intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Khóa luận tốt nghiệp: Nông thôn trong tập truyện Kì nhân làng Ngọc của Trần Thanh Cảnh

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:48

32
lượt xem
6
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục tiêu của đề tài là tìm hiểu về bức tranh hiện thực đời sống nông thôn và con người trong tập truyện Kì nhân làng Ngọc của Trần Thanh Cảnh; tìm hiểu một số phương diện nghệ thuật thể hiện đề tài nông thôn trong tập truyện Kì nhân làng Ngọc của Trần Thanh Cảnh; khẳng định những đóng góp của nhà văn trong mảng văn xuôi viết về nông thôn thời kì đổi mới.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Khóa luận tốt nghiệp: Nông thôn trong tập truyện Kì nhân làng Ngọc của Trần Thanh Cảnh

  1. TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2 KHOA NGỮ VĂN *************** BÙI THỊ KHÁNH DUNG NÔNG THÔN TRONG TẬP TRUYỆN KÌ NHÂN LÀNG NGỌC CỦA TRẦN THANH CẢNH KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Ngƣời hƣớng dẫn khoa học TS. NGUYỄN THỊ TUYẾT MINH HÀ NỘI, 2017
  2. LỜI CẢM ƠN Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc tới cô giáo, TS. Nguyễn Thị Tuyết Minh - ngƣời đã tận tình hƣớng dẫn tôi trong suốt quá trình thực hiện khóa luận này. Xin chân thành cảm ơn các thầy, cô giáo trong khoa Ngữ văn, đặc biệt là các thầy, cô giáo trong tổ Văn học Việt Nam đã giúp đỡ và tạo điều kiện thuận lợi cho tôi hoàn thành khóa luận. Mặc dù đã cố gắng nhƣng khóa luận này vẫn không tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong nhận đƣợc sự góp ý của các thầy, cô giáo và các bạn để khóa luận hoàn thiện hơn. Xin chân thành cảm ơn! Hà Nội, tháng 5 năm 2017 Tác giả khóa luận Bùi Thị Khánh Dung
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan: Bản khóa luận này là kết quả nghiên cứu của riêng tôi. Kết quả này không trùng với bất cứ công trình nghiên cứu nào khác. Nếu sai tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm! Hà Nội, tháng 5 năm 2017 Tác giả khóa luận Bùi Thị Khánh Dung
  4. MỤC LỤC MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1 1. Lí do chọn đề tài ............................................................................................ 1 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ............................................................................ 2 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu................................................................. 4 4. Mục đích nghiên cứu ..................................................................................... 4 5. Phƣơng pháp nghiên cứu............................................................................... 5 6. Đóng góp của khóa luận................................................................................ 5 7. Bố cục của khóa luận .................................................................................... 5 NỘI DUNG ....................................................................................................... 6 CHƢƠNG 1: ĐỀ TÀI NÔNG THÔN TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM HIỆN ĐẠI .................................................................................................................... 6 1.1. Đề tài nông thôn qua các giai đoạn của văn học Việt Nam hiện đại ......... 6 1.1.1. Đề tài nông thôn trong văn học Việt Nam nửa đầu thế kỉ XX ............... 6 1.1.2 Đề tài nông thôn trong văn học Việt Nam nửa sau thế kỉ XX ................. 8 1.1.3. Đề tài nông thôn trong văn học Việt Nam đầu thế kỉ XXI ................... 10 1.2. Tác giả Trần Thanh Cảnh và tập truyện Kì nhân làng Ngọc ................... 12 1.2.1. Vài nét về tác giả Trần Thanh Cảnh ..................................................... 12 1.2.2. Tập truyện Kì nhân làng Ngọc .............................................................. 13 CHƢƠNG 2: HIỆN THỰC ĐỜI SỐNG NÔNG THÔN VÀ CON NGƢỜI . 16 TRONG TẬP TRUYỆN KÌ NHÂN LÀNG NGỌC ......................................... 16 2.1. Hiện thực đời sống nông thôn .................................................................. 16 2.1.1. Hiện thực đời sống gia đình, dòng họ ................................................... 16 2.1.2. Hiện thực đời sống văn hóa................................................................... 20 2.2. Con ngƣời trong tập truyện Kì nhân làng Ngọc....................................... 23 2.2.1. Con ngƣời bi kịch .................................................................................. 23 2.2.2. Con ngƣời tha hóa ................................................................................. 25
  5. CHƢƠNG 3: MỘT SỐ PHƢƠNG DIỆN NGHỆ THUẬT THỂ HIỆN ........ 30 ĐỀ TÀI NÔNG THÔN TRONG TẬP TRUYỆN KÌ NHÂN LÀNG NGỌC .. 30 3.1. Nghệ thuật kể chuyện ............................................................................... 30 3.2. Ngôn ngữ .................................................................................................. 33 3.3. Giọng điệu ................................................................................................ 37 KẾT LUẬN ..................................................................................................... 40 TÀI LIỆU THAM KHẢO
  6. MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Một đất nƣớc có gần 80% dân số làm nông nghiệp và nông thôn là địa bàn cƣ trú chủ yếu của ngƣời dân nhƣ Việt Nam thì tất yếu trong nền văn học, đề tài nông thôn là mảng đề tài lớn. Đây là mảng đề tài từng ghi danh nhiều tác giả tiêu biểu nhƣ: Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Đào Vũ, Nguyễn Kiên, Nguyễn Minh Châu… Đại thắng mùa xuân 1975 mở ra một kỉ nguyên mới cho dân tộc. Đặc biệt sau năm 1986, cùng với sự phát triển và hội nhập, kinh tế Việt Nam có những bƣớc chuyển biến mau lẹ, khu vực nông thôn đang trong quá trình tiếp biến thay đổi mạnh mẽ. Quá trình công nghiệp hóa nông thôn diễn ra với tốc độ nhanh chóng, đời sống ngƣời dân nông thôn, những giá trị văn hóa đằng sau lũy tre làng Việt Nam đã có những thay đổi đến không ngờ. Mặt trái của kinh tế thị trƣờng khiến nhiều giá trị tốt đẹp của văn hóa truyền thống đang đứng trƣớc nguy cơ mai một. Với tinh thần “nhìn thẳng vào sự thật, nói đúng sự thật”, các nhà văn đã hƣớng ngòi bút vào phản ánh bức tranh đời sống và con ngƣời ở nông thôn một cách chân thực và khách quan. Có thể kể đến những tác giả, tác phẩm tiêu biểu viết về đề tài nông thôn nhƣ:Lê Lựu với Thời xa vắng, Dƣơng Hƣớng với Bến không chồng, Nguyễn Khắc Trƣờng với Mảnh đất lắm người nhiều ma, Hoàng Minh Tƣờng với Thuỷ hoả đạo tặc, Đào Thắng với Dòng sông mía… và Trần Thanh Cảnh với Kì nhân làng Ngọc. Vào nghề văn khá muộn, hơn 40 tuổi Trần Thanh Cảnh mới cầm bút nhƣng ông cũng để lại những dấu ấn riêng trong sáng tác của mình và gặt hái đƣợc thành công nhất định. Ngô Văn Giá cho rằng:“Trần Thanh Cảnh vào nghề muộn nhưng chín sớm”. Với tập truyện Kì nhân làng Ngọc, Trần Thanh Cảnh đã vinh dự nhận giải thƣởng của Hội Nhà văn Việt Nam năm 2015. Tập 1
  7. truyện khắc họa chân thực, sinh động hình ảnh nông thôn Việt Nam, tái hiện rõ nét bức tranh hiện thực và cuộc sống con ngƣời Việt Nam thời kì đổi mới ở những mảng màu sáng, tối với nhiều số phận, tính cách khác nhau. Xuất phát từ những lí do trên, chúng tôi chọn nghiên cứu đề tài khóa luận:“Nông thôn trong tập truyện Kì nhân làng Ngọc của Trần Thanh Cảnh” với mong muốn góp một tiếng nói khẳng định vị trí của đề tài nông thôn trong văn xuôi Việt Nam đƣơng đại. 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Là một tác phẩm vinh dự nhận giải nhất của Hội Nhà văn Việt Nam năm 2015, Kì nhân làng Ngọc còn nguyên tính “thời sự”, chƣa có nhiều độ lùi thời gian, nhƣng tác phẩm đã nhận đƣợc sự quan tâm của các nhà nghiên cứu, phê bình. Có thể kể đến một số bài viết sau đây: Trên báo Nhân dân, tác giả Nguyễn Văn Hùng trong bài Nét đặc sắc của Kì nhân làng Ngọc khẳng định:“Tác phẩm của anh cuốn hút người đọc bởi cái bề bộn, ngổn ngang, đa diện, sống động đến từng chi tiết của cuộc sống và con người nơi vùng Kinh Bắc; sự đa dạng, nhiều chiều của thế giới nhân vật; sự mới lạ, đa tầng của không gian và thời gian; cái độc đáo, tươi rói trong ngôn từ, giọng điệu thể hiện; cái sâu lắng, độ ngân vang trong những trầm tích, biểu tượng văn hóa, lịch sử… Tất cả được thai nghén, chắt lọc từ chính những chiêm nghiệm của một người vốn quan niệm viết như một sự giải tỏa tâm hồn, một món nợ cuộc đời cần phải trả cho quê hương; được thăng hoa, sáng tạo trong khát vọng “vượt thoát”, nỗ lực làm mới, làm khác của người nghệ sĩ với ý hướng văn chương mình lựa chọn” [4]. Nguyễn Văn Hùng còn nhấn mạnh: “Truyện ngắn của Trần Thanh Cảnh chú tâm vào cái thường nhật, những xung đột, mâu thuẫn phức tạp, những góc khuất, bí ẩn nội tâm, những trạng huống tâm lý đa chiều với bao quan hệ nhân sinh chồng chéo, ẩn chìm cùng cái nhìn sâu vào đời tư - thế sự - nhân văn. Và nó đã thật 2
  8. sự giữ vai trò cốt yếu trong cảm quan nghệ thuật của nhà văn khi sáng tạo về đề tài nông thôn” [4]. Tác giả Hoài Nam trong bài Viết về Kinh Bắc trường hợp Trần Thanh Cảnh khẳng đinh: “Kỳ nhân làng Ngọc của Trần Thanh Cảnh không phải một công trình nghiên cứu tâm lý xã hội học địa phương, mà nó là tác phẩm văn chương. Nó không đóng khung trong sự phản ánh, mà là hư cấu, là một diễn giải Kinh Bắc theo cách của Trần Thanh Cảnh” [9]. Hồ Anh Thái trong bài Chuyện không dứt về một làng quê – đƣợc chọn làm lời giới thiệu cho tập truyện Kì nhân làng Ngọc cho rằng: “Kỳ nhân làng Ngọc thực ra cũng chẳng có gì kỳ lạ lắm. Cuộc đời một con người như thế dễ thấy trên cả đất nước hàng chục năm chinh chiến này. Vừa vào truyện, tác giả đã để cho nhân vật can tội hiếp dâm, rồi bị kỷ luật đi lao động công trường trên miền cao, rồi mãn hạn thì xung phong đi bộ đội, rồi thành người lính đánh giặc dũng cảm, rồi trở về hậu phương, chẳng biết đi đâu đành về lại cái làng quê mà mình đã tưởng chỉ nên từ bỏ. Đường tình duyên thì có mấy người đàn bà, từ cô gái hồn nhiên mới lớn, từ những người bán phấn buôn hương ở Khâm Thiên, từ người đàn bà quá lứa lỡ thì làm vợ đầu tiên, đến người vợ hai là tấm gương lao động tập thể hợp tác xã, đến bà già ngẩn ngơ ở bến sông quê” [1, 5- 6]. Có thể thấy, “thông qua số phận một con người, tác giả cho thấy những thời đoạn lịch sử của đất nước: sau thời kỳ cải cách ruộng đất, sang thời hòa bình kiến thiết, thời chiến tranh chống ngoại xâm, đến thời kỳ thống nhất đất nước và xây dựng lại. Lịch sử hiện lên thông qua sự lồng ghép vào số phận nhân vật, lịch sử gây hứng thú hơn cho người đọc, và câu chuyện cũng vượt lên so với một chuyện tình éo le thông thường.” [1, 6]. Kì nhân làng Ngọc đƣợc Hồ Anh Thái ví nhƣ tấm “danh thiếp” của Trần Thanh Cảnh để nhà văn tự giới thiệu mình. 3
  9. Sƣơng Nguyệt Minh trong bài Buồn vui và hy vọng (Tạp chí Văn nghệ quân đội số 837, 838) nhận xét: “Kì nhân làng Ngọc là tập truyện ngắn mới nhất của Trần Thanh Cảnh, chỉ kể chuyện trong một làng mà đủ cả hỉ nộ ái ố, nhân tình thế thái. Con mắt nhà văn nhìn đời khá lọc, tinh ranh và văn cũng vì thế mà già giặn sắc sảo nhưng vẫn có hồn, có tình” [8]. Nhìn chung, Kì nhân làng Ngọc còn “nóng hổi tính thời sự” nên các bài viết về nó mới chỉ dừng lại ở những bài giới thiệu, những đánh giá khái quát. Đến nay, chƣa có một công trình khoa học nào đi sâu nghiên cứu toàn diện về tác phẩm. Đó là khoảng trống để khóa luận của chúng tôi tập trung tìm hiểu: “Nông thôn trong tập truyện Kì nhân làng Ngọc của Trần Thanh Cảnh”. 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tƣợng nghiên cứu Đối tƣợng nghiên cứu của khóa luận là tập truyện Kì nhân làng Ngọc của Trần Thanh Cảnh (gồm 14 truyện), do NXB Trẻ ấn hành năm 2015. 3.2. Phạm vi nghiên cứu Phạm vi nghiên cứu của khóa luận là đi sâu nghiên cứu về đề tài nông thôn trong tập truyện Kì nhân làng Ngọc của Trần Thanh Cảnh và trong một chừng mực nhất định sẽ có sự so sánh đối chiếu với những tác phẩm cùng thời khác viết về đề tài nông thôn. 4. Mục đích nghiên cứu - Tìm hiểu về bức tranh hiện thực đời sống nông thôn và con ngƣời trong tập truyện Kì nhân làng Ngọc của Trần Thanh Cảnh. - Tìm hiểu một số phƣơng diện nghệ thuật thể hiện đề tài nông thôn trong tập truyện Kì nhân làng Ngọc của Trần Thanh Cảnh. - Khẳng định những đóng góp của nhà văn trong mảng văn xuôi viết về nông thôn thời kì đổi mới. 4
  10. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu Khóa luận sử dụng các phƣơng pháp nghiên cứu chủ yếu sau: - Phƣơng pháp khảo sát, thống kê - Phƣơng pháp so sánh, đối chiếu - Phƣơng pháp phân tích tổng hợp 6. Đóng góp của khóa luận Khóa luận làm rõ bức tranh đời sống nông thôn và con ngƣời trong tập truyện Kì nhân làng Ngọc của Trần Thanh Cảnh. Qua đó, khẳng định đóng góp của nhà văn trong mảng văn xuôi viết về nông thôn thời kì đổi mới. 7. Bố cục của khóa luận Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, khóa luận đƣợc triển khai thành 3 chƣơng nhƣ sau: Chƣơng 1: Đề tài nông thôn trong văn học Việt Nam hiện đại Chƣơng 2: Đời sống nông thôn và con ngƣời trong tập truyện Kì nhân làng Ngọc của Trần Thanh Cảnh Chƣơng 3: Một số phƣơng diện nghệ thuật thể hiện đề tài nông thôn trong tập truyện Kì nhân làng Ngọc của Trần Thanh Cảnh 5
  11. NỘI DUNG CHƢƠNG 1 ĐỀ TÀI NÔNG THÔN TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM HIỆN ĐẠI 1.1. Đề tài nông thôn qua các giai đoạn của văn học Việt Nam hiện đại 1.1.1. Đề tài nông thôn trong văn học Việt Nam nửa đầu thế kỉ XX Trong tâm thức mỗi ngƣời dân Việt Nam - cƣ dân của nền văn hóa gốc nông nghiệp, hình ảnh về nông thôn và ngƣời nông dân luôn là sự ám ảnh khôn nguôi. Đề tài nông thôn luôn là đề tài lớn đối với văn học Việt Nam qua nhiều giai đoạn. Đầu thế kỉ XX xã hội Việt Nam có nhiều biến động. Đó là một xã hội náo nhiệt xô bồ mà đồng tiền tƣ sản, lối sống tƣ sản, đạo đức tƣ sản đang dần chiếm vị trí quan trọng trong chốn thị thành. Trong khi đó ở nông thôn bọn cƣờng hào, quan lại địa chủ cấu kết với nhau hà hiếp dân lành. Cuộc sống của dân nghèo vốn đã lam lũ, khốn khó nay lại càng điêu đứng gấp bội. Hiện thực cuộc sống ngày càng phức tạp với bao vấn đề nhức nhối khiến nhà văn không thể làm ngơ. Vấn đề nông thôn, cuộc sống tối tăm của ngƣời nông dân đƣợc đặt ra trong nhiều tác phẩm nổi tiếng nhƣ: Bước đường cùng, Đồng hào có ma, Tinh thần thể dục của Nguyễn Công Hoan; Tắt đèn, Việc làng của Ngô Tất Tố; Chí Phèo, Lão Hạc của Nam Cao; Vỡ đê, Giông tố của Vũ Trọng Phụng… Sáng tác của Nguyễn Công Hoan đả kích sâu cay xã hội cũ với hình ảnh bọn cƣờng hào, địa chủ, quan lại, mà điển hình là nhân vật Nghị Lại trong tiểu thuyết Bước đường cùng. Bên cạnh đó, các truyện ngắn trào phúng: Đồng hào có ma, Tinh thần thể dục, Chiếc quan tài... hƣớng thẳng vào sự phê phán quan lại, địa chủ, tƣ sản và những xấu xa của xã hội thuộc địa, nửa phong kiến, sự phơi bày số phận đen tối của những ngƣời dân nghèo khổ trong xã hội. 6
  12. Ngô Tất Tố vốn là một nhà nho, xuất thân trong một gia đình nghèo ở nông thôn, sống gắn bó máu thịt với những ngƣời nông dân. Các tệ nạn xã hội, cũng nhƣ các tập tục, tập quán lạc hậu chốn thôn quê đƣợc Ngô Tất Tố phanh phui, lên án từ quan điểm dân chủ tiến bộ qua hai thiên phóng sự Việc làng và Tập án cái đình nổi tiếng. Đặc biệt tiểu thuyết Tắt đèn đƣợc ví nhƣ là một bản tố khổ sâu sắc, một bản cáo trạng đanh thép về chính sách sƣu thuế, nạn cƣờng hào xôi thịt, nạn hà hiếp, cƣớp bóc... của chế độ thực dân phong kiến làm điêu đứng bao ngƣời nông dân nghèo khổ. Đồng thời, tác phẩm đã làm thức tỉnh những ngƣời có lƣơng tri mong muốn nhanh chóng huỷ bỏ chế độ thuế thân - một thứ thuế vô nhân đạo thời trung cổ đánh vào đầu ngƣời đang sống và cả ngƣời đã chết. Một nhà văn đƣợc coi là đại biểu xuất sắc của chủ nghĩa hiện thực phê phán viết về mảng đề tài nông thôn trong giai đoạn này là Nam Cao. Với quan điểm "khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những gì chưa có", Nam Cao đã để lại sự ám ảnh trong lòng ngƣời đọc về bức tranh làng quê nông thôn Việt Nam một cách chân thƣc, để lại ấn tƣợng khó quên về số phận của ngƣời nông dân qua các tác phẩm nhƣ:Dì Hảo, Lão Hạc, Nghèo, Một bữa no, Một đám cưới, Trẻ con không được ăn thịt chó... Lão Hạc trong truyện ngắn Lão Hạc bị dồn tới cùng đƣờng đã chọn cái chết, dù thê thảm nhƣng đó là cách duy nhất để bảo toàn nhân cách trong sạch của mình. Cái chết của lão thật dữ dội, phản ánh sự ngột ngạt, tăm tối của xã hội Việt Nam đƣơng thời. Qua cái chết của lão Hạc, ngƣời đọc nhận thấy, ngƣời nông dân nếu không chấp nhận sự tha hoá thì chỉ còn con đƣờng chết. Lão Hạc đã chọn cho mình cái chết để quyết giữ bản chất lƣơng thiện của mình. Không chỉ dừng lại ở việc miêu tả sự bần cùng hoá của ngƣời nông dân, Nam Cao còn khái quát quá trình tha hoá, lƣu manh của một bộ phận nông dân qua truyện ngắn xuất sắc Chí Phèo. Từ một anh nông dân hiền lành, lƣơng thiện, có ý thức về nhân 7
  13. cách, Chí Phèo bị Bá Kiến đẩy đi ở tù, rồi bị nhà tù thực dân biến thành kẻ lƣu manh, cƣớp giật, đâm thuê chém mƣớn. Cuộc đời hắn ngày càng chìm dần trong vòng tội lỗi đến khi nhận ra mình thì không còn ai chấp nhận hắn là ngƣời nữa. Chí Phèo buộc phải lựa chọn cái chết để tự giải thoát. Có thể thấy, bằng khả năng quan sát tinh tƣờng, các cây bút văn xuôi viết về đề tài nông thôn nửa đầu thế kỉ XX nhƣ đã truyền đƣợc cả “không khí” của đời sống nông thôn, phản ánh chân thực nhiều khía cạnh cuộc sống của con ngƣời đƣơng thời trong xã hội vào tác phẩm. 1.1.2 Đề tài nông thôn trong văn học Việt Nam nửa sau thế kỉ XX Cách mạng tháng Tám thành công, lịch sử dân tộc Việt Nam bƣớc sang một trang mới. Sức sống của cuộc cách mạng nhƣ một cơn gió lớn thổi sáng mát trên gƣơng mặt đất nƣớc, trên gƣơng mặt con ngƣời để làm bừng dậy một sinh khí mới mẻ, vui tƣơi. Đời sống nông thôn đã có những thay đổi lớn lao. Cuộc cách mạng ấy đã “giải phóng dân tộc đồng thời giải phóng cho văn học thoát khỏi những trói buộc của quan niệm nghệ thuật cũ”[5, 10]. Sự phản ánh đời sống, con ngƣời nông thôn trong văn học thời kì này đƣợc thể hiện trên nhiều thể loại với những tác phẩm tiêu biểu nhƣ: Làng (Kim Lân), Con trâu (Nguyễn Văn Bổng), Vợ chồng A Phủ ( Tô Hoài), Vỡ đất (Hoàng Văn Bổn)… Hình ảnh ngƣời nông dân hiện lên trong các tác phẩm thời kì này là những ngƣời cần cù, vƣợt khó, vƣợt khổ, tuy họ kém về văn hóa, ngây thơ, khờ khạo nhƣng rất nhạy cảm với cách mạng, với kháng chiến, hăng hái tham gia cách mạng, tuyệt đối tin tƣởng vào cách mạng. Năm 1954 thắng lợi của chiến dịch Điên Biên Phủ làm chấn động địa cầu, đánh dấu sự thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp gian khổ, ác liệt. Miền Bắc hoàn toàn giải phóng và đi vào xây dựng chủ nghĩa xã hội. Từ đồng bằng đến miền núi, từ núi rừng đến hải đảo xa xôi, đất nƣớc bừng lên một sức sống mới với sắc màu lung linh của hình sông thế núi, rực rỡ về văn hóa, ấm 8
  14. áp về tình ngƣời. Sau năm 1954 thời kì cải cách ruộng đất, nông thôn đi vào các tác phẩm văn học ở một diện mạo mới với các tác phẩm tiêu biểu nhƣ: tập truyện Nông dân với địa chủ (Nguyễn Công Hoan), tiểu thuyết Bếp đỏ lửa (Nguyễn Văn Bổng) hay tập truyện ngắn Ông lão hàng xóm (Kim Lân)… Cùng với các tác phẩm viết về nông thôn trong cải cách ruộng đất, ở phong trào hợp tác hóa nông nghiệp, văn học về đề tài nông thôn tập trung vào việc miêu tả sự lựa chọn giữa hai con đƣờng: ra hay vào hợp tác trong thời kì đầu của hợp tác hóa nông nghiệp, rồi tiến đến là chủ đề con ngƣời mới trong thời kì cải tiến quản lí hợp tác xã và xây dựng nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc. Đó còn là những tác phẩm mang âm hƣởng sử thi, có những phát hiện mới về số phận cá nhân và khát vọng sống và khát vọng hạnh phúc của ngƣời nông dân khi viết về nông thôn trong chiến tranh chống Mỹ nhƣ: Cái sân gạch, Vụ lúa chiêm (Đào Vũ); Cái hom giỏ, Vợ chồng ông lão chăn vịt (Vũ Thị Thƣờng); Mùa lạc (Nguyễn Khải); Cửa sông (Nguyễn Minh Châu)… Bên cạnh đó, những tác phẩm văn xuôi viết về nông thôn trong văn học giải phóng miền Nam thời kì kháng chiến chống Mỹ chủ yếu phản ánh sự thức tỉnh tinh thần yêu nƣớc, chủ nghĩa anh hùng cách mạng của quần chúng nhƣ: Những đứa con trong gia đình (Nguyễn Thi); Rừng U Minh (Trần Hiếu Minh); Hòn Đất (Anh Đức); Gia đình má Bẩy, Mẫn và tôi (Phan Tứ)… Đại thắng mùa xuân 1975 đã mở ra một kỉ nguyên mới của dân tộc - đất nƣớc độc lập đi lên xây dựng xã hội chủ nghĩa. Nhƣng cuộc sống hòa bình đặt con ngƣời với những thử thách mới. Những mất mát sau chiến tranh, nền kinh tế đất nƣớc lâm vào tình trạng tự cung tự cấp, chế độ quản lí quan liêu bao cấp… Đất nƣớc hết chiến tranh nhƣng tiếng súng vẫn tiếp tục nổ ở biên giới phía Bắc, phía Tây Nam. Thêm vào đó, hệ thống các nƣớc xã hội chủ nghĩa rơi vào khủng hoảng và sụp đổ. Đất nƣớc đứng trƣớc muôn vàn khó khăn thử thách và một lần nữa ngƣời nông dân lại đứng trƣớc những thử thách mới. 9
  15. Cũng vì thế, những tác phẩm văn học viết về nông thôn thời kì này có những dấu hiệu chuyển mình. Một số nhà văn hƣớng ngòi bút vào phản ánh hiện thực khổ cực của ngƣời nông dân do cách làm ăn cũ, đồng thời phê phán cung cách làm ăn và quản lí nông thôn kiểu cũ nhƣ: Nhìn dưới mặt trời (Nguyễn Kiên), Bí thư cấp huyện (Đào Vũ), Cù lao Tràm (Nguyễn Mạnh Tuấn)... Trong khi đó, một số nhà văn khác lại hƣớng ngòi bút của mình vào cuộc sống đƣơng thời với những vấn đề tồn tại của xã hội nhƣ: Mùa lá rụng trong vườn (Ma Văn Kháng); Gặp gỡ cuối năm, Thời gian của người (Nguyễn Khải); Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành, Bến quê (Nguyễn Minh Châu)... Văn học Việt Nam giai đoạn khoảng mƣời năm sau chiến tranh viết về nông thôn đã có ít nhiều thay đổi diện mạo, chuẩn mực để thích ứng với đặc điểm thời đại. Tuy nhiên, nhiều tác phẩm vẫn thiên về phản ánh vấn đề nóng bỏng của xã hội mà chƣa quan tâm thực sự đến số phận riêng tƣ của ngƣời nông dân. Văn học viết về đề tài nông thôn chỉ thực sự thay đổi bắt đầu từ sau năm 1986. 1.1.3. Đề tài nông thôn trong văn học Việt Nam đầu thế kỉ XXI Sau năm 1986, đời sống xã hội Việt Nam có nhiều thay đổi. Bƣớc vào thời kì đổi mới, cuộc sống đô thị đã phần nào đƣợc lƣu tâm trong văn học nhƣng vấn đề nông thôn và số phận những ngƣời nông dân vẫn đƣợc văn học đặc biệt coi trọng. Đề tài nông thôn trong văn học giai đoạn này tiếp tục là một vùng đề tài nóng bên cạnh đề tài lịch sử, chiến tranh hay đề tài thành thị. Hầu hết, những tác phẩm viết về nông thôn luôn gây đƣợc sự chú ý của đông đảo dƣ luận và để lại dấu ấn đối với bạn đọc. Thời kì đất nƣớc mở cửa, giao lƣu văn hóa đa chiều, đề tài nông thôn đƣợc mở rộng ở nhiều nội dung phản ánh mà bình diện trung tâm là khám phá số phận con ngƣời cá nhân trên nhiều góc độ, xoay quanh các mối quan hệ: con ngƣời cá nhân với gia đình, dòng họ, làng xóm… thậm chí với chính bản 10
  16. thân mình. Nhân vật và các kiểu nhân vật không còn đƣợc bao bọc bởi một bầu không khí vô trùng nữa mà đƣợc nhà văn cảm nhận, khám phá trong mối quan hệ nhiều chiều, phức tạp. Mỗi con ngƣời luôn đƣợc đan cài giữa phần con và phần ngƣời, giữa phần thiện và phần ác. Bên cạnh đó, hiện thực nông thôn thời mở cửa cũng là vấn đề đƣợc các nhà văn đặc biệt chú ý ở các khía cạnh: nhiệt tình cổ vũ sự đổi mới ở nông thôn, vạch trần những hậu quả mà ngƣời nông dân phải gánh chịu trong quá trình công nghiệp hóa nông thôn, phê phán ý thức văn hóa phong kiến còn tồn tại nghiêm trọng ở nông thôn, sự lạc hậu của ngƣời nông dân, sự thiếu ý thức dân chủ ở nông thôn, việc lạm dụng quyền hành của cán bộ nông thôn, sự cạnh tranh vai vế của các dòng họ trong các làng xã... Tiêu biểu phải kể đến các tác phẩm: Mảnh đất lắm người nhiều ma (Nguyễn Khắc Trƣờng), Bến không chồng (Dƣơng Hƣớng), Phiên chợ Giát, Khách ở quê ra (Nguyễn Minh Châu), Thời xa vắng (Lê Lựu), Cuốn gia phả để lại (Đoàn Lê), Ác mộng (Ngô Ngọc Bội), Bước qua lời nguyền (Tạ Duy Anh)… Chƣa bao giờ văn xuôi viết về đề tài nông thôn lại gặt hái đƣợc nhiều thành công nhƣ vậy. Văn xuôi giai đoạn này đã có sự chuyển đổi về chất liệu, hƣớng tới tiếp cận đời sống với tinh thần “nhìn thẳng vào sự thật” không né tránh sự thật. Dƣới ngòi bút các nhà văn, các nhân vật trong văn xuôi đã vật lộn, giằng xé, đấu tranh quyết liệt với cái ác, cái xấu, cái thấp hèn… Đầu thế kỉ XXI số lƣợng tác phẩm viết về đề tài nông thôn có sự chững lại. Một số đề tài khác của đời sống xã hội nhƣ: đề tài đô thị, đề tài chiến tranh hoặc tìm về đề tài lịch sử đã thu hút đƣợc sự chú ý của nhiều nhà văn. Dù vậy, vẫn có một số tác phẩm viết về đề tài nông thôn gây đƣợc sự chú ý của bạn đọc nhƣ: Giã biệt bóng tối (Tạ Duy Anh), Cánh đồng bất tận (Nguyễn Ngọc Tƣ), Dưới chín tầng trời (Dƣơng Hƣớng), Ma làng (Trịnh Thanh Phong)… 11
  17. Nhƣ vậy, có thể thấy đề tài nông thôn trong văn học Việt Nam hiện đại là mảng đề tài văn học có sức hút lớn và đạt đƣợc nhiều thành tựu vƣợt trội. Nó góp phần không nhỏ vào tiến trình phát triển của nền văn học Việt Nam. 1.2. Tác giả Trần Thanh Cảnh và tập truyện Kì nhân làng Ngọc 1.2.1. Vài nét về tác giả Trần Thanh Cảnh Trần Thanh Cảnh sinh năm 1954, là ngƣời con xứ Kinh Bắc - một mảnh đất giàu truyền thống văn hóa và là cái nôi quan họ của xứ Kinh Kỳ. Trƣớc đây, ông đã từng tốt nghiệp trƣờng Đại học dƣợc Hà Nội và cầm súng chiến đấu ở vùng biên giới phía Bắc. Ông bƣớc vào nghề văn khá muộn, hơn 40 tuổi mới bắt đầu cầm bút nhƣng đã để lại dấu ấn riêng trong sáng tác của mình và gặt hái đƣợc thành công. Ngô Văn Giá cho rằng:“Trần Thanh Cảnh vào nghề muộn nhưng chín sớm”. Năm 2015, tập truyện Kì nhân làng Ngọc của Trần Thanh Cảnh vinh dự nhận giải nhất của Hội Nhà văn Việt Nam. Với tập truyện này, Trần Thanh Cảnh đã khẳng định đƣợc vị thế của mình trong làng văn Việt Nam. Kì nhân làng Ngọc đã khắc họa cuộc đời của những con ngƣời làng Ngọc, tái hiện phần nào hiện thực nông thôn Việt Nam một cách chân thực, rõ nét, qua các giai đoạn lịch sử của đất nƣớc: Thời chiến tranh chống ngoại xâm, thời cải cách ruộng đất và sau đó là chiến thắng, thống nhất đất nƣớc, xây dựng kiến thiết đất nƣớc. Bên cạnh công việc chính là một doanh nhân hoạt động trong lĩnh vực y dƣợc, Trần Thanh Cảnh còn dành tình yêu cho lĩnh vực văn chƣơng. Những tác phẩm nhƣ Kỳ nhân làng Ngọc, Mỹ nhân làng Ngọc, Đại gia đều ít nhiều là những câu chuyện có thật từ chính quê hƣơng Trần Thanh Cảnh. Nhân vật chính trong các tác phẩm đƣợc tác giả Trần Thanh Cảnh miêu tả rất đa dạng: Từ một kẻ tứ cố vô thân không danh phận cho đến những ông tiến sĩ đầu bạc, quyền cao vọng trọng… Dù là ai thì số phận họ là những ngƣời chịu ảnh 12
  18. hƣởng to lớn bởi thời cuộc, nhất là thời kỳ sau đổi mới. Văn chƣơng thời kỳ đổi mới luôn chạy theo điều bất thƣờng để thể hiện, còn Trần Thanh Cảnh lại đi ngƣợc với dòng chảy ấy. Ông tìm về cái đạo giữa dòng đời bất biến từ đó toát lên đƣợc cái nhân văn trong câu chữ. Nhà văn Sƣơng Nguyệt Minh trong buổi tọa đàm giới thiệu cuốn sách Kì nhân làng Ngọc nhận xét: “Trần Thanh Cảnh là một nhà văn mạnh về đời sống. Anh đã thu nạp hết hiện thực, đến một thời điểm thích hợp cho nó vỡ òa trong con chữ. Truyện ngắn của Trần Thanh Cảnh mang tầm vóc của một tiểu thuyết. Hiện thực được dồn nén đến cô đọng, đến cực điểm. Các nhân vật trong tác phẩm vừa có chất người vừa có gì đó quái quái. Cái kết của một truyện ngắn khiến người ta xót xa nhưng rất nhân văn”. 1.2.2. Tập truyện Kì nhân làng Ngọc Kỳ nhân làng Ngọc thể hiện lòng trăn trở cũng nhƣ tình yêu đối với quê hƣơng của một ngƣời con Kinh Bắc. Tập truyện gồm 14 truyện ngắn khắc họa số phận của những con ngƣời ở làng Ngọc - một ngôi làng nằm cạnh núi Thiên Thai ở vùng Kinh Bắc ven sông Đuống. Đây cũng chính là quê hƣơng của Trần Thanh Cảnh. Từ hàng nghìn năm nay, ngôi làng này đã sinh ra nhiều danh nhân lƣu tên trong sử sách và ở thời hiện đại, trong những biến động của thế cuộc, làng Ngọc lại sinh ra biết bao số phận kỳ lạ. Trong Kì nhân làng Ngọc, Trần Thanh Cảnh tỏ ra là một ngƣời rất am hiểu mảnh đất chôn nhau cắt rốn của mình. Những hình ảnh lễ hội, phong tục, nếp sống, quan niệm của ngƣời dân nơi đây đều đƣợc tái hiện sống động trên trang giấy. Nhà văn thể hiện tình yêu sâu sắc của mình đối với mảnh đất quê hƣơng. Kỳ nhân làng Ngọc vừa mới mẻ vừa gần gũi, quen thuộc. Mới mẻ không chỉ bởi nội dung viết về những vấn đề nóng hổi, sex mà còn mới mẻ ở lối viết của nhà văn. Đọc Kỳ nhân làng Ngọc, độc giả không hình dung nhiều đến một 13
  19. Kinh Bắc thâm trầm cổ kính, một Kinh Bắc của những câu hát quan họ quyến luyến, níu giữ hồn ngƣời, một Kinh Bắc của những hội hè đình đám miên man suốt mấy tháng xuân nhƣ trong tập thơ Về Kinh Bắc của Hoàng Cầm. Mƣời bốn truyện ngắn miêu tả chân thực nét đẹp văn hóa tín ngƣỡng phồn thực ở làng quê Việt Nam. Ngay truyện đầu tiên của tập là Hội làng, Trần Thanh Cảnh đã đƣa ngƣời đọc vào một không gian lễ hội còn bảo lƣu rất đậm những thực hành của tín ngƣỡng phồn thực:“Làng Ngọc, quê Hằng, thờ Bà Cái và vật thiêng sinh thực khí của bà, cầu cho mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt, nhân khang vật thịnh, con đàn cháu đống… Làng có lệ, đêm hội làng làm lễ trút xiêm y cho bà, mở khán lấy sinh thực khí, hai trai chưa vợ cầm chắc trong tay, theo nhịp hô của cụ từ: Tình xòe tình phập, tình xòe tình phập. Mỗi lần phập lại đưa sinh thực khí vào nường. Cứ thế ba lần, sau đó, tắt đèn đuốc “tháo khoán” [1, 12]. Truyện ngắn đƣợc lấy tên chung cho cả tập Kỳ nhân làng Ngọc có đoạn mô tả:“Dân làng Ngọc từ xưa đến nay, già trẻ nam nữ thường hay ra tắm trần ngoài đầm. Trên cầu ao, các cô thôn nữ hồn nhiên cởi trần dội nước ào ào và kỳ cọ bộ ngực trinh nữ rắn chắc hồng hào. Ở bên cầu ao chỗ khác, mấy ông già làng thì lại điềm nhiên khỏa thân tắm gội, chim cò để thỗn thện cứ như cuộc đời này chả còn gì quan tâm” [1, 281]. Không chỉ mang đậm tín ngƣỡng phồn thực, đọc Kì nhân làng Ngọc độc giả còn bắt gặp những dƣ ảnh hay tiếng đồng vọng của những vấn đề đang diễn ra trong đời sống xã hội ngày hôm nay. Truyện Ngay trong đêm, Giỗ hậu phản ánh tệ nạn cờ bạc. Truyện Có trời là thói nhận hối lộ nơi công đƣờng, truyện Sếp tổng là cung cách làm ăn dối trá cốt để móc tiền của các doanh nghiệp nhà nƣớc, truyện Ngôi biệt thự bỏ hoang là đủ thứ trò vè đầy nhếch nhác ám muội của ngành giáo dục, Giấc mơ phản ánh hiện tƣợng sinh viên thất nghiệp sau khi ra trƣờng… Đúng nhƣ những gì nhà văn Sƣơng Nguyệt Minh đã từng viết:“Kì nhân làng Ngọc là tập truyện ngắn mới nhất của Trần 14
  20. Thanh Cảnh, chỉ kể chuyện trong một làng mà đủ cả hỉ nộ ái ố, nhân tình thế thái. Con mắt nhà văn nhìn đời khá lọc, tinh ranh và văn cũng vì thế mà già dặn sắc sảo nhưng vẫn có hồn, có tình” [8]. Kì nhân làng Ngọc xứng đáng là “tấm danh thiếp” đƣợc nhà văn Trần Thanh Cảnh dùng để tự giới thiệu mình. 15
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
4=>1