VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

Nguyễn Đình Hòa KHAI THÁC KHOÁNG SẢN TRONG CHIẾN LƯỢC

TĂNG TRƯỞNG XANH Ở VIỆT NAM

LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ

HÀ NỘI – 2016 i

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

Nguyễn Đình Hòa KHAI THÁC KHOÁNG SẢN TRONG CHIẾN LƯỢC

TĂNG TRƯỞNG XANH Ở VIỆT NAM

Chuyên ngành : Kinh tế phát triển

Mã số : 62 31 01 05

LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

1. TS. Vũ Tuấn Anh

2. PGS. TS. Nguyễn Cảnh Nam

ii

HÀ NỘI – 2016

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của

riêng tôi, các số liệu nêu trong luận án là trung thực. Những

kết luận khoa học của luận án chưa từng được công bố

trong bất kỳ công trình nào khác.

Tác giả luận án

Nguyễn Đình Hòa

iii

MỤC LỤC

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT ............................................................................................... vi

DANH MỤC CÁC BẢNG, HÌNH VẼ .................................................................................. vii

MỞ ĐẦU ..................................................................................................................................... 1

Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN ................................................................................................................................. 10

1.1. Tình hình nghiên cứu ngoài nước ................................................................... 10

1.2. Tình hình nghiên cứu trong nước .................................................................... 21

1.3. Nhận xét chung về các công trình hiện có và vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu 29

Tiểu kết chương 1 ................................................................................................... 30

Chương 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ KHAI THÁC KHOÁNG SẢN TRONG TĂNG TRƯỞNG XANH ........................................................................................ 32

2.1. Cơ sở lý luận về khai thác khoáng sản trong tăng trưởng xanh ...................... 32

2.2. Kinh nghiệm quốc tế về khai thác khoáng sản trong việc phát triển bền vững, tăng trưởng xanh đối với nền kinh tế ..................................................................... 59

Tiểu kết chương 2 ................................................................................................... 66

Chương 3: THỰC TRẠNG KHAI THÁC KHOÁNG SẢN TRONG CHIẾN LƯỢC TĂNG TRƯỞNG XANH Ở VIỆT NAM .......................................................... 67

3.1. Thực trạng khai thác khoáng sản từ góc nhìn của tăng trưởng xanh .............. 67

3.2. Đánh giá kết quả của khai thác khoáng sản theo tiêu chí tăng trưởng xanh ... 74

3.3. Những vấn đề đặt ra đối với khai thác khoáng sản trong việc thực hiện chiến lược tăng trưởng xanh ............................................................................................ 95

3.4. Đánh giá chung về khai thác khoáng sản trong chiến lược tăng trưởng xanh. 102

Tiểu kết chương 3 ................................................................................................. 115

Chương 4: ĐỀ XUẤT HOÀN THIỆN, ĐỔI MỚI KHAI THÁC KHOÁNG SẢN TRONG CHIẾN LƯỢC TĂNG TRƯỞNG XANH Ở VIỆT NAM ................................. 116

4.1. Bối cảnh quốc tế, trong nước thời gian tới và những vấn đề đặt ra đối với khai thác khoáng sản trong chiến lược tăng trưởng xanh ............................................ 116

4.2. Quan điểm, định hướng về khai thác khoáng sản trong chiến lược tăng trưởng xanh ...................................................................................................................... 125

4.3. Các giải pháp về khai thác khoáng sản trong chiến lược tăng trưởng xanh.. 135

iv

Tiểu kết chương 4 ................................................................................................. 149

KẾT LUẬN ............................................................................................................................. 150

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN .... 153

TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................................................................... 154

Phụ lục 1: Các bảng số liệu, hình vẽ ...................................................................................... 172

v

Phụ lục 2: Danh mục các hình ảnh từ khảo sát thực tiễn minh họa về thực trạng khai thác khoáng sản ............................................................................................................................... 195

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

Ngân hàng Phát triển châu Á ADB

Biến đổi khí hậu BĐKH

Bảo vệ môi trường BVMT

Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương CIEM

Đánh giá môi trường chiến lược ĐMC

DNNN Doanh nghiệp nhà nước

ĐTM Đánh giá tác động môi trường

KHCN Khoa học công nghệ

Ngân sách nhà nước NSNN

Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế OECD

ONMT Ô nhiễm môi trường

Phát triển bền vững PTBV

Viện Nghiên cứu phát triển bền vững Châu Âu SERI

Tiêu chuẩn cho phép TCCP

Tài nguyên khoáng sản TNKS

TNMT Tài nguyên và môi trường

Tăng trưởng xanh TTX

Chương trình Phát triển Liên hợp quốc UNDP

Chương trình Môi trường Liên hợp quốc UNEP

UNESCAP Ủy ban Kinh tế Xã hội châu Á Thái Bình Dương Liên hợp quốc

UNIDO Tổ chức Phát triển công nghiệp Liên hiệp quốc

VCCI Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam

VLXD Vật liệu xây dựng

vi

WB Ngân hàng Thế giới

DANH MỤC CÁC BẢNG, HÌNH VẼ

DANH MỤC CÁC BẢNG Bảng 2.1: Tiêu chí đánh giá khai thác khoáng sản trên quan điểm tăng trưởng xanh ..... 53

Bảng 3.1: Đóng góp của ngành công nghiệp khai khoáng vào GDP ........................ 74

Bảng 3.2: Đóng góp của khai thác khoáng sản vào ngân sách nhà nước ................. 76

Bảng 3.3: Tỷ lệ giá trị gia tăng trong tổng giá trị sản xuất công nghiệp của ngành

công nghiệp khai khoáng .......................................................................... 78

Bảng 3.4: Tình hình tổn thất trong khai thác than tại các mỏ trong Tập đoàn

Than – Khoáng sản Việt Nam ................................................................ 79

Bảng 3.5: Chỉ số HHI và EG của ngành công nghiệp khai khoáng .......................... 81

vii

Bảng 3.6: Tình hình thực hiện chi ngân sách cho sự nghiệp môi trường ................. 86

DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ

Hình 2.1: Tách rời tài nguyên và tác động môi trường trong tăng trưởng kinh tế ... 50

Hình 3.1: Xu hướng về khai thác khoáng sản trong giai đoạn 1980 – 2013 ............. 71

Hình 3.2: Số lao động làm việc trong ngành công nghiệp khai khoáng ................... 78

Hình 3.3: Xu hướng về năng suất tài nguyên từ khai thác khoáng sản ................ 82

Hình 3.4: Tốc độ tăng trưởng khai thác than và phát thải CO2 ................................. 84

Hình 3.5: Tốc độ tăng trưởng khai thác và tốc độ tăng tiền lương ở các doanh

nghiệp khai khoáng ................................................................................... 90

Hình 3.6: Các chỉ số thành phần và chỉ số SDI ngành công nghiệp khai khoáng .............. 94

Hình 3.7: Xu hướng về tăng trưởng kinh tế, khai thác khoáng sản và phát thải CO2

tại Việt Nam ............................................................................................. 97

viii

Hình 3.8: Quan hệ giữa tốc độ tăng trưởng khai thác và tăng trưởng TFP ............... 99

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Tài nguyên thiên nhiên nói chung và tài nguyên khoáng sản nói riêng là một

trong những đầu vào của sản xuất. Không những vậy, nhiều loại khoáng sản còn

gắn liền với lợi thế so sánh và vị thế của quốc gia. Việt Nam được đánh giá là có

tiềm năng về khoáng sản với khoảng hơn 5000 mỏ và điểm mỏ của hơn 60 loại

khoáng sản [10].

Trong thời gian qua, ngành công nghiệp khai khoáng đã có những đóng góp nhất

định vào tăng trưởng kinh tế, thu ngân sách và giải quyết việc làm. Tuy nhiên,

ngành này hiện đang bộc lộ không ít hạn chế, thách thức đối với tăng trưởng xanh,

phát triển bền vững.

Tình trạng khai thác ồ ạt tài nguyên khoáng sản, hiệu quả sử dụng tài nguyên

thấp, tỷ lệ tổn thất cao, nhiều loại tài nguyên khoáng sản có nguy cơ bước vào thời

kỳ bị cạn kiệt. Việc cấp phép khai thác thiếu hợp lý, thậm chí có tình trạng chia nhỏ

khu vực khai thác để cấp phép. Các doanh nghiệp khai khoáng chủ yếu là quy mô

nhỏ, trình độ kỹ thuật lạc hậu và trình độ tay nghề của người lao động còn hạn chế

[18]. Sự lãng phí, tổn thất khoáng sản trong hoạt động khai thác cao [78].

Hoạt động khai thác khoáng sản tác động tiêu cực tới môi trường, sinh kế, hệ

thống đường sá phục vụ dân sinh [59], [64], [68]. Việc khai thác khoáng sản

cũng thải ra một khối lượng lớn đất đá thải, ảnh hưởng tới môi trường xung

quanh [48], [50].

Khoáng sản đã khai thác chủ yếu được xuất khẩu ở dạng thô, thay vì lấy nguồn

tài nguyên khoáng sản làm “mồi” để thu hút đầu tư vào các ngành công nghiệp chế

biến, khiến cho Việt Nam có nguy cơ mất dần cơ hội để phát triển những ngành

công nghiệp quan trọng, những lĩnh vực phụ trợ có sức lan tỏa lớn. Việc khai thác

tài nguyên mà không gắn với phát triển công nghiệp chế biến có nguy cơ đẩy nhanh

tốc độ “chảy máu tài nguyên”, khi các ngành công nghiệp nội địa phát triển thì tài

1

nguyên cũng không còn.

Một số nghiên cứu đã chỉ ra rằng lợi ích từ khai thác khoáng sản có xu hướng

nghiêng về các doanh nghiệp khai khoáng [20], [21]. Xu hướng này có nguy cơ tạo

ra các lợi ích nhóm trong khai thác khoáng sản và hệ quả là thiếu bền vững về xã

hội. Việc hình thành nhóm lợi ích có nguy cơ gây ra “méo mó” trong các chính sách.

Thực trạng đã nêu cho thấy nếu không có chiến lược quản lý, khai thác và sử

dụng hợp lý đối với tài nguyên khoáng sản, Việt Nam có nguy cơ rơi vào bẫy “lời

nguyền tài nguyên” như nhiều quốc gia đã và đang gặp phải.

Hiện nay, Chính phủ đang thực hiện tái cơ cấu nền kinh tế theo hướng chuyển từ

chiều rộng sang chiều sâu, nâng cao chất lượng, hiệu quả và năng lực cạnh tranh

của nền kinh tế. Theo đó, việc khai thác khoáng sản cần những thay đổi nhằm nâng

cao khả năng đóng góp, thúc đẩy phát triển các ngành công nghiệp chế biến dựa

trên cơ sở nguyên liệu trong nước và công nghệ cao để đạt mục tiêu tăng tỷ phần giá

trị gia tăng – quốc gia trong sản phẩm.

Việt Nam là một trong những nước chịu ảnh hưởng của biến đổi khí hậu. Biến

đổi khí hậu tác động tới các hoạt động kinh tế, trong đó có khai thác khoáng sản.

Nước ta đang ngày càng hội nhập sâu rộng với kinh tế thế giới với các yêu cầu cao

về môi trường và an toàn vệ sinh lao động. Đây là yêu cầu và thách thức đối với nền

kinh tế nói chung và ngành công nghiệp khai khoáng nói riêng để có thể tham gia

chuỗi sản xuất toàn cầu hay những ràng buộc để tài trợ vốn.

Nhằm thích ứng với các thách thức vừa đề cập, trong những năm gần đây, Nhà

nước ban hành các chủ trương, chính sách về bảo vệ môi trường, khai thác tài

nguyên thiên nhiên và về phát triển bền vững, tăng trưởng xanh, trong đó quan

trọng nhất là “Chiến lược phát triển bền vững ở Việt Nam giai đoạn 2011-2020”

(Quyết định số 432/TTg ngày 12/4/2012) và “Chiến lược quốc gia về tăng trưởng

xanh thời kỳ 2011 – 2020 và tầm nhìn đến 2050” (Quyết định số 1393/QĐ–TTg

ngày 25/9/2012). Chiến lược tăng trưởng xanh đề ra các nhiệm vụ: (i) giảm thiểu

cường độ phát thải khí nhà kính và khuyến khích sử dụng năng lượng sạch, năng

lượng tái tạo; (ii) xanh hóa sản xuất và (iii) xanh hóa lối sống và thúc đẩy tiêu dùng

bền vững. Tăng trưởng xanh là một nội dung của phát triển bền vững, đảm bảo phát

2

triển kinh tế theo hướng nhanh, hiệu quả và bền vững, đồng thời góp phần giảm nhẹ

và phòng chống tác động của biến đổi khí hậu. Chiến lược tăng trưởng xanh là

chiến lược phát triển kinh tế theo hướng bền vững, là bộ phận cấu thành của

Chương trình nghị sự 21 về phát triển bền vững của Việt Nam đã được Chính phủ

Việt Nam ban hành năm 2004. Theo đó, để đóng góp vào việc thực hiện chiến lược

tăng trưởng xanh và thích ứng với bối cảnh mới, việc khai thác khoáng sản cần có

cách tiếp cận và phương thức mới.

Các nghiên cứu hiện có về khai thác khoáng sản tại Việt Nam cho đến nay tập

trung chủ yếu vào giải quyết những vấn đề mang tính kỹ thuật, hiệu quả kinh tế đơn

thuần. Thậm chí khai thác khoáng sản thường được đánh giá qua đóng góp cho sự

tăng trưởng sản lượng và giá trị xuất khẩu, chứ chưa được đánh giá đầy đủ tác động

nhiều mặt về giá trị quý hiếm lâu dài của tài nguyên, về tổng chi phí – lợi ích (bao

gồm cả chi phí cơ hội và chi phí bồi hoàn tài nguyên). Nguyên tắc cốt lõi của phát

triển bền vững “tiêu dùng hiện tại không làm tổn hại tới tiêu dùng của các thế hệ

mai sau” hầu như chưa được vận dụng trong hoạch định các chiến lược dài hạn và

chính sách khai thác khoáng sản.

Các nghiên cứu hiện có của các tác giả trong nước đề cập đến tăng trưởng xanh,

song chưa đưa ra được các chỉ tiêu áp dụng vào ngành công nghiệp khai khoáng.

Hơn nữa, công trình nghiên cứu vẫn chưa đề xuất phương pháp và tính toán chỉ số

tổng hợp các chỉ tiêu thành phần theo các trụ cột phát triển bền vững để theo dõi xu

hướng phát triển của ngành công nghiệp khai khoáng Việt Nam.

Từ những vấn đề trên cho thấy nghiên cứu nhằm đưa ra luận cứ khoa học xác

đáng cho việc hoạch định chính sách thích hợp để khai thác khoáng sản đáp ứng

được nhu cầu phát triển đất nước trong khuôn khổ chiến lược tăng trưởng xanh là có

ý nghĩa về khoa học và có khả năng đóng góp vào thực tiễn hoạch định chính sách

và đưa ra những giải pháp cho những vấn đề công nghiệp hóa, hiện đại hóa sắp tới.

Vì tính cấp thiết và ý nghĩa như trên, đề tài “Khai thác khoáng sản trong chiến

3

lược tăng trưởng xanh ở Việt Nam” được tác giả luận án lựa chọn để nghiên cứu.

2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án

2.1. Mục tiêu nghiên cứu

Làm rõ cơ sở lý luận về khai thác khoáng sản trong tăng trưởng xanh; đánh giá

thực trạng khai thác khoáng sản ở Việt Nam trong chiến lược tăng trưởng xanh và

đề xuất quan điểm, định hướng, giải pháp về khai thác khoáng sản trong quá trình

thực hiện chiến lược tăng trưởng xanh ở Việt Nam.

2.2. Các nhiệm vụ nghiên cứu

1) Hệ thống hóa một số vấn đề lý luận và thực tiễn về khai thác khoáng sản

trong tăng trưởng xanh.

2) Phân tích, đánh giá thực trạng khai thác khoáng sản trong chiến lược tăng

trưởng xanh ở Việt Nam.

3) Đề xuất quan điểm, định hướng và giải pháp về khai thác khoáng sản trong

quá trình thực hiện chiến lược tăng trưởng xanh ở Việt Nam.

2.3. Câu hỏi nghiên cứu

Nhằm góp phần đạt các mục tiêu và nhiệm vụ vừa nêu, luận án tập trung giải đáp

các câu hỏi nghiên cứu chính:

1) Khai thác khoáng sản ở Việt Nam đã theo hướng tăng trưởng xanh chưa?

Câu hỏi nghiên cứu này hướng tới việc tìm hiểu xem khai thác khoáng sản diễn

ra theo xu hướng tốt lên hay xấu hơn, chứ không trả lời khai thác khoáng sản đã

xanh hay chưa (bởi giữa kinh tế, xã hội, môi trường có luôn sự đánh đổi và việc đưa

ra ngưỡng/ chỉ tiêu định lượng cụ thể để đánh giá là nhiệm vụ không khả thi).

2) Việc khai thác khoáng sản (duy trì theo phương thức khai thác như hiện

nay) ảnh hưởng gì và như thế nào tới việc thực hiện chiến lược tăng

trưởng xanh?

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án

3.1. Đối tượng nghiên cứu

Luận án nghiên cứu về hiệu quả kinh tế, tác động đến xã hội và môi trường

của khai thác khoáng sản trong quá trình thực hiện chiến lược tăng trưởng xanh

4

ở Việt Nam.

3.2. Phạm vi nghiên cứu

Về nội dung nghiên cứu:

– Khai thác khoáng sản trong chiến lược tăng trưởng xanh bao gồm hai mặt: (a)

khai thác khoáng sản theo hướng tăng trưởng xanh, tức là tăng trưởng xanh đối với

ngành công nghiệp khai khoáng; và (b) khai thác khoáng sản cần có những đóng

góp vào việc thực hiện và đạt được các kết quả của chiến lược tăng trưởng xanh của

Việt Nam. Luận án chủ yếu nghiên cứu về khai thác khoáng sản theo hướng tăng

trưởng xanh.

– Khi nghiên cứu về khai thác khoáng sản theo hướng tăng trưởng xanh, luận án

tập trung vào các vấn đề về kinh tế, xã hội và môi trường. Luận án chỉ đề cập ở mức

độ nhất định về xanh hóa khai thác khoáng sản, bởi chủ đề này chủ yếu đặt vấn đề

đưa các công nghệ xanh và sạch, phương thức sản xuất/khai thác xanh vào trong

quá trình khai thác khoáng sản, cách thức xử lý môi trường,... các nội dung này

thiên về khía cạnh kỹ thuật của khai thác mỏ và xử lý vấn đề môi trường.

– Luận án tập trung phân tích, đánh giá và đề xuất ở mức cần thiết đối với một số

khía cạnh của khai thác, chứ không đi sâu nghiên cứu về sử dụng khoáng sản.

Về không gian: Luận án nghiên cứu về khai thác khoáng sản ở Việt Nam.

Về thời gian: Luận án tập trung nghiên cứu các nội dung trong giai đoạn từ năm

2000 đến nay.

4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận án

4.1. Cách tiếp cận vấn đề nghiên cứu

Luận án sử dụng cách tiếp cận hệ thống và phát triển bền vững trong nghiên cứu.

Khai thác khoáng sản và tác động kinh tế, xã hội, môi trường được phân tích theo

chuỗi, được phân loại theo các cách khác nhau:

– Khai thác khoáng sản phân theo tiến trình thực hiện và các chính sách quản lý

nhà nước: quy hoạch → trao hợp đồng và giấy phép khai thác → giám sát quá trình

khai thác (bảo vệ môi trường và giảm thiểu tác động về xã hội) → thu ngân sách và

sử dụng nguồn thu → các chính sách và dự án phục vụ phát triển bền vững. Cách

tiếp cận này để đánh giá thực trạng chính sách ở các công đoạn của khai thác

5

khoáng sản.

– Phân theo vai trò hay tác động lan tỏa của khai thác khoáng sản đối với các

ngành kinh tế: từ sản phẩm khoáng sản và phát triển các ngành công nghiệp theo

sau sản phẩm khoáng sản.

– Phân theo vai trò của khai thác khoáng sản trong hội nhập kinh tế quốc tế: đề

xuất các chính sách sản phẩm khoáng sản tham gia vào chuỗi sản xuất toàn cầu.

– Phân theo tác động kinh tế, xã hội và môi trường của khai thác khoáng sản:

phân tích chuỗi, đầu vào – đầu ra của khoáng sản nhằm làm rõ tác động của khai

thác khoáng sản đối với môi trường và mô hình tiêu dùng của xã hội, đề xuất yêu

cầu phát triển các sản phẩm thay thế để đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế – xã hội.

4.2. Phương pháp nghiên cứu

Các phương pháp nghiên cứu được sử dụng trong luận án bao gồm:

a) Phương pháp định tính

– Phương pháp so sánh, bao gồm so sánh theo chuỗi thời gian và so sánh chéo

được đề tài sử dụng để đối chiếu giữa các chỉ tiêu có liên quan trên các khía cạnh

của tăng trưởng xanh:

+ So sánh về thay đổi, chuyển biến các chính sách liên quan tới khai thác khoáng

sản theo thời gian.

+ So sánh theo thời gian các kết quả, hệ quả của chính sách đối với khai thác

khoáng sản trên quan điểm tăng trưởng xanh.

– Phương pháp phân tích

+ Phân tích thống kê:

Phương pháp này được sử dụng để phân tích: 1) số liệu thống kê về tình hình

kinh tế – xã hội; 2) phân tích số liệu thống kê từ kết quả điều tra doanh nghiệp trong

giai đoạn từ 2000 – đến nay để làm rõ thực trạng và xu hướng phát triển của các

doanh nghiệp khai khoáng; 3) các số liệu về tài nguyên và môi trường, hiệu quả sử

dụng tài nguyên;...

+ Phân tích các chính sách:

Tính đồng bộ, phù hợp pháp luật của các văn bản đã ban hành.

Tính khả thi (phù hợp với thực tiễn) của các quy định: việc ban hành các chính

6

sách có phù hợp với tính đặc thù của khai thác khoáng sản, ví dụ đặc thù của ngành

khai khoáng là càng ngày càng phải khai thác xuống sâu (đối với khai thác hầm lò),

điều này đồng nghĩa với chi phí sản xuất phải cao hơn, so các quy định tài chính

(thuế tài nguyên) có xu hướng ngày càng tăng. Việc phân cấp quản lý tài nguyên

khoáng sản liệu có phù hợp điều kiện thực tế của cấp địa phương (đặc biệt cấp

huyện) về số lượng và năng lực, trình độ chuyên môn của đội ngũ cán bộ.

Tính phù hợp của các cộng cụ kinh tế được áp dụng trong hoạt động khoáng sản

(thuế, phí, ký quỹ….), tính ổn định về chính sách trong lĩnh vực khoáng sản.

Phân tích, đánh giá các nội dung và việc tổ chức triển khai các chính sách về khai

thác khoáng sản. Phân tích tác động (từ một số ví dụ) về các tác động của chính

sách và của hoạt động khai thác khoáng sản tới môi trường, đời sống và kinh tế của

người dân địa phương tại vùng khai thác.

– Phương pháp điều tra, khảo sát thực tiễn

Nghiên cứu sinh đã tiến hành khảo sát thực tiễn về khai thác titan tại tỉnh Bình

Định, khai thác quặng sắt và volfram tại tỉnh Thái Nguyên, khai thác bôxit tại Tân

Rai (Lâm Đồng) và Nhân Cơ (Đắk Nông). Phương pháp khảo sát bao gồm phỏng

vấn sâu, thảo luận với đại diện các cấp chính quyền (tỉnh, huyện, xã), các doanh

nghiệp khai khoáng và người dân nơi khai thác mỏ. Nội dung khảo sát tập trung vào

những vấn đề: những bất cập của các chính sách khai thác khoáng sản, tác động

(tiêu cực, tích cực) của khai thác khoáng sản đối với phát triển kinh tế – xã hội, tài

nguyên – môi trường.

– Phương pháp tổng hợp

Phương pháp tổng hợp được sử dụng để rút ra các nhận xét, khái quát, kết luận từ

các kết quả, nội dung được hiện thông qua phân tích, so sánh,...

b) Phương pháp định lượng

– Tính chỉ số HHI (Herfindahl–Hirschmann Index): tính toán và phân tích chỉ số

tập trung và thu hút của ngành công nghiệp khai khoáng đối với những nơi khai

thác mỏ (chi tiết phương pháp tính toán tại Bảng 9 - Phụ lục).

– Tính chỉ số SDI (Sustainable Development Index): xây dựng và tính toán chỉ số

7

phát triển bền vững ngành công nghiệp khai khoáng Việt Nam. Việc tính toán chỉ số

này theo chuỗi thời gian nhằm nghiên cứu xu hướng liệu ngành công nghiệp khai

khoáng đã phát triển theo hướng tăng trưởng xanh.

– Sử dụng kinh tế lượng: luận án dùng mô hình kinh tế lượng ước lượng và phân

tích mối quan hệ giữa khai thác khoáng sản và TFP (chi tiết về phương pháp: Bảng

11 – Phụ lục).

4.3. Nguồn số liệu, tài liệu

Các loại số liệu, tài liệu thứ cấp: thu thập các văn bản, chủ trương, chính sách

của Đảng, Nhà nước; thông tin và dữ liệu từ các công trình nghiên cứu khoa học đã

có; các báo cáo có liên quan...

Các số liệu, tài liệu sơ cấp: kết quả điều tra và phỏng vấn sâu các cơ quan quản lý

nhà nước, các doanh nghiệp khai khoáng và người dân tại các điểm khảo sát.

4.4. Khung phân tích

8

Luận án tiến hành phân tích các nội dung theo khung phân tích như sau:

5. Đóng góp mới về khoa học của luận án

Luận án góp phần làm sáng tỏ lý luận về khai thác khoáng sản trong tăng trưởng xanh:

– Việc khai thác khoáng sản hướng tới việc tạo ra giá trị gia tăng lớn hơn, sử

dụng ít hơn các nguồn tài nguyên và gây ra ít hơn các tác động tới tài nguyên,

môi trường.

– Làm rõ và cung cấp luận cứ khoa học cho việc đề ra các chính sách sử dụng hiệu

quả tài nguyên khoáng sản, tách rời sự phụ thuộc của tăng trưởng kinh tế đối với

khai thác ngày càng nhiều tài nguyên khoáng sản và chuyển hướng tới mô hình

tăng trưởng xanh.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án

– Góp phần bổ sung vào các lý luận về khai thác khoáng sản trong tăng trưởng xanh.

– Góp phần nâng cao nhận thức về tăng trưởng xanh, qua đó, đóng góp vào xây

dựng và thực thi các chính sách.

– Góp phần làm sáng tỏ và cung cấp những luận cứ khoa học về thực tiễn khai

thác khoáng sản ở nước ta trên quan điểm tăng trưởng xanh phục vụ cho công tác

nghiên cứu và quản lý ở các cơ quan hoạch định chính sách, các doanh nghiệp.

7. Kết cấu nội dung của luận án

Ngoài phần nói đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và các phụ lục có liên

quan, luận án được kết cấu thành 04 chương, cụ thể như sau:

Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án

Chương 2: Cơ sở lý luận và thực tiễn về khai thác khoáng sản trong tăng

trưởng xanh

Chương 3: Thực trạng khai thác khoáng sản trong chiến lược tăng trưởng

xanh ở Việt Nam

Chương 4: Ðề xuất hoàn thiện, đổi mới khai thác khoáng sản trong chiến

9

lược tăng trưởng xanh ở Việt Nam

Chương 1

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU

LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN

1.1. Tình hình nghiên cứu ngoài nước

Ở cấp độ quốc tế, cho đến nay, có nhiều nghiên cứu về thực trạng khai thác và

phát triển ngành công nghiệp khai khoáng, trong đó đáng chú ý là các nghiên cứu có

giá trị khoa học dưới góc độ bổ sung, hoàn thiện lý luận về tăng trưởng xanh.

1.1.1. Các nghiên cứu bàn về khai thác khoáng và quan hệ của nó với tăng

trưởng kinh tế

1.1.1.1. Các nghiên cứu bàn về vốn tài nguyên, tài nguyên khoáng sản trong tăng

trưởng kinh tế

Các nhà kinh tế học theo trường phái tân cổ điển khi xem xét tới tăng trưởng kinh

tế thường chỉ đề cập đến vốn vật chất và lao động. Robert Solow, năm 1956, đã bổ

sung yếu tố công nghệ cùng với các yếu tố như vốn vật chất, lao động là những đầu

vào của tăng trưởng kinh tế. Các cách tiếp cận này chủ yếu đề cập tới về số lượng

của tăng trưởng kinh tế.

Với cuộc khủng hoảng dầu lửa những năm 1970, các nhà kinh tế học đã nhận ra

“Sự giới hạn của tăng trưởng” (The limits to growth), đó là: tài nguyên thiên nhiên

không phải là vô tận và môi trường đang bị ô nhiễm có nguy cơ tới hạn khả năng

chịu đựng của hệ sinh thái. Nếu tình trạng này kéo dài sẽ ảnh hưởng tới tăng trưởng

trong tương lai và chất lượng cuộc sống của con người. Chính vì vậy, đầu những

năm 1970, các nhà kinh tế học đã mở rộng mô hình tăng trưởng tân cổ điển bằng

việc xem vốn tài nguyên với tư cách là đầu vào sản xuất nhằm đánh giá đầy đủ hơn

vai trò và ảnh hưởng của việc sử dụng loại vốn này.

Stiglitz (1974) [151] đã ước lượng độ co giãn giữa các đầu vào sản xuất, bao

gồm: vốn vật chất, lao động và năng lượng. Dasgupta và Heal (1979) [101] ước

lượng sự thay thế lẫn nhau giữa các đầu vào sản xuất và nhấn mạnh rằng đầu ra của

nền kinh tế liệu có đầy đủ khi không có tài nguyên, trong trường hợp việc thiếu tài

10

nguyên sẽ không xảy ra quá trình sản xuất. Điểm chung trong các nghiên cứu này là

đều khẳng định rằng tài nguyên không tái tạo là đầu vào quan trọng của sản xuất.

Tuy nhiên, các nghiên cứu đã bỏ qua sự thay thế của đầu tư vào các công nghệ mới

và cải thiện các kỹ năng lao động. Hơn nữa, các nguyên cứu chưa xem xét tới

thương mại quốc tế – bắt đầu phát triển mạnh trong những năm 1990 và hiện đã trở

thành xu thế chủ đạo trong kinh tế thế giới – để bổ sung cho nguồn năng lượng ở

trong nước khi cạn kiệt. Mặc dù vậy, các nghiên cứu này cũng đã nhấn mạnh tới

tầm quan trọng của vốn tài nguyên trong tăng trưởng kinh tế.

Các nghiên cứu đã áp dụng hàm sản xuất Cobb–Douglas với việc bổ sung vốn tài

nguyên để đưa ra các giải thích đối với tăng trưởng kinh tế (vốn tài nguyên là đầu

vào sản xuất, mặt trái của khai thác và sự cần thiết đầu tư vào vốn tài nguyên):

– Gylfason và Zoega (2001) [114] áp dụng hàm sản xuất Cobb–Douglas với các

biến đầu vào là lao động, vốn vật chất và vốn tài nguyên; và qua các bước biến đổi

để ước lượng việc gia tăng khối lượng vốn tài nguyên ảnh hưởng như thế nào đến

đầu tư. Các kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng vốn tài nguyên có tác động tới tăng

trưởng kinh tế. Loại vốn này cũng có thể cản trở tới quy mô vốn đầu tư, nếu chúng

chậm quá trình phát triển tài chính và ảnh hưởng gián tiếp tới chất lượng của đầu tư.

– Sturgill và Zuleta (2013) [145] áp dụng hàm Cobb–Douglass với 4 biến gồm

vốn vật chất (tổng tích lũy tài sản), vốn con người (tỷ lệ lao động qua đào tạo), vốn

tài nguyên (tỷ trọng khu vực khai thác tài nguyên trong cơ cấu kinh tế) và quy mô

lao động (số lượng lao động đang làm việc). Nghiên cứu tập trung tính toán đóng

góp của các nhân tố vào tăng trưởng và ảnh hưởng của các nhân tố này vào TFP

(năng suất nhân tố tổng hợp), năng suất cận biên của các yếu tố khác.

– Trong nghiên cứu về vốn tài nguyên và tăng trưởng trong dài hạn, Cai và cộng

sự (2011) [92] nghiên cứu mô hình tăng trưởng nội sinh dựa trên hàm sản xuất

Cobb–Douglass với các biến giải thích gồm vốn vật chất, lao động và vốn tài

nguyên. Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng hệ kinh tế – môi trường sẽ tăng trưởng ổn

định trong dài hạn nếu có sự đầu tư thỏa đáng cho tái tạo tài nguyên và môi trường.

Các nghiên cứu vừa đề cập chưa bàn đến sự thay thế và độ co giãn thay thế giữa

11

các loại vốn khác nhau (một đầu vào này có thể thay thế được bao nhiêu các yếu tố

đầu vào khác). Hơn nữa, các nghiên cứu này đã bỏ qua sự thay thế của năng lượng

tái tạo đối với tài nguyên không tái tạo.

Ngân hàng Thế giới (2008) [39], trong báo cáo với tựa đề “Của cải của các quốc

gia ở đâu? Đo lường nguồn của cải Thế kỷ 21”, khi hạch toán tài sản của các quốc

gia đã xây dựng các biến số đầu vào là vốn vật chất, vốn con người, nguồn năng

lượng không tái tạo (dầu, khí tự nhiên, than đá) và tài nguyên đất đai. Kết quả

nghiên cứu này khẳng định vốn tài nguyên là một trong các cấu thành quan trọng

nhất trong tổng giá trị của hầu hết các quốc gia. Nghiên cứu đề xuất cách tiếp cận

mới trong việc đo lường sự biến động của cải và nhấn mạnh tới tầm quan trọng của

vốn tài nguyên, song việc quản lý tốt hơn hệ sinh thái và nguồn lực tự nhiên như thế

nào chưa được đề cập tới.

1.1.1.2. Các nghiên cứu về luận điểm “lời nguyền tài nguyên” và các mối quan hệ

đối với tăng trưởng kinh tế

“Lời nguyền tài nguyên” là thuật ngữ bắt nguồn từ các kết quả nghiên cứu thực

nghiệm, được khởi xưởng bởi Sachs và Warner (1995) khi nghiên cứu về mối quan

hệ giữa khai thác tài nguyên và tăng trưởng kinh tế. Thuật ngữ này dùng để nói lên

một nghịch lý rằng các quốc gia giàu có tài nguyên thiên nhiên, đặc biệt là tài

nguyên không tái tạo (khoáng sản, dầu mỏ và khí đốt), nhưng lại không thể biến được

lợi thế đó để phát triển đất nước, ngược lại, thường là các quốc gia kém phát triển.

– Sachs và Warner (1999) [139] nghiên cứu về các nguy hại tiềm ẩn của việc

khai thác khoáng sản tới tăng trưởng kinh tế trong dài hạn. Các tác giả nghiên cứu

đối với 85 quốc gia về tăng trưởng kinh tế (được đo lường bằng thu nhập bình quân

đầu người) trong giai đoạn 1965 – 1998 và vốn tài nguyên (được tính bằng tỷ trọng

vốn tài nguyên trong tổng vốn – bao gồm vốn vật chất, vốn con người và vốn tài

nguyên). Tuy nhiên, nghiên cứu này chủ yếu để so sánh giữa các nhóm quốc gia

giàu tài nguyên và nghèo tài nguyên, kết quả nghiên cứu chưa giải thích được cho

quốc gia trong các giai đoạn phát triển như thế nào, nhất là trong giai đoạn đầu của

quá trình phát triển.

– Crowson (2009) [100] nghiên cứu về mối liên hệ giữa đóng góp từ xuất khẩu

12

khoáng sản và tăng trưởng GDP, qua đó chứng minh về hiện tượng “lời nguyền tài

nguyên”. Tác giả đã sử dụng tỷ trọng xuất khẩu tài nguyên trong tổng xuất khẩu, đây

có thể là biến giải thích chưa hoàn hảo, bởi nền kinh tế có khả năng là tái xuất khẩu

(nhập khẩu để gia công và sau đó xuất khẩu).

– Gylfason (2001) [113] tập trung vào chứng minh về mối quan hệ tỷ lệ nghịch

giữa giàu tài nguyên và phát triển giáo dục, các quan hệ này cũng có thể liên quan

tới tăng trưởng kinh tế. Kết quả nghiên cứu này chỉ ra rằng, các nước giàu tài

nguyên có xu hướng đầu tư cho giáo dục thấp hơn so với các nước nghèo tài

nguyên. Douangngeune và cộng sự (2005) [102] lập luận rằng đóng góp từ khai

thác khoáng sản có quan hệ nghịch đảo với chi tiêu công về giáo dục và số năm đến

trường của học sinh nữ. Các nghiên cứu này sử dụng biến tỷ trọng nguồn thu từ khai

thác tài nguyên trong tổng nguồn thu ngân sách có thể chưa hẳn đã phù hợp, bởi

nguồn thu từ tài nguyên phụ thuộc vào biến động của giá cả trên thị trường và các

chi phí khai thác. Hơn nữa, các nghiên cứu dường như chưa đánh giá thỏa đáng các

lợi ích dài hạn của giáo dục khi được đầu tư bằng nguồn thu từ khai thác tài nguyên.

Trong khi các nghiên cứu tập trung chứng minh “lời nguyên tài nguyên”, không

ít nghiên cứu lại đưa ra các kết luận rằng khai thác tài nguyên có thể đóng góp tích

cực cho tăng trưởng kinh tế. Philippot (2010) [134] nghiên cứu đối với 28 nền kinh

tế đang trong quá trình chuyển đổi thuộc Đông Âu và Liên xô (cũ) trong giai đoạn

1990 – 2003, với biến phụ thuộc là GDP bình quân đầu người và biến giải thích là

sản lượng khai thác các loại tài nguyên không tái tạo (dầu lửa, khí đốt, các loại

khoáng sản), kết quả cho thấy khai thác tài nguyên đóng góp tích cực vào tăng

trưởng kinh tế. Các kết luận tương tự cũng được rút ra từ các nghiên cứu Ahrend

(2002) [82] và Brunnschweiler (2010) [91], đó là, khai thác dầu lửa có tác động tích

cực tới tăng trưởng kinh tế của các vùng lãnh thổ của Liên bang Nga.

Việc các nghiên cứu đưa ra các kết luận và các tranh luận trái ngược nhau về “lời

nguyền tài nguyên” cũng là điều dễ hiểu, bởi sự thiếu nhất quán trong việc sử dụng

phương pháp và các biến đại diện để giải thích cho vấn đề nghiên cứu. Đây cũng là

chủ đề cần có nhiều nghiên cứu hơn nữa để góp phần làm sáng tỏ vấn đề.

Các nghiên cứu ủng hộ “lời nguyền tài nguyên” đều đề cập đến các bài học cay

13

đắng từ việc khai thác khoáng sản ở một số quốc gia. Điểm chung của các tác giả là

có xu hướng gợi ý các nước giàu tài nguyên khoáng sản nên để giành các tài nguyên

này dưới lòng đất thay vì khai thác. Các gợi ý này có thể đúng khi tài nguyên

khoáng sản ngày càng cạn kiệt, khan hiếm và việc dự trữ càng mang lại giá trị theo

thời gian. Vấn đề đặt ra là các nước phụ thuộc vào tài nguyên để tăng trưởng, nhất là

các nước nghèo, thì việc khai thác khoáng sản như thế nào để mang lại sự thịnh

vượng?; theo nghĩa đó thì các nghiên cứu này chưa thể hiện rõ. Hơn nữa, các nghiên

cứu này cũng chưa đề ra được những cách tiếp cận, giải pháp để hạn chế các tác

động tiêu cực của hoạt động khai thác khoáng sản đối với môi trường – vấn đề

được đề cao trong tăng trưởng xanh.

1.1.1.3. Các nghiên cứu về phân chia lợi ích giữa các chủ thể liên quan trong

khai thác khoáng sản

Chủ đề phân chia lợi ích giữa các bên liên quan trong khai thác tài nguyên thiên

nhiên được đưa ra lần đầu tiên tại Hội nghị về Đa dạng sinh học năm 2009. Đây là

chủ đề tương đối mới mẻ, cho đến nay chưa có nhiều nghiên cứu và các nghiên cứu

đã thực hiện cũng mới chỉ tập trung vào một số khía cạnh nhất định:

– Trong lĩnh vực khai khoáng, World Bank (2011) [167] đã thực hiện thí điểm

nghiên cứu phân chia lợi ích trong khai thác khoáng sản tại Ghana và Papua New

Guinea. Nghiên cứu này được thực hiện để làm cơ sở cho việc thực hiện việc ký kết

thỏa thuận giữa doanh nghiệp và cộng đồng địa phương, và giới thiệu khuôn khổ lý

thuyết về phân chia lợi ích giữa doanh nghiệp và cộng đồng địa phương nơi có hoạt

động khai khoáng. Dù đã đề xuất mô hình, nhưng nghiên cứu này chưa xây dựng

được cơ chế để vận hành nó như thế nào, đặc biệt là chưa gợi ý được các cơ chế để

giám sát việc thực hiện của từng chủ thể trong khai thác khoáng sản.

– Viện nghiên cứu CMI (2012) [95] thực hiện nghiên cứu đối với một số dự án

khai khoáng ở Tanzania về đóng góp của khai thác khoáng sản đối với kinh tế địa

phương và tìm hiểu xem các công ty khai khoáng đã có những hỗ trợ gì cho cộng

đồng trên địa bàn nơi khai thác. Nghiên cứu đã bước đầu phân tích một số khoản

đóng góp của các công ty khai khoáng cho người dân địa phương, song chưa đề cập

tới việc phân chia lợi ích cho người lao động – những người trực tiếp tạo ra của các

14

cho các doanh nghiệp.

– Owens (2011) [132] đã trình bày các quy định của Australia về phân chia lợi

ích giữa nhà nước – doanh nghiệp – người dân, trong đó quy định đối với từng loại

khoáng sản, doanh nghiệp phải trích lại một tỷ lệ nhất định lợi nhuận cho cộng đồng

địa phương để hỗ trợ phát triển. Nghiên cứu đã đề cập tương đối đầy đủ về phân

chia lợi ích giữa các chủ thể trong khai thác khoáng sản, tuy nhiên, tác gia chưa làm

rõ việc phân chia lợi ích đã hợp lý khi những người dân địa phương thường là đối

tượng bị ảnh hưởng do các hoạt động khai thác khoáng sản.

– Morgandi (2010) [127] nghiên cứu và so sánh quy định pháp luật về phân bổ

nguồn thu từ ngành khai khoáng ở các cấp chính quyền khác nhau tại bảy nước giàu

tài nguyên khoáng sản. Nghiên cứu này chủ yếu tập trung phân tích về phân chia lợi

ích theo cấp chính quyền, nhưng tác giả chưa làm rõ các địa phương không có khai

thác khoáng sản không được hưởng lợi liệu có công bằng khi tài nguyên khoáng sản

là tài sản thiên nhiên ban tặng và là tài sản của quốc gia.

Như vậy, chủ đề về phân chia lợi ích giữa các chủ thể liên quan trong khai thác

khoáng sản mới chỉ tiến hành các phân tích thực nghiệm tại một số quốc gia và

đang ở những bước đi đầu tiên trong việc hình thành khung lý thuyết. Các nghiên

cứu về phân chia lợi ích trong khai thác khoáng sản nhằm hướng vào việc đề xuất

các cơ chế phân bổ tối ưu nguồn thu từ khai thác tài nguyên thiên nhiên, tính hiệu

quả của sự phân bổ nguồn thu cũng như tính ổn định và cân bằng chung của hệ

thống tài chính. Đặc biệt, việc nghiên cứu cơ chế phân chia lợi ích là cơ sở để đánh

giá, giải thích các nguyên nhân của xung đột xã hội, tranh chấp tài nguyên – tức là

đề cập tới bền vững về xã hội.

1.1.2. Các nghiên cứu bàn về tăng trưởng xanh

1.1.2.1. Các nghiên cứu về tăng trưởng xanh

Kể từ khi xảy ra cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu (từ năm 2007), thế giới đã

nhìn nhận lại mô hình tăng trưởng đang thực hiện và khái niệm, nghiên cứu về tăng

trưởng xanh thu hút được sự quan tâm của nhiều người, trong đó đáng chú ý là các

nghiên cứu sau đây.

– Chương trình Môi trường Liên hợp quốc – UNEP (2011a) [154] đưa ra định

15

nghĩa, cách tiếp cận về tăng trưởng xanh và các ví dụ ở một số ngành tại một số

quốc gia. Nghiên cứu cũng đã đề cập tới những lợi ích và thách thức cho việc thực

hiện tăng trưởng xanh.

– Trong khía cạnh về việc làm xanh, nghiên cứu của Chương trình Môi trường

Liên hợp quốc và Tổ chức Lao động quốc tế (2008) [157] đưa ra các định nghĩa về

việc làm xanh, phân tích xu hướng và các nhân tố tác động về việc làm của một số

ngành. Theo nghiên cứu này, ngành công nghiệp khai khoáng có xu hướng sử dụng

nhiều vốn hơn là lao động, tức là sử dụng các công nghệ nhiều vốn và ít có sự cải

thiện năng suất lao động. Hệ quả của cách tăng trưởng này là “lề hóa” một số nhóm

người tham gia vào thị trường lao động, kéo theo đó là bất bình đẳng về thu nhập

trong xã hội.

– Nghiên cứu của Ủy ban Kinh tế Xã hội châu Á Thái Bình Dương – UNESCAP

(2012) [108] bàn về thực trạng sử dụng, hiệu quả sử dụng các loại tài nguyên và các

tác động tới biến đổi khí hậu. Nghiên cứu đã xây dựng mô hình về tăng trưởng xanh

và đề xuất chính sách can thiệp là đầu tư vào vốn con người (để có năng suất lao

động cao hơn, phân phối thu nhập công bằng) và vào vốn tài nguyên thiên nhiên

(giảm cường độ và sử dụng hiệu quả tài nguyên, bền vững về sinh thái). Hai quá

trình này đồng hành với nhau góp phần vào phát triển bền vững.

– Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế – OECD (2011) [129] đề ra khuôn khổ

chiến lược và các con đường thực hiện tăng trưởng xanh. Nghiên cứu này đưa ra

chính sách can thiệp thúc đẩy tăng trưởng xanh thông qua cải cách các hệ thống

thuế tài nguyên và các trợ cấp.

– Reilly (2012) [137] đã nghiên cứu về các giải pháp chính sách sử dụng hiệu

quả tài nguyên thiên nhiên để tăng trưởng xanh. Tuy nhiên, các đề xuất trong

nghiên cứu này mới chỉ mang tính nguyên tắc, việc vận dụng vào điều kiện cụ thể

từng quốc gia như thế nào là vấn đề cần tiếp tục phân tích.

– Trong khi nhiều nghiên cứu tập trung vào luận giải bản chất của tăng trưởng

xanh cũng như con đường để hướng tới tăng trưởng xanh và những lợi ích của nó,

một số nghiên cứu lại phản bác và tỏ ra nghi ngờ về lợi ích thực sự của tăng trưởng

xanh. Michaels và Murphy (2009) [126], Morris và cộng sự (2011) [128] cho rằng

16

thiếu bằng chứng đáng tin cậy về lợi ích của năng lượng xanh trong việc tạo thêm

nhiều việc làm và phê phán các quan điểm ủng hộ tăng trưởng xanh có thể cải thiện

nền kinh tế và môi trường mà hầu như không có rủi ro.

– Nghiên cứu của các chuyên gia thuộc Ngân hàng Thế giới – World Bank

(2012) [37] lại đặt câu hỏi mang tính nghi ngờ về tăng trưởng xanh là liệu công

nghệ có cho phép các nước đang phát triển theo đuổi phương thức phát triển ít tổn

hại đến môi trường? Đây là những câu hỏi mang tính kinh tế học nhằm giải thích

cho các thất bại thị trường và các chính sách kém hiệu quả. Theo đó, nghiên cứu

này đưa ra một số lập luận và cho rằng tăng trưởng xanh là chưa đủ đề nền kinh tế

đạt tới bền vững khi thiếu đồng bộ với các thể chế khác.

Một trong các công cụ để đạt tăng trưởng xanh là áp đặt và gia tăng thuế, phí đối

với môi trường nhằm điều chỉnh hành vi trong các ngành công nghiệp và điều này

sẽ tăng thêm gánh nặng nghĩa vụ tài chính đối với doanh nghiệp. Từ đó, người ta

cũng có những lo ngại rằng việc thắt chặt các chính sách môi trường có thể dẫn đến

việc di chuyển các ngành công nghiệp đến những khu vực có các chính sách môi

trường lỏng lẻo hơn. Copeland (2012) [98] cho rằng thắt chặt các quy định về môi

trường có thể khiến các doanh nghiệp di chuyển địa điểm sản xuất.

Việc có không ít nhà nghiên cứu vẫn hoài nghi về tăng trưởng xanh là điều dễ

hiểu, mặc dù tăng trưởng xanh đã được phần lớn lãnh đạo các quốc gia trên thế

giới chấp nhận như con đường tất yếu. Gần đây nhất, tại Hội nghị thượng đỉnh

toàn cầu về phát triển bền vững năm 2012 tại Rio De Janero (Braxin), tăng

trưởng xanh được các quốc gia đồng thuận coi là con đường kết hợp thực hiện cả

hai mục tiêu là phát triển bền vững và giảm nhẹ biến đổi khí hậu. Tuy nhiên, vấn

đề thực tế cần giải quyết là giảm thiểu các rủi ro của tăng trưởng xanh, có lộ

trình thực hiện và đề xuất được khung chính sách phù hợp, đặc biệt là trong các

lĩnh vực liên quan đến khai thác tài nguyên, đây vẫn đang là vấn đề chưa có lời

giải ở nhiều nước đang phát triển.

1.1.2.2. Các nghiên cứu liên quan đến công nghiệp xanh

Các nghiên cứu của các tác giả trong khuôn khổ các nghiên cứu của Tổ chức phát

triển công nghiệp Liên hợp quốc – UNIDO (2011a) [159], UNIDO (2011b) [160]

17

và UNIDO (2010) [161] đã nêu ra các thách thức toàn cầu đối với phát triển bền

vững, từ đó đề xuất công nghiệp xanh là mô hình cho sản xuất công nghiệp nhằm

hạn chế các ảnh hướng đến hệ sinh thái và cuộc sống của con người. UNIDO đề

xuất, công nghiệp xanh thông qua: xanh hóa các hoạt động công nghiệp hiện tại và

tạo ra các ngành công nghiệp xanh có thể bảo vệ môi trường trong khi vẫn tạo ra

việc làm mới và đến lượt có thể giúp giảm đói nghèo và nâng cao mức sống. Các

báo cáo này nêu ra tăng hiệu quả sử dụng tài nguyên, bảo tồn vốn tài nguyên là một

trong những kênh để thực hiện tăng trưởng xanh. UNIDO (2012) [158] giới thiệu

chi tiết về công nghiệp xanh, đây là gợi ý các phương thức, mô hình phát triển công

nghiệp mới, đặc biệt là đối với các nước đang phát triển và các nước đang chuyển

đổi thể chế kinh tế và mô hình tăng trưởng.

Tăng trưởng xanh là cần thiết, nhưng đặt trong bối cảnh của các nước đang phát

triển hiện vẫn gặp những thách thức về vốn, trình độ công nghệ và tay nghề của

người lao động… hay nói chung là thách thức về nguồn lực để thực hiện. Các

nghiên cứu trên đây của UNIDO nhìn chung đề ra khung nghiên cứu, phân tích cho

các ngành công nghiệp nói chung và cũng như một hình mẫu chung cho nhiều

nước; vậy thực hiện tăng trưởng xanh cho các ngành công nghiệp cụ thể (chẳng hạn,

ngành công nghiệp khai khoáng) và ứng với điều kiện của một quốc gia thì vấn đề

được giải quyết như thế nào là những câu hỏi cần bổ sung, làm rõ về lý luận.

1.1.3. Các nghiên cứu bàn về khai thác khoáng sản trong thực hiện tăng trưởng

xanh

Khai thác tài nguyên nói chung và tài nguyên khoáng sản nói riêng là chủ đề

được đề cập trong các nghiên cứu về tăng trưởng xanh. Sử dụng hiệu quả tài nguyên

là trọng tâm trong các chính sách phát triển và mục tiêu nhằm hướng tới tăng trưởng

xanh. Các nghiên cứu của các nhà khoa học từ Viện Nghiên cứu phát triển bền vững

châu Âu – SERI (2012) [146], SERI (2011) [147], SERI (2010) [148] và SERI

(2009) [149] đưa ra các lập luận về sự cần thiết giải quyết vấn đề sử dụng tài

nguyên ở cấp độ vĩ mô, cấp ngành công nghiệp và đánh giá xu hướng thay đổi về

năng suất tài nguyên. Việc gia tăng hiệu quả sử dụng tài nguyên trong sản xuất không

chỉ đơn giản là giải quyết các vấn đề môi trường, mà nó còn là nhân tố cơ bản để cạnh

18

tranh trên thị trường khi các ràng buộc về môi trường ngày càng khắt khe. Các nghiên

cứu này cũng đã đề cập về xu hướng hiệu quả sử dụng tài nguyên của các khu vực trên

thế giới và nhìn chung là hiệu quả sử dụng tài nguyên tăng lên, nói cách khác là ngày

càng cần sử dụng ít hơn các đầu vào từ tài nguyên để tạo ra một sản phẩm.

Tăng trưởng xanh là phương thức tăng trưởng mới đòi hỏi phải có những chính

sách, thể chế tương ứng. Tuy nhiên, các nghiên cứu khi bàn về nâng cao năng suất tài

nguyên trong quá trình thực hiện tăng trưởng xanh, song chưa đề cập tới các cơ chế gì

và như thế nào để thực hiện lộ trình này. Bên cạnh đó, tăng trưởng xanh là quá trình lâu

dài, đòi hỏi sự tham gia của nhiều bên liên quan, nhưng điều này chưa được nói tới

trong các nghiên cứu.

Ngân hàng Thế giới (2012) [37], trong báo cáo “Tăng trưởng xanh cho mọi

người: con đường hướng tới phát triển bền vững”, khi bàn về tăng trưởng xanh đề

xuất cách ứng xử thân thiện, hạn chế khai thác quá mức đối với tài nguyên thiên

nhiên và coi trọng việc quản lý bền vững nguồn tài nguyên là cơ sở cho tăng trưởng

xanh. Báo cáo đề xuất các nguồn tài nguyên khác nhau đòi hỏi có các chính sách

khác nhau. Đối với tài nguyên không tái tạo, nghiên cứu này khuyến nghị nên tập

trung vào giảm thiểu mức thiệt hại về môi trường, đồng thời phục hồi và tái đầu tư

lợi nhuận từ khai thác vào các hình thức khác của vốn sản xuất để tiếp tục tạo thêm

lợi nhuận sau khi nguồn tài nguyên cạn kiệt. Tuy nhiên, làm thế nào để có thể đẩy

mạnh sản xuất, khôi phục và tái đầu tư lợi nhuận,... vẫn là câu hỏi đầy thách thức,

nhất là khi việc phân chia lợi ích không như mong muốn và thường là rơi vào tay

các nhóm “tìm kiếm đặc lợi” (rent–seeking).

Tài nguyên nói chung và tài nguyên khoáng sản nói riêng có vai trò quan trọng

đối với tăng trưởng kinh tế, song các mô hình tăng trưởng hiện đại cho rằng vai trò

của chúng có xu hướng giảm dần, thay vào đó là mức độ đóng góp của các yếu tố

vốn và lao động, đặc biệt là ngày càng gia tăng mức độ đóng góp của yếu tố công

nghệ. Boschini và cộng sự (2003) [89] sử dụng tỷ lệ xuất khẩu hàng hóa sơ cấp, giá

trị của quặng sắt và xuất khẩu kim loại, tỷ trọng khoáng sản trong GDP để đánh giá

mức độ phụ thuộc. Các tác giả cho rằng tài nguyên không tái tạo là đầu vào quan

trọng trong sản xuất, song các nước giàu có mức độ phụ thuộc thấp hơn. Theo đó,

để hướng tới mô hình tăng trưởng xanh, các nước cần thay thế các loại nhiên liệu

hóa thạch bằng việc khai thác các loại năng lượng tái tạo, năng lượng sạch. Tuy

19

nhiên, đây cũng là thách thức đối với các nước đang phát triển khi vẫn nghèo đói,

việc sản xuất lương thực phẩm chưa đáp ứng đủ nhu cầu cấp thiết của người dân,

chứ chưa nói tới để phục vụ sản xuất năng lượng.

Các nghiên cứu trên đây dù đã bàn về cách khai thác tài nguyên nói chung và tài

nguyên khoáng sản nói riêng để thực hiện mô hình tăng trưởng xanh, song chưa làm

rõ các nhân tố chi phối việc thực hiện. Hơn nữa, các nghiên cứu cũng chưa chỉ ra

các nhân tố ràng buộc để thúc đẩy nhanh hơn quá trình thực hiện tăng trưởng xanh:

sức ép từ các cam kết quốc tế, xu hướng về các yêu cầu môi trường với các tiêu

chuẩn ngày càng cao hơn.

1.1.4. Tổng quan các phương pháp tính toán chỉ số phát triển bền vững

Có nhiều cách hiểu khác nhau về phát triển bền vững cũng như thành phần bên

trong đó, song hầu như các nghiên cứu đều đề cập phát triển bền vững bao gồm 3

trụ cột chính: kinh tế, xã hội, môi trường. Do các chỉ tiêu (indicators) trong các trụ

cột PTBV có các đơn vị đo lường khác nhau, để tính toán chỉ số phát triển bền

vững (Sustainable Development Index – SDI), đòi hỏi phải chuẩn hóa chúng. Bên

cạnh đó, giữa các chỉ tiêu trong từng chỉ số thành phần (Sub–Index) và/hoặc giữa

các chỉ số thành phần có mức độ quan trọng khác nhau nên tính các trọng số tương

ứng. Hiện nay, một số nghiên cứu đã sử dụng những phương pháp khác nhau để

chuẩn hóa, tính trọng số và tính chỉ số SDI:

– Fernández và Sánchez (2009) [109] xây dựng SDI ngành du lịch với các chỉ số

thành phần: kinh tế, xã hội, môi trường. Giá trị các chỉ tiêu (với đơn vị đo lường vật

chất khác nhau) trong các chỉ số thành phần được chuẩn hóa để có cùng phân phối

xác suất (chuẩn hóa Z–score). Tiếp đó, các tác giả đã tiến hành các hồi quy để tính

trọng số của của chỉ số thành phần. Chỉ số này được dùng để so sánh giữa các điểm

du lịch trên thế giới.

– Với mục đích đánh giá bền vững của các doanh nghiệp trong ngành thép, Singh

(2007) [144] nghiên cứu SDI với 5 chỉ số thành phần: kinh tế, xã hội, môi trường,

quản trị doanh nghiệp, khía cạnh kỹ thuật. Mỗi chỉ số thành phần gồm nhiều chỉ tiêu

và mỗi chỉ tiêu tương ứng với 01 câu hỏi trong bảng hỏi điều tra, mỗi chỉ tiêu được

20

người trả lời phỏng vấn cho điểm theo thang đo 5 điểm (thang đo Likert–Scale).

Nghiên cứu này đã sử dụng phương pháp so sánh cặp đôi để tính trọng số của các

chỉ số thành phần.

Phát triển sâu hơn phương pháp của Singh (2007), Satish và cộng sự (2013)

[143] xây dựng SDI các ngành công nghiệp với việc mỗi chỉ tiêu được sử dụng

thang đo Likert–Scale. Tiếp đó, các tác giả đã tính trọng số thông qua việc tiến hành

phương pháp so sánh cặp đôi với 2 bước (bước 1: tính trọng số cho các 3 chỉ số

thành phần; bước 2: tính cho từng chỉ tiêu trong các chỉ số thành phần).

– Dựa theo cách tính chỉ số phát triển con người (HDI), Barrera–Roldán và

Saldívar–Valdés (2002) [87] đã sử dụng phương pháp chuẩn hóa max–min và các

chỉ số thành phần có trọng số ngang nhau. Các chỉ số thành phần trong nghiên cứu

này bao gồm: kinh tế với một chỉ tiêu là thu nhập bình quân đầu người, về xã hội

với chỉ tiêu tỷ lệ nghèo và môi trường với chỉ tiêu ô nhiễm không khí. Mục đích của

việc xây dựng SDI trong nghiên cứu Barrera–Roldán và Saldívar–Valdés (2002) là

so sánh về PTBV theo không gian (giữa một số địa phương ở Mexico).

Như vậy, có nhiều cách để tính chỉ số SDI và mỗi phương pháp đều có những ưu,

nhược điểm khác nhau; đồng thời, gắn với từng phương pháp có những đòi hỏi về

số liệu và nguồn lực thích hợp. Các chỉ số phát triển bền vững đã được tính toán cho

một số ngành, song đối với ngành công nghiệp khai khoáng đến nay vẫn chưa có

nghiên cứu nào đề cập tới.

1.2. Tình hình nghiên cứu trong nước

1.2.1. Các nghiên cứu về khai thác khoáng sản ở Việt Nam

Cho đến nay, có nhiều công trình nghiên cứu khoa học trong nước nghiên cứu về

các khía cạnh liên quan đến chủ đề khai thác khoáng sản, cụ thể:

1.2.1.1. Các nghiên cứu về tiềm năng, trữ lượng và hiện trạng khai thác khoáng sản

Về lĩnh vực này có khá nhiều công trình nghiên cứu đã xuất bản. Chẳng hạn như

các nghiên cứu của Lê Văn Thành (2004) [57], Trần Văn Trị (chủ biên) (2000) [67],

Dương Hồng Phi và Doãn Duy Cầm (1998) [43] chủ yếu nghiên cứu về trữ lượng,

đặc điểm phân bố của tài nguyên khoáng sản và các khía cạnh kỹ thuật đối với

khoáng sản. Hoàng Văn Khanh (2008) [29] chủ yếu phân tích về thực trạng lãng

21

phí, tổn thất tài nguyên khoáng sản trong hoạt động khai thác.

Nhìn chung, các nghiên cứu thuộc nhóm này chủ yếu bàn về tình hình tài nguyên

và những vấn đề trên phương diện kỹ thuật – công nghệ hoặc ở mức mô tả hiện

trạng khai thác, hoặc định hướng chiến lược, quy hoạch phát triển nguồn tài nguyên

khoáng sản mà chưa đề cập những khía cạnh mang tính chính sách của khai thác

khoáng sản.

1.2.1.2. Các nghiên cứu về thể chế, chính sách đối với khai thác khoáng sản

Lại Văn Mạnh (2016) [31], luận án tiến sĩ kinh tế với đề tài “Vai trò của chính

sách tài chính trong quản lý hoạt động khai thác khoáng sản ở Việt Nam theo định

hướng phát triển bền vững” đã phân tích vai trò của chính sách tài chính trong việc

phân phối thu nhập giữa các nhóm xã hội và giữa các thế hệ, các công cụ thuế trong

việc điều tiết sản lượng khai thác và giải quyết các vấn đề về môi trường. Những nội

dung này cung cấp những nhận định về thực trạng khai thác khoáng sản và các chính

sách tài chính trong việc điều tiết hoạt động khai thác khoáng sản. Tuy nhiên, nghiên

cứu chưa làm sáng tỏ các chính sách tài chính đối với khai thác khoáng sản chịu sự chi

phối như thế nào bởi mô hình tăng trưởng kinh tế và ở chiều ngược lại, thay đổi chính

sách tài chính khoáng sản có tác động gì và như thế nào vào thay đổi các ngành sản

xuất, đóng góp vào thay đổi mô hình tăng trưởng.

Luận án tiến sĩ kinh tế của Hà Tất Thắng (2015) [54] với đề tài “Quản lý nhà

nước về an toàn, vệ sinh lao động trong các doanh nghiệp khai thác đá ở Việt Nam”

nghiên cứu về thực trạng tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp từ khai thác đá và

những hạn chế trong công tác quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp khai thác

đá. Tác giả đã chỉ ra những hạn chế trong các quy định pháp luật phục vụ quản lý

nhà nước, song chưa chỉ ra được những yếu kém trong mô hình tổ chức quản lý

(quản lý chồng chéo) và sự vận hành của nó (trách nhiệm cụ thể của tổ chức, cá nhân).

Phạm Thủy Chung (2012) [12], luận văn thạc sĩ luật học, phân tích thực trạng về

sự điều chỉnh của pháp luật đối với hoạt động khai thác, chế biến khoáng sản.

Nghiên cứu này chưa đề cập được thực trạng về thực thi pháp luật đối với hoạt động

khoáng sản.

Ủy ban thường vụ Quốc hội (2012) [72] tập trung đánh giá những kết quả đạt

22

được, tồn tại, hạn chế và nguyên nhân trong việc ban hành và thực hiện chính sách,

pháp luật về quản lý, khai thác khoáng sản và bảo vệ môi trường trong hoạt động

khoáng sản. Nhìn chung, nghiên cứu này mới chỉ tập trung ở việc rà soát, đánh giá

tính đồng bộ giữa các chính sách, quy định pháp luật. Báo cáo chưa đánh giá, phân

tích các chính sách đã ban hành có dựa trên các cơ sở khoa học và có xem xét tới

yếu tố bền vững, hay chỉ là ý chí chủ quan của các cơ quan ban hành chính sách.

Phòng Thương mại – Công nghiệp Việt Nam và Viện Tư vấn phát triển (2011)

[44] chủ yếu đi vào liệt kê, rà soát các nghĩa vụ tài chính của doanh nghiệp khai

khoáng đối với nhà nước và thực tiễn thực hiện các nghĩa vụ này. Các phát hiện từ

nghiên cứu này cho rằng, về cơ chế quản lý khai thác, hiện nay việc xác định thuế

tài nguyên chủ yếu dựa vào kê khai sản lượng khai thác của doanh nghiệp, và khó

khăn trong việc kiểm tra, xác định chính xác sản lượng đơn vị thực tế khai thác, gây

khó khăn cho việc tính thuế, điều này dễ dẫn đến thất thu cho ngân sách nhà nước.

Viện Tư vấn phát triển (2010) [78] cung cấp khá chi tiết khung pháp lý về quản

lý hoạt động khai thác khoáng sản, thực trạng quản lý, những kết quả của công tác

quản lý và tác động tới ô nhiễm môi trường. Nghiên cứu đã đề xuất một số giải

pháp đối với những yếu kém trong ngành công nghiệp khai khoáng, song các giải

pháp vẫn mang tính định hướng và thiếu những gợi ý cụ thể để có thể thực thi được.

Bộ Tài nguyên và Môi trường (2009) [8] đánh giá những mặt đạt được và chưa

đạt được trong quá trình thi hành Luật khoáng sản (năm 1996) và đề xuất những

định hướng cho xây dựng Luật khoáng sản (năm 2010). Nghiên cứu chủ yếu tập

trung đánh giá những vấn đề trong phạm vi hẹp của luật khoáng sản và việc thi hành.

Ngân hàng Thế giới (2010) [38] giới thiệu tổng quan về quản lý tài nguyên thiên

nhiên ở Việt Nam, trong đó đi sâu phân tích những bất cập của thể chế, chính sách,

cơ chế quản trị nhà nước đối với các loại tài nguyên sau: tài nguyên khoáng sản, tài

nguyên đất, tài nguyên rừng, tài nguyên biển và tài nguyên nước. Bên cạnh đó,

nghiên cứu cũng đưa ra thông điệp làm thế nào để quản lý và sử dụng hiệu quả tài

nguyên thiên nhiên nhằm giảm nghèo bền vững, bảo vệ môi trường và công bằng xã

hội. Đối với nội dung về tài nguyên khoáng sản, nghiên cứu của Ngân hàng Thế

giới (2010) mới chỉ tập trung trên các khía cạnh về tính hiệu quả, bền vững môi

23

trường và tính công bằng trong quản lý tài nguyên khoáng sản. Nghiên cứu chưa

phân tích những vấn đề về đánh thuế khai thác mỏ và các chính sách tài chính cũng

như quản lý thuế dưới góc độ khai thác tận thu tối đa tài nguyên và theo hướng tăng

trưởng xanh.

Luận án tiến sĩ kinh tế của Nguyễn Thị Mai Hương (2008) [28] với chủ đề

“Phân tích hiệu quả kinh doanh trong các doanh nghiệp khai thác khoáng sản Việt

Nam” đã xây dựng các chỉ tiêu và đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh ở cấp độ

doanh nghiệp trong ngành công nghiệp khai khoáng.

Nhìn chung, các nghiên cứu trên đây chủ yếu dừng lại trong việc đánh giá thực

trạng các chính sách, pháp luật về khoáng sản dưới góc độ tính đồng bộ, khả thi, phù

hợp với thực tiễn cũng như tình hình thực hiện. Các nghiên cứu vẫn chưa đi sâu vào

phân tích, đánh giá đối với chính sách, pháp luật về khoáng sản trên quan điểm tăng

trưởng xanh, đặc biệt, chưa xem xét các chính sách tác động, ảnh hưởng tới tổn thất tài

nguyên, không khuyến khích các doanh nghiệp tận thu đối đa tài nguyên khoáng sản.

1.2.1.3. Các nghiên cứu về ngành công nghiệp khai khoáng có liên quan đến

phát triển bền vững, tăng trưởng xanh

– Trung tâm Nghiên cứu giới và gia đình (2013) [68] đề cập về các tác động tiêu

cực từ hoạt động khai khoáng xét trên chiều cạnh giới. Nghiên cứu đã chỉ ra các đối

tượng như trẻ em, người già và phụ nữ,… bị ảnh hưởng nhiều hơn so với các nhóm

khác. Nghiên cứu đã đề xuất một số giải pháp nhằm hạn chế các tác động tiêu cực

của hoạt động khai thác khoáng sản, song các giải pháp đưa ra chủ yếu giải quyết

những vấn đề ở cấp độ cộng đồng và mức độ ảnh hưởng của chính sách chưa cao.

– Trần Thanh Thủy và cộng sự (2012) [64] nghiên cứu về hoạt động khai thác

khoáng tác động tiêu cực tới môi trường, sinh kế, hệ thống đường xá phục vụ dân

sinh,… Thông qua các khảo sát thực tiễn, nghiên cứu này cho thấy người dân tại

những nơi khai thác đang chịu các ảnh hưởng tiêu cực do khai thác khoáng sản, đối

tượng chịu thiệt thòi là người dân nghèo.

– Đặng Trung Thuận (2012) [59] đề cập đến hiện trạng khai thai thác, chế biến

quặng titan ở các tỉnh ven biển miền Trung, trong đó nêu lên những tác động bất lợi

từ khai thác titan như sa mạc hóa và cát bay ảnh hưởng đến sản xuất nông nghiệp,

24

phá hủy hệ thống rừng phòng hộ ven biển. Đặng Trung Thuận (chủ biên) (2010)

[60] phân tích tính khả thi trên một số khía cạnh của khai thác bôxit tại Tây Nguyên

và chỉ ra những tác động tiêu cực có thể xảy ra về xã hội – môi trường.

– Đào Trọng Hưng và cộng sự (2010) [27] phân tích thực trạng ô nhiễm và các

vấn đề về thực thi chính sách bảo vệ môi trường trong khai thác than tại Quảng

Ninh. Dù đề cập khá nhiều chiều cạnh về thực trạng ô nhiễm môi trường, song các

tác giả chưa đưa được những giải pháp chính sách để giải quyết vấn đề, nhất là

những giải pháp mang tính dài hạn.

– Nguyễn Danh Sơn (2009) [48] thu thập và phân tích thực trạng về các chất thải

rắn do khai thác và sử dụng các loại khoáng sản (than, quặng sắt, quặng apatit, đá

vôi), các số liệu được khảo sát tại 8 tỉnh vùng trọng điểm Bắc bộ. Nghiên cứu này

tập trung nhiều ở khía cạnh phân tích thực trạng về môi trường. Các giải pháp được

đưa ra trong nghiên cứu nhằm chú trọng xử lý các vấn đề về môi trường, hơn là giải

pháp mang tính dài hạn và bền vững cho nền kinh tế.

– Nghiên cứu của Trung tâm Y tế dự phòng Bình Định (2009) [69] đã chỉ ra thực

trạng về môi trường lao động tại một số doanh nghiệp khai khoáng trên địa bàn tỉnh

Bình Định, đó là: môi trường lao động không đạt tiêu chuẩn vệ sinh cho phép, nhất

là ô nhiễm về bụi, về nhiệt độ… Nhìn chung, nghiên cứu này chưa đề xuất được các

giải pháp cho thực trạng đã nêu và một vài đề xuất đưa ra với cơ chế chưa đủ mạnh

để doanh nghiệp phải tự điều chỉnh các hành vi, nhất là thiếu cơ chế giám sát việc

doanh nghiệp tuân thủ các quy định về đảm bảo an toàn vệ sinh cho người lao động.

– Nguyễn Cảnh Nam, Nguyễn Quang Tuyên (2010) [35] đã hệ thống hóa các chủ

trương, chính sách về phát triển bền vững tại Việt Nam và từ đó đưa ra một số gợi ý

về phát triển bền vững đối với ngành công nghiệp khai khoáng. Nguyễn Cảnh Nam,

Đinh Văn Sơn (2010) [34] đã khái quát về đặc điểm của ngành công nghiệp khai

khoáng Việt Nam và xây dựng mô hình phát triển bền vững với việc đưa ra các tiêu

chí cần thiết trong sản xuất kinh doanh, hay nói cách khác để bền vững cần bắt đầu

từ các doanh nghiệp.

Có thể thấy các công trình khoa học trên đây nghiên cứu về từng chủ đề riêng lẻ

của khai thác khoáng sản, trong đó, chủ yếu tập trung đánh giá và phân tích thực

25

trạng về ô nhiễm môi trường và tác động tới cộng đồng nơi có hoạt động khai thác

khoáng sản. Các tác giả đề cập tới các khía cạnh phát triển bền vững trong khai thác

khoáng sản, song chưa đưa ra các chỉ tiêu đánh giá, nhất là chỉ số tổng hợp phục vụ

cho việc đánh giá xu hướng phát triển của ngành. Đây không chỉ là những hạn chế

của các nghiên cứu này, trong rất nhiều các nghiên cứu khác dù đề cập nhiều tới

phát triển bền vững song thiếu các chỉ số tổng hợp để đánh giá tổng hợp các khía

cạnh về kinh tế, xã hội, môi trường.

Từ các nghiên cứu này, câu hỏi đặt ra là với việc chịu các tác động tiêu cực từ

hoạt động khai thác khoáng sản, cộng đồng địa phương được phân chia những lợi

ích gì và bao nhiêu? Đây là việc phân chia lợi ích về kinh tế của doanh nghiệp đối

với cộng đồng địa phương nơi hoạt động khai thác khoáng sản. Nhà nước thực hiện

thu các khoản nộp ngân sách của doanh nghiệp và chia sẻ hay tái đầu tư trở lại cho

cộng đồng như thế nào nhằm hài hòa với các tác động tiêu cực mà người dân địa

phương phải gánh chịu, hay nói rộng hơn là tái đầu tư vào vốn con người và tài

nguyên thiên nhiên, môi trường.

1.2.2. Các nghiên cứu về tăng trưởng xanh tại Việt Nam

Các nghiên cứu hiện có về tăng trưởng xanh ở Việt Nam chủ yếu tập trung vào

luận giải nội hàm và các con đường để hướng tới tăng trưởng xanh. Trong các

nghiên cứu về tăng trưởng xanh đáng chú ý là các công trình sau đây có ý nghĩa

luận giải về mô hình tăng trưởng tại Việt Nam.

– Trần Ngọc Ngoạn và cộng sự (2016) [40] trong cuốn sách với tiêu đề “Chính

sách thúc đẩy tăng trưởng xanh - kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn Việt Nam”, các

tác giả đã rà soát và đánh giá các chính sách, quy định pháp luật về tăng trưởng

xanh ở Việt Nam. Nghiên cứu đã đề cập tới tình hình thực hiện chính sách tăng

trưởng xanh ở Việt Nam, song các kết quả của việc thực hiện các chính sách này là

gì và như thế nào (chẳng hạn: đóng góp vào thay đổi nhận thức, cải thiện chất lượng

môi trường, thay đổi lối sống,...) chưa được đề cập tới. Việc thiếu vắng các đánh giá

kết quả thực hiện chính sách, dù nghiên cứu đề xuất một số giải pháp, song chưa

đưa ra được các gợi ý về điều chỉnh trong việc thực hiện và thực hiện như thế nào

26

cho hiệu quả các chính sách thúc đẩy tăng trưởng xanh.

– Nguyễn Văn Tài (2011) [51], Nguyễn Thế Chinh (2011) [11] diễn giải kinh tế

xanh là chuyển từ phương thức phát triển kinh tế kiểu tiêu hao nhiều tài nguyên

sang phương thức phát triển kinh tế kiểu tiết kiệm tài nguyên. Để thực hiện như vậy

cần phải nâng cao chất lượng phát triển, nó được thể hiện nổi bật ở chỗ giảm giá

thành tài nguyên cho sự phát triển và xây dựng hệ thống nền kinh tế quốc dân kiểu

tiết kiệm tài nguyên. Trung Đức (2012) [16] phân tích động thái phát triển tăng

trưởng xanh toàn cầu và ở Việt Nam, cho thấy chính phủ nhiều nước đã thúc đẩy

phát triển tăng trưởng xanh theo nhiều cách tiếp cận chính sách khác nhau, có thể

theo từng khu vực hoặc liên ngành nhiều lĩnh vực. Bùi Tất Thắng (2012) [53] khái

quát một số nội dung cốt lõi của tăng trưởng xanh và nêu ra những vấn đề đặt ra đối

với Việt Nam trong tái cơ cấu nền kinh tế. Nguyễn Trọng Hoài (2012) [24] lựa chọn

một số chỉ tiêu có khả năng đo lường nhằm đánh giá hiện trạng tăng trưởng xanh

của Việt Nam và những thách thức đặt ra trong việc hướng tới mô hình tăng trưởng

này và từ đó đưa ra những gợi ý chính sách. Lê Anh Tuấn, Phương Hoàng Kim

(2012) [71] phân tích đánh giá thực trạng phát triển xanh của các ngành công

nghiệp Việt Nam qua các khía cạnh: trình độ công nghệ sử dụng năng lượng, xử lý

chất thải, thiết kế sản phẩm thân thiện với môi trường, bảo dưỡng thiết bị hệ thống.

Các nghiên cứu vừa đề cập góp phần diễn giải nội dung của tăng trưởng xanh và

sự cần thiết tái cấu trúc kinh tế nhằm phù hợp với mô hình tăng trưởng xanh. Tuy

nhiên, các nghiên cứu chưa làm rõ mối quan hệ và yêu cầu về sự thay đổi bên trong

của các ngành kinh tế để đóng góp vào thực hiện chiến lược tăng trưởng xanh.

– UNIDO (2012) [65] với tiêu đề “Hướng tới tăng trưởng xanh từ phát triển

công nghiệp xanh tại Việt Nam” phân tích các cách thức tăng trưởng từ một số lĩnh

vực (sử dụng tài nguyên hiệu quả cho ngành thép, đô thị sinh thái Hội An, việc tái

chế nhôm phế liệu thành đồ dùng nhà bếp) và các rào cản để thực hiện tăng trưởng

xanh, từ đó xây dựng các mục tiêu định hướng nâng cao sử dụng tài nguyên và hiệu

quả môi trường.

– UNIDO (2011) [66] phân tích thực trạng của các doanh nghiệp trong ngành

thép về hiệu quả sử dụng năng lượng, tổn thất kim loại, thu hồi và tái chế các chất

27

thải trong quá trình sản xuất, phát thải khí nhà kính. Nghiên cứu này đề xuất kiến

nghị, để có được sự hợp tác hiệu quả trong ngành công nghiệp thép Việt Nam nhằm

nâng cao hiệu quả và năng suất sẽ cần có một cơ cấu tổ chức cơ bản.

Nhìn chung, các nghiên cứu ở trong nước chủ yếu tập trung vào những vấn đề

của tăng trưởng xanh, mà chưa đề cập cụ thể tăng trưởng xanh đối với khai thác

khoáng sản là gì và cũng chưa bàn đến những cải cách chính sách cần có để khai

thác khoáng sản theo hướng tăng trưởng xanh.

Hơn nữa, các nghiên cứu bàn nhiều đến tăng trưởng xanh, song vẫn chưa đề xuất

được các tiêu chí đánh giá cho thực tiễn ở Việt Nam. Việc thiếu các tiêu chí và chỉ

tiêu đánh giá đặt ra những thách thức trong theo dõi, giám sát tiến trình phát triển

của các ngành kinh tế, nền kinh tế theo hướng tăng trưởng xanh.

1.2.3. Các nghiên cứu bàn về khai thác khoáng sản trong mô hình tăng trưởng

Vũ Tuấn Anh và cộng sự (2015) [1] trong cuốn sách với tiêu đề “Tiến tới nền

kinh tế xanh ở Việt Nam: xanh hóa sản xuất” đã phân tích thực trạng về cơ cấu sản

xuất của một số ngành kinh tế của Việt Nam trong đó có ngành công nghiệp khai

khoáng và gợi ý các chính sách về tái cấu trúc nhằm hướng tới sản xuất xanh. Các

tác giả đã đưa ra một số giải pháp để giải quyết những vấn đề của ngành công

nghiệp khai khoáng, song các thể chế thúc đẩy tăng trưởng xanh chưa rõ ràng và

thiếu các kiến nghị nhà nước cần làm gì để thúc đẩy tăng trưởng xanh.

Các báo cáo UNDP (2014) [13] và UNDP (2012) [14] về “Chính sách tài khóa

nhiên liệu hóa thạch ở Việt Nam và phát thải khí nhà kính” tập trung phân tích về

quy mô trợ giá nhiên liệu hóa thạch và các hình thức, đối tượng được hưởng trợ giá

và ước lượng các tác động về kinh tế – xã hội do dỡ bỏ trợ cấp. Báo cáo nhấn mạnh

rằng để đáp ứng các mục tiêu tham vọng của chiến lược tăng trưởng xanh cần đẩy

mạnh cải cách chính sách tài khóa nhiên liệu hóa thạch đòi hỏi phải cải cách ngành

năng lượng tổng thể, trong đó đặc biệt chú trọng cải cách giá cả.

Viện Quản lý kinh tế Trung ương – CIEM (2012) [74], với công trình nghiên cứu

“Chỉ số GDP xanh: nghiên cứu phát triển khung phương pháp”, đã xây dựng phương

pháp và bước đầu tính toán về chỉ số GDP xanh từ tài nguyên thiên nhiên bao gồm

năng lượng và khoáng sản (dầu thô, than đá, khí đốt) và các tổn thất và suy thoái tài

28

nguyên trong quá trình tăng trưởng kinh tế. CIEM (2008) [75] tập trung hạch toán giá

trị của vốn thiên nhiên (qua một số loại tài nguyên như tài nguyên khoáng sản, tài

nguyên đất, tài nguyên rừng) và phân tích diễn biến những yếu tố này theo thời gian.

Nhìn chung, các công trình khoa học trên đây mới chỉ dừng lại nghiên cứu tài

nguyên khoáng sản theo cách tiếp cận tĩnh, chưa đề cập đến khai thác khoáng sản

theo hướng tăng trưởng xanh và phát triển bền vững một cách đồng bộ, toàn diện

cũng như phát triển các ngành công nghiệp mới trong việc tạo ra và sử dụng các

nguyên nhiên vật liệu, năng lượng để thay thế cho sản phẩm khoáng sản. Hơn nữa,

các nghiên cứu chưa đề cập về những yêu cầu của việc khai thác khoáng sản nhằm

đóng góp vào thực hiện các mục tiêu của chiến lược tăng trưởng xanh ở Việt Nam.

1.3. Nhận xét chung về các công trình hiện có và vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu

Nhìn chung, đối với các nghiên cứu của nước ngoài, các tác giả không nghiên

cứu trực tiếp về khai thác khoáng sản ở Việt Nam, mà nghiên cứu về lý luận phát

triển và xu hướng thay đổi chính sách ở cấp quốc tế đối với khai thác khoáng sản.

Đây là những cơ sở, gợi ý quan trọng để tham khảo nhằm có thể có những phát triển

lý luận và chính sách trong điều kiện của Việt Nam.

Các nghiên cứu của nước ngoài đã thiết lập những cơ sở lý luận về vai trò của

khoáng sản trong nền kinh tế, mối quan hệ giữa khoáng sản với tăng trưởng kinh tế.

Tuy nhiên, việc khai thác khoáng sản như thế nào để có đóng góp tích cực vào phát

triển kinh tế – xã hội và hạn chế các tác động tiêu cực tới môi trường, nhất là khi đặt

nó trong mô hình tăng trưởng xanh cần được tiếp tục làm rõ.

Nhìn chung, các nghiên cứu nước ngoài và trong nước cho đến nay vẫn chưa đưa

ra những phương pháp và tính toán về chỉ số phát triển bền vững ngành công nghiệp

khai khoáng. Các chỉ số này có thể tính toán để so sánh theo chuỗi thời gian và/hoặc

so sánh theo không gian.

Đối với các nghiên cứu trong nước, các tác giả đã có những đánh giá và nêu bật

những tồn tại cơ bản của quản lý, khai thác, chế biến và sử dụng khoáng sản và các

tác động đến môi trường và xã hội. Các công trình nghiên cứu hiện có đã góp phần

làm sáng tỏ thực trạng khai thác khoáng sản trên từng lĩnh vực cụ thể và đưa ra các

giải pháp tương ứng. Tuy nhiên, các nghiên cứu hiện có về khai thác khoáng sản ở

29

Việt Nam chủ yếu xem xét theo từng chủ đề riêng lẻ và luận giải trong mô hình tăng

trưởng với nhiều tồn tại, hạn chế (sử dụng nhiều tài nguyên, gây ô nhiêm môi

trường). Trong khi đó, hiện nay, Việt Nam đang trong quá trình tái cấu trúc, chuyển

đổi mô hình tăng trưởng và thực hiện các chiến lược về phát triển bền vững, tăng

trưởng xanh, ứng phó với biến đổi khí hậu,… tức là vấn đề tài nguyên và môi

trường ngày càng được coi trọng hơn. Vì vậy, vấn đề cũng như giải pháp đối với khai

thác khoáng sản cần thay đổi cách tiếp cận.

Hơn nữa, các nghiên cứu hiện có chưa thảo luận, đề cập nâng cao khả năng đóng

góp của các nguồn thu từ khoáng sản vào phát triển (chẳng hạn, thông qua đầu tư

vào vốn con người, các loại tài nguyên khác), tức là đóng góp vào mục tiêu chung

của chiến lược tăng trưởng xanh.

Chính vì vậy, nghiên cứu này cố gắng góp phần bổ sung các lý luận về khai thác

khoáng sản trong tăng trưởng xanh. Từ đó, đề tài tập trung đánh giá thực trạng khai

thác khoáng sản theo các tiêu chí tăng trưởng xanh và đề xuất các chính sách về

khai thác khoáng sản trong chiến lược tăng trưởng xanh ở Việt Nam.

Tiểu kết chương 1

Từ việc hệ thống hóa các nghiên cứu trong và ngoài nước liên quan đến đề tài

luận án có thể rút ra một số kết luận sau:

Các nghiên cứu ngoài nước tạo cơ sở lý luận về khai thác khoáng sản, mối quan

hệ giữa khoáng sản với tăng trưởng kinh tế. Các nghiên cứu của các tác giả ở trong

nước đã đánh giá những tồn tại trong các chính sách và thực tiễn khai thác khoáng

sản ở Việt Nam. Đây là những nền tảng quan trọng để có thể có những phát triển lý

luận và chính sách về khai thác khoáng sản trong quá trình thực hiện chiến lược

tăng trưởng xanh ở Việt Nam.

Tăng trưởng xanh là khái niệm tương đối mới và hiện nay có nhiều cách hiểu,

tiếp cận khác nhau. Các cách tiếp cận đối với tăng trưởng xanh cho thấy không có

công thức chung áp dụng cho tất cả các quốc gia và từng ngành, mà tùy từng hoàn

cảnh cụ thể để có cách tiếp cận phù hợp.

Nghiên cứu về khai thác khoáng sản trong chiến lược tăng trưởng xanh là đề cập

30

đóng góp, mối quan hệ của khai thác khoáng sản vào chiến lược tăng trưởng xanh

và tăng trưởng xanh đối với ngành công nghiệp khai khoáng. Việc làm rõ lý luận về

khai thác khoáng sản theo hướng tăng trưởng xanh góp phần đề ra các chính sách

khai thác hợp lý, có hiệu quả tài nguyên khoáng sản và giảm thiểu các tác động tiêu

31

cực tới tài nguyên, môi trường.

Chương 2

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ KHAI THÁC KHOÁNG SẢN

TRONG TĂNG TRƯỞNG XANH

2.1. Cơ sở lý luận về khai thác khoáng sản trong tăng trưởng xanh

2.1.1. Các khái niệm về khai thác khoáng sản, tăng trưởng xanh

2.1.1.1. Các khái niệm về khai thác khoáng sản

a) Khái niệm về khoáng sản

Luật Khoáng sản 2010 định nghĩa về khoáng sản: “Khoáng sản là khoáng vật,

khoáng chất có ích được tích tụ tự nhiên ở thể rắn, thể lỏng, thể khí tồn tại trong

lòng đất, trên mặt đất, bao gồm cả khoáng vật, khoáng chất ở bãi thải của mỏ.”

Theo Luật Khoáng sản 2010, khoáng sản không có khả năng khai thác được (các

loại khoáng sản ở sâu dưới đáy biển, đại dương) cũng được hiểu là khoáng sản và

dù không khai thác được nhưng cũng cần có chính sách bảo vệ, ví dụ để tránh tranh

chấp trong việc sở hữu tài nguyên khoáng sản. Luật cũng xem khoáng vật, khoáng

chất ở các bãi thãi (do chưa đủ phương tiện để phát hiện tồn tại hoặc công nghệ

chưa cho phép thu hồi được các khoáng sản đi kèm) để có chính sách bảo vệ, tiết

kiệm tài nguyên khoáng sản.

Trong phạm vi nghiên cứu này, khái niệm về khoáng sản được hiểu theo các quy

định của Luật Khoáng sản năm 2010.

Tài nguyên khoáng sản có các đặc điểm [60]: 1) tính hữu hạn và không tái tạo; 2)

tính rủi ro địa chất; 3) địa tô chênh lệch (lợi thế so sánh): phụ thuộc vào điều kiện

thuận lợi, khó khăn của mỏ khoáng sản, thay đổi theo thời gian, không gian và trình

độ khoa học công nghệ trong khai thác, chế biến; 4) quan hệ hữu cơ với các loại tài

nguyên khác: tài nguyên khoáng sản là loại tài nguyên có quan hệ hữu cơ với một

số loại tài nguyên khác như tài nguyên đất, nước, rừng và biển; 5) tác động đến môi

trường trong hoạt động khoáng sản. Chính đặc điểm này nên đòi hỏi phải có nhận

thức đúng, đầy đủ và lựa chọn những phương pháp, công cụ quản lý thích hợp các

hoạt động khoáng sản để đảm bảo phát triển bền vững (PTBV).

b) Khái niệm về khai thác khoáng sản

Khái niệm theo quản lý nhà nước

Theo Điều 2, Luật Khoáng sản (năm 2010): Hoạt động khoáng sản bao gồm hoạt

32

động thăm dò khoáng sản, hoạt động khai thác khoáng sản, trong đó:

i) Thăm dò khoáng sản là hoạt động nhằm xác định trữ lượng, chất lượng

khoáng sản và các thông tin khác phục vụ khai thác khoáng sản.

ii) Khai thác khoáng sản là hoạt động nhằm thu hồi khoáng sản, bao gồm xây dựng

cơ bản mỏ, khai đào, phân loại, làm giàu và các hoạt động khác có liên quan.

Từ khái niệm trên có thể thấy cách hiểu khai thác khoáng sản theo quy định của

cơ quan quản lý nhà nước thiên về quy trình của kỹ thuật khai thác mỏ.

Khái niệm từ góc độ nghiên cứu khoa học

Theo tác giả Nguyễn Đức Quý (2010) [46], khai thác khoáng là hoạt động bao

gồm toàn bộ quá trình từ khảo sát, điều tra thăm dò địa chất, khai thác, chế biến, sản

xuất hàng hóa, lưu thông, phân phối và sử dụng khoáng sản.

Khai thác khoáng sản theo nghĩa rộng gắn liền với phát triển ngành công nghiệp

khai khoáng và cho đến nay, có khá nhiều cách hiểu khác nhau về khái niệm này:

– Diễn đàn Thương mại và Phát triển Liên hợp quốc (UNCTAD) quan niệm

ngành công nghiệp khai khoáng là quá trình có hoạt động khác nhau từ việc khai

thác quặng ở dạng thô, chế biến thành các dạng sản phẩm và sử dụng. Theo cách

định nghĩa này, việc chế biến khoáng sản không chỉ đơn thuần là chế biến từ quặng

từ dạng thô sang tinh hay chế biến sâu, mà chế biến và phát triển các ngành công

nghiệp đi cùng với việc khai thác khoáng sản [162].

– Nhà kinh tế học tài nguyên, giáo sư Paul Collier thuộc Đại học Oxford, cho

rằng khai thác khoáng sản bao gồm các bước từ giai đoạn khai thác tài nguyên, quá

trình chế biến và tiêu thụ, cho đến bước cuối cùng là sử dụng nguồn thu từ tài

nguyên [97]. Theo cách tiếp cận này, những bước quan trọng để biến sự giàu có tài

nguyên trở thành thịnh vượng quốc gia, phúc lợi cho người dân: quyết định khai

thác, ký kết hợp đồng, đảm bảo minh bạch nguồn thu, quản lý nguồn thu hiệu quả,

đầu tư PTBV.

– Ngân hàng Thế giới (2009a) [168] cho rằng khai thác khoáng sản bao gồm:

trao hợp đồng và giấy phép khai thác, giám sát quá trình khai thác (yêu cầu về bảo

vệ môi trường và giảm thiểu tác động về xã hội), thu ngân sách, quản lý và phân bổ

nguồn thu, thực hiện các chính sách và dự án phục vụ PTBV. Cách tiếp cận này

nhằm đưa sự giàu có về khoáng sản vào PTBV.

Như vậy, có khá nhiều cách hiểu về khai thác khoáng sản, trong nghiên cứu này,

33

khai thác khoáng sản được hiểu theo khái niệm của Ngân hàng Thế giới.

c) Các nội dung trong phạm trù khai thác khoáng sản

Luận án nghiên cứu về khai thác khoáng sản với tư cách là khai thác nguồn lực

để phát triển kinh tế. Khai thác khoáng sản hiểu theo nghĩa là hoạt động bao gồm:

công đoạn khai thác và công đoạn chế biến sản phẩm khoáng sản (có thể chỉ là sơ

chế); đây là những nội dung liên quan đến các ngành công nghiệp (ngành công

nghiệp về khai thác và ngành công nghiệp chế biến,...).

Khai thác khoáng sản vừa đem lại lợi ích, vừa gây tác động tiêu cực tới môi

trường, cho nên thực chất đó là sự đánh đổi giữa tăng trưởng kinh tế và bảo về môi

trường. Do đó, việc nghiên cứu về khai thác khoáng sản là đề cập tới việc về làm

thế nào để giảm tác động tiêu cực về môi trường và tăng hiệu quả, đóng góp của

khai thác khoáng sản vào trưởng kinh tế.

2.1.1.2. Các quan niệm, cách tiếp cận tăng trưởng xanh

a) Các quan niệm về tăng trưởng xanh

Trong khoảng thời gian năm 2007, trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế và tài

chính toàn cầu, người ta đã đặt ra vấn đề tư duy lại cách tăng trưởng kinh tế trong

thời gian vừa qua và từ đó thuật ngữ “xanh” (green) đã xuất hiện trên phạm vi toàn

cầu và kèm theo đó là các thuật ngữ “kinh tế xanh” (green economy), “tăng trưởng

xanh” (green growth). Các thuật ngữ này được sử dụng phổ biến rộng rãi kể từ Hội

nghị Rio+20 về phát triển bền vững vào tháng 6/2012.

Chương trình Môi trường Liên hợp quốc (UNEP) định nghĩa “kinh tế xanh là nền

kinh tế nâng cao đời sống của con người và cải thiện công bằng xã hội, đồng thời

giảm đáng kể những rủi ro môi trường và những thiếu hụt sinh thái. Nói một cách

đơn giản, nền kinh tế xanh có mức phát thải thấp, sử dụng hiệu quả tài nguyên và

hướng tới công bằng xã hội” [154].

Theo UNEP “tăng trưởng xanh là quá trình tái cơ cấu lại hoạt động kinh tế và

cơ sở hạ tầng để thu được kết quả tốt hơn từ các khoản đầu tư cho tài nguyên,

nhân lực và tài chính, đồng thời giảm phát thải khí nhà kính, khai thác và sử

dụng ít tài nguyên thiên nhiên hơn, tạo ra ít chất thải hơn và giảm sự mất công

bằng trong xã hội” [154].

Theo Ngân hàng Thế giới (WB), “tăng trưởng xanh là tăng trưởng hiệu quả,

34

sạch và có khả năng chống chịu; sự hiệu quả trong việc sử dụng các nguồn tài

nguyên thiên nhiên, sạch đó là việc giảm thiểu ô nhiễm và tác động tới môi trường,

và khả năng chống chịu đó là việc thích ứng được trước các tai biến thiên nhiên; và

đề cao vai trò của quản lý môi trường và vai trò vốn tự nhiên trong việc ngăn ngừa

các thảm họa tự nhiên” [37].

Cách tiếp cận tăng trưởng xanh của Ngân hàng Thế giới đề cao việc bảo vệ môi

trường, đầu tư vào vốn tự nhiên và thực hiện chính sách phát triển công nghiệp xanh

(các ngành công nghiệp sử dụng năng lượng tái tạo, năng lương mới). Tuy nhiên,

WB (2012) [37] cho rằng tăng trưởng xanh là không đủ để đạt được bền vững, mà

nó phải đi cùng với các chính sách để không làm tổn hại đến người nghèo và các

nhóm dễ bị tổn thương, và họ phải được hưởng lợi từ quá trình phát triển.

Tổ chức Phát triển công nghiệp Liên hợp quốc (UNIDO) đưa ra sáng kiến về

công nghiệp xanh (green industry) với quan niệm “công nghiệp xanh là sản xuất

và phát triển công nghiệp mà không vượt quá khả năng chịu đựng của hệ thống tài

nguyên hay là dẫn đến những tổn hại về sức khỏe của con người” [158]. Công

nghiệp xanh là nhằm bảo vệ môi trường, khí hậu và quan tâm tới khía cạnh xã hội

trong hoạt động của các doanh nghiệp. Công nghiệp xanh đưa ra cách tiếp cận hai

hướng cho công nghiệp hóa: 1) xanh hóa các ngành công nghiệp hiện có; 2) tạo ra

các ngành công nghiệp xanh.

Theo quan niệm của Việt Nam trong Chiến lược tăng trưởng xanh (Quyết định số

1393/QĐ–TTg ngày 25/9/2012 của Thủ tướng Chính phủ), tăng trưởng xanh là

nhằm “thúc đẩy quá trình tái cấu và hoàn thiện thể chế kinh tế theo hướng sử dụng

hiệu quả hơn tài nguyên thiên nhiên, nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế,

thông qua tăng cường đầu tư vào đổi mới công nghệ, vốn tự nhiên, công cụ kinh tế.

Từ đó góp phần ứng phó với biến đối khí hậu, giảm nghèo và đảm bảo phát triển

kinh tế bền vững”.

Các quan niệm kể trên về tăng trưởng xanh cho thấy dù tập trung và ưu tiên về

khía cạnh nào nhưng tăng trưởng xanh đều bao hàm các khía cạnh của PTBV:

1. Về khía cạnh kinh tế: tăng trưởng và chất lượng tăng trưởng kinh tế theo

hướng giảm cường độ sử dụng tài nguyên và tạo ra giá trị gia tăng lớn hơn trên

cơ sở sử dụng ít hơn các nguồn tài nguyên; tái cơ cấu kinh tế theo hướng phát

triển các ngành công nghệ cao, sử dụng ít tài nguyên, áp dụng các biện pháp

35

sản xuất sạch;…

2. Bảo vệ tài nguyên và môi trường: bảo vệ, khai thác và sử dụng hợp lý, hiệu

quả tài nguyên; giảm phát thải khí nhà kính và mức độ ô nhiễm môi trường;…

3. Giải quyết các vấn đề xã hội: theo hướng cải thiện tiến bộ, công bằng xã hội

trên cơ sở tạo việc làm bền vững, giảm nghèo bền vững, bình đẳng về thu nhập

và cơ hội,…

Như vậy, có thể thấy rằng, tăng trưởng xanh là cách thức tăng trưởng dựa vào

việc tăng năng suất và hiệu quả các yếu tố đầu vào sản xuất, sử dụng tài nguyên

một cách hiệu quả hơn; đồng thời giảm thiểu các tác động tiêu cực tới môi trường,

giảm phát thải khí nhà kính; tăng trưởng xanh cũng hướng tới các mục tiêu xã hội

như giảm nghèo, giảm sự bất bình đẳng,...

b) Mối quan hệ giữa tăng trưởng xanh và phát triển bền vững

Tăng trưởng xanh là phương thức tăng trưởng bền vững về kinh tế, môi trường và

xã hội,... là công cụ để hướng tới phát triển bền vững.

– Bền vững về kinh tế: cải thiện chất lượng tăng trưởng theo hướng sử dụng hiệu

quả các đầu vào hoặc tạo ra giá trị gia tăng lớn hơn trên cơ sở sử dụng ít hơn các

đầu vào, nhất là các đầu vào có nguồn gốc từ tự nhiên.

– Bền vững về môi trường: từng bước giảm thiểu các tác động tiêu cực tới tài

nguyên và môi trường, giảm thải các chất thải ra môi trường, sử dụng các đầu vào

thân thiện với môi trường.

– Bền vững về xã hội: theo hướng giảm nghèo bền vững, giảm bất bình đẳng về

thu nhập, cải thiện phúc lợi và chất lượng cuộc sống con người.

Tăng trưởng xanh nhằm hiện thực hóa tăng trưởng bền vững và sẽ không thể đạt

được phát triển bền vững nếu không thực hiện tăng trưởng xanh.

Tăng trưởng xanh không đồng nghĩa và không thay thế phát triển bền vững, mà

là một bộ phận quan trọng của phát triển bền vững, đồng thời là phương thức để

phát triển kinh tế bền vững.

2.1.2. Cơ sở lý thuyết về khai thác khoáng sản trong tăng trưởng xanh

2.1.2.1. Cơ sở lý thuyết kinh tế về khai thác tài nguyên không tái tạo

Tài nguyên khoáng sản là loại tài nguyên không thể phục hồi sau khi khai thác,

trong khi tổng trữ lượng do thiên nhiên tạo ra là hữu hạn. Về mặt kinh tế học, nó

36

phản ánh tính khan hiếm của hàng hóa. Theo nguyên tắc kinh tế, sự khan hiếm của

tài nguyên sẽ được phản ánh bằng chi phí và giá cả. Trong lý thuyết kinh tế về tài

nguyên không tái tạo, Hotelling (1931) [119] đã chứng minh rằng điểm khai thác tối

ưu là giá của tài nguyên được khai thác phải bằng tỷ lệ chiết khấu và công thức này

được gọi là quy tắc Hotelling. Như vậy, giá cả phản ánh tính khan hiếm của tài

nguyên và ảnh hưởng tới tốc độ khai thác. Quy tắc này sau đó được nhiều nghiên

cứu khác mở rộng sang cho thị trường độc quyền, nguồn tài nguyên thay thế. Các

nghiên cứu Cleveland và Stern (1997) [96] đề cập đến các nhân tố tác động đến giá

tài nguyên và qua đó là sản lượng khai thác qua các giai đoạn. Sawada và Managi

(2014) [141] phân tích tác động của thay đổi công nghệ lên khai thác tài nguyên

không tái tạo.

Quy tắc Hotelling có ý nghĩa trong xây dựng chính sách ở chỗ xác định xu hướng

về thời gian khai thác (kéo dài trong bao lâu), xu hướng về sản lượng khai thác, xu

hướng giá của tài nguyên và chi phí của người sử dụng. Điều này có nghĩa trong

việc xây dựng các chính sách tài chính đối với khai thác khoáng sản nhằm phân bổ

tài nguyên theo thời gian để đảm bảo bền vững.

Do nhiều loại tài nguyên thiên nhiên khó có khả năng tái tạo, nên đây là thách

thức cho tăng trưởng trong dài hạn khi các nguồn tài nguyên đã khai thác cạn kiệt. Dựa vào mô hình tăng trưởng của Solow (1974) [150], Hartwick (1977) [116] đã

dùng mô hình toán và chỉ ra rằng mức tiêu dùng cố định có thể đạt được bằng cách

đầu tư lợi tức từ khai thác tài nguyên vào sản xuất, đây được gọi là quy tắc

Hartwick. Theo quy tắc Hartwick, một số loại vốn vật chất và công nghệ có thể thay

thế cho vốn tự nhiên, cho nên lợi tức từ khai thác tài nguyên có thể đầu tư và tích

lũy vào vốn con người để đảm bảo cho tăng trưởng trong tương lai khi nguồn tài

nguyên cạn kiệt. Quy tắc này cũng chỉ ra rằng cần đầu tư vào vốn con người, vốn

vật chất với tốc độ ít nhất bằng với quy mô của lợi tức từ khai thác tài nguyên; nếu

mức đầu tư thấp hơn so với lợi tức từ khai thác tài nguyên là dấu hiệu của việc kém

bền vững khi nguồn tài nguyên cạn kiệt.

Quy tắc Hartwick góp phần giải thích về đảm bảo cho tăng trưởng trong dài hạn

bằng việc đầu tư các lợi tức từ khai thác tài nguyên; đồng thời đóng góp về lý luận

nhằm giải quyết bình đẳng giữa các thế hệ trong tiếp cận với tài nguyên thiên nhiên

– thay thế vốn tài nguyên bằng vốn con người, tức là để giành cho thế hệ tương lai

không có nghĩa là giữ nguyên các nguồn lực không tái tạo được, mà phải tìm kiếm

và tái đầu tư để phát triển nguồn vốn khác nhằm bù đắp và thay thế cho tài nguyên 37

đã khai thác. Quy tắc Hartwick được sử dụng nhiều trong các nghiên cứu về PTBV,

nghiên cứu Hamilton (1995) [115] đã chỉ rõ sự cần thiết phải đầu tư một phần

nguồn lợi thu từ khai thác tài nguyên vào vốn xã hội, vốn con người để bảo toàn

tổng nguồn vốn phát triển cho các thế hệ tương lai.

2.1.2.2. Lời nguyền tài nguyên và các chính sách đối với khai thác khoáng sản

a) Lời nguyền tài nguyên và giải thích nguyên nhân

Tài nguyên thiên nhiên nói chung và tài nguyên khoáng sản nói riêng là tài sản

của quốc gia và là nguồn thu quan trọng của nhiều nước. Điều này có vẻ như là các

nước giàu tài nguyên có lợi thế kinh tế hơn so với các nước ít tài nguyên hơn. Tuy

nhiên, thực tế chỉ ra một nghịch lý rằng các quốc gia giàu có về tài nguyên thiên

nhiên lại thường là các quốc gia kém phát triển. Hiện tượng này được các nhà khoa

học gọi là “lời nguyền tài nguyên” [83], [139].

Các nhà nghiên cứu cho rằng lời nguyền tài nguyên là do nhiều yếu tố, chẳng

hạn: quản lý kinh tế vĩ mô, và một số liên quan đến kinh tế chính trị và quản trị

quốc gia.

Thứ nhất, giải thích theo “căn bệnh Hà Lan”, đó là việc gia tăng xuất khẩu tài

nguyên kéo theo gia tăng dòng ngoại tệ đi vào nội địa làm tăng tỷ giá hối đoái thực

và theo đó, khiến việc xuất khẩu các loại hàng hóa khác trở nên khó khăn, đồng thời

làm mất sức cạnh tranh so với các hàng hóa nhập khẩu. Trong khi đó, ngoại tệ thu

được từ xuất khẩu tài nguyên được chi tiêu cho nhập khẩu hàng hóa. Hơn nữa, các

nguồn lực trong nước như lao động và nguyên liệu đầu vào chuyển dịch sang lĩnh

vực khai thác tài nguyên. Hậu quả là chi phí đầu vào, như lao động và nguyên liệu,

tăng cao trên thị trường trong nước, kéo theo chi phí tăng lên, gây ảnh hưởng tới sản

xuất trong các lĩnh vực khác.

Thứ hai, quản lý kinh tế vĩ mô khó khăn hơn do giá cả hàng hóa biến động. Sachs

và Warner (2001) [138] nghiên cứu về các nguy hại tiềm ẩn của việc khai thác tài

nguyên tới tăng trưởng kinh tế trong dài hạn. Hausmann và Rigobon (2002) [117]

chứng minh rằng sự phụ thuộc vào xuất khẩu các sản phẩm từ tài nguyên thiên

nhiên, quốc gia sẽ dễ bị tổn thương hơn bởi những cú sốc từ bên ngoài, làm suy yếu

khả năng cạnh tranh của các ngành sản xuất hướng về xuất khẩu. Breisinger và

Thurlow (2008) [90] cho rằng sự phụ thuộc vào xuất khẩu các sản phẩm có nguồn

38

gốc từ tài nguyên thiên nhiên ảnh hưởng tiêu cực đến sự đa dạng hóa của nền kinh tế.

Thứ ba, các nước lệ thuộc vào tài nguyên thiên nhiên thường kém đầu tư cho

giáo dục, do đó làm giảm các kết quả của vốn con người và điều này làm cho quốc

gia giàu tài nguyên rơi vào “bẫy thu nhập trung bình”. Gylfason (2001) [113] tập

trung vào chứng minh về mối quan hệ tỷ lệ nghịch giữa giàu tài nguyên và phát

triển giáo dục. Douangngeune và cộng sự (2005) [102] lập luận rằng đóng góp từ

khai thác tài nguyên có quan hệ nghịch đảo với chi tiêu công về giáo dục và số năm

đến trường của học sinh nữ. Do đó, các nước giàu tài nguyên thường rơi vào bẫy

hoặc khó khăn để tiến lên nâng thang cao hơn trong ngành công nghiệp chế biến,

chế tạo – lĩnh vực đòi hỏi yêu cầu cao đối với đầu vào vốn con người.

Thứ tư, dưới góc độ kinh tế chính trị, sự giàu có về tài nguyên có thể thúc đẩy

tham nhũng diễn ra dưới nhiều hình thức khác nhau, hoặc tài nguyên được bán thấp

hơn giá thị trường, thậm chí là xảy ra xung đột tại những khu vực khai thác tài

nguyên. Việc phụ thuộc quá mức vào các nguồn tài nguyên thiên nhiên cùng với

nạn tham nhũng hoành hành làm suy yếu hệ thống quản lý nhà nước ở nhiều quốc

gia giàu có tài nguyên [83].

b) Các con đường để tránh rơi vào bẫy “lời nguyên tài nguyên”

Nhiều nghiên cứu cho rằng để tránh rơi vào bẫy “lời nguyền tài nguyên”, các

quốc gia có nền kinh tế phụ thuộc vào khai thác tài nguyên nên tập trung giải quyết

các vấn đề:

Sử dụng có hiệu quả nguồn thu từ khai thác khoáng sản

Sử dụng nguồn thu từ khai thác khoáng sản như thế nào để có hiệu quả và gia

tăng đóng góp từ lĩnh vực này cũng được các nghiên cứu tập trung giải quyết, đặc

biệt là việc sử dụng các nguồn thu vào hệ thống giáo dục, y tế nhằm nâng cao vốn

con người và đầu tư cho công tác bảo vệ môi trường, giành một phần để tái đầu tư

trở lại cho tài nguyên thiên nhiên [86], [120]. Đầu tư vào vốn con người và cuộc

sống với môi trường tự nhiên có chất lượng hơn là cách chia sẻ bình đẳng cơ hội

giữa các thế hệ trong việc tiếp cận tài nguyên như lý thuyết khai thác tài nguyên

không tái tạo mà Hartwick đã đề cập.

Phát triển kinh tế từ khai thác khoáng sản

Khi nghiên cứu về khai thác khoáng sản, các nghiên cứu thường đề cập tới các

tác động lan tỏa đối với địa bàn nơi có khai thác, tức là gia tăng các đóng góp của

hoạt động khai thác khoáng sản. Các chiều cạnh tác động tích cực tới sự phát triển

theo không gian bao gồm: tạo ra các hoạt động kinh tế mới tại nơi có hoạt động khai 39

thác khoáng sản, thu hút các nguồn lực, đô thị hóa,… Raballand và cộng sự (2004)

[136] phân tích về ảnh hưởng của các nhân tố hạ tầng giao thông vận tải, McPhail

(2001) [124] đề cập tới các nhân tố thể chế chính sách (môi trường kinh doanh) ảnh

hưởng tới phát triển theo không gian của hoạt động khai thác khoáng sản.

Đa dạng hóa kinh tế nhằm giảm sự phụ thuộc vào khai thác tài nguyên

Một số nghiên cứu đưa ra các gợi ý về con đường phát triển kinh tế để tránh bị

rơi vào bẫy “lời nguyền tài nguyên”. Esanov (2012) [107] và Gelb (2010) [110] đề

xuất về đa dạng hóa kinh tế, giảm sự phụ thuộc tài nguyên; đa dạng hóa trong xuất

khẩu. Bonaglia và Fukasaku (2003) [88] cho rằng để tránh lời nguyền tài nguyên

các nước giàu tài nguyên với thu nhập thấp nên đa dạng hóa bằng việc phát triển các

ngành chế biến dựa vào khai thác tài nguyên hoặc chế biến các hàng hóa sơ cấp

thay vì theo đuổi cách truyền thống là phát triển các ngành chế biến thâm dụng lao

động kém kỹ năng.

Những vấn đề lý thuyết về “lời nguyền tài nguyên” có ý nghĩa giúp luận án tham

khảo về những vấn đề có liên quan nhằm đề xuất các chính sách về khai thác

khoáng sản trong quá trình thực hiện chiến lược tăng trưởng xanh ở Việt Nam.

2.1.2.3. Cơ sở lý luận về quản trị khai thác khoáng sản

Những nguyên nhân dẫn tới lời nguyền tài nguyên, suy cho cùng là do thể chế và

quản trị yếu kém. Sachs và Warner (1999) [139], bằng cách tiếp cận thực nghiệm,

đã chỉ ra rằng thể chế yếu kém là nguyên nhân của việc khai thác tài nguyên có các tác động tiêu cực tới tăng trưởng kinh tế. Mehlum và cộng sự (2006) [125] xây dựng

mô hình để giải thích tại sao thể chế là nguyên nhân của lời nguyên tài nguyên.

Watts (2004) [165] xem xét vấn đề quản trị tài nguyên như là một trong những

nguyên nhân dẫn đến “lời nguyền tài nguyên”. Như vậy, quản trị khai thác khoáng

sản là yếu tố quan trọng nhằm thực hiện thành công các chính sách đối với khai thác

khoáng sản và tránh rơi vào lời nguyền tài nguyên [84], [103].

Quản trị là quá trình giám sát và kiểm soát để đảm bảo việc thực thi có hiệu quả

các chính sách và đảm bảo quyền lợi của các bên có liên quan trong chuỗi giá trị

khai thác khoáng sản. Việc quản trị khai thác khoáng sản về cơ bản tập trung vào

những nội dung sau [97], [168]:

– Cấp phép khai thác: Một hệ thống cấp phép khai thác khoáng sản có hiệu quả

40

phải đề ra được khuôn khổ pháp lý rõ ràng, trách nhiệm của từng cơ quan, cá nhân

phải được xác định rõ và trình tự rõ ràng dựa trên những tiêu chí nhất định. Điều

này nhằm lựa chọn các doanh nghiệp đủ năng lực, có công nghệ tiên tiến thực hiện

khai thác và chế biến khoáng sản có hiệu quả, hạn chế các tác động tiêu cực về môi

trường. Về mặt lý luận và thực tiễn tại nhiều nước, việc cấp phép khai thác khoáng

cần theo nguyên tắc thị trường, tức là thông qua cạnh tranh giữa các doanh nghiệp

bằng cách “đấu giá” hoặc thay thế “giấy phép” bằng “hợp đồng khai thác” thông

qua đàm phán hợp đồng giữa chính phủ với các nhà đầu tư [122], [163]. Đồng thời,

quá trình cấp phép cần đảm bảo tính minh bạch và cạnh tranh bình đẳng, công bố

công khai quá trình và kết quả cấp phép [169].

– Quản trị môi trường trong khai thác khoáng sản: đề ra các quy định và giám

sát việc thực hiện nó về thu gom và xử lý chất thải trong quá trình khai thác, chế

biến khoáng sản; chấp hành việc sử dụng các hóa chất độc hại chế biến khoáng

sản; bảo đảm an toàn và vệ sinh lao động cho công nhân trong các công đoạn của

khai thác, chế biến khoáng sản; sau khi khai thác xong phải tiến hành hoàn thổ

và phục hồi môi trường. Đánh giá tác động môi trường trước khi tiến hành khai

thác khoáng sản là một trong các cộng cụ phục vụ cho quản trị môi trường. Việc

sử dụng các cộng cụ kinh tế trong quản lý môi trường nhằm làm cho việc bảo vệ

môi trường có hiệu quả hơn.

– Quản trị về nguồn thu từ khai thác khoáng sản: bao gồm hạn chế thất thoát

nguồn thu và cách thu ngân sách như thế nào để đảm bảo phát triển bền vững; đồng

thời, nguồn thu phải được sử dụng ra sao để biến của cải từ khai thác tài nguyên trở

thành thịnh vượng của quốc gia.

Do quản trị là quá trình ra quyết định và quá trình các quyết định được thực hiện

nên cấu trúc bên trong của các quá trình này là quan trọng. Chính phủ là một trong

những chủ thể của quá trình quản trị. Những chủ thể khác tùy thuộc vào vấn đề

nghiên cứu, đối với khai thác khoáng sản thường bao gồm: các doanh nghiệp, người

lao động trong các doanh nghiệp, những người dân địa phương nơi khai thác, các

chuyên gia, các tổ chức xã hội,…

– Chính phủ, các cơ quan quản lý nhà nước: đóng vai trò trong việc ban hành và

thực thi các chính sách về khai thác khoáng sản; đồng thời đóng vai trò trong việc

điều phối và thúc đẩy, khuyến khích sự tham gia của các tác nhân khác vào quá

41

trình quản trị khai thác khoáng sản.

– Các doanh nghiệp khai khoáng: đòi hỏi quản trị nội bộ doanh nghiệp (nhằm

đảm bảo tính hiệu quả), tự giác chấp hành các quy định; có sự giám sát từ phía

chính quyền và công chúng (người dân địa phương, các thành phần khác trong xã

hội). Vai trò và việc quản trị đối với các doanh nghiệp khai khoáng: giám sát việc

khai thác (theo đúng hồ sơ đã phê duyệt), khai báo sản lượng đúng với thực tế đã

khai thác; chấp hành các quy định về bảo vệ môi trường; thực hiện đầy đủ các nghĩa

vụ tài chính với nhà nước.

– Cộng đồng địa phương nơi khai thác khoáng sản: Đây thường là chủ thể chịu

ảnh hưởng nhiều nhất từ các hệ lụy môi trường và xã hội từ khai thác khoáng sản.

Các cộng đồng địa phương có lợi thế trong việc quản lý, sử dụng khai thác hay

giám sát, bảo vệ tài nguyên và môi trường gắn với sinh kế của họ. Sự tham gia của

cộng đồng có khả năng làm cho quá trình chính sách trở nên minh bạch và được

thực hiện hiệu quả hơn [106].

2.1.2.4. Cơ sở lý luận về quản lý tài nguyên, môi trường bằng công cụ kinh tế và xu

hướng cải cách chính sách nhằm hướng tới tăng trưởng xanh

Tài nguyên khoáng sản là loại tài nguyên có quan hệ hữu cơ với các loại tài

nguyên khác và hoạt động khai thác khoáng sản tác động tiêu cực tới tài nguyên và

môi trường. Trong khi đó, tăng trưởng xanh đề cao việc bảo vệ tài nguyên và môi

trường, sử dụng tiết kiệm và hiệu quả các nguồn tài nguyên. Chính vì vậy, các chính

sách, công cụ để giải quyết các vấn đề về môi trường liên quan đến nội dung nghiên

cứu của luận án.

Để quản lý tài nguyên và môi trường có nhiều công cụ khác nhau: công cụ luật

pháp (theo mệnh lệnh và kiểm soát: các quy định pháp luật và các kiểm tra, thanh

tra, giám sát của cơ quan quản lý nhà nước), công cụ kinh tế (dựa trên thị trường

hoặc thông qua giá cả), công cụ kỹ thuật quản lý (với các tiêu chuẩn, định mức kỹ

thuật). Nhìn chung, trong việc quản lý môi trường, các công cụ kinh tế thường hiệu

quả hơn so với các công cụ luật pháp [156]. Điều này là bởi những yếu kém của hệ

thống luật pháp và quản trị để đạt được các mục tiêu về BVMT, trong khi đó các

công cụ kinh tế tạo ra động lực để doanh nghiệp áp dụng công nghệ và cải tiến sản

xuất nhằm giảm ô nhiễm môi trường. Điều này không có nghĩa trong quản lý môi

42

trường chỉ đơn thuần sử dụng một công cụ nào mà là sự kết hợp giữa các công cụ.

Việc sử dụng các công cụ kinh tế trong quản lý tài nguyên, BVMT nhằm hai mục

đích chính: i) làm thay đổi hành vi của đối tượng thực hiện khai thác tài nguyên và

gây ô nhiễm môi trường; ii) tăng nguồn thu để phục vụ cho các hoạt động cải thiện

môi trường. Các công cụ kinh tế sử dụng phổ biến trong quản lý tài nguyên và môi

trường gồm:

– Các công cụ dưới dạng thuế Pigou: thuế ô nhiễm, phí xả thải, thuế đầu vào,

thuế sản phẩm,... Thuế ô nhiễm (do nhà kinh tế học Pigou đưa ra vào năm 1920) là

một công cụ nhằm ngăn ngừa ô nhiễm môi trường. Nguyên tắc tính thuế Pigou là ai

gây ra ô nhiễm môi trường thì người đó chịu thuế và thuế được tính trên từng đơn vị

sản phẩm gây ô nhiễm, số chi trả cho một đơn vị ô nhiễm ít nhất phải bằng chi phí

biên của sự tổn hại do ô nhiễm đó gây ra [135].

– Các công cụ dưới dạng thị trường: giấy phép xả thải có thể chuyển nhượng, hạn

ngạch có thể chuyển nhượng, chi trả dịch vụ môi trường,...

– Các công cụ nhằm nâng cao trách nhiệm bảo vệ môi trường: ký quỹ bảo vệ môi

trường, đặt cọc hoàn trả, bồi thường thiệt hại môi trường,...

Trong cơ chế thị trường, trong một số trường hợp, việc hạn chế ô nhiễm có thể

hiệu quả hơn mà không cần đến sự can thiệp của bàn tay nhà nước. Do các doanh

nghiệp có các mức xả thải khác nhau, Ronald Coase (1960) cho rằng giữa các nhà

sản xuất thỏa thuận với nhau thông qua thị trường để đạt được mức ô nhiễm tối ưu

(người này có thể bù cho người kia). Đây là cơ sở cho thị trường chuyển nhượng

giấy phép xả thải, thỏa thuận đền bù các thiệt hại ô nhiễm môi trường giữa người

gây ô nhiễm môi trường và người chịu ô nhiễm.

Đối với tài nguyên khoáng sản, với đặc thù là tài nguyên không tái tạo, thuế tài

nguyên là công cụ kinh tế được sử dụng để hạn chế việc khai thác và sử dụng,

khuyến khích việc sử dụng tiết kiệm và hiệu quả tài nguyên.

Xu hướng sản xuất và tiêu dùng với khối lượng ngày càng lớn về các loại tài

nguyên thiên nhiên, trong khi chúng đang cạn kiệt dần và ảnh hưởng tới môi

trường; nhiều nước đã và đang tiến hành cải cách các công cụ kinh tế theo hướng

hiệu quả hơn cho công tác bảo vệ tài nguyên và môi trường, cải cách chính sách tài

khóa cho tăng trưởng xanh. Nhiều nước trên thế giới, đặc biệt là EU, đang thực hiện

những cải cách thuế môi trường theo hướng chuyển gánh nặng thuế theo lao động

và vốn (thông qua thu nhập, lợi nhuận) sang do việc sử dụng tài nguyên thiên nhiên

43

và ô nhiễm môi trường [104].

Cải cách thuế đối với tài nguyên thiên nhiên được thực hiện thông qua điều chỉnh

tăng thuế khai thác tài nguyên, thuế sử dụng tài nguyên, các nghĩa vụ tài chính khác

có liên quan và xóa bỏ trợ cấp giá cho việc sử dụng các loại tài nguyên thiên nhiên.

Giljum và cộng sự (2010) [111] chỉ ra rằng việc cải cách thuế môi trường đối với

các loại nguyên nhiên vật liệu (gồm: nhiên liệu hóa thạch, các loại quặng kim loại,

vật liệu xây dựng) có khả năng giảm khai thác, sử dụng tài nguyên và phát thải khí

CO2 do giá cả của chúng trở nên đắt đỏ hơn đối với người sử dụng.

Do vấn đề môi trường, trong cải cách chính sách tài khóa ở nhiều nước trên thế

giới (xuất phát từ Hà Lan, Anh và Đức) đã áp dụng thuế ô nhiễm môi trường [118].

Loại thuế này đưa các hiệu ứng ngoại lai (externalities) trở thành giá cả thị trường,

tức là các ảnh hưởng tới môi trường phải được xem như là các chi phí của xã hội và

nó làm cho mức giá trở nên chính xác hơn do đã bao gồm đầy đủ các yếu tố cần

thiết. Đây là công cụ để đánh thuế đối với các sản phẩm khi việc sử dụng gây tác

động xấu đến môi trường, chẳng hạn thuế ô nhiễm không khí như CO2, SO2 đối với

khí gas, dầu hỏa và than đá. Loại thuế ô nhiễm môi trường tạo nguồn thu cho ngân

sách nhà nước và góp phần thực hiện các mục tiêu về môi trường như hạn chế sản

xuất và tiêu dùng các sản phẩm gây ô nhiễm môi trường, khuyến khích các hành vi

“sạch hơn” [112: tr.5].

Nhìn chung, các sản phẩm thân thiện với môi trường trong giai đoạn đầu thường

khó cạnh tranh với các sản phẩm truyền thống. Nhằm thực hiện tăng trưởng xanh,

các nước đã có những chính sách ưu đãi, trợ cấp: i) cho sản xuất của các ngành,

doanh nghiệp sử dụng công nghệ cao và/hoặc sản xuất các sản phẩm thân thiện với

môi trường (chẳng hạn, trợ cấp cho việc sản xuất các năng lượng sạch) [133]; ii) trợ

cấp cho tiêu dùng đối với những sản phẩm sạch khi đối với người tiêu dùng độ thỏa

dụng như nhau giữa sản phẩm sạch và sản phẩm truyền thống (chẳng hạn, giữa

dùng điện từ năng lượng sạch và từ nhiên liệu hóa thạch) [99]. Trong xu hướng này,

các nước đang thực hiện những cải cách để xóa bỏ các khoản trợ cấp trước đây cho

việc tiêu dùng sản phẩm từ khai thác tài nguyên và ô nhiễm môi trường (ví dụ các

loại nhiên liệu hóa thạch) và chuyển các khoản trợ cấp sang các hoạt động liên quan

đến môi trường, các hoạt động thúc đẩy tăng trưởng xanh và giảm ô nhiễm [118].

Như vậy, các chính sách tài khóa được thiết kế tốt sẽ tạo ra nỗ lực để thúc đẩy

nền kinh tế thân thiện với môi trường. Các khuôn khổ về công cụ kinh tế trong quản

lý tài nguyên, môi trường là nền tảng để đối chiếu, phân tích về thực tiễn sử dụng 44

chúng ở Việt Nam (đã sử dụng chưa và sử dụng đến đâu) và liệu các chính sách đề

ra đã phù hợp.

2.1.3. Khai thác khoáng sản trong chiến lược tăng trưởng xanh ở Việt Nam

2.1.3.1. Chiến lược tăng trưởng xanh ở Việt Nam

Chính phủ Việt Nam đã phê duyệt Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh

(Quyết định số 1393/QĐ–TTg ngày 25/9/2012) và Kế hoạch hành động quốc gia về

tăng trưởng xanh giai đoạn 2014 – 2020 (Quyết định số 403/QĐ–TTg ngày

20/3/2014).

Mục tiêu của Chiến lược tăng trưởng xanh ở Việt Nam là:

Mục tiêu chung: Tăng trưởng xanh, tiến tới nền kinh tế cacbon thấp, làm giàu

vốn tự nhiên trở thành xu hướng chủ đạo trong phát triển kinh tế bền vững; giảm

phát thải và tăng khả năng hấp thụ khí nhà kính trở thành chỉ tiêu bắt buộc và quan

trọng trong phát triển kinh tế – xã hội.

Mục tiêu cụ thể:

– Tái cấu trúc và hoàn thiện thể chế kinh tế theo hướng xanh hóa các ngành hiện

có và khuyến khích phát triển các ngành kinh tế sử dụng hiệu quả năng lượng và tài

nguyên với giá trị gia tăng cao.

– Nghiên cứu, ứng dụng ngày càng rộng rãi công nghệ tiên tiến nhằm sử dụng

hiệu quả hơn tài nguyên thiên nhiên, giảm cường độ phát thải khí nhà kính, góp

phần ứng phó hiệu quả với biến đổi khí hậu.

– Nâng cao đời sống nhân dân, xây dựng lối sống thân thiện với môi trường

thông qua tạo nhiều việc làm từ các ngành công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ xanh,

đầu tư vào vốn tự nhiên, phát triển hạ tầng xanh.

Chiến lược tăng trưởng xanh đề ra các nhiệm vụ chiến lược:

– Giảm cường độ phát thải khí nhà kính và thúc đẩy sử dụng năng lượng sạch,

năng lượng tái tạo.

– Xanh hóa sản xuất: Thực hiện một chiến lược “công nghiệp hóa sạch” thông

qua sử dụng tiết kiệm và hiệu quả tài nguyên, khuyến khích phát triển công nghiệp

xanh, nông nghiệp xanh với cơ cấu ngành nghề, công nghệ, thiết bị bảo đảm nguyên

tắc thân thiện với môi trường, đầu tư phát triển vốn tự nhiên; tích cực ngăng ngừa

và xử lý ô nhiễm.

45

– Xanh hóa lối sống và thúc đẩy tiêu dùng bền vững.

Đối với khai thác khoáng sản, chiến lược quốc gia tăng trưởng xanh đề cập đến

việc sử dụng tiết kiệm và hiệu quả tài nguyên với 3 giải pháp cụ thể: (1) xây dựng,

hoàn thiện pháp luật, chính sách nhằm thực hiện kiên quyết và có hiệu quả Luật tài

nguyên nước, Luật đất đai, Luật khoáng sản, Luật bảo vệ môi trường và những quy

định liên quan, tăng cường áp dụng các công cụ kinh tế, hành chính theo nguyên tắc

“người gây ô nhiễm phải trả tiền”; (2) thiết lập các tổ chức quản lý hành chính hiệu

quả, kiện toàn hệ thống quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường ở Trung ương và

các địa phương; (3) đẩy mạnh, phát triển, áp dụng rộng rãi những công nghệ và thực

hành khai thác, sử dụng hiệu quả nguồn tài nguyên.

2.1.3.2. Những nội dung chủ yếu về khai thác khoáng sản trong chiến lược tăng

trưởng xanh ở Việt Nam

Khai thác khoáng sản trong chiến lược tăng trưởng xanh bao gồm hai mặt: (a)

khai thác khoáng sản cần có những đóng góp vào việc thực hiện và đạt được các kết

quả của chiến lược tăng trưởng xanh của Việt Nam, và (b) khai thác khoáng sản theo

hướng tăng trưởng xanh.

a) Đóng góp của khai thác khoáng sản vào thực hiện chiến lược tăng trưởng xanh

Chiến lược tăng trưởng xanh nhằm mục tiêu tái cấu trúc nền kinh tế. Theo đó,

khai thác khoáng sản cần có những đóng góp vào thực hiện chuyển đổi mô hình

tăng trưởng theo chiều sâu và thực hiện xanh hóa nền kinh tế, bao gồm xanh hóa

sản xuất, xanh hóa tiêu dùng và xanh hóa lối sống. Những đóng góp của khai thác

khoáng sản vào thực hiện chiến lược tăng trưởng xanh trên những khía cạnh sau:

– Thay đổi trong cơ cấu khai thác các loại khoáng sản nhằm đóng góp vào thực

hiện chiến lược tăng trưởng xanh: Chiến lược tăng trưởng xanh đề ra nhiệm vụ

chiến lược là thúc đẩy sử dụng năng lượng sạch, năng lượng tái tạo. Nhằm đóng

góp vào nhiệm vụ này, trong cơ cấu khai thác các loại khoáng sản cần chuyền dịch

từ khai thác các loại khoáng sản gây ô nhiễm môi trường và/hoặc các loại đang khai

thác dư thừa so với nhu cầu sử dụng (như sắt thép, vật liệu xây dựng) sang khai thác

các loại khoáng sản phục vụ cho các ngành năng lượng sạch, năng lượng tái tạo.

Chẳng hạn, đất hiếm là một trong những đầu vào phục vụ sản xuất ra các siêu tụ

điện nhằm tích trữ điện năng từ năng lượng mặt trời, chất bán dẫn trong các thiết bị

điện tử. Hay như, Việt Nam đang có chiến lược phát triển điện hạt nhân nên cũng

46

cần chuyển hướng sang khai thác uranium để phục vụ cho sản xuất điện hạt nhân.

– Thay đổi về công nghệ khai thác: Việc thay đổi công nghệ không chỉ nhằm góp

phần xanh hóa khai thác khoáng sản, mà đóng góp vào việc thay đổi phương thức

và xanh hóa tiêu dùng. Chẳng hạn, những năm gần đây, các nước tiên tiến trên thế

giới đang chuyển sang áp dụng công nghệ hiện đại vào khai thác than thông qua

chuyển hóa than thành dạng nhiên liệu lỏng, nhiên liệu khí; điều này giúp cho việc

sử dụng an toàn, hiệu quả, ít gây ô nhiễm môi trường. Với phương thức khai thác

than theo công nghệ hầm lò, lộ thiên như hiện nay ở nước ta, việc sử dụng than

muốn sử dụng theo những cách thân thiện với môi trường cũng là vấn đề thách

thức. Nói cách khác, cách khai thác khoáng sản không chỉ ảnh hưởng tới bản thân

công đoạn khai thác mà chi phối cả khâu tiêu dùng.

– Tăng cường chế biến khoáng sản và thay đổi trong cơ cấu chế biến: Một trong

những nhiệm vụ quan trọng trong chiến lược tăng trưởng xanh là thực hiện một

chiến lược “công nghiệp hóa sạch”. Ngoài các yêu cầu về chế biến sâu các sản

phẩm khoáng sản để nâng cao giá trị gia tăng, trong cơ cấu chế biến cần hướng đến

việc chế biến để phục vụ cho các ngành công nghiệp hiện đại, các ngành công nghệ

cao hoặc tham gia vào chuỗi sản xuất toàn cầu. Chẳng hạn, việc chế biến các loại

quặng sắt thay vì chỉ chế biến thành thép xây dựng mà chế biến thành thép công

nghiệp, hay như chế biến nhôm từ khai thác bôxit cần chế biến thành hợp kim

nhôm,... để phục vụ cho các ngành cơ khí và/hoặc tham gia chuỗi sản xuất toàn cầu.

– Thay đổi thể chế đối với khai thác khoáng sản nhằm thúc đẩy sự phát triển của

các ngành công nghiệp xanh: Việc thắt chặt các quy định và/hoặc nâng cao các tiêu

chuẩn về môi trường nhằm mở ra cơ hội về phát triển các ngành công nghiệp dịch

vụ môi trường. Những thay đổi trong các yêu cầu, tiêu chuẩn xả thải ra môi trường

tạo sức ép để doanh nghiệp sử dụng các đầu vào thân thiện với môi trường, từ đó

thúc đẩy phát triển các ngành sản xuất các đầu vào thân thiện với môi trường.

b) Khai thác khoáng sản theo hướng tăng trưởng xanh

Khai thác khoáng sản bao gồm nhiều hoạt động trong đó có các công đoạn quan

trọng: cấp phép khai thác; khai thác, chế biến khoáng sản. Cách cấp phép khai thác

ảnh hưởng tới phương thức khai thác: khai thác nhỏ lẻ hay khai thác theo công

nghiệp và lựa chọn doanh nghiệp như thế nào (năng lực về vốn, công nghệ) tham

gia khai thác khoáng sản. Hoạt động khai thác khoáng sản gây ra ô nhiễm môi

47

trường và nó được giám sát như thế nào để hạn chế đến mức thấp nhất các tác động

tiêu cực. Quy mô, sản lượng khai thác đối với khai thác khoáng sản ảnh hưởng tới

việc cạnh tranh các nguồn lực khác, nhất là khi xem xét tới trên quan điểm tăng

trưởng xanh, nguồn lực cho phát triển các ngành ít ô nhiễm môi trường. Từ góc

nhìn của tăng trưởng xanh, cơ cấu khai thác các loại khoáng sản phải làm sao để

phục vụ cho mục tiêu tăng trưởng xanh và/hoặc các loại năng lượng mới, năng

lượng tái tạo có thể phát triển được. Các vấn đề vừa nêu chi phối, ảnh hưởng tới các

kết quả của khai thác khoáng sản theo tiêu chí tăng trưởng xanh.

Từ các lập luận vừa nêu có thể hiểu: Khai thác khoáng sản theo hướng tăng

trưởng xanh là phương thức khai thác khoáng sản theo hướng nâng cao hiệu quả sử

dụng tài nguyên, tạo ra giá trị gia tăng lớn hơn trên cơ sở giảm các tác động tiêu

cực tới tài nguyên, môi trường và bền vững về xã hội. Nội hàm của khai thác

khoáng sản theo hướng tăng trưởng xanh bao gồm các nội dung sau đây:

– Về khía cạnh kinh tế: thực hiện khai thác khoáng sản theo hướng tăng trưởng

xanh đòi hỏi nâng cao hiệu quả sử dụng tài nguyên, tạo ra giá trị gia tăng lớn hơn,

nói cách khác, tạo ra nhiều giá trị sử dụng hơn trên cơ sở sử dụng ít hơn các nguồn

tài nguyên, theo đó: i) việc khai thác gắn liền với chế biến sâu các sản phẩm khoáng

sản nhằm nâng cao giá trị gia tăng; ii) việc khai thác khoáng sản phải có tác dụng

trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế của những nơi khai thác mỏ; iii) khai thác, chế

biến khoáng sản tạo sự định hình, phát triển của các ngành kinh tế khác và tham gia

vào chuỗi sản xuất khu vực, toàn cầu nhằm nâng cao giá trị gia tăng của khai thác

khoáng sản. Điều này góp phần vào việc nâng cao năng suất tài nguyên và từng

bước giảm sự phụ thuộc vào khai thác khoáng sản. Để đạt được những mục tiêu như

vậy đòi hỏi lựa chọn phương thức khai thác khoáng sản hợp lý, thông minh.

– Về khía cạnh tài nguyên và môi trường: khai thác khoáng sản theo hướng tăng

trưởng xanh là quá trình khai thác, chế biến khoáng sản: i) giảm tổn thất tài nguyên

khoáng sản và giảm thải các chất thải ra môi trường; ii) gây ra ít hơn các tổn thương

và mức độ thiệt hại đối với tài nguyên, môi trường; iii) giảm sử dụng các loại đầu

vào và mức tiêu hao đối với từng yếu tố đầu vào, nhất là các đầu vào có nguồn gốc

từ tự nhiên (năng lượng truyền thống, nước,...); iv) từng bước sử dụng các đầu vào

48

thân thiện với môi trường,...

Đồng thời, hài hòa lợi ích kinh tế với lợi ích về TNMT, lợi ích ngắn hạn với lợi

ích dài hạn: hạn chế việc khai thác tận thu, tận khai để gia tăng sản lượng phục vụ

mục tiêu kinh tế thay vào đó ưu tiên cho việc dự trữ để góp phần TNMT.

– Về khía cạnh xã hội: Các quan niệm về phát triển bền vững thường đề cập tới

việc sử dụng của thế hệ hiện tại không ảnh hưởng tới thế hệ tương lai, tuy nhiên,

cách hiểu như vậy sẽ không phù hợp đối với tài nguyên khoáng sản khi sản lượng là

hữu hạn, thay vào đó, sự bền vững thể hiện qua việc kéo dài thời gian cạn kiệt của

trữ lượng. Sự bền vững về xã hội thể hiện ở đảm bảo sự bình đẳng giữa các thế hệ

trong việc tiếp cận tài nguyên, điều này đòi hỏi sử dụng nguồn thu từ khai thác

khoáng sản để phát triển các loại vốn khác nhằm bù đắp và thay thế cho tài nguyên

đã khai thác (quy tắc Hartwick). Hơn nữa, sự bền vững về xã hội trong khai thác

khoáng sản được thể hiện ở nhiều khía cạnh, trên quan điểm tăng trưởng xanh, luận

án ưu tiên xem xét giải quyết về phân chia lợi ích từ khai thác khoáng sản giữa các

chủ thể (và kéo theo là bất bình đẳng về thu nhập),...

Việc tạo ra giá trị gia tăng lớn hơn và giảm tác động tiêu cực tới môi trường là

những chỉ tiêu để đánh giá xu hướng và mức độ tiến bộ “xanh” của khai thác

khoáng sản trong một giai đoạn tăng trưởng kinh tế. Những đánh giá này nhằm

nghiên cứu xu hướng giảm phụ thuộc vào khai thác tài nguyên (giảm tỷ lệ tài

nguyên trên mỗi đơn vị kinh tế) và tác động tới môi trường trong quá trình tăng

trưởng kinh tế.

Liên quan đến khai thác tài nguyên trong tăng trưởng kinh tế, gần đây, các nhà

nghiên cứu đưa ra thuật ngữ “tách rời tăng trưởng kinh tế ra khỏi việc sử dụng quá

mức tài nguyên và gây ô nhiễm môi trường” (decoupling). Việc tách rời có thể là: i)

tách rời tương đối, là khi việc sử dụng tài nguyên (tác động tới môi trường) chậm

hơn tốc độ tăng trưởng kinh tế; ii) tách rời tuyệt đối, là giảm tuyệt đối về sử dụng tài

nguyên (tác động tới môi trường) trên mỗi đơn vị tăng trưởng. Tách rời (nhất là tách

rời tuyệt đối) là mục tiêu và là thước đo để đánh giá về tăng trưởng xanh [147].

Cách tiếp cận theo “tách rời” (Hình 2.1) là cơ sở cho việc xây dựng phương pháp

49

đánh giá về tăng trưởng xanh.

Phúc lợi con người

Tăng trưởng kinh tế

Tách rời tài nguyên

Tách rời các tác động

Thời gian

Tác động tới môi trường

Hình 2.1: Tách rời tài nguyên và tác động môi trường trong tăng trưởng

kinh tế

Nguồn: UNEP (2011b) [155].

c) Các phương thức để thực hiện khai thác khoáng sản theo hướng tăng trưởng

xanh

Tăng trưởng xanh là cách tiếp cận tăng trưởng làm sao để sử dụng ít hơn các yếu

tố đầu vào sản xuất (vốn, lao động, tài nguyên) và/hoặc giảm các tác động tới môi

trường. Nói cách khác, đây là phương thức tăng trưởng dựa vào yếu tố khoa học –

công nghệ và thể chế, chính sách.

– Bằng yếu tố công nghệ

Khoa học – công nghệ trước hết thường thể hiện ở “hạ tầng cứng” là ứng dụng

các công nghệ, máy móc thiết bị tiên tiến, hiện đại để thay thế cho yếu tố lao động

nhằm nâng cao năng suất, chất lượng và giảm tác động tiêu cực tới môi trường.

+ Công nghệ dưới dạng hữu hình:

Đó là các công nghệ khai thác, chế biến khoáng sản giảm thiểu các tác động tiêu

cực đến môi trường: khai thác bằng công nghệ lộ thiên hay hầm lò, với từng loại

công nghệ khai thác thì dùng loại máy móc thiết bị nào.

Các công nghệ chế biến để tạo ra và nâng cao giá trị gia tăng của sản phẩm

khoáng sản.

Máy móc, thiết bị tiên tiến để giảm sử dụng, tiêu hao các yếu tố đầu.

50

Công nghệ để tái chế và sử dụng các chất thải, xử lý các chất thải nguy hại.

+ Công nghệ dưới dạng vô hình: bao gồm việc sắp xếp, tổ chức sản xuất một

cách khoa học, hợp lý.

– Bằng các thể chế, chính sách

Yếu tố thể chế, chính sách để thực hiện tăng trưởng xanh là dựa vào xây dựng và

áp dụng các công cụ quản lý mới nhằm tìm ra phương thức tăng trưởng hiệu quả

hơn về mặt kinh tế và môi trường. Sự điều chỉnh thể chế thường theo hai hướng: i)

tập trung hướng mạnh hơn các công cụ hiện có vào bảo vệ tài nguyên và môi trường

một cách hợp lý, thông minh; ii) tạo dựng và sử dụng các công cụ quản lý mới vào

bảo vệ tài nguyên và môi trường.

Các thể chế kinh tế là công cụ để khai thác khoáng sản theo hướng tăng trưởng

xanh, nội dung này được thể hiện trên các khía cạnh sau:

+ Khuôn khổ luật pháp phù hợp với đặc thù của khai thác khoáng sản, ban hành

và sử dụng hữu hiệu các công cụ kinh tế trong việc giải quyết vấn đề môi trường; có

các cơ chế, chính sách khuyến khích các tổ chức, cá nhân áp dụng máy móc, thiết bị

tiên tiến vào sản xuất nhằm nâng cao hiệu suất, hiệu quả sử dụng đầu vào (nhất là

các đầu vào từ khai thác tài nguyên thiên nhiên) và xử lý về môi trường.

+ Tổ chức bộ máy (bao gồm ở cấp vĩ mô – bộ máy quản lý nhà nước và cấp vi

mô – các tổ chức, cá nhân trực tiếp khai thác khoáng sản) với cấu trúc khoa học, có

năng lực để đáp ứng các yêu cầu của tăng trưởng xanh. Với các tiêu chuẩn và yêu

cầu cao về bảo vệ môi trường, các bộ phận thành phần của từng cấp bộ máy phải có

sự phối hợp, hợp tác chặt chẽ chứ không chỉ là tập hợp của các cá thể.

d) Các rủi ro tiềm tàng khi thực hiện khai thác khoáng sản theo hướng tăng

trưởng xanh

Như trong phần tổng quan nghiên cứu ở chương 1 đã đề cập, tăng trưởng xanh

không phải là con đường bằng phẳng mà có thể có những rủi ro, phát sinh đi kèm.

Việc thực hiện khai thác khoáng sản theo hướng tăng trưởng xanh có thể xẩy ra

những vấn đề sau:

– Các mâu thuẫn giữa lợi ích và chi phí

Về mặt lý luận cũng như thực tiễn đã chỉ rằng khi chuyển sang phương thức sản

xuất tiên tiến, hiện đại thì đòi hỏi phải có chí phí, nhất là các chi phí tài chính; lợi

51

ích mang lại có thể là giảm các chi phí vận hành, lợi ích về môi trường. Xu hướng

này khi thực hiện tăng trưởng xanh cũng vậy và đòi hỏi phải có các chính sách để

xử lý mâu thuẫn giữa lợi ích và chi phí.

– Mâu thuẫn về lợi ích giữa người sản xuất và người sử dụng

Khi thực hiện tăng trưởng xanh, về cơ bản, giá các sản phẩm đầu ra thường cao

hơn so với các sản phẩm truyền thống, ví dụ: giá thành sản xuất các loại gạch không

nung thường cao hơn so các loại gạch đất sét từ các lò nung; giá thành sản xuất điện

từ các nguồn năng lượng tái tạo cao hơn so với từ các nguồn nhiên liệu hóa thạch.

Theo đó, các sản phẩm thân thiện với môi trường khó cạnh tranh về giá cả so với

sản phẩm truyền thống. Đối với người tiêu dùng, độ thỏa dụng đối với một trong hai

loại sản phẩm đều như nhau.

– Mâu thuẫn về phân chia lợi ích giữa các chủ thể có liên quan

Đó là các mâu thuẫn về lợi ích giữa các doanh nghiệp, giữa doanh nghiệp với nhà

nước và giữa doanh nghiệp với người lao động, cộng đồng dân cư (nhất là đối với

trường hợp khai thác khoáng sản).

Khi thực hiện tăng trưởng xanh cũng có nghĩa áp dụng công nghệ hiện đại, điều

này có thể dẫn việc thu hẹp lao động và làm thế nào để chuyển đổi việc làm cho

những người bị thu hẹp cũng là vấn đề cần xử lý.

2.1.4. Các tiêu chí đánh giá khai thác khoáng sản trong chiến lược tăng trưởng

xanh ở Việt Nam

2.1.4.1. Các căn cứ xây dựng các tiêu chí đánh giá

Tăng trưởng xanh là khái niệm tương đối mới và cho đến nay vẫn còn có các

cách hiểu khác nhau và theo đó, có những những chỉ tiêu khác nhau để đánh giá tiến

bộ theo hướng tăng trưởng xanh.

– OECD (2011) đã giới thiệu khung phân tích tăng trưởng xanh gồm 4 nhóm tiêu

chí đánh giá các nhân tố của tăng trưởng xanh: 1) năng suất tài nguyên và môi

trường; 2) tài nguyên thiên nhiên; 3) chất lượng môi trường sống; 4) cơ hội kinh tế

và lựa chọn chính sách hướng đến tăng trưởng xanh. Bốn nhóm tiêu chí này bao

gồm 25 tiêu chí nhỏ hơn nhằm đo lường tiến bộ đến tăng trưởng xanh (chi tiết các

chỉ tiêu được đề cập tại Bảng 1 – Phụ lục).

– Các chỉ tiêu về kinh tế xanh được đề ra trong các chiến lược phát triển ở Việt

52

Nam giai đoạn 2011 – 2020, như sau: chiến lược phát triển kinh tế xã hội giai đoạn

2011 – 2020; chiến lược phát triển bền vững giai đoạn 2011 – 2020; chiến lược

quốc gia về tăng trưởng xanh; chiến lược quốc gia về biến đổi khí hậu;...

2.1.4.2. Một số chỉ tiêu đánh giá khai thác khoáng sản theo tiêu chí tăng trưởng xanh

Trên cơ sở tham khảo các chỉ tiêu ở trên đây và kế thừa các cách đánh giá về

thực trạng khai thác khoáng sản ở Việt Nam từ các nghiên cứu hiện có, luận án sử

dụng một số chỉ tiêu tại Bảng 2.1 để đánh giá cho khai thác khoáng sản ở Việt Nam.

Các chỉ tiêu này tương đối phù hợp đặc điểm ngành công nghiệp khai khoáng của

nước ta cũng như tính khả thi về nguồn số liệu phục vụ cho việc nghiên cứu.

Bảng 2.1: Tiêu chí đánh giá khai thác khoáng sản trên quan điểm tăng trưởng xanh

Chỉ tiêu

Lý do lựa chọn và ý nghĩa

Cách đo

1. Về kinh tế

1.1. Tiêu chí về khía cạnh kinh tế trên quan điểm tăng trưởng xanh

Lý do: đo lường sự thay đổi, chuyển

Đóng góp vào GDP

dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng

trưởng xanh

Đóng góp ngân sách

Đóng góp vào kinh tế

Ý nghĩa: phản ánh sự phụ thuộc vào

Đóng góp vào giải quyết việc

khai thác khoáng sản trong phát triển

làm

kinh tế

1.2. Hiệu quả tăng trưởng kinh tế theo hướng tăng trưởng xanh

Hàm ý chi phí cơ hội về vốn đối với

các ngành ít tiêu tốn tài nguyên, năng

Giá trị gia tăng (VA)

lượng

Giá trị gia tăng

Mức tiêu tốn năng lượng và xét dưới

Tiêu hao tài nguyên và năng

chi phí cơ hội

lượng để tạo giá trị gia tăng

Chỉ số tập trung của ngành khai

Tác động lan tỏa đến phát

khoáng sản

khoáng và doanh nghiệp theo

triển nơi khai thác khoáng

địa lý nơi có khai thác khoáng

– Phản ánh sự hiệu quả từ khai thác

sản

sản

kinh tế

– Đóng góp vào sự thay đổi cơ cấu

Lý do: thể hiện chế biến sâu và phát

triển các ngành kinh tế trên nền khai

Giá trị gia tăng trên mỗi đơn vị

Năng suất tài nguyên

thác khoáng sản

tài nguyên đã khai thác

Ý nghĩa: mỗi đơn vị tài nguyên tạo

53

ra bao nhiêu giá trị gia tăng

2. Về tài nguyên và môi trường

2.1. Khía cạnh tài nguyên

Lý do: phản ánh tổn thất do công

Giảm tổn thất khoáng sản

nghệ và lạc hậu của công nghệ khai

trong quá trình khai thác,

thác.

Tỷ lệ tổn thất trong khai thác

chế biến

Ý nghĩa: hiệu quả khai thác, sử dụng

tài nguyên

2.2. Các chỉ tiêu liên quan đến môi trường

Lý do: thể hiện đáp “xanh hóa” trong

Tỉ lệ giảm các chất thải (rắn,

Giảm các chất thải và các

khai thác khoáng sản. Đây là chỉ tiêu

lỏng, khí,...) và các tác động

tác động từ hoạt động

giám sát chất lượng môi trường.

môi trường và so với các tiêu

khoáng sản ra môi trường

Ý nghĩa: giải quyết các yêu cầu từ

chuẩn cho phép

tăng trưởng xanh

% ngân sách cho công tác bảo

dưỡng tài nguyên và môi trường: Hài

vệ môi trường

hoà lợi ích kinh tế và môi trường

Đầu tư cho công tác phục

– Đầu tư cho việc bảo vệ và nuôi

hồi và bảo vệ môi trường

tắc Hartwick mở rộng)

Sử dụng phí bảo vệ môi trường

– Đầu tư cho thế hệ tương lai (quy

từ hoạt động khoáng sản

môi trường

– Hiệu quả trong công tác bảo vệ

3. Về xã hội

Các xung đột về

tài

nguyên và môi trường do

Các hệ lụy từ khai thác khoáng sản

Phân tích định tính

có liên quan đến hoạt động

khai thác khoáng sản.

Lý do: đo lường bền vững về xã hội

– Lợi ích của doanh nghiệp

Phân chia lợi ích từ khai

Ý nghĩa: phản ánh bất bình đẳng về

– Lợi ích của nhà nước

thác khoáng sản

thu nhập

(tỷ lệ lao động có mức lương

dưới mức lương cơ bản)

54

– Lợi ích của người lao động

Nguồn: Tác giả đề xuất.

Phương pháp sử dụng các chỉ tiêu

Các chỉ tiêu được đưa ra không gắn với ngưỡng đánh giá cụ thể để trả lời cho

việc từng khía cạnh kinh tế, xã hội, môi trường đã “xanh” hay chưa. Việc đưa ra

ngưỡng đánh giá – “ngưỡng xanh” – đòi hỏi phải có nhiều nghiên cứu hơn nữa và

cần có sẵn các số liệu đảm bảo độ tin cậy.

Với lý do như vừa nêu, luận án sử dụng các chỉ tiêu để đánh giá mức độ cải thiện

theo thời gian để trả lời cho câu hỏi đã theo hướng tăng trưởng xanh: cải thiện hiệu

quả về kinh tế, hiệu quả về môi trường và hiệu quả về xã hội. Các chỉ tiêu trong

Bảng 2.1 được thực hiện như sau:

– Luận án đánh giá xu hướng của một số chỉ tiêu, từ đó đánh giá mức độ tiến bộ

“xanh”. Các xu hướng được tính toán thông qua việc so sánh, tốc độ gia tăng của

các chỉ tiêu so với năm gốc.

– Xem xét xu hướng mối tương quan giữa các chỉ tiêu: so sánh tương quan giữa

các chỉ tiêu dựa trên khái niệm “tách rời” (Hình 2.1), ví dụ, mức độ ô nhiễm so với

sản lượng khai thác (mức độ ô nhiễm trên mỗi đơn vị khai thác tăng hay giảm) để

xem xét liệu việc khai thác theo hướng tăng trưởng xanh.

– Luận án xây dựng chỉ số phát triển bền vững ngành công nghiệp khai khoáng

(SDI) để tổng hợp các chỉ số thành phần về kinh tế, xã hội, môi trường nhằm nghiên

cứu xu hướng liệu ngành công nghiệp khai khoáng đã phát triển theo hướng tăng

trưởng xanh. Chỉ số SDI được tính toán theo công thức sau, trong đó mỗi chỉ số

thành phần có trọng số ngang nhau (cơ sở để đề xuất các trọng số ngang nhau bởi

trên quan điểm tăng trưởng xanh đó là sự hài hòa giữa kinh tế, xã hội và môi

SDI =

trường).

; Ii =(kinh tế, xã hội, môi trường)

Ii =

; Xi: giá trị của chỉ tiêu Ii

trong đó: SDI nhận giá trị từ 0 đến 1; trong một giai đoạn, với SDI càng gần 1 thể

55

hiện theo hướng phát triển bền vững.

2.1.5. Các nhân tố ảnh hưởng đến khai thác khoáng sản trong tăng trưởng xanh

2.1.5.1. Các nhân tố ảnh hưởng từ quốc tế

Toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế là cơ hội cho việc chuyển giao khoa

học công nghệ, chia sẻ kinh nghiệm từ các nước tiến tiến, qua đó tạo điều kiện cho

việc xử lý các bài toán về năng suất tài nguyên và môi trường. Hội nhập kinh tế

quốc tế là cơ hội tham gia chuỗi sản xuất toàn cầu nhằm nâng cao đóng góp của

khai thác khoáng sản. Từ đó khuyến khích và thúc đẩy chế biến khoáng sản theo

hướng đa dạng hóa sản phẩm, chế biến theo hướng tạo ra sản phẩm sạch thân thiện

với môi trường. Việc tăng cường hội nhập quốc tế là tạo ra nhiều cơ hội để thực

hiện và biến các mục tiêu của tăng trưởng xanh trở thành hiện thực. Đối với khai

thác khoáng sản, việc hội nhập kinh tế quốc tế tạo điều kiện để vươn ra bên ngoài

tìm kiếm, thăm dò tài nguyên, trữ lượng mới để bù đắp phần tài nguyên, trữ lượng

đã khai thác và gia tăng tài nguyên, trữ lượng để nâng cao sản lượng khai thác. Bên

cạnh đó, hội nhập kinh tế quốc tế mở ra cơ hội tiếp cận các nguồn năng lượng mới,

các vật liệu thay thế khoáng sản qua đó giảm các áp lực đối với khai thác khoáng sản.

Thế giới đang trong quá trình chuyển sang tăng trưởng xanh, kèm theo đó là việc

đề ra các tiêu chí mới và các tiêu chuẩn cao hơn về môi trường. Việc áp dụng các

phương pháp sản xuất tiết kiệm năng lượng và tài nguyên như một phần trong các

biện pháp nhằm hướng tới nền kinh tế xanh đóng vai trò quan trọng giúp các nền

kinh tế gia tăng khả năng thâm nhập và duy trì sức cạnh tranh dài hạn trên thị

trường quốc tế. Xu hướng này cũng đặt ra các ràng buộc về môi trường để tài trợ

vốn và ảnh hưởng tới các nguồn lực để xanh hóa khai thác khoáng sản.

2.1.5.2. Các nhân tố ảnh hưởng từ trong nước

– Các nhân tố khách quan bên trong

Sức ép từ gia tăng dân số, việc làm kéo theo nhu cầu lớn về sử dụng các loại

khoáng sản và giải quyết việc làm, điều này khiến cho việc gia tăng khai thác

khoáng sản và tạo ra các áp lực lớn tới tài nguyên, môi trường.

– Các yếu tố chủ quan bên trong

+ Mô hình tăng trưởng kinh tế và việc thay đổi mô hình tăng trưởng là những

ràng buộc để các ngành, lĩnh vực phải tuân thủ và thay đổi theo. Mô hình tăng

trưởng dựa vào khai thác tài nguyên thì nhu cầu và áp lực lớn về khai thác khoáng,

56

nói cách khác sẽ là thách thức để tách rời (decoupling) sự phụ thuộc vào tài nguyên

và tác động tới môi trường. Mô hình tăng trưởng với năng lực về công nghệ và chất

lượng nhân lực hạn chế đặt ra những thách thức để có thể tạo ra giá trị gia tăng lớn

từ khai thác khoáng sản, hạn chế các ảnh hưởng tiêu cực tới môi trường.

+ Nguồn vốn, nguồn nhân lực và chất lượng của nó, khoa học – công nghệ là các

yếu tố đầu vào quan trọng để thực hiện tăng trưởng xanh.

Nguồn nhân lực bao gồm số lượng và chất lượng ảnh hưởng tới quy mô và tính

chất của khai thác khoáng sản. Quy mô dân số lớn và sự gia tăng dân số kéo théo

nhu cầu sử dụng lớn về khoáng sản. Con người, nhất là người dân sống phụ thuộc

vào khai thác tài nguyên và/hoặc trình độ dân trí thấp có khả năng khai thác nhiều

tài nguyên thiên nhiên nói chung và khoáng sản nói riêng, thậm chí là khai thác bừa

bãi. Nguồn nhân lực gồm những người thực thi ở cấp cơ sở sản xuất kinh doanh và

cấp lãnh đạo. Việc thực hiện sản xuất xanh với các yêu cầu cao về môi trường và

những công nghệ tiến tiến để thực hiện cũng đòi hỏi nguồn nhân lực có chất lượng

để đáp ứng yêu cầu. Không những vậy, giữa các bộ phận trong cấu trúc nhân lực

phải có sự hợp tác, liên kết chặt chẽ và cách tổ chức thực hiện khoa học.

Khoa học – công nghệ không chỉ là lực lượng sản xuất trực tiếp, là yếu tố cơ bản

của quá trình sản xuất, mà còn là điều kiện cho tăng trưởng xanh. Tiến bộ khoa học

và công nghệ đẩy nhanh tốc độ phát triển các cơ sở sản xuất kinh doanh, tạo tiền đề

nâng cao chất lượng sản phẩm và khả năng để tham gia chuỗi sản xuất toàn cầu.

Tiến bộ khoa học công nghệ còn tạo ra những nhu cầu mới, thay đổi tính năng của

một số sản phẩm khoáng sản, từ đó góp phần thay đổi giá trị của khoáng sản. Tiến

bộ khoa học và công nghệ cũng có thể tạo ra các loại sản phẩm khác để thay thế sản

phẩm khoáng sản, điều này góp phần thay đổi chính sách quản lý và nhu cầu sử

dụng sản phẩm khoáng sản.

Các đầu vào như nhân lực, công nghệ không thể thiếu được yếu tố cơ bản ban

đầu đó là vốn, các nguồn lực tài chính. Vốn đầu tư giúp phát triển nhanh chóng

trình độ kỹ thuật công nghệ ở các doanh nghiệp khai khoáng, góp phần thúc đẩy

tăng năng suất lao động và hạn chế các tác động tiêu cực tới môi trường.

Các nhân tố vốn, nhân lực, công nghệ sẽ ảnh hưởng, chi phối việc thực hiện khai

thác khoáng sản trong trưởng xanh. Khoa học công nghệ ngày càng phát triển và nó

57

chi phối tới mọi lĩnh vực của đời sống, đối với khai thác khoáng sản sẽ là ảnh

hưởng tới phương thức khai thác theo hướng thân thiện với môi trường. Song để

việc khoa học công nghệ có vận hành hiệu quả hay không còn phụ thuộc vào chất

lượng nguồn nhân lực. Để có được các nguồn lực này cũng đòi hỏi phải có các cơ

chế, chính sách phù hợp nhằm thu hút từ trong nước và ngoài nước.

+ Thể chế là “hạ tầng mềm” của sản xuất và được quốc tế thừa nhận là ngày

càng đóng vai trò quan trọng. Thể chế kinh tế với nghĩa rộng bao gồm các qui định

pháp lý, các tổ chức và bộ máy quản lý và thực thi, các cơ chế phối hợp thực thi và

giám sát quá trình thực hiện. Hệ thống chính sách, pháp luật và các công cụ khác

nhằm khuyến khích hay hạn chế, thậm chí gây áp lực để các doanh nghiệp, nhà đầu

tư chấp hành các quy định về bảo vệ môi trường. Nhà nước có thể ngăn cản sự di

chuyển của các dòng vốn đầu tư vào các ngành thâm dụng tài nguyên và khuyến

khích vào các ngành sản xuất sạch, thân thiên với môi trường. Cách tổ chức bộ máy

và phương thức quản lý, nói cách khác là ính hoàn hiện của bộ máy nhà nước sẽ

giám sát chặt chẽ việc tuân thủ các quy định pháp luật, là điều kiện quan trọng đến

việc thực hiện tăng trưởng xanh. Thể chể và chất lượng thể chế hay quản trị tốt ảnh

hưởng tới việc quốc gia có rơi vào lời nguyền tài nguyên hay không và ảnh hưởng

tới việc thực hiện, đạt được các mục tiêu của tăng trưởng xanh đối với khai thác

khoáng sản.

+ Tư duy, nhận thức về tăng trưởng xanh cũng là yếu tố ảnh hưởng tới khai thác

khoáng sản trong tăng trưởng xanh. Kinh nghiệm các nước cho thấy tư duy, nhận

thức quyết định đến cách ứng xử với tài nguyên thiên nhiên, môi trường và việc ban

hành các chính sách. Đây đang là thách thức đối với khai thác khoáng sản ở nước ta

khi mà khoáng sản phân bố chủ yếu ở các tỉnh miền núi, nghèo đói và trình độ nhận

thức còn hạn chế, nên có thể khai thác khoáng sản (nhất là khai thác lậu) như là

phương tiện sinh kế. Tư duy, nhận thức có thể là của người dân, các doanh nghiệp

và lãnh đạo các cấp. Tuy nhiên, việc nâng cao nhận thức đối với các đối tượng này

58

là một quá trình mất nhiều công sức và thời gian.

2.2. Kinh nghiệm quốc tế về khai thác khoáng sản trong việc phát triển bền

vững, tăng trưởng xanh đối với nền kinh tế

2.2.1. Các bài học kinh nghiệm của một số quốc gia về khai thác khoáng sản

trong phát triển kinh tế theo hướng bền vững, tăng trưởng xanh

Phần dưới đây sẽ trình bày kinh nghiệm của một nước thất bại (Nigeria) và một

nước thành công (Úc) trong việc khai thác khoáng sản như một nguồn lực phát triển.

2.2.1.1. Bài học về lời nguyên tài nguyên từ khai thác khoáng sản ở Nigeria

Nigeria là trường hợp điển hình về thất bại từ khai thác khoáng sản và là bài học

cho các quốc gia trong việc ban hành các chính sách về phát triển kinh tế nói chung

và khai thác khoáng sản nói riêng.

Nigeria có nhiều loại khoáng sản, song dầu mỏ là loại khoáng sản có trữ lượng

lớn nhất. Quốc gia này sản xuất dầu thô lớn nhất ở Châu Phi và lớn thứ 11 trên thế

giới. Các mỏ dầu của Nigeria được phát hiện vào năm 1956 và bắt đầu khai từ 1958,

trong giai đoạn 1960 – 1972, sản lượng khai thác đã tăng từ 5 triệu thùng/ngày lên

trên 60 triệu thùng/ngày [164]. Sản lượng dầu thô của Nigeria năm 1980 đạt 2,06

triệu thùng/ngày và đến năm 1988 giảm nhẹ xuống còn 1,45 triệu thùng/ngày. Xu

hướng khai thác dầu thô ở Nigeria bắt đầu tăng trở lại từ năm 1989 và kéo dài cho

tới năm 2007, với mức sản lượng từ 2,17 lên 2,21 triệu thùng/ngày [81].

Trước năm 1970, nông nghiệp là ngành kinh tế chính ở Nigeria, giai đoạn 1960 –

1970, bình quân hàng năm, lĩnh vực này chiếm tới 50% GDP, thu hút 72% lực

lượng lao động và đóng góp trên 50% kim ngạch xuất khẩu. Nhưng từ những năm

1970 trở đi, khai thác khoáng sản là lĩnh vực giữ vai trò chủ đạo. Trong giai đoạn

1974 – 2005, dầu thô luôn luôn chiếm trên 91% tổng kim ngạch xuất khẩu của

Nigeria, đóng góp tới 85% nguồn thu của chính phủ và chiếm 52% GDP [131].

Mặc dù là quốc gia giàu về khoáng sản, nhưng xét về nhiều khía cạnh, Nigeria

được coi là một trong những ví dụ điển hình về lời nguyền tài nguyên. GDP thực tế

bình quân đầu người ở mức thấp và có xu giảm, từ mức 479 USD (năm 1977)

xuống còn 459 USD (năm 2005) [130]. Trong giai đoạn 1970 – 2000, tỷ lệ nghèo

đói (dân số có thu nhập dưới 1 USD/ ngày) đã tăng từ 36% lên 70% và số người

nghèo tăng từ 19 triệu người (năm 1970) lên 90 triệu người (năm 2000). Chênh lệch

59

giàu nghèo cũng tăng đáng kể; năm 1970, giới thượng lưu (2% dân số) và nhóm thu

nhập thấp nhất (chiếm 17%) có tổng thu nhập tương đương nhau; nhưng đến năm

2000, chỉ 2% nhóm trên có tổng thu nhập bằng với 55% nhóm dưới [140].

Các quốc gia rơi vào “lời nguyền tài nguyên” là vì nhiều lý do khác nhau và tùy thuộc

vào đặc thù của từng nước, đối với Nigeria là xuất phát từ những vấn đề chính sau:

Thứ nhất, nguồn thu từ khai thác khoáng sản được đầu tư thiếu không ngoan:

Chẳng hạn, nguồn thu từ dầu mỏ dùng để xây dựng khu liên hiệp thép Ajakouta và

điều này đã giảm vốn đầu tư vào ngành công nghiệp chế biến từ 77% (năm 1975)

xuống còn 50% (năm 1983) và sau đó chỉ còn 35%. Nigeria là quốc gia nghèo, nạn

đói diễn ra thường xuyên, nhưng thiếu đầu tư vào sản xuất nông nghiệp nên lĩnh

vực này ngày càng suy giảm. Lực lượng lao động di chuyển khỏi khu vực nông thôn

đã dẫn tới sụt giảm về sản lượng lương thực phẩm và kéo theo giá cả thực thẩm

tăng cao. Tỷ lệ đóng góp của nông nghiệp trên GDP giảm từ 68% vào năm 1965

xuống còn 35% vào năm 1981 [78].

Thứ hai, tình trạng “chảy máu” tài nguyên quốc gia và nạn tham nhũng hoành hành

Việc khai thác khoáng sản đòi hỏi các công nghệ thâm dụng vốn, song Nigeria

lại không có được các yếu tố này lúc bắt đầu mới khai thác và những năm sau đó.

Vì vậy, các nhà đầu tư nước ngoài chi phối lĩnh vực này ở Nigeria và kết quả là, các

giá trị gia tăng hay lợi ích đã chảy ra nước ngoài. Sản lượng khai thác dầu thô mặc

dù là lớn, nhưng quốc gia thu được không nhiều so với giá trị của tài nguyên để đầu

tư phát triển các lĩnh vực khác.

Đối với Nigeria, nội chiến và xung đột giữa các phe phái, tôn giáo diễn ra thường

xuyên, nên nạn tham nhũng hoành hành ở mọi lĩnh vực trong đó có dầu khí. Nghiên

cứu của Watts (2007) [164] đã chỉ ra rằng, chỉ riêng năm 2003, có tới 70% của cải

từ khai thác dầu thô đã bị đánh cắp.

Nguyên nhân của tình trạng này tại Nigeria suy cho cùng là do thể chế và quản trị

yếu kém [125 ], [165]. Jonathan (2004) [121], Sayne và cộng sự (2012) [142] đã chỉ

ra rằng Nigeria là một trong những nước có nền quản trị quốc gia yếu kém, bộ máy

chính quyền lũng đoạn và thiếu minh bạch, trách nhiệm giải trình.

Thứ ba, yếu kém trong việc kết nối khai thác tài nguyên tới gần hơn với các hoạt

động kinh tế khác. Nigeria là một quốc gia có nền kinh tế đơn ngành [165]. Mặc dù

đẩy mạnh khai thác dầu thô, song thiếu liên kết, tác động lan tỏa với các lĩnh vực 60

khác của nền kinh tế do thiếu vốn và thiếu chuyên môn. Việc thiếu các tác động lan

tỏa của khai thác dầu thô, đặc biệt ở vùng Niger–Delta nơi diễn ra các hoạt động

khai thác dầu thô ở Nigeria, đã làm cho vùng này chậm phát triển và kéo theo các

xung đột xã hội. Chính vì vậy, rất ít người trong số 140 triệu dân của Nigeria được

hưởng lợi từ khai thác dầu thô.

2.2.1.2. Kinh nghiệm của Úc về khai thác khoáng sản và thúc đẩy phát triển kinh tế

Úc được đánh giá là một trong những quốc gia hàng đầu thế giới về khoáng sản,

với một số loại khoáng sản có trữ lượng lớn: than, quặng sắt, bôxit, đồng, vàng, khí

tự nhiên,... Đây là nước có sản lượng khai thác lớn nhất thế giới về quặng sắt,

bôxit,... Ngành công nghiệp khai khoáng đóng vai trò ngày càng quan trọng trong

kinh tế của Úc: năm 2011; chiếm khoảng 10% GDP và là ngành kinh tế lớn thứ tư ở

nước này, đóng góp tới 55% giá trị xuất khẩu so với mức 37% của năm 2007 [172].

Úc có hệ thống quy định tương đối toàn diện nhằm ngăn ngừa các tác động tiêu

cực tới môi trường do hoạt động khai thác khoáng sản. Một trong các quy định quan

trọng nhất đó là đạo luật BVMT, theo đó các doanh nghiệp khai khoáng phải nộp

các kế hoạch quản lý môi trường. Chính phủ Úc cũng có các quy định cụ thể về

BVMT đối với nước, không khí, tiếng ồn và quản lý các chất thải. Các chi phí, ước

tính ban đầu về tổn thất môi trường được tính toán và đưa vào giai đoạn chuẩn bị

ban đầu, thay vì những giai đoạn đoạn sau đó trong vòng đời dự án khai thác mỏ

mới trang bị thêm những bộ phận mới và thiết kế lại công nghệ khai thác để xử lý

các vấn đề môi trường; các chi phí này được xem như một phần trong tổng chi phí

của dự án khai thác [152].Trước khi được chính quyền cấp phép khai thác, các công

ty phải tổ chức tham vấn và phải nhận được ủng hộ rộng rãi của cộng động địa

phương nơi khai thác khoáng sản [78]. Nhằm tăng cường thực thi và quản lý hiệu

quả đối với môi trường, chính quyền các bang ở Úc coi trọng vai trò giám sát của

các tổ chức xã hội, người dân địa phương nơi khai thác [170].

Úc là nền kinh tế khoáng sản hàng đầu của thế giới và cho thấy sự thành công khi

dựa vào khai thác khoáng sản để phát triển kinh tế. Việc khai thác khoáng sản ở Úc

không chỉ đơn thuần là khai thác tài nguyên để bán nhằm thu ngoại tệ trước mắt, mà

61

đi cùng với đó là phát triển các ngành công nghiệp chế tạo có sự kết nối quan trọng

với khoáng sản bao gồm: các sản phẩm thép và kim loại, ô tô, thiết bị công nghiệp,

sản phẩm dầu mỏ, tàu thuyền, và hoá chất. Điều này đã góp phần tạo ra giá trị gia

tăng của mỗi đơn vị tài nguyên được lớn hơn, hay nói cách khác là nâng cao năng

suất tài nguyên. Chính cách phát triển này mà ngành công nghiệp khai khoáng ở Úc

là ngành thu hút nhiều lao động và đã là một động lực chính cho sự phát triển với

nhiều thị trấn, đường giao thông, đường sắt, cảng sân bay, cũng như nhiều ngành

công nghiệp liên quan tới khai thác khoáng sản.

Nhằm đóng góp trở lại cho chính ngành công nghiệp khai khoáng và thúc đẩy

thay đổi cơ cấu, phát triển kinh tế; Úc đã chú trọng giành nguồn thu từ khai thác

khoáng sản để đầu tư vào công tác R & D (nghiên cứu và phát triển). Chỉ tính riêng

năm 2010, quốc gia này đã giành khoảng 3% thu nhập từ khai thác khoáng sản

(tương đương 3,6 tỷ USD) cho R & D. Khoản đóng góp này đã tăng từ 11% (năm

2000) lên tới 22% (năm 2010) trong tổng đầu tư R & D của tất cả các ngành công

nghiệp, chỉ sau công nghiệp chế biến (25%) [172]. Chính việc chú trọng đầu tư cho

R & D mà nhiều sáng kiến công nghệ về khai thác mỏ như kỹ thuật khai thác, tuyển

quặng và tinh luyện khoáng sản,... đã phát triển và biến Úc trở thành một trong

những nước hàng đầu thế giới về công nghệ khai thác mỏ. Úc dẫn đầu thế giới về

phần mềm khai khoáng và hiện cung ứng từ 60 – 70% phần mềm khai khoáng trên

toàn thế giới. Hàng năm, Úc đã thu khoảng 2 tỷ USD từ việc xuất khẩu các sản

phẩm và dịch vụ, công nghệ cao về khai thác mỏ. Quốc gia này cũng là nơi giáo dục

hàng đầu thế giới trong kỹ thuật khai khoáng và luyện kim. Trong những thập kỷ

gần đây các công ty Úc đã trở thành hoạt động thăm dò và khai thác khoáng sản ở

nhiều nước trên thế giới [152], [170].

Những cách tiếp cận trên đây giúp Úc hạn chế đến mức thấp nhất các tác động

tiêu cực về xã hội, môi trường của khai thác khoáng sản; đồng thời, biến tài nguyên

khoáng sản trở thành nguồn lực ban đầu để phát triển kinh tế. Dù là nền kinh tế

khoáng sản hàng đầu thế giới, song Úc được đánh giá nước có nền công nghiệp hiện

62

đại, khoa học – công nghệ tiên tiến.

2.2.2. Một số sáng kiến, cách tiếp cận ở cấp độ toàn cầu hỗ trợ cho việc quản trị

khai thác khoáng sản theo hướng phát triển bền vững, tăng trưởng xanh

Trong bối cảnh tài nguyên khoáng sản ngày càng cạn kiệt và những vấn đề về

môi trường do khai thác loại tài nguyên này, hiện nay có không ít các sáng kiến hỗ

trợ quản trị tài nguyên khoáng sản. Mỗi sáng kiến nhằm giải quyết những vấn đề

khác nhau của khai thác khoáng sản. Nghiên cứu sinh lựa chọn và nghiên cứu các

sáng kiến có liên quan trực tiếp đến nội dung đề tài luận án, bao gồm: 1) sáng kiến ở

cấp độ vĩ (sáng kiến EITI) hỗ trợ cho quản trị và tăng cường minh bạch đối với khai

thác khoáng sản; 2) sáng kiến ở cấp độ vi mô (sáng kiến GMI) xem xét tới vấn đề

tài nguyên, môi trường nhằm hỗ trợ cho việc xây dựng các chính sách để xanh hóa

sản xuất đối với hoạt động khai thác khoáng sản. Hai sáng kiến này được xem như

là những công cụ hữu ích hỗ trợ cho quản trị khai thác khoáng sản.

2.2.2.1. Sáng kiến minh bạch ngành công nghiệp khai khoáng (Extractive Industries

Transparency Initiative: EITI)

Tại Hội nghị thượng đỉnh thế giới về phát triển bền vững ở Johannesburg (Nam

Phi) vào tháng 10/2002, cựu thủ tướng Anh (ông Tony Blair) đã công bố sáng kiến

EITI và được Liên hợp quốc công nhận là công cụ hỗ trợ phát triển bền vững. Sau

hơn 10 năm, đến tháng 7/2014, đã có 45 quốc gia đăng ký thực hiện EITI [62]. Sáng

kiến này nhận được ủng hộ của nhiều công ty khai khoáng hàng đầu trên thế giới

như BHP Billiton, Chevron, BP, Rio Tinto, Shell, Santos,...

Nguyên tắc chung của EITI là đảm bảo sự tham gia đầy đủ và hiệu quả của các

bên liên quan gồm nhà nước, doanh nghiệp khai khoáng và các tổ chức xã hội dân

sự vào quản trị khai thác khoáng sản. Theo đó, một số thông tin về ngành này cần

được công khai dưới sự giám sát của hội đồng gồm: đại diện nhà nước, doanh

nghiệp khai khoáng và các tổ chức xã hội dân sự (gọi là nhóm đa bên:

Multistakeholder Group – MSG) (nguồn: https://eiti.org/).

Sáng kiến EITI nhấn mạnh quá trình giám sát các khâu trong chuỗi giá trị khai

thác khoáng sản nhằm nâng cao tính minh bạch và giải trình. Chính phủ các nước

và khối doanh nghiệp tham gia thực hiện EITI vì nhiều lợi ích:

– Đối với chính phủ, trước hết là khi tính minh bạch thông tin tốt, EITI giúp thúc

đẩy quá trình giám sát ngân sách. Báo cáo EITI sẽ là công cụ hiệu quả giúp người

63

dân và các nhà hoạch định chính sách thấy rõ được nguồn thu từ khai khoáng là bao

nhiêu và được chi thế nào, qua đó sẽ giúp gia tăng các khoản đầu tư cho người dân

và hạn chế tham nhũng, làm giảm thiểu tổn thất tài nguyên hướng các doanh nghiệp

khai thác hiệu quả về kinh tế và bảo vệ môi trường.

– Đối với doanh nghiệp, họ cũng hưởng nhiều lợi ích khi tham gia EITI bởi họ

đáp ứng được sự quan tâm và lợi ích của chính doanh nghiệp khi có nền quản trị

hiệu quả hơn và cơ hội đầu tư bền vững hơn, đồng thời đảm bảo được trách nhiệm

xã hội của doanh nghiệp và nâng cao uy tín đối với cộng đồng.

– Bên cạnh đó, EITI như là kênh nhằm được chia sẻ lợi ích của việc khai thác

khoáng sản, giúp giảm thiểu những xung đột nảy sinh giữa cộng đồng, các công ty

khai khoáng và chính quyền địa phương.

2.2.2.2. Sáng kiến khai thác mỏ theo các tiêu chuẩn xanh (Green Mining Initiative)

Sáng kiến GMI được Canada khởi xướng và sáng lập năm 2009 nhằm giải quyết

những vấn đề cấp bách bao gồm: i) giải quyết các mối quan tâm của công chúng về

tác động môi trường do khai thác khoáng sản; ii) nâng cao năng suất và đổi mới

công nghệ của ngành công nghiệp khai khoáng trong môi trường cạnh tranh quốc tế

khốc liệt; iii) đáp ứng tiêu chuẩn kỹ thuật về phát thải khí nhà kính, ô nhiễm không

khí và chất thải dạng lỏng; iv) cải thiện hiệu suất của ngành công nghiệp khai

khoáng nhằm giảm thiểu tổn thất tới môi trường (nguồn: http://www.nrcan.gc.ca/).

Các chính sách và giải pháp mà GMI hướng tới bao gồm [93], [94]:

Sử dụng hiệu quả năng lượng trong khâu khai thác và sơ chế: Năng lượng là một

vấn đề quan trọng và phức tạp đối với ngành công nghiệp khai khoáng, cả khâu khai

thác và sơ chế đều có nhu cầu sử dụng năng lượng đáng kể. Nâng cao hiệu suất sử

dụng năng lượng sẽ cải thiện khả năng cạnh tranh và giảm thiểu tác động môi

trường. Do vậy, các chính sách của nhà nước cần phát triển các công nghệ để làm

giảm nhu cầu sử dụng năng lượng, giảm thiểu phát thải khí nhà kính và tác động

của khí thải.

Quản lý chất thải

– Những vấn đề về nước sạch: Việc sử dụng nước và chất lượng nguồn nước là

vấn đề liên quan tới tất cả các khâu trong quy trình khai thác khoáng sản, và có tác

động trực tiếp tới môi trường. Khối lượng nước tiêu thụ qua tất cả các công đoạn

64

khai khoáng nhằm loại bỏ tạp chất cũng là yếu tố được lưu tâm. Cho nên, phát triển

các kiến thức và công nghệ để sản xuất nước thải sạch hơn, phù hợp hơn, độc tính

thấp hơn và giảm lượng tiêu thụ.

– Đáp ứng các nhu cầu đối với hệ thống khí thải, bao gồm: tiết kiệm chi phí,

năng lượng và giảm phát thải khí nhà kính.

Xây dựng sáng kiến trong khâu đóng cửa mỏ: Lựa chọn những công nghệ,

phương pháp hoàn thổ và đóng cửa mỏ tiên tiến để hạn chế các tác động tới môi

trường xung quanh. Sau khi đóng cửa mỏ cần tiến hành phục hồi môi trường và

trồng cây xanh.

Xanh hóa các mỏ khai thác bằng các năng lượng xanh: Đó là việc tận dụng các

chất thải hữu cơ để khắc phục chất thải mỏ và sản xuất năng lượng sinh học.

Phát triển tầm nhìn quốc tế về GMI trên các khía cạnh về khoa học và công

nghệ: Tăng cường các liên minh song phương và đa phương để xây dựng hỗ trợ

quốc tế cho việc quản trị khai thác khoáng sản và phát triển bền vững. Phát triển

quan hệ đối tác để đẩy nhanh tiến độ triển khai các công nghệ GMI. Thúc đẩy vai

trò dẫn dắt, đi đầu của ngành công nghiệp khai khoáng trên các khía cạnh về trách

nhiệm xã hội doanh nghiệp, phát triển khoáng sản có trách nhiệm, quản lý môi

trường, và sử dụng các công nghệ tiên tiến. Hỗ trợ các cơ hội hợp tác để tăng cường

tiếp cận thị trường toàn cầu đối với khai thác khoáng sản xanh.

Sáng kiến GMI là tương đối mới mẻ và hiện nay một số quốc gia đang thực thi

như Canada, Phần Lan, Úc và Indonesia,…

2.2.3. Những bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam

2.2.3.1. Bài học kinh nghiệm từ các nước đã nghiên cứu

Để tránh nguy cơ rơi vào lời nguyên tài nguyên, chiến lược và chính sách cũng

như tổ chức khai thác khoáng sản cần phải được xây dựng đồng bộ với phát triển

các ngành kinh tế khác, đảm bảo các yêu cầu phát triển bền vững. Sử dụng nguồn

thu từ khai thác khoáng sản một cách hiệu quả, đầu tư thỏa đáng vào nguồn vốn con

người, vốn tài nguyên thiên nhiên.

Trong tư duy phát triển kinh tế, đặc biệt là trong bối cảnh thực hiện chiến lược

tăng trưởng xanh, liệu có nên coi trọng việc khai thác tài nguyên như cách để tăng

trưởng hay thay vì sử dụng nguồn lực để phát triển các ngành khác có ít tác động tới

65

môi trường.

2.2.3.2. Bài học từ các sáng kiến quốc tế

Trong xu hướng quốc tế thực hiện quản trị khai thác khoáng sản, nhiều quốc gia,

các tập đoàn đa quốc gia và các tổ chức quốc tế ủng hộ và thúc đẩy thực thi sáng

kiến EITI. Điều này xuất phát từ tính hữu ích của do việc thực thi sáng kiến này

mang lại. Việt Nam nên nghiên cứu và xem xét áp dụng những nguyên tắc của sáng

kiến EITI nhằm thúc đẩy quản trị tốt đối với khai thác khoáng sản.

Nhằm góp phần giảm thiểu các tác động tiêu cực từ hoạt động khai thác khoáng

sản cần thực hiện quản lý dựa trên chuỗi hoạt động khoáng sản và có sự tham gia

của các bên liên quan.

Tiểu kết chương 2

Chương 2 trình bày những vấn đề lý luận về khai thác khoáng sản trong tăng

trưởng xanh và rút ra một số kết luận sau:

Tài nguyên khoáng sản là nguồn lực quan trọng của mỗi quốc gia. Do đặc tính

không tái tạo nên việc khai thác nguồn tài nguyên này cần phải đảm bảo nguyên tắc

hợp lý, hiệu quả và bền vững. Việc khai thác khoáng sản một cách bền vững được

phản ánh đầy đủ ở các mục tiêu và nội dung: bền vững về kinh tế, bền vững về xã

hội và bền vững về môi trường.

Cơ sở lý luận đã chỉ ra rằng quản trị tốt khai thác khoáng sản là con đường giúp

quốc gia tránh được “lời nguyền tài nguyên”, tức là đòi hỏi cải thiện và nâng cao

chất lượng thể chế, chính sách.

Tăng trưởng xanh là phương thức tăng trưởng mới đòi hỏi xây dựng và áp dụng

các công cụ quản lý mới nhằm thực hiện các ý tưởng mới và bảo vệ TNMT trở nên

hiệu quả hơn. Cách tiếp cận mới trong quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường

hướng tới dựa trên các công cụ mang tính thị trường: cơ chế thuê mỏ khai thác qua

hợp đồng khai thác và thiết lập các tiêu chí khách quan để đánh giá các hồ sơ xin

cấp phép khai khoáng sản, cạnh tranh (xóa bỏ cơ chế “xin – cho”) và sử dụng các

công cụ kinh tế trong BVMT.

Khai thác khoáng sản trong chiến lược tăng trưởng xanh tập trung vào: nâng cao

đóng góp của khai thác khoáng sản trên quan điểm tăng trưởng xanh (nâng cao năng

suất tài nguyên), góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế và phát triển các sản xuất ít

gây ô nhiễm môi trường (hướng tới mô hình tăng trưởng xanh),... nhằm giảm thiểu

66

các tác động tới tài nguyên, môi trường và phát thải khí nhà kính.

Chương 3

THỰC TRẠNG KHAI THÁC KHOÁNG SẢN

TRONG CHIẾN LƯỢC TĂNG TRƯỞNG XANH Ở VIỆT NAM

3.1. Thực trạng khai thác khoáng sản từ góc nhìn của tăng trưởng xanh

3.1.1. Tổng quan về tài nguyên khoáng sản Việt Nam

Theo kết quả điều tra đánh giá, thăm dò khoáng sản ở nước ta đến nay đã phát

hiện được trên 5.000 mỏ và điểm quặng với trên 60 loại khoáng sản khác nhau.

Trong đó, một số loại khoáng sản có tiềm năng, đủ điều kiện để tổ chức khai thác,

chế biến quy mô công nghiệp với thời gian lâu dài: bôxit: 4.500 triệu tấn; than:

3.520 triệu tấn; titan: 15,71 triệu tấn; đá granite: 15 triệu m3;... (Bảng 2 – Phụ lục).

Đặc điểm của tài nguyên khoáng sản Việt Nam là phân bố không tập trung, trữ

lượng của nhiều loại không lớn, thậm chí là manh mún. Hơn nữa, tài nguyên

khoáng sản của nước ta chủ yếu tập trung ở các tỉnh miền núi, trung du (Bảng 2 –

Phụ lục). Đây là khu vực địa lý có điều kiện kinh tế và cơ sở hạ tầng còn nhiều khó

khăn, giao thông chưa phát triển, trình độ dân trí còn thấp. Với đặc điểm của tài

nguyên khoáng sản như vậy sẽ đặt ra nhiều thách thức cho công tác quản lý nhà

nước (đội ngũ quản lý, các chính sách đối với từng địa bàn phải khác nhau). Hơn

nữa, với đặc điểm đó, việc khai thác sẽ gặp khó khăn và kéo theo chi phí cao (chi

phí cao hơn để xây dựng cơ sở hạ tầng do địa bàn khó khăn, các mỏ nằm rải rác,

khó áp dụng khai thác công nghiệp và không tận dụng được lợi thế theo quy mô bởi

các mỏ phân bố rải rác), điều này đặt ra những thách thức để mang lại hiệu quả cao

và gây ra các nguy cơ về ô nhiễm môi trường, phá vỡ cảnh quan và điều kiện tự

nhiên tại khu vực khai thác.

So với các nước trên thế giới, tài nguyên khoáng sản của nước ta có một số đặc

điểm sau [80]: i) những thứ thế giới cần và nhu cầu sử dụng ngày càng lớn nhưng

Việt Nam có trữ lượng không lớn so với nhu cầu sử dụng của thế giới và đang có xu

hướng ngày càng cạn kiệt như than đá và dầu khí; ii) những loại khoáng sản có giá

trị kinh tế rất cao và thế giới có nhu cầu rất lớn nhưng Việt Nam có trữ lượng không

67

nhiều (như ruby, saphia, peridot…) hoặc không có (như kim cương,..); iii) có những

loại khoáng sản nước ta có trữ lượng lớn nhưng không phải là nhu cầu cao của thế

giới (bôxit, đất hiếm, titan,…). Do vậy, nếu so với các nước giàu về dầu khí, than đá

thì Việt Nam không có vị thế cao trong việc chi phối thị trường hoặc đàm phán về

kinh tế, chính trị của quốc gia nếu lấy các khoáng sản hóa thạch này làm chỗ dựa.

3.1.2. Phân tích, đánh giá thực trạng khai thác khoáng sản trên quan điểm

tăng trưởng xanh

3.1.2.1. Thực trạng cấp phép khai thác khoáng sản

Cấp phép khai thác (trao hợp đồng và giấy phép khai thác) là công đoạn đầu

tiên trong chuỗi giá trị khai thác khoáng sản. Cách thức cấp phép khai thác ảnh

hưởng tới phương thức khai thác và bền vững về TNMT.

Trong thời gian qua, việc cấp phép khai thác khoáng sản bộc lộ nhiều hạn chế.

Đó là tình trạng cấp phép với thời hạn khai thác rất ngắn, thậm chí tại một số tỉnh

diễn ra tình trạng chia nhỏ mỏ hay khu vực khai thác để cấp phép [9], [19]. Trong

khi số lượng giấy phép khai thác khoáng sản nhiều thì số lượng dự án chế biến sâu

khoáng sản còn quá ít, trong giai đoạn 1996 – 2011, có tới 1.253 giấy phép khai

thác, nhưng chỉ có 1 giấy phép chế biến [9].

Việc cấp phép với thời hạn khai thác ngắn và theo kiểu khai thác manh mún

cản trở tới đầu tư công nghệ tiên tiến vào khai thác, chế biến sâu khoáng sản và

giảm thiểu ô nhiễm môi trường. Tình trạng chia cắt thành nhiều khoảnh nhỏ để cấp

phép gây thất thoát, lãng phí về tài nguyên khoáng sản, ô nhiễm môi trường. Tư duy

về khai thác như vậy khó để khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư bài bản, có

khi còn thúc ép họ khai thác bằng mọi giá song thiếu quan tâm tới bảo vệ tài

nguyên và môi trường.

Tình trạng cấp phép khai thác khoáng sản như đã đề cập là do hệ thống phân cấp

– phân quyền, các địa phương được trao rất nhiều quyền trong việc cấp giấy phép

khai thác. Chỉ trong 03 năm, từ tháng 10/2005 đến tháng 8/2008, Uỷ ban nhân dân

các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đã cấp 3.495 giấy phép khai thác (gấp 7

lần số Trung ương cấp trong 12 năm, từ 1996 – 2008) [72]. Mặt khác, việc phân cấp

cho các địa phương song thiếu sự giám sát hoặc giám sát thiếu hiệu quả từ các cấp

68

Trung ương.

3.1.2.2. Thực trạng về số lượng và chất lượng các doanh nghiệp khai khoáng 1

Số lượng doanh nghiệp tham gia hoạt động khai thác khoáng sản đã tăng lên

nhanh chóng, nếu như năm 2000 mới chỉ 427 doanh nghiệp thì đến năm 2010 đã có

tới 2.968 doanh nghiệp (tăng 7 lần) và đến năm 2013 là 2779 doanh nghiệp. Năm

2000, trong tổng số 421 doanh nghiệp (chưa tính các doanh nghiệp khai thác dầu

khí), số lượng doanh nghiệp theo nhóm khoáng sản như sau: khai thác than: 38

(chiếm 9,0%), khai thác quặng kim loại: 25 (chiếm 5,9%), khai thác đá và các mỏ

khác: 358 (chiếm 85,0%); năm 2013, trong 2957 doanh nghiệp, các con số tương

ứng là: 82 (3,0%), 311 (11,2%) và 2386 (86,5%). Các con số này thể hiện, trong

giai đoạn qua, số lượng doanh nghiệp tập trung chủ yếu (85,9%) là khai thác các

loại vật liệu xây dựng (Bảng 3 – Phụ lục).

Nhìn chung, các doanh nghiệp khai khoáng có quy mô khá khiêm tốn, bình quân

mỗi doanh nghiệp chỉ có khoảng 144 lao động và quy mô vốn mới chỉ đạt 27,4 tỷ

đồng. Nếu theo tiêu chí của Chính phủ về phân loại doanh nghiệp; theo quy mô về

lao động, tỷ lệ doanh nghiệp siêu nhỏ và doanh nghiệp nhỏ chiếm tỷ lệ tương ứng

32,9% và 59,1%; theo quy mô về vốn, tỷ lệ doanh nghiệp quy mô nhỏ là 87,27%

(tính trung bình trong giai đoạn 2000 – 2013) (Bảng 4 – Phụ lục).

Theo kết quả điều tra doanh nghiệp (Tổng cục Thống kê) cho thấy chất lượng

nguồn nhân lực trong doanh nghiệp khai khoáng còn hạn chế và chậm được cải

thiện. Cho đến năm 2013, tỷ lệ lao động đã qua đào tạo nhưng không có chứng chỉ

chiếm tới 36,7%; đặc biệt, con số này là trên 50% đối với các doanh nghiệp khai

thác quặng kim loại và khai thác đá, mỏ khác. Lao động trong khai thác hiện nay

chủ yếu dựa vào lao động thủ công với các kỹ năng đơn giản (Bảng 5 – Phụ lục).

Công nghệ khai thác, chế biến khoáng sản phần lớn là công nghệ cũ, lạc hậu; hệ

số thu hồi khoáng sản thấp, chưa thu hồi triệt để một số khoáng sản quý đi kèm với

khoáng sản chính; chưa thực sự quan tâm lựa chọn công nghệ thân thiện với môi

trường. Sản phẩm khai thác chế biến khoáng sản phần lớn mới dừng lại ở sản phẩm

1 Trong phần này chỉ xem xét các doanh nghiệp hoạt động theo Luật Khoáng sản.

69

tinh quặng, giá trị và hiệu quả sử dụng thấp [72].

Về kết quả sản xuất kinh doanh, so với các ngành khác, hiệu quả sản xuất của các

doanh nghiệp khai khoáng chưa cao. Tỷ suất lợi nhuân trên doanh thu với mức

4,68%; chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận trên vốn chỉ đạt xấp xỉ 5,49% (Bảng 6 – Phụ lục).

Như vậy, với số lượng doanh nghiệp quy mô nhỏ và số lượng ngày càng gia tăng,

trong khi chất lượng thấp (nhân lực và công nghệ) hàm ý việc huy động mọi nguồn

lực ở mức tối đa nhất có thể với phương thức khai thác thô sơ. Với việc khai thác

này khó có thể mang lại hiệu quả cao và có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường.

3.1.2.3. Sản lượng khai thác và cơ cấu khai thác các loại khoáng sản

Các loại khoáng sản đang được khai thác chủ yếu là: dầu thô, than đá, quặng sắt,

titan, khoáng sản làm vật liệu xây dựng (đá, cát, sỏi), nguyên liệu hóa chất công

nghiệp (apatit, pyrit…). Trong giai đoạn 2000 – 2013, sản lượng khai thác hàng

năm với quy mô khá cao và ngày càng tăng: than đạt 36.335,1 nghìn tấn (tốc độ

tăng 10,6 %/năm); quặng sắt: 1.772,4 nghìn tấn (23,1%/năm);…(Bảng 7 – Phụ lục).

Một số loại khoáng sản có sản lượng khai thác tăng quá nhanh và vượt cả quy

hoạch. Ví dụ, theo quy hoạch thăm dò, khai thác, chế biến và sử dụng quặng titan,

sản lượng quặng tinh khai thác vào năm 2025 là 600 nghìn tấn 2, tuy nhiên, sản

lượng khai thác đến năm 2010 đã đạt tới 592,4 nghìn tấn, gấp 2,4 lần so với sản

lượng quy hoạch (250 nghìn tấn) và vượt trước thời hạn quy hoạch là 15 năm. Thậm

chí, một số loại khoáng sản làm vật liệu xây dựng có sản lượng khai thác vượt so

với nhu cầu tiêu dùng gây nên tình trạng dư thừa, tồn kho.

Các số liệu trên đây chỉ là sản lượng có thể thống kê được, trên thực tế, sản lượng

khai thác có thể còn lớn hơn nhiều do khai thác trái phép (khai thác lậu). Nghiên

cứu của Lại Hồng Thanh và cộng sự (2012) [56] đã chỉ ra thực trạng khai thác

khoáng sản trái phép đã tăng cả về loại khoáng sản và về số lượng các khu vực có

khoáng sản bị khai thác trái phép cũng như quy mô, tính chất, mức độ vi phạm.

Như vậy, các số liệu về sản lượng khai thác phản ánh nhu cầu gia tăng khai thác

để phát triển kinh tế, khai thác vượt quy hoạch, khai thác lậu, cấp phép khai thác

không đi cùng với chế biến. Việc khai thác một số loại khoáng sản với quy mô chưa

70

hợp lý so với nhu cầu phát triển của nền kinh tế. Chẳng hạn, đối với than – loại 2 Quyết định 104/2007/QĐ-TTg về quy hoạch thăm dò, khai thác, chế biến và sử dụng quặng titan.

nhiên liệu gắn với an ninh năng lượng, song có khối lượng xuất khẩu lớn nhất trong

các loại khoáng sản ở thể rắn (xuất khẩu chiếm tới 45,3% sản lượng khai thác) và hệ

quả là những năm gần đây, Việt Nam đã phải bắt đầu nhập khẩu than để phục vụ

nhu cầu tiêu thụ trong nước.

Hình 3.1: Xu hướng về khai thác khoáng sản trong giai đoạn 1980 – 2013

Nguồn: SERI (2015) [173].

Xét theo khía cạnh khả năng tái tạo, trong những năm gần đây, khi công nghệ về

biogas và nhiên liệu sinh học (enthanol) ngày càng phát triển, ở nước ta, khai thác

nguyên liệu có khả năng tái tạo (phục vụ năng lượng sinh khối) ngày càng giảm

xuống về tỷ trọng, trong khi đó, có xu hướng chuyển sang khai thác các loại nguyên

nhiên vật liệu không có khả năng tái tạo (nhiên liệu hóa thạch, vật liệu xây dựng,

quặng kim loại) (Hình 3.1). Trên quan điểm phát triển bền vững, đây là xu hướng

đáng lo ngại đứng về cạn kiệt tài nguyên và suy thoái môi trường.

Đối với các loại khoáng sản ở thể rắn, Việt Nam đang có xu hướng đẩy mạnh

khai thác các loại khoáng sản vật liệu xây dựng. Trong khi đó, các loại khoáng sản

để phục vụ cho các ngành hỗ trợ sản xuất xanh (ví dụ, khai thác đất hiếm,…) vẫn ít

71

được chú ý tới.

3.1.2.4. Thực trạng về chế biến khoáng sản

Nhiều báo cáo, đánh giá của các cơ quan quản lý nhà nước và các nhà nghiên cứu

đều có chung nhận định là khoáng sản của Việt Nam sau khi được khai thác mới

chủ yếu là sơ chế [72], [78]. Điều này có thể thấy rõ khi xem xét về thực trạng chế

biến ở một số loại khoáng sản:

– Khai thác, chế biến titan là một trong những dẫn chứng để minh họa cho thực

trạng chế biến khoáng sản. Đối với titan, mức độ chế biến sâu như sau: khai thác

quặng titan –> tuyển tinh –> xỉ titan –> ilmenit –> zircon. Tác giả luận án đã tiến

hành khảo sát về khai thác titan tại tỉnh Bình Định và phát hiện rằng các doanh

nghiệp titan hoạt động chủ yếu là khai thác quặng ở dạng thô. Chế biến quặng tinh,

nghiền mịn zircon mới được thực hiện ở số ít doanh nghiệp. Trong số 22 doanh

nghiệp khai thác titan, chỉ có 8 doanh nghiệp đầu tư dây chuyền chế biến để tuyển

tinh và 2 doanh nghiệp có dây chuyền chế biến xỉ titan ra zircon. Công suất chế biến

quặng titan của các doanh nghiệp vẫn còn rất thấp, chưa đáp ứng công suất khai thác

– Việc chế biến khoáng sản dù có được thực hiện cũng bộc lộ không ít vấn đề.

của chính doanh nghiệp (chỉ đáp ứng được dưới 50% sản lượng khai thác) [19], [21].

Một trong các loại khoáng sản đáng chú ý đó là khai thác quặng sắt để chế biến ra

các loạt sắt thép. Việc sản xuất sắt thép với cơ cấu sản phẩm thiếu hợp lý, trong đó

chủ yếu là thép xây dựng nhưng lại thiếu các loại thép công nghiệp cho các ngành

cơ khí [18]. Cơ cấu sản xuất sắt thép mất cân đối không chỉ là phải nhập khẩu thép

công nghiệp, mà việc thiếu loại đầu vào này ảnh hưởng tới sự phát triển của các

ngành cơ khí với tư cách là như là ngành công nghiệp hỗ trợ. Hơn nữa, việc thiếu

các loại thép công nghiệp có chất lượng ảnh hưởng tới việc Việt Nam tham gia vào

chuỗi giá trị sản xuất toàn cầu trong ngành cơ khí, chẳng hạn, cung cấp các loại thép

cho các ngành công nghiệp như đóng tàu, ô tô,...

Việc khai thác khoáng sản với chủ yếu là sơ chế và nếu có chế biến sâu, song

chưa tính tới hỗ trợ cho sự phát triển các ngành công nghiệp hiện đại và để tham gia

vào chuỗi sản xuất toàn cầu,... có khả năng làm cho tài nguyên khoáng sản được

khai thác với số lượng lớn nhưng không có đóng góp nhiều, tương xứng với giá trị

72

tài nguyên vào phát triển kinh tế.

3.1.2.5. Thực trạng về bảo vệ môi trường trong khai thác khoáng sản

Việc thực thi công tác ĐTM : Báo cáo ĐTM là công cụ phục vụ quản lý nhà nước

và giám sát thực hiện các cam kết BVMT. Trong thời gian vừa qua, công tác này

vẫn còn nhiều tồn tại, hạn chế. Báo cáo ĐTM là yêu cầu bắt buộc, tuy nhiên, vẫn có

không ít trường hợp chưa chấp hành đầy đủ. Kết quả thanh tra năm 2013 của Bộ

TNMT từ hồ sơ cấp phép của 957 giấy phép do địa phương cấp (cấp từ ngày

01/7/2011 đến ngày 31/12/2012) cho thấy 50% giấy phép khoáng sản được cấp

không đúng với quy định pháp luật và vẫn có việc (29 giấy phép) cấp phép khai

thác khi hồ sơ không có báo cáo ĐTM hoặc bản cam kết BVMT được phê duyệt

hoặc xác nhận [5]. Nhìn chung, chất lượng của các báo cáo ĐTM ở các dự án

khoáng sản chưa đảm bảo và còn mang tính hình thức trong việc lập, thẩm định,

phê duyệt và thực hiện [6], [72]. Đối với việc thực hiện công tác sau thẩm định báo

cáo ĐTM vẫn chưa đầy đủ. Chẳng hạn, trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên, từ năm 2008

– 2013, trong số 65 mỏ được phê duyệt báo cáo ĐTM nhưng chỉ có 06 mỏ được cấp

giấy xác nhận hoàn thành công trình BVMT [76].

Ký quỹ cải tạo, phục hồi môi trường: Số lượng doanh nghiệp ký quỹ phục hồi

môi trường còn thấp so với số doanh nghiệp đang thực hiện hoạt động khai thác

khoáng sản. Theo thống kê của Quỹ môi trường Việt Nam, cho đến năm 2009, trong

tổng số 389 giấy phép do Bộ TNMT cấp và 3.888 giấy phép do UBND các tỉnh cấp

phép, chỉ có 86 dự án ký quỹ phục hồi môi trường tại Quỹ [32]. Điều này cũng có

thể thấy từ kết quả thanh tra khai thác khoáng sản làm vật liệu xây dựng do Bộ

TNMT thực hiện (năm 2011) khi vẫn còn tới 81/221 (36,6%) doanh nghiệp được

kiểm tra chưa thực hiện ký quỹ phục hồi môi trường [41]. Số lượng tiền đã ký quỹ

cải tạo, phục hồi môi trường đã được duyệt thấp hơn nhiều so với yêu cầu phục hồi

môi trường.

Các vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường: Tình trạng vi phạm pháp luật về

BVMT trong khai thác khoáng sản có xu hướng gia tăng về số vụ. Từ năm 2007 –

7/2012, lực lượng cảnh sát môi trường đã phát hiện xử lý 4.142 vụ, riêng năm 2011

và 6 tháng đầu năm 2012 đã phát hiện và xử lý 2.117 vụ. Trên 90% cơ sở sản xuất,

73

kinh doanh khai thác, chế biến khoáng sản vi phạm pháp luật về BVMT [6].

3.2. Đánh giá kết quả của khai thác khoáng sản theo tiêu chí tăng trưởng xanh

3.2.1. Đánh giá về khía cạnh kinh tế của khai thác khoáng sản

3.2.1.1. Đóng góp của khai thác khoáng sản đối với phát triển kinh tế – xã hội

a) Đóng góp của khai thác khoáng sản vào phát triển kinh tế

Việc khai thác khoáng sản đã có những đóng góp vào phát triển kinh tế của đất

nước. Trong giai đoạn 2000 – 2015, ngành công nghiệp khai khoáng đóng góp vào

GDP khoảng 10% (Bảng 3.1). Tuy nhiên, sự đóng này chủ yếu là từ những tài

nguyên có trữ lượng lớn và giá trị kinh tế cao (dầu khí, than đá,…). Sự đóng góp

của ngành công nghiệp khai khoáng chủ yếu diễn ra dưới dạng tăng quy mô sản

lượng khai thác. Trong những năm gần đây với xu hướng cạn kiệt của các loại tài

nguyên có giá trị kinh tế, các loại khoáng sản rắn không có khả năng tái tạo (quặng

kim loại, vật liệu xây dựng) đang được đẩy mạnh khai thác, thậm chí là tận khai

nhằm phục vụ tăng trưởng kinh tế (Hình 3.1).

Bảng 3.1: Đóng góp của ngành công nghiệp khai khoáng vào GDP (%) 3

Công nghiệp và xây dựng, chia ra:

Năm

Tổng số

Dịch vụ

Khai khoáng

Xây dựng

Tổng số

Nông, lâm, thủy sản

Thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm

2000

Công nghiệp chế biến 18,56

9,65

Sản xuất và phân phối điện, nước 3,17

5,35

100

24,53

36,73

38,734

2002

20,58

8,61

3,40

5,89

100

23,03

38,49

38,48

2004

10,13

20,34

3,51

6,23

100

21,81

40,21

37,98

19,38

9,39

2006

3,74

6,08

100

18,73

38,59

42,68

18,59

9,07

2008

3,5

5,92

100

20,42

37,08

42,50

12,95

9,48

2010

3,56

6,15

100

18,38

32,14

36,93

12,55

13,35

9,87

2011

3,41

5,61

100

19,57

32,24

36,73

11,46

2012

11,42

13,28

3,47

5,38

100

19,22

33,55

37,28

9,95

2013

11,01

13,34

3,72

5,13

100

17,96

33,2

38,73

10,11

2014

10,82

13,18

4,11

5,11

100

17,70

33,22

39,03

10,05

2015

9,61

13,69

4,51

5,44

100

17,00

33,25

39,73

10,02

3 Bắt đầu từ năm 2010, giá trị tăng thêm của các khu vực kinh tế được tính theo giá cơ bản.

74

Nguồn: Niên giám thống kê, Tổng cục Thống kê.

Xét số tuyệt đối, sự đóng góp của ngành công nghiệp khai khoáng có thể còn lớn

hơn nhiều nếu các loại khoáng sản được chế biến sâu, thay vì tiêu thụ và xuất khẩu

ở dạng thô. Chẳng hạn, quặng titan ở dạng thô, nếu sản xuất ra xỉ titan thì giá trị sản

phẩm tăng khoảng 2,5 lần; chế biến sâu thành pigment giá trị sản phẩm tăng khoảng

10 lần; sản xuất được titan kim loại giá trị sản phẩm tăng được khoảng gần 80 lần.

Đối với các khoáng vật của quặng titan (zircon, rutil, monazit,…) nếu sản xuất được

zircon siêu mịn (từ zircon 65%), rutil nhân tạo giá trị sản phẩm tăng 1,6 lần. Song

Việt Nam chỉ xuất khẩu tinh quặng titan mới chỉ chế biến đến xỉ titan (hay còn gọi

là 52% TiO2) [78].

Trong giai đoạn vừa qua, ngành công nghiệp khai khoáng đóng góp vào GDP có

xu hướng gia tăng từ 5% năm 1995 và lên 9,6% năm 2000 và khoảng 11% trong vài

năm gần đây. Điều này phản ánh sự gia tăng về phụ thuộc vào khai thác khoáng sản

trong cơ cấu kinh tế của Việt Nam. Trong khi đó, tỷ lệ công nghiệp chế biến đang

có xu hướng giảm xuống. Trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, ngành

công nghiệp chế biến ngày càng có vai trò quan trọng và giảm sự phụ thuộc vào

khai thác tài nguyên, tuy nhiên, Việt Nam lại đang thể hiện xu hướng trái ngược.

Như vậy, khai thác khoáng sản có vai trò khá quan trọng đối với kinh tế Việt

Nam, tuy nhiên, những đóng góp vào GDP chưa tính tới những chi phí, tổn thất về

tài nguyên và môi trường (tổn thất do thất thoát trong quá trình khai thác, tổn thất

do khai thác kiểu bóc lột, tổn thất do hủy hoại môi trường,..).

b) Đóng góp của khai thác khoáng sản vào thu ngân sách nhà nước

Nguồn thu cho ngân sách nhà nước (NSNN) từ các loại tài nguyên khoáng sản

bao gồm: 1) nguồn thu từ việc bán dầu thô; 2) nguồn thu từ thuế tài nguyên; và 3)

các loại thuế, phí khác. Bảng 3.2 cung cấp các số liệu về nguồn thu từ dầu thô và

thuế tài nguyên trong các năm từ 2003 đến 2015. Năm 2003, tổng số thu từ dầu thô

và thuế tài nguyên đạt 46.492 tỷ đồng (chiếm 26,2%) tổng thu ngân sách, năm 2010

là 95.495 tỷ đồng (chiếm 12,3%) và đến năm 2013 đạt tới 136.889 (chiếm 16,8%),

năm 2015 thu từ dầu thô đạt 93.000 tỷ đồng (chiếm 10,2% tổng thu ngân sách). Bên

75

cạnh đó là các khoản thu khác như phí BVMT, thuế xuất khẩu, thuế thu nhập doanh

nghiệp,… Điều này cho thấy khai thác khoáng sản có đóng góp đáng kể vào nguồn

thu của NSNN.

Bảng 3.2: Đóng góp của khai thác khoáng sản vào ngân sách nhà nước 4

Năm

Tổng thu ngân sách (tỷ đồng)

Thu từ dầu thô (tỷ đồng)

Thuế tài nguyên (tỷ đồng)

Thu dầu thô/tổng thu NS (%) 20,7

Thuế tài nguyên/tổng thu thuế (%) 7,6

177.409

36.773

9.719

2003

224.776 48.562

17.398

21,6

11,2

2004

283.847 66.558

21.236

23,4

11,1

2005

350.842 83.346

26.620

23,8

11,3

2006

431.057 78.634

21.461

18,2

8

2007

548.529 89.603

26.347

16,3

7,3

2008

629.187 61.137

19.093

9,7

5,1

2009

777.283 69.179

26.316

8,9

5,4

2010

962.982 110.205

38.123

11,4

6,2

2011

1.038.451 140.106

40.660

13,5

6,6

2012

816.000 99.000

37.889

12,1

5,8

2013

782.700

85.200

10,9

2014

911.100

93.000

10,2

2015

Nguồn: Bộ Tài chính (công bố tại http://www.mof.gov.vn/).

Với số lượng giấy phép khai thác, quy mô khai thác các loại khoáng sản trong

thời gian qua, số thu ngân sách từ lĩnh vực này có thể còn cao hơn các số liệu báo

cáo. Tuy nhiên, cách cấp phép khai thác tràn làn và khai thác kiểu manh mún như

đã nêu ở trên dẫn đến khó quản lý do có nhiều doanh nghiệp, chủ thể tham gia khai

thác. Hệ quả của nó là đặt ra những thách thức cho việc quản lý nguồn thu từ hoạt

động khoáng sản, thất thu cho NSNN. Tại một số địa phương dù cấp nhiều giấy

phép khai thác nhưng số thu ngân sách rất hạn chế. Chẳng hạn, theo báo cáo của

Hội đồng nhân dân tỉnh Phú Yên, cả tỉnh có tới 121 giấy phép khoáng sản, tuy

nhiên, tổng số thu thuế tài nguyên từ khai thác khoáng sản của tỉnh trong năm 2012

chỉ đạt 5,5 tỷ đồng [61: tr.32]. Số lượng giấy phép khai thác nhiều chưa phản ánh

4 Các năm 2003 – 2013 là số liệu quyết toán, các năm 2014 – 2015 là số liệu dự toán.

76

đầy đủ quy mô đóng góp vào nguồn thu ngân sách, bởi nó còn phụ thuộc vào loại

khoáng sản và quy mô khai thác, song ví dụ vừa đề cập phần nào cũng phản ánh về

việc quản lý yếu kém đối với nguồn thu từ hoạt động khai thác khoáng sản.

Với những kẽ hở trong các chính sách và cách quản lý chồng chéo, yếu kém gây

thất thu cho NSNN do khai thác khoáng sản trái phép, tình trạng buôn bán và xuất

khẩu lậu khoáng sản. Chẳng hạn, trong 3 năm gần đây, luôn có sự chênh lệch giữa

thống kê của hải quan hai nước về lượng quặng sắt mà Việt Nam xuất khẩu Trung

Quốc [17]. Sự chênh lệch này do nhiều nguyên nhân, song không loại trừ khả năng

có quặng sắt xuất khẩu lậu sang Trung Quốc.

Sự phụ thuộc của NSNN vào khai thác khoáng sản gây ra các rủi ro do nguồn thu

thiếu ổn định, bởi trong ngắn hạn từ biến động giá cả trên thị trường và trong dài

hạn là sự cạn kiệt của nguồn tài nguyên. Đối với Việt Nam, sự phụ thuộc vào nguồn

thu từ khai thác dầu thô và khoáng sản có xu hướng giảm từ mức 26,2% (năm 2003)

xuống 16,8% (năm 2013), trong đó tỷ trọng từ dầu thô giảm xuống tương ứng là

20% và 12,1%. Sự phụ thuộc đáng kể của NSNN vào nguồn thu từ dầu thô làm cho

thiếu chủ động về số thu ngân sách do nguồn thu giảm. Chẳng hạn, quý I/2016, giá

dầu thô giảm 1 USD/thùng, thu ngân sách từ dầu thô giảm tương ứng 1.400 tỷ đồng.

c) Đóng góp của khai thác khoáng sản vào giải quyết việc làm

Số lao động trong ngành công nghiệp khai khoáng bình quân khoảng 284,46 nghìn

người/năm, tương đương 0,63% tổng số lao động đang hoạt động trong nền kinh tế

(Hình 3.2). Khai thác khoáng sản không chỉ có ý nghĩa đối với giải quyết việc làm mà

còn phần cải thiện thu nhập, góp phần xóa đói giảm nghèo cho một bộ phận lao động.

Xét về hiệu quả, ngành công nghiệp khai khoáng hàng năm chỉ giải quyết việc

làm cho nền kinh tế chưa đến 1% tổng số lao động, song lại thu hút không nhỏ vốn

đầu tư, chẳng hạn năm 2013, ngành này chiếm tới 6,7% tổng vốn đầu tư. Điều này

thể hiện rằng đây là ngành thâm dụng vốn, tạo ra ít việc làm. Chính vì vậy, trong

chiến lược tăng trưởng xanh, việc đẩy mạnh khai thác khoáng sản là vấn đề cần

77

nhắc nhằm ưu tiên các nguồn lực cho các ngành ít ô nhiễm môi trường.

Hình 3.2: Số lao động làm việc trong ngành công nghiệp khai khoáng

Nguồn: Niên giám thống kê, Tổng cục Thống kê.

3.2.1.2. Hiệu quả tăng trưởng theo hướng tăng trưởng xanh

a) Hiệu quả kinh tế của ngành công nghiệp khai khoáng

– Giá trị gia tăng của ngành công nghiệp khai khoáng

Các số liệu từ Bảng 3.3 trình bày về giá trị gia tăng (VA) của ngành công nghiệp

khai khoáng. Xét theo các tiểu ngành, khai thác than có VA cao nhất (bình quân

70% giá trị sản xuất công nghiệp), tiếp đến khai thác quặng kim loại (38%) và các

loại khoáng sản khác (30%). Trong giai đoạn 2002 – 2013, tỷ lệ VA của ngành công

nghiệp khai khoáng có xu hướng giảm xuống và nguyên nhân là do chi phí trung

gian (IC) tăng nhanh. Tốc độ tăng giá trị sản xuất công nghiệp (GO) hàng năm có

tăng nhưng tăng còn thấp hơn so với tốc độ tăng của IC.

Bảng 3.3: Tỷ lệ giá trị gia tăng trong tổng giá trị sản xuất công nghiệp của

ngành công nghiệp khai khoáng (%)

2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2011 2012 2013

Chung

0,91 0,97 0,92 0,85 0,46 0,44 0,41 0,69 0,84 0,77

0,90 0,98 0,81 0,75 0,55 0,48 0,44 0,63 0,78 0,69

Khai thác than

0,42 0,37 0,33 0,37 0,37 0,45 0,38 0,37 0,37 0,41

Khai thác quặng kim loại

0,21 0,21 0,24 0,23 0,32 0,36 0,35 0,35 0,40 0,39

Khai thác khoáng sản khác

78

Nguồn: Tác giả tính toán từ số liệu Tổng cục Thống kê.

– Tổn thất tài nguyên, tiêu hao năng lượng để tạo ra giá trị gia tăng

Hiện trạng khai thác than là tấm gương phản ánh thực trạng của khai thác khoáng

sản, bởi đây là lĩnh vực đóng góp phần lớn vào giá trị sản xuất của ngành. Các số

liệu từ Bảng 3.4 cho thấy tỷ lệ tổn thất trong khai thác tại các mỏ than ngày càng

giảm dần qua các năm. Tuy nhiên, tổn thất than do công nghệ khai thác của các mỏ

lộ thiên trong khoảng 5 – 6% cho thấy tổn thất còn ở mức cao >5%, tỷ lệ tổn thất

than tại một số mỏ hầm lò còn ở mức cao > 24%. Với sản lượng khai thác than hàng

năm là 34.570,62 tấn (Bảng 7 – Phụ lục) và mức tổn thất khai thác tại các mỏ bình

quân 15% (trong đó: lộ thiên là 6,81% và hầm lò là 29,53%), theo đó, để đóng góp

58,8%/năm vào cơ cấu GDP của ngành công nghiệp khai khoáng, sản lượng than

thực tế khai thác từ trong lòng đất là lớn hơn rất nhiều và kèm theo đó là khối lượng

lớn đất đá thải.

Bảng 3.4: Tình hình tổn thất trong khai thác than tại các mỏ trong Tập

đoàn Than – Khoáng sản Việt Nam

Tổn thất khai thác, % so với trữ lượng

Các mỏ 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014

8,03 7,74 7,99 7,75 6,56 6,29 5,61 5,86 5,75 5,3 Lộ thiên 8,08

36,35 34,1 33,1 32,9 31,8 29,9 27,2 25,1 25,2 24,9 24,3 Hầm lò

Nguồn: (1) Số liệu 2004 – 2008: Nguyễn Cảnh Nam và cộng sự (2010) [33];

(2) Số liệu 2009 – 2014: Viện Khoa học Công nghệ mỏ (2015) [79].

Dù tỷ lệ tổn thất trong khai thác tại các mỏ than có xu hướng giảm xuống, nhưng

các chí phí trung gian (IC) như mức tiêu hao nguyên, nhiên liệu tăng lên và kết quả

là giá trị gia tăng của khai thác than có xu hướng giảm xuống, nhất là trong giai

đoạn 2003 – 2008. Mức tiêu hao nguyên, nhiên liệu và năng lượng để khai thác mỗi

tấn quặng nguyên khai có xu hướng tăng lên. Đơn cử, thuốc nổ để khai thác tăng từ

178,1 kg (năm 2010) lên 187,1 kg/1.000 tấn (năm 2014); tiêu hao điện năng tăng

tương ứng từ 9,7 tới 14,4 kwh/1.000 tấn (Bảng 8 – Phụ lục). Tiêu hao thuốc nổ với

khối lượng lớn không chỉ tốn kém chi phí mà kèm theo đó là hủy hoại trên diện

rộng về tài nguyên và ô nhiễm môi trường, đặc biệt là có nguy cơ lớn gây ra tai nạn

79

lao động.

Để giảm tổn thất trong quá trình khai thác, chế biến khoáng sản đòi hỏi các

doanh nghiệp phải đầu tư cho việc đổi mới công nghệ, máy móc thiết bị. Tuy nhiên,

trong thời gian qua, các doanh nghiệp đầu tư một cách hạn chế cho KHCN. Tính

toán từ kết quả điều tra doanh nghiệp năm 2010 (Tổng cục Thống kê) cho thấy

trong tổng số 2.968 doanh nghiệp, chỉ có 3,86% số doanh nghiệp đầu tư vào nghiên

cứu khoa học và đổi mới công nghệ, tỷ lệ này giảm sút gần 2 lần so với kỳ điều tra

năm 2002 (chiếm 6,14%). Cũng trong năm 2010, mức đầu tư cho KHCN của các

doanh nghiệp khai khoáng chỉ chiếm 0,34% tổng doanh thu.

Việc các doanh nghiệp đầu tư không đáng kể cho KHCN là tổ hợp của nhiều yếu

tố, trong đó phải kể đến: i) các chính sách về thuế tài nguyên, phí BVMT chưa

khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư cho công nghệ; ii) các doanh nghiệp bị ràng

buộc bởi quy định về mức trích lập cho việc thành lập quỹ khoa học công nghệ của

doanh nghiệp; iii) tư duy và động cơ của doanh nghiệp khi chỉ muốn tập trung vào

khâu khai thác (để nhanh thu lợi) hơn là đầu tư cho chế biến.

b) Tác động lan tỏa của khai thác khoáng sản đối với địa bàn sở tại

Để nghiên cứu tác động lan tỏa của khai thác khoáng sản đối với địa bàn sở

tại, luận án tính toán chỉ số tập trung tập trung của ngành công nghiệp khai

khoáng (chỉ số HHI: Herfindahl–Hirschmann Index) và mức độ tập trung doanh

nghiệp tại những nơi có hoạt động khai thác khoáng sản (chỉ số EG) (công thức

tính toán và tiêu chí đánh giá: Bảng 9 – Phụ lục). Nguồn số liệu để tính toán các

chỉ số là từ điều tra doanh nghiệp 2000 – 2012 (Tổng cục Thống kê). Chỉ tiêu

được sử dụng để tính toán là số lao động trong các doanh nghiệp.5

Các số liệu từ Bảng 3.5 cho thấy trong hơn 10 năm từ 2000 – 2012, chỉ số HHI

của ngành công nghiệp khai khoáng chỉ dưới 0,02; tức là mức độ tập trung thấp và

mức độ tập trung có xu hướng giảm xuống. Trong ba loại khoáng sản, khai thác đá

và khai thác mỏ khác có mức độ tập trung thấp nhất. Đối với khai thác than, dù

được khai thác cách đây đã lâu và khai thác hàng năm với khối lượng lớn, vùng

5 Đo lường thay thế cho tỷ trọng doanh nghiệp của vùng trong tổng doanh nghiệp của cả nước, bởi người lao động doanh nghiệp khai thác khi tiêu dùng cũng tạo ra các liên kết tiêu dùng cuối cùng và có tác dụng lan tỏa trong việc thu hút, thúc đẩy các ngành khác phát triển tại nơi có hoạt đông khai thác.

80

Quảng Ninh là nơi tập trung khai thác khoáng sản (than) với mật độ dày đặc; song

trong một thời gian dài, than khai thác chủ yếu là để xuất khẩu, thay vì để phục vụ

cho việc phát triển các nhà máy nhiệt điện (gần đây mới triển khai); đây có khả

năng là nguyên nhân làm cho chỉ số HHI của ngành than thấp hơn ngành khai thác

quặng khác. Chỉ số HHI thấp phản ánh phát triển phân tán và hệ quả là đòi hỏi đầu

tư cao, kéo theo đó là giảm hiệu quả phát triển của ngành công nghiệp khai khoáng.

Bảng 3.5: Chỉ số HHI và EG của ngành công nghiệp khai khoáng

2000 2005 2010 2012

Chỉ số HHI

Chung 0,01653 0,01594 0,01656 0,01424

Khai thác than 0,05245 0,04840 0,05530 0,05238

Khai thác quặng kim loại 0,12016 0,08696 0,02180 0,01632

Khai thác đá và khoáng sản khác 0,01757 0,00603 0,00359 0,00367

Chỉ số EG phân theo vùng

Miền núi và trung du Bắc bộ 0,07950 0,11900 0,14826 0,18305

Đồng bằng sông Hồng 0,52880 0,52409 0,49933 0,46871

Bắc Trung bộ và Duyên hải miền Trung 0,12999 0,29024 0,22371 0,15140

Đông Nam Bộ 0,37360 0,42414 0,39284 0,37512

Tây Nguyên 0,00334 0,00190 0,00248 0,00230

Đông bằng sông Cửu Long 0,01325 0,00934 0,01186 0,01138

Nguồn: Tính toán của tác giả từ số liệu điều tra doanh nghiệp (Tổng cục Thống kê).

Chỉ số EG của một số vùng ở mức thấp do nhiều nguyên nhân, nhưng phải kể

đến việc khai thác khoáng sản song thiếu và/hoặc yếu về hạ tầng giao thông nên

mức độ tập trung lao động không nhiều. Chẳng hạn, miền núi và trung du Bắc bộ có

nhiều loại khoáng sản được khai thác hơn so với Đồng bằng sông Hồng (nơi đây

chủ yếu khai thác các loại khoáng sản làm VLXD như xi măng) song chỉ số EG của

hai vùng này khác nhau bởi hạ tầng giao thông ở Đồng bằng sông Hồng tốt hơn.

Như vậy, mức độ tập trung của ngành công nghiệp khai khoáng thấp và giảm là

81

do các nguyên nhân: cách khai thác khoáng sản trong thời gian qua khi cấp phép

khai thác theo kiểu nhỏ lẻ, manh mún; hạn chế trong việc chế biến sâu khoáng sản

và phát triển các ngành công nghiệp trên nền sản phẩm khoáng sản; tiến hành khai

thác khoáng sản nhưng chưa đầu tư đồng bộ về hạ tầng để thúc đẩy các hiệu ứng lan

tỏa, tạo ra các cực tăng trưởng và các ngành phát triển theo các dự án khai thác.

c) Năng suất tài nguyên

Các thuật ngữ năng suất tài nguyên và hiệu quả sử dụng tài nguyên tuy có sự

khác nhau về tên gọi nhưng đều để chỉ chung một vấn đề về cách sử dụng hiệu quả

tài nguyên. Năng suất tài nguyên thể hiện giá trị sản lượng được tạo ra từ một đơn

vị đầu vào và nó có thể dùng để đo lường ở cấp độ cả nền kinh tế, cấp độ ngành sản

xuất hoặc ở cấp doanh nghiệp. Trong phần này đề cập đến năng suất tài nguyên ở

cấp độ nền kinh tế từ việc khai thác khoáng sản.

Hình 3.3: Xu hướng về năng suất tài nguyên từ khai thác khoáng sản

Nguồn: (1) Số liệu về khối lượng khai thác: SERI (2015) [173];

(2) Số liệu về GDP: World Bank (2015) [174].

Trong giai đoạn 1986 – 2014, Việt Nam có sự gia tăng đáng kể về khối lượng

khai thác và sử dụng các loại khoáng sản. Tuy nhiên, việc khai thác và chế biến các

loại khoáng sản để có đóng góp hiệu quả, tạo ra giá trị gia tăng đối với nền kinh tế

là vấn đề cần bàn. Trong giai đoạn 1986 – 2014, năng suất tài nguyên (GDP so với

tổng khối lượng khai thác các loại khoáng sản) chuyển biến chậm, năm 1986: 80

82

USD/tấn và đến năm 2014 mới chỉ đạt 94 USD/tấn (theo giá năm 2005) (Hình 3.3).

Năng suất tài nguyên thấp, thể hiện cường độ sử dụng tài nguyên cao nhằm đạt

mục tiêu tăng trưởng kinh tế. Cường độ sử dụng tài nguyên (material intensity) xét

theo nghĩa tổng khối lượng các loại khoáng sản cần khai thác để tạo ra tổng sản

phẩm quốc nội (GDP), đây là chỉ tiêu phản ánh cần bao nhiêu các loại tài nguyên

này trên mỗi đơn vị GDP. Đối với Việt Nam, cường độ tài nguyên có xu hướng

giảm xuống trong các năm 1986 – 1990 và tăng lên trong giai đoạn 1990 – 2014. Sự

tăng hay giảm về cường độ sử dụng tài nguyên trong các giai đoạn này là nhu cầu

khai thác và sử dụng các loại nguyên nhiên vật liệu nhằm tăng trưởng kinh tế.

Năng suất tài nguyên thấp hay cường độ sử dụng tài nguyên cao trong nền kinh

tế là do nhiều nguyên nhân, trong đó các nhân tố chính dẫn đến sự thay đổi năng

suất tài nguyên là thay đổi cấu trúc nền kinh tế và thay đổi về công nghệ [147],

[149], [155]. Đối với Việt Nam, điều này được thể hiện qua một số vấn đề chính

như sau:

– Nhìn chung, khoáng sản ở Việt Nam hiện nay mới chủ yếu là sơ chế hoặc chế

biến đến những công đoạn có giá trị gia tăng thấp, thậm chí, trước đây, trong một

thời gian dài, các loại khoáng sản được khai thác và xuất khẩu ở dạng thô. Điều này

làm cho giá trị gia tăng, năng suất tài nguyên từ việc khai thác khoáng sản là không

lớn. Việc chế biến, nếu có, như khai thác quặng sắt, cũng khó để phát triển các

ngành công nghiệp hiện đại và/hoặc tham gia vào chuỗi sản xuất toàn cầu.

– Việt Nam đã trải qua hai thập kỷ tăng trưởng kinh tế với các con số khá ấn

tượng, song hàm lượng công nghệ của các sản phẩm xuất khẩu còn thấp và trong

gần 20 năm qua hầu như không có sự thay đổi [36]. Khoa học và công nghệ phát

triển chậm nên khó khăn trong việc nâng cao năng suất tài nguyên, tạo ra các công

nghệ giảm ô nhiễm môi trường.

3.2.2. Đánh giá vấn đề môi trường trong khai thác khoáng sản

3.2.2.1. Thực trạng ô nhiễm môi trường trong khai thác khoáng sản và các ảnh

hưởng nó tới các hoạt động kinh tế khác, sức khỏe của người dân nơi khai thác mỏ

Nhìn chung, vấn đề môi trường trong khai thác khoáng sản ngày càng được cải

thiện. Điều này có thể thấy khi xem xét tới khai thác than – loại khoáng sản được

83

khai thác lớn nhất về quy mô – có tốc độ tăng trưởng khai thác, sử dụng than cao

hơn tốc độ tăng trưởng phát thải CO2 (Hình 3.4). Điều này thể hiện có xu hướng

giảm phát thải CO2 từ mỗi đơn vị khai thác, sử dụng than (giảm tương đối), nói cách

khác, có sự tách rời tương đối giữa khai thác và gây ô nhiễm (xem Hình 2.1).

Hình 3.4: Tốc độ tăng trưởng khai thác than và phát thải CO2

Nguồn: Số liệu khai thác than: SERI [173]; Số liệu phát thải CO2: WB [174]

Tuy nhiên, việc khai thác khoáng sản không ngừng tăng lên và gắn liền với đó là

sức ép ngày càng tăng đối với môi trường (ô nhiễm, suy thoái, suy giảm chất lượng

môi trường…). Tại một số nơi có hoạt động khai thác khoáng sản, ô nhiễm môi

trường như ô nhiễm về nước và không khí vẫn ở mức báo động, vượt tiêu chuẩn cho

phép [78]. Khai thác khoáng sản kéo theo đất, đá thải ra môi trường xung quanh.

Hiện nay chưa có các số liệu thống kê chính thức về toàn bộ đất đá thải từ khoảng

1.000 mỏ và điểm mỏ đang khai thác trên phạm vi cả nước. Tuy nhiên, một số ví dụ

sau đây cho thấy khối lượng chất thải rắn thải ra môi trường từ khai thác khoáng

sản: chỉ riêng dự án của nhà máy sản xuất Alumin Nhân Cơ (Đắk Nông) phần đuôi

quặng nước thải và bùn thải có khối lượng tới hơn 11 triệu m3/năm, dự án Tân Rai

(Lâm Đồng) có lượng bùn đỏ thải ra môi trường trong suốt quá trình dự án hoạt

động là 80 – 90 triệu m3 [7]. Hoạt động khai thác khoáng sản thải ra các chất thải

rắn, chất thải nguy hại. Ở Quảng Ninh, nơi khai thác than tương đối bài bản nhất, để

khai thác được 1 tấn than bằng công nghệ lộ thiên đã thải ra 1 kg chất thải khó tiêu

84

hủy (lốp ô tô, vỏ bình ắc qui, dầu mỡ thải,…) [50].

Những vấn đề vừa đề cập trên đây có thể chưa phản ánh đầy đủ quy mô, mức độ

ô nhiễm môi trường của hoạt động khai thác khoáng sản. Ô nhiễm môi trường ảnh

hưởng tới sản xuất, hoạt động kinh tế của các ngành khác, sức khỏe của cộng đồng

vùng khai thác hay các chi phí để khắc phục các hệ lụy về môi trường.

Từ khảo sát thực tiễn tại tỉnh Bình Định, tác giả luận án đã ước tính ô nhiễm môi

trường do khai thác titan trên địa bàn thôn Hưng Lạc gây thiệt hại kinh tế hàng năm

khoảng 525,35 triệu đồng. Mức thiệt hại này chiếm khoảng 2,17% với lợi nhuận

trước thuế của doanh nghiệp đang khai thác trên địa bàn thôn, tuy nhiên, mức thiệt

hại đó là khá lớn so với cộng đồng sinh sống tại đây với 528 lao động (tại thời điểm

nghiên cứu) sống chủ yếu dựa vào sản xuất nông nghiệp, tức là có nguy cơ dẫn đến

đói nghèo đối với người dân địa phương [77]. Đinh Đức Trường, Lê Thanh Hà

(2013) [70] tính thiệt hại về kinh tế do ô nhiễm không khí tại nhà máy xi măng Bỉm

Sơn (Thanh Hóa), kết quả cho thấy trung bình mỗi hộ ở vùng ô nhiễm chịu thiệt hại

quy ra tiền là 1,072 triệu đồng/ năm, bao gồm thiệt hại về do chi phí y tế và chi phí

cơ hội do phải khám chữa bệnh. Tổng thiệt hại cho cả vùng ô nhiễm (phường Ba

Đình và Lam Sơn) là 19,43 tỷ đồng. Các thiệt hại trên mới chỉ là những con số có

thể lượng hóa được và trong thời điểm hiện tại, vậy nên, đằng sau các con số về

đóng góp của hoạt động khai thác khoáng sản là các “chi phí ẩn” chưa được tính tới

hoặc không được đề cập tới.

Trong khi hoạt động khai thác khoáng sản gây ra ô nhiễm môi trường và tác động

tiêu cực tới các hoạt động kinh tế khác, sức khỏe người dân, tại không ít địa

phương, nguồn thu từ khai thác khoáng sản lại không đáng kể. Chẳng hạn, tại tỉnh

Bình Định, thu ngân sách trên địa bàn tỉnh từ khai thác titan cũng ở mức khiêm tốn,

từ 1,11% năm 2007 lên 4,91% năm 2011 [19], song lại phải đánh đổi với rừng

phòng hộ ven biển và ảnh hưởng tới phát triển du lịch.

Thậm chí, tại một số địa phương, số thu từ khai thác khoáng sản chưa đủ kinh phí

để khắc phục các hậu quả môi trường do chính hoạt động này gây ra [73]. Việc thu

chưa đủ để bù đắp các chi phí về khắc phục hậu quả môi trường là do: i) thuế suất

đối với phí BVMT khai thác khoáng sản vẫn còn thấp; ii) cơ chế thu phí dựa vào

sản lượng do các doanh nghiệp khai báo nên không tránh khỏi việc thu không đúng

85

với sản lượng thực tế khai thác, tức là thất thu cho ngân sách nhà nước;...

3.2.2.2. Việc sử dụng nguồn thu từ khai thác khoáng sản cho công tác bảo vệ tài

nguyên và môi trường

Tài nguyên thiên nhiên nói chung và tài nguyên khoáng sản nói riêng là một dạng

tài sản. Để sử dụng lâu dài các tài nguyên này, ngoài việc sử dụng tiết kiệm, có hiệu

quả, đòi hỏi phải có sự tái đầu tư nhằm BVMT cho các thế hệ tương lai (tức là thực

hiện quy tắc Hartwick). Đối với khai thác khoáng sản thể hiện ở việc đầu tư để phục

hồi môi trường và/hoặc đầu tư trở lại cho tài nguyên thiên nhiên, chẳng hạn như trồng

cây xanh, góp phần làm giàu vốn tài nguyên.

Bảng 3.6: Tình hình thực hiện chi ngân sách cho sự nghiệp môi trường

Tổng chi sự nghiệp môi trường Tổng thu từ dầu thô, thuế tài nguyên Năm

3,42

100.095

23,22

tỷ đồng tỷ đồng Chi SNMT/ Thu từ dầu thô, thuế tài nguyên (%) So với tổng chi NS (%) So với tổng thu NS (%)

3,57

115.950

21,14

3.425 0,96 2007

6,56

80.230

12,75

4.143 1,03 2008

6,22

95.495

12,29

5.264 1,07 2009

5,05

148.328

15,40

5.943 1,02 2010

5,01

180.766

17,41

7.491 1,03 2011

7,14

136.889

16,78

9.050 1,00 2012

9.772 1,00 2013

9.980 0,99 2014

11.400 0,99 2015

Nguồn: Số liệu chi SNMT: Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2015) [4], Bộ Tài nguyên và Môi trường (2013b) [6]; Số liệu thu ngân sách từ Bảng 3.2.

Các số liệu ở Bảng 3.6 cho thấy mức chi cho sự nghiệp BVMT hàng năm cũng

mới chỉ 1% tổng chi ngân sách. Vốn đầu tư cho BVMT đã tăng, nhưng vẫn chưa đáp

ứng yêu cầu thực tế, mới chỉ đáp ứng được 50% nhu cầu đầu tư [47]. Do thiếu kinh

phí nên môi trường tiếp tục bị xuống cấp, ảnh hưởng đến sức khỏe của người dân.

So với tổng thu từ dầu thô, thuế tài nguyên; chi sự nghiệp môi trường (SNMT)

cũng mới chỉ chiếm khoảng 5% (khoảng 6 nghìn tỷ đồng), trong khi số thu từ phí

86

BVMT trong mấy năm gần đây là trên 2 nghìn tỷ đồng (năm 2012: 2.137 tỷ đồng;

năm 2013: 2.495 tỷ đồng; năm 2014: 2.571 tỷ đồng). Giả định rằng 1% chi ngân

sách cho SNMT được giành toàn bộ đối với các vấn đề về môi trường liên quan đến

khai thác khoáng sản, so với đóng góp của lĩnh vực này vào GDP và thu ngân sách,

thì con số này là quá thấp. Nói cách khác, thu từ khai thác khoáng sản lớn, nhưng tỷ

lệ đầu tư trở lại cho công tác BVMT rất thấp và chưa tương xứng. Việc đầu tư kinh

phí thấp dẫn đến không đủ ngân sách để giải quyết các vấn đề về môi trường và

càng để kéo dài có nguy cơ làm cho ô nhiễm môi trường trở nên trầm trọng hơn.

Theo các quy định hiện hành, phí BVMT đối với khai thác khoáng sản được để

lại 100% cho địa phương nhằm phục vụ BVMT, tuy nhiên, trên thực tế, các địa

phương lại chưa được hưởng đầy đủ khoản thu này. Nghiên cứu của Trung tâm Con

người và Thiên nhiên – PanNature (2015) [63] từ các khảo sát thực tiễn tại 30 xã có

khai thác mỏ cho thấy có không ít địa phương chỉ sử dụng một phần nguồn thu này

cho mục đích BVMT; thậm chí, có địa bàn nơi khai thác khoáng sản chưa được

hưởng nguồn thu từ phí BVMT để khắc phục suy thoái, ô nhiễm môi trường, trong

khi người dân sinh sống ngay cạnh khu vực khai thác vẫn chịu ảnh hưởng nặng nề

do ô nhiễm môi trường.

Thậm chí, ngay cả khi phí BVMT được sử dụng đúng mục đích thì cũng còn

không ít vấn đề cần quan tâm. Tại một số địa phương diễn ra tình trạng phân bổ phí

BVMT từ khai thác khoáng sản là bình quân, không dựa vào thứ tự ưu tiên và mức

độ thiệt hại về môi trường. Chẳng hạn, tại Thái Nguyên, theo quy định của UBND

tỉnh, phí BVMT từ khai thác khoáng sản để lại 100% cho huyện, song tại huyện

Đồng Hỷ đã điều tiết cho các xã theo tỷ lệ 80% phí BVMT phát sinh tại xã, nhưng

không được vượt quá 500 triệu [30], tức là xã ít bị ảnh hưởng cũng được hưởng như

xã bị ảnh hưởng nhiều.

Như vậy, việc đầu tư cho phục hồi môi trường và tái tạo tài nguyên thiên nhiên

chưa thỏa đáng so với khai thác từ tài nguyên và việc đầu tư theo cách kém hiệu

quả. Việc ít đầu tư và đầu tư kém hiệu quả cho công tác bảo vệ môi trường có nguy

87

cơ ảnh hưởng tới bền vững và tăng trưởng trong dài hạn.

3.2.3. Đánh giá vấn đề xã hội liên quan tới khai thác khoáng sản

3.2.3.1. Mâu thuẫn và xung đột xã hội ở một số nơi có hoạt động khai thác khoáng sản

Tại một số địa phương, hoạt động khai thác khoáng sản góp phần tích cực vào

phát triển kinh tế – xã hội, tăng thu ngân sách, góp phần giải quyết việc làm, tăng

thu nhập cho một bộ phận nhân dân. Hơn nữa, tại một số địa phương, hoạt động

khai thác khoáng sản cũng đã có tác động tích cực trong chuyển đổi cơ cấu kinh tế,

góp phần xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng và thúc đẩy đô thị hóa. Tuy nhiên, hoạt

động khai thác khoáng sản cũng đã làm nẩy sinh không ít vấn đề.

– Xung đột do thu hồi, đền bù đất đai phục vụ các dự án khai thác khoáng sản:

Các tranh chấp, khiếu kiện về đất đai đang là vấn đề nổi cộm hiện nay và đất đai

cho các dự án khai thác khoáng sản không phải là ngoại lệ khi mà mức giá đền bù

chưa thỏa đáng so với giá cả thị trường. Chẳng hạn, giá đất nông lâm nghiệp ở Lào

Cai trong giai đoạn 2005 – 2011 đều thấp hơn giá của 1 kg gạo tẻ thường trên thị

trường tại cùng thời điểm [64]. Nhìn chung, việc đền bù đất thường được trả bằng

tiền, rất ít khi được trả bằng đất; trong khi đó, lao động địa phương làm việc trong

các doanh nghiệp khai thác khoáng sản lại không đáng kể. Do đó, các hộ có đất sản

xuất nông nghiệp bị thu hồi chịu thiệt thòi, gây nhiều khó khăn cho người dân về

vấn đề sinh kế và có nguy cơ gây ra các xung xã hội.

– Xung đột do ô nhiễm môi trường: Khai thác khoáng sản gây ra ô nhiễm môi

trường, ảnh hưởng tới sinh kế của người dân nên không ít nơi đã xẩy ra xung đột

giữa người dân nơi khai thác mỏ với doanh nghiệp khai khoáng. Đơn cử, tại tỉnh

Bình Định, việc khai thác titan làm cho các cây phi lao bị chặt phá đã ảnh hưởng tới

che chắn cát bay gây bồi lấp đất sản xuất nông nghiệp cũng như ảnh hưởng tới khả

năng chống đỡ với sóng biển; khai thác titan làm sụt giảm mực nước ngầm hay

nhiễm mặn, và quá trình vận chuyển quặng tạo ra bụi bẩn; các điểm khai thác xong

nhưng không hoàn thổ dẫn đến hố sâu gây chết người (đã xảy ra năm 2013).

Trước những tác động bất lợi của hoạt động khai thác titan, người dân địa

phương rất bức xúc và đã phản ứng rất mạnh bằng cách cắm cờ tại các điểm mỏ

để không cho khai thác và chặn các xe tải vận chuyển quặng; thậm chí là khiếu

88

kiện giữa người dân với các doanh nghiệp [68]. Những trường hợp như tại Bình

Định có lẽ không phải là duy nhất, khi mà trên các phương tiện truyền thông đã

đề cập khá nhiều về vấn đề này.

– Tranh chấp tài nguyên: Sự tranh chấp dễ nhận thấy nhất trong khai thác

khoáng sản đó là mỏ nhẻ lẻ, phân tán hay các loại khoáng sản chưa khai thác. Các

nhóm dân cư tại những điểm mỏ như vậy tranh giành nhau để khai thác với việc đào

bới, khai thác triệt để gây ra những hệ lụy xấu đối với môi trường [56].

3.2.3.2. Phân chia lợi ích trong khai thác khoáng sản

Hoạt động khai thác khoáng sản có nhiều chủ thể có liên quan (stakehoders), tuy

nhiên, các chủ thể thường được đề cập là: nhà nước, doanh nghiệp và người lao

động, cộng đồng địa phương nơi khai thác.

Đối với doanh nghiệp là lợi nhuận sau thuế từ kết quả sản xuất kinh doanh. Đối

với nhà nước là các khoản thu theo quy định từ khai thác khoáng sản, tức là các

nghĩa vụ tài chính với nhà nước mà doanh nghiệp phải thực hiện. Đối với cộng

đồng: lợi ích mà họ có thể được hưởng là số lượng lao động địa phương làm việc

cho các công ty khai thác và/hoặc một số khoản đóng góp phúc lợi cộng đồng do

doanh nghiệp đóng góp (mang tính chất tự nguyện).

– Về phân chia giữa doanh nghiệp và nhà nước, lợi ích có xu hướng nghiêng về

doanh nghiệp khai khoáng. Các số liệu từ Bảng 6 – Phụ lục cho thấy tỷ lệ nộp ngân

sách so với doanh thu cũng chỉ khoảng 5,6%.

– Lợi ích mà doanh nghiệp chia sẻ với người lao động thể hiện qua việc chi trả

tiền lương, tiền công và thực hiện đầy đủ các quy định của pháp luật về các nghĩa

vụ bắt buộc đối với người lao động (Bảo hiểm xã hội, Bảo hiểm y tế). Phân tích các

kết quả cho thấy lợi ích từ khai thác khoáng sản chủ yếu nghiêng về các doanh

nghiệp khi tỷ lệ người lao động có mức thu nhập dưới mức lương tối thiểu ngày

89

càng tăng so với tốc độ khai thác khoáng sản (Hình 3.5).

Hình 3.5: Tốc độ tăng trưởng khai thác và tốc độ tăng tiền lương ở các

doanh nghiệp khai khoáng

Nguồn: Tính toán của tác giả từ: 1) Số liệu khai thác than (SERI [173]); 2) Tiền

lương trong kết quả điều tra doanh nghiệp (Tổng cục Thống kê).

– Về phân chia lợi ích giữa doanh nghiệp – nhà nước – người lao động, nghiên

cứu từ khảo sát thực tiễn về khai thác titan tại Bình Định và quặng sắt ở Thái

Nguyên đã chỉ ra lợi ích chủ yếu thuộc về doanh nghiệp. Hình 1 – Phụ lục cho thấy,

người lao động tại hai công ty đã phần nào được hưởng lợi ích từ hoạt động khai

thác khoáng sản. Song, số lao động tham gia làm việc tại các công ty không phải

nhiều, hay nói cách khác chỉ một bộ phận ít lao động trong cộng đồng được hưởng

lợi từ việc khai thác khoáng sản. Trong khi đó, người dân địa phương tại những nơi

có hoạt động khai thác khoáng sản lại phải chịu nhiều ảnh hưởng tiêu cực.

– Tác giả luận án khảo sát thực tiễn tại các tỉnh Bình Định, Thái Nguyên, Lâm

Đồng và phát hiện rằng các doanh nghiệp khai khoáng dù ít hay nhiều cũng đã có

những khoản đóng góp phúc lợi cho người dân địa phương. Chẳng hạn, trên địa bàn

xã Mỹ Thành (huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định) có tới 13 trong số 15 công ty đang

khai thác titan đã có các khoản hỗ trợ cho người dân trong xã để xây dựng các công

trình công cộng. Tuy nhiên, khoản đóng góp của các công ty tại các tỉnh đã khảo sát

là chưa thường xuyên và số lượng đóng góp vẫn còn ít.

90

– Về sự phân chia giữa nhà nước với cộng đồng thể hiện qua việc sử dụng

nguồn thu từ khai thác khoáng sản để đầu tư cho công tác BVMT, khắc phục các

tác động tiêu cực (hư hỏng đường xá, ảnh hưởng tới sản xuất,...) cho người dân

địa phương. Trong phần trên (Bảng 3.6) đã chỉ ra mức đầu tư cho công tác

BVMT còn thấp và chưa thỏa đáng (nhất là từ phí BVMT) đối với những nơi có

hoạt động khai thác khoáng sản.

Các kết quả phân tích trên đây cho thấy lợi ích lợi ích từ khai thác khoáng sản

chủ yếu nghiêng về các doanh nghiệp khai khoáng. Việc phân chia lợi ích thiếu hợp

lý đặt ra một số vấn đề sau:

– Ngành công nghiệp khai khoáng tạo ra giá trị gia tăng không lớn, song doanh

nghiệp được hưởng lợi ích nhiều hơn và hệ quả là vốn đầu từ chảy vào ngành này

ngày càng lớn. Năm 2013, tổng đầu tư của ngành công nghiệp khai khoáng (theo

giá thực tế) đạt khoảng 73.649 tỷ đồng, chiếm 6,7% tổng vốn đầu tư (tỷ lệ này năm

2000 khoảng 2,6%). Trong giai đoạn 2001 – 2013, ngành công nghiệp khai khoáng

có tốc độ tăng vốn đầu tư đạt khoảng 13,43%/năm và cao hơn so với tốc độ tăng

vốn đầu tư của cả nền kinh tế (10,8%/năm), tức là vốn đầu tư vào ngành này có xu

hướng tăng lên. Điều này không tránh khỏi quan ngại về nguy cơ hút nguồn lực từ

các ngành công nghiệp khác để tập trung vào khai thác khoáng sản và đây là thách thức

đối với quá trình công nghiệp hóa, phát triển các ngành thân thiện với môi trường.

– Các doanh nghiệp được hưởng lợi lớn, trong khi người lao động và người dân

được hưởng không đáng kể sẽ không tránh khỏi các xung đột xã hội giữa người dân

và doanh nghiệp ở những nơi có hoạt động khai thác khoáng sản. Do lợi ích lớn, các

doanh nghiệp chạy đua với nhau để có được giấy phép khai thác, thậm chí, có

doanh nghiệp chỉ xin giấy phép khai thác nhằm bán để kiếm lời.6

– Việc phân chia lợi ích thiếu hợp lý có nguy cơ dẫn đến các doanh nghiệp có

động cơ chỉ đẩy mạnh ở công đoạn khai thác và không có động cơ đầu tư đổi mới

công nghệ và đầu tư vào công đoạn chế biến sâu sản phẩm khoáng sản.

6 Chẳng hạn, năm 2010, cả nước có đến 5.000 giấy phép khai khoáng được cấp cho hơn 2.000 doanh nghiệp, thế nhưng rất nhiều doanh nghiệp sau khi có giấy phép khai khoáng đã tìm cách bán lại cho đối tác khác [http://www.baodatviet.vn/kinh-te/doanh-nghiep/nguoi-trung-quoc-dung-sau-dieu-hanh-dao-khoang-san- viet-nam-2364775/].

91

– Lợi ích từ khai thác khoáng sản nghiêng về doanh nghiệp có nguy cơ hình

thành nên nhóm lợi ích và gây ra “méo mó” trong việc ra các quyết định chính sách

và cản trở cải cách chính sách.7

3.2.4. Ước tính chỉ số phát triển bền vững ngành công nghiệp khai khoáng

Phát triển bền vững, tăng trưởng xanh đã được đề cập nhiều trong các chủ

trương, chính sách của Nhà nước và các nghiên cứu. Các chỉ tiêu trong các trụ cột

của PTBV đã được thống kê và tính toán riêng rẽ. Mặc dù vậy, hiện nay vẫn thiếu

các chỉ số thể hiện tổng hợp các khía cạnh của PTBV. Phần này tính toán chỉ số

phát triển bền vững ngành công nghiệp khai khoáng Việt Nam nhằm xem xét xu

hướng phát triển của ngành này.

3.2.4.1. Chỉ tiêu sử dụng để tính toán chỉ số phát triển bền vững ngành công nghiệp

khai khoáng

Trong các chương 1 và 2 đã giới thiệu tổng quan về các phương pháp tính toán

chỉ số SDI và để tính toán nó cần có các chỉ tiêu cho các khía cạnh phát triển bền

vững. Có nhiều cách hiểu khác nhau về PTBV, TTX và đi cùng với đó là có nhiều

chỉ tiêu, Bảng 1– Phụ lục cung cấp các chỉ tiêu tham khảo. Bên cạnh đó, trong phân

tích, một số chỉ tiêu sau đây mang tính đặc thù của khai thác khoáng sản: tỷ lệ tổn

thất tài nguyên khoáng sản, khối lượng đất đá thải và các chất thải đối với mỗi đơn

vị khoáng sản,...; sử dụng, tái chế các chất thải và sử dụng các năng lượng tái tạo

trong khai thác, chế biến khoáng sản (thể hiện sự thay thế cho các loại nhiên liệu

hóa thạch);...

Theo Chương trình nghị sự 21 (Agenda 21) của Liên hợp quốc [153], chỉ tiêu

được lựa chọn để phân tích PTBV phải đáp ứng các tiêu chí: chỉ tiêu có khả năng đo

lường nhằm đánh giá hiện trạng; có nguồn số liệu và đảm bảo độ tin cậy; số liệu cập

nhật; đại diện được ba khía cạnh PTBV (kinh tế, xã hội, môi trường).

Hiện nay, ở nước ta, các chỉ tiêu về môi trường trong PTBV nói chung và khai

thác khoáng sản nói riêng vẫn chưa được thống kê chi tiết, đầy đủ. Do vậy, chưa thể

7 Sáng kiến EITI được xem là công cụ hữu ích nhằm thúc đẩy minh bạch ngành khai khoáng. Sáng kiến này được giới thiệu với Việt Nam từ năm 2008 và cũng được nhiều chuyên gia trong ngành ủng hộ, song đến nay vẫn chưa có cam kết thực thi bởi liên quan tới lợi ích của nhiều bên có liên quan.

92

có điều kiện thu thập số liệu để đánh giá về các chỉ tiêu này.

Với những lý do trên đây, nghiên cứu này đã sử dụng các chỉ tiêu sau đây để tính

toán chỉ số SDI ngành công nghiệp khai khoáng Việt Nam:

– Kinh tế: thể hiện ở đóng góp của khai thác khoáng sản vào GDP. Chỉ tiêu này

có ý nghĩa trong việc phản ánh hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp

trong ngành, chế biến sâu khoáng sản nhằm nâng cao giá trị gia tăng, năng suất tài

nguyên từ việc khai thác khoáng sản.

– Tài nguyên và môi trường: đại diện bằng khối lượng khai thác các loại khoáng

sản (thể hiện các tác động tiêu cực tới môi trường và/hoặc các tài nguyên khác).

– Xã hội: đo lường bằng tỷ lệ lao động có thu nhập dưới mức tiền lương cơ bản.

Đây là chỉ tiêu thể hiện nghèo đói (dưới mức lương tối thiểu) và bất bình đẳng về

thu nhập (chia sẻ lợi ích giữa doanh nghiệp và người lao động).

Chỉ số SDI là chỉ số lần đầu tiên được tính toán cho ngành công nghiệp khai

khoáng Việt Nam, thậm chí, tương đối mới trong việc tính toán chỉ số tổng hợp

trong các nghiên cứu phát triển bền vững ở Việt Nam (tổng hợp cả 3 yếu tố: kinh tế,

xã hội, môi trường).

Các tính toán SDI trong nghiên cứu này khó có thể đưa ra con số chính xác đối

với ngành công nghiệp khai khoáng, song nó được sử dụng để đánh giá liệu ngành

này đã theo hướng phát triển bền vững.

3.2.4.2. Nguồn số liệu và kết quả tính toán

a) Nguồn số liệu

– Đóng góp của khai thác khoáng sản vào GDP: số liệu thống kê về chỉ số phát

triển thế giới (World development Indicators) của Ngân hàng Thế giới [174].

– Khối lượng khai thác các loại khoáng sản: số liệu và quy đổi về khối lượng

khai thác được thống kê bởi Viện Nghiên cứu phát triển bền vững Châu Âu [173].

– Tỷ lệ lao động có thu nhập dưới mức tiền lương cơ bản: tính toán theo mức tiền

lương cơ bản theo vùng của từng năm và số liệu điều tra doanh nghiệp các năm

2000 – 2013 của Tổng cục Thống kê.

b) Kết quả tính toán

Trong phạm vi các chỉ tiêu và phương pháp tính theo nghiên cứu này cho thấy

93

chỉ số SDI có sự tăng, giảm giữa các năm, song thể hiện xu hướng tăng lên (Hình

3.6). Điều này đưa ra đánh giá ban đầu rằng ngành công nghiệp khai khoáng đang

theo hướng phát triển bền vững. Tuy nhiên, để có những đánh giá chính xác hơn về

xu hướng và mức độ bền vững của ngành này cần có thêm các chỉ tiêu và công cụ

hiện đại hơn phục vụ cho việc tính toán, đây cũng chính là nội dung cần được tiếp

tục nghiên cứu trong thời gian tới.

Chỉ SDI như Hình 3.6 phản ánh phù hợp với nhận định được đưa ra khi phân tích

về diễn tiến cải cách chính sách về khoáng sản đã và đang từng bước hoàn thiện

theo hướng tiếp cận với các mục tiêu của phát triển bền vững, tăng trưởng xanh.

Đồng thời, xu hướng tăng của SDI là khá nhất quán với xu hướng giảm phát thải

CO2 trên mỗi đơn vị khai thác, sử dụng than (Hình 3.4).

Trong các chỉ số thành phần, có một số năm có sự tăng/giảm đột ngột là ở công

thức tính toán: chỉ số I – kinh tế có năm 2008 tăng đột ngột gắn X(i) – max và chỉ

số I – xã hội có năm 2009 giảm đột ngột gắn với X(i) – min. Đối với chỉ số I – môi

trường, X(i) – max là ở năm 2011.

Hình 3.6: Các chỉ số thành phần và chỉ số SDI ngành công nghiệp khai khoáng

Nguồn: Tính toán của tác giả.

Dù đã từng bước cải thiện, tuy nhiên, từ chỉ số SDI cho thấy những vấn đề sau

cần tiếp tục cải thiện hơn nữa để tiến tới gần hơn các mục tiêu của phát triển bền

94

vững, tăng trưởng xanh:

– Chỉ số thành phần về kinh tế có xu hướng tăng lên cùng SDI, song sự gia tăng

vẫn thiếu ổn định và chủ yếu là do gia tăng khối lượng khai thác. Trong chỉ số thành

phần này, hiệu quả vốn đầu tư và giá trị gia tăng còn thấp, năng suất tài nguyên

chuyển biến chậm.

– Về khía cạnh xã hội, tốc độ tăng trưởng khai thác cao hơn tốc độ tăng trưởng

thu nhập của người lao động. Từ 2000 – 2011, khối lượng khai thác tăng tới 2,17

lần, song tiền lương của người lao động ngành khai khoáng chỉ tăng 1,51 lần (Hình

3.5). Điều này hàm ý rằng phân chia lợi ích giữa doanh nghiệp khai khoáng với

người lao động vẫn chưa hợp lý và có nguy cơ tạo ra sự bất bình đẳng về thu nhập

trong xã hội. Tiền lương của người lao động không chỉ có ý nghĩa trong việc đảm

bảo nhu cầu vật chất để duy trì, tái tạo sức lao động mà còn là một phần để đầu tư

cho giáo dục, y tế của chính bản thân người lao động và/hoặc các thành viên khác

trong gia đình của họ. Việc khai thác khoáng sản song vẫn còn một bộ phận người

lao động trong lĩnh vực này với thu nhập dưới mức lương tối thiểu có nguy cơ dẫn

đến đói nghèo và bền vững về xã hội.

3.3. Những vấn đề đặt ra đối với khai thác khoáng sản trong việc thực hiện

chiến lược tăng trưởng xanh

3.3.1. Các nguy cơ của khai thác khoáng sản đối với thực hiện chiến lược tăng

trưởng xanh

Với việc gia tăng khai thác khoáng sản và phương thức khai thác như trong thời

gian qua: gia tăng sản lượng vì mục tiêu kinh tế bằng cách khai thác tận thu, tận

khai; khai thác bừa bãi, manh mún; công nghệ khai thác, chế biến thô sơ cộng với

nguồn nhân lực chất lượng thấp;… những vấn đề này đặt ra các nguy cơ đối với

việc thực hiện “xanh hóa” khai thác khoáng sản và ảnh hưởng tới các mục tiêu của

chiến lược tăng trưởng xanh.

3.3.1.1. Thách thức đối với việc “xanh hóa” khai thác khoáng sản

Nhìn chung, hoạt động khai thác khoáng sản chủ yếu diễn ra ở các tỉnh miền núi,

trong tổng số 4.173 giấy phép khai thác ở khắp cả nước, Bắc Trung Bộ và Duyên

hải miền Trung có tới 1320 giấy phép (chiếm 31,63%), tiếp đến là Trung du và

95

miền núi phía Bắc với 1272 giấy phép (chiếm 30,48%) (Bảng 10 – Phụ lục). Việc

khai thác khoáng sản ở những nơi có địa hình khó khăn, phức tạp sẽ ảnh hưởng tới

việc ứng dụng công nghệ khai thác tiến tiến, máy móc thiết bị hiện đại.

Tình trạng chia cắt thành nhiều khoảnh nhỏ để cấp phép hoạt động khoáng sản,

gây tổn thất tài nguyên, ô nhiễm môi trường. Việc cấp phép với kiểu khai thác manh

mún, thời hạn ngắn gây khó khăn cho việc đầu tư và áp dụng các công nghệ khai

thác tiên tiến, chế biến sâu khoáng sản và giảm thiểu ô nhiễm môi trường. Hơn nữa,

tình trạng này tạo ra các rào cản để có thể lựa chọn được các doanh nghiệp có năng

lực để cấp phép, đảm bảo việc khai thác, chế biến theo quy mô công nghiệp và gây

khó kiểm soát và kém hiệu quả.

Một số địa phương đang tư duy quản lý theo địa giới hành chính, tư duy cục bộ,

chia cắt thị trường và thiếu hợp tác để sử dụng có hiệu quả tài nguyên thiên nhiên,

hướng tới phát triển bền vững. Chẳng hạn, tỉnh Bình Định đã ban hành Công văn

số 863/UBND–KTN về việc nghiêm cấm việc mua bán, vận chuyển quặng titan thô

ra ngoài tỉnh. Thực trạng này có lẽ không chỉ đối với tỉnh Bình Định bởi tình hình

đến mức Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo UBND các tỉnh phải rà soát và bãi bỏ

ngay các quy định về việc cấm, tạm cấm vận chuyển khoáng sản ra khỏi địa

phương.8 Với tư duy cục bộ – chia cắt thị trường, theo địa giới hành chính (chẳng

hạn như cấm xuất khẩu khoáng sản thô ra khỏi địa bàn tỉnh) có khả năng dẫn đến

cản trở việc chế biến sâu khoáng sản do không chuyển được đến những nơi đủ

năng lực để chế biến.

3.3.1.2. Các nguy cơ của khai thác khoáng sản đối với việc đạt các mục tiêu của

chiến lược tăng trưởng xanh

Các nguy cơ ảnh hưởng tới môi trường, sinh thái do chuyển đổi các loại đất rừng

để phục vụ cho khai thác khoáng sản. Trong các năm 2008 đến tháng 6/2011, toàn

quốc đã chuyển mục đích sử dụng rừng và đất lâm nghiệp sang để khai thác khoáng

sản khoảng 11.312 ha (năm 2008: 1.411 ha; năm 2009: 1.970 ha; năm 2010: 6.152

ha; 6 tháng đầu năm 2011: 1.779 ha) [9]. Chẳng hạn, tại tỉnh Bình Định, việc khai

8 Công văn số 10369/VPCP-KTN ngày 18/12/2012 của Văn phòng Chính phủ thông báo ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ.

96

thác titan ảnh hưởng khá lớn đến diện tích rừng, trong đó chủ yếu là rừng phòng hộ

ven biển. Diện tích đã được cấp phép khai thác titan là 1.654ha; trong đó, diện tích

rừng phòng hộ ven biển là 401,35 ha (chiếm 34%) và diện tích vùng trống, cây kém

phát triển là 777,20 ha (chiếm 66%). Tuy nhiên, số thu ngân sách của tỉnh Bình

Định từ khai thác titan cũng ở mức khiêm tốn, từ 1,11% năm 2007 lên 4,91% năm

2011 [19]. Việc thu hẹp diện tích rừng phòng hộ ven biển do khai thác titan ảnh

hưởng tới khả năng chắn cát bay, ngăn sóng biển gây ra nguy cơ sạt lở dọc theo bờ

biển [59], [68].

Các số liệu từ Hình 3.7 phản ánh mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế; khai

thác, sử dụng khoáng sản và tổng lượng phát thải CO2 tại Việt Nam trong vòng

khoảng 30 năm qua; trong đó tổng mức phát thải CO2 ngày càng lớn và có xu

hướng cao hơn so với tốc độ tăng trưởng kinh tế. Mối quan hệ này có khả năng là

do cường độ phát thải (ngàn tấn CO2/tỷ đồng giá trị sản lượng) của khai thác

khoáng sản, nhất là các loại nhiên liệu hóa thạch, cao nhất trong các ngành kinh tế

(Bảng 12 – Phụ lục). Chính vì vậy, đẩy mạnh khai thác khoáng sản để phục vụ các

mục tiêu tăng trưởng kinh tế gia tăng mức khối lượng phát thải CO2 và có nguy cơ

ảnh hưởng tới việc đạt mục tiêu của chiến lược tăng trưởng xanh.

Hình 3.7: Xu hướng về tăng trưởng kinh tế, khai thác khoáng sản và phát

thải CO2 tại Việt Nam

Nguồn: 1) Số liệu về khối lượng khai thác: SERI [173]; 2) Số liệu về tăng

97

trưởng kinh tế và phát thải CO2: WB [174].

3.3.1.3. Các nguy cơ của khai thác khoáng sản đối với việc thực hiện tăng trưởng

xanh, tăng trưởng kinh tế bền vững trong dài hạn

Việc năng suất tài nguyên tăng chậm, nói cách khác là cần khai thác với khối

lượng lớn hơn, hoặc việc đẩy mạnh khai thác khoáng sản sẽ ảnh hưởng như thế

nào đến tăng trưởng kinh tế bền vững trong dài hạn?

Trên cơ sở tổng quan các nghiên cứu về vốn tài nguyên, tài nguyên khoáng sản

trong tăng trưởng kinh tế; luận án bổ sung vốn tài nguyên (natural capital) cùng với

vốn vật chất, vốn con người và áp dụng hàm sản xuất Cobb–Douglass nhằm ước

lượng về đóng góp của khai thác khoáng sản vào tăng trưởng kinh tế.

Hàm sản xuất dạng Cobb–Douglass: Y= AKαLβMγ (1)

Mô hình ước lượng: lnY = lnA + αlnK + βlnL + γlnM (2)

Trong đó: Y: GDP; K: tích lũy tài sản; L: lao động; M: vốn tài nguyên

Bảng 11 – Phụ lục trình bày chi tiết về cách đo lường các biến, nguồn số liệu và

các kiểm định về tính dừng của chuỗi số liệu, tính phù hợp của dạng hàm,... Các kết

quả kiểm định cho thấy kết quả ước lượng đảm bảo có ý nghĩa thống kê.

Kết quả ước lượng mô hình (2) cho chuỗi số liệu của giai đoạn 1990 – 2013:

lnY = lnA + 0,027365 * lnK + 0,113421 * lnL + 0,051464 * lnM

p–value (0,0043) (0,0311) (0,0713)

Hệ số γ = 0,051464 thể hiện khai thác khoáng sản có đóng góp tích cực vào phát

triển kinh tế của Việt Nam. Kết quả này khá phù hợp với thực tế Việt Nam khi xuất

phát điểm là nước nghèo cần huy động nguồn lực ban đầu để thực hiện công nghiệp

hóa, hiện đại hóa đất nước. Trong phần tổng quan nghiên cứu ở chương 1 đã chỉ ra

các nghiên cứu đưa ra các kết luận trái ngược nhau về khai thác khoáng sản và tăng

trưởng kinh tế, hiện tượng “lời nguyền tài nguyên”. Trên thực tế, không phải tất cả

các nước có nền kinh tế dựa vào khai thác tài nguyên đều mắc bẫy lời nguyền tài

nguyên. Một số nước như Úc, Canada, Chile, Botswana và Kazakhstan,... dù là nền

kinh tế khoáng sản, nhưng đã tìm cách tránh được hoàn toàn và điều này là bởi có

hệ thống thể chế chất lượng, có tính minh bạch và trách nhiệm giải trình cao. Tuy

nhiên, không ít quốc gia dù đã tránh được lời nguyên tài nguyên, chẳng hạn như

98

Botswana, song dựa vào khai thác khoáng sản vẫn đặt ra nhiều thách thức trong

việc đa dạng hóa nền kinh tế và chuyển lên phát triển các ngành có giá trị gia tăng

cao, ngành công nghệ cao [123].

Từ kết quả ước lượng, luận án tính toán tốc độ tăng trưởng TFP cho giai đoạn

1990 – 2013. Phân tích về mối quan hệ giữa tốc độ tăng trưởng khai thác khoáng

sản và tốc độ tăng trưởng TFP cho thấy có mối quan hệ ngược chiều (Hình 3.8).

Điều này có nghĩa rằng khi giảm việc khai thác khoáng sản thì có khả năng tăng tốc

độ tăng trưởng TFP; trong khi đó, xét tốc độ tăng trưởng vốn và lao động có quan

hệ cùng chiều với tăng trưởng TFP. Phát hiện này khá nhất quán với các kết quả từ

nghiên cứu của Baptist và Hepburn (2012) [85] khi nghiên cứu đối với ngành công

nghiệp chế biến của Mỹ và các doanh nghiệp công nghiệp của Hàn Quốc. Mặc dù

vậy, để có được kết luận đầy đủ hơn về mối quan hệ giữa tốc độ tăng trưởng khai

thác khoáng sản và tăng trưởng TFP cần có các nghiên cứu tiếp theo sử dụng các

mô hình định lượng nhằm kiểm định mối quan hệ này.

Hình 3.8: Quan hệ giữa tốc độ tăng trưởng khai thác và tăng trưởng TFP

Nguồn: Tính toán của tác giả từ kết quả hồi quy.

Năng suất nhân tố tổng hợp (TFP) là tổng hợp của công nghệ, thể chế, chất lượng

và hiệu quả của quản trị,... Mối quan hệ ngược chiều giữa tăng trưởng khai thác

khoáng sản và tăng trưởng TFP được giải thích như sau: Thứ nhất, ở cấp độ quốc tế,

các nghiên cứu Auty (2001) [83], Wick và Bulte (2006) [166] cho thấy việc khai

99

khoáng sản có thể dẫn đến những hành vi tìm kiếm đặc lợi, tham nhũng tài

nguyên. Đối với Việt Nam, những yếu kém về thể chế, quản trị đối với khai thác

khoáng sản và việc khai thác khoáng sản gây ra các “nhóm lợi ích” làm “méo

mó” chính sách cũng có thể tạo ra mối quan hệ ngược chiều này. Thứ hai, việc

khai thác với sản lượng lớn gây ra cách tư duy, thái độ cho rằng khoáng sản Việt

Nam phong phú, dư thừa nên có thể dẫn đến sử dụng lãng phí, kém hiệu quả. Thứ ba,

nghiên cứu của Gylfason (2001) [113] từ các quốc gia đã chỉ ra rằng việc khai thác

tài nguyên có thể dẫn tới đầu tư ít hơn vào phát triển vốn con người. Việc đẩy mạnh

khai thác có thể giảm đầu tư cho giáo dục và đầu tư máy móc kỹ thuật nên chậm cải

tiến về công nghệ. Thứ tư, việc đẩy mạnh khai thác tài nguyên có nguy cơ dẫn tới

ít có động cơ để đổi mới và nâng cấp công nghệ, chèn lấn sự phát triển của các

ngành có năng suất cao.

Tăng trưởng TFP là nguồn gốc tăng trưởng trong dài hạn, với mối quan hệ ngược

chiều giữa tăng trưởng khai thác khoáng sản và tăng trưởng TFP, các hàm ý chính

sách rút ra là để thúc đẩy tăng trưởng xanh (tăng trưởng bền vững trong dài hạn)

cần chuyển gánh nặng thuế từ lao động và vốn (theo thu nhập, lợi nhuận) sang đối

với việc khai thác và sử dụng tài nguyên khoáng sản.

So với các ngành kinh tế khác, tăng trưởng dựa vào khai thác khoáng sản là

phương thức tăng trưởng tốn kém (Hình 2 và Hình 3 – Phụ lục) và gây ô nhiễm môi

trường, phát thải CO2 (Bảng 12 – Phụ lục). Vấn đề đặt ra là trong trường hợp giảm

quy mô đối với khai thác khoáng sản có ảnh hưởng tới các mục tiêu kinh tế – xã

hội? Các số liệu từ Bảng 12 – Phụ lục cho thấy khai thác khoáng sản nói chung và

khai thác than nói riêng, không phải là những ngành có cường độ việc làm và tỷ

trọng việc làm lớn, tương tự đối với chỉ tiêu về xuất khẩu. Điều này hàm ý rằng việc

thu hẹp quy mô khai thác khoáng sản không ảnh hưởng nhiều tới chỉ tiêu việc làm,

100

xuất khẩu trong nền kinh tế.

3.3.2. Thực hiện tăng trưởng xanh đối với khai thác khoáng sản và đóng góp của

nó đối với chiến lược tăng trưởng xanh

3.3.2.1. Thực hiện tăng trưởng xanh đối với khai thác khoáng sản mang lại những

cơ hội kinh tế mới, tạo thêm việc làm

Các chính sách tăng trưởng xanh có thể tác động đến tăng trưởng kinh tế thông

qua các kênh: tác động tới gia tăng và/hoặc thay đổi đầu vào sản xuất, tác động hiệu

quả, tác động kích thích, thúc đẩy phát triển và đổi mới công nghệ [23]. Theo đó,

khi thực hiện các chính sách tăng trưởng xanh đối với các hoạt động khai thác

khoáng sản (chẳng hạn như đặt tiêu chuẩn cao hơn về môi trường, tính thuế theo

mức độ và xử phạt nặng đối với ô nhiễm môi trường,...) có khả năng đóng góp vào

những thay đổi hành vi, phương thức sản xuất của các doanh nghiệp khai khoáng.

Với các yêu cầu cao hơn về môi trường có thể dẫn đến các doanh nghiệp khai

khoáng sử dụng các đầu vào thân thiện với môi trường hoặc áp dụng các kỹ thuật để

giảm thải ra môi trường, hạn chế gây ô nhiễm môi trường. Với các ràng buộc chặt

chẽ về môi trường cũng tạo điều kiện cho một số ngành hỗ trợ, phụ trợ phát triển

theo như ngành dịch vụ môi trường. Chẳng hạn, sau khi có Quyết định 71/2008 của

Thủ tướng Chính phủ về ký quỹ phục hồi môi trường, tức là ràng buộc về hoàn thổ

và trồng cây trả lại hiện trạng; Công ty Khoáng sản Bình Định (Bimico) với các mỏ

khai thác titan tại xã Mỹ Thành (huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định) sau khi khai thác

xong đã thuê Ban quản lý rừng phòng hộ của tỉnh trong việc trồng và chăm sóc cây

phi lao theo cam kết trong việc hoàn thổ, trồng và chăm sóc cây phục hồi môi

trường.9 Nhằm đảm bảo các quy định và hạn chế ô nhiễm môi trường, dự án khai

thác bôxit Nhân Cơ (tỉnh Đắk Nông), mặc dù đang trong quá trình xây dựng và vận

hành thử nghiệm, cũng đang thuê tới 30 lao động địa phương làm dịch vụ vệ sinh

9 Khảo sát của tác giả tại Bình Định, tháng10/2012. 10 Khảo sát của tác giả tại Dự án bô xit Nhân Cơ (Đắk Nông), tháng 4/2015.

101

môi trường.10

3.3.2.2. Các can thiệp chính sách đối với khai thác khoáng sản tạo cơ hội cho các

ngành tiêu thụ ít năng lượng, ít phát thải có điều kiện phát triển

Do khoáng sản là đầu vào sản xuất, những tác động tới sản lượng và/hoặc giá cả

là những kênh để can thiệp để thay đổi hành vi tiêu dùng theo hướng tiết kiệm, sử

dụng các đầu vào khác để thay thế sản phẩm khoáng sản. Nghiên cứu của Nguyễn

Minh Bảo và John Sawdon (2011) [3] cho thấy các loại nhiên liệu hóa thạch có độ

co giãn cầu theo giá khá cao: đối với than là –0,2 đến –0,5; đối với xăng dầu từ –

0,15 đến –0,27; đối với gas là –0,1 đến –0,36. Nghiên cứu của Ekins (2009) [105],

bằng cách tiếp cận vi mô, cho thấy tăng thuế môi trường ở Anh và Đức đã góp phần

cải thiện sử dụng tiết kiệm, hiệu quả tài nguyên và phát thải khí CO2 thông qua

việc: tiết kiệm các vật liệu trong quá trình xây dựng các ngôi nhà (ví dụ tại Đức

thuế đối với vật liệu xây dựng đã giảm tiêu dùng đối với khoáng sản kim loại

khoảng 15,5% và giảm việc khai thác tới 9,7% so với trước đây), sử dụng hiệu quả

nhiên liệu đối với xe hơi.

Những tác động tới sản lượng đối với khoáng sản như giảm quy mô sản xuất (cắt

giảm tuyệt đối hoặc giữ nguyên mức cung trong khi nhu cầu sử dụng tăng lên), điều

chỉnh qua giá thông qua việc áp các loại thuế (thuế tài nguyên, thuế ô nhiễm môi

trường) có thể thay đổi hành vi của các doanh nghiệp sử dụng các đầu vào thay thế

sản phẩm khoáng sản, chuyển dịch sang những ngành phát thải CO2 ít hơn.

Tóm lại, từ sự phân tích trên đây cho thấy trong thời gian tới cần thay đổi cách tổ

chức, phương thức khai thác khoáng sản nhằm phù hợp và đáp ứng chiến lược tăng

trưởng xanh ở Việt Nam. Thực hiện tăng trưởng xanh đối với khai thác khoáng sản

là tạo sức ép để xanh hóa và điều kiện cho các ngành công nghiệp “xanh” phát triển.

3.4. Đánh giá chung về khai thác khoáng sản trong chiến lược tăng trưởng xanh

3.4.1. Các kết quả đạt được

3.4.1.1. Các chính sách về khai thác khoáng sản từng bước hoàn thiện theo hướng

phát triển bền vững, tăng trưởng xanh

Việc khai thác khoáng sản từng bước điều chỉnh theo hướng chuyền dần từ quan

điểm khai thác (khai thác vốn từ tài nguyên thiên nhiên) phục vụ phát triển kinh tế

102

trước mắt sang quan điểm khai thác vì mục tiêu lâu dài, BVMT và đảm bảo hài hòa

lợi ích xã hội. Điều này được thể hiện trong các chính sách, pháp luật về khai thác

khoáng sản từng bước được hoàn thiện theo hướng tiếp cận với các mục tiêu của

phát triển bền vững, tăng trưởng xanh; đồng thời, các chính sách, pháp luật về khai

thác khoáng sản từng bước bước dựa vào các công cụ kinh tế, mang tính thị trường.

– Pháp luật về khoáng sản ngày càng quy định với yêu cầu cao hơn về chế biến

khoáng sản nhằm hạn chế xuất khẩu ở dạng thô và phục vụ cho dự trữ: So với Luật

Khoáng sản 1996, Luật Khoáng sản 2005 quy định các tổ chức, cá nhân phải có nhà

máy chế biến hoặc hợp đồng chế biến mới được cấp phép khai thác. Nhằm phục vụ

sử dụng lâu dài của đất nước; Điều 5, Luật Khoáng sản 2005 đã quy định hạn chế

xuất khẩu khoáng sản dưới dạng nguyên liệu thô, tinh quặng. Luật Khoáng sản 2010

bổ sung quy định về chế biến sâu khi xuất khẩu khoáng sản, không xuất khẩu

khoáng sản chưa qua chế biến. Thủ tướng Chính phủ ban hành Chỉ thị số

02/2012/CT–TTg yêu cầu dừng hoàn toàn hoặc không xuất khẩu một số loại khoáng

sản để làm nguyên liệu phục vụ các ngành công nghiệp trong nước.

– Tăng các nghĩa vụ tài chính khi thực hiện khai thác khoáng sản: Kể từ Luật

Khoáng sản năm 1996 đến nay, ngày càng có nhiều loại thuế, phí, lệ phí và các

khoản thu khác được áp dụng đối với hoạt động khai thác khoáng sản. Bên cạnh các

khoản thu như trước đây, Luật Khoáng sản 2010 còn có quy định mới về thu tiền

cấp quyền khai thác khoáng sản. Luật Thuế tài nguyên năm 2009 (thay thế Pháp

lệnh Thuế tài nguyên năm 1990 và năm 1998) quy định danh mục các loại tài

nguyên, trong đó nhiều loại khoáng sản đã được bổ sung vào đối tượng chịu thuế.

Hoạt động khai thác khoáng sản cũng ngày càng có các nghĩa vụ tài chính về

BVMT theo hướng tăng cả chủng loại và mức thu: phí BVMT đối với khai thác

khoáng sản, phí BVMT đối với chất thải, ký quỹ phục hồi môi trường,...

Việc tăng các nghĩa vụ tài chính góp phần điều chỉnh khai thác khoáng sản theo

hướng tiết kiệm, tạo nguồn thu cho ngân sách nhà nước, đồng thời tạo điều kiện để

cải tạo môi trường và những hệ lụy khác do khai thác khoáng sản gây ra.

– BVMT trong khai thác khoáng sản ngày càng được đẩy mạnh: So với Luật

Khoáng sản 1996, điểm cải tiến trong Luật Khoáng sản 2005 là đưa ra yêu cầu tất

103

cả các quy hoạch tổng thể về khai thác khoáng sản đều phải tiến hành đánh giá môi

trường chiến lược (ĐMC). Tiếp đó, Luật Khoáng sản 2010 (Điều 30) quy định hoạt

động khoáng sản phải sử dụng công nghệ, thiết bị, vật liệu thân thiện với môi trường.

Đặc biệt, với tính chất đặc thù là tác động trực tiếp đến các nguồn tài nguyên,

hoạt động khai thác khoáng sản có nghĩa vụ phải đóng phí BVMT (theo Điều 113,

Luật Bảo vệ môi trường năm 2005). Nghị định số 137/2005/NĐ–CP là văn bản đầu

tiên về phí BVMT đối với khai thác khoáng sản và sau đó được bổ sung, sửa đổi

bằng Nghị định số 63/2008/NĐ–CP theo hướng bổ sung nhiều loại khoáng sản vào

đối tượng tính phí và tăng mức phí đối với từng loại khoáng sản. Tiếp đó, Nghị định

số 74/2011/NĐ–CP với nhiều điểm tiến bộ hơn như phí BVMT được áp dụng đối

với cả loại khoáng sản tận thu và Nghị định số 12/2016/NĐ–CP đã tính tới mức độ

ô nhiễm môi trường trong khai thác khoáng sản bằng việc bổ sung công nghệ khai

thác (hầm lò, hộ thiên).

– Việc cấp giấy phép khai thác khoáng sản từng bước dựa vào cơ chế đấu giá,

tạo sự minh bạch: Luật Khoáng sản 2010 có sự thay đổi căn bản so với Luật

Khoáng sản 1996 và 2005, đó là thực hiện cơ chế quản lý nhà nước về khoáng sản

phù hợp với nền kinh tế thị trường, tạo sự minh bạch. Việc cấp quyền khai thác

khoáng sản được thực hiện trên cơ sở đấu giá quyền khai thác khoáng sản nhằm

đảm bảo tính công khai, minh bạch, đảm bảo tăng nguồn thu, xóa bỏ tình trạng xin

– cho. Việc đấu giá cấp quyền khai thác khoáng sản cho phép lựa chọn được những

doanh nghiệp có năng lực về tài chính, công nghệ, kinh nghiệm, am hiểu về kỹ

thuật,… nhằm đảm bảo các yêu cầu của PTBV.

3.4.1.2. Khai thác khoáng sản có những đóng góp vào phát triển kinh tế - xã hội

Với một đất nước trải qua chiến tranh, nền kinh tế gặp nhiều khó khăn và tích lũy

ban đầu còn thấp. Việc khai thác khoáng sản góp phần huy động, tạo nguồn lực ban

đầu để xây dựng và phát triển đất nước.

– Việc khai thác khoáng sản đã đóng góp một phần quan trọng vào phát triển

kinh tế – xã hội. Ngành công nghiệp khai khoáng đóng góp hàng năm khoảng 10%

GDP. Trong giai đoạn 2000 – 2013, bình quân hàng năm thu ngân sách từ dầu thô

và thuế tài nguyên đạt khoảng 106.178,6 tỷ đồng, tương đương 21,5% tổng thu

104

(trong đó thu từ dầu thô là 16,5%). Khai thác khoáng sản góp phần giải quyết công ăn

việc làm cho gần 300 nghìn người (chiếm 0,63% tổng số lao động đang làm việc).

– Khai thác khoáng sản cung cấp nguồn nguyên, nhiên liệu và năng lượng phục

vụ cho quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Chẳng hạn, khai thác than

cung cấp nguồn nhiên liệu cho các nhà máy nhiệt điện.

– Tiến hành khai thác khoáng sản góp phần đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ chuyên

gia kỹ thuật và công nhân lành nghề phục vụ quá trình phát triển đất nước. Đơn cử,

các dự án khai thác bôxit ở Tây Nguyên đã đóng góp vào đào tạo lao động trên địa

bàn từ sản xuất nông nghiệp trở thành công nhân kỹ thuật, cụ thể: dự án bôxit ở

Nhân Cơ đã đào tạo cho 648 lao động và dự án bôxit ở Tân Rai là 1.200 người.11

Bên cạnh những đóng góp nhất định, hoạt động khai thác khoáng sản cũng bộc lộ

không ít vấn đề. Hơn nữa, hiện nay, một số loại khoáng sản bước vào giai đoạn cạn

kiệt, điều này đặt ra những thách thức cho tăng trưởng trong dài hạn nếu tiếp tục

phát triển kinh tế dựa vào khai thác tài nguyên nói chung và khoáng sản nói riêng.

3.4.2. Các tồn tại, hạn chế

3.4.2.1. Việc khai thác khoáng sản vẫn còn thiếu hợp lý và đặt ra thách thức đối với

tăng trưởng xanh

Một số loại khoáng sản đang bị khai thác quá mức (so với quy hoạch và nhu cầu

sử dụng). Thậm chí, không ít loại khoáng sản vẫn khai thác với số lượng lớn, trong

khi các ngành công nghiệp trong nước chưa cần tới và công nghệ khai thác vẫn còn

lạc hậu. Đơn cử như titan, công nghệ khai thác còn lạc hậu và các ngành công

nghiệp khác sử dụng sản phẩm chưa nhiều, việc đẩy mạnh khai thác chỉ để phục vụ

xuất khẩu.

Việc khai thác khoáng sản trong thời gian qua diễn ra với phương thức khai thác

thô sơ, lạc hậu, theo kiểu nhỏ lẻ, manh mún, thậm chí “băm nát tài nguyên” và duy

trì nhiều đơn vị, doanh nghiệp khai khoáng đặt ra những thách thức cho công tác

quản lý, giám sát. Trong khi khai thác khoáng sản đòi hỏi vốn lớn, công nghệ hiện

đại thì Việt Nam lại thực hiện khai thác một cách thủ công, lạc hậu, lao động giản

đơn… để khai thác được mức sản lượng ở mức tối đa có thể. Việc tổ chức khai thác

11 Khảo sát của tác giả tại Dự án bô xit Nhân Cơ (Đắk Nông) và Tân Rai (Lâm Đồng), tháng 4/2015.

105

khoáng sản chưa phù hợp với cách tiếp cận tăng trưởng xanh, vẫn còn tồn tại các

chính sách cản trở việc thực hiện “xanh hóa” khai thác khoáng sản. Với cách tiếp

cận lạc hậu và quản trị yếu kém đối với khai thác khoáng gây ra những chi phí lớn

về môi trường, tạo ra các rủi ro phát triển và đặt ra những thách thức đối với PTBV.

3.4.2.2. Các hạn chế trong đóng góp và hiệu quả của khai thác khoáng sản

Nhìn chung, khai thác khoáng sản trong thời gian qua có hiệu quả còn thấp và

đóng góp chưa nhiều.

– Giá trị gia tăng của ngành công nghiệp khai khoáng vẫn còn thấp, nói cách khác,

là kém hiệu quả về mặt kinh tế từ góc nhìn tăng trưởng xanh như tiêu hao nhiều các

yếu tố đầu vào để tạo ra giá trị gia tăng (vốn, tài nguyên,...). Hệ số ICOR của ngành

công nghiệp khai khoáng là khá cao và có xu hướng gia tăng, điều này phản ánh

việc sử dụng vốn kém hiệu quả (Hình 2 – Phụ lục).

– Các tác động lan tỏa đối với những nơi có hoạt động khai thác khoáng sản là

chưa cao: Thể hiện qua việc thu hút các doanh nghiệp phát triển theo, phát triển các

ngành đi theo khai thác khoáng sản. Những yếu kém này là do cách khai thác khoáng

sản thiếu tập trung và chế biến sâu sản phẩm khoáng sản để tạo nền tảng cho các

ngành công nghiệp khác phát triển theo.

– Năng suất tài nguyên hay giá trị gia tăng được tạo ra từ việc khai thác khoáng

sản chuyển biến chậm. Trong vòng gần 30 năm (1986 – 2014), năng suất tài nguyên

cũng chỉ dao động quanh 80 – 94 USD/tấn. Sự chuyển biến chậm này phản ánh

những yếu kém trong tận dụng khai thác khoáng sản để phát triển các ngành công

nghiệp sau khai thác khoáng sản. Nếu duy trì cách làm như vậy, đây sẽ là thách thức

đối với tăng trưởng kinh tế trong giai đoạn tới, khi nguồn tài nguyên cạn kiệt dần.

3.4.2.3. Đối với các vấn đề về tài nguyên và môi trường

Vấn đề môi trường trong khai thác khoáng sản ngày càng được cải thiện về trên

phương diện xây dựng chính sách và kết quả thực hiện. Song việc BVMT và giải

quyết ô nhiễm môi trường do hoạt động khai thác khoáng sản vẫn còn không ít vấn

đề cần nỗ lực nhiều hơn nữa để hướng tới các mục tiêu của tăng trưởng xanh. Tại

không ít nơi có hoạt động khai thác khoáng sản, ô nhiễm môi trường đang ở mức

báo động và đánh đổi với các hoạt động kinh tế khác, ảnh hưởng tới sức khỏe của

106

người dân địa phương.

Xét theo khía cạnh khai thác bền vững đối với tài nguyên không tái tạo, việc khai

thác phải đi cùng với đầu tư vào vốn con người và cuộc sống với môi trường tự

nhiên có chất lượng hơn là cách chia sẻ với các thế hệ tương lai trong việc tiếp cận

tài nguyên (quy tắc Hartwick). Tuy nhiên, sự phân tích trên đây cho thấy việc khai

thác khoáng sản trong thời gian qua diễn ra theo kiểu bóc lột tài nguyên, “băm nát”

tài nguyên. Trong khi đó, việc đầu tư cho phục hồi môi trường và tái tạo tài nguyên

thiên nhiên chưa thỏa đáng so với khai thác từ tài nguyên và việc đầu tư theo cách

kém hiệu quả; nói cách khác, việc khai thác thiếu bền vững (khai thác song ít chú ý

tới phục hồi và tái tạo tài nguyên thiên nhiên).

3.4.2.4. Đối với các vấn đề về xã hội

Khai thác khoáng sản đã và đang làm nẩy sinh không ít vấn đề xã hội: xung đột

do thu hồi, đền bù đất đai phục vụ các dự án khai thác khoáng sản; xung đột do ô

nhiễm môi trường; tranh chấp tài nguyên.

Việc phân chia lợi ích giữa các bên có liên quan chưa hợp lý. Việc khai thác

khoáng sản chỉ mang lại lợi ích cho một nhóm nhỏ trong xã hội; những người dân

địa phương nơi có hoạt động khai thác khoáng sản được hưởng lợi rất ít, trong khi

đó, họ là đối tượng phải chịu nhiều ảnh hưởng tiêu cực.

Việc phân chia lợi ích thiếu hợp lý có nguy cơ tạo ra nhóm lợi ích, gây ra “méo

mó” và cản trở cải cách chính sách. Đây có thể là thách thức đối với khai thác

khoáng sản trong quá trình thực hiện chiến lược tăng trưởng xanh.

3.4.3. Nguyên nhân của các tồn tại, hạn chế

Những hạn chế, yếu kém của khai thác khoáng sản như đã đề cập trên đây là do

nhiều nguyên nhân chi phối, trong đó có các vấn đề sau:

3.4.3.1. Xuất phát từ những hạn chế, yếu kém trong các chính sách, pháp luật về

khai thác khoáng sản

Những hạn chế, yếu kém của việc khai thác khoáng sản trong thời gian qua xuất

phát từ những tồn tại, bất cập trong các chính sách, pháp luật về khai thác khoáng

sản; điều này thể hiện rõ khi phân tích thực trạng một số chính sách cho thấy: 1) các

quy định về thuế tài nguyên và phí BVMT chưa phù hợp với đặc thù của khai thác

khoáng sản, cách tính thuế chưa khuyến khích thu hồi tối đa quặng và đầu tư cho 107

khoa học công nghệ (KHCN) để chế biến sâu; 2) Các công cụ kinh tế đã từng bước

được áp dụng để điều chỉnh công tác BVMT trong khai thác khoáng sản, song chưa

đồng bộ với thể chế kinh tế thị trường và vẫn còn hạn chế trong việc gắn kết với

nguyên tắc “người gây ô nhiễm phải trả tiền”.

a) Đối với thuế tài nguyên

Các số liệu từ Hình 5 – Phụ lục cho thấy mức thu thuế đối với mỗi tấn quặng

nguyên khai ngày càng tăng, trong khi đó, điều kiện khai thác ngày càng khó hơn.

Về lý thuyết kinh tế (đường cong Laffer), thuế suất cao không phải lúc nào cũng

phù hợp bởi dễ dẫn đến trốn thuế. Chính sách thuế thay đổi liên tục kéo theo sự thay

đổi các chỉ tiêu hiệu quả tài chính của dự án đã tính toán trước đây, gây rủi ro cho

doanh nghiệp.

Cách tính và thu thuế tài nguyên hiện nay đang bộc lộ nhiều bất cập:

– Thuế tài nguyên được quy định với khung thuế suất trong khoảng quá rộng.

Điều này dễ dẫn đến sự tùy tiện, cơ chế “xin – cho” khi ban hành mức thuế đối với

từng loại khoáng sản.

– Thuế tài nguyên chưa phù hợp với đặc thù của tài nguyên khoáng sản, đó là

chưa tính tới các yếu tố về điều kiện khó, dễ trong khai thác: lộ thiên (hệ số bóc đất

đá); hầm lò (lò bằng, lò giếng); chất lượng khoáng sản (hàm lượng kim loại trong

quặng). Việc tính thuế tài nguyên theo cách cào bằng giữa các mỏ của cùng một loại

khoáng sản dễ gây nên tổn thất tài nguyên, không khuyến khích tận thu và tiết kiệm

khoáng sản.

– Theo các quy định hiện hành (Điều 5, Luật Thuế tài nguyên), việc lấy giá bán

sản phẩm làm giá tính thuế tài nguyên khoáng sản nhưng không khấu trừ chi phí

vận chuyển, chi phí phân loại, làm giàu, chế biến khoáng sản. Thuế tài nguyên đánh

trên chi phí sàng tuyển, phân loại… chưa khuyến khích cơ sở khai thác, chế biến

sâu và có nguy cơ gây lãng phí tài nguyên khoáng sản (đối với các khu vực quặng

nghèo, điều kiện khai thác, chế biến khó khăn) do chi phí cao và tạo ra môi trường

cạnh tranh thiếu bình đẳng, đánh trùng thuế đối với chi phí vận chuyển.

108

b) Đối với các nghĩa vụ tài chính nhằm BVMT trong khai thác khoáng sản

Thuế, phí là một trong các công cụ kinh tế hữu hiệu để quản lý nhà nước, tuy

nhiên, phí BVMT đối với khai thác khoáng sản hiện vẫn còn một số hạn chế:

Khoản phí này mới chỉ căn cứ vào khối lượng khoáng sản nguyên khai, chưa tính

đến: i) các chất thải gây ô nhiễm trong quá trình khai thác khoáng sản; ii) các yếu tố

liên quan đến cấp độ gây ô nhiễm. Về chất thải, để khai thác khoáng sản còn phải

đào bới, bốc xúc và thải ra một khối lượng lớn đất đá và gây ô nhiễm môi trường.

Nghị định số 12/2016/NĐ–CP đã có nhiều điểm tiến bộ so với trước đây khi đưa

vào cấp độ ô nhiễm môi trường theo phương khai thác (hầm lò hay lộ thiên), song

vẫn chưa tính tới công nghệ khai thác (hiện đại hay thô sơ).

Nguy cơ của cách tính phí BVMT như vừa đề cập là: Mỏ giàu được ưu tiên khai

thác trước do ít rủi ro hơn; trong quá trình khai thác nếu gặp quặng nghèo thì doanh

nghiệp sẽ bỏ lại để tiết kiệm chi phí, không khuyến khích doanh nghiệp chế biến;

mức độ gây ô nhiễm môi trường chưa có sự phân biệt theo công nghệ khai thác

không khuyến khích áp dụng công nghệ mới trong khai thác khoáng sản.

3.4.3.2. Những hạn chế, yếu kém trong tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về khai

thác khoáng sản gắn với bảo vệ môi trường

Thứ nhất, sự gia tăng về số lượng giấy phép và sản lượng khai thác của một số

loại khoáng sản là hệ quả của việc phân cấp. Số lượng giấy phép khai thác của cấp

địa phương gia tăng; gia tăng số lượng doanh nghiệp, trong đó chủ yếu doanh

nghiệp quy mô nhỏ và hạn chế về năng lực công nghệ; sản lượng khoáng sản khai

thác, nhất là các loại do địa phương cấp phép đã tăng nhanh, thậm chí là khai thác

nhanh quá mức (nội dung chi tiết tại mục 3.1.2).

Trong khi đó, việc phân cấp về quản lý nhà nước về khai thác khoáng sản đã và

đang bộc lộ nhiều bất cập:

– Việc phân cấp thiếu rõ ràng; chẳng hạn, phân cấp về cấp phép khai thác khoáng

sản, nhưng chưa phân cấp trách nhiệm rõ ràng về quản lý BVMT. Thậm chí, ngay

cả các loại khoáng sản thuộc thẩm quyền cấp phép của cấp Trung ương thì việc

quản lý về tình hình hoạt động khai thác khoáng sản trên địa bàn lại chưa đề cập rõ

trách nhiệm quản lý. Việc phân cấp thiếu rõ ràng dẫn đến không cấp nào, cá nhân

109

nào chịu trách nhiệm cụ thể và đùn đẩy trách nhiệm.

– Việc phân cấp cho chính quyền địa phương, nhưng số lượng và năng lực cán bộ

chưa đáp ứng đầy đủ những yêu cầu. Lực lượng cán bộ, công chức thuộc Sở Tài

nguyên và Môi trường trực tiếp làm công tác quản lý nhà nước về khoáng sản còn

thiếu về số lượng, yếu về chất lượng. Theo số liệu thống kê của Đoàn giám sát

Quốc hội (năm 2012) từ 27 tỉnh/ thành cho thấy ở cấp tỉnh vẫn có tới 12,3% số cán

bộ làm kiêm nhiệm về công tác quản lý nhà nước đối với các hoạt động và mặc dù

có tới 90,3% số cán bộ có trình độ đại học, song chỉ có khoảng 30% cán bộ có

chuyên ngành về địa chất – mỏ. Cán bộ TNMT cấp quận/huyện còn thiếu về số

lượng, hầu hết làm công tác kiêm nhiệm (75,5%), gần như không có chuyên môn về

địa chất – mỏ (Bảng 13 – Phụ lục).

– Phân cấp cho địa phương song việc thanh tra, giám sát còn hạn chế. Việc giám

sát vẫn chủ yếu là các cuộc thanh tra của Bộ TNMT đối với các địa phương và các

tổ chức, cá nhân hoạt động khai thác khoáng sản. Bộ TNMT cùng với Sở TNMT

các tỉnh đã tổ chức nhiều đoàn thanh tra, kiểm tra hàng năm; tuy nhiên, việc phát

hiện các hành vi vi phạm chưa nhiều, đặc biệt khi các vi phạm này đang ngày càng

tinh vi, phức tạp. Việc giám sát của các cơ quan dân cử chưa diễn ra thường xuyên

(chủ yếu là theo các chuyên đề) và hiệu lực, hiệu quả của giám sát còn vẫn hạn chế.

Thứ hai, bộ máy quản lý nhà nước về khoáng sản và BVMT đã được thành lập từ

trung ương xuống đến các cấp địa phương. Tuy nhiên, việc tổ chức vẫn còn chồng

chéo, bất cập và lỏng lẻo; sự phối hợp giữa các cấp thiếu chặt chẽ.

– So sánh Luật Khoáng sản qua các thời kỳ cho thấy nhiệm vụ quản lý nhà nước

về khoáng sản, môi trường được quy định rõ ràng hơn. Tuy nhiên, việc phân công

trách nhiệm của từng cấp chính quyền vẫn chưa cụ thể. Chẳng hạn, trách nhiệm bảo

vệ khoáng sản chưa khai thác (Điều 16 – Điều 19, Luật Khoáng sản năm 2010) quy

định vẫn chưa cụ thể và hiện vẫn chưa có bộ tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thành

nhiệm vụ.

– Sự phối hợp thiếu chặt chẽ cũng xảy ra đối với trong việc thực thi chính sách.

Theo các quy định hiện hành, các doanh nghiệp khai khoáng chỉ báo cáo sản

lượng khai thác hàng năm cho Sở TNMT. Tuy nhiên, cơ quan này hiếm khi công

110

bố các số liệu đó, nếu cơ quan khác cần cung cấp số liệu phải có công văn đề nghị

và được cấp có thẩm quyền đồng ý. Điều này không tránh khỏi việc ngành thuế,

ngành tài chính không nắm rõ tình hình cấp phép, sản lượng khai thác của doanh

nghiệp để đối chiếu, so sánh làm cơ sở tính và thu thuế. Sự phối hợp thiếu chặt

chẽ giữa các cơ quan quản lý nhà nước có nguy cơ dẫn tới trốn thuế gây thất thu

cho ngân sách nhà nước.

Hệ quả của việc phân công trách nhiệm thiếu rõ ràng và sự phối hợp kém hiệu

quả là tạo ra các kẽ hở trong quản lý nhà nước. Tình trạng “vô chủ” đối với tài

nguyên khoáng sản và BVMT biểu hiện qua việc không rõ ràng về trách nhiệm

quản lý và hệ quả là khoáng sản bừa bãi (biểu hiện như “khoáng tặc”, “vàng tặc”,..),

các doanh nghiệp khai khoáng chưa quan tâm tới và tuân thủ đầy đủ việc BVMT.

3.4.3.3. Do việc thiếu minh bạch và trách nhiệm giải trình trong các hoạt động

khai thác khoáng sản

Minh bạch và trách nhiệm giải trình là một trong những nguyên nhân làm cho

các yếu tố về xã hội, môi trường đang bị xem nhẹ, thậm chí bị bỏ qua.

– Đối với việc công bố về các cấp phép khai thác: Các giấy phép hoạt động

khoáng sản sau khi cấp phép đã được công bố, song còn rất sơ sài, chủ yếu là liệt kê

một số thông tin cơ bản như loại khoáng sản, đơn vị được cấp phép, ngày cấp giấy

phép. Các thông tin như diện tích được phép khai thác khoáng sản, thời hạn hoạt

động, công suất khai thác,… vẫn chưa được công khai cụ thể và rộng rãi. Điều này

dẫn đến thiếu thông tin cho giám sát của công chúng và hệ quả là gây ra các rủi ro

về môi trường, thất thu cho ngân sách nhà nước,...

– Cơ chế công khai, minh bạch và giám sát đối với BVMT : Điều 104, Luật BVMT

2005 yêu cầu công khai thông tin về báo cáo ĐTM, quyết định phê duyệt và kế hoạch

thực hiện các yêu cầu. Mặc dù vậy, Điều 21 và 22 của Nghị định 29/2011/NĐ–CP

hướng dẫn thi hành chỉ yêu cầu cung cấp thông tin cho Bộ/Sở TMMT, chính quyền

các cấp và chỉ tới UBND cấp xã, cho nên cộng đồng dân cư và các tổ chức xã hội

không tiếp cận được thông tin đầy đủ để phản biện và giám sát độc lập. Trong quá

trình tham vấn ĐTM vẫn thiếu sự tham gia giám sát độc lập để đảm bảo tính khách

111

quan và giám sát việc thực thi.

– Cách thu thuế tài nguyên và phí BVMT đối với khai thác khoáng sản chủ yếu

dựa vào cơ chế doanh nghiệp tự kê khai sản lượng khai thác. Trong khi đó, thiếu

các cơ chế giám sát sản lượng, hoặc việc giám sát còn lỏng lẻo và kém hiệu quả.

Điều này dẫn đến việc khó quản lý, những rủi ro thất thu cho ngân sách nhà nước.

Do vậy, tại không ít nơi khoản thu thuế tài nguyên và phí BVMT đối với khai thác

khoáng sản không đủ đề bù đắp cho các thiệt hại về môi trường.

3.4.3.4. Các cơ chế, chính sách chưa đầy đủ và thiếu đồng bộ

Việt Nam hiện nay vẫn tồn tại cơ chế kiểm soát giá cả đối với một số đầu vào sản

xuất quan trọng như than, xăng dầu, điện,... Trong giai đoạn 2007–2012, mỗi năm

các khoản trợ giá nhiên liệu hóa thạch ở Việt Nam dao động trong khoảng 1,2 –

4,49 tỷ USD [13]. Các khoản này chủ yếu do việc kiểm soát giá và đánh thuế môi

trường thấp, làm cho mức giá thấp hơn mức giá thế giới.

Việc kiểm soát giá cả, nhất là giá than bị khống chế thấp, không những làm méo

mó hiệu quả hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp, mà tạo ra các nguy cơ đối

với khai thác khoáng sản: khai thác, kinh doanh trái phép, xuất khẩu lậu, sử dụng

lãng phí, tổn thất tài nguyên, tàn phá môi trường,... Hơn nữa, với việc giá cả loại

nhiên liệu hóa thạch thấp hơn giá thị trường và đánh thuế môi trường thấp có nguy

cơ biến nước ta trở thành điểm đến hấp dẫn của những ngành sản xuất tiêu tốn năng

lượng, ô nhiễm môi trường như các dự án sản xuất sắt thép, xi măng,...

Việc trợ giá có xu hướng ít tạo ra động lực để người tiêu dùng sử dụng tiết kiệm

các loại nhiên liệu hóa thạch. Thêm vào đó, trợ giá nhiên liệu hóa thạch ngày càng

được cộng đồng quốc tế thừa nhận là kìm hãm tăng trưởng xanh bởi làm cho các

loại năng lượng sạch, năng lượng tái tạo khó cạnh tranh được về mặt chi phí với

năng lượng được sản xuất từ nhiên liệu hóa thạch.

3.4.3.5. Tư duy, nhận thức về tăng trưởng xanh còn hạn chế

Do vai trò quan trọng, thực trạng hiện nay là trong kế hoạch phát triển kinh tế –

xã hội ở không ít địa phương đều nhằm mục tiêu tăng giá trị sản xuất công nghiệp,

tăng thu ngân sách trong đó hướng đến khai thác lợi thế từ khoáng sản. Biểu hiện

của tình trạng này là giấy phép khai thác được cấp phép tràn lan. Điều này đã dẫn

112

đến tình trạng phát triển quá mức, trong khi chưa chú trọng nhiều đến tiêu chí năng

lực, công nghệ, giảm thiểu ô nhiễm môi trường,... Cách phát triển theo chiều rộng

như thế làm giảm hiệu quả của khai thác khoáng sản. Việc thay đổi tư duy về khai

thác khoáng sản theo hướng nặng tính lợi ích kinh tế, tăng trưởng GDP là vấn đề

không đơn giản và khó có thể thay đổi trong thời gian ngắn.

Tăng trưởng xanh là khái niệm tương đối mới mẻ cho nên sẽ không tránh khỏi

những khó khăn, thách thức trong việc tư duy, nhận thức về mô hình này và có

nguy cơ cho việc thực hiện tái cấu trúc kinh tế theo hướng tăng trưởng xanh. Vừa

qua, Chính phủ đã có chủ trương đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế theo hướng

bền vững và theo chiều sâu, trong đó “gắn phát triển kinh tế với bảo vệ môi trường,

phát triển kinh tế xanh”. Tuy nhiên, việc chậm trễ thực thi hoặc thực thi thiếu quyết

liệt các chủ trương này cũng có thể nguyên nhân và trở thành thách thức cho việc

khai thác khoáng sản trong chiến lược tăng trưởng xanh.

3.4.3.6. Do các yếu tố của mô hình tăng trưởng kinh tế

a) Công nghiệp chế biến, chế tạo phát triển chậm

Năng suất tài nguyên thấp cũng phản ánh tỷ trọng của các ngành công nghiệp

thâm dụng tài nguyên còn lớn và công nghiệp chế biến phát triển chậm. Trong cơ

cấu kinh tế Việt Nam, tỷ trọng công nghiệp và xây dựng tăng từ khoảng 23% (năm

1988) lên tới gần 33,25% (năm 2015); song trong giai đoạn này, tỷ trọng công

nghiệp chế biến, chế tạo trong khu vực này thay đổi không đáng kể (năm 1988 là

17,22% và đến 2015 cũng chỉ đạt tới 14%).

– Công nghiệp chế biến phát triển chậm nên không tạo ra nhu cầu chế biến

khoáng sản: Thực tế hiện nay, một số khoáng sản mới chỉ trải qua sơ chế để phục

vụ xuất khẩu và nếu có chế biến sâu nhưng không có nhu cầu sử dụng trong nước.

Đơn cử, khai thác quặng volfram tại mỏ Núi Pháo (tỉnh Thái Nguyên) cũng mới chỉ

sơ chế và tham gia ở công đoạn giá trị gia tăng thấp do Việt Nam vẫn thiếu các

ngành công nghiệp hiện đại như sản xuất các thiết bị y tế để khuyến khích chế

biến sâu volfram.12

– Công nghiệp chế biến phát triển chậm nên thiếu sự hỗ trợ cho việc chế biến sâu

12 Khảo sát của tác giả tại Công ty Núi Pháo (tỉnh Thái Nguyên), tháng 7/2014.

113

các sản phẩm khoáng sản và kéo theo đó là năng suất tài nguyên thấp.

b) Chất lượng nguồn nhân lực và cơ cấu đào tạo

Trải qua 30 năm đổi mới, song đến nay, chất lượng nguồn nhân lực chậm được

cải thiện. Tỷ lệ lao động qua đào tạo mới chỉ đạt 10,3 % (năm 2000) và đến năm

2013 cũng mới chỉ 18,2% [26]. Hơn nữa, cơ cấu đào tạo cũng mất cân đối, tình

trạng “thừa thầy, thiếu thợ” – thừa ở bậc đại học, thiếu công nhân kỹ thuật và thừa

cán bộ làm văn phòng song thiếu kỹ sư, cán bộ kỹ thuật trực tiếp phục vụ sản xuất.

Với nguồn cung từ thị trường lao động như vậy, các doanh nghiệp khai khoáng

rất khó để tuyển dụng được lao động đáp ứng các yêu cầu sản xuất. Chẳng hạn,

trong thời gian gần đây, Tập đoàn Than – Khoáng sản Việt Nam (Vinacomin) tổ

chức tuyển dụng công nhân kỹ thuật về khai thác mỏ, song rất khó để tuyển đủ số

lượng và đáp ứng được chất lượng.13 Những yếu kém từ thị trường lao động nên

chất lượng nguồn nhân lực của ngành công nghiệp khai khoáng còn thấp và chậm

chuyển biến. Hệ quả là năng suất lao động, chất lượng và hiệu quả của các doanh

nghiệp không cao.

c) Khoa học công nghệ

Yếu tố khoa học công nghệ chậm phát triển đã thiếu sự hỗ trợ, thúc đẩy đối với

ngành công nghiệp khai khoáng. Nhìn chung, số lượng và năng lực nghiên cứu khoa

học công nghệ vẫn còn thấp. Số lượng doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực khoa

học công nghệ còn ít, kết quả từ điều tra doanh nghiệp năm 2010 (Tổng cục Thống

kê) cho thấy chỉ có 1.340 trong tổng số 205.529 doanh nghiệp được điều tra (chiếm

khoảng 0,65%). Xét rộng ra cả các cơ sở công lập, số lượng các tổ chức khoa học

công nghệ có sự tăng lên (hiện nay có 1.200 cơ sở, tăng 2,5 lần so với năm 1995)

[58]. Mặc dù vậy, năng lực nghiên cứu và phát triển của Việt Nam là rất thấp.

Chẳng hạn, đối với Việt Nam, số lượng bài tạp chí khoa học xuất bản trên một triệu

dân được quốc tế công nhận đều thấp hơn so với các nước trong khu vực [26].

Kết quả chung của những vấn đề này là khai thác khoáng sản, song năng suất tài

nguyên và các tác động lan tỏa không lớn (chưa phát huy tối đa lợi ích từ khai thác

khoáng sản), trong khi gây ra nhiều vấn đề về tài nguyên môi trường và những rủi

13 http://tuyencongchuc.vn/tin-tuc-tong-hop/nganh-than-doi-tho-lo/

114

ro cho tăng trưởng trong dài hạn.

Tiểu kết chương 3

Chương 3 tập trung phân tích các vấn đề và chỉ ra một số nhận xét sau:

Chương này đã tập trung phân tích, đánh giá về thực trạng khai thác khoáng sản

theo các tiêu chí tăng trưởng xanh: việc khai thác thiếu hợp lý, ít chú ý tới tính bền

vững về tài nguyên môi trường; hiệu quả tăng trưởng kinh tế theo hướng xanh của

khai thác khoáng sản là chưa cao; khai thác khoáng sản gây ra không ít vấn đề về

môi trường và ảnh hưởng tới các hoạt động kinh tế khác; việc phân chia lợi ích giữa

các chủ thể chưa hợp lý và cộng động địa phương là đối tượng chịu nhiều bất lợi.

Phân tích về những vấn đề đặt ra đối với khai thác khoáng sản trong thực hiện

chiến lược tăng trưởng xanh: Việc gia tăng khai thác khoáng sản có nguy cơ ảnh

hưởng tới việc thực hiện, đạt các mục tiêu về giảm phát thải phí nhà kính đã đề ra

trong chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh. Thực hiện việc “xanh hóa” và/hoặc

giảm quy mô đối với khai thác khoáng sản tạo điều kiện cho sự phát triển của các

ngành kinh tế ít phát thải, ít tiêu tốn năng lượng.

Trong chương này đã đánh giá chung về các kết quả đạt được, hạn chế và nguyên

nhân của hạn chế đối với khai thác khoáng sản trên quan điểm tăng trưởng xanh,

một số nhận xét cơ bản là: Hệ thống pháp luật về khai thác khoáng sản từng bước

được hoàn thiện theo hướng tiếp cận với các mục tiêu của phát triển bền vững, tăng

trưởng xanh. Tuy nhiên, một số quy định pháp luật vẫn chưa phù hợp với đặc thù

của tài nguyên khoáng sản, với mức độ ô nhiễm môi trường. Việc thực thi các

chính, pháp luật về khai thác khoáng sản vẫn còn nhiều tồn tại, hạn chế và gây ra

115

những nguy cơ, thách thức đối với phát triển bền vững, tăng trưởng xanh.

Chương 4

ĐỀ XUẤT HOÀN THIỆN, ĐỔI MỚI KHAI THÁC KHOÁNG SẢN

TRONG CHIẾN LƯỢC TĂNG TRƯỞNG XANH Ở VIỆT NAM

4.1. Bối cảnh quốc tế, trong nước thời gian tới và những vấn đề đặt ra đối với

khai thác khoáng sản trong chiến lược tăng trưởng xanh

4.1.1. Bối cảnh quốc tế

4.1.1.1. Các xu hướng đối với khoáng sản

a) Xu hướng cạn kiệt tài nguyên khoáng sản

Tài nguyên khoáng sản với đặc trưng là không có khả năng tái tạo, trong khi

dân số và các hoạt động kinh tế ngày càng tăng kéo theo nhu cầu lớn về khoáng

sản. Tổng sản lượng khai thác các loại khoáng sản của toàn cầu trong 30 năm

qua đã tăng tới 118%, từ 36 tỷ tấn (năm 1980) lên tới 78 tỷ tấn (năm 2013), trong

đó: VLXD tăng hơn 228%; quặng kim loại là 147%; nhiên liệu hóa thạch tăng

73%. Các nước Châu Á, nơi có hai cường quốc mới nổi là Trung Quốc và Ấn

Độ, chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng sản lượng khai thác của toàn cầu; năm

1980, khu vực này chiếm 40% (tiếp sau là Châu Âu với 19%) và đến năm 2013

đã tăng lên tới 60% (kế tiếp là Mỹ Latinh chiếm 12%, Châu Âu và Bắc Mỹ giữ

vị trí thứ ba với 9%) [173].

Với trữ lượng hữu hạn, việc đẩy mạnh khai thác tất yếu dẫn đến tài nguyên

khoáng sản có xu hướng cạn kiệt. Xu hướng này có nguy cơ dẫn đến sự cạnh tranh

giữa các quốc gia trong việc tiếp cận với loại tài nguyên này.

b) Xu hướng về dự trữ khoáng sản

Khoáng sản không chỉ là đầu vào của sản xuất, một số loại khoáng sản như

dầu mỏ và than đá,... còn là đầu vào để đảm bảo an ninh năng lượng cho nền

kinh tế. Do nhu cầu về khoáng sản ngày càng, trong khi nguồn tài nguyên này có xu

hướng cạn kiệt, nên một số nước có xu hướng dự trữ trong nước và đẩy mạnh tìm

kiếm, khai thác khoáng sản từ bên ngoài. Với các nền kinh tế mới nổi, gắn với sự

bùng nổ phát triển của hai nền kinh tế đang phát triển khổng lồ như Trung Quốc và

Ấn Độ, mức độ khan hiếm tài nguyên ngày càng tăng nhanh. Để đáp ứng nhu cầu

116

tăng trưởng cao của nền kinh tế và phục vụ cho mục tiêu dự trữ, hàng năm Trung

Quốc thu mua với lượng rất lớn khoáng sản từ nhiều quốc gia trên thế giới, trong

đó, Châu Phi là một địa bàn quan trọng bậc nhất. Trung Quốc có chính sách tiếp cận

với các quốc gia Châu Phi thông qua chương trình “đổi hạ tầng lấy khoáng sản”.

c) Xu hướng tăng giá của nhiều loại khoáng sản

Để phục vụ phát triển kinh tế, nhu cầu nguyên vật liệu tăng nhanh, trong hơn 30

năm từ 1980 – 2013, nhìn chung, sử dụng khoáng sản của toàn cầu có xu hướng

tăng lên (Hình 6 – Phụ lục). Việc sử dụng khoáng sản ở các khu vực trên thế giới

đều tăng; song Châu Á là nơi có khối lượng sử dụng lớn nhất, năm 2013, khu vực

này tiêu thụ hơn 50% sản lượng khai thác của toàn cầu và tăng tới 37% so với năm

1980. Trung Quốc là nước tiêu thụ kim loại cơ bản (nhôm, đồng, chì, kẽm,... ) hàng

đầu thế giới; từ 2000 – 2009, mức tiêu thụ của quốc gia này tăng khoảng 17%/năm

và chiếm tới 41% toàn cầu [15].

Tài nguyên khoáng sản ngày càng cạn kiệt (dẫn đến khan hiếm), trong khi nhu

cầu sử dụng ngày càng tăng lên. Thêm vào đó, một số quốc gia do lo sợ cạn kiệt tài

nguyên nên đã và đang có những chính sách hạn chế xuất khẩu khiến cho nguồn

cung nhiều loại khoáng sản bị suy giảm. Theo quy luật kinh tế, những nhân tố này

làm cho giá cả của loại hàng hóa này có xu hướng tăng lên. Trong những năm gần

đây, giá của nhiều loại khoáng sản giảm xuống do khủng hoảng kinh tế toàn cầu,

song giá khoáng sản trên thị trường thế giới luôn có xu hướng tăng là chủ yếu bởi

tính khan hiếm của nó.

Các xu hướng về khoáng sản và những vấn đề đặt ra:

– Do tài nguyên khoáng sản có xu hướng cạn kiệt và giá cả tăng nên vấn đề đặt ra

đối với khai thác khoáng sản là: tăng cường dự trữ khoáng sản, sử dụng tiết kiệm,

có hiệu quả nhằm phục vụ nhu cầu lâu dài của các ngành kinh tế.

– Với xu hướng dự trữ và đẩy mạnh ra bên ngoài để khai thác khoáng sản, là

quốc gia sát ngay Trung Quốc, Việt Nam cần phải có chính sách quản lý chặt chẽ để

hạn chế khai thác khoáng sản trái phép, xuất khẩu lậu khoáng sản.

– Về dài hạn, giá nhiều loại khoáng có xu hướng tăng, song trong ngắn hạn, giá

cả thiếu ổn định và do đó dẫn đến việc nguồn thu cho ngân sách thiếu ổn định. Kinh

117

nghiệm từ các nước cho thấy để chủ động hơn trong việc chi tiêu khi giá cả các loại

khoáng sản giảm xuống, nhiều quốc gia đã giành một tỷ lệ nhất định trong nguồn

thu từ khai thác tài nguyên để lập dự phòng – gọi là quỹ tài nguyên thiên nhiên. Quỹ

này cũng có thể được sử dụng để phát triển các loại năng lượng mới, vật liệu mới

thay thế sản phẩm khoáng sản.

4.1.1.2. Các xu hướng quốc tế hỗ trợ việc thực hiện khai thác khoáng sản

a) Những bước tiến mới về khoa học, công nghệ

Thế giới đang có những bước tiến về công nghệ khai thác khoáng sản giúp giảm

thiểu các tác động tiêu cực tới môi trường. Việc khai thác than theo công nghệ

truyền thống tạo lượng khí thải gây hiệu ứng nhà kính; công nghệ khí hóa than có

thể tạo ra khí tự nhiên, hydro và nhiên liệu lỏng được coi là bước đột phá, giúp giảm

nhẹ các tác động tới môi trường từ khai thác và sử dụng than.

Sự phát triển của công nghệ và thiết bị tuyển khoáng trong hơn vài thập kỷ qua là

khá đa dạng. Các tiến bộ trong công nghệ đập nghiền khoáng sản (thiết bị đập

nghiền và thiết bị nghiền siêu mịn) đã được cải tiến, nâng cấp cho phép nghiền

nguyên liệu khoáng tới cỡ hạt nano, tăng khả năng thu hồi các khoáng vật có ích và

nâng cao hiệu suất sử dụng năng lượng [45].

Các tiến bộ công nghệ cũng thay đổi tính năng, công dụng của một số khoáng

sản. Các loại năng lượng tái tạo như năng lượng mặt trời, sức gió thường không ổn

định và để khắc phục vấn đề này, người ta thường dùng các tụ điện để tích trữ điện

năng. Gần đây với công nghệ siêu tụ điện bằng việc sử dụng đất hiếm để tạo ra điện

tích chuyển động bằng từ trường, thay cho các phản ứng hóa học đã gia tăng khả

năng tích trữ điện năng. Đất hiếm đang là nguyên liệu chiến lược cho các ngành

công nghệ cao và công nghiệp xanh có giá trị gia tăng cao.

Công nghệ thông tin phát triển nhanh chóng và đang trở thành trụ cột chính trong

phát triển kinh tế – xã hội ở nhiều nước. Công nghệ GIS (hệ thống thông tin địa lý)

và phần mềm GIS mapInfor phục vụ cho công tác quan trắc địa – địa chất mỏ, quản

lý ranh giới mỏ và tính toán trữ lượng.

Tóm lại, với những tiến bộ về công nghệ, thiết bị cho phép công nghiệp khai thác

khoáng sản từng bước giảm thiểu các tác động tiêu cực tới môi trường, tăng hiệu

118

quả kinh tế của khai thác mỏ, thay đổi tính năng của một số loại khoáng sản.

b) Hội nhập kinh tế quốc tế

Hội nhập kinh tế là cơ hội để thu hút các nhà đầu tư nước ngoài có tiềm lực về

vốn, công nghệ hiện đại và thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao, các chuyên gia

kỹ thuật vào ngành công nghiệp khai khoáng.

Khi thực hiện Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC) (từ năm 2016), việc di chuyển

lao động tự do trong khu vực là điều kiện thuận lợi để có thể thu hút nguồn nhân lực

chất lượng cao phục vụ khai thác khoáng sản.

Các Hiệp định TPP và FTA Việt Nam–EU được đánh giá là hiệp định thương

mại tự do thế hệ mới, bảo đảm sự di chuyển tự do ở mức độ cao hơn của hàng hóa,

dịch vụ, vốn và công nghệ. Việc Việt Nam tham gia các hiệp định này – nơi các nền

kinh tế phát triển ở trình độ cao (EU, Mỹ, Nhật Bản,..) – tạo điều kiện cho nền kinh

tế nói chung và ngành công nghiệp khai khoáng nói riêng thu hút các công nghệ

nguồn và các ngành công nghiệp hiện đại góp phần thúc đẩy và tạo ra nhu cầu chế

biến sâu khoáng sản.

Tuy nhiên, TPP và FTA Việt Nam–EU cũng đưa ra các tiêu chuẩn cao hơn đối

với bảo vệ môi trường và đảm bảo các điều kiện an toàn, vệ sinh lao động cho

người lao động, nguồn gốc xuất xứ đối với các sản phẩm khai thác từ tự nhiên. Đây

là các ràng buộc để tài trợ vốn và/hoặc tiêu thụ sản phẩm, tham gia vào chuỗi sản

xuất. Bên cạnh đó, TPP và FTA Việt Nam–EU cũng đặt ra các yêu cầu về minh

bạch, cạnh tranh bình đẳng và điều này đòi hỏi nâng cao tính minh bạch đối với

ngành công nghiệp khai khoáng và cải cách doanh nghiệp nhà nước (DNNN) trong

lĩnh vực này.

4.1.1.3. Xu hướng thế giới về chuyển hướng sang các mô hình tăng trưởng xanh

Kinh tế xanh ra đời và ngày càng được quan tâm và phát triển. Đây được xem là

phương thức mới, góp phần giải quyết những thách thức mang tính toàn cầu như

biến đổi khí hậu, cạn kiệt tài nguyên,...

Trong quá trình chuyển sang mô hình kinh tế xanh, nhằm giải quyết vấn đề mang

tính toàn cầu như môi trường và biến đổi khí hậu, các nước tăng cường hợp tác

trong nhiều lĩnh vực như: hợp tác trong R & D và chuyển giao công nghệ, hợp tác

119

về huy động và đóng góp nguồn lực, hợp tác về chia sẻ kinh nghiệm,... Trong các

xu hướng này, tăng cường hợp tác quốc tế mở ra cơ hội để tiếp cận, chia sẻ kinh

nghiệm trong việc giải quyết những vấn đề về tài nguyên, môi trường và hỗ trợ tài

chính, kỹ thuật cho việc thực hiện TTX. Bên cạnh đó, các xu hướng về hợp tác quốc

tế tạo điều kiện thuận lợi cho nhập khẩu các máy móc thiết bị, công nghệ tiên tiến

để thực hiện các mô hình sản xuất xanh.

Nhằm hướng tới nền kinh tế xanh, nhiều nước đang từng bước giảm phụ thuộc

vào nhiên liệu hóa thạch, chuyển sang sử dụng các loại năng lượng mới, năng

lượng tái tạo, phát triển công nghệ sạch, sản xuất tiết kiệm năng lượng và giảm

phát thải carbon [55]. Khi chuyển hướng sang tăng trưởng xanh, không ít quốc gia

sẽ dịch chuyển các ngành sản xuất thâm dụng tài nguyên, các ngành ô nhiễm môi

trường sang các nước khác. Để tránh là nạn nhân của xu hướng này, Việt Nam cần

phải đẩy nhanh chuyển sang các ngành sản xuất “sạch hơn” nhằm hạn chế việc khai

thác tài nguyên (trong đó có khoáng sản), xóa bỏ trợ giá đối với năng lượng và các

loại nhiên liệu hóa thạch; đồng thời, áp dụng thuế ô nhiễm môi trường đối với việc sử

dụng các loại tài nguyên.

4.1.2. Bối cảnh trong nước

4.1.2.1. Biến đổi khí hậu và các nguy cơ đối với khai thác khoáng sản

Việt Nam được đánh giá là một trong năm quốc gia chịu ảnh hưởng nặng nề nhất

của biến đổi khí hậu (BĐKH). Những biểu hiện của BĐKH đó là sự gia tăng về tần

suất, cường độ, quy mô, phạm vi ảnh hưởng của các hiện tượng cực đoan của thời

tiết (bão, lũ, khô hạn, triều cường, …). Theo các kịch bản BĐKH, vào cuối thế kỷ

21, nhiệt độ trung bình năm ở nước ta tăng khoảng 2 – 30C, tổng lượng mưa năm và

lượng mưa mùa mưa tăng, trong khi đó lượng mưa mùa khô lại giảm, mực nước

biển có thể dâng khoảng từ 75 cm đến 1m so với thời kỳ 1980 – 1999.

Với nền kinh tế phụ thuộc lớn vào khai thác tài nguyên như nước ta, BĐKH làm

cho nền kinh tế dễ bị tổn thương và gây ra các sự cố về môi trường. Đối với khai

thác khoáng sản, BĐKH có thể gây tác động theo nhiều phương thức khác nhau.

– Đặc điểm của các mỏ khoáng sản tại Việt Nam là phân bố ở những nơi có địa

120

hình không thuận lợi, dễ sạt lở mỗi khi mưa lũ. BĐKH có thể tạo nên những đợt

mưa lũ bất thường, từ đó tạo ra nguy cơ về các sự cố đối với khai thác khoáng sản

và các vấn đề về môi trường.

– BĐKH tác động đến hệ sinh thái như hệ sinh thái rừng, hủy hoại nhiều loại sinh

vật,... Cùng với đó là các tác động của khai thác khoáng sản tới tài nguyên, môi

trường và BĐKH. Tổ hợp của những nhân tố này làm cho vấn đề tài nguyên và môi

trường ở nước ta trong giai đoạn tới có nguy cơ trở nên nghiêm trọng hơn.

Từ những vấn đề nêu trên cho thấy yêu cầu đặt ra là: tổ chức thực hiện điều tra,

nghiên cứu các diễn biến, mức độ của BĐKH; trong các quy hoạch khai thác

khoáng sản phải tính tới BĐKH để cân nhắc quyết định liệu có nên tiến khai thác

khoáng sản ở một địa điểm nào đó hay không; đối với các dự án đang khai thác phải

có các phương án phòng tránh đối với từng vùng mỏ, từng loại khoáng sản.

4.1.2.2. Cam kết của Việt Nam về giảm phát thải khí nhà kính tại Hội nghị COP21

Hội nghị Công ước khung của Liên hợp quốc về chống BĐKH lần thứ 21

(COP21) diễn ra tháng 12/2015 tại Paris (Pháp) đã đạt được thỏa thuận mang tính

lịch sử. Theo đó, 196 nước tham gia Hội nghị thống nhất việc giới hạn nhiệt độ tăng

dưới mức 20C (và nỗ lực cho một mục tiêu tham vọng hơn là 1,50C) vào thời điểm

cuối thế kỷ XXI so với thời điểm tiền công nghiệp (1880). Thỏa thuận khí hậu này

sẽ giúp thế giới chuyển sang một giai đoạn năng lượng sạch và ngăn chặn những

hậu quả tồi tệ do BĐKH.

Nhận thức được những tác động của BĐKH đến PTBV của đất nước, trong thời

gian qua, Việt Nam đã có những cam kết và hành động mạnh mẽ nhằm ứng phó với

BĐKH. Tại Hội nghị COP21, Việt Nam đã cam kết sẽ thực hiện giảm phát thải so

với kịch bản cơ sở là 8% lượng phát thải khí nhà kính vào năm 2030 và có thể giảm

đến 25% nếu nhận được hỗ trợ hiệu quả từ cộng đồng quốc tế. Nhằm góp phần đặt

được các mục tiêu theo cam kết COP21, ngày 19/1/2016, Chính phủ bàn về chủ

trương điều chỉnh Quy hoạch điện VII theo hướng giảm sản xuất nhiệt điện, thay

vào đó, tăng cường sản xuất điện từ các loại năng lượng sạch, năng lượng tái tạo.14

14 http://vpcp.chinhphu.vn/Home/Thu-tuong-hop-thuong-truc-Chinh-phu-ve-Quy-hoach-dien-va-than/20161/17942.vgp 121

Trước yêu cầu như vừa nêu, vấn đề đặt ra đối với khai thác khoáng sản là:

– Sớm chấm dứt việc khai thác bừa bãi làm tổn hại tài nguyên và gây ô nhiễm

môi trường; tăng cường áp dụng các công nghệ khai thác, máy móc thiết bị chế biến

khoáng sản thân thiện với môi trường,...

– Đẩy mạnh thu gom, tái chế các chất thải của khai thác, chế biến khoáng sản

nhằm giảm thiểu tác động tiêu cực tới môi trường và góp phần giảm phát thải khí

nhà kính.

– Đi cùng với việc tăng cường công tác BVMT, trong quá trình khai thác khoáng

sản phải từng bước thay thế sản phẩm khoáng sản bằng các loại năng lượng mới,

năng lượng tái tạo, vật liệu mới,...

4.1.2.3. Tái cấu trúc, đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế gắn với tăng trưởng

xanh, phát triển bền vững

Trong bối cảnh các nguồn lực của tăng trưởng kinh tế (vốn, lao động) đã gần tới

hạn khả năng huy động, tài nguyên đang có xu hướng cạn kiệt và sức cạnh tranh của

nền kinh tế thấp, tụt hậu so với các nước; Chính phủ thực hiện tái cơ cấu nền kinh tế

theo hướng chuyển từ chiều rộng sang chiều sâu, nâng cao chất lượng, hiệu quả và

năng lực cạnh tranh của nền kinh tế. Đề án tái cấu trúc nền kinh tế, chuyển đổi mô

hình tăng trưởng đưa ra các định hướng phát triển:

– Đẩy mạnh tái cơ cấu các ngành công nghiệp theo hướng chuyển từ gia công

sang chế biến, tham gia sâu hơn vào chuỗi sản xuất toàn cầu; phát triển các ngành

công nghiệp có hàm lượng công nghệ cao, giá trị gia tăng lớn.

– Khuyến khích các ngành kinh tế sử dụng hiệu quả tài nguyên, từng bước giảm

cường độ sử dụng tài nguyên trong phát triển kinh tế.

– Tăng cường đổi mới công nghệ; nhất là công nghệ tiết kiệm nguyên liệu, năng

lượng, sử dụng hiệu quả tài nguyên thiên nhiên, giảm phát thải khí nhà kính; và phát

triển các dạng năng lượng tái tạo.

Việc thực hiện tái cấu trúc kinh tế với định hướng tăng cường đổi mới công nghệ

tạo thuận lợi cho khai thác khoáng sản thực hiện “xanh hóa sản xuất”. Bên cạnh đó,

với chủ trương phát triển các ngành sản xuất mới có khả năng tạo cơ hội giảm áp

122

lực khai thác khoáng sản.

Với việc đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế, khai thác khoáng sản cần hướng

tới mục tiêu nâng cao đóng góp vào phát triển, nói cách khác, tạo ra giá trị gia tăng

lớn hơn. Theo đó, việc khai thác khoáng sản phải đi cùng với phát triển các ngành

công nghiệp chế biến, ngành có công nghệ cao để đạt mục tiêu tăng tỷ phần trong

chuỗi giá trị. Đồng thời, sử dụng nguồn thu từ khai thác khoáng sản để đóng góp

vào phát triển bằng việc đầu tư vào vốn con người, vốn tài nguyên,...

4.1.3. Cơ hội, thách thức đối với khai thác khoáng sản trong giai đoạn tới

4.1.3.1. Cơ hội

Trong giai đoạn tới, việc khai thác khoáng sản có một số cơ hội sau đây:

– Khoa học – công nghệ mang lại những cơ hội để chế biến sâu, tạo ra nhiều sản

phẩm khác nhau từ các sản phẩm khoáng sản, từ đó nâng cao giá trị gia tăng, năng

suất tài nguyên. Khoa học – công nghệ có thể thay đổi tính năng của một số khoáng

sản hay tạo ra nhiều loại năng lượng mới, vật liệu mới (năng lượng tái tạo, vật liệu

composit,...) có khả năng thay thế các sản phẩm khoáng sản, điều này có thể thay

đổi trong các chính sách về khai thác khoáng sản.

– Toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế mang lại cơ hội để nhập khẩu những

loại khoáng sản mà trong nước sản xuất với giá thành cao hơn, hoặc các loại khoáng

sản mà trong nước chưa đủ năng lực để khai thác, hoặc thậm chí là nhập khẩu sản

phẩm từ nước ngoài nhằm thực hiện chính sách dự trữ trong nước. Hội nhập kinh tế

quốc tế cũng mang lại những cơ hội để giải quyết những khó khăn của ngành công

nghiệp khai khoáng trong nước (vốn, công nghệ, nhân lực chất lượng cao,...).

4.1.3.2. Thách thức

Trong giai đoạn tới, việc khai thác khoáng sản sẽ gặp một số thách thức sau:

a) Các áp lực đối với khai thác khoáng sản do các nhu cầu tất yếu về sản phẩm

khoáng sản

Việc gia tăng khai thác và sử dụng các loại tài nguyên thiên nhiên chịu sự chi

phối của gia tăng dân số và phát triển kinh tế. Công nghiệp hóa và đô thị hóa, áp lực

gia tăng dân số có xu hướng kéo theo việc gia tăng khai thác và sử dụng các nguyên

liệu, vật liệu (Hình 4 – Phụ lục). Công nghiệp hóa, hiện đại hóa tất yếu đòi hỏi xây

123

dựng hệ thống kết cấu hạ tầng. Kết cấu hạ tầng, nhất là hạ tầng giao thông, được

xác định là một trong ba ưu tiên chiến lược trong tiến trình công nghiệp hóa ở Việt

Nam. trong giai đoạn tới, sự gia tăng khai thác các loại vật liệu xây dựng nhằm

phục vụ cho nhu cầu xây dựng hạ tầng như nhà cửa, đường xá,… Dân số gia tăng

tất yếu dẫn đến nhu cầu khai thác các loại khoáng sản, nhất là nhóm khoáng sản

VLXD, để xây dựng cơ sở hạ tầng; đồng thời, dân số gia tăng cũng kéo theo nhu

cầu về giải quyết việc làm và khai thác khoáng sản là một kênh để tạo ra việc làm.

b) Thách thức do các nguồn lực thiếu và yếu

– Thách thức từ năng lực, trình độ chuyên môn của nguồn nhân lực

Năng lực chuyên môn của đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước về tài nguyên và

môi trường vẫn còn hạn chế, nhất là ở các cấp cơ sở (Bảng 13 – Phụ lục); thậm chí,

chưa đủ năng lực giám sát về hành chính, kỹ thuật, đặc biệt là về môi trường và tổn

thất tài nguyên. Đối với các doanh nghiệp khai khoáng, các số liệu từ Bảng 5 – Phụ

lục thể hiện những yếu kém, hạn chế về chất lượng nguồn nhân lực. Không ít doanh

nghiệp trong lĩnh vực này hiện vẫn thiếu công nhân lành nghề, công nhân có tay

nghề cao; thiếu cả cán bộ đầu đàn, cán bộ chuyên môn kỹ thuật và nhất là trong lĩnh

vực chế biến khoáng sản. Những hạn chế về chuyên môn, tay nghề của công nhân

có nguy cơ dễ bị tai nạn lao động và thách thức cho việc ứng dụng các công nghệ,

máy móc thiết bị khai thác hiện đại.

– Thách thức về nguồn vốn cho việc thực hiện tăng trưởng xanh

Việc đầu tư cho công nghệ, máy móc thiết bị khai thác khoáng sản hiện đại, thân

thiện với môi trường đòi hỏi có lượng vốn lớn. Theo ước tính của Bộ Kế hoạch và

Đầu tư, Việt Nam cần số vốn khoảng 30 tỷ USD để thực hiện chiến lược tăng

trưởng xanh vào năm 2020. Đây sẽ là thách thức không nhỏ, nhất là trong bối cảnh

bội chi ngân sách, nợ công đã tới ngưỡng cho phép.

Các số liệu từ Bảng 4 – Phụ lục cho thấy các doanh nghiệp khai khoáng có quy

mô vốn vẫn còn thấp và không đáp ứng đủ nhu cầu đầu tư; trong khi đó, nhu cầu

vốn đầu tư rất lớn để phát triển các mỏ mới, đầu tư đổi mới và hiện đại hóa công

nghệ thiết bị tại các cơ sở sản xuất hiện có.

124

c) Thách thức do điều kiện khai thác ngày càng khó khăn hơn

– Trong khi gặp những thách thức về nguồn lực cho việc khai thác thì điều kiện

khai thác ngày càng khó hơn do những mỏ thuận lợi đã được khai thác trước hoặc

những mỏ hiện đang khai thác phải khai thác xuống sâu hơn (các mỏ hầm lò). Bên

cạnh đó, thiên tai, thời tiết và biến đổi khí hậu làm ảnh hưởng tới sản xuất, ảnh

hưởng tới hạ tầng giao thông,... Hệ quả của những vấn đề này là gia tăng chí phí sản

xuất, giá thành sản phẩm, từ đó ảnh hưởng tới hiệu quả sản xuất kinh doanh và khả

năng cạnh tranh của các doanh nghiệp trong ngành.

d) Thách thức do cạnh tranh từ hội nhập kinh tế quốc tế

Sức ép cạnh tranh từ hội nhập kinh tế quốc tế đối với các sản phẩm khoáng sản,

sản phẩm chế biến từ khoáng sản. Khi hội nhập kinh tế quốc tế, giá thành trong

nước của một số sản phẩm khoáng sản khó cạnh tranh với các nước, chẳng hạn, các

doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu trong nước “quay lưng” với sản phẩm của Nhà

máy lọc dầu Dung Quất bởi hàng nhập khẩu từ Hàn Quốc rẻ hơn do mức thuế nhập

giảm 10%. Việc các sản phẩm chế biến từ khoáng sản (ví dụ sắt thép, xăng dầu) khó

cạnh tranh nên áp lực cho việc chế biến sâu khoáng sản và các doanh nghiệp chỉ tập

trung vào công đoạn khai thác mà ít chú ý tới công đoạn chế biến.

4.2. Quan điểm, định hướng về khai thác khoáng sản trong chiến lược tăng

trưởng xanh

4.2.1. Quan điểm về khai thác khoáng sản trong chiến lược tăng trưởng xanh

Tài nguyên khoáng sản là nguồn lực phục vụ cho quá trình phát triển đất

nước, đáp ứng nhu cầu của các ngành kinh tế trước mắt cũng như lâu dài; Bộ

Chính trị ban hành Nghị quyết số 02–NQ/TW ngày 25/4/2011 về định hướng

chiến lược khoáng sản và công nghiệp khai khoáng đến năm 2020, tầm nhìn đến

năm 2030 với 5 quan điểm, trong đó đáng chú ý:

– Khoáng sản là tài sản thuộc sở hữu toàn dân, do nhà nước thống nhất quản lý,

là nguồn lực quan trọng để phát triển kinh tế – xã hội đất nước, phải được điều tra,

thăm dò, đánh giá đúng trữ lượng và có chiến lược, quy hoạch, kế hoạch sử dụng

hiệu quả, góp phần vào tăng trưởng chung và bền vững của nền kinh tế.

– Tài nguyên khoáng sản nước ta đa dạng về chủng loại; một số khoáng sản có

125

tài nguyên, trữ lượng lớn, do vậy cần phải hình thành một số ngành công nghiệp

khai thác chế biến quy mô công nghiệp với thời gian lâu dài (như: dầu khí, bôxit,

titan, đất hiếm, apatit, đá nguyên liệu xi măng, đá ốp lát v.v…). Tuy nhiên, khoáng

sản là tài nguyên không tái tạo nên phải được quản lý, bảo vệ, khai thác sử dụng

hợp lý, tiết kiệm, có hiệu quả.

– Việc khai thác tài nguyên khoáng sản phải tính đến nhu cầu trước mắt cũng

như lâu dài của đất nước, có tính đến xu hướng tiến bộ của KHCN trong lĩnh vực sử

dụng công nghệ mới và vật liệu thay thế.

Trên cơ sở Nghị quyết 02 của Bộ Chính trị; ngày 22/12/2011, Chính phủ đã ban

hành Nghị quyết số 103/NQ–CP về Chương trình hành động của Chính phủ thực

hiện Nghị quyết 02–NQ/TW và Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số

2427/QĐ–TTg về phê duyệt chiến lược khoáng sản đến năm 2020, tầm nhìn 2030.

Chiến lược khoáng sản đã đề cập các định hướng về khai thác các nhóm khoáng sản

và các yêu cầu khai thác gắn với chế biến, BVMT.

Căn cứ vào những quan điểm chung và các định hướng phát triển cho thời gian

tới, luận án đề xuất một số quan điểm cụ thể nhằm chuyển hoạt động khai thác

khoáng sản theo hướng tăng trưởng xanh như sau đây.

4.2.1.1. Hạn chế dần việc khai thác khoáng sản, thực hiện có hiệu quả các giải pháp

nhằm tăng cường dự trữ khoáng sản phục vụ sử dụng lâu dài của các ngành kinh tế

Tài nguyên khoáng sản là một trong những nguồn lực để phát triển kinh tế, cộng

với việc nước ta trong điều kiện thiếu vốn, không ít nhà nghiên cứu cho rằng Việt

Nam nên khai thác khoáng sản để tạo đà phát triển đất nước. Dựa trên các phân tích

ở chương 3, luận án cho rằng nên tăng cường dự trữ khoáng sản cho tương lai, quan

điểm này được đưa ra dựa trên một số lập luận sau đây:

Thứ nhất, khoáng sản là loại tài nguyên không tái tạo, khi còn ở trong lòng đất nó

được bảo tồn tại vị, là nguồn nguyên liệu dữ trữ cho tương lai. Ở trong lòng đất, giá

trị của nó chẳng những không giảm đi theo thời gian, mà ngược lại, có xu hướng

ngày càng tăng lên bởi nhu cầu sử dụng khoáng sản của xã hội ngày càng tăng trong

lúc đó tổng tài nguyên khoáng sản trên thế giới ngày càng giảm, càng khan hiếm.

Sự phát triển của công nghệ làm tăng giá trị của tài nguyên. Theo nghĩa đó, bảo vệ

126

và tiết kiệm tài nguyên là làm tăng giá trị quốc gia, góp phần nâng cao vị thế quốc gia.

Thứ hai, xu hướng quốc tế về tăng dự trữ khoáng sản: khoáng sản là tài nguyên

không tái tạo, có xu hướng ngày càng cạn kiệt. Với xu hướng tăng trưởng cao của

kinh tế thế giới hiện đại, mức độ khan hiếm tài nguyên ngày càng tăng nhanh.

Chính vì vậy, các nước trên thế giới bằng những cách thức khác nhau để tăng cường

dự trữ khoáng sản nhằm phục vụ nhu cầu trong tương lai.

Thứ ba, vì nhu cầu sử dụng của nền kinh tế trong tương lai: nếu khai thác tài

nguyên khoáng sản, song việc khai thác chủ yếu được xuất khẩu ở dạng thô có nguy

cơ đẩy nhanh tốc độ “chảy máu tài nguyên”. Hệ quả là khi các ngành công nghiệp

của đất nước phát triển thì tài nguyên cũng không còn. Nước ta mới ở giai đoạn đầu

của quá trình công nghiệp hóa, nhu cầu các loại nguyên nhiên vật liệu, năng lượng

ngày càng tăng cao nên phải có các chính sách để dự trữ.

Thứ tư, bản thân nhiều loại khoáng sản hiện nay trong nước chưa đủ năng lực và

công nghệ để chế biến sâu và kiểm soát, xử lý những vấn đề về môi trường. Điển

hình như khai thác bôxit ở Tây Nguyên, Việt Nam mới lần đầu khai thác và các

công nghệ khai thác, chế biến phải nhập khẩu từ Trung Quốc và vừa làm, vừa học

hỏi và làm quen với công nghệ. Hơn nữa, nguồn vốn đầu tư của các doanh nghiệp

khoáng sản còn hết sức hạn hẹp, trong khi đầu tư cho chế biến sâu đòi hỏi nhu cầu

vốn rất cao. Khi chưa hội đủ các điều kiện cho việc khai thác, chế biến các loại

khoáng sản và nhu cầu chưa cấp thiết, cách khôn ngoan là tiết kiệm, dự trữ cho các

thế hệ tương lai.

Thứ năm, tăng trưởng dựa vào khai thác tài nguyên nói chung và tài nguyên

khoáng sản nói riêng là phương thức tăng trưởng tốn kém (vốn, các đầu vào khác).

Hơn nữa, khai thác khoáng sản có nhiều tác động tới tài nguyên và môi trường.

Trong giai đoạn vừa qua, việc tăng trưởng kinh tế dựa vào khai thác khoáng sản đã

đánh đổi với sự cạn kiệt tài nguyên, gây ra các hậu quả về môi trường.

Việc thực hiện quan điểm này được thể hiện trên những khía cạnh sau đây:

– Các chủ trương, chính sách về sử dụng tiết kiệm và dự trữ khoáng sản luôn

được Nhà nước quan tâm, song trong thời gian qua, việc thực hiện vẫn còn tồn tại,

hạn chế. Theo đó, để phục vụ công tác quản lý và khai thác khoáng sản đạt hiệu

127

quả, trước mắt cần tiến hành rà soát và đánh giá tổng thể về tình hình thực hiện các

quy hoạch khai thác khoáng sản. Đồng thời, bổ sung, điều chỉnh các chiến lược, quy

hoạch của các loại khoáng sản đã có. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc

thực hiện các chiến lược, quy hoạch khoáng sản. Đi cùng với đó, nâng cao chất

lượng lập các quy hoạch về thăm dò, khai thác và chế biến khoáng sản trong giai

đoạn tới.

– Đẩy nhanh tiến độ lập, phê duyệt khu vực cấm hoạt động khoáng sản (gồm khu

vực nhạy cảm về an ninh quốc phòng, các khu vực cần bảo tồn đa dạng sinh học và

các giá trị văn hóa). Việc chậm tiến độ hiện nay là do công tác lập quy hoạch các

khu vực cấm hoạt động khoáng và chậm do từ phía các cơ quan có liên quan (Quốc

phòng, Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Văn hóa và Du lịch,...) trong việc

đóng góp các ý kiến.

– Đối với các loại khoáng sản nhiên liệu hóa thạch và các loại khoáng sản VLXD

do nhu cầu khách quan của nền kinh tế (đảm bảo an ninh năng lượng và xây dựng

cơ sở hạ tầng) cần duy trì sản lượng khai thác như hiện nay, song từng bước chuyển

sang khai thác các loại năng lượng tái tạo, vật liệu mới. Đối với khoáng sản kim

loại, cần xem xét tạm dừng cấp giấy phép khai thác khoáng sản đối với một số loại

khoáng sản quý hiếm, khả năng chế biến sâu còn hạn chế, nhu cầu sử dụng chưa cao.

– Quản lý chặt việc xuất khẩu khoáng sản nhằm hạn chế thất thoát nguồn tài

nguyên quốc gia hoặc chỉ cho phép xuất khẩu các loại khoáng sản đã qua chế biến

sâu để nâng cao giá trị gia tăng qua đó nâng cao đóng góp của khai thác khoáng sản.

– Việc dự trữ khoáng sản không có nghĩa là cắt giảm sử dụng, đi cùng với đó là

bổ sung khoáng sản từ bên ngoài nhằm phục vụ nhu cầu sử dụng ở trong nước.

Chính vì vậy, nhà nước cần xây dựng chính sách về nhập khẩu khoáng sản, trước

mắt là chiến lược nhập khẩu than. Khẩn trương xây dựng và ban hành các chính

sách ưu đãi các doanh nghiệp đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực khoáng sản, nhất

là chính sách bảo lãnh mua quyền khai thác mỏ.

– Phát triển các loại sản phẩm thay thế sản phẩm khoáng sản: i) các loại năng

lượng mới, năng lượng tái tạo để thay thế các loại nhiên liệu hóa thạch (than đá, dầu

128

mỏ); ii) các loại vật liệu mới thay thế các loại nguyên liệu khoáng cung cấp cho các

ngành công nghiệp, ngành xây dựng; iii) các loại sản phẩm, các loại vật liệu mới

thay thế sản phẩm khoáng phục vụ sản xuất và đời sống.

4.2.1.2. Hài hòa lợi ích kinh tế với bảo vệ tài nguyên, môi trường và tiến bộ, công

bằng xã hội

Trong thời gian qua, vì mục tiêu phát triển kinh tế, trong khai thác khoáng sản đã

có chính sách cấp phép khai thác tận thu và tận khai, trong khi xem nhẹ yếu tố môi

trường; thậm chí, một số mỏ đã khai thác xong, song được cấp phép để khai thác lại

nhằm thu hồi các khoáng sản còn sót lại. Chẳng hạn, tại khu vực khai thác titan trên

địa bàn xã Mỹ Thành (huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định), một số khu vực đã khai thác

xong và đã trồng cây nhằm phục hồi môi trường, nhưng tỉnh cấp phép cho một số

công ty khác tiến hành khai thác lại để tận thu khoáng sản ở tầng sâu hơn.15 Lợi ích

từ khai thác tận thu titan chỉ phục vụ cho một số người là chủ các doanh nghiệp khai

khoáng (Hình 1 – Phụ lục), ô nhiễm môi trường gây ra cho cộng đồng, thậm chí trên

diện rộng như việc khai thác titan đã thu hẹp diện tích rừng phòng hộ ven biển làm

ảnh hưởng tới khả năng chắn cát bay, ngăn sóng biển gây ra nguy cơ sạt lở dọc theo

bờ biển.

Tăng trưởng xanh là mô hình tăng trưởng có sự hài hòa giữa kinh tế và bảo vệ tài

nguyên, môi trường. Theo đó, trong thời gian tới cần sớm chấm dứt tình trạng khai

thác khoáng sản một cách bừa bãi gây thất thoát tài nguyên, suy thoái môi trường;

chuyền dần từ tư duy khai thác tận thu, tận khai sang khai thác gắn với nuôi dưỡng

tài nguyên, môi trường.

4.2.1.3. Việc khai thác khoáng sản cần dựa trên cơ sở đổi mới, hiện đại hóa công

nghệ, áp dụng các công nghệ tiên tiến, thân thiện với môi trường

Khoa học – công nghệ không chỉ để thực hiện tăng trưởng xanh mà còn có các

tác động lan tỏa góp phần thúc đẩy tái cấu trúc, đổi mới mô hình tăng trưởng. Chiến

lược phát triển bền vững Việt Nam đã nêu rõ: “khoa học và công nghệ là nền tảng

và động lực cho phát triển bền vững. Công nghệ hiện đại, sạch và thân thiện với

15 Khảo sát của tác giả tại tỉnh Bình Định, tháng 10/2012. 129

môi trường cần được ưu tiên sử dụng rộng rãi trong các ngành sản xuất”. Việc thực

hiện khai thác khoáng sản theo hướng tăng trưởng xanh, các công nghệ cần ưu tiên

tập trung gồm:

Công nghệ khai thác: Áp dụng các công nghệ khai thác tiên tiến để có thể giảm

các động tới tài nguyên và môi trường. Sử dụng và thay thế các máy móc thiết bị

khai thác hiện đại để có thể thu hồi tối đa khoáng sản chính và khoáng sản đi kèm,

đồng thời hạn chế ảnh hưởng tới môi trường.

Về bảo vệ môi trường: Áp dụng công nghệ thu gom và xử lý các chất thải của

quá trình khai thác, chế biến khoáng sản. Khoa học công nghệ không chỉ tạo ra các

công nghệ, máy móc thiết bị để xử lý vấn đề môi trường mà có thể biến các loại rác

thải, phế thải trở thành các đầu vào sản xuất. Để tăng trưởng xanh cần nâng cao hiệu

suất và hiệu quả sử dụng năng lượng, giảm mức tiêu hao năng lượng trong hoạt

động sản xuất thông qua việc áp dụng quy trình quản lý, vận hành tiên tiến.

– Các công nghệ phục vụ quản lý nhà nước về khai thác khoáng sản gắn với bảo

vệ môi trường: Xây dựng thông tin và số hóa các thông tin của từng mỏ (giấy phép

khai thác, báo cáo ĐTM) và hệ thống thông tin trực tuyến, định vị về các mỏ (dạng

goople map) phục vụ cho việc quản lý và tra cứu thông tin để phục vụ cho việc

quản lý và giám sát tốt hơn các hoạt động khai thác tại hiện trường. Với việc thu

ngân sách đối với khai thác khoáng sản dựa vào cơ chế tự khai báo sản lượng của

doanh nghiệp (kèm theo đó là trách nhiệm về BVMT) sẽ phụ thuộc vào việc khai

báo trung thực của doanh nghiệp. Đi cùng với việc tăng cường công tác quản lý

cũng cần ứng dụng các công nghệ để giám sát sản lượng dưới dạng hệ thống định vị

GPS để xác định tải trọng và lịch trình của các xe vận chuyển khoáng sản.

4.2.1.4. Thể chế hiện đại là điều kiện hết sức quan trọng cho việc thực hiện khai

thác khoáng sản trong chiến lược tăng trưởng xanh

a) Đẩy mạnh hơn nữa dựa theo cơ chế thị trường đối với việc thực hiện khai thác

khoáng sản

– Tăng cường công tác đấu giá đối với quyền khai thác khoáng sản: Chiến lược

phát triển bền vững Việt Nam nêu ra định hướng về thay đổi cơ chế quản lý đối với

khai thác khoáng sản; theo đó, xóa bỏ cơ chế “xin – cho” trong khai thác khoáng

130

sản, thực hiện quản lý tài nguyên khoáng sản theo cơ chế thị trường thông qua “đấu

giá” hoặc “đấu thầu” khai thác mỏ khoáng sản. Luật Khoáng sản năm 2010 cũng đã

có các quy định về đấu giá quyền khai thác khoáng sản. Tuy nhiên, các cơ chế, quy

trình hiện có chưa thực sự tạo ra sự cạnh tranh quyết liệt giữa các doanh nghiệp

trong việc giành quyền khai thác khoáng sản. Khu vực đấu giá có thể thực hiện theo

phương pháp thông qua hội đồng đấu giá hoặc tổ chức đấu giá chuyên nghiệp, tức là

tạo ra sự tùy tiện và kém minh bạch. Kinh nghiệm từ thực tiễn nhiều lĩnh vực cho

thấy, việc đấu giá được thực hiện qua tổ chức đấu giá chuyên nghiệp thường đảm

bảo tính minh bạch và cạnh tranh lành mạnh giữa các đơn vị tham gia đấu giá.

– Đổi mới, hoàn thiện các công cụ kinh tế đối với khai thác khoáng sản gắn với

BVMT: Đẩy mạnh áp dụng các công cụ kinh tế nhằm thực hiện có hiệu quả Luật

khoáng sản năm 2010 và nhằm khuyến khích ứng dụng các công nghệ tiên tiến vào

khai thác, chế biến khoáng sản và tuân thủ các quy định về BVMT. “Xanh hóa hệ

thống thuế, phí” thông qua việc mở rộng loại hình thuế, phí và đối tượng nộp thuế,

phí liên quan đến môi trường trên nguyên tắc “người gây ô nhiễm phải trả tiền”.

b) Có sự tham gia của nhiều bên có liên quan vào quản trị khai thác khoáng sản

Quan điểm này được đưa ra dựa trên một số cơ sở sau đây:

Thứ nhất, các nội dung đã phân tích ở chương 2 đã chỉ ra “lời nguyền tài

nguyên” có một phần do vấn đề quản trị khai thác khoáng sản, đó là: thiếu sự

minh bạch, trách nhiệm giải trình và sự tham gia của các bên liên quan. Để nâng

cao năng lực và chất lượng quản trị, tức là chất lượng thể chế và sự hiệu quả của nó,

đòi hòi phải tăng cường minh bạch và trách nhiệm giải trình đối với công nghiệp

khai khoáng. Tuy nhiên, minh bạch và trách nhiệm giải trình mới chỉ là điều kiện

cần, điều kiện đủ phải là sự tham gia của các bên liên quan (stakeholders) vào quá

trình quản trị. Như vậy, để thực hiện và thực hiện có hiệu quả các giải pháp là sự

tham gia của công chúng vào quá trình ra quyết định, xây dựng và giám sát việc

thực thi các chính sách, pháp luật về khai thác khoáng sản.

Thứ hai, Chính phủ đang có chủ trương từng bước cắt giảm biên chế trong bộ

máy hành chính và chủ trương cắt giảm đầu tư công, các nguồn lực dành cho việc

mua sắm các trang thiết bị và cho công tác giám sát có nguy cơ thu hẹp. Hơn nữa,

131

ngay cả khi không cắt giảm nhân lực trong bộ máy hành chính, với cách tổ chức bộ

máy quản lý nhà nước như hiện nay và với đặc điểm phân bố của tài nguyên khoáng

sản Việt Nam, nếu không có sự tham gia của cộng đồng thì khó có thể giám sát đầy

đủ đối với các hoạt động khai thác khoáng sản và BVMT.

Quan điểm này thể hiện qua việc nhà nước cần có các cơ chế về sự tham gia

giám sát của công chúng vào xây dựng và thực hiện các chính sách theo các công

đoạn, chuỗi giá trị của khai thác khoáng sản. Sự tham gia của công chúng trong việc

giám sát, phản biện đối với quá trình cấp phép khai thác; giám sát các doanh nghiệp

khai thác theo đúng giấy phép, khai báo trung thực sản lượng khai thác và chấp

hành các quy định về BVMT, nghĩa vụ với nhà nước. Đặc biệt là có cơ chế để

người dân địa phương giám sát các doanh nghiệp chấp hành đầy đủ các quy định về

BVMT. Trong thời gian vừa qua, Việt Nam đã có những cơ chế để thúc đẩy sự

tham gia của công chúng, như quy chế dân chủ cơ sở, song cần có nhiều các quy

định hơn nữa và/ hoặc tiếp tục hoàn thiện các quy định hiện hành.

4.2.1.5. Việc thực hiện khai thác khoáng sản trong chiến lược tăng trưởng xanh cần

dựa vào toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế

Hội nhập kinh tế quốc tế là cơ hội để giải quyết những hạn chế ở trong nước về

vốn, chất lượng nguồn nhân lực và KHCN. Theo đó, việc khai thác khoáng sản cần

dựa vào toàn cầu hóa để huy động các nguồn lực (máy móc thiết bị, chuyên gia kỹ

thuật) và nâng cao năng suất tài nguyên thông qua việc tham gia vào chuỗi sản xuất

khu vực, toàn cầu.

Đối với những loại khoáng sản cần phải khai thác phục vụ nhu cầu của nền kinh

tế và trong điều kiện công nghệ trong nước chưa đủ khả năng cần tiến hành, liên

doanh với các nhà đầu tư nước ngoài, nhất là các doanh nghiệp có nguồn lực tài

chính, kinh nghiệm khai thác chế biến khoáng sản và có kinh nghiệm tiếp cận thị

trường thế giới.

Dựa vào toàn cầu hóa để các doanh nghiệp khai khoáng trong nước thu hút các

chuyên gia khai thác mỏ từ nước ngoài và/hoặc thuê chuyên gia nước ngoài cung

cấp các dịch vụ tư vấn về xử lý các vấn đề môi trường. Chẳng hạn, hiện nay tại mỏ

132

volfram ở tỉnh Thái Nguyên, Công ty Núi Pháo (doanh nghiệp của Việt Nam) đang

thuê các chuyên gia khai thác mỏ từ Úc nhằm giải quyết các vấn đề kỹ thuật khai

thác, tiếp cận thị trường thế giới và điều hành doanh nghiệp.

Nhằm nâng cao giá trị gia tăng, năng suất tài nguyên; việc khai thác, chế biến

khoáng sản hướng tới việc tham gia vào mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu, đồng

thời phấn đấu chiếm lĩnh các công đoạn có giá trị gia tăng cao trong chuỗi giá trị.

4.2.2. Định hướng về khai thác khoáng sản trong chiến lược tăng trưởng xanh

4.2.2.1. Định hướng về tài nguyên, môi trường

Nhằm góp phần đạt các mục tiêu đã đề ra trong chiến lược phát triển bền vững và

chiến lược tăng trưởng xanh đòi hỏi “xanh hóa” hoạt động khai thác khoáng sản cần

hướng tới và thực hiện: giảm tổn thất khoáng sản trong quá trình khai thác; giảm tác

động đến môi trường; thu gom, xử lý chất thải của quá trình khai thác, chế biến

khoáng sản; nâng cao hiệu suất và hiệu quả sử dụng các nguyên liệu và năng lượng

trong quá trình khai thác, chế biến khoáng sản. Mục tiêu này được thực hiện thông

qua việc thay đổi loại ngành lẫn công nghệ và tổ chức sản xuất.

Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh đề ra mục tiêu tiến tới nền kinh tế

cacbon thấp, làm giàu vốn tự nhiên trở thành xu hướng chủ đạo trong phát triển

kinh tế bền vững; giảm phát thải và tăng khả năng hấp thụ khí nhà kính trở thành

chỉ tiêu bắt buộc và quan trọng trong phát triển kinh tế – xã hội. Để góp phần đạt

mục tiêu này, hoạt động khai thác khoáng sản phải giảm thiểu các tác động tới môi

trường. Đồng thời, điều chỉnh quy trình kỹ thuật và cách tổ chức khai thác khoáng

sản, quy trình quản lý để hạn chế ảnh hưởng tới đa dạng sinh học, nhất là liên quan

tới đất rừng. Từng bước hạn chế khai thác, sử dụng các loại khoáng sản phát thải

nhiều khí CO2 nhằm góp phần giảm ảnh hưởng tới BĐKH.

Tăng trưởng xanh không chỉ đơn thuần là vấn đề giảm phát thải môi trường mà

nó được hiểu rộng hơn. Đó là một mô hình phát triển mới với chất lượng tăng

trưởng cao hơn với cơ cấu sản xuất và tiêu dùng hiện đại, bền vững và cải thiện đời

sống của con người. Theo đó, sự thay đổi cơ cấu kinh tế, phát triển các ngành sản

xuất mới liên quan tới khai thác khoáng sản bao gồm: i) Các ngành về công nghiệp

133

môi trường nhằm thu gom và xử lý các chất thải của khai thác khoáng sản; ii) phát

triển các ngành sản xuất ra các sản phẩm thay thế sản phẩm khoáng sản, qua đó

giảm việc khai thác khoáng sản và các áp lực đối với tài nguyên và môi trường.

4.2.2.2. Định hướng về hiệu quả kinh tế theo hướng tăng trưởng xanh

a) Hiệu quả của ngành công nghiệp khai khoáng

Hiệu quả của khai thác khoáng sản trước hết thể hiện ở các doanh nghiệp khai

khoáng; do đó, việc hướng tới tăng trưởng xanh, bản thân các doanh nghiệp có

những cải thiện nhằm cắt giảm các chi phí trong quá trình sản xuất kinh doanh qua

việc giảm tiêu hao nguyên, vật liệu và năng lượng. Đồng thời, nâng cao hiệu quả sử

dụng tài nguyên và giá trị gia tăng trên mỗi đơn vị khoáng sản đã khai thác; giảm

cường độ phát thải khí nhà kính trong quá trình khai thác, chế biến khoáng sản.

b) Nâng cao năng suất và giá trị gia tăng của khai thác khoáng sản

Nghị quyết số 02–NQ/TW ngày 25/4/2011 của Bộ Chính trị về định hướng

chiến lược khoáng sản đề ra mục tiêu nâng tỷ trọng ngành công nghiệp khai

khoáng trong GDP từ 10% lên tới 15 – 20% vào năm 2020 và tiếp tục tăng trong

những năm tiếp theo. Trong khi khoáng sản ngày càng cạn kiệt và với chính sách

dự trữ khoáng sản, để đáp ứng nhu cầu nguyên liệu của các ngành chế biến

khoáng sản, không có con đường nào khác là phải sử dụng tiết kiệm khoáng sản

khai thác trong nước, chế biến sâu nhằm tạo ra giá trị gia tăng lớn hơn đối với

đơn vị khoáng sản được khai thác.

Việc nâng cao năng suất và giá trị gia tăng của khai thác khoáng sản hướng vào

chế biến khoáng sản và phát triển theo chiều sâu, bao gồm: chế biến phục vụ cho

công đoạn tiếp theo dựa vào quy trình sản xuất của sản phẩm khoáng sản; chế biến

theo hướng đa dạng hóa sản phẩm; chế biến theo hướng tạo ra sản phẩm sạch thân

thiện với môi trường.

c) Đóng góp vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở địa phương nơi khai thác mỏ

Việc khai thác khoáng sản còn phải có tác dụng thúc đẩy phát triển các ngành

kinh tế ở những nơi có hoạt động khai thác khoáng sản. Các tác động lan tỏa từ khai

thác khoáng sản còn có ý nghĩa trong việc tạo thêm việc làm cho lao động tại những

134

địa phương nơi khai thác mỏ; góp phần vào giải quyết xóa đói giảm nghèo, qua đó

gián tiếp hạn chế người dân địa phương khai thác tài nguyên một cách bừa bãi gây

ảnh hưởng đến môi trường; và hạn chế các xung đột xã hội.

4.2.2.3. Định hướng về các vấn đề xã hội cần ưu tiên giải quyết

Khai thác khoáng sản có nguy cơ ảnh hưởng đến những vấn đề về xã hội như

xung đột xã hội, bất bình đẳng về thu nhập, biến đổi văn hóa, các tệ nạn xã hội,...

Khai thác khoáng sản theo hướng PTBV, TTX là sự hài hòa giữa các khía cạnh

kinh tế, môi trường và các vấn đề xã hội. Trên quan điểm tăng trưởng xanh, luận

án quan niệm rằng, đối với khai thác khoáng sản, các vấn đề xã hội cần ưu tiên

xem xét giải quyết là những vấn đề phát sinh do liên quan tới tài nguyên và môi

trường, đó là:

– Hạn chế các ảnh hưởng tiêu cực của khai thác khoáng sản tới cộng đồng địa

phương: khai thác, chế biến khoáng sản gây ra vấn đề về môi trường ảnh hưởng tới

sức khỏe, sinh kế của người dân; quá trình vận chuyển khoáng sản hủy hoại cơ sở

hạ tầng;... Các tác động này có thể gây ra các xung đột giữa người dân địa phương

với các doanh nghiệp khai khoáng, khiếu kiện tới các cấp chính quyền.

– Các xung đột xã hội, bất bình đẳng về thu nhập do việc bảo vệ quyền lợi của

người dân địa phương nơi có hoạt động khai thác khoáng sản và chia sẻ lợi ích từ

khai thác khoáng sản giữa các bên liên quan.

4.3. Các giải pháp về khai thác khoáng sản trong chiến lược tăng trưởng xanh

4.3.1. Các giải pháp đổi mới, hoàn thiện chính sách về khai thác khoáng sản

4.3.1.1. Đổi mới, hoàn thiện các chính sách, công cụ kinh tế, hành chính và chế tài

pháp luật về khai thác khoáng sản

a) Các chính sách tài chính đối với khai thác khoáng sản

– Hoàn thiện chính sách thuế tài nguyên đối với khai thác khoáng sản: Việc tính

thuế tài nguyên cần dựa theo địa tô chênh lệch, tính tới các điều kiện khai thác khác

nhau giữa các mỏ (về hầm lò – lộ thiên, công nghệ khai thác, hàm lượng quặng

trong mỏ, điều kiện cơ sở hạ tầng nơi khai thác). Điều này tạo sự công bằng trong

việc tính thuế giữa các mỏ quặng và khuyến khích các doanh nghiệp tận thu tối đa

135

các khoáng sản trong quá trình khai thác.

– Hoàn thiện các chính sách tài chính về BVMT: Nhằm nâng cao trách nhiệm và

ý thức BVMT của các doanh nghiệp khai khoáng cần tiếp tục hoàn thiện các công

cụ kinh tế đối với khai thác khoáng sản như thuế, phí, ký quỹ môi trường, phí

BVMT đối với các chất thải,… Các công cụ này cần tính đến mức độ ô nhiễm môi

trường như hệ số bóc đất đá trong khai thác lộ thiên, tỷ lệ thu hồi tinh quặng từ

quặng nguyên khai, thành phần chất gây ô nhiễm trong quặng, công nghệ khai thác.

Đồng thời, chính sách tài chính đối với các chất thải cần tính theo lũy tiến, theo đó,

doanh nghiệp phát thải càng nhiều thuế phải nộp càng lớn nhằm buộc các doanh

nghiệp giảm thiểu, tái sử dụng và tái chế chất thải trước khi thải ra môi trường.

Những sự điều chỉnh này nhằm đảm bảo nguyên tắc đánh thuế dựa trên mức độ

tác động tiêu cực tới môi trường của từng loại khoáng sản, tạo ra sự công bằng giữa

các doanh nghiệp và khuyến khích việc áp dụng các công nghệ tiên tiến, hiện đại

vào khai thác khoáng sản.

– Hoàn thiện các quy định về BVMT phù hợp với đặc thù của hoạt động khai

thác khoáng sản. Bổ sung và hoàn thiện các quy định về cải tạo, phục hồi môi

trường; quy trình, hạng mục cải tạo, phục hồi môi trường đối với từng loại hình khai

thác. Đề án cải tạo, phục hồi môi trường phải nêu cam kết về các chỉ tiêu chất lượng

môi trường, hệ sinh thái sau khi cải tạo, phục hồi.

b) Chính sách về khai thác khoáng sản gắn với bảo vệ môi trường

– Việc khai thác gắn với việc hạn chế ảnh hưởng tới đa dạng sinh học: Ngoại trừ

khai thác than, đặc điểm của khoáng sản nước ta và các loại khoáng sản chủ yếu là

khai thác lộ thiên. Tác động rõ nét nhất của các mỏ này là tàn phá mặt đất và phá

hoại cảnh quan, nhất là rừng và thảm thực vật. Vì vậy, nhằm giảm thiểu các tác

động tới môi trường cần ưu tiên đẩy mạnh nghiên cứu và áp dụng các công nghệ

khai thác đối với các mỏ khai thác lộ thiên nhằm giảm khối lượng đất đá thải, thu

hẹp diện tích bãi thải. Đổi mới, hoàn thiện quy trình khai thác nhằm tận dụng tối

đa các bãi thải trong hoặc khai thác cuốn chiếu.

– Chính sách khai thác các loại khoáng sản nhằm hạn chế phát thải khí nhà kính:

các loại khoáng sản VLXD đang được đẩy mạnh khai thác và việc khai thác, sử

136

dụng các loại nhiên liệu hóa thạch gây ô nhiễm môi trường, phát thải nhiều các loại

khí CO2. Trong các định hướng về khai thác VLXD vẫn tiếp tục khai thác nhằm đáp

ứng nhu cầu xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ nhu cầu công nghiệp hóa; tuy nhiên,

cần chấn chỉnh, tăng cường công tác quản lý và tiến tới hạn chế khai thác, dùng các

loại vật liệu mới để thay thế khoáng sản VLXD. Đối với khai thác cát lòng sông,

cần khoanh định khu vực khai thác và chấn chỉnh việc cấp phép, tăng cường công

tác quản lý nhà nước để tránh làm thay đổi dòng chảy, sạt lở bờ sông.

4.3.1.2. Đổi mới, kiện toàn bộ máy quản lý nhà nước về khai thác khoáng sản

Đề cao trách nhiệm và có chế tài giám sát, xử phạt để cơ quan cấp phép khai thác

có trách nhiệm giám sát việc thực hiện theo đúng giấy phép, có trách nhiệm quản lý

khai thác và thực hiện các nghĩa vụ BVMT. Không ít trường hợp, việc cấp phép

khai thác do cấp Trung ương thực hiện, song quản lý hoạt động khai thác và khai báo

sản lượng, thu ngân sách và quản lý BVMT hầu như “khoán trắng” cho địa phương.

Xác định rõ trách nhiệm của người đứng đầu trong việc bảo vệ khoáng sản chưa

khai thác, trong đó đề cao trách nhiệm của chính quyền cấp huyện, cấp xã tại những

nơi có khoáng sản chưa khai thác. Đi cùng với việc xác định rõ trách nhiệm trong

quản lý về khoáng sản và BVMT trong khai thác khoáng sản, cần xây dựng tiêu chí

đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ, trong đó lấy bền vững về tài nguyên và môi

trường làm thước đo chủ yếu.

Xây dựng quy chế phối hợp giữa các bộ, ngành và giữa các địa phương trong

việc giải quyết các vấn đề liên quan đến tài nguyên và môi trường trong lĩnh vực

khoáng sản nói riêng và khai thác tài nguyên thiên nhiên nói chung. Các lĩnh vực

phối hợp bao gồm: chấp hành các quy định về bảo vệ môi trường, khai thác và vận

chuyển khoáng sản, thực hiện các nghĩa vụ tài chính với nhà nước. Việc phối hợp

trong thực hiện nhiệm vụ (các tổ liên ngành) và chia sẻ thông tin có liên quan.

Tư duy “cát cứ hành chính” và “tư duy nhiệm kỳ” là rào cản lớn cho liên kết kết,

hợp tác giữa các địa phương trong việc khai thác và bảo vệ tài nguyên, môi trường,

trong đó có khoáng sản. Chính vì vậy, cần sớm xóa bỏ tình trạng cát cứ địa phương

trong phát triển kinh tế.

Theo các quy định hiện hành, UBND cấp tỉnh chỉ có thẩm quyền cấp phép khai

137

thác các mỏ nhỏ lẻ, khai thác tận thu và VLXD thông thường. Việc phân cấp cho

địa phương trong quản lý nhà nước về khoáng sản (theo thẩm quyền được phân cấp)

nên tiến hành như sau:

– Trước mắt, tiếp tục phân cấp cho UBND cấp tỉnh cấp phép khai thác các loại

khoáng sản theo quy định hiện hành, nhưng cần quy định những mỏ nếu ở khu vực

giáp ranh giữa hai tỉnh (ví dụ khai thác cát ở lòng sông) thì sẽ do Bộ TNMT cấp

phép (Luật Khoáng sản năm 2010 chưa có các quy định này). Điều này nhằm làm rõ

trách nhiệm quản lý hoạt động khai thác khoáng sản, quản lý BVMT.

– Phân cấp và tăng trách nhiệm của chính quyền địa phương trong quản lý về

BVMT trong khai thác khoáng sản. Cơ sở cho đề xuất là bởi chính quyền địa

phương là cấp nắm rõ hơn về tình hình hoạt động khai thác sản và việc chấp hành

BVMT của các doanh nghiệp khai khoáng. Hơn nữa, đây cũng là cấp giải quyết

những vấn đề về cuộc sống của người dân nên phải có trách nhiệm quản lý BVMT.

4.3.1.3. Các chính sách cho việc đổi mới, cải tiến và ứng dụng công nghệ tiên tiến,

thân thiện môi trường vào khai thác khoáng sản

Khoa học – công nghệ là yếu tố quan trọng để nâng cao năng suất tài nguyên và

giải quyết các vấn đề môi trường trong khai thác khoáng sản. Theo đó, để thúc đẩy

việc nghiên cứu, đổi mới, cải tiến và ứng dụng công nghệ tiên tiến, thân thiện với môi

trường vào khai thác khoáng sản, nhà nước cần có các chính sách sau:

– Nhà nước cần hoàn thiện các chính sách về trích lập quỹ phát triển KHCN của

doanh nghiệp. Theo Thông tư số 15/2011/TT–BTC của Bộ Tài chính, doanh nghiệp

chỉ được trích tối đa 10% thu nhập chịu thuế cho việc lập quỹ này và Nghị định

95/2014/NĐ–CP quy định DNNN trích 3% – 10% thu nhập tính thuế, doanh nghiệp

ngoài nhà nước trích lập tối đa 10% để lập quỹ phát triển KHCN của doanh nghiệp.

Việc quy định mức trần về lập quỹ như vậy chưa phù hợp với đặc thù của ngành

công nghiệp khai khoáng, bởi đối với khai thác than, càng khai thác xuống sâu thì

giá thành càng cao, tức là tỷ lệ lợi nhuận từ mỗi tấn sản lượng khai thác có xu

hướng giảm xuống. Đây có thể cản trở một số doanh nghiệp có nhu cầu đầu tư

138

nhiều hơn cho công tác nghiên cứu và phát triển KHCN.

– Các chính sách trong việc thu hút công nghệ từ các nhà đầu tư nước ngoài vào các

dự án chế biến khoáng sản, nhất là các loại khoáng sản có yêu cầu công nghệ phức

tạp, gắn với BVMT.

Mối quan tâm của các nhà đầu tư khi đầu tư vào hoạt động khai thác khoáng sản

là sự ổn định trong các chính sách tài chính khoáng sản, chứ không phải mức thuế

thấp. Bởi chính sách thuế thay đổi liên tục kéo theo sự thay đổi các chỉ tiêu hiệu quả

tài chính của dự án đã tính toán trước đây, gây rủi ro cho doanh nghiệp.16 Các chính

sách khuyến khích thu hút đầu tư nước ngoài (ưu đãi, miễn giảm thuế) vào khai thác

khoáng sản và sản xuất VLXD không phải là những nhân tố quyết định [25]; đi cùng

với đó là cải thiện môi trường kinh doanh, đổi mới nhiều chính sách có liên quan và

bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, sự minh bạch trong thực thi các chính sách.

– Các chính sách trong việc nghiên cứu, ứng dụng các công nghệ nhằm giải

quyết các vấn đề về môi trường trong khai thác khoáng sản.

Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ ứng dụng công nghệ mới vào lĩnh vực khai

thác khoáng sản và BVMT trong khai thác khoáng sản. Những kết quả bước đầu

trong nghiên cứu sản xuất thép và vật liệu không nung từ bùn đỏ trong quá trình

khai thác bôxit tại Tây Nguyên đã mở ra hướng đi trong việc xử lý bùn đỏ nhằm

giảm ô nhiễm môi trường và cung cấp VLXD góp phần giảm khai thác khoáng sản

VLXD. Công nghệ này cần tiếp tục có hỗ trợ nhằm hoàn thiện công nghệ xử lý. Các

sản phẩm gạch xốp từ bùn đỏ khi đưa ra thị trường, trong giai đoạn đầu, do giá

thành sản xuất còn cao nên có thể khó cạnh tranh được với các loại gạch truyền

thống, cho nên Chính phủ cần có các chính sách hỗ trợ để có thể thương mại hóa

sản phẩm này. Trên cơ sở thực hiện chính sách về xử lý bùn đỏ từ khai thác bôxit để

16 Tại hội thảo về đóng góp ý kiến sửa đổi thuế suất thuế tài nguyên đối với khai thác khoáng sản do Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam tổ chức ngày 10/9/2015: i) Đại diện Công ty Nikel Bản Phúc cho rằng kể từ khi doanh nghiệp lập phương án kinh doanh năm 2007 đã đầu tư 130 triệu USD và đến năm 2014 tổng số thuế thực tế nộp đã tăng tới 218% (tương đương 76 triệu USD) so với tính toán tại thời điểm năm 2007, chính sách thuế thay đổi thường xuyên nên kế hoạch kéo dài tuổi thọ của dự án gặp thách thức lớn; ii) Đại diện Hiệp hội khai thác đá (Quỳ Châu, tỉnh Nghệ An) than phiền rằng có tới 30 doanh nghiệp hội viên phải ngừng hoạt động do việc tăng thuế tài nguyên, phí BVMT. Các ý kiến này đều cho rằng việc tăng thuế tài nguyên liên tục chỉ gây thiệt hại cho các doanh nghiệp làm ăn chân chính trong khi có lợi cho các doanh nghiệp trốn thuế.

139

rút ra kinh nghiệm và nhân rộng cho các loại khoáng sản khác.

Nhà nước cần có các quy định cụ thể cho phép các doanh nghiệp trích lập quỹ

bảo vệ môi trường, hiện nay Tập đoàn Than – Khoáng sản Việt Nam (Vinacomin)

đã thành lập quỹ môi trường tập trung bằng 1% – 1,5% chi phí sản xuất, hỗ trợ cho

các sáng kiến cải tiến kỹ thuật phục vụ BVMT.

– Nhà nước cần có các chính sách khuyến khích áp dụng các mô hình sản xuất

sạch hơn trong khai thác, chế biến khoáng sản. Hiện nay, tại một số tỉnh và ngành

công nghiệp đã triển khai các dự án hỗ trợ sản xuất sản sạch hơn, tuy nhiên kết quả

vẫn còn khiêm tốn do những khó khăn trong quá trình thực hiện. Đơn cử, trong lĩnh

vực khai thác chế biến khoáng sản, tỉnh Thái Nguyên đã triển khai các dự án sản

xuất “sản xuất sạch hơn” trong ngành sản xuất xi măng và luyện kim màu đã gặp

không ít khó khăn như doanh nghiệp các thiếu kiến thức về sản xuất sạch hơn và

nguồn kinh phí để triển khai thực hiện [42]. Để thực hiện và nhân rộng việc áp dụng

sản xuất sạch hơn cần có các chính sách khuyến khích đối với các doanh nghiệp. Hỗ

trợ tập huấn, nâng cao năng lực cho các doanh nghiệp và tổ chức thăm quan, giới

thiệu các mô hình, công nghệ sạch,... Hoàn thiện cơ chế, chính sách về tài chính

thúc đẩy áp dụng sản xuất sạch hơn.

4.3.1.4. Xây dựng, hoàn thiện các chính sách thị trường nhằm khuyến khích khai

thác, sử dụng tiết kiệm khoáng sản và sử dụng các sản phẩm khác thay thế các sản

phẩm khoáng sản

Nhà nước cần sớm xóa bỏ các hình thức trợ cấp và/hoặc ưu đãi, chẳng hạn, việc

giảm thuế tài nguyên đối với các dự án bôxit ở Tây Nguyên (tức là trợ giá một cách

gián tiếp) hay ưu đãi về giá điện đối với dự án điện phân nhôm Trần Hồng Quân –

khai thác bôxit ở Nhân Cơ.17 Việc trợ cấp, ưu đãi làm méo mó giả cả và khó khăn

cho việc so sánh với giá thế giới để quyết định liệu có nên khai thác khoáng sản,

nếu trong nước có giá thành cao hơn thì nên nhập khẩu.

Khẩn trương loại bỏ trợ cấp, cơ chế kiểm soát giá cả các sản phẩm khoáng sản.

17 Nghị định số 74/2011/NĐ-CP về phí BVMT đối với khai thác bôxit là 50.000 đồng/tấn quặng nguyên khai, song Nghị định số 12/2015/NĐ-CP giảm xuống còn 30.000 đồng/tấn; trong khi đó, khoản phí này vẫn giữ nguyên (thậm chí là tăng lên) đối với các loại khoáng sản khác. Nhà máy điện phân nhôm Trần Hồng Quân được Nhà nước hỗ trợ về giá điện trong 10 năm giai đoạn 2016-2025 là 229 triệu USD.

140

Đẩy nhanh tiến độ thực hiện chính sách giá sản phẩm khoáng sản theo cơ chế thị

trường, trước mắt là giá than. Thực hiện giá sản phẩm khoáng sản theo cơ chế thị

trường, theo đó, giá cả phản ánh đúng và đầy đủ các chí phí có liên quan và theo

đúng diễn biến trên thị trường. Các biện pháp này nhằm hạn chế việc xuất khẩu lậu

các sản phẩm khoáng sản và sử dụng tiết kiệm khoáng sản.

Nhà nước cần mở rộng đối tượng và tăng mức thuế BVMT đối với sử dụng các

loại khoáng sản khác (hiện mới chỉ áp dụng với xăng dầu, than đá). Đây là loại thuế

có ý nghĩa trong việc khuyến khích sử dụng tiết kiệm và khuyến khích dịch chuyển

sang sản xuất, sử dụng năng lượng sạch. Việc điều chỉnh thuế BVMT cần theo lộ

trình để hạn chế việc tăng giá ở các thị trường khác và gây ra lạm phát.

Phát triển các ngành sản xuất nhằm tạo ra các đầu vào thân thiện với môi trường

để thay thế cho các sản phẩm hiện nay sử dụng trong khai thác khoáng sản. Chẳng

hạn, trong khai thác than, hàng năm đã tiêu hao một khối lượng vật tư rất lớn về gỗ

lò để làm cột chống trong hầm lò, thuốc nổ, hàng trăm ngàn tấn nhiên liệu và phụ

tùng các loại,...

Các chính sách khuyến khích sản xuất, sử dụng các sản phẩm thay thế các sản

phẩm khoáng sản. Việc sản xuất điện bằng các loại năng lượng mới (sức gió, năng

lượng mặt trời, sinh khối) thay thế cho than đá là cần thiết nhằm giảm áp lực khai

thác, tác động tới môi trường do khai thác và sử dụng loại khoáng sản này. Tuy

nhiên, tại Việt Nam, giá mua điện do sản xuất từ năng lượng mới được đánh giá là

vẫn chưa đủ sức hấp dẫn đối với các nhà đầu tư. Kinh nghiệm quốc tế cho thấy loại

hình sản xuất này cần có sự hỗ trợ của nhà nước và nguồn ngân sách bù đắp là từ

việc thu các khoản thuế môi trường, thuế sử dụng nhiên liệu hóa thạch.

Nhu cầu sử dụng VLXD trong thời gian tới vẫn rất lớn do gia tăng dân số và đô

thị hóa. Trong thời gian qua, Chính phủ đã có các chủ trương, chính sách về phát

triển VLXD không nung 18 để từng bước thay thế gạch đất sét nung, hạn chế sử

dụng đất sét và than – nguồn tài nguyên không tái tạo, góp phần bảo vệ an ninh

lương thực, tiết kiệm năng lượng và giảm lượng khí thải CO2. Để thực hiện chính

sách này, cần có chế tài yêu cầu các công trình xây dựng sử dụng NSNN phải ưu

18 Quyết định số 567/QĐ–TTg ngày 28 tháng 4 năm 2010 của Thủ tướng Chính phủ.

141

tiên sử dụng vật liệu không nung, nghĩa là yêu cầu “mua sắm xanh”. Đồng thời, ban

hành các cơ chế, chính sách hỗ trợ, khuyến khích tạo động lực cho các doanh

nghiệp, hộ gia đình sử dụng loại vật liệu này.

4.3.1.5. Tăng cường tính minh bạch, trách nhiệm giải trình đối với khai thác

khoáng sản

Minh bạch và trách nhiệm giải trình là điều kiện để cải thiện chất lượng quản trị

khai thác khoáng sản. Bên cạnh các yêu cầu về chất lượng, các chính sách, pháp

luật về khai thác khoáng sản thực hiện có hiệu quả khi được công bố công khai.

Theo đó, các cơ quan quản lý nhà nước cần công bố tin về sản lượng khai thác và

các vấn đề về môi trường, bởi có thông tin thì các bên liên quan mới có thể giám sát

đầy đủ quá trình khai thác khoáng sản và bảo vệ môi trường.

Trong tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về khai thác khoáng sản, điều kiện để

phân cấp hiệu quả là: đảm bảo nguồn lực, minh bạch thông tin, trách nhiệm giải

trình, giám sát thực hiện và có sự tham gia của các bên liên quan [2], [22]. Về

nguồn lực bao gồm các nguồn lực vật chất, tài chính và con người cùng với năng

lực đi kèm. Đối tượng được phân cấp phải có trách nhiệm giải trình nhằm đảm bảo

công khai minh bạch. Thanh tra, giám sát nhằm đảm bảo việc thực thi đúng và đầy

đủ các quy định pháp luật.

Đẩy mạnh cải cách các DNNN trong lĩnh vực khai thác khoáng sản theo hướng thị

trường và minh bạch. Xét về số lượng, DNNN chỉ vào khoảng 170 trong tổng số

2.800 doanh nghiệp trong ngành công nghiệp khai khoáng (Bảng 3 – Phụ lục). Mặc

dù ít về số lượng, nhưng các DNNN trong lĩnh vực này nắm giữ với số lượng lớn

các mỏ và vốn đầu tư so với khu vực ngoài quốc doanh. Không ít nghiên cứu đã chỉ

ra các DNNN nhìn chung sản xuất kinh doanh kém hiệu quả và các DNNN trong

ngành công nghiệp khai khoáng cũng khó tránh khỏi xu hướng này.19 Theo đó, nhà

19 Dự án Nhà máy thép 8.000 tỷ (giai đoạn II) ở Thái Nguyên do Công ty Gang thép Thái Nguyên (thành viên của Tổng công ty Thép Việt Nam) làm chủ đầu tư. Dự án triển khai gần 10 năm và đã đầu tư hơn 4500 tỷ đồng, song đến nay vẫn dở dang; nhiều hạng mục máy móc thiết bị đang nằm phơi nắng, phơi mưa trên khu đất rộng hàng ha và đang có dấu hiệu bị hoen gỉ, xuống cấp nghiêm trọng. Dự án muốn khời lại phải bồi thường cho nhà thầu Trung Quốc số tiền lên đến hơn 100 tỷ đồng khiến tổng vốn đầu tư tăng lên 8100 tỷ đồng và có nguy cơ đội vốn thêm gần 1.000 tỷ đồng, lên trên 9.000 tỷ đồng [http://vietnamnet.vn/vn/kinh-doanh/294923/nha-may-8-000-ty-bo-hoang-boi-thuong-cho-tq-tram-ty.html].

Những trường hợp như dự án này không phải hiếm và là minh về rõ sự kém hiệu quả của các DNNN trong lĩnh vực

khai thác khoáng sản.

142

nước cần đẩy nhanh hơn nữa tiến độ cổ phần hóa các DNNN trong ngành này.

Đồng thời, Chính phủ cần khẳng định và sớm tham gia sáng kiến EITI để tạo động

lực cải cách DNNN trong ngành công nghiệp khai khoáng và công bố các báo cáo

tài chính, kết quả sản xuất kinh doanh phù hợp với thông lệ quốc tế, nhất là theo các

yêu cầu của Hiệp định TPP đối với DNNN.

4.3.1.6. Nâng cao tư duy, nhận thức về khai thác khoáng sản trong chiến lược

tăng trưởng xanh

Tư duy phát triển kinh tế vẫn chủ yếu hướng vào khai thác tài nguyên nặng về

chiều rộng mà chưa theo chiều sâu; tư duy, nhận thức về tăng trưởng xanh còn hạn

chế và nặng lợi ích kinh tế hơn là vấn xã hội – môi trường;... đang là rào cản, thách

thức đối với khai thác khoáng sản trong chiến lược tăng trưởng xanh. Để xây dựng

và thực thi các chính sách khai thác khoáng sản trong chiến lược tăng trưởng xanh

cần tăng cường nhận thức, hiểu biết và lồng ghép về tăng trưởng xanh vào trong quá

trình xây dựng và thực thi các chính sách. Theo đó, trong thời gian tới, các chính

sách cần tập trung vào những vấn đề sau:

a) Nâng cao tư duy, nhận thức về tạo ra giá trị gia tăng, năng suất tài

nguyên

– Cần xóa bỏ các tư duy về khai thác manh mún, phân tán

Kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn Việt Nam cho thấy khai thác mỏ theo phương

pháp thủ công và quy mô nhỏ thường gây ra ô nhiễm môi trường và có xu hướng

kém hiệu quả về kinh tế do không tận dụng được lợi thế nhờ quy mô. Cho nên từng

bước loại bỏ việc khai thác theo kiểu manh mún, nhỏ lẻ; thay vào đó chuyển hướng

sang khai thác quy mô công nghiệp. Để thực hiện điều này cần nhanh chóng tiến

hành tái cơ cấu các doanh nghiệp trong ngành một cách hợp lý, đặc biệt là các

doanh nghiệp quy mô nhỏ, sử dụng công nghệ lạc hậu gây tổn thất tài nguyên, ô

nhiễm môi trường và hiệu quả sản xuất kinh doanh thấp. Việc tái cơ cấu được thực

hiện bằng việc không gia hạn, cấp mới giấy phép khai thác đối với doanh nghiệp

quy mô nhỏ; đẩy mạnh thực hiện việc đấu giá về quyền khai thác khoáng sản nhằm

lựa chọn các doanh nghiệp đủ năng lực tham gia khai thác khoáng sản.

143

– Tư duy về phát triển các ngành công nghiệp trên nền sản phẩm khoáng sản

Việc nâng cao năng suất tài nguyên đòi hỏi phát triển các ngành công nghiệp trên

nền khai thác khoáng sản: từ khai thác quặng kim loại phát triển công nghiệp luyện

kim và tiếp theo là sản phẩm cơ khí; từ khai thác các khoáng chất công nghiệp (apatit,

phosphorit,...) phát triển công nghiệp hóa chất; các khoáng sản phi quặng sản xuất ra

vật liệu xây dựng, phân bón;... Việc phát triển các ngành công nghiệp trên nền

khoáng sản còn có tác động lan tỏa đối với địa phương nơi khai thác khoáng sản.

Một số dẫn chứng minh họa nhằm gợi ý về mặt tư duy về phát triển kinh tế dựa

trên khai thác khoáng sản:

+ Dự án khai thác bôxit ở Nhân Cơ (tỉnh Đắk Nông) và tiếp theo là phát triển dự

án điện phân nhôm Trần Hồng Quân có cơ hội để phát triển các sản phẩm sau nhôm

(hiện nay một số doanh nghiệp đã chuẩn bị đầu tư vào Khu công nghiệp Nhân Cơ

để phát triển các sản phẩm: nhôm phục vụ xây dựng, vỏ lon các loại phục vụ đồ

đóng hộp, cáp điện...).20 Tổ hợp công nghiệp nhôm phát triển sẽ có nhiều ngành

nghề khác cùng phát triển theo, qua đó nâng cao năng suất và đóng góp của khai

thác bôxit.

+ Dự án mỏ sắt Thạch Khê được quy hoạch khai thác gắn với xây dựng Khu liên

hợp luyện kim Vũng Áng và biến nơi đây thành tổ hợp luyện kim, cơ khí, sản xuất

các linh kiện ô tô, đóng tàu,.., Tại KKT Vũng Áng, dự án Khu liên hợp gang thép và

cảng Sơn Dương do Tập đoàn Formosa đang chuẩn bị vận hành và bước đầu đã

định hình Vũng Áng trở thành hình thành một trung tâm công nghiệp nặng [52].

Các dự án này dù mới đạt kết quả bước đầu, song là những gợi ý hữu ích về tư

duy chính sách và việc thực hiện đòi hỏi phải thu hút các nhà đầu tư chiến lược

(dạng như Tập đoàn Formosa) để có thể tham gia vào mạng sản xuất toàn cầu.

– Tư duy về tham gia chuỗi sản xuất toàn cầu

Đi cùng với việc chế biến sâu khoáng sản và phát triển các ngành công nghiệp

có liên quan, để nâng cao giá trị gia tăng, cần sản xuất một số sản phẩm liên quan

đến khoáng sản phục vụ cho việc tham gia vào mạng sản xuất, chuỗi giá trị toàn

cầu. Chẳng hạn, tái cấu trúc đối với sản xuất sắt, thép từ thép xây dựng sang sản

20 Khảo sát của tác giả tại Dự án bô xit Nhân Cơ (Đắk Nông), tháng 4/2015.

144

xuất các loại thép công nghiệp phục vụ cho các ngành công nghiệp hiện đại; hoặc

khai thác bôxit không chỉ dừng lại ở công đoạn luyện nhôm mà chế biến thành các sản

phẩm hợp kim nhôm để phục vụ cho các ngành công nghiệp hiện đại. Điều này đòi hỏi

phải có các chính sách hấp dẫn, các giải pháp đồng bộ để thu hút các nhà đầu tư

nước ngoài có các công nghệ hiện đại nhằm chế biến sâu, tinh chế ở các công đoạn

cao hơn của sản phẩm khoáng sản.

b) Nâng cao tư duy, nhận thức về phục hồi, tái tạo và cải thiện môi trường ở

những nơi khai thác khoáng sản

Tuy duy về lợi ích kinh tế ngắn hạn, thiếu sự hài hòa, xem nhẹ vấn đề môi trường

nên đầu tư cho công tác BVMT chưa thỏa đáng, nhất là sử dụng nguồn thu từ khai

thác khoáng sản. Điều này làm cho vấn đề môi trường trở nên nghiêm trọng hơn và

kéo theo hệ quả là các xung đột xã hội tại các khu vực khai thác do ô nhiễm môi

trường. Chính vì vậy, nhà nước cần tăng cường đầu tư trở lại cho những nơi có hoạt

động khai thác khoáng sản để phục hồi môi trường, trồng cây xanh, khôi phục thảm

thực vật, hệ sinh thái,... Đồng thời, để nâng cao hiệu quả đối với bảo vệ môi trường,

việc đầu tư và sử dụng ngân sách cho lĩnh vực này cần gắn với khuôn khổ chi tiêu

trung hạn – MTEF (Mid–Term Expenditure Framwork), tức là theo thứ tự ưu tiên

trong đầu tư cho những vấn đề môi trường ở mức độ nghiêm trọng hơn và theo cuốn

chiếu (hạn chế việc đầu tư tràn lan).

c) Nâng cao tư duy, nhận thức trong việc xử lý các vấn đề, mâu thuẫn trong quá

trình khai thác khoáng sản

Việc chia sẻ lợi ích với cộng đồng chưa phù hợp là bởi các cơ chế về bảo hộ

quyền lợi của người dân địa phương chậm được thi hành. Quyết định số

219/1999/QĐ–TTg về bảo hộ quyền lợi của người dân địa phương được ban hành

năm 1999, nhưng trên thực tế hầu như chưa được áp dụng; Điều 5 (Luật Khoáng

sản 2010) sau 5 năm luật có hiệu lực thi hành song đến nay vẫn thiếu các hướng dẫn

cụ thể. Tại một số dự án khai thác khoáng sản, khi nhà nước thu hồi đất chỉ thu hồi

phần đất phục vụ dự án, một số hộ có diện tích còn lại, thậm chí rất nhỏ, nhưng

không được thu hồi luôn gây ra bất lợi đối với người dân. Nghị định số 12/2016 về

phí BVMT đối với khai thác khoáng sản có quy định để lại 100% cho địa phương

145

nơi khai thác khoáng sản và hội đồng nhân dân cấp tỉnh quyết định phân bổ khoản

thu này. Đây là những vấn đề thuộc về nhận thức của các cấp chính quyền địa

phương khi giải quyết các xung đột xã hội liên quan đến khai thác khoáng sản.

Ngành công nghiệp khai khoáng không phải là ngành thâm dụng lao động, thêm

vào đó, khi thực hiện tăng trưởng xanh có thể sẽ áp dụng các công nghệ, máy móc

thiết bị hiện đại, điều này có nguy cơ dẫn đến ngành này càng sử dụng ít lao động

hơn. Để giải quyết vấn đề này, về mặt chiến lược, khi thực hiện khai thác khoáng

sản cần đẩy mạnh chế biến khoáng sản, tạo sự lan tỏa từ khai thác khoáng sản có

tiềm năng tạo ra việc làm. Đồng thời, trong quá trình thực hiện chiến lược tăng

trưởng xanh, nhà nước cần chuyển gánh nặng thuế từ lao động và vốn sang đối với

sử dụng tài nguyên thiên nhiên nhằm tạo nguồn lực và khuyến khích tạo việc làm.

Việc sử dụng nguồn thu từ khai thác khoáng sản đầu tư vào nâng cao chất lượng

nguồn nhân lực, khoa học – công nghệ trước hết là để phục vụ trở lại cho công

nghiệp khai khoáng; đồng thời, nhằm đảm bảo công bằng giữa các thế hệ trong tiếp

cận tài nguyên thiên nhiên thông qua việc tạo ra các nguồn vốn thay thế. Để thực

hiện được việc này, kinh nghiệm từ các nước (ví dụ Na Uy, Úc,..) cho thấy là nguồn

thu từ khai thác khoáng sản được tách thành hạng mục riêng và/hoặc thành lập quỹ

tài nguyên thiên nhiên để đầu tư vào giáo dục, y tế,…

4.3.1.7. Các gợi ý, giải pháp đối với các doanh nghiệp khai khoáng và các doanh

nghiệp liên quan đến sản phẩm khoáng sản

Hiện nay, các doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp khai khoáng nói riêng

đang đứng trước nhiều thách thức, ràng buộc: i) các cơ quan quản lý nhà nước ngày

càng đặt ra các tiêu chuẩn cao hơn về bảo vệ môi trường và gắn với nguyên tắc

“người gây ô nhiễm phải trả tiền” và các chế tài xử phạt các hành vi vi phạm pháp

luật về bảo vệ môi trường, xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực khai thác

khoáng sản ngày càng tăng về tình tiết và mức xử phạt; ii) hội nhập là cơ hội để các

doanh nghiệp tiếp cận các nguồn lực phát triển nhưng cũng cạnh tranh gay gắt; iii)

các tiêu chuẩn về môi trường, an toàn vệ sinh lao động là những điều kiện để tài trợ

vốn, xâm nhập thị trường và cho tham gia vào chuỗi sản xuất toàn cầu. Nhằm góp

phần vượt qua những thách thức này, các doanh nghiệp khai khoáng và các doanh

146

nghiệp có liên quan cần tập trung vào những vấn đề sau:

– Đổi mới công nghệ khai thác khoáng sản, đổi mới phương thức và quy trình

quản lý. Đổi mới công nghệ khai thác, chế biến nhằm tận dụng tài nguyên khoáng

sản và bảo vệ môi trường: tận dụng tối đa các bãi thải trong hoặc khai thác cuốn

chiếu để hoàn thổ nhằm hạn chế thải ra môi trường. Tổ chức trình tự khai thác mỏ

một cách hợp lý, tránh tình trạng mỏ dễ làm trước, mỏ khó thì bỏ lại.

– Nhà nước sẽ đẩy mạnh thực hiện nguyên tắc “người gây ô nhiễm phải trả

tiền”, điều này ảnh hưởng tới chi phí sản xuất. Theo đó, các doanh nghiệp cần sử

dụng tiết kiệm và hiệu quả tài nguyên và thay đổi cơ cấu nhiên liệu, đầu vào: giảm

năng lượng từ nguồn nhiên liệu hoá thạch, khuyến khích khai thác và sử dụng các

nguồn năng lượng mới, có khả năng tái tạo, ít phát thải khí nhà kính.

– Trong chuỗi sản xuất cung ứng một sản phẩm, thay vì chỉ một doanh nghiệp

đứng ra sản xuất, có thể hợp tác với các doanh nghiệp khác để chuyên môn hóa

từng khâu, từng công đoạn sản xuất. Việc đẩy mạnh liên kết, hợp tác với các doanh

nghiệp với các doanh nghiệp khác có thể giúp giảm chi phí sản xuất, nâng cao khả

năng cạnh tranh. Chẳng hạn, tại tổ hợp khai thác bôxit ở Nhân Cơ (Đắk Nông),

Công ty luyện nhôm Trần Hồng Quân có thể tiết kiệm được chi phí vận tải nhờ

chuyển đầu một cách trực tiếp từ dự án khai thác bôxit hay các công ty phát triển

các sản phẩm sau nhôm có thể tiết kiệm chi phí năng lượng (để nung chảy) do

chuyển nhôm nóng chảy từ Trần Hồng Quân.

– Các doanh nghiệp cũng cần tranh thủ sự giúp đỡ của các quốc gia, các tổ chức

quốc tế để thực hiện các dự án trao đổi tín chỉ cacbon (CDM), hỗ trợ sản xuất sạch.

Đây là những cơ hội để huy động nguồn vốn và/hoặc thay đổi công nghệ sản xuất.

4.3.2. Điều kiện để thực hiện có hiệu quả các giải pháp

Để thực hiện các giải pháp ở trên có hiệu quả thì cần có các điều kiện sau đây:

4.3.2.1. Chất lượng nguồn nhân lực trong các cơ quan quản lý nhà nước

Với hạn chế, yếu kém về số lượng, chất lượng của đội ngũ cán bộ quản lý nhà

nước về khai thác khoáng sản và bảo vệ môi trường ở các cấp, nhất là cấp huyện sẽ

đặt ra những thách thức trong việc thực thi và giám sát việc thực thi các chính sách,

147

pháp luật. Vì vậy, để thực hiện và thực hiện có hiệu quả các giải pháp chính sách

cần đẩy mạnh việc nâng cao chất lượng, năng lực quản lý của đội ngũ cán bộ quản

lý nhà nước ở các cấp liên quan đến khai thác khoáng sản.

4.3.2.2. Các nguồn lực đối với các doanh nghiệp khai khoáng

Các doanh nghiệp khai thác khoáng sản có thể chuyển sang thực hiện các mục

tiêu của tăng trưởng xanh đòi hỏi phải có các nguồn lực, trước hết là vốn đầu tư cho

việc đổi mới công nghệ.

– Vốn cho việc đầu tư đổi mới công nghệ, máy móc thiết bị: Vốn hóa tài sản, giá

trị của mỏ khoáng sản nhằm tạo nguồn lực cho đầu tư đổi mới công nghệ. Các

doanh nghiệp khai khoáng thường là quy mô nhỏ và thiếu vốn hoạt động. Các

kinh nghiệm từ lĩnh vực đất đai cho thấy “vốn hóa tài sản, giá trị của mỏ” là một

kênh để giúp các doanh nghiệp huy động vốn. Tuy nhiên, trong các quy định

hiện hành các loại tài nguyên được quy định thuộc sở hữu toàn dân. Nếu doanh

nghiệp mang các mỏ khoáng sản (thực tế không phải là tài sản của họ) đi thế

chấp để vay vốn là không phù hợp. Điều này đòi hỏi cần có những hành lang

pháp lý liệu vốn hóa để huy động vốn từ các mỏ thì nguồn vốn đó là như thế nào.

– Chất lượng nguồn nhân lực cho doanh nghiệp khai khoáng: Nguồn nhân lực

của các doanh nghiệp khai thác khoáng sản mặc dù đã có sự phát triển cả về lượng

và về chất nhưng vẫn còn không ít hạn chế (nhất là tiếp cận và làm chủ đối với công

nghệ cao, công nghệ chế biến sâu). Để thực hiện sản xuất theo hướng tăng trưởng

xanh, cùng với việc đầu tư đổi mới công nghệ và máy móc thiết bị, cần nâng cao

chất lượng nguồn nhân lực trong các doanh nghiệp khai khoáng để làm chủ công

nghệ và thực thi có hiệu quả các chính sách về khai thác khoáng sản.

4.3.2.3. Phát triển ngành công nghiệp môi trường nhằm hỗ trợ khai thác khoáng sản

Các doanh nghiệp khai khoáng muốn chấp hành các quy định về BVMT cũng

chưa đủ năng lực, điều kiện để xử lý các vấn đề về môi trường. Chính vì vậy, việc

xanh hóa khai thác khoáng sản đòi hỏi có những ngành sản xuất và cung ứng dịch

vụ thân thiện với môi trường nhằm hỗ trợ quá trình tăng trưởng xanh, giải quyết hậu

quả về môi trường, cụ thể: cung cấp các dịch vụ về phân tích và quan trắc môi

trường; tư vấn về quản lý, kiểm soát ô nhiễm; phát triển công nghệ và sản xuất thiết

148

bị: sản xuất, chế tạo các thiết bị, máy móc xử lý, tái chế, tái sử dụng chất thải,…;

các hoạt động hoàn thổ các mỏ khoáng sản sau khai thác, trồng cây xanh, khôi phục

thảm thực vật; các hoạt động tái chế chất thải như thu hồi kim loại nặng, chất thải

điện tử;…

Tiểu kết chương 4

Những bối cảnh mới đối với khai thác khoáng sản trong giai đoạn tới đó là: 1)

xu hướng cạn kiệt tài nguyên và sự tăng giá của sản phẩm khoáng sản; 2) BĐKH

diễn biến ngày càng phức tạp, khó lường và tác động tới khai thác khoáng sản; 3)

nước ta đang thực hiện đổi mới mô hình tăng trưởng theo chiều sâu, thực hiện

tăng trưởng xanh nên khai thác khoáng sản phải thay đổi theo; 4) Việt Nam đưa

ra cam kết trước cộng đồng quốc tế về BVMT và ngày càng hội nhập sâu rộng

với các yêu cầu cao hơn về môi trường;... Những bối cảnh mới này đòi hỏi thay

đổi phương thức và cách tiếp cận đối với khai thác khoáng sản.

Cách tiếp cận để giải quyết vấn đề đối với khai thác khoáng sản trong giai đoạn

tới bao gồm: 1) việc thực hiện những nội dung này cần dựa vào các tiến bộ khoa

học – công nghệ; 2) với thể chế hiện đại: đẩy mạnh sử dụng các công cụ kinh tế

trong quản lý tài nguyên và môi trường, xóa bỏ cơ chế kiểm soát giá cả, xóa bỏ trợ

cấp trực tiếp và/hoặc gián tiếp đối với doanh nghiệp khai khoáng và sử dụng sản

phẩm khoáng sản và có sự tham gia của nhiều bên có liên quan vào quản trị và giám

sát các hoạt động khai thác khoáng sản; 3) dựa vào hội nhập kinh tế quốc tế (khai

thác các nguồn lực bên ngoài), tham gia chuỗi sản xuất toàn cầu và sức ép từ hội

nhập để đổi mới về công nghệ, thể chế);...

Việc hoàn thiện, đổi mới các chính sách về khai thác khoáng sản trong chiến

lược tăng trưởng xanh ở Việt Nam cần được thực hiện qua hai kênh: xanh hóa sản

xuất đối với khai thác khoáng sản và các lĩnh vực liên quan tới khai thác khoáng

sản. Theo đó, cần đổi mới, hoàn thiện các chính sách, pháp luật về khai thác khoáng

sản theo quan điểm tăng trưởng xanh; đồng thời, có các chính sách về phát triển các

ngành, lĩnh vực hỗ trợ cho khai thác khoáng sản thực hiện tăng trưởng xanh.

Để các giải pháp phát huy hiệu quả cần có những điều kiện quan trọng: hệ thông

149

luật pháp nghiêm minh, công bằng, đảm bảo tính minh bạch và trách nhiệm giải

trình; có một hệ thống quản trị đủ năng lực; có sự tham gia của các bên liên quan

vào quản trị khai thác khoáng sản.

KẾT LUẬN

Luận án đã hệ thống hóa và luận giải cơ sở lý luận và kinh nghiệm quốc tế về

khai thác khoáng sản trong tăng trưởng xanh. Trong đó, luận án đã hệ thống hóa,

làm rõ các khái niệm về khai thác khoáng sản, tăng trưởng xanh; xác lập những tiêu

chí đánh giá và phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến khai thác khoáng sản trong

tăng trưởng xanh; sự cần thiết và khái quát hóa một số kinh nghiệm về khai thác

khoáng sản trong việc phát triển bền vững, tăng trưởng xanh đối với nền kinh tế và

rút ra bài học kinh nghiệm cho Việt Nam.

Luận án đã đánh giá thực trạng khai thác khoáng sản trong chiến lược tăng

trưởng xanh ở Việt Nam theo các tiêu chí tăng trưởng xanh; những vấn đề đặt ra đối

với khai thác khoáng sản trong việc thực hiện chiến lược tăng trưởng xanh. Các

phân tích, đánh giá thực trạng khai thác khoáng sản trong chiến lược tăng trưởng

xanh cho thấy một số vấn đề cơ bản sau đây:

– Việc khai thác khoáng sản từng bước điều chỉnh theo hướng chuyền dần từ

quan điểm khai thác phục vụ phát triển kinh tế trước mắt sang quan điểm khai thác

vì mục tiêu lâu dài và từng bước được hoàn thiện theo hướng tiếp cận với các mục

tiêu của tăng trưởng xanh. Các chính sách, pháp luật về khoáng sản ngày càng được

hoàn thiện theo dựa vào các công cụ kinh tế, mang tính thị trường. Khai thác

khoáng sản có những đóng góp nhất định vào phát triển kinh tế – xã hội.

– Các kết quả phân tích cho thấy việc khai thác khoáng sản vẫn còn không ít vấn

đề tồn tại và có nguy cơ ảnh hưởng tới thực hiện chiến lược tăng trưởng xanh:

Thứ nhất, việc khai thác khoáng sản, nhưng cách làm kém hiệu quả, chủ yếu ở

dạng sơ chế và công đoạn có giá trị gia tăng thấp, hiệu quả sử dụng chưa cao và

chưa phát huy tối đa lợi ích từ khai thác khoáng sản để phát triển các ngành công

150

nghiệp khác (thiếu sự liên kết và thúc đẩy phát triển các ngành công nghiệp chế biến).

Thứ hai, cách tiếp cận và quản trị khai thác khoáng sản trong giai đoạn vừa qua

có nguy cơ dẫn tới việc các doanh nghiệp khai khoáng tham gia vì muốn thu lợi

nhuận nhanh nên chỉ chú trọng khai thác và dừng lại ở khâu sơ chế quặng.

Thứ ba, việc bảo vệ môi trường trong khai thác khoáng sản chưa được quan tâm

đúng mức, nhất là ở khâu thực thi và thiên về lợi ích kinh tế hơn là bảo vệ TNMT.

Hệ quả là thiếu bền vững về tài nguyên (cạn kiệt) và môi trường (suy thoái, ô nhiễm

nặng) kéo theo nhiều hệ lụy tiêu cực đối với phát triển kinh tế – xã hội.

Luận án đã chỉ ra các tồn tại, hạn chế cũng như các nguyên nhân của các tồn tại,

hạn chế của khai thác khoáng sản trên quan điểm tăng trưởng xanh trong thời gian

qua ở nước ta. Đồng thời, trên cơ sở phân tích các bối cảnh quốc tế, trong nước

trong thời gian tới; luận án đã đề xuất một số quan điểm, định hướng và các giải pháp

chủ yếu về khai thác khoáng sản trong chiến lược tăng trưởng xanh ở Việt Nam.

Chủ đề “khai thác khoáng sản trong chiến lược tăng trưởng xanh” là vấn đề

tương đối rộng và mới mẻ ở Việt Nam, luận án còn một số vấn đề chưa làm nổi bật

và đề xuất các nghiên cứu tiếp theo:

– Xác định vấn đề khai thác khoáng sản như thế nào để đáp ứng các yêu cầu của

chiến lược tăng trưởng xanh ở Việt Nam;

– Trong các tính toán về chỉ số phát triển bền vững ngành công nghiệp khai

khoáng cần bổ sung thêm các chỉ tiêu trong các chỉ số thành phần và tính trọng số

của chỉ số thành phần;

– Về mối quan hệ giữa tốc độ tăng trưởng khai thác khoáng sản và tăng trưởng

TFP, nhận định trong đề tài chủ yếu là từ chẩn đoán ban đầu, cần có các mô hình

151

định lượng để kiểm định mối quan hệ này.

152

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ

LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN

1. Nguyễn Đình Hòa (2016), “Lời nguyền tài nguyên từ khai thác khoáng sản ở

Nigeria và bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam”, Tạp chí Phát triển bền

vững Vùng, Quyển 6, số 1 (Tháng 3/2016), tr.3–10.

2. Nguyễn Đình Hòa (2015), “Khai thác, sử dụng nguyên, nhiên, vật liệu và những

vấn đề đặt ra đối với Việt Nam trong bối cảnh tăng trưởng xanh”, Tạp chí

Nghiên cứu kinh tế, số 6/2015, tr.46–52.

3. Nguyễn Đình Hòa (2014), “Góp bàn về khai thác tài nguyên khoáng sản trong

bối cảnh tăng trưởng xanh”, Tạp chí Nghiên cứu Địa lý nhân văn, số 2/2014,

tr.25–32.

4. Nguyễn Đình Hòa (2013), “Thực trạng quản lý, khai thác và sử dụng khoáng sản

titan tại tỉnh Bình Định”, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế, số 8/2013, tr.57– 66.

5. Nguyễn Đình Hòa, Phạm Quang Tú (2013), “Một số vấn đề trong công tác quản

trị để phát triển bền vững ngành khai thác khoáng sản”, Tạp chí Nghiên cứu

153

Phát triển bền vững, số 1/2013, tr.53–57.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tiếng Việt

[1] Vũ Tuấn Anh (chủ biên), Bùi Quang Tuấn, Đào Hoàng Mai, Nguyễn Trung

Thắng (2015), Tiến tới nền kinh tế xanh ở Việt Nam: Xanh hóa sản xuất, nhà

xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội.

[2] Vũ Thành Tự Anh (2012), Phân cấp kinh tế ở Việt Nam, nhìn từ góc độ thể

chế, Tham luận tại Diễn đàn kinh tế mùa thu 2012, Ủy ban Kinh tế của Quốc

hội, tháng 9 – 2012.

[3] Nguyễn Minh Bảo và John Sawdon (2011), Đánh giá môi trường về ảnnh

hưởng và tác động tiềm năng của dỡ bỏ trợ cấp nhiên liệu hóa thạch và

đánh thuế”, Báo cáo hợp phần (Dự án UNDP về Chính sách tài khóa về

nhiên liệu hóa thạch và phát thải khí nhà kính ở Việt Nam – Giai đoạn I).

[4] Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2015), Báo cáo quốc gia về kết quả 2015 năm thực

hiện các mục tiêu phát triển thiên niên kỷ của Việt Nam, Hà Nội.

[5] Bộ Tài nguyên và Môi trường (2013a), Báo cáo Ủy ban Thường vụ Quốc hội

về quản lý nhà nước trong lĩnh vực tài nguyên và môi trường, Báo cáo số

3141/BTNMT–PC ngày 15/8 /2013, Hà Nội.

[6] Bộ Tài nguyên và Môi trường (2013b), Báo cáo tổng kết 8 năm thi hành Luật

Bảo vệ môi trường 2005, Hà Nội.

[7] Bộ Tài nguyên và Môi trường (2011), Báo cáo môi trường quốc gia năm 2011:

Chất thải rắn, Hà Nội.

[8] Bộ Tài nguyên và Môi trường (2009), Báo cáo tổng kết 13 năm thi hành Luật

Khoáng sản 1996, Hà Nội.

[9] Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2012), Báo cáo số 423/BNN-KHCN

ngày 24 tháng 02 năm 2012 về tình hình thực hiện chính sách, pháp luật về

quản lý khai thác khoáng sản gắn với bảo vệ môi trường (Báo cáo gửi Đoàn

giám sát của Ủy ban thường vụ Quốc hội, năm 2012), Hà Nội.

[10] Chính phủ (2012), Báo cáo số 167/BC - CP ngày 25 tháng 6 năm 2012 của

154

Chính phủ về “Việc thực hiện chính sách, pháp luật về quản lý, khai thác

khoáng sản gắn với bảo vệ môi trường” (Báo cáo gửi Đoàn giám sát của Ủy

ban thường vụ Quốc hội, năm 2012), Hà Nội.

[11] Nguyễn Thế Chinh (2011), Chuyển đổi phương thức phát triển kinh tế theo

hướng nền kinh tế xanh ở Việt Nam, Viện Chiến lược Chính sách Tài

nguyên và Môi trường, Hà Nội.

[12] Phạm Thủy Chung (2012), Pháp luật về hoạt động khai thác và chế biến

khoáng sản ở Việt Nam, Luận văn thạc sĩ luật học, Đại học Luật Hà Nội, Hà

Nội.

[13] Chương trình phát triển Liên hợp quốc – UNDP (2014), “Tăng trưởng xanh và

chính sách tài khóa về nhiên liệu hóa thạch ở Việt Nam - các kiến nghị về lộ

trình cải cách”, Dự án UNDP về Chính sách tài khóa về nhiên liệu hóa thạch

và phát thải khí nhà kính ở Việt Nam – Giai đoạn II.

[14] Chương trình phát triển Liên hợp quốc – UNDP (2012), “Chính sách tài khóa

về nhiên liệu hóa thạch và phát thải khí nhà kính ở Việt Nam: Trợ giá và

đánh thuế trong ngành năng lượng của Việt Nam, và các tác động đến phát

triển kinh tế và phân phối thu nhập trong bối cảnh ứng phó với Biến đổi khí

hậu”, Dự án UNDP về Chính sách tài khóa về nhiên liệu hóa thạch và phát

thải khí nhà kính ở Việt Nam – Giai đoạn I.

[15] Công ty Chứng khoán Rồng Việt (2011), Hàng hóa nguyên liệu thô: mối lo lạm

phát của các quốc gia đang phát triển, Báo cáo chuyên đề nghiên cứu (ngày

26/4/2011), Hà Nội.

[16] Trung Đức (2012), “Tăng trưởng xanh trong xu thế toàn cầu, vấn đề đặt ra từ

tầm nhìn dài hạn”, Tạp chí Nghiên cứu phát triển bền vững (Số 2/2012),

tr.25–28.

[17] Lê Đăng Doanh (2014), “Xu hướng quốc tế, bối cảnh kinh tế - chính trị và các

tác động đối với quá trình minh bạch hóa trong quản trị tài nguyên thiên

nhiên ở Việt Nam”, Tham luận tại Hội thảo Thúc đẩy minh bạch trong quản

trị tài nguyên thiên nhiên ở Việt Nam, Trung tâm Con người và Thiên nhiên

tổ chức, ngày 15/07/2014, Hà Nội.

155

[18] Nguyễn Đình Hòa (2015), “Khai thác tài nguyên khoáng sản và những rủi ro phát

triển”, Tham luận tại Hội thảo Cơ cấu kinh tế: những rủi ro phát triển, Viện

Kinh tế Việt Nam tổ chức, ngày 08/01/2015, tại Thành phố Hồ Chí Minh.

[19] Nguyễn Đình Hòa (2013a), “Thực trạng quản lý, khai thác và sử dụng khoáng sản

titan tại tỉnh Bình Định”, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế, số 8/2013, tr.57– 66.

[20] Nguyễn Đình Hòa (2013b), “Thực trạng quản lý, khai thác và sử dụng tài

nguyên khoáng sản ở Thái Nguyên”, Tham luận tại Hội thảo Tăng cường sự

tham gia của cộng đồng và trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp khai

khoáng ở Thái Nguyên, được tổ chức bởi Sở Tài nguyên và Môi trường Thái

Nguyên và Viện Tư vấn phát triển, ngày 26/12/2013, tại Thái Nguyên.

[21] Nguyễn Đình Hòa (2013c), “Hiệu quả kinh tế – xã hội, phân chia lợi ích và

quản lý nguồn thu từ hoạt động khai thác titan tại tỉnh Bình Định”, Tham

luận tại Hội thảo Phương pháp quản lý nguồn thu nhằm nâng cao hiệu quả

kinh tế- xã hội của công nghiệp khai thác khoáng sản, được tổ chức bởi Sở

Công thương Bình Định, Viện Tư vấn phát triển và Trung tâm Con người &

Thiên nhiên, ngày 20/03/2013, tại Bình Định.

[22] Trịnh Thị Ái Hoa (2014), “Một số vấn đề về phân cấp quản lý nhà nước về

kinh tế ở Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế, số 428 (tháng 1/2014),

trang 39 – 45.

[23] Nguyễn Trọng Hoài (2013), Các chủ đề phát triển chọn lọc: khung phân

tích và bằng chứng thực nghiệm cho Việt Nam, nhà xuất bản Kinh tế

Tp. Hồ Chí Minh.

[24] Nguyễn Trọng Hoài (2012), “Mô hình tăng trưởng xanh khung phân tích và lựa

chọn chính sách cho Việt Nam”, Tạp chí Phát triển kinh tế, số 259/2012,

tr.30 – 39.

[25] Vũ Xuân Nguyệt Hồng, Ngô Minh Tuấn, Hồ Công Hòa (2009), Các tác động

tới phát triển bền vững của các chính sách khuyến khích đầu tư: nghiên cứu

trường hợp công nghiệp khai thác khoáng sản, Báo cáo nghiên cứu (Viện

Quản lý kinh tế Trung ương – CIEM).

[26] Lê Văn Hùng (2015), “Thực trạng năng suất lao động của Việt Nam từ sau đổi

156

mới và những nút thắt ràng buộc cất cánh phát triển”, Tham luận tại Hội thảo

về Tổng kết 30 năm phát triển kinh tế Việt Nam (giai đoạn 1986 – 2015), Viện

Kinh tế Việt Nam tổ chức, ngày 19/11/2015, tại Hà Nội.

[27] Đào Trọng Hưng, Lê Văn Hùng, Jason Morris–Jung, Nguyễn Thị Thu Thủy,

Trần Chí Trung (2010), “Trách nhiệm đối với các vấn đề môi trường trong

khai thác khoáng sản: trường hợp khai thác than ở mỏ than Hà Tu, tỉnh

Quảng Ninh”, Tham luận tại Hội thảo Tài nguyên khoáng sản và phát triển

bền vững ở Việt Nam do Tổng hội Địa chất Việt Nam, Liên hiệp các hội

Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA), Viện Tư vấn phát triển (CODE)

tổ chức 5/2010, tại Hà Nội.

[28] Nguyễn Thị Mai Hương (2008), Phân tích hiệu quả kinh doanh trong các

doanh nghiệp khai thác khoáng sản Việt Nam, luận án tiến sĩ Kinh tế, Đại

học Kinh tế quốc dân, Hà Nội.

[29] Hoàng Văn Khanh (2008), “Hiện trạng khai thác khoáng sản ở Việt Nam”, Tạp

chí Công nghiệp, số 64/2008.

[30] Vũ Đăng Khoa (2015), “Khai thác khoáng sản: từ câu chuyện ở cộng đồng đến

các vấn đề chính sách”, tham luận của UBND thị trấn Trại Cau (huyện Đồng

Hỷ, tỉnh Thái Nguyên) tại hội thảo do Trung tâm Con người và Thiên nhiên

(PanNature) tổ ngày 20/10/2015, tại Hà Nội.

[31] Lại Văn Mạnh (2016), Vai trò của chính sách tài chính trong quản lý hoạt

động khai thác khoáng sản ở Việt Nam theo định hướng phát triển bền vững,

luận án tiến sĩ Kinh tế, Học viện Khoa học xã hội, Hà Nội.

[32] Nguyễn Cảnh Nam (2012), “Chức năng quản lý, khai thác khoáng sản gắn với

bảo vệ môi trường theo pháp luật Việt Nam hiện hành; kiến nghị và đề

xuất”, Tham luận tại Hội thảo Việc thực hiện chính sách, pháp luật về quản

lý, khai thác khoáng sản gắn với bảo vệ môi trường do Đoàn giám sát của

Ủy ban thường vụ Quốc hội (Việc thực hiện chính sách, pháp luật về quản

lý, khai thác khoáng sản gắn với bảo vệ môi trường) tổ chức ngày

2/3/2012, tại Hà Nội.

[33] Nguyễn Cảnh Nam, Lê Tiến Đạt, và cộng sự (2010), Nghiên cứu xây dựng bộ

157

chỉ tiêu phát triển bền vững cho ngành công nghiệp khai khoáng Việt Nam,

Đề tài nghiên cứu khoa học (Hội Khoa học công nghệ mỏ Việt Nam).

[34] Nguyễn Cảnh Nam, Đinh Văn Sơn (2010), “Xây dựng mô hình PTBV cho

ngành công nghiệp khai khoáng Việt Nam”, Tham luận tại Hội thảo Tài

nguyên khoáng sản và phát triển bền vững ở Việt Nam do Tổng hội Địa chất

Việt Nam, Liên hiệp các hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA),

Viện Tư vấn phát triển (CODE) tổ chức 5/2010, tại Hà Nội.

[35] Nguyễn Cảnh Nam, Nguyễn Quang Tuyên (2010), “Định hướng PTBV ngành

công nghiệp khai khoáng Việt Nam”, trong Tuyển tập Hội nghị khoa học mỏ

quốc tế, tổ chức 9/2010, tại Hạ Long (tỉnh Quảng Ninh).

[36] Ngân hàng Thế giới (2013), Tạo thuận lợi thương mại, tạo giá trị và nâng cao

năng ực cạnh tranh - Gợi ý cho chính sách tăng trưởng kinh tế của Việt

Nam, Báo cáo nghiên cứu, Hà Nội.

[37] Ngân hàng Thế giới (2012), Tăng trưởng xanh cho mọi người: con đường

hướng tới phát triển bền vững, nhà xuất bản Hồng Đức, Hà Nội.

[38] Ngân hàng Thế giới (2010), Quản lý tài nguyên thiên nhiên, Báo cáo phát triển

Việt Nam – năm 2010, Hà Nội.

[39] Ngân hàng Thế giới (2008), Của cải của các quốc gia ở đâu? Đo lường nguồn

của cải Thế kỷ 21, nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.

[40] Trần Ngọc Ngoạn (chủ biên), Hà Huy Ngọc, Nguyễn Song Tùng, Phạm Thị

Trầm, Hà Huy Thành (2016), Chính sách thúc đẩy tăng trưởng xanh - Kinh

nghiệm quốc tế và thực tiễn Việt Nam, nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.

[41] Nguyễn Linh Ngọc (2012), “Tình hình thực hiện pháp luật về môi trường của

các tổ chức, cá nhân khai thác khoáng sản”, Tham luận tại Hội thảo Việc

thực hiện chính sách, pháp luật về quản lý, khai thác khoáng sản gắn với

bảo vệ môi trường do Đoàn giám sát của Ủy ban thường vụ Quốc hội (Việc

thực hiện chính sách, pháp luật về quản lý, khai thác khoáng sản gắn với

bảo vệ môi trường) tổ chức ngày 7/7/2012, tại Quảng Ninh.

[42] Nghiêm Xuân Nguyên (2014), “Hiện trạng và phương hướng phát triển sản

xuất sạch hơn trong chế biến khoáng sản tỉnh Thái Nguyên”, trong Tuyển

158

tập Báo cáo tại Hội nghị khoa học – công nghệ tuyển khoáng toàn quốc lần

thứ IV “Vai trò của chế biến khoáng sản trong phát triển các ngành công

nghiệp Việt Nam”, Hội Tuyển khoáng Việt Nam, nhà xuất bản Khoa học Tự

nhiên và Công nghệ, Hà Nội.

[43] Dương Hồng Phi, Doãn Duy Cầm (1998), Tổng quan về hiện trạng trữ lượng,

khai thác và sử dụng khoáng sản ở Việt Nam, Văn phòng Hội đồng đánh giá

trữ lượng khoáng sản, Hà Nội.

[44] Phòng Thương mại công nghiệp Việt Nam –VCCI và Viện Tư vấn phát triển –

CODE (2011), Sáng kiến minh bạch ngành công nghiệp khai khoáng –EITI

và khả năng tham gia của Việt Nam, Báo cáo nghiên cứu, Hà Nội.

[45] Nguyễn Ngọc Phú (2014), “Các tiến bộ trong công nghệ đập nghiền khoáng

sản”, trong Tuyển tập Báo cáo tại Hội nghị khoa học – công nghệ tuyển

khoáng toàn quốc lần thứ IV “Vai trò của chế biến khoáng sản trong phát

triển các ngành công nghiệp Việt Nam”, Hội Tuyển khoáng Việt Nam, nhà

xuất bản Khoa học Tự nhiên và Công nghệ, Hà Nội.

[46] Nguyễn Đức Quý (2010), “Phát triển bền vững tài nguyên khoáng sản”, Tham

luận tại Hội thảo Tài nguyên khoáng sản và phát triển bền vững ở Việt Nam do

Tổng hội Địa chất Việt Nam, Liên hiệp các hội Khoa học và Kỹ thuật Việt

Nam (VUSTA), Viện Tư vấn phát triển (CODE) tổ chức 5/2010, tại Hà Nội.

[47] Nguyễn Danh Sơn (2012), Kinh phí sự nghiệp môi trường ở Việt Nam – Thực

trạng, vấn đề và kiến nghị, Báo cáo Nghiên cứu – Dự án Quản lý nhà nước

về môi trường cấp tỉnh ở Việt Nam (Bộ Tài nguyên và Môi trường).

[48] Nguyễn Danh Sơn (2009), Điều tra, đánh giá và đề xuất chính sách quản lý

chất thải rắn trong khai thác và sử dụng khoáng sản theo hướng bền vững

vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, Đề tài khoa học cấp bộ, (Viện nghiên cứu

Phát triển bền vững vùng Bắc Bộ – Viện Khoa học Xã hội Việt Nam).

[49] Nguyễn Ngọc Sơn (2011), “Chất lượng tăng trưởng kinh tế Việt Nam: Mười

năm nhìn lại và giải pháp cho tương lai”, trong sách Chất lượng tăng trưởng

kinh tế Việt Nam: mười năm nhìn lại và định hướng tương lai do Nguyễn

Ngọc Sơn và Phạm Hồng Chương (chủ biên), nhà xuất bản Giao thông vận

159

tải, Hà Nội.

[50] Nguyễn Thành Sơn (2012), “Một số ý kiến về thực trạng chính sách và đề xuất

định hướng quản lý, sử dụng bền vững tài nguyên khoáng sản Việt Nam”, Tham

luận tại Hội thảo Việc thực hiện chính sách, pháp luật về quản lý, khai thác

khoáng sản gắn với bảo vệ môi trường do Đoàn giám sát của Ủy ban thường vụ

Quốc hội (Việc thực hiện chính sách, pháp luật về quản lý, khai thác khoáng

sản gắn với bảo vệ môi trường) tổ chức ngày 2/3/2012 tại Hà Nội.

[51] Nguyễn Văn Tài (2011), “Tăng trưởng xanh: Lựa chọn nào cho Việt Nam”, Tham

luận tại Diễn đàn ASEM về Tăng trưởng xanh, tháng 10/20011, Hà Nội.

[52] Trần Nhật Tân (2015), “Giải pháp chính sách phát triển Khu kinh tế Vũng Áng

tỉnh Hà Tĩnh trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế”, Tạp chí Nghiên cứu

kinh tế, số 12/2015, tr.59 – 67.

[53] Bùi Tất Thắng (2012), “Tăng trưởng xanh và quá trình tái cơ cấu nền kinh tế”,

Tạp chí Kinh tế và Dự báo, số 3/2012, tr.8–10.

[54] Hà Tất Thắng (2015), Quản lý nhà nước về an toàn, vệ sinh lao động trong các

doanh nghiệp khai thác đá ở Việt Nam, luận án tiến sĩ Kinh tế, Học viện

Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

[55] Nguyễn Xuân Thắng, Vũ Tuấn Anh, Nguyễn Mạnh Hùng, Nguyễn Xuân Trung

(2013), Quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế xanh: Kinh nghiệm của Hàn

Quốc và một số gợi mở cho Việt Nam, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ

(Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam).

[56] Lại Hồng Thanh, Trịnh Xuân Hòa, Hoàng Văn Khoa, Hoàng Cao Phương,

Nguyễn Đức Thu, Đào Chí Biền, Phạm Việt Huy, Thân Văn Kết (2012),

Nghiên cứu, đề xuất giải pháp hiệu quả nhằm bảo vệ khoáng sản chưa khai

thác, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ (Mã số TNMT.03/10–15), Viện

Khoa học Địa chất và Khoáng sản, Hà Nội.

[57] Lê Văn Thành (2004), Khai thác khoáng sản và tác động đến môi trường, Tổng

cục Địa chất và Khoáng sản, Hà Nội.

[58] Trần Đình Thiên (2014), “Một số nhận định về vai trò của khai thác tài nguyên

đối với kinh tế Việt Nam trong 2 thập kỷ qua và xu hướng trong giai đoạn

160

tái cơ cấu nền kinh tế”, Tham luận tại Hội thảo Thúc đẩy minh bạch trong

quản trị tài nguyên thiên nhiên ở Việt Nam, Trung tâm Con người và Thiên

nhiên tổ chức, ngày 15/07/2014, Hà Nội.

[59] Đặng Trung Thuận (2012), “Khai thác, chế biến quặng titan ở các tỉnh ven biển

miền Trung và vấn đề môi trường có liên quan”, Tham luận tại Tọa đàm

Thực thi chính sách, pháp luật về quản lí, khai thác titan và một số khoáng

sản khác vùng duyên hải miền Trung gắn với bảo vệ môi trường do Đoàn

giám sát của Ủy ban thường vụ Quốc hội (Việc thực hiện chính sách, pháp

luật về quản lý, khai thác khoáng sản gắn với bảo vệ môi trường) tổ chức

ngày 10/3/2012, tại tỉnh Bình Định.

[60] Đặng Trung Thuận (chủ biên) (2010), Khai thác bauxit và phát triển bền vững

Tây Nguyên, nhà xuất bản Tri thức, Hà Nội.

[61] Lê Quang Thuận, Lê Xuân Trường, Trần Thanh Thủy (2015), Thực trạng và cơ

hội nâng cao hiệu quả quản lý nguồn thu từ khai thác khoáng sản tại Việt

Nam, nhà xuất bản Hà Nội, Hà Nội.

[62] Trần Thị Thanh Thủy (2014), “EITI 2013: Công cụ tiềm năng hỗ trợ hoạt động

khoáng sản ở Việt Nam”, Bản tin Chính sách về Tài nguyên –Môi trường –

Phát triển bền vững (Trung tâm Con người và Thiên nhiên), số 14/2014 (số

ISSN 0866 – 7810), tr.10 – 12.

[63] Trần Thanh Thủy, Trần Thị Thanh Hải, Kim Thu Hà, Dương Văn Thọ, Nguyễn

Đức Anh (2015), Trả lại bản chất phí bảo vệ môi trường nhằm giảm thiểu

tác động và hạn chế xung đột trong lĩnh vực khai thác khoáng sản, nhà xuất

bản Hồng Đức, Hà Nội.

[64] Trần Thanh Thủy, Trịnh Lê Nguyên, Nguyễn Việt Dũng (2012), Khoáng sản –

Phát triển – Môi trường: Đối chiếu giữa lý thuyết và thực tiễn, nhà xuất bản

Mỹ thuật, Hà Nội.

[65] Tổ chức phát triển công nghiệp Liên hợp quốc – UNIDO (2012), Hướng tới

tăng trưởng xanh từ phát triển công nghiệp xanh tại Việt Nam, Hà Nội.

[66] Tổ chức phát triển công nghiệp Liên hợp quốc – UNIDO (2011), Sử dụng hiệu

161

quả năng lượng và tài nguyên trong ngành thép Việt Nam, Hà Nội.

[67] Trần Văn Trị (chủ biên) (2000), Tài nguyên khoáng sản ở Việt Nam, Tổng cục

Địa chất và Khoáng sản, Hà Nội.

[68] Trung tâm Nghiên cứu Giới, Gia đình và Môi trường – CGFED (2013), Tác

động xã hội và môi trường của hoạt động khai khoáng đối với cộng đồng

sinh sống trong khu vực khai khoáng: nghiên cứu tại Thái Nguyên và Bình

Định, Báo cáo nghiên cứu, Hà Nội.

[69] Trung tâm Y tế dự phòng Bình Định (2009), Nghiên cứu thực trạng môi trường

lao động và sức khỏe công nhân tại một số doanh nghiệp khai thác khoáng

sản trên địa bàn tỉnh Bình Định, Đề tài nghiên cứu khoa học, Bình Định.

[70] Đinh Đức Trường, Lê Thanh Hà (2013), “Lượng giá thiệt hại sức khỏe cồng

động do ô nhiễm không khí của nhà máy xi măng Bỉm Sơn, tỉnh Thanh

Hóa”, trong sách Lượng giá tài nguyên và môi trường: Từ lý thuyết đến ứng

dụng tại Việt Nam do Đinh Đức Trường và Lê Thanh Hà (chủ biên), nhà

xuất bản Giao thông vận tải, Hà Nội.

[71] Lê Anh Tuấn, Phương Hoàng Kim (2012), “Đánh giá hiện trạng phát triển xanh

một số phân ngành công nghiệp tại Việt Nam”, Tạp chí Kinh tế và phát

triển, số 180/2012, tr.23–27.

[72] Ủy ban thường vụ Quốc hội (2012), Báo cáo kết quả Giám sát “Việc thực hiện

chính sách, pháp luật về quản lý, khai thác khoáng sản gắn với bảo vệ môi

trường”, Báo cáo số 246/BC–UBTVQH13, ngày 02/10/2012, Hà Nội.

[73] Văn phòng Phát triển bền vững (2014), Báo cáo rà soát các cơ chế, chính sách

hạn chế, cản trở PTBV cần kiến nghị Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ sửa

đổi, bổ sung, Hà Nội.

[74] Viện Quản lý kinh tế Trung ương – CIEM (2012), Chỉ số GDP xanh: Nghiên

cứu Phát triển Khung Phương pháp, Báo cáo nghiên cứu, Hà Nội.

[75] Viện Quản lý kinh tế Trung ương – CIEM (2008), Hạch toán giá trị tài sản của

Việt Nam: Vai trò của tài nguyên thiên nhiên, Báo cáo trong khuôn khổ Dự

án CIEM–DANIDA, Hà Nội.

[76] Viện Tư vấn phát triển – CODE (2013), Thực trạng quản lý, khai thác và sử

162

dụng tài nguyên khoáng sản trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên, Báo cáo

nghiên cứu, Hà Nội.

[77] Viện Tư vấn phát triển (2012), Đánh giá hiệu quả kinh tế – xã hội, phân chia

lợi ích và quản lý nguồn thu trong khai thác titan tại tỉnh Bình Định, Báo

cáo nghiên cứu, Hà Nội.

[78] Viện Tư vấn phát triển (2010), Thực trạng quản lý, khai thác và sử dụng tài

nguyên khoáng sản trong bối cảnh phát triển bền vững ở Việt Nam, nhà xuất

bản Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội.

[79] Viện Khoa học công nghệ mỏ – Vinacomin (2015), Nghiên cứu và đề xuấ các

giải pháp nhằm tăng năng suất lao động, giảm giá thành than trong Tập

đoàn TKV, Đề tài nghiên cứu khoa học (Tập đoàn Công nghiệp Than –

Khoáng sản Việt Nam), Hà Nội.

[80] Nguyễn Khắc Vinh (2012), “Nhìn nhận tài nguyên khoáng sản ở Việt Nam

trong bối cảnh khoáng sản thế giới”, Tham luận tại Hội thảo Việc thực hiện

chính sách, pháp luật về quản lý, khai thác khoáng sản gắn với bảo vệ môi

trường do Đoàn giám sát của Ủy ban thường vụ Quốc hội (Việc thực hiện

chính sách, pháp luật về quản lý, khai thác khoáng sản gắn với bảo vệ

môi trường) tổ chức ngày 10/3/2012, tại Hà Nội.

Tiếng Anh

[81] Ademola O.T., Adeolu O.A. (2011), Enhancing linkages of oil and gas

industry in the Nigerian economy, Making the most of Commodities

Programme, Discussion Paper No. 8 March 2011.

[82] Ahrend R. (2002), Speed of reform, initial conditions, political orientation or

what? Explaining Russian regions’ economic performance, DELTA

working paper 2002-10.

[83] Auty R.M. (2001), “The political economy of resource-driven growth”,

European Economic Review, No.45, p.4–6.

[84] Bannon I., Collier P. (eds) (2003), Natural resources and violent conflict:

163

Options and actions, World Bank, Washington, DC.

[85] Baptist S., Hepburn C. (2012), Material intensity, productivity and economic

growth, Vivid Economics Ltd and London School of Economics, London

UK.

[86] Barma N., Kaiser K., Le T.M. (2010), Rents to riches? The political economy

of natural resources led development”, World Bank, Washington, DC.

[87] Barrera–Roldán A., Saldívar–Valdés A. (2002), “Proposal and application of a

Sustainable Development Index”, Ecological Indicators, 2/2002, p.251–256.

[88] Bonaglia F., Fukasaku K. (2003), Export diversification in low–income

countries: An international challenge after Doha, Working Paper No. 209,

Organisation of Economic Cooperation and Development.

[89] Boschini A.D., Pettersson J., Roine J. (2003), Resource curse or not: A

question of appropriability, SSE/EFI Working Paper Series in Economics

and Finance, No. 534.

[90] Breisinger T., Thurlow L. (2008), "Asian–driven resource booms in Africa

rethinking the impacts on development", International Food Policy Research

Institute (IFPRI), Discussion Paper No. 747, IFPRI, Washington DC.

[91] Brunschweiler C.N. (2009), Oil and growth in transition countries, working

Paper 09/108, Center of Economic Research at Swiss Federal Institute of

Technology, Zurich.

[92] Cai Z., Song Y., Lei X., (2011), “Natural capital and allocation of investment

sustainable perspective on endogenous growth model”, Environmental

Economics, Volume 2, Issue 2, pp.89–92.

[93] Canada’s Green Mining Initiative (2014), Workshop on best practices on

mining policies and technologies, June 2014, Brussels.

[94] Canada’s Green Mining Initiative (2013). EuroMining 2013 – Green Mining

Seminar, September 2013, Janice Zinck.

[95] Chr. Michelsen Institute – CMI (2012), Benefit streams from mining in

Tanzania: case studies from Geita and Mererani, report was commissioned

164

by the World Bank.

[96] Cleveland C.J., Stern D.I. (1997), Indicators of natural resources scarcity:

review, systhesis and application to U.S. Agriculture, Centre for Resource

and Environment studies, Australia National University.

[97] Collier P. (2008), The bottom billion: Why the poorest countries are failling

and what can be done about it, Oxford University Press, Oxford.

[98] Copeland B.R. (2012), “International Trade and Green Growth” Paper

presented at the Green growth knowledge platform inaugural conference,

Mexico City, January 12–13.

[99] Coria J. (2009), “Environmental Policy, Fuel Prices and the Switching to Natural

Gas in Santiago, Chile.” Ecological Economics, No.68 (11), p.2877–84.

[100] Crowson P. (2009), "The Resource Curse: a Modern Myth?" in Mining, Society

and a Sustainable World, ed. Jeremy P.Richards; London: Springer, 3-36

[101] Dasgupta P.S., Heal M.G. (1979), Economic theory and exhaustible resources.

Cambridge, Cambridge University Press, UK.

[102] Douangngeune B., Hayami Y., Godo Y. (2005), “Education and natuaral

resources in economic development: Thailand compared with Japan and

Korea”, Journal of Asian Economics 16, No.2 (April), p.179–204.

[103] Eifert B., Gelb A., Tallroth N.B. (2002), “The political economy of fiscal policy

and economic management in oil exporting countries.”, Policy research

working paper 2899, World Bank, Washington, DC.

[104] Ekins P., Speck S., (eds), (2011), Environmental Tax Reform: A policy for

green growth, Oxford University Press, Oxford.

[105] Ekins P. (2009), Resource productivity, environmental tax reform and

sustainable growth in Europe, Anglo–German Foundation for the Study of

Industrial Society.

[106] Elinor O. (2009), Beyond markets and states: polycentric gorvernance of

complex economic systems, Nobel Lecture, Dec. 2009.

[107] Esanov A. (2012), Diversification in resource-dependent countries: its

165

dynamics and policy Issues, working Paper, Revenue Watch Institute.

[108] ESCAP, ADB, UNEP (2012), Green growth resources and resilience

environmental sustanability.

[109] Fernández J.I.P, Sánchez M.R (2009), “Measuring tourism sustainability: proposal

for a composite index”, Tourism Economics, 15 (2)/2009, p.277–296.

[110] Gelb A. (2010), “Economic diversification in resource rich countries”,

presentation at seminar on Natural resources, finance, and development:

Confronting old and new challenges, organized by the Central Bank of

Algeria and the IMF Institute in Algiers, on 4–5 November 2010.

[111] Giljum S., Lutz C., Polzin C. (2010), Global implications of a European

environmental tax reform, SERI Working Paper Series, Sustainable Europe

Research Institute (SERI), Vienna, Austria and Institute for Economic

Structures Research (GWS), Osnabrück, Germany.

[112] Green Fiscal Commission (2009), How effective are green taxes?; Briefing

Paper Two, Green Fiscal Commission, ISBN 978 0 85374 836 6.

[113] Gylfason T. (2001), “Natural resources, education, and economic

development”, European Economic Review, N45, p. 4–6.

[114] Gylfason T., Zoega G. (2001), “Natural resources and economic growth: the

role of investment”, Studiestræde 6, ISSN 0908–7745, Economic Policy

Research Unit, University of Copenhagen, Denmark.

[115] Hamilton K. (1995), “Sustainable development: Hartwick rule and optimal

growth”, Environmental and Resource Economics, No.5, p.393–411.

[116] Hartwick J. M. (1977), “Intergenerational equity and the investment of rents from

exhaustible resources”, American Economic Review, No.67(5), p.972–974.

[117] Hausmann R., Rigobon R. (2002), An alternative interpretation of the

resource curse: Theory and policy implications, NBER Working Papers

No. 9424.

[118] Heine D., Norregaard J., Parry W.H. (2012), Environmental tax reform:

principles from theory and practice to date, IMF Working Paper

166

(WP/12/180).

[119] Hotelling H. (1931), “The Economics of Exhaustible Resources”, Journal of

Political Economy, No.30(2), p.137–175.

[120] Humphreys M., Sachs J., Joseph Stiglitz J., (eds) (2007), Escaping the resource

curse, Columbia University Press, New York.

[121] Jonathan P. (2004), “Nigeria struggles against the curse oil”, International

Herald Tribune, January 8, 2004.

[122] Kienzler D., Toledano P., Thomashausen S., Szoke–Burke S. (2015), Natural

resource contracts as a tool for managing the mining Sector, Federal

Ministry for Economic Cooperation and Development (Germany).

[123] Limi A. (2007), “Escaping from the resource curse: evidence from Botswana

and the rest of the world”, IMF Staff Papers, Vol. 54, No. 4, pp.663-699,

International Monetary Fund.

[124] McPhail P. (2001), The revenue dimension of oil, gas and mining projects:

issues and practice, Mimeo, Washington DC: SPE, World Bank.

[125] Mehlum H., Moene K., Torvik R. (2006), Institutions and the resource curse,

The Economic Journal. Vol. 116(508), p. 1–20.

[126] Michaels R., Murphy R.P. (2009), “Green jobs: fact or fiction? An assessment

of the literature”, Institute for Energy Research, Houston, TX.

[127] Morgandi M. (2010), Extractive industries revenues distribution at the sub-

national level: the Experience in seven resource - rich countries, report was

commissioned by Revenue Watch Institute.

[128] Morris A., Bogart W., Meiners R., Dorchak A. (2011), The false promise of

green energy. s.l.: Carlo Institute.

[129] Organisation for Economic Cooperation and Development – OECD (2011),

Towards green growth, Paris.

[130] Ogunleye E.K. (2008), “Natural resource abundance in Nigeria: From

dependence to development”, Resources Policy, Volume 33, Issue 3,

September 2008, p.168–174.

[131] Olusi J. O., Olagunju M.A. (2005), “The Primary Sectors of the Economy and

167

the Dutch Disease in Nigeria”, The Pakistan Development Review, No.44 (2)

(Summer 2005) p.159–175.

[132] Owens J. (2011), Sharing the benefits of the mining boom.

[133] Peszko G. (2005), Financing industrial pollution abatement: towards guidance

for World Bank Operations, World Bank, Washington, DC.

[134] Philippot L.M. (2010), Natural resources and economic development in

transition economies, PRES de Clermont Université (CERDI-CNRS,

Université d’Auvergne).

[135] Pigou A.C. (1920), The Economics of Welfare, Macmillan, London.

[136] Raballand G., Kunth A., Auty R. (2004), Central Asia's transport cost burden

and its impact on trade with the EU, Working Paper, World Bank,

Washington DC.

[137] Reilly J.M. (2012), “Green growth and the efficient use of natural resources”,

Energy Economics, No.34 (2012) S85–S93.

[138] Sachs J., Warner A. (2001), “Natural resources and economic development: The

curse of natural resources”, European Economic Review, No.45, p.827–838.

[139] Sachs J., Warner A. (1999), Natural resource abundance and economic

growth, NBER Working Paper 5398, Cambridge.

[140] Sala X., Subramanian A., (2003), Addressing the natural resource curse: an

illustration from Nigeria, National Bureau of Economic Research, Working

Paper 9804, Cambridge, MA.

[141] Sawada E., Managi S. (2014), “Effects of technological change on non-

renewable resource extraction and exploration”, Journal of Economic

Structures (2014).

[142] Sayne A., Mahdavi P., Patrick R.P. Schreuder J. (2012), Nigeria: The

Petroleum Industry Bill and the Future of Nigerian National Petroleum

Corporation, Revenue Watch Institute.

[143] Satish P. G., Jawahar N., Nachiappan SP. (2013), “Composite performance

index for sustainability”, Journal Of Environmental Science, Toxicology

And Food Technology, e–ISSN: 2319–2402, p– ISSN: 2319–2399, Volume

168

3, Issue 1 (Jan. – Feb. 2013), p.91–102.

[144] Singh R. K. (2007), Development of composite sustainability performance

index for steel industry, Environment Management Department Bhilai Steel

Plant, Steel Authority of India Limited, India.

[145] Sturgill B., Zuleta H. (2013), Variable factor shares, units of measurement and

growth accounting: an empirical exercise, working paper.

[146] Sustainable Europe Research Institute – SERI (2012), Green economies

around the world, implications of resource use for development and the

environment, Commissioned by UNIDO under the “Green Industry”

Programme.

[147] Sustainable Europe Research Institute – SERI (2011), Resource use and

resource efficiency in emerging economies, a pilot study on trends over

the past 25 years, Commissioned by UNIDO under the “Green Industry”

Programme.

[148] Sustainable Europe Research Institute – SERI (2010), Resource use and

resource efficiency in Asia: a pilot study on trends over the past 25 years,

Commissioned by UNIDO under the “Green Industry” Programme.

[149] Sustainable Europe Research Institute – SERI (2009), Resource efficiency for

sustainable growth: global trends and European policy scenarios,

Background Paper.

[150] Solow R.M. (1974), “The economics of resources or the resources of

economics”, American Economic Review, No.64, p.1–14.

[151] Stiglitz J. (1974), “Growth with exhaustible natural resources: efficient and

optimal growth paths”, The Review of Economic Studies Symposium, Vol.

41, p.123–137.

[152] Tinney A., Roe P.A. (2002), Overview of best practice environmental

management in mining, Environment Australia.

[153] United Nations (2007), Indicators of sustainable development: guidelines and

methodologies, No. E.08.II.A.2, ISBN 978–92–1–104577–2, New York.

[154] United Nations Environment Programme – UNEP (2011a), Towards a green

169

economy: pathways to sustainable development and poverty eradication.

[155] United Nations Environment Programme – UNEP (2011b), Decoupling

natural resource use and environmental impacts from economic growth,

A report of the Working Group on Decoupling to the International

Resource Panel.

[156] United Nations Environment Programme – UNEP (2004), The use of economic

instruments in environmental policy: opportunities and challangens, United

Nations Environment Programme, UNEP/ETB/2003/9.

[157] UNEP, ILO, IOE, ITUC (2008), Green jobs: towards decent work in a

sustainable, low- carbon world, September 2008.

[158] UNIDO (2012), Green industry initiative for sustainable industrial

development.

[159] UNIDO (2011a), Policies for supporting green industry.

[160] UNIDO (2011b), Green growth: from labour to resource productivity; best

practice examples, initiatives and policy options.

[161] UNIDO (2010), A greener footprint for industry: opportunities and challenges

of sustainable industrial development.

[162] United Nations Conference on Trade and Development – UNCTAD (2012).

Extractive industries: optimizing value retention in host countries,

UNCTAD/SUC/2012/1, New York and Geneva.

[163] Venugopal V. (2014), Assessing mineral licensing in a decentralized context:

the case of Indonesia, Natural Resource Governance Institute.

[164] Watts M. (2007), “Petro – insurgency or criminal syndicate? Conflict and

Violence in the Niger Delta”, Review of African Political Economy, No.114,

p.637 – 660.

[165] Watts M. (2004), “Resource curse: governmentality, oil and power in the Niger

Delta, Nigeria”, Geopolitics, No. 9 (March 2004), p.50–80.

[166] Wick K., Bulte E.H. (2006), “Contesting resources: Rent seeking, conflict and

the natural resource curse”, Public Choice, Vol. 128, No. 3/4 (Sep., 2006),

170

pp.457-476.

[167] World Bank (2011), Sharing mining benefits in developing countries,

working paper.

[168] World Bank (2009a), Extractive industries value chain: a comprehensive

integrated approach to developing extractive industries, Extractive Industries

for Development Series #3, Africa Region Working Paper Series #125.

[169] World Bank (2009b), Sector licensing studies: mining sector , World Bank,

Washington, DC.

[170] Zhao Y. (2013), “Mitsubishi’s Mining Investment in Australia” in Best

practices for transnational investment in extractive and land use sectors ,

School of International Service at American University.

Các website thu thập số liệu thống kê

[171] Asian Developmant Bank – ADB (2015), Key Economic Indicators for Asia

and the Pacipic 2015; http://www.adb.org/publications/key-indicators-asia-

and-pacific-2015.

[172] Australian Bureau of Statistics (2012), Year Book Australia, 2012;

http://www.abs.gov.au/ausstats/abs@.nsf/Lookup/1301.0Main+Features292012.

[173] Sustainable Europe Research Institute – SERI (2015), Global Resource

Extraction 1980 to 2011., database: http://www.materialflows.net/.

[174] World Bank (2015). World Development Indicators,

171

http://data.worldbank.org/data–catalog/world–development–indicators.

Phụ lục 1: Các bảng số liệu, hình vẽ

Bảng 1: Các chỉ tiêu đánh giá tiến bộ tăng trưởng xanh của OECD

Nhóm tiêu chí

Chỉ tiêu

Đo lường

1. Năng suất tài nguyên và môi trường

1. Năng suất CO2

 Lượng phát thải CO2 (tấn)  Lượng phát thải các chất gây hiệu ứng nhà kính (CO2, CH4, N2O, PFCs, HFCs và SF6)

suất và

của năng

 Lượng điện tiêu thụ (Kwh)  Lượng năng lượng tiêu thụ (điện, than đá,

Năng carbon lượng

dầu mỏ)

2. Năng suất sử dụng năng lượng

 Lượng năng lượng tái tạo hoặc tiêu thụ

(Kwh)

 Phát thải chất gây ô nhiễm trong nông

nghiệp (Nito, Photpho, Metan) (tấn)

3. Năng suất trong nông nghiệp

 Giá trị gia tăng tổng snar lượng nông

nghiệp

Năng suất của tài nguyên

 Lượng nước sử dụng trong nông nghiệp

(m3)

4. Năng suất sử dụng nước

 Lượng nước tưới/1 ha đất canh tác nông

nghiệp

2. Tài nguyên thiên nhiên

 Tổng trữ lượng nước sạch (nước ngầm và

nước sông) (km3)

5. Tài nguyên nước

 Cơ cấu sử dụng nước sạch  Mức độ sử dụng nước (Lượng nước sử

Tài nguyên có thể tái tạo

6. Tài nguyên rừng

dụng/Tổng trữ lượng nước)  Lượng nước sử dụng (m3/người)  Diện tích rừng che phủ (km2)  Diện tích rừng trên đầu người (km2/người)  Diện tích rừng bị cháy  Diện tích rừng bị chuyển đổi mục đích sử

dụng

7. Tài nguyên biển

 Xu hướng khai thác cá  Cơ cấu cá khai thác (đánh bắt từ biển, sông,

nuôi trồng)

Tài

nguyên

Tài nguyên không thể tái tạo

8. khoáng sản

 Trữ lượng khoáng sản  Mức độ khai thác các loại khoáng sản

172

 Ảnh hưởng môi trường của việc khai thác khoáng sản (đất, nước, không khí, cảnh quan)

 Cơ cấu các loại đất (đất nông nghiệp, rừng,

xây dựng,..)

9. Tài nguyên đất

Đa dạng sinh học và hệ sinh thái

 Xu hướng thay đổi cơ cấu các loại đất  Chuyển đổi đất nông nghiệp thành đất công

nghiệp

 Diện tích đất nông nghiệp bị bạc màu

tài

(km2)

10. Sử dụng nguyên đất

 Diện tích đất nông nghiệp và các loại khác

bị mất do xói mòn (km2)

 Số lượng các loài động vật đang bị đe dọa

11. Tài nguyên động vật hoang dã

tuyệt chủng/Tổng số loài động vật  Diện tích các khu bảo tồn thiên nhiên

3. Chất lượng môi trường sống

 Tỷ lệ người dân tiếp xúc với ô nhiễm

không khí

12. Vấn đề sức khỏe do môi trường gây ra và chi phí liên quan: ô nhiễm không khí

 Nồng độ bụi PM10, PM2.5, TSP trong lớn

khu

các

thị

đô

khí

không (microgram/m3)

 Ảnh hưởng của thiên tai, bão lũ, hạn hán

Ảnh hưởng của môi trường đến sức khỏe và các rủi ro

đến cuộc sống của người dân

 Ô nhiễm trong sản xuất công nghiệp (nước

thải, không khí, tiếng ồn)

 Tỷ lệ dân số tiếp cận hệ thống xử lý nước

thải

Dịch vụ về môi trường và tiện ích

 Tỷ lệ dân số tiếp cận nước sạch

13. Tiếp xúc với các rủi ro tự nhiên hay công nghiệp, và các thiệt hại kinh tế liên quan 14. Tiếp cận các lý biện pháp xử nước thải và nước uống hợp vệ sinh 4. Cơ hội kinh tế và lựa chọn chính sách

 Chi phí R & D về năng lượng tái tạo hay

môi trường/GDP

 Chi phí R & D về năng lượng tái tạo/ Tổng

chi phí R & D

 Chi phí R & D về môi trường/Tổng chi phí

15. Chi phí R & D dành tăng cho trưởng xanh

R & D

Công nghệ và đổi mới

 Chi phí R & D dành cho tăng trưởng xanh/

Tổng chi phí R & D

 Số bằng sáng chế về môi trường/ Tổng số

16. Bằng sáng chế liên quan đến tăng

bằng sáng chế

173

trưởng xanh

 Số việc làm trong khu vực sản xuất hàng hóa và dịch vụ môi trường/Tổng số việc làm

Hàng hóa và dịch vụ về môi trường

17. Sản xuất hàng hóa và dịch vụ môi trường

 Số doanh nghiệp trong khu vực sản xuất hàng hóa và dịch vụ môi trường/Tổng số doanh nghiệp

tài

chính

Nguồn quốc tế

18. Nguồn tài chính quốc tăng tế về trưởng xanh

 ODA về tăng trưởng xanh  Tài trợ tài chính cho thị trường Carbon  FDI về tăng trưởng xanh  Doanh thu thuế môi trường/Tổng doanh thu

19. Thuế môi trường

thuế

Giá cả và chuyển nhượng sử dụng tài nguyên

 Cấu trúc của thuế môi trường  Thuế suất của xăng, dầu

20. Định giá năng lượng

Phương pháp quản lý

21. Chính sách về tăng trưởng xanh

 Chính sách khuyến khích sản xuất thân thiện môi trường, tăng năng suất sử dụng nguyên nhiên liệu, áp dụng công nghệ mới trong sản xuất

 Chính sách bảo vệ môi trường ở cấp độ

vùng và tỉnh

 Chính sách nâng cao trình độ người lao

động

Đào tạo và phát triển kỹ năng

22. Đào tạo và phát triển kỹ năng hướng tới tăng trưởng xanh

 Chính sách nâng cao nhận thức của người dân về bảo vệ môi trường, sản xuất hiệu quả, giảm phát thải

174

Nguồn: Trích lại từ Vũ Tuấn Anh và cộng sự (2015) [1].

Bảng 2: Tiềm năng tài nguyên khoáng sản của một số loại khoáng sản chính

(thống kê đến tháng 12/2011, cập nhật đến tháng 3 năm 2012)

Loại khoáng sản Đơn vị tính

Phân bố

Tổng tài nguyên

Trong đó, trữ lượng đã thăm dò

1. Khoáng sản có tổng tài nguyên lớn, rất lớn

1.

Triệu tấn

10.000

4.500

Bauxit laterit

Tập trung chủ yếu ở Tây Nguyên

2. Đất hiếm

9,467

1,1

Phân bố ở Lai Châu, Yên Bái

Triệu tấn oxyt đất hiếm

3. Apatit

Triệu tấn

2.500

778

Phân bố ở Lào Cai

4. Titan

Triệu tấn

650

15,71

Dọc ven biển miền Trung, trong (Ninh tầng cát đỏ Thuận, Bình Thuận).

thủy

5.

Triệu tấn

3.000

123

Ven biển miền Trung

Cát tinh

vôi

6.

Triệu tấn

Rất lớn

10.692

Đá ximăng

Phân bố chủ yếu ở miền Bắc và Bắc Trung Bộ

2.000

1.170

7. Đá hoa trắng

Tập trung ở Yên Bái, Nghệ An và Tuyên Quang

300

188,5

+Triệu tấn carbonat +Triệu m3 đá ốp lát

8. Than

Triệu tấn

40.930

3.520

Tập trung ở Quảng Ninh, Thái Nguyên, Quảng Nam và Đồng bằng Sông Hồng

lát

9.

Triệu m3

1.000

15

Phân bố rải rác ở nhiều tỉnh

Đá ốp granit

10.

m3/ngày

32.469

Phân bố rải rác ở nhiều tỉnh

Nước khoáng nóng

2. Khoáng sản có tổng tài nguyên quy mô trung bình

11. Urani

218

Tây Bắc, Việt Bắc, Trung Trung Bộ và Tây Nguyên

nghìn tấn U3O8

12. Sắt

960,6

760,6

Triệu tấn

Lào Cai, Cao Bằng, Thái

175

Nguyên, Hà Tĩnh

kim loại

13. Crom

33,8

Tập trung ở Thanh Hoá

Triệu tấn kim loại

14. Mangan

40,34

12,31

Cao Bằng, Tuyên Quang

Triệu tấn kim loại

15. Đồng

Ngàn tấn

1.018

718

Tập trung ở Lào Cai

sa

16.

13

Thiếc khoáng

Ngàn tấn SnO2

Trữ lượng đã cạn kiệt, phần còn lại ít có khả năng khai thác

17. Thiếc gốc

129

11

Tuyên Quang, Nghệ An, Cao Bằng

Ngàn tấn kim loai

18.

166

Mỏ Núi Pháo, Thái Nguyên

Wonfram (sheelit)

Ngàn tấn WO3

19.

26,9

2,8

Tuyên Quang

Wonfram (wonframit)

Ngàn tấn WO3

20. Chì - kẽm

3.466

466

Bắc Kạn, Tuyên Quang, Thái Nguyên,

Ngàn tấn kim loại

21. Vàng

Tấn kim loại

154

42,7

Có 34 tấn phân bố trong mỏ đồng Sin Quyền

22. Antimon

67

37

Hà Giang, Quảng Ninh

Ngàn tấn kim loại

23. Kaolin

255,7

Phân bố rải rác ở nhiều tỉnh

Triệu tấn quặng

24.

57,2

Quảng Ninh

Kaolin- pyrophilit

Triệu tấn quặng

25.

53,8

23,8

Triệu tấn quặng

Felspat và nguyên liệu felspat

Phân bố trong các tầng đá biến chất cổ và các thể xâm nhập phong hoá

26. Magnezit

30

Gia Lai

Triệu tấn quặng

27. Graphit

35,2

13,5

Lào Cai

Triệu tấn quặng

28. Bentonit

5,04

0,54

Lâm Đồng, Ninh Thuận

Triệu tấn quặng

176

29. Diatomit

100

Phân bố tập trung ở Phú Yên, Kon Tum

Triệu tấn quặng

30. Barit

3,7

0,2

Phân bố chủ yếu trong mỏ đất hiếm ở Lai Châu

Triệu tấn quặng

31. Fluorit

2,05

0,05

Phân bố chủ yếu trong mỏ đất hiếm ở Lai Châu

Triệu tấn quặng

32. Talc

0,9

0,3

Hoà Bình, Sơn La

Triệu tấn quặng

33.

triệu m3

60

10

Bắc Trung Bộ và Bắc Bộ

Đá ốp lát, đá hoa

Nguồn: Báo cáo số: 167/BC - CP ngày 25 tháng 6 năm 2012 của Chính phủ

Bảng 3: Số lượng doanh nghiệp tham gia hoạt động khai thác khoáng sản

Tổng số doanh nghiệp khai khoáng Khai thác than Khai thác quặng kim loại Khai thác đá và khai thác các mỏ khác

2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 38 41 46 52 58 72 73 71 164 216 117 75 91 82 25 34 51 64 85 87 99 146 183 186 208 323 342 311 358 648 780 906 1042 1110 1178 1457 1852 2096 2201 2559 2472 2386 427 725 879 1024 1191 1275 1359 1685 2206 2504 2532 2968 2962 2862

177

Nguồn: Kết quả Điều tra doanh nghiệp các năm 2000 – 2013 (Tổng cục Thống kê).

Bảng 4: Số lượng doanh nghiệp phân theo quy mô21

Theo quy mô vốn

Theo quy mô lao động

Năm

Tổng số

DN nhỏ DN vừa DN lớn DN siêu nhỏ DN nhỏ DN vừa DN lớn

2000

358

47

16

47

267

27

80

421

2001

659

47

17

239

390

34

60

723

2002

789

63

25

190

577

35

75

877

2003

930

66

26

210

706

36

70

1.022

2004

1083

73

29

241

843

35

66

1.185

2005

1152

78

39

297

883

25

64

1.269

2006

1223

82

45

392

866

31

61

1.350

2007

1511

109

54

559

1022

34

59

1.674

2008

1964

171

64

929

1174

36

60

2.199

2009

2112

304

82

1091

1308

40

59

2.498

2010

2020

378

128

991

1425

50

60

2.526

2011

2435

367

155

1305

1549

31

72

2.957

2012

2592

202

111

1400

1413

24

68

2.905

2013

2116

448

215

1405

1279

27

68

2.779

Nguồn: Kết quả Điều tra doanh nghiệp các năm 2000 – 2013 (Tổng cục Thống kê).

Bảng 5: Cơ cấu về trình độ chuyên môn kỹ thuật của lao động (%)

2013

2001 2007 Trình độ chuyên môn được đào tạo Chung

Khai thác than Khai thác quặng kim loại Khai thác đá, mỏ khác

43,3 21,9 36,7 19,5 56 54,4 1. Đã qua đào tạo nhưng không có chứng chỉ

2. Sơ cấp nghề 36,9 21,7 29,9 43,4 9 17,6

21 Phân loại doanh nghiệp theo tiêu chí của Chính phủ (Nghị định số 56/2009/NĐ-CP), quy mô đối với khu vực công nghiệp và xây dựng: doanh nghiệp siêu nhỏ: 10 lao động trở xuống; doanh nghiệp nhỏ: 20 tỷ đồng trở xuống, từ 10 – 200 lao động; doanh nghiệp vừa: từ trên 20 tỷ đồng đến 100 tỷ đồng, từ trên 200 người đến 300 người.

178

3. Trung cấp, trung cấp 8,6 2,8 16,2 16,4 18,6 15,3

nghề

3,2 0,6 6,2 7,9 5,7 4,1 4. Cao đẳng, cao đẳng nghề

5. Đại học 7,9 3 10,7 12,6 10,1 8,2

6. Trên đại học 50 0,3 0,1 0,6 0,4

Tổng 100 100 100 100 100 100

Nguồn: Kết quả Điều tra doanh nghiệp các năm 2000 – 2013 (Tổng cục Thống kê).

Bảng 6: Một sô chỉ tiêu phản ánh quy mô và hiệu quả sản xuất kinh doanh của

doanh nghiệp khai thác khoáng sản22

Tỷ suất lợi nhuân trên doanh thu (%)

Tỷ suất lợi nhuân trên vốn (%)

Doanh thu bình quân 1 lao động (triệu đồng)

Tỷ lệ nộp ngân sách so với doanh thu (%)

Số lao động bình quân 1 doanh nghiệp (người)

Nguồn vốn bình quân 1 doanh nghiệp (tỷ đồng)

2000 335 15,34 57,7 4,9 6,6 7,1

2001 162 8,98 63,59 5,2 6,7 4,7

2002 277 18,33 81,93 3 0,5 3,2

2003 147 11,2 73,96 1,3 4,1 4,5

2004 133 12,15 86,59 5,61 3,9 5,3

2005 127 14,12 106,97 2,17 8,2 5,2

2006 123 16,96 124,13 5,53 2,4 5,7

2007 103 18,4 145,91 5,47 3,7 6,3

2008 89 35,81 212,48 5,5 5 10,2

2009 81 49,53 241,98 4,89 9,82 5,58

2010 82 68,21 267,62 7,28 8,1 6,69

2011 72 59,66 322,04 5,36 6,8 2,35

22 Không bao gồm các doanh nghiệp trong lĩnh vực dầu khí.

179

Nguồn: Kết quả Điều tra doanh nghiệp các năm 2000 – 2013 (Tổng cục Thống kê).

Sản

Bảng 7: Sản lượng khai thác một số loại khoáng sản chủ yếu

Than

Quặng

Quặng

Quặng

Quặng

Đá khai

Cát, sỏi

phẩm

sạch

sắt

đồng

titan

apatít

thác

Đơn vị 1.000 tấn 1.000 tấn 1.000 tấn

1.000 tấn

1.000 tấn

1.000 m3

1.000 m3

13.397,0 317,0 9,0 155,0 677,0 30.941,0 36.888,0

2001

16.409,0 534,0 4,6 213,0 779,0 36.720,0 50.098,0

2002

19.314,0 712,0 5,1 354,3 821,0 53.250,0 53.210,0

2003

27.349,0 1.205,0 5,2 464,5 905,0 55.138,0 58.108,0

2004

34.093,0 1.435,0 6,8 404,9 1.024,2 70.836,0 66.444,0

2005

38.778,0 1.470,0 28,2 437,4 1.232,4 80.132,0 65.453,0

2006

42.483,0 1.850,0 42,9 574,1 1.522,7 92.838,0 67.060,0

2007

39.777,0 2.100,0 40,1 681,6 2.100,7 122.088,0 63.966,0

2008

44.078,0 2.500,0 45,4 631,3 2.047,4 136.897,0 70.161,0

2009

44.011,0 3.150,0 45,5 592,4 2.267,6 148.297,0 67.450,0

2010

46.611,0 2.371,3 47,6 760,0 2.395,3 155.549,0 55.051,0

2011

42.083,0 1.506,2 50,9 978,3 2.363,8 136.635,0 45.242,0

2012

41.035,0 2.435,1 53,3 1.038,3 2.635,8 128.532,0 40.527,0

2013

Nguồn: Tổng cục Thống kê

Bảng 8: Tiêu hao vật tư từ 2010-2014 của Tập đoàn TKV

TT Chỉ tiêu Đơn vị 2010 2011 2012 2013* 2014*

1 Tiêu hao vật tư

Kg/103T 1.1 Thuốc nổ hầm lò

Cty than Mông Dương 194,3 193,1 206,8 182,2 164,7

Cty than Khe Chàm 214,1 235,2 228,7 188,8 207,4

Cty than Thống Nhất 60,0 90,9 90,0 98,2 108,2

Cty than Dương Huy 162,7 152,6 163,1 178,1 181,7

Cty than Quang Hanh 241,0 236,0 235,3 255,4 260,0

Cty than Hạ Long 188,9 206,9 216,6 227,8 201,8

180

Cty than Hà Lầm 113,9 107,8 113,7 109,4 145,0

Cty than Hòn Gai 101,0 125,6 114,0 121,3 109,7

Cty than Vàng Danh 224,0 216,8 204,0 201,0 208,2

Cty than Hồng Thái 223,9 208,6 219,0

Cty than Nam Mẫu 194,0 201,3 236,0 185,7 203,2

Cty than Mạo Khê 207,8 275,2 295,9 262,5 229,0

Cty than Uông Bí 235,0 215,0 233,3 209,4 194,9

Nhiên liệu cho vận

l/103tkm 1.2 chuyển đất đá ở mỏ lộ

thiên

Cty than Đèo Nai 147,0 136,0 134,0 130,0 138,6

Cty than Cọc 6 132,8 122,7 128,4 133,7 138,8

Cty than Cao Sơn 130,1 118,0 110,0 112,9 133,4

Cty than Hà Tu 125,9 126,9 122,8 123,0 126,7

Cty than Núi Béo 156,8 145,0 142,0 155,2 155,8

Tcty CN Mỏ Việt Bắc 142,6 142,0 140,8 140,0 152,2

Cty than T-N Đá Mài 128,0 126,1 122,5 115,2 136,6

Cty than Hòn Gai 124,9 130,4 112,6 141,0 158,0

Kwh/103 1.3 Tiêu hao điện năng T.NK

Cty than Đèo Nai 7,8 8,0 12,6 11,2 7,0

Cty than Cọc 6 9,8 11,3 12,9 12,5 10,0

Cty than Cao Sơn 8,3 8,9 9,3 9,8 8,0

Cty than Hà Tu 7,0 7,0 16,5 13,2 7,7

Cty than Núi Béo 3,1 3,5 5,3 13,5 2,5

Tcty CN Mỏ Việt Bắc 5,3 5,6 7,9 8,8 4,7

Cty than Mông Dương 14,2 14,3 15,3 16,2 12,6

Cty than Khe Chàm 25,7 23,0 22,8 22,0 20,2

Cty than Thống Nhất 12,0 15,3 17,6 18,4 11,0

181

Cty than Dương Huy 9,1 10,0 14,0 12,1 9,3

Cty than Quang Hanh 13,5 13,4 16,9 19,4 21,0

Cty than Hạ Long 9,5 10,2 10,6 12,2 13,2

Cty than Hà Lầm 10,0 10,8 11,9 14,2 15,1

Cty than Hòn Gai 4,9 5,4 5,8 6,8 8,4

Cty than Vàng Danh 12,2 12,4 14,3 16,2 16,1

Cty than Hồng Thái 10,2 9,5 10,6

Cty than Nam Mẫu 10,0 10,5 12,5 15,7 17,0

Cty than Mạo Khê 18,4 18,8 18,9 19,5 18,9

Cty than Uông Bí 9,9 10,1 12,6 13,7 19,2

Chi phí vật tư (vật

8.188, 11.633 11.671 11.294 liệu, nhiên liệu, động 109đ 11.815,6 2 7 ,1 ,1 ,9 lực) trong giá thành

sản xuất than

103đ/t 212,0 296,1 329,0 326,3 336,2 Chi phí đơn vị

Tỉ trọng trong GT % 28,2 31,0 29,6 29,1 27,6

182

Nguồn: Viện Khoa học công nghệ mỏ – Vinacomin (2015) [79].

Bảng 9: Chỉ số HHI của ngành công nghiệp khai khoáng

Chỉ số tập trung của ngành công nghiệp khai khoáng (chỉ số HHI: Herfindahl–

Hirschmann Index) và mức độ tập trung doanh nghiệp tại những nơi có hoạt động

khai thác khoáng sản (chỉ số EG).

Phương pháp tính độ tập trung theo địa lý được sử dụng theo phương pháp của

Ellison và Glaeser (1997) (chỉ số EG) và được xác định theo công thức tính:

Với G là hệ số Gini vùng và được xác định:

Chỉ số HHI (Herfindahl-Hirschmann Index) đo độ tập trung ngành và được xác định:

Với: si = Tỷ trọng lao động ngành i của vùng trên tổng lao động ngành i của

cả nước23

xi = Tỷ trọng tổng lao động của vùng trong tổng lao động cả nước

z j = Tỷ trọng lao động của doanh nghiệp j trong ngành

Ellison và Glaeser (1997) cũng đề xuất các chỉ số đánh giá:

EG >= 0,05 : Tập trung cao;

0,02<= EG < 0,05: Tập trung trung bình;

EG < 0,02: Kém tập trung.

Các chỉ số này được tính toán theo số lao động và dựa trên bộ số liệu điều tra doanh

23 Đo lường thay thế cho tỷ trọng doanh nghiệp của vùng trong tổng doanh nghiệp của cả nước, bởi người lao động doanh nghiệp khai thác khi tiêu dùng cũng tạo ra các liên kết tiêu dùng cuối cùng và có tác dụng lan tỏa trong việc thu hút, thúc đẩy các ngành khác phát triển tại nơi có hoạt đông khai thác.

183

nghiệp 2000 – 2012 của Tổng cục Thống kê; các kết quả tính toán các chỉ số như sau:

2000 2005 2010 2012

Chỉ số HHI của ngành khai khoáng

Chung 0,01653 0,01594 0,01656 0,01424

Khai thác than cứng, than non, than bùn 0,05245 0,04840 0,05530 0,05238

Khai thác quặng kim loại 0,12016 0,08696 0,02180 0,01632

Khai thác đá và khai thác các mỏ khác 0,01757 0,00603 0,00359 0,00367

Chỉ số EG phân theo vùng

Miền núi và trung du Bắc bộ 0,07950 0,11900 0,14826 0,18305

Đồng bằng sông Hồng 0,52880 0,52409 0,49933 0,46871

Bắc trung bộ và duyên hải miền trung 0,12999 0,29024 0,22371 0,15140

Đông Nam Bộ 0,37360 0,42414 0,39284 0,37512

Tây Nguyên 0,00334 0,00190 0,00248 0,00230

Đông bằng sông cửu long 0,01325 0,00934 0,01186 0,01138

Nguồn: Tính toán của tác giả từ số liệu điều tra doanh nghiệp (Tổng cục Thống kê).

Hình 1: Phân chia lợi ích từ khai thác khoáng sản giữa các chủ thể

(Phân chia lợi ích từ khai thác mỗi tấn quặng)

184

Nguồn: Số liệu đối với Bình Định [21], [77] và đối với Thái Nguyên [20], [76].

Bảng 10: Cấp phép hoạt động khoáng sản theo các địa phương

Giấy phép thăm dò Giấy phép khai thác

Tỷ lệ Số lượng Tỷ lệ Số lượng

Đồng bằng sông Hồng 45 9,49% 554 13,28%

Trung du và miền núi phía Bắc 163 34,39% 1272 30,48%

Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung 160 33,76% 1320 31,63%

Tây Nguyên 59 12,45% 455 10,90%

Đông Nam Bộ 11 2,32% 369 8,84%

Đồng bằng sông Cửu Long 36 7,59% 203 4,86%

Tổng số 474 100% 4173 100%

Nguồn: Báo cáo UBTV Quốc hội (2012) [72]

Bảng 11: Ước lượng hàm sản xuất Cobb-Douglass

Y= AKαLβMγ

Ta có: lnY = lnA + αlnK + βlnL + γlnM (1)

Tên biến Cách đo Nguồn số liệu

Y: GDP GDP, giá cố định 2005 World Bank (2015) [174]

K: Tích lũy tài sản Tích lũy tài sản (capital World Bank (2015) [174]

formation), giá cố định 2005.

L: Lao động Lao động đang làm việc ADB (2015) [171]

M: Vốn tài nguyên Khối lượng khai thác các loại SERI (2015) [173]

khoáng sản

Các bước thực hiện:

185

Kiểm tra sự phân bố của các biến

Các thông số thống kê mô tả của các biến

Mean Median Maximum Minimum Std. Dev. Skewness Kurtosis Jarque-Bera Probability

186

GDP 4.97E+10 4.52E+10 9.23E+10 1.99E+10 2.24E+10 0.406172 1.950844 1.760630 0.414652 K 1.64E+10 1.34E+10 3.40E+10 2.05E+09 1.10E+10 0.369551 1.701658 2.231964 0.327593 L 40.37458 38.89000 52.21000 30.30000 6.693029 0.270881 1.941930 1.413019 0.493363 M 573.9750 467.8620 1066.000 177.8310 329.3785 0.279540 1.457722 2.691193 0.260384

1.19E+12 1.15E+22 24 3.95E+11 2.77E+21 24 968.9900 1030.323 24 13775.40 2495274. 24 Sum Sum Sq. Dev. Observations

Ma trận tương quan của các biến

GDP K L M

1 0.988509123242 0.995355356818 0.980164832546 GDP

1 0.988509123242 0.987028914536 0.987596001337 K

0.995355356818 0.987028914536 1 0.975009184903 L

0.980164832546 0.987596001337 0.975009184903 1 M

Kiểm tra tính dừng chuỗi số liệu

Chuỗi LnGDP:

Null Hypothesis: LNGDP has a unit root Exogenous: Constant Lag Length: 4 (Automatic - based on SIC, maxlag=7)

Augmented Dickey-Fuller test statistic Test critical values:

1% level 5% level 10% level t-Statistic -1.567462 -3.711457 -2.981038 -2.629906 *MacKinnon (1996) one-sided p-values. Prob.* 0.4844

 chuỗi LnGDP không dừng. Xét tính dừng chuỗi sai phân bậc nhất D(lnGDP):

Null Hypothesis: D(LNGDP) has a unit root Exogenous: Constant, Linear Trend Lag Length: 5 (Automatic - based on SIC, maxlag=5)

Augmented Dickey-Fuller test statistic Test critical values:

t-Statistic -4.423347 -4.532598 -3.673616 -3.277364 Prob.* 0.0123 1% level 5% level 10% level

 Prob = 0.0123 < 0.05  bác bỏ giả thuyết H0 D(lnGDP) dừng.

Tương tự đối với K, L,M có: D(lnK), D(lnL), D(M) dừng. Bảng kết quả dưới đây: 187

Null Hypothesis: D(LNK) has a unit root Exogenous: Constant, Linear Trend Lag Length: 0 (Automatic - based on SIC, maxlag=5)

Augmented Dickey-Fuller test statistic Test critical values:

1% level 5% level 10% level t-Statistic -4.279437 -4.394309 -3.612199 -3.243079 Prob.* 0.0128

Null Hypothesis: D(LNL) has a unit root Exogenous: Constant, Linear Trend Lag Length: 0 (Automatic - based on SIC, maxlag=7)

Augmented Dickey-Fuller test statistic Test critical values:

1% level 5% level 10% level t-Statistic -4.587605 -4.309824 -3.574244 -3.221728

Prob.* 0.0052 Null Hypothesis: D(LNM) has a unit root Exogenous: Constant, Linear Trend Lag Length: 0 (Automatic - based on SIC, maxlag=7)

Augmented Dickey-Fuller test statistic Test critical values:

t-Statistic -5.198618 -4.296729 -3.568379 -3.218382 Prob.* 0.0011 1% level 5% level 10% level

Ước lượng hàm sản suất

Do các chuỗi đều dừng ở sai phân bậc nhất nên để ước lượng hàm sản xuất

(1) ta ước lượng phương trình sau:

D(lnY) = α0 + αD(lnK) + βD(lnL) + γD(lnM) +u

Kết quả ước lượng:

188

Dependent Variable: D(LNGDP) Method: Least Squares Date: 05/04/16 Time: 03:24

Sample (adjusted): 1990 2013 Included observations: 22 after adjustments

Std. Error t-Statistic

Coefficient

0.018840 0.027365 0.113421 0.051464 0.003499 0.008377 0.071710 0.026847 5.384153 3.266455 1.581670 1.916911

Prob. 0.0000 0.0043 0.0311 0.0713

0.029222 0.005500 -8.051630 -7.853258 -8.004899 1.327371 Variable C D(LNK) D(LNL) D(LNM) R-squared Adjusted R-squared S.E. of regression Sum squared resid Log likelihood F-statistic Prob(F-statistic) 0.550867 Mean dependent var 0.476012 S.D. dependent var 0.003981 Akaike info criterion 0.000285 Schwarz criterion 92.56793 Hannan-Quinn criter. 7.359076 Durbin-Watson stat 0.002022

Kiểm định dạng hàm

Để xem xét tính chính xác của ước lượng, trước tiên ta kiểm định dạng của mô hình. Sử dụng kiểm định Ramsey test, với giả thuyết H0 : mô hình định dạng đúng.

Kết quả kiểm định như sau:

Ramsey RESET Test Equation: UNTITLED Specification: D(LNGDP) C D(LNK) D(LNL) D(LNM) Omitted Variables: Squares of fitted values

Value 0.105114 0.011049 0.014294 df 17 (1, 17) 1 Probability 0.9175 0.9175 0.9048 t-statistic F-statistic Likelihood ratio

p> 0.05  chấp nhận H0 : mô hình định dạng đúng

Kiểm định phương sai sai số thay đổi H0 : Phương sai sai số không đổi

Heteroskedasticity Test: White

F-statistic Obs*R-squared Scaled explained SS 0.611714 Prob. F(9,12) 6.918965 Prob. Chi-Square(9) 3.802373 Prob. Chi-Square(9) 0.7664 0.6456 0.9239

189

p>0.05  phương sai sai số không đổi

Kiểm định tự tương quan

Breusch-Godfrey Serial Correlation LM Test:

F-statistic Obs*R-squared 2.199012 Prob. F(2,16) 4.743426 Prob. Chi-Square(2) 0.1433 0.0933

p> 0.05  không có tự tương quan

Kiểm định đa cộng tuyến:

Variance Inflation Factors Date: 05/04/16 Time: 03:42 Sample: 1990 2013 Included observations: 22

Coefficient Uncentered Centered VIF Variance VIF NA

Variable C D(LNK) D(LNL) D(LNM) 1.22E-05 16.99808 7.02E-05 2.573281 1.155852 0.005142 6.100468 1.554176 0.000721 8.445813 1.722219

Hệ số phóng đại phương sai nhỏ hơn 2  không có hiện tượng đa cộng tuyến.

Như vậy, ước lượng trên là đáng tin cậy.

Ta có α = 0.027365 (p = 0.0043)

β = 0.113421 (p = 0.0311)

γ = 0.051464 (p = 0.0713)

Vậy phương trình ban đầu:

lnY = lnA + 0.027365 * lnK + 0.113421 * lnL + 0.051464 * lnM

190

p-value ( 0.0043) (0.0311 ) (0.0713)

Hình 2: Tỷ lệ vốn đầu tư ngành khai thác khoáng sản và hệ số ICOR

Nguồn: Tính toán của tác giả từ số liệu Tổng cục Thống kê.

Hình 3: Cường độ sử dụng năng lượng theo ngành năm 2011 24

24 Được tính toàn bằng: tiêu dùng năng lượng/ Giá trị gia tăng.

191

Nguồn: Dự án tính bảng SAM 2011, Viện Quản lý kinh tế trung ương (2014).

Bảng 12: Phát thải các bon, tạo việc làm và xuất khẩu của các ngành kinh tế

Stt

Tên ngành

Tỷ trọng việc làm (% tổng số)

Cường độ việc làm (nghìn việc làm/tỷ đồng giá trị sản lượng)

Cường độ phát thải (ngàn tấn CO2/tỷ đồng giá trị sản lượng)

Cường độ xuất khẩu (% giá trị sản lượng)

Tỷ trọng xuất khẩu (% tổng số)

lâm

ngư

48,39

29,57

17,61

9,67

0,06

1

Nông nghiệp

36,84

1,52

14,65

2 Khai thác than

0,31

6,88

92,79

8,29

2,75

3 Khai thác dầu thô

0,06

1,22

thác khí

tự

6,48

4

0,01

0,74

Khai nhiên

17,29

0,32

0,52

5 Khai thác khác

0,17

4,84

43,14

20,43

0,11

6 Chế biến thực phẩm

18,34

2,31

52,36

13,16

0,06

7 Dệt may, da giày

3,44

6,43

23,35

1,94

0,17

8 Giấy và gỗ

1,02

8,49

6,18

0,34

0,23

9 Hóa dầu

0,15

0,56

35,88

8,25

0,10

10 Hóa chất khác

1,28

4,15

19,39

0,73

0,74

11 Phi kim loại

0,36

6,41

7,51

0,54

0,96

12 Xi măng

0,72

7,40

43,50

8,77

0,16

13 Sắt thép

1,13

2,17

13,71

3,16

0,09

14 Máy móc

0,87

5,69

0,04

0,76

2,02

15 Giao thông, vận tải

69,41

12,19

53,15

5,29

0,08

16 Chế tạo khác

1,81

10,79

0,02

0,00

0,71

17 Điện

0,49

3,73

0,29

18 Xây dựng

6,40

8,04

0,38

0,09

0,06

19 Thương mại

15,54

18,27

9,65

1,30

0,06

20 Giao thông

2,80

6,83

8,61

4,01

0,05

21 Khác

11,98

9,43

192

Nguồn: Dự án tính bảng SAM 2011, Viện Quản lý kinh tế trung ương (2014).

Hình 4: Các số liệu của Việt Nam về GDP, dân số và sử dụng nguyên nhiên

vật liệu (năm gốc1986: 100%)

Nguồn: SERI (2015) [173] và Tổng cục thống kê.

Bảng 13: Đội ngũ cán bộ, công chức bộ máy quản lý nhà nước về khoáng sản

2000

2002

2004

2006

2008

2010

2012

Chuyên trách

62

69

77

90

99

108

109

Hoạt

động

Kiêm nhiệm

9

11

11

11

13

15

16

Đại học

64

71

80

91

101

112

114

C ấ p

Trình độ

Trên đại học

1

1

1

2

3

3

4

t ỉ n h

Khác

6

8

7

8

8

8

7

Cộng

71

80

88

101

112

123

125

Chuyên trách

33

38

49

54

56

56

60

Hoạt

động

Kiêm nhiệm

100

109

146

165

169

188

200

Đại học

95

108

149

177

183

207

220

Trình độ

Trên đại học

7

7

7

0

0

0

0

C ấ p h u y ệ n

Khác

31

32

39

42

42

37

40

Cộng

133

147

195

219

225

244

260

193

Nguồn: Ủy ban thường vụ Quốc hội (2012) [72].

Hình 5: Biểu thuế suất thuế tài nguyên giai đoạn 2008 – 2014 (%)

Nguồn: Tác giả tổng hợp từ các Nghị quyết của UBTV Quốc hội về thuế tài nguyên.

Hình 6: Xu hướng toàn cầu về GDP, tăng dân số và sử dụng khoáng sản

194

Nguồn: SERI (2015) [173].

Phụ lục 2: Danh mục các hình ảnh từ khảo sát thực tiễn minh họa về thực trạng khai thác khoáng sản

1. Khai thác titan tại tỉnh Bình Định

Máy móc thiết bị, khai trường về khai thác titan tại xã Mỹ Thành, huyện Phù Mỹ, tỉnh

Bình Định

Phá hỏng đường từ xã Mỹ Thành đến trung

Phá hỏng đường dân sinh ở xã Mỹ Thành

tâm huyện

195

Nguồn: Khảo sát của tác giả tại tỉnh Bình Định vào tháng 10/2012 và 12/2012.

2. Hiện trạng khai thác xung quanh mỏ sắt Trại Cau, tỉnh Thái Nguyên

Xẻ núi khai thác quặng sắt xung quanh mỏ sắt Trại Cau

Ảnh hưởng tới môi trường và sản xuất nông nghiệp quanh mỏ sắt Trại Cau

Vận chuyển quặng sắt ảnh hưởng tới

Hiện trạng chế biến quặng sắt tại Công

moi trường và đường sá ty Cổ phần luyện kim Thái Nguyên

196

Nguồn: Khảo sát của tác giả tại tỉnh Thái Nguyên vào tháng 8/2013 và 7/2014.

Hồ chứa bùn đỏ tại dự án bôxit Tân Rai (Lâm Đồng)

3. Nhà máy boxit ở Tân Rai (Lâm Đồng)

197

Nguồn: Khảo sát của tác giả tại tỉnh Lâm Đồng và Đắk Nông tháng 4/2015.