intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Khảo cứu lai lịch, cấu trúc và một số vấn đề văn bản của bộ sách Sài Sơn thi lục

Chia sẻ: Comam1902 Comam1902 | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:6

63
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Sài Sơn thi lục là bộ sách tập hợp những sáng tác thi phú về cảnh đẹp non nước Sài Sơn - chùa Thầy của nhiều tác giả nổi tiếng. Bộ sách được sưu tập và biên định bởi hai tác giả là Hòa thượng Như Tùng và Cử nhân Hoàng Thúc Hội vào thập niên 30 của thế kỉ XX. Bài viết sơ bộ khảo cứu về hiện trạng, lai lịch, cấu trúc, tác giả và đánh giá giá trị tư liệu của văn bản tác phẩm.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Khảo cứu lai lịch, cấu trúc và một số vấn đề văn bản của bộ sách Sài Sơn thi lục

JOURNAL OF SCIENCE OF HNUE<br /> Social Science, 2018, Vol. 63, Iss. 1, pp. 62-67<br /> This paper is available online at http://stdb.hnue.edu.vn<br /> <br /> DOI: 10.18173/2354-1067.2018-0009<br /> <br /> KHẢO CỨU LAI LỊCH, CẤU TRÚC VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ VĂN BẢN<br /> CỦA BỘ SÁCH SÀI SƠN THI LỤC<br /> 1<br /> 1 Khoa<br /> <br /> Lư Nguyên Minh và 2 Phan Thanh Việt<br /> <br /> Ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, 2 Giáo hội Phật giáo Việt Nam<br /> <br /> Tóm tắt. Sài Sơn thi lục là bộ sách tập hợp những sáng tác thi phú về cảnh đẹp non nước<br /> Sài Sơn - chùa Thầy của nhiềutác giả nổi tiếng. Bộ sách được sưu tập và biên định bởi hai<br /> tác giả là Hòa thượng Như Tùng và Cử nhân Hoàng Thúc Hội vào thập niên 30 của thế kỉ<br /> XX. Bài viết sơ bộ khảo cứu về hiện trạng, lai lịch, cấu trúc, tác giả và đánh giá giá trị tư<br /> liệu của văn bản tác phẩm.<br /> Từ khóa: Sài Sơn thi lục, văn bản, cấu trúc, lai lịch.<br /> <br /> 1.<br /> <br /> Mở đầu<br /> <br /> ) ở Sài Sơn là một trong những ngôi chùa cổ nhất Việt<br /> Chùa Thầy (Thiên Phúc tự<br /> Nam, được xây dựng dưới triều Lý, nằm ở chân núi Sài Sơn (Phật Tích) (An Nam chí lược của Lê<br /> Tắc đã ghi chép một số thông tin sơ lược về núi Phật Tích. Quyển thứ nhất, phần về núi non viết:<br /> “Núi Phật Tích: vì trên đá có dấu chân nên đặt tên là núi Phật Tích”.) thuộc địa phận xã Sài Sơn,<br /> huyện Quốc Oai, tỉnh Hà Tây (nay thuộc Hà Nội). Theo Đại Việt sử ký toàn thư thì chùa Thiên<br /> Phúc được xây dựng vào tháng Mười hai niên hiệu Long Thụy Thái Bình năm thứ 4 đời Lý Thánh<br /> Tông (1057) [Ngô Sĩ Liên, Đại Việt sử ký toàn thư, kỉ nhà Lý - Lý Thánh Tông, trang 194], ban<br /> đầu chỉ là một thảo am nhỏ có tên Hương Hải để tu hành của Thiền Sư Từ Đạo Hạnh, một vị cao<br /> Tăng thời Lý (Theo Thiền uyển tập anh và Sài Sơn thực lục thì Thiền sư họ Từ, tên tục là Lộ, con<br /> quan Đô sát Từ Vinh, mẹ là Tăng Thị Ngọc Loan, quê ở làng An Lãng, huyện Vĩnh Thuận (nay<br /> là ngõ Chùa Nền, đường Láng, thuộc phường Láng Thượng, quận Đống Đa, Hà Nội). Di tích nền<br /> nhà còn lại của gia đình Thiền sư chính là chùa Nền (Đản Cơ tự) Hà Nội ngày nay. Chùa Thầy gắn<br /> liền với sự tích và cuộc đời của Thiền sư Từ Đạo Hạnh. Thiền sư sau khi sang Tây Trúc (Ấn Độ)<br /> cầu pháp cùng với Giác Hải và Không Lộ trở về núi Sài Sơn dựng tích trượng, ngày đêm tập tụng.<br /> Đến khi thù cha trả xong, niềm tục yên lắng, lòng Thiền rộng mở, bèn đi khắp bốn phương tham<br /> Thiền học đạo. Lúc ngộ được tâm ấn, Thiền sư trở về giảng đạo, dạy học, hái thuốc giúp dân, dạy<br /> cho dân trò chơi múa rối nước, ông được cho là tổ của nghề múa rối nước Việt Nam. Do đó, dân<br /> trong vùng cảm phục, kính mến gọi Thiền sư một cách thân mật là “Thầy”. Bởi vậy, núi ngài hóa<br /> gọi là núi Thầy, làng ngài ở gọi là làng Thầy, tổng ngài ở cũng gọi là tổng Thầy, chùa ngài tu gọi là<br /> chùa Thầy, danh xưng chùa Thầy có từ thời đó. Thiền sư thị tịch ở động Thánh Hóa gắn liền với sự<br /> tích trút xác đầu thai làm vua Lý Thần Tông, một câu chuyện mang nhiều yếu tố kì bí huyền thoại.<br /> Ngày nhận bài: 15/12/2016. Ngày sửa bài: 20/12/2017. Ngày nhận đăng: 20/1/2018<br /> Liên hệ: Lư Nguyên Minh, e-mail: haminhsphn@gmail.com<br /> <br /> 62<br /> <br /> Khảo cứu lai lịch, cấu trúc và một số vấn đề văn bản của bộ sách Sài Sơn thi lục<br /> <br /> Năm đó là mùa hạ tháng 6 năm Bính Thân, niên hiệu Hội Tường Đại Khánh năm thứ 7 (1116).<br /> Trước khi thị tịch Thiền sư đọc bài kệ (Thị tịch cáo đại chúng) với đồ chúng rằng: Thu lai bất báo<br /> nhạn lai quy, Lãnh tiếu nhân gian tạm phát bi, Vị báo môn nhân lưu luyến trước, Cổ sư kỉ độ tác<br /> kim sư (Tạm dịch: Thu sang không báo thì nhạn cũng về, Cười nhạt cho người đã chẳng hay. Nhắn<br /> với môn đồ chớ lưu luyến, Thầy xưa mấy thưở tức thầy nay). Bài thơ này được trích tuyển trong<br /> sách Toàn Việt thi lục, đầu đề do Lê Quý Đôn thêm, với câu thơ đầu được dịch nghĩa là: “Mùa<br /> thu về không báo tin cho chim nhạn cùng về”. Theo Hoà thượng Thích Viên Thành, dịch như vậy<br /> là không đúng ý của tác giả. Ý tác giả muốn nói mùa thu về thì chim nhạn cũng tự bay về, cũng<br /> như thọ mạng hết thì con người cũng về với cõi hư vô. Báo hay không báo cũng vậy mà thôi. Qua<br /> đó đủ để thấy sự giác ngộ chân lí của Thiền sư Từ Đạo Hạnh). Với địa thế phong cảnh sông núi<br /> hữu tình, được coi là vùng đất địa linh, Sài Sơn - Chùa Thầy từng lưu dấu chân và bút tích của các<br /> bậc danh nhân thi sĩ, từ vua Lê Thánh Tông, vua Thiệu Trị đến các bậc thức giả như Trạng Bùng<br /> Phùng Khắc Khoan, tiến sĩ Hoàng Đức Lương, tiến sĩ Bùi Huy Bích, tiến sĩ Nguyễn Thì Trung,<br /> Lưỡng quốc trạng nguyên Nguyễn Trực, Phó sứ Bùi Văn Dị, Hoàng giáp Nguyễn Thượng Hiền,<br /> Phó bảng Nguyễn Văn Siêu, Chu Thần Cao Bá Quát,. . .<br /> Thơ văn vịnh phong cảnh chùa Thầy, núi Thầy có số lượng lớn. Hòa thượng Như Tùng và<br /> Cử nhân Hoàng Thúc Hội bằng những tâm huyết của mình đã dày công sưu tập, biên định, khắc<br /> ván in tác phẩm Sài Sơn thi lục, tập hợp các sáng tác thơ, phú, bia kí liên quan đến chùa Thầy. Sài<br /> Sơn thi lục sao chép các tác phẩm viết bằng chữ Hán và chữ Nôm, chưa được dịch thuật và công<br /> bố. Dẫu là một hợp tập quý hiếm nhưng cho tới nay, văn bản bộ Sài Sơn thi lục cũng chưa từng<br /> được ai quan tâm nghiên cứu, giới thiệu, khai thác. Vì thế, khảo cứu bước đầu của chúng tôi về lai<br /> lịch - cấu trúc - văn bản của bộ sách là một cố gắng bước đầu để tiến tới có thể dịch thuật, công bố<br /> và khai thác di sản này.<br /> <br /> 2.<br /> 2.1.<br /> <br /> Nội dung nghiên cứu<br /> Hiện trạng văn bản Sài Sơn thi lục<br /> <br /> có 3 bản sao [11/ 12/ 13]. Trong đó, qua khảo cứu, chúng tôi khẳng<br /> Sài Sơn thi lục<br /> định bản lưu trữ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm A.3033 là bản đầy đủ và đáng tin cậy nhất. A3033<br /> là bản khắc in, 01 quyển, chất liệu giấy dó, khổ 26 x15 cm. Bìa ngoài không đề chữ, trang kế tiếp<br /> ghi tên sách<br /> Sài Sơn thi lục và hai dòng chữ Hán:<br /> Kỷ kinh trình duyệt,<br /> phiên ấn giả hữu cữu (đã qua kiểm duyệt, phiên ấn có sai sót); trang kế tiếp là một tờ giấy rời được<br /> Kính phụng - Viễn Đông Bác<br /> dán thêm vào với nội dung:<br /> Cổ trường thâu nhận, Sơn Tây Sài Sơn Sơn Tăng Như Tùng phụng, cho biết tập sách có xuất xứ từ<br /> chùa Thầy ở Sài Sơn - Sơn Tây do nhà sư Như Tùng phụng soạn và được trường Viễn Đông Bác<br /> Cổ thâu nhận về lưu trữ. Văn bản có hai dấu triện đề tên chùa Đỉnh Sơn và tên nhà sư Như Tùng.<br /> Sách có khung trang và đường kẻ dòng rõ nét, rốn sách trang trí hình đuôi cá. Các bài tự,<br /> bạt, dẫn ở đầu sách được viết lối đá thảo, mỗi trang 6 dòng. Số lượng chữ mỗi dòng không thống<br /> nhất, khoảng từ 13 đến 19 chữ. Trong đó có một bài tựa của Cử nhân Thu Hoa Nguyễn Sư Huỳnh<br /> được khắc theo cách thức khác các phần còn lại, với lối chữ chân to rõ nét, mỗi trang gồm 5 cột<br /> dọc, mỗi cột gồm 10 chữ. Bài hậu tự cuối sách bằng chữ Nôm của Đặng Vũ Lạc, cỡ chữ nhỏ hơn,<br /> trang 7 dòng, mỗi dòng 16 chữ. Còn lại, toàn bộ phần nội dung chính được khắc theo lối chữ<br /> chân rõ nét, có cước chú, có hiện tượng viết đài. Trang 20b là phần khắc nội dung nguồn gốc xuất<br /> Sài Sơn Đỉnh Sơn tự tàng bản. Kế đến khắc:<br /> .<br /> xứ tác phẩm:<br /> .<br /> Bảo Đại Canh Ngọ niên đông<br /> thượng hoán tân tuyên. Sài Sơn, Đỉnh Sơn tự trú trì pháp danh Thanh Thi tiểu hiệu Như Tùng,<br /> 63<br /> <br /> Lư Nguyên Minh và Phan Thanh Việt<br /> <br /> phụng thái san. Thạch Thất, Bình Xá cư sĩ Kim Bình Nguyễn Đặng Huỳnh phụng thư. (Tạm dịch:<br /> Bản khắc in mới vào ngày đầu tháng mùa đông, năm Canh Ngọ, Bảo Đại năm thứ 5 (1930). Sài<br /> Sơn, Đỉnh Sơn tự trú trì pháp danh Thanh Thi tiểu hiệu Như Tùng, kính cẩn lựa chọn khắc in.<br /> Thạch Thất, Bình Xá cư sĩ Kim Bình Nguyễn Đặng Huỳnh phụng thư).<br /> <br /> “Sài Sơn thi lục tự”<br /> (A.3033)<br /> <br /> “Sài Sơn Đỉnh Sơn tự”<br /> tàng bản (A.3033)<br /> <br /> Một trang thơ Nôm trong “Sài<br /> Sơn thi lục” (A.3033)<br /> <br /> (Thì) [tên vua Tự<br /> Văn bản có hiện tượng kiêng húy đời Nguyễn.Chẳng hạn như: chữ<br /> Đức], được thay bằng chữ<br /> (thìn), chữ . (Nhậm) [tên húy vua Tự Đức Nguyễn Phúc Hồng<br /> Nhậm] được viết bớt nét , chữ Tông [tên của vua Thiệu Trị Nguyễn Phúc Miên Tông] viết bớt<br /> nét thành , chữ (Chiêu) [tên vua Thành Thái] khắc bớt nét nhật , chữ Hoa viết thiếu nét,<br /> kiêng húy chữ Hoa [Hoàng thái hậu Hồ Thị Hoa, mẹ của vua Thiệu Trị]. . .<br /> Về hậu tự (<br /> ) ở bản A.3033: được khắc theo một thể thức khác không giống với cách thức<br /> của toàn văn nội dung văn bản. Cụ thể: khung viền nhỏ hơn, chữ nhỏ hơn, số lượng cột nhiều hơn<br /> (7 cột), mỗi cột có 16 chữ, đặc biệt nó được khắc chữ Nôm và khắc theo lối chữ chân rõ nét, hậu<br /> tự chỉ đề tên tác giả là Đặng Vũ Lạc, người Hà Nam, nhưng không đề niên hiệu hay năm tháng. Vì<br /> thế, bước đầu chỉ có thể giả thiết hậu tự được khắc sau khi tác phẩm đã hoàn thành.<br /> <br /> 2.2.<br /> <br /> Về tên gọi và phạm vi nội dung của văn bản<br /> <br /> Phần nội dung chính của văn bản gồm có tổng cộng 5 bài tựa, 1 bài bạt, 1 bài dẫn, 97 bài<br /> thơ (gồm 80 bài chữ Hán, 17 bài Nôm), 2 bài văn bia, 2 bài phú, 2 bài văn phổ khuyến và phần tự<br /> viện liên lục.<br /> Văn bản Sài Sơn thi lục<br /> , như tên gọi của nó, được hiểu là những ghi chép thơ ca<br /> về địa danh Sài Sơn chùa Thầy. Nhưng điều đặc biệt ở đây, tác phẩm ngoài ghi chép thơ chữ Hán,<br /> thơ Nôm thì còn ghi chép cả văn bia, phú, các hoành phi đối liễn, văn phổ khuyến,. . . Theo đó, tên<br /> thường thì chỉ để chép riêng về<br /> sách so với nội dung có phần chưa hợp lí, vì đã gọi là thi lục<br /> thơ ca thôi, nhưng ở đây có chép nhiều thể loại khác nữa. Theo chúng tôi hiểu, ban đầu mục đích<br /> chính của người biên soạn là ghi chép thơ ca, việc chép thêm các thể loại văn bia, phú, hoành phi<br /> đối liễn,. . . có lẽ xuất phát từ những lí do sau: Thứ nhất, từ trước đến giờ chưa có tác phẩm nào ghi<br /> chép về thơ văn chùa Thầy, nên khi biên soạn được tác phẩm này tác giả muốn ghi chép đầy đủ các<br /> bài viết về chùa Thầy. Từ thơ ca, văn phú, cho đến văn bia, hay những phần thuộc chùa Đỉnh Sơn<br /> như hoành phi đối liễn, văn phổ khuyến, tất cả chép vào một tập sách dưới tên gọi chung là Sài<br /> 64<br /> <br /> Khảo cứu lai lịch, cấu trúc và một số vấn đề văn bản của bộ sách Sài Sơn thi lục<br /> <br /> Sơn thi lục. Thứ hai, các thể loại văn bia (Đây là những văn bia thuộc chùa Đỉnh Sơn, còn tính cả<br /> tổng thể quần thể di tích chùa Thầy thì số lượng văn bia rất nhiều, hơn 50 bài, muốn sưu tập biên<br /> định tất cả thì rất khó với điều kiện lúc bấy giờ. Có lẽ khi biên định sách này, Như Tùng chỉ sưu tập<br /> thêm một vài văn bia gắn với chùa Đỉnh Sơn. Đó là Hiển Thụy am bi ở động Thánh Hóa, Truyền<br /> đăng bi kí kể về hành trạng các vị tổ sư trụ trì chùa Đỉnh Sơn đời trước, bước đầu giới thiệu đến<br /> người đọc.), phú,. . . với số lượng rất ít chỉ đôi bài, nếu chép riêng một tập sách thì không hợp lí,<br /> vì tốn kém thêm thời gian, công sức cũng như kinh phí. Hơn nữa trong giai đoạn này, nhà sư Như<br /> Tùng đang phổ khuyến thập phương bổn đạo góp sức cho việc trùng tu ngôi tự viện, cũng như in<br /> khắc tác phẩm. Vì lí do đó, người biên soạn đã ghi chép tất cả vào trong một tập sách cho thống<br /> nhất theo như hiện trạng.<br /> <br /> 2.3.<br /> <br /> Về tác giả - người biên định văn bản<br /> <br /> Bộ sách Sài Sơn thi lục được nhà sư Thanh Thi hiệu Như Tùng, Cử nhân Hoàng Thúc Hội<br /> ghi chép, biên định. Người viết chữ là Cư sĩ Kim Bình Nguyễn Đặng Huỳnh người Bình Xá, Thạch<br /> Thất, Hà Tây. Người thợ khắc ván in là ông Phạm Dung người ở Liễu Viên, Thạch Khôi, Gia Lộc,<br /> Hải Dương.<br /> Về tác giả biên định: Hiện có rất ít thông tin về Hòa thượng Thanh Thi, qua các tư liệu, chỉ<br /> biết Hòa thượng còn có tên hiệu là Như Tùng, người làng Cổ Nhuế. Vào năm 1906, sau khi tôn sư<br /> Tâm Minh viên tịch thì Hòa thượng Như Tùng kế thế trụ trì chùa Đỉnh Sơn và chùa Bối Am. Hòa<br /> thượng là người rất giỏi chữ Hán. Bút tích của Hòa thượng còn lại là hai bài thơ Nôm được sơn<br /> son thiếp vàng còn phụng thờ tại điện Tam Bảo chùa Đỉnh Sơn, đều cùng niên hiệu Bảo Đại thứ<br /> 15 (1941). Bức thứ nhất tán dương đức Thánh Tổ:<br /> Sinh hóa hai ba kiếp<br /> Non nước bốn ngàn thu<br /> Khí thiên trên động bích<br /> Còn tưởng dấu thanh tu.<br /> Bức thứ hai cảm tác phong cảnh chùa Thầy:<br /> Trên trời cùng dưới đất<br /> Không đâu được như Phật<br /> Thiên hạ danh thắng nhiều<br /> Sơn Tây đây đệ nhất.<br /> Qua các cứ liệu này, có thể khẳng định nhà sư Như Tùng đã ở chùa Thầy trong suốt nửa đầu<br /> thế kỉ XX. Hòa thượng là người đã tích cực trong việc trùng tu xây dựng các công trình hạng mục<br /> tại chùa Đỉnh Sơn, chính Hòa thượng đã khải bài văn phổ khuyến bằng chữ Nôm và Hán kêu gọi<br /> thập phương Phật tử đóng góp tài lực xây dựng tu tạo.<br /> Bức phổ khuyến đó đến tay Cử nhân Hoàng Thúc Hội người làng Hạ Yên Quyết (làng Cót),<br /> Từ Liêm - Hà Nội, là một vị nhân sĩ trí thức thời bấy giờ. Cảm kích trước thịnh tình của vị tu hạnh<br /> Đầu đà ở vùng non nước Sài Sơn, Cử nhân Hoàng Thúc Hội đã tìm đường đến với nơi danh lam<br /> thắng tích. ở đây, ông mở trường dạy chữ Hán và có công giúp đỡ Hòa thượng Như Tùng rất nhiều<br /> trong việc chỉnh lí thư tịch, khắc in kinh sách, soạn thảo văn bia. Ngoài việc cùng với Hòa thượng<br /> Như Tùng biên soạn bộ sách Sài Sơn thi lục tập hợp thơ văn, bia kí vịnh cảnh chùa Thầy, ông là<br /> 65<br /> <br /> Lư Nguyên Minh và Phan Thanh Việt<br /> <br /> người phụng soạn Truyền đăng bi kí qua lời kể của sư Như Tùng, viết về sự truyền thừa các đời trụ<br /> trì tại chùa Thầy. Sau đó vài năm là cuốn Sài Sơn thực lục kể về hành trạng đức Thánh tổ Từ Đạo<br /> Hạnh. Có thể nói ông có công lao to lớn trong việc dạy học và gìn giữ giá trị lịch sử văn hóa chùa<br /> Thầy. Bên cạnh đó Hoàng Thúc Hội còn để lại hàng chục tác phẩm viết về Sài Sơn. Đây là một<br /> cặp câu đối của ông tại điện Tam Bảo chùa Đỉnh Sơn:<br /> Dục tú chung linh thử hữu sùng sơn đương thứu lĩnh<br /> Li trần nhập giác khả ư nghiệt hải thiếp kình ba.<br /> Tạm dịch: Linh khí hun đúc hội tụ tạo nên núi này, có thể sánh cùng đỉnh Linh Thứu, Lìa<br /> trần nhập vào cõi giác, làm lắng sóng kình trong bể khổ trầm luân.<br /> <br /> 2.4.<br /> <br /> Nhận định chung về giá trị văn bản<br /> <br /> Thơ ca là một bộ phận quan trọng trong di sản văn hiến quá khứ. Trải qua thời gian dâu bể,<br /> kho tàng thi ca đó dần dần mai một đi nhiều. Đau xót trước hiện trạng này, trong quá khứ đã xuất<br /> hiện những bậc danh sĩ thiết tha với việc gìn giữ tinh hoa của người xưa, như Phan Phu Tiên, Chu<br /> Xa, Hoàng Đức Lương, Lê Quý Đôn, Bùi Huy Bích. . . với sự nối tiếp nhau ra đời của các thi tuyển<br /> , Trích diễm thi tập<br /> , Toàn Việt thi lục<br /> ,... tất cả đều xuất phát<br /> Việt Âm thi tập<br /> từ ý thức muốn sưu tầm, bảo lưu tinh hoa văn hóa thành văn của dân tộc. ở một phạm vi nhỏ hơn,<br /> việc biên định tác phẩm Sài Sơn thi lục của nhà sư Như Tùng và Hoàng Thúc Hội cũng thể hiện<br /> tinh thần bảo lưu tinh hoa dân tộc sâu sắc. Từ ý thức muốn gìn giữ nền văn hóa thành văn của quần<br /> thể di tích chùa Thầy, nơi lưu giữ dấu chân của nhiều thế hệ danh sĩ, các tác giả đã dày công sưu<br /> tầm biên định nên bộ sách này. Quần thể di tích chùa Thầy nằm trong dòng chảy văn hóa xứ Đoài,<br /> một vùng đất Tổ ẩn chứa trong mình biết bao trầm tích văn hóa. Tự ngàn xưa xứ Đoài đã được xếp<br /> vào vùng đất hiếm của đất văn hiến, đất địa linh nhân kiệt, là mảng màu đậm nét của nền văn hiến<br /> Việt Nam. Xứ Đoài lưu giữ những giá trị đặc sắc của nhiều tầng văn hóa cổ, đất tụ khí anh hoa,<br /> đất danh nhân đất anh hùng, tầng tầng lớp lớp hào kiệt, danh sĩ. . . làm vẻ vang cho lịch sử và văn<br /> hiến nước nhà. Chùa Thầy ở Sài Sơn nằm trong quần thể vùng đất cổ phù sa văn hiến ấy. Cho nên,<br /> có thể nói thơ văn vịnh cảnh chùa Thầy là một nét đẹp trong thi đàn văn học trung đại Việt nam.<br /> Qua đó, ta thấy được tinh thần dân tộc sâu sắc thể hiện trong việc sưu tập, biên định tác phẩm của<br /> tác giả.<br /> Tinh thần đó thể hiện ngay trong lời tựa Sài Sơn thi lục của Hoàng Thúc Hội: “Nếu không<br /> có thiền sư Như Tùng hiếu ý, thì những di tích này cũng không tránh khỏi sự tàn phai” (Vô phụ<br /> ). Việc sưu tầm thi ca và biên định tác phẩm Sài<br /> Như Tùng hiếu ý dĩ tai lê tảo<br /> Sơn thi lục là một việc làm hết sức cần thiết và cấp bách cho việc gìn giữ nền văn hóa nơi này. Đó<br /> cũng chính là tư tưởng chủ đạo trong quan điểm và phương pháp sưu tập, biên định di sản thành<br /> văn quá khứ của tác giả.<br /> Nhà sư Như Tùng và cử nhân Hoàng Thúc Hội chú ý sưu tập toàn bộ những sáng tác thơ ca<br /> chữ Hán và chữ Nôm của lịch đại danh gia. Tác giả chú trọng sưu tập một cách rộng rãi, phạm vi<br /> bao quát đầy đủ nhất. Biên định bộ sách này tác giả đã thực hiện theo phương châm chỉ đạo của<br /> quan điểm viết sử của các tác giả xưa là phải chép nhặt đầy đủ không bỏ sót, để cho người đời sau<br /> thấy một cách khái quát đầy đủ nhất. Tập sách biên chép thơ ca của lịch đại danh gia, từ vua quan<br /> cho đến các ẩn sĩ thôn dã một cách đầy đủ nhất có thể, điều đó thể hiện quan điểm biên định sưu<br /> tập thơ ca của tác giả một cách rộng rãi phổ quát nhất. Có thể khẳng định Sài Sơn thi lục là tác<br /> phẩm hoàn bị và duy nhất từ trước đến nay về thơ văn vịnh phong cảnh chùa Thầy.<br /> Ban đầu, hầu hết các tác phẩm đều được khắc vào bia đá, tạc vào vách núi (bia ma nhai).<br /> 66<br /> <br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
4=>1