intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Hiệu quả kinh doanh của nghề câu cá ngừ đại dương tỉnh Phú Yên

Chia sẻ: Danh Tuong Vi | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:10

48
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết nghiên cứu hiệu quả kinh doanh của các tàu câu ở Phú Yên 2 năm 2004 và 2005. Dữ liệu trung bình chi phí chuyến biển, doanh thu trung bình, vốn đầu tư được phân tích đề đánh giá mức độ hiệu quả tàu. Nghiên cứu đã phát hiện: chi phí nhiên liệu cao nhất trong tổng chi phí chuyến biển.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Hiệu quả kinh doanh của nghề câu cá ngừ đại dương tỉnh Phú Yên

Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 02/2007<br /> <br /> Trường Đại học Nha Trang<br /> <br /> VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU<br /> <br /> HIỆU QUẢ KINH DOANH CỦA NGHỀ CÂU CÁ NGỪ ĐẠI DƯƠNG TỈNH PHÚ YÊN<br /> ThS. Phan Thị Dung<br /> Khoa Kinh Tế - Trường Đại học Nha Trang<br /> Phú Yên là một trong những tỉnh có nghề câu phát triển mạnh trong thời gian qua, sản lượng khai<br /> thác cá ngừ 1800 tấn năm 2000 và 5040 tấn năm 2005 (chiếm khoảng 44% khu vực Nam Trung Bộ<br /> và 27% sản lượng Việt Nam). Tuy nhiên, do sự phát triển nhanh chóng của số lượng tàu thuyền làm<br /> cho sản lượng khai thác giảm, một số tàu làm ăn lỗ, tình trạng mất trật tự trên biển xảy ra… Bài này<br /> nghiên cứu hiệu quả kinh doanh của các tàu câu ở Phú Yên 2 năm 2004 và 2005. Dữ liệu trung bình<br /> chi phí chuyến biển, doanh thu trung bình, vốn đầu tư được phân tích đề đánh giá mức độ hiệu quả<br /> tàu. Nghiên cứu đã phát hiện: chi phí nhiên liệu cao nhất trong tổng chi phí chuyến biển, tàu có vốn<br /> đầu tư cao không phải hiệu quả cao, tàu công suất từ 90-140CV là có hiệu quả cao nhât.<br /> 1. ĐẶT VẤN ĐỀ<br /> Nghề câu cá ngừ đại dương ở Phú Yên<br /> hình thành từ những năm 1997, khi Nhà nước<br /> thực hiện chủ trương khuyến khích phát triển<br /> khai thác xa bờ. Sản lượng khai thác cá ngừ<br /> gia tăng nhanh chóng, năm 2000 là 1.800 tấn,<br /> năm 2005 là 5.040 tấn (chiếm 44% khu vực và<br /> 27% sản lượng khai thác cá ngừ đại dương<br /> của cả nước). Sự phát triển nhanh chóng nghề<br /> câu cá ngừ đại dương ở tỉnh Phú Yên đã giúp<br /> cho tỉnh có những khởi sắc đáng kể. Tuy<br /> nhiên, do sự phát triển quá ồ ạt trong thời gian<br /> qua đã làm cho sản lượng khai thác của một<br /> số hộ giảm sút, năng suất khai thác không còn<br /> như mong muốn, một số hộ làm ăn thua lỗ,<br /> tình trạng mất trật tự trên biển thường xảy<br /> ra…Do vậy, việc nghiên cứu hiệu quả kinh<br /> doanh của nghề câu là rất cần thiết.<br /> 2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU<br /> - Điều tra và phân tích doanh thu, chi phí<br /> tàu câu tỉnh Phú Yên.<br /> - Đánh giá hiệu quả kinh doanh của các<br /> tàu câu của tỉnh Phú Yên.<br /> 3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU<br /> a. Phương pháp luận<br /> Tác giả thực hiện các phương pháp<br /> nghiên cứu trên nền tảng của phương pháp<br /> duy vật biện chứng và duy vật lịch sử để xem<br /> xét các vấn đề nghiên cứu.<br /> b. Phương pháp thu thập dữ liệu<br /> Các dữ liệu thứ cấp được thu thập từ các<br /> nguồn như: niên giám thống kê tỉnh Phú Yên, báo<br /> cáo hằng năm của Sở Thủy sản Phú Yên, Chi cục<br /> Bảo vệ nguồn lợi Phú Yên, Trung tâm Khuyến<br /> ngư tỉnh Phú Yên, Hội nghề cá tỉnh Phú Yên.<br /> <br /> - Các dữ liệu sơ cấp được tác giả điều tra<br /> trực tiếp thông qua người dẫn đường là cán bộ<br /> thủy sản của địa phương. Mẫu được chọn trên<br /> cơ sở phân theo dải công suất, theo địa phương<br /> để điều tra. Theo báo cáo tổng kết của Sở Thuỷ<br /> sản Phú Yên thì tổng số tàu thuyền của tỉnh đến<br /> 12/2005 là 4.070 chiếc, bao gồm các nghề như:<br /> mành, lưới kéo, lưới rê, lưới vây, pha súc, câu,<br /> và một số tàu làm dịch vụ hậu cần. Trong thời<br /> gian qua nghề này đã phát triển một cách nhanh<br /> chóng, năm 2000 là 270 tàu, năm 2005 đã là<br /> 725 tàu, chiếm 18% số lượng tàu thuyền của<br /> toàn tỉnh. Các tàu câu ở tỉnh Phú Yên phân bổ<br /> tập trung chủ yếu ở thành phố Tuy Hoà, chiếm<br /> tới 65% nghề câu. Hai phường có số tàu câu<br /> nhiều nhất là Phường 6 và Phường Phú Lâm<br /> (chiếm trên 90% số tàu câu của thành phố Tuy<br /> Hoà). Chính do đặc điểm như vậy chúng tôi đã<br /> tiến hành thu mẫu tại 2 phường có số tàu câu<br /> phát triển mạnh là Phú Lâm và Phường 6 để<br /> nghiên cứu.<br /> c. Phương pháp phân tích<br /> Phân tích doanh thu và chi phí theo cơ cấu<br /> và sự thay đổi qua hai năm, đồng thời sử dụng<br /> một số chỉ tiêu để đánh giá hiệu quả kinh doanh<br /> trong nghề câu.<br /> 4. TỔNG QUAN VỀ CÁC NGHIÊN CỨU<br /> - Trong nước đã có một số nghiên cứu về<br /> hiệu quả kinh tế của tàu cá như Đào Mạnh Sơn<br /> và CTV (2004) [2], Viện kinh tế & Qui hoạch thủy<br /> sản (2005) [9], Nguyễn Thị Kim Anh và CTV<br /> (2006) [5].<br /> - Các nghiên cứu ở nước ngoài về hiệu quả<br /> nghề cá có rất nhiều tác giả như: Khem r. sharma,<br /> Pingsun leung (1999) [3], Taylor và Prochaska,<br /> Dann và Pascoe (2001), Pascoe, Sean và Coglan,<br /> Louisa (2002), Jesper Levring Andersen (2002),<br /> Erik Lindebo (2004), Sbrana Mario, Sartor Paolo và<br /> 15<br /> <br /> Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 02/2007<br /> Belcari Paola (2003), Pascal Le FLOC'H và<br /> CTV (2006) [6], Paolo Accadia, Massimo<br /> Spagnolo (2006) [7]…<br /> Tuy nhiên, chưa có một nghiên cứu nào về<br /> hiệu quả kinh doanh của tàu câu ở tỉnh Phú Yên.<br /> 5. MỘT SỐ CHỈ TIÊU ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ<br /> KINH DOANH TRONG NGHỀ CÂU<br /> Hiệu quả kinh tế của hoạt động sản xuất<br /> kinh doanh là một phạm trù kinh tế phản ánh<br /> trình độ sử dụng các nguồn lực (lao động, máy<br /> móc, thiết bị, nguyên vật liệu và tiền vốn)<br /> nhằm đạt được mục tiêu mà doanh nghiệp đã<br /> xác định.<br /> Các chỉ tiêu kết quả như: Doanh thu, Giá<br /> trị gia tăng, Dòng tiền (Lợi nhuận trước khấu<br /> hao và lãi vay), Lợi nhuận ròng.<br /> Các chỉ tiêu hiệu quả kinh doanh được sử<br /> dụng trong nghiên cứu: Doanh thu khai thác/Vốn<br /> đầu tư (DT/VĐT), Giá trị gia tăng/Vốn đầu tư<br /> (GTGT/VĐT), Doanh thu/Lao động (DT/LĐ), Giá<br /> trị gia tăng/Lao động (DT/LĐ), Giá trị gia<br /> tăng/Doanh thu (GTGT/DT), Giá trị gia tăng/Chi<br /> phí hoạt động (GTGT/CPHĐ), Dòng tiền/Chi phí<br /> hoạt động (GF/CPHĐ), Dòng tiền/Doanh thu<br /> (GF/DT), Giá trị gia tăng/Doanh thu (GTGT/DT),<br /> Thu nhập bình quân lao động (TNBQ).<br /> <br /> Trường Đại học Nha Trang<br /> 6. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU<br /> 6.1. Mô tả dữ liệu<br /> Mùa vụ chính thường bắt đầu từ tháng 11<br /> và kết thúc vào tháng 5 âm lịch hằng năm. Ngư<br /> trường khai thác những tháng đầu mùa là ngư<br /> trường phía Bắc, xa nhất là 18 độ Bắc còn chủ<br /> yếu ở 17 và 16 vĩ độ Bắc, cá biệt có những tàu<br /> bắt đầu đánh ở 14 vĩ độ Bắc. Đối với những<br /> tháng cuối mùa di chuyển đến ngư trường phía<br /> Nam, bắt đầu từ khoảng 12 – 5 vĩ độ Bắc, trong<br /> đó vĩ độ 6, 7, 8 chiếm chủ yếu. Kinh độ khai thác<br /> các tàu cũng khác nhau. Độ chênh lệnh kinh độ<br /> nhỏ nhất là 1 còn cao nhất là 10 độ. Các tàu bắt<br /> đầu khai thác từ 106 - 117 kinh độ Đông, cá biệt<br /> có 1 tàu khai thác ở 119 - 117 kinh độ Đông.<br /> Toàn bộ dữ liệu thu thập được là 120 mẫu.<br /> Tuy nhiên, có một số mẫu tàu mới vừa đóng nên<br /> số liệu về doanh thu, chi phí chưa phản ánh<br /> được đầy đủ thông tin cho nghiên cứu, một số<br /> mẫu chủ tàu quên một số thông tin. Chính vì vậy<br /> tác giả đã tiến hành loại bỏ các mẫu này để đảm<br /> bảo sự phù hợp các mẫu trong quá trình nhập<br /> liệu phân tích. Bên cạnh đó cơ cấu tàu thuyền<br /> theo dải công suất cũng phải đảm bảo theo tỷ lệ<br /> với tổng thể. Cuối cùng tác giả chấp nhận đánh<br /> đổi giữa số lượng mẫu và giá trị mẫu để nhận<br /> con số 80 mẫu cho nghiên cứu, đây cũng là con<br /> số trên 10 % tổng thể nghiên cứu (Số mẫu được<br /> chọn cho tổng thể của tổng cục thống kê là 3%,<br /> số mẫu nghiên cứu n ≥ 30).<br /> <br /> Bảng 1: Cấu trúc mẫu điều tra theo dải công suất<br /> Tần suất<br /> tích luỹ (%)<br /> 32,50<br /> <br /> 45- 89 CV<br /> 90- 140 CV<br /> <br /> 27<br /> <br /> 33,75<br /> <br /> 33,75<br /> <br /> 66,25<br /> <br /> Trên 140 CV<br /> <br /> 27<br /> <br /> 33,75<br /> <br /> 33,75<br /> <br /> 100<br /> <br /> Tổng<br /> <br /> 80<br /> <br /> 100,0<br /> <br /> 100,0<br /> <br /> Tần suất (%)<br /> <br /> 6.2. Phân tích hiệu quả kinh doanh nghề<br /> câu cá ngừ đại dương ở Phú Yên<br /> a. Phân tích vốn đầu tư<br /> Vốn đầu tư cho tàu câu thể hiện toàn bộ<br /> chi phí chủ tàu bỏ ra để đầu tư cho tàu, bao<br /> gồm giá trị đầu tư cho máy, vỏ, thiết bị điện tử,<br /> ngư lưới cụ, các khoản khác. Các chủ tàu có<br /> <br /> 16<br /> <br /> 32,50<br /> <br /> Tần suất<br /> thực tế (%)<br /> 32,50<br /> <br /> Tần số<br /> (số quan sát)<br /> 26<br /> <br /> Công suất<br /> <br /> thể tự bỏ tiền ra đầu tư toàn bộ hoặc nhận vốn<br /> góp của các chủ khác hoặc bạn nghề cùng làm.<br /> Các bên góp vốn sẽ được ăn chia dựa trên cơ<br /> sở doanh thu trừ đi chi phí chuyến biển. Một<br /> phần lợi nhuận sẽ chia cho chủ sở hữu ghe,<br /> máy và các thiết bị điện tử tuỳ thuộc vào tàu.<br /> Thông thường tỷ lệ chia cho chủ sở hữu ghe<br /> máy ở Phú Yên là 30% đến 35%.<br /> <br /> Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 02/2007<br /> <br /> Trường Đại học Nha Trang<br /> <br /> Bảng 2 : Giá trị và cơ cấu đầu tư cho tàu câu ở Phú Yên<br /> Đơn vị tính: 1.000 đ<br /> Dãy<br /> công<br /> suất,<br /> CV<br /> <br /> Giá trị<br /> <br /> Tỷ<br /> trọng<br /> <br /> Vỏ tàu<br /> <br /> Máy<br /> Giá trị<br /> <br /> Ngư cụ<br /> Tỷ<br /> trọng<br /> <br /> Giá trị<br /> <br /> Tỷ<br /> trọng<br /> <br /> Thiết bị<br /> điện tử<br /> Giá trị<br /> <br /> Tỷ<br /> trọng<br /> <br /> Chiếu sáng<br /> Giá trị<br /> <br /> Tỷ<br /> trọng<br /> <br /> Khác<br /> Giá trị<br /> <br /> Tỷ<br /> trọng<br /> <br /> Tổng<br /> giá trị<br /> đầu tư<br /> <br /> 45-89<br /> <br /> 103.985<br /> <br /> 42%<br /> <br /> 66.093<br /> <br /> 27%<br /> <br /> 50.330<br /> <br /> 20%<br /> <br /> 16.175<br /> <br /> 7%<br /> <br /> 5.593<br /> <br /> 2%<br /> <br /> 6.543<br /> <br /> 3%<br /> <br /> 248.718<br /> <br /> 90-40<br /> <br /> 174.707<br /> <br /> 43%<br /> <br /> 127.561<br /> <br /> 31%<br /> <br /> 62.521<br /> <br /> 15%<br /> <br /> 24.200<br /> <br /> 6%<br /> <br /> 7.525<br /> <br /> 2%<br /> <br /> 10.066<br /> <br /> 2%<br /> <br /> 406.581<br /> <br /> ≥ 140<br /> <br /> 235.436<br /> <br /> 47%<br /> <br /> 152.000<br /> <br /> 31%<br /> <br /> 66.344<br /> <br /> 13%<br /> <br /> 24.174<br /> <br /> 5%<br /> <br /> 7.756<br /> <br /> 2%<br /> <br /> 11.872<br /> <br /> 2%<br /> <br /> 497.583<br /> <br /> Bảng 2 cho thấy số liệu về vốn đầu tư<br /> bình quân cho tàu thuộc dãy công suất 45-89<br /> CV là 248 triệu đồng, tàu có công suất từ 90140CV mức đầu tư là 406 triệu đồng, tàu trên<br /> 140 CV có mức đầu tư là 497 triệu đồng. Các<br /> tàu lớn có mức đầu tư về tất cả các khoản đều<br /> lớn hơn tàu nhỏ, duy chỉ có trường hợp thiết bị<br /> điện tử tàu 90-140 CV lớn hơn tàu trên 140CV<br /> là do một số chủ tàu mua la bàn có giá trị lớn 5<br /> triệu đồng/chiếc.<br /> Đối với giá trị đầu tư về thiết bị điện tử<br /> bao gồm máy tầm gần, máy tầm xa, định vị và<br /> la bàn. Số liệu điều tra cho thấy 100% tàu đều<br /> trang bị la bàn, định vị, máy tầm gần. Đối với<br /> máy tầm xa có 61/80 tàu trang bị (chiếm 74%),<br /> trong đó chủ yếu là các tàu có công suất lớn.<br /> Có 19 tàu không trang bị máy đàm xa, bao<br /> gồm 16 tàu có công suất từ 45-89 CV và 3 tàu<br /> công suất 90CV. Chi phí đầu tư cho máy đàm<br /> xa từ 10-18 triệu đồng tuỳ loại và tuỳ thời điểm<br /> đầu tư. Đối với các tàu đầu tư mới sau này<br /> đều có công suất lớn nên đều đầu tư thiết bị<br /> này. Chi phí đầu tư cho các thiết bị này chiếm<br /> khoảng 5÷7% tổng chi phí đầu tư.<br /> Chi phí ngư cụ bao gồm dàn câu và lưới<br /> dùng để bắt cá chuồn làm mồi câu. Đối với<br /> dàn câu chi phí từ 20÷45 triệu đồng, với số<br /> lưỡi từ 400÷1.000 lưỡi, bình quân là 697<br /> lưỡi/tàu. Các tàu có số lưỡi từ 600 trở lên là<br /> 60 tàu (chiếm 75%). Thông thường các tàu có<br /> công suất cao thì số lưỡi câu nhiều hơn,<br /> chẳng hạn tàu 90 đến 140 CV bình quân 726<br /> lưỡi, với giá trị là 34,5 triệu đồng. Trong khi đó<br /> các tàu có công suất từ 45-89CV có số lưỡi<br /> bình quân là 530 lưỡi, với giá trị câu là 25,1<br /> triệu đồng.<br /> <br /> Giá trị máy bao gồm máy chính và máy<br /> phụ. Đa phần các tàu đều trang bị máy cũ<br /> (chiếm 95%), chỉ có một số tàu đóng sau được<br /> trang bị máy mới. Chênh lệch giá trị máy mới và<br /> máy cũ rất đáng kể (gần gấp đôi). Máy có công<br /> suất nhỏ giá trị thấp hơn máy có công suất lớn.<br /> Các tàu ở dải công suất 45-89 CV giá trị máy chỉ<br /> gần 1 nửa tàu 90-140CV và khoảng 42% giá trị<br /> của tàu trên 140CV. Giá trị của máy chính là<br /> đáng kể còn máy phụ trang bị rất thấp. Chi phí<br /> đầu tư cho máy móc chiếm từ 27÷ 31% tổng giá<br /> trị đầu tư.<br /> Các tàu câu đều làm từ vật liệu vỏ gỗ, hiện<br /> nay giá gỗ luôn gia tăng nên giá trị vỏ tàu lớn.<br /> Giá trị đầu tư vỏ chiếm tỷ trọng lớn nhất trong<br /> tổng giá trị đầu tư từ 42-47%. Đối với dải công<br /> suất 45-89 CV giá trị vỏ là 103,9 triệu đồng chưa<br /> bằng một nửa dải công suất trên 140CV - 235<br /> triệu đồng. Hầu hết các tàu đều được đóng tại<br /> tỉnh Phú Yên. Năm 2003, ở Phú Yên có 16 cơ<br /> sở và 5 hợp tác xã đóng tàu, với số lượng lao<br /> động là 320 người, trong đó nhiều thợ bậc cao,<br /> có khả năng đóng mới được tàu công suất đến<br /> 265 CV và sửa chữa các tàu có công suất đến<br /> 300CV.<br /> b. Phân tích chi phí cố định<br /> Mục tiêu của phân tích chi phí cố định là để<br /> xem xét cơ cấu chi phí cố định và sự biến động<br /> của chi phí cố định qua 2 năm. Chi phí cố định<br /> được xem xét gồm chi phí khấu hao tàu, máy và<br /> ngư lưới cụ; chi phí lãi vay (vay ngân hàng và tư<br /> nhân); chi phí bảo hiểm tàu và bảo hiểm thuỷ<br /> thủ trên tàu; chi phí sửa chữa lớn hàng năm về<br /> máy, vỏ tàu, các thiết bị cơ khí và các chi phí đại<br /> tu (thời gian khoảng 3 đến 5 năm làm một lần);<br /> các khoản thuế. Chỉ phí cố định được thể hiện<br /> ở bảng 3.<br /> <br /> 17<br /> <br /> Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 02/2007<br /> <br /> Trường Đại học Nha Trang<br /> <br /> Bảng 3: Chi phí cố định tàu câu tỉnh Phú Yên<br /> Đơn vị tính: 1.000 đ<br /> Dãy công<br /> suất, CV<br /> <br /> Khấu hao<br /> <br /> Lãi vay<br /> <br /> Bảo hiểm<br /> <br /> Sửa chữa lớn<br /> <br /> Thuế<br /> <br /> Tổng<br /> <br /> Năm 2004<br /> <br /> Giá trị<br /> <br /> Tỷ<br /> trọng<br /> <br /> 45-89<br /> <br /> 20.809<br /> <br /> 32%<br /> <br /> 21.947<br /> <br /> 34%<br /> <br /> 4.070<br /> <br /> 6%<br /> <br /> 14.713<br /> <br /> 23%<br /> <br /> 3.589<br /> <br /> 6%<br /> <br /> 65.128<br /> <br /> 90-140<br /> <br /> 34.680<br /> <br /> 42%<br /> <br /> 17.575<br /> <br /> 21%<br /> <br /> 4.314<br /> <br /> 5%<br /> <br /> 21.093<br /> <br /> 26%<br /> <br /> 4.568<br /> <br /> 6%<br /> <br /> 82.230<br /> <br /> ≥ 140<br /> <br /> 41.010<br /> <br /> 42%<br /> <br /> 35.095<br /> <br /> 36%<br /> <br /> 4.337<br /> <br /> 4%<br /> <br /> 11.003<br /> <br /> 11%<br /> <br /> 5.100<br /> <br /> 5%<br /> <br /> 96.545<br /> <br /> 45-89<br /> <br /> 20.809<br /> <br /> 33%<br /> <br /> 14.448<br /> <br /> 23%<br /> <br /> 4.133<br /> <br /> 7%<br /> <br /> 19.157<br /> <br /> 31%<br /> <br /> 3.589<br /> <br /> 6%<br /> <br /> 62.136<br /> <br /> 90-140<br /> <br /> 34.680<br /> <br /> 39%<br /> <br /> 21.896<br /> <br /> 25%<br /> <br /> 4.162<br /> <br /> 5%<br /> <br /> 23.779<br /> <br /> 27%<br /> <br /> 4.568<br /> <br /> 5%<br /> <br /> 89.085<br /> <br /> ≥ 140<br /> <br /> 41.010<br /> <br /> 37%<br /> <br /> 41.801<br /> <br /> 37%<br /> <br /> 4.757<br /> <br /> 4%<br /> <br /> 19.453<br /> <br /> 17%<br /> <br /> 5.100<br /> <br /> 5%<br /> <br /> 112.121<br /> <br /> Giá trị<br /> <br /> Tỷ<br /> trọng<br /> <br /> Giá<br /> trị<br /> <br /> Tỷ<br /> trọng<br /> <br /> Giá trị<br /> <br /> Tỷ<br /> trọng<br /> <br /> Giá<br /> trị<br /> <br /> Tỷ<br /> trọng<br /> <br /> Năm 2005<br /> <br /> Đối với chi phí khấu hao được tính toán<br /> dựa trên phương pháp khấu hao bình quân,<br /> thời gian tính khấu hao được dựa trên quyết<br /> định 206/QĐ-BTC của Bộ Tài chính. Sau khi<br /> tính khấu hao cho máy, vỏ tàu và ngư lưới cụ<br /> cộng lại có được tổng chi phí khấu hao. Các<br /> tàu được chọn trong mẫu được đóng và đi vào<br /> hoạt động từ năm 2004 trở về trước. Chính vì<br /> vậy số khấu hao 2 năm 2004 và 2005 là như<br /> nhau. Hạn chế của phương pháp tính khấu<br /> hao này là chỉ tính theo giá đầu tư ban đầu<br /> của chủ tàu chứ chưa tính được theo giá thực<br /> tế hiện nay, do bản thân chủ tàu không thể xác<br /> định giá thực tế của tàu mình, hệ số lạm phát<br /> chung thì chưa phản ánh đúng giá thực tế, chỉ<br /> số tăng giá của các thiết bị tác giả không có<br /> được. Khoảng thời gian hai năm được coi là<br /> ngắn nên các thay đổi về giá cả có thể bỏ qua.<br /> Đối với chi phí lãi vay gồm lãi vay ngân<br /> hàng và lãi vay tư nhân. Tiền lãi vay được tính<br /> trên số tiền vay, lãi suất vay vốn, số tháng vay<br /> trong năm. Số hộ vay vốn rất lớn, năm 2004<br /> có 55 hộ vay ngân hàng với lãi suất từ 0,95<br /> ÷1,5%/tháng, với số tiền vay thấp nhất là 40<br /> triệu đồng và cao nhất là 150 triệu đồng. Số hộ<br /> vay tư nhân là 44 hộ với lãi suất từ 2÷<br /> 6%/tháng, chủ yếu là 3%/tháng, lãi suất này<br /> cao rất nhiều so với lãi vay ngân hàng với số<br /> tiền từ 10÷250 triệu đồng. Mức vay phổ biến là<br /> 50 triệu đồng. Sang năm 2005 số hộ vay ngân<br /> hàng là 73 hộ, vay tư nhân là 27 hộ với mức<br /> vay phổ biến từ 50÷100 triệu đồng lãi suất phổ<br /> biến là 3%, số tháng vay thông thường là 8<br /> tháng. Ngoài vay ngân hàng và tư nhân các hộ<br /> còn mượn tiền của chủ nậu để mua đá, dầu,<br /> thực phẩm. Số hộ mượn của nậu là 73 (chiếm<br /> 96,3%) với số tiền mượn từ 20÷100 triệu đồng<br /> trong đó mức 50 triệu đồng là phổ biến (chiếm<br /> 18<br /> <br /> 59,7%). Số tiền mượn nậu thường không phải<br /> trả lãi, tuy nhiên khi có cá đều phải bán cho nậu.<br /> Chi phí lãi vay chiếm từ 21÷37% tổng chi phí cố<br /> định trong 1 năm tuỳ thuộc vào chủ tàu. Chi phí<br /> lãi vay lớn là do ngư dân khi đầu tư tàu chưa đủ<br /> vốn, trong thời gian qua các tàu câu đều được<br /> đóng mới và một phần do nghề câu những năm<br /> 2000 ÷ 2004 tương đối phát triển mạnh nên ngư<br /> dân đua nhau đóng tàu có công suất lớn.<br /> Đối với chi phí bảo hiểm gồm bảo hiểm tàu<br /> và bảo hiểm thuyền viên. Số tàu tham gia bảo<br /> hiểm tàu năm 2004 là 76/80, năm 2005 là 78/80.<br /> Đối với bảo hiểm thuyền viên năm 2004 là 78/80<br /> năm 2005 là 80/80. Nhìn chung các chủ tàu đã ý<br /> thức được việc mua bảo hiểm cho lao động và<br /> cho tàu. Tuy nhiên mức mua bảo hiểm chỉ ở<br /> mức thấp nhất. Chi phí bảo hiểm chiếm từ 4÷7%<br /> tổng chi phí cố định.<br /> Đối với chi phí sửa chữa lớn hàng năm<br /> thường là chi phí làm nước và làm máy. Chi phí<br /> đại tu thường thì từ 3÷ 5 năm làm 1 lần, chi phí<br /> này được phân bổ cho từng năm căn cứ vào<br /> khoảng thời gian tiến hành. Năm 2004 có 54/80<br /> tàu làm vỏ, 53/80 tàu làm máy. Năm 2005 có<br /> 77/80 tàu làm vỏ, 73/80 tàu làm máy. Các khoản<br /> sửa chữa lớn khác rất ít tiến hành. Chi phí sửa<br /> chữa lớn chiếm rất đáng kể trong tổng chi phí cố<br /> định. Do đặc thù của tàu cá là hằng năm phải<br /> làm nước và sửa chữa lại hầm bảo quản nên chi<br /> phí này cao. Bên cạnh đó, do giá cả tăng nên<br /> chi phí này năm 2005 tăng hơn so với năm<br /> 2004. Chẳng hạn như đối với tàu từ 45÷89 CV<br /> năm 2004 là 14,13 triệu đồng năm 2005 đã là<br /> 19,15 triệu đồng, tỷ lệ tăng là 30,2%, của dải<br /> công suất 90-140CV là 12,7%, của dải công<br /> suất trên 140CV là 76,7 %. Khoản chi phí này<br /> chiếm từ 11÷31 % tổng chi phí cố định.<br /> <br /> Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 02/2007<br /> Đối với chi phí về thuế hiện nay các tàu<br /> chiếm từ 5 đến 6% tổng chi phí cố định. Theo<br /> thông tư số 74/2006/TT-BTC ngày 16 tháng 8<br /> năm 2006 của Bộ Tài chính để hỗ trợ cho ngư<br /> dân khai thác, bắt đầu năm 2006 ÷ 2010 sẽ<br /> tiến hành miễn thuế môn bài, thuế tài nguyên<br /> và thuế thu nhập doanh nghiệp đối với hoạt<br /> động đánh bắt hải sản. Việc miễn thuế này sẽ<br /> giảm đáng kể khoản chi phí cố định cho ngư<br /> dân.<br /> Nhìn chung chi phí cố định năm 2005<br /> tăng hơn năm 2004. Đối với dải công suất 45 ÷<br /> 89CV năm 2004 là 65,1 triệu đồng năm 2005<br /> là 62,1 triệu đồng giảm 5% do chi phí lãi vay<br /> của dãy này giảm rất đáng kể (giảm 35%) còn<br /> các chi phí khác đều tăng. Đối với dải công<br /> suất 90 -140CV năm 2004 là 82,2 triệu đồng<br /> năm 2005 là 89,0 triệu đồng tăng 8,3%. Đối<br /> <br /> Trường Đại học Nha Trang<br /> với dải công suất trên 140CV năm 2004 là 96,5<br /> triệu đồng năm 2005 là 112,1 triệu đồng tăng<br /> 16,1%.<br /> Các tàu có công suất lớn thì chi phí cố định<br /> lớn. Các khoản chi phí cố định chiếm tỷ trọng<br /> cao là khấu hao (trên 32%), lãi vay (trên 21%)<br /> và sửa chữa lớn (trên 11%).<br /> c. Phân tích chi phí biến đổi<br /> Phân tích chi phí biến đổi được xem xét<br /> cho từng dải công suất về sự biến động chi phí,<br /> cơ cấu chi phí biến đổi qua 2 năm. Chi phí biến<br /> đổi cho chuyến biển bao gồm các khoản chi phí<br /> về dầu, nhớt, đá cây, lương thực, thực phẩm,<br /> mồi câu, các khoản sửa chữa nhỏ cho chuyến<br /> biển như lưỡi, thẻo câu, phụ tùng và các chi phí<br /> lặt vặt khác như tiền cập cảng, tiền mua đồ cúng<br /> biển để tạo niềm tin cho ngư dân.<br /> <br /> Bảng 4: Chi phí biến đổi bình quân 1 chuyến biển<br /> Đơn vị tính: 1.000 đ<br /> Dãy công<br /> suất<br /> <br /> Nhiên liệu<br /> <br /> Mồi câu<br /> <br /> Lương thực<br /> <br /> Sửa chữa nhỏ<br /> <br /> Nước đá<br /> <br /> Tổng<br /> chi phí<br /> chuyến<br /> biển<br /> <br /> Tổng chi<br /> phí cả<br /> năm<br /> <br /> Năm 2004<br /> <br /> Giá trị<br /> <br /> Tỷ<br /> trọng<br /> <br /> 45-89<br /> <br /> 10.609<br /> <br /> 33%<br /> <br /> 10.296<br /> <br /> 32%<br /> <br /> 4.722<br /> <br /> 15%<br /> <br /> 3.468<br /> <br /> 11%<br /> <br /> 2.826<br /> <br /> 9%<br /> <br /> 31.921<br /> <br /> 268.313<br /> <br /> 90-140<br /> <br /> 16.603<br /> <br /> 38%<br /> <br /> 12.714<br /> <br /> 30%<br /> <br /> 5.271<br /> <br /> 12%<br /> <br /> 5.118<br /> <br /> 12%<br /> <br /> 3.813<br /> <br /> 9%<br /> <br /> 43.519<br /> <br /> 298.318<br /> <br /> ≥ 140<br /> <br /> 17.265<br /> <br /> 40%<br /> <br /> 12.520<br /> <br /> 29%<br /> <br /> 5.200<br /> <br /> 12%<br /> <br /> 4.610<br /> <br /> 11%<br /> <br /> 4.010<br /> <br /> 9%<br /> <br /> 43.605<br /> <br /> 316.057<br /> <br /> 45-89<br /> <br /> 16.404<br /> <br /> 39%<br /> <br /> 11.370<br /> <br /> 27%<br /> <br /> 5.889<br /> <br /> 14%<br /> <br /> 4.094<br /> <br /> 10%<br /> <br /> 2.998<br /> <br /> 7%<br /> <br /> 40.756<br /> <br /> 337.227<br /> <br /> 90-140<br /> <br /> 25.709<br /> <br /> 46%<br /> <br /> 14.964<br /> <br /> 27%<br /> <br /> 6.054<br /> <br /> 11%<br /> <br /> 5.514<br /> <br /> 10%<br /> <br /> 4.143<br /> <br /> 8%<br /> <br /> 56.384<br /> <br /> 349.902<br /> <br /> ≥ 140<br /> <br /> 26.724<br /> <br /> 47%<br /> <br /> 14.520<br /> <br /> 26%<br /> <br /> 5.872<br /> <br /> 10%<br /> <br /> 5.172<br /> <br /> 9%<br /> <br /> 4.684<br /> <br /> 8%<br /> <br /> 56.972<br /> <br /> 386.361<br /> <br /> Giá trị<br /> <br /> Tỷ<br /> trọng<br /> <br /> Giá trị<br /> <br /> Tỷ<br /> trọng<br /> <br /> Giá trị<br /> <br /> Tỷ<br /> trọng<br /> <br /> Giá trị<br /> <br /> Tỷ<br /> trọng<br /> <br /> Năm 2005<br /> <br /> Số liệu được thể hiện ở bảng 4 cho biết<br /> chi phí biến đổi bình quân 1 chuyến biển đối<br /> với tàu từ 45-89 CV là 31,9 triệu đồng ở năm<br /> 2004 thì năm 2005 đã là 40,7 triệu đồng tỷ lệ<br /> tăng là 27,7%. Đối với dải công suất từ 90140 CV là 43,5 triệu đồng ở năm 2004 đến<br /> năm 2005 đã là 56,3 triệu đồng tỷ lệ tăng là<br /> 29,6%. Đối với tàu trên 140CV năm 2004 là<br /> 43,6 triệu đồng thì năm 2005 là 56,9 triệu đồng<br /> tỷ lệ tăng chi phí biến đổi là 30,7%. Tỷ lệ tăng<br /> chi phí năm 2005 so 2004 tuỳ thuộc vào từng<br /> dãy công suất. Các tàu lớn thì tốc độ tăng chi<br /> phí cao hơn các tàu nhỏ. Các khoản chi phí<br /> năm 2005 đều tăng hơn năm 2004, riêng tỷ lệ<br /> tăng của nhiên liệu là cao nhất (54,8%) và<br /> nước đá là thấp nhất.<br /> Đối với chi phí nhiên liệu chủ yếu là dầu.<br /> Số lượng nhiên liệu tiêu hao bình quân 1<br /> chuyến biển năm 2005 của tàu 45-89 CV là<br /> <br /> 2.285 lít dầu và 40,7 lít nhớt; tàu 90-140 CV là<br /> 3.603 lít dầu và 48,4 lít nhớt, tàu trên 140 CV là<br /> 3.750 CV và 54,4 lít nhớt. Công suất máy càng<br /> lớn thì số lượng tiêu hao càng lớn, đồng nghĩa<br /> với chi phí này càng cao. Chi phí này chiếm từ<br /> 33 đến 47% tổng chi phí biến đổi. Các tàu càng<br /> lớn thì tỷ trọng chi phí này càng cao, chẳng hạn<br /> các tàu từ 45-89CV chi phí này chiếm 33% năm<br /> 2004 và 39% năm 2005, trong khi các tàu trên<br /> 140CV năm 2004 là 40% năm 2005 là 47%.<br /> Giữa 2 năm chênh lệch giá dầu lớn nên có sự<br /> thay đổi lớn về cơ cấu chi phí. Chính vì vậy các<br /> tàu lớn chịu sự tác động rất lớn của sự thay đổi<br /> giá xăng dầu.<br /> Đối với chi phí nước đá chiếm tỷ trọng nhỏ<br /> nhất trong tổng chi phí biến đổi, khoảng từ<br /> 7÷9%. Số lượng đá cây bình quân một tàu thuộc<br /> dải công suất 45-89 CV dùng trong 1 chuyến là<br /> 403,7 cây, tàu 90-140 CV là 544,6 cây, tàu trên<br /> 19<br /> <br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2