ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN KHOA VĂN HỌC -----***-----

LƯU THỊ THU HÀ

SỰ VẬN ĐỘNG CỦA TRUYỆN NGẮN VIỆT NAM TỪ 1986 ĐẾN NAY NHÌN TỪ GÓC ĐỘ HÌNH THỨC THỂ LOẠI LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN

Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Mã số: 60 22 34

Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS Hà Văn Đức

Hà Nội - 2008

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN KHOA VĂN HỌC

LƯU THỊ THU HÀ

SỰ VẬN ĐỘNG CỦA TRUYỆN NGẮN VIỆT NAM TỪ 1986 ĐẾN NAY NHÌN TỪ GÓC ĐỘ HÌNH THỨC THỂ LOẠI LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN

Hà Nội - 2008

Luận văn Thạc sĩ

Lưu Thị Thu Hà

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU ................................................................................................................... 3

1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................................... 3

2. Phạm vi nghiên cứu và nhiệm vụ đề tài ......................................................................... 5

2.1 Phạm vi nghiên cứu ................................................................................................. 5

2.2 Nhiệm vụ của đề tài ................................................................................................. 6

3. Lịch sử vấn đề ................................................................................................................ 7

3.1 Tình hình nghiên cứu khái quát về văn học 1986 - 2006 ........................................ 7

3.2 Tình hình nghiên cứu truyện ngắn 1986 - 2006 ..................................................... 11

4.1 Phƣơng pháp nghiên cứu ...................................................................................... 14

4.2 Bố cục luận văn ...................................................................................................... 15

PHẦN NỘI DUNG .............................................................................................................. 16

CHƢƠNG 1: SỰ VẬN ĐỘNG CỦA CỐT TRUYỆN VÀ KẾT CẤU ............................... 16

1.1 Sự vận động của cốt truyện và kết cấu truyện ngắn trƣớc 1986 ................................ 17

1.1.1 Giai đoạn trƣớc 1932 .......................................................................................... 17

1.1.2 Giai đoạn 1932 - 1945 ........................................................................................ 21

1.1.3 Giai đoạn 1945 - 1985 ........................................................................................ 24

1.2 Những xu hƣớng tổ chức cốt truyện và kết cấu truyện ngắn 1986 - 2006 ................. 26

1.2.1 Kiểu cốt truyện chặt chẽ đƣợc kế thừa và phát triển đến đỉnh cao ..................... 26

1.2.2 Cốt truyện tâm lý đƣợc sử dụng phổ biến ........................................................... 37

2.2.3 Cốt truyện phân rã, vai trò của tình huống đƣợc đẩy mạnh ................................ 41

CHƢƠNG 2: NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG NHÂN VẬT ................................................. 52

2.1 Một số mẫu nhân vật nổi bật ...................................................................................... 53

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

Sự vận động của truyện ngắn VN từ 1986 đến nay, nhìn từ góc độ hình thức thể loại

1

Luận văn Thạc sĩ

Lưu Thị Thu Hà

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

2.1.1 Con ngƣời cô đơn .............................................................................................. 53

2.1.2 Con ngƣời giả cổ tích, giả huyền thoại, giả lịch sử ............................................ 63

2.2 Những đóng góp mới về nghệ thuật xây dựng nhân vật ............................................ 71

2.2.1 Nghệ thuật xây dựng tính cách nhân vật ............................................................. 71

2.2.2 Nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ nhân vật .............................................................. 77

2.2.2.1 Đối thoại gia tăng mạnh tính khẩu ngữ ........................................................ 77

2.2.2.1 Độc thoại có xu hƣớng trộn lẫn vào lời ngƣời kể chuyện ............................ 85

CHƢƠNG 3: ĐỔI MỚI VỀ NGHỆ THUẬT TRẦN THUẬT ............................................ 89

3.1 Sự đa dạng hóa điểm nhìn trần thuật ......................................................................... 89

3.2 Những biến đổi về ngôn ngữ trần thuật ..................................................................... 93

3.2.1 Ngôn ngữ trần thuật mang tính hiện thực - đời thƣờng ...................................... 93

3.2.2 Ngôn ngữ giàu tính thông tin, nhịp điệu trần thuật nhanh .................................. 95

3.3 Sự vận dụng các hình thức và giọng điệu trần thuật .................................................. 99

3.3.1 Ảnh hƣởng của ngƣời trần thuật ngày càng bị thu hẹp ....................................... 99

3.3.2 Tính chất phức điệu của giọng trần thuật.......................................................... 103

PHẦN KẾT LUẬN ............................................................................................................ 108

DANH MỤC VÀ TÀI LIỆU THAM KHẢO……………………………………………112

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

Sự vận động của truyện ngắn VN từ 1986 đến nay, nhìn từ góc độ hình thức thể loại

2

Luận văn Thạc sĩ

Lưu Thị Thu Hà

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Trong những năm tháng chống ngoại xâm, lịch sử Việt Nam hiện đại

đƣợc phản chiếu trong văn học chủ yếu ở những biểu hiện của tinh thần yêu

nƣớc, lòng căm thù giặc, ở những sự kiện, những chiến thắng quan trọng

quyết định đến vận mệnh của cả dân tộc cũng nhƣ hạnh phúc của mỗi cá

nhân. Có một mảng sáng tác lớn trong văn học Việt Nam giai đoạn 1945 -

1975 ghi lại lịch sử chiến tranh oai hùng và vinh quang của đất nƣớc. Bƣớc

sang thời bình, sự thay đổi của điều kiện sống khiến cho thị hiếu thẩm mỹ của

ngƣời đọc cũng có những biến chuyển lớn. Cuộc sống thực tại đã nhắc nhủ

con ngƣời về những phƣơng diện của đời sống sinh hoạt, đời sống văn hóa,

văn minh vẫn âm thầm trôi chảy cùng công cuộc chống ngoại xâm, giữ nƣớc

của dân tộc. Họ không rũ bỏ, nhƣng đã bắt đầu xếp chiến tranh vào ký ức.

Thay cho tâm thế đấu tranh vì quyền lợi của cả cộng đồng, cả dân tộc, họ

quan tâm hơn đến cuộc đấu tranh với cái khốn khó của đời sống thƣờng ngày.

Thay vì dõi theo cục diện thế giới, họ hứng thú hơn với những mối quan hệ cá

nhân, với những câu chuyện gần gũi xảy ra xung quanh mình. Kết thúc chiến

tranh, văn học cũng không còn lý do để chỉ chăm chắm phục vụ những mục

đích cách mạng. Với bối cảnh lịch sử mới và những đổi thay về nhu cầu của

ngƣời đọc, văn học, với tƣ cách là một hình thức phản ánh hiện thực, tất yếu

phải đối mới. Nhà văn tất yếu không thể viết theo lối cũ.

Cơ hội chuyển mình của loại hình nghệ thuật ngôn từ đƣợc tiếp sức nhờ

công cuộc Đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xƣớng vào năm 1986.

Không chỉ ý thức văn học đƣợc cởi trói, bản thân nhà văn cũng nỗ lực cởi trói

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

cho chính mình. Sự cởi mở nhiều chiều đã mang đến biến chuyển lớn lao về

Sự vận động của truyện ngắn VN từ 1986 đến nay, nhìn từ góc độ hình thức thể loại

3

Luận văn Thạc sĩ

Lưu Thị Thu Hà

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

tƣ duy. Là một bộ phận của nền nghệ thuật phát triển trong bối cảnh cuộc

sống thời bình, văn học Việt Nam sau 1986 phản ánh hiện thực theo cách nhìn

mới, quan niệm mới. Không chỉ mở rộng đề tài theo hƣớng tiếp cận gần gũi

hơn với hiện thực đời sống sinh hoạt, đời sống văn hóa, quan điểm của các

nhà văn về một số vấn đề của lịch sử Việt Nam cũng mang những sắc thái

thẩm mỹ mới. Cảm hứng sử thi của giai đoạn trƣớc đƣợc thay thế bằng cảm

hứng đời tƣ - thế sự. Xu hƣớng ngợi ca đƣợc thay thế bằng cái nhìn phê phán

hiện thực. Thói quen nhìn cuộc sống ở khía cạnh lạc quan, tƣơi đẹp đƣợc thay

bằng sự khai thác trực diện những tồn đọng của xã hội, những khát vọng của

đời sống cá nhân con ngƣời. Văn học giai đoạn này vì thế đa giọng điệu, đa

sắc màu và gây nhiều tranh cãi hơn.

Với đặc thù là một thể loại nhỏ gọn và cơ động, truyện ngắn bắt nhịp

rất nhanh với những biến chuyển của đời sống. Tuy không phải là thể loại chủ

chốt của nền văn học, nhƣng với thế mạnh của một loại hình tự sự, truyện

ngắn nhanh nhạy len lỏi vào mọi ngóc ngách của xã hội, phản chiếu cuộc

sống trong từng mảnh ghép nhỏ. Nhà nghiên cứu Nguyên Ngọc nhận xét:

“Đây có thể coi là một thời kỳ có nhiều truyện ngắn hay trong văn học Việt

Nam, tiếp theo „vụ đƣợc mùa truyện ngắn‟ những năm 1960 và một vụ mùa

khác, trong chiến tranh. Tuy nhiên, truyện ngắn lần này có những khác biệt rõ

rệt. Những năm 1960 từng để lại nhiều truyện ngắn đẹp nhƣ thơ, trong veo,

trữ tình. Truyện ngắn thời chiến tranh thì vạm vỡ, chắc chắn. Đặc điểm nổi

bật lần này là cầm cái truyện ngắn trong tay có thể cảm thấy cái dung lƣợng

của nó nặng trĩu. Có những truyện ngắn, chỉ mƣơi mƣời trang thôi, mà sức

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

nặng có vẻ còn hơn cả một cuốn tiểu thuyết trƣờng thiên” [44; 7].

Sự vận động của truyện ngắn VN từ 1986 đến nay, nhìn từ góc độ hình thức thể loại

4

Luận văn Thạc sĩ

Lưu Thị Thu Hà

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

Nhƣ vậy, truyện ngắn giai đoạn từ 1986 đến nay đóng vai trò quan

trọng trong việc hình thành diện mạo nền văn học Việt Nam đƣơng đại. Chính

vì vậy, chúng tôi hƣớng tới truyện ngắn khi triển khai luận văn này nhƣ một

cách tiếp cận với một giai đoạn văn học đặc biệt sôi động từ thể loại đƣợc

đánh giá là năng động và tích cực nhất.

Với tên gọi Sự vận động của truyện ngắn Việt Nam từ 1986 đến nay,

nhìn từ góc độ hình thức thể loại, luận văn tập trung nghiên cứu về những

biến chuyển hình thức thể loại, bởi sự vận động của thể loại bộc lộ quan điểm

thẩm mỹ, tƣ duy nghệ thuật của mỗi thời kỳ. Mikhail Bakhtin cho rằng:

“Đằng sau cái mặt ngoài sặc sỡ và đầy tạp âm ồn ào của tiến trình văn học,

ngƣời ta không nhìn thấy vận mệnh to lớn và cơ bản của văn học và ngôn

ngữ, mà những nhân vật chính nơi đây trƣớc hết là các thể loại, còn trƣờng

phái, trào lƣu chỉ là những nhân vật hạng nhì và hạng ba” [9; 5].

2. Phạm vi nghiên cứu và nhiệm vụ đề tài

2.1 Phạm vi nghiên cứu

Từ mốc khởi đầu mang tính chất tƣơng đối - 1986, luận văn sẽ dừng lại

ở những tác phẩm ra đời trƣớc 2006. Trong vòng 20 năm phát triển, truyện

ngắn Việt Nam đã đi đƣợc những bƣớc dài với số lƣợng tác phẩm đồ sộ. Hàng

trăm tuyển tập truyện ngắn, đƣợc tập hợp theo những hệ tiêu chí khác nhau,

đã ra đời. Với khuôn khổ hạn chế của luận văn thạc sĩ, chúng tôi không có

điều kiện khảo sát mọi tác phẩm, vì vậy đề tài sẽ khoanh vùng vào những

tuyển tập tiêu biểu nhƣ:

- Văn mới 5 năm đầu thế kỷ, NXB Hội Nhà văn, 2005

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

- Văn mới 2004 - 2005, NXB Hội Nhà văn, 2005

Sự vận động của truyện ngắn VN từ 1986 đến nay, nhìn từ góc độ hình thức thể loại

5

Luận văn Thạc sĩ

Lưu Thị Thu Hà

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

- Văn mới 2005 - 2006, NXB Hội Nhà văn, 2006

- Những tuyển tập truyện ngắn của các cây bút tiêu biểu cho giai đoạn

này nhƣ: Nguyễn Huy Thiệp, Lê Minh Khuê, Phan Thị Vàng Anh…

- Những truyện ngắn đƣợc giải thƣởng các cuộc thi uy tín do Báo Văn

Nghệ, tạp chí Văn nghệ Quân đội tổ chức.

… và một số tác phẩm riêng lẻ khác.

Do hạn chế về tƣ liệu, chúng tôi chƣa có điều kiện khảo sát mảng

truyện ngắn Việt Nam ở hải ngoại giai đoạn 1986 - 2006. Đây là mảng truyện

ra đời trong bối cảnh lịch sử xã hội khác hẳn với phạm vi chúng tôi sẽ đề cập

ở trên. Vì vậy, để đảm bảo sự thống nhất về đối tƣợng nghiên cứu, chúng tôi

sẽ bàn đến đến phần truyện này trong một công trình khác.

2.2 Nhiệm vụ của đề tài

- Cung cấp cái nhìn tổng quan về sự vận động và biến đổi của truyện

ngắn Việt Nam hiện đại ở phƣơng diện hình thức thể loại.

- Tìm hiểu sự vận động và phát triển của truyện ngắn 1986 - 2006 về

hình thức thể loại qua việc tập hợp, hệ thống hóa và phân tích tác phẩm.

- Khát quát những đặc điểm nổi bật của truyện ngắn Việt Nam giai

đoạn 1986 - 2006 trên những phƣơng diện chủ yếu nhƣ: Cốt truyện - kết cấu,

Nghệ thuật xây dựng nhân vật, Ngôn ngữ và giọng điệu…

Đạt đƣợc những mục đích trên, luận văn sẽ có ý nghĩa nhƣ một cách

nhìn bổ sung vào những đánh giá, nhận định về một giai đoạn văn học đang

vận động và gây nhiều tranh cãi. Đồng thời, luận văn sẽ là tƣ liệu tham khảo

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

cho những ai quan tâm đến truyện ngắn đƣơng đại Việt Nam.

Sự vận động của truyện ngắn VN từ 1986 đến nay, nhìn từ góc độ hình thức thể loại

6

Luận văn Thạc sĩ

Lưu Thị Thu Hà

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

3. Lịch sử vấn đề

Là giai đoạn có nội lực và tiềm năng, văn học Việt Nam 1986 - 2006

thu hút sự quan tâm của nhiều nhà phê bình, nghiên cứu, nhà văn và độc giả.

Trong đó, truyện ngắn đƣợc đánh giá là một trong những thể loại chủ đạo của

đời sống văn học thời kỳ Đổi mới. Tuy nhiên, do đây là một giai đoạn văn

học chƣa ổn định nên chúng ta chƣa có nhiều những công trình khái quát,

đánh giá một cách toàn diện những đặc điểm của 20 năm phát triển này so với

các giai đoạn trƣớc. Liên quan tới đề tài, chúng tôi tổng kết một số thành tựu

của những ngƣời đi trƣớc trên những nét lớn nhƣ sau:

3.1 Tình hình nghiên cứu khái quát về văn học 1986 - 2006

* Các công trình nổi bật:

- Chuyên luận 50 năm Văn học Việt Nam sau Cách mạng tháng 8 -

NXB Đại học Quốc gia, 1996 với những bài viết quan trọng:

Tiểu thuyết về chiến tranh - mấy ý nghĩ góp bàn - Lê Thành Nghị

Những biến đổi trong cấu trúc thể loại tiểu thuyết sau 1975 - Bùi Việt

Thắng

Mấy nhận xét về nhân vật văn xuôi Việt Nam sau 1975 - Nguyễn Thị

Bình

- Chuyên luận Văn học Việt Nam hiện đại - Nhận thức và thẩm định -

Vũ Tuấn Anh, NXB Khoa học Xã hội, 2001

- Luận án tiến sĩ Thời gian nghệ thuật trong cấu trúc văn bản tự sự - Lê

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

Thị Tuyết Hạnh, 1997

Sự vận động của truyện ngắn VN từ 1986 đến nay, nhìn từ góc độ hình thức thể loại

7

Luận văn Thạc sĩ

Lưu Thị Thu Hà

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

- Luận án tiến sĩ Những dấu hiệu đổi mới trong văn xuôi nghệ thuật từ

1980 - 1986 - Nguyễn Thị Huệ, 2000

- Hội thảo Quốc tế Văn học Việt Nam trong bối cảnh giao lưu văn hóa

khu vực và quốc tế - Viện Văn học Việt Nam tổ chức

- Thảo luận về Truyện ngắn hôm nay - Báo Văn Nghệ số 11/1991

- Tiểu luận Văn học quá độ - khái quát văn học Việt Nam thời đổi mới -

tác giả Dana Healy.

* Những nhận định chung:

- Sự đổi mới quan niệm và ý thức nghệ thuật của văn học sau 1986

đƣợc đánh giá là nhân tố đặc biệt quan trọng, có ảnh hƣởng chi phối đến

mọi thể loại, trong đó có truyện ngắn. Các tác giả Vũ Tuấn Anh, Nguyễn

Thị Bình, Nguyễn Thị Huệ khẳng định, văn học đƣơng đại phát triển theo xu

hƣớng dân chủ hóa, có ý nghĩa bổ sung, hoàn thiện những quan niệm hiện

thực về con ngƣời cho văn học giai đoạn trƣớc. Trong chuyên luận Văn học

Việt Nam hiện đại - Nhận thức và thẩm định, tác giả Vũ Tuấn Anh viết: “Nếu

nhƣ cách nhìn sử thi là thích hợp cho việc thể hiện tầm rộng lớn của những

vấn đề lịch sử xã hội và cộng đồng thì cách nhìn tiểu thuyết là cái nhìn tập

trung, xoáy sâu vào những vấn đề của con ngƣời cá nhân cũng nhƣ mối quan

hệ cá nhân - xã hội trên hành trình tìm kiếm và khẳng định giá trị nhân văn”

[3; 54]. Sự chuyển biến ấy, theo các nhà nghiên cứu, xuất phát từ nguyên

nhân khách quan là không khí dân chủ của công cuộc Đổi mới và nguyên

nhân chủ quan là cá tính sáng tạo của ngƣời nghệ sĩ. Cái nhìn của nhà văn

trong khi phản ánh hiện thực không còn bị ảnh hƣởng bởi ý thức cộng đồng

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

mà phụ thuộc vào ý thức cá nhân. “Tác giả xuất phát từ kinh nghiệm bản thân,

Sự vận động của truyện ngắn VN từ 1986 đến nay, nhìn từ góc độ hình thức thể loại

8

Luận văn Thạc sĩ

Lưu Thị Thu Hà

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

thể nghiệm bản thân chứ không phải thể nghiệm cộng đồng” [63; 6], Nguyên

Ngọc viết.

Chia sẻ cách nhìn này, tác giả Nguyễn Thị Bình trong bài viết Mấy

nhận xét về nhân vật văn xuôi Việt Nam sau 1975 cũng khẳng định: “Văn

xuôi sau 1975 phát triển trong bối cảnh đất nƣớc chuyển đổi kinh tế, giao lƣu

văn hóa nhiều chiều. Ý thức cá nhân đƣợc sự cổ vũ của cơ chế thị trƣờng trỗi

dậy mạnh mẽ. Nhu cầu thức tỉnh gắn liền với cảm hứng khám phá, nghiền

ngẫm hiện thực, nhu cầu công bố tƣ tƣởng riêng trong thái độ nhập cuộc của

nhà văn…” [11; 67].

Từ bối cảnh lịch sử đó, các nhà nghiên cứu đã chỉ ra những đặc điểm kế

thừa và khác biệt của giai đoạn văn học này so với các giai đoạn trƣớc. Trong

tiểu luận Văn học quá độ - khái quát văn học Việt Nam thời đổi mới, tác giả

Dana Healy, giảng viên tiếng Việt tại Trƣờng nghiên cứu phƣơng Đông và

châu Phi, Đại học London đánh giá: “Một trong những đặc điểm đáng chú ý

nhất của nhiều tác phẩm hiện đại là mức độ phê phán cao đối với cuộc sống

thƣờng ngày. Sau nhiều năm tụng ca hiện thực, nhiều năm ca ngợi và tự ca

ngợi, cũng nhƣ hô hào một thứ lạc quan phi lý, các nhà văn bây giờ đã vứt bỏ

bức tranh lý tƣởng hóa hiện thực và đƣa ra một cái nhìn điềm đạm hơn về

cuộc sống” [24; 8].

Trong bài viết Văn học Việt Nam những năm đầu đổi mới tại cuộc Hội

thảo quốc tế Văn học Việt Nam trong bối cảnh giao lưu văn hóa khu vực và

quốc tế, nhà lý luận Lê Ngọc Trà nêu ra 3 đặc điểm của văn học sau 1986.

Đặc điểm nổi bật, theo ông là tính chất phê phán. “Nếu trƣớc đây nhân vật

chính của các tác phẩm hầu hết là ngƣời tốt, là nhân vật chính diện, thì bây

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

giờ, ngƣợc lại, trong nhiều tác phẩm các nhân vật chính thƣờng là nhân vật

Sự vận động của truyện ngắn VN từ 1986 đến nay, nhìn từ góc độ hình thức thể loại

9

Luận văn Thạc sĩ

Lưu Thị Thu Hà

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

tiêu cực, giả dối, làm ăn phi pháp, thấp kém về đạo đức. Và một khi các nhân

vật chính đã nhƣ vậy thì dĩ nhiên cảm hứng chủ đạo của tác phẩm cũng thay

đổi: nhiệt tình ca ngợi, khẳng định đƣợc thay thế bằng sự phê phán, châm

biếm” [73; 21]. Đặc điểm thứ hai là tinh thần phân tích xã hội và sự chiêm

nghiệm lại lịch sử. “Những năm hòa bình sau 1975 và tiếp theo là phong trào

đổi mới đã tạo ra cơ sở xã hội để các nhà văn nghĩ lại về công việc sáng tác

của mình. Giờ đây nhu cầu ghi chép, phản ánh hiện thực theo kiểu trƣớc đây

không còn đặt ra cấp bách nhƣ trong những năm chiến tranh. Cuộc sống cũng

đã bộc lộ những mặt phức tạp mà những lời giải thích đơn giản, công thức

không còn thuyết phục nữa. Mỗi ngƣời cầm bút cũng nhận ra rằng sức mạnh

của tác phẩm văn học không chỉ nằm ở khối lƣợng hiện thực đƣợc ghi chép,

phản ánh mà còn phụ thuộc vào sự nghiền ngẫm của nhà văn, vào chiều sâu

của những tƣ tƣởng, tình cảm mà anh ta gửi gắm trong đó. Trên bối cảnh ấy

đã xuất hiện hàng loạt tác phẩm không chỉ ghi chép các tính cách, các sự kiện

mà còn soi sáng chúng dƣới nhiều góc độ khác nhau” [73; 22]. Đặc điểm thứ

ba là sự trở lại với đời thường, với số phận riêng. “Sự trở lại này hoàn toàn tất

yếu, bởi vì trƣớc đây, trong giai đoạn 1930 - 1945 nhiều nhà văn đã viết về

chủ đề này, hơn nữa nói chung đã là văn học thì nền văn học nào cũng quan

tâm đến số phận con ngƣời, đến cái riêng. Song vấn đề là ở chỗ do hoàn cảnh

chiến tranh suốt mấy chục năm qua, văn học cách mạng chủ yếu nói về cái

chung, chỉ xem xét cái riêng xuất phát từ quyền lợi chung của giai cấp, của

dân tộc, thành ra vấn đề đời thƣờng, số phận riêng của con ngƣời bị chìm đi,

thậm chí đôi khi còn bị xem nhƣ cái gì xa lạ với một nền văn học lành mạnh.

Điều này giải thích vì sao khi quay lại với chủ đề này, văn học đƣợc đánh giá

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

nhƣ đã có một hành động đổi mới” [73; 5].

Sự vận động của truyện ngắn VN từ 1986 đến nay, nhìn từ góc độ hình thức thể loại

10

Luận văn Thạc sĩ

Lưu Thị Thu Hà

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

Có thể nói, các nhà nghiên cứu đã có sự thống nhất khá cao về những

đặc điểm nội dung của giai đoạn văn học 1986 - 2006.

Về đổi mới thi pháp. Tuy chƣa đi vào nghiên cứu một cách sâu rộng

các vấn đề thi pháp của văn xuôi sau 1986, song các bài viết gần đây đã nhấn

mạnh vào một số biến đổi về hình thức biểu đạt của tác phẩm nhƣ: Sự suy

giảm vai trò cốt truyện; sự đa dạng các hình thức cấu trúc tác phẩm; tính chất

đa thanh trong nghệ thuật trần thuật, những khám phá về hệ thống nhân vật…

Từ đó, các nhà nghiên cứu bƣớc đầu đi đến kết luận về khả năng mở rộng, gia

tăng tính đối thoại của tự sự đƣơng đại trƣớc các vấn đề hiện thực và lịch sử.

Nhà nghiên cứu Lê Ngọc Trà cho rằng: “Nền tảng của thi pháp này là việc

xem sáng tác văn học không phải nhƣ hoạt động tuyên truyền, mà là hoạt

động nhận thức và tự nhận thức, ở đó nhà văn không áp đặt cho ngƣời đọc tƣ

tƣởng có sẵn, đƣợc hình tƣợng hóa mà mang đến cho họ bức tranh sinh động

về cuộc sống thấm nhuần những cảm xúc, suy nghĩ của mình, gợi ra cho họ,

cùng thảo luận với họ và để họ tự phán xét” [73; 40].

3.2 Tình hình nghiên cứu truyện ngắn 1986 - 2006

* Các công trình nổi bật

- Chuyên luận: Truyện ngắn Việt Nam: Lịch sử, thi pháp, chân dung -

Phan Cự Đệ, NXB Đại học Quốc gia, 2000

- Chuyên luận: Truyện ngắn - Những vấn đề lý thuyết và thực tiễn thể

loại - Bùi Việt Thắng - NXB Đại học Quốc gia, 2000

- Chuyên luận Bình luận truyện ngắn - Bùi Việt Thắng, NXB Văn học,

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

1999

Sự vận động của truyện ngắn VN từ 1986 đến nay, nhìn từ góc độ hình thức thể loại

11

Luận văn Thạc sĩ

Lưu Thị Thu Hà

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

- Bài viết: Văn xuôi Việt Nam hiện nay, logic quanh co của các thể loại,

những vấn đề đang đặt ra, và triển vọng - Nguyên Ngọc

- Bài viết: Truyện ngắn và cuộc sống hôm nay - Phạm Xuân Nguyên

- Tập bài giảng Văn học Việt Nam sau 1975, Đại học Khoa học Xã hội

và Nhân văn, ĐHQG HN

* Những nhận định chung

Không đƣợc coi là thể loại chủ đạo trong đời sống văn học nhƣ tiểu

thuyết, nhƣng khả năng khái quát hiện thực của truyện ngắn giai đoạn 1986 -

2006 không hề thua kém phƣơng thức tự sự cỡ lớn này. Trƣớc sự chín muồi

của đội ngũ các cây bút đã có thành tựu và sự nở rộ của lớp các nhà văn mới,

1986 - 2006 đƣợc coi là một trong những giai đoạn hoàng kim của lịch sử

truyện ngắn Việt Nam.

Thất vọng trƣớc khả năng nắm bắt cuộc sống của tiểu thuyết thời kỳ

này, nhà nghiên cứu Nguyên Ngọc viết: “Văn học đã chọn lấy một thể loại

khác để làm cái công việc mà tiểu thuyết chƣa làm đƣợc, một thể loại tự bản

thân nó, do chính đặc điểm thể loại của nó, đòi hỏi khái quát: truyện ngắn…

Truyện ngắn đạt đƣợc dung lƣợng nặng nhƣ vậy chính là vì nó đƣợc cả một

giai đoạn văn học của phóng sự và tiểu thuyết tích lũy và chuẩn bị cho nó. Nó

có ngồn ngộn tƣ liệu xã hội để mà làm công việc chƣng cất, chắt lọc… Rõ

ràng, trong các thể loại, truyện ngắn đã tiến xa hơn cả” [10; 34]. Nhà phê bình

Bùi Việt Thắng cũng khẳng định: “Nhìn tổng thể, truyện ngắn 1975 - 2000

vƣợt trội so với thơ và kịch vì nhiều lý do - trong đó phải kể đến sự ƣu ái của

đời sống là mảnh đất màu mỡ cho các thể của văn xuôi phát triển. Nếu có thể

so sánh thì truyện ngắn Việt Nam trong thế kỷ 20 có hai thời hoàng kim của

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

nó: 1930 - 1945 và 1986 - 2000” [68; 113].

Sự vận động của truyện ngắn VN từ 1986 đến nay, nhìn từ góc độ hình thức thể loại

12

Luận văn Thạc sĩ

Lưu Thị Thu Hà

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

Đây cũng là nguyên nhân khiến truyện ngắn trở thành đối tƣợng thu hút

nhiều công trình phê bình, nghiên cứu về giai đoạn này. Các công trình, bài

viết nhìn chung đều đánh giá cao đóng góp của truyện ngắn trong việc phản

ánh hiện thực đời sống xã hội. Phạm Xuân Nguyên trong bài Truyện ngắn và

cuộc sống hôm nay đánh giá: “Truyện ngắn hôm nay tiếp xúc, xới lật các

mảng hiện thực ở cả hai chiều quá khứ và hiện tại để mong góp một tiếng nói

định vị cho ngƣời đọc, một thái độ nhìn nhận, đánh giá những việc, những

ngƣời của bây giờ, nơi đây [47; 10]. Chỉ rõ sự phát triển mạnh mẽ cả về số

lƣợng và chất lƣợng của thể loại này, nhà nghiên cứu Lý Hoài Thu viết:

“Cùng với sự gia tăng của những tên tuổi mới và số lƣợng tác phẩm, truyện

ngắn thời kỳ này đã mở ra nhiều tìm tòi cả trong tiếp nhận hiện thực lẫn thi

pháp thể loại. Đó là chiều sâu triết lý và những cảm nhận về sự cô đơn của

thân phận con ngƣời, là sự đan cài giữa cái ảo và cái thực, giữa chất thơ và

văn xuôi” [73; 182].

Còn trong bài viết Từ một góc nhìn về sự vận động của truyện ngắn

chiến tranh, tác giả Tôn Phƣơng Lan lý giải chi tiết hơn: “Những truyện ngắn

đã khai thác yếu tố tâm linh và tạo ra những chi tiết, cảnh huống ly kỳ, hấp

dẫn, đem lại cho các truyện này một vóc dáng hiện thực mới khiến ngƣời đọc

không chỉ cảm mà còn thấy” [38; 34].

Những đổi mới về nội dung tất yếu dẫn đến sự thay đổi về hình thức

thể loại truyện ngắn. Nhà phê bình Bùi Việt Thắng nhận xét: “Về khía cạnh

thi pháp, truyện ngắn 1986 - 2000 đã trở nên phong phú về hình thức, phong

cách và bút pháp. Đã có thể tách bạch ra những dòng phong cách chủ yếu sau:

phong cách cổ điển (ứng với lớp nhà văn nhƣ Nguyễn Thành Long, Nguyên

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

Ngọc, Nguyễn Kiên, Ma Văn Kháng, Nguyễn Khải, Hồng Nhu…), phong

Sự vận động của truyện ngắn VN từ 1986 đến nay, nhìn từ góc độ hình thức thể loại

13

Luận văn Thạc sĩ

Lưu Thị Thu Hà

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

cách trữ tình (ứng với các nhà văn Nguyễn Bản, Đỗ Chu, Nguyễn Quang

Thiều, Võ Thị Hảo, Võ Thị Xuân Hà, Trần Huyền Trang…); phong cách hiện

thực (ứng với Y Ban, Phạm Ngọc Tiến, Nguyễn Thị Thu Huệ…). Về hình

thức, truyện ngắn giai đoạn này khá đa dạng - có thể nói đến một kiểu Truyền

kỳ hiện đại (kiểu Bến trần gian của Lƣu Sơn Minh, Hai người đàn bà xóm

trại của Nguyễn Quang Thiều), kiểu truyện giả cổ tích (Những ngọn gió Hua

Tát của Nguyễn Huy Thiệp), truyện ngắn - kịch (kiểu Kịch câm của Phan Thị

Vàng Anh), truyện ngắn rất ngắn (Vùng lặng của Phạm Sông Hồng), truyện

ngắn triết luận (Tâm tưởng của Bùi Hiển, Sống mãi với cây xanh của Nguyễn

Minh Châu, Thương nhớ đồng quê của Nguyễn Huy Thiệp)…” [65; 45].

Nhƣ vậy, là một thể loại phát triển rực rỡ trong giai đoạn văn học 1986

- 2006, truyện ngắn là đối tƣợng của không ít các công trình nghiên cứu, phê

bình đƣơng đại. Nhƣng với tham vọng khảo sát một cách tƣơng đối hệ thống

sự vận động của thể loại truyện ngắn giai đoạn 1986 - 2006, chúng tôi hy

vọng, việc triển khai đề tài này không phải là một công việc thừa thãi.

4. Phƣơng pháp nghiên cứu và bố cục luận văn

4.1 Phương pháp nghiên cứu

* Vận dụng kiến thức lý luận về thi pháp truyện ngắn đối với các vấn

đề: Cốt truyện - kết cấu, Nghệ thuật xây dựng nhân vật, Ngôn ngữ, giọng điệu

trần thuật…

* Sử dụng các thao tác:

- So sánh giữa các giai đoạn văn học nhằm làm rõ quá trình vận động

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

của thể loại truyện ngắn sau 1986.

Sự vận động của truyện ngắn VN từ 1986 đến nay, nhìn từ góc độ hình thức thể loại

14

Luận văn Thạc sĩ

Lưu Thị Thu Hà

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

- So sánh đối chiếu các tác phẩm đồng đại để thấy đƣợc nét riêng biệt

của từng trào lƣu, từng xu hƣớng truyện ngắn nổi bật.

- Phân tích, tổng hợp những nét chung và riêng trong các tác phẩm để

thiết lập hệ thống luận điểm.

- Thống kê, mô tả các hiện tƣợng, các biểu hiện của hình thức, sau đó

lý giải sự vận động của hình thức thể loại truyện ngắn sau 1986.

4.2 Bố cục luận văn

Luận văn bao gồm Phần mở đầu, Phần nội dung và Phần kết luận. Phần

nội dung có 3 chƣơng:

Chƣơng 1: Cốt truyện và kết cấu

Chƣơng 2: Nghệ thuật xây dựng nhân vật

Chƣơng 3: Nghệ thuật trần thuật

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

Danh mục tài liệu tham khảo

Sự vận động của truyện ngắn VN từ 1986 đến nay, nhìn từ góc độ hình thức thể loại

15

Luận văn Thạc sĩ

Lưu Thị Thu Hà

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

PHẦN NỘI DUNG

CHƢƠNG 1: SỰ VẬN ĐỘNG CỦA CỐT TRUYỆN VÀ KẾT CẤU

Khái niệm “cốt truyện” đƣợc sử dụng chủ yếu cho các thể loại văn học

thuộc phƣơng thức tự sự hoặc kịch. Trong cuốn Lý luận văn học, giáo sƣ Hà

Minh Đức xác định: “Cốt truyện là một hệ thống các sự kiện phản ánh những

diễn biến của cuộc sống, và nhất là các xung đột xã hội một cách nghệ thuật,

qua đó các tính cách hình thành và phát triển trong những mối quan hệ qua lại

của chúng nhằm làm sáng tỏ tƣ tƣởng và chủ đề tác phẩm” [17; 45]. Nếu cốt

truyện là một yếu tố nghiêng về nội dung thì kết cấu là một phƣơng diện của

hình thức liên quan tới cách tổ chức, bố trí, sắp xếp sự xuất hiện của các chất

liệu hiện thực hay tổ chức các yếu tố bên trong và bên ngoài của tác phẩm.

“Bố cục là một phƣơng diện của kết cấu. Ngoài bố cục, kết cấu còn bao gồm:

tổ chức hệ thống tính cách, tổ chức thời gian và không gian nghệ thuật của tác

phẩm, nghệ thuật tổ chức những liên kết cụ thể các thành phần cốt truyện,

nghệ thuật trình bày, bố trí các yếu tố ngoài cốt truyện” [17; 132]

Nhƣ vậy, trong quan hệ với cốt truyện, khái niệm kết cấu rộng hơn.

Mọi liên kết bên trong (giữa các sự kiện, chi tiết trong cốt truyện) và bên

ngoài (giữa cốt truyện và các thành phần khác của tác phẩm) đều là nhiệm vụ

của kết cấu. Cốt truyện là một đơn vị, một căn cứ để triển khai các công việc

kết cấu từ quy mô nhỏ cho đến quy mô lớn. Chính vì thế, trong khi nghiên

cứu cấu trúc của một tác phẩm văn học, ngƣời ta thƣờng phân tích đồng thời

các mối quan hệ qua lại, chi phối lẫn nhau giữa cốt truyện và kết cấu.

Đánh giá cao vai trò của cốt truyện, nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

trong cuốn 150 thuật ngữ văn học viết: “Cốt truyện trỏ lớp biến cố của hình

Sự vận động của truyện ngắn VN từ 1986 đến nay, nhìn từ góc độ hình thức thể loại

16

Luận văn Thạc sĩ

Lưu Thị Thu Hà

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

thức tác phẩm. Chính hệ thống biến cố đã tạo ra sự vận động của nội dung

cuộc sống đƣợc miêu tả trong tác phẩm. Tính truyện (có cốt truyện) là phẩm

chất có giá trị quan trọng của văn học, sân khấu, điện ảnh và các nghệ thuật

cùng loại” [22; 57]. Trong truyện ngắn, vai trò của cốt truyện càng đƣợc đẩy

mạnh do đặc trƣng phản ánh cuộc sống qua những khoảnh khắc tập trung nhất

các xung đột, mâu thuẫn của thể loại này. Chính vì vậy, sự vận động và biến

đổi của thể loại qua từng thời kỳ phát triển gắn liền với những biến chuyển về

mặt cốt truyện. Có thể thấy rõ điều này qua việc khảo sát những chặng đƣờng

truyện ngắn từ lúc thể loại này manh nha tại Việt Nam cho tới ngày nay.

1.1 Sự vận động của cốt truyện và kết cấu truyện ngắn trƣớc 1986

1.1.1 Giai đoạn trước 1932

Ra đời muộn hơn thế giới hàng trăm năm, truyện ngắn Việt Nam hình

thành vào khoảng thế kỷ 15, 16 với những tập truyện nhƣ Thiền uyển tập anh,

Tam tổ thực lục (đời Trần); Việt điện u linh, Nam ông mộng lục (1438), Thánh

Tông di thảo, Lĩnh Nam chích quái (thế kỷ XV), Truyền kỳ mạn lục (thế kỷ

16)… Nhƣng các đặc điểm thể loại trong những tập truyện này chƣa biểu hiện

một cách tập trung và rõ nét. Tình trạng diễn ra phổ biến là sự nhập nhằng

giữa tính chất ký, truyện lịch sử, truyện mô phỏng, phóng tác truyền thuyết

dân gian trong các tác phẩm. Giới nghiên cứu thƣờng dùng khái niệm “truyện

ngắn trung đại” nhƣ một cách ƣớc lệ để chỉ hiện tƣợng không thuần nhất về

nội dung và nghệ thuật, gồm rất nhiều kiểu tác phẩm khác nhau ra đời trong

một khoảng thời gian gần 10 thế kỷ. Trong cuốn Truyện ngắn - Những vấn đề

lý thuyết và thực tiễn thể loại, nhà nghiên cứu Bùi Việt Thắng viết: “Trong

khi nghiên cứu sự hình thành và phát triển của thể loại truyện ngắn Việt Nam,

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

chúng tôi quan sát thấy một hiện tƣợng sau: trong khu vực Đông Bắc Á (gồm

Sự vận động của truyện ngắn VN từ 1986 đến nay, nhìn từ góc độ hình thức thể loại

17

Luận văn Thạc sĩ

Lưu Thị Thu Hà

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

Trung Quốc, Nhật Bản, Triều Tiên), hình thức ban sơ của truyện ngắn là

truyền kỳ - đó là một thứ “truyện thần thoại có tác giả, cốt truyện của nó có

thể đƣợc lƣu hành trong dân gian, đƣợc các nhà văn sử dụng, nâng cao thành

tác phẩm văn học. Truyền kỳ là thể loại văn xuôi nghệ thuật sớm sủa của văn

học cổ điển Trung Quốc và theo quan niệm về thể loại này, nó là hình thức

ban đầu của truyện ngắn” [68;79].

Mới manh nha và chƣa có hình mẫu nào ổn định, truyện ngắn trung đại

phát triển khá đa dạng, nhiều chiều, nhiều khuynh hƣớng nhƣng có thể đƣợc

khái quát thành một số đặc điểm nhất định. Truyện thƣờng có nội dung và lối

kể dân gian. Dựa trên cốt truyện hoặc các nhân vật dân gian, nhà văn đắp

thêm phần hƣ cấu của mình cho tác phẩm có màu sắc hiện đại hoặc nhằm

phản ánh hiện thực nào đó. Người con gái Nam Xương là một ví dụ điển hình.

Tác phẩm có nguồn gốc từ truyện cổ tích dân gian Vợ chàng Trương. Nhƣng

Nguyễn Dữ đã sáng tạo thêm phần không gian truyện dƣới thủy cung nhằm

tăng tính diệu kỳ, tạo sức hấp dẫn cho tác phẩm. Truyện ngắn thời kỳ này

cũng chịu ảnh hƣởng lối văn tự sự trong các bộ sử, tạo nên tính chất sử ký văn

chƣơng cho tác phẩm. Theo đó, tác giả thƣờng vận dụng lối kể chuyện khách

quan với lời văn ngắn gọn, giàu chất truyện. Một số lƣợng lớn truyện ngắn

thời kỳ này lấy cảm hứng từ dã sử Trung Quốc hoặc Việt Nam và nhuận sắc

thêm. Mặt khác, do ảnh hƣởng của truyện dân gian và truyện lịch sử nên

truyện ngắn trung đại thƣờng có cốt truyện hấp dẫn, tình tiết ly kỳ.

Ngay trong thời kỳ sơ khai của truyện ngắn, cốt truyện đã đóng vai trò

quan trọng đối với các tác phẩm thuộc thể loại này. Chính vì thế, nhà nghiên

cứu Phan Cự Đệ cho rằng, truyện ngắn trung đại có thể phân loại theo tiêu chí

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

cốt truyện. Ông viết: “Xét về nguồn gốc cốt truyện, có thể chia truyện ngắn

Sự vận động của truyện ngắn VN từ 1986 đến nay, nhìn từ góc độ hình thức thể loại

18

Luận văn Thạc sĩ

Lưu Thị Thu Hà

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

trung đại thành 3 nhóm chính: 1. Nhóm tác phẩm lấy cốt truyện từ chính sử…

Các bộ sử cung cấp những ghi chép gốc về những nhân vật hay những sự việc

kỳ lạ, cố gắng ghi chép đúng với thực tế vốn có nhƣng chƣa quan tâm đến kỹ

thuật kể chuyện. Các nhà văn sẽ lựa chọn những nhân vật và sự kiện nào đƣợc

coi là thú vị và gia công nghệ thuật, có thể nhận thức và lý giải diễn biến cốt

truyện theo chiều hƣớng khác hẳn cốt truyện gốc… 2, Nhóm tác phẩm vay

mƣợn cốt truyện Trung Quốc. 3, Nhóm tác phẩm có cốt truyện hƣ cấu thuần

túy của Việt Nam. Loại này chiếm số lƣợng lớn nhất. Nội dung thƣờng kể về

các nhân vật của Việt Nam - những nhân vật hữu danh và vô danh trong lịch

sử, các mô típ thƣờng đƣợc sáng tạo trên cơ sở phỏng lại những lời kể của

ngƣời này ngƣời khác, tức là motif dân gian, đã đƣợc lƣu truyền theo con

đƣờng truyền miệng” [15; 45].

Chỉ với tập truyện duy nhất Truyền kỳ mạn lục, Nguyễn Dữ là ngƣời có

công lớn đối với sự hình thành truyện ngắn trung đại. Tác phẩm gồm có 20

truyện, chủ yếu lấy cốt truyện từ những sự tích lƣu truyền trong dân gian.

Truyện đƣợc nhà văn viết bằng lối văn tổng hợp nhiều hình thức nhƣ tản văn,

biền văn, thơ… Truyền kỳ mạn lục phản ánh khá đầy đủ và sắc sảo bức tranh

xã hội phong kiến Việt Nam thế kỷ XVI. Tác phẩm đã vƣợt khỏi dấu ấn của

loại ký lịch sử, đã có thêm phần phóng tác và hƣ cấu của ngƣời viết. Những

truyện nhƣ Người nghĩa phụ ở Khoái Châu, Cây gạo, Lệ Nương, Người con

gái Nam Xương… chứa đựng những mầm mống phát sinh của chủ nghĩa hiện

thực.

Do ảnh hƣởng các cốt truyện dân gian và dã sử, nên kết cấu truyện

ngắn trung đại chƣa thực sự phức tạp. Phần lớn, truyện diễn tiến theo trình tự

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

tuyến tính, cái gì xảy ra trƣớc, kể trƣớc. Các nhà văn ít dụng công miêu tả

Sự vận động của truyện ngắn VN từ 1986 đến nay, nhìn từ góc độ hình thức thể loại

19

Luận văn Thạc sĩ

Lưu Thị Thu Hà

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

không gian và thời gian nghệ thuật, chủ yếu kể lại tiến trình xảy ra của sự

việc. Việc khắc họa đời sống tâm lý nhân vật cũng chƣa đƣợc chú trọng nên

những hình thức kết cấu tâm lý dƣờng nhƣ không xuất hiện trong truyện ngắn

trung đại. Đặc điểm này khiến truyện ngắn trung đại trở thành một thể loại dễ

đọc, dễ hiểu đối với độc giả buổi đầu tiếp cận. Nhƣng trong tƣơng quan với

các nền truyện ngắn trên thế giới, có thể thấy truyện ngắn Việt Nam phát triển

chậm hơn rất nhiều.

Cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20, truyện ngắn Việt Nam đã có sự phát

triển tuy chƣa mạnh mẽ, rầm rộ, nhƣng có thể nói đã tạo đƣợc bƣớc ngoặt,

đánh dấu sự chuyển biến từ cách kể chuyện trung đại sang cách kể chuyện

hiện đại. Dù khó xác định mốc thời gian chính xác, nhƣng một cách tƣơng

đối, các nhà nghiên cứu cho rằng, Truyện Thầy Lazaro Phiền của Nguyễn

Trọng Quản xứng đáng là truyện ngắn Việt Nam hiện đại đầu tiên viết theo

kiểu phƣơng Tây. Tác phẩm đã mở đầu cho sự ra đời của một loạt truyện

ngắn của các tác giả nhƣ Nguyễn Bá Học, Phạm Duy Tốn… Cốt truyện về

một mối tình tay ba oái oăm vốn không quá phức tạp, nhƣng xu hƣớng hiện

đại hóa của tác phẩm bắt đầu bộc lộ từ cách kể chuyện ở ngôi thứ nhất của

nhân vật xƣng tôi. Đặc biệt, kết cấu truyện bộc lộ khuynh hƣớng tổ chức theo

quy luật tâm lý hơn là trật tự thời gian tuyến tính với kết thúc là tấn bi kịch

của nhân vật chính (hoàn toàn khác với lối kết thúc có hậu ảnh hƣởng từ

truyện kể dân gian trong các tác phẩm trƣớc đây). Sự ra đời của Truyện Thầy

Lazaro Phiền cùng với chữ quốc ngữ và sự ảnh hƣởng của văn hóa phƣơng

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

Tây đã tạo tiền đề cho một thời kỳ hoàng kim của truyện ngắn Việt Nam.

Sự vận động của truyện ngắn VN từ 1986 đến nay, nhìn từ góc độ hình thức thể loại

20

Luận văn Thạc sĩ

Lưu Thị Thu Hà

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

1.1.2 Giai đoạn 1932 - 1945

Giai đoạn 1932 - 1945 là bƣớc phát triển quan trọng trong tiến trình văn

học nói chung và của thể loại truyện ngắn nói riêng. Truyện ngắn thời kỳ này

khởi sắc, tạo nên mùa gặt bội thu với những tên tuổi nhƣ: Nguyễn Công

Hoan, Nam Cao, Thạch Lam, Nguyễn Tuân, Tô Hoài, Bùi Hiển, Kim Lân,

Nguyên Hồng, Mạnh Phú Tƣ, Khái Hƣng, Nhất Linh, Thanh Tịnh… Do

những đặc trƣng riêng về hoàn cảnh lịch sử và phong cách sáng tác, văn học

thời kỳ này chia làm hai dòng chính: hiện thực phê phán và lãng mạn trữ tĩnh.

Nhìn từ phƣơng diện cốt truyện và kết cấu, hai dòng văn học này cũng có

những đặc trƣng riêng.

Truyện ngắn hiện thực phê phán thể hiện cái nhìn trực diện vào bộ mặt

đời sống xã hội, bộc lộ các trạng thái nhân thế, phơi bày những hiện tƣợng

tầm thƣờng, kệch cỡm diễn ra hàng ngày trong đời sống. Cốt truyện của dạng

truyện ngắn này đƣợc xây dựng dựa vào những mâu thuẫn, xung đột đa dạng.

Chất liệu chính của cốt truyện thời kỳ này là những sự kiện, hành động giàu

kịch tính - loại sự kiện gắn liền với hành động bên ngoài của nhân vật. Nhà

văn luôn tìm cách dồn nén hàng loạt cử chỉ, động tác và lời đối thoại gay gắt

của các nhân vật vào quan hệ đối kháng. Khi đƣợc đặt trong những bối cảnh

văn học đặc biệt, chúng thƣờng đƣợc đẩy lên thành những hiện tƣợng mang

tính tƣợng trƣng, hay còn gọi là hoàn cảnh điển hình. Có thể nói, với dòng

văn học hiện thực phê phán, cốt truyện truyện ngắn đã đƣợc đẩy lên đến đỉnh

cao của sự mẫu mực. Sự phát triển của tác phẩm đi qua tiến trình cơ bản gồm

thắt nút, cao trào, mở nút. Cốt truyện đƣợc xây dựng dựa vào hệ thống sự

kiện; biến cố giữ vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy cốt truyện phát triển

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

và kết thúc tác phẩm thƣờng rất bất ngờ. Với kiểu cốt truyện này, kết cấu

Sự vận động của truyện ngắn VN từ 1986 đến nay, nhìn từ góc độ hình thức thể loại

21

Luận văn Thạc sĩ

Lưu Thị Thu Hà

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

truyện ngắn 1932 - 1945 cũng rất đa dạng, phong phú. Có kiểu kết cấu theo

trình tự thời gian, kết cấu hồi cố, kết cấu tâm lý, kết cấu truyện lồng trong

truyện. Trong đó nguyên tắc cơ bản của miêu tả là tạo sự đối lập tƣơng phản

và tăng cấp, giữa các nhân vật, trong mỗi nhân vật, giữa các tình huống và

ngay trong một tình huống. Nếu nhƣ Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố khai

thác xung đột kẻ giàu - ngƣời nghèo thì Nam Cao, Nguyên Hồng phản ánh sự

mâu thuẫn giữa nông dân và phú hào, khát vọng của trí thức và những kiềm

tỏa của đời sống vật chất.

Trong dòng văn học lãng mạn, truyện ngắn trữ tình là một trong những

giá trị nổi bật, với những sáng tác đặc sắc của Thạch Lam, Thanh Tịnh, Hồ

Dzếnh... Thƣờng bộc lộ tâm tƣởng của con ngƣời trƣớc đời sống, truyện ngắn

trữ tình về cơ bản là sự chủ quan hóa, nội tâm hóa cái nhìn thế giới. Truyện

không nặng về kể lể các sự việc mà chủ yếu thể hiện các trạng thái tâm lý của

con ngƣời. Sự kiện nội tâm là chất liệu cơ bản để xây dựng cốt truyện. Do đó,

truyện ngắn trữ tình thƣờng không có cốt truyện. Kết cấu chủ yếu theo dòng

tâm lý, suy tƣởng; xung đột nội tâm là điểm tựa cho cấu trúc của truyện. Cả

truyện thƣờng nhẹ nhàng nhƣ một bài thơ, trong đó, mỗi đoạn truyện đƣợc thể

hiện nhƣ một đoạn thơ.

Thạch Lam là cây bút nổi bật nhất của dòng truyện trữ tình 1932 - 1945

với những sáng tác nhƣ Hai đứa trẻ, Dưới bóng hoàng lan, Nhà mẹ Lê, Bóng

người xưa... Nhà nghiên cứu Phan Cự Đệ nhận xét: “Nếu nhƣ ở truyện ngắn

Nguyễn Công Hoan, cốt truyện có phần nào lấn át nhân vật thì Thạch Lam lại

ít sử dụng những cốt truyện sự kiện giàu hành động kịch tính. Một số truyện

ngắn của Thạch Lam rất khó kể lại, hay nói đúng hơn, Thạch Lam nghiêng về

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

những cốt truyện tâm lý. Truyện ngắn Thạch Lam tác động sâu vào lĩnh vực

Sự vận động của truyện ngắn VN từ 1986 đến nay, nhìn từ góc độ hình thức thể loại

22

Luận văn Thạc sĩ

Lưu Thị Thu Hà

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

tâm lý, tình cảm của ngƣời đọc. Ngòi bút Thạch Lam đi sâu vào thế giới bên

trong của tâm hồn con ngƣời, đặc biệt là thế giới của những ấn tƣợng và cảm

giác” [15; 34]. Những thành tựu truyện ngắn trữ tình 1932 - 1945 sẽ còn đƣợc

tiếp tục phát triển trong giai đoạn văn học sau.

Ngoài cách phân chia cốt truyện theo hai dòng văn học nói trên, sự phát

triển của truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1932 - 1945 còn sản sinh ra những

tác phẩm mang khuynh hƣớng tiểu thuyết hóa. Là một thể loại độc lập, truyện

ngắn có khả năng ngang hàng với tiểu thuyết ở giá trị nhận thức hiện thực

nhƣng trong bản thân hình thức tự sự này luôn tiềm ẩn sự bứt phá khỏi khuôn

khổ thể loại. Mặc dù bình đẳng với tiểu thuyết ở phƣơng thức phản ánh (sử

dụng lời kể và lời miêu tả) song truyện ngắn không thể cạnh tranh đƣợc với

tiểu thuyết ở quy mô tổ chức và sự đa dạng các hình thức nghệ thuật biểu hiện

cuộc sống ở chiều sâu. Trong khi hƣớng tới con ngƣời và cuộc sống trong

những mối quan hệ ngày một đa chiều, phức tạp thì tính chất “một chủ đề,

một tiến trình sự kiện, một biểu đạt tình thái duy nhất thống nhất trong một

thời gian đối thoại ngắn” [26; 139] của thể loại này tỏ rõ những hạn chế nhất

định. Dung lƣợng tác phẩm bắt đầu giãn ra nhƣng chất tiểu thuyết chỉ thực sự

xuất hiện ở những truyện ngắn mang tƣ duy tiểu thuyết, biểu hiển rõ ở hệ

thống chủ đề, cốt truyện, tính cách và những vấn đề hiện thực đặt ra trong

đó… Nhìn từ góc độ cốt truyện và kết cấu, ở những tác phẩm thuộc xu hƣớng

này, tính chất đơn tuyến và sự hữu hạn của thời gian, không gian từng bƣớc bị

phá vỡ. Cốt truyện vẫn giữ lại sƣờn sự kiện mang tính dramatic truyền thống

song dấu hiệu đa tuyến đã xen vào cùng với nghệ thuật xử lý thời gian không

gian phức tạp và hiệu quả hơn. Đó là trƣờng hợp của những truyện ngắn nhƣ

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

Chí Phèo, Đời thừa… (Nam Cao).

Sự vận động của truyện ngắn VN từ 1986 đến nay, nhìn từ góc độ hình thức thể loại

23

Luận văn Thạc sĩ

Lưu Thị Thu Hà

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

1.1.3 Giai đoạn 1945 - 1985

Thực tế, giai đoạn văn học 1945 - 1985 có thể đƣợc chia thành các

khúc đoạn nhỏ hơn, nhƣng nhìn từ phƣơng diện cốt truyện và kết cấu, sự thay

đổi giữa các khúc đoạn này diễn ra không thực sự mạnh mẽ. Phát triển trong

bối cảnh đất nƣớc đối đầu với hai cuộc chiến tranh và công cuộc xây dựng xã

hội chủ nghĩa diễn ra chóng vánh, nhiệm vụ phục vụ cách mạng đƣợc đặt ra

nhƣ một yêu cầu tiên quyết đối với văn học. Đặc điểm này sẽ trực tiếp chi

phối đến nội dung, cốt truyện và nghệ thuật kết cấu tác phẩm của văn xuôi tự

sự, trong đó có truyện ngắn.

Những nhà văn đã thành danh với dòng truyện hiện thực phê phán giai

đoạn trƣớc nhƣ Nam Cao, Nguyễn Công Hoan, Bùi Hiển, Kim Lân… tiếp tục

sáng tác một cách sung sức. Dòng văn học hiện thực, với chức năng cơ bản là

phản ánh sự phong phú, sôi động của cuộc kháng chiến và những năm đầu

xây dựng hòa bình, các tác giả đã tập trung khai thác những mâu thuẫn xung

đột giai cấp, xung đột dân tộc, xung đột cá nhân và tập thể. Giai đoạn đầu,

truyện ngắn hơi giàu chất ký, cốt truyện còn đơn giản, chi tiết chƣa thực sự

tinh tế và chọn lọc. Càng về sau, với những tác giả nhƣ Nguyễn Quang Sáng,

Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Nguyên Ngọc, Anh Đức… truyện ngày

càng có nhiều tình huống và cấu tứ hay. Nhà phê bình Bùi Việt Thắng nhận

xét: “Truyện ngắn giai đoạn này (1955 - 1975) tiêu biểu về tính cốt truyện,

bởi lẽ cuộc sống đa dạng đã cung cấp cho nhà văn những „cốt‟ hay: Một tình

yêu của những ngƣời chƣa từng biết mặt nhau (Mảnh trăng cuối rừng -

Nguyễn Minh Châu); một sự thử thách tình yêu độc đáo (Chị xã đội trưởng -

Nguyễn Quang Sáng); một cuộc tái sinh nhiệm màu của lao động đối với

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

phẩm hạnh con ngƣời (Mùa lạc - Nguyễn Khải)… Với những cốt truyện đầy

Sự vận động của truyện ngắn VN từ 1986 đến nay, nhìn từ góc độ hình thức thể loại

24

Luận văn Thạc sĩ

Lưu Thị Thu Hà

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

kịch tính, nhà văn đã tạo nên đƣợc những truyện ngắn có độ căng của hành

động nhƣ Rừng xà nu - Nguyên Ngọc, Quán rượu người câm - Nguyễn

Quang Sáng… Đa số truyện ngắn thời kỳ này đều viết về những khoảnh khắc

tiêu biểu của cuộc sống trong chiến tranh” [68;78].

Theo đó, kết cấu truyện theo hai tuyến nhân vật tỏ ra rất phù hợp để

phản ánh các mâu thuẫn cơ bản của thời đại: ta và địch; nông dân và địa chủ,

cá nhân và tập thể. Các truyện ngắn nhƣ Vợ chồng A Phủ (Tô Hoài), Con

đường sống (Minh Lộc), Con chim vàng (Nguyễn Quang Sáng), Chị Nhân

(Kim Lân)… là những điển hình cho kiểu kết cấu này.

Dòng truyện ngắn trữ tình với cốt truyện “không có chuyện” vẫn trở lại

mạnh mẽ từ thập niên 60 với những tên tuổi nhƣ Thanh Tịnh, Hồ Dzếnh,

Xuân Diệu, Ngọc Giao, Đỗ Chu, Nguyễn Thành Long, Ma Văn Kháng… Vẫn

tiếp tục các đặc trƣng của truyện trữ tình giai đoạn trƣớc, lúc này, các tác giả

chủ yếu bày tỏ cảm xúc, ấn tƣợng của mình trƣớc sự đổi mới của đất nƣớc,

trƣớc những biến chuyển của cuộc sống mới. Những sáng tác nổi bật của kiểu

truyện này gồm có: Hương cỏ mật (Đỗ Chu), Lặng lẽ Sapa (Nguyễn Thành

Long), Bông cẩm thạch (Nguyễn Sáng)… Thời điểm này, nhà văn Ma Văn

Kháng quan niệm: “Truyện ngắn phải có cái gì bay bay một tí, không nên mơ

màng quá, mà trần trụi quá cũng không ổn” [63; 89]. Cái “bay bay một tí”,

theo ông là chất thơ trong văn xuôi. “Không phải nằm trong vang hƣởng của

ngôn ngữ… mà toát ra từ khung cảnh, chất liệu, từ không khí của chung của

toàn truyện, tức sự hòa hợp của các nhân tố chủ quan, khách quan” [63; 23].

Chất truyện suy giảm, chất thơ đƣợc đẩy mạnh là đặc trƣng nổi bật của truyện

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

ngắn trữ tình giai đoạn 1945 - 1985.

Sự vận động của truyện ngắn VN từ 1986 đến nay, nhìn từ góc độ hình thức thể loại

25

Luận văn Thạc sĩ

Lưu Thị Thu Hà

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

Dù ra đời muộn hơn thế giới, nhƣng truyện ngắn, với những bƣớc phát

triển mạnh mẽ qua từng thời kỳ sẽ là tiền đề quan trọng cho sự phát triển

phong phú của cốt truyện truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1986 - 2006.

1.2 Những xu hƣớng tổ chức cốt truyện và kết cấu truyện ngắn 1986 -

2006

1.2.1 Kiểu cốt truyện chặt chẽ được kế thừa và phát triển đến đỉnh cao

Nhiều ý kiến cho rằng, đối với một tác giả truyện ngắn, cốt truyện

không quan trọng nhƣ đối với một tiểu thuyết gia. Nhƣng thực tế, cốt truyện

có vai trò thiết yếu đối với bất cứ hình thức nghệ thuật nào bao gồm sự kể.

Trong văn học, cốt truyện đƣợc xác định là yếu tố đầu tiên của nghệ thuật tự

sự. Cốt truyện chi phối đến nhiều yếu tố khác, ví dụ việc lựa chọn điểm nhìn,

ngôi kể, quy định không gian, thời gian... Nếu phân tích hệ thống sự kiện và

kết cấu tác phẩm, ngƣời ta có thể rút ra công thức của một cốt truyện mẫu

mực gồm các thành phần: trình bày, thắt nút, phát triển, cao trào, mở nút. Ở

một phƣơng diện nào đó, cấu trúc này gần với một vở kịch. Nhà nghiên cứu

ngƣời Mỹ Raymond Carver từng viết: “Truyện ngắn gần với kịch. Nói rộng

ra, một chất liệu cần thiết cho truyện ngắn, đó là kịch tính. Bởi lẽ, tính chất

giảm thiểu đến trơ trụi của truyện ngắn đòi hỏi độ căng của kịch. Không phải

ngẫu nhiên mà nhiều nhà lý luận phƣơng Tây đã ví truyện ngắn nói chung và

đặc biệt là truyện cực ngắn với những vở bi kịch cổ điển” [13; 98]. Truyện

ngắn hiện đại ngày nay không đòi hỏi đầy đủ 5 giai đoạn, nhƣng để có một

cốt truyện hoàn chỉnh thì cần ít nhất ba điều kiện: ngƣời kể, hành động kể và

câu chuyện nào đó. Cốt truyện gồm một hệ thống sự kiện, hành động mà

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

trong quá trình vận động tạo nghĩa chúng hình thành nên cái khung của sự kể.

Sự vận động của truyện ngắn VN từ 1986 đến nay, nhìn từ góc độ hình thức thể loại

26

Luận văn Thạc sĩ

Lưu Thị Thu Hà

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

Truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1932 - 1945 đã tạo ra đƣợc những cốt

truyện chặt chẽ, cổ điển với sáng tác của Nam Cao, Nguyễn Công Hoan, Ngô

Tất Tố… Ở giai đoạn 1986 - 2006, kiểu cốt truyện này tiếp tục đƣợc phát

triển lên đến đỉnh cao với những sáng tạo mới mẻ. Trong khuôn khổ của luận

văn, tiêu biểu cho kiểu cốt truyện này, chúng tôi sẽ chỉ đề cập đến 3 trƣờng

hợp Nguyễn Huy Thiệp, Lê Minh Khuê và Phan Thị Vàng Anh. Những tác

giả khác của giai đoạn này sẽ đƣợc phân tích trong những nội dung khác.

Phan Thị Vàng Anh: Trong số các cây bút văn xuôi đƣơng đại, cô con

gái nhà thơ Chế Lan Viên tạo lập đƣợc một chất giọng riêng, rất khó bắt

chƣớc, dù chị viết giản dị, nhẹ nhàng và rất tự nhiên. Truyện của Phan Thị

Vàng Anh ngắn, nhỏ xinh nhƣ những bài thơ, nhƣng thƣờng đƣợc kể bằng chi

tiết, sự kiện, tình huống và biến cố. Với dung lƣợng nhỏ gọn, nhà văn không

chọn kiểu cốt truyện đa tuyến, mà thƣờng phát triển cốt truyện đơn tuyến với

những phát hiện sắc sảo về chi tiết và tình huống. Có thể nói, trong số các nhà

văn Việt Nam sau 1986, Vàng Anh là ngƣời phát huy khá thành công kiểu

truyện ngắn - kịch từng nổi tiếng với ngòi bút Nguyễn Công Hoan ở giai đoạn

trƣớc. Trong các tác phẩm của mình, chị luôn tạo đƣợc những cốt truyện giàu

kịch tích, khiến tác phẩm nhƣ những đợt sóng ngầm, lúc dữ dội, lúc dịu êm.

Thành công lớn nhất của Phan Thị Vàng Anh là qua những câu chuyện dƣờng

nhƣ rất nhỏ, rất vặt vãnh, chị đề cập đến những vấn đề sâu sắc, triết lý và đầy

suy ngẫm về cuộc đời. Nhà nghiên cứu Lê Ngọc Trà trong bài Cái mới trong

loại truyện rất ngắn đã có những nhận xét khái quát và tinh tế về truyện ngắn

của Vàng Anh: “Truyện của Vàng Anh thƣờng rất ngắn. Ngắn mà vẫn là

truyện ngắn, đọc vẫn xúc động, vẫn ngầm chứa kịch tính và do đó rất có sức

lôi cuốn bên trong. Giọng văn Vàng Anh vừa có cái trẻ trung, vừa có cái già

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

dặn, vừa có cái hồn nhiên, say mê của ngƣời đang trong cuộc chơi, lại vừa có

Sự vận động của truyện ngắn VN từ 1986 đến nay, nhìn từ góc độ hình thức thể loại

27

Luận văn Thạc sĩ

Lưu Thị Thu Hà

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

cái lãng xẹt, vô tâm của ngƣời mới chơi đã bắt đầu thấy chán, thấy cái vô

nghĩa của trò chơi… Truyện của Vàng Anh là kiểu truyện ngắn hiện đại,

trƣớc đây ít có ở Việt Nam” [75;176]. Với trƣờng hợp của Vàng Anh, chúng

tôi chọn phân tích truyện ngắn Phục thiện.

Phục thiện không phải là truyện ngắn thực sự đặc sắc của Vàng Anh.

Nhƣng đây là tác phẩm có cốt truyện đơn tuyến khá điển hình, tiêu biểu cho

kiểu truyện nữ sinh của nhà văn. Cốt truyện Phục thiện rất đơn giản, đƣợc kể

từ ngôi thứ nhất, xoay quanh nhân vật chính Thái Anh. Vốn là cô nữ sinh ngổ

ngáo, kiêu ngạo, khi còn ở trƣờng X, Thái Anh thƣờng xuyên gây lộn với bạn

bè cùng lớp. Đỉnh điểm là khi cô gây sự với Dân - bí thƣ Đoàn và bị lƣu đoàn.

Sau đó, nhờ sự ƣu ái của bè bạn, Thái Anh không bị lƣu đoàn nữa. Cô quyết

định sẽ chuyển sang trƣờng mới và bắt đầu công cuộc phục thiện. Với cốt truyện

khá nhẹ nhàng, tác phẩm đƣợc triển khai trên chuỗi sự kiện chính nhƣ sau:

- Nhân vật tôi cãi nhau với bí thƣ chi đoàn - Dân

- Tôi bị lƣu đoàn

- Tôi không bị lƣu đoàn nhờ đƣợc bầu lại, quyết định phục thiện

- Dân gửi cho tôi một lá thƣ mực thƣớc, đạo lý

- Tôi chuyển sang trƣờng mới, bắt đầu phục thiện

- Tôi sống yên ổn ở trƣờng mới, dịu dàng và ngoan ngoãn

- Tôi gặp lại bạn ở trƣờng cũ - sợ lộ thói xấu của mình

- Tôi nuối tiếc không đƣợc sống thật với con ngƣời cũ

- Tôi chơi thân với Thái Hà vì cậu ta cũng ngổ ngáo nhƣ tôi

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

- Thái Hà lƣu ban, tôi dần thoát khỏi con ngƣời cũ

Sự vận động của truyện ngắn VN từ 1986 đến nay, nhìn từ góc độ hình thức thể loại

28

Luận văn Thạc sĩ

Lưu Thị Thu Hà

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

- Cảm giác nhớ đến trƣờng cũ, lớp cũ

Với kiểu cốt truyện đơn tuyến truyền thống, lấy nhân vật chính làm

điểm quy chiếu để hình thành hệ thống sự kiện, Phục thiện của Phan Thị

Vàng Anh là một mẫu hình khá tiêu biểu cho một lối viết của truyện ngắn

đƣơng đại: từ một dung lƣợng nhỏ, có thể khắc họa rõ nét tính cách nhân vật

chính thông qua hệ thống chi tiết có sức biểu hiện rõ nét.

Từ chuỗi sự kiện nhƣ đã phân tích, có thể thấy, Phục thiện đƣợc kết cấu

theo trật tự thời gian tuyến tính. Truyện ngắn Vàng Anh vốn không quá phức

tạp về mặt kết cấu. Ngoài một số truyện đƣợc trình bày theo dòng chảy thời

gian (nhƣ Phục thiện, Kịch câm, Cha tôi, Bản lĩnh đàn ông…), trong những

cốt truyện đơn tuyến, thỉnh thoảng chị đảo chiều, kể chuyện dựa vào dòng hồi

cố của nhân vật (Khi người ta trẻ, Chuyện hồng…).

Lê Minh Khuê: Là một trong những nhà văn chung thủy với truyện

ngắn, Lê Minh Khuê đã có nhiều thể nghiệm và cách tân với thể loại này. Với

những tập truyện nhƣ Cao điểm mùa hạ (1978), Đoạn kết (1980), Một chiều

xa thành phố (1986), Bi kịch nhỏ (1993), Trong làn gió heo may (1999), Màu

xanh man trá (2005)… chị thể hiện thành công cách nhìn mới về hiện thực và

cuộc sống con ngƣời. Từ cảm hứng sử thi chuyển sang góc nhìn thế sự, đời

tƣ, Lê Minh Khuê đã nhận ra con ngƣời tồn tại với tƣ cách cá nhân, cá thể;

con ngƣời có những số phận, nỗi niềm riêng. Viết từ chiến tranh ra đến thời

bình, mỗi một chặng đƣờng truyện ngắn của Lê Minh Khuê đều đƣợc đánh

dấu bằng những đỉnh cao. Cao điểm mùa hạ khẳng định tên tuổi Lê Minh

Khuê trên văn đàn; Một chiều xa thành phố - Giải thƣởng Hội Nhà văn Việt

Nam năm 1987; truyện ngắn Bi kịch nhỏ (tên ban đầu là Thảm kịch nhỏ) -

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

đoạt giải thƣởng truyện ngắn hay Tạp chí Văn nghệ Quân đội năm 1991;

Sự vận động của truyện ngắn VN từ 1986 đến nay, nhìn từ góc độ hình thức thể loại

29

Luận văn Thạc sĩ

Lưu Thị Thu Hà

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

Trong làn gió heo may - Giải thƣởng Hội nhà văn Việt Nam năm 2000; và

gần đây nhất, tuyển tập truyện ngắn Những ngôi sao, trái đất, dòng sông của

chị đoạt giải thƣởng văn học quốc tế mang tên văn hào Byeong-ju Lee…

Viết rất đa dạng về đề tài và rất đều tay qua nhiều giai đoạn khác nhau,

Lê Minh Khuê là nhà văn biết xây dựng nhân vật sắc sảo, chọn lọc chi tiết sắc

nét, tổ chức câu chuyện chặt chẽ… Những phẩm chất trên thƣờng chỉ có đƣợc

ở những truyện ngắn có dung lƣợng khá dài, có cốt truyện đƣợc tổ chức công

phu. Truyện của Lê Minh Khuê là những tác phẩm có chuyện để kể, thậm chí

là nhiều chuyện đan xen vào nhau. Nếu ở giai đoạn 1930 - 1945, Nam Cao

từng tạo ra đƣợc những truyện ngắn đa thanh, đa tuyến, mang dáng dấp tiểu

thuyết thì thời kỳ này, Lê Minh Khuê cũng tạo đƣợc những thành công tƣơng

tự với những truyện ngắn nhiều mạch truyện tràn vào nhau. Bi kịch nhỏ - một

truyện ngắn nổi tiếng của chị - là tác phẩm tiêu biểu cho sự thành công của

những cốt truyện chặt chẽ, đa tuyến. Nếu chỉ kể lại câu chuyện, cốt truyện Bi

kịch nhỏ có thể tóm gọn lại nhƣ sau: Ông Tuyên vốn là một thanh niên làng

Sầm đỗ tú tài rồi ra tỉnh làm quan. Tại đây, ông cƣới một tiểu thƣ khuê các

con nhà dòng dõi rồi đƣa về làng sinh sống. Cách mạng nổ ra, ông Tuyên

tham gia cƣớp chính quyền, lo sợ ảnh hƣởng đến thành phần bản thân, ông bỏ

mặc ngƣời vợ bụng mang dạ chửa trong cơn đấu tố ở làng để “lặn thật sâu”.

Ngƣời vợ đẻ ra đứa con trai rồi chết. Trƣớc khi chết, bà giao con cho một

ngƣời họ hàng đƣa đi biệt xứ. Đứa con (Quang) về sau lƣu lạc sang Pháp.

Ông Tuyên thản nhiên lấy vợ mới và sinh ra một đứa con gái tên là Cay. Số

phận run rủi, Quang và Cay yêu nhau mà không hề biết họ là anh em cùng cha

khác mẹ. Ông Tuyên phát hiện ra sự thật và nói cho Quang biết. Quá đau khổ,

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

Quang đã tự vẫn để giải thoát cho tất cả mọi ngƣời…

Sự vận động của truyện ngắn VN từ 1986 đến nay, nhìn từ góc độ hình thức thể loại

30

Luận văn Thạc sĩ

Lưu Thị Thu Hà

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

Nhƣng để kiến tạo nên một câu chuyện hấp dẫn, khác hẳn những bi

kịch từng xảy ra trong thời kỳ loạn lạc của dân tộc, Lê Minh Khuê đã tổ chức

tác phẩm thành 3 mạch truyện, với ngồn ngộn chi tiết và sự kiện. Kèm theo

cốt truyện 3 mạch là cách kết cấu tác phẩm đầy biến hóa. Bắt đầu từ thời gian

hiện tại, với mạch truyện thứ nhất là chuyến đi công tác viết báo của nhân vật

tôi, nhà văn khéo léo hé lộ những manh mối ban đầu của mạch truyện thứ hai

- Cuộc đời ông Tuyên - với dòng thời gian ngƣợc về quá khứ. Từ quá khứ,

nhà văn lại trở về hiện tại với câu chuyện đám cƣới của ngƣời chị họ, hé lộ bi

kịch của mạch truyện thứ ba - Quang và Cay. Dƣới đây là sự mô hình hóa

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

cách kiến trúc truyện ngắn của nhà văn:

Sự vận động của truyện ngắn VN từ 1986 đến nay, nhìn từ góc độ hình thức thể loại

31

Luận văn Thạc sĩ

Lưu Thị Thu Hà

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

Hệ thống sự kiện Mạch truyện

- Tôi về huyện V điều tra, viết báo

- Nhận đƣợc thƣ bác Tuyên về đám cƣới chị Cay

Chuyến công tác của tôi

- Nghe đám phóng viên kể chuyện xấu về bác Tuyên

- Ngỡ ngàng vì kẻ giết cha không hề hối hận

- Một thanh niên giết cha ở huyện V

Tƣợng

- Ông Tuyên đỗ tú tài rồi lên tỉnh làm quan

trƣng

- Ông cƣới tiểu thƣ con nhà dòng dõi

- Ông tham gia chính quyền khi bà Tuyên mang thai cu Tị

- Bỏ mặc vợ con bị đấu tố ở quê nhà

- Bà Tuyên chết, giao Tị (Quang) và một bức ảnh cho bà Hàn

Cuộc đời ông Tuyên

- Bà Hàn và con nuôi lƣu lạc sang Pháp

- Ông Tuyên thành quan to

- Ông cƣới vợ và sinh ra cô con gái tên Cay

- Quang và Cay yêu nhau

- Tại lễ ra mắt con rể, ông Tuyên nhận ra Quang nhờ tấm ảnh

Nhân

- Đau đớn vì đối diện với quả báo từ quá khứ

quả

- Cay vốn là tiểu thƣ con nhà giàu, sống cuộc đời sung sƣớng

- Cay lấy một tay kỹ sƣ “đào mỏ”

- Cay bỏ anh chồng kỹ sƣ

- Yêu Quang – một Việt kiều mang quốc tịch Pháp

- Đƣa ngƣời yêu về giới thiệu với bố mẹ

Quang và Cay

- Quang và Cay đến thăm nhân vật tôi

- Quang cho tôi xem bức ảnh của tôi thời nhỏ

- Quang biết sự thật, anh là anh trai của Cay

- Quang lặng lẽ ra đi không từ biệt ngƣời yêu

- Quang tự tử

Nhƣ đã thể hiện ở mô hình trên, ba mạch truyện của tác phẩm liên hệ

chặt chẽ với nhau. Mạch truyện thứ hai có quan hệ nhân quả với mạch truyện

thứ nhất, là sự lý giải sâu sắc cho tấn bi kịch ở hiện tại. Mối tình cay nghiệt

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

của Quang và Cay là sự trả giá cho những hành động vô đạo mà bố họ đã

Sự vận động của truyện ngắn VN từ 1986 đến nay, nhìn từ góc độ hình thức thể loại

32

Luận văn Thạc sĩ

Lưu Thị Thu Hà

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

phạm phải thời tuổi trẻ. Nếu không vì danh vọng cá nhân để mặc vợ chết tức

tƣởi và con trai phải lƣu lạc, ông Tuyên đã không phải sững sờ chứng kiến

cảnh hai đứa con ruột của mình yêu nhau. Kết thúc truyện, với cái chết của

Quang, nhà văn có điều kiện khám phá tối đa ý nghĩa của bi kịch và nhìn số

phận con ngƣời từ nhiều góc độ. Chỉ với hai mạch truyện đó, cũng đã đủ tạo

thành một truyện ngắn dày dặn. Nhƣng Lê Minh Khuê vẫn lồng tiếp vào câu

chuyện mạch truyện thứ nhất về một gã thanh niên giết cha. Mối liên hệ này

tạo ra ý nghĩa biểu trƣng, đƣa lại trƣờng nghĩa rộng hơn cho tác phẩm. Nó

khiến ngƣời đọc nghĩ đến mô hình tội ác và trừng phạt đã khá phổ biến trong

văn học phƣơng Tây. Do vậy, truyện ngắn không chỉ là một “chốc lát” mà là

sự chiếm lĩnh cuộc sống một cách toàn vẹn, khái quát hiện thực rộng lớn, lý

giải hiện thực sâu sắc.

Với mục tiêu phản ánh và khám phá những mảng đa dạng và đầy biến

động của cuộc sống, gây ấn tƣợng sâu đậm về sự thăng trầm của số phận con

ngƣời, Lê Minh Khuê đã có nhiều đổi mới trong việc kiến tạo cốt truyện và

kết cấu. Đó là sự triển khai cốt truyện chặt chẽ, đan xen nhiều mạch, có xu

hƣớng tiểu thuyết hóa. Ngoài Bi kịch nhỏ, có thể thấy rõ những đặc điểm này

qua các tác phẩm khác của chị nhƣ: Anh lính Tony D., Đồng đô la vĩ đại…

Nguyễn Huy Thiệp: Trong sự nghiệp sáng tác của mình, Nguyễn Huy

Thiệp chỉ viết chừng hơn 50 truyện ngắn. Tuyển tập những tác phẩm này vừa

đƣợc in lại đầy đủ trong cuốn Truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp cũng chỉ vừa

đủ dày dặn do Nhà xuất bản Văn hóa Sài Gòn ấn hành năm 2006. Chỉ với

chừng ấy thôi, Nguyễn Huy Thiệp đã là một trong những tác gia truyện ngắn

đƣơng đại xuất sắc của Việt Nam. Nhà nghiên cứu Nguyên Ngọc đánh giá:

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

“Nguyễn Huy Thiệp xuất hiện trong trào lƣu Đổi mới của Việt Nam, là một

Sự vận động của truyện ngắn VN từ 1986 đến nay, nhìn từ góc độ hình thức thể loại

33

Luận văn Thạc sĩ

Lưu Thị Thu Hà

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

hiện tƣợng tiêu biểu nhất của trào lƣu đó. Tuy nhiên, trong khi văn học Đổi

mới đang hăng hái làm công việc phơi bày, tố cáo những hiện tƣợng xã hội

phức tạp thì Nguyễn Huy Thiệp không lao vào dòng chảy chung đó. Anh đi

theo một con đƣờng khác: rất sớm, từ nhiều góc độ khác nhau, đa dạng lắm

lúc đến khiến ta kinh ngạc, khi trực tiếp, khi qua nhiều khúc xạ phong phú,

khi quyết liệt, dữ dằn, thậm chí trắng trợn, khi đằm thắm và đầy chất thơ, anh

cố lần ngƣợc lên cho đến ngọn nguồn của những hiện tƣợng xã hội ấy, gợi ra

những căn nguyên tiềm ẩn lâu dài... Anh đƣa văn học hiện đại Việt Nam đến

một bƣớc chuyển rất quan trọng: một nền văn học có ý thức mạnh mẽ làm

chức năng là tấm gƣơng tự soi mình của dân tộc, và của con ngƣời” [44; 8].

Sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp hấp dẫn bởi nhiều yếu tố, trong đó không thể

không tính đến cốt truyện. Điều này giải thích vì sao, nhiều truyện ngắn của

ông đƣợc chuyển thể thành phim và kịch bản sân khấu. Truyện của Nguyễn

Huy Thiệp, ngay cả những truyện ngắn luận đề thì đều có một cái cốt rõ ràng,

tóm tắt đƣợc, kể đƣợc.

Hệ thống sự kiện, tình huống làm nên cốt truyện truyện ngắn Nguyễn

Huy Thiệp thƣờng rất phong phú, ngồn ngộn. Trong mỗi một sự kiện, nhà văn

lại để chi tiết chồng lên chi tiết. Thứ văn đầy rẫy chi tiết, sự kiện của ông

khiến ngƣời đọc không bao giờ thấy tẻ nhạt. Tính mẫu mực trong các cốt

truyện của Nguyễn Huy Thiệp biểu hiển rõ nét ở những yếu tố sau: Cốt truyện

đƣợc xây dựng dựa vào hệ thống sự kiện; biến cố giữ vai trò quan trọng trong

việc thúc đẩy cốt truyện phát triển và kết thúc tác phẩm thƣờng rất bất ngờ.

Trong đó, sự kiện là những việc có tác động và ảnh hƣởng đáng kể đến số

phận và tính cách nhân vật còn biến cố là những sự kiện lớn, có thể tạo thành

những bƣớc ngoặt quan trọng trong cuộc đời nhân vật. Dù thế nào đi nữa, sự

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

kiện cũng không quan trọng bằng biến cố. Sức hấp dẫn của truyện ngắn, một

Sự vận động của truyện ngắn VN từ 1986 đến nay, nhìn từ góc độ hình thức thể loại

34

Luận văn Thạc sĩ

Lưu Thị Thu Hà

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

phần vẫn do các biến cố của sự việc đem lại. Truyện ngắn sẽ bằng phẳng và

đơn điệu nếu tác giả của nó chỉ chăm chú tái hiện sự việc hoặc không tạo cho

sự việc tính chất có biến cố. Truyện của Nguyễn Huy Thiệp không chỉ giàu sự

kiện, mà các sự kiện của ông không đều đều, không ngang hàng nhƣ nhau,

ông thƣờng tập trung vào vài ba sự kiện lớn, nhấn nhá vào đó, đẩy lên thành

biến cố, tạo tính kịch và cao trào cho cốt truyện và sức hấp dẫn cho tác phẩm.

Tướng về hưu - một truyện ngắn tiên phong của văn học thời kỳ Đổi mới - là

một minh chứng rõ nét cho lối kể chuyện này.

Tướng về hưu là câu chuyện về ông Thuấn - một vị thiếu tƣớng về hƣu.

Tuy làm chỉ huy trong thời chiến nhƣng ở thời bình, ông không điều khiển

đƣợc cuộc sống của chính mình. Trở thành con rối trong tay cô con dâu thực

dụng, chán nản vì ngƣời con trai hèn nhát, đau đớn trƣớc cái chết của vợ và

cảm thấy lạc lõng trong cuộc sống đời thƣờng, vị tƣớng về hƣu quyết định trở

lại đơn vị. Không lâu sau, con cái ông nhận đƣợc tin báo, ông hy sinh trong

khi làm nhiệm vụ. Với diễn biến dƣờng nhƣ quá đơn giản, nhiều ngƣời còn

cho rằng, Tướng về hưu không có cốt truyện. Nhƣng qua phân tích hệ thống

sự kiện và biến cố, chúng tôi nhận thấy, đây là một tác phẩm đƣợc tổ chức

một cách mạch lạc, các chi tiết đều liên hệ chặt chẽ với nhau, chi tiết trƣớc

làm tiền đề cho sự xuất hiện của chi tiết sau, nói nhƣ văn hào Nga Chekhov

thì: “Nếu ở cảnh trƣớc, anh miêu tả một khẩu súng, thì ở cảnh sau, khẩu súng

đó phải phát nổ” [13; 67].

Cốt truyện Tướng về hưu đƣợc xây dựng dựa trên hệ thống sự kiện sau:

- Bố Thuấn lấy vợ hai, không sống nổi với dì ghẻ, Thuấn đi bộ đội

- Thuấn về làng lấy vợ

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

- Năm 70 tuổi, ông Thuấn về hƣu với hàm Thiếu tƣớng

Sự vận động của truyện ngắn VN từ 1986 đến nay, nhìn từ góc độ hình thức thể loại

35

Luận văn Thạc sĩ

Lưu Thị Thu Hà

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

- Không hòa hợp đƣợc với con cháu trong nhà

- Lạc lõng khi đƣợc mời làm chủ hôn cho cháu - con trai ông Bổng

- Bàng hoàng khi nhìn thấy con dâu nấu hài nhi chết cho chó ăn

- Vợ ông Thuấn mất

- Cô đơn trong đám tang của vợ

- Đồng đội cũ về viếng vợ ông Thuấn

- Bất lực khi chứng kiến con dâu thân mật với gã hàng xóm

- Ông Thuấn về thăm đơn vị

- Ông Thuấn chết một cách bí hiểm.

Với một truyện có dung lƣợng không dài, Nguyễn Huy Thiệp đã phủ

lên trang viết chuỗi sự kiện khá dày đặc. Chuỗi sự kiện này chính là đƣờng

ray để trƣợt trên đó là cách kể chuyện lạnh lùng đầy mê hoặc của nhà văn.

Chúng tôi coi những sự kiện đƣợc in đậm chính là các biến cố giữ vai trò

quan trọng trong việc thúc đẩy cốt truyện phát triển. Nhƣ vậy, trên chuỗi sự

kiện, Nguyễn Huy Thiệp đã khéo léo tạo nên điểm nhấn: Năm 70 tuổi, ông

Thuấn về hƣu với hàm Thiếu tƣớng - mở đầu bi kịch của ông tƣớng về hƣu;

Bàng hoàng khi nhìn thấy con dâu nấu hài nhi chết cho chó ăn - bi kịch phát

triển; Vợ ông Thuấn mất - đỉnh điểm của bi kịch về sự lạc lõng giữa cuộc đời;

Ông Thuấn chết một cách bí hiểm - bi kịch đƣợc giải quyết một cách đƣờng

đột.

Truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp thƣờng có kết thúc đầy bất ngờ.

Tướng về hưu cũng không phải là ngoại lệ. Kết cục dành cho ông Thuấn đủ

không rành mạch để tạo nên dƣ ba cần thiết cho một truyện ngắn. Nhìn từ các

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

góc cạnh khác nhau, ta có thể nhận ra những cách kết cấu khác nhau của tác

Sự vận động của truyện ngắn VN từ 1986 đến nay, nhìn từ góc độ hình thức thể loại

36

Luận văn Thạc sĩ

Lưu Thị Thu Hà

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

phẩm này. Truyện vừa đƣợc kết cấu theo nhiều chiều thời gian, quá khứ đan

xen với hiện tại, vừa đƣợc tổ chức dựa trên các mạch truyện riêng biệt. Bên

cạnh mạch truyện chính về ông Thuấn, tác giả còn xây dựng những dòng

truyện riêng về cuộc sống vợ chồng con trai ông Thuấn, về những ngƣời giúp

việc trong gia đình ông.

Có thể thấy, cùng một kiểu cốt truyện có chuyện, giàu sự kiện, chi tiết

nhƣng nếu ở giai đoạn 1932 - 1945 thƣờng phổ biến lối kết cấu theo trình tự

thời gian thì ở giai đoạn này, ngƣời ta đã thấy sự phong phú của các hình thức

kết cấu cũng nhƣ cách tổ chức cốt truyện. Nhƣ vậy, với cách phát triển những

cốt truyện chặt chẽ, truyện ngắn Việt Nam 1986 - 2006 đã có những tác phẩm

thực sự mẫu mực, mở rộng dung lƣợng hạn hẹp của thể loại này. Ngoài Phan

Thị Vàng Anh, Lê Minh Khuê, Nguyễn Huy Thiệp, đóng góp cho sự phát

triển của kiểu cốt truyện và kết cấu này, còn có những cây bút nhƣ Hồ Anh

Thái, Y Ban, Nguyễn Thị Thu Huệ, Ma Văn Kháng… Đó là một trong những

nguyên nhân khiến cho truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1986 - 2006 trở thành

một trong những thể loại chủ đạo của văn học Việt Nam 20 năm qua.

1.2.2 Cốt truyện tâm lý được sử dụng phổ biến

Nếu nhƣ ở những truyện ngắn có cốt truyện truyền thống, hệ thống sự

kiện là cốt lõi của tác phẩm thì ở những truyện ngắn có cốt truyện tâm lý,

truyện thƣờng có cốt truyện lỏng, chất truyện mờ nhạt, phân tích nội tâm

trở thành phƣơng tiện nghệ thuật chủ yếu trong cách thức xây dựng cốt

truyện. Thay vì các sự kiện đƣợc tạo thành bởi một chuỗi liên kết là dòng

chảy bất định của tâm trạng. Các nhà văn không đi sâu vào những sự kiện của

đời sống hằng ngày mà quan tâm tới sự kiện trong tâm hồn nhân vật. Đó là

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

những cảm xúc, suy nghĩ, trăn trở, niềm hy vọng, sự tuyệt vọng, nỗi đau. Với

Sự vận động của truyện ngắn VN từ 1986 đến nay, nhìn từ góc độ hình thức thể loại

37

Luận văn Thạc sĩ

Lưu Thị Thu Hà

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

kiểu cốt truyện này, các tác giả hƣớng tới miêu tả, phân tích diễn biến tâm lý

nhân vật với tham vọng khám phá bí ẩn trong tâm hồn con ngƣời ở chiều sâu

vô thức, tâm linh.

Cốt truyện tâm lý đƣợc sử dụng khá phổ biến trong truyện ngắn Việt

Nam 1986 - 2006, từ thế hệ của Ma Văn Kháng, Lê Minh Khuê đến Phan Thị

Vàng Anh, Nguyễn Thị Thu Huệ đến các tác giả trẻ đầu thế kỷ 20. Trong

dòng chảy hối hả của cuộc sống, truyện của họ có khi chỉ là một chút cảm xúc

ghi vội, một mẩu tâm trạng đƣợc tãi ra trên trang giấy. Có những lúc, truyện

của họ nhƣ không đầu không cuối, nhƣng lại rất phù hợp với sự khao khát

một vài phút đối diện với thế giới nội tâm của con ngƣời hiện đại ngày nay.

Có thể chỉ là ngẫu nhiên, nhƣng dƣờng nhƣ kiểu truyện tâm lý khá phù

hợp với các tác giả nữ. Y Ban, Nguyễn Thị Thu Huệ, Phan Thị Vàng Anh, Lý

Lan đều ít nhiều thành công với loại truyện này. Truyện của Y Ban thƣờng ít

hành động, xung đột lớn nhƣng lại rất phong phú những nỗi niềm và tâm sự

thầm kín. Chị cứ nhƣ một ngƣời đàn bà ƣa buôn chuyện, ngồi trƣớc trang giấy

là thủ thỉ kể hết những suy nghĩ, trăn trở của mình về cuộc sống. Với cốt

truyện tâm lý, giọng kể của ngƣời trần thuật nhƣ một thứ ma lực, lấn lƣớt cả

chi tiết, sự kiện để hấp dẫn ngƣời đọc. Trong Người đàn bà có ma lực, Y Ban

kể về những cuộc tình đã qua của một ngƣời phụ nữ đầy khắc khoải về những

xúc cảm yêu và đƣợc yêu. Ước mơ của cô bán hàng rong lại là tâm trạng của

ngƣời phụ nữ nghèo với những khó khăn chồng chất trong cuộc sống - một

câu chuyện mang nhiều chất tự truyện về cuộc đời nhà văn. Sau chớp là giông

bão, Hai mươi bảy bước là lên thiên đàng, Người đàn bà và những giấc mơ là

những day dứt của ngƣời phụ nữ muốn ngoại tình nhƣng luôn dằn vặt đấu

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

tranh giữa bản năng và bổn phận. Bức thư gửi mẹ Âu Cơ lại là câu chuyện

Sự vận động của truyện ngắn VN từ 1986 đến nay, nhìn từ góc độ hình thức thể loại

38

Luận văn Thạc sĩ

Lưu Thị Thu Hà

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

đƣợc viết từ tâm trạng khắc khoải, xót xa của ngƣời mẹ khi buộc lòng phải

hủy bỏ đứa con đầu đời của mình… Ngần đấy cốt truyện tâm lý, trong một

chặng đƣờng sáng tác của Y Ban chắc chắn chiếm một tỷ lệ không nhỏ.

Giọng văn đầy tính nữ Nguyễn Thị Thu Huệ cũng là một nhà văn thành

công với kiểu truyện rất ít sự kiện này. Cát đợi của chị là dòng tâm trạng vừa

hạnh phúc vừa hối tiếc của nhân vật tôi về tình yêu tìm thấy sau bao nhiêu

năm mất mát. Còn Đêm dịu dàng lại là sự đau đớn, tủi nhục của nhân vật tôi

khi bị ngƣời yêu bội bạc… Phan Thị Vàng Anh cũng ghi lại dấu ấn đặc biệt

khi hóa thân vào nhân vật Hạc phiền muộn về chuyện tình duyên hẩm hiu

trong truyện ngắn Hoa muộn hay cắm cúi ghi chép sự tẻ nhạt của cuộc sống

hàng ngày trong Nhật ký… Lý Lan với Con mèo tưởng đã đi xa cũng chỉ là

những thay đổi cảm xúc của một đôi vợ chồng già kể từ khi con vật nuôi quen

thuộc của nhà hàng xóm tƣởng chừng đã đi xa…

Trong kiểu truyện tâm lý, do chỗ cốt truyện không đóng vai trò

quan trọng bậc nhất của tác phẩm nên mối liên kết giữa hệ thống sự kiện

thƣờng diễn ra khá rời rạc và chủ yếu dựa trên một số trạng huống tâm

lý nhất định. Ngƣời đọc khó tìm thấy những kết cấu chặt chẽ hay những mối

quan hệ nhân quả trong những truyện ngắn dạng này. Chi tiết, sự kiện kết

dính với nhau không theo kiểu chi tiết này đòi hỏi sự ra đời của chi tiết kia mà

thƣờng là chúng có cùng một mối ràng buộc, nhằm làm soi sáng, bật nổi một

trạng huống nào đó của đời sống tinh thần con ngƣời. Mười sáu mét vuông là

một truyện ngắn khá gọn gàng của nhà văn Vũ Đình Giang. Tác phẩm ghi lại

những suy nghĩ miên man của nhân vật tôi về những không gian sống chật

hẹp của những con ngƣời trẻ tuổi ngụ cƣ ở các thành phố lớn. Truyện là một

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

đoạn suy nghĩ không đầu không cuối, nhƣ đƣợc cắt ra từ lƣng chừng một buổi

Sự vận động của truyện ngắn VN từ 1986 đến nay, nhìn từ góc độ hình thức thể loại

39

Luận văn Thạc sĩ

Lưu Thị Thu Hà

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

cà phê buồn của nhân vật. Truyện hầu nhƣ không có hành động, không có

xung đột, nên hiển nhiên không hề xuất hiện những giai đoạn nhƣ Trình bày -

thắt nút - cao trào - mở nút - kết thúc nhƣ trong mô hình truyền thống. Chuỗi

sự kiện (nếu có thể gọi nhƣ thế) xoay quanh những diễn biến tâm lý của nhân

vật chính. Ta có thể hình dung hệ thống sự kiện tâm lý và những mối liên hệ

của chúng qua sơ đồ sau:

- Tôi nghỉ việc, nằm nhà

Không biết đi đâu khác

- Nghĩ đến phòng làm việc của mình

Vì nó cũng chật hẹp nhƣ nhà ở

- Nhớ đến Nghệ hâm

Nghệ hâm cũng có căn phòng 16m2

- Nhớ đến Min

Nghệ hâm hỏi về Min

Cuộc sống trong không gian 16m2

- Nỗi sợ lãng phí tuổi trẻ

Nhớ câu chuyện về nhà đất với Min

- Nhớ kỷ niệm với ngƣời yêu trong căn phòng 16m2

- Mất ngƣời yêu vì căn phòng 16m2

Sự kiện nội tâm Nguyên cớ Nối kết

Nhƣ vậy điểm xuất phát và cái đích đến của những sự kiện nội tâm

trong truyện đều xuất phát từ những suy nghĩ về cuộc sống trong không gian

16m2. Với lối kể truyện đẩy mạnh vai trò của các yếu tố tâm lý, Mười sáu mét

vuông đã góp phần phát hiện một hiện thực rằng, sự chật hẹp của những

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

không gian sống, sự nghèo nàn của đời sống vật chất đang ngày một gặm mòn

Sự vận động của truyện ngắn VN từ 1986 đến nay, nhìn từ góc độ hình thức thể loại

40

Luận văn Thạc sĩ

Lưu Thị Thu Hà

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

hoài bão và ƣớc mơ của cả một thế hệ trẻ. Theo sơ đồ trên, nhìn từ chuỗi sự

kiện đƣợc sắp xếp theo chiều dọc, ta sẽ thấy mối liên kết giữa chúng vô cùng

lỏng lẻo. Tất cả những sự kiện, những nhân vật xuất hiện sau đều chỉ phụ

thuộc vào dòng suy nghĩ ngẫu hứng của ngƣời kể chuyện. Lối trần thuật nghĩ

đến đâu kể đến đó, không cần để ý đến cốt truyện và cấu trúc còn có thể đọc

thấy ở một số các tác giả trẻ khác nhƣ Nguyễn Vĩnh Nguyên (Xảy ra ở quán

bờ sông), Nguyễn Quỳnh Trang (Còn gì đâu, mùa đông), Dƣơng Bình

Nguyên (Sapa tuyết trắng xóa)…

Cốt truyện tâm lý không phải là một hình thức mới của truyện ngắn

Việt Nam giai đoạn 1986 - 2006. Loại truyện này đã đạt đến đỉnh cao ở thời

kỳ hoàng kim của truyện ngắn với những sáng tác của Thạch Lam. Nhƣng với

xu hƣớng đi sâu vào việc miêu tả, phân tích thế giới nội tâm con ngƣời, những

cốt truyện tâm lý sẽ làm tiền đề cho lối viết “dòng tâm trạng”, “dòng ý thức”

của văn học đƣơng đại.

2.2.3 Cốt truyện phân rã, vai trò của tình huống được đẩy mạnh

Hiện tƣợng phân rã cốt truyện hoàn toàn không giống nhƣ sự không có

cốt truyện hoặc có cốt truyện tâm lý. Sự tan vỡ và phân rã cốt truyện trong

truyện ngắn đƣơng đại gắn liền với quá trình yếu dần đi vai trò cốt truyện

truyền thống. Đây là xu hƣớng đối ngƣợc với kiểu truyện nhƣ đã phân tích ở

mục 2.2.1. Cốt truyện vẫn tồn tại nhƣng bị đẩy xuống hàng thứ yếu, nhƣờng

chỗ cho những thành tố trƣớc đây đƣợc đánh giá là có vai trò ít quan trọng

hơn nhƣ tình huống, chi tiết, thậm chí là giọng điệu trần thuật. Thay vì nhẫn

nại thiết kế một cốt truyện chặt chẽ, không thể thêm bớt, cắt bỏ, các nhà văn

có thể tìm thấy những “diệu kế” khác để mê hoặc độc giả: bằng một tình

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

huống rất độc đáo, một giọng kể khác ngƣời hay cách sáng tạo một cấu trúc

Sự vận động của truyện ngắn VN từ 1986 đến nay, nhìn từ góc độ hình thức thể loại

41

Luận văn Thạc sĩ

Lưu Thị Thu Hà

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

xộc xệch nhƣng có duyên… Thay vì duy trì tính thống nhất trong trình tự thời

gian và nhân quả của chuỗi sự kiện gắn liền với hành động của nhân vật

chính, tự sự tan vỡ thành một chuỗi lắp ghép các phân đoạn, các mảnh vỡ của

cuộc đời nhân vật chính… Thay vì triển khai tự sự bám vào cuộc phiêu lƣu

của nhân vật, nhà văn lại biến tự sự thành một cuộc phiêu lƣu của cái viết,

nghĩa là sự chắp ghép ngẫu nhiên các mảnh vỡ - những sự kiện phân tán và

rời rạc.

Trong truyện ngắn hiện đại, tình huống đóng vai trò ngày càng quan

trọng. Khái niệm tình huống vốn hẹp hơn so với cốt truyện. Một cách đơn

giản, có thể hiểu, tình huống nhƣ là khoảnh khắc “gây nên chuyện”. Việc giải

quyết tình huống phụ thuộc vào quan niệm của nhà văn về con ngƣời và cuộc

đời. Mọi tình huống truyện đều buộc nhân vật bộc lộ đầy đủ tính cách, số

phận và năng lực của nó. Tƣ tƣởng chủ đề và kỹ thuật kể chuyện cũng đƣợc

thể hiện qua tình thế đặc biệt nảy sinh trong truyện. Tuy không rõ nét, nhƣng

giai đoạn văn học 1986 - 2006 có thể chia thành hai tiểu đoạn. Trƣớc năm

2000, đóng vai trò chủ đạo trên văn đàn vẫn là những cây bút lớp trƣớc nhƣ

Ma Văn Kháng, Bảo Ninh, Lê Minh Khuê, Nguyễn Huy Thiệp, Phan Thị

Vàng Anh… Nhƣng sang đầu thế kỷ 21, làm xáo động làng văn, đặc biệt ở

thể loại truyện ngắn là một loạt các cây bút trẻ thuộc thế hệ 8X. Họ đã tạo ra

đƣợc những trào lƣu mới, xu hƣớng mới. Nhằm cạnh tranh ngƣời đọc trong

thời đại nghe nhìn, các cây bút trẻ này tìm cách cắt ngắn, rút gọn dung lƣợng

truyện. Tác phẩm của họ thƣờng chỉ xoay quanh một tình huống lớn, các chi

tiết sự kiện khác của tác phẩm đều phát sinh từ tình huống đó.

Nguyễn Ngọc Thuần có một truyện ngắn nhỏ, có tên là Những dự định

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

của nàng vào thứ bảy tuần này. Tác phẩm xoay quanh tình huống vợ của

Sự vận động của truyện ngắn VN từ 1986 đến nay, nhìn từ góc độ hình thức thể loại

42

Luận văn Thạc sĩ

Lưu Thị Thu Hà

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

nhân vật tôi bị một cái dằm văng vào mắt khi đi đặt một bức tƣợng bán thân

của chính mình. Những chi tiết khác của tác phẩm nhƣ chuyện ngƣời chồng

phải đi mua kính mắt cho vợ, cô vợ nghĩ đến giả thiết đeo con mắt giả… đều

xuất phát từ tình huống chính của tác phẩm. Truyện ngắn, tình huống bình

thƣờng, chi tiết ít, nhƣng chỉ bằng đó thôi, Nguyễn Ngọc Thuần cũng nêu bật

đƣợc cuộc sống vô nghĩa, vô vị của con ngƣời thời hiện đại.

Khi bàn về tình huống trong truyện ngắn, các nhà phê bình thƣờng đề

cao tính độc đáo, khả năng tiềm ẩn xung đột và bề sâu hiện thực của nó. Tình

huống đƣợc ví nhƣ “cái chìa khoá vận hành cốt truyện”. Tình huống trở thành

một thứ “thuốc nổ” của truyện, thúc đẩy sự ra đời của nhiều sự kiện, biến cố

quan trọng khác nhau. Tuy nhiên, qua khảo sát hơn 100 truyện ngắn trong các

tập: Văn mới 5 năm đầu thế kỷ, Văn mới 2004 - 2005, Văn mới 2005 - 2006…

chúng tôi nhận thấy, hầu hết các tình huống đƣợc sử dụng không có gì quá

độc đáo, ấn tƣợng. Chúng hầu hết là những sự việc rất bình thƣờng xảy ra

trong cuộc sống: Chồng và ngƣời yêu cũ của một ngƣời phụ nữ gặp nhau và

trò chuyện về hạnh phúc, về trách nhiệm của ngƣời đàn ông (Đàn ông - Phạm

Hoàng Hải); Một anh chàng bị đau cánh tay phải và chật vật đấu tranh với

thói sĩ diện của mình (Bản lĩnh đàn ông - Phan Thị Vàng Anh); Một con mèo

đột nhiên biến mất khiến cho anh chàng có bản tính lạnh lùng bỗng nhận ra

giá trị của tình yêu (Chuyện mèo trong gió mùa đông bắc - Phan Triều Hải);

Một cô sinh viên lỡ có thai với bạn trai nên phải cƣới (Hương lấy chồng -

Đoàn Minh Hà); Một phụ nữ lo lắng khi tƣởng mình có con nhƣng cuối cùng

thất vọng não nề khi biết mình không hề mang thai (Có con - Phan Thị Vàng

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

Anh)…

Sự vận động của truyện ngắn VN từ 1986 đến nay, nhìn từ góc độ hình thức thể loại

43

Luận văn Thạc sĩ

Lưu Thị Thu Hà

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

Khi tình huống truyện không có gì thật sự mới và đặc sắc, nhà văn buộc

phải lôi cuốn độc giả bằng những yếu tố khác nhƣ: giọng điệu trần thuật, các

chi tiết phát sinh từ tình huống. Nguyễn Ngọc Tƣ có một truyện ngắn rất xúc

động Cải ơi. Truyện kể về cuộc tìm kiếm đứa con gái nuôi mất tích suốt 12

năm trời của ông già Năm Nhỏ. Từ tình huống chính đó, Nguyễn Ngọc Tƣ đã

triển khai chuỗi sự kiện phát sinh nhƣ sau:

Tình huống chính: Ông Năm Nhỏ đi tìm con Cải

Sự kiện phát sinh:

- Con Cải làm mất đôi trâu, sợ quá, bỏ nhà ra đi

- Ông Năm Nhỏ bị vợ nghi ngờ ruồng rẫy con riêng của mình

- Ông quyết tâm đi tìm con

- Ông nhập vào một gánh hát rong, chỉ để cầm mic để nói vài câu tìm

con trong các buổi diễn

- Gánh hát giải tán, ông sống nhờ thằng Thàn trong đoàn để tiếp tục tìm

con

- Diễm Thƣơng - bạn gái Thàn đóng giả Cải để lừa ông già

- Diễm Thƣơng bị quay lên truyền hình trong một vụ truy quét tệ nạn xã

hội

- Ông Năm Nhỏ nghĩ cách lên truyền hình để tìm Cải

- Năm Nhỏ đi trộm trâu để đƣợc lên truyền hình

- Ông bị quay lên TV nhƣ một tên trộm, nhƣng không tìm đƣợc con

Truyện ngắn đơn giản là cuộc tìm kiếm đứa con gái nuôi mất tích của

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

ông già tội nghiệp. Không có mâu thuẫn, cao trào hay xung đột lớn, nhà văn

Sự vận động của truyện ngắn VN từ 1986 đến nay, nhìn từ góc độ hình thức thể loại

44

Luận văn Thạc sĩ

Lưu Thị Thu Hà

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

cứ bám vào tình huống truyện đó để lần lƣợt kể cho độc giả nghe những câu

chuyện nhƣ là mắt thấy tai nghe. Cải ơi vì thế, hấp dẫn ở sự giản dị, dễ hiểu

và sự xúc động của cách lựa chọn chi tiết. Ở những truyện ngắn kiểu này, tình

huống và chi tiết mới là những yếu tố quyết định sức sống của tác phẩm.

Trong quá trình viết, nhà văn cũng dƣờng nhƣ không phải quan tâm nhiều đến

việc tổ chức hay kết cấu tác phẩm một cách công phu.

Không phải ngẫu nhiên mà có sự xuất hiện của khuynh hƣớng giản

lƣợc vai trò cốt truyện, tinh giản hệ thống sự kiện trong truyện ngắn Việt Nam

1986 - 2006. Nhìn từ góc độ xã hội, chúng tôi cho rằng, sự tối giản hóa, thu

gọn dung lƣợng truyện ngắn là một biến đổi tất yếu nhằm phục vụ nhu cầu

của độc giả ngày nay. Trong thời đại nghe nhìn, ngƣời đọc dƣờng nhƣ không

sẵn sàng dành nhiều thời gian cho sách nhƣ trƣớc đây nữa. Họ thích những

truyện ngắn gọn gàng, đặt ra một vài vấn đề nhỏ và lý giải một cách gọn ghẽ,

khúc chiết. Cách thiết kế những truyện đơn tuyến, ít sự kiện, ít tình huống

cũng giúp cho các tác giả tập trung hơn trong khi viết, làm bật nổi ý tƣởng

nghệ thuật của mình.

Sự phân rã của cốt truyện truyền thống trong văn học hiện đại mở

ra nhiều sáng tạo mới về mặt kết cấu và nghệ thuật tổ chức không gian,

thời gian. Cấu trúc của một văn bản tự sự, the Gérard Genette đƣợc hình

thành từ ba lớp: chuyện (histoire); truyện (récit) và tự sự (narration) theo quan

hệ: truyện là kết quả của hành vi kể lại một câu chuyện. Chuyện bao giờ cũng

là một hệ thống sự kiện tuân theo trật tự thời gian, nhƣng khi đi vào văn bản

tác phẩm, trật tự này không phải lúc nào cũng đƣợc giữ nguyên nhƣ vậy.

Công việc tự sự của ngƣời kể chuyện là quá trình chủ quan hóa một nội dung

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

mang tính khách quan (câu chuyện). Đây là cơ sở để nghệ thuật xử lý thời

Sự vận động của truyện ngắn VN từ 1986 đến nay, nhìn từ góc độ hình thức thể loại

45

Luận văn Thạc sĩ

Lưu Thị Thu Hà

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

gian của nhà văn trở thành một yếu tố quan trọng tham gia vào tiến trình cốt

truyện. Khác với tiểu thuyết - có khả năng phản ánh hiện thực ở một quy mô

lớn, truyện ngắn thƣờng chỉ chớp lấy một vài khoảnh khắc nhất định của cuộc

sống để miêu tả và thể hiện, do đó thời gian và không gian trong truyện ngắn

thƣờng bị giới hạn vào khuôn khổ diễn biến của cái tính huống, sự kiện xảy ra

trong cốt truyện. Đặc biệt, truyện ngắn giai đoạn 1932 - 1945, do gần gũi với

kịch nên nghệ thuật xây dựng tác phẩm ảnh hƣởng từ luật tam duy nhất trong

nghệ thuật kịch: đồng nhất về hành động, thời gian và địa điểm. Vì thế, nhà văn

chƣa có điều kiện phát huy khả thế mạnh của nghệ thuật xử lý thời gian. Nhƣng

trong truyện ngắn đƣơng đại, đặc biệt với những tác phẩm có hơi hƣớng tiểu

thuyết, nhà văn đã thả lỏng cốt truyện, mở rộng không gian, thời gian, khiến tác

phẩm có cấu trúc lỏng nhƣng phản ánh đƣợc nhiều chiều hiện thực. Dƣới đây

là một số kiểu kết cấu của truyện ngắn 1986 - 2006 đƣợc phát triển trong sự

phân rã của cốt truyện và nghệ thuật sử dụng thời gian một cách linh hoạt.

Kết cấu đảo lộn thời gian tuyến tính: Đây là kiểu kết cấu mà trật tự

thời gian sự kiện, biến cố bị xáo trộn, không theo quy luật nhân quả, logic của

đời sống. Tức là thời gian lịch sử và thời gian trần thuật không trùng khít.

Việc tạo ra sự xáo trộn về thời gian của hệ thống sự kiện xảy ra trong truyện

thực là do sự sắp xếp của nhà văn nhằm phục vụ tối đa ý đồ sáng tác. Với

kiểu kết cấu này, nhà văn thƣờng mở đầu bằng những sự kiện của hiện tại, sau

đó ngƣợc dòng về quá khứ rồi hƣớng tới tƣơng lai. Truyện ngắn hiện đại sử

dụng nhiều thủ thuật miêu tả dòng hồi tƣởng của nhân vật. Theo đó, các mốc

thời gian có thể kéo dài đến vô tận. Có thể kể ra kết cấu đảo tuyến trong hàng

loạt truyện ngắn nhƣ Làng xi măng, Đồng đô la vĩ đại (Lê Minh Khuê), Bóng

đè (Đỗ Hoàng Diệu), Đất màu (Ma Văn Kháng), Những thương những giận

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

(Tô Hoài)…

Sự vận động của truyện ngắn VN từ 1986 đến nay, nhìn từ góc độ hình thức thể loại

46

Luận văn Thạc sĩ

Lưu Thị Thu Hà

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

Cánh đồng bất tận của Nguyễn Ngọc Tƣ là một hiện tƣợng của truyện

ngắn Việt Nam 2005. Tác phẩm mang khuôn khổ truyện ngắn nhƣng có tầm

vóc của một tiểu thuyết ở sự chồng chéo những vấn đề nhức nhối của hiện

thực, những chiêm nghiệm về tình yêu và lòng thù hận, cái đói nghèo và

phẩm giá con ngƣời. Truyện mênh mang tình yêu con ngƣời giữa một cuộc

sống còn quá đỗi khắc nghiệt, chua xót và cay đắng. Chính vì đan cài nhiều

mạch truyện trong một tác phẩm nên cốt truyện Cánh đồng bất tận đƣợc tổ

chức theo cấu trúc lỏng. Hệ thống sự kiện bị phân rã, chắp nối theo chuỗi ký

ức đứt đoạn của nhân vật tôi. Xét về mặt văn bản, truyện đƣợc kết cấu thành 8

phần, đƣợc nhà văn đánh số rõ ràng. Từ cách kết cấu này, ta có thể thấy rõ sự

đảo lộn trật tự thời gian trong quá trình kể chuyện của nhà văn.

Trình tự sự kiện đƣợc kể Thời gian xảy ra sự kiện

Hiện tại

Quá khứ xa

- 1. Chị em Điền cứu chị Sƣơng “làm đĩ” - 2. Cuộc sống của cha con tôi và Sƣơng - 3. Má tôi bỏ theo trai - 4. Cuộc sống không có má

- 5. Những cuộc tình chớp nhoáng của cha Quá khứ gần

- 6. Cha tôi trả thù đàn bà

- 7. Chị Sƣơng bán thân cứu đàn vịt Hiện tại

Điền bỏ nhà đi

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

- 8. Tôi bị hãm hiếp Hiện tại tiếp diễn

Sự vận động của truyện ngắn VN từ 1986 đến nay, nhìn từ góc độ hình thức thể loại

47

Luận văn Thạc sĩ

Lưu Thị Thu Hà

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

Nhƣ vậy, trật tự thông thƣờng của thời gian sự kiện theo lối cái gì xảy

ra trƣớc thì kể trƣớc đã hoàn toàn bị phá vỡ. Ta thấy sự đan xen và chuyển

dịch dần các mốc thời gian từ hiện tại về quá khứ xa, quá khứ gần rồi lại trở

về hiện tại trƣớc khi hƣớng đến một tƣơng lai không xa. Nếu đánh dấu trình

tự sự kiện bằng các con số thứ tự, còn Thời gian xảy ra sự kiện là A1, A2

(Quá khứ xa), A3, A4 (Quá khứ gần), A5, A6, A7 (Hiện tại), A8 (Hiện tại tiếp

diễn), chúng ta sẽ có mô hình xử lý thời gian nhƣ sau:

1 2 3 4 5 6 7 8

Trình tự sự kiện

Thời gian sự kiện

A1 A2 A3 A4 A5 A6 A7 A8

Độ chênh giữa trình tự sự kiện đƣợc kể và thời gian sự kiện đã cho thấy

tính chất đảo tuyến trong quá trình trần thuật của tác giả. Từ thời gian hiện tại,

nhà văn ngƣợc về quá khứ, rồi lại quay về hiện tại. Chính vì vậy, không gian,

thời gian trong tác phẩm đƣợc mở rộng. Không bị bó buộc với những yêu cầu

khắt khe về một cốt truyện chặt chẽ, nhà văn có thể tùy nghi chen sự kiện vào

giữa dòng ký ức lộn xộn của nhân vật. Lối kể chuyện khá tự do này đã giúp

cho truyện ngắn phá vỡ khuôn khổ dung lƣợng chật hẹp, phần nào cạnh tranh

đƣợc với tiểu thuyết về quy mô hiện thực đƣợc phản ánh trong tác phẩm.

Kết cấu mở: Tác giả Lê Thị Hƣờng trong bài Các kiểu kết thúc của

truyện ngắn hôm nay viết: “Hình thức kết cấu của truyện ngắn hôm nay phần

lớn vƣợt ra khỏi kết cấu của truyện ngắn truyền thống…tự do hơn. Kết thúc

truyện ngắn hôm nay là kiểu kết thúc để ngỏ” [62; 87]. Đây là nghệ thuật tạo

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

cho cốt truyện có độ mở, tăng cƣờng khả năng đồng sáng tạo của độc giả

Sự vận động của truyện ngắn VN từ 1986 đến nay, nhìn từ góc độ hình thức thể loại

48

Luận văn Thạc sĩ

Lưu Thị Thu Hà

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

trong khi thƣởng thức tác phẩm. Kết cấu mở là cách thức tổ chức chi tiết, sự

kiện trong thế phát triển chƣa hoàn thành của hiện thực. Nhà văn có vai trò

đặt vấn đề, gợi mở những cách tiếp cận mới cho độc giả. Để tạo nên những

khoảng trống cho tác phẩm, nhà văn thƣờng tạo ra những chi tiết bất ngờ vào

cuối truyện mà không đƣa ra lời giải thích thỏa đáng. Hậu thiên đường của

Nguyễn Thị Thu Huệ khép lại bằng dòng tin vắn tắt về tai nạn xảy ra với

ngƣời mẹ. Kết thúc Bi kịch nhỏ - Lê Minh Khuê là cái chết đau đớn, giằng xé

của Quang: “Vũ Đức Quang, tự tử tại khánh sạn M, tầng 5 phòng…”. Kiểu

kết cấu này có thể bắt gặp trong các truyện khác nhƣ Tướng về hưu - Nguyễn

Huy Thiệp, Đất đỏ - Phan Thị Vàng Anh…

Kết cấu liên văn bản: Sự pha trộn của nhiều thể loại (thơ, kịch) vào

truyện ngắn khiến cho truyện ngắn giai đoạn này có nhiều tác phẩm kết cấu

liên văn bản. Đây là hiện tƣợng mà thỉnh thoảng, vào giữa câu chuyện, nhà

văn đột ngột chèn vào một đoạn thơ, hoặc một đoạn kịch. Những trích đoạn

lạc thể này không ảnh hƣởng quá nhiều đến cốt truyện mà chủ yếu nhằm mình

họa trực tiếp cho một ý tƣởng, một tính cách nào đó của nhân vật. Nguyễn

Huy Thiệp là ngƣời sử dụng thành công nhất kiểu kết cấu này. Ông hay sử

dụng thơ của Bảo Sinh, Đồng Đức Bốn để chen ngang vào giữa truyện ngắn

của mình. Không có Vua, Những bài học nông thôn, Giọt máu, Kiếm sắc,

Vàng lửa… là những truyện ngắn nhƣ thế. Kiểu kết cấu này về sau cũng đƣợc

nhiều nhà văn trẻ bắt chƣớc, nhƣng họ chƣa có đƣợc thành công thuyết phục

nhƣ Nguyễn Huy Thiệp.

Kết cấu truyện trong truyện: Kết cấu truyện trong truyện khác với

kiểu kết cấu “tiểu thuyết trong tiểu thuyết”. Các nhà phƣơng Tây khi đề cập

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

tới cuốn tiểu thuyết Bọn làm bạc giả của André Gide đã viết: “Bọn làm bạc

Sự vận động của truyện ngắn VN từ 1986 đến nay, nhìn từ góc độ hình thức thể loại

49

Luận văn Thạc sĩ

Lưu Thị Thu Hà

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

giả của Gide trở thành cuốn tiểu thuyết về quá trình thai nghén một cuốn tiểu

thuyết; tiểu thuyết về một cuốn tiểu thuyết đang hình thành, cuốn tiểu thuyết

ấy hoàn toàn xa lạ với tiểu thuyết truyền thống nên không phải ai cũng nhận

ra ngay nó là tiểu thuyết” [13; 32]. Tiểu thuyết Việt Nam 1986 - 2006 có hình

thức kết cấu này với những tác phẩm nhƣ Thân phận tình yêu của Bảo Ninh.

Tuy nhiên, hình thức “truyện trong truyện” lại là kiểu kết cấu truyện ngắn

thành từng chùm truyện, có những mối liên hệ nhất định về đề tài, chủ đề, tƣ

tƣởng. Nhƣng các truyện giữa chúng có khả năng tồn tại một cách độc lập

tƣơng đối. Lối viết này đặc biệt phổ biến trong tác phẩm của nhà văn Nguyễn

Huy Thiệp với Những ngọn gió Hua Tát (Trái tim hổ, Con thú lớn nhất, Nàng

Bua, Tiệc xòe vui nhất, Đất quên, Chiếc tù và bị bỏ quên, Sạ, Nạn dịch, Nàng

Sinh); Chút thoáng Xuân Hương (Truyện thứ nhất, Truyện thứ hai, Truyện

thứ ba); Con gái Thủy Thần (Truyện thứ nhất, Truyện thứ hai, Truyện thứ ba),

của nhà văn Đoàn Thị Tảo với Huyền thoại người điên (Còn và mất, Ông Cai

ơi, Tân điên, Cô Tôm)… Cũng nhƣ kiểu kết cấu liên văn bản, hình thức

truyện trong truyện tuy độc đáo nhƣng không phải là kết cấu điển hình, phổ

biến của truyện ngắn giai đoạn 1986 - 2006. Hình thức tổ chức tác phẩm này

chỉ thực sự đƣợc áp dụng thành công với những ngòi bút bậc thầy, có vốn

sống phong phú và táo bạo trong việc thử nghiệm các hình thức mới.

Tiểu kết chƣơng 1:

Cốt truyện và kết cấu là những thành tố rất quan trọng đối với truyện

ngắn. Căn cứ vào cốt truyện, ngƣời ta có thể sắp xếp, phân loại và định giá

đƣợc sự phát triển của thể loại này. Khảo sát truyện ngắn Việt Nam từ lúc

manh nha cho đến trƣớc 1986, chúng tôi nhận thấy, cốt truyện truyện ngắn

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

cũng có những chuyển biến theo từng giai đoạn phát triển của văn học. Trƣớc

Sự vận động của truyện ngắn VN từ 1986 đến nay, nhìn từ góc độ hình thức thể loại

50

Luận văn Thạc sĩ

Lưu Thị Thu Hà

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

năm 1932: Cốt truyện đơn giản, đơn tuyến, mô phỏng truyện dân gian hoặc

lấy các cốt từ dã sử, chính sử, mô phỏng truyện Trung Quốc. Giai đoạn 1932 -

1945: Truyện ngắn phát triển đến đỉnh cao, cốt truyện đa dạng. Truyện ngắn

hiện thực có cốt chặt chẽ, mẫu mực, nhiều tác phẩm có kết cấu đa tuyến, cốt

truyện mang hơi hƣớng tiểu thuyết. Truyện ngắn lãng mạn hình thành nên

những cốt truyện tâm lý, trữ tình điển hình, có ảnh hƣởng lớn đến giai đoạn

văn học sau. Truyện ngắn 1945 - 1985: Kế thừa những thành tựu của truyện

ngắn nhƣng do phục vụ mục đích cách mạng nên truyện thƣờng có kết cấu

đơn giản, chia thành hai tuyến: địch - ta; chính nghĩa, phi nghĩa với các mâu

thuẫn cơ bản nhƣ: địa chủ - nông dân, tập thể - cá nhân… Dòng truyện lãng

mạn với cốt truyện tâm lý vẫn tiếp tục phát triển.

Trong khi đó, khảo sát truyện ngắn 1986 - 2006, chúng tôi bƣớc đầu

ghi nhận một số đặc điểm nhƣ: Kiểu cốt truyện chặt chẽ đƣợc kế thừa và phát

triển lên đến đỉnh cao (với các sáng tác của Phan Thị Vàng Anh, Lê Minh

Khuê, Nguyễn Huy Thiệp); phổ biến lối cốt truyện tâm lý; Sự phân rã cốt

truyện, vai trò của tình huống đƣợc đẩy mạnh. Phần nội dung này đồng thời

chỉ ra một số kết cấu đáng chú ý nhƣ: kết cấu đảo lộn thời gian tuyến tính, kết

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

cấu mở, kết cấu liên văn bản, kết cấu truyện trong truyện…

Sự vận động của truyện ngắn VN từ 1986 đến nay, nhìn từ góc độ hình thức thể loại

51

Luận văn Thạc sĩ

Lưu Thị Thu Hà

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

CHƢƠNG 2: NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG NHÂN VẬT

Con ngƣời bao giờ cũng là đối tƣợng nhận thức, khám phá của mọi nền

văn học. Trần Đình Sử cho rằng: “Tất cả những gì liên quan tới con ngƣời,

thuộc về con ngƣời đều nằm trong phạm vi biểu hiện của văn học. Từ các mặt

xã hội đến các thuộc tính tự nhiên, từ hữu thức đến vô thức, từ dã man đến

văn minh, từ tội ác đến đạo đức, từ quá khứ đến tƣơng lai, từ thất vọng đến hy

vọng, hễ thuộc về con ngƣời thì văn học biểu hiện” [76; 75]. Là sáng tạo nghệ

thuật của nhà văn, nhân vật vừa thể hiện cái nhìn về con ngƣời và cuộc sống,

vừa là nơi chất chứa những trăn trở, day dứt hiện thực. Nhân vật chính là linh

hồn của tác phẩm, là đại diện cho cái tôi nghệ thuật của nhà văn. Chính vì thế,

Maxim Gorky từng nói: “Nghệ thuật bắt đầu từ nơi mà ngƣời đọc quên tác

giả, chỉ còn trông và nghe thấy những con ngƣời do tác giả trình bày trƣớc

ngƣời đọc” [13; 9].

Nền văn học 1945 - 1975 là nền văn học sử thi. Đối tƣợng quan tâm

của nó là những con ngƣời mang tầm vóc lớn lao của thời đại. Con ngƣời anh

hùng, con ngƣời cộng đồng là khám phá lớn của văn học thời chống Mỹ. Đó

cũng là những nhân vật lý tƣởng, luôn quên mình vì tập thể, vì sự nghiệp

chung, tràn đầy ý chí, niềm tin vào con đƣờng mình lựa chọn. Họ không tồn

tại với tƣ cách cá nhân mà là con ngƣời tập thể, con ngƣời dân tộc. Tuy nhiên,

bƣớc vào giai đoạn 1986 - 2006, quan niệm về con ngƣời trong văn chƣơng

đã thực sự thay đổi. Trần Đình Sử cho rằng: “Đặc điểm nổi bật nhất là con

ngƣời đang đƣợc nhìn nhận, xem xét, lý giải theo nhiều hƣớng, nhiều chiều”

[76; 65]. Nguyễn Văn Long cũng nhận xét một cách tổng quát xu hƣớng dân

chủ của văn học gần đây trong cách nhìn và khám phá con ngƣời: “Con ngƣời

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

trong văn học hôm nay đƣợc nhìn ở nhiều vị thế, trong tính đa chiều của mọi

Sự vận động của truyện ngắn VN từ 1986 đến nay, nhìn từ góc độ hình thức thể loại

52

Luận văn Thạc sĩ

Lưu Thị Thu Hà

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

mối quan hệ: con ngƣời xã hội, con ngƣời với lịch sử, con ngƣời của gia đình,

gia tộc, con ngƣời với phong tục, với thiên nhiên, với những ngƣời khác và

với chính mình… Con ngƣời cũng đƣợc văn học khám phá, soi chiếu ở nhiều

bình diện và nhiều tầng bậc: ý thức và vô thức, đời sống tƣ tƣởng, tình cảm và

đời sống tự nhiên, bản năng, khát vọng cao cả và dục vọng tầm thƣờng, con

ngƣời cụ thể, cá biệt và con ngƣời trong tính nhân loại phổ quát” [39; 54].

Truyện ngắn là một hình thức tự sự cỡ nhỏ, hƣớng tới thể hiện bản chất

hiện thực và tâm hồn con ngƣời qua những lát cắt, những khoảnh khắc của

quan hệ nhân sinh. Để đạt đƣợc mục đích đó, nhà văn phải gửi gắm qua nhân

vật. Truyện ngắn sống đƣợc là cơ bản nhờ vào sự xuất hiện của nhân vật - nơi

biểu hiện giá trị tƣ tƣởng nghệ thuật của tác phẩm và cá tính sáng tạo của nhà

văn. Cũng nhƣ bất cứ giai đoạn văn học nào khác, văn học 1986 - 2006 phát

hiện ra vô số dạng thức nhân vật. Sẽ là bất khả thi để liệt kê hết các kiểu nhân

vật của thời kỳ này. Dƣới đây, chúng tôi sẽ tập trung vào một số kiểu nhân vật

phổ biến của giai đoạn này với những đặc trƣng khác biệt với các giai đoạn

văn học trƣớc.

2.1 Một số mẫu nhân vật nổi bật

2.1.1 Con người cô đơn

Trong văn học Việt Nam giai đoạn 1945 - 1975, cô đơn là một trong

những chủ đề kiêng kị, bị đa số các nhà văn né tránh. Bởi khi tồn tại với tƣ

cách con ngƣời tập thể, nhân vật sẽ đƣợc bủa vây xung quanh là bạn bè, đồng

đội, dân tộc, đất nƣớc… họ không có không gian để quan tâm đến đời sống

riêng tƣ của mình, và do đó, không cảm thấy cô đơn. Nhƣng văn học sau

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

1975, với sự xuất hiện của con ngƣời cá thể, sự bừng tỉnh của ý thức cá nhân,

Sự vận động của truyện ngắn VN từ 1986 đến nay, nhìn từ góc độ hình thức thể loại

53

Luận văn Thạc sĩ

Lưu Thị Thu Hà

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

con ngƣời thƣờng xuyên đối diện với chính mình. Thêm vào đó, bƣớc vào

thời kỳ mở cửa, nhiều giá trị đạo đức, xã hội bị đảo lộn so với thời chiến. Con

ngƣời dễ bị ngợp, dễ cảm thấy cô đơn trong cái môi trƣờng sống nhộn nhạo

của chính mình. Cô đơn là trạng thái biểu hiện nỗi đau sâu sắc nhất, là tột

cùng của sự bơ vơ, trống trải, cô đơn cũng chính là một dạng bi kịch nhân

sinh. Truyện ngắn 1986 - 2006 đã bám vào nỗi cô đơn, nhƣ một cách biểu

hiện đầy đủ các trạng huống sống của con ngƣời thời hiện đại.

Con ngƣời cô đơn vì lạc thời: Một bộ phận lớn nhân vật của văn học

1986 - 2006 là những con ngƣời vừa cởi bỏ quân trang, bƣớc ra từ chiến

tranh. Vốn đã quen với súng đạn, họ không chịu đựng nổi sự yên bình quá

mức; vốn đã quen với lối sống sẻ chia thời chiến, họ không chấp nhận nổi thứ

quan hệ tiền trao cháo múc thời kinh tế thị trƣờng. Bi kịch nảy sinh từ đó.

Không hòa nhập đƣợc với thời đại, họ lạc lõng, cô đơn gặm nhấm chiến công

của chính mình và dần dà trở thành một kẻ lạc thời giữa cuộc sống ồn ào, tấp

nập. Truyện ngắn 1986 - 2006 đã kịp lƣu lại dấu ấn của một lớp ngƣời nhƣ

vậy, trƣớc khi họ trở thành những ngƣời muôn năm cũ. Trong vô vàn những

chân dung ghi lại, có một vài nhân vật gây ấn tƣợng đặc biệt, mang khuôn

mặt cho cả một thế hệ.

Một trong số đó và đáng đƣợc coi là nhân vật mở đầu cho mẫu hình

con ngƣời lạc thời cô đơn là ông thiếu tƣớng Thuấn trong Tướng về hưu của

Nguyễn Huy Thiệp. Nhà nghiên cứu Nguyên Ngọc nhận xét về truyện ngắn

kiệt xuất này nhƣ sau: “Tướng về hưu, bằng một lối viết lạnh lùng, phơi bày

một hiện tƣợng chƣa từng thấy trong văn học trƣớc đó: sự hoang mang và bất

lực của một ngƣời anh hùng trong chiến tranh trƣớc thực trạng hỗn loạn của

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

xã hội sau chiến tranh. Tác phẩm gây chấn động dƣ luận” [44; 2]. Vốn là anh

Sự vận động của truyện ngắn VN từ 1986 đến nay, nhìn từ góc độ hình thức thể loại

54

Luận văn Thạc sĩ

Lưu Thị Thu Hà

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

hùng của thời chiến, cuộc sống thời bình chƣa kịp xếp chỗ cho ông tƣớng về

hƣu. Ông không hòa nhập đƣợc ngay trong chính gia đình mình. Vốn là ngƣời

tôn trọng các giá trị truyền thống, ông Thuấn không chịu đựng nổi sự táng tận

lƣơng tâm của con ngƣời khi chứng kiến cảnh con dâu mang những hài nhi đã

chết đem nấu cho chó ăn. Cuối cùng, những toan tính sặc mùi vật chất của

con cái, em út trƣớc cái chết của ngƣời vợ đã vét cạn tình yêu cuộc sống trong

ông. Không ít lần, nỗi cô đơn đã đƣợc chính các nhân vật trong truyện gọi

đúng tên của nó. Con trai ông Thuấn cay đắng nhận xét: “Tôi thấy cô đơn

quá. Các con tôi cũng cô đơn. Cả đám đánh bạc, cả cha tôi nữa”. Còn ông

tƣớng về hƣu tự ý thức một cách đầy đủ: “Cha tôi bảo: „Sao tôi cứ nhƣ lạc

loài‟”. Chính vì thế, cái chết của ông Thuấn, ở một góc độ nào đó, chính là

một kết thúc nhẹ nhàng cho bi kịch của con ngƣời lạc thời. Ngoài ông Thuấn,

truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp còn không ít những nhân vật cô đơn khác

nhƣ thầy giáo Triệu trong Những bài học nông thôn, Nguyễn Phúc Ánh trong

Vàng lửa… Là một ngƣời sống vắt ngang hai thời kỳ, hơn ai hết, Nguyễn Huy

Thiệp thấu hiểu mặc cảm lạc loài này.

Cũng nằm trong motif những con ngƣời lạc loài nhƣng bi kịch của

ngƣời cha trong Hoa nở trên trời (Nguyễn Thị Thu Huệ) lại xuất phát từ khát

vọng muốn níu giữ những vẻ đẹp truyền thống. Cuộc sống của ngƣời đàn ông

ở vƣờn đào Găng “buồn nhƣ phận những cây đào. Quanh năm khẳng khiu gầy

guộc nhƣ những cành củi khô, bỗng một ngày nắng trải ấm áp triền miên,

từng rừng hoa nở đỏ hồng nhƣ cuộc sống đƣợc hồi sinh”. Bởi vậy, khi có chủ

trƣơng dỡ bỏ vƣờn đào để xây dựng các tòa nhà cao ốc, những ngƣời dân vƣờn

đào Găng nhƣ ông bỗng chốc hoang mang, mất mát. Họ cố níu kéo nét đẹp xƣa

một cách vô vọng, bằng việc tạo nên những vƣờn đào treo nhỏ xíu trên tầng

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

thƣợng - một nỗ lực yếu ớt chống lại sự biến đổi mạnh mẽ của thời cuộc.

Sự vận động của truyện ngắn VN từ 1986 đến nay, nhìn từ góc độ hình thức thể loại

55

Luận văn Thạc sĩ

Lưu Thị Thu Hà

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

Không phải đến bây giờ, văn học mới khám phá ra nỗi cô đơn của con

ngƣời lạc thời. Cô đơn là một cảm hứng lớn của văn học lãng mạn, đặc biệt là

giai đoạn 1932 - 1945. Xuân Diệu từng thốt lên: “Ta là Một là Riêng là Thứ

nhất/ Không có ai bè bạn nổi cùng ta”. Vũ Hoàng Chƣơng cũng từng than thở:

“Lũ chúng ta đầu thai nhầm thế kỷ/ Một đời ngƣời u uất nỗi chơ vơ”. Nhƣng

đây là sự cô đơn đầy ý thức, đầy kiêu hãnh của những con ngƣời quay lƣng lại

với xã hội và cuộc đấu tranh của quần chúng. Họ không tìm thấy chỗ đứng

của mình trong cuộc đời nên cảm thấy bơ vơ và chơi vơi. Họ thoát ly khỏi

cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc nhƣng lại không hòa hợp đƣợc với xã hội

nhố nhăng, nhũng nhiễu lúc bấy giờ. Họ tự tách mình ra nên trạng thái cô đơn

là một hệ quả tất yếu. Còn những con ngƣời của văn học 1986 - 2006 lại khác.

Họ tìm cách hòa mình vào xã hội những vẫn không chen nổi vào đời sống,

không tìm thấy tiếng nói chung với những ngƣời xung quanh mình - điều

hiếm khi xảy ra trong giai đoạn văn học mang tính sử thi 1945 - 1975.

Ngoài mẫu hình con ngƣời lạc thời, truyện ngắn 1986 - 2006 còn miêu

tả nỗi cô đơn ở một dạng thức khác. Họ viết về nỗi cô đơn nhƣ một trạng

thái tâm lý của con ngƣời thời hiện đại.

Con ngƣời hiện đại cô đơn vì không biết chăm sóc đời sống tinh thần,

họ mải mốt trong cuộc chạy đua tìm kiếm những giá trị vật chất. Nhân vật

ông cậu trong truyện ngắn Nước mắt đàn ông của Nguyễn Thị Thu Huệ là

một ngƣời đàn ông rất giàu có: “Cậu mày thành tỷ phú”. Cuộc sống gia đình

ông thừa thãi về vật chất nhƣng rất nghèo nàn tình cảm. Con ngƣời giàu có ấy

luôn cô đơn giữa những ngƣời thân. Ông muốn thay đổi, muốn có lại tuổi trẻ

để bắt đầu lại nhƣng bất lực. Suốt cả một phần dài của cuộc đời, ông đã đánh

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

đổi hạnh phúc để chạy theo đồng tiền. Đến nay, một chút kỷ niệm với ngƣời

Sự vận động của truyện ngắn VN từ 1986 đến nay, nhìn từ góc độ hình thức thể loại

56

Luận văn Thạc sĩ

Lưu Thị Thu Hà

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

bạn gái cũ ông cũng không còn giữ lại đƣợc. Đồng tiền có sức mạnh khủng

khiếp, nhƣng phải chăng, nó bất lực trƣớc nỗi cô đơn của con ngƣời. Nguyễn

Thị Thu Huệ, Nguyễn Huy Thiệp, Lê Minh Khuê đã nhìn thấy sự cô độc của

những con ngƣời bị vật chất bủa vây - đó cũng chính là mặt trái của xã hội

thời kinh tế thị trƣờng.

Cuộc chạy đua với quyền lực và những giá trị vật chất sẽ trở thành bi

kịch khi nó len lỏi vào cuộc sống gia đình. Truyện ngắn Đất màu của Ma Văn

Kháng là một ám ảnh lớn về nỗi cô đơn của ngƣời phụ nữ trải dài từ trong

chiến tranh ra đến thời bình. Trong chiến tranh, Dự là một mảnh đất màu

“không đƣợc xới xáo”. Chồng ra mặt trận, một mình ở nhà với mẹ chồng, Dự

phải giải tỏa những khát khao rất đỗi bản năng bằng những giờ liền hùng hục

đào đất dƣới đêm trăng. “Thoạt đầu, Dự nhận ra ngực mình dội lên từng cơn

đau tức rất khó chịu; hai bầu vú mẩy mang của nàng nhƣ hai sinh vật nhỏ đeo

bám nàng cứ rung nẩy theo mỗi nhịp cuốc hạ. Sau thì quen. Sau thì mộng ƣớc

đắm chìm trong thao tác. Nàng mất cảm giác đau tức, vƣớng víu. Lƣỡi cuốc

mất sức nặng tự thân. Nó tự sản ra cơn say. Nó tự động bổ phầm phậm xuống

đất. Trong mê man nó, nó xới lật cả vùng đất đêm qua nàng vừa xới lật. Và

không chỉ là đêm qua. Cả tuần lễ nay, cả tháng nay nhƣ thế rồi”. Dự tìm đến

với anh cán bộ khí tƣợng gần nhà nhƣ một cách giải tỏa tất yếu cho những

khát khao bị kìm nén.

Nhƣng đó mới chỉ là đau khổ, chƣa đến độ bi kịch. Bi kịch thực sự chỉ

xảy ra khi chồng Dự từ mặt trận trở về. Quá mải mê với những cuộc chạy đua

danh vọng, quyền lực, Phùng không thèm đụng đến vợ, anh chỉ lợi dụng sự

thông minh, sắc sảo của cô nhƣ một bàn đạp cho cuộc tiến thân của mình. Kết

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

cục, Phùng chết trong cơn mê danh vọng đến điên loạn. “Phùng đột quỵ vì

Sự vận động của truyện ngắn VN từ 1986 đến nay, nhìn từ góc độ hình thức thể loại

57

Luận văn Thạc sĩ

Lưu Thị Thu Hà

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

xuất huyết não… Mắc chứng huyết áp cao đã lâu, nhƣng bệnh nhân không

chạy chữa, lại thêm tinh thần lúc nào cũng ở trong trạng thái trƣơng căng liên

tục vì những mƣu toan, tính toán cho công cuộc tiến thân. Trạng thái tâm lý

đó đã dẫn đến sự xuất hiện những ổ tiêu cực trong tâm não. Và cái chết nhƣ

một thói quen tệ hại của tự nhiên đã là cái kết thúc tuyệt đối cuộc sống của

một ngƣời đàn ông đam mê đến khốn khổ trên con đƣờng kiếm chác danh

vọng”. (Đất màu - Ma Văn Kháng)

Nguyễn Thị Thu Huệ, Ma Văn Kháng, Nguyễn Huy Thiệp là những

ngƣời đã khơi rất sâu vào nỗi cô đơn của con ngƣời. Dƣờng nhƣ các nhà văn

lão luyện vẫn là những cây bút sành sỏi hơn trong việc khơi sâu vào trạng thái

tâm lý này. Tuổi tác và sự từng trải đã cung cấp cho họ quyền năng đó.

Cảm thức cô đơn, nỗi hoang mang âu lo trƣớc bao điều phi lý dƣờng

nhƣ đang đậm dần trong tâm thế con ngƣời hiện đại và khi đƣợc khúc xạ vào

văn chƣơng cũng thƣờng mang gƣơng mặt của cái bi. Rất nhiều tác giả đã lên

tiếng cảnh báo về tình trạng mất khả năng giao tiếp giữa các cá nhân. Đời

sống hiện đại đầy đủ tiện nghi, với sự phổ biến của Internet, con ngƣời chỉ

cần khép cửa phòng cũng có thể biết diễn biến từng giờ, từng phút trên thế

giới mà không cần giao lƣu với bạn bè và gia đình. Chính điều này đã khiến

cuộc sống của họ trở nên tẻ nhạt. Mặt trái của cuộc sống hiện đại là nó tạo nên

tệ nạn, tạo nên sự rời rạc trong mối quan hệ giữa ngƣời với ngƣời. Những

mảnh vỡ của tác giả Việt Hƣơng là câu chuyện diễn ra đằng sau cánh cửa một

gia đình tƣởng nhƣ hạnh phúc. Bố mẹ và cậu con trai mới lớn nhƣ ba ốc đảo

trong một căn nhà khép kín. Ở tuổi tò mò, Mạnh bắt đầu say sƣa với những

cuộc trò chuyện trên mạng. Một lần, cậu bé vô tình “gặp” một ngƣời phụ nữ

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

đau khổ với cuộc sống gia đình. Nhầm Mạnh là một ngƣời đã trƣởng thành,

Sự vận động của truyện ngắn VN từ 1986 đến nay, nhìn từ góc độ hình thức thể loại

58

Luận văn Thạc sĩ

Lưu Thị Thu Hà

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

chị đã trút bầu tâm sự với cậu bé về ngƣời chồng ngoại tình và cảm giác lao

xao của chính mình khi gặp phải một ngƣời đàn ông khác. Chỉ khi vào phòng

mẹ, Mạnh mới vô tình phát hiện ra, ngƣời phụ nữ đang nói chuyện cùng cậu

trên mạng không ai khác mà chính là mẹ. “Nó không phải là ngƣời lớn, nó chỉ

đau lòng khi thấy những ngƣời lớn thân yêu nhất đã lừa dối nó. Thiên đƣờng

hạnh phúc của nó nát vụn. Những mảnh vỡ cứa sâu vào con tim non nót, ngây

thơ. Nó nghĩ đến sự hiện diện vô nghĩa của nó trong ngôi nhà này. Nó cần

phải đi. Có thể khi không còn phải chịu đựng nhau vì nó, bố mẹ sẽ dễ quyết

định hơn”. Thế giới hiện đại đã khiến con ngƣời khép lòng lại với nhau và mở

trái tim mình với thế giới ảo. Vì thế mà bao quanh họ luôn bao vây bởi nỗi cô

đơn thƣờng trực.

Không phải ngẫu nhiên mà các nhà văn trẻ viết nhiều về sex. Tình dục,

ở một góc độ nào đó, nhƣ một phƣơng tiện để họ biểu hiện sự gắn kết mang

tính bản năng ít nhiều còn sót lại giữa con ngƣời với nhau. Phía sau khe cửa

của Cấn Vân Khánh là câu chuyện về một ngƣời đàn ông đau khổ, cô đơn vì

không chia sẻ đƣợc với vợ. Ông buông mình vào cuộc tình với cô bé osin mới

17 tuổi. “Cả cuộc đời lăn lộn vì vợ, vì con, đến cuối đời, sau một cơn tai biến,

tôi chỉ còn chiếc giƣờng làm bạn. Nó là vật vô tri, vô cảm cho dù tôi có úp

mặt vào thành giƣờng hay đập đầu lên nó, nó vẫn nằm im lìm, nằm lù lù một

chỗ… Cái gọi là tình cảm vợ chồng ngày càng mối mọt, hoen rỉ theo sự bào

mòn của thời gian, khiến mọi cái trở nên khô ráo và cạn kiệt. Nhƣng đời tôi,

một ngày kia. Đã có em”. Nhƣng cuối cùng, ông già chết, sau khi đã trút hết

sức lực trong một cơn đam mê với ngƣời tình nhỏ tuổi.

Cùng với Nguyễn Ngọc Tƣ, Đỗ Hoàng Diệu cũng làm nên hiện tƣợng

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

của văn học năm 2005 với truyện ngắn Bóng đè. Truyện đậm những trang viết

Sự vận động của truyện ngắn VN từ 1986 đến nay, nhìn từ góc độ hình thức thể loại

59

Luận văn Thạc sĩ

Lưu Thị Thu Hà

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

về sex, từng gây ra nhiều nguồn dƣ luận khác nhau. Tuy còn nhiều vấn đề gây

tranh cãi, nhƣng nhìn vào cuộc sống gia đình của hai nhân vật chính, ngƣời

đọc sẽ tìm thấy rất ít sự chia sẻ, ngoài nghĩa vụ mang tính bản năng giữa hai

ngƣời. Thụ dƣờng nhƣ chỉ hoàn thành tốt vai trò của ngƣời chồng với tƣ cách

là ngƣời đàn ông nhạy cảm trƣớc những nhu cầu bản năng của vợ chứ hầu

nhƣ không chia sẻ tâm tình, tìm hiểu những suy nghĩ của cô. Nếu giữa họ có

sự sẻ chia, ngƣời đọc đã không bắt gặp tâm thế hoang mang trải dọc suốt câu

chuyện nhƣ thế. “Thụ mang ánh nhìn lạnh lẽo trên suốt chuyến tàu xuôi về

thành phố. Tôi có cảm giác anh giống một pho tƣợng ai đặt cạnh mình. Anh

nín lặng, làn da chỗ đỏ ửng, chỗ nhợt nhạt. Những cánh đồng trơ hoác gốc rạ

chạy tăm tắp trong nhập nhoạng hoàng hôn. Tôi không dám nhìn thẳng mặt

chồng, chỉ len lén chăm chú lên đôi tay Thụ dƣờng nhƣ dài hơn, bất động

hơn, khoanh vòng nhiều hơn trƣớc vùng ngực phẳng”. Lớn lên sau chiến

tranh và là thế hệ đầu tiên hƣởng thụ những thành quả phát triển vƣợt bậc của

kinh tế và khoa học, các tác giả trẻ, hơn ai hết, thấm thía nỗi cô đơn của một

cuộc sống thừa thãi về vật chất nhƣng thiếu thốn tình cảm và những mối giao

tiếp cộng đồng.

Truyện ngắn giai đoạn 1986 - 2006 còn khắc họa nỗi cô đơn của

những con ngƣời quá nhỏ bé hay những kẻ sống cuộc đời của vô vị, nhạt

nhẽo. Truyện Ông gàn của Nguyễn Phan Hách kể về một chuyên viên làm tại

một viện nghiên cứu khoa học xã hội. Ông tự tách biệt mình khỏi tập thể bởi

lối sống gàn dở, thích chê bai ngƣời khác, luôn suy nghĩ ngƣợc, tỏ vẻ khinh

bạc với tất cả mọi thứ. Ông đơn độc từ ở cơ quan cho đến trong nhà mình.

Nguyễn Phan Hách đã khắc họa nhân vật ông gàn nhƣ một điển hình cho kiểu

ngƣời cô độc vì tự chọn cho mình một lối sống lập dị, khác ngƣời. Nhà văn

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

viết: “Ông bị vợ con coi thƣờng vì không có tiền, mà sự nghiệp thì chỉ là anh

Sự vận động của truyện ngắn VN từ 1986 đến nay, nhìn từ góc độ hình thức thể loại

60

Luận văn Thạc sĩ

Lưu Thị Thu Hà

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

chuyên viên nghiên cứu tàng tàng. Ông giải tỏa nỗi uất hận ấy vào thái độ

khinh bạc, chán chƣờng, chê bai tất cả. Ông giống nhƣ thầy đồ gàn trong lũy

tre làng xƣa, chẳng làm nên công trạng gì, ngồi gõ đầu trẻ, có chút chữ nghĩa

trong đầu, bất đắc chí, gàn bát sách”. Xét cho cùng, họ là những con ngƣời

đáng thƣơng, đáng tội.

Nguyễn Ngọc Tƣ là nhà văn đặc biệt tài năng khi miêu tả nỗi cô đơn

của những con ngƣời nhỏ bé trong xã hội. Có ít nhất hai tác phẩm, chị viết về

những kẻ đơn độc đến cùng cực, đến gần nhƣ mất cơ hội nói tiếng ngƣời, gần

nhƣ làm bạn với những con vật không hề biết nói năng. Thứ nhất là Cánh

đồng bất tận nổi tiếng với hai chị em Nƣơng và Điền. Mẹ bỏ nhà theo ngƣời

đàn ông khác, cha mải mê trả thù đàn bà bằng cách quăng mình triền miên

vào những cuộc tình chóng vánh với nhiều ngƣời phụ nữ, hai chị em cũng trở

thành hai con vịt côi cút trong đàn vịt chạy đồng của họ. Nguyễn Ngọc Tƣ là

một trong số ít tác giả trẻ miêu tả đƣợc nỗi cô đơn của con ngƣời bằng những

câu văn chân thực và chua xót nhƣ sau: “Đắm đuối với loại ngôn ngữ mới,

chúng tôi chấp nhận để cho ngƣời ta nhìn mình nhƣ những kẻ điên (miễn là

tạm quên nỗi buồn của cõi-ngƣời). Chị em tôi học cách yêu thƣơng đàn vịt

(hy vọng sẽ không bị đau nhƣ yêu thƣơng một con ngƣời nào đó). Nhƣng

nhiều khi nhìn thằng Điền dỏng tai coi mấy con vịt nói cái gì, tôi giật mình,

nuốt một họng đắng, tự hỏi đã đến nỗi này sao, đến nỗi chơi với ngƣời thấy

buồn, nên chuyển qua chơi cùng vịt”. Thất học, sinh ra trong một gia đình

thiếu thốn yêu thƣơng, chị em họ không còn tìm đƣợc nơi bấu víu nào trên

cuộc đời này nữa. Sự kết nối cuối cùng với thế giới, qua tình yêu dành cho

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

đàn vịt cơ hồ cũng bị tƣớc mất khi xảy ra nạn dịch cúm gia cầm.

Sự vận động của truyện ngắn VN từ 1986 đến nay, nhìn từ góc độ hình thức thể loại

61

Luận văn Thạc sĩ

Lưu Thị Thu Hà

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

Cũng chỉ còn vịt để làm bạn, trong truyện Cái nhìn khắc khoải, Nguyễn

Ngọc Tƣ kể về một ông già làm nghề nuôi vịt chạy đồng. Vợ chết trong chiến

tranh, con trai lớn có cuộc sống riêng, ông, ngày này qua tháng khác lầm lũi

với bầy vịt. Đến khi, lƣợm đƣợc một ngƣời đàn bà làm thợ gặt về cƣu mang,

hai tấm thân cô đơn cũng không thể đến với nhau. Nhà văn miêu tả, con

ngƣời và con vịt thân nhau đến độ, họ dƣờng nhƣ nói chuyện với nhau qua

con vịt Cộc đầu đàn, tƣởng con vật nhƣ cũng hiểu đƣợc tâm tƣ tình cảm của

mình: “Buổi chiều, ông về sớm, chị giũ áo mƣa của ông phơi lên vách, miệng

quở ông trời mƣa dai thấy sợ. Chị xúc chén lúa đổ cho con Cộc, miệng hỏi

lãng nhƣ không: “Cộc, mƣa lạnh hôn con?”. Cộc không trả lời, nó nghỉnh lên,

ý nói vịt mà lạnh gì, ổng lạnh sao không hỏi, thiệt tình”. Cũng là trạng thái

thiếu sự giao tiếp giữa con ngƣời với nhau, nhƣng ở đây, họ không bị ngăn trở

bởi các phƣơng tiện của cuộc sống xa hoa hiện đại, mà vì họ bé nhỏ quá, tự ti

quá nên cứ thế co cụm lại, biến mình thành ốc đảo, ngăn cách với cả những ốc

đảo cô đơn khác.

Con ngƣời cô đơn là một mẫu hình nhân vật khá đặc trƣng và mang

nhiều nét khác biệt với nhân vật văn học các giai đoạn trƣớc. Nhìn trong sự

vận động của thể loại, loại hình này cũng thể hiện sự biến đổi và phát triển

trong cách phản ánh hiện thực của văn học giai đoạn 1986 - 2006. Các thời kỳ

trƣớc, đặc biệt là 1945 - 1975, do nhìn con ngƣời trong mối quan hệ với cái ta

chung, cái tập thể nên nhân vật thƣờng mang niềm vui, niềm lạc quan phơi

phới. Chỉ khi đi sâu vào con ngƣời cá nhân, quan sát những bi kịch cá nhân,

văn học mới khám phá ra những nỗi cô đơn ẩn giấu sau một nhịp sống dƣờng

nhƣ là ồn ào và náo nhiệt. Và chính vì vậy mà truyện ngắn 1986 - 2006 đi vào

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

đƣợc chiều sâu của hiện thực cuộc sống.

Sự vận động của truyện ngắn VN từ 1986 đến nay, nhìn từ góc độ hình thức thể loại

62

Luận văn Thạc sĩ

Lưu Thị Thu Hà

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

2.1.2 Con người giả cổ tích, giả huyền thoại, giả lịch sử

Không bằng lòng với cách tái hiện hiện thực bằng những con ngƣời

bình thƣờng, các tác giả truyện ngắn 1986 - 2006 còn tìm cách “lạ hóa” nhân

vật bằng cách tạo ra kiểu nhân vật giả cổ tích, giả huyền thoại, giả lịch sử.

Với lối viết mô phỏng các tích truyện có sẵn trong dân gian, nhà văn tìm cách

kết nối không khí hiện đại và hiện thực cuộc sống vào tác phẩm. Nguyễn Huy

Thiệp vẫn là nhà văn tiên phong và là cây bút thành công nhất trong việc tạo

ra những nhân vật theo mô hình này. Những ngọn gió Hua Tát là chùm truyện

ngắn nhại cổ tích, Huyền thoại phố phường, Con gái Thủy thần là truyện ngắn

nhại huyền thoại, bộ ba Kiếm sắc, Vàng lửa, Phẩm tiết là truyện ngắn nhại

truyền thuyết, lịch sử. Theo đó, con ngƣời trong những tác phẩm của ông

cũng đƣợc miêu tả dƣới những màu sắc khác, đem lại ý nghĩa khác. Trƣớc

hết, nhân vật đƣợc nhà văn đặt vào một không gian nghệ thuật độc đáo. Trong

bài viết Những dấu hiệu chủ nghĩa hậu hiện đại trong văn học Việt Nam qua

sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp và Phạm Thị Hoài, tiến sĩ La Khắc Hòa nhận

định: “Thế giới ấy thƣờng đƣợc bảo vệ, bao bọc bởi bầu không khí huyền

thoại với rất nhiều loại thần linh. Trong chùm cổ tích Những ngọn gió Hua

Tát, trong Con gái Thủy thần và nhiều truyện khác, Nguyễn Huy Thiệp

thƣờng nói tới một không khí nhƣ vậy” [27; 13]. Quả thực, nhà văn viết:

“Thung lũng Hua Tát ít nắng. Ở đây quanh năm cứ lung bung một thứ sƣơng

mù bàng bạc nên nhìn ngƣời và cảnh vật thì chỉ nhìn thấy những nét nhòa

nhòa đại thể mà thôi. Đó là thứ không khí huyền thoại” (Những ngọn gió Hua

Tát).

Tạo ra không khí huyền thoại, nhà văn đồng thời cũng tạo ra những

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

tình huống đầy cổ tích, huyền thoại đối với nhân vật. Ông sử dụng motif cổ

Sự vận động của truyện ngắn VN từ 1986 đến nay, nhìn từ góc độ hình thức thể loại

63

Luận văn Thạc sĩ

Lưu Thị Thu Hà

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

tích quen thuộc nhƣ nhân vật mồ côi, phép màu… Nhƣng trong dáng dấp của

một truyện giả cổ tích, hay một cổ tích hiện đại, nhà văn thƣờng đƣa ra những

cách giải quyết vấn đề rất đỗi bất ngờ. Ngƣời mồ côi trong truyện cổ sau bao

vất vả đắng cay, cuối cùng thƣờng đƣợc hƣởng hạnh phúc còn Khó và Pùa

trong Trái tim hổ thì ngƣợc lại. Tác phẩm kể câu chuyện về một đôi trái gái ở

bản Hua Tát. Pùa là cô con gái xinh đẹp nhƣng bị liệt hai chân. Ngƣời ta đồn

rằng, nếu có đƣợc trái tim của con hổ dữ, mọi bệnh tật sẽ khỏi. Đôi chân Pùa

cũng vì thế mà đi lại đƣợc. Khó là trai bản. “Chàng mồ côi cha mẹ, sống nhƣ

con don, con dim. Con don, con dim sống thui thủi, đi con đƣờng riêng, ăn

uống thế nào không ai biết đƣợc”. Cũng nhƣ bao nhiêu trai bản Hua Tát khác,

vì Pùa, Khó cũng vào rừng săn hổ. Và chàng hạ đƣợc con hổ dữ. Nhƣng điều

kỳ lạ, trái tim hổ đã không còn trong lồng ngực, nó bị đánh cắp. Khó chỉ còn

lại xác con hổ đã chết. Không có kết thúc có hậu, truyện cổ tích hiện đại đã

đƣa đến một kết cục hiện đại. Bằng cách kể chuyện dƣờng nhƣ đơn giản của

mình, Nguyễn Huy Thiệp dự báo: cái ác mạnh hơn đã chiến thắng, cái thiện

giữa cuộc đời mong manh nhƣ hạt cát và không thể chống đỡ nổi cơn lốc

xoáy của lòng tham. Cũng với lối xây dựng nhân vật giả cổ tích, Nguyễn Huy

Thiệp còn tái hiện trong văn học hiện đại những hình tƣợng nhƣ Trƣơng Chi,

Nàng Bua… Trƣơng Chi là biểu tƣợng để Nguyễn Huy Thiệp trình bày quan

điểm của ông về số phận của ngƣời nghệ sĩ trƣớc những lựa chọn khác nhau:

hƣớng cảm hứng của mình phụng sự chính quyền, phụng sự quan quân hay

chỉ đơn thuần phụng sự cái đẹp. Còn Nàng Bua lại nhƣ một biến cố để con

ngƣời bộc lộ lòng tham nhƣ bản chất cố hữu của mình. Tác phẩm là một câu

chuyện ngụ ngôn thời nay.

Ngoài những nhân vật lấy motif cổ tích hoặc cốt truyện cổ tích, Nguyễn

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

Huy Thiệp còn tạo dựng không khí huyền thoại bởi cách miêu tả môi trƣờng

Sự vận động của truyện ngắn VN từ 1986 đến nay, nhìn từ góc độ hình thức thể loại

64

Luận văn Thạc sĩ

Lưu Thị Thu Hà

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

đời sống hoang sơ, bị chi phối bởi lời đồn. Tiến sĩ La Khắc Hòa viết: “Môi

trƣờng trì đọng nuôi dƣỡng định kiến bằng những lời đồn đại. Lời đồn vừa là

nguồn cội sản sinh huyền thoại, vừa là ký ức cộng đồng lƣu giữ huyền thoại

của đời sống hoang sơ” [27; 43]. Trong Giọt máu, Chiểu là tên tham quan háo

sắc, lúc say rƣợu đánh cố đạo tây, bị thất sủng, cách chức về vƣờn, thế mà lời

đồn đã biến hắn thành bậc anh hùng: “Dân làng kháo Chiểu có chân trong

nhóm văn thân chống Pháp, tri huyện Tiên Du là tƣớng của ông Đề Nắm, Đề

Thám trên Yên Thế. Lại đồn Chiểu làm quan thanh liêm không ăn cánh với

triều đình bấy giờ đang vọng ngoại tộc, do đó mới bị bãi chức. Một đồn mƣời,

mƣời đồn trăm, tên tuổi của Chiểu trong vùng bỗng thành danh giá. Chiểu

không nói năng gì, nghiễm nhiên coi việc đánh cố đạo Tây là cử chỉ nghĩa khí

nhất trong đời làm quan”. Truyện Trái tim hổ cũng bị bao bọc bởi lời đồn:

“Tin đồn nhƣ con chim cắt chuyền khắp thung lũng. Ở bếp lửa, chân quản,

dƣới suối, trên nƣơng, đâu đâu ngƣời ta cũng nói về trái tim hổ. Tin đồn bay

xuống cả vùng đồng bằng của ngƣời Kinh, bay lên cả đỉnh núi cao của ngƣời

Mông. Tin đồn bao giờ cũng thế, qua miệng những kẻ ngu dốt thì quái lạ thay,

thƣờng thú vị hơn qua miệng những ngƣời từng trải”. Tin đồn góp phần biến

những chuyện bình thƣờng thành huyền thoại. Và nhƣ thế, truyện của Nguyễn

Huy Thiệp mang một màu sắc riêng, độc đáo và nhiều ý nghĩa.

Nguyễn Huy Thiệp có hẳn một chùm truyện giả lịch sử với Kiếm sắc,

Vàng lửa và Phẩm tiết. Nhà nghiên cứu Văn Tâm từng nhận xét: “Đọc

Nguyễn Huy Thiệp thì chỉ cần thoát nạn mù chữ nhƣng muốn giải mã thì còn

cần những điều kiện khác nữa” [63; 12]. Kiểu truyện giả lịch sử của ông là

một minh chứng cho điều đó. Nguyễn Huy Thiệp bê nguyên nhân vật lịch sử

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

vào trang sách, nhƣng ông đã cởi bỏ mũ miện, áo mão cân đai của họ, để họ

Sự vận động của truyện ngắn VN từ 1986 đến nay, nhìn từ góc độ hình thức thể loại

65

Luận văn Thạc sĩ

Lưu Thị Thu Hà

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

đƣợc sống với bản chất của chính mình, đƣợc nói thứ ngôn ngữ của thời đại

mới.

Gia Long trong Vàng lửa là một ông vua có “khối cô đơn khổng lồ,

đóng trò rất giỏi trong triều đình”. Nguyễn Huy Thiệp đã để ông sắm một vai

kịch trên sân khấu cuộc đời. Để làm đƣợc điều đó, Gia Long, nhƣ bao nhân

vật khác, phải đeo mặt nạ. Nhƣ vậy, Gia Long hiện đại không làm cho ngƣời

ta phải kính nhi viễn chi, ông ta có bi kịch nhƣ bất cứ một con ngƣời bình

thƣờng khác - đó là phải đóng trò nhƣ con rối trên sân khấu triều đình. Nhƣng

Gia Long không trốn khỏi nỗi cô đơn khủng khiếp với những ham muốn dục

vọng của riêng mình. Những yếu tố ấy giúp Nguyễn Huy Thiệp đẩy nhân vật

lịch sử lại gần bạn đọc hơn, nhờ đó mà những vấn đề của thời đại đƣợc

chuyển phát và thâu nhận một cách dễ dàng.

Nhân vật lịch sử trong truyện của Nguyễn Huy Thiệp thƣờng đƣợc tự

do nói thứ ngôn ngữ hiện đại. Gia Long nói với Phăng sau một cuộc săn rằng:

“Khanh biết không, cái lũ chó ấy, chúng nó chuẩn bị cả rồi, chỗ nào trẫm đi

qua là chúng thả thú ra”. Còn trong Phẩm tiết, vua Gia Long mắng thuộc hạ

nhƣ một kẻ vô danh tiểu tốt: “Thằng khốn nạn theo voi ăn bã mía kia, đểu

cáng chừng nào. Mày mƣợn danh ta để đi ăn cƣớp với chơi gái à?... Thằng

mặt xanh kia! Kề miệng lỗ còn dê ƣ? Ta cho cắt dái mày! Ta cho mày ăn cứt”.

Tƣơng tự nhƣ vậy, vua Quang Trung cũng có những lời chửi bới bằng thứ

ngôn ngữ thô tục: “Thằng Khải kia, tài bằng cái đấu, khinh ta quá chừng. Trời

cho mày sống, cƣớp không biết bao lộc thiên hạ, ăn miếng ngon không đậy

mồm còn chê là lợm. May nhờ phúc tổ, có ít của chìm nhƣ cái đuôi khô, tháng

ba ngày tám đem ra gặm tƣởng xênh xang ƣ?”. Mƣợn mẫu hình của quá khứ,

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

Nguyễn Huy Thiệp đã làm bật lên những con ngƣời trần tục, dù đó là vua

Sự vận động của truyện ngắn VN từ 1986 đến nay, nhìn từ góc độ hình thức thể loại

66

Luận văn Thạc sĩ

Lưu Thị Thu Hà

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

chúa, quan lại, sĩ phu hay văn nhân tài tử. Họ trƣớc hết là những kẻ trần tục.

Mà đã là ngƣời trần tục thì mọi suy nghĩ, nói năng, xử thế và hành động cũng

hết sức phàm phu, trần trụi.

Trong số các nhà văn trẻ của giai đoạn văn học 1986 - 2006, không ít

tác giả sử dụng các tích truyện cổ để gửi gắm những vấn đề mới. Gióng của

Lê Minh Hà là sự nối dài Sự tích Thánh Gióng. Truyện cổ kết thúc khi Thánh

Gióng giết hết giặc và bay về trời, nhƣng với trái tim đầy nữ tính, Lê Minh Hà

còn đem đến cho ngƣời đọc những cảm nhận xúc động về nỗi đau và sự khắc

khoải của ngƣời mẹ mất con. Nhà văn đã phát hiện ra sự thật hiển nhiên, rằng,

trong mắt mọi ngƣời Gióng có thể là một anh hùng, nhƣng trong mắt ngƣời

mẹ, vị Thánh ấy vẫn là một đứa trẻ chƣa biết nói. Và nỗi đau mất con, với

ngƣời mẹ, vẫn là nỗi đau lớn nhất, lớn hơn niềm vui đƣợc cống hiến, đƣợc tận

hƣởng sự thán phục của làng nƣớc. Kể từ điểm nhìn của ngƣời mẹ, tác phẩm

có những đoạn văn đầy xúc động: “Ngƣời mẹ không muốn kể, rằng trong giấc

mơ đêm qua lại thấy Thánh Gióng. Thánh nhìn mẹ, mếu. Vẫn hệt thằng cu

Gióng ngày xƣa. Vẫn không nói. Nhƣng mắt chú bé không còn tƣơi nhƣ nắng

trời. Mắt Gióng đầy nƣớc, nhƣ mắt làng - những cái ao con - những vết chân

ngựa sắt - sau một đêm mƣa. Mẹ chốc chốc lại cựa mình, cố dỗ giấc ngủ để

có thể thấy lại con, dù mẹ con chả nói đƣợc câu gì. Lòng mẹ đau thắt: đứa con

kỳ vĩ của mẹ không có nổi một chỗ đứng trên non nƣớc này”. Bằng sự nối dài

câu chuyện, Lê Minh Hà đã mang đến những giá trị nhân văn mới cho một sự

tích đã cũ.

Cũng bắt nguồn từ một sự tích cũ, Chung quy chỉ tại… của Đỗ Trí

Dũng là cách nhại sự tích trầu cau để giễu nhại, để cay đắng cho cuộc sống

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

chật hẹp của những con ngƣời hiện đại. Bi kịch hai anh em sinh đôi chung

Sự vận động của truyện ngắn VN từ 1986 đến nay, nhìn từ góc độ hình thức thể loại

67

Luận văn Thạc sĩ

Lưu Thị Thu Hà

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

một vợ đƣợc tạo ra bởi sự cố tình nhẫm lần. Sự cố tình nhầm lẫn xảy đến do

con ngƣời phải sống trong những không gian quá chật hẹp. “Ngày ngày, hai

anh em đi hành đạo kiếm ăn ở các bến tàu bến xe; nàng Sất ở nhà lo cơm

nƣớc quét tƣớc giặt giũ rất chu đáo. Tình vợ chồng, nghĩa anh em, duyên chị

dâu em chồng ngày một nồng nàn. Hiềm một nỗi căn hộ hơi chật cho ba

ngƣời, nhất là trong ba ngƣời lại có đôi vợ chồng son. Căn phòng 12m2 kê

vừa hai giƣờng, ban ngày đã khổ ban đêm lại càng sƣớng. Tuy đã đƣợc ngăn

đôi bằng tấm ri đô vải diềm bâu của nhà máy dệt mùng tám tháng ba, nhƣng

nằm trên này, Bá Nha đƣợc xem tivi âm thanh nổi liên tục. Là ngƣời có năng

lƣợng dồi dào, nên nhiều đêm Ba Nha tay sờ đầu trên tay ôm đầu dƣới luôn

mồm kêu rên”. Khác với truyện Gióng, ở truyện này, Sự tích trầu cau đƣợc kể

lại nhƣng đã bị biến đổi đi rất nhiều nhằm phục vụ ý đồ của tác giả. Cùng mô

hình này, ta có thể bắt gặp thêm các sáng tác khác của Phạm Hải Anh với Tri

âm - kể về cuộc hội ngộ tƣơng phùng giữa nàng Kiều và văn nhân Nguyễn Du

hay Trần Thùy Mai với Nơi có những cây tùng xanh biếc - kể về mối tình

giữa hoàng thân Cƣờng Để cùng một ngƣời phụ nữ Nhật. Nhìn chung, các tác

giả trẻ đã cố gắng tận dụng truyền thuyết, cổ tích và lịch sử để tìm kiếm

những hình thức phản ánh hiện thực mới cho cuộc sống đồng thời biểu hiện

con ngƣời với nhiều chiều phức tạp hơn. Từ những truyện ngắn này, độc giả

cũng đƣợc cung cấp một cách nhìn mới về bản chất đích thực của con ngƣời,

về một cuộc sống không dễ dàng nhƣ cổ tích hay huyền thoại. Những mô hình

nhân vật này vì thế, góp thêm một phƣơng thức mới trong nghệ thuật phản

ánh hiện thực đời sống sau Đổi mới.

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

2.1.3 Con người dị biệt

Sự vận động của truyện ngắn VN từ 1986 đến nay, nhìn từ góc độ hình thức thể loại

68

Luận văn Thạc sĩ

Lưu Thị Thu Hà

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

Con ngƣời dị biệt không phải là loại nhân vật mới trong văn học. Ngay

từ thời truyện ngắn manh nha, kiểu nhân vật này đã xuất hiện trong thể loại

truyền kỳ. Đến thời kỳ 1932 - 1945, nhân vật dị biệt xuất hiện trong tác phẩm

của Nam Cao, với những Chí Phèo, Thị Nở, Lang Rận. Đó là những con

ngƣời méo mó cả nhân hình và nhân tính nhƣng lại có giá trị phổ quát rất lớn

về thân phận con ngƣời. Đến giai đoạn 1945 - 1975, kiểu nhân vật này không

đƣợc khai thác, do đời sống văn nghệ cần những con ngƣời điển hình, hoàn

thiện, hoặc nếu có phản diện, đó thƣờng cũng không phải là nhân vật dị biệt.

Sau 1986, với sự đổi mới một cách toàn diện, loại nhân vật dị biệt bắt

đầu xuất hiện trở lại trong văn học. Ở thể loại tiểu thuyết, đó là hình tƣợng

ngƣời đàn bà câm trong Nỗi buồn chiến tranh - Bảo Ninh; Quang lùn, bé Hon

trong Thiên sứ của Phạm Thị Hoài; Mai Trừng trong Cõi người rung chuông

tận thế của Hồ Anh Thái; Từ Lộ, Dã Nhân, chàng Cá bơn trong Giàn thiêu

của Võ Thị Hảo; Tính, Hƣng trong Thoạt kỳ thủy của Nguyễn Bình Phƣơng…

Tuy không thể biểu hiện một cách đa diện và phức tạp nhƣ tiểu thuyết, nhƣng

truyện ngắn 1986 - 2006 cũng không bỏ qua cơ hội khai thác kiểu nhân vật

này.

Không có Vua là một thế giới nhân vật dị tật về tâm hồn và nhân cách.

Lão Kiền, ông bố, coi tất cả mọi ngƣời xung quanh, kể cả những đứa con của

mình nhƣ kẻ thù. Ông chửi con bằng thứ ngôn ngữ chợ búa, đƣờng sá nhất.

Đê tiện hơn, ông chính là ngƣời “bắc chiếc ghế đẩu, trèo lên nín thở” nhòm

trộm con dâu đang tắm. Hành động của lũ con cũng không kém phần thất đạo.

Chúng tỏ rõ sự hơn cha của mình trong buổi họp gia đình quyết định số phận

của bố. Nhân vật Đoài, công chức ngành giáo dục “biểu quyết đồng ý để bố

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

chết” và khi bố chết thì hắn mừng ra mặt: “Thật may quá, bây giờ tôi đi mua

Sự vận động của truyện ngắn VN từ 1986 đến nay, nhìn từ góc độ hình thức thể loại

69

Luận văn Thạc sĩ

Lưu Thị Thu Hà

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

quan tài”. Trong quan hệ với anh em, Đoàn trần trụi đến mức thú tính. Hắn ve

vãn, tán tỉnh chị dâu, nguyền rủa anh trai. Đây là kiểu nhân vật tật nguyền, dị

biệt về nhân cách, nhƣ tác giả nhận xét: “Là một đám sinh vật biết ăn nói, đi

lại, suy nghĩ và đối xử với nhau”.

Dị biệt, nhƣng ở một dạng thức khác, là nhân vật thằng Vƣơng trong

truyện ngắn Ngọa sinh của Võ Thị Xuân Hà - một đứa bé bị di chứng chất

độc màu da cam. Vốn không hoàn thiện về hình hài, Vƣơng bị thiểu năng cả

về trí tuệ và tâm hồn. Khả năng ngôn ngữ của Vƣơng chỉ dừng lại ở mấy từ:

“Tao sẽ đập nát bét”:

“Ở nhà, con Hoa đang dỗ anh nó:

- Mẹ sắp về rồi. Mặt trời xuống đỏ ối kia rồi.

Thằng Vƣơng cƣời:

Tao sẽ đập nát bét!”

Chất độc da cam là một nỗi đau lớn của dân tộc Việt Nam sau chiến

tranh. Những con-ngƣời-không-ra-ngƣời đƣợc khai thác rất nhiều trong văn

học sau 1986. Đó là những bằng chứng đau đớn mà phải đi qua chiến tranh,

ngƣời ta mới thấy mặt trái của những ngày hào hùng. Truyện góp phần làm

bật nổi một hiện thực tàn khốc, một nỗi nhức nhối của thời bình. Đây là sự

tiếp nối những thành công trong việc miêu tả những nhân vật dị biệt của văn

học Việt Nam giai đoạn 1932 - 1945 gắn liền với tên tuổi của Nam Cao, Vũ

Trọng Phụng. Việc các nhân vật dị biệt xuất hiện ngày càng nhiều trong văn

học thời kỳ Đổi mới cho thấy: Nhà văn đã nhìn cuộc sống trong tính toàn vẹn,

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

quan tâm đến nhiều loại nhân vật khác nhau chứ không bằng lòng với những

Sự vận động của truyện ngắn VN từ 1986 đến nay, nhìn từ góc độ hình thức thể loại

70

Luận văn Thạc sĩ

Lưu Thị Thu Hà

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

nhân vật quá sạch sẽ; Thông qua loại nhân vật này, nhà văn muốn biểu đạt

quan niệm riêng của họ về một thế giới chƣa hoàn thiện…

2.2 Những đóng góp mới về nghệ thuật xây dựng nhân vật

Trong quá trình phân tích các kiểu nhân vật, chúng tôi đã đề cập phần

nào đến nghệ thuật xây dựng nhân vật của các nhà văn. Tùy từng kiểu nhân

vật, các tác giả vận dụng những hình thức thể hiện khác nhau. Dƣới đây là

một số biện pháp cơ bản, đƣợc vận dụng với sự sáng tạo nhất định so với các

giai đoạn trƣớc. Để tạo nên một nhân vật có sức sống, nhà văn áp dụng đồng

thời nhiều biện pháp nghệ thuật khác nhau. Trong khuôn khổ luận văn này,

chúng tôi đặc biệt chú trọng đến việc xây dựng nhân vật thông qua tính cách

và ngôn ngữ.

2.2.1 Nghệ thuật xây dựng tính cách nhân vật

Dostoievsky nhận định: “Đối với nhà văn, toàn bộ vấn đề là ở tính

cách” [76; 65]. Với vai trò là nhân tố chủ yếu tạo nên diễn biến của các sự

kiện trong quá trình phát triển cốt truyện, sự thay đổi trong nhận thức và kiến

tạo tính cách sẽ chi phối đến cách huy động và sử dụng các biện pháp nghệ

thuật của nhà văn.

Trong 150 thuật ngữ văn học, nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân xác định:

“Tính cách là hình ảnh con ngƣời, đƣợc phác họa đến mức độ đủ rõ và đủ tính

xác định, thông qua đó làm bộc lộ một kiểu ứng xử (hành vi, suy nghĩ, lời nói,

có căn nguyên lịch sử, đồng thời cũng làm bộc lộ một quan niệm của tác giả

về tồn tại con ngƣời” [7; 332]. Liên quan đến những phạm trù xung quanh

khái niệm tính cách, tiến sĩ Đoàn Đức Phƣơng phân biệt: “Trong nghiên cứu

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

văn học, theo nghĩa rộng nhất của nó, khái niệm „nhân vật‟ mới là hình ảnh về

Sự vận động của truyện ngắn VN từ 1986 đến nay, nhìn từ góc độ hình thức thể loại

71

Luận văn Thạc sĩ

Lưu Thị Thu Hà

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

con ngƣời, khái niệm „tính cách‟ đã là hình tƣợng về con ngƣời còn khái niệm

“tính cách điển hình” chính là điển hình về con ngƣời” [17; 128]. Nhƣ vậy,

tính cách điển hình đƣợc coi là phẩm chất cao nhất trong việc xây dựng tính

cách. Quan niệm này đặc biệt phổ biến đối với chủ nghĩa hiện thực. Engels

viết: "Theo ý tôi đã nói đến chủ nghĩa hiện thực thì ngoài sự chính xác của

các chi tiết ra, còn phải nói đến sự thể hiện chính xác những tính cách điển

hình trong hoàn cảnh điển hình" [13; 34]. Engels yêu cầu các nhà văn hiện

thực phê phán phải miêu tả tính giai cấp, coi đó là hạt nhân cơ bản của điển

hình văn học: "Các nhân vật chính tiêu biểu thật sự cho các giai cấp và các

trào lƣu nhất định, do đó tiêu biểu cho các tƣ tƣởng thời đại họ" [13; 53].

Dƣới ánh sáng của lý luận này, văn học Việt Nam 1932 - 1945, 1945 - 1975

đã tạo nên những nhân vật điển hình cho các tầng lớp xã hội, cho những hoàn

cảnh khác nhau nhƣ: Chí Phèo, giáo Thứ… Sau Đổi mới, với nhịp sống biến

chuyển gấp gáp, phức tạp, con ngƣời đƣợc nhìn nhận từ phƣơng diện cá nhân,

cá thể, quan niệm nhân vật điển hình trong hoàn cảnh điển hình đã trở nên lỗi

thời. Truyện ngắn 1986 - 2006 quan tâm tới những tính cách mang đậm màu

sắc cá nhân hơn là phẩm chất đại diện, tính biểu trƣng cho tập thể của nhân

vật.

Tính cách nhân vật thƣờng đƣợc xây dựng qua các xung đột giữa nhân

vật và hoàn cảnh, nhân vật và nhân vật và xung đột bên trong của từng nhân

vật. Trƣớc 1986, các nhà văn thƣờng đặt con ngƣời trong những xung đột

mang tính điển hình, tiêu biểu cho những mâu thuẫn trong lòng xã hội thời

bấy giờ, ví dụ: địch và ta, địa chủ và nông dân, trí thức tiểu tƣ sản và tầng lớp

công nông binh. Để làm bật nổi sự tha hóa của Chí Phèo (Chí Phèo) hay để

nhấn mạnh phẩm chất quật cƣờng, bạo liệt của chị Dậu (Tắt đèn)… Nam Cao,

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

và Ngô Tất Tố, dù cách biểu hiện và chọn lọc chi tiết có khác nhau, nhƣng

Sự vận động của truyện ngắn VN từ 1986 đến nay, nhìn từ góc độ hình thức thể loại

72

Luận văn Thạc sĩ

Lưu Thị Thu Hà

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

đều áp dụng một công thức chung: đặt nhân vật trong sự đối chọi khốc liệt

giữa giai cấp địa chủ và ngƣời nông dân. Để làm bật nổi tình yêu quê hƣơng

đất nƣớc của con ngƣời trong chiến tranh, các nhà văn nhƣ Kim Lân (Làng),

Nguyên Ngọc (Rừng xà nu)… thƣờng đặt nhân vật trong sự lựa chọn giữa

tình riêng và tình chung. Từ việc tạo ra hoàn cảnh điển hình chung đó cho

nhân vật, các nhà văn trƣớc 1986 cũng có những mẫu số chung nhất định

trong việc trình bày diễn tiến tích cách nhân vật. Đáp án cuối cùng của quá

trình đó thƣờng đọng lại ở sự chiến thắng cái ác, cái xấu của nhân vật, sự

chiến thắng tình riêng để hy sinh cho sự nghiệp, tình yêu lớn…

Trong khi đó, với sự phát triển muôn mặt của cuộc sống sau Đổi mới,

văn học không bị bó buộc với các nhiệm vụ chính trị, nhà văn có điều kiện đặt

nhân vật trong các hoàn cảnh khác nhau. Ta có thể thấy rõ điều này qua cách

các tác giả khai thác cùng một mẫu nhân vật nhƣng qua nhiều cách thức khác

nhau. Con ngƣời tha hóa vì đồng tiền là một trong những hiện tƣợng phổ biến,

đƣợc khai thác nhiều trong giai đoạn văn học 1986 - 2006. Nhƣng bằng việc

đặt nhân vật trong các hoàn cảnh rất khác nhau, các nhà văn đã chứng minh

sự muôn dạng của các nguyên nhân tha hóa cũng nhƣ những biểu hiện của tha

hóa. Lão Thiến trong Anh lính Tony D. là một nhân vật bị đồng tiền ám ảnh.

Với tâm lý “chật chội đất thành thị vẫn hơn đất nhà quê”, lão bán “căn nhà ở

ngoại ô, có vƣờn, ao thả cá” về chui rúc trong một cái “hốc chƣa đầy chục

mét vuông, không cửa sổ, một bên là khu vệ sinh công cộng” trên tầng

thƣợng. Mặc dù có tiền nhƣng lão sống tằn tiện, khốn khổ: “Lão chén bữa tám

bát cơm gạo mốc cho nó rẻ, ăn kèm với thứ mắm muối từ đầu cá, ruột gà nhặt

nhạnh ở chợ chiều. Mỗi khi lão ăn mắm, cả xóm nín thở”. Sức cuốn hút của

đồng tiền biến lão thành kẻ chuyện trộm cắp vặt: “Suốt ngày lão chăm chắm

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

xem ai có gì là lão thó, từ “cái quần lót của đàn bà”, đến cả “cái bô trẻ con để

Sự vận động của truyện ngắn VN từ 1986 đến nay, nhìn từ góc độ hình thức thể loại

73

Luận văn Thạc sĩ

Lưu Thị Thu Hà

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

ngoài sân”. Trong khi đó, cũng tha hóa vì đồng tiền, thằng Thán, con trai lão,

là kẻ bất chấp cả tình phụ tử. Nghi ngờ bố lấy tiền của mình, thằng Thán dọa

bóp cổ lão và cuối cùng bắt lão phải tự chặt ngón tay để thề: “Con dao giơ

lên, phập một tiếng khủng khiếp, một dòng máu trào ra theo ngón tay trỏ trên

bàn tay trái của lão rơi xuống sàn”. Đứa con nhìn cảnh đó không một chút

cảm động, nhƣng nó tỉnh ra, là bố nó không ăn trộm tiền.

Trong khi đó, cũng viết về những con ngƣời bị đồng tiền và quyền lực

tha hóa, Nguyễn Huy Thiệp có loạt truyện nhƣ Không có vua, Huyền thoại

phố phường… Không có vua là một thế giới nhân vật trong đó Cấn, Khiêm,

Khảm, Đoài… bán rẻ tình cha con, tình anh em vì những toan tính vật chất

tầm thƣờng trong cuộc sống hằng ngày. Sự kiệt cùng của tình ngƣời trong

cuộc sống kim tiền biểu hiện qua đoạn tƣờng thuật nhanh và gấp gáp sau:

“Đoài bảo: „Tôi nghĩ bố già rồi, mổ cũng thế, cứ để chết là hơn”. Tốn khóc hu

hu. Cấn hỏi: „Ý chú Khảm thế nào?‟. Khảm bảo: „Các anh thế nào thì em thế‟.

Cấn hỏi: „Chú Khiêm sao im thế?‟. Khiêm hỏi: „Các anh định thế nào?‟. Cấn

bảo: „Tôi đang nghĩ‟. Đoài bảo: „Mất thì giờ bỏ mẹ. Ai đồng ý bố chết giơ

tay, tôi biểu quyết nhé”. Còn trong Huyền thoại phố phường, nhân vật Hạnh

lại đánh đổi nhân cách và lòng tự trọng của mình để lấy chiếc vé số may mắn

hòng tìm kiếm một cơ hội đổi đời. Đa dạng và muôn màu nhƣ cuộc sống, mỗi

nhân vật truyện ngắn 1986 - 2006 là một thế giới riêng, không tiêu biểu cho

nhau mà mang đậm tính chất cá thể, đậm đặc trƣng phong cách của từng nhà

văn.

Cùng với sự đa dạng, phức tạp trong việc tạo ra hoàn cảnh để bộc lộ

tính cách cá nhân, con ngƣời giai đoạn này còn ẩn chứa sự bí ẩn. Nếu văn

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

xuôi 1945 - 1975 đem lại ấn tƣợng về con ngƣời có thể biết trƣớc, nhà văn

Sự vận động của truyện ngắn VN từ 1986 đến nay, nhìn từ góc độ hình thức thể loại

74

Luận văn Thạc sĩ

Lưu Thị Thu Hà

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

nhìn con ngƣời chủ yếu nhƣ một ý thức chính trị vận động hợp quy luật lịch

sử, thì văn xuôi sau 1975 đem lại cảm giác con ngƣời là một tiểu vũ trụ đấy bí

mật, không thể biết trƣớc, càng không thể biết hết. Nếu nhƣ văn xuôi trong

hai thời kỳ chiến tranh say sƣa ca ngợi lý tƣởng của con ngƣời thì văn xuôi

thời Đổi mới mải miết khám phá, mổ xẻ những con ngƣời đó nhƣng từ

phƣơng diện cá nhân, cá thể. Con ngƣời, do đó, không phát triển kiểu một

chiều nhƣ trong những sáng tác theo cảm hứng sử thi, không đƣợc đánh giá

theo hệ tiêu chí sẵn có. Họ là cả một thế giới trộn lẫn giữa cái tốt và cái xấu,

giữa cái thiện và cái ác, giữa cái hiện tƣợng bên ngoài và phẩm chất bên

trong. Nhân vật trong Một phút và nửa đời người (Triệu Bôn), Những đêm

thắp nắng, Mùa đông ấm áp (Nguyễn Thị Thu Huệ), Ánh trăng (Nguyễn

Bản), Chọn chồng, Thanh minh trời trong sáng, Anh thợ chữa khóa (Ma Văn

Kháng)… đều có những đột biến tâm lý, tính cách, những hành động bất ngờ

không thể nào đoán định đƣợc. Sang sông của Nguyễn Huy Thiệp là một

truyện ngắn tiêu biểu cho sự thử thách của nhà văn trong việc đánh giá con

ngƣời qua bề ngoài của họ. Nhƣ một vở kịch ít nhiều mang tính luận đề, nhà

văn đƣa lên trang sách một xã hội thu nhỏ với những hạng ngƣời: nhà sƣ, nhà

thơ, nhà giáo, tên cƣớp, hai tên buôn đồ cổ, một cặp tình nhân, hai mẹ con.

Khi đứa bé kẹt tay vào miệng chiếc bình cổ, nhà giáo run sợ, nhà thơ triết lý,

hai tên buôn lo sợ vỡ mất đống tiền quý, nhà sƣ bất lực… chỉ có tên cƣớp

hành động. Hắn thẳng tay đập vỡ chiếc bình, giải thoát cho đứa trẻ và nói:

“Trẻ con là tƣơng lai đấy! làm gì cũng phải nhân đức hàng đầu”. Nguyễn Huy

Thiệp đã qua một tình huống, thay đổi nhận thức quen thuộc của xã hội về

con ngƣời.

Nguyễn Ngọc Tƣ cũng có những trang viết đầy bất ngờ về số phận và

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

nhân cách của những ngƣời nhỏ bé nhƣ ngƣời chăn vịt đồng, cô gái điếm. Gái

Sự vận động của truyện ngắn VN từ 1986 đến nay, nhìn từ góc độ hình thức thể loại

75

Luận văn Thạc sĩ

Lưu Thị Thu Hà

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

điếm ít khi xuất hiện đẹp trong các tác phẩm văn học của ta. Nhƣng trong tác

phẩm của mình, Ngọc Tƣ đã cho thấy con ngƣời đa diện của những kẻ phải

bán thân nuôi miệng. Cô gái điếm trong Cánh đồng bất tận, hay Cải ơi của

chị đều là những kẻ dạn dĩ với nghề phấn hoa, nhƣng họ có tình yêu, tình

thƣơng và khát khao thực sự một mái ấm gia đình. Ngƣời ta có thể tìm thấy ở

họ, đôi khi, nguồn sức mạnh chở che những đấng nam nhi. Ngƣời đàn bà

buôn hƣơng bán phấn trong Cánh đồng bất tận đã đem chút sắc tàn của mình

dâng hiến để cứu đàn vịt chạy đồng. Chị nhận đƣợc sự thờ ơ vô tâm của

ngƣời đàn ông có trái tim đã băng giá: “Chị về khi trăng rạng rỡ trên đầu…

Nhác thấy hai chị em tôi ngồi thù lù, chị kêu lên, trời đất, hai cƣng chờ chị chi

vậy. “Chị… làm đĩ quen rồi, mấy chuyện này nhằm bà gì mà mấy cƣng

buồn?... Chao, tiếng ngáy của cha tôi sao mà đều, sao mà thơ thớ. Tôi chực

khóc, ngay lúc này đây, dƣờng nhƣ chị-đang-chết. Chị lẹ làng lấy tay quệt lên

mắt, mảng nƣớc nhòe nhoẹt bên màng tang, bết cả vào mớ tóc mai”. Bất ngờ

hơn cả là ngƣời đàn ông chăn vịt đồng. Không thật thà chất phác nhƣ ngƣời ta

vẫn hình dung về những ngƣời nông dân Nam bộ, mang vết thƣơng lòng của

một ngƣời đàn ông bị vợ cắm sừng, cha của hai đứa trẻ đã trả thù hết ngƣời

đàn bà này đến ngƣời đàn bà khác bằng những cuộc tình chóng vánh, chỉ

mang tính chất xác thịt mà không có tình yêu.

Với việc nhấn mạnh vào sự đa chiều, phức tạp của tính cách, việc xây

dựng nhân vật ít phụ thuộc vào kiểu nhân vật mà phụ thuộc phần lớn vào các

tình huống mà nhân vật bị đẩy đƣa vào đó. Dấu ấn về tầng lớp, nghề nghiệp,

xuất thân chủ yếu có tác động đến phác thảo mang tính bề ngoài về nhân vật.

Còn những đặc điểm phẩm chất bên trong đƣợc bộc lộ dần qua các tình huống

cụ thể. Ở Sang sông của Nguyễn Huy Thiệp là sự cố cậu bé bị kẹt tay vào

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

chiếc bình cổ; ở Cải ơi của Nguyễn Ngọc Tƣ là tình huống ngƣời cha dƣợng

Sự vận động của truyện ngắn VN từ 1986 đến nay, nhìn từ góc độ hình thức thể loại

76

Luận văn Thạc sĩ

Lưu Thị Thu Hà

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

đi tìm đứa con gái mất tích; ở Có con của Phan Thị Vàng Anh là khi ngƣời

phụ nữ lỡ thì nhầm tƣởng mình đang mang một bào thai… Truyện ngắn Việt

Nam 1986 - 2006 đƣa lại cho ngƣời đọc cảm giác nhẹ nhàng nhƣng đằm và

lắng. Qua một vài tình huống tƣởng chừng nhƣ vô thƣởng vô phạt, nhà văn đã

hé lộ những góc khuất của nhân cách con ngƣời, dù mỗi truyện có thể chỉ

khám phá một góc rất nhỏ. Trình bày con ngƣời nhƣ nó vốn có, không lý

tƣởng hóa, thần thánh hóa là đặc điểm nổi bật chi phối nghệ thuật xây dựng

nhân vật truyện ngắn 1986 - 2006. Lev Tolstoy từng nói: “Một trong những

điều dị đoan thông thƣờng và phổ biến nhất là cho rằng, mỗi con ngƣời chỉ có

những tính chất nhất định” [13; 32]. Truyện ngắn 1986 - 2006 đã diễn đạt con

ngƣời theo tinh thần đó.

2.2.2 Nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ nhân vật

Ngôn ngữ là hiện thực trực tiếp của tƣ duy, là sự thể hiện sinh động và

chính xác những suy nghĩ, tính cách và đời sống tâm lý của con ngƣời. Ngôn

ngữ trong tác phẩm lấy chất liệu từ ngôn ngữ đời sống, thông qua sự chọn lọc,

sắp xếp của nhà văn trở thành phƣơng tiện khám phá cuộc sống và con ngƣời.

Ngôn ngữ nhân vật là lời nói của các nhân vật trong tác phẩm. Nó trực tiếp

bộc lộ tính cách, phẩm giá và góp phần thúc đẩy diễn tiến của tác phẩm. Dƣới

đây là một số đặc điểm về đối thoại và độc thoại đƣợc sử dụng trong ngôn

ngữ nhân vật của truyện ngắn 1986 - 2006.

2.2.2.1 Đối thoại gia tăng mạnh tính khẩu ngữ

Trong cuốn 150 thuật ngữ văn học, nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân xác

định: “Ngôn từ đối thoại là sƣ giao tiếp qua lại (thƣờng là giữa hai phía) trong

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

đó sự chủ động và sự thụ động đƣợc chuyển đổi luân phiên từ phía này sang

Sự vận động của truyện ngắn VN từ 1986 đến nay, nhìn từ góc độ hình thức thể loại

77

Luận văn Thạc sĩ

Lưu Thị Thu Hà

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

phía kia (giữa những phía tham gia giao tiếp); mỗi phát ngôn đều đƣợc kích

thích bởi phát ngôn có trƣớc và là sự phản xạ lại phát ngôn ấy… Ngôn từ đối

thoại và độc thoại là phƣơng tiện nghệ thuật chủ yếu để tái tạo các hành vi của

con ngƣời và các giao tiếp về tinh thần giữa họ, đƣợc kết hợp với các quá

trình tƣ duy vốn nhuốm màu ý chí, cảm xúc của họ” [7; 130]. Đối thoại cho

phép nhà văn khám phá tính cách của nhân vật và truyền tải sự khám phá đó

đến với ngƣời đọc.

Đối thoại nhân vật trong truyện ngắn 1986 - 2006 giàu tính khẩu

ngữ. Với sự vận động ngày càng gần gũi với hiện thực, văn học sau Đổi mới

bám sát cuộc sống ngay trong cách chọn lọc chi tiết và sử dụng lời ăn tiếng

nói cho nhân vật. Chuyến xe giữa trưa mát dịu của Lê Văn Thảo là câu

chuyện về một tên tội phạm mà ngƣời kể chuyện vô tình gặp trên một chuyến

xe. Hắn làm bảo kê nhà hàng, rồi giết ngƣời, rồi bị truy nã. Hắn lẩn trốn về

miền Tây và tình cờ gặp gỡ một cô gái bị ép uổng cƣới một tay đầu gấu. Hai

ngƣời gắn bó với nhau trong rừng đuốc hẻo lánh. Không bao lâu sau, tung

tích tên tội phạm có nguy cơ bị lộ. Hắn muốn bỏ trốn, nhƣng bị cô gái bám

riết lấy mình. Hắn đành đem cô gái lên thành phố hứa tìm việc làm cho cô.

Nhƣng khi không thể tìm cho ngƣời bạn gái tình cờ một nơi nƣơng thân an

toàn, tên tội phạm ép cô gái trở về bản xứ và cho cô toàn bộ số tiền hắn cƣớp

đƣợc. Sau đó, hắn đi đầu thú. Nhà văn đã diễn tả sinh động lời ăn tiếng nói

của các nhân vật sống trong xã hội đen qua những đoạn đối thoại cộc cằn, thô

lỗ:

“Lần này điện thoại xong gã ngồi chờ, lúc sau hai ngƣời đến, một gã

cũng vằn vện nhƣ vậy, hai ngƣời nhìn nhau hầm hè một lúc rồi bắt đầu nói,

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

tranh nhau không ai chịu nghe ai:

Sự vận động của truyện ngắn VN từ 1986 đến nay, nhìn từ góc độ hình thức thể loại

78

Luận văn Thạc sĩ

Lưu Thị Thu Hà

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

- Mày mò về làm chi, giở trò quái quỷ gì…

- Chuyện tao không mắc mớ gì tới mày…

- Vậy biến mẹ mày đi

- Có chuyện nhờ một chút… Có đứa con gái

- Thôi dẹp chuyện đàn bà con gái

- Vậy nói chuyện gì? Hay tao moi ruột mày đòi nợ

- Tao nợ gì mày? Biến mẹ mặt mày đi…”.

Ở một đoạn khác:

“- Con nhỏ đâu?

- Tao giữ gái cho mày à?

- Không phải gái mà là vợ tao, tao sắp cƣới có đặt tiền cọc rồi

- Kệ cha mày

- Du côn phải không? Biến mẹ mặt mày đi…”

Lối nói chuyện “mày tao”, những câu chửi thề và kiểu nói cộc cằn

không đầu không cuối đúng là chỉ có thể rơi ra từ miệng của những kẻ giang

hồ, đầu gấu. Đọc những đoạn đối thoại này, ngƣời đọc nhƣ đƣợc xâm nhập

vào thế giới đầy thù hằn, tội ác của những kẻ đã quen sống vất vƣởng đƣờng

phố, quen đâm chém và coi việc đối xử văn minh, lịch sự giữa ngƣời và ngƣời

là điều quá xa xỉ.

Trong truyện Đám cưới, nhà văn Nguyễn Thị Minh Ngọc dẫn đoạn đối

thoại của một nhóm các nhân vật sống trong một cộng đồng ít học, quen thói

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

chửi thề nhƣ sau:

Sự vận động của truyện ngắn VN từ 1986 đến nay, nhìn từ góc độ hình thức thể loại

79

Luận văn Thạc sĩ

Lưu Thị Thu Hà

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

“- Đ.m. con Út Chót này hên, báo lúc này đ.m. lác đác đăng tin đ.m. gái

quê đi lấy chồng đ.m. Đài Loan. Đ.m. đa số bị gạt đ.m. mà con này tổ chức

đƣợc ở đây là đ.m. hay quá rồi.

- Đ.m. hôm nay ngày cƣới của họ. Đ.m. phải kêu nó là đ.m. Hồng

Nhung Nhỏ chớ đừng kêu là đ.m. Út Chót nữa.

Cháu bà Kiều chen vô:

- Đ.m. Bán bia ôm mà gặp đƣợc ông chồng đẹp trai đ.m. tử tế, gia đình

chồng lại đàng hoàng nhƣ vậy là hiếm lắm đó.

Em vợ mới của anh Tƣ Không Cầu có lẽ vì là ngƣời mới nhập xóm nên

ngó bộ là ngƣời biết kiềm chế nhất :

- Hôm nay đám cƣới, đ.m. lại là đám cƣới ở Continental đ.m. tụi bây

ráng đừng có đ.m. chửi thề”.

Việc để cho nhân vật đƣợc nói bằng chính ngôn ngữ của chính nó đã

khiến cho truyện ngắn trở nên gần gũi hơn, kích thích trí tƣởng tƣợng sống

động của ngƣời đọc về tính cách và hình ảnh của nhân vật mà họ đang tiếp

xúc.

Ngoài bậc thầy Nguyễn Huy Thiệp, nhà văn Lê Minh Khuê là một

trong những tác giả viết đối thoại rất giỏi. Đối thoại của chị thƣờng ngắn gọn,

nhƣng chứa đựng lƣợng thông tin lớn, có khả năng phơi bày đến tận cùng

chân dung, tính cách của nhân vật đƣợc miêu tả. Trong truyện Anh lính Tony

D., chị ghi lại cuộc nói chuyện giữa hai bố con khi đứa con nghi ngờ ông bố

ăn trộm tiền của mình :

- “Nôn ra. Một mình ông ăn không xuôi đâu. Nôn ra cho tôi đi nộp đề.

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

- Tao không lấy, tao thề.

Sự vận động của truyện ngắn VN từ 1986 đến nay, nhìn từ góc độ hình thức thể loại

80

Luận văn Thạc sĩ

Lưu Thị Thu Hà

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

- Thề cái con chó. Nếu ông không lấy thì tự cầm con dao kia rạch mặt

ra cho tôi xem, không là tôi bóp cổ ông chết.

- Tha cho tao, tao không lấy của mày đâu…

- Rạch mặt đi

- Thôi, đau lắm tao chịu sao đƣợc?

- Không rạch thì chặt đi một ngón tay…”

Đoạn đối thoại lạnh lùng và khốc liệt này khiến ngƣời đọc nhớ đến các

nhân vật trong Không có Vua của Nguyễn Huy Thiệp. Đó là những cuộc nói

chuyện tự nhiên, trần trụi, với sự xung đột, đối chọn gay gắt giữa các lƣợt lời

nhân vật. Sự đảo lộn về trật tự thứ bậc cha con trong giao tiếp đã phơi bày

một cuộc sống bị đồng tiền ngự trị và chi phối - mặt trái của xã hội thời kinh

tế thị trƣờng những năm sau Đổi mới.

Không chỉ có thứ ngôn ngữ thô nhám của khẩu ngữ hoặc lối nói dân

gian, lối nói mới mẻ, phóng túng mà rất hiện đại của lớp trẻ cũng làm cho

tác phẩm cập nhật hơn với đời sống. Ngƣời đọc tìm thấy trong tác phẩm

của các nhà văn trẻ lối sử dụng ngôn ngữ thời đại Internet, của ngôn ngữ chat,

của hiện tƣợng bóp méo tiếng Việt, của sự thêm nếm các tiếng đệm nhƣ:

kaka, keke, ặc ặc, bít hông (biết không), làm seo (làm sao), cái rì (cái gì)…

Nhà văn Hồ Anh Thái thậm chí còn có hẳn một truyện ngắn không dấu ghi lại

một cuộc chat tiếng Việt giữa hai nhân vật chính - truyện Nham.

“- thucphamoan: Than nhien the thoi. Chang co gi xay ra. Hang trieu

cuoc chat chit tren mang nhu the nay, nhung chi co mot vai ke lieu linh hen ho

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

ngoai doi, roi chung thanh vo thanh chong…

Sự vận động của truyện ngắn VN từ 1986 đến nay, nhìn từ góc độ hình thức thể loại

81

Luận văn Thạc sĩ

Lưu Thị Thu Hà

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

- galacdan: Anh noi dua day. Anh khong phai la lao hang xom 50 cua

em. Ke giau xoi chang bao gio di nha hat xem mua! Anh cung khong phai la

ga trai 24 tuoi, dau nhuom xanh do nhu con vet, di xe @.

- thucphamoan: khong can thong minh nguoi ta cung co the nghi ra

nhung chan dung cong thuc nhu vay. The thi anh la ai?”.

Chúng tôi nhận thấy, kiểu sử dụng từ lóng, ngôn ngữ hiện đại này chƣa

thể đƣợc coi là một phƣơng tiện mở rộng vốn từ hay đóng góp lớn vào việc

phát triển tính cách nhân vật. Chúng đơn giản chỉ là dấu hiệu dán mác thời

đại, mác thời gian lên một giai đoạn mà xã hội có nhiều biến chuyển về khoa

học công nghệ. Nó là một thứ dấu ấn chƣa từng xuất hiện trong các giai đoạn

văn học trƣớc đó.

Sự gia tăng tính khẩu ngữ trong đối thoại giữa các nhân vật khắc

họa những tính cách đậm màu sắc vùng miền. Nguyễn Ngọc Tƣ là cây bút

chuyên về đề tài Nam Bộ. Ngôn ngữ nhân vật trong tác phẩm của chị thể hiện

rõ dấu ấn và sự chân chất trong lời ăn tiếng nói của ngƣời dân nơi đây:

- “Anh Hai tính chừng nào đi?

- Hai ba bữa nữa. Đi chuyến này chắc qua tới miệt Khánh Hà, chắc đi

lâu mới về.

Ngƣời đàn bà cúi xuống cắn chỉ, che cái thở dài

- Cô út à, tôi… có chuyện muốn nói với cô

Chị làm rối chỉ:

- Gì vậy anh Hai?

- Sáng nay tôi gặp thằng bạn, nó mới chạy bầy vịt từ nông trƣờng qua.

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

Tôi hỏi, nghe nói thợ gặt An Bình ở đó.

Sự vận động của truyện ngắn VN từ 1986 đến nay, nhìn từ góc độ hình thức thể loại

82

Luận văn Thạc sĩ

Lưu Thị Thu Hà

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

- Anh Hai

Ông bƣớc xuống đẩy mớ vỏ dừa vô mẻ un. Xơ dừa mịn, cháy rực rồi tắt

ngấm.

- Ảnh tên Sinh phải hôn cô út? Ờ Sinh, ảnh… cũng đang gặt bên đó, cô

út à.

- Anh Hai”.

(Cái nhìn khắc khoải - Nguyễn Ngọc Tƣ)

Thƣờng viết về đề tài miền núi, nhà văn trẻ Đỗ Bích Thúy cũng sử

dụng lời ăn tiếng nói của ngƣời dân tộc để làm nổi bật bản tính thật thà, thẳng

nhƣ ruột ngựa của ngƣời vùng cao. Trong truyện Con dê bốn mắt có đoạn đối

thoại:

“Trên đƣờng về, Dí đi trƣớc, đứng đợi Chay dƣới gốc một cây dẻ, chìa

ra trƣớc mặt Chay một cục tiền dày cộp:

- Bán cho tao.

-Chay thủng thẳng:

- Bán gì?

- Con dê, con dê bốn mắt của mày.

- Không bán đâu

- Chê ít à?

- Không chê, cũng không bán. Phải để hỏi vợ chứ.

- Nhƣng nó không thích mày.

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

- Lâu lâu khắc thích, chờ mày lâu quá nó khắc phải thích tao.

Sự vận động của truyện ngắn VN từ 1986 đến nay, nhìn từ góc độ hình thức thể loại

83

Luận văn Thạc sĩ

Lưu Thị Thu Hà

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

Còn trong truyện ngắn Bản lĩnh đàn ông, nhà văn Phạm Hoàng Hải ghi

lại cuộc trò chuyện (mà nhƣ độc thoại) giữa hai ngƣời đàn ông miền núi:

- Mày phải biết. Khi đi ra chợ lòng tao vui quá, bỏ không bắn hai con

chim to trên cành, bỏ không bắn một con nhím to trong bụi. Tao chỉ nghĩ đến

cái lúc đƣợc gặp vợ mày. Thật đấy, tao vẫn còn thƣơng con vợ mày lắm mà.

- …

- Đến lúc tao tìm đƣợc con vợ mày, tao vui đến chảy cả nƣớc mắt. Tao

hát lại cái bài mà ngày xƣa lần đầu tao hát vào bên tai con vợ mày cái đêm

đầu tiên tao gặp đƣợc nó.

- …

- Thế mà, dắt nhau đi rồi, đèn tao chiếu vào tận mặt mà tao không còn

nhận ra nó là cô con gái đẹp nhất bản nhất làng. Giàng ơi. Ngày xƣa cái mặt

ấy tròn nhƣ trăng rằm, hái cái vú nó tròn to nhƣ hai quả dƣa chín, cái tay nó

đẹp nhƣ mình con trăn trên cây, tiếng nó cƣời vui nhƣ chim hót làm nắng

cũng cƣời theo, cái váy nó thơm nhƣ hoa rừng làm bƣớm cũng bay theo...”.

Sự gia tăng tính khẩu ngữ trong đối thoại của truyện ngắn 1986 - 2006

là đặc điểm tất yếu của dòng văn học giai đoạn này. Với cách nhìn ngày càng

cận cảnh đời sống hiện thực, ngôn ngữ nhân vật tất nhiên phải vận động theo

xu hƣớng ngày càng gần gũi, thân thiết. Ngữ điệu, sắc thái và đặc trƣng ngôn

ngữ của nhân vật cần đƣợc tôn trọng. Đó không chỉ là yếu tố làm bật nổi tính

cách nhân vật mà còn góp phần mở rộng ngôn ngữ, tạo nên tính hấp dẫn cho

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

cốt truyện.

Sự vận động của truyện ngắn VN từ 1986 đến nay, nhìn từ góc độ hình thức thể loại

84

Luận văn Thạc sĩ

Lưu Thị Thu Hà

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

2.2.2.1 Độc thoại có xu hướng trộn lẫn vào lời người kể chuyện

Lại Nguyên Ân trong 150 thuật ngữ văn học xác định: “Độc thoại nội

tâm là phát ngôn của nhân vật nói với bản thân mình, trực tiếp phản ánh quá

trình tâm lý bên trong; kiểu độc thoại thầm, mô phỏng hoạt động của suy

nghĩ, xúc cảm của con ngƣời trong dòng chảy trực tiếp của nó” [7; 54]. Đây

không phải là một thủ pháp nghệ thuật mới. Có nguồn gốc từ kịch, độc thoại

đã đi vào tiểu thuyết một cách tự nhiên và đƣợc phát triển thành độc thoại nội

tâm nhằm miêu tả tâm lý, tính cách nhân vật. Với ƣu thế thể hiện trực tiếp,

chính xác tâm tƣ, suy nghĩ của con ngƣời, độc thoại nội tâm thƣờng xuất hiện

khi nhân vật trải qua những mâu thuẫn, nhƣng bi kịch giằng xé và bế tắc. Đó

là sự dằn vặt đau đớn của Duyên (Khoảnh khắc của số phận - Lê Minh Khuê)

khi nhận ra sự vô nghĩa của tình yêu mà mình theo đuổi: “Ôi sao mà mình

ngốc thế? Sao mình không biết có những con ngƣời chỉ tồn tại nhƣ sinh vật.

Lại có những con ngƣời không muốn tồn tại nhƣ con vật. Mình không thể

thích đƣợc một ngƣời chỉ tồn tại nhƣ con vật”. Đó là sự day dứt, hối lỗi của

Nga (Học phí làm người - Nguyễn Thị Anh Thƣ) khi nghĩ mình là nguyên

nhân dẫn đến cái chết của một ngƣời đàn ông tội nghiệp: “Mình đã làm gì thế

này? Mình đã gây nên nông nỗi gì thế này? Anh Trần và cả mẹ anh ấy nữa đã

rất quý mình, đã hy vọng ở mình biết bao! Vậy mà khi mình muốn sửa cái tội

đã quá vô tâm với hy vọng của mẹ anh ấy thì lại gây nên cái tội giết anh? Có

phải mình đã giết anh ấy không? Tại sao mọi tội lỗi lại đổ lên đầu mình cả thế

này?”. Đó là những băn khoăn của nhân vật tôi (Bội phản - Bảo Ninh) khi bất

lực trƣớc cảnh cả anh rể và anh trai mình đều sa vào lƣới tình của một ngƣời

phụ nữ: “Giờ đây ngẫm lại những ngày tháng đó, thú thực tôi không hiểu nổi

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

con ngƣời mình. Cùng một lúc cả chị và cả anh tôi, cả cha mẹ tôi bị ngƣời ta

Sự vận động của truyện ngắn VN từ 1986 đến nay, nhìn từ góc độ hình thức thể loại

85

Luận văn Thạc sĩ

Lưu Thị Thu Hà

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

lừa dối vậy mà tôi nín thinh đứng ngoài cuộc, khách quan nhìn ngó và lắng

nghe. Những đêm đen vụng trộm của ông anh rể thì cứ lặng lờ tái diễn”…

Tuy nhiên, qua khảo sát số lƣợng lớn truyện ngắn Việt Nam 1986 -

2006, chúng tôi nhận thấy, dƣờng nhƣ độc thoại nội tâm thuần túy ít nhiều đã

trở nên lỗi thời. Việc để cho nhân vật tự dƣng cất tiếng đối thoại với chính

mình bỗng nhiên trở nên hơi kịch, có phần “quê”. Ở một tầm cao hơn, các nhà

văn đã khéo léo đẩy độc thoại nội tâm vào trong lời kể chuyện. Vì thế, xuất

hiện sự mờ nhòe giữa độc thoại của nhân vật và giọng điệu trần thuật. Sự kết

hợp này khiến cho lời kể chuyện trở nên hấp dẫn, có giọng điệu, tính cách

nhân vật cũng đƣợc biểu hiện một cách tự nhiên hơn. Ở những dạng thức tự

sự cổ điển, với sự thống trị của ngƣời trần thuật thì ngôn từ ngƣời kể chuyện

mang chức năng phân biệt với ngôn từ nhân vật. Tuy nhiên, trong tự sự hiện

đại, sự phân biệt này không phải bao giờ cũng rành rọt, đặc biệt khi có nhiều

tiếng nói, nhiều ý thức xen vào những giọng kể có bề ngoài thuộc về tác giả

nhƣng nội dung và phong cách lại thuộc về nhân vật. Giới nghiên cứu phƣơng

Tây từ lâu đã nhận ra hiện tƣợng pha trộn này trong nền văn học của họ. Nhà

nghiên cứu Tamara Motilova xác đinh: “Độc thoại nội tâm xuất hiện nhƣ diễn

từ không biểu đạt thành lời của các nhân vật hoặc nhƣ diễn từ của tác giả,

nhân danh mình mà nói, nhƣng có thể coi nhƣ đã mƣợn từ vựng và giọng điệu

của nhân vật; hoặc nhƣ đối thoại bên trong, ở đó giọng nói của nhân vật bị xẻ

làm đôi thành hai giọng phân biệt và đối nghịch; nó xuất hiện dƣới hình thức

một chuỗi kết luận có tổ chức cũng nhƣ qua những ý kiến mơ hồ và hỗn loạn”

[16; 36]. Nhƣ vậy, độc thoại nội tâm thuộc phạm vi ngôn từ của nhân vật

nhƣng cũng không thể đối lập nó với ngôn từ của ngƣời kể chuyện, đặc biệt là

trong những trƣờng hợp ngƣời kể chuyện ở ngôi thứ nhất hoặc nhƣờng lời cho

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

nhân vật. Nhà văn Phan Thị Vàng Anh có truyện ngắn Có con. Tác phẩm

Sự vận động của truyện ngắn VN từ 1986 đến nay, nhìn từ góc độ hình thức thể loại

86

Luận văn Thạc sĩ

Lưu Thị Thu Hà

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

trình bày suy nghĩ của một ngƣời phụ nữ lỡ thì về khả năng chị mang thai với

một ngƣời bạn trai. Truyện có hai nhân vật Tuyền và Khang nhƣng chỉ có độc

dòng suy nghĩ của Tuyền nhƣ đang nói chuyện với chính mình, cũng là đang

nói chuyện cho chính độc giả nghe. Trong trƣờng hợp này, Tuyền đã đƣợc

ngƣời kể chuyện trao lời. Có con là cuộc độc thoại triền miên của nhân vật

chính. “Tuyền không chắc đã có đứa bé trong bụng chƣa nhƣng tình cảm dành

cho nó đã bắt đầu phai nhạt. bây giờ thì Tuyền không chắc mình có còn yêu

đứa bé không nếu không có bố nó bên cạnh và chỉ còn nó nhƣ một cục nợ.

Tuyền biết, Khang chỉ cần gọi điện hỏi thăm thôi là Tuyền sẽ yêu đứa bé chƣa

rõ ràng này ngay. Nó quả thực không phải là đứa con của tình yêu nhƣng ít

nhiều lúc đầu cũng là tình cảm. Chẳng phải là Tuyền đã cúi xuống vuốt tóc

Khang và nói Khang đừng hút thuốc nữa nhƣ nói với một ông bố của đứa bé

trong bụng sao? Nếu không có tí tình cảm nào với Khang thì việc gì Tuyền

phải nghĩ về đứa bé? Tuyền chƣa đến tuổi để có bằng đƣợc một đứa con.

Tuyền còn trẻ”.

Tuy không có mức độ đậm đặc nhƣ Có con của Vàng Anh, nhƣng ở

một số truyện ngắn khác nhƣ Bóng đè - Đỗ Hoàng Diệu, Mười sáu mét vuông

- Vũ Đình Giang, Con nhà ai vậy? - Nguyễn Vĩnh Nguyên… đều có sự chảy

tràn của độc thoại nội tâm vào trong ngôn ngữ ngƣời kể chuyện. Trong những

trƣờng hợp này, độc thoại đã thay thế vị trí của ngƣời kể chuyện trong việc

trần thuật lại thế giới nội tâm của chính nhân vật - một công việc mà không

một hình thức ngôn ngữ nào khác có thể đảm đƣơng tốt hơn độc thoại. Đây

cũng là một trong những yếu tố tạo nên tính đa thanh trong giọng điệu trần

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

thuật của truyện ngắn Việt Nam 1986 - 2006.

Sự vận động của truyện ngắn VN từ 1986 đến nay, nhìn từ góc độ hình thức thể loại

87

Luận văn Thạc sĩ

Lưu Thị Thu Hà

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

Tiểu kết chƣơng 2

Nhân vật là một trong những yếu tố quan trọng của tác phẩm văn học.

Xuất phát từ những biến đổi trong quan niệm về hiện thực của các nhà văn,

truyện ngắn 1986 - 2006 đã có những vận động trong việc xây dựng nhân vật

để chiếm lĩnh hiện thực đó. Nhằm phản ánh cuộc sống phức tạp, đa điệu của

con ngƣời sau Đổi mới, trong thời kinh tế thị trƣờng, các tác giả truyện ngắn

đã tập trung khai thác những mẫu nhân vật chủ yếu nhƣ: Con ngƣời cô đơn,

Con ngƣời giả cổ tích, giả huyền thoại giả lịch sử, con ngƣời dị biệt… Đó

không phải tất cả, nhƣng là những kiểu nhân vật quan trọng và có những đặc

trƣng khác biệt hơn so với các giai đoạn văn học trƣớc.

Để tái hiện thành công những mẫu ngƣời này, truyện ngắn đã có nhiều

biến đổi về nghệ thuật xây dựng nhân vật. Chúng tôi dừng lại ở việc khảo sát

hai xu hƣớng quan trọng: Nghệ thuật xây dựng tính cách nhân vật và Nghệ

thuật sử dụng ngôn ngữ nhân vật. Trong đó, các khảo sát ghi nhận, truyện

ngắn 1986 - 2006 đã thoát khỏi công thức miêu tả con ngƣời theo mô hình

xây dựng tính cách điển hình trong hoàn cảnh điển hình. Về mặt ngôn ngữ,

trên cơ sở quan sát đối thoại và độc thoại, chúng tôi nhận thấy, đối thoại đƣợc

các tác giả gia tăng mạnh yếu tố khẩu ngữ, còn độc thoại nội tâm, tuy chƣa

phát triển mạnh thành dòng ý thức nhƣ ở tiểu thuyết nhƣng đã có sự pha lẫn

vào ngôn ngữ ngƣời kể chuyện, góp phần tạo nên tính đa thanh trong giọng

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

điệu trần thuật.

Sự vận động của truyện ngắn VN từ 1986 đến nay, nhìn từ góc độ hình thức thể loại

88

Luận văn Thạc sĩ

Lưu Thị Thu Hà

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

CHƢƠNG 3: ĐỔI MỚI VỀ NGHỆ THUẬT TRẦN THUẬT

Trần thuật là “phƣơng diện cơ bản của phƣơng thức tự sự” nói chung

và truyện ngắn nói riêng. Đó là “việc giới thiệu, khái quát, thuyết minh, miêu

tả đối với nhân vật, sự kiện, hoàn cảnh, sự vật theo cách nhìn của một ngƣời

trần thuật nhất định… Thành phần của trần thuật không chỉ là lời trần thuật,

mà chức năng của nó không chỉ là kể việc. Nó bao hàm cả việc miêu tả đối

tƣợng, phân tích hoàn cảnh, thuật lại tiểu sử nhân vật, lời bình luận, trữ tình

ngoại đề, lời ghi chú của tác giả” [17; 76]. Trong tác phẩm, mọi biểu hiện,

miêu tả đều xuất phát từ tác giả, nhƣng để tạo hiệu quả tối ƣu, nhà văn phải

biết tổ chức nghệ thuật trần thuật độc đáo nhất. Trong chƣơng này, luận văn

sẽ tìm hiểu các yếu tố của nghệ thuật trần thuật bao gồm: Điểm nhìn, Ngôn

ngữ, Sự vận dụng các hình thức và giọng điệu trần thuật.

3.1 Sự đa dạng hóa điểm nhìn trần thuật

Theo Gérard Genette, nhà nghiên cứu ngƣời Pháp, thì cấu trúc ngôn

bản do ba lớp tạo thành: chuyện (histoire), truyện (récit) và tự sự (narration).

Trong đó, tự sự hay trần thuật đóng một vai trò trung gian chuyển hóa chuyện

thành truyện thông qua việc giới thiệu, khái quát, thuyết minh, miêu tả đối với

nhân vật, sự kiện, hoàn cảnh theo cách nhìn của một ngƣời trần thuật nhất

định. Nhƣ vậy, ngƣời trần thuật chính là điểm nối kết giữa độc giả với thế giới

đƣợc miêu tả trong tác phẩm. Ngƣời trần thuật là hình thái của hình tƣợng tác

giả trong tác phẩm văn học, là ngƣời mang tiếng nói, quan điểm của tác giả

trong tác phẩm văn xuôi. Với tƣ cách là ngƣời tổ chức việc kể chuyện, ngƣời

trần thuật có thể chính là ngƣời kể chuyện hoặc trao quyền kể lại câu chuyện

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

cho một số nhân vật khác. Tác phẩm chỉ có một ngƣời trần thuật song có

Sự vận động của truyện ngắn VN từ 1986 đến nay, nhìn từ góc độ hình thức thể loại

89

Luận văn Thạc sĩ

Lưu Thị Thu Hà

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

nhiều hơn một ngƣời kể chuyện. Ngƣời kể chuyện là hình tƣợng ƣớc lệ về

ngƣời trần thuật. Cũng nhƣ không thể đồng nhất ngƣời trần thuật với tác giả,

ngƣời kể chuyện không phải bao giờ cũng mang đầy đủ tiếng nói, quan điểm

của ngƣời trần thuật. Trong trƣờng hợp sự khác biệt giữa hai khái niệm là

không lớn, chúng tôi sẽ sử dụng đồng thời hai thuật ngữ này trong luận văn.

“Sự kể là cái bề mặt nhìn thấy rõ nhất của một diễn ngôn trần thuật. Ở

đây, sự giao tiếp dựa vào những diễn ngôn do ngƣời trần thuật và các vai

nhân vật nói ra mà lời của họ đƣợc ngƣời trần thuật trích dẫn. Sự tổ hợp hai

diễn ngôn ấy tạo ra sự kể mà nội dung trần thuật của nó làm thành truyện

hoặc diegesis, tức là thế giới đƣợc miêu tả và thế giới đƣợc trích dẫn. Chính

sự kể đƣợc hình thành nhƣ vậy là một thành phần của cái thế giới tiểu thuyết

đƣợc kể bởi locuteur (narrator), tức là bởi ngƣời trần thuật, lộ diện hoặc ẩn

tàng, rõ ràng hoặc tiềm ẩn” [33; 65]. Ngƣời trần thuật có thể sử dụng các hình

thức khác nhau để thực thi vai trò kể chuyện của mình. Có hai cách kể chuyện

chủ yếu, tƣơng ứng với hình thức trần thuật từ ngôi thứ nhất và hình thức trần

thuật từ ngôi thứ ba. Hình thức trần thuật ra đời sớm nhất và đƣợc sử dụng

đặc biệt thịnh hành trong thế kỷ 19 là hình thức trần thuật từ ngôi thứ ba,

trong đó ngƣời kể chuyện là kẻ tàng ẩn song lại “có mặt khắp nơi” và “biết

hết mọi thứ” - từ những hành động bên ngoài tới những diễn biến nội tâm bên

trong của từng nhân vật. Chính nhờ ƣu thế kể chuyện từ điểm nhìn của ngƣời

kể toàn tri, hình thức trần thuật từ ngôi thứ ba luôn khẳng định đƣợc vị trí

không thể thiếu của mình trong văn xuôi tƣ sự và ngày càng đƣợc cách tân,

đổi mới. Trong khi đó, từ chối khả năng biết tuốt, toàn tri, hình thức trần thuật

từ ngôi thứ nhất chỉ kể lại những sự kiện mà nhân vật xƣng tôi trong tác phẩm

đƣợc chứng kiến. Hình thức trần thuật này tồn tại ở hai dạng thức: “tôi là

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

ngƣời chứng” - tôi là nhân vật tự trị bên trong tác phẩm với vai trò của một

Sự vận động của truyện ngắn VN từ 1986 đến nay, nhìn từ góc độ hình thức thể loại

90

Luận văn Thạc sĩ

Lưu Thị Thu Hà

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

nhân vật phụ, đảm nhận vị trí của ngƣời quan sát, chứng kiến và “tôi là vai

chính” - tôi là nhân vật chính của tác phẩm kể lại câu chuyện của chính mình.

Bên cạnh hai hình thức truyền thống đó, nhà văn có thể sử dụng đan xen giữa

ngôi trần thuật thứ ba và ngôi trần thuật thứ nhất ở dạng thức “tôi là ngƣời

chứng”. Trên cơ sở lý thuyết này, vấn đề đặt ra đối với nhà văn là lựa chọn

vận dụng điểm nhìn trần thuật nào để phù hợp với nội dung tác phẩm.

Sự mở rộng quan niệm về hiện thực trong truyện ngắn 1986 - 2006 đã

kéo theo sự đa dạng về điểm nhìn trần thuật. Qua việc khảo sát ngẫu nhiên 4

tuyển tập: Văn mới 5 năm đầu thế kỷ, Văn mới 2004 - 2005, Văn mới 2005 -

2006, Truyện ngắn nữ đầu thế kỷ 21, chúng tôi thu đƣợc thống kê về tƣơng

quan điểm nhìn trần thuật nhƣ sau:

Đầu sách

Ngôi thứ nhất Ngôi thứ ba Nhiều ngôi trần thuật Tổng số

Văn mới 5 năm 16 21 4 41

đầu thế kỷ

Văn mới 14 9 23 23

2004 - 2005

Văn mới 2005 - 11 25 36 36

2006

Truyện ngắn 11 17 1 29

nữ đầu thế kỷ

21

Tổng số 52 72 5 129

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

Tỷ lệ 40% 56% 4%

Sự vận động của truyện ngắn VN từ 1986 đến nay, nhìn từ góc độ hình thức thể loại

91

Luận văn Thạc sĩ

Lưu Thị Thu Hà

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

Nhƣ vậy, với ƣu thế “có mặt khắp nơi” và “biết hết mọi thứ”, điểm

nhìn từ ngôi thứ ba vẫn là hình thức trần thuật chiếm ƣu thế nhất. Nhƣng với

40%, trần thuật từ ngôi thứ nhất đang chiếm tỷ lệ khá cao. Phần lớn các tác

phẩm này rơi vào những sáng tác của các cây bút trẻ ở độ tuổi 8X - những cây

bút hầu nhƣ kể chuyện bằng trải nghiệm cá nhân và khát khao thể hiện cái tôi

của bản thân. Đáng chú ý là khuynh hƣớng tìm tòi trần thuật bằng nhiều ngôi,

qua những truyện ngắn nhƣ Xe tập lái - Nguyễn Thế Hoàng Linh, Cái nhìn

khắc khoải - Nguyễn Ngọc Tƣ, Phía sau khe cửa - Cấn Vân Khánh… Ở các

tác phẩm này, các tác giả thƣờng sử dụng nhiều ngƣời kể chuyện khác nhau,

kể nhiều câu chuyện khác nhau, theo kiểu truyện lồng trong truyện. Riêng

Phía sau khe cửa của Cấn Vân Khánh là một tác phẩm có điểm nhìn lạ. Nó là

một câu chuyện đƣợc kể từ ba điểm nhìn khác nhau. Truyện có ba nhân vật,

ông chồng già bại liệt, bà vợ và cô bé osin 17 tuổi. Ông chồng chán vợ, dan

díu với cô osin. Chỉ mỗi chuyện ấy thôi, nhƣng đƣợc kể bằng con mắt của lần

lƣợt ba nhân vật. Bách nhân bách nhãn, nhƣ một cách “ba mặt một lời”, độc

giả đƣợc chứng kiến một sự việc với ba nhân chứng khác nhau. Bản chất sự

việc theo đó đƣợc làm nổi bật từ nhiều góc độ, tính cách của từng nhân vật

cũng nhờ vậy đƣợc làm rõ hình rõ nét. Truyện không có gì đặc sắc, nhƣng với

cách kể này, Cấn Vân Khánh đã tạo đƣợc một sự lạ. Và với sáng tạo nghệ

thuật, cái lạ có giá trị nhất định của nó.

Trần thuật từ nhiều điểm nhìn là một bằng chứng dân chủ hóa văn học,

đồng thời nếu mỗi điểm nhìn thật sự mang tƣ cách một ý thức độc lập, văn

xuôi sẽ đạt tới hiệu quả thẩm mỹ phong phú, bất ngờ nhờ ở tính đa tầng, phức

điệu. Chủ đề tác phẩm và tƣ tƣởng tác giả không lộ, khó nắm bắt, đòi hỏi ở sự

thƣởng thức nhiều động não, những cũng gợi nhiều liên tƣởng khác nhau, dễ

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

gây tranh cãi. Dù rơi vào trƣờng hợp nào, điều đó cũng khiến cho đời sống

Sự vận động của truyện ngắn VN từ 1986 đến nay, nhìn từ góc độ hình thức thể loại

92

Luận văn Thạc sĩ

Lưu Thị Thu Hà

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

văn học sôi động. Thực tế đã chứng minh, văn đàn Việt Nam 20 năm qua liên

tục xôn xao bởi các hiện tƣợng truyện ngắn: Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị

Hoài, Lê Minh Khuê, Phan Thị Vàng Anh, Nguyễn Ngọc Tƣ…

3.2 Những biến đổi về ngôn ngữ trần thuật

3.2.1 Ngôn ngữ trần thuật mang tính hiện thực - đời thường

Cùng với sự biến đổi của thể loại, của khả năng phản ánh hiện thực,

truyện ngắn sau 1986 đã có những biến đổi lớn về mặt ngôn ngữ. Nếu nhƣ

ngôn ngữ nhân vật đƣợc gia tăng tính khẩu ngữ thì ngôn ngữ của ngƣời kể

chuyện cũng vận động theo hƣớng ngày càng đƣợc hiện thực, đời thƣờng hóa.

Dấu ấn của lối viết trữ tình, thơ mộng vẫn xuất hiện đây đó nhƣng nhìn

chung, các tác giả diễn đạt lời dẫn truyện một cách “thân mật, suồng sã” giúp

ngƣời đọc tiếp cận gần nhất với hiện thực đƣợc nói tới. Ngƣời kể chuyện

trong văn học giai đoạn này ít dùng mỹ từ mang cảm hứng sử thi mà dung nạp

cả khẩu ngữ, lời ăn tiếng nói bình dân vào lời kể. Cách lựa chọn này khiến

ngƣời đọc không có cảm giác bị hƣớng dẫn mà nhƣ đang đƣợc ngồi tụm năm

tụm bảy hay tụ tập cà phê để nghe chuyện. Một trật tự ngang bằng giữa ngƣời

kể và ngƣời nghe đã nhanh chóng đƣợc thiết lập. Ta có thể dẫn ra đây một vài

câu văn mà thoạt nghe tƣởng nhƣ lời giữa đƣờng giữa phố:

- Mặt nhƣ sƣờn mậu dịch thời bao cấp, chàng cƣời, khuôn mặt méo

xệch, vẹo vọ nhƣ cái oản bẹp (Tình yêu ơi ở đâu - Nguyễn Thị Thu Huệ)

- Chức cách đây mấy hôm thấy chạy xe vèo vèo ngoài ngã ba chở một

đứa con gái bé nhƣ cái kẹo, không ôm iếc gì cả nhƣng nhìn biết ngay là bồ

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

bịch (Hoa muộn - Phan Thị Vàng Anh)

Sự vận động của truyện ngắn VN từ 1986 đến nay, nhìn từ góc độ hình thức thể loại

93

Luận văn Thạc sĩ

Lưu Thị Thu Hà

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

- Hôm ấy trời chan chát nắng, mặt đƣờng nhựa héo rũ mềm nhũn. Cổng

chợ Âm Phủ có con bé ngƣời ở Nhổn bán bánh đúc ế khách, đang ngao ngán

ngồi lót đít bằng một quyển tuyển tập phê bình văn học (Biển lạ - Nguyễn

Việt Hà)

- Đang lang thang trên cầu thì gặp Huy. Huy rút trong túi ra bao thuốc

Capstan mời Mây xuống tàu làm một tý cay cay. Chỉ nghe thấy thế bao nhiêu

nƣớc miếng đã tứa ra rồi. (Thủy thủ ngồi bờ - Bùi Ngọc Tấn)

Ngoài việc gia tăng khẩu ngữ, lời ăn tiếng nói đời thƣờng, truyện ngắn

thời kỳ này có xuất hiện thƣờng xuyên những đại từ nhân xƣng suồng sã nhƣ:

y, thị, hắn… Trong giai đoạn 1932 - 1945, các tác giả nhƣ Nam Cao, Nguyễn

Công Hoan, Ngô Tất Tố thƣờng dùng lớp đại từ này để chỉ những con ngƣời

nhỏ bé hoặc những nhân vật phản diện. Tuy nhiên, trong văn học sau 1986,

với xu thế dân chủ hóa, mọi lớp ngƣời, kể cả những công dân khả kính nhất

đều có thể bị gọi là y, là thị, là hắn… tùy theo ý định mỉa mai hay giễu nhại

của nhà văn. “Hắn nghe ngƣời ta đồn đại khá nhiều về một quán phở kỳ lạ. Ai

muốn ăn phải dậy từ rất sớm hoặc đến từ đêm khuya. Đến sớm thì đƣợc ăn

phở nƣớc đầu. Đêm khuya thì ăn phở vét. Chỉ hai thời điểm ấy là vắng khách.

Còn lại với loại ngƣời nhƣ hắn không đủ để thi gan với đám thực khách chỉ có

mỗi việc đi ăn phở nên chờ bao lâu cũng đƣợc” - Tạ Duy Anh viết về một

nhân vật trung tính trong truyện ngắn Trong quán phở gia truyền. Anh gọi

“hắn” để tạo cho ngƣời đọc cảm giác gần gũi, thân mật với nhân vật của

mình. Còn nhà văn Nguyễn Quang Thân, khi kể về cuộc tình vụng trộm giữa

một anh chàng độc thân và một ngƣời đàn bà góa đã gọi nhân vật bằng “y”

với giọng hài hƣớc nhẹ nhàng: “Y ta bảo rằng, không ngờ cơn gió heo may

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

đầu mùa lại có thể làm tốc mất chái hồi của nhà y, có lẽ vì nhà y ở ngoài lũy

Sự vận động của truyện ngắn VN từ 1986 đến nay, nhìn từ góc độ hình thức thể loại

94

Luận văn Thạc sĩ

Lưu Thị Thu Hà

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

tre nên không có gì che chắn, cái chái bị bứng khỏi mái nhà rơi xuống đất lại

còn gây thêm tai vạ làm nát tƣơm một luống su hào mới gieo, đè chết một con

mèo tam thể cùng hai con chó mới tác mẹ. Toàn bộ vốn liếng y đã đổ vào đó

với hy vọng dựng lại cái nhà quá ọp ẹp trƣớc Tết. Y buồn, y khổ, y không thể

nào ngủ đƣợc trƣớc một tai bay vạ gió nhƣ thế. Và y chỉ còn nƣớc đến với

chị. Y đã nhịn thèm hai năm nay, y muốn chờ chị hết tang chồng cho phải đạo

nhƣng làm sao y lại phải chờ, phải đợi kia chứ?”. (Gió heo may)

Cũng có lúc, sự phát triển đến mức cực đoan của xu hƣớng đời thƣờng

hóa ngôn ngữ trần thuật khiến cho đây đó, trong một số tác phẩm của Nguyễn

Huy Thiệp, Lê Minh Khuê… ít nhiều bị dung tục, tự nhiên chủ nghĩa. Nhƣng

điều đáng ghi nhận hơn là có lẽ chƣa bao giờ, ngôn ngữ văn chƣơng lại gần

gũi với ngôn ngữ sinh hoạt đến thế. Xóa bỏ quan niệm thƣờng thấy về những

vùng ngôn ngữ chỉ dùng cho văn chƣơng, truyện ngắn 1986 - 2006 đã cho

thấy, không loại ngôn ngữ nào đáng bị coi là vùng cấm của văn học, vấn đề là sử

dụng chúng một cách đắc địa. Xu hƣớng kéo ngôn ngữ trần thuật về với hiện

thực đời thƣờng đã làm ngắn lại khoảng cách giữa nhà văn và ngƣời đọc. Những

câu chuyện đƣợc kể một cách tự nhiên hơn, đời hơn và do đó dễ tin hơn.

3.2.2 Ngôn ngữ giàu tính thông tin, nhịp điệu trần thuật nhanh

Nhu cầu tăng tốc độ trần thuật và dung lƣợng thông tin đƣợc đặt ra một

cách chính đáng trong thời đại bùng nổ thông tin và con ngƣời sống với một

nhịp độ khẩn trƣơng, gấp gáp. Sự gia tăng tính thông tin và nhịp điệu trần

thuật trƣớc hết thể hiện ở lối vào truyện trực tiếp, không có phần giao đãi,

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

thƣa gửi, rào đón lòng vòng.

Sự vận động của truyện ngắn VN từ 1986 đến nay, nhìn từ góc độ hình thức thể loại

95

Luận văn Thạc sĩ

Lưu Thị Thu Hà

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

Phần lớn các tác giả kể ngay vào câu chuyện.

- “Tôi và con trai đi máy bay từ Sài Gòn ra Hà Nội. Chuyến đi máy bay

đầu đời của tôi và đƣơng nhiên con tôi cũng thế. Cũng nói thêm, đáng lý

chúng tôi bay ngày nhƣng bay đêm giảm giá, đành vậy” (Cha và con và… tàu

bay - Nguyễn Ngọc Thuần).

- 16h15. Thôi chết, muộn mất rồi. Còn chƣa đầy cây số nữa là đến bệnh

viện, đƣờng lại tắc. Thế nào cũng bị càu nhàu. Không biết hôm nay bác sĩ nào

trực buồng nhỉ? (Vụn sao - Phạm Ngọc Tiến)

Hoặc có thể mở đầu bằng đối thoại:

- “Anh sẽ lo cho em đầy đủ. Em có thể tin ở anh.

Hân nói. Anh cảm thấy mình can đảm lạ thƣờng. Nhƣ một ngƣời vừa hứa

mình sẽ trở thành đàn ông, thành dũng sĩ trong cái trận chiến dài lƣớt thƣớt là

cuộc đời. Vì tình yêu. Vì trách nhiệm”. (Hương lấy chồng - Đoàn Minh Hà)

- “Các bác có biết thịt trâu chọi ngon nhất thứ gì không? Mà này phải

gọi là ông trâu đấy nhá, có thế mới thiêng, mới thành. Ngon nhất, bổ nhất là

dái, tinh lực của ông trâu dồn cả vào đấy các bác ạ” (Thằng mõ trâu - Phạm

Ngọc Tiến)

Hoặc khác với truyện ngắn truyền thống, đỉnh điểm, cao trào của tác

phẩm ập đến ngay từ phần mở đầu:

- “Vào thời của Túc và Hảo, bỏ nhau dù đã dễ hơn xƣa nhƣng chƣa thể

dễ bằng thời bây giờ của thế hệ trẻ” (Mắc Cạn - Bảo Ninh)

- “Cuối cùng thì gã đã ra đi một chuyến vĩnh viễn - Gã chồng của cô ấy

mà - một gã đàn ông to lớn có hai hàng lông mày rậm rạp và cái miệng nóng

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

giẫy đầy nhục dục. Cái miệng đã sục sạo trên thân thể cô không biết bao

Sự vận động của truyện ngắn VN từ 1986 đến nay, nhìn từ góc độ hình thức thể loại

96

Luận văn Thạc sĩ

Lưu Thị Thu Hà

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

nhiêu lần và để lại hàng lô lốc những vết cắn ứa máu” (Đồi hoang - Phạm Thị

Ngọc Liên)

Với dung lƣợng ngắn, để thể hiện đƣợc nhiều nhất tƣ tƣởng và tình cảm

qua câu chữ, truyện ngắn 1986 - 2006 buộc phải tận dụng tối đa chức năng

của mỗi một từ xuất hiện trong tác phẩm.

Dƣờng nhƣ bỏ hẳn các trữ tình ngoại đề, xa rời lối viết lòng vòng nhấn

nhá, thông tin đƣợc đặt lên hàng đầu trong các câu văn. Lời kể chuyện đậm

tính kể, nhạt dần yếu tố miêu tả. Ngƣời đọc chứng kiến sự dồn nén của sự

kiện trong từng câu văn, đoạn văn. Nguyễn Ngọc Tƣ kể chuyện về cô gái

điếm dùng dằng mang thân đi bán để cứu đàn vịt trong những câu văn đầy

khả năng gợi: “Chị vò đầu thằng Điền, bảo „chuyện nhỏ thôi mà, đi bắt vịt

dùm chị, nhỏ cƣng‟. Và hƣớng cái nhìn sâu nhói về phía cha tôi, rất chậm rãi,

chị thay áo, lấy nón, xỏ dép… Thời gian dằng dặc. Tôi biết chị chờ, hy vọng.

Tôi biết, đi một quãng xa, chị vẫn còn dỏng tai đợi một tiếng gọi „quay lại đi,

Sƣơng‟. Nhƣng chỉ có gió nghêu ngao xoi mói vào mảng thịt sau tà áo ngƣời

phụ nữ đang xiên xiên trên bờ cỏ rập rờn” (Cánh đồng bất tận). Còn Đỗ Bích

Thúy dồn cả quá trình mất ngƣời yêu của hai anh chàng dân tộc trong những

câu kết truyện ngắn gọn: “Chay ngồi khóc hu hu ở mép vực. Còn Dí lững

thững quay về. Dí không nói cho Chay biết, Dí vừa đến nhà Kía. Lâu lâu

không thấy Kía đến chỗ hẹn, thấy nhớ quá, Dí phải đi tìm. Nhà Kía hôm nay

có khách, khách không ở Chín Chải, cũng không ở Xà Tủng Chứ. Có một con

ngựa tía cao to lừng lững, lông óng mƣợt buộc ở gốc cây lê, phải là một ngƣời

trai rất cao lớn, bắp chân bắp tay cuồn cuộn mới cƣỡi nổi con ngựa ấy. Không

biết ngƣời ấy có mang đến con dê bốn mắt nào không nhƣng tận mắt Dí đã

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

thấy Kía mặt đỏ nhừ, mắt cƣời tít với ngƣời ta. Có con dê hay không có con

Sự vận động của truyện ngắn VN từ 1986 đến nay, nhìn từ góc độ hình thức thể loại

97

Luận văn Thạc sĩ

Lưu Thị Thu Hà

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

dê thì cũng thế thôi (Con dê bốn mắt). Nhƣ vậy, một trong những cách thức

để các tác giả truyện ngắn đẩy mạnh tính thông tin cho câu văn là kể nhiều

hơn tả. Nếu có tả, họ thƣờng tả con ngƣời trong khi đang hành động. Phƣơng

pháp này vừa mở ra cho độc giả những ngả đƣờng của trí tƣởng tƣợng vừa

nâng cao chất lƣợng của câu văn.

Một cách thức khác gia tăng tính thông tin cho câu văn là việc lồng

ngôn ngữ nhân vật vào trong lời dẫn truyện. Nguyễn Huy Thiệp là một trong

những nhà văn áp dụng rất thành công phƣơng pháp này. Ta có thể thấy rõ

qua một số đoạn văn của ông:

- Tôi cho bắc rạp, bảo thợ mộc đóng quan tài. Ông Cơ cứ loay hoay bên

đống ván vợ tôi cho xẻ hôm trƣớc. Ông thợ mộc quát: “Sợ chúng ông ăn cắp

gỗ à?”. Ông Bổng hỏi: “Ván mấy phân?”. Tôi bảo: “Bốn phân”. Ông Bổng

bảo: “Mất mẹ bộ xa lông. Ai lại đi đóng quan tài bằng gỗ dổi bao giờ? Bao

giờ bốc mộ, cho chú bộ ván?”. Cha tôi ngồi âm thầm, trông rất đau đớn.

(Tướng về hưu)

- Đoài dắt xe về nhà, thấy đồ đạc lung tung, hỏi: “Chuyện gì thế?”. Cấn

cau có: “Chú có vào trong buồng này không?”. Đoài bảo: “Không”. Cấn bảo:

“Chị Sinh mất chiếc nhẫn”. Đoài bảo: “Hỏi bố xem”. Lão Kiền chửi: “Mẹ cha

mày, thế là mày nghi tao lấy cắp chứ gì?”. Đoài im, nghĩ một lát rồi bảo:

“Buổi sáng thằng Khảm với ba đứa bạn ngồi trong phòng này. Tôi ngờ cái

thằng đeo kính, môi đỏ nhƣ son, mắt nó rất gian” (Không có Vua)

Tính thông tin tăng lên, câu văn ngày càng ngắn lại, hiệu quả trƣớc hết

là tốc độ trần thuật đƣợc đẩy cao lên, nhịp truyện ngắn vì thế nhanh. Lối dẫn

truyện bằng những câu văn ngắn tỏ ra phù hợp và đƣợc ƣa chuộng hơn trong

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

thời hiện đại:

Sự vận động của truyện ngắn VN từ 1986 đến nay, nhìn từ góc độ hình thức thể loại

98

Luận văn Thạc sĩ

Lưu Thị Thu Hà

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

- Đám cƣới ngoại ô lố lăng và khá dung tục. Ba ô tô. Thuốc lá đầu lọc

nhƣng gần cuối hết sạch, phải thay bằng thuốc lá cuốn. Năm mƣơi mâm cỗ

nhƣng ế mƣời hai. Chàng rể mặt comple đen, caravat đỏ. Tôi phải cho mƣợn

cái caravat đẹp nhất trong tủ áo. Nói là mƣợn, chắc gì đòi đƣợc. Phù rể là sáu

thanh niên, ăn mặc hệt nhau, đều quần áo bò, râu ria rất hãi. (Tướng về hưu -

Nguyễn Huy Thiệp)

- Hồi tối. Em nói hôm nay có sô diễn cho một hội nghị khách hàng.

Giỏi lắm 11h là tan. Bọn đàn hát chúng em chỉ tới đó thôi. Tăng hai là của

bọn vũ nữ chơi qua đêm nếu có bác nào tiếp đƣợc. Xong em gọi anh ngay.

Văn ghen. Nhỡ em gặp lão già nào ngon hơn anh, sét đánh ngang tai, quên

anh thì sao? Chúng mình mới quen nhau ba ngày? Em lƣờm. Một ngày nên

nghĩa. Già trẻ không quan trọng bằng yêu hay không. Bà ngoại bảo thế. Sao

bỗng dƣng em già thế không biết. Lƣờm một cái, bĩu môi một cái. Thở dài

nhè nhẹ một cái. Rồi đi. (Coi như đã chết - Nguyễn Thị Thu Huệ)

Có thể nói, ngôn ngữ trần thuật là một trong những yếu tố tạo nên tính

hấp dẫn lớn cho truyện ngắn 1986 - 2006. Với khả năng đời thƣờng hóa cách

kể chuyện, chủ động đẩy nhanh tốc độ trần thuật và sức dồn nén của thông

tin, truyện ngắn tỏ ra là một thể loại phù hợp với quỹ thời gian ít ỏi của con

ngƣời thời hiện đại.

3.3 Sự vận dụng các hình thức và giọng điệu trần thuật

3.3.1 Ảnh hưởng của người trần thuật ngày càng bị thu hẹp

Công việc trần thuật không chỉ dừng lại ở việc kể chuyện “Hình tƣợng

ngƣời kể chuyên còn đem lại cho tác phẩm một cái nhìn và một sự đánh giá

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

bổ sung về mặt tâm lý, nghề nghiệp hoặc lập trƣờng xã hội cho cái nhìn tác

Sự vận động của truyện ngắn VN từ 1986 đến nay, nhìn từ góc độ hình thức thể loại

99

Luận văn Thạc sĩ

Lưu Thị Thu Hà

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

giả, làm cho sự trình bày tái tạo con ngƣời và đời sống trong tác phẩm thêm

phong phú, nhiều phối cảnh” [22; 191]. Trong văn xuôi 1945 - 1975, chủ thể

trần thuật vừa là ngƣời dẫn truyện vừa là ngƣời hƣớng đạo cho độc giả. Đặc

biệt, trong điểm nhìn trần thuật từ ngôi thứ ba, tính chất “có mặt khắp nơi” và

“biết hết mọi thứ” khiến cho ngƣời đọc có cảm giác hình tƣợng ngƣời kể

chuyện bao trùm lên tất cả. Với những đặc trƣng của một nền văn học cách

mạng, ngƣời trần thuật thƣờng mang lập trƣờng cao hơn nhân vật, kể với độc

giả bằng sự khẳng định đúng sai theo quan niệm của tác giả. Tuy nhiên cùng

với không khí dân chủ và sự thay đổi tƣ duy nghệ thuật và quan niệm về hiện

thực của văn xuôi Đổi mới - diễn ra một sự chuyển biến cơ bản trong mối

quan hệ giữa ngƣời trần thuật với độc giả, ngƣời trần thuật với nhân vật. Vai

trò kể chuyện của ngƣời trần thuật là không thể thay thế nhƣng tự sự đƣơng

đại có xu hƣớng thu hẹp ảnh hƣởng chi phối, quyết định của ngƣời trần thuật

đến việc đọc của độc giả - mở ra tối đa những con đƣờng để ngƣời đọc tự đi

vào văn bản. Tác giả Vũ Tuấn Anh trong chuyên luận Văn học Việt Nam hiện

đại - nhận thức và thẩm định đã nhận xét: “Văn học đƣơng đại mất đi tính

giáo huấn trực tiếp, không đặt các giá trị xác quyết mà tăng cƣờng đối thoại,

một cuộc đối thoại phong phú trên các vấn đề xã hội và con ngƣời” [3; 185].

Trƣờng hoạt động của ngƣời trần thuật bị co hẹp lại đầu tiên ở hiện tƣợng suy

giảm các yếu tố bình luận, đánh giá, trữ tình ngoại đề - vốn là những thành

phần rất đƣợc ƣa dùng trong văn xuôi thế kỷ 19. Đây là ngôn ngữ của ngƣời

trần thuật mang quan điểm của tác giả, thƣờng xen vào giữa các sự kiện nhằm

bộc lộ một cách nhìn, một quan niệm, qua đó định hƣớng cho độc giả về một

cách hiểu. Trong những đoạn văn sau, ngƣời đọc khó lòng tách bạch giữa

ngôn ngữ ngƣời kể chuyện và ngôn ngữ nhân vật. Ngƣời kể chuyện dƣờng

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

nhƣ đã trao quyền cho nhân vật:

Sự vận động của truyện ngắn VN từ 1986 đến nay, nhìn từ góc độ hình thức thể loại

100

Luận văn Thạc sĩ

Lưu Thị Thu Hà

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

- Tôi yêu quý mẹ ở tất cả những điều ấy và vẫn không nghĩ đƣợc mình

sẽ sống ra sao nếu một ngày nào đó hồn mẹ sẽ bay theo một bóng mây sáng

và tôi chẳng còn nơi nào nữa để quay về trƣớc mỗi mùa xuân. (Đi - Dƣơng

Bình Nguyên)

- Tôi, biết bao lần muốn dấn sâu hơn, nhƣng đôi mắt em khiến tôi

ngƣng lại ở những vuốt ve âu yếm và chỉ thế thôi. Tôi muốn gìn giữ cho em

sự trắng trong tinh khiết vì em là thiên thần đích thực. Dù cả hai chúng ta đều

chờ đợi lắm rồi điều gì đó ở phía trƣớc, giống nhƣ một khoảnh khắc thiêng

liêng chƣa thể nào xâm phạm. Tôi tranh thủ từng giây từng phút đƣợc cùng

em, sự ngọt ngào ngắn ngủi ấy đủ để tôi gặm nhấm suốt đêm dài lê thê bên

cạnh ngƣời đàn bà già nua, lạnh lẽo kia. Nhƣ hôm nay, khi chiều đã quá muộn

màng. Chiếc váy hoa em tự tay tụt xuống tận đầu gối. Dƣờng nhƣ em đã rất

sẵn sàng, với tôi. (Phía sau khe cửa - Cấn Vân Khánh)

- Không phải là buồn phát khóc hay là muốn chết hay là nghẹn ngào;

Tuyền chỉ thấy buồn, có phần hỗn độn vô lý, nhƣ những ngày thi căng thẳng

vừa hết, nhƣ những năm học cực nhọc vừa xong, vừa nhẹ gánh vừa man

mác… Tuyền thấy thƣơng đứa bé không có thực ấy, mình đã tính toán chi li

với nó. Khang cũng phải mất công trốn nó, mà nó có thực đâu (Có con - Phan

Thị Vàng Anh)

Có thể nói, với những dòng văn này, trong truyện ngắn đã chớm cái ý

niệm dòng tâm tƣ, dòng tƣ tƣởng. Tuy nhiên, với những biểu hiện mang tính

đơn lẻ và khá rời rạc, đây có lẽ chỉ là một thủ pháp hơn là một lối viết, một sự

ảnh hƣởng tạm thời hơn là một khuynh hƣớng hậu hiện đại rõ ràng.

Trong văn xuôi 1945 - 1975, do chỗ hệ thống nhân vật thƣờng đƣợc

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

phân chia thành phe địch - ta, chính - tà nên ngƣời trần thuật bao giờ cũng

Sự vận động của truyện ngắn VN từ 1986 đến nay, nhìn từ góc độ hình thức thể loại

101

Luận văn Thạc sĩ

Lưu Thị Thu Hà

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

đứng về phía nhân vật chính diện, phán xét bản chất các sự kiện, hiện tƣợng

theo quan điểm chính trị xã hội sẵn có. Ngƣời kể chuyện không chỉ là ngƣời

chứng kiến mọi câu chuyện mà còn là ngƣời bình luận cho những hiện tƣợng

xảy ra trong tác phẩm. Văn học bao giờ cũng mang tính tƣ tƣởng, đo đó trong

tự sự đƣơng đại, sự thu gọn cái bóng của ngƣời trần thuật diễn ra ở sự khéo

léo ẩn mình vào nhân vật trong khi tác giả muốn đánh giá, bàn luận về một

cách ứng xử, một sự kiện nào đó trong tác phẩm. Điều này tạo cho ngƣời đọc

cảm giác bị thuyết phục một cách tự nhiên chứ không phải là sự áp đặt ý kiến

cá nhân của một chủ thể nào đó. Nói nhƣ thế không có nghĩa là cái bóng của

ngƣời dẫn dắt hoàn toàn biến mất. Họ vẫn xuất hiện, thậm chí có khi còn lộ

diện rất rõ trên trang viết. Nhà văn Nguyễn Quang Thân viết: “Chúng ta sẽ bất

công nếu nói trong buổi sáng có ngọn gió heo may quỷ quái đó thổi về chỉ có

những ngƣời đàn bà góa mới đánh rơi đồ vật trong tay họ. Có một ngƣời không

phải đàn bà, càng không phải đàn bà góa, cũng làm đổ một chén trà đang uống

dở. Đó là cha xứ (Gió heo may). Còn truyện của Châu Diên lồ lộ xuất hiện ngƣời

kể chuyện: “Mỗi chuyến đi về, anh lại kể cho tôi nghe chuyện các thi hữu của

mình. Anh kể tài đến nỗi tôi cảm thấy nhƣ chính mình đang cùng ngồi trên xe

với các thi hữu” (Chân dung đàn ông đàn bà giàu tình cảm).

Nhƣ vậy, ngƣời trần thuật vẫn xuất hiện, nhƣng không phải với vai trò

dẫn dắt, hƣớng đạo mà chỉ nhƣ để thủ thỉ tâm sự, để bàn bạc với độc giả một

cách truyền đạt hiệu quả nhất câu chuyện mà nhà văn sắp kể. Sự ẩn tàng vai

trò định hƣớng của ngƣời trần thuật đã đƣợc bà Đặng Anh Đào nhận xét, văn

học hiện đại “thiên về gợi mở cái thể nghiệm nhiều hơn là miêu tả hoặc bình

luận nó. Nói rõ hơn là sự thể hiện tâm lý nhân vật không còn xuất hiện trên bề

nổi, không tìm thấy ở dấu hiệu dễ nhận thấy nhất là trên lời bình luận của

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

ngƣời kể chuyện”. [13; 54]

Sự vận động của truyện ngắn VN từ 1986 đến nay, nhìn từ góc độ hình thức thể loại

102

Luận văn Thạc sĩ

Lưu Thị Thu Hà

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

3.3.2 Tính chất phức điệu của giọng trần thuật

Trong khi ảnh hƣởng của ngƣời trần thuật bị thu hẹp lại, xuất hiện một

khuynh hƣớng gia tăng tính độc lập, sự ngang hàng của lời nhân vật với lời

tác giả và sự kết hợp giữa hai giọng nói đó tạo nên tính phức điệu, đa thanh

cho tác phẩm. M. Bakhtin nhận định: “Nhìn chung, văn kể chuyện xê dịch

giữa hai thái cực: giữa lời văn thông báo khô khan, có tính chất biên bản,

không hề có tính miêu tả và lời nói của nhân vật. Nhƣng ở nơi nào mà văn

trần thuật dịch về phía lời của nhân vật thì nó cung cấp một thứ lời nhân vật

với một giọng điệu đã chuyển dịch hay đã thay đổi và chỉ trong một vài

trƣờng hợp hiếm hoi nó mới hòa hợp, làm một với giọng của lời nhân vật”

[76; 254]. Trong văn xuôi đƣơng đại, lời của ngƣời kể chuyện không còn

mang tính chất khách thể thuần túy. Bên cạnh những tác phẩm trần thuật từ

ngôi thứ nhất với ngƣời trần thuật là một nhân vật trong câu chuyện, những

tác phẩm trần thuật từ ngôi thứ ba cũng có một quá trình dịch chuyển tự nhiên

điểm nhìn tác giả sang điểm nhìn nhân vật. Trong truyện ngắn Phiên chợ Giát

của Nguyễn Minh Châu, mở đầu tác phẩm, sau khi kể lại giấc mơ kinh hoàng

của lão Khúng, câu chuyện đƣợc dẫn tiếp bằng một đoạn văn: “Trời đất hỡi!

Đúng là con bò của nhà lão Khúng, con Khoang đen nhà lão, mụ già khụt khịt

hay cảm cúm của nhà lão, bà đội trƣởng của nhà lão Khúng, con bò nhà lão

kêu rống lên một thứ tiếng nghe ghê rợn, thứ tiếng kêu thoát ra từ buổi mơ

sáng… lão Khúng đều phải bịt cả hai lỗ tai lại, vắt chân lên cổ mà chạy. Nào

có phải đứa dát, là đứa trẻ tợn bạo nhƣng lão Khúng từ nhỏ đã không chịu nổi

bất kỳ con vật gì kêu rống lên khi sắp chết”. Nhìn từ biểu hiện hình thức

(không mở ngoặc, không nháy kép) và mục đích trần thuật (lý giải giấc mơ

của lão Khúng) thì đây rõ ràng là lời của ngƣời kể chuyện, song đi vào nội

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

dung câu chữ, ngôn từ tự sự mang sắc thái ngôn từ nhân vật, cách diễn đạt của

Sự vận động của truyện ngắn VN từ 1986 đến nay, nhìn từ góc độ hình thức thể loại

103

Luận văn Thạc sĩ

Lưu Thị Thu Hà

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

nhân vật: “Thì… chứ ai”, khiến cho ngƣời đọc cảm thấy không phải ngƣời kể

chuyện mà chính dòng suy nghĩ, sự băn khoăn của lão Khúng đang dẫn ngƣời

đọc đi vào câu chuyện của chính lão. Sự nhƣờng lời của tác giả cho nhân vật

khiến lời trần thuật không dừng lại ở việc kể và tả đơn điệu mà còn có sức

gợi: “Ai! Ai đã giết con Khoang đen nhà lão?”, có sự hình dung sống động về

nhân vật: “Lão phải bịt cả hai lỗ tai, vắt chân lên cổ mà chạy”. Và cứ nhƣ thế

trong suốt tác phẩm, ngƣời kể chuyện dƣờng nhƣ bị tàng ẩn, chỉ thấy hiển

diện một ông lão nông dân khấp khểnh trên chiếc xe bò, tự “tiến - lui” trong

các ký ức lộn xộn nhƣng đặc biệt gây hứng thú cho ngƣời nghe.

Không chỉ dừng lại ở một nhân vật, ngƣời kể chuyện còn có thể từ chỗ

trần thuật bằng giọng nói của nhân vật chuyển sang ngôn ngữ của một nhân

vật khác. Hiệu quả của phƣơng pháp này là tạo nên đƣợc sự soi chiếu đa chiều

giữa các nhân vật với nhau, theo đó mà mỗi nhân vật sẽ đƣợc bật nổi lên ở

một phƣơng diện nhất định. Nhƣ vậy, với hình thức pha lẫn các giọng nói, ý

thức nhân vật vào lời ngƣời trần thuật thì lối kể chuyện có xu hƣớng hƣớng về

các dạng thức của hành động kể hơn là bản thân câu chuyện kể. Giọng điệu

trần thuật do đó trở nên đa dạng hơn.

Nhìn chung, văn học Việt Nam 1945 - 1975 tƣơng đối nhất quán về

giọng điệu và nó chính là sự đơn điệu. Giọng điệu khẳng định, ngợi ca, lạc

quan bao trùm lên tất cả, che lấp mất đâu đó có vài ba giọng hoài nghi, buồn

thƣơng, đau xót. Nhƣng sau 1986, văn học trở nên đa điệu hơn, các nhà văn

đƣợc tự do viết bằng chất giọng bẩm sinh của mình.

Đối lập với chất giọng ngợi ca, khẳng định của giai đoạn trƣớc là chất

giọng mỉa mai, giễu nhại của truyện ngắn 1986 - 2006. Các nhà văn sử dụng

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

tiếng cƣời vào những phạm vi hiện thực lố lăng, đáng phê phán. Cảm hứng

Sự vận động của truyện ngắn VN từ 1986 đến nay, nhìn từ góc độ hình thức thể loại

104

Luận văn Thạc sĩ

Lưu Thị Thu Hà

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

trào lộng gắn liền với sự phát hiện ra cái xấu và nhu cầu thể hiện cái xấu. Do

đó, chất giọng hài hƣớc, mỉa mai trở thành phƣơng tiện để thể hiện tính tích

cực xã hội của văn học. Đó là khả năng phơi bày các mặt trái, các trạng thái

phản tiến bộ, những chân dung lố bịch. Nguyễn Thị Thu Huệ mô tả chân dung

một ngƣời đàn bà: “Mợ mặc một chiếc váy có hai dây, thắt ở eo và xòe ở

mông. Khuôn mặt mợ xƣơng xẩu, hai mắt tròn to do tác dụng của mỹ viện,

Mũi mợ thẳng gồ lên, khuôn mặt căng bóng vì mới căng da mặt. Tổng công

trình đại tu lại mặt của mợ đáng giá năm cây vàng. Mợ nhƣ một ngƣời sản

xuất nƣớc hoa. Ở đó là sự tổng hợp của nhiều loại nƣớc hoa không đắt tiền

(Nước mắt đàn ông). Còn Lê Minh Khuê vẽ nên biếm họa về một quan chức:

“Ngài này tên cúng cơm là thằng Tó. Ngày nhỏ ngài cùng mẹ nhặt rác ở

đây… Ngài đi bộ đội đúng tháng 4 năm bảy nhăm, sau khi ngƣời ta đã chết

“no”… Công ty mà ngài làm việc thấy ngài chí thú với công việc đã đƣa ngài

lên xếp nhất… Dù lên xếp nhất, dù là giàu có, ngài vẫn ăn chơi một cách nhà

quê. Ngài có nữ thƣ ký mặc váy siêu ngắn, lên xe, xuống ngựa ngài đều

xuống trƣớc mở cửa cho nữ thƣ ký… Ngài rất mê mát xa, ôm ấp mấy cái đùi

non trong cái bóng tối mờ mờ ảo ảo của quán… Hai đùi hai nàng, các ngài sờ

mó ôm eo con ngƣời ta, mồm há ra để con ngƣời ta đút thức ăn thức uống nhƣ

bé thơ vậy” (Ký sự những mảnh đời trong ngõ).

Với thái độ dân chủ trong văn học, giọng điệu mỉa mai đã góp phần lên

án cái xấu, cái sai lầm, ẫu trĩ trong xã hội. Ở phƣơng diện này, nhiều truyện

ngắn, tuy hạn chế về dung lƣợng nhƣng có sức phản ánh không kém gì tiểu

thuyết. Giọng điệu giễu nhại đặc biệt thấy nhiều ở các tác giả trẻ. Họ thích lối

viết bông đùa nhẹ nhàng hơn là những gì quá nghiêm trang mực thƣớc. “Còn

cái tham thứ hai, tệ hại hơn, mà cũng chẳng dám nói với ai, đó là gã thích đàn

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

bà. Càng đẹp, càng duyên gã càng thích. Nhƣng tệ hại hơn nữa là gã lại không

Sự vận động của truyện ngắn VN từ 1986 đến nay, nhìn từ góc độ hình thức thể loại

105

Luận văn Thạc sĩ

Lưu Thị Thu Hà

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

thích nổi đƣợc một ngƣời đàn bà nào cụ thể” (Thời trang thư viện - Tô Hải

Vân). “Kết cục là Kiều cứ phải đánh cờ mãi với Kim Trọng. Suốt hơn hai thế

kỷ, mà sẽ còn đánh nữa. Ông khách mất đã từ lâu. Bây giờ Kiều đành sống

cuộc đời mình đã chọn. Chẳng nì nèo thay đổi gì cả. Nhìn sang đời các nhân

vật nữ xung quanh mà phát thèm. Chúng nó đi nhảy, đi tắm hơn, hôn hít, làm

tình, bồ bịch, đánh ghen loạn xạ, khóc lóc tự tử mùi mẫn. Đã đành là chúng

nó chẳng nổi tiếng thục nữ chí cao, nhƣng mà giá Kiều có thể chọn lại” (Tri

âm - Phạm Hải Anh)…

Cũng ở một phía khác với giọng điệu khẳng định trong văn học 1945 -

1975 là chất giọng hoài nghi, chất vấn trong văn xuôi sau 1986. Hoài nghi là

động lực của phát triển. Nó thể hiện tinh thần dám nhìn thẳng vào hiện thực

với thái độ suy nghĩ lại, đánh giá lại những giá trị đã đƣợc coi là ổn định trong

xã hội. Chất giọng hoài nghi đƣợc biểu hiện với nhiều cấp độ khác nhau, khi

chỉ nhẹ nhàng, khi chất vấn một cách đắng cay, chua xót. “Trời ơi, mấy chục

năm qua, sự cạnh tranh của đời sống khốc liệt đến mức nào mà cả những con

ngƣời hiền lành thân thuộc với nhau cũng không thoát khỏi thói quen thƣờng

trực là phải soi mói lẫn nhau, phải tìm ra sự khác biệt để đối lập nhau, trái

ngƣợc hẳn với đời sống hòa đồng vốn dĩ, nên bây giờ há miệng mắc quai”

(Heo may gió lộng- Ma Văn Kháng). “Tôi cứ đi, phía trƣớc mặt tôi còn biết

bao nhiêu điều bất ngờ chờ đợi. Nàng là ai? Con gái thủy thần? Nàng ở đâu?

Con gái thủy thần? Là tình chi? Con gái thủy thần? Để tôi mƣợn màu son

phấn ra đi…” (Con gái Thủy thần - Nguyễn Huy Thiệp).

Trên đây chỉ là một số giọng điệu đặc trƣng, khác biệt hơn của giai

đoạn truyện ngắn 1986 - 2006 so với các thời kỳ trƣớc. Thật khó để bao quát

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

một cách đầy đủ về muôn dạng giọng điệu trần thuật trong truyện ngắn Việt

Sự vận động của truyện ngắn VN từ 1986 đến nay, nhìn từ góc độ hình thức thể loại

106

Luận văn Thạc sĩ

Lưu Thị Thu Hà

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

Nam sau 1986. Ngoài những chất giọng này, còn có thể kể thêm những giọng

điệu khác, vốn là quen thuộc với văn xuôi truyền thống nhƣ giọng trầm buồn,

suy ngẫm, giọng dí dỏm, giọng khách quan trung tính…

Tiểu kết chƣơng 3:

Trần thuật là một phƣơng diện cơ bản của tự sự, bao gồm rất nhiều vấn

đề liên quan đến tổ chức và cấu trúc một văn bản. Ở đây, do xuất phát từ một

góc nhìn hẹp về nghệ thuật trần thuật, chúng tôi bƣớc đầu ghi nhận một số xu

hƣớng của truyện ngắn đƣơng đại: Điểm nhìn trần thuật đƣợc đa dạng hóa,

xuất hiện quá trình chủ quan hóa mô thức tự sự biểu hiện ở sự gia tăng hình

thức trần thuật từ ngôi thứ nhất; Ngôn ngữ trần thuật giàu chất hiện thực đời

thƣờng; nhịp điệu trần thuật nhanh, tính thông tin cao; Truyện ngắn vận dụng

nhiều hình thức trần thuật, trong đó tính chất phức điệu của giọng trần thuật

biểu hiện ở sự pha trộn các lời nói khác nhau là một trong nguyên nhân dẫn

đến tính đa thanh, phức điệu của các giọng trần thuật. Khác với văn học các

giai đoạn trƣớc, ngƣời đọc sẽ bắt gặp trong truyện ngắn 1986 - 2006 những

chất giọng đặc biệt, đặc trƣng nhƣ: giọng điệu mỉa mai, chế nhạo, giọng điệu

hoài nghi, chất vấn bên cạnh những chất giọng truyền thống nhƣ giọng khách

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

quan trung tính, giọng khẳng định ngợi ca, giọng thƣơng xót, cảm thông…

Sự vận động của truyện ngắn VN từ 1986 đến nay, nhìn từ góc độ hình thức thể loại

107

Luận văn Thạc sĩ

Lưu Thị Thu Hà

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

PHẦN KẾT LUẬN

Hai thập kỷ, truyện ngắn 1986 - 2006 đã phát triển từ một dòng chảy

liên tục. Trong quá trình này, sự vận động của hình thức thể loại vừa là nhu

cầu nội tại tự thân, vừa là hệ quả của những đổi mới trong đời sống kinh tế,

chính trị và xã hội cũng nhƣ nhận thức của nhà văn.

1. Nguồn gốc, tiền đề của sự vận động và phát triển về hình thức thể

loại truyện ngắn xuất phát từ những biến chuyển về mặt nội dung, tƣ tƣởng và

quan niệm về hiện thực. Môi trƣờng sáng tác thuận lợi đã mở ra những khả

năng lớn cho hoạt động sáng tạo trong đó có văn học nghệ thuật. Phát triển

trong thời bình và không khí dân chủ, văn học Việt Nam sau 1986 đem đến

một cách nhìn mới, một quan niệm mới về hiện thực. Thay vì cảm hứng sử thi

của giai đoạn trƣớc, các nhà văn tìm tòi những nguồn cảm hứng đời tƣ - thế

sự; thay vì xu hƣớng ngợi ca, văn học đặc trƣng bởi thái độ phê phán trực

diện những tồn đọng của cuộc sống xã hội, phản ánh kịp thời và tƣơng đối

trọn vẹn những khát vọng của con ngƣời cá nhân. Vì thế, văn học giai đoạn

này giàu có các hình thức biểu đạt hiện thực, đa dạng các phƣơng pháp thể

hiện, đa giọng điệu và đã làm cho đời sống tinh thần của con ngƣời càng trở

nên phong phú, sôi động.

2. Sự vận động về mặt hình thức thể loại truyện ngắn trƣớc hết thể hiện

ở Cốt truyện và kết cấu. Cốt truyện và kết cấu là những thành tố rất quan

trọng đối với truyện ngắn. Dựa vào cốt truyện, các nhà nghiên cứu có thể

phân loại và đánh giá đƣợc quá trình phát triển của thể loại này. Manh nha

xuất hiện từ khoảng thế kỷ 15, 16, truyện ngắn Việt Nam đi qua nhiều giai

đoạn với những tính chất và đặc điểm khác nhau. Trƣớc năm 1932, cốt truyện

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

truyện ngắn thƣờng rất đơn giản, chủ yếu mô phỏng truyện dân gian hoặc lấy

Sự vận động của truyện ngắn VN từ 1986 đến nay, nhìn từ góc độ hình thức thể loại

108

Luận văn Thạc sĩ

Lưu Thị Thu Hà

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

các cốt từ dã sử, chính sử Việt Nam và Trung Quốc. Bƣớc ngoặt của sự phát

triển truyện ngắn xảy ra vào đầu thế kỷ 20, khi nƣớc ta có chữ quốc ngữ và

các nhà văn bắt đầu tập tành viết theo lối Tây. Truyện Thầy Lazaro Phiền của

Nguyễn Trọng Quản đƣợc đánh giá là tác phẩm mở đầu cho truyện ngắn hiện

đại với những dấu hiệu hiện đại biểu hiện ở cách kể chuyện từ ngôi thứ nhất,

lối tổ chức tác phẩm theo quy luật tâm lý. Đây chính là gạch nối cho một thời

kỳ hoàng kim của truyện ngắn - giai đoạn 1932 - 1945. Thời kỳ này, truyện

ngắn phát triển đến đỉnh cao, xuất hiện nhiều cốt truyện đa dạng, sáng tạo với

nghệ thuật tổ chức tác phẩm phức tạp. Truyện ngắn hiện thực thƣờng có cốt

truyện chặt chẽ, mẫu mực, nhiều tác phẩm có kết cấu đa tuyến, mang hơi

hƣớng tiểu thuyết. Còn truyện ngắn lãng mạn hình thành nên những cốt

truyện tâm lý, trữ tình điển hình, có ảnh hƣởng lớn đến giai đoạn văn học sau.

Thừa hƣởng những thành tựu của truyện ngắn 1932 - 1945, nhƣng do xuất

phát từ yêu cầu phục vụ cách mạng, truyện ngắn 1945 - 1985 thƣờng có kết

cấu đơn giản, chia thành hai tuyến: địch - ta; chính nghĩa - phi nghĩa với các

mâu thuẫn cơ bản nhƣ: địa chủ - nông dân, tập thể - cá nhân… Dòng truyện

lãng mạn với cốt truyện tâm lý vẫn tiếp tục phát triển.

Trong khi đó, những khảo sát về truyện ngắn 1986 - 2006 thể hiện sự

vận động đa dạng, nhiều xu hƣớng và mỗi xu hƣớng đều nỗ lực phát triển đến

đỉnh cao. Xu hƣớng thứ nhất đƣợc áp dụng nhiều ở những nhà văn thuộc lớp

trƣớc hoặc ít nhiều đã có những thành công nhất định về mặt nghề nghiệp. Đó

là những cốt truyện truyền thống đƣợc kế thừa và phát triển đến đỉnh cao.

Thành tựu của nó thể hiện ở những sáng tác của những cây bút truyện ngắn

nổi bật giai đoạn này nhƣ Nguyễn Huy Thiệp, Lê Minh Khuê, Phan Thị Vàng

Anh. Trong tác phẩm của mình, các tác giả này thƣờng tổ chức cốt truyện với

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

hệ thống sự kiện đan cài chặt chẽ. Trong đó, nổi lên những biến cố quan

Sự vận động của truyện ngắn VN từ 1986 đến nay, nhìn từ góc độ hình thức thể loại

109

Luận văn Thạc sĩ

Lưu Thị Thu Hà

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

trọng, đóng vai trò quyết định đến sự vận động của cốt truyện. Ở xu hƣớng

này, nhiều tác giả đã tổ chức đƣợc những truyện ngắn có nhiều mạch truyện,

mang hơi hƣớng tiểu thuyết.

Xu hƣớng thứ hai là sự phổ biến của các cốt truyện tâm lý. Nếu nhƣ ở

những truyện ngắn có cốt truyện truyền thống, hệ thống sự kiện là cốt lõi của

tác phẩm thì ở những truyện ngắn có cốt truyện tâm lý, truyện thƣờng có cốt

truyện lỏng, chất truyện mờ nhạt, phân tích nội tâm trở thành phƣơng tiện

nghệ thuật chủ yếu trong cách thức xây dựng cốt truyện. Thay vì các sự kiện

đƣợc tạo thành bởi một chuỗi liên kết là dòng chảy bất định của tâm trạng.

Các nhà văn không đi sâu vào những sự kiện của đời sống hằng ngày mà quan

tâm tới sự kiện trong tâm hồn nhân vật. Đó là những cảm xúc, suy nghĩ, trăn

trở, niềm hy vọng, sự tuyệt vọng, nỗi đau. Với kiểu cốt truyện này, các tác giả

hƣớng tới miêu tả, phân tích diễn biến tâm hồn nhân vật với tham vọng khám

phá bí ẩn trong tâm hồn con ngƣời ở chiều sâu vô thức, tâm linh.

Cốt truyện tâm lý đƣợc sử dụng khá phổ biến trong truyện ngắn Việt

Nam 1986 - 2006, từ thế hệ của Ma Văn Kháng, Lê Minh Khuê đến Phan Thị

Vàng Anh, Nguyễn Thị Thu Huệ đến các tác giả trẻ đầu thế kỷ 20. Trong

dòng chảy hối hả của cuộc sống, truyện của họ có khi chỉ là một chút cảm xúc

ghi vội, một mẩu tâm trạng đƣợc tãi ra trên trang giấy. Có những lúc, truyện

của họ nhƣ không đầu không cuối, nhƣng lại rất phù hợp với sự khao khát

một vài phút đối diện với thế giới nội tâm của con ngƣời hiện đại ngày nay.

Cuối cùng là hiện tƣợng phân rã cốt truyện nhƣờng chỗ cho sự phát huy

vai trò của tình huống. Hiện tƣợng phân rã cốt truyện hoàn toàn không giống

nhƣ sự không có cốt truyện hoặc có cốt truyện tâm lý. Sự tan vỡ và phân rã

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

cốt truyện trong truyện ngắn đƣơng đại gắn liền với quá trình yếu dần đi vai

Sự vận động của truyện ngắn VN từ 1986 đến nay, nhìn từ góc độ hình thức thể loại

110

Luận văn Thạc sĩ

Lưu Thị Thu Hà

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

trò cốt truyện truyền thống. Cốt truyện vẫn tồn tại nhƣng bị đẩy xuống hàng

thứ yếu, nhƣờng chỗ cho những thành tố trƣớc đây đƣợc đánh giá là có vai trò

ít quan trọng hơn nhƣ tình huống, chi tiết, thậm chí là giọng điệu trần thuật.

Thay vì nhẫn nại thiết kế một cốt truyện chặt chẽ, không thể thêm bớt, cắt bỏ,

các nhà văn có thể tìm thấy những “diệu kế” khác để mê hoặc độc giả: bằng

một tình huống rất độc đáo, một giọng kể khác ngƣời hay cách sáng tạo một

cấu trúc xộc xệch nhƣng có duyên…

3. Con ngƣời là đối tƣợng trung tâm của bất cứ một nền văn học, một

giai đoạn văn học nào. Xuất phát từ những biến đổi trong quan niệm về hiện

thực của các nhà văn, truyện ngắn 1986 - 2006 đã có những vận động rõ nét

trong việc xây dựng nhân vật để chiếm lĩnh hiện thực đó. Khác với hình

tƣợng phổ biến của văn học giai đoạn 1945 - 1975 về những con ngƣời lạc

quan, yêu đời, sống hòa mình vào cái ta chung, một bộ phận lớn truyện ngắn

1986 - 2006 khai thác hình ảnh con ngƣời cô đơn nhƣ một loại hình nhân vật

tiêu biểu của thời hiện đại. Không còn dáng vẻ của những anh hùng trong thời

chiến, họ là những con ngƣời bại trận trong thời bình. Lạc lõng giữa nhịp

sống cuồng quay thời mở cửa, những con ngƣời vốn tôn thờ các giá trị cũ và

quen với nếp sống xƣa đã không bắt nhịp nổi. Họ làm thành một mẫu nhân

vật lạc thời. Bên cạnh đó, trong truyện ngắn, nỗi cô đơn còn đƣợc miêu tả nhƣ

một trạng thái tâm lý của con ngƣời thời hiện đại. Kinh tế thị trƣờng mở ra,

xu thế tất yếu là ngƣời ta chạy theo những giá trị vật chất. Đồng tiền đã len

lỏi, chi phối vào nhiều mối quan hệ, làm băng hoại nhiều giá trị tinh thần giữa

con ngƣời với nhau. Văn học phát hiện ra mẫu hình con ngƣời cô đơn giữa

thừa mứa vật chất. Ngoài ra cũng không thể không kể đến những tác động của

sự phát triển khoa học kỹ thuật trong việc góp phần làm tăng khoảng cách

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

giữa ngƣời với ngƣời. Mạng Internet và những thành tựu của thời đại số mở

Sự vận động của truyện ngắn VN từ 1986 đến nay, nhìn từ góc độ hình thức thể loại

111

Luận văn Thạc sĩ

Lưu Thị Thu Hà

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

rộng giao tiếp con ngƣời với con ngƣời thông qua hệ thống máy móc, nhƣng

lại hạn chế những liên hệ mang tính trực tiếp, trực diện. Nỗi cô đơn vì thế

cũng đƣợc dịp bủa vây.

Trong khi mẫu nhân vật con ngƣời cô đơn là sự khai thác sâu vào cái cá

thể, cá nhân thì mẫu con ngƣời giả cổ tích, giả lịch sử, giả huyền thoại và mẫu

nhân vật dị biệt lại là một cách để các tác giả đƣơng đại gửi gắm nhiều ý

tƣởng về hiện thực xã hội. Thông qua những nhân vật đặc biệt đó, các tác giả

trình bày một cách nhìn, một thái độ sống, một hành vi phản ứng đối với một

xã hội đang chuyển mình và còn giữ lại không ít những hệ lụy từ quá khứ. Đó

không phải tất cả, nhƣng là ba kiểu nhân vật quan trọng và có những đặc

trƣng khác biệt hơn so với các giai đoạn văn học trƣớc.

4. Để tái hiện thành công những mẫu ngƣời này, truyện ngắn đã có

nhiều biến đổi về nghệ thuật xây dựng nhân vật. Chúng tôi dừng lại ở việc

khảo sát hai vấn đề quan trọng: Nghệ thuật xây dựng tính cách nhân vật và

Nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ nhân vật. Trong đó, các khảo sát ghi nhận,

truyện ngắn 1986 - 2006 đã thoát khỏi công thức miêu tả con ngƣời theo mô

hình xây dựng tính cách điển hình trong hoàn cảnh điển hình. Về mặt ngôn

ngữ, trên cơ sở quan sát đối thoại và độc thoại, chúng tôi nhận thấy, đối thoại

đƣợc các tác giả gia tăng mạnh yếu tố khẩu ngữ, còn độc thoại nội tâm, tuy chƣa

phát triển mạnh thành dòng ý thức nhƣ ở tiểu thuyết nhƣng đã có sự pha lẫn vào

ngôn ngữ ngƣời kể chuyện, góp phần tạo nên tính đa thanh trong giọng điệu trần

thuật.

Trần thuật là một phƣơng diện cơ bản của tự sự, bao gồm rất nhiều vấn

đề liên quan đến tổ chức và cấu trúc một văn bản. Khảo sát truyện ngắn 1986

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

- 2006, luận văn bƣớc đầu ghi nhận một số xu: Điểm nhìn trần thuật đƣợc đa

Sự vận động của truyện ngắn VN từ 1986 đến nay, nhìn từ góc độ hình thức thể loại

112

Luận văn Thạc sĩ

Lưu Thị Thu Hà

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

dạng hóa, Ngôn ngữ trần thuật giàu chất hiện thực đời thƣờng; nhịp điệu trần

thuật nhanh, tính thông tin cao; Truyện ngắn vận dụng nhiều hình thức trần

thuật, trong đó tính chất phức điệu của giọng trần thuật biểu hiện ở sự pha

trộn các lời nói khác nhau là một trong nguyên nhân dẫn đến tính đa thanh,

phức điệu của các giọng trần thuật.

Tóm lại, với tất cả những biểu hiện về hình thức và nội dung của truyện

ngắn sau 1986, văn học giai đoạn này đang hƣớng tới một cái nhìn trung thực

và toàn diện hơn về hiện thực lịch sử, một quan niệm nhân văn về con ngƣời

với những nỗ lực vƣợt thoát khỏi ràng buộc của các dạng thức tự sự truyền

thống đƣa nền văn học nƣớc ta phát triển ở một tầm mới.

Sự vận động của truyện ngắn Việt Nam từ 1986 đến nay, nhìn từ góc độ

hình thức thể loại là một đề tài rộng, mang ý nghĩa khái quát. Dù đã cố gắng

đề cập đến một lƣợng lớn các sáng tác truyện ngắn 20 năm qua nhƣng kết quả

chúng tôi khai thác đƣợc trong luận văn vẫn chỉ là những nhận xét ban đầu và

còn rất hạn hẹp so với bản thân vấn đề đặt ra. Chính vì thế, việc mở rộng và đi

sâu hơn nữa vào đề tài có nhiều thách thức này luôn là một việc làm cần thiết

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

và có ý nghĩa.

Sự vận động của truyện ngắn VN từ 1986 đến nay, nhìn từ góc độ hình thức thể loại

113

Luận văn Thạc sĩ

Lưu Thị Thu Hà

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Tạ Duy Anh tuyển chọn - Nghĩ mãi rồi đẩy cửa - NXB Hội Nhà văn, 2001

2. Tạ Duy Anh - Tiểu thuyết - cái nhìn cuối thế kỷ - Báo Văn hóa số tháng

8/1999

3. Vũ Tuấn Anh - Văn học Việt Nam hiện đại - Nhận định và thẩm định -

NXB Khoa học Xã hội, 2001.

4. Phan Thị Vàng Anh - Khi người ta trẻ - NXB Hội Nhà văn, 1995

5. Phan Thị Vàng Anh - Hội chợ - NXB Trẻ, 1995

6. Đào Tuấn Ảnh dịch - Văn học hậu hiện đại thế giới - NXB Đại học Quốc

gia Hà Nội, 2003

7. Lại Nguyên Ân biên soạn - 150 thuật ngữ văn học - NXB Đại học Quốc

gia, 2003

8. Y Ban - Người đàn bà sinh ra trong bóng đêm - NXB Hội Nhà văn, 1995

9. Bakhtin, Mikhail - Nghệ thuật thơ ca Aristote, NXB Văn hóa Nghệ thuật

Hà Nội, 1964

10. Bakhtin, Mikhail - Lý luận và thi pháp tiểu thuyết - NXB Hội Nhà văn,

2003

11. Nguyễn Thị Bình - Văn xuôi Việt Nam 1975 - 1995 - Những đổi mới cơ

bản - NXB Giáo dục, 2000

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

12. Nguyễn Minh Châu - Tuyển tập truyện ngắn - NXB Văn học, 1999

Sự vận động của truyện ngắn VN từ 1986 đến nay, nhìn từ góc độ hình thức thể loại

114

Luận văn Thạc sĩ

Lưu Thị Thu Hà

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

13. Đặng Anh Đào - Đổi mới nghệ thuật tiểu thuyết phương Tây hiện đại,

NXB Đại học Quốc gia, 2001

14. Phan Cự Đệ - Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại - 2 tập, NXB Đại học và

Trung học chuyên nghiệp, 1974

15. Phan Cự Đệ - Truyện ngắn Việt Nam: Lịch sử, thi pháp, chân dung - NXB

Đại học Quốc gia, 2000

16. Trịnh Bá Đĩnh dịch - Chủ nghĩa cấu trúc và văn học - NXB Văn học và

Trung tâm nghiên cứu quốc học, 2002

17. Hà Minh Đức chủ biên - Lý luận văn học - NXB Giáo dục, 1997

18. Đoàn Minh Hà - Tại sao tôi đọc tiểu thuyết -Tia sáng, 2/2004

19. Võ Thị Xuân Hà - Chuyện của người con gái hát rong, NXB Hội Nhà

văn, 2006

20. Lƣu Thị Thu Hà - Mối quan hệ giữa hiện thực lịch sử và tư duy nghệ

thuật trong văn học Việt Nam từ 1986 đến nay - Khóa luận tốt nghiệp, Đại

học Khoa học Xã hội & Nhân văn, ĐHQG HN, 2004

21. Võ Thị Hảo - Truyện ngắn chọn lọc, NXB Văn học, 1999

22. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi - Từ điển thuật ngữ văn học

- NXB Đại học Quốc gia, 2000

23. Lê Thị Tuyết Hạnh - Thời gian nghệ thuật trong cấu trúc văn bản tự sự -

Luận án Tiến sĩ, 1997

24. Healy, Dana - Tiểu luận Văn học quá độ - khái quát văn học Việt Nam

thời đổi mới

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

25. Hoàng Ngọc Hiến - Văn học và học văn - NXB Văn học, 1999

Sự vận động của truyện ngắn VN từ 1986 đến nay, nhìn từ góc độ hình thức thể loại

115

Luận văn Thạc sĩ

Lưu Thị Thu Hà

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

26. Nguyễn Thái Hòa - Thi pháp của truyện - NXB Giáo dục,1999

27. La Khắc Hòa - Tiểu luận Những dấu hiệu chủ nghĩa hậu hiện đại trong

văn học Việt Nam qua sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp và Phạm Thị Hoài

28. Nguyễn Trọng Hoàn giới thiệu - Nguyễn Minh Châu - Về tác gia tác phẩm

- NXB Giáo dục, 2002

29. Nguyễn Thị Huệ - Những dấu hiệu đổi mới trong văn xuôi nghệ thuật từ

1980-1986 - Luận án Tiến sĩ, 1996

30. Nguyễn Thị Thu Huệ - Cát đợi - NXB Hà Nội, 1992

31. Nguyễn Thị Thu Huệ - 21 truyện ngắn chọn lọc - NXB Hội nhà văn, 2001

32. Nguyễn Thị Thu Huệ - Nào ta cùng lãng quên - NXB Hội nhà văn, 2003

33. Heuvel, Van den - Các khái niệm và thuật ngữ của các trường phái

nghiên cứu văn học Tây âu và Hoa Kỳ thế kỷ 20 - NXB Giáo dục, 2002

34. Đỗ Văn Khang - Nghĩ gì khi đọc tiểu thuyết Thân phận tình yêu - Báo Văn

nghệ, số 43/1992

35. Lê Minh Khuê - Bi kịch nhỏ - NXB Hội Nhà văn, 1993

36. Lê Minh Khuê - Màu xanh man trá - NXB Phụ nữ, 2005

37. Tôn Phƣơng Lan - Phong cách nghệ thuật Nguyễn Minh Châu - NXB

Giáo dục, 2002

38. Tôn Phƣơng Lan - Tiểu luận Từ một góc nhìn về sự vận động của truyện

ngắn chiến tranh

39. Nguyễn Văn Long - Văn học Việt Nam trong thời đại mới, NXB Giáo

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

dục, 2003

Sự vận động của truyện ngắn VN từ 1986 đến nay, nhìn từ góc độ hình thức thể loại

116

Luận văn Thạc sĩ

Lưu Thị Thu Hà

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

40. Mã Giang Lân - Tiến trình thơ Việt Nam hiện đại - NXB Khoa học Xã hội

41. Phƣơng Lựu chủ biên - Lý luận văn học - NXB Giáo dục, 1997

42. Nguyên Ngọc - Văn học Việt Nam sau 1975 - Những vấn đề nghiên cứu

và giảng dạy - Tham luận tại Hội thảo toàn quốc “Văn học Việt Nam sau

1975 - Những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy” tại Khoa Ngữ văn, Đại học Sƣ

phạm Hà Nội ngày 26/4/2005.

43. Nguyên Ngọc dịch - Tiểu luận, Milan Kundera - NXB Văn hóa Thông tin,

2001

44. Nguyên Ngọc - Tiểu luận Văn xuôi Việt Nam hiện nay, logic quanh co của

các thể loại, những vấn đề đang đặt ra, và triển vọng

45. Bảo Ninh - Truyện ngắn Bảo Ninh - NXB Công an Nhân dân, 2002

46. Lê Thành Nghị - Tiểu thuyết về chiến tranh - mấy ý nghĩ góp bàn - thuộc

Chuyên luận 50 năm Văn học Việt Nam sau Cách mạng tháng 8 - NXB Đại

học Quốc gia, 1996

47. Phạm Xuân Nguyên - Tiểu luận Truyện ngắn và cuộc sống hôm nay - Tạp

chí Văn học số 2, 1994.

48. Nhiều tác giả - Các khái niệm và thuật ngữ của các trường phái nghiên

cứu văn học Tây Âu và Hoa Kỳ thế kỷ XX - NXB Giáo dục, 2002

49. Nhiều tác giả - 50 năm Văn học Việt Nam sau cách mạng tháng Tám -

NXB Đại học Quốc gia, 1996.

50. Nhiều tác giả - Truyện ngắn nữ đầu thế kỷ 21 - NXB Văn học, 2007

51. Nhiều tác giả - Văn mới 5 năm đầu thế kỷ - NXB Hội Nhà văn, 2005

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

52. Nhiều tác giả - Văn mới 2004 - 2005 - NXB Hội Nhà văn, 2005

Sự vận động của truyện ngắn VN từ 1986 đến nay, nhìn từ góc độ hình thức thể loại

117

Luận văn Thạc sĩ

Lưu Thị Thu Hà

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

53. Nhiều tác giả - Văn mới 2005 - 2006 - NXB Hội Nhà văn, 2006

54. Nhiều tác giả - Văn mới 2006 - 2007 - NXB Hội Nhà văn, 2007

55. Nhiều tác giả - Văn mới 2007 - 2008 - NXB Hội Nhà văn, 2008

56. Nhiều tác giả - Văn học Việt Nam 1945 - 1954, NXB Đại học Quốc gia

HN

57. Nhiều tác giả - Số phận của tiểu thuyết - NXB Tác phẩm mới, 1983

58. Nhiều tác giả - Từ điển Tiếng Việt - NXB Đà Nẵng, 1997

59. Nhiều tác giả - Về lãnh đạo, quản lý văn học nghệ thuật trong công cuộc

Đổi mới - NXB Chính trị Quốc gia, 2001

60. Nhiều tác giả - Tuyển tập truyện ngắn Việt Nam 1930 - 1945 - NXB Đại

học và Giáo dục chuyên nghiệp

61. Nhiều tác giả - Thảo luận về Thân phận tình yêu - Báo Văn nghệ số

37/1991

62. Nhiều tác giả - Thảo luận về “Truyện ngắn những năm gần đây của

Nguyễn Minh Châu – Báo Văn nghệ số 27, 28/1985

63. Nhiều tác giả - Thảo luận về Truyện ngắn hôm nay - Báo Văn nghệ số

11/1991

64. Nhiều tác giả - Hội thảo Quốc tế Văn học Việt Nam trong bối cảnh giao

lưu văn hóa khu vực và quốc tế - Viện Văn học Việt Nam tổ chức, 2006

65. Nhiều tác giả - Tập bài giảng Văn học Việt Nam sau 1975, Đại học Khoa

học Xã hội và Nhân văn, ĐHQG HN

66. Bùi Việt Thắng - Khuynh hướng giản lược nhân vật trong tiểu thuyết hiện

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

đại - Văn nghệ Quân đội, 11/2000

Sự vận động của truyện ngắn VN từ 1986 đến nay, nhìn từ góc độ hình thức thể loại

118

Luận văn Thạc sĩ

Lưu Thị Thu Hà

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

67. Bùi Việt Thắng - Phía trước của tiểu thuyết - Tạp chí Nhà văn, 4/2000

68. Bùi Việt Thắng - Truyện ngắn - Những vấn đề lý thuyết và thực tiễn thể

loại - NXB Đại học Quốc gia, 2000

69. Bùi Việt Thắng - Bình luận truyện ngắn - Bùi Việt Thắng, NXB Văn học,

1999

70. Nguyễn Huy Thiệp - Truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp - NXB Văn hóa Sài

Gòn, 2007

71. Phùng Văn Tửu - Tiểu thuyết Pháp hiện đại - những tìm tòi đổi mới -

NXB Khoa học Xã hội, 2002

72. Đỗ Lai Thúy biên tập - Nghệ thuật như là thủ pháp: Lý thuyết chủ nghĩa

Hình thức Nga - NXB Hội Nhà văn, 2001

73. Lý Hoài Thu - Đồng cảm và sáng tạo - NXB Văn học, 2006

74. Lê Ngọc Trà - Văn học Việt Nam những năm đầu đổi mới - Tham luận

Hội thảo Quốc tế Văn học Việt Nam trong bối cảnh giao lưu văn hóa khu vực

và quốc tế - Viện Văn học Việt Nam tổ chức, 2006

75. Lê Ngọc Trà - Tiểu luận Cái mới trong loại truyện rất ngắn

76. Trần Đình Sử, Lại Nguyên Ân, Vƣơng Trí Nhàn dịch - Những vấn đề thi

pháp Doxtoiepxki - NXB Giáo dục, 1998

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

77. Scarpetta, Guy - Sử thi hay tiểu thuyết - Báo Tia sáng, 2/2004

Sự vận động của truyện ngắn VN từ 1986 đến nay, nhìn từ góc độ hình thức thể loại

119