa phương.

Các cơ sở điều trị methadone đều đặt ở Trung tâm y tế huyện hoặc Trung tâm

phòng, chống HIV/AIDS của tỉnh. Ba tỉnh tham gia nghiên cứu là 03 tỉnh

miền núi phía Bắc, địa bàn đi lại khó khăn, khoảng cách bệnh nhân phải đi lại

để đến cơ sở điều trị uống thuốc hàng ngày là một trở ngại lớn đối với cá nhân

bệnh nhân. Đây cũng là khó khăn chung khi tiếp cận với các dịch vụ y tế của

đồng bào ở các tỉnh miền núi [99, 122]. Để giảm khó khăn trong việc đi lại

cho bệnh nhân, các tỉnh miền núi cần nhanh chóng mở các cơ sở cấp phát

thuốc tại tuyến xã.

Yếu tố hôn nhân ít được các nghiên cứu tìm thấy mối tương quan

nhưng lại được tìm thấy trong nghiên cứu này. Bệnh nhân đã ly dị, ly thân,

góa ít có nguy cơ bỏ điều trị hơn so với nhóm bệnh nhân độc thân (OR = 0,12;

p<0,01).

Bệnh nhân tiếp tục sử dụng heroin trong quá trình điều trị là một yếu tố

được các nghiên cứu quan tâm. Nghiên cứu tiến hành tại Thái Nguyên năm

112

2015 cho thấy những đối tượng còn tiếp tục sử dụng heroin trong quá trình

điều trị có khả năng bỏ điều trị gấp 2,24 lần những đối tượng không có hành

vi này [1], và nghiên cứu tại Trung Quốc năm 2014 là 5,72 lần [60]. Trong

nghiên cứu này, nhóm sử dụng heroin trong quá trình điều trị có nguy cơ bỏ

điều trị cao gấp 1,92 lần so với nhóm không sử dụng. Mặc dù giá trị OR

không có ý nghĩa thống kê nhưng đây là chỉ số quan trọng và có ý nghĩa đo

lường. Để khắc phục hạn chế về mặt thống kê của chỉ số này các nghiên cứu

sau cần tăng cỡ mẫu nghiên cứu.

Một yếu tố được tìm thấy có mối liên hệ với tuân thủ điều trị của bệnh

nhân ở nhiều nghiên cứu tương tự tại Việt Nam, Đài Loan, Trung Quốc, Mỹ

và Canada là liều điều trị duy trì Methadone hàng ngày [39, 48, 51, 62, 69, 84,

101] lại không được đưa ra trong nghiên cứu này vì hạn chế của nghiên cứu là

thiếu dữ liệu về liều điều trị chi tiết của bệnh nhân.

Kết quả này cũng gợi ý cho chương trình điều trị Methadone muốn đạt

được hiệu quả cao giảm tỷ lệ bỏ trị của bệnh nhân. Chương trình cần chú

trọng đến công tác tư vấn, đặc biệt đối với những người trẻ tuổi, là người dân

tộc Kinh, đã có gia đình nhưng li dị hoặc góa, không có việc làm ổn định, có

sử dụng heroin trước thời điểm nghiên cứu. Chương trình cũng cần nhanh

chóng mở các cơ sở cấp phát thuốc tại xã để giảm khoảng cách đi lại cho bệnh

nhân và hướng tới sử dụng các loại thuốc điều trị có thể cho phép bệnh nhân

mang về nhà.

4.4. Hạn chế của nghiên cứu

Bên cạnh những ưu điểm và kết quả nổi bật của nghiên cứu, nghiên cứu

vẫn tồn tại một số hạn chế nhất định. Sau một năm điều trị can thiệp, 56 bệnh

nhân bỏ điều trị và rút khỏi nghiên cứu. Tình trạng không thể theo dõi thông

tin những bệnh nhân bỏ điều trị tạo ra sai số trong nghiên cứu, kéo theo phản

113

ánh chưa chính xác hiệu quả điều trị MMT. Nhìn chung, đây là một hạn chế

của nghiên cứu đánh giá trước-sau can thiệp trên cùng một nhóm đối tượng.

Vì vậy, đề xuất các nghiên cứu sau sử dụng thiết kế nghiên cứu chặt chẽ và

quy mô hơn để có thể theo dõi sát sao thông tin sức khoẻ của bệnh nhân, kể cả

bệnh nhân bỏ điều trị.

Mặt khác, hạn chế về mặt thông kê cũng là một vấn đề cần lưu ý trong

nghiên cứu này, trong phân tích hồi quy đơn biến và đa biến đã sử dụng,

nhiều biến số mang ý nghĩa tiên lượng cho nghiên cứu, tuy nhiên kiểm định

thống kê giá trị p chưa ủng hộ. Vì vậy, khuyến nghị các nghiên cứu sau thực

hiện với cỡ mẫu lớn hơn để khác phục hạn chế về mặt thống kê. Hơn nữa, một

số yếu tố tiên lượng bị giới hạn thống kê đã bị loại bỏ ra khỏi kết quả mô hình

hồi quy đa biến, nghiên cứu này cũng nhấn mạnh các nghiên cứu sau tập trung

khai thác các biến số liên quan đó.

114

KẾT LUẬN

1. Thực trạng sử dụng ma túy và tình trạng sức khỏe, xã hội của đối

tƣợng nghiên cứu trƣớc khi điều trị Methadone

- Đặc điểm nhân khẩu học: Người nghiện các chất dạng thuốc phiện tham

gia điều trị Methadone tại 3 tỉnh hầu hết nằm trong độ tuổi từ 30 đến 49 tuổi,

là nam giới dân, dân tộc Kinh, trình độ học vấn dưới trung học phổ thông.

- Sử dụng ma tuý: Hầu hết có thời gian sử dụng ma túy trên 2 năm. Loại ma

tuý được sử dụng nhiều nhất là Heroin, chủ yếu sử dụng bằng đường tiêm

chích. Hầu hết các đối tượng đã đi cai nghiện ma túy nhưng đều thất bại. Bắt

đầu có tình trạng sử dụng ma túy tổng hợp trong nhóm bệnh nhân điều trị.

- Tình trạng sức khoẻ: tỷ lệ khá cao mắc các bệnh lây nhiễm qua đường máu

như viêm gan C (24,4%), viêm gan B (11,7%) và đang điều trị ARV (10,7%).

- Chất lượng cuộc sống: Phần lớn có chất lượng cuộc sống trung bình. Trên

thang 100 điềm, lần lượt các khía cạnh là sức khỏe thể chất (60,2), sức khỏe

tâm thần (61,2 điểm), mối quan hệ xã hội (50,3) và môi trường (58,8).

2. Hiệu quả điều trị Methadone

Hiệu quả điều trị nhấn mạnh về giảm sử dụng chất gây nghiện, giảm

hành vi nguy cơ làm lây truyền HIV và cải thiện chất lượng cuộc sống của

bệnh nhân. Cụ thể như sau:

- Hiệu quả về giảm sử dụng chất gây nghiện:

 Tỷ lệ người sử dụng chất gây nghiện giảm từ 36,2% xuống còn 16,5%

sau điều trị.

115

 Tỷ lệ người sử dụng heroin giảm từ 31,7% xuống còn 10,9% (p<0,01).

 Kết quả xét nghiệm heroin dương tính trong nước tiểu giảm từ 100%

xuống còn 0,6% sau 12 tháng (p <0,01).

- Hiệu quả về thay đổi hành vi nguy cơ lây nhiễm HIV: Tỷ lệ bệnh nhân

tiêm chích ma túy giảm từ 23,7% xuống còn 12,7% sau 12 tháng (p <0,01).

- Hiệu quả về chất lượng cuộc sống:

 Điểm sức khoẻ thể chất của đối tượng tăng từ 60,0 lên 63,1 sau điều trị.

 Mối quan hệ xã hội cũng tăng từ 50,3 lên 53,7 (p<0,05) sau điều trị.

3. Yếu tố ảnh hƣởng đến hiệu quả điều trị Methadone

- Yếu tố ảnh hưởng đến tiếp tục sử dụng heroin: dân tộc thiểu số, đã ly dị/ly

thân/goá), sử dụng ma túy 30 ngày trước thời điểm nghiên cứu.

- Yếu tố ảnh hưởng đến bỏ điều trị Methadone: tuổi trẻ (<30), người dân tộc

Kinh, vẫn đang độc thân, công việc bất ổn, mới sử dụng ma túy, sử dụng ma

túy 30 ngày trước thời điểm nghiên cứu, và ở xa cơ sở điều trị.

116

KHUYẾN NGHỊ

1. Với những kết quả đạt được của nghiên cứu, đề nghị mở rộng điều trị

Methadone ra tất cả các huyện của 3 tỉnh nghiên cứu, các tỉnh miền núi phía

Bắc và các tỉnh, thành phố trên toàn quốc; góp phần giảm tác hại do ma túy

gây ra cho các cá nhân, gia đình và xã hội.

2. Còn nhiều yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả điều trị, do vậy cần cải

thiện dịch vụ điều trị Methodone. Tăng cường tư vấn đối với các trường hợp

bệnh nhân có nguy cơ tiếp tục sử dụng heroin trong quá trình điều trị

methadone và có nguy cơ bỏ điều trị. Mở rộng dịch vụ điều trị tới tất cả các

huyện, tới tuyến xã/phường để giảm khoảng cách đi lại, tạo điều kiện cho

người nghiện CDTP tiếp cận tới dịch vụ điều trị Methadone.

3. Cần tiến hành các nghiên cứu sâu hơn về dân tộc học, phong tục, văn

hóa của các đồng bào dân tộc miền núi phía Bắc để giải thích cho sự khác biệt

về hiệu quả điều trị giữa các bệnh nhân thuộc các dân tộc khác nhau.

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CÔNG BỐ

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI LUẬN ÁN

1. Nguyễn Thị Minh Tâm, Nguyễn Thanh Long, Nguyễn Hoàng Long,

Nguyễn Thị Lan Anh, Lê Thị Thanh Xuân, Lê Thị Hương, Nguyễn

Hữu Thắng (2015), ―Một số đặc điểm xã hội và sử dụng ma túy của

bệnh nhân mới điều trị Methadone tại Điện Biên, Lai Châu và Yên

Bái năm 2014‖, Tạp chí Y học dự phòng, Tập XXV, số 10 (170) 2015, tr

268-278.

2. Nguyễn Thị Minh Tâm, Nguyễn Thanh Long, Nguyễn Thị Lan Anh,

(2017), ―Đánh giá hiệu quả điều trị nghiện chất dạng thuốc phiện

bằng thuốc methadone tại 3 tỉnh miền núi phía Bắc‖, Tạp chí Y học

dự phòng, Tập XXVII, số 9 (27) 2017, tr 104-113.

ii

TÀI LIỆU THAM KHẢO

TIẾNG VIỆT

1. Đào Thị Minh An và các cộng sự. (2015), "Xác suất bỏ trị theo thời

gian và yếu tố ảnh hưởng tới bỏ trị ở những bệnh nhân điều trị cai

nghiện tại 6 cơ sở điều trị Methadone tỉnh Thái Nguyên", Tạp chí Y học

dự phòng. Tập XXV, số 10 (170) 2015, tr. 259-267.

2. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (2011), Báo cáo công tác cai

nghiện ma tuý tại Việt Nam thời gian qua.

3. Bộ Y tế (2017), Báo cáo triển khai điều trị nghiện các chất dạng thuốc

phiện bằng thuốc Methadone, à Nội.

4. Bộ Y tế (2016), Tài liệu đào tạo Điều trị thay thế nghiện các chất dạng

thuốc phiện bằng thuốc Methadone, Nhà xuất bản Y học, Hà Nội.

5. Bộ Y tế (2015), Kết quả giám sát trọng điểm IV lồng ghép hành vi

trong các nh m nguy c cao tại Việt Nam năm 2014, à Nội.

6. Bộ Y tế (2014), Báo cáo t ng kết công tác phòng, chống IV/AIDS

năm 2013 và định hướng kế hoạch năm 2014.

7. Bộ Y tế (2012), Điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc

Methadone. Tài liệu chuyên khảo dành cho bác sỹ, à Nội.

8. Bộ Y tế (2012), Tài liệu tham khảo Điều trị nghiện các chất dạng thuốc

phiện bằng thuốc Methadone, à Nội.

9. Bộ Y Tế (2011), S tay thông tin điều trị Methadone dành cho bệnh

nhân, à Nội.

10. Bộ Y tế (2010), Quyết định số 3140/QĐ-BYT, ướng dẫn điều trị thay

thế nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc methadone, à Nội.

iii

11. Bộ Y tế (2007), Đề án triển khai thí điểm điều trị nghiện các chất dạng

thuốc phiện bằng thuốc Methadone tại ải Phòng và thành phố ồ Chí

Minh.

12. Bộ Y tế (2007), Quyết định số 5075/QĐ-BYT, ướng dẫn chẩn đoán

người nghiện ma tuý nh m Opiats chất dạng thuốc phiện , à Nội.

13. Hoàng Đình Cảnh và Nguyễn Thanh Long (2013), "Một số đặc điểm

của người nghiện ma túy (các chất dạng thuốc phiện) trước khi tham

gia điều trị Methadone tại thành phố Hồ Chí Minh và Hải Phòng", Tạp

chí Y học dự phòng. Tập XXIII, số 6 (142), tr. 164-170.

14. Hoàng Đình Cảnh, Nguyễn Thanh Long và Nguyễn Văn Hưng (2013),

"Đánh giá hiệu quả điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng

Methadone tại thành phố Hồ Chí Minh và Hải Phòng (2009-2011)",

Tạp chí Y học Việt Nam. Tập 409, tr 7-13.

15. Vũ Văn Chiểu (2010), "Yếu tố ảnh hưởng đến hành vi tình dục không

an toàn của người tiêm chích ma túy tại Việt Nam", Tạp chí Y học Thực

hành. 189-193.

16. Chính phủ (2012), Nghị định số 96/NĐ-CP quy định về điều trị nghiện

các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế, à Nội.

17. Vũ Văn Công và Dương Thị Hương (2009), "Hiệu quả triển khai điều

trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng methadone tại Hải Phòng,

năm 2009", Tạp chí Y học dự phòng. 23(2), pp. 66-71.

18. Cục Phòng chống HIV/AIDS (2016), Công tác phòng, chống

HIV/AIDS Khu vực Tây Bắc, Hội nghị về công tác phòng, chống

HIV/AIDS năm 2016 khu vực Tây Bắc - Sơn La.

19. Cục Phòng chống HIV/AIDS (2015), Kết quả công tác phòng, chống

IV/AIDS năm 2015 và kế hoạch năm 2016, Hội nghị về công tác

phòng, chống HIV/AIDS năm 2015 - Hà Nội.

iv

20. Cục Phòng chống HIV/AIDS (2013), ướng dẫn xét nghiệm trong

phòng chống IV/AIDS, Kỷ yếu hội nghị quốc gia về công tác xét

nghiệm trong phòng chống HIV/AIDS, Nhà xuất bản y học, Hà Nội.

21. FHI 360 (2009), Tư ng tác thuốc trong điều trị duy trì nghiện chất

dạng thuốc phiện, Chuyên đề về Buprenorphine và Methadone.

22. Nguyễn Thị Thu Hà (2015), "Tỷ lệ nhiễm HIV và một số yếu tố liên

quan trong nhóm nam nghiện chích ma túy tại Gia Lai năm 2014", Tạp

chí Y học dự phòng. Tập XXV, số 10 (170), Tr. 157-162.

23. Trần Vũ Hoàng (2013), iệu quả điều trị Methadone lên sức khỏe tâm

thần, chất lượng cuộc sống và tái hòa nhập công đồng trong những

người nghiện chích ma túy tại Việt Nam, à Nội.

24. Nguyễn Thanh Long và Hoàng Đình Cảnh và cộng sự (2009), "Bước

đầu đánh giá kết quả triển khai thí điểm điều trị nghiện các chất dạng

thuốc phiện bằng thuốc Methadone tại Việt Nam", Tạp chí Y học Việt

Nam. 356, tr. 6-10.

25. Trần Đại Quang, Nguyễn Anh Tuấn và Nguyễn Trần Hiển (2013),

"Tổng quan nghiên cứu về nguy cơ nhiễm HV/AIDS trong các nhóm

dân tộc thiểu số tại Việt Nam và trên Thế giới", Tạp chí Y học dự

phòng Tập XXIII, số 7 (143), tr. 52-55.

26. Quốc Hội (2008), Luật Phòng, chống ma túy năm 2000 và Luật sửa đ i

b sung một số điều của Luật phòng, chống ma túy năm 2008.

27. Quốc Hội (2007), Luật phòng, chống nhiễm vi rút gây ra hội chứng suy

giảm miễn dịch ở người IV/AIDS .

28. Sở Y tế Điện Biên (2016), Báo cáo công tác phòng, chống IV/AIDS

năm 2016 tỉnh Điện Biên.

29. Sở Y tế Lai Châu (2016), Báo cáo công tác phòng, chống IV/AIDS

năm 2016 tỉnh Lai Châu.

v

30. Sở Y tế Yên Bái (2016), Báo cáo công tác phòng, chống IV/AIDS

năm 2016 tỉnh Yên Bái.

31. Thủ tướng Chính phủ (2012), Chiến lược quốc gia phòng, chống

IV/AIDS đến năm 2020 và tầm nhìn 2030, Quyết định số 608/QĐ-

TTg, Hà Nội.

32. Trường Đại học Y Hà Nội (2017), Sưu tầm bài dự thi xuất sắc nhất –

Cuộc thi viết về trải nghiệm phục hồi năm 2017.

33. UNFPA (2006), IV và Nam giới c quan hệ tình dục đồng giới ở

Châu Á - Thái Bình Dư ng: Tập hợp các thực hành mới nhất của

UNAIDS, à Nội.

34. Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc (2015), Tình hình, kết quả công tác

phòng, chống tội phạm, tệ nạn xã hội và xây dựng phong trào toàn dân

bảo vệ ANTQ 6 tháng đầu năm 2015.

35. Ủy ban nhân dân TP. Hồ Chí Minh (2012), Tình hình, kết quả công tác

phòng, chống ma túy trong năm 2011 và 6 tháng đầu năm 2012.

36. Ủy ban quốc gia phòng chống AIDS và phòng chống tệ nạn ma túy mại

dâm (2016), Báo cáo t m tắt tình hình công tác phòng, chống AIDS và

phòng, chống tệ nạn ma túy, mại dâm năm 2015 và nhiệm vụ trọng tâm

năm 2016, ội nghị trực tuyến toàn quốc triển khai công tác năm 2016.

37. Ủy ban quốc gia phòng chống AIDS và phòng chống tệ nạn ma túy mại

dâm (2012), Chiến lược Quốc gia phòng chống IV/AIDS ở Việt Nam

đến năm 2020 và tầm nhìn 2030.

38. Văn hóa Việt Nam (2016), Vùng văn h a dân tộc Tây Bắc Văn a

Tây Bắc , truy cập ngày, tại trang web

https://vanhoanvietnam.blogspot.com/2016/04/vung-van-hoa-dan-toc-

tay-bac-van-hoa.html.

vi

TIẾNG ANH

39. Y. P. Bao và các cộng sự. (2009), "A meta-analysis of retention in

methadone maintenance by dose and dosing strategy", Am J Drug

Alcohol Abuse. 35(1), tr. 28-33.

40. M. Baumeister và các cộng sự. (2014), "Association between

methadone dose and concomitant cocaine use in methadone

maintenance treatment: a register-based study", Subst Abuse Treat Prev

Policy. 9, tr. 46.

41. R. E. Booth, C. F. Kwiatkowski và D. D. Chitwood (2000), "Sex

related HIV risk behaviors: differential risks among injection drug

users, crack smokers, and injection drug users who smoke crack", Drug

Alcohol Depend. 58(3), tr. 219-26.

42. A. Boys, J. Marsden và J. Strang (2001), "Understanding reasons for

drug use amongst young people: a functional perspective", Health Educ

Res. 16(4), tr. 457-69.

43. L. M. Camacho và các cộng sự. (1997), "Maintenance of HIV risk

reduction among injection opioid users: a 12 month posttreatment

follow-up", Drug Alcohol Depend. 47(1), tr. 11-8.

44. Y. Che và các cộng sự. (2010), "Predictors of early dropout in

methadone maintenance treatment program in Yunnan province,

China", Drug Alcohol Rev. 29(3), tr. 263-70.

45. S. M. Clarke và các cộng sự. (2001), "The pharmacokinetics of

methadone in HIV-positive patients receiving the non-nucleoside

reverse transcriptase inhibitor efavirenz", Br J Clin Pharmacol. 51(3),

tr. 213-7.

46. W. S. Condelli (1993), "Strategies for increasing retention in

methadone programs", J Psychoactive Drugs. 25(2), tr. 143-7.

vii

47. W. S. Condelli và G. H. Dunteman (1993), "Exposure to methadone

programs and heroin use", Am J Drug Alcohol Abuse. 19(1), tr. 65-78.

48. J. Cox và các cộng sự. (2013), "Predictors of methadone program non-

retention for opioid analgesic dependent patients", J Subst Abuse Treat.

44(1), tr. 52-60.

49. C. D. Darker và các cộng sự. (2016), "Demographic and clinical factors

predicting retention in methadone maintenance: results from an Irish

cohort", Ir J Med Sci. 185(2), tr. 433-41.

50. A. Dobler-Mikola và các cộng sự. (2005), "Patterns of heroin, cocaine,

and alcohol abuse during long-term methadone maintenance

treatment", J Subst Abuse Treat. 29(4), tr. 259-65.

51. F. Faggiano và các cộng sự. (2003), "Methadone maintenance at

different dosages for opioid dependence", Cochrane Database Syst

Rev(3), tr. Cd002208.

52. A. Fareed và các cộng sự. (2010), "Methadone maintenance dosing

guideline for opioid dependence, a literature review", J Addict Dis.

29(1), tr. 1-14.

53. J. A. Fischer và các cộng sự. (2013), "Quality of life of people who

inject drugs: characteristics and comparisons with other population

samples", Qual Life Res. 22(8), tr. 2113-21.

54. L. Gowing và các cộng sự. (2004), "Substitution treatment of injecting

opioid users for prevention of HIV infection", Cochrane Database Syst

Rev(4), tr. Cd004145.

55. V. A. Gruber và E. F. McCance-Katz (2010), "Methadone,

buprenorphine, and street drug interactions with antiretroviral

medications", Curr HIV/AIDS Rep. 7(3), tr. 152-60.

viii

56. M. Haskew và các cộng sự. (2008), "Patterns of adherence to oral

methadone: implications for prescribers", J Subst Abuse Treat. 35(2), tr.

109-15.

57. N. T. Hien và các cộng sự. (2001), "Risk factors of HIV infection and

needle sharing among injecting drug users in Ho Chi Minh City,

Vietnam", J Subst Abuse. 13(1-2), tr. 45-58.

58. N. T. Hien và các cộng sự. (2000), "The social context of HIV risk

behaviour by drug injectors in Ho Chi Minh City, Vietnam", AIDS

Care. 12(4), tr. 483-95.

59. T. V. Hoang và các cộng sự. (2015), "Impact of a methadone

maintenance therapy pilot in Vietnam and its role in a scaled-up

response", Harm Reduct J. 12, tr. 39.

60. H. Jiang và các cộng sự. (2014), "Factors associated with one year

retention to methadone maintenance treatment program among patients

with heroin dependence in China", Subst Abuse Treat Prev Policy. 9, tr.

11.

61. S. M. Kelly và các cộng sự. (2010), "The role of patient satisfaction in

methadone treatment", Am J Drug Alcohol Abuse. 36(3), tr. 150-4.

62. S. M. Kelly và các cộng sự. (2011), "Predictors of methadone treatment

retention from a multi-site study: a survival analysis", Drug Alcohol

Depend. 117(2-3), tr. 170-5.

63. P. M. Khue và các cộng sự. (2017), "A longitudinal and case-control

study of dropout among drug users in methadone maintenance

treatment in Haiphong, Vietnam", Harm Reduct J. 14(1), tr. 59.

64. C. F. Kwiatkowski và R. E. Booth (2001), "Methadone maintenance as

HIV risk reduction with street-recruited injecting drug users", J Acquir

Immune Defic Syndr. 26(5), tr. 483-9.

ix

65. M. W. Langendam và các cộng sự. (2001), "The impact of harm-

reduction-based methadone treatment on mortality among heroin

users", Am J Public Health. 91(5), tr. 774-80.

66. L. Li và các cộng sự. (2012), "Concurrent heroin use among methadone

maintenance clients in China", Addict Behav. 37(3), tr. 264-8.

67. C. K. Lin và các cộng sự. (2015), "Factors associated with methadone

treatment duration: a Cox regression analysis", PLoS One. 10(4), tr.

e0123687.

68. C. Lin, Z. Wu và R. Detels (2011), "Family support, quality of life and

concurrent substance use among methadone maintenance therapy

clients in China", Public Health. 125(5), tr. 269-74.

69. H. C. Lin và các cộng sự. (2013), "Predictors for dropping-out from

methadone maintenance therapy programs among heroin users in

southern Taiwan", Subst Use Misuse. 48(1-2), tr. 181-91.

70. E. Liu và các cộng sự. (2009), "Correlates of methadone client

retention: a prospective cohort study in Guizhou province, China", Int J

Drug Policy. 20(4), tr. 304-8.

71. X. Luo và các cộng sự. (2016), "Concurrent Heroin Use and Correlates

among Methadone Maintenance Treatment Clients: A 12-Month

Follow-up Study in Guangdong Province, China", Int J Environ Res

Public Health. 13(3).

72. R. P. Mattick và các cộng sự. (2009), "Methadone maintenance therapy

versus no opioid replacement therapy for opioid dependence",

Cochrane Database Syst Rev(3), tr. Cd002209.

73. R. P. Mattick và các cộng sự. (2002), "Methadone maintenance therapy

versus no opioid replacement therapy for opioid dependence",

Cochrane Database Syst Rev(4), tr. Cd002209.

x

74. E. F. McCance-Katz, L. E. Sullivan và S. Nallani (2010), "Drug

interactions of clinical importance among the opioids, methadone and

buprenorphine, and other frequently prescribed medications: a review",

Am J Addict. 19(1), tr. 4-16.

75. W. H. McGlothlin và M. D. Anglin (1981), "Shutting off methadone.

Costs and benefits", Arch Gen Psychiatry. 38(8), tr. 885-92.

76. D. S. Metzger và các cộng sự. (1993), "Human immunodeficiency virus

seroconversion among intravenous drug users in- and out-of-treatment:

an 18-month prospective follow-up", J Acquir Immune Defic Syndr.

6(9), tr. 1049-56.

77. R. Musa, A. Z. Abu Bakar và U. Ali Khan (2012), "Two-year outcomes

of methadone maintenance therapy at a clinic in Malaysia", Asia Pac J

Public Health. 24(5), tr. 826-32.

78. L. H. Nguyen và các cộng sự. (2017), "Adherence to methadone

maintenance treatment and associated factors among patients in

Vietnamese mountainside areas", Subst Abuse Treat Prev Policy. 12(1),

tr. 31.

79. L. H. Nguyen và các cộng sự. (2017), "Quality of life and healthcare

service utilization among methadone maintenance patients in a

mountainous area of Northern Vietnam", Health Qual Life Outcomes.

15(1), tr. 77.

80. T. T. Nguyen và các cộng sự. (2012), "Methadone maintenance therapy

in Vietnam: an overview and scaling-up plan", Adv Prev Med. 2012, tr.

732484.

81. L. Pang và các cộng sự. (2007), "Effectiveness of first eight methadone

maintenance treatment clinics in China", Aids. 21 Suppl 8, tr. S103-7.

xi

82. E. Peles và các cộng sự. (2008), "One-year and cumulative retention as

predictors of success in methadone maintenance treatment: a

comparison of two clinics in the United States and Israel", J Addict Dis.

27(4), tr. 11-25.

83. E. Peles, V. Rados và M. Adelson (2007), "Characterization of former

heroin addict patients with Hepatitis C virus antibodies in a methadone

maintenance treatment (MMT) clinic in israel", Subst Use Misuse.

42(9), tr. 1477-84.

84. E. Peles, S. Schreiber và M. Adelson (2006), "Factors predicting

retention in treatment: 10-year experience of a methadone maintenance

treatment (MMT) clinic in Israel", Drug Alcohol Depend. 82(3), tr.

211-7.

85. E. Pisani và các cộng sự. (2003), "Sexual behavior among injection

drug users in 3 indonesian cities carries a high potential for HIV spread

to noninjectors", J Acquir Immune Defic Syndr. 34(4), tr. 403-6.

86. J. Premila Devi và các cộng sự. (2012), "The Effectiveness of

Methadone Maintenance Therapy Among Opiate - Dependants

Registered with Hospital Raja Perempuan Zainab II Kota Bharu,

Kelantan", Malays J Med Sci. 19(4), tr. 17-22.

87. V. M. Quan và các cộng sự. (2009), "Risks for HIV, HBV, and HCV

infections among male injection drug users in northern Vietnam: a

case-control study", AIDS Care. 21(1), tr. 7-16.

88. H. M. Rhoades và các cộng sự. (1998), "Retention, HIV risk, and illicit

drug use during treatment: methadone dose and visit frequency", Am J

Public Health. 88(1), tr. 34-9.

xii

89. P. Roux và các cộng sự. (2014), "Predictors of non-adherence to

methadone maintenance treatment in opioid-dependent individuals:

implications for clinicians", Curr Pharm Des. 20(25), tr. 4097-105.

90. R. Sarasvita và các cộng sự. (2012), "Predictive factors for treatment

retention in methadone programs in Indonesia", J Subst Abuse Treat.

42(3), tr. 239-46.

91. I. Schafer và các cộng sự. (2010), "Effects of psychiatric comorbidity

on treatment outcome in patients undergoing diamorphine or

methadone maintenance treatment", Psychopathology. 43(2), tr. 88-95.

92. M. Schiff, S. Levit và R. C. Moreno (2007), "Retention and illicit drug

use among methadone patients in Israel: a gender comparison", Addict

Behav. 32(10), tr. 2108-19.

93. C. M. Schumacher và các cộng sự. (2009), "Social injecting and other

correlates of high-risk sexual activity among injecting drug users in

northern Vietnam", Int J Drug Policy. 20(4), tr. 352-6.

94. H. Stocker và các cộng sự. (2004), "Nevirapine significantly reduces

the levels of racemic methadone and (R)-methadone in human

immunodeficiency virus-infected patients", Antimicrob Agents

Chemother. 48(11), tr. 4148-53.

95. C. J. Strike và các cộng sự. (2005), "Factors predicting 2-year retention

in methadone maintenance treatment for opioid dependence", Addict

Behav. 30(5), tr. 1025-8.

96. S. G. Sullivan và các cộng sự. (2014), "Continued drug use during

methadone treatment in China: a retrospective analysis of 19,026

service users", J Subst Abuse Treat. 47(1), tr. 86-92.

97. D. C. Thanh, K. M. Moland và K. Fylkesnes (2009), "The context of

HIV risk behaviours among HIV-positive injection drug users in Viet

xiii

Nam: moving toward effective harm reduction", BMC Public Health. 9,

tr. 98.

98. S. Uhlmann và các cộng sự. (2010), "Methadone maintenance therapy

promotes initiation of antiretroviral therapy among injection drug

users", Addiction. 105(5), tr. 907-13.

99. H. Van Nguyen và các cộng sự. (2017), "Stigmatization among

methadone maintenance treatment patients in mountainous areas in

northern Vietnam", Harm Reduct J. 14(1), tr. 1.

100. R. Wang và các cộng sự. (2015), "Illicit Heroin and Methamphetamine

Use among Methadone Maintenance Treatment Patients in Dehong

Prefecture of Yunnan Province, China", PLoS One. 10(7), tr. e0133431.

101. X. Wei và các cộng sự. (2013), "A study of 6-year retention in

methadone maintenance treatment among opioid-dependent patients in

Xi'an", J Addict Med. 7(5), tr. 342-8.

102. L. Xiao và các cộng sự. (2010), "Quality of life of outpatients in

methadone maintenance treatment clinics", J Acquir Immune Defic

Syndr. 53 Suppl 1, tr. S116-20.

103. L. Zhang và các cộng sự. (2013), "Methadone maintenance treatment

participant retention and behavioural effectiveness in China: a

systematic review and meta-analysis", PLoS One. 8(7), tr. e68906.

104. K. Zhou và các cộng sự. (2017), "Relationships between received and

perceived social support and health-related quality of life among

patients receiving methadone maintenance treatment in Mainland

China", Subst Abuse Treat Prev Policy. 12(1), tr. 33.

105. Alan I L (1998), "Addiction is a brain disease and it matters", National

Institute of Justice Journal.

xiv

106. J. C. Ball và A. Ross (1991), "The effectiveness of methadone

maintenance treatment: Patients, programs, services, and outcome",

New York, NY, US: Springer-Verlag Publishing.

107. John C. Ball và các cộng sự. (1988), "Reducing the Risk of AIDS

Through Methadone Maintenance Treatment", Journal of Health and

Social Behavior. 29(3), tr. 214-226.

108. X. B. Cao và các cộng sự. (2012), "Characteristics and associated

factors of long-term retention for methadone maintenance treatment

patients", Zhonghua Yu Fang Yi Xue Za Zhi. 46(11), tr. 995-8.

109. Wen Chen và các cộng sự. (2013), "Predictors of continued HIV-risk

behaviors among drug users in methadone maintenance therapy

program in China--a prospective study", Harm reduction journal. 10, tr.

23-23.

110. Wayne Hall (1996), "Methadone Maintenance Treatment as a Crime

Control Measure", Crime and Justice Bulletin. 29.

111. Harm Reduction International (2014), The Global State of Harm

Reduction 2014.

112. Harm Reduction International (2010), The Global State of Harm

Reduction 2010, key issues for broadening the response.

113. Tran Vu Hoang và các cộng sự. (2015), "Impact of a methadone

maintenance therapy pilot in Vietnam and its role in a scaled-up

response", Harm Reduction Journal. 12(1), tr. 39.

114. John P. Walters (2001), Drug Treatment in the Criminal Justice

System, Office of National Drug Control Policy.

115. Nasir Mohamad và các cộng sự. (2010), "Better retention of Malaysian

opiate dependents treated with high dose methadone in methadone

maintenance therapy", Harm reduction journal. 7, tr. 30-30.

xv

116. D. Dwayne Simpson (1993), "Drug treatment evaluation research in the

United States", Psychology of Addictive Behaviors. 7(2), tr. 120-128.

117. D. Dwayne Simpson và S. B. Sells (1982), "Effectiveness of treatment

for drug abuse", Advances in Alcohol & Substance Abuse. 2(1), tr. 7-29.

118. D. Simpson và George Joe (1993), Motivation as a predictor of early

dropout from drug abuse treatment, Vol. 30, 357-368.

119. Son V. H (2009), Risk behavior among injecting drug users in Thanh

Hoa province, Vietnam, 3rd International Conference on Reproductive

Health and Social Sciences Research. Bangkok: Mahidol University.

120. The College of Physicians of Ontario (2005), Methadone maintenance

guidelines.

121. The World Bank (2015), GDP per capita (current US$).

122. Bach Xuan Tran và các cộng sự. (2016), "Health status and health

service utilization in remote and mountainous areas in Vietnam",

Health and quality of life outcomes. 14, tr. 85-85.

123. Bach Xuan Tran và các cộng sự. (2012), "Multilevel predictors of

concurrent opioid use during methadone maintenance treatment among

drug users with HIV/AIDS", PloS one. 7(12), tr. e51569-e51569.

124. Trung Nam Tran và các cộng sự. (2004), "Drug use, sexual behaviours

and practices among male drug users in Hanoi, Vietnam—a qualitative

study", International Journal of Drug Policy. 15(3), tr. 182-188.

125. U.S. Department of health and human services (2005), Medication

Assisted Treatment For Opioid Addiction in Opioid Treatment

Programs.

126. UNODC (2014), World Drug Report 2014.

127. VM Nong và các cộng sự. (2014), A retrospective cohort study of

adherence, retention, and concurrent opioid use among methadone

xvi

maintenance treatment patients in Vietnam, The 20th International

AIDS Conference.

128. World Health Organization (WHO) (2012), Guidance on prevention of

viral Hepatitis B and C among People who inject drugs.

129. World Health Organization (WHO) (2010), ICD 10 (1).

130. World Health Organization (WHO) The World Health Organization

Quality of Life (WHOQOL).

131. World Health Organization (WHO), United Nations Office on Drugs

and Crime (UNODC) và The Joint United Nations Programme on

HIV/AIDS (UNAIDS) (2012), Technical guide for countries to set

targets for universal access to HIV prevention, treatment and care for

injecting drug users.

xvii

PHỤ LỤC

Phụ lục 1: Bảng biến số và chỉ số nghiên cứu

Phƣơng Phân loại TT Biến số Khái niệm pháp thu biến số thập

Đặc điểm thông tin nhân khẩu học

Thông tin chung

1 Giới tính Nhị phân Đối tượng là nam giới hay nữ giới Phỏng vấn

2 Tuổi Định lượng, liên tục Phỏng vấn Tuổi tính theo năm dương lịch đến thời điểm điều tra

3 Dân tộc Định danh Dân tộc hiện tại của đối tượng nghiên cứu Phỏng vấn

Trình độ học vấn và việc làm

4 Trình độ học vấn Thứ bậc Phỏng vấn Cấp học cao nhất của đối tượng nghiên cứu (theo Bộ GD-ĐT)

5 Nghề nghiệp Định danh Phỏng vấn Nghề nghiệp hiện tại của đối tượng nghiên cứu.

6 Công việc ổn định Nhị phân Công việc hiện tại có ổn định hay không Phỏng vấn

7 Thu nhập cá nhân Nhị phân Có hay không có thu nhập cá nhân Phỏng vấn

xviii

Phƣơng Phân loại TT Biến số Khái niệm pháp thu biến số thập

8 Thu nhập hiện tại Định danh/ định lượng Phỏng vấn Nguồn thu nhập chính/ số tiền cụ thể /tháng

Tình trạng hôn nhân, gia đình

9 Tình trạng hôn nhân Định danh Phỏng vấn Tình trạng hôn nhân hiện tại của đối tượng nghiên cứu

Định danh 10 Hiện sống với ai Phỏng vấn

Đối tượng hiện đang sống với người thân (bố mẹ, vợ, con, anh chị, bạn bè, người yêu) hoặc sống một mình.

Có/không Nhị phân 11 Phỏng vấn Có sống chung với người sử dụng ma túy không

Định danh 12 Trả lời theo 7 nhóm đối tượng Phỏng vấn Nếu có sống chung với người nghiện ma túy thì đó là ai

Mâu thuẫn bất đồng trong cuộc sống

Nhị phân 13 Có hay không có mâu thuẫn, bất đồng Phỏng vấn Mâu thuẫn, bất đồng trong cuộc sống

xix

Phƣơng Phân loại TT Biến số Khái niệm pháp thu biến số thập

14 Định danh Phỏng vấn Mâu thuẫn, bất đồng trong cuộc sống với ai Chọn lựa trả lời theo 9 nhóm

Mâu thuẫn trong gia đình

Định danh 15 Trả lời theo 8 hành vi liên quan Phỏng vấn

Đã có hành vi lừa dối trong gia đình để lấy tiền từ trước tới nay

Định danh 16 Trả lời theo 8 hành vi liên quan Phỏng vấn

Đã có hành vi lừa dối trong gia đình để lấy tiền trong 30 ngày qua

Tiếp cận điều trị

17 Định danh Khoảng cách từ nhà đến cơ sở điều trị Liệt kê các nhóm khoảng cách (3 nhóm) Phỏng vấn

Định danh 18 Phỏng vấn Liệt kê tên các phương tiện

Phương tiện dùng để đi lại khi đến uống thuốc hàng ngày

Sử dụng chất gây nghiện

Tiền sử sử dụng ma túy

xx

Phƣơng Phân loại TT Biến số Khái niệm pháp thu biến số thập

19 Thời gian sử dụng ma túy lần đầu tiên Năm bắt đầu sử dụng ma túy của đối tượng Địnhlượng, liên tục Phỏng vấn

20 Định danh Loại ma túy sử dụng lần đầu tiên Phỏng vấn Liệt kê 11 loại ma túy có thể đã sử dụng lần đầu tiên

21 Định danh Các loại ma túy đã từng sử dụng Phỏng vấn

Liệt kê 11 loại ma túy đã sử dụng trước đây: heroin, thuốc phiện, hồng phiến, thuốc lắc...

22 Định lượng Số lần sử dụng ma túy theo ngày Phỏng vấn Tần suất sử dụng của từng loại ma túy

23 Định danh Phỏng vấn Hình thức sử dụng của từng loại ma túy Hình thức sử dụng: Tiêm chích, hút, hít, uống

24 Định lượng Phỏng vấn Số tiền trung bình mua ma túy (theo ngày) Số tiền bệnh nhân bỏ ra để mua ma túy sử dụng

Tiền sử về các hình thức cai nghiện ma túy đã từng tham gia

25 Đã từng cai nghiện Nhị phân Có hay chưa lần nào cai nghiện Phỏng vấn

26 Số lần cai nghiện Tính số lần đã từng đi Liên tục Phỏng

xxi

Phƣơng Phân loại TT Biến số Khái niệm pháp thu biến số thập

cai nghiện vấn

27 Lý do tái nghiện Nêu 4 nhóm lý do Định danh Phỏng vấn

28 Thời gian tái nghiện Liên tục Phỏng vấn Thời gian (tháng) từ khi cai nghiện đến khi tái nghiện tháng

29 Định danh Hình thức cai nghiện gần đây nhất Nêu 6 hình thức khác nhau Phỏng vấn

30 Định danh Lần cai nghiện gần nhất Thời gian cai nghiện gần nhất Phỏng vấn

31 Liên tục Tổng thời gian sử dụng ma túy Thời gian nghiện tính bằng năm Phỏng vấn

32 Nhị phân Tiền sử có shock khi sử dụng ma tuý Phỏng vấn Có hay chưa có lần bị shock khi sử dụng ma túy

Tiền sử về hành vi nguy cơ cao

33 Nhị phân Hành vi sử dụng lại BKT của người khác Phỏng vấn Đã từng sử dụng chung BKT khi TCMT

34 Nhị phân

Xét nghiệm nước tiểu dương tính với ma túy Tỷ lệ xét nghiệm nhanh nước tiểu dương tính với ma túy trên tổng số Lấy nước tiểu bệnh nhân làm XN

xxii

Phƣơng Phân loại TT Biến số Khái niệm pháp thu biến số thập

người xét nghiệm

Hành vi sử dụng chất gây nghiện trong 30 ngày qua

35 Định danh Phỏng vấn Loại ma túy sử dụng trong vòng 30 ngày qua

Liệt kê 11 loại ma túy có thể sử dụng trong 30 ngày qua: heroin, thuốc phiện, hồng phiến, thuốc lắc...

36 Định lượng Số lần sử dụng ma túy theo ngày Phỏng vấn Tần suất sử dụng ma túy trong 30 ngày qua

37 Định danh Phỏng vấn Hình thức sử dụng ma túy trong 30 ngày qua Hình thức sử dụng: Tiêm chích, hút, hít, uống

38 Có hoặc không Nhị phân Phỏng vấn Hành vi sử dụng lại bơm kim tiêm trong 30 ngày qua

Hành vi sử dụng chất kích thích khác

39 Hành vi hút thuốc lá Có hoặc không Nhị phân Phỏng vấn

40 Định danh Liệt kê các mức độ sử dụng theo tần suất Phỏng vấn Tần suất sử dụng rượu, bia, đồ uống có cồn

xxiii

Phƣơng Phân loại TT Biến số Khái niệm pháp thu biến số thập

41 Định danh Liệt kê các mức độ sử dụng Phỏng vấn Số lượng sử dụng trung bình trong ngày

Hành vi quan hệ tình dục

42 Quan hệ tình dục Nhị phân Đối tượng nghiên cứu đã từng có QHTD Phỏng vấn

43 Lần quan hệ tình dục gần đây nhất Thời gian QHTD lần gần nhất Định danh, thứ bậc Phỏng vấn

44 Nhị phân Sử dụng BCS lần QHTD gần đây nhất Phỏng vấn

Hành vi sử dụng BCS lần QHTD gần đây nhất của đối tượng nghiên cứu

45 Nhị phân Quan hệ tình dục với GMD Phỏng vấn Đối tượng nghiên cứu đã từng có QHTD với GMD

46 Định lượng, liên tục Phỏng vấn Số lần QHTD với GMD trong 30 ngày qua

Số lần QHTD với GMD trong 30 ngày qua của đối tượng nghiên cứu

47 Thứ bậc Liệt kê mức độ sử dụng BCS khi QHTD Phỏng vấn

Tần suất sử dụng BCS khi QHTD với GMD trong 30 ngày qua

48 Quan hệ tình dục Đối tượng nghiên cứu Nhị phân Phỏng

xxiv

Phƣơng Phân loại TT Biến số Khái niệm pháp thu biến số thập

với GMD có TCMT đã từng có QHTD vấn

với GMD có TMCT

49 Thứ bậc Phỏng vấn

Tần suất sử dụng BCS khi QHTD với GMD có TCMT trong vòng 30 ngày qua Mức độ đối tượng Nghiên cứu sử dụng BCS trong QHTD với GMD có TCMT (3 mức độ)

Tình trạng sức khỏe, chất lƣợng cuộc sống

50 Định danh Liệt kê các bệnh thường gặp Phỏng vấn Có mắc một số bệnh thường gặp trên người NCMT

51 Thứ bậc Tự đánh giá theo 5 cấp độ Phỏng vấn Đánh giá chất lượng cuộc sống

52 Thứ bậc Tự đánh giá theo 5 cấp độ Phỏng vấn

Đánh giá mức độ hài lòng với sức khỏe của mình

53 Thứ bậc Tự đánh giá theo 5 cấp độ Phỏng vấn Tình trạng sức khỏe trong 2 tuần qua

54 Khả năng lao động Danh mục Phỏng vấn Tự đánh giá theo các mức độ

xxv

MÃ SỐ BỆNH NHÂN:

Phụ lục 2: BỘ CÂU HỎI PHỎNG VẤN BỆNH NHÂN METHADONE

MÃ TỈNH

(1. Lai Châu 2. Điện Biên 3. Yên Bái)

MÃ CƠ SỞ ĐIỀU TRỊ

(1. Lai Châu 2. Phong Th 3. Noong Bua 4. Thanh Xư ng

5. Nghĩa Lộ 6. Tp. Yên Bái)

MÃ SỐ NGHIÊN CỨU:

(Mã tỉnh/Mã CS/Mã nghiên cứu

A1 Ngày phỏng vấn

Ngày / Tháng / Năm

A2

Thời gian bắt đầu phỏng vấn

Giờ / phút

A3

Thời gian kết thúc phỏng vấn

Giờ / phút

A4 Họ tên cán bộ phỏng vấn

Chữ ký

xxvi

1

PHẦN I: THÔNG TIN CHUNG

Ngày sinh

Ngày / Tháng / Năm

Giới tính

2

1. Nam 2. Nữ

Bạn thuộc dân tộc nào?

Điền mã số tư ng ứng

3

Điền mã số tư ng ứng

1. Kinh 2. Hoa 3. Nùng 4. Dao 5. Mường 6. Tày 7. Thái 8. Khác -ghi rõ: (……………………..)

xxvii

PHẦN II: TRÌNH ĐỘ HỌC VẤN VÀ VIỆC LÀM

A. Trình độ học vấn

Trình độ học vấn (lớp cao nhất đã đạt được)?

0. Trình độ 0 = Không đi học

1. Trình độ 1 = Tiểu học: lớp 1-5

2. Trình độ 2 = TH cơ sở: lớp 6-9

5

Điền mã số tư ng ứng

3. Trình độ 3 = THPT: lớp 10-12

4. Trình độ 4 = Trung cấp/ Dạy nghề (1-2 năm)

5. Trình độ 5= Cao đẳng/ Đại học (3-6 năm)

6. Trình độ 6 = Sau đại học (Thạc sỹ, Tiến sĩ)

B. Việc làm

Nghề nghiệp hiện nay của bạn là gì?

7

Điền mã số tư ng ứng

1. Thất nghiệp 2. Lao động tự do 3. Làm ruộng 4. Công nhân 5. Cán bộ, công chức 6. Lái xe 7. Dịch vụ, nhà hàng 8. Học sinh, sinh viên 9. Khác- ghi rõ(………....................................)

Công việc hiện tại của bạn có ổn định không?

8

1. Có

2. Không

Điền mã số tư ng ứng

Bạn có thu nhập cá nhân không?

Điền mã số tư ng ứng

9

1. Có

C. Thu nhập

Nếu không (mã số bằng 2),

2. Không

chuyển sang phần III Số tiền (đồng):

10

Thu nhập hiện tại của bạn?

,

,

xxviii

Tình trạng hôn nhân hiện nay của bạn:

1- Độc thân (chưa bao giờ kết hôn)

2- Đã kết hôn

3- Tái hôn

6

4- Sống cùng bạn tình nhưng chưa kết hôn

PHẦN III: TÌNH TRẠNG GIA ĐÌNH/XÃ HỘI

Điền mã số tư ng ứng

5- Ly thân

6- Ly hôn

7- Góa

Bạn đang sống với ai?

1- Có 2- Không

1. Bố

2. Mẹ

3. Vợ

4. Con

5. Anh, chị, em

12

6. Họ hàng

7. Bạn bè

8. Người yêu/bạn tình

9. Một mình

10. Không ổn định

Những người sống cùng bạn có ai sử dụng ma túy không?

13

1. Có

2. Không

Điền mã số tư ng ứng Nếu không (MS bằng 2), chuyển sang câu 15

1- Có 2-

xxix

Nếu có, đó là ai

Không

1- Bố và/hoặc mẹ

2- Vợ

3- Con

14

4- Anh, chị, em

5- Họ hàng

6- Bạn bè

7- Người yêu/bạn tình

( Tham khảo, kiểm tra và đối chiếu với câu 12)

Trong cuộc sống bạn có mâu thuẫn, bất đồng với ai không?

1. Có

15

Điền mã số tư ng ứng

2. Không

Nếu không (MS bằng 2), chuyển sang câu F7

Nếu có, bạn thường mâu thuẫn với ai? (1- Có; 2- Không)

Từ trƣớc

Trong 30

tới nay

ngày qua

1. Mẹ

2. Bố

16

3. Vợ

4. Con cái

5. Anh, chị, em

6. Họ hàng

7. Bạn bè

8. Hàng xóm

9. Người khác- ghi rõ

xxx

(………....................................)

PHẦN IV: TÌNH TRẠNG VI PHẠM PHÁP LUẬT

Từ trƣớc tới nay

Trong 30 ngày qua

Bạn đã từng có hành vi sau trong gia đình không? (1- Có; 2- Không)

1. Bán đồ dùng của bản thân

2. Cầm đồ dùng của bản thân

3. Nói dối gia đình để có tiền mua ma túy

17

4. Lấy tiền của gia đình

5. Bán đồ đạc của gia đình

6. Cầm đồ đạc của gia đình

7. Đe dọa cưỡng ép người thân

8. Tiền án/tiền sự

xxxi

Khoảng cách từ nhà bạn đến cơ

sở điều trị là bao xa?

74

1. < 5km

Điền mã số tư ng ứng

2. 5-10 km

3. > 10km

Bạn đến cơ sở điều trị bằng

phương tiện nào?

1. Xe đạp

75

Điền mã số tư ng ứng

2. Xe máy

3. Ô tô

4. Khác (ghi rõ: ......................)

PHẦN V: TIẾP CẬN ĐIỀU TRỊ

xxxii

PHẦN VI: VẤN ĐỀ SỬ DỤNG CHẤT GÂY NGHIỆN

I. Tiền sử sử dụng ma túy

Lần đầu tiên bạn sử dụng bất kì loại ma túy nào là khi bạn

(Tuổi)

bao nhiêu tuổi?

18

Lần đó, bạn đã sử dụng loại ma túy nào?

(Hoặc năm bắt đầu sử dụng)

1. Heroin

2. Morphin

3. Thuốc phiện

4. Amphetamines/Methamphetamin

5. Thuốc lắc

19

6. Cần sa

Điền mã số tư ng ứng

7. Tài mà

8. Dorlagan

9. Phenobarbital (thuốc ngủ)

10. Benzodiazepam (Seduxen)

11. Khác- ghi rõ (………....................................)

Trước khi tham gia điều trị, bạn đã sử dụng những chất gây

nghiện nào dưới đây và theo hình thức nào?

Tần suất

0. Không sử dụng; 1. Uống Cắn ; 2. ít; 3. út; 4. Tiêm dưới da; 5. Tiêm

chích trực tiếp vào ven

sử dụng cao

Hình thức sử dụng

. C thể chọn nhiều loại chất gây nghiện đã từng sử dụng .

nhất

(lần/ngày)

1. Heroin

20

2. Morphin

3. Thuốc phiện

4. Amphetamines/Methamphetamin

5. Thuốc lắc

6. Cần sa

7. Tài mà

8. Thuốc ngủ (Dorlagan, Phenobarbital, Seduxen)

9. Khác- ghi rõ (………....................................)

Khi tiêm chích ma túy, bạn đã bao giờ sử dụng lại BKT mà

người khác đã hoặc vừa sử dụng không?

22

1. Có

xxxiii

Điền mã số tư ng ứng

2. Không

3. Không tiêm chích ma túy

II. Tiền sử về các hình thức cai nghiện ma túy mà bạn đã tham gia

Bạn đã bao giờ cai nghiện ma túy chưa?

1. Có

23

2. Không

Nếu có, bạn đã bao nhiêu lần tham gia cai nghiện ma túy?

Điền mã số tư ng ứng Nếu không (mã số bằng 2), chuyển sang câu D11

(Trả lời tất cả các khả năng sau)

Số lần

1. Cai nghiện tập trung tại TT 06

2. Cai nghiện tại cơ sở tư nhân

24

3. Cắt cơn tại cộng đồng (Y tế công)

4. Tự mua thuốc cai

5. Cai khan (không dùng thuốc)

6. Khác- ghi rõ (………...................................)

25

Lần gần đây nhất, bạn cai nghiện là khi nào?

Tháng/Năm

Lần đó, bạn sử dụng hình thức cai nghiện nào?

26

Điền mã số tư ng ứng

1. Cai nghiện tập trung tại trung tâm 2. Cai nghiện tại cơ sở tư nhân 3. Cắt cơn tại cộng đồng (Y tế công) 4. Tự mua thuốc cai 5. Cai khan (không dùng thuốc) 6. Khác- ghi rõ(………...................................)

Lý do tái nghiện của bạn là gì? (1- Có; 2- Không)

1. Bạn bè rủ rê

27

2. Thèm muốn ma túy

3. Buồn chán, thất vọng

4. Khác-ghi rõ (………...................................)

Thời gian từ khi cai nghiện đến khi tái nghiện:

Dài nhất

28

Ngắn nhất

xxxiv

Năm/tháng/ngày

Cho đến nay, tổng số thời gian bạn sử dụng ma túy là bao

29

lâu?

Năm / tháng

Bạn đã bao giờ bị shock do sử dụng ma túy quá liều chưa?

1. Có

30

2. Không

Điền mã số tư ng ứng Nếu không (MS bằng 2), chuyển sang phần III

III. Hành vi sử dụng ma túy trong 30 ngày qua

Tần suất

Trong 30 ngày qua, bạn sử dụng chất gây nghiện nào dưới đây và theo hình thức nào

0. Không dùng; 1. Uống Cắn ; 2. ít; 3. út; 4. Tiêm dưới da; 5. Tiêm

(số lần/ngày)

Hình thức sử dụng

chích trực tiếp vào ven

. Có thể chọn nhiều loại chất gây nghiện đã từng sử dụng .

21

1. Heroin

)

(Nếu ít hơn 1 lần/ngày, ghi số lần/tháng 2. Morphin

)

(Nếu ít hơn 1 lần/ngày, ghi số lần/tháng 3. Thuốc phiện

(Nếu ít hơn 1 lần/ngày, ghi số lần/tháng

)

4. Amphetamines/Methamphetamin

)

(Nếu ít hơn 1 lần/ngày, ghi số lần/tháng 5. Thuốc lắc

)

(Nếu ít hơn 1 lần/ngày, ghi số lần/tháng 6. Cần sa

)

(Nếu ít hơn 1 lần/ngày, ghi số lần/tháng 7. Tài mà

)

(Nếu ít hơn 1 lần/ngày, ghi số lần/tháng 8. Thuốc ngủ (Dorlagan, Phenobarbital, Seduxen)

) (Nếu ít hơn 1 lần/ngày, ghi số lần/tháng 9. Khác- ghi rõ (………....................................)

(Nếu ít hơn 1 lần/ngày, ghi số lần/tháng

)

Số tiền trung bình bạn phải chi trả cho 1 lần dùng chất ma

xxxv

Số tiền:

túy là bao nhiêu?

33

Lƣu ý: Số tiền 1 lần dùng có thể khác với số tiền một

lần mua

IV. Hành vi sử dụng các chất kích thích khác

Hiện tại, bạn có hút thuốc lá không?

1. Có

36

Điền mã số tư ng ứng

2. Không

Trong 30 ngày qua, bạn có sử dụng rượu, bia, đồ uống có

cồn thường xuyên không?

1. 1-2 lần/tháng

2. 1-2 lần/tuần

37

3. 3-4 lần/tuần

Điền mã số tư ng ứng Nếu bệnh nhân không uống (mã 6), chuyển sang phần VI

4. 1 lần/ngày

5. >2 lần/ngày

6. Không uống

Một ngày, trung bình bạn uống bao nhiêu? (đối với rượu)

38

0. Không uống rượu

1. Thỉnh thoảng uống rượu

2. 25 ml/ngày (chén nhỏ)

3. 50-100 ml/ngày (chén lớn)

Điền mã số tư ng ứng

4. 250 ml/ngày

5. 500 ml/ngày

6. >500ml/ngày

xxxvi

xxxvii

PHẦN VII: QUAN HỆ TÌNH DỤC

Bạn đã từng quan hệ tình dục bao giờ chưa?

1. Có

2. Không

60

Bao gồm cả quan hệ tình dục qua âm đạo và qua hậu

Điền mã số tư ng ứng Nếu không (mã số bằng 2)  phần VIII

môn.

Lần gầy đây nhất, bạn quan hệ tình dục là khi nào?

1. Trong vòng 6 tháng qua

2. Từ 06-12 tháng

61

3. Trên 12 tháng qua

Điền mã số tư ng ứng Nếu chƣa bao giờ (Mã số bằng 4)  phần VIII

4. Chưa bao giờ

Lần quan hệ tình dục đó, bạn có sử dụng bao cao su

không?

Điền mã số tư ng ứng

1. Có

62

2. Không

9. Không nhớ

xxxviii

A. Quan hệ tình dục với Gái mại dâm

Bạn đã từng QHTD với phụ nữ

bán dâm chưa?

Điền mã số tư ng ứng

63

1. Có

2. Không

Nếu câu trả lời là “không” hoặc “không nhớ/ không trả lời” (mã số bằng 2 hoặc 3)  phần B

3. Không nhớ/Không trả lời

Trong vòng 1 tháng qua, bạn

Số lần quan hệ tình dục

QHTD với phụ nữ bán dâm bao

64

nhiêu lần?

Không nhớ 99 Nếu không lần nào ghi: “00”  câu 66

Trong 1 tháng qua, bạn có

thường xuyên sử dụng BCS khi

QHTD với phụ nữ bán dâm

không?

65

1. Tất cả các lần

Điền mã số tư ng ứng

2. Lúc có lúc không

3. Không bao giờ

Bạn đã từng QHTD với phụ nữ

mại dâm có tiêm chích chưa?

66

1. Có

2. Không

Điền mã số tư ng ứng Nếu câu trả lời là “không” hoặc “không biết” (mã số bằng 2 hoặc 3) phần B

3. Không biết

Nếu có, bạn có thường xuyên sử

dụng BCS khi QHTD không?

1. Tất cả các lần

67

2. Lúc có lúc không

Điền mã số tư ng ứng

3. Không bao giờ

xxxix

PHẦN VIII: TÌNH TRẠNG SỨC KHỎE

I. Sức khỏe tổng quát

Bạn đã bao giờ bị các bệnh dưới đây chưa?

Mã câu trả lời cho từng bệnh: 1. C 2. Không 3. Không trả lời

7.1. Viêm gan B

Điền mã số tư ng ứng

7.2. Viêm gan C

7.3. Nhiễm trùng cơ hội

Điền mã số tư ng ứng

7.4. Điều trị ARV

M7

7.5. Bệnh khác (ghi rõ ..................................)

Điền mã số tư ng ứng

Điền mã số tư ng ứng

Điền mã số tư ng ứng

xl

CHẤT LƢỢNG CUỘC SỐNG (Khoanh tròn số tƣơng ứng)

Rất xấu

Xấu

Tốt

Rất tốt

Câu hỏi: Trong hai tuần qua,…

Trung bình

1

3

4

5

2

1. Bạn đánh giá chất lƣợng cuộc sống của bạn ở mức độ nào?

Rất không hài lòng

Không hài lòng

Bình thường

Hài lòng

Rất hài lòng

1

3

4

5

2

2. Bạn hài lòng với sức khỏe của mình ở mức độ nào?

Không

Nhiều

Ít

Câu hỏi: Trong hai tuần qua,…

Trung bình

Rất nhiều

1

2

3

4

5

3. Khi bị đau đớn trong cơ thể thì những cơn đau đó cản trở đến việc mà bạn muốn làm ở mức độ nào?

1

3

4

5

2

4. Để có thể hoạt động bình thường trong cuộc sống hàng ngày, bạn cần được uống thuốc hoặc điều trị nhiều ở mức độ nào?

1

3

4

5

2

5. Bạn thấy thích thú với cuộc sống của bạn ở mức độ nào?

1

3

4

5

2

6. Bạn thấy cuộc sống của bạn có ý nghĩa nhiều ở mức độ nào?

Không

Kém

Tốt

Rất tốt

Câu hỏi: Trong hai tuần qua,…

Tương đối

1

5

2

3

4

7. Khi làm việc gì đó thì bạn có khả năng tập trung ở mức độ nào?

1

5

2

3

4

8. Bạn thấy yên tâm với cuộc sống hàng ngày của bạn ở mức độ nào?

1

2

3

4

5

9. Bạn thấy môi trường tự nhiên nơi bạn sống trong lành ở mức độ nào?

Một chút

Gần đủ

xli

Câu hỏi: Trong hai tuần qua,…

Không chút nào

Tương đối

Hoàn toàn đủ

1

2

3

4

5

10. Bạn có đủ sức lực cho các hoạt động trong cuộc sống hàng ngày ở mức độ nào?

12. Bạn có đủ tiền để trang trải các nhu cầu của

1

2

3

4

5

mình ở mức độ nào?

Không hài lòng

Bình thường Hài lòng

Rất hài lòng

Câu hỏi: Trong hai tuần qua,…

Rất không hài lòng

1

2

3

4

5

11. Bạn bằng lòng với ngoại hình của bạn ở mức độ nào?

Khá dễ Dễ dàng

Câu hỏi: Trong hai tuần qua,…

Khá khó khăn

Rất dễ dàng

Không dễ chút nào

1

2

3

4

5

13.Đối với những thông tin (tin tức) muốn tìm hiểu, bạn có thể tìm kiến được dễ dàng ở mức độ nào?

1

2

3

4

5

14. Bạn có cơ hội được giải trí nhiều như bạn muốn không?

1

2

3

4

5

15. Việc đi lại (vận động đi tới đi lui) của bạn dễ dàng ở mức độ nào?

Không hài lòng

Bình thường Hài lòng

Rất hài lòng

Câu hỏi: Trong hai tuần qua,…

Rất không hài lòng

1

2

3

4

5

16. Bạn hài lòng với giấc ngủ của bạn ở mức độ nào?

1

2

3

4

5

17. Bạn hài lòng với khả năng thực hiện các hoạt động hàng ngày của bạn ở mức độ nào?

1

2

3

4

5

18. Bạn hài lòng với khả năng làm việc của bạn ở mức độ nào?

1

2

3

4

5

19. Bạn hài lòng với bản thân mình ở mức độ nào?

Bình thường

Hài lòng

xlii

Câu hỏi: Trong hai tuần qua,…

Rất không hài lòng

Không hài lòng

Rất hài lòng

1

2

3

4

5

20. Bạn hài lòng với các mối quan hệ cá nhân của bạn ở mức độ nào?

1

2

3

4

5

21. Bạn hài lòng với đời sống tình dục của bạn ở mức độ nào? (nếu bệnh nhân nói không có, thì hỏi bệnh nhân có hài lòng với tình trạng không có đó không ?)

1

2

3

4

5

22. Bạn hài lòng với mức độ hỗ trợ của bạn bè ở mức độ nào?

1

2

3

4

5

23. Trong hai tuần qua, bạn hài lòng với những tiện nghi nơi bạn sống ở mức độ nào?

1

2

3

4

5

24. Bạn hài lòng với khả năng sử dụng được các dịch vụ y tế mà bạn cần ở mức độ nào?

1

2

3

4

5

25. Bạn hài lòng như thế nào đối phương tiện di chuyển của bạn?

Ít khi

Câu hỏi: Trong hai tuần qua,…

Không bao giờ

Thỉnh thoảng

Thường xuyên

Luôn luôn

1

2

3

4

5

26. Bạn có thường xuyên có những tâm trạng tiêu cực như chán nản, tuyệt vọng, lo âu, trầm cảm không?

Xin trân trọng cám ơn bạn đã tham gia trả lời câu hỏi!

xliii

CÂU HỎI PHỎNG VẤN SÂU LÃNH ĐẠO CƠ SỞ ĐIỀU TRỊ

1. Anh/Chị cho biết vị trí làm việc hiện nay trong cơ sở điều trị

Methadone, Anh/Chị đã làm công tác này được bao lâu? Trình độ cơ bản của

Anh/chị là gì? Anh/Chị đã tham gia các khóa học nào về điều trị nghiện?

2. Theo Anh/Chị chương trình điều trị Methadone hiện nay gặp các khó

khăn, thuận lợi gì?

Theo Anh/Chị cần làm gì để khắc phục các khó khăn đó?

3. Anh/Chị có gặp khó khăn gì trong công tác không? Đó là những khó

khăn gì?

4. Mô hình tổ chức điều trị hiện nay như thế nào? Có phù hợp với địa

phương không? Nếu cần cải thiện thì phải làm như thế nào?

5. Theo Anh/Chị chương trình methadone mang lại những kết quả gì? Có

những hạn chế gì? Đó là những hạn chế nào?

6. Anh/Chị thấy bệnh nhân tham gia điều trị thay đổi như thế nào? Có

nhiều trường hợp vẫn sử dụng ma túy trong quá trình điều trị không? Theo

A/C là vì sao? Để giảm việc sử dụng ma túy trong quá trình điều trị cần làm

gì?

7. Theo Anh/Chị có nhiều bệnh nhân bỏ trị không? Vì sao? Anh/chị có

liên hệ với bệnh nhân để tìm hiểu lý do không? Đó là những nguyên nhân

nào? Nguyên nhân nào là chủ yếu? để giảm tỷ lệ bỏ trị cần phải làm gì?

8. Anh/chị có đề xuất gì để cải thiện chất lượng dịch vụ điều trị

không?Và có kiến nghị gì cho Sở Y tế, Bộ Y tế?

xliv

CÂU HỎI PHỎNG VẤN SÂU BÁC SĨ ĐIỀU TRỊ

1. Anh/Chị cho biết vị trí làm việc hiện nay trong cơ sở điều trị

Methadone, Anh/Chị đã làm công tác này được bao lâu? Trình độ cơ bản của

Anh/chị là gì? Anh/Chị đã tham gia các khóa học nào về điều trị nghiện?

2. Theo Anh/Chị chương trình điều trị Methadone hiện nay gặp các khó

khăn, thuận lợi gì?

Theo Anh/Chị cần làm gì để khắc phục các khó khăn đó?

3. Anh/Chị có gặp khó khăn gì trong công tác không? Đó là những khó

khăn gì?

4. Mô hình tổ chức điều trị hiện nay như thế nào? Có phù hợp với địa

phương không? Nếu cần cải thiện thì phải làm như thế nào?

5. Theo Anh/Chị chương trình methadone mang lại những kết quả gì? Có

những hạn chế gì? Đó là những hạn chế nào?

6. Anh/Chị thấy bệnh nhân tham gia điều trị thay đổi như thế nào? Có

nhiều trường hợp vẫn sử dụng ma túy trong quá trình điều trị không? Theo

Anh/Chị là vì sao? Để giảm việc sử dụng ma túy trong quá trình điều trị cần

làm gì?

7. Theo Anh/Chị có nhiều bệnh nhân bỏ trị không? Vì sao? Anh/chị có

liên hệ với bệnh nhân để tìm hiểu lý do không? Đó là những nguyên nhân

nào? Nguyên nhân nào là chủ yếu? để giảm tỷ lệ bỏ trị cần phải làm gì?

8. Anh/chị có đề xuất gì để cải thiện chất lượng dịch vụ điều trị

không?Và có kiến nghị gì cho Sở Y tế, Bộ Y tế?

xlv

CÂU HỎI PHỎNG VẤN SÂU TƢ VẤN VIÊN

1. Anh/Chị cho biết vị trí làm việc hiện nay trong cơ sở điều trị

Methadone, Anh/Chị đã làm công tác này được bao lâu? Trình độ cơ bản của

Anh/chị là gì? Anh/Chị đã tham gia các khóa học nào về điều trị nghiện?

2. Theo Anh/Chị chương trình điều trị Methadone hiện nay gặp các khó

khăn, thuận lợi gì? Theo Anh/Chị cần làm gì để khắc phục các khó khăn đó?

3. Mô hình tổ chức điều trị hiện nay như thế nào? Có phù hợp với địa

phương không? Nếu cần cải thiện thì phải làm như thế nào?

4. Theo Anh/Chị chương trình methadone mang lại những kết quả gì? Có

những hạn chế gì? Đó là những hạn chế nào?

5. Anh/Chị thấy bệnh nhân tham gia điều trị thay đổi như thế nào? Có

nhiều trường hợp vẫn sử dụng ma túy trong quá trình điều trị không? Theo

A/C là vì sao? Với những trường hợp vẫn sử dụng ma túy thì Anh/Chị xử lý

như thế nào? Để giảm việc sử dụng ma túy trong quá trình điều trị cần làm gì?

6. Anh/Chị thấy bệnh nhân tham gia điều trị thay đổi như thế nào? Có

nhiều trường hợp vẫn sử dụng ma túy trong quá trình điều trị không? Theo

Anh/Chị là vì sao? Để giảm việc sử dụng ma túy trong quá trình điều trị cần

làm gì?

7. Theo Anh/Chị có nhiều bệnh nhân bỏ trị không? Vì sao? Anh/chị có

liên hệ với bệnh nhân để tìm hiểu lý do không? Đó là những nguyên nhân

nào? Nguyên nhân nào là chủ yếu? để giảm tỷ lệ bỏ trị cần phải làm gì?

xlvi

CÂU HỎI PHỎNG VẤN SÂU BỆNH NHÂN

1. Anh/Chị tham gia điều trị Methadone được lâu chưa?

2. Trước đây A/C hay sử dụng loại ma túy nào?

3. Anh/Chị cho biết liều đang dùng là bao nhiêu không? Khi uống thuốc

thấy thế nào? Có gì khó chịu không?

4. Trong quá trình điều trị có thỉnh thoảng bỏ liều không? Vì sao? Đã

bao giờ bỏ trị chưa? Vì sao?

5. Có thỉnh thoảng dùng thêm heroin hay chất gây nghiện khác không?

Vì sao?

6. A/C đánh giá thế nào về cơ sở Methadone hiện nau: cơ sở vật chất,

cán bộ y tế, địa điểm? thời gian uống thuốc?

7. Anh/Chị hài lòng gì về cơ sở điều trị, không hài lòng gì?

8. Anh chị được hỗ trợ những gì từ cơ sở điều trị?

9. Có yêu cầu gì đối với cơ sở điều trị không?

xlvii

CÂU HỎI THẢO LUẬN NHÓM BỆNH NHÂN

1. Anh/Chị tham gia điều trị Methadone được lâu chưa?

2. Trước đây A/C hay sử dụng loại ma túy nào?

3. Anh/Chị cho biết liều đang dùng là bao nhiêu không? Khi uống thuốc

thấy thế nào? Có gì khó chịu không?

4. Trong quá trình điều trị có thỉnh thoảng bỏ liều không? Vì sao? Đã

bao giờ bỏ trị chưa? Vì sao? Có ai liên hệ khi bỏ liều hoặc bỏ trị không?

5. Có thỉnh thoảng dùng thêm heroin hay chất gây nghiện khác không?

Vì sao?

6. A/C đánh giá thế nào về cơ sở MMTnày: cơ sở VC, cán bộ y tế, địa

điểm? thời gian uống thuốc?

7. Anh/Chị hài lòng gì về cơ sở điều trị, không hài lòng gì?

8. Anh chị được hỗ trợ những gì từ cơ sở điều trị?

9. Có yêu cầu gì đối với cơ sở điều trị không?

xlviii

CÂU HỎI PHỎNG VẤN SÂU NGƢỜI NHÀ BỆNH NHÂN

1. Người thân (con, chồng...) của Anh/Chị tham gia điều trị được lâu

chưa?

2. Trước khi tham gia điều trị, con bác sử dụng ma túy gì? Bao lâu rồi?

bác có những gì phiền muộn về con của mình?

3. Khi tham gia điều trị, bác có thấy con mình thay đổi gì không? Là

những thay đổi nào?

4. Bác thấy cán bộ y tế ở đây thế nào? Có giúp đỡ gì cho con bác và gia

đình bác không? Chính quyền địa phương có giúp gì không?

5. Bác thấy chương trình này có ưu, nhược điểm gì? Cần làm gì để khắc

phục?

xlix

Phụ lục 3: Bảng quy đổi điểm CLCS

Sức khoẻ thể chất

Sức khoẻ tâm thần

Quan hệ xã hội

Môi trƣờng

Điểm gốc 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15

Điểm quy đổi 0 6 19 25 31 44 50 56 69 75 81 94 100

Điểm gốc 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30

Điểm quy đổi 0 6 6 13 19 19 25 31 31 38 44 44 50 56 56 63 69 69 75 81 81 88 94 94 100

Điểm gốc 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34

Điểm quy đổi 0 6 6 13 13 19 19 25 31 31 38 38 44 44 50 56 56 63 63 69 69 75 81 81 88 88 94 94

Điểm gốc 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35

Điểm quy đổi 0 6 6 13 13 19 19 25 25 31 31 38 38 44 44 50 50 56 56 63 63 69 69 75 75 81 81 88

35

100

36

88

37 38 39 40

94 94 100 100