HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

TRẦN VĂN AN

CỘNG HÒA INDONESIA GIẢI QUYẾT

XUNG ĐỘT SẮC TỘC, TÔN GIÁO NHẰM BẢO VỆ VÀ CỦNG CỐ ĐỘC LẬP DÂN TỘC

GIAI ĐOẠN 1991-2015

LUẬN ÁN TIẾN SĨ

CHUYÊN NGÀNH: LSPTCS, CNQT & GPDT

HÀ NỘI - 2019

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

TRẦN VĂN AN

CỘNG HÒA INDONESIA GIẢI QUYẾT XUNG ĐỘT SẮC TỘC, TÔN GIÁO NHẰM BẢO VỆ VÀ CỦNG CỐ ĐỘC LẬP DÂN TỘC

GIAI ĐOẠN 1991-2015

LUẬN ÁN TIẾN SĨ

CHUYÊN NGÀNH: LSPTCS, CNQT & GPDT

Mã số: 62 22 03 12

1. PGS,TS THÁI VĂN LONG

Người hướng dẫn khoa học:

2. PGS,TS NGUYỄN HỮU CÁT

HÀ NỘI - 2019

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của

riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung

thực, có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo

quy định.

Tác giả luận án

Trần Văn An

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU Trang 1

Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN

ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN

8 8

1.1. Những công trình nghiên cứu trên thế giới về Indonesia 1.2. Một số nhận xét về kết quả khoa học mà luận án sẽ kế thừa từ

nghiên cứu của những người đi trước

1.3. Những vấn đề luận án cần tiếp tục nghiên cứu hoặc làm sâu sắc hơn 26 27

29 Chương 2: NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN XUNG ĐỘT SẮC TỘC, TÔN GIÁO TRONG CÔNG CUỘC BẢO VỆ, CỦNG CỐ ĐỘC LẬP DÂN TỘC CỦA CỘNG HÒA INDONESIA GIAI ĐOẠN 1991-2015

2.1. Một số vấn đề lý luận về xung đột sắc tộc, tôn giáo và bảo vệ, củng cố độc lập dân tộc thông qua giải quyết xung đột sắc tộc, tôn giáo 29

2.2. Những nhân tố tác động đến xung đột sắc tộc, tôn giáo ở

Indonesia giai đoạn 1991-2015 47

74 Chương 3: THỰC TRẠNG GIẢI QUYẾT XUNG ĐỘT SẮC TỘC, TÔN GIÁO NHẰM BẢO VỆ VÀ CỦNG CỐ ĐỘC LẬP DÂN TỘC CỦA CỘNG HÒA INDONESIA GIAI ĐOẠN 1991-2015

3.1. Tình hình xung đột sắc tộc, tôn giáo ở Indonesia trong giai đoạn

1991-2015 74

3.2. Những nỗ lực của Chính phủ Indonesia nhằm bảo vệ và củng cố

độc lập dân tộc 87

106 106

Chương 4: NHẬN XÉT VÀ NHỮNG KINH NGHIỆM RÚT RA 4.1. Một số nhận xét 4.2. Một số kinh nghiệm rút ra từ ứng phó với xung đột sắc tộc, tôn

giáo ở Indonesia 125

KẾT LUẬN DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

143 147 148

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT Diễn đàn khu vực ASEAN ARF

Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á ASEAN

Ngân hàng Inđônêxia BI

Hiệp định chấm dứt thů địch COHA

Khu căn cứ quân sự DOM

Cơ quan lập pháp của Indonesia DPR

DPRD - NAD Hội đồng dân biểu địa phương

Đông Nam Á ĐNA

Cộng đồng Châu Âu EU

Đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI

Phong trào Aceh tự do GAM

Tổng sản phẩm quốc nội GDP

Tổ chức Trung gian hòa giải HDC

HLKHXH Hàn lâm Khoa học xã hội

IMF Quỹ Tiền tệ Quốc tế

KPU Ủy ban bầu cử quốc gia

MILF Mặt trận giải phóng Hồi giáo Moorro

MPR Đại hội Hội đồng Hiệp thương nhân dân

NAD Aceh được công nhận là khu vực đặc biệt

NIC Nước công nghiệp mớí

ODA Nguồn vốn Hỗ trợ phát triển chính thức

OPM Phong trào Papua tự do

PULO Tổ chức giải phóng Thống nhất Pattani (Thái Lan)

RFD Cục Lâm nghiệp Hoàng gia (Thái Lan)

UNDP Chương trình Phát triển Liên Hợp Quốc

DANH MỤC CÁC BẢNG, BẢN ĐỒ

Trang

Bản đồ 2.1: Bản đồ tôn giáo Indonesia 63

Bản đồ 2.2: Bản đồ dân tộc Indonesia 65

Bản đồ 4.1: Bản đồ Indonesia 119

Bảng 2.1: Thành phần tôn giáo theo nhóm dân tộc ở Indonesia 64

Bảng 2.2: Dân số Indonesia theo nhóm dân tộc 66

Bảng 3.1: Chi tiêu xã hội (1995) 100

1

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Xung đột sắc tộc, tôn giáo đang là chủ đề có tính thời sự ở nhiều khu

vực, quốc gia trên thế giới, nhất là khi đặt vấn đề này trong mối liên hệ với

vấn đề chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của các quốc gia. Từ sau Chiến tranh

thế giới lần thứ Hai đến nay, các nước thuộc địa nói chung, Indonesia nói

riêng dù ít hay nhiều đều đang phải đối mặt với vấn đề ly khai và những bất

ổn an ninh, chính trị có nguồn gốc từ những bất đồng về sắc tộc và tôn giáo.

Việc giành được độc lập đã khó, song việc giữ được độc lập thực sự, nhất là

về chính trị, kinh tế còn khó hơn rất nhiều. Để phát triển bền vững, mỗi quốc

gia phải giải quyết tốt các mâu thuẫn xã hội, tạo lập môi trường hòa bình, ổn

định trong nước, phải giữ cho lòng dân yên, hạn chế đến mức tối đa sự bất

bình đẳng, sự chênh lệch về mức sống giữa các cộng đồng dân cư, ngăn ngừa

và giải quyết tốt các mâu thuẫn có liên quan đến sắc tộc, tôn giáo giữa các

cộng đồng dân cư.

Indonesia không chỉ là quốc gia nhiều đảo nhất mà còn là quốc gia có

số dân theo đạo Hồi đông nhất thế giới. Đất nước của hơn 18 nghìn hòn đảo

này là nơi sinh sống của nhiều dân tộc khác nhau. Ngoài việc có đa số người

dân theo đạo Hồi, thì ở Indonesia còn có nhiều nhóm dân cư theo các tôn giáo

và tín ngưỡng khác nhau. Kể từ khi Indonesia trở thành quốc gia độc lập

(1945), cuộc đấu tranh bảo vệ và củng cố độc lập dân tộc ở Indonesia đã trải

qua rất nhiều thử thách, khó khăn liên quan đến việc giải quyết các mâu thuẫn

sắc tộc, tôn giáo của các chính phủ Indonesia, nhằm không chỉ duy trì sự toàn

vẹn lãnh thổ, thống nhất quốc gia mà còn hướng đến tạo lập một môi trường

hòa bình để phát triển bền vững.

Sau Chiến tranh Lạnh, nhất là từ khi bước sang thế kỷ XXI đến nay,

việc giải quyết xung đột sắc tộc và tôn giáo luôn là sự quan tâm hàng đầu của

các chính phủ Indonesia, do nước này vẫn tiếp tục phải đối diện với các vấn

2

đề xung đột sắc tộc, tôn giáo, cả cũ và mới. Nền độc lập dân tộc, toàn vẹn

lãnh thổ của Indonesia, một lần nữa, lại bị đe dọa trước phong trào li khai ở

nhiều địa phương của nước này, đặc biệt là ở Aceh.

Việt Nam cũng là một quốc gia đa dân tộc, đa tôn giáo như

Indonesia. Trong những năm đổi mới vừa qua, Đảng và Nhà nước Việt

Nam luôn quan tâm đến việc đoàn kết dân tộc, đoàn kết giữa các cộng đồng

dân cư, cho dù họ thuộc dân tộc thiểu số hay đa số, theo tôn giáo hay tín

ngưỡng nào. Đoàn kết là nền tảng để tạo lập môi trường hòa bình, phát

triển bền vững. Trên cơ sở đó, việc tham khảo kinh nghiệm xử lý, giải

quyết các vấn đề có liên quan đến sắc tộc, tôn giáo, xung đột sắc tộc và tôn

giáo ở Indonesia sẽ cung cấp những bài học rất có giá trị cho các quốc gia

trong khu vực trong đó có Việt Nam.

Về phương diện khoa học, việc nghiên cứu xung đột sắc tộc, tôn giáo

và quá trình giải quyết các vấn đề trên sẽ giúp trả lời hàng loạt câu hỏi khoa

học như: liệu bản thân các tôn giáo, sắc tộc có phải là nguyên nhân tạo nên

xung đột sắc tộc, tôn giáo không hay những xung đột đó là do chúng bị chính

trị hóa? Tại sao một quốc gia Hồi giáo ôn hòa như Indonesia lại có đất cho sự

phát triển của chủ nghĩa cực đoan Hồi giáo như đã thấy hiện nay? Đâu là

những giải pháp hiệu quả để khắc phục những xung đột sắc tộc, tôn giáo ở

Indonesia cũng như ở nhiều nơi khác trên thế giới?... Việc trả lời các câu hỏi

không chỉ có ý nghĩa về mặt lý luận mà có cả ý nghĩa thực tiễn cấp bách.

Với những lý do trên, tác giả lựa chọn vấn đề: "Cộng hòa Indonesia giải

quyết xung đột sắc tộc, tôn giáo nhằm bảo vệ và củng cố độc lập dân tộc giai

đoạn 1991- 2015" làm hướng nghiên cứu cho đề tài luận án Tiến sĩ lịch sử, chuyên

ngành Lịch sử phong trào cộng sản, công nhân quốc tế và giải phóng dân tộc.

2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu

2.1. Mục tiêu nghiên cứu

Luận án đi sâu phân tích thực trạng giải quyết xung đột sắc tộc, tôn

giáo của Cộng hòa Indonesia nhằm bảo vệ và củng cố độc lập dân tộc từ năm

3

1991 đến năm 2015, rút ra ý nghĩa và những kinh nghiệm cho việc giải quyết

các vấn đề dân tộc, tôn giáo nhằm củng cố độc lập dân tộc của Việt Nam

trong bối cảnh hiện nay.

2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Để thực hiện mục tiêu trên, đề tài tập trung giải quyết những nhiệm vụ

chủ yếu sau:

Thứ nhất, làm rõ một số khái niệm về xung đột sắc tộc, tôn giáo, về độc

lập dân tộc, bảo vệ và củng cố độc lập dân tộc của các nước đang phát triển

sau Chiến tranh Lạnh.

Thứ hai, phân tích các nhân tố tác động đến tình trạng xung đột sắc tộc,

tôn giáo tại Cộng hòa Indonesia từ năm 1991 đến năm 2015.

Thứ ba, làm rõ thực trạng xung đột sắc tộc, tôn giáo, đồng thời, phân

tích ý nghĩa của việc giải quyết xung đột sắc tộc, tôn giáo đối với nhiệm vụ

bảo vệ, củng cố độc lập dân tộc ở Indonesia từ năm 1991 đến năm 2015.

Thứ tư, đưa ra nhận xét và rút ra những kinh nghiệm cho việc giải

quyết các vấn đề dân tộc, tôn giáo nhằm củng cố độc lập dân tộc của các nước

Đông Nam Á và Việt Nam trong bối cảnh hiện nay.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Về nội dung: Đề tài tập trung nghiên cứu tình hình xung đột sắc tộc tôn

giáo ở Indonesia, những thách thức từ các cuộc xung đột đó đối với độc lập

dân tộc, toàn vẹn lãnh thổ của Indonesia và các nỗ lực giải quyết của chính

phủ nước này nhằm giải quyết các vấn đề trên.

Xung đột sắc tộc và tôn giáo tại Indonesia đã xuất hiện từ những thế kỷ

trước với phạm vi rộng lớn, phức tạp. Trong khuôn khổ luận án tiến sĩ, đề tài

chỉ tập trung nghiên cứu một số điểm xung đột sắc tộc-tôn giáo, ly khai dân

tộc điển hình ở Indonesia như: Đông Timor; Ache; Irian Jaya; Maluku; xung

đột giữa người Hoa và người bản địa từ năm 1991 đến năm 2015. Từ đó luận

án đi sâu phân tích thực trạng giải quyết xung đột sắc tộc, tôn giáo của Cộng

hòa Indonesia trong giai đoạn này nhằm bảo vệ và củng cố độc lập dân tộc.

4

Về không gian: toàn bộ lãnh thổ Indonesia bao gồm khu vực trung tâm

và các đảo, quần đảo của nước này

Về thời gian: từ 1991 đến 2015

+ Đề tài lấy mốc năm 1991 vì đây là thời kỳ Trật tự thế giới 2 cực kết

thúc, Liên xô tan rã, tình hình chính trị, an ninh khu vực và thế giới có nhiều

biến động lớn ảnh hưởng đến công cuộc củng cố độc lập của các quốc gia

đang phát triển nói chung và ở Cộng hòa Indonesia nói riêng.

+ Mốc năm 2015 là mốc Indonesia có sự chuyển giao quyền lực từ

Tổng thống Susilo Bambang Yudhoyono sang Tổng thống Joko Widodo, là

thời điểm có những thay đổi về bối cảnh bảo vệ, củng cố độc lập dân tộc

(trong Cộng đồng ASEAN), năm đó cũng là năm vấn đề xung đột tôn giáo sắc

tộc ở Indonesia được giải quyết một cách cơ bản.

4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

4.1. Cơ sở lý luận

Đề tài được thực hiện trên cơ sở hệ thống các quan điểm và phương

pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về Hình thái kinh tế-xã hội; về Nhà

nước và giai cấp; về thời đại, vấn đề dân tộc và quyền tự quyết dân tộc…

Đồng thời, vận dụng những quan điểm cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí

Minh về độc lập dân tộc; các chủ trương chính sách được nêu trong cương

lĩnh, văn kiện, nghị quyết của Đảng và Nhà nước Việt Nam để tiếp cận,

nghiên cứu thực hiện mục tiêu và những nhiệm vụ nghiên cứu đặt ra cho

luận án.

Ngoài ra, tác giả luận án còn nghiên cứu và sử dụng một số quan điểm

lý luận của các học giả tư sản và các học giả mang tư tưởng dân tộc chủ nghĩa

để phân tích và nghiên cứu về một số vấn đề như: nền dân chủ tư sản, vai trò

của nhà nước pháp quyền tư sản trong việc ban hành các giải pháp nhằm giải

quyết các xung đột sắc tộc, tôn giáo, ly khai dân tộc trong nước, củng cố và

bảo vệ nền độc lập dân tộc của quốc gia.

5

4.2. Phương pháp nghiên cứu

Những nguyên lý, phương pháp luận cơ bản của chủ nghĩa duy vật biện

chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử, phương pháp lịch sử và logic, cùng với hệ

thống phương pháp luận sử học mác xít là những cơ sở chính để hình thành

phương pháp nghiên cứu luận án.

- Phương pháp lịch sử: đề tài nghiên cứu được đặt trong tiến trình lịch

sử cụ thể, không gian, thời gian đó là bối cảnh của Indonesia nói riêng; của

tình hình thế giới, khu vực từ năm 1991 đến năm 2015; theo giai đoạn phát

triển nhất định; phù hợp với logic lịch sử...

- Phương pháp phân tích địa - chính trị: luận án được xem xét các vấn

đề xung đột sắc tộc, tôn giáo cùng ảnh hưởng của nó trước hết dưới góc độ

địa - chính trị, trong không gian địa lý tự nhiên và địa lý nhân văn của khu

vực, từ đây thấy rõ lợi ích, mục tiêu chính trị, nguyên nhân, biểu hiện… của

xung đột sắc tộc, tôn giáo và những tác động của nó tới Indonesia.

- Phương pháp lôgic, nghiên cứu tình huống, so sánh hệ thống: Các

nghiên cứu sẽ phải từ những diễn biến, những xung đột sắc tộc, tôn giáo đã

và đang xảy ra để phân tích, làm rõ những giải pháp giải quyết xung đột

sắc tộc, tôn giáo tại Cộng hòa Indonesia nhằm bảo vệ và củng cố độc lập

dân tộc, từ đó rút ra những kinh nghiệm cho việc giải quyết các vấn đề dân

tộc, tôn giáo nhằm củng cố độc lập dân tộc của Việt Nam trong bối cảnh

hiện nay.

- Phương pháp phân tích và tổng hợp: được tác giả sử dụng trong thu

thập, xử lý và đánh giá các nguồn tài liệu liên quan đến đề tài, các công trình

nghiên cứu trong và ngoài nước về các chủ đề liên quan đến đề tài.

Thêm vào đó, tác giả luận án cũng sử dụng các phương pháp như: sưu

tầm tư liệu, hệ thống, phân loại, thống kê, phương pháp phỏng vấn chuyên

gia, phương pháp liên ngành lịch sử, quan hệ quốc tế, chính trị quốc tế nhằm

hỗ trợ cho các phương pháp nghiên cứu chính.

6

5. Đóng góp mới về khoa học của luận án

Một là, luận án đã nghiên cứu một cách hệ thống về nguyên nhân, thực

trạng và tác động của xung đột sắc tộc, tôn giáo đối với độc lập dân tộc và toàn

vẹn lãnh thổ của Indonesia trong giai đoạn từ 1991 đến 2015.

Hai là, luận án đã làm rõ những nỗ lực của Chính phủ Indonesia trong

quá trình giải quyết xung đột sắc tộc, tôn giáo ở nước họ, chỉ ra những thành

tựu và hạn chế của các nỗ lực đó.

Ba là , tìm ra được những đặc điểm chính của xung đột sắc tộc tôn giáo ở

Indonesia, trong so sánh với các cuộc xung đột tương tự ở một số nước Đông

Nam Á khác

Bốn là, góp thêm những cứ liệu từ thực tiễn giải quyết xung đột sắc tộc,

tôn giáo của Cộng hòa Indonesia nhằm bảo vệ và củng cố độc lập dân tộc cho

Việt Nam trong hoạch định, triển khai thực hiện chính sách dân tộc, tôn giáo

nhằm củng cố độc lập dân tộc của Việt Nam trong bối cảnh hiện nay.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án

- Về lý luận: luận án khẳng định xung đột tôn giáo, sắc tộc ở Indonesia

không phải là sự va chạm giữa văn minh Hồi giáo và Thiên chúa giáo. Nguồn

cội của các cuộc xung đột đó là kết quả của sự chính trị hóa tôn giáo của một

số thế lực chính trị ở Indonesia nhằm phục vụ cho lợi ích riêng mà thôi.

- Về thực tiễn: Qua phân tích thực trạng giải quyết xung đột sắc tộc, tôn

giáo của Cộng hòa Indonesia nhằm bảo vệ và củng cố độc lập dân tộc giai

đoạn 1991-2015, luận án góp phần gợi mở một số vấn đề thực tiễn trong việc

hoạch định và triển khai các chính sách dân tộc, tôn giáo cùng chính sách đối

ngoại của Việt Nam thông qua hợp tác giải quyết vấn đề xung đột sắc tộc, tôn

giáo trong bối cảnh những biến đổi của môi trường địa - chính trị khu vực

hiện nay.

- Luận án là tài liệu tham khảo hữu ích trong công tác nghiên cứu,

giảng dạy môn Lịch sử Phong trào Cộng sản, Công nhân quốc tế và giải

7

phóng dân tộc; môn Quan hệ quốc tế; các môn: lịch sử thế giới hiện đại; lịch

sử Đông Nam Á; lịch sử Quan hệ quốc tế…

7. Kết cấu của luận án

Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục và danh mục chữ viết tắt, tài liệu

tham khảo, nội dung đề tài dự định kết cấu thành 4 chương, 09 tiết.

- Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài

luận án.

- Chương 2: Những nhân tố tác động đến xung đột sắc tộc, tôn giáo

trong công cuộc bảo vệ, củng cố độc lập dân tộc của Cộng hòa Indonesia giai

đoạn 1991-2015.

- Chương 3: Thực trạng giải quyết xung đột sắc tộc, tôn giáo nhằm bảo

vệ và củng cố độc lập dân tộc của Cộng hòa Indonesia giai đoạn 1991-2015

- Chương 4: Nhận xét và những kinh nghiệm rút ra

8

Chương 1

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN

ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN

Để thực hiện các nhiệm vụ đặt ra trong nghiên cứu, tác giả luận án đã

tiếp cận với một khối lượng tài liệu tham khảo lớn của các nhà nghiên cứu

Indonesia, các học giả nước ngoài và các nhà khoa học Việt Nam liên quan

đến vấn đề xung đột sắc tộc, tôn giáo ở đất nước này. Nguồn tài liệu đó tập

trung nghiên cứu trên nhiều phương diện: địa lý, lịch sử, văn hoá, dân tộc, tôn

giáo, đặc điểm phát triển kinh tế - xã hội, chiến lược phát triển kinh tế vĩ mô...

của Indonesia. Nguồn tài liệu đã tiếp cận được là cơ sở và cứ liệu quan trọng

giúp nghiên cứu sinh tiếp tục nghiên cứu sâu hơn về những vấn đề mà luận án

cần tập trung giải quyết.

1.1. NHỮNG CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU TRÊN THẾ GIỚI VỀ INDONESIA

1.1.1. Những công trình nghiên cứu về Indonesia của các học giả

quốc tế

Đông Nam Á là khu vực có vị trí chiến lược quan trọng của thế giới

nên luôn giành được sự chú ý nghiên cứu của nhiều học giả với những góc

độ tiếp cận đa dạng. Indonesia là một nước lớn trong khu vực, có những

nét đặc thù về điều kiện tự nhiên, dân cư, nhưng cũng có lịch sử đấu tranh

giải phóng dân tộc, củng cố độc lập dân tộc, phong cách ứng xử cũng như

trình độ phát triển xã hội khá tương đồng so với các quốc gia khác cùng

khu vực. Indonesia cũng là một trong những nước sáng lập ASEAN và

đóng vai trò lãnh đạo Hiệp hội này trong thực tế cho tới năm 1998, khi

Tổng thống nước này là Suharto bị lật đổ. Đối với thế giới, đặc biệt là các

nước lớn, vị trí địa-chiến lược của Indonesia có vai trò vô cùng quan trọng.

Không một nước lớn nào không mong muốn xác lập được ảnh hưởng ưu

thế ở quốc gia "vạn đảo" này.

9

Vì thế, Indonesia được giới nghiên cứu đặc biệt quan tâm. Về tổng

quát có thể phân các công trình nghiên cứu về Indonesia ở ngoài nước thành

các nhóm sau:

- Thứ nhất, những nghiên cứu về lịch sử đấu tranh giành độc lập dân

tộc và củng cố độc lập dân tộc của Indonesia.

Cuốn sách "Histoire de l’Indonésie" (Lịch sử Indonesia) của Giáo sư

Jean Bruhat [16]. Cuốn sách gồm 5 chương, chương 1 và 2 trình bày khái

quát về đất nước Indonesia trong thời kỳ là thuộc địa của thực dân Hà Lan.

Chương 3;4;5 thông qua những mốc lịch sử chủ yếu trong sự vận động, phát

triển của Indonesia, tác giả đi sâu phân tích diễn biến của các phong trào dân

tộc trong tiến trình đấu tranh giành, giữ và củng cố độc lập dân tộc đến năm

1975. Cuốn sách là công trình nghiên cứu Indonesia về lịch sử, nên tác giả đã

lựa chọn, đề cập, phân tích những sự kiện tiêu biểu, đánh giá những đặc điểm

văn hóa, xã hội, dân cư, tộc người, tôn giáo…Đây là tài liệu tham khảo rất giá

trị cho tác giả khi thực hiện những nhiệm vụ nghiên cứu luận án của mình.

Cuốn "Lịch sử Đông Nam Á" của tác giả người Anh - D.G.E.Hall [42].

Tác giả là giáo sư danh dự thuộc trường Đại học Luân Đôn, ông được coi là

chuyên gia hàng đầu về Lịch sử Đông Nam Á. Cuốn sách đã phác hoạ nên

một bức tranh khá rõ nét và đầy sinh động về lịch sử ra đời, phát triển, quá

trình bị thực dân phương Tây xâm lược và sự thiết lập chế độ cai trị thuộc địa

của Hà Lan tại Indonesia. Tất cả các nội dung này được trình bày trong 3

phần đầu của cuốn sách. Ở phần thứ tư, tác giả tập trung nghiên cứu về cuộc

đấu tranh giành độc lập dân tộc của nhân dân Indonesia năm 1945 cùng với

những diễn biến phức tạp của cuộc kháng chiến chống thực dân xâm lược (Hà

Lan), trong từng chương riêng (chương 43, 45, 48, 50, 51, 52). Để làm nên

thành công của cuốn sách, Giáo sư D.G.E. Hall đã khai thác nhiều nguồn tài

liệu phong phú từ kho lưu trữ, văn bia, tham khảo nhiều tác phẩm của các nhà

nghiên cứu đi trước với sự phê phán và chọn lọc. Vì vậy đây là một công trình

10

khoa học nghiêm túc và có giá trị. Tuy nhiên, cuốn sách dừng sự nghiên cứu

vào năm 1950, đây là thời điểm có nhiều sự kiện đang tiếp diễn với tính đa

dạng và chằng chéo, là sự chuẩn bị cho những thay đổi lớn trên chính trường

Indonesia. Nhưng giá trị của cuốn sách mà tác giả luận án quan tâm là, khi

nhìn nhận về quá trình đấu tranh giành độc lập của Indonesia, D.G.E. Hall đã

chỉ ra được vai trò của lực lượng tư sản cấp tiến với những nỗ lực tích hợp lợi

ích đa dạng của các sắc tộc, tôn giáo để đạt được sự đồng thuận về mục tiêu

xây dựng một nhà nước Cộng hòa độc lập.

Cuốn sách "Chủ nghĩa thực dân là một thứ cần phải loại trừ khỏi thế

giới" của Sukarno [111]. Ông Sukarno, một nhà lãnh đạo đầy uy tín của nhân

dân Indonesia trong giai đoạn mới thành lập nước Cộng hoà. Trong tác phẩm

này, Sukarno đứng trên quan điểm của đại bộ phận nhân dân Indonesia để

nhìn nhận về cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân của đất nước mình.

Ông cho rằng thực dân là kẻ thù chung của nhân dân các dân tộc bị áp bức

trên toàn thế giới, đặc biệt là nhân dân các nước thuộc địa, phụ thuộc và cần

xác lập một mối liên hệ, hợp tác giữa các dân tộc thuộc địa để chống thực

dân. Tác phẩm đã giúp chúng ta hiểu quan điểm của những nhà lãnh đạo

Indonesia trong việc định hướng và lựa chọn các chính sách phát triển đất

nước, trong đó có chính sách đối ngoại.

Cuốn sách "Suharto. A political biography" (Suharto: Một tiểu sử chính

trị) của tác giả R.E.Elson [193]. Đây là công trình nghiên cứu về vị Tổng

thống thứ hai của nhân dân Indonesia, một người mà trong cách đánh giá của

các nhà nghiên cứu hiện nay trên thế giới luôn cho là đầy mâu thuẫn giữa

công và tội. Với cách tiếp cận nghiên cứu của mình, Elson đã tập trung phân

tích về đường lối chính trị mà Tổng thống Suharto đã thực hiện trong hơn 30

năm giữ cương vị là người đứng đầu đất nước. Trên cơ sở đó, tác giả đưa ra

một số nhận xét, đánh giá trên hai mặt thành công và hạn chế về những việc

mà vị Tổng thống này đã làm. Trong quá trình nghiên cứu, để đưa ra những

11

đánh giá xác thực nhất, tác giả đã căn cứ vào nguồn tài liệu gốc của

Indonesia, đó là những chính sách chính trị, ngoại giao; kinh tế, xã hội; an

ninh quốc phòng mà Tổng thống Suharto đã ban hành trong giai đoạn 1967 -

1998. Vì vậy, cuốn sách là nguồn tư liệu rất quan trọng để nghiên cứu sinh

tham khảo trong quá trình hoàn thành đề tài luận án.

- Thứ hai, những nghiên cứu về vấn đề xung đột sắc tộc, tôn giáo cùng

những ảnh hưởng của nó đến sự nghiệp bảo vệ và củng cố độc lập ở

Indonesia.

Công trình "The Indonesian killings 1965-1966: Studies from Java and

Bali" (Tàn sát người ở Indonesia 1965-1966: những nghiên cứu ở Java và

Bali) của Centre of Southeast Asia Studies [111]. Công trình đã phân tích

những mâu thuẫn xã hội ở Indonesia trước cuộc đảo chính quân sự năm 1965

của Suharto, làm rõ nguyên nhân của những cuộc thanh trừng, tàn sát đối với

các đảng viên cộng sản nói riêng và người dân vô tội ở Java và Bali nói

chung. Hướng tiếp cận nghiên cứu, lý giải của các tác giả trong công trình đã

cung cấp cho tác giả luận án thêm một "góc nhìn đa chiều" khi xem xét, đánh

giá các xung đột sắc tộc, tôn giáo cùng ảnh hưởng của nó đến xã hội

Indonesia trong giai đoạn được nghiên cứu khi thực hiện luận án.

Cuốn sách "Lịch sử Đông Nam Á hiện đại" của Clive J.Christie [19].

Tác giả Clive J.Christie là người Pháp, một chuyên gia nghiên cứu về các vấn

đề dân tộc, sắc tộc và tôn giáo nên công trình đã tập trung đi sâu nghiên cứu

các khía cạnh liên quan đến các vấn đề này. Cuốn sách được cấu trúc thành

hai phần, trong đó phần thứ hai tập trung nghiên cứu quá trình phi thực dân

hoá và chủ nghĩa ly khai trong khu vực Hồi giáo ở Đông Nam Á. Trong đó

Indonesia được đề cập tương đối rõ vì đây là nơi có nhiều cư dân theo đạo

Hồi sinh sống. Clive J.Christie đã dành nhiều thời gian để khắc hoạ về

Indonesia như là một "ngôi nhà đạo Hồi", với tất cả tính tích cực cùng những

tác động phức tạp của nó đối với Indonesia nói riêng, cả khu vực Đông Nam

12

Á nói chung. Đặc biệt, cuộc nổi dậy của người Aceh được tác giả đề cập khá

kỹ (từ trang 231 đến 248), từ đó lột tả được phần nào những khúc mắc trong

vấn đề Aceh - một vấn đề rất phức tạp của Indonesia trong quá khứ và hiện

tại. Khi công bố cuốn "Lịch sử Đông Nam Á hiện đại", tác giả Clive

J.Christie dự định thông qua nghiên cứu các phong trào ly khai và khởi nghĩa

khác, để làm rõ tiến trình chung về phi thực dân hoá ở Đông Nam Á, lịch sử

và hậu quả của nó. Nhưng đây là những vấn đề hết sức phức tạp, nhạy cảm và

hiện đang gây tranh cãi trong giới khoa học, vì vậy những đánh giá trong

cuốn sách được coi là quan điểm riêng của tác giả. Tuy nhiên, với quan điểm

nghiên cứu "thuần tuý mang tính lịch sử và lập luận cơ bản của nó là các

phong trào ly khai khác nhau" và dựa trên nguồn tư liệu đã qua kiểm định,

cuốn sách là nguồn tài liệu tham khảo hữu ích cho nghiên cứu sinh khi tìm

hiểu về những vấn đề liên quan đến nội dung luận án.

Cuốn sách "Indonesia Today - Challenges of History" (Indonesia ngày

nay - Những thách thức của lịch sử) của Grayson Lloyd và Shannon Smith

[178], là một công trình nghiên cứu tổng hợp về lịch sử phát triển của

Indonesia từ 1945 đến đầu thế kỷ XXI. Gồm nhiều bài viết nhỏ với những chủ

đề riêng biệt, được kết cấu thành 5 chương nội dung, trong đó ba chương

chính đề cập đến 3 lĩnh vực chủ yếu là chính trị, kinh tế và văn hoá. Bằng

cách tiếp cận theo hướng kết hợp giữa trình bày sự kiện với những nhận định,

đánh giá, so sánh đan xen nhau…, các tác giả đã chỉ ra những mặt làm được

và chưa làm được của các Tổng thống Indonesia (từ năm 1945 đến 2000);

đồng thời vẽ lên một bức tranh khá đầy đủ về đất nước Indonesia trong một

giai đoạn tương đối dài với những thành công, hạn chế trong con đường phát

triển của mình. Giai đoạn 1967 - 1998 với sự lãnh đạo của Tổng thống

Suharto ở Indonesia được phân tích, đánh giá, so sánh với các giai đoạn trước

và sau; thông qua các cứ liệu lịch sử cụ thể để nhìn nhận về những thành

công, hạn chế của Suharto một cách khách quan. Cuốn sách đã đem lại những

13

thông tin và cách tiếp cận đa chiều về Indonesia trong một giai đoạn lịch sử

mà tác giả có thể tham khảo tốt trong quá trình thực hiện luận án.

Công trình "Ethnic Conflics in Southeast Asia" (Xung đột tộc người ở

Đông Nam Á) của Adrian Vicker [160]. Công trình đã đề cập một trong

những vấn đề nổi cộm của nền chính trị khu vực và thế giới hiện nay, đó là

vấn đề ly khai dân tộc. Công trình khẳng định ly khai tộc người ở Đông Nam

Á có liên quan chặt chẽ đến vấn đề dân tộc, một vấn đề phức tạp và nhạy cảm

ở các quốc gia đa dân tộc trong quá trình bảo vệ, củng cố độc lập dân tộc.

Nhóm nghiên cứu công trình còn nâng vấn đề ly khai dân tộc thành chủ nghĩa

ly khai, một biểu hiện của chủ nghĩa dân tộc trong quá trình phát triển của các

quốc gia đa dân tộc. Theo các tác giả, bước sang thế kỷ XXI, hệ tư tưởng

không còn là nhân tố chính của những xung đột dân tộc trên thế giới. Hiện

nay, hầu hết các khu vực trên thế giới, từ các nước phát triển đến các nước

đang phát triển (trong đó có Đông Nam Á và Indonesia), nhiều quốc gia phải

đối phó với vấn đề ly khai dân tộc trong quá trình bảo vệ, củng cố độc lập dân

tộc. Nhóm tác giả cho rằng, vấn đề ly khai dân tộc là một trong những trở

ngại mà các nước Đông Nam Á, trong đó có Indonesia phải tìm ra những giải

pháp hữu hiệu để khắc phục, vượt qua đem lại sự ổn định và phát triển.

Công trình nghiên cứu "A History Modern Indonesia 1200 - 2004"

(Lịch sử Indonesia hiện đại 1200 - 2004) của tác giả M.C.Ricklefs [188], là

một kho tư liệu với nhiều sự kiện phản ánh trung thực về lịch sử Indonesia

hiện đại: Cuốn sách khái quát quá trình hình thành và phát triển của các

vương triều phong kiến; sự thâm nhập của các luồng văn hoá Đông - Tây

thông qua quá trình giao thương buôn bán ở Eo biển Malacca; sự xuất hiện

của những đoàn truyền giáo với mục tiêu chính trị, cuộc chiến để tranh giành

thuộc địa giữa các nước thực dân phương Tây (Anh, Tây Ban Nha, Bồ Đào

Nha và Hà Lan) và sự thắng thế của thực dân Hà Lan; sự cai trị hà khắc và

các cuộc đấu tranh của nhân dân Indonesia chống lại ách đô hộ của thực dân

14

Hà Lan...Thông tin quan trọng mà tác giả luận án tham khảo từ cuốn sách là,

những vấn đề sắc tộc, tôn giáo ở Indonesia được M.C.Ricklefs khắc họa một

cách sinh động thông qua việc phân tích hàng loạt các sự kiện, xung đột chỉ ra

nguyên nhân cùng những tác động đến diễn tiến lịch sử Indonesia.

Bài viết: "Behind Indonesia’s Red Scare" (Đằng sau nỗi sợ Đỏ của

Indonesia ) của tác giả Gatra Priyandita [175]. Gatra Priyandita là nghiên cứu

sinh tiến sĩ tại Trường Văn hóa, Lịch sử và Ngôn ngữ tại Đại Học Quốc gia

Australia. Nghiên cứu của ông tập trung vào ngoại giao công chúng của

Indonesia và chính trị Indonesia thời hậu Suharto. Bài viết đã khái quát cuộc

tàn sát năm 1965-1966 (hàng trăm ngàn người bị nghi ngờ là cộng sản hay có

tư tưởng ủng hộ cộng sản đã bị cầm tù và giết hại) và các vụ vi phạm nhân

quyền khác như cuộc thảm sát Talangsari vào năm 1989, cuộc bạo loạn ở

Jakarta vào năm 1998, và những vụ giết người ở Aceh và Papua. Đồng thời

nêu vấn đề đáng suy ngẫm: phần lớn các thủ phạm chính của những sự kiện

hay xung đột trên ngày nay vẫn còn sống, vẫn tiếp tục có ảnh hưởng chính trị

và sẽ không phải đối mặt với công lý trong tương lai gần, và người dân

Indonesia, những người mà quyền tự do dân sự của họ ngày càng bị hạn chế.

Cuốn sách: "Why Terrorists Quit: The Disengagement of Indonesian

Jihadists" (Vì sao bọn khủng bố bỏ cuộc: Gỡ bỏ cam kết với lực lượng Jihad

Indonesia) của Julie Chernov Hwang [184]. Trong tác phẩm Julie Hwang đã

tìm ra bốn yếu tố chung khiến các phần tử khủng bố rời bỏ tổ chức cực đoan.

Theo bà Hwang, đó là sự thất vọng khi những phần tử khủng bố nhận ra rằng

cái lợi thu được không đáng với cái giá mà họ phải trả. Từ nhận xét trên, tác

giả kết luận rằng để rời bỏ phong trào cực đoan hoàn toàn và tái hòa nhập xã

hội, sự hỗ trợ của bạn bè và gia đình là một nhân tố then chốt đối với các

phần tử này.

Cuốn sách: "BTI 2018: Indonesia Country Report" (BTI 2018 - Báo

cáo quốc gia Indonesia) [190]. Đây là tài liệu gốc của chính phủ Indonesia

15

vừa công bố. Báo cáo dài 45 trang dịch, đã tổng kết quá trình chuyển đổi dân

chủ của Indonesia bắt đầu vào tháng 5 năm 1998, khi nhà độc đoán lâu năm

Suharto từ chức tổng thống sau 32 năm tại vị, phân tích những điểm mạnh,

hạn chế của các đời tổng thống tiếp theo ở Indonesia. Báo cáo tổng kết hoạt

động của Indonesia qua 20 năm và đưa ra chiến lược phát triển đất nước trong

những năm tiếp theo. Cuối cùng Báo cáo đưa ra nhận định, Indonesia cần phát

triển hơn nữa hệ thống phúc lợi của mình để cung cấp các dịch vụ cơ bản, đặc

biệt là trong lĩnh vực y tế, giáo dục và cơ sở hạ tầng. Vấn đề này phải được

thực hiện với quản trị tốt ở tất cả các cấp. Nó cũng đòi hỏi sự hợp lực của vai

trò của nhà nước, khu vực tư nhân và xã hội dân sự. Đây là tài liệu gốc, cập

nhật rất quí giúp tác giả thực hiện luận án.

Ngoài các công trình của các học giả Phương Tây được công bố bằng

tiếng Anh, nhiều học giả người Hoa cũng quan tâm nghiên cứu về xung đột

tôn giáo, sắc tộc ở Indonesia. Sau đây là một số công trình đáng chú ý.

+ Bài viết: "Bước đầu tìm hiểu thích ứng văn hóa cộng đồng dân tộc

Hoa ở Indonesia trong gần 30 năm qua" của tác giả Trần Tú Dung [28]. Bài

viết khái quát, nhìn lại những nguyên nhân lịch sử trên phương diện này, phân

tích những đóng góp của tộc người Hoa tại Indonesia đối với những tiến bộ,

phồn vinh trong các lĩnh vực sản xuất, y tế, thể thao, đoàn thể, tôn giáo... bằng

những tư duy dân tộc và chuẩn mực hành vi của tộc người Hoa. Đồng thời,

bài viết cũng chỉ ra, vai trò và chính sách của chính phủ Indonesia đóng vai

trò then chốt trong việc đảm bảo người Hoa ở Indonesia với tư cách là một

dân tộc thiểu số tại Indonesia có thể được hưởng những quyền lợi bình đẳng

dân tộc, được hưởng sự bảo vệ và tôn trọng từ chính phủ Indonesia.

+ Bài báo: "Religious beliefs of Chinese people in Indonesia" (Tín

ngưỡng tôn giáo của người Hoa ở Indonesia) của tác giả Andyni Khosasih

[160]. Bài viết xuất phát từ những góc nhìn khác nhau về lịch sử và hiện

thực, tiến hành khảo sát trên cơ sở tổng hợp về tôn giáo của người Hoa ở

16

Indonesia, tình hình căn bản, những tồn tại trong thực tế, phân tích các đặc

tính, kết quả phiếu khảo sát để đưa ra những phát hiện về xu hướng tương

lai của vấn đề này. Người Hoa ở Indonesia có dân số lên đến gần 7 triệu

người. Những thành tựu kinh tế của người Hoa ở đây gắn liền với văn hóa

người Hoa. Do vậy, muốn hiểu được văn hóa người Hoa và cộng đồng

người Hoa ở Indonesia cần phải gắn liền với việc phân tích tín ngưỡng của

người Hoa.

+ Bài viết: "Nghiên cứu vấn đề chia rẽ dân tộc Aceh ở Indonesia dưới

góc độ chỉnh hợp quốc gia" của Chu Tuấn Hoa [54]. Bài viết nội dung chính

đề cập đến vấn đề: Chỉnh hợp quốc gia là một nhiệm vụ lâu dài và gian khổ

mà một quốc gia đa dân tộc phải đối mặt. Phần lớn các quốc gia Đông Nam Á

hiện nay đều là các quốc gia đa sắc tộc. Về mặt địa lý, các nước đều tồn tại

đặc trưng bởi "phân mảnh hóa", quá trình chỉnh hợp quốc gia gặp nhiều khó

khăn. Sự chia tách của nhóm dân tộc Aceh ở Indonesia mang tính đại biểu và

là một cửa sổ để nghiên cứu các vấn đề dân tộc và chỉnh hợp quốc gia ở Đông

Nam Á. Từ góc độ chỉnh hợp quốc gia, tác giả bài viết xem xét vấn đề chia rẽ

sắc tộc ở Indonesia, "vành đai địa lý phân mảnh" mang tính đa sắc tộc, đa tôn

giáo, đa văn hóa, địa lý. Sự mất cân bằng trong phát triển kinh tế giữa các dân

tộc khác nhau, và những nguy cơ tiềm ẩn trong lịch sử của chế độ thực dân

khiến cho quá trình chỉnh hợp dân tộc tại đây rất khó thực hiện, tạo thành sự

chia rẽ sắc tộc. Mặt khác, sự phân chia quyền lực chính trị tại Indonesia sau

độc lập không đồng đều, phân bố cấu trúc mất cân bằng, tâm lý tôn giáo dân

tộc mạnh mẽ, trong khi ý thức quốc gia không có được sự quy chuẩn và

hướng dẫn chính xác. Thêm vào đó, những mâu thuẫn giữa chính quyền trung

ương và địa phương, những sai lầm của chính sách dân tộc ở một mức độ nhất

định, đã làm tan biến bản sắc dân tộc vốn đã khá suy yếu và cản trở quá trình

chỉnh hợp quốc gia của Indonesia và việc giải quyết sự chia rẽ của dân tộc

Aceh. Từ đó đưa ra nhận định, việc giải quyết vấn đề chia rẽ dân tộc, cần bắt

17

đầu từ củng cố sự chỉnh hợp quốc gia và phụ thuộc vào nhiều nhân tố thuộc

nhiều phương diện.

+ Bài viết: "Chỉnh hợp chính trị ở các nước đa dân tộc đang phát triển:

điểm chung, khó khăn và cách hóa giải - trên cơ sở so sánh giữa Indonesia và

Nigeria" của tác giả Dư Xuân Dương [30]. Đây là bài viết của một học giả

Trung quốc nghiên cứu vấn đề chỉnh hợp chính trị của các nước đa dân tộc

đang phát triển đòi hỏi phải xuất phát từ góc độ so sánh cấp quốc gia. Thông

qua so sánh tiến trình chỉnh hợp chính trị của Indonesia và Nigeria từ khi

thành lập nước đến nay, rút ra những điểm chung chủ yếu mà hai nước gặp

phải trong quá trình chỉnh hợp chính trị. Theo tác giả bài báo, cách thức hóa

giải những khó khăn trên chủ yếu bao gồm: 1/ Tìm kiếm điểm trùng hợp

trong nhận thức chung, tôn trọng những khác biệt văn hóa, xây dựng cộng

đồng dân tộc quốc gia; 2/ Tìm kiếm, xây dựng thể chế, cơ chế chính trị đảm

bảo gắn kết về lợi ích, chia sẻ thành quả; 3/ Xóa bỏ những ảnh hưởng của

quân nhân, quân đội trong đời sống chính trị, trừng trị nghiêm khắc hành vi

tham nhũng; 4/ Tìm kiếm và thúc đẩy nhưng chính sách hòa hợp dân tộc và

hòa hợp tôn giáo đa ngôn ngữ.

Đây là những tài liệu từ nguồn tiếng Trung đã được dịch sang tiếng

Việt, những tài liệu này gợi ý cho tác giả luận án nắm bắt về chính sách quản

lý, giải quyết những vấn đề có liên quan đến người Hoa ở quốc gia này, qua

đó liên hệ, so sánh sự giống và khác nhau trong giải quyết xung đột sắc tộc ở

các nước đang phát triển có đa dân tộc cùng sinh sống. Những tài liệu này

phục vụ tác giả thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu đặt ra ở chương 3 và chương 4

của luận án.

1.1.2. Các công trình nghiên cứu của các học giả Indonesia

Kể từ sau Chiến tranh Lạnh đến năm 2015 là quãng thời gian tương đối

dài trong quá trình phát triển của Cộng hòa Indonesia. Đây cũng là thời kỳ thế

giới và khu vực có nhiều biến động. Trong bối cảnh đó, Cộng hòa Indonesia là

18

quốc gia điển hình về tình trạng xung đột sắc tộc, tôn giáo, ly khai dân tộc trong

khu vực. Việc quốc gia này xử lý các xung đột sắc tộc, tôn giáo, ly khai dân tộc

cùng những ảnh hưởng của nó đến sự nghiệp củng cố độc lập dân tộc trong thời

gian này đã được nhiều nhà nghiên cứu Indonesia thực hiện. Các công trình

nghiên cứu có liên quan đến đề tài luận án tiêu biểu mà tác giả có thể tiếp cận:

+ Tập hợp các bài phỏng vấn về kinh tế và chính trị về "Indonesia yang

Berubah" (Indonesia đang thay đổi) của các tác giả Gunawan Haryono, Daddi

Prianto, Agus Sukapti, Sri, Yulia Nuraini và Ratna [180].

+ Bài viết "Budaya Indonesia, Kajian Arkeologi, Seni, dan Sejarah"

(Văn hoá Indonesia, đánh giá khảo cổ, nghệ thuật và lịch sử) của tác giả

Sedyawati Edi [199]. Tác phẩm đã trình bày khá chi tiết về lịch sử phát triển

văn hóa Indonesia thông qua những đánh giá về khảo cổ và nghệ thuật kiến

trúc của nước này.

+ Cuốn sách "Politik Indonesia dalam Perspektif Sejarah" (Chính trị

Indonesia trong bối cảnh lịch sử) của tác giả Warday T.Baskara [204].

+ "Military Politics, Ethnicity and Conflict in Indonesia" (Chính trị

quân sự, sắc tộc và xung đột ở Indonesia) của tác giả Ikrar Nusa Bhakti, Sri

Yanuarti và Moamad Nurhasim [192]. Các tác giả Ikrar Nusa Bhakti, Sri

Yanuarti và Mochamad Nurhasim, là những nhà nghiên cứu tại Trung tâm

Nghiên cứu chính trị tại Viện Khoa học Indonesia (LIPI). Trong tập tài liệu

này, nhóm tác giả đã hệ thống, phân tích về vai trò của quân đội trong chính

trị Indonesia: 1945-2004. Đặc biệt, tài liệu đã làm rõ vai trò của quân đội

trong xử lý vấn đề ly khai ở Papua (1998-2004); các phản ứng của quân đội

đối với Phong trào Aceh tự do (1976-1998). Đây là những tài liệu rất quí mà

tác giả đã khai thác phục vụ đề tài luận án.

+ "Lessons learned from Indonesia's conflicts: Aceh, Poso and

Papua..." (Bài học rút ra từ các cuộc xung đột của Indonesia: Aceh, Poso và

Papua...) của tác giả Sidney Jones [201] là Viện trưởng Viện Phân tích Chính

19

sách Xung đột (IPAC). Tác giả đề cập trong bài nội dung về: ba cuộc xung

đột mà chính phủ Indonesia đã cố gắng giải quyết đưa ra một số bài học

nghiêm túc cho tổng thống tiếp theo của đất nước. Đó là: một thỏa thuận hòa

bình ở Aceh đã ngăn chặn một cuộc nổi dậy nhưng các cựu phiến quân tỏ ra

là những nhà lãnh đạo chính trị tồi tệ. Một thỏa thuận ở Poso đã ngăn chặn

cuộc chiến giữa Thiên chúa giáo - Hồi giáo nhưng để lại một mạng lưới cực

đoan tại chỗ vẫn tiếp tục hoạt động. Và một bộ máy chính quyền mới đã được

thành lập cho Papua đã thất bại khi chỉ tập trung vào phát triển kinh tế, trong

khi các bước ban đầu để đối thoại với Jakarta dường như bị đình trệ. Tác giả

Jones đã phân tích lý do của những kết quả trên và đưa ra nhận định về những

gì một chính quyền mới có thể cố gắng tiến lên. Đây là những thông tin rất

quan trọng mà tác giả luận án đã khai thác và đề cập trong chương 3.

+ "Religion Conflicts in Indonesia Problems and Solutions" (Xung đột

tôn giáo ở Indonesia các vấn đề và các giải pháp) của tác giả: Sintha

Wahjusaputri [202]. Bài viết phân tích những xung đột tôn giáo ở Indonesia

và đưa ra một số giải pháp cho vấn đề này.

+ Bài viết: "Harmony in Diversity: A Government Policy and Mutual

Effort of..." (Sự hài hòa trong đa dạng: Chính sách của chính phủ và nỗ lực

chung của những người tôn giáo ở Indonesia) của Dede Rosyada [173].

Thông qua tiếp cận và phân tích nhiều văn bản gốc của chính phủ Indonesia,

tác giả Dede Rosyada đã đưa ra nhận định: những người sáng lập của đất

nước đã đặt ra thỏa thuận ngay từ đầu, rằng họ khác nhau về sắc tộc, tôn giáo

và văn hóa, nhưng họ có một mục tiêu chung là trở thành một quốc gia độc

lập có thể thiết lập đất nước của mình để tạo ra chủ nghĩa lý tưởng lẫn nhau

để trở thành một xã hội phát triển, công bằng và thịnh vượng. Để trở thành

một quốc gia phát triển có thể đứng ngang hàng với các quốc gia khác trên thế

giới và quản lý toàn bộ tiềm năng của quốc gia, sự ổn định chính trị, sự tham

gia của công chúng và sức mạnh của nguồn nhân lực đáng tin cậy là cần thiết.

20

+ "Religion in Indonesia" (Tôn giáo ở Indonesia) của Indonesia [191].

Đây là bài viết đăng trên trang điện tử đầu tư, mục văn hóa của Indonesia. Bài

viết đề cập: Indonesia là một quốc gia dân chủ thế tục có dân số đa số Hồi

giáo. Hiến pháp Indonesia đảm bảo tất cả mọi người ở Indonesia có quyền tự

do thờ cúng, mỗi người theo tôn giáo hoặc tín ngưỡng của riêng mình. Nó

cũng quy định rằng nhà nước sẽ dựa trên niềm tin vào "Thiên Chúa duy nhất

và duy nhất" (một điều kiện cũng hình thành nguyên tắc đầu tiên của

Pancasila, triết lý nhà nước Indonesia được Sukarno đưa ra vào năm 1945).

Bài báo nhận định, Mặc dù Indonesia không phải là một quốc gia Hồi giáo,

các nguyên tắc Hồi giáo có ảnh hưởng đến việc ra quyết định chính trị. Hơn

nữa, một số nhóm Hồi giáo nhất định đã có thể ảnh hưởng đến việc ra quyết

định chính trị và tư pháp thông qua (mối đe dọa) bạo lực. Điểm đặc biệt trong

chính sách của chính phủ Indonesia đối với tôn giáo (tự do) được bài báo rút

ra là nó chỉ công nhận sáu tôn giáo chính thức (là Hồi giáo, Tin lành, Thiên

chúa giáo, Ấn Độ giáo, Phật giáo và Nho giáo). Mỗi người Indonesia được

yêu cầu phải nắm lấy một trong những tôn giáo này vì đây là dữ liệu cá nhân

bắt buộc được đề cập trong các tài liệu chính thức như hộ chiếu và thẻ nhận

dạng khác.

+ Ngoài ra, các bài viết này đều đã được dịch sang tiếng Việt có thể tìm

đọc tại thư viện Viện nghiên cứu Đông Nam Á - Viện Hàn lâm Khoa học xã

hội Việt Nam hoặc trên trang website http://nghiencuuquocte.org.

Các công trình nêu trên đã tiếp cận ở nhiều góc độ, phân tích, lý giải,

những khía cạnh khác nhau về nguyên nhân, thực trạng xung đột sắc tộc, tôn

giáo, ly khai dân tộc ở Indonesia và bước đầu làm sáng tỏ việc quốc gia này

xử lý các xung đột sắc tộc, tôn giáo, ly khai dân tộc cùng những ảnh hưởng

của nó đến sự nghiệp củng cố độc lập dân tộc trong thời gian từ sau Chiến

tranh Lạnh đến năm 2015. Vì vậy, đây chính là nguồn tư liệu quan trọng cung

cấp những cứ liệu tham khảo sát, khách quan, khoa học để tác giả tham khảo

thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu của luận án.

21

1.1.3. Các công trình nghiên cứu của các học giả Việt Nam

Các nhà nghiên cứu Việt Nam cũng đã công bố một số lượng lớn các

công trình về Indonesia nói chung, xung đột sắc tộc, tôn giáo ở nước này nói

riêng. Sau đây là một số công trình tiêu biểu:

Cuốn: "Indonesia những chặng đường lịch sử" của tác giả Ngô Văn

Doanh [25]. Từ việc cho ra mắt những công trình mang tính giới thiệu về văn

hoá, nghệ thuật của Indonesia, tác giả đã mở rộng hơn phạm vi nghiên cứu

khi cho ra đời những công trình đề cập đến các giai đoạn phát triển của lịch sử

Indonesia, hoặc đi sâu nghiên cứu về một vấn đề cụ thể. Cuốn Indonesia

những chặng đường lịch sử là công trình nghiên cứu công phu và khá toàn

diện về sự phát triển của Indonesia đến những năm 90 của thế kỷ XX. Được

trình bày theo từng giai đoạn lịch sử, cuốn sách bổ sung nguồn tư liệu quan

trọng để nghiên cứu sinh tìm hiểu thêm về đất nước, con người và lịch sử phát

triển của Indonesia.

Cuốn "Lịch sử Đông Nam Á" của Lương Ninh, Đỗ Thanh Bình, Trần

Thị Vinh [103] là công trình nghiên cứu về đại cương lịch sử Đông Nam Á,

được trình bày theo những lát cắt thời gian. Trong tác phẩm, các sự việc, sự

kiện được mô tả trung thực và độc lập, khắc họa được những nét đặc thù nhưng

vẫn phản ánh được sự liên kết mang tính hệ thống của từng quốc gia trong khu

vực. Trong tác phẩm này, Indonesia từ thời tiền sử đến năm 2005 tuy được trình

bày một cách khái quát nhưng đã thể hiện được những nét cơ bản nhất của lịch

sử phát triển và cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc của Indonesia.

Công trình nghiên cứu về lịch sử đương đại Đông Nam Á được Nhà

xuất bản Khoa học Xã hội ấn hành vào năm 2012 tại Hà nội. Đây là Tập VI

của bộ Thông sử Đông Nam Á do các học giả của Viện nghiên cứu Đông nam

Á, thuộc Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam biên soạn. Tập này có tựa

đề " Đông Nam Á trong thời kỳ hòa bình, phát triển và hội nhập" do Nguyễn

Thu Mỹ Chủ biên, Sách dày 774 trang, bao gồm 10 chương đề cập tới những

22

tiến triển cơ bản trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa. xã hội và hội

nhập quốc tế của Đông Nam Á trong 2 thập niên đầu của thời kỳ sau Chiến

tranh. Phần viết về Indonesia được đề cập ở hầu hết các chương (từ chương 2

và 10). Ở các chương này, các tác giả đã phân tích tình hình Indonesia, với tư

cách một bộ phận không thể tách rời của khu vực Đông nam Á, khi bước vào

thời kỳ sau Chiến tranh lạnh; những nỗ lực của Indonesia trong công cuộc

phục hồi kinh tế sau khủng hoảng tài chinh tiền tệ và chống lại các hoạt động

li khai khủng bố nhằm bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ và củng cố độc lập dân tộc

của Indonesia. Xuất phát từ nhận thức rằng hiện tượng li khai khủng bố ở

Indonesia cũng như ở một số nước Đông Nam Á khác có nguyên nhân sâu xa

từ chính sách ưu tiên dân tộc đa số và phân biệt đối xử với các dân tộc ít

người, là sự phân phối không công bằng các lợi ích từ sự phát triển kinh tế

của đất nước, nên khi viết về các hoạt động chống li khai khủng bố của chính

phủ Indonesia, các tác giả không chỉ dừng lại ở việc trình bày các hoạt động

vũ trang chống khủng bố mà còn phân tích sâu các cải cách chính trị, kinh tế,

xã hội nhằm giải quyết các nguyên nhân gốc rễ dẫn tới xung đột sắc tộc, tôn

giáo ở quốc gia này.

Cuốn sách: "Một số vấn đề về xung đột sắc tộc và tôn giáo ở Đông

Nam Á" của Phạm Thị Vinh [155]. Đây là một tập hợp các bài viết của các tác

giả về xung đột, tôn giáo, sắc tộc ở Indonesia, Malaysia, Philippines, Mianma

và Thái Lan. Trong các bài viết đó, các giả đã phân tích khá sâu về các

nguyên nhân của tình trạng li khai ở một số nước Đông Nam Á hiện nay và

những biện pháp khắc phục của chính phủ các nước trên.

Những bài nghiên cứu về những vấn đề "nóng" ở Indonesia như: "Vấn

đề Aceh ở Indonesia" của Phạm Thị Vinh, Nguyễn Huy Hồng [156]; "Xung

đột giữa người Dayak và Madura ở Tây Kalimantan (Borneo), Indonesia" của

Lê Thanh Hương [69]; "Indonesia trong cuộc chiến chống khủng bố" của

Nguyễn Huy Hồng [63]. Với những góc độ tiếp cận khác nhau cùng những

23

phân tích cụ thể, đây là nguồn tài liệu tham khảo rất tốt để nghiên cứu sinh

tiếp cận với một vấn đề đang thu hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu

trên thế giới và trong nước liên quan đến nội dung luận án.

Ngoài ra còn có khá nhiều bài viết đăng trên các tạp chí chuyên ngành

như: "Một số vấn đề trong chính sách đối ngoại của Cộng hòa Indonesia dưới

chế độ Tổng thống Sukarno" của Nguyễn Thị Thanh Thủy [134]; "Indonesia:

Lý thuyết điều chỉnh chính sách - cách nhìn lịch sử và bài học kinh nghiệm"

của Nguyễn Văn Hồng [65]; "Đầu tư trực tiếp của các nền kinh tế công

nghiệp mới châu Á (NICs) trong nền kinh tế Indonesia gần đây" của Lưu

Ngọc Trịnh [141]; "Thành tựu, kinh nghiệm và những vấn đề phát triển kinh

tế của Thái Lan, Malaysia, Philippin và Indonesia" của Nguyễn Mai Trung

[143]; "Indonesia qua những con số" của Trần Trọng Ngợi [95]; "Cải cách

kinh tế Indonesia từ đầu thập kỷ 80 đến nay và Tác động xã hội của khủng

hoảng tài chính ở Indonesia" của tác giả Nguyễn Văn Hà [43]; :Indonesia -

Tiếp bước trên con đường dân chủ và Đảng Goikar trên chính trường

Indonesia" của tác giả Nguyễn Huy Hồng [62]; "Người Hoa ở Indonesia với

cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ" của Châu Thị Hải [47]; "Chính sách

ngôn ngữ ở Indonesia trong hai thập kỷ qua" của Đoàn Văn Phúc [107]; "Tác

động của sự mất ổn định ở Indonesia đối với Đông Nam Á" của Phạm Văn

Đức [41]; các bài nghiên cứu của các tác giả tham gia Hội thảo: "Việt Nam -

Indonesia: Vì hoà bình, ổn định, hữu nghị và hợp tác ở Đông Nam Á" [154];

Những bài viết tham gia các hội thảo khoa học nhân dịp kỷ niệm 30 năm

(1997) và 40 năm (2007) tồn tại, phát triển của ASEAN do Trung tâm Khoa

học xã hội và nhân văn quốc gia (Việt Nam) tổ chức…

- Bài viết: "Tôn giáo và chính sách tôn giáo của Indonesia" của tác giả

Phong Phong [105]. Bài viết sau khi đề cập tóm tắt tình hình tôn giáo ở

Indonesia, đã đưa ra nhận định: việc chính trị hóa sắc tộc và tôn giáo có nguy

cơ gây chia rẽ chủ yếu trong nền chính trị quốc gia này. Chính phủ Indonesia

24

sẽ phải đối mặt với nhiều thách thức về sự thống nhất. Một trong những ưu

tiên là phải giải quyết tốt mối quan hệ giữa các tôn giáo, xây dựng các mối

tương quan liên tôn giáo hài hòa; thừa nhận sự đa dạng về văn hóa, tôn giáo,

tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của người dân. Đồng thời, cần

thực hiện các biện pháp phát triển kinh tế, giáo dục, xóa đói giảm nghèo để có

thể hạn chế được phần nào các cuộc xung đột sắc tộc, tôn giáo thông qua giải

quyết sự bất bình đẳng và bất công. Đây là những tư liệu tốt cho tác giả khi

nghiên cứu và đánh giá về vấn đề này.

1.1.4. Các luận văn, luận án về Indonesia

Bên cạnh những công trình khoa học do các nhà nghiên cứu thực hiện

tại các trung tâm nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn, trong những năm

gần đây, nhiều học viên cao học, nghiên cứu sinh cũng chọn các vấn đề sắc

tộc, tôn giáo ở Indonesia làm đề tài Thạc sỹ hoặc Tiến sỹ.

+ "Vấn đề ly khai dân tộc ở Đông Nam Á và những tác động của nó tới

khu vực từ 1991 đến năm 2000" của Nguyễn Kim Minh [90]. Luận văn đề cập

và phân tích về tình hình ly khai dân tộc ở Đông Nam Á, trong đó tập trung

làm rõ nguyên nhân, thực trạng và một số giải pháp mà các chính phủ

Indonesia, Philippines và Thái lan đã thực hiện trong giải quyết các vấn đề ly

khai ở nước mình.

+ "Quá trình đấu tranh củng cố độc lập dân tộc của Cộng hòa Indonesia

(1967 - 1998)" của Đinh Thanh Tú [146]. Luận án nghiên cứu và trình bày, luận

giải rõ các chính sách phát triển nhằm nâng cao sức mạnh đất nước, củng cố độc

lập dân tộc và bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ mà Indonesia đã thực hiện trong giai

đoạn 1967 - 1998; đánh giá những thành công, hạn chế và chỉ ra mối liên quan

giữa chúng đối với những vấn đề cần giải quyết của Indonesia hiện nay; rút ra

một số bài học về việc kết hợp để thực hiện có hiệu quả các chính sách phát triển

kinh tế, xã hội trong đấu tranh củng cố độc lập dân tộc và toàn vẹn lãnh thổ của

các nước đang phát triển trong bối cảnh hiện nay.

25

+ "Vấn đề xung đột sắc tộc-tôn giáo trong sự nghiệp bảo vệ độc lập

dân tộc của Indonesia từ năm 1945 đến 2005" của Bùi Huy Thành [119].

Luận án đã đi sâu phân tích làm rõ thực trạng xung đột sắc tộc-tôn giáo ở

Indonesia: điển hình là xung đột tại Đông Timo, Aceh, Irian Giaya, Maluku,

xung đột giữa người Hoa và người bản địa…Luận án rút ra nhận định: thực

trạng này bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân khác nhau như: nguyên nhân sâu

xa từ Indonesia là một quốc gia quần đảo lớn nhất thế giới, đồng thời cũng là

đất nước đa tôn giáo, đa dân tộc, đa ngôn ngữ với khoảng 400 tộc người và

200 ngôn ngữ khác nhau và cùng với chính sách chia để trị của chủ nghĩa

thực dân trong nhiều thập niên khi đất nước này bị chiếm làm thuộc địa.

Nguyên nhân trực tiếp bao gồm nhiều yếu tố như: 1). Bất công là nguồn gốc

kinh tế của xung đột giữa các nhóm sắc tộc hoặc các nhóm tôn giáo trong xã

hội. 2). Chênh lệch về trình độ phát triển giữa các sắc tộc hoặc các tôn giáo.

3). Nhà nước Indonesia có sự phân biệt đối xử giữa các sắc tộc hoặc các tôn

giáo 4). Sự can thiệp từ bên ngoài… Các mâu thuẫn và xung đột sắc tộc-tôn

giáo này đã tác động tiêu cực đến đời sống kinh tế - xã hội cũng như đe dọa

nền độc lập dân tộc và toàn vẹn lãnh thổ của Indonesia.

Cuối cùng, luận án đã rút ra một số bài học kinh nghiệm cho các quốc

gia đang phát triển và Việt Nam

+ "Quá trình dân chủ hóa ở Indonesia từ năm 1945 đến nay- nhìn từ

góc độ giai cấp trung lưu và xã hội dân sự" của Hồ Thị Thành [120]. Luận án

này đã tập trung giải quyết các vấn đề: 1) Làm rõ quá trình dân chủ hóa và

các mô hình dân chủ được vận dụng ở Indonesia từ năm 1945 đến 2014, 2)

Phân tích ảnh hưởng của giai cấp trung lưu và các tổ chức xã hội dân sự đối

với quá trình dân chủ hóa. 3) Đưa ra một số ngụ ý của dân chủ hóa ở

Indonesia đối với khu vực Đông Nam Á và Việt Nam.

+ "Quá trình đấu tranh giành và củng cố độc lập ở Indonesia (1927-

1965)" của Phạm Thị Huyền Trang [140]. Luận án phân tích sâu các nhân tố

26

quốc tế và trong nước tác động tới quá trình đấu tranh giành và củng cố độc

lập dân tộc của Indonesia qua hai giai đoạn chính: 1927-1945 và 1945-1965.

Luận án đã phân tích đầy đủ, toàn diện các hình thức đấu tranh đa dạng và

phong phú và làm rõ sự khác nhau giữa các hình thức trong mỗi giai đoạn của

quá trình đấu tranh giành và củng cố nền độc lập dân tộc của nhân dân

Indonesia. Trong chương cuối cùng, luận đã làm rõ được các thành tựu, hạn

chế của cuộc đấu tranh giành và củng cố độc lập của Indonesia, đồng thời chỉ

ra nguyên nhân dẫn tới những thành tựu và hạn chế đó. Luận án cũng làm rõ

những đặc điểm của cuộc đấu tranh giành và củng cố độc lập dân tộc của

Indonesia trong so sánh với sự nghiệp tương tự của Việt nam. Mặc dù luận án

không đề cập trực tiếp tới các vấn đề xung đột sắc tộc tôn giáo ở Indonesia

hiện nay, các kết quả nghiên cứu của luận án đã cung cấp sự hiểu biết nhất

định về nguyên nhân lịch sử của các xung đột sắc tộc, tôn giáo ở Indonesia,

đặc biệt là ở Aceh

1.2. MỘT SỐ NHẬN XÉT VỀ KẾT QUẢ KHOA HỌC MÀ LUẬN ÁN SẼ

KẾ THỪA TỪ NGHIÊN CỨU CỦA NHỮNG NGƯỜI ĐI TRƯỚC

Các công trình nghiên cứu được đề cập trên đây đã tiếp cận vấn đề

nghiên cứu từ nhiều góc độ, phân tích, lý giải những khía cạnh khác nhau về

nguyên nhân, thực trạng xung đột sắc tộc, tôn giáo, ly khai dân tộc ở

Indonesia và bước đầu làm sáng tỏ việc quốc gia này xử lý các xung đột sắc

tộc, tôn giáo, ly khai dân tộc cùng những ảnh hưởng của nó đến sự nghiệp

củng cố độc lập dân tộc trong thời gian từ sau Chiến tranh Lạnh đến năm

2015. Đây chính là nguồn tài liệu tham khảo quý để NCS tham khảo, phục vụ

cho việc nghiên cứu đề tài luận án. Những kết quả nghiên cứu mà luận án có

thể kế thừa từ những công trình trên bao gồm:

Thứ nhất, đã làm rõ các khái niệm về sắc tộc, tôn giáo, ly khai dân

tộc phân tích những tác động của nó đến tình hình kinh tế, chính trị, xã hội

của Indonesia.

27

Thứ hai, đã làm rõ nguyên nhân, diễn biến và một số giải pháp xử lý các

xung đột sắc tộc, tôn giáo, ly khai dân tộc ở Indonesia từ sau Chiến tranh Lạnh.

Thứ ba, các công trình nghiên cứu trên bước đầu đã rút ra một số kinh

nghiệm mang tính phổ quát về xử lý xung đột, ly khai dân tộc ở Indonesia.

1.3. NHỮNG VẤN ĐỀ LUẬN ÁN CẦN TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU HOẶC

LÀM SÂU SẮC HƠN

Trên cơ sở tiếp thu những kết quả nghiên cứu của các công trình nghiên

cứu trước, luận án sẽ tập trung giải quyết và làm sáng tỏ một số vấn đề sau:

Một là, một số khái niệm xung quanh vấn đề giải quyết xung đột sắc

tộc, tôn giáo nhằm củng cố độc lập dân tộc của các nước đa dân tộc, đa tôn

giáo trong quá trình toàn cầu hóa hiện nay.

Hai là, những nhân tố nào tác động đến xung đột sắc tộc, tôn giáo và

việc giải quyết nó nhằm bảo vệ và củng cố độc lập dân tộc ở Cộng hòa

Indonesia giai đoạn 1991-2015.

Ba là, ý nghĩa và những kinh nghiệm rút ra từ thực tiễn giải quyết xung

đột sắc tộc, tôn giáo, ly khai dân tộc ở Indonesia đối với các quốc gia trong

khu vực, trong đó có Việt Nam.

Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu của luận án, do những

điều kiện chủ quan và khách quan, tác giả tự nhận thấy có những vấn đề nêu

ra mới chỉ giải quyết được một phần hoặc có những vẫn đề nghiên cứu chưa

sâu. Tác giả sẽ tiếp tục nghiên cứu và hoàn thiện trong thời gian tiếp theo.

Tiểu kết chương 1

Tổng hợp các công trình nghiên cứu liên quan cho thấy, các công trình

nghiên cứu rất đa dạng cả về nội dung, hình thức và cách tiếp cận. Các công

trình đã tiếp cận ở nhiều góc độ, phân tích, lý giải, những khía cạnh khác

nhau về nguyên nhân, thực trạng xung đột sắc tộc, tôn giáo, ly khai dân tộc ở

Indonesia và bước đầu làm sáng tỏ việc quốc gia này xử lý các xung đột sắc

tộc, tôn giáo, ly khai dân tộc cùng những ảnh hưởng của nó đến sự nghiệp

28

củng cố độc lập dân tộc trong thời gian từ sau Chiến tranh Lạnh đến năm

2015. Luận án tiếp thu, kế thừa kết quả của các công trình trước, vận dụng và

phát triển trong nghiên cứu, phục vụ cho việc làm rõ các vấn đề theo chủ đề

của đề tài luận án.

Tổng quan tình hình nghiên cứu, theo mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu,

cho thấy còn thiếu hụt trên nhiều vấn đề, mà luận án phải tiếp tục giải quyết.

Đó là: thống nhất một số khái niệm liên quan đến nội dung luận án; những

nhân tố nào tác động đến xung đột sắc tộc, tôn giáo và việc giải quyết nó

nhằm bảo vệ và củng cố độc lập dân tộc ở Cộng hòa Indonesia giai đoạn

1991-2015; ý nghĩa và những kinh nghiệm rút ra từ thực tiễn giải quyết xung

đột sắc tộc, tôn giáo, ly khai dân tộc ở Indonesia đối với các quốc gia trong

khu vực, trong đó có Việt Nam.

29

Chương 2

NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN

XUNG ĐỘT SẮC TỘC, TÔN GIÁO TRONG CÔNG CUỘC BẢO VỆ,

CỦNG CỐ ĐỘC LẬP DÂN TỘC CỦA CỘNG HÒA INDONESIA

GIAI ĐOẠN 1991-2015

2.1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ XUNG ĐỘT SẮC TỘC, TÔN GIÁO

VÀ BẢO VỆ, CỦNG CỐ ĐỘC LẬP DÂN TỘC THÔNG QUA GIẢI QUYẾT XUNG

ĐỘT SẮC TỘC, TÔN GIÁO

2.1.1. Một số vấn đề lý luận về xung đột sắc tộc, tôn giáo và ảnh

hưởng của nó đến độc lập dân tộc

2.1.1.1. Khái niệm "dân tộc", "tộc người"

- Khái niệm "Dân tộc" (Nation)

Dân tộc là sản phẩm của một quá trình lâu dài trong lịch sử xã hội loài

người. Trước khi xuất hiện dân tộc, loài người đã trải qua những hình thức cộng

đồng từ thấp đến cao: thị tộc, bộ lạc, bộ tộc. Dân tộc là khái niệm chỉ cộng đồng

người hình thành và phát triển trong lịch sử, sau khi xã hội đã có sự phân chia

giai cấp và xuất hiện nhà nước. Về mặt xã hội, khái niệm dân tộc không phải bao

giờ cũng trùng hợp với khái niệm quốc gia theo nghĩa là một cộng đồng chính trị

- xã hội được quản lý bằng bộ máy nhà nước. Có quốc gia chỉ gồm một dân tộc

(hiếm có, như trường hợp Triều Tiên trước khi bị chia cắt), song phần lớn là

những quốc gia gồm nhiều dân tộc (nhiều dân tộc nhỏ quy tụ xung quanh một

dân tộc chủ yếu, thường là đông hơn và phát triển hơn trong lịch sử). Cũng có

tình hình là những người cùng một dân tộc nhưng sống phân tán ở những quốc

gia khác nhau. Trong lịch sử, các dân tộc hình thành và phát triển rất không đồng

đều cả về thời gian, quy mô, sức sống lẫn trình độ phát triển.

Khái niệm dân tộc được hiểu theo hai nghĩa:

Thứ nhất, khái niệm dân tộc là khái niệm dùng để chỉ cộng đồng tộc

người (ethnic) trong lịch sử. Đây là khái niệm chỉ một cộng đồng người có

30

mối liên hệ chặt chẽ và bền vững, có chung sinh hoạt kinh tế, có ngôn ngữ

riêng, có những nét đặc thù về văn hoá; xuất hiện sau bộ lạc, bộ tộc; kế thừa

phát triển cao hơn những nhân tố tộc người ở bộ lạc, bộ tộc và thể hiện thành

ý thức tự giác tộc người của dân cư cộng đồng đó.

Theo nghĩa này, dân tộc là một cộng đồng người hình thành và phát

triển trong lịch sử, trên một lãnh thổ nhất định, có mối liên hệ tương đối bền

vững về kinh tế, ngôn ngữ, đặc điểm sinh hoạt văn hoá và ý thức tự giác dân

tộc thông qua tự nhận tên gọi của dân tộc mình, như dân tộc Tày, dân tộc

Mường, dân tộc Chứt... Trong cách nói thông dụng, từ dân tộc có thể thay

bằng từ "người" như người Tày, người Hoa, người Êđê… đều để chỉ dân tộc

Tày, dân tộc Hoa, dân tộc Êđê… ở Việt Nam [135].

Dân tộc theo nghĩa tộc người được nhận biết qua các đặc trưng là: 1),

các thành viên trong cùng một dân tộc có chung một phương thức sinh hoạt

kinh tế làm cơ sở liên kết các thành viên trong dân tộc, tạo nền tảng cho dân

tộc tồn tại và phát triển; 2). có một ngôn ngữ chung (thường là tiếng mẹ đẻ)

để giao tiếp nội bộ và ngăn cách, phân biệt với dân tộc khác; 3), có chung đặc

điểm sinh hoạt văn hoá, tạo nên bản sắc văn hoá của dân tộc, phân biệt với

văn hóa các dân tộc khác; thứ tư, có chung một ý thức tự giác dân tộc, tự thừa

nhận mình thuộc về một cộng đồng dân tộc, luôn tự hào, bảo lưu gìn giữ ngôn

ngữ, văn hóa, lãnh thổ, lợi ích của dân tộc mình, được biểu hiện cao nhất ở

việc tự nhận tên gọi của dân tộc mình.

Một dân tộc được biểu hiện ở phức hợp các đặc trưng, tiêu chí trên

trong mối quan hệ với nhau. Trên thực tế, có thể có dân tộc có đầy đủ đặc

trưng, nhưng có dân tộc không còn đủ các đặc trưng đó, ý thức tự giác dân tộc

sẽ là tiêu chí còn lại cuối cùng của dân tộc, khi các đặc trưng, các tiêu chí trên

có thể bị mai một, bị đồng hóa.

Thứ hai, khái niệm dân tộc dùng để chỉ một cộng đồng người cùng sinh

sống trong một quốc gia dân tộc (State -Nation). Theo quan điểm mácxít, dân tộc

31

là một cộng đồng người xác định dựa trên cộng đồng về lãnh thổ, ngôn ngữ, tâm

lý dân tộc, một thị trường dân tộc thống nhất trong một "nhà nước dân tộc" nhất

định. Theo nghĩa này, dân tộc là một cộng đồng chính trị - xã hội, thiết lập trên

một lãnh thổ nhất định, bao gồm một hay nhiều tộc người, được quản lý, chỉ đạo

bởi một nhà nước chung, thống nhất. Như vậy, dân tộc là một cộng đồng người

ổn định làm thành nhân dân của một nước, có lãnh thổ quốc gia, nền kinh tế

thống nhất, quốc ngữ chung và có ý thức về sự thống nhất của mình, gắn bó với

nhau bởi quyền lợi chính trị, kinh tế, truyền thống văn hoá và truyền thống đấu

tranh chung trong suốt quá trình lịch sử lâu dài dựng nước và giữ nước. Dân tộc

là dân cư của một quốc gia nhất định, là quốc gia - dân tộc, như: dân tộc Pháp,

dân tộc Việt Nam, dân tộc Campuchia, dân tộc Indonesia...

Như vậy, với nghĩa thứ nhất, dân tộc là một bộ phận trong dân tộc quốc

gia đa tộc người; với nghĩa thứ hai, dân tộc là toàn bộ nhân dân của quốc gia

dân tộc đó.

Sự hình thành dân tộc trải qua quá trình lịch sử lâu dài, gắn liền với sự

phát triển của sản xuất, điều kiện tự nhiên, xã hội. Ở các nước phương Tây,

dân tộc quốc gia ra đời gắn liền với sự xuất hiện của chủ nghĩa tư bản và sự

hình thành thị trường dân tộc. Ở các nước phương Đông, sự hình thành dân

tộc có nhiều khác biệt, do điều kiện tự nhiên, xã hội mà trực tiếp là do nhu

cầu trị thủy và chống ngoại xâm nên dân tộc quốc gia ra đời sớm hơn các

dân tộc ở phương Tây. Sự khác nhau về quá trình hình thành dân tộc ở

phương Tây và phương Đông, dẫn đến những khác biệt về đặc điểm dân

tộc của từng nơi.

Dân tộc xuất hiện, vấn đề dân tộc cũng xuất hiện. Vấn đề dân tộc được

xem xét như là một lĩnh vực của đời sống xã hội. Đó là những vấn đề nảy sinh

trong quan hệ giữa các tộc người (có thể trong nội bộ quốc gia đa dân tộc,

hoặc trong quan hệ giữa các quốc gia dân tộc với nhau) trên các lĩnh vực của

đời sống xã hội, đòi hỏi các nhà nước phải quan tâm giải quyết.

32

- Khái niệm "tộc người"

Tộc người là khái niệm xã hội phức hợp, có thể hiểu theo nghĩa hẹp và

theo nghĩa rộng.

Theo nghĩa hẹp, tộc người có thể được hiểu là một cộng người có

chung tiếng mẹ đẻ. Như vậy, theo khái niệm này tộc người tương đương với

nhóm ngôn ngữ hay với nhóm dân tộc - ngôn ngữ mà các nhà ngôn ngữ học

gọi là nhóm nói tiếng mẹ đẻ. Theo khái niệm này, tộc người là khái niệm

dùng để chỉ những tập hợp người khá thuần nhất, sống cạnh nhau và có chung

các đặc điểm về văn hoá mà trong đó yếu tố biểu hiện rõ nhất là việc sử dụng

một ngôn ngữ. Nhưng, vấn đề đặt ra là, có rất nhiều cá nhân sống đâu đó trên

thế giới có cùng một ngôn ngữ mẹ đẻ, song lại cách xa nhau về nhiều mặt,

như về mặt địa lý (giữa các châu lục), về mặt lịch sử (thuộc nhiều quốc gia

khác nhau), về mặt chủng tộc (thuộc các nguồn gốc khác nhau)…, thì liệu họ

có cùng một tộc người không, hay họ là những tộc người khác nhau có cùng

một ngôn ngữ, hay họ là một tộc người được chia ra nhiều tộc người nhỏ?…

Đây là một vấn đề cần làm rõ, mà trong khuôn khổ luận án này chưa thể giải

quyết thấu đáo được.

Theo nghĩa rộng, tộc người được hiểu là một cộng đồng người liên kết

với nhau bởi một phức hợp các tính chất chung về các mặt nhân chủng, ngôn

ngữ, chính trị,… Sự kết hợp các tính chất đó tạo thành một hệ thống riêng,

một cấu trúc mang tính văn hoá chủ yếu - một nền văn hoá cộng đồng riêng

biệt. Nói một cách ngắn gọn, tộc người là một khái niệm chỉ một tập thể, hay

đúng hơn là một cộng đồng người, được gắn bó với nhau bởi một nền văn hoá

cộng đồng riêng biệt. Theo khái niệm này, các yếu tố trong hệ thống tộc

người có thể phát triển không đồng đều ở mỗi thành viên, hay sự vắng mặt

của một trong số các yếu tố ở một thành viên cũng không làm cho họ tách

khỏi nhóm tộc người của mình. Hiểu theo nghĩa rộng cho phép bao quát tốt

hơn các nhóm cộng đồng tộc người hiện đang tồn tại. Ở đây, mặc dù có

33

những ranh giới không rõ ràng, nhưng chúng vẫn là thực thể thực tế so với

những con số về các cá nhân chỉ được xác định theo một tiêu chuẩn duy nhất.

Để nhận thức chính xác, sâu sắc về tộc người, hay nhóm tộc người

(group ethnique), điều quan trọng là phải hiểu được những đặc điểm của các

yếu tố cấu thành, đó là: Thứ nhất, yếu tố nhân chủng là yếu tố nền tảng của

việc xác định nguồn gốc tộc người. Căn cứ vào yếu tố này chúng ta có thể xác

định được các tộc người được sinh ra từ những bộ phận nào của nhân loại;

chúng xuất hiện khi nào và hoà nhập vào nhau ra sao… Khi căn cứ vào yếu tố

đặc trưng này, điều quan trọng là phải nghiên cứu các thành phần lịch sử khác

nhau của cư dân trong tộc người, chứ không phải chỉ là thu thập và phân tích

các dữ liệu nhân chủng trực quan. Những thành phần cư dân ít nhiều có tính

nguyên gốc, cùng với những thành phần cư dân đóng góp về sau làm thành cơ

sở cho quá trình phát triển tộc người. Các phương hướng pha tạp, kết hợp kế

cận hay chồng chéo của các thành phần cư dân sẽ soi sáng cho tình trạng hiện

tại của tộc người. Thứ hai, yếu tố dân số; bất cứ tộc người nào cũng đều được

xác định bằng số lượng người mà nó tập hợp. Chính vì vậy, những số liệu

thống kê về dân số là đặc biệt quý giá để đo lường cả về mức độ tiến hoá của

tộc người. Mặt hhác, chúng còn soi sáng cả về quá trình phát sinh, phát triển

hay triển vọng của tộc người. Thứ ba, yếu tố ngôn ngữ, là tiêu chí cơ bản để

phân biệt tộc người này với tộc người khác. Nó là sợi dây liên hệ đặc biệt

giữa các thành viên của tộc người. Ngôn ngữ vừa là dấu hiệu bên ngoài, vừa

là một yếu tố cấu kết bên trong của cộng đồng tộc người; là sở hữu, tài sản

chung của tộc người, là phương tiện chuyển tải nền văn hoá của tộc người.

Thứ tư, yếu tố lãnh thổ, với tư cách là một xã hội toàn vẹn và tự lập, mỗi tộc

người đều chiếm một phần lãnh thổ riêng trên bề mặt trái đất. Lãnh thổ là cái

khung vật chất mà trong đó tộc người được cố định, thích nghi và cải biến

môi trường tự nhiên. Lãnh thổ của các tộc người có sự khác nhau về hình thức

và tuỳ thuộc vào khả năng và cung cách sinh sống của họ. Thứ năm, yếu

34

tố phương thức sản xuất; mỗi tộc người đều hình thành trong nó một lối sống

nhất định. Lối sống đó phụ thuộc vào môi trường thiên nhiên, phương thức

sản xuất của riêng nó. Đó là công nghệ, tri thức, tín ngưỡng,…Phương thức

sản xuất có khả năng chấn chỉnh lại lối sống tổng thể; là cái dễ biến đổi,

nhưng là cái làm cho mỗi tộc người mang đặc trưng riêng, làm cho nó trở

thành thuần nhất có cấu trúc riêng và phân biệt nó với các tộc người khác.

Thứ sáu, yếu tố ý thức tộc người trong văn hoá tộc người là những cái "phi

vật chất" bao gồm những di sản tinh thần của cộng đồng tộc người dưới tất cả

các hình thức của nó; dựa trên cái giá đỡ đặc biệt là ngôn ngữ. Bất cứ một

thành viên nào của tộc người mà về mặt tinh thần được hình thành trước hết

bởi ngôn ngữ thì đều có thể hoàn thiện thế giới quan thông qua sự thanh lọc

của văn hoá tộc người; nó tạo cho thành viên một tập hợp những tri giác, tình

cảm và sự nhận biết về giá trị chung của cộng đồng tộc người; đó chính là ý

thức tộc người [122].

* Khái niệm "xung đột sắc tộc"

Khái niệm xung đột sắc tộc theo tác giả chỉ phù hợp với các xã hội có

màu da khác nhau như ở Mỹ. Còn ở Indonesia về cơ bản các tộc người ở đây

đều có một màu da : đen hoặc ngăm ngăm đen. Do cách dịch của người Việt

nên dù dịch là xung đột sắc tộc hay tộc người thì đều xuất phát từ tiếng Anh

(Ethnic Conflict).

Vấn đề xung đột dân tộc, tộc người là một hiện tượng lịch sử có từ

hàng ngàn năm nay, gắn liền với quá trình hình thành và phát triển của các

dân tộc. Xung đột dân tộc, tộc người có thể dẫn đến chiến tranh với các khả

năng đồng hóa, hợp nhất, thống nhất hoặc li khai dân tộc. Nhân loại không thể

đếm xuể các cuộc xung đột dân tộc, tộc người từ xưa đến nay.

Xung đột, theo tính chất chặt chẽ, khoa học, khái niệm xung đột (tiếng

Latinh là Confliktus) bao gồm nghĩa mâu thuẫn (giữa các bên, các ý kiến, các

thế lực). Nguyên nhân của nó là do có những mâu thuẫn gay gắt nhất trong

35

đời sống xã hội. Chẳng hạn, mâu thuẫn về vật chất, về các giá trị và các

phương thức sống chủ yếu nhất, về quyền lực (vấn đề quyền khống chế), về

những khác biệt địa vị, vai trò trong cơ cấu xã hội, về những khác biệt cá

nhân (trong đó có các khác biệt về tình cảm - tâm lý), v.v.. Như vậy, xung đột

bao trùm mọi phạm vi hoạt động sống của con người, mọi quan hệ xã hội,

mọi sự tương tác xã hội. Xung đột thực chất là một trong số những kiểu tương

tác xã hội mà các bên tham gia là các cá thể đơn lẻ, các tập đoàn, các tổ chức

xã hội lớn hoặc nhỏ khác nhau [122] … Tuy nhiên, chỉ có các tương tác tạo ra

sự đối đầu giữa các bên, tức các bên tham gia có những hành động chống đối

nhau, mới là xung đột.

Sắc tộc là khái niệm chỉ xuất hiện trong nghiên cứu Dân tộc học ở

miền Bắc Việt Nam, sau khi thống nhất đất nước. Trong thực tế khái niệm

hay khái niệm xung đột tộc người đều được dịch từ cụm từ tiếng Anh là

"Ethnic conflict). Theo Nhà dân tộc học Nguyễn Duy Thiệu làm việc ở Bảo

tàng các Dân tộc Việt Nam "Sắc tộc là cách dân gian gọi các tộc người (theo

nghĩa các cộng đồng có màu da khác nhau). Cách gọi này không sai nhưng

không chuẩn về học thuật". Trong luận án tác giả sử dụng khái niệm xung đột

sắc tộc với cùng nội hàm như "xung đột - tộc người".

Xung đột sắc tộc cũng giống như nội chiến, nhưng ở qui mô nhỏ hơn.

Xung đột sắc tộc là sự va chạm, tranh chấp, đụng độ về các lợi ích kinh tế

hoặc các giá trị văn hóa giữa các cộng đồng tộc người.

Từ những luận chứng trên, có thể quan niệm: Xung đột sắc tộc là xung

đột giữa các dân tộc khác nhau (có khi cùng một quốc gia, cùng một tôn

giáo...) xuất phát từ yêu cầu giải quyết các mâu thuẫn, bất đồng giữa các dân

tộc với nhau.

Nguyên nhân sâu xa cũng chỉ vì quyền lợi nhưng lại được che đậy bởi

những lý do mỹ miều để bao biện cho hành động của mình... Nguyên nhân

xung đột sắc tộc chính vẫn là tranh giành quyền lực, đất đai của những tộc

36

người thiểu số khác biệt đôi khi trái ngược nhau về ngôn ngữ, tôn giáo nhưng

lại sinh sống gần nhau. Hậu quả thì bao giờ mà không bi thảm: người chết, tài

sản hư hao, xã hội rối ren.

* Khái niệm "tôn giáo"

Tôn giáo, tín ngưỡng là một hiện tượng xã hội phức tạp, xuất hiện từ

rất sớm trong đời sống nhân loại. Trong tiến trình phát triển của nhân loại, tôn

giáo và tín ngưỡng đã trở thành một thành tố của sự phát triển. Bất cứ một tôn

giáo nào, với hình thái phát triển của nó, cũng đều bao gồm: ý thức tôn giáo

(thể hiện ở quan niệm về các đấng thiêng liêng với những tín ngưỡng tương

ứng) và hệ thống tổ chức tôn giáo cùng những hoạt động mang tính chất nghi

thức tín ngưỡng của nó. Tôn giáo đã và đang ảnh hưởng đến chính trị - xã hội

theo hai cách: một là, định hình thế giới quan của các tín đồ; hai là, các tổ

chức tôn giáo tác động đến các tiến trình chính trị.

Từ khi xuất hiện đến nay, tôn giáo luôn luôn biến động, phản ánh sự

biến đổi của lịch sử và luôn song hành cùng với đời sống của nhân loại. Tôn

giáo là một hiện tượng xã hội sẽ còn tồn tại lâu dài. Thực chất giải quyết vấn

đề tôn giáo là giải quyết những mâu thuẫn, xung đột lợi ích nảy sinh giữa các

tôn giáo, giữa người có tôn giáo và không có tôn giáo, giữa người có tôn giáo

ở trong nước và người có tôn giáo ở nước ngoài, giữa các quốc gia trong cách

thức giải quyết những mâu thuẫn, xung đột liên quan đến tôn giáo như: Việc

bảo đảm tự do tín ngưỡng tôn giáo; sự khác biệt về tín ngưỡng tôn giáo, giữa

tôn giáo bản địa và tôn giáo nước ngoài du nhập vào; mâu thuẫn, cạnh tranh

trong hoạt động của các tôn giáo để truyền đạo và phát triển tín đồ; việc thừa

nhận hay không thừa nhận tư cách pháp nhân đối với hoạt động của các tôn

giáo của nhà nước…

Trong lịch sử đã từng tồn tại rất nhiều quan niệm khác nhau về tôn

giáo: Các nhà thần học cho rằng "Tôn giáo là mối liên hệ giữa thần thánh và

con người". Khái niệm mang dấu hiệu đặc trưng của tôn giáo: "Tôn giáo là

37

niềm tin vào cái siêu nhiên". Một số nhà tâm lý học lại cho rằng "Tôn giáo là

sự sáng tạo của mỗi cá nhân trong nỗi cô đơn của mình, tôn giáo là sự cô đơn,

nếu anh chưa từng cô đơn thì anh chưa bao giờ có tôn giáo". Khái niệm mang

khía cạnh bản chất xã hội của tôn giáo của C.Mác, đó là: "Tôn giáo là tiếng

thở dài của chúng sinh bị áp bức, là trái tim của thế giới không có trái tim, nó

là tinh thần của trật tự không có tinh thần" [89, tr.570].

Từ thực tiễn hoạt động của tín ngưỡng, tôn giáo và quán triệt quan điểm

của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, chính sách tôn

giáo của Đảng, Nhà nước, Luật Tín ngưỡng, tôn giáo Việt Nam đưa ra khái

niệm: Tôn giáo là niềm tin của con người tồn tại với hệ thống quan niệm và hoạt

động bao gồm đối tượng tôn thờ, giáo lý, giáo luật, lễ nghi và tổ chức [108].

Tôn giáo không phải là hiện tượng tự nhiên tồn tại trước con người,

ngoài xã hội loài người, mà nó là sản phẩm của xã hội, của những mối quan

hệ giữa con người với tự nhiên và mối quan hệ giữa người với người. Chính

con người sinh ra tôn giáo chứ không phải tôn giáo sinh ra con người. Sự ra

đời, tồn tại, phát triển của tôn giáo gắn với những điều kiện nhận thức, tâm lý,

xã hội nhất định và nó sẽ mất đi khi điều kiện đó không còn.

Một tôn giáo cụ thể thường bao gồm ba yếu tố: ý thức tôn giáo, hoạt

động tôn giáo và tổ chức tôn giáo.

Ý thức tôn giáo là sự thống nhất giữa tâm lý tôn giáo và hệ tư tưởng tôn

giáo, được thể hiện ở các giáo lý của tôn giáo. Tâm lý tôn giáo là toàn bộ cảm

giác, tri giác, tình cảm, biểu tượng tôn giáo, niềm tin tôn giáo phản ánh trực

tiếp sự bất lực của con người trong các hoạt động thực tiễn. Nhưng đó là niềm

tin mê muội, mù quáng, hoang đường, phi lôgic. Các tín đồ tôn giáo không

chỉ tin tưởng vào sự tồn tại của đấng siêu nhiên, mà còn cầu mong đấng siêu

nhiên giúp đỡ, che chở. Tuy nhiên, các nhu cầu này không bao giờ, chưa bao

giờ được thực hiện. Nhưng trên cơ sở niềm tin tuyệt đối mang tính hư ảo cùng

với những nghi lễ thờ cúng và sự tác động của những lời rao giảng của các

38

chức sắc, nhà tu hành chuyên nghiệp về sức mạnh của đấng siêu nhiên, thì

chính những nhu cầu không được thực hiện lại luôn là động lực thôi thúc các

tín đồ hoạt động. Vì thế, niềm tin tôn giáo mang tính hư ảo, phi lôgic nhưng

lại có tính bền vững khá sâu sắc, ăn sâu vào trong tư tưởng, tình cảm của con

người. Nó không chỉ thấm sâu trong tâm khảm của mỗi cá nhân mà còn được

lưu truyền qua các thế hệ con người. Hệ tư tưởng tôn giáo là hệ thống quan

niệm, tín điều nhằm luận giải sự tồn tại, tính hoàn thiện, hoàn mỹ, sức mạnh

vô biên của đấng siêu nhiên và con đường, biện pháp để xây dựng, củng cố,

phát triển niềm tin tôn giáo.

Tổ chức tôn giáo là tập hợp tín đồ, chức sắc, chức việc, nhà tu hành của

một tôn giáo được tổ chức theo một cơ cấu nhất định được nhà nước công

nhận nhằm thực hiện các hoạt động tôn giáo. Đây là phương thức tồn tại của

tôn giáo, mà nội dung cơ bản của nó là toàn bộ các mối quan hệ và trình tự

sắp xếp, thứ bậc các tín đồ, chức sắc cùng quy trình giải quyết các mối quan

hệ đó. Tổ chức tôn giáo rất đa dạng phức tạp, mỗi tôn giáo có tổ chức khác

nhau. Tổ chức tôn giáo trực thuộc là tổ chức thuộc tổ chức tôn giáo, được

thành lập theo hiến chương, điều lệ, giáo luật, quy định của tổ chức tôn giáo.

Cơ sở tôn giáo gồm chùa, nhà thờ, nhà nguyện, thánh thất, thánh đường, trụ

sở của tổ chức tôn giáo, cơ sở hợp pháp khác của tổ chức tôn giáo.

Hoạt động tôn giáo là hoạt động truyền bá tôn giáo, sinh hoạt tôn giáo

và quản lý tổ chức của tôn giáo. Đây là hoạt động của các tín đồ nhằm hướng

tới đấng siêu nhiên, phục vụ đấng siêu nhiên. Hoạt động tôn giáo gồm nhiều

loại hình phong phú, nhưng quan trọng nhất là các hoạt động lễ nghi, thờ

phụng, biên soạn, tuyên truyền giáo lý, giáo luật. Sinh hoạt tôn giáo là việc

bày tỏ niềm tin tôn giáo, thực hành giáo lý, giáo luật, lễ nghi tôn giáo.

Tôn giáo không chỉ là những sự bất lực của con người trong cuộc đấu

tranh với tự nhiên và xã hội, do thiếu hiểu biết dẫn đến sợ hãi và tự đánh mất

mình do đó phải dựa vào thánh thần mà còn hướng con người đến một hy

39

vọng tuyệt đối, vào một cuộc đời thánh thiện, một cuộc đời mà quá khứ, hiện

tại, tương lai cùng chung sống. Nó gieo niềm hy vọng vào con người, dù có

phần ảo tưởng để mà yên tâm, tin tưởng để sống và phải sống trong một thế

giới trần gian có nhiều bất bình đẳng, bất công và khổ ải.

Như vậy: Tôn giáo là niềm tin của con người vào các đấng siêu nhiên,

được thừa nhận một cách trực giác và tác động qua lại một cách hư ảo, nhằm

giải thích những vấn đề trên trần thế cũng như ở thế giới bên kia. Niềm tin đó

được biểu hiện rất đa dạng, tuỳ thuộc vào những giai đoạn lịch sử, văn hóa

khác nhau.

* Khái niệm "xung đột tôn giáo"

Xung đột tôn giáo được coi là một trong nguồn tiềm tàng của xung đột

quốc tế. Xung đột tôn giáo liên quan đến các giá trị tinh thần và niềm tin tuyệt

đối. Những bất đồng văn hoá/tôn giáo và việc giữ gìn bản sắc vẫn tiếp tục là

vấn đề trong quan hệ quốc tế. Nhưng do tôn giáo không còn chi phối chính

quyền như trước kia, nên khó có lợi ích tôn giáo nào được đặt lên trên lợi ích

quốc gia dân tộc.

Trong tình hình phần lớn quốc gia là đa tôn giáo, lợi ích của các tôn

giáo chỉ là lợi ích nhóm nên càng khó bị lôi kéo vào xung đột liên quốc gia.

Trong quan hệ quốc tế ngày nay, lợi ích chính trị và kinh tế vẫn chiếm địa vị

ưu tiên nên nhiều khi đã góp phần kiềm chế các xung đột tinh thần.

Từ dẫn luận trên có thể quan niệm: Xung đột tôn giáo là sự va chạm,

tranh chấp, đụng độ về giá trị tôn giáo giữa các cộng đồng tôn giáo.

Cùng với sự phát triển của quan hệ quốc tế, xung đột tôn giáo ngày

càng dễ trở thành vấn đề trong quan hệ giữa các quốc gia, rất nhiều xung đột

tôn giáo xảy ra do liên quan đến chính trị. Trong qúa trình hình thành và phát

triển của tôn giáo, sự tác động qua lại giữa tôn giáo với chính trị đã đem lại

cả nguyên nhân lẫn điều kiện cho xung đột tôn giáo. Là điều kiện khi chính trị

được tôn giáo lợi dụng để phát triển thế lực và ảnh hưởng. Là nguyên nhân

40

khi chính trị lợi dụng tôn giáo để nhằm đạt được mục tiêu của mình. Mâu

thuẫn tôn giáo được chính trị tiếp sức sẽ làm cho nó trở nên phức tạp và trầm

trọng thêm. Ngược lại, mâu thuẫn chính trị đi cùng tôn giáo lại gây ra xung

đột tôn giáo.

Xung đột tôn giáo có nhiều nguyên nhân. Có thể có những nguyên

nhân nhìn từ góc độ kinh tế; những nguyên nhân nhìn từ góc độ bản sắc dân

tộc, tôn giáo và văn hóa; những nguyên nhân nhìn từ góc độ lịch sử; những

nguyên nhân xuất phát từ chính sách của chính phủ đối với người dân; và

những nguyên nhân khác...

Trong lịch sử, đã diễn ra nhiều cuộc xung đột sắc tộc, tôn giáo lớn trên

thế giới; mà xung đột giữa Thiên chúa giáo với Hồi giáo ở Indonesia là một

trong những ví dụ điển hình.

Xung đột tôn giáo rất dễ bị quốc tế hóa và trở thành xung đột quốc tế

do nhiều nguyên nhân. Thứ nhất, các giáo phái trong cuộc xung đột thường có

mối liên hệ khá chặt chẽ với các nhóm sắc tộc, tôn giáo tương đồng sinh sống

ở các quốc gia khác. Thứ hai, các lực lượng tôn giáo tham gia xung đột nội bộ

thường có xu hướng tìm cách tận dụng các diễn đàn quốc tế để tuyên truyền

về tính chính đáng, tìm kiếm sức ép quốc tế lên các chính phủ để đạt được

mục đích đề ra. Thứ ba, sự lớn mạnh không ngừng của các phương tiện truyền

thông quốc tế là một nhân tố quan trọng thúc đẩy sự truyền bá thông tin về

các vụ xung đột trên khắp thế giới. Và sự thành công của một nhóm sắc tộc,

tôn giáo trong hoạt động ly khai có thể khuyến khích các nhóm sắc tộc, tôn

giáo tương tự ở các khu vực khác nổi dậy. Thứ tư, các xung đột này thường

gây ra hậu quả về tị nạn quốc tế. Việc giải quyết những vấn đề của dòng

người tị nạn đã khiến cho xung đột bị quốc tế hóa bởi quá trình này dính líu

đến các quốc gia láng giềng và đòi hỏi có sự tham gia của các tổ chức quốc tế

như Cao uỷ Liên hợp quốc về người tị nạn và các tổ chức phi chính phủ có

liên quan.

41

Tất cả các cuộc xung đột tôn giáo, sắc tộc từ trước đến nay đều để lại

những hậu quả rất nặng nề, thậm chí biến thành những cuộc chiến tranh kinh

hoàng kéo dài nhiều năm. Xung đột sắc tộc và tôn giáo có nguyên nhân bắt

nguồn từ chính những đặc điểm như đa dạng dân tộc, tôn giáo và văn hoá, sự

chênh lệch về trình độ phát triển kinh tế - xã hội hay đan xen với nhau. Ngoài

ra xung đột tôn giáo hiện đại còn do sự tự tôn tôn giáo, ý thức về giá trị tôn

giáo của mình, đặc biệt là của các tín đồ Hồi giáo trước sự coi thường, miệt

thị của một số phần tử sô vanh về tôn giáo ở các nước phát triển.

* Khái niệm "ly khai dân tộc"

Giới nghiên cứu có quan điểm tương đối thống nhất về thuật ngữ ly

khai dân tộc. Theo Từ điển tiếng Việt (Viện Ngôn ngữ học xuất bản năm

1994) : ly khai là tách ra khỏi, lìa bỏ một tổ chức, một đảng phái hay những tư

tưởng quan điểm chính trị nào đó. Hiểu theo nghĩa này, ly khai dân tộc chỉ

hiện tượng một dân tộc, hay một nhóm tộc người tách ra khỏi một quốc gia

dân tộc nhằm thực hiện một nhà nước độc lập hay tự trị. Theo Từ điển Oxford

advanced leaner's (1992): ly khai (secede) nghĩa là từ bỏ một cái gì đó, rút ra

khỏi tư cách hội viên của một tổ chức, một quốc gia. Theo Hao Shi Yuan,

Viện trưởng Viện Nghiên cứu Dân tộc Trung Quốc trong bài viết: "Ly khai

dân tộc và chủ nghĩa khủng bố":

Ly khai dân tộc là thuật ngữ chỉ việc bên trong một quốc gia độc lập

có chủ quyền, có lãnh thổ toàn vẹn, do mâu thuẫn về vấn đề dân tộc,

dưới tác động của các nhân tố bên trong, bên ngoài, một số thế lực

trong các dân tộc phi chủ thể hoặc các dân tộc thiểu số đưa ra các

yêu sách chính trị, tiến hành hoạt động bạo lực, thậm chí thực hiện

các hành động chống đối quân sự để đòi thành lập nhà nước độc lập

hay tự trị [151, tr.117].

Tác giả luận án cũng có quan điểm thống nhất với khái niệm này.

42

2.1.1.2 Quan niệm về tác động từ xung đột sắc tộc, tôn giáo đến củng

cố độc lập dân tộc của quốc gia đang phát triển trong hội nhập quốc tế

Tác động từ xung đột sắc tộc, tôn giáo đến củng cố độc lập dân tộc của

quốc gia đang phát triển trong hội nhập quốc tế luôn gây ảnh hưởng tiêu cực

đến độc lập dân tộc của quốc gia đang phát triển và quá trình củng cố độc lập

dân tộc của họ trong hội nhập quốc tế. Sự tác động này phụ thuộc vào nhiều

yếu tố: mức độ, tính chất của những xung đột sắc tộc, tôn giáo; việc giải quyết

những xung đột sắc tộc, tôn giáo của chính phủ; sự lợi dụng và tác động của

các thế lực bên ngoài...

Tác động từ xung đột sắc tộc, tôn giáo đến củng cố độc lập dân tộc của

quốc gia đang phát triển trong hội nhập quốc tế, thể hiện cụ thể trên những

vấn đề sau:

Thứ nhất, gây ra và thúc đẩy xu hướng ly khai, đe dọa độc lập dân tộc

của quốc gia đang phát triển trong hội nhập quốc tế.

Vấn đề ly khai dân tộc là một trong những vấn đề đang nổi cộm lên

trong nền chính trị quốc tế. Ly khai dân tộc có liên quan chặt chẽ đến vấn đề

dân tộc, một trong những vấn đề phức tạp nhất, nhạy cảm nhất trong quan hệ

quốc tế. Một số nhà nghiên cứu nâng vấn đề ly khai dân tộc lên thành chủ

nghĩa ly khai, một biểu hiện của chủ nghĩa dân tộc nằm trong quá trình phát

triển của xã hội loài người. Điều đó đã cho thấy tầm quan trọng của vấn đề ly

khai dân tộc trong công tác nghiên cứu, nhất là từ sau khi chiến tranh lạnh kết

thúc, hệ tư tưởng không còn là tác nhân chủ yếu gây ra những xung đột dân

tộc trên thế giới hiện nay.

Tại hầu hết tất cả các khu vực dân tộc trên thế giới, từ các nước phát

triển đến các nước đang phát triển, trong đó có Đông Nam Á, nhiều quốc gia

đang phải đương đầu với vấn đề ly khai dân tộc. Tại một số quốc gia, xung

đột ly khai dân tộc đã trở thành một cuộc chiến đẫm máu kéo dài. Hàng chục

ngàn người phải bỏ mạng. Hàng chục vạn người phải di dời chỗ ở. Chiến sự

43

không chỉ gây ra những thảm họa nhân đạo mà còn làm đình đốn nền kinh tế,

làm tổn thương tình cảm giữa các dân tộc trong một quốc gia.

Ly khai dân tộc là một trong những hình thức biểu hiện của chủ nghĩa

dân tộc, nhưng không đồng nhất với chủ nghĩa dân tộc. Hiện tượng ly khai

dân tộc không những tồn tại ở các nước đang phát triển, mà còn tồn tại ở các

nước phát triển, có tính phổ biến nhất định. Các thế lực ly khai dân tộc tồn tại

bên trong các quốc gia có chủ quyền hiện tại, về cơ bản thuộc về các thế lực

chủ nghĩa dân tộc cực đoan trong các dân tộc phi chủ thể hoặc các dân tộc

thiểu số. Họ thường tự xưng là đại biểu cho lợi ích của dân tộc mình, đòi thực

hiện các quyền tự quyết dân tộc, từ đó tạo ra thách thức đối với sự toàn vẹn

lãnh thổ của quốc gia độc lập có chủ quyền. Xét về mặt các quốc gia trên thế

giới giới hiện tại lấy nhà nước đa dân tộc làm chủ thể thì các thế lực ly khai

dân tộc trong cộng đồng quốc tế và ở các quốc gia liên quan là không có tính

hợp lý và hợp pháp.

Hầu hết các nước Đông Nam Á là quốc gia đa dân tộc. Làm thế nào để

xây dựng sự hòa hợp dân tộc bền vững ở các quốc gia là một thách thức lớn ở

khu vực. Các thế lực ly khai dân tộc ở Indonesia, Philipphin, Thái Lan đang

cố gắng đòi các quyền tự trị hoặc độc lập một cách hoàn toàn. Việc Đông

Timor tách ra khỏi Indonesia để thành lập một nhà nước độc lập cũng thuộc

về vấn đề ly khai dân tộc.

Những mâu thuẫn chính trị gay gắt và xung đột, chiến tranh sắc tộc, tôn

giáo đang gây ra không chỉ là những nỗi lo mà còn là những thảm họa cho

nhân loại. Sắc tộc, tôn giáo cũng ngày càng trở thành nhân tố quan trọng ảnh

hưởng không nhỏ đến quan hệ quốc tế. Những cuộc xung đột trong một số

quốc gia, khu vực tăng lên; một số lực lượng cực đoan tiến hành chính sách

khủng bố, đe dọa nền hòa bình và ổn định ở khu vực và quốc tế.

Indonesia có khoảng 250 triệu dân, trong đó có 87% dân số theo Hồi

giáo và 8% theo Thiên chúa giáo. Xung đột căng thẳng giữa người Thiên chúa

44

giáo với người Hồi giáo đã kéo dài ở nhiều nơi. Xung đột giữa người Thiên

chúa giáo và người Hồi giáo ở quần đảo Maluku với dân số khoảng 3 triệu

người, trong đó người theo đạo Hồi chiếm 55%, theo đạo Thiên chúa giáo

chiếm 44%. Xuất phát từ tâm lý bị phân biệt đối xử nên đã hình thành những

bất đồng giữa hai cộng đồng tôn giáo này và những mâu thuẫn âm ỉ trở thành

xung đột lớn. Những người Hồi giáo đã thành lập các đơn vị bán quân sự

được trang bị vũ khí sẵn sàng tiến hành cuộc "Thánh chiến" để bảo vệ người

Hồi giáo. Xung đột ở Aceh, một tỉnh có khoảng 5 triệu dân với 98% dân số là

người Hồi giáo và là một trong những tỉnh giàu tài nguyên thiên nhiên của

Indonesia với nhiều dầu, khí đốt, vàng, bạc, cao su. Ngày 18/11/2009, tại

Banda Aceh (thủ phủ Aceh) Indonesia đã diễn ra một cuộc biểu tình lớn đã

làm khoảng 5.000 người thiệt mạng [9].

Xung đột sắc tộc, tôn giáo tác động, ảnh hưởng đến củng cố độc lập

dân tộc của quốc gia đang phát triển trong hội nhập quốc tế, thể hiện ở việc

xuất hiện và phát triển các phong trào và tổ chức li khai. Ở Indonesia có tổ

chức ly khai của người Aceh, Tây Papua.

Thứ hai, làm mất ổn định chính trị xã hội, tạo thời cơ, điều kiện cho

các lực lượng bên ngoài lợi dụng chống phá độc lập dân tộc của quốc gia

đang phát triển trong hội nhập quốc tế.

Ổn định chính trị, xã hội là một trong những nhân tố quyết định cho sự

phát triển của mỗi quốc gia. Một trong những vấn đề liên quan đến sự ổn định

chính trị, xã hội là giải quyết tốt hay không tốt mối quan hệ dân tộc, tôn giáo;

những vụ xung đột sắc tộc và tôn giáo. Đông Nam Á đã và đang có sự bất ổn

về mặt dân tộc và tôn giáo, sự bất ổn dẫn đến các cuộc chiến đòi ly khai dân

tộc. Giải quyết vấn đề dân tộc và tôn giáo không còn là vấn đề riêng của quốc

gia nào. Nó trở thành mối quan tâm hàng đầu của nhiều nước. Xung đột sắc

tộc, tôn giáo phát triển, tác động mạnh mẽ đến củng cố độc lập dân tộc của

quốc gia đang phát triển trong hội nhập quốc tế, làm mất ổn định chính trị xã

45

hội, tạo thời cơ, điều kiện cho các lực lượng bên ngoài lợi dụng chống phá

độc lập dân tộc của quốc gia đang phát triển. Đây là sự tác động rất nguy

hiểm đe dọa nghiêm trọng đến củng cố độc lập dân tộc của quốc gia đang

phát triển trong quá trình hội nhập quốc tế.

Xung đột sắc tộc, tôn giáo trở thành nội chiến, làm mất ổn định chính

trị xã hội, làm ảnh hưởng đến an ninh, chính trị, kinh tế không chỉ của một

quốc gia mà còn ảnh hưởng đến quan hệ giữa các quốc gia. Sự mất ổn định

chính trị xã hội ở Tây Papua, Aceh của Indonesia đều có nguyên nhân từ xung

đột sắc tộc, tôn giáo.

2.1.2. Quan niệm về bảo vệ, củng cố độc lập dân tộc thông qua giải

quyết xung đột sắc tộc, tôn giáo của các nước đang phát triển

Độc lập dân tộc là các dân tộc hoàn toàn có chủ quyền về chính trị và

kinh tế, không bị lệ thuộc và phụ thuộc vào bên ngoài; các quốc gia dân tộc

hoàn toàn có quyền tự quyết định con đường đi lên của dân tộc mình, thể chế

chính trị, thể chế kinh tế, quyền làm chủ tài nguyên thiên nhiên của mình, nhất là

trong điều kiện toàn cầu hoá hiện nay. Độc lập dân tộc bao giờ cũng phải gắn với

đấu tranh bảo vệ, củng cố độc lập dân tộc, chống mọi sự áp đặt, nô dịch của các

thế lực bên ngoài. Khi mất độc lập dân tộc thì vấn đề dân tộc là vấn đề giành lại

độc lập tự do hoàn toàn cho nhân dân, đấu tranh chống mọi sự áp đặt, nô dịch,

làm cho dân tộc từ thân phận nô lệ trở thành người làm chủ đất nước.

Trong xu thế toàn cầu hoá, độc lập dân tộc và chủ quyền của các quốc

gia dân tộc đang bị đặt trước những thời cơ và thách thức nghiêm trọng. Bảo

vệ, củng cố độc lập dân tộc thông qua giải quyết xung đột sắc tộc, tôn giáo

của các nước đang phát triển càng trở nên quan trọng. Cuộc đấu tranh của các

nước đang phát triển bảo vệ độc lập, chủ quyền, chống mọi sự nô dịch và lệ

thuộc mới ngày càng phát triển mạnh mẽ.

Các quốc gia Đông Nam Á vốn là các nước nhỏ, từng là thuộc địa và phụ

thuộc của chủ nghĩa thực dân, đế quốc, chịu nhiều thua thiệt, nay phải đối mặt

46

với những thách thức mất đi bản sắc dân tộc, độc lập dân tộc và chủ quyền quốc

gia mà toàn cầu hoá gây nên. Do vậy, để tồn tại và phát triển được như hiện nay,

để bảo vệ được độc lập dân tộc và chủ quyền quốc gia, các nước Đông Nam Á

đã có những chiến lược và đối sách rất hữu hiệu trên mọi lĩnh vực, củng cố sự

thống nhất cộng đồng, tạo nên sức mạnh cần thiết để giữ vững độc lập, chủ

quyền, đấu tranh bảo vệ, củng cố độc lập dân tộc và hoà bình, ổn định khu vực.

Như vậy, ở các nước đang phát triển, đấu tranh bảo vệ, củng cố độc lập dân tộc

thông qua giải quyết xung đột sắc tộc, tôn giáo đã trở thành nhiệm vụ quan

trọng, gắn liền với việc giải quyết các vấn đề dân tộc, tôn giáo ở từng quốc gia.

Bảo vệ, củng cố độc lập dân tộc có thể thực hiện với con đường,

phương thức và cách thức khác nhau. Mỗi một quốc gia dân tộc, trong mỗi

giai đoạn lịch sử khác nhau có thể thực hiện những hình thức, biện pháp cụ

thể khác nhau để bảo vệ, củng cố độc lập dân tộc của mình. Đối với các nước

đang phát triển, đặc biệt là các nước Đông Nam Á, những nước có những vấn

đề về sắc tộc, tôn giáo, việc thông qua giải quyết xung đột sắc tộc, tôn giáo để

bảo vệ, củng cố độc lập dân tộc của mình là một hình thức, biện pháp quan

trọng, có ý nghĩa cấp thiết.

Từ những dẫn luận trên, có thể quan niệm: bảo vệ, củng cố độc lập dân

tộc thông qua giải quyết xung đột sắc tộc, tôn giáo của các nước đang phát

triển là thực hiện tổng thể các giải pháp nhằm giải quyết đúng đắn vấn đề

xung đột sắc tộc, tôn giáo, tạo điều kiện và sức mạnh để bảo vệ, củng cố độc

lập dân tộc; không để xung đột sắc tộc, tôn giáo làm phương hại đến độc lập

dân tộc, đưa đất nước tiếp tục phát triển.

Quan niệm về bảo vệ, củng cố độc lập dân tộc thông qua giải quyết

xung đột sắc tộc, tôn giáo của các nước đang phát triển nêu trên, thể hiện cụ

thể ở những vấn đề chính sau:

Thứ nhất, giải quyết xung đột sắc tộc, tôn giáo để giữ vững ổn định

chính trị, từng bước thực hiện dân chủ, bình đẳng, tạo tiền đề cho sự phát

47

triển. Đây là nội dung chủ yếu và phương hướng cơ bản của các nước trong

giải quyết xung đột sắc tộc, tôn giáo.

Thứ hai, giải quyết xung đột sắc tộc, tôn giáo để tạo an ninh, ổn định xã

hội, tiền đề quan trọng cho phát triển đất nước. Đây cũng là một phương

hướng cơ bản của các nước trong giải quyết xung đột sắc tộc, tôn giáo.

Thứ ba, giải quyết xung đột sắc tộc, tôn giáo tạo tiền đề phát triển kinh

tế. Phát triển kinh tế là một nhiệm vụ quan trọng và cấp thiết đối với các nước

đang phát triển; giải quyết xung đột sắc tộc, tôn giáo phải tạo tiền đề cho phát

triển kinh tế, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.

Thứ tư, giải quyết xung đột sắc tộc, tôn giáo tạo điều kiện cho xây dựng

khối đại đoàn kết dân tộc, tập hợp các nguồn lực cho bảo vệ, củng cố độc lập

dân tộc, phát triển đất nước về mọi mặt. Thực chất xung đột sắc tộc, tôn giáo

là sự bùng phát của những mâu thuẫn sắc tộc, tôn giáo, phá hủy khối đại đoàn

kết dân tộc. Giải quyết xung đột sắc tộc, tôn giáo phải tạo điều kiện cho xây

dựng khối đại đoàn kết dân tộc, trên cơ sở khắc phục những mâu thuẫn sắc

tộc, tôn giáo; từ đó, tập hợp các nguồn lực cho công cuộc bảo vệ, củng cố độc

lập dân tộc, phát triển đất nước.

2.2. NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN XUNG ĐỘT SẮC TỘC, TÔN

GIÁO Ở INĐONESIA GIAI ĐOẠN 1991-2015

2.2.1. Những nhân tố khách quan

- Đặc điểm tự nhiên, vị thế địa chiến lược của Cộng hòa Indonesia

Indonesia - Cộng hòa Indonesia, tiếng Indonesia là Republik Indonesia,

trước đó, trong tài liệu tiếng Việt quốc gia này từng được gọi là Nam Dương,

là một quốc gia nằm giữa Đông Nam Á và Châu Đại Dương. Đất nước

Indonesia được mệnh danh là "Xứ sở vạn đảo", lãnh thổ của Indonesia bao

gồm khoảng hơn 17 500 hòn đảo và với dân số khoảng 255 triệu người (năm

2015), đứng thứ tư thế giới về dân số. Indonesia nằm giữa lục địa châu Á và châu Đại Dương, diện tích đất liền là 1905569 km2, là nước lớn nhất khu vực

Đông Nam Á và thứ 13 trên thế giới [118, tr.16].

48

Đất nước Indonesia là một quốc gia đa dân tộc. Indonesia là một quốc

gia có lịch sử phát triển lâu đời, những di chỉ khảo cổ được tìm thấy trên đảo

Java và nhiều đảo khác ở khu vực này cho thấy ở đây từng có người vượn cổ

sinh sống (người vượn Java), do vậy, nơi đây chính là một trong những chiếc

nôi của loài người. Tuy nhiên theo nghiên cứu của các nhà khoa học, đất nước

này có khoảng gần 400 dân tộc khác nhau, trong đó đông nhất là người Java

(46,2% dân số), tiếp theo là người Sudan (13,1%), người Madura (6%), người

Mã lai (5,5%), người Minangkabau (3,9%), người Aceh (1,5%) [101, tr.20].

Các cộng đồng dân nhập cư cũng khá đông và đóng vai trò quan trọng trong

quá trình phát triển kinh tế, xã hội, chính trị của đất nước Indonesia, nhất là

lực lượng người Hoa. Người Hoa ở Indonesia chỉ chiếm khoảng 3% dân số cả

nước nhưng kiểm soát khoảng 3/4 khối lượng hàng hoá lưu chuyển trên thị

trường nội địa và khoảng 70% nguồn vốn kinh doanh của tư bản nước ngoài.

Indonesia còn là quốc gia đa tôn giáo, trong đó cư dân theo đạo Hồi rất đông,

chiếm khoảng 87% dân số cả nước, là quốc gia có số tín đồ Hồi giáo đông

nhất thế giới. Đặc biệt, lực lượng Hồi giáo ở Indonesia có ảnh hưởng khá lớn

đối với những biến động trong đời sống kinh tế, chính trị của quốc gia này.

Bên cạnh đó còn đạo Thiên chúa (2,7%), đạo Tin Lành (4,4%), Ấn Độ giáo

(1,9%), Phật giáo (0,9%) và một số tôn giáo khác [101, tr.202].

Về địa lý tự nhiên, địa hình của Indonesia mang một nét nổi bật là

phân tán, là đất nước của rất nhiều hòn đảo lớn nhỏ, trên những hòn đảo đó

là hàng trăm dân tộc sinh sống. Do sự vận động của địa chất các đảo của

Indonesia cách nhau bởi những vùng biển sâu và những eo biển, rất thuận

lợi cho giao thương hàng hải. Với đặc điểm địa lý trên, Indonesia có thể án

ngữ và kiểm soát con đường giao thông huyết mạch trên một vùng biển lớn

nối liền Ấn Độ Dương với Thái Bình Dương, đặc biệt đây là tuyến đường

vận chuyển dầu mỏ từ Trung Đông về cung cấp cho các cường quốc kinh tế

ở Đông Bắc Á.

49

Do chiếm giữ một vị trí chiến lược quan trọng như vậy, nên trong suốt

quá trình tồn tại và phát triển của mình, Indonesia luôn là địa bàn tranh chấp

của các nước tư bản phương Tây như Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Hà Lan,

Anh. Hiện nay, Indonesia là quốc gia thu hút được các nguồn vốn đầu tư lớn

từ các trung tâm tư bản và các tổ chức tài chính trên thế giới. Dòng vốn đầu tư

trực tiếp nước ngoài (FDI) năm 2016 ở mức 20,1 tỷ USD, nhưng đã giảm từ

25,1 tỷ USD trong năm 2014 (phần lớn là do đồng Rupiah suy yếu) [104].

Indonesia là nước lớn có vai trò quan trọng không chỉ trong ASEAN

mà còn ở khu vực Đông Á và châu Á - Thái Bình Dương. Trước đây, chính

sự thay đổi trong chính sách đối ngoại của đất nước Indonesia, cụ thể là với

các nước láng giềng Đông Nam Á, đã là một nhân tố quan trọng dẫn đến việc

thành lập ASEAN. Indonesia đã đóng vai trò tích cực, nếu không muốn nói là trụ

cột, trong sự lớn mạnh của ASEAN về các mặt kinh tế, chính trị trong hơn ba

thập kỷ qua và ngược lại sự lớn mạnh của ASEAN lại giúp cho Indonesia tăng

cường vị thế của mình trên trường quốc tế. Xét trên khía cạnh đó, sự biến đổi

chính trị hiện nay của Indonesia sẽ có tác động và ảnh hưởng sâu rộng đối với sự

năng động kinh tế, chính trị của ASEAN cũng như sự phát triển của tổ chức này

trong tương lai. Đất nước Indonesia không tự xem mình là một cường quốc tầm

cỡ toàn cầu nhưng lại chú trọng gây ảnh hưởng nhờ mối quan hệ với các nước

lớn khác thông qua vai trò ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương (giờ đây được

mở rộng ra thành Ấn Độ - Thái Bình Dương, nhằm bao hàm cả Ấn Độ).

Trong khu vực Đông Nam Á, Indonesia là một nước lớn về diện tích,

dân số; có vị trí địa - chiến lược quan trọng vì nằm án ngữ trên tuyến đường

giao thông hàng hải quốc tế giữa Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương; có

những nét đặc trưng riêng trong quá trình phát triển; từ khi giành được độc

lập dân tộc vào năm 1945 đến nay đã trải qua nhiều giai đoạn để tìm ra con

đường phát triển tốt nhất. Là một nước thuộc địa mới giành được độc lập,

lại là nước có sự chia rẽ phức tạp về chính trị, mối quan tâm hàng đầu của

50

các chính phủ cầm quyền ở Indonesia qua các giai đoạn luôn là củng cố sự

thống nhất trong nước, tìm kiếm sự công nhận quốc tế về địa vị hợp pháp

của một nước lớn trong khu vực. Cách tiếp cận được Indonesia ưa thích

hơn trong vấn đề này là thế "cân bằng động". Sáng kiến "cân bằng động" là

một ví dụ điển hình về cách tiếp cận dựa trên khu vực của Indonesia đối

với trật tự thế giới.

- Bối cảnh quốc tế và khu vực

Sau Chiến tranh Lạnh, cục diện chính trị thế giới thay đổi rõ rệt. Liên

Xô tan rã, các nước Cộng hòa tuyên bố độc lập (SNG). Ở Nam tư, Tiệp khắc,

phong trào li khai xuất hiện trong đó có nhiều quốc gia mà đa số cư dân theo

đạo Hồi đã làm cho bản đồ chính trị thế giới thay đổi. Việc hàng loạt các quốc

gia Liên bang tan rã thành những quốc gia độc lập, đã ảnh hưởng tới các nước

Đông Nam Á, trong đó có Indonesia, đặc biệt là những vùng mới sáp nhập

vào Indonesia chưa lâu (Aceh; Đông Timor). Trong bối cảnh như vậy, ở nhiều

nước phương Tây, những tư tưởng bài xích, miệt thị Hồi giáo lại xuất hiện

ngày càng nhiều. Điều này đã làm cho ý thức về sự cần thiết bảo vệ các giá trị

tôn giáo của mình ngày càng phát triển trong cộng đồng Hồi giáo thế giới.

Các lực lượng Hồi giáo cực đoạn quốc tế đã viện dẫn lý do này để tiến hành

cuộc tấn công nhằm vào nước Mỹ ngày 11 tháng 9 năm 2001 và nhiều cuộc

khủng bố khác ở châu Âu. Khi Mỹ phát động cuộc chiến chống khủng bố,

những nhóm khủng bố quốc tế chuyển địa bàn hoạt động sang Đông Nam Á.

Điều này tiếp sức thêm cho các lực lượng ly khai Hồi giáo ở nam Thái Lan,

nam Philippines và Indonesia làm cho các xung đột sắc tộc, tôn giáo ở các

nước này thêm phức tạp và khó giải quyết.

Sau Chiến tranh lạnh, cạnh tranh kinh tế diễn ra quyết liệt trong cơn lốc

toàn cầu hóa. Lực lượng chính chi phối toàn cầu hóa là ba trung tâm Mỹ,

Nhật, Tây Âu và một số cường quốc khác. Toàn cầu hóa đã khoét sâu mâu

thuẫn Bắc - Nam, gia tăng khoảng cách giàu nghèo, bần cùng hóa một bộ

51

phận lớn nhân dân các nước đang phát triển. Thế giới bước vào đầu thế kỷ

XXI cho thấy chênh lệch giàu nghèo lớn hơn, bất công hơn nhiều so với nửa

thế kỷ trước.

Hợp tác, cạnh tranh, đấu tranh và sự tuỳ thuộc lẫn nhau giữa các nước

ngày càng tăng, tạo ra cho các quốc gia những cơ hội hợp tác trong nhiều lĩnh

vực: kinh tế, văn hoá, khoa học, kỹ thuật và quốc phòng, an ninh. Tính hai

mặt của toàn cầu hóa làm bùng nổ sự xung đột giữa tính dân tộc và tính toàn

cầu, đe dọa an ninh chủ quyền, bản sắc văn hóa dân tộc. Hậu quả tất yếu là

một bộ phận những người cùng khổ bị gạt ra ngoài lề cuộc sống. Trật tự thế

giới mới đang quá độ hình thành theo hướng đa cực, đa trung tâm diễn ra

nhanh hơn. Các nước lớn điều chỉnh chiến lược theo hướng vừa hợp tác, vừa

cạnh tranh, đấu tranh, kiềm chế lẫn nhau, nhưng sẵn sàng thỏa hiệp để bảo vệ

lợi ích cốt lõi của mình, điều này tác động mạnh đến cục diện thế giới và các

khu vực.

Cộng đồng quốc tế phải đối phó ngày càng quyết liệt hơn với các thách

thức an ninh truyền thống, phi truyền thống, đặc biệt là an ninh mạng và các

hình thái chiến tranh kiểu mới. Những biểu hiện của chủ nghĩa dân túy, dân

tộc cực đoan, chủ nghĩa cường quyền áp đặt, chủ nghĩa thực dụng đang nổi

lên ngày càng nhiều trong quan hệ quốc tế. Các thể chế đa phương đứng

trước những thách thức lớn. Xung đột sắc tộc, tôn giáo, xâm phạm chủ

quyền quốc gia, can thiệp lật đổ, khủng bố... tiếp tục diễn ra gay gắt ở

nhiều khu vực. Khủng bố, chống khủng bố trở nên khó kiểm soát, dễ bị các

thế lực hiếu chiến lợi dụng, can thiệp vào công việc của nước khác, kể cả

bằng vũ lực. Những biểu hiện của chủ nghĩa dân tộc cực đoan, chủ nghĩa

cường quyền áp đặt, chủ nghĩa thực dụng ngày càng nổi lên trong quan hệ

quốc tế. Các nước đều phải quan tâm điều chỉnh chiến lược bảo vệ đất

nước, cụ thể hóa mục tiêu, đối tượng, phương thức, lực lượng để bảo vệ

độc lập, chủ quyền quốc gia dân tộc.

52

Châu Á - Thái Bình Dương, trong đó khu vực Đông Nam Á, là trung

tâm phát triển năng động, có vị trí địa kinh tế - chính trị chiến lược ngày càng

quan trọng, nhưng đây là khu vực cạnh tranh chiến lược, có nhiều nhân tố bất

ổn. Một sự kiện đáng chú ý là sau chiến tranh lạnh, các nước Đông Nam Á đã

tập hợp đầy đủ mười thành viên trong Tổ chức Hiệp hội các quốc gia Đông

Nam Á (ASEAN). Trong chặng đường phát triển của mình, ASEAN đã có

nhiều đóng góp cho khu vực nói riêng và quốc tế nói chung. Về tình hình an

ninh chính trị, các nước ASEAN cam kết tôn trọng chủ quyền, thống nhất và

toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau.

Bối cảnh chung đó, đã tác động cả tích cực lẫn tiêu cực tới hòa bình, ổn

định và phát triển của Đông Nam Á nói chung, đến việc giải quyết xung đột

sắc tộc, tôn giáo để giữ ổn định chính trị, củng cố độc lập dân tộc của

Indonesia nói riêng.

- Tác động tích cực là, tạo môi trường quốc tế thuận lợi cho việc giải

quyết xung đột sắc tộc, tôn giáo để giữ ổn định chính trị, củng cố độc lập dân

tộc, xây dựng và phát triển đất nước của Indonesia.

Sau Chiến tranh Lạnh, hòa bình đã được thiết lập trên toàn Đông Nam

Á, các nước ASEAN đều nỗ lực phấn đấu phát triển kinh tế - xã hội và đạt

được những thành tích lớn, gây xôn xao dư luận thế giới. Tốc độ tăng trưởng

kinh tế trung bình của Indonesia đạt mức 6,1% trong giai đoạn từ 1980 -

1990. Cùng với sự tăng trưởng của GDP, thu nhập bình quân tính theo đầu

người cũng tăng lên không ngừng. Năm 1997, thu nhập bình quân đầu người

của Indonesia là 545 đôla [91, tr.62]. Kinh tế phát triển đã làm thay đổi chất

lượng cuộc sống của mọi tầng lớp xã hội, mặc dù không phải mọi người dân

Indonesia đều được hưởng như nhau những thành quả của sự phát triển của

đất nước, nhưng rõ ràng so với cuộc sống trước đây cuộc sống của người dân

đã được cải thiện đáng kể.

53

Sự phát triển của nền kinh tế đã làm thay đổi vị thế của đất nước với tư

cách là những quốc gia độc lập. Từ những nước căn bản là nông nghiệp tất cả

các nước thành viên ASEAN đã xuất hiện trên trường quốc tế như là những

nước NIC (Singapore) hoặc cận NIC (Malaysia, Thái Lan, Indonesia,

Philippines). Sức mạnh quốc gia của các nước ASEAN đang tăng lên nhanh

chóng, không chỉ thể hiện ở sự ổn định chính trị, mà còn ở sức mạnh kinh tế

của mỗi nước. Tiếng nói của ASEAN nói chung và của nhiều nước thành viên

của tổ chức này đang ngày càng có trọng lượng trong các vấn đề quốc tế, đặc

biệt là các vấn đề của châu Á - Thái Bình Dương. Điều này lý giải việc

Indonesia được bầu làm chủ tịch của Phong trào không liên kết và diễn đàn an

ninh ASEAN tổ chức ở Bangkok tháng 7 năm 1994, không phải điều ngẫu

nhiên. Đây cũng chính là môi trường quốc tế thuận lợi cho việc giải quyết

xung đột sắc tộc, tôn giáo để giữ ổn định chính trị, củng cố độc lập dân tộc,

xây dựng và phát triển đất nước của Indonesia.

- Tác động tiêu cực là, tạo ra những khó khăn mới cho sự phát triển

kinh tế, xuất hiện của những đối thủ cạnh tranh lớn về vốn đầu tư nước ngoài

và thị trường tiêu thụ hàng hoá (Trung Quốc).

Bối cảnh sau Chiến tranh Lạnh, đã làm cho các nước ASEAN nói

chung, Indonesia nói riêng ở vào thế bất lợi. So với Trung Quốc, ASEAN và

Indonesia đã mất các lợi thế so sánh trong các ngành công nghiệp tập trung

lao động. Giá lao động và giá thuê đất ở đặc khu kinh tế Thâm Quyến thấp

hơn 40% so với giá đó ở đảo Bantam (Indonesia) [91, tr.72]. Nguyên nhân

chính là do các nước ASEAN bao gồm cả Indonesia đã mất các lợi thế so

sánh trong các ngành công nghiệp tập trung lao động, nhưng lại chưa tạo ra

được các lợi thế trong các ngành công nghiệp tập trung tư bản. Vì thế, các nhà

đầu tư nước ngoài đã tìm cách chuyển vốn đầu tư sang Trung Quốc. Từ 1992,

Chính phủ Trung Quốc đã nỗ lực cải thiện môi trường đầu tư trong nước và

đưa thêm nhiều ưu đãi khác nhằm thu hút FDI vào nền kinh tế của họ. Danh

54

mục những ngành công nghiệp mở cửa cho đầu tư nước ngoài được mở rộng

thêm. Ngoài các khu vực ven biển, các nhà đầu tư ngoại quốc có thể xây

dựng các cơ sở sản xuất của họ ở các thành phố lớn nằm dọc biên giới và

dọc sông Dương Tử. Nhờ đó, Trung Quốc đã thu hút được lượng FDI

khổng lồ để phát triển kinh tế. Vào năm 1992, vốn đầu tư từ Hồng Công

vào nền kinh tế Đại lục đã lên tới 7,7 tỷ USD so với 2,7 tỷ USD vào 1991.

Đầu tư của Đài Loan cũng tăng từ 471 triệu lên 1 tỷ USD cùng thời kỳ,

trong khi đó đầu tư từ Singapore lên 126 triệu USD vào 1992 so với 56

triệu USD vào 1991. Các con số tương ứng của Nhật Bản là 748 triệu USD

và 611 triệu USD [167, tr.13]. Tình trạng giảm vốn đầu tư nước ngoài đã

làm cho các nền kinh tế ASEAN, trong đó có Indonesia tăng trưởng chậm

lại. Những khiếm khuyết trong mô hình tăng trưởng của các nước này sẽ có

cơ hội lộ rõ, những chương trình cải cách, những giải pháp xử lý xung đột

sắc tộc, tôn giáo đều giảm hiệu lực.

Thêm vào đó là còn tạo nguy cơ xói mòn văn hóa truyền thống và bản

sắc dân tộc.

Thời kỳ sau Chiến tranh Lạnh cũng là thời kỳ bùng nổ công nghệ thông

tin. Các quốc gia ASEAN lại là nơi vừa mới mở cửa hội nhập với thế giới bên

ngoài. Trong khi đó nhiều quốc gia, nhất là các nước lớn, vốn đang muốn

vươn lên vị trí cường quốc, đã lợi dụng phương tiện này để phát huy quyền

lực mềm của họ. Những văn hóa phẩm từ các cường quốc đã được giới trẻ các

nước Đông Nam Á háo hức đón nhận, một phần vì sức hấp dẫn của các sản

phẩm văn hóa đó, nhưng quan trọng hơn là chúng phù hợp với tâm lý muốn

khám phá những cái mới lạ và thích tự khẳng định mình của giới trẻ. Lối sống

Mỹ, với những đặc trưng nổi bật như đề cao tự do cá nhân, ưa chuộng sự

thoải mái, tiện dụng được hầu hết thanh niên Đông Nam Á tiếp nhận.

Những tác động tiêu cực từ sự thâm nhập của văn hóa và lối sống hiện

đại vào Đông Nam Á đã và tiếp tục gây quan ngại không chỉ cho các nhà lãnh

55

đạo mà cả những người dân thường ở các nước Đông Nam Á. Vấn đề đặt ra

cho Indonesia là làm thế nào để phát huy được các giá trị tích cực từ nền văn

hóa truyền thống và duy trì bản sắc dân tộc của họ trong một thế giới đang

toàn cầu hóa không chỉ về kinh tế mà cả văn hóa như hiện nay. Đây chính là

một thách thức lớn đối với Indonesia, bên cạnh những thách thức về chính trị,

an ninh, kinh tế thì vấn đề văn hóa chịu những tác động lớn đã gây những khó

khăn không nhỏ trong giải quyết các xung đột sắc tộc, tôn giáo mà sự khác

biệt văn hóa cũng là một nguyên nhân.

2.2.2. Nhân tố chủ quan tác động đến xung đột sắc tộc, tôn giáo ở

Indonesia giai đoạn 1991-2015

- Đặc điểm chính trị, văn hóa xã hội, tôn giáo của Cộng hòa Indonesia

+ Đặc điểm chính trị.

Đặc điểm thứ nhất: Cộng hòa Indonesia đấu tranh chống chủ nghĩa

thực dân, giành độc lập dân tộc qua con đường dân chủ tư sản tạo nên những

nét đặc thù chính trị riêng biệt

Những năm 1945 - 1950 là thời kỳ Cộng hoà Indonesia phải vận động

để giành lại nền độc lập của mình thông qua sự kết hợp giữa kháng chiến và

ngoại giao. Nhưng sau đó Indonesia lại rơi vào ách thống trị thực dân một lần

nữa. Dưới sự lãnh đạo của Tổng thống Sukarno, năm 1949 Indonesia mới

chính thức giành lại nền độc lập từ thực dân Hà Lan.

Năm 1967, Suharto được Hội đồng tư vấn nhân dân bầu làm Tổng

thống Indonesia. Dưới sự lãnh đạo của Tổng thống Suharto, Indonesia đã

chấm dứt thời gian đối đầu với Malaysia. Trước sự quay trở lại của thực dân

Hà Lan, mục tiêu của Indonesia là chống lại chủ nghĩa thực dân, giành lấy

nền độc lập thực sự và được cộng đồng quốc tế công nhận. Để thực hiện mục

tiêu này, Indonesia đã thi hành chính sách đối ngoại hướng về phương Tây

nhằm kiếm tìm sự công nhận của cộng đồng quốc tế.

56

Tổng thống Suharto là người ủng hộ phương Tây và được phương Tây

ủng hộ. Những chính sách của Suharto đã đem lại sự tăng trưởng kinh tế liên

tục từ những năm 1980 đến đầu những năm 1990. Thế nhưng, sự phát triển kinh

tế của Indonesia không phải là sự phát triển bền vững, hài hòa. Cùng với sự phát

triển là sự gia tăng khoảng cách giàu nghèo ở trong nước. Sự bất bình đẳng về

kinh tế, xã hội lớn dần lên ở đất nước có trên 250 triệu dân và đặc biệt trầm trọng

ở nông thôn, những vùng ngoại vi cùng với sự bùng nổ của dân số.

Không chỉ là đất nước luôn có ý thức độc lập và thống nhất trong quá

trình phát triển, Indonesia còn là quốc gia luôn có tham vọng trở thành cường

quốc trong khu vực. Nhận thức được vị trí cũng như tầm quan trọng của

mình, trong đường lối phát triển đất nước, từ khi giành độc lập đến nay

Indonesia luôn xác định mục tiêu trở thành cường quốc, một quốc gia giữ vị

trí quan trọng trên bàn cờ chính trị khu vực, đặc biệt là dưới thời hai Tổng

thống Indonesia là Sukarno và Suharto. Điều này được thể hiện rất rõ qua

đường lối chính sách đối nội cũng như đối ngoại của Indonesia qua các thời kỳ

phát triển của đất nước. Về đối ngoại, là sự tham gia với vai trò là trung tâm, là

thành viên sáng lập ra Phong trào Không liên kết, Hiệp hội các quốc gia Đông

Nam Á (ASEAN)... những năm 50, 60 của thế kỷ XX. Về đối nội, chính quyền

Indonesia chủ trương thành lập các khu vực kinh tế nhà nước giữ vai trò then

chốt có nhiệm vụ dẫn dắt các thành phần kinh tế khác (trong cả hai chiến lược

"Trật tự cũ" và "Trật tự mới"). Quan điểm về vai trò nhà nước trong phát triển

kinh tế - xã hội của Indonesia được xuất phát từ tình hình thực tế trong nước, khi

mà thực lực kinh tế luôn nằm trong tay tư bản Indonesia gốc Hoa.

Việc thực dân Hà Lan đô hộ một thời gian dài đối với Indonesia đã tạo

nên những nét đặc thù chính trị riêng cho Indonesia. Trong hơn 3 thế kỷ đặt

ách đô hộ ở đây, Hà Lan đã thử nghiệm nhiều chế độ cai trị khác nhau. Theo

Hiến pháp năm 1922, Hà Lan gọi Indonesia là "lãnh thổ hải ngoại" của mình

thông qua những vị vua bản xứ với chế độ cha truyền con nối (từ khi Hà Lan

57

đặt ách đô hộ đến năm 1939, có tới 269 nhà vua như vậy) Hà Lan thực hiện

quyền cai trị thực dân một cách gián tiếp [16, tr.58]. Có thể nói, chế độ thực

dân mà Hà Lan áp dụng ở Indonesia không nguyên nghĩa là thực dân kiểu cũ

nhưng cũng chưa phải là chế độ thực dân kiểu mới. Với những thần dân

Indonesia, Hà Lan thực hiện quyền thống trị thông qua Nghị viện Hà Lan.

Quyền thống trị đó được uỷ nhiệm cho một viên Toàn quyền, người giữ vị trí

quan trọng của Nhà nước Hà Lan, còn Nghị viện chỉ nắm quyền lập pháp đối

với Indonesia. Bên cạnh Toàn quyền là một Đại hội đồng xứ Nam Dương

thực hiện chức năng là những cố vấn bản xứ thông qua một số tổ chức địa

phương. Còn ở cấp địa phương, bên cạnh những làng, xã có từ lâu đời, đã

xuất hiện những Hội đồng địa phương như: Hội đồng thị trấn, Hội đồng nhiếp

chính, Hội đồng tỉnh. Tuy nhiên, người đứng đầu các hội đồng này đa số đều

do chính quyền thực dân chỉ định, quyền bầu cử và ứng cử rất hạn chế. Sau

khi Indonesia tuyên bố độc lập, mặc dù cuộc đấu tranh chính trị của các đảng

phái phát triển rất mạnh mẽ, song Indonesia vẫn nằm trong khối Liên hiệp Hà

Lan - Indonesia thêm một thời gian nữa, vì vậy ảnh hưởng của Hà Lan trong

một số vấn đề chính trị ở đây vẫn còn rất lớn.

Indonesia đã từng bước thoát khỏi ảnh hưởng của chủ nghĩa thực dân,

giành độc lập và bước lên vũ đài chính trị khu vực, thế giới với tư cách là một

lực lượng không thể coi thường [111, tr.35].

Đặc điểm thứ hai, tính cố kết, cộng đồng, ý thức độc lập dân tộc, thống

nhất đã xây dựng một nhà nước trung ương tập quyền cao độ ở Indonesia.

Indonesia có một đặc điểm chính trị truyền thống nổi bật và khác biệt là

đất nước này luôn trong quá trình đấu tranh để tồn tại, phát triển trước những

hiểm hoạ của thiên nhiên, cũng như âm mưu chia cắt, xâm chiếm, thống trị từ

bên ngoài. Đây là một quốc gia Đông Nam Á có chung nền "văn minh lúa

nước" làm nền tảng, nên Indonesia có tính cố kết cộng đồng, có ý thức tự chủ,

tự cường, thống nhất và đã xây dựng được một nhà nước trung ương tập

58

quyền cao độ. Đất nước Indonesia hình thành trên rất nhiều đảo lớn, nhỏ với

nhiều dân tộc khác nhau sinh sống, điều này làm xuất hiện nhu cầu nâng cao ý

thức cố kết cộng đồng giữa các vùng lãnh thổ với nhau của mọi người dân.

Đây chính là điểm đặc thù riêng của Indonesia, không chỉ dẫn đến nhu cầu đề

cao ý thức đoàn kết, thống nhất cộng đồng, mà đây còn là nguyên nhân sâu xa

của những tư tưởng li khai, nên từ khi độc lập các phong trào li khai đã xuất

hiện. Do đó, việc thống nhất quốc gia - dân tộc còn mang ý nghĩa sống còn

trong việc xác lập và củng cố quyền tự chủ quốc gia. Chính vì lẽ đó, kể từ khi

Indonesia tuyên bố quyền tự chủ quốc gia đến nay, các chính phủ kế tiếp nhau

ở đây luôn coi trọng vấn đề thống nhất. Tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt qua tất

cả các đời tổng thống ở Cộng hoà Indonesia từ khi nước này được thành lập

cho đến nay đều nhằm mục tiêu xây dựng một chính phủ có khả năng quản lý

và điều tiết các hoạt động kinh tế - xã hội.

Đặc điểm thứ ba, Indonesia sớm có nhiều đảng chính trị khác nhau dẫn

đến khó thực hiện cải cách dân chủ.

Tính đa dạng về địa hình, về các yếu tố lịch sử, văn hoá, dân tộc, tộc

người, về tín ngưỡng, tôn giáo cũng chính là những nguyên nhân quan trọng

làm cho tình hình chính trị ở đất nước Indonesia sau khi giành độc lập diễn ra

hết sức phức tạp. Ở Indonesia, tồn tại rất nhiều đảng phái chính trị khác nhau,

về cơ bản có mục đích hoạt động giống nhau song trong đường lối cụ thể lại

có sự mâu thuẫn. Chính vì vậy, những cuộc tranh giành quyền lực, đấu đá phe

phái ở Indonesia thường diễn ra rất gay gắt và khá thường xuyên.

Với đội ngũ giai cấp tư sản dân tộc phát triển tương đối mạnh,

Indonesia lựa chọn con đường dân chủ tư sản cho cuộc đấu tranh giành độc

lập dân tộc của mình. Phong trào dân chủ tư sản từng bước phát triển dẫn đến

sự ra đời các hiệp hội, đảng phái chính trị. Tiêu biểu trong số đó là đảng Sarekat

Islam (Liên minh Hồi giáo) thành lập năm 1912; đảng Ấn Độ thành lập 1912...

Các tổ chức công đoàn đầu tiên của công nhân Indonesia cũng được thành lập,

59

như Công đoàn hỏa sa S.S. Bond (1905), Công đoàn công nhân xe lửa (1908).

Năm 1920, Đảng Cộng sản Indonesia được thành lập và nhanh chóng trở thành

lực lượng quan trọng trong đời sống chính trị của nước này, (nhất là giai đoạn

1923 - 1927). Nhưng do mắc phải một số sai lầm trong đường lối lãnh đạo

nên các cuộc đấu tranh của công nhân Indonesia dưới sự lãnh đạo của Đảng

Cộng sản đều bị thực dân Hà Lan đàn áp và thất bại. Đến năm 1927, Đảng

Cộng sản bị cấm hoạt động và chấm dứt vai trò trong phong trào dân tộc ở

Indonesia [119, tr47]. Đảng Dân tộc Indonesia (Perserikatan National Indonesia

- PNI) được thành lập năm 1927 do Sukarno đứng đầu chủ trương đấu tranh giải

phóng dân tộc theo xu hướng dân chủ tư sản. Đảng có nền tảng tư tưởng là

Marhaenism mà sau này được Sukarno mô hình hóa dưới dạng 5 nguyên tắc

(Pancasila). Về thực chất, đây là sự kết hợp giữa chủ nghĩa dân tộc, tín ngưỡng

tôn giáo và chủ nghĩa Cộng sản, nên thu hút được đông đảo tầng lớp người lao

động trong xã hội tham gia. Đến cuối thập niên 30 của thế kỷ XX, phong trào

dân tộc ở Indonesia phát triển mạnh mẽ dẫn đến việc ra đời Liên đoàn các Đảng

Dân tộc (Gapi) được thành lập, nhằm thống nhất hoạt động của toàn dân tộc

trong cuộc đấu tranh giành độc lập. Năm 1939, Gapi dưới sự lãnh đạo của

Sukarno đã tổ chức Đại hội nhân dân Indonesia bao gồm 90 đảng phái và tổ

chức chính trị trong cả nước. Đại hội thông qua nghị quyết lấy tiếng Indonesia

(Bahasa Indonesia) làm Quốc ngữ; lấy cờ hai mầu đỏ - trắng làm Quốc kỳ và lấy

bài hát Indonesia Rây làm Quốc ca còn Liên đoàn các Đảng Dân tộc (Gapi) làm

lực lượng nòng cốt của mặt trận dân tộc thống nhất toàn Indonesia.

Đặc điểm chính trị đa đảng phái của Indonesia đã khiến các nhà lãnh

đạo đất nước này trong những giai đoạn tiếp theo luôn đề cao và chú trọng

xây dựng một lực lượng quân đội lớn mạnh, đủ sức áp chế các mâu thuẫn

giữa các đảng phái trong nội bộ. Với vai trò quan trọng trong việc ổn định

tình hình trong nước, quân đội Indonesia luôn ở vị trí trung tâm của quyền lực

chính trị, ai chi phối được quân đội, người đó sẽ thâu tóm được quyền lực

60

chính trị của đất nước Indonesia. Đây là một đặc điểm có tác động rất nhiều

đến việc hình thành chủ nghĩa tư bản nhà nước quan liêu quân phiệt điển hình

ở Indonesia [118, tr.19].

Giống như nhiều quốc gia khác, chính sách đối ngoại của Indonesia bắt

nguồn từ những vấn đề nội tại của đất nước và những tác động của các yếu tố

bên ngoài. Các xu hướng phát triển chính trên thế giới và sự can thiệp của một

số nước lớn đối với việc định hướng con đường phát triển là hai trong nhiều

nhân tố đó. Vốn là một nước thuộc địa, có sự chia rẽ phức tạp về chính trị, mối

quan tâm hàng đầu của các chính phủ cầm quyền ở Indonesia qua các giai đoạn

luôn là củng cố sự thống nhất trong nước, tìm kiếm sự công nhận quốc tế về địa

vị hợp pháp của một nước lớn trong khu vực. Đồng thời Indonesia trở thành một

nhân tố tích cực có quyền khẳng định quan điểm và quyền đấu tranh vì mục tiêu

của riêng mình - vì một Indonesia hoàn toàn độc lập [194, tr.15]. Kể từ khi chế

độ Trật Tự Mới sụp đổ năm 1998, cho đến năm 2015 đất nước Indonesia đã

bước vào năm thứ 17 của công cuộc cải cách dân chủ. Indonesia hiện trở thành

một nền dân chủ lớn trên thế giới, cũng như ở Đông Nam Á và được xem là một

hình mẫu dân chủ cho các nước Hồi giáo. Indonesia theo thể chế cộng hòa với

một bộ máy lập pháp và tổng thống do dân bầu.

Như vậy là, xuất phát từ việc Indonesia sớm có nhiều đảng chính trị

khác nhau dẫn đến nguy cơ tạo nên sự bất ổn chính trị, tạo điều kiện cho

Suharto độc tài và tạo ra lý do cho sự cấu kết giữa quân đội và giới quan liêu

ở Indonesia, thao túng nền chính trị và kinh tế của đất nước, là nguyên nhân

của những xung đột sắc tộc, tôn giáo và li khai.

+ Đặc điểm văn hoá, xã hội.

Là một trong những chiếc nôi của văn minh nhân loại, từ rất sớm người

dân Indonesia đã có một nền văn hoá riêng, mà trước hết là văn hoá tinh thần.

Với vị trí chiến lược quan trọng của mình nên từ lâu Indonesia đã là nơi gặp

gỡ, giao thoa của nhiều nền văn hoá khác nhau trên thế giới. Người Indonesia

61

đã tiếp nhận tất cả, từ văn hoá Ấn Độ, văn hoá Trung Hoa đến văn hoá Ả rập

và văn hoá phương Tây để hoà nhập nó vào cuộc sống và văn hoá của mình.

Tất cả những yếu tố trên đã tạo cho con người Indonesia một tâm lý dân tộc

của riêng họ, đó là kiềm chế nội tâm, hoà đồng và luôn hướng tới sự thống

nhất trong đa dạng. Tâm lý đó ảnh hưởng rất nhiều đến nền tảng văn hoá, xã

hội và có tác động lớn đến việc đề ra các chính sách văn hoá, dân tộc của các

nhà lãnh đạo Indonesia qua các giai đoạn phát triển. Được mệnh danh là "ống

thông gió" của khu vực và thế giới, quá trình giao lưu buôn bán được diễn ra

ở Indonesia từ rất sớm cũng tạo điều kiện cho việc du nhập các nền văn minh

trên thế giới vào đây. Văn hoá Trung Hoa, Ấn Độ, Java, Mã Lai là các nền

văn minh phương Đông được hoà quyện với văn minh Ảrập thông qua sự du

nhập của Hồi giáo và của văn minh phương Tây... Theo thời gian, dưới sự tác

động của những biến động xã hội, tính tự kiềm chế dần dần trở thành một

nguyên tắc tối cao trong cách ứng xử của người Indonesia, hình thành nên

một trong những đặc tính tâm lý của họ.

Đặc điểm tâm lý tự kiềm chế là một động lực quan trọng tạo nên bản sắc

lịch sử, văn hoá của đất nước Indonesia từ xưa tới nay. Nhờ vào điều này, mà

một đất nước phức tạp và đa dạng về mọi mặt như đất nước Indonesia lại luôn

giữ được sự bình ổn trong xã hội, tạo nên sự thống nhất về chính trị và văn hoá...

Với ba nguyên tắc đạo đức: "trách nhiệm, phúc lợi và tình thương"

trong các mối quan hệ; người dân Indonesia đã tạo ra một truyền thống dân

chủ mang tính đặc trưng riêng biệt của mình. Quan niệm dân chủ truyền

thống cổ xưa đó được coi là bộ mặt xã hội tự nhiên duy nhất đúng của

Indonesia. Những người lãnh đạo Indonesia từ khi ra đời đến nay đều cho

rằng, để xây dựng thành công một xã hội đa dân tộc thống nhất hiện nay thì

rất cần phát huy những giá trị mang tính truyền thống của nền "văn minh lúa

nước". Đây là điều cần thiết để hạn chế những rạn nứt giữa các nhóm sắc tộc

trong lòng xã hội.

62

Tư tưởng "thống nhất trong đa dạng" của nhân dân Indonesia được tạo

nên chính từ những nét đặc thù mang tính bản sắc của đất nước này trong lịch sử

và hiện tại. Tính đặc trưng của nền văn minh lúa nước đã đưa những người dân

Indonesia xích lại gần nhau hơn trong một lối sống làng xã cổ truyền, luôn luôn

tôn trọng ba nguyên tắc đạo đức (trivarga) là: trách nhiệm (dharma), phúc lợi

(artha) và tình thương (kama) [24, tr13] trong cuộc sống. Đây chính là truyền

thống dân chủ cổ xưa, mang tính đặc trưng riêng biệt của người Indonesia, phản

ánh một sắc thái tâm lý tiêu biểu của họ là tâm lý hoà đồng. Indonesia là đất

nước có hàng trăm dân tộc sinh sống. Mỗi dân tộc này có những truyền thống

văn hoá riêng, mức độ tiếp thu ảnh hưởng văn hoá từ bên ngoài riêng...; song

văn hoá của Indonesia lại luôn được qui về một khối thống nhất.

Sức sống văn hoá dân tộc đó được người Java đúc kết thành câu thành

ngữ: "Tôn giáo từ ngoài biển vào, còn phong tục thì từ trên núi xuống". Có thể

diễn nghĩa câu ngạn ngữ đó như sau: Núi được coi là nơi ở của thần linh, của

những điều thiện, còn biển là nơi ác quỷ ngự trị, vì vậy không bao giờ những ảnh

hưởng từ bên ngoài có thể xoá bỏ được bản sắc dân tộc của người Indonesia [24,

tr.16]. Tuy nhiên, do án ngữ trên con đường giao thương huyết mạch nối liền các

nền văn minh lớn của thế giới, nên văn hoá của người Indonesia cũng chịu sự tác

động mạnh mẽ của các nền văn minh đó... Đặc điểm này tạo nên tâm lý kiềm

chế và cởi mở luôn đi kèm với nhau, hình thành đặc điểm văn hoá đặc trưng của

người Indonesia: thống nhất trong đa dạng của Indonesia.

Tất cả những đặc điểm tâm lý trên đây đã tạo nên một nền văn hoá đa

dạng, phong phú và mang đậm dấu ấn của các dân tộc Indonesia, đó là kiềm

chế nội tâm, hoà đồng và luôn hướng tới sự thống nhất trong đa dạng.

+ Đặc điểm về tôn giáo, dân tộc.

Indonesia là một quốc gia đa dân tộc, đa tôn giáo. Với điều kiện địa lý

thuận lợi về đường hàng hải, lịch sử đất nước Indonesia đã sớm chứng kiến sự

du nhập và ảnh hưởng của nhiều nền văn minh lớn trên thế giới như Ấn Độ,

Trung Quốc, Ảrập, Bồ Đào Nha, Anh và Hà Lan. Cùng với các nền văn minh

63

này, những tôn giáo chính của nhân loại cũng đã thâm nhập và hòa trộn với

tín ngưỡng bản địa ở Indonesia.

Tôn giáo đã trở thành một phần quan trọng của văn hóa và đời sống cộng

đồng Indonesia, tín ngưỡng đa thần giáo cũng vì thế mà được thể hiện rõ nét

trong phong tục tập quán của người Indonesia, do đó mối quan hệ hài hòa giữa

các tôn giáo đóng vai trò rất quan trọng đối với Indonesia. Mở đầu là Hindu

giáo, rồi lần lượt theo thời gian, Phật giáo, Hồi giáo và Thiên Chúa giáo cũng

được du nhập vào các hòn đảo của Indonesia. Hindu giáo đã theo chân các

thương nhân Ấn Độ tới đảo Sumatra, Java và Sulawesi của Indonesia từ đầu thế

kỷ thứ 2 sau Công nguyên. Đến thế kỷ thứ V, tôn giáo này đã thiết lập được chỗ

đứng vững chắc trên hòn đảo Java trù phú và đông dân, trung tâm của nền văn

hóa Indonesia. Một thế kỷ sau, đến lượt Phật giáo cũng khẳng định được vị thế ở

Sumatra và Java, đặc biệt là tại các vùng đất do đế chế biển Srivijaya hùng mạnh

kiểm soát của Indonesia. Hồi giáo đến với các hòn đảo của Indonesia muộn hơn,

thiết lập trung tâm Hồi giáo đầu tiên tại phía bắc và phía tây đảo Java. Ngày nay,

đạo Hồi đã có mặt trên tất cả các hòn đảo của Indonesia và trở thành tôn giáo lớn

nhất tại nước này với sự có mặt của các hệ phái chính như Sunni, Shiite và Sufi.

Bản đồ 2.1: Bản đồ tôn giáo Indonesia

Nguồn: [177].

64

Bảng 2.1: Thành phần tôn giáo theo nhóm dân tộc ở Indonesia

(Điều tra dân số năm 2010)

Đơn vị tính: người

Nhóm dân

Thiên Chúa

Người Ấn

Phật

Nho

Hồi giáo

Khác

Toàn bộ

tộc

giáo

giáo

tử

giáo

Người Java

92.107,046

2.28.121

150.855

90.465

2.857

9,599 94.788.943

Sundan

36.450.022

181.402

1.851

24,528

4,854

3,235 36.665.892

Mã Lai

8,643,370

85.484

1.031

19.848

1.243

242

8,751,218

Bát quái

3.738.660

4,707,658

1.476

9.190

315

6.305

8,463.604

Madurese

7.157.518

7,695

368

435

32

43

7.166.091

Betawi

6,607,019

151.429

1.161

39.278

1.805

252

6.800.944

Minangkabau

6.441.071

16.822

179

1,255

44

6.459.420

49

Người Bugani

6.348.200

35,516

26.102

957

2.395

6.413.217

47

Người Na Uy

4.634.374

4,810

101

2.680

242

4.642.277

70

Banjarese

4.120.104

15.775

994

1.394

410

4.126.741

62

Ba Lan

127.274

49.385

3.736.993

10.378

142

473

3.924.645

3.398.818

4.034

70

1.028

4

3,403,961

7

Aceen

1.016.697

2.017.870

12.140

17,502

568

154.219 3.218.996

Dayak

3,153,671

5,540

4.555

10.682

439

3.174.894

7

Sakak

người Trung

131.682

1,211,692

3.552

1.388.829 94.005

1.114

2.830.874

Quốc

Khác

23.057.923

12,436,323

63,909

73,027

9,422

117.848 35.758.452

Toàn bộ

207.121.449

23.359.556

4,005.337

1.691.478 115,485 296.864 236,590,169

Nguồn: [166, tr.273].

Để thực hiện tốt chính sách "một dân tộc Indonesia thống nhất", chính

quyền chưa bao giờ công bố một cách đầy đủ thành phần các dân tộc sinh

sống trên lãnh thổ của mình. Indonesia là quốc gia có số dân theo Hồi

giáo đông nhất thế giới; tuy nhiên trong Hiến pháp Indonesia không đề cập tới

65

tôn giáo này là quốc giáo (do vậy không thể coi Indonesia là một quốc gia

Hồi giáo giống như các nước Tây Á và Bắc Phi).

Với gần 400 dân tộc lớn nhỏ cùng sinh sống, nên ngôn ngữ Indonesia

cũng rất phong phú và đa dạng.

Bản đồ 2.2: Bản đồ dân tộc Indonesia

Nguồn: [177].

Theo tổng điều tra dân số năm 2009, tỷ lệ dân số Indonesia chia theo

nhóm dân tộc (bảng 2.2).

Tuy tồn tại hơn 200 ngôn ngữ khác nhau, nhưng Bahasa được thừa

nhận là ngôn ngữ chính thức của Indonesia. Bahasa là một dạng của tiếng

Mã Lai, được hình thành trong cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc của

nhân dân Indonesia. Tiếng Bahasa được đông đảo người dân Indonesia

nhất trí coi là ngôn ngữ thống nhất của Indonesia tại Đại hội nhân dân

Indonesia vào năm 1939 và được khẳng định lại trong Hiến pháp năm

1945, khi nước Cộng hoà Indonesia ra đời. Việc thống nhất này là một

trong những nhân tố tạo nên sự thống nhất trong cộng đồng, góp phần giải

quyết các vấn đề dân tộc và tạo nên sự cố kết dân tộc trong quá trình bảo

vệ và củng cố nền độc lập dân tộc.

66

Bảng 2.2: Dân số Indonesia theo nhóm dân tộc

Dân tộc

Tỷ lệ

Người

Khu vực

(nghìn người)

(%)

Người Java (người

Trung Java, Đông

86.012

41.7

Chà Và)

Java, Yogyakarta, Lampung, Jakarta

Người Sunda

31.765

15.4 Tây Java, Banten, Lampung, Jakarta

Người Mã Lai

8.789

4.1 Bờ biển đông Sumatra, Tây Kalimantan

Người Hoa

7.776

3.7 Jakarta, Tây Kalimantan, Đông Java

Người Madura

6.807

3.3 Madura island, Đông Java

Người Batak

6.188

3.0 Bắc Sumatra

Người Bugis

6.000

2.9 Nam Sulawesi, Đông Kalimantan

Người Minangkabau

5.569

2.7 Tây Sumatra, Riau

Người Betawi

5.157

2.5 Jakarta, Banten, Tây Java

5.000

2.4 Jakarta, Tây Java, Trung Java

Người Ả Rập

4.800

2.3 Nam Kalimantan, Đông Kalimantan

Người Banjar

Người Banten

4.331

2.1 Banten, Tây Java

4.000

1.9 Aceh, Jakarta, Tây Java

Người Aceh

3.094

1.5 Bali

Người Bali

3.000

1.4 Tây Nusa Tenggara

Người Sasak

Người Makassar

2.063

1.0 Nam Sulawesi

Người Cirebon

1.856

0.9 Tây Java, Trung Java

Nguồn: [166].

Với một đất nước có địa hình phức tạp, phân bố dân cư và tài nguyên

không đều, tình hình dân tộc và tôn giáo đa dạng…như Indonesia, những mâu

thuẫn sắc tộc, tôn giáo này rất dễ dẫn đến việc bùng phát các cuộc xung đột

sắc tộc, tôn giáo, chiến tranh ly khai, khủng bố… Những căng thẳng tôn giáo

và chủ nghĩa ly khai đã dẫn tới những xung đột bạo lực, sắc tộc, tôn giáo đe

67

doạ sự ổn định kinh tế và chính trị. Như vậy, tính đặc thù trong các yếu tố địa

lý, dân cư, tộc người, tôn giáo và nhất là đặc điểm chính trị đã quyết định rất

nhiều đến việc lựa chọn con đường đấu tranh giành độc lập dân tộc, cũng như

trong quá trình phát triển đất nước, bảo vệ, củng cố nền độc lập dân tộc của

đất nước Indonesia.

- Tình hình trong nước Cộng hòa Indonesia sau Chiến tranh Lạnh

Sau Chiến tranh Lạnh, đất nước Indonesia có những phát triển mới

trên nhiều lĩnh vực. Indonesia là một nước có chế độ chính trị Cộng

hòa tổng thống. Với tư cách một quốc gia đơn nhất, quyền lực nhà nước

tập trung trong tay chính phủ trung ương. Sau cuộc từ chức của Tổng

thống Suharto năm 1998, chính trị Indonesia và các cơ cấu chính phủ đã

trải qua những cuộc cải cách lớn. Indonesia gồm 34 tỉnh, trong đó năm

tỉnh có quy chế đặc biệt. Mỗi tỉnh có cơ quan lập pháp và thống đốc riêng.

Các tỉnh được chia tiếp thành các huyện (kabupaten) và các thành phố

(kota), chúng lại được chia tiếp thành các quận (kecamatan), và các nhóm

làng (hoặc desa hay kelurahan).

Sau khi áp dụng các biện pháp vùng tự trị năm 2001, các huyện và các

thành phố đã trở thành các đơn vị hành chính chủ chốt, chịu trách nhiệm cung

cấp hầu hết dịch vụ nhà nước. Cấp hành chính làng là đơn vị có ảnh hưởng

lớn nhất tới cuộc sống thường ngày của người dân, và giải quyết các vấn đề

của làng hay khu vực lân cận thông qua một trưởng làng (lurah hay kepala

desa) do dân bầu. Các tỉnh Indonesia như Aceh, Jakarta, Yogyakarta, Papua,

và Tây Papua có mức độ tự trị và ưu tiên hành pháp cao hơn từ chính quyền

trung ương so với các tỉnh khác. Ví dụ, chính phủ Aceh có quyền thiết lập

một hệ thống luật pháp độc lập (năm 2003), tỉnh này đã cho ra đời một hình

thức Sharia (Luật Hồi giáo). Tỉnh Yogyakarta được trao vị thế Vùng đặc biệt

để ghi nhận vai trò nòng cốt của nó trong việc hỗ trợ những người Cộng hòa

Indonesia thời Cách mạng Indonesia. Tỉnh Papua, thường được gọi là Irian

68

Jaya, đã được hưởng một quy chế tự chủ đặc biệt từ năm 2001. Còn Jakarta là

vùng thủ đô đặc biệt của quốc gia [7].

Năm 1997 và 1998, Indonesia là nước bị ảnh hưởng nặng nề nhất của

cuộc khủng hoảng tài chính. Điều này càng khiến sự bất mãn của dân chúng

với Trật tự Mới gia tăng và dẫn tới các cuộc tuần hành dân chúng. Suharto từ

chức ngày 21 tháng 5 năm 1998. Sự bất ổn chính trị, cải cách kinh tế chậm

chạp và tham nhũng ở mọi cấp độ chính phủ và kinh doanh từ năm 1998 đã

ảnh hưởng tiêu cực tới sự phục hồi kinh tế.

Năm 1999, Đông Timor bỏ phiếu ly khai khỏi Indonesia, sau một cuộc

xâm chiếm quân sự kéo dài 25 năm được đánh dấu bởi những lời lên án quốc

tế và những vụ đàn áp thường xuyên với người Đông Timor. Năm 1999,

Indonesia trao trả độc lập cho Đông Timor, thì các mâu thuẫn về sắc tộc và

tôn giáo gia tăng ở một số nơi như Aceh, Maluku và Irian Jaya (giữa Đạo Hồi

và Thiên chúa giáo). Tình hình mất ổn định đó đã được Tổng thống

Abdurrahman Wahid nhận định: ngoài khủng hoảng về kinh tế, những diễn

biến mới đây ở Aceh, Maluku và Irian Jaya cho thấy nguy cơ tan rã đất nước,

là thách thức chính ở Indonesia. Mâu thuẫn sắc tộc, tôn giáo, nhiều khu vực

đòi ly khai như Đông Timor, Aceh…, các đảng phái tranh giành quyền lực,

chính trị mất ổn định gây không ít khó khăn cho việc phục hồi kinh tế. Trước

hình hình đó, ngày 23 tháng 8 năm 2000, tại Jakarta đã diễn ra cuộc cải tổ

Chính phủ. Chính phủ Cộng hòa Indonesia mới được thành lập gồm 25 thành

viên (Chính phủ cũ do Tổng thống A. Wahid điều hành trong 10 tháng là 35

thành viên). Ngày 25 tháng 8 năm 2000, Tổng thống A. Wahid đã ký sắc lệnh

chuyển giao quyền hành quản lý đất nước cho bà Megawati, Phó Tổng thống,

nhưng ông A. Wahid vẫn giữ chức tổng thống cho đến khi tổng tuyển cử. Đầu

năm 2001, Tổng thống A. Wahid bị lên án là dính líu vào vụ tham nhũng trên

5 triệu đôla Mỹ, trên 90% nghị sĩ đều bất bình với tổng thống. Một lần sóng

dư luận ở Jakarta và một số thành phố lớn khác đòi ông A. Wahid từ chức.

69

Ngày 23 tháng 7 năm 2001, tại phiên họp đại biểu của Hội đồng Hiệp thương

Nhân dân (MPR), 100% trong tổng số 519 thành viên có mặt đã phế truất

Tổng thống A. Wahid và bầu bà Megawati Sukarnoputri (con gái cố Tổng

thống Sukarno) làm Tổng thống thứ năm của Cộng hòa Indonesia [104].

Như vậy là, từ khi Suharto từ chức, một quá trình tăng cường dân

chủ gồm cả một chương trình trao quyền tự trị cho các vùng, và cuộc bầu cử

tổng thống trực tiếp năm 2004. Tình trạng bất ổn chính trị và kinh tế, bất ổn

xã hội, tham nhũng và chủ nghĩa khủng bố đã giảm sút đáng kể. Dù các quan

hệ giữa các tôn giáo và các nhóm sắc tộc phần lớn hài hòa, những vấn đề bất

đồng và bạo lực tại một số khu vực vẫn thỉnh thoảng xảy ra. Một cuộc dàn

xếp chính trị cho cuộc xung đột vũ trang ly khai ở Aceh đã được thực hiện

năm 2005.

Tình hình Indonesia chứa đựng tất cả các nhân tố mà các nước

ASEAN, ở mức độ khác nhau đều đang gặp phải, đó là (1) các vấn đề sắc tộc

(giữa người Java với người dân thuộc các dân tộc khác như Aceh, Irian; giữa

người Indonesia và người Hoa); (2) tôn giáo (mâu thuẫn giữa những người theo

đạo Hồi và đạo Thiên Chúa); (3) phong trào ly khai (ở Aceh, Tây Irian; Đông

Timor là trường hợp ngoại lệ vì bị sáp nhập bất hợp pháp vào Indonesia); (4)

mâu thuẫn giữa trung ương và địa phương. Indonesia là một nước thành viên

sáng lập của ASEAN và là thành viên của nhóm các nền kinh tế lớn (G20). Hiện

nay, nền kinh tế của đất nước Indonesia đã lớn thứ 16 toàn cầu tính theo GDP

danh nghĩa và đứng thứ 8 theo sức mua tương đương, tuy nhiên do dân số đông

nên GDP bình quân đầu người vẫn chỉ ở mức trung bình thấp.

- Chính sách dân tộc, tôn giáo của chính phủ Indonesia

Chính sách của chính phủ cầm quyền đối với các vấn đề có liên quan

đến dân tộc, tôn giáo có vai trò rất quan trọng trong việc giải quyết xung đột

sắc tộc, tôn giáo trên lãnh thổ của mình. Điều này hoàn toàn đúng đối với

trường hợp của Indonesia, quốc gia có đa dân tộc, tôn giáo và cũng là nước có

70

nhiều cuộc xung đột sắc tộc, tôn giáo hàng đầu khu vực. Chính sách dân tộc,

tôn giáo của Cộng hòa Indonesia được điều chỉnh qua từng giai đoạn lịch sử

và mang những nội dung cơ bản sau:

Công nhận quyền tự do theo và thực hành tôn giáo, tín ngưỡng

Sau khi giành được độc lập (ngày 17/8/1945), Indonesia đã công nhận

quyền tự do theo và thực hành tôn giáo, tín ngưỡng. Hiến pháp năm 1945 quy

định về cương lĩnh ý thức hệ Pancasila. Đến năm 1975, Pancasila được đưa

vào giáo dục trong nhà trường. Từ năm 1978 trở đi, Pancasila trở thành kim

chỉ nam cho toàn bộ xã hội. Pancasila bao gồm năm nguyên tắc liên hệ chặt

chẽ, được xem là cơ sở triết lý quản lý nhà nước nhằm thống nhất quốc gia:

Một là, niềm tin duy nhất vào một Chúa trời; hai là, sự nhân đạo văn minh và

công bằng; ba là, sự thống nhất của Indonesia; bốn là, nền dân chủ được

hướng dẫn bởi trí tuệ nội tại và sự đồng thuận qua tranh luận giữa những

người đại diện; năm là, công bằng xã hội cho toàn thể người dân [124]. Thực

chất Pancasila là một thuyết đa nguyên tôn giáo và đã được tất cả các nhóm

tộc người hưởng ứng tham gia, vì dưới hình thức Pacansila, tự do tôn giáo

được đảm bảo, không có một tôn giáo nào, dù là Hồi giáo, có quyền và vị trí

độc tôn. Như vậy, Pancasila đã đảm bảo cho một nước rất đa dạng về văn hóa,

tộc người, tôn giáo và có những hệ tư tưởng khác biệt như Indonesia đảm bảo

sự ổn định tương đối để phát triển.

Chính quyền của Tổng thống Suharto và các chính quyền sau đó, mặc

dù có những cải cách chính trị theo hướng dân chủ, nhưng về cơ bản đều sử

dụng tư tưởng Pancasila để giải thích cho tự do tôn giáo và đa nguyên tôn

giáo, đồng thời biện minh cho việc công nhận 6 tôn giáo chính (gồm Hồi

giáo, Tin lành, Thiên chúa giáo, Ấn Độ giáo, Phật giáo, Khổng giáo) và tôn

trọng các niềm tin tôn giáo khác. Tòa án Hiến pháp Indonesia năm 2010 trong

một văn bản pháp luật đã đề cập tư tưởng Pancasila như nguyên tắc cơ bản

(không thể sửa đổi) khác với các quy phạm nền tảng vốn có thể thay đổi. Tòa

71

tin rằng Niềm tin vào một Chúa trời (nguyên tắc thứ nhất) tạo ra các nguyên

tắc khác (nhân văn, thống nhất Indonesia, công bằng xã hội, và dân chủ). Vì

vậy, nó cũng có nghĩa là Hiến pháp sẽ không khuyến khích bất kỳ biểu hiện

nào kích động người dân không tin vào Chúa trời hay bôi nhọ tôn giáo. Tôn

giáo ở Indonesia có hai chức năng cho đức tin cá nhân và bản sắc cộng đồng.

Trong trường hợp đó, luật chống Phỉ báng không chỉ để bảo vệ đức tin cá

nhân mà còn để bảo vệ văn hóa và đức tin cộng đồng. Tòa cũng giải thích

rằng khái niệm pháp quyền ở Indonesia lấy cảm hứng từ Pancasila, có nghĩa

là nó phải xem xét giá trị tôn giáo để phân định luật tốt hay xấu, và phân định

các bộ luật là hợp hiến hay vi hiến [85].

Một vấn đề tôn giáo khác mà Chính phủ Indonesia phải đối mặt đó là tự

do tôn giáo của các tôn giáo phi chính thức và những người vô thần. Chính

phủ Indonesia công nhận chỉ có 6 tôn giáo chính thức đã gây khó khăn cho

các nhóm tôn giáo thiểu số trong việc có được sự công nhận về tôn giáo/tín

ngưỡng trong chứng minh thư và các giấy tờ công dân khác. Điều này dẫn

đến việc Nhà nước Indonesia bị coi là thiên vị đối với đa số, nhất là khi cung

cấp và phục vụ lợi ích đa số so với việc bảo vệ nhóm thiểu số; đồng thời gặp

lúng túng khi đối phó với phản ứng của đa số chống lại các nhóm thiểu số. Do

đó, năm 2006, pháp luật Indonesia đã công nhận các niềm tin tôn giáo phi

chính thống và cho phép đăng ký với chính quyền như các tín ngưỡng, và tín

đồ có thể nhận được một số giấy tờ công dân.

Thực hiện hiến pháp thế tục, đạo Hồi không là quốc giáo

Là quốc gia có đông người theo đạo Hồi nhất trên thế giới hiện nay

nhưng Indonesia có hiến pháp thế tục, đạo Hồi không được coi là quốc giáo ở

đảo quốc này. Đa số các nhóm Hồi giáo ôn hòa đều phản đối việc áp dụng bộ

luật Sharia hà khắc của Hồi giáo ở Indonesia. Nhưng cũng có không ít tổ chức

cực đoan đã đi ngược lại mong muốn này và họ dùng bạo lực để bày tỏ quan

điểm. Do đó, việc giải quyết nạn xung đột tôn giáo là một trong những thách

72

thức đối với bất kỳ tổng thống nào lên cầm quyền ở Indonesia kể từ khi quốc

gia này tuyên bố độc lập.

Indonesia là một quốc gia xảy ra nhiều vụ xung đột dân tộc, tôn giáo, ly

khai dân tộc nhất ở Đông Nam Á. Chính sách đàn áp của chính quyền

Indonesia từ trước tới nay là kiên quyết, thẳng tay và nhất quán. Song, Chính

phủ Indonesia vẫn không ngăn ngừa được các hiện tượng ly khai dân tộc. Rõ

ràng, việc sử dụng bạo lực không giải quyết được vấn đề xung đột dân tộc,

tôn giáo, vấn đề ly khai dân tộc ở Indonesia. Chính phủ Indonesia phải đối

mặt với nhiều thách thức về sự thống nhất quốc gia dân tộc. Một trong những

ưu tiên là Chính phủ quốc gia phải giải quyết tốt mối quan hệ giữa các tôn

giáo, xây dựng các mối tương quan liên tôn giáo hài hòa. Chính phủ

Indonesia thừa nhận sự đa dạng về văn hóa, tôn giáo, tôn trọng quyền tự do

tín ngưỡng, tôn giáo của người dân. Đồng thời, Chính phủ Indonesia cần thực

hiện các biện pháp phát triển kinh tế, giáo dục, xóa đói giảm nghèo để có thể

hạn chế được phần nào các cuộc xung đột sắc tộc, tôn giáo thông qua giải

quyết sự bất bình đẳng và bất công.

Tiểu kết chương 2

Ở thời kỳ sau Chiến tranh Lạnh, các cuộc xung đột tôn giáo, sắc tộc

vẫn tiếp tục diễn ra ở Indonesia, đe dọa tới độc lập dân tộc và toàn vẹn lãnh

thổ của quốc gia này.

Để có thể hiểu được vấn đề xung đột tôn giáo, sắc tộc nói chung, xung

đột tôn giáo, sắc tộc ở Indonesia nói riêng, phần đầu của chương đề cấp tới

một số khái niệm cơ bản bao gồm các khái niệm về dân tộc, tộc người, tôn

giáo, xung đột tôn giáo, xung đột sắc tộc và giải quyết các xung đột trên nhìn

từ yêu cầu của sự bảo vệ và củng cố độc lập trong bối cảnh hội nhập quốc tế.

Những khái niệm này tạo thành khung phân tích và sẽ được sử dụng trong

suốt quá trình tiếp cận và giải quyết các nhiệm vụ nghiên cứu của luận án.

73

Phần còn lại của chương đề cập tới các nhân tố cả khách quan và chủ

quan dẫn tới sự bùng phát xung đột tôn giáo sắc tộc ở Indonesia trong gần 3

thập niên của thời kỳ sau Chiến tranh Lạnh.

Về phương diện khách quan: Đó là những biến đổi trong môi trường

chính trị, kinh tế và văn hóa trên thế giới và trong khu vực ở thời kỳ sau

Chiến tranh lạnh; là vị trí địa lý, địa - chiến lược cố hữu của Indonesia.

Về chủ quan, các đặc điểm chính trị, văn hóa và tôn giáo của Indonesia

là những nhân tố quan trọng tác động tới các xung đột sắc tộc, và tôn giáo ở

nước này trong thời kỳ sau Chiến tranh Lạnh. Những hệ lụy từ sự cai trị độc

tài, chủ nghĩa tư bản thân hữu và sự phân phối không công bằng các lợi ích

phát triển giữa các vùng, miền, các cộng đồng dân tộc đã tạo cơ hội cho sự gia

tăng xung đột sắc tộc, tôn giáo ở Indonesia từ năm 1991 tới nay.

74

Chương 3

THỰC TRẠNG GIẢI QUYẾT XUNG ĐỘT SẮC TỘC, TÔN GIÁO

NHẰM BẢO VỆ VÀ CỦNG CỐ ĐỘC LẬP DÂN TỘC

CỦA CỘNG HÒA INDONESIA GIAI ĐOẠN 1991-2015

3.1. TÌNH HÌNH XUNG ĐỘT SẮC TỘC, TÔN GIÁO Ở INDONESIA

TRONG GIAI ĐOẠN 1991-2015

3.1.1. Bức tranh chung về xung đột sắc tộc, tôn giáo ở Indonesia từ

sau 1991

Có thể nói, xung đột sắc tộc, tôn giáo trên thế giới hiện nay là vấn đề

hết sức phức tạp, đặc biệt giai đoạn từ sau Chiến tranh Lạnh, vấn đề càng trở

nên đậm nét. Trong đời sống xã hội, dân tộc và tôn giáo là những vấn đề

tự thân vốn đã chứa đựng những phức tạp. Trong giai đoạn 1991 - 2015, ở

nhiều quốc gia, khu vực trên thế giới đã xảy ra những cuộc xung đột, trong đó

có một số cuộc xung đột liên quan đến dân tộc, tôn giáo hoặc xen lẫn cả dân

tộc và tôn giáo. Đó là xung đột giữa những cộng đồng Hồi giáo theo dòng

Sunni và Shiite hay các dòng khác nhau ở trong một quốc gia như: ở Syria,

Iraq; giữa một số quốc gia Ả-rập, Hồi giáo với nhau và với Israel (Do Thái

giáo); giữa Hồi giáo và Thiên chúa giáo ở Philippines, ở Indonesia; giữa Hồi

giáo và Phật giáo ở miền Nam Thái Lan, ở Myanmar,.. Xung đột sắc tộc và

xung đột tôn giáo ngày càng hòa quyện, xen lẫn với nhau, làm cho tính chất

của những xung đột sắc tộc, tôn giáo càng trở nên phức tạp, không dễ dàng

nhìn nhận một cách đúng đắn và giải quyết thấu đáo vấn đề.

Sau khi giành được độc lập, đất nước Indonesia đứng trước nhiều vấn

đề gay gắt về mâu thuẫn, xung đột dân tộc, sắc tộc, tôn giáo, điển hình là

xung đột tại Đông Timor, Aceh, Irian Jaya, Maluku, xung đột giữa người Hoa

và người bản địa… Các cuộc xung đột sắc tộc, tôn giáo ở Indonesia rất đa

dạng và được thúc đẩy bởi những động cơ khác nhau. Cuộc xung đột ở Tây

75

Kalimantan vốn đã đôi chút im ắng, một lần nữa lại bùng nổ vào năm 1999

với hàng trăm người bị giết. Trước đó vào năm 1997, đã xảy ra sự giết chóc

trên phạm vi lớn và chủ yếu là giữa người Dayaks và người Mã lai bản xứ

chống lại nhóm di cư Madurese. Hiện tượng người bản địa chống lại người di

cư là khá phổ biến trong các cuộc xung đột cộng đồng ở Indonesia. Trong khi

đó, cuộc xung đột đang diễn ra ở Poso trên đảo Sulawesi, làm chết 300 người

lại là cuộc chiến giữa người Hồi giáo và người Thiên chúa giáo [200].

Xung đột giữa cộng đồng người Hoa và người Indonesia bản địa diễn ra

không ít lần trong lịch sử hậu độc lập của Indonesia nói chung và từ sau khi

Chiến tranh lạnh kết thúc nói riêng. Sự thù ghét cộng đồng người Hoa vốn âm ỉ

trong xã hội Indonesia, thường bùng phát dữ dội khi Indonesia gặp khó khăn về

kinh tế hoặc khi quan hệ Indonesia - Trung Quốc nảy sinh những vấn đề phức

tạp, đặc biệt là trong lĩnh vực chính trị - an ninh. Theo Sidney Jones, Giám đốc

Điều hành, Phòng Châu Á của Cơ quan theo dõi nhân quyền, "Người sắc tộc

Hoa tất nhiên là mục tiêu vĩnh viễn ở bất kỳ sự bất ổn nào bùng phát" [200].

Những cuộc xung đột dân tộc, tôn giáo diễn ra trong giai đoạn từ năm

1991 đến năm 2015 đã tạo cơ hội cho sự phát triển chủ nghĩa và tư tưởng ly

khai, đòi thành lập nhà nước riêng ảnh hưởng tiêu cực đến sự thống nhất quốc

gia dân tộc của Indonesia. Các phong trào ly khai bùng phát trên các đảo như

Aceh, Đông Timor, Kalimantan, Irian Jaya, Maluku... và tồn tại dai dẳng đã

gây ra nhiều khó khăn cho Chính phủ Indonesia trong việc ổn định tình hình

và thống nhất đất nước. Nhận thức được nguy cơ đó, chính phủ Indonesia đã

rất nỗ lực để có thể dập tắt các cuộc xung đột trên. Tuy nhiên, kết quả thu

được không như mong đợi. Sáng 28/3/2008, hàng trăm người biểu tình đã đốt

phá thánh đường Al Furqon, thuộc một giáo phái đạo Hồi mang tên

Ahmadiyah, vốn bị nhiều người Indonesia coi là dị giáo. Vụ đốt phá xảy ra

sau các cuộc đàm phán nhằm dỡ bỏ tấm biển hiệu mang tên giáo phái này bất

thành. Khoảng 300 người biểu tình vừa thiêu cháy thánh đường trên vừa hét

76

lớn "giết, giết". Các thành viên của giáo phái trên đã phải bỏ chạy khỏi hiện

trường vụ đốt phá nằm ở thành phố Sukabumi, tỉnh Tây Java và ẩn náu tại nhà

bạn bè và người thân gần đó. Theo ước tính, giáo phái Ahmadiyah hiện có

khoảng 200.000 tín đồ tại Indonesia [18].

Những hoạt động khủng bố như thế cũng diễn ra ở nhiều địa phương

của Indonesia. Luận án tiếp tục đề cập tới một số cuộc xung đột sắc tộc, tôn

giáo có tính chất điển hình ở Indonesia.

3.1.2. Một số cuộc xung đột sắc tộc, tôn giáo điển hình

Xung đột dân tộc ở Indonesia xảy ra ở nhiều nơi như Aceh, Papua,

Maluku, Kalimantan. Nhưng xung đột dân tộc mang tính chất li khai dân tộc

rõ ràng nhất là ở Đông Timor, Tây Papua và Aceh.

3.1.2.1. Xung đột dân tộc dẫn đến ly khai tại Đông Timor

Xung đột dân tộc dẫn đến ly khai tại Đông Timor là một điển hình cho

mâu thuẫn và xung đột dân tộc ở Indonesia trong giai đoạn 1991-2015. Với 15.410km2, Đông Timor (Timor-Leste) là một quốc gia bé nhỏ nằm trong

khu vực Đông Nam Á, bao gồm nửa phía đông của đảo Timor, một số đảo lân

cận và một phần nhỏ phía tây bắc của Tây Timor thuộc đất nước Indonesia.

Đông Timor là một thuộc địa cũ của Bồ Đào Nha và tự tuyên bố độc lập từ

Bồ Đào Nha vào ngày 28 tháng 11 năm 1975.

Tháng 12/1975, chưa đầy một tháng sau khi Đông Timor đơn phương

tuyên bố độc lập, Indonesia đã xâm chiếm vùng lãnh thổ Đông Timor bằng

đường không và đường thủy. Rất nhiều cư dân bản xứ Đông Timor bị giết hại,

nhiều làng mạc bị thiêu trụi. Một số người dân Đông Timor đã phải chạy trốn

vào vùng núi ở miền trung hòn đảo và tổ chức phong trào kháng chiến chống

lại Indonesia. Sự quản lý hà khắc của chính quyền trung ương làm cho đời

sống người dân bản xứ vô cùng cực khổ, các vụ tội phạm tra tấn, cưỡng hiếp

và giết người trở nên thường xuyên đối với người Maubere (dân bản xứ ở

Đông Timor) [27].

77

Bất chấp một số nghị quyết của Liên hợp quốc về quyền tự quyết của

người dân Timor (Liên hợp quốc chưa bao giờ công nhận việc Indonesia sáp

nhập vùng đất này vào lãnh thổ của mình), cộng đồng quốc tế vẫn làm ngơ

trước cuộc đấu tranh của cư dân Đông Timor. Sau ngày 12/11/1991, khi hơn

250 thanh niên Đông Timor bị giết trong cuộc thảm sát tại một nghĩa trang ở

thủ phủ Dili, thế giới mới bắt đầu lên án hành động của Indonesia [27]. Tuy

nhiên, những lời lẽ đó chỉ mang tính hình thức vì nhiều quốc gia lại bán vũ

khí cho Jakarta. Đây là mầm mống cho sự xung đột dân tộc ở Indonesia dẫn

đến sự ly khai tại Đông Timor trong thời gian qua.

Trước và sau năm 2000, tình hình chính trị ở Indonesia diễn ra rất phức

tạp. Sau khi chế độ cực quyền của Tổng thống Indonesia Suharto sụp đổ,

Tổng thống Wahid lên cầm quyền đã không kiểm soát được xung đột dân tộc

diễn ra ở nhiều nơi. Đông Timor tuyên bố độc lập. Năm 1996, giải Nobel hòa

bình được trao cho giám mục Dominica-Belo - nhân vật ủng hộ cư dân

Maubere ở Dili, cùng Jose Ramos Horta, chính trị gia và nhà hoạt động đại

diện cho lãnh đạo kháng chiến Xanana Gusmao. Sự kiện này làm cho thế giới

quan tâm hơn đến cuộc đấu tranh giành độc lập của người dân Đông Timor và

đem lại hy vọng mới cho cuộc chiến của người dân trên đảo.

Năm 1998, Tổng thống Indonesia Suharto từ chức. Người kế nhiệm

ông là Habibie đã thông báo Jakarta có thể cho vùng lãnh thổ hưởng một quy

chế đặc biệt. Tháng 01/1999, chính phủ Indonesia ra tuyên bố sẽ để Đông

Timor được độc lập nếu người dân ở đây không muốn chế độ tự trị. Từ tháng

02 đến tháng 4/1999, lãnh đạo Phong trào Kháng chiến Timor Xanana

Gusmao bị chuyển từ nhà tù sang chế độ quản thúc tại nhà riêng. Trước tình

trạng lực lượng phản đối độc lập ngày càng tiến hành nhiều hoạt động bạo

lực, ông X.Gusmao kêu gọi các dân quân nối lại cuộc đấu tranh.

Ngày 30/8/1999 đánh một dấu mốc trong lịch sử Đông Timor: 98,6%

[27] cử tri thực hiện quyền dân chủ của mình tại cuộc trưng cầu dân ý do Liên

78

hợp quốc tổ chức. Chính phủ Indonesia coi đây là biểu hiện của "tự do và

bình đẳng". Mặc dù bị các dân quân ủng hộ Indonesia đe dọa suốt 8 tháng,

nhưng dân chúng vẫn xếp thành hàng dài tại các điểm bỏ phiếu, dưới cái nắng

chói chang, sau khi đi bộ nhiều km tới điểm bỏ phiếu gần nhất. Lực lượng gìn

giữ hòa bình Australia tới Đông Timor và dần lập lại trật tự. Nhiều dân quân

được Jakarta hậu thuẫn chạy sang Tây Timor để khỏi bị bắt. Sáng 4/9, Ian

Martin, Chủ tịch Phái đoàn Trợ giúp Đông Timor của Liên Hợp Quốc

(UNAMET), công bố kết quả: 21,5% cử tri chấp nhận quyền tự trị đặc biệt dưới

sự lãnh đạo của Indonesia, trong khi có tới 78,5% lựa chọn độc lập cho vùng

lãnh thổ. Quốc hội Indonesia công nhận kết quả cuộc trưng cầu dân ý [27].

Tháng 10/1999, chính trị gia và nhà hoạt động đại diện cho lãnh đạo

kháng chiến Xanana Gusmao được trả tự do. Chính quyền chuyển tiếp Đông

Timor do Liên hợp quốc bảo trợ được thành lập. Tháng 12/1999, các nhà tại

trợ quốc tế tham dự hội nghị tại Tokyo nhất trí cung cấp 250 triệu USD viện

trợ để tái thiết Đông Timor. Tháng 8/2001, người dân Đông Timor đi bỏ

phiếu bầu Quốc hội với 88 thành viên. Cơ quan này đã ban hành Hiến pháp

của nước Đông Timor độc lập. Mặt trận Cách mạng vì một Đông Timor độc

lập (Fretilin) giành thắng lợi với 55 ghế. Tháng 02 năm 2002, Quốc hội thông

qua dự thảo hiến pháp thiết lập chính phủ mới, chính thức tách ra khỏi

Indonesia. Chính quyền Indonesia và Đông Timor đã ký hai thỏa thuận nhằm

mục đích làm dịu quan hệ song phương. Ngày 20 tháng 5 năm 2002, Đông

Timor đã được quốc tế công nhận là một quốc gia độc lập với tên gọi chính

thức là Cộng hòa Dân chủ Đông Timor.

3.1.2.2. Xung đột tại Aceh

Aceh là tỉnh cực Tây của Indonesia, chiếm khoảng 3% tổng diện tích

đất nước. Phần lớn Aceh nằm trong vùng Bắc đảo Sumatra. Dân số khoảng

trên 4 triệu người. Hầu hết người Aceh thuộc nhóm dân tộc Aceh. Vị trí địa lý

của Aceh khiến cho tỉnh này còn có tên gọi "cửa ngõ phía Tây" của Indonesia.

79

Từ xưa, mọi con đường buôn bán Đông - Tây đều đi qua vùng đất này. Người

Aceh đã từng tham gia buôn bán với người Ấn Độ, người Trung Hoa, người

Arập rồi và người châu Âu. Vào thế kỷ XIII người Aceh đã tiếp nhận theo

Hồi giáo. Thời kỳ hưng thịnh, từ thế kỷ XIV đến thế kỷ XVII, Vương quốc

Hồi giáo Aceh có ảnh hưởng lớn tới cả vùng. Nông nghiệp là cơ sở kinh tế

chính của người Aceh. Họ trồng lúa ở cả ruộng nước và ruộng khô. Ngoài cây

trồng là lúa người ta còn trồng các loại cây mía, dừa, ớt, thuốc lá... Ở ven biển

có các làng chài chuyên sống bằng nghề đánh cá. Chăn nuôi ít được chú ý.

Các nghề thủ công phát triển, đặc biệt là nghề rèn, dệt, chạm khắc đá, đan lát,

làm gốm và nghề đóng thuyền.

Aceh tham gia vào Cộng hòa Indonesia với xuất phát điểm khác với

nhiều khu vực khác. Người dân ở đây đã hình thành một ý thức cộng đồng

duy nhất thông qua quá khứ huy hoàng của mình cùng bản sắc Islam mạnh

mẽ của họ. Tuy vậy, họ vẫn triệt để tôn trọng sự thống nhất dân tộc Indonesia.

Trong khi đó, chính quyền trung ương lại tăng cường kiểm soát các hoạt động

chính trị của Aceh, bắt giữ các phần tử chống đối.

Năm 1976, một nhóm li khai có vũ trang gọi là Phong trào Aceh tự do

(Gerakan Aceh Merdeka - GAM) ra đời. Phong trào Aceh tự do tuyên bố

Aceh là một tỉnh độc lập và kêu gọi dân chúng Aceh chống lại đường lối

chính sách của chính phủ. Những phần tử cực đoan của GAM đã phát động

nhiều cuộc xung đột làm cho tình hình Aceh mất ổn định, rối loạn. Mục tiêu

chủ yếu của Phong trào giải phóng Aceh là độc lập, tách hẳn khỏi Indonesia.

Sự kết thúc của Trật tự mới cùng việc Tổng thống Suharto từ chức vào

năm 1998, đã tác động trực tiếp đến tình hình ở Aceh. Trong khi hầu hết

người Indonesia hưởng ứng những cải cách dân chủ do Tổng thống

Bacharuddin Jusuf Habibie tiến hành, thì người Aceh lại biểu tình đòi rút

quân lính Cộng hòa ra khỏi khu vực của họ và yêu cầu thanh tra về sự ngược

đãi mà quân đội đã đem đến cho họ trong suốt nhiều thập kỷ. Không chỉ có

80

vậy, người dân Aceh còn yêu cầu một cuộc trưng cầu dân ý về vị thế tương lai

của Aceh. Để tạo thêm áp lực, GAM phục hồi lại các hoạt động đấu tranh du

kích của mình với sự tổ chức tốt hơn trước nhiều. Một khủng hoảng bạo lực

mới lại bắt đầu, khi các lực lượng vũ trang chính phủ chạm trán với sự leo

thang của GAM và các phong trào dân sự cũng bị đàn áp vì chính phủ nghi

ngờ họ có quan hệ chặt chẽ với GAM. Giữa lúc bạo lực gia tăng, Tổng thống

Habibie đã đến thăm Aceh vào tháng 3 năm 1999 với những lời hứa đặc biệt.

Ông xin lỗi vì sự vi phạm nhân quyền của quân đội trong những năm tồn tại

Khu căn cứ quân sự (DOM) của quân đội và hứa tái định cư cho các gia đình

bị thiệt hại do tác động của DOM, trợ cấp cho việc chôn cất các nạn nhân, và

giải phóng tù chính trị. Ông cũng tiến hành thiết lập một bưu điện tự do ở

Sabang và hỗ trợ xây dựng 85 trường Islam Madrasah, một tuyến tàu hỏa mới

và mở rộng sân bay... [51]. Tuy nhiên, sau đó Tổng thống Habibie đã không

thực hiện được lời hứu về trưng cầu dân ý và cũng không mở cuộc điều tra về

sự lạm dụng nhân quyền của quân đội, vì ông ta đặt sự sống còn chính trị của

mình vào tay quân đội và không muốn "mạnh tay" với họ. Uy tín của Habibie

và chính phủ của ông ta đã suy sụp hơn khi bạo lực ngày càng tăng, mặc dù

đã có sự dàn xếp về ngừng bạo lực.

Nhiệm kì của Tổng thống Abdurrahman Wahid (1999-2001) đã gây ra

không ít sự tranh cãi về vấn đề Aceh. Với tư cách là một người theo phái dân

chủ, Tổng thống Abdurrahman Wahid đã lựa chọn giải pháp hòa bình dựa

trên cơ sở các nguyên tắc dân chủ, đàm phán và đối thoại cho vấn đề Aceh.

Nhưng khi Indonesia trao trả độc lập cho Đông Timor, ở Aceh xuất

hiện ngày càng nhiều phong trào đòi ly khai. Để giải quyết các mâu thuẩn

giữa những người Aceh và chính quyền Indonesia, ngày 12/5/2000, tại

Giơnever, đại diện chính phủ và đại diện của Tổ chức GAM đã ký kết một

thỏa thuận tạm ngừng chiến. Sau đó, vào ngày 18/6/2000, hai bên tiếp tục ký

thỏa thuận về quy định có liên quan đến việc ngừng hoạt động quân sự, theo

81

đó các lực lượng an ninh của Indonesia phải rút quân khỏi Aceh. Tuy nhiên,

tình trạng xung đột, bạo lực ở Aceh trong suốt nhiệm kỳ của Tổng thống

Wahid vẫn không được giải quyết dứt điểm mà ngược lại, bạo lực càng gia

tăng và cuối cùng ông đã kết thúc nhiệm kỳ tổng thống của mình bằng cách

lựa chọn biện pháp quân sự mạnh. Các cuộc biểu tình chính trị hoặc yêu sách

về trưng cầu dân ý đã không còn được bao dung như trước và phong trào dân

sự ở Aceh đã mờ dần trước sự leo thang của xung đột bạo lực giữa GAM và

các lực lượng vũ trang Indonesia.

Nhiệm kỳ của Tổng thống Megawati Sukarnoputri (2001-2004). Sau khi

lên nắm quyền, bà Megawati đã tiếp tục củng cố ý tưởng của cha mình là cố

Tổng thống Sukarno về một mô hình nhà nước dân tộc chủ nghĩa và quốc gia

thống nhất. Tiếp nhận những chính sách của người tiền nhiệm đối với vấn đề li

khai, bà Megawati đã khẳng định biện pháp quân sự đối với GAM trong Sắc

lệnh của tổng thống số 7 (2001). Trên thực tế sau khi được thành lập, Chính phủ

của bà Megawati đã đưa ra giải pháp tổng hợp về vấn đề Aceh, trong đó có chiến

dịch quân sự tổng lực để tiêu diệt GAM và các lực lượng li khai. Tuy nhiên, khi

các biện pháp quân sự không khuất phục được ý chí li khai của các nhà lãnh đạo

GAM, Chính phủ Indonesia phải tiến hành các cuộc đàm phán nhằm giải quyết

cuộc khủng hoảng Aceh bằng giải pháp chính trị (xem mục 3.2.2).

3.1.2.3. Xung đột tại Irian Jaya

Bước sang thế kỷ XXI tình hình Indonesia lại tiếp tục có những bất ổn

mới: Đông Timor mới tách ra khỏi đất nước Indonesia, tình hình Aceh còn

những diễn biến phức tạp, thì tại Irian Jaya lại bùng nổ xung đột, khuấy lên

phong trào đòi độc lập. Irian Jaya còn gọi là Tây Papua. Papua là phần lãnh

thổ cực đông của Indonesia, giáp với nước láng giềng Papua New Guinea.

Đảo Papua còn mang nhiều tên khác như Irian Jaya, Tây Irian Jaya, Tây

Papua, New Guinea. Tây Papua (tiếng Indonesia: Papua Barat) là tỉnh ít dân

nhất của Indonesia; nằm ở phía cực Tây của đảo New Guinea bao gồm bán

82

đảo Kepala Burung (tiếng Anh gọi là bán đảo Đầu chim (Bird's Head) và một vài đảo nhỏ xung quanh; nơi đây có diện tích 421.981 km2, chiếm khoảng

1/15 toàn bộ lãnh thổ Indonesia, hơn 3 triệu dân; tỉnh lỵ là thành phố Giaiapua

[67, tr.32]. Tây Papua được tách ra từ tỉnh Papua vào tháng 02 năm 2003. Lúc

đầu, được đặt tên là Irian Jaya Barat, nhưng từ tháng 02/2007 thì mang tên gọi

như hiện nay là Tây Papua. Tháng 11 năm 2004, một tòa án ở Indonesia đã

tuyên bố việc tách Tây Papua khỏi Papua là vi phạm luật về quyền tự chủ của

Papua, nhưng vì Tây Papua đã được tách ra, do đó để nó thành tỉnh riêng như

hiện trạng.

Ngược lại thời gian, năm 1962, Hà Lan trao trả độc lập cho đảo Papua,

đến năm 1963, Papua sáp nhập vào Indonesia. Từ năm 1970 đến đầu những

năm 1990, Chính phủ Indonesia được sự giúp đỡ của Ngân hàng Thế giới và

các tổ chức kinh tế tài chính khác đẩy mạnh chương trình nhập cư và khai

thác nguồn tài nguyên ở tỉnh này. Thật ra, chủ trương di dân tới Tây Papua và

những vùng dân cư thưa thớt khác ở Indonesia là cần thiết và hợp lý, xét cả từ

góc độ kinh tế lẫn an ninh chính trị. Với diện tích chỉ bằng 7 % diện tích đất

đai của cả nước, nhưng có tới 60 % dân số cả nước tập trung ở các đảo Java,

Madura, Bali và Lombok, việc di dân đã được thực hiện ở Indonesia từ 1905.

Tuy nhiên, phải tới năm 1950, di dân mới trở thành đặc điểm cơ bản trong

chiến lược phát triển của Indonesia. Mục tiêu của chính sách di dân là: cải

thiện mức sống; thúc đẩy sự phát triển vùng; phân phối đồng đều dân cư hơn;

sự phát triển đồng đều trên khắp Indonesia; khai thác và sử dụng tài nguyên

thiên nhiên và lao động; bảo vệ sự toàn vẹn, thống nhất lãnh thổ và tăng

cường phòng thủ giữ gìn an ninh quốc gia [161, tr.69]. Thực hiện chủ trương

trên, hơn 200.000 người từ Java đã tới Irian Jaya. Hơn 50.000 người tự

nguyện từ các vùng khác cũng chuyển về đây làm việc. Khoảng 10.000km2 rừng ở vùng đất thấp đã được thu hồi để lập nên những khu định

cư và giao cho những người dân mới đến khai hoang vùng này.

83

Xét từ các mục tiêu trên, chương trình di dân đã đạt kết quả, đặc biệt là

giảm bớt việc tập trung quá mức dân di cư đến Java. Tuy nhiên, việc di dân

cũng là nguyên nhân chính dẫn tới xung đột sắc tộc, tôn giáo Tây Papua.

Phong trào ly khai đã xuất hiện và tồn tại ở khu vực suốt hơn 40 năm qua.

Trong thời gian này, thỉnh thoảng xung đột vẫn xảy ra giữa quân đội chính

phủ với các nhóm ly khai. Tại Papua cũng có nhóm du kích nổi loạn mang tên

Phong trào Papua tự do (OPM) nhưng qui mô nhỏ hơn Phong trào Aceh tự do

(GAM). Phong trào Papua tự do xuất hiện từ những năm 1960 nhưng phải đến

những năm 1980 mới phát động cuộc chiến đấu vì nền độc lập của họ. Bạo

lực leo thang khi dưới thời Tổng thống Megawati Sukarnoputri, quân đội

được lệnh chính phủ tổ chức các chiến dịch "truy quét" các phần tử OPM.

Phong trào đấu tranh của tổ chức ly khai dân tộc Papua tự do lên tới

đỉnh cao sau khi lực lượng ly khai Đông Timor giành được thắng lợi trong

cuộc trưng cầu dân ý, thành lập nước Cộng hòa Timor Leste. Điểm nổi bật và

đáng chú ý nhất là hình thức đấu tranh tuyên truyền, ngoại giao của Phong

trào Papua tự do. Những nhà lãnh đạo chính trị, tiêu biểu là ông Moses Werror -

Chủ tịch Hội đồng cách mạng Phong trào Papua tự do, người đã tìm mọi cách

tuyên truyền để tranh thủ sự chú ý của cộng đồng quốc tế. Ông đã kiên trì gửi

đơn thỉnh cầu tới nguyên thủ các nước ở Nam Thái Bình Dương, Diễn đàn hợp

tác Nam Thái Bình Dương, gửi đơn tới Phong trào không liên kết, Hiệp hội các

quốc gia Đông Nam Á và Liên hợp quốc để phản đối "chính sách thực dân" của

chính quyền Indonesia và đề nghị công nhận nền độc lập của dân tộc Tây Papua.

Tuy nhiên, những hoạt động ngoại giao, tuyên truyền của OPM không thu được

nhiều kết quả. Nhìn chung các tổ chức và các quốc gia Đông Nam Á đều công

nhận chủ quyền thống nhất của Indonesia. Nếu vấn đề li khai ở Tây Papua xảy ra

nó sẽ tác động xấu không chỉ tới tình hình chính trị Indonesia mà còn tác động

tới sự ổn định của cả khu vực Đông Nam Á và châu Á. Đó là điều mà tất cả các

cường quốc và các quốc gia đều không muốn [67, tr.37].

84

Tháng 6 năm 2000, như được tiếp sức bởi việc Đông Timor đã tiến

thêm một bước trên con đường độc lập, Phong trào Papua tự do (OPM) triệu

tập Đại hội dân tộc Papua, thành lập Hội đồng đoàn chủ tịch Tây Papua. Hội

đồng này làm việc như một cơ quan đầu não thống nhất lãnh đạo phong trào

ly khai đòi độc lập. Thành phần của Hội đồng đoàn chủ tịch bao gồm nhiều

nhà lãnh đạo đại diện cho các tầng lớp, các giới, các ngành, các tổ chức như

chính trị, tôn giáo, trí thức, công nhân, nông dân… Tháng 10 năm 2000, xung

đột bạo lực xảy ra nhiều nơi ở Tây Papua, đáng chú ý nhất là ở thành phố

Wamena. Lá cờ của OPM được treo ở trung tâm thành phố. Các lực lượng an

ninh của Indonesia đã bao vây phong tỏa và bắt giữ 5 thành viên đoàn chủ

tịch, trong đó có Chủ tịch đoàn chủ tịch Theys Elay. Tất cả những người bị

bắt đều bị kết tội vi phạm luật hình sự vì đã gieo rắc tư tưởng ly khai làm ảnh

hưởng đến chủ quyền lãnh thổ và an ninh quốc gia. Sự việc này dẫn tới cuộc

xung đột đẫm máu giữa người dân bản địa và những người không phải là dân

bản địa. Hàng trăm người bị chết và bị thương. Hàng ngàn người phải di dời

khỏi thành phố vì lo sợ bị trả thù [67, tr.37]. Bạo lực leo thang, khi Phó Tổng

thống Megawati Sukarnoputri lên nắm quyền (7/2001) thay Tổng thống

Wahid, quân đội được lệnh chính phủ tổ chức các chiến dịch "truy quét" các

phần tử OPM. Quan điểm của Tổng thống Megawati về vấn đề Tây Papua

(Irian Jaya) rất rõ ràng. Theo bà Megawati, nếu OPM không chấp nhận quy

chế tự trị như Đạo luật về quy chế tự trị đặc biệt cho tỉnh Papua (The Law on

special autonomy for Papua province) và nếu OPM không chấm dứt yêu cầu

đòi độc lập thì quân đội Indonesia sẽ giải quyết vấn đề này. Đa số thành viên

của OPM đồng ý thỏa hiệp. Chính quyền của Tổng thống Megawati đã thông

qua Đạo luật về quy chế tự trị đặc biệt cho tỉnh Tây Papua vào tháng giêng

năm 2002. Toàn văn Đạo luật của nước Cộng hòa Indonesia về quy chế tự trị

đặc biệt cho tỉnh Papua bao gồm 23 chương, 76 điều. Theo Đạo luật này,

Chính phủ Indonesia dành cho tỉnh Papua quyền tự trị chưa từng có trước đó,

85

ngoại trừ lĩnh vực quân sự, ngoại giao, tiền tệ. Về mặt chính trị, Papua có một

nghị viện, cơ quan lập pháp của tỉnh bao gồm các giới, các ngành, các đảng

phái tộc người. Chính quyền tỉnh là cơ quan hành pháp được bầu ra và thực thi

quyền lực theo quy định. Cờ của tỉnh, biểu tượng truyền thống văn hóa của

người Papua được phép treo bên cạnh lá cờ của quốc gia (thấp hơn một chút). Về

mặt kinh tế, tỉnh có toàn quyền đề ra và thực hiện các kế hoạch phát triển, đầu tư,

kể cả việc ký kết với các đối tác nước ngoài. 80% lợi nhuận thu được từ các

nguồn dành cho Papua, 20% để lại cho chính quyền trung ương [67, tr.38].

Tuy nhiên, một số thành viên Hội đồng đoàn chủ tịch và lãnh đạo

Phong trào Papua tự do vẫn phản đối thỏa hiệp tự trị. Họ tiếp tục đấu tranh

đòi độc lập hoàn toàn cho Tây Papua. Luật tự trị mà chính quyền Indonesia áp

dụng cho tỉnh Tây Papua, dù vẫn chưa hoàn thiện và chưa được áp dụng đầy

đủ, nhưng sau khi triển khai (2002), những vụ bạo lực cũng như vi phạm nhân

quyền đã giảm bớt, từ khi Tổng thống Susilo Bambang Yudhoyono lên cầm

quyền (2004) đến nay [104].

3.1.2.4. Xung đột tôn giáo tại Maluku

Indonesia có khoảng hơn 250 triệu dân, trong đó có 87% dân số theo

Hồi giáo và 8% theo Thiên chúa giáo. Xung đột căng thẳng giữa người

Thiên chúa giáo với người Hồi giáo đã kéo dài ở nhiều nơi. Xung đột giữa

người Thiên chúa giáo và người Hồi giáo ở quần đảo Maluku với dân số

khoảng 3 triệu người, trong đó người theo đạo Hồi chiếm 55%, theo đạo

Thiên chúa giáo chiếm 44% [9]. Xuất phát từ tâm lý bị phân biệt đối xử nên

đã hình thành những bất đồng giữa hai cộng đồng tôn giáo này và những

mâu thuẫn âm ỉ trở thành xung đột lớn. Những người Hồi giáo đã thành lập

các đơn vị bán quân sự được trang bị vũ khí sẵn sàng tiến hành cuộc "Thánh

chiến" để tự bảo vệ mình.

Bất chấp sự cố gắng của chính phủ Indonesia và các tổ chức quốc tế,

những xung đột trở nên hết sức ác liệt khi người Hồi giáo kêu gọi Thánh

86

chiến chống lại người Thiên chúa giáo và những người Thiên chúa giáo cũng

kêu gọi đấu tranh để tách khỏi khu vực này. Các cuộc xung đột diễn ra thường

xuyên trong hai năm 1999 và 2000, tại đây đã làm cho khoảng 4000 người

thiệt mạng, hàng nghìn ngôi nhà bị thiêu hủy kể cả nhà thờ Thiên chúa giáo

và Hồi giáo khiến hàng trăm nghìn người phải chạy lánh nạn. Đỉnh cao của

các cuộc xung đột đã xảy ra vào ngày 18/6/2000 khi những người Hồi giáo gây

ra vụ thảm sát làng Duma trên đảo Humahera, giết hơn 1000 người theo Thiên

chúa giáo [90, tr.62]. Cuộc tàn sát đã biến khu định cư của người Thiên chúa

giáo thành những đống đổ nát và khiến hàng trăm người lâm vào cảnh khốn đốn.

Cuộc xung đột cũng đã gây ra làn sóng di cư khoảng 500.000 người chủ yếu là

người Thiên chúa sang các đảo lân cận như Xêram và Buru [58, tr.46-48].

3.1.2.5. Xung đột giữa nhóm Hồi giáo Laskar Jihad và những người

Thiên chúa giáo ở Sulawesi

Sulawesi là một tỉnh giáp với Maluku và Papua. Ở Sulawesi, người

Thiên chúa giáo chiếm khoảng 60% dân số. Ngày 28/11/2001, ở đây đã diễn

ra cuộc thảm sát của những người thuộc phong trào Laskar Jihad đối với

những người Thiên chúa giáo. Hàng trăm người Hồi giáo đã đeo mặt nạ đen

dùng súng, lựu đạn, bom xăng tấn công vào các khu định cư của người Thiên

chúa giáo. Năm 2002, bạo hành tại Maluku liên tục nổ ra, bất chấp hiệp ước

hòa bình đã được hai cộng đồng Hồi giáo và Thiên Chúa giáo thống nhất; Phó

tổng thống Indonesia Hamzah Haz đã kêu gọi hai cộng đồng tôn giáo hòa

giải; quy trách nhiệm cho các phần tử quá khích, gọi đó là "những kẻ gây nên

sự mất ổn định cho bán đảo" [96]. Ngày 11/9/2010, một vụ xung đột tôn giáo

nữa lại diễn ra tại Maluku, đã có ít nhất ba người thiệt mạng và 103 người bị

thương. Những người Hồi giáo đã triệu tập hàng ngàn người và thành lập các

đơn vị bán quân sự được trang bị vũ khí sẵn sàng làm cuộc "thánh chiến" để

bảo vệ người Hồi giáo. Các đơn vị này có tên là "Laskar Jihad" hoặc "Al

Fatah" hay còn gọi là mặt trận thanh niên Hồi giáo". Trong hơn một thập niên

87

xung đột giữa người Hồi giáo và Thiên chúa giáo tại đây đã có 9.000 người

thiệt mạng. Để ngăn cuộc xung đột có khả năng bùng phát lớn, làm rối loạn

tình hình đất nước, chính quyền Indonesia đã ban bố tình trạng khẩn cấp tại

Maluku. Sắc lệnh này cho phép quân đội và Hải quân Indonesia truy quét các

lực lượng phiến loạn. Liên Hợp quốc cũng đã đưa các lực lượng cứu trợ để

giúp Maluku giải quyết hậu quả cuộc xung đột thì tình hình mới bớt căng

thẳng [129].

Nguyên nhân của sự xung đột này có nguồn gốc mang tính lịch sử, từ

những mâu thuẫn tôn giáo, sắc tộc do bị chi phối bởi chính trị và những lợi

ích kinh tế. Hầu hết dân Indonesia là người Hồi giáo, tuy nhiên, tại Maluku,

gồm khoảng 2 triệu người, số người Hồi giáo và Thiên chúa giáo lại ngang

bằng nhau. Dưới thời đô hộ của thực dân Hà Lan và Bồ Đào Nha, người

Thiên chúa giáo sống ở đây chiếm ưu thế và được ưu đãi hơn người Hồi giáo,

nên người Hồi giáo cảm thấy bị thua thiệt. Sau khi Indonesia giành được độc

lập năm 1949, do chương trình nhập cư người Hồi giáo tới đây của chính

quyền Indonesia, nên đến thập kỷ 70 của thế kỷ XX thì người Hồi giáo đã

chiếm ưu thế hơn so với người Thiên chúa giáo và người Thiên chúa giáo

cảm thấy bị đối xử lạnh nhạt. Xuất phát từ tâm lý bị phân biệt đối xử đã hình

thành những bất đồng ngấm ngầm giữa hai tôn giáo này và những mâu thuẫn

âm ỉ, trở thành xung đột lớn.

3.2. NHỮNG NỖ LỰC CỦA CHÍNH PHỦ INDONESIA NHẰM BẢO VỆ

VÀ CỦNG CỐ ĐỘC LẬP DÂN TỘC

3.2.1. Tác động của xung đột sắc tộc, tôn giáo tới độc lập dân tộc,

an ninh và phát triển của Indonesia

3.2.1.1. Xung đột sắc tộc, tôn giáo tạo ra mối đe dọa đối với độc lập

dân tộc, an ninh quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ của Indonesia

Sự đa dạng dân tộc, tôn giáo, văn hoá và sự chênh lệch về trình độ phát

triển kinh tế - xã hội là cơ sở tiềm ẩn, rất dễ dẫn đến các xung đột khác nhau

88

liên quan đến sắc tộc và tôn giáo. Dù là cuộc xung đột tôn giáo, sắc tộc hay

đan xen giữa chúng đều có thể tạo ra nguy cơ đối với độc lập dân tộc, an ninh

quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ của bất kỳ quốc gia nào. Bởi vì, xung đột tôn

giáo sắc tộc, nếu vượt quá sự kiểm soát của nhà nước, sẽ gây nên tình trạng

bất ổn định chính trị, tạo cơ hội cho sự can thiệp từ bên ngoài vào công việc

nội bộ của một quốc gia. Việc Đông Timor tách ra khỏi Indonesia là một ví

dụ điển hình về sự can thiệp đó. Nếu IMF, mà đằng sau là Mỹ, không buộc

Indonesia phải chấp nhận "đơn thuốc đắng" của họ. chính quyền Indonesia do

Tổng thống Suharto lãnh đạo, có thể đã không sụp đổ. Mặc dù dưới thời cầm

quyền của Suharto, tình trạng tham nhũng, "chủ nghĩa tư bản thân hữu"

(crony capitalism) đã lũng đoạn nền chính trị và kinh tế ở nước này, nhưng

Suharto và chính phủ của ông đã có những đóng góp không thể phủ nhận,

không chỉ đối với Indonesia mà còn với cả ASEAN và xa hơn. Thật vậy,

trong giai đoạn cầm quyền của Suharto, chiến lược phát triển kinh tế của

Indonesia đã được điều chỉnh theo hướng tự do hóa và hội nhập quốc tế.

Vai trò can thiệp của nhà nước vào quá trình phát triển kinh tế được giảm

xuống, mở đường cho kinh tế tư nhân phát triển. Cơ cấu kinh tế vốn phụ

thuộc chủ yếu vào xuất khẩu dầu mỏ đã được đa dạng hóa, nhờ đó kinh tế

Indonesia đã có những bước phát triển ngoạn mục trong những năm cuối

thập niên 80 và đầu thập niên 90 của thế kỷ XX. Các cuộc xung đột sắc tộc,

tôn giáo từng xảy ra trước và ngay cả khi Indonesia vừa giành được độc lập

đã được kiểm soát. Nhờ đó, Indonesia duy trì được sự ổn định về chính trị.

Sự ổn định này, cùng với những ưu đãi rộng rãi dành cho các nhà đầu tư

nước ngoài, đã giúp Indonesia trở thành một trong những thị trường đầu tư

hấp dẫn nhất châu Á.

Cuộc khủng hoảng tài chính- tiền tệ 1997-1998 đã buộc Tổng thống

Suharto phải từ chức. Ngay sau sự sụp đổ quyền lực của ông, các xung đột

sắc tộc, tôn giáo ỏ Indonesia đã nhanh chóng bùng phát trở lại. Các lực lượng

89

chính trị đối lập ở Đông Timor đã nhanh chóng lợi dụng thời cơ rối loạn

chính trị ở Jakarta và sự bận bịu của chính phủ trong việc đối phó với làn

sóng khởi loạn nổ ra trên nhiều vũng lãnh thổ của đât nước và sức ép quốc tế,

chủ yếu từ các nước phương Tây, để buộc chính phủ mới ở Indonesia chấp

nhận tiến hành trưng cầu dân ý. Kết quả là Đông Timor tách khỏi Indonesia.

Việc Đông Timor trở thành quốc gia độc lập đã tạo xung lực chính trị

cho phong trào li khai ở các địa phương khác, đặc biệt là Aceh và Tây Papua.

Nếu chính phủ Indonesia không thể đặt lại các cuộc xung đột này vào vòng

kiểm soát, nền độc lập dân tộc và toàn vẹn lãnh thổ của Indonesia sẽ tiếp tục

bị đe dọa.

Từ thực tế chính trị ở Indonesia giai đoạn 1991-2015, có thể thấy xung

đột sắc tộc, tôn giáo là rất nguy hại đối với độc lập dân tộc, an ninh quốc gia

và sự toàn vẹn lãnh thổ của Indonesia.

3.2.1.2. Xung đột sắc tộc, tôn giáo làm cho kinh tế mất ổn định, đời

sống người dân khó khăn, suy giảm nguồn lực bảo vệ và củng cố độc lập

dân tộc

Những năm cuối thập niên 90 của thế kỷ XX tại Indonesia, sự sụp đổ

của "Trật tự mới" cùng với những tác động từ cuộc khủng hoảng tài chính -

tiền tệ (1997-1998) trong khu vực đã làm chao đảo nền kinh tế nước này.

Trong khi chính phủ nỗ lực hết sức để sớm thoát khỏi khủng hoảng và lấy lại

đà phát triển cho nền kinh tế của đất nước, thì sự bùng phát trở lại những cuộc

xung đột sắc tộc, tôn giáo đã làm cho tình hình chính trị ở Indonesia càng trở

nên bất ổn định. Không chỉ các nhà đầu tư nước ngoài rút vốn ra khỏi

Indonesia, mà cả các doanh nghiệp của người Hoa cũng chuyển vốn sang các

nền kinh tế khác. Các nguồn lực ít ỏi còn lại sau khủng hoảng lại phải dành

thêm cho việc mua sắm vũ khí để đáp ứng nhu cầu cho các chiến dịch trấn áp

các phong trào nổi dậy trong nước. Theo Viện nghiên cứu hoà bình ở

Stockholm (Thụy Điển), chi phí quốc phòng của Indonesia tăng 68 % từ 2,2

90

tỷ đô la lên 3,7 tỷ đô la chưa bao gồm vũ khí mua theo tin dụng xuất khẩu từ

2000/2006 [127]. Đương nhiên, việc gia tăng chi tiêu quân sự không chỉ để

trấn áp các phong trào nổi dậy mà còn nhằm gia tăng sức đề kháng quốc

phòng của Indonesia trước những mối đe dọa có thể đến từ bên ngoài. Nhưng

nếu không phải ứng phó với các lực lượng nổi dậy có vũ trang, Indonesia

chắn chắn sẽ không phải dành nhiều tiền như vậy để mua sắm vũ khí, trang

thiết bị quân sự.

3.2.2. Các giải pháp khắc phục xung đột sắc tộc, tôn giáo, của chính

phủ Indonesia

Vấn đề xung đột sắc tộc, tôn giáo không phải chỉ là xung đột những lợi

ích trước mắt giữa các cộng đồng dân cư thuộc các tôn giáo khác nhau mà có

gốc rễ sâu sa từ những khiếm khuyết trong chiến lược phát triển của Indonesia

và cả từ tác động của các hoạt động ly khai khủng bố quốc tế và trong khu vực,

nên đối sách Indonesia trong vấn đề này bao gồm cả các giải pháp trước mắt

nhằm dập tắt các cuộc xung đột và các giải pháp lâu dài để giải quyết các

nguyên nhân gốc rễ của xung đột sắc tộc, tôn giáo ở quốc gia này.

3.2.2.1. Về các giải pháp trước mắt

Giải pháp trước tiên và thường được chính phủ Indonesia sử dụng khi

xung đột sắc tộc, tôn giáo nổ ra ở các địa phương nào đó là trấn áp. Bởi vì,

các cuộc xung đột đó đã gây nên tình trạng bất ổn định chính trị, ảnh hưởng

xấu tới môi trường đầu tư mà chính phủ đang cố gắng tạo dựng. Không những

thế, nếu không được dập tắt, các xung đột sắc tộc, tôn giáo có thể lây lan sang

các khu vực khác của đất nước và trở thành xung đột ở cấp độ quốc gia. Một

khả năng lây lan như vậy rất dễ xảy ra do những mâu thuẫn âm ỉ về lợi ích

giữa các cộng đồng dân cư thuộc các sắc tộc, các tôn giáo khác nhau.

Để trấn áp các cuộc xung đột sắc tộc, chính phủ Indonesia đã phải sử

dụng đến sức mạnh quân đội khi xung đột mới bùng phát hoặc khi những

cuộc đàm phán với các thủ lĩnh của các phòng trào ly khai không mang lại kết

91

quả mong muốn. Giải pháp này được chính phủ Indonesia thực hiện một cách

nhất quán khi ứng phó với các cuộc xung đột tôn giáo, sắc tộc. Tuy nhiên,

trong trường hợp Đông Timor, giải pháp này đã không thành công.

Khi đán áp không thể mang lại kết quả như trông đợi, chính phủ

Indonesia sẽ sử dụng thêm một biện pháp khác. Đó là kết hợp giữa đàn áp và

đàm phán với các lực lượng ly khai. Giải pháp này đã được thực hiện một

cách điển hình trong trường hợp Aceh.

Cũng như đối với các cuộc xung đột sắc tộc, tôn giáo khác, chính phủ

Indonesia đã sử dụng quân đội để trấn áp phong trào nổi dậy ở Aceh. Song

song với biện pháp trên, vào tháng 7 năm 2001, Hội đồng dân biểu: Cơ quan

lập pháp của Indonesia (DPR) đã thông qua Luật tự trị đặc biệt của Aceh

(Luật số 18, 2001). Luật có hiệu lực từ tháng 1 năm 2002 [130].

Luật tự trị đặc biệt cho Aceh đã trao quy chế tự trị mở rộng cho tỉnh

này. Về hình thức, Aceh được công nhận là khu vực đặc biệt và đổi tên thành

Nanggroe Aceh Darussalam (NAD). Chính quyền NAD có toàn quyền trong

tất cả các lĩnh vực liên quan đến quy chế tự trị đặc biệt của mình, trong khi

các miền còn lại của Indonesia vẫn duy trì quy chế tỉnh. Quyền lập pháp đã

được trao cho Hội đồng dân biểu địa phương (DPRD - NAD), bao gồm quyền

thanh tra chính phủ và yêu cầu trách nhiệm giải trình. Thống đốc và những

người đứng đầu các huyện, xã được nhân dân bầu trực tiếp. Điều này cũng

khác với quy định cho các khu vực còn lại của Indonesia. Luật tự trị cũng qui

định chi tiết sự phân bổ tài chính và tiền tệ cho chính quyền của NAD. Ngoài

nguồn thu nhập thường xuyên từ thuế và tài chính địa phương, chính quyền

NAD giữ lại hầu hết các phần thuế và phần phân bổ chỉ tiêu được chia (90%

thuế đối với các công trình xây dựng và tài sản) cũng như 80% thu nhập từ

nghề cá và khai thác mỏ, 30% từ khí đốt. Chính quyền NAD giữ quyền qui

định chủ yếu tỉ lệ phân bổ cho các huyện. Nguồn thu sau thuế, chính quyền

NAD sẽ giữ lại 55% thu nhập từ khai thác dầu và 40% từ khai thác khí đốt

92

trong thời hạn 8 năm tiếp theo. Sau thời hạn này, tỉ lệ thu nhập dồn về cho

chính quyền NAD sẽ giảm tới 35% đối với dầu và 20% đối với khí. Điều này

đã làm tăng thu nhập cho Aceh rất nhiều [131].

Dù vậy, GAM vẫn theo đuổi mục tiêu đòi độc lập cho Aceh. Chính phủ

Indonesia và GAM đã tiến hành một số cuộc đàm phán về qui chế NAP cho

Aceh, nhưng hai bên vẫn không đạt được thỏa thuận dứt khoát về vấn đề này.

Từ tháng 7 năm 2002, tình hình bạo lực ở Aceh lại gia tăng và chính phủ

Indonesia lại tăng cường lực lượng quân đội đến khu vực. Trước tình trạng

xung đột, bạo lực kéo dài ở Aceh, các nước Mỹ, Nhật Bản, Cộng đồng Châu

Âu (EU), Ngân hàng thế giới (WB) đã chủ động tổ chức Hội nghị Tokyo để

bàn về tái thiết Aceh và ép hai bên chính phủ Indonesia và GAM ký hiệp định

ngừng bắn. Ngày 9 tháng 12 năm 2002, một Hiệp định chấm dứt thù địch

(COHA) đã được ký giữa chính phủ Indonesia và GAM dưới sự giám sát của

tổ chức Trung gian hòa giải HDC Thụy Sỹ (Henry Dunant Centre). Theo

Hiệp định này, hai bên ngừng bắn chấm dứt thù địch; GAM ngừng chiến và

giải giáp vũ khí (trong vòng 10 tháng) có sự giám sát quốc tế; Chính phủ trao

quyền tự trị rộng rãi hơn cho Aceh, trong đó có việc Aceh được hưởng 70%

thu nhập từ các nguồn tài nguyên khai thác ở địa phương (như dầu khí, gỗ..);

sẽ tiến hành bầu cử Hội đồng dân biểu ở Aceh vào năm 2004 và sẽ rút phần

lớn quân đội khỏi Aceh [146, tr.78-79]. Điều đáng lưu ý là hiệp định này đã

không đề cập đến những vấn đề có tính nguyên tắc của hai bên là GAM phải

từ bỏ mục tiêu độc lập và chấp nhận quy chế tự trị đặc biệt cho Aceh. Đây là

điểm hạn chế lớn nhất của COHA và cũng là sự bất lợi lớn nhất của Indonesia

vì vấn đề Aceh đã bị quốc tế hóa, đồng thời GAM từ một tổ chức bất hợp

pháp chống lại chính phủ, thì nay đã được quốc tế công nhận, được ngồi đàm

phán ngang hàng với chính phủ.

Sau khi ký Hiệp định COHA, chính phủ Indonesia đã nghiêm túc thực

hiện qui chế tự trị đặc biệt cho người dân ở Aceh, tức là những qui chế về tôn

93

giáo, giáo dục và các vấn đề xã hội theo luật Hồi giáo, đồng thời tăng cường

các viện trợ nhân đạo cho người dân Aceh. Thực tế, tình hình an ninh, chính

trị đã tương đối ổn định trong thời gian đầu, xung đột giữa quân đội Chính

phủ và GAM đã giảm đáng kể. Nhưng trong khi Chính phủ Megawati cố gắng

tìm giải pháp hòa bình cho vấn đề Aceh thì GAM lại tranh thủ thời gian củng

cố lực lượng, tuyền mộ thêm binh lính và mua thêm vũ khí. Trước nguy cơ

Hiệp định COHA đổ vỡ, các nước tham gia hội nghị Tokyo đã tổ chức họp

khẩn cấp để tìm cách giảm căng thẳng tại Aceh. Mỹ và các nước Phương Tây

đề nghị Chính phủ Indonesia và GAM gặp nhau một lần nữa để cứu vãn tình

thế, song GAM đã không chịu chấp nhận những yêu cầu của chính phủ

Indonesia đưa ra. Những nỗ lực thương lượng để giải quyết vấn đề Aceh

bằng con đường hòa bình không thành, Tổng thống Megawati đã ký Sắc

lệnh số 28 - 2003, ban hành tình trạng thiết quân luật tại Aceh và tuyên bố

tiến hành chiến dịch tổng lực để tiêu diệt GAM, bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ

Indonesia. Đồng thời, thông qua con đường ngoại giao, chính phủ mở rộng

tuyên truyền ra quốc tế và đề nghị các nước trong cộng đồng ASEAN siết

chặt an ninh không để các phần tử của GAM trốn chạy ra nước ngoài. Ngoài

ra, chính phủ Indonesia còn đưa ra những bằng chứng về việc GAM có dính

líu đến các vụ khủng bổ tại Jakarta và Medan nhằm tranh thủ sự ủng hộ của

cộng đồng quốc tế.

Như vậy, sau những nỗ lực thương lượng cuối cùng để giải quyết vấn

đề Aceh bằng con đường hòa bình đã không đem lại kết quả. Chính phủ

Indonesia đã một lần nữa dùng biện pháp trừng trị quân sự để tiêu diệt lực

lượng ly khai GAM.

Thảm họa sóng thần khủng khiếp xảy ra ngày 26 tháng 12 năm 2004 đã

tàn phá nặng nề Aceh. Trước sự tổn hại to lớn về người và vật chất của Aceh,

nhiều nước trên thế giới đã gửi quân đội, nhân viên tình nguyện cùng hàng

cứu trợ đến giúp Aceh khắc phục hậu quả của sóng thần. Tình thế đó đã buộc

94

Chính phủ Indonesia và GAM phải lựa chọn và cân nhắc kỹ lưỡng lập trường

của mình trong việc giải quyết xung đột để giảm phần đau khổ cho dân. Một

dàn xếp chính trị cho cuộc xung đột vũ trang ly khai ở Aceh đã được thực

hiện ở cấp cao từ năm 2005. Đoàn đại biểu của Chính phủ Indonesia do Bộ

trưởng tư pháp và nhân quyền Hamid Awahudin dẫn đầu. Đại diện cho GAM

là các thủ lĩnh của lực lượng này sống lưu vong ở Thụy Điển, Australia và

Malaysia, trong đó có "thủ tướng" tự phong của họ là Malik Mahmud. Sau 7

tháng đàm phán với 5 cuộc đối thoại không chính thức ở Helsinki (Phần Lan),

hai bên đã dần thu hẹp những bất đồng để đi đến những quyết định phù hợp

với lợi ích của nhau. Ngày 17 tháng 7 năm 2005, Tổng thống của Indonesia là

Susilo Bambang Yudhoyono đã tuyên bố sẽ ân xá cho các thành viên của

GAM nếu tổ chức này hạ vũ khí, không chống đối chính quyền. Chính phủ

Indonesia đã trao cho Aceh quyền tự trị nhất định, quân đội và cảnh sát, an

ninh; Chính phủ Indonesia rút quân hoàn toàn khỏi Aceh. Đồng thời, Quốc

hội Indonesia cũng ban hành luật cho phép nhóm ly khai GAM được đăng ký

thành lập đảng chính trị và tham gia tranh cử trong các cuộc bầu cử hội đồng

lập pháp địa phương, từ đó bầu ra bộ máy quản lý điều hành Aceh, không còn

sự can thiệp trực tiếp từ chính quyền Jakarta. Đổi lại, GAM phải thực hiện

giải giáp quân sự, từ bỏ việc theo đuổi mục tiêu ly khai, từ bỏ việc tách khỏi

đất nước Indonesia. Dù các quan hệ giữa các tôn giáo và các nhóm sắc tộc

phần lớn hài hòa, nhưng những vấn đề bất đồng và bạo lực tại một số khu vực

vẫn thỉnh thoảng xảy ra. Tổ chức GAM cũng tuyên bố chấp nhận từ bỏ yêu

cầu về quyền độc lập hoàn toàn cho Aceh, chấp nhận Aceh là một phần lãnh

thổ của Indonesia và bày tỏ hài lòng vì Chính phủ Indonesia chấp nhận các

nguyên tắc dân chủ cơ bản.

Như vậy là bằng một dàn xếp chính trị thông qua đối thoại, gần như tất

cả các yêu cầu của người dân Aceh đều được Chính phủ Indonesia đáp ứng và

quan trọng hơn cả là hòa bình đã lập lại trên mảnh đất của họ. Mặc dù tiến

95

trình hòa bình của Aceh là một thành công, nhưng bạo lực vẫn diễn ra tại các

cuộc bầu cử ở Aceh sau năm 2005, (từ năm 2005 đến 2015, ở Aceh ghi nhận

có 465 vụ bạo lực liên quan đến bầu cử dẫn đến ít nhất 13 người chết) [46].

Hầu hết các vụ bạo lực chính trị đều được thực hiện bởi các đảng phái do

những bên nổi dậy đòi ly khai cũ thành lập, điều này cho thấy các phong trào

vũ trang đang phải đối mặt với nhiều khó khăn khi tham gia vào vũ đài chính

trị và chỉ ra những vấn đề còn tồn tại cần được giải quyết.

Trong quá trình giải quyết các cuộc xung đột khác, chính phủ Indonesia

cũng sử dụng kết hợp vừa trấn áp vừa đàm phán với các thủ lĩnh phong trào li

khai như vậy.

3.2.2.2. Về các giải pháp lâu dài

Đặt được các cuộc cuộc xung đột vào vòng kiểm soát, ổn định lại được

tình hình chính trị trong nước đã là một thành công lớn của chính phủ

Indonesia trong ứng phó với xung đột sắc tộc, tôn giáo. Tuy nhiên, thành

công này chưa thể đảm bảo rằng các cuộc xung đột đó không bùng phát trở lại

hoặc không xuất hiện các cuộc xung đột mới. Với nhận thức như vậy, bên

cạnh việc thực hiện các giải pháp tức thời, chính phủ Indonesia còn xúc tiến

các hoạt động khác nhằm giải quyết những nguyên nhân gốc rễ của xung đột.

Trong lĩnh vực chính trị, cũng như các nước ASEAN khác, Indonesia

đã tiến hành một số cải cách. Những cải cách đó nhằm tới các mục tiêu: một

là, ngăn ngừa sự trở lại của chế độ độc tài quân sự. Hai là, thay đổi hệ thống

bầu cử. Ba là, trao quyền cho địa phương.

Để đạt được mục tiêu ngăn ngừa sự trở lại của chế độ độc tài, toàn trị,

vốn là một trong những nguyên nhân gây bất bình cho mọi tầng lớp xã hội ở

Indonesia, đặc biệt là các sắc tộc, các cộng đồng phi Java. Vào năm 1999,

Indonesia đã tiến hành sửa đổi Hiến pháp 1945, Hiến pháp sửa đổi quy định

bầu cử trực tiếp Tổng thống và Phó Tổng thống, trao quyền cho người dân

trực tiếp bầu ra và kiểm soát người lãnh đạo đất nước chứ không phải là đại

96

cử tri thay mặt họ bỏ phiếu tại Đại hội Hội đồng Hiệp thương nhân dân

(MPR). Hơn nữa, Tổng thống và Phó Tổng thống chỉ được làm nhiều nhất 2

nhiệm kỳ, mỗi nhiệm kỳ 5 năm. Hiến pháp cũng quy định những biện pháp

kiểm soát và cân bằng quyền lực. Cơ quan quyền lực cao nhất là Hội đồng

Hiệp thương Nhân dân (MPR) với 695 thành viên. MPR bao gồm toàn bộ 550

thành viên Hội đồng Dân biểu (DPR), 130 đại biểu của địa phương do 26 hội

đồng tỉnh bầu lên và 65 đại biểu được các nhóm xã hội lựa chọn [165, tr.69].

Hệ thống bầu cử cũng được thay đổi. Dưới thời Trật tự mới, chính phủ

đã thực hiện mọi sự kiểm soát chặt chẽ đối với các chiến dịch bầu cử. Nhờ đó,

đảng cầm quyền Golkar của Suharto, luôn giành thắng lợi trong các cuộc bầu

cử 5 năm một lần với đa số từ 62,8 % vào năm 1971 lên 74,5 % vào năm

1997. Bầu cử được tiến hành thông qua vận động bầu cử và cả bạo lực. Cuộc

bầu cử ngày 7/6/1997 là cuộc bầu cử tồi tệ nhất với 300 cái chết [165, tr.70].

Vào tháng 11 năm 1998, MPR quyết định rằng một cuộc bầu cử tự do

và công bằng phải được tiến hành vào tháng 5 và 6 /1999. Để xúc tiến bầu cử,

Tổng thống Habibie đã cử một nhóm gồm 7 người để viết lại luật bầu cử.

Trên cơ sở những khuyến nghị của nhóm này, cuộc bầu cử đã được đặt dưới

sự lãnh đạo của Ủy ban bầu cử quốc gia (KPU) bao gồm đại diện của 48 đảng

và 5 đại diện chính phủ. Sau khi Tổng thống Habibie thông qua Luật về đảng

phái chính trị, 150 đảng đã xuất hiện, nhưng chỉ 48 đảng được phép tham gia.

Việc quyết định những đảng nào được tham gia tranh cử thuộc quyền của

Nhóm 7 người do Nurcholish Madjid, một nhà khoa học Hồi giáo lãnh đạo.

Các đảng được chọn dựa trên năng lực thiết lập được chi nhánh ở 50% các

huyện của ít nhất 9 tỉnh. Quy định này nhằm loại bỏ các đảng chỉ đặt cơ sở

trên một hòn đảo hoặc một sắc tộc. Ngoài ra, luật còn đòi hỏi các đảng phải

thừa nhận Pancasila. Mỗi đảng trong số 48 đảng sẽ được phân phối quỹ công

trị giá 150 triệu Ringgits (17.000 đô la). Indonesia được chia thành 27 tỉnh,

nhưng việc phân phối ghế trong nghị viện lại đặt trên cơ sở số dân. Luật bầu

97

cử quy định rằng, mỗi huyện phải có tối thiểu một ghế. Trong cuộc bầu cử

1999, 27 tỉnh của Indonesia có 327 huyện. Số 135 ghế còn lại được KPU

phân phối trên cơ sở dân cư cho các tỉnh có mật độ dân số cao. Mỗi tỉnh như

vậy được thêm một ghế nữa để đảm bảo công bằng hơn [165, tr.71].

Trong cuộc bầu cử, số ghế của một đảng giành được ở Quốc hội do số

phiếu bầu ở cấp tỉnh quyết định chứ không phải cấp quốc gia. Về mặt lý

thuyết và phù hợp với luật bầu cử, ai được phiếu cao nhất sẽ được xem xét để

trở thành đại diện của huyện trong DPR. Những đảng không giành đủ trên 2%

phiếu bầu thì không đủ tư cách tham gia vòng tiếp theo. Tuy nhiên, những

người không đủ tư cách có thể lập đảng mới để tiếp tục tham gia.

Song song với cải cách hệ thống bầu cử, việc xoá bỏ tập trung hoá

quyền lực được coi là một lĩnh vực trọng tâm của Reformasi (cải cách). Ngay

sau tổng tuyển cử, tháng 8/1999, các đạo luật xoá bỏ tập trung hoá được Quốc

hội thông qua và bắt đầu có hiệu lực từ ngày 1/1/2001. Luật số 22/1999 về

quản trị địa phương, trao quyền chính trị và kinh tế cho địa phương. Luật số

25/1999 về sự cân bằng tài khoá quy định hệ thống quan hệ tài chính giữa

trung ương và địa phương và những công thức mới để phân chia thu nhập. Theo

các luật này, chính quyền địa phương được tự chủ hoàn toàn đối với các lĩnh

vực: giáo dục, y tế, môi trường, lao động, công việc công và quản lý tài nguyên

thiên nhiên. Hội đồng dân cử địa phương có quyền bầu và miễn nhiệm những

người đứng đầu chính quyền ở cấp huyện, và thị trưởng ở cấp thành phố, quyết

định ngân sách và tổ chức hành chính. Cấp tỉnh chỉ giữ vai trò người trung gian,

dàn xếp những khúc mắc giữa các quận, huyện, thúc đẩy sự phát triển liên huyện

và làm đại diện cho chính quyền trung ương tại địa phương.

Về kinh tế, các khu vực được hưởng phần lớn hơn nhiều so với trước

đây đối với thu nhập trong địa phận. Chính quyền tỉnh có thể đưa ra giá cả,

nghĩa vụ mới, trong khi huyện và thành phố được phép đặt ra cả thuế lẫn

nghĩa vụ. Tuy nhiên, chính quyền địa phương trong vòng 15 ngày kể từ khi

98

thông qua, phải trình mức thuế và nghĩa vụ mới để trung ương xem xét theo

thể thức. Chính quyền trung ương có quyền bãi bỏ bất kỳ thuế hay thù lao

nào, khi thấy không hợp lý.

Có thể thấy rằng, việc ban hành các đạo luật xoá bỏ tập trung hoá đã

chấm dứt chế độ độc quyền của nhà nước do giới quan liêu nắm giữ. Người

dân đã được có tiếng nói và được lắng nghe hơn. Ngoài ra, nhân dân còn tham

gia vào tiên trình dân chủ hoá thông qua các cơ chế mới, như Nhóm Hành

động xã hội của công dân, Hội đồng Dân thường không phe phái (Non-

partisan popular Council), Hội nghị Thảo luận, Hiệp hội Xóm làng và nhiều

diễn đàn nhân dân khác, trong đó phải kể đến Diễn đàn Thảo luận của Nhân

dân (Deliberative People’s Forum).

Như vậy, sự phát triển kinh tế có vai trò rất quan trọng đối với an ninh,

thịnh vượng của một quốc gia. Đối với Indonesia và các nước Đông Nam Á

khác, sự phồn vinh về kinh tế sẽ tạo điều kiện cho nhà nước thực hiện các chính

sách phát triển xã hội, thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các vùng miền, các

cộng đồng dân cư thuộc những tôn giáo và sắc tộc khác nhau. Do vậy, sau khi

Chiến tranh lạnh chấm dứt, Indonesia đã rất nỗ lực thúc đẩy phát triển kinh tế.

Để đạt được mục tiêu trên, Indonesia vẫn tiếp tục công cuộc cải cách

kinh tế vĩ mô, vốn đã bắt đầu từ thời kỳ hậu bùng nổ dầu mỏ. Hàng loạt chính

sách giảm điều tiết và giảm các thủ tục hành chính quan liêu được thực hiện

giúp cho nền kinh tế hiệu quả hơn và thích ứng hơn với cơ chế thị trường, thu

hút tư bản trong nước và nước ngoài. Xu thế tự do hoá kinh tế diễn ra mạnh

mẽ hơn. Chính phủ khuyến khích các hình thức liên doanh hoặc cổ phần với

sự tham gia của cả nhà nước, tư bản trong nước và tư bản nước ngoài. Riêng

trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng, chính phủ đã triển khai các biện pháp tự

do hoá hệ thống ngân hàng - tài chính, khuyến khích hoạt động của các ngân

hàng tư nhân cả trong và ngoài nước. Từ tháng 10 năm 1988, chính phủ công

bố "Giải pháp cả gói Tháng 10" (Pakto 88), trong đó chủ trương giảm sự điều

99

tiết của nhà nước đối với hệ thống ngân hàng, vốn trước đó hoàn toàn do nhà

nước nắm giữ. Với giải pháp này, hệ thống ngân hàng của Indonesia sẽ tự do

hơn, linh hoạt hơn, trong đó khu vực tư nhân sẽ có vai trò ngày càng lớn. Số

lượng ngân hàng tư nhân tăng nhanh, từ 236 chi nhánh ngân hàng thương mại

tư nhân năm 1988 tăng lên 5932 chi nhánh vào năm 1995 và từ 8757 chi nánh

ngân hàng phát triển nông thôn năm 1994 tăng lên 10598 chi nhánh vào năm

1996. Trong 2 năm 1995 - 1996, số ngân hàng nước ngoài và liên doanh đã

lên đến 78 ngân hàng [174, tr.203]. Đến giữa những năm 1990, ngân hàng tư

nhân đã nắm giữ khoảng 50% cổ phần. Riêng ở Jakarta, ngân hàng tư nhân từ

104 lên 213 trong 5 năm từ 1988 đến 1993 [181]. Như vậy, trong giai đoạn

này, tư nhân được phép hoạt động kinh doanh ở nhiều ngành kinh tế, kể cả

ngành tài chính, ngân hàng và các ngành công nghiệp then chốt như sắt thép,

hoá chất, v.v… giúp cho khu vực kinh tế tư nhân ngày càng lớn mạnh.

Sau hơn một thập niên tự do hoá, nền kinh tế Indonesia đã giảm phụ

thuộc vào xuất khẩu dầu mỏ và đa dạng hoá thông qua phát triển ngành chế

tạo (chủ yếu do tư nhân nắm giữ và kiểm soát). Tự do hoá và phát triển kinh

tế đã tạo thuận lợi cho chính phủ triển khai các chương trình phát triển nông

thôn và vùng sâu, vùng xa của đất nước.

Thật vậy, vào tháng 4/1994, chính phủ Indonesia đã phát động chương

trình giúp đỡ các hộ nông dân nghèo với số vốn đầu tư của nhà nước là 618

triệu USD. Chính phủ còn chọn ra 20633 làng kém phát triển về kinh tế, hỗ

trợ cho mỗi làng 20 triệu rupi tiền vốn để các hộ nghèo vay luân phiên nhằm

giúp phát triển sản xuất nông nghiệp và nghề thủ công ở các vùng nông thôn.

Cụ thể hàng năm, chính phủ ưu tiên dành 3% ngân sách cho phát triển nông

thôn, tập trung vào việc hiện đại hoá cơ sở hạ tầng, hệ thống thuỷ lợi, các

chương trình chăm sóc y tế, hạn chế tăng dân số, xóa đói giảm nghèo và phát

triển nông thôn bền vững [118, tr.41].

100

Tại Indonesia, có hàng trăm tộc người khác nhau sinh sống cùng với sự

đan xen các tôn giáo, tín ngưỡng. Từ những mâu thuẫn về quyền lợi đã dẫn

đến những cuộc xung đột xã hội mang màu sắc tôn giáo, sắc tộc diễn ra khá

phổ biến ở Indonesia. Trước thực trạng này, Chính quyền của Tổng thống

Suharto, giai đoạn (1991-1998) đã tìm nhiều biện pháp để khắc phục tình

hình. Ví dụ, như Chính phủ đã cho phép một số vùng đất như Aceh, Đông

Timor được hưởng qui chế tự trị; ưu tiên và đẩy mạnh đầu tư phát triển cơ sở

hạ tầng cho các vùng dân tộc thiểu số; thực hiện chính sách điều chỉnh dân cư

nhằm tăng cường đối thoại và giao lưu văn hoá, loại bỏ dần những cách biệt

về mặt văn hoá… Đối với bộ phận người Hoa sinh sống trên lãnh thổ

Indonesia, chính phủ cho phép có thể chuyển đổi thân phận bằng cách nhập

quốc tịch Indonesia. Về cơ bản, các chính phủ tiếp tục thực hiện chính sách

hoà nhập mang tính pháp lý đã có từ thời Tổng thống Sukarno.

Nhờ thực hiện các biện pháp trên, trong hơn nửa đầu thập kỷ 90 của thế

kỷ XX, đời sống của nhân dân Indonesia đã được cải thiện đáng kể. Tỷ lệ

nghèo tuyệt đối đã giảm từ khoảng 60% (xấp xỉ 70 triệu người) năm 1970

xuống 11% (khoảng 20 triệu) vào giữa những năm 1990. Phân bổ ngân sách

nhà nước cho các lĩnh vực phát triển xã hội cơ bản, như giáo dục, y tế và an

ninh xã hội cũng đạt tỷ lệ khá cao (Xem bảng 3.1).

Bảng 3.1: Chi tiêu xã hội (1995)

Đơn vị tính: %

Nước

Indonesia Malaysia Philíppines Singapore Thái Lan

Giáo dục

9,8

20,4

15,7

21,2

21,2

Y tế

2,8

5,6

3,8

6,8

7,6

An ninh xã hội

5,3

5,9

2,7

3,3

3,6

Cộng ba lĩnh vực

17,9 %

31,9%

22,2%

31,3%

32,4%

trên

Nguồn: [98, tr.13].

101

Nhìn vào bảng trên, có thể thấy Indonesia là một trong những nước

chú trọng dành chi tiêu cho xã hội. Dù chưa phải cao. nhưng chi tiêu cho xã

hội đã chiếm tới 17,9% GDP của nước này vào năm 1995. Nhờ đó, điều kiện

sống của nhân dân Indonesia ngày càng được cải thiện. Vào năm 1995, 63%

dân số của Indonesia đã được dùng nước sạch. Cùng với việc cải thiện điều

kiện vật chất, đời sống tinh thần của nhân dân Indonesia đã được cải thiện.

Vào năm 1993, cứ 1.000 người dân Indonesia, có 210 người có tivi [98].

Mức sống và điều kiện sống tốt hơn đã giúp Indonesia nâng cao tuổi

thọ cho công dân của mình. Theo số liệu về phát triển nguồn nhân lực của

UNDP vào năm 1997, thì tuổi thọ trung bình ở Indonesia là 64. Riêng năm

1995, chi tiêu cho dịch vụ xã hội chiếm 70.4% trong tổng ngân sách nhà

nước [98].

Tuy nhiên, cũng như các nước thành viên thuộc nhóm ASEAN 6, kinh

tế Indonesia phát triển không bền vững. Sự phụ thuộc nặng nề về vốn và thị

trường nước ngoài đã khiến nền kinh tế nước này nhanh chóng bị cuốn vào

cuộc khủng hoảng tài chính- tiền tệ châu Á 1997-1998. Khủng hoảng làm cho

kinh tế Indonesia giảm 10 % vào năm 1998, trong khi đó lạm phát lên tới 7%

- 10 %. Sau 1 năm bị khủng hoảng, GDP trên đầu người của Indonesia giảm

từ 1.000 USD /đầu người/một năm xuống còn 610 USD. Từ một nước phát

triển vào loại khá trong số các nước đang phát triển, Indonesia đã trở thành 1

trong số 20 nước nghèo nhất thế giới. Nợ nước ngoài của Indonesia đã lên tới

140 tỷ đô la, tương đương 88,7 % GDP. Dự trữ ngoại tệ chỉ còn tỷ đô la.

Cuộc khủng hoảng tài chính- tiền tệ đã làm trầm trọng hơn các vấn đề xã hội

vốn đã tồn tại ở Indonesia. Số người thất nghiệp đã lên tới khoảng 15,4 triệu

người, chiếm 17 % tổng số 90 triệu lao động ở nước này [98].

Sau khi lên cầm quyền, một mặt Tổng thống Habibie thực hiện nghiêm

túc những cam kết với IMF, mặt khác ông tiến hành cải tổ nội các để thu hút

nhân tài của đất nước vào chính phủ của ông. Nội các mới bao gồm những

102

nhà kinh tế giỏi của nội các cũ được giữ lại và đưa vào một số nhân vật mới.

ông Bambang Subianto, một chuyên viên nổi tiếng về sự chính trực, từng giữ

Trưởng ban cải tổ Ngân hàng, được bổ nhiệm làm Bộ trưởng Tài chính mới.

Tiếp đó, Tổng thống Habibie quyết định tách Ngân hàng Indonesia (BI) ra

khỏi cơ cấu nội các và trao thêm quyền tự chủ cho Ngân hàng nhằm xây dựng

BI thành một cơ quan hoạt động độc lập, linh hoạt. Khủng hoảng tài chính

kéo dài đã làm cho 80 triệu người Indonesia rơi vào tình trạng nghèo khổ,

trong đó 40 triệu người thiếu đói. Nhằm giúp nhân dân chống chọi với những

khó khăn đó, chính phủ Indonesia đã quyết định dành 8,5 ngàn tỷ rupiah để

trợ giá gạo và giá nhiên liệu. Ngoài ra, nhiều biện pháp khác cũng được tiến

hành để tăng thêm phúc lợi cho người lao động. Ngày 26/6/1998 Chính phủ

đã quyết định vay 1,5 tỷ đô la của Ngân hàng phát triển châu Á. Một phần

không nhỏ trong số tiền trên được dành cho các dự án xây dựng nhà ở (47

triệu USD), phát triển y tế, giáo dục (3 trịệu USD).

Nhờ những cố gắng của chính phủ và nhân dân Indonesia cộng với sự

giúp đỡ của cộng đồng quốc tế, tới giữa 1999, về cơ bản, Indonesia, đã khắc

phục được các hậu quả trước mắt của khủng hoảng. Với thắng lợi của cuộc

bầu cử tự do vào tháng 6/1999, tình hình chính trị ở nước này đã ổn định hơn

trước. Tình hình đó đã giúp nhân dân Indonesia yên ổn làm ăn. Trong năm

1999, sản lượng gạo đã xay xát của Indonesia lên tới 49,53 triệu tấn nhờ năng

suất lúa tăng. Các nhà đầu tư nước ngoài lại tiếp tục bỏ vốn vào nền kinh tế

Indonesia. Tính tới cuối tháng 5/1998, tổng số vốn đầu tư trực tiếp của nước

ngoài vào nước này đã lên tới 58,20 tỷ đô la. Các nhà kinh doanh gốc Hoa,

những người đã chuyển khoản 80 tỷ đô la tiền vốn ra khỏi Indonesia trong

thời gian bùng nổ chiến dịch bài Hoa trong những ngày giữa năm 1997, cũng

đã đưa vốn trở lại. Kinh tế Indonesia đang phục hồi dần. Trong hai quý đầu

1999, xuất khẩu của Indonesia tăng 20% so với cùng kỳ 1998. Do đời sống đã

ổn định trở lại, số người Indonesia ra nước ngoài du lịch ngày càng nhiều.

103

Theo cơ quan Du lịch Singapore, số người Indonesia đi du lịch tới Singapore

trong 6 tháng đầu 1999 lên tới 601.276 người, tăng 30% so với cùng kỳ 1998.

Để ngăn ngừa khả năng bùng phát trở lại của khủng hoảng tài chính-

tiền tệ và tiếp tục giải quyết những nguyên nhân gốc rễ của xung đột tôn giáo,

sắc tộc, từ khi bước vào thế kỷ 21, Indonesia đã điều chỉnh chiến lược phát

triển kinh tế theo hướng phát triển bền vững. Theo quan điểm của Indonesia,

một sự phát triển được coi là bền vững, nếu đạt được những điểm sau: 1)

Năng lực cải thiện khả năng hỗ trợ của môi trường; 2) Hiệu suất tối đa đạt

được của tài nguyên không nên vượt quá khả năng của tự nhiên và công nghệ

hiện có để đổi mới các nguồn tài nguyên; 3) Tăng cường hội nhập các hoạt

động phát triển giữa các khu vực và vùng; 4) Cải thiện các chức năng tự nhiên

của hệ sinh thái; 5) Có sự hỗ trợ về phương diện thể chế cho các chức năng

môi trường [109, tr.223].

Để đạt được các mục tiêu trên, Indonesia đã khẩn trương bắt tay vào

thực hiện điều chỉnh chiến lược phát triển. Tuy vẫn còn tham nhũng, thiếu hụt

cơ sở hạ tầng và bất bình đẳng, nhưng nhìn chung, kinh tế của Indonesia đi

đúng hướng. Kể từ khi chuyển giao thế kỷ, Indonesia là một trong những nền

kinh tế phát triển tốt nhất và phù hợp nhất thế giới. Từ năm 2001, mức tăng

trưởng đạt trung bình 5,4%, nhanh hơn nhiều so với mức trung bình toàn cầu,

bất chấp những cú sốc suy thoái tài chính. Sự tăng trưởng đó tạo điều kiện

giảm nợ chính phủ, từ 95,1% GDP trong năm 2000 xuống còn 26% (2017),

mức thấp nhất trong số các nước thành viên ASEAN. Từ nền kinh tế lớn 27

thế giới vào năm 2000 (dựa trên GDP), Indonesia có bước nhảy vọt ấn tượng

lên vị trí 16 chỉ trong 15 năm. Theo Hãng tin Bloomberg dẫn số liệu do Bộ

trưởng Bộ Tài chính Indonesia, bà Sri Mulyani Indrawati công bố GDP nước

này đạt mức 1.004 nghìn tỷ USD trong năm 2017.

Tăng trưởng kinh tế của Indonesia cũng đã mở đường cho sự thay đổi

chính trị quan trọng. Từ những thành tựu kinh tế đạt được, Chính phủ

104

Indonesia có điều kiện để ban hành và thực hiện các chính sách xã hội trong

giải quyết xung đột sắc tộc, tôn giáo tạo tiền đề cho phát triển kinh tế. Chính

phủ đã chú trọng đến việc giải quyết những vấn đề chung như phân phối thu

nhập, điều tiết các hoạt động kinh tế - xã hội. Với tư cách là người điều tiết,

Nhà nước Indonesia đã thực hiện các chính sách điều chỉnh và cân bằng giữa

tăng trưởng kinh tế và ổn định xã hội; giải quyết các vấn đề dân tộc, tôn giáo

của đất nước, cố gắng bảo đảm sự phát triển hài hòa giữa các vùng, các lĩnh

vực. Sự phân chia về lãnh thổ ở Indonesia đã làm ảnh hưởng nhiều đến trình

độ phát triển kinh tế - xã hội và mức sống của nhân dân ở mỗi vùng. Vì vậy,

Chính phủ Indonesia đã đưa ra những chính sách thích hợp nhằm nâng cao

trình độ văn hoá - xã hội, tạo công ăn việc làm cho người lao động và thực

hiện bình đẳng phân phối giữa các vùng đó.

Tiểu kết chương 3

Bước vào thời kỳ sau Chiến tranh Lạnh, cũng như các nước khác ở

Đông Nam Á, Indonesia đứng trước nhiều cơ hội phát triển, nhưng cũng phải

đối diện với không ít thách thức lớn. Độc lập, dân tộc và sự toàn vẹn lãnh thổ

của nước này bị đe dọa nghiêm trọng do sự bùng phát trở lại của các cuộc

xung đột sắc tộc, tôn giáo, vốn đã tạm thời lắng xuống trong những năm cầm

quyền của giới quân sự - quan liêu do tướng Suharto đứng dầu.

Xung đột sắc tộc, tôn giáo xảy ra ở nhiều địa phương của Indonesia,

trong đó nghiêm trọng nhất là Đông Timor, Aceh, Tây Papua và Sulawesi.

Mục tiêu cao nhất mà các lực lượng tham gia vào xung đột là ly khai khỏi

quốc gia - dân tộc mà họ đã chung sống tương đối hòa thuận với nhau, từ khi

Indonesia giành được độc lập vào năm 1948. Indonesia đứng trước nguy cơ bị

phân chia thành nhiều mảnh nhỏ. Có nhiều nguyên dân dẫn tới tình trạng trên:

sự sụp đổ của chế độ độc tài Suharto, những hệ lụy từ chiến lược phát triển

kinh tế xã hội và các mâu thuẫn lợi ích giữa các phe phái chính trị được che

đậy dưới màu sắc tôn giáo, sắc tộc… Để giải quyết các cuộc xung đột đó,

105

chính phủ Indonesia đã thực hiện nhiều giải pháp khác nhau. Về ngắn hạn, họ

vừa sử dụng quân đội, cảnh sát để trấn áp các lực lượng nổi dậy, vừa tiến

hành đàm phán nhằm thỏa hiệp những yêu sách của các lực lượng đó, ngoại

trừ yêu sách ly khai (việc Đông Timo được tách khỏi Indonesia chỉ là một

ngoại lệ mà Indonesia buộc phải chấp nhận). Về dài hạn, chính phủ Indonesia

đã tiến hành cải cách một số thể chế chính trị nhằm ngăn ngừa sự trở lại của chế

độ độc tài và sự hoành hành của "chủ nghĩa tư bản thân hữu", vốn rất phổ biến

dưới thời Trật tự mới. Chiến lược phát triển kinh tế xã hội của Indonesia cũng

được điều chỉnh nhằm làm cho các sắc tộc, tôn giáo ở những vùng xa xôi của đất

nước được thụ hưởng công bằng hơn các lợi ích từ sự phát triển của đất nước.

106

Chương 4

NHẬN XÉT VÀ NHỮNG KINH NGHIỆM RÚT RA

4.1. MỘT SỐ NHẬN XÉT

Nghiên cứu tình hình xung đột sắc tộc và tôn giáo ở Indonesia và quá

trình khắc phục các xung đột đó của chính phủ nước này có thể rút ra một số

nhận xét sau:

4.1.1. Đặc điểm của các cuộc xung đột sắc tộc, tôn giáo, ở Indonesia

Nghiên cứu xung đột sắc tộc, tôn giáo ở Indonesia giai đoạn 1991-2015

cho thấy các xung đột này có một số đặc điểm đáng chú ý.

4.1.1.1. Về bản chất, các cuộc xung đột sắc tộc, tôn giáo ở Indonesia

là xung đột lợi ích giữa các cộng đồng dân cư

Khi nghiên cứu về xung đột sắc tộc, tôn giáo ở Indonesia, có một câu hỏi

được nhiều nhà nghiên cứu ở trong và ngoài Indonesia tập trung thảo luận là bản

chất của các cuộc xung đột đó là gì ? Đó có thật sự là xung đột giữa các tôn giáo,

các sắc tộc hay chỉ là các xung đột có màu sắc tôn giáo, sắc tộc mà thôi?

Để trả lời câu hỏi này, cần phải chỉ ra được nguyên nhân thật sự đằng

sau các cuộc xung đột đó.

Trong bài viết về nguyên nhân xung đột ở Indonesia, Sidney Jones,

Giám đốc điều hành, Phòng châu Á, cơ quan Theo dõi Nhân quyền cho rằng

có hai nguyên nhân lớn dẫn tới sự bùng nổ xung đột sắc tộc ở Indonesia.

Nguyên nhân đầu tiên là hậu quả của sự sụp đổ của Suharto. Nhận định trên

của Sidney Jones là có thể chia sẻ. Thật ra, các cuộc xung đột sắc tộc, tôn

giáo đã xảy ra ở Indonesia ngay từ thời cầm quyền của Tổng thống Sukarno.

Xung đột ở Aceh là một ví dụ. Ngay từ năm 1953, những lực lượng ly khai ở

Aceh đã công khai đòi thành lập một quốc gia Hồi giáo ở Aceh. Phong trào đã

bị cả chính quyền của Tổng thống Sukarno lẫn chính quyền của Tổng thống

Suharto thẳng tay đàn áp nên đã lắng xuống. Khi quyền lực của Suhato bị sụp

107

đổ, phong trào ly khai của Aceh lại bùng phát trở lại. Việc Đông Timor trở

thành một quốc gia độc lập đã khích lệ các lực lượng ly khai ở Aceh, ở Tây

Papua và những nơi khác quyết tâm thực hiện mục tiêu tách khỏi Indonesia

của họ.

Nguyên nhân thứ hai được Sidney Jone đưa ra là "sự thiếu hụt

(shortage) của quá trình dân chủ hóa". Theo tác giả, "trong một nền dân chủ ở

các xã hội đa sắc tộc thì bạo lực cộng đồng là tồi tệ hơn với những chính phủ

toàn trị mạnh (with strong authoritarian governments) vốn giữ được các loại

xung đột này dưới sự kiểm soát" [203]. Điều này hàm ý rằng chế độ dân chủ

khó có khả năng kiểm soát xung đột tôn giáo, sắc tộc trong các xã hội đa sắc

tộc, đa tôn giáo do phải tuân thủ các định chế dân chủ. Nhận xét này không đủ

sức thuyết phục. Trong thực tế, chế độ dân chủ ở nhiều quốc gia có sự đa

dạng về tôn giáo, sắc tộc, chẳng hạn như Mỹ, xung đột sắc tộc, tôn giáo ít khi

xẩy ra; hoặc nếu có, thì chỉ là những hiện tượng đơn lẻ và nhanh chóng được

dập tắt.

Bên cạnh hai nguyên nhân trên, trong bài viết của mình, tác giả còn chỉ

ra một loạt nguyên nhân khác. Theo tác giả, những gốc rễ lịch sử thời thực

dân là một trong những nguyên nhân đó. Không ít chinh sách của chính phủ

thực dân Hà Lan đã tạo thuận lợi cho nhiều cuộc xung đột. Điều này đặc biệt

đúng về quan hệ của Hà Lan với người Hoa, cũng đúng về việc Hà Lan liên

quan thế nào tới công việc của sứ đoàn và cái cách cắt nhỏ đất nước vào các

nhóm sứ đoàn khác nhau của chính quyền thuộc địa..

Ngoài ra, những hậu quả của chính sách di dân tới những khu vực thưa

thớt mà chính phủ Indonesia thực hiện nhất quán từ 1950 tới nay đã gây nên

một số xung đột xã hội giữa những cư dân bản địa và những di dân từ các

vùng khác tới. Sidney Jones cho rằng, những cuộc di dân đó đã "làm thay đổi

sự cân bằng dân cư giữa các nhóm sắc tộc, tôn giáo, dẫn tới một vài loại căng

thẳng, thường với một nhóm cảm thấy họ đang ở dưới sự vây hãm của một

108

nhóm khác" [203]. Để chứng minh cho nhận định của mình, tác giả đã phân

tích hậu quả của việc di cư của người Hồi giáo từ Sulawesi tới Ambon. Theo

tác giả, ở Ambon đã có một tỷ lệ cân bằng đẹp giữa người Ambon theo Thiên

chúa giáo và người Ambon theo Hồi giáo với những biện pháp văn hóa truyền

thống về giải quyết xung đột. Vào những năm 1970 và 1980 đã có một sự di

cư thật sự từ Sulawesi và nơi khác tới những khu vực của người Hồi giáo. Kết

quả là cân bằng dân số thay đổi, những công việc truyền thống thường được

dành cho giới tinh hoa Thiên chúa giáo trước đây đã bắt đầu chuyển cho

những người Hồi giáo mới tới. Thực tế này khiến người Thiên chúa giáo cảm

thấy họ bị đe dọa. Đây chính là nguyên nhân khiến người Thiên chúa giáo

phản ứng theo cách mà họ đã làm trong một số trường hợp như đã xảy ra vào

các năm 1998-1999 [203].

Hậu quả thứ hai của chính sách di dân là những vấn đề liên quan tới

việc khai thác tài nguyên tại những khu vực có gỗ, khoáng sản. "Điều này

dẫn tới sự căm phẫn khi chinh phủ tới và tước đoạt đất đai của dân bản

địa. Người dân bản địa không coi đó là việc làm cần thiết của chính phủ

để phát triển đất nước mà như sự cưỡng đoạt của "các nhóm chiếm ưu thế

được đại diện bởi chính phủ trong các xung đột với cư dân bản xứ địa

phương" [203].

Một nguyên nhân khác được Sidney Jones chỉ ra là hậu quả của việc

chính phủ Indonesia quyết định tách cảnh sát khỏi lực lượng vũ trang vào

tháng 4/1999. Cảnh sát Indonesia được huấn luyện sơ sai nhất và được trả

lương ít nhất so với bất kỳ bộ phận nào trong lực lượng an ninh. Do đó, với tư

cách là những người thực thi pháp luật, cảnh sát Indonesia hoạt động không

hiệu quả. Không những thế, ở một vài nơi như ở Ambon, cảnh sát được xem

như đã đứng về một bên của cuộc xung đột và do đó đã có những cáo buộc

rằng cảnh sát ủng hộ người Thiên chúa giáo và quân đội ủng hộ người Hồi

giáo. Quan hệ giữa cảnh sát và quân đội cực kỳ nghèo nàn, ngày càng xấu

109

hơn và có khả năng bùng nổ bạo lực cảnh sát- quân đội theo một phương

cách làm trầm trọng hơn cuộc xung đột [203].

Nguyên nhân cuối cùng được Sidney Jones chỉ ra là tác động của "

cuộc cách mạng về liên lạc" (communications revolution) đặc biệt là của

Email và điện thoại di động, Khi xung đột nổ ra, các bên bị cuốn vào cuộc

xung đột sẽ dễ dàng liên lạc với những người đồng tôn giáo sống ở ngoài khu

vực của họ tham gia vào. Do vậy, các xung đột địa phương dễ chuyển thành

xung đột quốc gia. Ở Malakkas, cả người Thiên chúa giáo và người Hồi giáo

đều huy động những người ủng hộ bên ngoài Ambon và Malakkas "theo một

phương cách làm trầm trọng hơn xung đột".

Một vài nhà nghiên cứu khác cũng có quan điểm tương tự. Theo nhà

nghiên cứu Marcus Colcheste, di dân "còn xa mới là một việc làm nhân đạo,

đó là một chương trình chính trị được thiết kế để mở rộng sự kiểm soát của

chính phủ đối với những đảo lạc hậu thông qua sự loại bỏ sự đa dạng về tộc

người. Di dân đã trở thành một trong những biện pháp chủ chốt để đồng hoá

nhân dân các bộ tộc" [161].Chia sẻ quan điểm trên, Katerin Cauphin khẳng

định: "... động cơ thật sự của chương trình là Java hoá. Những cư dân bản địa

của nhiều hải đảo đặt dưới sự cai trị của Indonesia có khuynh hướng khởi

loạn. Họ có văn hoá, ngôn ngữ, tôn giáo riêng và họ không muốn trở thành

một phần của Indonesia" [161].

Còn nhà nghiên cứu Indonesia Devi Fortuna lại cho rằng: "Việc đưa

các khu vực kinh tế hiện đại vào tỉnh kém phát triển nhất của Indonesia rõ

ràng đã phá vỡ phương thức sống truyền thống của Iriăng, kích thích sự ủng

hộ của phong trào ly khai" [161].

Thực tế diễn ra ở một số địa phương ở Indonesia đã chứng minh cho

những nhận định của các nhà nghiên cứu trên. Chính sách di dân của chính

phủ Indonesia chính là nguyên nhân sâu sa của các cuộc bạo loạn giữa người

Dayak địa phương và những người di cư từ Madura xảy ra vào năm 1997 và

110

một lần nữa vào năm 1999 ở Kalimantan. Chính sách đó cũng là nguyên nhân

đằng sau các cuộc xung đột dưới màu sắc tôn giáo, sắc tộc ở Tây Papua, vùng

nghèo nhất ở Indonesia.

Từ những phân tích của các học giả trên về nguyên nhân các cuộc xung

đột sắc tộc, tôn giáo ở Indonesia có thể thấy họ đã nhìn ra cả nguyên nhân

trực tiếp lẫn nguyên nhân sâu sa của sự bùng nổ và kéo dài của các cuộc xung

đột đó. Trong khi nguyên nhân trực tiếp là sự sụp đổ của chế độ độc tài

Suharto, mâu thuẫn giữa quân đội và cảnh sát Indonesia, sự hỗ trợ của truyền

thông, thì nguyên nhân sâu sa là những hệ lụy của chính sách di dân và sự

máy móc trong thực hiện chủ trương "Thống nhất trong đa dạng" được đề ra

ngay từ khi Indonesia giành được độc lập dân tộc.

Theo tác giả luận án, chính sách di dân từ những vùng dân cư đông đúc

tới những vùng dân cư thưa thớt ở những vùng sâu, vùng xa của đất nước mà

chính phủ Indonesia thực hiện là hoàn toàn đúng đắn và cần thiết. Chính sách

đó không chỉ nhằm đạt được các mục tiêu phát triển kinh tế, xã hội mà còn

một phương cách giúp bảo vệ độc lập dân tộc, toàn vẹn lãnh thổ của

Indonesia. Sai lầm chỉ là ở quá trình thực thi chính sách đó mà thôi. Chính

phủ Indonesia có thể đã không tính hết phản ứng của người dân địa phương,

khi phải chia sẻ một phần đất đai, tài sản chính của họ cho những người được

di cư tới, nhất là khi những người mới tới lại thuộc các cộng đồng sắc tộc, tôn

giáo khác với cư dân bản địa. Trong những cuộc xung thuộc dạng này, bản

chất của xung đột không phải là xung đột tôn giáo, sắc tộc mà là xung đột về

lợi ích giữa các cộng đồng dân cư.

Trong một quốc gia đa sắc tộc, đa tôn giáo lại trải dài trên 1.7000 hòn

đảo, chủ trương xây dựng sự thống nhất quốc gia trong sự đa dạng không chỉ

đúng mà còn rất sáng suốt. Tuy nhiên, thống nhất không có nghĩa là đồng

hóa, càng không có nghĩa là Java hóa. Trong quá trình thực hiện chủ trương

này, nhiều hoạt động của các cơ quan công quyền ở Indonesia đã khiến cho

111

người dân, nhất là các sắc tộc nghĩ rằng họ đang bị "đồng hóa". Ví dụ về điều

này có thể tìm thấy ở Aceh và một số địa phương khác.

Ở Aceh, Bộ Tôn giáo đã từ chối công nhận các tòa án Hồi giáo, vốn đã

được thiết lập ở đó từ thời Nhật chiếm đóng. Quyết định này đã khiến người

dân Aceh cho rằng vị trí của Hồi giáo ở khu vực của họ đã bị tước bỏ. Bất

mãn với quyết định đó của chính phủ, vào năm 1953, họ đã công khai đòi

thành lập một quốc gia Hội giáo ở Aceh và chính thức tham gia vào cuộc khởi

nghĩa Darul Islam ở miền Tây Java. Phong trào này đã lên án việc chính phủ

trung ương đặt chủ nghĩa dân tộc lên cao hơn đạo Hồi và lấy Pancasila làm

nền tảng của quốc gia. Tham gia vào phong trào Darul Islam, có nghĩa là

Aceh tự gắn mình thành một bộ phận của quốc gia Hồi giáo Indonesia

(Negara Islam Indonesia) do phong trào Darul Islam tuyên bố thành lập và

ủng hộ ý tưởng thay thế nước Cộng hòa Indonesia bằng một quốc gia Hồi

giáo. Mặc dù phong trào Darul Islam bị thất bại do không nhận được sự ủng

hộ rộng rãi của các tầng lớp nhân dân ở Aceh và sự trấn áp của quân đội,

nhưng ý tưởng về một nhà nước Hồi giáo vẫn tiếp tục được nuôi dưỡng và đã

không ít lần thúc đẩy các nhà lãnh đạo thuộc các thế hệ khác nhau ở Aceh kêu

gọi dân chúng trong khu vực của họ đứng lên đấu tranh chống lại chính phủ

trung ương ở Jakarta. Điều này giải thích vì sao: "Từ khi Indonesia độc lập

vào tháng 8/1945, Aceh thường được miêu tả như trung tâm kháng chiến

chống lại chính phủ trung ương ở Jakarta" [197, tr.379].

Từ thực tế ở Aceh, có thể thấy chính phủ Indonesia đã sai lầm khi áp

đặt bộ máy tư pháp thế tục lên hệ thống tư pháp Hồi giáo truyền thống của

người Aceh. Người Aceh nhìn sự áp đặt đó như là sự áp đặt của người Java

đang nắm quyền ở hầu hết các cơ quan của chính phủ trung ương đối với họ.

Như vậy, xung đột ở Aceh chính là xung đột sắc tộc.

Còn những xung đột ở Maluku giữa người Thiên chúa giáo và người

Hồi giáo, về thực chất cũng không phải là xung đột tôn giáo. Để thấy rõ điều

112

này chúng ta sẽ tìm hiểu trở lại cuộc xung đột ở Maluku 1/1999. Theo Ian L.

Betts, cuộc xung đột bề ngoài được vẽ dọc theo những tuyến giữa người Hồi

giáo và Thiên chúa giáo, nhưng không có lý do thật sự về xung đột văn hóa và

ngôn ngữ vì văn hóa của hai bên về cơ bản là có chung nguồn gốc

(homogenous), dù những phương ngữ khác nhau thường được sử dụng.

Một vài nhà nghiên cứu khác cũng cho rằng các xung đột ở Maluku

không phải là xung đột tôn giáo, sắc tộc. Theo George J. Aditjondro " Chuỗi

xung đột giáo phái ở Maluku bị nổ ra và được nuôi dưỡng bởi những kẻ khiêu

khích được gia đình Suharto và thân hữu của họ trả tiền" [176]. Ông quy xung

đột cho sự phát triển băng nhóm có vũ trang và được huấn luyện, những

nhóm này phát triển từ những nhóm liên kết với các cá nhân có quan hệ chặt

chẽ với các thành viên của gia đình cựu Tổng thống Suharto và thân hữu của

họ. Tác giả cũng nhấn mạnh tới vai trò đang gia tăng của quân đội ở cấp tỉnh,

phần của họ trong cướp bóc, tàng trữ hậu cần, bán áo giáp bảo vệ và những kế

hoạch vẽ lại biên giới các tỉnh. Theo ông "Quân đội chắc chắn đã được lợi từ

xung đột. Ở cấp vĩ mô, họ giúp đỡ những người trong giới chóp bu quân sự,

những người muốn duy trì hệ thống lãnh điạ của quân đội vì 17.000 quân

đang đóng ở Maluku. Sử dụng xung đột như một cái cớ, Bộ tham mưu

Pattimura ở Ambon vốn đã bị xóa bỏ trong thời Suharto, nay được sống lại".

Với những lập luận trên, Aditjondro kết luận "xung đột ở Maluku, trong thực

tế là hệ quả của các cuộc đấu tranh chính trị ở Jakarta, các viên tướng nổi giận

khi cảm thấy rằng quyền lực của quân đội đã bị chấm dứt".

Tuy nhiên, Aditjondro cũng kết tội các nhóm Hồi giáo, những người bị

gạt ra ngoài lề bởi chính quyền Wahid và họ bất bình trước sự xích lại nhóm

thiểu số người Hoa và người Thiên chúa giáo, các nhóm này đang lợi dụng

sự bất ổn của Maluku để kêu gọi một cuộc thánh chiến (jihad), lật đổ chính

quyền của những người dân tộc chủ nghĩa phi thần quyền và thế tục [176].

Như vậy, sự thù địch của người Hồi giáo ở Maluku đối với người Hoa và

113

người Thiên chúa giáo không nảy sinh từ chính sự khác biệt giữa các tôn

giáo đó mà từ sự ưu ái của nội các Wahid đối với cộng đồng Thiên chúa

giáo và người Hoa. Chính sách này trái ngược hẳn chính sách của nội các

Suharto đối với người Hồi giáo Maluku. Dưới thời Suharto, Thủ hiến

Mohamad Saleh Latuconsina ở Maluku đã thay thế tất cả các nhân viên dân

sự cao cấp trong tỉnh bằng người Hồi giáo.

Những phân biệt đối xử có tính sắc tộc, tôn giáo của các nội các khác

nhau ở Jakarta chính là nguyên nhân gây nên sự thù ghét lẫn nhau giữa người

Hồi giáo với người Thiên chúa giáo và người Hoa ở Maluku.

Từ những phân tích trên có thể đi tới kết luận là: hầu hết các cuộc

xung đột diễn ra ở Indonesia từ sau 1991 không phải xung đột tôn giáo sắc

tộc mà chỉ có vẻ ngoài là xung đột sắc tộc, tôn giáo mà thôi. Về bản chất, đó

là các xung đột lợi ích giữa các cộng đồng khác nhau về sắc tộc, tôn giáo.

Nguyên nhân thật sự của các cuộc xung đột đó là do những sai lầm trong cách

ứng xử của các chính phủ Indonesia đối với các cộng đồng dân tộc, những hệ

lụy từ chính sách di cư và sự máy móc, thô thiển trong quá trình thực hiện

mục tiêu " Thống nhất trong đa dạng".

4.1.1.2. Xung đột sắc tộc, tôn giáo ở Indonesia có nhiều điểm tương

tự như xung đột sắc tộc, tôn giáo của một số nước khác ở Đông Nam Á

* Về nguyên nhân xung đột

Một là, sự đa dạng dân tộc, sắc tộc ở các quốc gia Đông Nam Á, trong

đó có Indonesia, Thái Lan, Malaysia... khá điển hình, là nguyên nhân dẫn đến

tình trạng xung đột dân tộc, sắc tộc gia tăng và khó giải quyết.

Những nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng xung đột dân tộc, sắc tộc

gia tăng và khó giải quyết ở các quốc gia này có thể nêu ra là:

- Mỗi dân tộc là một bản sắc văn hóa, lối sống, phong tục tập quán

riêng, nên đôi khi sự khác biệt về văn hóa giữa các tộc người cũng làm nảy

sinh xung đột giữa họ.

114

- Các dân tộc thiểu số thường cư trú ở vùng sâu, vùng xa, nơi hẻo lánh,

kinh tế lạc hậu, đời sống đói nghèo. Đây nguyên nhân dễ dẫn tới việc các thế

lực bên ngoài lợi dụng, kích động, tạo mâu thuẫn dẫn đến xung đột giữa các

sắc tộc với nhau, nhất là giữa các tộc chiếm đa số trong dân cư quốc gia với

các sắc tộc thiểu số.

- Các dân tộc thiểu số thường có tâm lý biệt lập, mặc cảm dân tộc cao.

Thực tế các quốc gia đa dân tộc ở Đông Nam Á rất phức tạp nên giữa

các dân tộc, sắc tộc thường nảy sinh mâu thuẫn dẫn đến xung đột. Ban đầu

xung đột chỉ mang tính chất kinh tế, tôn giáo, ngôn ngữ, sau nó mang đậm

tính chất xung đột xã hội, chính trị, thậm chí còn dẫn đến các mục tiêu ly khai

dân tộc. Sự đa dân tộc, sắc tộc với những đặc điểm nêu trên cùng với những

phân cực, phân tầng xã hội đang diễn ra nhanh ở các quốc gia Đông Nam Á

trong quá trình phát triển hội nhập còn làm gia tăng số lượng các phe nhóm,

đảng phái chính trị và trở thành nguyên nhân "châm ngòi" xung đột sắc tộc ở

các quốc gia này.

Hai là, sự đa dạng các hình thức tôn giáo, tín ngưỡng, trong đó có

những tôn giáo ngoại nhập đi cùng với quá trình thực dân và tình trạng phát

triển không đều giữa các tôn giáo là tình trạng phổ biến ở các quốc gia Đông

Nam Á.

Ở Đông Nam Á, các xung đột dân tộc, tôn giáo diễn ra ở Indonesia,

Malaysia, Philippines và Thái Lan chủ yếu là xung đột giữa những nhóm

người theo Hồi giáo và những người theo các tôn giáo khác, nhất là Thiên

chúa giáo và Phật giáo. Các xung đột càng mang đậm tính chất Hồi giáo, nếu

nhà nước lại đứng sau một dân tộc đa số, theo một tôn giáo khác. Chẳng hạn

như nhà nước Inđônesia ủng hộ những người Hồi lấn át người dân bản địa ở

Tây Papua, nhà nước Philippines ủng hộ những người theo Thiên Chúa giáo,

nhà nước Thái Lan đứng về phía những người theo Phật giáo. Ví dụ: ở Thái

Lan là những vụ bạo loạn, chống phá của người Hồi giáo ở miền Nam phản

115

đối chính phủ đối xử không công bằng so với những người theo Phật giáo. Tại

Indonesia là xung đột giữa những người theo đạo Thiên chúa và người theo

đạo Hồi ở quần đảo Maluku. Ở Philippines, chính quyền cũng phải đối mặt

với những xung đột giữa người Công giáo và người Hồi giáo tại nhiều nơi.

Ba là, chính sách quản lý của chính phủ nhiều khi lại là nguyên nhân

của các xung đột sắc tộc, tôn giáo.

Chính sách quản lý nhất là những chính sách liên quan đến dân tộc, tôn

giáo của chính phủ và chính quyền các cấp ở địa phương nhiều khi lại chính

là "ngòi nổ" cho các xung đột sắc tộc, tôn giáo phức tạp, kéo dài ở các quốc

gia Đông Nam Á. Ví dụ: chính sách đồng hóa văn hóa của các chính phủ Thái

Lan, Indonesia; chính sách đàn áp phong trào đấu tranh của quần chúng; các

chính sách ưu tiên, phân biệt trong phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội giữa các

vùng cũng là nguyên nhân dẫn đến các cuộc xung đột ở các quốc gia đó.

Chính sách tập trung quyền lực và tài chính vào tay chính quyền trung ương,

dùng quân đội đàn áp các cuộc nổi dậy... Chính sách chỉ chú trọng khai thác

tài nguyên mà không đầu tư thích đáng, là những chính sách của chính phủ

Indonesia đã châm ngòi cho của xung đột sắc tộc kéo dài ở Aceh.

Về mặt kinh tế, sự khác nhau trong chính sách phát triển vùng, miền,

chính sách quản lý, khai thác tài nguyên, chính sách di dân...của các chính

phủ đã gây những mâu thuẫn, trong phát triển kinh tế của các nhóm sắc tộc

dẫn đến xung đột. Về chính sách giáo dục, việc sử dụng nền giáo dục quốc

gia áp đặt để đồng hóa các sắc tộc, hay việc có cơ hội đạt được trình độ học

vấn cao ở các nhóm sắc tộc là rất hạn chế cũng là nguyên nhân dẫn đến sự

chênh lệch và xung đột. Về chính trị, chính sách thay thế các nhà lãnh đạo

Hồi giáo truyền thống bằng các nhà chính trị khác ở chính quyền các cấp

cũng tạo ra mâu thuẫn nghiêm trọng giữa các tôn giáo với nhau [155, tr.39]…

Tất cả những chính sách không hợp lý đó của chính phủ các quốc gia

Đông Nam Á trên đều là nguyên nhân của các xung đột sắc tộc, tôn giáo.

116

Bốn là, các di sản của chủ nghĩa thực dân ở các quốc gia Đông Nam Á.

Khi xâm chiếm các nước Đông Nam Á làm thuộc địa, chủ nghĩa thực

dân thường có xu hướng một mặt thành lập các siêu quốc gia để phân định

biên giới hành chính, một mặt lại chia ra để trị. Ví dụ: thực dân Pháp chiếm

Cămpuchia, Lào, Việt Nam và sáp nhập cả ba nước vào một đơn vị hành

chính Đông Dương. Khi xâm chiếm Indonesia, thực dân Hà Lan đã sáp nhập

không dưới một chục tiểu quốc vào một thực thể quốc gia rộng lớn bao gồm

hàng trăm dân tộc, tộc người khác nhau. Chính sách này của thực dân dẫn đến

tình trạng đường biên giới ở các quốc gia Đông Nam Á hiện nay (trừ Việt

Nam, Thái Lan) được coi là đường biên giới bị áp đặt do ý chí của các cường

quốc thực dân hay còn gọi là những đường biên nhân tạo. Cũng trong quá

trình xâm chiếm thuộc địa, các nước thực dân lại phân chia các vùng lãnh thổ,

chia cắt, tách rời các khu vực dân cư có tính lịch sử văn hóa ra khỏi ranh giới

địa lý của nó. Trong thời kỳ đô hộ các quốc gia Đông Nam Á, thực dân Anh,

Hà Lan, Mỹ, Pháp đều thực hiện chính sách "chia để trị", khoét sâu sự khác

biệt văn hóa, tôn giáo để gây chia rẽ các khối dân cư tại các nước này. Chính

sách khoét sâu sự khác biệt, mâu thuẫn lợi ích giữa người bản địa và người

Hoa của chính quyền thực dân còn nhằm mục đích chống lại phong trào cộng

sản (chủ yếu phát triển trong cộng đồng người Hoa) ở các nước. Đây là

nguyên nhân dẫn đến một số cuộc xung đột dân tộc ở Indonesia, Malaysia

giai đoạn sau Chiến tranh Lạnh.

Ngoài ra, xung đột sắc tộc dẫn đến ly khai dân tộc cũng có nguyên

nhân từ tiến trình phi thực dân hóa và sự trỗi dậy của chủ nghĩa dân tộc tại

nhiều nước trong khu vực. Trường hợp người Ambon (Indonesia) đấu tranh

đòi thành lập nước cộng hòa Manuka, người Mã Lai ở 4 tỉnh miền (Thái

Lan), đòi tách khỏi Thái Lan để thành lập quốc gia Hồi giáo Mã Lai là những

dẫn chứng cho nhận định này.

117

Như vậy, đa dân tộc, đa tôn giáo, đa văn hóa là những điểm chung và

cũng là những nhân tố cơ bản làm nảy sinh xung đột sắc tộc, tôn giáo trong

những thập kỷ qua ở Indonesia và các quốc gia Đông Nam Á. Thêm vào đó,

những vấn đề chính sách quản lý phát triển xã hội, những dấu ấn của thời kỳ

thực dân đô hộ cũng là những nhân tố gây ảnh hưởng không nhỏ đến tình

hình gia tăng xung đột cũng như giải quyết chúng ở Indonesia và các quốc gia

Đông Nam Á khác.

* Về mục tiêu, tổ chức và các hình thức thể hiện xung đột

Nhìn chung các xung đột sắc tộc, tôn giáo ở Indonesia và các nước

khác ở Đông Nam Á giai đoạn 1991-2015 không diễn ra một cách tự phát mà

được đặt dưới sự lãnh đạo của một tổ chức chính trị. Ở Indonesia, các Phong

trào Aceh tự do, Phong trào Papua tự do …được thành lập trong thời kỳ thực

dân hoặc trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh đã đứng ra lãnh đạo các phong trào

ly khai dân tộc. Trong khi đó, ở 4 tỉnh miền Nam Thái lan, phong trào hay ở

miền Nam Philippines, các phong trào ly khai cũng được dẫn dắt bởi Mặt

trận giải phóng Pattani, Mặt trận giải phóng Mindanao… Mục tiêu tối thượng

của các phong trào này là tách khỏi quốc gia mà họ đang thuộc về để thành

lập các quốc gia độc lập riêng của người Hồi giáo.

Các hình thức đấu tranh cũng tương tự nhau: từ tổ chức các cuộc đánh

bom khủng bố, chiến đầu trực diện với quân đội chính phủ khi bị truy sát đến

ngồi vào bàn đàm phán với chính phủ để tìm giải pháp cho các cuộc xung

đột.

Một điểm tương đồng khác giữa xung đột sắc tộc, tôn giáo ở Indonesia

trong so sánh với các xung đột cùng loại ở các nước Đông nam Á khác là cho

tới nay, tất cả các phong trào ly khai ở Indonesia, ở Thái lan và Philipines

đều không đạt được mục tiêu cuối cùng mà họ theo đuổi là thành lập các quốc

gia Hồi giáo độc lập của họ và cho họ. Sở dĩ như vậy là vì chính phủ

Indonesia cũng như chính phủ các nước Đông Nam Á khác đều quyết tâm

118

duy trì độc lập dân tộc, toàn vẹn lãnh thổ bằng mọi giá, bất kể sự phản đối có

thể của các cường quốc phương Tây. Họ có thể bị cô lập, bị Mỹ và các nước

phương Tây cắt viện trợ , nhưng họ không từ bỏ các chiến dịch trấn áp các lực

lượng ly khai. Họ có thể thỏa hiệp với nhiều yêu sách của các lực lượng ly

khai, trừ yêu sách ly khai. Chính nhờ ý chỉ sắt đá đó, họ đã bảo vệ được độc

lập dân tộc của đất nước mình.

4.1.1.3. Xung đột sắc tộc, tôn giáo ở Indonesia chủ yếu là xung đột

giữa những người cùng chủng tộc, chỉ khác nhau về tôn giáo

Trong lịch sử Indonesia hiện đại cũng từng diễn ra xung đột giữa

người Hoa và người Indonesia, vốn thuộc hai chủng tộc khác nhau. Nhưng

các cuộc xung đột đó chỉ diễn ra trong thời gian ngắn khi đất nước lâm

vào khủng hoảng chính trị, kinh tế trầm trọng (sau cuộc đảo chính quân sự

lật đổ Sukarno năm 1965, lật đổ Suharto năm 1998), nhưng xung đột giữa

người Hồi giáo và người Thiên chúa giáo, giữa người Java và các cư dân

bản địa ở Aceh, Tây Papua, Moluku thì diễn ra lâu dài và sâu sắc hơn. Về

phương diện chủng tộc, người Thiên chúa giáo và người Hồi giáo ở

Indonesia đều là người Mã Lai. Họ chỉ khác nhau về tôn giáo mà thôi.

Thực tế này khác với xung đột sắc tộc, tôn giáo ở 4 tỉnh miền Nam, Thái

Lan. Cuộc xung đột ở đó không chỉ là xung đột tôn giáo giữa những người

theo Hồi giáo và người theo đạo Phật mà còn là xung đột giữa ngưỡi Mã Lai

và người Thái, hai chủng tộc khác nhau.

4.1.1.4. Các cuộc xung đột sắc tộc, tôn giáo diễn ra ở các địa bàn rất

xa nhau về phương diện địa lý

Trong khi ở Thái Lan và Philippines, xung đột sắc tộc, tôn giáo chỉ

diễn ra chủ yếu ở 4 tỉnh miền nam Thái Lan, đảo Mindanao, phía nam

Philippines, thì xung đột tôn giáo, sắc tộc ở Indonesia diễn ra ở những vùng

lãnh thổ rất cách xa nhau.

119

Bản đồ 4.1: Bản đồ Indonesia

Nguồn: [177].

Nhìn vào bản đồ trên, có thể thấy các cuộc xung đột ở Indonesia không

chỉ diễn ra ở Aceh, một tỉnh cực Tây bắc của Indonesia, gần Thái Lan, mà cả

ở đảo Sulawesi, gần Philippines. Hai địa điểm này rất cách xa nhau về

phương diện địa lý. Thực tế đó khiến cho cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập

dân tộc thông qua ứng phó với các xung đột sắc tộc, tôn giáo của chính phủ

Indonesia trở nên vô cùng khó khăn. Quân đội Indonesia cùng lúc phải căng

ra trên nhiều vùng lãnh thổ khác nhau. Việc cung cấp hậu cần, trợ giúp cho

nhân dân các vùng bị cuốn vào xung đột càng khó khăn hơn nữa. Đây chính

là một trong những nguyên nhân hạn chế kết quả giải quyết xung đột sắc tộc,

tôn giáo của chính phủ Indonesia những năm vừa qua.

4.1.2. Thành tựu và hạn chế của quá trình ứng phó với xung đột

sắc tộc, tôn giáo của chính phủ Indonesia

4.1.2.1. Thành tựu

Quá trình giải quyết xung đột sắc tộc, tôn giáo ở Indonesia đã thu được

những kết quả to lớn.

120

Thứ nhất, quá trình đó đã chặn đứng được đà ly khai khỏi Indonesia,

vốn được các lực lượng ly khai ở Aceh, Maluku và Tây Papua đẩy mạnh hơn

sau khi Đông Timor được tách ra để trở thành một quốc gia độc lập. Nếu

chính phủ Indonesia không có những giải pháp khôn ngoan như đã được phân

tích ở Chương 3, trong việc giải quyết các xung đột tôn giáo sắc tộc ở các khu

vực trên, Aceh và có thể cả Tây Papua đã lần lượt tách khỏi Indonesia. Nhờ

đó, quá trình "Ban căng hóa" mà không ít nhà nghiên cứu quốc tế đã dự đoán

trước đó, đã không xảy ra ở Cộng hòa Indonesia. Cái gọi là "Vùng bị mất"

của Indonesia, về thực chất, không phải là vùng đất vốn thuộc về Cộng hòa

Indonesia, mà chỉ là vùng đất được Chính phủ nước này sáp nhập vào cách đó

hơn 2 thập kỷ mà thôi. Như vậy, có thể nói, Indonesia đã thành công trong

việc bảo vệ được độc lập dân tộc của mình, sau những nỗ lực giải quyết các

cuộc xung đột tôn giáo, sắc tộc

Thứ hai, thông qua quá trình giải quyết các xung đột sắc tộc, tôn giáo,

Indonesia không chỉ ngăn ngừa được sự trở lại của chế độ độc tài, quân phiệt

mà còn thực hiện thành công các cải cách chính trị, kinh tế xã hội. Thật vậy,

chế độ bầu cử tự do đã cho phép nhân dân Indonesia lựa chọn được các nhà

lãnh đạo tài năng, tâm huyết với độc lập dân tộc, toàn vẹn lãnh thổ quốc gia

để dẫn dắt đất nước của họ đi lên. Nhờ đó, tình hình chính trị ở Indonesia đã

dần ổn định trở lại, tạo tiền đề cho sự phát triển kinh tế của Indonesia trong

những năm gần đây. Năm 2018, kinh tế Indonesia đã đạt mức tăng trưởng cao

nhất kể từ sau 2012. Theo Cơ quan Thống kê Trung ương Indonesia, tính

riêng trong quý 4 năm 2018, nền kinh tế nước này tăng 5,18%, đưa tốc độ

tăng trưởng cả năm 2018 đạt 5,17%. Kỷ lục tăng trưởng trên đạt được nhờ

vào tiêu dùng hộ gia đình, đầu tư và chi tiêu của chính phủ, trong đó tiêu dùng

hộ gia đình đóng góp 2,74% (tăng 5,05%); đầu tư là 2,17% (tăng 6,67%) và

chi tiêu chính phủ 0,38% (tăng 4,3%).Thâm hụt ngân sách năm 2018 của

Indonesia ước vào khoảng 1,72% Tổng sản phẩm quốc nội (GDP), thấp hơn

121

mức dự tính ban đầu của chính phủ nước này là 2,19% GDP. Đây cũng là

mức thâm hụt ngân sách trên GDP thấp nhất kể từ năm 2012. Trong năm

2018, Indonesia lần đầu tiên kể từ năm 2011, đạt thặng dư ngân sách cơ bản

4.100 tỷ rupiah (khoảng 283,25 triệu USD) [110].

Những cải cách chính trị, đặc biệt là việc trao thêm quyền cho các địa

phương, nói chung, quyền tự trị cho Aceh, Tây Papua…, nói riêng, đã giúp

giảm bớt cảm giác bị bỏ rơi, bị đứng ngoài lề nền chính trị và kinh tế của đất

nước. Cảm nhận này khiến họ gắn bó với nước Cộng hòa hơn. Nhờ đó, độc

lập dân tộc của Indonesia được củng cố hơn trước.

Cuối cùng, thông qua quá trình giải quyết các xung đột sắc tộc, tôn

giáo giai đoạn 1991-2015, chính phủ Indonesia đã rút ra được nhiều bài

học, nhiều kinh nghiệm tốt trong quá trình xây dựng và củng cố quốc gia-

dân tộc. Để ứng phó thành công với xung đột sắc tộc, tôn giáo, không thể

chỉ dựa vào việc trấn áp mà cần hiểu rõ những nguyên nhân thật sự khiến

các cộng đồng sắc tộc, tôn giáo vốn chung sống hòa bình với nhau nhiều

thập kỷ, bỗng nổi dậy chống lại nhau. Chính việc hiểu rõ những nguyên

nhân đó đã giúp chính phủ điều chỉnh sự quản trị ở cấp quốc gia, nói

chung, cấp địa phương, nói riêng. Việc giảm tập trung quyền lực vào chính

phủ trung ương, cho phép các địa phương được giữ lại một phần nguồn thu

từ tài nguyên thiên nhiên trong khu vực của họ chính là kết quả của những

sự điều chỉnh đó.

4.1.2.2. Hạn chế

Bên cạnh những kết quả tích cực trên, quá trình giải quyết xung đột tôn

giáo, sắc tộc ở Indonesia cũng còn nhiều hạn chế không dễ khắc phục.

Thứ nhất, từ năm 2015 tới nay, ở Indonesia vẫn tiếp tục xảy ra các

cuộc xung đột sắc tộc, tôn giáo mới, dù phạm vi và mức độ nghiêm trọng là

thấp hơn giai đoạn 1991-2015. Những cuộc xung đột đó thường bộc lộ rõ

trong các cuộc bầu cử thống đốc các tỉnh, thành phố, nhất là trong các cuộc

122

bầu cử Tổng thống và Phó Tổng thống. Trong cuộc bầu cử Tổng thống và

Phó Tổng thống vào tháng 4-2019 vừa qua, các lực lượng Hồi giáo cấp tiến

đã mở các cuộc tấn công trên truyền thông vào các ứng viên không phải là

tín đồ Hồi giáo, thậm chí cả bản thân đương kim Tổng thống Joko Widodo

là dẫn chứng sinh động cho thấy sự phức tạp đến khốc liệt trên chính

trường Indonesia.

Tình hình chính trị ở Indonesia cũng trở nên phức tạp thêm khi Basuki

Tjahaja Purnama (BTP) một người Hoa theo đạo Thiên chúa được phóng

thích khỏi nhà tù vào ngày 24/1/2019. Vào năm 2017, khi còn là Thống đốc

Jakarta, ông đã bị kết tội báng bổ chúa trời, khi bản án tại phiên tòa xét xử

ông được đưa lên mạng, một cuộc biểu tình rầm rộ đã diễn ra, khi tòa án đang

tiến hành xét xử ông. Việc xét xử đã gây nên sự chia rẽ lớn trong nước. Theo

nhận xét của Paul Marshall "Tôn giáo là nhân tố chia rẽ trong cuộc bầu cử

hiện nay ở Indonesia".

Sở dĩ Indonesia không thể giải quyết triệt để vấn đề sắc tộc, tôn giáo vì

nhiều nguyên nhân khác nhau.

Một là, đúng như Teuku Faizasyah, Người phát ngôn của Tổng thống

Bambang nói: "Chúng tôi đang đối phó với hàng ngàn các nhóm sắc tộc, hàng

ngàn người có bản sắc, nên đó không phải là nhiệm vụ dễ dàng" [186].

Hai là, một số phần tử trong quân đội Indonesia, những người muốn

kéo dài xung đột để trục lợi. Theo một báo cáo, quân đội Indonesia dính líu

tới việc mua bán vũ khí, các vụ bảo kê và vận tải, buôn bán hoặc buôn lậu các

hàng hóa thiết yếu cho cả hai nhóm Hồi giáo và Thiên chúa giáo. Quân đội

cũng bị cáo buộc đã đào tạo và hỗ trợ Jihad. Các nhà quan sát nói rằng Laskar

Jihad đã đang sử dụng các phương tiện vận tải của quân đội trong các cuộc

tấn công vào các làng Thiên chúa giáo. Cũng có tin nói rằng, hàng trăm "lính

và cảnh sát, những người đã bỏ nhiệm vụ của họ hơn 6 tháng trước đây đã

tham gia vào các nhóm cấp tiến, đang đổ dầu vào bạo lực" [187].

123

Ba là, sự can dự của các lực lượng Hồi giáo cực đoan nước ngoài.

Những lực lượng này đã được các tổ chức Hồi giáo cấp tiến ở Indonesia tuyển

dụng để huấn luyện hoặc trực tiếp tham gia vào các hoạt động vũ trang chống

lại các chiên dịch trấn áp do quân đội Indonesia tiến hành.

Cuối cùng, một số phong trào Hồi giáo ở Indonesia, đặc biệt là Aceh đã

có lịch sử phát triển lâu dài với mục tiêu cuối cùng là tách khỏi Indonesia để

trở thành một quốc gia độc lập và xây dựng một nhà nước Hồi giáo trong khu

vực của họ. Ở giai đoạn này, những thỏa hiệp của chỉnh phủ có thể đáp ứng

được yêu cầu chính trị, tôn giáo và kinh tế của họ. Nhưng lý tưởng về một Aceh

độc lập khó có thể được họ từ bỏ. Nếu Đông Timo phát triển và được kết nạp

thành thành viên thứ 11của ASEAN và tình hình Indonesia lại trở nên rối loạn,

rất có thể GAM sẽ phát động trở lại cuộc chiến giành độc lập như trước đây.

Thứ hai, việc sử dụng quân đội để trấn áp các cuộc xung đột tôn giáo

sắc tộc gây nên những vấn đề phức tạp. Trong quá trình giải quyết xung đột

sắc tộc, tôn giáo, quân đội đã ngày càng trở nên quan trọng đối với chính phủ.

Lực lượng quân đội Indonesia đã giúp chính phủ phần nào giải quyết được

những mâu thuẫn nội bộ, trấn áp các lực lượng nổi dậy, góp phần ổn định tình

hình chính trị - xã hội của đất nước. Để biến quân đội thành chỗ dựa cho

mình, Chính phủ Indonesia duy trì và đảm bảo những đặc quyền, đặc lợi của

giới quân sự. Chính sách này, về cơ bản đã góp phần quan trọng vào việc ổn

định được tình hình chính trị - xã hội của đất nước. Tuy nhiên, để thực hiện

chính sách này, Chính phủ Indonesia phải san sẻ quyền lực cho giới quân sự,

làm cho quân đội đương nhiên trở thành một lực lượng chính trị mạnh và giới

tướng lĩnh cao cấp càng ngày càng trở nên chuyên quyền, đưa đến sự phản

ứng quyết liệt của nhiều tầng lớp xã hội.

Cho tới nay, giới quân sự vẫn còn nắm giữ quyền lực kinh tế và chính

trị nhất định, cho dù vai trò này của họ hiện nay đã suy giảm đáng kể so với

các thời kỳ trước. Tổng thống Susilo đã cố gắng loại dần vai trò của quân đội

124

trong chính phủ và làm cho trong Hội đồng tư vấn nhân dân và Nghị viện quốc

gia không còn đại diện của lực lượng quân đội và cảnh sát, tính chất dân sự đã

được biểu hiện rõ hơn trong các quyết sách của chính phủ. Đây là một thành

công lớn, song chưa triệt để, việc phế bỏ hoàn toàn quyền lực và ảnh hưởng của

quân đội trong các vấn đề chính trị vẫn là một việc làm khó khăn và lâu dài.

Cùng với quá trình tập trung quyền lực được thực hiện từ rất lâu, mạng lưới dày

đặc của các mối quan hệ quân đội - doanh nghiệp rất khó bị chia rẽ. Hơn nữa,

những yếu tố đặc trưng về sắc tộc, tôn giáo, địa hình... của Indonesia khiến cho

trong việc giải quyết nhiều vấn đề của nước này vẫn còn cần đến vai trò của

quân đội và lực lượng này vẫn phải được bố trí về mặt lãnh thổ trên khắp quần

đảo Indonesia. Điều này đã tạo nên một cơ cấu chính quyền song song với

chính phủ, cho phép quân đội hành động như một dạng cảnh sát bán quân sự

được địa phương hóa và kết cục, quân đội vẫn được sử dụng sức mạnh kép

như một lực lượng chính trị, nhất là trong các quá trình bầu cử.

Đây là vấn đề mà Chính phủ Indonesia cần tính đến để đảm bảo tính

hài hòa, phát huy sức mạnh tổng hợp trong giải quyết những cuộc xung đột

sắc tộc, tôn giáo, giữ vững ổn định chính trị xã hội đất nước, bảo vệ và củng

cố độc lập dân tộc.

Thứ ba, mặc dù trong những năm cải cách vừa qua, Inđônêxia đã đạt

được nhiều bước tiến trên con đường dân chủ, nhưng để đi đến một nền dân

chủ phát triển, Inđônêxia còn phải vượt qua nhiều thách thức, khó khăn và

cần khắc phục nhiều hạn chế, tồn tại. Đó là, những yếu kém trong hoạt động

của các đảng chính trị và các tổ chức xã hội dân sự (với việc các đảng phái

nhiều khi hoạt động vì lợi ích riêng của mình mà không phải vì lợi ích của

nhân dân, trong khi các tổ chức xã hội dân sự vẫn thiếu tính liên kết, thiếu

kinh phí hoạt động, nguồn nhân lực chưa tốt...) cũng là lý do khiến quá trình

dân chủ hóa ở Inđônêxia chưa mang lại hiệu quả như mong muốn. Bên cạnh

đó, việc các quyền cơ bản của người dân chưa được đảm bảo, tình trạng tham

125

nhũng còn phổ biến trong xã hội cũng là những rào cản đối với công cuộc cải

cách dân chủ của Inđônêxia hiện nay.

4.2. MỘT SỐ KINH NGHIỆM RÚT RA TỪ ỨNG PHÓ VỚI XUNG ĐỘT

SẮC TỘC, TÔN GIÁO Ở INDONESIA

4.2.1. Kinh nghiệm đối với các nước Đông Nam Á

Vấn đề dân tộc, tôn giáo luôn có vị trí quan trọng trong đời sống chính

trị - xã hội của mỗi quốc gia, nhất là ở các nước Đông Nam Á, nơi có đông

tộc người và đa dạng tôn giáo cùng sinh sống. Thực tiễn giải quyết xung đột

sắc tộc, tôn giáo của Indonesia giai đoạn 1991 - 2015, đưa lại những kinh

nghiệm quí cho các quốc gia Đông Nam Á trong việc giữ vững ổn định chính trị,

phát triển kinh tế cũng như trong công cuộc bảo vệ, củng cố độc lập dân tộc.

Thứ nhất, thực hiện các biện pháp phát triển kinh tế, giáo dục, xóa đói

giảm nghèo, thực hiện công bằng xã hội.

Từ phân tích những điểm tương đồng và khác biệt trong nguyên nhân

nảy sinh xung đột dân tộc, sắc tộc ở Indonesia và các quốc gia Đông Nam Á

cho thấy, một trong các nguyên nhân khiến các cuộc xung đột sắc tộc, tôn

giáo bùng nổ, đặc biệt là các cuộc xung đột sắc tộc, tôn giáo trong một quốc

gia là do vấn đề bất bình đẳng và bất công về kinh tế. Khi các nguồn lợi của

sự tăng trưởng kinh tế không được phân phối đều trong xã hội, giữa các dân

tộc, các cộng đồng sắc tộc thì sẽ dẫn đến sự phân hóa giàu nghèo, bất công

trong xã hội, kết hợp với sự bất công trong hệ thống giáo dục làm cho các

mâu thuẫn trong lòng xã hội nổi lên, lâu dần tích tụ và phát triển thành các

xung đột sắc tộc, tôn giáo. Do vậy, từ kinh nghiệm của Indonesia cho thấy, có

thể giải quyết được phần nào các cuộc xung đột sắc tộc, tôn giáo bằng cách

quan tâm đến việc giảm dần những bất bình đẳng và bất công về kinh tế tồn

tại trong xã hội. Cụ thể: chính phủ các nước cần chủ động tìm ra những giải

pháp phù hợp như thông qua phát triển kinh tế, giáo dục, xóa đói giảm nghèo

để giải quyết những bất bình đẳng và bất công. Chính phủ cần có chính sách

126

đảm bảo quyền tài nguyên thiên nhiên, quyền được hưởng lợi nhuận khai thác

của các dân tộc; phải có kế hoạch phát triển kinh tế cân đối, hài hòa giữa các

vùng miền; xây dựng các chương trình mục tiêu ở các vùng dân tộc ngoại vi

như chương trình xóa đói giảm nghèo, chương trình trồng rừng theo các dự

án, chương trình phát triển kinh tế - xã hội ở các vùng đặc biệt khó khăn; đảm

bảo quyền được lao động và có tài sản. Chính sách điều chỉnh lương có lợi

cho người lao động trực tiếp và trợ cấp về giáo dục và đào tạo cho những

người gặp nhiều khó khăn là một chính sách đem lại hiệu quả tốt, làm cho sự

chênh lệch về mức sống và thu nhập giữa các nhóm cộng đồng dân tộc thu

hẹp. Các chính phủ cần thi hành chính sách đoàn kết dân tộc theo hướng phát

triển kinh tế, nâng cao dân trí, tổ chức đời sống tiến bộ; phát huy tiềm năng,

thế mạnh của các vùng, của mỗi dân tộc. Chính sách xây dựng và cung cấp

nhà ở cho người dân với giá rẻ, các hộ gia đình thuộc các dân tộc khác nhau

cùng sống trong một khu chung cư với điều kiện, môi trường xã hội như nhau

nhằm giúp họ xóa bỏ được những mặc cảm, ngăn cách. Có chính sách ưu tiên

phát triển giáo dục và đào tạo ở các vùng dân tộc; bảo vệ và khẳng định

quyền ngôn ngữ dân tộc trong xã hội cũng như trong hệ thống giáo dục đào

tạo quốc dân. Chính sách cần quy định tất cả các học sinh ở độ tuổi đi học đều

được đến trường, không phân biệt dân tộc, tôn giáo,... và cần thêm những biện

pháp hữu hiệu nhằm giúp thế hệ trẻ gần gũi nhau và hòa nhập với nhau hơn...

Trong bối cảnh hiện nay, để giải quyết xung đột dân tộc, tôn giáo kinh

nghiệm từ Indonesia cho thấy, các quốc gia ở Đông Nam Á phải đẩy mạnh

công nghiệp hóa, hiện đại hóa; ứng dụng các thành tựu khoa học, công nghệ

để thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các dân tộc, khoảng cách giàu nghèo,

khoảng cách giữa trung tâm và ngoại vi, khoảng cách giữa các nước; giữ được

nhịp độ phát triển kinh tế cao, tránh được nguy cơ tụt hậu so với các khu vực

khác trên thế giới; hội nhập sâu hơn nữa vào nền kinh tế thế giới, hòa chung

vào dòng chảy toàn cầu hóa, mở rộng quan hệ giữa các nước...

127

Thứ hai, giải quyết tốt mối quan hệ dân tộc, tôn giáo với chính quyền

Các quốc gia Đông Nam Á đều có điểm tương đồng là đa tôn giáo, sắc

tộc, nên sự hài hòa của các sắc tộc, tôn giáo để không còn là nguyên nhân nảy

sinh xung đột không phải do tự nhiên mà có, do đó, Chính phủ phải coi trọng

công tác tôn giáo, dân tộc. Chính phủ phải chú ý giải quyết các mối quan hệ

tôn giáo, sắc tộc, tăng cường hướng dẫn tôn giáo, thông qua việc chế định

chính sách và để thực hiện công tác quản lý hoạt động tôn giáo. Chính phủ

cũng cẩn phải xử lý tốt mối quan hệ giữa dân tộc, tôn giáo và chính trị, tránh

để các mâu thuẫn tích tụ ngày một trầm trọng bùng phát thành xung đột rất

khó giải quyết. Ví dụ: việc thực hiện chủ trương đồng hóa văn hóa để xây

dựng quốc gia dân tộc thống nhất, chính phủ Indonesia đã chọn ngôn ngữ

chính thức là tiếng Bahasa Indonesia (tiếng của người Java đa số), đồng thời

thực hiện xóa bỏ hoặc hạn chế nền giáo dục truyền thống Hồi giáo của các

nhóm người thiểu số Phật giáo ở Tây Papua hay Aceh là một nguyên nhân

quan trọng khiến cho họ nổi dậy đấu tranh đòi quyền lợi, đòi ly khai. Rõ ràng

việc thừa nhận ngôn ngữ của một dân tộc nào đó làm ngôn ngữ chính thức

của quốc gia, trong con mắt của các dân tộc khác tức là thừa nhận những đặc

quyền đặc lợi của một dân tộc. Nó khoét sâu thêm sự bất bình về quyền bình

đẳng giữa các dân tộc, tộc người. Đa số xung đột sắc tộc, tôn giáo hiện nay ở

một số nước Đông Nam Á đều có sự chi phối của chính quyền trung ương hay

của bộ máy nhà nước nằm trong tay một dân tộc đa số, buộc các dân tộc thiểu

số bị thống trị phải tồn tại ngoài lề cộng đồng quốc gia. Nhân sự trong bộ máy

chính quyền ở các cấp từ trung ương đến địa phương thường mang tính chất

bè phái, cục bộ và thường dựa trên đa số áp đảo của dân tộc đa số. Ở

Indonesia, các đời tổng thống từ ngày đất nước này giành được độc lập đến

nay đều là người Java. Tổng thống có quyền hành cao nhất, có trách nhiệm

trước quốc hội và trên thực tế tổng thống điều hành bằng sắc lệnh. Tổng

thống kiểm soát các hoạt động của chính phủ và kiểm tra lực lượng vũ trang.

128

Tổng thống bổ nhiệm các bộ trưởng, các thống đốc. Tất cả các viên chức cao

cấp của nhà nước đều chịu trách nhiệm trước tổng thống. Dĩ nhiên phần lớn

các nhân sự cao cấp đều là người của tổng thống, người Java. Người ta không

nhận thấy một gương mặt cao cấp nào là người Tây Papua, người Aceh trong

bộ máy chính quyền qua các đời tổng thống [67, tr.85]. Thêm vào đó, biện

pháp đàn áp quân sự của chính phủ Indonesia đối với các cuộc xung đột sắc

tộc, tôn giáo là một trong những nguyên nhân khiến cho các cuộc xung đột

càng trở nên phức tạp, dai dẳng khó giải quyết. Kết quả của chính sách này có

thể nói là kém hiệu quả, thậm chí là thất bại.

Song, đây chính là những kinh nghiệm quý cho các nước Đông Nam Á

trong giải quyết xung đột, có nguyên nhân liên quan đến chính sách của chính

phủ. Kinh nghiệm của Indonesia cho thấy, việc giải quyết một cách khéo léo

mối quan hệ giữa dân tộc, tôn giáo với chính quyền có vai trò cực kỳ quan

trọng trong việc giải quyết các vấn đề xung đột sắc tộc và tôn giáo. Các chính

phủ cần phải thừa nhận sự đa dạng về văn hóa, tôn giáo và tôn trọng bản sắc

riêng của mỗi tộc người trong mỗi quốc gia, tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng

tôn giáo của mỗi người dân, đối xử bình đẳng giữa các tôn giáo, dân tộc và

đặc biệt là phải kiên trì nguyên tắc tách biệt giữa chính trị và tôn giáo. Giữa

tôn giáo và chính trị cần phải có sự khu biệt rạch ròi, các đoàn thể tôn giáo

không nên cuốn vào chính trị. Cần xây dựng nhà nước thế tục, xây dựng mối

quan hệ giữa nhà nước và các tổ chức tôn giáo trên cơ sở tự do tín ngưỡng ở

cả ba khâu: theo đạo, hành đạo và quản đạo; ổn định đời sống tôn giáo, hoạt

động tôn giáo và công tác tôn giáo; không bảo trợ một tôn giáo này lấn át một

tôn giáo khác. Nhà nước cần ban hành pháp luật tôn giáo, luôn duy trì và phát

triển xu hướng tôn giáo đồng hành với quốc gia dân tộc.

Kinh nghiệm của Indonesia cũng cho thấy, chính sách đàn áp các cuộc

xung đột sắc tộc, tôn giáo của chính quyền từ trước tới nay là kiên quyết,

thẳng tay và nhất quán, nhưng vẫn không giải quyết được xung đột. Rõ ràng

129

việc sử dụng bạo lực không giải quyết được vấn đề xung đột dân tộc, tôn

giáo, vấn đề li khai dân tộc. Do vậy, một trong những ưu tiên của chính phủ

các nước Đông Nam Á là phải giải quyết tốt mối quan hệ giữa dân tộc, tôn

giáo với nhà nước. Đây là một việc làm rất cần thiết và thường xuyên, trong

đó nhà nước phải có chính sách tôn trọng dân tộc, tôn giáo và quan tâm thực

sự đến công tác tôn giáo, dân tộc. Chính phủ các nước cũng phải tiến hành đối

thoại hòa bình kịp thời ngay từ khi có dấu hiệu mâu thuẫn trong nội bộ dân

tộc, tôn giáo hay liên quan đến chính quyền và ở một số quốc gia thông qua

đối thoại đã thu được kết quả khá tốt hoặc có bước tiến triển, hạn chế sự phức

tạp và phá vỡ được bế tắc, mang lại hòa bình cho mọi người.

Để giải quyết hiệu quả các cuộc xung đột sắc tộc, tôn giáo, chính phủ

các quốc gia Đông Nam Á cần tăng cường sự hợp tác như: phong tỏa

đường biển, kiểm soát chặt chẽ đường biên, hình thành một diễn đàn hợp

tác an ninh như kiểu ARF; Shangri-La, để cùng nhau ngăn chặn các xung

đột, bạo loạn hay khủng bố. Liệt kê những tổ chức như Phong trào Aceh tự

do (GAM); Mặt trận giải phóng Hồi giáo Moorro (MILF), Tổ chức giải

phóng Thống nhất Pattani PULO (Thái Lan),...vào danh sách những tổ

chức khủng bố. Từ đó hợp tác, thống nhất các biện pháp như không cấp

visa, trục xuất các thành viên lãnh đạo, phong tỏa tài chính, ngăn chặn

nguồn cung cấp từ bên ngoài, tiến tới cô lập hoàn toàn các tổ chức này. Có

thể chính phủ các nước Đông Nam Á không tán đồng quan điểm đánh đồng

xung đột dân tộc, tôn giáo với chủ nghĩa khủng bố và việc hợp tác nêu trên

cũng trái với nguyên tắc của ASEAN là không can thiệp vào công việc nội

bộ của nhau. Nhưng chính thái độ không dứt khoát với các xung đột trong

khu vực của chính phủ các nước Đông Nam Á đã làm xao lãng an ninh khu

vực, tạo điều kiện cho chủ nghĩa khủng bố, ly khai dân tộc phát triển. Nên

kinh nghiệm từ Indonesia cho thấy, chính phủ các nước Đông Nam Á cần

hợp tác cùng nhau tìm ra giải pháp thích hợp cho giải quyết xung đột, chứ

130

không phải cùng nhau xây dựng một thể chế độc tài bóp nghẹt dân chủ

trong vấn đề dân tộc và tôn giáo.

Thứ ba, các sắc tộc, tôn giáo phải thực hiện tăng cường đối thoại với

nhau để giải quyết những mâu thuẫn, xung đột, hạn chế những ảnh hưởng

tiêu cực đến từ bên ngoài.

Kinh nghiệm của Indonesia trong giải quyết xung đột về tôn giáo cho

thấy, các tôn giáo lớn như Hồi giáo, Thiên Chúa giáo… thường tự cho mình là

chính thống giáo, còn các tôn giáo khác đều là bàng môn tả đạo, cần phải loại

trừ, đây chính là một trong những nguyên nhân dẫn đến xung đột sắc tộc, tôn

giáo. Vì lý do đó, chính phủ ở các quốc gia Đông Nam Á cần tạo điều kiện cho

các tôn giáo nhận thức được vấn đề, tăng cường đối thoại để hiểu nhau, tìm ra

những điểm tương đồng, hay dị biệt giữa các tôn giáo, từ đó sửa chữa những

thông tin sai hay những cái nhìn méo mó của tín đồ về các tôn giáo khác. Theo

đó, các tôn giáo khác cũng hướng theo đối thoại hòa bình. Tất cả các quốc gia,

dân tộc, tổ chức tôn giáo trên thế giới nếu có những bất đồng nhưng có thiện chí

để tìm ra những bước đi phù hợp sẽ góp phần không nhỏ trong việc hạn chế sự

xung đột dân tộc, tôn giáo mang lại sự bình yên cho nhân loại.

Hiện nay, khi khủng bố quốc tế đã bị "xóa sổ" ở phương diện Nhà nước

(IS) tại Trung Đông, những chiến binh Hồi giáo "đầu quân" cho IS có nguồn

gốc từ Indonesia, Malaysia, Singapore, Thái Lan, nay trở về làm gia tăng

nguy cơ xung đột tôn giáo, khủng bố tại khu vực. Chiến binh Hồi giáo là

những trai tráng không có việc làm, cảm thấy tương lai mờ mịt và họ được

các tổ chức cực đoan giải thích rằng sở dĩ xã hội không tốt đẹp là do sự xâm

nhập của các chuẩn mực văn hóa xa lạ, đạo đức đồi bại… và họ sẽ được

hưởng đời sống vĩnh cửu ở thiên đường nếu chấp nhận hy sinh cho sự nghiệp

của đạo. Từ đó họ sẵn sàng khủng bố để tấn công khủng bố các kẻ thù của

đạo, họ được coi là các chiến binh "tử vì đạo" [86]. Nhận thức sâu sắc về

hiểm họa xung đột tôn giáo của chủ nghĩa khủng bố, các nước Đông Nam Á

131

đã tiến hành nhiều biện pháp ở cấp quốc gia và khu vực để trấn áp và đi tới

loại bỏ nguyên nhân này. Chính sách mà nhiều chính phủ Đông Nam Á đưa

ra là, chống "khủng bố mới" phải đi đôi với xây dựng nền "hòa bình mới", đó

là giảm phân nửa số người rất nghèo, bảo đảm giáo dục cấp tiểu học cho tất

cả trẻ em, nước sạch cho mọi gia đình và chặn đứng dịch AIDS vào năm 2015

như mục tiêu thiên niên kỷ đã đề ra [149]. Từ kinh nghiệm của Indonesia, đàn áp

vũ trang các băng nhóm khủng bố không phải là giải pháp đấu tranh duy nhất.

Chính phủ các nước Đông Nam Á đã dùng sách lược đàm phán, gây chia rẽ

trong băng nhóm khủng bố, dụ dỗ một số nhân vật chỉ huy, đẩy những đối tượng

cứng đầu vào phe thiểu số khi đó mới dùng biện pháp cứng rắn đè bẹp bằng vũ

lực [148]. Ngoài ra, phát biểu tại Hội nghị Bộ trưởng An ninh Indonesia

(8/2016) - Tướng Wiranto - nhấn mạnh: "Cần sử dụng công nghệ cao để ngăn

chặn các mạng lưới khủng bố sử dụng internet làm công cụ quảng bá, tuyển

dụng, tấn công mạng; truyền bá tư tưởng cực đoan cũng như cần phải tìm ra biện

pháp để ngăn chặn hiệu quả các nguồn tiền tài trợ cho khủng bố" [68].

Như vậy là, giải quyết xung đột sắc tộc, tôn giáo là một vấn đề toàn

cầu, cần phải có sự chung tay góp sức của cả nhân loại, của tất cả các quốc

gia và tổ chức quốc tế trên thế giới. Để giải quyết mâu thuẫn, nguồn gốc của

xung đột dân tộc, tôn giáo, nhiều quốc gia đã có những giải pháp theo tình

hình thực tế của mỗi nước. Những kinh nghiệm thành công cũng như không

thành công trong giải quyết xung đột sắc tộc, tôn giáo của Indonesia, đều rất

quý báu đối với các nước đa dân tộc, đa tôn giáo ở Đông Nam Á. Những kinh

nghiệm đó đã giúp các quốc gia Đông Nam Á giải quyết các xung đột sắc tộc,

tôn giáo trên lãnh thổ nước mình, góp phần đem lại môi trường an ninh, hòa

bình, hợp tác cùng phát triển cho khu vực.

4.2.2. Kinh nghiệm đối với Việt Nam

Việt Nam, tuy là một đất nước đa dân tộc, tôn giáo, việc giải quyết

xung đột dân tộc, tôn giáo cũng có những nét tương đồng như Indonesia và

132

các nước khác trong khu vực Đông Nam Á, nhưng tình hình dân tộc, tôn giáo

ở Việt Nam có thể nói là khá ổn định do có sự đoàn kết, hòa hợp cao và cũng

bởi Đảng, Nhà nước Việt Nam có những chủ trương, chính sách đúng đắn về

vấn đề dân tộc cũng như vấn đề tôn giáo. Tuy nhiên, những kinh nghiệm

thành công cũng như không thành công trong giải quyết xung đột sắc tộc, tôn

giáo của Indonesia đều là những bài học đáng trân trọng, có giá trị tham khảo

để chúng ta làm tốt hơn nữa trong thực hiện các chính sách dân tộc, tôn giáo.

- Một là, không được chủ quan, cần đẩy mạnh hơn nữa các chính sách

nâng cao đời sống, văn hóa tinh thần cho các dân tộc và tôn giáo, nhất là ở

vùng sâu, vùng xa biên giới, hải đảo.

Chúng ta không được chủ quan, vì Việt Nam là quốc gia đa tôn giáo và

đa dân tộc. Ở nước ta, trong những năm đầu thế kỷ XXI cũng từng xảy ra vụ

bọn phản động lưu vong bịa đặt ra cái gọi là Nhà nước Đề Ga độc lập và Tin

Lành Đề Ga ở Tây Nguyên nhằm tuyên truyền, kích động, gây xung đột sắc

tộc, tạo tiền đề cho sự chia rẽ, ly khai, gây mất ổn định an ninh chính trị, trật

tự an toàn xã hội. Lợi dụng chính sách tự do tín ngưỡng, tự do tôn giáo của

Nhà nước, một số phần tử phản động nhân danh những người Thiên chúa giáo

chân chính đã tìm cách tạo ra sự hiềm khích lương - giáo, giữa đa số người

dân không theo đạo với giáo dân ở một số khu vực, vùng miền. Các phần từ

này thường dùng chiêu bài đòi lại đất cũ của nhà thờ, hay cố tình tạo ra biến

cố xung đột với chính quyền địa phương bằng những hành động vi phạm pháp

luật, nội quy, trật tự nơi công cộng. Sở dĩ một số kẻ cố tình gây rối, bất chấp

pháp luật như vậy vì chúng tin rằng, có thể thông qua việc tạo ra những xung

đột tôn giáo, sắc tộc để những thế lực đứng đằng sau mượn cớ "tự do, nhân

quyền" lên án cái gọi là "đàn áp tôn giáo, sắc tộc" của Nhà nước ta. Bất chấp

đạo lý, bất chấp pháp luật, một số kẻ ngang nhiên dựng nhà trái phép trên khu

bảo tồn chứng tích tội ác chiến tranh khu tháp chuông nhà thờ Tam Tòa

(Đồng Hới - Quảng Bình) [150]; tụ tập trái phép gây mất trật tự công cộng và

133

đập phá tài sản một số cơ quan ở khu vực 42 Nhà Chung (Hà Nội), phá hoại

tài sản của Công ty may Chiến Thắng ở Thái Hà (Hà Nội) [55]; vụ xây

dựng trái phép cây thánh giá bằng bê tông, cốt thép trên đỉnh núi Chẽ (còn

gọi là núi Thờ) thuộc huyện Mỹ Đức (Hà Nội); hay vụ "xưng vua - lập

Vương quốc Mông" ở huyện Mường Nhé, tỉnh Điện Biên năm 2011 [145],

mục đích của các thế lực thù địch là tuyên truyền phản cách mạng, truyền

đạo trái pháp luật vào vùng đồng bào dân tộc thiểu số trên địa bàn, nhằm

gây rối, cố tình tạo xung đột với chính quyền địa phương... Rõ ràng, đó là

những hành động không phù hợp với tôn chỉ của bất cứ tôn giáo nào, đặc

biệt là của những người Thiên chúa giáo chân chính với mong ước "sống

phúc âm trong lòng dân tộc", cùng với cộng đồng xã hội xây dựng một

cuộc sống "tốt đời, đẹp đạo". Đó cũng chỉ là hành vi của một số phần tử

phản động, cố tình làm theo sự giật dây của các thế lực thù địch, nhằm tạo

ra những bất ổn xã hội.

Còn ở nửa sau thập niên thứ 2 của thế kỷ XXI, trong bối cảnh những

cuộc xung đột, chiến tranh sắc tộc, tôn giáo tại một số quốc gia Đông Nam Á

có chiều hướng tăng, một số lực lượng cực đoan tiến hành chính sách khủng

bố, đe dọa nền hòa bình và ổn định của khu vực, thì Việt Nam vẫn tự hào là

một quốc gia hòa bình không có xung đột, hiềm khích sắc tộc, tôn giáo. Có

thể nói, chưa bao giờ hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo lại sôi nổi, mạnh mẽ và

được quan tâm như hiện nay. Theo thống kê của Ban Tôn giáo chính phủ, tính

đến năm 2015, cả nước có 12 tôn giáo với trên 22 triệu tín đồ, 80 nghìn chức

sắc, nhà tu hành, 32 tổ chức và trên 25 nghìn nơi thờ tự. Sinh hoạt tín ngưỡng,

tôn giáo diễn ra sôi nổi và đang có chiều hướng gia tăng. Các lễ Nôen, lễ Phật

đản cũng như những lễ trọng khác của các tôn giáo và tín ngưỡng dân gian trở

thành ngày hội chung của toàn dân, lôi cuốn hàng vạn người tham gia. Nhu

cầu sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo chính đáng ấy được chính quyền các địa

phương tạo điều kiện đáp ứng. Việc xây dựng, sửa chữa, tu bổ nơi thờ tự diễn

134

ra khắp nơi. Nhiều chính quyền địa phương còn cấp đất cho giáo hội làm nơi

thờ tự, sinh hoạt tôn giáo [117].

Thực tế đó đã nói lên, Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn quan tâm,

chăm lo đời sống vật chất, tinh thần cho tín đồ tôn giáo, bảo đảm cho các tôn

giáo phát triển hài hòa, đồng hành cùng dân tộc. Giáo hội các tôn giáo khi

được Nhà nước công nhận tư cách pháp nhân đều được chính quyền các cấp

quan tâm và tạo thuận lợi để hoạt động tôn giáo bình thường trong khuôn khổ

luật pháp. Tại Việt Nam trong hơn 30 năm đổi mới đã chứng minh: tình hình

tôn giáo, tín ngưỡng về cơ bản ổn định; hệ thống quy phạm pháp luật về tôn

giáo, tín ngưỡng được bổ sung, hoàn thiện; công tác vận động quần chúng và

công tác quản lý nhà nước về tôn giáo, tín ngưỡng, về an ninh, trật tự ở cơ sở

ngày càng được chú trọng, hướng hoạt động theo phương châm "tôn giáo

đồng hành cùng dân tộc". Những năm gần đây, trung bình mỗi năm Nhà xuất

bản Tôn giáo cấp phép xuất bản hơn một nghìn ấn phẩm liên quan đến tôn

giáo, với hơn hai triệu bản in. Đặc biệt, Nhà nước Việt Nam đã quan tâm hỗ

trợ hoàn thành in ấn, xuất bản 30.000 cuốn Kinh thánh bằng các tiếng: Ba-na,

Ê-đê, Gia-rai; Kinh, sách Phật giáo Nam tông K’mer; Kinh thánh Tin lành

bằng tiếng Mông hệ chữ cái La-tinh và làm thủ tục xuất bản Kinh Cô-ran

song ngữ Việt Nam - Ả rập. Kinh sách của Phật giáo cũng đã được đưa vào

kế hoạch in ấn bằng tiếng K’mer… Việc mở trường đào tạo, bồi dưỡng chức

sắc tôn giáo luôn được Nhà nước Việt Nam tạo điều kiện thuận lợi. Hằng

năm, các tôn giáo đều cử tu sĩ đi học tập, hội thảo, trao đổi công việc liên

quan đến tôn giáo với các nước. Một số tu sĩ đã bảo vệ thành công luận văn

thạc sĩ, luận án tiến sĩ về tôn giáo ở nước ngoài [123].

Tuy nhiên, bên cạnh việc tôn trọng và bảo vệ quyền tự do tín ngưỡng

của công dân, chủ trương của Đảng, luật pháp của Nhà nước Việt Nam cũng

đồng thời nghiêm cấm và ngăn chặn mọi hành vi lợi dụng tôn giáo phá hoại

độc lập và đoàn kết dân tộc, chống phá chủ nghĩa xã hội, ngăn cản tín đồ làm

135

nghĩa vụ công dân; đấu tranh và xử lý nghiêm đối với mọi hành động lợi dụng

tín ngưỡng, tôn giáo làm tổn hại đến lợi ích của Tổ quốc và nhân dân. Chính

vì vậy, những kiểu "bàng môn, tả đạo", đội lốt tôn giáo để chống phá Nhà

nước, xúi giục nhân dân gây chia rẽ, mất đoàn kết dân tộc, lợi dụng lòng tin

của nhân dân để làm băng hoại đạo đức xã hội, vì mục đích cá nhân đen tối…

phải bị xử lý nghiêm minh theo pháp luật. Những năm gần đây, hàng loạt tà

đạo đã bị vạch trần như Đạo Hoa vàng, Long Hoa Di Lặc (ở Bắc Bộ); đạo

Vàng chứ (ở Tây Bắc); đạo Y-Gyin, Hà Mòn, Thanh Hải vô thượng sư, Canh

tân đặc sủng, Tin lành Đề ga (ở Tây Nguyên); Hội đồng công án Bia Sơn (ở

Phú Yên) [117] … Việc xử lý đó là việc làm hoàn toàn chính đáng, hợp pháp

nhằm bảo vệ an ninh trật tự, kỷ cương phép nước mà bất cứ quốc gia nào

cũng đều thực hiện để giữ vững ổn định xã hội, được nhân dân và hàng triệu

tín đồ tôn giáo chân chính hoan nghênh.

Kinh nghiệm giải quyết xung đột sắc tộc, tôn giáo của Indonesia còn

cho thấy, cần lưu ý đến tính đặc thù của các vùng mà ở đó có số dân theo tôn

giáo chiếm số lượng lớn tại lãnh thổ của một quốc gia láng giềng, liền kề với

mình có sự gần gũi về chủng tộc, ngôn ngữ, tôn giáo. Trong tâm thức của

nhóm dân cư này luôn coi nhau là những người bà con, những người anh em.

Nhưng lịch sử lại không cho họ có sự trùng khít về biên giới lãnh thổ quốc

gia. Ở những nơi này hay nảy sinh mâu thuẫn, nhất là khi có thế lực xấu lợi

dụng đặc điểm này làm cho việc giải quyết vấn đề dân tộc, tôn giáo phức tạp

hơn. Ở Việt Nam, vùng Tây Nam Bộ nơi có đông đồng bào K’mer sinh sống

và có "quốc gia K’mer" Campuchia láng giềng là mang đặc điểm này. Chính

vì vậy, trong những năm qua, Chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam

luôn quan tâm chăm lo đời sống vật chất, tinh thần cho tín đồ Phật giáo Nam

tông K’mer, bảo đảm cho họ phát triển hài hòa với đồng bào các dân tộc anh

em. Chúng ta cũng luôn quan tâm xây dựng, vun đắp tình đoàn kết hữu nghị

truyền thống giữa nhân dân hai nước Việt Nam - Campuchia. Nhân dân hai

136

nước Việt Nam và Campuchia luôn sát cánh cùng nhau hợp tác trên nguyên

tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp công

việc nội bộ của nhau, chân thành hỗ trợ nhau cùng phát triển. Campuchia

hòa bình, phát triển thịnh vượng trong khu vực Đông Nam Á ổn định và phát

triển cũng chính là lợi ích của Việt Nam. Bên cạnh đó, Việt Nam và

Campuchia cần cảnh giác, ngăn chặn kịp thời mọi âm mưu chống phá của

các thế lực thù địch cả bên trong và bên ngoài đã và đang sử dụng văn hóa

"bôi nhọ" và "vu khống" tìm cách xuyên tạc lịch sử của mối quan hệ đoàn

kết, hữu nghị truyền thống, cũng như âm mưu kích động chủ nghĩa dân tộc

hẹp hòi, kỳ thị dân tộc, phủ nhận sự thật về quan hệ đoàn kết chiến đấu giữa

hai nước. Một ví dụ sinh động cần nhắc đến là, cố Chủ tịch nước Trần Đại

Quang, năm 2016 đã dành chuyến công du nước ngoài đầu tiên đến thăm

Campuchia và giành thời gian đến thăm các đại tăng thống đứng đầu giáo

phái Phật giáo Tiểu thừa và Đại thừa của Campuchia, với mong muốn vun

đắp tình hữu nghị truyền thống của hai nước [1].

Đối với vấn đề dân tộc và công tác dân tộc, trong suốt quá trình lãnh

đạo cách mạng, Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn xác định: "Vấn đề dân tộc

và đoàn kết dân tộc luôn luôn có vị trí chiến lược trong sự nghiệp cách mạng

Việt Nam" và "Giải quyết đúng đắn vấn đề dân tộc là một nhiệm vụ có tính

chiến lược của cách mạng Việt Nam" [99, tr.166]. Hệ thống chính sách dân

tộc của Đảng và Nhà nước Việt Nam trong thời kỳ đổi mới gồm nhiều chính

sách lớn nhỏ, được thực hiện trên tất cả các lĩnh vực: chính trị, kinh tế, xã hội,

an ninh quốc phòng, môi trường...Trong đó, Việt Nam đặc biệt quan tâm

chăm lo đến công tác xóa đói giảm nghèo, thực hiện định canh định cư, phát

triển vùng kinh tế mới đối với đồng bào các dân tộc thiểu số ở vùng sâu, vùng

xa, biên giới, hải đảo. Ngày 4/4/2013, Thủ tướng Chính phủ đã ký ban hành

Quyết định 551/QĐ-TTg phê duyệt Chương trình 135 về hỗ trợ đầu tư cơ sở

hạ tầng, hỗ trợ phát triển sản xuất cho các xã đặc biệt khó khăn, xã biên giới,

137

xã an toàn khu, các thôn, bản đặc biệt khó khăn (gọi tắt là Chương trình 135)

[132]. Theo đó, Chương trình gồm 2 hợp phần chính: Hỗ trợ phát triển sản

xuất và đầu tư cơ sở hạ tầng (bao gồm cả duy tu bảo dưỡng các công trình sau

đầu tư). Về thời gian thực hiện: giai đoạn 2012 - 2015 tập trung nguồn lực

góp phần hoàn thành các chỉ tiêu, mục tiêu của Chương trình mục tiêu quốc

gia Giảm nghèo bền vững, tạo tiền đề để thực hiện mục tiêu cao hơn cho giai

đoạn 2016 - 2020.

Để cụ thể hóa chủ trương, chính sách dân tộc và vận dụng sáng tạo vào

hoàn cảnh cụ thể của từng địa phương, Việt Nam đã quan tâm đến việc nâng

cao năng lực tổ chức thực hiện của các cấp, các ngành để mang lại hiệu quả

cao; gắn phát triển kinh tế với xây dựng hệ thống chính trị. Chăm lo xây dựng

hệ thống chính trị cơ sở vùng dân tộc, tăng cường đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ

cán bộ dân tộc thiểu số. Thông qua đó, khắc phục tâm lý thụ động, ỷ lại trông

chờ sự bao cấp của Nhà nước, phát huy tính tích cực, sáng tạo của đồng bào các

dân tộc ở từng địa bàn vào quá trình phát triển sản xuất, nâng cao đời sống,

không để "dư địa" cho các thế lực xấu có thể xâm nhập, lợi dụng chống phá, bảo

vệ an ninh quốc phòng, môi trường sinh thái, tạo ra sự phát triển bền vững.

Ngoài ra, trong những năm đổi mới Việt Nam đã mở rộng quan hệ đối ngoại,

tăng cường hợp tác quốc tế trong lĩnh vực công tác dân tộc. Nguồn vốn ODA

của các nước, các tổ chức quốc tế và các tổ chức Phi chính phủ dành cho Việt

Nam đã có những đóng góp quan trọng trong phát triển cơ sở hạ tầng, kinh tế -

xã hội, góp phần tích cực trong công cuộc xóa đói giảm nghèo của cả nước nói

chung và khu vực đồng bào dân tộc thiểu số ở vùng sâu, vùng xa nói riêng.

Như vậy là, trên cơ sở thực tiễn tình hình dân tộc, tôn giáo tại Việt

Nam, tham khảo kinh nghiệm giải quyết vấn đề này của Indonesia và các

quốc gia Đông Nam Á khác, trong những năm đổi mới nước ta đã thực hiện

tốt công tác dân tộc, tôn giáo, không để xảy ra những xung đột lớn kéo dài,

gây mất ổn định chính trị, xã hội. Trong quá trình hội nhập quốc tế, Việt Nam

138

chủ động tuyên truyền, khẳng định chủ trương, chính sách dân tộc đúng đắn

của Đảng, Nhà nước đối với cộng đồng quốc tế; tranh thủ sự ủng hộ của cộng

đồng quốc tế, kiên quyết ngăn chặn các âm mưu lợi dụng các vấn đề dân tộc

của các thế lực thù địch hòng chống phá sự nghiệp cách mạng ở Việt Nam.

Hai là, Việt Nam cần xây dựng một nền an ninh nhân dân vững mạnh,

phát hiện sớm và ngăn chặn kịp thời các tư tưởng, hành động cực đoan, chăm

lo xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc, tôn giáo.

Trước tình hình biến động phức tạp của thế giới như thế, nhưng Việt

Nam vẫn tự hào là một quốc gia hòa bình không có xung đột, hiềm khích sắc

tộc, tôn giáo. Đây chính là kết quả của việc Việt Nam trong những năm qua

đã thực hiện tốt chính sách phát triển kinh tế - xã hội, mà trực tiếp là chính

sách dân tộc, tôn giáo, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân các

dân tộc, các tôn giáo, củng cố xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, thực

hiện thắng lợi công cuộc đổi mới, theo mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội

công bằng, dân chủ, văn minh. Thông qua việc thực hiện tốt chính sách dân

tộc, tôn giáo, chúng ta đã vô hiệu hoá được sự lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn

giáo của các thế lực thù địch. Thật vậy, chăm lo nâng cao đời sống vật chất

tinh thần của đồng bào các dân tộc, các tôn giáo chính là giải pháp quan

trọng, xét đến cùng có ý nghĩa nền tảng để vô hiệu hoá sự lợi dụng của kẻ thù.

Khi đời sống vật chất, tinh thần được nâng cao, đồng bào sẽ đoàn kết, tin

tưởng vào Đảng, Nhà nước, thực hiện tốt quyền lợi, nghĩa vụ công dân thì

không kẻ thù nào có thể lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo để chống phá cách

mạng Việt Nam. Tham khảo những kinh nghiệm thành công cũng như chưa

thành công của Indonesia trong giải quyết xung đột dân tộc, tôn giáo, trên cơ

sở thực tiễn nước mình, trong những năm qua Việt Nam đã tuân thủ những

vấn đề có tính nguyên tắc trong xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc theo tư

tưởng Hồ Chí Minh: xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân phải dựa trên nền

tảng khối liên minh công - nông - trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng. Thực

139

hiện đại đoàn kết phải rộng rãi, lâu dài. Mở rộng, da dạng hoá các hình thức

tập hợp nhân dân, nâng cao vai trò của Mặt trận và các đoàn thể nhân dân.

Kiên quyết đấu tranh loại trừ nguy cơ phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc.

Để có thế trận an ninh nhân dân vững mạnh, Việt Nam quan tâm phát

huy vai trò của cả hệ thống chính trị. Chúng ta vận động, phát huy vai trò của

những người có uy tín trong các dân tộc, tôn giáo cùng tham gia xây dựng hệ

thống chính trị ở cơ sở vùng dân tộc, vùng tôn giáo. Thực hiện chính sách ưu

tiên trong đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng đội ngũ cán bộ cả cán bộ lãnh đạo quản

lí và cán bộ chuyên môn kỹ thuật, giáo viên là người dân tộc thiểu số, người

có tôn giáo Bởi đây là đội ngũ cán bộ sở tại có rất nhiều lợi thế trong thực

hiện chính sách dân tộc, tôn giáo. Đổi mới công tác dân vận vùng dân tộc, tôn

giáo theo phương châm: chân thành, tích cực, thận trọng, kiên trì, vững chắc;

sử dụng nhiều phương pháp phù hợp với đặc thù từng dân tộc, từng tôn giáo.

Thế trận an ninh nhân dân giúp chúng ta phát hiện từ sớm, từ xa, ngăn

chặn kịp thời những tư tưởng, hành động cực đoan lợi dụng vấn đề dân tộc,

tôn giáo chống phá cách mạng Việt Nam của các thế lực thù địch. Chính

quyền cơ sở cần thường xuyên vạch trần bộ mặt phản động của kẻ thù để

nhân dân nhận rõ và không bị mắc lừa. Đồng thời, vận động, bảo vệ đồng bào

các dân tộc, tôn giáo để đồng bào tự vạch mặt bọn xấu cùng những thủ đoạn

xảo trá của chúng. Việt Nam cũng đã phát huy tốt vai trò của các phương tiện

thông tin đại chúng trong cuộc đấu tranh này.

Hiện nay, các thế lực thù địch lợi dụng những kênh truyền hình trên

internet, hàng ngàn trang web và mạng xã hội để xuyên tạc chủ trương, đường

lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; tuyên truyền, cổ vũ giá trị

dân chủ tư sản, tuyệt đối hóa tính toàn cầu, tính phổ cập của quyền con người

với luận điệu: "nhân quyền cao hơn chủ quyền"; "lợi ích cá nhân cao hơn lợi

ích cộng đồng, quốc gia". Đồng thời, xuyên tạc, bóp méo những hạn chế, yếu

kém trong quản lý xã hội, những sơ hở, thiếu sót trong thực hiện chính sách,

140

pháp luật hoặc những vụ việc phức tạp nảy sinh trong lĩnh vực dân tộc, tôn

giáo nhằm vu cáo Nhà nước vi phạm dân chủ, nhân quyền, đàn áp dân tộc,

tôn giáo, tạo cớ để bên ngoài can thiệp. Thông qua internet, mạng xã hội, các

thế lực thù địch đẩy mạnh các chiến dịch "phá hoại tư tưởng", kích động, lôi

kéo nhân dân tham gia biểu tình, gây mất an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã

hội, hạ thấp uy tín Việt Nam trên trường quốc tế. Trước thực trạng trên,

những năm qua, Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương, chính sách chỉ đạo công

tác bảo vệ an ninh mạng và phòng, chống hoạt động lợi dụng internet, mạng

xã hội chống phá nước ta, như: Chỉ thị 28-CT/TW, ngày 16-9-2013 của Ban

Bí thư (khóa XI) "Về tăng cường công tác đảm bảo an toàn thông tin mạng";

Chỉ thị 15/CT-TTg, ngày 17-6-2014 của Thủ tướng Chính phủ "Về tăng

cường công tác bảo đảm an ninh và an toàn thông tin mạng trong tình hình

mới"; Luật An toàn thông tin mạng năm 2016 và mới đây nhất là Luật An ninh

mạng [40]. Ban Tuyên giáo Trung ương đã tăng cường chỉ đạo, nâng cao hiệu

quả công tác quản lý báo chí, xuất bản, internet; xác định rõ trách nhiệm của cơ

quan chủ quản trong đấu tranh, phản bác các thông tin và luận điệu sai trái, âm

mưu, hoạt động lợi dụng internet, mạng xã hội để chống phá Đảng, Nhà nước.

Không chỉ có vậy, các cơ quan chuyên trách còn chủ động, nhạy bén, ứng dụng

những thành tựu khoa học kỹ thuật vào việc nắm tình hình, nghiên cứu, dự báo,

phát hiện kịp thời âm mưu, thủ đoạn, đặc biệt là phương thức hoạt động mới của

các thế lực thù địch trên không gian mạng. Việc phát hiện phải bảo đảm từ xa, từ

bên ngoài, từ trung tâm của chúng để tham mưu đúng, trúng và kịp thời triển

khai các biện pháp nhằm phòng ngừa, đấu tranh, ngăn chặn hiệu quả việc lợi

dụng internet, mạng xã hội chống phá nước ta. Tổ chức tốt phong trào toàn dân

bảo vệ an ninh Tổ quốc, vận động quần chúng nhân dân tích cực tham gia phòng

ngừa, phát hiện và kiên quyết đấu tranh với các đối tượng chống phá.

Ngoài ra, chúng ta cần quan tâm đầu tư, trang bị các phương tiện, thiết

bị và áp dụng những thành tựu khoa học kỹ thuật hiện đại nhằm phục vụ hiệu

141

quả công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm trên không gian mạng. Từ kinh

nghiệm của Indonesia, Việt Nam cần chú trọng hơn nữa công tác vận động,

tranh thủ sự ủng hộ của các cá nhân, tổ chức quốc tế, đặc biệt là các chính

khách nhằm tạo sức mạnh tổng hợp, phòng ngừa, đấu tranh có hiệu quả với

hoạt động lợi dụng không gian mạng, lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo chống

phá nước ta.

Tiểu kết chương 4

Xung đột sắc tộc, tôn giáo ở Indonesia giai đoạn 1991- 2015 có một số

đặc điểm rất đáng chú ý. Về bản chất, phần lớn các cuộc xung đột đó là xung

đột lợi ích giữa các cộng đồng dân cư khác nhau về sắc tộc, tôn giáo, giữa

chính phủ và cư dân ở những tình vùng sâu, vùng xa, giàu có về tài nguyên

thiên nhiên, nhưng lại ít được hưởng lợi từ sự phát triển của đất nước. Các

cuộc xung đột sắc tộc, tôn giáo ở Indonesia có nhiều điểm tương tự như các

cuộc xung đột cùng loại ở Nam Thái Lan, Nam Philippines về nguyên nhân,

về mục tiêu và hình thức thể hiện sự xung đột. Tuy nhiên, khác với xung đột

ở 4 tỉnh miền Nam, Thái Lan, xung đột ở Indonesia là xung đột giữa những

người cùng chủng tộc Mã Lai. Địa bàn diễn ra các cuộc xung đột sắc tộc, tôn

giáo rất cách xa nhau chứ không tập trung vào một địa bàn duy nhất như

trong truồng hợp ở Thái lan và Philippines.

Quá trình đấu tranh giải quyết xung đột sắc tộc, tôn giáo của chính

phủ Indonesia đã đạt được những thành tựu quan trọng. Đó là chặn đứng được

đà li khai sau khi Đông Timo tách khỏi Indonesia, là thiết lập lại sự ổn định

chính trị- xã hội tạo tiền đề cho kinh tế Indonesia tăng trưởng lên tục trong

những năm vừa qua.

Từ quá trình giải quyết xung đột, chính phủ Indonesia đã có thêm

những kinh nghiệm, những bài học tốt trong quản trị cả ở cấp độ quốc gia, lẫn

cấp độ địa phương.

142

Tuy nhiên cuộc đấu tranh giải quyết xung đột sắc tộc tôn giáo ở

Indonesia cũng bộc lộ nhiều hạn chế lớn. Cho tới nay, xung đột sắc tộc tôn

giáo, sắc tộc vẫn diễn ra ở một số địa phương, tuy quy mô và mức độ nghiêm

trọng đã giảm xuống. Việc sử dụng quân đội để trấn áp xung đột đã và đang

tạo cơ hội cho quân đội Indonesia tái lập lại vai trò kép, vốn đã bị loại bỏ sau

khi chế độ độc tài, quân phiệt của Suharto bị sụp đổ.

Xung đột sắc tộc tôn giáo ở Indonesia có nhiều điểm tương đồng,

nhưng cũng có những khác biệt rõ rệt so với các xung đột sắc tộc, tôn giáo ở

các nước khác ở Đông Nam Á. Do vậy, quá trình ứng phó với xung đột sắc

tộc, tôn giáo của chính phủ Indonesia có thể cung cấp nhiều kinh nghiệp bài

học tốt không chỉ cho các nước Đông Nam Á, nói chung, cho Việt Nam, nói

riêng. Bài học quan trọng nhất cho cả Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam, là

phải lôi cuốn được tất các sắc tộc, tôn giáo vào quá trình xây dựng quốc gia -

dân tộc. Sự lôi cuốn đó không phải bằng cách áp đặt các thể chế chính trị - xã

hội thế tục lên tất cả các cộng đồng sắc tộc, tôn giáo mà bằng cách khai thác

và phát huy các thể chế chính trị truyền thống của các sắc tộc, tôn giáo, phù

hợp và đáp ứng tốt các yêu cầu của quá trình xây dựng quốc gia - dân tộc,

không phân biệt tầm cỡ và loại hình tôn giáo mà các sắc tộc theo đuổi. Bài

học lớn thứ hai là xây dựng được những chiến lược phát triển không chỉ bền

vững mà cả đồng đều để tất cả các cộng đồng sắc tộc, tôn giáo có thể được

thụ hưởng một cách công bằng các kết quả phát triển chung của đất nước.

143

KẾT LUẬN

1. Xung đột sắc tộc, tôn giáo không phải là hiện tượng mới và chỉ xuất

hiện ở Indonesia sau khi Chiến tranh Lạnh kết thúc. Trong lịch sử xây dựng

và phát triển quốc gia - dân tộc của nước này, hiện tượng trên đã diễn ra khá

phổ biến, ít nhất là từ sau khi Indonesia giành được độc lập dân tộc từ tay

thực dân Hà Lan.

2. Dưới sự cai trị của chế độ độc tài, quân phiệt do tướng Suharto đứng

đầu (1965- 1998), các cuộc xung đột sắc tộc, tôn giáo ở Indonesia đã được đặt

trong vòng kiểm soát. Nhờ đó, mục tiêu xây dựng quốc gia "Thống nhất trong

đa dạng" được hiện thực hóa. Hệ tư tưởng "Pancasila" được tất cả các cộng

đồng sắc tộc, tôn giáo ở Indonesia chấp nhận là hệ tư tưởng quốc gia, dù có

thể chỉ là miễn cưỡng đối với các cộng đồng sắc tộc, tôn giáo có truyền thống

lịch sử phát triển lâu dài với hệ tư tưởng và bản sắc văn hóa riêng.

Bước vào thời kỳ Sau Chiến tranh Lạnh, đặc biệt là từ khi chế độ "Trật

tự mới" sụp đổ (9/1998), các cuộc xung đột tôn giáo, sắc tộc đã bùng phát trở

lại ở Indonesia, tạo nên mối đe dọa nghiêm trọng đối với độc lập dân tộc và

toàn vẹn lãnh thổ của nước này. Ngoài sự thay đổi quyền lực ở cấp độ quốc

gia, nhiều nhân tố khác đã tác động tới sự nổi dậy của nhiều cộng đồng sắc

tộc, tôn giáo ở Indonesia.

Về phương diện lý luận, đó là khát vọng độc lập, chủ quyền và ý thức

ngày càng sâu sắc về quyền tự quyết dân tộc, tự do tôn giáo, bảo tồn bản sắc

văn hóa của các cộng đồng sắc tộc đó. Những biến đổi trong bản đồ chính trị

thế giới với sự xuất hiện của hàng chục quốc gia mới trên lãnh thổ của Liên

xô, Tiệp khắc, Nam Tư trước đây là một nhân tố khách quan quan trọng làm

trỗi dậy tinh thần và ý chí li khai khỏi Indonesia của các cộng đồng sắc tộc,

tôn giáo lớn ở Indonesia, đặc biệt là Đông Timor, Aceh và Tây Papua …

Môi trường chính trị, văn hóa thế giới phức tạp do sự xuất hiện và lan

truyền tư tưởng bài xích tôn giáo, đặc biệt là Đạo Hồi, của các phần tử sô

144

vanh chủng tộc, tôn giáo ở các nước Âu - Mỹ và sự phản ứng của của các lực

lượng Hồi giáo cực đoan quốc tế được phản ánh rõ nhất qua cuộc đánh bom

nhằm vào nước Mỹ ngày 11/9/2001 là một nhân tố khách quan khác thúc đẩy

sự bùng phát trở lại phong trào khi khai ở Indonesia.

Về chủ quan, vị trí địa lý đặc thù, tầm quan trọng địa chiến lược, sự đa dạng

về sắc tộc, tôn giáo, vốn là những tiền đề thuận lợi cho sự nảy sinh xung đột sắc

tộc, tôn giáo vẫn tiếp tục là các nhân tố tác động tới xung đột tôn giáo, sắc tộc ở

Indonesia giai đoạn 1991-2015. Ngoài ra, sự quá độ sang nền dân chủ đa nguyên

ở nước này cũng tạo cơ hội cho các lực lượng ly khai hoạt động trở lại.

3. Xung đột sắc tộc, tôn giáo đã xảy ra trên khắp lãnh thổ Indonesia và

phát triển thành các phong trào ly khai, nhất là ở Đông Timo, Aceh, Tây

Papua và Sulawesi. Nền độc lập dân tộc, toàn vẹn lãnh thổ của Indonesia bị

đe dọa nghiêm trọng, do các phong trào này đều theo đuổi mục tiêu tách khỏi

Indonesia, để trở thành các quốc gia độc lập..

4. Để giữ vững độc lập dân tộc và sự toàn vẹn lãnh thổ của mình, các

nội các kết tiếp nhau ở Indonesia đã thực hiện đồng thời nhiều giải pháp cả

ngắn hạn và trung hạn. Các biện pháp ngắn hạn bao gồm trấn áp và đàm phán

nhằm đáp ứng các yêu sách của các cộng đồng sắc tộc, tôn giáo đang nổi dậy,

trừ yêu sách ly khai khỏi nước Cộng hòa. Còn các biện pháp dài hạn là tiến

hành cải cách chính trị: sửa đổi luật bầu cử, trao quyền cho các địa phương và

điều chỉnh chiến lược phát triển theo hướng bền vững và đồng đều nhằm giải

quyết các nguyên nhân gốc rẽ của xung đột sắc tộc, tôn giáo.

5. Về bản chất, xung đột sắc tộc, tôn giáo ở Indonesia không phải là

xung đột giữa các sắc tộc hay cộng đồng tôn giáo ở nước này. Nó chỉ có vẻ

ngoài như vậy mà thôi. Nguyên nhân thật sự đằng sau các cuộc xung đột đó là

những mâu thuẫn lợi ích về chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa giữa các cộng

đồng sắc tộc và tôn giáo đó. Những mâu thuẫn này nảy sinh từ những sai lầm

trong quản trị ở cấp độ quốc gia cũng như ở cấp độ địa phương.

145

6. Quá trình đấu tranh bảo vệ và củng cố độc lập dân tộc của Indonesia

thông qua giải quyết với các xung đột sắc tộc, tôn giáo đã đạt được những

thành quả vô cùng quan trọng. Việc chặn đứng được đà ly khai, không để kịch

bản "Ban căng hóa" Indonesia có cơ hội hiện thực hóa là thành quả lớn nhất

và căn bản nhất. Nhờ đó, tình chính trị ở Indonesia dần trở lại ổn định tạo cơ

hội cho kinh tế Indonesia phát triển mạnh trong mấy năm gần đây. Một thành

tựu khác không kém tầm quan trọng là những kinh nghiệm, những bài học mà

chính phủ Indonesia có thê rút ra từ chính quá trình giải quyết xung đột sắc

tộc, tôn giáo ở nước họ.

7. Bên cạnh những thành tựu trên, quá trình giải quyết xung đột sắc tộc,

tôn giáo ở Indonesia cũng còn không ít hạn chế. Những cuộc xung đột lớn đã

được khắc phục, nhưng những xung đột nhỏ, ít có khả năng đe dọa độc lập

dân tộc của Indonesia vẫn xảy ra, nhất là trong các dịp bầu cử các cơ quan

quyền lực ở cấp trung ương hay địa phương. Điều này là khó tránh khỏi vì đặc

thù lãnh thổ, dân tộc và tôn giáo của Indonesia. Đó là chưa kể một số phần tử

trong quân đội và cảnh sát Indonesia cố tình kéo dài xung đột để trục lợi kinh tế

hoặc chứng tỏ tầm quan trọng của họ trong an ninh nội địa của đất nước.

Hạn chế lớn thứ hai nảy sinh từ việc sử dụng quân đội vào trấn áp các

cuộc nổi dậy có màu sắc sắc tộc, tôn giáo. Vai trò "kép" của quân đội

Indonesia, vốn đã bị xóa bỏ sau sự sụp đổ của chế độ quân phiệt Suharto,

đang có nguy cơ được tái lập lại.

8. Là những quốc gia Đông Nam Á đa sắc tộc, đa tôn giáo, các xung

đột sắc tộc, tôn giáo ở Indonesia có nhiều điểm tương đồng cả về nguyên

nhân, mục tiêu và hình thức thể hiện với các cuộc xung đột sắc tộc tôn giáo ở

Thái lan, Myanmar hay Philippines. Tuy nhiên, xung đột ở Indonesia có những

khác biệt rõ rệt. Đó là: các cuộc xung đột ở Indonesia chủ yêu là xung đột giữa

những người có chung nguồn gốc chủng tộc Mã lai, ngôn ngữ Mã lai; sự khác

biệt giữa họ chỉ là thờ phụng đạo Hồi hay đạo Thiên chúa mà thôi.

146

9. Nghiên cứu quá trình giải quyết xung đột sắc tộc, tôn giáo ở

Indonesia có thể rút ra nhiều kinh nghiệm hữu ích cho các nước Đông Nam

Á, trong dó có Việt Nam, khi phải ứng phó với các xung đột tương tự như ở

Indonesia. Kinh nghiệm quan trọng nhất là quá trình xây dựng Quốc gia- Dân

tộc thành công hay thất bại ở một nước tùy thuộc vào việc chính phủ các nước

đó có thể lôi cuốn được sự tham gia của tất cả các sắc tộc, bất kể là đa số, hay

thiểu số, các cộng đồng tôn giáo, không phân biệt họ là tín đồ của Thiên chúa

giáo, Hồi giáo, Phật giáo, hay không. Sự lôi cuốn đó phải là kết quả của quá

trình xây dựng ý thức quốc gia- dân tộc, của cảm nhận thuộc về quốc gia mà

các sắc tộc đó đang sinh sống và phát triển chứ không phải là sự áp đặt hệ tư

tưởng, các chuẩn mực về đạo đức và giá trị của dân tộc đa số lên các sắc tộc

thiểu số.

Một bài học quan trọng khác là phải xây dựng được một chiến lược

phát triển phù hợp với thực tế của đất nước không chỉ về địa hình, lãnh thổ,

kết cấu sắc tộc, tôn giáo mà cả trình độ phát triển của các cộng đồng dân cư ở

các vùng miền khác nhau của đất nước. Chiến lược đó phải là chiến lược phát

triển bền vững và đồng đều, có khả năng duy trì nguồn tài nguyên thiên nhiên

của đất nước và tạo cơ hội cho mọi người dân, không phân biệt sắc tộc, tôn

giáo, được thụ hưởng công bằng các thành tựu phát triển của đất nước.

147

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ

1. Thái Văn Long, Trần Văn An (2017), "Về tiêu chí đánh giá việc xử lý

mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và chủ động, tích cực hội nhập

quốc tế", Tạp chí Cộng sản, (898).

2. Nguyễn Hữu Cát, Trần Văn An (2018), "Quan hệ giữa một số nước lớn

xung quang vấn đề Nhà nước Hồi giáo tự xưng IS", Tạp chí Nghiên

cứu châu Phi và Trung Đông, (08).

3. Trần Văn An (2019), "Xung đột sắc tộc và tôn giáo ở Cộng hòa

Indonesia giai đoạn 1991-2015", Tạp chí Nghiên cứu châu Phi và

Trung Đông, (02).

148

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Thu An (2016), "Việt Nam hòa bình trong cuộc chiến xung đột sắc tộc

tôn giáo trên thế giới", Tạp chí Đông Nam Á, (18).

2. Kim Anh (2006), "Giảm tỷ lệ hộ nghèo ở Tây Nguyên, Tây Bắc và Tây

Nam bộ", tại trang https://www.tienphong.vn/xa-hoi/giam-ty-le-ho-

ngheo-o-tay-nguyen-tay-bac-va-tay-nam-bo-1057006.tpo, [truy nhật

ngày 01/12/2018].

3. Lê Vân Anh, Nguyễn Văn Tận (2005), Lịch sử Đông Nam Á từ sau chiến

tranh thế giới thứ hai đến nay (1945 - 1999), Nxb Giáo dục, Hà Nội.

4. Vũ Thị Vân Anh (2004), Indonesia với hợp tác Á - Âu, Đề tài nghiên cứu

khoa học cấp bộ, Viện nghiên cứu Đông Nam Á, Hà Nội.

5. D.N.Aidich (1959), Xã hội Indonesia và cách mạng Indonesia, Nxb Sự

thật, Hà Nội.

6. D.N.Aidich (1964), Cách mạng Indonesia và nhiệm vụ cấp bách của

Đảng Cộng sản Indonesia, Nxb Sự thật, Hà Nội.

7. Bách khoa toàn thư mở Wikipedia, "Chính trị Indonesia" tại trang

https://vi.wikipedia.org/wiki/Ch%C3%ADnh_tr%E1%BB%8B_Ind

onesia, [truy cập ngày 15/12/2018].

8. Ban Nghiên cứu Đông Nam Á (2015), Tư liệu về chính sách đối ngoại

của Indonesia, Hà Nội.

9. Ban Tuyên giáo Trung ương (2019), "Xung đột dân tộc, tôn giáo ở một

số nước và giải pháp", tại trang http://tcnn.vn/news/detail/

6330/Xung_dot_dan_toc_ton_giao_o_mot_so_nuoc_va_giai_phapa

ll.html, [truy cập ngày 21/9/2018].

10. Đỗ Thanh Bình (1999), Con đường cứu nước trong đấu tranh giải phóng

dân tộc của một số nước châu Á, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.

11. Đỗ Thanh Bình (2006), Lịch sử phong trào giải phóng dân tộc trong thế

kỷ XX - Một cách tiếp cận, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội.

149

12. Bộ Công an (1999), Indonesia và vấn đề Đông Timo, Hà Nội.

13. Bộ Ngoại giao, Vụ ASEAN (1998), Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á,

Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

14. Bộ Ngoại giao (2015), Tuyên bố về sự Hoà hợp ASEAN II, Hà Nội.

15. Bộ Quốc phòng Mỹ (2005), Báo cáo tường trình của Bộ Quốc phòng Mỹ

thì trong năm 2004 hơn 80% dầu nhập vào Trung Quốc phải đi qua

eo biển Malacca, Mỹ.

16. Jean Bruhat (1976), Lịch sử Indonesia, Nxb Đại học Pháp, P.U.F.

17. Nguyễn Đình Chính (2004), Ảnh hưởng của Hồi giáo trong nền chính trị

Indonesia từ 1945 đến nay, Luận văn thạc sĩ Lịch sử, Trường Đại

học Khoa hội và xã hội nhân văn, Hà Nội.

18. Nguyễn Đình Chính (2008), "Biểu tình đốt phá thánh đường Hồi giáo

Indonesia", tại trang VNEXPRESS. Tin nhanh Viet Nam, [truy cập

ngày 29/12/2018].

19. C.J.Christie (2000), Lịch sử Đông Nam Á hiện đại, Nxb Chính trị quốc

gia, Hà Nội.

20. Chương trình phát triển của Liên hợp quốc (2000), Báo cáo phát triển

con người 1999, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

21. Chương trình phát triển của Liên hợp quốc (2000), Báo cáo phát triển

con người 1999, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

22. Chương trình phát triển của Liên Hợp Quốc (2001), Báo cáo phát triển

con người 2000, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

23. Ngô Văn Doanh (1993), Indonesia, đất nước - con người, Nxb Thông

tin, Hà Nội.

24. Ngô Văn Doanh (1994), Tâm lý hướng tới sự "Thống nhất trong đa

dạng" của người Indonesia, Tìm hiểu lịch sử - văn hoá Đông Nam Á

hải đảo, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.

25. Ngô Văn Doanh (1995), Indonesia những chặng đường lịch sử, Nxb

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

150

26. Ngô Văn Doanh, Cao Xuân Phổ, Trần Thị Lý (2000), Nghệ thuật Đông

Nam Á, Nxb Lao động, Hà Nội.

27. Hạnh Dung (2002), "Đông Timor: quá khứ và hiện tại", tại trang

https://vnexpress.net/the-gioi/dong-timor-qua-khu-va-hien-tai-

2055913.html, [truy cập ngày 10/3/2019].

28. Trần Tú Dung (1999), "Bước đầu tìm hiểu thích ứng văn hóa cộng đồng

dân tộc Hoa ở Indonesia trong gần 30 năm qua", Tạp chí Địa lý

nhân văn, (14).

29. Phạm Đức Dương (2013), Lịch sử - văn hoá Đông Nam Á, Nxb Văn hóa

thông tin, Hà Nội.

30. Dư Xuân Dương (2016), "Chỉnh hợp chính trị ở các nước đa dân tộc

đang phát triển: điểm chung, khó khăn và cách hóa giải - trên cơ sở

so sánh giữa Indonesia và Nigeria", Báo Đại học Dân tộc Tây Nam,

(kỳ thứ 7).

31. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc

lần thứ VII, Nxb Sự thật, Hà Nội.

32. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc

lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

33. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc

lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

34. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc

lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

35. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc

lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.

36. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc

lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.

37. Nguyễn Điền (1997), Công nghiệp hoá nông nghiệp, nông thôn các nước

châu Á và Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

151

38. Thăng Điệp (2018), "Kinh tế Indonesia chính thức cán mốc nghìn tỷ

USD", tại trang http://vneconomy.vn/kinh-te-Indonesia-chinh-thuc-

can-moc-nghin-ty-usd-20180103205750886.htm, [truy cập ngày

4/01/2018].

39. Đỗ Đức Định (1994), Kinh tế các nước ASEAN, Nxb Khoa học xã hội,

Hà Nội.

40. Hữu Đoàn (2018), "Mấy giải pháp phòng chống hoạt động lợi dụng

internet mạng xã hội chống phá Việt Nam", tại trang

http://tapchiqptd.vn/vi/phong-chong-dbhb-tu-dien-bien-tu-chuyen-

hoa/may-giai-phap-phong-chong-hoat-dong-loi-dung-internet-

mang-xa-hoi-chong-pha-viet-nam/12644.html, [truy cập ngày

11/2/2019].

41. Phạm Văn Đức (2003), "Tác động của sự mất ổn định Indonesia đối với

Đông Nam Á", Khoa học Quân sự, (8).

42. D.G.E. Hall (1997), Lịch sử Đông Nam Á, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

43. Nguyễn Văn Hà (1995), "Cải cách kinh tế ở Indonesia từ đầu thập kỷ

80", Nghiên cứu Đông Nam Á, (3).

44. Nguyễn Văn Hà (1999), "Tác động xã hội của khủng hoảng tài chính ở

Indonesia", Nghiên cứu Đông Nam Á, (5), tr.75-76.

45. Phương Hà (2003), "Phát triển hợp tác khu vực", Báo Nhân dân, thứ 7,

ngày 7/6/2003.

46. Nguyễn Thị Phương Hạnh (2017), "Diễn biến mới về bạo lực ở Đông

Nam Á, dữ liệu từ địa phương cho thấy", tại trang https://

cvdvn.net/2017/12/01/dien-bien-moi-ve-bao-luc-o-dong-nam-a-du-

lieu-tu-dia-phuong-cho-thay/, [truy cập ngày 01/12/2018].

47. Châu Thị Hải (1999), "Làm thế nào để huy động nguồn lực kinh tế người

Hoa cho sự phát triển của ASEAN", Nghiên cứu Đông Nam Á, (35),

tr.17-25.

152

48. Châu Thị Hải (2001), "Người Hoa ở Indonesia với cuộc khủng hoảng tài

chính - tiền tệ", Nghiên cứu Đông Nam Á, (46), tr.38-42.

49. Nguyễn Thanh Hải (2006), "Bối cảnh ra đời và xu thế phát triển của các

đảng chính trị Hồi giáo ở Đông Nam Á, trường hợp Indonesia và

Malaisia", Nghiên cứu Đông Nam Á, (6).

50. Phạm Hảo (2007), Một số giải pháp góp phần ổn định và phát triển Tây

Nguyên hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

51. Trương Thị Thanh Hiền, Vũ Thị Hương Giang (2014), "Lý Quang Diệu

viết về Đông Nam Á và Việt Nam", tại trang

http://nghiencuuquocte.org/wp-content/uploads/2013/12/nghiencuu

quocte-net-109-ly-quang-dieu-viet-ve-dong-nam-a-va-viet-nam.pdf,

[truy cập ngày 21/12/2018].

52. Dương Phú Hiệp (1996), Con đường phát triển của một số nước châu Á -

Thái Bình Dương, Nxb Chính trị quốc gia, Hà nội.

53. Trịnh Thị Hoa (2014), Quá trình đấu tranh củng cố độc lập dân tộc của

Liên bang Malaysia từ năm 1957 đến năm 1990, Luận án tiến sĩ

Lịch sử, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

54. Chu Tuấn Hoa (2016), "Nghiên cứu vấn đề chia rẽ dân tộc Aceh ở

Indonesia dưới góc độ chỉnh hợp quốc gia", tại trang

http://www.cistudy.cn/bencandy.php?fid=4&id=2901, [truy cập

ngày 12/12/2018].

55. Trần Quang Hòa (2010), "Những mưu đồ đen tối núp bóng tôn giáo đã

lộ nguyên hình", tại trang http://www.nhandan.com.vn/chinhtri

/item/15429702-.html, [truy cập ngày 17/09/2018].

56. Nguyễn Huy Hoàng (2001), "Toàn cầu hoá và phát triển kinh tế ở các

nước ASEAN", Nghiên cứu Đông Nam Á, (50), tr.58-63.

57. Vũ Lê Thái Hoàng, Lê Linh Lan (2004), "Vai trò của ngoại giao đa

phương trong CSĐN của quốc gia tầm trung: Trường hợp của

Indonesia", Tạp chí Nghiên cứu Quốc tế, (97).

153

58. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Thông tin khoa học

(2003), "Một số vấn đề về dân tộc và tôn giáo", Thông tin chuyên

đề, (01), tr.46-48.

59. Học viện Quan hệ quốc tế (1999), Cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ ở

khu vực. Nguyên nhân và tác động, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

60. Nguyễn Huy Hồng (1990), Indonesia - Các nước Đông Nam Á, Nxb Sự

thật, Hà Nội.

61. Nguyễn Huy Hồng (2000), "Đảng Goikar trên chính trường Indonesia",

Vòng quanh Đông Nam Á, (7), tr.30.

62. Nguyễn Huy Hồng (2000), "Indonesia - Tiếp bước trên con đường dân

chủ", Vòng quanh Đông Nam Á, (1), tr.10-11.

63. Nguyễn Huy Hồng (2006), Indonesia trong cuộc chiến chống khủng bố,

Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

64. Nguyễn Văn Hồng (1993), "Indonesia: Lý thuyết điều chỉnh chính sách -

cách nhìn lịch sử và bài học kinh nghiệm", Nghiên cứu châu Á -

Thái Bình Dương, (17).

65. Nguyễn Văn Hồng (2008), Indonesia: Lý thuyết điều chỉnh chính sách -

cách nhìn lịch sử và bài học kinh nghiệm, Nxb Viện Hàn lâm khoa

học Hà Nội, Hà Nội.

66. Đào Duy Huân (1997), Kinh tế các nước Đông Nam Á, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

67. Nguyễn Duy Huệ (2012), Ly khai và vấn đề ly khai dân tộc ở một số

nước Đông Nam Á sau Chiến tranh lạnh, Luận văn Thạc sĩ Quốc tế

học, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Hà Nội.

68. Hữu Hưng (2016), "Khai mạc Hội nghị quốc tế chống khủng bố tại Bali,

Indonesia", tại trang http://vtv.vn, [truy cập ngày 10/08/2018].

69. Lê Thanh Hương (2008), Xung đột giữa người Dayak và Madura ở Tây

Kalimantan (Borneo), Indonesia, Nxb Khoa học và xã hội, Hà Nội.

70. Hoàng Văn Huyền (1997), Địa lý kinh tế các nước Đông Nam Á, Nxb

Giáo dục, Hà Nội.

154

71. Khắc Huỳnh, Sanh Phúc (2001), Lịch sử các nước ASEAN, Nxb Trẻ,

Thành phố Hồ Chí Minh.

72. Trần Khánh (1993), "Vị trí của tư bản người Hoa trong kinh tế các nước

Đông Nam Á", Đông Nam Á trên đường phát triển, Nxb Khoa học

xã hội, Hà Nội.

73. Trần Khánh (2002), "Tính mở trong hội nhập quốc tế của Đông Nam Á",

Nghiên cứu Đông Nam Á, (8), tr.7-9.

74. Trần Khánh (2002), "Vị thế địa - chính trị Đông Nam áÁthập niên đầu

thế kỷ XXI", Tap chí Cộng sản, (21), tr.60-64.

75. Trần Khánh (2002), Liên kết ASEAN trong bối cảnh toàn cầu hoá, Nxb

Khoa học xã hội, Hà Nội.

76. Trần Khánh (2006), Những vấn đề chính trị, kinh tế Đông Nam Á thập

niên đầu thế kỷ XXI, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

77. Trần Khánh, Phạm Đức Thành (2006), Việt Nam trong ASEAN- Nhìn lại

và hướng tới, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

78. Đinh Nguyên Khê (1996), "Chính sách ngôn ngữ các nước Đông Nam Á

hải đảo", Ngôn ngữ trong xã hội công nghiệp hoá, (22), tr.43-68.

79. Hoa Hữu Lân (1999), Quá trình chuyển đổi sang kinh tế thị trường của

các nước đang phát triển (kinh nghiệm của Indonesia), Nxb Chính

trị quốc gia, Hà Nội.

80. Hoa Hữu Lân (2000), Kinh tế Indonesia thực tế và thách thức, Nxb Khoa

học xã hội, Hà Nội.

81. Nguyễn Đình Lễ, Nghiêm Đình Vỳ (1987), Trên đất nước những đảo

dừa, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

82. V.I. Lênin (1964), Bàn về phong trào giải phóng dân tộc, Nxb Sự Thật,

Hà Nội.

83. Lê Thị Liên (2012), Quan hệ Indonesia - Việt Nam (1964 - 2010), Luận

án tiến sĩ Lịch sử, Trường Đại học sư phạm Hà Nội, Hà Nội.

155

84. Phan Ngọc Liên, Nguyễn Sĩ Quế, Ngô Đạt Tân (2005), Phong trào giải

phóng dân tộc của nhân dân châu Á, châu Phi và Mỹ Latinh, Nxb

Giáo dục, Hà Nội.

85. Liên Hiệp quốc (1969), Quyết định của Tòa án Hiến pháp về Luật số

1/PnPs/1969.

86. Thùy Linh (2016), "Đông Nam Á sẽ là cứ địa mới của IS", tại trang

http://vov.vn/, [truy cập ngày 07/8/2018].

87. Phạm Nguyên Long (1995), Các con đường phát triển của ASEAN, Nxb

Khoa học xã hội, Hà Nôị.

88. Thái Văn Long (2006), Độc lập dân tộc của các nước đang phát triển

trong xu thế toàn cầu hóa, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

89. C.Mác -Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 4, Nxb Sự thật, Hà Nội.

90. Nguyễn Kim Minh (2006), Vấn đề ly khai dân tộc ở Đông Nam Á và

những tác động của nó tới khu vực từ 1991 đến năm 2000, Luận văn

thạc sĩ Khoa học lịch sử, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh,

Hà Nội.

91. Nguyễn Thu Mỹ (Chủ biên) (2011), Đông Nam Á trong thời kỳ hòa bình,

phát triển và hội nhập (1991-2010), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

92. Ngân hàng Thế giới (1997), Nợ nước ngoài của các nước đang phát

triển, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

93. Ngân hàng Thế giới (1999), Báo cáo tóm tắt tình hình các nước, Nxb

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

94. Ngân hàng thế giới (2000), Đông Á, con đường dẫn đến phục hồi, Nxb

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

95. Trần Trọng Ngợi (1995), "Indonesia qua những con số", Nghiên cứu

Đông Nam Á (3).

96. Thế Nghĩa (2002), "Indonesia: Xung đột tôn giáo bùng nổ ở Maluku", tại

trang https://vnexpress.net/the-gioi/Indonesia-xung-dot-ton-giao-

bung-no-o-maluku-2051602.html, [truy cập ngày 9/9/2018].

156

97. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia (1998), Hiệp hội các quốc gia Đông

Nam Á (ASEAN), Hà Nội.

98. Nhà xuất bản Khoa học xã hội (2000), Xây dựng ASEAN thành cộng đồng

các quốc gia phát triển bền vững, đồng đều và hợp tác, Hà Nội.

99. Nhà xuất bản Văn hóa (2000), Chính sách và pháp luật của Đảng và

Nhà nước về dân tộc, Hà Nội.

100. Lương Ninh, Đỗ Thanh Bình, Trần Thị Vinh (2005), Lịch sử Đông Nam

Á, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

101. Lương Ninh, Vũ Dương Ninh (2008), Tri thức Đông Nam Á, Nxb Chính

trị quốc gia, Hà Nội.

102. Vũ Dương Ninh (2004), Việt Nam - ASEAN quan hệ đa phương và song

phương, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

103. Indonesia (2009), Vụ khủng bố ngày 31/8/2002 tại thị trấn Timika ở Irian

Jaya; đánh bom tại Bali ngày 12/10/2002; tấn công khách sạn Marriot

của Mỹ ở Jakarta ngày 5/3/2003; đánh bom đại sứ quán Australia ở

thủ đô Jakarta ngày 9/9/2004; đánh bom trên đảo Bali lần 2 năm

2005, đánh bom ở khách sạn Mariot năm 2009, Indonesia.

104. Indonesia (2018), "Tổng quan đất nước Indonesia", tại trang

http://vietnamexport.com/nuoc-lanh-tho/88/tong-quan.html, [truy

cập ngày 17/2/2019].

105. Phong Phong (2017), "Tôn giáo và chính sách tôn giáo của Indonesia" tại

trang http://quyenconnguoi.com, [truy cập ngày 12/05/2018].

106. Đoàn Văn Phúc (2002), Bảo vệ và phát triển ngôn ngữ quốc gia ở

Indonesia, Kỷ yếu Hội thảo khoa học, Thành phố Hồ Chí Minh.

107. Đoàn Văn Phúc (2003), "Chính sách ngôn ngữ ở Indonesia trong hai thập

kỷ qua", Nghiên cứu Đông Nam Á, (1), tr.34-43.

108. Quốc hội (2016), Luật Tín ngưỡng , Tôn giáo năm 2016, Hà Nội.

109. Nguyễn Duy Quý (2001), Tiến tới một ASEAN hòa bình, ổn định và phát

triển bền vững, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

157

110. Đỗ Quyên (2018), "Tăng trưởng kinh tế năm 2018 của Indonesia cao

nhất trong 5 năm", Tạp chí Đông Nam Á, (19).

111. Soekarno (1959), Chủ nghĩa thực dân là một thứ cần phải loại trừ khỏi

thế giới, Nxb Sự thật, Hà Nội.

112. Soekarno (1959), Chúng ta đang cùng đi đến một mục đích chung:

Thống nhất, độc lập, hoà bình, Nxb Sự thật, Hà Nội.

113. Soekarno (1962), Sắc lệnh số 1/1962 của Tổng thống nước Cộng hoà

Indonesia về việc thành lập tỉnh miền Tây Irian, Viện Khoa học xã

hội Việt Nam., Hà Nội.

114. Phạm Minh Sơn (2007), "Toàn cầu hóa và sự vận động của quan hệ

chính trị quốc tế hiện nay", Lý luận chính trị và Truyền thông, (10).

115. Nguyễn Xuân Sơn, Thái Văn Long (1997), Quan hệ đối ngoại của các

nước Đông Nam Á, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

116. Nguyễn Xuân Tế (1998), Thể chế chính trị một số nước ASEAN, Nxb

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

117. Hoàng Đình Thành (2012), "Việt Nam coi trọng và bảo đảm quyền tự do

tín ngưỡng, tôn giáo", tại trang http://btgcp.gov.vn/Plus.aspx/

vi/News/38/0/169/0/2963/Viet_Nam_coi_trong_va_bao_dam_quyen

_tu_do_tin_nguong_ton_giao, [truy cập ngày 13/3/2019].

118. Phạm Đức Thành (2001), Đặc điểm con đường phát triển kinh tế - xã hội

của các nước ASEAN, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

119. Bùi Huy Thành (2012), Vấn đề xung đột sắc tộc-tôn giáo trong sự nghiệp

bảo vệ độc lập dân tộc của Indonesia từ năm 1945 đến 2005, Luận án

tiến sĩ Lịch sử, Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

120. Hồ Thị Thành (2014), Quá trình dân chủ hóa ở Indonesia từ năm 1945

đến nay- nhìn từ góc độ giai cấp trung lưu và xã hội dân sự, Luận

án chuyên ngành Đông Nam Á học, Trường Đại học Khoa học xã

hội và nhân văn, Hà Nội.

158

121. Nguyễn Anh Thái (1999), Lịch sử quan hệ quốc tế, phong trào giải

phóng dân tộc Á - Phi - Mỹ Latinh từ 1918 đến 1995, Nxb Giáo

Dục, Hà Nội.

122. Nghiêm Văn Thái (2002), "Tộc người và xung đột tộc người xét từ góc

độ triết học", Tạp chí Triết học, (6), tr.15-18.

123. Nguyễn Đức Thắng (2013), "Sự thật về tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt

Nam", tại trang http://tapchiqptd.vn/vi/binh-luan-phe-phan/su-that-

ve-tu-do-tin-nguong-ton-giao-o-viet-nam/4729.html, [truy cập ngày

13/2/2019].

124. Nguyễn Duy Thiệu, Phan Thắng (2014), "Đông Nam Á với Việt Nam:

Một cái nhìn về văn hóa", tại trang http://vanhoanghean. com.vn/van-

hoa-va-doi-song27/khach-moi-cua-tap-chi45/dong-nam-a-voi-viet-

nam-mot-cai-nhin-ve-van-hoa, [truy cập ngày 1/2/2019].

125. Thông tấn xã Việt Nam (1999), Sự quá độ chính trị ở Indonesia thời kỳ

hậu Suhattô, Tài liệu Tham khảo đặc biệt, Hà Nội.

126. Thông tấn xã Việt Nam (2006), Tài liệu tham khảo đặc biệt, Hà Nội.

127. Thông tấn xã Việt Nam (2008), Đông Nam Á: Thị trường vũ khí đầy tiềm

năng, Hà Nội.

128. Thông tấn xã Việt Nam (2015), Tài liệu tham khảo đặc biệt, Hà Nội.

129. Thông tấn xã Việt Nam (2016), "Những nguyên nhân dẫn đến xung đột

sắc tộc, tôn giáo", tại trang http://hocday.com/muc-luc-1-nhng-

nguyn-nhn-dn-n-xung-t-sc-tc-tn-gio-4.htm, [truy cập ngày

05/08/2018].

130. Thông tấn xã Việt Nam (2017), "Indonesia: Độc lập là một cây cầu bằng

vàng", tại trang https://bnews.vn/Indonesia-doc-lap-la-mot-cay-

cau-bang-vang/55634.html, [truy cập ngày 22/9/2018].

131. Thông tấn xã Việt Nam (2017), "Phân bổ nguồn thu từ ngành công

nghiệp khai thác ở cấp địa phương", tại trang

159

https://issuu.com/pannature/docs/phanbonguonthu4web042010,

[truy cập ngày 10/11/2018].

132. Thủ tướng Chính phủ (2013), Quyết định 551/QĐ-TTg phê duyệt

Chương trình 135 ngày 04/04/2013, Hà Nội.

133. Nguyễn Thị Thanh Thủy (1993), "Một số vấn đề trong chính sách đối

ngoại của nước Cộng hoà Indonesia dưới chế độ của Tổng thống

Xucácnô", Nghiên cứu Đông Nam Á, (3), tr.79.

134. Nguyễn Thị Thanh Thủy (2014), Một số vấn đề trong chính sách đối

ngoại của Cộng hòa Indonesia với chế độ Tổng thống Soekarno,

Nxb Khoa học và xã hội, Hà Nội.

135. Thư viện Học liệu Mở Việt Nam (2018), Vấn đề dân tộc trong quá trình

xây dựng chủ nghĩa xã hội, tại trang https://voer.edu.vn/c/chuong-9-

van-de-dan-toc-trong-qua-trinh-xay-dung-chu-nghia-xa-

hoi/dc7c6722/22584e49, [truy cập ngày 15/8/2019].

136. Lại Văn Toàn (2001), "Trật tự thế giới sau Chiến tranh lạnh - phân tích

và dự báo", Thông tin Khoa học xã hội, (27).

137. Lê Văn Toàn, Trần Hoàng Kim (1992), Kinh tế các nước ASEAN và khả

năng hoà nhập của Việt Nam, Nxb Thống kê, Hà Nội.

138. Huỳnh Văn Tòng (1998), Lịch sử các quốc gia Đông Nam á từ thế kỷ

XIX đến thập niên 90, Nxb Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh.

139. Tổng cục thống kê (1996), Tư liệu bảy nước thành viên ASEAN: Brunay,

Indonesia, Malaisia, Philippin, Thái Lan, Việt Nam, Singapore, Nxb

Thống kê, Hà Nội.

140. Phạm Thị Huyền Trang (2018), Quá trình đấu tranh giành và củng cố

độc lập ở Indonesia (1927-1965), Luận án tiến sĩ Lịch sử, Trường

của Đại học Sư phạm, Hà Nội.

141. Lưu Ngọc Trịnh (2008), Đầu tư trực tiếp của các nền kinh tế công

nghiệp mới châu Á (NIEs) trong nền kinh tế Indonesia gần đây, Nxb

Khoa học xã hội và nhân văn, Hà Nội.

160

142. Lưu Ngọc Trịnh (1993), "Đầu tư trực tiếp của các nền kinh tế công

nghiệp mới châu Á (NIEs) trong nền kinh tế Indonesia gần đây",

Nghiên cứu Đông Nam Á, (1), tr.53-62.

143. Nguyễn Mai Trung (2009), Thành tựu, kinh nghiệm và những vấn đề

phát triển kinh tế của Thái Lan, Malaysia, Philippin và Indonesia,

Nxb Khoa học xã hội, Hà Nọi.

144. Trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn Quốc gia, Viện Thông tin Khoa

học xã hội (2001), Trật tự thế giới sau chiến tranh lạnh, phân tích

và dự báo, Hà Nội.

145. Nguyễn Ngọc Trường (2015), "Sự thật đằng sau "Vương quốc Mông" tại

Mường Nhé", tại trang http://www.baodienbienphu.info.vn/tin-

tuc/phap-luat/131991/su-that-dang-sau-%E2%80%9Cvuong-quoc-

mong%E2%80%9D-tai-muong-nhe, [truy cập ngày 16/08/2018].

146. Đinh Thanh Tú (2010), Quá trình đấu tranh củng cố độc lập dân tộc của

Cộng hòa Indonesia (1967 - 1998), Luận án tiến sĩ Lịch sử, Học

viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

147. Lưu Mạnh Tú (2008), "Indonesia và vấn đề gạo", Nghiên cứu Đông Nam

Á, (102).

148. Nguyễn Anh Tuấn (2015), "Đông Nam Á: Chiến tuyến thứ hai chống

khủng bố", tại trang https://baoquocte.vn/dong-nam-a-chien-tuyen-

thu-hai-chong-khung-bo-21175.html, [truy cập ngày 17/12/2018].

149. Thủy Tùng (2014), ""Hòa bình mới" chống "chủ nghĩa khủng bố mới",

Báo Tuổi trẻ, ngày 29/9/2014.

150. Đình Tứ (2009), "Nghiêm trị những kẻ vi phạm, bảo vệ chứng tích Tam

Tòa", tại trang http://www.sggp.org.vn/nghiem-tri-nhung-ke-vi-

pham-bao-ve-chung-tich-tam-toa-322567.html, [truy cập ngày

29/7/2018].

151. Viện Khoa học Xã hội Việt Nam (2004), Chủ nghĩa khủng bố toàn cầu

vấn đề và cách tiếp cận, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.

161

152. Viện Nghiên cứu Đông Nam Á (2003), Tài liệu về Hội nghị thượng đỉnh

ASEAN lần IX tại Bali tháng 10/2003, Hà Nội.

153. Viện Nghiên cứu Đông Nam Á (2010), Hiến pháp nước Cộng hoà

Indonesia 1945, Hà Nội.

154. Viện Quan hệ quốc tế giới thiệu (1991), Hội thảo Việt Nam - Indonesia: Vì

hoà bình, ổn định, hữu nghị và hợp tác ở Đông Nam Á, Hà Nội.

155. Phạm Thị Vinh (2007), Một số vấn đề về xung đột sắc tộc và tôn giáo ở

Đông Nam Á, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

156. Phạn Thị Vinh, Nguyễn Huy Hồng (2007), Vấn đề Aceh ở Indonesia,

Nxb Khoa học xã hội và nhân văn, Hà Nội.

157. Trần Thị Vinh (1998), Đông Nam Á từ sau Chiến tranh thế giới Thứ II

đến nay (1945 - 1996), Nxb Giáo Dục, Hà Nội.

158. Vinita Sukrasep (1989), ASEAN trong mối quan hệ quốc tế, Viện Nghiên

cứu an ninh và quốc tế, Trường Đại học Chulalongkom.

159. Nguyễn Trọng Xuân (1997), "So sánh Việt Nam với các nước khác trong

thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài", Nghiên cứu kinh tế, (1), tr.38-44.

Tiếng Anh

160. Andyni Khosasih (2007), "Religious beliefs of Chinese people in

Indonesia", Jurnal Lingua Cultura.

161. Alan Collins (2000), The Security Dilemmas of Southeast Asia St.

Martin’ Press, Institute of Southeast Asia Studies (ISEAS), History.

162. Adrian Vicker (2005), Ethnic Conflics in Southeast Asia,

CambridgeUniversity press.

163. AFTA and Investment in ASEAN (1995), Seminar in Taipei on 21 - 22

February 1995, UPDATE, Jakarta.

164. Amar Bhata Charya and Mari Pangestu (1993), Indonesia Development.

Transformation and Policy, World Bank, October.

162

165. Anthony L.Smith(2005), Indonesia Transforming the Leviathan

InGovernment and Politics in Southeast Asia, Edited by John

Funston.Institute of Southeast Asia, Singapore.

166. Aris Ananta (2015), Evi Nurvidya Arifin, M Sairi Hasbullah, Nur Budi

Handayani, Agus Pramono, Singapore: ISEAS, P. 273.

167. ASEAN in the New Asia (1996), Issues and Trends. Edited by Chia

Siow Yue, Singapore.

168. Awanr Dewi Fortuna (1994), Indonesia In ASEAN. Foreign Policy and

Regionalism, Institute of Southeast Asian Studies, Singapore.

169. Blank Johan (1998), Family of Soeharto is rich, people of Indonesia is

poor, Inter Press Servise on 24th of January.

170. Budimanm, Arief, Hatley, Barbara dan Kingsbury, Damien (1999),

Reformasi - Crisis and Change in Indonesia, Monash Asia Institue.

171. Carpenter, William M dan Wilencek, David G (1996), Asian Security

Handbook - An Assessment of Political-Security Issues in the Asia-

Pacific Region, M.E Shape, Inc.

172. Colin Brow (2004), A short history of Indonesia: The unlikely nation?,

Aillen and Unwin.

173. Dede Rosyada (2016), Harmony in Diversity: A Government Policy and

Mutual Effort of..., Indonesia.

174. Francis Loh Kok Wah and Joakim Ojendal (2005), Southeast Asian

Responses to Globalization, NIAS Press-ISEAS, Singapore.

175. Gatra Priyandita (2016), Behind Indonesia’s Red Scare, Gatra

Priyandita, The Diplomat.

176. George J. Aditjondro (2000), The Political Economy of Violence in

Maluku, Indonesia, Newcastle, February.

177. Geocurrents (2019), Indonesia, at page Geocurrents.info/cultural-

gegraphy/mapping/=religion-in-indonesia, [date 7/9/ 2019].

163

178. Grayson Lloyd, Shannon Smith (2001), Indonesia today - challenges of

history, Rowman and Littlefield publishers.

179. Grover, Verinder (2000), Government And Politics of Asian Countries,

6-Indonesia, Elegant Printer, New Dehli, India.

180. Gunawan Haryono, Daddi Prianto, Agus Sukapti, Sri, Yulia Nuraini và

Ratna (1999), Indonesia yang Berubah, Pusat Data, Jakarta.

181. Hal Hill (1992), The Economy 1991/1992 Assessement Indonesia 1992:

Politica Perspectives on the 1990s, Department of Politica and

Social Change. Research School of Pacific Studies. Australian

National University: Canberra.

182. J. Taylor (2004), Indonesia people and histories, Yale university press.

183. Jacques Berrand (2004), Nationalism and Ethnic Confict in Indonesia.

Cambridge University Press.

184. Julie Chernov Hwang (2018), Why Terrorists Quit: The Disengagement

of Indonesian Jihadists Ithaca, New York, Cornell University Press.

185. Kanai Lai. Hazra (2007), Indonesia (2 vol.), Decentbooks.

186. Karishma Vaswani (2013), "The struggle of religious minorities in

Indonesia", tại trang https://www.bbc.com/news//world-asia-

22165199, [date 15/2/2019].

187. Marianne Kearney (2002), Corruption Rules, Observers Claim: Maluku

strife driven by graft, not religion, Straits Times Indonesia Bureau.

188. M.C.Ricklefs (2004), Sejarah Indonesia Modern 1200, Indonesia.

189. Moctar Kusumaat Madja (1987), Peace, Stability and Prospesity in

Southeast Asia: An Indonesian View, Indonesia Quartely XV, 1987,

tr.489.

190. Indonesia (2018), Indonesia Country Report, Indonesia.

191. Indonesia (2019), "Religion in Indonesia", at page https://www.

Indonesia-investments.com › Culture › Religion, [date 22/2/2019].

164

192. Ikrar Nusa Bhakti, Sri Yanuarti và Mochamad Nurhasim (2009),

"Military Politics, Ethnicity and Conflict in Indonesia" at page

https://assets.publishing.service.gov. uk/media/.../wp62.pdf, [date

15/12/2018].

193. R.E.Elson (2001), Soeharto. A political biography.

194. Rafick, Ishak (2008), Catatan Hitam Lima Presiden Indonesia, Ufuk

Publishing House, Jakarta.

195. Rizal Sukma (1995), The Evolution of Indonesia’s foreign policy: An

Indonesia View, Asian Survey, Vol XXXV, No 3.

196. Rizal Sukma (2003), Islam in Indonesia Foregn Policy, Routledge

Curzon, London and New York.

197. Rizal Sukma (2019), "The Acehnese Rebellion: Sesestionist mouvement

in post SuhartoIndonesia", tại trang www.conflictrecovery.org/

ibett2.doc, [truy cập cập nhật 14/1/2019].

198. S. Drakeley (2005), The history of Indonesia, Greenwood press.

199. Sedyawati Edi (2000), Budaya Indonesia, Kajian Arkeologi, Seni, dan

Sejarah.

200. Sidney Jones (2010), Executive Director, Asia Division.Human Rights

Watch. Causes of Conflict in Indonesia.

201. Sidney Jones (2014), "Lessons learned from Indonesia's conflicts: Aceh,

Poso and Papua..." at page https://www.insideIndonesia.org/

lessons-learned-from-Indonesia-s-conf, [date 3/2/2019].

202. Sintha Wahjusaputri (2015), "Religion Conflicts in Indonesia Problems

and Solutions", at page www.davidpublisher.com/Public/uploads/...

/57314aed96c04.pdf, [date 15/12/2018].

203. Sydney Jones (2019), "Causes of Conflict in Indonesia", tại trang

https://asiasociety.org/causes-conflict-Indonesia, [date 14/1/2019].

204. Warday T.Baskara (2001), Politik Indonesia dalam Perspektif Sejarah,

Gramedia Pustaka Utama, Jakarta.