TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUẢNG BÌNH
KHOA KHOA HỌC XÃ HỘI
ĐINH THỊ THÚY
NGHỆ THUẬT TRẦN THUẬT TRONG TIỂU THUYẾT
THẬP TAM BỘ CỦA MẠC NGÔN
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Ngành: Sư phạm Ngữ Văn
Hệ đào tạo: chính quy
Khóa học: 2013 – 2015
Đồng Hới, 2015
TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUẢNG BÌNH
KHOA KHOA HỌC XÃ HỘI
ĐINH THỊ THÚY
NGHỆ THUẬT TRẦN THUẬT TRONG TIỂU THUYẾT
THẬP TAM BỘ CỦA MẠC NGÔN
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Ngành: Sư phạm Ngữ Văn
Hệ đào tạo: chính quy
Khóa học: 2013 – 2015
Người hướng dẫn: Th.S Nguyễn Thị Quế Thanh
Đồng Hới, 2015
LỜI CẢM ƠN
Xin trân trọng gửi lời cảm ơn sâu sắc đến cô giáo Th.s
Nguyễn Thị Quế Thanh, người đã tận tình hướng dẫn tôi thực
hiện và hoàn thành khóa luận này.
Xin bày tỏ lòng biết ơn quý thầy cô giáo đã giảng dạy và
đóng góp những ý kiến quý báu cho tôi trong quá trình học tập.
Xin chân thành cảm ơn khoa Khoa học Xã hội, Phòng
Đào tạo, Trường Đại học Quảng Bình đã tạo mọi điều kiện
thuận lợi cho tôi học tập và nghiên cứu.
Cảm ơn những người thân yêu trong gia đình, bạn bè đã
động viên giúp đỡ tôi trong suốt thời gian học tập và thực hiện
khóa luận.
Tác giả
Đinh Thị Thúy
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi,
các số liệu và và kết quả nghiên cứu nêu trong khóa luận là trung
thực, được các đồng tác giả cho phép sử dụng và chưa từng được
công bố trong bất kì một công trình nào khác.
Tác giả
Đinh Thị Thúy
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ..................................................................................................................... 1
1.Lý do chọn đề tài ...................................................................................................... 1
2.Lịch sử vấn đề .......................................................................................................... 2
3.Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ............................................................................. 6
3.1. Đối tượng nghiên cứu. .......................................................................................... 6
3.2. Phạm vi nghiên cứu .............................................................................................. 6
4. Phương pháp nghiên cứu.......................................................................................... 6
5. Đóng góp của đề tài ................................................................................................. 6
6. Cấu trúc khóa luận ................................................................................................... 7
Chương 1. HÀNH TRÌNH SÁNG TẠO CỦA MẠC NGÔN ....................................... 8
1.1. Khái quát về cuộc đời và sự nghiệp văn chương của Mạc Ngôn. ........................... 8
1.1.1. Cuộc đời ............................................................................................................ 8
1.1.2. Sự nghiệp ........................................................................................................... 9
1.2. Thập tam bộ - một thành công trong nghệ thuật trần thuật của Mạc Ngôn ........... 15
Chương 2. PHƯƠNG THỨC TRẦN THUẬT ........................................................... 18
2.1. Các kiểu trần thuật .............................................................................................. 19
2.1.1. Trần thuật ngôi thứ ba ...................................................................................... 20
2.1.2. Trần thuật ngôi thứ hai ..................................................................................... 28
2.1.3. Sự kết hợp, chuyển dịch các ngôi trần thuật ..................................................... 35
2.2. Điểm nhìn trần thuật ........................................................................................... 38
2.2.1. Trần thuật đa điểm nhìn ................................................................................... 39
2.2.2. Điểm nhìn người kể chuyện và điểm nhìn nhân vật .......................................... 43
Chương 3. GIỌNG ĐIỆU VÀ NGÔN NGỮ TRẦN THUẬT .................................... 50
3.1. Giọng điệu trần thuật .......................................................................................... 50
3.1.1. Giọng bỡn cợt .................................................................................................. 50
3.1.2. Giọng lạnh lùng ............................................................................................... 58
3.2. Ngôn ngữ trần thuật ............................................................................................ 66
3.2.1. Ngôn ngữ đối thoại .......................................................................................... 67
3.2.2. Độc thoại nội tâm ............................................................................................. 70
KẾT LUẬN ............................................................................................................... 78
TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................................... 79
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1 Trung Quốc không chỉ được biết đến là một quốc gia hùng mạnh về kinh tế mà
còn được xem là cái nôi văn hóa tư tưởng của phương Đông huyền bí, cũng là nơi sinh
ra những tài năng lớn, nhân cách lớn như: Đào Tiềm, Đỗ Phủ, Lý Bạch; Lỗ Tấn, Cao
Hành Kiện, Vương Mông, Giả Bình Ao, Mạc Ngôn…Với bề dày văn hóa và văn học
đồ sộ, Trung Quốc ảnh hưởng đến nhiều nước trong khu vực và thế giới, trong đó có
Việt Nam. Lịch sử văn học Việt Nam đã ghi nhận kết quả và những thành công của
cha ông ta trong việc tiếp thu và học hỏi sự đa dạng của những hình thức sáng tác tạo
nên nét độc đáo cho văn học nước nhà. Do đó việc nghiên cứu văn hóa, văn học Trung
Quốc có vai trò quan trọng và cần thiết trong việc khai thác và tìm hiểu kho tàng văn
học Việt Nam cũng như hiểu được chiều sâu của nó.
1.2 Tháng 10 - 2012, giải Nobel văn học đã trao cho một nhà văn Trung Quốc – Mạc
Ngôn, người được xem là “hiện tượng lạ” trên văn đàn Trung Quốc và thế giới. Ông là
cây bút xuất sắc của văn học đương đại Trung Quốc với tâm hồn không lúc nào bình
lặng, luôn vật lộn gay gắt và chiến đấu cho những lý tưởng thiện lương trong con
người. Mạc Ngôn là hiện tượng độc đáo bởi tác phẩm của ông chứa đựng những điều
mới mẻ, đặc biệt là “sự bùng nổ cảm giác” [2, tr.7] giúp độc giả như nghe thấy, nhìn
thấy, sờ thấy, ngửi thấy mùi vị cuộc sống qua mỗi trang viết của ông. Trong mỗi trang
văn của Mạc Ngôn người ta cũng tìm thấy những trạng phức tâm hồn đại chúng muốn
phá bỏ mọi khuôn phép, lề lối, quy chuẩn đạo đức xã hội để đạt trạng thái hoàn toàn tự
do cả về thể xác lẫn tâm hồn, bởi phương châm sáng tác của ông là không bao giờ tự
lặp lại mình. Ông đã góp thêm một tiếng nói mới, phong cách mới trong việc tái hiện
hiện thực cuộc sống và con người trong xã hội hiện đại bằng những cách nhìn khác
nhau, xen lẫn giữa tốt với xấu, thiện với ác, cao quý với thấp hèn, đơn giản và phức tạp
trong bản thân mỗi con người.
1.3 Mạc Ngôn viết rất nhiều thể loại, từ truyện ngắn đến truyện vừa, truyện dài đến
tiểu thuyết… Ở mỗi thể loại, tác phẩm của ông đều mang dấu ấn riêng. Trong đó tiểu
thuyết là thể loại thành công nhất và tạo nên phong cách cũng như tên tuổi của ông.
Nói tới tiểu thuyết Mạc Ngôn, người ta đánh giá cao thành công của ông về lối biểu
hiện của văn học dân gian Trung Quốc kết hợp với văn học hậu hiện đại phương Tây.
Trong đó nghệ thuật trần thuật là một trong những phương diện tạo nên sức hấp dẫn,
1
nét riêng cho phong cách Mạc Ngôn. Với lối trần thuật xen lẫn giữa thực và ảo, giữa
hiện tại và quá khứ rồi đến tương lai, sự luôn phiên và thay đổi người kể chuyện khó
xác định khiến cho người đọc như đang lạc vào ma trận nhân vật mà nếu không tập
trung chú ý, xâu chuỗi các sự kiện trong toàn bộ tác phẩm thì khó mà hiểu được tác
phẩm và con người Mạc Ngôn. Trong mười một tiểu thuyết Mạc Ngôn đã xuất bản,
Thập tam bộ là tác phẩm để lại ấn tượng sâu đậm với chúng tôi và cũng tiêu biểu cho
phong cách nghệ thuật mà tác giả dày công nghiên cứu, xây dựng. Qua tác phẩm, một
phần đời sống bi kịch của tầng lớp tri thức nói chung và nhà giáo nói riêng được tái
hiện chân thực bằng nghệ thuật trần thuật tài tình của nhà văn. Vì vậy chúng tôi chọn
đề tài “Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết Thập tam bộ của Mạc Ngôn” làm đề tài
nghiên cứu với mong muốn khám phá thêm tài năng, cá tính sáng tạo của nhà văn.
Trên cơ sở đó khẳng định những đóng góp về nội dung, nghệ thuật trong sự nghiệp
văn chương của Mạc Ngôn đối với nền văn học đương đại Trung Quốc.
2. Lịch sử vấn đề
Kể từ khi xuất hiện trên văn đàn Trung Quốc, tên tuổi, tác phẩm Mạc Ngôn đã
thu hút được sự chú ý của công chúng và giới nghiên cứu trong nước cũng như trên thế
giới, trong đó có Việt Nam. Những tiểu thuyết tiêu biểu của Mạc Ngôn được đông đảo
bạn đọc đón nhận là Báu vật của đời; Đàn hương hình; Sống đọa thác đày; Tứ thập
nhất pháo; Thập tam bộ và gần đây nhất là tiểu thuyết Ếch xuất bản năm 2009 gây xôn
xao cộng đồng bạn đọc. Ông là nhà văn có bút lực mạnh nhất Trung Quốc hiện nay,
nhà văn thẳng thừng và dấn thân, là “nhân vật khai phá của thế kỷ XXI” ở châu Á với
hơn 40 giải thưởng và danh hiệu. Đặc biệt là sự kiện giải Nobel văn học năm 2012
được trao cho Mạc Ngôn càng làm cho tên tuổi của ông có sức hút mạnh mẽ đối với
giới nghiên cứu và phê bình văn học. Từ những góc nhìn khác nhau, các nhà nghiên
cứu có những cách tiếp nhận riêng về nhà văn và tác phẩm của ông. Trong phạm vi
nghiên cứu của đề tài, chúng tôi tổng hợp được một số vấn đề sau.
Ngày 12 tháng 8 năm 2006, “Hội nghiên cứu Mạc Ngôn Cao Mật” được thành
lập tại tỉnh Sơn Đông. Hội là diễn đàn nghiên cứu và trao đổi khoa học chuyên về các
sáng tác của Mạc Ngôn bởi “Mạc Ngôn là niềm kiêu hãnh của Cao Mật. Địa vị của
ông trên văn đàn Trung Quốc ngày một nâng cao, ảnh hưởng trên văn đàn thế giới
ngày càng lớn” (Mạc Ngôn nghiên cứu hội). Hội có tạp chí “Nghiên cứu Mạc Ngôn”,
website “Cao lương đỏ”, “Bảo tàng văn học Mạc Ngôn”. Bảo tàng là nơi giới thiệu
2
cuộc đời và thành tựu nghệ thuật của Mạc Ngôn, trình bày một cách sinh động quá
trình trưởng thành và phong cách đỉnh cao của một tác gia nổi tiếng bao gồm các bộ
phận chính là: “thành tựu văn học”, “con đường trưởng thành”, “vương quốc văn
học”, “gắn bó với quê hương”, “giao lưu văn học”. Ngoài ra còn có nhà chiếu phim,
phòng sáng tác, phòng trưng bày thư pháp và bản thảo, phòng tư liệu tác phẩm Mạc
Ngôn…
Trong cuốn sách Mạc Ngôn – nghiên cứu và tư liệu, tác giả Dương Dương đã
tổng hợp rất nhiều bài nghiên cứu về sáng tác của Mạc Ngôn được đăng tải trên các tờ
báo, tạp chí uy tín trong và ngoài nước. Đánh giá chung về nghệ thuật tự sự Mạc
Ngôn, Tôn Đông trong Quái tài Mạc Ngôn đã đưa ra mô thức tự sự như sau: “Sinh
mệnh, cảm giác, hình ảnh là ba trụ cột lớn trong tiểu thuyết Mạc Ngôn, chúng chống
đỡ mô thức tự sự của tiểu thuyết Mạc Ngôn” (Dương Dương, Mạc Ngôn nghiên cứu tư
liệu).
Đứng trên lập trường chính trị, xã hội, nhiều nhà nghiên cứu ở Trung Quốc đã
phê phán mạnh mẽ các tiểu thuyết Mạc Ngôn. Khi tác phẩm Báu vật của đời xuất hiện,
bàn về tiểu thuyết này, trên báo Tiền phong, Nguyễn Khắc Phê trong bài viết “Tài phù
phép của Mạc Ngôn” đã nói đến thủ pháp lạ hóa trong tiểu thuyết Mạc Ngôn, mà Báu
vật của đời được xem là thể hiện tập trung nhất. Đây là tác phẩm có sức thu hút mạnh
mẽ sự quan tâm của độc giả và giới phê bình văn học ở Việt Nam. Bàn về nghệ thuật
tiểu thuyết Mạc Ngôn trong Báu vật của đời, dịch giả Trần Đình Hiến đã cho rằng
trong Báu vật của đời, Mạc Ngôn khai thác tối đa chất liệu dân gian truyền thống, chứ
không phải chịu ảnh hưởng của Marquez hay Faulkner. Chia sẻ quan điểm ấy, Phạm
Xuân Nguyên trong bài Sự sinh, sự sống, sự chết đăng trên tanviet.net, ngày
04/08/2005 cho rằng, về nghệ thuật viết tiểu thuyết Báu vật của đời của Mạc Ngôn
không hẳn là xuất sắc. Trong chừng mực nào đó, nó vẫn thuộc truyền thống của lối kể
chuyện mang tính cổ truyền Trung Quốc. Theo ông, cái độc đáo của cuốn tiểu thuyết
này là “Cái nhìn nghệ thuật – lịch sử, tỉnh táo và sắc sảo của nhà văn”. Trong khi đó,
Nguyễn Thanh Sơn lại nói đến sự kết hợp hài hòa giữa bút pháp tiểu thuyết truyền
thống và tiểu thuyết hiện đại. Có cùng cách nhìn ấy, Võ Thị Hảo lại nói đến “Một bút
pháp hiện đại vượt khỏi những lối mòn”… Tiếp đó, nhiều tác phẩm của Mạc Ngôn đã
được dịch, giới thiệu như: Đàn hương hình, Sống đọa thác đày, Cao lương đỏ, Cây tỏi
nổi giận, Ếch…
3
Trên báo chí, đặc biệt là báo điện tử xuất hiện nhiều bài phỏng vấn và bài viết
liên quan tới nội dung tác phẩm. Mạc Ngôn cũng được giới thiệu với độc giả Việt Nam
thông qua cuốn Mạc Ngôn và những lời tự bạch của dịch giả Nguyễn Thị Thại. Cuốn
sách là tập hợp các bài phỏng vấn của nhà văn, qua đó tác giả trình bày những quan
niệm của mình về sáng tác văn học, bật mí những thủ pháp nghệ thuật thường dùng và
dấu ấn tuổi thơ trong sáng tác. Có thể nói cuốn sách đã cho người đọc nhìn nhận nhiều
chiều về con người và sáng tác của Mạc Ngôn.
Trên báo Văn nghệ, số 5 tháng 12 năm 2003 có đăng bài viết Tiểu thuyết Mạc
Ngôn với độc giả Việt Nam của Hồ Sỹ Hiệp. Có rất nhiều bài báo, bài nghiên cứu phê
bình của các học giả nước ngoài cũng được dịch rộng rãi ở Việt Nam, trong đó phải kể
đến bài đăng trên báo Trung Hoa độc thư báo tháng 1 năm 2004 có tựa đề Chín nhà
văn ấn tượng nhất năm 2000 do Trần Sơn dịch. Bài viết tổng kết những bước đường
sáng tạo của Mạc Ngôn từ những tiểu thuyết đầu tiên. Tiếp đó, bài viết của Lê Huy
Tiêu “Thế giới nghệ thuật trong tiểu thuyết của Mạc Ngôn” in trong cuốn “Cảm nhận
mới về văn hóa văn học Trung Quốc”, đã khái quát đặc điểm nghệ thuật trong tiểu
thuyết Mạc Ngôn ở các phương diện: hình ảnh, cảm giác, giọng điệu, nghệ thuật tự sự,
ngôn ngữ, bản sắc dân gian. Bài viết của Nguyễn Thị Tịnh Thy trên tạp chí sông
Hương số 285 với tựa đề Mạc Ngôn - người vinh danh làng quê Cao Mật bằng bút
pháp hậu hiện đại kiểu Trung Quốc đã nêu lên ba vấn đề chính: Cao Mật – Trung
Quốc – nhân loại: duy nhất và tất cả, kết hợp đặc trưng tự sự truyền thống của Trung
Quốc với tự sự hiện đại và hậu hiện đại phương Tây, tái sinh những sách lược tự sự cổ
xưa nhất của Trung Hoa”.
Dưới ánh sáng của nghệ thuật tự sự, những vấn đề như: người kể chuyện, điểm
nhìn, kết cấu, không - thời gian, ngôn ngữ với hàng loạt các thủ pháp của chủ nghĩa
hiện thực huyền ảo để lật đổ thủ pháp tự sự truyền thống đã bước đầu được nói tới.
Trong luận văn Thạc sỹ của Hoàng Thị Bích Hồng về Nghệ thuật trần thuật trong
phong cách tiểu thuyết Mạc Ngôn, tác giả đã đề cập đến nghệ thuật miêu tả cảm giác
và những thủ pháp kì ảo với hiệu quả gián cách nghệ thuật trong tiểu thuyết của Mạc
Ngôn. Trong luận văn Thạc sỹ Nghệ thuật tự sự trong 41 chuyện tầm phào của Mạc
Ngôn (Đại học Sư phạm Hà Nội, năm 2006), Trần Thị Thanh Thủy cho rằng yếu tố
quan trọng nhất tạo nên sự thành công cho tiểu thuyết 41 chuyện tầm phào chính là ở
chỗ tự bên trong tác phẩm chứa biết bao điều mới lạ. Tác giả đã phân tích những sáng
4
tạo và đổi mới của Mạc Ngôn trong tiểu thuyết này ở các phương diện: kết cấu, nghệ
thuật trần thuật, ngôn ngữ tự sự.
Dựa trên cơ sở nghiên cứu tiểu thuyết Mạc Ngôn nói chung, Nguyễn Thị Tịnh
Thy với đề tài Nghệ thuật tự sự trong tiểu thuyết Mạc Ngôn đã khảo sát đề tài trên ba
phương diện: Người kể chuyện và điểm nhìn tự sự; nghệ thuật tổ chức thời gian và kết
cấu tự sự; nghệ thuật kiến tạo ngôn ngữ và giọng điệu tự sự. Từ đó, tác giả đã chỉ ra
những thành tựu và hạn chế của nghệ thuật tiểu thuyết cũng như chỉ ra vị trí của Mạc
Ngôn trong dòng tiểu thuyết Trung Quốc đương đại. Chúng tôi xem những nghiên cứu
trên đây là tài liệu quý báu có tính định hướng cho việc thực hiện đề tài khóa luận này.
Có thể thấy, dù chưa nhiều nhưng nhìn chung các sáng tác của Mạc Ngôn, nhất là
tiểu thuyết được nhiều nhà nghiên cứu thế giới và Việt Nam quan tâm. Trong đó, các
tiểu thuyết nổi tiếng của Mạc Ngôn như Cao lương đỏ, Báu vật của đời, Đàn hương
hình, Tứ thập nhất pháo…đã được nhiều người đề cập trong những bài viết của mình.
Song việc nghiên cứu về nhà văn cũng như tác phẩm của ông vẫn chưa nhiều, đặc biệt
là những nghiên cứu về tiểu thuyết Thập tam bộ. Nghiên cứu về tiểu thuyết Thập tam
bộ tiêu biểu có luận văn Thạc sĩ của Nguyễn Thị Hà với đề tài Dấu ấn hậu hiện đại
trong tiểu thuyết Thập tam bộ của Mạc Ngôn đã nêu rõ tâm thức hậu hiện đại trong
tiểu thuyết Mạc Ngôn: có cái nhìn mới về xã hội, về con người và cách viết của Mạc
Ngôn. Tác giả đã đề cập tới những dấu ấn hậu hiện đại trong tiểu thuyết Thập tam bộ
trên một số phương diện: cốt truyện và kết cấu phân mảnh, pha trộn, đan xen nhiều sắc
thái giọng điệu; phá vỡ thời gian tự sự từ điểm nhìn bên trong. Tuy nhiên, tác giả mới
chỉ nhấn mạnh về dấu ấn hậu hiện đại trong tiểu thuyết chứ chưa đi sâu phân tích nghệ
thuật trần thuật trong tác phẩm Thập tam bộ.
Từ những ý kiến trên đây, có thể thấy tuy đã có nhiều bài viết, công trình nghiên
cứu, phê bình của các tác giả ở Trung Quốc và thế giới trong đó có Việt Nam về tiểu
thuyết Mạc Ngôn, song có thể nhận thấy các bài viết, bài nghiên cứu chỉ mới khái quát
chung và tập trung ở những tiểu thuyết như Cao lương đỏ, Báu vật của đời, Đàn
hương hình, Sống đọa thác đày; vấn đề nghệ thuật trần thuật tuy đã được nhắc đến
trong các bài viết nhưng chưa có công trình nào đi sâu phân tích nghệ thuật trần thuật
của tiểu thuyết Thập tam bộ. Những bài viết, nghiên cứu trên là những ý kiến quý báu
có tính định hướng và cũng là cơ sở để chúng tôi thực hiện đề tài khóa luận của mình.
5
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu.
Nghiên cứu nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết Thập tam bộ của Mạc Ngôn,
khóa luận tập trung khảo sát trên các bình diện: ngôi trần thuật, điểm nhìn trần thuật,
ngôn ngữ và giọng điệu trần thuật.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu tiểu thuyết Thập tam bộ của Mạc Ngôn dựa theo bản dịch của
Trần Trung Hỷ, nhà xuất bản văn nghệ phát hành năm 2007. Ngoài ra chúng tôi còn
khảo sát một số tiểu thuyết khác của ông để so sánh và đánh giá.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này, chúng tôi sử dụng những phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp phân tích, tổng hợp: Giúp người viết chỉ ra những biểu hiện cụ thể
của nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết Thập tam bộ của Mạc Ngôn và có cái nhìn
khái quát về những thành công của nhà văn trong sự nghiệp sáng tác.
- Phương pháp hệ thống: Tìm hiểu nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết Thập
tam bộ của Mạc Ngôn phải dựa trên hệ thống các phương diện thuộc về nghệ thuật tác
phẩm, đặt các phương diện đó trong một hệ thống, một chỉnh thể. Phương pháp hệ
thống giúp người viết hệ thống hóa các đặc điểm nghệ thuật tiểu thuyết Mạc Ngôn nói
chung và tiểu thuyết Thập tam bộ nói riêng.
- Phương pháp loại hình: người viết sử dụng phương pháp này để phân loại, khu
biệt các hiện tượng về nghệ thuật trần thuật của tác phẩm.
- Phương pháp so sánh: để làm nổi bật những đặc điểm về nghệ thuật trần thuật
trong tiểu thuyết Thập tam bộ của Mạc Ngôn, đồng thời góp phần khẳng định cống
hiến của tác giả về phương diện này. Đối tượng so sánh là tiểu thuyết Thập tam bộ với
những tác phẩm có cùng nội dung khác.
- Phương pháp xã hội học: để nghiên cứu sự tác động của xã hội đến tác phẩm.
5. Đóng góp của đề tài
- Về mặt lý thuyết
Từ kết quả nghiên cứu về một số phương diện của nghệ thuật trong tiểu thuyết
Thập tam bộ, khóa luận đưa ra một cách tiếp cận mới về nghệ thuật trần thuật, góp
phần làm nổi bật vị trí và những đóng góp của nhà văn trong nền văn học đương đại
Trung Quốc và nhân loại.
6
- Về mặt thực tiễn
Đề tài góp phần vào việc tiếp nhận, tìm hiểu, nghiên cứu tiểu thuyết Thập tam bộ
và phong cách tiểu thuyết Mạc Ngôn.
6. Cấu trúc khóa luận
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, nội dung của khóa luận được triển khai
thành ba chương:
Chương 1: HÀNH TRÌNH SÁNG TẠO CỦA MẠC NGÔN
Chương 2: PHƯƠNG THỨC TRẦN THUẬT
Chương 3: GIỌNG ĐIỆU VÀ NGÔN NGỮ TRẦN THUẬT
7
Chương 1
HÀNH TRÌNH SÁNG TẠO CỦA MẠC NGÔN
1.1. Khái quát về cuộc đời và sự nghiệp văn chương của Mạc Ngôn.
1.1.1. Cuộc đời
Mạc Ngôn là một nhà văn lớn của Trung Quốc và Thế giới. Giải Nobel văn học
năm 2012 thuộc về ông đã khẳng định vị trí và tài năng của Mạc Ngôn trên văn đàn
quốc tế. Để có được thành quả ấy, không chỉ có tài năng, mà ông đã trải nghiệm bằng
chính con người mình trong cuộc sống gia đình, quê hương; bằng sự nỗ lực không biết
mệt mỏi trên con đường sáng tạo nghệ thuật.
Mạc Ngôn tên thật là Quản Mạc Nghiệp, sinh ngày 17 tháng 2 năm 1955 tại
huyện Cao Mật, tỉnh Sơn Đông, Trung Quốc. Quê hương Cao Mật vốn là một huyện
nghèo nàn, lạc hậu nhưng chính nơi đây đã hun đúc cho tâm hồn và nguồn cảm hứng
một “cái bao tải khổng lồ” tất cả các sáng tác của Mạc Ngôn. Ông sinh ra trong một
gia đình nghèo khổ nhưng rất yêu văn chương. Những người lớn trong nhà là cả kho
truyện kể. Cứ đêm đêm Mạc Ngôn và các anh chị thi nhau kể chuyện. Và cho tới bây
giờ nhà văn vẫn nhắc tới được 300 câu chuyện, cứ mỗi câu chuyện ấy sau này là một
tiểu thuyết. Chính gia đình là cái nôi nuôi dưỡng tâm hồn văn chương và nguồn tài liệu
khổng lồ cho nhà văn sáng tác.
Từ khi là một đứa trẻ, Mạc Ngôn đã nếm trải những vất vả, cực nhọc, nghèo khó.
Ông đã kể về tuổi thơ của mình: “Hồi nhỏ tôi đi chăn trâu, lúc nào bụng cũng đói, bị
mệt bèn nằm dài ra đất ngẩn ngơ nhìn mây trắng trên trời, bởi vì tôi cảm thấy đám
mây trắng kia dường như sẽ lập tức biến thành cái bánh bao rơi vào mồm tôi. Giờ
nhìn thấy đường chân trời, tôi lại nhớ tới thời niên thiếu nghèo khó của mình... Tôi
đứng bên cửa sổ, nhìn dòng nước lớn lững lờ trôi mà cảm thấy vừa rợn ngợp vừa
tráng lệ. Một ấn tượng sâu đậm nữa chính là tiếng kêu của hàng trăm ngàn con ếch,
inh tai nhức óc, có khi ngay trong đêm khuya, nghe như tiếng ma quỷ. Nước lũ và
tiếng ếch kêu là hai nỗi ám ảnh lớn nhất quanh tuổi thơ tôi ” [34]. Từ rất sớm, Mạc
Ngôn đã thể hiện rõ là một đứa trẻ thông minh, lém lỉnh, ham học và có khiếu văn
chương. Đi học lúc sáu tuổi và biết đọc, chín tuổi đã đọc nhiều quyển sách có được
trong thôn: Tam Quốc Diễn Nghĩa, Thủy Hử, Ông lão đánh cá và con cá vàng , Cô bé
bán diêm của Andersen, Quán nhà Lâm của Mao Thuẫn, Tường lạc đà của Lão Xá,
Khuất Nguyên của Quách Mạc Nhược... Ông say mê sách như những vụn sắt bị nam
8
châm hút. Nội dung những cuốn sách ấy vô cùng hấp dẫn đã để lại trong lòng ông ấn
tượng khó quên và ảnh hưởng ít nhiều trong sáng tác của ông sau này. Cách mạng văn
hóa diễn ra, Mạc Ngôn đang học giở tiểu học (lớp 5) đành phải nghỉ học, đi làm nhiều
việc khác nhau ở nông thôn để mưu sinh.
Năm 1976 Mạc Ngôn gia nhập quân đội. Luôn ấp ủ trong mình giấc mơ học Đại
học để trở thành nhà văn, Mạc Ngôn đã giành nhiều thời gian cho việc nghiên cứu
sách về lí luận và chính trị rồi tập tành sáng tác. Năm 1984, Mạc Ngôn đã trúng tuyển
vào khoa Văn thuộc Học viện nghệ thuật quân giải phóng. Năm 1986 ông tốt nghiệp.
Năm 1988, Mạc Ngôn trúng tuyển lớp nghiên cứu sinh khoa lí luận sáng tác thuộc học
viện văn học Lỗ Tấn, trường Đại học sư phạm Bắc Kinh, lấy bằng thạc sĩ năm 1991.
Hiện nay ông đang là sáng tác viên của cục chính trị - Bộ tổng tham mưu quân giải
phóng Nhân Dân Trung Quốc. Những kiến thức học được ở hai viện trên đã giúp sự
nghiệp sáng tác văn học của ông thăng hoa.
1.1.2. Sự nghiệp
Có thể nói, Mạc Ngôn là người đã lao động cật lực trong suốt cuộc đời cầm bút
của mình để tạo ra số lượng lớn tác phẩm phục vụ độc giả trong nước và thế giới. Đọc
những tác phẩm của ông, ta có thể hình dung khá rõ quá trình vận động về tư tưởng,
tình cảm cũng như những trăn trở, tìm tòi, đổi mới cách tiếp cận, nhìn nhận đời sống
và sự điêu luyện trong việc sử dụng nghệ thuật trong mỗi tác phẩm. Mạc Ngôn đã từ
bỏ những lý luận văn nghệ xã hội học khô cứng. Ông viết vì nhân dân, ông không coi
mình là “kỹ sư tâm hồn” răn dạy dân chúng mà chỉ coi mình là thành viên của đại
chúng để nói lên tâm tư, nguyện vọng và nỗi đau của mình mà thôi. Có người nói, nếu
như Mạc Ngôn không phải là nông dân trải nghiệm bao nỗi vui buồn ở nông thôn thì
cũng không có Mạc Ngôn – nhà văn. Phần lớn những tác phẩm của ông phản ánh đời
sống của nông dân trong các giai đoạn lịch sử. Hiện thực nông thôn mà ông phản ánh
là lịch sử chân thực nhưng được lạ hóa, mang đậm dấu ấn của chủ thể nhà văn. Những
cảnh bom rơi đạn nổ, máu chảy đầu rơi, thù hận và yêu thương, thú tính và nhân tính
hòa quyện vào nhau lại rất ly kì, hấp dẫn. Tác giả đã dẫn dắt người đọc vào giữa lòng
lịch sử khiến chúng ta như nhìn thấy, nghe thấy, sờ thấy, ngửi thấy mùi vị tanh tưởi,
cảnh tượng thần bí của cánh đồng cao lương vùng Đông Bắc Trung Quốc. Mảnh đất ấy
thể hiện linh hồn của lịch sử đồng thời cũng thể hiện linh hồn của nông dân Trung
Quốc.
9
Mạc Ngôn thành công nhất ở nhiều thể loại nhưng thể loại ghi danh tên tuổi của
ông với độc giả thế giới vẫn là tiểu thuyết. Tiểu thuyết là một thể loại quá quen thuộc
với mỗi chúng ta, song khi đọc tiểu thuyết của Mạc Ngôn vẫn luôn cuốn hút người đọc
bởi các yếu tố thực ảo cứ hòa quyện vào nhau, tạo nên sự hấp dẫn bởi các chi tiết,
nhân vật... Để có được thành công ấy, ngoài sự đam mê, tìm tòi, đó còn chính là sự trải
nghiệm, quan niệm của nhà văn về tiểu thuyết nói riêng và văn học nói chung.
Tất cả những gì tiểu thuyết phản ánh đều xuất phát từ cuộc sống thực tại. Mạc
Ngôn đã từng đưa ra nhiều định nghĩa về tiểu thuyết: tiểu thuyết đó là sự ghi chép
“những tưởng tượng ngông cuồng của nhà văn hay đó là sự kết hợp giữa cõi mộng với
sự thật, cũng có lúc nó là cái thùng chứa đựng những tình cảm của nhân loại. Tiểu
thuyết là lát cắt có tính sinh lý đời sống tinh thần của nhà văn…” . Trong bài phát biểu
Bài ca cây tỏi thiên đường, nhà văn đã từng viết: “Khi viết cuốn tiểu thuyết sát sao với
hiện thực xã hội, vấn đề lớn nhất mà tôi đối mặt thực ra không phải là chuyện tôi dám
hay không dám phê bình các hiện tượng đen tối trong xã hội mà là chuyện những cảm
xúc và lòng căm giận bừng bừng ấy có thể làm cho chính trị áp đảo văn học, khiến cho
bộ tiểu thuyết đó trở thành một phóng sự tường thuật sự kiện xã hội... Có thể là do tôi
từng trải qua cuộc sống gian khó lâu dài, điều đó khiến tôi có sự hiểu biết khá sâu sắc
về tính người. Tôi biết thế nào là dũng cảm thật sự, cũng hiểu được buồn thương là gì.
Tôi hiểu trong cõi lòng mỗi người đều có một vùng mờ ảo; cái vùng ấy khó có thể diễn
tả thỏa đáng bằng một từ ngữ đơn giản nó là phải hay trái, thiện hay ác… Chỉ cần là
một tác phẩm mô tả chuẩn xác, sinh động cái vùng mờ ảo đầy những mâu thuẫn ấy, thì
cũng tất nhiên sẽ vượt qua chính trị và có được những phẩm chất văn học ưu tú.”
(Trích trong Diễn từ Nobel, bản dịch của Nguyễn Hải Hoành ngày 13 tháng12 năm
2012).
Theo Mạc Ngôn, đã là tiểu thuyết thì ít nhất về ngôn ngữ tác phẩm sau phải khai
thác những yếu tố của tác phẩm trước, cốt truyện phải đa dạng và không thể là sự lặp
lại. Mỗi tiểu thuyết của ông là một con đường tìm tòi, sáng tạo độc đáo, tạo ra những
phong cách tiểu thuyết riêng. Tuổi thơ sống trong nghèo đói, trong những lo lắng và
tủi nhục về miếng cơm manh áo càng khiến cho Mạc Ngôn có cái nhìn về cuộc đời
chân thực hơn: “Tôi là người xuất thân từ tầng lớp thấp kém, nên tác phẩm của tôi
chứa đầy quan điểm thế tục. Nếu ai đó định tìm thấy những điều tao nhã sang trọng
trong tác phẩm của tôi, chắc chắn họ sẽ thất vọng. Đó là điều không thể. Người thế
10
nào nói lời thế ấy, cây nào thì quả ấy, chim nào thì tiếng hót ấy. Tôi lớn lên từ cái đói
rét cơ hàn, đã từng chứng kiến nhiều cảnh khổ đau và bất công trên đời, trong lòng tôi
tràn đầy cảm thông đối với nhân loại và phẫn nộ với sự bất công. Do đó tôi chỉ có thể
viết ra những tác phẩm như vậy” [19, tr.150].
Trong quan niệm tiểu thuyết của Mạc Ngôn, tiểu thuyết không chỉ có mùi vị mà
còn có cảm giác của sự sống. Nhìn chung, tiểu thuyết Mạc Ngôn bị ảnh hưởng bởi
trường phái cảm giác mới. “Khi viết văn nhà văn phải huy động mọi giác quan của
mình: Vị giác, thính giác, khứu giác hoặc là một cảm giác kỳ diệu vượt qua tất cả mọi
cảm giác kể trên” [ 24, tr.19]. Nhiều người xem tiểu thuyết Mạc Ngôn là tiểu thuyết
mới. Nó không đơn thuần miêu tả hiện thực bề ngoài mà nhấn mạnh cảm thụ trực giác,
đưa cảm giác chủ quan vào trong khách thể nhằm tạo ra một hiện thực mới mẻ. Ngoài
ra, tác giả còn thể hiện nhiều chi tiết, sự kiện khác thường, độc đáo và khả năng kích
thích hứng thú cho người đọc. Khi miêu tả về cái chết, người ta tránh nói nhiều thì
người kể chuyện ở đây lại kể với cảm giác và truyền cảm giác ghê rợn cho người đọc
chứ không phải là nỗi đau trước cái chết thông thường. Cảm giác không tồn tại thực tế
mà tồn tại một cách siêu nhiên do thị giác, thính giác, xúc giác tạo thành trong một
hoàn cảnh đặc biệt. Tạo ra một thế giới mùi vị bằng cảm giác là sở trường trong miêu
tả của nhà văn xuất phát từ trực giác và di chuyển vào tâm linh, sáng tạo ra một thế
giới mới mẻ. Năng lực nắm bắt cảm giác trong tiểu thuyết của Mạc Ngôn gắn với quan
niệm nghệ thuật về một thế giới vừa có chiều sâu tâm linh vừa sống động. Hầu như khi
sáng tác nhà văn luôn huy động mọi tế bào của cơ thể để khám phá hiện thực. Dù là
một làn gió nhẹ, một nhánh cỏ, một cây cao lương, một giọt nước trong... cũng được
miêu tả có hồn, mang đậm chất chủ thể hóa. Tác giả mượn nhân vật trong truyện Hồng
Hoàng để nói lên ý đồ sáng tác của mình: “Sẽ có ngày tôi soạn một vở kịch chân
chính, trong đó có mộng ảo và hiện thực, khoa học và đồng thoại, thượng đế và ma
quỷ, ái tình và mại dâm, cao quý và ti tiện, mỹ nữ và đại tiện, quá khứ và hiện tại...
đều được đan xen với nhau, gắn chặt với nhau, cái nọ nối cái kia tạo thành một thế
giới hoàn chỉnh”. [32]. Trong quá trình sáng tác tiểu thuyết, Mạc Ngôn luôn tìm cho
mình một lối đi riêng. Ông đã từng mong muốn viết ra những thứ thuộc về mình. Nó
khác với những người khác, và cũng khác với các nhà văn phương Tây. Chính niềm
khát khao ấy là động lực giúp nhà văn không ngừng đổi mới trong quan niệm và sáng
tạo trong văn chương. Sự sáng tạo ấy theo ông không phải sự chen nhau chạy theo mốt
11
mà là cách viết những gì quen thuộc, với ngòi bút tả thực cùng sự tưởng tượng của nhà
văn để tạo ra những “mùi vị” không tồn tại và những sự thực không có thực, làm cho
tiểu thuyết có cảm giác của sự sống.
Ngòi bút của Mạc Ngôn là ngòi bút của văn chương “phá cách”. Trong tác phẩm
của ông, chỗ nào cũng thể hiện tư tưởng vừa kế thừa vừa phát huy truyền thống. Trung
Quốc là đất nước mang nặng tư tưởng Nho giáo, có truyền thống kính lão trọng già
nhưng những nhân vật lớn tuổi trong các tác phẩm của Mạc Ngôn lại rất phong tình, ân
ái với nhau ngay ở trong ruộng cao lương (Cao lương đỏ). Các nhân vật của Mạc
Ngôn không bị ràng buộc bởi những quan niệm về sự sống và cái chết, giữa linh hồn
và thể xác, giữa bản năng và đạo đức. Mỹ học truyền thống phương Đông rất coi trọng
sự “tao nhã”, “trung hòa”, rất kiêng kị đưa những cảnh máu me tanh hôi, hành động
thú tính tàn bạo vào trong văn chương. Nhưng Mạc Ngôn lại không e dè, mở toang cửa
để “cái ác” tràn vào. Nào cảnh giết người theo kiểu Đàn hương hình, cảnh hãm hiếp
phụ nữ, cảnh đại tiện ô uế, cảnh xẻ thịt và ngũ tạng người chết…tất cả cứ trần trụi phơi
bày ra như những gì nó vốn có.
Nhiều độc giả tán thưởng Mạc Ngôn ở chỗ ông đã học tập, tiếp nhận văn học
nước ngoài một cách sáng tạo. Đọc tác phẩm của ông, người ta thấy dấu ấn Trăm năm
cô đơn của Marquez, Hóa thân của Kafka, Âm thanh và cuồng nộ của Faulkner.
Nhưng ngoài cái tài biết chắt lọc tinh hoa văn hóa nước ngoài ra, Mạc Ngôn còn rất
coi trọng phương thức thẩm mỹ của văn học truyền thống Trung Quốc. Do vậy, đọc
tác phẩm ông người ta thấy vừa hiện đại nhưng cũng rất dân tộc.
Tác phẩm góp phần làm nên tên tuổi Mạc Ngôn là truyện vừa Cao lương đỏ.
Đây là mốc son trên chặng đường văn học của ông. Cao lương đỏ đưa độc giả trở về
thập niên 1920 - 1930, trên mảnh đất quê hương của chính tác giả - mảnh đất Cao Mật
của tỉnh Sơn Đông. Những nhân vật trong truyện hiện ra đầy cá tính, khí phách, sống
ngang tàng, lạc quan như những ngọn cao lương thẳng tắp vút lên trên bầu trời Cao
Mật. Đây là nét tính cách điển hình của người dân Cao Mật mà chúng ta sẽ gặp lại
trong rất nhiều các tác phẩm sau này của Mạc Ngôn. Cao lương đỏ ca ngợi tình yêu và
sự tự do. Tác phẩm vừa khốc liệt, vừa bay bổng, vừa rất thực mà lại hòa trộn cả những
yếu tố kỳ ảo, phi thường.
Phong nhũ phì đồn (Báu vật của đời, 1995) là một bích họa lịch sử miêu tả Trung
Quốc thế kỷ XX qua lăng kính cuộc sống của một gia đình. Báu vật của đời là một tác
12
phẩm nổi tiếng khác trong vốn liếng văn chương của Mạc Ngôn. Nó từng là hiện
tượng của nền văn học Trung Quốc. Tác phẩm được Hội Nhà văn Trung Quốc trao
giải nhất ở thể loại tiểu thuyết năm 1995. Báu vật của đời đem lại cái nhìn khái quát về
giai đoạn lịch sử hiện đại của Trung Quốc. Vẫn lấy bối cảnh chính là huyện Cao Mật,
Mạc Ngôn đã đưa tới cho người đọc những mảng sáng – tối, khuất – tỏ của lịch sử
Trung Quốc trong vòng 100 năm. Tác phẩm là đại diện tiêu biểu cho phong cách sáng
tác dựa trên đề tài lịch sử của ông.
Đàn hương hình (2004) là câu chuyện về sự tàn bạo thuở đế chế phong kiến đang
sụp đổ. Sử dụng chất liệu văn học dân gian làm phông nền, tác giả đã thành công trong
việc khắc họa một giai đoạn lịch sử đẫm máu ở Trung Quốc từ năm 1895 - 1915. Khi
đó Trung Quốc trở thành chiếc bánh ga-tô ngon lành để các đế quốc chia nhau xâu xé.
Triều đình Mãn Thanh thối nát, bất lực, quan lại đương thời hoặc tiếp tay cho giặc
hoặc ươn hèn, thối chí, đời sống nhân dân vô cùng rối loạn. "Lãnh tụ" của cuộc khởi
nghĩa chống quân Đức ở huyện Cao Mật khi đó chỉ là một ông bầu gánh hát. Tác phẩm
này đã đem về cho Mạc Ngôn giải Mao Thuẫn – giải thưởng văn học danh giá nhất tại
Trung Quốc thời bấy giờ. Chất liệu văn hóa dân gian được sử dụng trong Đàn hương
hình là hý kịch Miêu Xoang, một loại nhạc dân gian phổ biến ở vùng đông bắc Cao
Mật. Tiểu thuyết một lần nữa khắc họa tính cách ngang tàng, khí khái, lạc quan của
người dân Cao Mật trên cái nền là những sự kiện Cách mạng nóng hổi. Đàn hương
hình ngoài việc giới thiệu về lịch sử của hý kịch Miêu Xoang còn cho người đọc biết
về lịch sử các ngón đòn tra tấn, tử hình ở Trung Quốc.
Tiểu thuyết Sống đọa thác đày (2006) sử dụng bút pháp trào phúng để mô tả cuộc
sống thường nhật và những biến chuyển dữ dội ở nước Cộng hòa Nhân dân non trẻ lúc
bấy giờ.
Thập tam bộ (2007) là một cuốn tiểu thuyết để lại ấn tượng sâu đậm với người
đọc. Trong tác phẩm, một phần đời sống đầy bi kịch của tầng lớp trí thức nói chung và
nhà giáo nói riêng được đề cập tới qua nhân vật không xác định, cốt truyện không xác
định, ngôn ngữ không xác định, không- thời gian không xác định, bởi tất cả là hư vô,
là những ẩn ức bị xáo trộn như chính sự phức hợp của đời sống phản ánh vào tư duy.
Tác phẩm là sự mơ hồ, đầy những hoài nghi bởi sau cùng ta không thể nhận ra ai là
nhân vật ngồi trong chuồng sắt kể về câu chuyện đời chua chát của những thầy giáo
dạy Vật lý.
13
Ếch (2009) tác phẩm mới nhất của Mạc Ngôn kể về truyền thống trọng nam
khinh nữ ở Trung Quốc, dẫn tới việc phá thai và bỏ mặc những bé gái kéo dài tới ngày
nay ở nhiều vùng nông thôn. Ếch là câu chuyện kể về một cô vợ lẽ ở nông thôn Trung
Quốc bị buộc phải phá thai và triệt sản. Đồng thời phác họa những hệ lụy của chính
sách một con độc đoán của Trung Quốc.
Có thể nói, Mạc Ngôn đã có một sự nghiệp văn học khá đồ sộ với 11 bộ tiểu
thuyết dài, 30 truyện vừa, 100 truyện ngắn, 5 tập tản văn, 9 kịch bản phim, 2 kịch bản
kịch nói. Tác phẩm của ông đã được dịch ra nhiều thứ tiếng và đạt nhiều giải trong và
ngoài nước. Qua sự pha trộn vừa hư ảo vừa thực tế, vừa mang tính lịch sử vừa mang
tính xã hội đương đại, Mạc Ngôn đã tạo ra một thế giới khiến người ta nhớ đến những
sự phức tạp của cuộc sống như trong các tác phẩm của William Faulkner (Nobel Văn
học 1949) và Gabriel García Márquez (Nobel Văn học 1982) trong khi vẫn giữ phong
cách văn chương Trung Hoa cổ và văn hóa dân gian truyền thống. Ngoài tiểu thuyết,
Mạc Ngôn còn xuất bản nhiều truyện ngắn và tản văn về những đề tài khác nhau. Mặc
dù ông giương mũi nhọn chỉ trích đối với xã hội đương thời nhưng trên quê hương của
mình ông vẫn được xem là một trong những tác giả đương đại xuất sắc nhất.
Con đường đến với nghệ thuật của Mạc Ngôn không phải là thuận chèo mát mái
như nhiều người tưởng mà là quanh co, trắc trở. Song nhờ có ý chí, nghị lực, kiên trì
và có ước mơ, ông đã làm nên tên tuổi và sự nghiệp của mình trên văn đàn văn học
Trung Quốc và Thế giới. Bằng cách viết về quá khứ, chọn phong cách hiện thực huyền
ảo, phương thức trần thuật độc đáo và khéo léo, Mạc Ngôn đã tạo cho mình một phong
cách riêng khác với các nhà văn đương thời.
Các giải thưởng văn học mà ông đã giành được : • Giải nhất hội nhà văn Trung Quốc cho tiểu thuyết Báu vật của đời tháng 12
năm 1995.
• Giải Mao Thuẫn cho tiểu thuyết Đàn Hương hình. • Giải tiểu thuyết toàn quốc lần thứ tư 1987 cho Cao Lương Đỏ, Trương Nghệ
Mưu dựng thành phim và được giải Con gấu vàng ở Liên hoan phim Berlin 1998.
• Giải văn học liên hiệp (Đài Loan). • Giải văn học nước ngoài Laure Batlin của Pháp. • Giải thưởng lớn cho văn hóa Châu Á (Nhật ). • Huân chương kỵ sĩ nghệ thuật văn hóa Pháp tháng 3 năm 2004.
14
• Tiến sĩ văn học danh dự do trường Đại học công khai Hồng Công trao tặng
tháng 12 năm 2005.
• Tiểu thuyết Ếch mới nhất đạt giải văn học Mao Thuẫn 2010. • Giải Nobel văn học tháng 10 năm 2012 .
1.2. Thập tam bộ - một thành công trong nghệ thuật trần thuật của Mạc Ngôn
Các tác phẩm của Mạc Ngôn luôn chuyển tải những chủ đề nóng bỏng nhất của
lịch sử và thời đại. Sở dĩ như thế là vì ông sống trong một bối cảnh đầy những biến
động, mang tính bi kịch. Đó là sự trói buộc chính trị, là cuộc “Đại cách mạng văn hóa
vô sản” và còn là vấn đề nhận thức lại cuộc sống. Trong số các nhà văn ở Trung Quốc,
có thể nói yêu quê hương và viết về chính quê hương của mình thành công nhất phải
kể đến Mạc Ngôn. Độc giả Việt Nam đã biết đến Mạc Ngôn với hàng loạt tác phẩm
như Đàn hương hình, Báu vật của đời, Cây tỏi nổi giận, Rừng xanh lá đỏ... Nhưng
người ta biết đến Thập tam bộ với nhiều ý nghĩa ẩn chứa trong đó. Đây là tiểu thuyết
ấn tượng của nhà văn Mạc Ngôn trong việc hướng ngòi bút vào một vấn đề có tính
thời sự của xã hội Trung Quốc những năm tám mươi của thế kỷ trước. Trong Thập tam
bộ không hề có vũ khí giết người hàng loạt, những chiến dịch đẫm máu nhưng để được
sống, con người cũng phải giãy giụa, phải đấu tranh.
Câu chuyện chỉ diễn ra vỏn vẹn có mười lăm ngày nhưng đó là mười lăm ngày
đảo điên làm vỡ tung những ung nhọt ẩn chứa trong cuộc đời. Xoay quanh số phận của
hai nhân vật chính: Phương Phú Quý và Trương Xích Cầu – hai thầy giáo dạy Vật lý ở
trường trung học tại một thành phố nhỏ. Bắt đầu là việc thầy Phương kiệt sức và ngất
trên bục giảng trong một tiết dạy về nguyên lý chế tạo bom nguyên tử. Tất cả những bi
kịch khởi phát từ đây. Cái chết của thầy được toàn thể nhân dân thành phố kính trọng
và thương xót. Tờ báo của thành phố dành vị trí trang trọng nhất để đăng cáo phó làm
dấy lên một cuộc vận động: “quan tâm đến cuộc sống của giáo viên! Nâng lương cho
giáo viên! Vận động các xí nghiệp ăn nên làm ra và các cá nhân lắm tiền thành lập
quỹ bảo vệ sức khỏe cho giáo viên!” [18, tr.103]. Cuộc vận động ngày càng rầm rộ,
biểu ngữ, cờ hồng tràn ngập đường phố. Xem ra để cải thiện tình hình cho toàn thể
giáo viên thành phố, “Phương Phú Quý chết còn có giá trị gấp nhiều lần Phương Phú
Quý sống” [18, tr.104].
Trên đường đến nhà tang lễ, thầy Phương đã tỉnh lại. Nhưng thầy không được
phép sống, hiệu trưởng ngồi bên cạnh đã lấy tay bịt mắt anh lại. Vì đời sống của tất cả
15
giáo viên thành phố, thầy hiệu trưởng không muốn Phương Phú Quý sống lại. Bây giờ
anh phải hi sinh, anh mà sống lại, anh sẽ là kẻ “phản động”; anh vào nhà tang lễ anh
là “đại nhân đạo”. Phương Phú Quý nhất định không được sống dù vợ anh – Đồ Tiểu
Anh và hai đứa con kêu gào thảm thiết. “Người đã chết thì không được phép sống lại –
đấy là một định lý, một quy luật” [18, tr.106]. Vậy mà đêm ấy, Phương Phú Quý chạy
khỏi nhà tang lễ về gõ cửa nhà mình. Đồ Tiểu Anh đang khóc chồng ra mở cửa, nhìn
thấy chồng thì tưởng là ma nên sợ hãi và ngất xỉu. Phương Phú Quý đành gõ cửa nhà
người đồng nghiệp thân thiết kế bên là Trương Xích Cầu. Vợ thầy Trương là Lý Ngọc
Thiền, chuyên gia chỉnh dung số một của nhà tang lễ, ra mở cửa. Sững sờ, ngạc nhiên
và sau thời gian bàn bạc, cô quyết định thầy Phương vẫn tiếp tục chết bằng cách sẽ
phẫu thuật cho thầy Phương một khuôn mặt giống thầy Trương. Sau đó thầy Phương
sẽ trở lại bục giảng dưới danh tính của thầy Trương. Còn thầy Trương sẽ đi buôn để
tăng thu nhập. Tiền hai người kiếm được sẽ chia đôi để cùng trang trải cuộc sống cho
hai gia đình. Từ đây sẽ có hai Trương Xích Cầu cùng tồn tại, một giả và một thật.
Cũng từ đây, bi kịch của hai thầy phát triển đến đỉnh điểm. Trương Xích Cầu thật đi
buôn bị cướp, bị lừa đảo, bị công an tống giam. Trương Xích Cầu giả phải sống trong
căn nhà tập thể chật chội cùng người vợ lẳng lơ của Trương Xích Cầu thật. Lửa gần
rơm lâu ngày cũng bén, anh dằn vặt, mặc cảm vì tội lỗi. Lại thêm đêm đêm nghe tiếng
khóc chồng bên kia bức tường của Đồ Tiểu Anh vò xé ruột gan. Với tư cách (và cả
khuôn mặt) của Trương Xích Cầu, anh sang thăm và an ủi cô ấy. Dần dần, Đồ Tiểu
Anh không kìm lòng được lại ngã vào lòng anh. Cô ân hận vì nhỡ thất tiết nên chửi
mắng, xua đuổi, van xin anh buông tha cô mặc dù anh đã cố chứng minh mình là
Phương Phú Quý. Đồ Tiểu Anh cho rằng anh đang lừa dối, đồng nghiệp mắng nhiếc
anh là đồ súc sinh đã “ve vãn đàn bà góa, làm nhục đồng nghiệp” [18, tr.543], thông
gian với vợ bạn bằng mưu kế quỷ quyệt. Trong đau đớn cùng cực, anh lại bắt gặp con
trai Trương Xích Cầu thật đang quyến rũ và giở trò đồi bại với con gái mình. Bản năng
của người cha khiến anh lập tức đi tìm và can ngăn con gái. Nó lạnh lùng nhìn khuôn
mặt anh, bảo anh không phải là cha nó thì không có quyền can thiệp. Tiếp đó lại nghe
tin Đồ Tiểu Anh ngoại tình, rồi cô nhảy sông tự tử… Trong cơn tuyệt vọng và giận
giữ, anh hét vào mặt Lý Ngọc Thiền: “Hãy trả gương mặt Phương Phú Quý lại cho
tôi!” [18, tr.544]. Nhưng cô ta đã là người “ngây ngây, dại dại, chẳng nói chẳng
rằng” [18, tr.544]. Trước đây anh có thói quen ăn phấn khi gặp chuyện gay cấn. Bây
giờ ăn phấn cũng không giúp anh thoát khỏi tấm lưới nghiệp chướng cuộc đời nữa.
16
Cuối cùng, sau một tiết dạy về nguyên lý chế tạo bom nguyên tử, Trương Xích Cầu giả
lấy dao phá nát khuôn mặt mình rồi treo cổ tự tử. Đám tang thầy Trương Xích Cầu giả,
cả trường làm lễ truy điệu, thầy hiệu trưởng phát động học sinh quyết tâm đậu vào đại
học: “Không đậu đại học, sống cũng như chết!” [18, tr.554]. Trương Xích Cầu thật
được công an thả ra, chen đến lễ truy điệu và hét lớn: “Tôi chưa chết, tôi vẫn đang
sống!” [18, tr.553], nhưng không ai hiểu và chấp nhận sự thực đó vì người ta cho rằng
anh là bố của Trương Xích Cầu.
Xoay quanh bi kịch của Phương Phú Quý và Trương Xích Cầu là thực trạng về
ngành giáo dục Trung Quốc những năm tám mươi của thế kỉ trước. Tất cả đều chạy
đua theo thành tích, tất cả đều xem việc đậu đại học là con đường sống duy nhất…,
như câu khẩu hiệu mà hiệu trưởng đề xuất cho học trò hô trong lễ truy điệu thầy
Trương Xích Cầu: “ không đậu Đại học, sống cũng như chết !” [18, tr.554]. Và hệ lụy
tất yếu là dạy thêm, dạy tăng ca để đến nỗi học sinh nhảy sông tự tử tập thể, thầy giáo
ngất xỉu trên bục giảng. Bi hài thay, sau cái chết của hai thầy giáo Vật lý, cư xá giáo
viên lại rục rịch khởi công vì những tiếng kêu gào của giáo viên, học sinh và nhân dân
thành phố.
Mạc Ngôn được xem là một hiện tượng lạ và là người có “sức hút” mạnh với độc
giả yêu văn học bởi hiện thực mà ông phản ánh là lịch sử chân thực, nhưng được lạ
hóa, dị dạng, mang đậm dấu ấn của chủ thể nhà văn. Cùng với sự thành công khi thể
hiện mảng đề tài viết về hiện thực, nghệ thuật tự sự góp phần lớn trong việc hình thành
phong cách Mạc Ngôn, đặc biệt là những phương thức trần thuật mà tác giả sử dụng
trong mỗi tác phẩm lại mang nét riêng và thành công riêng.
Thập tam bộ là tiểu thuyết thành công và ấn tượng của Mạc Ngôn trong việc thể
hiện nghệ thuật trần thuật điêu luyện của nhà văn. Đó là quá trình đánh mất và kiếm
tìm, sự phân thân đa ngã của người kể chuyện. Tôi đánh mất tôi, anh đánh mất anh,
chúng ta đánh mất chúng ta vì những vất vả khốn đốn trong cuộc mưu sinh này. “Anh
là ai? Tôi là ai? Anh giống tôi? Tôi giống anh?” [18, tr.244]. Đâu mới là bản ngã của
tôi? Tất cả chúng ta đều khác nhau vì mỗi người đều theo đuổi một lý tưởng nghề
nghiệp, lý tưởng sống riêng. Đường đi thì nhiều nhưng đích đến thì chỉ có một và rốt
cuộc tất cả chúng ta đều giống nhau vì đều “là những kẻ ngốc nghếch chân chính”
mang trên người mình một cõi nhân sinh, một gánh nặng về cuộc đời.
Ngòi bút Mạc Ngôn thực sự độc đáo ở việc lựa chọn hình thức kể chuyện từ ngôi
thứ hai một cách hỗn loạn và phức tạp. Sự hỗn loạn đó là hệ quả của việc đánh tráo
17
chủ thể trần thuật, chuyển đổi ngôi kể và chuyển đổi điểm nhìn liên tục khiến người
đọc như lạc vào một ma trận tự sự. Thông qua nhân vật người kể chuyện khó xác định
tên tuổi, Mạc Ngôn đã thuật lại những bi kịch đời thường bằng một giọng văn lạnh
lùng lẫn chua chát, châm biếm nhưng đầy nhân ái. Bên cạnh đó là việc kể chuyện từ
ngôi thứ ba với sự đóng góp lời kể của ba người kể chuyện: người ngồi trong chuồng
sắt; người kể chuyện chúng tôi và tờ Quần chúng nhật báo. Mỗi người kể một câu
chuyện, một nội dung với lời lẽ, cách nhìn nhận khác nhau nên không thừa, không bị
lặp và khi kết hợp tất cả những lời kể đó mang lại cho người đọc một câu chuyện gần
như hoàn chỉnh về cuộc đời, số phận các nhân vật được nói tới. Cũng thông qua việc
sử dụng các phương thức trần thuật, tác giả đã thể hiện đầy đủ bức tranh sinh động của
xã hội Trung Quốc những năm cuối thế kỉ XX - một giai đoạn mà con người sống hời
hợt với nhau, sử dụng những mánh khóe, mưu mẹo và chèn ép cuộc sống của người
khác nhằm phục vụ cho lợi ích của cá nhân mình; một giai đoạn mà tất cả các giá trị,
các chuẩn mực bị lật nhào, bị thay thế. Sống trong thời đại “mở cửa”, con người dường
như lạnh lùng, vô cảm và mất đi cái gọi là tình thương với đồng loại, hay nói cách
khác là “sống chết mặc bay”. Chính vì sự thờ ơ, lạnh lùng đó đã đưa đẩy số phận của
các nhân vật trong tiểu thuyết Thập tam bộ đi vào bước đường cùng.
Thời gian của truyện chủ yếu là thời gian hồi tưởng với kết cấu truyện trong
truyện, đan xen giữa thực và ảo, giữa hiện thực và giấc mơ, khai thác triệt để những
cảm giác lẫn khứu giác, vị giác của nhân vật khi cảm thụ cuộc sống. Bên cạnh đó tác
giả cũng sử dụng giọng điệu vừa bỡn cợt vừa lạnh lùng để tái hiện chân thực cuộc
sống bạc bẽo giữa người với người. Cuộc sống ấy đã vùi dập cuộc đời của họ dẫn đến
những kết cục không ra gì sau này. Điểm nhìn trần thuật liên tục di động làm tăng
thêm tính hòa quyện giữa thực và ảo. Huyền thoại về con chim sẻ đi mười ba bước có
vai trò như một định mệnh đối với những bất hạnh mà các nhân vật phải gánh lấy
trong cuộc đời vốn chẳng ra gì của họ.
Trên hành trình sáng tạo nghệ thuật, Mạc Ngôn đã sớm khẳng định cho mình một
phong cách riêng, một lối đi riêng. Với tác phẩm Thập tam bộ, một lần nữa tác phẩm
đã khẳng định tài năng, cá tính sáng tạo của Mạc Ngôn trong việc hướng ngòi bút tả
thực cùng với trí tưởng tượng của mình để tạo ra những “mùi vị” không tồn tại và
những sự thực không có thật nhưng lại vô cùng gần gũi và thân thiết với con người,
gắn với những suy tư, trăn trở của con người.
Chương 2
PHƯƠNG THỨC TRẦN THUẬT
18
2.1. Các kiểu trần thuật
Theo Từ điển thuật ngữ văn học: “Trần thuật là một phương diện cơ bản của
phương thức tự sự đồng thời là việc giới thiệu, khái quát, thuyết minh, miêu tả đối với
nhân vật, sự kiện, hoàn cảnh, sự vật theo cách nhìn của một người trần thuật nhất
định” [7, tr.364].
Dấu hiệu rõ nhất để nhận diện kiểu trần thuật trong tác phẩm tự sự chính là ngôi
xưng. Người trần thuật có thể hiểu một cách đơn giản là người kể lại câu chuyện.
Người trần thuật mang đại từ nhân xưng nào khi kể, thuật lại câu chuyện thì đồng thời
sẽ chịu những giới hạn riêng từ góc nhìn tương ứng khi quan sát. Lý thuyết tự sự học
cho rằng có ba loại hình trần thuật gắn liền với vấn đề tiêu cự hóa do G.Gennette đề
xuất. Ba loại hình trần thuật bao gồm: trần thuật theo ngôi thứ nhất, trần thuật theo
ngôi thứ hai và trần thuật ở ngôi thứ ba. Như vậy theo lý thuyết tự sự học, ngôi xưng
vẫn là tiêu chí trước hết và quan trọng để phân chia các dạng thức trần thuật theo ngôi
thứ ba, ngôi thứ hai hay ngôi thứ nhất.
Kể chuyện theo ngôi thứ nhất là hình thức kể chuyện xưng tôi với tư cách là một
nhân vật trong truyện, chứng kiến các sự kiện, đứng ra kể. Hình thức kể chuyện theo
ngôi thứ nhất chỉ cho phép nhân vật kể những gì mà khả năng của một người cụ thể có
thể biết được. Vì thế hình thức này có khả năng tạo được cảm giác chân thực cho bạn
đọc.
Kể chuyện theo ngôi thứ ba là một dạng phổ biến của tiểu thuyết truyền thống.
Người kể chuyện giấu mặt, đứng ở một vị trí nào đó để bao quát hết mọi diễn biến của
câu chuyện và kể lại trọn vẹn cho chúng ta. Ngôi thứ ba cho phép người kể có thể kể
ra những gì mà họ biết.
Lý luận tự sự hiện đại không phân biệt ngôi thứ nhất và ngôi thứ ba như trước.
Mọi trần thuật đều xuất phát từ một cái tôi hiểu biết sự việc, đều là ngôi thứ nhất cả,
chỉ khác nhau ở mức độ ẩn, hiện. Ngôi thứ nhất là hình thức lộ diện, ngôi thứ ba là
hình thức ẩn mình.
Ngoài hai cách trên, người kể chuyện có thể kể theo ngôi thứ hai. Kể theo ngôi
thứ hai tạo ra một không gian gián cách: có một cái tôi khác, một cái tôi được kể ra
chứ không phải tự kể như ngôi thứ nhất.
Hình tượng người kể chuyện gắn với ngôi kể đem lại cho tác phẩm một cái nhìn
và một cách đánh giá bổ sung về mặt tư tưởng và lập trường, thái độ, tình cảm cho cái
19
nhìn của tác giả; làm cho sự trình bày, tái tạo lại con người và cuộc sống trong tác
phẩm thêm phong phú. Ngôi kể còn có ý nghĩa trong việc tạo thành giọng điệu của văn
bản, bởi vì giọng điệu bao giờ cũng phải là giọng của một ai đó được thể hiện bằng
những phương tiện ngôn từ nhất định.
Với Mạc Ngôn – một hiện tượng lạ của văn học Trung Quốc đương đại thì mỗi
tiểu thuyết là một cơ hội để nhà văn phô diễn kĩ thuật viết tân kì của mình qua việc sử
dụng nghệ thuật trần thuật. Và sự độc đáo trong việc sử dụng các phương thức trần
thuật được thể hiện thành công trong tiểu thuyết Thập tam bộ. Ngoài hai kiểu trần
thuật thường gặp là trần thuật từ ngôi thứ ba và trần thuật từ ngôi thứ nhất, trong tiểu
thuyết Thập tam bộ còn xuất hiện một phương thức hiếm gặp là trần thuật ở ngôi thứ
hai, tạo nên sự đa dạng của ngôi kể cho tiểu thuyết này.
2.1.1. Trần thuật ngôi thứ ba
Có thể nói trần thuật ở ngôi thứ ba là phương thức phổ biến của văn học nhân
loại và nhà văn Mạc Ngôn cũng không nằm ngoài xu hướng chung đó. Tuy nhiên,
phương thức trần thuật này ở mỗi nhà văn đem lại sắc thái riêng, tạo nên phong cách
cho mỗi nhà văn. Mạc Ngôn đã khẳng định được điều đó thông qua những tiểu thuyết
như Cây tỏi nổi giận, Tửu quốc, Đàn hương hình, Báu vật của đời và tiêu biểu là Thập
tam bộ.
Trong truyện kể ở ngôi thứ ba, người kể chuyện không trực tiếp tham gia vào
diễn biến câu chuyện. Thông thường, người kể chuyện này có quyền năng vô hạn như
một “thượng đế” trong toàn câu chuyện của mình. Anh ta là người “biết tuốt”, có khả
năng thâu tóm toàn bộ thế giới hiện thực của tác phẩm. Tuy nhiên trong tiểu thuyết
Thập tam bộ cũng như nhiều tiểu thuyết khác của Mạc Ngôn, mặc dù trần thuật ở ngôi
thứ ba nhưng được dẫn dắt bởi người kể chuyện có tầm hiểu biết giới hạn đối lập với
người kể chuyện “biết tuốt” trong truyền thống. Mỗi người kể chuyện chỉ nắm giữ một
phần của hiện thực. Quyền năng của họ đã bị tước bớt, và nếu như không có sự phối
hợp của người kể chuyện khác thì bức tranh hiện thực mà họ tái hiện sẽ không thể vẹn
toàn.
Thập tam bộ là tiểu thuyết dùng hình thức kể chuyện từ ngôi thứ ba và có ba
người kể chuyện cùng kể về số phận hai thầy giáo dạy Vật lý ở trường Trung học số 8.
Đó là người kể chuyện “chúng tôi”; người kể chuyện ngồi trong chuồng sắt và tờ Quần
chúng nhật báo. Ba người kể chuyện với những điểm nhìn hiện thực và giọng điệu
20
khác nhau tạo nên bức tranh hiện thực sinh động của thành phố nơi sinh sống của hai
thầy giáo dạy Vật lý.
Người kể chuyện “chúng tôi” kể lại câu chuyện mình được nghe kể từ người kể
chuyện ngồi trong chuồng sắt. “Chúng tôi” đứng bên ngoài chuồng sắt, “chúng tôi
không thể ngắt những lời kể có phần thái quá của anh. Anh vẫn cứ tiếp tục kể và
chúng tôi vẫn cứ tiếp tục nghe” [18, tr.60]. Người kể chuyện “chúng tôi” thuật lại câu
chuyện mình được nghe kể từ “không biết bao nhiêu năm đã trôi qua” và kể lại cho
người đọc một câu chuyện gần như hoàn chỉnh. Chuyện kể về hai thầy giáo dạy vật lý
là Phương Phú Quý và Trương Xích Cầu. Trong một tiết dạy về chế tạo bom nguyên
tử Phương Phú Quý bị ngất trên bục giảng, mọi người nghĩ rằng anh ta đã chết, vô
cùng thương tiếc và đưa đến Thế giới mỹ lệ để được cô chuyên gia chỉnh dung số một
thành phố Lý Ngọc Thiền “trang điểm” chuẩn bị cho lễ truy điệu. Trên đường đến nhà
tang lễ, Phương Phú Quý tỉnh dậy nhưng “vì đời sống của tất cả giáo viên trong thành
phố” hiệu trưởng không cho phép anh ta sống. Bây giờ anh mà sống lại, anh sẽ là “kẻ
phản động”, anh vào nhà tang lễ, anh là “đại nhân đạo” [18, tr.104]. Nhưng nửa đêm
anh chạy về gõ cửa nhà mình thì vợ anh tưởng là ma nên ngất xỉu, anh đành chạy sang
gõ cửa nhà hàng xóm cũng là đồng nghiệp với anh là Trương Xích Cầu (vợ anh ta là
chuyên gia chỉnh dung Lý Ngọc Thiền) cầu cứu, muốn được sống. Cô chuyên gia
chỉnh sửa cho mặt của Phương Phú Quý giống với mặt của Trương Xích Cầu để
Phương Phú Quý tiếp tục đi dạy còn Trương Xích Cầu đi buôn. Phương Phú Quý tiếp
tục sống, đi dạy là để gần gũi vợ con nhưng Đồ Tiểu Anh (vợ) và đồng nghiệp lại cho
rằng anh đang ve vãn vợ bạn, trêu chọc đàn bà góa; các con thì coi thường không nghe
lời anh, anh bất lực, bế tắc và cuối cùng phải treo cổ sau một tiết dạy về nguyên lý chế
tạo bom nguyên tử. Trương Xích Cầu đi buôn, bị người ta bắt giam, đánh đập, cướp
bóc và trở nên tiều tụy đến nỗi chính anh ta khi nhìn mình trong gương cũng không
nhận ra, và lúc chen đến lễ truy điệu của Trương Xích Cầu giả mọi người cho rằng anh
là bố của Trương Xích Cầu, anh phát điên. Lý Ngọc Thiền trở nên ngây dại sau cái
chết của Trương Xích Cầu giả và Trương Xích Cầu thật thì biệt tăm. Đồ Tiểu Anh
nhảy sông tự tử. Bên cạnh tuyến truyện này, người kể chuyện “chúng tôi” còn kể cho
người đọc biết thêm về quá trình kẻ xấu nấp trong công viên nhân dân lột da hổ, giết
chết con hổ Đông Bắc gây nên phẫn nộ cho toàn bộ nhân dân trong thành phố. “Lúc
này chỉ còn cô ta và lão ta – Đây là kết luận sai lầm của người kể chuyện kì quái đang
21
ngồi trong chuồng sắt. Chúng tôi biết trong những khóm trúc bên cạnh chuồng gấu có
một kẻ xấu đang xách một túi nilon” [18, tr.182]. Sau khi ăn phải miếng thịt bò có tẩm
thuốc độc, “con hổ chỉ còn thở thoi thóp. Kẻ ấy dùng gậy sắt thúc thúc vào bụng, nó
chẳng có phản ứng gì. Chúng tôi hình dung ra nỗi đau đớn của con hổ. Kỹ thuật lột da
của kẻ này vô cùng điệu nghệ, không phải là đồ tể, chắc chắn sẽ không có ngón nghề
điêu luyện như thế!” [18, tr.190]. Cuối cùng sau khi nghe xong câu chuyện của người
kể chuyện trong chuồng sắt, “tất cả chúng tôi đều sản sinh một ước muốn được ăn
phấn. Chúng tôi hiểu anh, hâm mộ anh, hận anh. Anh đã giác ngộ từ rất sớm, đã ăn
không biết bao nhiêu là phấn…cuối cùng, chúng tôi cũng đã ở với anh trong một chiếc
chuồng sắt…” [18, tr.559, 560]. Người kể chuyện “chúng tôi” là người kể chuyện hàm
ẩn thuần túy, có tầm hiểu biết rộng, giọng điệu rất khách quan, chân thực, bao quát
được toàn bộ các sự kiện xảy ra trong tác phẩm. Từ việc thờ ơ với câu chuyện của
người kể chuyện trong chuồng sắt, người kể chuyện “chúng tôi” đã đồng cảm, chia sẻ
với những nỗi niềm của người kì quái trong chuồng sắt để rồi cùng ngồi với “anh”
trong chiếc chuồng ấy.
Người kể chuyện trong chuồng sắt, Quần chúng nhật báo là hai nhân vật hiện
diện trong câu chuyện của người kể chuyện “chúng tôi”. Tuy nhiên, lời kể của người
kể chuyện trong chuồng sắt và nội dung những bài báo của Quần chúng nhật báo đã
hàm chứa những thông tin trùng lặp với người kể chuyện “chúng tôi”, đồng thời mỗi
người lại sở hữu những thông tin độc quyền khiến họ trở thành người kể chuyện không
thể thiếu được của câu chuyện.
Người kể chuyện trong chuồng sắt là nhân vật trong câu chuyện của mình nhưng
trong quá trình kể anh ta luôn chối bỏ thân phận đó, chỉ thừa nhận mình từng là bạn
chí cốt của Phương Phú Quý, cũng từng là bạn chí cốt của Trương Xích Cầu và các
thầy cô trong trường Trung học số 8. Vì là người trong cuộc nên anh ta am hiểu mọi
chuyện, đặc biệt là về diễn biến tình cảm, tâm trạng các nhân vật trong câu chuyện của
mình. Anh ta biết được về tuổi thơ của Phương Phú Quý từng sống trong cảnh bom
đạn, chứng kiến cái chết của cha và được cứu sống nhờ anh bộ đội mà sau này trở
thành phó cục trưởng Vương. Anh ta kể lại những cảm giác day dứt, phân vân khi lựa
chọn giữa sống hay chết của Phương Phú Quý. “Anh nhìn thấy anh ta rất khó khăn lùi
từng bước, lùi ra đến tận ngoài cổng, toàn thân đầy vôi nhưng che lấp không nổi
những luồng run rẩy và nỗi lo lắng sợ hãi vẫn biểu lộ trên khuôn mặt” [18, tr.196]. Đó
22
là cảm giác lo sợ của Phương Phú Quý khi trốn từ Thế giới mỹ lệ để về nhà gặp lại vợ
con nhưng bị vợ từ chối nên đành gõ cửa nhà đồng nghiệp cầu cứu. Nghĩ mình làm
phiền hàng xóm nên Phương Phú Quý lại xin Lý Ngọc Thiền “thừa lúc trời chưa sáng,
trên phố ít người, chị đưa tôi về đó nhé” [18, tr.202]. Nhưng lúc đó “tiếng khóc của
Đồ Tiểu Anh đã xuyên qua tường và vẳng đến tai không bị vôi bịt kín của Phương Phú
Quý…” [18, tr.202]. Ngay lập tức, tiếng khóc ấy đánh thức bản năng muốn sống của
anh ta, giúp anh có quyết tâm để sống và hơn nữa “cô ấy cả đời chưa được uống một
cốc rượu Mao Đài nào, cô ấy chưa hề được nếm mùi gan lợn…Tôi không thể chết,
không thể chết” [18, tr.203]. Bây giờ tình hình càng trở nên phức tạp “Thầy giáo
Phương đang đối mặt với một sự lựa chọn vô cùng khó khăn: sống hay chết?” [18,
tr.204], trong buổi sáng rất dài ấy, tâm trạng của Phương Phú Quý bị giằng xé, bị chi
phối bởi những nỗi lo khác nhau: “Anh cần về với cái chết, nhưng anh không nỡ rời
vợ rời con, anh không quên được rượu và thức ăn. Anh mà sống, anh sẽ làm hại hiệu
trưởng, gây khó khăn cho đồng nghiệp và học sinh. Sống không được mà chết cũng
không xong, anh ôm bát cháo ngồi thừ người nghĩ ngợi” [18, tr.210, 211]. Cuối cùng
khát khao được sống, được gần gũi với vợ con cũng chiến thắng, Phương Phú Quý đã
đồng ý để cô chuyên gia chỉnh dung chỉnh sửa khuôn mặt mình giống với Trương
Xích Cầu để tiếp tục đi dạy, tiếp tục được sống. Sau khi mọi việc hoàn tất “Thầy giáo
Vật lý khiếp đảm nhìn vào gương, như bị một cú gậy dáng vào đầu, mắt hoa lên, hai
tai lùng bùng, toàn thân run rẩy…” [18, tr.234], “Thầy giáo vật lý đột nhiên cảm thấy
mình là một thằng ngốc, nhưng hối hận không kịp nữa rồi!” [18, tr.241] bởi vì anh
biết, sau khi chỉnh dung, cơ hội gần gũi vợ con biến thành số không. Chính việc này là
khởi nguồn cho những đau khổ mà các nhân vật phải chịu. Từ đây những đau khổ,
mặc cảm của Phương Phú Quý khi phải mang khuôn mặt của người khác để được sống
bắt đầu. Cũng giống như nhân vật hồn Trương Ba trong vở kịch Hồn Trương Ba da
hàng thịt của Lưu Quang Vũ, phải mượn thân xác của người khác để sống, để được
gần con cháu nhưng cuối cùng điều mong ước ấy đã không thành vì khi trú ngụ trong
thân xác anh hàng thịt, cả vợ con, cháu gái, bạn bè đều chối bỏ, oán trách ông, cho
rằng ông không phải là Trương Ba ngày xưa hiền lành được mọi người yêu quý nữa.
Nhân vật Phương Phú Quý bây giờ cũng rơi vào hoàn cảnh tương tự khi sống bằng
khuôn mặt của người khác, người thân và đồng nghiệp đều chối bỏ sự tồn tại của anh,
dẫn đến kết quả là “Anh ta giận dữ hét vào mặt cô chuyên gia chỉnh dung: Hãy trả
23
khuôn mặt Phương Phú Quý lại cho tôi!” [18, tr.544], nhưng mọi chuyện không thể
cứu vãn được nữa, anh tuyệt vọng và tìm đến cái chết thật sự.
Người kể chuyện này cũng “biết tuốt” về con người Trương Xích Cầu, một thầy
giáo cả đời chịu khổ, sống hời hợt với vợ con nhưng tâm huyết với nghề. Biết luôn cả
những tâm trạng mâu thuẫn, giằng xé trong người Trương Xích Cầu; những cực khổ
anh phải chịu từ sau khi quyết định để Phương Phú Quý mang khuôn mặt giống mình
và chiếm đoạt vị trí của mình. Mặc dù tự mình đưa ra ý kiến để Phương Phú Quý đi
dạy còn mình thì đi buôn nhưng liền sau đó anh ta lại cảm thấy “một đôi gánh nặng
nề, vô hình đè lên vai của Trương Xích Cầu” [18, tr.255] và chỉ sau nửa ngày khi
quyết định đi buôn Trương Xích Cầu mới nhận ra một điều hệ trọng là Phương Phú
Quý đang chiếm đoạt vị trí đáng ra là của anh: mạo xưng bố của Tiểu Cầu và Đại Cầu,
mạo xưng là con rể của mỹ nhân họ Lạp, mạo xưng là chồng của cô chuyên gia chỉnh
dung. Vì thế, “tâm trạng của thầy giáo vật lý trở nên nặng nề…mồ hôi đang rịn ra,
toàn thân quá ngứa ngáy như có trăm ngàn con kiến đốt. Về thôi! Về thôi! Nhà! Nhà!
Nhà…” [18, tr. 358]. Cũng vì trạng thái phấn khích, hoa mắt do đói bụng nên “hành vi
của anh ta khiến nhiều người vây quanh hoảng sợ, vừa kêu vừa tránh sang một bên”
[18, tr.364]. Ngay lập tức anh bị bắt giam vào phòng tối vì tội gây cản trở giao thông,
dù có miệng nhưng anh chưa kịp mở để thanh minh câu nào. Bị nhốt và bị lãng quên
mấy ngày trong phòng tối, Trương Xích Cầu phải chịu đựng cơn đói giày vò, suýt chút
nữa chết ngạt trong phòng vì khói thuốc. Hết tai nạn này đến tai nạn khác, anh ta lang
thang nhưng rồi nhận ra “thầy giáo Vật lý đã quên mất đường về nhà, hay là tôi không
còn nhà để mà về? Anh ta buồn rầu, ân hận nghĩ: có lẽ nào đây là một sự sắp đặt có
chủ ý của Lý Ngọc Thiền?” [18, tr.461]. Một người khi nhận ra điều đó thì thật đau
khổ tột cùng, còn có bi kịch nào hơn những khổ tâm mà Trương Xích Cầu đang dần
dần phát hiện và chịu đựng. Anh muốn quay trở về vị trí của mình - làm một thầy giáo
dạy Vật lý tại trường Trung học số 8 nhưng mọi nỗ lực đã tan biến, vì trong lễ truy
điệu thầy Trương Xích Cầu giả, mọi người nghĩ anh là “bố của thầy Trương Xích
Cầu” [18, tr.555].
Người kể chuyện trong chuồng sắt cũng biết rõ về quá khứ của Lý Ngọc Thiền,
một người phụ nữ luôn khát khao dục vọng nhưng không được thỏa mãn. Biết về mối
quan hệ của cô ta và phó cục trưởng Vương cũng như việc hợp tác của cô với lão già
nuôi thú dữ. Đồng thời những tâm tư của Đồ Tiểu Anh, người phụ nữ vừa mất chồng
24
cũng luôn khao khát dục vọng nhưng lại cố kìm nén để thể hiện mình là người phụ nữ
tiết hạnh, chung thủy. Sau khi chồng chết, Đồ Tiểu Anh bỗng nhớ đến một số mẫu
chuyện lưu truyền ở phương Bắc về người phụ nữ quạt mồ chồng cho mau khô để
được tái giá; chuyện về người phụ nữ sau khi chồng chết đã ái ân với chú tiểu trước
linh sàng và bổ óc chồng cho chú tiểu ăn để chữa bệnh. “Như hai con rắn, hai câu
chuyện này đang bò ngang bò dọc trong trí óc Đồ Tiểu Anh, tâm thần cô đang bất
định, đứng ngồi không yên”, “Đồ Tiểu Anh cho rằng mình đã bị hai câu chuyện tầm
thường, thô thiển, dung tục theo quan niệm phong kiến cổ hũ ấy quấy nhiễu và uy
hiếp” [18, tr.277]. Nhưng kinh nghiệm trong công việc của cô lại không thể cản được
những ám ảnh về hai câu chuyện ấy mà trái lại “mười mấy ngày nay, cảm giác ấy luôn
luôn thường trực” [18, tr.278], và chỉ sau đó không lâu, cũng giống như người phụ nữ
trong câu chuyện lưu truyền, cô ta cũng vội tái giá khi chồng chết được vài ngày. Cuộc
hôn nhân vội vàng này cũng không mang lại hạnh phúc cho cô vì cô đã nhảy sông tự
tử, chấm dứt những đau khổ trong cuộc đời mình.
Mặc dù người kể chuyện trong chuồng sắt có tầm hiểu biết không rộng bằng
người kể chuyện “chúng tôi” nhưng lại sâu sắc hơn “chúng tôi”. Anh ta không chỉ kể
mà còn cảm nhận, phân tích, đưa ra ý kiến bình luận của mình. Vì vậy mà trong lúc kể
chuyện anh ta thường có: “đôi mắt đẫm nước nhìn chúng tôi và kể lại những cảm giác
của mình” [18, tr.50], “anh trợn tròn mắt, giận giữ nhìn chúng tôi”, “anh ta giận điên
người, chửi ầm lên” [4, tr.30], đồng thời khi anh kể luôn kèm theo những lời khẳng
định như: “ưỡn ngực, nói một cách chẳng hề khiêm tốn”, “tôi biết rõ”, “vẻ tự hào
hiện lên trên mặt anh” [18, tr.11]. Đó chính là những điều mà những người kể chuyện
khác không làm được.
Quần chúng nhật báo trở thành người kể chuyện khi xuất hiện với ba bản tin và 4
bài tường thuật về sự kiện con hổ Đông Bắc bị giết trong công viên nhân dân. Với thế
mạnh của một cơ quan ngôn luận, một thế lực truyền thông, diễn ngôn của người kể
chuyện này rất sắc bén, lập luận chặt chẽ, kiên quyết. Người kể chuyện này thuyết
phục người đọc bằng lối kể chuyện ngắn gọn, tin tức chính xác, có minh chứng mà
ngay cả hai người kể chuyện trước cũng không có. Trong vụ án con hổ Đông Bắc bị
lột da, nguyên nhân chính là do con hổ “ăn phải miếng thịt bò có tẩm thuốc trừ sâu
kịch độc”, “các chuyên gia cho rằng kẻ gian nhân cơ hội dạo chơi trong công viên
vào ban ngày đã nấp trong công viên chờ đến tối mới ra tay” [18, tr.403], các cơ quan,
25
thành ủy, ủy ban nhân dân, công an đều ráo riết điều tra “tìm tung tích thủ phạm” đều
được người kể chuyện Quần chúng nhật báo chỉ ra cụ thể, chí lý với điểm nhìn ở vị
thế trên cao, bao quát. Tin thứ hai là về cái chết của nhân viên quản lý thú dữ vì không
chịu nỗi mất mát, đau đớn nên đã treo cổ trong chuồng hổ. Người kể chuyện này còn
phân tích, tìm hiểu, tường thuật lại vụ việc ở nhiều khía cạnh khác nhau. Quần chúng
nhật báo đã tiến hành thăm dò thái độ của nhân dân thông qua các bản tường thuật sau
vụ việc con hổ Đông Bắc bị giết. Những con số cụ thể: tám trăm nghìn dân thành phố
đều phẫn nộ, đặc biệt các em học sinh tiểu học là khóc thương con hổ nhiều nhất và
hình phạt của một em học sinh tiểu học nếu bắt được kẻ phạm tội là “băm thịt hắn ra,
trộn vào thức ăn hàng ngày cho Nguyên Nguyên và Phương Phương” [18, tr.407].
Nghe câu trả lời này, người đọc không khỏi bất ngờ và ngạc nhiên trước suy nghĩ vô
cùng tàn bạo của hành động đó. Hiệu trưởng của trường tiểu học này đã từng khẳng
định với phóng viên là nhà trường luôn có chất lượng giáo dục tốt nhất. “Chúng tôi
giáo dục thế hệ con cháu thành những người có tinh thần nhân đạo chủ nghĩa, có sự
thông cảm và nhân ái” [18, tr.406]. Chúng tôi không thể hiểu nổi thứ nhân ái mà Hiệu
trưởng nói là như thế nào? Tại sao chỉ là một học sinh tiểu học mà các em đã có những
suy nghĩ tiêu cực như vậy? Hay tại vì các em đang sống trong một chế độ “người ăn
thịt người”, ngày ngày chứng kiến sự lạnh lùng và vô cảm trong cách đối xử của người
lớn với nhau nên nó ăn sâu vào tâm hồn các em. Dẫu biết đã phạm tội thì tất nhiên sẽ
phải chịu hình phạt, con hổ này quý thật nhưng liệu đổi bằng tính mạng của con người
có thực sự cần thiết không? Lẽ nào bây giờ người ta coi trọng con vật hơn cả tính
mạng của một con người? Người ta nói trẻ em thì không biết nói dối, cho nên những gì
các em nghĩ đều phản ánh chân thực bức tranh cuộc sống nơi các em đang lớn lên.
Tiếp đó bản báo còn điều tra về lai lịch của ông già nuôi thú dữ khi ông tự mình treo
cổ trong chuồng của con hổ Đông Bắc, nhưng tất cả chỉ là một dấu hỏi lớn vì chẳng ai
biết lão là ai, tên họ là gì “ngoài bìa hồ sơ của ông ta chỉ có sáu chữ “Nhân viên quản
lý thú dữ”, dường như đây là tên chính thức của ông ta” [18, tr.414]. Thông qua số
phận của nhân vật trông coi thú dữ này, tác giả đã bộc lộ phần nào sự ung nhọt và tình
trạng vô trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong việc quản lý nhân sự. Một người
có nhiều cống hiến và thành tích trong việc bảo vệ và duy trì giống nòi của loài hổ quý
như vậy nhưng thông tin về ông ta lại là số không: không tên, không tuổi, không quê
quán, không người thân thích. Người kể chuyện bằng những ngôn từ lạnh lùng, chua
26
chát đã phải thốt lên rằng “Chúng ta đang sống trong một thành phố xinh đẹp. Chúng
ta vẫn thường nghe thấy tiếng thú dữ thét gào vào nửa đêm, nhưng chúng ta chưa hề
quan tâm đến cuộc sống khó nhọc của người nuôi thú dữ. Hằng ngày chúng ta vẫn dắt
tay bạn gái, ôm ấp người yêu hoặc là vui vẻ cùng vợ con dạo quanh các chuồng thú để
trầm trồ vẻ đẹp hùng dũng và hoang dã của chúng. Chúng ta thưởng thức vẻ đẹp của
con sư tử đực, chúng ta trầm trồ cái hình dáng kì dị của hai con sư tử hổ, chúng ta chế
giễu cái vẻ nham hiểm của con sói… Nhưng chúng ta vẫn không hề biết có một con
người không hề có tên đang âm thầm phục vụ chúng ta” [18, tr.418, 419]. Tin chắc
rằng với sự lỏng lẻo và hời hợt trong việc quản lý nhân viên như vậy sẽ còn rất nhiều
người không tên cũng đang âm thầm cống hiến sức mình cho công việc như ông già
trông thú dữ.
Hiểu được nguyện vọng của nhân dân, bản báo lại tiếp tục khai thác thông tin để
tìm hiểu xem “Xương hổ chạy về đâu?” và sau khi được tận mắt nhìn thấy xác con hổ
thì “phát hiện trên tấm băng ca chỉ còn những tấm thịt bầy nhầy, toàn bộ xương đã
biến mất”. Khi “phóng viên thắc mắc: Xương hổ đi đâu, anh ta chỉ lắc đầu…Anh ta
còn nói: Các ông việc gì phải quan tâm đến những chuyện của công viên, nên tin
tưởng là các ông lãnh đạo công viên không thể tham ô xương hổ, họ chỉ có thể làm cái
việc là đem chúng đến một nơi mà cần phải mang đến” [18, tr.415]. Vậy cái nơi mà
người ta mang xương hổ đến là nơi nào, tại sao lại không công khai cho người dân
biết? Nếu đem xương hổ đó để nghiên cứu thì tất nhiên người dân sẽ không có ý kiến
phản đối, nhưng đằng này người ta lại cố tình che dấu nơi sẽ nhận xương hổ, càng
chứng tỏ việc làm đó không minh bạch, không phải vì lợi ích của tập thể. Phải chăng
xương hổ giờ đây đang được các vị lãnh đạo cấp cao chia nhau, biếu xén lẫn nhau?
Vậy thì việc con hổ Đông Bắc bị giết có thể nói là niềm vui vô bờ đối với các vị lãnh
đạo, mặc dù bên ngoài họ cũng tỏ ra đau buồn và cố gắng tìm ra kẻ đã giết hổ nhưng
trong thâm tâm thì vui mừng khôn xiết. Thời đại “mở cửa”, “sống trong thành phố
xinh đẹp” kiểu gì mà những giá trị đều bị lật nhào, bị rối tung: người cống hiến nhiều
trong công việc thì vô danh, còn người chỉ biết hưởng thụ thì được đề bạt, chúc mừng
rối rít. Vì là cơ quan ngôn luận của một thành phố nên những gì mà bản báo đưa tin
đều vô cùng chính xác, đầy đủ. Tất cả những sự kiện ấy đều được người kể chuyện
khai thác và phản ánh một cách triệt để, chân thực. Vì vậy mà lời kể của Quần chúng
27
nhật báo không thể thiếu được trong việc tái hiện lại bức tranh hiện thực sinh động
này.
Như vậy, từ một sự kiện nhưng ba người kể chuyện khác nhau đã mang lại đầy
đủ diện mạo của hiện thực. Người kể chuyện trong chuồng sắt tuy tầm hiểu biết không
rộng bằng người kể chuyện “chúng tôi” nhưng câu chuyện mà anh ta kể đều rất sâu
sắc. Lời kể luôn kèm theo việc phân tích tâm lý nhân vật. Những suy nghĩ, những chấn
động, những trạng thái tình cảm có trong mỗi nhân vật khi đứng trước một vấn đề nào
đó, người kể chuyện không quên bày tỏ thái độ, suy nghĩ của mình trước những câu
chuyện được kể, nhiều khi còn bình luận về chính câu chuyện ấy. Còn người kể
chuyện “chúng tôi” tuy không sâu sắc bằng nhưng hiểu biết lại rộng hơn. Bất cứ việc
gì “chúng tôi” cũng biết và kể lại rất rành mạch. Ngay như vụ án con hổ Đông Bắc bị
giết, “chúng tôi” đều biết rất rõ về từng chi tiết nhưng người trong chuồng sắt lại
không hề hay biết gì. Đồng thời sự xuất hiện của tờ Quần chúng nhật báo cũng đóng
một vai trò quan trọng, cung cấp cho người đọc những tin tức mà hai người kể chuyện
kia không có. Tất cả những lời kể đó tạo nên một câu chuyện hoàn chỉnh, toàn vẹn về
hiện thực cuộc sống xoay quanh các nhân vật trong tác phẩm.
2.1.2. Trần thuật ngôi thứ hai
Trường hợp kể ở ngôi thứ hai (kể về người nghe) là rất hiếm gặp trong văn
chương nhân loại. Theo Manfred Jahn, đây là một dạng trần thuật trong đó vai chính
được hướng tới ở ngôi thứ hai: “you”. Về chức năng “you” có thể là “bản thân trải
nghiệm của người kể”, có thể là “một vài nhân vật trong thế giới trần thuật ở ngôi thứ
nhất” hoặc là “một nhân vật trong thế giới trần thuật từ ngôi thứ ba” [16, tr.48].
Tiểu thuyết Thập tam bộ của Mạc Ngôn đã sử dụng hình thức kể chuyện từ ngôi
thứ hai như một nét độc đáo của phương thức trần thuật. Đứng ở vị trí của người kể
chuyện ngôi thứ nhất, dùng điểm nhìn toàn tri để kể về người được gọi là “em” hoặc
“anh” là đặc trưng của tiểu thuyết này. Thoạt nhìn, người kể chuyện và người được kể
như hai chủ thể tách biệt nhưng thực tế, cả hai đối tượng này là một thực thể. “Em”,
“anh” là những bản ngã khác của “tôi”. “Tôi” đang kể về tôi nhưng lại tách mình ra,
xem mình là người khác để đối thoại gay gắt, phán xét nghiệt ngã và cảm thông sâu
sắc với chính mình bằng một giọng điệu vừa lạnh lùng vừa thân thiết.
Người kể chuyện trong chuồng sắt kể về hai thầy giáo Vật lý, một là Phương Phú
28
Quý – người chết hai lần, một là Trương Xích Cầu, còn sống và ngồi trong chuồng sắt.
Người kể chuyện đã hai lần phủ nhận mình không phải là Trương Xích Cầu, cũng
không phải Phương Phú Quý mà là “bạn chí cốt” của hai người. “Tôi đã từng là bạn
chí cốt của Phương Phú Quý, cũng đã từng là bạn chí cốt của Trương Xích Cầu. Tôi
cũng đã từng là bạn của tất cả thầy cô giáo của trường Trung học số 8” [18, tr.18].
Khi “chúng tôi” hỏi có phải là “anh” đã từng dạy Vật lý ở trường Trung học số 8
không? “anh” đã “giận điên người”, “chửi ầm lên”. Vậy mà khi kể về hai nhân vật
Phương Phú Quý và Trương Xích Cầu, “anh” thường gọi chung một cụm từ là “thầy
giáo Vật lý”, mà với thầy giáo Vật lý nào “anh” cũng nhỡ mồm xưng “tôi” khi đang
kể về “anh ta”.
“Thầy giáo Vật lý Phương Phú Quý …chậm chạp nhướng mi mắt lên… anh ta
nhận ra sự thay đổi cực kì tinh tế… anh cảm thấy da mặt mình rất mỏng… một luồng
sáng từ thân thể cô chuyên gia đập vào mắt tôi” [18, tr.232, 233]. Như vậy người kể
chuyện tự thừa nhận mình là Phương Phú Quý. Người kể chuyện lại phân thân mình
ra, tự gọi mình là “anh” trong chính câu chuyện của mình. “Không có niềm hạnh phúc
nào là trọn vẹn và vĩnh cửu. Nhục thể của anh có một tật xấu đáng ghét là không bao
giờ cảm thấy đầy đủ. Lúc quá mỏi mệt thì anh tràn ứ khát vọng được nghỉ ngơi, sau
khi nghỉ ngơi thì anh lại muốn vận động. Lúc ăn không no thì anh mơ ước cao lương
mỹ vị, được ăn no thì anh lại mơ ước có người khác giới…” [18, tr.124]. Phương Phú
Quý nhớ lại tuổi thơ của chính mình - một hồi ức đau khổ về thời chiến tranh loạn lạc,
và trong câu chuyện của mình anh ta cũng gọi mình là “anh” như đang kể về một
người xa lạ nào đó vậy. “Anh nhìn thấy chính anh thời ấy, một thằng bé gầy gò ôm
một con nhạn chết đứng trên đám cỏ khô ngoác mồm khóc gọi mẹ. Trên đầu anh, đạn
gầm rít, chung quanh là lửa khói ngút trời. Một giải phóng quân trẻ măng dắt anh
chạy vào rừng. Buổi tối, quanh đống lửa, anh và họ đã xẻ thịt con nhạn nướng ăn”
[18, tr.126, 127]. “Anh đang ôm xác con nhạn đứng kêu mẹ. Một thanh niên đứng vụt
dậy. Đầu ông ta trọc, mặc chiếc áo rách nát – chính là bố anh. Một mảnh đạn như sao
xẹt vút tới gần như cắt thân hình ông ấy ra làm hai nửa, máu vung ra và hình như có
tiếng gió vi vu. Anh tận mắt trông thấy bố anh giống như một cây gỗ mục bị chặt
ngang sườn gục xuống. Chú Tiểu Vương cõng anh chạy vào rừng cây. Nằm gọn trên
lưng anh ta, anh cứ ngỡ đấy là người bố trẻ thứ hai của mình” [18, tr.131]. Anh ta
cũng kể lại quá trình trở về từ cõi chết của mình với những khám phá, cảm nhận mới
29
mẻ khi ở trong chiếc tủ lạnh dùng để đựng xác người chết. Và tất nhiên anh ta cũng tự
gọi mình là “anh” trong câu chuyện ấy: “Anh đã từng tưởng tượng cái tủ lạnh to đùng
này là địa ngục. Anh tự an ủi mình: - Địa ngục mà có ánh sáng, lại mát mẻ như thế
này, được ở đây vĩnh viễn cũng là một hạnh phúc quá lớn của con người sau khi chết.
Lúc này, khí lạnh đã làm cho anh tỉnh táo lại. Cái cảm giác nhớ vợ - Đồ Tiểu Anh –
khi còn đang sống chưa hề thử nghiệm qua, lúc này lại được khí lạnh khơi nguồn”
[18, tr.128]. Sau khi rùng mình vì nhìn thấy da, xương của người chết trong tủ lạnh,
anh đã tìm cách để thoát ra ngoài vì quá sợ hãi. “Anh dùng đầu húc mạnh một cái, cửa
tủ lạnh bật mở. Theo đà quán tính, anh văng ra ngoài, ngồi trên nền đá cách chiếc tủ
lạnh khoảng năm mét. Không khí ấm áp của chốn nhân gian bao trùm lấy anh. Những
hạt tuyết đọng trên tóc, trên mi biến thành những giọt sương, mấy giọt nhẹ nhàng rơi
trên mu bàn tay… Anh nghĩ đến những bài học thời đại học, những quyển sách đã
từng đọc. Với đôi gọng kính dày cộp, anh cắm cúi đi, vừa đi vừa đọc và đầu anh đã
đụng vào một vật gì đó thật mềm. Sao lại có một vật thể mang thuộc tính vật lý mềm,
ấm và thơm đến như thế? Đó là khuôn ngực của cô sinh viên Nga văn Đồ Tiểu Anh!
Có tiếng nổ lốp bốp trong đầu anh, não anh trướng to lên” [18, tr.128]. Chính dòng
suy nghĩ miên man này đã giúp Phương Phú Quý mạnh dạn hơn trong việc quyết định
trở về với cuộc sống, muốn được sống. Anh ta lại tiếp tục kể quá trình từ Thế giới mỹ
lệ về nhà cũng gặp không ít rào cản: “Bỗng nhiên anh thấy ớn lạnh. Trong thời khắc
vũ trụ u ám nhất trước bình minh, anh chạy như bay khỏi rừng bạch dương, chạy trên
đại lộ Bát Nhất, xuyên qua quảng trường Ngũ Nhất, đi vào đường Ái Dân, vượt qua
ngõ Quần Chúng. Bên cạnh trụ sở ủy ban hành chính thành phố, anh nhìn thấy một vật
lạ đang nằm lăn lóc trên đất – mìn định hướng của công binh. Anh hoảng sợ, quay
lưng bỏ chạy khỏi công trình xây dựng dở dang, chân đạp lên gạch vỡ. Anh rơi xuống
một chiếc hố, sâu lắm, dễ đến ngàn thước. Đây là đỉnh điểm của tai nạn rồi! Anh
thoáng nghĩ. Dốc hết sức lực, anh bò lên đến được mặt đất, bò qua một bức tường lở
cỏ mọc um tùm, bò thêm lát nữa. Đến rồi! Một tấm bảng gỗ ghi: Khu cư xá giáo viên
trường Trung học số 8. Anh bò vào trong gõ cửa” [18, tr.138, 139]. Cứ ngỡ anh sẽ
được đoàn tụ với gia đình khi đã tìm về tận đây nhưng khi trông thấy toàn thân anh
trắng toát vì rơi xuống hố vôi, vợ anh gọi anh là ma. Anh đã không còn chốn quay về
nữa nên đành cầu cứu nhà người đồng nghiệp là Trương Xích Cầu ở sát bên. Trong
suốt quá trình kể chuyện của mình, Phương Phú Quý đều gọi mình là “anh” như thể
30
đang kể về câu chuyện mình được chứng kiến từ người khác vậy. Sau khi quyết định
tiếp tục sống, và sống dưới gương mặt của Trương Xích Cầu anh ta cũng đã khám phá
nhiều điều mới mẻ mà trước đó anh không có cơ hội. Khi được cô chuyên gia chỉnh
dung chăm sóc, anh đã thích thú nhận ra cuộc sống này vẫn tươi đẹp và rất đáng sống
“Một mùi hương kì dị từ đầu tóc cô ta tỏa ra. Anh mê man trong cái mùi hương làm
người ta mê hồn táng mật ấy, mỗi tế bào sống trong người anh đều quẫy động. Những
lọn tóc của cô ta phủ lên đầu, lên cổ anh. Rất nhanh, cái da đầu của anh – vừa bị cạo
trọc tóc – rất mẫn cảm dựa vào đầu tóc ấy. Anh cảm nhận được sự tồn tại vi diệu của
đầu tóc cô ấy, so với sự cảm nhận về sự tồn tại của đầu tóc chính mình có lẽ còn thâm
sâu hơn. Cái da đầu rất mẫn cảm và đa tình của anh bị mái tóc của cô ta trùm lên ve
vuốt và phóng xạ tĩnh điện” [18, tr.223, 224]. Khi được phẫu thuật để mang khuôn mặt
của Trương Xích Cầu, anh lại tiếp tục hưởng những niềm vui nho nhỏ trong những
ngày chờ tháo băng trên mặt. Tiếp sau đó là chuỗi ngày Phương Phú Quý phải chịu
dằn vặt, đau khổ khi mang khuôn mặt của người khác: “Anh trăn trở đau khổ trong
tiếng kêu gào liên tục của mỹ nhân họ Lạp, bộ đồng phục biến thành lạnh căm căm
như một bộ áo giáp bằng băng tuyết đang bó nghẹt cái thân dưới cơ thể được xem là
Phương Phú Quý của anh. Điều làm cho anh trăn trở và lo lắng nhất là khuôn mặt của
mình. Chủ nhân chính của nó đang đi lại ở ngoài gian bếp, vừa đi vừa than thở
(Phương Phú Quý vẫn không biết là Trương Xích Cầu đã quên mất bản hiệp nghị đã
viết, anh ta than thở là chuyện của bộ môn Vật lý ở trường Trung học số 8). Anh cho
rằng chủ nhân của khuôn mặt đang hối hận vì đã đánh mất cái khuôn mặt gia truyền
quý giá, do vậy mà anh muốn cắt khuôn mặt mình đang mang hoàn trả lại cho anh ta”
[18, tr.244]. “Chiếc đĩa nặng khiến tay anh tê buốt, cục nghẹn vẫn chẹn ngang cổ, anh
im lặng theo Phương Hổ vào nhà. Gót chân anh khoan khoái đạp lên từng viên gạch
quen thuộc. Anh hít thở cái mùi ẩm mốc thân thiết trong nhà. Mái đầu sáng loáng của
Phương Hổ hấp dẫn đôi môi anh, nhưng nó đã cách anh quá xa” [18, tr.258]. Mọi nỗ
lực, cố gắng để được gần gũi vợ con của Phương Phú Quý đều tan biến vì càng ngày
vợ con càng lánh xa, xua đuổi. Bất lực trước dòng đời đưa đẩy, anh đã tìm đến cái chết
thật sự để giải thoát cho chính mình.
Có khi người trong chuồng sắt lại thừa nhận mình là Trương Xích Cầu. “Thầy
giáo Vật lý Trương Xích Cầu ngây ngô gật đầu…mùi hương đưa anh ta quay trở về
với mớ kí ức lộn xộn…lúc này cuộc đời lại đột nhiên thêm một hương vị mới. Cái
31
hương vị này không biết sẽ đưa đẩy tôi đến đâu” [18, tr.346, 347]. Với nhân vật này,
người kể chuyện cũng phân thân mình ra, tự mổ xẻ, cắt nghĩa những suy nghĩ bên
trong của bản thân để phô bày một cuộc đời cũng chẳng ra gì của mình. “Dưới mặt
bàn có mấy cái ngăn kéo khóa kín. Ở trong ấy có tiền. Anh nghĩ, chỉ cần lấy được tiền,
anh sẽ rời khỏi nhà đi về phía đông, nhảy qua con mương đầy ruồi muỗi và đang bốc
mùi xú uế nồng nặc, không thể phân biệt đó là mùi gì, nhưng hai bên bờ lại rợn ngợp
cỏ xanh và hoa đỏ. Anh sẽ lùi lại mấy bước trước khi nhảy để lấy đà. Anh nghĩ, chẳng
thà nhảy qua con mương còn hơn phải giẫm chân lên chiếc cầu gỗ đã mục nát” [18,
tr.18, 19]. Vì cuộc sống quá nghèo và túng thiếu, mọi chi tiêu đều phải tiết kiệm nên
mặc dù nghiện thuốc lá, anh ta chỉ còn cách ngồi tưởng tượng cảnh được hút một điếu
thuốc thật sự. “Anh muốn ôm tút thuốc lá Đại Trùng Cửu chạy vội về nhà, đốt vội một
điếu, tinh thần sẽ trở nên mẫn tiệp và sức lực cuồn cuộn dội về, giống như một cây ray
cần được tưới chất dinh dưỡng trực tiếp. Anh sẽ phủ phục người trên bàn, phê phê
chấm chấm mấy bài tập của học sinh… Nhưng rốt cuộc anh không có thuốc lá…” [18,
tr.27]. Cuộc sống thực tại của Trương Xích Cầu bây giờ chỉ còn biết nghĩ về quá khứ,
nhớ lại những năm tháng còn là một chàng trai trẻ tuổi để tìm lại niềm vui và để an ủi
bản thân, kể lại chuyện của mình mà như kể về một chàng trai xa lạ nào đó vậy: “Lòng
anh cảm thấy ấm áp lại. Số 99! Anh đang cố nhớ lại lần đầu tiên ngửi thấy cái mùi
nồng ấm của cây bạch dương hòa vào không khí đang mùa xuân năm ấy, lòng anh
cảm thấy xốn xang. Anh thấy một khát vọng về tình yêu dâng trào mạnh mẽ choán hết
tâm trí anh, môi anh ngứa ngáy, run run” [18, tr.36]. Sau khi nhường vị trí của mình
lại cho Phương Phú Quý, anh ta đi buôn nhưng cũng chẳng may mắn gì, bị người ta
lừa gạt, đánh đập, dọa nạt khiến thân anh tàn tạ, mệt mỏi rã rời: “Anh đứng dậy, lưng
mỏi chân đau, xiêu xiêu vẹo vẹo, chân đạp loạn xạ khiến những cây ngô xô vào nhau
kêu xào xạc như đau đớn lắm. Không thể đứng vững được, anh lại ngã xuống. Mặt anh
đập xuống mặt đất mềm mềm, mũi anh ngửi thấy mùi đất nồng nàn. Anh nghĩ, mặt
mình còn lạnh hơn mặt đất ẩm ướt này” [18, tr.472, 473]. “Đến lúc này, những bước
chân của anh dường như là một sự vận động mang tính cơ giới, không hề có ý thức.
Trước mắt anh không hề có con đường nào cả, bước chân của anh chẳng có mục đích
nào hết. Anh chỉ là một hồn ma đang giãy giụa trong vòng xoáy tàn bạo của đất trời!”
[18, tr.474, 475]. Khi kể lại câu chuyện của mình, các nhân vật của chúng ta thường
không xưng “tôi” trong câu chuyện ấy mà gọi chính mình là “anh”. Dĩ nhiên những
32
chuyện mà họ kể là đúng sự thật, đã xảy ra với họ nhưng phải chăng vì những chuyện
đó quá đau buồn nên họ tránh né, họ không giám thừa nhận một cách thẳng thắn, họ
cũng không muốn nhớ lại khoảng thời gian đã gây nhiều ưu tư cho họ. Nói cách khác,
có thể họ không giám nhìn thẳng vào sự thật nữa, muốn quên đi, xóa đi cái kí ức đau
khổ. Giờ đây vì cần phải kể lại nên họ cố tình tránh né giúp giảm bớt nỗi đau mà họ
phải gánh chịu.
Phương Phú Quý có thói quen ăn phấn, giờ anh ta đã chết. Trương Xích Cầu ngồi
trong chuồng sắt kể chuyện, anh ta lại phải ăn phấn liên tục mới kể được. Vậy nên từ
việc ăn phấn này chúng ta có thể khẳng định người kể chuyện “tôi” chính là Phương
Phú Quý cũng là Trương Xích Cầu. Nói cách khác tôi đã phân thân làm hai, một là
Phương Phú Quý, một là Trương Xích Cầu. Gọi người được kể là “anh”, người kể
chuyện phân thân đã tách mình ra, tạo nên sự gián cách với chính mình, nhìn lại, mổ
xẻ đến cùng tâm lý, hành động của mình, tự giày vò mình, chì chiết mình khiến hình
thức trần thuật từ ngôi thứ hai này giống một hình thức tự thú. Chuyện của thầy giáo
vật lý chính là chuyện của tất cả mọi người, là thực trạng ngành giáo dục Trung Quốc
cuối thế kỉ XX: “Tất cả đều chạy đua theo thành tích … Học sinh mệt mỏi đến nỗi
phải nhảy sông, thầy giáo mệt mỏi đến nỗi chết trên bục giảng” [18, tr.249].
Trường hợp người được kể không phải là “tôi”, như Lý Ngọc Thiền và Đồ Tiểu
Anh được kể ở ngôi thứ hai: “cô”. Đây là hình thức trần thuật dễ thuyết phục người
đọc nhất, buộc họ phải thừa nhận, không thể chối cãi những thông tin đã được kể ra.
Như việc Lý Ngọc Thiền xẻ thịt thi thể phó cục trưởng Vương diễn ra trong nhà tang
lễ lạnh lẽo và chỉ có một mình cô ở đó. Vậy mà cách dùng ngôi thứ hai để kể khiến
người đọc có cảm giác hành vi của cô ta đang bị theo dõi bởi một người thứ ba: “trước
khi ra tay, cô đứng lặng ba phút, cúi đầu trước xác chết…cô vội vàng cởi quần áo,
khoác chiếc áo choàng trắng vào người rồi rất từ tốn…cô đưa con dao vạch ngang
dọc trên mặt người chết…cô chỉ việc loại bỏ bớt lượng mỡ và thịt trên thân thể…sau
đó căn cứ vào kí ức…khôi phục lại khuôn mặt thời thanh niên của ông ta… kí ức về
khuôn mặt ông ta chưa bao giờ mất trong lòng cô, do vậy chỉ cần nhắm mắt là cô đã
hình dung ra một cách rõ ràng…Cô là người có điều kiện tốt nhất để làm công việc
này. Đó là chưa kể đến việc cô đã từng là tình nhân của ông ta” [18, tr.141, 142, 143].
Khi nhớ lại lần nhảy sông tự tử trước đây của mình, Lý Ngọc Thiền cũng phân thân
mình ra, xem mình là một người khác để kể lại chính câu chuyện của mình: “Lúc nhảy
33
xuống sông, cô đã không còn sợ trời, cũng chẳng sợ chết, vì vậy việc gì phải kể đến
một chút xấu hổ cho nên cô rất từ tốn cởi từng chiếc áo đến chiếc quần và vứt từng
chiếc một cho phó cục trưởng Vương đang đứng ngây như phỗng dưới bóng hoàng
hôn. Áo quần của cô xòe ra như những cánh bướm đáp xuống đầu, xuống vai ông
ta…Việc nhảy sông của cô là rất bi tráng và anh dũng, bởi vì cô không muốn sống
nữa. Được cứu lên, trông cô thảm hại vô cùng…Toàn thân cô ướt sũng, bết dính đầy
bùn đất, đầu tóc rũ rượi đầy rong rêu, mấy con nhái bám trên đám rong rêu ấy. Cô
nằm trên bãi cỏ và đang nôn thốc nôn tháo” [18, tr.176, 177].
Hay việc Đồ Tiểu Anh dùng tiền của đứa con trai mang về, dù không biết tiền
này do đâu mà có, có phạm pháp hay không nhưng bằng ngôi kể thứ hai khiến người
đọc có cảm giác như mọi người cũng biết đồng tiền ấy là bất chính dù đó chỉ là những
lo lắng của cô. “Cô không thể không lấy hai tờ trong xấp tiền…khi cô đưa nó cho cô
nhân viên kế toán, cô ta đưa đôi mắt sắc nhọn nhìn chăm chú vào cô. Trống ngực cô
đập thùm thụp…cô bắt đầu nghĩ đến cách đối phó. Cô biết là cô không thể bỏ mặc đứa
con…cô nhìn thấy cô ta đưa tay xuống dưới hộc bàn làm một động tác gì đó, có lẽ là
cô ta ấn nút báo động…cô nghe rõ tiếng cọt kẹt mở cửa… Cô vác bao gạo quay về,
trong lòng vẫn còn hoài nghi về tờ giấy bạc” [18, tr.293, 294]. Đồ Tiểu Anh cũng kể
lại những hành động của mình khi muốn kiểm chứng liệu cái người đang mang khuôn
mặt của Trương Xích Cầu nhưng lại có dáng vẻ và giọng nói của Phương Phú Quý
thực ra là ai, và tất nhiên Đồ Tiểu Anh cũng xưng mình là “cô” trong câu chuyện ấy:
“Trong mơ hồ, cô cảm nhận ra đằng sau cái khuôn mặt mỏng ấy còn có một gương
mặt nữa đang ẩn tàng. Cô giơ tay lên, nhằm gương mặt ấy cào mạnh. Đòn đánh này là
rất thực. Một tiếng rên phát ra, cô nhìn thấy trên gương mặt quỷ quái ấy xuất hiện bốn
vết cào vừa trắng vừa thâm, và máu đỏ từ từ thấm ra từ vết cào ấy” [18, tr.484].
Cách gọi “cô”, “anh” khiến kiểu trần thuật này giống như một lời buộc tội.
Người được kể chỉ còn cách gật đầu thừa nhận những điều được kể ra. Mặc dù hình
thức trần thuật này sử dụng không nhiều như hình thức trần thuật ở ngôi thứ ba nhưng
có vai trò quan trọng trong việc thể hiện dụng ý nghệ thuật của tác giả khi để các nhân
vật tự phân thân mình, tự mổ xẻ, phân tích, trách móc bản thân, tạo nên một không
gian gián cách để hiểu rõ bản thân hơn. Điều đó mang lại ấn tượng mạnh cho phương
thức trần thuật trong tiểu thuyết này của tác giả, góp phần làm nổi bật thành công của
Mạc Ngôn trong nghệ thuật trần thuật của mình.
34
2.1.3. Sự kết hợp, chuyển dịch các ngôi trần thuật
Nếu trần thuật ngôi thứ ba đem lại một cái nhìn khách quan cho người trần thuật,
trần thuật ngôi thứ hai mang lại độ tin cậy cao đồng thời là sự phức tạp của việc phân
thân đa ngã của người kể chuyện thì sự kết hợp các dạng thức trần thuật là một sáng
tạo mới mẻ của Mạc Ngôn. Là một nhà văn đương đại, Mạc Ngôn đã sử dụng hình
thức trần thuật mới bằng việc kết hợp tất cả các dạng thức trần thuật với hình thức
người trần thuật ngôi thứ ba “biết tuốt”; hình thức trần thuật ngôi thứ hai phân thân đa
ngã và hình thức trần thuật xưng “tôi” trong tác phẩm.
Thập tam bộ là tiểu thuyết có sự hiện diện của cả người trần thuật ẩn tàng và
người trần thuật là nhân vật xưng “tôi”. Đây là dạng trần thuật tạo giá trị nghệ thuật
cao khi vừa đảm bảo tính khách quan của câu chuyện (do người trần thuật “biết tuốt”
kể lại) vừa có thể đi sâu khám phá thế giới nội tâm của nhân vật (nhân vật tự thuật về
mình). Sự kết hợp ba kiểu trần thuật từ ngôi thứ ba, ngôi thứ hai và ngôi thứ nhất có
thể diễn ra theo những hình thức sau: người trần thuật toàn năng thuật lại câu chuyện
rồi trao quyền cho nhân vật trong truyện kể lại với tư cách người trần thuật tiếp sức;
người trần thuật toàn năng chỉ làm nhiệm vụ dẫn lối, đưa đường cho câu chuyện kể
của nhân vật “anh”, “tôi”.
Trong Thập tam bộ là cả một quá trình phân thân đa ngã của người kể chuyện
nên sự kết hợp, hoán đổi các hình thức trần thuật rất linh hoạt, đa dạng. Sự kết hợp,
hoán đổi các ngôi trần thuật một cách linh hoạt khi thì từ ngôi thứ ba đến ngôi thứ hai
đến ngôi thứ nhất; khi thì hoán đổi ngôi thứ nhất đến ngôi thứ ba rồi lại quay về ngôi
thứ nhất… tạo nên nét độc đáo góp phần thành công cho tiểu thuyết.
Đây là đoạn thuật lại tâm trạng của Đồ Tiểu Anh: “Như hai con rắn, hai câu
chuyện này đang bò ngang bò dọc trong trí óc Đồ Tiểu Anh, tâm thần cô đang bất
định, đứng ngồi không yên. Chồng chết là một cách để thử thách đàn bà. Nếu lúc này
có một chú tiểu xuất hiện, liệu tôi có thể chế ngự được lòng ham muốn của mình?”
[18, tr.277]. Theo mạch cảm xúc, người kể chuyện dùng “Đồ Tiểu Anh” ngôi thứ ba
để kể, rồi sau đó lại dùng ngôi thứ hai “cô” để kể tiếp, để thể hiện sự đồng cảm và chia
sẻ với những suy nghĩ ở trên, người kể chuyển sang dùng ngôi thứ nhất “tôi”, mặc
nhiên thừa nhận mình là Đồ Tiểu Anh, xem đây là câu chuyện của mình. Mặc dù sự
thay đổi ngôi kể liên tục nhưng lại không làm dán đoạn mạch cảm xúc, nội dung của
35
câu chuyện được kể. Do mang lại hiệu quả nên hình thức trần thuật này được tác giả
sử dụng tương đối nhiều trong tiểu thuyết Thập tam bộ.
“Lý Ngọc Thiền giận dữ nhổ nước bọt vào mặt lão, dùng chân đá vào hạ bộ lão,
dùng bàn tay còn lại móc mắt lão. Lão cũng chẳng kém, dùng bàn tay còn lại bóp chặt
vai phải của cô ta. Toàn thân Lý Ngọc Thiền rung động, tê buốt, ngay lập tức ngồi
thụp xuống (…) Trong cảnh sắc huy hoàng của ráng chiều, hoa Thạch Lựu đã bắt đầu
tàn để chuẩn bị cho những quả non hình thành. Cô không để ý gì đến tay phóng viên
có chiếc mũi cực kì mẫn cảm với mọi chuyện ấy, mở cổng, trong ánh sáng rực rỡ của
ráng chiều bước vào khoảng không gian của mỹ nhân họ Lạp ngày xưa – nay trở
thành ấn tượng khó phai trong kí ức của cô. Trong khi ấn vào miệng bà ta những thức
ăn có trộn thuốc ngủ, làm sao cô có thể không hồi tưởng lại bóng cây Thạch Lựu lấp
loáng trong vại nước có nuôi mấy con cua xanh xanh? (…) Trên những cành cây
Thạch Lựu, những mầm lá non màu vàng nhạt cũng đã đâm ra, những chú chim yến
trên trán có vệt lông màu huyết bay vào nhà tôi và làm tổ dưới mái nhà…người mẹ
phong lưu một thời của tôi, cho đến bây giờ đã bị những con rận bám vào da thịt của
bà để biến làn da nõn nà ngày xưa trở thành tờ giấy nhàu nát. Cô giết rận cho bà ta,
trộn vào thức ăn của bà một ít bột sâm núi…” [18, tr.382, 383]. Đây là đoạn người kể
chuyện kể về cô chuyên gia chỉnh dung Lý Ngọc Thiền, trước tiên người kể dùng ngôi
thứ ba (Lý Ngọc Thiền) để kể nhưng theo diễn biến tâm trạng của Lý Ngọc Thiền,
người kể dường như phân thân, tiến gần hơn với người được kể và kết quả là kể bằng
ngôi thứ hai (cô), trong quá trình miên man suy nghĩ, hồi tưởng về quá khứ tươi đẹp
người kể lại buột miệng xưng “tôi” - dùng ngôi thứ nhất giống như đây là câu chuyện
của tôi, kể về tôi vậy. Việc hoán đổi này diễn ra tự nhiên và cũng thật phù hợp. Nó
mang lại cảm giác đồng điệu như hòa mình vào câu chuyện được kể đối với người đọc,
như chính mình là nhân vật đang được nhắc đến vậy.
“Dường như có một bộ móng vuốt thật sắc nào đó đang cào cấu những bộ phận
bên trong thân thể anh ta…tôi cảm thấy đau đớn vô cùng. Tiếng kêu khàn đục với
những dòng nước mắt đặc sệt cùng xuất hiện một lúc trên miệng và trên mắt của tôi.
Tôi cần về nhà, tôi phải về nhà… Bài ca về gia đình vang lên trong lòng anh ta… - tôi
chờ ở đây làm gì? ... Thầy giáo vật lý bật dậy khỏi ghế, nhảy bổ về phía cửa, vung tay
đấm rầm rầm vào cánh cửa sắt… thả tôi ra! Tôi muốn về nhà! Mày là đồ ngốc nghếch
– Cánh cửa kêu lên – Đúng, tao là đồ ngốc nghếch. Từ bên ngoài, tiếng ồn ào của
36
nhịp sống thành phố vọng vào… Sức lực của anh đã cạn kiệt, anh lê bước về chiếc
ghế da, đôi mắt mệt mỏi khép lại” [18, tr.450, 451]. Đoạn này tác giả đã kể chuyện
bằng hai hình thức là ngôi thứ ba (thầy giáo Vật lý) và ngôi thứ nhất (tôi) đan xen,
giống như hai người đang giao tiếp với nhau nhưng thực chất đó chỉ là một mình thầy
giáo Vật lý đang dày vò, chế nhạo bản thân mình, tiếp đó ngôi thứ hai (anh) lại tạo nên
một hình thức giống tự vấn, kẻ hô người đáp phối hợp nhịp nhàng, đều đặn, đồng thời
thể hiện được sự gấp gáp, khát khao được quay về nhà của thầy giáo Trương Xích
Cầu. Nhưng mọi cố gắng của anh ta đều vô vọng.
“Hình như bụng anh đang cất tiếng ca. Đây là bài ca nói lên mối quan hệ biện
chứng giữa gia đình và tình yêu, giữa đau khổ và hạnh phúc. Bài ca kể về một thầy
giáo trung học bị chức phận giam cầm mấy mươi năm, bị cuộc sống nặng nề đè nặng
mấy mươi năm, bị xã hội tao loạn vùi dập mấy mươi năm, sau đó được giải phóng,
trong túi có một ít tiền, bị những giằng xé giữa tính dục và tình yêu… đang do dự giữa
tiến và lùi. Tiếng ca như một đóa hoa đang từ từ nở bung ra trong bụng thầy giáo Vật
lý” [18, tr.358, 359]. Đoạn này cũng được tác giả chuyển dịch các ngôi trần thuật, từ
ngôi thứ hai (anh) như tâm tình, đối thoại, mổ xẻ tâm tư của Trương Xích Cầu lại
chuyển sang ngôi thứ ba (thầy giáo Vật lý) giống như một nhận định, một nhận xét
rằng đây là tình hình chung của các thầy giáo Vật lý, thực trạng chung của mọi người.
Ai cũng bị ràng buộc, đang cố vùng vẫy để thoát khỏi vòng xoáy mưu sinh nhưng đó
là điều không thể.
Như vậy, sự kết hợp, chuyển dịch các ngôi trần thuật là một bước tiến của tiểu
thuyết Mạc Ngôn. Ngoài việc sử dụng một cách sáng tạo các hình thức kể chuyện quen
thuộc từ ngôi thứ nhất và ngôi thứ ba, hình thức kể chuyện từ ngôi thứ hai là một biểu
hiện dấn thân của ngòi bút Mạc Ngôn trong tác phẩm này. Thông qua các hình thức kể
chuyện, người kể như gần hơn với nhân vật của mình, nhìn nhận sự việc ở mọi góc độ
và đôi khi còn bày tỏ thái độ của mình với câu chuyện được kể. Trần thuật ở ngôi thứ
ba tạo sự khách quan cho câu chuyện được kể; ngôi thứ nhất khiến thế giới tâm hồn
của con người được hiện lên chân thực và cảm động bằng cảm quan của nhà văn; đồng
thời hình thức trần thuật ở ngôi thứ hai mang lại một diện mạo mới khi nhân vật tự
phân thân mình, xem mình như người khác để phân tích, chì chiết, chế giễu, cảm thông
với chính mình. Bởi vì ngoài việc tự vấn với bản thân, các nhân vật dường như không
tìm thấy được niềm an ủi nào, sự tin tưởng nào với người khác. Phải chăng vì xã hội
37
mà họ sống có đầy rẫy những mưu mô, tính toán và con người đang sống hời hợt, vô
tình với nhau.
Thông qua việc dùng các phương thức trần thuật linh hoạt và đa dạng, tác giả đã
chuyển tải một cách toàn vẹn về bức tranh cuộc sống của các nhân vật trong tác phẩm.
Các kiểu trần thuật đó mang người đọc đến gần với câu chuyện hơn, như người đọc
đang cùng tham gia vào câu chuyện để cùng suy ngẫm, nhận xét, chia sẻ và đưa ra
quyết định trước mỗi biến cố cuộc đời của các nhân vật. Đây là một trong những minh
chứng cho thành công của ông về nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết Thập tam bộ.
2.2. Điểm nhìn trần thuật
Không thể hiểu được sâu sắc tác phẩm văn học nếu ta không tìm hiểu điểm nhìn
nghệ thuật, bởi lẽ để miêu tả, trần thuật, nhà văn buộc phải xác định, lựa chọn điểm
nhìn hợp lý. Theo Từ điển thuật ngữ văn học “Điểm nhìn trần thuật chính là vị trí
mà từ đó người trần thuật nhìn ra và miêu tả sự vật trong tác phẩm” [7, tr.113]. Trong
tác phẩm tự sự, tương quan giữa nhà văn và chủ đề trần thuật hay giữa điểm nhìn của
người trần thuật với những gì anh ta kể là điều đặc biệt quan trọng. Có nhiều người đề
xuất cách gọi điểm nhìn là nhãn quan, điểm quan sát, tiêu cự trần thuật… nhưng theo
chúng tôi, dùng khái niệm điểm nhìn là phù hợp nhất vì điểm nhìn còn thể hiện lập
trường tư tưởng của nhà văn. Điểm nhìn nghệ thuật được xem như một camera dẫn dắt
người đọc vào mê cung văn bản ngôn từ. Khi nghiên cứu điểm nhìn nghệ thuật, người
ta chia điểm nhìn thành các loại như điểm nhìn tác giả, điểm nhìn nhân vật, điểm nhìn
không gian, điểm nhìn thời gian, điểm nhìn tâm lý, điểm nhìn tư tưởng, điểm nhìn tu
từ… Trong nghệ thuật trần thuật, sáng tạo của nhà văn trước hết thể hiện ở cách “ứng
xử” với câu chuyện để tạo ra sự đa dạng của các điểm nhìn nghệ thuật.
Mỗi nhà văn có cách sáng tạo những điểm nhìn riêng biệt, do đó việc tổ chức
điểm nhìn trần thuật trong tác phẩm bao giờ cũng mang tính sáng tạo. Cách vận dụng
linh hoạt các điểm nhìn trần thuật góp phần tạo nên tính sinh động và sự hấp dẫn đặc
biệt cho từng tác phẩm. Tiểu thuyết Thập tam bộ của Mạc Ngôn, bên cạnh tạo những
điểm nhìn quen thuộc, tác giả đã rất nỗ lực trong việc tổ chức những điểm nhìn mới.
Từ đó, nhân vật và các mối quan hệ được soi chiếu nhiều chiều, nhiều thời điểm. Đọc
tiểu thuyết của Mạc Ngôn, chúng tôi nhận thấy tác giả đã thành công trong việc sử
dụng luân phiên các điểm nhìn.
38
2.2.1. Trần thuật đa điểm nhìn
Trần thuật đa điểm nhìn là một trong những đóng góp của Mạc Ngôn ở nghệ
thuật trần thuật. Nhà văn chuyển dịch điểm nhìn vào nhiều nhân vật để cho các ý thức
cùng đối thoại khiến tác phẩm có nhiều tiếng nói khác nhau, đồng thời giúp nhà văn có
điều kiện đi sâu vào các tầng vô thức của nhân vật. Với tiểu thuyết Thập tam bộ, Mạc
Ngôn đã sử dụng luân phiên các điểm nhìn trần thuật và việc dịch chuyển linh hoạt các
điểm nhìn như vậy khiến cho hiện thực được soi chiếu từ nhiều góc cạnh, đa chiều
hơn. Nhà văn không can thiệp lộ liễu vào diễn biến khách quan của sự việc mà sắp xếp
theo tình trạng vốn có của xã hội được đặt vào đúng tầm nhìn của nhà văn, người đọc.
Vì thế mà có ý nghĩa phản tư, phản tỉnh sâu sắc đối với dân tộc và lịch sử, đặc biệt là
lịch sử hiện đại.
Mạc Ngôn tạo điểm nhìn từ nhiều nhân vật để thấy được sự phức tạp và những
nghịch lý của cuộc sống đời thường. Xoay quanh cái chết của Phương Phú Quý, nhà
văn đã để cho nhiều nhân vật tham gia bình luận và thể hiện quan điểm riêng của mình
trong đó. Khi biết tin thầy Phương chết trên bục giảng “toàn thể giáo viên thành phố
kính trọng và thương xót. Tờ báo của thành phố dành vị trí trang trọng nhất để cáo
phó về cái chết của anh” [18, tr.103], các đồng nghiệp thì mặt mày ủ rũ, vợ con thì
khóc thảm thương. Hiệu trưởng lại nhân cái chết của anh để phát động học sinh cố
gắng học tập. Mỗi một học sinh đậu đại học là vòng hoa cao quý dâng tặng thầy
Phương. Bất ngờ thay, Phương Phú Quý tỉnh lại trên đường đến nhà tang lễ. Hiệu
trưởng lại là người phát hiện đầu tiên và đã ngăn không cho anh ta cử động, Ông ta
muốn anh hãy im lặng, chết rồi thì không thể sống lại; “Toàn thể nhân dân thành phố
đồng thời kêu lên giận dữ: Phương Phú Quý nhất định không thể sống lại! Chết là
hết!” [18, tr.105]. Người ta lợi dụng cái chết của anh để làm đòn bẫy cho việc xây lại
khu cư xá mới, tăng lương cho giáo viên, ổn định đời sống cho các giáo viên trong
thành phố, cứu vớt những thầy giáo đang trên đường kiệt sức như anh. Chưa hết,
xưởng thịt thỏ của trường còn nhân cái chết của anh để mà tăng gia sản xuất, tăng
cường tiếp thị sản phẩm, cầu cứu mọi người mua thịt thỏ đóng hộp để cứu những học
sinh đang theo học tại trường và những giáo viên trong toàn thành phố. Thế mới nói là
“Để cải thiện đời sống cho toàn thể giáo viên thành phố, kéo dài tuổi thọ của họ,
Phương Phú Quý mà sống lại, anh ta sẽ là kẻ phản động. Phương Phú Quý còn sống
mà vào nhà tang lễ, đó chính là đại nhân đạo” [18, tr.104]. Nếu Phú Quý chết thì
39
không nói làm gì, nhưng nay biết anh ta không chết, hiệu trưởng vẫn muốn anh phải
chết với lời biện hộ là vì nền giáo dục, vì những người khác. Nhưng chúng ta biết rõ
rằng con người này chỉ đang vì lợi ích cá nhân của mình mà tước bỏ quyền được sống
của người khác. Nếu Phú Quý sống lại thì lợi ích của hiệu trưởng sẽ không còn. Vì vậy
anh ta sẽ đe dọa nhiều đến lợi ích của mọi người nên người ta lo sợ điều đó. Chỉ tội
nghiệp cho Phương Phú Quý muốn sống nhưng cũng không ai đồng ý cho anh sống.
Giống như nhân vật Chí Phèo của Nam Cao trong tác phẩm cùng tên, muốn được làm
người lương thiện nhưng không ai cho anh ta làm người lương thiện nữa. Ngay cả vợ
anh cũng cho rằng anh là ma khi anh trở về từ Thế giới mỹ lệ và liên tục những ngày
sau đó cô ta cũng chối bỏ sự tồn tại của anh, cho anh là kẻ giả mạo để ve vãn đàn bà
góa. Chỉ còn có Trương Xích Cầu và Lý Ngọc Thiền - vợ chồng nhà hàng xóm cũng là
đồng nghiệp với Phương Phú Quý đồng ý giúp anh được tiếp tục sống, thừa nhận sự
tồn tại của anh nhưng phần lớn cũng là để giúp cho lợi ích riêng của họ thông qua việc
ký kết một bản hiệp nghị giữa ba người. Chỉ xoay quanh cái chết của một thầy giáo
Vật lý mà đã có biết bao ý kiến, mỗi người có một suy nghĩ và thái độ khác nhau. Đó
cũng là dụng ý của tác giả khi để cho các nhân vật tự bộc lộ mình, như vậy càng thể
hiện rõ sự chân thực và sinh động, đúng với bản chất phức tạp của cuộc sống. Câu
chuyện này đặt ra một nghịch lý trong cuộc đời: khi có người chết thì thương tiếc, xót
xa, đau đớn nhưng khi biết họ sống lại thì vội vàng vùi dập, tước bỏ quyền được sống
của họ chỉ vì lợi ích riêng của mình.
Đây cũng là một tiểu thuyết đặt ra nhiều vấn đề về cuộc đời, hiện thực và lý
tưởng, nhân đạo và vô nhân đạo trong xã hội thông qua việc trần thuật đa điểm nhìn.
Để giải quyết các vấn đề đó, tác giả trao điểm nhìn cho nhiều nhân vật để soi chiếu.
Đánh giá về tình hình nền giáo dục của Trung Quốc, mỗi nhân vật có một nhận thức
riêng. “Tất cả đều chạy theo thành tích…Bây giờ học sinh mệt mỏi đến nỗi nhảy sông,
thầy giáo mệt mỏi đến nỗi chết trên bục giảng; mới vào lớp mười đã rục rịch phân
ban: học sinh ban văn thì căn bản không cần học lý, hóa; học ban toán căn bản không
cần biết sử, địa; trình độ Trung học có khác gì Trung học cơ sở. Giáo dục cái quái gì
thế? Trò chửi thầy, thầy chửi hiệu trưởng, tôi biết chửi ai? Tất cả chỉ là một đống sơn
đen đặc quánh!” [18, tr.249], đó là những lời thốt lên từ đáy lòng của hiệu trưởng –
người đứng đầu trường Trung học số 8, cũng là đại diện cho toàn bộ các hiệu trưởng
trên toàn thành phố. Phương Phú Quý cũng có nhận xét “đúng rồi! Con đường phía
40
trước của nền giáo dục sao mà u tối!” [18, tr.249]. Còn Lý Ngọc Thiền thì tỏ vẻ độ
lượng hơn trong lời nói của mình. “Ôi chao! Đáng thương quá! Các thợ giảng của các
anh đáng thương quá! Nhưng mà trong tất cả chúng ta, có ai không đáng thương
nào?” [18, tr.201]. Sư phạm là một ngành cao quý, nghề giáo muôn đời được mọi
người nể trọng, ấy thế mà Phương Phú Quý lại nói “đậu vào sư phạm, tôi mới biết vận
may của mình đã dứt, lúc ấy rơi có khi là may” [18, tr.24]. Con trai của Trương Xích
Cầu cũng nói “lẽ nào bố không muốn chúng con thi đỗ vào một trường đại học danh
tiếng, bố muốn chúng con phải thi vào cái học viện sư phạm chết tiệt kia để trở thành
một giáo viên nghèo kiết xác như bố sao?” [18, tr.30]. Ngay cả hai anh em sinh đôi
từng là học trò tâm đắc nhất của Phương Phú Quý cũng phải vào học viện sư phạm vì
không còn con đường nào khác. Như vậy, với hai anh em này, học sư phạm là con
đường cùng, là lựa chọn cuối cùng vì thời điểm ấy nền giáo dục đã bộc lộ những tiêu
cực của mình. Đỉnh điểm nhất là lời phát biểu của Tiểu Quách (đồng nghiệp của
Phương Phú Quý): “tất cả chúng ta đều không triệt để, tôi cũng thế, biết rõ ràng dạy
Trung học là một nghề chẳng ra gì nhất mà chúng ta vẫn cứ bám lấy, miệng thì chửi
cái nghề chết tiệt nhưng chẳng ai dám bỏ, chẳng ai dám thay đổi. Chúng ta đều biết
cho dù đi nhặt đồ phế thải kiếm ăn vẫn tốt hơn làm thầy giáo, nhưng chúng ta không
ai dám đi nhặt rác, chẳng ai dám bỏ mỗi tháng chín mươi đồng năm hào tiền lương!”
[18, tr.549]. Lời phát biểu này đánh trúng vào tâm lý của các thầy giáo, nói lên thực
trạng của ngành giáo dục ung nhọt mà chưa có ai dám lên tiếng. Người ta chán ghét và
thấy nghề giáo đã rơi vào tình trạng bế tắc không thể cứu chữa. Một đứa trẻ cũng nhận
ra sự suy sụp của nền giáo dục nhưng tại sao những bậc lãnh đạo lại không nhìn thấy,
không tìm cách cứu chữa? Thông qua điểm nhìn của các nhân vật trên, tác giả đã để
cho nhân vật và người đọc tự cảm nhận, khám phá ra hiện thực xã hội Trung Quốc
những năm cuối thế kỷ XX mục rỗng và ung nhọt, đến một lúc nào đó sẽ phải vỡ òa,
bị phá nát nếu không tìm cách thay đổi.
Trong công viên nhân dân vừa có một con hổ bị giết chết, sau khi tờ Quần chúng
nhật báo đưa tin đã làm dấy lên sự đau xót và phẫn nộ của nhân dân thành phố. Quanh
vụ án con hổ này, tác giả cũng trần thuật bằng nhiều điểm nhìn khác nhau thông qua
những lời nhận xét của các nhân vật trong chuyện. Học sinh tiểu học – những mầm
non tương lai thực sự đau khổ, buồn rầu trước cái chết của con hổ Đông Bắc: “tin tức
về cái chết của con hổ Đông Bắc đã khiến cho rất nhiều em khóc òa lên”, “Một bé gái
41
có đôi mắt thật to và gương mặt bầu bĩnh vừa mở miệng đã khóc, chưa nói được lấy
một tiếng…Em bé nghẹn ngào nói: chú phóng viên ơi! Cháu thương Nguyên Nguyên
và Phương Phương quá…Mẹ của chúng đã chết rồi!” [18, tr.405, 406]. Cũng bởi là
một học sinh tiểu học nên cách nghĩ của các em rất trong sáng, thơ ngây, em đã thắc
mắc “Tại sao lại không mời cảnh sát trưởng Mèo Đen. Nếu cảnh sát trưởng Mèo Đen
mà ra tay, chỉ cần một phút là phá án” [18, tr.407]. Phát huy tất cả những gì học được,
quan sát được trong cuộc sống, một cậu bé đưa ra giải pháp khi bắt được thủ phạm là
“Nhất định phải băm thịt hắn ra để trộn vào thức ăn hàng ngày cho Nguyên Nguyên
và Phương Phương” [18, tr.407]. Là một học sinh tiểu học mà đã có những suy nghĩ
tàn bạo như vậy không biết tương lai cậu ta sẽ có những hành vi như thế nào khi không
có tình thương đồng loại. Cả một thế hệ bị nhiễm lối sống thực dụng, vô tình và thờ ơ
trước số phận của nhau thì sự ích kỷ và lạnh lùng là không tránh khỏi. Có thể nói
người đau khổ nhất trong vụ án này chính là ông già nuôi thú dữ - “Lão Khỉ”. Khi phát
hiện xác con hổ đã bị lột da, ông ta đã quỳ bên cạnh con hổ mà không nói nửa lời, chỉ
sau khi xác con hổ bị đưa đi “đột nhiên ông ta khóc nấc lên, lăn lộn trên đất giống như
một đứa bé không bằng lòng chuyện gì đó nằm ăn vạ” [18, tr.409, 410]. Sau đó ông ta
trở nên điên điên khùng khùng, kêu rống lên như có ai đang róc xương ông ta vậy.
Cuối cùng vì quá đau đớn ông treo cổ trong chính cái chuồng của con hổ Đông Bắc.
Chỉ vì một con hổ mà ông ta có thể treo cổ, ông ta thương yêu động vật hơn cả mạng
sống của mình. Lúc trước khi kể về con khỉ to lớn ở ngoài đảo hoang bị người đàn ông
phụ bạc cướp con, chặt mất cánh tay ông ta cũng đã khóc rất thương tâm. Ông đã treo
cổ vì không thể chịu được nỗi đau quá lớn này, đáng tiếc là người ta lại quá vô tâm
trước sự tồn tại của ông.
Về phía nhân dân, họ liên tục điện đến tòa soạn báo hỏi thăm tình hình chính là
vì sự hiếu kỳ nhất thời của họ, đó là tâm lý đám đông, chỉ chú ý một thời gian sau đó
câu chuyện này sẽ bị họ lãng quên. Điều khiến họ quan tâm cuối cùng vẫn là bộ xương
hổ vì nghe nói xương hổ có thể chữa rất nhiều bệnh. Tờ Quần chúng nhật báo tham
gia vào vụ án con hổ Đông Bắc chính vì muốn tìm ra sự thật, thực hiện trọng trách của
một cơ quan ngôn luận. Dưới con mắt của Quần chúng nhật báo thì mọi điểm đều
đáng nghi nhưng rút cuộc họ cũng chẳng điều tra được gì “Bài viết đã kết thúc, song
sự việc vẫn chưa kết thúc:
- Da hổ và kẻ lột da hổ, mày đang ở nơi nào?
42
- Hổ cốt (có lẽ đã trộn lẫn với khỉ cốt) mày ở nơi nào?
- “Lão Khỉ”! Tên thật của ông là gì?” [18, tr.419]
Như vậy, thông qua thái độ của các nhân vật về vụ án con hổ Đông Bắc lại phản
ánh một sự thật nữa trong xã hội là nạn tham ô, đút lót, hối lộ lẫn nhau giữa các quan
chức cấp cao; thực trạng đổ lỗi cho nhau khi có sự cố xảy ra… Đằng sau đó sẽ còn
nhiều hệ lụy nữa mà tác giả để cho các nhân vật của mình tự phân tích, mổ xẻ, đưa ra ý
kiến để tái hiện lại một bức tranh hiện thực phong phú.
Trần thuật đa điểm nhìn là một đóng góp đáng kể của Mạc Ngôn. Nhà văn lúc là
người ngoài cuộc chứng kiến mọi việc, lúc là người nhập thân vào nhân vật, di chuyển
điểm nhìn trần thuật từ nhân vật này sang nhân vật khác, từ hành động bên ngoài đến
tâm trạng bên trong. Điều đó đã tạo nên sự phức điệu của nhân vật, đem đến cho hình
thức trần thuật truyền thống những bước tiến mới, dẫn dắt người đọc nhận thức một
cách tự nhiên và sâu sắc những quy luật của cuộc sống, của con người.
2.2.2. Điểm nhìn người kể chuyện và điểm nhìn nhân vật
Nhà lý luận Jonathan Culler cho rằng: “Bất cứ trần thuật nào đều phải có người
trần thuật, bất kể người trần thuật ấy có được xác nhận rõ ràng hay không. Bởi vì vấn
đề trung tâm của chủ thể mỗi câu chuyện đều là vấn đề về mối quan hệ giữa người
trần thuật hàm ẩn và câu chuyện mà nó kể ra”. Trần thuật của văn xuôi hiện đại đã đặt
vai trò của nhân vật và vai trò người kể chuyện ngang hàng, bình đẳng với nhau. Điều
này có nghĩa tác giả đã trao cho nhân vật quyền phát ngôn và những phát ngôn ấy hàm
chứa cái nhìn bình đẳng với chủ thể trần thuật. Khi đó chúng ta nhận ra mối tương tác
giữa điểm nhìn người kể chuyện và điểm nhìn nhân vật. Hai điểm nhìn này có lúc song
song tồn tại, có lúc hòa nhập vào nhau tùy theo chủ ý của người sáng tạo.
Trong những sáng tác của mình nói chung và Thập tam bộ nói riêng, Mạc Ngôn
luôn để cho người trần thuật có một điểm nhìn bao quát để lựa chọn, để điều khiển các
nhân vật hành động. Trong quá trình hành động, ông lại để cho nhân vật có điểm nhìn
riêng, chọn một điểm xuất phát rồi từ đó theo hướng thuận hay hướng nghịch để triển
khai hoặc rút ngắn các sự kiện. Cách đặt điểm nhìn trần thuật nơi nhân vật và cách kể
chuyện theo quan điểm nhân vật – người kể chuyện xưng “tôi” đã thật sự nhuần
nhuyễn và có những cách tân đáng kể.
Với sự thâm nhập của chủ thể trần thuật vào trong các nhân vật của mình, khoảng
cách giữa người kể chuyện và nhân vật bị xóa nhòa, điểm nhìn của cả hai phía trùng
43
khít. Thập tam bộ có sự luôn chuyển nhịp nhàng giữa điểm nhìn người kể chuyện và
điểm nhìn nhân vật. Điểm nhìn di chuyển liên tục từ người kể chuyện này sang người
kể chuyện khác, từ người kể chuyện sang nhân vật, từ nhân vật sang người kể chuyện,
từ bên ngoài vào bên trong và ngược lại nhiều lần trong một trang viết.
Trung tâm của Thập tam bộ là người kể chuyện trong chuồng sắt – “anh”. Trong
câu chuyện của “anh”, Phương Phú Quý, Trương Xích Cầu, Đồ Tiểu Anh, Lý Ngọc
Thiền… là những người được kể. Rồi họ lại tiếp nối “anh” để kể về mình. Khi kể lại
cuộc trò chuyện, những đối thoại giữa chúng tôi và người trong chuồng sắt, điểm nhìn
được đặt vào người kể chuyện. “Quả thực chúng tôi không kham nổi trước những lời
nói hồ đồ của anh. Anh không thấy là chúng tôi đứng ngáp liên tục ngoài chuồng sắt
đó sao?” [18, tr.10]. Trong quá trình nghe người trong chuồng sắt thao thao bất tuyệt
thì “chúng tôi” đặt ra nhiều câu hỏi, cũng là những thắc mắc mà người đọc muốn biết,
“Cuối cùng, anh là người hay là thú vật? Là người, sao anh lại ở trong chuồng? Là
thú vật, tại sao anh lại biết nói tiếng người? Là người, tại sao anh lại ăn phấn?” [18,
tr.14]. Để giải đáp thì người kể chuyện tiến hành kể những gì “anh” biết về các nhân
vật.
Thầy giáo Vật lý Phương Phú Quý đang giảng dạy ở trường Trung học số 8,
“Anh ta là người tốt, tất cả mọi người trong trường đều công nhận điều này. Vợ anh
ấy cũng là người cực tốt, đang hợp đồng với xưởng thịt thỏ đóng hộp của trường, làm
công việc chặt đầu lột da thỏ. Anh ta có hai đứa con, một trai một gái, trai tên Phương
Long gái tên Phương Hổ” [18, tr.11]. Tiếp đó người kể chuyện kể về những biến cố
trong cuộc đời Phương Phú Quý: chết trên bục giảng, chạy trốn từ Thế giới mỹ lệ về
nhà đồng nghiệp, cả việc thay đổi dung mạo để trở thành Trương Xích Cầu, những khó
khăn mà anh gặp phải sau khi mang khuôn mặt của người khác để dẫn đến kết cục là
anh ta tự treo cổ trong phòng học.
Nhân vật được người kể chuyện chú ý tiếp theo là Trương Xích Cầu, cũng là một
thầy giáo Vật lý tại trường Trung học số 8. Vợ anh ta là chuyên gia chỉnh dung Lý
Ngọc Thiền. Anh có hai con là Tiểu Cầu và Đại Cầu, “đây là hai đứa con cực ngoan,
học hành giỏi giang, bố mẹ chúng không cần phải lo lắng gì, là niềm tự hào của thầy
giáo vật lý” [18, tr.29]. Trương Xích Cầu nghiện thuốc lá nặng nhưng anh ta “không
có tiền, cũng chẳng có quyền lực gì. Tiền và quyền lực đều nằm trong tay vợ anh” [18,
tr.27]. Vì vậy mà anh chưa bao giờ được thỏa mãn cơn thèm thuốc của mình. Trương
44
Xích Cầu cũng phải rất khó khăn khi quyết định đi buôn, nhường vị trí đi dạy cho thầy
Phương. Sau đó là hàng loạt những rắc rối, tai nạn: bị bắt giam, bị đánh đập, bị cướp
bóc liên tục xảy ra khiến anh cũng không còn nhận ra bản thân mình nữa. “Anh ta
đang mặc một chiếc áo của những đồ tể vừa to vừa dày loang lổ vết máu, đầu tóc bạc
trắng và bù xù, mặt mày trắng bệch…” [18, tr.525], mọi người gọi anh là bố của
Trương Xích Cầu. Từ đây anh không còn con đường nào khác, phải chấp nhận làm
một “động vật người” sống trong chuồng sắt và ăn phấn.
Tiếp đó, người kể chuyện cũng kể về Lý Ngọc Thiền. Cô ta làm việc ở Thế giới
mỹ lệ, chuyên trang điểm cho người chết. “Lý Ngọc Thiền sống tằn tiện, tiết kiệm, là
người đàn bà có đầu óc thực dụng, kinh tế” [18, tr.31]. Trước đây Lý Ngọc Thiền từng
là tình nhân của phó cục trưởng Vương, cũng đã cùng với lão già nuôi thú dữ làm cuộc
trao đổi: lấy thịt, mỡ của người chết đem đổi lấy thịt gà, thịt bò hoặc thịt lợn. Cô ta
cũng là người trực tiếp chỉnh sửa khuôn mặt của Phương Phú Quý thành Trương Xích
Cầu, ủng hộ hai người nên cố gắng kiếm tiền để thay đổi vận mệnh. Nhưng sau khi
Trương Xích Cầu giả chết, Trương Xích Cầu thật thì biệt tăm, “cô ta ngồi đó, ngây
ngây dại dại, chẳng nói chẳng rằng!” [18, tr.544].
Đồ Tiểu Anh, vợ của Phương Phú Quý làm việc trong xưởng đồ hộp ở trường
Trung học số 8 “quê gốc ở Cáp Nhĩ Tân, máu trong huyết quản của cô ta có một nửa
là dòng máu Nga” [18, tr.280]. Sau khi chồng chết, “vinh dự lại khiến cô ta không
giống như các phụ nữ chết chồng khác để cho dung nhan tiều tụy, mà phải đặt mình
trên cương vị là vợ một chiến sĩ anh hùng hi sinh trên trận địa vinh quang: Bên trong
thì đau khổ nhưng bên ngoài thì phải bình tĩnh; giọng nói phải nhẹ nhàng lưu loát;
phong thái phải cao thượng – không cần phải có những lời động viên yêu cầu nào từ
tổ chức mà phải tự mình khắc phục, lý tưởng phải kiên định” [18, tr.287]. Sau cái chết
của chồng cùng những thành công trong công việc lột da thỏ, cô được mọi người khen
ngợi, được kết nạp vào Đảng cộng sản, cô ta cũng kết hôn với một tay thư kí nhưng
sau đó không lâu người ta phát hiện cô nhảy sông tự tử, xác dạt vào bờ sông ở ngoại
thành.
Điểm nhìn được đặt vào các nhân vật Trương Xích Cầu, Phương Phú Quý, Đồ
Tiểu Anh, Lý Ngọc Thiền khi viết về những độc thoại, hồi tưởng và chiêm nghiệm của
họ trong quá khứ, hiện tại và tương lai. Đó là cái nhìn của Phương Phú Quý sau khi
tiến hành chỉnh dung một thời gian, bị vợ con xa lánh, xua đuổi, không ai thừa nhận sự
45
tồn tại của anh. Cuối cùng, sau bao nhiêu biến cố anh cũng nhận ra một điều “mình đã
là người chết. Người chết cần quay về với vị trí của người chết, không được can thiệp
vào thế giới của người sống” [18, tr.541], sống tiếp chỉ khiến anh thêm mỏi mệt, bế
tắc, do vậy anh đã chọn một cái chết thật tàn khốc để chấm dứt cuộc đời đau khổ của
mình.
Điểm nhìn đặt vào Lý Ngọc Thiền khi cô hồi tưởng lại quá khứ, những chiêm
nghiệm trong công việc chỉnh dung của mình. “Trên chiếc giường này của tôi không
có sự phân biệt thân phận, quý hèn, hiền ngu đều giống nhau” [18, tr.72], từ đó cô rút
ra một chân lý “cho dù là khi sống, mỗi người có mỗi vị trí hoàn toàn không giống
nhau, nhưng sau khi chết, mùi vị của các xác chết đều giống nhau” [18, tr.298]. Nhiều
lúc cô hay “ngồi chiêm nghiệm về những cái chết vinh dự. Khi lần đầu tiên giơ con
dao lên và rạch vào cái thân hình tuy đã chết nhưng vẫn là con người ấy, tâm lý cô bị
kích động dữ dội, mặt mũi cô đỏ nhừ, mạch máu như ngừng lưu thông. Bây giờ ngoại
trừ những trường hợp đặc biệt (chẳng hạn như rạch da cắt thịt tình nhân), khi giơ dao
lên, cô giống như một tay đồ tể lành nghề trước bàn mổ, cho dù con lợn đang kêu
thảm thiết nhưng đồ tể làm gì có sự xúc động, cứ chiếu theo trình tự công việc mà làm,
xơ cứng, lãnh đạm, tinh tường, chuẩn xác đưa con dao vào dưới cổ, ấn mạnh” [18,
tr.155]. Cũng có lúc hồi ức của cô quay về với quá khứ, khi mẹ cô hãy còn trẻ còn cô
chỉ là một cô bé quàng khăn đỏ, thời gian ấy sao mà đẹp và huy hoàng với cô. Cô cũng
nhớ lại khoảnh khắc năm trước khi cô tiến hành cuộc trao đổi với lão già nuôi thú dữ,
đó là một đêm mùa thu mát mẻ, cô đã bị lời nói của lão ta dọa cho phát khiếp đến mức
đêm về nằm mơ còn đái ra cả quần. Cô cũng bị ám ảnh bởi hình ảnh của phó cục
trưởng Vương nằm trong lò thiêu bị “nghìn vạn ngọn lửa xanh thè lưỡi liếm vào cái
xác, và hình như gương mặt vốn thản nhiên như ngủ của ông ta đột nhiên co rúm lại
và thân thể ông ta cong lên”, “Cảnh tượng cuối cùng đập vào mắt khiến cả quảng đời
còn lại của mình, cô chuyên gia cũng không thể nào xua đuổi nó ra khỏi ký ức” [18,
tr.533].
Khi kể về những dòng tâm sự, băn khoăn của Đồ Tiểu Anh thì điểm nhìn lại
được soi chiếu từ chính cô. Trong quá trình làm việc, cũng như Lý Ngọc Thiền, “cô
ngộ ra một chân lý: Bất kỳ thỏ mang màu gì, đều có kết cục của số phận giống nhau”
[18, tr.297]. Cô đau khổ khi đột ngột mất chồng, cô cũng thành thực kể về những trăn
trở của mình khi đêm đêm nghe tiếng Phương Phú Quý bên kia bức tường, tất cả dáng
46
vẻ, giọng nói là của Phương Phú Quý nhưng khuôn mặt thì lại là chồng của cô chuyên
gia chỉnh dung, điều đó ám ảnh, dày vò cô và mãi đến tận khi chết cô cũng không thể
lí giải được. Cô cũng đã giận mình, oán trách mình tại sao lại thất tiết, lại bị những lời
cám dỗ của Trương Xích Cầu mà đảo điên thần trí, bị những câu chuyện cổ xưa ám
ảnh, quấy nhiễu. Đó là những mẫu chuyện được lưu truyền ở phương Bắc mà trong khi
nhớ chồng, Đồ Tiểu Anh bỗng nghĩ tới. Câu chuyện thứ nhất kể về người phụ nữ có
sắc đẹp mặn mà đang ngồi khóc chồng vừa mới chết, bên ngoài thì mặc áo tang nhưng
bên trong lại mặc bộ quần áo màu đỏ, hỏi ra mới biết là cô ta đã thông dâm cùng người
khác đầu độc chồng, “việc cô ta mặc áo tang bên ngoài chỉ là để che mắt thiên hạ”
[18, tr.274]. Chuyện thứ hai kể về người phụ nữ cũng có chồng vừa mới chết đang
ngồi vừa khóc vừa quạt cho ngôi mộ. Thì ra trước khi chết hai người đã hẹn ước là khi
nào đất trên mồ khô và cỏ lên xanh thì cô ta được tái giá, nhưng đã ba ngày rồi mà đất
trên mồ chưa khô nên cô ta nóng ruột muốn quạt cho mau khô hơn. Một người đắc đạo
nghe xong liền kể cho vợ của ông ta nghe, vợ chửi người đàn bà đó thậm tệ và còn nói
nếu chồng mình chết sẽ thủ tiết không tái giá nữa. Tối hôm đó, người đàn ông không
bệnh mà mất, vợ đau khổ không thiết sống nữa nhưng gượng tổ chức tẩm liệm cho
chồng, còn mời sư tăng về tụng kinh mong chồng được siêu độ lên tiên. Nhưng khi
nhìn thấy chú tiểu “mày thanh mắt sáng, dễ làm say đắm lòng người” thì cô ta đã ngã
vào lòng chú tiểu, thất tiết ngay trước linh sàng của chồng. Chưa hết khi chú tiểu kêu
đau đầu, cô vợ này còn cầm rìu định bổ óc chồng mình cho chú tiểu ăn. “Như hai con
rắn, hai câu chuyện này đang bò ngang bò dọc trong trí óc Đồ Tiểu Anh, tâm thần cô
đang bất định, đứng ngồi không yên. Chồng chết là một cách để thử thách đàn bà. Nếu
lúc này có một chú tiểu xuất hiện, liệu tôi có thể chế ngự được lòng ham muốn của
mình? ... Đồ Tiểu Anh cho rằng mình đã bị hai câu chuyện tầm thường, thô thiển dung
tục theo quan niệm phong kiến cổ hủ ấy quấy nhiễu và uy hiếp” [18, tr.277]. Và rõ
ràng là Đồ Tiểu Anh đã bị hai câu chuyện đó ám ảnh, cô không thể cản được hình
bóng chiếc quạt và chú tiểu, “cô ấy đã vứt bỏ sự nỗ lực ngăn cản những dục vọng để
chìm vào cái đầu tóc xanh xanh của chú tiểu và cái thân thể ngoài thì mặc áo trắng,
trong thì mặc quần áo đỏ của người đàn bà. Mười mấy ngày nay cảm giác ấy luôn
luôn thường trực” [18, tr.277, 278]. Cô cũng giống như hai người đàn bà trong câu
47
chuyện cổ xưa, cũng vội vàng thất tiết, vội vàng tái giá sau khi chồng chết chưa được
bao lâu cho dù thâm tâm vẫn luôn nhớ thương người chồng xấu số.
Với Trương Xích Cầu, anh đau khổ nhận ra rằng, “ngôi nhà đã làm cho tôi gặp
quá nhiều phiền não song tôi không thể nào từ bỏ…Ngôi nhà chất chứa nhiều đau khổ
nhưng cũng nhiều tình yêu. Mất nó tôi sẽ trở thành kẻ lưu linh lạc địa, có nó tôi sẽ trở
thành kẻ đau khổ” [18, tr.358]. Anh cũng kể lại quá trình mình nhận ra lỗi lầm lớn
nhất là để cho kẻ khác mang khuôn mặt mình, mạo danh mình để chiếm vị trí đáng ra
phải là của mình. Từ lúc khởi hành đi buôn, Trương Xích Cầu đã gặp vô vàn tai nạn.
Anh đã cố gắng vượt qua chỉ để mong về nhà nhưng bất hạnh thay chỉ mấy ngày trôi
qua mà trông anh tiều tụy, xơ xác. Trương Xích Cầu giả lại thắt cổ chết, anh không
còn chốn để quay về nữa. Nếu anh làm theo cách của phương Phú Quý anh cũng sẽ lặp
lại bi kịch mà cả hai người vừa trải qua. Chính vì thế mà “có một người đang ngồi
trong lồng sắt và đang ăn phấn” [18, tr.551].
Từ những lời kể, những chiêm nghiệm của nhân vật kết hợp lời của người kể
chuyện đã chuyển tải một bức tranh cuộc sống sinh động: có đau thương, mất mát; có
vui vẻ, buồn rầu; có tiếc nuối, dằn vặt; có biết ơn và ban ơn; có sung sướng, khổ đau;
có may mắn và bất hạnh… tất cả đúng như những gì mà nó vốn có. Tác giả không
thêm hay tước bỏ điều gì khiến câu chuyện được kể thật đến không ngờ.
Người kể chuyện và điểm nhìn thay đổi đến chóng mặt cho phép ngòi bút tác giả
lách sâu đến mọi ngóc ngách của sự kiện, đẩy sự kiện đến độ căng nhất, cuốn hút nhất.
Đây là một điểm nhấn trong nghệ thuật trần thuật của Mạc Ngôn, do vậy đọc tác phẩm
của ông, độc giả như bị thuyết phục bởi những ám ảnh hiện thực khó rời, những xúc
cảm sâu sắc và cách kể chuyện đầy sáng tạo.
48
49
Chương 3
GIỌNG ĐIỆU VÀ NGÔN NGỮ TRẦN THUẬT
3.1. Giọng điệu trần thuật
Theo Từ điển thuật ngữ văn học, “Giọng điêu là thái độ, tình cảm, lập trường,
tư tưởng, đạo đức của nhà văn đối với hiện thực được miêu tả, thể hiện trong lời văn,
quy định cách xưng hô, gọi tên, dùng từ, sắc điệu tình cảm, cách cảm thụ xa gần, thân
sơ, thành kính hay suồng sã, ngợi ca hay châm biếm” [7, tr.134].
Có thể nói giọng điệu chính là một phạm trù thẩm mỹ, là một trong những yếu tố
quan trọng cấu thành nên nét đặc trưng riêng cho phong cách của nhà văn. Giọng điệu
của tác phẩm, ở một mức độ nào đó phụ thuộc vào đặc điểm của đối tượng được miêu
tả cũng như cách cảm nhận về chúng của nhà văn. Song về cơ bản, giọng điệu bộc lộ
tình cảm chủ quan của nhà văn, thái độ và cách đánh giá của nhà văn đối với con
người và những biểu tượng được miêu tả. Tìm được một giọng điệu phù hợp sẽ giúp
cho nhà văn kể chuyện hay hơn, thể hiện được sâu sắc hơn lý tưởng thẩm mỹ của
mình.
Trong cuộc đời cầm bút của mình, Mạc Ngôn luôn mong muốn thể nghiệm được
ở sáng tác của mình những “sắc thái giọng điệu đa dạng” với hi vọng qua đó có thể
diễn tả được mọi cung bậc cảm xúc trước đời sống và cũng đồng thời mong muốn có
được những đóng góp, những cách tân về giọng điệu và ngôn ngữ trong nghệ thuật
trần thuật của mình. Chiếu theo lý thuyết về giọng điệu đa thanh của M.Bakhtin, lời
văn trong tiểu thuyết Mạc Ngôn đều là lời “đa thanh”, “hướng về người khác”. Từ việc
khảo sát giọng điệu trong mối tương quan với thể thống nhất của lời tự phát ngôn độc
thoại, lời đối thoại của các nhân vật và lời của người kể chuyện; chúng tôi nhận thấy
giọng điệu tiểu thuyết Mạc Ngôn là sự phối thanh của các bè bỡn cợt, lạnh lùng, khoa
trương, giễu nhại, bi cảm, tâm tình. Các “bè” này tương tác lẫn nhau một cách bình
đẳng, ăn ý, nhuần nhuyễn tạo nên sự phức điệu. Nổi bật trong tiểu thuyết Thập tam bộ
là giọng bỡn cợt và giọng lạnh lùng, qua đó giúp tác giả phản ánh được thực trạng xã
hội Trung Quốc những năm cuối thế kỷ XX và bày tỏ thái độ của ông trước những
hiện tượng bất bình thường trong những cái bình thường.
3.1.1. Giọng bỡn cợt
Giọng bỡn cợt là một trong những hình thức biểu hiện của bút pháp trào lộng. Nó
trở thành một bút pháp quen tay của Mạc Ngôn trong tiểu thuyết, đặc biệt là ở tiểu
50
thuyết Thập tam bộ. Có thể hiểu một cách đơn giản nhất “bỡn cợt là đùa chơi cho vui,
xem như chuyện đùa, không nghiêm chỉnh, không coi trọng” [20, tr.119]. Và với tiểu
thuyết này, tác giả đã dùng giọng bỡn cợt kết hợp với những giọng điệu khác để chế
nhạo, chỉ trích, phản kháng những cái tiêu cực, xấu xa, độc ác trong xã hội.
Trong tiểu thuyết này, giọng điệu bỡn cợt được thiết lập nên bởi sự đảo nghịch
của hai vế câu hoặc hai câu đi liền kề nhau. Vế đầu (hoặc câu đầu) đang nói với một
giọng nghiêm túc, đường hoàng, thì ngay lập tức ở vế sau (hoặc câu sau) lại chêm vào
một lời bỡn cợt khiến ý nghĩa nghiêm túc của nửa câu đầu (hoặc vế đầu) bị lật nhào.
Khi giới thiệu về tờ Quần chúng nhật báo, người kể chuyện nói rằng: “Loại nhật báo
này thì hầu như thành phố nào cũng có, bốn trang, kích cỡ gần giống với tờ “tin tức
tham khảo”, chất lượng giấy cực tốt, có độ thấm nước và rất mềm mại. Điều này có
liên quan mật thiết tới chuyện tờ báo này có mặt thường xuyên ở các nhà xí công cộng,
kể cả ở các nhà xí cá nhân. Chính quyền thành phố mỗi năm bù lỗ cho tờ báo này gần
nửa triệu nhân dân tệ” [18, tr.99]. Rồi lại kể tiếp “Năm ngoái có một ông già nào đó
gan đầy mình làm việc ở ủy ban thành phố có trình lên lãnh đạo ý kiến đề nghị dẹp bỏ
tờ báo này khiến hơn hai nghìn người dân thành phố lửa giận bốc lên ngùn ngụt.
Người ở thành ủy càng tức giận, có người còn đề nghị đem ông già giam chung với
những chính trị phạm ở nhà tạm giam số 19 ngõ Tụ Tài” [18, tr.100]. Nguyên nhân
của sự bất bình này là “chúng ta thử nghĩ mà xem, tất cả các thành phố khác đều có tờ
nhật báo riêng của mình, còn thành phố chúng ta thì không có, liệu còn mặt mũi nào
không?” [18, tr.10]. Mở đầu là những lời giới thiệu rất ngắn gọn và nghiêm chỉnh về
thông tin của tờ Quần chúng nhật báo – một tờ báo của thành phố, nhưng điều mà
người kể chuyện muốn nhấn mạnh lại là công dụng cực kì to lớn của tờ báo này - “có
mặt thường xuyên trong các nhà xí”. Qua lời giới thiệu của tác giả người đọc cứ tưởng
tờ báo này làm việc vô cùng hiệu quả, xứng đáng với trách nhiệm là cơ quan ngôn luận
của một thành phố cho nên người dân mới yêu thích và không nỡ xóa bỏ tờ báo này.
Nhưng bằng giọng bỡn cợt, người đọc biết rằng tờ báo vẫn tồn tại chẳng qua vì có thể
làm giấy vệ sinh miễn phí cho người dân nên người ta mới yêu thích và vô cùng phẫn
nộ khi biết có người muốn dẹp bỏ tờ báo. Và phải chăng các thành phố khác đều có tờ
báo riêng của mình nhưng cũng đều chung một tình trạng là làm giấy vệ sinh trong các
nhà xí. Người ta chấp nhận bù lỗ vì thể diện, vì muốn được oai hơn khi có tờ báo
riêng. Điều này cũng dễ hiểu bởi cả xã hội đang thi đua, đang chạy đua theo thành tích
51
một cách rầm rộ mà việc có một tờ báo riêng sẽ là một thành công vô cùng to lớn, có
thể ngẩng mặt làm oai và không bị lép vế trước những thành phố khác cho dù sự tồn
tại của nó đang kìm hãm sự phát triển của xã hội.
Sau khi thầy giáo Phương Phú Quý chết, tất cả các thầy giáo Vật lý đều kéo đến
thăm vợ con thầy Phương, “người nào cũng tỏ vẻ đưa đám, lại vừa giống những tên tù
phạm” [18, tr. 299]. Họ đến và mang theo một con ngỗng đã được làm sẵn do thầy
giáo “tuổi cao đức trọng Mạnh Lão Phu Tử” ôm trên tay. Rồi “như một đàn cá, các
thầy giáo vây quanh con ngỗng tiến vào phòng” [18, tr.299], “tất cả mọi người đứng
ngồi lổn nhổn chung quanh mái đầu bạc của thầy Mạnh trông giống như một đám lâu
la đang vây quanh đại vương của mình” [18, tr.300, 301]. Sau khi mọi người ổn định
chỗ ngồi, Đồ Tiểu Anh phát hiện “miệng của con ngỗng đang chảy nước dãi, một
dòng nước trắng đục liên kết miệng nó với nền nhà trông giống như trẻ con đang đái”
[18, tr.301], trong khi đó thầy Mạnh đang dùng những lời lẽ hết sức đau buồn để chia
sẻ với gia quyến. Trong tình cảnh đầy xúc động ấy, các thầy giáo vật lý đến thăm vợ
con thầy Phương là hợp lẽ, hợp tình vậy mà người kể chuyện lại ví họ giống như “một
đàn cá” rồi lại giống “một đám lâu la đang vây quanh đại vương của mình” trong khi
không khí của buổi nói chuyện bị bao trùm bởi sự đau thương, tiếc nhớ. Điều đáng nói
là trung tâm sự chú ý của mọi người lại tập trung nơi con ngỗng khi trông nó giống
như “trẻ con đang đái”. Giọng điệu bỡn cợt mang lại cho người đọc tiếng cười hài
hước. Xem ra tác giả nghĩ rằng cuộc thăm viếng của các thầy giáo Vật lý hôm đó thật
nực cười, rập khuôn và sáo rỗng. Đi chia buồn với người khác mà như đang diễn hề
vậy. Còn Đồ Tiểu Anh bất chợt lại thấy không vui không phải vì nhớ thương chồng
mà vì nghĩ “nước trong thịt ngỗng sẽ làm ướt củi khi nướng” [18, tr.303]. Tất cả
những điều nực cười đó cho thấy nỗi đau của mọi người trước sự ra đi của Phương
Phú Quý cũng không phải ghê gớm lắm. Các thầy giáo đến vì nghĩa vụ và Đồ Tiểu
Anh ngồi tiếp chuyện cũng chỉ vì nghĩa vụ của người vợ có chồng vừa chết một cách
rất oanh liệt.
Cái chết của Phương Phú Quý cũng làm cho sản phẩm của xưởng đồ hộp trường
Trung học số 8 bán rất chạy. Khi Đồ Tiểu Anh được “nữ chính ủy” gọi đến để giao
nhiệm vụ mới, cô nhìn thấy trên nhãn đồ hộp có in những dòng chữ to màu vàng:
“Thầy giáo nhân dân ưu tú chết trên bục giảng khẩn cầu mọi người: Hãy mua mỗi
người một hộp thịt thỏ nhiều dinh dưỡng, chất lượng cao này! Vì tất cả những đứa trẻ
52
đang học tại trường Trung học số 8, hãy mua thịt thỏ đóng hộp” [18, tr.489]. Khi Đồ
Tiểu Anh tiến hành công việc mới, đi tiếp thị sản phẩm bằng cách đưa băng rôn, hình
ảnh Phương Phú Quý dán đầy xe, cô có cảm tưởng như chính anh ta đang khẩn cầu
mọi người mua thịt thỏ đóng hộp: “Hỡi các công dân, các người có tấm lòng thông
cảm và đồng tình nào chăng? Hãy mua thịt thỏ đóng hộp hiệu Dục Hồng! Hỡi các
công dân! Các ngài có quan tâm đến thế hệ tương lai của tổ quốc không? Hãy mua
thịt thỏ đóng hộp hiệu Dục Hồng!” [18, tr.497]. Người sống đang dùng mọi cách thức,
thủ đoạn để kiếm tiền một cách trắng trợn, bất chấp cả việc trao cho linh hồn người
mới chết một “vinh dự” lớn lao được làm hình ảnh đại diện để quảng cáo cho xưởng
thịt hộp. Những câu khẩu hiệu này nghe qua thật buồn cười và khó hiểu. Không biết
việc mua thịt thỏ đóng hộp và tương lai của Tổ quốc có liên quan gì với nhau mà
người ta lại có thể nghĩ ra những cách như vậy. Xã hội đã lộn xộn, bê bối và không
còn giá trị nào để làm chuẩn mực cho hành vi của con người nữa ư? Đặc biệt lời giải
thích của “nữ chính ủy” nói với Đồ Tiểu Anh khiến người đọc vừa thấy nghiêm túc lại
vừa nực cười: “Trước mắt, đất nước còn nghèo, muốn sự nghiệp giáo dục đi lên, mỗi
trường phải tự nghĩ cách để cứu lấy mình, do vậy với cương vị mới này, cô còn quan
trọng hơn cả mười giáo viên trong trường nữa đấy!” [18, tr.490], tức là việc bán hàng
của Đồ Tiểu Anh sẽ mạng lại lợi ích gấp nhiều lần so với những giáo viên đang trực
tiếp giảng dạy kiến thức trên bục giảng. Đây là quan điểm của “nữ chính ủy” cũng là
quan điểm của nhiều người trong bối cảnh nền kinh tế đang trì trệ, nghèo nàn và cách
để sự nghiệp giáo dục đi lên là mỗi trường phải tự chèo chống bằng cách buôn bán
kiếm lời. Thông thường, ở các trường học chúng ta chỉ thấy giáo viên và học sinh
được học hành vui chơi trong một môi trường rất tốt, yên tĩnh nhằm giáo dục về kiến
thức và đạo đức cho các em. Nhưng ở trường Trung học số 8 này lại xuất hiện một
xưởng thịt thỏ đóng hộp với đầy đủ các công đoạn lột da, chặt đầu, mổ xẻ, chế biến.
Đây là cách tự cứu mà nhà trường đưa ra để giải quyết tình trạng kinh tế eo hẹp. Vậy
một ngôi trường mà có bao điều “mới lạ” như vậy, liệu học sinh có được hưởng những
điều kiện và quyền lợi tốt nhất như chủ trương đề ra không khi ngày ngày chứng kiến
sự ồn ào, náo nhiệt của xưởng đồ hộp ngay trong trường mình. Và không chỉ riêng
trường Trung học số 8 mà chúng tôi nghĩ rằng trường Trung học số 1, 2, 3… cũng sẽ
có những phương thức tự cứu tương tự. Bề ngoài thì uy nghi nghiêm túc nhưng bên
53
trong lại ồn ào, chạy đua theo thành tích báo hiệu sự đổ vỡ, rạn nứt của nền giáo dục
Trung Quốc những năm cuối thế kỉ XX.
Mỗi người sinh ra trên đời đều đáng quý và quan trọng như nhau, vì vậy không
thể mang bản thân ra để đùa cợt mà phải biết trân trọng và giữ gìn. Nhưng những nhân
vật trong tiểu thuyết này lại đem cái chết ra làm trò đùa, xem như chuyện bình thường.
Khi Phương Phú Quý chết trên bục giảng mọi người đau khổ vô cùng, nhưng khi anh
ta sống lại mọi người vô cùng tức giận. Nực cười hơn khi họ cho rằng, “để cải thiện
đời sống cho toàn thể giáo viên thành phố, kéo dài tuổi thọ của họ, Phương Phú Quý
mà sống lại, anh ta sẽ là kẻ phản động, Phương Phú Quý còn sống mà vào nhà tang
lễ, đó chính là đại nhân đạo” [18, tr.104]. Chính lời kêu gọi này đã khiến Phương Phú
Quý phải tự vấn lòng mình, phán xét mình có nên tiếp tục sống hay không mặc dù tim
anh vẫn đập. Có rất nhiều người biết Phương Phú Quý vẫn chưa chết nhưng cố tình
khiêng anh ta vào nhà tang lễ. Đây là suy nghĩ của người làm công : “Ông thầy này đã
chết mà mạch trên cổ chân vẫn đập. Điều này chứng tỏ máu của ông ấy vẫn đang lưu
thông, tim ông ấy vẫn đang còn đập…” [18, tr.113]. Còn đây là suy nghĩ thầm kín của
hai anh em sinh đôi: “Thầy ơi! Chúng em đang khiêng cái xác chết tim vẫn còn đập
của thầy. Thầy ơi! Những kiến thức về Vật lý của thầy chứa đầy trong bụng nhưng
không thể phát ra được từ miệng, nên thầy đành để cho nó thoát ra từ hậu môn. Chúng
em nghe được tiếng thầy đánh rắm liên tục, trước mắt chúng em hiện ra cảnh thầy
đứng cạnh bảng đen viết công thức Vật lý và những hạt bụi phấn bay tung trong không
khí. Chúng tuy thối, song chúng em thích nghe…” [18, tr.114, 115]. Ngay cả lúc
Phương Phú Quý lên tiếng đòi trở về nhà, không muốn vào nhà tang lễ nhưng hai anh
em này lại “ngỡ là thầy Phương giống như ngựa già nhớ chuồng, đã chết mà vẫn
muốn quay về để thăm vườn trường, phòng học quen thuộc, gặp lại những khuôn mặt
thân yêu của học trò” [18, tr.120]. Lẽ nào những điều cơ bản về sinh học như vậy mà
những thầy giáo này cũng không biết? Bên ngoài tỏ ra đau đớn, tiếc thương người thầy
yêu quý nhưng phải chăng hai anh em sinh đôi này cũng như người khác? Cũng mong
thầy mình đừng sống lại để những cuộc vận động quan tâm đến đời sống của giáo viên
trở thành hiện thực, sẽ được nâng lương và cuộc sống nay mai sẽ khá hơn? Nhìn nhận
về cái chết, Lý Ngọc Thiền sau khi nhảy sông đã nhận ra một chân lý vĩnh hằng: “chết
vinh quang không bằng sống nhàm chán” [18, tr.177]. Điều này đi ngược với chân lý
mà xưa nay chúng ta vẫn tôn thờ “chết vinh còn hơn sống nhục”. Con người bây giờ
54
không coi trọng nghĩa khí như trước nữa, chỉ cốt làm sao để họ có thể sống được, có
thể hưởng thụ một cách nhiều nhất.
Hay trong đoạn viết về việc Lý Ngọc Thiền chuẩn bị bữa ăn cho mẹ của mình mà
người kể chuyện cho là “dư luận phải tuyên dương, cần phải được tuyên truyền trên
chuyên san đạo đức gia đình của tờ nhật báo”, và đây là công thức của món ăn: “đem
thịt gà và thịt bò giã nhỏ, sau đó trộn với cơm trắng. Tiếp theo là nghiền nát thuốc ngủ
trộn vào” [18, tr.251]. Nên lưu ý là nếu tăng thêm ba viên thuốc ngủ nữa vào cơm của
mỹ nhân họ Lạp thì cô sẽ trở thành kẻ mưu sát. Như vậy bằng giọng điệu bỡn cợt tác
giả đã tạo nên một sự hài hước nhưng qua đó mà làm nổi bật thái độ mỉa mai, cười chê
của tác giả đối với những hiện tượng được nhắc đến. Cũng qua đây, người đọc có thể
hiểu rằng việc làm của Lý Ngọc Thiền được tuyên dương đồng nghĩa với những việc
làm tương tự của người khác với hành vi vô nhân đạo, trái ngược đều được dư luận
ủng hộ, sùng bái một cách mù quáng.
Thủ pháp so sánh theo kiểu vật hóa cũng làm nên chất bỡn cợt cho giọng điệu
tiểu thuyết Mạc Ngôn: “Tôi(Trương Xích Cầu) năm nào hào hoa phong nhã, mái tóc
bồng bềnh đen nhánh trên đầu như lông chó mực” [18, tr.34]; “anh đuổi theo chiếc xe
đạp của cô ta như một chú chó con” [18, tr.40]; “Ông ấy đứng dậy trên chiếc giường
chỉnh dung của em, toàn thân chẳng có gì hết, trông giống như một con gà trống đã bị
vặt trụi hết lông” [18, tr.48]; “Đôi môi như hai con đỉa to mập của anh ta rung rung”
[18, tr.115]; “Từ cái mặt đỏ như gà chọi của ông ta” [18, tr.82]; “cô đúng là một con
lạc đà cái” [18, tr.120]; “Tay phóng viên ấy như ruồi cứ bao vây và bám vào người
tôi” [18, tr.171]; “cô có cảm giác rằng, có một con khỉ già nào đó đang nắm tay và
kéo cô đi” [18, tr.187]; “Cô nằm gọn trong lòng ông ta như một con dê bằng gấm
ngoan ngoãn!” [18, tr.189]; “Ông ấy nằm bẹp như một con chó chết bên cạnh tôi”
[18, tr.191]; “Anh ta cảm thấy da mặt mình rất mỏng, rất non; giống như một con ve
mới lột xác” [18, tr.231]; “Thầy giáo Vật lý cũng rất đẹp trai, tóc rẽ đường ngôi ở
giữa, bóng mượt, vành tai vểnh lên như tai thỏ” [18, tr.234]; “nó vàng vàng như cái
đuôi của con chồn” [18, tr.247]; “Đôi môi Trương Xích Cầu run lên, động đậy như
một con sâu đo” [18, tr.254]; “Lưng anh ta cong lắm giống như lưng tôm, đầu tóc anh
ta dựng đứng trông giống như lông gà” [18, tr.386]; “Bà co rúm người lại, giống như
một con chó bị đánh đang vịn vào tường mà lê từng bước” [18, tr.444]. Có thể nói mỗi
người, mỗi nhân vật đều mang một đặc điểm nào đó của động vật nên trong cách viết
55
của mình, tác giả thường so sánh những đặc điểm đó với mỗi con vật tùy theo từng
hình dạng, trạng thái. Đi kèm với sự bỡn cợt là một thái độ mỉa mai, thậm chí coi
thường đối tượng được nói tới của tác giả, bởi không ai nói về những người mình kính
trọng, yêu thương mà lại đem so sánh với các con vật. Qua cách so sánh bỡn cợt này
không chỉ có tiếng cười mà còn có tiếng thở dài vì những giá trị thuộc về con người
đang dần mất đi.
Ngoài ra giọng bỡn cợt còn được tạo nên bởi lời văn mang tính nước đôi hoặc
những lời lẽ hớ hênh tạo nên sự trật khớp, thậm chí phản nghĩa giữa lời và ý. Nhìn
chung trong tiểu thuyết Thập tam bộ, giọng điệu bỡn cợt được tác giả sử dụng khá
nhiều và nhiều nhất với mục đích tuyên dương các vị “anh hùng” của xã hội, những
“chiến sĩ cách mạng” chân chính. Đầu tiên là việc Phương Phú Quý chết trên bục
giảng gây ra một làn sóng dư luận đòi cải thiện cho đời sống các giáo viên, xây lại khu
cư xá cho giáo viên, ngay cả xưởng sản xuất thịt thỏ của trường cũng nhân cái chết này
mà kêu gọi mọi người mua thịt thỏ đóng hộp vì các thầy giáo còn đang sống. Như vậy,
khi chết Phương Phú Quý đã trở thành một vị “anh hùng” trong mắt mọi người. Tiếp
đến là việc Lý Ngọc Thiền được tờ nhật báo đăng bài ca ngợi với nhan đề “đóa Thạch
Lựu đẹp nhất”. Cô được xem là đóa Thạch Lựu bởi hoa Thạch Lựu tượng trưng cho
cách mạng, là hoa của “tinh thần chủ nghĩa cộng sản”. Cống hiến của cô là chỉnh
dung cho người chết tức là lừa thân nhân của người chết và những nơi sẽ “tiếp đón”
người chết mà tiêu biểu là việc cô đã cắt bỏ một lượng lớn mỡ thừa của phó cục trưởng
Vương (khoảng 30 kg) làm cho ông có một khuôn mặt nghiêm nghị nhưng khắc khổ
và một cái bụng xẹp lép. Thật đáng “tuyên dương” cô vì lượng mỡ thừa ấy cô đem đổi
cho người nuôi thú dữ để đổi lấy thịt lợn, thịt gà hoặc thịt bò. Ấy vậy mà những lời ca
ngợi về cô vẫn không ngớt, không những thế được đà họ “cũng ca tụng luôn vị phó
cục trưởng nọ - đây là một người cậu, một lãnh đạo “chí công vô tư”, “anh ta ca ngợi
việc cô chỉnh dung cho nữ anh hùng, được đà cũng ca tụng luôn người chồng anh
hùng của người nữ anh hùng đi khắp nơi để báo cáo” [18, tr.168]. Đến lúc này thì
giọng bỡn cợt phát huy hết hiệu quả, mặc dù nhìn qua thì những lời kể ấy có phần
nghiêm túc, chỉ nói sự thật nhưng qua câu chuyện đó người đọc còn biết thêm về một
sự thật phũ phàng hơn đó là cả xã hội lúc này đang sùng bái anh hùng một cách cuồng
nhiệt đến mê muội, không còn phân biệt được các giá trị chân thực của cuộc sống nữa,
mọi ranh giới đã bị phá nát. Đồ Tiểu Anh được xem là một người chiến sĩ cách mạng
56
chân chính vì thành tích trong lao động cũng như đức hạnh của cô. Đó là việc năng
suất lột da thỏ trong xưởng không ai bằng, là thái độ tốt trong lao động, là vợ của “anh
hùng” Phương Phú Quý và ngay sau đó cô liền vội vàng kết hôn với người khác để tìm
chốn nương thân mới cho mình. Ấy vậy mà “tờ Nhật báo của thành phố liên tục đăng
tải những bài viết về hiệu quả công tác cũng như đức hạnh của Đồ Tiểu Anh khiến
thành ủy và ủy ban nhân dân để ý, tổ chức gặp gỡ và được chọn làm đại biểu đại hội
nhân dân toàn quốc” [18, tr.499]. Ta có thể nghĩ đó là những “tiêu chí” mà xã hội dựa
vào, là căn cứ để kết nạp cô vào Đảng cộng sản, biến cô thành một người được xã hội
trọng vọng. Còn phó cục trưởng Vương là người tình của mẹ Lý Ngọc Thiền, cũng là
tình nhân của Lý Ngọc Thiền với một khuôn mặt bự, cái bụng phệ nhưng được xã hội
cho là một phó cục trưởng “chí công vô tư”, “trước khi chết một giây phó cục trưởng
vẫn đang làm việc” [18, tr.166]. Ông cũng đã từng được xem là một “anh hùng” vì đã
quên mình lao xuống dòng sông để cứu thiếu nữ bị rơi xuống sông, bất chấp cả tính
mạng. Qua cách kể của người kể chuyện thì những vị “anh hùng” này đều rất độc đáo,
mỗi vị đều có những “đóng góp” riêng cho xã hội, đều đáng được tuyên dương, đều
được mọi người yêu quý vì ai cũng được ngợi ca trên tờ Nhật báo. Bằng giọng bỡn
cợt, tác giả cho chúng ta nhận ra những “anh hùng”, những người tiêu biểu trong một
giai đoạn của xã hội Trung Quốc đều là dởm, đều bỉ ổi và kệch cỡm. Cũng nhờ những
“anh hùng” này mà cả một xã hội mất hết những giá trị đạo đức chân chính, mọi thứ bị
đảo lộn, vùi dập không thương tiếc dẫn đến kết cục hủy diệt của các nhân vật.
Sự hớ hênh, kệch cỡm ấy còn được tác giả thể hiện rõ ở đoạn nói về người chồng
của một nữ công nhân vì “cứu tài sản quốc gia” mà bị thiêu cháy. Sau khi vợ chết anh
ta đi khắp nơi để báo cáo: “Anh ta dùng sự thật sắt thép để chứng minh một chân lý:
anh hùng lúc nào cũng là anh hùng. Do vậy mà chồng của anh hùng cũng biến thành
anh hùng” [18, tr.158]. Chính vì vậy mà “anh ta được mời đến trường đại học, nhà
máy, cơ quan, nhà trẻ…để báo cáo về những sự tích của người vợ anh hùng.”, “bấy
giờ mà có đơn vị, cơ quan nào không mời anh hùng đến báo cáo những sự tích anh
hùng, chắc chắn đơn vị, cơ quan ấy cảm thấy hổ thẹn với đơn vị khác, chắc chắn sẽ
gặp những chuyện phiền phức” [18, tr.158]. Những lời văn tưởng như chân thành,
thành thực ấy lại vẽ ra trước mắt người đọc một khung cảnh lố lăng nực cười khi cả xã
hội đang chạy đua theo thành tích, mọi người đều yêu thích anh hùng, đều bắt chước
nhau một cách rập khuôn và máy móc. Họ nghe báo cáo những sự tích của anh hùng
57
không phải vì họ muốn nghe để biết, để học hỏi mà chỉ để thỏa trí tò mò, không bị lạc
loài, không bị những chuyện phiền phức. Hóa ra con người phải sống giả dối, lừa gạt
lẫn nhau, thích áp đặt và làm khổ nhau. Bởi vì “sự thật là không có ai bắt buộc các
đơn vị, các cơ quan nào đó phải mời người anh hùng đến để báo cáo cả” [18, tr.158].
Những lời văn mang tính nước đôi cũng được trình bày khá nhiều trong tiểu
thuyết này. Sau khi thầy giáo vật lý, chồng của chuyên gia chỉnh dung Lý Ngọc Thiền
treo cổ tự tử, một phóng viên đến phỏng vấn cô đã nói những lời có cánh như sau:
“Cháu đến đây…mặc dù biết cô đang rất đau khổ…Vì những thầy giáo trung học
chưa chết hoặc chuẩn bị chết, mong cô hãy cố gắng vượt qua nỗi đau riêng để tham
gia vào cuộc phỏng vấn của cháu…” [18, tr.443]. Hiệu quả lời chia sẻ này của anh
phóng viên chắc chắn sẽ là nụ cười chứ không phải là nước mắt của người nghe.
Giọng đùa cợt, bông lơn nhưng hiện thực mà nó phản ánh lại rất chân thực, thể hiện
một cái nhìn đa cảm của nhà văn với cuộc sống.
Giọng điệu bỡn cợt trong tiểu thuyết đã tạo nên một phong cách tự sự bốp chát,
suồng sã, bông lơn một cách thản nhiên. Nó phá vỡ vẻ mực thước, trang trọng quen
thuộc của văn xuôi, khiến người đọc nhận ra một phong cách ngôn ngữ đầy táo bạo
của riêng Mạc Ngôn. Bỡn cợt nhưng nội dung mà nó phản ánh lại sâu sắc vô cùng,
đằng sau tiếng cười đó hiện lên một bức tranh cuộc sống ẩn chứa những ung nhọt, xấu
xa, giả dối của xã hội Trung Quốc cuối thế kỉ XX.
3.1.2. Giọng lạnh lùng
Trong cuốn Độ không của lối viết, R.Barthes cho rằng “không có hành ngôn viết
phi thái độ”. Đúng vậy, ngay cả khi không tỏ thái độ gì thì người kể chuyện đã tỏ thái
độ lạnh lùng rồi. Viết về cái xấu, cái ác, cái chết, Mạc Ngôn thường dùng một thứ
giọng điệu lạnh lùng, vô âm sắc, tẩy trắng mọi cảm xúc. Giọng điệu kể chuyện càng
lạnh lùng, thản nhiên và tàn nhẫn thì nỗi đau về thân phận con người càng lớn. Bởi vì
khi bị đẩy đến tận cùng của một cảm xúc nào đó, khi quá quen thuộc với một hiện
tượng nào đó, người ta hay rơi vào trạng thái xơ cứng cảm xúc. Trong cuộc sống đầy
rẫy những đau thương, khốn khổ, mất mát, “sống là kiếp chó, chết là kiếp người” ở
tiểu thuyết Mạc Ngôn thì cái chết là một cách giải thoát, là sự ưu ái, thậm chí là biệt
đãi chứ không phải là trừng phạt của thượng đế. Chính vì vậy mà khi viết về cái xấu,
cái chết Mạc Ngôn thường dùng bút pháp miêu tả mang sắc thái chủ quan là cơ sở cho
sự hình thành của giọng điệu lạnh lùng.
58
Khi viết về mỹ nhân họ Lạp (mẹ của chuyên gia chỉnh dung), tác giả đã thẳng
thắn và miêu tả một cách tỉ mỉ về tình trạng hiện tại của mỹ nhân họ Lạp: “Mỹ nhân
ngày ấy bây giờ dưới mông đã có hai vết thương lở loét, máu thịt bầy nhầy, mùi xú uế
bốc lên nồng nặc, những con nhặng đang dùng tinh thần của Ngu Công dời núi kiên
trì gặm nhấm những mụn thịt thối của bà ta” [18, tr.52]. Tất cả để chứng minh một
điều “bà ấy đang nằm sống dở chết dở trên giường”. Thế nhưng trước đây, bà ta được
xem là một mỹ nhân trong mắt người khác. Bà có “chiếc eo thon thả, mái tóc bóng
mượt còn đính một đóa hoa nhỏ màu hồng” [18, tr.41]; “Ngày ấy bà ta vẫn còn trẻ
lắm, đẹp lắm. Vòng eo gọn gàng, đầu tóc bóng mượt, hai bên vẫn còn giắt hai đóa hoa
màu hồng…giống như những bà chủ quán rượu ngày xưa” [18, tr.59] cho thấy bà ta
yêu đời, yêu cuộc sống và rất yêu bản thân mình. Vì thế mà bà đã từng nói với con gái
là đừng bao giờ đắc tội với bản thân mình. “Ngày xưa bà ta thích mang giày bằng lụa
đỏ, thích trần truồng đi lại trong vườn với một đóa thạch lựu giắt trên đầu. Bây giờ bà
ta nằm liệt trên giường, lấy cái thân hình mượt mà mềm mại ngày xưa nuôi từng đàn
rận gớm ghiếc” [18, tr.87]. Một người phóng khoáng và đa tình như mỹ nhân họ Lạp
mà bây giờ phải chịu cảnh nằm một chỗ quả là điều kinh khủng, chưa hết còn bị cấm
khẩu, bị lở loét, máu thịt bầy nhầy nhìn thật gớm ghiếc. Cũng bởi con gái bà sống
không dư giả gì nên suốt ngày cho bà ăn cơm trộn thuốc ngủ để tránh phiền phức và
tránh nghe những tiếng la ó của bà vì căn nhà quá chật hẹp cho năm người ở. Cho dù
như vậy nhưng người kể chuyện của chúng ta vẫn thản nhiên, lạnh lùng xem như đây
là chuyện quá đỗi bình thường và không có một chút thương cảm, chia sẻ nào cùng bà
ta qua giọng điệu của mình. Có lẽ cũng vì chứng kiến nhiều cảnh còn thương tâm hơn
thế nên người kể đã chai lỳ với những vấn đề như vậy.
Tác giả cũng dùng một giọng lạnh lùng để miêu tả về người ngồi trong chuồng
sắt. Người này đã từng là một thầy giáo Vật lý nhưng giờ đây anh ta trở thành một
“động vật người” chỉ thích ăn phấn và “chộp” lấy những viên phấn một cách điệu
nghệ. Trong khi ăn phấn, nước dãi và nước mắt liên tục tuôn trào, khi thì “bọt mép đỏ
hồng đang trào ra trên khóe miệng anh” [18, tr.11]; “anh ăn phấn một cách vồ vập,
bụi phấn và nước dãi sền sệt rơi lả tả và chảy thành dòng hai bên khóe miệng anh.
Anh thè đầu lưỡi nhọn hoắt liếm nước dãi và bụi phấn quanh miệng” [18, tr.13]; “Anh
thích ăn phấn đến độ khi trông thấy chúng, mắt anh sáng lên, nuốt nước bọt ừng ực
làm cho yết hầu trên cổ anh chạy lên chạy xuống…” [18, tr.21]; “Hai bên khóe mắt có
59
hai dòng nước đặc sệt trắng nhờ chảy ròng ròng. Con người dùng thạch cao để làm ra
phấn, còn anh thì dùng dạ dày để biến phấn trở lại thành thạch cao” [18, tr.44]. Tại
sao một thầy giáo oai nghiêm trên bục giảng năm xưa giờ lại trở thành một con người
dị dạng, kì quái như vậy khi chỉ muốn giam mình trong chuồng sắt, chỉ thích ăn phấn.
Không có một loài động vật nào thích ăn phấn dù đó là loài có vú hay không có vú, ở
trên không hay dưới mặt đất. Anh ăn phấn vì nghề giáo viên của anh chỉ phấn là sẵn
có, vì tiền lương của giáo viên thời ấy quá thấp không đủ nuôi sống bản thân, ăn phấn
cũng để nuôi giấc mộng có thể dìu dắt học sinh của mình vượt qua cả Các Mác và
Lênin. Một thầy giáo mà còn bị tha hóa, bị cuộc đời đày đọa và biến đổi như vậy thì
liệu những thân phận khác có sống tốt hơn hay không, sống được hay không trong xã
hội đầy biến động và vô tình đó?
Giọng điệu lạnh lùng còn được thể hiện ở việc tác giả miêu tả những cái chết một
cách thản nhiên, bình thản. Trong tiểu thuyết này, chết được xem là một sự giải thoát
của nhân vật vì vậy mà sự tiếc thương, sự phẫn nộ, oán trách của tác giả với những cái
chết ấy là không có. Khi phó cục trưởng Vương chết, Lý Ngọc Thiền được giao nhiệm
vụ là phải làm cho phó cục trưởng Vương gầy hơn một chút để làm hài lòng người
thân, những người đến viếng và đặc biệt cũng bởi vì ông là người suốt đời “chí công
vô tư”. Khi tác giả miêu tả Lý Ngọc Thiền xẻ thịt mỡ trên người phó cục trưởng
Vương trông giống như cô ta đang xẻo thịt lợn và cô cũng giống như những tay đồ tể
chuyên nghiệp vậy. Chỗ nào cần rạch thì cứ rạch, cần cắt thì cứ cắt, không có một biểu
hiện nào của sự đau đớn, tiếc thương với người đã khuất: “Để kết thúc thật nhanh tình
trạng này, cô dùng tay trái đẩy mạnh cằm của xác chết lên, da trên cổ của xác chết
được căng ra. Anh ta nói cô đã rất chuẩn xác và mạnh mẽ cứa con dao vào cổ xác
chết, ngay lập tức, hai lằn thịt màu trắng đục được phanh ra hai bên, trông giống như
lưỡi cày phập sâu xuống mảnh đất phì nhiêu và từng luống đất được lật lên” [18,
tr.142]; “Sau khi cắt bỏ thịt và mỡ trên mặt, cằm và cổ của phó cục trưởng Vương, Lý
Ngọc Thiền lùi ra một bước, chăm chú nhìn gương mặt đã bị phá nát của tình
nhân…Nhằm ngay rốn, cô dùng dao mổ vạch từ trên xuống một đường dọc dài khoảng
nửa tấc. Không có chút máu nào, mùi vị cũng không, chỉ có mỡ trắng từ từ đùn ra theo
đường rạch của cán dao. Ngay lập tức, trên bụng của phó cục trưởng Vương hình như
có một đóa hoa trúc đào trắng to tướng đang nở tung. Bụng của con người mà chứa
từng ấy mỡ sao…Cái hoa trúc đào to tướng màu trắng nhầy nhụa ấy đã được cô cắt
60
sạch. Một cách vô thức, cô vắt một cục mỡ thành hình một cây nến. Rất nhiều tảng mỡ
lớn có nhỏ có đã được cắt ra và vất vào một chiếc túi nilon màu đen treo bên bàn mổ”
[18, tr.163]; “Dùng da bụng và da mông để bù đắp lên mặt của phó cục trưởng quả
thật không dễ chút nào, vì da bụng và da mông thì quá trắng, sẽ đối lập hoàn toàn với
da mặt khá đen của ông ta lúc còn sống, như thế sẽ gây ngộ nhận cho người đến viếng.
Nhưng trước mặt cô chuyên gia siêu hạng này, không có vấn đề gì là không giải quyết.
Cô dùng bột màu bôi bôi xoa xoa, sau một hồi toàn bộ khuôn mặt của phó thị trưởng
xem ra không khác với lúc còn sống, có xanh hơn một tí cho phù hợp với hoàn cảnh
thực tại. Xong, cô dùng một chiếc kim khâu thật to khâu miệng vết thương dưới bụng
phó thị trưởng lại. Không có kẻ điên nào lại vạch y phục của người chết để kiểm tra da
bụng và da mông” [18, tr.164, 165]. Mặc dù Lý Ngọc Thiền từng là tình nhân của ông
ta nhưng sự thương cảm, đau đớn của Lý Ngọc Thiền dành cho phó cục trưởng Vương
là không và tất nhiên là với những xác chết được Lý Ngọc Thiền chỉnh dung cũng sẽ
không nhận được sự cảm thương, xót xa nào của cô chuyên gia. Tất cả chỉ còn lại sự
tận tụy và “một nỗi khoái cảm được khơi dậy trong lòng cô” [18, tr.164] với công việc
chỉnh dung của mình. Bởi vì “dưới mắt tôi xác chết là một hệ thống các chi tiết, linh
kiện mà trong ấy đã có một vài bộ phận đã bị hư hỏng hoặc hủy hoại. Nhiệm vụ của
tôi là sửa sang cái vẻ bên ngoài của xác chết, dưới mắt tôi không có ai thập toàn thập
mỹ, nhưng nếu cho tôi một cơ hội, tôi có thể biến một con quỷ dạ xoa thành thiên
thần!” [18, tr.156].
Với cái chết của Đồ Tiểu Anh, tác giả không ngần ngại gì mà dùng những lời lẽ
chính xác từng tí để miêu tả về cái xác của cô: “mắt cô ta nhắm nghiền, rong rêu dính
đầy lông mày, lông mi, mắt, tai, mũi, miệng đều trám đầy bùn” [18, tr.502], “cô ta
nằm đó, cô đơn, toàn thân đã bốc mùi thối khiến hàng vạn con nhặng lao đến bám đầy
trên làn da trắng bầm, hàng chục con quạ bay quần đảo trên trời và mười mấy con
chó hoang bao vây chung quanh” [18, tr.549, 550]. Thật không còn lời nào hơn để
diễn tả cái xác mà tác giả đã sử dụng, tuyệt nhiên không có lấy một tiếng than vãn hay
kinh sợ với người chết mà sự thật cứ được bóc trần một cách nghiệt ngã qua giọng văn
lạnh lùng của Mạc Ngôn. Hay việc Trương Xích Cầu giả treo cổ với những hành vi
cực kì lạnh lùng và quyết liệt. “Anh ta cởi quần áo, lượm lên một chiếc dây thừng cũ
kỹ nằm dưới đất, thắt thành một chiếc thòng lọng và buộc lên cành cây, sau đó anh ta
nhảy lên, chiếc đầu đã nằm gọn trong vòng thòng lọng. Ngay lập tức thân thể của anh
61
ta bị treo lơ lửng trên không trung. Dây thừng thít chặt lấy cổ anh ta, xương cổ bị gãy,
lưỡi thè ra ngoài, mắt trợn ngược lên, hai tay buông thõng, đung đưa, trông sao mà
thư thái” [18, tr.438]; một “khuôn mặt loang lổ thịt, bầy nhầy máu” cũng khiến người
đọc cảm thấy ghê sợ, hãi hùng trước cái chết của thầy giáo vật lý. Tuy nhiên dù kinh
sợ nhưng người đọc vẫn không thể nhỏ một giọt nước mắt nào trước những cái chết đó
bởi chính giọng điệu lạnh lùng của nhà văn.
Bên cạnh việc miêu tả những cái chết của các nhân vật thì việc miêu tả những
cảnh giết động vật cũng lạnh lùng không kém. Khi nói về cái chết của con hổ Đông
Bắc tác giả ngắt thành nhiều đoạn nhỏ, miêu tả từ từ như kéo dài sự đau đớn, bất lực
của con hổ khi đón nhận cái chết. “Con hổ vẫn đang nằm trên đất co co giật giật. Tuy
nó đã nhìn thấy bóng đen từ trên cành cây lao xuống, đã biết là tai họa sắp giáng
xuống, nhưng nó bất lực”, “con hổ chỉ còn thở thoi thóp. Kẻ ấy dùng gậy sắt thúc thúc
vào bụng, nó chẳng có phản ứng gì” [18, tr.188, 190]. Hay cái cách mà những công
nhân lột da thỏ phải làm, người bình thường sẽ thấy sợ, thương và không nỡ làm vậy
với những con thỏ nhưng những công nhân này đã quá quen thuộc và còn thấy thú vị,
hài lòng với công việc “lột mũ cởi áo” này, theo miêu tả của Đồ Tiểu Anh thì đây là
một công đoạn không khó lắm: “Con thỏ vẫn chưa chết, chỉ mới ngất, có thể nhìn thấy
cái bụng nó lúc co vào lúc phình ra. Với một con dao nhỏ và rất sắc, bà ta vạch một
đường nhỏ trên da chân con thỏ. Cuối cùng bà ta nhét vào vết rạch ấy một vòi cao su
và mở van một cái bình hơi ở bên cạnh. Không khí len vào khoảng giữa của da và thịt
khiến toàn thân con thỏ căng phồng lên, đôi tai run rẩy. Sau đó, bà ta chụp lấy vết
rạch, không cho không khí thoát ra ngoài rồi dùng một con dao mỏng như lá lúa rạch
một đường thật dài dưới da bụng con thỏ, dùng hai tay nắm lấy da, lôi mạnh. Toàn bộ
bộ da con thỏ đã rời khỏi xác nó, một giọt máu cũng không hề thấy” [18, tr.319, 321].
Hoặc là cảnh “máu phọt ra tung tóe, chảy ra thành dòng ngoài sàn nhà” khi hai bố
con chú Tư làm thịt bò nhưng mà “cả hai bố con đều không để ý” bởi vì họ đã quá
quen với công việc này. Qua lời người kể chuyện, dù đứng trước những cái chết khác
nhau của những thân phận khác nhau thì vẫn toát lên sự thờ ơ, không quan tâm của tác
giả trước những cái chết ấy mà chỉ là sự lạnh lùng vô cảm.
Trong tiểu thuyết Mạc Ngôn, không chỉ có cái chết của con người mà còn có
những cái chết lớn hơn, đó là cái chết của lý tưởng, của niềm tin nối tiếp nhau diễn ra
và cuối cùng làm nên những cái kết không có hậu cho tất cả các tác phẩm. Những cái
62
chết ấy cũng được miêu tả với giọng điệu lạnh lùng một cách nhất quán. Mỗi nhân vật
đều mang lại cho người đọc một niềm hi vọng, nhưng cuối cùng không một ai có thể
vươn lên, có khả năng làm đổi thay vận mệnh của cá nhân, gia đình và dân tộc. Cũng
giống như Hồng lâu mộng, các nhân vật của Mạc Ngôn dù tốt hay xấu, có tài hay bất
tài đều chịu chung một kết cục là hủy diệt. Mỗi khi có một tia hy vọng lóe lên cho
cuộc sống tăm tối của họ thì cũng ngay lập tức nó sẽ bị dập tắt không thương tiếc đến
mức vô duyên vô cớ. Khi bị ngất trên bục giảng mọi người tin rằng Phương Phú Quý
đã chết nhưng sau đó anh tỉnh lại trên đường đến nhà tang lễ, anh cựa quậy muốn mở
mắt để tiếp tục được sống nhưng “anh nhận ra rằng, thế giới của người sống đã cự
tuyệt anh” [18, tr.103]. Trải qua quá trình đấu tranh nên sống hay chết, cuối cùng khát
vọng được sống đã chiến thắng và để tiếp tục sống một cách đường hoàng, tiếp tục
theo đuổi ước mơ nghề nghiệp, anh cùng với Trương Xích Cầu và Lý Ngọc Thiền kí
kết một bản hiệp nghị rất chính nhân quân tử:
“1. Nhờ cô chuyên gia Lý Ngọc Thiền chỉnh trang gương mặt của Phương Phú
Quý – vốn đã giống với gương mặt Trương Xích Cầu – hoàn toàn thành Trương Xích
Cầu để trở về trường tiếp tục dạy học.
2. Trương Xích Cầu vẫn giữ nguyên dung mạo của mình đi nơi khác làm ăn
buôn bán kiếm tiền.
3. Tiền lương của Phương Phú Quý và tiền lãi do buôn bán của Trương Xích
Cầu sẽ được nhập lại làm một, chia đều làm hai phần để trang trải cuộc sống của hai
gia đình…” [18, tr.211].
Nhưng sau khi thực hiện những điều trong bản hiệp nghị, Phương Phú Quý dần
dần phát hiện ra những bất hạnh của đời mình. Anh cảm thấy mình là một thằng ngốc,
đã bị lừa bởi “Tôi thay đổi dung mạo cốt là để có cơ hội được gần gũi vợ con, nhưng
sau khi thực hiện sự thay da đổi thịt, cơ hội ấy dường như biến thành số không” [18,
tr.241], vợ anh đã hét lên: “anh đừng đến đây…Anh là ma, là quỷ” [18, tr.309] cô ấy
coi anh là người đã ve vãn vợ bạn, cầm kéo định đâm vào anh khi anh bò từ nhà của
Trương Xích Cầu sang. Con trai anh là Phương Long “đấm một cú trời giáng vào
bụng thầy giáo Vật lý” [18, tr.541] khi anh cố ngăn nó không được làm chuyện bậy bạ.
Con gái anh Phương Hổ sau khi bị anh tát vào mặt đã chửi: “Lão già kia! Ông có tư
cách gì mà đánh tôi? Lúc còn sống bố tôi chưa hề đụng đến tôi” [18, tr.547]. Tiếp đó
anh nghe tin vợ mình kết hôn rồi lại nghe tin cô ấy tự tử, tất cả niềm tin mất hết, đã
63
không còn điều gì luyến tiếc và níu kéo anh trong cuộc sống này. Anh tìm đến cái chết
để giải thoát cho cuộc đời đầy đau khổ của mình, cũng chấm dứt luôn niềm hi vọng
anh và vợ con sẽ sống tốt hơn của người đọc.
Cũng như Phương Phú Quý, Trương Xích Cầu đã kí vào bản hiệp nghị để mong
tìm được cơ hội đổi đời, kiếm thật nhiều tiền với công việc đi buôn. Trong ngày đầu
tiên đi buôn, anh gặp phải không ít chuyện. Anh bối rối nghĩ “buôn bán cái gì đây?
Làm thế nào để kiếm tiền? ... Anh đang lâm vào cảnh ngộ tiến thoái đều không ổn”
[18, tr.329], hi vọng lại đến với anh khi vợ gửi một trăm nhân dân tệ làm tiền vốn, số
tiền này như “tiếp sức cho anh để đẩy anh ta ra khỏi cửa” [18, tr.333]. Lần đầu tiên đi
buôn, anh không biết phải tính như thế nào, may gặp cô chủ quán tạp hóa tốt bụng bày
anh cách buôn bán, cô đưa thuốc lá cho anh ta mà không nhận tiền. Cứ tưởng Trương
Xích Cầu sẽ được đổi đời từ đây, nhưng đi được nửa chừng anh lại bị những lo lắng,
dày vò về cô vợ lẳng lơ của mình khiến anh có những hành vi làm người xung quanh
phải hoảng sợ. Do đó, Trương Xích Cầu bị giam ở đồn cảnh sát, bị đánh đập, bị bỏ đói
ba ngày và còn phải nộp phạt một trăm nhân dân tệ - số tiền duy nhất anh có. Sau khi
được thả, “anh ôm chiếc túi đựng thuốc lá lên, lòng vui như hội, mở cửa chạy ra khỏi
đồn cảnh sát… Anh quên mất khoản tiền nộp phạt, quên cả chuyện vợ anh đang nằm
trong vòng tay của con người giả danh… Anh đang lắng nghe trái tim anh hò hét: Tự
do muôn năm!” [18, tr.459]. Cơn đói lại dày vò anh, khi anh định mua một bát vằn
thắn thì vô tình đụng phải mông người khác nên bị người ta đánh và chửi thậm tệ; anh
muốn đổi bát vằn thắn bằng gói thuốc lá thơm cao cấp nhưng ông chủ không đồng ý,
anh lại đành phải lê cái thân hình tiều tụy vì đói đi nơi khác. May mắn lại đến với anh
khi trong người anh còn thuốc lá để bán, việc anh cần làm chỉ là mời khách mua thuốc
lá. Bằng kinh nghiệm của một thầy giáo, anh chào hàng và có một nhóm người tranh
nhau mua thuốc của anh, đám người xảy ra ẩu đả, người ta kéo anh bỏ chạy. “Anh bị
họ lôi chạy trên những con đường ruộng. có cảm giác đôi chân của mình đã rơi tự lúc
nào, ngay cả mình hiện ở đâu anh cũng chẳng biết nữa, chỉ có cảm giác mình là một
con chó chết đang bị người ta lôi vất đi. Thôi, tùy các người, đưa tôi đến đâu cũng
được. Hình như anh đã nằm trên một ruộng ngô, lá ngô sắc nhọn đang cứa vào da thịt
anh, cọ xát vào mắt kính của anh phát ra những âm thanh rin rít nho nhỏ” [18,
tr.471]. Tỉnh dậy, anh thấy mình đang nằm giữa ruộng ngô, anh phải bứt mấy trái ngô
non để nhai chống đói, đầu óc anh tỉnh táo hơn, “anh men theo những luống ngô bước
64
đi, hai hàng ngô hai bên như sẵn sàng đỡ lấy thân hình anh, lá ngô xào xạc trong gió
như cổ vũ anh” [18, tr.473]. Cứ ngỡ anh sẽ thoát khỏi đám ruộng nhưng không ngờ
đêm ấy trời lại mưa to dữ dội “bước chân của anh dường như là một sự vận động
mang tính cơ giới, không hề có ý thức. Trước mắt anh không hề có con đường nào cả,
bước chân của anh chẳng có mục đích nào hết. Anh chỉ là một hồn ma đang giãy giụa
trong vòng xoáy tàn bạo của đất trời” [18, tr.474, 475]; trong màn mưa trắng xóa
“anh ta nhận ra một đốm sáng vàng vàng đang bị bao vây bởi lục phủ ngũ tạng trong
cơ thể anh và chúng tôi đang lo lắng cho chút ánh sáng của hy vọng, chút lửa của sự
sống ấy. Anh ta nói với chúng tôi rằng, anh đang níu kéo cuộc sống bằng chút hơi thở
cuối cùng… Các vị hãy học tập tinh thần “khi trái tim còn đập, còn lao về phía trước”
của thầy giáo Vật lý” [18, tr.506]. Nhờ có ý chí như vậy nên anh đã được cha con chú
Tư cứu, cho ăn no, uống rượu say, đối đãi rất chân thành. Nhưng tai họa lại ập đến,
Trương Xích Cầu cũng bị bắt cùng với Thiết Ngưu và hai cha con chú Tư vì tội giết
hổ. Trải qua không biết bao nhiêu lần thẩm vấn, Trương xích Cầu cũng được thả ra.
Ngay khi quay về quán tạp hóa cũ, anh lại bị cảnh sát bắt giam vì trông anh giống như
tù nhân bỏ trốn. Trương Xích Cầu lại gặp đúng hai người cảnh sát từng giam anh nên
anh lập tức được thả ra, “trong lòng thầy giáo Vật lý tự cảm thấy mình gặp may, rời
khỏi đồn cảnh sát, quyết tâm quay về nhà” [18, tr.525]. Anh ta tìm đến người học trò
cũ Mã Hồng Trinh và khó khăn lắm mới mượn được một số tiền để sửa sang lại dung
mạo vì trông anh giờ giống một đồ tể chính hiệu. “Cầm chặt hai trăm nhân dân tệ
trong tay, thầy giáo Vật lý nghĩ đó chính là chìa khóa để mở cánh cửa thiên đường
hạnh phúc”. Nhưng anh lại đem số tiền đó bỏ vào thùng công đức để “quyên tiền cho
những thầy giáo đang giãy giụa trên con đường chết” [4, tr.528]. Đến lúc này, niềm hi
vọng được đổi đời không còn mà ngay cả việc muốn quay lại làm chính mình của
Trương Xích Cầu cũng là một mong ước xa xỉ vì người mạo danh anh đã thắt cổ chết,
anh đã không còn chỗ để đi, anh cũng không muốn tiếp tục cuộc sống như Phương Phú
Quý vừa trải qua khi mạo danh người khác, chính vì thế mà “có một người bị nhốt vào
trong chuồng sắt và ăn phấn” [18, tr.551].
Đồ Tiểu Anh làm công nhân ở xưởng đồ hộp, sau cái chết của chồng cô được đề
bạt làm phó xưởng trưởng xưởng số 1 kiêm luôn phó trưởng phòng tiêu thụ; đồng thời
được kết nạp vào Đảng cộng sản, niềm mơ ước của rất nhiều người trong đó có chồng
cô. “Ba ngày liên tục, tờ Nhật báo của thành phố liên tục đăng tải những bài viết về
65
hiệu quả công tác cũng như đức hạnh của Đồ Tiểu Anh khiến thành ủy và ủy ban nhân
dân để ý, tổ chức gặp gỡ và được chọn làm đại biểu đại hội nhân dân toàn quốc” [18,
tr.499]. Sự nghiệp của cô đang thăng tiến, tương lai rộng mở, quãng đời về sau của cô
sẽ đỡ vất vả hơn nhưng cô cũng đã cắt ngang niềm hi vọng ấy khi “nhảy xuống dòng
sông xinh đẹp. Ba ngày sau, xác cô ta tấp vào một bãi cát cách thành phố hơn bốn
mươi cây số” [18, tr.501].
Lý Ngọc Thiền cũng mong cuộc sống sau này sẽ tốt hơn, cô cũng sẽ được thỏa
mãn hơn khi có hai người chồng cùng chung sống nhưng rốt cục, mọi thứ xoay vần
đảo điên. Trương Xích Cầu giả thì chết, Trương Xích Cầu thật thì biệt tăm và cuối
cùng cô cũng trở thành ngây ngây dại dại, sống dở chết dở. Tất cả các nhân vật đều
gặp phải bi kịch, bế tắc bởi sống trong một xã hội đầy biến động, một xã hội thích
chạy đua theo thành tích, thích a dua và các giá trị đều bị thay đổi lẫn lộn.
Trong Thập tam bộ cũng như những tiểu thuyết khác của Mạc Ngôn, sự phân
chia các giọng điệu chỉ là tương đối bởi vì giữa các giọng điệu có sự giao thoa lẫn
nhau, trong bỡn cợt có khoa trương, giễu nhại, trong lạnh lùng vẫn có tâm tình. Mạc
Ngôn từng nói: “Nhà văn cần phải có giọng điệu riêng của mình và phải nói lên tiếng
nói đặc trưng của mình”. Dù viết về đề tài nào, theo khuynh hướng sáng tác nào ông
cũng thể hiện rõ chất Cao Mật trong ngôn ngữ, giọng điệu. Đó là sự khinh bạc, kiêu
ngạo nhưng đầy suy tư khắc khoải của người viết qua từng câu từng chữ của tiểu
thuyết. Từ những lời thô tục nhất đến những lời trang nhã nhất, đểu cáng nhất đến
nghiêm túc nhất, tất cả tạo nên giọng điệu riêng của Mạc Ngôn vừa ngạo ngược nhưng
cũng vừa khiêm tốn.
3.2. Ngôn ngữ trần thuật
“Ngôn ngữ là yếu tố đầu tiên của văn học” (M.Gorrky)
Ngôn ngữ là công cụ, là chất liệu cơ bản của văn học. Hơn bất cứ thứ chất liệu
và phương tiện nghệ thuật nào, ngôn ngữ cho phép người nghệ sỹ thể hiện sự sống
động, lung linh muôn màu muôn vẻ của thế giới tự nhiên, đời sống xã hội và tâm hồn
con người.
Theo từ điển thuật ngữ văn học, ngôn ngữ người trần thuật là phần lời văn độc
thoại thể hiện quan điểm tác giả hay quan điểm người kể chuyện đối với cuộc sống
được miêu tả. Có những nguyên tắc thống nhất trong việc lựa chọn và sử dụng các
phương tiện tạo hình và biểu hiện ngôn ngữ. Ngôn ngữ người trần thuật không những
66
có vai trò then chốt trong phương thức trần thuật mà còn là yếu tố cơ bản thể hiện
phong cách nhà văn, truyền đạt cái nhìn, giọng điệu, cá tính của tác giả.
Ngôn ngữ trần thuật của nhân vật có thể là đối thoại hay độc thoại. Đối thoại gắn
liền với việc những người nói hướng vào nhau và tác động vào nhau; độc thoại không
nhằm hướng đến người khác và tác động qua lại giữa người và người. Ngôn ngữ trần
thuật của nhân vật có nhiều chức năng khác nhau như: chức năng phản ánh hiện thực,
chức năng tự bộc lộ của nhân vật, chức năng là đối tượng miêu tả của tác giả hoặc
chức năng thể hiện nội tâm… Tổng hợp những chức năng đó, thông qua trần thuật,
nhân vật kể lại cuộc đời của mình, bộc lộ tâm tư, suy nghĩ, chiêm nghiệm về cuộc đời,
lẽ sống, giúp người đọc lĩnh hội được tư tưởng, quan niệm của nhà văn. Cùng với trần
thuật tác giả, trần thuật của nhân vật góp phần hoàn thiện bức tranh đời sống trong tác
phẩm. Mỗi nhân vật đều có ngôn ngữ trần thuật của mình, làm phân hoá ngôn ngữ tiểu
thuyết, đưa vào tiểu thuyết nhiều tiếng nói khác nhau, đa thanh, đa giọng điệu.
Chúng ta không thể tuyệt đối hoá việc phân chia trần thuật của tác giả với trần
thuật của nhân vật vì với việc chuyển điểm nhìn từ phía người trần thuật sang điểm
nhìn của nhân vật, từ điểm nhìn bên ngoài khách quan đến điểm nhìn bên trong chủ
quan, rất khó phân biệt đâu là chủ thể của trần thuật. Và cũng nhờ di chuyển điểm nhìn
mà văn chương khám phá, chiêm nghiệm về cuộc sống và con người một cách đa diện
và có chiều sâu hơn.
Ngôn ngữ trần thuật giữ một vị trí vô cùng quan trọng trong hệ thống phương
thức tự sự, nó là sự thể hiện trên nền hiện thực toàn bộ tư tưởng, tình cảm của nhà văn,
giọng điệu, cấu trúc tác phẩm và cho thấy điểm nhìn trần thuật của nhà văn. Do đó,
qua ngôn ngữ trần thuật, người đọc nhận ra phong cách, cá tính của tác giả.
3.2.1. Ngôn ngữ đối thoại
Trong tác phẩm tự sự thì đối thoại là một trong những hình thức để triển khai cốt
truyện. Ngôn ngữ đối thoại triển khai trong tác phẩm thường tạo ra được những tình
huống bất ngờ và gây cảm giác thực của đời sống đã khúc xạ qua lăng kính nhà văn.
Ngôn ngữ đối thoại giữ vai trò đáng kể trong khắc họa tính cách nhân vật. Mỗi nhân
vật được nhà văn quan niệm như một ý thức, một tiếng nói, một chủ thể độc lập. Nhà
văn không còn ở vị trí đứng trên, lấn lướt nhân vật mà hòa nhập, tham gia vào cuộc đối
thoại của nhiều ý thức độc lập, qua hệ thống hình tượng. M.Bakhtin cũng nhấn mạnh:
“Chính sự định hướng của lời nói con người giữa những lời nói của người khác (với
67
tất cả mọi mức độ tính chất xa lạ) tạo cho ngôn từ những khả năng nghệ thuật mới và
cốt yếu, tạo nên tính nghệ thuật văn xuôi đặc thù mà biểu hiện đầy đủ nhất và sâu sắc
nhất là ở trong tiểu thuyết” [4, tr.93].
Trong Thập tam bộ, lời của nhân vật không được sắp xếp theo trật tự đối đáp mà
được lồng xen vào lời người trần thuật. Để tạo ra tính đa thanh của ngôn ngữ trần
thuật, Mạc Ngôn đã khéo léo đưa ngôn ngữ đối thoại của nhân vật vào mạch kể của
người kể chuyện khiến cho câu chuyện được kể lại một cách tự nhiên. Ngôn ngữ đó
gắn liền với tính cách và cá tính, mang lại sắc thái riêng cho nhân vật.
Thông qua việc dùng ngôn ngữ đối thoại, tác giả muốn thể hiện con người Lý
Ngọc Thiền với tính cách độc đoán, chua ngoa và sự lọc lõi của cô trong cách ăn nói:
“- Cứ cho là anh có phúc đức mới gặp được người thiện lương như tôi, người
yêu anh, thương anh như tôi không nhiều… Nếu không có sự chăm sóc tận tình của
tôi, anh đã sớm ra khỏi cái “thế giới mỹ lệ” của chúng tôi rồi, hóa thành một đám mây
đen lơ lửng giữa không trung rồi.”
“- Cứt chó! Một chân của Lý Ngọc Thiền bay tới, suýt trúng vào lưng của thầy
giáo Vật lý – Anh dám không làm?” [18, tr.37, 38].
“- Nhưng mà, anh chưa hề được ăn những gì trong bát, chẳng qua là anh chỉ
liếm được vài cái trên miệng bát thôi” [18, tr.420].
Cô ta cũng là người thích sử dụng những thành ngữ, tục ngữ trong khi nói chuyện
vừa để chế ngự đối phương vừa thể hiện sự sắc sảo của cô. Khi ca phẫu thuật chỉnh
dung cho Phương Phú Quý thành công, Lý Ngọc Thiền nôn nóng muốn Phương Phú
Quý mở mắt ra, trong khi anh ta cứ chần chừ. Cô cầu khẩn, hối thúc: “anh sợ cái gì
nào? Người bị che ánh sáng lâu ngày đâm ra sợ ánh sáng, tôi hiểu anh. Nhưng tục
ngữ nói, đậu phụ làm xong thì phải bán ngay; con đẻ ra thì phải lo nuôi nấng; vợ vào
cửa phải lo gặp chồng; diều đã làm xong thì phải để cho nó bay…Anh hãy mở mắt ra
đi” [18, tr.232], nghe những lời nói này thì Phương Phú Quý không còn lý do nào
khác để không mở mắt. Hay “cho dù tôi có thể làm cho gương mặt anh đẹp lên, nhưng
tục ngữ đã nói, người ta chẳng bao giờ chê vùng đất mình sinh ra quá khổ; con không
bao giờ thấy mẹ xấu; chó chẳng bao giờ chê chủ nghèo do vậy anh nên nhìn khuôn
mặt mình lần cuối” [18, tr.223]. Nhưng cũng có lúc, cô ấy lại tỏ ra là một người độ
lượng, dịu dàng: “Ôi chao! Đáng thương quá! Các thợ giảng của các anh đáng
thương quá! Nhưng mà trong tất cả chúng ta, có ai không đáng thương nào? [18,
68
tr.201]. Nhân vật này cũng hay dùng những từ tục tĩu để đối đáp với chồng khiến
Trương Xích Cầu muốn nói cũng không lại:
“- Anh nấu cơm chưa?
- Chưa! Anh ta cúi đầu khom lưng nói: Tôi cần phải tranh thủ từng giây phút
đáng quý này để chấm cho xong bài tập của học sinh. Nghe nói đang chuẩn bị tổ chức
bình xét các danh hiệu, không thể qua loa được.
- Cứt chó! Lý Ngọc Thiền chụp tai thầy giáo Vật lý véo mạnh” [4, tr.31]
Và đây là những câu Lý Ngọc Thiền dùng để điều khiển Trương Xích Cầu làm
việc, toàn là những từ tục tĩu, chao chát:
“Đồ đốn mạt kia! Đôi mắt lấp loáng của anh đang nhìn vào ngăn kéo của tôi. Có
phải anh đang định phá khóa để lấy tiền của tôi? Tiền lẻ tôi cho anh đã hết rồi à? Con
thỏ đế kia, nói cho mà bết, phải bỏ thuốc lá đi! Tôi ra lệnh cho anh phải bỏ thuốc! Anh
kiếm được bao nhiêu tiền mỗi tháng mà còn đua đòi hút thuốc nào? Có phải muốn hút
thuốc lá mới chính là bước chuẩn bị để các thầy giáo các anh ăn phấn sau này chăng?
Xem cái mặt đức hạnh của anh kìa… Ngày ấy mắt tôi bị mù, bị mấy cái chữ trên bộ
quần áo thể thao của anh làm cho bị mê muội…” [18, tr.35].
“Cho muối vào mà chà mạnh đi! Đồ ngu ngốc, đồ mọt sách, đồ côn trùng bẩn
thỉu” [18, tr.38].
“Lộn lại mà rửa! Không lộn bên trong ra, bộ anh muốn ăn cứt à? Cho thêm muối
vào!” [18, tr. 39].
Cũng thông qua dùng ngôn ngữ đối thoại mà làm được nổi bật tính cách Trương
Xích Cầu: nhu mì, yếu đuối và luôn chịu sự ức hiếp, lấn át của vợ nhưng đôi khi lại là
một người thận trọng trong lời nói của mình:
“Cô làm tai tôi cụp xuống rồi, ngày mai làm sao đi dạy”
“Em yêu, em véo tai anh thành ra hình thù này, em không quan tâm ư?” [18,
tr.32].
“- Cô ta nói tiếp: Đừng nói nữa! Bây giờ tôi giao cho anh một việc, anh đi rửa
ruột lợn!
- Cô có tư cách gì mà bảo tôi đi rửa ruột lợn? Thầy giáo vật lý kêu lên: lẽ nào
đường đường là một giáo viên nhân dân mà lại đi rửa ruột lợn sao?
- Cứt chó! Một chân của Lý Ngọc Thiền bay tới, suýt trúng vào lưng của thầy
giáo vật lý – Anh dám không làm?
69
- Tôi làm!” [18, tr.38].
Đôi khi Trương Xích Cầu cũng là người tinh tế, biết thuyết phục người khác
bằng cách đưa ra những lí do vô cùng chính đáng khiến đối phương không thể không
nghe theo. Lúc Phương Phú Quý trở về cầu cứu hai vợ chồng Lý Ngọc Thiền rằng anh
ta muốn sống tiếp để đi dạy và gần vợ gần con nhưng sau một hồi nghe phân tích của
hai vợ chồng nhà này, anh ta đành hoãn lại ý định của mình:
“- Không! Tôi phải sống và tôi phải đến trường…
- Không được đến! Trương Xích Cầu nói: - Anh đến trường sẽ đại loạn, việc
học của học sinh sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng. Lúc này, trường đang cần tất cả học
sinh biến đau thương thành sức mạnh, lấy thành tích học tập để an ủi vong linh của
anh. Hiệu trưởng đã từng nói với học sinh rằng, mỗi một em đậu vào đại học chính là
một vòng hoa dâng cho thầy giáo Phương, vòng hoa ấy đẹp nhất, có ý nghĩa nhất. Cả
trường đang nhờ
cái chết của anh mà kêu gọi xã hội hãy quan tâm đến điều kiện sống của thầy giáo…
- Nếu anh sống mà không chết đi, cư xá mới của giáo viên sẽ chỉ là bong bóng xà
phòng…” [18, tr.204].
Phương Phú Quý và vợ anh là Đồ Tiểu Anh đều ít nói, tất cả những gì trong cuộc
sống phần lớn đều được họ chiêm nghiệm, suy ngẫm bằng hình thức độc thoại nội tâm.
Ngôn ngữ đối thoại trong tiểu thuyết Thập tam bộ xuất hiện ở nhiều cấp độ: đối
thoại giữa các nhân vật, đối thoại giữa các quan điểm nhằm thể hiện tính cách nhân
vật, tạo ra những tình huống bất ngờ, giàu kịch tính và làm nổi bật nội dung, tư tưởng
của tác phẩm. Điều này cũng góp phần tạo nên nét đặc sắc trong ngôn ngữ trần thuật
của nhà văn.
3.2.2. Độc thoại nội tâm
Bên cạnh đối thoại, độc thoại nội tâm cũng đóng vai trò chủ yếu trong phương
thức trần thuật của Thập tam bộ. Độc thoại nội tâm được hiểu là “lời phát ngôn của
nhân vật nói về mình, thể hiện trực tiếp quá trình tâm lý nội tâm, mô phỏng hoạt động
cảm xúc, suy nghĩ của con người trong dòng chảy trực tiếp của nó” [7, tr.122]. Do
vậy, nó được nhà văn sử dụng như một thủ pháp nghệ thuật có hiệu quả trong quá trình
tự ý thức của nhân vật và đi sâu khám phá thế giới nội tâm đầy bí ẩn, phức tạp của con
người.
70
Trong tiểu thuyết này, tiêu biểu là những dòng độc thoại của hiệu trưởng trên
đường đưa Phương Phú Quý vào nhà tang lễ. Lúc Phương Phú Quý định mở mắt ra thì
hiệu trưởng đã ngăn lại và cấm anh ta không được sống tiếp. Hiệu trưởng mô phỏng
theo lối hát Sơn Đông trên đường phố và thích thú nghĩ: “từng nghe cóc nhái bị lột da
nhưng tim vẫn đập. Miệng Phương Phú Quý vẫn nói khi đã chết. Cốc! Cốc! Cốc!
Người sống nói nhiều thì mang họa, huống hồ đã chết không thể tha. Cốc! Cốc! Cốc ...
Nếu không nghe lời ta mím miệng chắc, cho một mảnh vải bịt miệng chặt!” [18,
tr.109]. Rồi ông ta lại nghĩ tiếp: “Phương Phú Quý! Bình thường anh vẫn ít nói, cắm
cúi làm việc, đã từng được mệnh danh là con bò vàng kéo chiếc xe cách mạng. Nếu xe
không đổ thì vẫn cứ lao lên phía trước. Tôi đã từng muốn kết nạp Đảng cho anh
nhưng bí thư Lưu không đồng ý, cho rằng đằng sau ót của anh có chiếc xương làm
phản… Tôi thật bái phục bí thư Lưu, ông ta không hổ danh là chuyên gia quản lý con
người của Đảng. Anh đã chết nhưng vẫn ôm ấp mơ tưởng sẽ bồi dưỡng được những
học sinh sẽ vượt qua được cả Các Mác, Lênin! Ôi chao! Nếu anh không chết, chỉ cần ý
tưởng này cũng đủ để anh xuống tám tầng địa ngục, anh sẽ không được chuyển kiếp.
Người chết nếu không gây phiền nhiễu cho người sống thì người sống nhất định sẽ
kính trọng người chết…” [18, tr.109, 110]. Suy nghĩ của hiệu trưởng đã bộc lộ toàn bộ
con người ông ta, tính toán, vị kỉ, độc đoán và tàn nhẫn. Ông ta tự cho mình cái quyền
không cho người khác sống tiếp và dùng mọi cách để biện minh cho hành vi của mình.
Chưa hết, hiệu trưởng còn dùng tay ấn vào chiếc xương cao hơn so với bình thường
của Phương Phú Quý và nghĩ: “Thầy Phương! Tôi sẽ giúp anh ấn cái xương làm phản
của anh tụt vào một tý. Việc này sẽ tốt hơn cho tiền đồ của anh. Không chích thuốc tê
mà làm việc này, quả là hơi tàn khốc, nhưng hết cách rồi. Do vậy mà khi đi trên
đường, trông thấy một người lang thang vì đói rét mà chết, chúng tôi đành phải dẹp bỏ
sự thương xót của mình. Đáng chết rét thì phải chết rét, đáng chết đói thì phải chết
đói…Anh cố gắng chịu đau một tý nhé, thầy Phương!” [18, tr.112]. Hành động này
của hiệu trưởng khiến Phương Phú Quý đau không thể tả nhưng lại không được phép
kêu la nên anh ta đành nuốt đau đớn vào trong. Các nhân vật trong tiểu thuyết này
dường như ít trò chuyện, tâm sự với nhau mà chỉ thích suy nghĩ một mình, làm bạn với
chính mình. Chính cuộc sống có quá nhiều mưu mô, con người đều lừa gạt và tàn nhẫn
với nhau nên đâm ra không còn tin tưởng ai ngoài bản thân mình nữa. Ngay như hiệu
71
trưởng luôn mồm nói hành động của mình đều là vì nền giáo dục, vì cuộc sống của
những giáo viên còn lại nhưng chúng ta biết chính là vì bản thân ông ta, vì ông ấy sẽ
được hưởng rất nhiều quyền lợi sau đợt vận động của thành phố nhân cái chết của
Phương Phú Quý.
Đó là những dòng độc thoại của Đồ Tiểu Anh về những câu chuyện xa xưa. Câu
chuyện thứ nhất kể về người phụ nữ có sắc đẹp mặn mà đang ngồi khóc chồng vừa
mới chết, bên ngoài thì mặc áo tang nhưng bên trong lại mặc bộ quần áo màu đỏ, hỏi
ra mới biết là cô ta đã thông dâm cùng người khác đầu độc chồng, “việc cô ta mặc áo
tang bên ngoài chỉ là để che mắt thiên hạ”. Chuyện thứ hai kể về người phụ nữ ngồi
quạt mồ cho chồng. Thì ra trước khi chết hai người đã hẹn ước là khi nào đất trên mồ
khô và cỏ lên xanh thì cô ta được tái giá, nhưng đã ba ngày rồi mà đất trên mồ chưa
khô nên cô ta nóng ruột muốn quạt cho mau khô hơn. Một người nghe xong liền kể
cho vợ của ông ta nghe, vợ chửi người đàn bà đó thậm tệ và còn nói nếu chồng mình
chết sẽ thủ tiết không tái giá nữa. Tối hôm đó, người đàn ông không bệnh mà mất, vợ
đau khổ không thiết sống nữa nhưng gượng tổ chức tẩm liệm cho chồng, còn mời sư
tăng về tụng kinh mong chồng được siêu độ lên tiên. Nhưng khi nhìn thấy chú tiểu
“mày thanh mắt sáng, dễ làm say đắm lòng người” thì cô ta đã ngã vào lòng chú tiểu,
thất tiết ngay trước linh sàng của chồng. Chưa hết khi chú tiểu kêu đau đầu, cô vợ này
còn cầm rìu định bổ óc chồng mình cho chú tiểu ăn. Tiếp theo là câu chuyện về con
khỉ ngoài đảo hoang mà Lý Ngọc Thiền được nghe lão già nuôi thú kể lại. Có một
người đàn ông đi thuyền gặp bão và dạt vào một hòn đảo hoang vắng, chỉ có rừng và
những loài thú dữ. Bỗng có một con khỉ to lớn cõng anh ta chạy về hang của nó, cho
ăn, cho uống nước. Ban ngày con khỉ đi kiếm ăn, tối về ngủ trong hang. Ngày tháng
trôi qua, con khỉ có mang và sau đó sinh ra một đứa bé vừa trắng vừa mập. Con khỉ
tiếp tục đi kiếm ăn còn người đàn ông ở nhà trông con. Một ngày kia, anh ta phát hiện
có một con thuyền tấp vào bờ, anh mừng quá, chạy về ôm đứa con đang ngủ và xin
chủ thuyền được trở về. Con khỉ kêu thét lên và chạy về phía chiếc thuyền vươn tay
nắm lấy đuôi thuyền để lấy lại đứa con nhưng người đàn ông đã chặt đứt bàn tay đó
của con khỉ để chiếc thuyền có thể thuận lợi mang anh ta về đất liền, bỏ mặc con khỉ
ôm cánh tay bị chặt kêu khóc thảm thương. Người đàn ông trở về ra sức chăm sóc và
dạy con rất chu đáo, sau này đứa con ấy đỗ Trạng Nguyên, mong muốn được tìm mẹ.
Không còn cách nào, người đàn ông phải nói ra sự thật. Trạng Nguyên tìm về đảo xưa,
72
tìm được bộ xương bị đứt một cánh tay đang ngồi trong hang và sau đó cũng đập đầu
vào đá mà chết. Qua những mẫu chuyện đó, người đọc lại bất ngờ hơn khi không ngờ
con người lại có thể sống bạc bẽo, vô tình với nhau như vậy, có thể nói là còn tệ hơn
cả con vật (như con khỉ ngoài đảo hoang). Là vợ chồng từng thương yêu nhau mà họ
có thể phụ bạc và thay đổi một cách nhanh chóng, tất cả cũng chỉ vì dục vọng của bản
thân, vì sự ích kỷ cá nhân. Đó không còn là chuyện xưa nữa, mà nay cũng có vì Đồ
Tiểu Anh cũng tái giá sau khi chồng chết một thời gian ngắn, Lý Ngọc Thiền không
chung thủy với chồng trong suốt cuộc hôn nhân của mình. Tất cả tái hiện một bức
tranh cuộc sống lộn xộn, con người sống bạc bẽo với nhau và muốn che giấu những
điều đó. Bằng tài năng của mình, bằng việc sử dụng nghệ thuật trần thuật, tác giả đã
bóc trần những điều đó trước mắt người đọc, phá vỡ vỏ bọc mà các nhân vật đang cố
che đậy cho những hành vi đồi bại của mình.
Độc thoại nội tâm trong Thập tam bộ còn ở dưới dạng tự vấn. Đó là trường hợp
nhân vật tự đặt câu hỏi trong nội tâm chính mình như một sự tự vấn và sau đó tự trả lời
cho những day dứt đó. Khi thể hiện nhân vật với những day dứt, giằng xé, Mạc Ngôn
thường đặt nhân vật của mình vào những cuộc độc thoại nội tâm triền miên. Để biện
minh cho hành động của mình, Lý Ngọc Thiền đặt ra hàng loạt câu hỏi để tự vấn bản
thân cũng như để bày tỏ cho mọi người biết hành vi của cô không có gì sai trái cả.
“Sinh ra trong cái thế giới này đã là sự bất hạnh cực độ, cho nên không nhất thiết
phải tự oán trách mình. Có lẽ nào đem cái trinh tiết của một đời con gái dâng cho phó
cục trưởng Vương lại bị xem là đồ dâm đãng sao? Có lẽ nào trong thời điểm hoa
thạch lựu nở rộ, mùi tanh của chợ cá thoang thoảng ấy, tôi phải ức chế sự bộc phát
của dục tình mới được xem là cao quý sao?” [18, tr.70, 71]; “Ông cậu tốt! Trước tiên
ông chơi đùa với mẹ của cháu gái, rồi sau đó cũng chẳng tha cho cô cháu gái này!
Vàng là rất quý hiếm, chồng tôi nói rằng dấm cũng không thể ăn mòn được vàng, vàng
thật chẳng sợ gì lửa. “Cậu” đã chết rồi, đúng không? Thế thì ba chiếc răng vàng này
đối với “cậu” chẳng có ý nghĩa gì, do vậy tôi phải nhổ phăng nó đi. Ông đã làm
chuyện ấy với mẹ tôi, lại làm chuyện ấy với tôi… Ông đã chụp cho linh hồn của bố tôi
một cái mũ đen sì, kể cả cho chồng tôi…Ông cho tôi là kẻ tham tiền sao? Cục cứt! Nếu
tôi là kẻ tham tiền, tại sao lúc ông còn sống tôi không lợi dụng mối quan hệ mờ ám
giữa ông và tôi để kiếm chác chút đỉnh nào? Lúc ông đường đường là phó cục trưởng
nghênh mặt xuất hiện ở đâu đó là ngay lập tức tôi tìm cách chuồn khỏi nơi ấy! Làm
73
việc này là tôi báo thù đấy! Ông còn nợ hồn phách của bố tôi một chiếc răng nữa cơ
đấy!” [18, tr.179, 180, 181]. “Có phải là tôi đã yêu cái người mang gương mặt anh ta,
nhưng tôi biết chắc chắn đó không phải là anh ta. Có phải là khi quyết định sửa dung
mạo cho anh ta, tôi đã từng nghĩ là mình sẽ cùng chăn gối với anh ta? Tôi không có
cách nào để trả lời câu hỏi của anh ta, tất cả chỉ là một sự an bài của số phận. An bài
để anh ta chết, an bài để anh ta cho tôi chỉnh dung, an bài để anh ta bị phó thị trưởng
Vương đuổi vào tủ lạnh… Hay là tôi đã cố ý đưa đẩy anh ta vào hoàn cảnh này? Lẽ
nào tôi đã phát hiện ra anh ta đang bị mê muội vì mùi thơm trên cơ thể tôi?” [18,
tr.396, 397].
Phương Phú Quý sau khi chỉnh dung xong, nhìn vào gương liền bị hàng loạt
những cảm giác bấn loạn: mắt hoa, tai lùng bùng, toàn thân run rẩy. Mặc dù đã biết
gương mặt sẽ thay đổi nhưng anh vẫn sốc và vô cùng bối rối trước khuôn mặt này. Để
trấn tỉnh, anh lại tự vấn chính lương tâm của mình rằng mình đã đồng ý làm việc này.
“Anh hy sinh cái mặt xấu xí để chiếm lĩnh tình yêu của bao nhiêu phụ nữ - chính là sự
thêu hoa trên gấm, những chuyện tốt đẹp đang chờ thầy giáo Vật lý ở phía trước, anh
hà cớ gì phải biến nó thành bi kịch như thế? Toàn thân run rẩy là cái quái gì hả?
Bụng đau nhói và buồn ỉa là vì sao?” [18, tr.235]. Sau khi ôm cô chuyên gia chỉnh
dung để thử nghiệm cho việc mang khuôn mặt mới có thực không, Phương Phú Quý
lại thấy vô cùng hổ thẹn với chính mình. Anh đã tự chì chiết, chửi bới bản thân thậm tệ
mong vơi đi đau khổ và nhục nhã mình vừa gây ra: “mày có đáng sống không? Lòng
mày đã sản sinh những tà niệm như thế, liệu mày có xứng đáng với những nỗi đau khổ
của vợ mày không? Mày còn mặt mũi để nhìn mặt người đồng nghiệp thân thiết
Trương Xích Cầu không? Mày không biết nguyên tắc đạo đức “đừng bao giờ sàm sỡ
vợ bạn” sao?” [18, tr.239].
Trương Xích Cầu sau khi bị bắt giam ba ngày, nhịn đói nhịn khát khiến anh
không còn sức lực, trong người chỉ còn lại ba tút rưỡi thuốc lá. Nếu muốn ăn no thì
anh phải bán được thuốc, muốn bán thuốc anh phải mời khách nhưng mỗi khi có ai đi
ngang qua anh lại không nói được gì, tiếng nói bị nghẹn giữa chừng. Anh vô cùng căm
hận bộ dạng của mình lúc đó, chỉ biết tự trách móc, cười chê bản thân nhưng cũng là
tự động viên mình phải làm cho kì được: “mày sợ gì kia chứ? Mày đã từng đứng trên
bục giảng, tay cầm thước, cao giọng giáo huấn trước mấy chục cặp mắt đen tròn.
Tiếng giảng bài của mày đã vang khắp các phòng học, bay ra tận hành lang và tan
74
vào không trung kia mà! Không phải lúc nào mày cũng có thể làm thầy giáo để dạy
người đâu! Công tác cách mạng không phân biệt sang hèn, vô luận là làm việc gì cũng
phải nghĩ đến vì nhân dân phục vụ, làm việc gì mày cũng chỉ là kẻ phục vụ nhân dân,
bán thuốc lá cũng là phục vụ nhân dân, vì nhân dân mà cung cấp loại nicotin cao cấp,
làm cho tầng lớp nghiện thuốc có được niềm hạnh phúc và khoái lạc. Do vậy đây là
một sự nghiệp vinh quang, mày xấu hổ gì cơ chứ?” [18, tr.467].
Khi phải chịu nhiều uất ức, tủi thân do chồng chết một cách đột ngột, bỏ lại cô
với bao nỗi lo toan và dèm pha của người khác, Đồ Tiểu Anh chỉ khóc và đau khổ một
mình, oán trách người chồng bạc mệnh: “Anh đúng là đồ quỷ dữ! Tai sao anh lại phải
chết! ... Anh đành lòng để tôi và con dại ở lại đây, còn anh thì một mình tiêu dao tự tại
nơi “thế giới mỹ lệ” sao?... Anh đành lòng nhìn con mụ đàn bà lông khỉ ấy cười cợt,
chửi bới và làm nhục tôi sao? ... Khi anh còn sống, tôi chưa bao giờ thấy anh quan
trọng…! Anh chết đi tôi mới thấy anh quan trọng đối với tôi chừng nào? ... Tại sao
anh lại đem tất cả những bí mật của vợ chồng ta nói với người khác cơ chứ? Đồ ác
độc, đồ vô lương tâm, anh đúng là đồ ma quỷ” [18, tr.482, 483]. Chỉ có công việc mới
đem lại sự yên ổn trong tâm hồn của cô, “đôi bàn tay lạnh lẽo của cô tìm thấy hơi ấm
trong công việc. Những bộ lông thỏ đủ màu sắc làm ấm tay cô, những tảng thịt đỏ
hồng cũng làm ấm tay cô. Chúng bị lột da mà tim vẫn đập, giống như kẻ thù giai cấp
ác độc” [18, tr.320].
Đối thoại trong độc thoại là nét mới trong độc thoại nội tâm ở tiểu thuyết Thập
tam bộ. Đối thoại trong độc thoại giúp tô đậm tâm lý nhân vật, làm cho nhân vật hiện
ra đa diện hơn. Lý Ngọc Thiền, một người phụ nữ luôn khát khao dục vọng sau khi
được Phương Phú Quý ôm chặt lấy thì trong suy nghĩ của cô xuất hiện một cuộc đối
thoại của hai người trong một con người. Một người là chính bản thân Lý Ngọc Thiền,
còn một người là Đồ Tiểu Anh. Qua lời đối thoại trong độc thoại, Lý Ngọc Thiền phân
mình làm hai, vừa lên tiếng bảo vệ quyền lợi của mình, đồng thời cô lại tự đặt mình
trong hoàn cảnh của Đồ Tiểu Anh để chứng minh một điều người cô đang ôm từng là
chồng người khác, cô không có quyền chiếm đoạt. Nhưng rốt cuộc, cái tôi của Lý
Ngọc Thiền vẫn chiến thắng, lí lẽ cô ta đưa ra quá chính xác khiến Đồ Tiểu Anh không
thể bác bỏ được, đành chịu thua. “Tôi nghĩ mình không thể nhường nhịn, không thể
thụt lùi. Tôi đang ôm chồng mình trong tay. Mặt anh ấy là mặt chồng tôi! Cô ta nói
một cách vô sỉ: thân thể anh ấy là của chồng tôi! Rồi cô ta kể vanh vách những đặc
75
điểm trên thân thể anh ta như một nhà tướng số. Cô ta lôi kéo anh ta… Tôi gào lên: Đi
tìm lãnh đạo trường! Ngay cả một đứa học trò tiểu học cũng biết chồng cô đã chết!
Thân thể của ông ấy đã bị sinh viên của học viện y khoa cắt năm xẻ bảy rồi! Toàn
trường có ai biết trên của quý của ông ấy có một cái bớt đen nào? Cô có dám đi tìm
hiệu trưởng không? Tiếng khóc của cô ta ngưng bặt, lắp bắp gì đó trong miệng trông
thật đáng thương” [18, tr.398, 399]. Với hình thức đối thoại trong độc thoại bằng việc
tự phân suy nghĩ của mình thành hai hướng, tác giả đã đi sâu vào khám phá nội tâm cô
chuyên gia chỉnh dung từ nhiều cách nhìn, cách đánh giá khác nhau. Vì thế hình tượng
nhân vật hiện lên đa chiều hơn.
Còn Trương Xích Cầu, sau khi được tiếp xúc với cô chủ quán tạp hóa, trong lòng
bắt đầu có sự so sánh về thân thể của Lý Ngọc Thiền với cô chủ quán một cách say
sưa. Trong dòng suy nghĩ của mình, Trương Xích Cầu cũng phân thân mình thành hai
người: một là vợ anh Lý Ngọc Thiền, còn một là cô chủ quán. Anh để cho hai người tự
đối đáp với nhau, chê bai lẫn nhau cũng từ đó anh có thể biết được nét đẹp riêng của
mỗi người. “Lúc này hai người đàn bà đang bắt đầu chê bai lẫn nhau về những khuyết
điểm trên cơ thể của nhau – Trên người cô đang có một lớp lông vàng trông thật đáng
ghét – Cô không thể phân định được rằng, thân thể có lông vàng hay thân thể trơn tuột
như da lươn loại nào hấp dẫn hơn, gợi cảm hơn – Khi cả hai đều quay lại nhìn anh
bằng ánh mắt đầy ma lực, khẩn cầu anh đứng ra làm người phân định, đầu anh như bị
ai đó tát mấy bạt tai thật mạnh khiến anh choáng váng” [18, tr.352].
Như vậy, với việc sử dụng độc thoại nội tâm trong ngôn ngữ nhân vật, tiểu thuyết
Mạc Ngôn không chỉ tái hiện một cách sắc sảo đời sống tâm lí nhân vật mà đây còn là
cách để tác giả đi sâu vào mổ xẻ, phân tích, khám phá con người bên trong từ những
rung cảm tinh tế nhất. Đối thoại trong độc thoại đưa nhân vật đi từ tâm lý đến ý thức từ
đó bóc trần những mặt trái bên trong của cuộc đời và nhờ vậy người đọc dễ dàng đi
sâu vào thế giới nội tâm nhân vật. Qua đó mà làm nổi bật cuộc sống này có quá nhiều
mưu mô, xảo quyệt nên con người ngày càng sống khép mình, cô độc giữa đồng loại
của mình.
76
77
KẾT LUẬN
Là nhà văn kế tục xuất sắc tư tưởng truyền thống và tiếp nhận văn học nước
ngoài một cách sáng tạo, Mạc Ngôn đã mang lại cho độc giả một cái nhìn mới, tầm
hiểu biết mới về sự phức điệu của hiện thực mà ông phản ánh. Tìm hiểu về nghệ thuật
trần thuật trong tiểu thuyết Thập tam bộ của Mạc Ngôn, chúng tôi đã lựa chọn một số
bình diện tiêu biểu như các phương thức trần thuật, điểm nhìn trần thuật cũng như
giọng điệu và ngôn ngữ trần thuật để khẳng định giá trị và những đóng góp của nhà
văn trong dòng chảy chung của tiểu thuyết đương đại.
Việc lựa chọn kiểu trần thuật đa điểm nhìn và dịch chuyển linh hoạt các điểm
nhìn giúp cho nhà văn có thể cảm nhận và phản ánh hiện thực ở những tầng sâu nhất.
Bên cạnh đó là việc lựa chọn các kiểu trần thuật một cách đa dạng: trần thuật ngôi thứ
ba mang lại sự khách quan cho những điều được kể; trần thuật ngôi thứ hai là một hình
thức hiếm gặp trong văn chương nhân loại, người kể tự kể về mình, phân thân mình để
đối thoại gay gắt và cảm thông với chính mình; và sự kết hợp các dạng thức trần thuật
cũng đem đến sức hấp dẫn, lôi cuốn cho người đọc.
Giọng điệu và ngôn ngữ trần thuật đóng một vai trò quan trọng trong việc tạo
dựng thành công của tác phẩm và cá tính sáng tạo của tác giả. Tất cả những điều đó
tạo nên một phong cách “tự sự kiểu Mạc Ngôn” [35]. Sự đan cài các chất giọng bỡn
cợt, lạnh lùng, khoa trương, tâm tình tạo ra những trang văn diễn tả được mọi cung bậc
cảm xúc trước đời sống, đồng thời thể hiện được những cách tân về giọng điệu trong
nghệ thuật trần thuật của tác giả. Các chất giọng này tương tác lẫn nhau một cách bình
đẳng, ăn ý, nhuần nhuyễn tạo nên sự phức điệu. Bên cạnh đó là sự kết hợp, đan cài
giữa ngôn ngữ đối thoại và ngôn ngữ độc thoại một cách hài hòa. Giúp tác giả phản
ánh được thực trạng xã hội Trung Quốc những năm cuối thế kỉ XX và bày tỏ thái độ
bất bình trước những hiện tượng bình thường đó.
Hành trình khám phá tiểu thuyết Mạc Ngôn nói chung và Thập tam bộ nói riêng
chắc chắn sẽ còn nhiều phát hiện về những đóng góp của ông đối với tiểu thuyết
đương đại và văn học dân tộc nói chung. Do khả năng và thời gian nghiên cứu có hạn,
khóa luận không tránh khỏi những hạn chế nhất định, người viết rất mong nhận được
sự đóng góp của quý thầy cô giáo và các bạn./
78
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Thái Phan Vàng Anh (2010), “Ngôn ngữ trần thuật trong tiểu thuyết Việt Nam
đương đại”, Tạp chí nghiên cứu Văn học, tr.96 – 148.
2. Nhan Ái Ái (2009), Điên phúc dữ hoàn nguyên – Mạc Ngôn tiểu thuyết đích tự
sự kỳ sách lược, Khúc Phụ Sư phạm Đại học.
3. Lại Nguyên Ân (2003), 150 thuật ngữ văn học, NXB Đại học Quốc gia, Hà
Nội.
4. M.Bakhtin (1992), Lý luận và thi pháp tiểu thuyết (Phạm Vĩnh Cư dịch), NXB
Bộ văn hóa thông tin và trường viết văn Nguyễn Du, Hà Nội.
5. Lê Huy Bắc (1998), “Giọng và giọng điệu văn xuôi hiện đại”, Tạp chí Văn học,
tr.66 – 73.
6. Dương Dương (2005), Mạc Ngôn nghiên cứu tư liệu – Trung Quốc đương đại
tác gia nghiên cứu tư liệu tùng thư, Thiên Tân Nhân xuất bản xã.
7. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (đồng chủ biên) (2009), Từ điển
thuật ngữ Văn học, NXB Giáo dục, Hà Nội.
8. Đỗ Đức Hiểu (2000), Thi pháp hiện đại, NXB Hội nhà văn, Hà Nội. 9. Hồ Sỹ Hiệp (2003), “Tiểu thuyết Mạc Ngôn với độc giả Việt Nam”, Báo Văn
nghệ.
10. Hoàng Thị Bích Hồng (2006), Nghệ thuật trần thuật trong phong cách tiểu
thuyết Mạc Ngôn, Luận văn Thạc sỹ Ngữ văn, Đại học Sư phạm Huế.
11. Cao Kim Lan (2008), “mối quan hệ giữa người kể chuyện và tác giả”, Tạp chí
Văn học, tr.65 – 80.
12. Phương Lựu (chủ biên) (1997), Lí luận văn học, NXB Giáo dục, Hà Nội. 13. Phương Lựu (2001), Lí luận và phê bình Văn học phương Tây thế kỉ XX, NXB
Văn học, Hà Nội.
14. Phương Lựu (2004), Lí luận văn học, tập 1, NXB Đại học Sư phạm, Hà Nội. 15. Iu. M. Lotman (2004), Cấu trúc của văn bản nghệ thuật, NXB Đại học Quốc
gia, Hà Nội.
16. Jahn Manfred (2005), Trần thuật học: Nhập môn lý thuyết trần thuật (Nguyễn
Như Trang dịch), tài liệu ở dạng bản thảo.
17. Phùng Quý Nhâm (2000), “Cái nhìn của nhân vật”, Tạp chí Văn học, tr.28 – 30.
79
18. Mạc Ngôn (2003), Thập tam bộ, NXB Văn nghệ và công ty văn hóa Phương
Nam phối hợp thực hiện, tp. Hồ Chí Minh.
19. Cao Kiến Phát, Vương Nghiêu (2004), Mạc Ngôn và những lời tự bạch,
(Nguyễn Thị Thại dịch), NXB Văn học, Hà Nội.
20. Hoàng Phê (2010), Từ điển tiếng Việt, NXB Đà Nẳng, Hà Nội. 21. Phan Diễm Phương (1992), “Ngôn ngữ người kể chuyện trong truyện ngắn
Nam Cao”, Tạp chí Văn học, tr.35 – 37.
22. N. Poxpêlôp (1998), Dẫn luận nghiên cứu văn học, NXB Giáo dục, Hà Nội. 23. Trần Sơn dịch (2003), “Mạc Ngôn – Nhà văn của những người nông dân”, Báo
văn nghệ.
24. Trần Minh Sơn (2004), Phê bình văn học đương đại Trung Quốc, NXB Khoa
học xã hội, Hà Nội.
25. Trần Đình Sử (1996), Lí luận và phê bình văn học: những vấn đề và quan niệm
hiện đại, NXB Hội nhà văn, Hà Nội.
26. Trần Đình Sử (1998), Thi pháp thơ Tố Hữu, NXB Giáo dục, Hà Nội. 27. Trần Đình Sử (1998), Dẫn luận thi pháp học, NXB Đại học Sư phạm, Hà Nội. 28. Trần Đình Sử (2004), Tự sự học – Một số vấn đề lí luận và lịch sử, NXB Đại
học Sư phạm, Hà Nội.
29. Trần Đình Sử (2007), “Bước tiến mới của lý luận văn học Trung Quốc”, Báo
Văn nghệ.
30. Trần Đình Sử (chủ biên) (2008), Giáo trình lý luận văn học (tập II): Tác phẩm
và thể loại văn học, NXB Đại học Sư phạm, Hà Nội.
31. Đỗ Lai Thúy (2003), Nghệ thuật như là một thủ pháp, NXB Văn học, Hà Nội. 32. Lương Duy Thứ (1995), Bài giảng văn học Trung Quốc, NXB Đại học quốc
gia, tp. Hồ Chí Minh.
33. Lương Duy Thứ (2001), “Hình tượng nhân vật người kể chuyện trong truyện
Lỗ Tấn”, Tạp chí Văn học, tr.50 – 58.
34. Nguyễn Thị Tịnh Thy (2012), Nobel văn chương 2012: “Mạc Ngôn – Người
vinh danh làng quê Cao Mật bằng bút pháp hậu hiện đại kiểu Trung Quốc”, báo
văn nghệ.
35. Nguyễn Thị Tịnh Thy (2012), Tự sự kiểu Mạc Ngôn, NXB Văn học, Trung tâm
văn hóa ngôn ngữ Đông Tây.
80
36. Lê Huy Tiêu (2003), “Thế giới nghệ thuật trong tiểu thuyết của Mạc Ngôn”,
Tạp chí Văn học nước ngoài, tr.16 – 24.
37. Lê Huy Tiêu (2004), Cảm nhận mới về văn hóa, văn học Trung Quốc, NXB Đại
học Quốc gia, Hà Nội.
38. Phùng Văn Tửu (2009), “Người kể chuyện xưng “tôi” trong văn chương hiện
đại”, Tạp chí nghiên cứu khoa học, tr.35 – 50.