VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
Nguyễn Đình Hòa KHAI THÁC KHOÁNG SẢN TRONG CHIẾN LƯỢC
TĂNG TRƯỞNG XANH Ở VIỆT NAM
LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ
HÀ NỘI – 2016 i
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
Nguyễn Đình Hòa KHAI THÁC KHOÁNG SẢN TRONG CHIẾN LƯỢC
TĂNG TRƯỞNG XANH Ở VIỆT NAM
Chuyên ngành : Kinh tế phát triển
Mã số : 62 31 01 05
LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
1. TS. Vũ Tuấn Anh
2. PGS. TS. Nguyễn Cảnh Nam
ii
HÀ NỘI – 2016
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của
riêng tôi, các số liệu nêu trong luận án là trung thực. Những
kết luận khoa học của luận án chưa từng được công bố
trong bất kỳ công trình nào khác.
Tác giả luận án
Nguyễn Đình Hòa
iii
MỤC LỤC
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT ............................................................................................... vi
DANH MỤC CÁC BẢNG, HÌNH VẼ .................................................................................. vii
MỞ ĐẦU ..................................................................................................................................... 1
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN ................................................................................................................................. 10
1.1. Tình hình nghiên cứu ngoài nước ................................................................... 10
1.2. Tình hình nghiên cứu trong nước .................................................................... 21
1.3. Nhận xét chung về các công trình hiện có và vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu 29
Tiểu kết chương 1 ................................................................................................... 30
Chương 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ KHAI THÁC KHOÁNG SẢN TRONG TĂNG TRƯỞNG XANH ........................................................................................ 32
2.1. Cơ sở lý luận về khai thác khoáng sản trong tăng trưởng xanh ...................... 32
2.2. Kinh nghiệm quốc tế về khai thác khoáng sản trong việc phát triển bền vững, tăng trưởng xanh đối với nền kinh tế ..................................................................... 59
Tiểu kết chương 2 ................................................................................................... 66
Chương 3: THỰC TRẠNG KHAI THÁC KHOÁNG SẢN TRONG CHIẾN LƯỢC TĂNG TRƯỞNG XANH Ở VIỆT NAM .......................................................... 67
3.1. Thực trạng khai thác khoáng sản từ góc nhìn của tăng trưởng xanh .............. 67
3.2. Đánh giá kết quả của khai thác khoáng sản theo tiêu chí tăng trưởng xanh ... 74
3.3. Những vấn đề đặt ra đối với khai thác khoáng sản trong việc thực hiện chiến lược tăng trưởng xanh ............................................................................................ 95
3.4. Đánh giá chung về khai thác khoáng sản trong chiến lược tăng trưởng xanh. 102
Tiểu kết chương 3 ................................................................................................. 115
Chương 4: ĐỀ XUẤT HOÀN THIỆN, ĐỔI MỚI KHAI THÁC KHOÁNG SẢN TRONG CHIẾN LƯỢC TĂNG TRƯỞNG XANH Ở VIỆT NAM ................................. 116
4.1. Bối cảnh quốc tế, trong nước thời gian tới và những vấn đề đặt ra đối với khai thác khoáng sản trong chiến lược tăng trưởng xanh ............................................ 116
4.2. Quan điểm, định hướng về khai thác khoáng sản trong chiến lược tăng trưởng xanh ...................................................................................................................... 125
4.3. Các giải pháp về khai thác khoáng sản trong chiến lược tăng trưởng xanh.. 135
iv
Tiểu kết chương 4 ................................................................................................. 149
KẾT LUẬN ............................................................................................................................. 150
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN .... 153
TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................................................................... 154
Phụ lục 1: Các bảng số liệu, hình vẽ ...................................................................................... 172
v
Phụ lục 2: Danh mục các hình ảnh từ khảo sát thực tiễn minh họa về thực trạng khai thác khoáng sản ............................................................................................................................... 195
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
Ngân hàng Phát triển châu Á ADB
Biến đổi khí hậu BĐKH
Bảo vệ môi trường BVMT
Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương CIEM
Đánh giá môi trường chiến lược ĐMC
DNNN Doanh nghiệp nhà nước
ĐTM Đánh giá tác động môi trường
KHCN Khoa học công nghệ
Ngân sách nhà nước NSNN
Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế OECD
ONMT Ô nhiễm môi trường
Phát triển bền vững PTBV
Viện Nghiên cứu phát triển bền vững Châu Âu SERI
Tiêu chuẩn cho phép TCCP
Tài nguyên khoáng sản TNKS
TNMT Tài nguyên và môi trường
Tăng trưởng xanh TTX
Chương trình Phát triển Liên hợp quốc UNDP
Chương trình Môi trường Liên hợp quốc UNEP
UNESCAP Ủy ban Kinh tế Xã hội châu Á Thái Bình Dương Liên hợp quốc
UNIDO Tổ chức Phát triển công nghiệp Liên hiệp quốc
VCCI Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam
VLXD Vật liệu xây dựng
vi
WB Ngân hàng Thế giới
DANH MỤC CÁC BẢNG, HÌNH VẼ
DANH MỤC CÁC BẢNG Bảng 2.1: Tiêu chí đánh giá khai thác khoáng sản trên quan điểm tăng trưởng xanh ..... 53
Bảng 3.1: Đóng góp của ngành công nghiệp khai khoáng vào GDP ........................ 74
Bảng 3.2: Đóng góp của khai thác khoáng sản vào ngân sách nhà nước ................. 76
Bảng 3.3: Tỷ lệ giá trị gia tăng trong tổng giá trị sản xuất công nghiệp của ngành
công nghiệp khai khoáng .......................................................................... 78
Bảng 3.4: Tình hình tổn thất trong khai thác than tại các mỏ trong Tập đoàn
Than – Khoáng sản Việt Nam ................................................................ 79
Bảng 3.5: Chỉ số HHI và EG của ngành công nghiệp khai khoáng .......................... 81
vii
Bảng 3.6: Tình hình thực hiện chi ngân sách cho sự nghiệp môi trường ................. 86
DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ
Hình 2.1: Tách rời tài nguyên và tác động môi trường trong tăng trưởng kinh tế ... 50
Hình 3.1: Xu hướng về khai thác khoáng sản trong giai đoạn 1980 – 2013 ............. 71
Hình 3.2: Số lao động làm việc trong ngành công nghiệp khai khoáng ................... 78
Hình 3.3: Xu hướng về năng suất tài nguyên từ khai thác khoáng sản ................ 82
Hình 3.4: Tốc độ tăng trưởng khai thác than và phát thải CO2 ................................. 84
Hình 3.5: Tốc độ tăng trưởng khai thác và tốc độ tăng tiền lương ở các doanh
nghiệp khai khoáng ................................................................................... 90
Hình 3.6: Các chỉ số thành phần và chỉ số SDI ngành công nghiệp khai khoáng .............. 94
Hình 3.7: Xu hướng về tăng trưởng kinh tế, khai thác khoáng sản và phát thải CO2
tại Việt Nam ............................................................................................. 97
viii
Hình 3.8: Quan hệ giữa tốc độ tăng trưởng khai thác và tăng trưởng TFP ............... 99
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tài nguyên thiên nhiên nói chung và tài nguyên khoáng sản nói riêng là một
trong những đầu vào của sản xuất. Không những vậy, nhiều loại khoáng sản còn
gắn liền với lợi thế so sánh và vị thế của quốc gia. Việt Nam được đánh giá là có
tiềm năng về khoáng sản với khoảng hơn 5000 mỏ và điểm mỏ của hơn 60 loại
khoáng sản [10].
Trong thời gian qua, ngành công nghiệp khai khoáng đã có những đóng góp nhất
định vào tăng trưởng kinh tế, thu ngân sách và giải quyết việc làm. Tuy nhiên,
ngành này hiện đang bộc lộ không ít hạn chế, thách thức đối với tăng trưởng xanh,
phát triển bền vững.
Tình trạng khai thác ồ ạt tài nguyên khoáng sản, hiệu quả sử dụng tài nguyên
thấp, tỷ lệ tổn thất cao, nhiều loại tài nguyên khoáng sản có nguy cơ bước vào thời
kỳ bị cạn kiệt. Việc cấp phép khai thác thiếu hợp lý, thậm chí có tình trạng chia nhỏ
khu vực khai thác để cấp phép. Các doanh nghiệp khai khoáng chủ yếu là quy mô
nhỏ, trình độ kỹ thuật lạc hậu và trình độ tay nghề của người lao động còn hạn chế
[18]. Sự lãng phí, tổn thất khoáng sản trong hoạt động khai thác cao [78].
Hoạt động khai thác khoáng sản tác động tiêu cực tới môi trường, sinh kế, hệ
thống đường sá phục vụ dân sinh [59], [64], [68]. Việc khai thác khoáng sản
cũng thải ra một khối lượng lớn đất đá thải, ảnh hưởng tới môi trường xung
quanh [48], [50].
Khoáng sản đã khai thác chủ yếu được xuất khẩu ở dạng thô, thay vì lấy nguồn
tài nguyên khoáng sản làm “mồi” để thu hút đầu tư vào các ngành công nghiệp chế
biến, khiến cho Việt Nam có nguy cơ mất dần cơ hội để phát triển những ngành
công nghiệp quan trọng, những lĩnh vực phụ trợ có sức lan tỏa lớn. Việc khai thác
tài nguyên mà không gắn với phát triển công nghiệp chế biến có nguy cơ đẩy nhanh
tốc độ “chảy máu tài nguyên”, khi các ngành công nghiệp nội địa phát triển thì tài
1
nguyên cũng không còn.
Một số nghiên cứu đã chỉ ra rằng lợi ích từ khai thác khoáng sản có xu hướng
nghiêng về các doanh nghiệp khai khoáng [20], [21]. Xu hướng này có nguy cơ tạo
ra các lợi ích nhóm trong khai thác khoáng sản và hệ quả là thiếu bền vững về xã
hội. Việc hình thành nhóm lợi ích có nguy cơ gây ra “méo mó” trong các chính sách.
Thực trạng đã nêu cho thấy nếu không có chiến lược quản lý, khai thác và sử
dụng hợp lý đối với tài nguyên khoáng sản, Việt Nam có nguy cơ rơi vào bẫy “lời
nguyền tài nguyên” như nhiều quốc gia đã và đang gặp phải.
Hiện nay, Chính phủ đang thực hiện tái cơ cấu nền kinh tế theo hướng chuyển từ
chiều rộng sang chiều sâu, nâng cao chất lượng, hiệu quả và năng lực cạnh tranh
của nền kinh tế. Theo đó, việc khai thác khoáng sản cần những thay đổi nhằm nâng
cao khả năng đóng góp, thúc đẩy phát triển các ngành công nghiệp chế biến dựa
trên cơ sở nguyên liệu trong nước và công nghệ cao để đạt mục tiêu tăng tỷ phần giá
trị gia tăng – quốc gia trong sản phẩm.
Việt Nam là một trong những nước chịu ảnh hưởng của biến đổi khí hậu. Biến
đổi khí hậu tác động tới các hoạt động kinh tế, trong đó có khai thác khoáng sản.
Nước ta đang ngày càng hội nhập sâu rộng với kinh tế thế giới với các yêu cầu cao
về môi trường và an toàn vệ sinh lao động. Đây là yêu cầu và thách thức đối với nền
kinh tế nói chung và ngành công nghiệp khai khoáng nói riêng để có thể tham gia
chuỗi sản xuất toàn cầu hay những ràng buộc để tài trợ vốn.
Nhằm thích ứng với các thách thức vừa đề cập, trong những năm gần đây, Nhà
nước ban hành các chủ trương, chính sách về bảo vệ môi trường, khai thác tài
nguyên thiên nhiên và về phát triển bền vững, tăng trưởng xanh, trong đó quan
trọng nhất là “Chiến lược phát triển bền vững ở Việt Nam giai đoạn 2011-2020”
(Quyết định số 432/TTg ngày 12/4/2012) và “Chiến lược quốc gia về tăng trưởng
xanh thời kỳ 2011 – 2020 và tầm nhìn đến 2050” (Quyết định số 1393/QĐ–TTg
ngày 25/9/2012). Chiến lược tăng trưởng xanh đề ra các nhiệm vụ: (i) giảm thiểu
cường độ phát thải khí nhà kính và khuyến khích sử dụng năng lượng sạch, năng
lượng tái tạo; (ii) xanh hóa sản xuất và (iii) xanh hóa lối sống và thúc đẩy tiêu dùng
bền vững. Tăng trưởng xanh là một nội dung của phát triển bền vững, đảm bảo phát
2
triển kinh tế theo hướng nhanh, hiệu quả và bền vững, đồng thời góp phần giảm nhẹ
và phòng chống tác động của biến đổi khí hậu. Chiến lược tăng trưởng xanh là
chiến lược phát triển kinh tế theo hướng bền vững, là bộ phận cấu thành của
Chương trình nghị sự 21 về phát triển bền vững của Việt Nam đã được Chính phủ
Việt Nam ban hành năm 2004. Theo đó, để đóng góp vào việc thực hiện chiến lược
tăng trưởng xanh và thích ứng với bối cảnh mới, việc khai thác khoáng sản cần có
cách tiếp cận và phương thức mới.
Các nghiên cứu hiện có về khai thác khoáng sản tại Việt Nam cho đến nay tập
trung chủ yếu vào giải quyết những vấn đề mang tính kỹ thuật, hiệu quả kinh tế đơn
thuần. Thậm chí khai thác khoáng sản thường được đánh giá qua đóng góp cho sự
tăng trưởng sản lượng và giá trị xuất khẩu, chứ chưa được đánh giá đầy đủ tác động
nhiều mặt về giá trị quý hiếm lâu dài của tài nguyên, về tổng chi phí – lợi ích (bao
gồm cả chi phí cơ hội và chi phí bồi hoàn tài nguyên). Nguyên tắc cốt lõi của phát
triển bền vững “tiêu dùng hiện tại không làm tổn hại tới tiêu dùng của các thế hệ
mai sau” hầu như chưa được vận dụng trong hoạch định các chiến lược dài hạn và
chính sách khai thác khoáng sản.
Các nghiên cứu hiện có của các tác giả trong nước đề cập đến tăng trưởng xanh,
song chưa đưa ra được các chỉ tiêu áp dụng vào ngành công nghiệp khai khoáng.
Hơn nữa, công trình nghiên cứu vẫn chưa đề xuất phương pháp và tính toán chỉ số
tổng hợp các chỉ tiêu thành phần theo các trụ cột phát triển bền vững để theo dõi xu
hướng phát triển của ngành công nghiệp khai khoáng Việt Nam.
Từ những vấn đề trên cho thấy nghiên cứu nhằm đưa ra luận cứ khoa học xác
đáng cho việc hoạch định chính sách thích hợp để khai thác khoáng sản đáp ứng
được nhu cầu phát triển đất nước trong khuôn khổ chiến lược tăng trưởng xanh là có
ý nghĩa về khoa học và có khả năng đóng góp vào thực tiễn hoạch định chính sách
và đưa ra những giải pháp cho những vấn đề công nghiệp hóa, hiện đại hóa sắp tới.
Vì tính cấp thiết và ý nghĩa như trên, đề tài “Khai thác khoáng sản trong chiến
3
lược tăng trưởng xanh ở Việt Nam” được tác giả luận án lựa chọn để nghiên cứu.
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mục tiêu nghiên cứu
Làm rõ cơ sở lý luận về khai thác khoáng sản trong tăng trưởng xanh; đánh giá
thực trạng khai thác khoáng sản ở Việt Nam trong chiến lược tăng trưởng xanh và
đề xuất quan điểm, định hướng, giải pháp về khai thác khoáng sản trong quá trình
thực hiện chiến lược tăng trưởng xanh ở Việt Nam.
2.2. Các nhiệm vụ nghiên cứu
1) Hệ thống hóa một số vấn đề lý luận và thực tiễn về khai thác khoáng sản
trong tăng trưởng xanh.
2) Phân tích, đánh giá thực trạng khai thác khoáng sản trong chiến lược tăng
trưởng xanh ở Việt Nam.
3) Đề xuất quan điểm, định hướng và giải pháp về khai thác khoáng sản trong
quá trình thực hiện chiến lược tăng trưởng xanh ở Việt Nam.
2.3. Câu hỏi nghiên cứu
Nhằm góp phần đạt các mục tiêu và nhiệm vụ vừa nêu, luận án tập trung giải đáp
các câu hỏi nghiên cứu chính:
1) Khai thác khoáng sản ở Việt Nam đã theo hướng tăng trưởng xanh chưa?
Câu hỏi nghiên cứu này hướng tới việc tìm hiểu xem khai thác khoáng sản diễn
ra theo xu hướng tốt lên hay xấu hơn, chứ không trả lời khai thác khoáng sản đã
xanh hay chưa (bởi giữa kinh tế, xã hội, môi trường có luôn sự đánh đổi và việc đưa
ra ngưỡng/ chỉ tiêu định lượng cụ thể để đánh giá là nhiệm vụ không khả thi).
2) Việc khai thác khoáng sản (duy trì theo phương thức khai thác như hiện
nay) ảnh hưởng gì và như thế nào tới việc thực hiện chiến lược tăng
trưởng xanh?
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận án nghiên cứu về hiệu quả kinh tế, tác động đến xã hội và môi trường
của khai thác khoáng sản trong quá trình thực hiện chiến lược tăng trưởng xanh
4
ở Việt Nam.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung nghiên cứu:
– Khai thác khoáng sản trong chiến lược tăng trưởng xanh bao gồm hai mặt: (a)
khai thác khoáng sản theo hướng tăng trưởng xanh, tức là tăng trưởng xanh đối với
ngành công nghiệp khai khoáng; và (b) khai thác khoáng sản cần có những đóng
góp vào việc thực hiện và đạt được các kết quả của chiến lược tăng trưởng xanh của
Việt Nam. Luận án chủ yếu nghiên cứu về khai thác khoáng sản theo hướng tăng
trưởng xanh.
– Khi nghiên cứu về khai thác khoáng sản theo hướng tăng trưởng xanh, luận án
tập trung vào các vấn đề về kinh tế, xã hội và môi trường. Luận án chỉ đề cập ở mức
độ nhất định về xanh hóa khai thác khoáng sản, bởi chủ đề này chủ yếu đặt vấn đề
đưa các công nghệ xanh và sạch, phương thức sản xuất/khai thác xanh vào trong
quá trình khai thác khoáng sản, cách thức xử lý môi trường,... các nội dung này
thiên về khía cạnh kỹ thuật của khai thác mỏ và xử lý vấn đề môi trường.
– Luận án tập trung phân tích, đánh giá và đề xuất ở mức cần thiết đối với một số
khía cạnh của khai thác, chứ không đi sâu nghiên cứu về sử dụng khoáng sản.
Về không gian: Luận án nghiên cứu về khai thác khoáng sản ở Việt Nam.
Về thời gian: Luận án tập trung nghiên cứu các nội dung trong giai đoạn từ năm
2000 đến nay.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận án
4.1. Cách tiếp cận vấn đề nghiên cứu
Luận án sử dụng cách tiếp cận hệ thống và phát triển bền vững trong nghiên cứu.
Khai thác khoáng sản và tác động kinh tế, xã hội, môi trường được phân tích theo
chuỗi, được phân loại theo các cách khác nhau:
– Khai thác khoáng sản phân theo tiến trình thực hiện và các chính sách quản lý
nhà nước: quy hoạch → trao hợp đồng và giấy phép khai thác → giám sát quá trình
khai thác (bảo vệ môi trường và giảm thiểu tác động về xã hội) → thu ngân sách và
sử dụng nguồn thu → các chính sách và dự án phục vụ phát triển bền vững. Cách
tiếp cận này để đánh giá thực trạng chính sách ở các công đoạn của khai thác
5
khoáng sản.
– Phân theo vai trò hay tác động lan tỏa của khai thác khoáng sản đối với các
ngành kinh tế: từ sản phẩm khoáng sản và phát triển các ngành công nghiệp theo
sau sản phẩm khoáng sản.
– Phân theo vai trò của khai thác khoáng sản trong hội nhập kinh tế quốc tế: đề
xuất các chính sách sản phẩm khoáng sản tham gia vào chuỗi sản xuất toàn cầu.
– Phân theo tác động kinh tế, xã hội và môi trường của khai thác khoáng sản:
phân tích chuỗi, đầu vào – đầu ra của khoáng sản nhằm làm rõ tác động của khai
thác khoáng sản đối với môi trường và mô hình tiêu dùng của xã hội, đề xuất yêu
cầu phát triển các sản phẩm thay thế để đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế – xã hội.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Các phương pháp nghiên cứu được sử dụng trong luận án bao gồm:
a) Phương pháp định tính
– Phương pháp so sánh, bao gồm so sánh theo chuỗi thời gian và so sánh chéo
được đề tài sử dụng để đối chiếu giữa các chỉ tiêu có liên quan trên các khía cạnh
của tăng trưởng xanh:
+ So sánh về thay đổi, chuyển biến các chính sách liên quan tới khai thác khoáng
sản theo thời gian.
+ So sánh theo thời gian các kết quả, hệ quả của chính sách đối với khai thác
khoáng sản trên quan điểm tăng trưởng xanh.
– Phương pháp phân tích
+ Phân tích thống kê:
Phương pháp này được sử dụng để phân tích: 1) số liệu thống kê về tình hình
kinh tế – xã hội; 2) phân tích số liệu thống kê từ kết quả điều tra doanh nghiệp trong
giai đoạn từ 2000 – đến nay để làm rõ thực trạng và xu hướng phát triển của các
doanh nghiệp khai khoáng; 3) các số liệu về tài nguyên và môi trường, hiệu quả sử
dụng tài nguyên;...
+ Phân tích các chính sách:
Tính đồng bộ, phù hợp pháp luật của các văn bản đã ban hành.
Tính khả thi (phù hợp với thực tiễn) của các quy định: việc ban hành các chính
6
sách có phù hợp với tính đặc thù của khai thác khoáng sản, ví dụ đặc thù của ngành
khai khoáng là càng ngày càng phải khai thác xuống sâu (đối với khai thác hầm lò),
điều này đồng nghĩa với chi phí sản xuất phải cao hơn, so các quy định tài chính
(thuế tài nguyên) có xu hướng ngày càng tăng. Việc phân cấp quản lý tài nguyên
khoáng sản liệu có phù hợp điều kiện thực tế của cấp địa phương (đặc biệt cấp
huyện) về số lượng và năng lực, trình độ chuyên môn của đội ngũ cán bộ.
Tính phù hợp của các cộng cụ kinh tế được áp dụng trong hoạt động khoáng sản
(thuế, phí, ký quỹ….), tính ổn định về chính sách trong lĩnh vực khoáng sản.
Phân tích, đánh giá các nội dung và việc tổ chức triển khai các chính sách về khai
thác khoáng sản. Phân tích tác động (từ một số ví dụ) về các tác động của chính
sách và của hoạt động khai thác khoáng sản tới môi trường, đời sống và kinh tế của
người dân địa phương tại vùng khai thác.
– Phương pháp điều tra, khảo sát thực tiễn
Nghiên cứu sinh đã tiến hành khảo sát thực tiễn về khai thác titan tại tỉnh Bình
Định, khai thác quặng sắt và volfram tại tỉnh Thái Nguyên, khai thác bôxit tại Tân
Rai (Lâm Đồng) và Nhân Cơ (Đắk Nông). Phương pháp khảo sát bao gồm phỏng
vấn sâu, thảo luận với đại diện các cấp chính quyền (tỉnh, huyện, xã), các doanh
nghiệp khai khoáng và người dân nơi khai thác mỏ. Nội dung khảo sát tập trung vào
những vấn đề: những bất cập của các chính sách khai thác khoáng sản, tác động
(tiêu cực, tích cực) của khai thác khoáng sản đối với phát triển kinh tế – xã hội, tài
nguyên – môi trường.
– Phương pháp tổng hợp
Phương pháp tổng hợp được sử dụng để rút ra các nhận xét, khái quát, kết luận từ
các kết quả, nội dung được hiện thông qua phân tích, so sánh,...
b) Phương pháp định lượng
– Tính chỉ số HHI (Herfindahl–Hirschmann Index): tính toán và phân tích chỉ số
tập trung và thu hút của ngành công nghiệp khai khoáng đối với những nơi khai
thác mỏ (chi tiết phương pháp tính toán tại Bảng 9 - Phụ lục).
– Tính chỉ số SDI (Sustainable Development Index): xây dựng và tính toán chỉ số
7
phát triển bền vững ngành công nghiệp khai khoáng Việt Nam. Việc tính toán chỉ số
này theo chuỗi thời gian nhằm nghiên cứu xu hướng liệu ngành công nghiệp khai
khoáng đã phát triển theo hướng tăng trưởng xanh.
– Sử dụng kinh tế lượng: luận án dùng mô hình kinh tế lượng ước lượng và phân
tích mối quan hệ giữa khai thác khoáng sản và TFP (chi tiết về phương pháp: Bảng
11 – Phụ lục).
4.3. Nguồn số liệu, tài liệu
Các loại số liệu, tài liệu thứ cấp: thu thập các văn bản, chủ trương, chính sách
của Đảng, Nhà nước; thông tin và dữ liệu từ các công trình nghiên cứu khoa học đã
có; các báo cáo có liên quan...
Các số liệu, tài liệu sơ cấp: kết quả điều tra và phỏng vấn sâu các cơ quan quản lý
nhà nước, các doanh nghiệp khai khoáng và người dân tại các điểm khảo sát.
4.4. Khung phân tích
8
Luận án tiến hành phân tích các nội dung theo khung phân tích như sau:
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
Luận án góp phần làm sáng tỏ lý luận về khai thác khoáng sản trong tăng trưởng xanh:
– Việc khai thác khoáng sản hướng tới việc tạo ra giá trị gia tăng lớn hơn, sử
dụng ít hơn các nguồn tài nguyên và gây ra ít hơn các tác động tới tài nguyên,
môi trường.
– Làm rõ và cung cấp luận cứ khoa học cho việc đề ra các chính sách sử dụng hiệu
quả tài nguyên khoáng sản, tách rời sự phụ thuộc của tăng trưởng kinh tế đối với
khai thác ngày càng nhiều tài nguyên khoáng sản và chuyển hướng tới mô hình
tăng trưởng xanh.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
– Góp phần bổ sung vào các lý luận về khai thác khoáng sản trong tăng trưởng xanh.
– Góp phần nâng cao nhận thức về tăng trưởng xanh, qua đó, đóng góp vào xây
dựng và thực thi các chính sách.
– Góp phần làm sáng tỏ và cung cấp những luận cứ khoa học về thực tiễn khai
thác khoáng sản ở nước ta trên quan điểm tăng trưởng xanh phục vụ cho công tác
nghiên cứu và quản lý ở các cơ quan hoạch định chính sách, các doanh nghiệp.
7. Kết cấu nội dung của luận án
Ngoài phần nói đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và các phụ lục có liên
quan, luận án được kết cấu thành 04 chương, cụ thể như sau:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án
Chương 2: Cơ sở lý luận và thực tiễn về khai thác khoáng sản trong tăng
trưởng xanh
Chương 3: Thực trạng khai thác khoáng sản trong chiến lược tăng trưởng
xanh ở Việt Nam
Chương 4: Ðề xuất hoàn thiện, đổi mới khai thác khoáng sản trong chiến
9
lược tăng trưởng xanh ở Việt Nam
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1. Tình hình nghiên cứu ngoài nước
Ở cấp độ quốc tế, cho đến nay, có nhiều nghiên cứu về thực trạng khai thác và
phát triển ngành công nghiệp khai khoáng, trong đó đáng chú ý là các nghiên cứu có
giá trị khoa học dưới góc độ bổ sung, hoàn thiện lý luận về tăng trưởng xanh.
1.1.1. Các nghiên cứu bàn về khai thác khoáng và quan hệ của nó với tăng
trưởng kinh tế
1.1.1.1. Các nghiên cứu bàn về vốn tài nguyên, tài nguyên khoáng sản trong tăng
trưởng kinh tế
Các nhà kinh tế học theo trường phái tân cổ điển khi xem xét tới tăng trưởng kinh
tế thường chỉ đề cập đến vốn vật chất và lao động. Robert Solow, năm 1956, đã bổ
sung yếu tố công nghệ cùng với các yếu tố như vốn vật chất, lao động là những đầu
vào của tăng trưởng kinh tế. Các cách tiếp cận này chủ yếu đề cập tới về số lượng
của tăng trưởng kinh tế.
Với cuộc khủng hoảng dầu lửa những năm 1970, các nhà kinh tế học đã nhận ra
“Sự giới hạn của tăng trưởng” (The limits to growth), đó là: tài nguyên thiên nhiên
không phải là vô tận và môi trường đang bị ô nhiễm có nguy cơ tới hạn khả năng
chịu đựng của hệ sinh thái. Nếu tình trạng này kéo dài sẽ ảnh hưởng tới tăng trưởng
trong tương lai và chất lượng cuộc sống của con người. Chính vì vậy, đầu những
năm 1970, các nhà kinh tế học đã mở rộng mô hình tăng trưởng tân cổ điển bằng
việc xem vốn tài nguyên với tư cách là đầu vào sản xuất nhằm đánh giá đầy đủ hơn
vai trò và ảnh hưởng của việc sử dụng loại vốn này.
Stiglitz (1974) [151] đã ước lượng độ co giãn giữa các đầu vào sản xuất, bao
gồm: vốn vật chất, lao động và năng lượng. Dasgupta và Heal (1979) [101] ước
lượng sự thay thế lẫn nhau giữa các đầu vào sản xuất và nhấn mạnh rằng đầu ra của
nền kinh tế liệu có đầy đủ khi không có tài nguyên, trong trường hợp việc thiếu tài
10
nguyên sẽ không xảy ra quá trình sản xuất. Điểm chung trong các nghiên cứu này là
đều khẳng định rằng tài nguyên không tái tạo là đầu vào quan trọng của sản xuất.
Tuy nhiên, các nghiên cứu đã bỏ qua sự thay thế của đầu tư vào các công nghệ mới
và cải thiện các kỹ năng lao động. Hơn nữa, các nguyên cứu chưa xem xét tới
thương mại quốc tế – bắt đầu phát triển mạnh trong những năm 1990 và hiện đã trở
thành xu thế chủ đạo trong kinh tế thế giới – để bổ sung cho nguồn năng lượng ở
trong nước khi cạn kiệt. Mặc dù vậy, các nghiên cứu này cũng đã nhấn mạnh tới
tầm quan trọng của vốn tài nguyên trong tăng trưởng kinh tế.
Các nghiên cứu đã áp dụng hàm sản xuất Cobb–Douglas với việc bổ sung vốn tài
nguyên để đưa ra các giải thích đối với tăng trưởng kinh tế (vốn tài nguyên là đầu
vào sản xuất, mặt trái của khai thác và sự cần thiết đầu tư vào vốn tài nguyên):
– Gylfason và Zoega (2001) [114] áp dụng hàm sản xuất Cobb–Douglas với các
biến đầu vào là lao động, vốn vật chất và vốn tài nguyên; và qua các bước biến đổi
để ước lượng việc gia tăng khối lượng vốn tài nguyên ảnh hưởng như thế nào đến
đầu tư. Các kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng vốn tài nguyên có tác động tới tăng
trưởng kinh tế. Loại vốn này cũng có thể cản trở tới quy mô vốn đầu tư, nếu chúng
chậm quá trình phát triển tài chính và ảnh hưởng gián tiếp tới chất lượng của đầu tư.
– Sturgill và Zuleta (2013) [145] áp dụng hàm Cobb–Douglass với 4 biến gồm
vốn vật chất (tổng tích lũy tài sản), vốn con người (tỷ lệ lao động qua đào tạo), vốn
tài nguyên (tỷ trọng khu vực khai thác tài nguyên trong cơ cấu kinh tế) và quy mô
lao động (số lượng lao động đang làm việc). Nghiên cứu tập trung tính toán đóng
góp của các nhân tố vào tăng trưởng và ảnh hưởng của các nhân tố này vào TFP
(năng suất nhân tố tổng hợp), năng suất cận biên của các yếu tố khác.
– Trong nghiên cứu về vốn tài nguyên và tăng trưởng trong dài hạn, Cai và cộng
sự (2011) [92] nghiên cứu mô hình tăng trưởng nội sinh dựa trên hàm sản xuất
Cobb–Douglass với các biến giải thích gồm vốn vật chất, lao động và vốn tài
nguyên. Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng hệ kinh tế – môi trường sẽ tăng trưởng ổn
định trong dài hạn nếu có sự đầu tư thỏa đáng cho tái tạo tài nguyên và môi trường.
Các nghiên cứu vừa đề cập chưa bàn đến sự thay thế và độ co giãn thay thế giữa
11
các loại vốn khác nhau (một đầu vào này có thể thay thế được bao nhiêu các yếu tố
đầu vào khác). Hơn nữa, các nghiên cứu này đã bỏ qua sự thay thế của năng lượng
tái tạo đối với tài nguyên không tái tạo.
Ngân hàng Thế giới (2008) [39], trong báo cáo với tựa đề “Của cải của các quốc
gia ở đâu? Đo lường nguồn của cải Thế kỷ 21”, khi hạch toán tài sản của các quốc
gia đã xây dựng các biến số đầu vào là vốn vật chất, vốn con người, nguồn năng
lượng không tái tạo (dầu, khí tự nhiên, than đá) và tài nguyên đất đai. Kết quả
nghiên cứu này khẳng định vốn tài nguyên là một trong các cấu thành quan trọng
nhất trong tổng giá trị của hầu hết các quốc gia. Nghiên cứu đề xuất cách tiếp cận
mới trong việc đo lường sự biến động của cải và nhấn mạnh tới tầm quan trọng của
vốn tài nguyên, song việc quản lý tốt hơn hệ sinh thái và nguồn lực tự nhiên như thế
nào chưa được đề cập tới.
1.1.1.2. Các nghiên cứu về luận điểm “lời nguyền tài nguyên” và các mối quan hệ
đối với tăng trưởng kinh tế
“Lời nguyền tài nguyên” là thuật ngữ bắt nguồn từ các kết quả nghiên cứu thực
nghiệm, được khởi xưởng bởi Sachs và Warner (1995) khi nghiên cứu về mối quan
hệ giữa khai thác tài nguyên và tăng trưởng kinh tế. Thuật ngữ này dùng để nói lên
một nghịch lý rằng các quốc gia giàu có tài nguyên thiên nhiên, đặc biệt là tài
nguyên không tái tạo (khoáng sản, dầu mỏ và khí đốt), nhưng lại không thể biến được
lợi thế đó để phát triển đất nước, ngược lại, thường là các quốc gia kém phát triển.
– Sachs và Warner (1999) [139] nghiên cứu về các nguy hại tiềm ẩn của việc
khai thác khoáng sản tới tăng trưởng kinh tế trong dài hạn. Các tác giả nghiên cứu
đối với 85 quốc gia về tăng trưởng kinh tế (được đo lường bằng thu nhập bình quân
đầu người) trong giai đoạn 1965 – 1998 và vốn tài nguyên (được tính bằng tỷ trọng
vốn tài nguyên trong tổng vốn – bao gồm vốn vật chất, vốn con người và vốn tài
nguyên). Tuy nhiên, nghiên cứu này chủ yếu để so sánh giữa các nhóm quốc gia
giàu tài nguyên và nghèo tài nguyên, kết quả nghiên cứu chưa giải thích được cho
quốc gia trong các giai đoạn phát triển như thế nào, nhất là trong giai đoạn đầu của
quá trình phát triển.
– Crowson (2009) [100] nghiên cứu về mối liên hệ giữa đóng góp từ xuất khẩu
12
khoáng sản và tăng trưởng GDP, qua đó chứng minh về hiện tượng “lời nguyền tài
nguyên”. Tác giả đã sử dụng tỷ trọng xuất khẩu tài nguyên trong tổng xuất khẩu, đây
có thể là biến giải thích chưa hoàn hảo, bởi nền kinh tế có khả năng là tái xuất khẩu
(nhập khẩu để gia công và sau đó xuất khẩu).
– Gylfason (2001) [113] tập trung vào chứng minh về mối quan hệ tỷ lệ nghịch
giữa giàu tài nguyên và phát triển giáo dục, các quan hệ này cũng có thể liên quan
tới tăng trưởng kinh tế. Kết quả nghiên cứu này chỉ ra rằng, các nước giàu tài
nguyên có xu hướng đầu tư cho giáo dục thấp hơn so với các nước nghèo tài
nguyên. Douangngeune và cộng sự (2005) [102] lập luận rằng đóng góp từ khai
thác khoáng sản có quan hệ nghịch đảo với chi tiêu công về giáo dục và số năm đến
trường của học sinh nữ. Các nghiên cứu này sử dụng biến tỷ trọng nguồn thu từ khai
thác tài nguyên trong tổng nguồn thu ngân sách có thể chưa hẳn đã phù hợp, bởi
nguồn thu từ tài nguyên phụ thuộc vào biến động của giá cả trên thị trường và các
chi phí khai thác. Hơn nữa, các nghiên cứu dường như chưa đánh giá thỏa đáng các
lợi ích dài hạn của giáo dục khi được đầu tư bằng nguồn thu từ khai thác tài nguyên.
Trong khi các nghiên cứu tập trung chứng minh “lời nguyên tài nguyên”, không
ít nghiên cứu lại đưa ra các kết luận rằng khai thác tài nguyên có thể đóng góp tích
cực cho tăng trưởng kinh tế. Philippot (2010) [134] nghiên cứu đối với 28 nền kinh
tế đang trong quá trình chuyển đổi thuộc Đông Âu và Liên xô (cũ) trong giai đoạn
1990 – 2003, với biến phụ thuộc là GDP bình quân đầu người và biến giải thích là
sản lượng khai thác các loại tài nguyên không tái tạo (dầu lửa, khí đốt, các loại
khoáng sản), kết quả cho thấy khai thác tài nguyên đóng góp tích cực vào tăng
trưởng kinh tế. Các kết luận tương tự cũng được rút ra từ các nghiên cứu Ahrend
(2002) [82] và Brunnschweiler (2010) [91], đó là, khai thác dầu lửa có tác động tích
cực tới tăng trưởng kinh tế của các vùng lãnh thổ của Liên bang Nga.
Việc các nghiên cứu đưa ra các kết luận và các tranh luận trái ngược nhau về “lời
nguyền tài nguyên” cũng là điều dễ hiểu, bởi sự thiếu nhất quán trong việc sử dụng
phương pháp và các biến đại diện để giải thích cho vấn đề nghiên cứu. Đây cũng là
chủ đề cần có nhiều nghiên cứu hơn nữa để góp phần làm sáng tỏ vấn đề.
Các nghiên cứu ủng hộ “lời nguyền tài nguyên” đều đề cập đến các bài học cay
13
đắng từ việc khai thác khoáng sản ở một số quốc gia. Điểm chung của các tác giả là
có xu hướng gợi ý các nước giàu tài nguyên khoáng sản nên để giành các tài nguyên
này dưới lòng đất thay vì khai thác. Các gợi ý này có thể đúng khi tài nguyên
khoáng sản ngày càng cạn kiệt, khan hiếm và việc dự trữ càng mang lại giá trị theo
thời gian. Vấn đề đặt ra là các nước phụ thuộc vào tài nguyên để tăng trưởng, nhất là
các nước nghèo, thì việc khai thác khoáng sản như thế nào để mang lại sự thịnh
vượng?; theo nghĩa đó thì các nghiên cứu này chưa thể hiện rõ. Hơn nữa, các nghiên
cứu này cũng chưa đề ra được những cách tiếp cận, giải pháp để hạn chế các tác
động tiêu cực của hoạt động khai thác khoáng sản đối với môi trường – vấn đề
được đề cao trong tăng trưởng xanh.
1.1.1.3. Các nghiên cứu về phân chia lợi ích giữa các chủ thể liên quan trong
khai thác khoáng sản
Chủ đề phân chia lợi ích giữa các bên liên quan trong khai thác tài nguyên thiên
nhiên được đưa ra lần đầu tiên tại Hội nghị về Đa dạng sinh học năm 2009. Đây là
chủ đề tương đối mới mẻ, cho đến nay chưa có nhiều nghiên cứu và các nghiên cứu
đã thực hiện cũng mới chỉ tập trung vào một số khía cạnh nhất định:
– Trong lĩnh vực khai khoáng, World Bank (2011) [167] đã thực hiện thí điểm
nghiên cứu phân chia lợi ích trong khai thác khoáng sản tại Ghana và Papua New
Guinea. Nghiên cứu này được thực hiện để làm cơ sở cho việc thực hiện việc ký kết
thỏa thuận giữa doanh nghiệp và cộng đồng địa phương, và giới thiệu khuôn khổ lý
thuyết về phân chia lợi ích giữa doanh nghiệp và cộng đồng địa phương nơi có hoạt
động khai khoáng. Dù đã đề xuất mô hình, nhưng nghiên cứu này chưa xây dựng
được cơ chế để vận hành nó như thế nào, đặc biệt là chưa gợi ý được các cơ chế để
giám sát việc thực hiện của từng chủ thể trong khai thác khoáng sản.
– Viện nghiên cứu CMI (2012) [95] thực hiện nghiên cứu đối với một số dự án
khai khoáng ở Tanzania về đóng góp của khai thác khoáng sản đối với kinh tế địa
phương và tìm hiểu xem các công ty khai khoáng đã có những hỗ trợ gì cho cộng
đồng trên địa bàn nơi khai thác. Nghiên cứu đã bước đầu phân tích một số khoản
đóng góp của các công ty khai khoáng cho người dân địa phương, song chưa đề cập
tới việc phân chia lợi ích cho người lao động – những người trực tiếp tạo ra của các
14
cho các doanh nghiệp.
– Owens (2011) [132] đã trình bày các quy định của Australia về phân chia lợi
ích giữa nhà nước – doanh nghiệp – người dân, trong đó quy định đối với từng loại
khoáng sản, doanh nghiệp phải trích lại một tỷ lệ nhất định lợi nhuận cho cộng đồng
địa phương để hỗ trợ phát triển. Nghiên cứu đã đề cập tương đối đầy đủ về phân
chia lợi ích giữa các chủ thể trong khai thác khoáng sản, tuy nhiên, tác gia chưa làm
rõ việc phân chia lợi ích đã hợp lý khi những người dân địa phương thường là đối
tượng bị ảnh hưởng do các hoạt động khai thác khoáng sản.
– Morgandi (2010) [127] nghiên cứu và so sánh quy định pháp luật về phân bổ
nguồn thu từ ngành khai khoáng ở các cấp chính quyền khác nhau tại bảy nước giàu
tài nguyên khoáng sản. Nghiên cứu này chủ yếu tập trung phân tích về phân chia lợi
ích theo cấp chính quyền, nhưng tác giả chưa làm rõ các địa phương không có khai
thác khoáng sản không được hưởng lợi liệu có công bằng khi tài nguyên khoáng sản
là tài sản thiên nhiên ban tặng và là tài sản của quốc gia.
Như vậy, chủ đề về phân chia lợi ích giữa các chủ thể liên quan trong khai thác
khoáng sản mới chỉ tiến hành các phân tích thực nghiệm tại một số quốc gia và
đang ở những bước đi đầu tiên trong việc hình thành khung lý thuyết. Các nghiên
cứu về phân chia lợi ích trong khai thác khoáng sản nhằm hướng vào việc đề xuất
các cơ chế phân bổ tối ưu nguồn thu từ khai thác tài nguyên thiên nhiên, tính hiệu
quả của sự phân bổ nguồn thu cũng như tính ổn định và cân bằng chung của hệ
thống tài chính. Đặc biệt, việc nghiên cứu cơ chế phân chia lợi ích là cơ sở để đánh
giá, giải thích các nguyên nhân của xung đột xã hội, tranh chấp tài nguyên – tức là
đề cập tới bền vững về xã hội.
1.1.2. Các nghiên cứu bàn về tăng trưởng xanh
1.1.2.1. Các nghiên cứu về tăng trưởng xanh
Kể từ khi xảy ra cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu (từ năm 2007), thế giới đã
nhìn nhận lại mô hình tăng trưởng đang thực hiện và khái niệm, nghiên cứu về tăng
trưởng xanh thu hút được sự quan tâm của nhiều người, trong đó đáng chú ý là các
nghiên cứu sau đây.
– Chương trình Môi trường Liên hợp quốc – UNEP (2011a) [154] đưa ra định
15
nghĩa, cách tiếp cận về tăng trưởng xanh và các ví dụ ở một số ngành tại một số
quốc gia. Nghiên cứu cũng đã đề cập tới những lợi ích và thách thức cho việc thực
hiện tăng trưởng xanh.
– Trong khía cạnh về việc làm xanh, nghiên cứu của Chương trình Môi trường
Liên hợp quốc và Tổ chức Lao động quốc tế (2008) [157] đưa ra các định nghĩa về
việc làm xanh, phân tích xu hướng và các nhân tố tác động về việc làm của một số
ngành. Theo nghiên cứu này, ngành công nghiệp khai khoáng có xu hướng sử dụng
nhiều vốn hơn là lao động, tức là sử dụng các công nghệ nhiều vốn và ít có sự cải
thiện năng suất lao động. Hệ quả của cách tăng trưởng này là “lề hóa” một số nhóm
người tham gia vào thị trường lao động, kéo theo đó là bất bình đẳng về thu nhập
trong xã hội.
– Nghiên cứu của Ủy ban Kinh tế Xã hội châu Á Thái Bình Dương – UNESCAP
(2012) [108] bàn về thực trạng sử dụng, hiệu quả sử dụng các loại tài nguyên và các
tác động tới biến đổi khí hậu. Nghiên cứu đã xây dựng mô hình về tăng trưởng xanh
và đề xuất chính sách can thiệp là đầu tư vào vốn con người (để có năng suất lao
động cao hơn, phân phối thu nhập công bằng) và vào vốn tài nguyên thiên nhiên
(giảm cường độ và sử dụng hiệu quả tài nguyên, bền vững về sinh thái). Hai quá
trình này đồng hành với nhau góp phần vào phát triển bền vững.
– Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế – OECD (2011) [129] đề ra khuôn khổ
chiến lược và các con đường thực hiện tăng trưởng xanh. Nghiên cứu này đưa ra
chính sách can thiệp thúc đẩy tăng trưởng xanh thông qua cải cách các hệ thống
thuế tài nguyên và các trợ cấp.
– Reilly (2012) [137] đã nghiên cứu về các giải pháp chính sách sử dụng hiệu
quả tài nguyên thiên nhiên để tăng trưởng xanh. Tuy nhiên, các đề xuất trong
nghiên cứu này mới chỉ mang tính nguyên tắc, việc vận dụng vào điều kiện cụ thể
từng quốc gia như thế nào là vấn đề cần tiếp tục phân tích.
– Trong khi nhiều nghiên cứu tập trung vào luận giải bản chất của tăng trưởng
xanh cũng như con đường để hướng tới tăng trưởng xanh và những lợi ích của nó,
một số nghiên cứu lại phản bác và tỏ ra nghi ngờ về lợi ích thực sự của tăng trưởng
xanh. Michaels và Murphy (2009) [126], Morris và cộng sự (2011) [128] cho rằng
16
thiếu bằng chứng đáng tin cậy về lợi ích của năng lượng xanh trong việc tạo thêm
nhiều việc làm và phê phán các quan điểm ủng hộ tăng trưởng xanh có thể cải thiện
nền kinh tế và môi trường mà hầu như không có rủi ro.
– Nghiên cứu của các chuyên gia thuộc Ngân hàng Thế giới – World Bank
(2012) [37] lại đặt câu hỏi mang tính nghi ngờ về tăng trưởng xanh là liệu công
nghệ có cho phép các nước đang phát triển theo đuổi phương thức phát triển ít tổn
hại đến môi trường? Đây là những câu hỏi mang tính kinh tế học nhằm giải thích
cho các thất bại thị trường và các chính sách kém hiệu quả. Theo đó, nghiên cứu
này đưa ra một số lập luận và cho rằng tăng trưởng xanh là chưa đủ đề nền kinh tế
đạt tới bền vững khi thiếu đồng bộ với các thể chế khác.
Một trong các công cụ để đạt tăng trưởng xanh là áp đặt và gia tăng thuế, phí đối
với môi trường nhằm điều chỉnh hành vi trong các ngành công nghiệp và điều này
sẽ tăng thêm gánh nặng nghĩa vụ tài chính đối với doanh nghiệp. Từ đó, người ta
cũng có những lo ngại rằng việc thắt chặt các chính sách môi trường có thể dẫn đến
việc di chuyển các ngành công nghiệp đến những khu vực có các chính sách môi
trường lỏng lẻo hơn. Copeland (2012) [98] cho rằng thắt chặt các quy định về môi
trường có thể khiến các doanh nghiệp di chuyển địa điểm sản xuất.
Việc có không ít nhà nghiên cứu vẫn hoài nghi về tăng trưởng xanh là điều dễ
hiểu, mặc dù tăng trưởng xanh đã được phần lớn lãnh đạo các quốc gia trên thế
giới chấp nhận như con đường tất yếu. Gần đây nhất, tại Hội nghị thượng đỉnh
toàn cầu về phát triển bền vững năm 2012 tại Rio De Janero (Braxin), tăng
trưởng xanh được các quốc gia đồng thuận coi là con đường kết hợp thực hiện cả
hai mục tiêu là phát triển bền vững và giảm nhẹ biến đổi khí hậu. Tuy nhiên, vấn
đề thực tế cần giải quyết là giảm thiểu các rủi ro của tăng trưởng xanh, có lộ
trình thực hiện và đề xuất được khung chính sách phù hợp, đặc biệt là trong các
lĩnh vực liên quan đến khai thác tài nguyên, đây vẫn đang là vấn đề chưa có lời
giải ở nhiều nước đang phát triển.
1.1.2.2. Các nghiên cứu liên quan đến công nghiệp xanh
Các nghiên cứu của các tác giả trong khuôn khổ các nghiên cứu của Tổ chức phát
triển công nghiệp Liên hợp quốc – UNIDO (2011a) [159], UNIDO (2011b) [160]
17
và UNIDO (2010) [161] đã nêu ra các thách thức toàn cầu đối với phát triển bền
vững, từ đó đề xuất công nghiệp xanh là mô hình cho sản xuất công nghiệp nhằm
hạn chế các ảnh hướng đến hệ sinh thái và cuộc sống của con người. UNIDO đề
xuất, công nghiệp xanh thông qua: xanh hóa các hoạt động công nghiệp hiện tại và
tạo ra các ngành công nghiệp xanh có thể bảo vệ môi trường trong khi vẫn tạo ra
việc làm mới và đến lượt có thể giúp giảm đói nghèo và nâng cao mức sống. Các
báo cáo này nêu ra tăng hiệu quả sử dụng tài nguyên, bảo tồn vốn tài nguyên là một
trong những kênh để thực hiện tăng trưởng xanh. UNIDO (2012) [158] giới thiệu
chi tiết về công nghiệp xanh, đây là gợi ý các phương thức, mô hình phát triển công
nghiệp mới, đặc biệt là đối với các nước đang phát triển và các nước đang chuyển
đổi thể chế kinh tế và mô hình tăng trưởng.
Tăng trưởng xanh là cần thiết, nhưng đặt trong bối cảnh của các nước đang phát
triển hiện vẫn gặp những thách thức về vốn, trình độ công nghệ và tay nghề của
người lao động… hay nói chung là thách thức về nguồn lực để thực hiện. Các
nghiên cứu trên đây của UNIDO nhìn chung đề ra khung nghiên cứu, phân tích cho
các ngành công nghiệp nói chung và cũng như một hình mẫu chung cho nhiều
nước; vậy thực hiện tăng trưởng xanh cho các ngành công nghiệp cụ thể (chẳng hạn,
ngành công nghiệp khai khoáng) và ứng với điều kiện của một quốc gia thì vấn đề
được giải quyết như thế nào là những câu hỏi cần bổ sung, làm rõ về lý luận.
1.1.3. Các nghiên cứu bàn về khai thác khoáng sản trong thực hiện tăng trưởng
xanh
Khai thác tài nguyên nói chung và tài nguyên khoáng sản nói riêng là chủ đề
được đề cập trong các nghiên cứu về tăng trưởng xanh. Sử dụng hiệu quả tài nguyên
là trọng tâm trong các chính sách phát triển và mục tiêu nhằm hướng tới tăng trưởng
xanh. Các nghiên cứu của các nhà khoa học từ Viện Nghiên cứu phát triển bền vững
châu Âu – SERI (2012) [146], SERI (2011) [147], SERI (2010) [148] và SERI
(2009) [149] đưa ra các lập luận về sự cần thiết giải quyết vấn đề sử dụng tài
nguyên ở cấp độ vĩ mô, cấp ngành công nghiệp và đánh giá xu hướng thay đổi về
năng suất tài nguyên. Việc gia tăng hiệu quả sử dụng tài nguyên trong sản xuất không
chỉ đơn giản là giải quyết các vấn đề môi trường, mà nó còn là nhân tố cơ bản để cạnh
18
tranh trên thị trường khi các ràng buộc về môi trường ngày càng khắt khe. Các nghiên
cứu này cũng đã đề cập về xu hướng hiệu quả sử dụng tài nguyên của các khu vực trên
thế giới và nhìn chung là hiệu quả sử dụng tài nguyên tăng lên, nói cách khác là ngày
càng cần sử dụng ít hơn các đầu vào từ tài nguyên để tạo ra một sản phẩm.
Tăng trưởng xanh là phương thức tăng trưởng mới đòi hỏi phải có những chính
sách, thể chế tương ứng. Tuy nhiên, các nghiên cứu khi bàn về nâng cao năng suất tài
nguyên trong quá trình thực hiện tăng trưởng xanh, song chưa đề cập tới các cơ chế gì
và như thế nào để thực hiện lộ trình này. Bên cạnh đó, tăng trưởng xanh là quá trình lâu
dài, đòi hỏi sự tham gia của nhiều bên liên quan, nhưng điều này chưa được nói tới
trong các nghiên cứu.
Ngân hàng Thế giới (2012) [37], trong báo cáo “Tăng trưởng xanh cho mọi
người: con đường hướng tới phát triển bền vững”, khi bàn về tăng trưởng xanh đề
xuất cách ứng xử thân thiện, hạn chế khai thác quá mức đối với tài nguyên thiên
nhiên và coi trọng việc quản lý bền vững nguồn tài nguyên là cơ sở cho tăng trưởng
xanh. Báo cáo đề xuất các nguồn tài nguyên khác nhau đòi hỏi có các chính sách
khác nhau. Đối với tài nguyên không tái tạo, nghiên cứu này khuyến nghị nên tập
trung vào giảm thiểu mức thiệt hại về môi trường, đồng thời phục hồi và tái đầu tư
lợi nhuận từ khai thác vào các hình thức khác của vốn sản xuất để tiếp tục tạo thêm
lợi nhuận sau khi nguồn tài nguyên cạn kiệt. Tuy nhiên, làm thế nào để có thể đẩy
mạnh sản xuất, khôi phục và tái đầu tư lợi nhuận,... vẫn là câu hỏi đầy thách thức,
nhất là khi việc phân chia lợi ích không như mong muốn và thường là rơi vào tay
các nhóm “tìm kiếm đặc lợi” (rent–seeking).
Tài nguyên nói chung và tài nguyên khoáng sản nói riêng có vai trò quan trọng
đối với tăng trưởng kinh tế, song các mô hình tăng trưởng hiện đại cho rằng vai trò
của chúng có xu hướng giảm dần, thay vào đó là mức độ đóng góp của các yếu tố
vốn và lao động, đặc biệt là ngày càng gia tăng mức độ đóng góp của yếu tố công
nghệ. Boschini và cộng sự (2003) [89] sử dụng tỷ lệ xuất khẩu hàng hóa sơ cấp, giá
trị của quặng sắt và xuất khẩu kim loại, tỷ trọng khoáng sản trong GDP để đánh giá
mức độ phụ thuộc. Các tác giả cho rằng tài nguyên không tái tạo là đầu vào quan
trọng trong sản xuất, song các nước giàu có mức độ phụ thuộc thấp hơn. Theo đó,
để hướng tới mô hình tăng trưởng xanh, các nước cần thay thế các loại nhiên liệu
hóa thạch bằng việc khai thác các loại năng lượng tái tạo, năng lượng sạch. Tuy
19
nhiên, đây cũng là thách thức đối với các nước đang phát triển khi vẫn nghèo đói,
việc sản xuất lương thực phẩm chưa đáp ứng đủ nhu cầu cấp thiết của người dân,
chứ chưa nói tới để phục vụ sản xuất năng lượng.
Các nghiên cứu trên đây dù đã bàn về cách khai thác tài nguyên nói chung và tài
nguyên khoáng sản nói riêng để thực hiện mô hình tăng trưởng xanh, song chưa làm
rõ các nhân tố chi phối việc thực hiện. Hơn nữa, các nghiên cứu cũng chưa chỉ ra
các nhân tố ràng buộc để thúc đẩy nhanh hơn quá trình thực hiện tăng trưởng xanh:
sức ép từ các cam kết quốc tế, xu hướng về các yêu cầu môi trường với các tiêu
chuẩn ngày càng cao hơn.
1.1.4. Tổng quan các phương pháp tính toán chỉ số phát triển bền vững
Có nhiều cách hiểu khác nhau về phát triển bền vững cũng như thành phần bên
trong đó, song hầu như các nghiên cứu đều đề cập phát triển bền vững bao gồm 3
trụ cột chính: kinh tế, xã hội, môi trường. Do các chỉ tiêu (indicators) trong các trụ
cột PTBV có các đơn vị đo lường khác nhau, để tính toán chỉ số phát triển bền
vững (Sustainable Development Index – SDI), đòi hỏi phải chuẩn hóa chúng. Bên
cạnh đó, giữa các chỉ tiêu trong từng chỉ số thành phần (Sub–Index) và/hoặc giữa
các chỉ số thành phần có mức độ quan trọng khác nhau nên tính các trọng số tương
ứng. Hiện nay, một số nghiên cứu đã sử dụng những phương pháp khác nhau để
chuẩn hóa, tính trọng số và tính chỉ số SDI:
– Fernández và Sánchez (2009) [109] xây dựng SDI ngành du lịch với các chỉ số
thành phần: kinh tế, xã hội, môi trường. Giá trị các chỉ tiêu (với đơn vị đo lường vật
chất khác nhau) trong các chỉ số thành phần được chuẩn hóa để có cùng phân phối
xác suất (chuẩn hóa Z–score). Tiếp đó, các tác giả đã tiến hành các hồi quy để tính
trọng số của của chỉ số thành phần. Chỉ số này được dùng để so sánh giữa các điểm
du lịch trên thế giới.
– Với mục đích đánh giá bền vững của các doanh nghiệp trong ngành thép, Singh
(2007) [144] nghiên cứu SDI với 5 chỉ số thành phần: kinh tế, xã hội, môi trường,
quản trị doanh nghiệp, khía cạnh kỹ thuật. Mỗi chỉ số thành phần gồm nhiều chỉ tiêu
và mỗi chỉ tiêu tương ứng với 01 câu hỏi trong bảng hỏi điều tra, mỗi chỉ tiêu được
20
người trả lời phỏng vấn cho điểm theo thang đo 5 điểm (thang đo Likert–Scale).
Nghiên cứu này đã sử dụng phương pháp so sánh cặp đôi để tính trọng số của các
chỉ số thành phần.
Phát triển sâu hơn phương pháp của Singh (2007), Satish và cộng sự (2013)
[143] xây dựng SDI các ngành công nghiệp với việc mỗi chỉ tiêu được sử dụng
thang đo Likert–Scale. Tiếp đó, các tác giả đã tính trọng số thông qua việc tiến hành
phương pháp so sánh cặp đôi với 2 bước (bước 1: tính trọng số cho các 3 chỉ số
thành phần; bước 2: tính cho từng chỉ tiêu trong các chỉ số thành phần).
– Dựa theo cách tính chỉ số phát triển con người (HDI), Barrera–Roldán và
Saldívar–Valdés (2002) [87] đã sử dụng phương pháp chuẩn hóa max–min và các
chỉ số thành phần có trọng số ngang nhau. Các chỉ số thành phần trong nghiên cứu
này bao gồm: kinh tế với một chỉ tiêu là thu nhập bình quân đầu người, về xã hội
với chỉ tiêu tỷ lệ nghèo và môi trường với chỉ tiêu ô nhiễm không khí. Mục đích của
việc xây dựng SDI trong nghiên cứu Barrera–Roldán và Saldívar–Valdés (2002) là
so sánh về PTBV theo không gian (giữa một số địa phương ở Mexico).
Như vậy, có nhiều cách để tính chỉ số SDI và mỗi phương pháp đều có những ưu,
nhược điểm khác nhau; đồng thời, gắn với từng phương pháp có những đòi hỏi về
số liệu và nguồn lực thích hợp. Các chỉ số phát triển bền vững đã được tính toán cho
một số ngành, song đối với ngành công nghiệp khai khoáng đến nay vẫn chưa có
nghiên cứu nào đề cập tới.
1.2. Tình hình nghiên cứu trong nước
1.2.1. Các nghiên cứu về khai thác khoáng sản ở Việt Nam
Cho đến nay, có nhiều công trình nghiên cứu khoa học trong nước nghiên cứu về
các khía cạnh liên quan đến chủ đề khai thác khoáng sản, cụ thể:
1.2.1.1. Các nghiên cứu về tiềm năng, trữ lượng và hiện trạng khai thác khoáng sản
Về lĩnh vực này có khá nhiều công trình nghiên cứu đã xuất bản. Chẳng hạn như
các nghiên cứu của Lê Văn Thành (2004) [57], Trần Văn Trị (chủ biên) (2000) [67],
Dương Hồng Phi và Doãn Duy Cầm (1998) [43] chủ yếu nghiên cứu về trữ lượng,
đặc điểm phân bố của tài nguyên khoáng sản và các khía cạnh kỹ thuật đối với
khoáng sản. Hoàng Văn Khanh (2008) [29] chủ yếu phân tích về thực trạng lãng
21
phí, tổn thất tài nguyên khoáng sản trong hoạt động khai thác.
Nhìn chung, các nghiên cứu thuộc nhóm này chủ yếu bàn về tình hình tài nguyên
và những vấn đề trên phương diện kỹ thuật – công nghệ hoặc ở mức mô tả hiện
trạng khai thác, hoặc định hướng chiến lược, quy hoạch phát triển nguồn tài nguyên
khoáng sản mà chưa đề cập những khía cạnh mang tính chính sách của khai thác
khoáng sản.
1.2.1.2. Các nghiên cứu về thể chế, chính sách đối với khai thác khoáng sản
Lại Văn Mạnh (2016) [31], luận án tiến sĩ kinh tế với đề tài “Vai trò của chính
sách tài chính trong quản lý hoạt động khai thác khoáng sản ở Việt Nam theo định
hướng phát triển bền vững” đã phân tích vai trò của chính sách tài chính trong việc
phân phối thu nhập giữa các nhóm xã hội và giữa các thế hệ, các công cụ thuế trong
việc điều tiết sản lượng khai thác và giải quyết các vấn đề về môi trường. Những nội
dung này cung cấp những nhận định về thực trạng khai thác khoáng sản và các chính
sách tài chính trong việc điều tiết hoạt động khai thác khoáng sản. Tuy nhiên, nghiên
cứu chưa làm sáng tỏ các chính sách tài chính đối với khai thác khoáng sản chịu sự chi
phối như thế nào bởi mô hình tăng trưởng kinh tế và ở chiều ngược lại, thay đổi chính
sách tài chính khoáng sản có tác động gì và như thế nào vào thay đổi các ngành sản
xuất, đóng góp vào thay đổi mô hình tăng trưởng.
Luận án tiến sĩ kinh tế của Hà Tất Thắng (2015) [54] với đề tài “Quản lý nhà
nước về an toàn, vệ sinh lao động trong các doanh nghiệp khai thác đá ở Việt Nam”
nghiên cứu về thực trạng tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp từ khai thác đá và
những hạn chế trong công tác quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp khai thác
đá. Tác giả đã chỉ ra những hạn chế trong các quy định pháp luật phục vụ quản lý
nhà nước, song chưa chỉ ra được những yếu kém trong mô hình tổ chức quản lý
(quản lý chồng chéo) và sự vận hành của nó (trách nhiệm cụ thể của tổ chức, cá nhân).
Phạm Thủy Chung (2012) [12], luận văn thạc sĩ luật học, phân tích thực trạng về
sự điều chỉnh của pháp luật đối với hoạt động khai thác, chế biến khoáng sản.
Nghiên cứu này chưa đề cập được thực trạng về thực thi pháp luật đối với hoạt động
khoáng sản.
Ủy ban thường vụ Quốc hội (2012) [72] tập trung đánh giá những kết quả đạt
22
được, tồn tại, hạn chế và nguyên nhân trong việc ban hành và thực hiện chính sách,
pháp luật về quản lý, khai thác khoáng sản và bảo vệ môi trường trong hoạt động
khoáng sản. Nhìn chung, nghiên cứu này mới chỉ tập trung ở việc rà soát, đánh giá
tính đồng bộ giữa các chính sách, quy định pháp luật. Báo cáo chưa đánh giá, phân
tích các chính sách đã ban hành có dựa trên các cơ sở khoa học và có xem xét tới
yếu tố bền vững, hay chỉ là ý chí chủ quan của các cơ quan ban hành chính sách.
Phòng Thương mại – Công nghiệp Việt Nam và Viện Tư vấn phát triển (2011)
[44] chủ yếu đi vào liệt kê, rà soát các nghĩa vụ tài chính của doanh nghiệp khai
khoáng đối với nhà nước và thực tiễn thực hiện các nghĩa vụ này. Các phát hiện từ
nghiên cứu này cho rằng, về cơ chế quản lý khai thác, hiện nay việc xác định thuế
tài nguyên chủ yếu dựa vào kê khai sản lượng khai thác của doanh nghiệp, và khó
khăn trong việc kiểm tra, xác định chính xác sản lượng đơn vị thực tế khai thác, gây
khó khăn cho việc tính thuế, điều này dễ dẫn đến thất thu cho ngân sách nhà nước.
Viện Tư vấn phát triển (2010) [78] cung cấp khá chi tiết khung pháp lý về quản
lý hoạt động khai thác khoáng sản, thực trạng quản lý, những kết quả của công tác
quản lý và tác động tới ô nhiễm môi trường. Nghiên cứu đã đề xuất một số giải
pháp đối với những yếu kém trong ngành công nghiệp khai khoáng, song các giải
pháp vẫn mang tính định hướng và thiếu những gợi ý cụ thể để có thể thực thi được.
Bộ Tài nguyên và Môi trường (2009) [8] đánh giá những mặt đạt được và chưa
đạt được trong quá trình thi hành Luật khoáng sản (năm 1996) và đề xuất những
định hướng cho xây dựng Luật khoáng sản (năm 2010). Nghiên cứu chủ yếu tập
trung đánh giá những vấn đề trong phạm vi hẹp của luật khoáng sản và việc thi hành.
Ngân hàng Thế giới (2010) [38] giới thiệu tổng quan về quản lý tài nguyên thiên
nhiên ở Việt Nam, trong đó đi sâu phân tích những bất cập của thể chế, chính sách,
cơ chế quản trị nhà nước đối với các loại tài nguyên sau: tài nguyên khoáng sản, tài
nguyên đất, tài nguyên rừng, tài nguyên biển và tài nguyên nước. Bên cạnh đó,
nghiên cứu cũng đưa ra thông điệp làm thế nào để quản lý và sử dụng hiệu quả tài
nguyên thiên nhiên nhằm giảm nghèo bền vững, bảo vệ môi trường và công bằng xã
hội. Đối với nội dung về tài nguyên khoáng sản, nghiên cứu của Ngân hàng Thế
giới (2010) mới chỉ tập trung trên các khía cạnh về tính hiệu quả, bền vững môi
23
trường và tính công bằng trong quản lý tài nguyên khoáng sản. Nghiên cứu chưa
phân tích những vấn đề về đánh thuế khai thác mỏ và các chính sách tài chính cũng
như quản lý thuế dưới góc độ khai thác tận thu tối đa tài nguyên và theo hướng tăng
trưởng xanh.
Luận án tiến sĩ kinh tế của Nguyễn Thị Mai Hương (2008) [28] với chủ đề
“Phân tích hiệu quả kinh doanh trong các doanh nghiệp khai thác khoáng sản Việt
Nam” đã xây dựng các chỉ tiêu và đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh ở cấp độ
doanh nghiệp trong ngành công nghiệp khai khoáng.
Nhìn chung, các nghiên cứu trên đây chủ yếu dừng lại trong việc đánh giá thực
trạng các chính sách, pháp luật về khoáng sản dưới góc độ tính đồng bộ, khả thi, phù
hợp với thực tiễn cũng như tình hình thực hiện. Các nghiên cứu vẫn chưa đi sâu vào
phân tích, đánh giá đối với chính sách, pháp luật về khoáng sản trên quan điểm tăng
trưởng xanh, đặc biệt, chưa xem xét các chính sách tác động, ảnh hưởng tới tổn thất tài
nguyên, không khuyến khích các doanh nghiệp tận thu đối đa tài nguyên khoáng sản.
1.2.1.3. Các nghiên cứu về ngành công nghiệp khai khoáng có liên quan đến
phát triển bền vững, tăng trưởng xanh
– Trung tâm Nghiên cứu giới và gia đình (2013) [68] đề cập về các tác động tiêu
cực từ hoạt động khai khoáng xét trên chiều cạnh giới. Nghiên cứu đã chỉ ra các đối
tượng như trẻ em, người già và phụ nữ,… bị ảnh hưởng nhiều hơn so với các nhóm
khác. Nghiên cứu đã đề xuất một số giải pháp nhằm hạn chế các tác động tiêu cực
của hoạt động khai thác khoáng sản, song các giải pháp đưa ra chủ yếu giải quyết
những vấn đề ở cấp độ cộng đồng và mức độ ảnh hưởng của chính sách chưa cao.
– Trần Thanh Thủy và cộng sự (2012) [64] nghiên cứu về hoạt động khai thác
khoáng tác động tiêu cực tới môi trường, sinh kế, hệ thống đường xá phục vụ dân
sinh,… Thông qua các khảo sát thực tiễn, nghiên cứu này cho thấy người dân tại
những nơi khai thác đang chịu các ảnh hưởng tiêu cực do khai thác khoáng sản, đối
tượng chịu thiệt thòi là người dân nghèo.
– Đặng Trung Thuận (2012) [59] đề cập đến hiện trạng khai thai thác, chế biến
quặng titan ở các tỉnh ven biển miền Trung, trong đó nêu lên những tác động bất lợi
từ khai thác titan như sa mạc hóa và cát bay ảnh hưởng đến sản xuất nông nghiệp,
24
phá hủy hệ thống rừng phòng hộ ven biển. Đặng Trung Thuận (chủ biên) (2010)
[60] phân tích tính khả thi trên một số khía cạnh của khai thác bôxit tại Tây Nguyên
và chỉ ra những tác động tiêu cực có thể xảy ra về xã hội – môi trường.
– Đào Trọng Hưng và cộng sự (2010) [27] phân tích thực trạng ô nhiễm và các
vấn đề về thực thi chính sách bảo vệ môi trường trong khai thác than tại Quảng
Ninh. Dù đề cập khá nhiều chiều cạnh về thực trạng ô nhiễm môi trường, song các
tác giả chưa đưa được những giải pháp chính sách để giải quyết vấn đề, nhất là
những giải pháp mang tính dài hạn.
– Nguyễn Danh Sơn (2009) [48] thu thập và phân tích thực trạng về các chất thải
rắn do khai thác và sử dụng các loại khoáng sản (than, quặng sắt, quặng apatit, đá
vôi), các số liệu được khảo sát tại 8 tỉnh vùng trọng điểm Bắc bộ. Nghiên cứu này
tập trung nhiều ở khía cạnh phân tích thực trạng về môi trường. Các giải pháp được
đưa ra trong nghiên cứu nhằm chú trọng xử lý các vấn đề về môi trường, hơn là giải
pháp mang tính dài hạn và bền vững cho nền kinh tế.
– Nghiên cứu của Trung tâm Y tế dự phòng Bình Định (2009) [69] đã chỉ ra thực
trạng về môi trường lao động tại một số doanh nghiệp khai khoáng trên địa bàn tỉnh
Bình Định, đó là: môi trường lao động không đạt tiêu chuẩn vệ sinh cho phép, nhất
là ô nhiễm về bụi, về nhiệt độ… Nhìn chung, nghiên cứu này chưa đề xuất được các
giải pháp cho thực trạng đã nêu và một vài đề xuất đưa ra với cơ chế chưa đủ mạnh
để doanh nghiệp phải tự điều chỉnh các hành vi, nhất là thiếu cơ chế giám sát việc
doanh nghiệp tuân thủ các quy định về đảm bảo an toàn vệ sinh cho người lao động.
– Nguyễn Cảnh Nam, Nguyễn Quang Tuyên (2010) [35] đã hệ thống hóa các chủ
trương, chính sách về phát triển bền vững tại Việt Nam và từ đó đưa ra một số gợi ý
về phát triển bền vững đối với ngành công nghiệp khai khoáng. Nguyễn Cảnh Nam,
Đinh Văn Sơn (2010) [34] đã khái quát về đặc điểm của ngành công nghiệp khai
khoáng Việt Nam và xây dựng mô hình phát triển bền vững với việc đưa ra các tiêu
chí cần thiết trong sản xuất kinh doanh, hay nói cách khác để bền vững cần bắt đầu
từ các doanh nghiệp.
Có thể thấy các công trình khoa học trên đây nghiên cứu về từng chủ đề riêng lẻ
của khai thác khoáng sản, trong đó, chủ yếu tập trung đánh giá và phân tích thực
25
trạng về ô nhiễm môi trường và tác động tới cộng đồng nơi có hoạt động khai thác
khoáng sản. Các tác giả đề cập tới các khía cạnh phát triển bền vững trong khai thác
khoáng sản, song chưa đưa ra các chỉ tiêu đánh giá, nhất là chỉ số tổng hợp phục vụ
cho việc đánh giá xu hướng phát triển của ngành. Đây không chỉ là những hạn chế
của các nghiên cứu này, trong rất nhiều các nghiên cứu khác dù đề cập nhiều tới
phát triển bền vững song thiếu các chỉ số tổng hợp để đánh giá tổng hợp các khía
cạnh về kinh tế, xã hội, môi trường.
Từ các nghiên cứu này, câu hỏi đặt ra là với việc chịu các tác động tiêu cực từ
hoạt động khai thác khoáng sản, cộng đồng địa phương được phân chia những lợi
ích gì và bao nhiêu? Đây là việc phân chia lợi ích về kinh tế của doanh nghiệp đối
với cộng đồng địa phương nơi hoạt động khai thác khoáng sản. Nhà nước thực hiện
thu các khoản nộp ngân sách của doanh nghiệp và chia sẻ hay tái đầu tư trở lại cho
cộng đồng như thế nào nhằm hài hòa với các tác động tiêu cực mà người dân địa
phương phải gánh chịu, hay nói rộng hơn là tái đầu tư vào vốn con người và tài
nguyên thiên nhiên, môi trường.
1.2.2. Các nghiên cứu về tăng trưởng xanh tại Việt Nam
Các nghiên cứu hiện có về tăng trưởng xanh ở Việt Nam chủ yếu tập trung vào
luận giải nội hàm và các con đường để hướng tới tăng trưởng xanh. Trong các
nghiên cứu về tăng trưởng xanh đáng chú ý là các công trình sau đây có ý nghĩa
luận giải về mô hình tăng trưởng tại Việt Nam.
– Trần Ngọc Ngoạn và cộng sự (2016) [40] trong cuốn sách với tiêu đề “Chính
sách thúc đẩy tăng trưởng xanh - kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn Việt Nam”, các
tác giả đã rà soát và đánh giá các chính sách, quy định pháp luật về tăng trưởng
xanh ở Việt Nam. Nghiên cứu đã đề cập tới tình hình thực hiện chính sách tăng
trưởng xanh ở Việt Nam, song các kết quả của việc thực hiện các chính sách này là
gì và như thế nào (chẳng hạn: đóng góp vào thay đổi nhận thức, cải thiện chất lượng
môi trường, thay đổi lối sống,...) chưa được đề cập tới. Việc thiếu vắng các đánh giá
kết quả thực hiện chính sách, dù nghiên cứu đề xuất một số giải pháp, song chưa
đưa ra được các gợi ý về điều chỉnh trong việc thực hiện và thực hiện như thế nào
26
cho hiệu quả các chính sách thúc đẩy tăng trưởng xanh.
– Nguyễn Văn Tài (2011) [51], Nguyễn Thế Chinh (2011) [11] diễn giải kinh tế
xanh là chuyển từ phương thức phát triển kinh tế kiểu tiêu hao nhiều tài nguyên
sang phương thức phát triển kinh tế kiểu tiết kiệm tài nguyên. Để thực hiện như vậy
cần phải nâng cao chất lượng phát triển, nó được thể hiện nổi bật ở chỗ giảm giá
thành tài nguyên cho sự phát triển và xây dựng hệ thống nền kinh tế quốc dân kiểu
tiết kiệm tài nguyên. Trung Đức (2012) [16] phân tích động thái phát triển tăng
trưởng xanh toàn cầu và ở Việt Nam, cho thấy chính phủ nhiều nước đã thúc đẩy
phát triển tăng trưởng xanh theo nhiều cách tiếp cận chính sách khác nhau, có thể
theo từng khu vực hoặc liên ngành nhiều lĩnh vực. Bùi Tất Thắng (2012) [53] khái
quát một số nội dung cốt lõi của tăng trưởng xanh và nêu ra những vấn đề đặt ra đối
với Việt Nam trong tái cơ cấu nền kinh tế. Nguyễn Trọng Hoài (2012) [24] lựa chọn
một số chỉ tiêu có khả năng đo lường nhằm đánh giá hiện trạng tăng trưởng xanh
của Việt Nam và những thách thức đặt ra trong việc hướng tới mô hình tăng trưởng
này và từ đó đưa ra những gợi ý chính sách. Lê Anh Tuấn, Phương Hoàng Kim
(2012) [71] phân tích đánh giá thực trạng phát triển xanh của các ngành công
nghiệp Việt Nam qua các khía cạnh: trình độ công nghệ sử dụng năng lượng, xử lý
chất thải, thiết kế sản phẩm thân thiện với môi trường, bảo dưỡng thiết bị hệ thống.
Các nghiên cứu vừa đề cập góp phần diễn giải nội dung của tăng trưởng xanh và
sự cần thiết tái cấu trúc kinh tế nhằm phù hợp với mô hình tăng trưởng xanh. Tuy
nhiên, các nghiên cứu chưa làm rõ mối quan hệ và yêu cầu về sự thay đổi bên trong
của các ngành kinh tế để đóng góp vào thực hiện chiến lược tăng trưởng xanh.
– UNIDO (2012) [65] với tiêu đề “Hướng tới tăng trưởng xanh từ phát triển
công nghiệp xanh tại Việt Nam” phân tích các cách thức tăng trưởng từ một số lĩnh
vực (sử dụng tài nguyên hiệu quả cho ngành thép, đô thị sinh thái Hội An, việc tái
chế nhôm phế liệu thành đồ dùng nhà bếp) và các rào cản để thực hiện tăng trưởng
xanh, từ đó xây dựng các mục tiêu định hướng nâng cao sử dụng tài nguyên và hiệu
quả môi trường.
– UNIDO (2011) [66] phân tích thực trạng của các doanh nghiệp trong ngành
thép về hiệu quả sử dụng năng lượng, tổn thất kim loại, thu hồi và tái chế các chất
27
thải trong quá trình sản xuất, phát thải khí nhà kính. Nghiên cứu này đề xuất kiến
nghị, để có được sự hợp tác hiệu quả trong ngành công nghiệp thép Việt Nam nhằm
nâng cao hiệu quả và năng suất sẽ cần có một cơ cấu tổ chức cơ bản.
Nhìn chung, các nghiên cứu ở trong nước chủ yếu tập trung vào những vấn đề
của tăng trưởng xanh, mà chưa đề cập cụ thể tăng trưởng xanh đối với khai thác
khoáng sản là gì và cũng chưa bàn đến những cải cách chính sách cần có để khai
thác khoáng sản theo hướng tăng trưởng xanh.
Hơn nữa, các nghiên cứu bàn nhiều đến tăng trưởng xanh, song vẫn chưa đề xuất
được các tiêu chí đánh giá cho thực tiễn ở Việt Nam. Việc thiếu các tiêu chí và chỉ
tiêu đánh giá đặt ra những thách thức trong theo dõi, giám sát tiến trình phát triển
của các ngành kinh tế, nền kinh tế theo hướng tăng trưởng xanh.
1.2.3. Các nghiên cứu bàn về khai thác khoáng sản trong mô hình tăng trưởng
Vũ Tuấn Anh và cộng sự (2015) [1] trong cuốn sách với tiêu đề “Tiến tới nền
kinh tế xanh ở Việt Nam: xanh hóa sản xuất” đã phân tích thực trạng về cơ cấu sản
xuất của một số ngành kinh tế của Việt Nam trong đó có ngành công nghiệp khai
khoáng và gợi ý các chính sách về tái cấu trúc nhằm hướng tới sản xuất xanh. Các
tác giả đã đưa ra một số giải pháp để giải quyết những vấn đề của ngành công
nghiệp khai khoáng, song các thể chế thúc đẩy tăng trưởng xanh chưa rõ ràng và
thiếu các kiến nghị nhà nước cần làm gì để thúc đẩy tăng trưởng xanh.
Các báo cáo UNDP (2014) [13] và UNDP (2012) [14] về “Chính sách tài khóa
nhiên liệu hóa thạch ở Việt Nam và phát thải khí nhà kính” tập trung phân tích về
quy mô trợ giá nhiên liệu hóa thạch và các hình thức, đối tượng được hưởng trợ giá
và ước lượng các tác động về kinh tế – xã hội do dỡ bỏ trợ cấp. Báo cáo nhấn mạnh
rằng để đáp ứng các mục tiêu tham vọng của chiến lược tăng trưởng xanh cần đẩy
mạnh cải cách chính sách tài khóa nhiên liệu hóa thạch đòi hỏi phải cải cách ngành
năng lượng tổng thể, trong đó đặc biệt chú trọng cải cách giá cả.
Viện Quản lý kinh tế Trung ương – CIEM (2012) [74], với công trình nghiên cứu
“Chỉ số GDP xanh: nghiên cứu phát triển khung phương pháp”, đã xây dựng phương
pháp và bước đầu tính toán về chỉ số GDP xanh từ tài nguyên thiên nhiên bao gồm
năng lượng và khoáng sản (dầu thô, than đá, khí đốt) và các tổn thất và suy thoái tài
28
nguyên trong quá trình tăng trưởng kinh tế. CIEM (2008) [75] tập trung hạch toán giá
trị của vốn thiên nhiên (qua một số loại tài nguyên như tài nguyên khoáng sản, tài
nguyên đất, tài nguyên rừng) và phân tích diễn biến những yếu tố này theo thời gian.
Nhìn chung, các công trình khoa học trên đây mới chỉ dừng lại nghiên cứu tài
nguyên khoáng sản theo cách tiếp cận tĩnh, chưa đề cập đến khai thác khoáng sản
theo hướng tăng trưởng xanh và phát triển bền vững một cách đồng bộ, toàn diện
cũng như phát triển các ngành công nghiệp mới trong việc tạo ra và sử dụng các
nguyên nhiên vật liệu, năng lượng để thay thế cho sản phẩm khoáng sản. Hơn nữa,
các nghiên cứu chưa đề cập về những yêu cầu của việc khai thác khoáng sản nhằm
đóng góp vào thực hiện các mục tiêu của chiến lược tăng trưởng xanh ở Việt Nam.
1.3. Nhận xét chung về các công trình hiện có và vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu
Nhìn chung, đối với các nghiên cứu của nước ngoài, các tác giả không nghiên
cứu trực tiếp về khai thác khoáng sản ở Việt Nam, mà nghiên cứu về lý luận phát
triển và xu hướng thay đổi chính sách ở cấp quốc tế đối với khai thác khoáng sản.
Đây là những cơ sở, gợi ý quan trọng để tham khảo nhằm có thể có những phát triển
lý luận và chính sách trong điều kiện của Việt Nam.
Các nghiên cứu của nước ngoài đã thiết lập những cơ sở lý luận về vai trò của
khoáng sản trong nền kinh tế, mối quan hệ giữa khoáng sản với tăng trưởng kinh tế.
Tuy nhiên, việc khai thác khoáng sản như thế nào để có đóng góp tích cực vào phát
triển kinh tế – xã hội và hạn chế các tác động tiêu cực tới môi trường, nhất là khi đặt
nó trong mô hình tăng trưởng xanh cần được tiếp tục làm rõ.
Nhìn chung, các nghiên cứu nước ngoài và trong nước cho đến nay vẫn chưa đưa
ra những phương pháp và tính toán về chỉ số phát triển bền vững ngành công nghiệp
khai khoáng. Các chỉ số này có thể tính toán để so sánh theo chuỗi thời gian và/hoặc
so sánh theo không gian.
Đối với các nghiên cứu trong nước, các tác giả đã có những đánh giá và nêu bật
những tồn tại cơ bản của quản lý, khai thác, chế biến và sử dụng khoáng sản và các
tác động đến môi trường và xã hội. Các công trình nghiên cứu hiện có đã góp phần
làm sáng tỏ thực trạng khai thác khoáng sản trên từng lĩnh vực cụ thể và đưa ra các
giải pháp tương ứng. Tuy nhiên, các nghiên cứu hiện có về khai thác khoáng sản ở
29
Việt Nam chủ yếu xem xét theo từng chủ đề riêng lẻ và luận giải trong mô hình tăng
trưởng với nhiều tồn tại, hạn chế (sử dụng nhiều tài nguyên, gây ô nhiêm môi
trường). Trong khi đó, hiện nay, Việt Nam đang trong quá trình tái cấu trúc, chuyển
đổi mô hình tăng trưởng và thực hiện các chiến lược về phát triển bền vững, tăng
trưởng xanh, ứng phó với biến đổi khí hậu,… tức là vấn đề tài nguyên và môi
trường ngày càng được coi trọng hơn. Vì vậy, vấn đề cũng như giải pháp đối với khai
thác khoáng sản cần thay đổi cách tiếp cận.
Hơn nữa, các nghiên cứu hiện có chưa thảo luận, đề cập nâng cao khả năng đóng
góp của các nguồn thu từ khoáng sản vào phát triển (chẳng hạn, thông qua đầu tư
vào vốn con người, các loại tài nguyên khác), tức là đóng góp vào mục tiêu chung
của chiến lược tăng trưởng xanh.
Chính vì vậy, nghiên cứu này cố gắng góp phần bổ sung các lý luận về khai thác
khoáng sản trong tăng trưởng xanh. Từ đó, đề tài tập trung đánh giá thực trạng khai
thác khoáng sản theo các tiêu chí tăng trưởng xanh và đề xuất các chính sách về
khai thác khoáng sản trong chiến lược tăng trưởng xanh ở Việt Nam.
Tiểu kết chương 1
Từ việc hệ thống hóa các nghiên cứu trong và ngoài nước liên quan đến đề tài
luận án có thể rút ra một số kết luận sau:
Các nghiên cứu ngoài nước tạo cơ sở lý luận về khai thác khoáng sản, mối quan
hệ giữa khoáng sản với tăng trưởng kinh tế. Các nghiên cứu của các tác giả ở trong
nước đã đánh giá những tồn tại trong các chính sách và thực tiễn khai thác khoáng
sản ở Việt Nam. Đây là những nền tảng quan trọng để có thể có những phát triển lý
luận và chính sách về khai thác khoáng sản trong quá trình thực hiện chiến lược
tăng trưởng xanh ở Việt Nam.
Tăng trưởng xanh là khái niệm tương đối mới và hiện nay có nhiều cách hiểu,
tiếp cận khác nhau. Các cách tiếp cận đối với tăng trưởng xanh cho thấy không có
công thức chung áp dụng cho tất cả các quốc gia và từng ngành, mà tùy từng hoàn
cảnh cụ thể để có cách tiếp cận phù hợp.
Nghiên cứu về khai thác khoáng sản trong chiến lược tăng trưởng xanh là đề cập
30
đóng góp, mối quan hệ của khai thác khoáng sản vào chiến lược tăng trưởng xanh
và tăng trưởng xanh đối với ngành công nghiệp khai khoáng. Việc làm rõ lý luận về
khai thác khoáng sản theo hướng tăng trưởng xanh góp phần đề ra các chính sách
khai thác hợp lý, có hiệu quả tài nguyên khoáng sản và giảm thiểu các tác động tiêu
31
cực tới tài nguyên, môi trường.
Chương 2
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ KHAI THÁC KHOÁNG SẢN
TRONG TĂNG TRƯỞNG XANH
2.1. Cơ sở lý luận về khai thác khoáng sản trong tăng trưởng xanh
2.1.1. Các khái niệm về khai thác khoáng sản, tăng trưởng xanh
2.1.1.1. Các khái niệm về khai thác khoáng sản
a) Khái niệm về khoáng sản
Luật Khoáng sản 2010 định nghĩa về khoáng sản: “Khoáng sản là khoáng vật,
khoáng chất có ích được tích tụ tự nhiên ở thể rắn, thể lỏng, thể khí tồn tại trong
lòng đất, trên mặt đất, bao gồm cả khoáng vật, khoáng chất ở bãi thải của mỏ.”
Theo Luật Khoáng sản 2010, khoáng sản không có khả năng khai thác được (các
loại khoáng sản ở sâu dưới đáy biển, đại dương) cũng được hiểu là khoáng sản và
dù không khai thác được nhưng cũng cần có chính sách bảo vệ, ví dụ để tránh tranh
chấp trong việc sở hữu tài nguyên khoáng sản. Luật cũng xem khoáng vật, khoáng
chất ở các bãi thãi (do chưa đủ phương tiện để phát hiện tồn tại hoặc công nghệ
chưa cho phép thu hồi được các khoáng sản đi kèm) để có chính sách bảo vệ, tiết
kiệm tài nguyên khoáng sản.
Trong phạm vi nghiên cứu này, khái niệm về khoáng sản được hiểu theo các quy
định của Luật Khoáng sản năm 2010.
Tài nguyên khoáng sản có các đặc điểm [60]: 1) tính hữu hạn và không tái tạo; 2)
tính rủi ro địa chất; 3) địa tô chênh lệch (lợi thế so sánh): phụ thuộc vào điều kiện
thuận lợi, khó khăn của mỏ khoáng sản, thay đổi theo thời gian, không gian và trình
độ khoa học công nghệ trong khai thác, chế biến; 4) quan hệ hữu cơ với các loại tài
nguyên khác: tài nguyên khoáng sản là loại tài nguyên có quan hệ hữu cơ với một
số loại tài nguyên khác như tài nguyên đất, nước, rừng và biển; 5) tác động đến môi
trường trong hoạt động khoáng sản. Chính đặc điểm này nên đòi hỏi phải có nhận
thức đúng, đầy đủ và lựa chọn những phương pháp, công cụ quản lý thích hợp các
hoạt động khoáng sản để đảm bảo phát triển bền vững (PTBV).
b) Khái niệm về khai thác khoáng sản
Khái niệm theo quản lý nhà nước
Theo Điều 2, Luật Khoáng sản (năm 2010): Hoạt động khoáng sản bao gồm hoạt
32
động thăm dò khoáng sản, hoạt động khai thác khoáng sản, trong đó:
i) Thăm dò khoáng sản là hoạt động nhằm xác định trữ lượng, chất lượng
khoáng sản và các thông tin khác phục vụ khai thác khoáng sản.
ii) Khai thác khoáng sản là hoạt động nhằm thu hồi khoáng sản, bao gồm xây dựng
cơ bản mỏ, khai đào, phân loại, làm giàu và các hoạt động khác có liên quan.
Từ khái niệm trên có thể thấy cách hiểu khai thác khoáng sản theo quy định của
cơ quan quản lý nhà nước thiên về quy trình của kỹ thuật khai thác mỏ.
Khái niệm từ góc độ nghiên cứu khoa học
Theo tác giả Nguyễn Đức Quý (2010) [46], khai thác khoáng là hoạt động bao
gồm toàn bộ quá trình từ khảo sát, điều tra thăm dò địa chất, khai thác, chế biến, sản
xuất hàng hóa, lưu thông, phân phối và sử dụng khoáng sản.
Khai thác khoáng sản theo nghĩa rộng gắn liền với phát triển ngành công nghiệp
khai khoáng và cho đến nay, có khá nhiều cách hiểu khác nhau về khái niệm này:
– Diễn đàn Thương mại và Phát triển Liên hợp quốc (UNCTAD) quan niệm
ngành công nghiệp khai khoáng là quá trình có hoạt động khác nhau từ việc khai
thác quặng ở dạng thô, chế biến thành các dạng sản phẩm và sử dụng. Theo cách
định nghĩa này, việc chế biến khoáng sản không chỉ đơn thuần là chế biến từ quặng
từ dạng thô sang tinh hay chế biến sâu, mà chế biến và phát triển các ngành công
nghiệp đi cùng với việc khai thác khoáng sản [162].
– Nhà kinh tế học tài nguyên, giáo sư Paul Collier thuộc Đại học Oxford, cho
rằng khai thác khoáng sản bao gồm các bước từ giai đoạn khai thác tài nguyên, quá
trình chế biến và tiêu thụ, cho đến bước cuối cùng là sử dụng nguồn thu từ tài
nguyên [97]. Theo cách tiếp cận này, những bước quan trọng để biến sự giàu có tài
nguyên trở thành thịnh vượng quốc gia, phúc lợi cho người dân: quyết định khai
thác, ký kết hợp đồng, đảm bảo minh bạch nguồn thu, quản lý nguồn thu hiệu quả,
đầu tư PTBV.
– Ngân hàng Thế giới (2009a) [168] cho rằng khai thác khoáng sản bao gồm:
trao hợp đồng và giấy phép khai thác, giám sát quá trình khai thác (yêu cầu về bảo
vệ môi trường và giảm thiểu tác động về xã hội), thu ngân sách, quản lý và phân bổ
nguồn thu, thực hiện các chính sách và dự án phục vụ PTBV. Cách tiếp cận này
nhằm đưa sự giàu có về khoáng sản vào PTBV.
Như vậy, có khá nhiều cách hiểu về khai thác khoáng sản, trong nghiên cứu này,
33
khai thác khoáng sản được hiểu theo khái niệm của Ngân hàng Thế giới.
c) Các nội dung trong phạm trù khai thác khoáng sản
Luận án nghiên cứu về khai thác khoáng sản với tư cách là khai thác nguồn lực
để phát triển kinh tế. Khai thác khoáng sản hiểu theo nghĩa là hoạt động bao gồm:
công đoạn khai thác và công đoạn chế biến sản phẩm khoáng sản (có thể chỉ là sơ
chế); đây là những nội dung liên quan đến các ngành công nghiệp (ngành công
nghiệp về khai thác và ngành công nghiệp chế biến,...).
Khai thác khoáng sản vừa đem lại lợi ích, vừa gây tác động tiêu cực tới môi
trường, cho nên thực chất đó là sự đánh đổi giữa tăng trưởng kinh tế và bảo về môi
trường. Do đó, việc nghiên cứu về khai thác khoáng sản là đề cập tới việc về làm
thế nào để giảm tác động tiêu cực về môi trường và tăng hiệu quả, đóng góp của
khai thác khoáng sản vào trưởng kinh tế.
2.1.1.2. Các quan niệm, cách tiếp cận tăng trưởng xanh
a) Các quan niệm về tăng trưởng xanh
Trong khoảng thời gian năm 2007, trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế và tài
chính toàn cầu, người ta đã đặt ra vấn đề tư duy lại cách tăng trưởng kinh tế trong
thời gian vừa qua và từ đó thuật ngữ “xanh” (green) đã xuất hiện trên phạm vi toàn
cầu và kèm theo đó là các thuật ngữ “kinh tế xanh” (green economy), “tăng trưởng
xanh” (green growth). Các thuật ngữ này được sử dụng phổ biến rộng rãi kể từ Hội
nghị Rio+20 về phát triển bền vững vào tháng 6/2012.
Chương trình Môi trường Liên hợp quốc (UNEP) định nghĩa “kinh tế xanh là nền
kinh tế nâng cao đời sống của con người và cải thiện công bằng xã hội, đồng thời
giảm đáng kể những rủi ro môi trường và những thiếu hụt sinh thái. Nói một cách
đơn giản, nền kinh tế xanh có mức phát thải thấp, sử dụng hiệu quả tài nguyên và
hướng tới công bằng xã hội” [154].
Theo UNEP “tăng trưởng xanh là quá trình tái cơ cấu lại hoạt động kinh tế và
cơ sở hạ tầng để thu được kết quả tốt hơn từ các khoản đầu tư cho tài nguyên,
nhân lực và tài chính, đồng thời giảm phát thải khí nhà kính, khai thác và sử
dụng ít tài nguyên thiên nhiên hơn, tạo ra ít chất thải hơn và giảm sự mất công
bằng trong xã hội” [154].
Theo Ngân hàng Thế giới (WB), “tăng trưởng xanh là tăng trưởng hiệu quả,
34
sạch và có khả năng chống chịu; sự hiệu quả trong việc sử dụng các nguồn tài
nguyên thiên nhiên, sạch đó là việc giảm thiểu ô nhiễm và tác động tới môi trường,
và khả năng chống chịu đó là việc thích ứng được trước các tai biến thiên nhiên; và
đề cao vai trò của quản lý môi trường và vai trò vốn tự nhiên trong việc ngăn ngừa
các thảm họa tự nhiên” [37].
Cách tiếp cận tăng trưởng xanh của Ngân hàng Thế giới đề cao việc bảo vệ môi
trường, đầu tư vào vốn tự nhiên và thực hiện chính sách phát triển công nghiệp xanh
(các ngành công nghiệp sử dụng năng lượng tái tạo, năng lương mới). Tuy nhiên,
WB (2012) [37] cho rằng tăng trưởng xanh là không đủ để đạt được bền vững, mà
nó phải đi cùng với các chính sách để không làm tổn hại đến người nghèo và các
nhóm dễ bị tổn thương, và họ phải được hưởng lợi từ quá trình phát triển.
Tổ chức Phát triển công nghiệp Liên hợp quốc (UNIDO) đưa ra sáng kiến về
công nghiệp xanh (green industry) với quan niệm “công nghiệp xanh là sản xuất
và phát triển công nghiệp mà không vượt quá khả năng chịu đựng của hệ thống tài
nguyên hay là dẫn đến những tổn hại về sức khỏe của con người” [158]. Công
nghiệp xanh là nhằm bảo vệ môi trường, khí hậu và quan tâm tới khía cạnh xã hội
trong hoạt động của các doanh nghiệp. Công nghiệp xanh đưa ra cách tiếp cận hai
hướng cho công nghiệp hóa: 1) xanh hóa các ngành công nghiệp hiện có; 2) tạo ra
các ngành công nghiệp xanh.
Theo quan niệm của Việt Nam trong Chiến lược tăng trưởng xanh (Quyết định số
1393/QĐ–TTg ngày 25/9/2012 của Thủ tướng Chính phủ), tăng trưởng xanh là
nhằm “thúc đẩy quá trình tái cấu và hoàn thiện thể chế kinh tế theo hướng sử dụng
hiệu quả hơn tài nguyên thiên nhiên, nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế,
thông qua tăng cường đầu tư vào đổi mới công nghệ, vốn tự nhiên, công cụ kinh tế.
Từ đó góp phần ứng phó với biến đối khí hậu, giảm nghèo và đảm bảo phát triển
kinh tế bền vững”.
Các quan niệm kể trên về tăng trưởng xanh cho thấy dù tập trung và ưu tiên về
khía cạnh nào nhưng tăng trưởng xanh đều bao hàm các khía cạnh của PTBV:
1. Về khía cạnh kinh tế: tăng trưởng và chất lượng tăng trưởng kinh tế theo
hướng giảm cường độ sử dụng tài nguyên và tạo ra giá trị gia tăng lớn hơn trên
cơ sở sử dụng ít hơn các nguồn tài nguyên; tái cơ cấu kinh tế theo hướng phát
triển các ngành công nghệ cao, sử dụng ít tài nguyên, áp dụng các biện pháp
35
sản xuất sạch;…
2. Bảo vệ tài nguyên và môi trường: bảo vệ, khai thác và sử dụng hợp lý, hiệu
quả tài nguyên; giảm phát thải khí nhà kính và mức độ ô nhiễm môi trường;…
3. Giải quyết các vấn đề xã hội: theo hướng cải thiện tiến bộ, công bằng xã hội
trên cơ sở tạo việc làm bền vững, giảm nghèo bền vững, bình đẳng về thu nhập
và cơ hội,…
Như vậy, có thể thấy rằng, tăng trưởng xanh là cách thức tăng trưởng dựa vào
việc tăng năng suất và hiệu quả các yếu tố đầu vào sản xuất, sử dụng tài nguyên
một cách hiệu quả hơn; đồng thời giảm thiểu các tác động tiêu cực tới môi trường,
giảm phát thải khí nhà kính; tăng trưởng xanh cũng hướng tới các mục tiêu xã hội
như giảm nghèo, giảm sự bất bình đẳng,...
b) Mối quan hệ giữa tăng trưởng xanh và phát triển bền vững
Tăng trưởng xanh là phương thức tăng trưởng bền vững về kinh tế, môi trường và
xã hội,... là công cụ để hướng tới phát triển bền vững.
– Bền vững về kinh tế: cải thiện chất lượng tăng trưởng theo hướng sử dụng hiệu
quả các đầu vào hoặc tạo ra giá trị gia tăng lớn hơn trên cơ sở sử dụng ít hơn các
đầu vào, nhất là các đầu vào có nguồn gốc từ tự nhiên.
– Bền vững về môi trường: từng bước giảm thiểu các tác động tiêu cực tới tài
nguyên và môi trường, giảm thải các chất thải ra môi trường, sử dụng các đầu vào
thân thiện với môi trường.
– Bền vững về xã hội: theo hướng giảm nghèo bền vững, giảm bất bình đẳng về
thu nhập, cải thiện phúc lợi và chất lượng cuộc sống con người.
Tăng trưởng xanh nhằm hiện thực hóa tăng trưởng bền vững và sẽ không thể đạt
được phát triển bền vững nếu không thực hiện tăng trưởng xanh.
Tăng trưởng xanh không đồng nghĩa và không thay thế phát triển bền vững, mà
là một bộ phận quan trọng của phát triển bền vững, đồng thời là phương thức để
phát triển kinh tế bền vững.
2.1.2. Cơ sở lý thuyết về khai thác khoáng sản trong tăng trưởng xanh
2.1.2.1. Cơ sở lý thuyết kinh tế về khai thác tài nguyên không tái tạo
Tài nguyên khoáng sản là loại tài nguyên không thể phục hồi sau khi khai thác,
trong khi tổng trữ lượng do thiên nhiên tạo ra là hữu hạn. Về mặt kinh tế học, nó
36
phản ánh tính khan hiếm của hàng hóa. Theo nguyên tắc kinh tế, sự khan hiếm của
tài nguyên sẽ được phản ánh bằng chi phí và giá cả. Trong lý thuyết kinh tế về tài
nguyên không tái tạo, Hotelling (1931) [119] đã chứng minh rằng điểm khai thác tối
ưu là giá của tài nguyên được khai thác phải bằng tỷ lệ chiết khấu và công thức này
được gọi là quy tắc Hotelling. Như vậy, giá cả phản ánh tính khan hiếm của tài
nguyên và ảnh hưởng tới tốc độ khai thác. Quy tắc này sau đó được nhiều nghiên
cứu khác mở rộng sang cho thị trường độc quyền, nguồn tài nguyên thay thế. Các
nghiên cứu Cleveland và Stern (1997) [96] đề cập đến các nhân tố tác động đến giá
tài nguyên và qua đó là sản lượng khai thác qua các giai đoạn. Sawada và Managi
(2014) [141] phân tích tác động của thay đổi công nghệ lên khai thác tài nguyên
không tái tạo.
Quy tắc Hotelling có ý nghĩa trong xây dựng chính sách ở chỗ xác định xu hướng
về thời gian khai thác (kéo dài trong bao lâu), xu hướng về sản lượng khai thác, xu
hướng giá của tài nguyên và chi phí của người sử dụng. Điều này có nghĩa trong
việc xây dựng các chính sách tài chính đối với khai thác khoáng sản nhằm phân bổ
tài nguyên theo thời gian để đảm bảo bền vững.
Do nhiều loại tài nguyên thiên nhiên khó có khả năng tái tạo, nên đây là thách
thức cho tăng trưởng trong dài hạn khi các nguồn tài nguyên đã khai thác cạn kiệt. Dựa vào mô hình tăng trưởng của Solow (1974) [150], Hartwick (1977) [116] đã
dùng mô hình toán và chỉ ra rằng mức tiêu dùng cố định có thể đạt được bằng cách
đầu tư lợi tức từ khai thác tài nguyên vào sản xuất, đây được gọi là quy tắc
Hartwick. Theo quy tắc Hartwick, một số loại vốn vật chất và công nghệ có thể thay
thế cho vốn tự nhiên, cho nên lợi tức từ khai thác tài nguyên có thể đầu tư và tích
lũy vào vốn con người để đảm bảo cho tăng trưởng trong tương lai khi nguồn tài
nguyên cạn kiệt. Quy tắc này cũng chỉ ra rằng cần đầu tư vào vốn con người, vốn
vật chất với tốc độ ít nhất bằng với quy mô của lợi tức từ khai thác tài nguyên; nếu
mức đầu tư thấp hơn so với lợi tức từ khai thác tài nguyên là dấu hiệu của việc kém
bền vững khi nguồn tài nguyên cạn kiệt.
Quy tắc Hartwick góp phần giải thích về đảm bảo cho tăng trưởng trong dài hạn
bằng việc đầu tư các lợi tức từ khai thác tài nguyên; đồng thời đóng góp về lý luận
nhằm giải quyết bình đẳng giữa các thế hệ trong tiếp cận với tài nguyên thiên nhiên
– thay thế vốn tài nguyên bằng vốn con người, tức là để giành cho thế hệ tương lai
không có nghĩa là giữ nguyên các nguồn lực không tái tạo được, mà phải tìm kiếm
và tái đầu tư để phát triển nguồn vốn khác nhằm bù đắp và thay thế cho tài nguyên 37
đã khai thác. Quy tắc Hartwick được sử dụng nhiều trong các nghiên cứu về PTBV,
nghiên cứu Hamilton (1995) [115] đã chỉ rõ sự cần thiết phải đầu tư một phần
nguồn lợi thu từ khai thác tài nguyên vào vốn xã hội, vốn con người để bảo toàn
tổng nguồn vốn phát triển cho các thế hệ tương lai.
2.1.2.2. Lời nguyền tài nguyên và các chính sách đối với khai thác khoáng sản
a) Lời nguyền tài nguyên và giải thích nguyên nhân
Tài nguyên thiên nhiên nói chung và tài nguyên khoáng sản nói riêng là tài sản
của quốc gia và là nguồn thu quan trọng của nhiều nước. Điều này có vẻ như là các
nước giàu tài nguyên có lợi thế kinh tế hơn so với các nước ít tài nguyên hơn. Tuy
nhiên, thực tế chỉ ra một nghịch lý rằng các quốc gia giàu có về tài nguyên thiên
nhiên lại thường là các quốc gia kém phát triển. Hiện tượng này được các nhà khoa
học gọi là “lời nguyền tài nguyên” [83], [139].
Các nhà nghiên cứu cho rằng lời nguyền tài nguyên là do nhiều yếu tố, chẳng
hạn: quản lý kinh tế vĩ mô, và một số liên quan đến kinh tế chính trị và quản trị
quốc gia.
Thứ nhất, giải thích theo “căn bệnh Hà Lan”, đó là việc gia tăng xuất khẩu tài
nguyên kéo theo gia tăng dòng ngoại tệ đi vào nội địa làm tăng tỷ giá hối đoái thực
và theo đó, khiến việc xuất khẩu các loại hàng hóa khác trở nên khó khăn, đồng thời
làm mất sức cạnh tranh so với các hàng hóa nhập khẩu. Trong khi đó, ngoại tệ thu
được từ xuất khẩu tài nguyên được chi tiêu cho nhập khẩu hàng hóa. Hơn nữa, các
nguồn lực trong nước như lao động và nguyên liệu đầu vào chuyển dịch sang lĩnh
vực khai thác tài nguyên. Hậu quả là chi phí đầu vào, như lao động và nguyên liệu,
tăng cao trên thị trường trong nước, kéo theo chi phí tăng lên, gây ảnh hưởng tới sản
xuất trong các lĩnh vực khác.
Thứ hai, quản lý kinh tế vĩ mô khó khăn hơn do giá cả hàng hóa biến động. Sachs
và Warner (2001) [138] nghiên cứu về các nguy hại tiềm ẩn của việc khai thác tài
nguyên tới tăng trưởng kinh tế trong dài hạn. Hausmann và Rigobon (2002) [117]
chứng minh rằng sự phụ thuộc vào xuất khẩu các sản phẩm từ tài nguyên thiên
nhiên, quốc gia sẽ dễ bị tổn thương hơn bởi những cú sốc từ bên ngoài, làm suy yếu
khả năng cạnh tranh của các ngành sản xuất hướng về xuất khẩu. Breisinger và
Thurlow (2008) [90] cho rằng sự phụ thuộc vào xuất khẩu các sản phẩm có nguồn
38
gốc từ tài nguyên thiên nhiên ảnh hưởng tiêu cực đến sự đa dạng hóa của nền kinh tế.
Thứ ba, các nước lệ thuộc vào tài nguyên thiên nhiên thường kém đầu tư cho
giáo dục, do đó làm giảm các kết quả của vốn con người và điều này làm cho quốc
gia giàu tài nguyên rơi vào “bẫy thu nhập trung bình”. Gylfason (2001) [113] tập
trung vào chứng minh về mối quan hệ tỷ lệ nghịch giữa giàu tài nguyên và phát
triển giáo dục. Douangngeune và cộng sự (2005) [102] lập luận rằng đóng góp từ
khai thác tài nguyên có quan hệ nghịch đảo với chi tiêu công về giáo dục và số năm
đến trường của học sinh nữ. Do đó, các nước giàu tài nguyên thường rơi vào bẫy
hoặc khó khăn để tiến lên nâng thang cao hơn trong ngành công nghiệp chế biến,
chế tạo – lĩnh vực đòi hỏi yêu cầu cao đối với đầu vào vốn con người.
Thứ tư, dưới góc độ kinh tế chính trị, sự giàu có về tài nguyên có thể thúc đẩy
tham nhũng diễn ra dưới nhiều hình thức khác nhau, hoặc tài nguyên được bán thấp
hơn giá thị trường, thậm chí là xảy ra xung đột tại những khu vực khai thác tài
nguyên. Việc phụ thuộc quá mức vào các nguồn tài nguyên thiên nhiên cùng với
nạn tham nhũng hoành hành làm suy yếu hệ thống quản lý nhà nước ở nhiều quốc
gia giàu có tài nguyên [83].
b) Các con đường để tránh rơi vào bẫy “lời nguyên tài nguyên”
Nhiều nghiên cứu cho rằng để tránh rơi vào bẫy “lời nguyền tài nguyên”, các
quốc gia có nền kinh tế phụ thuộc vào khai thác tài nguyên nên tập trung giải quyết
các vấn đề:
Sử dụng có hiệu quả nguồn thu từ khai thác khoáng sản
Sử dụng nguồn thu từ khai thác khoáng sản như thế nào để có hiệu quả và gia
tăng đóng góp từ lĩnh vực này cũng được các nghiên cứu tập trung giải quyết, đặc
biệt là việc sử dụng các nguồn thu vào hệ thống giáo dục, y tế nhằm nâng cao vốn
con người và đầu tư cho công tác bảo vệ môi trường, giành một phần để tái đầu tư
trở lại cho tài nguyên thiên nhiên [86], [120]. Đầu tư vào vốn con người và cuộc
sống với môi trường tự nhiên có chất lượng hơn là cách chia sẻ bình đẳng cơ hội
giữa các thế hệ trong việc tiếp cận tài nguyên như lý thuyết khai thác tài nguyên
không tái tạo mà Hartwick đã đề cập.
Phát triển kinh tế từ khai thác khoáng sản
Khi nghiên cứu về khai thác khoáng sản, các nghiên cứu thường đề cập tới các
tác động lan tỏa đối với địa bàn nơi có khai thác, tức là gia tăng các đóng góp của
hoạt động khai thác khoáng sản. Các chiều cạnh tác động tích cực tới sự phát triển
theo không gian bao gồm: tạo ra các hoạt động kinh tế mới tại nơi có hoạt động khai 39
thác khoáng sản, thu hút các nguồn lực, đô thị hóa,… Raballand và cộng sự (2004)
[136] phân tích về ảnh hưởng của các nhân tố hạ tầng giao thông vận tải, McPhail
(2001) [124] đề cập tới các nhân tố thể chế chính sách (môi trường kinh doanh) ảnh
hưởng tới phát triển theo không gian của hoạt động khai thác khoáng sản.
Đa dạng hóa kinh tế nhằm giảm sự phụ thuộc vào khai thác tài nguyên
Một số nghiên cứu đưa ra các gợi ý về con đường phát triển kinh tế để tránh bị
rơi vào bẫy “lời nguyền tài nguyên”. Esanov (2012) [107] và Gelb (2010) [110] đề
xuất về đa dạng hóa kinh tế, giảm sự phụ thuộc tài nguyên; đa dạng hóa trong xuất
khẩu. Bonaglia và Fukasaku (2003) [88] cho rằng để tránh lời nguyền tài nguyên
các nước giàu tài nguyên với thu nhập thấp nên đa dạng hóa bằng việc phát triển các
ngành chế biến dựa vào khai thác tài nguyên hoặc chế biến các hàng hóa sơ cấp
thay vì theo đuổi cách truyền thống là phát triển các ngành chế biến thâm dụng lao
động kém kỹ năng.
Những vấn đề lý thuyết về “lời nguyền tài nguyên” có ý nghĩa giúp luận án tham
khảo về những vấn đề có liên quan nhằm đề xuất các chính sách về khai thác
khoáng sản trong quá trình thực hiện chiến lược tăng trưởng xanh ở Việt Nam.
2.1.2.3. Cơ sở lý luận về quản trị khai thác khoáng sản
Những nguyên nhân dẫn tới lời nguyền tài nguyên, suy cho cùng là do thể chế và
quản trị yếu kém. Sachs và Warner (1999) [139], bằng cách tiếp cận thực nghiệm,
đã chỉ ra rằng thể chế yếu kém là nguyên nhân của việc khai thác tài nguyên có các tác động tiêu cực tới tăng trưởng kinh tế. Mehlum và cộng sự (2006) [125] xây dựng
mô hình để giải thích tại sao thể chế là nguyên nhân của lời nguyên tài nguyên.
Watts (2004) [165] xem xét vấn đề quản trị tài nguyên như là một trong những
nguyên nhân dẫn đến “lời nguyền tài nguyên”. Như vậy, quản trị khai thác khoáng
sản là yếu tố quan trọng nhằm thực hiện thành công các chính sách đối với khai thác
khoáng sản và tránh rơi vào lời nguyền tài nguyên [84], [103].
Quản trị là quá trình giám sát và kiểm soát để đảm bảo việc thực thi có hiệu quả
các chính sách và đảm bảo quyền lợi của các bên có liên quan trong chuỗi giá trị
khai thác khoáng sản. Việc quản trị khai thác khoáng sản về cơ bản tập trung vào
những nội dung sau [97], [168]:
– Cấp phép khai thác: Một hệ thống cấp phép khai thác khoáng sản có hiệu quả
40
phải đề ra được khuôn khổ pháp lý rõ ràng, trách nhiệm của từng cơ quan, cá nhân
phải được xác định rõ và trình tự rõ ràng dựa trên những tiêu chí nhất định. Điều
này nhằm lựa chọn các doanh nghiệp đủ năng lực, có công nghệ tiên tiến thực hiện
khai thác và chế biến khoáng sản có hiệu quả, hạn chế các tác động tiêu cực về môi
trường. Về mặt lý luận và thực tiễn tại nhiều nước, việc cấp phép khai thác khoáng
cần theo nguyên tắc thị trường, tức là thông qua cạnh tranh giữa các doanh nghiệp
bằng cách “đấu giá” hoặc thay thế “giấy phép” bằng “hợp đồng khai thác” thông
qua đàm phán hợp đồng giữa chính phủ với các nhà đầu tư [122], [163]. Đồng thời,
quá trình cấp phép cần đảm bảo tính minh bạch và cạnh tranh bình đẳng, công bố
công khai quá trình và kết quả cấp phép [169].
– Quản trị môi trường trong khai thác khoáng sản: đề ra các quy định và giám
sát việc thực hiện nó về thu gom và xử lý chất thải trong quá trình khai thác, chế
biến khoáng sản; chấp hành việc sử dụng các hóa chất độc hại chế biến khoáng
sản; bảo đảm an toàn và vệ sinh lao động cho công nhân trong các công đoạn của
khai thác, chế biến khoáng sản; sau khi khai thác xong phải tiến hành hoàn thổ
và phục hồi môi trường. Đánh giá tác động môi trường trước khi tiến hành khai
thác khoáng sản là một trong các cộng cụ phục vụ cho quản trị môi trường. Việc
sử dụng các cộng cụ kinh tế trong quản lý môi trường nhằm làm cho việc bảo vệ
môi trường có hiệu quả hơn.
– Quản trị về nguồn thu từ khai thác khoáng sản: bao gồm hạn chế thất thoát
nguồn thu và cách thu ngân sách như thế nào để đảm bảo phát triển bền vững; đồng
thời, nguồn thu phải được sử dụng ra sao để biến của cải từ khai thác tài nguyên trở
thành thịnh vượng của quốc gia.
Do quản trị là quá trình ra quyết định và quá trình các quyết định được thực hiện
nên cấu trúc bên trong của các quá trình này là quan trọng. Chính phủ là một trong
những chủ thể của quá trình quản trị. Những chủ thể khác tùy thuộc vào vấn đề
nghiên cứu, đối với khai thác khoáng sản thường bao gồm: các doanh nghiệp, người
lao động trong các doanh nghiệp, những người dân địa phương nơi khai thác, các
chuyên gia, các tổ chức xã hội,…
– Chính phủ, các cơ quan quản lý nhà nước: đóng vai trò trong việc ban hành và
thực thi các chính sách về khai thác khoáng sản; đồng thời đóng vai trò trong việc
điều phối và thúc đẩy, khuyến khích sự tham gia của các tác nhân khác vào quá
41
trình quản trị khai thác khoáng sản.
– Các doanh nghiệp khai khoáng: đòi hỏi quản trị nội bộ doanh nghiệp (nhằm
đảm bảo tính hiệu quả), tự giác chấp hành các quy định; có sự giám sát từ phía
chính quyền và công chúng (người dân địa phương, các thành phần khác trong xã
hội). Vai trò và việc quản trị đối với các doanh nghiệp khai khoáng: giám sát việc
khai thác (theo đúng hồ sơ đã phê duyệt), khai báo sản lượng đúng với thực tế đã
khai thác; chấp hành các quy định về bảo vệ môi trường; thực hiện đầy đủ các nghĩa
vụ tài chính với nhà nước.
– Cộng đồng địa phương nơi khai thác khoáng sản: Đây thường là chủ thể chịu
ảnh hưởng nhiều nhất từ các hệ lụy môi trường và xã hội từ khai thác khoáng sản.
Các cộng đồng địa phương có lợi thế trong việc quản lý, sử dụng khai thác hay
giám sát, bảo vệ tài nguyên và môi trường gắn với sinh kế của họ. Sự tham gia của
cộng đồng có khả năng làm cho quá trình chính sách trở nên minh bạch và được
thực hiện hiệu quả hơn [106].
2.1.2.4. Cơ sở lý luận về quản lý tài nguyên, môi trường bằng công cụ kinh tế và xu
hướng cải cách chính sách nhằm hướng tới tăng trưởng xanh
Tài nguyên khoáng sản là loại tài nguyên có quan hệ hữu cơ với các loại tài
nguyên khác và hoạt động khai thác khoáng sản tác động tiêu cực tới tài nguyên và
môi trường. Trong khi đó, tăng trưởng xanh đề cao việc bảo vệ tài nguyên và môi
trường, sử dụng tiết kiệm và hiệu quả các nguồn tài nguyên. Chính vì vậy, các chính
sách, công cụ để giải quyết các vấn đề về môi trường liên quan đến nội dung nghiên
cứu của luận án.
Để quản lý tài nguyên và môi trường có nhiều công cụ khác nhau: công cụ luật
pháp (theo mệnh lệnh và kiểm soát: các quy định pháp luật và các kiểm tra, thanh
tra, giám sát của cơ quan quản lý nhà nước), công cụ kinh tế (dựa trên thị trường
hoặc thông qua giá cả), công cụ kỹ thuật quản lý (với các tiêu chuẩn, định mức kỹ
thuật). Nhìn chung, trong việc quản lý môi trường, các công cụ kinh tế thường hiệu
quả hơn so với các công cụ luật pháp [156]. Điều này là bởi những yếu kém của hệ
thống luật pháp và quản trị để đạt được các mục tiêu về BVMT, trong khi đó các
công cụ kinh tế tạo ra động lực để doanh nghiệp áp dụng công nghệ và cải tiến sản
xuất nhằm giảm ô nhiễm môi trường. Điều này không có nghĩa trong quản lý môi
42
trường chỉ đơn thuần sử dụng một công cụ nào mà là sự kết hợp giữa các công cụ.
Việc sử dụng các công cụ kinh tế trong quản lý tài nguyên, BVMT nhằm hai mục
đích chính: i) làm thay đổi hành vi của đối tượng thực hiện khai thác tài nguyên và
gây ô nhiễm môi trường; ii) tăng nguồn thu để phục vụ cho các hoạt động cải thiện
môi trường. Các công cụ kinh tế sử dụng phổ biến trong quản lý tài nguyên và môi
trường gồm:
– Các công cụ dưới dạng thuế Pigou: thuế ô nhiễm, phí xả thải, thuế đầu vào,
thuế sản phẩm,... Thuế ô nhiễm (do nhà kinh tế học Pigou đưa ra vào năm 1920) là
một công cụ nhằm ngăn ngừa ô nhiễm môi trường. Nguyên tắc tính thuế Pigou là ai
gây ra ô nhiễm môi trường thì người đó chịu thuế và thuế được tính trên từng đơn vị
sản phẩm gây ô nhiễm, số chi trả cho một đơn vị ô nhiễm ít nhất phải bằng chi phí
biên của sự tổn hại do ô nhiễm đó gây ra [135].
– Các công cụ dưới dạng thị trường: giấy phép xả thải có thể chuyển nhượng, hạn
ngạch có thể chuyển nhượng, chi trả dịch vụ môi trường,...
– Các công cụ nhằm nâng cao trách nhiệm bảo vệ môi trường: ký quỹ bảo vệ môi
trường, đặt cọc hoàn trả, bồi thường thiệt hại môi trường,...
Trong cơ chế thị trường, trong một số trường hợp, việc hạn chế ô nhiễm có thể
hiệu quả hơn mà không cần đến sự can thiệp của bàn tay nhà nước. Do các doanh
nghiệp có các mức xả thải khác nhau, Ronald Coase (1960) cho rằng giữa các nhà
sản xuất thỏa thuận với nhau thông qua thị trường để đạt được mức ô nhiễm tối ưu
(người này có thể bù cho người kia). Đây là cơ sở cho thị trường chuyển nhượng
giấy phép xả thải, thỏa thuận đền bù các thiệt hại ô nhiễm môi trường giữa người
gây ô nhiễm môi trường và người chịu ô nhiễm.
Đối với tài nguyên khoáng sản, với đặc thù là tài nguyên không tái tạo, thuế tài
nguyên là công cụ kinh tế được sử dụng để hạn chế việc khai thác và sử dụng,
khuyến khích việc sử dụng tiết kiệm và hiệu quả tài nguyên.
Xu hướng sản xuất và tiêu dùng với khối lượng ngày càng lớn về các loại tài
nguyên thiên nhiên, trong khi chúng đang cạn kiệt dần và ảnh hưởng tới môi
trường; nhiều nước đã và đang tiến hành cải cách các công cụ kinh tế theo hướng
hiệu quả hơn cho công tác bảo vệ tài nguyên và môi trường, cải cách chính sách tài
khóa cho tăng trưởng xanh. Nhiều nước trên thế giới, đặc biệt là EU, đang thực hiện
những cải cách thuế môi trường theo hướng chuyển gánh nặng thuế theo lao động
và vốn (thông qua thu nhập, lợi nhuận) sang do việc sử dụng tài nguyên thiên nhiên
43
và ô nhiễm môi trường [104].
Cải cách thuế đối với tài nguyên thiên nhiên được thực hiện thông qua điều chỉnh
tăng thuế khai thác tài nguyên, thuế sử dụng tài nguyên, các nghĩa vụ tài chính khác
có liên quan và xóa bỏ trợ cấp giá cho việc sử dụng các loại tài nguyên thiên nhiên.
Giljum và cộng sự (2010) [111] chỉ ra rằng việc cải cách thuế môi trường đối với
các loại nguyên nhiên vật liệu (gồm: nhiên liệu hóa thạch, các loại quặng kim loại,
vật liệu xây dựng) có khả năng giảm khai thác, sử dụng tài nguyên và phát thải khí
CO2 do giá cả của chúng trở nên đắt đỏ hơn đối với người sử dụng.
Do vấn đề môi trường, trong cải cách chính sách tài khóa ở nhiều nước trên thế
giới (xuất phát từ Hà Lan, Anh và Đức) đã áp dụng thuế ô nhiễm môi trường [118].
Loại thuế này đưa các hiệu ứng ngoại lai (externalities) trở thành giá cả thị trường,
tức là các ảnh hưởng tới môi trường phải được xem như là các chi phí của xã hội và
nó làm cho mức giá trở nên chính xác hơn do đã bao gồm đầy đủ các yếu tố cần
thiết. Đây là công cụ để đánh thuế đối với các sản phẩm khi việc sử dụng gây tác
động xấu đến môi trường, chẳng hạn thuế ô nhiễm không khí như CO2, SO2 đối với
khí gas, dầu hỏa và than đá. Loại thuế ô nhiễm môi trường tạo nguồn thu cho ngân
sách nhà nước và góp phần thực hiện các mục tiêu về môi trường như hạn chế sản
xuất và tiêu dùng các sản phẩm gây ô nhiễm môi trường, khuyến khích các hành vi
“sạch hơn” [112: tr.5].
Nhìn chung, các sản phẩm thân thiện với môi trường trong giai đoạn đầu thường
khó cạnh tranh với các sản phẩm truyền thống. Nhằm thực hiện tăng trưởng xanh,
các nước đã có những chính sách ưu đãi, trợ cấp: i) cho sản xuất của các ngành,
doanh nghiệp sử dụng công nghệ cao và/hoặc sản xuất các sản phẩm thân thiện với
môi trường (chẳng hạn, trợ cấp cho việc sản xuất các năng lượng sạch) [133]; ii) trợ
cấp cho tiêu dùng đối với những sản phẩm sạch khi đối với người tiêu dùng độ thỏa
dụng như nhau giữa sản phẩm sạch và sản phẩm truyền thống (chẳng hạn, giữa
dùng điện từ năng lượng sạch và từ nhiên liệu hóa thạch) [99]. Trong xu hướng này,
các nước đang thực hiện những cải cách để xóa bỏ các khoản trợ cấp trước đây cho
việc tiêu dùng sản phẩm từ khai thác tài nguyên và ô nhiễm môi trường (ví dụ các
loại nhiên liệu hóa thạch) và chuyển các khoản trợ cấp sang các hoạt động liên quan
đến môi trường, các hoạt động thúc đẩy tăng trưởng xanh và giảm ô nhiễm [118].
Như vậy, các chính sách tài khóa được thiết kế tốt sẽ tạo ra nỗ lực để thúc đẩy
nền kinh tế thân thiện với môi trường. Các khuôn khổ về công cụ kinh tế trong quản
lý tài nguyên, môi trường là nền tảng để đối chiếu, phân tích về thực tiễn sử dụng 44
chúng ở Việt Nam (đã sử dụng chưa và sử dụng đến đâu) và liệu các chính sách đề
ra đã phù hợp.
2.1.3. Khai thác khoáng sản trong chiến lược tăng trưởng xanh ở Việt Nam
2.1.3.1. Chiến lược tăng trưởng xanh ở Việt Nam
Chính phủ Việt Nam đã phê duyệt Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh
(Quyết định số 1393/QĐ–TTg ngày 25/9/2012) và Kế hoạch hành động quốc gia về
tăng trưởng xanh giai đoạn 2014 – 2020 (Quyết định số 403/QĐ–TTg ngày
20/3/2014).
Mục tiêu của Chiến lược tăng trưởng xanh ở Việt Nam là:
Mục tiêu chung: Tăng trưởng xanh, tiến tới nền kinh tế cacbon thấp, làm giàu
vốn tự nhiên trở thành xu hướng chủ đạo trong phát triển kinh tế bền vững; giảm
phát thải và tăng khả năng hấp thụ khí nhà kính trở thành chỉ tiêu bắt buộc và quan
trọng trong phát triển kinh tế – xã hội.
Mục tiêu cụ thể:
– Tái cấu trúc và hoàn thiện thể chế kinh tế theo hướng xanh hóa các ngành hiện
có và khuyến khích phát triển các ngành kinh tế sử dụng hiệu quả năng lượng và tài
nguyên với giá trị gia tăng cao.
– Nghiên cứu, ứng dụng ngày càng rộng rãi công nghệ tiên tiến nhằm sử dụng
hiệu quả hơn tài nguyên thiên nhiên, giảm cường độ phát thải khí nhà kính, góp
phần ứng phó hiệu quả với biến đổi khí hậu.
– Nâng cao đời sống nhân dân, xây dựng lối sống thân thiện với môi trường
thông qua tạo nhiều việc làm từ các ngành công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ xanh,
đầu tư vào vốn tự nhiên, phát triển hạ tầng xanh.
Chiến lược tăng trưởng xanh đề ra các nhiệm vụ chiến lược:
– Giảm cường độ phát thải khí nhà kính và thúc đẩy sử dụng năng lượng sạch,
năng lượng tái tạo.
– Xanh hóa sản xuất: Thực hiện một chiến lược “công nghiệp hóa sạch” thông
qua sử dụng tiết kiệm và hiệu quả tài nguyên, khuyến khích phát triển công nghiệp
xanh, nông nghiệp xanh với cơ cấu ngành nghề, công nghệ, thiết bị bảo đảm nguyên
tắc thân thiện với môi trường, đầu tư phát triển vốn tự nhiên; tích cực ngăng ngừa
và xử lý ô nhiễm.
45
– Xanh hóa lối sống và thúc đẩy tiêu dùng bền vững.
Đối với khai thác khoáng sản, chiến lược quốc gia tăng trưởng xanh đề cập đến
việc sử dụng tiết kiệm và hiệu quả tài nguyên với 3 giải pháp cụ thể: (1) xây dựng,
hoàn thiện pháp luật, chính sách nhằm thực hiện kiên quyết và có hiệu quả Luật tài
nguyên nước, Luật đất đai, Luật khoáng sản, Luật bảo vệ môi trường và những quy
định liên quan, tăng cường áp dụng các công cụ kinh tế, hành chính theo nguyên tắc
“người gây ô nhiễm phải trả tiền”; (2) thiết lập các tổ chức quản lý hành chính hiệu
quả, kiện toàn hệ thống quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường ở Trung ương và
các địa phương; (3) đẩy mạnh, phát triển, áp dụng rộng rãi những công nghệ và thực
hành khai thác, sử dụng hiệu quả nguồn tài nguyên.
2.1.3.2. Những nội dung chủ yếu về khai thác khoáng sản trong chiến lược tăng
trưởng xanh ở Việt Nam
Khai thác khoáng sản trong chiến lược tăng trưởng xanh bao gồm hai mặt: (a)
khai thác khoáng sản cần có những đóng góp vào việc thực hiện và đạt được các kết
quả của chiến lược tăng trưởng xanh của Việt Nam, và (b) khai thác khoáng sản theo
hướng tăng trưởng xanh.
a) Đóng góp của khai thác khoáng sản vào thực hiện chiến lược tăng trưởng xanh
Chiến lược tăng trưởng xanh nhằm mục tiêu tái cấu trúc nền kinh tế. Theo đó,
khai thác khoáng sản cần có những đóng góp vào thực hiện chuyển đổi mô hình
tăng trưởng theo chiều sâu và thực hiện xanh hóa nền kinh tế, bao gồm xanh hóa
sản xuất, xanh hóa tiêu dùng và xanh hóa lối sống. Những đóng góp của khai thác
khoáng sản vào thực hiện chiến lược tăng trưởng xanh trên những khía cạnh sau:
– Thay đổi trong cơ cấu khai thác các loại khoáng sản nhằm đóng góp vào thực
hiện chiến lược tăng trưởng xanh: Chiến lược tăng trưởng xanh đề ra nhiệm vụ
chiến lược là thúc đẩy sử dụng năng lượng sạch, năng lượng tái tạo. Nhằm đóng
góp vào nhiệm vụ này, trong cơ cấu khai thác các loại khoáng sản cần chuyền dịch
từ khai thác các loại khoáng sản gây ô nhiễm môi trường và/hoặc các loại đang khai
thác dư thừa so với nhu cầu sử dụng (như sắt thép, vật liệu xây dựng) sang khai thác
các loại khoáng sản phục vụ cho các ngành năng lượng sạch, năng lượng tái tạo.
Chẳng hạn, đất hiếm là một trong những đầu vào phục vụ sản xuất ra các siêu tụ
điện nhằm tích trữ điện năng từ năng lượng mặt trời, chất bán dẫn trong các thiết bị
điện tử. Hay như, Việt Nam đang có chiến lược phát triển điện hạt nhân nên cũng
46
cần chuyển hướng sang khai thác uranium để phục vụ cho sản xuất điện hạt nhân.
– Thay đổi về công nghệ khai thác: Việc thay đổi công nghệ không chỉ nhằm góp
phần xanh hóa khai thác khoáng sản, mà đóng góp vào việc thay đổi phương thức
và xanh hóa tiêu dùng. Chẳng hạn, những năm gần đây, các nước tiên tiến trên thế
giới đang chuyển sang áp dụng công nghệ hiện đại vào khai thác than thông qua
chuyển hóa than thành dạng nhiên liệu lỏng, nhiên liệu khí; điều này giúp cho việc
sử dụng an toàn, hiệu quả, ít gây ô nhiễm môi trường. Với phương thức khai thác
than theo công nghệ hầm lò, lộ thiên như hiện nay ở nước ta, việc sử dụng than
muốn sử dụng theo những cách thân thiện với môi trường cũng là vấn đề thách
thức. Nói cách khác, cách khai thác khoáng sản không chỉ ảnh hưởng tới bản thân
công đoạn khai thác mà chi phối cả khâu tiêu dùng.
– Tăng cường chế biến khoáng sản và thay đổi trong cơ cấu chế biến: Một trong
những nhiệm vụ quan trọng trong chiến lược tăng trưởng xanh là thực hiện một
chiến lược “công nghiệp hóa sạch”. Ngoài các yêu cầu về chế biến sâu các sản
phẩm khoáng sản để nâng cao giá trị gia tăng, trong cơ cấu chế biến cần hướng đến
việc chế biến để phục vụ cho các ngành công nghiệp hiện đại, các ngành công nghệ
cao hoặc tham gia vào chuỗi sản xuất toàn cầu. Chẳng hạn, việc chế biến các loại
quặng sắt thay vì chỉ chế biến thành thép xây dựng mà chế biến thành thép công
nghiệp, hay như chế biến nhôm từ khai thác bôxit cần chế biến thành hợp kim
nhôm,... để phục vụ cho các ngành cơ khí và/hoặc tham gia chuỗi sản xuất toàn cầu.
– Thay đổi thể chế đối với khai thác khoáng sản nhằm thúc đẩy sự phát triển của
các ngành công nghiệp xanh: Việc thắt chặt các quy định và/hoặc nâng cao các tiêu
chuẩn về môi trường nhằm mở ra cơ hội về phát triển các ngành công nghiệp dịch
vụ môi trường. Những thay đổi trong các yêu cầu, tiêu chuẩn xả thải ra môi trường
tạo sức ép để doanh nghiệp sử dụng các đầu vào thân thiện với môi trường, từ đó
thúc đẩy phát triển các ngành sản xuất các đầu vào thân thiện với môi trường.
b) Khai thác khoáng sản theo hướng tăng trưởng xanh
Khai thác khoáng sản bao gồm nhiều hoạt động trong đó có các công đoạn quan
trọng: cấp phép khai thác; khai thác, chế biến khoáng sản. Cách cấp phép khai thác
ảnh hưởng tới phương thức khai thác: khai thác nhỏ lẻ hay khai thác theo công
nghiệp và lựa chọn doanh nghiệp như thế nào (năng lực về vốn, công nghệ) tham
gia khai thác khoáng sản. Hoạt động khai thác khoáng sản gây ra ô nhiễm môi
47
trường và nó được giám sát như thế nào để hạn chế đến mức thấp nhất các tác động
tiêu cực. Quy mô, sản lượng khai thác đối với khai thác khoáng sản ảnh hưởng tới
việc cạnh tranh các nguồn lực khác, nhất là khi xem xét tới trên quan điểm tăng
trưởng xanh, nguồn lực cho phát triển các ngành ít ô nhiễm môi trường. Từ góc
nhìn của tăng trưởng xanh, cơ cấu khai thác các loại khoáng sản phải làm sao để
phục vụ cho mục tiêu tăng trưởng xanh và/hoặc các loại năng lượng mới, năng
lượng tái tạo có thể phát triển được. Các vấn đề vừa nêu chi phối, ảnh hưởng tới các
kết quả của khai thác khoáng sản theo tiêu chí tăng trưởng xanh.
Từ các lập luận vừa nêu có thể hiểu: Khai thác khoáng sản theo hướng tăng
trưởng xanh là phương thức khai thác khoáng sản theo hướng nâng cao hiệu quả sử
dụng tài nguyên, tạo ra giá trị gia tăng lớn hơn trên cơ sở giảm các tác động tiêu
cực tới tài nguyên, môi trường và bền vững về xã hội. Nội hàm của khai thác
khoáng sản theo hướng tăng trưởng xanh bao gồm các nội dung sau đây:
– Về khía cạnh kinh tế: thực hiện khai thác khoáng sản theo hướng tăng trưởng
xanh đòi hỏi nâng cao hiệu quả sử dụng tài nguyên, tạo ra giá trị gia tăng lớn hơn,
nói cách khác, tạo ra nhiều giá trị sử dụng hơn trên cơ sở sử dụng ít hơn các nguồn
tài nguyên, theo đó: i) việc khai thác gắn liền với chế biến sâu các sản phẩm khoáng
sản nhằm nâng cao giá trị gia tăng; ii) việc khai thác khoáng sản phải có tác dụng
trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế của những nơi khai thác mỏ; iii) khai thác, chế
biến khoáng sản tạo sự định hình, phát triển của các ngành kinh tế khác và tham gia
vào chuỗi sản xuất khu vực, toàn cầu nhằm nâng cao giá trị gia tăng của khai thác
khoáng sản. Điều này góp phần vào việc nâng cao năng suất tài nguyên và từng
bước giảm sự phụ thuộc vào khai thác khoáng sản. Để đạt được những mục tiêu như
vậy đòi hỏi lựa chọn phương thức khai thác khoáng sản hợp lý, thông minh.
– Về khía cạnh tài nguyên và môi trường: khai thác khoáng sản theo hướng tăng
trưởng xanh là quá trình khai thác, chế biến khoáng sản: i) giảm tổn thất tài nguyên
khoáng sản và giảm thải các chất thải ra môi trường; ii) gây ra ít hơn các tổn thương
và mức độ thiệt hại đối với tài nguyên, môi trường; iii) giảm sử dụng các loại đầu
vào và mức tiêu hao đối với từng yếu tố đầu vào, nhất là các đầu vào có nguồn gốc
từ tự nhiên (năng lượng truyền thống, nước,...); iv) từng bước sử dụng các đầu vào
48
thân thiện với môi trường,...
Đồng thời, hài hòa lợi ích kinh tế với lợi ích về TNMT, lợi ích ngắn hạn với lợi
ích dài hạn: hạn chế việc khai thác tận thu, tận khai để gia tăng sản lượng phục vụ
mục tiêu kinh tế thay vào đó ưu tiên cho việc dự trữ để góp phần TNMT.
– Về khía cạnh xã hội: Các quan niệm về phát triển bền vững thường đề cập tới
việc sử dụng của thế hệ hiện tại không ảnh hưởng tới thế hệ tương lai, tuy nhiên,
cách hiểu như vậy sẽ không phù hợp đối với tài nguyên khoáng sản khi sản lượng là
hữu hạn, thay vào đó, sự bền vững thể hiện qua việc kéo dài thời gian cạn kiệt của
trữ lượng. Sự bền vững về xã hội thể hiện ở đảm bảo sự bình đẳng giữa các thế hệ
trong việc tiếp cận tài nguyên, điều này đòi hỏi sử dụng nguồn thu từ khai thác
khoáng sản để phát triển các loại vốn khác nhằm bù đắp và thay thế cho tài nguyên
đã khai thác (quy tắc Hartwick). Hơn nữa, sự bền vững về xã hội trong khai thác
khoáng sản được thể hiện ở nhiều khía cạnh, trên quan điểm tăng trưởng xanh, luận
án ưu tiên xem xét giải quyết về phân chia lợi ích từ khai thác khoáng sản giữa các
chủ thể (và kéo theo là bất bình đẳng về thu nhập),...
Việc tạo ra giá trị gia tăng lớn hơn và giảm tác động tiêu cực tới môi trường là
những chỉ tiêu để đánh giá xu hướng và mức độ tiến bộ “xanh” của khai thác
khoáng sản trong một giai đoạn tăng trưởng kinh tế. Những đánh giá này nhằm
nghiên cứu xu hướng giảm phụ thuộc vào khai thác tài nguyên (giảm tỷ lệ tài
nguyên trên mỗi đơn vị kinh tế) và tác động tới môi trường trong quá trình tăng
trưởng kinh tế.
Liên quan đến khai thác tài nguyên trong tăng trưởng kinh tế, gần đây, các nhà
nghiên cứu đưa ra thuật ngữ “tách rời tăng trưởng kinh tế ra khỏi việc sử dụng quá
mức tài nguyên và gây ô nhiễm môi trường” (decoupling). Việc tách rời có thể là: i)
tách rời tương đối, là khi việc sử dụng tài nguyên (tác động tới môi trường) chậm
hơn tốc độ tăng trưởng kinh tế; ii) tách rời tuyệt đối, là giảm tuyệt đối về sử dụng tài
nguyên (tác động tới môi trường) trên mỗi đơn vị tăng trưởng. Tách rời (nhất là tách
rời tuyệt đối) là mục tiêu và là thước đo để đánh giá về tăng trưởng xanh [147].
Cách tiếp cận theo “tách rời” (Hình 2.1) là cơ sở cho việc xây dựng phương pháp
49
đánh giá về tăng trưởng xanh.
Phúc lợi con người
Tăng trưởng kinh tế
Tách rời tài nguyên
Tách rời các tác động
Thời gian
Tác động tới môi trường
Hình 2.1: Tách rời tài nguyên và tác động môi trường trong tăng trưởng
kinh tế
Nguồn: UNEP (2011b) [155].
c) Các phương thức để thực hiện khai thác khoáng sản theo hướng tăng trưởng
xanh
Tăng trưởng xanh là cách tiếp cận tăng trưởng làm sao để sử dụng ít hơn các yếu
tố đầu vào sản xuất (vốn, lao động, tài nguyên) và/hoặc giảm các tác động tới môi
trường. Nói cách khác, đây là phương thức tăng trưởng dựa vào yếu tố khoa học –
công nghệ và thể chế, chính sách.
– Bằng yếu tố công nghệ
Khoa học – công nghệ trước hết thường thể hiện ở “hạ tầng cứng” là ứng dụng
các công nghệ, máy móc thiết bị tiên tiến, hiện đại để thay thế cho yếu tố lao động
nhằm nâng cao năng suất, chất lượng và giảm tác động tiêu cực tới môi trường.
+ Công nghệ dưới dạng hữu hình:
Đó là các công nghệ khai thác, chế biến khoáng sản giảm thiểu các tác động tiêu
cực đến môi trường: khai thác bằng công nghệ lộ thiên hay hầm lò, với từng loại
công nghệ khai thác thì dùng loại máy móc thiết bị nào.
Các công nghệ chế biến để tạo ra và nâng cao giá trị gia tăng của sản phẩm
khoáng sản.
Máy móc, thiết bị tiên tiến để giảm sử dụng, tiêu hao các yếu tố đầu.
50
Công nghệ để tái chế và sử dụng các chất thải, xử lý các chất thải nguy hại.
+ Công nghệ dưới dạng vô hình: bao gồm việc sắp xếp, tổ chức sản xuất một
cách khoa học, hợp lý.
– Bằng các thể chế, chính sách
Yếu tố thể chế, chính sách để thực hiện tăng trưởng xanh là dựa vào xây dựng và
áp dụng các công cụ quản lý mới nhằm tìm ra phương thức tăng trưởng hiệu quả
hơn về mặt kinh tế và môi trường. Sự điều chỉnh thể chế thường theo hai hướng: i)
tập trung hướng mạnh hơn các công cụ hiện có vào bảo vệ tài nguyên và môi trường
một cách hợp lý, thông minh; ii) tạo dựng và sử dụng các công cụ quản lý mới vào
bảo vệ tài nguyên và môi trường.
Các thể chế kinh tế là công cụ để khai thác khoáng sản theo hướng tăng trưởng
xanh, nội dung này được thể hiện trên các khía cạnh sau:
+ Khuôn khổ luật pháp phù hợp với đặc thù của khai thác khoáng sản, ban hành
và sử dụng hữu hiệu các công cụ kinh tế trong việc giải quyết vấn đề môi trường; có
các cơ chế, chính sách khuyến khích các tổ chức, cá nhân áp dụng máy móc, thiết bị
tiên tiến vào sản xuất nhằm nâng cao hiệu suất, hiệu quả sử dụng đầu vào (nhất là
các đầu vào từ khai thác tài nguyên thiên nhiên) và xử lý về môi trường.
+ Tổ chức bộ máy (bao gồm ở cấp vĩ mô – bộ máy quản lý nhà nước và cấp vi
mô – các tổ chức, cá nhân trực tiếp khai thác khoáng sản) với cấu trúc khoa học, có
năng lực để đáp ứng các yêu cầu của tăng trưởng xanh. Với các tiêu chuẩn và yêu
cầu cao về bảo vệ môi trường, các bộ phận thành phần của từng cấp bộ máy phải có
sự phối hợp, hợp tác chặt chẽ chứ không chỉ là tập hợp của các cá thể.
d) Các rủi ro tiềm tàng khi thực hiện khai thác khoáng sản theo hướng tăng
trưởng xanh
Như trong phần tổng quan nghiên cứu ở chương 1 đã đề cập, tăng trưởng xanh
không phải là con đường bằng phẳng mà có thể có những rủi ro, phát sinh đi kèm.
Việc thực hiện khai thác khoáng sản theo hướng tăng trưởng xanh có thể xẩy ra
những vấn đề sau:
– Các mâu thuẫn giữa lợi ích và chi phí
Về mặt lý luận cũng như thực tiễn đã chỉ rằng khi chuyển sang phương thức sản
xuất tiên tiến, hiện đại thì đòi hỏi phải có chí phí, nhất là các chi phí tài chính; lợi
51
ích mang lại có thể là giảm các chi phí vận hành, lợi ích về môi trường. Xu hướng
này khi thực hiện tăng trưởng xanh cũng vậy và đòi hỏi phải có các chính sách để
xử lý mâu thuẫn giữa lợi ích và chi phí.
– Mâu thuẫn về lợi ích giữa người sản xuất và người sử dụng
Khi thực hiện tăng trưởng xanh, về cơ bản, giá các sản phẩm đầu ra thường cao
hơn so với các sản phẩm truyền thống, ví dụ: giá thành sản xuất các loại gạch không
nung thường cao hơn so các loại gạch đất sét từ các lò nung; giá thành sản xuất điện
từ các nguồn năng lượng tái tạo cao hơn so với từ các nguồn nhiên liệu hóa thạch.
Theo đó, các sản phẩm thân thiện với môi trường khó cạnh tranh về giá cả so với
sản phẩm truyền thống. Đối với người tiêu dùng, độ thỏa dụng đối với một trong hai
loại sản phẩm đều như nhau.
– Mâu thuẫn về phân chia lợi ích giữa các chủ thể có liên quan
Đó là các mâu thuẫn về lợi ích giữa các doanh nghiệp, giữa doanh nghiệp với nhà
nước và giữa doanh nghiệp với người lao động, cộng đồng dân cư (nhất là đối với
trường hợp khai thác khoáng sản).
Khi thực hiện tăng trưởng xanh cũng có nghĩa áp dụng công nghệ hiện đại, điều
này có thể dẫn việc thu hẹp lao động và làm thế nào để chuyển đổi việc làm cho
những người bị thu hẹp cũng là vấn đề cần xử lý.
2.1.4. Các tiêu chí đánh giá khai thác khoáng sản trong chiến lược tăng trưởng
xanh ở Việt Nam
2.1.4.1. Các căn cứ xây dựng các tiêu chí đánh giá
Tăng trưởng xanh là khái niệm tương đối mới và cho đến nay vẫn còn có các
cách hiểu khác nhau và theo đó, có những những chỉ tiêu khác nhau để đánh giá tiến
bộ theo hướng tăng trưởng xanh.
– OECD (2011) đã giới thiệu khung phân tích tăng trưởng xanh gồm 4 nhóm tiêu
chí đánh giá các nhân tố của tăng trưởng xanh: 1) năng suất tài nguyên và môi
trường; 2) tài nguyên thiên nhiên; 3) chất lượng môi trường sống; 4) cơ hội kinh tế
và lựa chọn chính sách hướng đến tăng trưởng xanh. Bốn nhóm tiêu chí này bao
gồm 25 tiêu chí nhỏ hơn nhằm đo lường tiến bộ đến tăng trưởng xanh (chi tiết các
chỉ tiêu được đề cập tại Bảng 1 – Phụ lục).
– Các chỉ tiêu về kinh tế xanh được đề ra trong các chiến lược phát triển ở Việt
52
Nam giai đoạn 2011 – 2020, như sau: chiến lược phát triển kinh tế xã hội giai đoạn
2011 – 2020; chiến lược phát triển bền vững giai đoạn 2011 – 2020; chiến lược
quốc gia về tăng trưởng xanh; chiến lược quốc gia về biến đổi khí hậu;...
2.1.4.2. Một số chỉ tiêu đánh giá khai thác khoáng sản theo tiêu chí tăng trưởng xanh
Trên cơ sở tham khảo các chỉ tiêu ở trên đây và kế thừa các cách đánh giá về
thực trạng khai thác khoáng sản ở Việt Nam từ các nghiên cứu hiện có, luận án sử
dụng một số chỉ tiêu tại Bảng 2.1 để đánh giá cho khai thác khoáng sản ở Việt Nam.
Các chỉ tiêu này tương đối phù hợp đặc điểm ngành công nghiệp khai khoáng của
nước ta cũng như tính khả thi về nguồn số liệu phục vụ cho việc nghiên cứu.
Bảng 2.1: Tiêu chí đánh giá khai thác khoáng sản trên quan điểm tăng trưởng xanh
Chỉ tiêu
Lý do lựa chọn và ý nghĩa
Cách đo
1. Về kinh tế
1.1. Tiêu chí về khía cạnh kinh tế trên quan điểm tăng trưởng xanh
Lý do: đo lường sự thay đổi, chuyển
Đóng góp vào GDP
dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng
trưởng xanh
Đóng góp ngân sách
Đóng góp vào kinh tế
Ý nghĩa: phản ánh sự phụ thuộc vào
Đóng góp vào giải quyết việc
khai thác khoáng sản trong phát triển
làm
kinh tế
1.2. Hiệu quả tăng trưởng kinh tế theo hướng tăng trưởng xanh
Hàm ý chi phí cơ hội về vốn đối với
các ngành ít tiêu tốn tài nguyên, năng
Giá trị gia tăng (VA)
lượng
Giá trị gia tăng
Mức tiêu tốn năng lượng và xét dưới
Tiêu hao tài nguyên và năng
chi phí cơ hội
lượng để tạo giá trị gia tăng
Chỉ số tập trung của ngành khai
Tác động lan tỏa đến phát
khoáng sản
khoáng và doanh nghiệp theo
triển nơi khai thác khoáng
địa lý nơi có khai thác khoáng
– Phản ánh sự hiệu quả từ khai thác
sản
sản
kinh tế
– Đóng góp vào sự thay đổi cơ cấu
Lý do: thể hiện chế biến sâu và phát
triển các ngành kinh tế trên nền khai
Giá trị gia tăng trên mỗi đơn vị
Năng suất tài nguyên
thác khoáng sản
tài nguyên đã khai thác
Ý nghĩa: mỗi đơn vị tài nguyên tạo
53
ra bao nhiêu giá trị gia tăng
2. Về tài nguyên và môi trường
2.1. Khía cạnh tài nguyên
Lý do: phản ánh tổn thất do công
Giảm tổn thất khoáng sản
nghệ và lạc hậu của công nghệ khai
trong quá trình khai thác,
thác.
Tỷ lệ tổn thất trong khai thác
chế biến
Ý nghĩa: hiệu quả khai thác, sử dụng
tài nguyên
2.2. Các chỉ tiêu liên quan đến môi trường
Lý do: thể hiện đáp “xanh hóa” trong
Tỉ lệ giảm các chất thải (rắn,
Giảm các chất thải và các
khai thác khoáng sản. Đây là chỉ tiêu
lỏng, khí,...) và các tác động
tác động từ hoạt động
giám sát chất lượng môi trường.
môi trường và so với các tiêu
khoáng sản ra môi trường
Ý nghĩa: giải quyết các yêu cầu từ
chuẩn cho phép
tăng trưởng xanh
% ngân sách cho công tác bảo
dưỡng tài nguyên và môi trường: Hài
vệ môi trường
hoà lợi ích kinh tế và môi trường
Đầu tư cho công tác phục
– Đầu tư cho việc bảo vệ và nuôi
hồi và bảo vệ môi trường
tắc Hartwick mở rộng)
Sử dụng phí bảo vệ môi trường
– Đầu tư cho thế hệ tương lai (quy
từ hoạt động khoáng sản
môi trường
– Hiệu quả trong công tác bảo vệ
3. Về xã hội
Các xung đột về
tài
nguyên và môi trường do
Các hệ lụy từ khai thác khoáng sản
Phân tích định tính
có liên quan đến hoạt động
khai thác khoáng sản.
Lý do: đo lường bền vững về xã hội
– Lợi ích của doanh nghiệp
Phân chia lợi ích từ khai
Ý nghĩa: phản ánh bất bình đẳng về
– Lợi ích của nhà nước
thác khoáng sản
thu nhập
(tỷ lệ lao động có mức lương
dưới mức lương cơ bản)
54
– Lợi ích của người lao động
Nguồn: Tác giả đề xuất.
Phương pháp sử dụng các chỉ tiêu
Các chỉ tiêu được đưa ra không gắn với ngưỡng đánh giá cụ thể để trả lời cho
việc từng khía cạnh kinh tế, xã hội, môi trường đã “xanh” hay chưa. Việc đưa ra
ngưỡng đánh giá – “ngưỡng xanh” – đòi hỏi phải có nhiều nghiên cứu hơn nữa và
cần có sẵn các số liệu đảm bảo độ tin cậy.
Với lý do như vừa nêu, luận án sử dụng các chỉ tiêu để đánh giá mức độ cải thiện
theo thời gian để trả lời cho câu hỏi đã theo hướng tăng trưởng xanh: cải thiện hiệu
quả về kinh tế, hiệu quả về môi trường và hiệu quả về xã hội. Các chỉ tiêu trong
Bảng 2.1 được thực hiện như sau:
– Luận án đánh giá xu hướng của một số chỉ tiêu, từ đó đánh giá mức độ tiến bộ
“xanh”. Các xu hướng được tính toán thông qua việc so sánh, tốc độ gia tăng của
các chỉ tiêu so với năm gốc.
– Xem xét xu hướng mối tương quan giữa các chỉ tiêu: so sánh tương quan giữa
các chỉ tiêu dựa trên khái niệm “tách rời” (Hình 2.1), ví dụ, mức độ ô nhiễm so với
sản lượng khai thác (mức độ ô nhiễm trên mỗi đơn vị khai thác tăng hay giảm) để
xem xét liệu việc khai thác theo hướng tăng trưởng xanh.
– Luận án xây dựng chỉ số phát triển bền vững ngành công nghiệp khai khoáng
(SDI) để tổng hợp các chỉ số thành phần về kinh tế, xã hội, môi trường nhằm nghiên
cứu xu hướng liệu ngành công nghiệp khai khoáng đã phát triển theo hướng tăng
trưởng xanh. Chỉ số SDI được tính toán theo công thức sau, trong đó mỗi chỉ số
thành phần có trọng số ngang nhau (cơ sở để đề xuất các trọng số ngang nhau bởi
trên quan điểm tăng trưởng xanh đó là sự hài hòa giữa kinh tế, xã hội và môi
SDI =
trường).
; Ii =(kinh tế, xã hội, môi trường)
Ii =
; Xi: giá trị của chỉ tiêu Ii
trong đó: SDI nhận giá trị từ 0 đến 1; trong một giai đoạn, với SDI càng gần 1 thể
55
hiện theo hướng phát triển bền vững.
2.1.5. Các nhân tố ảnh hưởng đến khai thác khoáng sản trong tăng trưởng xanh
2.1.5.1. Các nhân tố ảnh hưởng từ quốc tế
Toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế là cơ hội cho việc chuyển giao khoa
học công nghệ, chia sẻ kinh nghiệm từ các nước tiến tiến, qua đó tạo điều kiện cho
việc xử lý các bài toán về năng suất tài nguyên và môi trường. Hội nhập kinh tế
quốc tế là cơ hội tham gia chuỗi sản xuất toàn cầu nhằm nâng cao đóng góp của
khai thác khoáng sản. Từ đó khuyến khích và thúc đẩy chế biến khoáng sản theo
hướng đa dạng hóa sản phẩm, chế biến theo hướng tạo ra sản phẩm sạch thân thiện
với môi trường. Việc tăng cường hội nhập quốc tế là tạo ra nhiều cơ hội để thực
hiện và biến các mục tiêu của tăng trưởng xanh trở thành hiện thực. Đối với khai
thác khoáng sản, việc hội nhập kinh tế quốc tế tạo điều kiện để vươn ra bên ngoài
tìm kiếm, thăm dò tài nguyên, trữ lượng mới để bù đắp phần tài nguyên, trữ lượng
đã khai thác và gia tăng tài nguyên, trữ lượng để nâng cao sản lượng khai thác. Bên
cạnh đó, hội nhập kinh tế quốc tế mở ra cơ hội tiếp cận các nguồn năng lượng mới,
các vật liệu thay thế khoáng sản qua đó giảm các áp lực đối với khai thác khoáng sản.
Thế giới đang trong quá trình chuyển sang tăng trưởng xanh, kèm theo đó là việc
đề ra các tiêu chí mới và các tiêu chuẩn cao hơn về môi trường. Việc áp dụng các
phương pháp sản xuất tiết kiệm năng lượng và tài nguyên như một phần trong các
biện pháp nhằm hướng tới nền kinh tế xanh đóng vai trò quan trọng giúp các nền
kinh tế gia tăng khả năng thâm nhập và duy trì sức cạnh tranh dài hạn trên thị
trường quốc tế. Xu hướng này cũng đặt ra các ràng buộc về môi trường để tài trợ
vốn và ảnh hưởng tới các nguồn lực để xanh hóa khai thác khoáng sản.
2.1.5.2. Các nhân tố ảnh hưởng từ trong nước
– Các nhân tố khách quan bên trong
Sức ép từ gia tăng dân số, việc làm kéo theo nhu cầu lớn về sử dụng các loại
khoáng sản và giải quyết việc làm, điều này khiến cho việc gia tăng khai thác
khoáng sản và tạo ra các áp lực lớn tới tài nguyên, môi trường.
– Các yếu tố chủ quan bên trong
+ Mô hình tăng trưởng kinh tế và việc thay đổi mô hình tăng trưởng là những
ràng buộc để các ngành, lĩnh vực phải tuân thủ và thay đổi theo. Mô hình tăng
trưởng dựa vào khai thác tài nguyên thì nhu cầu và áp lực lớn về khai thác khoáng,
56
nói cách khác sẽ là thách thức để tách rời (decoupling) sự phụ thuộc vào tài nguyên
và tác động tới môi trường. Mô hình tăng trưởng với năng lực về công nghệ và chất
lượng nhân lực hạn chế đặt ra những thách thức để có thể tạo ra giá trị gia tăng lớn
từ khai thác khoáng sản, hạn chế các ảnh hưởng tiêu cực tới môi trường.
+ Nguồn vốn, nguồn nhân lực và chất lượng của nó, khoa học – công nghệ là các
yếu tố đầu vào quan trọng để thực hiện tăng trưởng xanh.
Nguồn nhân lực bao gồm số lượng và chất lượng ảnh hưởng tới quy mô và tính
chất của khai thác khoáng sản. Quy mô dân số lớn và sự gia tăng dân số kéo théo
nhu cầu sử dụng lớn về khoáng sản. Con người, nhất là người dân sống phụ thuộc
vào khai thác tài nguyên và/hoặc trình độ dân trí thấp có khả năng khai thác nhiều
tài nguyên thiên nhiên nói chung và khoáng sản nói riêng, thậm chí là khai thác bừa
bãi. Nguồn nhân lực gồm những người thực thi ở cấp cơ sở sản xuất kinh doanh và
cấp lãnh đạo. Việc thực hiện sản xuất xanh với các yêu cầu cao về môi trường và
những công nghệ tiến tiến để thực hiện cũng đòi hỏi nguồn nhân lực có chất lượng
để đáp ứng yêu cầu. Không những vậy, giữa các bộ phận trong cấu trúc nhân lực
phải có sự hợp tác, liên kết chặt chẽ và cách tổ chức thực hiện khoa học.
Khoa học – công nghệ không chỉ là lực lượng sản xuất trực tiếp, là yếu tố cơ bản
của quá trình sản xuất, mà còn là điều kiện cho tăng trưởng xanh. Tiến bộ khoa học
và công nghệ đẩy nhanh tốc độ phát triển các cơ sở sản xuất kinh doanh, tạo tiền đề
nâng cao chất lượng sản phẩm và khả năng để tham gia chuỗi sản xuất toàn cầu.
Tiến bộ khoa học công nghệ còn tạo ra những nhu cầu mới, thay đổi tính năng của
một số sản phẩm khoáng sản, từ đó góp phần thay đổi giá trị của khoáng sản. Tiến
bộ khoa học và công nghệ cũng có thể tạo ra các loại sản phẩm khác để thay thế sản
phẩm khoáng sản, điều này góp phần thay đổi chính sách quản lý và nhu cầu sử
dụng sản phẩm khoáng sản.
Các đầu vào như nhân lực, công nghệ không thể thiếu được yếu tố cơ bản ban
đầu đó là vốn, các nguồn lực tài chính. Vốn đầu tư giúp phát triển nhanh chóng
trình độ kỹ thuật công nghệ ở các doanh nghiệp khai khoáng, góp phần thúc đẩy
tăng năng suất lao động và hạn chế các tác động tiêu cực tới môi trường.
Các nhân tố vốn, nhân lực, công nghệ sẽ ảnh hưởng, chi phối việc thực hiện khai
thác khoáng sản trong trưởng xanh. Khoa học công nghệ ngày càng phát triển và nó
57
chi phối tới mọi lĩnh vực của đời sống, đối với khai thác khoáng sản sẽ là ảnh
hưởng tới phương thức khai thác theo hướng thân thiện với môi trường. Song để
việc khoa học công nghệ có vận hành hiệu quả hay không còn phụ thuộc vào chất
lượng nguồn nhân lực. Để có được các nguồn lực này cũng đòi hỏi phải có các cơ
chế, chính sách phù hợp nhằm thu hút từ trong nước và ngoài nước.
+ Thể chế là “hạ tầng mềm” của sản xuất và được quốc tế thừa nhận là ngày
càng đóng vai trò quan trọng. Thể chế kinh tế với nghĩa rộng bao gồm các qui định
pháp lý, các tổ chức và bộ máy quản lý và thực thi, các cơ chế phối hợp thực thi và
giám sát quá trình thực hiện. Hệ thống chính sách, pháp luật và các công cụ khác
nhằm khuyến khích hay hạn chế, thậm chí gây áp lực để các doanh nghiệp, nhà đầu
tư chấp hành các quy định về bảo vệ môi trường. Nhà nước có thể ngăn cản sự di
chuyển của các dòng vốn đầu tư vào các ngành thâm dụng tài nguyên và khuyến
khích vào các ngành sản xuất sạch, thân thiên với môi trường. Cách tổ chức bộ máy
và phương thức quản lý, nói cách khác là ính hoàn hiện của bộ máy nhà nước sẽ
giám sát chặt chẽ việc tuân thủ các quy định pháp luật, là điều kiện quan trọng đến
việc thực hiện tăng trưởng xanh. Thể chể và chất lượng thể chế hay quản trị tốt ảnh
hưởng tới việc quốc gia có rơi vào lời nguyền tài nguyên hay không và ảnh hưởng
tới việc thực hiện, đạt được các mục tiêu của tăng trưởng xanh đối với khai thác
khoáng sản.
+ Tư duy, nhận thức về tăng trưởng xanh cũng là yếu tố ảnh hưởng tới khai thác
khoáng sản trong tăng trưởng xanh. Kinh nghiệm các nước cho thấy tư duy, nhận
thức quyết định đến cách ứng xử với tài nguyên thiên nhiên, môi trường và việc ban
hành các chính sách. Đây đang là thách thức đối với khai thác khoáng sản ở nước ta
khi mà khoáng sản phân bố chủ yếu ở các tỉnh miền núi, nghèo đói và trình độ nhận
thức còn hạn chế, nên có thể khai thác khoáng sản (nhất là khai thác lậu) như là
phương tiện sinh kế. Tư duy, nhận thức có thể là của người dân, các doanh nghiệp
và lãnh đạo các cấp. Tuy nhiên, việc nâng cao nhận thức đối với các đối tượng này
58
là một quá trình mất nhiều công sức và thời gian.
2.2. Kinh nghiệm quốc tế về khai thác khoáng sản trong việc phát triển bền
vững, tăng trưởng xanh đối với nền kinh tế
2.2.1. Các bài học kinh nghiệm của một số quốc gia về khai thác khoáng sản
trong phát triển kinh tế theo hướng bền vững, tăng trưởng xanh
Phần dưới đây sẽ trình bày kinh nghiệm của một nước thất bại (Nigeria) và một
nước thành công (Úc) trong việc khai thác khoáng sản như một nguồn lực phát triển.
2.2.1.1. Bài học về lời nguyên tài nguyên từ khai thác khoáng sản ở Nigeria
Nigeria là trường hợp điển hình về thất bại từ khai thác khoáng sản và là bài học
cho các quốc gia trong việc ban hành các chính sách về phát triển kinh tế nói chung
và khai thác khoáng sản nói riêng.
Nigeria có nhiều loại khoáng sản, song dầu mỏ là loại khoáng sản có trữ lượng
lớn nhất. Quốc gia này sản xuất dầu thô lớn nhất ở Châu Phi và lớn thứ 11 trên thế
giới. Các mỏ dầu của Nigeria được phát hiện vào năm 1956 và bắt đầu khai từ 1958,
trong giai đoạn 1960 – 1972, sản lượng khai thác đã tăng từ 5 triệu thùng/ngày lên
trên 60 triệu thùng/ngày [164]. Sản lượng dầu thô của Nigeria năm 1980 đạt 2,06
triệu thùng/ngày và đến năm 1988 giảm nhẹ xuống còn 1,45 triệu thùng/ngày. Xu
hướng khai thác dầu thô ở Nigeria bắt đầu tăng trở lại từ năm 1989 và kéo dài cho
tới năm 2007, với mức sản lượng từ 2,17 lên 2,21 triệu thùng/ngày [81].
Trước năm 1970, nông nghiệp là ngành kinh tế chính ở Nigeria, giai đoạn 1960 –
1970, bình quân hàng năm, lĩnh vực này chiếm tới 50% GDP, thu hút 72% lực
lượng lao động và đóng góp trên 50% kim ngạch xuất khẩu. Nhưng từ những năm
1970 trở đi, khai thác khoáng sản là lĩnh vực giữ vai trò chủ đạo. Trong giai đoạn
1974 – 2005, dầu thô luôn luôn chiếm trên 91% tổng kim ngạch xuất khẩu của
Nigeria, đóng góp tới 85% nguồn thu của chính phủ và chiếm 52% GDP [131].
Mặc dù là quốc gia giàu về khoáng sản, nhưng xét về nhiều khía cạnh, Nigeria
được coi là một trong những ví dụ điển hình về lời nguyền tài nguyên. GDP thực tế
bình quân đầu người ở mức thấp và có xu giảm, từ mức 479 USD (năm 1977)
xuống còn 459 USD (năm 2005) [130]. Trong giai đoạn 1970 – 2000, tỷ lệ nghèo
đói (dân số có thu nhập dưới 1 USD/ ngày) đã tăng từ 36% lên 70% và số người
nghèo tăng từ 19 triệu người (năm 1970) lên 90 triệu người (năm 2000). Chênh lệch
59
giàu nghèo cũng tăng đáng kể; năm 1970, giới thượng lưu (2% dân số) và nhóm thu
nhập thấp nhất (chiếm 17%) có tổng thu nhập tương đương nhau; nhưng đến năm
2000, chỉ 2% nhóm trên có tổng thu nhập bằng với 55% nhóm dưới [140].
Các quốc gia rơi vào “lời nguyền tài nguyên” là vì nhiều lý do khác nhau và tùy thuộc
vào đặc thù của từng nước, đối với Nigeria là xuất phát từ những vấn đề chính sau:
Thứ nhất, nguồn thu từ khai thác khoáng sản được đầu tư thiếu không ngoan:
Chẳng hạn, nguồn thu từ dầu mỏ dùng để xây dựng khu liên hiệp thép Ajakouta và
điều này đã giảm vốn đầu tư vào ngành công nghiệp chế biến từ 77% (năm 1975)
xuống còn 50% (năm 1983) và sau đó chỉ còn 35%. Nigeria là quốc gia nghèo, nạn
đói diễn ra thường xuyên, nhưng thiếu đầu tư vào sản xuất nông nghiệp nên lĩnh
vực này ngày càng suy giảm. Lực lượng lao động di chuyển khỏi khu vực nông thôn
đã dẫn tới sụt giảm về sản lượng lương thực phẩm và kéo theo giá cả thực thẩm
tăng cao. Tỷ lệ đóng góp của nông nghiệp trên GDP giảm từ 68% vào năm 1965
xuống còn 35% vào năm 1981 [78].
Thứ hai, tình trạng “chảy máu” tài nguyên quốc gia và nạn tham nhũng hoành hành
Việc khai thác khoáng sản đòi hỏi các công nghệ thâm dụng vốn, song Nigeria
lại không có được các yếu tố này lúc bắt đầu mới khai thác và những năm sau đó.
Vì vậy, các nhà đầu tư nước ngoài chi phối lĩnh vực này ở Nigeria và kết quả là, các
giá trị gia tăng hay lợi ích đã chảy ra nước ngoài. Sản lượng khai thác dầu thô mặc
dù là lớn, nhưng quốc gia thu được không nhiều so với giá trị của tài nguyên để đầu
tư phát triển các lĩnh vực khác.
Đối với Nigeria, nội chiến và xung đột giữa các phe phái, tôn giáo diễn ra thường
xuyên, nên nạn tham nhũng hoành hành ở mọi lĩnh vực trong đó có dầu khí. Nghiên
cứu của Watts (2007) [164] đã chỉ ra rằng, chỉ riêng năm 2003, có tới 70% của cải
từ khai thác dầu thô đã bị đánh cắp.
Nguyên nhân của tình trạng này tại Nigeria suy cho cùng là do thể chế và quản trị
yếu kém [125 ], [165]. Jonathan (2004) [121], Sayne và cộng sự (2012) [142] đã chỉ
ra rằng Nigeria là một trong những nước có nền quản trị quốc gia yếu kém, bộ máy
chính quyền lũng đoạn và thiếu minh bạch, trách nhiệm giải trình.
Thứ ba, yếu kém trong việc kết nối khai thác tài nguyên tới gần hơn với các hoạt
động kinh tế khác. Nigeria là một quốc gia có nền kinh tế đơn ngành [165]. Mặc dù
đẩy mạnh khai thác dầu thô, song thiếu liên kết, tác động lan tỏa với các lĩnh vực 60
khác của nền kinh tế do thiếu vốn và thiếu chuyên môn. Việc thiếu các tác động lan
tỏa của khai thác dầu thô, đặc biệt ở vùng Niger–Delta nơi diễn ra các hoạt động
khai thác dầu thô ở Nigeria, đã làm cho vùng này chậm phát triển và kéo theo các
xung đột xã hội. Chính vì vậy, rất ít người trong số 140 triệu dân của Nigeria được
hưởng lợi từ khai thác dầu thô.
2.2.1.2. Kinh nghiệm của Úc về khai thác khoáng sản và thúc đẩy phát triển kinh tế
Úc được đánh giá là một trong những quốc gia hàng đầu thế giới về khoáng sản,
với một số loại khoáng sản có trữ lượng lớn: than, quặng sắt, bôxit, đồng, vàng, khí
tự nhiên,... Đây là nước có sản lượng khai thác lớn nhất thế giới về quặng sắt,
bôxit,... Ngành công nghiệp khai khoáng đóng vai trò ngày càng quan trọng trong
kinh tế của Úc: năm 2011; chiếm khoảng 10% GDP và là ngành kinh tế lớn thứ tư ở
nước này, đóng góp tới 55% giá trị xuất khẩu so với mức 37% của năm 2007 [172].
Úc có hệ thống quy định tương đối toàn diện nhằm ngăn ngừa các tác động tiêu
cực tới môi trường do hoạt động khai thác khoáng sản. Một trong các quy định quan
trọng nhất đó là đạo luật BVMT, theo đó các doanh nghiệp khai khoáng phải nộp
các kế hoạch quản lý môi trường. Chính phủ Úc cũng có các quy định cụ thể về
BVMT đối với nước, không khí, tiếng ồn và quản lý các chất thải. Các chi phí, ước
tính ban đầu về tổn thất môi trường được tính toán và đưa vào giai đoạn chuẩn bị
ban đầu, thay vì những giai đoạn đoạn sau đó trong vòng đời dự án khai thác mỏ
mới trang bị thêm những bộ phận mới và thiết kế lại công nghệ khai thác để xử lý
các vấn đề môi trường; các chi phí này được xem như một phần trong tổng chi phí
của dự án khai thác [152].Trước khi được chính quyền cấp phép khai thác, các công
ty phải tổ chức tham vấn và phải nhận được ủng hộ rộng rãi của cộng động địa
phương nơi khai thác khoáng sản [78]. Nhằm tăng cường thực thi và quản lý hiệu
quả đối với môi trường, chính quyền các bang ở Úc coi trọng vai trò giám sát của
các tổ chức xã hội, người dân địa phương nơi khai thác [170].
Úc là nền kinh tế khoáng sản hàng đầu của thế giới và cho thấy sự thành công khi
dựa vào khai thác khoáng sản để phát triển kinh tế. Việc khai thác khoáng sản ở Úc
không chỉ đơn thuần là khai thác tài nguyên để bán nhằm thu ngoại tệ trước mắt, mà
61
đi cùng với đó là phát triển các ngành công nghiệp chế tạo có sự kết nối quan trọng
với khoáng sản bao gồm: các sản phẩm thép và kim loại, ô tô, thiết bị công nghiệp,
sản phẩm dầu mỏ, tàu thuyền, và hoá chất. Điều này đã góp phần tạo ra giá trị gia
tăng của mỗi đơn vị tài nguyên được lớn hơn, hay nói cách khác là nâng cao năng
suất tài nguyên. Chính cách phát triển này mà ngành công nghiệp khai khoáng ở Úc
là ngành thu hút nhiều lao động và đã là một động lực chính cho sự phát triển với
nhiều thị trấn, đường giao thông, đường sắt, cảng sân bay, cũng như nhiều ngành
công nghiệp liên quan tới khai thác khoáng sản.
Nhằm đóng góp trở lại cho chính ngành công nghiệp khai khoáng và thúc đẩy
thay đổi cơ cấu, phát triển kinh tế; Úc đã chú trọng giành nguồn thu từ khai thác
khoáng sản để đầu tư vào công tác R & D (nghiên cứu và phát triển). Chỉ tính riêng
năm 2010, quốc gia này đã giành khoảng 3% thu nhập từ khai thác khoáng sản
(tương đương 3,6 tỷ USD) cho R & D. Khoản đóng góp này đã tăng từ 11% (năm
2000) lên tới 22% (năm 2010) trong tổng đầu tư R & D của tất cả các ngành công
nghiệp, chỉ sau công nghiệp chế biến (25%) [172]. Chính việc chú trọng đầu tư cho
R & D mà nhiều sáng kiến công nghệ về khai thác mỏ như kỹ thuật khai thác, tuyển
quặng và tinh luyện khoáng sản,... đã phát triển và biến Úc trở thành một trong
những nước hàng đầu thế giới về công nghệ khai thác mỏ. Úc dẫn đầu thế giới về
phần mềm khai khoáng và hiện cung ứng từ 60 – 70% phần mềm khai khoáng trên
toàn thế giới. Hàng năm, Úc đã thu khoảng 2 tỷ USD từ việc xuất khẩu các sản
phẩm và dịch vụ, công nghệ cao về khai thác mỏ. Quốc gia này cũng là nơi giáo dục
hàng đầu thế giới trong kỹ thuật khai khoáng và luyện kim. Trong những thập kỷ
gần đây các công ty Úc đã trở thành hoạt động thăm dò và khai thác khoáng sản ở
nhiều nước trên thế giới [152], [170].
Những cách tiếp cận trên đây giúp Úc hạn chế đến mức thấp nhất các tác động
tiêu cực về xã hội, môi trường của khai thác khoáng sản; đồng thời, biến tài nguyên
khoáng sản trở thành nguồn lực ban đầu để phát triển kinh tế. Dù là nền kinh tế
khoáng sản hàng đầu thế giới, song Úc được đánh giá nước có nền công nghiệp hiện
62
đại, khoa học – công nghệ tiên tiến.
2.2.2. Một số sáng kiến, cách tiếp cận ở cấp độ toàn cầu hỗ trợ cho việc quản trị
khai thác khoáng sản theo hướng phát triển bền vững, tăng trưởng xanh
Trong bối cảnh tài nguyên khoáng sản ngày càng cạn kiệt và những vấn đề về
môi trường do khai thác loại tài nguyên này, hiện nay có không ít các sáng kiến hỗ
trợ quản trị tài nguyên khoáng sản. Mỗi sáng kiến nhằm giải quyết những vấn đề
khác nhau của khai thác khoáng sản. Nghiên cứu sinh lựa chọn và nghiên cứu các
sáng kiến có liên quan trực tiếp đến nội dung đề tài luận án, bao gồm: 1) sáng kiến ở
cấp độ vĩ (sáng kiến EITI) hỗ trợ cho quản trị và tăng cường minh bạch đối với khai
thác khoáng sản; 2) sáng kiến ở cấp độ vi mô (sáng kiến GMI) xem xét tới vấn đề
tài nguyên, môi trường nhằm hỗ trợ cho việc xây dựng các chính sách để xanh hóa
sản xuất đối với hoạt động khai thác khoáng sản. Hai sáng kiến này được xem như
là những công cụ hữu ích hỗ trợ cho quản trị khai thác khoáng sản.
2.2.2.1. Sáng kiến minh bạch ngành công nghiệp khai khoáng (Extractive Industries
Transparency Initiative: EITI)
Tại Hội nghị thượng đỉnh thế giới về phát triển bền vững ở Johannesburg (Nam
Phi) vào tháng 10/2002, cựu thủ tướng Anh (ông Tony Blair) đã công bố sáng kiến
EITI và được Liên hợp quốc công nhận là công cụ hỗ trợ phát triển bền vững. Sau
hơn 10 năm, đến tháng 7/2014, đã có 45 quốc gia đăng ký thực hiện EITI [62]. Sáng
kiến này nhận được ủng hộ của nhiều công ty khai khoáng hàng đầu trên thế giới
như BHP Billiton, Chevron, BP, Rio Tinto, Shell, Santos,...
Nguyên tắc chung của EITI là đảm bảo sự tham gia đầy đủ và hiệu quả của các
bên liên quan gồm nhà nước, doanh nghiệp khai khoáng và các tổ chức xã hội dân
sự vào quản trị khai thác khoáng sản. Theo đó, một số thông tin về ngành này cần
được công khai dưới sự giám sát của hội đồng gồm: đại diện nhà nước, doanh
nghiệp khai khoáng và các tổ chức xã hội dân sự (gọi là nhóm đa bên:
Multistakeholder Group – MSG) (nguồn: https://eiti.org/).
Sáng kiến EITI nhấn mạnh quá trình giám sát các khâu trong chuỗi giá trị khai
thác khoáng sản nhằm nâng cao tính minh bạch và giải trình. Chính phủ các nước
và khối doanh nghiệp tham gia thực hiện EITI vì nhiều lợi ích:
– Đối với chính phủ, trước hết là khi tính minh bạch thông tin tốt, EITI giúp thúc
đẩy quá trình giám sát ngân sách. Báo cáo EITI sẽ là công cụ hiệu quả giúp người
63
dân và các nhà hoạch định chính sách thấy rõ được nguồn thu từ khai khoáng là bao
nhiêu và được chi thế nào, qua đó sẽ giúp gia tăng các khoản đầu tư cho người dân
và hạn chế tham nhũng, làm giảm thiểu tổn thất tài nguyên hướng các doanh nghiệp
khai thác hiệu quả về kinh tế và bảo vệ môi trường.
– Đối với doanh nghiệp, họ cũng hưởng nhiều lợi ích khi tham gia EITI bởi họ
đáp ứng được sự quan tâm và lợi ích của chính doanh nghiệp khi có nền quản trị
hiệu quả hơn và cơ hội đầu tư bền vững hơn, đồng thời đảm bảo được trách nhiệm
xã hội của doanh nghiệp và nâng cao uy tín đối với cộng đồng.
– Bên cạnh đó, EITI như là kênh nhằm được chia sẻ lợi ích của việc khai thác
khoáng sản, giúp giảm thiểu những xung đột nảy sinh giữa cộng đồng, các công ty
khai khoáng và chính quyền địa phương.
2.2.2.2. Sáng kiến khai thác mỏ theo các tiêu chuẩn xanh (Green Mining Initiative)
Sáng kiến GMI được Canada khởi xướng và sáng lập năm 2009 nhằm giải quyết
những vấn đề cấp bách bao gồm: i) giải quyết các mối quan tâm của công chúng về
tác động môi trường do khai thác khoáng sản; ii) nâng cao năng suất và đổi mới
công nghệ của ngành công nghiệp khai khoáng trong môi trường cạnh tranh quốc tế
khốc liệt; iii) đáp ứng tiêu chuẩn kỹ thuật về phát thải khí nhà kính, ô nhiễm không
khí và chất thải dạng lỏng; iv) cải thiện hiệu suất của ngành công nghiệp khai
khoáng nhằm giảm thiểu tổn thất tới môi trường (nguồn: http://www.nrcan.gc.ca/).
Các chính sách và giải pháp mà GMI hướng tới bao gồm [93], [94]:
Sử dụng hiệu quả năng lượng trong khâu khai thác và sơ chế: Năng lượng là một
vấn đề quan trọng và phức tạp đối với ngành công nghiệp khai khoáng, cả khâu khai
thác và sơ chế đều có nhu cầu sử dụng năng lượng đáng kể. Nâng cao hiệu suất sử
dụng năng lượng sẽ cải thiện khả năng cạnh tranh và giảm thiểu tác động môi
trường. Do vậy, các chính sách của nhà nước cần phát triển các công nghệ để làm
giảm nhu cầu sử dụng năng lượng, giảm thiểu phát thải khí nhà kính và tác động
của khí thải.
Quản lý chất thải
– Những vấn đề về nước sạch: Việc sử dụng nước và chất lượng nguồn nước là
vấn đề liên quan tới tất cả các khâu trong quy trình khai thác khoáng sản, và có tác
động trực tiếp tới môi trường. Khối lượng nước tiêu thụ qua tất cả các công đoạn
64
khai khoáng nhằm loại bỏ tạp chất cũng là yếu tố được lưu tâm. Cho nên, phát triển
các kiến thức và công nghệ để sản xuất nước thải sạch hơn, phù hợp hơn, độc tính
thấp hơn và giảm lượng tiêu thụ.
– Đáp ứng các nhu cầu đối với hệ thống khí thải, bao gồm: tiết kiệm chi phí,
năng lượng và giảm phát thải khí nhà kính.
Xây dựng sáng kiến trong khâu đóng cửa mỏ: Lựa chọn những công nghệ,
phương pháp hoàn thổ và đóng cửa mỏ tiên tiến để hạn chế các tác động tới môi
trường xung quanh. Sau khi đóng cửa mỏ cần tiến hành phục hồi môi trường và
trồng cây xanh.
Xanh hóa các mỏ khai thác bằng các năng lượng xanh: Đó là việc tận dụng các
chất thải hữu cơ để khắc phục chất thải mỏ và sản xuất năng lượng sinh học.
Phát triển tầm nhìn quốc tế về GMI trên các khía cạnh về khoa học và công
nghệ: Tăng cường các liên minh song phương và đa phương để xây dựng hỗ trợ
quốc tế cho việc quản trị khai thác khoáng sản và phát triển bền vững. Phát triển
quan hệ đối tác để đẩy nhanh tiến độ triển khai các công nghệ GMI. Thúc đẩy vai
trò dẫn dắt, đi đầu của ngành công nghiệp khai khoáng trên các khía cạnh về trách
nhiệm xã hội doanh nghiệp, phát triển khoáng sản có trách nhiệm, quản lý môi
trường, và sử dụng các công nghệ tiên tiến. Hỗ trợ các cơ hội hợp tác để tăng cường
tiếp cận thị trường toàn cầu đối với khai thác khoáng sản xanh.
Sáng kiến GMI là tương đối mới mẻ và hiện nay một số quốc gia đang thực thi
như Canada, Phần Lan, Úc và Indonesia,…
2.2.3. Những bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam
2.2.3.1. Bài học kinh nghiệm từ các nước đã nghiên cứu
Để tránh nguy cơ rơi vào lời nguyên tài nguyên, chiến lược và chính sách cũng
như tổ chức khai thác khoáng sản cần phải được xây dựng đồng bộ với phát triển
các ngành kinh tế khác, đảm bảo các yêu cầu phát triển bền vững. Sử dụng nguồn
thu từ khai thác khoáng sản một cách hiệu quả, đầu tư thỏa đáng vào nguồn vốn con
người, vốn tài nguyên thiên nhiên.
Trong tư duy phát triển kinh tế, đặc biệt là trong bối cảnh thực hiện chiến lược
tăng trưởng xanh, liệu có nên coi trọng việc khai thác tài nguyên như cách để tăng
trưởng hay thay vì sử dụng nguồn lực để phát triển các ngành khác có ít tác động tới
65
môi trường.
2.2.3.2. Bài học từ các sáng kiến quốc tế
Trong xu hướng quốc tế thực hiện quản trị khai thác khoáng sản, nhiều quốc gia,
các tập đoàn đa quốc gia và các tổ chức quốc tế ủng hộ và thúc đẩy thực thi sáng
kiến EITI. Điều này xuất phát từ tính hữu ích của do việc thực thi sáng kiến này
mang lại. Việt Nam nên nghiên cứu và xem xét áp dụng những nguyên tắc của sáng
kiến EITI nhằm thúc đẩy quản trị tốt đối với khai thác khoáng sản.
Nhằm góp phần giảm thiểu các tác động tiêu cực từ hoạt động khai thác khoáng
sản cần thực hiện quản lý dựa trên chuỗi hoạt động khoáng sản và có sự tham gia
của các bên liên quan.
Tiểu kết chương 2
Chương 2 trình bày những vấn đề lý luận về khai thác khoáng sản trong tăng
trưởng xanh và rút ra một số kết luận sau:
Tài nguyên khoáng sản là nguồn lực quan trọng của mỗi quốc gia. Do đặc tính
không tái tạo nên việc khai thác nguồn tài nguyên này cần phải đảm bảo nguyên tắc
hợp lý, hiệu quả và bền vững. Việc khai thác khoáng sản một cách bền vững được
phản ánh đầy đủ ở các mục tiêu và nội dung: bền vững về kinh tế, bền vững về xã
hội và bền vững về môi trường.
Cơ sở lý luận đã chỉ ra rằng quản trị tốt khai thác khoáng sản là con đường giúp
quốc gia tránh được “lời nguyền tài nguyên”, tức là đòi hỏi cải thiện và nâng cao
chất lượng thể chế, chính sách.
Tăng trưởng xanh là phương thức tăng trưởng mới đòi hỏi xây dựng và áp dụng
các công cụ quản lý mới nhằm thực hiện các ý tưởng mới và bảo vệ TNMT trở nên
hiệu quả hơn. Cách tiếp cận mới trong quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường
hướng tới dựa trên các công cụ mang tính thị trường: cơ chế thuê mỏ khai thác qua
hợp đồng khai thác và thiết lập các tiêu chí khách quan để đánh giá các hồ sơ xin
cấp phép khai khoáng sản, cạnh tranh (xóa bỏ cơ chế “xin – cho”) và sử dụng các
công cụ kinh tế trong BVMT.
Khai thác khoáng sản trong chiến lược tăng trưởng xanh tập trung vào: nâng cao
đóng góp của khai thác khoáng sản trên quan điểm tăng trưởng xanh (nâng cao năng
suất tài nguyên), góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế và phát triển các sản xuất ít
gây ô nhiễm môi trường (hướng tới mô hình tăng trưởng xanh),... nhằm giảm thiểu
66
các tác động tới tài nguyên, môi trường và phát thải khí nhà kính.
Chương 3
THỰC TRẠNG KHAI THÁC KHOÁNG SẢN
TRONG CHIẾN LƯỢC TĂNG TRƯỞNG XANH Ở VIỆT NAM
3.1. Thực trạng khai thác khoáng sản từ góc nhìn của tăng trưởng xanh
3.1.1. Tổng quan về tài nguyên khoáng sản Việt Nam
Theo kết quả điều tra đánh giá, thăm dò khoáng sản ở nước ta đến nay đã phát
hiện được trên 5.000 mỏ và điểm quặng với trên 60 loại khoáng sản khác nhau.
Trong đó, một số loại khoáng sản có tiềm năng, đủ điều kiện để tổ chức khai thác,
chế biến quy mô công nghiệp với thời gian lâu dài: bôxit: 4.500 triệu tấn; than:
3.520 triệu tấn; titan: 15,71 triệu tấn; đá granite: 15 triệu m3;... (Bảng 2 – Phụ lục).
Đặc điểm của tài nguyên khoáng sản Việt Nam là phân bố không tập trung, trữ
lượng của nhiều loại không lớn, thậm chí là manh mún. Hơn nữa, tài nguyên
khoáng sản của nước ta chủ yếu tập trung ở các tỉnh miền núi, trung du (Bảng 2 –
Phụ lục). Đây là khu vực địa lý có điều kiện kinh tế và cơ sở hạ tầng còn nhiều khó
khăn, giao thông chưa phát triển, trình độ dân trí còn thấp. Với đặc điểm của tài
nguyên khoáng sản như vậy sẽ đặt ra nhiều thách thức cho công tác quản lý nhà
nước (đội ngũ quản lý, các chính sách đối với từng địa bàn phải khác nhau). Hơn
nữa, với đặc điểm đó, việc khai thác sẽ gặp khó khăn và kéo theo chi phí cao (chi
phí cao hơn để xây dựng cơ sở hạ tầng do địa bàn khó khăn, các mỏ nằm rải rác,
khó áp dụng khai thác công nghiệp và không tận dụng được lợi thế theo quy mô bởi
các mỏ phân bố rải rác), điều này đặt ra những thách thức để mang lại hiệu quả cao
và gây ra các nguy cơ về ô nhiễm môi trường, phá vỡ cảnh quan và điều kiện tự
nhiên tại khu vực khai thác.
So với các nước trên thế giới, tài nguyên khoáng sản của nước ta có một số đặc
điểm sau [80]: i) những thứ thế giới cần và nhu cầu sử dụng ngày càng lớn nhưng
Việt Nam có trữ lượng không lớn so với nhu cầu sử dụng của thế giới và đang có xu
hướng ngày càng cạn kiệt như than đá và dầu khí; ii) những loại khoáng sản có giá
trị kinh tế rất cao và thế giới có nhu cầu rất lớn nhưng Việt Nam có trữ lượng không
67
nhiều (như ruby, saphia, peridot…) hoặc không có (như kim cương,..); iii) có những
loại khoáng sản nước ta có trữ lượng lớn nhưng không phải là nhu cầu cao của thế
giới (bôxit, đất hiếm, titan,…). Do vậy, nếu so với các nước giàu về dầu khí, than đá
thì Việt Nam không có vị thế cao trong việc chi phối thị trường hoặc đàm phán về
kinh tế, chính trị của quốc gia nếu lấy các khoáng sản hóa thạch này làm chỗ dựa.
3.1.2. Phân tích, đánh giá thực trạng khai thác khoáng sản trên quan điểm
tăng trưởng xanh
3.1.2.1. Thực trạng cấp phép khai thác khoáng sản
Cấp phép khai thác (trao hợp đồng và giấy phép khai thác) là công đoạn đầu
tiên trong chuỗi giá trị khai thác khoáng sản. Cách thức cấp phép khai thác ảnh
hưởng tới phương thức khai thác và bền vững về TNMT.
Trong thời gian qua, việc cấp phép khai thác khoáng sản bộc lộ nhiều hạn chế.
Đó là tình trạng cấp phép với thời hạn khai thác rất ngắn, thậm chí tại một số tỉnh
diễn ra tình trạng chia nhỏ mỏ hay khu vực khai thác để cấp phép [9], [19]. Trong
khi số lượng giấy phép khai thác khoáng sản nhiều thì số lượng dự án chế biến sâu
khoáng sản còn quá ít, trong giai đoạn 1996 – 2011, có tới 1.253 giấy phép khai
thác, nhưng chỉ có 1 giấy phép chế biến [9].
Việc cấp phép với thời hạn khai thác ngắn và theo kiểu khai thác manh mún
cản trở tới đầu tư công nghệ tiên tiến vào khai thác, chế biến sâu khoáng sản và
giảm thiểu ô nhiễm môi trường. Tình trạng chia cắt thành nhiều khoảnh nhỏ để cấp
phép gây thất thoát, lãng phí về tài nguyên khoáng sản, ô nhiễm môi trường. Tư duy
về khai thác như vậy khó để khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư bài bản, có
khi còn thúc ép họ khai thác bằng mọi giá song thiếu quan tâm tới bảo vệ tài
nguyên và môi trường.
Tình trạng cấp phép khai thác khoáng sản như đã đề cập là do hệ thống phân cấp
– phân quyền, các địa phương được trao rất nhiều quyền trong việc cấp giấy phép
khai thác. Chỉ trong 03 năm, từ tháng 10/2005 đến tháng 8/2008, Uỷ ban nhân dân
các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đã cấp 3.495 giấy phép khai thác (gấp 7
lần số Trung ương cấp trong 12 năm, từ 1996 – 2008) [72]. Mặt khác, việc phân cấp
cho các địa phương song thiếu sự giám sát hoặc giám sát thiếu hiệu quả từ các cấp
68
Trung ương.
3.1.2.2. Thực trạng về số lượng và chất lượng các doanh nghiệp khai khoáng 1
Số lượng doanh nghiệp tham gia hoạt động khai thác khoáng sản đã tăng lên
nhanh chóng, nếu như năm 2000 mới chỉ 427 doanh nghiệp thì đến năm 2010 đã có
tới 2.968 doanh nghiệp (tăng 7 lần) và đến năm 2013 là 2779 doanh nghiệp. Năm
2000, trong tổng số 421 doanh nghiệp (chưa tính các doanh nghiệp khai thác dầu
khí), số lượng doanh nghiệp theo nhóm khoáng sản như sau: khai thác than: 38
(chiếm 9,0%), khai thác quặng kim loại: 25 (chiếm 5,9%), khai thác đá và các mỏ
khác: 358 (chiếm 85,0%); năm 2013, trong 2957 doanh nghiệp, các con số tương
ứng là: 82 (3,0%), 311 (11,2%) và 2386 (86,5%). Các con số này thể hiện, trong
giai đoạn qua, số lượng doanh nghiệp tập trung chủ yếu (85,9%) là khai thác các
loại vật liệu xây dựng (Bảng 3 – Phụ lục).
Nhìn chung, các doanh nghiệp khai khoáng có quy mô khá khiêm tốn, bình quân
mỗi doanh nghiệp chỉ có khoảng 144 lao động và quy mô vốn mới chỉ đạt 27,4 tỷ
đồng. Nếu theo tiêu chí của Chính phủ về phân loại doanh nghiệp; theo quy mô về
lao động, tỷ lệ doanh nghiệp siêu nhỏ và doanh nghiệp nhỏ chiếm tỷ lệ tương ứng
32,9% và 59,1%; theo quy mô về vốn, tỷ lệ doanh nghiệp quy mô nhỏ là 87,27%
(tính trung bình trong giai đoạn 2000 – 2013) (Bảng 4 – Phụ lục).
Theo kết quả điều tra doanh nghiệp (Tổng cục Thống kê) cho thấy chất lượng
nguồn nhân lực trong doanh nghiệp khai khoáng còn hạn chế và chậm được cải
thiện. Cho đến năm 2013, tỷ lệ lao động đã qua đào tạo nhưng không có chứng chỉ
chiếm tới 36,7%; đặc biệt, con số này là trên 50% đối với các doanh nghiệp khai
thác quặng kim loại và khai thác đá, mỏ khác. Lao động trong khai thác hiện nay
chủ yếu dựa vào lao động thủ công với các kỹ năng đơn giản (Bảng 5 – Phụ lục).
Công nghệ khai thác, chế biến khoáng sản phần lớn là công nghệ cũ, lạc hậu; hệ
số thu hồi khoáng sản thấp, chưa thu hồi triệt để một số khoáng sản quý đi kèm với
khoáng sản chính; chưa thực sự quan tâm lựa chọn công nghệ thân thiện với môi
trường. Sản phẩm khai thác chế biến khoáng sản phần lớn mới dừng lại ở sản phẩm
1 Trong phần này chỉ xem xét các doanh nghiệp hoạt động theo Luật Khoáng sản.
69
tinh quặng, giá trị và hiệu quả sử dụng thấp [72].
Về kết quả sản xuất kinh doanh, so với các ngành khác, hiệu quả sản xuất của các
doanh nghiệp khai khoáng chưa cao. Tỷ suất lợi nhuân trên doanh thu với mức
4,68%; chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận trên vốn chỉ đạt xấp xỉ 5,49% (Bảng 6 – Phụ lục).
Như vậy, với số lượng doanh nghiệp quy mô nhỏ và số lượng ngày càng gia tăng,
trong khi chất lượng thấp (nhân lực và công nghệ) hàm ý việc huy động mọi nguồn
lực ở mức tối đa nhất có thể với phương thức khai thác thô sơ. Với việc khai thác
này khó có thể mang lại hiệu quả cao và có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường.
3.1.2.3. Sản lượng khai thác và cơ cấu khai thác các loại khoáng sản
Các loại khoáng sản đang được khai thác chủ yếu là: dầu thô, than đá, quặng sắt,
titan, khoáng sản làm vật liệu xây dựng (đá, cát, sỏi), nguyên liệu hóa chất công
nghiệp (apatit, pyrit…). Trong giai đoạn 2000 – 2013, sản lượng khai thác hàng
năm với quy mô khá cao và ngày càng tăng: than đạt 36.335,1 nghìn tấn (tốc độ
tăng 10,6 %/năm); quặng sắt: 1.772,4 nghìn tấn (23,1%/năm);…(Bảng 7 – Phụ lục).
Một số loại khoáng sản có sản lượng khai thác tăng quá nhanh và vượt cả quy
hoạch. Ví dụ, theo quy hoạch thăm dò, khai thác, chế biến và sử dụng quặng titan,
sản lượng quặng tinh khai thác vào năm 2025 là 600 nghìn tấn 2, tuy nhiên, sản
lượng khai thác đến năm 2010 đã đạt tới 592,4 nghìn tấn, gấp 2,4 lần so với sản
lượng quy hoạch (250 nghìn tấn) và vượt trước thời hạn quy hoạch là 15 năm. Thậm
chí, một số loại khoáng sản làm vật liệu xây dựng có sản lượng khai thác vượt so
với nhu cầu tiêu dùng gây nên tình trạng dư thừa, tồn kho.
Các số liệu trên đây chỉ là sản lượng có thể thống kê được, trên thực tế, sản lượng
khai thác có thể còn lớn hơn nhiều do khai thác trái phép (khai thác lậu). Nghiên
cứu của Lại Hồng Thanh và cộng sự (2012) [56] đã chỉ ra thực trạng khai thác
khoáng sản trái phép đã tăng cả về loại khoáng sản và về số lượng các khu vực có
khoáng sản bị khai thác trái phép cũng như quy mô, tính chất, mức độ vi phạm.
Như vậy, các số liệu về sản lượng khai thác phản ánh nhu cầu gia tăng khai thác
để phát triển kinh tế, khai thác vượt quy hoạch, khai thác lậu, cấp phép khai thác
không đi cùng với chế biến. Việc khai thác một số loại khoáng sản với quy mô chưa
70
hợp lý so với nhu cầu phát triển của nền kinh tế. Chẳng hạn, đối với than – loại 2 Quyết định 104/2007/QĐ-TTg về quy hoạch thăm dò, khai thác, chế biến và sử dụng quặng titan.
nhiên liệu gắn với an ninh năng lượng, song có khối lượng xuất khẩu lớn nhất trong
các loại khoáng sản ở thể rắn (xuất khẩu chiếm tới 45,3% sản lượng khai thác) và hệ
quả là những năm gần đây, Việt Nam đã phải bắt đầu nhập khẩu than để phục vụ
nhu cầu tiêu thụ trong nước.
Hình 3.1: Xu hướng về khai thác khoáng sản trong giai đoạn 1980 – 2013
Nguồn: SERI (2015) [173].
Xét theo khía cạnh khả năng tái tạo, trong những năm gần đây, khi công nghệ về
biogas và nhiên liệu sinh học (enthanol) ngày càng phát triển, ở nước ta, khai thác
nguyên liệu có khả năng tái tạo (phục vụ năng lượng sinh khối) ngày càng giảm
xuống về tỷ trọng, trong khi đó, có xu hướng chuyển sang khai thác các loại nguyên
nhiên vật liệu không có khả năng tái tạo (nhiên liệu hóa thạch, vật liệu xây dựng,
quặng kim loại) (Hình 3.1). Trên quan điểm phát triển bền vững, đây là xu hướng
đáng lo ngại đứng về cạn kiệt tài nguyên và suy thoái môi trường.
Đối với các loại khoáng sản ở thể rắn, Việt Nam đang có xu hướng đẩy mạnh
khai thác các loại khoáng sản vật liệu xây dựng. Trong khi đó, các loại khoáng sản
để phục vụ cho các ngành hỗ trợ sản xuất xanh (ví dụ, khai thác đất hiếm,…) vẫn ít
71
được chú ý tới.
3.1.2.4. Thực trạng về chế biến khoáng sản
Nhiều báo cáo, đánh giá của các cơ quan quản lý nhà nước và các nhà nghiên cứu
đều có chung nhận định là khoáng sản của Việt Nam sau khi được khai thác mới
chủ yếu là sơ chế [72], [78]. Điều này có thể thấy rõ khi xem xét về thực trạng chế
biến ở một số loại khoáng sản:
– Khai thác, chế biến titan là một trong những dẫn chứng để minh họa cho thực
trạng chế biến khoáng sản. Đối với titan, mức độ chế biến sâu như sau: khai thác
quặng titan –> tuyển tinh –> xỉ titan –> ilmenit –> zircon. Tác giả luận án đã tiến
hành khảo sát về khai thác titan tại tỉnh Bình Định và phát hiện rằng các doanh
nghiệp titan hoạt động chủ yếu là khai thác quặng ở dạng thô. Chế biến quặng tinh,
nghiền mịn zircon mới được thực hiện ở số ít doanh nghiệp. Trong số 22 doanh
nghiệp khai thác titan, chỉ có 8 doanh nghiệp đầu tư dây chuyền chế biến để tuyển
tinh và 2 doanh nghiệp có dây chuyền chế biến xỉ titan ra zircon. Công suất chế biến
quặng titan của các doanh nghiệp vẫn còn rất thấp, chưa đáp ứng công suất khai thác
– Việc chế biến khoáng sản dù có được thực hiện cũng bộc lộ không ít vấn đề.
của chính doanh nghiệp (chỉ đáp ứng được dưới 50% sản lượng khai thác) [19], [21].
Một trong các loại khoáng sản đáng chú ý đó là khai thác quặng sắt để chế biến ra
các loạt sắt thép. Việc sản xuất sắt thép với cơ cấu sản phẩm thiếu hợp lý, trong đó
chủ yếu là thép xây dựng nhưng lại thiếu các loại thép công nghiệp cho các ngành
cơ khí [18]. Cơ cấu sản xuất sắt thép mất cân đối không chỉ là phải nhập khẩu thép
công nghiệp, mà việc thiếu loại đầu vào này ảnh hưởng tới sự phát triển của các
ngành cơ khí với tư cách là như là ngành công nghiệp hỗ trợ. Hơn nữa, việc thiếu
các loại thép công nghiệp có chất lượng ảnh hưởng tới việc Việt Nam tham gia vào
chuỗi giá trị sản xuất toàn cầu trong ngành cơ khí, chẳng hạn, cung cấp các loại thép
cho các ngành công nghiệp như đóng tàu, ô tô,...
Việc khai thác khoáng sản với chủ yếu là sơ chế và nếu có chế biến sâu, song
chưa tính tới hỗ trợ cho sự phát triển các ngành công nghiệp hiện đại và để tham gia
vào chuỗi sản xuất toàn cầu,... có khả năng làm cho tài nguyên khoáng sản được
khai thác với số lượng lớn nhưng không có đóng góp nhiều, tương xứng với giá trị
72
tài nguyên vào phát triển kinh tế.
3.1.2.5. Thực trạng về bảo vệ môi trường trong khai thác khoáng sản
Việc thực thi công tác ĐTM : Báo cáo ĐTM là công cụ phục vụ quản lý nhà nước
và giám sát thực hiện các cam kết BVMT. Trong thời gian vừa qua, công tác này
vẫn còn nhiều tồn tại, hạn chế. Báo cáo ĐTM là yêu cầu bắt buộc, tuy nhiên, vẫn có
không ít trường hợp chưa chấp hành đầy đủ. Kết quả thanh tra năm 2013 của Bộ
TNMT từ hồ sơ cấp phép của 957 giấy phép do địa phương cấp (cấp từ ngày
01/7/2011 đến ngày 31/12/2012) cho thấy 50% giấy phép khoáng sản được cấp
không đúng với quy định pháp luật và vẫn có việc (29 giấy phép) cấp phép khai
thác khi hồ sơ không có báo cáo ĐTM hoặc bản cam kết BVMT được phê duyệt
hoặc xác nhận [5]. Nhìn chung, chất lượng của các báo cáo ĐTM ở các dự án
khoáng sản chưa đảm bảo và còn mang tính hình thức trong việc lập, thẩm định,
phê duyệt và thực hiện [6], [72]. Đối với việc thực hiện công tác sau thẩm định báo
cáo ĐTM vẫn chưa đầy đủ. Chẳng hạn, trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên, từ năm 2008
– 2013, trong số 65 mỏ được phê duyệt báo cáo ĐTM nhưng chỉ có 06 mỏ được cấp
giấy xác nhận hoàn thành công trình BVMT [76].
Ký quỹ cải tạo, phục hồi môi trường: Số lượng doanh nghiệp ký quỹ phục hồi
môi trường còn thấp so với số doanh nghiệp đang thực hiện hoạt động khai thác
khoáng sản. Theo thống kê của Quỹ môi trường Việt Nam, cho đến năm 2009, trong
tổng số 389 giấy phép do Bộ TNMT cấp và 3.888 giấy phép do UBND các tỉnh cấp
phép, chỉ có 86 dự án ký quỹ phục hồi môi trường tại Quỹ [32]. Điều này cũng có
thể thấy từ kết quả thanh tra khai thác khoáng sản làm vật liệu xây dựng do Bộ
TNMT thực hiện (năm 2011) khi vẫn còn tới 81/221 (36,6%) doanh nghiệp được
kiểm tra chưa thực hiện ký quỹ phục hồi môi trường [41]. Số lượng tiền đã ký quỹ
cải tạo, phục hồi môi trường đã được duyệt thấp hơn nhiều so với yêu cầu phục hồi
môi trường.
Các vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường: Tình trạng vi phạm pháp luật về
BVMT trong khai thác khoáng sản có xu hướng gia tăng về số vụ. Từ năm 2007 –
7/2012, lực lượng cảnh sát môi trường đã phát hiện xử lý 4.142 vụ, riêng năm 2011
và 6 tháng đầu năm 2012 đã phát hiện và xử lý 2.117 vụ. Trên 90% cơ sở sản xuất,
73
kinh doanh khai thác, chế biến khoáng sản vi phạm pháp luật về BVMT [6].
3.2. Đánh giá kết quả của khai thác khoáng sản theo tiêu chí tăng trưởng xanh
3.2.1. Đánh giá về khía cạnh kinh tế của khai thác khoáng sản
3.2.1.1. Đóng góp của khai thác khoáng sản đối với phát triển kinh tế – xã hội
a) Đóng góp của khai thác khoáng sản vào phát triển kinh tế
Việc khai thác khoáng sản đã có những đóng góp vào phát triển kinh tế của đất
nước. Trong giai đoạn 2000 – 2015, ngành công nghiệp khai khoáng đóng góp vào
GDP khoảng 10% (Bảng 3.1). Tuy nhiên, sự đóng này chủ yếu là từ những tài
nguyên có trữ lượng lớn và giá trị kinh tế cao (dầu khí, than đá,…). Sự đóng góp
của ngành công nghiệp khai khoáng chủ yếu diễn ra dưới dạng tăng quy mô sản
lượng khai thác. Trong những năm gần đây với xu hướng cạn kiệt của các loại tài
nguyên có giá trị kinh tế, các loại khoáng sản rắn không có khả năng tái tạo (quặng
kim loại, vật liệu xây dựng) đang được đẩy mạnh khai thác, thậm chí là tận khai
nhằm phục vụ tăng trưởng kinh tế (Hình 3.1).
Bảng 3.1: Đóng góp của ngành công nghiệp khai khoáng vào GDP (%) 3
Công nghiệp và xây dựng, chia ra:
Năm
Tổng số
Dịch vụ
Khai khoáng
Xây dựng
Tổng số
Nông, lâm, thủy sản
Thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm
2000
Công nghiệp chế biến 18,56
9,65
Sản xuất và phân phối điện, nước 3,17
5,35
100
24,53
36,73
38,734
2002
20,58
8,61
3,40
5,89
100
23,03
38,49
38,48
2004
10,13
20,34
3,51
6,23
100
21,81
40,21
37,98
19,38
9,39
2006
3,74
6,08
100
18,73
38,59
42,68
18,59
9,07
2008
3,5
5,92
100
20,42
37,08
42,50
12,95
9,48
2010
3,56
6,15
100
18,38
32,14
36,93
12,55
13,35
9,87
2011
3,41
5,61
100
19,57
32,24
36,73
11,46
2012
11,42
13,28
3,47
5,38
100
19,22
33,55
37,28
9,95
2013
11,01
13,34
3,72
5,13
100
17,96
33,2
38,73
10,11
2014
10,82
13,18
4,11
5,11
100
17,70
33,22
39,03
10,05
2015
9,61
13,69
4,51
5,44
100
17,00
33,25
39,73
10,02
3 Bắt đầu từ năm 2010, giá trị tăng thêm của các khu vực kinh tế được tính theo giá cơ bản.
74
Nguồn: Niên giám thống kê, Tổng cục Thống kê.
Xét số tuyệt đối, sự đóng góp của ngành công nghiệp khai khoáng có thể còn lớn
hơn nhiều nếu các loại khoáng sản được chế biến sâu, thay vì tiêu thụ và xuất khẩu
ở dạng thô. Chẳng hạn, quặng titan ở dạng thô, nếu sản xuất ra xỉ titan thì giá trị sản
phẩm tăng khoảng 2,5 lần; chế biến sâu thành pigment giá trị sản phẩm tăng khoảng
10 lần; sản xuất được titan kim loại giá trị sản phẩm tăng được khoảng gần 80 lần.
Đối với các khoáng vật của quặng titan (zircon, rutil, monazit,…) nếu sản xuất được
zircon siêu mịn (từ zircon 65%), rutil nhân tạo giá trị sản phẩm tăng 1,6 lần. Song
Việt Nam chỉ xuất khẩu tinh quặng titan mới chỉ chế biến đến xỉ titan (hay còn gọi
là 52% TiO2) [78].
Trong giai đoạn vừa qua, ngành công nghiệp khai khoáng đóng góp vào GDP có
xu hướng gia tăng từ 5% năm 1995 và lên 9,6% năm 2000 và khoảng 11% trong vài
năm gần đây. Điều này phản ánh sự gia tăng về phụ thuộc vào khai thác khoáng sản
trong cơ cấu kinh tế của Việt Nam. Trong khi đó, tỷ lệ công nghiệp chế biến đang
có xu hướng giảm xuống. Trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, ngành
công nghiệp chế biến ngày càng có vai trò quan trọng và giảm sự phụ thuộc vào
khai thác tài nguyên, tuy nhiên, Việt Nam lại đang thể hiện xu hướng trái ngược.
Như vậy, khai thác khoáng sản có vai trò khá quan trọng đối với kinh tế Việt
Nam, tuy nhiên, những đóng góp vào GDP chưa tính tới những chi phí, tổn thất về
tài nguyên và môi trường (tổn thất do thất thoát trong quá trình khai thác, tổn thất
do khai thác kiểu bóc lột, tổn thất do hủy hoại môi trường,..).
b) Đóng góp của khai thác khoáng sản vào thu ngân sách nhà nước
Nguồn thu cho ngân sách nhà nước (NSNN) từ các loại tài nguyên khoáng sản
bao gồm: 1) nguồn thu từ việc bán dầu thô; 2) nguồn thu từ thuế tài nguyên; và 3)
các loại thuế, phí khác. Bảng 3.2 cung cấp các số liệu về nguồn thu từ dầu thô và
thuế tài nguyên trong các năm từ 2003 đến 2015. Năm 2003, tổng số thu từ dầu thô
và thuế tài nguyên đạt 46.492 tỷ đồng (chiếm 26,2%) tổng thu ngân sách, năm 2010
là 95.495 tỷ đồng (chiếm 12,3%) và đến năm 2013 đạt tới 136.889 (chiếm 16,8%),
năm 2015 thu từ dầu thô đạt 93.000 tỷ đồng (chiếm 10,2% tổng thu ngân sách). Bên
75
cạnh đó là các khoản thu khác như phí BVMT, thuế xuất khẩu, thuế thu nhập doanh
nghiệp,… Điều này cho thấy khai thác khoáng sản có đóng góp đáng kể vào nguồn
thu của NSNN.
Bảng 3.2: Đóng góp của khai thác khoáng sản vào ngân sách nhà nước 4
Năm
Tổng thu ngân sách (tỷ đồng)
Thu từ dầu thô (tỷ đồng)
Thuế tài nguyên (tỷ đồng)
Thu dầu thô/tổng thu NS (%) 20,7
Thuế tài nguyên/tổng thu thuế (%) 7,6
177.409
36.773
9.719
2003
224.776 48.562
17.398
21,6
11,2
2004
283.847 66.558
21.236
23,4
11,1
2005
350.842 83.346
26.620
23,8
11,3
2006
431.057 78.634
21.461
18,2
8
2007
548.529 89.603
26.347
16,3
7,3
2008
629.187 61.137
19.093
9,7
5,1
2009
777.283 69.179
26.316
8,9
5,4
2010
962.982 110.205
38.123
11,4
6,2
2011
1.038.451 140.106
40.660
13,5
6,6
2012
816.000 99.000
37.889
12,1
5,8
2013
782.700
85.200
10,9
2014
911.100
93.000
10,2
2015
Nguồn: Bộ Tài chính (công bố tại http://www.mof.gov.vn/).
Với số lượng giấy phép khai thác, quy mô khai thác các loại khoáng sản trong
thời gian qua, số thu ngân sách từ lĩnh vực này có thể còn cao hơn các số liệu báo
cáo. Tuy nhiên, cách cấp phép khai thác tràn làn và khai thác kiểu manh mún như
đã nêu ở trên dẫn đến khó quản lý do có nhiều doanh nghiệp, chủ thể tham gia khai
thác. Hệ quả của nó là đặt ra những thách thức cho việc quản lý nguồn thu từ hoạt
động khoáng sản, thất thu cho NSNN. Tại một số địa phương dù cấp nhiều giấy
phép khai thác nhưng số thu ngân sách rất hạn chế. Chẳng hạn, theo báo cáo của
Hội đồng nhân dân tỉnh Phú Yên, cả tỉnh có tới 121 giấy phép khoáng sản, tuy
nhiên, tổng số thu thuế tài nguyên từ khai thác khoáng sản của tỉnh trong năm 2012
chỉ đạt 5,5 tỷ đồng [61: tr.32]. Số lượng giấy phép khai thác nhiều chưa phản ánh
4 Các năm 2003 – 2013 là số liệu quyết toán, các năm 2014 – 2015 là số liệu dự toán.
76
đầy đủ quy mô đóng góp vào nguồn thu ngân sách, bởi nó còn phụ thuộc vào loại
khoáng sản và quy mô khai thác, song ví dụ vừa đề cập phần nào cũng phản ánh về
việc quản lý yếu kém đối với nguồn thu từ hoạt động khai thác khoáng sản.
Với những kẽ hở trong các chính sách và cách quản lý chồng chéo, yếu kém gây
thất thu cho NSNN do khai thác khoáng sản trái phép, tình trạng buôn bán và xuất
khẩu lậu khoáng sản. Chẳng hạn, trong 3 năm gần đây, luôn có sự chênh lệch giữa
thống kê của hải quan hai nước về lượng quặng sắt mà Việt Nam xuất khẩu Trung
Quốc [17]. Sự chênh lệch này do nhiều nguyên nhân, song không loại trừ khả năng
có quặng sắt xuất khẩu lậu sang Trung Quốc.
Sự phụ thuộc của NSNN vào khai thác khoáng sản gây ra các rủi ro do nguồn thu
thiếu ổn định, bởi trong ngắn hạn từ biến động giá cả trên thị trường và trong dài
hạn là sự cạn kiệt của nguồn tài nguyên. Đối với Việt Nam, sự phụ thuộc vào nguồn
thu từ khai thác dầu thô và khoáng sản có xu hướng giảm từ mức 26,2% (năm 2003)
xuống 16,8% (năm 2013), trong đó tỷ trọng từ dầu thô giảm xuống tương ứng là
20% và 12,1%. Sự phụ thuộc đáng kể của NSNN vào nguồn thu từ dầu thô làm cho
thiếu chủ động về số thu ngân sách do nguồn thu giảm. Chẳng hạn, quý I/2016, giá
dầu thô giảm 1 USD/thùng, thu ngân sách từ dầu thô giảm tương ứng 1.400 tỷ đồng.
c) Đóng góp của khai thác khoáng sản vào giải quyết việc làm
Số lao động trong ngành công nghiệp khai khoáng bình quân khoảng 284,46 nghìn
người/năm, tương đương 0,63% tổng số lao động đang hoạt động trong nền kinh tế
(Hình 3.2). Khai thác khoáng sản không chỉ có ý nghĩa đối với giải quyết việc làm mà
còn phần cải thiện thu nhập, góp phần xóa đói giảm nghèo cho một bộ phận lao động.
Xét về hiệu quả, ngành công nghiệp khai khoáng hàng năm chỉ giải quyết việc
làm cho nền kinh tế chưa đến 1% tổng số lao động, song lại thu hút không nhỏ vốn
đầu tư, chẳng hạn năm 2013, ngành này chiếm tới 6,7% tổng vốn đầu tư. Điều này
thể hiện rằng đây là ngành thâm dụng vốn, tạo ra ít việc làm. Chính vì vậy, trong
chiến lược tăng trưởng xanh, việc đẩy mạnh khai thác khoáng sản là vấn đề cần
77
nhắc nhằm ưu tiên các nguồn lực cho các ngành ít ô nhiễm môi trường.
Hình 3.2: Số lao động làm việc trong ngành công nghiệp khai khoáng
Nguồn: Niên giám thống kê, Tổng cục Thống kê.
3.2.1.2. Hiệu quả tăng trưởng theo hướng tăng trưởng xanh
a) Hiệu quả kinh tế của ngành công nghiệp khai khoáng
– Giá trị gia tăng của ngành công nghiệp khai khoáng
Các số liệu từ Bảng 3.3 trình bày về giá trị gia tăng (VA) của ngành công nghiệp
khai khoáng. Xét theo các tiểu ngành, khai thác than có VA cao nhất (bình quân
70% giá trị sản xuất công nghiệp), tiếp đến khai thác quặng kim loại (38%) và các
loại khoáng sản khác (30%). Trong giai đoạn 2002 – 2013, tỷ lệ VA của ngành công
nghiệp khai khoáng có xu hướng giảm xuống và nguyên nhân là do chi phí trung
gian (IC) tăng nhanh. Tốc độ tăng giá trị sản xuất công nghiệp (GO) hàng năm có
tăng nhưng tăng còn thấp hơn so với tốc độ tăng của IC.
Bảng 3.3: Tỷ lệ giá trị gia tăng trong tổng giá trị sản xuất công nghiệp của
ngành công nghiệp khai khoáng (%)
2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2011 2012 2013
Chung
0,91 0,97 0,92 0,85 0,46 0,44 0,41 0,69 0,84 0,77
0,90 0,98 0,81 0,75 0,55 0,48 0,44 0,63 0,78 0,69
Khai thác than
0,42 0,37 0,33 0,37 0,37 0,45 0,38 0,37 0,37 0,41
Khai thác quặng kim loại
0,21 0,21 0,24 0,23 0,32 0,36 0,35 0,35 0,40 0,39
Khai thác khoáng sản khác
78
Nguồn: Tác giả tính toán từ số liệu Tổng cục Thống kê.
– Tổn thất tài nguyên, tiêu hao năng lượng để tạo ra giá trị gia tăng
Hiện trạng khai thác than là tấm gương phản ánh thực trạng của khai thác khoáng
sản, bởi đây là lĩnh vực đóng góp phần lớn vào giá trị sản xuất của ngành. Các số
liệu từ Bảng 3.4 cho thấy tỷ lệ tổn thất trong khai thác tại các mỏ than ngày càng
giảm dần qua các năm. Tuy nhiên, tổn thất than do công nghệ khai thác của các mỏ
lộ thiên trong khoảng 5 – 6% cho thấy tổn thất còn ở mức cao >5%, tỷ lệ tổn thất
than tại một số mỏ hầm lò còn ở mức cao > 24%. Với sản lượng khai thác than hàng
năm là 34.570,62 tấn (Bảng 7 – Phụ lục) và mức tổn thất khai thác tại các mỏ bình
quân 15% (trong đó: lộ thiên là 6,81% và hầm lò là 29,53%), theo đó, để đóng góp
58,8%/năm vào cơ cấu GDP của ngành công nghiệp khai khoáng, sản lượng than
thực tế khai thác từ trong lòng đất là lớn hơn rất nhiều và kèm theo đó là khối lượng
lớn đất đá thải.
Bảng 3.4: Tình hình tổn thất trong khai thác than tại các mỏ trong Tập
đoàn Than – Khoáng sản Việt Nam
Tổn thất khai thác, % so với trữ lượng
Các mỏ 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014
8,03 7,74 7,99 7,75 6,56 6,29 5,61 5,86 5,75 5,3 Lộ thiên 8,08
36,35 34,1 33,1 32,9 31,8 29,9 27,2 25,1 25,2 24,9 24,3 Hầm lò
Nguồn: (1) Số liệu 2004 – 2008: Nguyễn Cảnh Nam và cộng sự (2010) [33];
(2) Số liệu 2009 – 2014: Viện Khoa học Công nghệ mỏ (2015) [79].
Dù tỷ lệ tổn thất trong khai thác tại các mỏ than có xu hướng giảm xuống, nhưng
các chí phí trung gian (IC) như mức tiêu hao nguyên, nhiên liệu tăng lên và kết quả
là giá trị gia tăng của khai thác than có xu hướng giảm xuống, nhất là trong giai
đoạn 2003 – 2008. Mức tiêu hao nguyên, nhiên liệu và năng lượng để khai thác mỗi
tấn quặng nguyên khai có xu hướng tăng lên. Đơn cử, thuốc nổ để khai thác tăng từ
178,1 kg (năm 2010) lên 187,1 kg/1.000 tấn (năm 2014); tiêu hao điện năng tăng
tương ứng từ 9,7 tới 14,4 kwh/1.000 tấn (Bảng 8 – Phụ lục). Tiêu hao thuốc nổ với
khối lượng lớn không chỉ tốn kém chi phí mà kèm theo đó là hủy hoại trên diện
rộng về tài nguyên và ô nhiễm môi trường, đặc biệt là có nguy cơ lớn gây ra tai nạn
79
lao động.
Để giảm tổn thất trong quá trình khai thác, chế biến khoáng sản đòi hỏi các
doanh nghiệp phải đầu tư cho việc đổi mới công nghệ, máy móc thiết bị. Tuy nhiên,
trong thời gian qua, các doanh nghiệp đầu tư một cách hạn chế cho KHCN. Tính
toán từ kết quả điều tra doanh nghiệp năm 2010 (Tổng cục Thống kê) cho thấy
trong tổng số 2.968 doanh nghiệp, chỉ có 3,86% số doanh nghiệp đầu tư vào nghiên
cứu khoa học và đổi mới công nghệ, tỷ lệ này giảm sút gần 2 lần so với kỳ điều tra
năm 2002 (chiếm 6,14%). Cũng trong năm 2010, mức đầu tư cho KHCN của các
doanh nghiệp khai khoáng chỉ chiếm 0,34% tổng doanh thu.
Việc các doanh nghiệp đầu tư không đáng kể cho KHCN là tổ hợp của nhiều yếu
tố, trong đó phải kể đến: i) các chính sách về thuế tài nguyên, phí BVMT chưa
khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư cho công nghệ; ii) các doanh nghiệp bị ràng
buộc bởi quy định về mức trích lập cho việc thành lập quỹ khoa học công nghệ của
doanh nghiệp; iii) tư duy và động cơ của doanh nghiệp khi chỉ muốn tập trung vào
khâu khai thác (để nhanh thu lợi) hơn là đầu tư cho chế biến.
b) Tác động lan tỏa của khai thác khoáng sản đối với địa bàn sở tại
Để nghiên cứu tác động lan tỏa của khai thác khoáng sản đối với địa bàn sở
tại, luận án tính toán chỉ số tập trung tập trung của ngành công nghiệp khai
khoáng (chỉ số HHI: Herfindahl–Hirschmann Index) và mức độ tập trung doanh
nghiệp tại những nơi có hoạt động khai thác khoáng sản (chỉ số EG) (công thức
tính toán và tiêu chí đánh giá: Bảng 9 – Phụ lục). Nguồn số liệu để tính toán các
chỉ số là từ điều tra doanh nghiệp 2000 – 2012 (Tổng cục Thống kê). Chỉ tiêu
được sử dụng để tính toán là số lao động trong các doanh nghiệp.5
Các số liệu từ Bảng 3.5 cho thấy trong hơn 10 năm từ 2000 – 2012, chỉ số HHI
của ngành công nghiệp khai khoáng chỉ dưới 0,02; tức là mức độ tập trung thấp và
mức độ tập trung có xu hướng giảm xuống. Trong ba loại khoáng sản, khai thác đá
và khai thác mỏ khác có mức độ tập trung thấp nhất. Đối với khai thác than, dù
được khai thác cách đây đã lâu và khai thác hàng năm với khối lượng lớn, vùng
5 Đo lường thay thế cho tỷ trọng doanh nghiệp của vùng trong tổng doanh nghiệp của cả nước, bởi người lao động doanh nghiệp khai thác khi tiêu dùng cũng tạo ra các liên kết tiêu dùng cuối cùng và có tác dụng lan tỏa trong việc thu hút, thúc đẩy các ngành khác phát triển tại nơi có hoạt đông khai thác.
80
Quảng Ninh là nơi tập trung khai thác khoáng sản (than) với mật độ dày đặc; song
trong một thời gian dài, than khai thác chủ yếu là để xuất khẩu, thay vì để phục vụ
cho việc phát triển các nhà máy nhiệt điện (gần đây mới triển khai); đây có khả
năng là nguyên nhân làm cho chỉ số HHI của ngành than thấp hơn ngành khai thác
quặng khác. Chỉ số HHI thấp phản ánh phát triển phân tán và hệ quả là đòi hỏi đầu
tư cao, kéo theo đó là giảm hiệu quả phát triển của ngành công nghiệp khai khoáng.
Bảng 3.5: Chỉ số HHI và EG của ngành công nghiệp khai khoáng
2000 2005 2010 2012
Chỉ số HHI
Chung 0,01653 0,01594 0,01656 0,01424
Khai thác than 0,05245 0,04840 0,05530 0,05238
Khai thác quặng kim loại 0,12016 0,08696 0,02180 0,01632
Khai thác đá và khoáng sản khác 0,01757 0,00603 0,00359 0,00367
Chỉ số EG phân theo vùng
Miền núi và trung du Bắc bộ 0,07950 0,11900 0,14826 0,18305
Đồng bằng sông Hồng 0,52880 0,52409 0,49933 0,46871
Bắc Trung bộ và Duyên hải miền Trung 0,12999 0,29024 0,22371 0,15140
Đông Nam Bộ 0,37360 0,42414 0,39284 0,37512
Tây Nguyên 0,00334 0,00190 0,00248 0,00230
Đông bằng sông Cửu Long 0,01325 0,00934 0,01186 0,01138
Nguồn: Tính toán của tác giả từ số liệu điều tra doanh nghiệp (Tổng cục Thống kê).
Chỉ số EG của một số vùng ở mức thấp do nhiều nguyên nhân, nhưng phải kể
đến việc khai thác khoáng sản song thiếu và/hoặc yếu về hạ tầng giao thông nên
mức độ tập trung lao động không nhiều. Chẳng hạn, miền núi và trung du Bắc bộ có
nhiều loại khoáng sản được khai thác hơn so với Đồng bằng sông Hồng (nơi đây
chủ yếu khai thác các loại khoáng sản làm VLXD như xi măng) song chỉ số EG của
hai vùng này khác nhau bởi hạ tầng giao thông ở Đồng bằng sông Hồng tốt hơn.
Như vậy, mức độ tập trung của ngành công nghiệp khai khoáng thấp và giảm là
81
do các nguyên nhân: cách khai thác khoáng sản trong thời gian qua khi cấp phép
khai thác theo kiểu nhỏ lẻ, manh mún; hạn chế trong việc chế biến sâu khoáng sản
và phát triển các ngành công nghiệp trên nền sản phẩm khoáng sản; tiến hành khai
thác khoáng sản nhưng chưa đầu tư đồng bộ về hạ tầng để thúc đẩy các hiệu ứng lan
tỏa, tạo ra các cực tăng trưởng và các ngành phát triển theo các dự án khai thác.
c) Năng suất tài nguyên
Các thuật ngữ năng suất tài nguyên và hiệu quả sử dụng tài nguyên tuy có sự
khác nhau về tên gọi nhưng đều để chỉ chung một vấn đề về cách sử dụng hiệu quả
tài nguyên. Năng suất tài nguyên thể hiện giá trị sản lượng được tạo ra từ một đơn
vị đầu vào và nó có thể dùng để đo lường ở cấp độ cả nền kinh tế, cấp độ ngành sản
xuất hoặc ở cấp doanh nghiệp. Trong phần này đề cập đến năng suất tài nguyên ở
cấp độ nền kinh tế từ việc khai thác khoáng sản.
Hình 3.3: Xu hướng về năng suất tài nguyên từ khai thác khoáng sản
Nguồn: (1) Số liệu về khối lượng khai thác: SERI (2015) [173];
(2) Số liệu về GDP: World Bank (2015) [174].
Trong giai đoạn 1986 – 2014, Việt Nam có sự gia tăng đáng kể về khối lượng
khai thác và sử dụng các loại khoáng sản. Tuy nhiên, việc khai thác và chế biến các
loại khoáng sản để có đóng góp hiệu quả, tạo ra giá trị gia tăng đối với nền kinh tế
là vấn đề cần bàn. Trong giai đoạn 1986 – 2014, năng suất tài nguyên (GDP so với
tổng khối lượng khai thác các loại khoáng sản) chuyển biến chậm, năm 1986: 80
82
USD/tấn và đến năm 2014 mới chỉ đạt 94 USD/tấn (theo giá năm 2005) (Hình 3.3).
Năng suất tài nguyên thấp, thể hiện cường độ sử dụng tài nguyên cao nhằm đạt
mục tiêu tăng trưởng kinh tế. Cường độ sử dụng tài nguyên (material intensity) xét
theo nghĩa tổng khối lượng các loại khoáng sản cần khai thác để tạo ra tổng sản
phẩm quốc nội (GDP), đây là chỉ tiêu phản ánh cần bao nhiêu các loại tài nguyên
này trên mỗi đơn vị GDP. Đối với Việt Nam, cường độ tài nguyên có xu hướng
giảm xuống trong các năm 1986 – 1990 và tăng lên trong giai đoạn 1990 – 2014. Sự
tăng hay giảm về cường độ sử dụng tài nguyên trong các giai đoạn này là nhu cầu
khai thác và sử dụng các loại nguyên nhiên vật liệu nhằm tăng trưởng kinh tế.
Năng suất tài nguyên thấp hay cường độ sử dụng tài nguyên cao trong nền kinh
tế là do nhiều nguyên nhân, trong đó các nhân tố chính dẫn đến sự thay đổi năng
suất tài nguyên là thay đổi cấu trúc nền kinh tế và thay đổi về công nghệ [147],
[149], [155]. Đối với Việt Nam, điều này được thể hiện qua một số vấn đề chính
như sau:
– Nhìn chung, khoáng sản ở Việt Nam hiện nay mới chủ yếu là sơ chế hoặc chế
biến đến những công đoạn có giá trị gia tăng thấp, thậm chí, trước đây, trong một
thời gian dài, các loại khoáng sản được khai thác và xuất khẩu ở dạng thô. Điều này
làm cho giá trị gia tăng, năng suất tài nguyên từ việc khai thác khoáng sản là không
lớn. Việc chế biến, nếu có, như khai thác quặng sắt, cũng khó để phát triển các
ngành công nghiệp hiện đại và/hoặc tham gia vào chuỗi sản xuất toàn cầu.
– Việt Nam đã trải qua hai thập kỷ tăng trưởng kinh tế với các con số khá ấn
tượng, song hàm lượng công nghệ của các sản phẩm xuất khẩu còn thấp và trong
gần 20 năm qua hầu như không có sự thay đổi [36]. Khoa học và công nghệ phát
triển chậm nên khó khăn trong việc nâng cao năng suất tài nguyên, tạo ra các công
nghệ giảm ô nhiễm môi trường.
3.2.2. Đánh giá vấn đề môi trường trong khai thác khoáng sản
3.2.2.1. Thực trạng ô nhiễm môi trường trong khai thác khoáng sản và các ảnh
hưởng nó tới các hoạt động kinh tế khác, sức khỏe của người dân nơi khai thác mỏ
Nhìn chung, vấn đề môi trường trong khai thác khoáng sản ngày càng được cải
thiện. Điều này có thể thấy khi xem xét tới khai thác than – loại khoáng sản được
83
khai thác lớn nhất về quy mô – có tốc độ tăng trưởng khai thác, sử dụng than cao
hơn tốc độ tăng trưởng phát thải CO2 (Hình 3.4). Điều này thể hiện có xu hướng
giảm phát thải CO2 từ mỗi đơn vị khai thác, sử dụng than (giảm tương đối), nói cách
khác, có sự tách rời tương đối giữa khai thác và gây ô nhiễm (xem Hình 2.1).
Hình 3.4: Tốc độ tăng trưởng khai thác than và phát thải CO2
Nguồn: Số liệu khai thác than: SERI [173]; Số liệu phát thải CO2: WB [174]
Tuy nhiên, việc khai thác khoáng sản không ngừng tăng lên và gắn liền với đó là
sức ép ngày càng tăng đối với môi trường (ô nhiễm, suy thoái, suy giảm chất lượng
môi trường…). Tại một số nơi có hoạt động khai thác khoáng sản, ô nhiễm môi
trường như ô nhiễm về nước và không khí vẫn ở mức báo động, vượt tiêu chuẩn cho
phép [78]. Khai thác khoáng sản kéo theo đất, đá thải ra môi trường xung quanh.
Hiện nay chưa có các số liệu thống kê chính thức về toàn bộ đất đá thải từ khoảng
1.000 mỏ và điểm mỏ đang khai thác trên phạm vi cả nước. Tuy nhiên, một số ví dụ
sau đây cho thấy khối lượng chất thải rắn thải ra môi trường từ khai thác khoáng
sản: chỉ riêng dự án của nhà máy sản xuất Alumin Nhân Cơ (Đắk Nông) phần đuôi
quặng nước thải và bùn thải có khối lượng tới hơn 11 triệu m3/năm, dự án Tân Rai
(Lâm Đồng) có lượng bùn đỏ thải ra môi trường trong suốt quá trình dự án hoạt
động là 80 – 90 triệu m3 [7]. Hoạt động khai thác khoáng sản thải ra các chất thải
rắn, chất thải nguy hại. Ở Quảng Ninh, nơi khai thác than tương đối bài bản nhất, để
khai thác được 1 tấn than bằng công nghệ lộ thiên đã thải ra 1 kg chất thải khó tiêu
84
hủy (lốp ô tô, vỏ bình ắc qui, dầu mỡ thải,…) [50].
Những vấn đề vừa đề cập trên đây có thể chưa phản ánh đầy đủ quy mô, mức độ
ô nhiễm môi trường của hoạt động khai thác khoáng sản. Ô nhiễm môi trường ảnh
hưởng tới sản xuất, hoạt động kinh tế của các ngành khác, sức khỏe của cộng đồng
vùng khai thác hay các chi phí để khắc phục các hệ lụy về môi trường.
Từ khảo sát thực tiễn tại tỉnh Bình Định, tác giả luận án đã ước tính ô nhiễm môi
trường do khai thác titan trên địa bàn thôn Hưng Lạc gây thiệt hại kinh tế hàng năm
khoảng 525,35 triệu đồng. Mức thiệt hại này chiếm khoảng 2,17% với lợi nhuận
trước thuế của doanh nghiệp đang khai thác trên địa bàn thôn, tuy nhiên, mức thiệt
hại đó là khá lớn so với cộng đồng sinh sống tại đây với 528 lao động (tại thời điểm
nghiên cứu) sống chủ yếu dựa vào sản xuất nông nghiệp, tức là có nguy cơ dẫn đến
đói nghèo đối với người dân địa phương [77]. Đinh Đức Trường, Lê Thanh Hà
(2013) [70] tính thiệt hại về kinh tế do ô nhiễm không khí tại nhà máy xi măng Bỉm
Sơn (Thanh Hóa), kết quả cho thấy trung bình mỗi hộ ở vùng ô nhiễm chịu thiệt hại
quy ra tiền là 1,072 triệu đồng/ năm, bao gồm thiệt hại về do chi phí y tế và chi phí
cơ hội do phải khám chữa bệnh. Tổng thiệt hại cho cả vùng ô nhiễm (phường Ba
Đình và Lam Sơn) là 19,43 tỷ đồng. Các thiệt hại trên mới chỉ là những con số có
thể lượng hóa được và trong thời điểm hiện tại, vậy nên, đằng sau các con số về
đóng góp của hoạt động khai thác khoáng sản là các “chi phí ẩn” chưa được tính tới
hoặc không được đề cập tới.
Trong khi hoạt động khai thác khoáng sản gây ra ô nhiễm môi trường và tác động
tiêu cực tới các hoạt động kinh tế khác, sức khỏe người dân, tại không ít địa
phương, nguồn thu từ khai thác khoáng sản lại không đáng kể. Chẳng hạn, tại tỉnh
Bình Định, thu ngân sách trên địa bàn tỉnh từ khai thác titan cũng ở mức khiêm tốn,
từ 1,11% năm 2007 lên 4,91% năm 2011 [19], song lại phải đánh đổi với rừng
phòng hộ ven biển và ảnh hưởng tới phát triển du lịch.
Thậm chí, tại một số địa phương, số thu từ khai thác khoáng sản chưa đủ kinh phí
để khắc phục các hậu quả môi trường do chính hoạt động này gây ra [73]. Việc thu
chưa đủ để bù đắp các chi phí về khắc phục hậu quả môi trường là do: i) thuế suất
đối với phí BVMT khai thác khoáng sản vẫn còn thấp; ii) cơ chế thu phí dựa vào
sản lượng do các doanh nghiệp khai báo nên không tránh khỏi việc thu không đúng
85
với sản lượng thực tế khai thác, tức là thất thu cho ngân sách nhà nước;...
3.2.2.2. Việc sử dụng nguồn thu từ khai thác khoáng sản cho công tác bảo vệ tài
nguyên và môi trường
Tài nguyên thiên nhiên nói chung và tài nguyên khoáng sản nói riêng là một dạng
tài sản. Để sử dụng lâu dài các tài nguyên này, ngoài việc sử dụng tiết kiệm, có hiệu
quả, đòi hỏi phải có sự tái đầu tư nhằm BVMT cho các thế hệ tương lai (tức là thực
hiện quy tắc Hartwick). Đối với khai thác khoáng sản thể hiện ở việc đầu tư để phục
hồi môi trường và/hoặc đầu tư trở lại cho tài nguyên thiên nhiên, chẳng hạn như trồng
cây xanh, góp phần làm giàu vốn tài nguyên.
Bảng 3.6: Tình hình thực hiện chi ngân sách cho sự nghiệp môi trường
Tổng chi sự nghiệp môi trường Tổng thu từ dầu thô, thuế tài nguyên Năm
3,42
100.095
23,22
tỷ đồng tỷ đồng Chi SNMT/ Thu từ dầu thô, thuế tài nguyên (%) So với tổng chi NS (%) So với tổng thu NS (%)
3,57
115.950
21,14
3.425 0,96 2007
6,56
80.230
12,75
4.143 1,03 2008
6,22
95.495
12,29
5.264 1,07 2009
5,05
148.328
15,40
5.943 1,02 2010
5,01
180.766
17,41
7.491 1,03 2011
7,14
136.889
16,78
9.050 1,00 2012
9.772 1,00 2013
9.980 0,99 2014
11.400 0,99 2015
Nguồn: Số liệu chi SNMT: Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2015) [4], Bộ Tài nguyên và Môi trường (2013b) [6]; Số liệu thu ngân sách từ Bảng 3.2.
Các số liệu ở Bảng 3.6 cho thấy mức chi cho sự nghiệp BVMT hàng năm cũng
mới chỉ 1% tổng chi ngân sách. Vốn đầu tư cho BVMT đã tăng, nhưng vẫn chưa đáp
ứng yêu cầu thực tế, mới chỉ đáp ứng được 50% nhu cầu đầu tư [47]. Do thiếu kinh
phí nên môi trường tiếp tục bị xuống cấp, ảnh hưởng đến sức khỏe của người dân.
So với tổng thu từ dầu thô, thuế tài nguyên; chi sự nghiệp môi trường (SNMT)
cũng mới chỉ chiếm khoảng 5% (khoảng 6 nghìn tỷ đồng), trong khi số thu từ phí
86
BVMT trong mấy năm gần đây là trên 2 nghìn tỷ đồng (năm 2012: 2.137 tỷ đồng;
năm 2013: 2.495 tỷ đồng; năm 2014: 2.571 tỷ đồng). Giả định rằng 1% chi ngân
sách cho SNMT được giành toàn bộ đối với các vấn đề về môi trường liên quan đến
khai thác khoáng sản, so với đóng góp của lĩnh vực này vào GDP và thu ngân sách,
thì con số này là quá thấp. Nói cách khác, thu từ khai thác khoáng sản lớn, nhưng tỷ
lệ đầu tư trở lại cho công tác BVMT rất thấp và chưa tương xứng. Việc đầu tư kinh
phí thấp dẫn đến không đủ ngân sách để giải quyết các vấn đề về môi trường và
càng để kéo dài có nguy cơ làm cho ô nhiễm môi trường trở nên trầm trọng hơn.
Theo các quy định hiện hành, phí BVMT đối với khai thác khoáng sản được để
lại 100% cho địa phương nhằm phục vụ BVMT, tuy nhiên, trên thực tế, các địa
phương lại chưa được hưởng đầy đủ khoản thu này. Nghiên cứu của Trung tâm Con
người và Thiên nhiên – PanNature (2015) [63] từ các khảo sát thực tiễn tại 30 xã có
khai thác mỏ cho thấy có không ít địa phương chỉ sử dụng một phần nguồn thu này
cho mục đích BVMT; thậm chí, có địa bàn nơi khai thác khoáng sản chưa được
hưởng nguồn thu từ phí BVMT để khắc phục suy thoái, ô nhiễm môi trường, trong
khi người dân sinh sống ngay cạnh khu vực khai thác vẫn chịu ảnh hưởng nặng nề
do ô nhiễm môi trường.
Thậm chí, ngay cả khi phí BVMT được sử dụng đúng mục đích thì cũng còn
không ít vấn đề cần quan tâm. Tại một số địa phương diễn ra tình trạng phân bổ phí
BVMT từ khai thác khoáng sản là bình quân, không dựa vào thứ tự ưu tiên và mức
độ thiệt hại về môi trường. Chẳng hạn, tại Thái Nguyên, theo quy định của UBND
tỉnh, phí BVMT từ khai thác khoáng sản để lại 100% cho huyện, song tại huyện
Đồng Hỷ đã điều tiết cho các xã theo tỷ lệ 80% phí BVMT phát sinh tại xã, nhưng
không được vượt quá 500 triệu [30], tức là xã ít bị ảnh hưởng cũng được hưởng như
xã bị ảnh hưởng nhiều.
Như vậy, việc đầu tư cho phục hồi môi trường và tái tạo tài nguyên thiên nhiên
chưa thỏa đáng so với khai thác từ tài nguyên và việc đầu tư theo cách kém hiệu
quả. Việc ít đầu tư và đầu tư kém hiệu quả cho công tác bảo vệ môi trường có nguy
87
cơ ảnh hưởng tới bền vững và tăng trưởng trong dài hạn.
3.2.3. Đánh giá vấn đề xã hội liên quan tới khai thác khoáng sản
3.2.3.1. Mâu thuẫn và xung đột xã hội ở một số nơi có hoạt động khai thác khoáng sản
Tại một số địa phương, hoạt động khai thác khoáng sản góp phần tích cực vào
phát triển kinh tế – xã hội, tăng thu ngân sách, góp phần giải quyết việc làm, tăng
thu nhập cho một bộ phận nhân dân. Hơn nữa, tại một số địa phương, hoạt động
khai thác khoáng sản cũng đã có tác động tích cực trong chuyển đổi cơ cấu kinh tế,
góp phần xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng và thúc đẩy đô thị hóa. Tuy nhiên, hoạt
động khai thác khoáng sản cũng đã làm nẩy sinh không ít vấn đề.
– Xung đột do thu hồi, đền bù đất đai phục vụ các dự án khai thác khoáng sản:
Các tranh chấp, khiếu kiện về đất đai đang là vấn đề nổi cộm hiện nay và đất đai
cho các dự án khai thác khoáng sản không phải là ngoại lệ khi mà mức giá đền bù
chưa thỏa đáng so với giá cả thị trường. Chẳng hạn, giá đất nông lâm nghiệp ở Lào
Cai trong giai đoạn 2005 – 2011 đều thấp hơn giá của 1 kg gạo tẻ thường trên thị
trường tại cùng thời điểm [64]. Nhìn chung, việc đền bù đất thường được trả bằng
tiền, rất ít khi được trả bằng đất; trong khi đó, lao động địa phương làm việc trong
các doanh nghiệp khai thác khoáng sản lại không đáng kể. Do đó, các hộ có đất sản
xuất nông nghiệp bị thu hồi chịu thiệt thòi, gây nhiều khó khăn cho người dân về
vấn đề sinh kế và có nguy cơ gây ra các xung xã hội.
– Xung đột do ô nhiễm môi trường: Khai thác khoáng sản gây ra ô nhiễm môi
trường, ảnh hưởng tới sinh kế của người dân nên không ít nơi đã xẩy ra xung đột
giữa người dân nơi khai thác mỏ với doanh nghiệp khai khoáng. Đơn cử, tại tỉnh
Bình Định, việc khai thác titan làm cho các cây phi lao bị chặt phá đã ảnh hưởng tới
che chắn cát bay gây bồi lấp đất sản xuất nông nghiệp cũng như ảnh hưởng tới khả
năng chống đỡ với sóng biển; khai thác titan làm sụt giảm mực nước ngầm hay
nhiễm mặn, và quá trình vận chuyển quặng tạo ra bụi bẩn; các điểm khai thác xong
nhưng không hoàn thổ dẫn đến hố sâu gây chết người (đã xảy ra năm 2013).
Trước những tác động bất lợi của hoạt động khai thác titan, người dân địa
phương rất bức xúc và đã phản ứng rất mạnh bằng cách cắm cờ tại các điểm mỏ
để không cho khai thác và chặn các xe tải vận chuyển quặng; thậm chí là khiếu
88
kiện giữa người dân với các doanh nghiệp [68]. Những trường hợp như tại Bình
Định có lẽ không phải là duy nhất, khi mà trên các phương tiện truyền thông đã
đề cập khá nhiều về vấn đề này.
– Tranh chấp tài nguyên: Sự tranh chấp dễ nhận thấy nhất trong khai thác
khoáng sản đó là mỏ nhẻ lẻ, phân tán hay các loại khoáng sản chưa khai thác. Các
nhóm dân cư tại những điểm mỏ như vậy tranh giành nhau để khai thác với việc đào
bới, khai thác triệt để gây ra những hệ lụy xấu đối với môi trường [56].
3.2.3.2. Phân chia lợi ích trong khai thác khoáng sản
Hoạt động khai thác khoáng sản có nhiều chủ thể có liên quan (stakehoders), tuy
nhiên, các chủ thể thường được đề cập là: nhà nước, doanh nghiệp và người lao
động, cộng đồng địa phương nơi khai thác.
Đối với doanh nghiệp là lợi nhuận sau thuế từ kết quả sản xuất kinh doanh. Đối
với nhà nước là các khoản thu theo quy định từ khai thác khoáng sản, tức là các
nghĩa vụ tài chính với nhà nước mà doanh nghiệp phải thực hiện. Đối với cộng
đồng: lợi ích mà họ có thể được hưởng là số lượng lao động địa phương làm việc
cho các công ty khai thác và/hoặc một số khoản đóng góp phúc lợi cộng đồng do
doanh nghiệp đóng góp (mang tính chất tự nguyện).
– Về phân chia giữa doanh nghiệp và nhà nước, lợi ích có xu hướng nghiêng về
doanh nghiệp khai khoáng. Các số liệu từ Bảng 6 – Phụ lục cho thấy tỷ lệ nộp ngân
sách so với doanh thu cũng chỉ khoảng 5,6%.
– Lợi ích mà doanh nghiệp chia sẻ với người lao động thể hiện qua việc chi trả
tiền lương, tiền công và thực hiện đầy đủ các quy định của pháp luật về các nghĩa
vụ bắt buộc đối với người lao động (Bảo hiểm xã hội, Bảo hiểm y tế). Phân tích các
kết quả cho thấy lợi ích từ khai thác khoáng sản chủ yếu nghiêng về các doanh
nghiệp khi tỷ lệ người lao động có mức thu nhập dưới mức lương tối thiểu ngày
89
càng tăng so với tốc độ khai thác khoáng sản (Hình 3.5).
Hình 3.5: Tốc độ tăng trưởng khai thác và tốc độ tăng tiền lương ở các
doanh nghiệp khai khoáng
Nguồn: Tính toán của tác giả từ: 1) Số liệu khai thác than (SERI [173]); 2) Tiền
lương trong kết quả điều tra doanh nghiệp (Tổng cục Thống kê).
– Về phân chia lợi ích giữa doanh nghiệp – nhà nước – người lao động, nghiên
cứu từ khảo sát thực tiễn về khai thác titan tại Bình Định và quặng sắt ở Thái
Nguyên đã chỉ ra lợi ích chủ yếu thuộc về doanh nghiệp. Hình 1 – Phụ lục cho thấy,
người lao động tại hai công ty đã phần nào được hưởng lợi ích từ hoạt động khai
thác khoáng sản. Song, số lao động tham gia làm việc tại các công ty không phải
nhiều, hay nói cách khác chỉ một bộ phận ít lao động trong cộng đồng được hưởng
lợi từ việc khai thác khoáng sản. Trong khi đó, người dân địa phương tại những nơi
có hoạt động khai thác khoáng sản lại phải chịu nhiều ảnh hưởng tiêu cực.
– Tác giả luận án khảo sát thực tiễn tại các tỉnh Bình Định, Thái Nguyên, Lâm
Đồng và phát hiện rằng các doanh nghiệp khai khoáng dù ít hay nhiều cũng đã có
những khoản đóng góp phúc lợi cho người dân địa phương. Chẳng hạn, trên địa bàn
xã Mỹ Thành (huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định) có tới 13 trong số 15 công ty đang
khai thác titan đã có các khoản hỗ trợ cho người dân trong xã để xây dựng các công
trình công cộng. Tuy nhiên, khoản đóng góp của các công ty tại các tỉnh đã khảo sát
là chưa thường xuyên và số lượng đóng góp vẫn còn ít.
90
– Về sự phân chia giữa nhà nước với cộng đồng thể hiện qua việc sử dụng
nguồn thu từ khai thác khoáng sản để đầu tư cho công tác BVMT, khắc phục các
tác động tiêu cực (hư hỏng đường xá, ảnh hưởng tới sản xuất,...) cho người dân
địa phương. Trong phần trên (Bảng 3.6) đã chỉ ra mức đầu tư cho công tác
BVMT còn thấp và chưa thỏa đáng (nhất là từ phí BVMT) đối với những nơi có
hoạt động khai thác khoáng sản.
Các kết quả phân tích trên đây cho thấy lợi ích lợi ích từ khai thác khoáng sản
chủ yếu nghiêng về các doanh nghiệp khai khoáng. Việc phân chia lợi ích thiếu hợp
lý đặt ra một số vấn đề sau:
– Ngành công nghiệp khai khoáng tạo ra giá trị gia tăng không lớn, song doanh
nghiệp được hưởng lợi ích nhiều hơn và hệ quả là vốn đầu từ chảy vào ngành này
ngày càng lớn. Năm 2013, tổng đầu tư của ngành công nghiệp khai khoáng (theo
giá thực tế) đạt khoảng 73.649 tỷ đồng, chiếm 6,7% tổng vốn đầu tư (tỷ lệ này năm
2000 khoảng 2,6%). Trong giai đoạn 2001 – 2013, ngành công nghiệp khai khoáng
có tốc độ tăng vốn đầu tư đạt khoảng 13,43%/năm và cao hơn so với tốc độ tăng
vốn đầu tư của cả nền kinh tế (10,8%/năm), tức là vốn đầu tư vào ngành này có xu
hướng tăng lên. Điều này không tránh khỏi quan ngại về nguy cơ hút nguồn lực từ
các ngành công nghiệp khác để tập trung vào khai thác khoáng sản và đây là thách thức
đối với quá trình công nghiệp hóa, phát triển các ngành thân thiện với môi trường.
– Các doanh nghiệp được hưởng lợi lớn, trong khi người lao động và người dân
được hưởng không đáng kể sẽ không tránh khỏi các xung đột xã hội giữa người dân
và doanh nghiệp ở những nơi có hoạt động khai thác khoáng sản. Do lợi ích lớn, các
doanh nghiệp chạy đua với nhau để có được giấy phép khai thác, thậm chí, có
doanh nghiệp chỉ xin giấy phép khai thác nhằm bán để kiếm lời.6
– Việc phân chia lợi ích thiếu hợp lý có nguy cơ dẫn đến các doanh nghiệp có
động cơ chỉ đẩy mạnh ở công đoạn khai thác và không có động cơ đầu tư đổi mới
công nghệ và đầu tư vào công đoạn chế biến sâu sản phẩm khoáng sản.
6 Chẳng hạn, năm 2010, cả nước có đến 5.000 giấy phép khai khoáng được cấp cho hơn 2.000 doanh nghiệp, thế nhưng rất nhiều doanh nghiệp sau khi có giấy phép khai khoáng đã tìm cách bán lại cho đối tác khác [http://www.baodatviet.vn/kinh-te/doanh-nghiep/nguoi-trung-quoc-dung-sau-dieu-hanh-dao-khoang-san- viet-nam-2364775/].
91
– Lợi ích từ khai thác khoáng sản nghiêng về doanh nghiệp có nguy cơ hình
thành nên nhóm lợi ích và gây ra “méo mó” trong việc ra các quyết định chính sách
và cản trở cải cách chính sách.7
3.2.4. Ước tính chỉ số phát triển bền vững ngành công nghiệp khai khoáng
Phát triển bền vững, tăng trưởng xanh đã được đề cập nhiều trong các chủ
trương, chính sách của Nhà nước và các nghiên cứu. Các chỉ tiêu trong các trụ cột
của PTBV đã được thống kê và tính toán riêng rẽ. Mặc dù vậy, hiện nay vẫn thiếu
các chỉ số thể hiện tổng hợp các khía cạnh của PTBV. Phần này tính toán chỉ số
phát triển bền vững ngành công nghiệp khai khoáng Việt Nam nhằm xem xét xu
hướng phát triển của ngành này.
3.2.4.1. Chỉ tiêu sử dụng để tính toán chỉ số phát triển bền vững ngành công nghiệp
khai khoáng
Trong các chương 1 và 2 đã giới thiệu tổng quan về các phương pháp tính toán
chỉ số SDI và để tính toán nó cần có các chỉ tiêu cho các khía cạnh phát triển bền
vững. Có nhiều cách hiểu khác nhau về PTBV, TTX và đi cùng với đó là có nhiều
chỉ tiêu, Bảng 1– Phụ lục cung cấp các chỉ tiêu tham khảo. Bên cạnh đó, trong phân
tích, một số chỉ tiêu sau đây mang tính đặc thù của khai thác khoáng sản: tỷ lệ tổn
thất tài nguyên khoáng sản, khối lượng đất đá thải và các chất thải đối với mỗi đơn
vị khoáng sản,...; sử dụng, tái chế các chất thải và sử dụng các năng lượng tái tạo
trong khai thác, chế biến khoáng sản (thể hiện sự thay thế cho các loại nhiên liệu
hóa thạch);...
Theo Chương trình nghị sự 21 (Agenda 21) của Liên hợp quốc [153], chỉ tiêu
được lựa chọn để phân tích PTBV phải đáp ứng các tiêu chí: chỉ tiêu có khả năng đo
lường nhằm đánh giá hiện trạng; có nguồn số liệu và đảm bảo độ tin cậy; số liệu cập
nhật; đại diện được ba khía cạnh PTBV (kinh tế, xã hội, môi trường).
Hiện nay, ở nước ta, các chỉ tiêu về môi trường trong PTBV nói chung và khai
thác khoáng sản nói riêng vẫn chưa được thống kê chi tiết, đầy đủ. Do vậy, chưa thể
7 Sáng kiến EITI được xem là công cụ hữu ích nhằm thúc đẩy minh bạch ngành khai khoáng. Sáng kiến này được giới thiệu với Việt Nam từ năm 2008 và cũng được nhiều chuyên gia trong ngành ủng hộ, song đến nay vẫn chưa có cam kết thực thi bởi liên quan tới lợi ích của nhiều bên có liên quan.
92
có điều kiện thu thập số liệu để đánh giá về các chỉ tiêu này.
Với những lý do trên đây, nghiên cứu này đã sử dụng các chỉ tiêu sau đây để tính
toán chỉ số SDI ngành công nghiệp khai khoáng Việt Nam:
– Kinh tế: thể hiện ở đóng góp của khai thác khoáng sản vào GDP. Chỉ tiêu này
có ý nghĩa trong việc phản ánh hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp
trong ngành, chế biến sâu khoáng sản nhằm nâng cao giá trị gia tăng, năng suất tài
nguyên từ việc khai thác khoáng sản.
– Tài nguyên và môi trường: đại diện bằng khối lượng khai thác các loại khoáng
sản (thể hiện các tác động tiêu cực tới môi trường và/hoặc các tài nguyên khác).
– Xã hội: đo lường bằng tỷ lệ lao động có thu nhập dưới mức tiền lương cơ bản.
Đây là chỉ tiêu thể hiện nghèo đói (dưới mức lương tối thiểu) và bất bình đẳng về
thu nhập (chia sẻ lợi ích giữa doanh nghiệp và người lao động).
Chỉ số SDI là chỉ số lần đầu tiên được tính toán cho ngành công nghiệp khai
khoáng Việt Nam, thậm chí, tương đối mới trong việc tính toán chỉ số tổng hợp
trong các nghiên cứu phát triển bền vững ở Việt Nam (tổng hợp cả 3 yếu tố: kinh tế,
xã hội, môi trường).
Các tính toán SDI trong nghiên cứu này khó có thể đưa ra con số chính xác đối
với ngành công nghiệp khai khoáng, song nó được sử dụng để đánh giá liệu ngành
này đã theo hướng phát triển bền vững.
3.2.4.2. Nguồn số liệu và kết quả tính toán
a) Nguồn số liệu
– Đóng góp của khai thác khoáng sản vào GDP: số liệu thống kê về chỉ số phát
triển thế giới (World development Indicators) của Ngân hàng Thế giới [174].
– Khối lượng khai thác các loại khoáng sản: số liệu và quy đổi về khối lượng
khai thác được thống kê bởi Viện Nghiên cứu phát triển bền vững Châu Âu [173].
– Tỷ lệ lao động có thu nhập dưới mức tiền lương cơ bản: tính toán theo mức tiền
lương cơ bản theo vùng của từng năm và số liệu điều tra doanh nghiệp các năm
2000 – 2013 của Tổng cục Thống kê.
b) Kết quả tính toán
Trong phạm vi các chỉ tiêu và phương pháp tính theo nghiên cứu này cho thấy
93
chỉ số SDI có sự tăng, giảm giữa các năm, song thể hiện xu hướng tăng lên (Hình
3.6). Điều này đưa ra đánh giá ban đầu rằng ngành công nghiệp khai khoáng đang
theo hướng phát triển bền vững. Tuy nhiên, để có những đánh giá chính xác hơn về
xu hướng và mức độ bền vững của ngành này cần có thêm các chỉ tiêu và công cụ
hiện đại hơn phục vụ cho việc tính toán, đây cũng chính là nội dung cần được tiếp
tục nghiên cứu trong thời gian tới.
Chỉ SDI như Hình 3.6 phản ánh phù hợp với nhận định được đưa ra khi phân tích
về diễn tiến cải cách chính sách về khoáng sản đã và đang từng bước hoàn thiện
theo hướng tiếp cận với các mục tiêu của phát triển bền vững, tăng trưởng xanh.
Đồng thời, xu hướng tăng của SDI là khá nhất quán với xu hướng giảm phát thải
CO2 trên mỗi đơn vị khai thác, sử dụng than (Hình 3.4).
Trong các chỉ số thành phần, có một số năm có sự tăng/giảm đột ngột là ở công
thức tính toán: chỉ số I – kinh tế có năm 2008 tăng đột ngột gắn X(i) – max và chỉ
số I – xã hội có năm 2009 giảm đột ngột gắn với X(i) – min. Đối với chỉ số I – môi
trường, X(i) – max là ở năm 2011.
Hình 3.6: Các chỉ số thành phần và chỉ số SDI ngành công nghiệp khai khoáng
Nguồn: Tính toán của tác giả.
Dù đã từng bước cải thiện, tuy nhiên, từ chỉ số SDI cho thấy những vấn đề sau
cần tiếp tục cải thiện hơn nữa để tiến tới gần hơn các mục tiêu của phát triển bền
94
vững, tăng trưởng xanh:
– Chỉ số thành phần về kinh tế có xu hướng tăng lên cùng SDI, song sự gia tăng
vẫn thiếu ổn định và chủ yếu là do gia tăng khối lượng khai thác. Trong chỉ số thành
phần này, hiệu quả vốn đầu tư và giá trị gia tăng còn thấp, năng suất tài nguyên
chuyển biến chậm.
– Về khía cạnh xã hội, tốc độ tăng trưởng khai thác cao hơn tốc độ tăng trưởng
thu nhập của người lao động. Từ 2000 – 2011, khối lượng khai thác tăng tới 2,17
lần, song tiền lương của người lao động ngành khai khoáng chỉ tăng 1,51 lần (Hình
3.5). Điều này hàm ý rằng phân chia lợi ích giữa doanh nghiệp khai khoáng với
người lao động vẫn chưa hợp lý và có nguy cơ tạo ra sự bất bình đẳng về thu nhập
trong xã hội. Tiền lương của người lao động không chỉ có ý nghĩa trong việc đảm
bảo nhu cầu vật chất để duy trì, tái tạo sức lao động mà còn là một phần để đầu tư
cho giáo dục, y tế của chính bản thân người lao động và/hoặc các thành viên khác
trong gia đình của họ. Việc khai thác khoáng sản song vẫn còn một bộ phận người
lao động trong lĩnh vực này với thu nhập dưới mức lương tối thiểu có nguy cơ dẫn
đến đói nghèo và bền vững về xã hội.
3.3. Những vấn đề đặt ra đối với khai thác khoáng sản trong việc thực hiện
chiến lược tăng trưởng xanh
3.3.1. Các nguy cơ của khai thác khoáng sản đối với thực hiện chiến lược tăng
trưởng xanh
Với việc gia tăng khai thác khoáng sản và phương thức khai thác như trong thời
gian qua: gia tăng sản lượng vì mục tiêu kinh tế bằng cách khai thác tận thu, tận
khai; khai thác bừa bãi, manh mún; công nghệ khai thác, chế biến thô sơ cộng với
nguồn nhân lực chất lượng thấp;… những vấn đề này đặt ra các nguy cơ đối với
việc thực hiện “xanh hóa” khai thác khoáng sản và ảnh hưởng tới các mục tiêu của
chiến lược tăng trưởng xanh.
3.3.1.1. Thách thức đối với việc “xanh hóa” khai thác khoáng sản
Nhìn chung, hoạt động khai thác khoáng sản chủ yếu diễn ra ở các tỉnh miền núi,
trong tổng số 4.173 giấy phép khai thác ở khắp cả nước, Bắc Trung Bộ và Duyên
hải miền Trung có tới 1320 giấy phép (chiếm 31,63%), tiếp đến là Trung du và
95
miền núi phía Bắc với 1272 giấy phép (chiếm 30,48%) (Bảng 10 – Phụ lục). Việc
khai thác khoáng sản ở những nơi có địa hình khó khăn, phức tạp sẽ ảnh hưởng tới
việc ứng dụng công nghệ khai thác tiến tiến, máy móc thiết bị hiện đại.
Tình trạng chia cắt thành nhiều khoảnh nhỏ để cấp phép hoạt động khoáng sản,
gây tổn thất tài nguyên, ô nhiễm môi trường. Việc cấp phép với kiểu khai thác manh
mún, thời hạn ngắn gây khó khăn cho việc đầu tư và áp dụng các công nghệ khai
thác tiên tiến, chế biến sâu khoáng sản và giảm thiểu ô nhiễm môi trường. Hơn nữa,
tình trạng này tạo ra các rào cản để có thể lựa chọn được các doanh nghiệp có năng
lực để cấp phép, đảm bảo việc khai thác, chế biến theo quy mô công nghiệp và gây
khó kiểm soát và kém hiệu quả.
Một số địa phương đang tư duy quản lý theo địa giới hành chính, tư duy cục bộ,
chia cắt thị trường và thiếu hợp tác để sử dụng có hiệu quả tài nguyên thiên nhiên,
hướng tới phát triển bền vững. Chẳng hạn, tỉnh Bình Định đã ban hành Công văn
số 863/UBND–KTN về việc nghiêm cấm việc mua bán, vận chuyển quặng titan thô
ra ngoài tỉnh. Thực trạng này có lẽ không chỉ đối với tỉnh Bình Định bởi tình hình
đến mức Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo UBND các tỉnh phải rà soát và bãi bỏ
ngay các quy định về việc cấm, tạm cấm vận chuyển khoáng sản ra khỏi địa
phương.8 Với tư duy cục bộ – chia cắt thị trường, theo địa giới hành chính (chẳng
hạn như cấm xuất khẩu khoáng sản thô ra khỏi địa bàn tỉnh) có khả năng dẫn đến
cản trở việc chế biến sâu khoáng sản do không chuyển được đến những nơi đủ
năng lực để chế biến.
3.3.1.2. Các nguy cơ của khai thác khoáng sản đối với việc đạt các mục tiêu của
chiến lược tăng trưởng xanh
Các nguy cơ ảnh hưởng tới môi trường, sinh thái do chuyển đổi các loại đất rừng
để phục vụ cho khai thác khoáng sản. Trong các năm 2008 đến tháng 6/2011, toàn
quốc đã chuyển mục đích sử dụng rừng và đất lâm nghiệp sang để khai thác khoáng
sản khoảng 11.312 ha (năm 2008: 1.411 ha; năm 2009: 1.970 ha; năm 2010: 6.152
ha; 6 tháng đầu năm 2011: 1.779 ha) [9]. Chẳng hạn, tại tỉnh Bình Định, việc khai
8 Công văn số 10369/VPCP-KTN ngày 18/12/2012 của Văn phòng Chính phủ thông báo ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ.
96
thác titan ảnh hưởng khá lớn đến diện tích rừng, trong đó chủ yếu là rừng phòng hộ
ven biển. Diện tích đã được cấp phép khai thác titan là 1.654ha; trong đó, diện tích
rừng phòng hộ ven biển là 401,35 ha (chiếm 34%) và diện tích vùng trống, cây kém
phát triển là 777,20 ha (chiếm 66%). Tuy nhiên, số thu ngân sách của tỉnh Bình
Định từ khai thác titan cũng ở mức khiêm tốn, từ 1,11% năm 2007 lên 4,91% năm
2011 [19]. Việc thu hẹp diện tích rừng phòng hộ ven biển do khai thác titan ảnh
hưởng tới khả năng chắn cát bay, ngăn sóng biển gây ra nguy cơ sạt lở dọc theo bờ
biển [59], [68].
Các số liệu từ Hình 3.7 phản ánh mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế; khai
thác, sử dụng khoáng sản và tổng lượng phát thải CO2 tại Việt Nam trong vòng
khoảng 30 năm qua; trong đó tổng mức phát thải CO2 ngày càng lớn và có xu
hướng cao hơn so với tốc độ tăng trưởng kinh tế. Mối quan hệ này có khả năng là
do cường độ phát thải (ngàn tấn CO2/tỷ đồng giá trị sản lượng) của khai thác
khoáng sản, nhất là các loại nhiên liệu hóa thạch, cao nhất trong các ngành kinh tế
(Bảng 12 – Phụ lục). Chính vì vậy, đẩy mạnh khai thác khoáng sản để phục vụ các
mục tiêu tăng trưởng kinh tế gia tăng mức khối lượng phát thải CO2 và có nguy cơ
ảnh hưởng tới việc đạt mục tiêu của chiến lược tăng trưởng xanh.
Hình 3.7: Xu hướng về tăng trưởng kinh tế, khai thác khoáng sản và phát
thải CO2 tại Việt Nam
Nguồn: 1) Số liệu về khối lượng khai thác: SERI [173]; 2) Số liệu về tăng
97
trưởng kinh tế và phát thải CO2: WB [174].
3.3.1.3. Các nguy cơ của khai thác khoáng sản đối với việc thực hiện tăng trưởng
xanh, tăng trưởng kinh tế bền vững trong dài hạn
Việc năng suất tài nguyên tăng chậm, nói cách khác là cần khai thác với khối
lượng lớn hơn, hoặc việc đẩy mạnh khai thác khoáng sản sẽ ảnh hưởng như thế
nào đến tăng trưởng kinh tế bền vững trong dài hạn?
Trên cơ sở tổng quan các nghiên cứu về vốn tài nguyên, tài nguyên khoáng sản
trong tăng trưởng kinh tế; luận án bổ sung vốn tài nguyên (natural capital) cùng với
vốn vật chất, vốn con người và áp dụng hàm sản xuất Cobb–Douglass nhằm ước
lượng về đóng góp của khai thác khoáng sản vào tăng trưởng kinh tế.
Hàm sản xuất dạng Cobb–Douglass: Y= AKαLβMγ (1)
Mô hình ước lượng: lnY = lnA + αlnK + βlnL + γlnM (2)
Trong đó: Y: GDP; K: tích lũy tài sản; L: lao động; M: vốn tài nguyên
Bảng 11 – Phụ lục trình bày chi tiết về cách đo lường các biến, nguồn số liệu và
các kiểm định về tính dừng của chuỗi số liệu, tính phù hợp của dạng hàm,... Các kết
quả kiểm định cho thấy kết quả ước lượng đảm bảo có ý nghĩa thống kê.
Kết quả ước lượng mô hình (2) cho chuỗi số liệu của giai đoạn 1990 – 2013:
lnY = lnA + 0,027365 * lnK + 0,113421 * lnL + 0,051464 * lnM
p–value (0,0043) (0,0311) (0,0713)
Hệ số γ = 0,051464 thể hiện khai thác khoáng sản có đóng góp tích cực vào phát
triển kinh tế của Việt Nam. Kết quả này khá phù hợp với thực tế Việt Nam khi xuất
phát điểm là nước nghèo cần huy động nguồn lực ban đầu để thực hiện công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước. Trong phần tổng quan nghiên cứu ở chương 1 đã chỉ ra
các nghiên cứu đưa ra các kết luận trái ngược nhau về khai thác khoáng sản và tăng
trưởng kinh tế, hiện tượng “lời nguyền tài nguyên”. Trên thực tế, không phải tất cả
các nước có nền kinh tế dựa vào khai thác tài nguyên đều mắc bẫy lời nguyền tài
nguyên. Một số nước như Úc, Canada, Chile, Botswana và Kazakhstan,... dù là nền
kinh tế khoáng sản, nhưng đã tìm cách tránh được hoàn toàn và điều này là bởi có
hệ thống thể chế chất lượng, có tính minh bạch và trách nhiệm giải trình cao. Tuy
nhiên, không ít quốc gia dù đã tránh được lời nguyên tài nguyên, chẳng hạn như
98
Botswana, song dựa vào khai thác khoáng sản vẫn đặt ra nhiều thách thức trong
việc đa dạng hóa nền kinh tế và chuyển lên phát triển các ngành có giá trị gia tăng
cao, ngành công nghệ cao [123].
Từ kết quả ước lượng, luận án tính toán tốc độ tăng trưởng TFP cho giai đoạn
1990 – 2013. Phân tích về mối quan hệ giữa tốc độ tăng trưởng khai thác khoáng
sản và tốc độ tăng trưởng TFP cho thấy có mối quan hệ ngược chiều (Hình 3.8).
Điều này có nghĩa rằng khi giảm việc khai thác khoáng sản thì có khả năng tăng tốc
độ tăng trưởng TFP; trong khi đó, xét tốc độ tăng trưởng vốn và lao động có quan
hệ cùng chiều với tăng trưởng TFP. Phát hiện này khá nhất quán với các kết quả từ
nghiên cứu của Baptist và Hepburn (2012) [85] khi nghiên cứu đối với ngành công
nghiệp chế biến của Mỹ và các doanh nghiệp công nghiệp của Hàn Quốc. Mặc dù
vậy, để có được kết luận đầy đủ hơn về mối quan hệ giữa tốc độ tăng trưởng khai
thác khoáng sản và tăng trưởng TFP cần có các nghiên cứu tiếp theo sử dụng các
mô hình định lượng nhằm kiểm định mối quan hệ này.
Hình 3.8: Quan hệ giữa tốc độ tăng trưởng khai thác và tăng trưởng TFP
Nguồn: Tính toán của tác giả từ kết quả hồi quy.
Năng suất nhân tố tổng hợp (TFP) là tổng hợp của công nghệ, thể chế, chất lượng
và hiệu quả của quản trị,... Mối quan hệ ngược chiều giữa tăng trưởng khai thác
khoáng sản và tăng trưởng TFP được giải thích như sau: Thứ nhất, ở cấp độ quốc tế,
các nghiên cứu Auty (2001) [83], Wick và Bulte (2006) [166] cho thấy việc khai
99
khoáng sản có thể dẫn đến những hành vi tìm kiếm đặc lợi, tham nhũng tài
nguyên. Đối với Việt Nam, những yếu kém về thể chế, quản trị đối với khai thác
khoáng sản và việc khai thác khoáng sản gây ra các “nhóm lợi ích” làm “méo
mó” chính sách cũng có thể tạo ra mối quan hệ ngược chiều này. Thứ hai, việc
khai thác với sản lượng lớn gây ra cách tư duy, thái độ cho rằng khoáng sản Việt
Nam phong phú, dư thừa nên có thể dẫn đến sử dụng lãng phí, kém hiệu quả. Thứ ba,
nghiên cứu của Gylfason (2001) [113] từ các quốc gia đã chỉ ra rằng việc khai thác
tài nguyên có thể dẫn tới đầu tư ít hơn vào phát triển vốn con người. Việc đẩy mạnh
khai thác có thể giảm đầu tư cho giáo dục và đầu tư máy móc kỹ thuật nên chậm cải
tiến về công nghệ. Thứ tư, việc đẩy mạnh khai thác tài nguyên có nguy cơ dẫn tới
ít có động cơ để đổi mới và nâng cấp công nghệ, chèn lấn sự phát triển của các
ngành có năng suất cao.
Tăng trưởng TFP là nguồn gốc tăng trưởng trong dài hạn, với mối quan hệ ngược
chiều giữa tăng trưởng khai thác khoáng sản và tăng trưởng TFP, các hàm ý chính
sách rút ra là để thúc đẩy tăng trưởng xanh (tăng trưởng bền vững trong dài hạn)
cần chuyển gánh nặng thuế từ lao động và vốn (theo thu nhập, lợi nhuận) sang đối
với việc khai thác và sử dụng tài nguyên khoáng sản.
So với các ngành kinh tế khác, tăng trưởng dựa vào khai thác khoáng sản là
phương thức tăng trưởng tốn kém (Hình 2 và Hình 3 – Phụ lục) và gây ô nhiễm môi
trường, phát thải CO2 (Bảng 12 – Phụ lục). Vấn đề đặt ra là trong trường hợp giảm
quy mô đối với khai thác khoáng sản có ảnh hưởng tới các mục tiêu kinh tế – xã
hội? Các số liệu từ Bảng 12 – Phụ lục cho thấy khai thác khoáng sản nói chung và
khai thác than nói riêng, không phải là những ngành có cường độ việc làm và tỷ
trọng việc làm lớn, tương tự đối với chỉ tiêu về xuất khẩu. Điều này hàm ý rằng việc
thu hẹp quy mô khai thác khoáng sản không ảnh hưởng nhiều tới chỉ tiêu việc làm,
100
xuất khẩu trong nền kinh tế.
3.3.2. Thực hiện tăng trưởng xanh đối với khai thác khoáng sản và đóng góp của
nó đối với chiến lược tăng trưởng xanh
3.3.2.1. Thực hiện tăng trưởng xanh đối với khai thác khoáng sản mang lại những
cơ hội kinh tế mới, tạo thêm việc làm
Các chính sách tăng trưởng xanh có thể tác động đến tăng trưởng kinh tế thông
qua các kênh: tác động tới gia tăng và/hoặc thay đổi đầu vào sản xuất, tác động hiệu
quả, tác động kích thích, thúc đẩy phát triển và đổi mới công nghệ [23]. Theo đó,
khi thực hiện các chính sách tăng trưởng xanh đối với các hoạt động khai thác
khoáng sản (chẳng hạn như đặt tiêu chuẩn cao hơn về môi trường, tính thuế theo
mức độ và xử phạt nặng đối với ô nhiễm môi trường,...) có khả năng đóng góp vào
những thay đổi hành vi, phương thức sản xuất của các doanh nghiệp khai khoáng.
Với các yêu cầu cao hơn về môi trường có thể dẫn đến các doanh nghiệp khai
khoáng sử dụng các đầu vào thân thiện với môi trường hoặc áp dụng các kỹ thuật để
giảm thải ra môi trường, hạn chế gây ô nhiễm môi trường. Với các ràng buộc chặt
chẽ về môi trường cũng tạo điều kiện cho một số ngành hỗ trợ, phụ trợ phát triển
theo như ngành dịch vụ môi trường. Chẳng hạn, sau khi có Quyết định 71/2008 của
Thủ tướng Chính phủ về ký quỹ phục hồi môi trường, tức là ràng buộc về hoàn thổ
và trồng cây trả lại hiện trạng; Công ty Khoáng sản Bình Định (Bimico) với các mỏ
khai thác titan tại xã Mỹ Thành (huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định) sau khi khai thác
xong đã thuê Ban quản lý rừng phòng hộ của tỉnh trong việc trồng và chăm sóc cây
phi lao theo cam kết trong việc hoàn thổ, trồng và chăm sóc cây phục hồi môi
trường.9 Nhằm đảm bảo các quy định và hạn chế ô nhiễm môi trường, dự án khai
thác bôxit Nhân Cơ (tỉnh Đắk Nông), mặc dù đang trong quá trình xây dựng và vận
hành thử nghiệm, cũng đang thuê tới 30 lao động địa phương làm dịch vụ vệ sinh
9 Khảo sát của tác giả tại Bình Định, tháng10/2012. 10 Khảo sát của tác giả tại Dự án bô xit Nhân Cơ (Đắk Nông), tháng 4/2015.
101
môi trường.10
3.3.2.2. Các can thiệp chính sách đối với khai thác khoáng sản tạo cơ hội cho các
ngành tiêu thụ ít năng lượng, ít phát thải có điều kiện phát triển
Do khoáng sản là đầu vào sản xuất, những tác động tới sản lượng và/hoặc giá cả
là những kênh để can thiệp để thay đổi hành vi tiêu dùng theo hướng tiết kiệm, sử
dụng các đầu vào khác để thay thế sản phẩm khoáng sản. Nghiên cứu của Nguyễn
Minh Bảo và John Sawdon (2011) [3] cho thấy các loại nhiên liệu hóa thạch có độ
co giãn cầu theo giá khá cao: đối với than là –0,2 đến –0,5; đối với xăng dầu từ –
0,15 đến –0,27; đối với gas là –0,1 đến –0,36. Nghiên cứu của Ekins (2009) [105],
bằng cách tiếp cận vi mô, cho thấy tăng thuế môi trường ở Anh và Đức đã góp phần
cải thiện sử dụng tiết kiệm, hiệu quả tài nguyên và phát thải khí CO2 thông qua
việc: tiết kiệm các vật liệu trong quá trình xây dựng các ngôi nhà (ví dụ tại Đức
thuế đối với vật liệu xây dựng đã giảm tiêu dùng đối với khoáng sản kim loại
khoảng 15,5% và giảm việc khai thác tới 9,7% so với trước đây), sử dụng hiệu quả
nhiên liệu đối với xe hơi.
Những tác động tới sản lượng đối với khoáng sản như giảm quy mô sản xuất (cắt
giảm tuyệt đối hoặc giữ nguyên mức cung trong khi nhu cầu sử dụng tăng lên), điều
chỉnh qua giá thông qua việc áp các loại thuế (thuế tài nguyên, thuế ô nhiễm môi
trường) có thể thay đổi hành vi của các doanh nghiệp sử dụng các đầu vào thay thế
sản phẩm khoáng sản, chuyển dịch sang những ngành phát thải CO2 ít hơn.
Tóm lại, từ sự phân tích trên đây cho thấy trong thời gian tới cần thay đổi cách tổ
chức, phương thức khai thác khoáng sản nhằm phù hợp và đáp ứng chiến lược tăng
trưởng xanh ở Việt Nam. Thực hiện tăng trưởng xanh đối với khai thác khoáng sản
là tạo sức ép để xanh hóa và điều kiện cho các ngành công nghiệp “xanh” phát triển.
3.4. Đánh giá chung về khai thác khoáng sản trong chiến lược tăng trưởng xanh
3.4.1. Các kết quả đạt được
3.4.1.1. Các chính sách về khai thác khoáng sản từng bước hoàn thiện theo hướng
phát triển bền vững, tăng trưởng xanh
Việc khai thác khoáng sản từng bước điều chỉnh theo hướng chuyền dần từ quan
điểm khai thác (khai thác vốn từ tài nguyên thiên nhiên) phục vụ phát triển kinh tế
102
trước mắt sang quan điểm khai thác vì mục tiêu lâu dài, BVMT và đảm bảo hài hòa
lợi ích xã hội. Điều này được thể hiện trong các chính sách, pháp luật về khai thác
khoáng sản từng bước được hoàn thiện theo hướng tiếp cận với các mục tiêu của
phát triển bền vững, tăng trưởng xanh; đồng thời, các chính sách, pháp luật về khai
thác khoáng sản từng bước bước dựa vào các công cụ kinh tế, mang tính thị trường.
– Pháp luật về khoáng sản ngày càng quy định với yêu cầu cao hơn về chế biến
khoáng sản nhằm hạn chế xuất khẩu ở dạng thô và phục vụ cho dự trữ: So với Luật
Khoáng sản 1996, Luật Khoáng sản 2005 quy định các tổ chức, cá nhân phải có nhà
máy chế biến hoặc hợp đồng chế biến mới được cấp phép khai thác. Nhằm phục vụ
sử dụng lâu dài của đất nước; Điều 5, Luật Khoáng sản 2005 đã quy định hạn chế
xuất khẩu khoáng sản dưới dạng nguyên liệu thô, tinh quặng. Luật Khoáng sản 2010
bổ sung quy định về chế biến sâu khi xuất khẩu khoáng sản, không xuất khẩu
khoáng sản chưa qua chế biến. Thủ tướng Chính phủ ban hành Chỉ thị số
02/2012/CT–TTg yêu cầu dừng hoàn toàn hoặc không xuất khẩu một số loại khoáng
sản để làm nguyên liệu phục vụ các ngành công nghiệp trong nước.
– Tăng các nghĩa vụ tài chính khi thực hiện khai thác khoáng sản: Kể từ Luật
Khoáng sản năm 1996 đến nay, ngày càng có nhiều loại thuế, phí, lệ phí và các
khoản thu khác được áp dụng đối với hoạt động khai thác khoáng sản. Bên cạnh các
khoản thu như trước đây, Luật Khoáng sản 2010 còn có quy định mới về thu tiền
cấp quyền khai thác khoáng sản. Luật Thuế tài nguyên năm 2009 (thay thế Pháp
lệnh Thuế tài nguyên năm 1990 và năm 1998) quy định danh mục các loại tài
nguyên, trong đó nhiều loại khoáng sản đã được bổ sung vào đối tượng chịu thuế.
Hoạt động khai thác khoáng sản cũng ngày càng có các nghĩa vụ tài chính về
BVMT theo hướng tăng cả chủng loại và mức thu: phí BVMT đối với khai thác
khoáng sản, phí BVMT đối với chất thải, ký quỹ phục hồi môi trường,...
Việc tăng các nghĩa vụ tài chính góp phần điều chỉnh khai thác khoáng sản theo
hướng tiết kiệm, tạo nguồn thu cho ngân sách nhà nước, đồng thời tạo điều kiện để
cải tạo môi trường và những hệ lụy khác do khai thác khoáng sản gây ra.
– BVMT trong khai thác khoáng sản ngày càng được đẩy mạnh: So với Luật
Khoáng sản 1996, điểm cải tiến trong Luật Khoáng sản 2005 là đưa ra yêu cầu tất
103
cả các quy hoạch tổng thể về khai thác khoáng sản đều phải tiến hành đánh giá môi
trường chiến lược (ĐMC). Tiếp đó, Luật Khoáng sản 2010 (Điều 30) quy định hoạt
động khoáng sản phải sử dụng công nghệ, thiết bị, vật liệu thân thiện với môi trường.
Đặc biệt, với tính chất đặc thù là tác động trực tiếp đến các nguồn tài nguyên,
hoạt động khai thác khoáng sản có nghĩa vụ phải đóng phí BVMT (theo Điều 113,
Luật Bảo vệ môi trường năm 2005). Nghị định số 137/2005/NĐ–CP là văn bản đầu
tiên về phí BVMT đối với khai thác khoáng sản và sau đó được bổ sung, sửa đổi
bằng Nghị định số 63/2008/NĐ–CP theo hướng bổ sung nhiều loại khoáng sản vào
đối tượng tính phí và tăng mức phí đối với từng loại khoáng sản. Tiếp đó, Nghị định
số 74/2011/NĐ–CP với nhiều điểm tiến bộ hơn như phí BVMT được áp dụng đối
với cả loại khoáng sản tận thu và Nghị định số 12/2016/NĐ–CP đã tính tới mức độ
ô nhiễm môi trường trong khai thác khoáng sản bằng việc bổ sung công nghệ khai
thác (hầm lò, hộ thiên).
– Việc cấp giấy phép khai thác khoáng sản từng bước dựa vào cơ chế đấu giá,
tạo sự minh bạch: Luật Khoáng sản 2010 có sự thay đổi căn bản so với Luật
Khoáng sản 1996 và 2005, đó là thực hiện cơ chế quản lý nhà nước về khoáng sản
phù hợp với nền kinh tế thị trường, tạo sự minh bạch. Việc cấp quyền khai thác
khoáng sản được thực hiện trên cơ sở đấu giá quyền khai thác khoáng sản nhằm
đảm bảo tính công khai, minh bạch, đảm bảo tăng nguồn thu, xóa bỏ tình trạng xin
– cho. Việc đấu giá cấp quyền khai thác khoáng sản cho phép lựa chọn được những
doanh nghiệp có năng lực về tài chính, công nghệ, kinh nghiệm, am hiểu về kỹ
thuật,… nhằm đảm bảo các yêu cầu của PTBV.
3.4.1.2. Khai thác khoáng sản có những đóng góp vào phát triển kinh tế - xã hội
Với một đất nước trải qua chiến tranh, nền kinh tế gặp nhiều khó khăn và tích lũy
ban đầu còn thấp. Việc khai thác khoáng sản góp phần huy động, tạo nguồn lực ban
đầu để xây dựng và phát triển đất nước.
– Việc khai thác khoáng sản đã đóng góp một phần quan trọng vào phát triển
kinh tế – xã hội. Ngành công nghiệp khai khoáng đóng góp hàng năm khoảng 10%
GDP. Trong giai đoạn 2000 – 2013, bình quân hàng năm thu ngân sách từ dầu thô
và thuế tài nguyên đạt khoảng 106.178,6 tỷ đồng, tương đương 21,5% tổng thu
104
(trong đó thu từ dầu thô là 16,5%). Khai thác khoáng sản góp phần giải quyết công ăn
việc làm cho gần 300 nghìn người (chiếm 0,63% tổng số lao động đang làm việc).
– Khai thác khoáng sản cung cấp nguồn nguyên, nhiên liệu và năng lượng phục
vụ cho quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Chẳng hạn, khai thác than
cung cấp nguồn nhiên liệu cho các nhà máy nhiệt điện.
– Tiến hành khai thác khoáng sản góp phần đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ chuyên
gia kỹ thuật và công nhân lành nghề phục vụ quá trình phát triển đất nước. Đơn cử,
các dự án khai thác bôxit ở Tây Nguyên đã đóng góp vào đào tạo lao động trên địa
bàn từ sản xuất nông nghiệp trở thành công nhân kỹ thuật, cụ thể: dự án bôxit ở
Nhân Cơ đã đào tạo cho 648 lao động và dự án bôxit ở Tân Rai là 1.200 người.11
Bên cạnh những đóng góp nhất định, hoạt động khai thác khoáng sản cũng bộc lộ
không ít vấn đề. Hơn nữa, hiện nay, một số loại khoáng sản bước vào giai đoạn cạn
kiệt, điều này đặt ra những thách thức cho tăng trưởng trong dài hạn nếu tiếp tục
phát triển kinh tế dựa vào khai thác tài nguyên nói chung và khoáng sản nói riêng.
3.4.2. Các tồn tại, hạn chế
3.4.2.1. Việc khai thác khoáng sản vẫn còn thiếu hợp lý và đặt ra thách thức đối với
tăng trưởng xanh
Một số loại khoáng sản đang bị khai thác quá mức (so với quy hoạch và nhu cầu
sử dụng). Thậm chí, không ít loại khoáng sản vẫn khai thác với số lượng lớn, trong
khi các ngành công nghiệp trong nước chưa cần tới và công nghệ khai thác vẫn còn
lạc hậu. Đơn cử như titan, công nghệ khai thác còn lạc hậu và các ngành công
nghiệp khác sử dụng sản phẩm chưa nhiều, việc đẩy mạnh khai thác chỉ để phục vụ
xuất khẩu.
Việc khai thác khoáng sản trong thời gian qua diễn ra với phương thức khai thác
thô sơ, lạc hậu, theo kiểu nhỏ lẻ, manh mún, thậm chí “băm nát tài nguyên” và duy
trì nhiều đơn vị, doanh nghiệp khai khoáng đặt ra những thách thức cho công tác
quản lý, giám sát. Trong khi khai thác khoáng sản đòi hỏi vốn lớn, công nghệ hiện
đại thì Việt Nam lại thực hiện khai thác một cách thủ công, lạc hậu, lao động giản
đơn… để khai thác được mức sản lượng ở mức tối đa có thể. Việc tổ chức khai thác
11 Khảo sát của tác giả tại Dự án bô xit Nhân Cơ (Đắk Nông) và Tân Rai (Lâm Đồng), tháng 4/2015.
105
khoáng sản chưa phù hợp với cách tiếp cận tăng trưởng xanh, vẫn còn tồn tại các
chính sách cản trở việc thực hiện “xanh hóa” khai thác khoáng sản. Với cách tiếp
cận lạc hậu và quản trị yếu kém đối với khai thác khoáng gây ra những chi phí lớn
về môi trường, tạo ra các rủi ro phát triển và đặt ra những thách thức đối với PTBV.
3.4.2.2. Các hạn chế trong đóng góp và hiệu quả của khai thác khoáng sản
Nhìn chung, khai thác khoáng sản trong thời gian qua có hiệu quả còn thấp và
đóng góp chưa nhiều.
– Giá trị gia tăng của ngành công nghiệp khai khoáng vẫn còn thấp, nói cách khác,
là kém hiệu quả về mặt kinh tế từ góc nhìn tăng trưởng xanh như tiêu hao nhiều các
yếu tố đầu vào để tạo ra giá trị gia tăng (vốn, tài nguyên,...). Hệ số ICOR của ngành
công nghiệp khai khoáng là khá cao và có xu hướng gia tăng, điều này phản ánh
việc sử dụng vốn kém hiệu quả (Hình 2 – Phụ lục).
– Các tác động lan tỏa đối với những nơi có hoạt động khai thác khoáng sản là
chưa cao: Thể hiện qua việc thu hút các doanh nghiệp phát triển theo, phát triển các
ngành đi theo khai thác khoáng sản. Những yếu kém này là do cách khai thác khoáng
sản thiếu tập trung và chế biến sâu sản phẩm khoáng sản để tạo nền tảng cho các
ngành công nghiệp khác phát triển theo.
– Năng suất tài nguyên hay giá trị gia tăng được tạo ra từ việc khai thác khoáng
sản chuyển biến chậm. Trong vòng gần 30 năm (1986 – 2014), năng suất tài nguyên
cũng chỉ dao động quanh 80 – 94 USD/tấn. Sự chuyển biến chậm này phản ánh
những yếu kém trong tận dụng khai thác khoáng sản để phát triển các ngành công
nghiệp sau khai thác khoáng sản. Nếu duy trì cách làm như vậy, đây sẽ là thách thức
đối với tăng trưởng kinh tế trong giai đoạn tới, khi nguồn tài nguyên cạn kiệt dần.
3.4.2.3. Đối với các vấn đề về tài nguyên và môi trường
Vấn đề môi trường trong khai thác khoáng sản ngày càng được cải thiện về trên
phương diện xây dựng chính sách và kết quả thực hiện. Song việc BVMT và giải
quyết ô nhiễm môi trường do hoạt động khai thác khoáng sản vẫn còn không ít vấn
đề cần nỗ lực nhiều hơn nữa để hướng tới các mục tiêu của tăng trưởng xanh. Tại
không ít nơi có hoạt động khai thác khoáng sản, ô nhiễm môi trường đang ở mức
báo động và đánh đổi với các hoạt động kinh tế khác, ảnh hưởng tới sức khỏe của
106
người dân địa phương.
Xét theo khía cạnh khai thác bền vững đối với tài nguyên không tái tạo, việc khai
thác phải đi cùng với đầu tư vào vốn con người và cuộc sống với môi trường tự
nhiên có chất lượng hơn là cách chia sẻ với các thế hệ tương lai trong việc tiếp cận
tài nguyên (quy tắc Hartwick). Tuy nhiên, sự phân tích trên đây cho thấy việc khai
thác khoáng sản trong thời gian qua diễn ra theo kiểu bóc lột tài nguyên, “băm nát”
tài nguyên. Trong khi đó, việc đầu tư cho phục hồi môi trường và tái tạo tài nguyên
thiên nhiên chưa thỏa đáng so với khai thác từ tài nguyên và việc đầu tư theo cách
kém hiệu quả; nói cách khác, việc khai thác thiếu bền vững (khai thác song ít chú ý
tới phục hồi và tái tạo tài nguyên thiên nhiên).
3.4.2.4. Đối với các vấn đề về xã hội
Khai thác khoáng sản đã và đang làm nẩy sinh không ít vấn đề xã hội: xung đột
do thu hồi, đền bù đất đai phục vụ các dự án khai thác khoáng sản; xung đột do ô
nhiễm môi trường; tranh chấp tài nguyên.
Việc phân chia lợi ích giữa các bên có liên quan chưa hợp lý. Việc khai thác
khoáng sản chỉ mang lại lợi ích cho một nhóm nhỏ trong xã hội; những người dân
địa phương nơi có hoạt động khai thác khoáng sản được hưởng lợi rất ít, trong khi
đó, họ là đối tượng phải chịu nhiều ảnh hưởng tiêu cực.
Việc phân chia lợi ích thiếu hợp lý có nguy cơ tạo ra nhóm lợi ích, gây ra “méo
mó” và cản trở cải cách chính sách. Đây có thể là thách thức đối với khai thác
khoáng sản trong quá trình thực hiện chiến lược tăng trưởng xanh.
3.4.3. Nguyên nhân của các tồn tại, hạn chế
Những hạn chế, yếu kém của khai thác khoáng sản như đã đề cập trên đây là do
nhiều nguyên nhân chi phối, trong đó có các vấn đề sau:
3.4.3.1. Xuất phát từ những hạn chế, yếu kém trong các chính sách, pháp luật về
khai thác khoáng sản
Những hạn chế, yếu kém của việc khai thác khoáng sản trong thời gian qua xuất
phát từ những tồn tại, bất cập trong các chính sách, pháp luật về khai thác khoáng
sản; điều này thể hiện rõ khi phân tích thực trạng một số chính sách cho thấy: 1) các
quy định về thuế tài nguyên và phí BVMT chưa phù hợp với đặc thù của khai thác
khoáng sản, cách tính thuế chưa khuyến khích thu hồi tối đa quặng và đầu tư cho 107
khoa học công nghệ (KHCN) để chế biến sâu; 2) Các công cụ kinh tế đã từng bước
được áp dụng để điều chỉnh công tác BVMT trong khai thác khoáng sản, song chưa
đồng bộ với thể chế kinh tế thị trường và vẫn còn hạn chế trong việc gắn kết với
nguyên tắc “người gây ô nhiễm phải trả tiền”.
a) Đối với thuế tài nguyên
Các số liệu từ Hình 5 – Phụ lục cho thấy mức thu thuế đối với mỗi tấn quặng
nguyên khai ngày càng tăng, trong khi đó, điều kiện khai thác ngày càng khó hơn.
Về lý thuyết kinh tế (đường cong Laffer), thuế suất cao không phải lúc nào cũng
phù hợp bởi dễ dẫn đến trốn thuế. Chính sách thuế thay đổi liên tục kéo theo sự thay
đổi các chỉ tiêu hiệu quả tài chính của dự án đã tính toán trước đây, gây rủi ro cho
doanh nghiệp.
Cách tính và thu thuế tài nguyên hiện nay đang bộc lộ nhiều bất cập:
– Thuế tài nguyên được quy định với khung thuế suất trong khoảng quá rộng.
Điều này dễ dẫn đến sự tùy tiện, cơ chế “xin – cho” khi ban hành mức thuế đối với
từng loại khoáng sản.
– Thuế tài nguyên chưa phù hợp với đặc thù của tài nguyên khoáng sản, đó là
chưa tính tới các yếu tố về điều kiện khó, dễ trong khai thác: lộ thiên (hệ số bóc đất
đá); hầm lò (lò bằng, lò giếng); chất lượng khoáng sản (hàm lượng kim loại trong
quặng). Việc tính thuế tài nguyên theo cách cào bằng giữa các mỏ của cùng một loại
khoáng sản dễ gây nên tổn thất tài nguyên, không khuyến khích tận thu và tiết kiệm
khoáng sản.
– Theo các quy định hiện hành (Điều 5, Luật Thuế tài nguyên), việc lấy giá bán
sản phẩm làm giá tính thuế tài nguyên khoáng sản nhưng không khấu trừ chi phí
vận chuyển, chi phí phân loại, làm giàu, chế biến khoáng sản. Thuế tài nguyên đánh
trên chi phí sàng tuyển, phân loại… chưa khuyến khích cơ sở khai thác, chế biến
sâu và có nguy cơ gây lãng phí tài nguyên khoáng sản (đối với các khu vực quặng
nghèo, điều kiện khai thác, chế biến khó khăn) do chi phí cao và tạo ra môi trường
cạnh tranh thiếu bình đẳng, đánh trùng thuế đối với chi phí vận chuyển.
108
b) Đối với các nghĩa vụ tài chính nhằm BVMT trong khai thác khoáng sản
Thuế, phí là một trong các công cụ kinh tế hữu hiệu để quản lý nhà nước, tuy
nhiên, phí BVMT đối với khai thác khoáng sản hiện vẫn còn một số hạn chế:
Khoản phí này mới chỉ căn cứ vào khối lượng khoáng sản nguyên khai, chưa tính
đến: i) các chất thải gây ô nhiễm trong quá trình khai thác khoáng sản; ii) các yếu tố
liên quan đến cấp độ gây ô nhiễm. Về chất thải, để khai thác khoáng sản còn phải
đào bới, bốc xúc và thải ra một khối lượng lớn đất đá và gây ô nhiễm môi trường.
Nghị định số 12/2016/NĐ–CP đã có nhiều điểm tiến bộ so với trước đây khi đưa
vào cấp độ ô nhiễm môi trường theo phương khai thác (hầm lò hay lộ thiên), song
vẫn chưa tính tới công nghệ khai thác (hiện đại hay thô sơ).
Nguy cơ của cách tính phí BVMT như vừa đề cập là: Mỏ giàu được ưu tiên khai
thác trước do ít rủi ro hơn; trong quá trình khai thác nếu gặp quặng nghèo thì doanh
nghiệp sẽ bỏ lại để tiết kiệm chi phí, không khuyến khích doanh nghiệp chế biến;
mức độ gây ô nhiễm môi trường chưa có sự phân biệt theo công nghệ khai thác
không khuyến khích áp dụng công nghệ mới trong khai thác khoáng sản.
3.4.3.2. Những hạn chế, yếu kém trong tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về khai
thác khoáng sản gắn với bảo vệ môi trường
Thứ nhất, sự gia tăng về số lượng giấy phép và sản lượng khai thác của một số
loại khoáng sản là hệ quả của việc phân cấp. Số lượng giấy phép khai thác của cấp
địa phương gia tăng; gia tăng số lượng doanh nghiệp, trong đó chủ yếu doanh
nghiệp quy mô nhỏ và hạn chế về năng lực công nghệ; sản lượng khoáng sản khai
thác, nhất là các loại do địa phương cấp phép đã tăng nhanh, thậm chí là khai thác
nhanh quá mức (nội dung chi tiết tại mục 3.1.2).
Trong khi đó, việc phân cấp về quản lý nhà nước về khai thác khoáng sản đã và
đang bộc lộ nhiều bất cập:
– Việc phân cấp thiếu rõ ràng; chẳng hạn, phân cấp về cấp phép khai thác khoáng
sản, nhưng chưa phân cấp trách nhiệm rõ ràng về quản lý BVMT. Thậm chí, ngay
cả các loại khoáng sản thuộc thẩm quyền cấp phép của cấp Trung ương thì việc
quản lý về tình hình hoạt động khai thác khoáng sản trên địa bàn lại chưa đề cập rõ
trách nhiệm quản lý. Việc phân cấp thiếu rõ ràng dẫn đến không cấp nào, cá nhân
109
nào chịu trách nhiệm cụ thể và đùn đẩy trách nhiệm.
– Việc phân cấp cho chính quyền địa phương, nhưng số lượng và năng lực cán bộ
chưa đáp ứng đầy đủ những yêu cầu. Lực lượng cán bộ, công chức thuộc Sở Tài
nguyên và Môi trường trực tiếp làm công tác quản lý nhà nước về khoáng sản còn
thiếu về số lượng, yếu về chất lượng. Theo số liệu thống kê của Đoàn giám sát
Quốc hội (năm 2012) từ 27 tỉnh/ thành cho thấy ở cấp tỉnh vẫn có tới 12,3% số cán
bộ làm kiêm nhiệm về công tác quản lý nhà nước đối với các hoạt động và mặc dù
có tới 90,3% số cán bộ có trình độ đại học, song chỉ có khoảng 30% cán bộ có
chuyên ngành về địa chất – mỏ. Cán bộ TNMT cấp quận/huyện còn thiếu về số
lượng, hầu hết làm công tác kiêm nhiệm (75,5%), gần như không có chuyên môn về
địa chất – mỏ (Bảng 13 – Phụ lục).
– Phân cấp cho địa phương song việc thanh tra, giám sát còn hạn chế. Việc giám
sát vẫn chủ yếu là các cuộc thanh tra của Bộ TNMT đối với các địa phương và các
tổ chức, cá nhân hoạt động khai thác khoáng sản. Bộ TNMT cùng với Sở TNMT
các tỉnh đã tổ chức nhiều đoàn thanh tra, kiểm tra hàng năm; tuy nhiên, việc phát
hiện các hành vi vi phạm chưa nhiều, đặc biệt khi các vi phạm này đang ngày càng
tinh vi, phức tạp. Việc giám sát của các cơ quan dân cử chưa diễn ra thường xuyên
(chủ yếu là theo các chuyên đề) và hiệu lực, hiệu quả của giám sát còn vẫn hạn chế.
Thứ hai, bộ máy quản lý nhà nước về khoáng sản và BVMT đã được thành lập từ
trung ương xuống đến các cấp địa phương. Tuy nhiên, việc tổ chức vẫn còn chồng
chéo, bất cập và lỏng lẻo; sự phối hợp giữa các cấp thiếu chặt chẽ.
– So sánh Luật Khoáng sản qua các thời kỳ cho thấy nhiệm vụ quản lý nhà nước
về khoáng sản, môi trường được quy định rõ ràng hơn. Tuy nhiên, việc phân công
trách nhiệm của từng cấp chính quyền vẫn chưa cụ thể. Chẳng hạn, trách nhiệm bảo
vệ khoáng sản chưa khai thác (Điều 16 – Điều 19, Luật Khoáng sản năm 2010) quy
định vẫn chưa cụ thể và hiện vẫn chưa có bộ tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thành
nhiệm vụ.
– Sự phối hợp thiếu chặt chẽ cũng xảy ra đối với trong việc thực thi chính sách.
Theo các quy định hiện hành, các doanh nghiệp khai khoáng chỉ báo cáo sản
lượng khai thác hàng năm cho Sở TNMT. Tuy nhiên, cơ quan này hiếm khi công
110
bố các số liệu đó, nếu cơ quan khác cần cung cấp số liệu phải có công văn đề nghị
và được cấp có thẩm quyền đồng ý. Điều này không tránh khỏi việc ngành thuế,
ngành tài chính không nắm rõ tình hình cấp phép, sản lượng khai thác của doanh
nghiệp để đối chiếu, so sánh làm cơ sở tính và thu thuế. Sự phối hợp thiếu chặt
chẽ giữa các cơ quan quản lý nhà nước có nguy cơ dẫn tới trốn thuế gây thất thu
cho ngân sách nhà nước.
Hệ quả của việc phân công trách nhiệm thiếu rõ ràng và sự phối hợp kém hiệu
quả là tạo ra các kẽ hở trong quản lý nhà nước. Tình trạng “vô chủ” đối với tài
nguyên khoáng sản và BVMT biểu hiện qua việc không rõ ràng về trách nhiệm
quản lý và hệ quả là khoáng sản bừa bãi (biểu hiện như “khoáng tặc”, “vàng tặc”,..),
các doanh nghiệp khai khoáng chưa quan tâm tới và tuân thủ đầy đủ việc BVMT.
3.4.3.3. Do việc thiếu minh bạch và trách nhiệm giải trình trong các hoạt động
khai thác khoáng sản
Minh bạch và trách nhiệm giải trình là một trong những nguyên nhân làm cho
các yếu tố về xã hội, môi trường đang bị xem nhẹ, thậm chí bị bỏ qua.
– Đối với việc công bố về các cấp phép khai thác: Các giấy phép hoạt động
khoáng sản sau khi cấp phép đã được công bố, song còn rất sơ sài, chủ yếu là liệt kê
một số thông tin cơ bản như loại khoáng sản, đơn vị được cấp phép, ngày cấp giấy
phép. Các thông tin như diện tích được phép khai thác khoáng sản, thời hạn hoạt
động, công suất khai thác,… vẫn chưa được công khai cụ thể và rộng rãi. Điều này
dẫn đến thiếu thông tin cho giám sát của công chúng và hệ quả là gây ra các rủi ro
về môi trường, thất thu cho ngân sách nhà nước,...
– Cơ chế công khai, minh bạch và giám sát đối với BVMT : Điều 104, Luật BVMT
2005 yêu cầu công khai thông tin về báo cáo ĐTM, quyết định phê duyệt và kế hoạch
thực hiện các yêu cầu. Mặc dù vậy, Điều 21 và 22 của Nghị định 29/2011/NĐ–CP
hướng dẫn thi hành chỉ yêu cầu cung cấp thông tin cho Bộ/Sở TMMT, chính quyền
các cấp và chỉ tới UBND cấp xã, cho nên cộng đồng dân cư và các tổ chức xã hội
không tiếp cận được thông tin đầy đủ để phản biện và giám sát độc lập. Trong quá
trình tham vấn ĐTM vẫn thiếu sự tham gia giám sát độc lập để đảm bảo tính khách
111
quan và giám sát việc thực thi.
– Cách thu thuế tài nguyên và phí BVMT đối với khai thác khoáng sản chủ yếu
dựa vào cơ chế doanh nghiệp tự kê khai sản lượng khai thác. Trong khi đó, thiếu
các cơ chế giám sát sản lượng, hoặc việc giám sát còn lỏng lẻo và kém hiệu quả.
Điều này dẫn đến việc khó quản lý, những rủi ro thất thu cho ngân sách nhà nước.
Do vậy, tại không ít nơi khoản thu thuế tài nguyên và phí BVMT đối với khai thác
khoáng sản không đủ đề bù đắp cho các thiệt hại về môi trường.
3.4.3.4. Các cơ chế, chính sách chưa đầy đủ và thiếu đồng bộ
Việt Nam hiện nay vẫn tồn tại cơ chế kiểm soát giá cả đối với một số đầu vào sản
xuất quan trọng như than, xăng dầu, điện,... Trong giai đoạn 2007–2012, mỗi năm
các khoản trợ giá nhiên liệu hóa thạch ở Việt Nam dao động trong khoảng 1,2 –
4,49 tỷ USD [13]. Các khoản này chủ yếu do việc kiểm soát giá và đánh thuế môi
trường thấp, làm cho mức giá thấp hơn mức giá thế giới.
Việc kiểm soát giá cả, nhất là giá than bị khống chế thấp, không những làm méo
mó hiệu quả hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp, mà tạo ra các nguy cơ đối
với khai thác khoáng sản: khai thác, kinh doanh trái phép, xuất khẩu lậu, sử dụng
lãng phí, tổn thất tài nguyên, tàn phá môi trường,... Hơn nữa, với việc giá cả loại
nhiên liệu hóa thạch thấp hơn giá thị trường và đánh thuế môi trường thấp có nguy
cơ biến nước ta trở thành điểm đến hấp dẫn của những ngành sản xuất tiêu tốn năng
lượng, ô nhiễm môi trường như các dự án sản xuất sắt thép, xi măng,...
Việc trợ giá có xu hướng ít tạo ra động lực để người tiêu dùng sử dụng tiết kiệm
các loại nhiên liệu hóa thạch. Thêm vào đó, trợ giá nhiên liệu hóa thạch ngày càng
được cộng đồng quốc tế thừa nhận là kìm hãm tăng trưởng xanh bởi làm cho các
loại năng lượng sạch, năng lượng tái tạo khó cạnh tranh được về mặt chi phí với
năng lượng được sản xuất từ nhiên liệu hóa thạch.
3.4.3.5. Tư duy, nhận thức về tăng trưởng xanh còn hạn chế
Do vai trò quan trọng, thực trạng hiện nay là trong kế hoạch phát triển kinh tế –
xã hội ở không ít địa phương đều nhằm mục tiêu tăng giá trị sản xuất công nghiệp,
tăng thu ngân sách trong đó hướng đến khai thác lợi thế từ khoáng sản. Biểu hiện
của tình trạng này là giấy phép khai thác được cấp phép tràn lan. Điều này đã dẫn
112
đến tình trạng phát triển quá mức, trong khi chưa chú trọng nhiều đến tiêu chí năng
lực, công nghệ, giảm thiểu ô nhiễm môi trường,... Cách phát triển theo chiều rộng
như thế làm giảm hiệu quả của khai thác khoáng sản. Việc thay đổi tư duy về khai
thác khoáng sản theo hướng nặng tính lợi ích kinh tế, tăng trưởng GDP là vấn đề
không đơn giản và khó có thể thay đổi trong thời gian ngắn.
Tăng trưởng xanh là khái niệm tương đối mới mẻ cho nên sẽ không tránh khỏi
những khó khăn, thách thức trong việc tư duy, nhận thức về mô hình này và có
nguy cơ cho việc thực hiện tái cấu trúc kinh tế theo hướng tăng trưởng xanh. Vừa
qua, Chính phủ đã có chủ trương đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế theo hướng
bền vững và theo chiều sâu, trong đó “gắn phát triển kinh tế với bảo vệ môi trường,
phát triển kinh tế xanh”. Tuy nhiên, việc chậm trễ thực thi hoặc thực thi thiếu quyết
liệt các chủ trương này cũng có thể nguyên nhân và trở thành thách thức cho việc
khai thác khoáng sản trong chiến lược tăng trưởng xanh.
3.4.3.6. Do các yếu tố của mô hình tăng trưởng kinh tế
a) Công nghiệp chế biến, chế tạo phát triển chậm
Năng suất tài nguyên thấp cũng phản ánh tỷ trọng của các ngành công nghiệp
thâm dụng tài nguyên còn lớn và công nghiệp chế biến phát triển chậm. Trong cơ
cấu kinh tế Việt Nam, tỷ trọng công nghiệp và xây dựng tăng từ khoảng 23% (năm
1988) lên tới gần 33,25% (năm 2015); song trong giai đoạn này, tỷ trọng công
nghiệp chế biến, chế tạo trong khu vực này thay đổi không đáng kể (năm 1988 là
17,22% và đến 2015 cũng chỉ đạt tới 14%).
– Công nghiệp chế biến phát triển chậm nên không tạo ra nhu cầu chế biến
khoáng sản: Thực tế hiện nay, một số khoáng sản mới chỉ trải qua sơ chế để phục
vụ xuất khẩu và nếu có chế biến sâu nhưng không có nhu cầu sử dụng trong nước.
Đơn cử, khai thác quặng volfram tại mỏ Núi Pháo (tỉnh Thái Nguyên) cũng mới chỉ
sơ chế và tham gia ở công đoạn giá trị gia tăng thấp do Việt Nam vẫn thiếu các
ngành công nghiệp hiện đại như sản xuất các thiết bị y tế để khuyến khích chế
biến sâu volfram.12
– Công nghiệp chế biến phát triển chậm nên thiếu sự hỗ trợ cho việc chế biến sâu
12 Khảo sát của tác giả tại Công ty Núi Pháo (tỉnh Thái Nguyên), tháng 7/2014.
113
các sản phẩm khoáng sản và kéo theo đó là năng suất tài nguyên thấp.
b) Chất lượng nguồn nhân lực và cơ cấu đào tạo
Trải qua 30 năm đổi mới, song đến nay, chất lượng nguồn nhân lực chậm được
cải thiện. Tỷ lệ lao động qua đào tạo mới chỉ đạt 10,3 % (năm 2000) và đến năm
2013 cũng mới chỉ 18,2% [26]. Hơn nữa, cơ cấu đào tạo cũng mất cân đối, tình
trạng “thừa thầy, thiếu thợ” – thừa ở bậc đại học, thiếu công nhân kỹ thuật và thừa
cán bộ làm văn phòng song thiếu kỹ sư, cán bộ kỹ thuật trực tiếp phục vụ sản xuất.
Với nguồn cung từ thị trường lao động như vậy, các doanh nghiệp khai khoáng
rất khó để tuyển dụng được lao động đáp ứng các yêu cầu sản xuất. Chẳng hạn,
trong thời gian gần đây, Tập đoàn Than – Khoáng sản Việt Nam (Vinacomin) tổ
chức tuyển dụng công nhân kỹ thuật về khai thác mỏ, song rất khó để tuyển đủ số
lượng và đáp ứng được chất lượng.13 Những yếu kém từ thị trường lao động nên
chất lượng nguồn nhân lực của ngành công nghiệp khai khoáng còn thấp và chậm
chuyển biến. Hệ quả là năng suất lao động, chất lượng và hiệu quả của các doanh
nghiệp không cao.
c) Khoa học công nghệ
Yếu tố khoa học công nghệ chậm phát triển đã thiếu sự hỗ trợ, thúc đẩy đối với
ngành công nghiệp khai khoáng. Nhìn chung, số lượng và năng lực nghiên cứu khoa
học công nghệ vẫn còn thấp. Số lượng doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực khoa
học công nghệ còn ít, kết quả từ điều tra doanh nghiệp năm 2010 (Tổng cục Thống
kê) cho thấy chỉ có 1.340 trong tổng số 205.529 doanh nghiệp được điều tra (chiếm
khoảng 0,65%). Xét rộng ra cả các cơ sở công lập, số lượng các tổ chức khoa học
công nghệ có sự tăng lên (hiện nay có 1.200 cơ sở, tăng 2,5 lần so với năm 1995)
[58]. Mặc dù vậy, năng lực nghiên cứu và phát triển của Việt Nam là rất thấp.
Chẳng hạn, đối với Việt Nam, số lượng bài tạp chí khoa học xuất bản trên một triệu
dân được quốc tế công nhận đều thấp hơn so với các nước trong khu vực [26].
Kết quả chung của những vấn đề này là khai thác khoáng sản, song năng suất tài
nguyên và các tác động lan tỏa không lớn (chưa phát huy tối đa lợi ích từ khai thác
khoáng sản), trong khi gây ra nhiều vấn đề về tài nguyên môi trường và những rủi
13 http://tuyencongchuc.vn/tin-tuc-tong-hop/nganh-than-doi-tho-lo/
114
ro cho tăng trưởng trong dài hạn.
Tiểu kết chương 3
Chương 3 tập trung phân tích các vấn đề và chỉ ra một số nhận xét sau:
Chương này đã tập trung phân tích, đánh giá về thực trạng khai thác khoáng sản
theo các tiêu chí tăng trưởng xanh: việc khai thác thiếu hợp lý, ít chú ý tới tính bền
vững về tài nguyên môi trường; hiệu quả tăng trưởng kinh tế theo hướng xanh của
khai thác khoáng sản là chưa cao; khai thác khoáng sản gây ra không ít vấn đề về
môi trường và ảnh hưởng tới các hoạt động kinh tế khác; việc phân chia lợi ích giữa
các chủ thể chưa hợp lý và cộng động địa phương là đối tượng chịu nhiều bất lợi.
Phân tích về những vấn đề đặt ra đối với khai thác khoáng sản trong thực hiện
chiến lược tăng trưởng xanh: Việc gia tăng khai thác khoáng sản có nguy cơ ảnh
hưởng tới việc thực hiện, đạt các mục tiêu về giảm phát thải phí nhà kính đã đề ra
trong chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh. Thực hiện việc “xanh hóa” và/hoặc
giảm quy mô đối với khai thác khoáng sản tạo điều kiện cho sự phát triển của các
ngành kinh tế ít phát thải, ít tiêu tốn năng lượng.
Trong chương này đã đánh giá chung về các kết quả đạt được, hạn chế và nguyên
nhân của hạn chế đối với khai thác khoáng sản trên quan điểm tăng trưởng xanh,
một số nhận xét cơ bản là: Hệ thống pháp luật về khai thác khoáng sản từng bước
được hoàn thiện theo hướng tiếp cận với các mục tiêu của phát triển bền vững, tăng
trưởng xanh. Tuy nhiên, một số quy định pháp luật vẫn chưa phù hợp với đặc thù
của tài nguyên khoáng sản, với mức độ ô nhiễm môi trường. Việc thực thi các
chính, pháp luật về khai thác khoáng sản vẫn còn nhiều tồn tại, hạn chế và gây ra
115
những nguy cơ, thách thức đối với phát triển bền vững, tăng trưởng xanh.
Chương 4
ĐỀ XUẤT HOÀN THIỆN, ĐỔI MỚI KHAI THÁC KHOÁNG SẢN
TRONG CHIẾN LƯỢC TĂNG TRƯỞNG XANH Ở VIỆT NAM
4.1. Bối cảnh quốc tế, trong nước thời gian tới và những vấn đề đặt ra đối với
khai thác khoáng sản trong chiến lược tăng trưởng xanh
4.1.1. Bối cảnh quốc tế
4.1.1.1. Các xu hướng đối với khoáng sản
a) Xu hướng cạn kiệt tài nguyên khoáng sản
Tài nguyên khoáng sản với đặc trưng là không có khả năng tái tạo, trong khi
dân số và các hoạt động kinh tế ngày càng tăng kéo theo nhu cầu lớn về khoáng
sản. Tổng sản lượng khai thác các loại khoáng sản của toàn cầu trong 30 năm
qua đã tăng tới 118%, từ 36 tỷ tấn (năm 1980) lên tới 78 tỷ tấn (năm 2013), trong
đó: VLXD tăng hơn 228%; quặng kim loại là 147%; nhiên liệu hóa thạch tăng
73%. Các nước Châu Á, nơi có hai cường quốc mới nổi là Trung Quốc và Ấn
Độ, chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng sản lượng khai thác của toàn cầu; năm
1980, khu vực này chiếm 40% (tiếp sau là Châu Âu với 19%) và đến năm 2013
đã tăng lên tới 60% (kế tiếp là Mỹ Latinh chiếm 12%, Châu Âu và Bắc Mỹ giữ
vị trí thứ ba với 9%) [173].
Với trữ lượng hữu hạn, việc đẩy mạnh khai thác tất yếu dẫn đến tài nguyên
khoáng sản có xu hướng cạn kiệt. Xu hướng này có nguy cơ dẫn đến sự cạnh tranh
giữa các quốc gia trong việc tiếp cận với loại tài nguyên này.
b) Xu hướng về dự trữ khoáng sản
Khoáng sản không chỉ là đầu vào của sản xuất, một số loại khoáng sản như
dầu mỏ và than đá,... còn là đầu vào để đảm bảo an ninh năng lượng cho nền
kinh tế. Do nhu cầu về khoáng sản ngày càng, trong khi nguồn tài nguyên này có xu
hướng cạn kiệt, nên một số nước có xu hướng dự trữ trong nước và đẩy mạnh tìm
kiếm, khai thác khoáng sản từ bên ngoài. Với các nền kinh tế mới nổi, gắn với sự
bùng nổ phát triển của hai nền kinh tế đang phát triển khổng lồ như Trung Quốc và
Ấn Độ, mức độ khan hiếm tài nguyên ngày càng tăng nhanh. Để đáp ứng nhu cầu
116
tăng trưởng cao của nền kinh tế và phục vụ cho mục tiêu dự trữ, hàng năm Trung
Quốc thu mua với lượng rất lớn khoáng sản từ nhiều quốc gia trên thế giới, trong
đó, Châu Phi là một địa bàn quan trọng bậc nhất. Trung Quốc có chính sách tiếp cận
với các quốc gia Châu Phi thông qua chương trình “đổi hạ tầng lấy khoáng sản”.
c) Xu hướng tăng giá của nhiều loại khoáng sản
Để phục vụ phát triển kinh tế, nhu cầu nguyên vật liệu tăng nhanh, trong hơn 30
năm từ 1980 – 2013, nhìn chung, sử dụng khoáng sản của toàn cầu có xu hướng
tăng lên (Hình 6 – Phụ lục). Việc sử dụng khoáng sản ở các khu vực trên thế giới
đều tăng; song Châu Á là nơi có khối lượng sử dụng lớn nhất, năm 2013, khu vực
này tiêu thụ hơn 50% sản lượng khai thác của toàn cầu và tăng tới 37% so với năm
1980. Trung Quốc là nước tiêu thụ kim loại cơ bản (nhôm, đồng, chì, kẽm,... ) hàng
đầu thế giới; từ 2000 – 2009, mức tiêu thụ của quốc gia này tăng khoảng 17%/năm
và chiếm tới 41% toàn cầu [15].
Tài nguyên khoáng sản ngày càng cạn kiệt (dẫn đến khan hiếm), trong khi nhu
cầu sử dụng ngày càng tăng lên. Thêm vào đó, một số quốc gia do lo sợ cạn kiệt tài
nguyên nên đã và đang có những chính sách hạn chế xuất khẩu khiến cho nguồn
cung nhiều loại khoáng sản bị suy giảm. Theo quy luật kinh tế, những nhân tố này
làm cho giá cả của loại hàng hóa này có xu hướng tăng lên. Trong những năm gần
đây, giá của nhiều loại khoáng sản giảm xuống do khủng hoảng kinh tế toàn cầu,
song giá khoáng sản trên thị trường thế giới luôn có xu hướng tăng là chủ yếu bởi
tính khan hiếm của nó.
Các xu hướng về khoáng sản và những vấn đề đặt ra:
– Do tài nguyên khoáng sản có xu hướng cạn kiệt và giá cả tăng nên vấn đề đặt ra
đối với khai thác khoáng sản là: tăng cường dự trữ khoáng sản, sử dụng tiết kiệm,
có hiệu quả nhằm phục vụ nhu cầu lâu dài của các ngành kinh tế.
– Với xu hướng dự trữ và đẩy mạnh ra bên ngoài để khai thác khoáng sản, là
quốc gia sát ngay Trung Quốc, Việt Nam cần phải có chính sách quản lý chặt chẽ để
hạn chế khai thác khoáng sản trái phép, xuất khẩu lậu khoáng sản.
– Về dài hạn, giá nhiều loại khoáng có xu hướng tăng, song trong ngắn hạn, giá
cả thiếu ổn định và do đó dẫn đến việc nguồn thu cho ngân sách thiếu ổn định. Kinh
117
nghiệm từ các nước cho thấy để chủ động hơn trong việc chi tiêu khi giá cả các loại
khoáng sản giảm xuống, nhiều quốc gia đã giành một tỷ lệ nhất định trong nguồn
thu từ khai thác tài nguyên để lập dự phòng – gọi là quỹ tài nguyên thiên nhiên. Quỹ
này cũng có thể được sử dụng để phát triển các loại năng lượng mới, vật liệu mới
thay thế sản phẩm khoáng sản.
4.1.1.2. Các xu hướng quốc tế hỗ trợ việc thực hiện khai thác khoáng sản
a) Những bước tiến mới về khoa học, công nghệ
Thế giới đang có những bước tiến về công nghệ khai thác khoáng sản giúp giảm
thiểu các tác động tiêu cực tới môi trường. Việc khai thác than theo công nghệ
truyền thống tạo lượng khí thải gây hiệu ứng nhà kính; công nghệ khí hóa than có
thể tạo ra khí tự nhiên, hydro và nhiên liệu lỏng được coi là bước đột phá, giúp giảm
nhẹ các tác động tới môi trường từ khai thác và sử dụng than.
Sự phát triển của công nghệ và thiết bị tuyển khoáng trong hơn vài thập kỷ qua là
khá đa dạng. Các tiến bộ trong công nghệ đập nghiền khoáng sản (thiết bị đập
nghiền và thiết bị nghiền siêu mịn) đã được cải tiến, nâng cấp cho phép nghiền
nguyên liệu khoáng tới cỡ hạt nano, tăng khả năng thu hồi các khoáng vật có ích và
nâng cao hiệu suất sử dụng năng lượng [45].
Các tiến bộ công nghệ cũng thay đổi tính năng, công dụng của một số khoáng
sản. Các loại năng lượng tái tạo như năng lượng mặt trời, sức gió thường không ổn
định và để khắc phục vấn đề này, người ta thường dùng các tụ điện để tích trữ điện
năng. Gần đây với công nghệ siêu tụ điện bằng việc sử dụng đất hiếm để tạo ra điện
tích chuyển động bằng từ trường, thay cho các phản ứng hóa học đã gia tăng khả
năng tích trữ điện năng. Đất hiếm đang là nguyên liệu chiến lược cho các ngành
công nghệ cao và công nghiệp xanh có giá trị gia tăng cao.
Công nghệ thông tin phát triển nhanh chóng và đang trở thành trụ cột chính trong
phát triển kinh tế – xã hội ở nhiều nước. Công nghệ GIS (hệ thống thông tin địa lý)
và phần mềm GIS mapInfor phục vụ cho công tác quan trắc địa – địa chất mỏ, quản
lý ranh giới mỏ và tính toán trữ lượng.
Tóm lại, với những tiến bộ về công nghệ, thiết bị cho phép công nghiệp khai thác
khoáng sản từng bước giảm thiểu các tác động tiêu cực tới môi trường, tăng hiệu
118
quả kinh tế của khai thác mỏ, thay đổi tính năng của một số loại khoáng sản.
b) Hội nhập kinh tế quốc tế
Hội nhập kinh tế là cơ hội để thu hút các nhà đầu tư nước ngoài có tiềm lực về
vốn, công nghệ hiện đại và thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao, các chuyên gia
kỹ thuật vào ngành công nghiệp khai khoáng.
Khi thực hiện Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC) (từ năm 2016), việc di chuyển
lao động tự do trong khu vực là điều kiện thuận lợi để có thể thu hút nguồn nhân lực
chất lượng cao phục vụ khai thác khoáng sản.
Các Hiệp định TPP và FTA Việt Nam–EU được đánh giá là hiệp định thương
mại tự do thế hệ mới, bảo đảm sự di chuyển tự do ở mức độ cao hơn của hàng hóa,
dịch vụ, vốn và công nghệ. Việc Việt Nam tham gia các hiệp định này – nơi các nền
kinh tế phát triển ở trình độ cao (EU, Mỹ, Nhật Bản,..) – tạo điều kiện cho nền kinh
tế nói chung và ngành công nghiệp khai khoáng nói riêng thu hút các công nghệ
nguồn và các ngành công nghiệp hiện đại góp phần thúc đẩy và tạo ra nhu cầu chế
biến sâu khoáng sản.
Tuy nhiên, TPP và FTA Việt Nam–EU cũng đưa ra các tiêu chuẩn cao hơn đối
với bảo vệ môi trường và đảm bảo các điều kiện an toàn, vệ sinh lao động cho
người lao động, nguồn gốc xuất xứ đối với các sản phẩm khai thác từ tự nhiên. Đây
là các ràng buộc để tài trợ vốn và/hoặc tiêu thụ sản phẩm, tham gia vào chuỗi sản
xuất. Bên cạnh đó, TPP và FTA Việt Nam–EU cũng đặt ra các yêu cầu về minh
bạch, cạnh tranh bình đẳng và điều này đòi hỏi nâng cao tính minh bạch đối với
ngành công nghiệp khai khoáng và cải cách doanh nghiệp nhà nước (DNNN) trong
lĩnh vực này.
4.1.1.3. Xu hướng thế giới về chuyển hướng sang các mô hình tăng trưởng xanh
Kinh tế xanh ra đời và ngày càng được quan tâm và phát triển. Đây được xem là
phương thức mới, góp phần giải quyết những thách thức mang tính toàn cầu như
biến đổi khí hậu, cạn kiệt tài nguyên,...
Trong quá trình chuyển sang mô hình kinh tế xanh, nhằm giải quyết vấn đề mang
tính toàn cầu như môi trường và biến đổi khí hậu, các nước tăng cường hợp tác
trong nhiều lĩnh vực như: hợp tác trong R & D và chuyển giao công nghệ, hợp tác
119
về huy động và đóng góp nguồn lực, hợp tác về chia sẻ kinh nghiệm,... Trong các
xu hướng này, tăng cường hợp tác quốc tế mở ra cơ hội để tiếp cận, chia sẻ kinh
nghiệm trong việc giải quyết những vấn đề về tài nguyên, môi trường và hỗ trợ tài
chính, kỹ thuật cho việc thực hiện TTX. Bên cạnh đó, các xu hướng về hợp tác quốc
tế tạo điều kiện thuận lợi cho nhập khẩu các máy móc thiết bị, công nghệ tiên tiến
để thực hiện các mô hình sản xuất xanh.
Nhằm hướng tới nền kinh tế xanh, nhiều nước đang từng bước giảm phụ thuộc
vào nhiên liệu hóa thạch, chuyển sang sử dụng các loại năng lượng mới, năng
lượng tái tạo, phát triển công nghệ sạch, sản xuất tiết kiệm năng lượng và giảm
phát thải carbon [55]. Khi chuyển hướng sang tăng trưởng xanh, không ít quốc gia
sẽ dịch chuyển các ngành sản xuất thâm dụng tài nguyên, các ngành ô nhiễm môi
trường sang các nước khác. Để tránh là nạn nhân của xu hướng này, Việt Nam cần
phải đẩy nhanh chuyển sang các ngành sản xuất “sạch hơn” nhằm hạn chế việc khai
thác tài nguyên (trong đó có khoáng sản), xóa bỏ trợ giá đối với năng lượng và các
loại nhiên liệu hóa thạch; đồng thời, áp dụng thuế ô nhiễm môi trường đối với việc sử
dụng các loại tài nguyên.
4.1.2. Bối cảnh trong nước
4.1.2.1. Biến đổi khí hậu và các nguy cơ đối với khai thác khoáng sản
Việt Nam được đánh giá là một trong năm quốc gia chịu ảnh hưởng nặng nề nhất
của biến đổi khí hậu (BĐKH). Những biểu hiện của BĐKH đó là sự gia tăng về tần
suất, cường độ, quy mô, phạm vi ảnh hưởng của các hiện tượng cực đoan của thời
tiết (bão, lũ, khô hạn, triều cường, …). Theo các kịch bản BĐKH, vào cuối thế kỷ
21, nhiệt độ trung bình năm ở nước ta tăng khoảng 2 – 30C, tổng lượng mưa năm và
lượng mưa mùa mưa tăng, trong khi đó lượng mưa mùa khô lại giảm, mực nước
biển có thể dâng khoảng từ 75 cm đến 1m so với thời kỳ 1980 – 1999.
Với nền kinh tế phụ thuộc lớn vào khai thác tài nguyên như nước ta, BĐKH làm
cho nền kinh tế dễ bị tổn thương và gây ra các sự cố về môi trường. Đối với khai
thác khoáng sản, BĐKH có thể gây tác động theo nhiều phương thức khác nhau.
– Đặc điểm của các mỏ khoáng sản tại Việt Nam là phân bố ở những nơi có địa
120
hình không thuận lợi, dễ sạt lở mỗi khi mưa lũ. BĐKH có thể tạo nên những đợt
mưa lũ bất thường, từ đó tạo ra nguy cơ về các sự cố đối với khai thác khoáng sản
và các vấn đề về môi trường.
– BĐKH tác động đến hệ sinh thái như hệ sinh thái rừng, hủy hoại nhiều loại sinh
vật,... Cùng với đó là các tác động của khai thác khoáng sản tới tài nguyên, môi
trường và BĐKH. Tổ hợp của những nhân tố này làm cho vấn đề tài nguyên và môi
trường ở nước ta trong giai đoạn tới có nguy cơ trở nên nghiêm trọng hơn.
Từ những vấn đề nêu trên cho thấy yêu cầu đặt ra là: tổ chức thực hiện điều tra,
nghiên cứu các diễn biến, mức độ của BĐKH; trong các quy hoạch khai thác
khoáng sản phải tính tới BĐKH để cân nhắc quyết định liệu có nên tiến khai thác
khoáng sản ở một địa điểm nào đó hay không; đối với các dự án đang khai thác phải
có các phương án phòng tránh đối với từng vùng mỏ, từng loại khoáng sản.
4.1.2.2. Cam kết của Việt Nam về giảm phát thải khí nhà kính tại Hội nghị COP21
Hội nghị Công ước khung của Liên hợp quốc về chống BĐKH lần thứ 21
(COP21) diễn ra tháng 12/2015 tại Paris (Pháp) đã đạt được thỏa thuận mang tính
lịch sử. Theo đó, 196 nước tham gia Hội nghị thống nhất việc giới hạn nhiệt độ tăng
dưới mức 20C (và nỗ lực cho một mục tiêu tham vọng hơn là 1,50C) vào thời điểm
cuối thế kỷ XXI so với thời điểm tiền công nghiệp (1880). Thỏa thuận khí hậu này
sẽ giúp thế giới chuyển sang một giai đoạn năng lượng sạch và ngăn chặn những
hậu quả tồi tệ do BĐKH.
Nhận thức được những tác động của BĐKH đến PTBV của đất nước, trong thời
gian qua, Việt Nam đã có những cam kết và hành động mạnh mẽ nhằm ứng phó với
BĐKH. Tại Hội nghị COP21, Việt Nam đã cam kết sẽ thực hiện giảm phát thải so
với kịch bản cơ sở là 8% lượng phát thải khí nhà kính vào năm 2030 và có thể giảm
đến 25% nếu nhận được hỗ trợ hiệu quả từ cộng đồng quốc tế. Nhằm góp phần đặt
được các mục tiêu theo cam kết COP21, ngày 19/1/2016, Chính phủ bàn về chủ
trương điều chỉnh Quy hoạch điện VII theo hướng giảm sản xuất nhiệt điện, thay
vào đó, tăng cường sản xuất điện từ các loại năng lượng sạch, năng lượng tái tạo.14
14 http://vpcp.chinhphu.vn/Home/Thu-tuong-hop-thuong-truc-Chinh-phu-ve-Quy-hoach-dien-va-than/20161/17942.vgp 121
Trước yêu cầu như vừa nêu, vấn đề đặt ra đối với khai thác khoáng sản là:
– Sớm chấm dứt việc khai thác bừa bãi làm tổn hại tài nguyên và gây ô nhiễm
môi trường; tăng cường áp dụng các công nghệ khai thác, máy móc thiết bị chế biến
khoáng sản thân thiện với môi trường,...
– Đẩy mạnh thu gom, tái chế các chất thải của khai thác, chế biến khoáng sản
nhằm giảm thiểu tác động tiêu cực tới môi trường và góp phần giảm phát thải khí
nhà kính.
– Đi cùng với việc tăng cường công tác BVMT, trong quá trình khai thác khoáng
sản phải từng bước thay thế sản phẩm khoáng sản bằng các loại năng lượng mới,
năng lượng tái tạo, vật liệu mới,...
4.1.2.3. Tái cấu trúc, đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế gắn với tăng trưởng
xanh, phát triển bền vững
Trong bối cảnh các nguồn lực của tăng trưởng kinh tế (vốn, lao động) đã gần tới
hạn khả năng huy động, tài nguyên đang có xu hướng cạn kiệt và sức cạnh tranh của
nền kinh tế thấp, tụt hậu so với các nước; Chính phủ thực hiện tái cơ cấu nền kinh tế
theo hướng chuyển từ chiều rộng sang chiều sâu, nâng cao chất lượng, hiệu quả và
năng lực cạnh tranh của nền kinh tế. Đề án tái cấu trúc nền kinh tế, chuyển đổi mô
hình tăng trưởng đưa ra các định hướng phát triển:
– Đẩy mạnh tái cơ cấu các ngành công nghiệp theo hướng chuyển từ gia công
sang chế biến, tham gia sâu hơn vào chuỗi sản xuất toàn cầu; phát triển các ngành
công nghiệp có hàm lượng công nghệ cao, giá trị gia tăng lớn.
– Khuyến khích các ngành kinh tế sử dụng hiệu quả tài nguyên, từng bước giảm
cường độ sử dụng tài nguyên trong phát triển kinh tế.
– Tăng cường đổi mới công nghệ; nhất là công nghệ tiết kiệm nguyên liệu, năng
lượng, sử dụng hiệu quả tài nguyên thiên nhiên, giảm phát thải khí nhà kính; và phát
triển các dạng năng lượng tái tạo.
Việc thực hiện tái cấu trúc kinh tế với định hướng tăng cường đổi mới công nghệ
tạo thuận lợi cho khai thác khoáng sản thực hiện “xanh hóa sản xuất”. Bên cạnh đó,
với chủ trương phát triển các ngành sản xuất mới có khả năng tạo cơ hội giảm áp
122
lực khai thác khoáng sản.
Với việc đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế, khai thác khoáng sản cần hướng
tới mục tiêu nâng cao đóng góp vào phát triển, nói cách khác, tạo ra giá trị gia tăng
lớn hơn. Theo đó, việc khai thác khoáng sản phải đi cùng với phát triển các ngành
công nghiệp chế biến, ngành có công nghệ cao để đạt mục tiêu tăng tỷ phần trong
chuỗi giá trị. Đồng thời, sử dụng nguồn thu từ khai thác khoáng sản để đóng góp
vào phát triển bằng việc đầu tư vào vốn con người, vốn tài nguyên,...
4.1.3. Cơ hội, thách thức đối với khai thác khoáng sản trong giai đoạn tới
4.1.3.1. Cơ hội
Trong giai đoạn tới, việc khai thác khoáng sản có một số cơ hội sau đây:
– Khoa học – công nghệ mang lại những cơ hội để chế biến sâu, tạo ra nhiều sản
phẩm khác nhau từ các sản phẩm khoáng sản, từ đó nâng cao giá trị gia tăng, năng
suất tài nguyên. Khoa học – công nghệ có thể thay đổi tính năng của một số khoáng
sản hay tạo ra nhiều loại năng lượng mới, vật liệu mới (năng lượng tái tạo, vật liệu
composit,...) có khả năng thay thế các sản phẩm khoáng sản, điều này có thể thay
đổi trong các chính sách về khai thác khoáng sản.
– Toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế mang lại cơ hội để nhập khẩu những
loại khoáng sản mà trong nước sản xuất với giá thành cao hơn, hoặc các loại khoáng
sản mà trong nước chưa đủ năng lực để khai thác, hoặc thậm chí là nhập khẩu sản
phẩm từ nước ngoài nhằm thực hiện chính sách dự trữ trong nước. Hội nhập kinh tế
quốc tế cũng mang lại những cơ hội để giải quyết những khó khăn của ngành công
nghiệp khai khoáng trong nước (vốn, công nghệ, nhân lực chất lượng cao,...).
4.1.3.2. Thách thức
Trong giai đoạn tới, việc khai thác khoáng sản sẽ gặp một số thách thức sau:
a) Các áp lực đối với khai thác khoáng sản do các nhu cầu tất yếu về sản phẩm
khoáng sản
Việc gia tăng khai thác và sử dụng các loại tài nguyên thiên nhiên chịu sự chi
phối của gia tăng dân số và phát triển kinh tế. Công nghiệp hóa và đô thị hóa, áp lực
gia tăng dân số có xu hướng kéo theo việc gia tăng khai thác và sử dụng các nguyên
liệu, vật liệu (Hình 4 – Phụ lục). Công nghiệp hóa, hiện đại hóa tất yếu đòi hỏi xây
123
dựng hệ thống kết cấu hạ tầng. Kết cấu hạ tầng, nhất là hạ tầng giao thông, được
xác định là một trong ba ưu tiên chiến lược trong tiến trình công nghiệp hóa ở Việt
Nam. trong giai đoạn tới, sự gia tăng khai thác các loại vật liệu xây dựng nhằm
phục vụ cho nhu cầu xây dựng hạ tầng như nhà cửa, đường xá,… Dân số gia tăng
tất yếu dẫn đến nhu cầu khai thác các loại khoáng sản, nhất là nhóm khoáng sản
VLXD, để xây dựng cơ sở hạ tầng; đồng thời, dân số gia tăng cũng kéo theo nhu
cầu về giải quyết việc làm và khai thác khoáng sản là một kênh để tạo ra việc làm.
b) Thách thức do các nguồn lực thiếu và yếu
– Thách thức từ năng lực, trình độ chuyên môn của nguồn nhân lực
Năng lực chuyên môn của đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước về tài nguyên và
môi trường vẫn còn hạn chế, nhất là ở các cấp cơ sở (Bảng 13 – Phụ lục); thậm chí,
chưa đủ năng lực giám sát về hành chính, kỹ thuật, đặc biệt là về môi trường và tổn
thất tài nguyên. Đối với các doanh nghiệp khai khoáng, các số liệu từ Bảng 5 – Phụ
lục thể hiện những yếu kém, hạn chế về chất lượng nguồn nhân lực. Không ít doanh
nghiệp trong lĩnh vực này hiện vẫn thiếu công nhân lành nghề, công nhân có tay
nghề cao; thiếu cả cán bộ đầu đàn, cán bộ chuyên môn kỹ thuật và nhất là trong lĩnh
vực chế biến khoáng sản. Những hạn chế về chuyên môn, tay nghề của công nhân
có nguy cơ dễ bị tai nạn lao động và thách thức cho việc ứng dụng các công nghệ,
máy móc thiết bị khai thác hiện đại.
– Thách thức về nguồn vốn cho việc thực hiện tăng trưởng xanh
Việc đầu tư cho công nghệ, máy móc thiết bị khai thác khoáng sản hiện đại, thân
thiện với môi trường đòi hỏi có lượng vốn lớn. Theo ước tính của Bộ Kế hoạch và
Đầu tư, Việt Nam cần số vốn khoảng 30 tỷ USD để thực hiện chiến lược tăng
trưởng xanh vào năm 2020. Đây sẽ là thách thức không nhỏ, nhất là trong bối cảnh
bội chi ngân sách, nợ công đã tới ngưỡng cho phép.
Các số liệu từ Bảng 4 – Phụ lục cho thấy các doanh nghiệp khai khoáng có quy
mô vốn vẫn còn thấp và không đáp ứng đủ nhu cầu đầu tư; trong khi đó, nhu cầu
vốn đầu tư rất lớn để phát triển các mỏ mới, đầu tư đổi mới và hiện đại hóa công
nghệ thiết bị tại các cơ sở sản xuất hiện có.
124
c) Thách thức do điều kiện khai thác ngày càng khó khăn hơn
– Trong khi gặp những thách thức về nguồn lực cho việc khai thác thì điều kiện
khai thác ngày càng khó hơn do những mỏ thuận lợi đã được khai thác trước hoặc
những mỏ hiện đang khai thác phải khai thác xuống sâu hơn (các mỏ hầm lò). Bên
cạnh đó, thiên tai, thời tiết và biến đổi khí hậu làm ảnh hưởng tới sản xuất, ảnh
hưởng tới hạ tầng giao thông,... Hệ quả của những vấn đề này là gia tăng chí phí sản
xuất, giá thành sản phẩm, từ đó ảnh hưởng tới hiệu quả sản xuất kinh doanh và khả
năng cạnh tranh của các doanh nghiệp trong ngành.
d) Thách thức do cạnh tranh từ hội nhập kinh tế quốc tế
Sức ép cạnh tranh từ hội nhập kinh tế quốc tế đối với các sản phẩm khoáng sản,
sản phẩm chế biến từ khoáng sản. Khi hội nhập kinh tế quốc tế, giá thành trong
nước của một số sản phẩm khoáng sản khó cạnh tranh với các nước, chẳng hạn, các
doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu trong nước “quay lưng” với sản phẩm của Nhà
máy lọc dầu Dung Quất bởi hàng nhập khẩu từ Hàn Quốc rẻ hơn do mức thuế nhập
giảm 10%. Việc các sản phẩm chế biến từ khoáng sản (ví dụ sắt thép, xăng dầu) khó
cạnh tranh nên áp lực cho việc chế biến sâu khoáng sản và các doanh nghiệp chỉ tập
trung vào công đoạn khai thác mà ít chú ý tới công đoạn chế biến.
4.2. Quan điểm, định hướng về khai thác khoáng sản trong chiến lược tăng
trưởng xanh
4.2.1. Quan điểm về khai thác khoáng sản trong chiến lược tăng trưởng xanh
Tài nguyên khoáng sản là nguồn lực phục vụ cho quá trình phát triển đất
nước, đáp ứng nhu cầu của các ngành kinh tế trước mắt cũng như lâu dài; Bộ
Chính trị ban hành Nghị quyết số 02–NQ/TW ngày 25/4/2011 về định hướng
chiến lược khoáng sản và công nghiệp khai khoáng đến năm 2020, tầm nhìn đến
năm 2030 với 5 quan điểm, trong đó đáng chú ý:
– Khoáng sản là tài sản thuộc sở hữu toàn dân, do nhà nước thống nhất quản lý,
là nguồn lực quan trọng để phát triển kinh tế – xã hội đất nước, phải được điều tra,
thăm dò, đánh giá đúng trữ lượng và có chiến lược, quy hoạch, kế hoạch sử dụng
hiệu quả, góp phần vào tăng trưởng chung và bền vững của nền kinh tế.
– Tài nguyên khoáng sản nước ta đa dạng về chủng loại; một số khoáng sản có
125
tài nguyên, trữ lượng lớn, do vậy cần phải hình thành một số ngành công nghiệp
khai thác chế biến quy mô công nghiệp với thời gian lâu dài (như: dầu khí, bôxit,
titan, đất hiếm, apatit, đá nguyên liệu xi măng, đá ốp lát v.v…). Tuy nhiên, khoáng
sản là tài nguyên không tái tạo nên phải được quản lý, bảo vệ, khai thác sử dụng
hợp lý, tiết kiệm, có hiệu quả.
– Việc khai thác tài nguyên khoáng sản phải tính đến nhu cầu trước mắt cũng
như lâu dài của đất nước, có tính đến xu hướng tiến bộ của KHCN trong lĩnh vực sử
dụng công nghệ mới và vật liệu thay thế.
Trên cơ sở Nghị quyết 02 của Bộ Chính trị; ngày 22/12/2011, Chính phủ đã ban
hành Nghị quyết số 103/NQ–CP về Chương trình hành động của Chính phủ thực
hiện Nghị quyết 02–NQ/TW và Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số
2427/QĐ–TTg về phê duyệt chiến lược khoáng sản đến năm 2020, tầm nhìn 2030.
Chiến lược khoáng sản đã đề cập các định hướng về khai thác các nhóm khoáng sản
và các yêu cầu khai thác gắn với chế biến, BVMT.
Căn cứ vào những quan điểm chung và các định hướng phát triển cho thời gian
tới, luận án đề xuất một số quan điểm cụ thể nhằm chuyển hoạt động khai thác
khoáng sản theo hướng tăng trưởng xanh như sau đây.
4.2.1.1. Hạn chế dần việc khai thác khoáng sản, thực hiện có hiệu quả các giải pháp
nhằm tăng cường dự trữ khoáng sản phục vụ sử dụng lâu dài của các ngành kinh tế
Tài nguyên khoáng sản là một trong những nguồn lực để phát triển kinh tế, cộng
với việc nước ta trong điều kiện thiếu vốn, không ít nhà nghiên cứu cho rằng Việt
Nam nên khai thác khoáng sản để tạo đà phát triển đất nước. Dựa trên các phân tích
ở chương 3, luận án cho rằng nên tăng cường dự trữ khoáng sản cho tương lai, quan
điểm này được đưa ra dựa trên một số lập luận sau đây:
Thứ nhất, khoáng sản là loại tài nguyên không tái tạo, khi còn ở trong lòng đất nó
được bảo tồn tại vị, là nguồn nguyên liệu dữ trữ cho tương lai. Ở trong lòng đất, giá
trị của nó chẳng những không giảm đi theo thời gian, mà ngược lại, có xu hướng
ngày càng tăng lên bởi nhu cầu sử dụng khoáng sản của xã hội ngày càng tăng trong
lúc đó tổng tài nguyên khoáng sản trên thế giới ngày càng giảm, càng khan hiếm.
Sự phát triển của công nghệ làm tăng giá trị của tài nguyên. Theo nghĩa đó, bảo vệ
126
và tiết kiệm tài nguyên là làm tăng giá trị quốc gia, góp phần nâng cao vị thế quốc gia.
Thứ hai, xu hướng quốc tế về tăng dự trữ khoáng sản: khoáng sản là tài nguyên
không tái tạo, có xu hướng ngày càng cạn kiệt. Với xu hướng tăng trưởng cao của
kinh tế thế giới hiện đại, mức độ khan hiếm tài nguyên ngày càng tăng nhanh.
Chính vì vậy, các nước trên thế giới bằng những cách thức khác nhau để tăng cường
dự trữ khoáng sản nhằm phục vụ nhu cầu trong tương lai.
Thứ ba, vì nhu cầu sử dụng của nền kinh tế trong tương lai: nếu khai thác tài
nguyên khoáng sản, song việc khai thác chủ yếu được xuất khẩu ở dạng thô có nguy
cơ đẩy nhanh tốc độ “chảy máu tài nguyên”. Hệ quả là khi các ngành công nghiệp
của đất nước phát triển thì tài nguyên cũng không còn. Nước ta mới ở giai đoạn đầu
của quá trình công nghiệp hóa, nhu cầu các loại nguyên nhiên vật liệu, năng lượng
ngày càng tăng cao nên phải có các chính sách để dự trữ.
Thứ tư, bản thân nhiều loại khoáng sản hiện nay trong nước chưa đủ năng lực và
công nghệ để chế biến sâu và kiểm soát, xử lý những vấn đề về môi trường. Điển
hình như khai thác bôxit ở Tây Nguyên, Việt Nam mới lần đầu khai thác và các
công nghệ khai thác, chế biến phải nhập khẩu từ Trung Quốc và vừa làm, vừa học
hỏi và làm quen với công nghệ. Hơn nữa, nguồn vốn đầu tư của các doanh nghiệp
khoáng sản còn hết sức hạn hẹp, trong khi đầu tư cho chế biến sâu đòi hỏi nhu cầu
vốn rất cao. Khi chưa hội đủ các điều kiện cho việc khai thác, chế biến các loại
khoáng sản và nhu cầu chưa cấp thiết, cách khôn ngoan là tiết kiệm, dự trữ cho các
thế hệ tương lai.
Thứ năm, tăng trưởng dựa vào khai thác tài nguyên nói chung và tài nguyên
khoáng sản nói riêng là phương thức tăng trưởng tốn kém (vốn, các đầu vào khác).
Hơn nữa, khai thác khoáng sản có nhiều tác động tới tài nguyên và môi trường.
Trong giai đoạn vừa qua, việc tăng trưởng kinh tế dựa vào khai thác khoáng sản đã
đánh đổi với sự cạn kiệt tài nguyên, gây ra các hậu quả về môi trường.
Việc thực hiện quan điểm này được thể hiện trên những khía cạnh sau đây:
– Các chủ trương, chính sách về sử dụng tiết kiệm và dự trữ khoáng sản luôn
được Nhà nước quan tâm, song trong thời gian qua, việc thực hiện vẫn còn tồn tại,
hạn chế. Theo đó, để phục vụ công tác quản lý và khai thác khoáng sản đạt hiệu
127
quả, trước mắt cần tiến hành rà soát và đánh giá tổng thể về tình hình thực hiện các
quy hoạch khai thác khoáng sản. Đồng thời, bổ sung, điều chỉnh các chiến lược, quy
hoạch của các loại khoáng sản đã có. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc
thực hiện các chiến lược, quy hoạch khoáng sản. Đi cùng với đó, nâng cao chất
lượng lập các quy hoạch về thăm dò, khai thác và chế biến khoáng sản trong giai
đoạn tới.
– Đẩy nhanh tiến độ lập, phê duyệt khu vực cấm hoạt động khoáng sản (gồm khu
vực nhạy cảm về an ninh quốc phòng, các khu vực cần bảo tồn đa dạng sinh học và
các giá trị văn hóa). Việc chậm tiến độ hiện nay là do công tác lập quy hoạch các
khu vực cấm hoạt động khoáng và chậm do từ phía các cơ quan có liên quan (Quốc
phòng, Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Văn hóa và Du lịch,...) trong việc
đóng góp các ý kiến.
– Đối với các loại khoáng sản nhiên liệu hóa thạch và các loại khoáng sản VLXD
do nhu cầu khách quan của nền kinh tế (đảm bảo an ninh năng lượng và xây dựng
cơ sở hạ tầng) cần duy trì sản lượng khai thác như hiện nay, song từng bước chuyển
sang khai thác các loại năng lượng tái tạo, vật liệu mới. Đối với khoáng sản kim
loại, cần xem xét tạm dừng cấp giấy phép khai thác khoáng sản đối với một số loại
khoáng sản quý hiếm, khả năng chế biến sâu còn hạn chế, nhu cầu sử dụng chưa cao.
– Quản lý chặt việc xuất khẩu khoáng sản nhằm hạn chế thất thoát nguồn tài
nguyên quốc gia hoặc chỉ cho phép xuất khẩu các loại khoáng sản đã qua chế biến
sâu để nâng cao giá trị gia tăng qua đó nâng cao đóng góp của khai thác khoáng sản.
– Việc dự trữ khoáng sản không có nghĩa là cắt giảm sử dụng, đi cùng với đó là
bổ sung khoáng sản từ bên ngoài nhằm phục vụ nhu cầu sử dụng ở trong nước.
Chính vì vậy, nhà nước cần xây dựng chính sách về nhập khẩu khoáng sản, trước
mắt là chiến lược nhập khẩu than. Khẩn trương xây dựng và ban hành các chính
sách ưu đãi các doanh nghiệp đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực khoáng sản, nhất
là chính sách bảo lãnh mua quyền khai thác mỏ.
– Phát triển các loại sản phẩm thay thế sản phẩm khoáng sản: i) các loại năng
lượng mới, năng lượng tái tạo để thay thế các loại nhiên liệu hóa thạch (than đá, dầu
128
mỏ); ii) các loại vật liệu mới thay thế các loại nguyên liệu khoáng cung cấp cho các
ngành công nghiệp, ngành xây dựng; iii) các loại sản phẩm, các loại vật liệu mới
thay thế sản phẩm khoáng phục vụ sản xuất và đời sống.
4.2.1.2. Hài hòa lợi ích kinh tế với bảo vệ tài nguyên, môi trường và tiến bộ, công
bằng xã hội
Trong thời gian qua, vì mục tiêu phát triển kinh tế, trong khai thác khoáng sản đã
có chính sách cấp phép khai thác tận thu và tận khai, trong khi xem nhẹ yếu tố môi
trường; thậm chí, một số mỏ đã khai thác xong, song được cấp phép để khai thác lại
nhằm thu hồi các khoáng sản còn sót lại. Chẳng hạn, tại khu vực khai thác titan trên
địa bàn xã Mỹ Thành (huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định), một số khu vực đã khai thác
xong và đã trồng cây nhằm phục hồi môi trường, nhưng tỉnh cấp phép cho một số
công ty khác tiến hành khai thác lại để tận thu khoáng sản ở tầng sâu hơn.15 Lợi ích
từ khai thác tận thu titan chỉ phục vụ cho một số người là chủ các doanh nghiệp khai
khoáng (Hình 1 – Phụ lục), ô nhiễm môi trường gây ra cho cộng đồng, thậm chí trên
diện rộng như việc khai thác titan đã thu hẹp diện tích rừng phòng hộ ven biển làm
ảnh hưởng tới khả năng chắn cát bay, ngăn sóng biển gây ra nguy cơ sạt lở dọc theo
bờ biển.
Tăng trưởng xanh là mô hình tăng trưởng có sự hài hòa giữa kinh tế và bảo vệ tài
nguyên, môi trường. Theo đó, trong thời gian tới cần sớm chấm dứt tình trạng khai
thác khoáng sản một cách bừa bãi gây thất thoát tài nguyên, suy thoái môi trường;
chuyền dần từ tư duy khai thác tận thu, tận khai sang khai thác gắn với nuôi dưỡng
tài nguyên, môi trường.
4.2.1.3. Việc khai thác khoáng sản cần dựa trên cơ sở đổi mới, hiện đại hóa công
nghệ, áp dụng các công nghệ tiên tiến, thân thiện với môi trường
Khoa học – công nghệ không chỉ để thực hiện tăng trưởng xanh mà còn có các
tác động lan tỏa góp phần thúc đẩy tái cấu trúc, đổi mới mô hình tăng trưởng. Chiến
lược phát triển bền vững Việt Nam đã nêu rõ: “khoa học và công nghệ là nền tảng
và động lực cho phát triển bền vững. Công nghệ hiện đại, sạch và thân thiện với
15 Khảo sát của tác giả tại tỉnh Bình Định, tháng 10/2012. 129
môi trường cần được ưu tiên sử dụng rộng rãi trong các ngành sản xuất”. Việc thực
hiện khai thác khoáng sản theo hướng tăng trưởng xanh, các công nghệ cần ưu tiên
tập trung gồm:
Công nghệ khai thác: Áp dụng các công nghệ khai thác tiên tiến để có thể giảm
các động tới tài nguyên và môi trường. Sử dụng và thay thế các máy móc thiết bị
khai thác hiện đại để có thể thu hồi tối đa khoáng sản chính và khoáng sản đi kèm,
đồng thời hạn chế ảnh hưởng tới môi trường.
Về bảo vệ môi trường: Áp dụng công nghệ thu gom và xử lý các chất thải của
quá trình khai thác, chế biến khoáng sản. Khoa học công nghệ không chỉ tạo ra các
công nghệ, máy móc thiết bị để xử lý vấn đề môi trường mà có thể biến các loại rác
thải, phế thải trở thành các đầu vào sản xuất. Để tăng trưởng xanh cần nâng cao hiệu
suất và hiệu quả sử dụng năng lượng, giảm mức tiêu hao năng lượng trong hoạt
động sản xuất thông qua việc áp dụng quy trình quản lý, vận hành tiên tiến.
– Các công nghệ phục vụ quản lý nhà nước về khai thác khoáng sản gắn với bảo
vệ môi trường: Xây dựng thông tin và số hóa các thông tin của từng mỏ (giấy phép
khai thác, báo cáo ĐTM) và hệ thống thông tin trực tuyến, định vị về các mỏ (dạng
goople map) phục vụ cho việc quản lý và tra cứu thông tin để phục vụ cho việc
quản lý và giám sát tốt hơn các hoạt động khai thác tại hiện trường. Với việc thu
ngân sách đối với khai thác khoáng sản dựa vào cơ chế tự khai báo sản lượng của
doanh nghiệp (kèm theo đó là trách nhiệm về BVMT) sẽ phụ thuộc vào việc khai
báo trung thực của doanh nghiệp. Đi cùng với việc tăng cường công tác quản lý
cũng cần ứng dụng các công nghệ để giám sát sản lượng dưới dạng hệ thống định vị
GPS để xác định tải trọng và lịch trình của các xe vận chuyển khoáng sản.
4.2.1.4. Thể chế hiện đại là điều kiện hết sức quan trọng cho việc thực hiện khai
thác khoáng sản trong chiến lược tăng trưởng xanh
a) Đẩy mạnh hơn nữa dựa theo cơ chế thị trường đối với việc thực hiện khai thác
khoáng sản
– Tăng cường công tác đấu giá đối với quyền khai thác khoáng sản: Chiến lược
phát triển bền vững Việt Nam nêu ra định hướng về thay đổi cơ chế quản lý đối với
khai thác khoáng sản; theo đó, xóa bỏ cơ chế “xin – cho” trong khai thác khoáng
130
sản, thực hiện quản lý tài nguyên khoáng sản theo cơ chế thị trường thông qua “đấu
giá” hoặc “đấu thầu” khai thác mỏ khoáng sản. Luật Khoáng sản năm 2010 cũng đã
có các quy định về đấu giá quyền khai thác khoáng sản. Tuy nhiên, các cơ chế, quy
trình hiện có chưa thực sự tạo ra sự cạnh tranh quyết liệt giữa các doanh nghiệp
trong việc giành quyền khai thác khoáng sản. Khu vực đấu giá có thể thực hiện theo
phương pháp thông qua hội đồng đấu giá hoặc tổ chức đấu giá chuyên nghiệp, tức là
tạo ra sự tùy tiện và kém minh bạch. Kinh nghiệm từ thực tiễn nhiều lĩnh vực cho
thấy, việc đấu giá được thực hiện qua tổ chức đấu giá chuyên nghiệp thường đảm
bảo tính minh bạch và cạnh tranh lành mạnh giữa các đơn vị tham gia đấu giá.
– Đổi mới, hoàn thiện các công cụ kinh tế đối với khai thác khoáng sản gắn với
BVMT: Đẩy mạnh áp dụng các công cụ kinh tế nhằm thực hiện có hiệu quả Luật
khoáng sản năm 2010 và nhằm khuyến khích ứng dụng các công nghệ tiên tiến vào
khai thác, chế biến khoáng sản và tuân thủ các quy định về BVMT. “Xanh hóa hệ
thống thuế, phí” thông qua việc mở rộng loại hình thuế, phí và đối tượng nộp thuế,
phí liên quan đến môi trường trên nguyên tắc “người gây ô nhiễm phải trả tiền”.
b) Có sự tham gia của nhiều bên có liên quan vào quản trị khai thác khoáng sản
Quan điểm này được đưa ra dựa trên một số cơ sở sau đây:
Thứ nhất, các nội dung đã phân tích ở chương 2 đã chỉ ra “lời nguyền tài
nguyên” có một phần do vấn đề quản trị khai thác khoáng sản, đó là: thiếu sự
minh bạch, trách nhiệm giải trình và sự tham gia của các bên liên quan. Để nâng
cao năng lực và chất lượng quản trị, tức là chất lượng thể chế và sự hiệu quả của nó,
đòi hòi phải tăng cường minh bạch và trách nhiệm giải trình đối với công nghiệp
khai khoáng. Tuy nhiên, minh bạch và trách nhiệm giải trình mới chỉ là điều kiện
cần, điều kiện đủ phải là sự tham gia của các bên liên quan (stakeholders) vào quá
trình quản trị. Như vậy, để thực hiện và thực hiện có hiệu quả các giải pháp là sự
tham gia của công chúng vào quá trình ra quyết định, xây dựng và giám sát việc
thực thi các chính sách, pháp luật về khai thác khoáng sản.
Thứ hai, Chính phủ đang có chủ trương từng bước cắt giảm biên chế trong bộ
máy hành chính và chủ trương cắt giảm đầu tư công, các nguồn lực dành cho việc
mua sắm các trang thiết bị và cho công tác giám sát có nguy cơ thu hẹp. Hơn nữa,
131
ngay cả khi không cắt giảm nhân lực trong bộ máy hành chính, với cách tổ chức bộ
máy quản lý nhà nước như hiện nay và với đặc điểm phân bố của tài nguyên khoáng
sản Việt Nam, nếu không có sự tham gia của cộng đồng thì khó có thể giám sát đầy
đủ đối với các hoạt động khai thác khoáng sản và BVMT.
Quan điểm này thể hiện qua việc nhà nước cần có các cơ chế về sự tham gia
giám sát của công chúng vào xây dựng và thực hiện các chính sách theo các công
đoạn, chuỗi giá trị của khai thác khoáng sản. Sự tham gia của công chúng trong việc
giám sát, phản biện đối với quá trình cấp phép khai thác; giám sát các doanh nghiệp
khai thác theo đúng giấy phép, khai báo trung thực sản lượng khai thác và chấp
hành các quy định về BVMT, nghĩa vụ với nhà nước. Đặc biệt là có cơ chế để
người dân địa phương giám sát các doanh nghiệp chấp hành đầy đủ các quy định về
BVMT. Trong thời gian vừa qua, Việt Nam đã có những cơ chế để thúc đẩy sự
tham gia của công chúng, như quy chế dân chủ cơ sở, song cần có nhiều các quy
định hơn nữa và/ hoặc tiếp tục hoàn thiện các quy định hiện hành.
4.2.1.5. Việc thực hiện khai thác khoáng sản trong chiến lược tăng trưởng xanh cần
dựa vào toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế
Hội nhập kinh tế quốc tế là cơ hội để giải quyết những hạn chế ở trong nước về
vốn, chất lượng nguồn nhân lực và KHCN. Theo đó, việc khai thác khoáng sản cần
dựa vào toàn cầu hóa để huy động các nguồn lực (máy móc thiết bị, chuyên gia kỹ
thuật) và nâng cao năng suất tài nguyên thông qua việc tham gia vào chuỗi sản xuất
khu vực, toàn cầu.
Đối với những loại khoáng sản cần phải khai thác phục vụ nhu cầu của nền kinh
tế và trong điều kiện công nghệ trong nước chưa đủ khả năng cần tiến hành, liên
doanh với các nhà đầu tư nước ngoài, nhất là các doanh nghiệp có nguồn lực tài
chính, kinh nghiệm khai thác chế biến khoáng sản và có kinh nghiệm tiếp cận thị
trường thế giới.
Dựa vào toàn cầu hóa để các doanh nghiệp khai khoáng trong nước thu hút các
chuyên gia khai thác mỏ từ nước ngoài và/hoặc thuê chuyên gia nước ngoài cung
cấp các dịch vụ tư vấn về xử lý các vấn đề môi trường. Chẳng hạn, hiện nay tại mỏ
132
volfram ở tỉnh Thái Nguyên, Công ty Núi Pháo (doanh nghiệp của Việt Nam) đang
thuê các chuyên gia khai thác mỏ từ Úc nhằm giải quyết các vấn đề kỹ thuật khai
thác, tiếp cận thị trường thế giới và điều hành doanh nghiệp.
Nhằm nâng cao giá trị gia tăng, năng suất tài nguyên; việc khai thác, chế biến
khoáng sản hướng tới việc tham gia vào mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu, đồng
thời phấn đấu chiếm lĩnh các công đoạn có giá trị gia tăng cao trong chuỗi giá trị.
4.2.2. Định hướng về khai thác khoáng sản trong chiến lược tăng trưởng xanh
4.2.2.1. Định hướng về tài nguyên, môi trường
Nhằm góp phần đạt các mục tiêu đã đề ra trong chiến lược phát triển bền vững và
chiến lược tăng trưởng xanh đòi hỏi “xanh hóa” hoạt động khai thác khoáng sản cần
hướng tới và thực hiện: giảm tổn thất khoáng sản trong quá trình khai thác; giảm tác
động đến môi trường; thu gom, xử lý chất thải của quá trình khai thác, chế biến
khoáng sản; nâng cao hiệu suất và hiệu quả sử dụng các nguyên liệu và năng lượng
trong quá trình khai thác, chế biến khoáng sản. Mục tiêu này được thực hiện thông
qua việc thay đổi loại ngành lẫn công nghệ và tổ chức sản xuất.
Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh đề ra mục tiêu tiến tới nền kinh tế
cacbon thấp, làm giàu vốn tự nhiên trở thành xu hướng chủ đạo trong phát triển
kinh tế bền vững; giảm phát thải và tăng khả năng hấp thụ khí nhà kính trở thành
chỉ tiêu bắt buộc và quan trọng trong phát triển kinh tế – xã hội. Để góp phần đạt
mục tiêu này, hoạt động khai thác khoáng sản phải giảm thiểu các tác động tới môi
trường. Đồng thời, điều chỉnh quy trình kỹ thuật và cách tổ chức khai thác khoáng
sản, quy trình quản lý để hạn chế ảnh hưởng tới đa dạng sinh học, nhất là liên quan
tới đất rừng. Từng bước hạn chế khai thác, sử dụng các loại khoáng sản phát thải
nhiều khí CO2 nhằm góp phần giảm ảnh hưởng tới BĐKH.
Tăng trưởng xanh không chỉ đơn thuần là vấn đề giảm phát thải môi trường mà
nó được hiểu rộng hơn. Đó là một mô hình phát triển mới với chất lượng tăng
trưởng cao hơn với cơ cấu sản xuất và tiêu dùng hiện đại, bền vững và cải thiện đời
sống của con người. Theo đó, sự thay đổi cơ cấu kinh tế, phát triển các ngành sản
xuất mới liên quan tới khai thác khoáng sản bao gồm: i) Các ngành về công nghiệp
133
môi trường nhằm thu gom và xử lý các chất thải của khai thác khoáng sản; ii) phát
triển các ngành sản xuất ra các sản phẩm thay thế sản phẩm khoáng sản, qua đó
giảm việc khai thác khoáng sản và các áp lực đối với tài nguyên và môi trường.
4.2.2.2. Định hướng về hiệu quả kinh tế theo hướng tăng trưởng xanh
a) Hiệu quả của ngành công nghiệp khai khoáng
Hiệu quả của khai thác khoáng sản trước hết thể hiện ở các doanh nghiệp khai
khoáng; do đó, việc hướng tới tăng trưởng xanh, bản thân các doanh nghiệp có
những cải thiện nhằm cắt giảm các chi phí trong quá trình sản xuất kinh doanh qua
việc giảm tiêu hao nguyên, vật liệu và năng lượng. Đồng thời, nâng cao hiệu quả sử
dụng tài nguyên và giá trị gia tăng trên mỗi đơn vị khoáng sản đã khai thác; giảm
cường độ phát thải khí nhà kính trong quá trình khai thác, chế biến khoáng sản.
b) Nâng cao năng suất và giá trị gia tăng của khai thác khoáng sản
Nghị quyết số 02–NQ/TW ngày 25/4/2011 của Bộ Chính trị về định hướng
chiến lược khoáng sản đề ra mục tiêu nâng tỷ trọng ngành công nghiệp khai
khoáng trong GDP từ 10% lên tới 15 – 20% vào năm 2020 và tiếp tục tăng trong
những năm tiếp theo. Trong khi khoáng sản ngày càng cạn kiệt và với chính sách
dự trữ khoáng sản, để đáp ứng nhu cầu nguyên liệu của các ngành chế biến
khoáng sản, không có con đường nào khác là phải sử dụng tiết kiệm khoáng sản
khai thác trong nước, chế biến sâu nhằm tạo ra giá trị gia tăng lớn hơn đối với
đơn vị khoáng sản được khai thác.
Việc nâng cao năng suất và giá trị gia tăng của khai thác khoáng sản hướng vào
chế biến khoáng sản và phát triển theo chiều sâu, bao gồm: chế biến phục vụ cho
công đoạn tiếp theo dựa vào quy trình sản xuất của sản phẩm khoáng sản; chế biến
theo hướng đa dạng hóa sản phẩm; chế biến theo hướng tạo ra sản phẩm sạch thân
thiện với môi trường.
c) Đóng góp vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở địa phương nơi khai thác mỏ
Việc khai thác khoáng sản còn phải có tác dụng thúc đẩy phát triển các ngành
kinh tế ở những nơi có hoạt động khai thác khoáng sản. Các tác động lan tỏa từ khai
thác khoáng sản còn có ý nghĩa trong việc tạo thêm việc làm cho lao động tại những
134
địa phương nơi khai thác mỏ; góp phần vào giải quyết xóa đói giảm nghèo, qua đó
gián tiếp hạn chế người dân địa phương khai thác tài nguyên một cách bừa bãi gây
ảnh hưởng đến môi trường; và hạn chế các xung đột xã hội.
4.2.2.3. Định hướng về các vấn đề xã hội cần ưu tiên giải quyết
Khai thác khoáng sản có nguy cơ ảnh hưởng đến những vấn đề về xã hội như
xung đột xã hội, bất bình đẳng về thu nhập, biến đổi văn hóa, các tệ nạn xã hội,...
Khai thác khoáng sản theo hướng PTBV, TTX là sự hài hòa giữa các khía cạnh
kinh tế, môi trường và các vấn đề xã hội. Trên quan điểm tăng trưởng xanh, luận
án quan niệm rằng, đối với khai thác khoáng sản, các vấn đề xã hội cần ưu tiên
xem xét giải quyết là những vấn đề phát sinh do liên quan tới tài nguyên và môi
trường, đó là:
– Hạn chế các ảnh hưởng tiêu cực của khai thác khoáng sản tới cộng đồng địa
phương: khai thác, chế biến khoáng sản gây ra vấn đề về môi trường ảnh hưởng tới
sức khỏe, sinh kế của người dân; quá trình vận chuyển khoáng sản hủy hoại cơ sở
hạ tầng;... Các tác động này có thể gây ra các xung đột giữa người dân địa phương
với các doanh nghiệp khai khoáng, khiếu kiện tới các cấp chính quyền.
– Các xung đột xã hội, bất bình đẳng về thu nhập do việc bảo vệ quyền lợi của
người dân địa phương nơi có hoạt động khai thác khoáng sản và chia sẻ lợi ích từ
khai thác khoáng sản giữa các bên liên quan.
4.3. Các giải pháp về khai thác khoáng sản trong chiến lược tăng trưởng xanh
4.3.1. Các giải pháp đổi mới, hoàn thiện chính sách về khai thác khoáng sản
4.3.1.1. Đổi mới, hoàn thiện các chính sách, công cụ kinh tế, hành chính và chế tài
pháp luật về khai thác khoáng sản
a) Các chính sách tài chính đối với khai thác khoáng sản
– Hoàn thiện chính sách thuế tài nguyên đối với khai thác khoáng sản: Việc tính
thuế tài nguyên cần dựa theo địa tô chênh lệch, tính tới các điều kiện khai thác khác
nhau giữa các mỏ (về hầm lò – lộ thiên, công nghệ khai thác, hàm lượng quặng
trong mỏ, điều kiện cơ sở hạ tầng nơi khai thác). Điều này tạo sự công bằng trong
việc tính thuế giữa các mỏ quặng và khuyến khích các doanh nghiệp tận thu tối đa
135
các khoáng sản trong quá trình khai thác.
– Hoàn thiện các chính sách tài chính về BVMT: Nhằm nâng cao trách nhiệm và
ý thức BVMT của các doanh nghiệp khai khoáng cần tiếp tục hoàn thiện các công
cụ kinh tế đối với khai thác khoáng sản như thuế, phí, ký quỹ môi trường, phí
BVMT đối với các chất thải,… Các công cụ này cần tính đến mức độ ô nhiễm môi
trường như hệ số bóc đất đá trong khai thác lộ thiên, tỷ lệ thu hồi tinh quặng từ
quặng nguyên khai, thành phần chất gây ô nhiễm trong quặng, công nghệ khai thác.
Đồng thời, chính sách tài chính đối với các chất thải cần tính theo lũy tiến, theo đó,
doanh nghiệp phát thải càng nhiều thuế phải nộp càng lớn nhằm buộc các doanh
nghiệp giảm thiểu, tái sử dụng và tái chế chất thải trước khi thải ra môi trường.
Những sự điều chỉnh này nhằm đảm bảo nguyên tắc đánh thuế dựa trên mức độ
tác động tiêu cực tới môi trường của từng loại khoáng sản, tạo ra sự công bằng giữa
các doanh nghiệp và khuyến khích việc áp dụng các công nghệ tiên tiến, hiện đại
vào khai thác khoáng sản.
– Hoàn thiện các quy định về BVMT phù hợp với đặc thù của hoạt động khai
thác khoáng sản. Bổ sung và hoàn thiện các quy định về cải tạo, phục hồi môi
trường; quy trình, hạng mục cải tạo, phục hồi môi trường đối với từng loại hình khai
thác. Đề án cải tạo, phục hồi môi trường phải nêu cam kết về các chỉ tiêu chất lượng
môi trường, hệ sinh thái sau khi cải tạo, phục hồi.
b) Chính sách về khai thác khoáng sản gắn với bảo vệ môi trường
– Việc khai thác gắn với việc hạn chế ảnh hưởng tới đa dạng sinh học: Ngoại trừ
khai thác than, đặc điểm của khoáng sản nước ta và các loại khoáng sản chủ yếu là
khai thác lộ thiên. Tác động rõ nét nhất của các mỏ này là tàn phá mặt đất và phá
hoại cảnh quan, nhất là rừng và thảm thực vật. Vì vậy, nhằm giảm thiểu các tác
động tới môi trường cần ưu tiên đẩy mạnh nghiên cứu và áp dụng các công nghệ
khai thác đối với các mỏ khai thác lộ thiên nhằm giảm khối lượng đất đá thải, thu
hẹp diện tích bãi thải. Đổi mới, hoàn thiện quy trình khai thác nhằm tận dụng tối
đa các bãi thải trong hoặc khai thác cuốn chiếu.
– Chính sách khai thác các loại khoáng sản nhằm hạn chế phát thải khí nhà kính:
các loại khoáng sản VLXD đang được đẩy mạnh khai thác và việc khai thác, sử
136
dụng các loại nhiên liệu hóa thạch gây ô nhiễm môi trường, phát thải nhiều các loại
khí CO2. Trong các định hướng về khai thác VLXD vẫn tiếp tục khai thác nhằm đáp
ứng nhu cầu xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ nhu cầu công nghiệp hóa; tuy nhiên,
cần chấn chỉnh, tăng cường công tác quản lý và tiến tới hạn chế khai thác, dùng các
loại vật liệu mới để thay thế khoáng sản VLXD. Đối với khai thác cát lòng sông,
cần khoanh định khu vực khai thác và chấn chỉnh việc cấp phép, tăng cường công
tác quản lý nhà nước để tránh làm thay đổi dòng chảy, sạt lở bờ sông.
4.3.1.2. Đổi mới, kiện toàn bộ máy quản lý nhà nước về khai thác khoáng sản
Đề cao trách nhiệm và có chế tài giám sát, xử phạt để cơ quan cấp phép khai thác
có trách nhiệm giám sát việc thực hiện theo đúng giấy phép, có trách nhiệm quản lý
khai thác và thực hiện các nghĩa vụ BVMT. Không ít trường hợp, việc cấp phép
khai thác do cấp Trung ương thực hiện, song quản lý hoạt động khai thác và khai báo
sản lượng, thu ngân sách và quản lý BVMT hầu như “khoán trắng” cho địa phương.
Xác định rõ trách nhiệm của người đứng đầu trong việc bảo vệ khoáng sản chưa
khai thác, trong đó đề cao trách nhiệm của chính quyền cấp huyện, cấp xã tại những
nơi có khoáng sản chưa khai thác. Đi cùng với việc xác định rõ trách nhiệm trong
quản lý về khoáng sản và BVMT trong khai thác khoáng sản, cần xây dựng tiêu chí
đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ, trong đó lấy bền vững về tài nguyên và môi
trường làm thước đo chủ yếu.
Xây dựng quy chế phối hợp giữa các bộ, ngành và giữa các địa phương trong
việc giải quyết các vấn đề liên quan đến tài nguyên và môi trường trong lĩnh vực
khoáng sản nói riêng và khai thác tài nguyên thiên nhiên nói chung. Các lĩnh vực
phối hợp bao gồm: chấp hành các quy định về bảo vệ môi trường, khai thác và vận
chuyển khoáng sản, thực hiện các nghĩa vụ tài chính với nhà nước. Việc phối hợp
trong thực hiện nhiệm vụ (các tổ liên ngành) và chia sẻ thông tin có liên quan.
Tư duy “cát cứ hành chính” và “tư duy nhiệm kỳ” là rào cản lớn cho liên kết kết,
hợp tác giữa các địa phương trong việc khai thác và bảo vệ tài nguyên, môi trường,
trong đó có khoáng sản. Chính vì vậy, cần sớm xóa bỏ tình trạng cát cứ địa phương
trong phát triển kinh tế.
Theo các quy định hiện hành, UBND cấp tỉnh chỉ có thẩm quyền cấp phép khai
137
thác các mỏ nhỏ lẻ, khai thác tận thu và VLXD thông thường. Việc phân cấp cho
địa phương trong quản lý nhà nước về khoáng sản (theo thẩm quyền được phân cấp)
nên tiến hành như sau:
– Trước mắt, tiếp tục phân cấp cho UBND cấp tỉnh cấp phép khai thác các loại
khoáng sản theo quy định hiện hành, nhưng cần quy định những mỏ nếu ở khu vực
giáp ranh giữa hai tỉnh (ví dụ khai thác cát ở lòng sông) thì sẽ do Bộ TNMT cấp
phép (Luật Khoáng sản năm 2010 chưa có các quy định này). Điều này nhằm làm rõ
trách nhiệm quản lý hoạt động khai thác khoáng sản, quản lý BVMT.
– Phân cấp và tăng trách nhiệm của chính quyền địa phương trong quản lý về
BVMT trong khai thác khoáng sản. Cơ sở cho đề xuất là bởi chính quyền địa
phương là cấp nắm rõ hơn về tình hình hoạt động khai thác sản và việc chấp hành
BVMT của các doanh nghiệp khai khoáng. Hơn nữa, đây cũng là cấp giải quyết
những vấn đề về cuộc sống của người dân nên phải có trách nhiệm quản lý BVMT.
4.3.1.3. Các chính sách cho việc đổi mới, cải tiến và ứng dụng công nghệ tiên tiến,
thân thiện môi trường vào khai thác khoáng sản
Khoa học – công nghệ là yếu tố quan trọng để nâng cao năng suất tài nguyên và
giải quyết các vấn đề môi trường trong khai thác khoáng sản. Theo đó, để thúc đẩy
việc nghiên cứu, đổi mới, cải tiến và ứng dụng công nghệ tiên tiến, thân thiện với môi
trường vào khai thác khoáng sản, nhà nước cần có các chính sách sau:
– Nhà nước cần hoàn thiện các chính sách về trích lập quỹ phát triển KHCN của
doanh nghiệp. Theo Thông tư số 15/2011/TT–BTC của Bộ Tài chính, doanh nghiệp
chỉ được trích tối đa 10% thu nhập chịu thuế cho việc lập quỹ này và Nghị định
95/2014/NĐ–CP quy định DNNN trích 3% – 10% thu nhập tính thuế, doanh nghiệp
ngoài nhà nước trích lập tối đa 10% để lập quỹ phát triển KHCN của doanh nghiệp.
Việc quy định mức trần về lập quỹ như vậy chưa phù hợp với đặc thù của ngành
công nghiệp khai khoáng, bởi đối với khai thác than, càng khai thác xuống sâu thì
giá thành càng cao, tức là tỷ lệ lợi nhuận từ mỗi tấn sản lượng khai thác có xu
hướng giảm xuống. Đây có thể cản trở một số doanh nghiệp có nhu cầu đầu tư
138
nhiều hơn cho công tác nghiên cứu và phát triển KHCN.
– Các chính sách trong việc thu hút công nghệ từ các nhà đầu tư nước ngoài vào các
dự án chế biến khoáng sản, nhất là các loại khoáng sản có yêu cầu công nghệ phức
tạp, gắn với BVMT.
Mối quan tâm của các nhà đầu tư khi đầu tư vào hoạt động khai thác khoáng sản
là sự ổn định trong các chính sách tài chính khoáng sản, chứ không phải mức thuế
thấp. Bởi chính sách thuế thay đổi liên tục kéo theo sự thay đổi các chỉ tiêu hiệu quả
tài chính của dự án đã tính toán trước đây, gây rủi ro cho doanh nghiệp.16 Các chính
sách khuyến khích thu hút đầu tư nước ngoài (ưu đãi, miễn giảm thuế) vào khai thác
khoáng sản và sản xuất VLXD không phải là những nhân tố quyết định [25]; đi cùng
với đó là cải thiện môi trường kinh doanh, đổi mới nhiều chính sách có liên quan và
bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, sự minh bạch trong thực thi các chính sách.
– Các chính sách trong việc nghiên cứu, ứng dụng các công nghệ nhằm giải
quyết các vấn đề về môi trường trong khai thác khoáng sản.
Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ ứng dụng công nghệ mới vào lĩnh vực khai
thác khoáng sản và BVMT trong khai thác khoáng sản. Những kết quả bước đầu
trong nghiên cứu sản xuất thép và vật liệu không nung từ bùn đỏ trong quá trình
khai thác bôxit tại Tây Nguyên đã mở ra hướng đi trong việc xử lý bùn đỏ nhằm
giảm ô nhiễm môi trường và cung cấp VLXD góp phần giảm khai thác khoáng sản
VLXD. Công nghệ này cần tiếp tục có hỗ trợ nhằm hoàn thiện công nghệ xử lý. Các
sản phẩm gạch xốp từ bùn đỏ khi đưa ra thị trường, trong giai đoạn đầu, do giá
thành sản xuất còn cao nên có thể khó cạnh tranh được với các loại gạch truyền
thống, cho nên Chính phủ cần có các chính sách hỗ trợ để có thể thương mại hóa
sản phẩm này. Trên cơ sở thực hiện chính sách về xử lý bùn đỏ từ khai thác bôxit để
16 Tại hội thảo về đóng góp ý kiến sửa đổi thuế suất thuế tài nguyên đối với khai thác khoáng sản do Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam tổ chức ngày 10/9/2015: i) Đại diện Công ty Nikel Bản Phúc cho rằng kể từ khi doanh nghiệp lập phương án kinh doanh năm 2007 đã đầu tư 130 triệu USD và đến năm 2014 tổng số thuế thực tế nộp đã tăng tới 218% (tương đương 76 triệu USD) so với tính toán tại thời điểm năm 2007, chính sách thuế thay đổi thường xuyên nên kế hoạch kéo dài tuổi thọ của dự án gặp thách thức lớn; ii) Đại diện Hiệp hội khai thác đá (Quỳ Châu, tỉnh Nghệ An) than phiền rằng có tới 30 doanh nghiệp hội viên phải ngừng hoạt động do việc tăng thuế tài nguyên, phí BVMT. Các ý kiến này đều cho rằng việc tăng thuế tài nguyên liên tục chỉ gây thiệt hại cho các doanh nghiệp làm ăn chân chính trong khi có lợi cho các doanh nghiệp trốn thuế.
139
rút ra kinh nghiệm và nhân rộng cho các loại khoáng sản khác.
Nhà nước cần có các quy định cụ thể cho phép các doanh nghiệp trích lập quỹ
bảo vệ môi trường, hiện nay Tập đoàn Than – Khoáng sản Việt Nam (Vinacomin)
đã thành lập quỹ môi trường tập trung bằng 1% – 1,5% chi phí sản xuất, hỗ trợ cho
các sáng kiến cải tiến kỹ thuật phục vụ BVMT.
– Nhà nước cần có các chính sách khuyến khích áp dụng các mô hình sản xuất
sạch hơn trong khai thác, chế biến khoáng sản. Hiện nay, tại một số tỉnh và ngành
công nghiệp đã triển khai các dự án hỗ trợ sản xuất sản sạch hơn, tuy nhiên kết quả
vẫn còn khiêm tốn do những khó khăn trong quá trình thực hiện. Đơn cử, trong lĩnh
vực khai thác chế biến khoáng sản, tỉnh Thái Nguyên đã triển khai các dự án sản
xuất “sản xuất sạch hơn” trong ngành sản xuất xi măng và luyện kim màu đã gặp
không ít khó khăn như doanh nghiệp các thiếu kiến thức về sản xuất sạch hơn và
nguồn kinh phí để triển khai thực hiện [42]. Để thực hiện và nhân rộng việc áp dụng
sản xuất sạch hơn cần có các chính sách khuyến khích đối với các doanh nghiệp. Hỗ
trợ tập huấn, nâng cao năng lực cho các doanh nghiệp và tổ chức thăm quan, giới
thiệu các mô hình, công nghệ sạch,... Hoàn thiện cơ chế, chính sách về tài chính
thúc đẩy áp dụng sản xuất sạch hơn.
4.3.1.4. Xây dựng, hoàn thiện các chính sách thị trường nhằm khuyến khích khai
thác, sử dụng tiết kiệm khoáng sản và sử dụng các sản phẩm khác thay thế các sản
phẩm khoáng sản
Nhà nước cần sớm xóa bỏ các hình thức trợ cấp và/hoặc ưu đãi, chẳng hạn, việc
giảm thuế tài nguyên đối với các dự án bôxit ở Tây Nguyên (tức là trợ giá một cách
gián tiếp) hay ưu đãi về giá điện đối với dự án điện phân nhôm Trần Hồng Quân –
khai thác bôxit ở Nhân Cơ.17 Việc trợ cấp, ưu đãi làm méo mó giả cả và khó khăn
cho việc so sánh với giá thế giới để quyết định liệu có nên khai thác khoáng sản,
nếu trong nước có giá thành cao hơn thì nên nhập khẩu.
Khẩn trương loại bỏ trợ cấp, cơ chế kiểm soát giá cả các sản phẩm khoáng sản.
17 Nghị định số 74/2011/NĐ-CP về phí BVMT đối với khai thác bôxit là 50.000 đồng/tấn quặng nguyên khai, song Nghị định số 12/2015/NĐ-CP giảm xuống còn 30.000 đồng/tấn; trong khi đó, khoản phí này vẫn giữ nguyên (thậm chí là tăng lên) đối với các loại khoáng sản khác. Nhà máy điện phân nhôm Trần Hồng Quân được Nhà nước hỗ trợ về giá điện trong 10 năm giai đoạn 2016-2025 là 229 triệu USD.
140
Đẩy nhanh tiến độ thực hiện chính sách giá sản phẩm khoáng sản theo cơ chế thị
trường, trước mắt là giá than. Thực hiện giá sản phẩm khoáng sản theo cơ chế thị
trường, theo đó, giá cả phản ánh đúng và đầy đủ các chí phí có liên quan và theo
đúng diễn biến trên thị trường. Các biện pháp này nhằm hạn chế việc xuất khẩu lậu
các sản phẩm khoáng sản và sử dụng tiết kiệm khoáng sản.
Nhà nước cần mở rộng đối tượng và tăng mức thuế BVMT đối với sử dụng các
loại khoáng sản khác (hiện mới chỉ áp dụng với xăng dầu, than đá). Đây là loại thuế
có ý nghĩa trong việc khuyến khích sử dụng tiết kiệm và khuyến khích dịch chuyển
sang sản xuất, sử dụng năng lượng sạch. Việc điều chỉnh thuế BVMT cần theo lộ
trình để hạn chế việc tăng giá ở các thị trường khác và gây ra lạm phát.
Phát triển các ngành sản xuất nhằm tạo ra các đầu vào thân thiện với môi trường
để thay thế cho các sản phẩm hiện nay sử dụng trong khai thác khoáng sản. Chẳng
hạn, trong khai thác than, hàng năm đã tiêu hao một khối lượng vật tư rất lớn về gỗ
lò để làm cột chống trong hầm lò, thuốc nổ, hàng trăm ngàn tấn nhiên liệu và phụ
tùng các loại,...
Các chính sách khuyến khích sản xuất, sử dụng các sản phẩm thay thế các sản
phẩm khoáng sản. Việc sản xuất điện bằng các loại năng lượng mới (sức gió, năng
lượng mặt trời, sinh khối) thay thế cho than đá là cần thiết nhằm giảm áp lực khai
thác, tác động tới môi trường do khai thác và sử dụng loại khoáng sản này. Tuy
nhiên, tại Việt Nam, giá mua điện do sản xuất từ năng lượng mới được đánh giá là
vẫn chưa đủ sức hấp dẫn đối với các nhà đầu tư. Kinh nghiệm quốc tế cho thấy loại
hình sản xuất này cần có sự hỗ trợ của nhà nước và nguồn ngân sách bù đắp là từ
việc thu các khoản thuế môi trường, thuế sử dụng nhiên liệu hóa thạch.
Nhu cầu sử dụng VLXD trong thời gian tới vẫn rất lớn do gia tăng dân số và đô
thị hóa. Trong thời gian qua, Chính phủ đã có các chủ trương, chính sách về phát
triển VLXD không nung 18 để từng bước thay thế gạch đất sét nung, hạn chế sử
dụng đất sét và than – nguồn tài nguyên không tái tạo, góp phần bảo vệ an ninh
lương thực, tiết kiệm năng lượng và giảm lượng khí thải CO2. Để thực hiện chính
sách này, cần có chế tài yêu cầu các công trình xây dựng sử dụng NSNN phải ưu
18 Quyết định số 567/QĐ–TTg ngày 28 tháng 4 năm 2010 của Thủ tướng Chính phủ.
141
tiên sử dụng vật liệu không nung, nghĩa là yêu cầu “mua sắm xanh”. Đồng thời, ban
hành các cơ chế, chính sách hỗ trợ, khuyến khích tạo động lực cho các doanh
nghiệp, hộ gia đình sử dụng loại vật liệu này.
4.3.1.5. Tăng cường tính minh bạch, trách nhiệm giải trình đối với khai thác
khoáng sản
Minh bạch và trách nhiệm giải trình là điều kiện để cải thiện chất lượng quản trị
khai thác khoáng sản. Bên cạnh các yêu cầu về chất lượng, các chính sách, pháp
luật về khai thác khoáng sản thực hiện có hiệu quả khi được công bố công khai.
Theo đó, các cơ quan quản lý nhà nước cần công bố tin về sản lượng khai thác và
các vấn đề về môi trường, bởi có thông tin thì các bên liên quan mới có thể giám sát
đầy đủ quá trình khai thác khoáng sản và bảo vệ môi trường.
Trong tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về khai thác khoáng sản, điều kiện để
phân cấp hiệu quả là: đảm bảo nguồn lực, minh bạch thông tin, trách nhiệm giải
trình, giám sát thực hiện và có sự tham gia của các bên liên quan [2], [22]. Về
nguồn lực bao gồm các nguồn lực vật chất, tài chính và con người cùng với năng
lực đi kèm. Đối tượng được phân cấp phải có trách nhiệm giải trình nhằm đảm bảo
công khai minh bạch. Thanh tra, giám sát nhằm đảm bảo việc thực thi đúng và đầy
đủ các quy định pháp luật.
Đẩy mạnh cải cách các DNNN trong lĩnh vực khai thác khoáng sản theo hướng thị
trường và minh bạch. Xét về số lượng, DNNN chỉ vào khoảng 170 trong tổng số
2.800 doanh nghiệp trong ngành công nghiệp khai khoáng (Bảng 3 – Phụ lục). Mặc
dù ít về số lượng, nhưng các DNNN trong lĩnh vực này nắm giữ với số lượng lớn
các mỏ và vốn đầu tư so với khu vực ngoài quốc doanh. Không ít nghiên cứu đã chỉ
ra các DNNN nhìn chung sản xuất kinh doanh kém hiệu quả và các DNNN trong
ngành công nghiệp khai khoáng cũng khó tránh khỏi xu hướng này.19 Theo đó, nhà
19 Dự án Nhà máy thép 8.000 tỷ (giai đoạn II) ở Thái Nguyên do Công ty Gang thép Thái Nguyên (thành viên của Tổng công ty Thép Việt Nam) làm chủ đầu tư. Dự án triển khai gần 10 năm và đã đầu tư hơn 4500 tỷ đồng, song đến nay vẫn dở dang; nhiều hạng mục máy móc thiết bị đang nằm phơi nắng, phơi mưa trên khu đất rộng hàng ha và đang có dấu hiệu bị hoen gỉ, xuống cấp nghiêm trọng. Dự án muốn khời lại phải bồi thường cho nhà thầu Trung Quốc số tiền lên đến hơn 100 tỷ đồng khiến tổng vốn đầu tư tăng lên 8100 tỷ đồng và có nguy cơ đội vốn thêm gần 1.000 tỷ đồng, lên trên 9.000 tỷ đồng [http://vietnamnet.vn/vn/kinh-doanh/294923/nha-may-8-000-ty-bo-hoang-boi-thuong-cho-tq-tram-ty.html].
Những trường hợp như dự án này không phải hiếm và là minh về rõ sự kém hiệu quả của các DNNN trong lĩnh vực
khai thác khoáng sản.
142
nước cần đẩy nhanh hơn nữa tiến độ cổ phần hóa các DNNN trong ngành này.
Đồng thời, Chính phủ cần khẳng định và sớm tham gia sáng kiến EITI để tạo động
lực cải cách DNNN trong ngành công nghiệp khai khoáng và công bố các báo cáo
tài chính, kết quả sản xuất kinh doanh phù hợp với thông lệ quốc tế, nhất là theo các
yêu cầu của Hiệp định TPP đối với DNNN.
4.3.1.6. Nâng cao tư duy, nhận thức về khai thác khoáng sản trong chiến lược
tăng trưởng xanh
Tư duy phát triển kinh tế vẫn chủ yếu hướng vào khai thác tài nguyên nặng về
chiều rộng mà chưa theo chiều sâu; tư duy, nhận thức về tăng trưởng xanh còn hạn
chế và nặng lợi ích kinh tế hơn là vấn xã hội – môi trường;... đang là rào cản, thách
thức đối với khai thác khoáng sản trong chiến lược tăng trưởng xanh. Để xây dựng
và thực thi các chính sách khai thác khoáng sản trong chiến lược tăng trưởng xanh
cần tăng cường nhận thức, hiểu biết và lồng ghép về tăng trưởng xanh vào trong quá
trình xây dựng và thực thi các chính sách. Theo đó, trong thời gian tới, các chính
sách cần tập trung vào những vấn đề sau:
a) Nâng cao tư duy, nhận thức về tạo ra giá trị gia tăng, năng suất tài
nguyên
– Cần xóa bỏ các tư duy về khai thác manh mún, phân tán
Kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn Việt Nam cho thấy khai thác mỏ theo phương
pháp thủ công và quy mô nhỏ thường gây ra ô nhiễm môi trường và có xu hướng
kém hiệu quả về kinh tế do không tận dụng được lợi thế nhờ quy mô. Cho nên từng
bước loại bỏ việc khai thác theo kiểu manh mún, nhỏ lẻ; thay vào đó chuyển hướng
sang khai thác quy mô công nghiệp. Để thực hiện điều này cần nhanh chóng tiến
hành tái cơ cấu các doanh nghiệp trong ngành một cách hợp lý, đặc biệt là các
doanh nghiệp quy mô nhỏ, sử dụng công nghệ lạc hậu gây tổn thất tài nguyên, ô
nhiễm môi trường và hiệu quả sản xuất kinh doanh thấp. Việc tái cơ cấu được thực
hiện bằng việc không gia hạn, cấp mới giấy phép khai thác đối với doanh nghiệp
quy mô nhỏ; đẩy mạnh thực hiện việc đấu giá về quyền khai thác khoáng sản nhằm
lựa chọn các doanh nghiệp đủ năng lực tham gia khai thác khoáng sản.
143
– Tư duy về phát triển các ngành công nghiệp trên nền sản phẩm khoáng sản
Việc nâng cao năng suất tài nguyên đòi hỏi phát triển các ngành công nghiệp trên
nền khai thác khoáng sản: từ khai thác quặng kim loại phát triển công nghiệp luyện
kim và tiếp theo là sản phẩm cơ khí; từ khai thác các khoáng chất công nghiệp (apatit,
phosphorit,...) phát triển công nghiệp hóa chất; các khoáng sản phi quặng sản xuất ra
vật liệu xây dựng, phân bón;... Việc phát triển các ngành công nghiệp trên nền
khoáng sản còn có tác động lan tỏa đối với địa phương nơi khai thác khoáng sản.
Một số dẫn chứng minh họa nhằm gợi ý về mặt tư duy về phát triển kinh tế dựa
trên khai thác khoáng sản:
+ Dự án khai thác bôxit ở Nhân Cơ (tỉnh Đắk Nông) và tiếp theo là phát triển dự
án điện phân nhôm Trần Hồng Quân có cơ hội để phát triển các sản phẩm sau nhôm
(hiện nay một số doanh nghiệp đã chuẩn bị đầu tư vào Khu công nghiệp Nhân Cơ
để phát triển các sản phẩm: nhôm phục vụ xây dựng, vỏ lon các loại phục vụ đồ
đóng hộp, cáp điện...).20 Tổ hợp công nghiệp nhôm phát triển sẽ có nhiều ngành
nghề khác cùng phát triển theo, qua đó nâng cao năng suất và đóng góp của khai
thác bôxit.
+ Dự án mỏ sắt Thạch Khê được quy hoạch khai thác gắn với xây dựng Khu liên
hợp luyện kim Vũng Áng và biến nơi đây thành tổ hợp luyện kim, cơ khí, sản xuất
các linh kiện ô tô, đóng tàu,.., Tại KKT Vũng Áng, dự án Khu liên hợp gang thép và
cảng Sơn Dương do Tập đoàn Formosa đang chuẩn bị vận hành và bước đầu đã
định hình Vũng Áng trở thành hình thành một trung tâm công nghiệp nặng [52].
Các dự án này dù mới đạt kết quả bước đầu, song là những gợi ý hữu ích về tư
duy chính sách và việc thực hiện đòi hỏi phải thu hút các nhà đầu tư chiến lược
(dạng như Tập đoàn Formosa) để có thể tham gia vào mạng sản xuất toàn cầu.
– Tư duy về tham gia chuỗi sản xuất toàn cầu
Đi cùng với việc chế biến sâu khoáng sản và phát triển các ngành công nghiệp
có liên quan, để nâng cao giá trị gia tăng, cần sản xuất một số sản phẩm liên quan
đến khoáng sản phục vụ cho việc tham gia vào mạng sản xuất, chuỗi giá trị toàn
cầu. Chẳng hạn, tái cấu trúc đối với sản xuất sắt, thép từ thép xây dựng sang sản
20 Khảo sát của tác giả tại Dự án bô xit Nhân Cơ (Đắk Nông), tháng 4/2015.
144
xuất các loại thép công nghiệp phục vụ cho các ngành công nghiệp hiện đại; hoặc
khai thác bôxit không chỉ dừng lại ở công đoạn luyện nhôm mà chế biến thành các sản
phẩm hợp kim nhôm để phục vụ cho các ngành công nghiệp hiện đại. Điều này đòi hỏi
phải có các chính sách hấp dẫn, các giải pháp đồng bộ để thu hút các nhà đầu tư
nước ngoài có các công nghệ hiện đại nhằm chế biến sâu, tinh chế ở các công đoạn
cao hơn của sản phẩm khoáng sản.
b) Nâng cao tư duy, nhận thức về phục hồi, tái tạo và cải thiện môi trường ở
những nơi khai thác khoáng sản
Tuy duy về lợi ích kinh tế ngắn hạn, thiếu sự hài hòa, xem nhẹ vấn đề môi trường
nên đầu tư cho công tác BVMT chưa thỏa đáng, nhất là sử dụng nguồn thu từ khai
thác khoáng sản. Điều này làm cho vấn đề môi trường trở nên nghiêm trọng hơn và
kéo theo hệ quả là các xung đột xã hội tại các khu vực khai thác do ô nhiễm môi
trường. Chính vì vậy, nhà nước cần tăng cường đầu tư trở lại cho những nơi có hoạt
động khai thác khoáng sản để phục hồi môi trường, trồng cây xanh, khôi phục thảm
thực vật, hệ sinh thái,... Đồng thời, để nâng cao hiệu quả đối với bảo vệ môi trường,
việc đầu tư và sử dụng ngân sách cho lĩnh vực này cần gắn với khuôn khổ chi tiêu
trung hạn – MTEF (Mid–Term Expenditure Framwork), tức là theo thứ tự ưu tiên
trong đầu tư cho những vấn đề môi trường ở mức độ nghiêm trọng hơn và theo cuốn
chiếu (hạn chế việc đầu tư tràn lan).
c) Nâng cao tư duy, nhận thức trong việc xử lý các vấn đề, mâu thuẫn trong quá
trình khai thác khoáng sản
Việc chia sẻ lợi ích với cộng đồng chưa phù hợp là bởi các cơ chế về bảo hộ
quyền lợi của người dân địa phương chậm được thi hành. Quyết định số
219/1999/QĐ–TTg về bảo hộ quyền lợi của người dân địa phương được ban hành
năm 1999, nhưng trên thực tế hầu như chưa được áp dụng; Điều 5 (Luật Khoáng
sản 2010) sau 5 năm luật có hiệu lực thi hành song đến nay vẫn thiếu các hướng dẫn
cụ thể. Tại một số dự án khai thác khoáng sản, khi nhà nước thu hồi đất chỉ thu hồi
phần đất phục vụ dự án, một số hộ có diện tích còn lại, thậm chí rất nhỏ, nhưng
không được thu hồi luôn gây ra bất lợi đối với người dân. Nghị định số 12/2016 về
phí BVMT đối với khai thác khoáng sản có quy định để lại 100% cho địa phương
145
nơi khai thác khoáng sản và hội đồng nhân dân cấp tỉnh quyết định phân bổ khoản
thu này. Đây là những vấn đề thuộc về nhận thức của các cấp chính quyền địa
phương khi giải quyết các xung đột xã hội liên quan đến khai thác khoáng sản.
Ngành công nghiệp khai khoáng không phải là ngành thâm dụng lao động, thêm
vào đó, khi thực hiện tăng trưởng xanh có thể sẽ áp dụng các công nghệ, máy móc
thiết bị hiện đại, điều này có nguy cơ dẫn đến ngành này càng sử dụng ít lao động
hơn. Để giải quyết vấn đề này, về mặt chiến lược, khi thực hiện khai thác khoáng
sản cần đẩy mạnh chế biến khoáng sản, tạo sự lan tỏa từ khai thác khoáng sản có
tiềm năng tạo ra việc làm. Đồng thời, trong quá trình thực hiện chiến lược tăng
trưởng xanh, nhà nước cần chuyển gánh nặng thuế từ lao động và vốn sang đối với
sử dụng tài nguyên thiên nhiên nhằm tạo nguồn lực và khuyến khích tạo việc làm.
Việc sử dụng nguồn thu từ khai thác khoáng sản đầu tư vào nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực, khoa học – công nghệ trước hết là để phục vụ trở lại cho công
nghiệp khai khoáng; đồng thời, nhằm đảm bảo công bằng giữa các thế hệ trong tiếp
cận tài nguyên thiên nhiên thông qua việc tạo ra các nguồn vốn thay thế. Để thực
hiện được việc này, kinh nghiệm từ các nước (ví dụ Na Uy, Úc,..) cho thấy là nguồn
thu từ khai thác khoáng sản được tách thành hạng mục riêng và/hoặc thành lập quỹ
tài nguyên thiên nhiên để đầu tư vào giáo dục, y tế,…
4.3.1.7. Các gợi ý, giải pháp đối với các doanh nghiệp khai khoáng và các doanh
nghiệp liên quan đến sản phẩm khoáng sản
Hiện nay, các doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp khai khoáng nói riêng
đang đứng trước nhiều thách thức, ràng buộc: i) các cơ quan quản lý nhà nước ngày
càng đặt ra các tiêu chuẩn cao hơn về bảo vệ môi trường và gắn với nguyên tắc
“người gây ô nhiễm phải trả tiền” và các chế tài xử phạt các hành vi vi phạm pháp
luật về bảo vệ môi trường, xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực khai thác
khoáng sản ngày càng tăng về tình tiết và mức xử phạt; ii) hội nhập là cơ hội để các
doanh nghiệp tiếp cận các nguồn lực phát triển nhưng cũng cạnh tranh gay gắt; iii)
các tiêu chuẩn về môi trường, an toàn vệ sinh lao động là những điều kiện để tài trợ
vốn, xâm nhập thị trường và cho tham gia vào chuỗi sản xuất toàn cầu. Nhằm góp
phần vượt qua những thách thức này, các doanh nghiệp khai khoáng và các doanh
146
nghiệp có liên quan cần tập trung vào những vấn đề sau:
– Đổi mới công nghệ khai thác khoáng sản, đổi mới phương thức và quy trình
quản lý. Đổi mới công nghệ khai thác, chế biến nhằm tận dụng tài nguyên khoáng
sản và bảo vệ môi trường: tận dụng tối đa các bãi thải trong hoặc khai thác cuốn
chiếu để hoàn thổ nhằm hạn chế thải ra môi trường. Tổ chức trình tự khai thác mỏ
một cách hợp lý, tránh tình trạng mỏ dễ làm trước, mỏ khó thì bỏ lại.
– Nhà nước sẽ đẩy mạnh thực hiện nguyên tắc “người gây ô nhiễm phải trả
tiền”, điều này ảnh hưởng tới chi phí sản xuất. Theo đó, các doanh nghiệp cần sử
dụng tiết kiệm và hiệu quả tài nguyên và thay đổi cơ cấu nhiên liệu, đầu vào: giảm
năng lượng từ nguồn nhiên liệu hoá thạch, khuyến khích khai thác và sử dụng các
nguồn năng lượng mới, có khả năng tái tạo, ít phát thải khí nhà kính.
– Trong chuỗi sản xuất cung ứng một sản phẩm, thay vì chỉ một doanh nghiệp
đứng ra sản xuất, có thể hợp tác với các doanh nghiệp khác để chuyên môn hóa
từng khâu, từng công đoạn sản xuất. Việc đẩy mạnh liên kết, hợp tác với các doanh
nghiệp với các doanh nghiệp khác có thể giúp giảm chi phí sản xuất, nâng cao khả
năng cạnh tranh. Chẳng hạn, tại tổ hợp khai thác bôxit ở Nhân Cơ (Đắk Nông),
Công ty luyện nhôm Trần Hồng Quân có thể tiết kiệm được chi phí vận tải nhờ
chuyển đầu một cách trực tiếp từ dự án khai thác bôxit hay các công ty phát triển
các sản phẩm sau nhôm có thể tiết kiệm chi phí năng lượng (để nung chảy) do
chuyển nhôm nóng chảy từ Trần Hồng Quân.
– Các doanh nghiệp cũng cần tranh thủ sự giúp đỡ của các quốc gia, các tổ chức
quốc tế để thực hiện các dự án trao đổi tín chỉ cacbon (CDM), hỗ trợ sản xuất sạch.
Đây là những cơ hội để huy động nguồn vốn và/hoặc thay đổi công nghệ sản xuất.
4.3.2. Điều kiện để thực hiện có hiệu quả các giải pháp
Để thực hiện các giải pháp ở trên có hiệu quả thì cần có các điều kiện sau đây:
4.3.2.1. Chất lượng nguồn nhân lực trong các cơ quan quản lý nhà nước
Với hạn chế, yếu kém về số lượng, chất lượng của đội ngũ cán bộ quản lý nhà
nước về khai thác khoáng sản và bảo vệ môi trường ở các cấp, nhất là cấp huyện sẽ
đặt ra những thách thức trong việc thực thi và giám sát việc thực thi các chính sách,
147
pháp luật. Vì vậy, để thực hiện và thực hiện có hiệu quả các giải pháp chính sách
cần đẩy mạnh việc nâng cao chất lượng, năng lực quản lý của đội ngũ cán bộ quản
lý nhà nước ở các cấp liên quan đến khai thác khoáng sản.
4.3.2.2. Các nguồn lực đối với các doanh nghiệp khai khoáng
Các doanh nghiệp khai thác khoáng sản có thể chuyển sang thực hiện các mục
tiêu của tăng trưởng xanh đòi hỏi phải có các nguồn lực, trước hết là vốn đầu tư cho
việc đổi mới công nghệ.
– Vốn cho việc đầu tư đổi mới công nghệ, máy móc thiết bị: Vốn hóa tài sản, giá
trị của mỏ khoáng sản nhằm tạo nguồn lực cho đầu tư đổi mới công nghệ. Các
doanh nghiệp khai khoáng thường là quy mô nhỏ và thiếu vốn hoạt động. Các
kinh nghiệm từ lĩnh vực đất đai cho thấy “vốn hóa tài sản, giá trị của mỏ” là một
kênh để giúp các doanh nghiệp huy động vốn. Tuy nhiên, trong các quy định
hiện hành các loại tài nguyên được quy định thuộc sở hữu toàn dân. Nếu doanh
nghiệp mang các mỏ khoáng sản (thực tế không phải là tài sản của họ) đi thế
chấp để vay vốn là không phù hợp. Điều này đòi hỏi cần có những hành lang
pháp lý liệu vốn hóa để huy động vốn từ các mỏ thì nguồn vốn đó là như thế nào.
– Chất lượng nguồn nhân lực cho doanh nghiệp khai khoáng: Nguồn nhân lực
của các doanh nghiệp khai thác khoáng sản mặc dù đã có sự phát triển cả về lượng
và về chất nhưng vẫn còn không ít hạn chế (nhất là tiếp cận và làm chủ đối với công
nghệ cao, công nghệ chế biến sâu). Để thực hiện sản xuất theo hướng tăng trưởng
xanh, cùng với việc đầu tư đổi mới công nghệ và máy móc thiết bị, cần nâng cao
chất lượng nguồn nhân lực trong các doanh nghiệp khai khoáng để làm chủ công
nghệ và thực thi có hiệu quả các chính sách về khai thác khoáng sản.
4.3.2.3. Phát triển ngành công nghiệp môi trường nhằm hỗ trợ khai thác khoáng sản
Các doanh nghiệp khai khoáng muốn chấp hành các quy định về BVMT cũng
chưa đủ năng lực, điều kiện để xử lý các vấn đề về môi trường. Chính vì vậy, việc
xanh hóa khai thác khoáng sản đòi hỏi có những ngành sản xuất và cung ứng dịch
vụ thân thiện với môi trường nhằm hỗ trợ quá trình tăng trưởng xanh, giải quyết hậu
quả về môi trường, cụ thể: cung cấp các dịch vụ về phân tích và quan trắc môi
trường; tư vấn về quản lý, kiểm soát ô nhiễm; phát triển công nghệ và sản xuất thiết
148
bị: sản xuất, chế tạo các thiết bị, máy móc xử lý, tái chế, tái sử dụng chất thải,…;
các hoạt động hoàn thổ các mỏ khoáng sản sau khai thác, trồng cây xanh, khôi phục
thảm thực vật; các hoạt động tái chế chất thải như thu hồi kim loại nặng, chất thải
điện tử;…
Tiểu kết chương 4
Những bối cảnh mới đối với khai thác khoáng sản trong giai đoạn tới đó là: 1)
xu hướng cạn kiệt tài nguyên và sự tăng giá của sản phẩm khoáng sản; 2) BĐKH
diễn biến ngày càng phức tạp, khó lường và tác động tới khai thác khoáng sản; 3)
nước ta đang thực hiện đổi mới mô hình tăng trưởng theo chiều sâu, thực hiện
tăng trưởng xanh nên khai thác khoáng sản phải thay đổi theo; 4) Việt Nam đưa
ra cam kết trước cộng đồng quốc tế về BVMT và ngày càng hội nhập sâu rộng
với các yêu cầu cao hơn về môi trường;... Những bối cảnh mới này đòi hỏi thay
đổi phương thức và cách tiếp cận đối với khai thác khoáng sản.
Cách tiếp cận để giải quyết vấn đề đối với khai thác khoáng sản trong giai đoạn
tới bao gồm: 1) việc thực hiện những nội dung này cần dựa vào các tiến bộ khoa
học – công nghệ; 2) với thể chế hiện đại: đẩy mạnh sử dụng các công cụ kinh tế
trong quản lý tài nguyên và môi trường, xóa bỏ cơ chế kiểm soát giá cả, xóa bỏ trợ
cấp trực tiếp và/hoặc gián tiếp đối với doanh nghiệp khai khoáng và sử dụng sản
phẩm khoáng sản và có sự tham gia của nhiều bên có liên quan vào quản trị và giám
sát các hoạt động khai thác khoáng sản; 3) dựa vào hội nhập kinh tế quốc tế (khai
thác các nguồn lực bên ngoài), tham gia chuỗi sản xuất toàn cầu và sức ép từ hội
nhập để đổi mới về công nghệ, thể chế);...
Việc hoàn thiện, đổi mới các chính sách về khai thác khoáng sản trong chiến
lược tăng trưởng xanh ở Việt Nam cần được thực hiện qua hai kênh: xanh hóa sản
xuất đối với khai thác khoáng sản và các lĩnh vực liên quan tới khai thác khoáng
sản. Theo đó, cần đổi mới, hoàn thiện các chính sách, pháp luật về khai thác khoáng
sản theo quan điểm tăng trưởng xanh; đồng thời, có các chính sách về phát triển các
ngành, lĩnh vực hỗ trợ cho khai thác khoáng sản thực hiện tăng trưởng xanh.
Để các giải pháp phát huy hiệu quả cần có những điều kiện quan trọng: hệ thông
149
luật pháp nghiêm minh, công bằng, đảm bảo tính minh bạch và trách nhiệm giải
trình; có một hệ thống quản trị đủ năng lực; có sự tham gia của các bên liên quan
vào quản trị khai thác khoáng sản.
KẾT LUẬN
Luận án đã hệ thống hóa và luận giải cơ sở lý luận và kinh nghiệm quốc tế về
khai thác khoáng sản trong tăng trưởng xanh. Trong đó, luận án đã hệ thống hóa,
làm rõ các khái niệm về khai thác khoáng sản, tăng trưởng xanh; xác lập những tiêu
chí đánh giá và phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến khai thác khoáng sản trong
tăng trưởng xanh; sự cần thiết và khái quát hóa một số kinh nghiệm về khai thác
khoáng sản trong việc phát triển bền vững, tăng trưởng xanh đối với nền kinh tế và
rút ra bài học kinh nghiệm cho Việt Nam.
Luận án đã đánh giá thực trạng khai thác khoáng sản trong chiến lược tăng
trưởng xanh ở Việt Nam theo các tiêu chí tăng trưởng xanh; những vấn đề đặt ra đối
với khai thác khoáng sản trong việc thực hiện chiến lược tăng trưởng xanh. Các
phân tích, đánh giá thực trạng khai thác khoáng sản trong chiến lược tăng trưởng
xanh cho thấy một số vấn đề cơ bản sau đây:
– Việc khai thác khoáng sản từng bước điều chỉnh theo hướng chuyền dần từ
quan điểm khai thác phục vụ phát triển kinh tế trước mắt sang quan điểm khai thác
vì mục tiêu lâu dài và từng bước được hoàn thiện theo hướng tiếp cận với các mục
tiêu của tăng trưởng xanh. Các chính sách, pháp luật về khoáng sản ngày càng được
hoàn thiện theo dựa vào các công cụ kinh tế, mang tính thị trường. Khai thác
khoáng sản có những đóng góp nhất định vào phát triển kinh tế – xã hội.
– Các kết quả phân tích cho thấy việc khai thác khoáng sản vẫn còn không ít vấn
đề tồn tại và có nguy cơ ảnh hưởng tới thực hiện chiến lược tăng trưởng xanh:
Thứ nhất, việc khai thác khoáng sản, nhưng cách làm kém hiệu quả, chủ yếu ở
dạng sơ chế và công đoạn có giá trị gia tăng thấp, hiệu quả sử dụng chưa cao và
chưa phát huy tối đa lợi ích từ khai thác khoáng sản để phát triển các ngành công
150
nghiệp khác (thiếu sự liên kết và thúc đẩy phát triển các ngành công nghiệp chế biến).
Thứ hai, cách tiếp cận và quản trị khai thác khoáng sản trong giai đoạn vừa qua
có nguy cơ dẫn tới việc các doanh nghiệp khai khoáng tham gia vì muốn thu lợi
nhuận nhanh nên chỉ chú trọng khai thác và dừng lại ở khâu sơ chế quặng.
Thứ ba, việc bảo vệ môi trường trong khai thác khoáng sản chưa được quan tâm
đúng mức, nhất là ở khâu thực thi và thiên về lợi ích kinh tế hơn là bảo vệ TNMT.
Hệ quả là thiếu bền vững về tài nguyên (cạn kiệt) và môi trường (suy thoái, ô nhiễm
nặng) kéo theo nhiều hệ lụy tiêu cực đối với phát triển kinh tế – xã hội.
Luận án đã chỉ ra các tồn tại, hạn chế cũng như các nguyên nhân của các tồn tại,
hạn chế của khai thác khoáng sản trên quan điểm tăng trưởng xanh trong thời gian
qua ở nước ta. Đồng thời, trên cơ sở phân tích các bối cảnh quốc tế, trong nước
trong thời gian tới; luận án đã đề xuất một số quan điểm, định hướng và các giải pháp
chủ yếu về khai thác khoáng sản trong chiến lược tăng trưởng xanh ở Việt Nam.
Chủ đề “khai thác khoáng sản trong chiến lược tăng trưởng xanh” là vấn đề
tương đối rộng và mới mẻ ở Việt Nam, luận án còn một số vấn đề chưa làm nổi bật
và đề xuất các nghiên cứu tiếp theo:
– Xác định vấn đề khai thác khoáng sản như thế nào để đáp ứng các yêu cầu của
chiến lược tăng trưởng xanh ở Việt Nam;
– Trong các tính toán về chỉ số phát triển bền vững ngành công nghiệp khai
khoáng cần bổ sung thêm các chỉ tiêu trong các chỉ số thành phần và tính trọng số
của chỉ số thành phần;
– Về mối quan hệ giữa tốc độ tăng trưởng khai thác khoáng sản và tăng trưởng
TFP, nhận định trong đề tài chủ yếu là từ chẩn đoán ban đầu, cần có các mô hình
151
định lượng để kiểm định mối quan hệ này.
152
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ
LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
1. Nguyễn Đình Hòa (2016), “Lời nguyền tài nguyên từ khai thác khoáng sản ở
Nigeria và bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam”, Tạp chí Phát triển bền
vững Vùng, Quyển 6, số 1 (Tháng 3/2016), tr.3–10.
2. Nguyễn Đình Hòa (2015), “Khai thác, sử dụng nguyên, nhiên, vật liệu và những
vấn đề đặt ra đối với Việt Nam trong bối cảnh tăng trưởng xanh”, Tạp chí
Nghiên cứu kinh tế, số 6/2015, tr.46–52.
3. Nguyễn Đình Hòa (2014), “Góp bàn về khai thác tài nguyên khoáng sản trong
bối cảnh tăng trưởng xanh”, Tạp chí Nghiên cứu Địa lý nhân văn, số 2/2014,
tr.25–32.
4. Nguyễn Đình Hòa (2013), “Thực trạng quản lý, khai thác và sử dụng khoáng sản
titan tại tỉnh Bình Định”, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế, số 8/2013, tr.57– 66.
5. Nguyễn Đình Hòa, Phạm Quang Tú (2013), “Một số vấn đề trong công tác quản
trị để phát triển bền vững ngành khai thác khoáng sản”, Tạp chí Nghiên cứu
153
Phát triển bền vững, số 1/2013, tr.53–57.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
[1] Vũ Tuấn Anh (chủ biên), Bùi Quang Tuấn, Đào Hoàng Mai, Nguyễn Trung
Thắng (2015), Tiến tới nền kinh tế xanh ở Việt Nam: Xanh hóa sản xuất, nhà
xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội.
[2] Vũ Thành Tự Anh (2012), Phân cấp kinh tế ở Việt Nam, nhìn từ góc độ thể
chế, Tham luận tại Diễn đàn kinh tế mùa thu 2012, Ủy ban Kinh tế của Quốc
hội, tháng 9 – 2012.
[3] Nguyễn Minh Bảo và John Sawdon (2011), Đánh giá môi trường về ảnnh
hưởng và tác động tiềm năng của dỡ bỏ trợ cấp nhiên liệu hóa thạch và
đánh thuế”, Báo cáo hợp phần (Dự án UNDP về Chính sách tài khóa về
nhiên liệu hóa thạch và phát thải khí nhà kính ở Việt Nam – Giai đoạn I).
[4] Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2015), Báo cáo quốc gia về kết quả 2015 năm thực
hiện các mục tiêu phát triển thiên niên kỷ của Việt Nam, Hà Nội.
[5] Bộ Tài nguyên và Môi trường (2013a), Báo cáo Ủy ban Thường vụ Quốc hội
về quản lý nhà nước trong lĩnh vực tài nguyên và môi trường, Báo cáo số
3141/BTNMT–PC ngày 15/8 /2013, Hà Nội.
[6] Bộ Tài nguyên và Môi trường (2013b), Báo cáo tổng kết 8 năm thi hành Luật
Bảo vệ môi trường 2005, Hà Nội.
[7] Bộ Tài nguyên và Môi trường (2011), Báo cáo môi trường quốc gia năm 2011:
Chất thải rắn, Hà Nội.
[8] Bộ Tài nguyên và Môi trường (2009), Báo cáo tổng kết 13 năm thi hành Luật
Khoáng sản 1996, Hà Nội.
[9] Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2012), Báo cáo số 423/BNN-KHCN
ngày 24 tháng 02 năm 2012 về tình hình thực hiện chính sách, pháp luật về
quản lý khai thác khoáng sản gắn với bảo vệ môi trường (Báo cáo gửi Đoàn
giám sát của Ủy ban thường vụ Quốc hội, năm 2012), Hà Nội.
[10] Chính phủ (2012), Báo cáo số 167/BC - CP ngày 25 tháng 6 năm 2012 của
154
Chính phủ về “Việc thực hiện chính sách, pháp luật về quản lý, khai thác
khoáng sản gắn với bảo vệ môi trường” (Báo cáo gửi Đoàn giám sát của Ủy
ban thường vụ Quốc hội, năm 2012), Hà Nội.
[11] Nguyễn Thế Chinh (2011), Chuyển đổi phương thức phát triển kinh tế theo
hướng nền kinh tế xanh ở Việt Nam, Viện Chiến lược Chính sách Tài
nguyên và Môi trường, Hà Nội.
[12] Phạm Thủy Chung (2012), Pháp luật về hoạt động khai thác và chế biến
khoáng sản ở Việt Nam, Luận văn thạc sĩ luật học, Đại học Luật Hà Nội, Hà
Nội.
[13] Chương trình phát triển Liên hợp quốc – UNDP (2014), “Tăng trưởng xanh và
chính sách tài khóa về nhiên liệu hóa thạch ở Việt Nam - các kiến nghị về lộ
trình cải cách”, Dự án UNDP về Chính sách tài khóa về nhiên liệu hóa thạch
và phát thải khí nhà kính ở Việt Nam – Giai đoạn II.
[14] Chương trình phát triển Liên hợp quốc – UNDP (2012), “Chính sách tài khóa
về nhiên liệu hóa thạch và phát thải khí nhà kính ở Việt Nam: Trợ giá và
đánh thuế trong ngành năng lượng của Việt Nam, và các tác động đến phát
triển kinh tế và phân phối thu nhập trong bối cảnh ứng phó với Biến đổi khí
hậu”, Dự án UNDP về Chính sách tài khóa về nhiên liệu hóa thạch và phát
thải khí nhà kính ở Việt Nam – Giai đoạn I.
[15] Công ty Chứng khoán Rồng Việt (2011), Hàng hóa nguyên liệu thô: mối lo lạm
phát của các quốc gia đang phát triển, Báo cáo chuyên đề nghiên cứu (ngày
26/4/2011), Hà Nội.
[16] Trung Đức (2012), “Tăng trưởng xanh trong xu thế toàn cầu, vấn đề đặt ra từ
tầm nhìn dài hạn”, Tạp chí Nghiên cứu phát triển bền vững (Số 2/2012),
tr.25–28.
[17] Lê Đăng Doanh (2014), “Xu hướng quốc tế, bối cảnh kinh tế - chính trị và các
tác động đối với quá trình minh bạch hóa trong quản trị tài nguyên thiên
nhiên ở Việt Nam”, Tham luận tại Hội thảo Thúc đẩy minh bạch trong quản
trị tài nguyên thiên nhiên ở Việt Nam, Trung tâm Con người và Thiên nhiên
tổ chức, ngày 15/07/2014, Hà Nội.
155
[18] Nguyễn Đình Hòa (2015), “Khai thác tài nguyên khoáng sản và những rủi ro phát
triển”, Tham luận tại Hội thảo Cơ cấu kinh tế: những rủi ro phát triển, Viện
Kinh tế Việt Nam tổ chức, ngày 08/01/2015, tại Thành phố Hồ Chí Minh.
[19] Nguyễn Đình Hòa (2013a), “Thực trạng quản lý, khai thác và sử dụng khoáng sản
titan tại tỉnh Bình Định”, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế, số 8/2013, tr.57– 66.
[20] Nguyễn Đình Hòa (2013b), “Thực trạng quản lý, khai thác và sử dụng tài
nguyên khoáng sản ở Thái Nguyên”, Tham luận tại Hội thảo Tăng cường sự
tham gia của cộng đồng và trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp khai
khoáng ở Thái Nguyên, được tổ chức bởi Sở Tài nguyên và Môi trường Thái
Nguyên và Viện Tư vấn phát triển, ngày 26/12/2013, tại Thái Nguyên.
[21] Nguyễn Đình Hòa (2013c), “Hiệu quả kinh tế – xã hội, phân chia lợi ích và
quản lý nguồn thu từ hoạt động khai thác titan tại tỉnh Bình Định”, Tham
luận tại Hội thảo Phương pháp quản lý nguồn thu nhằm nâng cao hiệu quả
kinh tế- xã hội của công nghiệp khai thác khoáng sản, được tổ chức bởi Sở
Công thương Bình Định, Viện Tư vấn phát triển và Trung tâm Con người &
Thiên nhiên, ngày 20/03/2013, tại Bình Định.
[22] Trịnh Thị Ái Hoa (2014), “Một số vấn đề về phân cấp quản lý nhà nước về
kinh tế ở Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế, số 428 (tháng 1/2014),
trang 39 – 45.
[23] Nguyễn Trọng Hoài (2013), Các chủ đề phát triển chọn lọc: khung phân
tích và bằng chứng thực nghiệm cho Việt Nam, nhà xuất bản Kinh tế
Tp. Hồ Chí Minh.
[24] Nguyễn Trọng Hoài (2012), “Mô hình tăng trưởng xanh khung phân tích và lựa
chọn chính sách cho Việt Nam”, Tạp chí Phát triển kinh tế, số 259/2012,
tr.30 – 39.
[25] Vũ Xuân Nguyệt Hồng, Ngô Minh Tuấn, Hồ Công Hòa (2009), Các tác động
tới phát triển bền vững của các chính sách khuyến khích đầu tư: nghiên cứu
trường hợp công nghiệp khai thác khoáng sản, Báo cáo nghiên cứu (Viện
Quản lý kinh tế Trung ương – CIEM).
[26] Lê Văn Hùng (2015), “Thực trạng năng suất lao động của Việt Nam từ sau đổi
156
mới và những nút thắt ràng buộc cất cánh phát triển”, Tham luận tại Hội thảo
về Tổng kết 30 năm phát triển kinh tế Việt Nam (giai đoạn 1986 – 2015), Viện
Kinh tế Việt Nam tổ chức, ngày 19/11/2015, tại Hà Nội.
[27] Đào Trọng Hưng, Lê Văn Hùng, Jason Morris–Jung, Nguyễn Thị Thu Thủy,
Trần Chí Trung (2010), “Trách nhiệm đối với các vấn đề môi trường trong
khai thác khoáng sản: trường hợp khai thác than ở mỏ than Hà Tu, tỉnh
Quảng Ninh”, Tham luận tại Hội thảo Tài nguyên khoáng sản và phát triển
bền vững ở Việt Nam do Tổng hội Địa chất Việt Nam, Liên hiệp các hội
Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA), Viện Tư vấn phát triển (CODE)
tổ chức 5/2010, tại Hà Nội.
[28] Nguyễn Thị Mai Hương (2008), Phân tích hiệu quả kinh doanh trong các
doanh nghiệp khai thác khoáng sản Việt Nam, luận án tiến sĩ Kinh tế, Đại
học Kinh tế quốc dân, Hà Nội.
[29] Hoàng Văn Khanh (2008), “Hiện trạng khai thác khoáng sản ở Việt Nam”, Tạp
chí Công nghiệp, số 64/2008.
[30] Vũ Đăng Khoa (2015), “Khai thác khoáng sản: từ câu chuyện ở cộng đồng đến
các vấn đề chính sách”, tham luận của UBND thị trấn Trại Cau (huyện Đồng
Hỷ, tỉnh Thái Nguyên) tại hội thảo do Trung tâm Con người và Thiên nhiên
(PanNature) tổ ngày 20/10/2015, tại Hà Nội.
[31] Lại Văn Mạnh (2016), Vai trò của chính sách tài chính trong quản lý hoạt
động khai thác khoáng sản ở Việt Nam theo định hướng phát triển bền vững,
luận án tiến sĩ Kinh tế, Học viện Khoa học xã hội, Hà Nội.
[32] Nguyễn Cảnh Nam (2012), “Chức năng quản lý, khai thác khoáng sản gắn với
bảo vệ môi trường theo pháp luật Việt Nam hiện hành; kiến nghị và đề
xuất”, Tham luận tại Hội thảo Việc thực hiện chính sách, pháp luật về quản
lý, khai thác khoáng sản gắn với bảo vệ môi trường do Đoàn giám sát của
Ủy ban thường vụ Quốc hội (Việc thực hiện chính sách, pháp luật về quản
lý, khai thác khoáng sản gắn với bảo vệ môi trường) tổ chức ngày
2/3/2012, tại Hà Nội.
[33] Nguyễn Cảnh Nam, Lê Tiến Đạt, và cộng sự (2010), Nghiên cứu xây dựng bộ
157
chỉ tiêu phát triển bền vững cho ngành công nghiệp khai khoáng Việt Nam,
Đề tài nghiên cứu khoa học (Hội Khoa học công nghệ mỏ Việt Nam).
[34] Nguyễn Cảnh Nam, Đinh Văn Sơn (2010), “Xây dựng mô hình PTBV cho
ngành công nghiệp khai khoáng Việt Nam”, Tham luận tại Hội thảo Tài
nguyên khoáng sản và phát triển bền vững ở Việt Nam do Tổng hội Địa chất
Việt Nam, Liên hiệp các hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA),
Viện Tư vấn phát triển (CODE) tổ chức 5/2010, tại Hà Nội.
[35] Nguyễn Cảnh Nam, Nguyễn Quang Tuyên (2010), “Định hướng PTBV ngành
công nghiệp khai khoáng Việt Nam”, trong Tuyển tập Hội nghị khoa học mỏ
quốc tế, tổ chức 9/2010, tại Hạ Long (tỉnh Quảng Ninh).
[36] Ngân hàng Thế giới (2013), Tạo thuận lợi thương mại, tạo giá trị và nâng cao
năng ực cạnh tranh - Gợi ý cho chính sách tăng trưởng kinh tế của Việt
Nam, Báo cáo nghiên cứu, Hà Nội.
[37] Ngân hàng Thế giới (2012), Tăng trưởng xanh cho mọi người: con đường
hướng tới phát triển bền vững, nhà xuất bản Hồng Đức, Hà Nội.
[38] Ngân hàng Thế giới (2010), Quản lý tài nguyên thiên nhiên, Báo cáo phát triển
Việt Nam – năm 2010, Hà Nội.
[39] Ngân hàng Thế giới (2008), Của cải của các quốc gia ở đâu? Đo lường nguồn
của cải Thế kỷ 21, nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.
[40] Trần Ngọc Ngoạn (chủ biên), Hà Huy Ngọc, Nguyễn Song Tùng, Phạm Thị
Trầm, Hà Huy Thành (2016), Chính sách thúc đẩy tăng trưởng xanh - Kinh
nghiệm quốc tế và thực tiễn Việt Nam, nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.
[41] Nguyễn Linh Ngọc (2012), “Tình hình thực hiện pháp luật về môi trường của
các tổ chức, cá nhân khai thác khoáng sản”, Tham luận tại Hội thảo Việc
thực hiện chính sách, pháp luật về quản lý, khai thác khoáng sản gắn với
bảo vệ môi trường do Đoàn giám sát của Ủy ban thường vụ Quốc hội (Việc
thực hiện chính sách, pháp luật về quản lý, khai thác khoáng sản gắn với
bảo vệ môi trường) tổ chức ngày 7/7/2012, tại Quảng Ninh.
[42] Nghiêm Xuân Nguyên (2014), “Hiện trạng và phương hướng phát triển sản
xuất sạch hơn trong chế biến khoáng sản tỉnh Thái Nguyên”, trong Tuyển
158
tập Báo cáo tại Hội nghị khoa học – công nghệ tuyển khoáng toàn quốc lần
thứ IV “Vai trò của chế biến khoáng sản trong phát triển các ngành công
nghiệp Việt Nam”, Hội Tuyển khoáng Việt Nam, nhà xuất bản Khoa học Tự
nhiên và Công nghệ, Hà Nội.
[43] Dương Hồng Phi, Doãn Duy Cầm (1998), Tổng quan về hiện trạng trữ lượng,
khai thác và sử dụng khoáng sản ở Việt Nam, Văn phòng Hội đồng đánh giá
trữ lượng khoáng sản, Hà Nội.
[44] Phòng Thương mại công nghiệp Việt Nam –VCCI và Viện Tư vấn phát triển –
CODE (2011), Sáng kiến minh bạch ngành công nghiệp khai khoáng –EITI
và khả năng tham gia của Việt Nam, Báo cáo nghiên cứu, Hà Nội.
[45] Nguyễn Ngọc Phú (2014), “Các tiến bộ trong công nghệ đập nghiền khoáng
sản”, trong Tuyển tập Báo cáo tại Hội nghị khoa học – công nghệ tuyển
khoáng toàn quốc lần thứ IV “Vai trò của chế biến khoáng sản trong phát
triển các ngành công nghiệp Việt Nam”, Hội Tuyển khoáng Việt Nam, nhà
xuất bản Khoa học Tự nhiên và Công nghệ, Hà Nội.
[46] Nguyễn Đức Quý (2010), “Phát triển bền vững tài nguyên khoáng sản”, Tham
luận tại Hội thảo Tài nguyên khoáng sản và phát triển bền vững ở Việt Nam do
Tổng hội Địa chất Việt Nam, Liên hiệp các hội Khoa học và Kỹ thuật Việt
Nam (VUSTA), Viện Tư vấn phát triển (CODE) tổ chức 5/2010, tại Hà Nội.
[47] Nguyễn Danh Sơn (2012), Kinh phí sự nghiệp môi trường ở Việt Nam – Thực
trạng, vấn đề và kiến nghị, Báo cáo Nghiên cứu – Dự án Quản lý nhà nước
về môi trường cấp tỉnh ở Việt Nam (Bộ Tài nguyên và Môi trường).
[48] Nguyễn Danh Sơn (2009), Điều tra, đánh giá và đề xuất chính sách quản lý
chất thải rắn trong khai thác và sử dụng khoáng sản theo hướng bền vững
vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, Đề tài khoa học cấp bộ, (Viện nghiên cứu
Phát triển bền vững vùng Bắc Bộ – Viện Khoa học Xã hội Việt Nam).
[49] Nguyễn Ngọc Sơn (2011), “Chất lượng tăng trưởng kinh tế Việt Nam: Mười
năm nhìn lại và giải pháp cho tương lai”, trong sách Chất lượng tăng trưởng
kinh tế Việt Nam: mười năm nhìn lại và định hướng tương lai do Nguyễn
Ngọc Sơn và Phạm Hồng Chương (chủ biên), nhà xuất bản Giao thông vận
159
tải, Hà Nội.
[50] Nguyễn Thành Sơn (2012), “Một số ý kiến về thực trạng chính sách và đề xuất
định hướng quản lý, sử dụng bền vững tài nguyên khoáng sản Việt Nam”, Tham
luận tại Hội thảo Việc thực hiện chính sách, pháp luật về quản lý, khai thác
khoáng sản gắn với bảo vệ môi trường do Đoàn giám sát của Ủy ban thường vụ
Quốc hội (Việc thực hiện chính sách, pháp luật về quản lý, khai thác khoáng
sản gắn với bảo vệ môi trường) tổ chức ngày 2/3/2012 tại Hà Nội.
[51] Nguyễn Văn Tài (2011), “Tăng trưởng xanh: Lựa chọn nào cho Việt Nam”, Tham
luận tại Diễn đàn ASEM về Tăng trưởng xanh, tháng 10/20011, Hà Nội.
[52] Trần Nhật Tân (2015), “Giải pháp chính sách phát triển Khu kinh tế Vũng Áng
tỉnh Hà Tĩnh trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế”, Tạp chí Nghiên cứu
kinh tế, số 12/2015, tr.59 – 67.
[53] Bùi Tất Thắng (2012), “Tăng trưởng xanh và quá trình tái cơ cấu nền kinh tế”,
Tạp chí Kinh tế và Dự báo, số 3/2012, tr.8–10.
[54] Hà Tất Thắng (2015), Quản lý nhà nước về an toàn, vệ sinh lao động trong các
doanh nghiệp khai thác đá ở Việt Nam, luận án tiến sĩ Kinh tế, Học viện
Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
[55] Nguyễn Xuân Thắng, Vũ Tuấn Anh, Nguyễn Mạnh Hùng, Nguyễn Xuân Trung
(2013), Quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế xanh: Kinh nghiệm của Hàn
Quốc và một số gợi mở cho Việt Nam, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ
(Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam).
[56] Lại Hồng Thanh, Trịnh Xuân Hòa, Hoàng Văn Khoa, Hoàng Cao Phương,
Nguyễn Đức Thu, Đào Chí Biền, Phạm Việt Huy, Thân Văn Kết (2012),
Nghiên cứu, đề xuất giải pháp hiệu quả nhằm bảo vệ khoáng sản chưa khai
thác, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ (Mã số TNMT.03/10–15), Viện
Khoa học Địa chất và Khoáng sản, Hà Nội.
[57] Lê Văn Thành (2004), Khai thác khoáng sản và tác động đến môi trường, Tổng
cục Địa chất và Khoáng sản, Hà Nội.
[58] Trần Đình Thiên (2014), “Một số nhận định về vai trò của khai thác tài nguyên
đối với kinh tế Việt Nam trong 2 thập kỷ qua và xu hướng trong giai đoạn
160
tái cơ cấu nền kinh tế”, Tham luận tại Hội thảo Thúc đẩy minh bạch trong
quản trị tài nguyên thiên nhiên ở Việt Nam, Trung tâm Con người và Thiên
nhiên tổ chức, ngày 15/07/2014, Hà Nội.
[59] Đặng Trung Thuận (2012), “Khai thác, chế biến quặng titan ở các tỉnh ven biển
miền Trung và vấn đề môi trường có liên quan”, Tham luận tại Tọa đàm
Thực thi chính sách, pháp luật về quản lí, khai thác titan và một số khoáng
sản khác vùng duyên hải miền Trung gắn với bảo vệ môi trường do Đoàn
giám sát của Ủy ban thường vụ Quốc hội (Việc thực hiện chính sách, pháp
luật về quản lý, khai thác khoáng sản gắn với bảo vệ môi trường) tổ chức
ngày 10/3/2012, tại tỉnh Bình Định.
[60] Đặng Trung Thuận (chủ biên) (2010), Khai thác bauxit và phát triển bền vững
Tây Nguyên, nhà xuất bản Tri thức, Hà Nội.
[61] Lê Quang Thuận, Lê Xuân Trường, Trần Thanh Thủy (2015), Thực trạng và cơ
hội nâng cao hiệu quả quản lý nguồn thu từ khai thác khoáng sản tại Việt
Nam, nhà xuất bản Hà Nội, Hà Nội.
[62] Trần Thị Thanh Thủy (2014), “EITI 2013: Công cụ tiềm năng hỗ trợ hoạt động
khoáng sản ở Việt Nam”, Bản tin Chính sách về Tài nguyên –Môi trường –
Phát triển bền vững (Trung tâm Con người và Thiên nhiên), số 14/2014 (số
ISSN 0866 – 7810), tr.10 – 12.
[63] Trần Thanh Thủy, Trần Thị Thanh Hải, Kim Thu Hà, Dương Văn Thọ, Nguyễn
Đức Anh (2015), Trả lại bản chất phí bảo vệ môi trường nhằm giảm thiểu
tác động và hạn chế xung đột trong lĩnh vực khai thác khoáng sản, nhà xuất
bản Hồng Đức, Hà Nội.
[64] Trần Thanh Thủy, Trịnh Lê Nguyên, Nguyễn Việt Dũng (2012), Khoáng sản –
Phát triển – Môi trường: Đối chiếu giữa lý thuyết và thực tiễn, nhà xuất bản
Mỹ thuật, Hà Nội.
[65] Tổ chức phát triển công nghiệp Liên hợp quốc – UNIDO (2012), Hướng tới
tăng trưởng xanh từ phát triển công nghiệp xanh tại Việt Nam, Hà Nội.
[66] Tổ chức phát triển công nghiệp Liên hợp quốc – UNIDO (2011), Sử dụng hiệu
161
quả năng lượng và tài nguyên trong ngành thép Việt Nam, Hà Nội.
[67] Trần Văn Trị (chủ biên) (2000), Tài nguyên khoáng sản ở Việt Nam, Tổng cục
Địa chất và Khoáng sản, Hà Nội.
[68] Trung tâm Nghiên cứu Giới, Gia đình và Môi trường – CGFED (2013), Tác
động xã hội và môi trường của hoạt động khai khoáng đối với cộng đồng
sinh sống trong khu vực khai khoáng: nghiên cứu tại Thái Nguyên và Bình
Định, Báo cáo nghiên cứu, Hà Nội.
[69] Trung tâm Y tế dự phòng Bình Định (2009), Nghiên cứu thực trạng môi trường
lao động và sức khỏe công nhân tại một số doanh nghiệp khai thác khoáng
sản trên địa bàn tỉnh Bình Định, Đề tài nghiên cứu khoa học, Bình Định.
[70] Đinh Đức Trường, Lê Thanh Hà (2013), “Lượng giá thiệt hại sức khỏe cồng
động do ô nhiễm không khí của nhà máy xi măng Bỉm Sơn, tỉnh Thanh
Hóa”, trong sách Lượng giá tài nguyên và môi trường: Từ lý thuyết đến ứng
dụng tại Việt Nam do Đinh Đức Trường và Lê Thanh Hà (chủ biên), nhà
xuất bản Giao thông vận tải, Hà Nội.
[71] Lê Anh Tuấn, Phương Hoàng Kim (2012), “Đánh giá hiện trạng phát triển xanh
một số phân ngành công nghiệp tại Việt Nam”, Tạp chí Kinh tế và phát
triển, số 180/2012, tr.23–27.
[72] Ủy ban thường vụ Quốc hội (2012), Báo cáo kết quả Giám sát “Việc thực hiện
chính sách, pháp luật về quản lý, khai thác khoáng sản gắn với bảo vệ môi
trường”, Báo cáo số 246/BC–UBTVQH13, ngày 02/10/2012, Hà Nội.
[73] Văn phòng Phát triển bền vững (2014), Báo cáo rà soát các cơ chế, chính sách
hạn chế, cản trở PTBV cần kiến nghị Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ sửa
đổi, bổ sung, Hà Nội.
[74] Viện Quản lý kinh tế Trung ương – CIEM (2012), Chỉ số GDP xanh: Nghiên
cứu Phát triển Khung Phương pháp, Báo cáo nghiên cứu, Hà Nội.
[75] Viện Quản lý kinh tế Trung ương – CIEM (2008), Hạch toán giá trị tài sản của
Việt Nam: Vai trò của tài nguyên thiên nhiên, Báo cáo trong khuôn khổ Dự
án CIEM–DANIDA, Hà Nội.
[76] Viện Tư vấn phát triển – CODE (2013), Thực trạng quản lý, khai thác và sử
162
dụng tài nguyên khoáng sản trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên, Báo cáo
nghiên cứu, Hà Nội.
[77] Viện Tư vấn phát triển (2012), Đánh giá hiệu quả kinh tế – xã hội, phân chia
lợi ích và quản lý nguồn thu trong khai thác titan tại tỉnh Bình Định, Báo
cáo nghiên cứu, Hà Nội.
[78] Viện Tư vấn phát triển (2010), Thực trạng quản lý, khai thác và sử dụng tài
nguyên khoáng sản trong bối cảnh phát triển bền vững ở Việt Nam, nhà xuất
bản Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội.
[79] Viện Khoa học công nghệ mỏ – Vinacomin (2015), Nghiên cứu và đề xuấ các
giải pháp nhằm tăng năng suất lao động, giảm giá thành than trong Tập
đoàn TKV, Đề tài nghiên cứu khoa học (Tập đoàn Công nghiệp Than –
Khoáng sản Việt Nam), Hà Nội.
[80] Nguyễn Khắc Vinh (2012), “Nhìn nhận tài nguyên khoáng sản ở Việt Nam
trong bối cảnh khoáng sản thế giới”, Tham luận tại Hội thảo Việc thực hiện
chính sách, pháp luật về quản lý, khai thác khoáng sản gắn với bảo vệ môi
trường do Đoàn giám sát của Ủy ban thường vụ Quốc hội (Việc thực hiện
chính sách, pháp luật về quản lý, khai thác khoáng sản gắn với bảo vệ
môi trường) tổ chức ngày 10/3/2012, tại Hà Nội.
Tiếng Anh
[81] Ademola O.T., Adeolu O.A. (2011), Enhancing linkages of oil and gas
industry in the Nigerian economy, Making the most of Commodities
Programme, Discussion Paper No. 8 March 2011.
[82] Ahrend R. (2002), Speed of reform, initial conditions, political orientation or
what? Explaining Russian regions’ economic performance, DELTA
working paper 2002-10.
[83] Auty R.M. (2001), “The political economy of resource-driven growth”,
European Economic Review, No.45, p.4–6.
[84] Bannon I., Collier P. (eds) (2003), Natural resources and violent conflict:
163
Options and actions, World Bank, Washington, DC.
[85] Baptist S., Hepburn C. (2012), Material intensity, productivity and economic
growth, Vivid Economics Ltd and London School of Economics, London
UK.
[86] Barma N., Kaiser K., Le T.M. (2010), Rents to riches? The political economy
of natural resources led development”, World Bank, Washington, DC.
[87] Barrera–Roldán A., Saldívar–Valdés A. (2002), “Proposal and application of a
Sustainable Development Index”, Ecological Indicators, 2/2002, p.251–256.
[88] Bonaglia F., Fukasaku K. (2003), Export diversification in low–income
countries: An international challenge after Doha, Working Paper No. 209,
Organisation of Economic Cooperation and Development.
[89] Boschini A.D., Pettersson J., Roine J. (2003), Resource curse or not: A
question of appropriability, SSE/EFI Working Paper Series in Economics
and Finance, No. 534.
[90] Breisinger T., Thurlow L. (2008), "Asian–driven resource booms in Africa
rethinking the impacts on development", International Food Policy Research
Institute (IFPRI), Discussion Paper No. 747, IFPRI, Washington DC.
[91] Brunschweiler C.N. (2009), Oil and growth in transition countries, working
Paper 09/108, Center of Economic Research at Swiss Federal Institute of
Technology, Zurich.
[92] Cai Z., Song Y., Lei X., (2011), “Natural capital and allocation of investment
sustainable perspective on endogenous growth model”, Environmental
Economics, Volume 2, Issue 2, pp.89–92.
[93] Canada’s Green Mining Initiative (2014), Workshop on best practices on
mining policies and technologies, June 2014, Brussels.
[94] Canada’s Green Mining Initiative (2013). EuroMining 2013 – Green Mining
Seminar, September 2013, Janice Zinck.
[95] Chr. Michelsen Institute – CMI (2012), Benefit streams from mining in
Tanzania: case studies from Geita and Mererani, report was commissioned
164
by the World Bank.
[96] Cleveland C.J., Stern D.I. (1997), Indicators of natural resources scarcity:
review, systhesis and application to U.S. Agriculture, Centre for Resource
and Environment studies, Australia National University.
[97] Collier P. (2008), The bottom billion: Why the poorest countries are failling
and what can be done about it, Oxford University Press, Oxford.
[98] Copeland B.R. (2012), “International Trade and Green Growth” Paper
presented at the Green growth knowledge platform inaugural conference,
Mexico City, January 12–13.
[99] Coria J. (2009), “Environmental Policy, Fuel Prices and the Switching to Natural
Gas in Santiago, Chile.” Ecological Economics, No.68 (11), p.2877–84.
[100] Crowson P. (2009), "The Resource Curse: a Modern Myth?" in Mining, Society
and a Sustainable World, ed. Jeremy P.Richards; London: Springer, 3-36
[101] Dasgupta P.S., Heal M.G. (1979), Economic theory and exhaustible resources.
Cambridge, Cambridge University Press, UK.
[102] Douangngeune B., Hayami Y., Godo Y. (2005), “Education and natuaral
resources in economic development: Thailand compared with Japan and
Korea”, Journal of Asian Economics 16, No.2 (April), p.179–204.
[103] Eifert B., Gelb A., Tallroth N.B. (2002), “The political economy of fiscal policy
and economic management in oil exporting countries.”, Policy research
working paper 2899, World Bank, Washington, DC.
[104] Ekins P., Speck S., (eds), (2011), Environmental Tax Reform: A policy for
green growth, Oxford University Press, Oxford.
[105] Ekins P. (2009), Resource productivity, environmental tax reform and
sustainable growth in Europe, Anglo–German Foundation for the Study of
Industrial Society.
[106] Elinor O. (2009), Beyond markets and states: polycentric gorvernance of
complex economic systems, Nobel Lecture, Dec. 2009.
[107] Esanov A. (2012), Diversification in resource-dependent countries: its
165
dynamics and policy Issues, working Paper, Revenue Watch Institute.
[108] ESCAP, ADB, UNEP (2012), Green growth resources and resilience
environmental sustanability.
[109] Fernández J.I.P, Sánchez M.R (2009), “Measuring tourism sustainability: proposal
for a composite index”, Tourism Economics, 15 (2)/2009, p.277–296.
[110] Gelb A. (2010), “Economic diversification in resource rich countries”,
presentation at seminar on Natural resources, finance, and development:
Confronting old and new challenges, organized by the Central Bank of
Algeria and the IMF Institute in Algiers, on 4–5 November 2010.
[111] Giljum S., Lutz C., Polzin C. (2010), Global implications of a European
environmental tax reform, SERI Working Paper Series, Sustainable Europe
Research Institute (SERI), Vienna, Austria and Institute for Economic
Structures Research (GWS), Osnabrück, Germany.
[112] Green Fiscal Commission (2009), How effective are green taxes?; Briefing
Paper Two, Green Fiscal Commission, ISBN 978 0 85374 836 6.
[113] Gylfason T. (2001), “Natural resources, education, and economic
development”, European Economic Review, N45, p. 4–6.
[114] Gylfason T., Zoega G. (2001), “Natural resources and economic growth: the
role of investment”, Studiestræde 6, ISSN 0908–7745, Economic Policy
Research Unit, University of Copenhagen, Denmark.
[115] Hamilton K. (1995), “Sustainable development: Hartwick rule and optimal
growth”, Environmental and Resource Economics, No.5, p.393–411.
[116] Hartwick J. M. (1977), “Intergenerational equity and the investment of rents from
exhaustible resources”, American Economic Review, No.67(5), p.972–974.
[117] Hausmann R., Rigobon R. (2002), An alternative interpretation of the
resource curse: Theory and policy implications, NBER Working Papers
No. 9424.
[118] Heine D., Norregaard J., Parry W.H. (2012), Environmental tax reform:
principles from theory and practice to date, IMF Working Paper
166
(WP/12/180).
[119] Hotelling H. (1931), “The Economics of Exhaustible Resources”, Journal of
Political Economy, No.30(2), p.137–175.
[120] Humphreys M., Sachs J., Joseph Stiglitz J., (eds) (2007), Escaping the resource
curse, Columbia University Press, New York.
[121] Jonathan P. (2004), “Nigeria struggles against the curse oil”, International
Herald Tribune, January 8, 2004.
[122] Kienzler D., Toledano P., Thomashausen S., Szoke–Burke S. (2015), Natural
resource contracts as a tool for managing the mining Sector, Federal
Ministry for Economic Cooperation and Development (Germany).
[123] Limi A. (2007), “Escaping from the resource curse: evidence from Botswana
and the rest of the world”, IMF Staff Papers, Vol. 54, No. 4, pp.663-699,
International Monetary Fund.
[124] McPhail P. (2001), The revenue dimension of oil, gas and mining projects:
issues and practice, Mimeo, Washington DC: SPE, World Bank.
[125] Mehlum H., Moene K., Torvik R. (2006), Institutions and the resource curse,
The Economic Journal. Vol. 116(508), p. 1–20.
[126] Michaels R., Murphy R.P. (2009), “Green jobs: fact or fiction? An assessment
of the literature”, Institute for Energy Research, Houston, TX.
[127] Morgandi M. (2010), Extractive industries revenues distribution at the sub-
national level: the Experience in seven resource - rich countries, report was
commissioned by Revenue Watch Institute.
[128] Morris A., Bogart W., Meiners R., Dorchak A. (2011), The false promise of
green energy. s.l.: Carlo Institute.
[129] Organisation for Economic Cooperation and Development – OECD (2011),
Towards green growth, Paris.
[130] Ogunleye E.K. (2008), “Natural resource abundance in Nigeria: From
dependence to development”, Resources Policy, Volume 33, Issue 3,
September 2008, p.168–174.
[131] Olusi J. O., Olagunju M.A. (2005), “The Primary Sectors of the Economy and
167
the Dutch Disease in Nigeria”, The Pakistan Development Review, No.44 (2)
(Summer 2005) p.159–175.
[132] Owens J. (2011), Sharing the benefits of the mining boom.
[133] Peszko G. (2005), Financing industrial pollution abatement: towards guidance
for World Bank Operations, World Bank, Washington, DC.
[134] Philippot L.M. (2010), Natural resources and economic development in
transition economies, PRES de Clermont Université (CERDI-CNRS,
Université d’Auvergne).
[135] Pigou A.C. (1920), The Economics of Welfare, Macmillan, London.
[136] Raballand G., Kunth A., Auty R. (2004), Central Asia's transport cost burden
and its impact on trade with the EU, Working Paper, World Bank,
Washington DC.
[137] Reilly J.M. (2012), “Green growth and the efficient use of natural resources”,
Energy Economics, No.34 (2012) S85–S93.
[138] Sachs J., Warner A. (2001), “Natural resources and economic development: The
curse of natural resources”, European Economic Review, No.45, p.827–838.
[139] Sachs J., Warner A. (1999), Natural resource abundance and economic
growth, NBER Working Paper 5398, Cambridge.
[140] Sala X., Subramanian A., (2003), Addressing the natural resource curse: an
illustration from Nigeria, National Bureau of Economic Research, Working
Paper 9804, Cambridge, MA.
[141] Sawada E., Managi S. (2014), “Effects of technological change on non-
renewable resource extraction and exploration”, Journal of Economic
Structures (2014).
[142] Sayne A., Mahdavi P., Patrick R.P. Schreuder J. (2012), Nigeria: The
Petroleum Industry Bill and the Future of Nigerian National Petroleum
Corporation, Revenue Watch Institute.
[143] Satish P. G., Jawahar N., Nachiappan SP. (2013), “Composite performance
index for sustainability”, Journal Of Environmental Science, Toxicology
And Food Technology, e–ISSN: 2319–2402, p– ISSN: 2319–2399, Volume
168
3, Issue 1 (Jan. – Feb. 2013), p.91–102.
[144] Singh R. K. (2007), Development of composite sustainability performance
index for steel industry, Environment Management Department Bhilai Steel
Plant, Steel Authority of India Limited, India.
[145] Sturgill B., Zuleta H. (2013), Variable factor shares, units of measurement and
growth accounting: an empirical exercise, working paper.
[146] Sustainable Europe Research Institute – SERI (2012), Green economies
around the world, implications of resource use for development and the
environment, Commissioned by UNIDO under the “Green Industry”
Programme.
[147] Sustainable Europe Research Institute – SERI (2011), Resource use and
resource efficiency in emerging economies, a pilot study on trends over
the past 25 years, Commissioned by UNIDO under the “Green Industry”
Programme.
[148] Sustainable Europe Research Institute – SERI (2010), Resource use and
resource efficiency in Asia: a pilot study on trends over the past 25 years,
Commissioned by UNIDO under the “Green Industry” Programme.
[149] Sustainable Europe Research Institute – SERI (2009), Resource efficiency for
sustainable growth: global trends and European policy scenarios,
Background Paper.
[150] Solow R.M. (1974), “The economics of resources or the resources of
economics”, American Economic Review, No.64, p.1–14.
[151] Stiglitz J. (1974), “Growth with exhaustible natural resources: efficient and
optimal growth paths”, The Review of Economic Studies Symposium, Vol.
41, p.123–137.
[152] Tinney A., Roe P.A. (2002), Overview of best practice environmental
management in mining, Environment Australia.
[153] United Nations (2007), Indicators of sustainable development: guidelines and
methodologies, No. E.08.II.A.2, ISBN 978–92–1–104577–2, New York.
[154] United Nations Environment Programme – UNEP (2011a), Towards a green
169
economy: pathways to sustainable development and poverty eradication.
[155] United Nations Environment Programme – UNEP (2011b), Decoupling
natural resource use and environmental impacts from economic growth,
A report of the Working Group on Decoupling to the International
Resource Panel.
[156] United Nations Environment Programme – UNEP (2004), The use of economic
instruments in environmental policy: opportunities and challangens, United
Nations Environment Programme, UNEP/ETB/2003/9.
[157] UNEP, ILO, IOE, ITUC (2008), Green jobs: towards decent work in a
sustainable, low- carbon world, September 2008.
[158] UNIDO (2012), Green industry initiative for sustainable industrial
development.
[159] UNIDO (2011a), Policies for supporting green industry.
[160] UNIDO (2011b), Green growth: from labour to resource productivity; best
practice examples, initiatives and policy options.
[161] UNIDO (2010), A greener footprint for industry: opportunities and challenges
of sustainable industrial development.
[162] United Nations Conference on Trade and Development – UNCTAD (2012).
Extractive industries: optimizing value retention in host countries,
UNCTAD/SUC/2012/1, New York and Geneva.
[163] Venugopal V. (2014), Assessing mineral licensing in a decentralized context:
the case of Indonesia, Natural Resource Governance Institute.
[164] Watts M. (2007), “Petro – insurgency or criminal syndicate? Conflict and
Violence in the Niger Delta”, Review of African Political Economy, No.114,
p.637 – 660.
[165] Watts M. (2004), “Resource curse: governmentality, oil and power in the Niger
Delta, Nigeria”, Geopolitics, No. 9 (March 2004), p.50–80.
[166] Wick K., Bulte E.H. (2006), “Contesting resources: Rent seeking, conflict and
the natural resource curse”, Public Choice, Vol. 128, No. 3/4 (Sep., 2006),
170
pp.457-476.
[167] World Bank (2011), Sharing mining benefits in developing countries,
working paper.
[168] World Bank (2009a), Extractive industries value chain: a comprehensive
integrated approach to developing extractive industries, Extractive Industries
for Development Series #3, Africa Region Working Paper Series #125.
[169] World Bank (2009b), Sector licensing studies: mining sector , World Bank,
Washington, DC.
[170] Zhao Y. (2013), “Mitsubishi’s Mining Investment in Australia” in Best
practices for transnational investment in extractive and land use sectors ,
School of International Service at American University.
Các website thu thập số liệu thống kê
[171] Asian Developmant Bank – ADB (2015), Key Economic Indicators for Asia
and the Pacipic 2015; http://www.adb.org/publications/key-indicators-asia-
and-pacific-2015.
[172] Australian Bureau of Statistics (2012), Year Book Australia, 2012;
http://www.abs.gov.au/ausstats/abs@.nsf/Lookup/1301.0Main+Features292012.
[173] Sustainable Europe Research Institute – SERI (2015), Global Resource
Extraction 1980 to 2011., database: http://www.materialflows.net/.
[174] World Bank (2015). World Development Indicators,
171
http://data.worldbank.org/data–catalog/world–development–indicators.
Phụ lục 1: Các bảng số liệu, hình vẽ
Bảng 1: Các chỉ tiêu đánh giá tiến bộ tăng trưởng xanh của OECD
Nhóm tiêu chí
Chỉ tiêu
Đo lường
1. Năng suất tài nguyên và môi trường
1. Năng suất CO2
Lượng phát thải CO2 (tấn) Lượng phát thải các chất gây hiệu ứng nhà kính (CO2, CH4, N2O, PFCs, HFCs và SF6)
suất và
của năng
Lượng điện tiêu thụ (Kwh) Lượng năng lượng tiêu thụ (điện, than đá,
Năng carbon lượng
dầu mỏ)
2. Năng suất sử dụng năng lượng
Lượng năng lượng tái tạo hoặc tiêu thụ
(Kwh)
Phát thải chất gây ô nhiễm trong nông
nghiệp (Nito, Photpho, Metan) (tấn)
3. Năng suất trong nông nghiệp
Giá trị gia tăng tổng snar lượng nông
nghiệp
Năng suất của tài nguyên
Lượng nước sử dụng trong nông nghiệp
(m3)
4. Năng suất sử dụng nước
Lượng nước tưới/1 ha đất canh tác nông
nghiệp
2. Tài nguyên thiên nhiên
Tổng trữ lượng nước sạch (nước ngầm và
nước sông) (km3)
5. Tài nguyên nước
Cơ cấu sử dụng nước sạch Mức độ sử dụng nước (Lượng nước sử
Tài nguyên có thể tái tạo
6. Tài nguyên rừng
dụng/Tổng trữ lượng nước) Lượng nước sử dụng (m3/người) Diện tích rừng che phủ (km2) Diện tích rừng trên đầu người (km2/người) Diện tích rừng bị cháy Diện tích rừng bị chuyển đổi mục đích sử
dụng
7. Tài nguyên biển
Xu hướng khai thác cá Cơ cấu cá khai thác (đánh bắt từ biển, sông,
nuôi trồng)
Tài
nguyên
Tài nguyên không thể tái tạo
8. khoáng sản
Trữ lượng khoáng sản Mức độ khai thác các loại khoáng sản
172
Ảnh hưởng môi trường của việc khai thác khoáng sản (đất, nước, không khí, cảnh quan)
Cơ cấu các loại đất (đất nông nghiệp, rừng,
xây dựng,..)
9. Tài nguyên đất
Đa dạng sinh học và hệ sinh thái
Xu hướng thay đổi cơ cấu các loại đất Chuyển đổi đất nông nghiệp thành đất công
nghiệp
Diện tích đất nông nghiệp bị bạc màu
tài
(km2)
10. Sử dụng nguyên đất
Diện tích đất nông nghiệp và các loại khác
bị mất do xói mòn (km2)
Số lượng các loài động vật đang bị đe dọa
11. Tài nguyên động vật hoang dã
tuyệt chủng/Tổng số loài động vật Diện tích các khu bảo tồn thiên nhiên
3. Chất lượng môi trường sống
Tỷ lệ người dân tiếp xúc với ô nhiễm
không khí
12. Vấn đề sức khỏe do môi trường gây ra và chi phí liên quan: ô nhiễm không khí
Nồng độ bụi PM10, PM2.5, TSP trong lớn
khu
các
thị
đô
khí
không (microgram/m3)
Ảnh hưởng của thiên tai, bão lũ, hạn hán
Ảnh hưởng của môi trường đến sức khỏe và các rủi ro
đến cuộc sống của người dân
Ô nhiễm trong sản xuất công nghiệp (nước
thải, không khí, tiếng ồn)
Tỷ lệ dân số tiếp cận hệ thống xử lý nước
thải
Dịch vụ về môi trường và tiện ích
Tỷ lệ dân số tiếp cận nước sạch
13. Tiếp xúc với các rủi ro tự nhiên hay công nghiệp, và các thiệt hại kinh tế liên quan 14. Tiếp cận các lý biện pháp xử nước thải và nước uống hợp vệ sinh 4. Cơ hội kinh tế và lựa chọn chính sách
Chi phí R & D về năng lượng tái tạo hay
môi trường/GDP
Chi phí R & D về năng lượng tái tạo/ Tổng
chi phí R & D
Chi phí R & D về môi trường/Tổng chi phí
15. Chi phí R & D dành tăng cho trưởng xanh
R & D
Công nghệ và đổi mới
Chi phí R & D dành cho tăng trưởng xanh/
Tổng chi phí R & D
Số bằng sáng chế về môi trường/ Tổng số
16. Bằng sáng chế liên quan đến tăng
bằng sáng chế
173
trưởng xanh
Số việc làm trong khu vực sản xuất hàng hóa và dịch vụ môi trường/Tổng số việc làm
Hàng hóa và dịch vụ về môi trường
17. Sản xuất hàng hóa và dịch vụ môi trường
Số doanh nghiệp trong khu vực sản xuất hàng hóa và dịch vụ môi trường/Tổng số doanh nghiệp
tài
chính
Nguồn quốc tế
18. Nguồn tài chính quốc tăng tế về trưởng xanh
ODA về tăng trưởng xanh Tài trợ tài chính cho thị trường Carbon FDI về tăng trưởng xanh Doanh thu thuế môi trường/Tổng doanh thu
19. Thuế môi trường
thuế
Giá cả và chuyển nhượng sử dụng tài nguyên
Cấu trúc của thuế môi trường Thuế suất của xăng, dầu
20. Định giá năng lượng
Phương pháp quản lý
21. Chính sách về tăng trưởng xanh
Chính sách khuyến khích sản xuất thân thiện môi trường, tăng năng suất sử dụng nguyên nhiên liệu, áp dụng công nghệ mới trong sản xuất
Chính sách bảo vệ môi trường ở cấp độ
vùng và tỉnh
Chính sách nâng cao trình độ người lao
động
Đào tạo và phát triển kỹ năng
22. Đào tạo và phát triển kỹ năng hướng tới tăng trưởng xanh
Chính sách nâng cao nhận thức của người dân về bảo vệ môi trường, sản xuất hiệu quả, giảm phát thải
174
Nguồn: Trích lại từ Vũ Tuấn Anh và cộng sự (2015) [1].
Bảng 2: Tiềm năng tài nguyên khoáng sản của một số loại khoáng sản chính
(thống kê đến tháng 12/2011, cập nhật đến tháng 3 năm 2012)
Loại khoáng sản Đơn vị tính
Phân bố
Tổng tài nguyên
Trong đó, trữ lượng đã thăm dò
1. Khoáng sản có tổng tài nguyên lớn, rất lớn
1.
Triệu tấn
10.000
4.500
Bauxit laterit
Tập trung chủ yếu ở Tây Nguyên
2. Đất hiếm
9,467
1,1
Phân bố ở Lai Châu, Yên Bái
Triệu tấn oxyt đất hiếm
3. Apatit
Triệu tấn
2.500
778
Phân bố ở Lào Cai
4. Titan
Triệu tấn
650
15,71
Dọc ven biển miền Trung, trong (Ninh tầng cát đỏ Thuận, Bình Thuận).
thủy
5.
Triệu tấn
3.000
123
Ven biển miền Trung
Cát tinh
vôi
6.
Triệu tấn
Rất lớn
10.692
Đá ximăng
Phân bố chủ yếu ở miền Bắc và Bắc Trung Bộ
2.000
1.170
7. Đá hoa trắng
Tập trung ở Yên Bái, Nghệ An và Tuyên Quang
300
188,5
+Triệu tấn carbonat +Triệu m3 đá ốp lát
8. Than
Triệu tấn
40.930
3.520
Tập trung ở Quảng Ninh, Thái Nguyên, Quảng Nam và Đồng bằng Sông Hồng
lát
9.
Triệu m3
1.000
15
Phân bố rải rác ở nhiều tỉnh
Đá ốp granit
10.
m3/ngày
32.469
Phân bố rải rác ở nhiều tỉnh
Nước khoáng nóng
2. Khoáng sản có tổng tài nguyên quy mô trung bình
11. Urani
218
Tây Bắc, Việt Bắc, Trung Trung Bộ và Tây Nguyên
nghìn tấn U3O8
12. Sắt
960,6
760,6
Triệu tấn
Lào Cai, Cao Bằng, Thái
175
Nguyên, Hà Tĩnh
kim loại
13. Crom
33,8
Tập trung ở Thanh Hoá
Triệu tấn kim loại
14. Mangan
40,34
12,31
Cao Bằng, Tuyên Quang
Triệu tấn kim loại
15. Đồng
Ngàn tấn
1.018
718
Tập trung ở Lào Cai
sa
16.
13
Thiếc khoáng
Ngàn tấn SnO2
Trữ lượng đã cạn kiệt, phần còn lại ít có khả năng khai thác
17. Thiếc gốc
129
11
Tuyên Quang, Nghệ An, Cao Bằng
Ngàn tấn kim loai
18.
166
Mỏ Núi Pháo, Thái Nguyên
Wonfram (sheelit)
Ngàn tấn WO3
19.
26,9
2,8
Tuyên Quang
Wonfram (wonframit)
Ngàn tấn WO3
20. Chì - kẽm
3.466
466
Bắc Kạn, Tuyên Quang, Thái Nguyên,
Ngàn tấn kim loại
21. Vàng
Tấn kim loại
154
42,7
Có 34 tấn phân bố trong mỏ đồng Sin Quyền
22. Antimon
67
37
Hà Giang, Quảng Ninh
Ngàn tấn kim loại
23. Kaolin
255,7
Phân bố rải rác ở nhiều tỉnh
Triệu tấn quặng
24.
57,2
Quảng Ninh
Kaolin- pyrophilit
Triệu tấn quặng
25.
53,8
23,8
Triệu tấn quặng
Felspat và nguyên liệu felspat
Phân bố trong các tầng đá biến chất cổ và các thể xâm nhập phong hoá
26. Magnezit
30
Gia Lai
Triệu tấn quặng
27. Graphit
35,2
13,5
Lào Cai
Triệu tấn quặng
28. Bentonit
5,04
0,54
Lâm Đồng, Ninh Thuận
Triệu tấn quặng
176
29. Diatomit
100
Phân bố tập trung ở Phú Yên, Kon Tum
Triệu tấn quặng
30. Barit
3,7
0,2
Phân bố chủ yếu trong mỏ đất hiếm ở Lai Châu
Triệu tấn quặng
31. Fluorit
2,05
0,05
Phân bố chủ yếu trong mỏ đất hiếm ở Lai Châu
Triệu tấn quặng
32. Talc
0,9
0,3
Hoà Bình, Sơn La
Triệu tấn quặng
33.
triệu m3
60
10
Bắc Trung Bộ và Bắc Bộ
Đá ốp lát, đá hoa
Nguồn: Báo cáo số: 167/BC - CP ngày 25 tháng 6 năm 2012 của Chính phủ
Bảng 3: Số lượng doanh nghiệp tham gia hoạt động khai thác khoáng sản
Tổng số doanh nghiệp khai khoáng Khai thác than Khai thác quặng kim loại Khai thác đá và khai thác các mỏ khác
2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 38 41 46 52 58 72 73 71 164 216 117 75 91 82 25 34 51 64 85 87 99 146 183 186 208 323 342 311 358 648 780 906 1042 1110 1178 1457 1852 2096 2201 2559 2472 2386 427 725 879 1024 1191 1275 1359 1685 2206 2504 2532 2968 2962 2862
177
Nguồn: Kết quả Điều tra doanh nghiệp các năm 2000 – 2013 (Tổng cục Thống kê).
Bảng 4: Số lượng doanh nghiệp phân theo quy mô21
Theo quy mô vốn
Theo quy mô lao động
Năm
Tổng số
DN nhỏ DN vừa DN lớn DN siêu nhỏ DN nhỏ DN vừa DN lớn
2000
358
47
16
47
267
27
80
421
2001
659
47
17
239
390
34
60
723
2002
789
63
25
190
577
35
75
877
2003
930
66
26
210
706
36
70
1.022
2004
1083
73
29
241
843
35
66
1.185
2005
1152
78
39
297
883
25
64
1.269
2006
1223
82
45
392
866
31
61
1.350
2007
1511
109
54
559
1022
34
59
1.674
2008
1964
171
64
929
1174
36
60
2.199
2009
2112
304
82
1091
1308
40
59
2.498
2010
2020
378
128
991
1425
50
60
2.526
2011
2435
367
155
1305
1549
31
72
2.957
2012
2592
202
111
1400
1413
24
68
2.905
2013
2116
448
215
1405
1279
27
68
2.779
Nguồn: Kết quả Điều tra doanh nghiệp các năm 2000 – 2013 (Tổng cục Thống kê).
Bảng 5: Cơ cấu về trình độ chuyên môn kỹ thuật của lao động (%)
2013
2001 2007 Trình độ chuyên môn được đào tạo Chung
Khai thác than Khai thác quặng kim loại Khai thác đá, mỏ khác
43,3 21,9 36,7 19,5 56 54,4 1. Đã qua đào tạo nhưng không có chứng chỉ
2. Sơ cấp nghề 36,9 21,7 29,9 43,4 9 17,6
21 Phân loại doanh nghiệp theo tiêu chí của Chính phủ (Nghị định số 56/2009/NĐ-CP), quy mô đối với khu vực công nghiệp và xây dựng: doanh nghiệp siêu nhỏ: 10 lao động trở xuống; doanh nghiệp nhỏ: 20 tỷ đồng trở xuống, từ 10 – 200 lao động; doanh nghiệp vừa: từ trên 20 tỷ đồng đến 100 tỷ đồng, từ trên 200 người đến 300 người.
178
3. Trung cấp, trung cấp 8,6 2,8 16,2 16,4 18,6 15,3
nghề
3,2 0,6 6,2 7,9 5,7 4,1 4. Cao đẳng, cao đẳng nghề
5. Đại học 7,9 3 10,7 12,6 10,1 8,2
6. Trên đại học 50 0,3 0,1 0,6 0,4
Tổng 100 100 100 100 100 100
Nguồn: Kết quả Điều tra doanh nghiệp các năm 2000 – 2013 (Tổng cục Thống kê).
Bảng 6: Một sô chỉ tiêu phản ánh quy mô và hiệu quả sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp khai thác khoáng sản22
Tỷ suất lợi nhuân trên doanh thu (%)
Tỷ suất lợi nhuân trên vốn (%)
Doanh thu bình quân 1 lao động (triệu đồng)
Tỷ lệ nộp ngân sách so với doanh thu (%)
Số lao động bình quân 1 doanh nghiệp (người)
Nguồn vốn bình quân 1 doanh nghiệp (tỷ đồng)
2000 335 15,34 57,7 4,9 6,6 7,1
2001 162 8,98 63,59 5,2 6,7 4,7
2002 277 18,33 81,93 3 0,5 3,2
2003 147 11,2 73,96 1,3 4,1 4,5
2004 133 12,15 86,59 5,61 3,9 5,3
2005 127 14,12 106,97 2,17 8,2 5,2
2006 123 16,96 124,13 5,53 2,4 5,7
2007 103 18,4 145,91 5,47 3,7 6,3
2008 89 35,81 212,48 5,5 5 10,2
2009 81 49,53 241,98 4,89 9,82 5,58
2010 82 68,21 267,62 7,28 8,1 6,69
2011 72 59,66 322,04 5,36 6,8 2,35
22 Không bao gồm các doanh nghiệp trong lĩnh vực dầu khí.
179
Nguồn: Kết quả Điều tra doanh nghiệp các năm 2000 – 2013 (Tổng cục Thống kê).
Sản
Bảng 7: Sản lượng khai thác một số loại khoáng sản chủ yếu
Than
Quặng
Quặng
Quặng
Quặng
Đá khai
Cát, sỏi
phẩm
sạch
sắt
đồng
titan
apatít
thác
Đơn vị 1.000 tấn 1.000 tấn 1.000 tấn
1.000 tấn
1.000 tấn
1.000 m3
1.000 m3
13.397,0 317,0 9,0 155,0 677,0 30.941,0 36.888,0
2001
16.409,0 534,0 4,6 213,0 779,0 36.720,0 50.098,0
2002
19.314,0 712,0 5,1 354,3 821,0 53.250,0 53.210,0
2003
27.349,0 1.205,0 5,2 464,5 905,0 55.138,0 58.108,0
2004
34.093,0 1.435,0 6,8 404,9 1.024,2 70.836,0 66.444,0
2005
38.778,0 1.470,0 28,2 437,4 1.232,4 80.132,0 65.453,0
2006
42.483,0 1.850,0 42,9 574,1 1.522,7 92.838,0 67.060,0
2007
39.777,0 2.100,0 40,1 681,6 2.100,7 122.088,0 63.966,0
2008
44.078,0 2.500,0 45,4 631,3 2.047,4 136.897,0 70.161,0
2009
44.011,0 3.150,0 45,5 592,4 2.267,6 148.297,0 67.450,0
2010
46.611,0 2.371,3 47,6 760,0 2.395,3 155.549,0 55.051,0
2011
42.083,0 1.506,2 50,9 978,3 2.363,8 136.635,0 45.242,0
2012
41.035,0 2.435,1 53,3 1.038,3 2.635,8 128.532,0 40.527,0
2013
Nguồn: Tổng cục Thống kê
Bảng 8: Tiêu hao vật tư từ 2010-2014 của Tập đoàn TKV
TT Chỉ tiêu Đơn vị 2010 2011 2012 2013* 2014*
1 Tiêu hao vật tư
Kg/103T 1.1 Thuốc nổ hầm lò
Cty than Mông Dương 194,3 193,1 206,8 182,2 164,7
Cty than Khe Chàm 214,1 235,2 228,7 188,8 207,4
Cty than Thống Nhất 60,0 90,9 90,0 98,2 108,2
Cty than Dương Huy 162,7 152,6 163,1 178,1 181,7
Cty than Quang Hanh 241,0 236,0 235,3 255,4 260,0
Cty than Hạ Long 188,9 206,9 216,6 227,8 201,8
180
Cty than Hà Lầm 113,9 107,8 113,7 109,4 145,0
Cty than Hòn Gai 101,0 125,6 114,0 121,3 109,7
Cty than Vàng Danh 224,0 216,8 204,0 201,0 208,2
Cty than Hồng Thái 223,9 208,6 219,0
Cty than Nam Mẫu 194,0 201,3 236,0 185,7 203,2
Cty than Mạo Khê 207,8 275,2 295,9 262,5 229,0
Cty than Uông Bí 235,0 215,0 233,3 209,4 194,9
Nhiên liệu cho vận
l/103tkm 1.2 chuyển đất đá ở mỏ lộ
thiên
Cty than Đèo Nai 147,0 136,0 134,0 130,0 138,6
Cty than Cọc 6 132,8 122,7 128,4 133,7 138,8
Cty than Cao Sơn 130,1 118,0 110,0 112,9 133,4
Cty than Hà Tu 125,9 126,9 122,8 123,0 126,7
Cty than Núi Béo 156,8 145,0 142,0 155,2 155,8
Tcty CN Mỏ Việt Bắc 142,6 142,0 140,8 140,0 152,2
Cty than T-N Đá Mài 128,0 126,1 122,5 115,2 136,6
Cty than Hòn Gai 124,9 130,4 112,6 141,0 158,0
Kwh/103 1.3 Tiêu hao điện năng T.NK
Cty than Đèo Nai 7,8 8,0 12,6 11,2 7,0
Cty than Cọc 6 9,8 11,3 12,9 12,5 10,0
Cty than Cao Sơn 8,3 8,9 9,3 9,8 8,0
Cty than Hà Tu 7,0 7,0 16,5 13,2 7,7
Cty than Núi Béo 3,1 3,5 5,3 13,5 2,5
Tcty CN Mỏ Việt Bắc 5,3 5,6 7,9 8,8 4,7
Cty than Mông Dương 14,2 14,3 15,3 16,2 12,6
Cty than Khe Chàm 25,7 23,0 22,8 22,0 20,2
Cty than Thống Nhất 12,0 15,3 17,6 18,4 11,0
181
Cty than Dương Huy 9,1 10,0 14,0 12,1 9,3
Cty than Quang Hanh 13,5 13,4 16,9 19,4 21,0
Cty than Hạ Long 9,5 10,2 10,6 12,2 13,2
Cty than Hà Lầm 10,0 10,8 11,9 14,2 15,1
Cty than Hòn Gai 4,9 5,4 5,8 6,8 8,4
Cty than Vàng Danh 12,2 12,4 14,3 16,2 16,1
Cty than Hồng Thái 10,2 9,5 10,6
Cty than Nam Mẫu 10,0 10,5 12,5 15,7 17,0
Cty than Mạo Khê 18,4 18,8 18,9 19,5 18,9
Cty than Uông Bí 9,9 10,1 12,6 13,7 19,2
Chi phí vật tư (vật
8.188, 11.633 11.671 11.294 liệu, nhiên liệu, động 109đ 11.815,6 2 7 ,1 ,1 ,9 lực) trong giá thành
sản xuất than
103đ/t 212,0 296,1 329,0 326,3 336,2 Chi phí đơn vị
Tỉ trọng trong GT % 28,2 31,0 29,6 29,1 27,6
182
Nguồn: Viện Khoa học công nghệ mỏ – Vinacomin (2015) [79].
Bảng 9: Chỉ số HHI của ngành công nghiệp khai khoáng
Chỉ số tập trung của ngành công nghiệp khai khoáng (chỉ số HHI: Herfindahl–
Hirschmann Index) và mức độ tập trung doanh nghiệp tại những nơi có hoạt động
khai thác khoáng sản (chỉ số EG).
Phương pháp tính độ tập trung theo địa lý được sử dụng theo phương pháp của
Ellison và Glaeser (1997) (chỉ số EG) và được xác định theo công thức tính:
Với G là hệ số Gini vùng và được xác định:
Chỉ số HHI (Herfindahl-Hirschmann Index) đo độ tập trung ngành và được xác định:
Với: si = Tỷ trọng lao động ngành i của vùng trên tổng lao động ngành i của
cả nước23
xi = Tỷ trọng tổng lao động của vùng trong tổng lao động cả nước
z j = Tỷ trọng lao động của doanh nghiệp j trong ngành
Ellison và Glaeser (1997) cũng đề xuất các chỉ số đánh giá:
EG >= 0,05 : Tập trung cao;
0,02<= EG < 0,05: Tập trung trung bình;
EG < 0,02: Kém tập trung.
Các chỉ số này được tính toán theo số lao động và dựa trên bộ số liệu điều tra doanh
23 Đo lường thay thế cho tỷ trọng doanh nghiệp của vùng trong tổng doanh nghiệp của cả nước, bởi người lao động doanh nghiệp khai thác khi tiêu dùng cũng tạo ra các liên kết tiêu dùng cuối cùng và có tác dụng lan tỏa trong việc thu hút, thúc đẩy các ngành khác phát triển tại nơi có hoạt đông khai thác.
183
nghiệp 2000 – 2012 của Tổng cục Thống kê; các kết quả tính toán các chỉ số như sau:
2000 2005 2010 2012
Chỉ số HHI của ngành khai khoáng
Chung 0,01653 0,01594 0,01656 0,01424
Khai thác than cứng, than non, than bùn 0,05245 0,04840 0,05530 0,05238
Khai thác quặng kim loại 0,12016 0,08696 0,02180 0,01632
Khai thác đá và khai thác các mỏ khác 0,01757 0,00603 0,00359 0,00367
Chỉ số EG phân theo vùng
Miền núi và trung du Bắc bộ 0,07950 0,11900 0,14826 0,18305
Đồng bằng sông Hồng 0,52880 0,52409 0,49933 0,46871
Bắc trung bộ và duyên hải miền trung 0,12999 0,29024 0,22371 0,15140
Đông Nam Bộ 0,37360 0,42414 0,39284 0,37512
Tây Nguyên 0,00334 0,00190 0,00248 0,00230
Đông bằng sông cửu long 0,01325 0,00934 0,01186 0,01138
Nguồn: Tính toán của tác giả từ số liệu điều tra doanh nghiệp (Tổng cục Thống kê).
Hình 1: Phân chia lợi ích từ khai thác khoáng sản giữa các chủ thể
(Phân chia lợi ích từ khai thác mỗi tấn quặng)
184
Nguồn: Số liệu đối với Bình Định [21], [77] và đối với Thái Nguyên [20], [76].
Bảng 10: Cấp phép hoạt động khoáng sản theo các địa phương
Giấy phép thăm dò Giấy phép khai thác
Tỷ lệ Số lượng Tỷ lệ Số lượng
Đồng bằng sông Hồng 45 9,49% 554 13,28%
Trung du và miền núi phía Bắc 163 34,39% 1272 30,48%
Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung 160 33,76% 1320 31,63%
Tây Nguyên 59 12,45% 455 10,90%
Đông Nam Bộ 11 2,32% 369 8,84%
Đồng bằng sông Cửu Long 36 7,59% 203 4,86%
Tổng số 474 100% 4173 100%
Nguồn: Báo cáo UBTV Quốc hội (2012) [72]
Bảng 11: Ước lượng hàm sản xuất Cobb-Douglass
Y= AKαLβMγ
Ta có: lnY = lnA + αlnK + βlnL + γlnM (1)
Tên biến Cách đo Nguồn số liệu
Y: GDP GDP, giá cố định 2005 World Bank (2015) [174]
K: Tích lũy tài sản Tích lũy tài sản (capital World Bank (2015) [174]
formation), giá cố định 2005.
L: Lao động Lao động đang làm việc ADB (2015) [171]
M: Vốn tài nguyên Khối lượng khai thác các loại SERI (2015) [173]
khoáng sản
Các bước thực hiện:
185
Kiểm tra sự phân bố của các biến
Các thông số thống kê mô tả của các biến
Mean Median Maximum Minimum Std. Dev. Skewness Kurtosis Jarque-Bera Probability
186
GDP 4.97E+10 4.52E+10 9.23E+10 1.99E+10 2.24E+10 0.406172 1.950844 1.760630 0.414652 K 1.64E+10 1.34E+10 3.40E+10 2.05E+09 1.10E+10 0.369551 1.701658 2.231964 0.327593 L 40.37458 38.89000 52.21000 30.30000 6.693029 0.270881 1.941930 1.413019 0.493363 M 573.9750 467.8620 1066.000 177.8310 329.3785 0.279540 1.457722 2.691193 0.260384
1.19E+12 1.15E+22 24 3.95E+11 2.77E+21 24 968.9900 1030.323 24 13775.40 2495274. 24 Sum Sum Sq. Dev. Observations
Ma trận tương quan của các biến
GDP K L M
1 0.988509123242 0.995355356818 0.980164832546 GDP
1 0.988509123242 0.987028914536 0.987596001337 K
0.995355356818 0.987028914536 1 0.975009184903 L
0.980164832546 0.987596001337 0.975009184903 1 M
Kiểm tra tính dừng chuỗi số liệu
Chuỗi LnGDP:
Null Hypothesis: LNGDP has a unit root Exogenous: Constant Lag Length: 4 (Automatic - based on SIC, maxlag=7)
Augmented Dickey-Fuller test statistic Test critical values:
1% level 5% level 10% level t-Statistic -1.567462 -3.711457 -2.981038 -2.629906 *MacKinnon (1996) one-sided p-values. Prob.* 0.4844
chuỗi LnGDP không dừng. Xét tính dừng chuỗi sai phân bậc nhất D(lnGDP):
Null Hypothesis: D(LNGDP) has a unit root Exogenous: Constant, Linear Trend Lag Length: 5 (Automatic - based on SIC, maxlag=5)
Augmented Dickey-Fuller test statistic Test critical values:
t-Statistic -4.423347 -4.532598 -3.673616 -3.277364 Prob.* 0.0123 1% level 5% level 10% level
Prob = 0.0123 < 0.05 bác bỏ giả thuyết H0 D(lnGDP) dừng.
Tương tự đối với K, L,M có: D(lnK), D(lnL), D(M) dừng. Bảng kết quả dưới đây: 187
Null Hypothesis: D(LNK) has a unit root Exogenous: Constant, Linear Trend Lag Length: 0 (Automatic - based on SIC, maxlag=5)
Augmented Dickey-Fuller test statistic Test critical values:
1% level 5% level 10% level t-Statistic -4.279437 -4.394309 -3.612199 -3.243079 Prob.* 0.0128
Null Hypothesis: D(LNL) has a unit root Exogenous: Constant, Linear Trend Lag Length: 0 (Automatic - based on SIC, maxlag=7)
Augmented Dickey-Fuller test statistic Test critical values:
1% level 5% level 10% level t-Statistic -4.587605 -4.309824 -3.574244 -3.221728
Prob.* 0.0052 Null Hypothesis: D(LNM) has a unit root Exogenous: Constant, Linear Trend Lag Length: 0 (Automatic - based on SIC, maxlag=7)
Augmented Dickey-Fuller test statistic Test critical values:
t-Statistic -5.198618 -4.296729 -3.568379 -3.218382 Prob.* 0.0011 1% level 5% level 10% level
Ước lượng hàm sản suất
Do các chuỗi đều dừng ở sai phân bậc nhất nên để ước lượng hàm sản xuất
(1) ta ước lượng phương trình sau:
D(lnY) = α0 + αD(lnK) + βD(lnL) + γD(lnM) +u
Kết quả ước lượng:
188
Dependent Variable: D(LNGDP) Method: Least Squares Date: 05/04/16 Time: 03:24
Sample (adjusted): 1990 2013 Included observations: 22 after adjustments
Std. Error t-Statistic
Coefficient
0.018840 0.027365 0.113421 0.051464 0.003499 0.008377 0.071710 0.026847 5.384153 3.266455 1.581670 1.916911
Prob. 0.0000 0.0043 0.0311 0.0713
0.029222 0.005500 -8.051630 -7.853258 -8.004899 1.327371 Variable C D(LNK) D(LNL) D(LNM) R-squared Adjusted R-squared S.E. of regression Sum squared resid Log likelihood F-statistic Prob(F-statistic) 0.550867 Mean dependent var 0.476012 S.D. dependent var 0.003981 Akaike info criterion 0.000285 Schwarz criterion 92.56793 Hannan-Quinn criter. 7.359076 Durbin-Watson stat 0.002022
Kiểm định dạng hàm
Để xem xét tính chính xác của ước lượng, trước tiên ta kiểm định dạng của mô hình. Sử dụng kiểm định Ramsey test, với giả thuyết H0 : mô hình định dạng đúng.
Kết quả kiểm định như sau:
Ramsey RESET Test Equation: UNTITLED Specification: D(LNGDP) C D(LNK) D(LNL) D(LNM) Omitted Variables: Squares of fitted values
Value 0.105114 0.011049 0.014294 df 17 (1, 17) 1 Probability 0.9175 0.9175 0.9048 t-statistic F-statistic Likelihood ratio
p> 0.05 chấp nhận H0 : mô hình định dạng đúng
Kiểm định phương sai sai số thay đổi H0 : Phương sai sai số không đổi
Heteroskedasticity Test: White
F-statistic Obs*R-squared Scaled explained SS 0.611714 Prob. F(9,12) 6.918965 Prob. Chi-Square(9) 3.802373 Prob. Chi-Square(9) 0.7664 0.6456 0.9239
189
p>0.05 phương sai sai số không đổi
Kiểm định tự tương quan
Breusch-Godfrey Serial Correlation LM Test:
F-statistic Obs*R-squared 2.199012 Prob. F(2,16) 4.743426 Prob. Chi-Square(2) 0.1433 0.0933
p> 0.05 không có tự tương quan
Kiểm định đa cộng tuyến:
Variance Inflation Factors Date: 05/04/16 Time: 03:42 Sample: 1990 2013 Included observations: 22
Coefficient Uncentered Centered VIF Variance VIF NA
Variable C D(LNK) D(LNL) D(LNM) 1.22E-05 16.99808 7.02E-05 2.573281 1.155852 0.005142 6.100468 1.554176 0.000721 8.445813 1.722219
Hệ số phóng đại phương sai nhỏ hơn 2 không có hiện tượng đa cộng tuyến.
Như vậy, ước lượng trên là đáng tin cậy.
Ta có α = 0.027365 (p = 0.0043)
β = 0.113421 (p = 0.0311)
γ = 0.051464 (p = 0.0713)
Vậy phương trình ban đầu:
lnY = lnA + 0.027365 * lnK + 0.113421 * lnL + 0.051464 * lnM
190
p-value ( 0.0043) (0.0311 ) (0.0713)
Hình 2: Tỷ lệ vốn đầu tư ngành khai thác khoáng sản và hệ số ICOR
Nguồn: Tính toán của tác giả từ số liệu Tổng cục Thống kê.
Hình 3: Cường độ sử dụng năng lượng theo ngành năm 2011 24
24 Được tính toàn bằng: tiêu dùng năng lượng/ Giá trị gia tăng.
191
Nguồn: Dự án tính bảng SAM 2011, Viện Quản lý kinh tế trung ương (2014).
Bảng 12: Phát thải các bon, tạo việc làm và xuất khẩu của các ngành kinh tế
Stt
Tên ngành
Tỷ trọng việc làm (% tổng số)
Cường độ việc làm (nghìn việc làm/tỷ đồng giá trị sản lượng)
Cường độ phát thải (ngàn tấn CO2/tỷ đồng giá trị sản lượng)
Cường độ xuất khẩu (% giá trị sản lượng)
Tỷ trọng xuất khẩu (% tổng số)
lâm
ngư
48,39
29,57
17,61
9,67
0,06
1
Nông nghiệp
36,84
1,52
14,65
2 Khai thác than
0,31
6,88
92,79
8,29
2,75
3 Khai thác dầu thô
0,06
1,22
thác khí
tự
6,48
4
0,01
0,74
Khai nhiên
17,29
0,32
0,52
5 Khai thác khác
0,17
4,84
43,14
20,43
0,11
6 Chế biến thực phẩm
18,34
2,31
52,36
13,16
0,06
7 Dệt may, da giày
3,44
6,43
23,35
1,94
0,17
8 Giấy và gỗ
1,02
8,49
6,18
0,34
0,23
9 Hóa dầu
0,15
0,56
35,88
8,25
0,10
10 Hóa chất khác
1,28
4,15
19,39
0,73
0,74
11 Phi kim loại
0,36
6,41
7,51
0,54
0,96
12 Xi măng
0,72
7,40
43,50
8,77
0,16
13 Sắt thép
1,13
2,17
13,71
3,16
0,09
14 Máy móc
0,87
5,69
0,04
0,76
2,02
15 Giao thông, vận tải
69,41
12,19
53,15
5,29
0,08
16 Chế tạo khác
1,81
10,79
0,02
0,00
0,71
17 Điện
0,49
3,73
0,29
18 Xây dựng
6,40
8,04
0,38
0,09
0,06
19 Thương mại
15,54
18,27
9,65
1,30
0,06
20 Giao thông
2,80
6,83
8,61
4,01
0,05
21 Khác
11,98
9,43
192
Nguồn: Dự án tính bảng SAM 2011, Viện Quản lý kinh tế trung ương (2014).
Hình 4: Các số liệu của Việt Nam về GDP, dân số và sử dụng nguyên nhiên
vật liệu (năm gốc1986: 100%)
Nguồn: SERI (2015) [173] và Tổng cục thống kê.
Bảng 13: Đội ngũ cán bộ, công chức bộ máy quản lý nhà nước về khoáng sản
2000
2002
2004
2006
2008
2010
2012
Chuyên trách
62
69
77
90
99
108
109
Hoạt
động
Kiêm nhiệm
9
11
11
11
13
15
16
Đại học
64
71
80
91
101
112
114
C ấ p
Trình độ
Trên đại học
1
1
1
2
3
3
4
t ỉ n h
Khác
6
8
7
8
8
8
7
Cộng
71
80
88
101
112
123
125
Chuyên trách
33
38
49
54
56
56
60
Hoạt
động
Kiêm nhiệm
100
109
146
165
169
188
200
Đại học
95
108
149
177
183
207
220
Trình độ
Trên đại học
7
7
7
0
0
0
0
C ấ p h u y ệ n
Khác
31
32
39
42
42
37
40
Cộng
133
147
195
219
225
244
260
193
Nguồn: Ủy ban thường vụ Quốc hội (2012) [72].
Hình 5: Biểu thuế suất thuế tài nguyên giai đoạn 2008 – 2014 (%)
Nguồn: Tác giả tổng hợp từ các Nghị quyết của UBTV Quốc hội về thuế tài nguyên.
Hình 6: Xu hướng toàn cầu về GDP, tăng dân số và sử dụng khoáng sản
194
Nguồn: SERI (2015) [173].
Phụ lục 2: Danh mục các hình ảnh từ khảo sát thực tiễn minh họa về thực trạng khai thác khoáng sản
1. Khai thác titan tại tỉnh Bình Định
Máy móc thiết bị, khai trường về khai thác titan tại xã Mỹ Thành, huyện Phù Mỹ, tỉnh
Bình Định
Phá hỏng đường từ xã Mỹ Thành đến trung
Phá hỏng đường dân sinh ở xã Mỹ Thành
tâm huyện
195
Nguồn: Khảo sát của tác giả tại tỉnh Bình Định vào tháng 10/2012 và 12/2012.
2. Hiện trạng khai thác xung quanh mỏ sắt Trại Cau, tỉnh Thái Nguyên
Xẻ núi khai thác quặng sắt xung quanh mỏ sắt Trại Cau
Ảnh hưởng tới môi trường và sản xuất nông nghiệp quanh mỏ sắt Trại Cau
Vận chuyển quặng sắt ảnh hưởng tới
Hiện trạng chế biến quặng sắt tại Công
moi trường và đường sá ty Cổ phần luyện kim Thái Nguyên
196
Nguồn: Khảo sát của tác giả tại tỉnh Thái Nguyên vào tháng 8/2013 và 7/2014.
Hồ chứa bùn đỏ tại dự án bôxit Tân Rai (Lâm Đồng)
3. Nhà máy boxit ở Tân Rai (Lâm Đồng)
197
Nguồn: Khảo sát của tác giả tại tỉnh Lâm Đồng và Đắk Nông tháng 4/2015.