intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Khí nhà kính trong nông nghiệp và các quá trình biến đổi

Chia sẻ: Nguyễn Thị Phương Anh | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:8

173
lượt xem
34
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Nhằm đối phó với hiện tượng nóng lên toàn cầu và hạn chế những tác động có thể đem lại do việc tăng nhiệt độ trung bình của trái đất, tại hội nghị của liên hiệp quốc về Môi trường và Phát triển ở Rio de Janeiro, Brazil tháng 6/1992, 155 nhà nước và chính phủ đã tham gia kí kết Công ước khung liên hiệp quốc về biến đổi khí hậu toàn cầu (UNFCCC) nhằm mục tiêu cuối cùng là ổn định nồng độ khí nhà kính (KNK) trong khí quyển ở mức độ có thể ngăn ngừa...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Khí nhà kính trong nông nghiệp và các quá trình biến đổi

  1. Khí nhà kính trong nông nghiệp và các quá trình biến đổi Nhằm đ ối phó với hiện tượng nóng lên toàn cầu và hạn chế những tác động có thể đ em lại do việc tăng nhiệt đ ộ trung bình của trái đất, tại hội nghị của liên hiệp quốc về Môi trường và Phát triển ở Rio de Janeiro, Brazil tháng 6/1992, 155 nhà nước và chính phủ đ ã tham gia kí kết Công ước khung liên hiệp quốc về biến đổi khí hậu toàn cầu (UNFCCC) nhằm mục tiêu cuối cùng là ổn đ ịnh nồng độ khí nhà kính (KNK) trong khí quyển ở mức độ có thể ngăn ngừa đ ược sự can thiệp nguy hiểm của con người đối với hệ thống khí hậu. Nghị định thư Kyôto là hiệp định được kí kết trong khuôn khổ UNFCCC tại hội nghị lần thứ 3 các b ên tham gia UNFCCC tại Kyoto - Nhật Bản tháng 12/1997. Trong nghị định thư này đã đ ưa ra 3 cơ chế mềm dẻo (Buôn bán phát thải toàn cầu (IET), cơ chế đồng thực hiện (JI) và cơ chế sạch (CDM), đ ể giúp các nước thực hiện và phát triển được mục tiêu giảm thải khí nhà kính, góp phần đ ạt được mục tiêu chung của công ước. CDM được ghi trong đ iều 12 của nghị định thư Kyoto, cho phép chính phủ hoặc tổ chức, cá nhân ở các nước công nghiệp thực hiện dự án giảm phát thải ở các nước đang phát triển đ ể nhận đ ược “chứng chỉ giảm phát thải”, viết tắt là CERs, đóng góp cho mục tiêu giảm phát thải của quốc gia đó. CDM cố gắng thúc đ ẩy phát triển bền vững ở các nước đang phát triển và cho phép các nước phát triển đóng góp vào mục tiêu giảm mật độ tập trung KNK trong khí quyển. Tại điều 12.2 trong nghị định thư có nêu “mục đích của CDM sẽ là trợ giúp các bên không thuộc phụ lục I đ ạt được phát triển bền vững và góp phần thực hiện mục tiêu cuối cùng của công ước và giúp các bên phụ thuộc phụ lục I thực hiện được cam kết giảm và hạn chế phát thải của mình trong đ iều 3”. Cơ chế phát triển sạch (CDM) là một trong những công cụ linh hoạt của nghị đ ịnh thư Kyoto. CDM bao gồm các nguyên tắc cốt lõi của phát triển bền vững: Phát triển kinh tế, cải thiện môi trường và tiến bộ xã hội và có tiềm năng ứng dụng lớn ở các nước đang phát triển. Xem một ví dụ sau: “ Chẳng hạn với các nước công nghiệp phát triển như Đức, Pháp và các nước khác ở Châu Âu, theo nghị đ ịnh thư Kyoto họ sẽ phải cắt giảm thấp nhất 5% lượng thải các-bon của mình. Thay vì phải cắt giảm sản xuất họ có thể tiến hành đầu tư tiền cho các nước ở Châu Á hoặc Châu Phi, tiến hành trồng rừng để hấp thụ khí các-bon, sao cho lượng khí hấp thụ được bằng với mức các-bon họ buộc phải cắt giảm. Như vậy, những nước này sẽ nhận đ ược chứng nhận giảm phát thải theo đúng nghị đ ịnh thư Kyôto. Như vậy, cơ chế phát triển sạch (CDM) trong nghị đ ịnh thư Kyôto cho phép nhận dạng được những cách bảo vệ khí hậu một cách linh hoạt và có hiệu quả cả về mặt chi phí bằng cách tạo ra một thị trường toàn cầu cho buôn bán chứng chỉ về việc giảm thải khí nhà kính và khuyến khích việc sử dụng tiềm năng, sử dụng hiệu quả năng
  2. lượng và những phương pháp b ảo toàn năng lượng ở các quốc gia. CDM là một cơ hội để khẳng đ ịnh rằng việc giảm thiểu phát thải khí CO2 không chỉ có ý nghĩa lớn cho việc bảo vệ môi trường mà còn có ý nghĩa về mặt kinh tế. Việt Nam có các loại hình sử dụng đất trong nông nghiệp chính: Đất trồng lúa nước, đất trồng hoa mầu, Đất rừng và đ ất ngập nước. SỰ CHUYỂN HOÁ CÁC BON Ở điều kiện thoáng khí sảy ra sự phân rã hữu cơ bởi sự hô hấp và ôxy hoá quá trình sảy ra mạnh yếu hoàn toàn phụ thuộc vào độ thoáng và ôxy hoá đ ến hoàn toàn thành CO2 và H2O. Trong khi sự phân rã các chất hữu cơ bởi sự hô hấp thoáng khí bị hạn chế do những điều kiện khử trong đất ngập nước(ĐNN) thì nhiều quá trình kỵ khí cũng có thể phân rã cacbon hữu cơ. Những quá trình chính của chuyển hoá cacbon ở những điều kiện kỵ khí và hiếu khí đ ược minh hoạ ở hình
  3. Sự men hoá chất hữu cơ xảy ra khi chất hữu cơ là chất nhận electron trong hô hấp kỵ khí bởi các vi sinh vật hình thành nên những axit hữu cơ có trọng lượng phân tử nhỏ, rượu và CO2. C6H12O6 ==> 2CH3CHOCOOH (axit lactic) Ho ặc C6H12O6 2 CH2CH2OH + 2 CO2 (ethanol). Quá trình có thể xảy ra trong ĐNN bởi những vi sinh vật kỵ khí không hoàn toàn và bắt buộc. Có ý kiến cho rằng, sự men hoá có vai trò trung tâm trong việc cung cấp cơ chất cho những sinh vật kỵ khí khác trong các trầm tích của những đất bị ngập nước. Nó là một trong những con đường chính, mà ở đó hyđrat cácbon có trọng lượng phân tử cao bị phân rã thành các hợp chất hữu cơ có trọng lượng phân tử thấp là cácbon hữu cơ hoà tan và d ễ tiêu đối với những sinh vật khác (Valiela, 1984), quá trình đ ó xảy ra như sau: C6H12O6 2CH3CHOCOOH (axit lactic) hoặc C6H12O6 ==> 2 CH2CH2OH + CO2 ethanol Sự sản sinh mêtan (CH4) trong ĐNN Quá trình này xảy ra khi một số vi khuẩn nhất đ ịnh (vi khuẩn mê tan) sử dụng CO2hoặc nhóm metyl như những chất thu nhận electron đ ể sản sinh ra khí mêtan (CH4) theo phương trình: 4H2 + CO2 CH4 + 2H2O CH3COO- + 4H2 2CH4 + 2H2O CH4 có thể đi vào khí quyển khi các trầm tích bị tác động và đ ược gọi là "khí đầm lầy". Việc sản sinh CH4 đòi hỏi những điều kiện cực kỳ kỵ khí với Redox dao động từ - 250 và - 350 mV, sau những chất thu nhận electron cuối cùng khác (O2, NO3- và SO42-) đ ã được sử dụng. Nhìn chung, CH4 đ ược phát hiện ở những nồng độ thấp trong những đất có môi trường khử, nếu nồng độ SO42- lớn (Valiela, 1984). Nguyên nhân của hiện tượng này có thể là: - Sự cạnh tranh của các cơ chất xảy ra giữa sunfua và vi khuẩn mêtan.
  4. - Tác động kìm hãm của sunfat hoặc sunfit đến vi khuẩn mêtan. - Có thể có sự phụ thuộc vi khuẩn mêtan đ ến các sản phẩm của những vi khuẩn sản xuất sunfua. Những bằng chứng hiện nay còn cho rằng, mêtan có thể bị ôxy hoá đến CO2 bởi sinh vật khử sunfat (Valiela, 1984). So sánh sự sản sinh mêtan giữa môi trường nước ngọt và nước biển cho thấy, tốc độ sản sinh mêtan trong môi trường nước ngọt cao hơn vì lượng sunfat trong nước và trong trầm tích nhỏ hơn. Sử dụng các nghiên cứu khác nhau đ ể so sánh tốc độ sản sinh mêtan rất khó, bởi vì các tác giả đã sử dụng những phương pháp khác nhau trong khi đó tốc độ sản sinh lại phụ thuộc vào nhiệt đ ộ và thời kỳ thuỷ văn. Sự sản sinh mêtan thường theo mùa ở những vùng khí hậu ôn hoà. Ví dụ, Harris (1982) cho biết, sự sản sinh mêtan cực đại ở đầm lầy nước ngọt bang Virigina vào tháng 4 và 5, trong khi theo Wiebe (1981) ở những đầm lầy nước mặn lại vào cuối mùa hè Chu trình sunfua Chu trình sunfua rất quan trọng trong một số ĐNN để ôxy hoá các bon. Điều này chỉ đúng với ĐNN ven biển (bãi lầy mặn, khu rừng ngập mặn) là nơi rất giàu sunfua. Vi khuẩn khử sunfua cần cơ chất hữu cơ, nhìn chung có trọng lượng phân tử thấp, và như là nguồn năng lượng để chuyển sunfat thành sunfit. Quá trình men hoá được đề cập ở phần trên có thể cung cấp những hợp chất hữu cơ có trọng lượng phân tử thấp như lactat... Những phương trình khử sunfua đ ã cho thấy quá trình ôxy hoá chất hữu cơ xảy ra như sau: 2CH3CHOHCOO- + SO42- + 3 H+ 2CH3COO- + 2CO2- + H2O + HS- lactat và CH3COO- + SO42- 2CO2 + 2H2O + HS- axetat Tầm quan trọng của con đường khử sunfua men hoá trong ôxy hoá các bon hữu cơ tới CO2 trong ĐNN mặn đ ã được nhiều tác giả ở Anh đề cập đ ến. Các kết qu ả nghiên cứu cho thấy, có tới 54% cacbon diôxyt đ ược giải phóng từ đầm lầy là bằng con đường khử sunfua men hoá, và với sự hô hấp hiếu khí chiếm 45% phần còn lại và chỉ có tỷ lệ nhỏ CO2. - Đất trồng lúa và phát thải khí nhà kính Theo đ ịnh nghĩa của công ước Ramsar toàn bộ ĐNN của Việt Nam chiếm một phần không nhỏ toàn lãnh thổ. Các vùng biển nông, ven biển, cửa sông, đầm phá, đồng bằng châu thổ sông, tất cả các sông suối ao hồ, đầm lầy tự nhiên hay nhân tạo (Trong điều kiện Việt Nam diện tích > 2ha), các vùng nuôi trồng thuỷ sản và canh tác lúa nước... đ ều thuộc loại hình ĐNN. Việt Nam nằm trong vùng nhiệt đ ới ẩm gió mùa nên vừa có những thuận lợi lại vừa có những thách thức. Nhiệt độ nóng và ẩm làm cho tốc độ sinh trưởng phát triển của thực vật nhanh. Mưa nhiều gây cho đ ất bị xói mòn nghiêm trọng, nhất là đất dốc. So sánh giữa các loại hình sử dụng đất ở vùng nhiệt đới ẩm mưa nhiều người ta thấy có hai phương thức sử dụng đ ất bền vững là lúa nước và rừng (hoặc loại hình tương tự rừng như các trang trại trồng cây lưu niên). Người ta thường nói đ ến vai trò của hệ canh tác lúa nước trong đ ảm bảo an ninh lương thực cho xã hội nhưng còn ít đề cập đ ến tác động của nó đối với môi trường.
  5. Một số ý kiến d ưới đây của cơ quan Phối hợp Chính sách Môi trường Nhật Bản làm rõ thêm một số tác động tích cực của hệ canh tác lúa nước đối với môi trường. *Hạn chế lũ lụt: Đê điều nhằm bảo vệ các cánh đồng lúa khỏi bị ngập lụt nhưng mặt khác cần thấy tác động ngược lại là chính chúng đã góp phần hạn chế lũ lụ t. Các cánh đ ồng lúa được bao bọc bởi hệ thống bờ vùng bờ thửa do đó hạn chế lượng nước chảy tràn của các trận mưa tạo nên lũ lụt. Có thể xem vai trò các cánh đồng lúa như các hồ chứa nước và trong lĩnh vực bảo vệ môi trường, chúng có giá trị tương đương như các hồ chứa nước nhất là các cánh đồng cao, ít bằng phẳng. *Duy trì tài nguyên nước: Các cánh đ ồng lúa luôn lưu giữ lớp nước trên bề mặt trải rộng trên diện tích lớn của lãnh thổ nhờ đó đã tác động tích cực đến chế độ nước ngầm. Nước ngầm đ ược các cánh đồng lúa duy trì đã đóng góp vào sự ổn định lưu lượng các dòng sông về mùa cạn và duy trì mức nước ngầm cho các giếng nước sinh ho ạt. *Làm trong sạch môi trường (đất và khí quyển) và tạo cảnh quan đ ẹp cho vùng quê. Các cánh đồng lúa và kể cả các đ ồng màu, các vườn cây đ ã tiêu thụ sản phẩm phân giải các rác thải góp phần giảm thiểu ô nhiễm đ ất. Đối với việc làm sạch bầu không khí ngoài chức năng điều tiết khí cacbônic (CO2), các cánh đồng lúa còn hấp thu các khí độc như khí sunfurơ (SO2) và khí nitơ ôxyt (NO2). Mỗi năm 1 ha lúa hấp thu được 4,86kgSO2 và 7,87kngO2. Nếu tính ra thể tích khí thì con số này sẽ làm chúng ta phải kinh ngạc. Như chúng ta đã biết, ngoài cacbon diôxyt (CO2) thì mêtan (CH4) là hợp chất chứa cacbon phong phú trong khí quyển. Và hàng năm lượng CH4 trong khí quyển đã tăng lên khoảng 0,8 - 1 ,0%. Trong vòng 150 năm trở lại đ ây, lượng CH4 trong khí quyển đã tăng lên 2 lần. Mặc dù nồng độ của nó tương đối thấp nhưng CH4 có tầm quan trọng đ ặc biệt đối với môi trường. Nó là loại khí có liên quan tới khí hậu và đóng góp khẳng 20% vào sự nóng lên của khí hậu toàn cầu 0,70C trong vòng 100 năm qua. Tác động này càng tăng lên do sự ôxy hóa CH4 bởi các phản ứng của OH- tại những nồng độ NOx cao d ẫn tới việc hình thành ôzôn (O3) ở tầng đối lưu gây ảnh hưởng tới điều kiện khí hậu. Hơn nữa, nồng độ ôzôn của tầng đối lưu quyết định tiềm năng ôxy hóa của tầng này và do đó có ảnh hưởng tới sự phân bố và tính phong phú của các hợp phần môi trường khác. Ngu ồn gốc chủ yếu của CH4 là bề mặt Trái Đất với diện tích khoảng 150 triệu km2, thông qua qúa trình khoáng hóa chất hữu cơ bởi vi sinh vật trong đ iều kiện khử hoàn toàn. Quá trình này xảy ra trong ĐNN (đầm lầy, ruộng lúa, đầm phá, bãi rác) và trong quá trình lên men ở b ộ máy tiêu hóa của các động vật và những loài động vật ăn cỏ khác. * Phát thải khí CH4 ở ruộng lúa: Toàn thế giới hiện có khoảng 79 triệu ha, với 43% (34 triệu ha) ở Đông Á (Trung Quốc, Đài Loan, Nhật, Triều Tiên), 24 triệu ha ở Nam Á và 15 triệu ha ở Đông Nam Châu Á. Những nước có nhiều diện tích ĐNN trồng lúa là Trung Qu ốc (31 triệu ha), Ấn Độ (19 triệu ha); Inđônêsia (7 triệu ha) và Việt Nam (4 triệu ha) (Thomas Fairhurst, 2000). Thế nhưng sự phát thải CH4từ ruộng lúa là một trong những nguồn chủ yếu nhất của CH4 khí quyển. Khoảng 90% diện tích trồng lúa phân bố ở Châu Á. Sự ngập nước làm cho đ ất luôn ở trạng thái khử và sản sinh CH4 Sự hình thành CH4 ở ruộng lúa và ảnh hưởng đến nồng độ, sự phân bố của CH4 trong khí quyển được Koyama nghiên cứu đầu tiên vào năm 1964. Dựa vào các thí nghiệm trong phòng và những mẫu đất lúa ở Nhật Bản, tác giả đã ước tính hàng năm sự phát thải CH4từ những ruộng lúa vào khí quyển khoảng 190 triệu tấn trong những năm đầu thập kỷ 60. Đến giữa năm 1970, theo Ehhalt và Schmidt (1968) ước
  6. tính khoảng 280 triệu tấn/năm. Nghĩa là chiếm 50% tổng lượng CH4 đ ược phát thải vào khí quyển Thí nghiệm đ o trực tiếp ngoài ruộng lúa lượng CH4 p hát thải được thực hiện đ ầu tiên vào năm 1980 tại California (Mỹ). Cicerone và Shetter (1981) cho biết, lượng phát thải CH4 vào kho ảng 59 triệu tấn/năm. Sau đó, năm 1984 Seiler lặp lại thí nghiệm ở Tây Ban Nha và cũng đ ưa ra giá trị tương tự từ 35 - 59 triệu tấn/năm Holzapfer và Seiler (1986) đo lượng CH4 p hát thải từ ruộng lúa ở Italia đ ã cho kết quả cao hơn, trung bình từ 12 6 mg/m2/giờ. Căn cứ vào diện tích đồng lúa và nhiệt độ đất ở các vùng, Schutz (1989) ước đoán lượng CH4 phát thải trên toàn cầu khoảng 100 50 triệu tấn/năm. Thế nhưng sự ảnh hưởng của khí hậu, loại đất, giống cây trồng, quản lý đồng ruộng, loại và cách sử dụng phân bón đến nay vẫn chưa được nghiên cứu đ ầy đ ủ. Điều trở nên hấp dẫn là cường độ phát thải mạnh ở Italia và Trung Quốc phản ánh sự biến đổi ngày đêm và theo mùa, phụ thuộc vào điều kiện khí hậu và phương thức quản lý đồng ruộng. Ở Italia, sự phát thải CH4 đ ạt giá trị cực đại vào nửa buổi chiều khi nhiệt độ đ ất tới sâu 5cm đ ạt cực đại. Tương quan thu ận giữa nhiệt độ đất và lượng CH4 phát thải (trong suốt thời kỳ sinh trưởng) đã đ ược các thí nghiệm khẳng đ ịnh Về giá trị trung bình theo mùa, tỷ lệ CH4 phát thải tăng gấp đôi, nếu nhiệt độ tăng lên 5 0C. Khác với ở Italia tỷ lệ CH4 p hát thải ở ruộng lúa ở Trung Quốc có 2 điểm cực đại vào giai đ oạn sinh trưởng sớm ở cây lúa, nghĩa là vào cuối tháng 4 và cuối tháng 6. Trong thời kỳ sinh trưởng, tỷ lệ phát thải CH4 cực đ ại xảy ra vào buổi trưa và trong đêm. Điều ngạc nhiên là tỷ lệ phát thải CH4 đạt giá trị cực đ ại vào ban đêm chỉ xảy ra ở thời gian muộn của thời kỳ sinh trưởng, nghĩa là đ ầu tháng 8 và đ ầu tháng 9. Việc sử dụng phân khoáng cũng có ảnh hưởng tới lượng CH4 phát thải. Cicerone và Shetter (1981) cho biết, sau khi bón amôni sunphat (NH4)SO4, lượng CH4 phát thải tăng lên gấp 5 lần. Nhiều thí nghiệm đại trà ở Italia cũng cho thấy, sự ảnh hưởng của phân bón đ ến sự phát thải CH4 cũng rất lớn, phụ thuộc vào loại, liều lượng và phương pháp sử dụng phân bón. Việc sử dụng phân hữu cơ như phân chuồng, phân rác càng làm tăng lượng CH4và tăng gấp 2 lần. Ngược lại, nếu bón sâu và phối hợp với phân urê (200kg N/ha) hoặc amôni sunphat thì lượng CH4 phát thải lại giảm đi một nửa. Ở Việt Nam, diện tích trồng lúa khoảng 4,3 triệu ha, nhưng do tăng vụ nên tính ra khoảng trên 7 triệu ha. Trong chăn nuôi thải ra khoảng 50 - 65 triệu tấn phân chuồng, chủ yếu dùng để bón cho lúa, nên lượng phát thải CH4 trong các ruộng lúa khá lớn. Ngoài ra, diện tích ĐNN có rừng ngập mặn khoảng 156.000ha (Ngô Đình Qu ế, 2003), ĐNN có RNM phát thải khoảng 38 triệu tấn CH4 và CO2 (Nguyễn Văn Hiệu, 1997). Văn phòng ôzôn của VN đã thử kiểm kê khí nhà kính. Như vậy, CO2 và CH4 là 2 loại khí nhà kính chủ yếu ở Việt Nam hiện nay. Tính đến 1993, lu ợng phát thải CO2 ở Việt Nam vào khoảng 27 - 28 triệu tấn do tiêu thụ nhiên liệu hóa thạch từ các hoạt động năng lượng và lượng phát thải CH4 vào kho ảng 3,2 triệu tấn từ các ĐNN trồng lúa. Các hoạt đ ộng trong ngành lâm nghiệp phát thải khoảng 34,5 triệu tấn CO2đó là chưa kể lượng phát thải CO2 do đốt sinh khối.
  7. Chuyển hoá nitơ Sự chuyển hoá nitơ trong đ ất bao gồm nhiều quá trình có sự tham gia của các vi sinh vất.NH4+ là dạng phổ biến của nitơ khoáng trong hầu hết các loại đất, mặc dù nhiều nitơ bị liên kết chặt ở các dạng hữu cơ, tro ng các đ ất có hàm lượng hữu cơ cao. Sự hiện diện của tầng ôxy hoá bên trên tầng khử hoặc kỵ khí là ngưỡng tới hạn đ ối với nhiều quá trình. Một trong số quá trình đó là sự khoáng hoá chất hữu cơ chứa nitơ. Một số ion NH4 + có thể khuyếch tán vào tầng đất ôxy hoá và và được cây lúa hút thu, ho ặc bị mất do bay hơi, ho ặc bị nitrat hoá và rửa trôi trở lại tầng đất khử và ở đây có thể bị mất nitơ d ạng phân tử (N2) do quá trình phản nitrat hoá. Khi phân bón nitơ amôni (urê, amôni sunfat) được bón bằng cách rải trên bề mặt ruộng lúa thì có thể mất nitơ ở d ạng NH3 do bay hơi.Bay hơi NH3 phụ thuộc vào nhiệt độ, tốc độ gió, sự biến đổi pH ngày đêm do hoạt động sinh học trong nước ngập. Một cách luân phiên, những ion NH4 + khu ếch tán vào tầng đất bị ôxy hoá kéo theo quá trình thu ỷ phân và được cây lúa hút thu trực tiếp hoặc bị nitrat hoá, hoặc bị cố đ ịnh trong hợp chất hữu cơ. Tiếp theo quá trình nitrat hoá NH4 - N trong tầng đất bị ôxy hoá, thì NO3 - N hoặc được rễ hút thu, hoặc rửa trôi xuống tầng đ ất khử và ở đây nó b ị phản nitrat hoá và mất nitơ ở dạng khí N2O, NO và N2. Quá trình khoáng hoá nitơ là sự chuyển hoá sinh học các chất hữu cơ chứa nitơ đến nitơ amôni (NH4 - N). Quá trình này xảy ra trong cả hai đ iều kiện kỵ khí và hiếu khí và được gọi là quá trình amôn hoá theo các phản ứng: NH2- CO- NH2 + H2O 2 NH3 + CO2 (1) (Urê) NH4+ + OH- NH3 + H2O (2) + Khi NH4 đ ược tạo thành, nó có thể đ ược hút thu bởi hệ rễ thực vật, hoặc vi sinh vật và cũng có thể lại biến đổi trong thành phần chất hữu cơ. Ở những điều kiện khử của ĐNN và tồn tại một građiên giữa nồng đ ộ cao của NH4 +trong các tầng đất khử và nồng đ ộ thấp trong tầng đất bị ôxy hoá sẽ gây nên sự khuếch tán của NH4+ lên tầng trên. NH4+ - N bị ôxy hoá bởi các vi khu ẩn hoá d ưỡng qua quá trình nitrat hoá theo hai giai đoạn: - Do vi khuẩn Nitrosomonas.sp.
  8. 2 NH4+ + 3O2 ==> 2NO2- + 2 H2O + 4H+ + năng lượng (3) - Do vi khuẩn Nitrobacter sp. 2 NO2- + O2 2NO3- + năng lượng (4) - NO3 rất linh động trong dung d ịch đ ất và biến đổi theo nhiều cách khác nhau. Một quá trình khác chiếm ưu thế là sự khử NH4 + và phản nitrat hoá do hoạt động của vi khuẩn denitrificans trong điều kiện kỵ khí thành ôxyt nitơ khí và nitơ phân tử. C6H12O6 + 4 NO3- 6CO2 + H2O + 2 N2 (5) Quá trình khử nitrat hoá là một quá trình quan trọng làm mất nitơ khỏi đất. Quá trình cố định nitơ là quá trình chuyển hoá N2 dạng khí thành nitơ hữu cơ qua ho ạt động của các vi sinh vật nhất đ ịnh với sự có mặt của enzyme nitrogenaza. Quá trình này có thể là nguồn nitơ đáng kể cho một số loại đất. Quá trình cố định N2 d iễn ra do những vi khuẩn hiếu khí và có ưu thế ở nồng độ ôxy thấp vì ở nồng độ ôxy cao thì hoạt tính của enzyme nitrogenaza b ị kìm hãm (Ethrington, 1983). Cố đ ịnh N2 có thể xảy ra do vi khuẩn sống tự do và vi khuẩn cộng sinh giốngRhizobium hoặc bởi xạ khuẩn Actinomycete. Whitney (1981) cho biết, cố định bởi vi sinh vật (VSV) là con đường quan trọng nhất trong những đ ất đầm lầy mặn. Một mặt khác, cả hai loại vi khuẩn (VK) cố đ ịnh N2 và VK nitrat hoá đ ều không có ho ạt tính ở đ iều kiện pH thấp. Tảo xanh lục không cố định N2 cộng sinh có nhiều ở ĐNN cũng là nguồn đóng góp đáng kể niơ trong các ĐNN. Ở ruộng lúa có 3 quá trình chính làm biến đổi những điều kiện đ ất gần rễ lúa trong điều kiện kỵ khí. - Giải phóng O2 từ rễ gây nên sự ôxy hoá Fe2+ và tạo môi trường axit. 4 Fe2+ + O2 + 10H2O ==> 4Fe(OH)3 + 8H+ - Ion H+ từ rễ lúa vào cân bằng hút thu cation - anion (nghĩa là duy trì trung hoà điện tích qua giao diện đất - hệ rễ) với nitơ được cây hút thu ở dạng cation NH4+. Do áp suất riêng phần của CO2 cao xảy ra trong điều kiện kỵ khí, rễ lúa có thể ho ặc giải phóng ra CO2 ho ặc hút thu nó từ đ ất và gây nên sự thay đổi giá trị pH của đất. 
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2