ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ______________________________
ĐÀO THU TRANG
THẾ GIỚI NGHỆ THUẬT
TRONG TRUYỆN NGẮN Y BAN
LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
HÀ NỘI 2012
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
ĐÀO THU TRANG
THẾ GIỚI NGHỆ THUẬT
TRONG TRUYỆN NGẮN Y BAN
Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Văn học Việt Nam
Mã số: 60 22 01 21
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Hà Văn Đức
Hà Nội - 2012
2
MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN…………………….……………………………….………….1
MỤC LỤC………………………………….…………………………………2
PHẦN MỞ ĐẦU…………...…………………….……………………….….4
1. Lí do chọn đề tài…………………………….……………………….…….4 2. Lịch sử vấn đề……………………………………………………………..5 2.1. Các bài viết về truyện ngắn Y Ban trên các báo và tạp chí…….……....5
2.2. Các bài viết, trao đổi về truyện ngắn của Y Ban trên các diễn đàn và
báo mạng……………………………………………………………….7
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu…………………….………………….10 4. Đóng góp của luận văn……………………………….…………………..12 5. Phương pháp nghiên cứu……………………………………….………...12 6. Cấu trúc luận văn…………………………………………………………12
PHẦN NỘI DUNG………………...……………………………………….13
Chương 1: Truyện ngắn của Y Ban trong dòng chảy chung của văn xuôi
nữ thời kì đổi mới…..………………………………………..……………..13
1.1.Vài nét về văn xuôi nữ thời kì đổi mới:…………………………….……13
1.2.Truyện ngắn của Y Ban trong dòng văn xuôi nữ thời kì đổi mới…..…...20
Chương 2: Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Y Ban……………...….25
2.1. Nhân vật tự nhận thức…………………………………………………..25
2.2. Nhân vật cô đơn…………………………………………………………31
2.3.Nhân vật bi kịch……………………………………………………...….38
2.4.Nhân vật kì ảo………………………………………………………...….45
3
Chương 3: Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Y Ban…..………..50
3.1. Điểm nhìn trần thuật…………………………………………….………50
3.1.1. Điểm nhìn trần thuật bên trong……………………….……………….57
3.1.2. Điểm nhìn trần thuật bên ngoài……………………………………….59
3.2. Người kể chuyện………………………………………………..………62
3.2.1. Nhân vật kể chuyện……………………………………………...……64
3.2.2. Người kể chuyện ở ngoài câu chuyện……………………...…………65
3.3. Nghệ thuật tổ chức tình huống và kết cấu………………………………66
3.3.1. Tình huống truyện………………………………………….…………66
3.3.1.1. Tình huống tâm trạng……………………………………………….67
3.3.1.2. Tình huống tự nhận thức…………………………………………...68
3.3.1.3. Tình huống mang tính kịch…………………………………………70
3.3.2. Kết cấu tâm lí……………………………………………………..…..71
3.3. Ngôn ngữ và giọng điệu……………………………………………..….75
3.3.1. Ngôn ngữ………………………………………………………..…….75
3.3.1.1. Ngôn ngữ đời thường, mang đậm chất dân gian……………………76
3.3.1.2. Ngôn ngữ mang tính phiếm chỉ……………………………………..78
3.3.2. Giọng điệu…………………………………………………………….79
3.3.2.1. Giọng trữ tình, đằm thắm…………………..……………………….80
3.3.2.2. Giọng chiêm nghiệm triết lí………………..……………………….83
3.3.2.3. Giọng hài hước, châm biếm……………..………………………….85
PHẦN KẾT LUẬN…………………...…………………………………..87
4
TÀI LIỆU THAM KHẢO………………...………………………………....89
PHẦN MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
1.1. Văn học Việt Nam sau năm 1975 được gọi là “văn học của thời kì
đổi mới”. Để tạo nên những “đổi mới” của văn học thời kì này
không thể không nhắc đến những đóng góp của đông đảo các nhà
văn nữ. Họ là những cây bút trẻ rất giàu nội lực sáng tạo. Hình như
do sự nhạy cảm riêng của mình, phụ nữ bắt mạch thời đại nhanh hơn
nam giới. Họ luôn gần với cái lỉnh kỉnh, dở dang của cuộc sống. Đội
ngũ nhà văn nữ khá đa dạng, mỗi người có một giọng điệu riêng.
Cùng với Nguyễn Thị Thu Huệ, Phan Thị Vàng Anh, Võ Thị Hảo,
Lý Lan… Y Ban là nhà văn đã tạo nên những dấu ấn riêng trong
dòng chảy văn học đương đại nói chung và truyện ngắn nói riêng.
1.2. Y Ban tên thật là Phạm Thị Xuân Ban, sinh ngày 01 tháng 07 năm
1961tại Ninh Bình. Chị tốt nghiệp trường Đại học Y và đã từng
giảng dạy tại trường Cao đẳng Y Nam Định. Nhưng theo Y Ban
nghề văn đã chọn chị, cô giáo Ban bỏ nghề y đi viết văn và trở thành
Y Ban (tức Ban trường y). Hiện nay chị là phó ban biên tập Báo
Giáo dục và Thời đại. Y Ban được bạn đọc biết đến bởi nhiều tác
phẩm của chị đã đạt giải cao. Giải nhất cuộc thi truyện ngắn của tạp
chí Văn nghệ quân đội (1989-1990) với truyện ngắn Bức thư gửi mẹ
Âu Cơ và Truyện một người đàn bà. Giải nhì cuộc thi viết về Hà Nội
của Nhà xuất bản Hà Nội năm 1993 với tập truyện ngắn Người đàn
5
bà có ma lực. Giải C cuộc thi tiểu thuyết lần thứ ba của Hội nhà văn
Việt Nam với tập truyện ngắn Miếu hoang (2000). Giải nhất cuộc
thi viết truyện ngắn giáo dục đạo đức cho thiếu niên và nhi đồng do
Nhà xuất bản Giáo dục tổ chức với truyện ngắn Ngôi nhà thân
thiện. Các tác phẩm này đã gây được tiếng vang và giúpY Ban tự tin
hơn trên hành trình sáng tác của mình.
1.3. Sau những thành công ấy Y Ban vẫn miệt mài sáng tác. “Gia tài”
của chị có tám tập truyện ngắn, một tập truyện vừa, hai tiểu thuyết
và một tập truyện mini. Nhiều tác phẩm của Y Ban khi mới ra đời
đã thu hút được sự quan tâm của cả độc giả và giới phê bình văn học
thậm chí tạo nên một làn sóng dư luận văn học trong nước và nước
ngoài. Đã có không ít những cuộc phỏng vấn, những bài viết trên
các báo, tạp chí và những cuộc trao đổi trên các diễn đàn và báo
mạng về các sáng tác của Y Ban.
1.4. Tuy nhiên, sự quan tâm của bạn đọc và giới phê bình mới chỉ dừng
lại ở những bài viết trên các báo và tạp chí. Cũng đã có một số luận
văn nghiên cứu về sáng tác của chị nhưng lại kết hợp nghiên cứu với
các nhà văn nữ khác hoặc nghiên cứu đặc điểm văn xuôi của chị.
Với số lượng tác phẩm đáng kể và các giải thưởng cao với thể loại
truyện ngắn, đã đến lúc phải có những khảo cứu riêng về toàn bộ
truyện ngắn của Y Ban một cách hệ thống và đầy đủ.
Đó là những lí do khiến tôi chọn đề tài : “Thế giới nghệ thuật trong
truyện ngắn Y Ban”.
2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ
2.1. Các bài viết về truyện ngắn Y Ban trên các báo và tạp chí
Y Ban được bạn đọc và giới phê bình chú ý khi Bức thư gửi mẹ Âu Cơ
đạt giải nhất cuộc thi truyện ngắn của Tạp chí Văn nghệ quân đội (1989-
6
1990). Trong bài Một giọng nữ trầm trong văn chương nhà nghiên cứu phê
bình Bùi Việt Thắng đã nhận định: “Y Ban có lối viết riêng của mình, chị chú
ý khai thác nhiều tâm trạng điển hình của nhân vật trong những tình huống
tiêu biểu”, ông cho rằng: “Truyện của Y Ban có thể được xếp vào dạng truyện
tâm tình – không đặc sắc về cốt truyện và tình tiết song lại có khả năng lắng
đọng trong người đọc bởi chiều sâu tâm lí của tính cách da diết của tình đời,
tình người” [14]. Trong bài Khi người ta trẻ trên báo Văn nghệ số 43 năm
1993 Bùi Việt Thắng viết: “Y Ban quan tâm đến yếu tố thời gian nghệ thuật
nên truyện của chị đậm chất chiêm nghiệm, triết lí”.Trên báo Văn nghệ số 25
năm 2003 có đăng bài Y Ban và những thân phận đàn bà của Xuân Cang. Tác
giả đã phân tích và lí giải về cách xây dựng nhân vật nữ của Y Ban. Ông đưa
ra nhận xét: “Y Ban là một người phụ nữ viết văn đầy nhạy cảm và chị cảm
nhận được những biến thái tinh vi trong tâm hồn con người”.
Trong bài Đọc truyện ngắn Y Ban tác giả Lê Thị Hương Thủy đã có
những nhận xét cơ bản về đặc điểm của những tác phẩm thuộc “thể loại nhỏ”
của Y Ban như: “sự trở đi trở lại của những nhân vật nữ”, “xu hướng khai
thác những xung đột bên trong”, “những không gian sáng” trong tác phẩm…
Chị đưa ra một nhận định chung: “Đọc truyện ngắn Y Ban người đọc như bị
ám ảnh không dứt về những thân phận, những cuộc đời qua từng câu chuyện
kể. Những câu chuyện có lúc tưởng như không đầu không cuối nhưng lại có
sức neo giữ trong tâm trí người đọc. Tựa vào cảm giác, tâm trạng… ngòi bút
Y Ban đã khơi sâu vào mạch nguồn cảm xúc, vào thế giới tâm linh của con
người để rồi lại đem đến cho người đọc những cảm nhận, những nỗi niềm
trước từng cảnh ngộ”. [18]
Tại hội thảo khoa học Mười truyện ngắn hay báo Văn nghệ 1998 do
Đại học Hồng Đức tổ chức, giảng viên Vũ Thị Oanh đã đưa ra nhận định:
“Sáng tác của Y Ban không đặt ra những vấn đề to tát, cũng không đại ngôn
7
mà thường chỉ là những điều mắt nhìn và trái tim suy nghĩ nhưng thường để
lại những ám ảnh có lúc xa xót như những nhát cứa, có lúc bồi hồi dịu ngọt.
Đã gặp một lần – những người có trái tim nhạy cảm không dễ mấy ai quên”.
Trên tạp chí Nghiên cứu văn học số 3 năm 2010 nhà nghiên cứu Phong
Lê viết: “Từ sau 1995 sẽ là sự xuất hiện và khẳng định vị trí của một thế hệ
mới, nhìn chung là từ lứa tuổi 5X đến 7X trở đi như Lê Minh Khuê, Nguyễn
Quang Thiều, Trần Đức Tiến, Trần Thị Trường, Dạ Ngân, Võ Thị Hảo, Tạ
Duy Anh, Hồ Anh Thái, Nguyễn Bình Phương, Y Ban, Thu Huệ, Võ Thị
Xuân Hà, Phan Thị Vàng Anh... cho đến Nguyễn Việt Hà, Nguyễn Ngọc Tư,
Nguyễn Ngọc Thuần, Phan Triều Hải, Văn Cầm Hải, Vũ Đình Giang, Đỗ
Bích Thúy, Đỗ Tiến Thụy, Nguyễn Thế Hùng, Nguyễn Đình Tú, Nguyễn Thế
Hoàng Linh... Có lẽ sự đông đúc của đội ngũ thì chưa có giai đoạn nào trước
đây sánh bằng bây giờ. Và do quá đông đúc trong một thời kỳ đất nước mở
rộng giao lưu và hội nhập, trong kỷ nguyên của Cách mạng thông tin và Toàn
cầu hóa nên những tìm kiếm cho cái riêng của họ là rất đa dạng.” [7]
Có thể thấy những bài viết về sáng tác của Y Ban trên các báo và tạp
chí chưa thực sự phong phú về số lượng và khảo sát chưa sâu. Các tác giả chỉ
dừng lại tìm hiểu một số tác phẩm tiêu biểu, nhận diện tác giả mà chưa nghiên
cứu cụ thể các bình diện của tác phẩm hoặc hệ thống hóa tác phẩm. Nhưng
trên các báo mạng và các diễn đàn văn nghệ ta sẽ thấy một không khí sôi nổi, thẳng thắn, tự do khi trao đổi về những tập truyện ngắn của Y Ban.
2.2. Các bài viết, trao đổi về truyện ngắn của Y Ban trên các diễn
đàn và báo mạng
Trong bài phỏng vấn do Hoàng Thu Phố thực hiện khi cuốn Hành trình
của tờ tiền giả ra mắt Y Ban bày tỏ việc chị “đánh giá cao độc giả hơn các
nhà phê bình văn học” là “điều hiển nhiên”.Vì chị cho rằng: “Bạn đọc là
người thông minh nhất” và chị “hoàn toàn tôn trọng ý kiến của độc giả”. Các
8
bài viết về tác phẩm của Y Ban trên mạng internet rất phong phú thể hiện
quan điểm và cảm nhận của độc giả nhiều thế hệ, nhiều tầng lớp. Dưới đây tôi
đưa ra một số bài viết của các nhà báo và độc giả là thành viên của những
diễn đàn có uy tín.
Bài viết Y Ban – hành trình đến tận cùng thế tục trên Viettimes tác giả
Hoàng Tố Mai nhận xét: “…tác phẩm của Y Ban tràn ngập những tình tiết
cực kỳ ấn tượng thể hiện một vốn sống vô cùng phong phú và đặc biệt. Quan
trọng hơn cả là thế giới quan độc đáo của tác giả, nó thật khác thường, tuyệt
đối độc lập, có khuynh hướng triệt hạ tất cả những gì tỏ ra cải lương, rởm,
nửa mùa. Gu thẩm mỹ của Y Ban cũng khác lạ. Có lẽ với tác giả này cái Đẹp
không chỉ là cái mĩ miều, đôi khi nó là sự khơi gợi, ám ảnh khiến con người
ta hưng phấn, lặng đi, sững sờ thậm chí là sốc nữa”. Bài viết đã hệ thống lại
những sự kiện đặc biệt của truyện ngắn Cẩm cù và đưa ra những chiêm
nghiệm cùng tác giả Y Ban.
Có thể nói tập truyện I am đàn bà đã tạo nên một làn sóng tranh luận
trên các diễn đàn. Trong đó có những lời khen và cả những phản hồi trái
chiều. Bài viết Đọc sách I am đàn bà của Phạm Hồ Thu có đoạn: “Mỗi truyện
là một câu chuyện thú vị hoặc là nói về vẻ đẹp đàn bà, hoặc là nói về nỗi đau
đớn đàn bà… Đó là bài ca bi lụy và ngạo nghễ về thế giới đàn bà trong nỗi
khát vọng đi tìm một xã hội hoàn hảo hơn để mỗi người đàn bà đều xứng
đáng là người của phái đẹp”. [23] Trên diễn đàn văn học trẻ đa số các ý kiến
đều đánh giá cao tác phẩm có chứa sex của Y Ban. Ngọc Diệp cho rằng:
“Nhân vật của Y Ban, văn của Y Ban vẫn rất nữ tính và đằng sau tất cả có
lòng yêu thương con người, ao ước vươn tới những cảm xúc xứng đáng với
con người”. [21] Độc giả Mỹ Linh lại viết: “Yếu tố tình dục, những câu
chuyện tình dục như Y Ban miêu tả cũng có thể hiện hữu trong mỗi người, chỉ
có điều lâu nay phủ lên mình bộ mặt đạo đức giả nên cho rằng nó xấu, hoặc
9
lâu nay không quen nói ra”. [21] Riêng về truyện ngắn I am đàn bà, nhà văn
Dạ Ngân cho rằng: “Thị là một thân phận phụ nữ nông dân điển hình trong
thời đại. Qua truyện ngắn ấy, Y Ban đã vượt lên chính mình, đã thoát khỏi
chuyện tình cảm đàn ông, đàn bà để hướng vào thân phận đàn bà chung hơn,
lớn lao hơn”. Bên cạnh những lời khen, tác phẩm của Y Ban cũng nhận được
những ý kiến trái chiều. Trên diễn đàn văn học trẻ anh Hoàng Thành Nam đã
thể hiện sự phẫn nộ khi nhà xuất bản Phụ nữ cho phát hành cuốn I am đàn bà:
“Tôi không thể nghĩ rằng hiện nay các nhà xuất bản lại có thể cho xuất bản
những cuốn sách có nội dung phản tác dụng như thế này…” [22]. Độc giả
Nguyên Nguyên lại có nhận xét với giọng châm biếm: “Nếu gom hết những
nhà thơ nhà văn Hoàng Diệu, Y Ban… đến một thế giới mà chỉ có họ với
nhau, tôi nghĩ rằng họ sẽ nude trong thế giới của họ cả ngày lẫn đêm bởi còn
gì ngoài sự trần trụi được phô ra một cách tỉ mỉ hết.” [20] Tuy nhiên ta thấy
xu hướng nhìn nhận tác phẩn của Y Ban một cách khách quan, tìm thấy nhiều
giá trị tốt đẹp vẫn chiếm ưu thế hơn. Những ý kiến trái chiều cũng có lí lẽ của
họ nhưng nên chăng họ cần đặt nó trong hệ thống những sự kiện khác để thấy
được toàn bộ giá trị của tác phẩm để tránh cái nhìn chủ quan, phiến diện theo
khía cạnh dung tục tầm thường.
Bên cạnh những bài viết nói trên, các bài nhà văn Y Ban trả lời phỏng
vấn của các phóng viên trên các báo cũng gợi mở cho chúng tôi rất nhiều
trong quá trình thực hiện đề tài. Tiêu biểu là các bài:
Xuân Anh – vietimes.vietnamnet.vn: Buồn ơi! Y Ban chào mi; Nhà văn
Y ban – văn chương vẫn cần trời cho.
Hòa Bình – tienphong.vn: Y Ban: Bốp chát & nữ tính
Tú Cầu – giadinh.net.vn: Y Ban không thấy nhục cảm là phi đạo đức.
Lê Hà – dep.com.net: Đối thoại Y Ban – Nguyễn Khắc Phục
Nguyễn Hằng – dantri.com: Nhà văn Y Ban bị sốc khi “I am đàn bà” bị
10
thu hồi
Hoàng Hường – tuanvietnam.vietnamnet.vn: Nhà văn Y Ban: “Chúng
ta đang quay cuồng trong bức xúc”
Hà Linh – vnexpress.net: Y Ban: “Cũng có lúc khóc rú lên một mình”
Cao Minh – sggp.org.vn: “Lát cắt” Y Ban
Hoài Phố - vietbao.vn: Y Ban: “Muốn bị đập một cái vào mặt”
Vân Quế - phapluattp.vn: Nhà văn Y Ban: “Chỉ cầu mong hai chữ bình
an”
Vũ Quỳnh – cand.com: Nhà văn Y Ban: “Kinh nghiệm của tôi: Hạ thấp
mình xuống”
…
3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU:
Luận văn khảo sát toàn bộ tám tập truyện ngắn của nhà văn Y Ban đã được
xuất bản:
- Người đàn bà có ma lực (NXB Hà Nội – 1993)
- Người đàn bà sinh ra trong bóng đêm (NXB Hội nhà văn – 1995)
- Vùng sáng kí ức (NXB Hội nhà văn – 1996)
- Miếu hoang (NXB Thanh niên – 2000)
- Cẩm Cù (NXB Hà Nội – 2001)
- Cưới chợ và những chuyện ngắn mới (NXB Văn học – 2005)
- I am đàn bà (NXB Phụ nữ - 2006)
11
- Hành trình tờ tiền giả (NXB Hội nhà văn – 2009)
Bảng thống kê số lượng truyện ngắn trong từng tập:
Số lượng Số lượng truyện
TT Tập truyện
truyện trùng lặp với tập
ngắn trước
01 Người đàn bà có ma lực 9 0
02 Người đàn bà sinh ra trong bóng đêm 12 0
03 Vùng sáng kí ức 11 1 (Quê nội – đã in
trong tập Người đàn
bà sinh ra trong bóng
đêm)
04 Miếu hoang 18 0
05 Cẩm Cù 11 0
06 Cưới chợ và những chuyện ngắn mới 14 0
07 I am đàn bà 10 4 (Gà ấp bóng đã in ở
tập Cưới chợ và những
chuyện ngắn mới, Cái
Tý, Sau chớp là dông
bão, Người đàn bà
đứng trước gương đã
in trong tập Miếu
hoang)
12
0 08 Hành trình tờ tiền giả 14
4. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN
Tìm hiểu thế giới nghệ thuật trong truyện ngắn của Y Ban
Bước đầu ghi nhận những thành tựu và đóng góp quan trọng của nhà
văn Y Ban trong dòng văn xuôi đương đại Việt Nam
5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Trong quá trình thực hiện đề tài chúng tôi thực hiện các phương
pháp nghiên cứu sau:
5.1. Phương pháp thống kê:
Với số lượng tác phẩm khá lớn phương pháp này sẽ giúp chúng tôi
trong quá trình khảo sát, phân loại các đặc điểm nổi bật về nội dung,
các kiểu dạng nhân vật và một số phương thức nghệ thuật trong truyện
ngắn của Y Ban .
5.2. Phương pháp so sánh:
So sánh truyện ngắn của Y Ban với sáng tác của các nhà văn khác để
thấy được điểm khác biệt và đặc trưng trong sáng tác của Y Ban.
5.3. Phương pháp phân tích tổng hợp:
Phương pháp này giúp chúng tôi vừa đi sâu nghiên cứu thế giới nghệ
thuật trong truyện ngắn Y Ban vừa hệ thống, tổng hợp kết quả để minh
chứng cho các luận điểm của luận văn.
6. CẤU TRÚC CỦA LUẬN VĂN
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, phụ lục, tài liệu tham khảo, nội dung
luận văn của chúng tôi gồm có ba chương:
Chương 1. Truyện ngắn của Y Ban trong dòng chảy chung của văn
xuôi thời kì đổi mới.
Chương 2. Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Y Ban.
13
Chương 3. Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Y Ban.
PHẦN NỘI DUNG
Chương 1: Truyện ngắn của Y Ban trong dòng chảy chung của văn xuôi
nữ thời kì đổi mới
1.1. Vài nét về văn xuôi nữ thời kì đổi mới:
Từ năm 1986 đến năm nay, xã hội ta có những biến chuyển sâu sắc trên
mọi phương diện: sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đã và đang được
đẩy nhanh tốc độ phát triển, việc giao lưu, hội nhập đa phương với thế giới
cũng được Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm trong xu thế mở cửa.
Trong thời gian đầu, những hạn chế cơ bản sẽ không thể tránh khỏi đối với
một quốc gia mới giành được độc lập, tự do như Việt Nam. Đổi mới vừa là cơ
hội vừa là thử thách đối với mỗi nhà văn. Trong bối cảnh xã hội được dân
chủ hoá, đời sống văn học dần mang một sắc diện mới trong quan niệm và
cách đánh giá. Sự đa dạng về nhu cầu và thị hiếu của người đọc được tôn
trọng, thị trường văn học được hình thành theo đúng quy luật vừa rộng rãi vừa
khắc nghiệt của cung - cầu. Lịch sử xã hội luôn tác động và chi phối đến văn
học. Đó là một quy luật. Văn học Việt Nam sau năm 1975 cũng không nằm
ngoài quy luật đó. Với một tiền đề xã hội - thẩm mỹ như thế, sự đổi mới của
văn học Việt Nam sau năm 1975 là tất yếu. Tuy vậy, chính nội lực của mỗi cá
nhân, của các thế hệ nhà văn sẽ quyết định thành công của công cuộc đổi mới
trên lĩnh vực văn học nghệ thuật.
Từ nửa sau thập kỉ 80 nhờ công cuộc đổi mới của Đảng Cộng sản Việt
Nam văn học thực sự có bước chuyển đổi lớn. Từ năm 1986 văn học bước
vào công cuộc “cởi trói” cho mình. Sự cởi mở nhiều chiều đã mang đến
những chuyển biến lớn lao về tư duy văn học. Văn học thời kì này phản ánh
hiện thực theo những quan điểm mới và những cách nhìn hoàn toàn mới. Đề
tài được mở rộng theo hướng tiếp cận với hiện thực đời sống. Quan điểm của
14
nhà văn cũng mang những sắc thái thẩm mĩ mới. Cảm hứng sử thi được thay
thế bởi cảm hứng đời tư – thế sự. Xu hướng ngợi ca được thay bằng xu hướng
phê phán hiện thực. Cách nhìn cuộc sống ở góc độ lạc quan, tốt đẹp được thay
bằng cách nhìn trực diện những vấn đề của đời sống xã hội. Chính vì vậy văn
học thời kì này đa dạng hơn về giọng điệu, phong phú hơn về thể loại và cũng
gây nhiều tranh cãi hơn. Bước chuyển mình của văn học được thể hiện ở cả
ba thể loại là: thơ, kịch, văn xuôi. Ở văn xuôi, thể loại truyện ngắn ghi lại dấu
ấn rõ rệt nhất. Với lợi thế nhỏ gọn và cơ động truyện ngắn bắt nhịp một cách
nhạy bén và linh hoạt với những biến chuyển của đời sống. Truyện ngắn đi
sâu phản ánh cái hàng ngày, cái thường nhật. Sự vận động của thể loại này từ
1995 – 1999 được Bùi Việt Thắng nhấn mạnh đến sự phong phú về tác phẩm
và tác giả trong sự kế tục của các thế hệ cũng như các khuynh hướng tìm tòi
thể hiện trong sáng tác truyện ngắn. (Một bước đi của truyện ngắn) [15] Về
thi pháp, truyện ngắn trở nên phong phú về hình thức, phong cách và bút
pháp. Có thể thấy phong cách cổ điển trong sáng tác của Nguyễn Thành Long,
Nguyễn Kiên, Ma Văn Kháng, Nguyên Ngọc, Nguyễn Khải; phong cách trữ
tình trong sáng tác của Đỗ Chu, Nguyễn Quang Thiều, Võ Thị Hảo; phong
cách hiện thực trong sáng tác của Y Ban, Phạm Ngọc Tiến, Nguyễn Thị Thu
Huệ. Hình thức của truyện ngắn cũng đa dạng hơn với truyền kì hiện đại, giả
cổ tích, truyện ngắn – kịch, truyện cực ngắn, truyện ngắn triết luận… Về ngôn
ngữ và phương thức trần thuật cũng có nhiều thủ pháp mới như: tăng cường
đối thoại, độc thoại nội tâm, miêu tả theo dòng ý thức, đồng hiện. Tất cả
những điều đó đã làm tăng thêm sức hấp dẫn cho truyện ngắn.
Mười năm đầu đổi mới văn đàn đã chứng kiến sự được mùa của truyện
ngắn. Trong đó có sự đóng góp của các cây bút nữ. Người ta nói nhiều đến
một nền văn học “mang gương mặt nữ”. “Đã hình thành một tỉ lệ giữa phái
yếu và đấng mày râu là 2/3 – một tỉ lệ đáng gờm bởi nhìn vào đó sẽ thấy
15
truyện ngắn trẻ hôm nay và văn chương nói chung mang gương mặt nữ.”
(theo Bùi Việt Thắng). Mười năm sau đó chúng ta có thể kiểm nghiệm sự
sung sức và bền bỉ trong sáng tạo nghệ thuật của đội ngũ những nhà văn nữ.
Giai đoạn này có rất nhiều bài đánh giá, bình luận, phỏng vấn về các cây bút
nữ: Văn xuôi phái đẹp – Bích Thu; Khi người ta trẻ I,II – Bùi Việt Thắng; Suy
nghĩ về đặc điểm của nữ văn sĩ – Phương Lựu; Điểm qua sự vận động của
truyện ngắn các cây bút nữ - Lê Thị Hương Thủy Thành tựu và đội ngũ các
nhà văn nữ Việt Nam- Nguyễn Thị Như Trang, Truyện ngắn nữ và xu hướng
tự nghiệm –Hoàng Thị Hồng Hà, Văn chương nữ giới – một cách thể hiện ở
đời – Huỳnh Như Phương… Đó là chưa kể những bài viết riêng về một tác
giả. Điều đó chứng tỏ những cây bút nữ đang trong thời kì “khởi sắc”.
Bên cạnh thế hệ nhà văn đã trưởng thành trong chiến tranh như: Lê
Minh, Nguyễn Thị Ngọc Tú, Nguyễn Thị Như Trang, Lê Minh Khuê…, thế
hệ nhà văn mới phát lộ tài năng. Đây là đội ngũ nhà văn đông đảo, trẻ tuổi,
sung sức, tự tin và đầy nhiệt huyết. Có thể kể đến những gương mặt quen
thuộc với bạn đọc như: Võ Thị Hảo, Lý Lan, Phạm Thị Hoài, Y Ban, Nguyễn
Thị Thu Huệ, Phan Thị Vàng Anh, Nguyễn Thị Châu Giang, Nguyễn Ngọc
Tư, Đỗ Bích Thúy… Với nhiệt huyết và sáng tạo không ngừng họ xứng đáng
là đội ngũ kế cận thế hệ đàn chị của mình. Họ đã thể hiện khả năng sáng tạo
của mình bằng các ngôi vị quán quân trong các cuộc thi viết truyện ngắn, tiểu
thuyết do tạp chí Văn nghệ quân đội tổ chức. Giải nhất năm 1989 – 1990
thuộc về Y Ban với Bức thư gửi mẹ Âu Cơ và Chuyện một người đàn bà; năm
1992 – 1994 là Nguyễn Thị Thu Huệ với Hậu thiên đường và Mùa đông ấm
áp; năm 1995 – 1996 giải thuộc về Trần Thanh Hà với chùm truyện ngắn:
Miền cỏ hoang, Bà Thỏm, Sông có dài; năm 1998 – 1999 là Đỗ Bích Thúy với
chùm truyện: Đêm cá nổi, Ngải đắng ở trên núi, Sau những mùa trăng và gần
đây năm 2001 – 2002 Thùy Linh được giải nhất với tập truyện ngắn Gió mưa
16
gửi lại. Năm 1996 – 1997 các nhà văn: Dương Nữ Khánh Thương, Viên Lan
Anh, Đào Phong Lan cũng đạt giải trong cuộc thi viết truyện ngắn do báo Văn
nghệ trẻ tổ chức. Nguyễn Ngọc Tư đạt giải nhất cuộc thi Văn học tuổi 20 lần
thứ II do Nhà xuất bản trẻ, Hội nhà văn TP Hồ Chí Minh và Báo Tuổi trẻ tổ
chức. Hồ Thị Ngọc Hoài – một tác giả không chuyên – đã đạt giải nhất cuộc
thi truyện ngắn lần thứ 13 năm 2006 -2007 do Báo Văn nghệ tổ chức với tác
phẩm Thung Lam.
Không chỉ dừng ở những giải thưởng đó, các nhà văn nữ vẫn tiếp tục
sáng tác với đam mê của mình. Họ tiếp tục cho ra đời nhiều tác phẩm sau
những lần được xướng danh tại các lễ trao giải. Họ làm việc với thái độ
nghiêm túc và đầy nhiệt huyết. Truyện ngắn chính là thể loại sở trường, phù
hợp với sức “rướn” của các nhà văn nữ. Nhiều tác phẩm đã khiến dư luận chú
ý và tạo ấn tượng trong đời sống văn học: Bi kịch nhỏ - Lê Minh Khuê, Giấc
ngủ nơi trần thế - Nguyễn Thị Ấm, Khi người ta trẻ - Phan Thị Vàng Anh,
Người đàn bà đứng trước gương, Sau chớp là dông bão – Y Ban, Minu xinh
đẹp – Nguyễn Thị Thu Huệ, Hạnh – Nguyễn Thị Minh Dậu… Không chỉ
thành công ở thể loại truyện ngắn sở trường, họ cũng có những thành công
nhất định ở thể loại tiểu thuyết: Giàn thiêu – Võ Thị Hảo, Ngụ cư – Thùy
Dương, Tường thành – Võ Thị Xuân Hà, Xuân từ chiều – Y Ban và truyện
vừa như: Hậu thiên đường - Nguyễn Thị Thu Huệ, Tiệm may Sài Gòn – Phạm
Thị Hoài, Cánh đồng bất tận – Nguyễn Ngọc Tư, Thần cây đa và tôi - Y
Ban…
Có thể giải thích sự “lên ngôi” của các nhà văn nữ bởi hai nguyên nhân.
Thứ nhất là do cơ chế đổi mới của đất nước từ năm 1986. Sự đổi mới của đời
sống xã hội đã tạo điều kiện thuận lợi cho tất cả các nhà văn nói chung và các
nhà văn nữ nói riêng. Họ có thể thâm nhập vào mọi ngõ ngách của đời sống
xã hội và đời sống tinh thần của con người. Theo Bùi Việt Thắng “làm nên
17
đặc trưng riêng của những cây bút nữ trẻ là cái nhu cầu đến như là mê say
được tham dự, được hòa nhập vào nỗi niềm đau khổ và hi vọng của con
người”. Và đặc biệt là họ khai thác vào những vùng đất cấm kị mà văn học
trước đây phải né tránh. Sự giao lưu và hội nhập văn hóa đã giúp họ tiếp cận
được với nhiều nguồn thông tin thúc đẩy họ tìm tòi, khám phá. Nguyên nhân
thứ hai là do thiên hướng nghệ thuật của giới tính. Các nhà văn nữ đã dần
thoát khỏi những ràng buộc khắt khe của quan điểm Nho giáo tồn tại hàng
nghìn năm trong đời sống để hướng đến khung trời tự do riêng của mình. Và
thật đáng ngạc nhiên, dường như những cây bút nữ bắt kịp với cuộc sống thời
đổi mới và hội nhập nhanh hơn nam giới. Đặc biệt, bằng lợi thế về giới mình,
các nhà văn nữ đã mạnh dạn viết về những vấn đề nhạy cảm của giới mình, đi
sâu vào thế giới tâm hồn bí ẩn của người phụ nữ. Theo nhà nghiên cứu Vương
Trí Nhàn “Hình như do sự nhạy cảm của riêng mình, phụ nữ bắt mạch với
thời đại nhanh hơn nam giới. Họ luôn gần với cái lỉnh kỉnh dở dang của đời
sống. Mặt khác với cái cực đoan sẵn có: tốt, dịu dàng, rộng lượng thì không ai
bằng, mà nhỏ nhen chấp nhặt, dữ dằn cũng không ai bằng – từng cây bút nữ
tìm ra mặt mạnh của mình khá sớm, định hình khá sớm” [3] Lợi thế của họ là
sự đa cảm, tài quan sát tinh tế và năng lực ngôn ngữ. Họ viết nhiều và thành
công ở thể loại truyện ngắn có lẽ bởi “cảm xúc sáng tạo truyện ngắn có chung
tần số với cảm xúc nữ tính: sự lóe sáng, sự bất thường, tính thời khắc và sự
dẫn dắt tuyệt diệu của mẫn cảm bản năng”. [10]
Những sáng tác của các nhà văn nữ mang âm hưởng của cuộc sống
thời đại. Họ chuyển tải mọi vấn đề của cuộc sống đa chiều kích vào tác phẩm
một cách tự nhiên. Chúng ta có thể thấy sự tha hóa nhân cách con người, ma
lực của đồng tiền trong Đường về trần - Võ Thị Hảo, Đồng đô la vĩ đại – Lê
Minh Khuê, Hành trình của tờ tiền giả, Cưới chợ, Tôi đánh đề - Y Ban;
những vận lộn để mưu sinh trong Nhà trọ - Nguyễn Thị Châu Giang, Ước mơ
18
của chị bán hàng rong, Mùa đến rồi đấy, Chuyện ở rừng – Y Ban, Vũ điệu
địa ngục – Võ Thị Hảo; lối sống lai căng, thực dụng trong Công tử vườn –Lý
Lan, Cuộc chiến tranh giữa các nền văn hóa, Bản lí lịch tự thuật – Y Ban…
Nhưng có lẽ với bản năng của phụ nữ các nhà văn thường đi sâu vào đề tài
tình yêu, “đem toàn bộ đời sống hiện thực và tinh thần tập trung vào tình yêu
và triển khai ra cũng thành tình yêu” (theo Phương Lựu). Vì vậy đề tài tình
yêu chiếm vị trí khá lớn trong sáng tác của họ: Chiếc lá xanh hạnh phúc,
Những kẻ ra đi – Nguyễn Thị Ấm, Cát đợi, Tình yêu ơi ở đâu – Nguyễn Thị
Thu Huệ, Gà ấp bóng, Và anh, một phần ba của cuộc đời em, Thiên đường và
địa ngục – Y Ban, Si tình – Phan Thị Vàng Anh… “Truyện ngắn nào cũng
chan chứa hoài niệm và mơ ước về một tình yêu, một hạnh phúc đích thực,
khó nắm giữ, mong manh dễ bị thời gian khỏa lấp”. [13] Các sáng tác của
những cây bút nữ cũng hướng về kí ức. Họ viết về kỉ niệm thời thơ ấu Đi câu,
Đi chợ sớm – Y Ban, Bến đợi – Đỗ Bích Thúy; nỗi nhớ người thân Điều ấy
bây giờ con mới hiểu ra – Y Ban; kí ức về quê hương Vùng sáng kí ức – Y
Ban… Nhưng thẳm sâu và da diết nhất vẫn là kí ức về tình yêu: Và anh, một
phần ba của cuộc đời em, Gà ấp bóng, Cưới chợ – Y Ban, Xin hãy tin em –
Nguyễn Thị Thu Huệ… Tình yêu mang đến những khoảnh khắc đẹp đẽ rồi ra
đi để lại những vết thương suốt cuộc đời không lành nổi. Tất cả đều được cất
dấu vào nơi bí mật nhất trong tâm hồn họ để cân bằng cuộc sống của họ.
Trong thế giới nhân vật phong phú của văn xuôi các cây bút nữ là
những người phụ nữ với những thân phận và tính cách cá biệt nhưng lại
có chung những miền khát vọng, ước mơ. Họ là những người phụ nữ quyết
liệt đầy bản lĩnh dám yêu và dám lên tiếng đòi sự bình đẳng trong tình yêu
(Vũ điệu địa ngục – Võ Thị Hảo, Cát đợi – Nguyễn Thị Thu Huệ), là những
phụ nữ sống trong cô đơn và tiếc nuối quá khứ (Người đàn bà có ma lực – Y
Ban), là những người thất thường, hòa trộn cả thật thà và giả dối (Tôi yêu
19
nàng đấy thị ơi – Y Ban, Những đêm thắp sáng – Y Ban)… và còn nhiều
người đàn bà khác với đủ mọi tầng lớp, đủ mọi tính cách. Đa số họ là những
người đàn bà bất hạnh, phải gánh chịu nhiều nỗi đau của số phận. Chính vì
vậy họ luôn khát khao một tình yêu đích thực, một hanh phúc giản đơn, họ “là
những người lữ hành đi tìm tình yêu, một tình yêu theo đúng nghĩa của nó
nhưng khi tưởng đến đích thì họ như bước lạc vào khoảng trống vô vọng”
[17] (Người sót lại của rừng cười – Võ Thị Hảo, Mười ngày – Phan Thị Vàng
Anh, Thiếu phụ và những đôi cò, Ôn lột tử - Y Ban). Mỗi tác giả có một cách
viết riêng song ẩn dưới những trang viết của họ là niềm yêu thương, sự trân
trọng, sự cảm thông với số phận của những người phụ nữ. Các chị đã thể hiện
được lợi thế của giới tính khi xây dựng một thế giới nhân vật nữ có nội tâm
phong phú và phức tạp và đào sâu khai thác những bí ẩn trong tâm hồn người
phụ nữ.
Các nhà văn nữ có lối viết phá cách và giọng điệu đa dạng. Nguyễn
Thị Thu Huệ chao chát và từng trải trong Phù thủy, Hậu thiên đường nhưng
cũng không kém phần dịu dàng trong Biển ấm. Võ Thị Hảo ngọt ngào trong
Hồn trinh nữ, Tình yêu mây trắng.Nguyễn Thị Thu Huệ chao chát, từng trải
trong Phù thủy, Hậu thiên đường nhưng lại đằm thắm, dịu dàng trong Biển
ấm, Y Ban táo bạo và khắc khoải trong Bức thư gửi mẹ Âu Cơ, Ước mơ của
chị bán hàng rong, Thiên đường và địa ngục, Làng Cò, Cưới chợ. Phan Thị
Vàng Anh với lối viết lạnh lùng, trí tuệ và hóm hỉnh trong Khi người ta trẻ, Si
tình. Lý Lan hồn hậu và sắc sảo trong Công tử vườn. Nguyễn Ngọc Tư sâu
lắng và mượt mà trong giọng điệu Nam bộ với Cải ơi, Cánh đồng bất tận làm
thức tỉnh bao trái tim người đọc.
Bên cạnh những mặt mạnh, văn xuôi nữ giới cũng còn những hạn chế
như: “chưa tìm được sự cân đối hài hòa” giữa lí trí và trí tuệ (theo Phương
Lựu), quan tâm đến “chuyện” nhiều hơn “văn” (theo Bùi Việt Thắng) và
20
nguy cơ lặp lại mình khá rõ. Những hạn chế trong bất kì trào lưu văn học
nào cũng là điều khó tránh khỏi và văn xuôi nữ giới thời kì đổi mới cũng
không nằm ngoài quy luật đó. Nhưng họ đã thực sự “khởi sắc” trong thập kỉ
90 của thế kỉ XX. Đó là một hiện tượng tốt đẹp, đánh dấu sự phát triển của
nền văn học. Tuy nhiên với những thành công của họ chúng ta tin tưởng rằng
họ sẽ đi xa hơn và sẽ là lực lượng kế cận có nhiều đóng góp cho sự phát triển
của văn học nước nhà.
1.2. Truyện ngắn của Y Ban trong dòng văn xuôi nữ thời kì đổi mới
Y Ban được bạn đọc chú ý từ khi truyện ngắn Bức thư gửi mẹ Âu Cơ
đạt giải nhất cuộc thi viết truyện ngắn cho tạp chí Văn nghệ quân đội năm
1990. Chị tiếp tục sáng tác và nhận được giải thưởng cho tập truyện Người
đàn bà có ma lực (1993). Năm 2006 truyện I am đàn bà của chị được trao giải
nhì trong cuộc thi viết truyện ngắn của Báo Văn nghệ nhưng sau đó giải
thưởng bất ngờ bị rút lại vì lí do phạm quy. (Nhà văn Nguyễn Trí Huân hội
đồng chung khảo giải thích: “… bạn đọc đã phát hiện tác phẩm này đã vi
phạm thể lệ cuộc thi… Thể lệ cuộc thi có ghi rõ: Trong thời gian cuộc thi, tác
phẩm dự thi không được gửi in sách, báo hay tạp chí nào khác. Trong phiên
họp bổ sung của ban chung khảo cuộc thi, I am đàn bà không còn nằm trong
danh sách các giải thưởng vì tác giả đã tập hợp in thành sách.”) Tuy giải
thưởng đã bị rút lại nhưng tác phẩm đã được cả hội đồng giám khảo có trình
độ và uy tín đánh giá cao.
Ngoài những truyện được giải thì nhiều tác phẩm của chị được bạn đọc
đón nhận nhiệt thành. Chị liên tục ra những tập truyện ngắn mới: Vùng sáng
kí ức (NXB Hội nhà văn – 1996), Miếu hoang (NXB Thanh niên – 2000),
Cẩm Cù (NXB Hà Nội – 2001), Cưới chợ và những chuyện ngắn mới (NXB
Văn học – 2005), I am đàn bà (NXB Phụ nữ - 2006) và gần đây nhất là tập:
21
Hành trình tờ tiền giả (NXB Hội nhà văn – 2009). Trong số những tập truyện
này tập I am đàn bà (NXB Phụ nữ - 2006) đã thực sự làm chị “khổ sở” với
việc bị rút giải thưởng, bị thu hồi và cả những lời đồn thất thiệt. Đến nay dư
luận đã tạm lắng xuống và theo những thông tin mà chúng tôi tìm hiểu thì lời
khen vẫn nhiều hơn tiếng chê bởi Y Ban đã viết về thứ sex có văn hóa và
chiều sâu nhân bản. Viết về sex chị quan niệm đây là phương tiện giải trí và
văn hóa. Viết sex không dễ bởi nó tục hay không tục là do câu chữ “nếu tác
giả khéo léo, thay thế những khái niệm về các bộ phận, các hành vi của con
người bằng nhiều cách diễn đạt văn chương hơn, phủ lên chi tiết tục những ý
nghĩa rất Người, đưa trí tưởng tượng của độc giả đến các vấn đề nhân văn thì
người đọc sẽ không lăn tăn đến chuyện đề tài nữa.” (Lưu Hà - Y Ban với “I
am đàn bà”. www.vnexpress.net)
Trong dòng chảy chung của văn xuôi nữ thời kì đổi mới, so với Võ Thị
Hảo, Nguyễn Thị Thu Huệ, Phan Thị Vàng Anh, Dạ Ngân, Lý Lan thì Y Ban
có lối viết riêng và tạo ra được phong cách cho mình. Là người đàn bà từng
trải, chị sống sâu sắc, mạnh bạo và dám thách thức. Chị là một nhà văn giàu
nội lực với vốn sống phong phú. Với sức sáng tạo dồi dào chị liên tục cho ra
đời những tác phẩm thu hút được nhiều độc giả. Trong bài viết Một giọng
trầm trong văn chương nhà phê bình Bùi Việt Thắng đã nhận định về sáng tác
của Y Ban: “Trong những gương mặt nữ viết văn gần đây, người đọc vẫn
giành cho Y Ban những cảm tình đặc biệt”. Ông nhấn mạnh về lối viết của
chị: “Y Ban có một lối viết của riêng mình, chị có ý khai thác thể hiện những
tâm trạng điển hình của nhân vật trong những trạng huống tiêu biểu” [14]. Y
Ban luôn có ý thức bộc lộ một cách thẳng thắn những quan điểm sáng tác của
mình. Để có được một tác phẩm hay chị tâm niệm: “Tôi gieo chữ như cầm
một nắm thóc trên tay rồi tung ra. Quan điểm sáng tác của tôi là trăm bó đuốc
bắt được một con ếch chứ không mơ con gà đẻ trứng vàng”[24]. Chính vì vậy
22
chị rất mạnh mẽ khi bảo vệ những đứa con tinh thần của mình: “Nhiều người
phê văn tôi vụn vặt, yêu đương với dưa cà mắm muối chẳng có ý tưởng cao
siêu gì, tôi nghĩ ý tưởng cao siêu bằng giời mà không ai muốn đọc thì trắng
tay. Tôi viết văn cho độc giả, không viết văn cho nhà phê bình, tôi không
thích loại văn chương cầu kì hình thức”[24]. Chị tự nhận mình đánh giá cao
độc giả hơn nhà phê bình vì “Không phải chỉ tôi mà nhiều nhà văn hiện nay
đều như vậy. Ai? Hãy chỉ cho tôi ai là những nhà phê bình văn học chân
chính hiện nay?”[25] Quả đúng như vậy, có độc giả dễ tính, có độc giả khó
tính nên khi họ tiếp cận một tác phẩm văn học thì tác phẩm đó sẽ được đánh
giá trên nhiều góc độ, nhiều bình diện khác nhau. Và có lẽ bạn đọc cũng là
những người công minh nhất trong việc đánh giá các tác phẩm văn học. Đó là
lí do mà văn của chị rất dễ đọc, dễ nhớ và không kén độc giả. Đọc các tác
phẩm của chị người ta thấy gần gũi, thân quen nhưng cũng không kém phần
thấm thía, sâu sắc.
Thế mạnh của Y Ban là viết về nỗi đau, thân phận đàn bà và kí ức.
Trong mảng đề tài nào chị cũng coi trọng tính nhân bản bởi “Cách hành văn,
các chi tiết nhiều khi rất bạo liệt, nhưng đọng lại là sự nhân ái. Tôi viết về cái
xấu, cái ác là để người ta căm ghét nó và muốn sống đẹp hơn, viết về sự đổ vỡ
là để gợi lại niềm tin yêu cuộc sống”[24]. Cảm hứng sự thật về đời sống có
liên quan đến nhân cách con người. Nói đến cái ác, cái xấu suy cho cùng để
hướng đến sự khẳng định phẩm chất, nhân cách con người. Bằng trách nhiệm
và lương tâm của mình, Y Ban không thể làm ngơ với những nỗi đau của
đồng loại, với thực trạng xã hội. Y Ban chắt chiu tìm kiếm để đưa lên trang
viết của mình cả những mảng sáng và những góc khuất của cuộc sống để soi
rọi những giá trị nhân bản. Chị luôn tôn trọng cuộc sống riêng tư của con
người cùng những rung động cảm tính, bản năng của họ. Hầu hết những
người phụ nữ trong truyện ngắn của chị đều bất hạnh. Họ không khổ vì vật
23
chất thì cũng khổ về tinh thần. Họ khổ trong tình yêu, trong gia đình, khổ vì
đàn ông và cũng vì sự cầu toàn của bản thân họ. Họ chống chếnh, chơi vơi bởi
sự lựa chọn giữa trách nhiệm, bổn phận và khao khát bản năng. Cuối cùng họ
thường chìm ngập trong những đau đớn, mất mát và thiệt thòi. Viết về nỗi
đau, về bi kịch bằng sự cảm thông sâu sắc, Y Ban đã làm rung động trái tim
người đọc và tìm được sự đồng cảm của độc giả cùng giới từ những trang viết
theo sát diễn biến tâm lí của nhân vật.
Trong những sáng tác của mình, Y Ban đề cao yếu tố hư cấu. Chị quan
niệm “cái hay của nhà văn chính là ở sự hư cấu”. Chị dùng ngôi kể thứ ba với
những tác phẩm cần cái nhìn tỉnh táo, khách quan. Còn những truyện nghiêng
về tâm lí thì chị chọn ngôi kể thứ nhất để đặt mình vào vị trí của nhân vật và
khai thác nội tâm nhận vật triệt để và sâu sắc. Chính vì vậy nhân vật của chị
được đánh giá là rất thực và có thể bắt gặp đâu đó trong cuộc sống thường
ngày.
Chị thử sức với nhiều thể loại: truyện ngắn, truyện vừa (Thần cây đa và
tôi, Cuộc phiêu lưu trên dòng nước lũ), tiểu thuyết (Xuân Từ Chiều, Đàn bà
xấu thì không có quà). Y Ban là nhà văn đa giọng điệu: dịu dàng mà bén ngọt
khi nói về tình yêu đẹp của người con gái, đồng cảm hay xót xa khi sẻ chia
với những người đàn bà bất hạnh, riết róng và gay gắt bạo liệt khi bảo vệ
người phụ nữ. Chị luôn đòi quyền bình đẳng cho phụ nữ bởi chị cho rằng:
“Người phụ nữ Việt Nam hôm nay vẫn bị giắng xé giữa cái tam tòng tứ đức
và cái quyền con người, quyền của người phụ nữ hiện đại. Vì vậy mà trong
hoàn cảnh này nhân vật của tôi vin vào tam tòng tứ đức, trong hoàn cảnh khác
lại vin vào cái quyền con người hiện đại, và tôi nghiêng về bên người phụ nữ
phải sống như cái quyền họ được sống” [19]. Với chị chân dung người phụ nữ
phần nào được khắc họa ở tên truyện: Người đàn bà có ma lực, Bức thư gửi
mẹ Âu Cơ, Ước mơ của cô bán hàng rong, Thiếu phụ và những đôi cò, Đứa
24
con và người đàn bà tàn tật, Người đàn bà sinh ra từ bóng đêm, Biển và
người đàn bà xấu xí, Người đàn bà và những giấc mơ, Thượng đế bảo rằng:
Mỗi người đàn ông chỉ của riêng một người đàn bà, Con gái mang cuộc đời
của mẹ, Cái Tý, Ước mơ của chị Tĩn, Người đàn bà đứng trước gương, Bạn
bà Phúc, Người đàn bà Việt bên bờ sông Đa-nuýp, Tôi yêu nàng đấy, thị ơi,
Nàng Thơ, I am Đàn bà, Chị Quy, Mẹ không thể xin lỗi con. Cách đặt tên ấy
đã trở thành motif quen thuộc trong các sáng tác của chị. Xuân Cang trong bài
viết Y Ban và những thân phận đàn bà đã phân tích và lí giải những đặc điểm
trong sáng tác của Y Ban khi xây dựng các nhân vật nữ. Ông cho rằng Y Ban
là người phụ nữ viết văn đầy nhạy cảm, chị cảm nhận được những biến thái
tinh vi trong tâm hồn con người. Với khao khát hạnh phúc và sự bình yên
trong tâm hồn đến cháy bỏng các tác phẩm của chị đã tìm được chỗ đứng
25
trong lòng độc giả.
Chương 2: Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Y Ban
Nghiên cứu nhân vật chính là nghiên cứu cách nhà văn nhìn nhận, cắt
nghĩa về con người như thế nào và bằng cách nào trong văn chương của mình.
Bởi lẽ, “nhà văn sáng tạo nhân vật để thể hiện nhận thức của mình về một cá
nhân nào đó, về một loại người nào đó, về một vấn đề nào đó của hiện thực.
Nhân vật chính là người dẫn dắt người đọc vào một thế giới riêng của đời
sống trong một thời kì lịch sử nhất định”. Xét từ góc độ trần thuật: nhân vật là
một chất liệu có tính bản thể của văn bản tự sự. Chất liệu đó có thể được soi
chiếu từ nhiều góc độ khác nhau (như một thực thể sống, có số phận riêng tư
và đời sống tâm lý cá biệt; như một hình chiếu thế giới tư tưởng của tác giả
hoặc của đời sống xã hội…) - song dù ở góc độ nào, đó vẫn là một hệ thống
có quan hệ nội tại và thống nhất sâu sắc với cấu trúc tự sự của tác phẩm.
Khảo sát hệ thống nhận vật của Y Ban, cách tiếp cận của chúng tôi là đi
vào những kiểu dạng nhân vật nổi bật, những thủ pháp nghệ thuật đặc thù, tìm
hiểu những đặc trưng của nhân vật, qua đó hiểu thêm về quan niệm nghệ thuật
của nhà văn về con người, về cuộc sống. Con người trong văn học trước 1975
là con người sử thi đại diện cho lí tưởng cao cả. Tương ứng với nó là kiểu
nhân vật đơn nhất, dễ phân biệt chính diện – phản diện. Con người trong văn
học sau 1975 xét trên cấp độ tổng thể là con người cá nhân, khi được nhà văn
cụ thể hóa trong tác phẩm nó sẽ trở thành một thế giới nhân vật đa dạng: nhân
vật kì ảo, nhân vật dị hình, nhân vật tính cách, nhân vật khát vọng, nhân vật
tha hóa, nhân vật thức tỉnh… Ta có thể gặp trong sáng tác của Y Ban hầu hết
các loại nhân vật kể trên. Nhưng căn cứ vào tính lặp lại của các mô hình nhân
vật, chúng tôi khu biệt thành những kiểu nhân vật sau đây:
2.1 Nhân vật tự nhận thức:
Nhân vật tự nhận thức là kiểu nhân vật chủ đạo trong truyện ngắn sau
26
1975. Từ nhận thức thế giới bên ngoài đến nhận thức thế giới tâm hồn mình
là bước phát triển mới của tư duy nghệ thuật về con người, gắn với sự thức
tỉnh ngày càng cao của nhà văn về giá trị con người cá nhân. Kiểu nhân vật
này thường gắn với chủ đề tự thú hay sám hối. Nhân vật tự nhận thức đã
góp phần phát hiện một bình diện mới về nhân cách con người. Kiểu nhân
vật này “tự phán xét hành động của mình, tự đối thoại, lục vấn và cảnh tỉnh
chính mình với những biến động của nội tâm trước sự dồn đẩy âm thầm mà
quyết liệt của lương tâm, của bổn phận làm người” [16]. Để tạo được
những biến đổi trong nhận thức của nhân vật Y Ban đã đặt chúng vào
những tình huống, những biến cố để nhân vật không còn suy nghĩ theo lối
mòn nữa mà bắt đầu chiêm nghiệm, phân tích lại bản thân để nhận ra sai
lầm, nhận ra chân lí cuộc đời. Người con gái trong Bức thư gửi mẹ Âu Cơ
khao khát được yêu, được làm mẹ nhưng mơ ước ấy đã bị phá bỏ bởi
những quan niệm luân lí của thế hệ cũ. Sau cái đêm đầy đau đớn nhục nhã
ở bệnh viện cô đã ý thức rõ hơn về quyền cá nhân của mình: “Con mong
muốn tình yêu. Con đã có đầy đủ một tình yêu đầu tiên ấy rồi. Hoặc là
bằng, hoặc là hơn. Mẹ và lý trí không cho con buông thả. Giá như ngày ấy
mặc dù tội lỗi, mẹ cứ cho chúng con lấy nhau thì con đã trở thành người
phụ nữ bình thường chứ không phải mang cảnh góa bụa trong cô thiếu nữ
kén chồng thế này.” Mất đi đứa con và mất luôn cả tình yêu là cú sốc quá
lớn đối với một cô gái tuổi đời còn trẻ. Cô là người của thế hệ khác với thế
hệ của mẹ cô – thế hệ “cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy”. Thế hệ của cô sống
bằng lựa chọn của cá nhân nên cô mạnh dạn chất vấn thế hệ trước: “Cái
giống lạc loài, con và hài nhi của con là cái giống lạc loài. Con và các con
của con là thế nào hả mẹ? Con là đứa con lạc loài. Các em con không lạc
loài. Ngày ấy khi mẹ mắng con như thế, anh ấy vẫn bên con như cha vẫn
bên mẹ kia mà. Vậy khác nhau như thế nào? Cái gì làm thước. Tình yêu
27
hay hôn nhân? Con sẽ không lạc loài nếu như không bao gi?pờ xảy ra
chuyện này. Hài nhi của con sẽ không lạc loài, nếu như con và anh ấy đã
cưới nhau. Phải thế không mẹ? Có khác nhau nhiều không hả mẹ? Tình yêu
và hôn nhân?... Vậy về vật chất, cái đêm sinh ra giống lạc loài có giống cái
đêm sinh ra giống không lạc loài không hả mẹ? Mẹ, con yêu mẹ. Con tin
mẹ. Nhưng con cũng yêu sách vở và tin sách vở. Vậy mà con không hiểu
được rằng, tình yêu thì được hết lời ca ngợi như thế. Mà tình yêu lại hay
sinh ra những giống lạc loài! Và những đứa con lạc loài thì hay bị ruồng
bỏ.” Những lời chất vấn này không phải để trách móc hay phủ nhận những
khuôn phép cũ mà để thể hiện mong muốn thế hệ trước hãy nới lỏng những
quan niệm nhân văn trong cách nhìn nhận mối quan hệ giữa con người với
con người, để loại bỏ những khuôn thước cứng nhắc. Dù suy nghĩ trong
tình yêu của thế hệ trẻ không phải lúc nào cũng đúng nhưng dám bộc lộ nó
là một thái độ dũng cảm của người phụ nữ hiện đại. Đó là biểu hiện sâu sắc
nhận của việc ý thức được cái tôi cá nhân của con người.
”Trong Sợi dây nối những cánh diều cái chết của người bán su hào –
người tình cũ năm xưa đã thức tỉnh người đàn bà thành đạt. Nàng nhận ra sự
tàn nhẫn và vô tình của mình, nhận ra sự chới với của một tâm hồn khi tự nó
cắt đi dây neo với quá khứ: “Sợi dây neo nàng với quá khứ tuổi thơ êm đềm
huyền thoại nàng dứt đứt rồi. Giữa hạnh phúc vợ chồng con cái danh giá và
sự thành đạt, nàng chỉ như một cánh diều không dây mà thôi”. Sau những
phút giây lên thiên đường, cô gái trong Thiên đường và địa ngục tỉnh giấc bởi
lời “thóa mạ con cái, kêu rên cuộc sống”, bởi ánh bình minh soi rọi một chái
nhà chật hẹp. Cô cay đắng nhận ra cái thiên đường ấy chỉ là một hiện thực úi
sùi đầy chua xót, nhận ra mình đã quá cả tin và nhẹ dạ để đến nỗi lạc lối
xuống địa ngục rồi mới hay. Sự hối hận của người đàn bà trong Phút dành
cho tình yêu trước một ngày tòa gọi ra giải quyết ly hôn khiến người đọc cảm
28
động vì đó là thời điểm một đêm trước lúc chị phải lìa xa cuộc đời – một đêm
ngắn ngủi để hai vợ chồng vừa xin lỗi, vừa yêu thương, vừa nhận ra cuộc đời
cần có nhau biết mấy và cũng vừa là để chia ly vĩnh viễn. Nằm trên giường
bệnh rồi người phụ nữ trong Cuộc tình Silicon mới có nhiều thời gian để nhận
thấy những khát vọng thẳm sâu trong con người mình, để thức tỉnh một cuộc
đời trôi nổi với những mối tình phù du: “Ngẫm lại cuộc đời mình đã chinh
phục, đã kiếm niềm vui, kể cả tiền của những người đàn ông. Nhưng mình đã
không có một bông hồng nào, một nụ hôn nào, một cái vuốt ve dịu dàng nào
của một tình yêu đích thực cả. Lúc nào cũng nóng bỏng, vội vàng trong guồng
quay vô định”.
Sau khi tạo ra những biến cố xảy ra với nhân vật Y Ban thường dành
những khoảng lặng để nhân vật đối diện với chính mình. Đó là khoảng thời
gian để nhân vật biện hộ, giải thích hay dằn vặt với những giằng xé nội tâm
để tự thức tỉnh, tự hoàn thiện nhân cách. Có thể thấy trong Hai mươi bảy
bước chân là lên thiên đường Y Ban để cho cô gái nhận ra người đàn ông mà
mình ngưỡng mộ là một kẻ chơi bời phóng đãng sau cuộc ân ái của họ hai
mươi bốn giờ. Cô chờ đợi một lời hỏi thăm dịu dàng, một lời ngọt ngào yêu
thương nhưng đáp lại là sự thờ ơ của gã phong tình. Chính ý nghĩ quay cuồng
khổ sở đã thức tỉnh giấc mơ thiên đường của cô và để cô nhận ra mình vẫn
còn may mắn vì “thực chất, thiếu một bước chân em đã bị sa xuống địa ngục
rồi”. Cả quãng thời gian còn lại của Người đàn bà có ma lực sẽ là quãng thời
gian rất dài để người đàn bà lật dở những trang nhật kí và tìm về với quá khứ
một thời phù phiếm. Trong hiện tại cô đơn trống trải, người đàn bà than thở:
“Ta là một người đàn bà, một người đàn bà rất hoàn hảo nhưng tại sao ta lại
không có được cái kết quả của sự hoàn hảo ấy?” Người đàn bà ấy quá cầu
toàn, đi suốt cuộc đời không tìm thấy tổ ấm hay một nơi trú ngụ bình yên cho
mình. Nhân vô thập toàn, đã yêu đôi khi phải chấp nhận nếu không sẽ không
29
có được hạnh phúc. Người đàn bà trong truyện tin vào ma lực của mình nên
đòi hỏi cao ở những người đàn ông đến với mình. Vì thế mà nàng thất bại.
Và trên hết Y Ban để người đàn bà thức tỉnh một điều: những cuộc tình không
phải là trò chơi để người ta thử nghiệm, đó là nơi thể hiện tình yêu, sự sẻ chia
và lòng bao dung. Vì vậy nó không phải là nơi để kiếm tìm sự hoàn hảo.
Người đàn bà sinh ra từ bóng đêm có cuộc đời đầy nhục nhã với những dằn
vặt suy tư của người đàn bà phải đem thân xác để nuôi mình và nuôi con. Có
những lúc người đàn bà chợt giật mình thức tỉnh. Cô giận mình và thấy xấu
hổ, nhục nhã với chính mình “thằng bé được bao nhiêu tuổi thì ả có bấy nhiêu
năm với những ngày hành xác thâu chuỗi dài dài”. Chính những khoảnh khắc
ấy đã khiến người đàn bà có ý thức sâu sắc hơn về thân phận bất hạnh của
mình. Cuộc đời của cô gái điếm trong truyện của Y Ban không khiến bạn đọc
khinh thị mà ngược lại làm cho ta thương và cảm thông. Đọc truyện của Y
Ban ta liên tưởng đến Tối ba mươi của Thạch Lam với hai cô gái Huệ và
Liên. Trong “căn phòng bẩn thỉu. Dưới ánh ngọn đèn mờ, lổng chổng các đồ
đạc quen thuộc: cái giường Hồng Kông cũ, đồng han và gỉ xạm, cái bàn gỗ
ẩm ướt ở góc tường, hai cái ghế long chân” chỉ còn hai cô gái với nỗi niềm
tha hương và những dòng lệ chua xót tủi hổ cho tấm thân lạc loài của mình.
“Chỉ có hai chị em nàng xa cửa, xa nhà. Nhưng nàng còn nhà đâu nữa mà về?
Mẹ chết rồi, cha đi lấy vợ khác không biết ở đâu. Đã bảy, tám năm nay, nàng
không về đến làng. Những người quen thuộc còn ai không? Huệ nghĩ đến lại
thương hại cho Liên, em họ nàng. Liên còn cha mẹ, nhưng Liên không dám
về. Hai người sống cái đời trụy lạc ở Hà Nội từ lúc bỏ nhà ra đi. Hôm nay,
ngày cuối năm sum họp hai người ở căn buồng này, trong một cảnh ăn Tết
lạnh lẽo.”
Người đàn bà đứng trước gương lại kể về một phụ nữ đã bỏ gia đình và
những đứa con thân yêu để theo đuổi niềm đam mê văn chương của mình.
30
Cuối cùng nàng cũng nhận ra văn chương hay những người đàn ông khác đều
không thay thế được những đứa con trong lòng nàng. Sau một cuộc tình nữa
bị thất bại người đàn bà có nhiều khoảnh khắc để tự soi ngắm mình trước
gương, để đau đớn nhận ra mình không phải là một người đàn bà đẹp, nhận ra
sự trống trải của hiện tại. Nàng đã ảo vọng vào sự danh giá để mất đi những gì
quý giá nhất của cuộc đời. “Trong ý nghĩ toang tuếch đến cực độ, nàng cố bắt
óc phải suy nghĩ đến một điều gì đó. Phải rồi, nàng có hai đứa con gái. Chúng
đẹp lắm!... Nàng thương con nát ruột, nỗi thương con gấp đôi mọi lần vì các
con nàng là con gái”. Lúc ấy nàng chỉ cần có con, nó sẽ ngồi trên lòng nàng
để vén môi nàng làm con thỏ sứt môi. Nàng đã hiểu và đã thức tỉnh rằng nàng
cần chúng và chúng “cần một người mẹ làm con thỏ sứt môi hơn là một người
mẹ danh giá nhiều”. Trái tim của người phụ nữ trong Sau chớp là dông bão bị
rung động bởi một người đàn ông không phải chồng mình. Nàng đã trải qua
một cơn xáo trộn tình cảm với nhiều trăn trở, tội lỗi. Đã có những lúc bằng
giấc mơ, bằng tưởng tượng nàng thường xuyên chìm đắm trong những phút
giây của “sự dịu ngọt” với người đàn ông kia nhưng sau đó nàng luôn ở trong
tình trạng dằn vặt vì không biết rằng như thế có phải là mình đã ngoại tình
không. Đó là điều nàng không hề muốn. Nàng lục vấn bản thân, phân tích
cảm xúc của chính mình và nhận ra đó là “sự dịu ngọt chết người”, là một ánh
chớp tình cảm sẽ đem đến nhiều dông bão cho gia đình nàng. Y Ban đã để
cho nhân vật của mình đi trên ranh giới của sự lựa chọn. Quyết định làm bạn
là một quyết định đúng và kịp thời giúp nàng vượt qua sóng gió.
Trong những tình huống nhân vật tự nhận thức, Y Ban để cho nhân vật
của mình tự đối thoại, tự đẩy mình đến tận cùng những cảm xúc, để tự thức
tỉnh và điều tiết hành động của chính mình sao cho có sực cân bằng giữa
lương tâm và trách nhiệm. Tuy nhiên cũng như trong cuộc sống thực không
phải sự thức tỉnh nào cũng kịp thời như trường hợp của người phụ nữ trong
31
Sau chớp là dông bão. Đa số nhân vật nữ thức tỉnh một điều gì đó cũng có ít
cơ hội để làm lại như trong Gà ấp bóng, Đôi găng tay da màu nâu, Sợi dây
nối những cánh diều, Thượng đế bảo rằng mỗi người đàn ông chỉ của riêng
một người đàn bà... Sự xót xa tiếc nuối sau những khoảng lặng để thức tỉnh là
cảm giác khó tránh khỏi của hầu hết các nhân vật. Chính những câu hỏi đặt ra
với những trăn trở chiêm nghiệm từ chính cuộc đời nhân vật cũng là những
câu hỏi gián tiếp để người đọc tự soi sáng bản thân mình. Điều này đã tạo nên
tính nhân văn trong sáng tác của Y Ban.
Để nhân vật “thức tỉnh” nhà văn đã chú ý nhiều đến việc xây dựng tình
huống, miêu tả nội tâm nhân vật. Khắc họa nhân vật trong trạng thái đột biến
của nhận thức, Y Ban đã mở rộng biên độ khám phá con người ở chiều sâu
cảm thức. Mỗi con người có một số phận riêng, một tính cách riêng, một cuộc
đời riêng và chịu tác động khác nhau của các yếu tố trong cuộc sống, nhưng
tự ý thức luôn là điều cần thiết cho tất cả mọi người để tránh sai lầm và để
cuộc sống tốt đẹp hơn.
2.2 Nhân vật cô đơn:
Sau năm 1975 với sự đổi mới trong tư duy nghệ thuật của nhà văn về
con người nhu cầu tự ý thức trước sự đổi thay của đời sống, các nhà văn đã
quan tâm đến nhu cầu tự ý thức, đến sự thức tỉnh của cá nhân, đến trạng thái
tâm lí cô đơn của con người. “Cô đơn trở thành chủ đề thu hút sự chú ý của
nhiều cây bút văn xuôi, bởi bản chất của tâm trạng cô đơn là khao khát cái
đẹp, cái thiên lương của con người. Cô đơn là vấn đề của mỗi bản thể, cá
nhân nhưng nó không hẳn là vấn đề riêng tư, nhỏ bé. Có thể nói từng cuộc đời
riêng của mỗi cá nhân gộp lại thành vấn đề của cộng đồng, của xã hội, một
khía cạnh của chủ nghĩa nhân đạo hôm nay. Trong không khí dân chủ hóa của
nền văn học, các nhà văn đã có dịp đi sâu khám phá các phương diện và sắc
thái khác nhau về trạng thái cô đơn của con người.” [16] Vì vậy không ít nhà
32
văn đi vào khám phá những sắc diện khác nhau của trạng thái này trong con
người như Nguyễn Huy Thiệp với Tướng về hưu, Con gái thủy thần, Ma Văn
Kháng với Thắp một tuần hương, Nguyễn Quang Thiều với Người đàn bà
xóm trại, Nguyễn Thị Thu Huệ với Hậu thiên đường, Giai nhân… Y Ban đã
khai thác trạng thái cô đơn của con người một cách tinh tế, sâu sắc nhờ khả
năng nắm bắt những biến thái tinh vi của đời sống con người. Nhiều nhân vật
của chị cô đơn như một nỗi ám ảnh thường xuyên truy đuổi, dồn nén cuộc
sống của họ. Để khắc họa sự cô đơn của nhân vật, mỗi nhà văn có một cách
riêng. Bảo Ninh, Nguyễn Minh Châu, Võ Thị Hảo sử dụng độc thoại nội tâm,
độc thoại với người vắng mặt hay độc thoại dưới dạng viết nhật kí, đan xen
giữa ý thức và tiềm thức. Y Ban lại đào sâu vào tâm trạng, cảm giác, suy nghĩ
của họ. Nỗi cô đơn biểu hiện bằng sự im lặng. Người đàn ông bước ra từ cuộc
chiến trong Bản lí lịch tự thuật luôn bị bủa vây bởi sự cô đơn. Nỗi đau của
ông bị dồn nén bởi thất vọng vì những đứa con, bởi lạc lõng vì không tìm
được sự chia sẻ của những người sống xung quanh. Bốn đứa con ông coi
thường ông bởi ông chỉ có tình yêu thương mà không thể cho chúng một chỗ
làm tốt, một địa vị cao trong xã hội. Chúng chẳng bao giờ muốn nghe lại cái
bản lí lịch của ông. Chúng không muốn ông nhắc tới, chúng không quan tâm,
chúng quay lưng lại và lãng quên. Ông sống buồn rầu, lặng lẽ và bắt đầu có
thói quen nằm quay mặt vào tường. Người ta kết luận ông mắc bệnh hội
chứng chiến tranh. Thực tế là ông cô đơn và không thể hòa nhập được vào
cuộc sống thực dụng đầy bon chen. Ông Thông trút những bi kịch của cuộc
đời mình bằng những tiếng thở dài, vào những ngày tháng “úp mặt vào tường
và mở mắt thật to”. Chúng ta cũng có thể gặp cảm nhận “thất thế, lạc loài, cô
đơn giữa mạch đời” ở nhân vật ông Tương Bằng trong Thắp một tuần hương
của Ma Văn Kháng. Họ là những con người hiến dâng cuộc đời cho cách
mạng nhưng đều lạc lõng trong cuộc sống hậu chiến bởi họ không thích nghi
33
kịp với sự hối hả, ích kỉ và đầy toan tính của lối sống hiện đại. Chính vì vậy
họ luôn bị bủa vây bởi sự cô đơn. Nỗi cô đơn của con người sau chiến tranh
còn là khoảng trống trong tâm hồn một thiếu phụ khắc khoải chờ chồng đi
chiến đấu được cảm nhận qua suy nghĩ của đứa con “mẹ còn trẻ quá, nỗi cô
quạnh trùm lên mẹ trong quãng đời còn lại” (Điều ấy bây giờ con mới hiểu).
Y Ban đã để cho nỗi đau của một góa phụ được cảm nhận đến tận cùng từ
nhân vật đứa con gái: “Ngày mai, khi tôi chui ra khỏi kén, tôi thành ngài, sinh
con đẻ trứng, mẹ sẽ chỉ còn lại một mình với căn phòng trống vắng. Mẹ còn
trẻ quá, nỗi cô quạnh trùm lên mẹ trong quãng đời còn lại. Ai sẽ làm thay đổi
được điều đó?” Sẽ chẳng ai làm được điều đó trừ khi chiến tranh không xảy
ra. Chính chiến tranh đã đánh cắp bố và đánh cắp luôn cả tuổi xuân của mẹ. Y
Ban đã xoáy sâu vào tâm trạng, vào nỗi khắc khoải đợi chờ và niềm khao khát
đoàn tụ của những người vợ trong và sau chiến tranh. Nó làm ta nhớ tới tâm
tư sầu muộn của người thiếu phụ ngóng trông chồng đi chinh chiến trong
Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn:
“Lòng này gửi gió đông có tiện
Nghìn vàng xin gửi đến non Yên
Non Yên dù chẳng tới miền
Nhớ chàng đằng đẵng đường lên bằng trời
Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu
Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong”
Trở lại với truyện của Y Ban, nhiều năm sau khi cô con gái lớn khôn cô
mới hiểu được sự khờ khạo của mình khi ấy. Chiến tranh không có ngoại lệ
và bố cô đã vĩnh viễn ra đi “Sẽ trọn mười lần, hai mươi lần năm năm nữa,
bố mãi mãi không bao giờ trở về để lại mẹ suốt đời với một niềm khao khát
thiếu phụ dở dang.”
“Thế giới nội tâm của mỗi cá nhân chứa đầy những yếu tố bất ngờ và bí
34
ẩn. Không phải chỉ khi tồn tại đơn thân, một hình một bóng con người mới
cảm thấy cô đơn mà con người mang tâm trạng cô đơn ngay chính trong ngôi
nhà, trong gia đình của mình, khi không tìm thấy sự đồng cảm, một tiếng nói
chung.”[16]Trong sáng tác của Y Ban ta còn bắt gặp những nhân vật nữ cô
đơn ngay trong chính ngôi nhà mình, cô đơn ngay giữa chốn đông người:
“Ngày ngày con vẫn nhập cuộc, con đi xem, đi vũ hội, đi du lịch nhưng sau
tất cả những cuộc vui con càng cô đơn hơn”. Đó là nỗi cô đơn nặng nề thẳm
sâu trong tâm hồn cô thiếu nữ, của người mẹ mất con trong Bức thư gửi mẹ
Âu Cơ. Đó là hậu quả của sự mất mát đổ vỡ tình yêu hạnh phúc, vừa là hậu
quả của sự khác biệt thế hệ và cả sự thờ ơ lạnh lùng đến tàn nhẫn của con
người. Y Ban đã đặt nhân vật của mình và hệ thống thời gian đối lập nhau qua
những trang thư của cô con gái viết gửi mẹ để thể hiện tâm trạng cô đơn. Tác
giả dùng thời gian hiện tại để đối lập với quá khứ khiến người đọc cảm nhận
rõ hơn nỗi đau quá khứ và sự trống rỗng hiện tại của nhận vật. Nỗi đau của cô
gái là một nỗi đau thầm lạng không thể chia sẻ cùng ai. Câu chuyện khiến ta
liên tưởng đến những trang nhật kí của cô con gái không tìm được một chỗ
dựa tinh thần, thậm chí một sự sẻ chia với người mẹ trong Hậu thiên đường –
Nguyễn Thị Thu Huệ. Truyện Người đàn bà có ma lực cho người đọc thấy
cảm nhận về hiện tại trống trải cô đơn của người phụ nữ khi đã sang cái dốc
bên kia của tuổi thanh xuân: “Bây giờ người đàn bà ấy đã có tuổi. Trên cái
thân thể bắt đầu đẫy ra còn ghi lại dấu ấn của thời trẻ trung tự do phóng đãng.
Mặt không đẹp, các đường nét mờ nhạt. Hạnh phúc được lo toan cho một gia
đình riêng không hề có trên khuôn mặt ấy. Một mình với cuộc sống đã ở phía
dốc bên kia, người đàn bà càng có nhiều thời gian để than thở: "Ta là một
người đàn bà, một người đàn bà rất hoàn hảo nhưng tại sao ta lại không có
được cái kết quả của sự hoàn hảo ấy". Người đàn bà ấy đã đi suốt cuộc đời mà
vẫn không tìm thấy một tổ ấm, một nơi trú ngụ tinh thần bởi sự thất vọng về
35
tình yêu, về người bạn trăm năm. Người đàn bà ấy luôn phải đối diện với sự
trống vắng của tâm hồn bởi những hụt hẫng vô cớ, thất thường của trạng thái
cô đơn. Tâm trạng ấy chúng ta cũng bắt gặp ở nhân vật Sao trong Giai nhân
của Nguyễn Thị Thu Huệ: “Sao thấy hụt hẫng một cách vô cớ, lòng dạ hoang
vắng, nhạt thếch.” Sao tự hỏi: “Ai đến với tôi bây giờ. Chẳng lẽ, cuộc đời của
tôi, một người đàn bà ba mươi tám tuổi cứ thế này sao?” rồi tự mình lí giải:
“Cứ đợi một cái gì mà chính mình cũng không biết. Bên ngoài cánh cửa kia,
có thể là thiên thần, có khi là quỷ dữ, cũng không biết nữa. Cái thời mà mình
được chọn lựa qua rồi ư?” Những người phụ nữ ấy đã tự đánh mất đi tuổi
xuân, đánh mất đi quyền chọn lựa hanh phúc cho mình bởi họ đã quá kì vọng
và đàn ông, quá kì vọng vào cuộc sống gia đình hạnh phúc trọn vẹn. Cả Y
Ban và Thu Huệ đều đặt nhân vật của mình trong một không gian đầy rẫy
những âm thanh của cuộc sống gia đình để họ càng thấm thía hơn trạng thái
cô đơn của mình. Còn “nàng” trong Đôi găng tay da màu nâu thì cô đơn trong
sự tiếc nuối khi không còn cơ hội để lựa chọn. Nàng mải miết chạy theo một
đôi găn tay để rồi đánh mất đi mối tình đầu đẹp đẽ. Nàng chờ người đàn ông
tặng mình món quà ấy nhưng anh không hiểu. Anh không hiểu rằng cô gái
hẹn hò với anh chỉ vì muốn sở hữu đôi găng tay kia. Thậm chí cả khi họ chia
tay thì anh cũng không hiểu được nguyên nhân của sự tan vỡ đó. Đôi găng tay
da màu nâu ấy chỉ là một hình ảnh ước lệ của những khát khao phù phiếm,
những khát vọng về một hạnh phúc xa xôi. Đến một ngày nàng nhận ra cái
mình chạy theo vẫn không bắt được mà cái mình có cũng đã tuột mất thì đã
muộn. “Người đàn bà bèn mang chiếc hộp đựng các loại găng tay ra, đeo sợi
dây chuyền vào cổ, lồng tay vào đôi găng tay da màu nâu, rồi đeo chiếc nhẫn
có đính ngọc bích ra ngoài. Thế là mọi cảm giác mà người đàn ông đã đưa
đến khi nàng là một cô bé 23 tuổi, ào ạt tràn về. Chính những cảm giác đó mà
người đàn bà đã chẳng thể chấp nhận được một người đàn ông nào khác nữa.”
36
Nàng phải trả giá cho sai lầm của mình. Người phụ nữ không ý thức được đâu
là tình yêu đích thực với những giá trị cần có là một trong những lí do dẫn đến
sự cô đơn của chính họ.
Cũng như các nhà văn cùng thời Y Ban sử dụng không gian và thời
gian nghệ thuật để khắc họa nỗi cô đơn của nhân vật. Về thời gian chị
thường đặt nhân vật của mình vào sự đối lập giữa quá khứ và hiện tại. Đa số
truyện ngắn của chị được xây dựng trên cơ sở hồi tưởng. Nỗi đau quá khứ và
sự trống rỗng hiện tại đã tạo ra sự giằng xé nhân vật cô đơn. Chiều về khi
hàng xóm lách cách tiếng dao thớt để chuẩn bị cho bữa cơm gia đình là thời
gian khiến người đàn bà cô đơn trong Người đàn bà có ma lực phải hoài
niệm về quá khứ. Cái “quá khứ của một thời trẻ, sống động dàn trải như một
cuốn phim màu với những lời ca êm dịu ngọt ngào” luôn làm người đàn bà ý
thức về hiện tại một mình trong căn nhà không có hơi ấm đàn ông và tiếng
khóc cười trẻ nhỏ. Và khoảnh khắc “Khi mùa xuân về” là lúc người đàn bà
trong Đôi găng tay da màu nâu cảm thấy “một nỗi buồn không sao tả xiết”
về sự khờ dại của tuổi 23 – nguyên nhân của hiện tại đơn độc đầy nuối tiếc.
Thiếu nữ trong Bức thư gửi mẹ Âu Cơ sống bằng hai con người với hai
khoảng thời gian đêm – ngày khác nhau: ngày là con người của những cuộc
chơi, cuộc vui cùng bạn bè, đêm là con người của đau đớn, dằn vặt. “Từ ấy
đến nay mẹ đau nỗi đau của mẹ, con đau nỗi đau của con. Nhưng có đêm
nào mẹ tỉnh dậy vì nỗi đau của mẹ không? Ðêm đêm cha mẹ vẫn bên nhau
và con thức tỉnh với nỗi đau của mình. Mẹ, mẹ có hiểu con không?” Ngày là
cuộc sống giả tạo, đêm về mới là nỗi cô đơn nặng nề không thể chia sẻ cùng
ai. Sự đối lập của hai mảng thời gian ấy đã đẩy tâm trạng cô đơn của nhân
vật đến tận cùng.
Để tô đậm trạng thái cô đơn của nhân vật các nhà văn sử dụng nhiều
khoảng không gian đậm nhạt, dồn nén, mở rộng khác nhau. Riêng Y Ban
37
thường đặt nhân vật của mình vào khoảng không gian nhỏ hẹp, không gian
gia đình và cô lập nó theo nhiều cách. Đó có thể là không gian tù túng, bức
bách của ngôi biệt thự “hai lần cổng khóa” (Jô). Nhờ không gian ấy mà
người đọc hiểu được sự cô đơn của người vợ của ông trưởng tàu và những
đứa con cũng “ít được giao tiếp với bạn bè và cuộc sống”. Đó cũng có thể là
không gian văn phòng nhỏ khép kín của người đàn bà lỡ thì cô độc được đặt
đối lập với không gian nhộn nhịp, ồn ào ở các gia đình trong khu tập thể
(Người đàn bà có ma lực). Chính không gian nhỏ hẹp ấy đã khiến người đàn
bà càng thêm thấm thía nỗi cô đơn do sai lầm của mình tạo ra. Đó còn có thể
là “không gian khập khiễng” (chữ dùng của Lê Thị Hường) mà ở đó “nhân
vật tự bộc lộ mình qua lời nói, hành động nhưng mỗi lời nói, mỗi hành động
của nhân vật đều sai nhịp với cuộc sống” [6]. Không gian đó đã đẩy nhân vật
Thông vào trạng thái lạc lõng, không thể hòa hợp với những người xung
quanh trong Bản lí lịch tự thuật. Ở bệnh viện thì “người ta không xếp cho
anh làm chuyên môn mà làm hành chính vì lúc đó bà bệnh viện trưởng
không thích đàn ông làm sản”, rồi bị chuyển lên phòng y vụ; ở nhà “anh
cũng ngồi một chỗ, âm thầm hút thuốc” và lạc lõng trước những toan tính
của bốn đứa con. Ta cũng bắt gặp “không gian khập khiễng” ấy trong Tướng
về hưu của Nguyễn Huy Thiệp. Chính sự cô đơn của nhân vật Thông và
Thuấn đã cho thấy sự tàn khốc của đời sống hậu chiến.
Cô đơn là một trạng thái bi kịch, là nỗi đau tinh thần lớn nhất của con
người. Trạng thái cô đơn dù là trong khoảnh khắc hay là sự cô đơn triền
miên đều ẩn chứa những hoài vọng và ước mơ, hạnh phúc và khổ đau của
những mảnh đời, những phận người trong cuộc sống. Với khả năng nhận
biết và khám phá chiều sâu trong thế giới tâm hồn nhiều bí ẩn, Y Ban đã cho
thấy một thực trạng tinh thần của con người trong cuộc sống hiện đại. Qua
38
những nhân vật cô đơn của mình, chị còn cho người đọc thấy sự đồng cảm
với những khát khao ước vọng được hòa đồng, được hạnh phúc của con
người. Đây cũng là một nét nhân văn trong truyện ngắn của Y Ban.
2.3 Nhân vật bi kịch:
“Nếu muốn dùng sức mạnh của tay ta lay động thân cây này, ta sẽ
không thể làm nổi. Nhưng ngọn gió mà ta không nhìn thấy sẽ dồi dập, bẻ
cong thân cây theo ý muốn. Cũng thế chúng ta bị uốn cong và dồi dập bởi
những bàn tay vô hình.” (Riezsche) Bi kịch là cái hầu như không xuất hiện
trong văn học Việt Nam 1945 – 1975, thậm chí nó còn là điều cấm kị. Luồng
gió đổi mới đã đưa văn học về với quỹ đạo bình thường của nó. Cùng với sự
đổi mới mạnh mẽ quan niệm nghệ thuật về con người và hiện thực, các nhà
văn không ngần ngại đi sâu vào những sắc thái muôn vẻ của nỗi buồn nhân
thế, thể hiện cảm nhận sâu sắc về những mất mát của con người. Trong đó có
Y Ban.
Đa số nhân vật bi kịch trong truyện ngắn của Y Ban là phụ nữ. Một
trong những bi kịch của họ là không được thỏa mãn bản năng của mình.
Trong I am đàn bà người phụ nữ thôn quê làm ô-sin bên Đài Loan đã giúp
người đàn ông dần hồi phục bằng tình thương và sự chăm sóc tận tình như
của một người mẹ với đứa con. Cùng với sự hồi phục của bộ phận nhạy cảm
của ông chủ là sự thức dậy những khát khao bản năng đàn bà của thị “Nó đã
như nỗi ám ảnh thị. Nó ám ảnh thị ghê gớm. Nó đẩy cảm giác của thị thành sự
thèm khát. Thị thèm khát.” Từ những khát khao cháy bỏng ấy thị đã dám làm
cái việc “như trong mơ” để thỏa mãn chính mình “ Thị lật chiếc chăn mỏng
đắp trên người ông chủ. Con giống con má đang cất cao đầu chờ thị. Như giấc
mơ đêm hôm nào, thị cầm lấy đưa vào cơ thể thị. Thị đã không phải thức giấc
trong sự thèm khát cháy bỏng nữa. Thị đã thỏa mãn.” Nhưng khi bừng tỉnh
39
khỏi cơn mộng mị thì “thị sợ hãi tột cùng.” Suy nghĩ về việc vừa làm thị rủa
mình là “cái thứ đàn bà xấu xa” và thị ân hận vì mình đã làm “cái việc xấu xa
ấy”. Rồi thị “khóc mụ mị cả người” và thị tìm đến ông chủ để “trút bỏ những
tâm sự”. Cách giao tiếp với người bệnh bằng sex của người đàn bà không chỉ
là dục vọng mà là bản năng và tình cảm. Vì thương cảm chị đã đến với thân
xác tàn tạ của người đàn ông một cách hồn nhiên giống như xưa kia chị ban
phát tình yêu thương cho cu Đức – một đứa trẻ chị nhặt ở trong rừng. Nhưng
điều làm chị hạnh phúc không phải là được thỏa mãn ham muốn mà sự hồi
phục bất ngờ của người đàn ông. Chính chiếc camera đã ghi lại cả niềm vui,
nước mắt và những tâm sự của chị. Nhưng bi kịch của chị là không ai hiểu
điều đó. Họ cũng không cần hiểu cảm xúc của chị mà họ chỉ quan tâm đến
hành vi của chị mà thôi. Chị đau đớn vì không thể thanh minh cho mình và
chị cũng chẳng bao giờ có cơ hội để làm việc đó. Kết thúc truyện Y Ban đã để
nhân vật của mình “thanh thản thiếp đi” sau khi cố nhớ lại câu tiếng Anh “I
am đàn bà”. Sự thanh thản ấy phải chăng xuất phát từ cõi lòng của người phụ
nữ đã được giải tỏa từ chính nhận thức đầy nhân bản “Thị chỉ muốn thiên hạ
hiểu cho những nỗi thống khổ của đàn bà. Thị chỉ muốn thiên hạ nhận ra sự
tốt đẹp của đàn bà để tha thứ lỗi lầm cho họ”.Thấu hiểu những ẩn ức của
người đàn bà xa xứ, Y Ban không để cho nhân vật của mình nhẫn nhịn được
nữa. Cuộc sống nghèo đói tha hương đã khiến họ quá thiệt thòi rồi. Còn một
khát vọng nhỏ nhoi chính đáng chẳng lẽ họ cũng phải kìm nén nốt sao? Sau
nhiều trăn trở tác giả đã ưu tiên giải phóng cho khát vọng tự nhiên bản năng
của người đàn bà. Đó là một ý tưởng táo bạo và đầy tính nhân bản, thể hiện
tình yêu thương trân trọng con người của Y Ban.
Nhân vật người phụ nữ trong Tự tràn đầy khát khao dục tính nhưng lại
khốn khổ vì nhu cầu tình dục không được đáp ứng trọn vẹn. Bản năng luôn
thôi thúc cô khao khát tìm kiếm và thỏa mãn dục vọng. Ba người đàn ông đi
40
qua cuộc đời cô là người chồng, một quan chức cao cấp và một giáo sư văn
hóa học. Trong quan hệ với chồng chính cái nghèo vật chất đã khiến không
gian của tình dục bị tổn thương nghiêm trọng. Hai mối quan hệ sau lại bị cái
nghèo tinh thần và trí tuệ làm tổn thương. Trải qua ba người đàn ông, người
đàn bà rơi vào thẳm sâu bi kịch “Đầu óc tôi mụ mị. Tôi muốn chết”. Đỉnh cao
bi kịch trong đời sống tình dục của người phụ nữ ấy là khi cô phải dùng “liệu
pháp chim giả” để thay thế cả thế giới đàn ông. Trong tận cùng tuyệt vọng
nhân vật bi kịch đã phải dùng dụng cụ công nghiệp để làm thỏa mãn những
đòi hỏi của cơ thể đồng thời cũng là cách để giữ lấy sự kiêu hãnh của một tiến
sĩ xã hội học. Và cô đã giải mã bản thân “Thực ra đó là hành trình tôi đang đi
tìm kiếm tình yêu. Tôi đâu có lụy nhiều cái gọi là tình dục.” Như vậy thiếu
tình yêu, tình dục chỉ là quan hệ xác thịt, đọng lại sau đó là nỗi đau xót cho
thân phận luôn khao khát một tình yêu trọn vẹn. Sự xót xa thấm thía khi có
tình yêu mà tình dục không được thỏa mãn, sự ê chề khi tình dục được thỏa
mãn mà không có tình yêu chính là những giá trị nhân văn trong truyện của Y
Ban. Ở Tự người ta không những hiểu mà còn rất thấm thía về cách đối xử
với nhu cầu tình dục của con người trong xã hội. Con người cứ mải mê đi tìm
rồi bị rơi vào cảm giác hụt hẫng, thất vọng rồi lại đi tìm. Câu chuyện thực sự
đã “tạo được một cái nhìn trực diện vào chủ đề tình dục”, đặc biệt là tình dục
với phụ nữ. Đã là con người thì tình dục là nhu cầu, mà là nhu cầu thì cần
được đáp ứng. Hơn nữa đây là nhu cầu chính đáng của bản năng thì càng
không thể “lờ đi” hoặc xem thường. Người phụ nữ có khát khao được dâng
hiến nhưng họ cũng có khát khao được tận hưởng, được đạt tới sự khoái cảm
trong tình dục. Nhân vật của Y Ban dù ít học như thị trong I am đàn bà hay
có địa vị trong xã hội như người đàn bà trong Tự đều có ham muốn tự nhiên
của con người nhưng đều bị cản trở bởi ranh giới của luân lí. Rồi họ cũng có
những lựa chọn “là cái sự bất đắc dĩ của một tâm trạng rất đàn bà”. Y Ban đã
41
thay mặt những người phụ nữ nói lên khát vọng sống mãnh liệt và đầy bản
năng của giới mình. Tuy nhiên trong I am đàn bà và Tự nhiều cảnh sex Y Ban
miêu tả hơi “mạnh tay”, hơi quá “trần trụi” và nhà văn cũng công nhận là
mình đã buông thả ngòi bút. Điều này khiến độc giả Việt Nam khó có thể
chấp nhận ngay lối viết như vậy bởi họ chỉ quen với những hình ảnh đẹp, nên
thơ. Đây là một cản trở trong việc tiếp nhận truyện ngắn của Y Ban.
Truyện ngắn của Y Ban còn đi sâu khai thác bi kịch của những người
mẹ. Trong Mẹ không thể xin lỗi con ta có thể thấy bi kịch của hai người phụ
nữ - hai người mẹ - trong mối quan hệ giữa ba thế hệ trong một gia đình. Bà
ngoại “phải làm nhiệm vụ canh gác” cho ông dẫn “cô người yêu phi dê” về
nhà tình tự. “Bà canh cho ông ấy trong trạng thái tức thở, tim bị bóp nghẹt,
đầu bị kẹp chặt bởi hai thanh gỗ. Thi thoảng bà phải thở hộc lên để không ngã
lăn ra đất. Mà khốn khổ nữa là, phải không được than thở, kêu rên trời đất.
Một là để cho con cái không biết, hai là để cho hàng xóm không biết.” Bà
phải chịu đựng để giữ gìn thanh danh cho chồng và để những đứa con không
bị chết đói. Còn gì cay đắng và uất ức hơn khi chính tay bà phải dọn dẹp giặt
giũ chăn chiếu mà đôi tình nhân đã quần thảo tướp tơ. Nhưng người chồng đã
không hiểu cho bà mà còn lấn tới nên bà “phải đấm vào ngực” để cơn nghẹn
trôi xuống. Cái kiếp của người phụ nữ sao họ chẳng được sống cho chính
mình, suốt đời nhục nhã đớn đau cam chịu vì chồng vì con. Và đến khi bà
“không còn sức chịu đựng nữa” thì nhiệm vụ “canh cửa buồng” lại do con gái
lớn của bà đảm nhiệm. Nó mới 16 tuổi mà đã hiểu chuyện nhưng cô bé cũng
“khốn khổ và dằn vặt” đến nỗi trong cơn mê ngủ cô thốt lên: “Bố, bố cũng là
đảng viên. Con cũng đang phấn đấu trở thành đảng viên như bố mà.” Cô gái
ấy lớn lên và trở thành người đàn bà “điêu toa, gian dối, miệng nam mô bồ
tát, bụng một bát dao găm” sau khi giải quyết xong chuyện con gái mang về
một đứa bé bị bỏ rơi. Người mẹ ấy “một mực im lặng” không giải thích về
42
hành động của mình và chỉ đến bên giường con gái nhìn nó ngủ và “thở dài
quay đi” với những ẩn ức trong tâm hồn mình. Rồi đến khi cô con gái cũng
trở thành người mẹ thì lại “lấy quyền làm mẹ, lấy quyền của thế hệ 7x để đàn
áp” đứa con gái thuộc thế hệ 9x. Người mẹ ấy đã “nổi cơn điên” vì chuyện
con gái mình tự nhận là hèn nhát khi không dám tố cáo tên trộm trên xe buýt.
Điều đó đã khiến cô con gái “nhìn mẹ đầy vẻ ghê sợ rồi lặng lẽ đi vào trong
phòng” bởi nó đã luôn tin tưởng vào người mẹ - một nhà báo “viết nhiều bài
ca ngợi người tốt việc tốt”. Nhưng lần này mẹ lại dạy nó rằng: “Mày thích
làm người dũng cảm, mày thích làm người tốt à? Không, không, không, bây
giờ không có ai cần người như thế đâu. Mày phải biết thu mình lại, nhẫn nhịn
chịu đựng…” Có thể thấy mỗi thế hệ người mẹ phải chịu đựng một bi kịch
khác nhau nhưng tựu chung lại họ đều hi sinh bản thân để mang đến điều tốt
đẹp cho con mình. Người bà phải nhẫn nhịn chứng kiến cảnh chồng cặp bồ
ngay tại nhà mình để đổi lấy miếng cơm manh áo cho những đứa con.
Nguyên nhân bi kịch của bà chính là người chồng trăng hoa, tàn nhẫn và khốn
nạn. Người mẹ phải chứng kiến bi kịch của người bà khi mới 16 tuổi nên
cũng sớm rơi vào bi kịch khi không biết phải dạy con gái mình sống như thế
nào trong xã hội hiện đại đầy rẫy toan tính và lừa lọc. Y Ban đã cho người
đọc thấy được sức chịu đựng bền bỉ của người phụ nữ vì sự yên ấm của gia
đình họ. Đặt nhân vật của mình trong những khoảng thời gian nghệ thuật khác
nhau, Y Ban giúp người đọc hiểu rõ hơn nguyên nhân dẫn đến bi kịch cuộc
đời của họ. Đồng thời nhà văn còn phản ánh được quá trình phát triển của xã
hội hiện đại với những mảng tối trong cuộc sống gia đình. Trong truyện của
chị ta còn thấy bi kịch của người phụ nữ nông thôn nghèo đông con (Ước mơ
của chị Tĩn). Nhà anh chị Tĩn nghèo nhưng lại mắn con. Họ có 5 đứa con:
Tĩn, Hùng, Thảo, Thơm, Thừa. Sau khi sinh cu Thừa chị có ước mơ mua một
cái quạt máy cho đàn con đỡ nóng trong mùa hè bằng tiền bán bốn con chó
43
con. Nhưng ước mơ của chị không thành hiện thực khi lũ chó con chết dần.
Con thì nhảy vào máng cám nóng, con thì chết đuối dưới ao. Đàn con của chị
đau ốm, quấy khóc trong cái “nắng như thiêu như đốt”. Chị chỉ còn biết kêu
trời: “Khốn khổ thân con tôi, ai làm con tôi nó khổ thế này. Trời ơi!” Đau
đớn, dằn vặt trong cái vòng luẩn quẩn của đói nghèo thì “quả là chỉ có trời
biết” ai làm khổ con chị. Ở đây nhà văn lại mở ra cho người đọc cảnh đời của
những người phụ nữ nông thôn không làm chủ được cuộc sống của mình. Họ
bị bủa vây bởi cái nghèo đói, họ không có kiến thức về kế hoạch hóa gia đình.
Đau đớn quá họ chỉ biết kêu trời. Bi kịch của chị Tĩn có thể là điển hình của
những người phụ nữ nông thôn hay ở những vùng sâu vùng xa hiện nay. Họ
cứ quẩn quanh với miếng cơm manh áo mà không tìm được nguyên nhân gây
ra bi kịch cho cuộc đời mình. Họ muốn thoát ra khỏi cảnh nghèo đói, thậm chí
chỉ là một mơ ước nhỏ nhoi là có được cái quạt máy như chị Tĩn, nhưng
không ai giúp họ. Và họ vẫn phải tiếp tục sống, tiếp tục đối mặt với bi kịch
của cuộc đời mình.
Cuộc sống phát triển kéo theo nhiều vấn đề trong gia đình, những rãnh
mòn quen thuộc và các ông chồng chưa chắc đã thỏa mãn được nhu cầu của
người phụ nữ.Cùng chung một mái nhà nhưng khi người chồng đi “lạc đội
hình” cũng đã khiến cho “niềm tin, niềm tự hào, chỗ dựa của người đàn bà
bỗng nhiên sụp đổ”. Nhân vật nữ trong Gà ấp bóng là một người đàn bà thành
đạt nhưng vẫn có những ẩn ức cần giải tỏa: “Chồng tôi rất yêu vợ con theo
cách của anh ấy. Tôi có những cô bạn gái luôn chê chồng mình là nhạt. Còn
chồng tôi dường như là mặn quá. Đôi khi sự vồ vập của anh và sự thái quá
của anh làm tôi đau. Có thể tôi thiếu một thứ, đó là sự dịu dàng…” Người đàn
ông ngoại quốc mà chị gặp trong một chuyến đi công tác lại có thừa sự dịu
dàng mà chị đang thiếu. Chị đang rất cần được ôm ấp, vuốt ve nhẹ nhàng, cần
được là chính mình chứ không phải gồng theo một khuôn khổ nào đó: “Giá
44
mà em phải lòng được ai đó. Để được chia sẻ, nhớ nhung. Để cho chồng em
biết, khi vợ mình phải lòng ai là thế nào. Em chán cứ phải lên gân là người
đàn bà chính chuyên lắm rồi…” Có lẽ khuôn khổ chật hẹp của những giáo lí
đạo đức về bổn phận của người đàn bà đã khiến cho nhận vật này mệt mỏi và
muốn được giải phóng mình ra khỏi những điều đã cũ mòn trong cuộc sống
gia đình. Tuy nhiên người phụ nữ luôn là phái yếu, cần được bảo vệ và chia
sẻ. Họ cần sự khích lệ, cảm thông, tình yêu thương, niềm tin và cả sự bao
dung của người đàn ông. Câu chuyện mà người đàn bà kể cho vị thẩm phán là
lời tâm sự thành thật sau sự đổ vỡ của gia đình chị. Người đàn bà đứng trước
gương cũng là một người đàn bà thành đạt danh giá với cuộc sống gia đình
“nhiều người ngó vào mà mơ ước”. Nhưng khi tài năng văn chương thơ phú
của nàng bột phát thì “cuộc sống gia đình nàng căng như dây đàn” và họ đã li
hôn. Sau đó nàng sống với Hùng – một người đàn ông kém nàng vài tuổi
nhưng yêu nàng thắm thiết và đầy ngưỡng mộ. Và khi đứng trước gương
ngắm cơ thể của mình có cảm giác như mình vừa “lột xác”, nàng “không còn
tự tin” để gặp lại chồng và Hùng. Giờ đây nàng chỉ “thương con nát ruột”. Sự
thất vọng về đời sống vợ chồng là một trong những lí do của việc ngoại tình
và cũng chính là nguy cơ dẫn đến những bi kịch. Và nếu như đàn ông ngoại
tình là để thêm gia vị cho cuộc sống, thì đàn bà ngoại tình là để khỏa lấp sự
trống trải và mong tìm được hạnh phúc. Nhưng với đàn bà ngoại tình thực
chất cũng chỉ là một sự lựa chọn đầy bi kịch bởi thực tế họ không bao giờ
muốn làm điều đó.
Nhân vật nữ trong Ai chọn giùm tôi hi sinh rất nhiều cho người mình
yêu nhưng nhận lại chẳng được bao nhiêu. Suốt bảy năm cô sống trong tằn
tiện, chăm chỉ, cần mẫn đan từng chiếc áo len để có tiền cho anh ăn học. Khi
anh buồn bã, chán chường vì thất nghiệp cô đã sắm đồ hiệu, xe máy, di động
cho anh ăn chơi để an ủi. Nhưng chưa bao giờ trong những cuộc vui của anh
45
ta cô được tham dự. Đến khi có việc làm anh ta vội vã ra đi không quên đem
theo những thứ đồ đắt tiền mà cô đã sắm sanh cho. Thế là bao nhiêu hi sinh
của cô cho tình yêu trở nên vô nghĩa. Quá đau khổ cô đã bán căn nhà của
mình đi bởi một lẽ “Căn nhà đã ghi dấu những kỉ niệm buồn đến nỗi tôi
không thể sống trong đó. Mỗi vật dụng trong nhà đều chứng kiến nỗi đau của
tôi. Thậm chí đến không khí trong nhà cũng tăng độ ẩm vì nước mắt của tôi.”
Trong hành trình tìm kiếm tình yêu và hạnh phúc, người đàn bà gặp không ít
những khổ đau, những dở dang mà ít ai được thỏa nguyện. Thực tế, người đàn
bà sẽ bớt bất hạnh hơn nếu gặp được những người đàn ông tốt và những tình
cảm lớn. Những trang viết của Y Ban làm rung động trái tim người đọc bởi
những nhân vật của chị dù gặp nhiều khổ đau nhưng vẫn không ngừng lạc
quan, khao khát và có những ước mơ tha thiết với cuộc đời.
2.4 Nhân vật kì ảo:
Theo TS Bùi Thanh Truyền “Đa số nhà văn hôm nay, khi sử dụng yếu
tố kì ảo như một thủ pháp nghệ thuật, họ đều có ý thức cao trong việc miêu tả
thứ ngôn ngữ nằm giữa đường biên của hư và thực, bình thường và linh dị
nhằm diễn tả một thế giới kì bí, đầy thách thức đối với trí tuệ, tình cảm con
người. Người viết đã hoà trộn một cách nhuần nhuyễn cái ảo và cái thực
khiến cho ý tưởng ẩn chìm vào mê trận ngôn từ. Sự đan chéo của cuộc đời,
của hạnh phúc, sự sắp xếp lạ lùng của số phận các nhân vật gây cho người
đọc tâm trạng hồi hộp, căng thẳng để rồi vỡ òa trong niềm hứng khởi khi bất
chợt nhận ra thâm ý của người viết bên trong màn sương huyền thoại.” Trong
những tác phẩm mang yếu tố kì ảo, việc xây dựng các nhân vật kì ảo được coi
là một trong những phương diện quan trọng làm nên nét đặc trưng của tác
phẩm. Các nhân vật kì ảo trong truyện ngắn Y Ban không chỉ đa dạng hóa thế
giới nhân vật mà còn là bình diện mới để nhà văn khái quát sự biến đổi của
46
đời sống. Y Ban xây dựng nhân vật kì ảo không theo một motif nhất định mà
có nhiều kiểu dạng khác nhau như: nhân vật thần thoại, cổ tích, nhân vật siêu
thực là các hồn ma, nhân vật đời thường mang những khả năng thần kì.
Kiểu nhân vật thần thoại, cổ tích có nguồn gốc từ văn học dân gian. Đó
là các vị thần hay thượng đế với diện mạo được phác họa sơ sài, đôi khi còn
giữ nguyên chức phận như trong văn học dân gian, đôi khi lại phá vỡ nguyên
mẫu để mang theo những biến thiên tính cách và tâm lí như con người. Nhân
vật thiên thần trong Tiếng khóc thiên thần hay nhân vật thượng đế trong Câu
chuyện tình yêu đều là lực lượng siêu nhiên mang chức năng răn dạy, chỉ bảo
đối với loài người mu muội, tham lam hay để cứu rỗi những linh hồn tội lỗi.
Thiên thần đêm trong Tiếng khóc thiên thần I đã cố gắng khuyên giải hai mẹ
con để giữ lại sinh mạng cho anh con trai: “Dừng lại đi. Bà mẹ ơi bà có muốn
cứu con bà không? Chàng trai ơi, anh biết cái giá của hai trăm nghìn đồng đắt
thế nào không? Nó đổi lấy sinh mạng của anh đấy.” Nhưng họ “phớt lờ”. Và
kết quả là anh con trai đã chết. Thượng đế trong Câu chuyện tình yêu giúp cô
gái thực hiện lời cầu khẩn của mình là bắt chàng chăn cừu “phải yêu một
người đàn bà yếu đuối, tẻ ngắt, xấu xí” và cuối cùng lời cảnh báo của thượng
đế đã thành hiện thực “trái tim cô ta đã vỡ ra lần thứ hai” khi chàng chăn cừu
đã được nàng tu sĩ đáp lại tình yêu của mình. Bên cạnh những nhân vật thần
được giữ nguyên chức phận như trong văn học dân gian, Y Ban còn sáng tạo
các nhân vật thần thoát khỏi nguyên mẫu một cách có chủ đích. Trong Thần
cây đa và tôi thần cây đa cũng chỉ là một con người với hình hài một người
phụ nữ và những câu chuyện “buôn bán” kiểu phụ nữ, những sở thích “bày
đặt chuyện nọ, chuyện kia”. Hay trong Những nghịch lí của thần Airet vị thần
ấy day dứt phân đôi cảm xúc giữa một bên là tình vợ chồng, tình cha con đầy
màu sắc trần tục và một bên là thiên chức của một vị thần chuyên gây ra
những trò nghịch lí. Y Ban đã tạo ra tính cách, xây dựng đời sống tình cảm
47
cho nhân vật kì ảo để trả về cho họ những phẩm chất của con người và xóa bỏ
khoảng cách giữa độc giả và nhân vật. Chính vì vậy những suy tư, chiêm
nghiệm về cuộc đời được nhà văn gửi gắm qua nhân vật được đến với người
đọc một cách dễ dàng. Tình yêu được hòa quyện giữa thần Airet và cô gái
được miêu tả qua lăng kính ái ân là một biểu hiện của khát vọng con người:
khát vọng tình yêu và hạnh phúc lứa đôi.
Kiểu nhân vật siêu thực là các hồn ma đem lại cho người đọc một cảm
giác khác với thế giới thần thánh ở trên. Kiểu nhân vật này có đặc điểm là
đứng ngoài quy luật trôi chảy của thời gian, mang theo âm khí nặng nề mỗi
khi xuất hiện hoặc có biểu hiện “phản vật chất”. Khi từ giã cõi trần họ đã
bước sang một thế giới khác – thế giới vĩnh hằng – nên ở đó họ không hề thay
đổi diện mạo so với lúc trước khi nhắm mắt xuôi tay. Đồng trong Mắt ma bị
chết trong chiến tranh vì bị một mảnh bom phạt ngang mặt. Khi hiện về trong
giấc ngủ của Huấn, anh cũng xuất hiện với hình hài “một bên mặt anh vỡ vụn,
máu đã đông đặc” y như lúc anh rời xa cõi trần. Cô bé con ông lang Vọc
trong Miếu hoang chết từ lúc còn nhỏ. Đến thời điểm cô hiện về gặp bà lão cô
đơn nơi miếu hoang không rõ cô đã chết được bao lâu chỉ biết rằng “cách đây
lâu lắm rồi, bà đến ăn xin ở đám ma cháu của lang Vọc, thọ chín mươi tuổi”.
Trải qua mấy đời người nhưng cô bé hiện về trong chiếc áo xanh và đi hài
xanh. Trong Chuyến xe đêm, Phương - cô gái xin đi nhờ xe của Trân - đã chết
cách đó bốn chín ngày. Khi cô ta xuất hiện trong cabin thì “bỗng nhiên Trân
rùng mình, một luồng khí lạnh buốt như chích vào da thịt anh”. Khi cô gái trò
chuyện với anh thì tiếng cô rành rọt nhưng Trân không nhìn thấy cô ấy mở
miệng ra để nói. Đó là những biểu hiện của cái “phản vật chất” ở những linh
hồn. Sự tồn tại của họ là một cái gì đó mà ta không cảm nhận được bằng xúc
giác. Hình hài của những người trong phiên chợ rằm dưới gốc dâu “không
phải là da thịt mà chỉ như không khí cô đặc lại” và khi họ di chuyển bước
48
chân “sao cứ như bay, như lướt” trên mặt đất (Chợ rằm dưới gốc dâu cổ thụ).
Các nhân vật này đều là những người còn rất trẻ nên khi chết đi họ vẫn muốn
trở về bởi còn nặng nợ với trần thế. Phương trở về vì còn canh cánh một nỗi
mẹ già. Thắng ở phiên chợ rằm dùng tiếng sáo để gọi người yêu. Dù có nặng
lòng với cõi trần thế nào thì họ vẫn là kiếp ma và họ phải trở về với thế giới
của riêng họ.
Trong truyện của Y Ban ta còn gặp những nhân vật đời thường mang
những khả năng thần kì. Khả năng này có thể là do một người đã khuất ban
tặng như Huấn trong Mắt ma được Đồng cho mượn đôi mắt “người dương
mắt âm” sẽ “nhìn thấu mọi việc ở đời để mà phán cho thiên hạ”. Cũng có thể
khả năng là do một đột biến nào đó có ý nghĩa bước ngoặt trong cuộc đời
nhân vật như cô gái trong Bệnh dại sau khi bị chó dại cắn không chết mà lại
“có khả năng kì diệu, cô có thể nhìn thấu được lòng đất và nói chuyện với các
linh hồn”. Những nhân vật này giúp nhà văn bộc lộ những suy tư, chiêm
nghiệm về cuộc sống hiện tại. Kết thúc truyện Mắt ma Huấn nói: “Tao chẳng
muốn nhìn thấy những sự thật thế này đâu. Tao là người dương gian thì hãy
để tao nhìn bằng con mắt của người dương gian”. Câu nói đã thể hiện thái độ
dứt khoát về cách sống của nhân vật. Trong Bệnh dại, câu chuyện của người
khách thứ nhất và thứ hai ẩn chứa bài học về sự hiếu thảo với cha mẹ.
Y Ban có những cách tân riêng trong việc xây dựng các nhân vật kì ảo
bằng việc thêm các yếu tố li kì cho không gian, thời gian, chi tiết. Nhờ sự đa
nghĩa của hình tượng kì ảo chị đã vượt qua cái nhìn hiện thực truyền thống để
có một phong cách mới trong việc chuyển tải ý đồ nghệ thuật. Từ đó nhà văn
mở rộng biên độ cảm nhận cho người đọc. Những nỗ lực ấy của chị đã “xóa
bỏ khoảng cách trần thuật, xóa bỏ khoảng cách của cái bình thường và cái dị
biệt” trong văn chương.
Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Y Ban đa dạng và nhiều vẻ. Nhà
49
văn đã khai thác nhân vật của mình trên nhiều bình diện và cả nơi sâu thẳm
trong tâm hồn, tình cảm của con người. Bên cạnh lí trí, tư tưởng, tình cảm
chúng ta còn thấy con người bản năng, vô thức, tâm linh. Nhà văn đã khám
phá và tìm hiểu được phần bí ẩn trong con người đặc biệt là người phụ nữ.
Được xem là người đàn bà nhất trong mọi đàn bà và là nhà văn tiêu biểu cho
nữ quyền, những trang viết của Y Ban giúp người đọc hình dung một thế giới
đàn bà đầy bí ẩn, chênh vênh mà cũng đầy tình yêu thương và đức hi sinh.
Tuy nhiên trong các tác phẩm của chị người đọc không tìm thấy hình ảnh
người đàn ông hoàn hảo. Dường như chị có cái nhìn thiếu thiện cảm với nửa
còn lại của thế giới. Chị lên án họ bởi họ chính là nguyên nhân của những bi
kịch mà người phụ nữ phải gánh chịu. Chị đã giải thích điều này là do chị yêu
đàn ông quá, đòi hỏi ở họ nhiều quá. Tuy nhiên cách xây dựng nhân vật hơi
thiên kiến như vậy đã khiến nhiều độc giả nam giới không hài lòng. Đây là
50
một điểm bất lợi cho truyện ngắn của Y Ban trong hành trình đến với bạn đọc.
Chương 3: Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Y Ban
3.1. Điểm nhìn trần thuật:
Điểm nhìn trong văn bản bao giờ cũng là tâm điểm được nhiều nhà nghiên
cứu trên thế giới quan tâm và bàn luận. Điểm nhìn là vấn đề then chốt của kết
cấu văn bản trần thuật, là “vấn đề quan hệ giữa người sáng tạo và cái được
sáng tạo” (Iu. Lốtman). Vào đầu thế kỉ XIX, nhà văn Anna Barbauld là người
đề xuất đầu tiên, đó là “khi nhận thấy mọi sự đều thay đổi, nếu người ta kể
theo ngôi thứ nhất”. Đến cuối thế kỉ XIX, vấn đề này được Henry James và F.
Schlegel trình bày cụ thể hơn. Họ đã xác nhận được điểm nhìn chính là việc
“mô tả cách thức tồn tại của tác phẩm như một hành vi mang tính bản thể
hoặc một cấu trúc hoàn chỉnh, tự trị đối với cá nhân nhà văn” và “Điểm nhìn
là sự lựa chọn cự li trần thuật nào đó loại trừ sự can thiệp của tác giả vào sự
kiện được miêu tả và cho phép văn xuôi trở nên tự nhiên hơn, phù hợp với
cuộc sống hơn. Sang đầu thế kỉ XX, K. Friedeman (1910) rồi Percy Lubbock
(1921) và E. M. Foster (1927) lại tiếp tục đề cập tới điểm nhìn trong tiểu
thuyết. Từ những năm bốn mươi trở đi, vấn đề được nghiên cứu sâu với M.
Scholer, Tz. Tôđôrốp, G. Genette. Từ những năm hai mươi trở đi, điểm nhìn
trở thành một trong những tiêu điểm của nghiên cứu văn học. Các tác giả như:
B. Tômasépxki, M. Bakhtin, V. Vinôgrađốp... trong quá trình nghiên cứu
cũng bàn về điểm nhìn văn bản nói chung.
Về vấn đề điểm nhìn trần thuật, giới nghiên cứu văn học ở trong và ngoài
nước đã đề cập tới khá nhiều. Nhưng cho tới nay, xung quanh thuật ngữ này
vẫn còn nhiều tranh cãi. Riêng về tên gọi cũng có nhiều cách hiểu khác nhau.
Có người cho rằng, khái niệm điểm nhìn ở đây quá rộng, quá chung chung
nên đề xuất với khái niệm hẹp hơn là “nhãn quan” (vision), có người đề xuất
khái niệm “điểm quan sát” (pots of observation), có người đề nghị dùng tiêu
51
cự trần thuật (focus of narrative). Cuối cùng các nhà nghiên cứu nhận thấy,
khái niệm “điểm nhìn” là dễ hiểu hơn và nội dung của nó phong phú hơn cả.
Cho nên, trong cuốn luận văn này, chúng tôi vẫn sử dụng thuật ngữ “điểm
nhìn” (point of view) quen thuộc để trình bày.
Nhà nghiên cứu Pospelop trong Dẫn luận nghiên cứu văn học coi điểm
nhìn là vấn đề quan trọng trong tác phẩm tự sự khi “điểm nhìn của người trần
thuật đối với những gì mà anh ta miêu tả” [9;90]. Các nhà lí luận văn học
cũng khẳng định: “Người nghệ sĩ không thể miêu tả, trần thuật các sự kiện về
đời sống được, nếu không xác định cho mình một điểm nhìn đối với các sự
vật, hiện tượng: nhìn từ góc độ nào, xa hay gần, cao hay thấp, từ bên trong ra
hay từ bên ngoài vào... Điểm nhìn trần thuật là một trong những yếu tố hàng
đầu của sáng tạo nghệ thuật”. Còn nhà nghiên cứu Nguyễn Thái Hòa trong
Những vấn đề thi pháp của truyện cũng đã chú trọng đến vấn đề điểm nhìn,
đó là “điểm nhìn không phải chỉ là lập trường chính trị xã hội mà tọa độ thời
gian được lựa chọn cho hoạt động kể chuyện, phát triển nội dung, sắp xếp bố
cục, hư cấu thành truyện” [5;122].
Xuất phát từ nhiều quan điểm, cách hiểu trên suy cho cùng mọi người đều
mong muốn tìm ra một cách hiểu tối ưu nhất để giúp những người thực hiện
những công trình nghiên cứu của những tác phẩm tự sự có liên quan trực tiếp
đến vấn đề này sẽ không phải băn khoăn lựa chọn cách gọi. Cuối cùng nhà
nghiên cứu Trần Đình Sử trong Dẫn luận thi pháp học đã đưa ra một định
nghĩa có thể coi là toàn diện về điểm nhìn trần thuật: “Nó không chỉ là điểm
nhìn thuần túy quang học mà còn mang nội dung quan điểm, lập trường, tư
tưởng, tâm lí của con người” [11;182]. Có nghĩa là trần thuật được đặt ở vị trí
nào thì đối với tác phẩm nghệ thuật cũng không thể thiếu vắng điểm nhìn ở vị
trí ấy.
Như vậy về cơ bản các ý kiến nói trên của các nhà nghiên cứu đều chỉ ra
52
đặc điểm, tính chất chức năng chung của điểm nhìn trong việc nó biểu hiện vị
trí, quan điểm và cả thái độ của chủ thể trần thuật đối với việc trần thuật. Nói
một cách cụ thể hơn thì điểm nhìn chính là phương thức miêu tả, trình bày, là
cách nhìn, cách cảm thụ của người trần thuật về câu chuyện được kể. Khái
niệm này sẽ được nghiên cứu toàn diện và chuyên sâu hơn khi nó ứng với
ngôi trần thuật (hay ngôi kể) của người trần thuật (hay người kể chuyện).
Có rất nhiều điểm nhìn trần thuật: Điểm nhìn bên ngoài, điểm nhìn bên
trong, điểm nhìn không gian, điểm nhìn di động, điểm nhìn thời gian, điểm
nhìn tâm lí, điểm nhìn của nhân vật được kể. Theo M. Bakhtin, điểm nhìn còn
mang nội dung tư tưởng, ý thức hệ nên có “điểm nhìn tư tưởng và ý thức hệ”
để tuyên bố một chiều mà không cần phải giải thích. Thông thường, điểm
nhìn trần thuật gắn bó mật thiết với ngôi kể, do ngôi kể quy định. Căn cứ vào
ngôi thứ nhất và ngôi thứ ba của người trần thuật, các nhà nghiên cứu đã chia
điểm nhìn trần thuật thành hai loại: Điểm nhìn trần thuật bên ngoài, điểm nhìn
trần thuật bên trong. Tuy nhiên, trong thực tế sáng tác của các nhà văn thì
không thể áp đặt sự quan sát với điểm nhìn một chiều như thế được, đặc biệt
các nhà sáng tác hậu hiện đại. Cho nên, thay vì điểm nhìn cố định một chiều
từ đầu đến cuối tác phẩm thì các nhà văn đã linh hoạt tiến tới sử dụng nhiều
điểm nhìn. Điều đó tạo nên tính chất đa thanh, phức điệu cho tác phẩm. Với
loại điểm nhìn này, nhà văn nhất thiết phải vận dụng đến nhiều ngôi kể.
Khi khảo sát tám tập truyện ngắn của Y Ban, chúng tôi nhận thấy những
câu chuyện kể của chị thường có sự đan xen, nhập nhòa giữa chủ thể sáng tạo
là tác giả với người trần thuật. Đó là cội nguồn của sự nhận thức, phán đoán,
kiến giải chủ quan mà nhà văn hiện hình nó trên văn bản của mình. Người
trần thuật trong truyện ngắn của chị luôn truyền tải được đầy đủ và sắc nét
những yêu thương, tâm tình, những khát khao cháy bỏng của người phụ nữ.
Để tiện cho việc theo dõi và tìm hiểu tất cả những điểm nhìn trần thuật
53
trong truyện ngắn Y Ban, chúng tôi lập bảng thống kê, phân loại như sau:
Trần thuật từ Trần thuật từ
STT Tên truyện ngắn ngôi thứ ba ngôi thứ nhất
X 1. Người đàn bà có ma lực
X 2. Bức thư gửi mẹ Âu Cơ
X 3. Chiếc vương miện bằng cỏ
X 4. Những nghịch lí của thần Ai rét
X 5. Ước mơ của cô bán hàng rong
X 6. Con quỷ nhỏ trong tôi
X 7. Mùa đến rồi đấy
X 8. Phút dành cho tình yêu
X 9. Thằng bé có phép tàng hình
X 10. Quê nội
X 11. Câu chuyện tình yêu
X 12. Chuyện bên barie
X 13. Thiên đường và địa ngục
X 14. Sợi dây nối những cánh diều
X 15. Cái điềm con thỏ trắng
X 16. Thiếu phụ và những đôi cò
X 17. Đứa con và người đàn bà tàn tật
X 18. Sự vô tội của Ađam và Êva
X 19. Điều ấy bây giờ con mới hiểu ra
X 20. Người đàn bà sinh ra từ bóng đêm
X 21. Cái tức, cái bực, cái nực cười
X 22. Biển và người đàn bà xấu xí
X 23. Khách mua biển và dân làng chài
54
X 24. Một chuyện nhỏ trong xóm nghèo
X 25. Thầy giáo lớp một
X 26. Bản lí lịch tự thuật
X 27. Bệnh dại
X 28. Chú Nghoẹo
X 29. Người đàn bà và những giấc mơ
X 30. Thượng đế bảo rằng: Mỗi người đàn
ông chỉ của riêng một người đàn bà
X 31. Vùng sáng kí ức
X 32. Con gái mang cuộc đời của mẹ
X 33. Đôi găng tay da màu nâu
X 34. Jô
X 35. Và anh, một phần ba cuộc đời em
X 36. Nơi cha sinh ra
X 37. Đi câu
X 38. Cái Tý
X 39. Ước mơ của chị Tĩn
X 40. Đổi đời
X 41. Sau chớp là bão dông
X 42. Bài thơ viết cho mực
X 43. Người đàn bà đứng trước gương
X 44. Tiếng khóc thiên thần I
X 45. Tiếng khóc thiên thần II
X 46. Mắt ma
X 47. Miếu hoang
X 48. Đất mặn vùng đồi
55
X 49. Chuyện ở rừng
X 50. Chuyện trong căn nhà nhỏ
X 51. Bạn bà Phúc
X 52. Một lần và mãi mãi
X 53. Người đàn bà Việt bên bờ sông Đa-
nuýp
X 54. “Ôn lột tử”
X 55. Tôi yêu nàng đấy, thị ơi
X 56. Món nợ văn chương
X 57. Đi chợ sớm
X 58. Cẩm cù
X 59. Tôi đánh đề
X 60. Ngoái đầu nhìn lại
X 61. Cưới chợ
X 62. Cuộc tình Silicon
X 63. Tôi và anh; thằng bé và con rắn
X 64. Nàng Thơ
X 65. Nhân tình
X 66. Chồng tôi
X 67. Ai chọn giùm tôi
X 68. Tại sao?Tình yêu!
X 69. Chợ Rằm dưới gốc dâu cổ thụ
X 70. Chuyến xe đêm
X 71. Tay thiêng
X 72. Gà ấp bóng
X 73. Làng Cò
56
X 74. Sự sống diệu kì
X 75. I am Đàn bà
X 76. Tự
X 77. Tôi và gã
X 78. Cuộc chiến tranh giữa các nền văn
hóa
X 79. Hàng khuyến mại
X 80. Hai bảy bước chân là lên thiên
đường
X 81. Danh dự
X 82. Hành trình của tờ tiền giả
X 83. Trong khu vườn nghệ sĩ
X 84. Chị Quy
X 85. Cõi thù hận
X 86. Hoa gạo rụng
X 87. Tò he
X 88. Cú sang đường cuối cùng
X 89. Đi câu mực ở biển Sầm Sơn
X 90. Đất thiêng
X 91. Dây tơ hồng
X 92. Mẹ không thể xin lỗi con
X 93. Chạy xuyên qua cơn mưa trên dải đê
X 94. Đất làng Cam
Theo thống kê phân loại ở trên, chúng ta thấy truyện ngắn của Y Ban trần
thuật từ ngôi thứ ba (người trần thuật hàm ẩn) là 54/94 truyện ngắn (chiếm
57%), trần thuật từ ngôi thứ nhất (người trần thuật tường minh) là 40/94
truyện ngắn (chiếm 43%) nên chúng tôi chỉ chuyên sâu đi vào khảo sát kĩ hai 57
điểm nhìn trần thuật: điểm nhìn trần thuật bên trong, điểm nhìn trần thuật bên
ngoài.
3.1.1. Điểm nhìn trần thuật bên trong:
Điểm nhìn trần thuật bên trong là loại điểm nhìn được sử dụng đầu tiên
trong các sáng tác văn học thuộc “dòng ý thức”. Theo lí thuyết tự sự học,
người kể chuyện mang điểm nhìn bên trong khi anh ta/chị ta là nhân vật có
mặt trực tiếp ngay trong câu chuyện. Điểm nhìn trần thuật bên trong luôn
được biểu hiện bằng hình thức tự quan sát, tự thú nhận của nhân vật, hoặc
bằng hình thức người trần thuật dựa vào cảm giác, tâm hồn nhạy cảm của
nhân vật để biểu hiện thế giới nội tâm bên trong của nhân vật. Với dạng thức
này thì người kể chuyện sẽ đảm nhiệm vai trò kể chuyện từ đầu đến cuối và
có vai trò to lớn trong việc quyết định cấu trúc tác phẩm cũng như toàn quyền
miêu tả nhân vật khác từ điểm nhìn của bản thân. Có nghĩa là, người kể
chuyện đứng trong tầm sự kiện được kể, có tham gia phần nào vào hoạt động
khi sự kiện xảy ra. Người kể chuyện ở đây cũng chỉ biết và chỉ kể được những
thông tin tương đương với nhân vật trực tiếp tham gia trong tác phẩm. Chính
Genette đã nêu đẳng thức để mô tả kiểu điểm nhìn bên trong: điểm nhìn của
người kể chuyện bằng điểm nhìn của nhân vật (có nghĩa là điểm nhìn bên
trong của người kể chuyện trùng khít với điểm nhìn của nhân vật). Người kể
chuyện đang dùng điểm nhìn của nhân vật để quan sát và kể lại sự kiện. Về
bản chất, điểm nhìn của nhân vật chính là điểm nhìn mà người kể chuyện lấy
đôi mắt của nhân vật thay cho đôi mắt riêng của mình. Chúng ta khảo sát một
số truyện ngắn tiêu biểu của Y Ban để làm rõ điểm nhìn này.
Trước tiên, chúng ta nhận thấy phần lớn truyện ngắn của Y Ban với ngôi
kể thứ nhất xưng “tôi” đều mang dáng dấp tự truyện. Cho nên có một số
truyện ngắn của chị không phải truyện chỉ để kể mà còn là để giãi bày tâm sự.
Việc Y Ban lựa chọn người kể chuyện xưng “tôi” tạo ra hiệu quả nhất định 58
cho sự sáng tạo nghệ thuật trần thuật của mình. Đặc biệt là với kiểu truyện
vừa kể sự việc vừa diễn tả tâm trạng của chính nhà văn. Với điểm nhìn trần
thuật bên trong ở ngôi thứ nhất, người kể chuyện vừa là người chứng kiến vừa
là nhân vật trực tiếp tham gia vào câu chuyện. Từ đây, mối quan hệ giữa
người kể chuyện và nhân vật được khẳng định một cách rõ ràng hơn. Đó là
mối quan hệ qua lại luôn hướng về nhau, bổ sung cho nhau. Vì vậy, nhân vật
xưng “tôi” chỉ cần đứng ở một điểm nhìn duy nhất - điểm nhìn bên trong,
người kể chuyện đồng thời là nhân vật cứ nhập thẳng vào tâm trạng của nhân
vật để mà kể, mà giãi bày, mà bộc lộ những tâm sự của mình. Việc nhà văn
lựa chọn kiểu điểm nhìn này chính là để người kể chuyện có thể “độc thoại
nội tâm” một cách tự do linh hoạt. Từ đó, người đọc dễ dàng nhận ra quan
niệm của nhà văn trước vấn đề của cuộc sống, nhân sinh. Qua nhân vật “tôi”
là người kể chuyện, nhà văn có thể bình luận, đánh giá mà vẫn không gây cho
độc giả những cảm giác khiên cưỡng, áp đặt. Sau đó tự mình phân tích, mổ xẻ
và bình giá tâm trạng của mình ra trước người đọc. Nhà văn bộc bạch: “Tôi
hay kể chuyện ở ngôi thứ nhất, để tự đặt mình vào vị trí của những nhân vật
người đàn bà trong truyện. Tôi cảm thấy, điều đó cho phép tôi khai thác nội
tâm nhân vật một cách triệt để và biểu hiện nó một cách sâu sắc hơn. Với
những truyện ngắn có cốt truyện nặng về tâm lý, tôi thường kể ở ngôi thứ
nhất.”
Truyện ngắn Bức thư gửi mẹ Âu Cơ là dòng tâm trạng của người mẹ trẻ
vừa mất đi đứa con của mình: “Ngày hôm nay con được chứng kiến nỗi đau
những người mẹ. Nỗi đau của con lại bùng lên và biết bao nhiêu bà mẹ cũng
có nỗi đau như con… Ngày ấy con cũng thế. Con như cô gái nhỏ tội nghiệp
kia. Con đau nỗi đau của con. Mẹ đau nỗi đau của mẹ - hai người mẹ - Từ bấy
đến nay, năm tháng trôi qua, con vẫn âm thầm đau nỗi đau của con. Nỗi đau
59
nó trôi đi theo năm tháng nhưng nó lại bừng dậy bởi hàng ngày chứng kiến lại
âm thầm đau. Những người mẹ là những người sinh ra nhân loại, sinh ra
những đứa con. Là những người có trước hãy hiểu nỗi lòng của những đứa
con gái, để nỗi đau hòa chung, đồng cảm và biến mất đi.” Những suy nghĩ,
day dứt của cô gái được dẫn dắt bằng câu hỏi của người mẹ: “Ai đã dạy mày
như thế cơ chứ?”
Truyện Gà ấp bóng là đấu tranh nội tâm giữa khát khao bản năng và bổn
phận làm vợ: “I love you! Tôi đã thổ lên ba từ đó trong trạng thái vô thức:
Khi nhận thức được mình vừa nói gì tôi sợ hãi dập máy. Tôi đi vào giường
vùi mặt vào gối trong trạng thái đê mê, dịu dàng. Sau đó tôi dằn vặt tự vấn
mình xem điều gì đã xảy ra. Thế có gọi là ngoại tình không?” Người phụ nữ
ấy phấp phỏng chờ đợi, băn khoăn, day dứt với ý định ngoại tình để rồi cuối
cùng gia đình êm ấm của chị tan vỡ bởi chính những suy nghĩ ấy.
Trong truyện Mẹ không thể xin lỗi con là nỗi đau của những bà mẹ được
tác giả dẫn dắt bằng những câu chuyện nhỏ: “Năm 2008 – con gái tôi - tôi”,
“Năm 1982 – mẹ tôi - tôi”, “Năm 1966 – bà ngoại tôi – mẹ tôi”. Mỗi câu
chuyện được kể gắn với một mốc thời gian cụ thể để lí giải cho nỗi đau của
những người mẹ. Mỗi giai đoạn phát triển của xã hội người mẹ lại phải có
cách giáo dục con cho phù hợp. Đó chính là thông điệp mà Y Ban muốn gửi
tới độc giả.
3.1.2. Điểm nhìn trần thuật bên ngoài:
Điểm nhìn trần thuật bên ngoài (hay còn gọi là điểm nhìn trần thuật theo
ngôi thứ ba - tác giả). Đây là điểm nhìn phổ biến trong văn học truyền thống
với cái nhìn thuần túy khách quan, không thuộc về ai. Với điểm nhìn này,
người kể chuyện thường giấu mặt (ẩn mình) để bao quát hết thảy câu chuyện
rồi kể lại theo ý kiến riêng của mình. Nhưng người kể chuyện ở đây tuyệt đối
60
không được phát biểu gì về sự kiện và nhân vật, không được đi vào nội tâm
nhân vật và cũng không tham gia vào hoạt động tâm lí của nhân vật. Có
nghĩa, người kể chuyện chỉ đứng im mà quan sát và sau đó làm nhiệm vụ ghi
lại những lời nói và hành động của nhân vật giống như một nhà quay phim
quay lại thước phim đó. Tuy nhiên, điểm nhìn này cũng gặp hạn chế, đó là
người kể chuyện chỉ có thể khái quát những gì diễn ra bên ngoài như hành
động, lời nói, diện mạo của nhân vật. Câu chuyện được triển khai và tự phát
triển chủ yếu nhờ vào các cuộc thoại giữa nhân vật. Đặc biệt là người trần
thuật ở đây luôn giữ một khoảng cách xa với câu chuyện được kể và nói ít
hơn tất cả nhân vật trong tác phẩm.
Khi khảo sát tám tập truyện ngắn của Y Ban, chúng tôi nhận thấy trong số
94 truyện của chị có 54/94 truyện chị sử dụng điểm nhìn bên ngoài với ngôi
kể thứ ba. Ở đây, người kể chuyện dường như ẩn hẳn đi đằng sau câu chuyện,
không lên tiếng và cũng không tỏ thái độ, thậm chí người đọc còn quên mất
sự có mặt của một người đương kể chuyện. Truyện ngắn I am đàn bà, Y Ban
luôn giữ điểm nhìn khách quan từ đầu đến cuối câu chuyện. Người trần thuật
kể lại tất cả những biến cố của “thị” từ khi nhặt được thằng bé bị bỏ rơi đến
những hành động suy nghĩ thẳm sâu trong tâm hồn thị khi làm giúp việc ở xứ
người. Những đoạn độc thoại của thị cũng được ghi lại chân thực để thị giãi
bày tâm sự: “Thị mỉm cười nhìn vào mặt ông chủ:
- Có biết gì không? Chả biết gì rồi?
- Sao mà đến cơ sự này? Mới chưa đến 40 mà suốt ngày phải nằm trên
giường thế này khó chịu lắm nhẩy?
- Trước đây sao không chịu dạy con cái? Chúng ích kỷ quá, chả chịu
chăm nom bố một tí. Chúng mà chịu chăm nom bố thì khéo mà khỏi bệnh chứ
61
nhẩy.
- Nằm nhiều vậy có mỏi lưng lắm không? Tôi bóp chân bóp tay cho nhé.
- Cái khoản này thì chả có trong hợp đồng đâu nhưng thôi tôi cũng chả
biết làm gì, tôi bóp chân bóp tay cho anh nhé.
…- Thích không? Chả thích quá đi ấy chứ. Thích thì gật đi để bận sau tôi
còn làm cho. Vừa nói thị vừa gật gật cái đầu.
- Chán quá, mắt chẳng còn tí hồn nào thế kia. Thôi nhắm mắt ngủ đi. Thị
lấy ngón tay khép mắt ông chủ lại.”
Thị vừa nói chuyện với ông chủ vừa tâm sự những nỗi niềm của mình.
Chính sự chân thành của thị đã khiến ông chủ “khóc” và thị cho rằng: “Khóc
được là biết rồi đấy.”
Y Ban thường dùng điểm nhìn trần thuật bên ngoài cho những truyện có
yếu tố kì ảo.Trong truyện Chợ Rằm dưới gốc dâu cổ thụ Y Ban kể: “Thuở ấy
ở vùng Sủi có hai mẹ con bà góa sống ở cuối làng.” Rồi nhà văn dẫn dắt
người đọc đến với câu chuyện kì bí của cô con gái lén đi theo mẹ vào đêm
Rằm tháng năm. Bà mẹ đi một phiên chợ đặc biệt giữa người âm và người
dương. Cô con gái đã phải lòng một chàng trai thổi sáo rất hay. Nhưng thật
bất hạnh người con trai ấy đã mất. Khi thấy con gái sau phiên chợ “càng xanh
xao hơn” bà mẹ đã cật vấn và tìm được nguyên nhân là cô con gái yêu phải
người âm. Bà mẹ đã khéo léo xử lí mọi việc. Trong Chuyến xe đêm Trân tình
cờ gặp Phương lúc “đồng hồ đã hơn 12 giờ đêm” và anh đã cho cô đi nhờ xe.
Trân không thể ngờ rằng ngày anh gặp Phương chính là 49 ngày mất của cô.
Chính sự trăn trở về người mẹ đã thôi thúc Phương nhờ Trân chăm sóc người
mẹ thay mình. Huấn trong Mắt ma đã được Đồng cho mượn đôi mắt để “nhìn
thấu mọi việc ở đời để mà phán cho thiên hạ”. Nhưng rồi Huấn phải trả lại
62
mắt cho Đồng vì: “Người ở dương gian ắt sẽ tìm thấy sự tồn tại ở trên đời”.
Bằng điểm nhìn bên ngoài khách quan, Y Ban đã khiến người đọc “tin” hơn
vào câu chuyện kì bí của mình.
Cả hai điểm nhìn trên có mặt ưu điểm và cũng có mặt nhược điểm. Bởi
mỗi kiểu điểm nhìn thì lại thiên lệch về một lĩnh vực. Điểm nhìn trần thuật
bên ngoài thì mặt mạnh của nó là ở cái nhìn khách quan còn điểm nhìn trần
thuật bên trong lại mạnh ở cái nhìn chủ quan. Chính sự khéo léo khi sử dụng
điểm nhìn nghệ thuật đã giúp truyện ngắn của Y Ban đi vào lòng người đọc.
3.2. Người kể chuyện:
Người trần thuật (còn gọi là người kể chuyện, người thuật chuyện). Đây là
khái niệm trung tâm của trần thuật học, của thi pháp học hiện đại. Khái niệm
này dùng để chỉ người thay thế cho chủ thể sáng tạo tường thuật lại câu
chuyện trong tác phẩm. Song cho đến nay, khái niệm này còn gây nhiều tranh
cãi. Các nhà nghiên cứu Pháp như G. Genette thì hiểu người trần thuật có
chức năng của tác giả mà ông giải thích là vai trò trội của người kể chuyện.
Đó là, người trần thuật vừa có chức năng kể chuyện đồng thời phải vừa chỉ
huy cách kể, vừa truyền đạt thông tin, vừa thuyết phục người đọc... Còn các
nhà nghiên cứu Anh, Mĩ thì lại thiên về hiểu người trần thuật như là một vai
trò thụ động do tác giả điều khiển. Tác giả cần nó vì cần một giọng điệu, cần
một điểm nhìn, cách nhìn.
Từ điển thuật ngữ văn học có nêu: “Người trần thuật là hình thái của
hình tượng tác giả trong văn học nghệ thuật, là người mang tiếng nói, quan
điểm tác giả trong tác phẩm văn xuôi” [4;191]
Giáo trình lí luận văn học đưa ra ý kiến: “Người kể chuyện (người trần
thuật) là yếu tố thuộc thế giới miêu tả. Đó là một người do nhà văn tạo ra để
thay thế mình thực hiện hành vi trần thuật... Người kể chuyện trong văn bản 63
ẩn mình trong dòng chữ. Người kể chuyện ấy có thể được kể bằng ngôi thứ
ba, ngôi thứ nhất và ngôi thứ hai. Và chỉ có thể kể được khi nào họ cảm thấy
như người trong cuộc, người chứng kiến hay người biết trước sự việc xảy ra
bằng tất cả giác quan, sự hiểu biết của mình. Do đó về căn bản, mọi người kể
chuyện đều kể theo ngôi thứ nhất. Cái gọi là kể theo ngôi thứ ba thực chất là
hình thức kể khi người kể chưa được ý thức hoặc là đã được ý thức nhưng cố
ý giấu mình” [8;102]. Còn ngôi kể thứ hai là “cái tôi trữ tình”, là “chủ thể
kép” thường dùng khi “hỗ trợ” để nhân vật của mình được bộc lộ “chân dung
nội tâm” nhưng ngôi kể thứ hai này thường ít được sử dụng.
Theo Thi pháp học hiện đại thì “người trần thuật cũng đồng thời là người
kể chuyện và người kể chuyện là yếu tố tích cực trong việc kiến tạo thế giới
tưởng tượng... Không thể có trần thuật thiếu người kể chuyện” [12;116].
Dù các nhà nghiên cứu có những cách hiểu khác nhau về người trần thuật
thế nào đi chăng nữa thì vai trò của người trần thuật là rất quan trọng. Bởi trần
thuật bao giờ cũng được tiến hành từ phía một người nào đó. Ở phương diện
nào, dù trực tiếp hay gián tiếp cũng đều có sự đồng hành của người trần thuật.
Người trần thuật không những tổ chức về mặt ngôn ngữ mà còn đóng vai trò
quan trọng về mặt kết cấu và chi phối đến ngôn ngữ của nhân vật. Có khi tác
giả chính là người trần thuật, cũng có khi tác giả là người trần thuật được giao
cho hóa thân vào một nhân vật nào đó. Người trần thuật miêu tả, bình luận,
khêu gợi và làm sáng tỏ mọi mối quan hệ của nhân vật từ hoàn cảnh, sự kiện
cho đến các nhân vật khác trong tác phẩm. Đó là những nhân tố tích cực trong
việc tổ chức, dẫn dắt, định hướng và khơi gợi khả năng đối thoại tranh luận
của người đọc, là điểm tựa để tác giả có thể bộc lộ quan điểm cá nhân về cuộc
sống cũng như mặt nghệ thuật của mình. Người trần thuật còn được nhận diện
64
trong tác phẩm của mình là nhờ vào sự định hình của ngôi kể. Vì vậy, việc
nghiên cứu khám phá ra hình tượng người trần thuật cũng chính là phương
diện khám phá ra nội dung và nghệ thuật của tác phẩm.
Từ những khái niệm, những đặc tính trọng yếu đó về người trần thuật nên
mỗi nhà văn khi bắt tay vào sáng tác tác phẩm tự sự luôn có ý thức lựa chọn
cho mình một người kể chuyện thích hợp. Khảo sát truyện ngắn Y Ban chúng
tôi nhận thấy có các kiểu người kể chuyện sau:
3.2.1. Nhân vật kể chuyện:
Y Ban để nhân vật tự kể chuyện của mình, tự chiêm nghiệm, tự nhận
thức. Người phụ nữ kể về cuộc sống của mình bên cạnh người đàn ông nghệ
sĩ và đứa con trai của anh ta (Tôi và anh –thằng bé và con rắn). Tâm sự của
nhân vật khiến người đọc xúc động: “Lần đầu tiên anh gọi tôi là chó cái. Chỉ
một chút tự ái còn sót lại cũng đủ tôi từ bỏ anh mà ra đi. Nhưng tôi chỉ lặng lẽ
đến bệnh viện để tháo bỏ cái thai, một bức tượng mà anh đã tặng cho tôi. Tôi
dường như đã thấm nhuần cái triết lý của anh: - Cái đẹp không đồng hành với
cái thiện. Muốn có cái đẹp đôi khi phải biết hy sinh cái thiện. Tôi là nghệ sĩ
tôi làm ra cái đẹp thì đừng có đòi hỏi tôi phải có trách nhiệm làm người với
cuộc đời này.Anh làm hai bức tượng. Một bức thằng con trai với đầy đủ hình
hài. Anh bảo đấy là bức tượng thằng bé. Một bức tượng nữa chỉ có cái đầu,
anh tặng nó cho tôi. Cả hai bức tượng đều rất đẹp. Đêm nào không có anh bên
cạnh tôi mang bức tượng ra ấp vào ngực và khóc. Tôi bắt đầu biết thương
thân.”
Trong truyện Tại sao tình yêu Y Ban dẫn người đọc đến với thế giới ảo
của Quân qua ngôn ngữ chat. Từ thế giới ảo Quân đã yêu Vân Anh trong thế
giới thực. Nhưng anh đã lỡ hẹn với cô: “Vân Anh hẹn với anh vào lúc Giao
thừa ở vườn hoa Tập Kèn. Bây giờ đến Giao thừa là còn 4 tiếng nữa. Mình sẽ
65
đi loanh quanh phố vậy. Tự nhủ mình thế, nhưng đôi chân Quân lại hướng về
con đường có cái tên Văn Miếu. Những ý nghĩ lộn xộn trong đầu Quân.” Và
cuối cùng Quân “đã hiểu ra rằng tình yêu giữa anh và Vân Anh bắt đầu từ lí
trí và con tim. Vì rằng anh đã quên không hỏi đến sự đụng chạm của bàn tay
và da thịt”.
Chuyến xe đêm là câu chuyện của Trân và một cô gái trẻ đi nhờ xe. Họ
trò chuyện với nhau rất vui vẻ và Trân còn cho cô gái mượn chiếc áo bu –
dông cho đỡ lạnh. Hình ảnh cô gái ấy ám ảnh Trân khiến anh phải tìm đến
nhà cô. Nhưng thật bất ngờ đó lại là một cô gái đã chết và nơi cô xuống xe
chính là mộ của cô. “Sau đấy Trân còn gặp Phương nhiều lần. Cho đến khi bà
già mất, anh đã chăm sóc cho bà như mẹ anh”. Câu chuyện mang tính kì ảo
này được thể hiện qua lời kể của nhân vật thật chân thực và sinh động.
Để nhân vật tự kể chuyện mình, bộc lộ những nỗi niềm tâm sự, những
suy tư xúc cảm của mình Y Ban đã khiến người đọc tin hơn vào các câu
chuyện của mình. Các truyện sử dụng hình thức này đã bộc lộ một xu hướng
viết như một nhu cầu để trình bày những trải nghiệm của bản thân. Người kể
chuyện lúc này xóa bỏ khoảng cách trần thuật của mình để đối thoại với độc
giả. Nhân vật tự kể cuộc đời mình, tự bộc bạch nỗi lòng của mình. Cũng có
khi, người đọc có cảm giác như nhà văn “tự đưa mình vào tác phẩm” bộc lộ
nhu cầu được giãi bày, tâm sự qua nhân vật.
3.2.2. Người kể chuyện ở ngoài câu chuyện:
Y Ban để người kể chuyện tự nhận là mình “ghi chép lại” câu chuyện
trong Sự sống diệu kì: “Khi tôi chép lại những câu chuyện này tôi vẫn tự hỏi
rằng, đây là những chuyện có thật hay là giấc mơ. Tôi hay có những giấc mơ
rất kì lạ không thể lí giải được. Tôi đã tự nhủ nhiều lần sẽ chép lại những giấc
mơ kì lạ đó. Nay những câu chuyện cứ ám ảnh tôi đến từng chi tiết. Tôi quyết
66
định viết lại”. Trong tập truyện Miếu hoang Y Ban đặt tên phần II là “Truyện
nhặt ở dọc đường” với 6 truyện ngắn mang yếu tố kì ảo. Tiếng khóc thiên thần
I là câu chuyện về một vụ va quyệt trên đường trước sự chứng kiến của Thiên
Thần đêm, Nam Tào và Bắc Đẩu. Tiếng khóc thiên thần II kể về một tử tù cắn
rách nát lưỡi của mình sau khi trò chuyện với Thiên Thần mà không tìm thấy
cách nào để thoát khỏi nỗi sợ “phút giây bị điệu ra pháp trường”. Miếu hoang
là câu chuyện kì bí về cô bé áo xanh, đi hài xanh đã chết từ rất lâu giúp đỡ
một bà lão cô đơn. Trong Đất mặn vùng đồi người mẹ không dạy nổi con trai
mình đã hỏi cả thiên thần và quỷ sứ: “Bây giờ tôi biết làm sao đây?” và đều
nhận được câu trả lời: “Tôi cũng chẳng biết làm sao cả.” Cuối cùng bà phải
quyết định: “vậy thì nó sẽ phải chết rồi. Nó phải chết vì còn ba mạng người
cần phải sống trên đời này”. Còn Chuyện ở rừng lại mang đến cho độc giả
cảm giác ghê rợn về câu chuyện của người đàn bà làm nghề nấu cao. Lần cuối
cùng nhân vật “tôi” tìm về gặp bà ta “Tôi bỗng thấy rờn rợn. Nhất là lúc đó,
những tia nắng quái chiều chiếu qua vòm lá xanh rờn xuống thềm rêu xanh
ánh lên một màu rực rỡ của bảy sắc cầu vồng.” Chính cách kể này đã khiến
câu chuyện kì ảo này mang tính khách quan, chân thực và khiến người đọc
tin.
Với việc “hóa thân” thành những người kể chuyện đó Y Ban khiến
người đọc có thể rút ra bài học về xử thế thấm thía cho từng cảnh đời và thậm
chí cả những cảnh đời có thực ngay chính trong lòng độc giả. Điều đó càng có
sức khái quát lên những triết lý vĩnh hằng về nhân sinh, xã hội, vũ trụ nói
chung mà thế giới loài người luôn mong mỏi.
3.3. Nghệ thuật tổ chức tình huống và kết cấu:
3.3.1. Tình huống truyện:
Trong một truyện ngắn, việc tạo ra tình huống như thế nào cho độc đáo
67
là một yếu tố rất quan trọng góp phần khẳng định tài năng và phong cách
riêng của một nhà văn. Nói như giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh thì: “quan trọng
nhất của truyện ngắn là tạo ra tình huống nào đấy, từ tình huống ấy bật nổi
một bản chất tính cách nhân vật hoặc bộc lộ một tâm trạng”. Ngoài ra, việc
xây dựng và tổ chức tình huống trong một truyện ngắn không chỉ làm “bật
nổi một bản chất tính cách nhân vật hoặc bộc lộ một tâm trạng” mà còn cho
thấy một quan niệm, một tư tưởng nào đó của nhà văn trong cái nhìn phản ánh
hiện thực đời sống. Khảo sát truyện ngắn Y Ban chúng tôi nhận thấy việc xây
dựng và tổ chức những tình huống trong truyện ngắn của chị đã thể hiện rõ
vấn đề này. Và nhìn chung truyện ngắn của Y Ban chủ yếu xoay quanh các
dạng tình huống sau:
3.3.1.1. Tình huống tâm trạng:
Đây là kiểu tình huống đánh thức quá khứ, gợi lại những kỉ niệm, biểu
hiện sâu sắc nhất đời sống tình cảm của một con người. Tình huống này được
Nguyễn Minh Châu định nghĩa là “các tình thế xảy ra lại nằm trong tâm trạng,
tính cách nhân vật”. Việc gặp lại hai người bạn: Leng và Sơn trong cùng
chuyến xe đi du lịch là tình huống đưa Miên trở về những ngày tháng còn là
sinh viên với tình yêu đầu đầy tiếc nuối: “Leng, Sơn – hai cái tên ấy đập vào
trí nhớ nàng làm tóe bung ra những kỉ niệm đã quá xa xôi nhưng lại tràn đầy
trinh nguyên thuở ban đầu” (Thượng đế bảo rằng…). Tình huống buộc phải
bỏ đi đứa con bé bỏng trong Bức thư gửi mẹ Âu Cơ hay cái chết của người
đàn ông bán su hào trong buổi chiều mưa của Sợi dây nối những cánh diều
đều khiến câu chuyện phải ngưng lại bởi những suy tư hoặc dẫn suy nghĩ trở
về quá khứ. “Ngày hôm nay con được chứng kiến nỗi đau của những người
mẹ. Nỗi đau của con lại bùng lên và biết bao nhiêu bà mẹ cũng có nỗi đau
như con.” – lời mở đầu truyện Bức thư gửi mẹ Âu Cơ. Cô con gái trong truyện
luôn day dứt: “Từ ấy đến nay mẹ đau nỗi đau của mẹ, con đau nỗi đau của
68
con. Nhưng có đêm nào mẹ tỉnh dậy vì nỗi đau của mẹ không? Đêm đêm cha
mẹ vẫn bên nhau còn con thức tỉnh với nỗi đau của mình. Mẹ, mẹ có hiểu con
không?” Khi kết thúc câu chuyện Y Ban đưa ra một lời khẩn cầu: “Mẹ ơi, mẹ
hãy quan tâm đến chúng con, đến nỗi đau của những cô gái, những bà mẹ”.
Trong Sau chớp là dông bão, tình huống tâm trạng xuất hiện khi người phụ
nữ bắt gặp một “gương mặt tử tế”. Chị đã chìm trong những băn khoăn thầm
kín, những xét đoán, những so sánh người đàn ông kia với chồng mình để
cuối cùng đưa ra một quyết định sáng suốt: “Ta sẽ là bạn tốt của nhau chứ.”
Trong Phút dành cho tình yêu dòng suy nghĩ của nhân vật đã tạo nên tình
huống truyện: “Ngày mai tôi đi lấy chồng. Đêm trằn trọc với bao suy nghĩ về
tương lai, cả một trời sao hạnh phúc hay một biển khổ đau? Làm sao mà biết
trước được…”
Với các tình huống tâm trạng Y Ban tập trung khai thác những biểu
hiện tâm trạng điển hình của nhân vật quanh tình huống đó. Nhờ vậy tâm
trạng của nhân vật được đẩy lên tận cùng tạo cho người đọc những cảm nhận
sâu sắc về đời sống tinh thần của người phụ nữ. Điều này đã tạo nên lối viết
riêng cho chị mà nhiều bạn đọc yêu thích.
3.3.1.2. Tình huống tự nhận thức:
Để tạo được những biến đổi trong nhận thức nhân vật Y Ban đã đặt họ
vào những tình huống để nhân vật nhận ra sai lầm, nhận ra chân lí của cuộc
đời. Chính “lời thóa mạ con cái, kêu rên cuộc sống” và ánh bình minh đã
khiến cô gái trong Thiên đường và địa ngục cay đắng nhận ra thiên đường ấy
chỉ là một hiện tượng úi sùi đầy chua xót, nhận ra mình quá cả tin, nhẹ dạ để
đến nỗi lạc lối xuống địa ngục rồi mới hay. Một tiếng gọi của con thơ đã làm
cho người phụ nữ dứt mình khỏi những cơn mơ và dứt luôn những cuộc ngoại
tình trong mộng mị (Người đàn bà và những giấc mơ). Nằm trên giường bệnh
thì người phụ nữ mới có thời gian để nhận thấy những khát vọng thẳm sau
69
trong con người mình, để thức tỉnh trước những mối tình phù du: “Ngẫm lại
cuộc đời mình đã chinh phục, đã kiếm niềm vui, kể cả tiền của những người
đàn ông. Nhưng mình đã không có một bông hồng nào, một nụ hôn nào, một
cái vuốt ve dịu dàng nào của một tình yêu đích thực cả.”(Cuộc tình Silicon).
Tình huống đó có thể là khoảng thời gian để nhân vật biện hộ, giải
thích hay dằn vặt với những giằng xé nội tâm để tự thức tỉnh, tự hoàn thiện
nhân cách. Trong Hai mươi bảy bước chân là lên thiên đường Y Ban để cho
cô gái nhận ra người đàn ông mà mình ngưỡng mộ là một kẻ chơi bời phóng
đãng , ý nghĩ quay cuồng khổ sở đã thức tỉnh giấc mơ thiên đường của cô và
để cô nhận ra mình vẫn còn may mắn vì “thực chất, thiếu một bước chân em
đã bị sa xuống địa ngục rồi”. Người đàn bà có ma lực trong hiện tại cô đơn
trống trải than thở: “Ta là một người đàn bà, một người đàn bà rất hoàn hảo
nhưng tại sao ta lại không có được cái kết quả của sự hoàn hảo ấy?” Y Ban để
người đàn bà thức tỉnh một điều: những cuộc tình không phải là trò chơi để
người ta thử nghiệm, đó là nơi thể hiện tình yêu, sự sẻ chia và lòng bao dung.
Vì vậy nó không phải là nơi để kiếm tìm sự hoàn hảo. Người đàn bà sinh ra
từ bóng đêm chợt giật mình thức tỉnh và thấy xấu hổ, nhục nhã với chính
mình “thằng bé được bao nhiêu tuổi thì ả có bấy nhiêu năm với những ngày
hành xác thâu chuỗi dài dài”. Những khoảnh khắc ấy đã khiến người đàn bà
có ý thức sâu sắc hơn về thân phận bất hạnh của mình. Người đàn bà đứng
trước gương nhận ra văn chương hay những người đàn ông khác đều không
thay thế được những đứa con trong lòng nàng. Nàng đã hiểu và đã thức tỉnh
rằng nàng cần chúng và chúng “cần một người mẹ làm con thỏ sứt môi hơn là
một người mẹ danh giá nhiều”. Để nhân vật vào tình huống tự nhận thức, Y
Ban có điều kiện đào sâu tâm trạng của nhân vật, khám phá chiều sâu cảm
xúc của con người. Tự ý thức là điều cẩn thiết để con người tránh bớt những
70
lầm lỡ, sai sót trong cuộc đời.
3.3.1.3. Tình huống mang tính kịch:
Y Ban còn đẩy nhân vật của mình vào các tình huống mang tính kịch
để họ bộc lộ suy nghĩ, tâm trạng của mình. Chính tình huống nhân vật tôi nhặt
được tờ giấy gọi ra tòa li hôn rơi ra từ túi người đàn ông đã giúp cả nhân vật
tôi và người đọc hiểu: “Phút dành cho tình yêu ít ỏi quá!” (Phút dành cho tình
yêu). Chuyện bên barie cũng tạo nên một tình huống kịch tính. Có thể coi câu
chuyện là một vở kịch được dàn dựng từ sự dối trá của hai cha con. Con gái
nói dối cha là công đoàn tổ chức cho đi nghỉ mát kì thực là cô đi với một gã
đàn ông già bằng tuổi bố mình. Còn người cha từ chối việc vợ lên thăm với lí
do tiếp một phái đoàn đặc biệt nhưng kì thực là ông đi với một cô gái trẻ. Vở
kịch được hạ màn khi hai cha con chạm trán bên barie cùng những người tình
của họ. Cha giật mình khi thấy con, con bối rối khi nhìn thấy cha. Sau “cú
sốc” đó họ đều đau đớn và thất vọng. Người cha bàng hoàng khi biết đứa con
gái mà ông hết lòng yêu thương giờ đây không còn ngoan ngoãn thuần chất
nữa. Với cô con gái hình ảnh người cha và lòng tôn trọng dành cho ông cũng
mất đi. Sự suy thoái về đạo đức nhân cách đang có nguy cơ làm tổn hại đến
những tình cảm thiêng liêng trong gia đình. Bi kịch ấy tất yếu sẽ xảy ra nếu
những thành viên trong gia đình không thay đổi lối sống, suy nghĩ và hành
động của họ. Trong truyện Thằng bé có phép tàng hình Y Ban lại đứng ở vị
trí của một đứa trẻ để đánh giá những hành vi của người lớn. Tâm hồn con trẻ
chưa đủ sâu sắc để có thể hiểu những việc người lớn làm. Nhưng điều đó
không có nghĩa là người lớn có quyền lừa dối và thực hiện những hành vi tội
lỗi trước chúng. Tình huống cậu bé lấy được cái móng hổ trong lần “trinh
thám” là bằng chứng rõ ràng cho việc mẹ em đã làm với người đàn ông trong
công viên hôm ấy. Người mẹ đã không thành thật chuyện đó với con mình.
71
Sự đổ vỡ niềm tin, lòng hận thù đã làm cậu bé không thể tha thứ cho ai và
chọn cái chết làm cách giải thoát. Cái chết của cậu là lời thức tỉnh đối với bậc
làm cha làm mẹ.
3.3.2. Kết cấu tâm lí:
Kết cấu là phương diện được coi là cơ bản của sáng tác nghệ thuật. Một
sáng tác cần phải có kết cấu để tạo cho văn bản nghệ thuật của mình trở thành
một chỉnh thể. Khi nói đến kết cấu, chúng ta thường xem tác phẩm giống như
một công trình kiến trúc. Công trình ấy đòi hỏi người nghệ sĩ ngôn từ phải
biết nhào nặn vốn sống của mình, phải tổ chức các chất liệu sống trong
khoảng thời gian và không gian nhất định để tạo nên một chỉnh thể mang giá
trị cao nhất. Để có được điều đó, việc định hình tổ chức nên một kết cấu độc
đáo, đòi hỏi người viết phải không ngừng học hỏi và sáng tạo.
Theo Từ điển thuật ngữ văn học: “Kết cấu là sự toàn bộ phức tạp và sinh
động của tác phẩm” [4;131].
Còn cuốn Lí luận văn học của Hà Minh Đức (chủ biên) nêu: “Kết cấu là
sự tạo thành và liên kết các bộ phận trong bố cục của tác phẩm, là sự tổ chức,
sắp xếp các yếu tố, các chất liệu tạo thành nội dung của tác phẩm trên cơ sở
đời sống khách quan và theo một chiều hướng tư tưởng nhất định” [2;143].
Theo khái niệm này thì kết cấu chính là một yếu tố của hình thức.
Lê Tiến Dũng trong cuốn Tìm hiểu tác phẩm văn học cũng nêu: “Kết cấu
là cách tổ chức, sắp xếp liên kết các nhân vật, sự kiện, các cảm xúc, các yếu
tố trong tác phẩm thành một chỉnh thể nghệ thuật thống nhất theo ý đồ nghệ
thuật và đặc trưng nghệ thuật nhằm làm cho tác phẩm có giá trị nghệ thuật cao
nhất” [1;93].
Với khái niệm về kết cấu dường như đã có sự mở rộng biên độ. Bởi theo
72
thời gian, nhiều nhà lí luận khoa học hiện đại đã làm mới và sâu sắc thêm
khái niệm kết cấu. Họ xét khái niệm xoay quanh bốn nội dung cơ bản như
sau: kết cấu là thực thể; kết cấu là quan hệ; kết cấu là quy tắc, trật tự, lôgic;
kết cấu là phương pháp và mô hình.
Với bốn nội dung trên, nhà nghiên cứu Trần Đình Sử đã tổng hợp và đưa
ra khái niệm: “Kết cấu, cấu trúc vô luận là tổ chức vật thể, quan hệ hay quy
tắc, phương pháp, mô hình đều là yếu tố tạo thành văn bản, là thực thể không
thể bỏ qua trong quá trình sáng tác và đọc hiểu văn bản. Bất cứ văn bản thuộc
thể loại nào, trong quá trình sáng tác hay đọc đều không thể không xử lí quan
hệ tổ hợp giữa các bộ phận. Văn bản trong quá trình tổ hợp không tuân thủ
theo một quy tắc, trật tự nhất định. Kết cấu là bản thân tổ chức của văn bản,
không thể có văn bản vô kết cấu” [8;156].
Vì vậy, nhà văn khi muốn lựa chọn một kết cấu nào đó cần phải tính toán
làm sao cho kết cấu mà mình lựa chọn đạt được kết quả tối ưu nhất. Kết cấu
ấy nâng cao được sức biểu hiện của đề tài, chủ đề, cốt truyện, các yếu tố ngoài
cốt truyện và tăng cường tác động vào tất cả những yếu tố liên quan đến nghệ
thuật và tư tưởng của tác phẩm.
Đây là kiểu kết cấu khá mới mẻ trong văn học Việt Nam giai đoạn những
năm đầu thế kỷ XX. Đó là lối kết cấu dựa theo sự phát triển của các yếu tố
tâm lí với những bức xúc, dằn vặt nội tâm, những dòng cảm xúc vui buồn,
hờn giận, ghen tuông, nhớ nhung, hạnh phúc... của con người được nhà văn
dàn trải trên trang giấy. Thường lối kết cấu này lựa chọn một trạng thái tâm lí
có ý nghĩa để trình bày toàn bộ sự kiện, nhân vật, cốt truyện. Với típ truyện
ngắn này, nhà văn không đi sâu vào nhiều sự kiện, chỉ cần vài sự kiện tiêu
biểu - đóng vai trò khơi gợi vấn đề, còn lại là những cảm giác, những suy
nghĩ mang chiều sâu nội tâm của nhân vật. Chính những yếu tố đặc trưng của
73
lối kết cấu này mà độc giả sau khi đọc xong thường khó kể lại một cách rạch
ròi về nội dung truyện. Vả lại, nếu có kể lại thì chỉ là sự tóm lược ý chính
nhưng sâu sắc hơn, nó tạo được những cảm xúc, nỗi niềm trăn trở của độc giả
khi đồng hành, nhập cuộc cùng nhân vật. Điều đó khiến cho truyện ngắn thấm
đẫm chất thơ, chất trữ tình mà không phải tác phẩm văn xuôi tự sự nào cũng
có được.
Truyện ngắn của Y Ban theo lối kết cấu này đã đạt được những thành
công đáng kể khi để nhân vật của mình tự xoay sở, tự phân thân giãi bày
những tâm lí phức tạp trong tâm hồn. Ý thức được hạn chế của thể loại truyện
ngắn, Y Ban đã phát hiện và chớp những khúc đoạn đời sống khác của con
người. Đó là đời sống tâm lí - một thế giới vô hình tinh tế và phức tạp bên
trong mỗi con người, từ cảm giác, những rung động đến những dằn vặt nội
tâm. Truyện ngắn của chị không chỉ khai thác sự éo le của số phận nhân vật
mà còn là dòng tâm sự dàn trải tâm trạng đau buồn triền miên của nhân vật.
Đó là những xung đột, giữa lí trí và tình cảm, giữa hạnh phúc cá nhân và sự
trăn trở bên trong mỗi cá nhân.
Theo dòng tâm trạng của nhân vật, những câu chuyện của Y Ban dường
như không tuân thủ một cách chặt chẽ các thành phần của cốt truyện, đôi khi
nó không đầu, không cuối. Nhân vật cứ theo đuổi dòng suy nghĩ miên man
của mình: “Định mệnh hay là sự lựa chọn? Đâu là ranh giới? Người đàn bà
không thể tìm được câu trả lời… Còn ước mơ? ... Ngay cả giấc mơ cũng là
một giấc mơ silicon rồi thì còn đâu là giấc mơ bình thường được nữa”(Cuộc
tình Silicon). Cô gái bị phụ tình trong Ai chọn dùm tôi chìm trong suy nghĩ:
“Rời nhà thầy cúng, tôi cũng không biết chọn nẻo nào cho mình. Tôi đang
sống thành mà có nhận được quả phúc đâu…” Cách kết thúc này khiến người
đọc có cảm giác như mạch truyện vẫn còn tiếp diễn. Truyện ngắn Bức thư gửi
74
mẹ Âu Cơ sử dụng thủ pháp đồng hiện hai khoảng thời gian: hiện tại và quá
khứ. Bằng việc trả lời câu hỏi của người mẹ “Ai dạy mày như thế cơ chứ?”
truyện được phát triển nhờ sự lồng ghép những diễn biến tâm trạng của cô gái
qua hai quãng thời gian ấy. Sử dụng thời điểm có tính chất tâm lí nhà văn đã
đánh thức cả một quãng thời gian trong quá khứ: một bộ phim ngoài rạp khiến
người phụ nữ nghĩ về quãng đời lầm lỡ của mình (Người đàn bà sinh ra từ
bóng đêm), tiếng nô đùa của trẻ nhỏ, tiếng dao thớt lách cách, mùi thức ăn
khiến “chị” hồi tưởng về “những chồng kỉ niệm của cả một quãng đời”
(Người đàn bà có ma lực).
Truyện ngắn Điều ấy bây giờ con mới hiểu ra bắt đầu bằng tâm trạng của
cô con gái trước khi lấy chồng: “Khoanh tròn trong chiếc kén thiếu nữ của
ngày cuối cùng, tôi nhìn theo mẹ. Mẹ còn trẻ quá. Tóc mẹ chưa bạc sợi nào.
Lưng mẹ thẳng và dáng đi nhanh nhẹn. Mẹ trân trọng bưng lễ vật để lên bàn
thờ bố. Mắt mẹ dịu dàng vô biên. Và một nét cười bừng lên trong ánh mắt mẹ
- "Con gái chúng mình đi lấy chồng rồi đấy". Rồi đột ngột nước mắt đã lại
dâng đầy. Mẹ quay nhìn xuống ngực mình, rồi mẹ nhìn trải khắp gian phòng.
Ngày mai, khi tôi chui ra khỏi kén, tôi thành ngài, sinh con đẻ trứng, mẹ sẽ
chỉ còn lại một mình với căn phòng trống vắng. Mẹ còn trẻ quá, nỗi cô quạnh
trùm lên mẹ trong quãng đời còn lại. Ai sẽ làm thay đổi được điều đó? Sẽ
chẳng thay đổi được số phận đâu. Chiến tranh qua đi để lại muôn vàn những
góa phụ như mẹ tôi. Nhưng có lẽ một đứa con, một giọt máu thương yêu để
lại giữa hai điểm ngắm sẽ làm dịu bớt phần nào. Và chính tôi, một con bé bảy
tuổi ngày ấy đã không mang lại cho mẹ một cơ may cuối cùng.” Câu chuyện
quay trở về quá khứ với hồi ức về lần thăm nhà cuối cùng của bố cô bé. Tâm
trạng của cô bé được trải ra trên những trang viết về hai tiếng người bố ở nhà:
từ “òa reo nhưng vẫn bẽn lẽn” đến “sung sướng” rồi “hờn dỗi”, “uất ức” và
“sợ hãi”. Kết thúc truyện người đọc mới hiểu được cái điều “bây giờ con mới
75
hiểu” của cô con gái.
3.3. Ngôn ngữ và giọng điệu
3.3.1. Ngôn ngữ
Từ điển thuật ngữ văn học cũng khẳng định: “Trong tác phẩm, ngôn ngữ
văn học là một trong những yếu tố quan trọng thể hiện cá tính sáng tạo, phong
cách, tài năng của nhà văn. Mỗi nhà văn lớn bao giờ cũng là tấm gương sáng
về mặt hiểu biết sâu sắc ngôn ngữ” [4;186].
Vậy trong tác phẩm tự sự, trần thuật chính là thành phần lời sáng tạo của
tác giả, của người trần thuật. Cho nên, ngôn ngữ trần thuật chính là nơi bộc lộ
ý thức sử dụng ngôn ngữ có chủ ý của nhà văn. “Ngôn ngữ người trần thuật là
phần lời độc thoại thể hiện quan điểm của tác giả hay quan điểm người kể
chuyện đối với cuộc sống được miêu tả, có những nguyên tắc thống nhất
trong việc lựa chọn và sử dụng các phương tiện tạo hình và biểu hiện ngôn
ngữ” [4;184].
Ngôn ngữ trần thuật mang tính chính xác, cá thể hóa. Mỗi câu, mỗi chữ
trong tác phẩm có thể chứa đựng nhiều tầng ý nghĩa, nhiều cách giải thích.
Nhưng mỗi từ dù mang sắc thái ý nghĩa đa tầng thì cũng phải được thống nhất
trên cơ sở của chủ thể sáng tạo. Chính điều đó làm cho ngôn ngữ trần thuật có
tính đa thanh. Vì đây là đặc trưng của ngôn ngữ văn xuôi, là sự tác động qua
lại phức tạp giữa tiếng nói của tác giả, người kể chuyện và nhân vật, giữa
ngôn ngữ miêu tả và ngôn ngữ được miêu tả.
Có thể nói trong văn học hiện đại, ngôn ngữ trần thuật có vị trí nổi trội, nó
là linh hồn của tác phẩm cũng như định hình được phong cách độc đáo của
mỗi nhà văn. Việc tìm tòi, đổi mới cách tân trong ngôn ngữ trần thuật cũng là
hướng đi của văn xuôi đương đại nhằm thúc đẩy cách sáng tạo, cách hiểu,
76
cách tiếp nhận về gần với đặc trưng thẩm mỹ của văn học. Khảo sát các
truyện ngắn của Y Ban chúng tôi thấy chị sử dụng đắc địa những hình thức
ngôn ngữ sau:
3.3.1.1. Ngôn ngữ đời thường, mang đậm chất dân gian:
Tư duy nghệ thuật trong văn xuôi Việt Nam sau 1975 đổi mới khiến
ngôn ngữ cũng phải có những đổi mới cho phù hợp. Một trong những xu
hướng đổi mới ấy là việc sử dụng ngôn ngữ đời thường. Để đưa tác phẩm đến
gần với bạn đọc, Y Ban đã sử dụng tiếng nói của đời sống hằng ngày với sự
dung nạp nhiều khẩu ngữ vào tác phẩm như: “Ôi dào, có tiền là có tất.” (Cuộc
tình Silicon); hay lời miêu tả: “Gã lại đang ngửa cổ rít thuốc lào. Tôi chờ cho
gã phê xong thuốc. Phải mấy phút sau lão mới phều phào: Sức khỏe kém rồi,
phê lâu.” (Tôi và gã); hay chiêm nghiệm rất dân dã: “Cha mẹ có thành đạt đến
đâu mà con cái không học hành đến nơi đến chốn thì cũng vứt.” (Gà ấp
bóng).
Trong truyện ngắn của Y Ban chúng ta còn thấy cả sự suồng sã thậm
chí bỗ bã của lời ăn tiếng nói hàng ngày. Nhà văn đưa vào truyện của mình
một cách tự nhiên như: “Mày lừa bà hơi bị ngoạn mục đấy con nhỉ” (Hành
trình của tờ tiền giả); “Mày định giở trò ăn chặn lưu manh tống tiền hả?” (Đi
câu mực ở biển Sầm Sơn); “Đi thôi ông tướng. Sao lại nghệt mặt ra vậy.”
“Thế thì tạnh ngay đi, đừng mơ viển vông nữa.” (Hàng khuyến mại); “Đêm
qua mơ chó đuổi chạy té cứt ra quần.”(Đổi đời); “Mày không xùy tiền ra đây
thì đi ra công an.”(Tiếng khóc thiên thần I); “Thôi bố già, đĩ non ơi, đưa nhau
vào bên lề mà lau nước mắt cho nhau” (Chuyện bên barie); “Cút ngay trước
khi tao bóp vụn mày thành cám.” (Cái điềm con thỏ trắng) “Vàng cộc đuôi lại
bên Mực xí xớn.” (Trong khu vườn nghệ sĩ); “Cười đéo gì vậy?”, “Chém cha
cái đồ gái góa là gái góa ơi.” (Đất làng Cam). Chính cái chất dân dã đời
thường trong ngôn ngữ đã tạo cho người đọc cảm giác gần gũi, thân quen.
Nhiều câu văn đọc lên rất thú vị nhờ sự hồn nhiên của ngôn ngữ: “Thượng đế 77
chẳng qua chỉ là một gã đàn ông xỏ lá nhất chứ chẳng chơi.” (Đàn bà sinh ra
từ bóng đêm); “Con bé Thơm bị ma nó dắt đi đến chỗ lội nó định dìm chết
con bé. May lúc con ma nó buồn ỉa. Thế là con bé mới thoát.” (Đi chợ sớm).
“Đúng là cu li cu leo ít học” (Đất làng Cam).
Y Ban khéo léo đưa thành ngữ vào truyện của mình để làm nên cái
duyên cho trang viết của chị. Thành ngữ được dẫn ra để khẳng định chân lí:
“Chị có biết câu các cụ thường nói: chơi dao có ngày đứt tay – Hay là gieo
quả gì thì gặt quả ấy.” (Gà ấp bóng) Nhưng cũng có khi thành ngữ làm tăng
tính cô đọng cho câu nói: “Thế là hai ông hàng xóm tối lửa tắt đèn có nhau
xông vào cuộc đào mồ đào mả, chốc dây mơ rễ má nhà nhau lên bằng miệng
lưỡi” (Chồng tôi); “chẳng phải vì cái sự một năm làm nhà, ba năm làm cửa
mà vì họ không quan tâm lắm đến việc phải có một bộ cánh cửa chắc chắn”
(Làng Cò); “Tuy chưa bắt được tận tay day tận trán nhưng gã vẫn không
ngừng gầm ghè thị.” (Tôi yêu nàng đấy, thị ơi).
Với tuổi thơ yên ả nơi làng quê, Y Ban đã đưa vào truyện ngắn của
mình những lời hát ru ngọt ngào, những bài dân ca đằm thắm. Ở Làng Cò yên
ả, thâm u vang lên câu hát ru con: “Cái cò là cái cò quăm, mày hay đánh vợ
đêm nằm với ai… Cái cò là cái cò quăm, gánh gạo đưa chồng tiếng khóc nỉ
non…” Người chị trong Nàng thơ khi tiễn đưa cu Tũn về với đất mẹ đã không
khóc mà hồi tưởng về những câu hát ru đứa em: “Cái cò đi đón cơn mưa, tối
tăm mù mịt ai đưa cò về… Cái cò mà đi ăn đêm, đậu phải cành mềm lộn cổ
xuống ao…”. Người đàn bà làm giúp việc nơi xứ người cũng gửi gắm nỗi nhớ
chồng con, quê nhà vào những câu hát cho ông chủ nghe: “Con cò bay lả bay
la. Bay từ cửa phủ bay qua cánh đồng. Tình tính tang là tang tính tình…” (I
am Đàn bà). Những bài hát đồng dao cũng được chị dùng để phê phán việc
nạn mại dâm không ngừng gia tăng do hạn chế trong pháp luật của nước nhà:
“Từ cổ chí kim ở cái đất nước này là cái thứ vòng vo, Cứ theo bài đồng dao 78
của trẻ con mà xem nhé: Con chim sẻ nó đẻ cành chanh, tôi lấy mảnh sành tôi
chanh nó chết, được ba chậu máu được sáu nong đầy, ông thày ăn một, bà cốt
ăn hai, còn cái thủ cái tai đem lên biếu chú. Chú hỏi thịt gì? Thịt con chim sẻ
nó đẻ cành chanh…để rồi thả đỉa ba ba, chớ bắt đàn bà, phải tội đàn ông,
cơm trắng như bong, gạo thuyền như nước…” (Thần cây đa và tôi). Chính sự
cô đọng, hàm súc của lối nói dân gian đã đem lại cho truyện ngắn Y Ban sự
mềm mại, mượt mà, sâu sắc và sự gần gũi với người đọc.
3.3.1.2. Ngôn ngữ mang tính phiếm chỉ
Qua khảo sát truyện ngắn của Y Ban chúng tôi thấy rằng chị thường
dùng đại từ phiếm chỉ để gọi tên nhân vật của mình. Nhân vật nam được gọi
là: gã, hắn, anh, anh ta, người cha, anh ấy, ông, người đàn ông, thằng anh, ông
cụ… Còn nhân vật nữ được gọi là: thị, nàng, chị, người đàn bà, ả, đứa chị,
đứa con gái nhỏ, cô gái, thiếu phụ, con gái tôi… Cách gọi này không làm mờ
đi cái riêng của nhân vật mà làm tăng tính khái quát cho những số phận. Họ là
những “người lạ quen biết” trong trang viết của Y Ban. Khi được gọi bằng
những cái tên phiếm chỉ ấy nhân vật được người đọc chú ý nhận diện và tái
tạo hình tượng trong trí nhớ. Đây chính là cách gọi chung có thể áp dụng cho
nhiều trường hợp, nhiều hoàn cảnh. Trong phần ghi chú của truyện Tôi yêu
nàng đấy, thị ơi, Y Ban đã bộc bạch: “Tôi rất đắn đo trong việc gọi tên nhân
vật của tôi vì tiếng Việt có rất nhiều cách để gọi. Nhân vật của tôi là nữ, tôi có
thể gọi là: nàng, em, người đàn bà, ả, thị… hoặc là một cái tên nào đó trong
muôn vàn cái tên phụ nữ. Gọi là thị nhưng có miệt thị nàng đâu.” Đây là cách
gọi nhân vật không mới nhưng trong truyện ngắn Y Ban nó xuất hiện với tần
số lớn và tạo thành một đặc điểm nổi bật trong việc sử dụng ngôn ngữ của tác
giả. Đôi khi các nhân vật được nhắc tới dựa theo đặc điểm hình thức hoặc
nghề nghiệp như: người số hai, người số ba (Tự), người đàn ông trẻ, người
79
đàn ông già (Chuyện trong căn nhà nhỏ), chàng chăn cừu, nữ tu sĩ (Câu
chuyện tình yêu), gã lái xe (Tiếng khóc thiên thần I), bà lão, cô bé áo xanh
(Miếu hoang), thằng oắt con chữa xe máy (Hành trình của tờ tiền giả), khách
nữ, khách nam (Đi câu mực ở biển Sầm Sơn). Sử dụng đại từ phiếm chỉ để gọi
tên nhân vật của mình, Y Ban làm mờ đi tên tuổi nhân vật và đường biên khu
biệt giữa các nhân vật nhưng lại làm tăng tính khái quát cho những số phận.
Họ là con người cá thể nhưng số phận, hoàn cảnh, tâm lí của học không hề
mang tính dị biệt. Khi nhân vật được gọi bằng cái tên chung chung hoặc là
một cách gọi tên được dùng ở nhiều tác phẩm khác nhau khiến người đọc phải
chú ý nhận diện và tái tạo hình tượng nhân vật trong trí nhớ. Đó là một trong
những cách nhà văn để người đọc tham gia vào quá trình sáng tạo nhận vật.
Cách gọi tên nhân vật kiểu phiếm chỉ đã xuất hiện trong văn học thời kì
1930 – 1945 mà tiêu biểu là trong sáng tác của Nam Cao. Đến Y Ban cách gọi
tên này xuất hiện với tần số lớn và phổ biến như là thói quen. Đây chính là
một nét nổi bật trong việc sử dụng ngôn ngữ của tác giả. Cách gọi này tăng
tính khái quát của nhân vật và mở ra nhiều hướng tiếp nhận cho người đọc.
3.3.2. Giọng điệu
Theo Từ điển thuật ngữ văn học: “Giọng điệu là thái độ, tình cảm, lập
trường, tư tưởng đạo đức của nhà văn đối với hiện tượng được miêu tả, thể
hiện trong lời văn, quy định cách xưng hô, gọi tên, dùng từ, sắc điệu tình cảm,
cách cảm thụ xa, gần, thân, sơ, thành kính hay suồng sã, ngợi ca hay châm
biếm” [4;112]. Vì thế, giọng điệu là yếu tố đặc trưng của hình tượng tác giả
trong tác phẩm và làm nên phong cách của mỗi nhà văn. Để tránh sự nhầm
lẫn giữa giọng điệu trong lời nói với giọng điệu trong văn học, Nguyễn Thái
Hòa đã sử dụng khái niệm về giọng văn như sau: “cấu trúc bất biến của một
nhà văn có phong cách riêng đánh dấu đặc trưng sử dụng ngôn ngữ, trong đó
phản ánh quan hệ giữa nhà văn với hiện thực cuộc sống, với ngôn ngữ đang
80
dùng và không phụ thuộc vào thể loại và đối tượng được nói đến” [5;160]. Từ
đó, giọng văn sẽ được thống nhất “bất biến” trong toàn bộ sáng tác của nhà
văn.
Trong văn chương, giọng điệu chỉ quan tâm đến hình thức nói nhưng giữa
hình thức nói và nội dung được nói vẫn có mối quan hệ mật thiết với nhau.
Bởi giọng điệu luôn gắn liền với việc dùng hình tượng để miêu tả đối tượng
của sáng tác. Cho nên những người sành sỏi về văn học, họ có thể căn cứ vào
từng đặc điểm về giọng điệu trong một đoạn văn tự sự nào đó để xác định chủ
nhân của tác phẩm ấy.
Trong nhiều cuốn sách nghiên cứu như lí luận, từ điển văn học chỉ ra rất
nhiều kiểu giọng điệu: mỉa mai, châm biếm, ỡm ờ, đay đả, trang nghiêm, hách
dịch; suồng sã, xót xa, buồn bã, thâm trầm... và ứng với mỗi trạng thái tâm lí
của con người, ta lại có vô số cách biểu hiện khác nhau nữa. Cho nên, việc
tìm được giọng điệu phù hợp sẽ giúp nhà văn kể chuyện hay hơn, thể hiện
được sâu sắc hơn cho lý tưởng thẩm mĩ của mình. Khảo sát các truyện ngắn
của Y Ban chúng tôi chú ý đến ba giọng điệu sau:
3.3.2.1. Giọng trữ tình, đằm thắm:
Đây là giọng điệu cơ bản tạo nên chất nữ tính trong truyện ngắn Y Ban.
Giọng điệu này dễ tìm thấy ở dạng truyện mà người kể chuyện xưng “tôi” và
tự kể về cuộc đời mình. Chẳng hạn như tâm sự của cô con gái “trót dại” một
lần: “Cuộc sống ngày ngày cứ diễn ra sôi động. Ngày ngày con vẫn cứ nhập
cuộc: con đi xem, đi vũ hội, đi du lịch... nhưng sau tất cả những cuộc vui,
con càng cô đơn hơn. Con mong muốn tình yêu. Con đã có đầy đủ một tình
yêu đầu tiên ấy rồi. Hoặc là bằng, hoặc là hơn. Mẹ và lý trí không cho con
buông thả. Giá như ngày ấy mặc dù tội lỗi, mẹ cứ cho chúng con lấy nhau
thì con đã trở thành người phụ nữ bình thường chứ không phải mang cảnh
góa bụa trong cô thiếu nữ kén chồng thế này.” (Bức thư gửi mẹ Âu Cơ). Có 81
khi nhân vật trải hồn mình ra để cảm nhận sự yên bình của cuộc sống thôn
quê ấm áp, thân thương: “Những tia nắng đầu tiên của ban ngày khỏe khoắn
chọc thủng lớp mây xốp màu trắng. Rồi như vỡ òa ra, ánh sáng chán chứa
khắp chân trời phía đông. Ồ, trong cái nền da xanh ngắt của bầu trời và
những mảng mây xốp kia tôi đã nhìn thấy một làng quê yên ả.” (Đi chợ
sớm). Và cũng có thể là những khoảnh khắc rung động trong tâm hồn giữa
dòng chảy hối hả của cuộc sống: “Gió sông thổi rối tung tóc. Dòng sông êm
đềm chảy. Vạt ngô phía bên kia sông xanh tốt lạ thường… Mùi ngai ngái
của đất, của tiêu, của gió sông, say đến lạ.” (Quê nội); “nắng thủy tinh rờ rỡ
ngoài trời, những cái lá trên cây xanh sạch sẽ mơn mởn sau trận mưa đêm
đang làm duyên dưới nắng” (Người đàn bà đứng trước gương); “mỗi buổi
chiều khi hoàng hôn khoác cho trời đất tấm áo choàng màu tím, thì tiếng sáo
mục đồng ngân nga réo rắt lòng người. Một buổi sớm mai khi bình minh lên
một màu hồng tươi cùng màu xanh mỡ màng của cỏ cây có hai bông hoa
mọc lúng liếng giữa hai luống sắc nền ấy, đó chính là đôi mắt và đôi môi của
chàng” (Câu chuyện tình yêu); “Những hàng rào ô rô xanh ngắt. Hàng rào ô
rô ở gần đình làng Cam dày đến một sải tay, cao ngang mày, xén bằng. Thật
đẹp quá đi mất.” (Đất làng Cam) cũng mang đậm chất trữ tình.
Chất trữ tình còn thể hiện trong những tâm sự, những cảm xúc chủ quan
của nhân vật của những câu chuyện không có cốt truyện. Những sự kiện vốn
đã ít lại bị nhấn chìm bởi tâm trạng nhân vật: “Tôi đọc nghiến ngấu và sung
sướng đến không nắm bắt được gì cả. Đọc sách và tiểu thuyết nhiều, bây giờ
mới được thật đây. Chính là bản thân mình chứ không phải nhân vật trong
truyện nữa. Sự sung sướng ập đến nhanh quá làm tôi ngẩn người không kịp
giấu bài thơ đi.” (Chiếc vương miện bằng cỏ); “Ả gần như tuyệt vọng vì
luyến tiếc nhưng ả cần dứt khoát. Ả đưa tay kia lên sờ mái tóc bờm xờm của
82
mình rồi cảm giác sợ hãi.” (Đàn bà sinh ra từ bóng đêm). Tâm trạng của
người phụ nữ ngoại tình trong mộng: “Nàng đạt tới cảm giác mạnh chưa
từng thấy bao giờ. Rồi sau đó nàng chìm dần vào cõi hư vô. Một cõi có thứ
ánh sáng nhờ nhờ, mênh mang. Nàng chìm dần xuống. Nàng chơi vơi định
nén lại nhưng xung quanh nàng không có một thứ gì cả.” (Người đàn bà và
những giấc mơ). Hay tâm trạng của cô con gái lầm lỡ phải bỏ đi đứa con của
mình: “Con đau nỗi đau của con, và cũng là nỗi đau của người mẹ. Tháng
thứ nhất con mơ hồ, tháng thứ hai lo sợ, tháng thứ ba có cái gì đó thắng nỗi
lo sợ…, cái gì đó ấm áp dịu dàng… Giờ thì không còn nữa.”(Thư gửi mẹ Âu
Cơ). Đọc những dòng này ta thấy một Y Ban dịu dàng, đa cảm, bao dung và
tràn đầy tình yêu thương.
Y Ban còn sử dụng hình thức nhật kí (Người đàn bà có ma lực, Chiếc
vương miện bằng cỏ), bức thư (Bức thư gửi mẹ Âu Cơ, Con quỷ nhỏ trong
tôi) để diễn tả những khát vọng thầm kín của nhân vật. Nhà văn để người
đọc cùng chìm vào dòng hồi tưởng với nhân vật: “Mười bảy tuổi bước vào
trường đại học, ta là một cô gái không xinh đẹp, cũng không có duyên. Để
bù lại, ta thông minh và học giỏi. Tạo hóa đã rất công bằng khi ban cho cô
gái này sắc đẹp nhưng lại ít thông minh. Cô gái kia thông minh nhưng ít
xinh đẹp. Nhưng tạo hóa lại không có cách nào để cho người ta hiểu ngay
được rằng người ta chỉ có một hoặc vài khả năng nào đó thôi. Bởi thế người
xinh đẹp cứ ngỡ mình là người thông minh. Và kẻ thông minh lại tưởng lầm
mình là xinh đẹp. Điều này đôi khi cũng đúng. Bởi vì người xinh đẹp
thường chinh phục điều họ muốn bằng sắc đẹp. Người thông minh dĩ nhiên
là bằng trí tuệ. Nhưng, có lẽ điều này chỉ đúng với đàn bà mà thôi. Mười
bảy tuổi, ngưỡng cửa của cuộc đời: sự nghiệp và tình yêu. Sự nghiệp dường
như dang rộng cánh tay để đón ta. Thầy giáo, bạn bè ai cũng yêu mến và có
phần khâm phục nữa. Thế nhưng ta vẫn cảm thấy chưa đủ và còn bực tức.
83
Đó là khi đi dạo phố hoặc đến các cuộc vui ta đã không được các chàng trai
để ý. Trong lòng ta, ta lại muốn rằng, ở trong lĩnh vực nào ta cũng nổi lên
như một người duy nhất.” (Người đàn bà có ma lực). Người đọc như được
theo dõi cả quãng đời tuổi trẻ của người đàn bà qua từng trang nhật kí. Y
Ban cũng dẫn dắt người đọc trở về quá khứ của nhân vật trong Con quỷ nhỏ
trong tôi: “Ngày ấy tôi vừa tốt nghiệp đại học…Một buổi chiều thu, nắng
màu tím, gió heo may nhẹ đủ làm cho đôi môi se lại mọng đỏ… Khoảng
một tuần sau người ấy viết thư cho tôi… Đó là một buổi chiều u buồn, lạnh
giá, tê cóng… Một tuần sau, chắc là có sự sắp xếp của người vợ mà người
ấy đến gặp tôi.”
Có thể thấy giọng trữ tình, đằm thắm đã tạo cho trang viết của Y Ban
mềm mại, đầy nữ tính. Tất cả được dẫn dắt bởi bản năng của nhà văn và tạo
nên âm điệu nhẹ nhàng nhưng không kém phần rung động trong lòng người
đọc.
3.3.2.2. Giọng chiêm nghiệm triết lí:
Y Ban hay để cho nhân vật chiêm nghiệm về hạnh phúc trong tương
quan với những cay đắng họ phải nếm trải: “Nhưng sự đời suy thịnh, thịnh
suy, hạnh phúc rồi bất hạnh, nó chỉ cách nhau gang tấc mà thôi. Khi hạnh
phúc người ta hướng về miền đất hứa, khi bất hạnh người ta nhớ về bến đò
xưa.” (Cái Tý). Họ nhận ra chân lí của cuộc sống: “ở đời chẳng có phân giới
nào rõ ràng cho hạnh phúc hay bất hạnh, sung sướng và khổ đau. Những cảm
giác đó có một vòng giao thoa rất rộng. Hạnh phúc ư? Rồi thì bất hạnh đấy.
Sung sướng ư? Thì sẽ khổ đau ngay.” (Sau chớp là dông bão). Họ thường
nghiệm ra nhiều điều từ những gì làm cho họ đau khổ. Người đàn bà bán hoa
triết lí: “thượng đế chẳng qua chỉ là một gã đàn ông xỏ lá nhất chứ chẳng
chơi. Món quà của hắn chẳng qua chỉ là những đồng tiền xu có lỗ.” (Người
đàn bà sinh ra từ bóng đêm). Người đàn bà thành đạt cũng có cái lí của mình:
84
“Khi người ta thành đạt, người ta tự cho mình một số đòi hỏi và điều kiện nào
đấy.” (Gà ấp bóng). Khi trải qua những đớn đau họ thường triết lí về chính
những thiệt thòi mà chỉ có đàn bà mới thấu hiểu và sẻ chia cho nhau. Người
đàn bà trong Tự cho rằng: “Ừ thì số mệnh con người phải thế. Đàn bà không
khổ cửa phụ mẫu, thì cũng khổ cửa chồng con, có mấy ai vẹn toàn.” Còn
người đàn bà trong Gà ấp bóng lại cho rằng: “phụ nữ chúng tôi có những giai
đoạn chẳng khác nào con gà ấp bóng kia. Còn lại là một tình yêu đích thực.”
Từ những trang triết lí về sự từng trải của con người, Y Ban bày tỏ
quan điểm về cuộc sống. Thằng em nghịch tử trong Cõi thù hận nói với chị:
“Ở đời chẳng mấy kẻ khốn nạn mà tồn tại bền lâu đâu chị. Làm người tử tế
sướng hơn chị ạ. Người tử tế thì hay chịu thiệt thòi, dẫu có thiệt thòi vẫn là
người tử tế.” Cuộc sống của mỗi người là do chính họ tạo dựng và duy trì: “Ở
dương gian có sáng có tối. Sáng chưa chắc đã nhìn rõ mọi sự, mà tối đâu phải
là không nhìn thấy gì. Người dương gian ắt sẽ tìm thấy sự tồn tại ở đời.” (Mắt
ma). Bà nội trong Vùng sáng kí ức dạy cháu: “kiếp người ngắn ngủi lắm
nhưng cái chết chưa phải là hết. Kiếp người mà chân tu, chết đi được sang
kiếp con vật…Trải qua mỗi kiếp làm con vật, cũng phải chân tu mới sang
được kiếp khác. Nếu không thì linh hồn sẽ bơ vơ không nơi trú ngụ, rồi mãi
mãi chẳng bao giờ được trở lại kiếp người đâu cháu ạ… Sống ở kiếp nào cũng
phải chân tu mới mong thanh thoát được.” Hay một đoạn văn cô giáo đã dạy
ngày xưa: “Ai biết sám hối người đó sẽ vươn lên được.” trong Người đàn bà
Việt bên bờ sông Đa-nuyp mà cô học sinh gửi tặng cho cô giáo cũ sau một
cuộc viếng thăm. Cũng có khi nhà văn nêu ra quy luật của cuộc sống như
trong Chuyện ở rừng: “Rằng nó ở đâu ra thì phải trả nó về đấy. Nó sinh ra từ
lòng mẹ thì hãy trả nó về lòng đất. Ai làm trái đi sẽ phải trừng phạt như thế
đó.”
Với giọng điệu triết lí, nhân vật của Y Ban được soi chiếu từ nhiều bình
85
diện, tầng bậc. Họ khác nhau nhưng cùng chung một điểm là đã trải qua
những nỗi đau. Triết lí của họ có thể không hoàn toàn phù hợp với số đông
nhưng là một phần có thực của cuộc đời. Trước mỗi triết lí là những nếm trải
những khó khăn trong cuộc sống. Sau mỗi triết lí lại là những suy nghĩ, trăn
trở nghiêm túc về cuộc sống. Bằng giọng điệu này nhà văn đã bộc lộ thế giới
quan, nhân sinh quan của mình và làm tăng sức khái quát cho hình tượng
nghệ thuật.
3.3.2.3. Giọng hài hước, châm biếm:
Bên cạnh một Y Ban trữ tình, đằm thắm, chiêm nghiệm, triết lí, người
đọc còn thấy một Y Ban hài hước khi phê phán những mặt tiêu cực của xã
hội. Phê phán việc phân phối hàng hóa tem phiếu Y Ban để nhân vật của mình
lên tiếng: “vào cái thời khốn khổ, cái gì cũng phân mà phân thì như cứt. Nhà
đông con nên lúc nào cũng đói.” (Mẹ không thể xin lỗi con). Trong Cẩm cù
nhà văn khiến người đọc bị ám ảnh bởi cái nhà vệ sinh bẩn thỉu với giọng văn
hài hước: “tôi phải bịt mũi kêu Thối lắm, không chịu được – Mặt con bé kia
lạnh tanh: Mày nghĩ đây là giường ngủ nhà mày chắc, đã gọi là chuồng xí thì
nó phải hôi thối chứ - Tôi chẳng hiểu tại sao lại có loại nhà vệ sinh hai hố như
thế này mà người lớn có đi chung như chúng tôi không nhỉ? Đó vĩnh viễn là
câu hỏi bí mật và cái sự bí mật này không hiểu có liên quan gì đến câu vè này
không:
Yêu em đâu phải bạc vàng
Yêu vì nhà nàng hố xí hai ngăn”
Bản thân câu vè đã rất hóm rồi và khi nó được ghép với tình huống trên thì
hiệu quả tăng lên gấp bội. Chị phê phán cách dạy con giả dối, quan liêu, thờ ơ
ở chốn quan trường: “Mặt anh thật thà quá, anh nghĩ làm sao nó hiện cả lên
mặt anh rồi. Mà phàm người làm tổ chức thì không được thế… hãy tập cho
86
đôi mắt trống rỗng, khuôn mặt phẳng lì. Cười đấy, nói đấy mà chả có tác dụng
gì… Lời nói, hành động của anh phải không biết đâu mà lần được, cứ ậm ậm,
ừ ừ là tốt, nhất quyết không bao giờ được khẳng định điều gì cả” (Làng Cò)
Chị phê phán cách bắt ruồi đem bán để làm cái mua vui cho người của một
nhà tâm lí học: “Cánh đàn ông chúng ta có trăm nghìn cái bức bối làm ta phát
điên phát dại, rồi dẫn đến chết yểu, chết non, tôi mới nghĩ ra trò giải thoát
này. Cái trò chơi gì của cánh đàn ông chúng ta xem ra cũng có hai mặt… cái
trò chơi của tôi chỉ mất năm trăm bạc… chỉ ngặt đầu vào. Nhất thiết phải có
ruồi bác ạ. Ruồi nó là một con rất vớ vẩn, con ruồi đậu ở chuồng phân – vớ
vẩn hết sức - ấy thế mà mới nực cười” (Cái tức, cái bực, cái nực cười). Chị
còn phê phán cả hình thức liên doanh trong công nghiệp qua lời thằng bé chữa
xe: “Cháu mà có tiền như cô cháu mua con xe Tầu, rẻ hơn nửa mà chạy tốt
như ai. Nhưng cái chính là nó không tức. Liên doanh, nội địa… cái thổ tả.
Con chế nó lắp xe của cô chính hãng Tầu. Mai cô mang ra cửa hàng đổi
không cãi nhau đến nửa ngày con bé bằng con kiến, rồi chẳng tức hộc máu”
(Hành trình của tờ tiền giả). Giọng điệu hài hước đã đem đến cho những sáng
tác của Y Ban một âm hưởng riêng. Trong nhiều tác phẩm sự châm biếm đi
kèm với tiếng cười hài hước nhưng về cơ bản nó không kín đáo mà có phần
chát chúa, thâm thúy. Sau tiếng cười là cái nhìn nghiêm khắc với hiện thực, là
87
thái độ không khoan nhượng với mặt trái của cuộc đời.
PHẦN KẾT LUẬN
Y Ban gia nhập làng văn và gây được tiếng vang ngay từ tác phẩm đầu
tiên Bức thư gửi mẹ Âu Cơ với một dấu ấn riêng. Trong dòng chảy của văn
học đương đại ta có thể dễ dàng nhận ra một Y Ban dịu dàng mà riết róng,
trào lộng mà suy tư bên cạnh Nguyễn Thị Thu Huệ già dặn, từng trải, Phan
Thị Vàng Anh dí dỏm thâm trầm, Lí Lan sắc sảo, Đỗ Bích Thúy mềm mại,
quyết liệt. Mỗi tập truyện của chị ra đời đều thu hút được sự quan tâm của
đông đảo bạn đọc và giới phê bình. Với những thành công nhất định trên văn
đàn chị vẫn tiếp tục viết bởi “Khi ta thành công, đời sẽ tha thứ cho ta mọi lỗi
lầm. Đúng quá rồi! Hãy cầm bút và viết đi. Hãy viết bằng máu thịt để cứu
chuộc những lỗi lầm.” (Y Ban – Những trang viết đầu tiên - Tạp chí Tác
phẩm mới 1/1998)
Khảo sát tám tập truyện ngắn của Y Ban chúng ta nhận thấy một thế giới
nhân vật đa dạng và nghệ thuật trần thuật độc đáo. Chị tỏ ra rất sắc sảo khi
viết về cuộc sống, về con người trong cuộc sống đời thường với những tâm
tư, ẩn ức của họ. Tư duy hướng nội đã chi phối thế giới nhân vật trong tác
phẩm của chị. Nhân vật trong truyện ngắn Y Ban thiên về biểu hiện tâm trạng.
Nhà văn hay dành một khoảng thời gian để nhân vật biện hộ, giải thích hay
dằn vặt để tự thức tỉnh, tự hoàn thiện nhân cách. Nhà văn đã khám phá phần
bí ẩn trong con người đặc biệt là người phụ nữ. Qua những sáng tác của chị
người đọc thấy được một thế giới đàn bà đầy bí ẩn, chênh vênh mà đầy yêu
thương và đức hi sinh. Chị hay sử dụng điểm nhìn trần thuật bên ngoài cho
sáng tác của mình để đem lại sự khách quan và niềm tin cho bạn đọc. Việc
chị để cho nhân vật tự kể chuyện mình hay “hóa thân” thành người kể chuyện
đều mang lại cho người đọc những trải nghiệm thú vị. Tình huống truyện của
88
Y Ban hấp dẫn nhờ các kiểu tình huống: tình huống tâm trạng, tình huống tự
nhận thức, tình huống mang tính kịch. Mỗi kiểu tình huống lại đem đến cho
người đọc những cảm nhận khác nhau. Chị thường sử dụng kết cấu tâm lí để
tạo cảm xúc và nỗi niềm trăn trở cho độc giả khi dõi theo từng trang viết của
chị. Y Ban có cách diễn đạt ngôn ngữ linh hoạt với nhiều giọng điệu đan xen
khiến tác phẩm của chị gần gũi với đời sống, mang tính dân chủ và nhân bản
sâu sắc. Ngôn ngữ đời thường, mang đậm chất dân gian khiến truyện của chị
mềm mại, mượt mà, sâu sắc và đến gần với người đọc hơn. Chị thường gọi
tên nhân vật kiểu phiếm chỉ. Điều này làm người đọc có cảm giác “bắt gặp”
nhân vật của chị đâu đó trong cuộc sống đời thường. Đọc truyện ngắn của Y
Ban có lúc chúng ta thấy chị dùng giọng điệu trữ tình, đằm thắm, có lúc lại
thấy giọng chiêm nghiệm triết lí, cũng có lúc là giọng hài hước, châm biếm.
Dù sử dụng giọng điệu gì chị cũng đều để lại dấu ấn khó quên trong lòng
người đọc, khơi gợi nhiều khả năng đối thoại và suy ngẫm. Với lối viết của
riêng mình Y Ban đã góp một tiếng nói làm phong phú thêm bức tranh văn
xuôi nữ đương đại.
Nghiên cứu thế giới nghệ thuật trong truyện ngắn Y Ban cho thấy chị là
một nhà văn có trách nhiệm với nghề, có tìm tòi, thể nghiệm và đổi mới cảm
hứng sáng tạo và bút pháp thể hiện. Những tập truyện chị viết trước năm 2000
thường phản ánh số phận con người đặc biệt là người phụ nữ. Gần đây khi chị
chuyển sang lĩnh vực làm báo thì những tác phẩm của chị lại hướng ra xã hội,
đề cập tới những vấn đề “nóng” của hiện thực, động chạm tới những vấn đề
bức xúc, những mối quan hệ phức tạp. Bằng “gia tài” truyện ngắn của mình,
chị cho thấy sự gắn bó với thể loại và một sự dẻo dai, tâm huyết trong lao
động sáng tạo. Với những thành tựu của mình chị đã tạo nên một phong cách
89
dịu dàng mà quyết liệt trong văn xuôi Việt Nam đương đại.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
I. CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU ĐÃ ĐƯỢC IN THÀNH
SÁCH HOẶC CÔNG BỐ TRÊN CÁC TẠP CHÍ, BÁO VIẾT:
1. Lê Tiến Dũng. Tìm hiểu tác phẩm văn học. NXB Tổng hợp Sông Bé
1991
2. Hà Minh Đức. Lí luận văn học. NXB Giáo dục 1992
3. Nhiều tác giả. Phụ nữ và sáng tác văn chương. Tạp chí văn học số
6/1996.
4. Lê Bá Hán - Trần Đình Sử - Nguyễn Khắc Phi (Đồng Chủ Biên). Từ
Điển Thuật Ngữ Văn Học – NXB Giáo dục 2007
5. Nguyễn Thái Hòa. Những vấn đề thi pháp của truyện. NXB Giáo dục
2000
6. Lê Thị Hường. Quan niệm con người cô đơn trong truyện ngắn hôm
nay. Tạp chí Văn học số 2/1994.
7. Phong Lê. Vài nét tiếp cận lịch sử và giá trị văn xuôi Việt Nam hiện
đại. Tạp chí nghiên cứu văn học số 3/2010
8. Phương Lựu – Trần Đình Sử – Nguyễn Xuân Nam – Lê Ngọc Trà. Lí
luận văn học. NXB Giáo dục
9. G. N. Pospelop. Dẫn luận nghiên cứu văn học. NXB Giáo dục 1998
10. Nguyễn Đức Quang – Ngô Vĩnh Bình – Phạm Hoa. Chúng tôi phỏng
vấn bốn cây bút nữ. Tạp chí Văn nghệ quân đội số 3/1993.
11. Trần Đình Sử. Dẫn luận thi pháp học. NBX Giáo Dục 1998.
12. Trần Đình Sử. Những vấn đề thi pháp học hiện đại. Vụ Giáo viên
1993.
13. Bùi Việt Thắng. Khi người ta trẻ I (Tản mạn về truyện ngắn những cây
90
bút nữ trẻ). Báo Văn nghệ số 43/1993.
14. Bùi Việt Thắng. Một giọng nữ trầm trong văn chương. Tạp chí văn
hóa số 397/1997.
15. Bùi Việt Thắng. Một bước đi của truyện ngắn. Tạp chí nhà văn số
3/2000
16. Bích Thu. Những dấu hiệu đổi mới của văn xuôi 1975 qua hệ thống
một chủ đề. Tạp chí Văn học số 4/1995.
17. Bích Thu. Văn xuôi phái đẹp. Tạp chí sông Hương số 145/2001.
18. Lê Thị Hương Thủy. Đọc truyện ngắn Y Ban.
II. NHỮNG BÀI VIẾT TRÊN BÁO ĐIỆN TỬ
19. Lan Anh. Nhà văn Y Ban – Tôi không nhẫn được. www.dep.com.vn
20. Nhiều tác giả. Nghĩ về văn hóa sex. www.diendan.thotre.com
21. Nhiều tác giả. Yếu tố tình dục trong văn Y Ban từ góc nhìn văn hóa.
www.vanhoahoc.edu.vn
22. Hoàng Thành Nam. Ý kiến của độc giả về tập truyện ngắn “I am đàn
bà” bị thu hồi. www.diendan.thotre.com
23. Phạm Hồ Thu. Đọc sách “I am đàn bà”. www.vinabook.com
24. Nhà văn Y Ban và quan niệm sáng tác. www.vietbao.vn
25. Nhà văn Y Ban: Đánh giá cao độc giả hơn nhà phê bình.
www.thethaovanhoa.vn
26. Nhà văn Y Ban không muốn bình luận. www.giadinh.net.vn
27. Nhà văn Y Ban và quan niệm sáng tác. www.vietbao.vn
28. Nhà văn Y Ban – văn chương vẫn cần trời cho.
www.vietimes.vietnamnet.vn
29. Y Ban – Cái nhân tình không ai bán cả. www.vnexpress.net
30. Y Ban chấp nhận dấn thân để sáng tạo. www.vietbao.vn
31. Y Ban: Hành trình đến tận cùng thế tục. www.vietimes.vietnamnet.vn
91
32. Y Ban không thấy nhục cảm là phi đạo đức. www.giadinh.net.vn
33. Y Ban – sex là giải trí văn hóa. www.vnexpress.net
34. Y Ban với “I am đàn bà”. www.vnexpress.net
35. Ý kiến của độc giả về tập truyện ngắn “I am đàn bà” bị thu hồi.
www.diendan.thotre.com
III. CÁC LUẬN VĂN, KHÓA LUẬN
36. Tạ Thị Quỳnh Liên. Thiên tính nữ trong truyện ngắn của nhà văn Y
Ban. Khóa luận tốt nghiệp đại học ngành Văn học. Trường Đại học
KHXH&NV 2010.
37. Tống Thị Minh. Niên luận về vấn đề sex trong truyện ngắn của Y Ban.
Trường Đại học KHXH&NV 2009.
38. Vũ Phương Thảo. Đặc điểm văn xuôi Y Ban. Luận văn thạc sĩ văn học
Việt Nam. Trường Đại học KHXH&NV 2009
39. Lê Thị Hương Thủy. Truyện ngắn của một số cây bút nữ thời kì đổi
mới (Qua sáng tác của Nguyễn Thị Thu Huệ, Y Ban, Phan Thị Vàng
Anh, Lí Lan). Luận văn thạc sĩ khoa học Ngữ văn. Trường Đại học
KHXH&NV 2004.
40. Bùi Thanh Truyền. Yếu tố kỳ ảo trong văn xuôi đương đại Việt Nam.
92
Luận án Tiến sĩ – Viện Văn học 2006.