®¹i häc quèc gia hµ néi

tr êng ®¹i häc khoa häc x· héi vµ nh©n v¨n ===    ===

Ng« thÞ yªn

NghÖ thuËt trÇn thuËt trong

truyÖn ng¾n ®ç bÝch thóy

LuËn v¨n th¹c sÜ v¨n häc Chuyªn ngµnh: V¨n häc ViÖt Nam M· sè: 60.22.34 Ng êi h íng dÉn khoa häc: PGS. TS hµ v¨n ®øc Hµ Néi - 2011

LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành luận văn này, em đã nhận được sự giúp đỡ tận tình của

các thầy cô giáo Khoa Văn học, Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân

văn - Đại học Quốc Gia Hà Nội, các thầy cô công tác tại Viện Văn học Việt

Nam, gia đình, bạn bè và đồng nghiệp. Em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ

quý báu đó.

Đặc biệt em xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc nhất đến

PGS. TS Hà Văn Đức - người đã hết lòng giúp đỡ, chỉ bảo tận tình để em

hoàn thành tốt luận văn này.

Em xin gửi tới qúy thầy cô trong Hội đồng bảo vệ lời cảm ơn chân

thành!

Do còn hạn chế về trình độ nên luận văn chắc chắn sẽ còn nhiều thiếu

sót, em rất mong nhận được sự chỉ bảo, góp ý từ phía thầy cô, đồng nghiệp

và các bạn.

Hà Nội, tháng 06 năm 2011

Tác giả luận văn

Ngô Thị Yên

NghÖ thuËt trÇn thuËt trong truyÖn ng¾n §ç BÝch Thóy

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài .......................................................................................... 1

2. Lịch sử vấn đề ............................................................................................. 3

3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu ................................................................... 6

4. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................. 6

5. Kết cấu luận văn .......................................................................................... 7

NỘI DUNG ..................................................................................................... 8

CHƢƠNG 1. NGƢỜI TRẦN THUẬT VÀ ĐIỂM NHÌN TRẦN THUẬT

TRONG TRUYỆN NGẮN ĐỖ BÍCH THÚY .............................................. 8

1.1. Lý thuyết về nghệ thuật trần thuật ............................................................ 8

1.2. Người trần thuật và điểm nhìn trần thuật trong truyện ngắn Đỗ Bích Thúy

........................................................................................................................ 9

1.2.1. Người trần thuật trong truyện ngắn Đỗ Bích Thúy ................................. 9

1.2.1.1. Khái quát về người trần thuật.............................................................. 9

1.2.1.2. Người trần thuật trong truyện ngắn Đỗ Bích Thúy ............................. 11

1.2.1.2.1. Người trần thuật hàm ẩn ................................................................. 13

1.2.1.2.2. Người trần thuật tường minh........................................................... 16

1.2.2. Điểm nhìn trần thuật trong truyện ngắn Đỗ Bích Thúy ......................... 18

1.2.2.1. Khái quát về điểm nhìn trần thuật ...................................................... 18

1.2.2.2. Điểm nhìn trần thuật trong truyện ngắn Đỗ Bích Thúy ...................... 21

1.2.2.2.1. Điểm nhìn trần thuật bên ngoài ....................................................... 21

1.2.2.2.2. Điểm nhìn trần thuật bên trong ....................................................... 26

1.2.2.2.3. Điểm nhìn trần thuật phức hợp ....................................................... 31

CHƢƠNG 2. NGHỆ THUẬT TỔ CHỨC KẾT CẤU VÀ CỐT TRUYỆN

TRONG TRUYỆN NGẮN ĐỖ BÍCH THÚY ............................................ 37

2.1. Nghệ thuật tổ chức kết cấu trong truyện ngắn Đỗ Bích Thúy ................... 37

2.1.1. Khái niệm về kết cấu và kết cấu trần thuật ........................................... 37

2.1.1.1. Kết cấu .............................................................................................. 37

2.1.1.2. Kết cấu trần thuật............................................................................... 38

2.1.2. Hình thức kết cấu trần thuật trong truyện ngắn Đỗ Bích Thúy .............. 39 1

LuËn v¨n th¹c sÜ v¨n häc Ng« ThÞ Yªn

NghÖ thuËt trÇn thuËt trong truyÖn ng¾n §ç BÝch Thóy

2.1.2.1. Kết cấu đơn tuyến .............................................................................. 39

2.1.2.2. Kết cấu theo mạch phát triển tâm lí.................................................... 43

2.1.2.3. Kết cấu đảo lộn trật tự trần thuật ........................................................ 48

2.2. Nghệ thuật tổ chức cốt truyện trong truyện ngắn Đỗ Bích Thúy .............. 53

2.2.1. Khái niệm về cốt truyện ........................................................................ 53

2.2.2. Cốt truyện trong truyện ngắn Đỗ Bích Thúy ......................................... 55

2.2.2.1. Cốt truyện đơn giản ........................................................................... 55

2.2.2.2. Cốt truyện với kết thúc bất ngờ, kết thúc để ngỏ ................................ 57

2.2.2.3. Cốt truyện đan xen nhiều mạch truyện ............................................... 61

CHƢƠNG 3. NGÔN NGỮ VÀ GIỌNG ĐIỆU TRẦN THUẬT TRONG

TRUYỆN NGẮN ĐỖ BÍCH THÚY ............................................................ 66

3.1. Ngôn ngữ trần thuật trong truyện ngắn Đỗ Bích Thúy ............................. 66

3.1.1. Khái quát về ngôn ngữ trần thuật .......................................................... 66

3.1.2.Lời văn trần thuật và lời văn miêu tả trong truyện ngắn Đỗ Bích Thúy

67

3.1.2.1. Lời văn trần thuật .............................................................................. 67

3.1.2.1.1. Lời trần thuật gián tiếp của người kể chuyện .................................. 68

3.1.2.1.2. Lời trần thuật nửa trực tiếp ............................................................. 70

3.1.2.2. Lời văn miêu tả .................................................................................. 75

3.1.2.2.1. Lời văn miêu tả thiên nhiên ............................................................ 76

3.1.2.2.2. Lời văn miêu tả về cuộc sống con người miền núi .......................... 83

3.2. Giọng điệu trần thuật trong truyện ngắn Đỗ Bích Thúy ........................... 89

3.2.1. Khái quát về giọng điệu trần thuật ........................................................ 89

3.2.2. Giọng điệu trần thuật trong truyện ngắn Đỗ Bích Thúy ........................ 91

3.2.2.1. Giọng điệu trữ tình, mộc mạc, chân chất ............................................ 91

3.2.2.2. Giọng điệu cảm thương, xót xa .......................................................... 97

3.2.2.3. Giọng điệu triết lý, giản dị mà sâu lắng............................................. 100

KẾT LUẬN .................................................................................................. 104

TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................... 112

2

LuËn v¨n th¹c sÜ v¨n häc Ng« ThÞ Yªn

NghÖ thuËt trÇn thuËt trong truyÖn ng¾n §ç BÝch Thóy

MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài

1. Nói đến văn học Việt Nam, chúng ta nói đến cả quá trình phát sinh và

phát triển. Đặc biệt là từ sau năm 1975 với công cuộc đổi mới của Đảng cộng

sản Việt Nam, một cuộc đổi mới được thể hiện trên nhiều bình diện. Song về

cơ bản vẫn là giai đoạn văn học tiếp cận cuộc sống từ bình diện thế sự - đời

tư. Chính xu hướng đó đã kích thích sức sáng tạo không ngừng của các văn

nghệ sĩ.

Bước sang thế kỉ XXI, từ sự đổi mới về nhiều mặt và sự mở rộng biên độ

cho cho người sáng tác khiến cho văn học đương đại của Việt Nam được vận

động, phát triển liên tục. Để đáp ứng mọi nhu cầu sáng tác của người cầm bút,

nhiều nhà văn tên tuổi đã đi đầu trong phong trào đổi mới đó. Tiêu biểu như:

Nguyễn Minh Châu. Nguyễn Khải, Nguyễn Huy Thiệp...

Chính lẽ đó, trong những năm gần đây, văn học Việt Nam xuất hiện nhiều

gương mặt những nhà văn trẻ có triển vọng. Họ đi sâu vào nhiều góc cạnh của

đời sống, từ thế sự cho đến đời tư của con người. Đặc biệt, các nhà văn trẻ

quan tâm nhiều đến số phận, hoàn cảnh sống éo le và đến cả những cái rất

riêng, những điều nhạy cảm nhất trong cuộc sống đa dạng của con người. Một

trong số đó phải kể đến nhà văn trẻ Đỗ Bích Thúy, chị đã góp phần làm cho

bộ mặt của văn học Việt Nam thêm một diện mạo mới.

2. Nhà văn Đỗ Bích Thúy sinh ngày 13/04/1975 tại Hà Giang. Chị sinh ra

và lớn lên trên mảnh đất địa đầu của Tổ quốc - một địa danh gắn liền với

khung cảnh núi rừng Tây Bắc đã đi vào trang thơ, trang văn của rất nhiều nhà

thơ, nhà văn. Chị là thế hệ những nhà văn trưởng thành sau năm 1975, khi đất

nước đã không còn tiếng súng. Một đất nước sống trong hòa bình, tự do

nhưng con người phải đối mặt với nhiều điều phức tạp của cuộc sống.

Có thể nói, cuộc đời Đỗ Bích Thúy không phải là một đường thẳng, xuyên

suốt mà nó đầy sự biến động. Con đường tìm đến văn chương của chị là cả

một quãng đường, tuy không dài nhưng nhiều bước chuyển mình.

1

LuËn v¨n th¹c sÜ v¨n häc Ng« ThÞ Yªn

NghÖ thuËt trÇn thuËt trong truyÖn ng¾n §ç BÝch Thóy

Tuổi trẻ của Đỗ Bích Thúy cũng giống như bao cô gái mới lớn khác, chị

có rất nhiều dự định và ước mơ trong sáng, cụ thể như mơ ước trở thành cô

giáo. Song ý định ấy không trở thành hiện thực, bởi không biết vì nguyên do

gì mà Đỗ Bích Thúy lại học Cao đẳng Tài chính - Kế toán và trở thành một

nữ kế toán cho báo Hà Giang. Nhưng với niềm đam mê văn chương nghệ

thuật, từ một nữ kế toán chị chuyển sang lĩnh vực viết lách, làm báo. Thời

gian làm việc cho báo Hà Giang không nhiều nhưng với bốn năm lăn lộn với

nghề báo, phải trèo đèo lội suối, đi vào những thung sâu, bản xa lấy tư liệu đã

giúp Đỗ Bích Thúy hiểu sâu sắc hơn về cuộc sống con người. Sau đó, chị về

Hà Nội học tiếp lên đại học. Trong những tháng ngày là sinh viên, chị miệt

mài chăm chỉ học tập để mong có thêm nhiều kiến thức về phục vụ cho công

việc làm báo sau này của mình. Sống trong môi trường sinh viên thiếu thốn

đủ thứ và lại là người con sống xa nhà, xa quê, Đỗ Bích Thúy luôn đau đáu

nhớ về quê hương - nơi có bố mẹ, anh chị em và bạn bè. Hơn lúc nào hết,

ngòi bút lại thôi thúc chị viết, chị viết trong một không gian chật hẹp của kí

túc xá. Nơi đó có những chiếc giường tầng cùng với chiếc bàn gấp nhỏ bé, có

thể di chuyển mọi lúc mọi nơi. Cũng trong thời gian học tập này, chị đã gửi

những bài viết của mình đến Tạp chí văn nghệ quân đội để dự thi. Kết quả là

chị đã dành giải nhất.

Quan niệm viết văn của Đỗ Bích Thúy hết sức đơn giản, chị vẫn thường

nói viết chính là nhu cầu nội tâm. Đặc biệt viết văn đối với chị như là sự trả

ơn, nên trong cuộc đời viết văn của mình, chị đã định hình một cách viết

không quá ồn áo, hoa mĩ, không gây ra những cú sốc mạnh như những bạn

viết cùng trang lứa. Đầu sách của chị nằm khiêm tốn trong hiệu sách và cũng

chỉ những ai thực sự say mê văn chương đích thực mới tìm đến, quan tâm đến

chị và sách của chị. Điều đó cũng đủ để Đỗ Bích Thúy lặng lẽ, điềm đạm và

cần mẫn viết.

Những tập truyện của Đỗ Bích Thúy phần lớn chỉ viết với một đề tài duy

nhất, đó là đề tài miền núi, lại chỉ với một địa danh quen thuộc - Đó là mảnh

2

LuËn v¨n th¹c sÜ v¨n häc Ng« ThÞ Yªn

NghÖ thuËt trÇn thuËt trong truyÖn ng¾n §ç BÝch Thóy

đất Hà Giang - quê hương yêu dấu của chị. Miền núi - đúng như tên gọi của

nó: hoang sơ, lạ lẫm và bí hiểm nhưng chị đã khai thác chiều sâu phức tạp

trong cuộc sống cũng như nhân cách và phẩm chất của con người vùng núi

phía Bắc một cách chân thành và thắm đượm tình quê.

Đến nay, Đỗ Bích Thúy đã là một cây bút được khẳng định và là nữ phó

tổng biên tập đầu tiên trong lịch sử hơn 50 năm của Tạp chí văn nghệ quân

đội. Với công việc này, chị không chỉ gánh trọng trách của người quản lý mà

còn phải nỗ lực hơn nữa trong việc sáng tác của bản thân mình.

3. Truyện ngắn của Đỗ Bích Thúy đã có một số người lấy làm đề tài

nghiên cứu nhưng chưa ai đi sâu vào việc áp dụng lí thuyết về nghệ thuật trần

thuật để tìm hiểu về phong cách sáng tạo trong truyện ngắn của chị.Vì lí do

trên, tôi mạnh dạn chọn đề tài: “Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Đỗ

Bích Thúy”.

2. Lịch sử vấn đề

Đỗ Bích Thuý đến với văn chương từ rất sớm, chị từng sáng tác và gửi bài

cho báo Tiền Phong từ năm 19 tuổi với tác phẩm đầu tay của mình là Chuỗi

hạt cườm màu xám và đã để lại ấn tượng không nhỏ trong lòng bạn đọc.

Nhưng bước ngoặt để tên tuổi chị có chỗ đứng trong làng văn học hiện đại là

phải kể đến cuộc thi truyện ngắn kéo dài 2 năm 1989 - 1999 do Tạp chí văn

nghệ quân đội tổ chức. Kết quả là chị đã dành giải nhất với chùm tác phẩm:

Ngải đắng ở trên núi, Đêm cá nổi và Sau những mùa trăng. Đặc biệt là

truyện ngắn Tiếng đàn môi sau bờ rào đá của chị đã được đạo diễn Ngô

Quang Hải chuyển thể thành kịch bản phim Chuyện của Pao. Bộ phim này đã

đoạt giải Cánh diều vàng năm 2005 của hội điện ảnh Việt Nam. Từ đây, tên

tuổi của chị được báo giới biết đến và lưu tâm nhiều hơn.

Trên báo văn nghệ trẻ, số ra ngày 11/3/2001, Điệp Anh có bài Gặp hai nữ

thủ khoa truyện ngắn trẻ đã nhận xét: “ Thế mạnh của Đỗ Bích Thuý là đời

sống của người dân Tây Bắc, với những không gian vừa quen vừa lạ, những

phong tục tập quán đặc thù khiến người đọc luôn cảm thấy tò mò và bị cuốn

3

LuËn v¨n th¹c sÜ v¨n häc Ng« ThÞ Yªn

NghÖ thuËt trÇn thuËt trong truyÖn ng¾n §ç BÝch Thóy

hút (...). Trong truyện ngắn của Đỗ Bích Thuý, không gian Tây Bắc hiện lên

đậm nét, để lại dư vị khó quên trong lòng độc giả” [02;03].

Nhà văn Chu Lai - một cây bút kì cựu trong làng văn có bài Cái duyên và

sức gợi của hai giọng văn trẻ được đăng trên Tạp chí văn nghệ quân đội

tháng 7 năm 2001. Ông đã cảm nhận về văn của Đỗ Bích Thuý như sau: “Đọc

Thuý người ta có cảm giác như được ăn một món lạ, được sống trong một

mảnh đất lạ mà ở đó tràn ngập những cái rất riêng đậm đặc chất dân gian

của hương vị núi rừng, của con suối chảy ra từ khe đá lạnh, của mây trời đặc

sánh “như một bầy trăn trắng đang quấn quyện vào nhau”, của mùi ngải

đắng, mần tang, của những nét ăn, nét ở, phong tục tập quán còn giữ nguyên

vẻ hoang sơ, thuần phác, của ánh trăng “giữa mùa cứ rọi vào nhà cả đêm,

trăng đi một vòng cửa trước ra cửa sau”, của những trái tim con gái vật vã,

cháy bùng theo tiếng khèn gọi tình dưới thung xa, của bếp lửa nhà sàn và

tiếng mõ trâu gõ vào khuya khoắt, của những kiếp sống nhọc nhằn và con bìm

bịp say thuốc, say rượu ngủ khì khì bên chân chủ” [31;104].

Cảm hứng cảm thương trong sáng tác của Đỗ Bích Thúy và Nguyễn

Ngọc Tư là bài viết của Phạm Thùy Dương được đăng trên Tạp chí văn nghệ

quân đội (661) tháng 1 năm 2007. Phạm Thùy Dương có nhận xét : “Nổi lên

trong trang viết của Nguyễn Ngọc Tư và Đỗ Bích Thúy là cái nhìn nhân ái về

con người (...) Đằng sau cuộc sống, khí chất của con người mỗi vùng đất là

tình cảm cảm thương sâu sắc của nhà văn tới những con người bất hạnh”

[13;102].

Trung Trung Đỉnh với bài Đọc truyện ngắn Đỗ Bích Thúy in trên báo

Văn nghệ số 5, ra ngày 3/2/2007 cũng cảm nhận khá sâu về văn phong Đỗ

Bích Thúy: “Đỗ Bích Thúy có khả năng viết truyện về cảnh sinh hoạt truyền

thống của con người miền cao một cách tài tình. Không truyện nào là không

kể về cách sống, lối sinh hoạt, nết ăn ở và cả quang cảnh sinh hoạt lễ hội,

phong tục tập quán. Truyện nào cũng hay cũng mới, cũng lạ mặc dù tác giả

4

LuËn v¨n th¹c sÜ v¨n häc Ng« ThÞ Yªn

NghÖ thuËt trÇn thuËt trong truyÖn ng¾n §ç BÝch Thóy

không hề cố ý đưa vào chi tiết lạ. Thế mà đọc đến đâu ta cũng sững sờ và bị

chinh phục bởi những chi tiết rất đặc sắc chỉ người miền cao mới có” [17;58].

Với báo mạng, cũng có nhiều bài viết đề cập tới sáng tác của Đỗ Bích

Thúy. Tác giả Hà Anh với bài viết Đỗ Bích Thúy: nếu làm độc giả thất vọng

tôi thà chịu cũ được đăng tải trên trang http://evan.vnexpretss.net ra ngày

05/12/2005. Tiếp đến là bài viết của tác giả Dương Bìn h Nguyên với bài Nhà

văn Đỗ Bích Thúy: viết vì nhu cầu nội tâm được đăng tải trên trang

http://evan.vnexpretss.net ra ngày 21/1/2006 và bài viết Nhà văn Đỗ Bích

Thúy - sự mềm mại quyết liệt được đăng trên trang http://www.cand.com.vn.

Ngoài ra có nhiều bài viết về chị trên trang khác như: http://vietbao.vn;

phongdiep.net có bài viết Đỗ Bích Thúy - tôi đã không nghĩ rằng người phụ

nữ có thể hi sinh nhiều đến thế, ra ngày 23/1/2009. Tiếp đến, là tác giả Bình

Nguyên Trang với bài viết Con của núi được đăng trên trang:

http://www.hoilhpn.org.vn ngày 16/03/2009. Trên trang http://my.opera.com

là bài viết Đỗ Bích Thúy và Ngải đắng ở trên núi và trang

http://tapchinhavan.vn ra ngày 23/11/2009 có bài Đường đến với văn chương

của một người viết trẻ của tác giả Lê Hương Thủy.

Bên cạnh sở trường viết truyện ngắn, nhà văn trẻ Đỗ Bích Thúy còn thử

sức mình trong cả lĩnh vực sáng tác kịch, tiểu thuyết và đoản văn. Có lẽ ở

phương diện nào chị cũng tạo được sự chú ý của mọi người, đặc biết là giới

văn nghệ sĩ.

Với tiểu thuyết đầu tay Bóng của cây sồi có bài nhận xét của Nguyễn

Hữu Quý ở báo Văn nghệ quân đội (623) tháng 6 năm 2005 như sau: “Tính xã

hội, tính nhân văn, lòng trắc ẩn và khao khát của nhà văn đã được gửi gắm

vào từng trang viết. Nó đã được nói qua nhân vật, qua giọng kể không mới lạ

nhưng đằm lắng và nhiều cảm xúc của Đỗ Bích Thúy. Hiện tại, quá khứ,

chuyện mới, chuyện cũ đan xen, cài quấn nhau như dòng chảy của cuộc sống

muôn đời nay tiếp nối, tiếp nối không dứt. Lối dẫn chuyện tự nhiên và không

5

LuËn v¨n th¹c sÜ v¨n häc Ng« ThÞ Yªn

NghÖ thuËt trÇn thuËt trong truyÖn ng¾n §ç BÝch Thóy

gò bó, cách miêu tả thiên nhiên và đời sống của miền đất cực bắc đất nước

khá sinh động là ưu điểm nổi trội của cuốn tiểu thuyết này”[45;113]

Ngoài những bài báo đánh giá, nhận xét, khám phá, tìm hiểu một số khía

cạnh nhỏ về truyện ngắn của Đỗ Bích Thuý còn có một số công trình nghiên

cứu bước đầu so sánh đối chiếu với một số nhà văn trẻ khác như: Luận văn

thạc sĩ của Dương Thị Kim Thoa với đề tài Tiếp cận sáng tác của Đỗ Bích

Thuý và Nguyễn Ngọc Tư từ phương diện giá trị văn học - văn hoá (2008).

Luận văn thạc sĩ của Nguyễn Minh Trường với đề tài Truyện ngắn về đề tài

về dân tộc miền núi phía bắc qua tác phẩm của Cao Duy Sơn, Đỗ Bích

Thuý, Nguyễn Huy Thiệp (2009). Luận văn thạc sĩ của Nguyễn Thanh Hồng

về đề tài Tìm hiểu một số cách tân nghệ thuật trong truyện ngắn của một số

cây bút nữ thời kì 1986 - 2006 (Nguyễn Thị Thu Huệ, Nguyễn Ngọc Tư, Đỗ

Bích Thúy (2009).

3. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tƣợng nghiên cứu

Với đề tài Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Đỗ Bích Thúy,

người viết luôn chú ý khai thác những hình thức nghệ thuật trần thuật trong

mảng truyện ngắn của chị để chỉ ra những nét riêng, đặc trưng trong lối sáng

tạo của nhà văn trẻ này.

3.2. Phạm vi nghiên cứu

Người viết tập trung nghiên cứu khai thác sâu nghệ thuật trần thuật trong

năm tập truyện ngắn của nhà văn Đỗ Bích Thúy:

1. Sau những mùa trăng, NXB Văn nghệ quân đội năm 2001.

2. Những buổi chiều ngang qua cuộc đời, NXB Hội nhà văn, năm 2003.

3. Kí ức đôi guốc đỏ, NXB Phụ nữ, năm 2004.

4. Tiếng đàn môi sau bờ rào đá, NXB Công an nhân dân, năm 2006.

5. Người đàn bà miền núi, NXB Phụ nữ, năm 2008.

4. Phƣơng pháp nghiên cứu

6

LuËn v¨n th¹c sÜ v¨n häc Ng« ThÞ Yªn

NghÖ thuËt trÇn thuËt trong truyÖn ng¾n §ç BÝch Thóy

Xuất phát từ đối tượng và phạm vi nghiên cứu, người viết sẽ chọn lý

thuyết có liên quan đến nghệ thuật trần thuật để áp dụng vào việc triển khai

vấn đề này. Bên cạnh đó, người viết còn phải sử dụng đến các phương pháp

khác để bổ trợ cho việc nghiên cứu của mình. Đó là các phương pháp nghiên

cứu sau: phương pháp thống kê, phương pháp phân tích, phương pháp tổng

hợp, phương pháp so sánh, đối chiếu.

5. Kết cấu luận văn

Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, phụ lục, tài liệu tham khảo, nội

dung luận văn của chúng tôi gồm có ba chương:

Chƣơng 1. Ngƣời trần thuật và điểm nhìn trần thuật trong truyện

ngắn Đỗ Bích Thúy.

Chƣơng 2. Nghệ thuật tổ chức kết cấu và cốt truyện trong truyện

ngắn Đỗ Bích Thúy.

Chƣơng 3. Ngôn ngữ và giọng điệu trần thuật trong truyện ngắn Đỗ

Bích Thúy.

7

LuËn v¨n th¹c sÜ v¨n häc Ng« ThÞ Yªn

NghÖ thuËt trÇn thuËt trong truyÖn ng¾n §ç BÝch Thóy

NỘI DUNG

CHƢƠNG 1. NGƢỜI TRẦN THUẬT VÀ ĐIỂM NHÌN TRẦN THUẬT

TRONG TRUYỆN NGẮN ĐỖ BÍCH THÚY

1.1. Lí thuyết nghệ thuật trần thuật

Nói đến phương diện trần thuật thì đây lại là một phần không thể thiếu

trong phương thức tự sự. Bởi trong tác phẩm tự sự, nghệ thuật trần thuật có

vai trò quan trọng góp phần khẳng định tài năng, phong cách nhà văn. Có

nhiều hình thức trần thuật, mỗi một thể loại cụ thể sẽ có cách trần thuật khác

nhau. Theo Từ điển thuật ngữ văn học: “Trần thuật là phương diện cơ bản

của phương thức tự sự, là việc giới thiệu, khái quát, thuyết minh, miêu tả đối

với nhân vật, sự kiện, hoàn cảnh, sự vật theo cách nhìn của một người trần

thuật” [21;307].

Giáo trình Lí luận văn học cũng đưa ra khái niệm về trần thuật như sau:

“Trần thuật là biện pháp nghệ thuật cơ bản nhất để tạo thành văn bản văn học.

Về bản chất, trần thuật là hành vi ngôn ngữ nhằm kể, thuật, miêu tả, cung cấp

thông tin về sự kiện, nhân vật, theo một thứ tự nhất định trong không gian,

thời gian và về ý nghĩa. Trần thuật có nhiệm vụ cho người đọc biết ai, xuất

hiện ở đâu, khi nào, làm việc gì, trong tình huống nào...” [53;100].

Trần thuật không chỉ là lời thuật, lời kể. Nó bao hàm cả việc “miêu tả đối

tượng, phân tích hoàn cảnh, thuật lại tiểu sử nhân vật, lời bình luận, lời trữ

tình ngoại đề, lời ghi chú của tác giả” [21;307]. Trần thuật không chỉ có trong

truyện mà còn có cả trong thơ trữ tình nhưng trần thuật thể hiện sự đa dạng và

phong phú nhất phải là tác phẩm tự sự. Như vậy, trần thuật luôn có hai yếu tố

quy định, đó là người kể và chuỗi ngôn từ. Yếu tố người kể chuyện, ta sẽ có

ngôi trần thuật, lời trần thuật, điểm nhìn trần thuật. Yếu tố chuỗi ngôn từ ta lại

có nhiều yếu tố khác như: dựng cảnh, dự báo; phân tích bình luận, giọng

điệu...

Từ điển thuật ngữ văn học khẳng định: “Trần thuật là phương diện cấu

trúc của tác phẩm tự sự thể hiện mối quan hệ chủ thể - khách thể trong loại

8

LuËn v¨n th¹c sÜ v¨n häc Ng« ThÞ Yªn

NghÖ thuËt trÇn thuËt trong truyÖn ng¾n §ç BÝch Thóy

hình nghệ thuật này. Nó đánh dấu sự đổi thay điểm chú ý của ý thức văn học

từ hệ thống sự kiện “thắt nút”, “mở nút”, sang chủ thể thẩm mĩ của tác phẩm

tự sự” [21;308].

Từ khái niệm trần thuật là một phương thức nghệ thuật đặc trưng của tác

phẩm tự sự, truyện ngắn của Đỗ Bích Thúy đã sử dụng nghệ thuật trần thuật

vào việc khai thác những mảnh đời tư của con người trong quá trình hình

thành và phát triển. Để đạt được điều đó, bút pháp trần thuật của tác giả phải

được định hình trong một không gian và thời gian nhất định. Có như vậy, thể

loại truyện ngắn mới phát huy hết mặt mạnh của nó.

1.2. Ngƣời trần thuật và điểm nhìn trần thuật trong truyện ngắn Đỗ Bích

Thúy

1.2.1. Ngƣời trần thuật trong truyện ngắn Đỗ Bích Thúy

1.2.1.1. Khái quát về ngƣời trần thuật

Trong nghệ thuật trần thuật, người ta thường nhắc đến các khái niệm:

người trần thuật, điểm nhìn trần thuật, giọng điệu trần thuật, ngôn ngữ trần

thuật.

Người trần thuật (còn gọi là người kể chuyện, người thuật chuyện). Đây

là khái niệm trung tâm của trần thuật học, của thi pháp học hiện đại. Khái

niệm này dùng để chỉ người thay thế cho chủ thể sáng tạo tường thuật lại câu

chuyện trong tác phẩm. Song cho đến nay, khái niệm này còn gây nhiều tranh

cãi. Các nhà nghiên cứu Pháp như G. Genette thì hiểu người trần thuật có

chức năng của tác giả mà ông giải thích là vai trò trội của người kể chuyện.

Đó là, người trần thuật vừa có chức năng kể chuyện đồng thời phải vừa chỉ

huy cách kể, vừa truyền đạt thông tin, vừa thuyết phục người đọc... Còn các

nhà nghiên cứu Anh, Mĩ thì lại thiên về hiểu người trần thuật như là một vai

trò thụ động do tác giả điều khiển. Tác giả cần nó vì cần một giọng điệu, cần

một điểm nhìn, cách nhìn.

9

LuËn v¨n th¹c sÜ v¨n häc Ng« ThÞ Yªn

NghÖ thuËt trÇn thuËt trong truyÖn ng¾n §ç BÝch Thóy

Từ điển thuật ngữ văn học có nêu: “Người trần thuật là hình thái của

hình tượng tác giả trong văn học nghệ thuật, là người mang tiếng nói, quan

điểm tác giả trong tác phẩm văn xuôi” [21;191]

Giáo trình lí luận văn học đưa ra ý kiến: “Người kể chuyện (người trần

thuật) là yếu tố thuộc thế giới miêu tả. Đó là một người do nhà văn tạo ra để

thay thế mình thực hiện hành vi trần thuật... Người kể chuyện trong văn bản

ẩn mình trong dòng chữ. Người kể chuyện ấy có thể được kể bằng ngôi thứ

ba, ngôi thứ nhất và ngôi thứ hai. Và chỉ có thể kể được khi nào họ cảm thấy

như người trong cuộc, người chứng kiến hay người biết trước sự việc xảy ra

bằng tất cả giác quan, sự hiểu biết của mình. Do đó về căn bản, mọi người kể

chuyện đều kể theo ngôi thứ nhất. Cái gọi là kể theo ngôi thứ ba thực chất là

hình thức kể khi người kể chưa được ý thức hoặc là đã được ý thức nhưng cố

ý giấu mình” [53;102]. Còn ngôi kể thứ hai là “cái tôi trữ tình”, là “chủ thể

kép” thường dùng khi “hỗ trợ” để nhân vật của mình được bộc lộ “chân dung

nội tâm” nhưng ngôi kể thứ hai này thường ít được sử dụng.

Theo Thi pháp học hiện đại thì “người trần thuật cũng đồng thời là người

kể chuyện và người kể chuyện là yếu tố tích cực trong việc kiến tạo thế giới

tưởng tượng... Không thể có trần thuật thiếu người kể chuyện” [52;116].

Dù các nhà nghiên cứu có những cách hiểu khác nhau về người trần thuật

thế nào đi chăng nữa thì vai trò của người trần thuật là rất quan trọng. Bởi trần

thuật bao giờ cũng được tiến hành từ phía một người nào đó. Ở phương diện

nào, dù trực tiếp hay gián tiếp cũng đều có sự đồng hành của người trần thuật.

Người trần thuật không những tổ chức về mặt ngôn ngữ mà còn đóng vai trò

quan trọng về mặt kết cấu và chi phối đến ngôn ngữ của nhân vật. Có khi tác

giả chính là người trần thuật, cũng có khi tác giả là người trần thuật được giao

cho hóa thân vào một nhân vật nào đó. Người trần thuật miêu tả, bình luận,

khêu gợi và làm sáng tỏ mọi mối quan hệ của nhân vật từ hoàn cảnh, sự kiện

cho đến các nhân vật khác trong tác phẩm. Đó là những nhân tố tích cực trong

việc tổ chức, dẫn dắt, định hướng và khơi gợi khả năng đối thoại tranh luận

10

LuËn v¨n th¹c sÜ v¨n häc Ng« ThÞ Yªn

NghÖ thuËt trÇn thuËt trong truyÖn ng¾n §ç BÝch Thóy

của người đọc, là điểm tựa để tác giả có thể bộc lộ quan điểm cá nhân về cuộc

sống cũng như mặt nghệ thuật của mình. Người trần thuật còn được nhận diện

trong tác phẩm của mình là nhờ vào sự định hình của ngôi kể. Vì vậy, việc

nghiên cứu khám phá ra hình tượng người trần thuật cũng chính là phương

diện khám phá ra nội dung và nghệ thuật của tác phẩm.

Từ những khái niệm, những đặc tính trọng yếu đó về người trần thuật nên

mỗi nhà văn khi bắt tay vào sáng tác tác phẩm tự sự luôn có ý thức lựa chọn

cho mình một người kể chuyện thích hợp.

1.2.1.2 Ngƣời trần thuật trong truyện ngắn Đỗ Bích Thúy

Khi khảo sát năm tập truyện ngắn của Đỗ Bích Thúy, chúng tôi nhận thấy

những câu chuyện kể của chị thường có sự đan xen, nhập nhòa giữa chủ thể

sáng tạo là tác giả với người trần thuật. Đó là cội nguồn của sự nhận thức,

phán đoán, kiến giải chủ quan mà nhà văn hiện hình nó trên văn bản của

mình. Người trần thuật trong truyện ngắn của chị luôn truyền tải được đầy đủ

và sắc nét những yêu thương, tâm tình, những khát khao cháy bỏng của con

người vùng cao. Đồng thời là tâm sự của chính nhà văn, người con của quê

hương khi xa quê nhớ quê hương đến cháy bỏng da diết. Để thực thi vai trò

của người kể chuyện điều đầu tiên nhà văn phải là người thiếp lập được hình

thức trần thuật hợp lí, phù hợp với ý đồ và mục đích sáng tạo của bản thân.

Qua 36 truyện ngắn của Đỗ Bích Thúy rải rác trong năm tập, đặc biệt là

dựa vào sự tồn tại của người kể chuyện được báo hiệu thông qua văn bản,

chúng tôi nhận thấy hình tượng người trần thuật mà Đỗ Bích Thúy thiết lập

biểu hiện chủ yếu trên hai phương diện: người trần thuật hàm ẩn (giấu mặt),

người trần thuật tường minh (lộ diện) hay người trần thuật đáng tin cậy và

không đáng tin cậy. Từ đó, chúng tôi nhận thấy người đóng vai trò trần thuật

trong những tập truyện ngắn của chị chủ yếu thuộc ngôi thứ nhất và ngôi thứ

ba. Tất nhiên xen kẽ trong cách kể thuộc ngôi thứ nhất và ngôi thứ ba, truyện

Đỗ Bích Thúy cũng có sử dụng ngôi thứ hai nhưng không nhiều. Ngôi thứ hai

mà chị dùng chỉ nhằm mục đích gián cách với cách xưng hô: anh, chị, bà...

11

LuËn v¨n th¹c sÜ v¨n häc Ng« ThÞ Yªn

NghÖ thuËt trÇn thuËt trong truyÖn ng¾n §ç BÝch Thóy

tưởng là ngôi thứ ba số ít nhưng thực chất nó là cái tôi khác, cái tôi được kể

ra, chứ không phải là tự kể như ngôi thứ nhất. Để tiện cho việc theo dõi và tìm

hiểu tất cả những mô thức trần thuật trong truyện ngắn Đỗ Bích Thúy, chúng

tôi lập bảng thống kê, phân loại như sau:

Trần thuật từ Trần thuật từ

STT Tên truyện ngắn ngôi thứ ba ngôi thứ nhất

x 01 Tiếng đàn môi sau bờ rào đá

x 02 Gió không ngừng thổi

x 03 Cái ngưỡng cửa cao

x 04 Cạnh bếp có cái muôi gỗ

x 05 Con dê bốn mắt

x 06 Cột đá treo người

x 07 Đá cuội đỏ

x 08 Đêm cá nổi

x 09 Giống như cái cối nước

x 10 Hẻm núi

x 11 Mần tang trong thung lũng

x 12 Mặt trời lên, quả còn rơi xuống

x 13 Ngải đắng ở trên núi

x 14 Ngựa ngã núi

x 15 Những buổi chiều ngang qua cuộc

đời

x 16 Sải cánh trên cao

x 17 Sau những mùa trăng

x 18 Vết chân ngựa trên đường mòn

x 19 Thị trấn

x 20 Đi qua ngày sang đêm

12

LuËn v¨n th¹c sÜ v¨n häc Ng« ThÞ Yªn

NghÖ thuËt trÇn thuËt trong truyÖn ng¾n §ç BÝch Thóy

x 21 Ngoài cửa trời chưa sáng

x 22 Sông còn chảy mãi

x 23 Nơi sinh ra huyền thoại

x 24 Người đàn bà ném con chó xuống

biển

x 25 Phía sau kí ức

x 26 Bến đợi

x 27 Bến sông

x 28 Và tình yêu đi qua

x 29 Đưa em về với mẹ

x 30 Kí ức đôi guốc đỏ

x 31 Trong thung lũng

x 32 Sông đêm

x 33 Mùa chuối chín

x 34 Lặng yên dưới vực sâu

x 35 Trôi trên phù sa

x 36 Gió lùa qua cửa

Theo thống kê phân loại ở trên, chúng ta thấy truyện ngắn của Đỗ Bích

Thuý trần thuật từ ngôi thứ ba (người trần thuật hàm ẩn) là 20/36 truyện ngắn

(chiếm 55%), trần thuật từ ngôi thứ nhất (người trần thuật tường minh) là

16/36 truyện ngắn (chiếm 45%).

1.2.1.2.1 Ngƣời trần thuật hàm ẩn

Đây là hình thức trần thuật truyền thống đã phổ biến trong văn học cổ và

văn học trung đại. Người trần thuật hàm ẩn thường được xác lập trên cơ sở

hình thức trần thuật khách quan (hình thức ẩn khuất của người kể), với mục

đích làm tăng tính chân thực cho câu chuyện nên được tác giả thiết lập ở ngôi

thứ ba số ít, không lộ diện, không nhân vật hóa. Với ngôi thứ ba luôn cho

13

LuËn v¨n th¹c sÜ v¨n häc Ng« ThÞ Yªn

NghÖ thuËt trÇn thuËt trong truyÖn ng¾n §ç BÝch Thóy

phép người kể có thể biết tất cả con người cũng như sự vật, sự việc. Đồng thời

giữ vai trò thống soái trong việc miêu tả, kể chuyện, dẫn chuyện, kể cả những

bí mật trong tâm hồn của những người khác. Có thể coi người trần thuật từ

ngôi thứ ba là ngôi kể tự do nhất, có khả năng bao quát và có trường nhìn

rộng rãi nhất. Từ đó tạo cơ hội thuận lợi cho người thuật chuyện đi sâu vào

ngõ ngách của chuyện kể cũng như lĩnh vực đời sống, nội tâm của các nhân

vật. Người trần thuật ở ngôi kể này có khả năng chứng kiến câu chuyện và có

khả năng thuật lại toàn bộ câu chuyện theo cách riêng của mình. Đây thực

chất là ý đồ trong sáng tạo nghệ thuật của nhà văn.

Trong truyện ngắn của Đỗ Bích Thúy, tác giả sử dụng ngôi trần thuật này

khá nhiều 20/36 truyện ngắn (chiếm 55%). Trước tiên, chúng ta cần khẳng

định ngay, người trần thuật ẩn mình trong truyện ngắn của Đỗ Bích Thúy có

hai dạng. Đó là người trần thuật hàm ẩn không xác định và người trần thuật

xác định.

Người trần thuật hàm ẩn không xác định là người kể chuyện không có tên

gọi cụ thể, không rõ giới tính, lứa tuổi nghề nghiệp, thậm chí đến một lời giới

thiệu về nhân vật này cũng không có. Chứng tỏ, người trần thuật kiểu này

hoàn toàn khách quan đứng ngoài quan sát, miêu tả và kể lại những cử chỉ,

hành động, lời nói của nhân vật một cách gián tiếp. Hay người trần thuật ở

đây có sự biến hóa khôn lường, tạm quên đi giới tính, lứa tuổi, nghề nghiệp để

vừa là người dẫn chuyện, vừa là người ẩn tàng cùng một lúc đóng rất nhiều

vai trong truyện. Đó là những truyện ngắn: Tiếng đàn môi sau bờ rào đá (với

ba nhân vật: ông Chúng, May, mẹ già), Cái ngưỡng cửa cao (với hai nhân

vật: Sương và Sính) , Con dê bốn mắt (với ba nhân vật: Dúng, Dí, Chay). Tất

cả câu chuyện trên, người đọc nhận thấy có sự hòa nhập của nhiều chủ thể

tham gia trần thuật. Gần như xuyên suốt toàn bộ tác phẩm, Đỗ Bích Thúy đã

để cho người trần thuật nhập vào các nhân vật của mình và xóa đi khoảng

cách giữa người trần thuật và nhân vật. Nhưng khi đọc kĩ tác phẩm của chị,

chúng ta vẫn cảm nhận được đằng sau các nhân vật, các sự kiện được kể luôn

14

LuËn v¨n th¹c sÜ v¨n häc Ng« ThÞ Yªn

NghÖ thuËt trÇn thuËt trong truyÖn ng¾n §ç BÝch Thóy

có bóng dáng của một người nào đó đang âm thầm theo dõi, quan sát. Mặc dù

không thật sự nhìn thấy, nghe thấy người kể chuyện nhưng câu chuyện vẫn

được định hình. Đây có thể coi là điểm mới khiến cho truyện của Đỗ Bích

Thúy, nhìn bề ngoài là tương đối khách quan, có giữ khoảng cách với nhân

vật, thậm chí tách mình ra khỏi sự đồng cảm nhất định với nhân vật. Có nghĩa

là Đỗ Bích Thúy chỉ mượn hình thức kể chuyện cũ, truyền thống nhưng cách

khai thác tiếp cận lại vô cùng mới.

Người trần thuật hàm ẩn được xác định trong truyện ngắn của Đỗ Bích

Thúy chính là một chủ thể biết rõ giới tính, lứa tuổi, thậm chí đóng luôn vai

trò của nhân vật. Cụ thể như: người phụ nữ đau khổ tên Kía trong truyện Gió

không ngừng thổi, như chàng trai Dân trong truyện Mặt trời lên, quả còn rơi

xuống, như nỗi oan nghiệt của cô Chía trong truyện Cột đá treo người khiến

người đọc lúc này quên đi sự xuất hiện của người trần thuật mà xem đó là

nhân vật thấu suốt cảnh ngộ của mình. Điều đó nhờ vào những câu văn trần

thuật khá nhịp nhàng, những lời thuật giàu tính biểu cảm và hàng loạt những

hình ảnh so sánh ước lệ.

Từ những dẫn giải nêu trên, chứng tỏ người trần thuật hàm ẩn xác định

hay không xác định trong quá trình trần thuật thì người trần thuật luôn cố

gắng nắm bắt thực trạng vấn đề một cách sâu sắc và khách quan. Cuối cùng,

người trần thuật sẽ trình bày, đánh giá về hiện thực đời sống và phong tục

sinh hoạt đặc sắc của con người miền núi.

Với cách kể chuyện như trên, người trần thuật hoàn toàn tỉnh táo để lôi

cuốn hấp dẫn người đọc tiếp cận hết những mối quan hệ của con người với

con người vùng cao. Một vùng văn hóa còn rất nhiều hủ tục lạc hậu khiến cho

mọi người luôn phải suy nghĩ, trăn trở. Từ đó, nhà văn trẻ Đỗ Bích Thúy có

điều kiện để đưa ra những chính kiến, quan điểm của bản thân về những giá

trị riêng của mỗi người, mỗi cộng đồng dân tộc. Đây cũng là cách chủ thể

giấu mình ẩn tàng sau bước đi và suy nghĩ của nhân vật mà kín đáo bộc lộ

quan điểm chủ quan cá nhân một cách sâu sắc, không lộ liễu. Điển hình như

15

LuËn v¨n th¹c sÜ v¨n häc Ng« ThÞ Yªn

NghÖ thuËt trÇn thuËt trong truyÖn ng¾n §ç BÝch Thóy

người trần thuật hàm ẩn mượn lời nói của nhân vật để nhận xét và đưa ra

những câu hỏi day dứt người đọc về sự cam chịu đau đớn của những người

phụ nữ vùng cao. Đó là nỗi niềm đau đáu của người mẹ sau bao nhiêu năm

làm dâu mà không thể sinh được con cho nhà chồng nên họ chỉ coi mình là

cục đá kê chân cột nhà chồng trong truyện Tiếng đàn môi sau bờ rào đá. Hay

hành động của Vi trong truyện Giống như cái cối nước, mỗi đêm cô lại ra cối

nước buông cần cho nó giã không xuống cối một cách vô vọng, vô vọng như

trong chính tình duyên của mình. Tất cả những cảnh đời ngang trái và đau

khổ của những người trong cuộc đã được người trần thuật hàm ẩn giấu mặt

diễn tả. Cái hay là ở chỗ, tuy người trần thuật giấu mặt ở một góc khuất nào

đó mà người đọc không bao giờ nhận biết được (và có lẽ không cần quan tâm

cũng chẳng sao). Nhưng đó chỉ là hình thức bề ngoài mà người trần thuật

đánh lừa cảm giác của độc giả. Sâu thẳm bên trong, người trần thuật hàm ẩn

vẫn lặng lẽ quan sát, vẫn gián tiếp bày tỏ sự đồng tình ủng hộ và cảm thông.

Có nghĩa là, người trần thuật không lộ diện nhưng vẫn có thể cắt nghĩa được

nguyên nhân mang đến nỗi khổ, sự bế tắc trong sự lựa chọn khát vọng cứ

chực bùng phát rồi lại lịm tắt của những chàng trai, cô gái vùng cao.

Qua lời kể của người trần thuật từ những câu chuyện thế sự đó, người đọc

có thể rút ra bài học về xử thế thấm thía cho từng cảnh đời và thậm chí cả

những cảnh đời có thực ngay chính trong lòng độc giả. Điều đó càng có sức

khái quát lên những triết lý vĩnh hằng về nhân sinh, xã hội, vũ trụ nói chung

mà thế giới loài người luôn mong mỏi.

1.2.1.2.2. Ngƣời trần thuật tƣờng minh

Người trần thuật tường minh là kiểu người kể chuyện xuất hiện trực tiếp

trong tác phẩm. Đọc tác phẩm, người đọc có thể phân định được đặc điểm

tính cách, phong thái trần thuật, quan điểm lập trường, trạng thái tâm lí,

phương hướng lí giải của một nhân tố, một đối tượng trần thuật cụ thể. Kiểu

trần thuật này mới xuất hiện trong văn học Việt Nam đầu thế kỷ. Lúc này, chủ

16

LuËn v¨n th¹c sÜ v¨n häc Ng« ThÞ Yªn

NghÖ thuËt trÇn thuËt trong truyÖn ng¾n §ç BÝch Thóy

thể được “nhân vật hóa” làm người kể chuyện của chính mình với ý thức

hướng nội, tự vấn hoặc chiêm nghiệm.

Người trần thuật tường minh chủ yếu ở ngôi thứ nhất với cách xưng hô

“tôi”. Người trần thuật tường minh ở đây thực chất là tác giả. Có nghĩa là nhà

văn lúc này vừa là nhân vật vừa là người trần thuật. Họ viết tất cả những gì

trong cuộc đời họ đã trải qua, đã chứng kiến và nếm trải, chiêm nghiệm. Tác

giả lúc này đã nhường lời và cho phép người trần thuật thay mặt mình kể lại

câu chuyện theo ý đồ kiến tạo độc lập. Có thể khẳng định, người trần thuật

tường minh có nhiệm vụ là thay mặt tác giả kể lại câu chuyện nên người trần

thuật không còn phải giữ một khoảng cách xa lạ với nhân vật. Đây là lối trần

thuật chủ quan khi người kể chuyện ngôi thứ nhất xưng tôi “là một nhân vật”

trong truyện, chứng kiến các sự kiện và đứng ra kể. Từ đó kéo theo nội dung

kể là tất cả những gì thuộc trình độ và sự hiểu biết của một người kết hợp với

quan điểm đánh giá rất chủ quan của nhân vật ấy.

Tóm lại, truyện ngắn là thể loại thích hợp để sử dụng ngôi thứ nhất. Vì

truyện ngắn ít nhân vật, thường có một cốt truyện. Còn về mặt nguyên tắc thì

chỉ với nhân vật “tôi”, người trần thuật hoàn toàn có khả năng nắm bắt mọi

vấn đề. Đặc điểm trần thuật này rất thuận lợi và phù hợp với những nhân vật

có đời sống nội tâm phong phú, có khả năng tự phân tích, mổ xẻ những diễn

biến tinh tế nhất, trung thực nhất trong sâu thẳm con tim mình. Bằng phương

thức trần thuật này, nhà văn xem ra dễ dàng tiếp cận, đối thoại với người đọc

và người đọc phần nào cảm nhận được cá tính cũng như văn phong của nhà

văn.

Trong năm tập truyện ngắn của Đỗ Bích Thúy gồm có 16/36 truyện ngắn

dưới dạng hình thức người trần thuật tường minh với ngôi kể thứ nhất xưng

“tôi” (chiếm 45%). Hầu hết những truyện ngắn của Đỗ Bích Thúy theo

phương thức này là “khúc xạ qua ý thức của một nhân vật” (trần thuật từ ngôi

thứ nhất) nhưng lại làm hai nhiệm vụ vừa là người kể chuyện làm chứng vừa

là nhân vật tham gia trực tiếp vào cốt truyện. Từ đó người thuật chuyện tường

17

LuËn v¨n th¹c sÜ v¨n häc Ng« ThÞ Yªn

NghÖ thuËt trÇn thuËt trong truyÖn ng¾n §ç BÝch Thóy

minh không chỉ đảm nhiệm chức năng trần thuật nói chung mà còn có khả

năng tự bộc lộ những suy nghĩ, cảm xúc, chiêm nghiệm của cá nhân. Đây có

thể được coi là nhân tố làm nên tính nhân văn cho truyện ngắn Đỗ Bích Thúy.

Thường kiểu người trần thuật này trong truyện ngắn Đỗ Bích Thúy là

thuật lại câu chuyện của chính mình trong quá khứ hay trong sự trở về của

nhân vật “tôi”. Người kể chuyện ở đây được coi là chiếc cầu nối duy nhất nối

liền quá khứ - hiện tại, làm sống lại câu chuyện của nhân vật “tôi” một thời

với giọng kể hồi cố và nhiều băn khoăn, trăn trở. Trong mỗi câu chuyện của

Đỗ Bích Thúy ở dạng thức này, người trần thuật tường minh hiện diện với

một cách thức riêng và tạo được những hiệu ứng thẩm mĩ không giống nhau.

Đó có thể là nhân vật “tôi” đúng nghĩa gần gũi với tác giả với những cảm giác

chênh chao của một người con học tập ở nơi xa, nay trở về quê nhà trong

truyện Đêm cá nổi, Ngải đắng ở trên núi. Đó có thể là nhân vật “tôi” đóng

vai trò là nhân vật nam khác với giới tình của nhà văn như chàng trai trong

truyện Sau những mùa trăng, nhân vật “tôi” là thầy giáo về Tả Khâu dạy học

trong Hẻm núi. Đó có thể là nhân vật “tôi” là một người phụ nữ có tuổi đời

và hoàn cảnh khác xa với nhà văn trong Những buổi chiều ngang qua cuộc

đời . Nhưng qua sự khéo léo diễn tả của người trần thuật thì tác giả cùng với

nhân vật “tôi” có điểm chung. Đó là sự đồng điệu về tình cảm, tư tưởng và

quan điểm để tạo nên một dòng ý thức tâm lí đang hòa cùng một nhịp. Chứng

tỏ, người trần thuật lúc này không đơn thuần chỉ là người dẫn dắt mà còn là

nhân vật truyền tải những suy tư và quan niệm sống.

1.2.2. Điểm nhìn trần thuật trong truyện ngắn Đỗ Bích Thúy

1.2.2.1. Khái quát về điểm nhìn trần thuật

Chúng ta biết, mỗi văn bản tự sự đều có một người đóng vai trò là người

kể chuyện, để kể lại sự kiện xảy ra ở đâu, vào lúc nào và nhân vật tham gia

vào câu chuyện cụ thể ra sao. Người kể chuyện đó kể về cái gì và kể lại ra

sao, ảnh hưởng đến truyện được kể có thành công hay không. Điều đó liên

quan đến vị trí và xuất phát điểm mà từ đó sự kiện được quan sát, được cảm

18

LuËn v¨n th¹c sÜ v¨n häc Ng« ThÞ Yªn

NghÖ thuËt trÇn thuËt trong truyÖn ng¾n §ç BÝch Thóy

nhận và được kể lại là rất quan trọng. Đó là cách hiểu đơn giản nhất về điểm

nhìn.

Điểm nhìn trong văn bản bao giờ cũng là tâm điểm được nhiều nhà nghiên

cứu trên thế giới quan tâm và bàn luận. Điểm nhìn là vấn đề then chốt của kết

cấu văn bản trần thuật, là “vấn đề quan hệ giữa người sáng tạo và cái được

sáng tạo” (Iu. Lốtman). Vào đầu thế kỉ XIX, nhà văn Anna Barbauld là người

đề xuất đầu tiên, đó là “khi nhận thấy mọi sự đều thay đổi, nếu người ta kể

theo ngôi thứ nhất”. Đến cuối thế kỉ XIX, vấn đề này được Henry James và F.

Schlegel trình bày cụ thể hơn. Họ đã xác nhận được điểm nhìn chính là việc

“mô tả cách thức tồn tại của tác phẩm như một hành vi mang tính bản thể

hoặc một cấu trúc hoàn chỉnh, tự trị đối với cá nhân nhà văn” và “Điểm nhìn

là sự lựa chọn cự li trần thuật nào đó loại trừ sự can thiệp của tác giả vào sự

kiện được miêu tả và cho phép văn xuôi trở nên tự nhiên hơn, phù hợp với

cuộc sống hơn. Sang đầu thế kỉ XX, K. Friedeman (1910) rồi Percy Lubbock

(1921) và E. M. Foster (1927) lại tiếp tục đề cập tới điểm nhìn trong tiểu

thuyết. Từ những năm bốn mươi trở đi, vấn đề được nghiên cứu sâu với M.

Scholer, Tz. Tôđôrốp, G. Genette. Từ những năm hai mươi trở đi, điểm nhìn

trở thành một trong những tiêu điểm của nghiên cứu văn học. Các tác giả như:

B. Tômasépxki, M. Bakhtin, V. Vinôgrađốp... trong quá trình nghiên cứu

cũng bàn về điểm nhìn văn bản nói chung.

Về vấn đề điểm nhìn trần thuật, giới nghiên cứu văn học ở trong và ngoài

nước đã đề cập tới khá nhiều. Nhưng cho tới nay, xung quanh thuật ngữ này

vẫn còn nhiều tranh cãi. Riêng về tên gọi cũng có nhiều cách hiểu khác nhau.

Có người cho rằng, khái niệm điểm nhìn ở đây quá rộng, quá chung chung

nên đề xuất với khái niệm hẹp hơn là “nhãn quan” (vision), có người đề xuất

khái niệm “điểm quan sát” (pots of observation), có người đề nghị dùng tiêu

cự trần thuật (focus of narrative). Cuối cùng các nhà nghiên cứu nhận thấy,

khái niệm “điểm nhìn” là dễ hiểu hơn và nội dung của nó phong phú hơn cả.

19

LuËn v¨n th¹c sÜ v¨n häc Ng« ThÞ Yªn

NghÖ thuËt trÇn thuËt trong truyÖn ng¾n §ç BÝch Thóy

Cho nên, trong cuốn luận văn này, chúng tôi vẫn sử dụng thuật ngữ “điểm

nhìn” (point of view) quen thuộc để trình bày.

Nhà nghiên cứu Pospelop trong Dẫn luận nghiên cứu văn học coi điểm

nhìn là vấn đề quan trọng trong tác phẩm tự sự khi “điểm nhìn của người trần

thuật đối với những gì mà anh ta miêu tả” [34;90]. Các nhà lí luận văn học

cũng khẳng định: “Người nghệ sĩ không thể miêu tả, trần thuật các sự kiện về

đời sống được, nếu không xác định cho mình một điểm nhìn đối với các sự

vật, hiện tượng: nhìn từ góc độ nào, xa hay gần, cao hay thấp, từ bên trong ra

hay từ bên ngoài vào... Điểm nhìn trần thuật là một trong những yếu tố hàng

đầu của sáng tạo nghệ thuật” [35;310]. Còn nhà nghiên cứu Nguyễn Thái Hòa

trong Những vấn đề thi pháp của truyện cũng đã chú trọng đến vấn đề điểm

nhìn, đó là “điểm nhìn không phải chỉ là lập trường chính trị xã hội mà tọa độ

thời gian được lựa chọn cho hoạt động kể chuyện, phát triển nội dung, sắp xếp

bố cục, hư cấu thành truyện” [22;122].

Xuất phát từ nhiều quan điểm, cách hiểu trên suy cho cùng mọi người đều

mong muốn tìm ra một cách hiểu tối ưu nhất để giúp những người thực hiện

những công trình nghiên cứu của những tác phẩm tự sự có liên quan trực tiếp

đến vấn đề này sẽ không phải băn khoăn lựa chọn cách gọi. Cuối cùng nhà

nghiên cứu Trần Đình Sử trong Dẫn luận thi pháp học đã đưa ra một định

nghĩa có thể coi là toàn diện về điểm nhìn trần thuật: “Nó không chỉ là điểm

nhìn thuần túy quang học mà còn mang nội dung quan điểm, lập trường, tư

tưởng, tâm lí của con người” [53;182]. Có nghĩa là trần thuật được đặt ở vị trí

nào thì đối với tác phẩm nghệ thuật cũng không thể thiếu vắng điểm nhìn ở vị

trí ấy.

Như vậy về cơ bản các ý kiến nói trên của các nhà nghiên cứu đều chỉ ra

đặc điểm, tính chất chức năng chung của điểm nhìn trong việc nó biểu hiện vị

trí, quan điểm và cả thái độ của chủ thể trần thuật đối với việc trần thuật. Nói

một cách cụ thể hơn thì điểm nhìn chính là phương thức miêu tả, trình bày, là

cách nhìn, cách cảm thụ của người trần thuật về câu chuyện được kể. Khái

20

LuËn v¨n th¹c sÜ v¨n häc Ng« ThÞ Yªn

NghÖ thuËt trÇn thuËt trong truyÖn ng¾n §ç BÝch Thóy

niệm này sẽ được nghiên cứu toàn diện và chuyên sâu hơn khi nó ứng với

ngôi trần thuật (hay ngôi kể) của người trần thuật (hay người kể chuyện).

Có rất nhiều điểm nhìn trần thuật: Điểm nhìn bên ngoài, điểm nhìn bên

trong, điểm nhìn không gian, điểm nhìn di động, điểm nhìn thời gian, điểm

nhìn tâm lí, điểm nhìn của nhân vật được kể. Theo M. Bakhtin, điểm nhìn còn

mang nội dung tư tưởng, ý thức hệ nên có “điểm nhìn tư tưởng và ý thức hệ”

để tuyên bố một chiều mà không cần phải giải thích. Thông thường, điểm

nhìn trần thuật gắn bó mật thiết với ngôi kể, do ngôi kể quy định. Căn cứ vào

ngôi thứ nhất và ngôi thứ ba của người trần thuật, các nhà nghiên cứu đã chia

điểm nhìn trần thuật thành hai loại: Điểm nhìn trần thuật bên ngoài, điểm nhìn

trần thuật bên trong. Tuy nhiên, trong thực tế sáng tác của các nhà văn thì

không thể áp đặt sự quan sát với điểm nhìn một chiều như thế được, đặc biệt

các nhà sáng tác hậu hiện đại. Cho nên, thay vì điểm nhìn cố định một chiều

từ đầu đến cuối tác phẩm thì các nhà văn đã linh hoạt tiến tới sử dụng nhiều

điểm nhìn. Điều đó tạo nên tính chất đa thanh, phức điệu cho tác phẩm. Với

loại điểm nhìn này, nhà văn nhất thiết phải vận dụng đến nhiều ngôi kể.

Trong truyện ngắn của Đỗ Bích Thúy, chúng tôi nhận thấy phần lớn

truyện ngắn của chị viết theo ngôi kể thứ nhất và ngôi kể thứ ba như đã thống

kê ở trên nên chúng tôi chỉ chuyên sâu đi vào khảo sát kĩ ba điểm nhìn trần

thuật : điểm nhìn trần thuật bên ngoài, điểm nhìn trần thuật bên trong và điểm

nhìn trần thuật phức hợp. Nhưng trong ba loại điểm nhìn trên thì điểm nhìn

trần thuật bên trong và điểm nhìn trần thuật phức hợp được chị sử dụng nhiều

hơn cả. Điều đó cho thấy truyện ngắn của Đỗ Bích Thúy đã đạt đến trình độ

cao trong nghệ thuật trần thuật.

1.2.2.2. Điểm nhìn trần thuật trong truyện ngắn Đỗ Bích Thúy

1.2.2.2.1. Điểm nhìn trần thuật bên ngoài

Điểm nhìn trần thuật bên ngoài (hay còn gọi là điểm nhìn trần thuật theo

ngôi thứ ba - tác giả). Đây là điểm nhìn phổ biến trong văn học truyền thống

với cái nhìn thuần túy khách quan, không thuộc về ai. Với điểm nhìn này,

21

LuËn v¨n th¹c sÜ v¨n häc Ng« ThÞ Yªn

NghÖ thuËt trÇn thuËt trong truyÖn ng¾n §ç BÝch Thóy

người kể chuyện thường giấu mặt (ẩn mình) để bao quát hết thảy câu chuyện

rồi kể lại theo ý kiến riêng của mình. Nhưng người kể chuyện ở đây tuyệt đối

không được phát biểu gì về sự kiện và nhân vật, không được đi vào nội tâm

nhân vật và cũng không tham gia vào hoạt động tâm lí của nhân vật. Có

nghĩa, người kể chuyện chỉ đứng im mà quan sát và sau đó làm nhiệm vụ ghi

lại những lời nói và hành động của nhân vật giống như một nhà quay phim

quay lại thước phim đó. Tuy nhiên, điểm nhìn này cũng gặp hạn chế, đó là

người kể chuyện chỉ có thể khái quát những gì diễn ra bên ngoài như hành

động, lời nói, diện mạo của nhân vật. Câu chuyện được triển khai và tự phát

triển chủ yếu nhờ vào các cuộc thoại giữa nhân vật. Đặc biệt là người trần

thuật ở đây luôn giữ một khoảng cách xa với câu chuyện được kể và nói ít

hơn tất cả nhân vật trong tác phẩm.

Khi khảo sát năm tập truyện ngắn của Đỗ Bích Thúy, chúng tôi nhận thấy

thành công chủ yếu của nhà văn Đỗ Bích Thúy là ở cách linh hoạt sử dụng

điểm nhìn trần thuật bên trong và điểm nhìn trần thuật phức hợp. Nhưng trong

số 36 truyện của chị, chúng tôi vẫn thống kê được 04/36 truyện chị sử dụng

điểm nhìn bên ngoài với ngôi kể thứ ba. Đó là những truyện ngắn: Bến đợi,

Đưa em về với mẹ, Và tình yêu đi qua, Trôi trên phù sa. Trong 04 truyện

ngắn được tác giả dùng ngôi thứ ba điểm nhìn bên ngoài, người đọc dễ nhận

ra ngay một người kể chuyện tỏ ra rất bình thản kể lại câu chuyện mà mình

chứng kiến. Ở đây, người kể chuyện dường như ẩn hẳn đi đằng sau câu

chuyện, không lên tiếng và cũng không tỏ thái độ, thậm chí người đọc còn

quên mất sự có mặt của một người đương kể chuyện. Chỉ khi kết thúc câu

chuyện thì họa chăng có những truyện Đỗ Bích Thúy để cho người kể chuyện

lên tiếng và đưa ra quan điểm của mình.

Truyện ngắn Bến đợi, Đỗ Bích Thúy luôn giữ điểm nhìn khách quan từ

đầu đến cuối câu chuyện. Đó là người kể chuyện trung gian giấu mình kể lại

sự trở về của Nhẫn. Nhưng sự trở về của Nhẫn chỉ là cái cớ để người trần

thuật ghi lại tất cả cuộc đời của Nhẫn từ khi còn nhỏ đến khi trưởng thành và

22

LuËn v¨n th¹c sÜ v¨n häc Ng« ThÞ Yªn

NghÖ thuËt trÇn thuËt trong truyÖn ng¾n §ç BÝch Thóy

ra đi. Một loạt những câu kể hồn nhiên chứng tỏ người kể chuyện đã quan sát

từ cái nhìn bên ngoài để miêu tả lại cô bé Nhẫn. Một cô bé cá tính ngày nào

từng là “Thủ lĩnh của bọn trẻ con... tóc vàng hoe như râu ngô, mấy cái răng

cửa bị sún, mỗi khi cười lại hở lợi ra. Nhẫn “chỉ huy” bọn trẻ đâu ra đấy, đứa

nào cũng vâng lệnh răm rắp” [62;8]. Người kể chuyện tiếp tục trở thành người

dẫn chuyện ghi lại những cuộc đối thoại trực tiếp giữa cô bé Nhẫn với thằng

Tí - bạn của cô bé. Người dẫn chuyện ở đây tỏ ra rất trung thành khi thuật lại

nguyên văn câu nói của Nhẫn để một lần nữa chứng minh sự lém lảu, tinh

nghịch của cô:

“Cắm cần câu xong, Nhẫn bảo:

- Tắm sông đi. Mày có muốn bơi không?

- Bơi hả? Muốn chứ. Nhưng Tí... có biết bơi đâu. Với lại, Tí sợ lắm.

- Sợ quái gì. Cứ ngoắng loạn xị như con Mực nhà tao lúc đuổi vịt ấy.

- Dễ thế à?

- Ờ dễ lắm. Xuống nhé!

Nhẫn bắt Tí “kềnh”cởi áo, mặc mỗi chiếc quần đùi rồi lôi tuột xuống

sông:

- Đập đi, đập đi! Đập mạnh vào. Đập như con Mực ấy...

Nhẫn gào lên. Tí thở hổn hển:

- Tí sợ lắm Nhẫn ơi, Tí sợ... thôi, Nhẫn cho Tí lên. Ối!...” [62;09]

Với việc Nhẫn gan lì dạy thằng Tí bơi, kết quả là “Thằng Tí chìm nghỉm.

Đợi cho nó “giã gạo” một hồi Nhẫn mới tóm tóc lôi vào” [62;11].

Nhẫn nghịch ngợm tới mức “bôi đầy nhọ nồi quanh miệng điếu làm bác

Độ bị “vẽ” một vòng tròn xoe, nhom nhem cả chòm râu vàng vì khói thuốc”

[62;05]. Cho đến khi trưởng thành vẫn với cá tính ấy “Nhẫn lên mạn ngược,

dắt lưng toàn bộ số tiền bán được từ đàn gà hơn hai chục con, cô xin vào công

nhân ở một nông trường chè. Không kịp hòa nhập với cơ chế mới - nông

trường làm ăn thua lỗ. Nhẫn xin mở đại lý. Mua tận gốc bán tận

ngọn...”[62;04]. Chỉ bằng một vài đoạn văn nhỏ chứng tỏ Đỗ Bích Thúy đã

23

LuËn v¨n th¹c sÜ v¨n häc Ng« ThÞ Yªn

NghÖ thuËt trÇn thuËt trong truyÖn ng¾n §ç BÝch Thóy

tạo cho mình một điểm nhìn bên ngoài độc đáo. Nhân vật lần lượt được phô

bày tính cách bằng chính hành động và việc làm của mình. Từ đầu đến cuối

câu chuyện này, Đỗ Bích Thúy vẫn giữ điểm nhìn khách quan, người kể

chuyện ấy vẫn hồn nhiên, chân thực kể về Nhẫn một cách say sưa khiến cho

mỗi lời kể dường như còn có cả sự thán phục và khen ngợi.

Bên cạnh, ngôi thứ ba điểm nhìn bên ngoài, người kể chuyện của Đỗ Bích

Thúy còn tỏ ra khách quan lạnh lùng đối với sự thật được kể - một sự thật trần

trụi xót xa. Chẳng hạn truyện Trôi trên phù sa, tác giả dùng lối kể tưởng như

lạnh lùng vô cảm để kể về một bà già nhưng khi đọc xong độc giả lại thấy có

điều gì xót thương và cả sự phẫn nộ thông cảm của nhà văn. Đó là việc bà lão

đổ bệnh không phải do lao động vất vả mà xuất phát từ cái chết của một cậu

bé chui vào vườn nhà bà hái trộm vải. Đến đây, người đọc cứ tưởng nhà văn

sử dụng điểm nhìn bên trong để bộc lộ tâm lí đau đớn dằn vặt của bà lão

nhưng không, người kể chuyện lúc này chuyển hướng đóng vai trò một người

làm chứng lẩn khuất đâu đó để kể lại một cách công bằng khách quan về

những khúc ngoặt trong cuộc đời bà. Đó là cuộc đời của một người đàn bà

không chồng sau nhiều năm bôn ba giờ trở về làng và an phận với mảnh đất

hoang ở cuối làng một cách vất vả nặng nhọc. Ấy thế mà bà vẫn chống chọi

“bữa đói bữa no”. Rồi trong cơn mê bà vẫn ý thức được cuộc đời mình không

bao giờ ốm. Vả nếu có ốm thì cũng là lúc “thu hái xong, mọi thứ khô nỏ, cất

gọn đâu vào đấy, thì “nó” mới quật bà xuống”. Người thuật có lúc dừng lại,

dùng cả cách bình phẩm về bà: “Đằng này... Chữ ốm, chữ bệnh từ trước tới

giờ rơi vào ai thì vào chứ bà thì nó phải chừa ra. Và bà không biết sợ. Vì da

thịt bà muỗi không dám đốt, rắn không dám cắn” [63;28]. Đoạn văn trên,

người kể chuyện tỏ ra lạnh lùng bình thản để kể về một bà lão vẫn còn khỏe

mạnh tinh tường nhưng chứng kiến cảnh đứa trẻ chết một cách quá bất ngờ và

tang thương thì vô hình chung bà lại bị sức mạnh của lòng người làm khuỵu

ngã. Chỉ bằng một đoạn văn nhỏ, chúng ta tưởng góc quan sát của nhà văn với

điểm nhìn bên ngoài là rất hạn chế cho người kể chuyện nhưng Đỗ Bích Thúy

24

LuËn v¨n th¹c sÜ v¨n häc Ng« ThÞ Yªn

NghÖ thuËt trÇn thuËt trong truyÖn ng¾n §ç BÝch Thóy

đã khéo léo đưa đẩy biến hạn chế này trở thành điểm mạnh tạo hiệu quả cho

truyện ngắn của mình.

Ngoài những truyện ngắn có điểm nhìn bên ngoài từ ngôi thứ ba như trên,

chúng tôi nhận thấy Đỗ Bích Thúy còn dùng điểm nhìn bên ngoài từ ngôi thứ

nhất. Tiêu biểu như truyện Kí ức đôi guốc đỏ. Đây là câu chuyện kể về hai

người bạn thân học cùng lớp với nhau từ nhỏ ở các trường tiểu học, trường

dân tộc nội trú huyện và sau này là cùng học với nhau ở một trường đại học.

Nhân vật “tôi” vừa là người trong cuộc vừa là người làm chứng kể lại cuộc

đời và gia cảnh của Tính - thằng bạn thân của nhân vật “tôi”. Nhân vật “tôi”

với vai trò là người dẫn chuyện rất khách quan miêu tả gia cảnh của Tính:

“Nhà Tính nghèo, nghèo tới mức có lúc bánh trước xe đạp cà tàng của nó phải

lồng tới hai chiếc lốp thay cho cái săm đã không thể vá được nữa” [64;32].

Tiếp đến người dẫn chuyện làm nhiệm vụ ghi lại những lời nhận xét của cha

Tính về sự thông minh đột xuất của thằng Tính: “Thằng này như một thứ gien

đột biến, nhà này từ cụ tổ trở đi xưa nay chỉ biết cắm mặt vào đất chứ biết đến

sách vở là gì” và lời nhận xét tự hào của Tính về cha - một người lái xe kéo

pháo lên Điện Biên Phủ: “Bố tớ vừa là người thợ vừa là từ điển sống của tớ

đấy” [64;32].

Với điểm nhìn trần thuật bên ngoài dựa vào ngôi kể tương đối khách

quan, chúng tôi nhận thấy Đỗ Bích Thúy đã tạo cho mình một góc quan sát

thuận lợi để tỉnh táo ghi lại những cảnh đời, những hiện tượng vốn rất phong

phú của môi trường xã hội xung quanh với biết bao mối quan hệ bộn bề của

gia đình, bạn bè và cộng đồng... Qua những câu chuyện rất đỗi bình thường

mà nhà văn đã chớp được và thông qua cách xây dựng điểm nhìn bên ngoài

của mình khiến cho những câu chuyện thế sự ấy trở thành những bài học xử

thế, những triết lí nhân sinh. Với ý thức trách nhiệm cùng với lương tâm của

người cầm bút, Đỗ Bích Thúy đã lặng lẽ quan sát, lúc thì náu mình ở khoảng

cách xa, lúc giả như điềm nhiên bình thản đến lạnh lùng, lúc lại nhập nhòa

25

LuËn v¨n th¹c sÜ v¨n häc Ng« ThÞ Yªn

NghÖ thuËt trÇn thuËt trong truyÖn ng¾n §ç BÝch Thóy

hóa thân vào nhân vật để chứng kiến nỗi đau, niềm hạnh phúc, sự tự hào của

nhân vật.

1.2.2.2.2. Điểm nhìn trần thuật bên trong

Điểm nhìn trần thuật bên trong là loại điểm nhìn được sử dụng đầu tiên

trong các sáng tác văn học thuộc “dòng ý thức”. Theo lí thuyết tự sự học,

người kể chuyện mang điểm nhìn bên trong khi anh ta/chị ta là nhân vật có

mặt trực tiếp ngay trong câu chuyện. Điểm nhìn trần thuật bên trong luôn

được biểu hiện bằng hình thức tự quan sát, tự thú nhận của nhân vật, hoặc

bằng hình thức người trần thuật dựa vào cảm giác, tâm hồn nhạy cảm của

nhân vật để biểu hiện thế giới nội tâm bên trong của nhân vật. Với dạng thức

này thì người kể chuyện sẽ đảm nhiệm vai trò kể chuyện từ đầu đến cuối và

có vai trò to lớn trong việc quyết định cấu trúc tác phẩm cũng như toàn quyền

miêu tả nhân vật khác từ điểm nhìn của bản thân. Có nghĩa là, người kể

chuyện đứng trong tầm sự kiện được kể, có tham gia phần nào vào hoạt động

khi sự kiện xảy ra. Người kể chuyện ở đây cũng chỉ biết và chỉ kể được những

thông tin tương đương với nhân vật trực tiếp tham gia trong tác phẩm. Chính

Genette đã nêu đẳng thức để mô tả kiểu điểm nhìn bên trong: điểm nhìn của

người kể chuyện bằng điểm nhìn của nhân vật (có nghĩa là điểm nhìn bên

trong của người kể chuyện trùng khít với điểm nhìn của nhân vật). Người kể

chuyện đang dùng điểm nhìn của nhân vật để quan sát và kể lại sự kiện. Về

bản chất, điểm nhìn của nhân vật chính là điểm nhìn mà người kể chuyện lấy

đôi mắt của nhân vật thay cho đôi mắt riêng của mình. Chúng ta khảo sát một

số truyện ngắn tiêu biểu của Đỗ Bích Thúy để làm rõ điểm nhìn này.

Trước tiên, chúng ta nhận thấy phần lớn truyện ngắn của Đỗ Bích Thúy

với ngôi kể thứ nhất xưng “tôi” đều mang dáng dấp tự truyện. Cho nên có một

số truyện ngắn của chị không phải truyện chỉ để kể mà còn là để giãi bày tâm

sự. Việc Đỗ Bích Thúy lựa chọn người kể chuyện xưng “tôi” tạo ra hiệu quả

nhất định cho sự sáng tạo nghệ thuật trần thuật của mình. Đặc biệt là với kiểu

truyện vừa kể sự việc vừa diễn tả tâm trạng của chính nhà văn. Với điểm nhìn

26

LuËn v¨n th¹c sÜ v¨n häc Ng« ThÞ Yªn

NghÖ thuËt trÇn thuËt trong truyÖn ng¾n §ç BÝch Thóy

trần thuật bên trong ở ngôi thứ nhất, người kể chuyện vừa là người chứng

kiến vừa là nhân vật trực tiếp tham gia vào câu chuyện. Từ đây, mối quan hệ

giữa người kể chuyện và nhân vật được khẳng định một cách rõ ràng hơn. Đó

là mối quan hệ qua lại luôn hướng về nhau, bổ sung cho nhau. Vì vậy, nhân

vật xưng “tôi” chỉ cần đứng ở một điểm nhìn duy nhất - điểm nhìn bên trong,

người kể chuyện đồng thời là nhân vật cứ nhập thẳng vào tâm trạng của nhân

vật để mà kể, mà giãi bày, mà bộc lộ những tâm sự của mình. Việc nhà văn

lựa chọn kiểu điểm nhìn này chính là để người kể chuyện có thể “độc thoại

nội tâm” một cách tự do linh hoạt. Từ đó, người đọc dễ dàng nhận ra quan

niệm của nhà văn trước vấn đề của cuộc sống, nhân sinh. Qua nhân vật “tôi”

là người kể chuyện, nhà văn có thể bình luận, đánh giá mà vẫn không gây cho

độc giả những cảm giác khiên cưỡng, áp đặt. Sau đó tự mình phân tích, mổ xẻ

và bình giá tâm trạng của mình ra trước người đọc. Tiêu biểu như truyện

ngắn: Ngải đắng ở trên núi, Đêm cá nổi, Sau những mùa trăng, Cạnh bếp

có cái muôi gỗ, Sông còn chảy mãi...

Truyện ngắn Đêm cá nổi là tâm sự của nhân vật “tôi” với bao cảm xúc

xáo trộn đang ùa vào tâm hồn: “Tôi sinh ra ở núi rừng. Tôi ăn học ở thành

phố. Núi rừng là tuổi thơ tôi. Thành phố là tuổi thanh xuân của tôi. Núi rừng ở

sau lưng tôi. Thành phố đang ở trước mặt. Tôi đang đi từ phía trước mặt về

phía sau lưng. Đi về dòng sông Lô, dòng sông quê tôi” [65;123] Ở đây, chúng

ta bắt gặp cái tôi thực của nhà văn Đỗ Bích Thúy khi trở về. Nhà văn đã tìm

cho mình một điểm nhìn bên trong ở một vị trí bằng nhân vật thậm chí trùng

khít với nhân vật để bộc lộ tâm trạng phân thân trải lòng của một người con

với những tháng ngày ăn học ở nơi xa. Những kỉ niệm giờ như ùa về theo mỗi

bước chân của nhân vật “tôi” bước những bước đi thân thuộc trên mảnh đất

quê hương.

Ở truyện ngắn Ngải đắng ở trên núi, với điểm nhìn bên trong ở ngôi thứ

nhất, người kể chuyện đồng thời là nhân vật đang say sưa kể hết chuyện này

đến chuyện khác về gia đình của mình bằng nỗi niềm nhớ thương da diết và

27

LuËn v¨n th¹c sÜ v¨n häc Ng« ThÞ Yªn

NghÖ thuËt trÇn thuËt trong truyÖn ng¾n §ç BÝch Thóy

bằng cả sự day dứt dường như sám hối của mình. Đó là cảm nhận của nhân

vật “tôi” về sự dằn dỗi của người mẹ, về tâm trạng của người em trai khi làm

cán bộ xã nhưng lại phải đối mặt với cái cũ kĩ, cổ hủ ăn sâu trong lòng mẹ.

Chưa hết, xen vào câu chuyện còn tâm trạng xao xuyến của nhân vật “tôi”:

“Lúc này, tôi mới nhận ra một mùi hương quen thuộc xộc lên. Chính cái thứ

hương cay cay, ngòn ngọt, nhằng nhặng đắng đã theo riết tôi, đã níu tôi với

quãng đời thơ ấu bình yên” [65;213]. Đó là thứ rau ngải đắng mà nhân vật

“tôi” dù đi xa tận chân trời góc bể thì trong lòng vẫn thổn thức, đau đáu một

nỗi niềm rưng rưng khôn tả. Có phải chăng thứ rau đó tuy tầm thường nhưng

lại luôn nhắc nhở con người xa quê nhớ về cội nguồn.

Truyện ngắn Sau những mùa trăng, lại là một trạng thái khác của nhân

vật “tôi” trở về quê nhà. Bằng cái tôi tự thuật, người kể chuyện không chỉ

cung cấp “chuyện kể” mà còn tự bộc lộ về bản thân với những mảnh kí ức

chắp nối ngổn ngang của mình. Từ điểm nhìn bên trong, câu chuyện cũng

chính là hồi ức của nhân vật “tôi” với nỗi niềm khắc khoải, trăn trở rất khó

bộc bạch khi phải chứng kiến cảnh chị dâu góa bụa nén chịu cảm xúc yêu

đương của mình: “Từng đêm, từng đêm, tôi nằm cứng đơ như khúc gỗ,

nghiến mỏi hàm răng nhìn chị hai lần, ba lần đứng lên mang dây lanh ra buộc

cửa, buộc thêm, buộc thêm, thêm mãi” [65;344]. Phải chăng, nhân vật “tôi”

trong truyện đã có cảm tình với chị nhưng rất khó có thể diễn tả thành lời.

Cho nên, truyện như một dòng chảy miên man để nhân vật “tôi” vừa như có

sự thương cảm của người em chồng đối với chị dâu vừa như xao động chút

tình cảm của trai gái khi yêu nhau. Điều đó càng làm cho nhân vật “tôi” lại

một lần nữa ra đi cảm thấy chênh chao...

Thông qua một số truyện ngắn của Đỗ Bích Thúy với điểm nhìn trần thuật

bên trong thuộc ngôi thứ nhất, chúng ta nhận thấy được sự phân thân trải lòng

của nhân vật trữ tình. Đây là nỗi niềm của nhân vật hay cũng chính là của

người kể chuyện, kể về cuộc đời, kể về những day dứt trong lòng, kể về sự ăn

năn. Có thể nói, truyện ngắn với ngôi kể thứ nhất thì ưu thế của nó là tạo nên

28

LuËn v¨n th¹c sÜ v¨n häc Ng« ThÞ Yªn

NghÖ thuËt trÇn thuËt trong truyÖn ng¾n §ç BÝch Thóy

tính đáng “tin cậy” cho câu chuyện. Nhân vật “tôi” thỏa sức bộc bạch, suy

ngẫm trong dòng độc thoại. Tất cả đều nhấn mạnh một điều dù nhân vật “tôi”

có đi xa, lúc này không còn là người con của quê nhà nhưng trong lòng nhân

vật “tôi” luôn đau đáu nghĩ về quê hương, nghĩ về con người, nghĩ về những

cái gì quen thuộc với cả tấm lòng yêu, nhớ da diết. Đến đây, chúng ta thấy cái

tôi của người kể chuyện, của nhân vật cũng chính là cái tôi đồng cảm thực

chất của chính nhà văn. Thông qua hình tượng người kể chuyện ở ngôi thứ

nhất, chị đã bày tỏ cái tôi của mình một cách chân thành, cởi mở. Cách xây

dựng điểm nhìn trần thuật từ bên trong này cho thấy Đỗ Bích Thúy là người

có chiều sâu nội tâm. Chị luôn cảm nhận về quê hương mình bằng nỗi niềm,

bằng những cảm xúc lắng đọng. Chính người kể chuyện trong những truyện

ngắn này vừa là nhân vật vừa là người dẫn chuyện đồng thời là tác giả khiến

cho truyện ngắn Đỗ Bích Thúy tràn ngập các lớp tâm trạng đan xen, linh hoạt.

Tâm trạng lúc thì của nhân vật, có lúc của chính tác giả, có khi tách ra lúc lại

hòa làm một. Và chỉ có điểm nhìn trần thuật từ bên trong ngôi thứ nhất mới

giúp nhà văn bộc bạch thẳng thắn và chân thật đến như vậy.

Cùng với các truyện ngắn có điểm nhìn trần thuật bên trong từ ngôi thứ

nhất thì truyện ngắn Đỗ Bích Thúy còn sử dụng điểm nhìn trần thuật bên

trong từ ngôi kể thứ ba. Trong truyện, từ đầu đến cuối nhà văn tạo dựng cho

nó một “hoàn cảnh”, một “môi trường” để cho nhân vật tự bộc lộ những dòng

cảm xúc và cả những suy tư triền miên của mình. Suy cho cùng, với điểm

nhìn trần thuật bên trong thuộc ngôi thứ ba thực chất vẫn là hình thức mang

tính chất tự truyện. Thay vì trần thuật ngôi thứ nhất nhà văn biến tấu ở ngôi

thứ ba để đánh lừa cảm giác của độc giả. Tiêu biểu như những truyện: Tiếng

đàn môi sau bờ rào đá, Mặt trời lên, quả còn rơi xuống, Gió không ngừng

thổi...

Trong truyện ngắn Tiếng đàn môi sau bờ rào đá, điểm nhìn bên trong nổi

bật nhất chính là May - con gái ông Chúng vào thời điểm cô đã lớn khôn,

nhận biết đâu là đúng - sai, phải - trái nhưng khi đặt vào hoàn cảnh của mình

29

LuËn v¨n th¹c sÜ v¨n häc Ng« ThÞ Yªn

NghÖ thuËt trÇn thuËt trong truyÖn ng¾n §ç BÝch Thóy

thì cô khó có thể nhận diện được. Đứng trước cảnh huống gia đình, May có

đến hai người mẹ, một người sinh và một người nuôi dưỡng. Mẹ Hoa sinh ra

May và thằng Trài nhưng lại bỏ chúng mà ra đi, còn mẹ Mao không sinh được

con nhưng lại chăm sóc nuôi dưỡng chúng từ lúc mới lọt lòng cho đến khi

trưởng thành. Sau bao nhiêu năm tháng, tưởng như cuộc sống của gia đình

Mao yên ổn thì mẹ Hoa lại trở về khiến cho tâm trạng của May rối bời, không

biết xử trí ra sao? May nói với bố “Mẹ Hoa chỉ như con thú hoang ở đâu lạc

vào nhà mình thôi” [65;26]. Nhưng thẳm sâu trong tình cảm của May - cô lại

không nghĩ như thế. Vì “May biết, lúc nào phía sau mình, bên cạnh mình

cũng có ánh mắt của mẹ Hoa nhìn mình” [65;27]. Thậm chí “May đã giật

mình, đã tự dưng đau buốt trong ngực” [65;27]. Tất cả cho thấy tâm trạng của

May rất khó có thể diễn tả. Lúc thì May giận mẹ Hoa, lúc thì May lại cảm

thấy mẹ Hoa đáng thương.

Hay việc May bắt gặp mẹ già ngồi cùng “người ấy” - bạn của mẹ già ngày

xưa yêu nhau say đắm nhưng không đến được với nhau. Nhưng khi trở về

trước sự than thở của mẹ “con gái à, làm dâu mà không làm mẹ thì chỉ là cục

đá kê chân cột nhà chồng thôi” [65;30]. Lời nói đó của mẹ già khiến May “ứa

nước mắt” và nhận ra “hai mươi năm nay mẹ già vẫn nghĩ mình chỉ là cục đá,

mẹ già không nhận chị em May hay sao? Mẹ già định trả chị em May cho mẹ

Hoa như người ta mượn ngựa rồi trả ngựa hay sao? Trả xong rồi thì mẹ già

làm gì nữa? Chẳng lẽ bằng ấy tuổi rồi định sang nhà khác tiếp tục làm cột đá

kê cột?” [65;31].

Bằng những dòng tâm sự, những suy nghĩ miên man của nhân vật May,

chúng ta cảm nhận và thông cảm với nỗi lòng của cô khi trong cuộc đời cô có

đến hai bà mẹ. May không thể “nhất bên trọng nhất bên khinh” được. Cái

nhìn và sự cảm thông thổn thức bên trong của May phần nào biểu hiện nỗi

lòng và sự thương cảm cho cảnh đời éo le của hai bà mẹ.

Truyện Gió không ngừng thổi, nhà văn dùng điểm nhìn bên trong của

nhân vật Kía để miêu tả dòng ý thức, tâm trạng của Kía - một người mẹ không

30

LuËn v¨n th¹c sÜ v¨n häc Ng« ThÞ Yªn

NghÖ thuËt trÇn thuËt trong truyÖn ng¾n §ç BÝch Thóy

sinh nổi cho nhà chồng đứa con nối dõi. Điều đó đã làm Kía ân hận lắm rồi.

Chưa hết đời Kía còn một nỗi đau đớn đến nhục nhã ê chề hơn khi bị thằng

Vàng Chỉn Tờ làm nhục ở nương ngô thành ra có con. Đây là nỗi đau Kía

phải âm thầm giấu kín “một mình mình biết một mình mình hay”.

Cả hai điểm nhìn trên có mặt ưu điểm và cũng có mặt nhược điểm. Bởi

mỗi kiểu điểm nhìn thì lại thiên lệch về một lĩnh vực. Điểm nhìn trần thuật

bên ngoài thì mặt mạnh của nó là ở cái nhìn khách quan còn điểm nhìn trần

thuật bên trong lại mạnh ở cái nhìn chủ quan. Cho nên, truyện của Đỗ Bích

Thúy chủ yếu được xây dựng trên sự tổng hòa của hai điểm nhìn ấy mà chúng

tôi gọi là điểm nhìn trần thuật phức hợp.

1.2.2.2.3. Điểm nhìn trần thuật phức hợp

Chúng ta biết, trong văn học truyền thống thường có cái nhìn tương đối ổn

định. Nghĩa là người kể chuyện miêu tả, tái hiện đời sống chủ yếu từ ngôi thứ

ba. Cho nên, điểm nhìn của văn học trước đây về cơ bản thường xuất phát từ

điểm nhìn bên ngoài. Nhưng sang thế kỉ XX, mỗi nhà văn lại tìm tòi cho mình

cách sáng tạo mới và con mắt của họ bây giờ không chỉ dừng lại ở việc quan

sát chỉ duy nhất một điểm nhìn cụ thể bên trong hay bên ngoài mà phải là sự

đan xen và dịch chuyển liên tục điểm nhìn. Có như vậy mới tạo nên tính phức

điệu đa thanh của tác phẩm.

Đọc tác phẩm của Đỗ Bích Thúy, độc giả không thể phủ nhận tính chất đa

thanh phức điệu có trong tác phẩm của chị. Có thể nói nét riêng độc đáo trong

nghệ thuật trần thuật của Đỗ Bích Thúy không chỉ ở mặt xây dựng nhân vật

mà còn căn cứ vào việc xây dựng hình tượng người kể chuyện của nhà văn.

Chính lẽ đó, Đỗ Bích Thúy đã có ý thức hướng sự giao tiếp sáng tạo của mình

về phía độc giả, đứng ngang hàng cùng với độc giả và đề cao khả năng đối

thoại, độc thoại nhiều tầng, nhiều lớp, nhiều phân đoạn trong tác phẩm. Vì

thế, hình tượng người kể chuyện trong các sáng tác của Đỗ Bích Thúy luôn có

sự dịch chuyển điểm nhìn trần thuật từ ngôi thứ nhất, sang ngôi thứ ba với cả

điểm nhìn bên trong và điểm nhìn bên ngoài một cách linh hoạt. Cho nên,

31

LuËn v¨n th¹c sÜ v¨n häc Ng« ThÞ Yªn

NghÖ thuËt trÇn thuËt trong truyÖn ng¾n §ç BÝch Thóy

việc sử dụng cùng một lúc nhiều điểm nhìn được đan xen, đồng hiện biến hóa

một cách khôn lường đã tạo ra hiệu ứng đặc biệt cho nghệ thuật kể chuyện

của Đỗ Bích Thúy.

Khi đi vào khảo sát năm tập truyện ngắn của Đỗ Bích Thúy, chúng tôi

nhận ra một đặc điểm chung trong việc sử dụng điểm nhìn trần thuật phức

hợp. Đó là việc ban đầu kể chuyện sau đó đan xen giữa việc kể và bộc lộ tâm

trạng khiến cho những câu chuyện được kể của Đỗ Bích Thúy tỏ ra tự nhiên

hợp cảnh hợp tình hơn.

Truyện ngắn Cột đá treo người được quán xuyến chủ yếu trong tác phẩm

là ngôi kể thứ ba với điểm nhìn trần thuật bên ngoài. Truyện kể về một cô

Chía với nguyên nhân bố mẹ nợ tiền của nhà lý trưởng không lấy gì trả được

nên Chía trở thành đứa đi ở để xóa nợ cho gia đình. Từ khi về nhà lý trưởng,

Chía chỉ biết có làm và làm, mặt nhọ nhem nhọ thỉu quanh quẩn bên lò nấu

rượu, dưới chuồng ngựa. Từ điểm nhìn quan sát bên ngoài của người kể

chuyện về cuộc đời của nhân vật Chía với ngôi kể thứ ba, nhà văn đã linh hoạt

dịch chuyển điểm nhìn khiến cho điểm nhìn có sự thay đổi: “Chía cắn chặt

môi, ê cả răng, đưa tay bịt tai. (Điểm nhìn bên ngoài của người kể). “Người

mày toàn mùi nước đái ngựa” thằng Lềnh đã nói thế, Chía còn ra chỗ đông

người cho người ta bịt mũi à? (điểm nhìn bên ngoài trong nhận xét của Lềnh).

Bọn nhà giầu, con trai con gái thì cũng giống như thằng Lềnh hết. Chía lại

nhớ đến Váng. Xử Váng rồi, còn Chía đấy, lý trưởng nghĩ Chía đã làm vợ

chồng với Váng rồi, không thèm gọi Chía nữa, cũng không cho Chía tiếp tục

nấu rượu mà đuổi xuống chuồng ngựa (điểm nhìn bên trong của Chía khi

nghĩ về tình cảnh của mình). Từ đấy, Chía thành đứa chăn ngựa gái đầu tiên

cho lý trưởng, người lúc nào cũng mùi hôi nước đái, mùi phân ngựa... Chía

như cái vỏ chuối người ta ăn rồi vứt đi (điểm nhìn của người kể chuyện như

một lời nhân xét để độc giả thông cảm, đau cùng với nỗi đau với nhân vật)”

[65;101]

32

LuËn v¨n th¹c sÜ v¨n häc Ng« ThÞ Yªn

NghÖ thuËt trÇn thuËt trong truyÖn ng¾n §ç BÝch Thóy

Truyện ngắn Mặt trời lên, quả còn rơi xuống, nhân vật chính được kể ở

đây là Dân - một anh chàng có vợ nhưng có biệt tài thổi sáo hay, ném còn giỏi

và lại là một cán bộ tham gia công tác đoàn xã rất năng nổ của Tả Choóng.

Câu chuyện được dẫn dắt từ điểm nhìn bên ngoài của người kể chuyện để

miêu tả về Dân với những đặc điểm hội tụ của một chàng trai hoạt bát, xốc

vác với mọi công việc được giao. Xen kẽ, người kể chuyện dùng điểm nhìn

trần thuật bên trong ngôi thứ ba số ít để nêu lí do, nguyên nhân khiến tâm

trạng của Dân xao xuyến. Đó là việc Dân đi dự hội nghị và gặp lại người bạn

gái ngày xưa tên Thinh cũng là cán bộ đoàn ở Thèn Phàng. Cũng có lúc,

người kể chuyện vừa là người dẫn dắt dùng điểm nhìn trần thuật bên ngoài và

điểm nhìn trần thuật bên trong của nhân vật để xen kẽ miêu tả tâm trạng rối

bời của Dân: “Cô gái cứ ỡm ờ. Dân lưỡng lự. Cái đầu thì muốn về... , vậy mà

Dân đi mãi chưa về (điểm nhìn của người kể). Đầu nghĩ vậy nhưng đôi chân

chưa chịu đi ngay. Người đâu mà lúm đồng tiền cứ sâu hun hút thế kia (điểm

nhìn của Dân) Nhưng cuối cùng, nói vài câu không đầu không cuối nữa thì

Dân cũng về được nhà (điểm nhìn của người kể). Tới nhà thấy vợ đang xay

ngô...Dân lúng túng mãi mới kéo được vợ ra, lao vào xay hùng hục. Dân

muốn xay nát cái lúm đồng tiền ở ngoài hội đi (điểm nhìn của Dân)” [04;199].

Có lúc, người kể chuyện nhập nhòa vào cả Dân và người mẹ để kể khiến cho

câu chuyện được tiếp nối. Từ đó, người kể chuyện không chỉ nói được tâm

trạng của Dân mà vô hình chung ẩn đi để nói hộ tâm trạng của người mẹ khi

cảm nhận được con trai mình có sự thay đổi nên phải khuyên giải: “Với mẹ,

chưa lúc nào Dân khôn bằng người ta (điểm nhìn của người kể). Có lúc Dân

nghĩ cứ để mẹ nói, nói thì nghe, nghe xong rồi không làm theo, mẹ ở một chỗ

làm sao biết được Dân đi đâu, làm gì. Nói mãi cũng mỏi miệng thôi (điểm

nhìn bên trong để miêu tả tâm trạng của Dân vì cái nhìn xao xuyến của

“người ấy” mà đôi lúc Dân đã có những suy nghĩ cãi lại mẹ). Nhưng chẳng có

gì giấu được mẹ (điểm nhìn của người kể chua vào giống như một lời bình,

nhận xét về sự đời cũng như việc không ai có thể hiểu con mình bằng chính

33

LuËn v¨n th¹c sÜ v¨n häc Ng« ThÞ Yªn

NghÖ thuËt trÇn thuËt trong truyÖn ng¾n §ç BÝch Thóy

người mẹ). Nhìn Dân từ đầu đến chân là mẹ biết trong bụng Dân sáng hay tối

(điểm nhìn của mẹ với kinh nghiệm của người từng trải). Dân thấy nói cho mẹ

nghe được điều gì còn khó hơn vác cày lên nương (điểm nhìn của Dân)... Cứ

thế, Dân như con cá mắc vào lưới cạn, càng giãy càng khó ra, càng dãy càng

mệt. (điểm nhìn của người kể quan sát được sự vướng mắc trong vòng luẩn

quẩn của nhân vật với một tâm trạng rối như tơ vò)” [65;205].

Hay truyện Mần tang trong thung lũng, với điểm nhìn bên ngoài miêu tả

sự trở về bản Tả Gia của Liêu và để rồi Liêu lại phải chứng kiến biết bao câu

chuyện vui buồn của bản. Đặc biệt là nỗi buồn truyền kiếp với một huyền

thoại do người trong họ lấy nhau nên trời phạt. Nhưng Liêu không tin vào

những huyền thoại chết người đó của bản. Trong một lần Liêu đưa Nhi và

Nhưng xuống chợ huyện để bán ngô, bán những thứ như túi thêu, vỏ địu, vải

màu do bàn tay khéo léo của những cô gái Tả Gia làm ra nhưng không một ai

đứng lại xem hàng hỏi giá. Chỉ có một đám con trai bản khác biết được câu

chuyện huyền thoại ấy không thông cảm lại còn trêu chọc một cách ác ý khiến

cho Nhưng và Nhi với đôi mắt ầng ậc nước: “Mặt trời nghiêng thì chợ tan.

Hai quẩy tấu giờ nặng hơn cả lúc đi, lại mang chất lên lưng ngựa. Con ngựa bị

bỏ quên không được ăn uống thúc mãi không chịu đi nhanh. Không ai nói với

ai câu nào (người kể chuyện đã quan sát một cách khách quan dõi theo được

những bước chân trở về nặng nề của ba chị em). Vừa đi khuất chợ đột nhiên

Nhi giữ con ngựa lại, bảo Liêu khiêng quẩy tấu ngô (điểm nhìn của Nhi). Liêu

còn chưa kịp hiểu chuyện gì thì Nhi đã lôi xềnh xệch cả hai quẩy tấu ra phía

bờ vực rồi bất ngờ lật nghiêng, dốc tuột tất cả xuống vực. (điểm nhìn của

Liêu). Nhưng đứng yên, mắt mở to chằm chằm nhìn em, trông như mắt người

không có hồn (điểm nhìn của Nhưng). Đến lúc Nhi thất thểu kéo lê hai quẩy

tấu rỗng không trở lại chỗ con ngựa thì Nhưng lao tới giật lấy cả hai quẩy tấu

vung tay ném nốt xuống vực. (điểm nhìn của người kể chuyện một lần nữa

chứng kiến cảnh chị em Nhưng và Nhi đau đớn, tức giận cuộc đời đến đỉnh

điểm phải dùng hành động của mình để thỏa mãn sự dằn dỗi ấy). Mọi việc

34

LuËn v¨n th¹c sÜ v¨n häc Ng« ThÞ Yªn

NghÖ thuËt trÇn thuËt trong truyÖn ng¾n §ç BÝch Thóy

xảy ra nhanh quá, Liêu đứng như bị chôn chân một chỗ (điểm nhìn của Liêu

khi phải chứng kiến sự việc đến một cách bất ngờ không kịp phản ứng, không

kịp trấn an tinh thần của họ). Hai chị em Nhi ôm chặt lấy Liêu, khóc òa lên.

Dưới kia, sâu hun hút, tiếng nước đập vào mỏm đá nghe rào rào. Nước cuốn

tất cả đi, không giữ lại thứ gì (điểm nhìn của người kể một lần nữa chứng

minh mình là người kể chuyện dẫn dắt câu chuyện cho độc giả tiện theo dõi,

vừa là người trong cuộc để thông cảm với nỗi đau của họ hơn)” [65;189].

Với kiểu lựa chọn điểm nhìn như vậy, ta còn bắt gặt ở các tác phẩm khác

như: Giống như cái cối nước, Cạnh bếp có cái muôi gỗ, Lặng yên dưới vực

sâu...

Đến đây, ta có thể khẳng định nhà văn Đỗ Bích Thúy sử dụng linh hoạt

nhiều điểm nhìn, nhiều cách kể, lối kể và cả sự đánh giá khác nhau về nhân

vật. Nhưng có một điểm chung dù cảm nhận đánh giá như thế nào thì nhân vật

của Đỗ Bích Thúy hiện lên chủ yếu là những nhân vật đáng thương, chịu

chung một số phận - số phận của đồng bào các dân tộc thiểu số chưa thoát

khỏi những quan niệm ấu trĩ, lệch lạc. Điều đó được thể hiện qua giọng điệu

cảm thương xót xa của nhà văn.

Bên cạnh điểm nhìn trần thuật phức hợp, người kể chuyện vẫn ở vị trí bên

ngoài soi cái nhìn thâm nhập của mình trong tác phẩm, chúng tôi còn nhận

thấy đây là sự dụng công rất khéo của Đỗ Bích Thúy. Vì với điểm nhìn phức

hợp, người kể chuyện không những đồng cảm cùng nhân vật mà nhà văn còn

bộc bạch, thể hiện được quan niệm của mình về nghệ thuật, về việc sống và

viết. Ví dụ như trong truyện Mặt trời lên, quả còn rơi xuống, lời thổ lộ, bộc

bạch của nhân vật Dân sau lần gặp Thinh ở hội nghị trở về. Để rồi nhà văn

mượn lời người mẹ nói lên quan niệm sống của gia đình mình hay chính là

quan niệm sống chân thật của người dân miền núi “Chua cũng là rượu, xấu

cũng là vợ mình. Vợ có què chân, què tay thì cũng phải thương lấy” [65;202].

Hay thông qua nhân vật Sương trong truyện Cái ngưỡng cửa cao. Một cô gái

miền xuôi lên vùng cao dạy học. Trải qua những tháng ngày gian khổ nơi đây,

35

LuËn v¨n th¹c sÜ v¨n häc Ng« ThÞ Yªn

NghÖ thuËt trÇn thuËt trong truyÖn ng¾n §ç BÝch Thóy

cô rút ra được bài học hay đó chính là quan niệm của tác giả khi nghĩ về quy

luật cuộc đời “trên cõi đời rộng lớn này, mỗi người đã có một quỹ đạo, không

ai đi lẫn của ai. Đi xa hay gần, vòng rộng hay hẹp, đều đã được ấn định trước

(...) Con người, dù tốt hay chưa tốt, dù đẹp hay không đẹp, dù còn trẻ hay đã

qua tuổi trẻ, sớm hay muộn thế nào cũng có lúc dừng lại, hoặc đưa người

khác đi chung đường với mình, hoặc tự mình đi vào đường đời của người ta.

Đi mãi, đi đến lúc chết” [65;58], hoặc “Có những thứ người ta muốn nhớ mà

không nhớ được, lại có những thứ muốn quên đi mà không thể quên được”

[65;63].

Thông qua việc khảo sát và đi sâu vào nghiên cứu năm tập truyện của Đỗ

Bích Thúy, chúng tôi nhân thấy cách xây dựng, tổ chức người trần thuật và

điểm nhìn trần thuật trong truyện của chị đã bắt đầu có sự cách tân, đổi mới rõ

rệt. Là người con của quê hương, Đỗ Bích Thúy không chỉ là người viết, chị

còn là người trong cuộc, giống như người trong cuộc mà ở từng trường hợp

cụ thể để xây dựng lên ý tưởng thật sâu sắc cho tác phẩm của mình. Tất nhiên

trong cách phân chia của chúng tôi về người trần thuật tường minh, người trần

thuật hàm ẩn và điểm nhìn trần thuật bên ngoài, điểm nhìn trần thuật bên

trong, điểm nhìn trần thuật phức hợp chỉ ở mức độ tương đối. Bởi mỗi tác

phẩm nó giống như một vườn hoa muôn màu. Với khuôn khổ hạn chế của

cuốn luận văn, chúng tôi cũng chỉ khám phá nhận diện những bông hoa tinh

tú và đặc sắc nhất trong cả vườn hoa nghệ thuật của nhà văn Đỗ Bích Thúy.

36

LuËn v¨n th¹c sÜ v¨n häc Ng« ThÞ Yªn

NghÖ thuËt trÇn thuËt trong truyÖn ng¾n §ç BÝch Thóy

CHƢƠNG 2. NGHỆ THUẬT TỔ CHỨC KẾT CẤU VÀ CỐT TRUYỆN

TRONG TRUYỆN NGẮN ĐỖ BÍCH THÚY

2.1. Nghệ thuật tổ chức kết cấu trong truyện ngắn Đỗ Bích Thúy

2.1.1. Khái niệm về kết cấu và kết cấu trần thuật

2.1.1.1. Kết cấu

Kết cấu là phương diện được coi là cơ bản của sáng tác nghệ thuật. Một

sáng tác cần phải có kết cấu để tạo cho văn bản nghệ thuật của mình trở thành

một chỉnh thể. Khi nói đến kết cấu, chúng ta thường xem tác phẩm giống như

một công trình kiến trúc. Công trình ấy đòi hỏi người nghệ sĩ ngôn từ phải

biết nhào nặn vốn sống của mình, phải tổ chức các chất liệu sống trong

khoảng thời gian và không gian nhất định để tạo nên một chỉnh thể mang giá

trị cao nhất. Để có được điều đó, việc định hình tổ chức nên một kết cấu độc

đáo, đòi hỏi người viết phải không ngừng học hỏi và sáng tạo.

Theo Từ điển thuật ngữ văn học: “Kết cấu là sự toàn bộ phức tạp và sinh

động của tác phẩm” [21;131].

Còn cuốn Lí luận văn học của Hà Minh Đức (chủ biên) nêu: “Kết cấu là

sự tạo thành và liên kết các bộ phận trong bố cục của tác phẩm, là sự tổ chức,

sắp xếp các yếu tố, các chất liệu tạo thành nội dung của tác phẩm trên cơ sở

đời sống khách quan và theo một chiều hướng tư tưởng nhất định” [18;143].

Theo khái niệm này thì kết cấu chính là một yếu tố của hình thức.

Lê Tiến Dũng trong cuốn Tìm hiểu tác phẩm văn học cũng nêu: “Kết cấu

là cách tổ chức, sắp xếp liên kết các nhân vật, sự kiện, các cảm xúc, các yếu

tố trong tác phẩm thành một chỉnh thể nghệ thuật thống nhất theo ý đồ nghệ

thuật và đặc trưng nghệ thuật nhằm làm cho tác phẩm có giá trị nghệ thuật cao

nhất” [14;93].

Với khái niệm về kết cấu dường như đã có sự mở rộng biên độ. Bởi theo

thời gian, nhiều nhà lí luận khoa học hiện đại đã làm mới và sâu sắc thêm khái

niệm kết cấu. Họ xét khái niệm xoay quanh bốn nội dung cơ bản như sau: kết

37

LuËn v¨n th¹c sÜ v¨n häc Ng« ThÞ Yªn

NghÖ thuËt trÇn thuËt trong truyÖn ng¾n §ç BÝch Thóy

cấu là thực thể; kết cấu là quan hệ; kết cấu là quy tắc, trật tự, lôgic; kết cấu là

phương pháp và mô hình.

Với bốn nội dung trên, nhà nghiên cứu Trần Đình Sử đã tổng hợp và đưa

ra khái niệm: “Kết cấu, cấu trúc vô luận là tổ chức vật thể, quan hệ hay quy

tắc, phương pháp, mô hình đều là yếu tố tạo thành văn bản, là thực thể không

thể bỏ qua trong quá trình sáng tác và đọc hiểu văn bản. Bất cứ văn bản thuộc

thể loại nào, trong quá trình sáng tác hay đọc đều không thể không xử lí quan

hệ tổ hợp giữa các bộ phận. Văn bản trong quá trình tổ hợp không tuân thủ

theo một quy tắc, trật tự nhất định. Kết cấu là bản thân tổ chức của văn bản,

không thể có văn bản vô kết cấu” [53;156].

Vì vậy, nhà văn khi muốn lựa chọn một kết cấu nào đó cần phải tính toán

làm sao cho kết cấu mà mình lựa chọn đạt được kết quả tối ưu nhất. Kết cấu

ấy nâng cao được sức biểu hiện của đề tài, chủ đề, cốt truyện, các yếu tố ngoài

cốt truyện và tăng cường tác động vào tất cả những yếu tố liên quan đến nghệ

thuật và tư tưởng của tác phẩm.

Đặc biệt, khi vận dụng vào văn học, tác phẩm thường được phân chia

thành hai cấp độ kết cấu bề mặt và kết cấu bề sâu (hay còn gọi là kết cấu trần

thuật và kết cấu hình tượng). Cho nên, trong phạm vi cuốn luận văn này,

chúng tôi chỉ đi sâu vào kết cấu bề mặt (kết cấu trần thuật).

2.1.1.2. Kết cấu trần thuật

Kết cấu trần thuật là một phần không thể thiếu của một tác phẩm văn học.

Bởi nó là cái sườn cốt ban đầu khi định hình cho nhà văn một sự lựa chọn.

Lê Tiến Dũng trong cuốn Tìm hiểu tác phẩm văn học đưa ra cách hiểu

của mình về kết cấu trần thuật như sau: “Cấp độ kết cấu trần thuật, thường

được xem là bố cục, là kết cấu bề mặt, bao gồm sự sắp xếp, phân bố các phần

của nội dung vào các chương, hồi, tiết, đoạn, màn, lớp trong văn bản (...). Sâu

hơn nữa là đi vào sự tương quan giữa các phần, đoạn đó với sự trần thuật nội

dung trong các phần, đoạn” [14;94]. Ở cấp độ này, chúng ta thường xem xét

38

LuËn v¨n th¹c sÜ v¨n häc Ng« ThÞ Yªn

NghÖ thuËt trÇn thuËt trong truyÖn ng¾n §ç BÝch Thóy

xem cuốn tiểu thuyết có mấy chương, hay bài thơ này thường có mấy đoạn,

vở kịch này có mấy hồi v.v.

Cuốn Giáo trình lí luận văn học nêu vấn đề rộng hơn: “Kết cấu bề mặt

bao gồm nhiều tầng bậc: cách tổ chức văn bản ngôn từ, hệ thống trần thuật, hệ

thống sự kiện, hệ thống hình tượng. Kết cấu bề mặt là sự tổ chức, sắp xếp

ngôn từ, văn xuôi hay văn vần, thơ luật hay thơ tự do. Kết cấu bề mặt là tổ

chức các bộ phận của văn bản. Nó bao gồm việc bắt đầu, kết thúc ở đâu, cái

nào kể trước, cái nào kể sau, chỗ nào kể chi tiết, chỗ nào kể lướt qua, tạo nên

một chỉnh thể có trật tự. Kết cấu bề mặt còn là sự tổ chức hệ thống hình tượng

nhân vật, sự kiện, chi tiết” [53;160].

Với khái niệm nêu trên, chúng ta thấy kết cấu trần thuật của mỗi tác phẩm

mà nhà văn sáng tạo ra là muôn hình vạn trạng. Điều đó tạo nên sự đa dạng,

sinh động và sức hút lâu bền cho tác phẩm của mỗi nhà văn. Để kết cấu trần

thuật được tỏa sáng, nó không chỉ đứng độc lập, tạo được sức hút ngay nên

kết cấu trần thuật phải luôn luôn song hành cùng với tất cả các cấp độ kết cấu

nhỏ nữa nằm trong kết cấu hình tượng (kết cấu bề sâu). Bởi kết cấu bề sâu là

phần chìm, nó sẽ cung cấp những quy tắc, trật tự, chức năng cho việc tổ chức

kết cấu bề mặt được sáng rõ.

Cho nên, khi nghiên cứu về kết cấu bề mặt, chúng ta cũng cần xem xét,

đối chiếu chúng trên nhiều bình diện: hệ thống hình tượng nhân vật, cốt

truyện, kết cấu văn bản ngôn từ.

Vì vậy, khi nghiên cứu về hình thức kết cấu trần thuật trong truyện ngắn

của Đỗ Bích Thúy, chúng tôi bám sát vào tất cả các khái niệm và các bình

diện của kết cấu bề mặt để khám phá thế giới sáng tạo nghệ thuật và cách tổ

chức kết cấu truyện của Đỗ Bích Thúy.

2.1.2. Hình thức kết cấu trần thuật trong truyện ngắn Đỗ Bích Thúy

2.1.2.1. Kết cấu đơn tuyến

Kết cấu đơn tuyến là một loại kết cấu truyền thống có dung lượng vừa và

nhỏ. Các nhà nghiên cứu trước kia cho rằng: “đối tượng của truyện ngắn là kể

39

LuËn v¨n th¹c sÜ v¨n häc Ng« ThÞ Yªn

NghÖ thuËt trÇn thuËt trong truyÖn ng¾n §ç BÝch Thóy

về một câu chuyện” và họ luôn coi tính đơn nhất như một nét đặc trưng của

thể loại này. Ở kết cấu này thường đề cập đến một chủ đề nhỏ, hẹp nên rất dễ

đọc, dễ hiểu. Điều này, ngoài những ưu điểm trên, kết cấu này cũng có mặt

hạn chế là rất dễ gây cho người đọc sự nhàm chán. Ý thức được điều đó, các

nhà văn hiện đại đã trăn trở tìm kiếm cho mình một cách tổ chức kết cấu linh

hoạt hơn. Đó là việc, họ vẫn tuân thủ theo lối kết cấu đơn tuyến truyền thống

nhưng cách tổ chức trong mỗi tác phẩm của từng nhà văn lại khác nhau (có

nghĩa là thay đổi về bản chất kết cấu trần thuật tuyến tính) để tạo hiệu quả hơn

về cả mặt nội dung và hình thức cho tác phẩm.

Truyện ngắn của Đỗ Bích Thúy dùng khá nhiều lối kết cấu này. Trong 36

truyện ngắn của cả năm tập truyện của chị (không kể một số truyện ngắn lặp

đi lặp lại trong năm tập), chúng tôi thống kê có tới 16 truyện ngắn (chiếm tỉ lệ

45%) của chị được trần thuật theo lối kết cấu này. Chúng ta xét một vài truyện

tiêu biểu của chị.

Truyện ngắn Cạnh bếp có cái muôi gỗ là câu chuyện mà các sự kiện ở

đây được sắp xếp theo trình tự thời gian tuyến tính. Câu chuyện được chia

thành 3 sự kiện nhỏ đơn giản được đan cài, lồng ghép:

Sự kiện thứ nhất, trần thuật lại nhân vật “tôi” trước khi trở về bản đã

không quên tạt vào phố huyện để ăn bát thắng cố. Ở đây, câu chuyện bất ngờ

xảy ra, khi người chủ quán lại tỏ ra biết nhiều về nhân vật “tôi”. Trong khi đó,

nhân vật “tôi”: “cố căng mắt nhìn chằm chằm” mà vẫn không nhận ra người

quen.

Sự kiện thứ hai, trần thuật lại việc nhân vật “tôi” gặp người con gái có tên

Mai - một người bạn thân của anh khi hai người còn học ở trường dân tộc nội

trú huyện. Một cô gái đẹp như “bông hoa sắp nở rực rỡ nhất trường”. Nhưng

Mai đành phải lỡ dở việc học hành về lấy chồng, vì bố Mai mất.

Sự kiện thứ ba, nhân vật “tôi” lúc này nhận ra Mai bây giờ đã trở thành

mẹ của ba đứa con gái. Nhân vật “tôi” còn chưa thôi thắc mắc về sự vắng mặt

của chồng Mai và vì sao Mai lại không cùng chồng đi chợ huyện để sắm Tết

40

LuËn v¨n th¹c sÜ v¨n häc Ng« ThÞ Yªn

NghÖ thuËt trÇn thuËt trong truyÖn ng¾n §ç BÝch Thóy

như mọi người. Câu chuyện bất ngờ hơn khi đứa con gái lớn, từ đầu đến cuối

vẫn lặng lẽ theo dõi mẹ nó với ông khách nói chuyện và nó bất ngờ chêm vào

một câu: “Người bản đi chợ về bảo gặp ở đấy”.

Đến đây, dường như nhân vật “tôi” mới hiểu rõ tất cả mọi chuyện. Vì sao

người đàn ông - chủ quán rượu thắng cố lại biết mình? Vì sao mà Mai không

đi chợ huyện cùng với chồng và vì sao cái muôi gỗ vẹt lâu rồi mà chưa có

người gọt? Câu chuyện ấy đã ám ảnh nhân vật “tôi” rất nhiều. Cuối cùng nhân

vật “tôi” chỉ có thể hứa là sẽ làm tặng cô chiếc muôi gỗ.

Ngoài lối kết cấu đơn tuyến theo sự kiện, chúng tôi chủ yếu thấy sở

trường của Đỗ Bích Thúy là mượn kiểu kết cấu đơn tuyến này như một mục

đích để viết những câu chuyện tâm tình, những nỗi ưu tư nặng lòng của bản

thân khi nghĩ về quê hương, gia đình và cả những nỗi ám ảnh của cuộc sống

giữa hiện tại và quá khứ. Đó là những truyện ngắn: Ngải đắng ở trên núi,

Những buổi chiều ngang qua cuộc đời, Sau những mùa trăng, Đêm cá nổi.

Truyện ngắn Những buổi chiều ngang qua cuộc đời, nhân vật xưng “tôi”

hóa thân vào người phụ nữ để trần thuật hết cuộc đời đầy đau khổ của chị. Để

rồi mỗi buổi chiều đi qua, nó như khoảng thời gian liệt kê về những sự kiện,

biến cố trong cuộc đời chị. Đó là cuộc đời của một người phụ nữ với chuỗi

ngày nối tiếp của những đau khổ, nhọc nhằn, mất mát. Khi còn nhỏ, chị sống

cùng cha lênh đênh trên sông nước, trôi chảy hết nơi này đến nơi khác để mưu

sinh. Đến khi cha chết, chị gặp được anh - chồng của chị sau này, hơn chị rất

nhiều tuổi mang chị lên bờ và họ trở thành chồng thành vợ. Từ đây, chị đã trở

thành người phụ nữ của gia đình. Chị sinh được bốn đứa con gái, chúng tên là

Thuần, Thi, Thao, Thơm. Chị cứ tưởng cuộc sống gia đình sẽ thay đổi cuộc

đời chị. Nào ngờ, vì sự sống còn của gia đình, chị cùng chồng lao vào công

việc mưu sinh mà chị quên đi trách nhiệm của một người mẹ. Chị phó thác

trách nhiệm cho chúng. Bốn đứa con của chị tự xoay sở, con lớn lo cho con bé

- chúng gánh hết trách nhiệm của người mẹ. Đôi lúc, chị cũng nhận ra sự vô

trách nhiệm của mình nhưng không còn cách nào. Bởi vì khi chị tỉnh giấc đi

41

LuËn v¨n th¹c sÜ v¨n häc Ng« ThÞ Yªn

NghÖ thuËt trÇn thuËt trong truyÖn ng¾n §ç BÝch Thóy

lên nương sớm thì bọn trẻ chưa ngủ dậy và đến lúc tối mịt mới trở về thì bọn

trẻ đã ngủ từ lâu. Câu chuyện chưa kết thúc, tất cả những vấn đề trên chỉ là dữ

kiện để tiếp tục mở ra một vấn đề mới. Đó là chuyện con Thơm không biết

nói và ngã xuống giếng hoang chết, chuyện cái Thao, sau cái chết của em,

Thao như người mộng du và sống lầm lũi, chuyện Chị Thuần và em Thi cùng

yêu thầm thầy giáo, chuyện Thuần bỏ học đi lấy chồng ở làng khác bên sông

để quên đi tình yêu đích thực của mình... Tất cả chuyện lớn, chuyện nhỏ chị

đều không hay biết, đến khi biết thì sự đã rồi. Điều đó khiến chị thấy mình

ngày một xa cách các con, chị cảm thấy ân hận và chị sống trong dằn vặt, đau

khổ - một nỗi khổ đè nặng lên tâm can chị. Cuối cùng không còn đứa nào ở

bên chị, chị trở thành người vô hồn, sống bằng quá khứ và niềm đau với

những buổi chiều lặng lẽ sau đó...

Truyện ngắn Đêm cá nổi cũng vậy, nhân vật “tôi” trần thuật lại những suy

nghĩ miên man của bản thân. Đó là sự trải lòng của nhân vật tôi khi trở về

thăm quê sau bao tháng ngày học tập, công tác vất vả ở nơi xa. Câu chuyện

như những lời nói tâm tình, phân thân của nhân vật khi nhận ra sự xáo trộn

trong lòng mình có một chút ân hận, có một chút tự hào, có một chút yêu

mến... Từ đây hàng loạt những kỉ niệm được ùa về. Đó là giấc mơ đẹp về một

đêm trăng. Đó là hình ảnh bếp lửa của gia đình người Tày không bao giờ tắt.

Nhưng điều mà nhân vật “tôi” nhớ nhất, có sức ám ảnh nhất chính là vào

những đêm trăng, khoảng “tháng Chạp ra Giêng - mùa cá chép nổi lên tìm chỗ

đẻ trứng” và xoay quanh câu chuyện đó là kinh nghiệm của cha, của người

dân bản về việc bắt cá và lấy trứng về thả. Tất cả những mẩu chuyện vụn vắt

ấy khiến cho nhân vật “tôi” nao lòng khi một lần nữa trong cuộc đời lại phải

ra đi. Những câu chuyện không có đầu có cuối đó luôn nhắc nhở nhân vật

“tôi” cần phải biết yêu quý và trân trọng. Đúng là truyện ngắn rất kiệm lời

nhưng chan chứa nhiều dư ba. Đỗ Bích Thúy đã thành công ở việc gợi mà

truyện của chị đã làm nao lòng người.

42

LuËn v¨n th¹c sÜ v¨n häc Ng« ThÞ Yªn

NghÖ thuËt trÇn thuËt trong truyÖn ng¾n §ç BÝch Thóy

Với kiểu kết cấu đơn tuyến này, rất dễ bị trùng lặp, nhàm chán. Nhưng Đỗ

Bích Thúy biết tạo cho nhân vật trung tâm một sự trải nghiệm tự nhiên giống

như một con người cụ thể ngoài đời. Tất cả không cần sự sắp đặt trước, câu

chuyện cứ nối tiếp câu chuyện theo mạch cảm xúc miên man của nhân vật.

Qua mỗi câu chuyện ấy, ta cảm nhận được một cuộc đời, một lời tự thuật về

chính họ và về cả những người thân xung quanh bản làng quê hương mình.

Cho nên, lối kết cấu này không phải là mới và cũng không phải là độc đáo

nhưng với lời văn dung dị, nhẹ nhàng, Đỗ Bích Thúy đã lắng sâu lời kể trần

thuật của mình một cách hấp dẫn, rất hợp với con người và tính cách ít nói

của chị.

2.1.2.2. Kết cấu theo mạch phát triển tâm lí

Đây là kiểu kết cấu khá mới mẻ trong văn học Việt Nam giai đoạn những

năm đầu thế kỷ XX. Đó là lối kết cấu dựa theo sự phát triển của các yếu tố

tâm lí với những bức xúc, dằn vặt nội tâm, những dòng cảm xúc vui buồn,

hờn giận, ghen tuông, nhớ nhung, hạnh phúc... của con người được nhà văn

dàn trải trên trang giấy. Thường lối kết cấu này lựa chọn một trạng thái tâm lí

có ý nghĩa để trình bày toàn bộ sự kiện, nhân vật, cốt truyện. Với típ truyện

ngắn này, nhà văn không đi sâu vào nhiều sự kiện, chỉ cần vài sự kiện tiêu

biểu - đóng vai trò khơi gợi vấn đề, còn lại là những cảm giác, những suy nghĩ

mang chiều sâu nội tâm của nhân vật. Chính những yếu tố đặc trưng của lối

kết cấu này mà độc giả sau khi đọc xong thường khó kể lại một cách rạch ròi

về nội dung truyện. Vả lại, nếu có kể lại thì chỉ là sự tóm lược ý chính nhưng

sâu sắc hơn, nó tạo được những cảm xúc, nỗi niềm trăn trở của độc giả khi

đồng hành, nhập cuộc cùng nhân vật. Điều đó khiến cho truyện ngắn thấm

đẫm chất thơ, chất trữ tình mà không phải tác phẩm văn xuôi tự sự nào cũng

có được.

Với kết cấu này, Đỗ Bích Thúy còn sử dụng thủ pháp tự sự dòng ý thức để

đi vào miêu tả đời sống thông qua dòng chảy của những suy tư, những dằn vặt

diễn ra trong đời sống nội tâm của nhân vật. Kiểu kết cấu này thường xem

43

LuËn v¨n th¹c sÜ v¨n häc Ng« ThÞ Yªn

NghÖ thuËt trÇn thuËt trong truyÖn ng¾n §ç BÝch Thóy

nhẹ yếu tố sự kiện, không chú ý nhiều đến tính nhất quán và hoàn chỉnh của

cốt truyện. Cho nên, diễn tiến của câu chuyện không được liền mạch, đôi khi

bị đứt đoạn, rời rạc và thiên về độc thoại nội tâm, hồi tưởng đan xen trong

mạch trần thuật.

Truyện ngắn Giống như cái cối nuớc, Đỗ Bích Thuý lựa chọn thời

điểm hiện tại với yếu tố tâm lí băn khoăn của cô Vi - sau khi lấy chồng được

một thời gian dài nay trở về thăm gia đình “Chỉ đi qua cây số cổ thụ kia, qua

suối là đến con đuờng dải toàn đá tảng dẫn vào nhà... Nhưng... chợt Vi sững

ngưòi lại. căn nhà của bố mẹ đâu rồi, đúng chỗ đó, vẫn con đuờng rải đá tảng

ấy, nhưng không còn căn nhà nữa”. Đoạn mở đầu đột ngột dừng lại khiến cho

độc giả thắc mắc và hiếu kì muốn khám phá. Nhưng Đỗ Bích Thuý không hề

vội vàng, chị lại tiếp tục mạch câu chuyện ấy với những diễn biến tâm lí phức

tạp của nhân vật. Câu chuyện quay trở về quá khứ, nhà văn trần thuật lại một

cô Vi xinh đẹp, đảm đang, tháo vát, nhiều chàng trai thầm yêu. Vậy thì tại sao

không một chàng trai nào dám cưới Vi. Tâm trạng của Vi cứ chồng chéo hết ý

nghĩ này đến ý nghĩ khác. Đôi lúc nghĩ quẩn, Vi chỉ mong có một người nào

đó chịu lấy Vi. Dù người đó có đui què mẻ sứt, cô cũng chấp nhận để không

phải trở thành người án ngữ gây cản trở cho các em cô. Bất ngờ trong một

phiên chợ giáp Tết, cô gặp được Sinh và được Sinh để ý. Đến rằm tháng giêng

hai người gặp nhau ở hội lồng tồng. Với tiếng hát vút cao của Vi, Sinh đem

lòng yêu thương và “nhất định không để Vi về một mình hôm ấy...”. Ấy vậy

mà năm đêm liền, Vi thức trắng cả đêm để đợi Sinh đến chỗ cối nước ngoài

suối gần nhà mà không thấy Sinh đến. Vi nghĩ: “đêm nay sẽ là đêm cuối cùng,

nếu như người ấy không đến thì ngày mai Vi sẽ không chờ nữa, nhất định Vi

sẽ không chờ nữa. Từ đêm thứ ba Vi đã nghĩ như vậy, nhưng đêm thứ tư Vi

lại thức, lại nghĩ như vậy, và đêm nay Vi vẫn không thể đi nằm được, chỉ vì

sợ rằng khi mình ngủ thì Sinh lại đến, không thấy mình Sinh sẽ nghĩ sao”. Rồi

Sinh đến, Vi vội vàng đi như chạy ra cửa, Vi gặp Sinh tưởng rằng mình sẽ

được đền đáp khát vọng yêu thương như mọi lần. Nhưng hôm nay, Vi thấy

44

LuËn v¨n th¹c sÜ v¨n häc Ng« ThÞ Yªn

NghÖ thuËt trÇn thuËt trong truyÖn ng¾n §ç BÝch Thóy

Sinh có vẻ khác, không còn vồ vập, có vẻ ấp úng yên lặng cúi đầu và trở về.

Với khát vọng tình yêu cháy bỏng, cô muốn tìm Sinh để hỏi cho rõ mọi nhẽ.

Không ngờ chỉ với câu nói của thằng bé xin đi nhờ Vi qua sông: “Có người

Tả Chải định lấy làm vợ đấy nhưng bố mẹ cấm. Ái chà, thấy bảo nhà ấy bốn

năm đời nghèo không đủ ăn, người giàu lấy vào cũng nghèo theo, đói lắm.

Thế nên...”. Nghe đến đây, Vi hiểu ra tất cả, trái tim của Vi như vỡ vụn: “Một

nỗi tủi hổ, uất ức, đau đớn dâng lên, bóp nghẹt lồng ngực”. Vi đau đớn, tủi

nhục “hóa thành cái bóng, lầm lũi làm việc”, thỉnh thoảng trong giấc mơ, Vi

vẫn thấy Sinh trở lại, đứng cạnh cái cối nước, thả dây cho nó giã không để gọi

Vi. Tỉnh dậy, Vi khóc... Thế rồi một ngày nọ, không hiểu vì lí do nào mà lại

có người đến hỏi Vi và không có lí nào, Vi lại từ chối. Thế là Vi lấy chồng.

Để rồi hôm nay, Vi trở về thăm nhà với một cảm giác rất lạ. Vi hỏi mẹ, mẹ cứ

im lặng thở dài và len lén lau nước mắt. Sau câu nói trách móc, giận hờn của

thằng em thứ tư: “Chị không biết thật hay giả vờ không biết thế? Bố mẹ bán

đất để lấy hai trăm đồng bạc trắng gả chồng cho chị chứ làm gì. Cả mấy con

trâu nữa, cả đàn dê nữa, đã hai vụ không có trâu cày rồi, chị có nhiều tiền thì

mua cho nhà một con trâu đi. Không có hai trăm đồng bạc ấy thì ai dám lấy

chị? Thế mà lấy được chồng rồi, sướng quá, quên cả đường về, cả nhà mong

mãi, mờ cả mắt rồi...”. Câu chuyện đến đây mới vỡ òa những thắc mắc trong

lòng Vi và cả thắc mắc trong lòng độc giả theo dõi từ đầu đến khi kết thúc.

Truyện ngắn Giống như cái cối nước, Đỗ Bích Thúy không dùng nhiều

sự kiện, biến cố, từ đầu câu chuyện đến cuối câu chuyện chỉ nhằm giải đáp

một vấn đề vì sao mà nhà của Vi đổi khác và lồng vào đó là tâm trạng thắc

thỏm, buồn đau của nhân vật Vi về tình yêu không thành của mình và cả sự

mắc nợ của bản thân với gia đình. Câu chuyện có bấy nhiêu vấn đề nhưng tác

giả đã thành công ở việc dẫn dắt câu chuyện đi theo mạch phát triển tâm lí của

nhân vật từ trạng thái tâm lí thông thường đến trạng thái tâm lí phức tạp giằng

xé tâm can nhân vật. Đến phút cuối, câu chuyện mới vỡ òa và không cần lí

giải thêm.

45

LuËn v¨n th¹c sÜ v¨n häc Ng« ThÞ Yªn

NghÖ thuËt trÇn thuËt trong truyÖn ng¾n §ç BÝch Thóy

Truyện ngắn Gió không ngừng thổi kéo dài 17 trang văn bản, truyện

không nhiều sự kiện và mạch truyện được nhà văn Đỗ Bích Thúy trần thuật

khá tự nhiên theo mạch phát triển tâm lí của nhân vật. Yếu tố tâm lí đầu tiên

mà nhà văn trần thuật là cảnh một người mẹ đang rất buồn và tức giận. Với

nguyên nhân, thằng con trai duy nhất của mình tự dưng mất tích và còn hư

hỏng. Sau đó, tác giả quay trở lại quá khứ kể lại cuộc đời của Kía - một người

phụ nữ miền núi không sinh nổi cho nhà chồng một đứa con trai để nối dõi

nên lúc nào cũng sống trong dằn vặt. Thương chồng, Kía đã tìm người khác

thay mình làm vợ và sinh con cho chồng nhưng Kía gặp phải sự phản ứng gay

gắt, quyết liệt của chồng. Biết chồng yêu thương, Kía càng day dứt, hối hận

hơn. Nhiều lúc Kía nghĩ: “Giá mà chồng Kía bớt yêu vợ đi một tí thì có khi đã

khác”. Câu chuyện chưa kết thúc, mạch thứ nhất mới dừng lại ở vấn đề gợi

mở, tạo dựng khung tâm lí cho câu chuyện. Mạch thứ hai khiến cho câu

chuyện đẩy đến kịch tính. Nhà văn trần thuật lại sự kiện, thằng Vàng Chỉn Tờ

- họ hàng xa của nhà chồng làm nhục Kía trên nương ngô. Từ đây, tâm lí của

Kía như rơi xuống vực thẳm, đau đớn, sợ hãi. Kía định tìm đến cái chết để

“xoa dịu nỗi tủi nhục mỗi lúc một dâng lên trong lòng” nhưng vì thương “con

Sèn còn bé quá, không thể để nó lại được”. Trở về với tâm lí hoảng loạn, Kía

sống trong lo lắng và “điều kinh hoàng nhất mà Kía cảm thấy lại là một sự

sống đang hình thành trong bụng mình”. Trong cơn đau đớn, tủi nhục, Kía

mường tượng ra đứa bé “Nếu mà nó giống hệt như cái mặt đầy dớt rãi và đôi

mắt đục ngầu thì sao?”. Kía quyết định bỏ đứa bé nhưng “đứa bé dai dẳng

như một sợi mây, dứt khoát không rời khỏi Kía”. Kía định nhịn ăn nhưng

chồng Kía không để cho Kía nhịn. Đau khổ chồng chất đau khổ, Kía muốn

giải thoát mình khỏi tội lỗi nhưng không được “Kía đành phải để đứa bé lớn

lên trong bụng mình”. Khi Kía lên cơn đau bụng trở dạ, Kía không dám gọi

chồng: “một nỗi sợ hãi cộng với tủi nhục, cộng với đau đớn tột cùng làm Kía

không cất nổi tiếng gọi”. Kía tối tăm mặt mày lại khi nhìn thấy “con chim bé

tí như quả ớt chỉ thiên” của thằng bé. Một nỗi sợ hãi vô hình cứ lớn dần lên

46

LuËn v¨n th¹c sÜ v¨n häc Ng« ThÞ Yªn

NghÖ thuËt trÇn thuËt trong truyÖn ng¾n §ç BÝch Thóy

trong tâm trí của Kía “Thằng bé này sẽ là người đàn ông nối dõi của dòng họ

Thào ở Lũng Cú”. Cứ thế, thằng bé lớn lên trong tình thương của chồng Kía,

của con Sèn - chị nó và cả trong nỗi sợ hãi sâu thẳm của mẹ nó. Tiếp đến, từ

khi Kía sinh con ra, chồng của Kía “không làm việc của một người chồng với

vợ” khiến Kía băn khoăn: “Sùng đã quên vợ rồi sao? Hay tại Kía bây giờ

không còn được như trước nữa... Kía đã như một cái cây bị phơi khô, có phải

vì thế mà Sùng không muốn gần gũi vợ nữa? Nhưng sâu thẳm nhất, sau mỗi

lần trằn trọc vật vã, là một nỗi sợ hãi khôn tả. Nỗi sợ hãi nằm sẵn trong lòng

Kía, thỉnh thoảng lại trỗi dậy”. Có lúc, Kía không chịu đựng lâu hơn được

nữa, cô định nói hết. Dù cho chồng mình có đuổi mẹ con ra khỏi nhà hay chịu

sự chửi rủa, đánh đập chứ không thể sống trong câm lặng thế này. Thế nhưng,

Kía không thôi thắc mắc: “Nếu như Sùng chưa biết thì sao? Có thể Sùng chưa

biết lắm chứ, nếu không thì làm sao khi Kía sinh một đứa con không phải con

đẻ của Sùng, Sùng lại yêu thương nó, nâng niu nó đến thế”. Mỗi khi nghĩ đến

đây, Kía lại càng không thể vượt qua, chỉ âm thầm chịu đựng. Nhưng cuộc

đời chưa để cho người đàn bà ấy được yên. Đứa con trai tội lỗi của Kía sống

trong sự yêu thương của mọi người trong dòng họ Thào lại sinh ra hư đốn,

không chịu làm, suốt ngày rong chơi. Sống trong đau khổ mòn mỏi quá lâu

mà Kía sinh bệnh, cô không thể gắng gượng thêm được nữa. Trước khi nhắm

mắt, Kía muốn nói rõ tất cả. Nhưng thật đau khổ khi Kía nằm trong buồng đã

chứng kiến cảnh chồng nói với con Sèn về bí mật của mình giấu bấy lâu nay.

Lúc này, Kía không còn gì hối tiếc “bà Kía lặng lẽ kéo chăn lên ngang mặt,

nhắm chặt mắt và thở thật chậm”. Câu chuyện kết thúc khiến chúng ta không

chỉ thương Kía, thông cảm cho cô mà cả Sùng - chồng của Kía, con Sèn - con

gái của Kía. Tất cả, họ là những con người sồng bằng tình người. Thật là một

câu chuyện thấm đẫm nước mắt và tình yêu thương của con người với con

người.

Truyện ngắn của Đỗ Bích Thúy theo lối kết cấu này đã đạt được những

thành công đáng kể khi để nhân vật của mình tự xoay sở, tự phân thân giãi

47

LuËn v¨n th¹c sÜ v¨n häc Ng« ThÞ Yªn

NghÖ thuËt trÇn thuËt trong truyÖn ng¾n §ç BÝch Thóy

bày những tâm lí phức tạp trong tâm hồn. Ý thức được hạn chế của thể loại

truyện ngắn, Đỗ Bích Thúy đã phát hiện và chớp những khúc đoạn đời sống

khác của con người. Đó là đời sống tâm lí - một thế giới vô hình tinh tế và

phức tạp bên trong mỗi con người, từ cảm giác, những rung động đến những

dằn vặt nội tâm. Truyện ngắn của chị không chỉ khai thác sự éo le của số phận

nhân vật mà còn là dòng tâm sự dàn trải tâm trạng đau buồn triền miên của

nhân vật. Đó là những xung đột, giữa lí trí và tình cảm, giữa hạnh phúc cá

nhân và sự trăn trở bên trong mỗi cá nhân. Đó là kiểu người có ham muốn, có

nỗi sợ hãi, có sự lo lắng... Cho nên, truyện ngắn của Đỗ Bích Thúy dù những

mâu thuẫn giằng xé níu kéo nhân vật như thế nào thì kết quả cuối cùng vẫn là

sự quy thuận. Tất cả những nhân vật như: Bà Mao trong Tiếng đàn môi sau

bờ rào đá, Vi trong Giống như cái cối nước, Dân trong Mặt trời lên, quả

còn rơi xuống, Súa trong Lặng yên dưới vực sâu... thì đôi lúc người đọc có

cảm giác là họ sẽ quên đi tất những trách nhiệm của mình với gia đình, con

cái. Nhưng không, họ luôn biết kìm nén nỗi khát khao riêng tư của bản thân

để trở thành người vợ, người mẹ cao cả, nhân hậu giàu đức hi sinh.

2.1.2.3. Kết cấu đảo lộn trật tự trần thuật

Kết cấu đảo lộn trật tự trần thuật là một trong những hình thức kết cấu

mới mẻ của văn học Việt Nam hiện đại xuất hiện vào đầu thế kỉ XX. Đây là

kiểu kết cấu mà hình thức nghệ thuật trần thuật không theo trình tự diễn tiến

của thời gian. Tức là kết cấu này có thời gian cốt truyện không trùng khít với

thời gian sự kiện.

Có thể nói, kết cấu đảo lộn trần thuật lấy tiêu chí thời gian để xác định. Sự

xáo trộn về mặt thời gian trong hệ thống các sự kiện có trong tác phẩm chính

là ý đồ sáng tạo của nhà văn. Kiểu kết cấu này bao giờ cũng đan xen thời gian

giữa quá khứ - hiện tại - tương lai. Kiểu kết cấu đảo lộn trật tự trần thuật rất

khó nắm vấn đề, nó không dễ dàng tiếp thu như kết cấu đơn tuyến với kiểu

thời gian tuyến tính. Điều đó đòi hỏi người đọc phải tiếp nhận hết tác phẩm

mới vỡ ra vẫn đề. Đây là cách sáng tạo thông minh của người cầm bút và

48

LuËn v¨n th¹c sÜ v¨n häc Ng« ThÞ Yªn

NghÖ thuËt trÇn thuËt trong truyÖn ng¾n §ç BÝch Thóy

cũng là cách tác giả giúp cho người đọc cùng nhập cuộc tham gia tìm hiểu,

suy nghĩ trăn trở với nhân vật.

Với truyện ngắn của Đỗ Bích Thúy theo lối kết cấu này, phần lớn chị xây

dựng thời gian trần thuật là dựa vào quá trình tự ý thức của nhân vật. Cho nên,

thời gian được xác định trong truyện không dài hơi như tiểu thuyết. Sự tự ý

thức của con người là cả một quá trình từ chưa nhận ra đến nhận ra, theo quá

trình phát hiện làm nảy sinh vấn đề. Ý thức của con người được vận động

theo quy luật của kí ức và sự hồi tưởng. Vì vậy, khi dõi theo diễn tiến của tác

phẩm người đọc phải tự sắp xếp các sự kiện trong đầu để hình dung ra trật tự,

logic của câu chuyện. Chúng ta khảo sát một số truyện ngắn của Đỗ Bích

Thúy để hình dung rõ hơn về kết cấu rất đặc sắc này.

Hẻm núi mở đầu câu chuyện là hình ảnh về vùng Tả Khâu bị “một cơn lũ

đã cướp đi ba mươi lăm sinh mạng”. Trong đó người trần thuật thuật lại câu

chuyện của nhân vật “tôi” - thầy giáo được sở cử về Tả Khâu dạy học lần thứ

hai cho vùng. Bất ngờ cơn lũ ập tới, thầy chỉ có thể cứu được hai học sinh tên

là Mí và Pủ nhưng không ngờ Mí lại chết. Từ đây, câu chuyện được đan xen,

gấp khúc để kể lại mười một năm trong quá khứ với bao kỉ niệm của nhân vật

“tôi”. Kỉ niệm đẹp nhất, đáng nhớ nhất là Nhi - cô gái Tả Khâu đã cứu giúp

thầy giáo vượt qua những khúc cua gấp của con đường về bản. Lần thứ hai,

Nhi chủ động đón thầy cũng ở khúc cua gấp và như có duyện nợ từ trước mà

nhân vật “tôi” không cưỡng lại được tình cảm của mình với Nhi. Trở lại với

hiện tai, sau một thời gian về xuôi công tác, nhân vật “tôi” trở lại Tả Khâu

tiếp tục dạy học. Nhiều lần nhân vật “tôi” đến nhà cô bé Mí nhưng chưa lần

nào giáp mặt với Nhi (Nhi tránh mặt). Đến cơn lũ định mệnh, hai người gặp

nhau thì câu chuyện lại diễn ra trong đau đớn. Bởi cô bé Mí - học trò của nhân

vật “tôi” lại chính là đứa con của mình với Nhi ngày nào. Điều đó khiến cho

nhân vật “tôi” bàng hoàng, đau khổ và hối hận.

Để theo dõi câu chuyện này một cách đầy đủ và logic, chúng tôi dựng lại

câu chuyện này theo thời gian tuyến tính như sau:

49

LuËn v¨n th¹c sÜ v¨n häc Ng« ThÞ Yªn

NghÖ thuËt trÇn thuËt trong truyÖn ng¾n §ç BÝch Thóy

*Sự kiện 1: Mười một năm trước, nhân vật “tôi” đến dạy học ở Tả Khâu.

Trên đường vào bản thì gặp một đoạn cua gấp, tưởng như sẽ phải bỏ mạng thì

được Nhi - người con gái của Tả Khâu cứu giúp.

*Sự kiện 2: Trong những buổi học, nhân vật “tôi” có cảm tình với cô học

trò tên Nhi.

*Sự kiện 3: Hết học kì một, nhân vật “tôi” trở về xuôi nghỉ ngơi. Nhân vật

“tôi” đang băn khoăn và sợ những đoạn cua gấp thì Nhi xuất hiện và lại giúp

đỡ anh như lần trước. Trong thời điểm hai người gần nhau, nhân vật “tôi” đã

không cưỡng lại tình cảm của Nhi. Sau đó, nhân vật “tôi” không trở lại Tả

Khâu.

*Sự kiện 4: Sau mười một năm, nhân vật “tôi” lại được phân công trở về

phụ trách trường Tả Khâu và dạy học lần thứ hai ở đó.

*Sự kiện 5: Nhân vật “tôi” đến nhà học trò Mí nhưng mẹ cô bé không có

mặt ở nhà nhưng nhân vật “tôi” có cảm giác như ai đó vẫn lén theo dõi và rất

sợ gặp mặt.

*Sự kiện 6: Bất ngờ một cơn lũ ập đến, nhân vật “tôi” chỉ túm được hai

đứa học trò gần nhất chạy ra ngoài. Đó là thằng Pủ và con Mí nhưng kết cục

chỉ thằng Pủ sống sót còn con Mí chết.

*Sự kiện 7: Trở về đến bản, nhân vật “tôi” gặp lại Nhi. Đứa bé chết ấy lại

là con của Nhi, điều đó khiến cho nhân vật “tôi” đau đớn.

*Sự kiện 8: Nhân vật “tôi” cùng với Nhi đào mộ rồi vội chôn con Mí

xuống đó và nhân vật “tôi” đưa Nhi về nhà, Cả hai có phút giây ở bên nhau.

*Sự kiện 9: Sau lời nói trách móc, ẩn ý của Nhi, nhân vật “tôi” không ngờ

Mí - cô bé chết trong cơn lũ vừa qua lại là con của mình với Nhi.

*Sự kiện 10: Nhân vật “tôi” đau đớn và ân hận.

Đây là câu chuyện được diễn tiến theo mạch thời gian tuyến tính. Còn

mạch thực được trần thuật trong truyện là:

Sự kiện 6 -> Sự kiện 7 -> Sự kiện 8 -> Sự kiện 1 -> Sự kiện 2 -> Sự kiện

3 -> Sự kiện 5 -> Sự kiện 4 -> Sự kiện 9 - > Sự kiện 10.

50

LuËn v¨n th¹c sÜ v¨n häc Ng« ThÞ Yªn

NghÖ thuËt trÇn thuËt trong truyÖn ng¾n §ç BÝch Thóy

Như vậy, theo kết cấu của truyện ta nhận thấy rất rõ sự đảo lộn trật tự trần

thuật qua các sự kiện. Mô hình hóa như sau:

(6) (7) (8) (1) (2) (3) (5) (4) (9) (10)

Còn trong tập truyện vừa Ngƣời đàn bà miền núi do NXB Phụ nữ xuất

bản chỉ có hai tác phẩm: Lặng yên dưới vực sâu và Những buổi chiều ngang

qua cuộc đời, đặc biệt chúng tôi ấn tượng với kết cấu vừa khác vừa lạ trong

truyện Lặng yên dưới vực sâu của Đỗ Bích Thúy. Truyện Lặng yên dưới vực

sâu với kết cấu chia làm sáu phần, mỗi phần đều có tiêu đề riêng khiến cho

độc giả khi đọc truyện có cảm giác, mỗi phần đó có thể tách riêng để trở

thành một truyện độc lập. Nhưng khi gộp lại sáu phần, độc giả chứng kiến

những mảnh ghép rời rạc, phân mảnh với hàng loạt những sự kiện tình huống

tưởng như không ăn khớp cho đến cuối truyện thì câu chuyện mới dần dần

được nới ra và lộ rõ, gợi sức ám ảnh ghê gớm.

Với kết cấu sáu phần kể về bốn nhân vật chính như: Súa, Phống, Vừ, Nhí

và xoay quanh câu chuyện về mỗi người qua nhiều mạch truyện (phần này tôi

sẽ nói kĩ hơn phần cốt truyện đan xen nhiều mạch truyện). Còn ở đây, tôi đi

sâu vào kết cấu đảo lộn trật tự của truyện thông qua nhân vật trung tâm là cô

Súa với cuộc đời làm dâu, làm mẹ của cô. Chúng ta sẽ dẫn dắt câu chuyện này

theo dòng tuyến tính rồi sau đó trở về đối chiếu với kết cấu đảo lộn trật tự

trần thuật của truyện và lập sơ đồ đối chiếu.

* Sự kiện 1: Kể về Súa - một cô gái xóm Mông Sán Cố sống với cha. Súa

là một cô gái vừa xinh đẹp, thông minh lại rất gan dạ là chỗ dựa cho cha và

được mọi người yêu quý.

*Sự kiện 2: Hành động Súa cưỡi bò khiến cho cả bản Mông dưới chân U

khố Sủ phải ngưỡng mộ. Một lần, Súa cưỡi bò bất ngờ bị ngã tốc cả váy lên

và bị Vừ nhìn thấy. Súa nhận lời yêu Vừ với ý nghĩ là Vừ đã nhìn thấy hết cả

rồi nhưng về sau Súa yêu Vừ thật lòng và càng ngày càng say đắm hơn.

* Sự kiện 3: Súa đau đớn khi chồng của Súa không phải là Vừ mà lại là

Phống. Lấy phải người mình không yêu nên cô định tìm đến cái chết.

51

LuËn v¨n th¹c sÜ v¨n häc Ng« ThÞ Yªn

NghÖ thuËt trÇn thuËt trong truyÖn ng¾n §ç BÝch Thóy

* Sự kiện 4: Nhi biết chị dâu muốn tìm đến cái chết nên Nhi đã đẩy chị

cùng mình xuống vực để Súa có thể tỉnh lại sau một cơn ngủ mê dài (nhưng

Súa không biết ở dưới có tấm lưới bố chồng đã mắc sẵn kể từ khi mẹ chồng vì

cứu một con lợn mà rơi xuống vực). Từ đó, Súa sống dật dờ như một cái bóng

vô hồn, vô cảm.

* Sự kiện 5: Súa bị chồng tức giận bế và định quẳng vào chuồng bò vì

không biết cách làm vợ. Từ đó, Súa không ngủ với Phống mà sang ngủ với

Nhi - em chồng.

* Sự kiện 6: Một lần đi lên nương làm cỏ, Súa quên chưa cho lợn ăn nên tất tả

chạy về nhà. Đúng lúc ấy, Súa bắt gặp chồng Súa đang ngủ cùng với một đứa

con gái lạ ngay trên giường của hai vợ chồng.

* Sự kiện 7: Sau sự việc đồi bại của chồng, Súa quyết định vứt bỏ đứa con

nhưng Phống van xin và hối hận. Súa giữ lại đứa bé không phải vì Phống mà

vì cô cảm nhận được “cái đạp rất nhẹ ấy đã khiến Súa không thể bỏ nó được”.

* Sự kiện 8: Súa sinh cho nhà chồng một đứa con trai nên được bố chồng,

chồng và em chồng thương yêu. Giờ đây Súa không còn cảm thấy ghét Phống

nữa.

* Sự kiện 9: Súa bắt đầu có tình cảm yêu thương với chồng thì đau đớn và

ân hận khi phát hiện chồng mình không còn khả năng làm thằng đàn ông nữa.

* Sự kiện 10: Phống - chồng của Súa rơi xuống vực chết nhưng chỉ có Súa

mới biết. Một bí mật ẩn kín giờ đang nhói đau trong lòng Súa.

Từ những sự kiện được sắp xếp theo trật tự tuyến tính như trên để tiện

theo dõi, ta đối chiếu với mạch kết cấu trần thuật của truyện:

Sự kiện 3 -> Sự kiện 1 -> Sự kiện 2 -> Sự kiện 4 -> Sự kiện 5 -> Sự kiện

6 -> Sự kiện 7 -> Sự kiện 8 -> Sự kiện 9 -> Sự kiện 10.

Như vậy, theo kết cấu của truyện ta thấy sự đảo lộn trật tự trần thuật của

các sự kiện tuy không nhiều nhưng cũng có tác dụng giúp nhà văn thực hiện

được ý đồ của mình. Do đó, ta có thể lập mô hình hình hóa các sự kiện như

sau:

52

LuËn v¨n th¹c sÜ v¨n häc Ng« ThÞ Yªn

NghÖ thuËt trÇn thuËt trong truyÖn ng¾n §ç BÝch Thóy

(3) (1) (2) (4) (5) (6) (7) (8) (9) (10)

Tóm lại, kết cấu đảo lộn trật tự trần thuật trong năm tập truyện ngắn

của Đỗ Bích Thúy là phổ biến. Đây là kiểu kết cấu bộc lộ rõ dụng ý của nhà

văn và mang lại hiệu quả nghệ thuật hấp dẫn cho tác phẩm của mình. Vì vậy,

việc thay đổi phương thức trần thuật hay việc thay đổi mô thức tự sự còn bao

hàm trong đó cả sự đổi mới về ngôn ngữ và giọng điệu. Thông qua truyện

ngắn của Đỗ Bích Thúy, chúng ta có thể khẳng định các sáng tác của nhà văn

giai đoạn này đã cho thấy sự bứt phá không ngừng trong việc thoát li dần mô

thức truyền thống. Đó là sự biến hóa linh hoạt trong cách kể, cách trần thuật.

Từ đó đem đến cho người đọc cách tiếp cận mới.

2.2. Nghệ thuật tổ chức cốt truyện trong truyện ngắn Đỗ Bích Thúy

2.2.1. Khái niệm về cốt truyện

Cốt truyện là hình thức tổ chức cơ bản nhất của truyện. Mỗi tác phẩm

thường có một cốt truyện hoàn chỉnh. Cốt truyện chủ yếu được dùng cho các

tác phẩm tự sự hoặc các tác phẩm kịch. Chính cốt truyện tạo nên sức hấp dẫn

lôi cuốn và tạo nên sức thuyết phục mạnh mẽ cho chủ đề và tư tưởng của tác

phẩm. Vì thế: “Cốt truyện là yếu tố quan trọng bậc nhất không thể thiếu trong

bất kì một hình thức tự sự nào” [47;58].

Ở đây, khái niệm cốt truyện nhằm tách truyện thành hai phần: Một phần là

chuỗi các sự kiện rất đặc trưng cho thể loại tự sự và kịch và một phần khác

cũng không kém quan trọng chính là các yếu tố miêu tả, lời kể, lời bình. Cho

nên, thiếu một trong các yếu tố này thì cốt truyện chưa thể thành truyện.

Thông thường, ta nhận thấy khi nghiên cứu về cốt truyện các nhà nghiên cứu

thường tập trung nhiều ở thể loại tiểu thuyết nhưng khi đi vào thực tế hiện nay

thì “Truyện ngắn mới là nơi phô diễn những cách tân về cốt truyện một cách

hiệu quả nhất” [09;58]

Còn Từ điển thuật ngữ văn học thì nhận định cốt truyện chính là: “Hệ

thống sự kiện cụ thể, được tổ chức theo yêu cầu tư tưởng và nghệ thuật nhất

53

LuËn v¨n th¹c sÜ v¨n häc Ng« ThÞ Yªn

NghÖ thuËt trÇn thuËt trong truyÖn ng¾n §ç BÝch Thóy

định, tạo thành một bộ phận cơ bản, quan trọng nhất trong hình thức động của

tác phẩm văn học thuộc các loại tự sự và kịch” [21;88].

Từ đây, ta nhận thấy cốt truyện luôn có hai tính chất cơ bản. Một là, các

sự kiện thường nằm trong chuỗi của mối quan hệ nhân quả hoặc quan hệ bộc

lộ ý nghĩa, có mở đầu và kết thúc. Hai là, cốt truyện luôn có tính liên tục về

thời gian. Bởi giữa các sự kiện trong mối quan hệ nhân quả thường có những

khoảng cách về thời gian. Đặc biệt, các nhà lí luận hiện đại coi tuyến trật tự

kể trước sau có thể theo dõi được trong trần thuật mới có giá trị nghệ thuật

đích thực. Có như thế, cốt truyện trong trật tự của trần thuật, tức truyện kể

mới thể hiện được tài năng và trình độ của người sáng tạo. Cho nên, các tác

phẩm tự sự hiện đại đã phá vỡ tính tuyến tính và tính thống nhất về thời gian

của cốt truyện truyền thống, phá vỡ tính thống nhất về nhân quả và tính liên

tục của thời gian. Vì vậy, cốt truyện không nhất thiết lúc nào cũng cần phải

đầy đủ 5 thành phần và cũng không cần phải trình bày theo một thứ tự sau

trước máy móc. Sự trình bày linh hoạt trong mỗi một tác phẩm, nó là dụng ý

nghệ thuật của mỗi nhà văn thông qua kết cấu cốt truyện và kết cấu tác phẩm.

Vì vậy để tạo được một cốt truyện vừa độc đáo vừa cô đúc là điều kiện

căn bản cho truyện ngắn của tác giả đó thành công. Thời gian gần đây, truyện

ngắn đương đại Việt Nam phát triển một cách rầm rộ, kéo theo nó là sự cách

tân không ngừng của truyện ngắn, trong đó có sự cách tân phong phú của cốt

truyện. Tiêu biểu như song hành cùng với cốt truyện kịch tính thì càng về sau

lại xuất hiện nhiều cốt truyện trữ tình.

Đối với nhà văn trẻ Đỗ Bích Thúy, chị rất linh hoạt trong việc tạo cho

mình một số kiểu cốt truyện. Đó là cốt truyện vừa mang tính truyền thống vừa

mang hơi thở hiện đại. Khi khảo sát 5 tập truyện ngắn của chị, vẻ bề ngoài

chúng ta cảm nhận được chị vẫn sử dụng kĩ thuật viết truyền thống theo quy

luật tự nhiên của sự kiện. Nhưng khi đọc kĩ, khám phá bên trong của mỗi tác

phẩm, ta lại thấy văn phong của chị là cả một thế giới sáng tạo kì diệu. Điều

đó tạo cho Đỗ Bích Thúy có một dấu ấn sáng tạo trong việc xử lí các mối

54

LuËn v¨n th¹c sÜ v¨n häc Ng« ThÞ Yªn

NghÖ thuËt trÇn thuËt trong truyÖn ng¾n §ç BÝch Thóy

quan hệ. Đó là mối quan hệ giữa cốt truyện biên niên và cốt truyện trong trần

thuật, cốt truyện đảo lộn thời gian trần thuật. Từ đó, ta có thể nhận thấy một

số cốt truyện chủ yếu mà Đỗ Bích Thúy tổ chức trong tác phẩm của mình là:

Cốt truyện đơn giản, cốt truyện với kết thúc bất ngờ, kết thúc để ngỏ và cốt

truyện đan xen nhiều mạch truyện.

2.2.2. Cốt truyện trong truyện ngắn Đỗ Bích Thúy

2.2.2.1. Cốt truyện đơn giản

Cốt truyện đơn giản có thể hiểu là người kể dường như không quan tâm

nhiều tới một cốt truyện đầy đủ. Ở cốt truyện này, người kể thường chú ý đến

sự kiện để lí giải, cắt nghĩa, minh họa cho một vấn đề mà người kể đưa ra. Đó

là một cốt truyện hoàn toàn có sự kiện mà không có biến cố, các sự kiện tình

tiết cứ đan cài một cách đầy ngẫu hứng và không theo một sự sắp xếp nào cả.

Truyện ngắn của Đỗ Bích Thúy có nhiều truyện viết theo kiểu này.

Nguyên nhân là chị thường viết bằng kí ức, bằng hồi tưởng của một cô bé đi

học xa nhà, xa quê. Cho nên, truyện của Đỗ Bích Thúy giống như những

trang nhật kí nhỏ ghi lại những sự vật, sự việc và cả những diễn biến trong

tâm tư, tình cảm của chị. Đó là cách viết hết sức đơn giản về những câu

chuyện đời thường mang tính chất tự truyện. Kiểu cốt truyện đơn giản này

phần lớn đều lấy từ cuộc đời thực của nhà văn hoặc là những điều chị mắt

thấy tai nghe. Chính vì thế mà những cái được phản ánh trong truyện ngắn

của Đỗ Bích Thúy không phải là một thế giới tưởng tượng mà bao giờ cũng

được xuất phát từ con người cụ thể, những sự kiện, những câu chuyện có thật

hoặc không thì cũng được chắt lọc từ cuộc sống. Tiêu biểu như các truyện

ngắn: Ngải đắng ở trên núi, Những buổi chiều ngang qua cuộc đời, Đêm cá

nổi, Sau những mùa trăng, Giống như cái cối nước...

Truyện ngắn Ngải đắng ở trên núi cốt truyện rất đơn giản, Đỗ Bích Thúy

không đi vào vấn đề mang tính vĩ mô, bước ngoặt lớn lao. Truyện của chị tập

trung trần thuật những câu chuyện rất đỗi bình thường, những cảm nhận của

người con trở về quê sau những ngày tháng học tập và làm việc ở một nơi xa.

55

LuËn v¨n th¹c sÜ v¨n häc Ng« ThÞ Yªn

NghÖ thuËt trÇn thuËt trong truyÖn ng¾n §ç BÝch Thóy

Những câu chuyện về gia đình, về bản làng như: niềm vui của dân bản khi vụ

mùa bội thu, sự giận dỗi trách yêu của người mẹ với đứa con gái lâu ngày mới

trở về, sự tích về người em dâu xinh đẹp khi lấy chồng, chuyện em Dân mâu

thuẫn với mẹ về sự thay đổi giữa cái cũ và cái mới của bản làng thời kinh tế

thị trường. Cuối cùng là cảm nhận rất riêng của nhân vật „tôi” khi cầm nắm lá

ngải cứu trên tay. Mùi vị ngải cay cay, ngòn ngọt, nhằng nhặng đắng cũng đủ

làm xao động tâm hồn của nhân vật “tôi” khi nghĩ về quãng đời thơ ấu bình

yên, êm đềm của mình... Tất cả những câu chuyện tản mạn đó dường như

không có sự ăn khớp với nhau nhưng qua cách viết dung dị , nhẹ nhàng của

nhà văn, truyện tưởng như rời rạc kia lại là những mẩu chuyện làm toát lên

nỗi niềm đáu đáu của nhân vật “tôi” khi nghĩ về gia đình và quê hương.

Chúng ta có thể lập bảng thống kê về kiểu cốt truyện đơn giản xuất hiện

trong một số truyện ngắn của Đỗ Bích Thúy:

Truyện ngắn Cốt truyện đơn giản

Truyện kể về cảnh ngộ của nhân vật tên

Vi - một cô gái nghèo đau khổ khi về nhà Giống như cái cối nước chồng mà trong lòng vẫn một nỗi buồn khi

người đàn ông cô yêu đã phụ tình.

Truyện kể về tình yêu của một chàng trai

dân tộc tên Sính với người vợ trẻ là một cô

giáo miền xuôi tên Sương. Một tình yêu cao Cái ngưỡng cửa cao thượng, bền bỉ trong chờ đợi, hi vọng mòn

mỏi và mặc cho sự cám dỗ nhưng anh vẫn

không ngã lòng.

Truyện kể về những phút xao động trong Mặt trời lên, quả

lòng của chàng trai tên Dân với cô gái khác còn rơi xuống

56

LuËn v¨n th¹c sÜ v¨n häc Ng« ThÞ Yªn

NghÖ thuËt trÇn thuËt trong truyÖn ng¾n §ç BÝch Thóy

nhưng sau đó anh chợt nhận ra, hạnh phúc

tình yêu không phải tìm đâu xa, nó ngay trong

tầm tay mình, không ai khác chính là người

vợ - người con gái mà mình đã chọn.

Kể về nhân vật “tôi” - là một chàng trai

trẻ trở về nhà với những phút chênh chao xao Sau những mùa trăng lòng, niềm yêu thương khắc khoải thầm kín

của mình về người chị dâu góa bụa xinh đẹp.

Truyện kể về nhân vật “tôi” trong sự trở về

với cội nguồn, với những kí ức, với sự quan

tâm yêu thương của mẹ, của em dâu, em trai, Ngải đắng ở trên núi với cả hương vị cay nồng của ngải đắng... Để

rồi khi ra đi, nhân vật “tôi” lại thấy đau đáu

hình ảnh về quê hương xứ sở.

2. 2. 2. 2. Cốt truyện với kết thúc bất ngờ, kết thúc để ngỏ

Cốt truyện với kết thúc bất ngờ, kết thúc để ngỏ rất phổ biến trong văn

học Việt Nam cận hiện đại. Thường kết thúc tác phẩm bao giờ cũng là phần

mà vấn đề được giải quyết một cách triệt để, mọi bí ẩn của câu chuyện đều

được lí giải nhưng cốt truyện theo hình thức này lại khác. Tác phẩm bắt đầu

bằng những sự việc đã xảy ra hoặc chưa xảy ra nhưng đến cuối tác phẩm thì

sự việc ấy chưa được giải quyết triệt để dường như vẫn còn dang dở. Có thể

gọi đây là cốt truyện có kết thúc mở. Đỗ Hương Thủy từng nhận định: “Tác

phẩm là một cấu trúc mở, “một khối vuông rubic”, một bức tranh lập thể mời

gọi sự khám phá, diễn dịch và đối thoại từ phía người đọc” [59;68]. Kiểu cốt

truyện này ban đầu gây cho người đọc sự hụt hẫng nhưng xem ra, đây có thể

là ý đồ của nhà văn. Bởi, dẫn dắt vấn đề theo cốt truyện như thế này cũng

đồng nghĩa là để cho độc giả cùng nhập cuộc. Người đọc lúc này quên mình

57

LuËn v¨n th¹c sÜ v¨n häc Ng« ThÞ Yªn

NghÖ thuËt trÇn thuËt trong truyÖn ng¾n §ç BÝch Thóy

là độc giả để tham gia, suy ngẫm, hình dung về nhân vật và đưa ra lời lí giải

nhằm thỏa mãn ý muốn cá nhân.

Khảo sát 5 tập truyện ngắn của Đỗ Bích Thúy, có một số truyện của chị

theo kết cấu này. Tiêu biểu như truyện: Sau những mùa trăng, Mần tang

trong thung lũng, Giống như cái cối nước, Hẻm núi, Tiếng đàn môi sau bờ

rào đá...

Truyện ngắn Tiếng đàn môi sau bờ rào đá là một câu chuyện tuyệt vời về

tình yêu và sự thủy chung. Một trong yếu tố tạo nên thành công của truyện

ngắn này là tác giả đã tạo nên một cốt truyện đầy những yếu tố bất ngờ, đặc

biệt là đoạn kết thúc.

Câu chuyện đề cập đến những sự việc, hành động của mẹ già khiến cho

May đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác. Ngạc nhiên đầu tiên là sau

tiếng đàn môi gọi bạn tình của chàng trai yêu May khiến cho May không tài

nào ngủ được. Rồi việc mẹ già hứa cho May bộ váy áo đẹp của mẹ khi May đi

lấy chồng. Thế mà đến gần sáng, May thức giấc lại thấy mẹ già mở hòm lấy

bộ váy áo ấy ra. May lấy làm thắc mắc và những câu hỏi thắc mắc của May

khiến cho câu chuyện tăng thêm kịch tính. Tiếp đến, bất ngờ ở hội chợ, May

gặp lại mẹ già đang ngồi sau quẩy tấu gùi rượu, mặt đỏ rực, bên cạnh là một

người đàn ông. May không hiểu, người đàn ông đó có phải là bạn của mẹ già

không? Có phải là người đàn ông này đã thề với mẹ già là không bao giờ chơi

đàn môi nữa khi mẹ già đi làm dâu? Tưởng như câu chuyện hé mở đến đây đã

làm cho May cũng như độc giả nhận thức được vấn đề nhưng chưa hết, nhà

văn Đỗ Bích Thúy sáng tạo thêm tình huống cuối cùng cực kì độc đáo gây ấn

tượng bất ngờ. Đó là, sự thắc mắc của May về tiếng đàn môi đang cất lên réo

rắt kia. Lúc đầu, May tưởng là của bạn trai nhưng không phải vì tiếng đàn ấy

ở ngoài cổng gỗ dội vào chứ không phải ở đầu nhà như lần trước. May cảm

nhận được “tiếng đàn môi đêm nay có gì khang khác, dài hơn, trầm hơn, ngập

ngừng hơn, vẫn tràn qua bờ đá vừa dày vừa cao như suối chảy”. Sau đó, May

đột nhiên thấy mẹ già khẽ khàng trở dậy. May tưởng mẹ già quên chưa buộc

58

LuËn v¨n th¹c sÜ v¨n häc Ng« ThÞ Yªn

NghÖ thuËt trÇn thuËt trong truyÖn ng¾n §ç BÝch Thóy

con chó ra ngoài chuồng ngựa nhưng May thất thần khi thấy mẹ già đang cố

gắng kìm nén tình cảm của mình bằng cách “nắm chặt thanh gỗ cài hai cánh

cổng...”. Hành động đóng kín cánh cổng, phải chăng là hành động đóng kín

tâm hồn mình. Hành động này, chúng ta thấy người phụ nữ vùng cao rất cao

thượng. Vì tình thương trách nhiệm của mình với gia đình mà họ âm thầm

chịu đựng mà không một lời oán thán. Câu chuyện dừng lại ở tình huống độc

đáo, bất ngờ này khiến cho câu chuyện sáng bừng lên những con người hiếu

nghĩa. Họ hiểu được tình cảm trong nhau nên đã tạo điều kiện cho nhau thỏa

nguyện tấm lòng. Nhưng đằng sau sự khát khao yêu thương thì chính họ biết

dừng lại để trở thành những con người đáng kính, đáng khâm phục. Câu

chuyện kết lại bằng hình ảnh: “Ánh trăng cuối tuần mờ quá. Gió lạnh từ trong

khe núi ào ra, mấy chiếc lá lê già còn sót lại rụng nốt, quệt vào bờ rào đá sàn

sạt...”.

Suốt từ đầu câu chuyện, người đọc nhập cuộc cùng với những suy nghĩ

băn khoăn thắc mắc của May. Từ đó dấy lên trong lòng người đọc sự đồng

cảm, đi từ xúc động này đến xúc động khác một cách tự nhiên. Để rồi kết

thúc, câu chuyện với những tình huống bất ngờ đã hướng suy nghĩ của độc

giả sang hướng khác. Đó là lời tâm sự của mẹ già khi nói với con gái: “Con

gái à, làm dâu mà không làm mẹ thì chỉ là cục đá kê chân cột nhà chồng mà

thôi. Ở hai mười, ba mười năm, ở đến lúc chết cũng chỉ là cục đá kê cột

thôi...”. Câu nói này khiến người đọc có một cảm giác, nó giống như một

tiếng thở dài của mẹ già với cuộc đời “làm dâu mà không làm mẹ” của mình.

Câu chuyện kết thúc nhưng vẫn làm day dứt trong lòng mỗi độc giả.

Truyện ngắn Sau mỗi mùa trăng độc giả lại bị kích thích bởi một câu

chuyện tình cảm của người em trai chồng với người chị dâu góa bụa. Nhân

vật “tôi” kể chuyện ở đây không biết có duyên nợ không mà lần nào trở về

quê cũng gặp trúng mùa trăng. Bất ngờ đối với nhân vật “tôi” không biết là vô

tình hay hữu ý mà anh phát hiện được chị dâu luôn phải khổ sở nén chịu

những nỗi niềm khao khát yêu đương. Từ đó, nhân vật “tôi” dấy lên trong

59

LuËn v¨n th¹c sÜ v¨n häc Ng« ThÞ Yªn

NghÖ thuËt trÇn thuËt trong truyÖn ng¾n §ç BÝch Thóy

lòng những rung cảm kỳ lạ. Câu chuyện được dẫn dắt lãng mạn hơn là nhờ

những đêm trăng, trong khung cảnh đêm về khuya, tất cả trở nên yên ắng thì

xuất hiện “tiếng khèn lá từ ngoài suối vọng vào, lúc gần lúc xa, lúc như tiếng

gió dài lê thê, lúc cao vun vút, rộn rã như tiếng chim buổi sớm...”. Bất giác,

nhân vật “tôi” thấy chị dâu từ trong buồng rón rén bước ra, vừa đi vừa vấn lại

mái tóc. Nhân vật “tôi” lúc này tưởng người chị dâu quên mình là gái đã có

chồng với những khao khát yêu đương mà chị đi theo tiếng khèn môi, tiếng

gọi của tình yêu. Chứng kiến cảnh tượng ấy tự dưng, nhân vật “tôi” có cảm

giác “đau buốt nhói ở phía ngực... Hẫng hụt, như người rơi xuống đáy sông

sâu hun hút”. Nhưng không, chị dâu chỉ trở dậy ra bếp thổi lửa, rồi quấn lanh.

Qua ánh lửa mỗi lúc một sáng, nhân vật “tôi” và bất ngờ được nhìn ngắm

dung nhan vẫn đẹp tuyệt vời của chị “Đôi má căng, đỏ rừng rực, khuy áo bên

trên bật ra trễ nải, để lộ ba ngấn cổ cao trắng ngần, khuôn ngực phập phồng

nhè nhẹ...”. Một cảm giác yêu thương len nhẹ trong lòng nhân vật “tôi”. Rồi

tiếng khèn lá ấy vẫn réo rắt từng đêm và đêm nào nhân vật “tôi” cũng phải

chứng kiến cảnh chị dâu trở dậy ngồi bên khung cửi hay ngồi bên đống lanh.

Để rồi đau đớn hơn khi chị phải đứng dậy nhiều lần để lấy dây lanh buộc cửa,

buộc thêm, buộc thêm mãi. Còn chàng trai thì cứ nằm cứng đơ như khúc gỗ

và nghiến đến mỏi hàm mà không nghĩ thêm được điều gì. Câu chuyện cứ

như thế trôi chảy khiến người đọc cũng bất giác chạnh lòng và trăn trở theo.

Bất ngờ, một hành động được coi là bản năng, nhân vật “tôi” như một con thú

dũng mãnh lao một mạch ra cửa để giằng tay chị ra khỏi mớ dây lanh bùng

nhùng. Rồi cả những lời nói của chàng trai cũng rất thẳng thắn “Chị dâu à, em

bảo thằng Sìn đem khèn lá đi nơi khác mà thổi. Nhìn vào mắt nó em không

chịu được...”. Tưởng câu chuyện mười mươi đã rõ ràng nhưng hết mùa trăng,

nhân vật “tôi” là chàng trai lại ra đi. Nhưng lần ra đi này tâm trạng của nhân

vật “tôi” khác với những lần trước. Ngoài nỗi nhớ gia đình, chàng trai còn có

nỗi niềm riêng “Hòn sỏi trong tay bỏng rát. Trăng cuối mùa vẫn chưa kịp lặn

những đã lẫn vào chân trời đang sáng dần lên...”.

60

LuËn v¨n th¹c sÜ v¨n häc Ng« ThÞ Yªn

NghÖ thuËt trÇn thuËt trong truyÖn ng¾n §ç BÝch Thóy

Với kết cấu mở như thế này, Đỗ Bích Thúy đã làm cho truyện ngắn của

mình thêm nội khí “một lời mà thiên cổ, một gợi mà trăm suy”. Có lẽ, cái tài

của chị là ở chỗ gợi nhiều hơn nên rất nhiều truyện của chị khi đọc xong rồi

mà độc giả vẫn còn nhiều băn khoăn thắc mắc. Điều đó lí giải vì sao “Khi

truyện ngắn Sau những mùa trăng được đoạt giải, đã in ra thì nhiều người

tìm đến tôi chỉ để hỏi một câu: Cuối cùng thì chị dâu của anh chàng Lìn này

sẽ lấy ai? Tôi không trả lời được, tùy người đọc thôi, bạn quý ai hơn, thương

ai hơn thì chị dâu sẽ lấy người đó” [65;346].

2.2.2.3. Cốt truyện đan xen nhiều mạch truyện

Ngoài những truyện ngắn viết theo cốt truyện liền mạch với các sự kiện

được giải quyết dần từ đầu cho đến kết thúc thì đâu đó trong tác phẩm của Đỗ

Bích Thúy cũng có những tác phẩm mang cốt truyện rời rạc, phân mảnh.

Truyện như đan cài, chồng chéo nhiều mạch truyện đứt đoạn tưởng như

không ăn khớp nhau và không tuân thủ quy luật tự nhiên của cảm xúc. Vậy

mà câu chuyện vẫn được kéo dài từ hiện tại, quá khứ đến tương lai. Bởi, cốt

truyện này có nhiều sự kiện đan xen, sáo trộn về mặt thời gian tạo cho truyện

có nhiều mạch truyện hoặc ngược lại nhằm để đối chiếu, soi tỏ và khắc họa

sâu hình tượng nhân vật và bộc lộ tối đa chủ đề của tác phẩm.

Tập truyện Ngƣời đàn bà miền núi do NXB Phụ nữ xuất bản, tôi ấn

tượng với cốt truyện trong tác phẩm Lặng yên dưới vực sâu của Đỗ Bích

Thúy. Truyện rất nhiều mảnh ghép được xen kẽ từ quá khứ đến hiện tại một

cách linh hoạt giống như những lớp, cảnh trong điện ảnh. Truyện của Đỗ Bích

Thúy thường tạo ra một sự việc mở đầu bằng thời khắc hiện tại rồi ngược về

quá khứ. Có nghĩa là bắt đầu khi sự kiện đã xảy ra rồi và sau đó đi tìm nguyên

nhân, nguồn cội của nó. Đấy là kiểu trần thuật phổ biến nhưng truyện Lặng

yên dưới vực sâu chỉ khác đôi chút là truyện này lại mở đầu bằng thời khắc

trong quá khứ. Đó là cái nhìn hồi cố của người kể chuyện, sau đó mới ngược

trở về câu chuyện ở thời điểm hiện tại để làm rõ nguyên nhân.

61

LuËn v¨n th¹c sÜ v¨n häc Ng« ThÞ Yªn

NghÖ thuËt trÇn thuËt trong truyÖn ng¾n §ç BÝch Thóy

Mở đầu truyện Lặng yên dưới vực sâu dẫn dắt câu chuyện về một chàng

trai Mông có tên là Giàng Sếnh Vừ. Một chàng trai thổi sáo hay khiến bao cô

gái mê say nhưng Vừ chỉ yêu Súa. Cũng trong thời điểm này, Súa nghe tiếng

sáo hôm nay có phần khác lạ. Súa nhớ rất kĩ tiếng sáo của Vừ “Bên trong nó

ngoài sự trầm bổng còn có cả tiếng gió, mùi gió... Tiếng sáo của Vừ không

chỉ là tiếng sáo, không chỉ là khúc dân ca Mông về tình yêu mà còn mang

theo mùi của hạt kê ông nội trồng trên U Khố Sủ, mùi của khói đốt phân bò,

mùi của thịt muối treo trên gác bếp... Nhưng tiếng sáo mà Súa nghe đêm nay

lại là mùi của nước mắt đang khô”. Mở đầu chuyện dừng lại, nhà văn bắt đầu

trần thuật câu chuyện theo từng phần (Truyện gồm 6 phần và mỗi phần đều có

một tiêu đề). Trong mỗi phần, Đỗ Bích Thúy lại tiếp tục xen kẽ để kể về bốn

nhân vật: Vừ, Súa, Phống, Nhí với nhiều khoảnh khắc xáo trộn giữa quá khứ,

hiện tại và tương lai cùng đồng hiện.

Mạch thứ nhất: Kể về Tráng A Phống - một thằng trai Mông con nhà giàu,

giỏi tính toán đã lấy được Súa - đứa con gái Mông cũng đẹp nhất vùng.

Tưởng như vậy là rất xứng đôi vừa lứa nhưng Phống đã nhầm. Vì Phống đã

nhận ra là mình chỉ lấy được vợ, có vợ về mặt thể xác còn tâm hồn Súa đã

dành cho thằng Vừ trên U Khố Sủ. Điều đó khiến Tráng A Phống đau khổ

nhưng Phống vẫn nhẫn nại tỏ ra yêu thương chăm sóc chiều chuộng Súa. Ấy

vậy, lúc gần Súa, Súa lại lạnh lùng vô cảm. Có lúc điên cuồng, Phống đã ngủ

với đứa con gái khác trước mặt của Súa và kèm theo cả những câu nói mất hết

nhân tính. Từ đây, Phống như thấy có một sợi dây vô hình khiến anh cùng vợ

càng lúc càng xa nhau hơn. Để rồi lúc họ có sự tha thứ đồng cảm trong nhau

thì Phống lại có nỗi khổ tâm riêng. Nỗi khổ tâm này chỉ có Phống và Súa biết

được nên anh đã nhảy xuống vực và kết thúc cuộc đời buồn tủi của mình.

Mạch thứ hai: Kể về Súa - nhân vật trung tâm (phần này tôi đã nói kĩ ở

phần kết cấu đảo trật tự trần thuật).

Mạch thứ ba: Kể về Giàng Sếnh Vừ - là người U Khố Sủ rất yêu Súa và

Súa cũng rất yêu Vừ nhưng cả hai không đến được với nhau. Điều đó khiến

62

LuËn v¨n th¹c sÜ v¨n häc Ng« ThÞ Yªn

NghÖ thuËt trÇn thuËt trong truyÖn ng¾n §ç BÝch Thóy

Vừ khổ tâm vô cùng. Có lúc, Vừ đến tận nhà chồng của Súa dùng tiếng sáo

của mình để gọi Súa, mong Súa trở lại với mình. Rồi khi Súa có con, Vừ vẫn

chặn đường Súa nhiều lần để nói lời yêu thương: “Phải tin Vừ chứ. Nhé,

mang thằng Chá lên U khố Sủ với mình nhé. Mình không ghét nó, không

đánh chửi nó đâu”.

Mạch thứ tư: Kể về Nhí - đứa em chồng xinh đẹp nhưng bị câm. Tưởng

như không có người nào nhòm ngó đến cô. Nhưng bất ngờ có một người đàn

ông tên Tân - vợ mất, có một đứa con, ở nơi khác đến đây nuôi ong. Hai con

người, mỗi người có một hoàn cảnh đáng thương, họ đồng cảm và tìm đến

nhau để tâm sự. Một lần lên nương tìm chị dâu, Nhí chứng kiến cảnh chị dâu

bị một người đàn ông nhấn chìm trong đống ngô khô. Điều đó khiến Nhí nghĩ

đến người đàn ông của đời mình và mong mình sẽ là người phụ nữ hạnh phúc.

Nhưng bất hạnh lại ập đến với Nhí, bởi người đàn ông duy nhất của đời Nhí

bị đám trai La Chí Trải ác ý đã mở tất cả những thùng ong của Tân vào lúc

nửa đêm. Tân chỉ vì đi cứu ong đã bị một cơn đau co thắt lồng ngực mà chết.

Nhí đau đớn khi mà “Cuộc đời với những chuỗi ngày đau buồn dằng dặc vừa

mới le lói chút ánh sáng mong manh của hạnh phúc đã chấm dứt”.

Với bốn mạch truyện được đan xen, lồng ghép trong sáu phần được tác

giả phân chia khiến cho các nhân vật trong truyện được dàn trải xuyên suốt

cho đến khi kết thúc. Đây có thể coi là dụng công của nhà văn Đỗ Bích Thúy.

Nhà văn đã tổ chức, sắp đặt các nhân vật trong truyện đan cài, bổ sung cho

nhau để làm cho nhau tỏa sáng. Nhân vật nào cũng đẹp, cũng có lương tâm

nhưng cuộc đời họ, mỗi người lại có bi kịch khác nhau. Chính những nhân vật

trong truyện này là những đại diện tiêu biểu cho những con người vùng cao.

Đó là những con người có tấm lòng nhân hậu, có sự thủy chung vô bờ và có

cả tình yêu thương mãnh liệt, cháy bỏng... Đây có thể coi là giá trị nhân văn

cao cả mà nhà văn Đỗ Bích Thúy gửi gắm vào các nhân vật trong tác phẩm

của mình. Điều đó càng chứng minh, tác phẩm không còn là câu chuyện về

63

LuËn v¨n th¹c sÜ v¨n häc Ng« ThÞ Yªn

NghÖ thuËt trÇn thuËt trong truyÖn ng¾n §ç BÝch Thóy

một con người, về những cảnh đời mà nó mang thông điệp về thân phận và nó

chính là vấn đề nhức nhối của mọi thời đại.

Còn truyện Tiếng đàn môi sau bờ rào đá lại là một cốt truyện được nhà

văn triển khai trên ba mạch chính với thời gian đan xen từ hiện tại đến quá

khứ. Chuyện kể lại sự việc của gia đình ông Chúng ở thời khắc hiện tại với

tâm trạng của ba con người: ông Chúng, bà Mao và May, mỗi người một tâm

trạng. Ông Chúng thấy “trong nhà mình khó ở quá” khi phải nghĩ đến trách

nhiệm của mình với gia đình, bà Mao thì có hành động khác thường “Mẹ già

định mặc váy áo đẹp đi đâu”, còn May đứa con gái của ông bà cũng bắt đầu

có khát vọng yêu đương, biết suy nghĩ. Từ thời khắc hiện tại với mỗi người

một tâm trạng, nhà văn Đỗ Bích Thúy bắt đầu triển khai những mạch đứt

đoạn trong truyện. Chúng tôi sẽ làm nhiệm vụ lắp ghép những mảnh vụn

trong truyện để trần thuật lại ba nhân vật trên.

Mạch thứ nhất: Giải thích hiện tượng ông Chúng muốn sang nương không

muốn trở về chỉ là cái cớ. Có lẽ ông hiểu rõ vợ mình hơn ai hết. Cả cuộc đời

bà Mao đã dành hết cho gia đình con cái. Tuy bà không sinh ra May và thằng

Trài nhưng bà đã nuôi chúng nên người. Thế là vấn đề gì mà ông cảm thấy lo

âu, thắc thỏm. Đó là chuyện của bà Mao năm xưa có yêu một chàng trai

nhưng vì gia đình chàng trai nghèo nên bố mẹ bà Mao không đồng ý. Lúc đó,

gia đình ông Chúng giàu có đã chồng đủ bạc trắng, đủ gạo, rượu nên ông

Chúng mới cưới được bà Mao. Điều đó khiến cho tâm trạng của ông Chúng

bất an. Ông Chúng muốn làm điều gì đó đền đáp cho bà Mao. Bởi những

tháng năm tuổi trẻ, bà buộc phải chôn vùi kí ức đẹp của mình để gánh trách

nhiệm giang sơn nhà chồng. Bằng cách, ông Chúng bảo bà Mao mang rượu

ngô đi bán và “Ai cũng biết mang rượu ngô đi chợ hai bảy để người bán

người mua uống cùng với nhau”, để cho những người yêu nhau được đến với

nhau.

Mạch thứ hai: Thuật lại cuộc đời làm dâu của bà Mao. Cuộc đời làm dâu

của bà Mao gặp nhiều đau buồn. Bà về nhà ông Chúng đã ba năm nhưng vẫn

64

LuËn v¨n th¹c sÜ v¨n häc Ng« ThÞ Yªn

NghÖ thuËt trÇn thuËt trong truyÖn ng¾n §ç BÝch Thóy

chưa có con. Có lúc, bà Mao định trở về nhà mẹ đẻ để cho chồng lấy vợ mới

nhưng ông Chúng không nghe và còn yêu thương vợ nhiều hơn. Tưởng câu

chuyện dừng lại như vậy thì không có gì đáng bàn. Biến cố bắt đầu xảy ra. Đó

là việc ông Chúng đi làm đường, khi trở về lại mang theo một người đàn bà

cùng về. Người đàn bà này sinh cho ông Chúng hai đứa con là con May và

thằng Trài. Mẹ của chúng lại là một người đàn bà dưới xuôi không biết làm

nương, không biết trỉa đậu, vun đậu nên người đàn bà đó đã để hai đứa con

của mình cho bà Mao nuôi. Hai đứa con của chồng được bà Mao chăm sóc

yêu thương bằng tình thương của người mẹ với đàn con cho đến khi chúng

lớn khôn.

Mạch thứ ba: Kể về May - con gái ông Chúng đến tuổi cập kê, biết suy

nghĩ và là người nối kết câu chuyện đứt đoạn nằm rải rác trong truyện. Với

nhân vật này, nhà văn Đỗ Bích Thúy có ý lồng ghép câu chuyện tình yêu của

May để gợi nhắc về một quá khứ, về một cuộc tình đẹp nhưng dang dở của bà

Mao. Chính lẽ đó mà May cứ phân vân, hết thắc mắc này đến thắc mắc khác

về những hành động của mẹ Mao và cả việc bố mình đòi sang nương ở không

về.

Xen kẽ trong câu chuyện được kể là tiếng đàn môi réo rắt lặp đi lặp lại

làm phông nền cho tác phẩm. Điều đó khiến cho câu chuyện không cần phải

nói rõ mà người đọc vẫn dần dần hiểu ra mọi chuyện. Từ đây dấy lên trong

lòng bạn đọc một tình thương đồng cảm, chia sẻ với tất cả nhân vật trong

truyện.

Thông qua việc tìm hiểu và đi sâu nghiên cứu năm tập truyện của Đỗ Bích

Thúy, chúng tôi nhận thấy chị rất linh hoạt khéo léo trong việc xây dựng, tổ

chức kết cấu và cốt truyện. Một sự kết hợp tuyệt vời giữa truyền thống và

hiện đại trong tác phẩm của chị. Chúng tôi phát hiện thấy, truyện ngắn của chị

được đặt trong nhiều thử thách của nhiều cách thức sáng tạo kết cấu và cốt

truyện khác nhau. Đây có thể coi là sự thành công bước đầu của ngòi bút nhà

văn trẻ này.

65

LuËn v¨n th¹c sÜ v¨n häc Ng« ThÞ Yªn

NghÖ thuËt trÇn thuËt trong truyÖn ng¾n §ç BÝch Thóy

CHƢƠNG 3. NGÔN NGỮ VÀ GIỌNG ĐIỆU TRẦN THUẬT TRONG

TRUYỆN NGẮN ĐỖ BÍCH THÚY

3.1. Ngôn ngữ trần thuật trong truyện ngắn Đỗ Bích Thúy

3.1.1. Khái quát về ngôn ngữ trần thuật

Văn học là nghệ thuật của ngôn từ, là sản phẩm của hoạt động sáng tạo

ngôn từ mang tính nghệ thuật. Sáng tạo ngôn ngữ nghệ thuật là một vấn đề

mang tính tất yếu của văn học. Bởi vì vốn từ vựng của một ngôn ngữ dù có

phong phú đến mấy vẫn là có hạn, cấu trúc ngữ pháp của một ngôn ngữ dù có

đa dạng đến đâu cũng chưa thỏa mãn được hết nhu cầu giao tiếp mà người

sáng tạo ra nó muốn hướng tới. Cho nên, người viết phải tìm tòi không ngừng

trong công cuộc sáng tạo nghệ thuật ngôn từ.

Trong cuốn Giáo trình lí luận văn học có nêu: “Ngôn ngữ là phương tiện

khách quan để viết và hiểu được văn bản, là cái tạo nên lớp bề mặt của văn

bản. Ngôn ngữ là một hệ thống quy tắc cú pháp, quy tắc từ pháp, quy tắc dụng

pháp, nó có tính ổn định; nhưng cả hệ thống ấy cũng đang đổi thay theo áp

lực của đời sống và lịch sử” [53;48].

Từ điển thuật ngữ văn học cũng khẳng định: “Trong tác phẩm, ngôn ngữ

văn học là một trong những yếu tố quan trọng thể hiện cá tính sáng tạo, phong

cách, tài năng của nhà văn. Mỗi nhà văn lớn bao giờ cũng là tấm gương sáng

về mặt hiểu biết sâu sắc ngôn ngữ” [21;186].

Vậy trong tác phẩm tự sự, trần thuật chính là thành phần lời sáng tạo của

tác giả, của người trần thuật. Cho nên, ngôn ngữ trần thuật chính là nơi bộc lộ

ý thức sử dụng ngôn ngữ có chủ ý của nhà văn. “Ngôn ngữ người trần thuật là

phần lời độc thoại thể hiện quan điểm của tác giả hay quan điểm người kể

chuyện đối với cuộc sống được miêu tả, có những nguyên tắc thống nhất

trong việc lựa chọn và sử dụng các phương tiện tạo hình và biểu hiện ngôn

ngữ” [21;184].

Ngôn ngữ trần thuật mang tính chính xác, cá thể hóa. Mỗi câu, mỗi chữ

trong tác phẩm có thể chứa đựng nhiều tầng ý nghĩa, nhiều cách giải thích.

66

LuËn v¨n th¹c sÜ v¨n häc Ng« ThÞ Yªn

NghÖ thuËt trÇn thuËt trong truyÖn ng¾n §ç BÝch Thóy

Nhưng mỗi từ dù mang sắc thái ý nghĩa đa tầng thì cũng phải được thống nhất

trên cơ sở của chủ thể sáng tạo. Chính điều đó làm cho ngôn ngữ trần thuật có

tính đa thanh. Vì đây là đặc trưng của ngôn ngữ văn xuôi, là sự tác động qua

lại phức tạp giữa tiếng nói của tác giả, người kể chuyện và nhân vật, giữa

ngôn ngữ miêu tả và ngôn ngữ được miêu tả.

Có thể nói trong văn học hiện đại, ngôn ngữ trần thuật có vị trí nổi trội, nó

là linh hồn của tác phẩm cũng như định hình được phong cách độc đáo của

mỗi nhà văn. Việc tìm tòi, đổi mới cách tân trong ngôn ngữ trần thuật cũng là

hướng đi của văn xuôi đương đại nhằm thúc đẩy cách sáng tạo, cách hiểu,

cách tiếp nhận về gần với đặc trưng thẩm mỹ của văn học.

Truyện ngắn của Đỗ Bích Thúy về mặt ngôn ngữ chính là mảnh đất màu

mỡ để người nghiên cứu tìm hiểu khám phá và khai thác hết mặt ưu của nó.

Trong phần này, chúng tôi đi vào tìm hiểu và khám phá hai vấn đề liên quan

đến ngôn ngữ trần thuật. Đó là lời văn trần thuật và lời văn miêu tả trong

truyện ngắn Đỗ Bích Thúy.

3.1.2. Lời văn trần thuật và lời văn miêu tả trong truyện ngắn của Đỗ

Bích Thúy

3.1.2.1. Lời văn trần thuật

Các nhà nghiên cứu có thể chia lời văn trần thuật thành lời của tác giả và

lời của nhân vật hay lời trần thuật trực tiếp và lời trần thuật gián tiếp. Trong

tác phẩm tự sự thì lời trần thuật gián tiếp luôn giữ vai trò chủ đạo. Bởi ở đó

lời văn diễn ra ở dạng kể là chính. Với lời trần thuật gián tiếp, thực chất

chúng ta nên hiểu nó vẫn là lời văn của tác giả hay của người trần thuật khi

trình bày lại toàn bộ thế giới hình tượng (kể cả lời nhân vật) mà mình sáng tạo

ra cho người đọc.

Theo Bakhtin, lời gián tiếp chia làm hai loại: lời gián tiếp một giọng và lời

gián tiếp hai giọng. Ngày nay, các nhà văn thường sử dụng lời trần thuật gián

tiếp hai giọng. Bởi lời trần thuật gián tiếp hai giọng, nó vừa là lời tái hiện vừa

là lời phẩm bình, nhận xét về thế giới hình tượng bằng giọng điệu của người

67

LuËn v¨n th¹c sÜ v¨n häc Ng« ThÞ Yªn

NghÖ thuËt trÇn thuËt trong truyÖn ng¾n §ç BÝch Thóy

khác với ý thức biểu như: tranh luận, đồng tình hay phản bác, khẳng định hay

phủ định… Đồng thời nó vừa hướng vào tái hiện đối tượng lại vừa đối thoại

ngầm với lời người khác ngoài đối tượng, hoặc đối thoại ngầm với chính đối

tượng. Đây có thể coi là loại lời phát triển nhất và phong phú nhất trong công

cuộc sáng tạo không ngừng của mỗi nhà văn. Từ đó, các nhà nghiên cứu phân

loại thành các dạng: lời trần thuật nửa trực tiếp, lời gián tiếp phong cách hóa,

lời trần thuật gián tiếp của người kể chuyện.

Đối với văn phong Đỗ Bích Thúy, chúng tôi nhận thấy truyện ngắn của

chị chủ yếu sử dụng tối đa hai dạng thức trên. Đó là lời trần thuật gián tiếp

của người kể chuyện và lời trần thuật nửa trực tiếp.

3.1.2.1.1. Lời trần thuật gián tiếp của ngƣời kể chuyện

Theo Giáo trình dẫn luận thi pháp học thì “Lời gián tiếp là lời văn đảm

đương chức năng trần thuật, giới thiệu, miêu tả, bình luận con người và sự

kiện, phân biệt với lời trực tiếp được đặt trong dấu ngoặc kép hoặc sau gạch

đầu dòng. Lời gián tiếp là lời của người trần thuật, người kể chuyện. Đây là

cách gọi ước lệ để chỉ chức năng trần thuật của lời văn, dù là lời kể theo ngôi

thứ nhất” [51;216]

Lời trần thuật gián tiếp của người kể chuyện là lời một nhân vật trong

truyện. Lẽ ra đó phải là lời trực tiếp nhưng tác giả tạo cho nó chức năng trần

thuật nên nó lại trở thành lời gián tiếp. Ở đây, lời người kể là lời người trong

cuộc hoặc là người tham gia, chứng kiến, có sức thu hút và có sức thuyết phục

riêng. Trong đó, dù là lời của ai đi chăng nữa thì cũng phải mang quan điểm

của tác giả nhưng không nhất thiết phải đồng nhất theo tác giả mà phải xem

như lời của một nhân vật. Nghĩa là, lời người kể chuyện phải có đầy đủ yếu tố

thuộc lớp ngôn ngữ nhân vật. Chẳng hạn như lời của nhân vật “tôi” trong

những truyện ngắn: Cạnh bếp có cái muôi gỗ, Đêm cá nổi, Sau những mùa

trăng, Ngải đắng ở trên núi...

Truyện ngắn Cạnh bếp có cái muôi gỗ thực chất là lời của người kể nhập

vào vai “tôi” kể lại câu chuyện của mình khi gặp lại bạn thân tên Mai. Mai

68

LuËn v¨n th¹c sÜ v¨n häc Ng« ThÞ Yªn

NghÖ thuËt trÇn thuËt trong truyÖn ng¾n §ç BÝch Thóy

giờ đã lấy chồng và có ba đứa con gái. Kí ức gợi về những câu chuyện, những

ước mơ thật nhỏ bé nhưng cũng đầy ý nghĩa. Đó là ngày bé, Mai luôn ước có

một cái muôi gỗ thật to. Ấy vậy mà mãi đến lúc Mai lấy chồng. nhân vật “tôi”

mới làm cho cô ấy. Có thể nói, hình ảnh cái muôi gỗ ấy có sức ám ảnh nhân

vật “tôi” ghê gớm. Điều đó càng chứng tỏ, Mai có một tuổi thơ vất vả, thiếu

thốn, thiếu bàn tay chăm sóc của người cha và đến khi lấy chồng lại không

được sự yêu thương quan tâm của người chồng. Đây có thể coi là bức thông

điệp mà nhà văn thông qua nhân vật “tôi” bộc lộ cảm xúc thương cảm đến tội

nghiệp cho nhân vật của mình. Chẳng thế mà Đỗ Bích Thúy đã kể lại: “Sau

khi truyện ngắn này in trên An ninh Thế giới ít lâu thì tôi nhận được một lá

thư của một bạn đọc từ Bungari gửi về. Trong thư cô ấy viết: “Em gửi kèm

theo lá thư này một chiếc muôi bằng gỗ của Bungari. Chị ơi, nếu như anh Chứ

vẫn chưa đẽo cho chị Mai chiếc muôi mới thì chị gửi cái muôi này cho chị ấy

nhé”. Chiếc muôi gỗ có vẽ một cô gái đang nhảy múa và dòng chữ Bungari

trên cán giờ tôi vẫn giữ. Với tôi, đây là một trong những món quà quý giá

nhất mà tôi nhận được kể từ khi cầm bút viết văn” [65;80]. Sau lời trữ tình

ngoại đề của nhà văn Đỗ Bích Thúy, chúng ta lại thấy sự thành công của chị

không phải là kể những vấn đề lớn lao, những vấn đề có tính bước ngoặt thời

đại. Truyện của chị chỉ giản đơn là tình thương của chính con người với nhau.

Cuối cùng cũng với tình thương nhỏ bé ấy, độc giả đã gửi gắm sự cảm thương

của mình cho nhân vật của chị. Ngược lại, người độc giả ấy cũng lấy truyện

ngắn này của chị làm nguồn động viên an ủi mình trong những tháng ngày giá

lạnh học tập ở Bungari.

Hay như đoạn văn trong truyện Trôi trên phù sa kể lại cuộc đời long

đong lận đận hết ra đi lại trở về làng của nhân vật trong truyện: “Bà là người

có mặt muộn nhất ở cái làng này. Gọi là làng nhưng chỉ có chưa đầy hai chục

nóc nhà. Và tất cả đều từ cái nông trường ấy mà ra. Bà đến sau cùng vì mãi

tới khi nông trường giải thể bà mới đến. Dù chưa mặn mà gì mấy, nhưng chị

em ít nhiều cũng đã từng ở chung, ăn chung với nhau, vả lại, bà cũng không

69

LuËn v¨n th¹c sÜ v¨n häc Ng« ThÞ Yªn

NghÖ thuËt trÇn thuËt trong truyÖn ng¾n §ç BÝch Thóy

còn chỗ nào để về như những người khác. Mười một tuổi, bà trốn nhà chủ,

bấu vạt áo một ông cao lớn chui lên tàu. Tàu chạy mãi, chạy mãi, cuối cùng

dừng lại ở một nhà ga ẩn giữa tứ phía rừng núi. Bà lớn lên ở nông trường

cùng với những đồi chè...”[63;32]. Đoạn văn này thực chất là lời trần thuật

của người kể chuyện nhưng lời thuật lại cùng chiều, đồng tình với nhân vật

khiến cho đoạn văn thêm sắc thái và xoáy sâu hơn vào tình cảnh cụ thể của

nhân vật. Một bà già không chồng không con, lưu lạc khắp nơi giờ trở về ngôi

làng cũng với một thân một phận thật đáng thương. Từ đó dấy lên trong nhà

văn một sự đồng cảm cho số phận chung của những kiếp người “ba chìm bảy

nổi chín lênh đênh”.

Hay lời trần thuật gián tiếp phỏng theo lời một ai đó để người kể chuyện

tạo ra cái nhìn khác bổ sung cho cái nhìn của tác giả trong khi miêu tả đối

tượng. Truyện Sải cánh ở trên cao, lời người kể chuyện được kể qua cái nhìn

của Mai, một người mẹ, một người con dâu chứng kiến cảnh vì thiếu muối mà

bố chồng chết. Còn trong thời điểm hiện tại, mẹ chồng cùng đứa con trai đang

dở sống dở chết, thoi thóp chờ hột muối Mai mang về. Vậy mà chờ mãi, chờ

mãi, cuối cùng đứa con trai của Mai không chịu được nữa đã chết: “Mai giật

một cây đuốc, soi vào mặt con. Thằng bé vẫn nhắm nghiền mắt, tóc nó dựng

đứng lên... Không còn nhớ gì nữa ngoài những sợi tóc hoe hoe của thằng Dí

dựng đứng lên, tại sao tóc nó lại dựng đứng lên trước khi chết? Tại sao? Nó

oán Mai ư? Nó đói ư? Nó thèm muối ư?” [65;313]. Với việc, Mai hai lần phải

chứng kiến người thân trong gia đình mất đi chỉ vì thiếu muối nên những câu

hỏi cuối đoạn được người trần thuật nhập thân vào nhân vật để thể hiện sự

day dứt nhấn mạnh hơn về cái chết bi thảm của người dân miền núi trong

những tháng ngày thực dân Pháp càn quét và kiểm soát gắt gao. Thông qua

nhân vật Mai, người kể chuyện đồng thời là tác giả đã ngầm lên án, tố cáo tội

ác tày trời của thực dân Pháp đồng thời là cả sự xót thương cho thảm cảnh của

Mai.

3.1.2.1.2. Lời trần thuật nửa trực tiếp

70

LuËn v¨n th¹c sÜ v¨n häc Ng« ThÞ Yªn

NghÖ thuËt trÇn thuËt trong truyÖn ng¾n §ç BÝch Thóy

Lời trần thuật nửa trực tiếp chính là sự kết hợp, đan xen nhuần nhuyễn

tinh tế giữa ngôn ngữ nhà văn, ngôn ngữ người kể chuyện và ngôn ngữ nhân

vật. Từ đó tạo nên mối quan hệ qua lại giữa các ý thức, có thể là đồng tình,

khẳng định hoặc là phản đối, phủ định. Cho nên, lời trần thuật nửa trực tiếp

chính là lời trần thuật nhưng được ẩn mình qua lời nhân vật, nói bằng giọng

điệu của nhân vật, để rồi nhằm bộc lộ thế giới nội tâm nhân vật và gây ấn

tượng cho nhân vật về sự hiện diện của mình. Cuối cùng tạo điều kiện cho

độc giả có thể xâm nhập vào ý nghĩ thầm kín, chủ quan của nhân vật.

Truyện Cái ngưỡng cửa cao có đoạn: “Trong nhà, chỗ nào cũng có dấu

tay Sương. Từ cái nồi đến bộ ấm chén uống chè. Trong bụng Sinh lúc nào

cũng như có người đổ rượu mạnh vào, rồi thả thêm một que diêm đang cháy

nữa. Chỉ có rượu bị đốt cháy mới bỏng thế. Không biết vợ mình ở đâu, có ai

làm gì xấu cho vợ mình không” [65;54]. Lời trần thuật của Đỗ Bích Thúy

trong đoạn văn này vẫn là lời của tác giả, người kể chuyện và giọng của nhân

vật được hòa lẫn vào nhau. Nhưng ở đây, nhà văn không đánh dấu câu và

cũng không dùng một từ chuyên biệt nào để phân định lời trần thuật khiến cho

người đọc như nhập nhòe tưởng đó là lời trực tiếp bộc lộ tâm trạng của Sinh.

Với cách viết như vậy giúp nhà văn miêu tả được sự lo lắng đến cháy gan

cháy ruột của Sinh - một chàng trai dân tộc đem lòng yêu Sương - cô giáo

miền xuôi lên mạn ngược để dạy học.

Hay một đoạn trong Tiếng đàn môi sau bờ rào đá, miêu tả mẹ già lấy váy

áo ra khiến cho May thắc mắc: “Hết mùa cưới rồi, họ hàng chắc cũng không

còn ai cưới vợ cưới chồng cho con nữa. Mẹ già đi đâu? Hay là mẹ già định đi

hội chợ hai bảy tới đây? Nếu thế thì... thì sao hở May? Có phải vì bố bỏ sang

nương không? Hay vì bố biết mẹ già định đi hội chợ tháng ba năm nay mà bố

đi? Lâu lâu không nghĩ đến chuyện bố mang gạo muối sang bên kia sông Nho

Quế, bây giò nghĩ lại mới thấy có điều gì đó không bình thường (...) Tự dưng

May thấy lo, không rõ là mình lo gì, nhưng như có ai đốt lửa trong bụng”

[65;16]. Đoạn văn này với những câu hỏi tu từ hỏi chỉ để hỏi không cần câu

71

LuËn v¨n th¹c sÜ v¨n häc Ng« ThÞ Yªn

NghÖ thuËt trÇn thuËt trong truyÖn ng¾n §ç BÝch Thóy

trả lời nhưng những câu hỏi ấy đã hàm chứa câu trả lời. Cho nên, lời trần

thuật nửa trực tiếp mà nhà văn sử dụng ở đây chính là những câu hỏi nêu

nguyên nhân và dự báo cho việc lí giải dần những thắc mắc của May hay

chính là của độc giả. Những câu hỏi đó như xoáy sâu vào tâm can của May

khiến cho May có cảm giác vừa lo lắng vừa hoảng hốt. Nếu sự việc đúng như

ý nghĩ của mình thì sẽ ra sao?

Ngoài ra lời trần thuật nửa trực tiếp còn gắn với ngôn ngữ độc thoại và

dòng tâm tư của nhân vật. Đó là trường hợp lời kể của người trần thuật với

một chuỗi độc thoại của nhân vật được xen kẽ. Điều đó đôi khi khiến chúng ta

khó xác định, đâu là lời kể của người trần thuật... nên những dòng tâm trạng

của nhân vật được đan xen hòa trộn với lời người trần thuật. Đây là một hình

thức khác của lời trần thuật nửa trực tiếp. Bởi dù sao thì lời trần thuật nửa trực

tiếp cũng nói lên ý nghĩ chiều sâu bên trong của nhân vật và nó cũng song

song tồn tại như những diễn từ của người trần thuật.

Truyện ngắn Gió không ngừng thổi có đoạn, người kể chuyện dẫn dắt sự

việc Kía đã lấy lại được bình tĩnh sau khi sinh con. Kía thực sự muốn gần

chồng và quan tâm đến chồng nhiều hơn: “Kía nằm nhích lại gần, xoay người

khe khẽ, vòng tay ôm lấy cổ chồng. Sùng chưa ngủ, bằng chứng là hơi thở của

Sùng dồn dập, lồng ngực Sùng dưới cánh tay Kía phập phồng. Kía phả một

hơi nóng vào mặt Sùng, nhưng Sùng chỉ quay lại ôm lấy Kía, vỗ vỗ vào vai

như dỗ trẻ con ngủ rồi thôi. Nằm trong tay chồng một lúc lâu, tự dưng Kía

thấy tủi thân quá. Kía chuồi ra, quay lại ôm lấy con, lặng lẽ khóc” [65;43].

Thông qua đoạn trích trên, bên cạnh những dòng dẫn dắt ít ỏi, dường như

ngươi kể chuyện đã thực sự hóa thân để trở thành người trong cuộc nói lên

tiếng nói đau khổ, tủi nhục của mình. Bằng chứng là nhân vật Kía muốn trở

thành người vợ bù đắp nhiều hơn cho Sùng nhưng có lẽ không được nữa rồi?

Lời trần thuật nửa trực tiếp còn là lời của người trần thuật nhưng thông

qua cách cảm, cách nghĩ và sử dụng cả ngữ điệu riêng của nhân vật để bộc lộ

nội tâm nhân vật. Ví như đoạn văn trong Mặt trời lên, quả còn rơi xuống:

72

LuËn v¨n th¹c sÜ v¨n häc Ng« ThÞ Yªn

NghÖ thuËt trÇn thuËt trong truyÖn ng¾n §ç BÝch Thóy

“Dân cứ nghĩ ngợi lung tung. Trong đầu như có đàn ong khoáy bay vù vù.

Chẳng biết ai hỏi mà Dân không trả lời được, rằng tại sao Thinh cũng làm

nương làm ruộng, làm mẹ mà Thinh cứ đẹp mãi thế? Má Thinh vẫn đỏ như

hoa đào mùa xuân, hai vai Thinh vẫn tròn như vai con gái mười sáu... Hết

nhắm mắt lại mở mắt, Dân chỉ muốn lấy gáo nước lạnh dội lên đầu mình cho

trôi tuột bóng hình lạ đang chập chờn ấy đi” [65;203]. Đoạn văn này thực chất

vẫn là lời trần thuật của người trần thuật, đồng thời lại là tiếng lòng thổn thức

của Dân. Nhân vật tự cảm mà không nói, người trần thuật làm nhiệm vụ nói

những lời nói thầm kín của nhân vật. Đó là những ý nghĩ, tâm trạng hết sức

xáo trộn của Dân khi anh gặp lại người bạn gái ngày xưa giờ vẫn trẻ đẹp.

Lời trần thuật nửa trực tiếp không chỉ có ở những đoạn bộc lộ nội tâm

nhân vật trong lời độc thoại mà còn có những đoạn đối thoại, người kể là

người đóng vai, là người được ẩn đi trong câu chuyện để dẫn dắt câu chuyện

một cách linh hoạt hấp dẫn hơn. Trong truyện Đá cuội đỏ có đoạn thuật lại

việc Sính mang cơm cho em: “Vừa quay ống cơm Dìn vừa bảo: “Hôm nay

anh Sính không lên thì em không dám ngủ”. “Làm sao?”. “Đêm qua có con gì

vào ngủ cùng mà em không biết, sáng nay thấy một túm lông dính vào cổ

mình”. “Mày ngủ có quay mặt vào lửa không ?” “Lúc đầu thì có, sau mỏi quá

đành quay ra ngoài. Nhưng sao?” “Lúc ngủ phải nhớ quay vào lửa mới không

bị ma dại bắt đi.” “Thật thế à?” “Chứ còn gì. Ma rừng muốn bắt ai thì phải đi

vào mồm người ấy mới xuống bụng lôi ruột đi được. Thế mà lúc ai cũng mơ

được ăn, được uống, thế là há mồm ra thì ma dại cũng không dám đi qua lửa

để vào mồm mày.” Dìn run bần bật: “Thế thì ma dại đến tìm em thật rồi. Chắc

tại em không mở mồm nên nó chưa vào đấy thôi.” Dìn nhìn quanh quất ra

ngoài bóng đêm mịt mùng, mãi đến lúc đi ngủ vẫn chưa hết run” [65;113].

Cách viết như thế này khiến đọc giả như được chứng kiến cảnh hai nhân vật

Dìn và Sính như đang đối thoại trực tiếp với nhau. Nhưng nếu ở đây, nhà văn

sử dụng cách đối thoại trực tiếp thì câu chuyện trở nên dài dòng, rườm rà,

không cần thiết. Bởi nó không thích hợp với thể loại truyện ngắn. Vả lại,

73

LuËn v¨n th¹c sÜ v¨n häc Ng« ThÞ Yªn

NghÖ thuËt trÇn thuËt trong truyÖn ng¾n §ç BÝch Thóy

người dẫn chuyện phải dùng nhiều câu chú giải như: Anh sinh hỏi, Dìn trả lời

và ngược lại thì đoạn văn trở nên nhàm chán. Do đó ở đoạn văn trên vừa ngắn

gọn mà vẫn quay trọn cảnh Dìn sợ ma và được anh Sinh giải thích cách phòng

con ma dại như thế nào. Thông qua đó, nhà văn còn cho độc giả biết đến một

cách nghĩ, một quan niệm của người dân miền núi từ rất lâu đời.

Ngoài ra truyện Mặt trời lên, quả còn rơi xuống còn có đoạn văn mà

người kể trở thành người ẩn mình linh hoạt đóng một lúc ba vai: người trần

thuật, nhân vật Dân, nhân vật Thinh kết hợp với dấu đóng mở ngoặc kép để

người trần thuật dễ nhập thân vào những đoạn đối thoại liên tiếp của nhân vật:

“Dân định trở về nhà ngủ thì từ trong đám đông có một cô gái bước ra chắn

mặt: “Này! Không thích phần thưởng thì cứ lấy rồi cho người khác cũng được

mà.” Dân nhìn cô gái. Người đâu mà lạ thế, con gái cũng ra chắn đường. Cô

gái có đôi mắt đen, dài, óng ánh ướt như có mấy giọt rượu đầu. Dân ngập

ngừng: “Cho ai” “Khối người muốn lấy để giữ lâu lâu đấy.” “Cô à?” “Thế mà

cũng phải hỏi...” Dân phăm phăm quay trở lại chỗ ban tổ chức lĩnh quà rồi

mang ra đưa cho cô gái: “Cầm lấy. Thích thì dùng, không thích thì cho anh,

cho em.”. Nói rồi định quay đi. Cô gái liếc Dân một cái rát cả mặt: “Đi đâu

đấy?” “Đi về.” “Sao lại về? Còn sớm thế này, mặt trời vừa lên thôi mà.” “Say

rượu rồi, muốn về nhà ngủ thôi.” “Đừng về mà...” “Này... Dân ngập ngừng.

Người ta có vợ rồi đấy!” “Ai chẳng biết. Vợ thì mặc kệ vợ...” [65;199]. Cả

đoạn văn này, chúng ta thấy sự kết hợp của nhiều giọng nói, của nhiều vấn đề

nảy sinh. Nếu như văn đối thoại thì nhà văn phải tốn vài trang văn bản mới

ghi lại hết được cuộc truyện trò giữa hai đối tượng. Trong truyện ngắn này,

Đỗ Bích Thúy đã lựa chọn cho mình một phương án tối ưu nhất, Chị chỉ cần

một đoạn văn, trong đó sử dụng những dấu ngoặc kép lúc thật cần thiết để thể

hiện trực diện câu đối thoại của từng nhân vật tham gia. Ngoài ra, về mặt ngữ

pháp, Đỗ Bích Thúy còn sử dụng kiểu câu đơn, câu thiếu thành phần chủ ngữ

để tăng sự ẩn ý trong cuộc nói chuyện của Dân và Thính. Cách nói ỡm ờ, tán

tỉnh của cô gái kết hợp với cách trả lời thành thực của chàng trai khiến cho

74

LuËn v¨n th¹c sÜ v¨n häc Ng« ThÞ Yªn

NghÖ thuËt trÇn thuËt trong truyÖn ng¾n §ç BÝch Thóy

độc giả hiểu được cách cảm, cách suy nghĩ của người trong cuộc. Còn lại, nhà

văn nhập thân lúc là người dẫn chuyện, lúc lại tựa nhân vật để nói hết sự ngạc

nhiên của Dân khi chứng kiến một cô gái xinh đẹp nhưng rất táo bạo, chủ

động trong tình cảm của mình.

Có thể nói, lời trần thuật nửa trực tiếp mở ra nhiều hướng tiếp cận. Nó

không đơn nghĩa như lời trần thuật ở dạng trực tiếp. Cho nên, lời trần thuật

nửa trực tiếp trở thành ngôn ngữ trần thuật phức hợp, đa thanh. Với cuộc sống

hiện đại muôn sắc muôn màu hiện nay thì lời văn trần thuật nửa trực tiếp luôn

là phương tiện khôn ngoan mà các nhà văn lựa chọn. Vì nó không những có

khả năng mở rộng khuôn khổ truyện ngắn, giúp cho độc giả khám phá những

mạch ngầm văn bản mà còn đi sâu vào tâm trạng phức tạp, đa diện, đa chiều

của con người.

3.1.2.2. Lời văn miêu tả

Trong nghệ thuật trần thuật, song song với lời văn trần thuật thì lời văn

miêu tả cũng góp phần không nhỏ cho nền văn xuôi tự sự. Bởi, nó “tái hiện lại

những dấu hiệu của không gian bối cảnh nơi câu chuyện diễn ra, phải dựng

lên các chân dung nhân vật và đan xen vào diễn ngôn những phát ngôn (đối

thoại, độc thoại, độc thoại nội tâm) của nhân vật (Phạm Xuân Thạch). Nói

một cách khác, việc miêu tả chính là “sự tái hiện thế giới vật thể trong trạng

thái tĩnh” (G.N. Pôxpêlốp). Có thể nói, lời văn miêu tả đã bổ trợ rất nhiều cho

lối trần thuật của nhà văn thêm phong phú. Lời văn miêu tả ở đây có thể là

phong cảnh, là đặc điểm môi trường, là đường nét bề ngoài của nhân vật, là

các trạng thái tâm hồn của nhân vật, là hình ảnh của không gian, của thiên

nhiên và cuộc sống... Đây chính là một trong những yếu tố làm nên sức hấp

dẫn cho văn phong Đỗ Bích Thúy. Có lẽ lời văn miêu tả sẽ làm cho những

câu chuyện sáng tạo của chị linh hoạt hơn, nó không rơi vào sự việc kể một

cách cứng nhắc. Đồng thời lồng ghép trong những câu chuyện kể của mình,

Đỗ Bích Thúy đã phần nào lột tả được hết vẻ đẹp của quê hương Hà Giang.

Đây có thể coi là mảnh đất tốt ươm mầm tài năng văn chương cho Đỗ Bích

75

LuËn v¨n th¹c sÜ v¨n häc Ng« ThÞ Yªn

NghÖ thuËt trÇn thuËt trong truyÖn ng¾n §ç BÝch Thóy

Thúy. Trong phần này, chúng tôi đi sâu khái thác hai vấn đề: lời văn miêu tả

thiên nhiên và lời văn miêu tả về cuộc sống của con người miền núi.

3.1.2.2.1. Lời văn miêu tả thiên nhiên

Truyện ngắn - một thể loại được xem là trung gian giữa tự sự và trữ tình.

Chính sự trung gian này mà những câu chuyện được kể bao giờ cũng mượn

phông nền là phong cảnh thiên nhiên, là môi trường bên ngoài cuộc sống sinh

hoạt của con người làm cơ sở tạo thêm sức hút cho câu chuyện. Đặc biệt sang

đầu thế kỉ XX, truyện ngắn Việt Nam đã mở ra nhiều hướng cách tân sáng tạo

khiến cho truyện ngắn hiện đại được hòa trộn giữa dòng tự sự ngổn ngang với

những đoạn miêu tả cảnh nên họa, nên thơ. Quả đúng như vậy: “Chất thơ

trong truyện ngắn không phải là lớp váng nổi, nó có gốc gác từ trong cách

cảm, cách nghĩ; trong tư chất thiên bẩm của người nghệ sĩ” [01;60].

Vì vậy, mỗi nhà văn lại có một lối diễn đạt riêng, đối với Đỗ Bích Thúy,

chị chiếm lĩnh độc giả bằng một lối văn nhẹ nhàng, đậm chất trữ tình, giàu

cảm xúc và gợi hình. Đặc biệt, lối diễn đạt ấy được thông qua việc sử dụng

các phép tu từ như so sánh, nhân hóa, ẩn dụ... Bởi đây là cách so sánh cụ thể,

dễ nhớ, dễ liên tưởng và nó rất hợp với tính cách, lối sống của người miền

núi.

Khi bước chân vào thế giới nghệ thuật của Đỗ Bích Thúy, người đọc được

sống trong môi trường đậm chất miền núi, bởi bao quanh là cả thế giới sinh

động những tên đất, tên bản, tên núi, tên sông... làm “chất nền” cho những câu

chuyện kể của Đỗ Bích Thúy... Đó là không gian miền núi phía Tây Bắc với

bạt ngàn những địa danh, những cái tên dân tộc để gợi đến một vùng đất

hoang sơ, vừa xa xôi vừa bí ẩn như: Xà Tùng Chứ, Chín Chải, Tây Côn Lĩnh,

Cao Bành, Thượng Sơn, Lũng Pục, Cao Mã Pờ, Pải Lủng, Chín Chải, Vần

Chải, Lao Chải, Sán Chải, Xán Díu... Những địa danh đó đi vào trang văn của

chị thật nhẹ dịu, êm ái, giống như một bức tranh thiên nhiên với những nét vẽ

độc đáo có hồn.

76

LuËn v¨n th¹c sÜ v¨n häc Ng« ThÞ Yªn

NghÖ thuËt trÇn thuËt trong truyÖn ng¾n §ç BÝch Thóy

Thiên nhiên trong truyện ngắn của Đỗ Bích Thúy không chỉ là cái “chất

nền” của hành động nữa mà trở thành một sinh thể độc lập có vẻ đẹp tự nhiên,

có đường nét, hình khối. Nó vừa hiện thực vừa rất thơ mộng, vừa hoang sơ

vừa huyền bí. Không gian ấy được nhà văn khai thác hết vẻ đẹp của cảnh sắc

ban ngày đến cảnh sắc ban đêm. Cảnh chuyển mùa từ mùa đông lạnh giá sang

mùa xuân ấm áp tràn ngập màu sắc đến mùa hè rực rỡ ánh mặt trời khỏe

khoắn. Từ cái nhìn khách quan bên ngoài đến cảm nhận choáng ngợp của nhà

văn bên trong. Cuối cùng với những khoảnh khắc đáng nhớ đó được nhà văn

Đỗ Bích Thúy chuyển thành những cảm xúc hết sức tinh tế.

Đầu tiên, không gian núi rừng như mở ra với vẻ đẹp hùng vĩ, hiểm trở và

hoang sơ được Đỗ Bích Thúy miêu tả trong những truyện: Cạnh bếp có cái

muôi gỗ, Hẻm núi, Cột đá treo người, Mần tang trong thung lũng, Ngải

đắng ở trên núi... Trong những truyện ngắn này, nhà văn miêu tả thiên nhiên

núi rừng với những nét vẽ gợi hình. Đỗ Bích Thúy chắc phải quan sát rất kĩ và

lựa chọn ngôn từ gợi hình để tạo nên những nét vẽ khỏe khoắn. Từ đó, người

đọc như vừa nhập tâm vào câu chuyện kể mà vẫn choáng ngợp không gian

núi non hùng vĩ, hiểm trở.

Truyện Cạnh bếp có cái muôi gỗ có đoạn miêu tả: “Khắp vùng cực Bắc

này, nhìn phía nào cũng chỉ thấy núi. Núi đã cao ngang mây trời, nhiều như

sao trên dòng ngân hà, ngửa mặt đếm mỏi miệng, mỏi cổ không xuể” [65;73].

Truyện Mần tang trong thung lũng: “Bầu trời cao lên vời vợi giữa bốn bề

vách núi sừng sững” [65;173] hay đoạn: “Tả Gia có ba mặt núi, một mặt sông.

Mặt trời lên ở dãy núi bên trái... Núi chồng lên núi, nhấp nhô như răng cưa”

[65;177]. Với những câu văn sử dụng biện pháp so sánh, nhà văn đã tạo dựng

được khung cảnh núi rừng ba bề bốn mặt đều là núi. Hình ảnh “núi chồng lên

núi” khiến độc giả cảm nhận được đi suốt chiều dài của mảnh đất Hà Giang

cũng chỉ thấy núi với những dáng vẻ khác nhau, với những vách đá cheo leo

hiểm trở.

77

LuËn v¨n th¹c sÜ v¨n häc Ng« ThÞ Yªn

NghÖ thuËt trÇn thuËt trong truyÖn ng¾n §ç BÝch Thóy

Bao bọc quanh những ngọn núi lớn lao và kì vĩ kia là những con đường

rừng quanh co, hiểm trở: “Hết đường nhựa, vào đường đất ngoằn ngoèo bám

trên triền dốc là thấy ngay cái lạnh ùa tới. Gió dưới vực sâu hun hút thốc lên”,

“Phải đi mười một khúc đường vòng như trước mặt mới về tới. Vừa đi vừa

đếm ngược, đến vòng cua cuối cùng mới thấy nhà trưởng bản nằm chon von

trên cao” [65;73] (Cạnh bếp có cái muôi gỗ). Hoặc: “Con đường mòn này rất

nhỏ, và nhỏ nhất ở đoạn cua gãy khúc, chỉ chừng năm mươi phân bề rộng là

cùng. Cho nên, nếu hai con ngựa ngược chiều gặp nhau ở đây, thì một con sẽ

phải lùi lại... Bên phải là vực sâu hun hút, bên phải là vách đá lởm chởm, cả

trước mặt và sau lưng đều chỉ có mây mù giăng kín” [65;157] (Hẻm núi). Để

miêu tả con đường rừng cheo leo, hiểm trở, tác giả đã huy động một lượng từ

láy tối đa như: ngoằn ngoèo, hun hút, chon von, mờ mờ, xam xám, lởm chởm

để miêu tả con đường rừng với những triền dốc nhỏ, quanh co, vừa miêu tả

được độ cao vừa miêu tả được độ sâu hun hút vừa miêu tả được sự mờ ảo của

làn sương đậm đặc lẩn khuất men theo những con dốc và cả cái lạnh bất giác

thổi đến. Những câu văn ngắn ở đây được tác giả sử dụng biện pháp so sánh

kết hợp với những từ láy đặc trưng khiến cho bức tranh thiên nhiên nơi núi

rừng mang một vẻ đẹp kỳ vĩ, lớn lao. Điểm vào đó là hình ảnh của buổi chiều

với những làn sương bảng lảng lúc đậm lúc nhạt bám quanh dốc núi khiến cho

thiên nhiên núi rừng vốn rất hiểm trở lại càng thêm hiểm trở hơn.

Hay hình ảnh của dòng sông Nho Quế nhìn từ độ cao cao nhất của dãy núi

khiến nó chỉ còn “bé như sợi chỉ” ngoằn ngoèo uốn lượn bám lấy chân núi

Mã Pì Lèng trong một số truyện. Bên cạnh đó, truyện của Đỗ Bích Thúy còn

miêu tả những hang sâu bí hiểm khiến độc giả mới vừa nghe qua hẳn phải

“rợn tóc gáy”: “Trên núi Phia Giạ có một cái hang, nhìn từ xa không thấy

được vì miệng hang chỉ như vết nứt ngang, rễ cây lại mọc lòa xòa xuống che

kín. Muốn vào trong hang phải bò qua một quãng chừng ba người nối lại.

Lòng hang rộng và bằng phẳng như một cái nhà lớn. Trong hang, dơi to như

gà con nuôi một tháng, nhập nhoạng tối lại bay ra cả đàn. Người ta bảo dơi

78

LuËn v¨n th¹c sÜ v¨n häc Ng« ThÞ Yªn

NghÖ thuËt trÇn thuËt trong truyÖn ng¾n §ç BÝch Thóy

này thích ăn mắt người. Sợ dơi móc mắt, người lớn trẻ con chẳng bao giờ dám

mò lên hang. Hơn thế, Phia Giạ là đỉnh núi cao nhất Đồng Văn, cái hang lại ở

mãi trên đỉnh, chưa bao giờ có lối mòn dẫn lên đấy. Càng ngày núi càng cao,

đá tai mèo càng nhọn sắc” [65;103] ( Cột đá treo người). Nhà văn đã phải vận

dụng thứ ngôn ngữ huyền thoại để miêu tả về một cái hang núi sâu, thấp và

tối. Nó nguy hiểm, kì quái bởi miệng của hang chỉ là một “vết nứt ngang”, nó

man rợ bởi có dơi “thích ăn mắt người”. Nhà văn đã dẫn dắt người đọc đi từ

xa đến gần cái hang, vừa miêu tả được tổng thể vừa miêu tả được cái cận

cảnh. Có nghĩa người đọc sẽ được khám phá dần cái hang từ bên ngoài vào

bên trong.

Điểm vào bức tranh thiên nhiên núi rừng Tây Bắc hoang sơ, vắng vẻ là

âm thanh nghe rất lạ tai của loài bìm bìm trong sự cảm nhận trở về của Liêu:

“Có tiếng con gì đập cánh lạch xạch sau những bụi nhân trần cao ngang ngực

người. Rồi tiếng bíp...bìm... bịp cất lên từ rất xa đến gần. Tiếng kêu hối hả,

loạn xạ, nối từ bụi cây này sang bụi cây khác. Tiếng kêu đập vào vách núi,

vọng trở lại như có hàng trăm con cùng kêu một lúc” [65;173], “Bao giờ nó

lao ra khỏi nhà, cất tiếng bíp... bìm... bịp là cả bầy bìm bịp ngoài kia cũng kêu

loạn xạ lên” [65;174]. Đoạn văn có cùng kiểu câu được lặp lại ở hai đoạn

riêng biệt trong tác phẩm và được tác giả sử dựng từ láy ba vừa gợi âm vừa

gợi hình kết hợp biện pháp so sánh khiến cho cuộc sống của con người nơi

đây là sự hòa trộn đồng điệu. Con người với cảnh sắc, với chim muông như

những người bạn thân thiết không cần phải đón tiếp mời chào khách sáo, đến

và đi thỏa thuê. Dù hoang sơ, huyền thoại nhưng dưới con mắt của người dân

bản - những con người đã gắn kết với nơi đây nên họ cảm thấy mảnh đất này

trở nên thân thương rất đỗi gần gũi và quen thuộc.

Truyện ngắn Đỗ Bích Thúy là loại truyện ngắn “tâm tình”, lại được viết

bằng những kí ức nên khi lục tìm trong hoài niệm Đỗ Bích Thúy đã chắt lọc,

gợi tìm những cái gì là đẹp nhất, là đặc trưng nhất của quê hương mình để trải

trên trang văn. Từ những giây phút thăng hoa của cảm xúc ấy, chị đã diễn tả

79

LuËn v¨n th¹c sÜ v¨n häc Ng« ThÞ Yªn

NghÖ thuËt trÇn thuËt trong truyÖn ng¾n §ç BÝch Thóy

thành công những đoạn văn miêu tả thiên nhiên thấm đẫm chất thơ. Để từ đó,

người đọc với “văn hóa đọc” của mình hình dung được một bức tranh về

khung cảnh miền núi nên họa nên thơ.

Lời văn miêu tả thiên nhiên nên họa nên thơ của Đỗ Bích Thúy được tập

trung ở những truyện ngắn: Đá cuội đỏ, Đêm cá nổi, Mặt trời lên, quả còn

rơi xuống, Cạnh bếp có cái muôi gỗ, Ngải đắng ỏ trên núi, Mần tang trong

thung lũng... Một vẻ đẹp lãng mạn chảy dào dạt trên trang giấy được thấm

đẫm từ cây cỏ, thiên nhiên với đủ màu sắc rực rỡ, với đủ âm thanh đặc trưng

của núi rừng.

Với khúc giao mùa trên rẻo cao, Đỗ Bích Thúy chỉ dùng vài nét chấm phá

để gợi tả, sự chuyển giao giữa mùa đông sang mùa xuân thật tinh tế và có

hồn. Thông qua hai gam màu chủ đạo là màu xanh của lá cây và màu trắng

của hoa được láy đi láy lại trong nhiều đoạn văn miêu tả của nhiều câu

chuyện khác nhau. Ngoài hai gam màu chủ đạo trên, tác giả với những câu

chuyện của mình được kể là buồn hay vui thì gam màu đó có thể được pha

trộn hài hòa thích hợp với những nét tâm trạng của nhân vật trong mỗi truyện.

Nhưng dù ở câu chuyện nào thì vẫn khung trời ấy, vẫn màu sắc ấy được hòa

quyện. Cụ thể như: “Ngoài trời dưới chân núi, chặn chân nương tam giác

mạch, hoa lê đang bật bông trắng muốt. Hoa lê càng trắng thì trời càng lạnh...

Mây trên cao tràn xuống, tam giác mạch chỉ còn thấy mờ mờ, hoa lẫn trong

sương” [65;79], “Mây giăng lưng chừng, hoa tam giác mạch nở rộ, cuối mùa

hoa ngả sang màu hồng sẫm, lẫn vào mây mờ.” (Cạnh bếp có cái muôi gỗ),

“Hoa lê đã lốm đốm trên cành, bật bông trắng muốt. Trên mái nhà loáng

thoáng mầm xanh của hạt cỏ theo gió bay về” [65;208] (Mặt trời lên, quả còn

rơi xuống), “Trời càng rét thì sắc biếc sắc hồng càng rực rỡ... Cỏ không mọc

nổi nhưng hoa tam giác mạch thì nảy mầm lên xanh mướt” [65;220], “Và kìa,

òa ra trước mắt tôi, xanh rợp, tím ngắt, bàng bạc trắng, dập dềnh như những

con sóng là cả triền núi mơn mởn ngải đắng vừa thức dậy từ sương mờ”

[65;225] (Ngải đắng ở trên núi). Một màu “trắng muốt” của hoa lê, một màu

80

LuËn v¨n th¹c sÜ v¨n häc Ng« ThÞ Yªn

NghÖ thuËt trÇn thuËt trong truyÖn ng¾n §ç BÝch Thóy

“xanh mướt” của hoa tam giác mạch đã nói lên sức sống mãnh liệt của cây lá

nơi đây. Có thể nói, trải dài liên tiếp của những “dãy núi hình răng cưa” là cả

một cánh đồng phủ kín tam giác mạch. Vẻ đẹp của nó được hòa trộn cùng sắc

trắng của mây khiến cho bầu trời và mặt đất là một sắc trắng diệu kì. Có lẽ

thời tiết mùa đông có kéo dài, có khắc nghiệt tới đâu thì sức sống mùa xuân

vẫn được lan tỏa. Bằng một loạt những tính từ chỉ màu sắc như: trắng, xanh,

hồng, tím cùng với những từ láy tượng hình như: lốm đốm, loáng thoáng,

bàng bạc, dập dềnh, mơn mởn khiến cho câu văn như đang động đậy, nhảy

múa đón chào tiết trời vào xuân. Cảnh vật trở nên có hồn gần gũi, đồng điệu

cùng với cảm nhận của con người.

Đá nơi này dường như cũng có màu sắc đặc trưng: “Nước trong vắt chảy

trên lớp đá cuội màu đỏ tía. Đá đỏ làm cho nước cũng màu đỏ, lá rừng rụng

xuống cũng ra màu đỏ” [65;115], “Nước ấm, cả những viên đá cuội đỏ bầm

cũng ấm như được vùi trong bếp từ hàng trăm năm” [65;118] (Đá cuội đỏ).

Đoạn văn này, tác giả đã dùng phép liên tưởng để từ hình ảnh đá cuội đỏ lan

tỏa xuống dòng nước khiến cho nước và cả những lá cây rụng xuống cũng trở

thành màu đỏ. Ngoài ra tác giả miêu tả sắc đỏ của đá kết hợp với sự chuyển

đổi cảm giác thông qua cảm nhận của con người, lúc là màu “đỏ tía”, lúc là

màu “đỏ bầm”.

Tiếp đến là gam màu vàng lai láng của ánh trăng, tác giả muốn khắc họa

một thời điểm khác của thiên nhiên miền núi khi vào đêm. Đó là một không

gian rộng mênh mông của một bản làng trong những đêm trăng đẹp. Một

không gian tràn ngập ánh trăng. Truyện Đêm cá nổi, nhân vật “tôi” cảm nhận

ánh trăng như một thực thể: “có ai đó mơn man những ngón tay mềm lên mặt

mình. Ra là ánh trăng.” [65;123], rồi: “Dòng sông chảy dưới ánh trăng giữa

tháng sóng sánh vàng... Trăng vẫn đổ ánh sáng xuống dòng sông vàng”

[65;201] (Gió lùa qua cửa). Một màu vàng lan tỏa từ ánh trăng khiến cho

dòng sông cũng hứng trọn sắc vàng ấy. Nhưng đẹp nhất, lãng mạn nhất phải

kể đến truyện Sau những mùa trăng. Bởi, tác giả đã dành cho tác phẩm này

81

LuËn v¨n th¹c sÜ v¨n häc Ng« ThÞ Yªn

NghÖ thuËt trÇn thuËt trong truyÖn ng¾n §ç BÝch Thóy

đậm đặc ánh trăng hơn cả. Không tính nhan đề thì tác giả cũng đã chín lần

miêu tả ánh trăng và đặc sắc nhất là đoạn: “Ánh trăng sáng trắng lọt qua ô cửa

nhỏ, hắt cả một quầng sáng vào trong nhà... Cả bản tôi nằm gọn trong một

thung lũng, bốn phía là rừng, qua rừng đến nương ngô, nương lúa, qua nương

lại đến rừng rồi đến bản khác? Bản ở dưới thung lũng nên ngập trong ánh

trăng. Ban đêm những nếp nhà lô nhô lẫn vào rừng cây trông không rõ đâu là

nhà, đâu là những tán cây rậm rì, cao vút. Giữa mùa, trăng cứ rọi vào nhà cả

đêm, trăng đi một vòng cửa trước ra cửa sau” [65;337]. Chỉ với một đoạn văn

ngắn nhờ có ánh trăng mà bức tranh thiên nhiên núi rừng hiện ra rõ mồn một.

Đó là một không gian núi rừng vừa thoáng đãng vừa sáng trong. Hình ảnh

“trăng” được tác giả nhân hóa kết hợp với một loạt động từ như: “luồn”, “lọt”,

“hắt”, “rọi”, “đi một vòng cửa trước ra cửa sau”... khiến cho ánh trăng như

một thực thể với nhiều động thái đang thỏa sức di chuyển để tưới sắc vàng

sóng sánh lên khắp bản làng thung xa khi tiết trời vào thu.

Khung cảnh thiên nhiên vùng cao được Đỗ Bích Thúy miêu tả rất nhiều

về buổi chiều. Một buổi chiều thu muộn trên nương ngô được đặc tả trong

truyện Mần tang trong thung lũng: “Sau dãy núi hình răng cưa mặt trời đỏ

bầm đã chìm xuống non nửa. Những mảng khói còn lại của nương đồi mới

đốt quẩn vào nhau, bốc ngược lên chậm chạp, nhuộm cho ánh hoàng hôn ngả

tím, phủ đầy xuống thung lũng” [65;171]. Đó là hình ảnh buổi chiềù sau dãy

núi sa xuống nhanh chóng kia còn là sự pha trộn màu sắc tài tình của nhà văn.

Một gam màu được pha trộn bởi màu “đỏ bầm” của mặt trời cùng màu của

khói đốt trên nương tạo thành “hoàng hôn màu ngả tím”. Còn trong truyện

Cái ngưỡng cửa cao, khung cảnh buổi chiều được miêu tả cả ở phần đầu và

kết thúc câu chuyện. Tác giả dùng cách so sánh đơn giản khiến cho độc giả dễ

hình dung được một buổi chiều trên rẻo cao sập xuống nhanh chóng: “Chiều

đang duềnh lên, nhanh như nồi cơm sôi không kịp mở vung. Nhà thấp tối

trước, nhà cao tối sau, càng gần trời càng tối muộn” [65;51]. Ngải đắng ở

trên núi, hình ảnh buổi chiều với một khoảnh khắc khác: “Chiều chậm chạp

82

LuËn v¨n th¹c sÜ v¨n häc Ng« ThÞ Yªn

NghÖ thuËt trÇn thuËt trong truyÖn ng¾n §ç BÝch Thóy

đổ xuống từng vạt núi vàng sậm, cả cánh rừng sồi, rừng dẻ mướt óng phía xa”

[65;212]. Đó là hình ảnh một buổi chiều trôi một cách “chậm chạp” khiến cho

khung cảnh thiên nhiên nơi núi rừng trở nên êm đềm và có phần ảm đạm.

Thiên nhiên ở đây còn được Đỗ Bích Thúy miêu tả giống như một bài thơ

không chỉ ở chất họa mà còn ở chất nhạc. Đỗ Bích Thúy đã dùng cả đôi tai

tinh nhạy để miêu tả theo kiểu “lấy động để tả tĩnh”. Để dựng lên không gian

yên ắng, vắng lặng, tác giả miêu tả: “Đêm hoang vu, thăm thẳm. Lẫn trong

tiếng gió là tiếng nước trườn êm ái trên đá cuội” [65;114] (Đá cuội đỏ). Hay

truyện Sau những mùa trăng, tác giả miêu tả hình ảnh bản làng vào đêm

khuya: “...bản đã yên ắng lắm, nghe rõ cả nước đập vào ghềnh đá rào rào

ngoài sông, tiếng trâu thở phì phì đuổi muỗi, tiếng chim lợn rít lên cuối rừng...

Và càng rõ hơn tiếng khèn lúc gần lúc xa, lúc như tiếng gió dài lê thê, lúc cao

vun vút, rộn rã như tiếng chim buổi sớm” [65;338]. Âm thanh của tiếng tắc

kè, của gió, của quả trong Giống như cái cối nước: “Tiếng tắc kè nhả từng

đợt từng đợt, xót cả ruột. Gió lùa bên ngoài, lay cây sổ đầu hồi, quả rụng

xuống lộp bộp. Chỉ còn những âm thanh của trời đất, cây cỏ, có lẽ đã quá nửa

đêm” [65;134].

Một bức tranh hài hòa về màu sắc và âm thanh. Màu vàng của ánh trăng,

màu trắng, màu xanh, màu hồng sẫm, màu tím của hoa lê, hoa tam giác mạch,

của cây ngải đắng, màu đỏ của mặt trời và của đá núi... Âm thanh của gió, của

tiếng suối reo, của tiếng gà eo óc gáy trong sương, của tiếng con tắc kè trễ nải

buông tiếng kêu...Tất cả được miêu tả ở những thời điểm khác nhau mà nhà

văn đã thêu dệt lên một bức tranh đầy sức sống, lan tỏa hơi ấm của tình người.

Điều đó có được là nhờ vào điểm nhìn của con người đã thấm đẫm hơi thở

của một thời gắn bó không thể nào quên với nơi đây. Tất cả những cảnh sắc

đó như vẫy chào những người con của núi lại trở về với đất mẹ yêu thương.

3.1.2.2.2. Lời văn miêu tả về cuộc sống của con ngƣời miền núi

Chúng ta đã biết đến một nhà văn Nguyễn Ngọc Tư được nhà văn Nguyễn

Quang Sáng mệnh danh là “Sơn... Nữ”. Bởi chính đời sống dân dã vùng sông

83

LuËn v¨n th¹c sÜ v¨n häc Ng« ThÞ Yªn

NghÖ thuËt trÇn thuËt trong truyÖn ng¾n §ç BÝch Thóy

nước Cà Mau đã hun đúc lên một nhà văn đặc sệt chất Nam Bộ. Còn Đỗ Bích

Thúy lại được hun đúc bởi phong tục tập quán của người dân Tây Bắc nên

những trang văn của chị thấm đẫm nét văn hóa đặc trưng của vùng. Tiêu biểu

là cuộc sống sinh hoạt của cộng đồng người dân tộc: Mông, Tày, Dao sống

trên vùng cao núi đá của tỉnh Hà Giang.

Trong những câu chuyện được kể của Đỗ Bích Thúy chủ yếu lấy đề tài

miền núi. Điều đó khiến cho truyện ngắn của chị đặc quện không gian miền

núi và văn hóa miền núi. Vì lẽ đó chị đã khéo léo lồng ghép vào câu chuyện

của mình những nét văn hóa đặc trưng như: cuộc thi ném còn, những lễ hội

đầu xuân, những tiếng đàn môi gọi bạn tình, những buổi chợ phiên sặc sỡ sắc

màu. Cách viết của Đỗ Bích Thúy khi nói về văn hóa tập tục vùng cao bao giờ

chị cũng sử dụng ngôn ngữ giải thích. Cách sử dụng ngôn ngữ linh hoạt như

vậy khiến cho độc giả vừa như được chứng kiến câu chuyện kể vừa như được

tắm mình trong không khí của văn hóa nơi đây. Cụ thể như truyện Tiếng đàn

môi sau bờ rào đá, Đỗ Bích Thúy vừa sử dụng ngôn ngữ miêu tả về ngày hội

ở chợ phiên diễn ra vào 27/3 âm lịch hàng năm, tác giả vừa sử dụng thứ ngôn

ngữ bình luận giải thích để người đọc không cảm thấy lạ lẫm: “Ai cũng biết

mang rượu đi chợ hai bảy để người bán người mua uống cùng với nhau (...)

Cả năm cúi mặt ngoài nương, cúi mặt vì hạt ngô hạt đậu, về nhà cúi mặt về

con lợn con gà, mãi mới có lúc thảnh thơi. Không bị trẻ con quấn chân nên ở

chợ mọi người tha hồ chơi, tha hồ uống rượu. Đàn ông quên dao, quên nỏ,

đàn bà quên chảo cám, quên cái đũa cả, chẳng ai chê cười” [65;18]. Tác giả

còn sử dụng cả phép liệt kê để giới thiệu một loạt những ngày hội được mở ra

trong truyện Mặt trời lên, quả còn rơi xuống: “Sau ngày Tết Nguyên đán,

bản mở hội Lồng tồng. Ngày mười bốn tháng giêng hội ở Tả Choóng, ngày

mười sáu hội ở Tả Lung, mười tám hội Tả Chải... cứ thế hết cả tháng Giêng”

[65;196].

Do Đỗ Bích Thúy viết về đề tài miền núi nên ngôn từ và những sự việc có

thể xuất hiện nhiều lần trong nhiều truyện ngắn của chị. Nhưng điều đó không

84

LuËn v¨n th¹c sÜ v¨n häc Ng« ThÞ Yªn

NghÖ thuËt trÇn thuËt trong truyÖn ng¾n §ç BÝch Thóy

làm cho câu chuyện của chị bị nhàm chán mà luôn định hình, nhắc nhở bạn

đọc là mình đang sống trong không gian của người dân vùng núi phía Bắc. Đó

là hình ảnh của cô gái với những quẩy tấu ngô xuống chợ, đó là hình ảnh của

món ăn đặc trưng - “bát thắng cố” chỉ có ở chợ phiên, nào là thứ rượu ngô,

mèn mén, đó còn là hình ảnh của các loại khăn thêu, túi vải áo váy với các

loại hoa văn sặc sỡ và cả hình ảnh về phiên chợ vùng cao đầy thơ mộng. Đặc

biệt, người dân miền núi thường đun nấu trong ngôi nhà sàn nên tất cả cảnh

sinh hoạt của họ bao giờ cũng gắn với hình ảnh bếp lửa. Chúng ta bắt gặp rất

nhiều đoạn văn ngắn có hình ảnh bếp lửa được trở đi trở lại trong không gian

văn hóa sinh hoạt của người dân miền núi. Không gian bếp lửa là hình ảnh

quen thuộc gần gũi có trong mỗi ngôi nhà sàn nên những vật dụng trong nhà

đều có mùi đặc trưng của khói bếp: “Liêu kéo tấm chăn vừa dày vừa nặng,

vừa nồng nồng mùi khói bếp lên sát cằm. Bây giờ Liêu mới nhận ra mọi thứ

trong nhà đều có mùi khói. Chén nước khúc khắc, bát cơm nương cũng

thoang thoảng mùi khói” [65;175] (Mần tang mọc trong thung lũng). Mọi

sinh hoạt của người dân miền núi đều diễn ra bên bếp lửa: “Người lớn vây

quanh bếp lửa, chất đầy củi, đun nước pha chè bồm, luộc một nồi sắn thơm

lừng...” [65;127] (Đêm cá nổi). Thậm chí mùi vị ám khói đó trở thành đặc

trưng để tác giả đi sâu hơn vào miêu tả nội tâm của nhân vật kể cả lúc vui lẫn

lúc buồn. Dân trong truyện Mặt trời lên, quả còn rơi xuống thoáng có chút

xao lòng với người con gái khác mà khi nằm cạnh vợ, anh cảm thấy đôi chút

khó chịu: “Từ mái tóc dài vừa sổ tung loáng thoáng mùi khói bếp, mùi mồ hôi

bay ra” [65;201]. Chúng ta có thể thống kê được số lần tác giả sử dụng hình

ảnh bếp lửa như sau trong các truyện: Tiếng đàn môi sau bờ rào đá: 10 lần,

Gió không ngừng thổi: 6 lần, Ngựa ngã núi: 6 lần, Cột đá treo người: 5 lần,

Thị trấn: 4 lần, Đêm cá nổi: 3 lần...

Còn trong sinh hoạt gia đình, người miền núi cũng có những phong tục,

những quan niệm rất riêng. Có thể gọi là thủ cựu, lạc hậu nhưng điều đó vốn

đã ăn sâu trong tiềm thức của họ nên họ chấp nhận và tuân thủ. Từ đó người

85

LuËn v¨n th¹c sÜ v¨n häc Ng« ThÞ Yªn

NghÖ thuËt trÇn thuËt trong truyÖn ng¾n §ç BÝch Thóy

đi trước phải có trách nhiệm dạy bảo, truyền đạt lại cho người đi sau. Tiêu

biểu như đoạn miêu tả hình ảnh người mẹ chồng căn dặn con dâu khi mới về

nhà chồng trong Gió không ngừng thổi: “Ngày đầu tiên về nhà chồng, mẹ

chồng dẫn Kía xuống bếp. Ở bếp có con ma bếp, ma bếp cai quản việc sinh đẻ

của đàn bà và phù hộ cho việc chăn nuôi gia súc. Vì thế không được dẫm

chân lên bếp lò, không được gõ vào thành bếp, lúc nào muốn nhấc chảo cám

lợn ra phải cho một hòn đá vào giữa” [65;35]. Hay quan niệm của người già

muốn giữ nếp sống của vùng mình thì răn dạy con cháu: “Bếp nhà mình cháy

ở nhà mình, bếp nhà họ cháy trong nhà họ” [65;186] (Mần tang trong thung

lũng). Rồi hình ảnh rừng mả được nhà văn miêu tả qua âm thanh của tiếng gà:

“Tiếng gà nghe cô độc, day dứt, tôi thấy lành lạnh sống lưng. Có tiếng gà có

nghĩa là có người mới được đưa về đây. Theo phong tục của người Tày, mỗi

dòng họ trong bản đều có một khu rừng dành riêng cho người chết... Trong đó

rậm rạp âm u, toàn những thân cây cổ thụ mấy người ôm, không ai dám bén

mảng tới... Khi có người chết, trong nhà mồ bao giờ cũng có đủ thứ tối thiểu

cần thiết cho sinh hoạt hàng ngày - nồi niêu, gạo muối... còn thêm cả một con

gà trống cho có bạn” [65;130] (Đêm cá nổi).

Nói đến con người miền núi, Đỗ Bích Thúy còn ưu ái dành những lời văn

miêu tả đẹp nhất để ca ngợi về họ. Đặc biệt là những người phụ nữ miền núi.

Nét đẹp của họ hiện lên với tất cả vẻ đẹp thể chất, tâm hồn và đức hạnh truyền

thống không chỉ của người phụ nữ vùng cao mà còn tiêu biểu cho người Việt

Nam nói chung. Nói về họ, Đỗ Bích Thúy không quá thiên về cái đẹp ngoại

hình mà nếu có ca ngợi, chị luôn dùng hoa cỏ - những màu sắc đặc trưng vốn

có của vùng núi rừng làm thước đo cho vẻ đẹp rạng ngời cho họ. Trong truyện

của Đỗ Bích Thúy không có trang văn nào cụ thể miêu tả vẻ đẹp của người

phụ nữ. Nét đẹp của họ được gợi về từ quá khứ tươi đẹp và chị cũng chỉ dùng

một hoặc hai câu văn ngắn gọn để ca ngợi nét đẹp trời cho của họ. Hình ảnh

mẹ Hoa trong Tiếng đàn môi sau bờ rào đá “đẹp như bông lê đang nở rộ

ngày trời ấm” [65;26], hình ảnh nhân vật Kía trong Gió không ngừng thổi

86

LuËn v¨n th¹c sÜ v¨n häc Ng« ThÞ Yªn

NghÖ thuËt trÇn thuËt trong truyÖn ng¾n §ç BÝch Thóy

với tâm sự day dứt của người phụ nữ không sinh được con “Tại sao một

người đàn bà không đẻ được nữa lại cứ nở ra như một bông hoa chuối đỏ rực,

căng mọng thế này?” [65;38], hay như vẻ đẹp thiếu nữ của Mai: “Mai là một

bông hoa sắp nở rực rỡ nhất trường”, hay hình ảnh cô Thinh bạn của Dân

trong Mặt trời lên, quả còn rơi xuống “Má Thinh vẫn đỏ như hoa đào mùa

xuân” [65;203], hay hình ảnh người chị dâu tuy góa bụa trong Sau những

mùa trăng nhưng : “Người con gái có đôi bờ vai rất tròn, cái cổ cao mà trắng

như núi đá vỡ” [65;333]. Để miêu tả vẻ đẹp thể chất của người phụ nữ vùng

cao, Đỗ Bích Thúy không cầu kì chọn lựa những lời văn hoa mĩ miều, đài các

ca ngợi, chị chọn được nét đẹp nhất, thời điểm đẹp nhất của thiên nhiên để

miêu tả nét đẹp cho con người. Cụ thể đó là những bông hoa lê, hoa đào nở rộ

đẹp nhất vào mùa xuân được Đỗ Bích Thúy lấy để so sánh với đôi má, với làn

da của người con gái vùng cao. Không khen trực diện nhưng ngầm trong đó,

chị đã miêu tả được những nét đẹp bình dị đáng quý của người con gái miền

núi đang vào độ xuân thì: “Ngày xuân, má đứa nào cũng như hoa đào, miệng

đứa nào cũng mọng như quả hồng chín” [65;197] (Mặt trời lên, quả còn rơi

xuống) và vẻ đẹp đó được hòa quyện cùng với hương thơm của cây cỏ: “Tôi

nhận ra ở Nhi có một thứ mùi gì đó rất lạ. Mùi bướng chín, hay mùi của thứ

hoa dại có mấy cái cánh cong veo, trắng ngà” [65;165] (Hẻm núi). Tất cả

hiện lên một vẻ đẹp khỏe khoắn của con người lao động nơi núi rừng.

Nhưng thành công đối với Đỗ Bích Thúy hơn cả là chị biết kết hợp hài

hòa giữa nét đẹp thể chất với nét đẹp có trong đời sống tâm hồn của người

con gái vùng cao. Có như thế văn phong của Đỗ Bích Thúy mới toát lên vẻ

đẹp của sự thánh thiện, của đức hi sinh, của tầm lòng nhân hậu, của lòng cao

thượng, của sự thủy chung vô bờ bến... Cho dù họ có bị đẩy vào bất cứ hoàn

cảnh nghiệt ngã nào thì những người phụ nữ vùng cao trong trang văn của chị

vẫn hiện lên với nét đẹp bao dung, thuần hậu nhất. Tiêu biểu như bà Mao của

20 năm về trước trong Tiếng đàn môi sau bờ rào đá là một cô Mao “đẹp

người, nết cũng đẹp, con gái bản trên làng dưới không ai dám nhận mình thêu

87

LuËn v¨n th¹c sÜ v¨n häc Ng« ThÞ Yªn

NghÖ thuËt trÇn thuËt trong truyÖn ng¾n §ç BÝch Thóy

thùa, dệt vải vừa nhanh vừa đẹp như cô” [65;20]. Nhưng trớ trêu thay bà Mao

lại không sinh được con nên khi ông Chúng - chồng bà đưa người đàn bà khác

về nhà, bà Mao không một lời to tiếng. Bà chỉ “lặng lẽ chuyển đồ đạc của

mình sang căn buồng của mẹ chồng trước kia” và nhiều đêm bà Mao không

ngủ, bà chỉ có thể mang bó dọc mùng ra thái. Nhưng rồi người đàn bà kia lại

bỏ đi để hai đứa con chồng cho bà Mao nuôi dưỡng. Chi tiết: “Không biết bao

nhiêu lần May ngậm hai bầu ngực mẹ già, nhay đến bật máu vì thèm sữa.

May lên hai tuổi, còn chưa trèo qua được bậu cửa thì mẹ Hoa đẻ thêm thằng

Trài. Thằng Trài lại ngồi trong địu, thay chỗ của May, lại nhay bầu vú chưa

bao giờ có sữa của mẹ già” [65;24]. Để rồi “bàn tay mẹ già đã chai còn chai

thêm, vết chai dày cộp như miếng cháy trong nồi cám. Đêm nào mẹ già cũng

lấy hai bàn tay ấy xoa lưng cho hai chị em May dễ ngủ” [65;25]. Chỉ bấy

nhiêu thôi cũng đủ nói lên một cuộc đời đầy sự hi sinh âm thầm, nhẫn nại của

“mẹ già”.

Truyện Giống như cái cối nước, Đỗ Bích Thúy miêu tả: “Vi biết mình

xinh đẹp, ngày nào cũng soi gương vấn tóc trong buồng riêng. Và Vi còn đảm

đang tháo vát việc nhà, việc nương, việc đồng ruộng, giỏi đan lát, thêu thùa,

dệt vải, khâu vá, con lợn nào may mắn được vào chuồng nhà Vi cũng lớn

nhanh như thổi, đàn gà thì thi nhau đẻ trứng” [65;140]. Một cô gái vừa đẹp

người vừa đẹp nết như vậy hẳn cô phải là người lấy được người chồng yêu cô

tha thiết và sống một cuộc sống hạnh phúc bên chồng, bên con. Nào ngờ chỉ

vì một quan niệm quá ư lệch lạc “nhà ấy bốn đời nghèo không đủ ăn, người

giàu lấy vào cũng nghèo theo, đói lắm” mà người yêu cô đã chối bỏ tình yêu

đối với cô.

Hay như cô Nhưng, cô Nhi trong truyện Mần tang trong thung lũng, họ

cũng là những cô gái vừa đẹp người vừa đẹp nết: “Trong nhà có bao nhiêu túi

thêu, vỏ địu, bao nhiêu vải mầu để lâu lắm rồi, đẹp như thế mà mang đi chợ

thì thế nào cũng nhiều người mua... Con gái Tả Gia có nước da trắng hồng,

mái tóc đen óng là nhờ mần tang đấy” [65;187] nhưng chỉ vì một huyền thoại

88

LuËn v¨n th¹c sÜ v¨n häc Ng« ThÞ Yªn

NghÖ thuËt trÇn thuËt trong truyÖn ng¾n §ç BÝch Thóy

độc địa xưa kia chưa được hóa giải mà mọi người sợ hãi và khiến cho bao

chàng trai đem lòng yêu cuối cùng cũng không dám vượt qua rào cản vô hình

ấy để đến với họ.

Như vậy, có thể nói qua lời văn trần thuật và lời văn miêu tả, chúng ta

nhận thấy nhà văn Đỗ Bích Thúy đã thực sự thấu hiểu cuộc sống, văn hóa,

phong tục tập quán và cả lối tư duy của con người vùng cao. Chính vì lẽ đó,

dù là ngôn ngữ người kể chuyện hay ngôn ngữ nhân vật đều thể hiện rất rõ

bản chất cuộc sống văn hóa của con người miền núi phía Bắc. Nhà văn đã sử

dụng ngôn ngữ giàu hình ảnh, giàu chất thơ để khắc họa bức tranh thiên nhiên

núi rừng vừa hùng vĩ vừa nên thơ, vừa chan hòa vừa thấm đẫm tình người hồn

hậu đáng yêu của con người nơi đây.

3.2. Giọng điệu trần thuật trong truyện ngắn Đỗ Bích Thúy

3.2.1. Khái niệm về giọng điệu trần thuật

Nói tới giọng điệu là chúng ta đang nói đến phong cách của từng nhà văn.

Đây là một trong những yếu tố quan trọng cấu thành nét đặc trưng cho mỗi

loại hình lời văn nghệ thuật. Bởi trong mỗi lời nói “giọng điệu chính là mối

quan hệ giữa chủ thể và hiện thực khách quan thể hiện bằng hành vi ngôn ngữ

trong đó bao hàm cả việc định hướng, đánh giá và thói quen sử dụng ngôn

ngữ trong tình huống cụ thể” [22;154]. Trong cuộc sống, chỉ cần nghe giọng

là chúng ta có thể đoán biết được anh ta là người như thế nào, trình độ ra sao

nhưng với văn học, giọng điệu của con người là muôn hình vạn trạng. Theo

M. Khrapchencô bên cạnh “giọng điệu chủ đạo” thì tác phẩm văn học còn cho

phép tồn tại “những giọng điệu khác nhau”. Như vậy, sắc thái giọng điệu đã

trở thành phương tiện tham gia chuyển tải bức tranh hiện thực vào tác phẩm

và thể hiện thái độ của nhà văn trước cuộc sống.

Theo Từ điển thuật ngữ văn học: “Giọng điệu là thái độ, tình cảm, lập

trường, tư tưởng đạo đức của nhà văn đối với hiện tượng được miêu tả, thể

hiện trong lời văn, quy định cách xưng hô, gọi tên, dùng từ, sắc điệu tình cảm,

cách cảm thụ xa, gần, thân, sơ, thành kính hay suồng sã, ngợi ca hay châm

89

LuËn v¨n th¹c sÜ v¨n häc Ng« ThÞ Yªn

NghÖ thuËt trÇn thuËt trong truyÖn ng¾n §ç BÝch Thóy

biếm” [21;112]. Vì thế, giọng điệu là yếu tố đặc trưng của hình tượng tác giả

trong tác phẩm và làm nên phong cách của mỗi nhà văn. Để tránh sự nhầm

lẫn giữa giọng điệu trong lời nói với giọng điệu trong văn học, Nguyễn Thái

Hòa đã sử dụng khái niệm về giọng văn như sau: “cấu trúc bất biến của một

nhà văn có phong cách riêng đánh dấu đặc trưng sử dụng ngôn ngữ, trong đó

phản ánh quan hệ giữa nhà văn với hiện thực cuộc sống, với ngôn ngữ đang

dùng và không phụ thuộc vào thể loại và đối tượng được nói đến” [22;160].

Từ đó, giọng văn sẽ được thống nhất “bất biến” trong toàn bộ sáng tác của

nhà văn.

Trong văn chương, giọng điệu chỉ quan tâm đến hình thức nói nhưng giữa

hình thức nói và nội dung được nói vẫn có mối quan hệ mật thiết với nhau.

Bởi giọng điệu luôn gắn liền với việc dùng hình tượng để miêu tả đối tượng

của sáng tác. Cho nên những người sành sỏi về văn học, họ có thể căn cứ vào

từng đặc điểm về giọng điệu trong một đoạn văn tự sự nào đó để xác định chủ

nhân của tác phẩm ấy.

Trong nhiều cuốn sách nghiên cứu như lí luận, từ điển văn học chỉ ra rất

nhiều kiểu giọng điệu: mỉa mai, châm biếm, ỡm ờ, đay đả, trang nghiêm, hách

dịch; suồng sã, xót xa, buồn bã, thâm trầm... và ứng với mỗi trạng thái tâm lí

của con người, ta lại có vô số cách biểu hiện khác nhau nữa. Cho nên, việc

tìm được giọng điệu phù hợp sẽ giúp nhà văn kể chuyện hay hơn, thể hiện

được sâu sắc hơn cho lý tưởng thẩm mĩ của mình.

Có thể nói, những năm gần đây, truyện ngắn của ta chinh phục, hấp dẫn,

lôi cuốn được độc giả trong đó có một phần không nhỏ của giọng điệu trần

thuật. Nó giống như dấu ấn của một chủ thể sáng tạo đã để lại vết hằn sâu trên

sáng tác của mình.

Vì lí do giọng điệu chiếm một vai trò quan trọng trong việc hình thành

phong cách nhà văn nên khi nghiên cứu truyện ngắn của Đỗ Bích Thúy,

chúng tôi không thể không nghiên cứu phương diện thẩm mĩ này trong tiến

trình tìm hiểu nghệ thuật trần thuật của chị.

90

LuËn v¨n th¹c sÜ v¨n häc Ng« ThÞ Yªn

NghÖ thuËt trÇn thuËt trong truyÖn ng¾n §ç BÝch Thóy

3.2.2. Giọng điệu trần thuật trong truyện ngắn Đỗ Bích Thúy

Đỗ Bích Thúy - một cây bút trẻ mới xuất hiện trong làng văn học Việt

Nam những năm gần đây đã gây được ấn tượng trong lòng độc giả bởi giọng

văn mang đậm chất đặc trưng của vùng núi phía Bắc. Từ tập truyện ngắn đầu

tay Sau những mùa trăng đến các tập truyện Những buổi chiều đi ngang

qua cuộc đời, Kí ức đôi guốc đỏ, Tiếng đàn môi sau bờ rào đá thì điểm dễ

nhận thấy ở truyện của Đỗ Bích Thúy là những câu chuyện đời thường ẩn

chứa trong đó một giọng văn nhuần nhị, đẹp, ít nhiều mang dáng dấp “cổ

điển”. Đó là những câu chuyện kể thật giản dị, chân thành, sâu lắng với cuộc

đời, với tình người được chị thể hiện trong mỗi truyện ngắn. Đó còn là những

suy nghĩ trăn trở của nhà văn về một vùng đất có quá nhiều những nét văn hóa

đẹp. Điều đó đã định hình cho truyện ngắn của chị một giọng điệu trữ tình

mộc mạc, chân chất; một giọng điệu cảm thương, xót xa; một giọng điệu triết

lý mà sâu lắng. Tất cả giọng điệu trên trong truyện của Đỗ Bích Thúy được

khu biệt bởi một thứ ngôn ngữ mang dấu ấn vùng miền.

3.2.2.1. Giọng điệu trữ tình, mộc mạc, chân chất

Nhân vật trong truyện của Đỗ Bích Thúy chủ yếu là người dân tộc thiểu

số. Cuộc sống của họ bao quanh trước mặt, sau lưng, bốn phía đều là núi.

Công việc của họ quanh năm suốt tháng vùi đầu bên ruộng lúa, nương ngô và

trở về ngôi nhà sàn thân thương của mình lại là không gian của bếp lửa, với

bữa cơm, nồi cám và dệt vải, xe lanh. Cho nên, việc Đỗ Bích Thúy tạo dựng

cho truyện ngắn của mình giọng điệu dân dã, mộc mạc chân chất là hoàn toàn

phù hợp với hình tượng nhân vật nơi đây. Bởi, ngôn ngữ là cái vỏ của tư duy

mà ngôn ngữ miền núi bao giờ cũng phản ánh tư duy, thể hiện tính cách chân

thật, hồn nhiên của họ. Có lẽ, khám phá cái hay cái đẹp trong tác phẩm của

Đỗ Bích Thúy không phải việc chúng ta đi tìm thứ ngôn ngữ bóng bẩy, văn

hoa, cầu kì, với những nghệ thuật sắc sảo tinh luyện trong nghệ thuật. Cái đẹp

trong văn của Đỗ Bích Thúy chính là sự giản đơn, sự giản đơn đến thô mộc

trong lời nói của nhân vật. Nhưng ẩn giấu bên trong ngôn ngữ thô mộc ấy

91

LuËn v¨n th¹c sÜ v¨n häc Ng« ThÞ Yªn

NghÖ thuËt trÇn thuËt trong truyÖn ng¾n §ç BÝch Thóy

chính là cảm xúc, là tiếng nói thật lòng của con người với nhau. Cho nên, các

truyện của Đỗ Bích Thúy tạo được ấn tượng bằng lối kể chuyện kết hợp với

những cấu trúc câu ngắn gọn, đơn giản, thậm chí khuyết chủ ngữ trong câu

khiến cho ngôn ngữ người trần thuật với ngôn ngữ của nhân vật tỏ ra sinh

động và tự nhiên.

Trước tiên, là cách xưng hô “tao”, “mày”, “nó” trong mối quan hệ làng

bản, bạn bè, anh em. Ví như Mai xưng “tao” với Chứ - người bạn thân của

mình “Tao sắp lấy chồng rồi. Bỏ học thôi...”. Còn nói về chồng mình, Mai gọi

là “nó”: “Nó đi làm ăn xa rồi, xa lắm... Nó muốn con trai, đẻ nữa thì không có

gì nộp phạt” [65;78] (Cạnh bếp có cái muôi gỗ). Đặc biệt, trong gia đình

miền núi gọi mẹ là “ềm”, gọi bố là “Po”: “Po không ngủ được hở Po?”

“Không tao đi ra sông.” “Làm gì cơ?” “Còn làm gì nữa. Đang mùa cá chép đẻ

mà.” “A, Po đi lấy trứng về thả” [65;124] (Đêm cá nổi), “Ềm! Ềm vẫn khỏe

đấy ư?... “Kìa... con xin ềm. Ềm đừng nói với con thế. Con vừa về tới... ềm có

thương con...” [65;209] (Ngải đắng ở trên núi). Đồng thời trong câu đối thoại

nhà văn còn thêm những thán từ, những khẩu ngữ như „Y da”, “ấy dà”, “ai

chà”, “ầy” và cả những dấu chấm lửng rất đúng với kiểu cách nói kéo dài rề rà

mang tính đặc trưng trong giọng điệu của người miền núi. Ví như, câu nói của

Phủ “Y da! bà cô lẩm cẩm hay sao mà chuyện nọ xọ chuyện kia thế” [65;164]

(Mần tang trong thung lũng) hay câu nói của trưởng bản: “Ầy, thiến mấy

con gà, phải thiến từ bây giờ thì đến Tết mới có gà béo đem ra cho thông gia”,

“Ai chà, máu chảy nhiều quá” [65;151] (Hẻm núi). Từ cách xưng hô, nói

năng thân mật không khách sáo của người miền núi thì đây chính là yếu tố

quy định lối giao tiếp để tạo nên bản sắc ngôn ngữ riêng cho vùng miền mà

nhà văn hướng tới.

Chẳng hạn, người phụ nữ vùng cao thường rất ít nói và nếu có nói thường

là giọng điệu nhường nhịn nhưng tính cách của họ lại rất thẳng thắn. Tiêu

biểu như nhân vật Vi trong truyện Giống như cái cối nước, khi Vi cảm thấy

thái độ của người yêu có cái gì khang khác không giống như mọi ngày hò

92

LuËn v¨n th¹c sÜ v¨n häc Ng« ThÞ Yªn

NghÖ thuËt trÇn thuËt trong truyÖn ng¾n §ç BÝch Thóy

hẹn. Vi nhất quyết hỏi cho bằng được: “Vi giật đèn pin trong nách Sinh, soi

thẳng vào mặt mình: - Này, nhìn vào đây, rồi nói nhanh, có chuyện gì? Không

phải nói luôn bây giờ” [65;138]. Hay như hai người phụ nữ trong truyện

Tiếng đàn môi sau bờ rào đá và Gió không ngừng thổi không sinh được

con. Bà Mao sẵn sàng nói thẳng với chồng “Hay là Chúng để Mao về nhà mẹ

đẻ, cho Chúng đi lấy vợ mới” [65;21]. Còn cô Kía không nói nhưng lại là

người chủ động cất công đi tìm cho chồng người vợ bé để đẻ một đứa con trai

nối dõi “Mình tìm thêm cho bố nó một người vợ nữa. Phải đẻ một đứa con

trai bố nó à, mình đã hứa với tổ tiên rồi, bằng mọi giá phải có một đứa con

trai để sau này còn có người thờ cúng, có người giữ đất” [65;36].

Ở đây, truyện ngắn Đỗ Bích Thúy hầu như chỉ xoay quanh phản ánh cuộc

sống và hình ảnh người dân miền núi nên tính dân dã, mộc mạc, chân chất ấy

khiến cho việc tác giả vận dụng thủ pháp so sánh trong ngôn từ là thích hợp

và lợi thế hơn cả. Kiểu so sánh phổ biến nhất là lấy hiện tượng thiên nhiên ở

mọi góc độ để thể hiện cho tính cách, tâm lí phổ biến của người dân miền núi.

Ví như ông Chúng trong Tiếng đàn môi sau bờ rào khi có tâm trạng , tác giả

ví: “ông thấy trong nhà mình khó ở quá, giống như trời mưa dông mà mấy

ngày liền không mưa được” [65;14]. Hay như cô Vi trong Giống như cái cối

nước đau khổ khi bị người yêu chối bỏ thì tác giả ví: “Giờ thì Vi đã như một

bông hoa tam giác mạch cuối mùa” [65;145].

Ngoài ra, ngôn ngữ đối thoại của Đỗ Bích Thúy cũng rất độc đáo. Có

những trích đoạn đối thoại vừa nói được đặc tính ngắn gọn, kiệm lời của ngôn

ngữ miền núi vừa thể hiện giọng điệu vô cùng thuần phác, chân thật thậm chí

có phần suồng sã trong ngôn ngữ của nhân vật. Trong câu nói ấy, tác giả

thường ví von, liên tưởng đến các sự vật xung quanh. Truyện Giống như cái

cối nước có đoạn, Vi chia tay với Sinh:

“Vi lên nhà, mỗi bước chân nặng như đeo đá. Mẹ đang đứng ngoài sân

phơi lúa, có ý chờ (...)

- Mẹ không ngủ đi, dậy làm gì?

93

LuËn v¨n th¹c sÜ v¨n häc Ng« ThÞ Yªn

NghÖ thuËt trÇn thuËt trong truyÖn ng¾n §ç BÝch Thóy

- Ngồi xuống đây với mẹ một lúc.

Mẹ Vi chỉ xuống sàn phơi lúa, Vi lẳng lặng ngồi xuống cạnh mẹ.

- Sao hôm nay buông cối muộn thế?

- Con không biết, hỏi mãi không thấy nói” [65;138].

Chỉ với trích đoạn này thôi hẳn người đọc tưởng đây là câu chuyện nói về

cách thức giã gạo ở miền núi. Đó là việc người dân tộc lợi dụng sức mạnh của

nước để giã gạo thay cho sức người. Nhưng đặt trong cả câu chuyện tình

ngang trái của Vi thì việc “buông cối” không còn là việc giã gạo nữa mà nơi

đó lại là không gian hẹn hò của Vi với Sinh. Đó chính là tín hiệu để họ có thể

gặp nhau, để bày tỏ tình cảm thầm kín với nhau.

Hay như cuộc trò truyện của bà mối với vợ chồng Thào Chá Cáy trong

truyện Con dê bốn mắt:

“Bà mối đến nhà Thào Chá Cáy. Hai vợ chồng Cáy đang ngồi tẽ ngô

giống. Thấy bà mối vào, lẳng lặng đứng dậy, không nói không rằng. Bà mối

ậm ừ lấy giọng:

Ông Cáy bà Cáy à, nhà ông Dấn túng bấn quá không biết nhờ vả đâu, nay

nhờ tôi đến nói với ông chia cho ít thóc giống.

Ông Cáy:

- Thóc thì có đấy nhưng không được tốt lắm, gieo nó xuống còn phải mất

công chăm bón nhiều, không dám chia cho nhà ấy đâu.

Bà mối:

- Hạt giống chưa tốt nhưng có mảnh đất tốt, có tấm lòng rộng rãi thì

không sợ gì mất mùa ông ạ” [65;84].

Nếu chỉ nhìn vào một trích đoạn này thôi hẳn độc giả tưởng đây là sự nhờ

vả mua bán thóc giống của hai nhà. Nhưng đặt câu chuyện này vào trong

mạch chính của truyện, chúng ta lại thấy đây là công việc của bà mối đi xe

duyên cho con trai nhà Dấn. Điều đó chứng tỏ Đỗ Bích Thúy không chỉ hiểu

lời ăn tiếng nói mộc mạc hàng ngày của người dân miền núi mà chị còn hiểu

94

LuËn v¨n th¹c sÜ v¨n häc Ng« ThÞ Yªn

NghÖ thuËt trÇn thuËt trong truyÖn ng¾n §ç BÝch Thóy

được cả ý tình của họ để rồi đưa ra những câu văn hàm chứa sắc thái tình cảm

đậm đà chất dân dã sâu lắng.

Bên cạnh giọng điệu mộc mạc, chân chất, truyện của Đỗ Bích Thúy còn

có giọng điệu trữ tình lắng đọng được thể hiện qua những trang văn miêu tả

thiên nhiên, con người và những điệu hát dân gian. Chất giọng này có được là

nhờ chị am hiểu tường tận về vốn văn hóa truyền thống của dân tộc, đặc biệt

là vốn văn hóa dân gian của các vùng dân tộc thiểu số. Hoàng Linh Sơn đã

từng nhận xét: “Chất giọng hồn nhiên, mộc mạc, sống động, giàu hình ảnh

của dân gian vốn đã diễn ra qua lịch sử hàng nghìn năm, nay lại tiếp tục thấm

vào trang viết của các nhà văn như một thuộc tính thẩm mỹ ổn định làm thành

thói quen biểu đạt của các thế hệ của các thế hệ văn nhân trên mọi thể loại

khác nhau” [47;77].

Thiên nhiên miền núi với vẻ đẹp nguyên sơ vốn có của nó như ùa vào

giọng văn của Đỗ Bích Thúy như một bài thơ trữ tình thấm đẫm không gian

sắc màu núi rừng. Nhìn từ xa: “Bản tôi nấp dưới thấp, trong thung lũng. Mà

thung lũng thì như cái lòng chảo, hứng lấy mùn trên núi, mưa lũ đưa về nên

đất đai rất màu mỡ, trồng thứ cây gì cũng lên như thổi. Rừng chẻ ra muôn khe

suối lớn nhỏ chảy ngoằn ngèo qua bản, ra sông” [65;126], hay “Dòng sông lọt

giữa hai bên là trùng trùng những dãy núi vắt đầy mây trắng. Quanh năm

bóng núi cao vời vợi hắt xuống làm dòng sông như càng thêm sâu hun hút.

Đêm nay, trăng núi hạ tuần nhuộm cho cả lòng sông ánh u tịch, trầm mặc”

[65;125] (Đêm cá nổi). Hai đoạn văn giống như hai bức tranh sơn thủy với

những nét vẽ mây, vẽ núi, dòng sông, con suối, ánh trăng lấp lánh gắn quyện

vào nhau thật hữu tình nên thơ. Những động từ “vắt”, “hắt” và những từ láy

chỉ độ sâu “thăm thẳm”, từ láy tượng hình “ngoằn ngèo” miêu tả dáng con

suối uốn lượn mềm mại khiến cho bức tranh trở nên sinh động có hồn.

Một không gian sáng trong, một cuộc sống yên bình, một thiên nhiên bồi

đắp, mỡ màu: “Mặt trời chưa lên nhưng ánh sáng của nó từ sau dãy núi đã hắt

ngược lên vòm trời, đủ làm sáng cả thung lũng. Sương vẫn chưa tan hết trên

95

LuËn v¨n th¹c sÜ v¨n häc Ng« ThÞ Yªn

NghÖ thuËt trÇn thuËt trong truyÖn ng¾n §ç BÝch Thóy

phần ngọn của rừng già. Ban ngày nhìn rừng chia thành từng miếng rất rõ.

Sồi, dẻ mọc lẫn, tán dầy và cao. Vầu đắng thấp hơn đang bắt đầu ra măng”

[65;177] (Mần tang mọc trong thung lũng), “Người ta càng hái thì ngải càng

đâm nhiều ngọn, mặc cho những đợt gió mùa tới tấp ùa về, quất ràn rạt trên

mặt đất. Trên nương, trong vườn, cả dưới gầm sàn chỗ cái ang nước khô

vênh, chỗ nào cũng thấy ngải, như một sự bù đắp cho sự khắc nghiệt của đất

trời” [65;21] (Ngải đắng ở trên núi). Đúng là tạo hóa không bao giờ lấy hết,

thiên nhiên vẫn là thiên nhiên, hiền hòa hay dữ dội đều là quy luật của tạo

hóa. Nhưng tất cả lại được hồi sinh mang lại sự bù đắp đủ đầy cho con người.

Có lẽ với giọng điệu trữ tình ấm áp này chính là sự trả ơn của tác giả khi thổn

thức nghĩ về quê nhà. Bởi nơi đây dù thiên nhiên có khắc nghiệt hay hiền hòa

thì cũng đã nuôi lớn khôn những người con của núi. Một sức sống bền bỉ như

những ngọn ngải đắng vẫn vươn mình mơn mởn, dập dềnh trong gió rét,

sương sa. Để rồi cuộc sống ấm áp, yên bình lại trở về với một niềm lạc quan

yêu đời...

Sau đó, họ lại cất cao những khúc hát, những điệu hát dân gian quen thuộc

về tình yêu, về nỗi niềm chan chứa yêu thương. Trong truyện Con dê bốn

mắt, Kía đã hát những câu hát mong chờ để an ủi Dí “Mây nắng bảo anh đi,

mây mưa bảo anh về/ Em đưa anh đến con đường rẽ, con đường rẽ thụt sâu/

Mây nắng bảo anh đi, mây mưa bảo em quay lại/ Anh buông tay em, tay như

rụng/ Như lá tre, lá gỗ lả tả rụng/ Anh bỏ tay em, tay như rơi/ Như lá tre, lá gỗ

lả tả rơi” [65;87]. Hay Vi - một cô gái trong Giống như cái cối nước dùng lời

hát vút cao trong vắt của mình để làm cháy bỏng biết bao chàng trai về một

tình yêu tha thiết: “Hãy bùng cho to nhé ngọn lửa tình đang nhen/ Dù qua khe

dài gió đừng tắt/ Thấy mía ngọt đừng khát/ Thấy áo người mới đừng thay/ Em

như sợi chỉ xanh/ Anh như sợi chỉ đỏ/ Chỉ đan nhau, vải rách không phai

màu/ Đừng bay theo lời dẻo ngọt người quyến/ Anh hãy yêu bản như yêu em”

[65;142]. Nhưng có những câu hát nặng trĩu nỗi lòng của cô gái khi người yêu

của mình bị treo trên cột đá: “Gầu mông nói đrâu Mông. Hai ta chung nhịp

96

LuËn v¨n th¹c sÜ v¨n häc Ng« ThÞ Yªn

NghÖ thuËt trÇn thuËt trong truyÖn ng¾n §ç BÝch Thóy

nhớ. Nếu buộc phải chết đi. Nên chôn cùng một mộ. Hai chúng mình chung

một hơi. Nếu buộc phải chết thôi. Nên chung một quan tài” [65;103]. Đó là

tiếng hát gầu plềnh trong nhà lý trưởng khiến tâm trạng của Chía như rối bời

thêm. Lời hát như mũi tên xuyên vào trái tim đang rỉ máu của Chía, để Chía

nhớ quay nhớ quắt Váng, nhớ những kỉ niệm “Dưới ánh trăng mờ, Chía đang

được Váng cầm tay ngay dưới gốc lê già gần chuồng ngựa”. Để rồi bây giờ

ôm tấm áo của Váng vào lòng Chía vẫn cảm thấy ấm áp, vẫn thấy bóng hình

của Váng trong trái tim.

Tất cả có được là nhờ vào giọng điệu trữ tình thiết tha. Tuy giản dị đời

thường nhưng vẫn làm sống dậy không khí bản làng, vẫn làm sống dậy những

hình thức văn hóa tập tục được coi là đặc trưng. Để từ đó người đọc thoát

khỏi những “ám ảnh phố phường” với nhịp điệu nóng bỏng của đời sống thị

thành để đến với một miền đất lạ ngập tràn màu sắc, hoa lá, nếp sống văn hóa

tập tục vùng cao. Có thể thấy truyện ngắn của Đỗ Bích Thúy có sức diễn tả

cực kì điển hình và sống động những yếu tố văn hóa của người dân tộc miền

núi cao Tây Bắc này.

3.2.2.2. Giọng điệu cảm thƣơng, xót xa

Truyện ngắn của Đỗ Bích Thúy chủ yếu hướng tới những số phận bất

hạnh, những cuộc đời éo le, ngang trái của bà con dân tộc thiểu số ở vùng cực

Bắc của Tổ quốc. Trong tập truyện Người đàn bà miền núi, nhà văn Đỗ Bích

Thúy chia sẻ tâm sự của mình như sau: “Trong những tháng ngày sống và viết

về vùng đất thân yêu của mình, điều làm tôi day dứt nhất, ám ảnh nhất là thân

phận người đàn bà. Người đàn bà miền núi, dậy trước gà gáy, ngủ sau trăng

sao, cõng trên lưng sự tồn vong của cả một gia đình... Thế nên, đã có những

gương mặt thanh tú, khả ái, da trắng, mắt đen, má hồng khiến đêm trăng nào

cũng nườm nượp trai làng xếp hàng chờ lượt đã dần dần biến thành một người

đàn bà gầy gò, xanh xao, mắt trố, môi bợt bạt, má hóp lại” [66;06]. Điều đó

khiến Đỗ Bích Thúy trăn trở rất nhiều. Bằng giọng điệu cảm thương, xót xa,

chị đã bộc bạch được tình cảm chân thành, sâu sắc của mình về những con

97

LuËn v¨n th¹c sÜ v¨n häc Ng« ThÞ Yªn

NghÖ thuËt trÇn thuËt trong truyÖn ng¾n §ç BÝch Thóy

người và về cả những vùng đất mà họ đã từng gắn bó. Đỗ Bích Thúy đi sâu

tìm hiểu, khám phá vẻ đẹp vốn có tiềm ẩn sâu trong tâm hồn những người con

đất núi.

Truyện Mần tang trong thung lũng, Đỗ Bích Thúy cảm thương cho số

phận của những đứa trẻ mồ côi, chúng cô đơn trong một ngôi làng mà dường

như không có mối quan hệ với cộng đồng. Điều đó đáng báo động về sự trì

trệ, lạc hậu của những hủ tục, những quan niệm được coi là chết người sẽ hủy

hoại cả thế hệ tương lai của đất nước. Chúng ta đọc lại một đoạn văn trần

thuật của Đỗ Bích Thúy về những huyền thoại xưa của người dân tộc, đặc biệt

là ở Tả Gia mới thấy hết được sự thật đau xót: “Phủ vừa lầm lũi đi sau Liêu

vừa kể, như nói với mình: “Người già bảo tại có người trong họ lấy phải nhau

nên trời phạt, bắt chết nhiều thế. Họ Thào, họ Sùng ở cùng nhau lâu quá, hàng

bao nhiêu đời, thành một họ rồi. Bây giờ không lấy được nhau nữa, lấy lại

chết tiếp. Con gái con trai Tả Gia đẹp mấy, giỏi giang mấy cũng ở trong nhà

mình. Người bản ngoài bản trong sợ Tả Gia, không ai dám đến. Lâu lắm Tả

Gia không có đám cưới. Không có đám cưới thì không có trẻ con. Phủ là trẻ

con nhất Tả Gia cũng lớn bằng này rồi...” [65;182].

Rồi cả những đứa con gái của người mẹ trong Những buổi chiều ngang

qua cuộc đời cũng có hoàn cảnh đáng thương không kém. Chúng có mẹ thật

đấy nhưng mẹ chúng phải gồng lên cùng chồng vật lộn, bươn trải kiếm sống.

Để rồi, người mẹ ấy phó thác trách nhiệm cho các con, đứa lớn bảo ban, chăm

sóc đứa bé. Năm tháng dần qua đi khi người mẹ giật mình ngoảnh lại thì các

con của chị đã lớn, đã bắt đầu biết yêu và cũng chỉ vì nhường nhịn nhau về

tình cảm lứa đôi đầu đời mà có đứa lại tiếp tục với cuộc sống mưu sinh vất vả

ở nơi xứ xa khiến những người thân trong gia đình cũng không biết lưu lạc

nơi đâu. Nhưng những kí ức đau buồn, những mặc cảm của người mẹ chưa

tròn trách nhiệm với các con cứ len nhè nhẹ, sâu lắng trong những buổi chiều

dịu buồn bên dòng sông trở nặng nỗi niềm: “Dòng sông như tấm gương phản

chiếu những biến động đến rồi đi, không kiểm soát nổi của chúng tôi. Nó gắn

98

LuËn v¨n th¹c sÜ v¨n häc Ng« ThÞ Yªn

NghÖ thuËt trÇn thuËt trong truyÖn ng¾n §ç BÝch Thóy

chặt với quá khứ, nó là hồi ức, là những khát vọng khôn cùng bị dồn nén, giấu

giếm, những kiệt quệ và hồi sinh... Nó đã mang đi tuổi trẻ, mang đi người

thiếu phụ nồng nàn, say đắm, mang đi cả những dông gió đã từng quật ngã,

dập vùi thân phận người...” [65;253].

Có lẽ, chúng ta cũng định hình được những nhân vật xuất hiện trong trang

văn của Đỗ Bích Thúy đều không quẫy đạp, bứt phá, không ganh tị với mọi

người như một số truyện của những nhà văn trẻ khác. Phải chăng chị hiểu

được tính cách rất nhuần nhị của người dân miền núi. Đặc biệt là phụ nữ,

những người luôn nhận về mình mọi sự thua thiệt để người khác được vui,

được hạnh phúc. Đó chính là đức hạnh, là phẩm giá đáng quý của người phụ

nữ vùng cao. Thông qua giọng điệu cảm thương, xót xa mà nhà văn đã gieo

vào lòng độc giả nhiều nỗi xúc cảm khác nhau về cái đẹp. Cái đẹp không chỉ

bởi dáng vẻ bề ngoài mà cái đẹp dành cho phụ nữ nơi đây là cái đẹp trong hồn

người, tình người, tình quê hương sâu nặng... Để rồi lại chính những người

phụ nữ lại truyền đạt kinh nghiệm, lại bảo ban con gái con trai mình những

điều hay lẽ phải mà người mẹ đã từng kinh qua bao đắng cay.

Nói nhiều đến người phụ nữ vùng cao đáng thương nhưng chúng ta cũng

không quên những người đàn ông cao thượng trong một số truyện của Đỗ

Bích Thúy. Ông Chúng - chồng bà Mao trong Tiếng đàn môi sau bờ rào đá

“vượt rào” lấy thêm vợ hai nhưng hình như lúc nào ông cũng cảm thấy day

dứt, có lỗi với người vợ cả. Cho nên, ông Chúng chỉ có thể bù đắp cho bà

Mao bằng cách tạo điều kiện cho vợ đi chợ bán rượu ngô vào ngày hai bảy

tháng ba. Vì ông Chúng biết bà Mao vẫn nặng tình với tiếng đàn môi của

người tình xưa. Việc ông Chúng giục vợ đi bán rượu ngô ở chợ hai bảy chỉ là

cái cớ để tạo cơ hội cho vợ gặp lại người yêu cũ. Từ hành động cao thượng

của ông Chúng phần nào nói lên lòng cao thượng của người đàn ông Mông.

Chính cách cư xử cao đẹp đó càng thắt chặt hơn tình cảm của vợ chồng dù

cuộc sống có trớ trêu, nghịch cảnh xảy đến như thế nào họ vẫn có thể vượt

qua. Còn ông Thào Mí Sùng trong Gió không ngừng thổi lại có hành động

99

LuËn v¨n th¹c sÜ v¨n häc Ng« ThÞ Yªn

NghÖ thuËt trÇn thuËt trong truyÖn ng¾n §ç BÝch Thóy

thương vợ bằng cách, khi biết thằng Chá không phải là con ruột mình nhưng

ông Sùng vẫn nín lặng cất giấu thật sâu những bí mật đó trong lòng. Vì ông

Chúng sợ bà Kía cùng thằng Chá chạnh lòng, tủi thân tủi phận. Mặc dù yêu

thương, chăm sóc nó như giọt máu của mình nhưng tâm can ông luôn có sự

giằng xé. Ấy vậy ông không một lời nào trách mắng, đay nghiến vợ con. Hẳn

khó có thể tìm thấy một người đàn ông có tấm lòng bao dung như thế!

Còn Sính trong Cái ngưỡng cửa cao đem lòng yêu cô giáo miền xuôi lên

mạn ngược dạy học. Một nghĩa cử cao đẹp đã tạo một sức hút diệu kì đối với

người con trai bản như Sính. Vì thế Sính có cảm tình, đem lòng yêu và quyết

tâm lấy Sương: “từ khi có Sương lên dạy học ở bản, Sính chỉ dừng mắt ở ô

cửa lớp học vừa thấp vừa bé. Cô giáo Sương hơn Sính hai tuổi. Mặc kệ, hơn

hai chứ hơn mười tuổi cũng thế thôi. Sau này, nhiều lần Sương định nói với

Sính, tại vì Sính đã lấp chỗ trống của hai học trò trong lớp mà Sương đồng ý

cho Sính lấp cả chỗ trống trong lòng mình” [65;64]. Câu nói của Sương chúng

ta hiểu, cô chấp nhận lấy Sính không phải vì tình yêu nên khi Sính lấy được

Sương, Sính biết Sương vẫn còn bàng hoàng trước việc đã rồi của mình. Sính

tỏ ra một người đàn ông chân thành, độ lượng. Hôm đầu tiên khi chỉ có hai vợ

chồng trong phòng: “Sính he hé mắt nhìn sang thấy mặt Sương ướt đẫm (...)

Sính ngồi dậy, xích lại gần Sương, khép hai vạt áo Sương đã gỡ ra ngang bả

vai trắng ngần, cài lại khuy áo, đỡ hai vai cho Sương nằm xuống. - Cô giáo

ngủ đi. Tôi không làm gì cô giáo đâu. Đừng khóc nhé. Không muốn làm vợ

tôi sao cô giáo lại nhận vòng bạc, lại uống chén rượu thề? Ngày mai cô giáo

trả lại vòng bạc cho bà cô rồi đi cũng được, cô giáo à!” [65;65]. Câu nói của

Sính có cái gì đó đáng thương tồi tội trong lòng. Một chàng trai với tầm lòng

bao dung như vậy hẳn phải có một tình yêu đẹp và một cuộc sống hạnh phúc.

Thế mà Sương vẫn ra đi. Tất cả nỗi khao khát chờ đợi của Sính giờ chỉ còn là

những kỉ niệm buồn đau.

3.2.2.3. Giọng điệu triết lý giản dị mà sâu lắng

100

LuËn v¨n th¹c sÜ v¨n häc Ng« ThÞ Yªn

NghÖ thuËt trÇn thuËt trong truyÖn ng¾n §ç BÝch Thóy

Với tiêu đề này, chúng tôi hiểu tính chất triết lý trong tác phẩm của Đỗ

Bích Thúy đơn giản chỉ là cách nói, là quan niệm được hun đúc từ rất lâu đời

của cha ông.

Trong truyện Sau những mùa trăng lúc tiễn con, người cha vẫn bùi ngùi

dặn với: “Mày đi thì tốt cho cái thân mày chứ ở đây mãi cũng như tao, như

anh mày thôi, bạc tóc, mỏi chân, cũng chỉ có chín bậc thang với cái ngưỡng

cửa. Cố mà học lấy cái khôn vào đầu nhưng phải nhớ giữ lấy cái lưng cho

thẳng, giữ cái đầu không cúi xuống” [65;332]. ]. Ở đây, chúng ta thấy người

miền rừng núi trong cách răn dạy con cái không khác gì so với người miền

xuôi. Vả lại, nếu có khác đó chỉ là cách diễn đạt, cách ví von, so sánh...

Hay như cách dạy con của người mẹ dân tộc trong Mặt trời lên, quả còn

rơi xuống: “Dân! Nhìn thẳng vào mặt tao xem nào. Mày đang giấu chuyện gì

phải không? Mắt mày như mắt đứa ăn cắp gà thế kia...” “Kìa ềm nói lung tung

rồi!” “Tao không biết nói lung tung, chỉ có cái bụng mày nghĩ lung tung

thôi... Mẹ thủng thẳng nói: “Chua cũng là rượu, xấu cũng là vợ mình. Vợ có

què chân què tay thì cũng phải thương lấy” [65;202]. Bằng giọng điệu trần

thuật, người kể chuyện lúc thì dẫn dắt, lúc lại đi sâu vào nội tâm của Dân để

thấy được những lời nói của mẹ như đã nói trúng tim đen của anh. Có thể nói

không ai hiểu con mình bằng người mẹ. Ngoài ra, người mẹ này còn sử dụng

cách so sánh rất thiết thực với những sự vật hiện tượng thân thuộc nhất để răn

dạy giáo lý đạo đức làm người cho con. Điều đó khiến cho Dân tỉnh ngộ và

nhận ra mình đã không phải với vợ. Thật là những lời nói giản dị, chất phác

và nhân hậu. Bởi khi con người có nhân cách thì không cần phải đao to búa

lớn mới răn dạy nổi. Chỉ với sự thấu hiểu và bằng nhân cách cao thượng của

người mẹ là có thể cảm hóa được tất cả. Điều đó cũng chính là sự thấu hiểu và

đồng cảm của nhà văn. Một nét đẹp truyền thống mà nhà văn gửi gắm vào

nhân vật và để nhân vật nói hộ thông điệp mang tính nhân văn cao cả của

mình đến với độc giả.

101

LuËn v¨n th¹c sÜ v¨n häc Ng« ThÞ Yªn

NghÖ thuËt trÇn thuËt trong truyÖn ng¾n §ç BÝch Thóy

Trong truyện Tiếng đàn môi sau bờ rào đá, mặc dù bà Mao không sinh

nở được nhưng bằng tấm lòng của người mẹ, bà vẫn dạy các con cách ứng xử,

những nghi lễ, phép tắc mà người phụ nữ Mông cần phải ghi xương, khắc cốt.

Đó là việc May không chào mẹ đẻ của mình khi bà trở về. Bà Mao đã dùng

lời lẽ hết sức yêu thương để căn dặn: “Không được thế con gái à. Mẹ Hoa chứ

có phải ai xa lạ đâu. Lâu quá nó mới về nhà, nhưng con gái vẫn không quên

đâu, phải thế không? (...) Cái gì cần nhớ hãy nhớ, cái gì nên quên phải biết

quên. Hôm qua trời mưa nước suối đục, nhưng không đục mãi được. Con

người cũng thế...” [65;20]. Thật không thể đục mãi được, lời lẽ của người mẹ

tuy giản đơn nhưng chiều sâu của nó thì mãi còn nguyên giá trị.

Ngoài ra, những lời răn dạy của người cha, người mẹ miền núi trong

truyện Đỗ Bích Thúy đôi lúc còn thủ cựu nhưng nó là tất cả tình cảm, sự yêu

thương. Cụ thể như sự xâm nhập của lối sống mới nên những tập tục văn hóa

truyền thống có nguy cơ bị mai một và thay đổi trong sự tiến bộ của những

người trí thức hôm nay. Nhưng những nếp sống, những phong tục tập quán đã

ăn sâu trong thớ thịt của những người lớn tuổi bao đời nay nên việc bắt họ

thay đổi theo cái mới ngay thì không phải một sớm một chiều là có thể thay

đổi được. Điều đó làm cho họ đôi lúc bảo thủ, lập luận vấn đề mang tính chủ

quan: “Lịch sự là cái gì? Khách nào cũng mặc quần áo đẹp, đi cả giày lên nhà.

Ngồi uống nước thì quay lưng vào bàn thờ ông bà, thấy trẻ con thì vỗ má, xoa

đầu... Tao ốm, bảo mổ dê, gọi thầy mo về đuổi con ma đi, nó lắc đầu quầy

quậy, đưa cho một nắm thuốc xanh xanh đo đỏ” [65;218] (Ngải đắng ở trên

núi), hoặc người con trong truyện Sau những mùa trăng trở về muốn đón mẹ

lên thành phố để tiện chăm sóc mẹ thì gặp ngay sự phản hồi của mẹ: “Đấy là

những gì mày học được từ khi ra khỏi nhà phải không Lìn? Mắt mày sáng ra

bằng nào tao chưa thấy, chỉ thấy mày quên hết lời cha mày dặn thôi. Mày nói

ở quê khổ quá à? Khổ mà tao vẫn sống đến giờ, khổ mà trẻ con vẫn lớn được!

Không ai chết vì khổ được đâu, chỉ có chết vì trong bụng toàn điều xấu thôi”

[65;336]. Còn truyện Mặt trời lên, quả còn rơi xuống, chúng ta một lần nữa

102

LuËn v¨n th¹c sÜ v¨n häc Ng« ThÞ Yªn

NghÖ thuËt trÇn thuËt trong truyÖn ng¾n §ç BÝch Thóy

lại gặp lại người mẹ với những lí lẽ quan điểm của mình, của đời mình mà

không chịu thay đổi: “Mày không muốn sống như mọi người thì đi, đi ngay.

Không có mày rừng Khua Phẳn vẫn có thú dữ, không có mày cây ngô vẫn ra

bắp, dân bản không đói không khát. Mày là thằng trẻ con, thế mà muốn bỏ hết

tục lệ đi à! Muốn gương mẫu, muốn được giấy khen chứ gì. Để tao chết cho

mày lấy làm gương nhé. Tao chết buổi sáng, buổi trưa mày cho trâu kéo xác

ra rừng tự chôn là xong phải không? Mày sinh ra ở đâu, mày ăn cái gì để cao

lớn bằng ấy hả Dân?” [65;205]. Nói thì nói như vậy, chứ không có người mẹ

nào ác, không người mẹ nào là không thương con. Chỉ có một điều căn bản là

tư duy của họ cần phải cụ thể, hành động tích cực của văn minh tiến bộ phải

thật sáng trong như ban ngày thì người mẹ này mới hiểu được. Nhưng hiềm

một nỗi những quan điểm này quan điểm nọ trong lời nói của con trai nói trừu

tượng quá nên mẹ không hiểu nổi. Tác giả lặp đi lặp lại những câu hỏi tư từ

của người mẹ, cốt để nhắc nhở con cái mình luôn nghĩ về cội nguồn, mảnh đất

ông cha.

Từ đây, chúng ta có thể khẳng định, truyện ngắn Đỗ Bích Thúy trên

phương diện giọng điệu đã đảm bảo phần nào lý thuyết ấy và phần nào đọng

lại một dư âm không ồn ào nhưng lại đậm “bản sắc riêng”. Để khi nói đến con

người Đỗ Bích Thúy, văn chương của Đỗ Bích Thúy, người đọc định hình

ngay một nữ nhà văn mang phong cách miền núi.

103

LuËn v¨n th¹c sÜ v¨n häc Ng« ThÞ Yªn

NghÖ thuËt trÇn thuËt trong truyÖn ng¾n §ç BÝch Thóy

C. PHẦN KẾT LUẬN

Có thể nói, nghệ thuật trần thuật là một lĩnh vực phức tạp đối với người

nghiên cứu thể loại tự sự. Nó không đơn giản chỉ là việc kể lại những sự việc

đã xảy ra mà còn bao gồm việc miêu tả, dựng cảnh, cách tổ chức, thiết kế

mang tính sáng tạo của mỗi nhà văn. Bởi thế văn xuôi Việt Nam những năm

gần đây thiên về tìm tòi đổi mới cách kể. Đây cũng là điều hợp quy luật, đẩy

sự sáng tạo, cách hiểu, cách tiếp cận về gần hơn với đặc trưng thẩm mỹ của

văn học.

Là một nhà văn được coi là tiêu biểu của thế hệ trẻ, Đỗ Bích Thúy không

nằm ngoài danh sách của những nhà văn tìm tòi sáng tạo cách tân trong nghệ

thuật. Nhiều bài báo từng nhấn mạnh, văn của nhà văn Đỗ Bích Thúy có

những trang văn miêu tả có thể đưa vào nhà trường để giảng dạy. Đây là

những tín hiệu đáng mừng cho nữ nhà văn trẻ này.

Lý thuyết trần thuật học và thi pháp học hiện đại lâu nay đã phổ biến với

giới nghiên cứu văn học ở Việt Nam. Đối với truyện ngắn của Đỗ Bích Thúy,

nửa như đi về phía truyền thống cội nguồn sâu sa của gốc rễ, cái gì cho là bản

tính trời cho, nửa kia lại đi về phía chân trời với những ánh sáng mới lạ. Cả

hai yếu tố đó hòa vào mạch chảy trong văn Đỗ Bích Thúy, tạo cho văn

chương của chị vừa quen vừa lạ. Cho nên phần chúng tôi nghiên cứu về người

trần thuật và điểm nhìn trần thuật trong truyện ngắn Đỗ Bích là nét mới, bồi

đắp thêm cho thể loại văn xuôi miền núi thêm diện mạo mới. Nhà văn Đỗ

Bích Thúy đã tạo cho truyện của mình một đối tượng trần thuật linh hoạt. Đó

là người trần thuật hàm ẩn và người trần thuật tường minh Còn về điểm nhìn

trần thuật thì ở truyện của Đỗ Bích Thúy hoàn toàn mới. Đó là chị biết chọn

cho mình những góc quan sát, những trường đoạn có thể nói là điểm nhìn

lồng ghép của nhiều nhân vật trong một ngôi kể. Đó là sự dịch chuyển liên tục

điểm nhìn từ phía người trần thuật sang điểm nhìn của nhân vật, từ điểm nhìn

khách quan sang điểm nhìn chủ quan, rất khó phân biệt đâu là chủ thể của trần

104

LuËn v¨n th¹c sÜ v¨n häc Ng« ThÞ Yªn

NghÖ thuËt trÇn thuËt trong truyÖn ng¾n §ç BÝch Thóy

thuật. Nhờ đó mà truyện ngắn của chị được chiêm nghiệm, khám phá một

cách đa diện và có chiều sâu hơn.

Với phương diện kết cấu, Đỗ Bích Thúy không chỉ sử dụng những kết cấu

đơn tuyến quen thuộc mà chị đã tổ chức câu chuyện của mình với nhiều dạng

kết cấu hiện đại khác nhau như: kết cấu truyện theo mạch phát triển tâm lí, kết

cấu đảo lộn trật tự trần thuật. Còn cốt truyện, bên cạnh cốt truyện đơn giản dễ

bộc lộ cảm xúc, truyện của Đỗ Bích Thúy còn có cốt truyện có kết thúc bất

ngờ, kết thúc để ngỏ và cả cốt truyện đan xen nhiều mạch truyện.

Đỗ Bích Thúy còn có đóng góp không nhỏ trong việc giữ gìn bản sắc đa

diện đa chiều của ngôn ngữ miền núi. Lợi thế để Đỗ Bích Thúy tiếp cận gần

gũi với ngôn ngữ miền núi hơn so với một số tác giả khác là chị được sinh ra

và lớn lên gắn bó với đồng bào miền núi trong khoảng thời gian ấu thơ khá

dài, hơn hai mươi năm. Nhờ đó, Đỗ Bích Thúy hiểu hơn về con người, về văn

hóa phong tục tập quán, về nỗi niềm khát vọng của người dân nơi đây. Với

cách thức biểu đạt mộc mạc hồn nhiên, thiên về lối nói hình ảnh cụ thể, so

sánh hình tượng, tạo khả năng liên tưởng sác thực, độc đáo. Đây là một thế

mạnh mà chị chắt lọc từ cuộc sống của người dân miền núi với bề dày văn

hóa, văn học dân gian của họ. Những bức tranh thiên nhiên hùng vĩ và thơ

mộng, những cuộc sống lao động vất vả, thậm chí còn nhiều lạc hậu nhưng

những câu chuyện đó vẫn trôi chảy trên trang văn của Đỗ Bích Thúy với

những giọng điệu khác nhau: giọng điệu trữ tình, mộc mạc, chân chất; giọng

điệu cảm thương, xót xa; giọng điệu triết lý nhẹ nhàng mà sâu lắng.

Tất cả những yếu tố đó phải được đặt trong một chỉnh thể của sự thống

nhất nhiều mảng. Mỗi phương diện lý thuyết mới về nghệ thuật trần thuật nói

chung và nghệ thuật trong sáng tác của Đỗ Bích Thúy nói riêng mà người

nghiên cứu cần phải phát hiện ra những cái riêng biệt tinh túy ấy. Bởi văn học

với đề tài dân tộc miền núi là một trong tổng thể đề tài mà văn học Việt Nam

cần khai thác, mở rộng địa bàn.

105

LuËn v¨n th¹c sÜ v¨n häc Ng« ThÞ Yªn

NghÖ thuËt trÇn thuËt trong truyÖn ng¾n §ç BÝch Thóy

Cuối cùng, thay cho lời kết khẳng định vị thế của chị trong làng văn Việt

Nam, chúng tôi mượn lời của nhà phê bình văn học Lê Thanh Nghị trong lời

giới thiệu cho tập truyện ngắn Tiếng đàn môi sau bờ rào đá để ngợi ca con

người trẻ tuổi này đã tìm cho mình một lối đi riêng trong vườn hoa nghệ

thuật: “Khát vọng về hạnh phúc, những tâm sự cháy bỏng về lẽ sống, ý thức

về những ngày hiện tại ở một vùng đất độc đáo, đầy kỷ niệm đã tạo ra ngòi

bút của Đỗ Bích Thúy niềm xúc động chân thành, chảy dạt dào trên trang

viết... Không thể không nghĩ đến một ngày Đỗ Bích Thúy sẽ trở thành cây bút

thực sự trưởng thành của văn xuôi Việt Nam hiện đại”

106

LuËn v¨n th¹c sÜ v¨n häc Ng« ThÞ Yªn

NghÖ thuËt trÇn thuËt trong truyÖn ng¾n §ç BÝch Thóy

TÀI LIỆU THAM KHẢO

01. Tạ Duy Anh (biên soạn), Nghệ thuật viết truyện ngắn và kí, NXB Thanh

niên, 2000.

02. Điệp Anh, Gặp hai nữ thủ khoa truyện ngắn trẻ, Văn nghệ trẻ, số 10,

ngày 11/3/2001.

03. Hà Anh, Đỗ Bích Thúy - Nếu làm độc giả thất vọng tôi thà chịu cũ,

http://evan.vnexpress.net, ngày 05/12/2005.

04. Vũ Tuấn Anh, Đổi mới văn học vì sự phát triển, TCVH, số 4/ 1995.

05. Vũ Tuấn Anh, Văn học Việt Nam hiện đại - nhận định và thẩm định,

NXB Khoa học Xã hội, 2001.

06. Lại Nguyên Ân, 150 thuật ngữ văn học, NXB Đại học quốc gia Hà Nội,

H. 2004

07. Lại Nguyên Ân, Văn học và phê bình, NXB Tác phẩm mới, H. 1994.

08. M. Bakhtin, Lí luận và thi pháp tiểu thuyết (Phạm Vĩnh Cư dịch),

Trường viết văn Nguyễn Du, 1992.

09. Lê Huy Bắc, Cốt truyện trong tự sự, TCVH, số 7/2008.

10. Nguyễn Minh Châu, Trang giấy trước đèn, NXB Khoa học Xã hội, Hà

Nội, 1994.

11. Trần Ngọc Dung, Đời sống thể loại văn học sau 1975, TCVH, số 2/2006.

12. Trần Ngọc Dung, Ba phong cách truyện ngắn trong văn học Việt Nam,

Thời kì đầu từ những năm 1930 đến 1945: Nguyễn Công Hoan, Thạch

Lam, Nam Cao, Luận án phó tiến sĩ Khoa học Ngữ văn, Hà Nội, 1992.

13. Phạm Thùy Dương, Cảm hứng cảm thương trong sáng tác của Đỗ Bích

Thúy và Nguyễn Ngọc Tư, Tạp chí văn nghệ quân đội số 661, tháng 1/2007.

14. Lê Tiến Dũng, Tìm hiểu tác phẩm văn học, NXB Tổng hợp Sông Bé,

1991.

15. Phan Cự Đệ, Cuộc sống và tiếng nói nghệ thuật, NXB Văn học, Hà Nội,

1971.

107

LuËn v¨n th¹c sÜ v¨n häc Ng« ThÞ Yªn

NghÖ thuËt trÇn thuËt trong truyÖn ng¾n §ç BÝch Thóy

16. Phan Cự Đệ (chủ biên), Truyện ngắn Việt Nam - lịch sử - thi pháp -

chân dung, 2007.

17. Trung Trung Đỉnh, Đọc truyện ngắn Đỗ Bích Thúy, Báo Văn nghệ số 5,

ngày 3/2/2007.

18. Hà Minh Đức (chủ biên), Lí luận văn học, NXB Giáo Dục, H. 2006.

19. Nguyễn Đăng Điệp, Giọng điệu trong thơ trữ tình, NXB Văn học, H.

2002.

20. Phong Điệp, Nhà văn Đỗ Bích Thúy, viết trong những mong manh, Báo

Văn nghệ số 2/2009.

21. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (đồng chủ biên), Từ điển

thuật ngữ văn học, NXB Giáo dục, 1992.

22. Nguyễn Thái Hòa, Những vấn đề thi pháp của truyện, NXB Giáo dục, H.

2001.

23. Nguyễn Thanh Hồng, Tìm hiểu một số cách tân nghệ thuật trong truyện

ngắn của một số cây bút nữ thời kì 1986 - 2006 (Nguyễn Thị Thu Huệ,

Nguyễn Ngọc Tư, Đỗ Bích Thúy), luận văn Th.s Đại học Khoa học xã hội và

nhân văn, H. 2009.

24. Lê Thị Hường, Các kiểu kiến trúc của truyện ngắn hôm nay, TCVH, số

4/1995.

25. Thu Hiên, Nhà văn Đỗ Bích Thúy - một người đã từng bị tước đi hạnh

phúc sẽ biết giữ gìn nó một cách tận tụy, Báo điện tử Đảng cộng sản Việt

Nam, 15/4/2007.

26. Đỗ Đức Hiểu, Đổi mới đọc và bình văn, NXB Hội nhà văn Hà Nội, 1999.

27. M.B Kheapchenko, Những vấn đề lí luận và phương pháp nghiên cứu

văn học (Lại Nguyên Ân, Duy Lập, Lê Sơn, Trần Đình Sử dịch), NXB Đại

học Quốc gia Hà Nội, 2002.

28. Nguyễn Đăng Mạnh, Con đường đi vào thế giới nghệ thuật nhà văn -

NXB Giáo dục, 1984.

108

LuËn v¨n th¹c sÜ v¨n häc Ng« ThÞ Yªn

NghÖ thuËt trÇn thuËt trong truyÖn ng¾n §ç BÝch Thóy

29. Nguyễn Đăng Mạnh, Nhà văn tư tưởng và phong cách, NXB Đại học

Quốc gia Hà Nội, 2001.

30. Đinh Trọng Lạc, 99 phương tiện và biện pháp tu từ tiếng Việt, NXB

Giáo dục, 1995.

31. Chu Lai, Cái duyên và sức gợi của hai giọng văn trẻ, Tạp chí văn nghệ

quân đội, 7/2001.

32. Nguyễn Văn Long, Văn học Việt Nam trong thời đại mới, NXB Giáo

dục, 2003.

33. I.U. Lotman, Cấu trúc văn bản nghệ thuật (Trần Ngọc Vương, Trịnh Bá

Đĩnh, Nguyễn Thu Thủy (dịch), NXB Đại học Quốc gia Hà Nội - 2004.

34. Pospêlov G. N (Chủ biên), Dẫn luận nghiên cứu văn học, NXB Đại học,

M. 1988.

35. Phương Lựu (chủ biên), Lí luận văn học, NXB Giáo dục, 2003.

36. Vương Trí Nhàn, Sổ tay truyện ngắn, NXB Hội nhà văn Hà Nội, 1984.

37.Vũ Thị Tố Nga, Khả năng của truyện ngắn trong việc thể hiện con

người, TCVH, số 5/2006.

38. Lê Thanh Nghị, Từ truyện ngắn của một người viết trẻ, Văn nghệ trẻ, số

ra ngày 31/7/2005.

39. Phạm Duy Nghĩa, Cốt truyện trong văn xuôi dân tộc và miền núi,

TCNCVH, số 11/2008.

40. Phạm Duy Nghĩa, Văn xuôi Việt Nam hiện đại về dân tộc và miền núi,

Luận án tiến sĩ Ngữ Văn, Viện Văn học, Viện KHXH Việt Nam, H. 2010.

41. Nguyên Ngọc, Mấy suy nghĩ về tình hình văn học các dân tộc thiểu số

hiện nay, TCVH số 9/1994.

42. Dương Bình Nguyên, Nhà văn Đỗ Bích Thúy - sự mềm mại quyết liệt,

Báo An ninh thế giới cuối tháng, 5/2007.

43. Dương Bình Nguyên, Đỗ Bích Thúy và “Ngải đắng ở trên núi”,

http://my.opera.com, 2/2007.

109

LuËn v¨n th¹c sÜ v¨n häc Ng« ThÞ Yªn

NghÖ thuËt trÇn thuËt trong truyÖn ng¾n §ç BÝch Thóy

44. Mai Hải Oanh, Nghệ thuật tổ chức điểm nhìn trong tiểu thuyết Việt Nam

thời kỳ đổi mới, TCVH, số 10/2007.

45. Nguyễn Hữu Quý, Đọc tiểu thuyết đầu tay Bóng của cây sồi của Đỗ

Bích Thúy, Tạp chí văn nghệ quân đội, số 623, tháng 6/2005.

46. Dương Vũ Quỹ (chủ biên), Trên đường bình văn, NXB Giáo dục, 1998.

47. Hoàng Linh Sơn, Sắc thái riêng trong lí luận, phê bình văn nghệ của

các cây bút dân tộc ít người, TCVH, số 11/2000.

48. Trần Đăng Suyền, Nhà văn hiện thực cuộc sống và cá tính sáng tạo,

NXB Văn học, 2002.

49. Trần Đăng Suyền, Chủ nghĩa hiện thực Nam Cao, NXB Khoa học xã

hội, 2004.

50. Hoàng Linh Sơn, Sắc thái riêng trong lí luận, phê bình văn nghệ của

các cây bút dân tộc ít người, TCVH, số 11/2000.

51. Trần Đình Sử, Dẫn luận thi pháp học, NXB Giáo dục, H. 2004.

52. Trần Đình Sử, Tự sự học - một số vấn đề lí luận và lịch sử, NXB Đại học

Sư phạm Hà Nội, 2004.

53. Trần Đình Sử (Chủ biên), Giáo trình lí luận văn học, tập II (Tác phẩm và

thể loại văn học), NXB Đại học sư phạm, 2008.

54. Bình Nguyên Trang, Con của núi, http://www.hoilhpn.org.vn, ngày

16/3/2009.

55. Nguyễn Minh Trường, Truyện ngắn về đề tài dân tộc miền núi phía bắc

qua các tác phẩm của Cao Duy Sơn, Đỗ Bích Thúy, Nguyễn Huy Thiệp,

Luận văn Th.s ĐH KHXH & NV HN, 2009.

56. Nguyễn Đình Thi, Công việc của người viết tiểu thuyết, NXB Văn học,

H.1964.

57. Bùi Việt Thắng, Truyện ngắn bốn cây bút nữ, NXB Văn học, H. 2000.

58. Bùi Việt Thắng, Truyện ngắn, những vấn đề lí thuyết và thực tiễn thể

loại, NXB Đại học quốc gia Hà Nội, 2007.

110

LuËn v¨n th¹c sÜ v¨n häc Ng« ThÞ Yªn

NghÖ thuËt trÇn thuËt trong truyÖn ng¾n §ç BÝch Thóy

59. Bùi Việt Thắng, Văn xuôi gần đây và quan niệm con người, TCVH, số

6/1991.

60. Dương Thị Kim Thoa, Tiếp cận sáng tác của Đỗ Bích Thúy và Nguyễn

Ngọc Tư từ phương diện giá trị văn học - văn hóa, Luận văn Th.s ĐH

KHXH& NV- HN, 2008.

61. Bích Thu, Những thành tựu của truyện ngắn sau 1975, TCVH, số 9/

1999.

62. Đỗ Bích Thúy, Sau những mùa trăng, NXB Văn nghệ Quân đội, 2001.

63. Đỗ Bích Thúy, Những buổi chiều ngang qua cuộc đời, NXB Hội nhà

văn, 2003.

64. Đỗ Bích Thúy, Kí ức đôi guốc đỏ, NXB Phụ nữ, 2004.

65. Đỗ Bích Thúy, Tiếng đàn môi sau bờ rào đá, NXB Công an nhân dân,

2006.

66. Đỗ Bích Thúy, Người đàn bà miền núi, NXB Phụ nữ, 2008.

67. Đỗ Bích Thúy - Viết vì nhu cầu nội tâm ,http://evan.vnepress.net, ngày

21/12006.

68. Đỗ Bích Thúy, Người đàn bà miền núi, Tạp chí văn nghệ quân đội, Xuân

Mậu Tí, 12/2008.

69. Đỗ Bích Thúy - tôi đã không nghĩ rằng người phụ nữ có thể hi sinh

nhiều đến thế, http://vietbao.vn, ngày 23/1/2009.

70. Lộc Phương Thủy (chủ biên), Lí luận phê bình văn học thế giới thế kỉ

XX, 2 tập, NXB Giáo dục Hà Nội, 2007.

71. Lê Hương Thủy, Truyện ngắn sau 1975 - một số đổi mới về thi pháp,

TCVH số 11/2006.

72. Lê Hương Thủy, Đường đến văn chương của một người viết trẻ,

http://tapchinhavan.vn, ngày 23/11/2009.

73. Lê Văn Tùng, Tính năng động nghệ thuật của văn học hiện đại Việt

Nam và một cách nhìn từ thể loại, TCVH, số 5/2007.

Một số trang web khác:

111

LuËn v¨n th¹c sÜ v¨n häc Ng« ThÞ Yªn

NghÖ thuËt trÇn thuËt trong truyÖn ng¾n §ç BÝch Thóy

http://evan.com

http://phongdiep.net

http://talawas.org

http://vanhoc.net

http://vienvanhoc.vn

http://vietbao.vn

http://www.chungta.com

http://www.thegioidienanh.vn

http://www.vanhocvatuoitre.com..vn

112

LuËn v¨n th¹c sÜ v¨n häc Ng« ThÞ Yªn