
Huyện Thanh Quan
Bà Huyện Thanh Quan (1805-1848), tên thật là Nguyễn Thị Hinh; là một nhà
thơ nữ nổi tiếng trong thời cận đại của lịch sử văn học ViệtNam[1].
Tiểu sử
Nguyễn Thị Hinh người phường Nghi Tàm, huyện Vĩnh Thuận, gần Hồ Tây,
Hà Nội[2]. Thân phụ là Nguyễn Lý (1755-1837), đỗ thủ khoa năm 1783, đời vua Lê
Hiển Tông.
Bà là học trò của danh sĩ Phạm Quý Thích (1760-1825), và là vợ Lưu
Nghị[3](1804-1847), người làng Nguyệt Áng, huyện Thanh Trì, tỉnh Hà Đông (nay
thuộc Hà Nội). Ông đỗ cử nhân năm 1821 (Minh Mệnh thứ 2), từng làm tri huyện
Thanh Quan (nay là huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình), nên người ta thường gọi bà là
Bà Huyện Thanh Quan. Chồng bà làm quan trải đến chức Bát phẩm Thư lại bộ Hình,
nhưng mất sớm (43 tuổi).
Dưới thời vua Minh Mạng[4], bà được vời vào kinh giữ chức Cung Trung Giáo
Tập để dạy học cho các công chúa và cung phi.
Khoảng một tháng sau khi chồng mất, bà lấy cớ sức yếu xin thôi việc, rồi dẫn
bốn con [5] về lại Nghi Tàm và ở vậy cho đến hết đời.
Năm 1870, ở Nghi Tàm nổ ra cuộc đấu tranh chống lệ nộp chim sâm cầm, một
đặc sản của vùng này. Theo Ngọc phả (ghi nhận công đức của những người có công

với dân làng), thì chính Bà Huyện Thanh Quan đã thảo đơn cho dân gửi lên vua,
nhưng vì phục tài đức của bà nên quan huyện Hoàn Long đã phớt lờ đi [6].
Được biết năm 1848, bà mất ở tuổi 43. Mộ bà được đặt bên bờ Hồ Tây (Hà
Nội), nhưng sau này sóng gió đã làm sạt lở không còn tăm tích [7].
Tác phẩm
Bà Huyện Thanh Quan sáng tác không nhiều, hầu hết viết bằng chữ Nôm, theo
thể Đường luật. Hiện gồm những bài sau:
Bước tới đèo ngang bóng xế tà...
Thăng Long thành hoài cổ
Qua chùa Trấn Bắc
Qua Đèo Ngang
Chiều hôm nhớ nhà
Nhớ nhà
Tức cảnh chiều thu
Cảnh đền Trấn Võ
Cảnh Hương sơn
Tuy nhiên, theo nhà nghiên cứu Đỗ Lai Thúy thì 4 bài đầu là hoàn toàn chính
xác của bà bởi có sự thống nhất từ tư tưởng đến phong cách nghệ thuật [8].
Nhận xét
Trích ý kiến của:
GS. Dương Quảng Hàm:

Những bài thơ Nôm của bà phần nhiều là tả cảnh, tả tình, nhưng bài nào cũng
hay và tỏ ra bà là một người có tính tình đoan chính, thanh tao, một người có học thức
thường nghĩ ngợi đến nhà, đến nước. Lời văn rất trang nhã, điêu luyện[9].
GS. Thanh Lãng:
Thơ Bà Huyện Thanh Quan đầy chất thơ. Lời thơ của bà điêu luyện, gọt giũa,
đẹp như một bức tranh cổ[10].
GS. Phạm Thế Ngũ:
Nhiều nhà phê bình đã đưa ra thuyết Bà Huyện Thanh Quan mang nặng tấm
lòng thương tiếc nhà Lê, thuyết ấy không phải là vô căn cứ. Cái tâm trạng hoài Lê ấy,
cũng là tâm trạng chung của nhiều nho sĩ Bắc Hà sau ngày thống nhất...Nhưng nói là
nhớ tiếc cái chính trị của mấy ông vua thời Lê mạt thì không đúng. Bà hướng về một
quá khứ mà có lẽ bà cũng không tường tận lắm, và bà cũng chưa thọ hưởng được ân
huệ gì; nhưng đó là quá khứ của tiền bối, của gia đình...Vì thế thái độ hoài Lê của bà
cũng như nhiều nho sĩ đồng thời không có tính cách chính trị, mà chỉ có tính cách tâm
tình...
Về mặt nghệ thuật: chữ dùng khéo, chọn lọc, thích đáng, đối rất chỉnh, rất thần
tình, ý hàm súc, lời trau chuốt, gọn, đẹp...Cho nên thơ bà rất được các nho gia xưa yêu
chuộng, ngâm nga...
Thơ luật đời Nguyễn Sơ, ở tác phẩm của hai nữ sĩ là Hồ Xuân Hương và Bà
Huyện Thanh Quan, như vậy quả đã tiến đến cao độ mỹ diệu. Thơ Hồ Xuân Hương
thiên về Nôm mà bóng bẩy, duyên dáng. Thơ Bà Huyện Thanh Quan thiên về Hán mà
thanh thoát, nhẹ nhàng. Hồ Xuân Hương đại biểu cho cái tinh thần trào phúng bình

