HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
TRẦN VĂN AN
CỘNG HÒA INDONESIA GIẢI QUYẾT
XUNG ĐỘT SẮC TỘC, TÔN GIÁO NHẰM BẢO VỆ VÀ CỦNG CỐ ĐỘC LẬP DÂN TỘC
GIAI ĐOẠN 1991-2015
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: LSPTCS, CNQT & GPDT
HÀ NỘI - 2019
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
TRẦN VĂN AN
CỘNG HÒA INDONESIA GIẢI QUYẾT XUNG ĐỘT SẮC TỘC, TÔN GIÁO NHẰM BẢO VỆ VÀ CỦNG CỐ ĐỘC LẬP DÂN TỘC
GIAI ĐOẠN 1991-2015
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: LSPTCS, CNQT & GPDT
Mã số: 62 22 03 12
1. PGS,TS THÁI VĂN LONG
Người hướng dẫn khoa học:
2. PGS,TS NGUYỄN HỮU CÁT
HÀ NỘI - 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung
thực, có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo
quy định.
Tác giả luận án
Trần Văn An
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU Trang 1
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN
ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
8 8
1.1. Những công trình nghiên cứu trên thế giới về Indonesia 1.2. Một số nhận xét về kết quả khoa học mà luận án sẽ kế thừa từ
nghiên cứu của những người đi trước
1.3. Những vấn đề luận án cần tiếp tục nghiên cứu hoặc làm sâu sắc hơn 26 27
29 Chương 2: NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN XUNG ĐỘT SẮC TỘC, TÔN GIÁO TRONG CÔNG CUỘC BẢO VỆ, CỦNG CỐ ĐỘC LẬP DÂN TỘC CỦA CỘNG HÒA INDONESIA GIAI ĐOẠN 1991-2015
2.1. Một số vấn đề lý luận về xung đột sắc tộc, tôn giáo và bảo vệ, củng cố độc lập dân tộc thông qua giải quyết xung đột sắc tộc, tôn giáo 29
2.2. Những nhân tố tác động đến xung đột sắc tộc, tôn giáo ở
Indonesia giai đoạn 1991-2015 47
74 Chương 3: THỰC TRẠNG GIẢI QUYẾT XUNG ĐỘT SẮC TỘC, TÔN GIÁO NHẰM BẢO VỆ VÀ CỦNG CỐ ĐỘC LẬP DÂN TỘC CỦA CỘNG HÒA INDONESIA GIAI ĐOẠN 1991-2015
3.1. Tình hình xung đột sắc tộc, tôn giáo ở Indonesia trong giai đoạn
1991-2015 74
3.2. Những nỗ lực của Chính phủ Indonesia nhằm bảo vệ và củng cố
độc lập dân tộc 87
106 106
Chương 4: NHẬN XÉT VÀ NHỮNG KINH NGHIỆM RÚT RA 4.1. Một số nhận xét 4.2. Một số kinh nghiệm rút ra từ ứng phó với xung đột sắc tộc, tôn
giáo ở Indonesia 125
KẾT LUẬN DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
143 147 148
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT Diễn đàn khu vực ASEAN ARF
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á ASEAN
Ngân hàng Inđônêxia BI
Hiệp định chấm dứt thů địch COHA
Khu căn cứ quân sự DOM
Cơ quan lập pháp của Indonesia DPR
DPRD - NAD Hội đồng dân biểu địa phương
Đông Nam Á ĐNA
Cộng đồng Châu Âu EU
Đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI
Phong trào Aceh tự do GAM
Tổng sản phẩm quốc nội GDP
Tổ chức Trung gian hòa giải HDC
HLKHXH Hàn lâm Khoa học xã hội
IMF Quỹ Tiền tệ Quốc tế
KPU Ủy ban bầu cử quốc gia
MILF Mặt trận giải phóng Hồi giáo Moorro
MPR Đại hội Hội đồng Hiệp thương nhân dân
NAD Aceh được công nhận là khu vực đặc biệt
NIC Nước công nghiệp mớí
ODA Nguồn vốn Hỗ trợ phát triển chính thức
OPM Phong trào Papua tự do
PULO Tổ chức giải phóng Thống nhất Pattani (Thái Lan)
RFD Cục Lâm nghiệp Hoàng gia (Thái Lan)
UNDP Chương trình Phát triển Liên Hợp Quốc
DANH MỤC CÁC BẢNG, BẢN ĐỒ
Trang
Bản đồ 2.1: Bản đồ tôn giáo Indonesia 63
Bản đồ 2.2: Bản đồ dân tộc Indonesia 65
Bản đồ 4.1: Bản đồ Indonesia 119
Bảng 2.1: Thành phần tôn giáo theo nhóm dân tộc ở Indonesia 64
Bảng 2.2: Dân số Indonesia theo nhóm dân tộc 66
Bảng 3.1: Chi tiêu xã hội (1995) 100
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Xung đột sắc tộc, tôn giáo đang là chủ đề có tính thời sự ở nhiều khu
vực, quốc gia trên thế giới, nhất là khi đặt vấn đề này trong mối liên hệ với
vấn đề chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của các quốc gia. Từ sau Chiến tranh
thế giới lần thứ Hai đến nay, các nước thuộc địa nói chung, Indonesia nói
riêng dù ít hay nhiều đều đang phải đối mặt với vấn đề ly khai và những bất
ổn an ninh, chính trị có nguồn gốc từ những bất đồng về sắc tộc và tôn giáo.
Việc giành được độc lập đã khó, song việc giữ được độc lập thực sự, nhất là
về chính trị, kinh tế còn khó hơn rất nhiều. Để phát triển bền vững, mỗi quốc
gia phải giải quyết tốt các mâu thuẫn xã hội, tạo lập môi trường hòa bình, ổn
định trong nước, phải giữ cho lòng dân yên, hạn chế đến mức tối đa sự bất
bình đẳng, sự chênh lệch về mức sống giữa các cộng đồng dân cư, ngăn ngừa
và giải quyết tốt các mâu thuẫn có liên quan đến sắc tộc, tôn giáo giữa các
cộng đồng dân cư.
Indonesia không chỉ là quốc gia nhiều đảo nhất mà còn là quốc gia có
số dân theo đạo Hồi đông nhất thế giới. Đất nước của hơn 18 nghìn hòn đảo
này là nơi sinh sống của nhiều dân tộc khác nhau. Ngoài việc có đa số người
dân theo đạo Hồi, thì ở Indonesia còn có nhiều nhóm dân cư theo các tôn giáo
và tín ngưỡng khác nhau. Kể từ khi Indonesia trở thành quốc gia độc lập
(1945), cuộc đấu tranh bảo vệ và củng cố độc lập dân tộc ở Indonesia đã trải
qua rất nhiều thử thách, khó khăn liên quan đến việc giải quyết các mâu thuẫn
sắc tộc, tôn giáo của các chính phủ Indonesia, nhằm không chỉ duy trì sự toàn
vẹn lãnh thổ, thống nhất quốc gia mà còn hướng đến tạo lập một môi trường
hòa bình để phát triển bền vững.
Sau Chiến tranh Lạnh, nhất là từ khi bước sang thế kỷ XXI đến nay,
việc giải quyết xung đột sắc tộc và tôn giáo luôn là sự quan tâm hàng đầu của
các chính phủ Indonesia, do nước này vẫn tiếp tục phải đối diện với các vấn
2
đề xung đột sắc tộc, tôn giáo, cả cũ và mới. Nền độc lập dân tộc, toàn vẹn
lãnh thổ của Indonesia, một lần nữa, lại bị đe dọa trước phong trào li khai ở
nhiều địa phương của nước này, đặc biệt là ở Aceh.
Việt Nam cũng là một quốc gia đa dân tộc, đa tôn giáo như
Indonesia. Trong những năm đổi mới vừa qua, Đảng và Nhà nước Việt
Nam luôn quan tâm đến việc đoàn kết dân tộc, đoàn kết giữa các cộng đồng
dân cư, cho dù họ thuộc dân tộc thiểu số hay đa số, theo tôn giáo hay tín
ngưỡng nào. Đoàn kết là nền tảng để tạo lập môi trường hòa bình, phát
triển bền vững. Trên cơ sở đó, việc tham khảo kinh nghiệm xử lý, giải
quyết các vấn đề có liên quan đến sắc tộc, tôn giáo, xung đột sắc tộc và tôn
giáo ở Indonesia sẽ cung cấp những bài học rất có giá trị cho các quốc gia
trong khu vực trong đó có Việt Nam.
Về phương diện khoa học, việc nghiên cứu xung đột sắc tộc, tôn giáo
và quá trình giải quyết các vấn đề trên sẽ giúp trả lời hàng loạt câu hỏi khoa
học như: liệu bản thân các tôn giáo, sắc tộc có phải là nguyên nhân tạo nên
xung đột sắc tộc, tôn giáo không hay những xung đột đó là do chúng bị chính
trị hóa? Tại sao một quốc gia Hồi giáo ôn hòa như Indonesia lại có đất cho sự
phát triển của chủ nghĩa cực đoan Hồi giáo như đã thấy hiện nay? Đâu là
những giải pháp hiệu quả để khắc phục những xung đột sắc tộc, tôn giáo ở
Indonesia cũng như ở nhiều nơi khác trên thế giới?... Việc trả lời các câu hỏi
không chỉ có ý nghĩa về mặt lý luận mà có cả ý nghĩa thực tiễn cấp bách.
Với những lý do trên, tác giả lựa chọn vấn đề: "Cộng hòa Indonesia giải
quyết xung đột sắc tộc, tôn giáo nhằm bảo vệ và củng cố độc lập dân tộc giai
đoạn 1991- 2015" làm hướng nghiên cứu cho đề tài luận án Tiến sĩ lịch sử, chuyên
ngành Lịch sử phong trào cộng sản, công nhân quốc tế và giải phóng dân tộc.
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục tiêu nghiên cứu
Luận án đi sâu phân tích thực trạng giải quyết xung đột sắc tộc, tôn
giáo của Cộng hòa Indonesia nhằm bảo vệ và củng cố độc lập dân tộc từ năm
3
1991 đến năm 2015, rút ra ý nghĩa và những kinh nghiệm cho việc giải quyết
các vấn đề dân tộc, tôn giáo nhằm củng cố độc lập dân tộc của Việt Nam
trong bối cảnh hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục tiêu trên, đề tài tập trung giải quyết những nhiệm vụ
chủ yếu sau:
Thứ nhất, làm rõ một số khái niệm về xung đột sắc tộc, tôn giáo, về độc
lập dân tộc, bảo vệ và củng cố độc lập dân tộc của các nước đang phát triển
sau Chiến tranh Lạnh.
Thứ hai, phân tích các nhân tố tác động đến tình trạng xung đột sắc tộc,
tôn giáo tại Cộng hòa Indonesia từ năm 1991 đến năm 2015.
Thứ ba, làm rõ thực trạng xung đột sắc tộc, tôn giáo, đồng thời, phân
tích ý nghĩa của việc giải quyết xung đột sắc tộc, tôn giáo đối với nhiệm vụ
bảo vệ, củng cố độc lập dân tộc ở Indonesia từ năm 1991 đến năm 2015.
Thứ tư, đưa ra nhận xét và rút ra những kinh nghiệm cho việc giải
quyết các vấn đề dân tộc, tôn giáo nhằm củng cố độc lập dân tộc của các nước
Đông Nam Á và Việt Nam trong bối cảnh hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Về nội dung: Đề tài tập trung nghiên cứu tình hình xung đột sắc tộc tôn
giáo ở Indonesia, những thách thức từ các cuộc xung đột đó đối với độc lập
dân tộc, toàn vẹn lãnh thổ của Indonesia và các nỗ lực giải quyết của chính
phủ nước này nhằm giải quyết các vấn đề trên.
Xung đột sắc tộc và tôn giáo tại Indonesia đã xuất hiện từ những thế kỷ
trước với phạm vi rộng lớn, phức tạp. Trong khuôn khổ luận án tiến sĩ, đề tài
chỉ tập trung nghiên cứu một số điểm xung đột sắc tộc-tôn giáo, ly khai dân
tộc điển hình ở Indonesia như: Đông Timor; Ache; Irian Jaya; Maluku; xung
đột giữa người Hoa và người bản địa từ năm 1991 đến năm 2015. Từ đó luận
án đi sâu phân tích thực trạng giải quyết xung đột sắc tộc, tôn giáo của Cộng
hòa Indonesia trong giai đoạn này nhằm bảo vệ và củng cố độc lập dân tộc.
4
Về không gian: toàn bộ lãnh thổ Indonesia bao gồm khu vực trung tâm
và các đảo, quần đảo của nước này
Về thời gian: từ 1991 đến 2015
+ Đề tài lấy mốc năm 1991 vì đây là thời kỳ Trật tự thế giới 2 cực kết
thúc, Liên xô tan rã, tình hình chính trị, an ninh khu vực và thế giới có nhiều
biến động lớn ảnh hưởng đến công cuộc củng cố độc lập của các quốc gia
đang phát triển nói chung và ở Cộng hòa Indonesia nói riêng.
+ Mốc năm 2015 là mốc Indonesia có sự chuyển giao quyền lực từ
Tổng thống Susilo Bambang Yudhoyono sang Tổng thống Joko Widodo, là
thời điểm có những thay đổi về bối cảnh bảo vệ, củng cố độc lập dân tộc
(trong Cộng đồng ASEAN), năm đó cũng là năm vấn đề xung đột tôn giáo sắc
tộc ở Indonesia được giải quyết một cách cơ bản.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
Đề tài được thực hiện trên cơ sở hệ thống các quan điểm và phương
pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về Hình thái kinh tế-xã hội; về Nhà
nước và giai cấp; về thời đại, vấn đề dân tộc và quyền tự quyết dân tộc…
Đồng thời, vận dụng những quan điểm cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí
Minh về độc lập dân tộc; các chủ trương chính sách được nêu trong cương
lĩnh, văn kiện, nghị quyết của Đảng và Nhà nước Việt Nam để tiếp cận,
nghiên cứu thực hiện mục tiêu và những nhiệm vụ nghiên cứu đặt ra cho
luận án.
Ngoài ra, tác giả luận án còn nghiên cứu và sử dụng một số quan điểm
lý luận của các học giả tư sản và các học giả mang tư tưởng dân tộc chủ nghĩa
để phân tích và nghiên cứu về một số vấn đề như: nền dân chủ tư sản, vai trò
của nhà nước pháp quyền tư sản trong việc ban hành các giải pháp nhằm giải
quyết các xung đột sắc tộc, tôn giáo, ly khai dân tộc trong nước, củng cố và
bảo vệ nền độc lập dân tộc của quốc gia.
5
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Những nguyên lý, phương pháp luận cơ bản của chủ nghĩa duy vật biện
chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử, phương pháp lịch sử và logic, cùng với hệ
thống phương pháp luận sử học mác xít là những cơ sở chính để hình thành
phương pháp nghiên cứu luận án.
- Phương pháp lịch sử: đề tài nghiên cứu được đặt trong tiến trình lịch
sử cụ thể, không gian, thời gian đó là bối cảnh của Indonesia nói riêng; của
tình hình thế giới, khu vực từ năm 1991 đến năm 2015; theo giai đoạn phát
triển nhất định; phù hợp với logic lịch sử...
- Phương pháp phân tích địa - chính trị: luận án được xem xét các vấn
đề xung đột sắc tộc, tôn giáo cùng ảnh hưởng của nó trước hết dưới góc độ
địa - chính trị, trong không gian địa lý tự nhiên và địa lý nhân văn của khu
vực, từ đây thấy rõ lợi ích, mục tiêu chính trị, nguyên nhân, biểu hiện… của
xung đột sắc tộc, tôn giáo và những tác động của nó tới Indonesia.
- Phương pháp lôgic, nghiên cứu tình huống, so sánh hệ thống: Các
nghiên cứu sẽ phải từ những diễn biến, những xung đột sắc tộc, tôn giáo đã
và đang xảy ra để phân tích, làm rõ những giải pháp giải quyết xung đột
sắc tộc, tôn giáo tại Cộng hòa Indonesia nhằm bảo vệ và củng cố độc lập
dân tộc, từ đó rút ra những kinh nghiệm cho việc giải quyết các vấn đề dân
tộc, tôn giáo nhằm củng cố độc lập dân tộc của Việt Nam trong bối cảnh
hiện nay.
- Phương pháp phân tích và tổng hợp: được tác giả sử dụng trong thu
thập, xử lý và đánh giá các nguồn tài liệu liên quan đến đề tài, các công trình
nghiên cứu trong và ngoài nước về các chủ đề liên quan đến đề tài.
Thêm vào đó, tác giả luận án cũng sử dụng các phương pháp như: sưu
tầm tư liệu, hệ thống, phân loại, thống kê, phương pháp phỏng vấn chuyên
gia, phương pháp liên ngành lịch sử, quan hệ quốc tế, chính trị quốc tế nhằm
hỗ trợ cho các phương pháp nghiên cứu chính.
6
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
Một là, luận án đã nghiên cứu một cách hệ thống về nguyên nhân, thực
trạng và tác động của xung đột sắc tộc, tôn giáo đối với độc lập dân tộc và toàn
vẹn lãnh thổ của Indonesia trong giai đoạn từ 1991 đến 2015.
Hai là, luận án đã làm rõ những nỗ lực của Chính phủ Indonesia trong
quá trình giải quyết xung đột sắc tộc, tôn giáo ở nước họ, chỉ ra những thành
tựu và hạn chế của các nỗ lực đó.
Ba là , tìm ra được những đặc điểm chính của xung đột sắc tộc tôn giáo ở
Indonesia, trong so sánh với các cuộc xung đột tương tự ở một số nước Đông
Nam Á khác
Bốn là, góp thêm những cứ liệu từ thực tiễn giải quyết xung đột sắc tộc,
tôn giáo của Cộng hòa Indonesia nhằm bảo vệ và củng cố độc lập dân tộc cho
Việt Nam trong hoạch định, triển khai thực hiện chính sách dân tộc, tôn giáo
nhằm củng cố độc lập dân tộc của Việt Nam trong bối cảnh hiện nay.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
- Về lý luận: luận án khẳng định xung đột tôn giáo, sắc tộc ở Indonesia
không phải là sự va chạm giữa văn minh Hồi giáo và Thiên chúa giáo. Nguồn
cội của các cuộc xung đột đó là kết quả của sự chính trị hóa tôn giáo của một
số thế lực chính trị ở Indonesia nhằm phục vụ cho lợi ích riêng mà thôi.
- Về thực tiễn: Qua phân tích thực trạng giải quyết xung đột sắc tộc, tôn
giáo của Cộng hòa Indonesia nhằm bảo vệ và củng cố độc lập dân tộc giai
đoạn 1991-2015, luận án góp phần gợi mở một số vấn đề thực tiễn trong việc
hoạch định và triển khai các chính sách dân tộc, tôn giáo cùng chính sách đối
ngoại của Việt Nam thông qua hợp tác giải quyết vấn đề xung đột sắc tộc, tôn
giáo trong bối cảnh những biến đổi của môi trường địa - chính trị khu vực
hiện nay.
- Luận án là tài liệu tham khảo hữu ích trong công tác nghiên cứu,
giảng dạy môn Lịch sử Phong trào Cộng sản, Công nhân quốc tế và giải
7
phóng dân tộc; môn Quan hệ quốc tế; các môn: lịch sử thế giới hiện đại; lịch
sử Đông Nam Á; lịch sử Quan hệ quốc tế…
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục và danh mục chữ viết tắt, tài liệu
tham khảo, nội dung đề tài dự định kết cấu thành 4 chương, 09 tiết.
- Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
luận án.
- Chương 2: Những nhân tố tác động đến xung đột sắc tộc, tôn giáo
trong công cuộc bảo vệ, củng cố độc lập dân tộc của Cộng hòa Indonesia giai
đoạn 1991-2015.
- Chương 3: Thực trạng giải quyết xung đột sắc tộc, tôn giáo nhằm bảo
vệ và củng cố độc lập dân tộc của Cộng hòa Indonesia giai đoạn 1991-2015
- Chương 4: Nhận xét và những kinh nghiệm rút ra
8
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN
ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
Để thực hiện các nhiệm vụ đặt ra trong nghiên cứu, tác giả luận án đã
tiếp cận với một khối lượng tài liệu tham khảo lớn của các nhà nghiên cứu
Indonesia, các học giả nước ngoài và các nhà khoa học Việt Nam liên quan
đến vấn đề xung đột sắc tộc, tôn giáo ở đất nước này. Nguồn tài liệu đó tập
trung nghiên cứu trên nhiều phương diện: địa lý, lịch sử, văn hoá, dân tộc, tôn
giáo, đặc điểm phát triển kinh tế - xã hội, chiến lược phát triển kinh tế vĩ mô...
của Indonesia. Nguồn tài liệu đã tiếp cận được là cơ sở và cứ liệu quan trọng
giúp nghiên cứu sinh tiếp tục nghiên cứu sâu hơn về những vấn đề mà luận án
cần tập trung giải quyết.
1.1. NHỮNG CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU TRÊN THẾ GIỚI VỀ INDONESIA
1.1.1. Những công trình nghiên cứu về Indonesia của các học giả
quốc tế
Đông Nam Á là khu vực có vị trí chiến lược quan trọng của thế giới
nên luôn giành được sự chú ý nghiên cứu của nhiều học giả với những góc
độ tiếp cận đa dạng. Indonesia là một nước lớn trong khu vực, có những
nét đặc thù về điều kiện tự nhiên, dân cư, nhưng cũng có lịch sử đấu tranh
giải phóng dân tộc, củng cố độc lập dân tộc, phong cách ứng xử cũng như
trình độ phát triển xã hội khá tương đồng so với các quốc gia khác cùng
khu vực. Indonesia cũng là một trong những nước sáng lập ASEAN và
đóng vai trò lãnh đạo Hiệp hội này trong thực tế cho tới năm 1998, khi
Tổng thống nước này là Suharto bị lật đổ. Đối với thế giới, đặc biệt là các
nước lớn, vị trí địa-chiến lược của Indonesia có vai trò vô cùng quan trọng.
Không một nước lớn nào không mong muốn xác lập được ảnh hưởng ưu
thế ở quốc gia "vạn đảo" này.
9
Vì thế, Indonesia được giới nghiên cứu đặc biệt quan tâm. Về tổng
quát có thể phân các công trình nghiên cứu về Indonesia ở ngoài nước thành
các nhóm sau:
- Thứ nhất, những nghiên cứu về lịch sử đấu tranh giành độc lập dân
tộc và củng cố độc lập dân tộc của Indonesia.
Cuốn sách "Histoire de l’Indonésie" (Lịch sử Indonesia) của Giáo sư
Jean Bruhat [16]. Cuốn sách gồm 5 chương, chương 1 và 2 trình bày khái
quát về đất nước Indonesia trong thời kỳ là thuộc địa của thực dân Hà Lan.
Chương 3;4;5 thông qua những mốc lịch sử chủ yếu trong sự vận động, phát
triển của Indonesia, tác giả đi sâu phân tích diễn biến của các phong trào dân
tộc trong tiến trình đấu tranh giành, giữ và củng cố độc lập dân tộc đến năm
1975. Cuốn sách là công trình nghiên cứu Indonesia về lịch sử, nên tác giả đã
lựa chọn, đề cập, phân tích những sự kiện tiêu biểu, đánh giá những đặc điểm
văn hóa, xã hội, dân cư, tộc người, tôn giáo…Đây là tài liệu tham khảo rất giá
trị cho tác giả khi thực hiện những nhiệm vụ nghiên cứu luận án của mình.
Cuốn "Lịch sử Đông Nam Á" của tác giả người Anh - D.G.E.Hall [42].
Tác giả là giáo sư danh dự thuộc trường Đại học Luân Đôn, ông được coi là
chuyên gia hàng đầu về Lịch sử Đông Nam Á. Cuốn sách đã phác hoạ nên
một bức tranh khá rõ nét và đầy sinh động về lịch sử ra đời, phát triển, quá
trình bị thực dân phương Tây xâm lược và sự thiết lập chế độ cai trị thuộc địa
của Hà Lan tại Indonesia. Tất cả các nội dung này được trình bày trong 3
phần đầu của cuốn sách. Ở phần thứ tư, tác giả tập trung nghiên cứu về cuộc
đấu tranh giành độc lập dân tộc của nhân dân Indonesia năm 1945 cùng với
những diễn biến phức tạp của cuộc kháng chiến chống thực dân xâm lược (Hà
Lan), trong từng chương riêng (chương 43, 45, 48, 50, 51, 52). Để làm nên
thành công của cuốn sách, Giáo sư D.G.E. Hall đã khai thác nhiều nguồn tài
liệu phong phú từ kho lưu trữ, văn bia, tham khảo nhiều tác phẩm của các nhà
nghiên cứu đi trước với sự phê phán và chọn lọc. Vì vậy đây là một công trình
10
khoa học nghiêm túc và có giá trị. Tuy nhiên, cuốn sách dừng sự nghiên cứu
vào năm 1950, đây là thời điểm có nhiều sự kiện đang tiếp diễn với tính đa
dạng và chằng chéo, là sự chuẩn bị cho những thay đổi lớn trên chính trường
Indonesia. Nhưng giá trị của cuốn sách mà tác giả luận án quan tâm là, khi
nhìn nhận về quá trình đấu tranh giành độc lập của Indonesia, D.G.E. Hall đã
chỉ ra được vai trò của lực lượng tư sản cấp tiến với những nỗ lực tích hợp lợi
ích đa dạng của các sắc tộc, tôn giáo để đạt được sự đồng thuận về mục tiêu
xây dựng một nhà nước Cộng hòa độc lập.
Cuốn sách "Chủ nghĩa thực dân là một thứ cần phải loại trừ khỏi thế
giới" của Sukarno [111]. Ông Sukarno, một nhà lãnh đạo đầy uy tín của nhân
dân Indonesia trong giai đoạn mới thành lập nước Cộng hoà. Trong tác phẩm
này, Sukarno đứng trên quan điểm của đại bộ phận nhân dân Indonesia để
nhìn nhận về cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân của đất nước mình.
Ông cho rằng thực dân là kẻ thù chung của nhân dân các dân tộc bị áp bức
trên toàn thế giới, đặc biệt là nhân dân các nước thuộc địa, phụ thuộc và cần
xác lập một mối liên hệ, hợp tác giữa các dân tộc thuộc địa để chống thực
dân. Tác phẩm đã giúp chúng ta hiểu quan điểm của những nhà lãnh đạo
Indonesia trong việc định hướng và lựa chọn các chính sách phát triển đất
nước, trong đó có chính sách đối ngoại.
Cuốn sách "Suharto. A political biography" (Suharto: Một tiểu sử chính
trị) của tác giả R.E.Elson [193]. Đây là công trình nghiên cứu về vị Tổng
thống thứ hai của nhân dân Indonesia, một người mà trong cách đánh giá của
các nhà nghiên cứu hiện nay trên thế giới luôn cho là đầy mâu thuẫn giữa
công và tội. Với cách tiếp cận nghiên cứu của mình, Elson đã tập trung phân
tích về đường lối chính trị mà Tổng thống Suharto đã thực hiện trong hơn 30
năm giữ cương vị là người đứng đầu đất nước. Trên cơ sở đó, tác giả đưa ra
một số nhận xét, đánh giá trên hai mặt thành công và hạn chế về những việc
mà vị Tổng thống này đã làm. Trong quá trình nghiên cứu, để đưa ra những
11
đánh giá xác thực nhất, tác giả đã căn cứ vào nguồn tài liệu gốc của
Indonesia, đó là những chính sách chính trị, ngoại giao; kinh tế, xã hội; an
ninh quốc phòng mà Tổng thống Suharto đã ban hành trong giai đoạn 1967 -
1998. Vì vậy, cuốn sách là nguồn tư liệu rất quan trọng để nghiên cứu sinh
tham khảo trong quá trình hoàn thành đề tài luận án.
- Thứ hai, những nghiên cứu về vấn đề xung đột sắc tộc, tôn giáo cùng
những ảnh hưởng của nó đến sự nghiệp bảo vệ và củng cố độc lập ở
Indonesia.
Công trình "The Indonesian killings 1965-1966: Studies from Java and
Bali" (Tàn sát người ở Indonesia 1965-1966: những nghiên cứu ở Java và
Bali) của Centre of Southeast Asia Studies [111]. Công trình đã phân tích
những mâu thuẫn xã hội ở Indonesia trước cuộc đảo chính quân sự năm 1965
của Suharto, làm rõ nguyên nhân của những cuộc thanh trừng, tàn sát đối với
các đảng viên cộng sản nói riêng và người dân vô tội ở Java và Bali nói
chung. Hướng tiếp cận nghiên cứu, lý giải của các tác giả trong công trình đã
cung cấp cho tác giả luận án thêm một "góc nhìn đa chiều" khi xem xét, đánh
giá các xung đột sắc tộc, tôn giáo cùng ảnh hưởng của nó đến xã hội
Indonesia trong giai đoạn được nghiên cứu khi thực hiện luận án.
Cuốn sách "Lịch sử Đông Nam Á hiện đại" của Clive J.Christie [19].
Tác giả Clive J.Christie là người Pháp, một chuyên gia nghiên cứu về các vấn
đề dân tộc, sắc tộc và tôn giáo nên công trình đã tập trung đi sâu nghiên cứu
các khía cạnh liên quan đến các vấn đề này. Cuốn sách được cấu trúc thành
hai phần, trong đó phần thứ hai tập trung nghiên cứu quá trình phi thực dân
hoá và chủ nghĩa ly khai trong khu vực Hồi giáo ở Đông Nam Á. Trong đó
Indonesia được đề cập tương đối rõ vì đây là nơi có nhiều cư dân theo đạo
Hồi sinh sống. Clive J.Christie đã dành nhiều thời gian để khắc hoạ về
Indonesia như là một "ngôi nhà đạo Hồi", với tất cả tính tích cực cùng những
tác động phức tạp của nó đối với Indonesia nói riêng, cả khu vực Đông Nam
12
Á nói chung. Đặc biệt, cuộc nổi dậy của người Aceh được tác giả đề cập khá
kỹ (từ trang 231 đến 248), từ đó lột tả được phần nào những khúc mắc trong
vấn đề Aceh - một vấn đề rất phức tạp của Indonesia trong quá khứ và hiện
tại. Khi công bố cuốn "Lịch sử Đông Nam Á hiện đại", tác giả Clive
J.Christie dự định thông qua nghiên cứu các phong trào ly khai và khởi nghĩa
khác, để làm rõ tiến trình chung về phi thực dân hoá ở Đông Nam Á, lịch sử
và hậu quả của nó. Nhưng đây là những vấn đề hết sức phức tạp, nhạy cảm và
hiện đang gây tranh cãi trong giới khoa học, vì vậy những đánh giá trong
cuốn sách được coi là quan điểm riêng của tác giả. Tuy nhiên, với quan điểm
nghiên cứu "thuần tuý mang tính lịch sử và lập luận cơ bản của nó là các
phong trào ly khai khác nhau" và dựa trên nguồn tư liệu đã qua kiểm định,
cuốn sách là nguồn tài liệu tham khảo hữu ích cho nghiên cứu sinh khi tìm
hiểu về những vấn đề liên quan đến nội dung luận án.
Cuốn sách "Indonesia Today - Challenges of History" (Indonesia ngày
nay - Những thách thức của lịch sử) của Grayson Lloyd và Shannon Smith
[178], là một công trình nghiên cứu tổng hợp về lịch sử phát triển của
Indonesia từ 1945 đến đầu thế kỷ XXI. Gồm nhiều bài viết nhỏ với những chủ
đề riêng biệt, được kết cấu thành 5 chương nội dung, trong đó ba chương
chính đề cập đến 3 lĩnh vực chủ yếu là chính trị, kinh tế và văn hoá. Bằng
cách tiếp cận theo hướng kết hợp giữa trình bày sự kiện với những nhận định,
đánh giá, so sánh đan xen nhau…, các tác giả đã chỉ ra những mặt làm được
và chưa làm được của các Tổng thống Indonesia (từ năm 1945 đến 2000);
đồng thời vẽ lên một bức tranh khá đầy đủ về đất nước Indonesia trong một
giai đoạn tương đối dài với những thành công, hạn chế trong con đường phát
triển của mình. Giai đoạn 1967 - 1998 với sự lãnh đạo của Tổng thống
Suharto ở Indonesia được phân tích, đánh giá, so sánh với các giai đoạn trước
và sau; thông qua các cứ liệu lịch sử cụ thể để nhìn nhận về những thành
công, hạn chế của Suharto một cách khách quan. Cuốn sách đã đem lại những
13
thông tin và cách tiếp cận đa chiều về Indonesia trong một giai đoạn lịch sử
mà tác giả có thể tham khảo tốt trong quá trình thực hiện luận án.
Công trình "Ethnic Conflics in Southeast Asia" (Xung đột tộc người ở
Đông Nam Á) của Adrian Vicker [160]. Công trình đã đề cập một trong
những vấn đề nổi cộm của nền chính trị khu vực và thế giới hiện nay, đó là
vấn đề ly khai dân tộc. Công trình khẳng định ly khai tộc người ở Đông Nam
Á có liên quan chặt chẽ đến vấn đề dân tộc, một vấn đề phức tạp và nhạy cảm
ở các quốc gia đa dân tộc trong quá trình bảo vệ, củng cố độc lập dân tộc.
Nhóm nghiên cứu công trình còn nâng vấn đề ly khai dân tộc thành chủ nghĩa
ly khai, một biểu hiện của chủ nghĩa dân tộc trong quá trình phát triển của các
quốc gia đa dân tộc. Theo các tác giả, bước sang thế kỷ XXI, hệ tư tưởng
không còn là nhân tố chính của những xung đột dân tộc trên thế giới. Hiện
nay, hầu hết các khu vực trên thế giới, từ các nước phát triển đến các nước
đang phát triển (trong đó có Đông Nam Á và Indonesia), nhiều quốc gia phải
đối phó với vấn đề ly khai dân tộc trong quá trình bảo vệ, củng cố độc lập dân
tộc. Nhóm tác giả cho rằng, vấn đề ly khai dân tộc là một trong những trở
ngại mà các nước Đông Nam Á, trong đó có Indonesia phải tìm ra những giải
pháp hữu hiệu để khắc phục, vượt qua đem lại sự ổn định và phát triển.
Công trình nghiên cứu "A History Modern Indonesia 1200 - 2004"
(Lịch sử Indonesia hiện đại 1200 - 2004) của tác giả M.C.Ricklefs [188], là
một kho tư liệu với nhiều sự kiện phản ánh trung thực về lịch sử Indonesia
hiện đại: Cuốn sách khái quát quá trình hình thành và phát triển của các
vương triều phong kiến; sự thâm nhập của các luồng văn hoá Đông - Tây
thông qua quá trình giao thương buôn bán ở Eo biển Malacca; sự xuất hiện
của những đoàn truyền giáo với mục tiêu chính trị, cuộc chiến để tranh giành
thuộc địa giữa các nước thực dân phương Tây (Anh, Tây Ban Nha, Bồ Đào
Nha và Hà Lan) và sự thắng thế của thực dân Hà Lan; sự cai trị hà khắc và
các cuộc đấu tranh của nhân dân Indonesia chống lại ách đô hộ của thực dân
14
Hà Lan...Thông tin quan trọng mà tác giả luận án tham khảo từ cuốn sách là,
những vấn đề sắc tộc, tôn giáo ở Indonesia được M.C.Ricklefs khắc họa một
cách sinh động thông qua việc phân tích hàng loạt các sự kiện, xung đột chỉ ra
nguyên nhân cùng những tác động đến diễn tiến lịch sử Indonesia.
Bài viết: "Behind Indonesia’s Red Scare" (Đằng sau nỗi sợ Đỏ của
Indonesia ) của tác giả Gatra Priyandita [175]. Gatra Priyandita là nghiên cứu
sinh tiến sĩ tại Trường Văn hóa, Lịch sử và Ngôn ngữ tại Đại Học Quốc gia
Australia. Nghiên cứu của ông tập trung vào ngoại giao công chúng của
Indonesia và chính trị Indonesia thời hậu Suharto. Bài viết đã khái quát cuộc
tàn sát năm 1965-1966 (hàng trăm ngàn người bị nghi ngờ là cộng sản hay có
tư tưởng ủng hộ cộng sản đã bị cầm tù và giết hại) và các vụ vi phạm nhân
quyền khác như cuộc thảm sát Talangsari vào năm 1989, cuộc bạo loạn ở
Jakarta vào năm 1998, và những vụ giết người ở Aceh và Papua. Đồng thời
nêu vấn đề đáng suy ngẫm: phần lớn các thủ phạm chính của những sự kiện
hay xung đột trên ngày nay vẫn còn sống, vẫn tiếp tục có ảnh hưởng chính trị
và sẽ không phải đối mặt với công lý trong tương lai gần, và người dân
Indonesia, những người mà quyền tự do dân sự của họ ngày càng bị hạn chế.
Cuốn sách: "Why Terrorists Quit: The Disengagement of Indonesian
Jihadists" (Vì sao bọn khủng bố bỏ cuộc: Gỡ bỏ cam kết với lực lượng Jihad
Indonesia) của Julie Chernov Hwang [184]. Trong tác phẩm Julie Hwang đã
tìm ra bốn yếu tố chung khiến các phần tử khủng bố rời bỏ tổ chức cực đoan.
Theo bà Hwang, đó là sự thất vọng khi những phần tử khủng bố nhận ra rằng
cái lợi thu được không đáng với cái giá mà họ phải trả. Từ nhận xét trên, tác
giả kết luận rằng để rời bỏ phong trào cực đoan hoàn toàn và tái hòa nhập xã
hội, sự hỗ trợ của bạn bè và gia đình là một nhân tố then chốt đối với các
phần tử này.
Cuốn sách: "BTI 2018: Indonesia Country Report" (BTI 2018 - Báo
cáo quốc gia Indonesia) [190]. Đây là tài liệu gốc của chính phủ Indonesia
15
vừa công bố. Báo cáo dài 45 trang dịch, đã tổng kết quá trình chuyển đổi dân
chủ của Indonesia bắt đầu vào tháng 5 năm 1998, khi nhà độc đoán lâu năm
Suharto từ chức tổng thống sau 32 năm tại vị, phân tích những điểm mạnh,
hạn chế của các đời tổng thống tiếp theo ở Indonesia. Báo cáo tổng kết hoạt
động của Indonesia qua 20 năm và đưa ra chiến lược phát triển đất nước trong
những năm tiếp theo. Cuối cùng Báo cáo đưa ra nhận định, Indonesia cần phát
triển hơn nữa hệ thống phúc lợi của mình để cung cấp các dịch vụ cơ bản, đặc
biệt là trong lĩnh vực y tế, giáo dục và cơ sở hạ tầng. Vấn đề này phải được
thực hiện với quản trị tốt ở tất cả các cấp. Nó cũng đòi hỏi sự hợp lực của vai
trò của nhà nước, khu vực tư nhân và xã hội dân sự. Đây là tài liệu gốc, cập
nhật rất quí giúp tác giả thực hiện luận án.
Ngoài các công trình của các học giả Phương Tây được công bố bằng
tiếng Anh, nhiều học giả người Hoa cũng quan tâm nghiên cứu về xung đột
tôn giáo, sắc tộc ở Indonesia. Sau đây là một số công trình đáng chú ý.
+ Bài viết: "Bước đầu tìm hiểu thích ứng văn hóa cộng đồng dân tộc
Hoa ở Indonesia trong gần 30 năm qua" của tác giả Trần Tú Dung [28]. Bài
viết khái quát, nhìn lại những nguyên nhân lịch sử trên phương diện này, phân
tích những đóng góp của tộc người Hoa tại Indonesia đối với những tiến bộ,
phồn vinh trong các lĩnh vực sản xuất, y tế, thể thao, đoàn thể, tôn giáo... bằng
những tư duy dân tộc và chuẩn mực hành vi của tộc người Hoa. Đồng thời,
bài viết cũng chỉ ra, vai trò và chính sách của chính phủ Indonesia đóng vai
trò then chốt trong việc đảm bảo người Hoa ở Indonesia với tư cách là một
dân tộc thiểu số tại Indonesia có thể được hưởng những quyền lợi bình đẳng
dân tộc, được hưởng sự bảo vệ và tôn trọng từ chính phủ Indonesia.
+ Bài báo: "Religious beliefs of Chinese people in Indonesia" (Tín
ngưỡng tôn giáo của người Hoa ở Indonesia) của tác giả Andyni Khosasih
[160]. Bài viết xuất phát từ những góc nhìn khác nhau về lịch sử và hiện
thực, tiến hành khảo sát trên cơ sở tổng hợp về tôn giáo của người Hoa ở
16
Indonesia, tình hình căn bản, những tồn tại trong thực tế, phân tích các đặc
tính, kết quả phiếu khảo sát để đưa ra những phát hiện về xu hướng tương
lai của vấn đề này. Người Hoa ở Indonesia có dân số lên đến gần 7 triệu
người. Những thành tựu kinh tế của người Hoa ở đây gắn liền với văn hóa
người Hoa. Do vậy, muốn hiểu được văn hóa người Hoa và cộng đồng
người Hoa ở Indonesia cần phải gắn liền với việc phân tích tín ngưỡng của
người Hoa.
+ Bài viết: "Nghiên cứu vấn đề chia rẽ dân tộc Aceh ở Indonesia dưới
góc độ chỉnh hợp quốc gia" của Chu Tuấn Hoa [54]. Bài viết nội dung chính
đề cập đến vấn đề: Chỉnh hợp quốc gia là một nhiệm vụ lâu dài và gian khổ
mà một quốc gia đa dân tộc phải đối mặt. Phần lớn các quốc gia Đông Nam Á
hiện nay đều là các quốc gia đa sắc tộc. Về mặt địa lý, các nước đều tồn tại
đặc trưng bởi "phân mảnh hóa", quá trình chỉnh hợp quốc gia gặp nhiều khó
khăn. Sự chia tách của nhóm dân tộc Aceh ở Indonesia mang tính đại biểu và
là một cửa sổ để nghiên cứu các vấn đề dân tộc và chỉnh hợp quốc gia ở Đông
Nam Á. Từ góc độ chỉnh hợp quốc gia, tác giả bài viết xem xét vấn đề chia rẽ
sắc tộc ở Indonesia, "vành đai địa lý phân mảnh" mang tính đa sắc tộc, đa tôn
giáo, đa văn hóa, địa lý. Sự mất cân bằng trong phát triển kinh tế giữa các dân
tộc khác nhau, và những nguy cơ tiềm ẩn trong lịch sử của chế độ thực dân
khiến cho quá trình chỉnh hợp dân tộc tại đây rất khó thực hiện, tạo thành sự
chia rẽ sắc tộc. Mặt khác, sự phân chia quyền lực chính trị tại Indonesia sau
độc lập không đồng đều, phân bố cấu trúc mất cân bằng, tâm lý tôn giáo dân
tộc mạnh mẽ, trong khi ý thức quốc gia không có được sự quy chuẩn và
hướng dẫn chính xác. Thêm vào đó, những mâu thuẫn giữa chính quyền trung
ương và địa phương, những sai lầm của chính sách dân tộc ở một mức độ nhất
định, đã làm tan biến bản sắc dân tộc vốn đã khá suy yếu và cản trở quá trình
chỉnh hợp quốc gia của Indonesia và việc giải quyết sự chia rẽ của dân tộc
Aceh. Từ đó đưa ra nhận định, việc giải quyết vấn đề chia rẽ dân tộc, cần bắt
17
đầu từ củng cố sự chỉnh hợp quốc gia và phụ thuộc vào nhiều nhân tố thuộc
nhiều phương diện.
+ Bài viết: "Chỉnh hợp chính trị ở các nước đa dân tộc đang phát triển:
điểm chung, khó khăn và cách hóa giải - trên cơ sở so sánh giữa Indonesia và
Nigeria" của tác giả Dư Xuân Dương [30]. Đây là bài viết của một học giả
Trung quốc nghiên cứu vấn đề chỉnh hợp chính trị của các nước đa dân tộc
đang phát triển đòi hỏi phải xuất phát từ góc độ so sánh cấp quốc gia. Thông
qua so sánh tiến trình chỉnh hợp chính trị của Indonesia và Nigeria từ khi
thành lập nước đến nay, rút ra những điểm chung chủ yếu mà hai nước gặp
phải trong quá trình chỉnh hợp chính trị. Theo tác giả bài báo, cách thức hóa
giải những khó khăn trên chủ yếu bao gồm: 1/ Tìm kiếm điểm trùng hợp
trong nhận thức chung, tôn trọng những khác biệt văn hóa, xây dựng cộng
đồng dân tộc quốc gia; 2/ Tìm kiếm, xây dựng thể chế, cơ chế chính trị đảm
bảo gắn kết về lợi ích, chia sẻ thành quả; 3/ Xóa bỏ những ảnh hưởng của
quân nhân, quân đội trong đời sống chính trị, trừng trị nghiêm khắc hành vi
tham nhũng; 4/ Tìm kiếm và thúc đẩy nhưng chính sách hòa hợp dân tộc và
hòa hợp tôn giáo đa ngôn ngữ.
Đây là những tài liệu từ nguồn tiếng Trung đã được dịch sang tiếng
Việt, những tài liệu này gợi ý cho tác giả luận án nắm bắt về chính sách quản
lý, giải quyết những vấn đề có liên quan đến người Hoa ở quốc gia này, qua
đó liên hệ, so sánh sự giống và khác nhau trong giải quyết xung đột sắc tộc ở
các nước đang phát triển có đa dân tộc cùng sinh sống. Những tài liệu này
phục vụ tác giả thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu đặt ra ở chương 3 và chương 4
của luận án.
1.1.2. Các công trình nghiên cứu của các học giả Indonesia
Kể từ sau Chiến tranh Lạnh đến năm 2015 là quãng thời gian tương đối
dài trong quá trình phát triển của Cộng hòa Indonesia. Đây cũng là thời kỳ thế
giới và khu vực có nhiều biến động. Trong bối cảnh đó, Cộng hòa Indonesia là
18
quốc gia điển hình về tình trạng xung đột sắc tộc, tôn giáo, ly khai dân tộc trong
khu vực. Việc quốc gia này xử lý các xung đột sắc tộc, tôn giáo, ly khai dân tộc
cùng những ảnh hưởng của nó đến sự nghiệp củng cố độc lập dân tộc trong thời
gian này đã được nhiều nhà nghiên cứu Indonesia thực hiện. Các công trình
nghiên cứu có liên quan đến đề tài luận án tiêu biểu mà tác giả có thể tiếp cận:
+ Tập hợp các bài phỏng vấn về kinh tế và chính trị về "Indonesia yang
Berubah" (Indonesia đang thay đổi) của các tác giả Gunawan Haryono, Daddi
Prianto, Agus Sukapti, Sri, Yulia Nuraini và Ratna [180].
+ Bài viết "Budaya Indonesia, Kajian Arkeologi, Seni, dan Sejarah"
(Văn hoá Indonesia, đánh giá khảo cổ, nghệ thuật và lịch sử) của tác giả
Sedyawati Edi [199]. Tác phẩm đã trình bày khá chi tiết về lịch sử phát triển
văn hóa Indonesia thông qua những đánh giá về khảo cổ và nghệ thuật kiến
trúc của nước này.
+ Cuốn sách "Politik Indonesia dalam Perspektif Sejarah" (Chính trị
Indonesia trong bối cảnh lịch sử) của tác giả Warday T.Baskara [204].
+ "Military Politics, Ethnicity and Conflict in Indonesia" (Chính trị
quân sự, sắc tộc và xung đột ở Indonesia) của tác giả Ikrar Nusa Bhakti, Sri
Yanuarti và Moamad Nurhasim [192]. Các tác giả Ikrar Nusa Bhakti, Sri
Yanuarti và Mochamad Nurhasim, là những nhà nghiên cứu tại Trung tâm
Nghiên cứu chính trị tại Viện Khoa học Indonesia (LIPI). Trong tập tài liệu
này, nhóm tác giả đã hệ thống, phân tích về vai trò của quân đội trong chính
trị Indonesia: 1945-2004. Đặc biệt, tài liệu đã làm rõ vai trò của quân đội
trong xử lý vấn đề ly khai ở Papua (1998-2004); các phản ứng của quân đội
đối với Phong trào Aceh tự do (1976-1998). Đây là những tài liệu rất quí mà
tác giả đã khai thác phục vụ đề tài luận án.
+ "Lessons learned from Indonesia's conflicts: Aceh, Poso and
Papua..." (Bài học rút ra từ các cuộc xung đột của Indonesia: Aceh, Poso và
Papua...) của tác giả Sidney Jones [201] là Viện trưởng Viện Phân tích Chính
19
sách Xung đột (IPAC). Tác giả đề cập trong bài nội dung về: ba cuộc xung
đột mà chính phủ Indonesia đã cố gắng giải quyết đưa ra một số bài học
nghiêm túc cho tổng thống tiếp theo của đất nước. Đó là: một thỏa thuận hòa
bình ở Aceh đã ngăn chặn một cuộc nổi dậy nhưng các cựu phiến quân tỏ ra
là những nhà lãnh đạo chính trị tồi tệ. Một thỏa thuận ở Poso đã ngăn chặn
cuộc chiến giữa Thiên chúa giáo - Hồi giáo nhưng để lại một mạng lưới cực
đoan tại chỗ vẫn tiếp tục hoạt động. Và một bộ máy chính quyền mới đã được
thành lập cho Papua đã thất bại khi chỉ tập trung vào phát triển kinh tế, trong
khi các bước ban đầu để đối thoại với Jakarta dường như bị đình trệ. Tác giả
Jones đã phân tích lý do của những kết quả trên và đưa ra nhận định về những
gì một chính quyền mới có thể cố gắng tiến lên. Đây là những thông tin rất
quan trọng mà tác giả luận án đã khai thác và đề cập trong chương 3.
+ "Religion Conflicts in Indonesia Problems and Solutions" (Xung đột
tôn giáo ở Indonesia các vấn đề và các giải pháp) của tác giả: Sintha
Wahjusaputri [202]. Bài viết phân tích những xung đột tôn giáo ở Indonesia
và đưa ra một số giải pháp cho vấn đề này.
+ Bài viết: "Harmony in Diversity: A Government Policy and Mutual
Effort of..." (Sự hài hòa trong đa dạng: Chính sách của chính phủ và nỗ lực
chung của những người tôn giáo ở Indonesia) của Dede Rosyada [173].
Thông qua tiếp cận và phân tích nhiều văn bản gốc của chính phủ Indonesia,
tác giả Dede Rosyada đã đưa ra nhận định: những người sáng lập của đất
nước đã đặt ra thỏa thuận ngay từ đầu, rằng họ khác nhau về sắc tộc, tôn giáo
và văn hóa, nhưng họ có một mục tiêu chung là trở thành một quốc gia độc
lập có thể thiết lập đất nước của mình để tạo ra chủ nghĩa lý tưởng lẫn nhau
để trở thành một xã hội phát triển, công bằng và thịnh vượng. Để trở thành
một quốc gia phát triển có thể đứng ngang hàng với các quốc gia khác trên thế
giới và quản lý toàn bộ tiềm năng của quốc gia, sự ổn định chính trị, sự tham
gia của công chúng và sức mạnh của nguồn nhân lực đáng tin cậy là cần thiết.
20
+ "Religion in Indonesia" (Tôn giáo ở Indonesia) của Indonesia [191].
Đây là bài viết đăng trên trang điện tử đầu tư, mục văn hóa của Indonesia. Bài
viết đề cập: Indonesia là một quốc gia dân chủ thế tục có dân số đa số Hồi
giáo. Hiến pháp Indonesia đảm bảo tất cả mọi người ở Indonesia có quyền tự
do thờ cúng, mỗi người theo tôn giáo hoặc tín ngưỡng của riêng mình. Nó
cũng quy định rằng nhà nước sẽ dựa trên niềm tin vào "Thiên Chúa duy nhất
và duy nhất" (một điều kiện cũng hình thành nguyên tắc đầu tiên của
Pancasila, triết lý nhà nước Indonesia được Sukarno đưa ra vào năm 1945).
Bài báo nhận định, Mặc dù Indonesia không phải là một quốc gia Hồi giáo,
các nguyên tắc Hồi giáo có ảnh hưởng đến việc ra quyết định chính trị. Hơn
nữa, một số nhóm Hồi giáo nhất định đã có thể ảnh hưởng đến việc ra quyết
định chính trị và tư pháp thông qua (mối đe dọa) bạo lực. Điểm đặc biệt trong
chính sách của chính phủ Indonesia đối với tôn giáo (tự do) được bài báo rút
ra là nó chỉ công nhận sáu tôn giáo chính thức (là Hồi giáo, Tin lành, Thiên
chúa giáo, Ấn Độ giáo, Phật giáo và Nho giáo). Mỗi người Indonesia được
yêu cầu phải nắm lấy một trong những tôn giáo này vì đây là dữ liệu cá nhân
bắt buộc được đề cập trong các tài liệu chính thức như hộ chiếu và thẻ nhận
dạng khác.
+ Ngoài ra, các bài viết này đều đã được dịch sang tiếng Việt có thể tìm
đọc tại thư viện Viện nghiên cứu Đông Nam Á - Viện Hàn lâm Khoa học xã
hội Việt Nam hoặc trên trang website http://nghiencuuquocte.org.
Các công trình nêu trên đã tiếp cận ở nhiều góc độ, phân tích, lý giải,
những khía cạnh khác nhau về nguyên nhân, thực trạng xung đột sắc tộc, tôn
giáo, ly khai dân tộc ở Indonesia và bước đầu làm sáng tỏ việc quốc gia này
xử lý các xung đột sắc tộc, tôn giáo, ly khai dân tộc cùng những ảnh hưởng
của nó đến sự nghiệp củng cố độc lập dân tộc trong thời gian từ sau Chiến
tranh Lạnh đến năm 2015. Vì vậy, đây chính là nguồn tư liệu quan trọng cung
cấp những cứ liệu tham khảo sát, khách quan, khoa học để tác giả tham khảo
thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu của luận án.
21
1.1.3. Các công trình nghiên cứu của các học giả Việt Nam
Các nhà nghiên cứu Việt Nam cũng đã công bố một số lượng lớn các
công trình về Indonesia nói chung, xung đột sắc tộc, tôn giáo ở nước này nói
riêng. Sau đây là một số công trình tiêu biểu:
Cuốn: "Indonesia những chặng đường lịch sử" của tác giả Ngô Văn
Doanh [25]. Từ việc cho ra mắt những công trình mang tính giới thiệu về văn
hoá, nghệ thuật của Indonesia, tác giả đã mở rộng hơn phạm vi nghiên cứu
khi cho ra đời những công trình đề cập đến các giai đoạn phát triển của lịch sử
Indonesia, hoặc đi sâu nghiên cứu về một vấn đề cụ thể. Cuốn Indonesia
những chặng đường lịch sử là công trình nghiên cứu công phu và khá toàn
diện về sự phát triển của Indonesia đến những năm 90 của thế kỷ XX. Được
trình bày theo từng giai đoạn lịch sử, cuốn sách bổ sung nguồn tư liệu quan
trọng để nghiên cứu sinh tìm hiểu thêm về đất nước, con người và lịch sử phát
triển của Indonesia.
Cuốn "Lịch sử Đông Nam Á" của Lương Ninh, Đỗ Thanh Bình, Trần
Thị Vinh [103] là công trình nghiên cứu về đại cương lịch sử Đông Nam Á,
được trình bày theo những lát cắt thời gian. Trong tác phẩm, các sự việc, sự
kiện được mô tả trung thực và độc lập, khắc họa được những nét đặc thù nhưng
vẫn phản ánh được sự liên kết mang tính hệ thống của từng quốc gia trong khu
vực. Trong tác phẩm này, Indonesia từ thời tiền sử đến năm 2005 tuy được trình
bày một cách khái quát nhưng đã thể hiện được những nét cơ bản nhất của lịch
sử phát triển và cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc của Indonesia.
Công trình nghiên cứu về lịch sử đương đại Đông Nam Á được Nhà
xuất bản Khoa học Xã hội ấn hành vào năm 2012 tại Hà nội. Đây là Tập VI
của bộ Thông sử Đông Nam Á do các học giả của Viện nghiên cứu Đông nam
Á, thuộc Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam biên soạn. Tập này có tựa
đề " Đông Nam Á trong thời kỳ hòa bình, phát triển và hội nhập" do Nguyễn
Thu Mỹ Chủ biên, Sách dày 774 trang, bao gồm 10 chương đề cập tới những
22
tiến triển cơ bản trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa. xã hội và hội
nhập quốc tế của Đông Nam Á trong 2 thập niên đầu của thời kỳ sau Chiến
tranh. Phần viết về Indonesia được đề cập ở hầu hết các chương (từ chương 2
và 10). Ở các chương này, các tác giả đã phân tích tình hình Indonesia, với tư
cách một bộ phận không thể tách rời của khu vực Đông nam Á, khi bước vào
thời kỳ sau Chiến tranh lạnh; những nỗ lực của Indonesia trong công cuộc
phục hồi kinh tế sau khủng hoảng tài chinh tiền tệ và chống lại các hoạt động
li khai khủng bố nhằm bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ và củng cố độc lập dân tộc
của Indonesia. Xuất phát từ nhận thức rằng hiện tượng li khai khủng bố ở
Indonesia cũng như ở một số nước Đông Nam Á khác có nguyên nhân sâu xa
từ chính sách ưu tiên dân tộc đa số và phân biệt đối xử với các dân tộc ít
người, là sự phân phối không công bằng các lợi ích từ sự phát triển kinh tế
của đất nước, nên khi viết về các hoạt động chống li khai khủng bố của chính
phủ Indonesia, các tác giả không chỉ dừng lại ở việc trình bày các hoạt động
vũ trang chống khủng bố mà còn phân tích sâu các cải cách chính trị, kinh tế,
xã hội nhằm giải quyết các nguyên nhân gốc rễ dẫn tới xung đột sắc tộc, tôn
giáo ở quốc gia này.
Cuốn sách: "Một số vấn đề về xung đột sắc tộc và tôn giáo ở Đông
Nam Á" của Phạm Thị Vinh [155]. Đây là một tập hợp các bài viết của các tác
giả về xung đột, tôn giáo, sắc tộc ở Indonesia, Malaysia, Philippines, Mianma
và Thái Lan. Trong các bài viết đó, các giả đã phân tích khá sâu về các
nguyên nhân của tình trạng li khai ở một số nước Đông Nam Á hiện nay và
những biện pháp khắc phục của chính phủ các nước trên.
Những bài nghiên cứu về những vấn đề "nóng" ở Indonesia như: "Vấn
đề Aceh ở Indonesia" của Phạm Thị Vinh, Nguyễn Huy Hồng [156]; "Xung
đột giữa người Dayak và Madura ở Tây Kalimantan (Borneo), Indonesia" của
Lê Thanh Hương [69]; "Indonesia trong cuộc chiến chống khủng bố" của
Nguyễn Huy Hồng [63]. Với những góc độ tiếp cận khác nhau cùng những
23
phân tích cụ thể, đây là nguồn tài liệu tham khảo rất tốt để nghiên cứu sinh
tiếp cận với một vấn đề đang thu hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu
trên thế giới và trong nước liên quan đến nội dung luận án.
Ngoài ra còn có khá nhiều bài viết đăng trên các tạp chí chuyên ngành
như: "Một số vấn đề trong chính sách đối ngoại của Cộng hòa Indonesia dưới
chế độ Tổng thống Sukarno" của Nguyễn Thị Thanh Thủy [134]; "Indonesia:
Lý thuyết điều chỉnh chính sách - cách nhìn lịch sử và bài học kinh nghiệm"
của Nguyễn Văn Hồng [65]; "Đầu tư trực tiếp của các nền kinh tế công
nghiệp mới châu Á (NICs) trong nền kinh tế Indonesia gần đây" của Lưu
Ngọc Trịnh [141]; "Thành tựu, kinh nghiệm và những vấn đề phát triển kinh
tế của Thái Lan, Malaysia, Philippin và Indonesia" của Nguyễn Mai Trung
[143]; "Indonesia qua những con số" của Trần Trọng Ngợi [95]; "Cải cách
kinh tế Indonesia từ đầu thập kỷ 80 đến nay và Tác động xã hội của khủng
hoảng tài chính ở Indonesia" của tác giả Nguyễn Văn Hà [43]; :Indonesia -
Tiếp bước trên con đường dân chủ và Đảng Goikar trên chính trường
Indonesia" của tác giả Nguyễn Huy Hồng [62]; "Người Hoa ở Indonesia với
cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ" của Châu Thị Hải [47]; "Chính sách
ngôn ngữ ở Indonesia trong hai thập kỷ qua" của Đoàn Văn Phúc [107]; "Tác
động của sự mất ổn định ở Indonesia đối với Đông Nam Á" của Phạm Văn
Đức [41]; các bài nghiên cứu của các tác giả tham gia Hội thảo: "Việt Nam -
Indonesia: Vì hoà bình, ổn định, hữu nghị và hợp tác ở Đông Nam Á" [154];
Những bài viết tham gia các hội thảo khoa học nhân dịp kỷ niệm 30 năm
(1997) và 40 năm (2007) tồn tại, phát triển của ASEAN do Trung tâm Khoa
học xã hội và nhân văn quốc gia (Việt Nam) tổ chức…
- Bài viết: "Tôn giáo và chính sách tôn giáo của Indonesia" của tác giả
Phong Phong [105]. Bài viết sau khi đề cập tóm tắt tình hình tôn giáo ở
Indonesia, đã đưa ra nhận định: việc chính trị hóa sắc tộc và tôn giáo có nguy
cơ gây chia rẽ chủ yếu trong nền chính trị quốc gia này. Chính phủ Indonesia
24
sẽ phải đối mặt với nhiều thách thức về sự thống nhất. Một trong những ưu
tiên là phải giải quyết tốt mối quan hệ giữa các tôn giáo, xây dựng các mối
tương quan liên tôn giáo hài hòa; thừa nhận sự đa dạng về văn hóa, tôn giáo,
tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của người dân. Đồng thời, cần
thực hiện các biện pháp phát triển kinh tế, giáo dục, xóa đói giảm nghèo để có
thể hạn chế được phần nào các cuộc xung đột sắc tộc, tôn giáo thông qua giải
quyết sự bất bình đẳng và bất công. Đây là những tư liệu tốt cho tác giả khi
nghiên cứu và đánh giá về vấn đề này.
1.1.4. Các luận văn, luận án về Indonesia
Bên cạnh những công trình khoa học do các nhà nghiên cứu thực hiện
tại các trung tâm nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn, trong những năm
gần đây, nhiều học viên cao học, nghiên cứu sinh cũng chọn các vấn đề sắc
tộc, tôn giáo ở Indonesia làm đề tài Thạc sỹ hoặc Tiến sỹ.
+ "Vấn đề ly khai dân tộc ở Đông Nam Á và những tác động của nó tới
khu vực từ 1991 đến năm 2000" của Nguyễn Kim Minh [90]. Luận văn đề cập
và phân tích về tình hình ly khai dân tộc ở Đông Nam Á, trong đó tập trung
làm rõ nguyên nhân, thực trạng và một số giải pháp mà các chính phủ
Indonesia, Philippines và Thái lan đã thực hiện trong giải quyết các vấn đề ly
khai ở nước mình.
+ "Quá trình đấu tranh củng cố độc lập dân tộc của Cộng hòa Indonesia
(1967 - 1998)" của Đinh Thanh Tú [146]. Luận án nghiên cứu và trình bày, luận
giải rõ các chính sách phát triển nhằm nâng cao sức mạnh đất nước, củng cố độc
lập dân tộc và bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ mà Indonesia đã thực hiện trong giai
đoạn 1967 - 1998; đánh giá những thành công, hạn chế và chỉ ra mối liên quan
giữa chúng đối với những vấn đề cần giải quyết của Indonesia hiện nay; rút ra
một số bài học về việc kết hợp để thực hiện có hiệu quả các chính sách phát triển
kinh tế, xã hội trong đấu tranh củng cố độc lập dân tộc và toàn vẹn lãnh thổ của
các nước đang phát triển trong bối cảnh hiện nay.
25
+ "Vấn đề xung đột sắc tộc-tôn giáo trong sự nghiệp bảo vệ độc lập
dân tộc của Indonesia từ năm 1945 đến 2005" của Bùi Huy Thành [119].
Luận án đã đi sâu phân tích làm rõ thực trạng xung đột sắc tộc-tôn giáo ở
Indonesia: điển hình là xung đột tại Đông Timo, Aceh, Irian Giaya, Maluku,
xung đột giữa người Hoa và người bản địa…Luận án rút ra nhận định: thực
trạng này bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân khác nhau như: nguyên nhân sâu
xa từ Indonesia là một quốc gia quần đảo lớn nhất thế giới, đồng thời cũng là
đất nước đa tôn giáo, đa dân tộc, đa ngôn ngữ với khoảng 400 tộc người và
200 ngôn ngữ khác nhau và cùng với chính sách chia để trị của chủ nghĩa
thực dân trong nhiều thập niên khi đất nước này bị chiếm làm thuộc địa.
Nguyên nhân trực tiếp bao gồm nhiều yếu tố như: 1). Bất công là nguồn gốc
kinh tế của xung đột giữa các nhóm sắc tộc hoặc các nhóm tôn giáo trong xã
hội. 2). Chênh lệch về trình độ phát triển giữa các sắc tộc hoặc các tôn giáo.
3). Nhà nước Indonesia có sự phân biệt đối xử giữa các sắc tộc hoặc các tôn
giáo 4). Sự can thiệp từ bên ngoài… Các mâu thuẫn và xung đột sắc tộc-tôn
giáo này đã tác động tiêu cực đến đời sống kinh tế - xã hội cũng như đe dọa
nền độc lập dân tộc và toàn vẹn lãnh thổ của Indonesia.
Cuối cùng, luận án đã rút ra một số bài học kinh nghiệm cho các quốc
gia đang phát triển và Việt Nam
+ "Quá trình dân chủ hóa ở Indonesia từ năm 1945 đến nay- nhìn từ
góc độ giai cấp trung lưu và xã hội dân sự" của Hồ Thị Thành [120]. Luận án
này đã tập trung giải quyết các vấn đề: 1) Làm rõ quá trình dân chủ hóa và
các mô hình dân chủ được vận dụng ở Indonesia từ năm 1945 đến 2014, 2)
Phân tích ảnh hưởng của giai cấp trung lưu và các tổ chức xã hội dân sự đối
với quá trình dân chủ hóa. 3) Đưa ra một số ngụ ý của dân chủ hóa ở
Indonesia đối với khu vực Đông Nam Á và Việt Nam.
+ "Quá trình đấu tranh giành và củng cố độc lập ở Indonesia (1927-
1965)" của Phạm Thị Huyền Trang [140]. Luận án phân tích sâu các nhân tố
26
quốc tế và trong nước tác động tới quá trình đấu tranh giành và củng cố độc
lập dân tộc của Indonesia qua hai giai đoạn chính: 1927-1945 và 1945-1965.
Luận án đã phân tích đầy đủ, toàn diện các hình thức đấu tranh đa dạng và
phong phú và làm rõ sự khác nhau giữa các hình thức trong mỗi giai đoạn của
quá trình đấu tranh giành và củng cố nền độc lập dân tộc của nhân dân
Indonesia. Trong chương cuối cùng, luận đã làm rõ được các thành tựu, hạn
chế của cuộc đấu tranh giành và củng cố độc lập của Indonesia, đồng thời chỉ
ra nguyên nhân dẫn tới những thành tựu và hạn chế đó. Luận án cũng làm rõ
những đặc điểm của cuộc đấu tranh giành và củng cố độc lập dân tộc của
Indonesia trong so sánh với sự nghiệp tương tự của Việt nam. Mặc dù luận án
không đề cập trực tiếp tới các vấn đề xung đột sắc tộc tôn giáo ở Indonesia
hiện nay, các kết quả nghiên cứu của luận án đã cung cấp sự hiểu biết nhất
định về nguyên nhân lịch sử của các xung đột sắc tộc, tôn giáo ở Indonesia,
đặc biệt là ở Aceh
1.2. MỘT SỐ NHẬN XÉT VỀ KẾT QUẢ KHOA HỌC MÀ LUẬN ÁN SẼ
KẾ THỪA TỪ NGHIÊN CỨU CỦA NHỮNG NGƯỜI ĐI TRƯỚC
Các công trình nghiên cứu được đề cập trên đây đã tiếp cận vấn đề
nghiên cứu từ nhiều góc độ, phân tích, lý giải những khía cạnh khác nhau về
nguyên nhân, thực trạng xung đột sắc tộc, tôn giáo, ly khai dân tộc ở
Indonesia và bước đầu làm sáng tỏ việc quốc gia này xử lý các xung đột sắc
tộc, tôn giáo, ly khai dân tộc cùng những ảnh hưởng của nó đến sự nghiệp
củng cố độc lập dân tộc trong thời gian từ sau Chiến tranh Lạnh đến năm
2015. Đây chính là nguồn tài liệu tham khảo quý để NCS tham khảo, phục vụ
cho việc nghiên cứu đề tài luận án. Những kết quả nghiên cứu mà luận án có
thể kế thừa từ những công trình trên bao gồm:
Thứ nhất, đã làm rõ các khái niệm về sắc tộc, tôn giáo, ly khai dân
tộc phân tích những tác động của nó đến tình hình kinh tế, chính trị, xã hội
của Indonesia.
27
Thứ hai, đã làm rõ nguyên nhân, diễn biến và một số giải pháp xử lý các
xung đột sắc tộc, tôn giáo, ly khai dân tộc ở Indonesia từ sau Chiến tranh Lạnh.
Thứ ba, các công trình nghiên cứu trên bước đầu đã rút ra một số kinh
nghiệm mang tính phổ quát về xử lý xung đột, ly khai dân tộc ở Indonesia.
1.3. NHỮNG VẤN ĐỀ LUẬN ÁN CẦN TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU HOẶC
LÀM SÂU SẮC HƠN
Trên cơ sở tiếp thu những kết quả nghiên cứu của các công trình nghiên
cứu trước, luận án sẽ tập trung giải quyết và làm sáng tỏ một số vấn đề sau:
Một là, một số khái niệm xung quanh vấn đề giải quyết xung đột sắc
tộc, tôn giáo nhằm củng cố độc lập dân tộc của các nước đa dân tộc, đa tôn
giáo trong quá trình toàn cầu hóa hiện nay.
Hai là, những nhân tố nào tác động đến xung đột sắc tộc, tôn giáo và
việc giải quyết nó nhằm bảo vệ và củng cố độc lập dân tộc ở Cộng hòa
Indonesia giai đoạn 1991-2015.
Ba là, ý nghĩa và những kinh nghiệm rút ra từ thực tiễn giải quyết xung
đột sắc tộc, tôn giáo, ly khai dân tộc ở Indonesia đối với các quốc gia trong
khu vực, trong đó có Việt Nam.
Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu của luận án, do những
điều kiện chủ quan và khách quan, tác giả tự nhận thấy có những vấn đề nêu
ra mới chỉ giải quyết được một phần hoặc có những vẫn đề nghiên cứu chưa
sâu. Tác giả sẽ tiếp tục nghiên cứu và hoàn thiện trong thời gian tiếp theo.
Tiểu kết chương 1
Tổng hợp các công trình nghiên cứu liên quan cho thấy, các công trình
nghiên cứu rất đa dạng cả về nội dung, hình thức và cách tiếp cận. Các công
trình đã tiếp cận ở nhiều góc độ, phân tích, lý giải, những khía cạnh khác
nhau về nguyên nhân, thực trạng xung đột sắc tộc, tôn giáo, ly khai dân tộc ở
Indonesia và bước đầu làm sáng tỏ việc quốc gia này xử lý các xung đột sắc
tộc, tôn giáo, ly khai dân tộc cùng những ảnh hưởng của nó đến sự nghiệp
28
củng cố độc lập dân tộc trong thời gian từ sau Chiến tranh Lạnh đến năm
2015. Luận án tiếp thu, kế thừa kết quả của các công trình trước, vận dụng và
phát triển trong nghiên cứu, phục vụ cho việc làm rõ các vấn đề theo chủ đề
của đề tài luận án.
Tổng quan tình hình nghiên cứu, theo mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu,
cho thấy còn thiếu hụt trên nhiều vấn đề, mà luận án phải tiếp tục giải quyết.
Đó là: thống nhất một số khái niệm liên quan đến nội dung luận án; những
nhân tố nào tác động đến xung đột sắc tộc, tôn giáo và việc giải quyết nó
nhằm bảo vệ và củng cố độc lập dân tộc ở Cộng hòa Indonesia giai đoạn
1991-2015; ý nghĩa và những kinh nghiệm rút ra từ thực tiễn giải quyết xung
đột sắc tộc, tôn giáo, ly khai dân tộc ở Indonesia đối với các quốc gia trong
khu vực, trong đó có Việt Nam.
29
Chương 2
NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN
XUNG ĐỘT SẮC TỘC, TÔN GIÁO TRONG CÔNG CUỘC BẢO VỆ,
CỦNG CỐ ĐỘC LẬP DÂN TỘC CỦA CỘNG HÒA INDONESIA
GIAI ĐOẠN 1991-2015
2.1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ XUNG ĐỘT SẮC TỘC, TÔN GIÁO
VÀ BẢO VỆ, CỦNG CỐ ĐỘC LẬP DÂN TỘC THÔNG QUA GIẢI QUYẾT XUNG
ĐỘT SẮC TỘC, TÔN GIÁO
2.1.1. Một số vấn đề lý luận về xung đột sắc tộc, tôn giáo và ảnh
hưởng của nó đến độc lập dân tộc
2.1.1.1. Khái niệm "dân tộc", "tộc người"
- Khái niệm "Dân tộc" (Nation)
Dân tộc là sản phẩm của một quá trình lâu dài trong lịch sử xã hội loài
người. Trước khi xuất hiện dân tộc, loài người đã trải qua những hình thức cộng
đồng từ thấp đến cao: thị tộc, bộ lạc, bộ tộc. Dân tộc là khái niệm chỉ cộng đồng
người hình thành và phát triển trong lịch sử, sau khi xã hội đã có sự phân chia
giai cấp và xuất hiện nhà nước. Về mặt xã hội, khái niệm dân tộc không phải bao
giờ cũng trùng hợp với khái niệm quốc gia theo nghĩa là một cộng đồng chính trị
- xã hội được quản lý bằng bộ máy nhà nước. Có quốc gia chỉ gồm một dân tộc
(hiếm có, như trường hợp Triều Tiên trước khi bị chia cắt), song phần lớn là
những quốc gia gồm nhiều dân tộc (nhiều dân tộc nhỏ quy tụ xung quanh một
dân tộc chủ yếu, thường là đông hơn và phát triển hơn trong lịch sử). Cũng có
tình hình là những người cùng một dân tộc nhưng sống phân tán ở những quốc
gia khác nhau. Trong lịch sử, các dân tộc hình thành và phát triển rất không đồng
đều cả về thời gian, quy mô, sức sống lẫn trình độ phát triển.
Khái niệm dân tộc được hiểu theo hai nghĩa:
Thứ nhất, khái niệm dân tộc là khái niệm dùng để chỉ cộng đồng tộc
người (ethnic) trong lịch sử. Đây là khái niệm chỉ một cộng đồng người có
30
mối liên hệ chặt chẽ và bền vững, có chung sinh hoạt kinh tế, có ngôn ngữ
riêng, có những nét đặc thù về văn hoá; xuất hiện sau bộ lạc, bộ tộc; kế thừa
phát triển cao hơn những nhân tố tộc người ở bộ lạc, bộ tộc và thể hiện thành
ý thức tự giác tộc người của dân cư cộng đồng đó.
Theo nghĩa này, dân tộc là một cộng đồng người hình thành và phát
triển trong lịch sử, trên một lãnh thổ nhất định, có mối liên hệ tương đối bền
vững về kinh tế, ngôn ngữ, đặc điểm sinh hoạt văn hoá và ý thức tự giác dân
tộc thông qua tự nhận tên gọi của dân tộc mình, như dân tộc Tày, dân tộc
Mường, dân tộc Chứt... Trong cách nói thông dụng, từ dân tộc có thể thay
bằng từ "người" như người Tày, người Hoa, người Êđê… đều để chỉ dân tộc
Tày, dân tộc Hoa, dân tộc Êđê… ở Việt Nam [135].
Dân tộc theo nghĩa tộc người được nhận biết qua các đặc trưng là: 1),
các thành viên trong cùng một dân tộc có chung một phương thức sinh hoạt
kinh tế làm cơ sở liên kết các thành viên trong dân tộc, tạo nền tảng cho dân
tộc tồn tại và phát triển; 2). có một ngôn ngữ chung (thường là tiếng mẹ đẻ)
để giao tiếp nội bộ và ngăn cách, phân biệt với dân tộc khác; 3), có chung đặc
điểm sinh hoạt văn hoá, tạo nên bản sắc văn hoá của dân tộc, phân biệt với
văn hóa các dân tộc khác; thứ tư, có chung một ý thức tự giác dân tộc, tự thừa
nhận mình thuộc về một cộng đồng dân tộc, luôn tự hào, bảo lưu gìn giữ ngôn
ngữ, văn hóa, lãnh thổ, lợi ích của dân tộc mình, được biểu hiện cao nhất ở
việc tự nhận tên gọi của dân tộc mình.
Một dân tộc được biểu hiện ở phức hợp các đặc trưng, tiêu chí trên
trong mối quan hệ với nhau. Trên thực tế, có thể có dân tộc có đầy đủ đặc
trưng, nhưng có dân tộc không còn đủ các đặc trưng đó, ý thức tự giác dân tộc
sẽ là tiêu chí còn lại cuối cùng của dân tộc, khi các đặc trưng, các tiêu chí trên
có thể bị mai một, bị đồng hóa.
Thứ hai, khái niệm dân tộc dùng để chỉ một cộng đồng người cùng sinh
sống trong một quốc gia dân tộc (State -Nation). Theo quan điểm mácxít, dân tộc
31
là một cộng đồng người xác định dựa trên cộng đồng về lãnh thổ, ngôn ngữ, tâm
lý dân tộc, một thị trường dân tộc thống nhất trong một "nhà nước dân tộc" nhất
định. Theo nghĩa này, dân tộc là một cộng đồng chính trị - xã hội, thiết lập trên
một lãnh thổ nhất định, bao gồm một hay nhiều tộc người, được quản lý, chỉ đạo
bởi một nhà nước chung, thống nhất. Như vậy, dân tộc là một cộng đồng người
ổn định làm thành nhân dân của một nước, có lãnh thổ quốc gia, nền kinh tế
thống nhất, quốc ngữ chung và có ý thức về sự thống nhất của mình, gắn bó với
nhau bởi quyền lợi chính trị, kinh tế, truyền thống văn hoá và truyền thống đấu
tranh chung trong suốt quá trình lịch sử lâu dài dựng nước và giữ nước. Dân tộc
là dân cư của một quốc gia nhất định, là quốc gia - dân tộc, như: dân tộc Pháp,
dân tộc Việt Nam, dân tộc Campuchia, dân tộc Indonesia...
Như vậy, với nghĩa thứ nhất, dân tộc là một bộ phận trong dân tộc quốc
gia đa tộc người; với nghĩa thứ hai, dân tộc là toàn bộ nhân dân của quốc gia
dân tộc đó.
Sự hình thành dân tộc trải qua quá trình lịch sử lâu dài, gắn liền với sự
phát triển của sản xuất, điều kiện tự nhiên, xã hội. Ở các nước phương Tây,
dân tộc quốc gia ra đời gắn liền với sự xuất hiện của chủ nghĩa tư bản và sự
hình thành thị trường dân tộc. Ở các nước phương Đông, sự hình thành dân
tộc có nhiều khác biệt, do điều kiện tự nhiên, xã hội mà trực tiếp là do nhu
cầu trị thủy và chống ngoại xâm nên dân tộc quốc gia ra đời sớm hơn các
dân tộc ở phương Tây. Sự khác nhau về quá trình hình thành dân tộc ở
phương Tây và phương Đông, dẫn đến những khác biệt về đặc điểm dân
tộc của từng nơi.
Dân tộc xuất hiện, vấn đề dân tộc cũng xuất hiện. Vấn đề dân tộc được
xem xét như là một lĩnh vực của đời sống xã hội. Đó là những vấn đề nảy sinh
trong quan hệ giữa các tộc người (có thể trong nội bộ quốc gia đa dân tộc,
hoặc trong quan hệ giữa các quốc gia dân tộc với nhau) trên các lĩnh vực của
đời sống xã hội, đòi hỏi các nhà nước phải quan tâm giải quyết.
32
- Khái niệm "tộc người"
Tộc người là khái niệm xã hội phức hợp, có thể hiểu theo nghĩa hẹp và
theo nghĩa rộng.
Theo nghĩa hẹp, tộc người có thể được hiểu là một cộng người có
chung tiếng mẹ đẻ. Như vậy, theo khái niệm này tộc người tương đương với
nhóm ngôn ngữ hay với nhóm dân tộc - ngôn ngữ mà các nhà ngôn ngữ học
gọi là nhóm nói tiếng mẹ đẻ. Theo khái niệm này, tộc người là khái niệm
dùng để chỉ những tập hợp người khá thuần nhất, sống cạnh nhau và có chung
các đặc điểm về văn hoá mà trong đó yếu tố biểu hiện rõ nhất là việc sử dụng
một ngôn ngữ. Nhưng, vấn đề đặt ra là, có rất nhiều cá nhân sống đâu đó trên
thế giới có cùng một ngôn ngữ mẹ đẻ, song lại cách xa nhau về nhiều mặt,
như về mặt địa lý (giữa các châu lục), về mặt lịch sử (thuộc nhiều quốc gia
khác nhau), về mặt chủng tộc (thuộc các nguồn gốc khác nhau)…, thì liệu họ
có cùng một tộc người không, hay họ là những tộc người khác nhau có cùng
một ngôn ngữ, hay họ là một tộc người được chia ra nhiều tộc người nhỏ?…
Đây là một vấn đề cần làm rõ, mà trong khuôn khổ luận án này chưa thể giải
quyết thấu đáo được.
Theo nghĩa rộng, tộc người được hiểu là một cộng đồng người liên kết
với nhau bởi một phức hợp các tính chất chung về các mặt nhân chủng, ngôn
ngữ, chính trị,… Sự kết hợp các tính chất đó tạo thành một hệ thống riêng,
một cấu trúc mang tính văn hoá chủ yếu - một nền văn hoá cộng đồng riêng
biệt. Nói một cách ngắn gọn, tộc người là một khái niệm chỉ một tập thể, hay
đúng hơn là một cộng đồng người, được gắn bó với nhau bởi một nền văn hoá
cộng đồng riêng biệt. Theo khái niệm này, các yếu tố trong hệ thống tộc
người có thể phát triển không đồng đều ở mỗi thành viên, hay sự vắng mặt
của một trong số các yếu tố ở một thành viên cũng không làm cho họ tách
khỏi nhóm tộc người của mình. Hiểu theo nghĩa rộng cho phép bao quát tốt
hơn các nhóm cộng đồng tộc người hiện đang tồn tại. Ở đây, mặc dù có
33
những ranh giới không rõ ràng, nhưng chúng vẫn là thực thể thực tế so với
những con số về các cá nhân chỉ được xác định theo một tiêu chuẩn duy nhất.
Để nhận thức chính xác, sâu sắc về tộc người, hay nhóm tộc người
(group ethnique), điều quan trọng là phải hiểu được những đặc điểm của các
yếu tố cấu thành, đó là: Thứ nhất, yếu tố nhân chủng là yếu tố nền tảng của
việc xác định nguồn gốc tộc người. Căn cứ vào yếu tố này chúng ta có thể xác
định được các tộc người được sinh ra từ những bộ phận nào của nhân loại;
chúng xuất hiện khi nào và hoà nhập vào nhau ra sao… Khi căn cứ vào yếu tố
đặc trưng này, điều quan trọng là phải nghiên cứu các thành phần lịch sử khác
nhau của cư dân trong tộc người, chứ không phải chỉ là thu thập và phân tích
các dữ liệu nhân chủng trực quan. Những thành phần cư dân ít nhiều có tính
nguyên gốc, cùng với những thành phần cư dân đóng góp về sau làm thành cơ
sở cho quá trình phát triển tộc người. Các phương hướng pha tạp, kết hợp kế
cận hay chồng chéo của các thành phần cư dân sẽ soi sáng cho tình trạng hiện
tại của tộc người. Thứ hai, yếu tố dân số; bất cứ tộc người nào cũng đều được
xác định bằng số lượng người mà nó tập hợp. Chính vì vậy, những số liệu
thống kê về dân số là đặc biệt quý giá để đo lường cả về mức độ tiến hoá của
tộc người. Mặt hhác, chúng còn soi sáng cả về quá trình phát sinh, phát triển
hay triển vọng của tộc người. Thứ ba, yếu tố ngôn ngữ, là tiêu chí cơ bản để
phân biệt tộc người này với tộc người khác. Nó là sợi dây liên hệ đặc biệt
giữa các thành viên của tộc người. Ngôn ngữ vừa là dấu hiệu bên ngoài, vừa
là một yếu tố cấu kết bên trong của cộng đồng tộc người; là sở hữu, tài sản
chung của tộc người, là phương tiện chuyển tải nền văn hoá của tộc người.
Thứ tư, yếu tố lãnh thổ, với tư cách là một xã hội toàn vẹn và tự lập, mỗi tộc
người đều chiếm một phần lãnh thổ riêng trên bề mặt trái đất. Lãnh thổ là cái
khung vật chất mà trong đó tộc người được cố định, thích nghi và cải biến
môi trường tự nhiên. Lãnh thổ của các tộc người có sự khác nhau về hình thức
và tuỳ thuộc vào khả năng và cung cách sinh sống của họ. Thứ năm, yếu
34
tố phương thức sản xuất; mỗi tộc người đều hình thành trong nó một lối sống
nhất định. Lối sống đó phụ thuộc vào môi trường thiên nhiên, phương thức
sản xuất của riêng nó. Đó là công nghệ, tri thức, tín ngưỡng,…Phương thức
sản xuất có khả năng chấn chỉnh lại lối sống tổng thể; là cái dễ biến đổi,
nhưng là cái làm cho mỗi tộc người mang đặc trưng riêng, làm cho nó trở
thành thuần nhất có cấu trúc riêng và phân biệt nó với các tộc người khác.
Thứ sáu, yếu tố ý thức tộc người trong văn hoá tộc người là những cái "phi
vật chất" bao gồm những di sản tinh thần của cộng đồng tộc người dưới tất cả
các hình thức của nó; dựa trên cái giá đỡ đặc biệt là ngôn ngữ. Bất cứ một
thành viên nào của tộc người mà về mặt tinh thần được hình thành trước hết
bởi ngôn ngữ thì đều có thể hoàn thiện thế giới quan thông qua sự thanh lọc
của văn hoá tộc người; nó tạo cho thành viên một tập hợp những tri giác, tình
cảm và sự nhận biết về giá trị chung của cộng đồng tộc người; đó chính là ý
thức tộc người [122].
* Khái niệm "xung đột sắc tộc"
Khái niệm xung đột sắc tộc theo tác giả chỉ phù hợp với các xã hội có
màu da khác nhau như ở Mỹ. Còn ở Indonesia về cơ bản các tộc người ở đây
đều có một màu da : đen hoặc ngăm ngăm đen. Do cách dịch của người Việt
nên dù dịch là xung đột sắc tộc hay tộc người thì đều xuất phát từ tiếng Anh
(Ethnic Conflict).
Vấn đề xung đột dân tộc, tộc người là một hiện tượng lịch sử có từ
hàng ngàn năm nay, gắn liền với quá trình hình thành và phát triển của các
dân tộc. Xung đột dân tộc, tộc người có thể dẫn đến chiến tranh với các khả
năng đồng hóa, hợp nhất, thống nhất hoặc li khai dân tộc. Nhân loại không thể
đếm xuể các cuộc xung đột dân tộc, tộc người từ xưa đến nay.
Xung đột, theo tính chất chặt chẽ, khoa học, khái niệm xung đột (tiếng
Latinh là Confliktus) bao gồm nghĩa mâu thuẫn (giữa các bên, các ý kiến, các
thế lực). Nguyên nhân của nó là do có những mâu thuẫn gay gắt nhất trong
35
đời sống xã hội. Chẳng hạn, mâu thuẫn về vật chất, về các giá trị và các
phương thức sống chủ yếu nhất, về quyền lực (vấn đề quyền khống chế), về
những khác biệt địa vị, vai trò trong cơ cấu xã hội, về những khác biệt cá
nhân (trong đó có các khác biệt về tình cảm - tâm lý), v.v.. Như vậy, xung đột
bao trùm mọi phạm vi hoạt động sống của con người, mọi quan hệ xã hội,
mọi sự tương tác xã hội. Xung đột thực chất là một trong số những kiểu tương
tác xã hội mà các bên tham gia là các cá thể đơn lẻ, các tập đoàn, các tổ chức
xã hội lớn hoặc nhỏ khác nhau [122] … Tuy nhiên, chỉ có các tương tác tạo ra
sự đối đầu giữa các bên, tức các bên tham gia có những hành động chống đối
nhau, mới là xung đột.
Sắc tộc là khái niệm chỉ xuất hiện trong nghiên cứu Dân tộc học ở
miền Bắc Việt Nam, sau khi thống nhất đất nước. Trong thực tế khái niệm
hay khái niệm xung đột tộc người đều được dịch từ cụm từ tiếng Anh là
"Ethnic conflict). Theo Nhà dân tộc học Nguyễn Duy Thiệu làm việc ở Bảo
tàng các Dân tộc Việt Nam "Sắc tộc là cách dân gian gọi các tộc người (theo
nghĩa các cộng đồng có màu da khác nhau). Cách gọi này không sai nhưng
không chuẩn về học thuật". Trong luận án tác giả sử dụng khái niệm xung đột
sắc tộc với cùng nội hàm như "xung đột - tộc người".
Xung đột sắc tộc cũng giống như nội chiến, nhưng ở qui mô nhỏ hơn.
Xung đột sắc tộc là sự va chạm, tranh chấp, đụng độ về các lợi ích kinh tế
hoặc các giá trị văn hóa giữa các cộng đồng tộc người.
Từ những luận chứng trên, có thể quan niệm: Xung đột sắc tộc là xung
đột giữa các dân tộc khác nhau (có khi cùng một quốc gia, cùng một tôn
giáo...) xuất phát từ yêu cầu giải quyết các mâu thuẫn, bất đồng giữa các dân
tộc với nhau.
Nguyên nhân sâu xa cũng chỉ vì quyền lợi nhưng lại được che đậy bởi
những lý do mỹ miều để bao biện cho hành động của mình... Nguyên nhân
xung đột sắc tộc chính vẫn là tranh giành quyền lực, đất đai của những tộc
36
người thiểu số khác biệt đôi khi trái ngược nhau về ngôn ngữ, tôn giáo nhưng
lại sinh sống gần nhau. Hậu quả thì bao giờ mà không bi thảm: người chết, tài
sản hư hao, xã hội rối ren.
* Khái niệm "tôn giáo"
Tôn giáo, tín ngưỡng là một hiện tượng xã hội phức tạp, xuất hiện từ
rất sớm trong đời sống nhân loại. Trong tiến trình phát triển của nhân loại, tôn
giáo và tín ngưỡng đã trở thành một thành tố của sự phát triển. Bất cứ một tôn
giáo nào, với hình thái phát triển của nó, cũng đều bao gồm: ý thức tôn giáo
(thể hiện ở quan niệm về các đấng thiêng liêng với những tín ngưỡng tương
ứng) và hệ thống tổ chức tôn giáo cùng những hoạt động mang tính chất nghi
thức tín ngưỡng của nó. Tôn giáo đã và đang ảnh hưởng đến chính trị - xã hội
theo hai cách: một là, định hình thế giới quan của các tín đồ; hai là, các tổ
chức tôn giáo tác động đến các tiến trình chính trị.
Từ khi xuất hiện đến nay, tôn giáo luôn luôn biến động, phản ánh sự
biến đổi của lịch sử và luôn song hành cùng với đời sống của nhân loại. Tôn
giáo là một hiện tượng xã hội sẽ còn tồn tại lâu dài. Thực chất giải quyết vấn
đề tôn giáo là giải quyết những mâu thuẫn, xung đột lợi ích nảy sinh giữa các
tôn giáo, giữa người có tôn giáo và không có tôn giáo, giữa người có tôn giáo
ở trong nước và người có tôn giáo ở nước ngoài, giữa các quốc gia trong cách
thức giải quyết những mâu thuẫn, xung đột liên quan đến tôn giáo như: Việc
bảo đảm tự do tín ngưỡng tôn giáo; sự khác biệt về tín ngưỡng tôn giáo, giữa
tôn giáo bản địa và tôn giáo nước ngoài du nhập vào; mâu thuẫn, cạnh tranh
trong hoạt động của các tôn giáo để truyền đạo và phát triển tín đồ; việc thừa
nhận hay không thừa nhận tư cách pháp nhân đối với hoạt động của các tôn
giáo của nhà nước…
Trong lịch sử đã từng tồn tại rất nhiều quan niệm khác nhau về tôn
giáo: Các nhà thần học cho rằng "Tôn giáo là mối liên hệ giữa thần thánh và
con người". Khái niệm mang dấu hiệu đặc trưng của tôn giáo: "Tôn giáo là
37
niềm tin vào cái siêu nhiên". Một số nhà tâm lý học lại cho rằng "Tôn giáo là
sự sáng tạo của mỗi cá nhân trong nỗi cô đơn của mình, tôn giáo là sự cô đơn,
nếu anh chưa từng cô đơn thì anh chưa bao giờ có tôn giáo". Khái niệm mang
khía cạnh bản chất xã hội của tôn giáo của C.Mác, đó là: "Tôn giáo là tiếng
thở dài của chúng sinh bị áp bức, là trái tim của thế giới không có trái tim, nó
là tinh thần của trật tự không có tinh thần" [89, tr.570].
Từ thực tiễn hoạt động của tín ngưỡng, tôn giáo và quán triệt quan điểm
của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, chính sách tôn
giáo của Đảng, Nhà nước, Luật Tín ngưỡng, tôn giáo Việt Nam đưa ra khái
niệm: Tôn giáo là niềm tin của con người tồn tại với hệ thống quan niệm và hoạt
động bao gồm đối tượng tôn thờ, giáo lý, giáo luật, lễ nghi và tổ chức [108].
Tôn giáo không phải là hiện tượng tự nhiên tồn tại trước con người,
ngoài xã hội loài người, mà nó là sản phẩm của xã hội, của những mối quan
hệ giữa con người với tự nhiên và mối quan hệ giữa người với người. Chính
con người sinh ra tôn giáo chứ không phải tôn giáo sinh ra con người. Sự ra
đời, tồn tại, phát triển của tôn giáo gắn với những điều kiện nhận thức, tâm lý,
xã hội nhất định và nó sẽ mất đi khi điều kiện đó không còn.
Một tôn giáo cụ thể thường bao gồm ba yếu tố: ý thức tôn giáo, hoạt
động tôn giáo và tổ chức tôn giáo.
Ý thức tôn giáo là sự thống nhất giữa tâm lý tôn giáo và hệ tư tưởng tôn
giáo, được thể hiện ở các giáo lý của tôn giáo. Tâm lý tôn giáo là toàn bộ cảm
giác, tri giác, tình cảm, biểu tượng tôn giáo, niềm tin tôn giáo phản ánh trực
tiếp sự bất lực của con người trong các hoạt động thực tiễn. Nhưng đó là niềm
tin mê muội, mù quáng, hoang đường, phi lôgic. Các tín đồ tôn giáo không
chỉ tin tưởng vào sự tồn tại của đấng siêu nhiên, mà còn cầu mong đấng siêu
nhiên giúp đỡ, che chở. Tuy nhiên, các nhu cầu này không bao giờ, chưa bao
giờ được thực hiện. Nhưng trên cơ sở niềm tin tuyệt đối mang tính hư ảo cùng
với những nghi lễ thờ cúng và sự tác động của những lời rao giảng của các
38
chức sắc, nhà tu hành chuyên nghiệp về sức mạnh của đấng siêu nhiên, thì
chính những nhu cầu không được thực hiện lại luôn là động lực thôi thúc các
tín đồ hoạt động. Vì thế, niềm tin tôn giáo mang tính hư ảo, phi lôgic nhưng
lại có tính bền vững khá sâu sắc, ăn sâu vào trong tư tưởng, tình cảm của con
người. Nó không chỉ thấm sâu trong tâm khảm của mỗi cá nhân mà còn được
lưu truyền qua các thế hệ con người. Hệ tư tưởng tôn giáo là hệ thống quan
niệm, tín điều nhằm luận giải sự tồn tại, tính hoàn thiện, hoàn mỹ, sức mạnh
vô biên của đấng siêu nhiên và con đường, biện pháp để xây dựng, củng cố,
phát triển niềm tin tôn giáo.
Tổ chức tôn giáo là tập hợp tín đồ, chức sắc, chức việc, nhà tu hành của
một tôn giáo được tổ chức theo một cơ cấu nhất định được nhà nước công
nhận nhằm thực hiện các hoạt động tôn giáo. Đây là phương thức tồn tại của
tôn giáo, mà nội dung cơ bản của nó là toàn bộ các mối quan hệ và trình tự
sắp xếp, thứ bậc các tín đồ, chức sắc cùng quy trình giải quyết các mối quan
hệ đó. Tổ chức tôn giáo rất đa dạng phức tạp, mỗi tôn giáo có tổ chức khác
nhau. Tổ chức tôn giáo trực thuộc là tổ chức thuộc tổ chức tôn giáo, được
thành lập theo hiến chương, điều lệ, giáo luật, quy định của tổ chức tôn giáo.
Cơ sở tôn giáo gồm chùa, nhà thờ, nhà nguyện, thánh thất, thánh đường, trụ
sở của tổ chức tôn giáo, cơ sở hợp pháp khác của tổ chức tôn giáo.
Hoạt động tôn giáo là hoạt động truyền bá tôn giáo, sinh hoạt tôn giáo
và quản lý tổ chức của tôn giáo. Đây là hoạt động của các tín đồ nhằm hướng
tới đấng siêu nhiên, phục vụ đấng siêu nhiên. Hoạt động tôn giáo gồm nhiều
loại hình phong phú, nhưng quan trọng nhất là các hoạt động lễ nghi, thờ
phụng, biên soạn, tuyên truyền giáo lý, giáo luật. Sinh hoạt tôn giáo là việc
bày tỏ niềm tin tôn giáo, thực hành giáo lý, giáo luật, lễ nghi tôn giáo.
Tôn giáo không chỉ là những sự bất lực của con người trong cuộc đấu
tranh với tự nhiên và xã hội, do thiếu hiểu biết dẫn đến sợ hãi và tự đánh mất
mình do đó phải dựa vào thánh thần mà còn hướng con người đến một hy
39
vọng tuyệt đối, vào một cuộc đời thánh thiện, một cuộc đời mà quá khứ, hiện
tại, tương lai cùng chung sống. Nó gieo niềm hy vọng vào con người, dù có
phần ảo tưởng để mà yên tâm, tin tưởng để sống và phải sống trong một thế
giới trần gian có nhiều bất bình đẳng, bất công và khổ ải.
Như vậy: Tôn giáo là niềm tin của con người vào các đấng siêu nhiên,
được thừa nhận một cách trực giác và tác động qua lại một cách hư ảo, nhằm
giải thích những vấn đề trên trần thế cũng như ở thế giới bên kia. Niềm tin đó
được biểu hiện rất đa dạng, tuỳ thuộc vào những giai đoạn lịch sử, văn hóa
khác nhau.
* Khái niệm "xung đột tôn giáo"
Xung đột tôn giáo được coi là một trong nguồn tiềm tàng của xung đột
quốc tế. Xung đột tôn giáo liên quan đến các giá trị tinh thần và niềm tin tuyệt
đối. Những bất đồng văn hoá/tôn giáo và việc giữ gìn bản sắc vẫn tiếp tục là
vấn đề trong quan hệ quốc tế. Nhưng do tôn giáo không còn chi phối chính
quyền như trước kia, nên khó có lợi ích tôn giáo nào được đặt lên trên lợi ích
quốc gia dân tộc.
Trong tình hình phần lớn quốc gia là đa tôn giáo, lợi ích của các tôn
giáo chỉ là lợi ích nhóm nên càng khó bị lôi kéo vào xung đột liên quốc gia.
Trong quan hệ quốc tế ngày nay, lợi ích chính trị và kinh tế vẫn chiếm địa vị
ưu tiên nên nhiều khi đã góp phần kiềm chế các xung đột tinh thần.
Từ dẫn luận trên có thể quan niệm: Xung đột tôn giáo là sự va chạm,
tranh chấp, đụng độ về giá trị tôn giáo giữa các cộng đồng tôn giáo.
Cùng với sự phát triển của quan hệ quốc tế, xung đột tôn giáo ngày
càng dễ trở thành vấn đề trong quan hệ giữa các quốc gia, rất nhiều xung đột
tôn giáo xảy ra do liên quan đến chính trị. Trong qúa trình hình thành và phát
triển của tôn giáo, sự tác động qua lại giữa tôn giáo với chính trị đã đem lại
cả nguyên nhân lẫn điều kiện cho xung đột tôn giáo. Là điều kiện khi chính trị
được tôn giáo lợi dụng để phát triển thế lực và ảnh hưởng. Là nguyên nhân
40
khi chính trị lợi dụng tôn giáo để nhằm đạt được mục tiêu của mình. Mâu
thuẫn tôn giáo được chính trị tiếp sức sẽ làm cho nó trở nên phức tạp và trầm
trọng thêm. Ngược lại, mâu thuẫn chính trị đi cùng tôn giáo lại gây ra xung
đột tôn giáo.
Xung đột tôn giáo có nhiều nguyên nhân. Có thể có những nguyên
nhân nhìn từ góc độ kinh tế; những nguyên nhân nhìn từ góc độ bản sắc dân
tộc, tôn giáo và văn hóa; những nguyên nhân nhìn từ góc độ lịch sử; những
nguyên nhân xuất phát từ chính sách của chính phủ đối với người dân; và
những nguyên nhân khác...
Trong lịch sử, đã diễn ra nhiều cuộc xung đột sắc tộc, tôn giáo lớn trên
thế giới; mà xung đột giữa Thiên chúa giáo với Hồi giáo ở Indonesia là một
trong những ví dụ điển hình.
Xung đột tôn giáo rất dễ bị quốc tế hóa và trở thành xung đột quốc tế
do nhiều nguyên nhân. Thứ nhất, các giáo phái trong cuộc xung đột thường có
mối liên hệ khá chặt chẽ với các nhóm sắc tộc, tôn giáo tương đồng sinh sống
ở các quốc gia khác. Thứ hai, các lực lượng tôn giáo tham gia xung đột nội bộ
thường có xu hướng tìm cách tận dụng các diễn đàn quốc tế để tuyên truyền
về tính chính đáng, tìm kiếm sức ép quốc tế lên các chính phủ để đạt được
mục đích đề ra. Thứ ba, sự lớn mạnh không ngừng của các phương tiện truyền
thông quốc tế là một nhân tố quan trọng thúc đẩy sự truyền bá thông tin về
các vụ xung đột trên khắp thế giới. Và sự thành công của một nhóm sắc tộc,
tôn giáo trong hoạt động ly khai có thể khuyến khích các nhóm sắc tộc, tôn
giáo tương tự ở các khu vực khác nổi dậy. Thứ tư, các xung đột này thường
gây ra hậu quả về tị nạn quốc tế. Việc giải quyết những vấn đề của dòng
người tị nạn đã khiến cho xung đột bị quốc tế hóa bởi quá trình này dính líu
đến các quốc gia láng giềng và đòi hỏi có sự tham gia của các tổ chức quốc tế
như Cao uỷ Liên hợp quốc về người tị nạn và các tổ chức phi chính phủ có
liên quan.
41
Tất cả các cuộc xung đột tôn giáo, sắc tộc từ trước đến nay đều để lại
những hậu quả rất nặng nề, thậm chí biến thành những cuộc chiến tranh kinh
hoàng kéo dài nhiều năm. Xung đột sắc tộc và tôn giáo có nguyên nhân bắt
nguồn từ chính những đặc điểm như đa dạng dân tộc, tôn giáo và văn hoá, sự
chênh lệch về trình độ phát triển kinh tế - xã hội hay đan xen với nhau. Ngoài
ra xung đột tôn giáo hiện đại còn do sự tự tôn tôn giáo, ý thức về giá trị tôn
giáo của mình, đặc biệt là của các tín đồ Hồi giáo trước sự coi thường, miệt
thị của một số phần tử sô vanh về tôn giáo ở các nước phát triển.
* Khái niệm "ly khai dân tộc"
Giới nghiên cứu có quan điểm tương đối thống nhất về thuật ngữ ly
khai dân tộc. Theo Từ điển tiếng Việt (Viện Ngôn ngữ học xuất bản năm
1994) : ly khai là tách ra khỏi, lìa bỏ một tổ chức, một đảng phái hay những tư
tưởng quan điểm chính trị nào đó. Hiểu theo nghĩa này, ly khai dân tộc chỉ
hiện tượng một dân tộc, hay một nhóm tộc người tách ra khỏi một quốc gia
dân tộc nhằm thực hiện một nhà nước độc lập hay tự trị. Theo Từ điển Oxford
advanced leaner's (1992): ly khai (secede) nghĩa là từ bỏ một cái gì đó, rút ra
khỏi tư cách hội viên của một tổ chức, một quốc gia. Theo Hao Shi Yuan,
Viện trưởng Viện Nghiên cứu Dân tộc Trung Quốc trong bài viết: "Ly khai
dân tộc và chủ nghĩa khủng bố":
Ly khai dân tộc là thuật ngữ chỉ việc bên trong một quốc gia độc lập
có chủ quyền, có lãnh thổ toàn vẹn, do mâu thuẫn về vấn đề dân tộc,
dưới tác động của các nhân tố bên trong, bên ngoài, một số thế lực
trong các dân tộc phi chủ thể hoặc các dân tộc thiểu số đưa ra các
yêu sách chính trị, tiến hành hoạt động bạo lực, thậm chí thực hiện
các hành động chống đối quân sự để đòi thành lập nhà nước độc lập
hay tự trị [151, tr.117].
Tác giả luận án cũng có quan điểm thống nhất với khái niệm này.
42
2.1.1.2 Quan niệm về tác động từ xung đột sắc tộc, tôn giáo đến củng
cố độc lập dân tộc của quốc gia đang phát triển trong hội nhập quốc tế
Tác động từ xung đột sắc tộc, tôn giáo đến củng cố độc lập dân tộc của
quốc gia đang phát triển trong hội nhập quốc tế luôn gây ảnh hưởng tiêu cực
đến độc lập dân tộc của quốc gia đang phát triển và quá trình củng cố độc lập
dân tộc của họ trong hội nhập quốc tế. Sự tác động này phụ thuộc vào nhiều
yếu tố: mức độ, tính chất của những xung đột sắc tộc, tôn giáo; việc giải quyết
những xung đột sắc tộc, tôn giáo của chính phủ; sự lợi dụng và tác động của
các thế lực bên ngoài...
Tác động từ xung đột sắc tộc, tôn giáo đến củng cố độc lập dân tộc của
quốc gia đang phát triển trong hội nhập quốc tế, thể hiện cụ thể trên những
vấn đề sau:
Thứ nhất, gây ra và thúc đẩy xu hướng ly khai, đe dọa độc lập dân tộc
của quốc gia đang phát triển trong hội nhập quốc tế.
Vấn đề ly khai dân tộc là một trong những vấn đề đang nổi cộm lên
trong nền chính trị quốc tế. Ly khai dân tộc có liên quan chặt chẽ đến vấn đề
dân tộc, một trong những vấn đề phức tạp nhất, nhạy cảm nhất trong quan hệ
quốc tế. Một số nhà nghiên cứu nâng vấn đề ly khai dân tộc lên thành chủ
nghĩa ly khai, một biểu hiện của chủ nghĩa dân tộc nằm trong quá trình phát
triển của xã hội loài người. Điều đó đã cho thấy tầm quan trọng của vấn đề ly
khai dân tộc trong công tác nghiên cứu, nhất là từ sau khi chiến tranh lạnh kết
thúc, hệ tư tưởng không còn là tác nhân chủ yếu gây ra những xung đột dân
tộc trên thế giới hiện nay.
Tại hầu hết tất cả các khu vực dân tộc trên thế giới, từ các nước phát
triển đến các nước đang phát triển, trong đó có Đông Nam Á, nhiều quốc gia
đang phải đương đầu với vấn đề ly khai dân tộc. Tại một số quốc gia, xung
đột ly khai dân tộc đã trở thành một cuộc chiến đẫm máu kéo dài. Hàng chục
ngàn người phải bỏ mạng. Hàng chục vạn người phải di dời chỗ ở. Chiến sự
43
không chỉ gây ra những thảm họa nhân đạo mà còn làm đình đốn nền kinh tế,
làm tổn thương tình cảm giữa các dân tộc trong một quốc gia.
Ly khai dân tộc là một trong những hình thức biểu hiện của chủ nghĩa
dân tộc, nhưng không đồng nhất với chủ nghĩa dân tộc. Hiện tượng ly khai
dân tộc không những tồn tại ở các nước đang phát triển, mà còn tồn tại ở các
nước phát triển, có tính phổ biến nhất định. Các thế lực ly khai dân tộc tồn tại
bên trong các quốc gia có chủ quyền hiện tại, về cơ bản thuộc về các thế lực
chủ nghĩa dân tộc cực đoan trong các dân tộc phi chủ thể hoặc các dân tộc
thiểu số. Họ thường tự xưng là đại biểu cho lợi ích của dân tộc mình, đòi thực
hiện các quyền tự quyết dân tộc, từ đó tạo ra thách thức đối với sự toàn vẹn
lãnh thổ của quốc gia độc lập có chủ quyền. Xét về mặt các quốc gia trên thế
giới giới hiện tại lấy nhà nước đa dân tộc làm chủ thể thì các thế lực ly khai
dân tộc trong cộng đồng quốc tế và ở các quốc gia liên quan là không có tính
hợp lý và hợp pháp.
Hầu hết các nước Đông Nam Á là quốc gia đa dân tộc. Làm thế nào để
xây dựng sự hòa hợp dân tộc bền vững ở các quốc gia là một thách thức lớn ở
khu vực. Các thế lực ly khai dân tộc ở Indonesia, Philipphin, Thái Lan đang
cố gắng đòi các quyền tự trị hoặc độc lập một cách hoàn toàn. Việc Đông
Timor tách ra khỏi Indonesia để thành lập một nhà nước độc lập cũng thuộc
về vấn đề ly khai dân tộc.
Những mâu thuẫn chính trị gay gắt và xung đột, chiến tranh sắc tộc, tôn
giáo đang gây ra không chỉ là những nỗi lo mà còn là những thảm họa cho
nhân loại. Sắc tộc, tôn giáo cũng ngày càng trở thành nhân tố quan trọng ảnh
hưởng không nhỏ đến quan hệ quốc tế. Những cuộc xung đột trong một số
quốc gia, khu vực tăng lên; một số lực lượng cực đoan tiến hành chính sách
khủng bố, đe dọa nền hòa bình và ổn định ở khu vực và quốc tế.
Indonesia có khoảng 250 triệu dân, trong đó có 87% dân số theo Hồi
giáo và 8% theo Thiên chúa giáo. Xung đột căng thẳng giữa người Thiên chúa
44
giáo với người Hồi giáo đã kéo dài ở nhiều nơi. Xung đột giữa người Thiên
chúa giáo và người Hồi giáo ở quần đảo Maluku với dân số khoảng 3 triệu
người, trong đó người theo đạo Hồi chiếm 55%, theo đạo Thiên chúa giáo
chiếm 44%. Xuất phát từ tâm lý bị phân biệt đối xử nên đã hình thành những
bất đồng giữa hai cộng đồng tôn giáo này và những mâu thuẫn âm ỉ trở thành
xung đột lớn. Những người Hồi giáo đã thành lập các đơn vị bán quân sự
được trang bị vũ khí sẵn sàng tiến hành cuộc "Thánh chiến" để bảo vệ người
Hồi giáo. Xung đột ở Aceh, một tỉnh có khoảng 5 triệu dân với 98% dân số là
người Hồi giáo và là một trong những tỉnh giàu tài nguyên thiên nhiên của
Indonesia với nhiều dầu, khí đốt, vàng, bạc, cao su. Ngày 18/11/2009, tại
Banda Aceh (thủ phủ Aceh) Indonesia đã diễn ra một cuộc biểu tình lớn đã
làm khoảng 5.000 người thiệt mạng [9].
Xung đột sắc tộc, tôn giáo tác động, ảnh hưởng đến củng cố độc lập
dân tộc của quốc gia đang phát triển trong hội nhập quốc tế, thể hiện ở việc
xuất hiện và phát triển các phong trào và tổ chức li khai. Ở Indonesia có tổ
chức ly khai của người Aceh, Tây Papua.
Thứ hai, làm mất ổn định chính trị xã hội, tạo thời cơ, điều kiện cho
các lực lượng bên ngoài lợi dụng chống phá độc lập dân tộc của quốc gia
đang phát triển trong hội nhập quốc tế.
Ổn định chính trị, xã hội là một trong những nhân tố quyết định cho sự
phát triển của mỗi quốc gia. Một trong những vấn đề liên quan đến sự ổn định
chính trị, xã hội là giải quyết tốt hay không tốt mối quan hệ dân tộc, tôn giáo;
những vụ xung đột sắc tộc và tôn giáo. Đông Nam Á đã và đang có sự bất ổn
về mặt dân tộc và tôn giáo, sự bất ổn dẫn đến các cuộc chiến đòi ly khai dân
tộc. Giải quyết vấn đề dân tộc và tôn giáo không còn là vấn đề riêng của quốc
gia nào. Nó trở thành mối quan tâm hàng đầu của nhiều nước. Xung đột sắc
tộc, tôn giáo phát triển, tác động mạnh mẽ đến củng cố độc lập dân tộc của
quốc gia đang phát triển trong hội nhập quốc tế, làm mất ổn định chính trị xã
45
hội, tạo thời cơ, điều kiện cho các lực lượng bên ngoài lợi dụng chống phá
độc lập dân tộc của quốc gia đang phát triển. Đây là sự tác động rất nguy
hiểm đe dọa nghiêm trọng đến củng cố độc lập dân tộc của quốc gia đang
phát triển trong quá trình hội nhập quốc tế.
Xung đột sắc tộc, tôn giáo trở thành nội chiến, làm mất ổn định chính
trị xã hội, làm ảnh hưởng đến an ninh, chính trị, kinh tế không chỉ của một
quốc gia mà còn ảnh hưởng đến quan hệ giữa các quốc gia. Sự mất ổn định
chính trị xã hội ở Tây Papua, Aceh của Indonesia đều có nguyên nhân từ xung
đột sắc tộc, tôn giáo.
2.1.2. Quan niệm về bảo vệ, củng cố độc lập dân tộc thông qua giải
quyết xung đột sắc tộc, tôn giáo của các nước đang phát triển
Độc lập dân tộc là các dân tộc hoàn toàn có chủ quyền về chính trị và
kinh tế, không bị lệ thuộc và phụ thuộc vào bên ngoài; các quốc gia dân tộc
hoàn toàn có quyền tự quyết định con đường đi lên của dân tộc mình, thể chế
chính trị, thể chế kinh tế, quyền làm chủ tài nguyên thiên nhiên của mình, nhất là
trong điều kiện toàn cầu hoá hiện nay. Độc lập dân tộc bao giờ cũng phải gắn với
đấu tranh bảo vệ, củng cố độc lập dân tộc, chống mọi sự áp đặt, nô dịch của các
thế lực bên ngoài. Khi mất độc lập dân tộc thì vấn đề dân tộc là vấn đề giành lại
độc lập tự do hoàn toàn cho nhân dân, đấu tranh chống mọi sự áp đặt, nô dịch,
làm cho dân tộc từ thân phận nô lệ trở thành người làm chủ đất nước.
Trong xu thế toàn cầu hoá, độc lập dân tộc và chủ quyền của các quốc
gia dân tộc đang bị đặt trước những thời cơ và thách thức nghiêm trọng. Bảo
vệ, củng cố độc lập dân tộc thông qua giải quyết xung đột sắc tộc, tôn giáo
của các nước đang phát triển càng trở nên quan trọng. Cuộc đấu tranh của các
nước đang phát triển bảo vệ độc lập, chủ quyền, chống mọi sự nô dịch và lệ
thuộc mới ngày càng phát triển mạnh mẽ.
Các quốc gia Đông Nam Á vốn là các nước nhỏ, từng là thuộc địa và phụ
thuộc của chủ nghĩa thực dân, đế quốc, chịu nhiều thua thiệt, nay phải đối mặt
46
với những thách thức mất đi bản sắc dân tộc, độc lập dân tộc và chủ quyền quốc
gia mà toàn cầu hoá gây nên. Do vậy, để tồn tại và phát triển được như hiện nay,
để bảo vệ được độc lập dân tộc và chủ quyền quốc gia, các nước Đông Nam Á
đã có những chiến lược và đối sách rất hữu hiệu trên mọi lĩnh vực, củng cố sự
thống nhất cộng đồng, tạo nên sức mạnh cần thiết để giữ vững độc lập, chủ
quyền, đấu tranh bảo vệ, củng cố độc lập dân tộc và hoà bình, ổn định khu vực.
Như vậy, ở các nước đang phát triển, đấu tranh bảo vệ, củng cố độc lập dân tộc
thông qua giải quyết xung đột sắc tộc, tôn giáo đã trở thành nhiệm vụ quan
trọng, gắn liền với việc giải quyết các vấn đề dân tộc, tôn giáo ở từng quốc gia.
Bảo vệ, củng cố độc lập dân tộc có thể thực hiện với con đường,
phương thức và cách thức khác nhau. Mỗi một quốc gia dân tộc, trong mỗi
giai đoạn lịch sử khác nhau có thể thực hiện những hình thức, biện pháp cụ
thể khác nhau để bảo vệ, củng cố độc lập dân tộc của mình. Đối với các nước
đang phát triển, đặc biệt là các nước Đông Nam Á, những nước có những vấn
đề về sắc tộc, tôn giáo, việc thông qua giải quyết xung đột sắc tộc, tôn giáo để
bảo vệ, củng cố độc lập dân tộc của mình là một hình thức, biện pháp quan
trọng, có ý nghĩa cấp thiết.
Từ những dẫn luận trên, có thể quan niệm: bảo vệ, củng cố độc lập dân
tộc thông qua giải quyết xung đột sắc tộc, tôn giáo của các nước đang phát
triển là thực hiện tổng thể các giải pháp nhằm giải quyết đúng đắn vấn đề
xung đột sắc tộc, tôn giáo, tạo điều kiện và sức mạnh để bảo vệ, củng cố độc
lập dân tộc; không để xung đột sắc tộc, tôn giáo làm phương hại đến độc lập
dân tộc, đưa đất nước tiếp tục phát triển.
Quan niệm về bảo vệ, củng cố độc lập dân tộc thông qua giải quyết
xung đột sắc tộc, tôn giáo của các nước đang phát triển nêu trên, thể hiện cụ
thể ở những vấn đề chính sau:
Thứ nhất, giải quyết xung đột sắc tộc, tôn giáo để giữ vững ổn định
chính trị, từng bước thực hiện dân chủ, bình đẳng, tạo tiền đề cho sự phát
47
triển. Đây là nội dung chủ yếu và phương hướng cơ bản của các nước trong
giải quyết xung đột sắc tộc, tôn giáo.
Thứ hai, giải quyết xung đột sắc tộc, tôn giáo để tạo an ninh, ổn định xã
hội, tiền đề quan trọng cho phát triển đất nước. Đây cũng là một phương
hướng cơ bản của các nước trong giải quyết xung đột sắc tộc, tôn giáo.
Thứ ba, giải quyết xung đột sắc tộc, tôn giáo tạo tiền đề phát triển kinh
tế. Phát triển kinh tế là một nhiệm vụ quan trọng và cấp thiết đối với các nước
đang phát triển; giải quyết xung đột sắc tộc, tôn giáo phải tạo tiền đề cho phát
triển kinh tế, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Thứ tư, giải quyết xung đột sắc tộc, tôn giáo tạo điều kiện cho xây dựng
khối đại đoàn kết dân tộc, tập hợp các nguồn lực cho bảo vệ, củng cố độc lập
dân tộc, phát triển đất nước về mọi mặt. Thực chất xung đột sắc tộc, tôn giáo
là sự bùng phát của những mâu thuẫn sắc tộc, tôn giáo, phá hủy khối đại đoàn
kết dân tộc. Giải quyết xung đột sắc tộc, tôn giáo phải tạo điều kiện cho xây
dựng khối đại đoàn kết dân tộc, trên cơ sở khắc phục những mâu thuẫn sắc
tộc, tôn giáo; từ đó, tập hợp các nguồn lực cho công cuộc bảo vệ, củng cố độc
lập dân tộc, phát triển đất nước.
2.2. NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN XUNG ĐỘT SẮC TỘC, TÔN
GIÁO Ở INĐONESIA GIAI ĐOẠN 1991-2015
2.2.1. Những nhân tố khách quan
- Đặc điểm tự nhiên, vị thế địa chiến lược của Cộng hòa Indonesia
Indonesia - Cộng hòa Indonesia, tiếng Indonesia là Republik Indonesia,
trước đó, trong tài liệu tiếng Việt quốc gia này từng được gọi là Nam Dương,
là một quốc gia nằm giữa Đông Nam Á và Châu Đại Dương. Đất nước
Indonesia được mệnh danh là "Xứ sở vạn đảo", lãnh thổ của Indonesia bao
gồm khoảng hơn 17 500 hòn đảo và với dân số khoảng 255 triệu người (năm
2015), đứng thứ tư thế giới về dân số. Indonesia nằm giữa lục địa châu Á và châu Đại Dương, diện tích đất liền là 1905569 km2, là nước lớn nhất khu vực
Đông Nam Á và thứ 13 trên thế giới [118, tr.16].
48
Đất nước Indonesia là một quốc gia đa dân tộc. Indonesia là một quốc
gia có lịch sử phát triển lâu đời, những di chỉ khảo cổ được tìm thấy trên đảo
Java và nhiều đảo khác ở khu vực này cho thấy ở đây từng có người vượn cổ
sinh sống (người vượn Java), do vậy, nơi đây chính là một trong những chiếc
nôi của loài người. Tuy nhiên theo nghiên cứu của các nhà khoa học, đất nước
này có khoảng gần 400 dân tộc khác nhau, trong đó đông nhất là người Java
(46,2% dân số), tiếp theo là người Sudan (13,1%), người Madura (6%), người
Mã lai (5,5%), người Minangkabau (3,9%), người Aceh (1,5%) [101, tr.20].
Các cộng đồng dân nhập cư cũng khá đông và đóng vai trò quan trọng trong
quá trình phát triển kinh tế, xã hội, chính trị của đất nước Indonesia, nhất là
lực lượng người Hoa. Người Hoa ở Indonesia chỉ chiếm khoảng 3% dân số cả
nước nhưng kiểm soát khoảng 3/4 khối lượng hàng hoá lưu chuyển trên thị
trường nội địa và khoảng 70% nguồn vốn kinh doanh của tư bản nước ngoài.
Indonesia còn là quốc gia đa tôn giáo, trong đó cư dân theo đạo Hồi rất đông,
chiếm khoảng 87% dân số cả nước, là quốc gia có số tín đồ Hồi giáo đông
nhất thế giới. Đặc biệt, lực lượng Hồi giáo ở Indonesia có ảnh hưởng khá lớn
đối với những biến động trong đời sống kinh tế, chính trị của quốc gia này.
Bên cạnh đó còn đạo Thiên chúa (2,7%), đạo Tin Lành (4,4%), Ấn Độ giáo
(1,9%), Phật giáo (0,9%) và một số tôn giáo khác [101, tr.202].
Về địa lý tự nhiên, địa hình của Indonesia mang một nét nổi bật là
phân tán, là đất nước của rất nhiều hòn đảo lớn nhỏ, trên những hòn đảo đó
là hàng trăm dân tộc sinh sống. Do sự vận động của địa chất các đảo của
Indonesia cách nhau bởi những vùng biển sâu và những eo biển, rất thuận
lợi cho giao thương hàng hải. Với đặc điểm địa lý trên, Indonesia có thể án
ngữ và kiểm soát con đường giao thông huyết mạch trên một vùng biển lớn
nối liền Ấn Độ Dương với Thái Bình Dương, đặc biệt đây là tuyến đường
vận chuyển dầu mỏ từ Trung Đông về cung cấp cho các cường quốc kinh tế
ở Đông Bắc Á.
49
Do chiếm giữ một vị trí chiến lược quan trọng như vậy, nên trong suốt
quá trình tồn tại và phát triển của mình, Indonesia luôn là địa bàn tranh chấp
của các nước tư bản phương Tây như Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Hà Lan,
Anh. Hiện nay, Indonesia là quốc gia thu hút được các nguồn vốn đầu tư lớn
từ các trung tâm tư bản và các tổ chức tài chính trên thế giới. Dòng vốn đầu tư
trực tiếp nước ngoài (FDI) năm 2016 ở mức 20,1 tỷ USD, nhưng đã giảm từ
25,1 tỷ USD trong năm 2014 (phần lớn là do đồng Rupiah suy yếu) [104].
Indonesia là nước lớn có vai trò quan trọng không chỉ trong ASEAN
mà còn ở khu vực Đông Á và châu Á - Thái Bình Dương. Trước đây, chính
sự thay đổi trong chính sách đối ngoại của đất nước Indonesia, cụ thể là với
các nước láng giềng Đông Nam Á, đã là một nhân tố quan trọng dẫn đến việc
thành lập ASEAN. Indonesia đã đóng vai trò tích cực, nếu không muốn nói là trụ
cột, trong sự lớn mạnh của ASEAN về các mặt kinh tế, chính trị trong hơn ba
thập kỷ qua và ngược lại sự lớn mạnh của ASEAN lại giúp cho Indonesia tăng
cường vị thế của mình trên trường quốc tế. Xét trên khía cạnh đó, sự biến đổi
chính trị hiện nay của Indonesia sẽ có tác động và ảnh hưởng sâu rộng đối với sự
năng động kinh tế, chính trị của ASEAN cũng như sự phát triển của tổ chức này
trong tương lai. Đất nước Indonesia không tự xem mình là một cường quốc tầm
cỡ toàn cầu nhưng lại chú trọng gây ảnh hưởng nhờ mối quan hệ với các nước
lớn khác thông qua vai trò ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương (giờ đây được
mở rộng ra thành Ấn Độ - Thái Bình Dương, nhằm bao hàm cả Ấn Độ).
Trong khu vực Đông Nam Á, Indonesia là một nước lớn về diện tích,
dân số; có vị trí địa - chiến lược quan trọng vì nằm án ngữ trên tuyến đường
giao thông hàng hải quốc tế giữa Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương; có
những nét đặc trưng riêng trong quá trình phát triển; từ khi giành được độc
lập dân tộc vào năm 1945 đến nay đã trải qua nhiều giai đoạn để tìm ra con
đường phát triển tốt nhất. Là một nước thuộc địa mới giành được độc lập,
lại là nước có sự chia rẽ phức tạp về chính trị, mối quan tâm hàng đầu của
50
các chính phủ cầm quyền ở Indonesia qua các giai đoạn luôn là củng cố sự
thống nhất trong nước, tìm kiếm sự công nhận quốc tế về địa vị hợp pháp
của một nước lớn trong khu vực. Cách tiếp cận được Indonesia ưa thích
hơn trong vấn đề này là thế "cân bằng động". Sáng kiến "cân bằng động" là
một ví dụ điển hình về cách tiếp cận dựa trên khu vực của Indonesia đối
với trật tự thế giới.
- Bối cảnh quốc tế và khu vực
Sau Chiến tranh Lạnh, cục diện chính trị thế giới thay đổi rõ rệt. Liên
Xô tan rã, các nước Cộng hòa tuyên bố độc lập (SNG). Ở Nam tư, Tiệp khắc,
phong trào li khai xuất hiện trong đó có nhiều quốc gia mà đa số cư dân theo
đạo Hồi đã làm cho bản đồ chính trị thế giới thay đổi. Việc hàng loạt các quốc
gia Liên bang tan rã thành những quốc gia độc lập, đã ảnh hưởng tới các nước
Đông Nam Á, trong đó có Indonesia, đặc biệt là những vùng mới sáp nhập
vào Indonesia chưa lâu (Aceh; Đông Timor). Trong bối cảnh như vậy, ở nhiều
nước phương Tây, những tư tưởng bài xích, miệt thị Hồi giáo lại xuất hiện
ngày càng nhiều. Điều này đã làm cho ý thức về sự cần thiết bảo vệ các giá trị
tôn giáo của mình ngày càng phát triển trong cộng đồng Hồi giáo thế giới.
Các lực lượng Hồi giáo cực đoạn quốc tế đã viện dẫn lý do này để tiến hành
cuộc tấn công nhằm vào nước Mỹ ngày 11 tháng 9 năm 2001 và nhiều cuộc
khủng bố khác ở châu Âu. Khi Mỹ phát động cuộc chiến chống khủng bố,
những nhóm khủng bố quốc tế chuyển địa bàn hoạt động sang Đông Nam Á.
Điều này tiếp sức thêm cho các lực lượng ly khai Hồi giáo ở nam Thái Lan,
nam Philippines và Indonesia làm cho các xung đột sắc tộc, tôn giáo ở các
nước này thêm phức tạp và khó giải quyết.
Sau Chiến tranh lạnh, cạnh tranh kinh tế diễn ra quyết liệt trong cơn lốc
toàn cầu hóa. Lực lượng chính chi phối toàn cầu hóa là ba trung tâm Mỹ,
Nhật, Tây Âu và một số cường quốc khác. Toàn cầu hóa đã khoét sâu mâu
thuẫn Bắc - Nam, gia tăng khoảng cách giàu nghèo, bần cùng hóa một bộ
51
phận lớn nhân dân các nước đang phát triển. Thế giới bước vào đầu thế kỷ
XXI cho thấy chênh lệch giàu nghèo lớn hơn, bất công hơn nhiều so với nửa
thế kỷ trước.
Hợp tác, cạnh tranh, đấu tranh và sự tuỳ thuộc lẫn nhau giữa các nước
ngày càng tăng, tạo ra cho các quốc gia những cơ hội hợp tác trong nhiều lĩnh
vực: kinh tế, văn hoá, khoa học, kỹ thuật và quốc phòng, an ninh. Tính hai
mặt của toàn cầu hóa làm bùng nổ sự xung đột giữa tính dân tộc và tính toàn
cầu, đe dọa an ninh chủ quyền, bản sắc văn hóa dân tộc. Hậu quả tất yếu là
một bộ phận những người cùng khổ bị gạt ra ngoài lề cuộc sống. Trật tự thế
giới mới đang quá độ hình thành theo hướng đa cực, đa trung tâm diễn ra
nhanh hơn. Các nước lớn điều chỉnh chiến lược theo hướng vừa hợp tác, vừa
cạnh tranh, đấu tranh, kiềm chế lẫn nhau, nhưng sẵn sàng thỏa hiệp để bảo vệ
lợi ích cốt lõi của mình, điều này tác động mạnh đến cục diện thế giới và các
khu vực.
Cộng đồng quốc tế phải đối phó ngày càng quyết liệt hơn với các thách
thức an ninh truyền thống, phi truyền thống, đặc biệt là an ninh mạng và các
hình thái chiến tranh kiểu mới. Những biểu hiện của chủ nghĩa dân túy, dân
tộc cực đoan, chủ nghĩa cường quyền áp đặt, chủ nghĩa thực dụng đang nổi
lên ngày càng nhiều trong quan hệ quốc tế. Các thể chế đa phương đứng
trước những thách thức lớn. Xung đột sắc tộc, tôn giáo, xâm phạm chủ
quyền quốc gia, can thiệp lật đổ, khủng bố... tiếp tục diễn ra gay gắt ở
nhiều khu vực. Khủng bố, chống khủng bố trở nên khó kiểm soát, dễ bị các
thế lực hiếu chiến lợi dụng, can thiệp vào công việc của nước khác, kể cả
bằng vũ lực. Những biểu hiện của chủ nghĩa dân tộc cực đoan, chủ nghĩa
cường quyền áp đặt, chủ nghĩa thực dụng ngày càng nổi lên trong quan hệ
quốc tế. Các nước đều phải quan tâm điều chỉnh chiến lược bảo vệ đất
nước, cụ thể hóa mục tiêu, đối tượng, phương thức, lực lượng để bảo vệ
độc lập, chủ quyền quốc gia dân tộc.
52
Châu Á - Thái Bình Dương, trong đó khu vực Đông Nam Á, là trung
tâm phát triển năng động, có vị trí địa kinh tế - chính trị chiến lược ngày càng
quan trọng, nhưng đây là khu vực cạnh tranh chiến lược, có nhiều nhân tố bất
ổn. Một sự kiện đáng chú ý là sau chiến tranh lạnh, các nước Đông Nam Á đã
tập hợp đầy đủ mười thành viên trong Tổ chức Hiệp hội các quốc gia Đông
Nam Á (ASEAN). Trong chặng đường phát triển của mình, ASEAN đã có
nhiều đóng góp cho khu vực nói riêng và quốc tế nói chung. Về tình hình an
ninh chính trị, các nước ASEAN cam kết tôn trọng chủ quyền, thống nhất và
toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau.
Bối cảnh chung đó, đã tác động cả tích cực lẫn tiêu cực tới hòa bình, ổn
định và phát triển của Đông Nam Á nói chung, đến việc giải quyết xung đột
sắc tộc, tôn giáo để giữ ổn định chính trị, củng cố độc lập dân tộc của
Indonesia nói riêng.
- Tác động tích cực là, tạo môi trường quốc tế thuận lợi cho việc giải
quyết xung đột sắc tộc, tôn giáo để giữ ổn định chính trị, củng cố độc lập dân
tộc, xây dựng và phát triển đất nước của Indonesia.
Sau Chiến tranh Lạnh, hòa bình đã được thiết lập trên toàn Đông Nam
Á, các nước ASEAN đều nỗ lực phấn đấu phát triển kinh tế - xã hội và đạt
được những thành tích lớn, gây xôn xao dư luận thế giới. Tốc độ tăng trưởng
kinh tế trung bình của Indonesia đạt mức 6,1% trong giai đoạn từ 1980 -
1990. Cùng với sự tăng trưởng của GDP, thu nhập bình quân tính theo đầu
người cũng tăng lên không ngừng. Năm 1997, thu nhập bình quân đầu người
của Indonesia là 545 đôla [91, tr.62]. Kinh tế phát triển đã làm thay đổi chất
lượng cuộc sống của mọi tầng lớp xã hội, mặc dù không phải mọi người dân
Indonesia đều được hưởng như nhau những thành quả của sự phát triển của
đất nước, nhưng rõ ràng so với cuộc sống trước đây cuộc sống của người dân
đã được cải thiện đáng kể.
53
Sự phát triển của nền kinh tế đã làm thay đổi vị thế của đất nước với tư
cách là những quốc gia độc lập. Từ những nước căn bản là nông nghiệp tất cả
các nước thành viên ASEAN đã xuất hiện trên trường quốc tế như là những
nước NIC (Singapore) hoặc cận NIC (Malaysia, Thái Lan, Indonesia,
Philippines). Sức mạnh quốc gia của các nước ASEAN đang tăng lên nhanh
chóng, không chỉ thể hiện ở sự ổn định chính trị, mà còn ở sức mạnh kinh tế
của mỗi nước. Tiếng nói của ASEAN nói chung và của nhiều nước thành viên
của tổ chức này đang ngày càng có trọng lượng trong các vấn đề quốc tế, đặc
biệt là các vấn đề của châu Á - Thái Bình Dương. Điều này lý giải việc
Indonesia được bầu làm chủ tịch của Phong trào không liên kết và diễn đàn an
ninh ASEAN tổ chức ở Bangkok tháng 7 năm 1994, không phải điều ngẫu
nhiên. Đây cũng chính là môi trường quốc tế thuận lợi cho việc giải quyết
xung đột sắc tộc, tôn giáo để giữ ổn định chính trị, củng cố độc lập dân tộc,
xây dựng và phát triển đất nước của Indonesia.
- Tác động tiêu cực là, tạo ra những khó khăn mới cho sự phát triển
kinh tế, xuất hiện của những đối thủ cạnh tranh lớn về vốn đầu tư nước ngoài
và thị trường tiêu thụ hàng hoá (Trung Quốc).
Bối cảnh sau Chiến tranh Lạnh, đã làm cho các nước ASEAN nói
chung, Indonesia nói riêng ở vào thế bất lợi. So với Trung Quốc, ASEAN và
Indonesia đã mất các lợi thế so sánh trong các ngành công nghiệp tập trung
lao động. Giá lao động và giá thuê đất ở đặc khu kinh tế Thâm Quyến thấp
hơn 40% so với giá đó ở đảo Bantam (Indonesia) [91, tr.72]. Nguyên nhân
chính là do các nước ASEAN bao gồm cả Indonesia đã mất các lợi thế so
sánh trong các ngành công nghiệp tập trung lao động, nhưng lại chưa tạo ra
được các lợi thế trong các ngành công nghiệp tập trung tư bản. Vì thế, các nhà
đầu tư nước ngoài đã tìm cách chuyển vốn đầu tư sang Trung Quốc. Từ 1992,
Chính phủ Trung Quốc đã nỗ lực cải thiện môi trường đầu tư trong nước và
đưa thêm nhiều ưu đãi khác nhằm thu hút FDI vào nền kinh tế của họ. Danh
54
mục những ngành công nghiệp mở cửa cho đầu tư nước ngoài được mở rộng
thêm. Ngoài các khu vực ven biển, các nhà đầu tư ngoại quốc có thể xây
dựng các cơ sở sản xuất của họ ở các thành phố lớn nằm dọc biên giới và
dọc sông Dương Tử. Nhờ đó, Trung Quốc đã thu hút được lượng FDI
khổng lồ để phát triển kinh tế. Vào năm 1992, vốn đầu tư từ Hồng Công
vào nền kinh tế Đại lục đã lên tới 7,7 tỷ USD so với 2,7 tỷ USD vào 1991.
Đầu tư của Đài Loan cũng tăng từ 471 triệu lên 1 tỷ USD cùng thời kỳ,
trong khi đó đầu tư từ Singapore lên 126 triệu USD vào 1992 so với 56
triệu USD vào 1991. Các con số tương ứng của Nhật Bản là 748 triệu USD
và 611 triệu USD [167, tr.13]. Tình trạng giảm vốn đầu tư nước ngoài đã
làm cho các nền kinh tế ASEAN, trong đó có Indonesia tăng trưởng chậm
lại. Những khiếm khuyết trong mô hình tăng trưởng của các nước này sẽ có
cơ hội lộ rõ, những chương trình cải cách, những giải pháp xử lý xung đột
sắc tộc, tôn giáo đều giảm hiệu lực.
Thêm vào đó là còn tạo nguy cơ xói mòn văn hóa truyền thống và bản
sắc dân tộc.
Thời kỳ sau Chiến tranh Lạnh cũng là thời kỳ bùng nổ công nghệ thông
tin. Các quốc gia ASEAN lại là nơi vừa mới mở cửa hội nhập với thế giới bên
ngoài. Trong khi đó nhiều quốc gia, nhất là các nước lớn, vốn đang muốn
vươn lên vị trí cường quốc, đã lợi dụng phương tiện này để phát huy quyền
lực mềm của họ. Những văn hóa phẩm từ các cường quốc đã được giới trẻ các
nước Đông Nam Á háo hức đón nhận, một phần vì sức hấp dẫn của các sản
phẩm văn hóa đó, nhưng quan trọng hơn là chúng phù hợp với tâm lý muốn
khám phá những cái mới lạ và thích tự khẳng định mình của giới trẻ. Lối sống
Mỹ, với những đặc trưng nổi bật như đề cao tự do cá nhân, ưa chuộng sự
thoải mái, tiện dụng được hầu hết thanh niên Đông Nam Á tiếp nhận.
Những tác động tiêu cực từ sự thâm nhập của văn hóa và lối sống hiện
đại vào Đông Nam Á đã và tiếp tục gây quan ngại không chỉ cho các nhà lãnh
55
đạo mà cả những người dân thường ở các nước Đông Nam Á. Vấn đề đặt ra
cho Indonesia là làm thế nào để phát huy được các giá trị tích cực từ nền văn
hóa truyền thống và duy trì bản sắc dân tộc của họ trong một thế giới đang
toàn cầu hóa không chỉ về kinh tế mà cả văn hóa như hiện nay. Đây chính là
một thách thức lớn đối với Indonesia, bên cạnh những thách thức về chính trị,
an ninh, kinh tế thì vấn đề văn hóa chịu những tác động lớn đã gây những khó
khăn không nhỏ trong giải quyết các xung đột sắc tộc, tôn giáo mà sự khác
biệt văn hóa cũng là một nguyên nhân.
2.2.2. Nhân tố chủ quan tác động đến xung đột sắc tộc, tôn giáo ở
Indonesia giai đoạn 1991-2015
- Đặc điểm chính trị, văn hóa xã hội, tôn giáo của Cộng hòa Indonesia
+ Đặc điểm chính trị.
Đặc điểm thứ nhất: Cộng hòa Indonesia đấu tranh chống chủ nghĩa
thực dân, giành độc lập dân tộc qua con đường dân chủ tư sản tạo nên những
nét đặc thù chính trị riêng biệt
Những năm 1945 - 1950 là thời kỳ Cộng hoà Indonesia phải vận động
để giành lại nền độc lập của mình thông qua sự kết hợp giữa kháng chiến và
ngoại giao. Nhưng sau đó Indonesia lại rơi vào ách thống trị thực dân một lần
nữa. Dưới sự lãnh đạo của Tổng thống Sukarno, năm 1949 Indonesia mới
chính thức giành lại nền độc lập từ thực dân Hà Lan.
Năm 1967, Suharto được Hội đồng tư vấn nhân dân bầu làm Tổng
thống Indonesia. Dưới sự lãnh đạo của Tổng thống Suharto, Indonesia đã
chấm dứt thời gian đối đầu với Malaysia. Trước sự quay trở lại của thực dân
Hà Lan, mục tiêu của Indonesia là chống lại chủ nghĩa thực dân, giành lấy
nền độc lập thực sự và được cộng đồng quốc tế công nhận. Để thực hiện mục
tiêu này, Indonesia đã thi hành chính sách đối ngoại hướng về phương Tây
nhằm kiếm tìm sự công nhận của cộng đồng quốc tế.
56
Tổng thống Suharto là người ủng hộ phương Tây và được phương Tây
ủng hộ. Những chính sách của Suharto đã đem lại sự tăng trưởng kinh tế liên
tục từ những năm 1980 đến đầu những năm 1990. Thế nhưng, sự phát triển kinh
tế của Indonesia không phải là sự phát triển bền vững, hài hòa. Cùng với sự phát
triển là sự gia tăng khoảng cách giàu nghèo ở trong nước. Sự bất bình đẳng về
kinh tế, xã hội lớn dần lên ở đất nước có trên 250 triệu dân và đặc biệt trầm trọng
ở nông thôn, những vùng ngoại vi cùng với sự bùng nổ của dân số.
Không chỉ là đất nước luôn có ý thức độc lập và thống nhất trong quá
trình phát triển, Indonesia còn là quốc gia luôn có tham vọng trở thành cường
quốc trong khu vực. Nhận thức được vị trí cũng như tầm quan trọng của
mình, trong đường lối phát triển đất nước, từ khi giành độc lập đến nay
Indonesia luôn xác định mục tiêu trở thành cường quốc, một quốc gia giữ vị
trí quan trọng trên bàn cờ chính trị khu vực, đặc biệt là dưới thời hai Tổng
thống Indonesia là Sukarno và Suharto. Điều này được thể hiện rất rõ qua
đường lối chính sách đối nội cũng như đối ngoại của Indonesia qua các thời kỳ
phát triển của đất nước. Về đối ngoại, là sự tham gia với vai trò là trung tâm, là
thành viên sáng lập ra Phong trào Không liên kết, Hiệp hội các quốc gia Đông
Nam Á (ASEAN)... những năm 50, 60 của thế kỷ XX. Về đối nội, chính quyền
Indonesia chủ trương thành lập các khu vực kinh tế nhà nước giữ vai trò then
chốt có nhiệm vụ dẫn dắt các thành phần kinh tế khác (trong cả hai chiến lược
"Trật tự cũ" và "Trật tự mới"). Quan điểm về vai trò nhà nước trong phát triển
kinh tế - xã hội của Indonesia được xuất phát từ tình hình thực tế trong nước, khi
mà thực lực kinh tế luôn nằm trong tay tư bản Indonesia gốc Hoa.
Việc thực dân Hà Lan đô hộ một thời gian dài đối với Indonesia đã tạo
nên những nét đặc thù chính trị riêng cho Indonesia. Trong hơn 3 thế kỷ đặt
ách đô hộ ở đây, Hà Lan đã thử nghiệm nhiều chế độ cai trị khác nhau. Theo
Hiến pháp năm 1922, Hà Lan gọi Indonesia là "lãnh thổ hải ngoại" của mình
thông qua những vị vua bản xứ với chế độ cha truyền con nối (từ khi Hà Lan
57
đặt ách đô hộ đến năm 1939, có tới 269 nhà vua như vậy) Hà Lan thực hiện
quyền cai trị thực dân một cách gián tiếp [16, tr.58]. Có thể nói, chế độ thực
dân mà Hà Lan áp dụng ở Indonesia không nguyên nghĩa là thực dân kiểu cũ
nhưng cũng chưa phải là chế độ thực dân kiểu mới. Với những thần dân
Indonesia, Hà Lan thực hiện quyền thống trị thông qua Nghị viện Hà Lan.
Quyền thống trị đó được uỷ nhiệm cho một viên Toàn quyền, người giữ vị trí
quan trọng của Nhà nước Hà Lan, còn Nghị viện chỉ nắm quyền lập pháp đối
với Indonesia. Bên cạnh Toàn quyền là một Đại hội đồng xứ Nam Dương
thực hiện chức năng là những cố vấn bản xứ thông qua một số tổ chức địa
phương. Còn ở cấp địa phương, bên cạnh những làng, xã có từ lâu đời, đã
xuất hiện những Hội đồng địa phương như: Hội đồng thị trấn, Hội đồng nhiếp
chính, Hội đồng tỉnh. Tuy nhiên, người đứng đầu các hội đồng này đa số đều
do chính quyền thực dân chỉ định, quyền bầu cử và ứng cử rất hạn chế. Sau
khi Indonesia tuyên bố độc lập, mặc dù cuộc đấu tranh chính trị của các đảng
phái phát triển rất mạnh mẽ, song Indonesia vẫn nằm trong khối Liên hiệp Hà
Lan - Indonesia thêm một thời gian nữa, vì vậy ảnh hưởng của Hà Lan trong
một số vấn đề chính trị ở đây vẫn còn rất lớn.
Indonesia đã từng bước thoát khỏi ảnh hưởng của chủ nghĩa thực dân,
giành độc lập và bước lên vũ đài chính trị khu vực, thế giới với tư cách là một
lực lượng không thể coi thường [111, tr.35].
Đặc điểm thứ hai, tính cố kết, cộng đồng, ý thức độc lập dân tộc, thống
nhất đã xây dựng một nhà nước trung ương tập quyền cao độ ở Indonesia.
Indonesia có một đặc điểm chính trị truyền thống nổi bật và khác biệt là
đất nước này luôn trong quá trình đấu tranh để tồn tại, phát triển trước những
hiểm hoạ của thiên nhiên, cũng như âm mưu chia cắt, xâm chiếm, thống trị từ
bên ngoài. Đây là một quốc gia Đông Nam Á có chung nền "văn minh lúa
nước" làm nền tảng, nên Indonesia có tính cố kết cộng đồng, có ý thức tự chủ,
tự cường, thống nhất và đã xây dựng được một nhà nước trung ương tập
58
quyền cao độ. Đất nước Indonesia hình thành trên rất nhiều đảo lớn, nhỏ với
nhiều dân tộc khác nhau sinh sống, điều này làm xuất hiện nhu cầu nâng cao ý
thức cố kết cộng đồng giữa các vùng lãnh thổ với nhau của mọi người dân.
Đây chính là điểm đặc thù riêng của Indonesia, không chỉ dẫn đến nhu cầu đề
cao ý thức đoàn kết, thống nhất cộng đồng, mà đây còn là nguyên nhân sâu xa
của những tư tưởng li khai, nên từ khi độc lập các phong trào li khai đã xuất
hiện. Do đó, việc thống nhất quốc gia - dân tộc còn mang ý nghĩa sống còn
trong việc xác lập và củng cố quyền tự chủ quốc gia. Chính vì lẽ đó, kể từ khi
Indonesia tuyên bố quyền tự chủ quốc gia đến nay, các chính phủ kế tiếp nhau
ở đây luôn coi trọng vấn đề thống nhất. Tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt qua tất
cả các đời tổng thống ở Cộng hoà Indonesia từ khi nước này được thành lập
cho đến nay đều nhằm mục tiêu xây dựng một chính phủ có khả năng quản lý
và điều tiết các hoạt động kinh tế - xã hội.
Đặc điểm thứ ba, Indonesia sớm có nhiều đảng chính trị khác nhau dẫn
đến khó thực hiện cải cách dân chủ.
Tính đa dạng về địa hình, về các yếu tố lịch sử, văn hoá, dân tộc, tộc
người, về tín ngưỡng, tôn giáo cũng chính là những nguyên nhân quan trọng
làm cho tình hình chính trị ở đất nước Indonesia sau khi giành độc lập diễn ra
hết sức phức tạp. Ở Indonesia, tồn tại rất nhiều đảng phái chính trị khác nhau,
về cơ bản có mục đích hoạt động giống nhau song trong đường lối cụ thể lại
có sự mâu thuẫn. Chính vì vậy, những cuộc tranh giành quyền lực, đấu đá phe
phái ở Indonesia thường diễn ra rất gay gắt và khá thường xuyên.
Với đội ngũ giai cấp tư sản dân tộc phát triển tương đối mạnh,
Indonesia lựa chọn con đường dân chủ tư sản cho cuộc đấu tranh giành độc
lập dân tộc của mình. Phong trào dân chủ tư sản từng bước phát triển dẫn đến
sự ra đời các hiệp hội, đảng phái chính trị. Tiêu biểu trong số đó là đảng Sarekat
Islam (Liên minh Hồi giáo) thành lập năm 1912; đảng Ấn Độ thành lập 1912...
Các tổ chức công đoàn đầu tiên của công nhân Indonesia cũng được thành lập,
59
như Công đoàn hỏa sa S.S. Bond (1905), Công đoàn công nhân xe lửa (1908).
Năm 1920, Đảng Cộng sản Indonesia được thành lập và nhanh chóng trở thành
lực lượng quan trọng trong đời sống chính trị của nước này, (nhất là giai đoạn
1923 - 1927). Nhưng do mắc phải một số sai lầm trong đường lối lãnh đạo
nên các cuộc đấu tranh của công nhân Indonesia dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản đều bị thực dân Hà Lan đàn áp và thất bại. Đến năm 1927, Đảng
Cộng sản bị cấm hoạt động và chấm dứt vai trò trong phong trào dân tộc ở
Indonesia [119, tr47]. Đảng Dân tộc Indonesia (Perserikatan National Indonesia
- PNI) được thành lập năm 1927 do Sukarno đứng đầu chủ trương đấu tranh giải
phóng dân tộc theo xu hướng dân chủ tư sản. Đảng có nền tảng tư tưởng là
Marhaenism mà sau này được Sukarno mô hình hóa dưới dạng 5 nguyên tắc
(Pancasila). Về thực chất, đây là sự kết hợp giữa chủ nghĩa dân tộc, tín ngưỡng
tôn giáo và chủ nghĩa Cộng sản, nên thu hút được đông đảo tầng lớp người lao
động trong xã hội tham gia. Đến cuối thập niên 30 của thế kỷ XX, phong trào
dân tộc ở Indonesia phát triển mạnh mẽ dẫn đến việc ra đời Liên đoàn các Đảng
Dân tộc (Gapi) được thành lập, nhằm thống nhất hoạt động của toàn dân tộc
trong cuộc đấu tranh giành độc lập. Năm 1939, Gapi dưới sự lãnh đạo của
Sukarno đã tổ chức Đại hội nhân dân Indonesia bao gồm 90 đảng phái và tổ
chức chính trị trong cả nước. Đại hội thông qua nghị quyết lấy tiếng Indonesia
(Bahasa Indonesia) làm Quốc ngữ; lấy cờ hai mầu đỏ - trắng làm Quốc kỳ và lấy
bài hát Indonesia Rây làm Quốc ca còn Liên đoàn các Đảng Dân tộc (Gapi) làm
lực lượng nòng cốt của mặt trận dân tộc thống nhất toàn Indonesia.
Đặc điểm chính trị đa đảng phái của Indonesia đã khiến các nhà lãnh
đạo đất nước này trong những giai đoạn tiếp theo luôn đề cao và chú trọng
xây dựng một lực lượng quân đội lớn mạnh, đủ sức áp chế các mâu thuẫn
giữa các đảng phái trong nội bộ. Với vai trò quan trọng trong việc ổn định
tình hình trong nước, quân đội Indonesia luôn ở vị trí trung tâm của quyền lực
chính trị, ai chi phối được quân đội, người đó sẽ thâu tóm được quyền lực
60
chính trị của đất nước Indonesia. Đây là một đặc điểm có tác động rất nhiều
đến việc hình thành chủ nghĩa tư bản nhà nước quan liêu quân phiệt điển hình
ở Indonesia [118, tr.19].
Giống như nhiều quốc gia khác, chính sách đối ngoại của Indonesia bắt
nguồn từ những vấn đề nội tại của đất nước và những tác động của các yếu tố
bên ngoài. Các xu hướng phát triển chính trên thế giới và sự can thiệp của một
số nước lớn đối với việc định hướng con đường phát triển là hai trong nhiều
nhân tố đó. Vốn là một nước thuộc địa, có sự chia rẽ phức tạp về chính trị, mối
quan tâm hàng đầu của các chính phủ cầm quyền ở Indonesia qua các giai đoạn
luôn là củng cố sự thống nhất trong nước, tìm kiếm sự công nhận quốc tế về địa
vị hợp pháp của một nước lớn trong khu vực. Đồng thời Indonesia trở thành một
nhân tố tích cực có quyền khẳng định quan điểm và quyền đấu tranh vì mục tiêu
của riêng mình - vì một Indonesia hoàn toàn độc lập [194, tr.15]. Kể từ khi chế
độ Trật Tự Mới sụp đổ năm 1998, cho đến năm 2015 đất nước Indonesia đã
bước vào năm thứ 17 của công cuộc cải cách dân chủ. Indonesia hiện trở thành
một nền dân chủ lớn trên thế giới, cũng như ở Đông Nam Á và được xem là một
hình mẫu dân chủ cho các nước Hồi giáo. Indonesia theo thể chế cộng hòa với
một bộ máy lập pháp và tổng thống do dân bầu.
Như vậy là, xuất phát từ việc Indonesia sớm có nhiều đảng chính trị
khác nhau dẫn đến nguy cơ tạo nên sự bất ổn chính trị, tạo điều kiện cho
Suharto độc tài và tạo ra lý do cho sự cấu kết giữa quân đội và giới quan liêu
ở Indonesia, thao túng nền chính trị và kinh tế của đất nước, là nguyên nhân
của những xung đột sắc tộc, tôn giáo và li khai.
+ Đặc điểm văn hoá, xã hội.
Là một trong những chiếc nôi của văn minh nhân loại, từ rất sớm người
dân Indonesia đã có một nền văn hoá riêng, mà trước hết là văn hoá tinh thần.
Với vị trí chiến lược quan trọng của mình nên từ lâu Indonesia đã là nơi gặp
gỡ, giao thoa của nhiều nền văn hoá khác nhau trên thế giới. Người Indonesia
61
đã tiếp nhận tất cả, từ văn hoá Ấn Độ, văn hoá Trung Hoa đến văn hoá Ả rập
và văn hoá phương Tây để hoà nhập nó vào cuộc sống và văn hoá của mình.
Tất cả những yếu tố trên đã tạo cho con người Indonesia một tâm lý dân tộc
của riêng họ, đó là kiềm chế nội tâm, hoà đồng và luôn hướng tới sự thống
nhất trong đa dạng. Tâm lý đó ảnh hưởng rất nhiều đến nền tảng văn hoá, xã
hội và có tác động lớn đến việc đề ra các chính sách văn hoá, dân tộc của các
nhà lãnh đạo Indonesia qua các giai đoạn phát triển. Được mệnh danh là "ống
thông gió" của khu vực và thế giới, quá trình giao lưu buôn bán được diễn ra
ở Indonesia từ rất sớm cũng tạo điều kiện cho việc du nhập các nền văn minh
trên thế giới vào đây. Văn hoá Trung Hoa, Ấn Độ, Java, Mã Lai là các nền
văn minh phương Đông được hoà quyện với văn minh Ảrập thông qua sự du
nhập của Hồi giáo và của văn minh phương Tây... Theo thời gian, dưới sự tác
động của những biến động xã hội, tính tự kiềm chế dần dần trở thành một
nguyên tắc tối cao trong cách ứng xử của người Indonesia, hình thành nên
một trong những đặc tính tâm lý của họ.
Đặc điểm tâm lý tự kiềm chế là một động lực quan trọng tạo nên bản sắc
lịch sử, văn hoá của đất nước Indonesia từ xưa tới nay. Nhờ vào điều này, mà
một đất nước phức tạp và đa dạng về mọi mặt như đất nước Indonesia lại luôn
giữ được sự bình ổn trong xã hội, tạo nên sự thống nhất về chính trị và văn hoá...
Với ba nguyên tắc đạo đức: "trách nhiệm, phúc lợi và tình thương"
trong các mối quan hệ; người dân Indonesia đã tạo ra một truyền thống dân
chủ mang tính đặc trưng riêng biệt của mình. Quan niệm dân chủ truyền
thống cổ xưa đó được coi là bộ mặt xã hội tự nhiên duy nhất đúng của
Indonesia. Những người lãnh đạo Indonesia từ khi ra đời đến nay đều cho
rằng, để xây dựng thành công một xã hội đa dân tộc thống nhất hiện nay thì
rất cần phát huy những giá trị mang tính truyền thống của nền "văn minh lúa
nước". Đây là điều cần thiết để hạn chế những rạn nứt giữa các nhóm sắc tộc
trong lòng xã hội.
62
Tư tưởng "thống nhất trong đa dạng" của nhân dân Indonesia được tạo
nên chính từ những nét đặc thù mang tính bản sắc của đất nước này trong lịch sử
và hiện tại. Tính đặc trưng của nền văn minh lúa nước đã đưa những người dân
Indonesia xích lại gần nhau hơn trong một lối sống làng xã cổ truyền, luôn luôn
tôn trọng ba nguyên tắc đạo đức (trivarga) là: trách nhiệm (dharma), phúc lợi
(artha) và tình thương (kama) [24, tr13] trong cuộc sống. Đây chính là truyền
thống dân chủ cổ xưa, mang tính đặc trưng riêng biệt của người Indonesia, phản
ánh một sắc thái tâm lý tiêu biểu của họ là tâm lý hoà đồng. Indonesia là đất
nước có hàng trăm dân tộc sinh sống. Mỗi dân tộc này có những truyền thống
văn hoá riêng, mức độ tiếp thu ảnh hưởng văn hoá từ bên ngoài riêng...; song
văn hoá của Indonesia lại luôn được qui về một khối thống nhất.
Sức sống văn hoá dân tộc đó được người Java đúc kết thành câu thành
ngữ: "Tôn giáo từ ngoài biển vào, còn phong tục thì từ trên núi xuống". Có thể
diễn nghĩa câu ngạn ngữ đó như sau: Núi được coi là nơi ở của thần linh, của
những điều thiện, còn biển là nơi ác quỷ ngự trị, vì vậy không bao giờ những ảnh
hưởng từ bên ngoài có thể xoá bỏ được bản sắc dân tộc của người Indonesia [24,
tr.16]. Tuy nhiên, do án ngữ trên con đường giao thương huyết mạch nối liền các
nền văn minh lớn của thế giới, nên văn hoá của người Indonesia cũng chịu sự tác
động mạnh mẽ của các nền văn minh đó... Đặc điểm này tạo nên tâm lý kiềm
chế và cởi mở luôn đi kèm với nhau, hình thành đặc điểm văn hoá đặc trưng của
người Indonesia: thống nhất trong đa dạng của Indonesia.
Tất cả những đặc điểm tâm lý trên đây đã tạo nên một nền văn hoá đa
dạng, phong phú và mang đậm dấu ấn của các dân tộc Indonesia, đó là kiềm
chế nội tâm, hoà đồng và luôn hướng tới sự thống nhất trong đa dạng.
+ Đặc điểm về tôn giáo, dân tộc.
Indonesia là một quốc gia đa dân tộc, đa tôn giáo. Với điều kiện địa lý
thuận lợi về đường hàng hải, lịch sử đất nước Indonesia đã sớm chứng kiến sự
du nhập và ảnh hưởng của nhiều nền văn minh lớn trên thế giới như Ấn Độ,
Trung Quốc, Ảrập, Bồ Đào Nha, Anh và Hà Lan. Cùng với các nền văn minh
63
này, những tôn giáo chính của nhân loại cũng đã thâm nhập và hòa trộn với
tín ngưỡng bản địa ở Indonesia.
Tôn giáo đã trở thành một phần quan trọng của văn hóa và đời sống cộng
đồng Indonesia, tín ngưỡng đa thần giáo cũng vì thế mà được thể hiện rõ nét
trong phong tục tập quán của người Indonesia, do đó mối quan hệ hài hòa giữa
các tôn giáo đóng vai trò rất quan trọng đối với Indonesia. Mở đầu là Hindu
giáo, rồi lần lượt theo thời gian, Phật giáo, Hồi giáo và Thiên Chúa giáo cũng
được du nhập vào các hòn đảo của Indonesia. Hindu giáo đã theo chân các
thương nhân Ấn Độ tới đảo Sumatra, Java và Sulawesi của Indonesia từ đầu thế
kỷ thứ 2 sau Công nguyên. Đến thế kỷ thứ V, tôn giáo này đã thiết lập được chỗ
đứng vững chắc trên hòn đảo Java trù phú và đông dân, trung tâm của nền văn
hóa Indonesia. Một thế kỷ sau, đến lượt Phật giáo cũng khẳng định được vị thế ở
Sumatra và Java, đặc biệt là tại các vùng đất do đế chế biển Srivijaya hùng mạnh
kiểm soát của Indonesia. Hồi giáo đến với các hòn đảo của Indonesia muộn hơn,
thiết lập trung tâm Hồi giáo đầu tiên tại phía bắc và phía tây đảo Java. Ngày nay,
đạo Hồi đã có mặt trên tất cả các hòn đảo của Indonesia và trở thành tôn giáo lớn
nhất tại nước này với sự có mặt của các hệ phái chính như Sunni, Shiite và Sufi.
Bản đồ 2.1: Bản đồ tôn giáo Indonesia
Nguồn: [177].
64
Bảng 2.1: Thành phần tôn giáo theo nhóm dân tộc ở Indonesia
(Điều tra dân số năm 2010)
Đơn vị tính: người
Nhóm dân
Thiên Chúa
Người Ấn
Phật
Nho
Hồi giáo
Khác
Toàn bộ
tộc
giáo
giáo
tử
giáo
Người Java
92.107,046
2.28.121
150.855
90.465
2.857
9,599 94.788.943
Sundan
36.450.022
181.402
1.851
24,528
4,854
3,235 36.665.892
Mã Lai
8,643,370
85.484
1.031
19.848
1.243
242
8,751,218
Bát quái
3.738.660
4,707,658
1.476
9.190
315
6.305
8,463.604
Madurese
7.157.518
7,695
368
435
32
43
7.166.091
Betawi
6,607,019
151.429
1.161
39.278
1.805
252
6.800.944
Minangkabau
6.441.071
16.822
179
1,255
44
6.459.420
49
Người Bugani
6.348.200
35,516
26.102
957
2.395
6.413.217
47
Người Na Uy
4.634.374
4,810
101
2.680
242
4.642.277
70
Banjarese
4.120.104
15.775
994
1.394
410
4.126.741
62
Ba Lan
127.274
49.385
3.736.993
10.378
142
473
3.924.645
3.398.818
4.034
70
1.028
4
3,403,961
7
Aceen
1.016.697
2.017.870
12.140
17,502
568
154.219 3.218.996
Dayak
3,153,671
5,540
4.555
10.682
439
3.174.894
7
Sakak
người Trung
131.682
1,211,692
3.552
1.388.829 94.005
1.114
2.830.874
Quốc
Khác
23.057.923
12,436,323
63,909
73,027
9,422
117.848 35.758.452
Toàn bộ
207.121.449
23.359.556
4,005.337
1.691.478 115,485 296.864 236,590,169
Nguồn: [166, tr.273].
Để thực hiện tốt chính sách "một dân tộc Indonesia thống nhất", chính
quyền chưa bao giờ công bố một cách đầy đủ thành phần các dân tộc sinh
sống trên lãnh thổ của mình. Indonesia là quốc gia có số dân theo Hồi
giáo đông nhất thế giới; tuy nhiên trong Hiến pháp Indonesia không đề cập tới
65
tôn giáo này là quốc giáo (do vậy không thể coi Indonesia là một quốc gia
Hồi giáo giống như các nước Tây Á và Bắc Phi).
Với gần 400 dân tộc lớn nhỏ cùng sinh sống, nên ngôn ngữ Indonesia
cũng rất phong phú và đa dạng.
Bản đồ 2.2: Bản đồ dân tộc Indonesia
Nguồn: [177].
Theo tổng điều tra dân số năm 2009, tỷ lệ dân số Indonesia chia theo
nhóm dân tộc (bảng 2.2).
Tuy tồn tại hơn 200 ngôn ngữ khác nhau, nhưng Bahasa được thừa
nhận là ngôn ngữ chính thức của Indonesia. Bahasa là một dạng của tiếng
Mã Lai, được hình thành trong cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc của
nhân dân Indonesia. Tiếng Bahasa được đông đảo người dân Indonesia
nhất trí coi là ngôn ngữ thống nhất của Indonesia tại Đại hội nhân dân
Indonesia vào năm 1939 và được khẳng định lại trong Hiến pháp năm
1945, khi nước Cộng hoà Indonesia ra đời. Việc thống nhất này là một
trong những nhân tố tạo nên sự thống nhất trong cộng đồng, góp phần giải
quyết các vấn đề dân tộc và tạo nên sự cố kết dân tộc trong quá trình bảo
vệ và củng cố nền độc lập dân tộc.
66
Bảng 2.2: Dân số Indonesia theo nhóm dân tộc
Dân tộc
Tỷ lệ
Người
Khu vực
(nghìn người)
(%)
Người Java (người
Trung Java, Đông
86.012
41.7
Chà Và)
Java, Yogyakarta, Lampung, Jakarta
Người Sunda
31.765
15.4 Tây Java, Banten, Lampung, Jakarta
Người Mã Lai
8.789
4.1 Bờ biển đông Sumatra, Tây Kalimantan
Người Hoa
7.776
3.7 Jakarta, Tây Kalimantan, Đông Java
Người Madura
6.807
3.3 Madura island, Đông Java
Người Batak
6.188
3.0 Bắc Sumatra
Người Bugis
6.000
2.9 Nam Sulawesi, Đông Kalimantan
Người Minangkabau
5.569
2.7 Tây Sumatra, Riau
Người Betawi
5.157
2.5 Jakarta, Banten, Tây Java
5.000
2.4 Jakarta, Tây Java, Trung Java
Người Ả Rập
4.800
2.3 Nam Kalimantan, Đông Kalimantan
Người Banjar
Người Banten
4.331
2.1 Banten, Tây Java
4.000
1.9 Aceh, Jakarta, Tây Java
Người Aceh
3.094
1.5 Bali
Người Bali
3.000
1.4 Tây Nusa Tenggara
Người Sasak
Người Makassar
2.063
1.0 Nam Sulawesi
Người Cirebon
1.856
0.9 Tây Java, Trung Java
Nguồn: [166].
Với một đất nước có địa hình phức tạp, phân bố dân cư và tài nguyên
không đều, tình hình dân tộc và tôn giáo đa dạng…như Indonesia, những mâu
thuẫn sắc tộc, tôn giáo này rất dễ dẫn đến việc bùng phát các cuộc xung đột
sắc tộc, tôn giáo, chiến tranh ly khai, khủng bố… Những căng thẳng tôn giáo
và chủ nghĩa ly khai đã dẫn tới những xung đột bạo lực, sắc tộc, tôn giáo đe
67
doạ sự ổn định kinh tế và chính trị. Như vậy, tính đặc thù trong các yếu tố địa
lý, dân cư, tộc người, tôn giáo và nhất là đặc điểm chính trị đã quyết định rất
nhiều đến việc lựa chọn con đường đấu tranh giành độc lập dân tộc, cũng như
trong quá trình phát triển đất nước, bảo vệ, củng cố nền độc lập dân tộc của
đất nước Indonesia.
- Tình hình trong nước Cộng hòa Indonesia sau Chiến tranh Lạnh
Sau Chiến tranh Lạnh, đất nước Indonesia có những phát triển mới
trên nhiều lĩnh vực. Indonesia là một nước có chế độ chính trị Cộng
hòa tổng thống. Với tư cách một quốc gia đơn nhất, quyền lực nhà nước
tập trung trong tay chính phủ trung ương. Sau cuộc từ chức của Tổng
thống Suharto năm 1998, chính trị Indonesia và các cơ cấu chính phủ đã
trải qua những cuộc cải cách lớn. Indonesia gồm 34 tỉnh, trong đó năm
tỉnh có quy chế đặc biệt. Mỗi tỉnh có cơ quan lập pháp và thống đốc riêng.
Các tỉnh được chia tiếp thành các huyện (kabupaten) và các thành phố
(kota), chúng lại được chia tiếp thành các quận (kecamatan), và các nhóm
làng (hoặc desa hay kelurahan).
Sau khi áp dụng các biện pháp vùng tự trị năm 2001, các huyện và các
thành phố đã trở thành các đơn vị hành chính chủ chốt, chịu trách nhiệm cung
cấp hầu hết dịch vụ nhà nước. Cấp hành chính làng là đơn vị có ảnh hưởng
lớn nhất tới cuộc sống thường ngày của người dân, và giải quyết các vấn đề
của làng hay khu vực lân cận thông qua một trưởng làng (lurah hay kepala
desa) do dân bầu. Các tỉnh Indonesia như Aceh, Jakarta, Yogyakarta, Papua,
và Tây Papua có mức độ tự trị và ưu tiên hành pháp cao hơn từ chính quyền
trung ương so với các tỉnh khác. Ví dụ, chính phủ Aceh có quyền thiết lập
một hệ thống luật pháp độc lập (năm 2003), tỉnh này đã cho ra đời một hình
thức Sharia (Luật Hồi giáo). Tỉnh Yogyakarta được trao vị thế Vùng đặc biệt
để ghi nhận vai trò nòng cốt của nó trong việc hỗ trợ những người Cộng hòa
Indonesia thời Cách mạng Indonesia. Tỉnh Papua, thường được gọi là Irian
68
Jaya, đã được hưởng một quy chế tự chủ đặc biệt từ năm 2001. Còn Jakarta là
vùng thủ đô đặc biệt của quốc gia [7].
Năm 1997 và 1998, Indonesia là nước bị ảnh hưởng nặng nề nhất của
cuộc khủng hoảng tài chính. Điều này càng khiến sự bất mãn của dân chúng
với Trật tự Mới gia tăng và dẫn tới các cuộc tuần hành dân chúng. Suharto từ
chức ngày 21 tháng 5 năm 1998. Sự bất ổn chính trị, cải cách kinh tế chậm
chạp và tham nhũng ở mọi cấp độ chính phủ và kinh doanh từ năm 1998 đã
ảnh hưởng tiêu cực tới sự phục hồi kinh tế.
Năm 1999, Đông Timor bỏ phiếu ly khai khỏi Indonesia, sau một cuộc
xâm chiếm quân sự kéo dài 25 năm được đánh dấu bởi những lời lên án quốc
tế và những vụ đàn áp thường xuyên với người Đông Timor. Năm 1999,
Indonesia trao trả độc lập cho Đông Timor, thì các mâu thuẫn về sắc tộc và
tôn giáo gia tăng ở một số nơi như Aceh, Maluku và Irian Jaya (giữa Đạo Hồi
và Thiên chúa giáo). Tình hình mất ổn định đó đã được Tổng thống
Abdurrahman Wahid nhận định: ngoài khủng hoảng về kinh tế, những diễn
biến mới đây ở Aceh, Maluku và Irian Jaya cho thấy nguy cơ tan rã đất nước,
là thách thức chính ở Indonesia. Mâu thuẫn sắc tộc, tôn giáo, nhiều khu vực
đòi ly khai như Đông Timor, Aceh…, các đảng phái tranh giành quyền lực,
chính trị mất ổn định gây không ít khó khăn cho việc phục hồi kinh tế. Trước
hình hình đó, ngày 23 tháng 8 năm 2000, tại Jakarta đã diễn ra cuộc cải tổ
Chính phủ. Chính phủ Cộng hòa Indonesia mới được thành lập gồm 25 thành
viên (Chính phủ cũ do Tổng thống A. Wahid điều hành trong 10 tháng là 35
thành viên). Ngày 25 tháng 8 năm 2000, Tổng thống A. Wahid đã ký sắc lệnh
chuyển giao quyền hành quản lý đất nước cho bà Megawati, Phó Tổng thống,
nhưng ông A. Wahid vẫn giữ chức tổng thống cho đến khi tổng tuyển cử. Đầu
năm 2001, Tổng thống A. Wahid bị lên án là dính líu vào vụ tham nhũng trên
5 triệu đôla Mỹ, trên 90% nghị sĩ đều bất bình với tổng thống. Một lần sóng
dư luận ở Jakarta và một số thành phố lớn khác đòi ông A. Wahid từ chức.
69
Ngày 23 tháng 7 năm 2001, tại phiên họp đại biểu của Hội đồng Hiệp thương
Nhân dân (MPR), 100% trong tổng số 519 thành viên có mặt đã phế truất
Tổng thống A. Wahid và bầu bà Megawati Sukarnoputri (con gái cố Tổng
thống Sukarno) làm Tổng thống thứ năm của Cộng hòa Indonesia [104].
Như vậy là, từ khi Suharto từ chức, một quá trình tăng cường dân
chủ gồm cả một chương trình trao quyền tự trị cho các vùng, và cuộc bầu cử
tổng thống trực tiếp năm 2004. Tình trạng bất ổn chính trị và kinh tế, bất ổn
xã hội, tham nhũng và chủ nghĩa khủng bố đã giảm sút đáng kể. Dù các quan
hệ giữa các tôn giáo và các nhóm sắc tộc phần lớn hài hòa, những vấn đề bất
đồng và bạo lực tại một số khu vực vẫn thỉnh thoảng xảy ra. Một cuộc dàn
xếp chính trị cho cuộc xung đột vũ trang ly khai ở Aceh đã được thực hiện
năm 2005.
Tình hình Indonesia chứa đựng tất cả các nhân tố mà các nước
ASEAN, ở mức độ khác nhau đều đang gặp phải, đó là (1) các vấn đề sắc tộc
(giữa người Java với người dân thuộc các dân tộc khác như Aceh, Irian; giữa
người Indonesia và người Hoa); (2) tôn giáo (mâu thuẫn giữa những người theo
đạo Hồi và đạo Thiên Chúa); (3) phong trào ly khai (ở Aceh, Tây Irian; Đông
Timor là trường hợp ngoại lệ vì bị sáp nhập bất hợp pháp vào Indonesia); (4)
mâu thuẫn giữa trung ương và địa phương. Indonesia là một nước thành viên
sáng lập của ASEAN và là thành viên của nhóm các nền kinh tế lớn (G20). Hiện
nay, nền kinh tế của đất nước Indonesia đã lớn thứ 16 toàn cầu tính theo GDP
danh nghĩa và đứng thứ 8 theo sức mua tương đương, tuy nhiên do dân số đông
nên GDP bình quân đầu người vẫn chỉ ở mức trung bình thấp.
- Chính sách dân tộc, tôn giáo của chính phủ Indonesia
Chính sách của chính phủ cầm quyền đối với các vấn đề có liên quan
đến dân tộc, tôn giáo có vai trò rất quan trọng trong việc giải quyết xung đột
sắc tộc, tôn giáo trên lãnh thổ của mình. Điều này hoàn toàn đúng đối với
trường hợp của Indonesia, quốc gia có đa dân tộc, tôn giáo và cũng là nước có
70
nhiều cuộc xung đột sắc tộc, tôn giáo hàng đầu khu vực. Chính sách dân tộc,
tôn giáo của Cộng hòa Indonesia được điều chỉnh qua từng giai đoạn lịch sử
và mang những nội dung cơ bản sau:
Công nhận quyền tự do theo và thực hành tôn giáo, tín ngưỡng
Sau khi giành được độc lập (ngày 17/8/1945), Indonesia đã công nhận
quyền tự do theo và thực hành tôn giáo, tín ngưỡng. Hiến pháp năm 1945 quy
định về cương lĩnh ý thức hệ Pancasila. Đến năm 1975, Pancasila được đưa
vào giáo dục trong nhà trường. Từ năm 1978 trở đi, Pancasila trở thành kim
chỉ nam cho toàn bộ xã hội. Pancasila bao gồm năm nguyên tắc liên hệ chặt
chẽ, được xem là cơ sở triết lý quản lý nhà nước nhằm thống nhất quốc gia:
Một là, niềm tin duy nhất vào một Chúa trời; hai là, sự nhân đạo văn minh và
công bằng; ba là, sự thống nhất của Indonesia; bốn là, nền dân chủ được
hướng dẫn bởi trí tuệ nội tại và sự đồng thuận qua tranh luận giữa những
người đại diện; năm là, công bằng xã hội cho toàn thể người dân [124]. Thực
chất Pancasila là một thuyết đa nguyên tôn giáo và đã được tất cả các nhóm
tộc người hưởng ứng tham gia, vì dưới hình thức Pacansila, tự do tôn giáo
được đảm bảo, không có một tôn giáo nào, dù là Hồi giáo, có quyền và vị trí
độc tôn. Như vậy, Pancasila đã đảm bảo cho một nước rất đa dạng về văn hóa,
tộc người, tôn giáo và có những hệ tư tưởng khác biệt như Indonesia đảm bảo
sự ổn định tương đối để phát triển.
Chính quyền của Tổng thống Suharto và các chính quyền sau đó, mặc
dù có những cải cách chính trị theo hướng dân chủ, nhưng về cơ bản đều sử
dụng tư tưởng Pancasila để giải thích cho tự do tôn giáo và đa nguyên tôn
giáo, đồng thời biện minh cho việc công nhận 6 tôn giáo chính (gồm Hồi
giáo, Tin lành, Thiên chúa giáo, Ấn Độ giáo, Phật giáo, Khổng giáo) và tôn
trọng các niềm tin tôn giáo khác. Tòa án Hiến pháp Indonesia năm 2010 trong
một văn bản pháp luật đã đề cập tư tưởng Pancasila như nguyên tắc cơ bản
(không thể sửa đổi) khác với các quy phạm nền tảng vốn có thể thay đổi. Tòa
71
tin rằng Niềm tin vào một Chúa trời (nguyên tắc thứ nhất) tạo ra các nguyên
tắc khác (nhân văn, thống nhất Indonesia, công bằng xã hội, và dân chủ). Vì
vậy, nó cũng có nghĩa là Hiến pháp sẽ không khuyến khích bất kỳ biểu hiện
nào kích động người dân không tin vào Chúa trời hay bôi nhọ tôn giáo. Tôn
giáo ở Indonesia có hai chức năng cho đức tin cá nhân và bản sắc cộng đồng.
Trong trường hợp đó, luật chống Phỉ báng không chỉ để bảo vệ đức tin cá
nhân mà còn để bảo vệ văn hóa và đức tin cộng đồng. Tòa cũng giải thích
rằng khái niệm pháp quyền ở Indonesia lấy cảm hứng từ Pancasila, có nghĩa
là nó phải xem xét giá trị tôn giáo để phân định luật tốt hay xấu, và phân định
các bộ luật là hợp hiến hay vi hiến [85].
Một vấn đề tôn giáo khác mà Chính phủ Indonesia phải đối mặt đó là tự
do tôn giáo của các tôn giáo phi chính thức và những người vô thần. Chính
phủ Indonesia công nhận chỉ có 6 tôn giáo chính thức đã gây khó khăn cho
các nhóm tôn giáo thiểu số trong việc có được sự công nhận về tôn giáo/tín
ngưỡng trong chứng minh thư và các giấy tờ công dân khác. Điều này dẫn
đến việc Nhà nước Indonesia bị coi là thiên vị đối với đa số, nhất là khi cung
cấp và phục vụ lợi ích đa số so với việc bảo vệ nhóm thiểu số; đồng thời gặp
lúng túng khi đối phó với phản ứng của đa số chống lại các nhóm thiểu số. Do
đó, năm 2006, pháp luật Indonesia đã công nhận các niềm tin tôn giáo phi
chính thống và cho phép đăng ký với chính quyền như các tín ngưỡng, và tín
đồ có thể nhận được một số giấy tờ công dân.
Thực hiện hiến pháp thế tục, đạo Hồi không là quốc giáo
Là quốc gia có đông người theo đạo Hồi nhất trên thế giới hiện nay
nhưng Indonesia có hiến pháp thế tục, đạo Hồi không được coi là quốc giáo ở
đảo quốc này. Đa số các nhóm Hồi giáo ôn hòa đều phản đối việc áp dụng bộ
luật Sharia hà khắc của Hồi giáo ở Indonesia. Nhưng cũng có không ít tổ chức
cực đoan đã đi ngược lại mong muốn này và họ dùng bạo lực để bày tỏ quan
điểm. Do đó, việc giải quyết nạn xung đột tôn giáo là một trong những thách
72
thức đối với bất kỳ tổng thống nào lên cầm quyền ở Indonesia kể từ khi quốc
gia này tuyên bố độc lập.
Indonesia là một quốc gia xảy ra nhiều vụ xung đột dân tộc, tôn giáo, ly
khai dân tộc nhất ở Đông Nam Á. Chính sách đàn áp của chính quyền
Indonesia từ trước tới nay là kiên quyết, thẳng tay và nhất quán. Song, Chính
phủ Indonesia vẫn không ngăn ngừa được các hiện tượng ly khai dân tộc. Rõ
ràng, việc sử dụng bạo lực không giải quyết được vấn đề xung đột dân tộc,
tôn giáo, vấn đề ly khai dân tộc ở Indonesia. Chính phủ Indonesia phải đối
mặt với nhiều thách thức về sự thống nhất quốc gia dân tộc. Một trong những
ưu tiên là Chính phủ quốc gia phải giải quyết tốt mối quan hệ giữa các tôn
giáo, xây dựng các mối tương quan liên tôn giáo hài hòa. Chính phủ
Indonesia thừa nhận sự đa dạng về văn hóa, tôn giáo, tôn trọng quyền tự do
tín ngưỡng, tôn giáo của người dân. Đồng thời, Chính phủ Indonesia cần thực
hiện các biện pháp phát triển kinh tế, giáo dục, xóa đói giảm nghèo để có thể
hạn chế được phần nào các cuộc xung đột sắc tộc, tôn giáo thông qua giải
quyết sự bất bình đẳng và bất công.
Tiểu kết chương 2
Ở thời kỳ sau Chiến tranh Lạnh, các cuộc xung đột tôn giáo, sắc tộc
vẫn tiếp tục diễn ra ở Indonesia, đe dọa tới độc lập dân tộc và toàn vẹn lãnh
thổ của quốc gia này.
Để có thể hiểu được vấn đề xung đột tôn giáo, sắc tộc nói chung, xung
đột tôn giáo, sắc tộc ở Indonesia nói riêng, phần đầu của chương đề cấp tới
một số khái niệm cơ bản bao gồm các khái niệm về dân tộc, tộc người, tôn
giáo, xung đột tôn giáo, xung đột sắc tộc và giải quyết các xung đột trên nhìn
từ yêu cầu của sự bảo vệ và củng cố độc lập trong bối cảnh hội nhập quốc tế.
Những khái niệm này tạo thành khung phân tích và sẽ được sử dụng trong
suốt quá trình tiếp cận và giải quyết các nhiệm vụ nghiên cứu của luận án.
73
Phần còn lại của chương đề cập tới các nhân tố cả khách quan và chủ
quan dẫn tới sự bùng phát xung đột tôn giáo sắc tộc ở Indonesia trong gần 3
thập niên của thời kỳ sau Chiến tranh Lạnh.
Về phương diện khách quan: Đó là những biến đổi trong môi trường
chính trị, kinh tế và văn hóa trên thế giới và trong khu vực ở thời kỳ sau
Chiến tranh lạnh; là vị trí địa lý, địa - chiến lược cố hữu của Indonesia.
Về chủ quan, các đặc điểm chính trị, văn hóa và tôn giáo của Indonesia
là những nhân tố quan trọng tác động tới các xung đột sắc tộc, và tôn giáo ở
nước này trong thời kỳ sau Chiến tranh Lạnh. Những hệ lụy từ sự cai trị độc
tài, chủ nghĩa tư bản thân hữu và sự phân phối không công bằng các lợi ích
phát triển giữa các vùng, miền, các cộng đồng dân tộc đã tạo cơ hội cho sự gia
tăng xung đột sắc tộc, tôn giáo ở Indonesia từ năm 1991 tới nay.
74
Chương 3
THỰC TRẠNG GIẢI QUYẾT XUNG ĐỘT SẮC TỘC, TÔN GIÁO
NHẰM BẢO VỆ VÀ CỦNG CỐ ĐỘC LẬP DÂN TỘC
CỦA CỘNG HÒA INDONESIA GIAI ĐOẠN 1991-2015
3.1. TÌNH HÌNH XUNG ĐỘT SẮC TỘC, TÔN GIÁO Ở INDONESIA
TRONG GIAI ĐOẠN 1991-2015
3.1.1. Bức tranh chung về xung đột sắc tộc, tôn giáo ở Indonesia từ
sau 1991
Có thể nói, xung đột sắc tộc, tôn giáo trên thế giới hiện nay là vấn đề
hết sức phức tạp, đặc biệt giai đoạn từ sau Chiến tranh Lạnh, vấn đề càng trở
nên đậm nét. Trong đời sống xã hội, dân tộc và tôn giáo là những vấn đề
tự thân vốn đã chứa đựng những phức tạp. Trong giai đoạn 1991 - 2015, ở
nhiều quốc gia, khu vực trên thế giới đã xảy ra những cuộc xung đột, trong đó
có một số cuộc xung đột liên quan đến dân tộc, tôn giáo hoặc xen lẫn cả dân
tộc và tôn giáo. Đó là xung đột giữa những cộng đồng Hồi giáo theo dòng
Sunni và Shiite hay các dòng khác nhau ở trong một quốc gia như: ở Syria,
Iraq; giữa một số quốc gia Ả-rập, Hồi giáo với nhau và với Israel (Do Thái
giáo); giữa Hồi giáo và Thiên chúa giáo ở Philippines, ở Indonesia; giữa Hồi
giáo và Phật giáo ở miền Nam Thái Lan, ở Myanmar,.. Xung đột sắc tộc và
xung đột tôn giáo ngày càng hòa quyện, xen lẫn với nhau, làm cho tính chất
của những xung đột sắc tộc, tôn giáo càng trở nên phức tạp, không dễ dàng
nhìn nhận một cách đúng đắn và giải quyết thấu đáo vấn đề.
Sau khi giành được độc lập, đất nước Indonesia đứng trước nhiều vấn
đề gay gắt về mâu thuẫn, xung đột dân tộc, sắc tộc, tôn giáo, điển hình là
xung đột tại Đông Timor, Aceh, Irian Jaya, Maluku, xung đột giữa người Hoa
và người bản địa… Các cuộc xung đột sắc tộc, tôn giáo ở Indonesia rất đa
dạng và được thúc đẩy bởi những động cơ khác nhau. Cuộc xung đột ở Tây
75
Kalimantan vốn đã đôi chút im ắng, một lần nữa lại bùng nổ vào năm 1999
với hàng trăm người bị giết. Trước đó vào năm 1997, đã xảy ra sự giết chóc
trên phạm vi lớn và chủ yếu là giữa người Dayaks và người Mã lai bản xứ
chống lại nhóm di cư Madurese. Hiện tượng người bản địa chống lại người di
cư là khá phổ biến trong các cuộc xung đột cộng đồng ở Indonesia. Trong khi
đó, cuộc xung đột đang diễn ra ở Poso trên đảo Sulawesi, làm chết 300 người
lại là cuộc chiến giữa người Hồi giáo và người Thiên chúa giáo [200].
Xung đột giữa cộng đồng người Hoa và người Indonesia bản địa diễn ra
không ít lần trong lịch sử hậu độc lập của Indonesia nói chung và từ sau khi
Chiến tranh lạnh kết thúc nói riêng. Sự thù ghét cộng đồng người Hoa vốn âm ỉ
trong xã hội Indonesia, thường bùng phát dữ dội khi Indonesia gặp khó khăn về
kinh tế hoặc khi quan hệ Indonesia - Trung Quốc nảy sinh những vấn đề phức
tạp, đặc biệt là trong lĩnh vực chính trị - an ninh. Theo Sidney Jones, Giám đốc
Điều hành, Phòng Châu Á của Cơ quan theo dõi nhân quyền, "Người sắc tộc
Hoa tất nhiên là mục tiêu vĩnh viễn ở bất kỳ sự bất ổn nào bùng phát" [200].
Những cuộc xung đột dân tộc, tôn giáo diễn ra trong giai đoạn từ năm
1991 đến năm 2015 đã tạo cơ hội cho sự phát triển chủ nghĩa và tư tưởng ly
khai, đòi thành lập nhà nước riêng ảnh hưởng tiêu cực đến sự thống nhất quốc
gia dân tộc của Indonesia. Các phong trào ly khai bùng phát trên các đảo như
Aceh, Đông Timor, Kalimantan, Irian Jaya, Maluku... và tồn tại dai dẳng đã
gây ra nhiều khó khăn cho Chính phủ Indonesia trong việc ổn định tình hình
và thống nhất đất nước. Nhận thức được nguy cơ đó, chính phủ Indonesia đã
rất nỗ lực để có thể dập tắt các cuộc xung đột trên. Tuy nhiên, kết quả thu
được không như mong đợi. Sáng 28/3/2008, hàng trăm người biểu tình đã đốt
phá thánh đường Al Furqon, thuộc một giáo phái đạo Hồi mang tên
Ahmadiyah, vốn bị nhiều người Indonesia coi là dị giáo. Vụ đốt phá xảy ra
sau các cuộc đàm phán nhằm dỡ bỏ tấm biển hiệu mang tên giáo phái này bất
thành. Khoảng 300 người biểu tình vừa thiêu cháy thánh đường trên vừa hét
76
lớn "giết, giết". Các thành viên của giáo phái trên đã phải bỏ chạy khỏi hiện
trường vụ đốt phá nằm ở thành phố Sukabumi, tỉnh Tây Java và ẩn náu tại nhà
bạn bè và người thân gần đó. Theo ước tính, giáo phái Ahmadiyah hiện có
khoảng 200.000 tín đồ tại Indonesia [18].
Những hoạt động khủng bố như thế cũng diễn ra ở nhiều địa phương
của Indonesia. Luận án tiếp tục đề cập tới một số cuộc xung đột sắc tộc, tôn
giáo có tính chất điển hình ở Indonesia.
3.1.2. Một số cuộc xung đột sắc tộc, tôn giáo điển hình
Xung đột dân tộc ở Indonesia xảy ra ở nhiều nơi như Aceh, Papua,
Maluku, Kalimantan. Nhưng xung đột dân tộc mang tính chất li khai dân tộc
rõ ràng nhất là ở Đông Timor, Tây Papua và Aceh.
3.1.2.1. Xung đột dân tộc dẫn đến ly khai tại Đông Timor
Xung đột dân tộc dẫn đến ly khai tại Đông Timor là một điển hình cho
mâu thuẫn và xung đột dân tộc ở Indonesia trong giai đoạn 1991-2015. Với 15.410km2, Đông Timor (Timor-Leste) là một quốc gia bé nhỏ nằm trong
khu vực Đông Nam Á, bao gồm nửa phía đông của đảo Timor, một số đảo lân
cận và một phần nhỏ phía tây bắc của Tây Timor thuộc đất nước Indonesia.
Đông Timor là một thuộc địa cũ của Bồ Đào Nha và tự tuyên bố độc lập từ
Bồ Đào Nha vào ngày 28 tháng 11 năm 1975.
Tháng 12/1975, chưa đầy một tháng sau khi Đông Timor đơn phương
tuyên bố độc lập, Indonesia đã xâm chiếm vùng lãnh thổ Đông Timor bằng
đường không và đường thủy. Rất nhiều cư dân bản xứ Đông Timor bị giết hại,
nhiều làng mạc bị thiêu trụi. Một số người dân Đông Timor đã phải chạy trốn
vào vùng núi ở miền trung hòn đảo và tổ chức phong trào kháng chiến chống
lại Indonesia. Sự quản lý hà khắc của chính quyền trung ương làm cho đời
sống người dân bản xứ vô cùng cực khổ, các vụ tội phạm tra tấn, cưỡng hiếp
và giết người trở nên thường xuyên đối với người Maubere (dân bản xứ ở
Đông Timor) [27].
77
Bất chấp một số nghị quyết của Liên hợp quốc về quyền tự quyết của
người dân Timor (Liên hợp quốc chưa bao giờ công nhận việc Indonesia sáp
nhập vùng đất này vào lãnh thổ của mình), cộng đồng quốc tế vẫn làm ngơ
trước cuộc đấu tranh của cư dân Đông Timor. Sau ngày 12/11/1991, khi hơn
250 thanh niên Đông Timor bị giết trong cuộc thảm sát tại một nghĩa trang ở
thủ phủ Dili, thế giới mới bắt đầu lên án hành động của Indonesia [27]. Tuy
nhiên, những lời lẽ đó chỉ mang tính hình thức vì nhiều quốc gia lại bán vũ
khí cho Jakarta. Đây là mầm mống cho sự xung đột dân tộc ở Indonesia dẫn
đến sự ly khai tại Đông Timor trong thời gian qua.
Trước và sau năm 2000, tình hình chính trị ở Indonesia diễn ra rất phức
tạp. Sau khi chế độ cực quyền của Tổng thống Indonesia Suharto sụp đổ,
Tổng thống Wahid lên cầm quyền đã không kiểm soát được xung đột dân tộc
diễn ra ở nhiều nơi. Đông Timor tuyên bố độc lập. Năm 1996, giải Nobel hòa
bình được trao cho giám mục Dominica-Belo - nhân vật ủng hộ cư dân
Maubere ở Dili, cùng Jose Ramos Horta, chính trị gia và nhà hoạt động đại
diện cho lãnh đạo kháng chiến Xanana Gusmao. Sự kiện này làm cho thế giới
quan tâm hơn đến cuộc đấu tranh giành độc lập của người dân Đông Timor và
đem lại hy vọng mới cho cuộc chiến của người dân trên đảo.
Năm 1998, Tổng thống Indonesia Suharto từ chức. Người kế nhiệm
ông là Habibie đã thông báo Jakarta có thể cho vùng lãnh thổ hưởng một quy
chế đặc biệt. Tháng 01/1999, chính phủ Indonesia ra tuyên bố sẽ để Đông
Timor được độc lập nếu người dân ở đây không muốn chế độ tự trị. Từ tháng
02 đến tháng 4/1999, lãnh đạo Phong trào Kháng chiến Timor Xanana
Gusmao bị chuyển từ nhà tù sang chế độ quản thúc tại nhà riêng. Trước tình
trạng lực lượng phản đối độc lập ngày càng tiến hành nhiều hoạt động bạo
lực, ông X.Gusmao kêu gọi các dân quân nối lại cuộc đấu tranh.
Ngày 30/8/1999 đánh một dấu mốc trong lịch sử Đông Timor: 98,6%
[27] cử tri thực hiện quyền dân chủ của mình tại cuộc trưng cầu dân ý do Liên
78
hợp quốc tổ chức. Chính phủ Indonesia coi đây là biểu hiện của "tự do và
bình đẳng". Mặc dù bị các dân quân ủng hộ Indonesia đe dọa suốt 8 tháng,
nhưng dân chúng vẫn xếp thành hàng dài tại các điểm bỏ phiếu, dưới cái nắng
chói chang, sau khi đi bộ nhiều km tới điểm bỏ phiếu gần nhất. Lực lượng gìn
giữ hòa bình Australia tới Đông Timor và dần lập lại trật tự. Nhiều dân quân
được Jakarta hậu thuẫn chạy sang Tây Timor để khỏi bị bắt. Sáng 4/9, Ian
Martin, Chủ tịch Phái đoàn Trợ giúp Đông Timor của Liên Hợp Quốc
(UNAMET), công bố kết quả: 21,5% cử tri chấp nhận quyền tự trị đặc biệt dưới
sự lãnh đạo của Indonesia, trong khi có tới 78,5% lựa chọn độc lập cho vùng
lãnh thổ. Quốc hội Indonesia công nhận kết quả cuộc trưng cầu dân ý [27].
Tháng 10/1999, chính trị gia và nhà hoạt động đại diện cho lãnh đạo
kháng chiến Xanana Gusmao được trả tự do. Chính quyền chuyển tiếp Đông
Timor do Liên hợp quốc bảo trợ được thành lập. Tháng 12/1999, các nhà tại
trợ quốc tế tham dự hội nghị tại Tokyo nhất trí cung cấp 250 triệu USD viện
trợ để tái thiết Đông Timor. Tháng 8/2001, người dân Đông Timor đi bỏ
phiếu bầu Quốc hội với 88 thành viên. Cơ quan này đã ban hành Hiến pháp
của nước Đông Timor độc lập. Mặt trận Cách mạng vì một Đông Timor độc
lập (Fretilin) giành thắng lợi với 55 ghế. Tháng 02 năm 2002, Quốc hội thông
qua dự thảo hiến pháp thiết lập chính phủ mới, chính thức tách ra khỏi
Indonesia. Chính quyền Indonesia và Đông Timor đã ký hai thỏa thuận nhằm
mục đích làm dịu quan hệ song phương. Ngày 20 tháng 5 năm 2002, Đông
Timor đã được quốc tế công nhận là một quốc gia độc lập với tên gọi chính
thức là Cộng hòa Dân chủ Đông Timor.
3.1.2.2. Xung đột tại Aceh
Aceh là tỉnh cực Tây của Indonesia, chiếm khoảng 3% tổng diện tích
đất nước. Phần lớn Aceh nằm trong vùng Bắc đảo Sumatra. Dân số khoảng
trên 4 triệu người. Hầu hết người Aceh thuộc nhóm dân tộc Aceh. Vị trí địa lý
của Aceh khiến cho tỉnh này còn có tên gọi "cửa ngõ phía Tây" của Indonesia.
79
Từ xưa, mọi con đường buôn bán Đông - Tây đều đi qua vùng đất này. Người
Aceh đã từng tham gia buôn bán với người Ấn Độ, người Trung Hoa, người
Arập rồi và người châu Âu. Vào thế kỷ XIII người Aceh đã tiếp nhận theo
Hồi giáo. Thời kỳ hưng thịnh, từ thế kỷ XIV đến thế kỷ XVII, Vương quốc
Hồi giáo Aceh có ảnh hưởng lớn tới cả vùng. Nông nghiệp là cơ sở kinh tế
chính của người Aceh. Họ trồng lúa ở cả ruộng nước và ruộng khô. Ngoài cây
trồng là lúa người ta còn trồng các loại cây mía, dừa, ớt, thuốc lá... Ở ven biển
có các làng chài chuyên sống bằng nghề đánh cá. Chăn nuôi ít được chú ý.
Các nghề thủ công phát triển, đặc biệt là nghề rèn, dệt, chạm khắc đá, đan lát,
làm gốm và nghề đóng thuyền.
Aceh tham gia vào Cộng hòa Indonesia với xuất phát điểm khác với
nhiều khu vực khác. Người dân ở đây đã hình thành một ý thức cộng đồng
duy nhất thông qua quá khứ huy hoàng của mình cùng bản sắc Islam mạnh
mẽ của họ. Tuy vậy, họ vẫn triệt để tôn trọng sự thống nhất dân tộc Indonesia.
Trong khi đó, chính quyền trung ương lại tăng cường kiểm soát các hoạt động
chính trị của Aceh, bắt giữ các phần tử chống đối.
Năm 1976, một nhóm li khai có vũ trang gọi là Phong trào Aceh tự do
(Gerakan Aceh Merdeka - GAM) ra đời. Phong trào Aceh tự do tuyên bố
Aceh là một tỉnh độc lập và kêu gọi dân chúng Aceh chống lại đường lối
chính sách của chính phủ. Những phần tử cực đoan của GAM đã phát động
nhiều cuộc xung đột làm cho tình hình Aceh mất ổn định, rối loạn. Mục tiêu
chủ yếu của Phong trào giải phóng Aceh là độc lập, tách hẳn khỏi Indonesia.
Sự kết thúc của Trật tự mới cùng việc Tổng thống Suharto từ chức vào
năm 1998, đã tác động trực tiếp đến tình hình ở Aceh. Trong khi hầu hết
người Indonesia hưởng ứng những cải cách dân chủ do Tổng thống
Bacharuddin Jusuf Habibie tiến hành, thì người Aceh lại biểu tình đòi rút
quân lính Cộng hòa ra khỏi khu vực của họ và yêu cầu thanh tra về sự ngược
đãi mà quân đội đã đem đến cho họ trong suốt nhiều thập kỷ. Không chỉ có
80
vậy, người dân Aceh còn yêu cầu một cuộc trưng cầu dân ý về vị thế tương lai
của Aceh. Để tạo thêm áp lực, GAM phục hồi lại các hoạt động đấu tranh du
kích của mình với sự tổ chức tốt hơn trước nhiều. Một khủng hoảng bạo lực
mới lại bắt đầu, khi các lực lượng vũ trang chính phủ chạm trán với sự leo
thang của GAM và các phong trào dân sự cũng bị đàn áp vì chính phủ nghi
ngờ họ có quan hệ chặt chẽ với GAM. Giữa lúc bạo lực gia tăng, Tổng thống
Habibie đã đến thăm Aceh vào tháng 3 năm 1999 với những lời hứa đặc biệt.
Ông xin lỗi vì sự vi phạm nhân quyền của quân đội trong những năm tồn tại
Khu căn cứ quân sự (DOM) của quân đội và hứa tái định cư cho các gia đình
bị thiệt hại do tác động của DOM, trợ cấp cho việc chôn cất các nạn nhân, và
giải phóng tù chính trị. Ông cũng tiến hành thiết lập một bưu điện tự do ở
Sabang và hỗ trợ xây dựng 85 trường Islam Madrasah, một tuyến tàu hỏa mới
và mở rộng sân bay... [51]. Tuy nhiên, sau đó Tổng thống Habibie đã không
thực hiện được lời hứu về trưng cầu dân ý và cũng không mở cuộc điều tra về
sự lạm dụng nhân quyền của quân đội, vì ông ta đặt sự sống còn chính trị của
mình vào tay quân đội và không muốn "mạnh tay" với họ. Uy tín của Habibie
và chính phủ của ông ta đã suy sụp hơn khi bạo lực ngày càng tăng, mặc dù
đã có sự dàn xếp về ngừng bạo lực.
Nhiệm kì của Tổng thống Abdurrahman Wahid (1999-2001) đã gây ra
không ít sự tranh cãi về vấn đề Aceh. Với tư cách là một người theo phái dân
chủ, Tổng thống Abdurrahman Wahid đã lựa chọn giải pháp hòa bình dựa
trên cơ sở các nguyên tắc dân chủ, đàm phán và đối thoại cho vấn đề Aceh.
Nhưng khi Indonesia trao trả độc lập cho Đông Timor, ở Aceh xuất
hiện ngày càng nhiều phong trào đòi ly khai. Để giải quyết các mâu thuẩn
giữa những người Aceh và chính quyền Indonesia, ngày 12/5/2000, tại
Giơnever, đại diện chính phủ và đại diện của Tổ chức GAM đã ký kết một
thỏa thuận tạm ngừng chiến. Sau đó, vào ngày 18/6/2000, hai bên tiếp tục ký
thỏa thuận về quy định có liên quan đến việc ngừng hoạt động quân sự, theo
81
đó các lực lượng an ninh của Indonesia phải rút quân khỏi Aceh. Tuy nhiên,
tình trạng xung đột, bạo lực ở Aceh trong suốt nhiệm kỳ của Tổng thống
Wahid vẫn không được giải quyết dứt điểm mà ngược lại, bạo lực càng gia
tăng và cuối cùng ông đã kết thúc nhiệm kỳ tổng thống của mình bằng cách
lựa chọn biện pháp quân sự mạnh. Các cuộc biểu tình chính trị hoặc yêu sách
về trưng cầu dân ý đã không còn được bao dung như trước và phong trào dân
sự ở Aceh đã mờ dần trước sự leo thang của xung đột bạo lực giữa GAM và
các lực lượng vũ trang Indonesia.
Nhiệm kỳ của Tổng thống Megawati Sukarnoputri (2001-2004). Sau khi
lên nắm quyền, bà Megawati đã tiếp tục củng cố ý tưởng của cha mình là cố
Tổng thống Sukarno về một mô hình nhà nước dân tộc chủ nghĩa và quốc gia
thống nhất. Tiếp nhận những chính sách của người tiền nhiệm đối với vấn đề li
khai, bà Megawati đã khẳng định biện pháp quân sự đối với GAM trong Sắc
lệnh của tổng thống số 7 (2001). Trên thực tế sau khi được thành lập, Chính phủ
của bà Megawati đã đưa ra giải pháp tổng hợp về vấn đề Aceh, trong đó có chiến
dịch quân sự tổng lực để tiêu diệt GAM và các lực lượng li khai. Tuy nhiên, khi
các biện pháp quân sự không khuất phục được ý chí li khai của các nhà lãnh đạo
GAM, Chính phủ Indonesia phải tiến hành các cuộc đàm phán nhằm giải quyết
cuộc khủng hoảng Aceh bằng giải pháp chính trị (xem mục 3.2.2).
3.1.2.3. Xung đột tại Irian Jaya
Bước sang thế kỷ XXI tình hình Indonesia lại tiếp tục có những bất ổn
mới: Đông Timor mới tách ra khỏi đất nước Indonesia, tình hình Aceh còn
những diễn biến phức tạp, thì tại Irian Jaya lại bùng nổ xung đột, khuấy lên
phong trào đòi độc lập. Irian Jaya còn gọi là Tây Papua. Papua là phần lãnh
thổ cực đông của Indonesia, giáp với nước láng giềng Papua New Guinea.
Đảo Papua còn mang nhiều tên khác như Irian Jaya, Tây Irian Jaya, Tây
Papua, New Guinea. Tây Papua (tiếng Indonesia: Papua Barat) là tỉnh ít dân
nhất của Indonesia; nằm ở phía cực Tây của đảo New Guinea bao gồm bán
82
đảo Kepala Burung (tiếng Anh gọi là bán đảo Đầu chim (Bird's Head) và một vài đảo nhỏ xung quanh; nơi đây có diện tích 421.981 km2, chiếm khoảng
1/15 toàn bộ lãnh thổ Indonesia, hơn 3 triệu dân; tỉnh lỵ là thành phố Giaiapua
[67, tr.32]. Tây Papua được tách ra từ tỉnh Papua vào tháng 02 năm 2003. Lúc
đầu, được đặt tên là Irian Jaya Barat, nhưng từ tháng 02/2007 thì mang tên gọi
như hiện nay là Tây Papua. Tháng 11 năm 2004, một tòa án ở Indonesia đã
tuyên bố việc tách Tây Papua khỏi Papua là vi phạm luật về quyền tự chủ của
Papua, nhưng vì Tây Papua đã được tách ra, do đó để nó thành tỉnh riêng như
hiện trạng.
Ngược lại thời gian, năm 1962, Hà Lan trao trả độc lập cho đảo Papua,
đến năm 1963, Papua sáp nhập vào Indonesia. Từ năm 1970 đến đầu những
năm 1990, Chính phủ Indonesia được sự giúp đỡ của Ngân hàng Thế giới và
các tổ chức kinh tế tài chính khác đẩy mạnh chương trình nhập cư và khai
thác nguồn tài nguyên ở tỉnh này. Thật ra, chủ trương di dân tới Tây Papua và
những vùng dân cư thưa thớt khác ở Indonesia là cần thiết và hợp lý, xét cả từ
góc độ kinh tế lẫn an ninh chính trị. Với diện tích chỉ bằng 7 % diện tích đất
đai của cả nước, nhưng có tới 60 % dân số cả nước tập trung ở các đảo Java,
Madura, Bali và Lombok, việc di dân đã được thực hiện ở Indonesia từ 1905.
Tuy nhiên, phải tới năm 1950, di dân mới trở thành đặc điểm cơ bản trong
chiến lược phát triển của Indonesia. Mục tiêu của chính sách di dân là: cải
thiện mức sống; thúc đẩy sự phát triển vùng; phân phối đồng đều dân cư hơn;
sự phát triển đồng đều trên khắp Indonesia; khai thác và sử dụng tài nguyên
thiên nhiên và lao động; bảo vệ sự toàn vẹn, thống nhất lãnh thổ và tăng
cường phòng thủ giữ gìn an ninh quốc gia [161, tr.69]. Thực hiện chủ trương
trên, hơn 200.000 người từ Java đã tới Irian Jaya. Hơn 50.000 người tự
nguyện từ các vùng khác cũng chuyển về đây làm việc. Khoảng 10.000km2 rừng ở vùng đất thấp đã được thu hồi để lập nên những khu định
cư và giao cho những người dân mới đến khai hoang vùng này.
83
Xét từ các mục tiêu trên, chương trình di dân đã đạt kết quả, đặc biệt là
giảm bớt việc tập trung quá mức dân di cư đến Java. Tuy nhiên, việc di dân
cũng là nguyên nhân chính dẫn tới xung đột sắc tộc, tôn giáo Tây Papua.
Phong trào ly khai đã xuất hiện và tồn tại ở khu vực suốt hơn 40 năm qua.
Trong thời gian này, thỉnh thoảng xung đột vẫn xảy ra giữa quân đội chính
phủ với các nhóm ly khai. Tại Papua cũng có nhóm du kích nổi loạn mang tên
Phong trào Papua tự do (OPM) nhưng qui mô nhỏ hơn Phong trào Aceh tự do
(GAM). Phong trào Papua tự do xuất hiện từ những năm 1960 nhưng phải đến
những năm 1980 mới phát động cuộc chiến đấu vì nền độc lập của họ. Bạo
lực leo thang khi dưới thời Tổng thống Megawati Sukarnoputri, quân đội
được lệnh chính phủ tổ chức các chiến dịch "truy quét" các phần tử OPM.
Phong trào đấu tranh của tổ chức ly khai dân tộc Papua tự do lên tới
đỉnh cao sau khi lực lượng ly khai Đông Timor giành được thắng lợi trong
cuộc trưng cầu dân ý, thành lập nước Cộng hòa Timor Leste. Điểm nổi bật và
đáng chú ý nhất là hình thức đấu tranh tuyên truyền, ngoại giao của Phong
trào Papua tự do. Những nhà lãnh đạo chính trị, tiêu biểu là ông Moses Werror -
Chủ tịch Hội đồng cách mạng Phong trào Papua tự do, người đã tìm mọi cách
tuyên truyền để tranh thủ sự chú ý của cộng đồng quốc tế. Ông đã kiên trì gửi
đơn thỉnh cầu tới nguyên thủ các nước ở Nam Thái Bình Dương, Diễn đàn hợp
tác Nam Thái Bình Dương, gửi đơn tới Phong trào không liên kết, Hiệp hội các
quốc gia Đông Nam Á và Liên hợp quốc để phản đối "chính sách thực dân" của
chính quyền Indonesia và đề nghị công nhận nền độc lập của dân tộc Tây Papua.
Tuy nhiên, những hoạt động ngoại giao, tuyên truyền của OPM không thu được
nhiều kết quả. Nhìn chung các tổ chức và các quốc gia Đông Nam Á đều công
nhận chủ quyền thống nhất của Indonesia. Nếu vấn đề li khai ở Tây Papua xảy ra
nó sẽ tác động xấu không chỉ tới tình hình chính trị Indonesia mà còn tác động
tới sự ổn định của cả khu vực Đông Nam Á và châu Á. Đó là điều mà tất cả các
cường quốc và các quốc gia đều không muốn [67, tr.37].
84
Tháng 6 năm 2000, như được tiếp sức bởi việc Đông Timor đã tiến
thêm một bước trên con đường độc lập, Phong trào Papua tự do (OPM) triệu
tập Đại hội dân tộc Papua, thành lập Hội đồng đoàn chủ tịch Tây Papua. Hội
đồng này làm việc như một cơ quan đầu não thống nhất lãnh đạo phong trào
ly khai đòi độc lập. Thành phần của Hội đồng đoàn chủ tịch bao gồm nhiều
nhà lãnh đạo đại diện cho các tầng lớp, các giới, các ngành, các tổ chức như
chính trị, tôn giáo, trí thức, công nhân, nông dân… Tháng 10 năm 2000, xung
đột bạo lực xảy ra nhiều nơi ở Tây Papua, đáng chú ý nhất là ở thành phố
Wamena. Lá cờ của OPM được treo ở trung tâm thành phố. Các lực lượng an
ninh của Indonesia đã bao vây phong tỏa và bắt giữ 5 thành viên đoàn chủ
tịch, trong đó có Chủ tịch đoàn chủ tịch Theys Elay. Tất cả những người bị
bắt đều bị kết tội vi phạm luật hình sự vì đã gieo rắc tư tưởng ly khai làm ảnh
hưởng đến chủ quyền lãnh thổ và an ninh quốc gia. Sự việc này dẫn tới cuộc
xung đột đẫm máu giữa người dân bản địa và những người không phải là dân
bản địa. Hàng trăm người bị chết và bị thương. Hàng ngàn người phải di dời
khỏi thành phố vì lo sợ bị trả thù [67, tr.37]. Bạo lực leo thang, khi Phó Tổng
thống Megawati Sukarnoputri lên nắm quyền (7/2001) thay Tổng thống
Wahid, quân đội được lệnh chính phủ tổ chức các chiến dịch "truy quét" các
phần tử OPM. Quan điểm của Tổng thống Megawati về vấn đề Tây Papua
(Irian Jaya) rất rõ ràng. Theo bà Megawati, nếu OPM không chấp nhận quy
chế tự trị như Đạo luật về quy chế tự trị đặc biệt cho tỉnh Papua (The Law on
special autonomy for Papua province) và nếu OPM không chấm dứt yêu cầu
đòi độc lập thì quân đội Indonesia sẽ giải quyết vấn đề này. Đa số thành viên
của OPM đồng ý thỏa hiệp. Chính quyền của Tổng thống Megawati đã thông
qua Đạo luật về quy chế tự trị đặc biệt cho tỉnh Tây Papua vào tháng giêng
năm 2002. Toàn văn Đạo luật của nước Cộng hòa Indonesia về quy chế tự trị
đặc biệt cho tỉnh Papua bao gồm 23 chương, 76 điều. Theo Đạo luật này,
Chính phủ Indonesia dành cho tỉnh Papua quyền tự trị chưa từng có trước đó,
85
ngoại trừ lĩnh vực quân sự, ngoại giao, tiền tệ. Về mặt chính trị, Papua có một
nghị viện, cơ quan lập pháp của tỉnh bao gồm các giới, các ngành, các đảng
phái tộc người. Chính quyền tỉnh là cơ quan hành pháp được bầu ra và thực thi
quyền lực theo quy định. Cờ của tỉnh, biểu tượng truyền thống văn hóa của
người Papua được phép treo bên cạnh lá cờ của quốc gia (thấp hơn một chút). Về
mặt kinh tế, tỉnh có toàn quyền đề ra và thực hiện các kế hoạch phát triển, đầu tư,
kể cả việc ký kết với các đối tác nước ngoài. 80% lợi nhuận thu được từ các
nguồn dành cho Papua, 20% để lại cho chính quyền trung ương [67, tr.38].
Tuy nhiên, một số thành viên Hội đồng đoàn chủ tịch và lãnh đạo
Phong trào Papua tự do vẫn phản đối thỏa hiệp tự trị. Họ tiếp tục đấu tranh
đòi độc lập hoàn toàn cho Tây Papua. Luật tự trị mà chính quyền Indonesia áp
dụng cho tỉnh Tây Papua, dù vẫn chưa hoàn thiện và chưa được áp dụng đầy
đủ, nhưng sau khi triển khai (2002), những vụ bạo lực cũng như vi phạm nhân
quyền đã giảm bớt, từ khi Tổng thống Susilo Bambang Yudhoyono lên cầm
quyền (2004) đến nay [104].
3.1.2.4. Xung đột tôn giáo tại Maluku
Indonesia có khoảng hơn 250 triệu dân, trong đó có 87% dân số theo
Hồi giáo và 8% theo Thiên chúa giáo. Xung đột căng thẳng giữa người
Thiên chúa giáo với người Hồi giáo đã kéo dài ở nhiều nơi. Xung đột giữa
người Thiên chúa giáo và người Hồi giáo ở quần đảo Maluku với dân số
khoảng 3 triệu người, trong đó người theo đạo Hồi chiếm 55%, theo đạo
Thiên chúa giáo chiếm 44% [9]. Xuất phát từ tâm lý bị phân biệt đối xử nên
đã hình thành những bất đồng giữa hai cộng đồng tôn giáo này và những
mâu thuẫn âm ỉ trở thành xung đột lớn. Những người Hồi giáo đã thành lập
các đơn vị bán quân sự được trang bị vũ khí sẵn sàng tiến hành cuộc "Thánh
chiến" để tự bảo vệ mình.
Bất chấp sự cố gắng của chính phủ Indonesia và các tổ chức quốc tế,
những xung đột trở nên hết sức ác liệt khi người Hồi giáo kêu gọi Thánh
86
chiến chống lại người Thiên chúa giáo và những người Thiên chúa giáo cũng
kêu gọi đấu tranh để tách khỏi khu vực này. Các cuộc xung đột diễn ra thường
xuyên trong hai năm 1999 và 2000, tại đây đã làm cho khoảng 4000 người
thiệt mạng, hàng nghìn ngôi nhà bị thiêu hủy kể cả nhà thờ Thiên chúa giáo
và Hồi giáo khiến hàng trăm nghìn người phải chạy lánh nạn. Đỉnh cao của
các cuộc xung đột đã xảy ra vào ngày 18/6/2000 khi những người Hồi giáo gây
ra vụ thảm sát làng Duma trên đảo Humahera, giết hơn 1000 người theo Thiên
chúa giáo [90, tr.62]. Cuộc tàn sát đã biến khu định cư của người Thiên chúa
giáo thành những đống đổ nát và khiến hàng trăm người lâm vào cảnh khốn đốn.
Cuộc xung đột cũng đã gây ra làn sóng di cư khoảng 500.000 người chủ yếu là
người Thiên chúa sang các đảo lân cận như Xêram và Buru [58, tr.46-48].
3.1.2.5. Xung đột giữa nhóm Hồi giáo Laskar Jihad và những người
Thiên chúa giáo ở Sulawesi
Sulawesi là một tỉnh giáp với Maluku và Papua. Ở Sulawesi, người
Thiên chúa giáo chiếm khoảng 60% dân số. Ngày 28/11/2001, ở đây đã diễn
ra cuộc thảm sát của những người thuộc phong trào Laskar Jihad đối với
những người Thiên chúa giáo. Hàng trăm người Hồi giáo đã đeo mặt nạ đen
dùng súng, lựu đạn, bom xăng tấn công vào các khu định cư của người Thiên
chúa giáo. Năm 2002, bạo hành tại Maluku liên tục nổ ra, bất chấp hiệp ước
hòa bình đã được hai cộng đồng Hồi giáo và Thiên Chúa giáo thống nhất; Phó
tổng thống Indonesia Hamzah Haz đã kêu gọi hai cộng đồng tôn giáo hòa
giải; quy trách nhiệm cho các phần tử quá khích, gọi đó là "những kẻ gây nên
sự mất ổn định cho bán đảo" [96]. Ngày 11/9/2010, một vụ xung đột tôn giáo
nữa lại diễn ra tại Maluku, đã có ít nhất ba người thiệt mạng và 103 người bị
thương. Những người Hồi giáo đã triệu tập hàng ngàn người và thành lập các
đơn vị bán quân sự được trang bị vũ khí sẵn sàng làm cuộc "thánh chiến" để
bảo vệ người Hồi giáo. Các đơn vị này có tên là "Laskar Jihad" hoặc "Al
Fatah" hay còn gọi là mặt trận thanh niên Hồi giáo". Trong hơn một thập niên
87
xung đột giữa người Hồi giáo và Thiên chúa giáo tại đây đã có 9.000 người
thiệt mạng. Để ngăn cuộc xung đột có khả năng bùng phát lớn, làm rối loạn
tình hình đất nước, chính quyền Indonesia đã ban bố tình trạng khẩn cấp tại
Maluku. Sắc lệnh này cho phép quân đội và Hải quân Indonesia truy quét các
lực lượng phiến loạn. Liên Hợp quốc cũng đã đưa các lực lượng cứu trợ để
giúp Maluku giải quyết hậu quả cuộc xung đột thì tình hình mới bớt căng
thẳng [129].
Nguyên nhân của sự xung đột này có nguồn gốc mang tính lịch sử, từ
những mâu thuẫn tôn giáo, sắc tộc do bị chi phối bởi chính trị và những lợi
ích kinh tế. Hầu hết dân Indonesia là người Hồi giáo, tuy nhiên, tại Maluku,
gồm khoảng 2 triệu người, số người Hồi giáo và Thiên chúa giáo lại ngang
bằng nhau. Dưới thời đô hộ của thực dân Hà Lan và Bồ Đào Nha, người
Thiên chúa giáo sống ở đây chiếm ưu thế và được ưu đãi hơn người Hồi giáo,
nên người Hồi giáo cảm thấy bị thua thiệt. Sau khi Indonesia giành được độc
lập năm 1949, do chương trình nhập cư người Hồi giáo tới đây của chính
quyền Indonesia, nên đến thập kỷ 70 của thế kỷ XX thì người Hồi giáo đã
chiếm ưu thế hơn so với người Thiên chúa giáo và người Thiên chúa giáo
cảm thấy bị đối xử lạnh nhạt. Xuất phát từ tâm lý bị phân biệt đối xử đã hình
thành những bất đồng ngấm ngầm giữa hai tôn giáo này và những mâu thuẫn
âm ỉ, trở thành xung đột lớn.
3.2. NHỮNG NỖ LỰC CỦA CHÍNH PHỦ INDONESIA NHẰM BẢO VỆ
VÀ CỦNG CỐ ĐỘC LẬP DÂN TỘC
3.2.1. Tác động của xung đột sắc tộc, tôn giáo tới độc lập dân tộc,
an ninh và phát triển của Indonesia
3.2.1.1. Xung đột sắc tộc, tôn giáo tạo ra mối đe dọa đối với độc lập
dân tộc, an ninh quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ của Indonesia
Sự đa dạng dân tộc, tôn giáo, văn hoá và sự chênh lệch về trình độ phát
triển kinh tế - xã hội là cơ sở tiềm ẩn, rất dễ dẫn đến các xung đột khác nhau
88
liên quan đến sắc tộc và tôn giáo. Dù là cuộc xung đột tôn giáo, sắc tộc hay
đan xen giữa chúng đều có thể tạo ra nguy cơ đối với độc lập dân tộc, an ninh
quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ của bất kỳ quốc gia nào. Bởi vì, xung đột tôn
giáo sắc tộc, nếu vượt quá sự kiểm soát của nhà nước, sẽ gây nên tình trạng
bất ổn định chính trị, tạo cơ hội cho sự can thiệp từ bên ngoài vào công việc
nội bộ của một quốc gia. Việc Đông Timor tách ra khỏi Indonesia là một ví
dụ điển hình về sự can thiệp đó. Nếu IMF, mà đằng sau là Mỹ, không buộc
Indonesia phải chấp nhận "đơn thuốc đắng" của họ. chính quyền Indonesia do
Tổng thống Suharto lãnh đạo, có thể đã không sụp đổ. Mặc dù dưới thời cầm
quyền của Suharto, tình trạng tham nhũng, "chủ nghĩa tư bản thân hữu"
(crony capitalism) đã lũng đoạn nền chính trị và kinh tế ở nước này, nhưng
Suharto và chính phủ của ông đã có những đóng góp không thể phủ nhận,
không chỉ đối với Indonesia mà còn với cả ASEAN và xa hơn. Thật vậy,
trong giai đoạn cầm quyền của Suharto, chiến lược phát triển kinh tế của
Indonesia đã được điều chỉnh theo hướng tự do hóa và hội nhập quốc tế.
Vai trò can thiệp của nhà nước vào quá trình phát triển kinh tế được giảm
xuống, mở đường cho kinh tế tư nhân phát triển. Cơ cấu kinh tế vốn phụ
thuộc chủ yếu vào xuất khẩu dầu mỏ đã được đa dạng hóa, nhờ đó kinh tế
Indonesia đã có những bước phát triển ngoạn mục trong những năm cuối
thập niên 80 và đầu thập niên 90 của thế kỷ XX. Các cuộc xung đột sắc tộc,
tôn giáo từng xảy ra trước và ngay cả khi Indonesia vừa giành được độc lập
đã được kiểm soát. Nhờ đó, Indonesia duy trì được sự ổn định về chính trị.
Sự ổn định này, cùng với những ưu đãi rộng rãi dành cho các nhà đầu tư
nước ngoài, đã giúp Indonesia trở thành một trong những thị trường đầu tư
hấp dẫn nhất châu Á.
Cuộc khủng hoảng tài chính- tiền tệ 1997-1998 đã buộc Tổng thống
Suharto phải từ chức. Ngay sau sự sụp đổ quyền lực của ông, các xung đột
sắc tộc, tôn giáo ỏ Indonesia đã nhanh chóng bùng phát trở lại. Các lực lượng
89
chính trị đối lập ở Đông Timor đã nhanh chóng lợi dụng thời cơ rối loạn
chính trị ở Jakarta và sự bận bịu của chính phủ trong việc đối phó với làn
sóng khởi loạn nổ ra trên nhiều vũng lãnh thổ của đât nước và sức ép quốc tế,
chủ yếu từ các nước phương Tây, để buộc chính phủ mới ở Indonesia chấp
nhận tiến hành trưng cầu dân ý. Kết quả là Đông Timor tách khỏi Indonesia.
Việc Đông Timor trở thành quốc gia độc lập đã tạo xung lực chính trị
cho phong trào li khai ở các địa phương khác, đặc biệt là Aceh và Tây Papua.
Nếu chính phủ Indonesia không thể đặt lại các cuộc xung đột này vào vòng
kiểm soát, nền độc lập dân tộc và toàn vẹn lãnh thổ của Indonesia sẽ tiếp tục
bị đe dọa.
Từ thực tế chính trị ở Indonesia giai đoạn 1991-2015, có thể thấy xung
đột sắc tộc, tôn giáo là rất nguy hại đối với độc lập dân tộc, an ninh quốc gia
và sự toàn vẹn lãnh thổ của Indonesia.
3.2.1.2. Xung đột sắc tộc, tôn giáo làm cho kinh tế mất ổn định, đời
sống người dân khó khăn, suy giảm nguồn lực bảo vệ và củng cố độc lập
dân tộc
Những năm cuối thập niên 90 của thế kỷ XX tại Indonesia, sự sụp đổ
của "Trật tự mới" cùng với những tác động từ cuộc khủng hoảng tài chính -
tiền tệ (1997-1998) trong khu vực đã làm chao đảo nền kinh tế nước này.
Trong khi chính phủ nỗ lực hết sức để sớm thoát khỏi khủng hoảng và lấy lại
đà phát triển cho nền kinh tế của đất nước, thì sự bùng phát trở lại những cuộc
xung đột sắc tộc, tôn giáo đã làm cho tình hình chính trị ở Indonesia càng trở
nên bất ổn định. Không chỉ các nhà đầu tư nước ngoài rút vốn ra khỏi
Indonesia, mà cả các doanh nghiệp của người Hoa cũng chuyển vốn sang các
nền kinh tế khác. Các nguồn lực ít ỏi còn lại sau khủng hoảng lại phải dành
thêm cho việc mua sắm vũ khí để đáp ứng nhu cầu cho các chiến dịch trấn áp
các phong trào nổi dậy trong nước. Theo Viện nghiên cứu hoà bình ở
Stockholm (Thụy Điển), chi phí quốc phòng của Indonesia tăng 68 % từ 2,2
90
tỷ đô la lên 3,7 tỷ đô la chưa bao gồm vũ khí mua theo tin dụng xuất khẩu từ
2000/2006 [127]. Đương nhiên, việc gia tăng chi tiêu quân sự không chỉ để
trấn áp các phong trào nổi dậy mà còn nhằm gia tăng sức đề kháng quốc
phòng của Indonesia trước những mối đe dọa có thể đến từ bên ngoài. Nhưng
nếu không phải ứng phó với các lực lượng nổi dậy có vũ trang, Indonesia
chắn chắn sẽ không phải dành nhiều tiền như vậy để mua sắm vũ khí, trang
thiết bị quân sự.
3.2.2. Các giải pháp khắc phục xung đột sắc tộc, tôn giáo, của chính
phủ Indonesia
Vấn đề xung đột sắc tộc, tôn giáo không phải chỉ là xung đột những lợi
ích trước mắt giữa các cộng đồng dân cư thuộc các tôn giáo khác nhau mà có
gốc rễ sâu sa từ những khiếm khuyết trong chiến lược phát triển của Indonesia
và cả từ tác động của các hoạt động ly khai khủng bố quốc tế và trong khu vực,
nên đối sách Indonesia trong vấn đề này bao gồm cả các giải pháp trước mắt
nhằm dập tắt các cuộc xung đột và các giải pháp lâu dài để giải quyết các
nguyên nhân gốc rễ của xung đột sắc tộc, tôn giáo ở quốc gia này.
3.2.2.1. Về các giải pháp trước mắt
Giải pháp trước tiên và thường được chính phủ Indonesia sử dụng khi
xung đột sắc tộc, tôn giáo nổ ra ở các địa phương nào đó là trấn áp. Bởi vì,
các cuộc xung đột đó đã gây nên tình trạng bất ổn định chính trị, ảnh hưởng
xấu tới môi trường đầu tư mà chính phủ đang cố gắng tạo dựng. Không những
thế, nếu không được dập tắt, các xung đột sắc tộc, tôn giáo có thể lây lan sang
các khu vực khác của đất nước và trở thành xung đột ở cấp độ quốc gia. Một
khả năng lây lan như vậy rất dễ xảy ra do những mâu thuẫn âm ỉ về lợi ích
giữa các cộng đồng dân cư thuộc các sắc tộc, các tôn giáo khác nhau.
Để trấn áp các cuộc xung đột sắc tộc, chính phủ Indonesia đã phải sử
dụng đến sức mạnh quân đội khi xung đột mới bùng phát hoặc khi những
cuộc đàm phán với các thủ lĩnh của các phòng trào ly khai không mang lại kết
91
quả mong muốn. Giải pháp này được chính phủ Indonesia thực hiện một cách
nhất quán khi ứng phó với các cuộc xung đột tôn giáo, sắc tộc. Tuy nhiên,
trong trường hợp Đông Timor, giải pháp này đã không thành công.
Khi đán áp không thể mang lại kết quả như trông đợi, chính phủ
Indonesia sẽ sử dụng thêm một biện pháp khác. Đó là kết hợp giữa đàn áp và
đàm phán với các lực lượng ly khai. Giải pháp này đã được thực hiện một
cách điển hình trong trường hợp Aceh.
Cũng như đối với các cuộc xung đột sắc tộc, tôn giáo khác, chính phủ
Indonesia đã sử dụng quân đội để trấn áp phong trào nổi dậy ở Aceh. Song
song với biện pháp trên, vào tháng 7 năm 2001, Hội đồng dân biểu: Cơ quan
lập pháp của Indonesia (DPR) đã thông qua Luật tự trị đặc biệt của Aceh
(Luật số 18, 2001). Luật có hiệu lực từ tháng 1 năm 2002 [130].
Luật tự trị đặc biệt cho Aceh đã trao quy chế tự trị mở rộng cho tỉnh
này. Về hình thức, Aceh được công nhận là khu vực đặc biệt và đổi tên thành
Nanggroe Aceh Darussalam (NAD). Chính quyền NAD có toàn quyền trong
tất cả các lĩnh vực liên quan đến quy chế tự trị đặc biệt của mình, trong khi
các miền còn lại của Indonesia vẫn duy trì quy chế tỉnh. Quyền lập pháp đã
được trao cho Hội đồng dân biểu địa phương (DPRD - NAD), bao gồm quyền
thanh tra chính phủ và yêu cầu trách nhiệm giải trình. Thống đốc và những
người đứng đầu các huyện, xã được nhân dân bầu trực tiếp. Điều này cũng
khác với quy định cho các khu vực còn lại của Indonesia. Luật tự trị cũng qui
định chi tiết sự phân bổ tài chính và tiền tệ cho chính quyền của NAD. Ngoài
nguồn thu nhập thường xuyên từ thuế và tài chính địa phương, chính quyền
NAD giữ lại hầu hết các phần thuế và phần phân bổ chỉ tiêu được chia (90%
thuế đối với các công trình xây dựng và tài sản) cũng như 80% thu nhập từ
nghề cá và khai thác mỏ, 30% từ khí đốt. Chính quyền NAD giữ quyền qui
định chủ yếu tỉ lệ phân bổ cho các huyện. Nguồn thu sau thuế, chính quyền
NAD sẽ giữ lại 55% thu nhập từ khai thác dầu và 40% từ khai thác khí đốt
92
trong thời hạn 8 năm tiếp theo. Sau thời hạn này, tỉ lệ thu nhập dồn về cho
chính quyền NAD sẽ giảm tới 35% đối với dầu và 20% đối với khí. Điều này
đã làm tăng thu nhập cho Aceh rất nhiều [131].
Dù vậy, GAM vẫn theo đuổi mục tiêu đòi độc lập cho Aceh. Chính phủ
Indonesia và GAM đã tiến hành một số cuộc đàm phán về qui chế NAP cho
Aceh, nhưng hai bên vẫn không đạt được thỏa thuận dứt khoát về vấn đề này.
Từ tháng 7 năm 2002, tình hình bạo lực ở Aceh lại gia tăng và chính phủ
Indonesia lại tăng cường lực lượng quân đội đến khu vực. Trước tình trạng
xung đột, bạo lực kéo dài ở Aceh, các nước Mỹ, Nhật Bản, Cộng đồng Châu
Âu (EU), Ngân hàng thế giới (WB) đã chủ động tổ chức Hội nghị Tokyo để
bàn về tái thiết Aceh và ép hai bên chính phủ Indonesia và GAM ký hiệp định
ngừng bắn. Ngày 9 tháng 12 năm 2002, một Hiệp định chấm dứt thù địch
(COHA) đã được ký giữa chính phủ Indonesia và GAM dưới sự giám sát của
tổ chức Trung gian hòa giải HDC Thụy Sỹ (Henry Dunant Centre). Theo
Hiệp định này, hai bên ngừng bắn chấm dứt thù địch; GAM ngừng chiến và
giải giáp vũ khí (trong vòng 10 tháng) có sự giám sát quốc tế; Chính phủ trao
quyền tự trị rộng rãi hơn cho Aceh, trong đó có việc Aceh được hưởng 70%
thu nhập từ các nguồn tài nguyên khai thác ở địa phương (như dầu khí, gỗ..);
sẽ tiến hành bầu cử Hội đồng dân biểu ở Aceh vào năm 2004 và sẽ rút phần
lớn quân đội khỏi Aceh [146, tr.78-79]. Điều đáng lưu ý là hiệp định này đã
không đề cập đến những vấn đề có tính nguyên tắc của hai bên là GAM phải
từ bỏ mục tiêu độc lập và chấp nhận quy chế tự trị đặc biệt cho Aceh. Đây là
điểm hạn chế lớn nhất của COHA và cũng là sự bất lợi lớn nhất của Indonesia
vì vấn đề Aceh đã bị quốc tế hóa, đồng thời GAM từ một tổ chức bất hợp
pháp chống lại chính phủ, thì nay đã được quốc tế công nhận, được ngồi đàm
phán ngang hàng với chính phủ.
Sau khi ký Hiệp định COHA, chính phủ Indonesia đã nghiêm túc thực
hiện qui chế tự trị đặc biệt cho người dân ở Aceh, tức là những qui chế về tôn
93
giáo, giáo dục và các vấn đề xã hội theo luật Hồi giáo, đồng thời tăng cường
các viện trợ nhân đạo cho người dân Aceh. Thực tế, tình hình an ninh, chính
trị đã tương đối ổn định trong thời gian đầu, xung đột giữa quân đội Chính
phủ và GAM đã giảm đáng kể. Nhưng trong khi Chính phủ Megawati cố gắng
tìm giải pháp hòa bình cho vấn đề Aceh thì GAM lại tranh thủ thời gian củng
cố lực lượng, tuyền mộ thêm binh lính và mua thêm vũ khí. Trước nguy cơ
Hiệp định COHA đổ vỡ, các nước tham gia hội nghị Tokyo đã tổ chức họp
khẩn cấp để tìm cách giảm căng thẳng tại Aceh. Mỹ và các nước Phương Tây
đề nghị Chính phủ Indonesia và GAM gặp nhau một lần nữa để cứu vãn tình
thế, song GAM đã không chịu chấp nhận những yêu cầu của chính phủ
Indonesia đưa ra. Những nỗ lực thương lượng để giải quyết vấn đề Aceh
bằng con đường hòa bình không thành, Tổng thống Megawati đã ký Sắc
lệnh số 28 - 2003, ban hành tình trạng thiết quân luật tại Aceh và tuyên bố
tiến hành chiến dịch tổng lực để tiêu diệt GAM, bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ
Indonesia. Đồng thời, thông qua con đường ngoại giao, chính phủ mở rộng
tuyên truyền ra quốc tế và đề nghị các nước trong cộng đồng ASEAN siết
chặt an ninh không để các phần tử của GAM trốn chạy ra nước ngoài. Ngoài
ra, chính phủ Indonesia còn đưa ra những bằng chứng về việc GAM có dính
líu đến các vụ khủng bổ tại Jakarta và Medan nhằm tranh thủ sự ủng hộ của
cộng đồng quốc tế.
Như vậy, sau những nỗ lực thương lượng cuối cùng để giải quyết vấn
đề Aceh bằng con đường hòa bình đã không đem lại kết quả. Chính phủ
Indonesia đã một lần nữa dùng biện pháp trừng trị quân sự để tiêu diệt lực
lượng ly khai GAM.
Thảm họa sóng thần khủng khiếp xảy ra ngày 26 tháng 12 năm 2004 đã
tàn phá nặng nề Aceh. Trước sự tổn hại to lớn về người và vật chất của Aceh,
nhiều nước trên thế giới đã gửi quân đội, nhân viên tình nguyện cùng hàng
cứu trợ đến giúp Aceh khắc phục hậu quả của sóng thần. Tình thế đó đã buộc
94
Chính phủ Indonesia và GAM phải lựa chọn và cân nhắc kỹ lưỡng lập trường
của mình trong việc giải quyết xung đột để giảm phần đau khổ cho dân. Một
dàn xếp chính trị cho cuộc xung đột vũ trang ly khai ở Aceh đã được thực
hiện ở cấp cao từ năm 2005. Đoàn đại biểu của Chính phủ Indonesia do Bộ
trưởng tư pháp và nhân quyền Hamid Awahudin dẫn đầu. Đại diện cho GAM
là các thủ lĩnh của lực lượng này sống lưu vong ở Thụy Điển, Australia và
Malaysia, trong đó có "thủ tướng" tự phong của họ là Malik Mahmud. Sau 7
tháng đàm phán với 5 cuộc đối thoại không chính thức ở Helsinki (Phần Lan),
hai bên đã dần thu hẹp những bất đồng để đi đến những quyết định phù hợp
với lợi ích của nhau. Ngày 17 tháng 7 năm 2005, Tổng thống của Indonesia là
Susilo Bambang Yudhoyono đã tuyên bố sẽ ân xá cho các thành viên của
GAM nếu tổ chức này hạ vũ khí, không chống đối chính quyền. Chính phủ
Indonesia đã trao cho Aceh quyền tự trị nhất định, quân đội và cảnh sát, an
ninh; Chính phủ Indonesia rút quân hoàn toàn khỏi Aceh. Đồng thời, Quốc
hội Indonesia cũng ban hành luật cho phép nhóm ly khai GAM được đăng ký
thành lập đảng chính trị và tham gia tranh cử trong các cuộc bầu cử hội đồng
lập pháp địa phương, từ đó bầu ra bộ máy quản lý điều hành Aceh, không còn
sự can thiệp trực tiếp từ chính quyền Jakarta. Đổi lại, GAM phải thực hiện
giải giáp quân sự, từ bỏ việc theo đuổi mục tiêu ly khai, từ bỏ việc tách khỏi
đất nước Indonesia. Dù các quan hệ giữa các tôn giáo và các nhóm sắc tộc
phần lớn hài hòa, nhưng những vấn đề bất đồng và bạo lực tại một số khu vực
vẫn thỉnh thoảng xảy ra. Tổ chức GAM cũng tuyên bố chấp nhận từ bỏ yêu
cầu về quyền độc lập hoàn toàn cho Aceh, chấp nhận Aceh là một phần lãnh
thổ của Indonesia và bày tỏ hài lòng vì Chính phủ Indonesia chấp nhận các
nguyên tắc dân chủ cơ bản.
Như vậy là bằng một dàn xếp chính trị thông qua đối thoại, gần như tất
cả các yêu cầu của người dân Aceh đều được Chính phủ Indonesia đáp ứng và
quan trọng hơn cả là hòa bình đã lập lại trên mảnh đất của họ. Mặc dù tiến
95
trình hòa bình của Aceh là một thành công, nhưng bạo lực vẫn diễn ra tại các
cuộc bầu cử ở Aceh sau năm 2005, (từ năm 2005 đến 2015, ở Aceh ghi nhận
có 465 vụ bạo lực liên quan đến bầu cử dẫn đến ít nhất 13 người chết) [46].
Hầu hết các vụ bạo lực chính trị đều được thực hiện bởi các đảng phái do
những bên nổi dậy đòi ly khai cũ thành lập, điều này cho thấy các phong trào
vũ trang đang phải đối mặt với nhiều khó khăn khi tham gia vào vũ đài chính
trị và chỉ ra những vấn đề còn tồn tại cần được giải quyết.
Trong quá trình giải quyết các cuộc xung đột khác, chính phủ Indonesia
cũng sử dụng kết hợp vừa trấn áp vừa đàm phán với các thủ lĩnh phong trào li
khai như vậy.
3.2.2.2. Về các giải pháp lâu dài
Đặt được các cuộc cuộc xung đột vào vòng kiểm soát, ổn định lại được
tình hình chính trị trong nước đã là một thành công lớn của chính phủ
Indonesia trong ứng phó với xung đột sắc tộc, tôn giáo. Tuy nhiên, thành
công này chưa thể đảm bảo rằng các cuộc xung đột đó không bùng phát trở lại
hoặc không xuất hiện các cuộc xung đột mới. Với nhận thức như vậy, bên
cạnh việc thực hiện các giải pháp tức thời, chính phủ Indonesia còn xúc tiến
các hoạt động khác nhằm giải quyết những nguyên nhân gốc rễ của xung đột.
Trong lĩnh vực chính trị, cũng như các nước ASEAN khác, Indonesia
đã tiến hành một số cải cách. Những cải cách đó nhằm tới các mục tiêu: một
là, ngăn ngừa sự trở lại của chế độ độc tài quân sự. Hai là, thay đổi hệ thống
bầu cử. Ba là, trao quyền cho địa phương.
Để đạt được mục tiêu ngăn ngừa sự trở lại của chế độ độc tài, toàn trị,
vốn là một trong những nguyên nhân gây bất bình cho mọi tầng lớp xã hội ở
Indonesia, đặc biệt là các sắc tộc, các cộng đồng phi Java. Vào năm 1999,
Indonesia đã tiến hành sửa đổi Hiến pháp 1945, Hiến pháp sửa đổi quy định
bầu cử trực tiếp Tổng thống và Phó Tổng thống, trao quyền cho người dân
trực tiếp bầu ra và kiểm soát người lãnh đạo đất nước chứ không phải là đại
96
cử tri thay mặt họ bỏ phiếu tại Đại hội Hội đồng Hiệp thương nhân dân
(MPR). Hơn nữa, Tổng thống và Phó Tổng thống chỉ được làm nhiều nhất 2
nhiệm kỳ, mỗi nhiệm kỳ 5 năm. Hiến pháp cũng quy định những biện pháp
kiểm soát và cân bằng quyền lực. Cơ quan quyền lực cao nhất là Hội đồng
Hiệp thương Nhân dân (MPR) với 695 thành viên. MPR bao gồm toàn bộ 550
thành viên Hội đồng Dân biểu (DPR), 130 đại biểu của địa phương do 26 hội
đồng tỉnh bầu lên và 65 đại biểu được các nhóm xã hội lựa chọn [165, tr.69].
Hệ thống bầu cử cũng được thay đổi. Dưới thời Trật tự mới, chính phủ
đã thực hiện mọi sự kiểm soát chặt chẽ đối với các chiến dịch bầu cử. Nhờ đó,
đảng cầm quyền Golkar của Suharto, luôn giành thắng lợi trong các cuộc bầu
cử 5 năm một lần với đa số từ 62,8 % vào năm 1971 lên 74,5 % vào năm
1997. Bầu cử được tiến hành thông qua vận động bầu cử và cả bạo lực. Cuộc
bầu cử ngày 7/6/1997 là cuộc bầu cử tồi tệ nhất với 300 cái chết [165, tr.70].
Vào tháng 11 năm 1998, MPR quyết định rằng một cuộc bầu cử tự do
và công bằng phải được tiến hành vào tháng 5 và 6 /1999. Để xúc tiến bầu cử,
Tổng thống Habibie đã cử một nhóm gồm 7 người để viết lại luật bầu cử.
Trên cơ sở những khuyến nghị của nhóm này, cuộc bầu cử đã được đặt dưới
sự lãnh đạo của Ủy ban bầu cử quốc gia (KPU) bao gồm đại diện của 48 đảng
và 5 đại diện chính phủ. Sau khi Tổng thống Habibie thông qua Luật về đảng
phái chính trị, 150 đảng đã xuất hiện, nhưng chỉ 48 đảng được phép tham gia.
Việc quyết định những đảng nào được tham gia tranh cử thuộc quyền của
Nhóm 7 người do Nurcholish Madjid, một nhà khoa học Hồi giáo lãnh đạo.
Các đảng được chọn dựa trên năng lực thiết lập được chi nhánh ở 50% các
huyện của ít nhất 9 tỉnh. Quy định này nhằm loại bỏ các đảng chỉ đặt cơ sở
trên một hòn đảo hoặc một sắc tộc. Ngoài ra, luật còn đòi hỏi các đảng phải
thừa nhận Pancasila. Mỗi đảng trong số 48 đảng sẽ được phân phối quỹ công
trị giá 150 triệu Ringgits (17.000 đô la). Indonesia được chia thành 27 tỉnh,
nhưng việc phân phối ghế trong nghị viện lại đặt trên cơ sở số dân. Luật bầu
97
cử quy định rằng, mỗi huyện phải có tối thiểu một ghế. Trong cuộc bầu cử
1999, 27 tỉnh của Indonesia có 327 huyện. Số 135 ghế còn lại được KPU
phân phối trên cơ sở dân cư cho các tỉnh có mật độ dân số cao. Mỗi tỉnh như
vậy được thêm một ghế nữa để đảm bảo công bằng hơn [165, tr.71].
Trong cuộc bầu cử, số ghế của một đảng giành được ở Quốc hội do số
phiếu bầu ở cấp tỉnh quyết định chứ không phải cấp quốc gia. Về mặt lý
thuyết và phù hợp với luật bầu cử, ai được phiếu cao nhất sẽ được xem xét để
trở thành đại diện của huyện trong DPR. Những đảng không giành đủ trên 2%
phiếu bầu thì không đủ tư cách tham gia vòng tiếp theo. Tuy nhiên, những
người không đủ tư cách có thể lập đảng mới để tiếp tục tham gia.
Song song với cải cách hệ thống bầu cử, việc xoá bỏ tập trung hoá
quyền lực được coi là một lĩnh vực trọng tâm của Reformasi (cải cách). Ngay
sau tổng tuyển cử, tháng 8/1999, các đạo luật xoá bỏ tập trung hoá được Quốc
hội thông qua và bắt đầu có hiệu lực từ ngày 1/1/2001. Luật số 22/1999 về
quản trị địa phương, trao quyền chính trị và kinh tế cho địa phương. Luật số
25/1999 về sự cân bằng tài khoá quy định hệ thống quan hệ tài chính giữa
trung ương và địa phương và những công thức mới để phân chia thu nhập. Theo
các luật này, chính quyền địa phương được tự chủ hoàn toàn đối với các lĩnh
vực: giáo dục, y tế, môi trường, lao động, công việc công và quản lý tài nguyên
thiên nhiên. Hội đồng dân cử địa phương có quyền bầu và miễn nhiệm những
người đứng đầu chính quyền ở cấp huyện, và thị trưởng ở cấp thành phố, quyết
định ngân sách và tổ chức hành chính. Cấp tỉnh chỉ giữ vai trò người trung gian,
dàn xếp những khúc mắc giữa các quận, huyện, thúc đẩy sự phát triển liên huyện
và làm đại diện cho chính quyền trung ương tại địa phương.
Về kinh tế, các khu vực được hưởng phần lớn hơn nhiều so với trước
đây đối với thu nhập trong địa phận. Chính quyền tỉnh có thể đưa ra giá cả,
nghĩa vụ mới, trong khi huyện và thành phố được phép đặt ra cả thuế lẫn
nghĩa vụ. Tuy nhiên, chính quyền địa phương trong vòng 15 ngày kể từ khi
98
thông qua, phải trình mức thuế và nghĩa vụ mới để trung ương xem xét theo
thể thức. Chính quyền trung ương có quyền bãi bỏ bất kỳ thuế hay thù lao
nào, khi thấy không hợp lý.
Có thể thấy rằng, việc ban hành các đạo luật xoá bỏ tập trung hoá đã
chấm dứt chế độ độc quyền của nhà nước do giới quan liêu nắm giữ. Người
dân đã được có tiếng nói và được lắng nghe hơn. Ngoài ra, nhân dân còn tham
gia vào tiên trình dân chủ hoá thông qua các cơ chế mới, như Nhóm Hành
động xã hội của công dân, Hội đồng Dân thường không phe phái (Non-
partisan popular Council), Hội nghị Thảo luận, Hiệp hội Xóm làng và nhiều
diễn đàn nhân dân khác, trong đó phải kể đến Diễn đàn Thảo luận của Nhân
dân (Deliberative People’s Forum).
Như vậy, sự phát triển kinh tế có vai trò rất quan trọng đối với an ninh,
thịnh vượng của một quốc gia. Đối với Indonesia và các nước Đông Nam Á
khác, sự phồn vinh về kinh tế sẽ tạo điều kiện cho nhà nước thực hiện các chính
sách phát triển xã hội, thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các vùng miền, các
cộng đồng dân cư thuộc những tôn giáo và sắc tộc khác nhau. Do vậy, sau khi
Chiến tranh lạnh chấm dứt, Indonesia đã rất nỗ lực thúc đẩy phát triển kinh tế.
Để đạt được mục tiêu trên, Indonesia vẫn tiếp tục công cuộc cải cách
kinh tế vĩ mô, vốn đã bắt đầu từ thời kỳ hậu bùng nổ dầu mỏ. Hàng loạt chính
sách giảm điều tiết và giảm các thủ tục hành chính quan liêu được thực hiện
giúp cho nền kinh tế hiệu quả hơn và thích ứng hơn với cơ chế thị trường, thu
hút tư bản trong nước và nước ngoài. Xu thế tự do hoá kinh tế diễn ra mạnh
mẽ hơn. Chính phủ khuyến khích các hình thức liên doanh hoặc cổ phần với
sự tham gia của cả nhà nước, tư bản trong nước và tư bản nước ngoài. Riêng
trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng, chính phủ đã triển khai các biện pháp tự
do hoá hệ thống ngân hàng - tài chính, khuyến khích hoạt động của các ngân
hàng tư nhân cả trong và ngoài nước. Từ tháng 10 năm 1988, chính phủ công
bố "Giải pháp cả gói Tháng 10" (Pakto 88), trong đó chủ trương giảm sự điều
99
tiết của nhà nước đối với hệ thống ngân hàng, vốn trước đó hoàn toàn do nhà
nước nắm giữ. Với giải pháp này, hệ thống ngân hàng của Indonesia sẽ tự do
hơn, linh hoạt hơn, trong đó khu vực tư nhân sẽ có vai trò ngày càng lớn. Số
lượng ngân hàng tư nhân tăng nhanh, từ 236 chi nhánh ngân hàng thương mại
tư nhân năm 1988 tăng lên 5932 chi nhánh vào năm 1995 và từ 8757 chi nánh
ngân hàng phát triển nông thôn năm 1994 tăng lên 10598 chi nhánh vào năm
1996. Trong 2 năm 1995 - 1996, số ngân hàng nước ngoài và liên doanh đã
lên đến 78 ngân hàng [174, tr.203]. Đến giữa những năm 1990, ngân hàng tư
nhân đã nắm giữ khoảng 50% cổ phần. Riêng ở Jakarta, ngân hàng tư nhân từ
104 lên 213 trong 5 năm từ 1988 đến 1993 [181]. Như vậy, trong giai đoạn
này, tư nhân được phép hoạt động kinh doanh ở nhiều ngành kinh tế, kể cả
ngành tài chính, ngân hàng và các ngành công nghiệp then chốt như sắt thép,
hoá chất, v.v… giúp cho khu vực kinh tế tư nhân ngày càng lớn mạnh.
Sau hơn một thập niên tự do hoá, nền kinh tế Indonesia đã giảm phụ
thuộc vào xuất khẩu dầu mỏ và đa dạng hoá thông qua phát triển ngành chế
tạo (chủ yếu do tư nhân nắm giữ và kiểm soát). Tự do hoá và phát triển kinh
tế đã tạo thuận lợi cho chính phủ triển khai các chương trình phát triển nông
thôn và vùng sâu, vùng xa của đất nước.
Thật vậy, vào tháng 4/1994, chính phủ Indonesia đã phát động chương
trình giúp đỡ các hộ nông dân nghèo với số vốn đầu tư của nhà nước là 618
triệu USD. Chính phủ còn chọn ra 20633 làng kém phát triển về kinh tế, hỗ
trợ cho mỗi làng 20 triệu rupi tiền vốn để các hộ nghèo vay luân phiên nhằm
giúp phát triển sản xuất nông nghiệp và nghề thủ công ở các vùng nông thôn.
Cụ thể hàng năm, chính phủ ưu tiên dành 3% ngân sách cho phát triển nông
thôn, tập trung vào việc hiện đại hoá cơ sở hạ tầng, hệ thống thuỷ lợi, các
chương trình chăm sóc y tế, hạn chế tăng dân số, xóa đói giảm nghèo và phát
triển nông thôn bền vững [118, tr.41].
100
Tại Indonesia, có hàng trăm tộc người khác nhau sinh sống cùng với sự
đan xen các tôn giáo, tín ngưỡng. Từ những mâu thuẫn về quyền lợi đã dẫn
đến những cuộc xung đột xã hội mang màu sắc tôn giáo, sắc tộc diễn ra khá
phổ biến ở Indonesia. Trước thực trạng này, Chính quyền của Tổng thống
Suharto, giai đoạn (1991-1998) đã tìm nhiều biện pháp để khắc phục tình
hình. Ví dụ, như Chính phủ đã cho phép một số vùng đất như Aceh, Đông
Timor được hưởng qui chế tự trị; ưu tiên và đẩy mạnh đầu tư phát triển cơ sở
hạ tầng cho các vùng dân tộc thiểu số; thực hiện chính sách điều chỉnh dân cư
nhằm tăng cường đối thoại và giao lưu văn hoá, loại bỏ dần những cách biệt
về mặt văn hoá… Đối với bộ phận người Hoa sinh sống trên lãnh thổ
Indonesia, chính phủ cho phép có thể chuyển đổi thân phận bằng cách nhập
quốc tịch Indonesia. Về cơ bản, các chính phủ tiếp tục thực hiện chính sách
hoà nhập mang tính pháp lý đã có từ thời Tổng thống Sukarno.
Nhờ thực hiện các biện pháp trên, trong hơn nửa đầu thập kỷ 90 của thế
kỷ XX, đời sống của nhân dân Indonesia đã được cải thiện đáng kể. Tỷ lệ
nghèo tuyệt đối đã giảm từ khoảng 60% (xấp xỉ 70 triệu người) năm 1970
xuống 11% (khoảng 20 triệu) vào giữa những năm 1990. Phân bổ ngân sách
nhà nước cho các lĩnh vực phát triển xã hội cơ bản, như giáo dục, y tế và an
ninh xã hội cũng đạt tỷ lệ khá cao (Xem bảng 3.1).
Bảng 3.1: Chi tiêu xã hội (1995)
Đơn vị tính: %
Nước
Indonesia Malaysia Philíppines Singapore Thái Lan
Giáo dục
9,8
20,4
15,7
21,2
21,2
Y tế
2,8
5,6
3,8
6,8
7,6
An ninh xã hội
5,3
5,9
2,7
3,3
3,6
Cộng ba lĩnh vực
17,9 %
31,9%
22,2%
31,3%
32,4%
trên
Nguồn: [98, tr.13].
101
Nhìn vào bảng trên, có thể thấy Indonesia là một trong những nước
chú trọng dành chi tiêu cho xã hội. Dù chưa phải cao. nhưng chi tiêu cho xã
hội đã chiếm tới 17,9% GDP của nước này vào năm 1995. Nhờ đó, điều kiện
sống của nhân dân Indonesia ngày càng được cải thiện. Vào năm 1995, 63%
dân số của Indonesia đã được dùng nước sạch. Cùng với việc cải thiện điều
kiện vật chất, đời sống tinh thần của nhân dân Indonesia đã được cải thiện.
Vào năm 1993, cứ 1.000 người dân Indonesia, có 210 người có tivi [98].
Mức sống và điều kiện sống tốt hơn đã giúp Indonesia nâng cao tuổi
thọ cho công dân của mình. Theo số liệu về phát triển nguồn nhân lực của
UNDP vào năm 1997, thì tuổi thọ trung bình ở Indonesia là 64. Riêng năm
1995, chi tiêu cho dịch vụ xã hội chiếm 70.4% trong tổng ngân sách nhà
nước [98].
Tuy nhiên, cũng như các nước thành viên thuộc nhóm ASEAN 6, kinh
tế Indonesia phát triển không bền vững. Sự phụ thuộc nặng nề về vốn và thị
trường nước ngoài đã khiến nền kinh tế nước này nhanh chóng bị cuốn vào
cuộc khủng hoảng tài chính- tiền tệ châu Á 1997-1998. Khủng hoảng làm cho
kinh tế Indonesia giảm 10 % vào năm 1998, trong khi đó lạm phát lên tới 7%
- 10 %. Sau 1 năm bị khủng hoảng, GDP trên đầu người của Indonesia giảm
từ 1.000 USD /đầu người/một năm xuống còn 610 USD. Từ một nước phát
triển vào loại khá trong số các nước đang phát triển, Indonesia đã trở thành 1
trong số 20 nước nghèo nhất thế giới. Nợ nước ngoài của Indonesia đã lên tới
140 tỷ đô la, tương đương 88,7 % GDP. Dự trữ ngoại tệ chỉ còn tỷ đô la.
Cuộc khủng hoảng tài chính- tiền tệ đã làm trầm trọng hơn các vấn đề xã hội
vốn đã tồn tại ở Indonesia. Số người thất nghiệp đã lên tới khoảng 15,4 triệu
người, chiếm 17 % tổng số 90 triệu lao động ở nước này [98].
Sau khi lên cầm quyền, một mặt Tổng thống Habibie thực hiện nghiêm
túc những cam kết với IMF, mặt khác ông tiến hành cải tổ nội các để thu hút
nhân tài của đất nước vào chính phủ của ông. Nội các mới bao gồm những
102
nhà kinh tế giỏi của nội các cũ được giữ lại và đưa vào một số nhân vật mới.
ông Bambang Subianto, một chuyên viên nổi tiếng về sự chính trực, từng giữ
Trưởng ban cải tổ Ngân hàng, được bổ nhiệm làm Bộ trưởng Tài chính mới.
Tiếp đó, Tổng thống Habibie quyết định tách Ngân hàng Indonesia (BI) ra
khỏi cơ cấu nội các và trao thêm quyền tự chủ cho Ngân hàng nhằm xây dựng
BI thành một cơ quan hoạt động độc lập, linh hoạt. Khủng hoảng tài chính
kéo dài đã làm cho 80 triệu người Indonesia rơi vào tình trạng nghèo khổ,
trong đó 40 triệu người thiếu đói. Nhằm giúp nhân dân chống chọi với những
khó khăn đó, chính phủ Indonesia đã quyết định dành 8,5 ngàn tỷ rupiah để
trợ giá gạo và giá nhiên liệu. Ngoài ra, nhiều biện pháp khác cũng được tiến
hành để tăng thêm phúc lợi cho người lao động. Ngày 26/6/1998 Chính phủ
đã quyết định vay 1,5 tỷ đô la của Ngân hàng phát triển châu Á. Một phần
không nhỏ trong số tiền trên được dành cho các dự án xây dựng nhà ở (47
triệu USD), phát triển y tế, giáo dục (3 trịệu USD).
Nhờ những cố gắng của chính phủ và nhân dân Indonesia cộng với sự
giúp đỡ của cộng đồng quốc tế, tới giữa 1999, về cơ bản, Indonesia, đã khắc
phục được các hậu quả trước mắt của khủng hoảng. Với thắng lợi của cuộc
bầu cử tự do vào tháng 6/1999, tình hình chính trị ở nước này đã ổn định hơn
trước. Tình hình đó đã giúp nhân dân Indonesia yên ổn làm ăn. Trong năm
1999, sản lượng gạo đã xay xát của Indonesia lên tới 49,53 triệu tấn nhờ năng
suất lúa tăng. Các nhà đầu tư nước ngoài lại tiếp tục bỏ vốn vào nền kinh tế
Indonesia. Tính tới cuối tháng 5/1998, tổng số vốn đầu tư trực tiếp của nước
ngoài vào nước này đã lên tới 58,20 tỷ đô la. Các nhà kinh doanh gốc Hoa,
những người đã chuyển khoản 80 tỷ đô la tiền vốn ra khỏi Indonesia trong
thời gian bùng nổ chiến dịch bài Hoa trong những ngày giữa năm 1997, cũng
đã đưa vốn trở lại. Kinh tế Indonesia đang phục hồi dần. Trong hai quý đầu
1999, xuất khẩu của Indonesia tăng 20% so với cùng kỳ 1998. Do đời sống đã
ổn định trở lại, số người Indonesia ra nước ngoài du lịch ngày càng nhiều.
103
Theo cơ quan Du lịch Singapore, số người Indonesia đi du lịch tới Singapore
trong 6 tháng đầu 1999 lên tới 601.276 người, tăng 30% so với cùng kỳ 1998.
Để ngăn ngừa khả năng bùng phát trở lại của khủng hoảng tài chính-
tiền tệ và tiếp tục giải quyết những nguyên nhân gốc rễ của xung đột tôn giáo,
sắc tộc, từ khi bước vào thế kỷ 21, Indonesia đã điều chỉnh chiến lược phát
triển kinh tế theo hướng phát triển bền vững. Theo quan điểm của Indonesia,
một sự phát triển được coi là bền vững, nếu đạt được những điểm sau: 1)
Năng lực cải thiện khả năng hỗ trợ của môi trường; 2) Hiệu suất tối đa đạt
được của tài nguyên không nên vượt quá khả năng của tự nhiên và công nghệ
hiện có để đổi mới các nguồn tài nguyên; 3) Tăng cường hội nhập các hoạt
động phát triển giữa các khu vực và vùng; 4) Cải thiện các chức năng tự nhiên
của hệ sinh thái; 5) Có sự hỗ trợ về phương diện thể chế cho các chức năng
môi trường [109, tr.223].
Để đạt được các mục tiêu trên, Indonesia đã khẩn trương bắt tay vào
thực hiện điều chỉnh chiến lược phát triển. Tuy vẫn còn tham nhũng, thiếu hụt
cơ sở hạ tầng và bất bình đẳng, nhưng nhìn chung, kinh tế của Indonesia đi
đúng hướng. Kể từ khi chuyển giao thế kỷ, Indonesia là một trong những nền
kinh tế phát triển tốt nhất và phù hợp nhất thế giới. Từ năm 2001, mức tăng
trưởng đạt trung bình 5,4%, nhanh hơn nhiều so với mức trung bình toàn cầu,
bất chấp những cú sốc suy thoái tài chính. Sự tăng trưởng đó tạo điều kiện
giảm nợ chính phủ, từ 95,1% GDP trong năm 2000 xuống còn 26% (2017),
mức thấp nhất trong số các nước thành viên ASEAN. Từ nền kinh tế lớn 27
thế giới vào năm 2000 (dựa trên GDP), Indonesia có bước nhảy vọt ấn tượng
lên vị trí 16 chỉ trong 15 năm. Theo Hãng tin Bloomberg dẫn số liệu do Bộ
trưởng Bộ Tài chính Indonesia, bà Sri Mulyani Indrawati công bố GDP nước
này đạt mức 1.004 nghìn tỷ USD trong năm 2017.
Tăng trưởng kinh tế của Indonesia cũng đã mở đường cho sự thay đổi
chính trị quan trọng. Từ những thành tựu kinh tế đạt được, Chính phủ
104
Indonesia có điều kiện để ban hành và thực hiện các chính sách xã hội trong
giải quyết xung đột sắc tộc, tôn giáo tạo tiền đề cho phát triển kinh tế. Chính
phủ đã chú trọng đến việc giải quyết những vấn đề chung như phân phối thu
nhập, điều tiết các hoạt động kinh tế - xã hội. Với tư cách là người điều tiết,
Nhà nước Indonesia đã thực hiện các chính sách điều chỉnh và cân bằng giữa
tăng trưởng kinh tế và ổn định xã hội; giải quyết các vấn đề dân tộc, tôn giáo
của đất nước, cố gắng bảo đảm sự phát triển hài hòa giữa các vùng, các lĩnh
vực. Sự phân chia về lãnh thổ ở Indonesia đã làm ảnh hưởng nhiều đến trình
độ phát triển kinh tế - xã hội và mức sống của nhân dân ở mỗi vùng. Vì vậy,
Chính phủ Indonesia đã đưa ra những chính sách thích hợp nhằm nâng cao
trình độ văn hoá - xã hội, tạo công ăn việc làm cho người lao động và thực
hiện bình đẳng phân phối giữa các vùng đó.
Tiểu kết chương 3
Bước vào thời kỳ sau Chiến tranh Lạnh, cũng như các nước khác ở
Đông Nam Á, Indonesia đứng trước nhiều cơ hội phát triển, nhưng cũng phải
đối diện với không ít thách thức lớn. Độc lập, dân tộc và sự toàn vẹn lãnh thổ
của nước này bị đe dọa nghiêm trọng do sự bùng phát trở lại của các cuộc
xung đột sắc tộc, tôn giáo, vốn đã tạm thời lắng xuống trong những năm cầm
quyền của giới quân sự - quan liêu do tướng Suharto đứng dầu.
Xung đột sắc tộc, tôn giáo xảy ra ở nhiều địa phương của Indonesia,
trong đó nghiêm trọng nhất là Đông Timor, Aceh, Tây Papua và Sulawesi.
Mục tiêu cao nhất mà các lực lượng tham gia vào xung đột là ly khai khỏi
quốc gia - dân tộc mà họ đã chung sống tương đối hòa thuận với nhau, từ khi
Indonesia giành được độc lập vào năm 1948. Indonesia đứng trước nguy cơ bị
phân chia thành nhiều mảnh nhỏ. Có nhiều nguyên dân dẫn tới tình trạng trên:
sự sụp đổ của chế độ độc tài Suharto, những hệ lụy từ chiến lược phát triển
kinh tế xã hội và các mâu thuẫn lợi ích giữa các phe phái chính trị được che
đậy dưới màu sắc tôn giáo, sắc tộc… Để giải quyết các cuộc xung đột đó,
105
chính phủ Indonesia đã thực hiện nhiều giải pháp khác nhau. Về ngắn hạn, họ
vừa sử dụng quân đội, cảnh sát để trấn áp các lực lượng nổi dậy, vừa tiến
hành đàm phán nhằm thỏa hiệp những yêu sách của các lực lượng đó, ngoại
trừ yêu sách ly khai (việc Đông Timo được tách khỏi Indonesia chỉ là một
ngoại lệ mà Indonesia buộc phải chấp nhận). Về dài hạn, chính phủ Indonesia
đã tiến hành cải cách một số thể chế chính trị nhằm ngăn ngừa sự trở lại của chế
độ độc tài và sự hoành hành của "chủ nghĩa tư bản thân hữu", vốn rất phổ biến
dưới thời Trật tự mới. Chiến lược phát triển kinh tế xã hội của Indonesia cũng
được điều chỉnh nhằm làm cho các sắc tộc, tôn giáo ở những vùng xa xôi của đất
nước được thụ hưởng công bằng hơn các lợi ích từ sự phát triển của đất nước.
106
Chương 4
NHẬN XÉT VÀ NHỮNG KINH NGHIỆM RÚT RA
4.1. MỘT SỐ NHẬN XÉT
Nghiên cứu tình hình xung đột sắc tộc và tôn giáo ở Indonesia và quá
trình khắc phục các xung đột đó của chính phủ nước này có thể rút ra một số
nhận xét sau:
4.1.1. Đặc điểm của các cuộc xung đột sắc tộc, tôn giáo, ở Indonesia
Nghiên cứu xung đột sắc tộc, tôn giáo ở Indonesia giai đoạn 1991-2015
cho thấy các xung đột này có một số đặc điểm đáng chú ý.
4.1.1.1. Về bản chất, các cuộc xung đột sắc tộc, tôn giáo ở Indonesia
là xung đột lợi ích giữa các cộng đồng dân cư
Khi nghiên cứu về xung đột sắc tộc, tôn giáo ở Indonesia, có một câu hỏi
được nhiều nhà nghiên cứu ở trong và ngoài Indonesia tập trung thảo luận là bản
chất của các cuộc xung đột đó là gì ? Đó có thật sự là xung đột giữa các tôn giáo,
các sắc tộc hay chỉ là các xung đột có màu sắc tôn giáo, sắc tộc mà thôi?
Để trả lời câu hỏi này, cần phải chỉ ra được nguyên nhân thật sự đằng
sau các cuộc xung đột đó.
Trong bài viết về nguyên nhân xung đột ở Indonesia, Sidney Jones,
Giám đốc điều hành, Phòng châu Á, cơ quan Theo dõi Nhân quyền cho rằng
có hai nguyên nhân lớn dẫn tới sự bùng nổ xung đột sắc tộc ở Indonesia.
Nguyên nhân đầu tiên là hậu quả của sự sụp đổ của Suharto. Nhận định trên
của Sidney Jones là có thể chia sẻ. Thật ra, các cuộc xung đột sắc tộc, tôn
giáo đã xảy ra ở Indonesia ngay từ thời cầm quyền của Tổng thống Sukarno.
Xung đột ở Aceh là một ví dụ. Ngay từ năm 1953, những lực lượng ly khai ở
Aceh đã công khai đòi thành lập một quốc gia Hồi giáo ở Aceh. Phong trào đã
bị cả chính quyền của Tổng thống Sukarno lẫn chính quyền của Tổng thống
Suharto thẳng tay đàn áp nên đã lắng xuống. Khi quyền lực của Suhato bị sụp
107
đổ, phong trào ly khai của Aceh lại bùng phát trở lại. Việc Đông Timor trở
thành một quốc gia độc lập đã khích lệ các lực lượng ly khai ở Aceh, ở Tây
Papua và những nơi khác quyết tâm thực hiện mục tiêu tách khỏi Indonesia
của họ.
Nguyên nhân thứ hai được Sidney Jone đưa ra là "sự thiếu hụt
(shortage) của quá trình dân chủ hóa". Theo tác giả, "trong một nền dân chủ ở
các xã hội đa sắc tộc thì bạo lực cộng đồng là tồi tệ hơn với những chính phủ
toàn trị mạnh (with strong authoritarian governments) vốn giữ được các loại
xung đột này dưới sự kiểm soát" [203]. Điều này hàm ý rằng chế độ dân chủ
khó có khả năng kiểm soát xung đột tôn giáo, sắc tộc trong các xã hội đa sắc
tộc, đa tôn giáo do phải tuân thủ các định chế dân chủ. Nhận xét này không đủ
sức thuyết phục. Trong thực tế, chế độ dân chủ ở nhiều quốc gia có sự đa
dạng về tôn giáo, sắc tộc, chẳng hạn như Mỹ, xung đột sắc tộc, tôn giáo ít khi
xẩy ra; hoặc nếu có, thì chỉ là những hiện tượng đơn lẻ và nhanh chóng được
dập tắt.
Bên cạnh hai nguyên nhân trên, trong bài viết của mình, tác giả còn chỉ
ra một loạt nguyên nhân khác. Theo tác giả, những gốc rễ lịch sử thời thực
dân là một trong những nguyên nhân đó. Không ít chinh sách của chính phủ
thực dân Hà Lan đã tạo thuận lợi cho nhiều cuộc xung đột. Điều này đặc biệt
đúng về quan hệ của Hà Lan với người Hoa, cũng đúng về việc Hà Lan liên
quan thế nào tới công việc của sứ đoàn và cái cách cắt nhỏ đất nước vào các
nhóm sứ đoàn khác nhau của chính quyền thuộc địa..
Ngoài ra, những hậu quả của chính sách di dân tới những khu vực thưa
thớt mà chính phủ Indonesia thực hiện nhất quán từ 1950 tới nay đã gây nên
một số xung đột xã hội giữa những cư dân bản địa và những di dân từ các
vùng khác tới. Sidney Jones cho rằng, những cuộc di dân đó đã "làm thay đổi
sự cân bằng dân cư giữa các nhóm sắc tộc, tôn giáo, dẫn tới một vài loại căng
thẳng, thường với một nhóm cảm thấy họ đang ở dưới sự vây hãm của một
108
nhóm khác" [203]. Để chứng minh cho nhận định của mình, tác giả đã phân
tích hậu quả của việc di cư của người Hồi giáo từ Sulawesi tới Ambon. Theo
tác giả, ở Ambon đã có một tỷ lệ cân bằng đẹp giữa người Ambon theo Thiên
chúa giáo và người Ambon theo Hồi giáo với những biện pháp văn hóa truyền
thống về giải quyết xung đột. Vào những năm 1970 và 1980 đã có một sự di
cư thật sự từ Sulawesi và nơi khác tới những khu vực của người Hồi giáo. Kết
quả là cân bằng dân số thay đổi, những công việc truyền thống thường được
dành cho giới tinh hoa Thiên chúa giáo trước đây đã bắt đầu chuyển cho
những người Hồi giáo mới tới. Thực tế này khiến người Thiên chúa giáo cảm
thấy họ bị đe dọa. Đây chính là nguyên nhân khiến người Thiên chúa giáo
phản ứng theo cách mà họ đã làm trong một số trường hợp như đã xảy ra vào
các năm 1998-1999 [203].
Hậu quả thứ hai của chính sách di dân là những vấn đề liên quan tới
việc khai thác tài nguyên tại những khu vực có gỗ, khoáng sản. "Điều này
dẫn tới sự căm phẫn khi chinh phủ tới và tước đoạt đất đai của dân bản
địa. Người dân bản địa không coi đó là việc làm cần thiết của chính phủ
để phát triển đất nước mà như sự cưỡng đoạt của "các nhóm chiếm ưu thế
được đại diện bởi chính phủ trong các xung đột với cư dân bản xứ địa
phương" [203].
Một nguyên nhân khác được Sidney Jones chỉ ra là hậu quả của việc
chính phủ Indonesia quyết định tách cảnh sát khỏi lực lượng vũ trang vào
tháng 4/1999. Cảnh sát Indonesia được huấn luyện sơ sai nhất và được trả
lương ít nhất so với bất kỳ bộ phận nào trong lực lượng an ninh. Do đó, với tư
cách là những người thực thi pháp luật, cảnh sát Indonesia hoạt động không
hiệu quả. Không những thế, ở một vài nơi như ở Ambon, cảnh sát được xem
như đã đứng về một bên của cuộc xung đột và do đó đã có những cáo buộc
rằng cảnh sát ủng hộ người Thiên chúa giáo và quân đội ủng hộ người Hồi
giáo. Quan hệ giữa cảnh sát và quân đội cực kỳ nghèo nàn, ngày càng xấu
109
hơn và có khả năng bùng nổ bạo lực cảnh sát- quân đội theo một phương
cách làm trầm trọng hơn cuộc xung đột [203].
Nguyên nhân cuối cùng được Sidney Jones chỉ ra là tác động của "
cuộc cách mạng về liên lạc" (communications revolution) đặc biệt là của
Email và điện thoại di động, Khi xung đột nổ ra, các bên bị cuốn vào cuộc
xung đột sẽ dễ dàng liên lạc với những người đồng tôn giáo sống ở ngoài khu
vực của họ tham gia vào. Do vậy, các xung đột địa phương dễ chuyển thành
xung đột quốc gia. Ở Malakkas, cả người Thiên chúa giáo và người Hồi giáo
đều huy động những người ủng hộ bên ngoài Ambon và Malakkas "theo một
phương cách làm trầm trọng hơn xung đột".
Một vài nhà nghiên cứu khác cũng có quan điểm tương tự. Theo nhà
nghiên cứu Marcus Colcheste, di dân "còn xa mới là một việc làm nhân đạo,
đó là một chương trình chính trị được thiết kế để mở rộng sự kiểm soát của
chính phủ đối với những đảo lạc hậu thông qua sự loại bỏ sự đa dạng về tộc
người. Di dân đã trở thành một trong những biện pháp chủ chốt để đồng hoá
nhân dân các bộ tộc" [161].Chia sẻ quan điểm trên, Katerin Cauphin khẳng
định: "... động cơ thật sự của chương trình là Java hoá. Những cư dân bản địa
của nhiều hải đảo đặt dưới sự cai trị của Indonesia có khuynh hướng khởi
loạn. Họ có văn hoá, ngôn ngữ, tôn giáo riêng và họ không muốn trở thành
một phần của Indonesia" [161].
Còn nhà nghiên cứu Indonesia Devi Fortuna lại cho rằng: "Việc đưa
các khu vực kinh tế hiện đại vào tỉnh kém phát triển nhất của Indonesia rõ
ràng đã phá vỡ phương thức sống truyền thống của Iriăng, kích thích sự ủng
hộ của phong trào ly khai" [161].
Thực tế diễn ra ở một số địa phương ở Indonesia đã chứng minh cho
những nhận định của các nhà nghiên cứu trên. Chính sách di dân của chính
phủ Indonesia chính là nguyên nhân sâu sa của các cuộc bạo loạn giữa người
Dayak địa phương và những người di cư từ Madura xảy ra vào năm 1997 và
110
một lần nữa vào năm 1999 ở Kalimantan. Chính sách đó cũng là nguyên nhân
đằng sau các cuộc xung đột dưới màu sắc tôn giáo, sắc tộc ở Tây Papua, vùng
nghèo nhất ở Indonesia.
Từ những phân tích của các học giả trên về nguyên nhân các cuộc xung
đột sắc tộc, tôn giáo ở Indonesia có thể thấy họ đã nhìn ra cả nguyên nhân
trực tiếp lẫn nguyên nhân sâu sa của sự bùng nổ và kéo dài của các cuộc xung
đột đó. Trong khi nguyên nhân trực tiếp là sự sụp đổ của chế độ độc tài
Suharto, mâu thuẫn giữa quân đội và cảnh sát Indonesia, sự hỗ trợ của truyền
thông, thì nguyên nhân sâu sa là những hệ lụy của chính sách di dân và sự
máy móc trong thực hiện chủ trương "Thống nhất trong đa dạng" được đề ra
ngay từ khi Indonesia giành được độc lập dân tộc.
Theo tác giả luận án, chính sách di dân từ những vùng dân cư đông đúc
tới những vùng dân cư thưa thớt ở những vùng sâu, vùng xa của đất nước mà
chính phủ Indonesia thực hiện là hoàn toàn đúng đắn và cần thiết. Chính sách
đó không chỉ nhằm đạt được các mục tiêu phát triển kinh tế, xã hội mà còn
một phương cách giúp bảo vệ độc lập dân tộc, toàn vẹn lãnh thổ của
Indonesia. Sai lầm chỉ là ở quá trình thực thi chính sách đó mà thôi. Chính
phủ Indonesia có thể đã không tính hết phản ứng của người dân địa phương,
khi phải chia sẻ một phần đất đai, tài sản chính của họ cho những người được
di cư tới, nhất là khi những người mới tới lại thuộc các cộng đồng sắc tộc, tôn
giáo khác với cư dân bản địa. Trong những cuộc xung thuộc dạng này, bản
chất của xung đột không phải là xung đột tôn giáo, sắc tộc mà là xung đột về
lợi ích giữa các cộng đồng dân cư.
Trong một quốc gia đa sắc tộc, đa tôn giáo lại trải dài trên 1.7000 hòn
đảo, chủ trương xây dựng sự thống nhất quốc gia trong sự đa dạng không chỉ
đúng mà còn rất sáng suốt. Tuy nhiên, thống nhất không có nghĩa là đồng
hóa, càng không có nghĩa là Java hóa. Trong quá trình thực hiện chủ trương
này, nhiều hoạt động của các cơ quan công quyền ở Indonesia đã khiến cho
111
người dân, nhất là các sắc tộc nghĩ rằng họ đang bị "đồng hóa". Ví dụ về điều
này có thể tìm thấy ở Aceh và một số địa phương khác.
Ở Aceh, Bộ Tôn giáo đã từ chối công nhận các tòa án Hồi giáo, vốn đã
được thiết lập ở đó từ thời Nhật chiếm đóng. Quyết định này đã khiến người
dân Aceh cho rằng vị trí của Hồi giáo ở khu vực của họ đã bị tước bỏ. Bất
mãn với quyết định đó của chính phủ, vào năm 1953, họ đã công khai đòi
thành lập một quốc gia Hội giáo ở Aceh và chính thức tham gia vào cuộc khởi
nghĩa Darul Islam ở miền Tây Java. Phong trào này đã lên án việc chính phủ
trung ương đặt chủ nghĩa dân tộc lên cao hơn đạo Hồi và lấy Pancasila làm
nền tảng của quốc gia. Tham gia vào phong trào Darul Islam, có nghĩa là
Aceh tự gắn mình thành một bộ phận của quốc gia Hồi giáo Indonesia
(Negara Islam Indonesia) do phong trào Darul Islam tuyên bố thành lập và
ủng hộ ý tưởng thay thế nước Cộng hòa Indonesia bằng một quốc gia Hồi
giáo. Mặc dù phong trào Darul Islam bị thất bại do không nhận được sự ủng
hộ rộng rãi của các tầng lớp nhân dân ở Aceh và sự trấn áp của quân đội,
nhưng ý tưởng về một nhà nước Hồi giáo vẫn tiếp tục được nuôi dưỡng và đã
không ít lần thúc đẩy các nhà lãnh đạo thuộc các thế hệ khác nhau ở Aceh kêu
gọi dân chúng trong khu vực của họ đứng lên đấu tranh chống lại chính phủ
trung ương ở Jakarta. Điều này giải thích vì sao: "Từ khi Indonesia độc lập
vào tháng 8/1945, Aceh thường được miêu tả như trung tâm kháng chiến
chống lại chính phủ trung ương ở Jakarta" [197, tr.379].
Từ thực tế ở Aceh, có thể thấy chính phủ Indonesia đã sai lầm khi áp
đặt bộ máy tư pháp thế tục lên hệ thống tư pháp Hồi giáo truyền thống của
người Aceh. Người Aceh nhìn sự áp đặt đó như là sự áp đặt của người Java
đang nắm quyền ở hầu hết các cơ quan của chính phủ trung ương đối với họ.
Như vậy, xung đột ở Aceh chính là xung đột sắc tộc.
Còn những xung đột ở Maluku giữa người Thiên chúa giáo và người
Hồi giáo, về thực chất cũng không phải là xung đột tôn giáo. Để thấy rõ điều
112
này chúng ta sẽ tìm hiểu trở lại cuộc xung đột ở Maluku 1/1999. Theo Ian L.
Betts, cuộc xung đột bề ngoài được vẽ dọc theo những tuyến giữa người Hồi
giáo và Thiên chúa giáo, nhưng không có lý do thật sự về xung đột văn hóa và
ngôn ngữ vì văn hóa của hai bên về cơ bản là có chung nguồn gốc
(homogenous), dù những phương ngữ khác nhau thường được sử dụng.
Một vài nhà nghiên cứu khác cũng cho rằng các xung đột ở Maluku
không phải là xung đột tôn giáo, sắc tộc. Theo George J. Aditjondro " Chuỗi
xung đột giáo phái ở Maluku bị nổ ra và được nuôi dưỡng bởi những kẻ khiêu
khích được gia đình Suharto và thân hữu của họ trả tiền" [176]. Ông quy xung
đột cho sự phát triển băng nhóm có vũ trang và được huấn luyện, những
nhóm này phát triển từ những nhóm liên kết với các cá nhân có quan hệ chặt
chẽ với các thành viên của gia đình cựu Tổng thống Suharto và thân hữu của
họ. Tác giả cũng nhấn mạnh tới vai trò đang gia tăng của quân đội ở cấp tỉnh,
phần của họ trong cướp bóc, tàng trữ hậu cần, bán áo giáp bảo vệ và những kế
hoạch vẽ lại biên giới các tỉnh. Theo ông "Quân đội chắc chắn đã được lợi từ
xung đột. Ở cấp vĩ mô, họ giúp đỡ những người trong giới chóp bu quân sự,
những người muốn duy trì hệ thống lãnh điạ của quân đội vì 17.000 quân
đang đóng ở Maluku. Sử dụng xung đột như một cái cớ, Bộ tham mưu
Pattimura ở Ambon vốn đã bị xóa bỏ trong thời Suharto, nay được sống lại".
Với những lập luận trên, Aditjondro kết luận "xung đột ở Maluku, trong thực
tế là hệ quả của các cuộc đấu tranh chính trị ở Jakarta, các viên tướng nổi giận
khi cảm thấy rằng quyền lực của quân đội đã bị chấm dứt".
Tuy nhiên, Aditjondro cũng kết tội các nhóm Hồi giáo, những người bị
gạt ra ngoài lề bởi chính quyền Wahid và họ bất bình trước sự xích lại nhóm
thiểu số người Hoa và người Thiên chúa giáo, các nhóm này đang lợi dụng
sự bất ổn của Maluku để kêu gọi một cuộc thánh chiến (jihad), lật đổ chính
quyền của những người dân tộc chủ nghĩa phi thần quyền và thế tục [176].
Như vậy, sự thù địch của người Hồi giáo ở Maluku đối với người Hoa và
113
người Thiên chúa giáo không nảy sinh từ chính sự khác biệt giữa các tôn
giáo đó mà từ sự ưu ái của nội các Wahid đối với cộng đồng Thiên chúa
giáo và người Hoa. Chính sách này trái ngược hẳn chính sách của nội các
Suharto đối với người Hồi giáo Maluku. Dưới thời Suharto, Thủ hiến
Mohamad Saleh Latuconsina ở Maluku đã thay thế tất cả các nhân viên dân
sự cao cấp trong tỉnh bằng người Hồi giáo.
Những phân biệt đối xử có tính sắc tộc, tôn giáo của các nội các khác
nhau ở Jakarta chính là nguyên nhân gây nên sự thù ghét lẫn nhau giữa người
Hồi giáo với người Thiên chúa giáo và người Hoa ở Maluku.
Từ những phân tích trên có thể đi tới kết luận là: hầu hết các cuộc
xung đột diễn ra ở Indonesia từ sau 1991 không phải xung đột tôn giáo sắc
tộc mà chỉ có vẻ ngoài là xung đột sắc tộc, tôn giáo mà thôi. Về bản chất, đó
là các xung đột lợi ích giữa các cộng đồng khác nhau về sắc tộc, tôn giáo.
Nguyên nhân thật sự của các cuộc xung đột đó là do những sai lầm trong cách
ứng xử của các chính phủ Indonesia đối với các cộng đồng dân tộc, những hệ
lụy từ chính sách di cư và sự máy móc, thô thiển trong quá trình thực hiện
mục tiêu " Thống nhất trong đa dạng".
4.1.1.2. Xung đột sắc tộc, tôn giáo ở Indonesia có nhiều điểm tương
tự như xung đột sắc tộc, tôn giáo của một số nước khác ở Đông Nam Á
* Về nguyên nhân xung đột
Một là, sự đa dạng dân tộc, sắc tộc ở các quốc gia Đông Nam Á, trong
đó có Indonesia, Thái Lan, Malaysia... khá điển hình, là nguyên nhân dẫn đến
tình trạng xung đột dân tộc, sắc tộc gia tăng và khó giải quyết.
Những nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng xung đột dân tộc, sắc tộc
gia tăng và khó giải quyết ở các quốc gia này có thể nêu ra là:
- Mỗi dân tộc là một bản sắc văn hóa, lối sống, phong tục tập quán
riêng, nên đôi khi sự khác biệt về văn hóa giữa các tộc người cũng làm nảy
sinh xung đột giữa họ.
114
- Các dân tộc thiểu số thường cư trú ở vùng sâu, vùng xa, nơi hẻo lánh,
kinh tế lạc hậu, đời sống đói nghèo. Đây nguyên nhân dễ dẫn tới việc các thế
lực bên ngoài lợi dụng, kích động, tạo mâu thuẫn dẫn đến xung đột giữa các
sắc tộc với nhau, nhất là giữa các tộc chiếm đa số trong dân cư quốc gia với
các sắc tộc thiểu số.
- Các dân tộc thiểu số thường có tâm lý biệt lập, mặc cảm dân tộc cao.
Thực tế các quốc gia đa dân tộc ở Đông Nam Á rất phức tạp nên giữa
các dân tộc, sắc tộc thường nảy sinh mâu thuẫn dẫn đến xung đột. Ban đầu
xung đột chỉ mang tính chất kinh tế, tôn giáo, ngôn ngữ, sau nó mang đậm
tính chất xung đột xã hội, chính trị, thậm chí còn dẫn đến các mục tiêu ly khai
dân tộc. Sự đa dân tộc, sắc tộc với những đặc điểm nêu trên cùng với những
phân cực, phân tầng xã hội đang diễn ra nhanh ở các quốc gia Đông Nam Á
trong quá trình phát triển hội nhập còn làm gia tăng số lượng các phe nhóm,
đảng phái chính trị và trở thành nguyên nhân "châm ngòi" xung đột sắc tộc ở
các quốc gia này.
Hai là, sự đa dạng các hình thức tôn giáo, tín ngưỡng, trong đó có
những tôn giáo ngoại nhập đi cùng với quá trình thực dân và tình trạng phát
triển không đều giữa các tôn giáo là tình trạng phổ biến ở các quốc gia Đông
Nam Á.
Ở Đông Nam Á, các xung đột dân tộc, tôn giáo diễn ra ở Indonesia,
Malaysia, Philippines và Thái Lan chủ yếu là xung đột giữa những nhóm
người theo Hồi giáo và những người theo các tôn giáo khác, nhất là Thiên
chúa giáo và Phật giáo. Các xung đột càng mang đậm tính chất Hồi giáo, nếu
nhà nước lại đứng sau một dân tộc đa số, theo một tôn giáo khác. Chẳng hạn
như nhà nước Inđônesia ủng hộ những người Hồi lấn át người dân bản địa ở
Tây Papua, nhà nước Philippines ủng hộ những người theo Thiên Chúa giáo,
nhà nước Thái Lan đứng về phía những người theo Phật giáo. Ví dụ: ở Thái
Lan là những vụ bạo loạn, chống phá của người Hồi giáo ở miền Nam phản
115
đối chính phủ đối xử không công bằng so với những người theo Phật giáo. Tại
Indonesia là xung đột giữa những người theo đạo Thiên chúa và người theo
đạo Hồi ở quần đảo Maluku. Ở Philippines, chính quyền cũng phải đối mặt
với những xung đột giữa người Công giáo và người Hồi giáo tại nhiều nơi.
Ba là, chính sách quản lý của chính phủ nhiều khi lại là nguyên nhân
của các xung đột sắc tộc, tôn giáo.
Chính sách quản lý nhất là những chính sách liên quan đến dân tộc, tôn
giáo của chính phủ và chính quyền các cấp ở địa phương nhiều khi lại chính
là "ngòi nổ" cho các xung đột sắc tộc, tôn giáo phức tạp, kéo dài ở các quốc
gia Đông Nam Á. Ví dụ: chính sách đồng hóa văn hóa của các chính phủ Thái
Lan, Indonesia; chính sách đàn áp phong trào đấu tranh của quần chúng; các
chính sách ưu tiên, phân biệt trong phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội giữa các
vùng cũng là nguyên nhân dẫn đến các cuộc xung đột ở các quốc gia đó.
Chính sách tập trung quyền lực và tài chính vào tay chính quyền trung ương,
dùng quân đội đàn áp các cuộc nổi dậy... Chính sách chỉ chú trọng khai thác
tài nguyên mà không đầu tư thích đáng, là những chính sách của chính phủ
Indonesia đã châm ngòi cho của xung đột sắc tộc kéo dài ở Aceh.
Về mặt kinh tế, sự khác nhau trong chính sách phát triển vùng, miền,
chính sách quản lý, khai thác tài nguyên, chính sách di dân...của các chính
phủ đã gây những mâu thuẫn, trong phát triển kinh tế của các nhóm sắc tộc
dẫn đến xung đột. Về chính sách giáo dục, việc sử dụng nền giáo dục quốc
gia áp đặt để đồng hóa các sắc tộc, hay việc có cơ hội đạt được trình độ học
vấn cao ở các nhóm sắc tộc là rất hạn chế cũng là nguyên nhân dẫn đến sự
chênh lệch và xung đột. Về chính trị, chính sách thay thế các nhà lãnh đạo
Hồi giáo truyền thống bằng các nhà chính trị khác ở chính quyền các cấp
cũng tạo ra mâu thuẫn nghiêm trọng giữa các tôn giáo với nhau [155, tr.39]…
Tất cả những chính sách không hợp lý đó của chính phủ các quốc gia
Đông Nam Á trên đều là nguyên nhân của các xung đột sắc tộc, tôn giáo.
116
Bốn là, các di sản của chủ nghĩa thực dân ở các quốc gia Đông Nam Á.
Khi xâm chiếm các nước Đông Nam Á làm thuộc địa, chủ nghĩa thực
dân thường có xu hướng một mặt thành lập các siêu quốc gia để phân định
biên giới hành chính, một mặt lại chia ra để trị. Ví dụ: thực dân Pháp chiếm
Cămpuchia, Lào, Việt Nam và sáp nhập cả ba nước vào một đơn vị hành
chính Đông Dương. Khi xâm chiếm Indonesia, thực dân Hà Lan đã sáp nhập
không dưới một chục tiểu quốc vào một thực thể quốc gia rộng lớn bao gồm
hàng trăm dân tộc, tộc người khác nhau. Chính sách này của thực dân dẫn đến
tình trạng đường biên giới ở các quốc gia Đông Nam Á hiện nay (trừ Việt
Nam, Thái Lan) được coi là đường biên giới bị áp đặt do ý chí của các cường
quốc thực dân hay còn gọi là những đường biên nhân tạo. Cũng trong quá
trình xâm chiếm thuộc địa, các nước thực dân lại phân chia các vùng lãnh thổ,
chia cắt, tách rời các khu vực dân cư có tính lịch sử văn hóa ra khỏi ranh giới
địa lý của nó. Trong thời kỳ đô hộ các quốc gia Đông Nam Á, thực dân Anh,
Hà Lan, Mỹ, Pháp đều thực hiện chính sách "chia để trị", khoét sâu sự khác
biệt văn hóa, tôn giáo để gây chia rẽ các khối dân cư tại các nước này. Chính
sách khoét sâu sự khác biệt, mâu thuẫn lợi ích giữa người bản địa và người
Hoa của chính quyền thực dân còn nhằm mục đích chống lại phong trào cộng
sản (chủ yếu phát triển trong cộng đồng người Hoa) ở các nước. Đây là
nguyên nhân dẫn đến một số cuộc xung đột dân tộc ở Indonesia, Malaysia
giai đoạn sau Chiến tranh Lạnh.
Ngoài ra, xung đột sắc tộc dẫn đến ly khai dân tộc cũng có nguyên
nhân từ tiến trình phi thực dân hóa và sự trỗi dậy của chủ nghĩa dân tộc tại
nhiều nước trong khu vực. Trường hợp người Ambon (Indonesia) đấu tranh
đòi thành lập nước cộng hòa Manuka, người Mã Lai ở 4 tỉnh miền (Thái
Lan), đòi tách khỏi Thái Lan để thành lập quốc gia Hồi giáo Mã Lai là những
dẫn chứng cho nhận định này.
117
Như vậy, đa dân tộc, đa tôn giáo, đa văn hóa là những điểm chung và
cũng là những nhân tố cơ bản làm nảy sinh xung đột sắc tộc, tôn giáo trong
những thập kỷ qua ở Indonesia và các quốc gia Đông Nam Á. Thêm vào đó,
những vấn đề chính sách quản lý phát triển xã hội, những dấu ấn của thời kỳ
thực dân đô hộ cũng là những nhân tố gây ảnh hưởng không nhỏ đến tình
hình gia tăng xung đột cũng như giải quyết chúng ở Indonesia và các quốc gia
Đông Nam Á khác.
* Về mục tiêu, tổ chức và các hình thức thể hiện xung đột
Nhìn chung các xung đột sắc tộc, tôn giáo ở Indonesia và các nước
khác ở Đông Nam Á giai đoạn 1991-2015 không diễn ra một cách tự phát mà
được đặt dưới sự lãnh đạo của một tổ chức chính trị. Ở Indonesia, các Phong
trào Aceh tự do, Phong trào Papua tự do …được thành lập trong thời kỳ thực
dân hoặc trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh đã đứng ra lãnh đạo các phong trào
ly khai dân tộc. Trong khi đó, ở 4 tỉnh miền Nam Thái lan, phong trào hay ở
miền Nam Philippines, các phong trào ly khai cũng được dẫn dắt bởi Mặt
trận giải phóng Pattani, Mặt trận giải phóng Mindanao… Mục tiêu tối thượng
của các phong trào này là tách khỏi quốc gia mà họ đang thuộc về để thành
lập các quốc gia độc lập riêng của người Hồi giáo.
Các hình thức đấu tranh cũng tương tự nhau: từ tổ chức các cuộc đánh
bom khủng bố, chiến đầu trực diện với quân đội chính phủ khi bị truy sát đến
ngồi vào bàn đàm phán với chính phủ để tìm giải pháp cho các cuộc xung
đột.
Một điểm tương đồng khác giữa xung đột sắc tộc, tôn giáo ở Indonesia
trong so sánh với các xung đột cùng loại ở các nước Đông nam Á khác là cho
tới nay, tất cả các phong trào ly khai ở Indonesia, ở Thái lan và Philipines
đều không đạt được mục tiêu cuối cùng mà họ theo đuổi là thành lập các quốc
gia Hồi giáo độc lập của họ và cho họ. Sở dĩ như vậy là vì chính phủ
Indonesia cũng như chính phủ các nước Đông Nam Á khác đều quyết tâm
118
duy trì độc lập dân tộc, toàn vẹn lãnh thổ bằng mọi giá, bất kể sự phản đối có
thể của các cường quốc phương Tây. Họ có thể bị cô lập, bị Mỹ và các nước
phương Tây cắt viện trợ , nhưng họ không từ bỏ các chiến dịch trấn áp các lực
lượng ly khai. Họ có thể thỏa hiệp với nhiều yêu sách của các lực lượng ly
khai, trừ yêu sách ly khai. Chính nhờ ý chỉ sắt đá đó, họ đã bảo vệ được độc
lập dân tộc của đất nước mình.
4.1.1.3. Xung đột sắc tộc, tôn giáo ở Indonesia chủ yếu là xung đột
giữa những người cùng chủng tộc, chỉ khác nhau về tôn giáo
Trong lịch sử Indonesia hiện đại cũng từng diễn ra xung đột giữa
người Hoa và người Indonesia, vốn thuộc hai chủng tộc khác nhau. Nhưng
các cuộc xung đột đó chỉ diễn ra trong thời gian ngắn khi đất nước lâm
vào khủng hoảng chính trị, kinh tế trầm trọng (sau cuộc đảo chính quân sự
lật đổ Sukarno năm 1965, lật đổ Suharto năm 1998), nhưng xung đột giữa
người Hồi giáo và người Thiên chúa giáo, giữa người Java và các cư dân
bản địa ở Aceh, Tây Papua, Moluku thì diễn ra lâu dài và sâu sắc hơn. Về
phương diện chủng tộc, người Thiên chúa giáo và người Hồi giáo ở
Indonesia đều là người Mã Lai. Họ chỉ khác nhau về tôn giáo mà thôi.
Thực tế này khác với xung đột sắc tộc, tôn giáo ở 4 tỉnh miền Nam, Thái
Lan. Cuộc xung đột ở đó không chỉ là xung đột tôn giáo giữa những người
theo Hồi giáo và người theo đạo Phật mà còn là xung đột giữa ngưỡi Mã Lai
và người Thái, hai chủng tộc khác nhau.
4.1.1.4. Các cuộc xung đột sắc tộc, tôn giáo diễn ra ở các địa bàn rất
xa nhau về phương diện địa lý
Trong khi ở Thái Lan và Philippines, xung đột sắc tộc, tôn giáo chỉ
diễn ra chủ yếu ở 4 tỉnh miền nam Thái Lan, đảo Mindanao, phía nam
Philippines, thì xung đột tôn giáo, sắc tộc ở Indonesia diễn ra ở những vùng
lãnh thổ rất cách xa nhau.
119
Bản đồ 4.1: Bản đồ Indonesia
Nguồn: [177].
Nhìn vào bản đồ trên, có thể thấy các cuộc xung đột ở Indonesia không
chỉ diễn ra ở Aceh, một tỉnh cực Tây bắc của Indonesia, gần Thái Lan, mà cả
ở đảo Sulawesi, gần Philippines. Hai địa điểm này rất cách xa nhau về
phương diện địa lý. Thực tế đó khiến cho cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập
dân tộc thông qua ứng phó với các xung đột sắc tộc, tôn giáo của chính phủ
Indonesia trở nên vô cùng khó khăn. Quân đội Indonesia cùng lúc phải căng
ra trên nhiều vùng lãnh thổ khác nhau. Việc cung cấp hậu cần, trợ giúp cho
nhân dân các vùng bị cuốn vào xung đột càng khó khăn hơn nữa. Đây chính
là một trong những nguyên nhân hạn chế kết quả giải quyết xung đột sắc tộc,
tôn giáo của chính phủ Indonesia những năm vừa qua.
4.1.2. Thành tựu và hạn chế của quá trình ứng phó với xung đột
sắc tộc, tôn giáo của chính phủ Indonesia
4.1.2.1. Thành tựu
Quá trình giải quyết xung đột sắc tộc, tôn giáo ở Indonesia đã thu được
những kết quả to lớn.
120
Thứ nhất, quá trình đó đã chặn đứng được đà ly khai khỏi Indonesia,
vốn được các lực lượng ly khai ở Aceh, Maluku và Tây Papua đẩy mạnh hơn
sau khi Đông Timor được tách ra để trở thành một quốc gia độc lập. Nếu
chính phủ Indonesia không có những giải pháp khôn ngoan như đã được phân
tích ở Chương 3, trong việc giải quyết các xung đột tôn giáo sắc tộc ở các khu
vực trên, Aceh và có thể cả Tây Papua đã lần lượt tách khỏi Indonesia. Nhờ
đó, quá trình "Ban căng hóa" mà không ít nhà nghiên cứu quốc tế đã dự đoán
trước đó, đã không xảy ra ở Cộng hòa Indonesia. Cái gọi là "Vùng bị mất"
của Indonesia, về thực chất, không phải là vùng đất vốn thuộc về Cộng hòa
Indonesia, mà chỉ là vùng đất được Chính phủ nước này sáp nhập vào cách đó
hơn 2 thập kỷ mà thôi. Như vậy, có thể nói, Indonesia đã thành công trong
việc bảo vệ được độc lập dân tộc của mình, sau những nỗ lực giải quyết các
cuộc xung đột tôn giáo, sắc tộc
Thứ hai, thông qua quá trình giải quyết các xung đột sắc tộc, tôn giáo,
Indonesia không chỉ ngăn ngừa được sự trở lại của chế độ độc tài, quân phiệt
mà còn thực hiện thành công các cải cách chính trị, kinh tế xã hội. Thật vậy,
chế độ bầu cử tự do đã cho phép nhân dân Indonesia lựa chọn được các nhà
lãnh đạo tài năng, tâm huyết với độc lập dân tộc, toàn vẹn lãnh thổ quốc gia
để dẫn dắt đất nước của họ đi lên. Nhờ đó, tình hình chính trị ở Indonesia đã
dần ổn định trở lại, tạo tiền đề cho sự phát triển kinh tế của Indonesia trong
những năm gần đây. Năm 2018, kinh tế Indonesia đã đạt mức tăng trưởng cao
nhất kể từ sau 2012. Theo Cơ quan Thống kê Trung ương Indonesia, tính
riêng trong quý 4 năm 2018, nền kinh tế nước này tăng 5,18%, đưa tốc độ
tăng trưởng cả năm 2018 đạt 5,17%. Kỷ lục tăng trưởng trên đạt được nhờ
vào tiêu dùng hộ gia đình, đầu tư và chi tiêu của chính phủ, trong đó tiêu dùng
hộ gia đình đóng góp 2,74% (tăng 5,05%); đầu tư là 2,17% (tăng 6,67%) và
chi tiêu chính phủ 0,38% (tăng 4,3%).Thâm hụt ngân sách năm 2018 của
Indonesia ước vào khoảng 1,72% Tổng sản phẩm quốc nội (GDP), thấp hơn
121
mức dự tính ban đầu của chính phủ nước này là 2,19% GDP. Đây cũng là
mức thâm hụt ngân sách trên GDP thấp nhất kể từ năm 2012. Trong năm
2018, Indonesia lần đầu tiên kể từ năm 2011, đạt thặng dư ngân sách cơ bản
4.100 tỷ rupiah (khoảng 283,25 triệu USD) [110].
Những cải cách chính trị, đặc biệt là việc trao thêm quyền cho các địa
phương, nói chung, quyền tự trị cho Aceh, Tây Papua…, nói riêng, đã giúp
giảm bớt cảm giác bị bỏ rơi, bị đứng ngoài lề nền chính trị và kinh tế của đất
nước. Cảm nhận này khiến họ gắn bó với nước Cộng hòa hơn. Nhờ đó, độc
lập dân tộc của Indonesia được củng cố hơn trước.
Cuối cùng, thông qua quá trình giải quyết các xung đột sắc tộc, tôn
giáo giai đoạn 1991-2015, chính phủ Indonesia đã rút ra được nhiều bài
học, nhiều kinh nghiệm tốt trong quá trình xây dựng và củng cố quốc gia-
dân tộc. Để ứng phó thành công với xung đột sắc tộc, tôn giáo, không thể
chỉ dựa vào việc trấn áp mà cần hiểu rõ những nguyên nhân thật sự khiến
các cộng đồng sắc tộc, tôn giáo vốn chung sống hòa bình với nhau nhiều
thập kỷ, bỗng nổi dậy chống lại nhau. Chính việc hiểu rõ những nguyên
nhân đó đã giúp chính phủ điều chỉnh sự quản trị ở cấp quốc gia, nói
chung, cấp địa phương, nói riêng. Việc giảm tập trung quyền lực vào chính
phủ trung ương, cho phép các địa phương được giữ lại một phần nguồn thu
từ tài nguyên thiên nhiên trong khu vực của họ chính là kết quả của những
sự điều chỉnh đó.
4.1.2.2. Hạn chế
Bên cạnh những kết quả tích cực trên, quá trình giải quyết xung đột tôn
giáo, sắc tộc ở Indonesia cũng còn nhiều hạn chế không dễ khắc phục.
Thứ nhất, từ năm 2015 tới nay, ở Indonesia vẫn tiếp tục xảy ra các
cuộc xung đột sắc tộc, tôn giáo mới, dù phạm vi và mức độ nghiêm trọng là
thấp hơn giai đoạn 1991-2015. Những cuộc xung đột đó thường bộc lộ rõ
trong các cuộc bầu cử thống đốc các tỉnh, thành phố, nhất là trong các cuộc
122
bầu cử Tổng thống và Phó Tổng thống. Trong cuộc bầu cử Tổng thống và
Phó Tổng thống vào tháng 4-2019 vừa qua, các lực lượng Hồi giáo cấp tiến
đã mở các cuộc tấn công trên truyền thông vào các ứng viên không phải là
tín đồ Hồi giáo, thậm chí cả bản thân đương kim Tổng thống Joko Widodo
là dẫn chứng sinh động cho thấy sự phức tạp đến khốc liệt trên chính
trường Indonesia.
Tình hình chính trị ở Indonesia cũng trở nên phức tạp thêm khi Basuki
Tjahaja Purnama (BTP) một người Hoa theo đạo Thiên chúa được phóng
thích khỏi nhà tù vào ngày 24/1/2019. Vào năm 2017, khi còn là Thống đốc
Jakarta, ông đã bị kết tội báng bổ chúa trời, khi bản án tại phiên tòa xét xử
ông được đưa lên mạng, một cuộc biểu tình rầm rộ đã diễn ra, khi tòa án đang
tiến hành xét xử ông. Việc xét xử đã gây nên sự chia rẽ lớn trong nước. Theo
nhận xét của Paul Marshall "Tôn giáo là nhân tố chia rẽ trong cuộc bầu cử
hiện nay ở Indonesia".
Sở dĩ Indonesia không thể giải quyết triệt để vấn đề sắc tộc, tôn giáo vì
nhiều nguyên nhân khác nhau.
Một là, đúng như Teuku Faizasyah, Người phát ngôn của Tổng thống
Bambang nói: "Chúng tôi đang đối phó với hàng ngàn các nhóm sắc tộc, hàng
ngàn người có bản sắc, nên đó không phải là nhiệm vụ dễ dàng" [186].
Hai là, một số phần tử trong quân đội Indonesia, những người muốn
kéo dài xung đột để trục lợi. Theo một báo cáo, quân đội Indonesia dính líu
tới việc mua bán vũ khí, các vụ bảo kê và vận tải, buôn bán hoặc buôn lậu các
hàng hóa thiết yếu cho cả hai nhóm Hồi giáo và Thiên chúa giáo. Quân đội
cũng bị cáo buộc đã đào tạo và hỗ trợ Jihad. Các nhà quan sát nói rằng Laskar
Jihad đã đang sử dụng các phương tiện vận tải của quân đội trong các cuộc
tấn công vào các làng Thiên chúa giáo. Cũng có tin nói rằng, hàng trăm "lính
và cảnh sát, những người đã bỏ nhiệm vụ của họ hơn 6 tháng trước đây đã
tham gia vào các nhóm cấp tiến, đang đổ dầu vào bạo lực" [187].
123
Ba là, sự can dự của các lực lượng Hồi giáo cực đoan nước ngoài.
Những lực lượng này đã được các tổ chức Hồi giáo cấp tiến ở Indonesia tuyển
dụng để huấn luyện hoặc trực tiếp tham gia vào các hoạt động vũ trang chống
lại các chiên dịch trấn áp do quân đội Indonesia tiến hành.
Cuối cùng, một số phong trào Hồi giáo ở Indonesia, đặc biệt là Aceh đã
có lịch sử phát triển lâu dài với mục tiêu cuối cùng là tách khỏi Indonesia để
trở thành một quốc gia độc lập và xây dựng một nhà nước Hồi giáo trong khu
vực của họ. Ở giai đoạn này, những thỏa hiệp của chỉnh phủ có thể đáp ứng
được yêu cầu chính trị, tôn giáo và kinh tế của họ. Nhưng lý tưởng về một Aceh
độc lập khó có thể được họ từ bỏ. Nếu Đông Timo phát triển và được kết nạp
thành thành viên thứ 11của ASEAN và tình hình Indonesia lại trở nên rối loạn,
rất có thể GAM sẽ phát động trở lại cuộc chiến giành độc lập như trước đây.
Thứ hai, việc sử dụng quân đội để trấn áp các cuộc xung đột tôn giáo
sắc tộc gây nên những vấn đề phức tạp. Trong quá trình giải quyết xung đột
sắc tộc, tôn giáo, quân đội đã ngày càng trở nên quan trọng đối với chính phủ.
Lực lượng quân đội Indonesia đã giúp chính phủ phần nào giải quyết được
những mâu thuẫn nội bộ, trấn áp các lực lượng nổi dậy, góp phần ổn định tình
hình chính trị - xã hội của đất nước. Để biến quân đội thành chỗ dựa cho
mình, Chính phủ Indonesia duy trì và đảm bảo những đặc quyền, đặc lợi của
giới quân sự. Chính sách này, về cơ bản đã góp phần quan trọng vào việc ổn
định được tình hình chính trị - xã hội của đất nước. Tuy nhiên, để thực hiện
chính sách này, Chính phủ Indonesia phải san sẻ quyền lực cho giới quân sự,
làm cho quân đội đương nhiên trở thành một lực lượng chính trị mạnh và giới
tướng lĩnh cao cấp càng ngày càng trở nên chuyên quyền, đưa đến sự phản
ứng quyết liệt của nhiều tầng lớp xã hội.
Cho tới nay, giới quân sự vẫn còn nắm giữ quyền lực kinh tế và chính
trị nhất định, cho dù vai trò này của họ hiện nay đã suy giảm đáng kể so với
các thời kỳ trước. Tổng thống Susilo đã cố gắng loại dần vai trò của quân đội
124
trong chính phủ và làm cho trong Hội đồng tư vấn nhân dân và Nghị viện quốc
gia không còn đại diện của lực lượng quân đội và cảnh sát, tính chất dân sự đã
được biểu hiện rõ hơn trong các quyết sách của chính phủ. Đây là một thành
công lớn, song chưa triệt để, việc phế bỏ hoàn toàn quyền lực và ảnh hưởng của
quân đội trong các vấn đề chính trị vẫn là một việc làm khó khăn và lâu dài.
Cùng với quá trình tập trung quyền lực được thực hiện từ rất lâu, mạng lưới dày
đặc của các mối quan hệ quân đội - doanh nghiệp rất khó bị chia rẽ. Hơn nữa,
những yếu tố đặc trưng về sắc tộc, tôn giáo, địa hình... của Indonesia khiến cho
trong việc giải quyết nhiều vấn đề của nước này vẫn còn cần đến vai trò của
quân đội và lực lượng này vẫn phải được bố trí về mặt lãnh thổ trên khắp quần
đảo Indonesia. Điều này đã tạo nên một cơ cấu chính quyền song song với
chính phủ, cho phép quân đội hành động như một dạng cảnh sát bán quân sự
được địa phương hóa và kết cục, quân đội vẫn được sử dụng sức mạnh kép
như một lực lượng chính trị, nhất là trong các quá trình bầu cử.
Đây là vấn đề mà Chính phủ Indonesia cần tính đến để đảm bảo tính
hài hòa, phát huy sức mạnh tổng hợp trong giải quyết những cuộc xung đột
sắc tộc, tôn giáo, giữ vững ổn định chính trị xã hội đất nước, bảo vệ và củng
cố độc lập dân tộc.
Thứ ba, mặc dù trong những năm cải cách vừa qua, Inđônêxia đã đạt
được nhiều bước tiến trên con đường dân chủ, nhưng để đi đến một nền dân
chủ phát triển, Inđônêxia còn phải vượt qua nhiều thách thức, khó khăn và
cần khắc phục nhiều hạn chế, tồn tại. Đó là, những yếu kém trong hoạt động
của các đảng chính trị và các tổ chức xã hội dân sự (với việc các đảng phái
nhiều khi hoạt động vì lợi ích riêng của mình mà không phải vì lợi ích của
nhân dân, trong khi các tổ chức xã hội dân sự vẫn thiếu tính liên kết, thiếu
kinh phí hoạt động, nguồn nhân lực chưa tốt...) cũng là lý do khiến quá trình
dân chủ hóa ở Inđônêxia chưa mang lại hiệu quả như mong muốn. Bên cạnh
đó, việc các quyền cơ bản của người dân chưa được đảm bảo, tình trạng tham
125
nhũng còn phổ biến trong xã hội cũng là những rào cản đối với công cuộc cải
cách dân chủ của Inđônêxia hiện nay.
4.2. MỘT SỐ KINH NGHIỆM RÚT RA TỪ ỨNG PHÓ VỚI XUNG ĐỘT
SẮC TỘC, TÔN GIÁO Ở INDONESIA
4.2.1. Kinh nghiệm đối với các nước Đông Nam Á
Vấn đề dân tộc, tôn giáo luôn có vị trí quan trọng trong đời sống chính
trị - xã hội của mỗi quốc gia, nhất là ở các nước Đông Nam Á, nơi có đông
tộc người và đa dạng tôn giáo cùng sinh sống. Thực tiễn giải quyết xung đột
sắc tộc, tôn giáo của Indonesia giai đoạn 1991 - 2015, đưa lại những kinh
nghiệm quí cho các quốc gia Đông Nam Á trong việc giữ vững ổn định chính trị,
phát triển kinh tế cũng như trong công cuộc bảo vệ, củng cố độc lập dân tộc.
Thứ nhất, thực hiện các biện pháp phát triển kinh tế, giáo dục, xóa đói
giảm nghèo, thực hiện công bằng xã hội.
Từ phân tích những điểm tương đồng và khác biệt trong nguyên nhân
nảy sinh xung đột dân tộc, sắc tộc ở Indonesia và các quốc gia Đông Nam Á
cho thấy, một trong các nguyên nhân khiến các cuộc xung đột sắc tộc, tôn
giáo bùng nổ, đặc biệt là các cuộc xung đột sắc tộc, tôn giáo trong một quốc
gia là do vấn đề bất bình đẳng và bất công về kinh tế. Khi các nguồn lợi của
sự tăng trưởng kinh tế không được phân phối đều trong xã hội, giữa các dân
tộc, các cộng đồng sắc tộc thì sẽ dẫn đến sự phân hóa giàu nghèo, bất công
trong xã hội, kết hợp với sự bất công trong hệ thống giáo dục làm cho các
mâu thuẫn trong lòng xã hội nổi lên, lâu dần tích tụ và phát triển thành các
xung đột sắc tộc, tôn giáo. Do vậy, từ kinh nghiệm của Indonesia cho thấy, có
thể giải quyết được phần nào các cuộc xung đột sắc tộc, tôn giáo bằng cách
quan tâm đến việc giảm dần những bất bình đẳng và bất công về kinh tế tồn
tại trong xã hội. Cụ thể: chính phủ các nước cần chủ động tìm ra những giải
pháp phù hợp như thông qua phát triển kinh tế, giáo dục, xóa đói giảm nghèo
để giải quyết những bất bình đẳng và bất công. Chính phủ cần có chính sách
126
đảm bảo quyền tài nguyên thiên nhiên, quyền được hưởng lợi nhuận khai thác
của các dân tộc; phải có kế hoạch phát triển kinh tế cân đối, hài hòa giữa các
vùng miền; xây dựng các chương trình mục tiêu ở các vùng dân tộc ngoại vi
như chương trình xóa đói giảm nghèo, chương trình trồng rừng theo các dự
án, chương trình phát triển kinh tế - xã hội ở các vùng đặc biệt khó khăn; đảm
bảo quyền được lao động và có tài sản. Chính sách điều chỉnh lương có lợi
cho người lao động trực tiếp và trợ cấp về giáo dục và đào tạo cho những
người gặp nhiều khó khăn là một chính sách đem lại hiệu quả tốt, làm cho sự
chênh lệch về mức sống và thu nhập giữa các nhóm cộng đồng dân tộc thu
hẹp. Các chính phủ cần thi hành chính sách đoàn kết dân tộc theo hướng phát
triển kinh tế, nâng cao dân trí, tổ chức đời sống tiến bộ; phát huy tiềm năng,
thế mạnh của các vùng, của mỗi dân tộc. Chính sách xây dựng và cung cấp
nhà ở cho người dân với giá rẻ, các hộ gia đình thuộc các dân tộc khác nhau
cùng sống trong một khu chung cư với điều kiện, môi trường xã hội như nhau
nhằm giúp họ xóa bỏ được những mặc cảm, ngăn cách. Có chính sách ưu tiên
phát triển giáo dục và đào tạo ở các vùng dân tộc; bảo vệ và khẳng định
quyền ngôn ngữ dân tộc trong xã hội cũng như trong hệ thống giáo dục đào
tạo quốc dân. Chính sách cần quy định tất cả các học sinh ở độ tuổi đi học đều
được đến trường, không phân biệt dân tộc, tôn giáo,... và cần thêm những biện
pháp hữu hiệu nhằm giúp thế hệ trẻ gần gũi nhau và hòa nhập với nhau hơn...
Trong bối cảnh hiện nay, để giải quyết xung đột dân tộc, tôn giáo kinh
nghiệm từ Indonesia cho thấy, các quốc gia ở Đông Nam Á phải đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa; ứng dụng các thành tựu khoa học, công nghệ
để thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các dân tộc, khoảng cách giàu nghèo,
khoảng cách giữa trung tâm và ngoại vi, khoảng cách giữa các nước; giữ được
nhịp độ phát triển kinh tế cao, tránh được nguy cơ tụt hậu so với các khu vực
khác trên thế giới; hội nhập sâu hơn nữa vào nền kinh tế thế giới, hòa chung
vào dòng chảy toàn cầu hóa, mở rộng quan hệ giữa các nước...
127
Thứ hai, giải quyết tốt mối quan hệ dân tộc, tôn giáo với chính quyền
Các quốc gia Đông Nam Á đều có điểm tương đồng là đa tôn giáo, sắc
tộc, nên sự hài hòa của các sắc tộc, tôn giáo để không còn là nguyên nhân nảy
sinh xung đột không phải do tự nhiên mà có, do đó, Chính phủ phải coi trọng
công tác tôn giáo, dân tộc. Chính phủ phải chú ý giải quyết các mối quan hệ
tôn giáo, sắc tộc, tăng cường hướng dẫn tôn giáo, thông qua việc chế định
chính sách và để thực hiện công tác quản lý hoạt động tôn giáo. Chính phủ
cũng cẩn phải xử lý tốt mối quan hệ giữa dân tộc, tôn giáo và chính trị, tránh
để các mâu thuẫn tích tụ ngày một trầm trọng bùng phát thành xung đột rất
khó giải quyết. Ví dụ: việc thực hiện chủ trương đồng hóa văn hóa để xây
dựng quốc gia dân tộc thống nhất, chính phủ Indonesia đã chọn ngôn ngữ
chính thức là tiếng Bahasa Indonesia (tiếng của người Java đa số), đồng thời
thực hiện xóa bỏ hoặc hạn chế nền giáo dục truyền thống Hồi giáo của các
nhóm người thiểu số Phật giáo ở Tây Papua hay Aceh là một nguyên nhân
quan trọng khiến cho họ nổi dậy đấu tranh đòi quyền lợi, đòi ly khai. Rõ ràng
việc thừa nhận ngôn ngữ của một dân tộc nào đó làm ngôn ngữ chính thức
của quốc gia, trong con mắt của các dân tộc khác tức là thừa nhận những đặc
quyền đặc lợi của một dân tộc. Nó khoét sâu thêm sự bất bình về quyền bình
đẳng giữa các dân tộc, tộc người. Đa số xung đột sắc tộc, tôn giáo hiện nay ở
một số nước Đông Nam Á đều có sự chi phối của chính quyền trung ương hay
của bộ máy nhà nước nằm trong tay một dân tộc đa số, buộc các dân tộc thiểu
số bị thống trị phải tồn tại ngoài lề cộng đồng quốc gia. Nhân sự trong bộ máy
chính quyền ở các cấp từ trung ương đến địa phương thường mang tính chất
bè phái, cục bộ và thường dựa trên đa số áp đảo của dân tộc đa số. Ở
Indonesia, các đời tổng thống từ ngày đất nước này giành được độc lập đến
nay đều là người Java. Tổng thống có quyền hành cao nhất, có trách nhiệm
trước quốc hội và trên thực tế tổng thống điều hành bằng sắc lệnh. Tổng
thống kiểm soát các hoạt động của chính phủ và kiểm tra lực lượng vũ trang.
128
Tổng thống bổ nhiệm các bộ trưởng, các thống đốc. Tất cả các viên chức cao
cấp của nhà nước đều chịu trách nhiệm trước tổng thống. Dĩ nhiên phần lớn
các nhân sự cao cấp đều là người của tổng thống, người Java. Người ta không
nhận thấy một gương mặt cao cấp nào là người Tây Papua, người Aceh trong
bộ máy chính quyền qua các đời tổng thống [67, tr.85]. Thêm vào đó, biện
pháp đàn áp quân sự của chính phủ Indonesia đối với các cuộc xung đột sắc
tộc, tôn giáo là một trong những nguyên nhân khiến cho các cuộc xung đột
càng trở nên phức tạp, dai dẳng khó giải quyết. Kết quả của chính sách này có
thể nói là kém hiệu quả, thậm chí là thất bại.
Song, đây chính là những kinh nghiệm quý cho các nước Đông Nam Á
trong giải quyết xung đột, có nguyên nhân liên quan đến chính sách của chính
phủ. Kinh nghiệm của Indonesia cho thấy, việc giải quyết một cách khéo léo
mối quan hệ giữa dân tộc, tôn giáo với chính quyền có vai trò cực kỳ quan
trọng trong việc giải quyết các vấn đề xung đột sắc tộc và tôn giáo. Các chính
phủ cần phải thừa nhận sự đa dạng về văn hóa, tôn giáo và tôn trọng bản sắc
riêng của mỗi tộc người trong mỗi quốc gia, tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng
tôn giáo của mỗi người dân, đối xử bình đẳng giữa các tôn giáo, dân tộc và
đặc biệt là phải kiên trì nguyên tắc tách biệt giữa chính trị và tôn giáo. Giữa
tôn giáo và chính trị cần phải có sự khu biệt rạch ròi, các đoàn thể tôn giáo
không nên cuốn vào chính trị. Cần xây dựng nhà nước thế tục, xây dựng mối
quan hệ giữa nhà nước và các tổ chức tôn giáo trên cơ sở tự do tín ngưỡng ở
cả ba khâu: theo đạo, hành đạo và quản đạo; ổn định đời sống tôn giáo, hoạt
động tôn giáo và công tác tôn giáo; không bảo trợ một tôn giáo này lấn át một
tôn giáo khác. Nhà nước cần ban hành pháp luật tôn giáo, luôn duy trì và phát
triển xu hướng tôn giáo đồng hành với quốc gia dân tộc.
Kinh nghiệm của Indonesia cũng cho thấy, chính sách đàn áp các cuộc
xung đột sắc tộc, tôn giáo của chính quyền từ trước tới nay là kiên quyết,
thẳng tay và nhất quán, nhưng vẫn không giải quyết được xung đột. Rõ ràng
129
việc sử dụng bạo lực không giải quyết được vấn đề xung đột dân tộc, tôn
giáo, vấn đề li khai dân tộc. Do vậy, một trong những ưu tiên của chính phủ
các nước Đông Nam Á là phải giải quyết tốt mối quan hệ giữa dân tộc, tôn
giáo với nhà nước. Đây là một việc làm rất cần thiết và thường xuyên, trong
đó nhà nước phải có chính sách tôn trọng dân tộc, tôn giáo và quan tâm thực
sự đến công tác tôn giáo, dân tộc. Chính phủ các nước cũng phải tiến hành đối
thoại hòa bình kịp thời ngay từ khi có dấu hiệu mâu thuẫn trong nội bộ dân
tộc, tôn giáo hay liên quan đến chính quyền và ở một số quốc gia thông qua
đối thoại đã thu được kết quả khá tốt hoặc có bước tiến triển, hạn chế sự phức
tạp và phá vỡ được bế tắc, mang lại hòa bình cho mọi người.
Để giải quyết hiệu quả các cuộc xung đột sắc tộc, tôn giáo, chính phủ
các quốc gia Đông Nam Á cần tăng cường sự hợp tác như: phong tỏa
đường biển, kiểm soát chặt chẽ đường biên, hình thành một diễn đàn hợp
tác an ninh như kiểu ARF; Shangri-La, để cùng nhau ngăn chặn các xung
đột, bạo loạn hay khủng bố. Liệt kê những tổ chức như Phong trào Aceh tự
do (GAM); Mặt trận giải phóng Hồi giáo Moorro (MILF), Tổ chức giải
phóng Thống nhất Pattani PULO (Thái Lan),...vào danh sách những tổ
chức khủng bố. Từ đó hợp tác, thống nhất các biện pháp như không cấp
visa, trục xuất các thành viên lãnh đạo, phong tỏa tài chính, ngăn chặn
nguồn cung cấp từ bên ngoài, tiến tới cô lập hoàn toàn các tổ chức này. Có
thể chính phủ các nước Đông Nam Á không tán đồng quan điểm đánh đồng
xung đột dân tộc, tôn giáo với chủ nghĩa khủng bố và việc hợp tác nêu trên
cũng trái với nguyên tắc của ASEAN là không can thiệp vào công việc nội
bộ của nhau. Nhưng chính thái độ không dứt khoát với các xung đột trong
khu vực của chính phủ các nước Đông Nam Á đã làm xao lãng an ninh khu
vực, tạo điều kiện cho chủ nghĩa khủng bố, ly khai dân tộc phát triển. Nên
kinh nghiệm từ Indonesia cho thấy, chính phủ các nước Đông Nam Á cần
hợp tác cùng nhau tìm ra giải pháp thích hợp cho giải quyết xung đột, chứ
130
không phải cùng nhau xây dựng một thể chế độc tài bóp nghẹt dân chủ
trong vấn đề dân tộc và tôn giáo.
Thứ ba, các sắc tộc, tôn giáo phải thực hiện tăng cường đối thoại với
nhau để giải quyết những mâu thuẫn, xung đột, hạn chế những ảnh hưởng
tiêu cực đến từ bên ngoài.
Kinh nghiệm của Indonesia trong giải quyết xung đột về tôn giáo cho
thấy, các tôn giáo lớn như Hồi giáo, Thiên Chúa giáo… thường tự cho mình là
chính thống giáo, còn các tôn giáo khác đều là bàng môn tả đạo, cần phải loại
trừ, đây chính là một trong những nguyên nhân dẫn đến xung đột sắc tộc, tôn
giáo. Vì lý do đó, chính phủ ở các quốc gia Đông Nam Á cần tạo điều kiện cho
các tôn giáo nhận thức được vấn đề, tăng cường đối thoại để hiểu nhau, tìm ra
những điểm tương đồng, hay dị biệt giữa các tôn giáo, từ đó sửa chữa những
thông tin sai hay những cái nhìn méo mó của tín đồ về các tôn giáo khác. Theo
đó, các tôn giáo khác cũng hướng theo đối thoại hòa bình. Tất cả các quốc gia,
dân tộc, tổ chức tôn giáo trên thế giới nếu có những bất đồng nhưng có thiện chí
để tìm ra những bước đi phù hợp sẽ góp phần không nhỏ trong việc hạn chế sự
xung đột dân tộc, tôn giáo mang lại sự bình yên cho nhân loại.
Hiện nay, khi khủng bố quốc tế đã bị "xóa sổ" ở phương diện Nhà nước
(IS) tại Trung Đông, những chiến binh Hồi giáo "đầu quân" cho IS có nguồn
gốc từ Indonesia, Malaysia, Singapore, Thái Lan, nay trở về làm gia tăng
nguy cơ xung đột tôn giáo, khủng bố tại khu vực. Chiến binh Hồi giáo là
những trai tráng không có việc làm, cảm thấy tương lai mờ mịt và họ được
các tổ chức cực đoan giải thích rằng sở dĩ xã hội không tốt đẹp là do sự xâm
nhập của các chuẩn mực văn hóa xa lạ, đạo đức đồi bại… và họ sẽ được
hưởng đời sống vĩnh cửu ở thiên đường nếu chấp nhận hy sinh cho sự nghiệp
của đạo. Từ đó họ sẵn sàng khủng bố để tấn công khủng bố các kẻ thù của
đạo, họ được coi là các chiến binh "tử vì đạo" [86]. Nhận thức sâu sắc về
hiểm họa xung đột tôn giáo của chủ nghĩa khủng bố, các nước Đông Nam Á
131
đã tiến hành nhiều biện pháp ở cấp quốc gia và khu vực để trấn áp và đi tới
loại bỏ nguyên nhân này. Chính sách mà nhiều chính phủ Đông Nam Á đưa
ra là, chống "khủng bố mới" phải đi đôi với xây dựng nền "hòa bình mới", đó
là giảm phân nửa số người rất nghèo, bảo đảm giáo dục cấp tiểu học cho tất
cả trẻ em, nước sạch cho mọi gia đình và chặn đứng dịch AIDS vào năm 2015
như mục tiêu thiên niên kỷ đã đề ra [149]. Từ kinh nghiệm của Indonesia, đàn áp
vũ trang các băng nhóm khủng bố không phải là giải pháp đấu tranh duy nhất.
Chính phủ các nước Đông Nam Á đã dùng sách lược đàm phán, gây chia rẽ
trong băng nhóm khủng bố, dụ dỗ một số nhân vật chỉ huy, đẩy những đối tượng
cứng đầu vào phe thiểu số khi đó mới dùng biện pháp cứng rắn đè bẹp bằng vũ
lực [148]. Ngoài ra, phát biểu tại Hội nghị Bộ trưởng An ninh Indonesia
(8/2016) - Tướng Wiranto - nhấn mạnh: "Cần sử dụng công nghệ cao để ngăn
chặn các mạng lưới khủng bố sử dụng internet làm công cụ quảng bá, tuyển
dụng, tấn công mạng; truyền bá tư tưởng cực đoan cũng như cần phải tìm ra biện
pháp để ngăn chặn hiệu quả các nguồn tiền tài trợ cho khủng bố" [68].
Như vậy là, giải quyết xung đột sắc tộc, tôn giáo là một vấn đề toàn
cầu, cần phải có sự chung tay góp sức của cả nhân loại, của tất cả các quốc
gia và tổ chức quốc tế trên thế giới. Để giải quyết mâu thuẫn, nguồn gốc của
xung đột dân tộc, tôn giáo, nhiều quốc gia đã có những giải pháp theo tình
hình thực tế của mỗi nước. Những kinh nghiệm thành công cũng như không
thành công trong giải quyết xung đột sắc tộc, tôn giáo của Indonesia, đều rất
quý báu đối với các nước đa dân tộc, đa tôn giáo ở Đông Nam Á. Những kinh
nghiệm đó đã giúp các quốc gia Đông Nam Á giải quyết các xung đột sắc tộc,
tôn giáo trên lãnh thổ nước mình, góp phần đem lại môi trường an ninh, hòa
bình, hợp tác cùng phát triển cho khu vực.
4.2.2. Kinh nghiệm đối với Việt Nam
Việt Nam, tuy là một đất nước đa dân tộc, tôn giáo, việc giải quyết
xung đột dân tộc, tôn giáo cũng có những nét tương đồng như Indonesia và
132
các nước khác trong khu vực Đông Nam Á, nhưng tình hình dân tộc, tôn giáo
ở Việt Nam có thể nói là khá ổn định do có sự đoàn kết, hòa hợp cao và cũng
bởi Đảng, Nhà nước Việt Nam có những chủ trương, chính sách đúng đắn về
vấn đề dân tộc cũng như vấn đề tôn giáo. Tuy nhiên, những kinh nghiệm
thành công cũng như không thành công trong giải quyết xung đột sắc tộc, tôn
giáo của Indonesia đều là những bài học đáng trân trọng, có giá trị tham khảo
để chúng ta làm tốt hơn nữa trong thực hiện các chính sách dân tộc, tôn giáo.
- Một là, không được chủ quan, cần đẩy mạnh hơn nữa các chính sách
nâng cao đời sống, văn hóa tinh thần cho các dân tộc và tôn giáo, nhất là ở
vùng sâu, vùng xa biên giới, hải đảo.
Chúng ta không được chủ quan, vì Việt Nam là quốc gia đa tôn giáo và
đa dân tộc. Ở nước ta, trong những năm đầu thế kỷ XXI cũng từng xảy ra vụ
bọn phản động lưu vong bịa đặt ra cái gọi là Nhà nước Đề Ga độc lập và Tin
Lành Đề Ga ở Tây Nguyên nhằm tuyên truyền, kích động, gây xung đột sắc
tộc, tạo tiền đề cho sự chia rẽ, ly khai, gây mất ổn định an ninh chính trị, trật
tự an toàn xã hội. Lợi dụng chính sách tự do tín ngưỡng, tự do tôn giáo của
Nhà nước, một số phần tử phản động nhân danh những người Thiên chúa giáo
chân chính đã tìm cách tạo ra sự hiềm khích lương - giáo, giữa đa số người
dân không theo đạo với giáo dân ở một số khu vực, vùng miền. Các phần từ
này thường dùng chiêu bài đòi lại đất cũ của nhà thờ, hay cố tình tạo ra biến
cố xung đột với chính quyền địa phương bằng những hành động vi phạm pháp
luật, nội quy, trật tự nơi công cộng. Sở dĩ một số kẻ cố tình gây rối, bất chấp
pháp luật như vậy vì chúng tin rằng, có thể thông qua việc tạo ra những xung
đột tôn giáo, sắc tộc để những thế lực đứng đằng sau mượn cớ "tự do, nhân
quyền" lên án cái gọi là "đàn áp tôn giáo, sắc tộc" của Nhà nước ta. Bất chấp
đạo lý, bất chấp pháp luật, một số kẻ ngang nhiên dựng nhà trái phép trên khu
bảo tồn chứng tích tội ác chiến tranh khu tháp chuông nhà thờ Tam Tòa
(Đồng Hới - Quảng Bình) [150]; tụ tập trái phép gây mất trật tự công cộng và
133
đập phá tài sản một số cơ quan ở khu vực 42 Nhà Chung (Hà Nội), phá hoại
tài sản của Công ty may Chiến Thắng ở Thái Hà (Hà Nội) [55]; vụ xây
dựng trái phép cây thánh giá bằng bê tông, cốt thép trên đỉnh núi Chẽ (còn
gọi là núi Thờ) thuộc huyện Mỹ Đức (Hà Nội); hay vụ "xưng vua - lập
Vương quốc Mông" ở huyện Mường Nhé, tỉnh Điện Biên năm 2011 [145],
mục đích của các thế lực thù địch là tuyên truyền phản cách mạng, truyền
đạo trái pháp luật vào vùng đồng bào dân tộc thiểu số trên địa bàn, nhằm
gây rối, cố tình tạo xung đột với chính quyền địa phương... Rõ ràng, đó là
những hành động không phù hợp với tôn chỉ của bất cứ tôn giáo nào, đặc
biệt là của những người Thiên chúa giáo chân chính với mong ước "sống
phúc âm trong lòng dân tộc", cùng với cộng đồng xã hội xây dựng một
cuộc sống "tốt đời, đẹp đạo". Đó cũng chỉ là hành vi của một số phần tử
phản động, cố tình làm theo sự giật dây của các thế lực thù địch, nhằm tạo
ra những bất ổn xã hội.
Còn ở nửa sau thập niên thứ 2 của thế kỷ XXI, trong bối cảnh những
cuộc xung đột, chiến tranh sắc tộc, tôn giáo tại một số quốc gia Đông Nam Á
có chiều hướng tăng, một số lực lượng cực đoan tiến hành chính sách khủng
bố, đe dọa nền hòa bình và ổn định của khu vực, thì Việt Nam vẫn tự hào là
một quốc gia hòa bình không có xung đột, hiềm khích sắc tộc, tôn giáo. Có
thể nói, chưa bao giờ hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo lại sôi nổi, mạnh mẽ và
được quan tâm như hiện nay. Theo thống kê của Ban Tôn giáo chính phủ, tính
đến năm 2015, cả nước có 12 tôn giáo với trên 22 triệu tín đồ, 80 nghìn chức
sắc, nhà tu hành, 32 tổ chức và trên 25 nghìn nơi thờ tự. Sinh hoạt tín ngưỡng,
tôn giáo diễn ra sôi nổi và đang có chiều hướng gia tăng. Các lễ Nôen, lễ Phật
đản cũng như những lễ trọng khác của các tôn giáo và tín ngưỡng dân gian trở
thành ngày hội chung của toàn dân, lôi cuốn hàng vạn người tham gia. Nhu
cầu sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo chính đáng ấy được chính quyền các địa
phương tạo điều kiện đáp ứng. Việc xây dựng, sửa chữa, tu bổ nơi thờ tự diễn
134
ra khắp nơi. Nhiều chính quyền địa phương còn cấp đất cho giáo hội làm nơi
thờ tự, sinh hoạt tôn giáo [117].
Thực tế đó đã nói lên, Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn quan tâm,
chăm lo đời sống vật chất, tinh thần cho tín đồ tôn giáo, bảo đảm cho các tôn
giáo phát triển hài hòa, đồng hành cùng dân tộc. Giáo hội các tôn giáo khi
được Nhà nước công nhận tư cách pháp nhân đều được chính quyền các cấp
quan tâm và tạo thuận lợi để hoạt động tôn giáo bình thường trong khuôn khổ
luật pháp. Tại Việt Nam trong hơn 30 năm đổi mới đã chứng minh: tình hình
tôn giáo, tín ngưỡng về cơ bản ổn định; hệ thống quy phạm pháp luật về tôn
giáo, tín ngưỡng được bổ sung, hoàn thiện; công tác vận động quần chúng và
công tác quản lý nhà nước về tôn giáo, tín ngưỡng, về an ninh, trật tự ở cơ sở
ngày càng được chú trọng, hướng hoạt động theo phương châm "tôn giáo
đồng hành cùng dân tộc". Những năm gần đây, trung bình mỗi năm Nhà xuất
bản Tôn giáo cấp phép xuất bản hơn một nghìn ấn phẩm liên quan đến tôn
giáo, với hơn hai triệu bản in. Đặc biệt, Nhà nước Việt Nam đã quan tâm hỗ
trợ hoàn thành in ấn, xuất bản 30.000 cuốn Kinh thánh bằng các tiếng: Ba-na,
Ê-đê, Gia-rai; Kinh, sách Phật giáo Nam tông K’mer; Kinh thánh Tin lành
bằng tiếng Mông hệ chữ cái La-tinh và làm thủ tục xuất bản Kinh Cô-ran
song ngữ Việt Nam - Ả rập. Kinh sách của Phật giáo cũng đã được đưa vào
kế hoạch in ấn bằng tiếng K’mer… Việc mở trường đào tạo, bồi dưỡng chức
sắc tôn giáo luôn được Nhà nước Việt Nam tạo điều kiện thuận lợi. Hằng
năm, các tôn giáo đều cử tu sĩ đi học tập, hội thảo, trao đổi công việc liên
quan đến tôn giáo với các nước. Một số tu sĩ đã bảo vệ thành công luận văn
thạc sĩ, luận án tiến sĩ về tôn giáo ở nước ngoài [123].
Tuy nhiên, bên cạnh việc tôn trọng và bảo vệ quyền tự do tín ngưỡng
của công dân, chủ trương của Đảng, luật pháp của Nhà nước Việt Nam cũng
đồng thời nghiêm cấm và ngăn chặn mọi hành vi lợi dụng tôn giáo phá hoại
độc lập và đoàn kết dân tộc, chống phá chủ nghĩa xã hội, ngăn cản tín đồ làm
135
nghĩa vụ công dân; đấu tranh và xử lý nghiêm đối với mọi hành động lợi dụng
tín ngưỡng, tôn giáo làm tổn hại đến lợi ích của Tổ quốc và nhân dân. Chính
vì vậy, những kiểu "bàng môn, tả đạo", đội lốt tôn giáo để chống phá Nhà
nước, xúi giục nhân dân gây chia rẽ, mất đoàn kết dân tộc, lợi dụng lòng tin
của nhân dân để làm băng hoại đạo đức xã hội, vì mục đích cá nhân đen tối…
phải bị xử lý nghiêm minh theo pháp luật. Những năm gần đây, hàng loạt tà
đạo đã bị vạch trần như Đạo Hoa vàng, Long Hoa Di Lặc (ở Bắc Bộ); đạo
Vàng chứ (ở Tây Bắc); đạo Y-Gyin, Hà Mòn, Thanh Hải vô thượng sư, Canh
tân đặc sủng, Tin lành Đề ga (ở Tây Nguyên); Hội đồng công án Bia Sơn (ở
Phú Yên) [117] … Việc xử lý đó là việc làm hoàn toàn chính đáng, hợp pháp
nhằm bảo vệ an ninh trật tự, kỷ cương phép nước mà bất cứ quốc gia nào
cũng đều thực hiện để giữ vững ổn định xã hội, được nhân dân và hàng triệu
tín đồ tôn giáo chân chính hoan nghênh.
Kinh nghiệm giải quyết xung đột sắc tộc, tôn giáo của Indonesia còn
cho thấy, cần lưu ý đến tính đặc thù của các vùng mà ở đó có số dân theo tôn
giáo chiếm số lượng lớn tại lãnh thổ của một quốc gia láng giềng, liền kề với
mình có sự gần gũi về chủng tộc, ngôn ngữ, tôn giáo. Trong tâm thức của
nhóm dân cư này luôn coi nhau là những người bà con, những người anh em.
Nhưng lịch sử lại không cho họ có sự trùng khít về biên giới lãnh thổ quốc
gia. Ở những nơi này hay nảy sinh mâu thuẫn, nhất là khi có thế lực xấu lợi
dụng đặc điểm này làm cho việc giải quyết vấn đề dân tộc, tôn giáo phức tạp
hơn. Ở Việt Nam, vùng Tây Nam Bộ nơi có đông đồng bào K’mer sinh sống
và có "quốc gia K’mer" Campuchia láng giềng là mang đặc điểm này. Chính
vì vậy, trong những năm qua, Chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam
luôn quan tâm chăm lo đời sống vật chất, tinh thần cho tín đồ Phật giáo Nam
tông K’mer, bảo đảm cho họ phát triển hài hòa với đồng bào các dân tộc anh
em. Chúng ta cũng luôn quan tâm xây dựng, vun đắp tình đoàn kết hữu nghị
truyền thống giữa nhân dân hai nước Việt Nam - Campuchia. Nhân dân hai
136
nước Việt Nam và Campuchia luôn sát cánh cùng nhau hợp tác trên nguyên
tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp công
việc nội bộ của nhau, chân thành hỗ trợ nhau cùng phát triển. Campuchia
hòa bình, phát triển thịnh vượng trong khu vực Đông Nam Á ổn định và phát
triển cũng chính là lợi ích của Việt Nam. Bên cạnh đó, Việt Nam và
Campuchia cần cảnh giác, ngăn chặn kịp thời mọi âm mưu chống phá của
các thế lực thù địch cả bên trong và bên ngoài đã và đang sử dụng văn hóa
"bôi nhọ" và "vu khống" tìm cách xuyên tạc lịch sử của mối quan hệ đoàn
kết, hữu nghị truyền thống, cũng như âm mưu kích động chủ nghĩa dân tộc
hẹp hòi, kỳ thị dân tộc, phủ nhận sự thật về quan hệ đoàn kết chiến đấu giữa
hai nước. Một ví dụ sinh động cần nhắc đến là, cố Chủ tịch nước Trần Đại
Quang, năm 2016 đã dành chuyến công du nước ngoài đầu tiên đến thăm
Campuchia và giành thời gian đến thăm các đại tăng thống đứng đầu giáo
phái Phật giáo Tiểu thừa và Đại thừa của Campuchia, với mong muốn vun
đắp tình hữu nghị truyền thống của hai nước [1].
Đối với vấn đề dân tộc và công tác dân tộc, trong suốt quá trình lãnh
đạo cách mạng, Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn xác định: "Vấn đề dân tộc
và đoàn kết dân tộc luôn luôn có vị trí chiến lược trong sự nghiệp cách mạng
Việt Nam" và "Giải quyết đúng đắn vấn đề dân tộc là một nhiệm vụ có tính
chiến lược của cách mạng Việt Nam" [99, tr.166]. Hệ thống chính sách dân
tộc của Đảng và Nhà nước Việt Nam trong thời kỳ đổi mới gồm nhiều chính
sách lớn nhỏ, được thực hiện trên tất cả các lĩnh vực: chính trị, kinh tế, xã hội,
an ninh quốc phòng, môi trường...Trong đó, Việt Nam đặc biệt quan tâm
chăm lo đến công tác xóa đói giảm nghèo, thực hiện định canh định cư, phát
triển vùng kinh tế mới đối với đồng bào các dân tộc thiểu số ở vùng sâu, vùng
xa, biên giới, hải đảo. Ngày 4/4/2013, Thủ tướng Chính phủ đã ký ban hành
Quyết định 551/QĐ-TTg phê duyệt Chương trình 135 về hỗ trợ đầu tư cơ sở
hạ tầng, hỗ trợ phát triển sản xuất cho các xã đặc biệt khó khăn, xã biên giới,
137
xã an toàn khu, các thôn, bản đặc biệt khó khăn (gọi tắt là Chương trình 135)
[132]. Theo đó, Chương trình gồm 2 hợp phần chính: Hỗ trợ phát triển sản
xuất và đầu tư cơ sở hạ tầng (bao gồm cả duy tu bảo dưỡng các công trình sau
đầu tư). Về thời gian thực hiện: giai đoạn 2012 - 2015 tập trung nguồn lực
góp phần hoàn thành các chỉ tiêu, mục tiêu của Chương trình mục tiêu quốc
gia Giảm nghèo bền vững, tạo tiền đề để thực hiện mục tiêu cao hơn cho giai
đoạn 2016 - 2020.
Để cụ thể hóa chủ trương, chính sách dân tộc và vận dụng sáng tạo vào
hoàn cảnh cụ thể của từng địa phương, Việt Nam đã quan tâm đến việc nâng
cao năng lực tổ chức thực hiện của các cấp, các ngành để mang lại hiệu quả
cao; gắn phát triển kinh tế với xây dựng hệ thống chính trị. Chăm lo xây dựng
hệ thống chính trị cơ sở vùng dân tộc, tăng cường đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ
cán bộ dân tộc thiểu số. Thông qua đó, khắc phục tâm lý thụ động, ỷ lại trông
chờ sự bao cấp của Nhà nước, phát huy tính tích cực, sáng tạo của đồng bào các
dân tộc ở từng địa bàn vào quá trình phát triển sản xuất, nâng cao đời sống,
không để "dư địa" cho các thế lực xấu có thể xâm nhập, lợi dụng chống phá, bảo
vệ an ninh quốc phòng, môi trường sinh thái, tạo ra sự phát triển bền vững.
Ngoài ra, trong những năm đổi mới Việt Nam đã mở rộng quan hệ đối ngoại,
tăng cường hợp tác quốc tế trong lĩnh vực công tác dân tộc. Nguồn vốn ODA
của các nước, các tổ chức quốc tế và các tổ chức Phi chính phủ dành cho Việt
Nam đã có những đóng góp quan trọng trong phát triển cơ sở hạ tầng, kinh tế -
xã hội, góp phần tích cực trong công cuộc xóa đói giảm nghèo của cả nước nói
chung và khu vực đồng bào dân tộc thiểu số ở vùng sâu, vùng xa nói riêng.
Như vậy là, trên cơ sở thực tiễn tình hình dân tộc, tôn giáo tại Việt
Nam, tham khảo kinh nghiệm giải quyết vấn đề này của Indonesia và các
quốc gia Đông Nam Á khác, trong những năm đổi mới nước ta đã thực hiện
tốt công tác dân tộc, tôn giáo, không để xảy ra những xung đột lớn kéo dài,
gây mất ổn định chính trị, xã hội. Trong quá trình hội nhập quốc tế, Việt Nam
138
chủ động tuyên truyền, khẳng định chủ trương, chính sách dân tộc đúng đắn
của Đảng, Nhà nước đối với cộng đồng quốc tế; tranh thủ sự ủng hộ của cộng
đồng quốc tế, kiên quyết ngăn chặn các âm mưu lợi dụng các vấn đề dân tộc
của các thế lực thù địch hòng chống phá sự nghiệp cách mạng ở Việt Nam.
Hai là, Việt Nam cần xây dựng một nền an ninh nhân dân vững mạnh,
phát hiện sớm và ngăn chặn kịp thời các tư tưởng, hành động cực đoan, chăm
lo xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc, tôn giáo.
Trước tình hình biến động phức tạp của thế giới như thế, nhưng Việt
Nam vẫn tự hào là một quốc gia hòa bình không có xung đột, hiềm khích sắc
tộc, tôn giáo. Đây chính là kết quả của việc Việt Nam trong những năm qua
đã thực hiện tốt chính sách phát triển kinh tế - xã hội, mà trực tiếp là chính
sách dân tộc, tôn giáo, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân các
dân tộc, các tôn giáo, củng cố xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, thực
hiện thắng lợi công cuộc đổi mới, theo mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh. Thông qua việc thực hiện tốt chính sách dân
tộc, tôn giáo, chúng ta đã vô hiệu hoá được sự lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn
giáo của các thế lực thù địch. Thật vậy, chăm lo nâng cao đời sống vật chất
tinh thần của đồng bào các dân tộc, các tôn giáo chính là giải pháp quan
trọng, xét đến cùng có ý nghĩa nền tảng để vô hiệu hoá sự lợi dụng của kẻ thù.
Khi đời sống vật chất, tinh thần được nâng cao, đồng bào sẽ đoàn kết, tin
tưởng vào Đảng, Nhà nước, thực hiện tốt quyền lợi, nghĩa vụ công dân thì
không kẻ thù nào có thể lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo để chống phá cách
mạng Việt Nam. Tham khảo những kinh nghiệm thành công cũng như chưa
thành công của Indonesia trong giải quyết xung đột dân tộc, tôn giáo, trên cơ
sở thực tiễn nước mình, trong những năm qua Việt Nam đã tuân thủ những
vấn đề có tính nguyên tắc trong xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc theo tư
tưởng Hồ Chí Minh: xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân phải dựa trên nền
tảng khối liên minh công - nông - trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng. Thực
139
hiện đại đoàn kết phải rộng rãi, lâu dài. Mở rộng, da dạng hoá các hình thức
tập hợp nhân dân, nâng cao vai trò của Mặt trận và các đoàn thể nhân dân.
Kiên quyết đấu tranh loại trừ nguy cơ phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc.
Để có thế trận an ninh nhân dân vững mạnh, Việt Nam quan tâm phát
huy vai trò của cả hệ thống chính trị. Chúng ta vận động, phát huy vai trò của
những người có uy tín trong các dân tộc, tôn giáo cùng tham gia xây dựng hệ
thống chính trị ở cơ sở vùng dân tộc, vùng tôn giáo. Thực hiện chính sách ưu
tiên trong đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng đội ngũ cán bộ cả cán bộ lãnh đạo quản
lí và cán bộ chuyên môn kỹ thuật, giáo viên là người dân tộc thiểu số, người
có tôn giáo Bởi đây là đội ngũ cán bộ sở tại có rất nhiều lợi thế trong thực
hiện chính sách dân tộc, tôn giáo. Đổi mới công tác dân vận vùng dân tộc, tôn
giáo theo phương châm: chân thành, tích cực, thận trọng, kiên trì, vững chắc;
sử dụng nhiều phương pháp phù hợp với đặc thù từng dân tộc, từng tôn giáo.
Thế trận an ninh nhân dân giúp chúng ta phát hiện từ sớm, từ xa, ngăn
chặn kịp thời những tư tưởng, hành động cực đoan lợi dụng vấn đề dân tộc,
tôn giáo chống phá cách mạng Việt Nam của các thế lực thù địch. Chính
quyền cơ sở cần thường xuyên vạch trần bộ mặt phản động của kẻ thù để
nhân dân nhận rõ và không bị mắc lừa. Đồng thời, vận động, bảo vệ đồng bào
các dân tộc, tôn giáo để đồng bào tự vạch mặt bọn xấu cùng những thủ đoạn
xảo trá của chúng. Việt Nam cũng đã phát huy tốt vai trò của các phương tiện
thông tin đại chúng trong cuộc đấu tranh này.
Hiện nay, các thế lực thù địch lợi dụng những kênh truyền hình trên
internet, hàng ngàn trang web và mạng xã hội để xuyên tạc chủ trương, đường
lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; tuyên truyền, cổ vũ giá trị
dân chủ tư sản, tuyệt đối hóa tính toàn cầu, tính phổ cập của quyền con người
với luận điệu: "nhân quyền cao hơn chủ quyền"; "lợi ích cá nhân cao hơn lợi
ích cộng đồng, quốc gia". Đồng thời, xuyên tạc, bóp méo những hạn chế, yếu
kém trong quản lý xã hội, những sơ hở, thiếu sót trong thực hiện chính sách,
140
pháp luật hoặc những vụ việc phức tạp nảy sinh trong lĩnh vực dân tộc, tôn
giáo nhằm vu cáo Nhà nước vi phạm dân chủ, nhân quyền, đàn áp dân tộc,
tôn giáo, tạo cớ để bên ngoài can thiệp. Thông qua internet, mạng xã hội, các
thế lực thù địch đẩy mạnh các chiến dịch "phá hoại tư tưởng", kích động, lôi
kéo nhân dân tham gia biểu tình, gây mất an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã
hội, hạ thấp uy tín Việt Nam trên trường quốc tế. Trước thực trạng trên,
những năm qua, Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương, chính sách chỉ đạo công
tác bảo vệ an ninh mạng và phòng, chống hoạt động lợi dụng internet, mạng
xã hội chống phá nước ta, như: Chỉ thị 28-CT/TW, ngày 16-9-2013 của Ban
Bí thư (khóa XI) "Về tăng cường công tác đảm bảo an toàn thông tin mạng";
Chỉ thị 15/CT-TTg, ngày 17-6-2014 của Thủ tướng Chính phủ "Về tăng
cường công tác bảo đảm an ninh và an toàn thông tin mạng trong tình hình
mới"; Luật An toàn thông tin mạng năm 2016 và mới đây nhất là Luật An ninh
mạng [40]. Ban Tuyên giáo Trung ương đã tăng cường chỉ đạo, nâng cao hiệu
quả công tác quản lý báo chí, xuất bản, internet; xác định rõ trách nhiệm của cơ
quan chủ quản trong đấu tranh, phản bác các thông tin và luận điệu sai trái, âm
mưu, hoạt động lợi dụng internet, mạng xã hội để chống phá Đảng, Nhà nước.
Không chỉ có vậy, các cơ quan chuyên trách còn chủ động, nhạy bén, ứng dụng
những thành tựu khoa học kỹ thuật vào việc nắm tình hình, nghiên cứu, dự báo,
phát hiện kịp thời âm mưu, thủ đoạn, đặc biệt là phương thức hoạt động mới của
các thế lực thù địch trên không gian mạng. Việc phát hiện phải bảo đảm từ xa, từ
bên ngoài, từ trung tâm của chúng để tham mưu đúng, trúng và kịp thời triển
khai các biện pháp nhằm phòng ngừa, đấu tranh, ngăn chặn hiệu quả việc lợi
dụng internet, mạng xã hội chống phá nước ta. Tổ chức tốt phong trào toàn dân
bảo vệ an ninh Tổ quốc, vận động quần chúng nhân dân tích cực tham gia phòng
ngừa, phát hiện và kiên quyết đấu tranh với các đối tượng chống phá.
Ngoài ra, chúng ta cần quan tâm đầu tư, trang bị các phương tiện, thiết
bị và áp dụng những thành tựu khoa học kỹ thuật hiện đại nhằm phục vụ hiệu
141
quả công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm trên không gian mạng. Từ kinh
nghiệm của Indonesia, Việt Nam cần chú trọng hơn nữa công tác vận động,
tranh thủ sự ủng hộ của các cá nhân, tổ chức quốc tế, đặc biệt là các chính
khách nhằm tạo sức mạnh tổng hợp, phòng ngừa, đấu tranh có hiệu quả với
hoạt động lợi dụng không gian mạng, lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo chống
phá nước ta.
Tiểu kết chương 4
Xung đột sắc tộc, tôn giáo ở Indonesia giai đoạn 1991- 2015 có một số
đặc điểm rất đáng chú ý. Về bản chất, phần lớn các cuộc xung đột đó là xung
đột lợi ích giữa các cộng đồng dân cư khác nhau về sắc tộc, tôn giáo, giữa
chính phủ và cư dân ở những tình vùng sâu, vùng xa, giàu có về tài nguyên
thiên nhiên, nhưng lại ít được hưởng lợi từ sự phát triển của đất nước. Các
cuộc xung đột sắc tộc, tôn giáo ở Indonesia có nhiều điểm tương tự như các
cuộc xung đột cùng loại ở Nam Thái Lan, Nam Philippines về nguyên nhân,
về mục tiêu và hình thức thể hiện sự xung đột. Tuy nhiên, khác với xung đột
ở 4 tỉnh miền Nam, Thái Lan, xung đột ở Indonesia là xung đột giữa những
người cùng chủng tộc Mã Lai. Địa bàn diễn ra các cuộc xung đột sắc tộc, tôn
giáo rất cách xa nhau chứ không tập trung vào một địa bàn duy nhất như
trong truồng hợp ở Thái lan và Philippines.
Quá trình đấu tranh giải quyết xung đột sắc tộc, tôn giáo của chính
phủ Indonesia đã đạt được những thành tựu quan trọng. Đó là chặn đứng được
đà li khai sau khi Đông Timo tách khỏi Indonesia, là thiết lập lại sự ổn định
chính trị- xã hội tạo tiền đề cho kinh tế Indonesia tăng trưởng lên tục trong
những năm vừa qua.
Từ quá trình giải quyết xung đột, chính phủ Indonesia đã có thêm
những kinh nghiệm, những bài học tốt trong quản trị cả ở cấp độ quốc gia, lẫn
cấp độ địa phương.
142
Tuy nhiên cuộc đấu tranh giải quyết xung đột sắc tộc tôn giáo ở
Indonesia cũng bộc lộ nhiều hạn chế lớn. Cho tới nay, xung đột sắc tộc tôn
giáo, sắc tộc vẫn diễn ra ở một số địa phương, tuy quy mô và mức độ nghiêm
trọng đã giảm xuống. Việc sử dụng quân đội để trấn áp xung đột đã và đang
tạo cơ hội cho quân đội Indonesia tái lập lại vai trò kép, vốn đã bị loại bỏ sau
khi chế độ độc tài, quân phiệt của Suharto bị sụp đổ.
Xung đột sắc tộc tôn giáo ở Indonesia có nhiều điểm tương đồng,
nhưng cũng có những khác biệt rõ rệt so với các xung đột sắc tộc, tôn giáo ở
các nước khác ở Đông Nam Á. Do vậy, quá trình ứng phó với xung đột sắc
tộc, tôn giáo của chính phủ Indonesia có thể cung cấp nhiều kinh nghiệp bài
học tốt không chỉ cho các nước Đông Nam Á, nói chung, cho Việt Nam, nói
riêng. Bài học quan trọng nhất cho cả Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam, là
phải lôi cuốn được tất các sắc tộc, tôn giáo vào quá trình xây dựng quốc gia -
dân tộc. Sự lôi cuốn đó không phải bằng cách áp đặt các thể chế chính trị - xã
hội thế tục lên tất cả các cộng đồng sắc tộc, tôn giáo mà bằng cách khai thác
và phát huy các thể chế chính trị truyền thống của các sắc tộc, tôn giáo, phù
hợp và đáp ứng tốt các yêu cầu của quá trình xây dựng quốc gia - dân tộc,
không phân biệt tầm cỡ và loại hình tôn giáo mà các sắc tộc theo đuổi. Bài
học lớn thứ hai là xây dựng được những chiến lược phát triển không chỉ bền
vững mà cả đồng đều để tất cả các cộng đồng sắc tộc, tôn giáo có thể được
thụ hưởng một cách công bằng các kết quả phát triển chung của đất nước.
143
KẾT LUẬN
1. Xung đột sắc tộc, tôn giáo không phải là hiện tượng mới và chỉ xuất
hiện ở Indonesia sau khi Chiến tranh Lạnh kết thúc. Trong lịch sử xây dựng
và phát triển quốc gia - dân tộc của nước này, hiện tượng trên đã diễn ra khá
phổ biến, ít nhất là từ sau khi Indonesia giành được độc lập dân tộc từ tay
thực dân Hà Lan.
2. Dưới sự cai trị của chế độ độc tài, quân phiệt do tướng Suharto đứng
đầu (1965- 1998), các cuộc xung đột sắc tộc, tôn giáo ở Indonesia đã được đặt
trong vòng kiểm soát. Nhờ đó, mục tiêu xây dựng quốc gia "Thống nhất trong
đa dạng" được hiện thực hóa. Hệ tư tưởng "Pancasila" được tất cả các cộng
đồng sắc tộc, tôn giáo ở Indonesia chấp nhận là hệ tư tưởng quốc gia, dù có
thể chỉ là miễn cưỡng đối với các cộng đồng sắc tộc, tôn giáo có truyền thống
lịch sử phát triển lâu dài với hệ tư tưởng và bản sắc văn hóa riêng.
Bước vào thời kỳ Sau Chiến tranh Lạnh, đặc biệt là từ khi chế độ "Trật
tự mới" sụp đổ (9/1998), các cuộc xung đột tôn giáo, sắc tộc đã bùng phát trở
lại ở Indonesia, tạo nên mối đe dọa nghiêm trọng đối với độc lập dân tộc và
toàn vẹn lãnh thổ của nước này. Ngoài sự thay đổi quyền lực ở cấp độ quốc
gia, nhiều nhân tố khác đã tác động tới sự nổi dậy của nhiều cộng đồng sắc
tộc, tôn giáo ở Indonesia.
Về phương diện lý luận, đó là khát vọng độc lập, chủ quyền và ý thức
ngày càng sâu sắc về quyền tự quyết dân tộc, tự do tôn giáo, bảo tồn bản sắc
văn hóa của các cộng đồng sắc tộc đó. Những biến đổi trong bản đồ chính trị
thế giới với sự xuất hiện của hàng chục quốc gia mới trên lãnh thổ của Liên
xô, Tiệp khắc, Nam Tư trước đây là một nhân tố khách quan quan trọng làm
trỗi dậy tinh thần và ý chí li khai khỏi Indonesia của các cộng đồng sắc tộc,
tôn giáo lớn ở Indonesia, đặc biệt là Đông Timor, Aceh và Tây Papua …
Môi trường chính trị, văn hóa thế giới phức tạp do sự xuất hiện và lan
truyền tư tưởng bài xích tôn giáo, đặc biệt là Đạo Hồi, của các phần tử sô
144
vanh chủng tộc, tôn giáo ở các nước Âu - Mỹ và sự phản ứng của của các lực
lượng Hồi giáo cực đoan quốc tế được phản ánh rõ nhất qua cuộc đánh bom
nhằm vào nước Mỹ ngày 11/9/2001 là một nhân tố khách quan khác thúc đẩy
sự bùng phát trở lại phong trào khi khai ở Indonesia.
Về chủ quan, vị trí địa lý đặc thù, tầm quan trọng địa chiến lược, sự đa dạng
về sắc tộc, tôn giáo, vốn là những tiền đề thuận lợi cho sự nảy sinh xung đột sắc
tộc, tôn giáo vẫn tiếp tục là các nhân tố tác động tới xung đột tôn giáo, sắc tộc ở
Indonesia giai đoạn 1991-2015. Ngoài ra, sự quá độ sang nền dân chủ đa nguyên
ở nước này cũng tạo cơ hội cho các lực lượng ly khai hoạt động trở lại.
3. Xung đột sắc tộc, tôn giáo đã xảy ra trên khắp lãnh thổ Indonesia và
phát triển thành các phong trào ly khai, nhất là ở Đông Timo, Aceh, Tây
Papua và Sulawesi. Nền độc lập dân tộc, toàn vẹn lãnh thổ của Indonesia bị
đe dọa nghiêm trọng, do các phong trào này đều theo đuổi mục tiêu tách khỏi
Indonesia, để trở thành các quốc gia độc lập..
4. Để giữ vững độc lập dân tộc và sự toàn vẹn lãnh thổ của mình, các
nội các kết tiếp nhau ở Indonesia đã thực hiện đồng thời nhiều giải pháp cả
ngắn hạn và trung hạn. Các biện pháp ngắn hạn bao gồm trấn áp và đàm phán
nhằm đáp ứng các yêu sách của các cộng đồng sắc tộc, tôn giáo đang nổi dậy,
trừ yêu sách ly khai khỏi nước Cộng hòa. Còn các biện pháp dài hạn là tiến
hành cải cách chính trị: sửa đổi luật bầu cử, trao quyền cho các địa phương và
điều chỉnh chiến lược phát triển theo hướng bền vững và đồng đều nhằm giải
quyết các nguyên nhân gốc rẽ của xung đột sắc tộc, tôn giáo.
5. Về bản chất, xung đột sắc tộc, tôn giáo ở Indonesia không phải là
xung đột giữa các sắc tộc hay cộng đồng tôn giáo ở nước này. Nó chỉ có vẻ
ngoài như vậy mà thôi. Nguyên nhân thật sự đằng sau các cuộc xung đột đó là
những mâu thuẫn lợi ích về chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa giữa các cộng
đồng sắc tộc và tôn giáo đó. Những mâu thuẫn này nảy sinh từ những sai lầm
trong quản trị ở cấp độ quốc gia cũng như ở cấp độ địa phương.
145
6. Quá trình đấu tranh bảo vệ và củng cố độc lập dân tộc của Indonesia
thông qua giải quyết với các xung đột sắc tộc, tôn giáo đã đạt được những
thành quả vô cùng quan trọng. Việc chặn đứng được đà ly khai, không để kịch
bản "Ban căng hóa" Indonesia có cơ hội hiện thực hóa là thành quả lớn nhất
và căn bản nhất. Nhờ đó, tình chính trị ở Indonesia dần trở lại ổn định tạo cơ
hội cho kinh tế Indonesia phát triển mạnh trong mấy năm gần đây. Một thành
tựu khác không kém tầm quan trọng là những kinh nghiệm, những bài học mà
chính phủ Indonesia có thê rút ra từ chính quá trình giải quyết xung đột sắc
tộc, tôn giáo ở nước họ.
7. Bên cạnh những thành tựu trên, quá trình giải quyết xung đột sắc tộc,
tôn giáo ở Indonesia cũng còn không ít hạn chế. Những cuộc xung đột lớn đã
được khắc phục, nhưng những xung đột nhỏ, ít có khả năng đe dọa độc lập
dân tộc của Indonesia vẫn xảy ra, nhất là trong các dịp bầu cử các cơ quan
quyền lực ở cấp trung ương hay địa phương. Điều này là khó tránh khỏi vì đặc
thù lãnh thổ, dân tộc và tôn giáo của Indonesia. Đó là chưa kể một số phần tử
trong quân đội và cảnh sát Indonesia cố tình kéo dài xung đột để trục lợi kinh tế
hoặc chứng tỏ tầm quan trọng của họ trong an ninh nội địa của đất nước.
Hạn chế lớn thứ hai nảy sinh từ việc sử dụng quân đội vào trấn áp các
cuộc nổi dậy có màu sắc sắc tộc, tôn giáo. Vai trò "kép" của quân đội
Indonesia, vốn đã bị xóa bỏ sau sự sụp đổ của chế độ quân phiệt Suharto,
đang có nguy cơ được tái lập lại.
8. Là những quốc gia Đông Nam Á đa sắc tộc, đa tôn giáo, các xung
đột sắc tộc, tôn giáo ở Indonesia có nhiều điểm tương đồng cả về nguyên
nhân, mục tiêu và hình thức thể hiện với các cuộc xung đột sắc tộc tôn giáo ở
Thái lan, Myanmar hay Philippines. Tuy nhiên, xung đột ở Indonesia có những
khác biệt rõ rệt. Đó là: các cuộc xung đột ở Indonesia chủ yêu là xung đột giữa
những người có chung nguồn gốc chủng tộc Mã lai, ngôn ngữ Mã lai; sự khác
biệt giữa họ chỉ là thờ phụng đạo Hồi hay đạo Thiên chúa mà thôi.
146
9. Nghiên cứu quá trình giải quyết xung đột sắc tộc, tôn giáo ở
Indonesia có thể rút ra nhiều kinh nghiệm hữu ích cho các nước Đông Nam
Á, trong dó có Việt Nam, khi phải ứng phó với các xung đột tương tự như ở
Indonesia. Kinh nghiệm quan trọng nhất là quá trình xây dựng Quốc gia- Dân
tộc thành công hay thất bại ở một nước tùy thuộc vào việc chính phủ các nước
đó có thể lôi cuốn được sự tham gia của tất cả các sắc tộc, bất kể là đa số, hay
thiểu số, các cộng đồng tôn giáo, không phân biệt họ là tín đồ của Thiên chúa
giáo, Hồi giáo, Phật giáo, hay không. Sự lôi cuốn đó phải là kết quả của quá
trình xây dựng ý thức quốc gia- dân tộc, của cảm nhận thuộc về quốc gia mà
các sắc tộc đó đang sinh sống và phát triển chứ không phải là sự áp đặt hệ tư
tưởng, các chuẩn mực về đạo đức và giá trị của dân tộc đa số lên các sắc tộc
thiểu số.
Một bài học quan trọng khác là phải xây dựng được một chiến lược
phát triển phù hợp với thực tế của đất nước không chỉ về địa hình, lãnh thổ,
kết cấu sắc tộc, tôn giáo mà cả trình độ phát triển của các cộng đồng dân cư ở
các vùng miền khác nhau của đất nước. Chiến lược đó phải là chiến lược phát
triển bền vững và đồng đều, có khả năng duy trì nguồn tài nguyên thiên nhiên
của đất nước và tạo cơ hội cho mọi người dân, không phân biệt sắc tộc, tôn
giáo, được thụ hưởng công bằng các thành tựu phát triển của đất nước.
147
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ
1. Thái Văn Long, Trần Văn An (2017), "Về tiêu chí đánh giá việc xử lý
mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và chủ động, tích cực hội nhập
quốc tế", Tạp chí Cộng sản, (898).
2. Nguyễn Hữu Cát, Trần Văn An (2018), "Quan hệ giữa một số nước lớn
xung quang vấn đề Nhà nước Hồi giáo tự xưng IS", Tạp chí Nghiên
cứu châu Phi và Trung Đông, (08).
3. Trần Văn An (2019), "Xung đột sắc tộc và tôn giáo ở Cộng hòa
Indonesia giai đoạn 1991-2015", Tạp chí Nghiên cứu châu Phi và
Trung Đông, (02).
148
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Thu An (2016), "Việt Nam hòa bình trong cuộc chiến xung đột sắc tộc
tôn giáo trên thế giới", Tạp chí Đông Nam Á, (18).
2. Kim Anh (2006), "Giảm tỷ lệ hộ nghèo ở Tây Nguyên, Tây Bắc và Tây
Nam bộ", tại trang https://www.tienphong.vn/xa-hoi/giam-ty-le-ho-
ngheo-o-tay-nguyen-tay-bac-va-tay-nam-bo-1057006.tpo, [truy nhật
ngày 01/12/2018].
3. Lê Vân Anh, Nguyễn Văn Tận (2005), Lịch sử Đông Nam Á từ sau chiến
tranh thế giới thứ hai đến nay (1945 - 1999), Nxb Giáo dục, Hà Nội.
4. Vũ Thị Vân Anh (2004), Indonesia với hợp tác Á - Âu, Đề tài nghiên cứu
khoa học cấp bộ, Viện nghiên cứu Đông Nam Á, Hà Nội.
5. D.N.Aidich (1959), Xã hội Indonesia và cách mạng Indonesia, Nxb Sự
thật, Hà Nội.
6. D.N.Aidich (1964), Cách mạng Indonesia và nhiệm vụ cấp bách của
Đảng Cộng sản Indonesia, Nxb Sự thật, Hà Nội.
7. Bách khoa toàn thư mở Wikipedia, "Chính trị Indonesia" tại trang
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ch%C3%ADnh_tr%E1%BB%8B_Ind
onesia, [truy cập ngày 15/12/2018].
8. Ban Nghiên cứu Đông Nam Á (2015), Tư liệu về chính sách đối ngoại
của Indonesia, Hà Nội.
9. Ban Tuyên giáo Trung ương (2019), "Xung đột dân tộc, tôn giáo ở một
số nước và giải pháp", tại trang http://tcnn.vn/news/detail/
6330/Xung_dot_dan_toc_ton_giao_o_mot_so_nuoc_va_giai_phapa
ll.html, [truy cập ngày 21/9/2018].
10. Đỗ Thanh Bình (1999), Con đường cứu nước trong đấu tranh giải phóng
dân tộc của một số nước châu Á, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.
11. Đỗ Thanh Bình (2006), Lịch sử phong trào giải phóng dân tộc trong thế
kỷ XX - Một cách tiếp cận, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội.
149
12. Bộ Công an (1999), Indonesia và vấn đề Đông Timo, Hà Nội.
13. Bộ Ngoại giao, Vụ ASEAN (1998), Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
14. Bộ Ngoại giao (2015), Tuyên bố về sự Hoà hợp ASEAN II, Hà Nội.
15. Bộ Quốc phòng Mỹ (2005), Báo cáo tường trình của Bộ Quốc phòng Mỹ
thì trong năm 2004 hơn 80% dầu nhập vào Trung Quốc phải đi qua
eo biển Malacca, Mỹ.
16. Jean Bruhat (1976), Lịch sử Indonesia, Nxb Đại học Pháp, P.U.F.
17. Nguyễn Đình Chính (2004), Ảnh hưởng của Hồi giáo trong nền chính trị
Indonesia từ 1945 đến nay, Luận văn thạc sĩ Lịch sử, Trường Đại
học Khoa hội và xã hội nhân văn, Hà Nội.
18. Nguyễn Đình Chính (2008), "Biểu tình đốt phá thánh đường Hồi giáo
Indonesia", tại trang VNEXPRESS. Tin nhanh Viet Nam, [truy cập
ngày 29/12/2018].
19. C.J.Christie (2000), Lịch sử Đông Nam Á hiện đại, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
20. Chương trình phát triển của Liên hợp quốc (2000), Báo cáo phát triển
con người 1999, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
21. Chương trình phát triển của Liên hợp quốc (2000), Báo cáo phát triển
con người 1999, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
22. Chương trình phát triển của Liên Hợp Quốc (2001), Báo cáo phát triển
con người 2000, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
23. Ngô Văn Doanh (1993), Indonesia, đất nước - con người, Nxb Thông
tin, Hà Nội.
24. Ngô Văn Doanh (1994), Tâm lý hướng tới sự "Thống nhất trong đa
dạng" của người Indonesia, Tìm hiểu lịch sử - văn hoá Đông Nam Á
hải đảo, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.
25. Ngô Văn Doanh (1995), Indonesia những chặng đường lịch sử, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
150
26. Ngô Văn Doanh, Cao Xuân Phổ, Trần Thị Lý (2000), Nghệ thuật Đông
Nam Á, Nxb Lao động, Hà Nội.
27. Hạnh Dung (2002), "Đông Timor: quá khứ và hiện tại", tại trang
https://vnexpress.net/the-gioi/dong-timor-qua-khu-va-hien-tai-
2055913.html, [truy cập ngày 10/3/2019].
28. Trần Tú Dung (1999), "Bước đầu tìm hiểu thích ứng văn hóa cộng đồng
dân tộc Hoa ở Indonesia trong gần 30 năm qua", Tạp chí Địa lý
nhân văn, (14).
29. Phạm Đức Dương (2013), Lịch sử - văn hoá Đông Nam Á, Nxb Văn hóa
thông tin, Hà Nội.
30. Dư Xuân Dương (2016), "Chỉnh hợp chính trị ở các nước đa dân tộc
đang phát triển: điểm chung, khó khăn và cách hóa giải - trên cơ sở
so sánh giữa Indonesia và Nigeria", Báo Đại học Dân tộc Tây Nam,
(kỳ thứ 7).
31. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ VII, Nxb Sự thật, Hà Nội.
32. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
33. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
34. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
35. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
36. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
37. Nguyễn Điền (1997), Công nghiệp hoá nông nghiệp, nông thôn các nước
châu Á và Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
151
38. Thăng Điệp (2018), "Kinh tế Indonesia chính thức cán mốc nghìn tỷ
USD", tại trang http://vneconomy.vn/kinh-te-Indonesia-chinh-thuc-
can-moc-nghin-ty-usd-20180103205750886.htm, [truy cập ngày
4/01/2018].
39. Đỗ Đức Định (1994), Kinh tế các nước ASEAN, Nxb Khoa học xã hội,
Hà Nội.
40. Hữu Đoàn (2018), "Mấy giải pháp phòng chống hoạt động lợi dụng
internet mạng xã hội chống phá Việt Nam", tại trang
http://tapchiqptd.vn/vi/phong-chong-dbhb-tu-dien-bien-tu-chuyen-
hoa/may-giai-phap-phong-chong-hoat-dong-loi-dung-internet-
mang-xa-hoi-chong-pha-viet-nam/12644.html, [truy cập ngày
11/2/2019].
41. Phạm Văn Đức (2003), "Tác động của sự mất ổn định Indonesia đối với
Đông Nam Á", Khoa học Quân sự, (8).
42. D.G.E. Hall (1997), Lịch sử Đông Nam Á, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
43. Nguyễn Văn Hà (1995), "Cải cách kinh tế ở Indonesia từ đầu thập kỷ
80", Nghiên cứu Đông Nam Á, (3).
44. Nguyễn Văn Hà (1999), "Tác động xã hội của khủng hoảng tài chính ở
Indonesia", Nghiên cứu Đông Nam Á, (5), tr.75-76.
45. Phương Hà (2003), "Phát triển hợp tác khu vực", Báo Nhân dân, thứ 7,
ngày 7/6/2003.
46. Nguyễn Thị Phương Hạnh (2017), "Diễn biến mới về bạo lực ở Đông
Nam Á, dữ liệu từ địa phương cho thấy", tại trang https://
cvdvn.net/2017/12/01/dien-bien-moi-ve-bao-luc-o-dong-nam-a-du-
lieu-tu-dia-phuong-cho-thay/, [truy cập ngày 01/12/2018].
47. Châu Thị Hải (1999), "Làm thế nào để huy động nguồn lực kinh tế người
Hoa cho sự phát triển của ASEAN", Nghiên cứu Đông Nam Á, (35),
tr.17-25.
152
48. Châu Thị Hải (2001), "Người Hoa ở Indonesia với cuộc khủng hoảng tài
chính - tiền tệ", Nghiên cứu Đông Nam Á, (46), tr.38-42.
49. Nguyễn Thanh Hải (2006), "Bối cảnh ra đời và xu thế phát triển của các
đảng chính trị Hồi giáo ở Đông Nam Á, trường hợp Indonesia và
Malaisia", Nghiên cứu Đông Nam Á, (6).
50. Phạm Hảo (2007), Một số giải pháp góp phần ổn định và phát triển Tây
Nguyên hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
51. Trương Thị Thanh Hiền, Vũ Thị Hương Giang (2014), "Lý Quang Diệu
viết về Đông Nam Á và Việt Nam", tại trang
http://nghiencuuquocte.org/wp-content/uploads/2013/12/nghiencuu
quocte-net-109-ly-quang-dieu-viet-ve-dong-nam-a-va-viet-nam.pdf,
[truy cập ngày 21/12/2018].
52. Dương Phú Hiệp (1996), Con đường phát triển của một số nước châu Á -
Thái Bình Dương, Nxb Chính trị quốc gia, Hà nội.
53. Trịnh Thị Hoa (2014), Quá trình đấu tranh củng cố độc lập dân tộc của
Liên bang Malaysia từ năm 1957 đến năm 1990, Luận án tiến sĩ
Lịch sử, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
54. Chu Tuấn Hoa (2016), "Nghiên cứu vấn đề chia rẽ dân tộc Aceh ở
Indonesia dưới góc độ chỉnh hợp quốc gia", tại trang
http://www.cistudy.cn/bencandy.php?fid=4&id=2901, [truy cập
ngày 12/12/2018].
55. Trần Quang Hòa (2010), "Những mưu đồ đen tối núp bóng tôn giáo đã
lộ nguyên hình", tại trang http://www.nhandan.com.vn/chinhtri
/item/15429702-.html, [truy cập ngày 17/09/2018].
56. Nguyễn Huy Hoàng (2001), "Toàn cầu hoá và phát triển kinh tế ở các
nước ASEAN", Nghiên cứu Đông Nam Á, (50), tr.58-63.
57. Vũ Lê Thái Hoàng, Lê Linh Lan (2004), "Vai trò của ngoại giao đa
phương trong CSĐN của quốc gia tầm trung: Trường hợp của
Indonesia", Tạp chí Nghiên cứu Quốc tế, (97).
153
58. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Thông tin khoa học
(2003), "Một số vấn đề về dân tộc và tôn giáo", Thông tin chuyên
đề, (01), tr.46-48.
59. Học viện Quan hệ quốc tế (1999), Cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ ở
khu vực. Nguyên nhân và tác động, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
60. Nguyễn Huy Hồng (1990), Indonesia - Các nước Đông Nam Á, Nxb Sự
thật, Hà Nội.
61. Nguyễn Huy Hồng (2000), "Đảng Goikar trên chính trường Indonesia",
Vòng quanh Đông Nam Á, (7), tr.30.
62. Nguyễn Huy Hồng (2000), "Indonesia - Tiếp bước trên con đường dân
chủ", Vòng quanh Đông Nam Á, (1), tr.10-11.
63. Nguyễn Huy Hồng (2006), Indonesia trong cuộc chiến chống khủng bố,
Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
64. Nguyễn Văn Hồng (1993), "Indonesia: Lý thuyết điều chỉnh chính sách -
cách nhìn lịch sử và bài học kinh nghiệm", Nghiên cứu châu Á -
Thái Bình Dương, (17).
65. Nguyễn Văn Hồng (2008), Indonesia: Lý thuyết điều chỉnh chính sách -
cách nhìn lịch sử và bài học kinh nghiệm, Nxb Viện Hàn lâm khoa
học Hà Nội, Hà Nội.
66. Đào Duy Huân (1997), Kinh tế các nước Đông Nam Á, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
67. Nguyễn Duy Huệ (2012), Ly khai và vấn đề ly khai dân tộc ở một số
nước Đông Nam Á sau Chiến tranh lạnh, Luận văn Thạc sĩ Quốc tế
học, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Hà Nội.
68. Hữu Hưng (2016), "Khai mạc Hội nghị quốc tế chống khủng bố tại Bali,
Indonesia", tại trang http://vtv.vn, [truy cập ngày 10/08/2018].
69. Lê Thanh Hương (2008), Xung đột giữa người Dayak và Madura ở Tây
Kalimantan (Borneo), Indonesia, Nxb Khoa học và xã hội, Hà Nội.
70. Hoàng Văn Huyền (1997), Địa lý kinh tế các nước Đông Nam Á, Nxb
Giáo dục, Hà Nội.
154
71. Khắc Huỳnh, Sanh Phúc (2001), Lịch sử các nước ASEAN, Nxb Trẻ,
Thành phố Hồ Chí Minh.
72. Trần Khánh (1993), "Vị trí của tư bản người Hoa trong kinh tế các nước
Đông Nam Á", Đông Nam Á trên đường phát triển, Nxb Khoa học
xã hội, Hà Nội.
73. Trần Khánh (2002), "Tính mở trong hội nhập quốc tế của Đông Nam Á",
Nghiên cứu Đông Nam Á, (8), tr.7-9.
74. Trần Khánh (2002), "Vị thế địa - chính trị Đông Nam áÁthập niên đầu
thế kỷ XXI", Tap chí Cộng sản, (21), tr.60-64.
75. Trần Khánh (2002), Liên kết ASEAN trong bối cảnh toàn cầu hoá, Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội.
76. Trần Khánh (2006), Những vấn đề chính trị, kinh tế Đông Nam Á thập
niên đầu thế kỷ XXI, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
77. Trần Khánh, Phạm Đức Thành (2006), Việt Nam trong ASEAN- Nhìn lại
và hướng tới, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
78. Đinh Nguyên Khê (1996), "Chính sách ngôn ngữ các nước Đông Nam Á
hải đảo", Ngôn ngữ trong xã hội công nghiệp hoá, (22), tr.43-68.
79. Hoa Hữu Lân (1999), Quá trình chuyển đổi sang kinh tế thị trường của
các nước đang phát triển (kinh nghiệm của Indonesia), Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
80. Hoa Hữu Lân (2000), Kinh tế Indonesia thực tế và thách thức, Nxb Khoa
học xã hội, Hà Nội.
81. Nguyễn Đình Lễ, Nghiêm Đình Vỳ (1987), Trên đất nước những đảo
dừa, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
82. V.I. Lênin (1964), Bàn về phong trào giải phóng dân tộc, Nxb Sự Thật,
Hà Nội.
83. Lê Thị Liên (2012), Quan hệ Indonesia - Việt Nam (1964 - 2010), Luận
án tiến sĩ Lịch sử, Trường Đại học sư phạm Hà Nội, Hà Nội.
155
84. Phan Ngọc Liên, Nguyễn Sĩ Quế, Ngô Đạt Tân (2005), Phong trào giải
phóng dân tộc của nhân dân châu Á, châu Phi và Mỹ Latinh, Nxb
Giáo dục, Hà Nội.
85. Liên Hiệp quốc (1969), Quyết định của Tòa án Hiến pháp về Luật số
1/PnPs/1969.
86. Thùy Linh (2016), "Đông Nam Á sẽ là cứ địa mới của IS", tại trang
http://vov.vn/, [truy cập ngày 07/8/2018].
87. Phạm Nguyên Long (1995), Các con đường phát triển của ASEAN, Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nôị.
88. Thái Văn Long (2006), Độc lập dân tộc của các nước đang phát triển
trong xu thế toàn cầu hóa, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
89. C.Mác -Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 4, Nxb Sự thật, Hà Nội.
90. Nguyễn Kim Minh (2006), Vấn đề ly khai dân tộc ở Đông Nam Á và
những tác động của nó tới khu vực từ 1991 đến năm 2000, Luận văn
thạc sĩ Khoa học lịch sử, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh,
Hà Nội.
91. Nguyễn Thu Mỹ (Chủ biên) (2011), Đông Nam Á trong thời kỳ hòa bình,
phát triển và hội nhập (1991-2010), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
92. Ngân hàng Thế giới (1997), Nợ nước ngoài của các nước đang phát
triển, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
93. Ngân hàng Thế giới (1999), Báo cáo tóm tắt tình hình các nước, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
94. Ngân hàng thế giới (2000), Đông Á, con đường dẫn đến phục hồi, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
95. Trần Trọng Ngợi (1995), "Indonesia qua những con số", Nghiên cứu
Đông Nam Á (3).
96. Thế Nghĩa (2002), "Indonesia: Xung đột tôn giáo bùng nổ ở Maluku", tại
trang https://vnexpress.net/the-gioi/Indonesia-xung-dot-ton-giao-
bung-no-o-maluku-2051602.html, [truy cập ngày 9/9/2018].
156
97. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia (1998), Hiệp hội các quốc gia Đông
Nam Á (ASEAN), Hà Nội.
98. Nhà xuất bản Khoa học xã hội (2000), Xây dựng ASEAN thành cộng đồng
các quốc gia phát triển bền vững, đồng đều và hợp tác, Hà Nội.
99. Nhà xuất bản Văn hóa (2000), Chính sách và pháp luật của Đảng và
Nhà nước về dân tộc, Hà Nội.
100. Lương Ninh, Đỗ Thanh Bình, Trần Thị Vinh (2005), Lịch sử Đông Nam
Á, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
101. Lương Ninh, Vũ Dương Ninh (2008), Tri thức Đông Nam Á, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
102. Vũ Dương Ninh (2004), Việt Nam - ASEAN quan hệ đa phương và song
phương, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
103. Indonesia (2009), Vụ khủng bố ngày 31/8/2002 tại thị trấn Timika ở Irian
Jaya; đánh bom tại Bali ngày 12/10/2002; tấn công khách sạn Marriot
của Mỹ ở Jakarta ngày 5/3/2003; đánh bom đại sứ quán Australia ở
thủ đô Jakarta ngày 9/9/2004; đánh bom trên đảo Bali lần 2 năm
2005, đánh bom ở khách sạn Mariot năm 2009, Indonesia.
104. Indonesia (2018), "Tổng quan đất nước Indonesia", tại trang
http://vietnamexport.com/nuoc-lanh-tho/88/tong-quan.html, [truy
cập ngày 17/2/2019].
105. Phong Phong (2017), "Tôn giáo và chính sách tôn giáo của Indonesia" tại
trang http://quyenconnguoi.com, [truy cập ngày 12/05/2018].
106. Đoàn Văn Phúc (2002), Bảo vệ và phát triển ngôn ngữ quốc gia ở
Indonesia, Kỷ yếu Hội thảo khoa học, Thành phố Hồ Chí Minh.
107. Đoàn Văn Phúc (2003), "Chính sách ngôn ngữ ở Indonesia trong hai thập
kỷ qua", Nghiên cứu Đông Nam Á, (1), tr.34-43.
108. Quốc hội (2016), Luật Tín ngưỡng , Tôn giáo năm 2016, Hà Nội.
109. Nguyễn Duy Quý (2001), Tiến tới một ASEAN hòa bình, ổn định và phát
triển bền vững, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
157
110. Đỗ Quyên (2018), "Tăng trưởng kinh tế năm 2018 của Indonesia cao
nhất trong 5 năm", Tạp chí Đông Nam Á, (19).
111. Soekarno (1959), Chủ nghĩa thực dân là một thứ cần phải loại trừ khỏi
thế giới, Nxb Sự thật, Hà Nội.
112. Soekarno (1959), Chúng ta đang cùng đi đến một mục đích chung:
Thống nhất, độc lập, hoà bình, Nxb Sự thật, Hà Nội.
113. Soekarno (1962), Sắc lệnh số 1/1962 của Tổng thống nước Cộng hoà
Indonesia về việc thành lập tỉnh miền Tây Irian, Viện Khoa học xã
hội Việt Nam., Hà Nội.
114. Phạm Minh Sơn (2007), "Toàn cầu hóa và sự vận động của quan hệ
chính trị quốc tế hiện nay", Lý luận chính trị và Truyền thông, (10).
115. Nguyễn Xuân Sơn, Thái Văn Long (1997), Quan hệ đối ngoại của các
nước Đông Nam Á, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
116. Nguyễn Xuân Tế (1998), Thể chế chính trị một số nước ASEAN, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
117. Hoàng Đình Thành (2012), "Việt Nam coi trọng và bảo đảm quyền tự do
tín ngưỡng, tôn giáo", tại trang http://btgcp.gov.vn/Plus.aspx/
vi/News/38/0/169/0/2963/Viet_Nam_coi_trong_va_bao_dam_quyen
_tu_do_tin_nguong_ton_giao, [truy cập ngày 13/3/2019].
118. Phạm Đức Thành (2001), Đặc điểm con đường phát triển kinh tế - xã hội
của các nước ASEAN, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
119. Bùi Huy Thành (2012), Vấn đề xung đột sắc tộc-tôn giáo trong sự nghiệp
bảo vệ độc lập dân tộc của Indonesia từ năm 1945 đến 2005, Luận án
tiến sĩ Lịch sử, Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
120. Hồ Thị Thành (2014), Quá trình dân chủ hóa ở Indonesia từ năm 1945
đến nay- nhìn từ góc độ giai cấp trung lưu và xã hội dân sự, Luận
án chuyên ngành Đông Nam Á học, Trường Đại học Khoa học xã
hội và nhân văn, Hà Nội.
158
121. Nguyễn Anh Thái (1999), Lịch sử quan hệ quốc tế, phong trào giải
phóng dân tộc Á - Phi - Mỹ Latinh từ 1918 đến 1995, Nxb Giáo
Dục, Hà Nội.
122. Nghiêm Văn Thái (2002), "Tộc người và xung đột tộc người xét từ góc
độ triết học", Tạp chí Triết học, (6), tr.15-18.
123. Nguyễn Đức Thắng (2013), "Sự thật về tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt
Nam", tại trang http://tapchiqptd.vn/vi/binh-luan-phe-phan/su-that-
ve-tu-do-tin-nguong-ton-giao-o-viet-nam/4729.html, [truy cập ngày
13/2/2019].
124. Nguyễn Duy Thiệu, Phan Thắng (2014), "Đông Nam Á với Việt Nam:
Một cái nhìn về văn hóa", tại trang http://vanhoanghean. com.vn/van-
hoa-va-doi-song27/khach-moi-cua-tap-chi45/dong-nam-a-voi-viet-
nam-mot-cai-nhin-ve-van-hoa, [truy cập ngày 1/2/2019].
125. Thông tấn xã Việt Nam (1999), Sự quá độ chính trị ở Indonesia thời kỳ
hậu Suhattô, Tài liệu Tham khảo đặc biệt, Hà Nội.
126. Thông tấn xã Việt Nam (2006), Tài liệu tham khảo đặc biệt, Hà Nội.
127. Thông tấn xã Việt Nam (2008), Đông Nam Á: Thị trường vũ khí đầy tiềm
năng, Hà Nội.
128. Thông tấn xã Việt Nam (2015), Tài liệu tham khảo đặc biệt, Hà Nội.
129. Thông tấn xã Việt Nam (2016), "Những nguyên nhân dẫn đến xung đột
sắc tộc, tôn giáo", tại trang http://hocday.com/muc-luc-1-nhng-
nguyn-nhn-dn-n-xung-t-sc-tc-tn-gio-4.htm, [truy cập ngày
05/08/2018].
130. Thông tấn xã Việt Nam (2017), "Indonesia: Độc lập là một cây cầu bằng
vàng", tại trang https://bnews.vn/Indonesia-doc-lap-la-mot-cay-
cau-bang-vang/55634.html, [truy cập ngày 22/9/2018].
131. Thông tấn xã Việt Nam (2017), "Phân bổ nguồn thu từ ngành công
nghiệp khai thác ở cấp địa phương", tại trang
159
https://issuu.com/pannature/docs/phanbonguonthu4web042010,
[truy cập ngày 10/11/2018].
132. Thủ tướng Chính phủ (2013), Quyết định 551/QĐ-TTg phê duyệt
Chương trình 135 ngày 04/04/2013, Hà Nội.
133. Nguyễn Thị Thanh Thủy (1993), "Một số vấn đề trong chính sách đối
ngoại của nước Cộng hoà Indonesia dưới chế độ của Tổng thống
Xucácnô", Nghiên cứu Đông Nam Á, (3), tr.79.
134. Nguyễn Thị Thanh Thủy (2014), Một số vấn đề trong chính sách đối
ngoại của Cộng hòa Indonesia với chế độ Tổng thống Soekarno,
Nxb Khoa học và xã hội, Hà Nội.
135. Thư viện Học liệu Mở Việt Nam (2018), Vấn đề dân tộc trong quá trình
xây dựng chủ nghĩa xã hội, tại trang https://voer.edu.vn/c/chuong-9-
van-de-dan-toc-trong-qua-trinh-xay-dung-chu-nghia-xa-
hoi/dc7c6722/22584e49, [truy cập ngày 15/8/2019].
136. Lại Văn Toàn (2001), "Trật tự thế giới sau Chiến tranh lạnh - phân tích
và dự báo", Thông tin Khoa học xã hội, (27).
137. Lê Văn Toàn, Trần Hoàng Kim (1992), Kinh tế các nước ASEAN và khả
năng hoà nhập của Việt Nam, Nxb Thống kê, Hà Nội.
138. Huỳnh Văn Tòng (1998), Lịch sử các quốc gia Đông Nam á từ thế kỷ
XIX đến thập niên 90, Nxb Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh.
139. Tổng cục thống kê (1996), Tư liệu bảy nước thành viên ASEAN: Brunay,
Indonesia, Malaisia, Philippin, Thái Lan, Việt Nam, Singapore, Nxb
Thống kê, Hà Nội.
140. Phạm Thị Huyền Trang (2018), Quá trình đấu tranh giành và củng cố
độc lập ở Indonesia (1927-1965), Luận án tiến sĩ Lịch sử, Trường
của Đại học Sư phạm, Hà Nội.
141. Lưu Ngọc Trịnh (2008), Đầu tư trực tiếp của các nền kinh tế công
nghiệp mới châu Á (NIEs) trong nền kinh tế Indonesia gần đây, Nxb
Khoa học xã hội và nhân văn, Hà Nội.
160
142. Lưu Ngọc Trịnh (1993), "Đầu tư trực tiếp của các nền kinh tế công
nghiệp mới châu Á (NIEs) trong nền kinh tế Indonesia gần đây",
Nghiên cứu Đông Nam Á, (1), tr.53-62.
143. Nguyễn Mai Trung (2009), Thành tựu, kinh nghiệm và những vấn đề
phát triển kinh tế của Thái Lan, Malaysia, Philippin và Indonesia,
Nxb Khoa học xã hội, Hà Nọi.
144. Trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn Quốc gia, Viện Thông tin Khoa
học xã hội (2001), Trật tự thế giới sau chiến tranh lạnh, phân tích
và dự báo, Hà Nội.
145. Nguyễn Ngọc Trường (2015), "Sự thật đằng sau "Vương quốc Mông" tại
Mường Nhé", tại trang http://www.baodienbienphu.info.vn/tin-
tuc/phap-luat/131991/su-that-dang-sau-%E2%80%9Cvuong-quoc-
mong%E2%80%9D-tai-muong-nhe, [truy cập ngày 16/08/2018].
146. Đinh Thanh Tú (2010), Quá trình đấu tranh củng cố độc lập dân tộc của
Cộng hòa Indonesia (1967 - 1998), Luận án tiến sĩ Lịch sử, Học
viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
147. Lưu Mạnh Tú (2008), "Indonesia và vấn đề gạo", Nghiên cứu Đông Nam
Á, (102).
148. Nguyễn Anh Tuấn (2015), "Đông Nam Á: Chiến tuyến thứ hai chống
khủng bố", tại trang https://baoquocte.vn/dong-nam-a-chien-tuyen-
thu-hai-chong-khung-bo-21175.html, [truy cập ngày 17/12/2018].
149. Thủy Tùng (2014), ""Hòa bình mới" chống "chủ nghĩa khủng bố mới",
Báo Tuổi trẻ, ngày 29/9/2014.
150. Đình Tứ (2009), "Nghiêm trị những kẻ vi phạm, bảo vệ chứng tích Tam
Tòa", tại trang http://www.sggp.org.vn/nghiem-tri-nhung-ke-vi-
pham-bao-ve-chung-tich-tam-toa-322567.html, [truy cập ngày
29/7/2018].
151. Viện Khoa học Xã hội Việt Nam (2004), Chủ nghĩa khủng bố toàn cầu
vấn đề và cách tiếp cận, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
161
152. Viện Nghiên cứu Đông Nam Á (2003), Tài liệu về Hội nghị thượng đỉnh
ASEAN lần IX tại Bali tháng 10/2003, Hà Nội.
153. Viện Nghiên cứu Đông Nam Á (2010), Hiến pháp nước Cộng hoà
Indonesia 1945, Hà Nội.
154. Viện Quan hệ quốc tế giới thiệu (1991), Hội thảo Việt Nam - Indonesia: Vì
hoà bình, ổn định, hữu nghị và hợp tác ở Đông Nam Á, Hà Nội.
155. Phạm Thị Vinh (2007), Một số vấn đề về xung đột sắc tộc và tôn giáo ở
Đông Nam Á, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
156. Phạn Thị Vinh, Nguyễn Huy Hồng (2007), Vấn đề Aceh ở Indonesia,
Nxb Khoa học xã hội và nhân văn, Hà Nội.
157. Trần Thị Vinh (1998), Đông Nam Á từ sau Chiến tranh thế giới Thứ II
đến nay (1945 - 1996), Nxb Giáo Dục, Hà Nội.
158. Vinita Sukrasep (1989), ASEAN trong mối quan hệ quốc tế, Viện Nghiên
cứu an ninh và quốc tế, Trường Đại học Chulalongkom.
159. Nguyễn Trọng Xuân (1997), "So sánh Việt Nam với các nước khác trong
thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài", Nghiên cứu kinh tế, (1), tr.38-44.
Tiếng Anh
160. Andyni Khosasih (2007), "Religious beliefs of Chinese people in
Indonesia", Jurnal Lingua Cultura.
161. Alan Collins (2000), The Security Dilemmas of Southeast Asia St.
Martin’ Press, Institute of Southeast Asia Studies (ISEAS), History.
162. Adrian Vicker (2005), Ethnic Conflics in Southeast Asia,
CambridgeUniversity press.
163. AFTA and Investment in ASEAN (1995), Seminar in Taipei on 21 - 22
February 1995, UPDATE, Jakarta.
164. Amar Bhata Charya and Mari Pangestu (1993), Indonesia Development.
Transformation and Policy, World Bank, October.
162
165. Anthony L.Smith(2005), Indonesia Transforming the Leviathan
InGovernment and Politics in Southeast Asia, Edited by John
Funston.Institute of Southeast Asia, Singapore.
166. Aris Ananta (2015), Evi Nurvidya Arifin, M Sairi Hasbullah, Nur Budi
Handayani, Agus Pramono, Singapore: ISEAS, P. 273.
167. ASEAN in the New Asia (1996), Issues and Trends. Edited by Chia
Siow Yue, Singapore.
168. Awanr Dewi Fortuna (1994), Indonesia In ASEAN. Foreign Policy and
Regionalism, Institute of Southeast Asian Studies, Singapore.
169. Blank Johan (1998), Family of Soeharto is rich, people of Indonesia is
poor, Inter Press Servise on 24th of January.
170. Budimanm, Arief, Hatley, Barbara dan Kingsbury, Damien (1999),
Reformasi - Crisis and Change in Indonesia, Monash Asia Institue.
171. Carpenter, William M dan Wilencek, David G (1996), Asian Security
Handbook - An Assessment of Political-Security Issues in the Asia-
Pacific Region, M.E Shape, Inc.
172. Colin Brow (2004), A short history of Indonesia: The unlikely nation?,
Aillen and Unwin.
173. Dede Rosyada (2016), Harmony in Diversity: A Government Policy and
Mutual Effort of..., Indonesia.
174. Francis Loh Kok Wah and Joakim Ojendal (2005), Southeast Asian
Responses to Globalization, NIAS Press-ISEAS, Singapore.
175. Gatra Priyandita (2016), Behind Indonesia’s Red Scare, Gatra
Priyandita, The Diplomat.
176. George J. Aditjondro (2000), The Political Economy of Violence in
Maluku, Indonesia, Newcastle, February.
177. Geocurrents (2019), Indonesia, at page Geocurrents.info/cultural-
gegraphy/mapping/=religion-in-indonesia, [date 7/9/ 2019].
163
178. Grayson Lloyd, Shannon Smith (2001), Indonesia today - challenges of
history, Rowman and Littlefield publishers.
179. Grover, Verinder (2000), Government And Politics of Asian Countries,
6-Indonesia, Elegant Printer, New Dehli, India.
180. Gunawan Haryono, Daddi Prianto, Agus Sukapti, Sri, Yulia Nuraini và
Ratna (1999), Indonesia yang Berubah, Pusat Data, Jakarta.
181. Hal Hill (1992), The Economy 1991/1992 Assessement Indonesia 1992:
Politica Perspectives on the 1990s, Department of Politica and
Social Change. Research School of Pacific Studies. Australian
National University: Canberra.
182. J. Taylor (2004), Indonesia people and histories, Yale university press.
183. Jacques Berrand (2004), Nationalism and Ethnic Confict in Indonesia.
Cambridge University Press.
184. Julie Chernov Hwang (2018), Why Terrorists Quit: The Disengagement
of Indonesian Jihadists Ithaca, New York, Cornell University Press.
185. Kanai Lai. Hazra (2007), Indonesia (2 vol.), Decentbooks.
186. Karishma Vaswani (2013), "The struggle of religious minorities in
Indonesia", tại trang https://www.bbc.com/news//world-asia-
22165199, [date 15/2/2019].
187. Marianne Kearney (2002), Corruption Rules, Observers Claim: Maluku
strife driven by graft, not religion, Straits Times Indonesia Bureau.
188. M.C.Ricklefs (2004), Sejarah Indonesia Modern 1200, Indonesia.
189. Moctar Kusumaat Madja (1987), Peace, Stability and Prospesity in
Southeast Asia: An Indonesian View, Indonesia Quartely XV, 1987,
tr.489.
190. Indonesia (2018), Indonesia Country Report, Indonesia.
191. Indonesia (2019), "Religion in Indonesia", at page https://www.
Indonesia-investments.com › Culture › Religion, [date 22/2/2019].
164
192. Ikrar Nusa Bhakti, Sri Yanuarti và Mochamad Nurhasim (2009),
"Military Politics, Ethnicity and Conflict in Indonesia" at page
https://assets.publishing.service.gov. uk/media/.../wp62.pdf, [date
15/12/2018].
193. R.E.Elson (2001), Soeharto. A political biography.
194. Rafick, Ishak (2008), Catatan Hitam Lima Presiden Indonesia, Ufuk
Publishing House, Jakarta.
195. Rizal Sukma (1995), The Evolution of Indonesia’s foreign policy: An
Indonesia View, Asian Survey, Vol XXXV, No 3.
196. Rizal Sukma (2003), Islam in Indonesia Foregn Policy, Routledge
Curzon, London and New York.
197. Rizal Sukma (2019), "The Acehnese Rebellion: Sesestionist mouvement
in post SuhartoIndonesia", tại trang www.conflictrecovery.org/
ibett2.doc, [truy cập cập nhật 14/1/2019].
198. S. Drakeley (2005), The history of Indonesia, Greenwood press.
199. Sedyawati Edi (2000), Budaya Indonesia, Kajian Arkeologi, Seni, dan
Sejarah.
200. Sidney Jones (2010), Executive Director, Asia Division.Human Rights
Watch. Causes of Conflict in Indonesia.
201. Sidney Jones (2014), "Lessons learned from Indonesia's conflicts: Aceh,
Poso and Papua..." at page https://www.insideIndonesia.org/
lessons-learned-from-Indonesia-s-conf, [date 3/2/2019].
202. Sintha Wahjusaputri (2015), "Religion Conflicts in Indonesia Problems
and Solutions", at page www.davidpublisher.com/Public/uploads/...
/57314aed96c04.pdf, [date 15/12/2018].
203. Sydney Jones (2019), "Causes of Conflict in Indonesia", tại trang
https://asiasociety.org/causes-conflict-Indonesia, [date 14/1/2019].
204. Warday T.Baskara (2001), Politik Indonesia dalam Perspektif Sejarah,
Gramedia Pustaka Utama, Jakarta.