ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
--------o0o-------
NGUYỄN THỊ HUYỀN TRANG
PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƯỜNG
KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT ĐỂ GIẢI PHÓNG MẶT BẰNG
QUA THỰC TIỄN TẠI TỈNH NINH BÌNH
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC HỆ CHÍNH QUY
Ngành: Luật kinh doanh
HÀ NỘI - 2016
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
--------o0o-------
NGUYỄN THỊ HUYỀN TRANG
PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƯỜNG
KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT ĐỂ GIẢI PHÓNG MẶT BẰNG
QUA THỰC TIỄN TẠI TỈNH NINH BÌNH
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC HỆ CHÍNH QUY
Ngành: Luật kinh doanh
Cán bộ hướng dẫn: PGS.TS. Doãn Hồng Nhung
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Huyền Trang
Lớp: K57-LKD
Khóa: QHL-2012
HÀ NỘI – 2016
LỜI CAM ĐOAN
Em xin cam đoan rằng toàn bộ những nội dung và số liệu trong luận văn này
do em tự nghiên cứu, khảo sát và thực hiện.
Sinh viên
Nguyễn Thị Huyền Trang
LỜI CẢM ƠN
Để có thể hoàn thành khóa luận với đề tài “Pháp luật về bồi thường khi Nhà
nước thu hồi đất để giải phóng mặt bằng qua thực tiễn tại Tỉnh Ninh Bình”, bên
cạnh những nỗ lực của bản thân, em đã nhận được rất nhiều sự giúp đỡ, động viên,
khích lệ, hướng dẫn của các thầy, cô giáo, gia đình và bạn bè.
Trong 04 năm học tập và rèn luyện tại Khoa Luật, em đã nhận được sự chỉ
bảo và giảng dạy tận tình của các thầy cô, đặc biệt là các thầy cô bộ môn Luật Kinh
Doanh. Chính các thầy cô đã cho chúng em những kiến thức nền tảng và kiến thức
chuyên môn trong suốt thời gian học ở trường.
Em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến PGS.TS. Doãn Hồng Nhung, người đã
dành rất nhiều thời gian và tâm huyết hướng dẫn, sửa chữa giúp đỡ em hoàn thành
tốt khóa luận tốt nghiệp của mình.
Cuối cùng, em xin gửi lời cảm ơn đến gia đình, tập thể lớp k57LKD và
những người bạn thân đã luôn bên cạnh động viên, khích lệ, giúp đỡ em trong quá
trình học tập cũng như hoàn thành khóa luận tốt nghiệp này.
Hà Nội, tháng 05 năm 2016
Sinh viên
Nguyễn Thị Huyền Trang
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
LĐĐ : Luật Đất đai
GPMB : Giải phóng mặt bằng
BTGPMB : Bồi thường giải phóng mặt bằng
UBND : Ủy ban nhân dân
MTTQVN : Mặt trận tổ quốc Việt Nam
HĐND : Hội đồng nhân dân
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
LỜI CẢM ƠN
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 1
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƯỜNG KHI NHÀ
NƯỚC THU HỒI ĐẤT ......................................................................................... 6
1.1. Khái niệm thu hồi đất, bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất ...................... 6
1.1.1. Khái niệm thu hồi đất và các trường hợp thu hồi đất ...................................... 6
1.1.2. Khái niệm bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất............................................. 9
1.2. Hệ quả của hoạt động thu hồi đất. ............................................................... 11
1.2.1. Hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất ................................................................... 11
1.2.2. Tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất ........................................................... 12
1.3. Phân biệt trưng dụng đất và thu hồi đất. .................................................... 13
1.4. Thẩm quyền thu hồi đất ............................................................................... 14
1.5. Khái quát chung về giải phóng mặt bằng .................................................... 15
1.5.1. Khái niệm bồi thường giải phóng mặt bằng.................................................. 15
1.5.2. Sự cần thiết phải bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất để giải phóng mặt bằng ... 16
1.6. Lịch sử hình thành và phát triển pháp luật về bồi thường khi Nhà nước
thu hồi đất ............................................................................................................ 17
1.6.1. Giai đoạn trước năm 1993 ............................................................................ 17
1.6.2. Giai đoạn từ năm 1993 đến năm 2003 .......................................................... 18
1.6.3. Giai đoạn từ năm 2003 đến năm 2013 .......................................................... 20
1.6.4. Giai đoạn từ năm 2013 đến nay. ................................................................... 22
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƯỜNG KHI NHÀ
NƯỚC THU HỒI ĐẤT VÀ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƯỜNG KHI
NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT QUA THỰC TIỄN GIẢI PHÓNG MẶT BẰNG
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH NINH BÌNH ................................................................. 26
2.1. Pháp luật thực định điều chỉnh hoạt động bồi thường hỗ trợ tái định cư
khi Nhà nước thu hồi đất .................................................................................... 26
2.1.1. Trình tự thủ tục thực hiện việc bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất ............ 26
2.1.2. Qui đinh về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất ........................................ 27
2.1.3. Qui định về hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất ................................................ 41
2.1.4. Qui định về tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất. ........................................ 42
2.1.5. Qui định các trường hợp đặc biệt về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà
nước thu hồi đất ..................................................................................................... 44
2.2. Thực tiễn thi hành pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà
nước thu hồi đất trên địa bàn Tỉnh Ninh Bình. ................................................. 44
2.2.1. Khái quát về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của tỉnh Ninh Bình. ........... 44
2.2.2. Nội dung các quy định hiện hành của Ủy ban nhân dân tỉnh Ninh Bình về tổ
chức thi hành pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất. ........................... 46
2.2.3. Đánh giá thực tiễn thi hành pháp luật bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi Nhà
nước thu hồi đất trên địa bàn Tỉnh Ninh Bình. ....................................................... 50
CHƯƠNG 3: HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÊ BỒI THƯỜNG KHI NHÀ
NƯỚC THU HỒI ĐẤT ĐỂ GIẢI PHÓNG MẶT BẰNG .................................. 61
3.1. Sự cần thiết phải bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất để giải phóng
mặt bằng .............................................................................................................. 61
3.2. Phương hướng hoàn thiện pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi
đất để giải phóng mặt bằng. ................................................................................ 61
3.3. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật bồi thường khi Nhà nước thu hồi
đất để giải phóng mặt bằng.. ............................................................................... 64
3.3.1. Kiến nghị hoàn thiện quy phạm pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu
hồi đất để giải phóng mặt bằng .............................................................................. 65
3.3.2. Kiến nghị hoàn thiện quy phạm pháp luật về hỗ trợ, tái định cư khi Nhà
nước thu hồi đất để giải phóng mặt bằng ............................................................... 68
3.3.3. Kiến nghị về tổ chức thực hiện pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi
đất để giải phóng mặt bằng. ................................................................................... 69
3.3.4. Giải pháp về bổ trợ, tuyên truyền, giáo dục nhận thức pháp luật nâng cao hiệu
quả bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất. .............................................................. 71
KẾT LUẬN .......................................................................................................... 74
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................ 75
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đất đai là nguồn tài nguyên thiên nhiên vô cùng quý giá, đất đai là tư liệu sản xuất
không gì có thể thay thế được trong sản xuất nông lâm nghiệp, là thành phần quan trọng
hàng đầu của môi trường sống, là nơi sinh sống của cộng đồng dân cư, xây dựng cơ sở
hạ tầng kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh - quốc phòng của đất nước. Nếu sử dụng đất đai
hợp lý giúp đất nước ngày càng phát triển và giàu mạnh hơn. Hơn thế nữa trong bối cảnh
dân số nước ta tăng nhanh chóng, tính đến 1/4/2011, dân số Việt Nam là 87.610.947 người, trong đó dân số thành thị chiếm 30,6%, dân số nông thôn chiếm 69,4%1. Từ đó có
thể thấy dân số nông thôn chiếm phần lớn dân số nước ta. Do đó đất nông nghiệp lại
càng trở nên quan trọng với người dân, đó là nguồn sống, nguồn việc làm, là cái duy trì
phát triển sự sống của mỗi người, mỗi gia đình.
Quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa ở Việt Nam đã được thực hiện hơn hai
thập kỷ qua, nó đặc biệt diễn ra mạnh mẽ ở những năm gần đây. Tốc độ đô thị hóa
của Việt Nam diễn ra mạnh mẽ trong suốt 15 năm, từ mức 21,7% năm 1999 và đến nay đã đạt 33,1% (bình quân mỗi năm tăng gần 1 điểm phần trăm)2.Trong quá trình
đó chúng ta đã và đang triển khai nhiều dự án với các mục tiêu phát triển các khu
kinh tế, khu công nghiệp, các công trình hạ tầng kinh tế - xã hội, hạ tầng cho các
khu đô thị… Trong đó, công tác thu hồi đất, bồi thường GPMB để thực hiện các
công trình là điều kiện ban đầu và tiên quyết để triển khai thực hiện các dự án.
Nhưng trên thực tế việc chuyển quỹ đất vào triển khai các dự án không đơn giản, vì
nó tác động tới mọi mặt đời sống kinh tế, xã hội và cộng đồng dân cư, ảnh hưởng
trực tiếp đến lợi ích của Nhà nước, của chủ đầu tư, đặc biệt với hộ gia đình, cá nhân
có đất bị thu hồi trên phạm vi cả nước, đến từng địa phương, cơ sở. Đây là một
1 Cơ cấu dân số và lực lượng lao động tại Việt Nam.
http://mic.gov.vn/daotaonghe/thongke/Trang/C%C6%A1c%E1%BA%A5ud%C3%A2ns%E1%BB%91v%C3%A0l%E1
%BB%B1cl%C6%B0%E1%BB%A3nglao%C4%91%E1%BB%99ngt%E1%BA%A1iVi%E1%BB%87tNam.aspx
2 Tạp chí của Tổng cục Thống kê .ISNN 0866-7322. Số 12/2014 (493). Ra hàng tháng. Năm thứ 53
thách thức rất lớn đối với việc triển khai các dự án hiện nay, nó đòi hỏi chúng ta
1
phải giải quyết hàng loạt các vấn đề liên quan đến người dân mất đất như: đời sống,
việc làm của người dân bị thu hồi đất và giá trị phần đất đai bị thu hồi của người
dân phải được xác định như thế nào để đền bù thỏa đáng những thiệt hại mà họ phải
gánh chịu, giải quyết ổn thỏa tâm trạng của người dân sau khi bị mất đất cũng là
những vấn đề vô cùng quan trọng.
Đất đai luôn là một vấn đề nóng và nhận được nhiều sự quan tâm đặc biệt của
Đảng, Nhà nước và của toàn xã hội. Kể từ khi Luật Đất đai đầu tiên được ban hành vào
năm 1987 đến nay, pháp luật đất đai liên tục được sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện cho
phù hợp với tình hình phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam. Pháp luật đất đai đã
từng bước được hoàn thiện theo hướng tiếp cận cơ chế thị trường, đưa đất đai trở thành nội lực, nguồn vốn để phát triển đất nước3. Tuy nhiên, tình hình tranh chấp, khiếu nại,
tố cáo về đất đai ngày càng gay gắt và kéo dài. Tổng thanh tra Chính phủ Huỳnh Phong
Tranh cho biết, năm 2014 cả nước đã phát sinh hơn 81.000 đơn khiếu nại tố cáo. Mặc
dù số lượng đơn giảm 71%, vụ việc giảm 9,8%, nhưng số vụ khiếu nại phức tạp đông
người lại tăng 5,2%. Trong 81.000 đơn khiếu nại tố cáo đó, khiếu nại về đất đai chiếm
96,27%. Cụ thể, khiếu nại xuất phát từ việc bồi thường đất hỗ trợ tái định cư, GPMB phục vụ các dự án phát triển xã hội chiếm 50% 4.
Với những lí do trên, tác giả chọn đề tài “Pháp luật về bồi thường khi nhà
nước thu hồi đất để giải phóng mặt bằng qua thực tiễn tại Tỉnh Ninh Bình” cho đề
tài luận văn cử nhân luật học của mình. Tác giả hi vọng với những nghiên cứu và
phân tích của mình góp phần nhỏ vào việc hoàn thiện hơn nữa những qui định của
pháp luật về công tác bồi thường giải phóng mặt bằng.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài.
Bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất là vấn đề quan trọng, nó có tác động
không nhỏ đến quyền lợi của người sử dụng đất khi có đất bị thu hồi, chính vì vậy
3 Bộ Tài nguyên và Môi trường (2012), Báo cáo đánh giá tác động LĐĐ( sửa đổi), Hà Nội, tháng
8/2012, Tr.4
4 http://hanoimoi.com.vn/Tin-tuc/Chinh-tri/724777/can-quyet-liet-thao-go-tinh-trang-khieu-nai-to-cao
trên thực tế đã nảy sinh rất nhiều vụ khiếu kiện liên quan đến vấn đề này. Trong
2
giới nghiên cứu luật pháp, đây cũng là vấn đề được nhiều người quan tâm nghiên
cứu. Điều này thể hiện ở việc có không ít các bài viết, công trình nghiên cứu về bồi
thường khi Nhà nước thu hồi đất. Có thể kể đến một số Luận văn thạc sĩ tiêu biểu
như: pháp luật về bồi thường khi nhà nước thu hồi đất qua thực tiễn áp dụng tại địa
bàn quận Tây Hồ, thành phố Hà Nội, của tác giả Lê Thị Yến năm 2010, pháp luật về
bồi thường khi nhà nước thu hồi đất nông nghiệp của hộ gia đình, cá nhân và thực
tiễn áp dụng tại Nghệ An, của tác giả Hoàng Thị Thu Trang năm 2012; pháp luật về
bồi thường, hỗ trợ đối với hộ gia đình, cá nhân khi nhà nước thu hồi đất nông
nghiệp- thực trạng và hướng hoàn thiện của tác giả Trần Thị Phương Liên năm
2013. Ngoài ra còn có nhiều bài viết trong các tạp chí như: vấn đề lý luận xung
quanh khái niệm bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất, TS. Nguyễn Quang Tuyến,
Tạp chí luật học số 1/2009; vấn đề thu hồi đất và bồi thường khi thu hồi đất trong
Dự thảo LĐĐ (sửa đổi, bổ sung) của tác giả TS. Nguyễn Quang Tuyến, Tạp chí
Luật học số 12/2008; pháp luật về bồi thường tái định cư khi nhà nước thu hồi đất
của Singapore và Trung quốc- những gợi mở cho Việt Nam trong hoàn thiện pháp
luật về bồi thường, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất của đồng tác giả TS.
Nguyễn Quang Tuyến và ThS. Nguyễn Ngọc Minh, Tạp chí Luật học số 10/2010;
pháp luật về trình tự, thủ tục thu hồi đất, bồi thường và giải phóng mặt bằng và
những vướng mắc nảy sinh trong quá trình áp dụng của tác giả Nguyễn Thị Nga,
Tạp chí Luật học số 11/2010; bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi Nhà nước thu hồi
đất theo luật đất đai năm 2013 của tác giả Phạm Thu Thủy, tạp chí luật học đặc san
11/2014; dự thảo Luật Đất đai năm 2013 với các quy định về thu hồi đất của tái giả
ThS. Lê Ngọc Thạnh, Tạp chí nghiên cứu lập pháp điện tử…
Các bài viết, công trình khoa học trên đây đã nghiên cứu vấn đề bồi
thường khi Nhà nước thu hồi đất ở mức độ khác nhau. Có công trình, bài viết đã
nghiên cứu một cách có hệ thống, toàn diện về vấn đề bồi thường khi Nhà nước thu
hồi đất; có những công trình , bài viết lại đi sâu nghiên cứu về từng vấn đề cụ thể
như: phương thức bồi thường, trình tự thủ tục thu hồi đất và bồi thường, cơ chế giải
quyết tranh chấp, khiếu nại liên quan đến vấn đề này; có những công trình còn
nghiên cứu pháp luật bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất ở nước ngoài để rút ra
3
bài học kinh nghiệm cho Việt Nam …Tuy nhiên đến nay, chưa có công trình nào
tập trung nghiên cứu tìm hiểu về thực trạng pháp luật bồi thường khi nhà nước thu
hồi đất để GPMB sau khi LĐĐ năm 2013 chính thức có hiệu lực tại địa bàn tỉnh
Ninh Bình. Vì vậy, tác giả muốn đi sâu nghiên cứu pháp luật về bồi thường khi Nhà
nước thu hồi đất để GPMB và thực tiễn áp dụng ở địa bàn Tỉnh Ninh Bình sau khi
LĐĐ năm 2013 chính thức có hiệu lực; để từ đó thấy rõ hơn sự phù hợp, không phù
hợp trong quy định của pháp luật với thực tiễn cũng như đánh giá được quá trình
thực thi pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất. Qua đây, tác giả đưa ra
một số đề xuất góp phần hoàn thiện quy định của pháp luật và góp phần hoàn thiện
quá trình thực thi pháp luật trong thực tiễn.
3. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
Một là: Nghiên cứu để làm rõ các quy định của pháp luật về bồi thường, hỗ
trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất để GPMB và thực tiến áp dụng ở địa bàn
Tỉnh Ninh Bình.
Hai là: Nghiên cứu để hệ thống hóa các quy định của pháp luật về bồi thường, hỗ
trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất để tìm ra những qui định cần sửa đổi để phù hợp
với thực tiễn triển khai công việc bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất.
Ba là: Nghiên cứu để tìm ra những nguyên nhân, hạn chế khi áp dụng pháp
luật hiện hành để đưa ra những giải pháp kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về
bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đối tượng nghiên cứu của đề tài bao gồm:
- Các quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng về bồi thường khi Nhà
nước thu hồi đất.
- Các quy định của pháp LĐĐ hiện hành về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất
- Các nghị định, thông tư của Nhà nước ban hành về hướng dẫn thực hiện
pháp luật bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất để GPMB và thực tiễn áp dụng ở địa
bàn Tỉnh Ninh Bình.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài bao gồm:
Nghiên cứu đánh giá nội dung những quy định của LĐĐ 2013 và các văn
bản hướng dẫn thi hành về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất và quá trình áp
4
dụng pháp luật để GPMB ở địa bàn Tỉnh Ninh Bình, đặt trong mối tương quan so
sánh với LĐĐ năm 2003 và các văn bản hướng dẫn LĐĐ năm 2003 trước đây.
5. Phương pháp nghiên cứu của đề tài
Trong quá trình thực hiện đề tài nghiên cứu, tác giả sử dụng kết hợp
nhiều phương pháp nghiên cứu trong đó chủ yếu là các phương pháp như:
- Phương pháp phân tích: Tác giả áp dụng trong việc phân tích các khái niệm, các
điều khoản của pháp luật về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư như làm rõ khái niệm về
bồi thường, hỗ trợ, tái định cư; thẩm quyền thu hồi đất; các nguyên tắc thu hồi đất; các
nhân tố ảnh hưởng đến BTGPMB; phân tích các thuận lợi khó khăn trong BTGPMB…
- Phương pháp tổng hợp: Tác giả áp dụng trong việc tổng hợp các số liệu
trong các quyết định của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền liên quan đến vấn đề bồi
thường, GPMB như diện tích đất cần thu hồi phục vụ dự án; số tiền bồi thường về
đất, về tài sản; số tiền được tái định cư; diện tích đất giao tái định cư. Thông qua
việc tổng hợp các số liệu, con số chúng ta dễ dàng hiểu và tiếp cận luận văn hơn.
- Phương pháp bình luận: Trong quá trình nghiên cứu tác giả đưa ra ý kiến,
quan điểm của mình về các quy định của pháp luật liên quan đến bồi thường, giải
phóng mặt bằng. Đó là quan điểm về giá đất; thời hạn thông báo thu hồi đất; hoàn
thiện tổ chức phát triển quĩ đất; trưng dụng đất; các chính sách hỗ trợ di chuyển, hỗ
trợ ổn định đời sống sản xuất…
- Phương pháp so sánh: Tác giả áp dụng việc so sánh giữa các quy định của
LĐĐ năm 2003 và LĐĐ năm 2013.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài lời mở đầu, phần kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn gồm 3 chương:
Chương 1 : Cơ sở lí luận pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất
để giải phóng mặt bằng.
Chương 2 : Thực trạng pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất và
áp dụng pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất qua thực tiễn giải phóng
mặt bằng trên địa bàn Tỉnh Ninh Bình.
Chương 3: Hoàn thiện pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất để
giải phóng mặt bằng.
5
Chương 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƯỜNG KHI NHÀ NƯỚC THU
HỒI ĐẤT
1.1. Khái niệm thu hồi đất, bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất
1.1.1. Khái niệm thu hồi đất và các trường hợp thu hồi đất
1.1.1.1. Khái niệm thu hồi đất
Xây dựng khái niệm là yếu tố tiên quyết để tạo lập cơ sở lý luận trong khoa
học pháp lý. Do đó, khi nghiên cứu về pháp luật về bồi thường khi nhà nước thu hồi
đất để GPMB ở VN, trước hết, ta phải làm rõ khái niệm thế nào là thu hồi đất.
LĐĐ năm 2003 quy định: “Thu hồi đất là việc nhà nước ra quyết định hành
chính để thu lại quyền sử dụng đất hoặc thu lại đất đã giao cho tổ chức, UBND xã, phường, thị trấn quản lý”5
LĐĐ năm 2013 quy định về khái niệm thu hồi đất như sau: “Nhà nước thu hồi đất
là việc Nhà nước quyết định thu lại quyền sử dụng đất của người được Nhà nước trao quyền sử dụng đất hoặc thu lại đất của người sử dụng đất vi phạm pháp luật về đất đai”6
Từ những khái niệm trên, cho thấy thu hồi đất có những đặc điểm sau:
Thứ nhất, thu hồi đất là một trong những phương thức của Nhà nước để thực
hiện quyền đại diện chủ hữu về đất đai được pháp luật đất đai quy định. Nhà nước
không phải là chủ sở hữu đất đai mà chỉ là người đại diện chủ sở hữu toàn dân về
đất đai. Pháp luật qui định quyền đại diện chủ sở hữu đất đai của Nhà nước. Vì vậy
Nhà nước thực hiện việc thu hồi đất phải tuân theo các qui định của pháp luật.
Thứ hai, Thu hồi đất được thực hiện thông qua một quyết định hành chính
của cơ quan nhà nước có thẩm quyền có tên gọi là quyết định thu hồi đất, trong đó
xác định rõ chủ thể bị thu hồi, lý do bị thu hồi, mục đích thu hồi và diện tích đất bị
thu hồi. Quyết định này là căn cứ pháp lý chấm dứt quan hệ pháp luật đất đai giữa
5 Khoản 5 Điều 4 LĐĐ năm 2003 6 Khoản 11 Điều 23 LĐĐ năm 2013
Nhà nước và người sử dụng đất.
6
Thứ ba, thu hồi đất không chỉ chấm dứt quyền sử dụng đất của tổ chức, hộ
gia đình, cá nhân với một mảnh đất nhất định mà còn gây ra những hậu quả xã hội
như cuộc sống sinh hoạt và sản xuất của họ bị đảo lộn, rơi vào hoàn cảnh không có
nghề nghiệp hoặc không có chỗ ở.
Thứ tư, thu hồi đất xuất phát từ nhu cầu Nhà nước và xã hội như để sử dụng
vào mục đích quốc phòng, an ninh, phát triển kinh tế-xã hội, vì lợi ích quốc gia,
công cộng; hoặc để để xử lí các hành vi vi phạm pháp luật đất đai của người sử
dụng hay do hết thời hạn sử dụng đất, người sử dụng đất trả lại đất.
1.1.1.2. Các trường hợp thu hồi đất
Để thực hiện sự minh bạch trong thu hồi đất, các trường hợp thu hồi đất được
thể hiện cụ thể tại các điều từ Điều 61 tới Điều 65 LĐĐ năm 2013. So với LĐĐ
năm 2003, qui định các trường hợp thu hồi đất rõ ràng và cụ thể hơn rất nhiều. Khác
với cách thức liệt kê các trường hợp thu hồi đất của Điều 38 LĐĐ năm 2003, LĐĐ
năm 2013 qui định rõ thành 5 loại chính đó là: thu hồi đất để sử dụng vào mục đích
quốc phòng, an ninh; thu hồi đất để sử dụng vào mục đích lợi ích quốc gia, lợi ích
công cộng; thu hồi đất để thực hiện các dự án phát triển kinh tế, xã hội; thu hồi đất
do vi phạm pháp luật đất đai; thu hồi đất do chấm dứt việc sử dụng đất theo pháp
luật hoặc tự nguyện.
Thứ nhất, thu hồi đất do nhu cầu của nhà nước bao gồm các trường hợp:
Sử dụng đất vào mục đích quốc phòng, an ninh được qui định tại điều 61
LĐĐ năm 2013. Ta có thể thấy tại LĐĐ năm 2013 đã chuyển Khoản 1 Điều 89
LĐĐ năm 2003 thành 10 khoản của Điều 61 LĐĐ năm 2013 để làm rõ các trường
hợp Nhà nước thu hồi đất vào mục đích quốc phòng, an ninh.
Sử dụng đất vào mục đích lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng. Đây là
một điều mới của LĐĐ năm 2013, tuy nhiên nội dung của nó thì chỉ là cụ thể hóa
Khoản 1 Điều 38 của LĐĐ năm 2003 và luật hóa quy định của các Nghị định như:
Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29 tháng 10 năm 2004, Nghị định số
17/2006/NĐ-CP ngày 21 tháng 01 năm 2006, nghị định số 84/2004/NĐ-CP ngày 25
tháng 05 năm 2007 để làm rõ các trường hợp Nhà nước thu hồi đất để sử dụng vào
mục đích lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng.
7
Sử dụng đất để thực hiện các dự án phát triển kinh tế, xã hội được qui định
tại Điều 62 LĐĐ năm 2013. Điều luật này đã cụ thể hóa khoản 1 Điều 38 và khoản
1 Điều 40 của LĐĐ năm 2003 trên cơ sở luật hóa quy định của các Nghị định như:
Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29 tháng 10 năm 2004, nghị định số
17/2006/NĐ-CP ngày 21 tháng 01 năm 2006, nghị định số 84/2004/NĐ-CP ngày 25
tháng 05 năm 2007 để làm rõ các trường hợp Nhà nước thu hồi đất để sử dụng vào
mục đích phát triển kinh tế, xã hội. Đồng thời, các nhà làm luật cũng sửa đổi cụm từ
“thu hồi đất để sử dụng vào mục đích phát triển kinh tế” thành cụm từ “thu hồi đất để
thực hiện các dự án phát triển kinh tế, xã hội” để cụ thể và thu hẹp các trường hợp thu
hồi đất để sản xuất kinh doanh chuyển sang cơ chế thực hiện các quyền của người sử
dụng đất thông qua việc chuyển nhượng, cho thuê, góp vốn quy định tại Điều 73 của
LĐĐ năm 2013. Ngoài ra, LĐĐ năm 2013 còn bổ sung qui định về căn cứ thu hồi đất
để sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng, thực
hiện các dự án phát triển kinh tế, xã hội đó là: “Dự án thuộc các trường hợp thu hồi đất
quy định tại Điều 61 và Điều 62 của Luật này; kế hoạch sử dụng đất hàng năm của cấp
huyện đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt; tiến độ sử dụng đất thực hiện dự án”7. Quy định này đã giải quyết vướng mắc cơ bản trong thực tiễn thi hành
LĐĐ năm 2003 như: khó thực hiện thu hồi đất do làm mất quyền lợi của người sử
dụng đất trong khi chưa có quy định về căn cứ cụ thể đối với từng trường hợp thu hồi
đất, khắc phục tình trạng xử lý vụ việc cụ thể đã xảy ra tại địa phương có tính chất rất
phức tạp. Thực tế địa phương thu hồi đất khó xác định cho đúng với từng trường hợp
thu hồi đất cụ thể do có luật quy định có nhiều trường hợp thu hồi đất nhưng không rõ
để áp dụng cơ chế giải quyết cho phù hợp.
Thứ hai, Thu hồi đất do vi phạm LĐĐ được qui định tại Điều 64 LĐĐ năm
2013. Đây là một điều luật mới được tách ra từ các khoản 3, 4, 5, 6, 9, 11 và 12
Điều 38 LĐĐ năm 2003 và bổ sung 1 số nội dung sau:
Bổ sung trường hợp thu hồi đất không được chuyển nhượng, tặng cho mà cố
7 Điều 63 LĐĐ năm 2013
ý nhận chuyển nhượng, nhận tặng cho, nhằm bổ sung chế tài mạnh nhất là thu hồi
8
để xử lý vi phạm đang diễn ra phổ biến hiện nay như chuyển nhượng trái phép đất
trồng lúa để chờ quy hoạch, găm, thu gom đất nông nghiệp lập dự án đầu tư phi
nông nghiệp.
Bổ sung điều kiện thu hồi đất đối với trường hợp người sử dụng đất không
thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước thì chỉ thu hồi khi đã bị xử phạt mà cố ý không
chấp hành, nhằm đảm bảo tính khả thi, phù hợp với cách xử lý vi phạm hành chính
trong lĩnh vực đất đai hiện hành.
Bổ sung quy định người bị thu hồi đất trong các trường hợp quy định tại điểm
h khoản 1 Điều 64 LĐĐ năm 2013 không được trả lại tiền sử dụng đất, tiền thuê đất
đã nộp; không được thanh toán giá trị đầu tư vào đất còn lại và tài sản gắn liền với
đất nhằm đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật, buộc người sử dụng đất có trách
nhiệm sử dụng đất hiệu quả, ngăn chặn cơ chế xin cho trong việc giao đất.
Bổ sung quy định về việc thu hồi đất trong các trường hợp quy định tại
khoản 1 Điều 64 LĐĐ năm 2013 phải căn cứ vào các văn bản, quyết định của cơ
quan nhà nước có thẩm quyền xác định hành vi vi phạm pháp luật đất đai.
Thứ ba, do chấm dứt việc sử dụng đất theo pháp luật hoặc tự nguyện qui định tại
Điều 65 LĐĐ năm 2013. Trường hợp này nhà nước thu hồi đất không xuất phát từ
nhu cầu của nhà nước, cũng không do lỗi của người sử dụng đất mà chỉ đơn thuần là
các lí do: tổ chức được Nhà nước giao đất không thu tiền sử dụng đất mà bị giải thể,
phá sản; cá nhân sử dụng đất chết mà không có người thừa kế; người sử dụng đất tự
nguyện trả lại đất; đất được Nhà nước giao, cho thuê có thời hạn mà không được gia
hạn khi hết hạn.
1.1.2. Khái niệm bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất
Theo từ điển thông dụng thì bồi thường được hiểu là: “Đền bù những tổn hại đã gây ra”8. Riêng lĩnh vực đất đai, thuật ngữ “bồi thường” khi Nhà nước thu hồi
đất (trước đây là bồi thường thiệt hại hay đền bù thiệt hại) được ghi nhận từ rất sớm.
Tại nghị định 151/TTg ngày 14/01/1959 của Hội Đồng Chính phủ quy định Thể lệ
8 Nguyễn Như Ý (chủ biên ), Từ điển Tiếng Việt thông dụng. NXB Giáo dục, Hà Nội 2001, tr79
tạm thời về trưng dụng ruộng đất, tại Chương II đã đề cập đến việc “bồi thường cho
9
người có ruộng đất bị trưng dụng”. Tiếp theo, LĐĐ năm 1987 ra đời, cùng với đó là
sự ra đời của các văn bản hướng dẫn thi hành, lúc này thuật ngữ “bồi thường” đã bị
thay thế bởi thuật ngữ “đền bù”. Sau đó thuật ngữ “đền bù thiệt hại” lại được tiếp
tục sử dụng trong LĐĐ năm 1993, luật sửa đổi bổ sung một số điều của LĐĐ năm
1998 và các văn bản hướng dẫn thi hành. Tuy nhiên, thuật ngữ “bồi thường” lại
được sử dụng trở lại trong LĐĐ năm 2003. Theo Khoản 6 Điều 4 LĐĐ năm 2003
đưa ra cách giải thích khái niệm này như sau “Bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất
là việc nhà nước trả lại giá trị quyền sử dụng đất đối với diện tích đất bị thu hồi cho
người thu hồi đất”.
Từ các cách định nghĩa trên ta có thể thấy bồi thường khi nhà nước thu hồi
đất có những đặc điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, về phạm vi bồi thường, bồi thường chỉ được thực hiện đối với
trường hợp nhà nước thu hồi đất vì mục đích quốc phòng an ninh, lợi ích quốc gia,
lợi ích công cộng và phát triển kinh tế. Bởi lẽ, các trường hợp thu hồi đất này, người
sử dụng đất không có lỗi mà do Nhà nước thu hồi để sử dụng cho mục đích chung
của xã hội. Do đó, Nhà nước phải bồi thường, bù đắp cho người sử dụng đất về
những thiệt hại do việc thu hồi đất gây ra.
Hơn thế nữa, ngoài việc bồi thường về đất và thiệt hại về tài sản trên đất, Nhà
nước còn thực hiện hỗ trợ ổn định đời sống, hỗ trợ di chuyển chỗ ở; giải quyết vấn đề
tái định cư; đào tạo chuyển đổi nghề, bố trí việc làm mới cho người sử dụng đất
Thứ hai, về đối tượng được bồi thường, bồi thường chỉ được thực hiện đối
với trường hợp nhà nước thu hồi đất vì mục đích quốc phòng an ninh, lợi ích quốc
gia, lợi ích công cộng và phát triển kinh tế, do đó những đối tượng được bồi thường
là: hộ gia đình, cá nhân, tổ chức trong nước, tổ chức nước ngoài, cộng đồng dân cư,
cơ sở tôn giáo, người Việt Nam định cư ở nước ngoài về đầu tư ở Việt Nam ... Theo
đó, người bị thu hồi đất được Nhà nước bồi thường khi được cấp Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và các tài sản gắn liền với đất hoặc các diều
kiện khác mà pháp luật đất đai hiện hành qui định.
Thứ ba, về giá đất bồi thường, bồi thường khi nhà nước thu hồi đất phải tuân
thủ các quy định của pháp luật về điều kiện bồi thường, giá đất để tính bồi thường
10
được xác định theo mục đích sử dụng đất tại thời điểm có quyết định thu hồi đất.
Việc bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất khác với bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng trong pháp luật dân sự dựa trên nguyên tắc tự nguyện thỏa thuận, căn cứ vào
thiệt hại thực tế và bồi thường trên cơ sở ngang giá. Có sự khác biệt như vậy bởi vì
đất đai thuộc sở hữu toàn dân mà Nhà nước là đại diện chủ sở hữu, bản thân người
sử dụng đất không phải là chủ sở hữu đối với từng diện tích đất riêng lẻ mà họ đang
sử dụng, họ chỉ được nhà nước trao quyền thông qua giao, cho thuê, công nhận
quyền sử dụng đất hoặc cho phép nhận chuyển quyền.
1.2. Hệ quả của hoạt động thu hồi đất.
1.2.1. Hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất
“Bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất đều là hậu quả pháp lí trực tiếp
do hành vi thu hồi đất của Nhà nước gây ra. Có thể cho rằng bồi thường là chế định
pháp luật độc lập và hệ quả tất yếu của việc thu hồi đất; còn hỗ trợ được xem như
biện pháp bổ sung và là sự “kéo dài” của quá trình bồi thường, đóng vai trò khoả lấp
khoảng trống mà các qui định về bồi thường chưa giải quyết được, nhằm bù đắp
một cách thỏa đáng những thiệt hại do bị Nhà nước thu hồi đất gây ra. Bởi vì, khi
Nhà nước thu hồi đất, mặc dù đối tượng bị thu hồi chỉ là một diện tích đất song thiệt
hại đối với người dân không chỉ nằm ở đó. Ngoài các thiệt hại hữu hình về giá trị
quyền sử dụng đất, công trình xây dựng, cây trồng vật nuôi còn các thiệt hại vô hình
khác như mất ổn định cuộc sống, mất chỗ ở, mất tư liệu sản xuất, phải học nghề mới, bị thiệt hại về tinh thần…9”.
Việc thu hồi đất gây ra vô số những hệ quả, nhất là đối với đời sống, sinh
hoạt, làm việc của nhân dân. Nước ta vốn là một nước nông nghiệp, “miếng cơm,
manh áo” của người nông dân đều trông chờ vào hạt lúa trên đồng, trông mong vào
từng tấc đất. Chính vì vậy, có rất nhiều người dân sau khi bị thu hồi đất, mặc dù đã
được bồi thường theo đúng chính sách của nhà nước. Tuy nhiên họ lại không biết
9 Phạm Thu Thủy (2014), “Bồi thường hỗ trợ tái định cư khi nhà nước thu hồi đất theo LĐĐ 2013”,
Tạp chí luật học, đặc san 11/ 2014, Tr.54.
tương lai họ làm gì để sinh sống vì cả đời họ chỉ biết làm ruộng, làm đồng. Nhằm
11
bù đắp những tổn thất và giúp đỡ những người bị thu hồi đất vượt qua khó khăn từ
việc thu hồi đất, nhanh chóng ổn định về đời sống sản xuất; Nhà nước đã qui định
và tổ chức thực hiện nhiều chính sách hỗ trợ cho người bị thu hồi đất. Theo Khoản
14 Điều 4 LĐĐ năm 2013 qui định: “Hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất là việc Nhà
nước trợ giúp cho người có đất bị thu hồi”.
1.2.2. Tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất
Tái định cư là một thuật ngữ sử dụng phổ biến trong sách, báo pháp lý ở
nước ta hiện nay, đặc biệt là trong các qui định của pháp luật đất đai về bồi thường,
hỗ trợ tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất. Tuy nhiên, LĐĐ năm 2013 và các văn
bản hướng dẫn thi hành lại không đưa khái niệm về tái định cư.
Theo Khoản 2 Điều 86 LĐĐ năm 2013: “Người có đất thu hồi được bố trí tái
định cư tại chỗ nếu tại khu vực thu hồi đất có dự án tái định cư hoặc có điều kiện bố trí
tái định cư…” và Khoản 4 Điều 86 LĐĐ năm 2013: “Trường hợp người có đất thu hồi
được bố trí tái định cư mà tiền bồi thường, hỗ trợ không đủ để mua một suất tái định cư
tối thiểu thì được Nhà nước hỗ trợ tiền đủ để mua một suất tái định cư tối thiểu”
Theo Điểm a Khoản 1 Điều 6 Nghị định số 47/2014/NĐ-CP ngày 15 tháng 05
năm 2014 của Chính phủ về bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi nhà nước thu hồi đất thì
tái định cư được giải thích là: “trường hợp thu hồi hết đất ở hoặc phần diện tích đất ở còn
lại sau thu hồi không đủ điều kiện để ở theo quy định của UBND cấp tỉnh mà hộ gia
đình, cá nhân không còn đất ở, nhà ở nào khác trong địa bàn xã, phường, thị trấn nơi có
đất ở thu hồi thì được bồi thường bằng đất ở hoặc nhà ở tái định cư”.
Căn cứ vào các qui định trên, khái niệm về tái định cư có thể hiểu là: “Tái
định cư là việc người sử dụng đất được bố trí nơi ở mới bằng một trong các hình
thức: bồi thường bằng nhà ở mới hoặc bồi thường bằng giao đất ở mới hoặc bồi
thường bằng tiền để tự lo chỗ ở mới khi họ bị Nhà nước thu hồi đất ở và phải chuyển chỗ ở”10
Thực tế diễn ra cho thấy, việc thu hồi đất dẫn tới hệ quả rất nhiều người dân
10 Lê Hoàng Dương (2009), Luận văn cử nhân luật học, Các vấn đề pháp lý về tái định cư khi nhà
nước thu hồi đất thực hiện các dự án đầu tư , Đại học luật Hà Nội, Tr.4.
không còn nơi ăn chốn ở, phải di chuyển đến nơi khác để sinh sống, cuộc sống của
12
họ gặp vô số khó khăn cho nên Nhà nước phải có trách nhiệm xã hội của mình trong
việc bố trí một trong các hình thức tái định cư để người bị thu hồi đất tạo lập cuộc
sống mới. Vì vậy, tái định cư chính là sự sắp xếp nơi ở mới cho người bị thu hồi đất
không còn đất ở hoặc tạo điều kiện để người bị thu hồi đất tự lo nơi ở mới của mình
thông qua các hỗ trợ tài chính từ phía Nhà nước.
1.3. Phân biệt trưng dụng đất và thu hồi đất.
Thứ nhất, về mục đích trưng dụng đất và thu hồi đất. Theo Luật Trưng mua,
trưng dụng tài sản năm 2008 trưng dụng tài sản là việc Nhà nước sử dụng có thời hạn
tài sản của tổ chức, cá nhân, hộ gia đình, cộng đồng dân cư thông qua quyết định hành
chính trong trường hợp thật cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh và vì lợi ích quốc gia11. Và theo Khoản 1 Điều 23 Luật trưng mua, trưng dụng tài sản năm 2008 đất đai là
tài sản thuộc đối tượng trưng dụng. Như vậy, trưng dụng đất chỉ được thực hiện trong
trường hợp thật cần thiết, là biện pháp cuối cùng được cân nhắc khi Nhà nước cần sử
dụng một diện tích nhất định của tổ chức cá nhân để thực hiện nhiệm vụ quốc phòng,
an ninh hoặc trong tình trạng chiến tranh, tình trạng khẩn cấp, phòng, chống thiên tai.
Thu hồi đất được thực hiện theo quy định của LĐĐ năm 2013, thu hồi đất là việc nhà
nước ra quyết định hành chính để thu lại quyền sử dụng đất hoặc thu lại đất đã giao cho
tổ chức, UBND xã, phường, thị trấn quản lý theo quy định do nhu cầu Nhà nước, do vi
phạm pháp luật đất đai hoặc vì các lý do đương nhiên.
Thứ hai, về thẩm quyền trưng dụng đất và thu hồi đất, thẩm quyền trưng dụng
đất được giao cho bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Bộ trưởng Bộ Công an, Bộ trưởng Bộ
Giao thông vận tải, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ trưởng Bộ
Y tế, Bộ trưởng Bộ Công Thương, Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường, Chủ tịch
UBND cấp tỉnh, Chủ tịch UBND cấp huyện có thẩm quyền quyết định trưng dụng đất,
quyết định gia hạn trưng dụng đất. Tuy nhiên, thẩm quyền thu hồi đất lại chỉ được giao
cho hai cấp chính quyền địa phương bao gồm cấp huyện và cấp tỉnh.
“Như vậy, số lượng cơ quan có thẩm quyền trưng dụng đất đa dạng hơn
11 Khoản 2 Điều 2 Luật trưng dụng, trưng mua tài sản năm 2008
nhiều so với số lượng cơ quan có thẩm quyền quyết định thu hồi đất, xuất phát từ
13
tính cấp thiết và cấp bách của các trường hợp trưng dụng đất, trái ngược với tính ổn
định lâu dài của các trường hợp thu hồi đất bởi thu hồi đất được thực hiện theo quy hoạch, kế hoạch đã được phê duyệt từ trước”12.
Một điểm khác nhau cơ bản nữa về thẩm quyền giữa trưng dụng đất và thu hồi
đất đó là: người có thẩm quyền trưng dụng đất không được phân cấp thẩm quyền cho
người khác còn đối với thẩm quyền thu hồi đất ủy ban nhân dân cấp tỉnh có thể ủy
quyền cho ủy ban nhân dân cấp huyện trong một số trường hợp cụ thể do luật qui định.
Thứ ba, về cách thức thực hiện trưng dụng đất và thu hồi đất. Trưng dụng đất
cũng như thu hồi đất đều được thực hiện bằng một quyết định hành chính do cơ
quan nhà nước có thẩm quyền ban hành và được thể hiện bằng văn bản. Tuy nhiên
đối với trường hợp trưng dụng đất, quyết định trưng dụng đất có thể thể hiện bằng
lời nói trong trường hợp khẩn cấp nhưng phải viết giấy xác nhận việc quyết định.
Thứ tư, về việc bồi thường trong trưng dụng đất và thu hồi đất. Người có đất
trưng dụng được bồi thường thiệt hại trong trường hợp đất trưng dụng bị hủy hoại.
Theo Điều 19 và Điều 38 Luật trưng mua, trưng dụng tài sản năm 2008, hình thức
bồi thường của trưng mua, trưng dụng chủ yếu bằng tiền. Tuy nhiên, đối với việc
bồi thường trong trưng dụng đất, không phải ai có đất bị thu hồi cũng được bồi
thường, các trường hợp Nhà nước thu hồi đất không được bồi thường tài sản gắn
liền với đất được liệt kê tại Điều 92 LĐĐ năm 2013. Bồi thường về đất là việc Nhà
nước trả lại giá trị quyền sử dụng đất đối với diện tích đất thu hồi cho người sử
dụng đất. Các hình thức bồi thường trong trường hợp này có sự đa dạng hơn. Có thể
bồi thường bằng đất, bằng nhà hoặc có thể bồi thường bằng tiền.
1.4. Thẩm quyền thu hồi đất
Thẩm quyền thu hồi đất được qui định rõ ràng, hợp lý, phù hợp với thẩm
quyền giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất. Theo đó, cơ
quan nào giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất sẽ có thẩm
12 TS.Doãn Hồng Nhung (Chủ biên) CN. Nguyễn Ngọc Hà (2014), Pháp Luật về định giá đất trong
bồi thường GPMB ở Việt Nam, nhà xuất bản tư pháp Hà Nội, Tr.83.
quyền thu hồi đất.
14
“UBND cấp tỉnh quyết định thu hồi đất trong các trường hợp đối với tổ chức,
cơ sở tôn giáo, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, tổ chức nước ngoài có chức
năng ngoại giao, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và thu hồi đất nông nghiệp
thuộc quỹ đất công ích của xã, phường, thị trấn. UBND cấp huyện quyết định thu
hồi đất đối với hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư và người Việt Nam định cư ở nước ngoài được sở hữu nhà ở tại Việt Nam.”13
Điểm mới trong quy định về thẩm quyền thu hồi đất của LĐĐ năm 2013 so
với LĐĐ năm 2003 đó là trường hợp trong khu vực thu hồi đất có cả đối tượng
thuộc thẩm quyền thu hồi đất của UBND cấp tỉnh và cả đối tượng thuộc thẩm quyền
thu hồi đất của UBND cấp huyện thì UBND cấp tỉnh quyết định thu hồi đất hoặc ủy
quyền cho UBND cấp huyện quyết định thu hồi đất. Như vậy, nếu có quyết định thu
hồi đất đối với cả tổ chức và cá nhân thì quyết định thu hồi thuộc UBND cấp tỉnh.
1.5. Khái quát chung về giải phóng mặt bằng
1.5.1. Khái niệm bồi thường giải phóng mặt bằng
Như chúng ta đã biết, bồi thường GPMB là vấn đề thời sự nóng hổi, nó ảnh
hưởng rất lớn tới sự phát triển của mỗi quốc gia và cũng là vấn đề mà nhiều nước
đang phải đối mặt. Việt Nam cũng không ngoại lệ, nhất là những năm gần đây, vấn
đề này trở thành trung tâm của dư luận, là mối quan tâm hàng đầu của các nhà
hoạch định chính sách. Thực tiễn đã chứng minh rằng, làm tốt công tác bồi thường
GPMB không chỉ tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển, thu hút đầu tư mà còn góp
phần tạo được lòng tin nhân dân, khắc phục tình trạng cán bộ nhà nước gây khó dễ
cho nhân dân, chống tham nhũng…Bản chất của công tác bồi thường khi Nhà nước
thu hồi đất là phải đảm bảo lợi ích của những người dân bị thu hồi đất, lợi ích đó là
những người dân này phải có được chỗ ở ổn định, có điều kiện sống bằng hoặc cao
hơn nơi ở cũ để tạo điều kiện cho người dân sống ổn định và phát triển. Trong LĐĐ
năm 2013 không đề cập tới khái niệm bồi thường GPMB nhưng ta có thể hiểu bồi
thường GPMB là việc chi trả, bù đắp những tổn thất về đất đai và tài sản gắn liền
13 Khoản 1, Khoản 2 Điều 66 LĐĐ năm 2013
với đất, những chi phí tháo dỡ, di chuyển nhà cửa, vật, kiến trúc công trình hạ tầng
15
kỹ thuật, cây cối hoa màu và chi phí để ổn định đời sống, chuyển đổi nghề nghiệp
cho người sử dụng đất, sở hữu tài sản khi Nhà nước tổ chức thu hồi đất để sử dụng
vào mục đích an ninh, quốc phòng, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng. Nhà nước có
thể bồi thường bằng đất hoặc bằng bằng tiền. Bồi thường thiệt hại bằng tiền được
xác định trên cơ sở định giá đất, tài sản trên đất theo những qui định hướng dẫn của
Nhà nước. Bồi thường thiệt hại bằng đất là việc dùng một diện tích đất khác bồi
thường thiệt hại cho người bị thu hồi, trả các chi phí trực tiếp cho việc thực hiện tổ
chức bồi thường, di chuyển GPMB, xây dựng cơ sở hạ tầng, khu tái định cư cho
người bị thu hồi trong trường hợp Nhà nước thu hồi đất mà phải xây dựng khu tái
định cư.
1.5.2. Sự cần thiết phải bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất để giải phóng mặt bằng
Việc điều chỉnh vấn đề bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất bằng pháp luật
dựa trên những lí do cơ bản sau đây:
Thứ nhất, xuất phát từ việc đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của người bị
thu hồi đất. Khi Nhà nước thu hồi một diện tích đất để sử dụng vào các mục đích
kinh tế, xã hội sẽ khiến cho những người có đất bị thu hồi chịu những thiệt hại
không nhỏ, những thiệt hại này bao gồm cả vật chất và tinh thần. Thiệt hại về vật
chất mà người sử dụng đất có thể phải gánh chịu bao gồm: thiệt hại về công sức đầu
tư, mất quyền khai thác và hưởng các lợi ích từ đất đai; thiệt hại về tài sản là thành
quả lao động và kết quả đầu tư vào đất; thiệt hại về chi phí đầu tư vào đất tính đến
thời điểm Nhà nước thu hồi đất vẫn chưa thu lại được; thiệt hại do bị ngừng việc,
ngừng sản xuất - kinh doanh; các thiệt hại vật chất vô hình khác mà người bị thu hồi
đất phải gánh chịu như: đất ở khu vực Nhà nước chuyển mục đích sử dụng sẽ tăng
giá trị mà họ không được hưởng, trong khi những người sử dụng đất ở khu vực đó
lại được hưởng. Bên cạnh những thiệt hại về vật chất, người bị thu hồi đất còn phải
gánh chịu thiệt hại về mặt tinh thần. Việc Nhà nước thu hồi đất dẫn đến đảo lộn đời
sống, sản xuất cũng như sinh hoạt của người dân bị thu hồi đất. Bên cạnh đó việc
chuyển đến nơi ở mới cũng làm người dân phải mất một khoảng thời gian dài để
thích nghi với môi trường sống mới. Thậm chí họ phải mất rất nhiều thời gian mới
có thể tìm kiếm được công ăn, việc làm ổn định…Với những thiệt hại nói trên, việc
16
ban hành pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất là rất cần thiết, giúp
người dân nắm được quyền và lợi ích hợp pháp mà mình được hưởng khi bị thu hồi
đất, qua đó có sự tham gia, giám sát chủ động, tích cực vào quá trình thực thi pháp
luật của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Như vậy, việc ban hành pháp luật về
bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất góp phần đảm bảo các quyền và lợi ích hợp
pháp của người dân trong quá trình thu hồi đất.
Thứ hai, xuất phát từ vai trò của Nhà nước trong quản lí đất đai. Việc Nhà
nước khi tiến hành thu hồi đất là để tạo ra một quỹ đất hợp lý sử dụng cho các mục
đích quốc phòng, an ninh, phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng.
Tuy nhiên khi thu hồi đất, Nhà nước phải tạo được sự đồng thuận trong nhân dân
bằng việc thực hiện các chính sách bồi thường cho người dân bị thu hồi đất, cần
thiết phải ban hành pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất để tạo cơ sở
pháp lý cho cơ quan nhà nước trong quá trình triển khai thực hiện bồi thường.
1.6. Lịch sử hình thành và phát triển pháp luật về bồi thường khi Nhà nước
thu hồi đất
1.6.1. Giai đoạn trước năm 1993
Lịch sử hình thành pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất được
đánh dấu bằng sự ra đời Nghị định số 151-TTg ngày 14/04/1959 của Hội đồng
Chính phủ qui định thể lệ tạm thời trưng dụng ruộng đất. Tiếp đó là sự ra đời của
Thông tư liên hộ số 1424/TTLB ngày 6/7/1959 về việc thi hành Nghị định số 151-
TTg ngày 14/04 /1959 của Thủ tướng Chính phủ qui định về thể lệ tạm thời trưng
dụng ruộng đất.
Hiến pháp năm 1959 ra đời ghi nhận sự bảo hộ của Nhà nước đối với quyền
sở hữu của công dân về của cải, thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở và các
thứ vật dụng riêng khác (Điều 18 Hiến pháp năm 1959), và chỉ khi nào cần thiết vì
lợi ích chung, Nhà nước mới trưng mua hoặc trưng dụng, trưng thu có bồi thường
thích đáng các tư liệu sản xuất ở thành thị và nông thôn trong phạm vi điều kiện do
pháp luật qui định (Điều 20 Hiến pháp năm 1959)
Sau đó, tới năm 1970, vấn đề bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất lại được
qui định tại Thông tư số 1972/TTg ngày 11/01/1970 của Thủ tướng Chính phủ quy
17
định một số điểm tạm thời về bồi thường nhà cửa, đất đai, cây cối lưu niên, các hoa
mầu cho nhân dân ở những vùng xây dựng kinh tế mở rộng thành phố.
Hiến pháp 1980 ra đời qui định đất đai thuộc sở hữu toàn dân. Bên cạnh đó,
bản Hiến pháp này cũng khẳng định: “Khi thật cần thiết vì lợi ích chung, Nhà nước
có thể trưng thu, trưng mua trưng dụng hoặc trưng thu có bồi thường tài sản của cá nhân hoặc của tập thể”14. Để cụ thể hoá qui định của Hiến pháp năm 1980, luật đất
đai đầu tiên của nước ta được ra đời đó là LĐĐ năm 1987. Nó đã khẳng định
nguyên tắc đất đai thuộc sở hữu toàn dân và Nhà nuớc thống nhất quản lí đất đai.
Bên cạnh đó, Luật này cũng quy định về các trường hợp Nhà nước thu hồi đất,
trong đó cũng chia ra làm hai trường hợp: trường hợp thứ nhất thu hồi do lỗi của
người sử dụng đất và trường hợp thứ hai thu hồi không do lỗi của người sử dụng đất
(Điều 14 Hiến pháp 1980). Tuy nhiên luật này vẫn còn thiếu sót khi chưa quy định
rõ về đền bù thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất sử dụng vào mục đích lợi ích quốc
gia, lợi ích công cộng.
1.6.2. Giai đoạn từ năm 1993 đến năm 2003
Cùng với sự ra đời của Hiến pháp năm 1992 là sự thay thế LĐĐ năm 1987
bằng LĐĐ năm 1993. Với những qui định của LĐĐ năm 1993, pháp luật về bồi
thường khi Nhà nước thu hồi đất bước sang giai đoạn mới. Điều 27 LĐĐ năm 2003
qui định: “Trong trường hợp cần thiết, Nhà nước thu hồi đất đang sử dụng của
người sử dụng đất để sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia,
lợi ích công cộng thì người bị thu hồi đất được đền bù thiệt hại”. Đồng thời LĐĐ
năm 1993 cũng qui định về thẩm quyền, trình tự thu hồi đất.
Sau sự ra đời của LĐĐ năm 1993 là hàng loạt các văn bản hướng dẫn thi
hành. Trong đó, có thể kể đến một số văn bản qui định về bồi thường khi Nhà nước
thu hồi đất sau đây:
Nghị định số 90-CP ngày 17/08/1994 ban hành qui định về việc đền bù thiệt
hại khi nhà nước thu hồi đất để sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích
14 Điều 28 Hiến Pháp 1980
quốc gia, lợi ích công cộng; Nghị định số 87/CP ngày 17/08/1994 của Chính phủ
18
qui định khung giá các loại đất; Nghị định số 22/1998/NĐ-CP ngày 24/04/1998 về
việc đền bù thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất để sử dụng vào mục đích quốc
phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng (thay nghị định số 90-CP ngày
17/08/1994).
Thông tư Liên Bộ Ban vật giá Chính phủ Tài chính- Xây dựng- Tổng cục địa
chính số 94/TTLB ngày 14/11/1994 hướng dẫn thi hành Nghị định số 87/CP ngày
17/08/1994 của Chính phủ quy định khung giá các loại đất; Thông tư số
145/1998/TT-BTC ngày 04/11/1998 của Bộ tài chính hướng dẫn thi hành; Nghị
định số 22/1998/NĐ-CP ngày 24/04/1998 về việc đền bù thiệt hại khi Nhà nước thu
hồi đất vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng;
Quyết định số 302/TTg ngày 13/05/1996 của Thủ tướng Chính phủ về việc điều
chỉnh hệ số (K) trong khung giá đất ban hành kèm theo Nghị định số 87/CP ngày
17/08/1994.
Nhìn vào những chính sách về bồi thường trong giai đoạn này có thể thấy rõ nhà
nước đã có sự quan tâm tới vấn đề bồi thường cho những người dân bị thu hồi đất.
Những chính sách về bồi thường giai đoạn này thể hiện sự thống nhất chính sách bồi
thường thiệt hại cho mọi trường hợp bị Nhà nước thu hồi đất; bên cạnh bồi thường,
Nhà nước còn tiến hành các chính sách hỗ trợ nhằm đảm bảo ổn định cuộc sống cho
người dân tại nơi ở cũ hoặc nơi ở mới; quy định đầy đủ phạm vi, đối tượng áp dụng,
nguyên tắc điều kiện được bồi thường, chi tiết và cụ thể hóa các trường hợp bồi thường
thiệt hại về đất, nhà và các tài sản khác gắn liền với đất cho phù hợp với thực tế quản lí
sử dụng đất, tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình tổ chức thực hiện; đảm bảo quyền tự
do lựa chọn phương thức bồi thường bao gồm bồi thường bằng đất, bằng tiền, nhằm tạo
điều kiện chủ động cho người dân, nhằm chặn sự áp đặt hành chính từ phía cơ quan
nhà nước. Mặt khác, trách nhiệm tổ chức, bồi thường, lập phương án bồi thường được
giao cho các địa phương đã tạo sự chủ động, áp dụng chính sách linh hoạt phù hợp với
điều kiện thực tế của từng địa phương.
Tuy nhiên, Nghị định số 22/1998/NĐ-CP ngày 24 tháng 4 năm 1998 và các
văn bản liên quan đã bộc lộ các hạn chế như: việc bồi thường đất ở với các trường
hợp sử dụng đất trước LĐĐ năm 1993 chưa được quy định cụ thể nên trong tổ chức
19
thực hiện còn nhiều cách làm khác nhau dẫn đến khiếu kiện. Hơn thế nữa, các loại
tài sản nào không được bồi thường, hay loại tài sản có thể di chuyển thì được bồi
thường, hỗ trợ như thế nào thì lại chưa có quy định. Điều này đã dẫn đến việc một
số đối tượng lợi dụng để đầu tư các tài sản trái phép mong được hưởng lợi khi bồi
thường; chưa có văn bản hướng dẫn, quy định về quy trình lập và thẩm định kế
hoạch tái định cư cũng như cưỡng chế thi hành quyết định thu hồi đất, quyết định
bồi thường đối với các trường hợp cố tình không thực hiện, dẫn đến lợi dụng kẽ hở
trong chính sách của Nhà nước cản trở công tác bồi thường hỗ trợ, tái định cư khi
nhà nước thu hồi đất.
1.6.3. Giai đoạn từ năm 2003 đến năm 2013
Giai đoạn này nước ta đang trên đà phát triển, công cuộc công nghiệp hóa
hiện đại hóa buộc Nhà nước phải thu hồi nhiều đất hơn để phục vụ cho mục đính
quốc phòng, phát triển kinh tế- xã hội, xây dựng cơ sở hạ tầng …Vì vậy, việc khắc
phục những hạn chế của các văn bản pháp luật trước đây là rất cần thiết, ngày
23/11/2003, LĐĐ năm 2003 được thông qua với nhiều quy định về bồi thường khi
Nhà nước thu hồi đất được sửa đổi bổ sung. LĐĐ năm 2003 để quy định về thu hồi
đất và bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất tại mục 4 chương 2 với nhiều sửa đổi
bổ sung quan trọng. Cụ thể hóa quy định về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất
trong LĐĐ năm 2003, nhiều văn bản hướng dẫn được ban hành như:
Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 của Chính phủ về thi hành
LĐĐ năm 2003; Nghị định số 197/2004/NĐ-CP ngày 03/12/2004 của Chính phủ về
bồi thường, hỗ trợ tài tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất; Thông tư số
116/2004/TT-BTC ngày 07/12/2004 của Bộ tài chính hướng dẫn thực hiện Nghị
định số 197/2004/NĐ-CP ngày 03/12/2004 của Chính phủ về bồi thường, hỗ trợ và
tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất; Nghị định số 188/2004/ NĐ-CP ngày
16/11/2004 của Chính phủ về phương pháp xác định giá đất và khung giá các loại
đất; Nghị định số 84/2007/NĐ-CP ngày 25/05/2007 của Chính phủ quy định bổ
sung về việc Cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thu hồi đất, thực hiện quyền
sử dụng đất, trình tự, thủ tục bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi
đất và giải quyết khiếu nại về đất đai; Nghị định số 69/2009/NĐ-CP ngày
20
13/08/2009 của Chính phủ quy định bổ sung về quy hoạch sử dụng đất, giá đất, thu
hồi đất, bồi thường, hỗ trợ tái định cư; Thông tư số 14/2009/TT-BTNMT ngày
01/10/2009 của Bộ Tài nguyên và Môi trường quy định chi tiết về bồi thường hỗ
trợ, tái định cư và trình tự, thủ tục thu hồi đất, giao đất, cho thuê đất…
Đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước, pháp luật về bồi thường khi Nhà
nước thu hồi đất giai đoạn này đã được quy định đầy đủ, cụ thể hơn, bảo vệ tốt hơn
quyền của người bị thu hồi đất. Các trường hợp bị thu hồi đất vì mục đích quốc
phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng và vì mục tiêu phát triển kinh tế
được quy định cụ thể để hạn chế việc một số cơ quan nhà nước lạm dụng quyền
hành thu hồi đất bừa bãi. Về điều kiện để được bồi thường đất và bồi thường tài sản
khi bị Nhà nước thu hồi đất cũng được liệt kê cụ thể. Hơn thế nữa, để đảm bảo
quyền lợi cho người có đất bị thu hồi, tại các nghị định, thông tư hướng dẫn của
LĐĐ năm 2003 quy định chi tiết những trường hợp người sử dụng đất không có
giấy tờ về quyền sử dụng đất nhưng vẫn được xem xét để bồi thường, hỗ trợ khi
Nhà nước thu hồi đất. Các chính sách hỗ trợ, nhất là hỗ trợ ổn định đời sống và sản
xuất, hỗ trợ đào tạo chuyển đổi nghề và tạo việc làm đối với trường hợp thu hồi đất
nông nghiệp cũng được quy định chi tiết tại các văn bản pháp luật hướng dẫn thi
hành LĐĐ năm 2003.
Tuy nhiên, các qui định này vẫn bộc lộ nhiều mặt hạn chế trong thực tiễn áp
dụng tại các địa phương do các nguyên nhân cơ bản sau: giá đất bồi thường còn
thấp so với giá thị trường do chủ yếu thực hiện theo khung giá Nhà nước quy định.
Việc để cho nhà đầu tư tự thỏa thuận với người dân về giá đất bồi thường mặc dù
giúp chủ động quỹ đất để thực hiện dự án, việc giải phóng mặt bằng có thể tiến
hành nhanh chóng hơn, nhưng nó lại khiến giá đất bồi thường trong cùng 1 khu vực
nhưng lại có sự chênh lệch khác nhau. Điều này đã vô hình làm các vụ khiếu kiện
về đất đai tăng lên. Hơn thế nữa, có một số người bị thu hồi đất đã lợi dụng quy
định này đòi hỏi nhà đầu tư phải bồi thường giá đất cao hơn rất nhiều so với giá thị
trường khiến việc giải phóng mặt bằng gặp vô số khó khăn, dự án bị chậm tiến độ.
“Việc thu hồi đất, bồi thường, GPMB còn khá nhiều bất cập, chưa có cơ chế
giải quyết một cách rõ ràng, minh bạch, hài hòa về lợi ích giữa Nhà nước, người có
21
đất bị thu hồi và nhà đầu tư; chưa có quy định về việc sử dụng tư vấn giá đất, giải
quyết khiếu nại về giá đất. Việc chuẩn bị phương án bồi thường, hỗ trợ chưa được
các cấp chính quyền quan tâm đúng mức, nhất là phương án giải quyết việc làm cho
người nông dân bị thu hồi đất nông nghiệp, chưa có một chế tài đủ mạnh khiến các
chủ đầu tư phải có ý thức trách nhiệm trong việc sắp xếp việc làm cho người bị thu hồi đất15”
1.6.4. Giai đoạn từ năm 2013 đến nay.
Ngày 29/11/2013 LĐĐ năm 2013 đã được thông qua. Luật có hiệu lực thi
hành từ 1/7/2014. Việc ra đời của LĐĐ năm 2013 nhận được vô số sự quan tâm của
dư luận trong nước, đây là đạo luật được kì vọng sẽ khắc phục được những hạn chế,
vướng mắc mà LĐĐ năm 2003 chưa làm được. LĐĐ năm 2013 đã có nhiều quy
định bổ sung, sửa đổi, đồng thời cũng đã luật hóa và quy định cụ thể trong luật
nhiều nội dung liên quan đến vẫn đề bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất. LĐĐ
năm 2013 có 14 chương với 212 điều, tăng 07 chương và 66 điều so với LĐĐ năm
2003, đã thể chế hóa đúng và đầy đủ những quan điểm, định hướng nêu trong Nghị
quyết số 19-NQ/TW Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng, đồng
thời khắc phục, giải quyết được những tồn tại, hạn chế phát sinh trong quá trình thi
hành LĐĐ năm 2003. Sau khi LĐĐ năm 2013 được ban hành và chính thức có hiệu
lực, các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền đã ban hành nhiều văn bản hướng dẫn thi
hành về lĩnh vực bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất để giải phóng mặt
bằng, đó là:
Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15 tháng 5 năm 2014 của Chính phủ quy
định chi tiết thi hành một số điều của LĐĐ; Nghị định số 44/2014/NĐ-CP ngày 15
tháng 5 năm 2014 của Chính phủ quy định về giá đất; Nghị định số 47/2014/NĐ-CP
ngày 15 tháng 5 năm 2014 của Chính phủ quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định
cư khi Nhà nước thu hồi đất; Nghị định số 44/2014/NĐ-CP ngày 15 tháng 5 năm
15 Phạm Thu Thủy (2014), Luận án TS Luật học, Pháp luật về bồi thường khi nhà nước thu hồi đất
nông nghiệp ở Việt Nam, Đại học luật Hà Nội, Tr.60.
2014 của Chính phủ.
22
Thông tư số 30/2014/TT-BTNMT ngày 02 tháng 6 năm 2014 của Bộ Tài
nguyên và Môi trường quy định về hồ sơ giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử
dụng đất, thu hồi đất; Thông tư số 36/2014/TT-BTNMT ngày 30 tháng 6 năm 2014
của Bộ Tài nguyên và Môi trường quy định chi tiết phương pháp định giá đất; xây
dựng, điều chỉnh bảng giá đất; định giá đất cụ thể và tư vấn xác định giá đất; Thông
tư số 02/2015/TT-BTNMT ngày 27 tháng 01 năm 2015 của Bộ Tài nguyên và Môi
trường quy định chi tiết một số điều của Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày
15/05/2014.
Về thu hồi đất, Luật Đất đai năm 2013 có các nội dung đổi mới sau đây:
LĐĐ năm 2013 đã khẳng định một cách rõ ràng nguyên tắc công khai, minh
bạch và dân chủ trong công tác thu hồi đất thông qua các quy định cụ thể về các
trường hợp Nhà nước thu hồi đất; trình tự, thủ tục thu hồi đất; bồi thường, hỗ trợ, tái
định cư khi Nhà nước thu hồi đất.
Quy định chế tài mạnh để xử lý đối với trường hợp không đưa đất đã được
giao, cho thuê vào sử dụng hoặc chậm đưa đất vào sử dụng đó là cho phép chậm
tiến độ hơn so với quy định hiện hành 24 tháng và chủ đầu tư phải nộp một khoản
tiền tương ứng với tiền sử dụng đất, tiền thuê đất trong thời hạn đó; nếu hết 24
tháng cho phép chậm tiến độ này mà vẫn chưa đưa đất vào sử dụng thì Nhà nước
thu hồi đất mà không bồi thường về đất, tài sản gắn liền với đất.
Bổ sung các quy định về các trường hợp Nhà nước trưng dụng đất, thẩm
quyền, thời hạn, hiệu lực, hình thức của việc trưng dụng đất. Sửa đổi thẩm quyền
thu hồi đất để cải cách hành chính khi thực hiện các dự án theo hướng Ủy ban nhân
dân cấp tỉnh quyết định thu hồi đất đối với trường hợp khu đất thu hồi có cả tổ chức
và hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất.
Quy định cụ thể trong LĐĐ năm 2013 về trình tự, thủ tục thu hồi đất vì mục
đích quốc phòng, an ninh; phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng;
nguyên tắc, điều kiện, trình tự, thủ tục thực hiện cưỡng chế thực hiện quyết định kiểm
đếm bắt buộc và thực hiện cưỡng chế quyết định thu hồi đất nhằm tạo điều kiện cho
các địa phương triển khai thực hiện thống nhất. Đối với trình tự, thu hồi đất, LĐĐ năm
2013 đã quy định theo hướng tăng cường hơn sự tham gia trực tiếp của nhân dân trong
23
việc đo đạc, kiểm đếm đất đai, tài sản gắn liền với đất và xây dựng phương án bồi
thường, hỗ trợ và tái định cư; trách nhiệm đối thoại và giải trình của cơ quan nhà nước
có thẩm quyền khi người dân chưa có ý kiến đồng thuận.
Về vấn đề bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất, LĐĐ
năm 2013 đã quy định khá đầy đủ, chi tiết, đã bổ sung những quy định rất quan
trọng như:
Quy định giá đất bồi thường không áp dụng theo bảng giá đất mà áp dụng giá
đất cụ thể do UBND cấp tỉnh quyết định tại thời điểm quyết định thu hồi đất. Quy
định cụ thể điều kiện được bồi thường về đất, bồi thường chi phí đầu tư vào đất còn
lại, bồi thường tài sản gắn liền với đất; bồi thường khi thu hồi đối với từng loại đất
và từng đối tượng cụ thể. Yêu cầu đảm bảo sinh kế cho người có đất thu hồi đã
được quy định cụ thể, rõ ràng, đầy đủ hơn trong LĐĐ năm 2013 thông qua quy định
về các khoản hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất như hỗ trợ ổn định đời sống và sản
xuất; hỗ trợ đào tạo, chuyển đổi nghề và tạo việc làm; hỗ trợ tái định cư đối với trường
hợp thu hồi đất ở mà phải di chuyển chỗ ở và một số khoản hỗ trợ khác. Ủy ban nhân
dân cấp tỉnh có trách nhiệm tổ chức lập và thực hiện phương án đào tạo, chuyển đổi
nghề, hỗ trợ tìm kiếm việc làm cho người có đất thu hồi là đất nông nghiệp, đất ở kết hợp
kinh doanh dịch vụ và phê duyệt đồng thời với phương án bồi thường, hỗ trợ, tái cư. Quy
định khi thu hồi đất mà phải bố trí tái định cư thì Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện có
trách nhiệm tổ chức lập và tổ chức thực hiện dự án tái định cư trước khi thu hồi đất. Khu
tái định cư tập trung phải xây dựng cơ sở hạ tầng đồng bộ bảo đảm tiêu chuẩn, quy chuẩn
xây dựng; phù hợp với điều kiện, phong tục, tập quán của từng vùng, miền. Việc thu hồi
đất ở chỉ được thực hiện sau khi hoàn thành xây dựng nhà ở hoặc cơ sở hạ tầng của khu
tái định cư. Bổ sung quy định xử lý đối với trường hợp chậm chi trả bồi thường do lỗi
của cơ quan Nhà nước và do lỗi của người có đất thu hồi gây để đảm bảo trách nhiệm
của các cơ quan nhà nước trong thực thi công vụ cũng như tăng cường ý thức chấp hành
pháp luật của nhân dân. LĐĐ năm 2013 đã quy định cụ thể hơn về quyền tham gia của
24
người dân trong quá trình lập và thực hiện phương án bồi thường, hỗ trợ tái định cư; thẩm quyền16.
Tóm lại, pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất là tổng hợp các
qui phạm pháp luật để điều chỉnh quan hệ phát sinh trong quá trình Nhà nước thu
hồi đất của người dân để GPMB. Thu hồi đất là một yêu cầu tất yếu của quá trình
công nghiệp, hiện đại hóa đất nước. Bên cạnh những tác động tích cực nó mang lại
trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế quốc dân thì thu hồi đất cũng để lại những ảnh
hưởng tiêu cực nhất định đối với đời sống của người dân. Chính vì vậy, nhà nước
cần phải có chính sách bồi thường thích đáng đối với những người dân bị thu hồi
đất. Trong phạm vi chương 1 của luận văn đã làm rõ một số vấn đề lí luận về bồi
thường khi nhà nước thu hồi đất để GPMB. Những lí luận này sẽ làm cơ sở cho
những phân tích, đánh giá các quy định của pháp luật Việt Nam về bồi thường, hỗ
http://tnmtcaobang.gov.vn/index.php/vi/news/Quan-ly-dat-dai/Nhung-noi-dung-doi-moi-quan-
16
trong-cua-Luat-dat-dai-nam-2013-2010/
trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất ở những chương sau.
25
Chương 2
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƯỜNG KHI NHÀ NƯỚC THU
HỒI ĐẤT VÀ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƯỜNG KHI NHÀ NƯỚC
THU HỒI ĐẤT QUA THỰC TIỄN GIẢI PHÓNG MẶT BẰNG TRÊN ĐỊA
BÀN TỈNH NINH BÌNH
2.1. Pháp luật thực định điều chỉnh hoạt động bồi thường hỗ trợ tái định cư
khi Nhà nước thu hồi đất
2.1.1. Trình tự thủ tục thực hiện việc bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất
Thứ nhất, trước khi có quyết định thu hồi đất, trong trường hợp đất phi nông
nghiệp thì cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải thông báo chậm nhất là 180 ngày; và
90 ngày đối với đất nông nghiệp. Thông báo phải được gửi đến từng người có đất thu
hồi, họp phổ biến đến người dân trong khu vực có đất bị thu hồi; thông báo trên
phương tiện thông tin đại chúng, niêm yết tại trụ sở UBND cấp xã. Sau khi có kết quả
thống nhất, hoặc hết thời hạn thông báo thì UBND cấp có thẩm quyền ra quyết định thu
hồi đất. Đây là một trong những điểm mới của LĐĐ năm 2013, việc thông báo trước
một khoảng thời gian nhất định cho người dân có đất bị thu hồi và họp lấy ý kiến của
người dân giúp cho người dân nắm rõ được kế hoạch thu hồi đất, điều tra, khảo sát, đo
đạc, kiểm đếm đồng thời có thể giải thích cho họ hiểu việc thu hồi đất để thực hiện dự
án là phục vụ cho lợi ích phát triển của đất nước nói chung hay chính bản thân họ nói
riêng. Như vậy, việc GPMB sẽ diễn ra thuận lợi và nhanh chóng hơn.
Thứ hai, sau khi có quyết định thu hồi, UBND xã có trách nhiệm phối hợp
với ban bồi thường, giải phóng mặt bằng tiến hành kế hoạch thu hồi đất, kiểm tra,
khảo sát, đo đạc. Khi này thì những cá nhân, tổ chức có đất bị thu hồi có trách
nhiệm phối hợp thực hiện nhiệm vụ trên.
Thứ ba, trên cơ sở kết quả kiểm tra, khảo sát, đo đạc, kiểm đếm thì ban bồi
thường, giải phóng mặt bằng có trách nhiệm lập phương án bồi thường, hỗ trợ, tái
định cư đối với từng tổ chức, cá nhân, hộ gia đình có đất thu hổi để lấy ý kiến. Sau
khi phương án chi tiết được lập, tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt
bằng có trách nhiệm phối hợp với UBND cấp xã nơi có đất thu hồi tổ chức lấy ý
26
kiến của nhân dân, nhất là các đối tượng bị thu hồi đất. Hình thức lấy ý kiến là: tổ
chức họp trực tiếp với người dân trong khu vực có đất thu hồi, đồng thời niêm yết
công khai phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư tại trụ sở UBND cấp xã, địa
điểm sinh hoạt chung của khu dân cư nơi có đất thu hồi. Việc tổ chức lấy ý kiến
phải được lập thành biên bản có xác nhận của đại diện UBND cấp xã, đại diện Ủy
ban MTTQVN cấp xã, đại diện những người có đất thu hồi. Tổ chức làm nhiệm vụ
bồi thường, giải phóng mặt bằng có trách nhiệm tổng hợp ý kiến đóng góp bằng văn
bản, ghi rõ số lượng ý kiến đồng ý, số lượng ý kiến không đồng ý, số lượng ý kiến
khác đối với phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư; phối hợp với UBND cấp xã
nơi có đất thu hồi tổ chức đối thoại đối với trường hợp còn có ý kiến không đồng ý
về phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư; hoàn chỉnh phương án trình cơ quan
có thẩm quyền. Điều này sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho người dân nơi có đất bị thu
hồi biết được rõ ràng phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư để từ đó biết được
mình có thuộc đối tượng được bồi thường không, nếu thuộc đối tượng bồi thường
thì được bồi thường như thế nào? Lựa chọn hình thức bồi thường bằng việc giao đất
mới hay bằng tiền cũng như có thể phản ánh với UBND cấp xã lí do tại sao không
đồng ý với phương án bồi thường. Để từ đó tìm cách tháo gỡ tránh tình trạng người
dân có những phản ứng gay gắt khi bị cưỡng chế thu hồi đất.
Thứ tư, phương án được duyệt và thực hiện trên thực tế. Tổ chức, cá nhân,
hộ gia đình có đất bị thu hồi bàn giao mặt bằng cho ban dự án, nhận tiền bồi thường
và hưởng phương án tái định cư được lập và thông qua. Trường hợp người có đất bị
thu hồi không bàn giao mặt bằng thì bị cưỡng chế thu hồi đất theo quy định tại Điều 71 LĐĐ năm 201317.
2.1.2. Qui đinh về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất
2.1.2.1. Điều kiện được bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất
Các đối tượng được bồi thường hỗ trợ về đất khi Nhà nước thu hồi đất nếu có
http://www.doisongphapluat.com/phap-luat/tinh-huong-phap-luat/thu-tuc-thu-hoi-dat-va-quy-
17
trinh-boi-thuong-tai-dinh-cu-a106597.html
đủ điều kiện được bồi thường quy định tại Điều 75, Điều 100, Điều 101 của LĐĐ
27
năm 2013; Từ Điều 5 tới Điều 8, Điều 13, Điều 15 của nghị định số 47/2014/NĐ-
CP Qui định về bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi nhà nước thu hồi đất thì được bồi
thường về đất khi Nhà nước thu hồi đất.
Điều kiện đối với hộ gia đình, cá nhân:
Thứ nhất, hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất không phải là đất thuê trả
tiền thuê đất hàng năm, có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận
quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất,
quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất
Thứ hai, hộ gia đình, cá nhân đủ điều kiện để được cấp Giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất theo quy định của
pháp luật đất đai hiện hành mà chưa được cấp. Đó là các trường hợp sau đây:
Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất ổn định, được UBND cấp xã xác nhận
không có tranh chấp và có một trong các loại giấy tờ như: những giấy tờ về quyền
được sử dụng đất trước ngày 15 tháng 10 năm 1993 do cơ quan có thẩm quyền cấp
trong quá trình thực hiện chính sách đất đai của Nhà nước Việt Nam dân chủ Cộng
hòa, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam và Nhà nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tạm thời
được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp hoặc có tên trong Sổ đăng ký ruộng đất,
sổ địa chính trước ngày 15 tháng 10 năm 1993; giấy tờ hợp pháp về thừa kế, tặng
cho quyền sử dụng đất hoặc tài sản gắn liền với đất; giấy tờ giao nhà tình nghĩa, nhà
tình thương gắn liền với đất; giấy tờ chuyển nhượng quyền sử dụng đất, mua bán
nhà ở gắn liền với đất ở trước ngày 15 tháng 10 năm 1993 được UBND cấp xã xác
nhận là đã sử dụng trước ngày 15 tháng 10 năm 1993. Giấy tờ thanh lý, hóa giá nhà
ở gắn liền với đất ở; giấy tờ mua nhà ở thuộc sở hữu nhà nước theo quy định của
pháp luật; giấy tờ về quyền sử dụng đất do cơ quan có thẩm quyền thuộc chế độ cũ
cấp cho người sử dụng đất. Ngoài ra các loại giấy tờ khác được xác lập trước ngày
15 tháng 10 năm 1993 theo quy định của Chính phủ cũng được công nhận. Nếu hộ
gia đình, cá nhân đang sử dụng đất có một trong các loại giấy tờ quy định nêu trên
mà trên giấy tờ đó ghi tên người khác, kèm theo giấy tờ về việc chuyển quyền sử
dụng đất có chữ ký của các bên có liên quan nhưng chưa thực hiện thủ tục chuyển
28
quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật và đất đó không có tranh chấp thì
vẫn thuộc đối tượng được bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất.
Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất có hộ khẩu thường trú tại địa phương
và trực tiếp sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản, làm muối tại
vùng có điều kiện kinh tế- xã hội khó khăn ở miền núi, hải đảo, nay được xác nhận
là người đã sử dụng đất ổn định không có tranh chấp.
Hộ gia đình, cá nhân được sử dụng đất theo bản án hoặc quyết định của Tòa
án nhân dân, quyết định thi hành án của cơ quan thi hành án, văn bản công nhận kết
quả hòa giải thành, quyết định giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về đất đai của
cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã được thi hành.
Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất được Nhà nước giao đất, cho thuê đất
từ ngày 15 tháng 10 năm 1993 đến thời điểm LĐĐ năm 2013 có hiệu lực thi hành
mà chưa được cấp Giấy chứng nhận.
Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất không có các giấy tờ nào về quyền sử
dụng đất nhưng đất đã được sử dụng ổn định từ trước ngày 01 tháng 7 năm 2004 và
không vi phạm pháp luật về đất đai, nay được UBND cấp xã xác nhận là đất không có
tranh chấp, phù hợp với quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch chi tiết xây dựng đô thị,
quy hoạch xây dựng điểm dân cư nông thôn đã được cơ quan nhà nước có thẩm
quyền phê duyệt đối với nơi đã có quy hoạch. Căn cứ xác định việc sử dụng đất ổn
định quy định tại Điều 21 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15 tháng 05 năm 2014
Quy định chi tiết thi hành một số điều của LĐĐ năm 2013 đó là việc sử dụng đất liên
tục vào một mục đích chính nhất định kể từ thời điểm bắt đầu sử dụng đất vào mục
đích đó đến thời điểm cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở
và tài sản khác gắn liền với đất hoặc đến thời điểm quyết định thu hồi đất của cơ quan
nhà nước có thẩm quyền đối với trường hợp chưa cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất, giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở, giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất.
Hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất không có bất kì loại giấy tờ nào về quyền
sử dụng đất, nhưng có nhà ở, công trình xây dựng khác từ trước ngày 15 tháng 10
năm 1993; nay được UBND cấp xã nơi có đất xác nhận không có tranh chấp sử
29
dụng đất; việc sử dụng đất tại thời điểm nộp hồ sơ đề nghị cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất là phù hợp
với quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch chi tiết xây dựng đô thị hoặc quy hoạch xây
dựng điểm dân cư nông thôn hoặc quy hoạch xây dựng nông thôn mới đã được cơ
quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt hoặc không phù hợp với quy hoạch nhưng
đã sử dụng đất từ trước thời điểm phê duyệt quy hoạch hoặc sử dụng đất tại nơi
chưa có quy hoạch.
Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất mà trước đây
cơ quan nhà nước đã có quyết định quản lý đối với đất đai, tài sản đó trong quá trình
thực hiện chính sách của Nhà nước nhưng thực tế Nhà nước chưa thực hiện, hộ gia
đình, cá nhân đó vẫn sử dụng.
Thứ ba, người Việt Nam định cư ở nước ngoài thuộc đối tượng được sở hữu
nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất ở tại Việt Nam mà có Giấy chứng nhận hoặc
có đủ điều kiện được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở
và tài sản khác gắn liền với đất theo quy định của Luật này mà chưa được cấp.
Điều kiện đối với tổ chức
Tổ chức được Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất, cho thuê đất trả tiền
thuê đất một lần cho cả thời gian thuê hoặc tổ chức có đất nhận thừa kế quyền sử
dụng đất mà tiền sử dụng đất đã nộp không có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước, có
Giấy chứng nhận hoặc có đủ điều kiện được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất theo quy định của LĐĐ
năm 2013 mà chưa được cấp. Ngoài ra, đất mà tổ chức được Nhà nước giao có thu
tiền sử dụng đất mà tiền sử dụng đất đã nộp không có nguồn gốc từ ngân sách nhà
nước hoặc đất tổ chức được nhận chuyển nhượng của người sử dụng đất hợp pháp
mà tiền trả cho việc chuyển nhượng không có nguồn từ ngân sách nhà nước thì
cũng được bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất theo quy định của LĐĐ năm 2013.
Điều kiện đối với cộng đồng dân cư:
Cộng đồng dân cư, cơ sở tôn giáo, tín ngưỡng đang sử dụng đất mà không
phải là đất do Nhà nước giao, cho thuê và có giấy chứng nhận hoặc có đủ điều kiện
30
để được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản
khác gắn liền với đất theo quy định của LĐĐ năm 2013 mà chưa được cấp.
Ta có thể thấy LĐĐ năm 2013 đã quy định cụ thể và làm rõ các điều kiện để
được bồi thường về đất khi Nhà nước thu hồi đất vì mục đích quốc phòng, an ninh;
phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng đối với từng loại đối tượng
mà Nhà nước thu hồi đất. LĐĐ năm 2013 bổ sung thêm 2 trường hợp được bồi
thường về đất khi Nhà nước thu hồi đất đó là:
Trường hợp thứ nhất, bổ sung bồi thường đối với các trường hợp sử dụng đất
thuê trả tiền thuê đất một lần cho cả thời gian thuê nhằm đảm bảo sự bình đẳng giữa
người sử dụng đất theo hình thức thuê đất trả tiền một lần cho cả thời gian thuê với
người được giao đất có thu tiền sử dụng đất (có cùng nghĩa vụ tài chính như nhau).
Trường hợp thứ hai, bổ sung bồi thường đối với trường hợp cơ sở tôn giáo,
cộng đồng dân cư đang sử dụng đất mà không phải là đất do nhà nước giao, cho
thuê và có giấy chứng nhận hoặc có đủ điều kiện để được cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất theo quy
định của LĐĐ năm 2013 này mà chưa được cấp. LĐĐ năm 2003 chưa quy định
việc bồi thường, hỗ trợ đất đối với đất do cơ sở tôn giáo đang sử dụng vào mục đích
sản xuất nông nghiệp, sản xuất lâm nghiệp, sản xuất kinh doanh phi công nghiệp,
làm cơ sở hoạt động từ thiện, không phải đất do được nhà nước giao mà có nguồn
gốc do nhận chuyển nhượng, nhận tặng cho hợp pháp hoặc khai hoang trước ngày
01/7/2004 nên gây vướng mắc trong thực hiện tại nhiều địa phương. Vì vậy, việc bổ
sung thêm quy định này có ý nghĩa quan trọng, góp phần hoàn thiện chính sách,
pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất.
Các chế định bồi thường về đất, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi
đất được quy định trong Điều 41, Điều 42, và Điều 43 của LĐĐ năm 2003 trên
thực tế đã chưa thể chế hết các quy định mang tính nguyên tắc này để thực hiện
thống nhất khi xử lý những vấn đề phức tạp phát sinh trong thực tiễn thu hồi đất,
bồi thường, hỗ trợ, tái định cư tại các địa phương. Khắc phục hạn chế này, LĐĐ
năm 2013 đã tách nguyên tắc bồi thường về đất và nguyên tắc bồi thường thiệt hại
về tài sản, ngừng sản xuất kinh doanh khi Nhà nước thu hồi đất thành 2 điều riêng
31
biệt là Điều 74 và Điều 88 trong LĐĐ năm 2013. Trong đó, quy định cụ thể các
nguyên tắc bồi thường về đất và các nguyên tắc bồi thường thiệt hại về tài sản gắn
liền với đất khi Nhà nước thu hồi đất để các bộ, ngành, địa phương và người thu hồi
đất căn cứ vào đó thống nhất thực hiện.
2.1.2.2 Nội dung các qui định bồi thường về đất
Nguyên tắc bồi thường về đất
Các nguyên tắc bồi thường về đất khi Nhà nước thu hồi đất được quy định tại
Điều 74 LĐĐ năm 2013. Theo đó bao gồm những nội dung sau:
Thứ nhất, người sử dụng đất khi Nhà nước thu hồi đất nếu có đủ điều kiện
được bồi thường theo quy định tại Điều 75 LĐĐ năm 2013 thì được bồi thường.
Nếu người sử dụng đất được bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất mà chưa thực
hiện nghĩa vụ tài chính về đất đai đối với Nhà nước theo quy định của pháp luật thì
phải trừ đi khoản tiền chưa thực hiện nghĩa vụ tài chính vào số tiền được bồi thường
để hoàn trả ngân sách nhà nước. Cụ thể, việc trừ khoản tiền chưa thực hiện nghĩa vụ
tài chính về đất đai vào số tiền được bồi thường quy định tại Khoản 4 Điều 93 của
LĐĐ năm 2013.
Thứ hai, việc bồi thường được thực hiện bằng việc giao đất có cùng mục
đích sử dụng với loại đất thu hồi, nếu không có đất để bồi thường thì được bồi
thường bằng tiền theo giá đất cụ thể của loại đất thu hồi do UBND cấp tỉnh quyết
định tại thời điểm quyết định thu hồi đất; trường hợp bồi thường bằng việc giao đất
mới hoặc giao đất ở tái định cư hoặc nhà ở tái định cư, nếu có chênh lệch về giá trị
thì phần chênh lệch đó được thanh toán bằng tiền theo quy định sau:
Nếu tiền bồi thường về đất lớn hơn tiền đất ở, nhà ở hoặc tiền nhà ở tại khu
tái định cư thì người tái định cư được nhận phần chênh lệch đó. Tuy nhiên, trường
hợp tiền bồi thường về đất nhỏ hơn tiền đất ở, nhà ở hoặc tiền nhà ở tái định cư thì
18 Khoản 2 Điều 30 Nghị định số 47/2014/NĐ-CP ngày 15/05/2014 Quy định về bồi thường, hỗ trợ
tái định cư khi nhà nước thu hồi đất.
người được bố trí tái định cư phải nộp phần chênh lệch, trừ trường hợp quy định tại Khoản 1 Điều 22 của Nghị định số 47/2014/NĐ-CP ngày 15/05/201418
32
Thứ ba, việc bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất phải đảm bảo dân chủ,
khách quan, công bằng, công khai, kịp thời và đúng quy định của pháp luật.
Giá đất để tính bồi thường và chi phí đầu tư vào đất còn lại
Điều 112 LĐĐ năm 2013 đã quy định các nguyên tắc xác định giá đất. Nó
được xây dựng trên cơ sở khoản 1 Điều 56 LĐĐ năm 2003. Các quy định về
nguyên tắc định giá đất trong LĐĐ năm 2003 chưa định lượng được thế nào là “sát”
với giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất thực tế trên thị trường và chưa làm rõ
được thế nào là “trong điều kiện bình thường”, chưa quy định theo mục đích sử
dụng đất và thời hạn sử dụng đất; đồng thời, chưa bao hàm hết đối với những nơi,
những loại đất không có giao dịch mà việc định giá phải áp dụng các phương pháp
khác. Vì vậy, LĐĐ năm 2013 đã sửa đổi, bổ sung và quy định riêng tại Điều 112
LĐĐ năm 2013 về nguyên tắc để xác định giá đất nhằm khắc phục những bất cập
trên. Theo đó, khi thực hiện xác định giá đất phải tuân theo bốn nguyên tắc:
Thứ nhất, theo mục đích sử dụng đất hợp pháp tại thời điểm định giá.
Thứ hai, theo thời hạn sử dụng đất.
Thứ ba, phù hợp với giá đất phổ biến trên thị trường của loại đất có cùng
mục đích sử dụng đã chuyển nhượng, giá trúng đấu giá quyền sử dụng đất đối với
những nơi có đấu giá quyền sử dụng đất hoặc thu nhập từ việc sử dụng đất.
Thứ tư, cùng một thời điểm, các thửa đất liền kề nhau có cùng mục đích sử
dụng, khả năng sinh lợi, thu nhập từ việc sử dụng đất tương tự như nhau thì có mức giá như nhau.19
Căn cứ nguyên tắc, phương pháp định giá đất và khung giá đất,
UBND cấp tỉnh xây dựng và trình Hội đồng nhân dân cùng cấp thông qua bảng giá
đất trước khi ban hành. Bảng giá đất được xây dựng định kỳ 5 năm một lần và công
bố công khai vào ngày 1 tháng 1 của năm đầu kỳ. Trong thời gian thực hiện bảng
giá đất, khi Chính phủ điều chỉnh khung giá đất hoặc giá đất phổ biến trên thị
trường có biến động thì UBND cấp tỉnh điều chỉnh bảng giá đất cho phù hợp.
Theo quy định của LĐĐ năm 2013, Chính phủ ban hành khung giá đất định
19 Khoản 1 Điều 112 LĐĐ 2013
kì 5 năm một lần đối với từng loại đất, theo từng vùng. Khung giá đất này sẽ là căn
33
cứ để Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh tại các địa phương ban hành “bảng giá đất” và “giá
đất cụ thể”. Trong đó, “bảng giá đất” được xây dựng định kì 5 năm một lần và công
bố công khai vào ngày 1 tháng 1 của năm đầu kì, bảng giá đất được sử dụng làm
căn cứ xác định các nghĩa vụ tài chính của người sử dụng đất trong quá trình sử
dụng đất như tính tiền sử dụng đất trong hạn mức đối với hộ gia đình, cá nhân, tính
thuế sử dụng đất, tính phí và lệ phí trong quản lí, sử dụng đất… Còn “giá đất cụ
thể” được xác định trong những trường hợp cụ thể và được sử dụng làm căn cứ để
tính tiền sử dụng đất khi Nhà nước công nhận quyền sử dụng đất của hộ gia đình, cá
nhân đối với phần diện tích đất ở vượt hạn mức. Tính tiền sử dụng đất khi Nhà nước
giao đất có thu tiền sử dụng đất không thông qua hình thức đấu giá quyền sử dụng
đất. Đặc biệt, “giá đất cụ thể” này sẽ được sử dụng làm căn cứ để tính tiền bồi
thường khi Nhà nước thu hồi đất (khoản 4 Điều 114 LĐĐ năm 2013). Đây là điểm
mới và tiến bộ của LĐĐ năm 2013 so với LĐĐ năm 2003. LĐĐ năm 2003 quy định
khung giá đất chung để áp dụng cho nhiều mục đích khác nhau, trong đó có việc
xác định các nghĩa vụ tài chính của người sử dụng đất và tính tiền bồi thường khi
Nhà nước thu hồi đất. Đây là quy định chứa nhiều bất cập bởi các nghĩa vụ tài chính
như nộp tiền sử dụng đất, nộp thuế sử dụng đất, nộp lệ phí địa chính… là những
nghĩa vụ mà hầu hết người sử dụng đất đều phải thực hiện đối với Nhà nước trong
quá trình sử dụng đất. Trong khi đó, việc Nhà nước thu hồi đất và thực hiện bồi
thường chỉ thực hiện đối với một nhóm người sử dụng đất nhất định, ở những khu
vực quy hoạch để phục vụ cho quốc phòng an ninh hay phát triển đô thị hoặc xây
dựng các khu công nghiệp. Do vậy, việc thu hồi đất chỉ ảnh hưởng đến lợi ích của
một bộ phận người bị thu hồi đất, Nhà nước cần phải xác định giá đất bồi thường
như thế nào cho phù hợp để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của họ. Để khắc
phục sự bất cập về việc xác định giá đất bồi thường, trong LĐĐ năm 2003 đã quy
định Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh phải thường xuyên điều chỉnh bảng giá đất hàng năm
cho sát với giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất thực tế trên thị trường. Tuy nhiên,
giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất thực tế trên thị trường có những thời điểm
tăng cao khiến UBND tỉnh buộc phải điều chỉnh bảng giá đất hàng năm tăng theo.
Đồng nghĩa với việc nghĩa vụ tài chính về đất đai đối với nhà nước của người sử
34
dụng đất cũng tăng lên. Điều này sẽ ảnh hưởng lớn tới những người sử dụng đất có
thu nhập thấp ở khu vực đô thị hay người dân ở khu vực nông thôn. Bởi vì nghĩa vụ
tài chính về sử dụng đất lúc này quá cao so với mức thu nhập của họ. Ngược lại, giá
đất này được sử dụng để tính bồi thường thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất thì lại
không được người sử dụng đất chấp nhận, bởi vì khi họ bị thu hồi đất họ phải đối
mặt với việc phải thay đổi nơi ăn chốn ở, công việc của họ cũng có thể bị ảnh
hưởng, với số tiền bồi thường đó, người dân không thể nhận lại được một mảnh đất
có giá trị sử dụng tương ứng. Vì vậy, việc Nhà nước quy định một loại giá đất làm
cơ sở để thực hiện các nghĩa vụ tài chính và tính bồi thường khi Nhà nước thu hồi
đất là không hợp lí. LĐĐ năm 2013 đã khắc phục hạn chế này bằng cách quy định
hai loại giá đất, đó là giá đất theo “bảng giá đất” và “giá đất cụ thể”. Do tính chất ổn
định của bảng giá đất nên nó được sử dụng làm căn cứ để tính các nghĩa vụ tài
chính của người sử dụng đất. Còn “giá đất cụ thể” được xác định ở thời điểm nhất
định, dựa trên cơ sở điều tra, thu thập thông tin về thửa đất, giá đất thị trường và
thông tin về giá đất trong cơ sở dữ liệu đất đai. Giá đất cụ thể được xác định làm
căn cứ tính tiền bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất. Quy định này giúp cho giá đất
bồi thường sát thực và phù hợp với giá đất phổ biến trên thị trường, nhằm đảm bảo quyền lợi cho người bị thu hồi đất20.
Qui định bồi thường đối với đất nông nghiệp
Quy định về bồi thường đất nông nghiệp được quy định tại Điều 77, Điều 78
LĐĐ năm 2013 và Nghị định số 47/2014/NĐ-CP ngày 15/05/2014 Qui định về bồi
thường, hỗ trợ tái định cư khi nhà nước thu hồi đất như sau:
Thứ nhất, đối với hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất nông nghiệp khi
Nhà nước thu hồi đất thì được bồi thường về đất, chi phí đầu tư vào đất còn lại theo
quy định sau đây:
Diện tích đất nông nghiệp được bồi thường bao gồm diện tích trong hạn
20 Phạm Thu Thủy (2014), “Bồi thường hỗ trợ tái định cư khi nhà nước thu hồi đất theo LĐĐ 2013”,
Tạp chí luật học, đặc san 11/ 2014, Tr.57.
mức. Đối với diện tích đất nông nghiệp vượt hạn mức thì không được bồi thường về
35
đất nhưng được bồi thường chi phí đầu tư vào đất còn lại. Đối với diện tích đất nông
nghiệp do nhận chuyển quyền sử dụng đất vượt hạn mức trước ngày LĐĐ năm
2013 có hiệu lực thi hành thì việc bồi thường, hỗ trợ được thực hiện theo quy định
của Điều 4 Nghị định số 47/2014/NĐ-CP ngày 15/05/2014 Qui định về bồi thường,
hỗ trợ tái định cư khi nhà nước thu hồi đất. Đối với đất nông nghiệp đã sử dụng
trước ngày 1 tháng 7 năm 2004 mà người sử dụng đất là hộ gia đình, cá nhân trực
tiếp sản xuất nông nghiệp nhưng không có Giấy chứng nhận hoặc không đủ điều
kiện để được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài
sản khác gắn liền với đất theo quy định của LĐĐ năm 2013 thì được bồi thường đối
với diện tích đất thực tế đang sử dụng, diện tích được bồi thường không vượt quá
hạn mức giao đất nông nghiệp quy định tại Điều 129 của LĐĐ năm 2013
Thứ hai, đối với tổ chức kinh tế, tổ chức sự nghiệp công lập tự chủ tài chính,
cộng đồng dân cư, cơ sở tôn giáo.
Tổ chức kinh tế đang sử dụng đất nông nghiệp được Nhà nước giao đất có
thu tiền sử dụng đất, cho thuê đất trả tiền thuê đất một lần cho cả thời gian thuê,
nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất khi Nhà nước thu hồi đất, nếu có đủ điều
kiện được bồi thường quy định tại Điều 75 của LĐĐ năm 2013 thì được bồi thường
về đất; mức bồi thường về đất được xác định theo thời hạn sử dụng đất còn lại.
Tổ chức kinh tế, tổ chức sự nghiệp công lập tự chủ tài chính đang sử dụng đất
nông nghiệp được Nhà nước cho thuê trả tiền thuê đất hàng năm khi Nhà nước thu hồi
đất thì không được bồi thường về đất nhưng được bồi thường chi phí đầu tư vào đất còn
lại nếu chi phí này không có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước. Trường hợp đất nông
nghiệp không phải là đất rừng đặc dụng, đất rừng phòng hộ, đất rừng sản xuất là rừng tự
nhiên của tổ chức kinh tế đã giao khoán cho hộ gia đình, cá nhân theo quy định của pháp
luật khi Nhà nước thu hồi đất thì hộ gia đình, cá nhân nhận khoán không được bồi
thường về đất nhưng được bồi thường chi phí đầu tư vào đất còn lại.
Cộng đồng dân cư, cơ sở tôn giáo đang sử dụng đất nông nghiệp khi Nhà
nước thu hồi đất mà có đủ điều kiện được bồi thường quy định tại Điều 75 LĐĐ
năm 2013 thì được bồi thường về đất theo quy định của Điều 5 Nghị định số
47/2014/NĐ-CP ngày 15/05/2014 Qui định về bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi
Nhà nước thu hồi đất.
36
Qui định bồi thường với đất phi nông nghiệp
Thứ nhất, Quy định về bồi thường đất phi nông nghiệp không phải là đất ở
được quy định tại Điều 80 và Điều 81 LĐĐ năm 2013. Cụ thể như sau:
Một là, đối với hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất phi nông nghiệp không
phải là đất ở khi Nhà nước thu hồi đất, nếu có đủ điều kiện được bồi thường quy
định tại Điều 75 của LĐĐ năm 2013 thì được bồi thường bằng đất có cùng mục
đích sử dụng; trường hợp không có đất để bồi thường thì được bồi thường bằng tiền
theo thời hạn sử dụng đất còn lại đối với đất sử dụng có thời hạn. Hộ gia đình, cá
nhân đang sử dụng đất phi nông nghiệp không phải là đất ở được Nhà nước cho
thuê đất thu tiền thuê đất hàng năm; cho thuê đất trả tiền thuê đất một lần cho cả
thời gian thuê nhưng được miễn tiền thuê đất, khi Nhà nước thu hồi đất thì không
được bồi thường về đất nhưng được bồi thường chi phí đầu tư vào đất còn lại, trừ
trường hợp hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất do thực hiện chính sách đối với người
có công với cách mạng.
Hai là, đối với tổ chức kinh tế, tổ chức sự nghiệp công lập tự chủ tài chính,
cộng đồng dân cư, cơ sở tôn giáo, tín ngưỡng, người Việt Nam định cư ở nước
ngoài, tổ chức nước ngoài có chức năng ngoại giao, doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài ở qui định bồi thường với đất phi nông nghiệp như sau:
Tổ chức kinh tế, người Việt Nam định cư ở nước ngoài đang sử dụng đất phi
nông nghiệp không phải là đất ở, đất nghĩa trang, nghĩa địa, khi Nhà nước thu hồi
đất, nếu có đủ điều kiện được bồi thường quy định tại Điều 75 LĐĐ năm 2013 thì
được bồi thường bằng đất có cùng mục đích sử dụng; trường hợp không có đất để
bồi thường thì được bồi thường bằng tiền theo thời hạn sử dụng đất còn lại.
Tổ chức kinh tế đang sử dụng đất được Nhà nước giao đất để làm nghĩa
trang, nghĩa địa quy định tại khoản 4 Điều 55 của LĐĐ năm 2013; doanh nghiệp
liên doanh sử dụng đất phi nông nghiệp không phải là đất ở do nhận góp vốn bằng
quyền sử dụng đất quy định tại Điều 184 của LĐĐ năm 2013 khi Nhà nước thu hồi
đất thì được bồi thường về đất theo quy định tại Điều 8 Nghị định số 47/2014/NĐ-
CP ngày 15/05/2014 Qui định về bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi nhà nước thu
hồi đất
37
Tổ chức kinh tế, tổ chức sự nghiệp công lập tự chủ tài chính, người Việt
Nam định cư ở nước ngoài, tổ chức nước ngoài có chức năng ngoại giao, doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đang sử dụng đất phi nông nghiệp được Nhà nước
cho thuê đất trả tiền thuê đất một lần cho cả thời gian thuê, khi Nhà nước thu hồi đất
nếu đủ điều kiện được bồi thường quy định tại Điều 75 của LĐĐ năm 2013 thì được
bồi thường về đất theo thời hạn sử dụng đất còn lại.
Tổ chức kinh tế, tổ chức sự nghiệp công lập tự chủ tài chính, người Việt Nam
định cư ở nước ngoài, tổ chức nước ngoài có chức năng ngoại giao, doanh nghiệp
có vốn đầu tư nước ngoài đang sử dụng đất phi nông nghiệp được Nhà nước cho
thuê đất trả tiền thuê đất hàng năm, khi Nhà nước thu hồi đất thì được bồi thường
chi phí đầu tư vào đất còn lại.
Ba là, cộng đồng dân cư, cơ sở tôn giáo, tín ngưỡng đang sử dụng đất phi
nông nghiệp, khi Nhà nước thu hồi đất mà có đủ điều kiện được bồi thường quy
định tại Điều 75 của LĐĐ 2013 thì được bồi thường về đất theo quy định tại Điều 5
Nghị định số 47/2014/NĐ-CP ngày 15/05/2014 Qui định về bồi thường, hỗ trợ tái
định cư khi Nhà nước thu hồi đất.
Thứ hai, việc bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất phi nông nghiệp là đất ở
được quy định tại Điều 79 LĐĐ năm 2013. Cụ thể như sau:
Một là, đối với hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất ở, người Việt Nam
định cư ở nước ngoài đang sở hữu nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất tại Việt
Nam mà có đủ điều kiện được bồi thường quy định tại Điều 75 LĐĐ năm 2013 khi
Nhà nước thu hồi đất thì được bồi thường thường bằng đất ở hoặc nhà ở hoặc bằng
tiền nếu không có nhu cầu bồi thường bằng đất ở hoặc nhà ở với trường hợp họ
không còn đất ở, nhà ở nào khác trong địa bàn xã, phường, thị trấn nơi có đất thu
hồi. Tuy nhiên, nếu họ còn đất ở, nhà ở trong địa bàn xã, phường, thị trấn nơi có đất
thu hồi thì được bồi thường bằng tiền. Đối với địa phương có điều kiện về quỹ đất ở
thì được xem xét để bồi thường bằng đất ở. Ngoài ra, hộ gia đình, cá nhân khi Nhà
nước thu hồi đất gắn liền với nhà ở phải di chuyển chỗ ở mà không đủ điều kiện
được bồi thường về đất ở, nếu không có chỗ ở nào khác thì được Nhà nước bán, cho
thuê, cho thuê mua nhà ở hoặc giao đất ở có thu tiền sử dụng đất.
38
Hai là, tổ chức kinh tế, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, doanh nghiệp
có vốn đầu tư nước ngoài đang sử dụng đất để thực hiện dự án xây dựng nhà ở khi
Nhà nước thu hồi đất, nếu có đủ điều kiện được bồi thường quy định tại Điều 75 của
LĐĐ năm 2013 thì được bồi thường về đất.
2.1.2.3 Nội dung các qui định bồi thường về tài sản trên đất khi Nhà nước thu hồi đất
Nguyên tắc bồi thường về tài sản trên đất
Tại Điều 88 LĐĐ năm 2013 quy định nguyên tắc bồi thường thiệt hại về tài
sản, ngừng sản xuất, kinh doanh khi Nhà nước thu hồi đất như sau:
Thứ nhất, khi Nhà nước thu hồi đất mà chủ sở hữu tài sản hợp pháp gắn liền
với đất bị thiệt hại về tài sản thì được bồi thường.
Thứ hai, khi Nhà nước thu hồi đất mà tổ chức, hộ gia đình, cá nhân, người
Việt Nam định cư ở nước ngoài, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài phải
ngừng sản xuất, kinh doanh mà có thiệt hại thì được bồi thường thiệt hại.
Đây là một điểm mới của LĐĐ năm 2013 so với LĐĐ năm 2003 khi quan
tâm tới việc bồi thường không chỉ đất và các tài sản hữu hình trên đất mà còn quan
tâm tới bồi thường những thiệt hại về tài sản vô hình là hệ quả để lại của việc thu
hồi đất, đó là việc các tổ chức, cá nhân có đất phải ngừng sản xuất kinh doanh khi bị
Nhà nước thu hồi đất. Vì đất là tư liệu sản xuất của người bị thu hồi đất nên ngoài
việc bồi thường giá trị như một tài sản còn phải bồi thường về thu nhập, sinh kế cho
người mất đất.
Qui định bồi thường thiệt hại đối với nhà ở, công trình xây dựng trên đất
Việc bồi thường thiệt hại về nhà ở, công trình xây dựng trên đất được quy
định tại Điều 89 LĐĐ năm 2013 như sau:
Thứ nhất, đối với nhà ở, công trình phục vụ sinh hoạt gắn liền với đất của hộ
gia đình, cá nhân, người Việt Nam định cư ở nước ngoài khi Nhà nước thu hồi đất
phải tháo dỡ toàn bộ hoặc một phần mà phần còn lại không bảo đảm tiêu chuẩn kỹ
thuật theo quy định của pháp luật thì chủ sở hữu nhà ở, công trình đó được bồi
thường bằng giá trị xây dựng mới của nhà ở, công trình có tiêu chuẩn kỹ thuật
tương đương. Nếu phần còn lại của nhà ở, công trình vẫn bảo đảm tiêu chuẩn kỹ
thuật theo quy định của pháp luật thì bồi thường theo thiệt hại thực tế.
39
Thứ hai, đối với nhà, công trình xây dựng khác gắn liền với đất không thuộc
trường hợp thứ nhất nêu trên, khi Nhà nước thu hồi đất mà bị tháo dỡ toàn bộ hoặc
một phần mà phần còn lại không bảo đảm tiêu chuẩn kỹ thuật theo quy định của
pháp luật thì được bồi thường thiệt hại theo quy định tại Điều 9 Nghị định số
47/2014/NĐ-CP ngày 15/05/2014 Qui định về bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi nhà
nước thu hồi đất.
Thứ ba, đối với công trình hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội gắn liền với đất
đang sử dụng không thuộc trường hợp thứ nhất và thứ hai nêu trên thì mức bồi
thường tính bằng giá trị xây dựng mới của công trình có tiêu chuẩn kỹ thuật tương đương theo quy định của pháp luật chuyên ngành.21
Đối với vật nuôi, cây trồng hoa màu trên đất
Thứ nhất, khi Nhà nước thu hồi đất mà gây thiệt hại đối với cây trồng thì
việc bồi thường thực hiện theo quy định sau đây:
Đối với cây hàng năm, mức bồi thường được tính bằng giá trị sản lượng của
vụ thu hoạch. Giá trị sản lượng của vụ thu hoạch được tính theo năng suất của vụ
cao nhất trong 3 năm trước liền kề của cây trồng chính tại địa phương và giá trung
bình tại thời điểm thu hồi đất. Đối với cây lâu năm, mức bồi thường được tính bằng
giá trị hiện có của vườn cây theo giá ở địa phương tại thời điểm thu hồi đất mà
không bao gồm giá trị quyền sử dụng đất. Đối với cây trồng chưa thu hoạch nhưng
có thể di chuyển đến địa điểm khác thì được bồi thường chi phí di chuyển và thiệt
hại thực tế do phải di chuyển, phải trồng lại. Đối với cây rừng trồng bằng nguồn
vốn ngân sách nhà nước, cây rừng tự nhiên giao cho tổ chức, hộ gia đình, cá nhân
trồng, quản lý, chăm sóc, bảo vệ thì bồi thường theo giá trị thiệt hại thực tế của
vườn cây; tiền bồi thường được phân chia cho người quản lý, chăm sóc, bảo vệ theo
quy định của pháp luật về bảo vệ và phát triển rừng.
Thứ hai, khi Nhà nước thu hồi đất mà gây thiệt hại đối với vật nuôi là thủy
sản thì việc bồi thường thực hiện theo quy định sau đây:
21 Điều 89 LĐĐ năm 2013
Đối với vật nuôi là thủy sản mà tại thời điểm thu hồi đất đã đến thời kỳ thu
40
hoạch thì không phải bồi thường. Đối với vật nuôi là thủy sản mà tại thời điểm thu hồi
đất chưa đến thời kỳ thu hoạch thì được bồi thường thiệt hại thực tế do phải thu hoạch
sớm; trường hợp có thể di chuyển được thì được bồi thường chi phí di chuyển và thiệt
hại do di chuyển gây ra; mức bồi thường cụ thể do UBND cấp tỉnh quy định.
2.1.3. Qui định về hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất
2.1.3.1 Nguyên tắc hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất
Nguyên tắc hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất là một điểm mới của LĐĐ năm
2013 so với LĐĐ năm 2003 và được quy định tại Khoản 1 Điều 83 LĐĐ năm 2013.
Cụ thể như sau:
Thứ nhất, người sử dụng đất khi Nhà nước thu hồi đất ngoài việc được bồi
thường theo quy định của LĐĐ năm 2013 còn được Nhà nước xem xét hỗ trợ.
Thứ hai, việc hỗ trợ phải bảo đảm khách quan, công bằng, kịp thời, công
khai và đúng quy định của pháp luật.
2.1.3.2 Các khoản hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất
Các khoản hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất được quy định cụ thể tại Khoản 2
Điêu 89 LĐĐ năm 2013. Theo đó bao gồm:
Thứ nhất, hỗ trợ ổn định đời sống và sản xuất.
Thứ hai, hỗ trợ đào tạo, chuyển đổi nghề và tìm kiếm việc làm đối với trường
hợp thu hồi đất nông nghiệp của hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông
nghiệp; thu hồi đất ở kết hợp kinh doanh dịch vụ của hộ gia đình, cá nhân mà phải
di chuyển chỗ ở.
Thứ ba, hỗ trợ tái định cư đối với trường hợp thu hồi đất ở của hộ gia đình,
cá nhân, người Việt Nam định cư ở nước ngoài mà phải di chuyển chỗ ở.
Thứ tư, hỗ trợ người đang thuê nhà ở không thuộc sở hữu Nhà nước.
Thứ năm, hỗ trợ khi thu hồi đất công ích của xã, phường, thị trấn.
Thứ sáu, hỗ trợ khác đối với người sử dụng đất khi Nhà nước thu hồi đất.
Ngoài việc hỗ trợ quy định nêu trên, căn cứ vào tình hình thực tế tại địa phương,
Chủ tịch UBND cấp tỉnh quyết định biện pháp hỗ trợ khác để bảo đảm có chỗ ở, ổn
định đời sống, sản xuất và công bằng đối với người có đất thu hồi; trường hợp hộ
gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp khi Nhà nước thu hồi đất nông
41
nghiệp mà không đủ điều kiện được bồi thường theo quy định tại Điều 75 của LĐĐ
năm 2013 thì UBND cấp tỉnh xem xét hỗ trợ cho phù hợp với thực tế của địa
phương; trường hợp đặc biệt trình Thủ tướng Chính phủ quyết định.
2.1.4. Qui định về tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất.
2.1.4.1 Lập và thực hiện dự án tái định cư
Việc lập và thực hiện dự án tái định cư được quy định tại Điều 85 LĐĐ năm
2013 và Điều 26 Nghị định số 47/2014/NĐ-CP ngày 15/05/2014 Qui định về bồi
thường, hỗ trợ tái định cư khi nhà nước thu hồi đất. Theo đó:
UBND cấp tỉnh, UBND cấp huyện có trách nhiệm tổ chức lập và thực hiện
dự án tái định cư trước khi thu hồi đất. Khu tái định cư tập trung phải xây dựng cơ
sở hạ tầng đồng bộ, bảo đảm tiêu chuẩn, quy chuẩn xây dựng, phù hợp với điều
kiện, phong tục, tập quán của từng vùng, miền. Việc thu hồi đất ở chỉ được thực
hiện sau khi hoàn thành xây dựng nhà ở hoặc cơ sở hạ tầng của khu tái định cư. Dự
án tái định cư được lập và phê duyệt độc lập với phương án bồi thường, hỗ trợ, tái
định cư nhưng phải bảo đảm có đất ở, nhà ở tái định cư trước khi cơ quan nhà nước
có thẩm quyền quyết định thu hồi đất. Việc lập dự án tái định cư, lựa chọn chủ đầu
tư thực hiện theo quy định của pháp luật về phát triển và quản lý nhà ở tái định cư
và phải bảo đảm các quy định tại Khoản 2 và Khoản 3 Điều 69 của LĐĐ năm 2013.
Khu tái định cư được lập cho một hoặc nhiều dự án; nhà ở, đất ở trong khu
tái định cư được bố trí theo nhiều cấp nhà, nhiều mức diện tích khác nhau phù hợp
với các mức bồi thường và khả năng chi trả của người được tái định cư. Đối với dự
án khu tái định cư tập trung có phân kỳ xây dựng theo các dự án thành phần thì tiến
độ thu hồi đất và hoàn thành xây dựng nhà ở hoặc cơ sở hạ tầng của khu tái định cư
được thực hiện theo tiến độ của từng dự án thành phần nhưng các công trình cơ sở
hạ tầng của từng dự án thành phần trong khu tái định cư phải bảo đảm kết nối theo
đúng quy hoạch chi tiết đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt.
2.1.4.2. Qui định bố trí tái định cư cho người có đất ở thu hồi mà phải di chuyển
chỗ ở.
Thứ nhất, tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng được
UBND cấp tỉnh, UBND cấp huyện giao trách nhiệm bố trí tái định cư phải thông
báo cho người có đất ở thu hồi thuộc đối tượng phải di chuyển chỗ ở về dự kiến
42
phương án bố trí tái định cư và niêm yết công khai ít nhất là 15 ngày tại trụ sở
UBND cấp xã, địa điểm sinh hoạt chung của khu dân cư nơi có đất thu hồi và tại
nơi tái định cư trước khi cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt phương án bố
trí tái định cư. Nội dung thông báo gồm địa điểm, quy mô quỹ đất, quỹ nhà tái định
cư, thiết kế, diện tích từng lô đất, căn hộ, giá đất, giá nhà tái định cư; dự kiến bố trí
tái định cư cho người có đất thu hồi.
Thứ hai, người có đất thu hồi được bố trí tái định cư tại chỗ nếu tại khu vực
thu hồi đất có dự án tái định cư hoặc có điều kiện bố trí tái định cư. Có sự ưu tiên vị
trí thuận lợi cho người có đất thu hồi sớm bàn giao mặt bằng, người có đất thu hồi
là người có công với cách mạng. Phương án bố trí tái định cư đã được phê duyệt
phải được công bố công khai tại trụ sở UBND cấp xã, địa điểm sinh hoạt chung của
khu dân cư nơi có đất thu hồi và tại nơi tái định cư.
Thứ ba, giá đất cụ thể tính thu tiền sử dụng đất tại nơi tái định cư, giá bán
nhà ở tái định cư do UBND cấp tỉnh quyết định.
Thứ tư, trường hợp người có đất thu hồi được bố trí tái định cư mà tiền bồi
thường, hỗ trợ không đủ để mua một suất tái định cư tối thiểu thì được Nhà nước hỗ
trợ tiền đủ để mua một suất tái định cư tối thiểu. Theo Điều 27 Nghị định số
47/2014/NĐ-CP ngày 15/05/2014 Qui định về bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi
nhà nước thu hồi đất thì suất tái định cư tối thiểu được quy định bằng đất ở, nhà ở
hoặc bằng nhà ở hoặc bằng tiền để phù hợp với việc lựa chọn của người được bố trí
tái định cư. Cụ thể được quy định như sau: nếu suất tái định cư tối thiểu được quy
định bằng đất ở, nhà ở thì diện tích đất ở tái định cư không nhỏ hơn diện tích tối
thiểu được phép tách thửa tại địa phương và diện tích nhà ở tái định cư không nhỏ
hơn diện tích căn hộ tối thiểu theo quy định của pháp luật về nhà ở. Còn nếu suất tái
định cư tối thiểu được quy định bằng nhà ở thì diện tích nhà ở tái định cư không nhỏ
hơn diện tích căn hộ tối thiểu theo quy định của pháp luật về nhà ở. Ngoài ra,
trường hợp suất tái định cư tối thiểu được tính bằng tiền thì khoản tiền cho suất tái
22 https://luatminhgia.com.vn/kien-thuc-dat-dai/ho-tro-va-tai-dinh-cu-khi-nha-nuoc-thu-hoi-dat-dai.aspx
định cư tối thiểu tương đương với giá trị một suất tái định cư tối thiểu bằng đất ở, nhà ở tại nơi bố trí tái định cư22.
43
2.1.5. Qui định các trường hợp đặc biệt về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà
nước thu hồi đất
Các trường hợp đặc biệt về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi
đất cũng là một qui định mới của LĐĐ năm 2013 so với LĐĐ năm 2003, được quy định
tại Điều 87 LĐĐ năm 2013. Tuy nhiên Điều luật này chủ yếu là luật hóa Điều 38 Nghị
định số 197/2004/NĐ-CP ngày 3 tháng 12 năm 2004 quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái
định cư mà đã phù hợp với thực tiễn. Theo đó các trường hợp đặc biệt đó là:
Thứ nhất, đối với dự án đầu tư do Quốc hội quyết định chủ trương đầu tư,
Thủ tướng Chính phủ chấp thuận chủ trương đầu tư mà phải di chuyển cả cộng
đồng dân cư, làm ảnh hưởng đến toàn bộ đời sống, kinh tế - xã hội, truyền thống
văn hóa của cộng đồng, các dự án thu hồi đất liên quan đến nhiều tỉnh, thành phố
trực thuộc trung ương thì Thủ tướng Chính phủ quyết định khung chính sách bồi
thường, hỗ trợ, tái định cư.
Thứ hai, đối với dự án sử dụng vốn vay của các tổ chức quốc tế, nước ngoài
mà Nhà nước Việt Nam có cam kết về khung chính sách bồi thường, hỗ trợ, tái định
cư thì thực hiện theo khung chính sách đó.
Thứ ba, đối với trường hợp thu hồi ở trong khu vực bị ô nhiễm môi trường
có nguy cơ đe dọa tính mạng con người; đất ở có nguy cơ sạt lở, sụt lún, bị ảnh
hưởng bởi hiện tượng thiên tai khác đe dọa tính mạng con người.
2.2. Thực tiễn thi hành pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà
nước thu hồi đất trên địa bàn Tỉnh Ninh Bình.
2.2.1. Khái quát về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của tỉnh Ninh Bình.
2.2.1.1. Về điều kiện tự nhiên
Ninh Bình nằm ở vị trí ranh giới 3 khu vực địa lý: Tây Bắc, châu thổ sông
Hồng và Bắc Trung Bộ. Tỉnh này cũng nằm giữa 3 vùng kinh tế: vùng Hà Nội, vùng
duyên hải Bắc Bộ và vùng duyên hải miền Trung. phía bắc giáp với Hòa Bình, Hà
Nam, phía đông giáp Nam Định qua sông Đáy, phía tây giáp Thanh Hóa, phía nam
giáp biển (vịnh Bắc Bộ). Trung tâm tỉnh là thành phố Ninh Bình cách thủ đô Hà Nội
93 km về phía nam. Kết quả thống kê đất đai năm 2010 của các xã, thị trấn, thành
phố trên địa bàn Tỉnh cho thấy, tính đến ngày 01/01/2010, tổng diện tích đất theo
44
địa giới hành chính của tỉnh là 1.400 km, dân số: 898.459 người (điều tra dân số
01/04/2009), mật độ dân số 642 người/km². Tỉnh Ninh Bình có 2 thành phố và 6
huyện (145 đơn vị hành chính cấp xã gồm 121 xã, 17 phường và 7 thị trấn).
Ở vị trí điểm mút của cạnh đáy tam giác châu thổ sông Hồng, Ninh Bình bao
gồm cả ba loại địa hình. Vùng đồi núi và bán sơn địa ở phía tây bắc bao gồm các
huyện Nho Quan, Gia Viễn, Hoa Lư, Tam Điệp. Vùng đồng bằng ven biển ở phía
đông nam thuộc 2 huyện Kim Sơn và Yên Khánh. Xen giữa 2 vùng lớn là vùng
chiêm trũng chuyển tiếp. Rừng ở Ninh Bình có đủ cả rừng sản xuất và rừng đặc
dụng các loại. Có 4 khu rừng đặc dụng gồm rừng Cúc Phương, rừng môi trường
Vân Long, rừng văn hóa lịch sử môi trường Hoa Lư và rừng phòng hộ ven biển Kim
Sơn. Khu rừng đặc dụng Hoa Lư - Tràng An đã được UNESCO công nhận là di sản
thế giới thuộc quần thể danh thắng Tràng An. Ninh Bình có bờ biển dài 18 km. Bờ
biển Ninh Bình hàng năm được phù sa bồi đắp lấn ra trên 100m. Vùng ven biển và
biển Ninh Bình đã được UNESCO công nhận là khu dự trữ sinh quyển thế giới. Hiện có 2 đảo thuộc Ninh Bình là đảo Cồn Nổi và Cồn Mờ. 23
2.2.1.2. Về điều kiện kinh tế- xã hội
Ninh Bình có vị trí quan trọng của vùng cửa ngõ miền Bắc và vùng kinh tế
trọng điểm phía Bắc. Đây là nơi tiếp nối giao lưu kinh tế và văn hóa giữa khu vực
châu thổ sông Hồng với Bắc Trung Bộ, giữa vùng đồng bằng Bắc Bộ với vùng rừng
núi Tây Bắc. Thế mạnh kinh tế nổi bật của Ninh Bình là các ngành công nghiệp vật
liệu xây dựng và du lịch.
Trong những năm gần đây kinh tế Ninh Bình liên tục tăng trưởng ở mức 2 con số, Năm 2015 chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh xếp thứ 30/6324, liên tục nằm
trong nhóm tỉnh đứng đầu miền Bắc. Ninh Bình là một trong những tỉnh thu hút vốn
đầu tư nước ngoài lớn của Việt Nam; tổng thu ngân sách nhà nước trên địa bàn tỉnh
23 https://vi.wikipedia.org/wiki/Ninh_B%C3%ACnh#V.E1.BB.8B_tr.C3.AD – Vị trí địa lí, địa hình,
hành chính của Tỉnh Ninh Bình.
http://baoninhbinh.org.vn/nam-2015-chi-so-pci-cua-ninh-binh-xep-hang-3063-tinh-thanh-pho-
24
20160331030247909p2c20.htm
năm 2015 đạt trên 4.368 tỷ đồng, vượt 35,7% so với dự toán HĐND tỉnh giao, tăng
45
trưởng 38,6% so với cùng kỳ25 . trong khi diện tích và dân số tỉnh chỉ đứng thứ
56/63 và 43/63. Cơ cấu kinh tế trong GDP trong năm 2014: Về cơ cấu kinh tế trong
GDP: công nghiệp - xây dựng chiếm 46%; nông, lâm nghiệp, thuỷ sản 14%; dịch vụ chiếm 40%.26
2.2.2. Nội dung các quy định hiện hành của Ủy ban nhân dân tỉnh Ninh Bình về
tổ chức thi hành pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất.
Công tác bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất đóng vai trò quan trọng trong
quá trình giải phóng mặt bằng, vì vậy để thống nhất công tác bồi thường thu hồi đất,
UBND Tỉnh Ninh Bình đã ban hành một số văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh
vấn đề này như: quyết định số 953/QĐ-UBND ngày 15 tháng 09 năm 2015 phê
duyệt báo cáo kinh tế- kỹ thuật công trình xây dựng cơ sở hạ tầng khu tái định cư
phục vụ GPMB dự án tuyến đường kết nối cao tốc Cầu giẽ - Ninh Bình với quốc lộ
1A tại xã Ninh Phúc, thành phố Ninh Bình; quyết định số 26/2014/QĐ-UBND ngày
19 tháng 9 năm 2014 của UBND tỉnh Ninh Bình về việc ban hành quy định một số
chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn
tỉnh Ninh Bình; Quyết định số 37/2014/QĐ-UBND ngày 26 tháng 12 năm 2014 của
UBND tỉnh Ninh Bình về việc ban hành bảng giá các loại đất giai đoạn 2015-2019
trên địa bàn tỉnh Ninh Bình; Quyết định số 09/2016/QĐ-UBND ngày 13 tháng 04
năm 2016 về việc sửa đổi bổ sung một số điều tại bản quy định một số chính sách
bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn tỉnh Ninh
Bình ban hành kèm theo Quyết định số 26/2014/QĐ-UBND ngày 19/09/2014 của
UBND tỉnh Ninh Bình. Các quyết định của UBND tỉnh đã dựa trên cơ sở các quy
định của LĐĐ năm 2013 và các nghị quyết hướng dẫn thi hành LĐĐ năm 2013
đồng thời quy định cụ thể hơn về các chính sách bồi thường đối với các đối tượng bị
thu hồi đất trên địa bàn tỉnh Ninh Bình. Đặc biệt là quy định cụ về giá đất bồi
25
http://nbtv.vn/tin-tuc-su-kien/ninh-binh-24h/thoi-su-chinh-tri/201601/tong-thu-ngan-sach-nam-
2015-tren-dia-ban-tinh-ninh-binh-dat-tren-4368-ty-dong-656889
26 http://baoninhbinh.org.vn/bao-cao-tinh-hinh-ktxh-nam-2014-muc-tieu-va-cac-nhiem-vu-chu-yeu-
cua-nam-2015-20141216084442597p12c92.htm
thường cho từng loại đất, trên từng địa bàn khác nhau thuộc tỉnh Ninh Bình. Đây
46
cũng chính là căn cứ giúp cho các cán bộ thực hiện công tác GPMB nắm được và áp
dụng các chính sách, quy định pháp luật về vấn đề bồi thường dễ dàng hơn. Cụ thể
các Quyết định của UBND tỉnh Ninh Bình về tổ chức thi hành quy định bồi thường
khi Nhà nước thu hồi đất có những nội dung cơ bản như sau:
Thứ nhất, về nguyên tắc thực hiện, công tác bồi thường, hỗ trợ và tái định cư
khi Nhà nước thu hồi đất để GPMB trên tỉnh Ninh Bình thực hiện theo nguyên tắc
công khai, dân chủ đúng quy định của Pháp luật, chính sách hiện hành của Nhà
nước, các quy định của UBND tỉnh.
Thứ hai, một số quy định bổ sung về chính sách khi nhà nước thu hồi đất
như: đối với hộ gia đình thuộc trường hợp được bồi thường theo quy định của pháp
luật mà trong hộ có nhiều thế hệ, nhiều cặp vợ chồng cùng chung sống trên một
thửa đất ở thu hồi nếu đủ điều kiện để tách thành từng hộ gia đình riêng theo quy
định của pháp luật về cư trú hoặc có nhiều hộ gia đình có chung quyền sử dụng một
thửa đất ở bị thu hồi thì được giao mỗi cặp vợ chồng hoặc mỗi hộ gia đình một suất
tái định cư tối thiểu và phải thực hiện nghĩa vụ tài chính theo quy định của pháp
luật. Đối với việc bồi thường thiệt hại do hạn chế khả năng sử dụng đất, thiệt hại tài
sản khác gắn liền với đất đối với đất thuộc hành lang an toàn khi xây dựng công
trình có hành lang bảo vệ trong trường hợp không làm thay đổi mục đích sử dụng
đất, đối với công trình đường dây dẫn điện trên không có điện áp từ 110 KV đến
220 KV được quy định như sau:
Một là, đất ở; đất vườn, ao không được công nhận là đất ở trong cùng thửa
đất có nhà ở hợp pháp trong hành lang bảo vệ an toàn bị hạn chế khả năng sử dụng
đất thì chủ sử dụng đất được bồi thường một lần do hạn chế khả năng sử dụng đất
với mức bằng 50% mức bồi thường đối với trường hợp khi Nhà nước thu hồi đất.
Người được bồi thường không được bố trí tái định cư. Trường hợp người sử dụng
thửa đất nằm dưới hành lang bảo vệ an toàn tự tìm được đất ở mới và có nguyện
vọng di chuyển khỏi hành lang bảo vệ an toàn mới mà tự thực hiện việc di chuyển
thì được bồi thường về đất và tài sản gắn liền với đất theo quy định đối với trường
hợp khi Nhà nước thu hồi đất và còn được hỗ trợ chi phí di chuyển tài sản.
47
Hai là, đất trồng cây lâu năm, đất rừng sản xuất trong hành lang bảo vệ an
toàn bị hạn chế khả năng sử dụng thì chủ sử dụng đất được bồi thường một lần do
hạn chế khả năng sử dụng đất với mức bằng 30% mức bồi thường khi Nhà nước thu
hồi đất trồng cây lâu năm, đất rừng sản xuất.
Ba là, đối với nhà ở, công trình phục vụ sinh hoạt của hộ gia đình, cá nhân
xây dựng trên đất hợp pháp được bồi thường một lần do hạn chế khả năng sử dụng
đất và ảnh hưởng trong sinh hoạt như sau: nếu nhà ở, công trình phục vụ sinh hoạt
có một phần hoặc toàn bộ diện tích nằm trong hành lang bảo vệ an toàn được xây
dựng trước ngày thông báo thực hiện dự án công trình được cấp có thẩm quyền phê
duyệt thì được bồi thường đối với diện tích trong hành lang an toàn với mức 50%
mức bồi thường giá trị của nhà, công trình tương đương. Trường hợp nhà ở, công
trình phục vụ sinh hoạt bị phá dỡ một phần mà phần còn lại vẫn tồn tại, sử dụng
được và đáp ứng các điều kiện quy định thì được bồi thường phần giá trị bị phá dỡ
và chi phí cải tạo hoàn thiện lại công trình theo tiêu chuẩn kỹ thuật tương đương của
nhà ở, công trình trước khi bị phá dỡ.
Bốn là, đối với tài sản là cây có trước khi thông báo thực hiện dự án công
trình trên đất đủ điều kiện bồi thường về đất trong hành lang bảo vệ an toàn do hạn
chế khả năng sử dụng đất thì được bồi thường một lần với mức bồi thường như sau:
trường hợp cây phải chặt bỏ thì được bồi thường theo quy định hiện hành. Trường
hợp cây không phải chặt bỏ thì được bồi thường với mức 80% mức bồi thường cây
bị chặt bỏ. Đối với cây cối, hoa màu trồng trên đất sử dụng không hợp pháp được
hỗ trợ công chặt hạ, di chuyển, mức hỗ trờ bằng 80% mức bồi thường theo quy
định, trường hợp trồng sau khi có thông báo thì phải chịu mọi chi phí.
Ngoài ra, UBND tỉnh còn quy định mức giá đối với việc bồi thường về di chuyển
mồ mả như sau: mộ chưa được cải táng có thời gian hung táng dưới một năm là
20.000.000 đồng/1 mộ; mộ chưa cải táng có thời gian hung táng từ đủ 1 năm đến dưới
hai năm là 15.000.000/1 mộ; mộ chưa cải táng có thời gian hung táng từ đủ 2 năm đến
đủ 3 năm là 10.000.000 đồng/1 mộ; mộ chưa được cải táng có thời gian hung táng trên
03 (ba) năm là: 7.000.000 đồng/mộ; mộ đã được cải táng là: 3.000.000 đồng/1 mộ.
48
Về mức hỗ trợ, thời gian hỗ trợ và chi trả hỗ trợ ổn định đời sống và sản xuất
khi Nhà nước có thu hồi đất được quy định như sau: hộ gia đình, cá nhân thuộc đối
tượng được hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp thì được hỗ trợ như sau:
thu hồi từ 30% đến 70% diện tích đất nông nghiệp đang sử dụng thì được hỗ trợ
trong thời gian 6 tháng nếu không phải di chuyển chỗ ở và trong thời gian 12 tháng
nếu phải di chuyển chỗ ở. Người bị thu hồi đất ở phải di chuyển chỗ ở đến nơi mới
mà không còn chỗ ở nào khác thì trong thời gian chờ tạo lập chỗ ở mới được bố trí
nhà ở tạm thời hoặc được hỗ trợ tiền thuê nhà ở là 06 tháng với mức 2.000.000
đồng/1 tháng. Trường hợp phải di chuyển đến các địa bàn có điều kiện kinh tế - xã
hội khó khăn hoặc có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn thì thời gian hỗ
trợ là 24 tháng. Thu hồi trên 70% diện tích đất nông nghiệp đang sử dụng thì được
hỗ trợ 12 tháng cho trường hợp không phải di chuyển chỗ ở và 24 tháng cho trường
hợp phải di chuyển chỗ ở; trường hợp phải di chuyển chỗ ở đến địa bàn có điều kiện
kinh tế - xã hội khó khăn hoặc có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn thì hỗ
trợ 36 tháng. Mức hỗ trợ cho một nhân khẩu của hộ gia đình, cá nhân được tính
bằng tiền tương đương với 30kg gạo/tháng theo giá trung bình do cơ quan nhà nước
có thẩm quyền quy định tại thời điểm hỗ trợ. Đối với tổ chức kinh tế, hộ gia đình, cá
nhân sản xuất, kinh doanh, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thì được hỗ trợ
ổn định sản xuất bằng tiền với mức cao nhất bằng 30% một năm thu nhập sau thuế,
theo mức thu nhập bình quân của 03 năm liền kề trước đó. Người lao động do tổ
chức kinh tế, hộ gia đình, cá nhân sản xuất, kinh doanh, doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài thuộc đối tượng thuê lao động theo hợp đồng lao động thì được áp dụng
hỗ trợ chế độ trợ cấp ngừng việc theo quy định của pháp luật về lao động nhưng
thời gian trợ cấp không quá 6 tháng.
Mức hỗ trợ đào tạo, chuyển đổi nghề và tìm kiếm việc làm đối với trường
hợp Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp của hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất
nông nghiệp. Hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp khi Nhà nước thu
hồi đất nông nghiệp mà không có đất để bồi thường thì ngoài việc được bồi thường
bằng tiền theo quy định còn được hỗ trợ đào tạo chuyển đổi nghề và tìm kiếm việc
làm với mức hỗ trợ tiền bằng 02 lần giá đất nông nghiệp (cùng loại trong Bảng giá
49
đất của UBND tỉnh quy định tại địa bàn) đối với toàn bộ diện tích đất nông nghiệp
bị thu hồi của hộ gia đình, cá nhân nhưng không vượt quá hạn mức giao đất nông
nghiệp tại địa phương.
Ngoài ra, về hỗ trợ đào tạo, chuyển đổi nghề và tìm kiếm việc làm đối với
trường hợp Nhà nước thu hồi đất ở kết hợp kinh doanh, dịch vụ của hộ gia đình, cá
nhân mà phải di chuyển chỗ ở. Nếu địa phương có điều kiện về quỹ đất thì thực
hiện bồi thường bằng quỹ đất có vị trí tương đương, có thể kết hợp với kinh doanh
dịch vụ. Trường hợp này không phải thực hiện hỗ trợ đào tạo, chuyển đổi nghề và
tìm kiếm việc làm cho người bị thu hồi đất. Trường hợp địa phương không còn quỹ
đất đáp ứng được điều kiện theo quy định pháp luật thì hỗ trợ đào tạo, chuyển đổi
nghề và tìm kiếm việc làm cho người bị thu hồi đất với mức tương đương 30kg
gạo/khẩu/tháng trong thời gian 12 tháng theo giá trị tại thời điểm thu hồi đất
Qui định suất tái định cư tối thiểu bằng đất ở, bằng nhà ở và bằng tiền để làm
cơ sở thực hiện hỗ trợ tái định cư. Suất tái định cư tối thiểu bằng đất ở như sau: tại các phường, thị trấn là 60 m2, tại các xã là 80 m2. Suất tái định cư tối thiểu bằng nhà ở. Tại các phường, thị trấn là 60 m2 sàn sử dụng, tại các xã là: 80 m2 sàn sử dụng.
Suất tái định cư tối thiểu bằng tiền tại các phường, thị trấn: giá trị một suất tái định cư tối thiểu = Giá giao đất tại vị trí tái định cư x 60 m2, tại các xã: giá trị một suất tái định cư tối thiểu = Giá giao đất tại vị trí tái định cư x 80 m2.
Đối với trường hợp đất nhận khoán để sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp,
nuôi trồng thủy sản, làm muối quy định tại điểm d Khoản 1 Điều 76 LĐĐ năm 2013
mà không có hồ sơ, chứng từ chứng minh chi phí đã đầu tư vào đất, mức bồi thường
chi phí đầu tư còn lại vào đất bằng 30% giá đất bồi thường cho loại đất cùng mục
đích sử dụng tại thời điểm thu hồi đất.
2.2.3. Đánh giá thực tiễn thi hành pháp luật bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi
Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn Tỉnh Ninh Bình.
Để đánh giá thực tiễn thi hành pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi
đất trên địa bàn Tỉnh Ninh Bình, tác giả đi vào nghiên cứu công tác bồi thường, hỗ
trợ tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất của các dự án trong địa bàn tỉnh:
50
Dự án thứ nhất: Dự án xây dựng tuyến đường kết nối giữa đường cao tốc
Cầu Giẽ - Ninh Bình với Quốc lộ 1 (giai đoạn II) .
Dự án này đi qua địa bàn thành phố Ninh Bình và 3 huyện với tổng diện tích
đất phải thu hồi trên 42 ha, tổng số hộ bị ảnh hưởng là trên 1.000 hộ và gần 200 hộ
phải tái định cư. Cụ thể như sau:
Tại huyện Yên Khánh, dự án cắt qua địa bàn khu dân cư xã Khánh Hòa với
chiều dài 3,2km tuyến chính, 1km tuyến nhánh kết nối với đường vành đai Cầu
Vòm – Ninh Phúc, có phạm vi ảnh hưởng lớn, cụ thể như sau: tổng số hộ bị ảnh
hưởng là 625 hộ, tổng diện tích đất phải thu hồi là 21 ha. Trong đó, tổng số hộ có
nhà cửa, vật kiến trúc bị ảnh hưởng là 139 hộ, số hộ có đất nông nghiệp phải thu hồi
là 486 hộ; tổng số mồ mả mà phải di chuyển là 38 mộ; khu tái định cư và các công
trình công cộng bị ảnh hưởng bao gồm 2 khu tái định cư, 2 nghĩa trang, 1 nhà văn
hóa, 1 sân vận động, đường xóm Rậm, hệ thống kênh trục nội đồng. UBND huyện
đã chỉ đạo Hội đồng bồi thường GPMB chủ trì phối hợp với các phòng, ban chuyên
môn và UBND xã Khánh Hòa thực hiện đầy đủ các trình tự, thủ tục theo quy định.
Đến 10/3/ 2015 và 30/9/2015 đã hoàn thành và ra quyết định thu hồi đất; lập, thẩm
định và phê duyệt xong phương án bồi thường GPMB cho 625 hộ bị ảnh hưởng
trong phạm vi: cầu vượt QL.10; 3,2km tuyến chính, 1 km tuyến nhánh; 2 khu tái
định cư; sân vận động; nghĩa trang Đồng Bụt, nghĩa trang Đồng Tráng. Hội đồng
bồi thường GPMB đã tiến hành chi trả xong tiền bồi thường, hỗ trợ GPMB cho 635
hộ bị ảnh hưởng. 100% các hộ bị ảnh hưởng đã nhận tiền bồi thường, di rời nhà
cửa, vật kiến trúc, mồ mả…để bàn giao mặt bằng cho hội Đồng bồi thường GPMB.
Ngày 19/5/ 2015 Hội đồng bồi thường GPMB đã bàn giao mặt bằng sạch cho chủ
đầu tư và nhà thầu tổ chức lễ khởi công thi công cầu vượt QL 10. Ngày 30/10/2015
27 Báo cáo số 70 /BC- UBND ngày 22 tháng 3 năm 2016 về tiến độ thực hiện GPMB tuyến kết nối
Cao tốc Cầu Giẽ -Ninh Bình với Quốc lộ 1A, đoạn qua huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình đến ngày
22/03./2016
đã bàn giao mặt bằng sạch 3,2/3,2 km (đạt 100%) cho chủ đầu tư và nhà thầu triển khai thi công.27
51
Tại huyện Hoa Lư, dự án thành phần đầu tư xây dựng tuyến đường kết nối
giữa đường cao tốc Cầu Giẽ - Ninh Bình với quốc lộ 1 (giai đoạn 2) đi qua địa bàn
xã Ninh An, huyện Hoa Lư có chiều dài khoảng 1,7km có điểm đầu tại cầu Thịnh
Hội (Sông Vạc) điểm cuối cầu Quán Vinh (Sông Vó). Ngày 31/8/ 2015 UBND
huyện đã giao các phòng ban chức năng của huyện phối hợp với UBND xã Ninh An
nhận mốc GPMB bổ sung từ chủ đầu tư. Đối với đất nông nghiệp thì đã thực hiện
xong công tác bồi thường, hỗ trợ GPMB trên phần đất nông nghiệp (thuộc phạm vi
theo mốc GPMB chủ đầu tư đã thực hiện bàn giao giai đoạn 1) với tổng số tiền chi
trả 7.441.450.000 (bao gồm tiền bồi thường về đất, hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp
việc làm, hỗ trợ ổn định đời sống) của 157 hộ gia đình và phần đất nông nghiệp thuộc quỹ đất công ích của xã với tổng diện tích 48.220m2; ngày 09/6/2015 trung
tâm phát triển quỹ đất huyện phối hợp với các phòng ban chuyên môn thực hiện bàn
giao mặt bằng trên phần đất nông nghiệp cho chủ đầu tư với chiều dài tuyến đã bàn
giao khoảng 1,4km. Về công tác GPMB đã bàn giao giai đoạn 1, tổng số tổ chức, cá
nhân có đất, tài sản, vật kiến trúc bị ảnh hưởng bởi dự án là 35 hộ, tổ chức cá nhân
trong đó số hộ gia đình có đất thổ cư và tài sản vật kiến trúc bị thu hồi là 17 hộ gia đình với diện tích đất ở là 3.569,9m2, đất vườn ao là 370 m2; Số hộ gia đình có đất thổ cư bị thu hồi (không có tài sản) là 5 hộ gia đình với diện tích đất ở 642 m2; số tổ chức, cá nhân có tài sản, vật kiến trúc (không có đất) là 13 tổ chức, cá nhân28.
Tại huyện Yên Mô, tuyến đường kết nối giữa đường cao tốc Cầu Giẽ- Ninh
Bình với Quốc lộ 1 qua địa phận huyện Yên Mô có tổng chiều dài 2,85km trong đó
xã Khánh Thượng 1,15km, xã Mai Sơn 1,7km. Tiến độ GPMB như sau: đoạn qua
xã Khánh Thượng đã được phê duyệt phương án, chi trả tiền bồi thường, hỗ trợ và
bàn giao cho chủ đầu tư ngày 26/8/2015; đoạn qua xã Mai Sơn do có sự điều chỉnh
hướng tuyến nút giao với ĐT477, ngày 13/07/2015 UBND huyện nhận bàn giao bổ
28 Báo cáo số 173/BC-UBND của UBND huyện Hoa Lư ngày 15 tháng 9 năm 2015 về tình hình
triển khai công tác GPMB thực hiện Dự án thành phần đầu tư xây dựng tuyến đường kết nối giữa đường cao
tốc cầu Giẽ - Ninh Bình với quốc lộ 1 (giai đoạn 2) trên địa bàn xã Ninh An, huyện Hoa Lư đến ngày
14/9/2015.
sung cùng với biên bản giao cọc mốc điều chỉnh. Đến nay đã hoàn thiện công tác
52
kiểm đếm, xây dựng phương án bồi thường, hỗ trợ đối với các công trình bị ảnh
hưởng trực tiếp bở dự án này. Ban giải phóng mặt bằng hiện đang rà soát hồ sơ địa
chính, kiểm tra thực địa các công trình, nhà cửa, đất sản xuất nông nghiệp bị ảnh
hưởng gián tiếp (như không có đường đi, không đủ điều kiện sản xuất nông nghiệp, kinh doanh… khi dự án hoàn thành)29.
Trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo, cấp uỷ, chính quyền đã bám sát chủ
trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, huy động cả hệ
thống chính trị từ huyện đến cơ sở tham gia tuyên truyền vận động nhân dân thực
hiện bồi thường, giải phóng mặt bằng, thu hồi đất được huyện coi là nhiệm vụ trọng
tâm, thường xuyên của các cấp, các ngành… Từ quan điểm đó, nhân dân bị thu hồi
đất được cung cấp mọi thông tin về các dự án và về công tác giải phóng mặt bằng
của dự án. Người dân được tham gia cùng hội đồng đền bù giải phóng mặt bằng của
huyện để phân loại nguồn gốc đất đai, kê khai tài sản, vật kiến trúc, cây cối, hoa
màu... có sự giám sát của MTTQ, các đoàn thể, tổ chức chính trị - xã hội các cấp.
Quá trình lập hồ sơ thu hồi đất, lập phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư giải
phóng mặt bằng cũng được thực hiện công khai, dân chủ, tôn trọng ý kiến của nhân
dân. Việc kiểm đếm được giám sát chặt chẽ, chi tiết; bản dự thảo áp giá đền bù
được thực hiện công khai, gửi xuống từng hộ để các hộ xem và ký xác nhận. Khi có
kiến nghị, thắc mắc, các thành viên của tổ công tác giải phóng mặt bằng đến từng
gia đình để tiếp thu, đối thoại, giải đáp kịp thời. Bên cạnh đó, các lực lượng tham
gia giải phóng mặt bằng phải bám sát địa bàn, nắm bắt kịp thời tâm tư, nguyện vọng
của nhân dân, thực hiện tốt công tác dân vận. Coi trọng công tác tuyên truyền, vận
động trước, trong và sau giải phóng mặt bằng, lắng nghe ý kiến, kiến nghị của nhân
dân, giải quyết triệt để những phát sinh ngay từ cơ sở. Đối với những nội dung vượt
quá thẩm quyền giải quyết của hội đồng giải phóng mặt bằng, các đồng chí lãnh đạo
UBND huyện đã chủ trì, tổ chức các buổi đối thoại trực tiếp với nhân dân, lắng
29 Công văn số 1258/UBND-CT về việc thực hiện công tác GPMB dự án xây dựng tuyến đường kết
nối giữa đường cao tốc cầu Giẽ- Ninh bình với Quốc lộ 1 (giai đoạn 2)
nghe, tiếp thu ý kiến của nhân dân để có giải pháp chỉ đạo, từng bước tháo gỡ khó
53
khăn. Nhờ vậy, việc bàn giao mặt bằng cho đơn vị thi công được bảo đảm đúng tiến độ, đồng thời đảm bảo lợi ích của nhân dân.30
Dự án thứ hai: Dự án nạo vét xây kè bảo tồn cảnh quan sông Sào Kê trên địa
bàn Huyện Hoa Lư
Dự án nạo vét, xây kè bảo tồn cảnh quan sông Sào Khê thuộc Khu di tích
lịch sử văn hóa Cố đô Hoa Lư với tổng mức đầu tư trên 2.590 tỷ đồng, thời gian
thực hiện từ năm 2005 - 2016. Về tình hình thực hiện công tác giải phóng mặt bằng:
Tổng diện tích cần thu hồi phục vụ thi công dự án là trên 176 ha, đã thu hồi được
trên 101 ha, nhưng chưa đáp ứng được yêu cầu tiến độ thực hiện dự án. Thực hiện
Thông báo số 74/TB-UBND ngày 24/12/2015 của UBND tỉnh, Ban quản lý dự án
đã phối hợp với các địa phương và đơn vị liên quan thực hiện xong việc nghiệm thu
khối lượng đã thi công; phối hợp với huyện Hoa Lư thống kê lại toàn bộ diện tích
phải GPMB và các hộ phải di chuyển ra khu tái định cư; thực hiện hoàn ứng kinh
phí GPMB trong tháng 3 năm 2016. Về việc GPMB của dự án tại huyện Hoa Lư
vẫn còn một số tồn tại như đoạn từ cầu Hội đến cửa hang Luồn còn tồn tại 26 hộ gia
đình thuộc phạm vi GPMB nhưng đến nay chưa thực hiện xong tháo dỡ, bàn giao
mặt bằng với các lí do cụ thể như:
Có 15 hộ gia đình (bao gồm cả các hộ sống chung cùng một thửa đất) đã được thu
hồi đất tại Quyết định số 629/QĐ-UBND ngày 17/12/2007 của UBND huyện Hoa Lư,
tuy nhiên đến năm 2009 và năm 2010 mới được phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ
GPMB tại các Quyết định số 508/QĐ-UBND ngày 11/08/2009; 714/QĐ-UBND ngày
30/09/2009; 208/QĐ-UBND ngày 22/03/2010 của UBND huyện Hoa Lư với tổng số
tiền 7.933 triệu đồng trong đó bồi thường về đất 4.774 triệu đồng (giá đất bồi thường từ 450.000 đến 600.000 đ/m2), bồi thường, hỗ trợ về tài sản, vật kiến trúc 3.159 triệu đồng.
Năm 2013 khi bố trí được nguồn kinh phí, Hội đồng GPMB huyện Hoa Lư tiến hành chi
trả cho các hộ dân nhưng các hộ dân không đồng ý nhận tiền bồi thường, hỗ trợ GPMB
với các lí do: đơn giá bồi thường hỗ trợ, GPMB theo các Quyết định phê duyệt năm 2009
30 http://en.baoninhbinh.org.vn/yen-khanh-thyc-hien-tot-quy-che-dan-chu-o-co-so-20160125101852396p12c18.htm
và năm 2010 là thấp và không còn phù hợp với thời điểm chi trả; các hộ dân vẫn còn
54
kiến nghị về nguồn gốc đất, diện tích đất hợp pháp và đất không hợp pháp, nhất là đối
với đất ở ven sông, ven núi.
Có 11 hộ gia đình (bao gồm cả các hộ sống chung cùng một thửa đất) nằm
xen kẽ trong khu vực nghĩa trang Hạng Châu đã được thu hồi đất tại Quyết định số
738/QĐ-UBND ngày 13/10/2009 của UBND huyện Hoa Lư nhưng chưa tổ chức
kiểm đếm vì chờ phương án di chuyển 2.500 ngôi mộ tại nghĩa trang Hạng Châu đến nghĩa trang Áng Cao31.
Mức giá bồi thường về đất của các dự án trên được tính theo bảng giá đất ban
hành kèm theo Quyết định số 37/2014/QĐ-UBND Ninh Bình, ngày 26 tháng 12 năm
2014 ban hành bảng giá các loại đất giai đoạn 2015-2019 trên địa bàn tỉnh Ninh Bình.
Qua việc tìm hiểu, nghiên cứu việc bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà
nước thu hồi đất để giải phóng mặt bằng của các công trình trên đã được hội đồng
bồi thường thực hiện nghiêm túc, đúng theo quy định của Nhà nước cũng như quy
định của UBND tỉnh Ninh Bình. Song bên cạnh đó, việc thi hành pháp luật về bồi
thường khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn Tỉnh Ninh Bình còn gặp một số vướng
mắc. Sau đây, tác giả xin trình bày cụ thể những kết quả đạt được và những tồn tại
vướng mắc trong quá trình thực thi pháp luật.
2.2.3.1. Những kết quả đạt được trong thực tiễn áp dụng pháp luật về bồi thường,
hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn Tỉnh Ninh Bình.
Trên thực tế về công tác bồi thường, GPMB được triển khai ở các dự án đã
cho ta thấy một cách nhìn tổng quan về công tác bồi thường, GPMB khi Nhà nước
thu hồi đất trên địa bàn thành phố Ninh Bình. Có thể nói thành phố Ninh Bình đã
thực hiện khá tốt về công tác bồi thường, đảm bảo nguyên tắc công bằng lợi ích cho
người dân, thực hiện trên tinh thần dân chủ, công khai.
Việc thực hiện các nội dung xung quanh vấn đề bồi thường GPMB khi Nhà
31 Báo cáo số 322/BC-UBND ngày 30 tháng 12 năm 2015 của UBND huyện Hoa Lư về kết quả rà
soát sơ bộ hồ sơ, thủ tục, công tác GPMB đối với các hộ khu vực từ cầu Đông đến hang Luồn xã Trường Yên
thuộc dự án nạo vét xây kè bảo tồn cảnh quan sông Sào Khê trên địa bàn huyện Hoa Lư.
nước thu hồi đất trên địa bàn thành phố Ninh Bình qua 2 dự án đã nêu trên đã được
55
các cấp chính quyền của thành phố triển khai thực hiện tốt về cơ bản theo quy định
của LĐĐ năm 2013, Nghị định số 47/2014/NĐ-CP ngày 15 tháng 5 năm 2014 quy
định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất và Quyết định số
37/2014/QĐ-UBND ngày 26 tháng 12 năm 2014 của UBND tỉnh Ninh Bình về việc
ban hành bảng giá các loại đất giai đoạn 2015-2019 trên địa bàn tỉnh Ninh Bình, đã
thực hiện thống nhất về chính sách bồi thường cho từng dự án, các văn bản hướng
dẫn thi hành của thành phố mang tính đồng bộ, có điều chỉnh để phù hợp theo từng
thời điểm và từng dự án cụ thể.
Thực hiện nghiêm túc việc phân loại nguồn gốc đất, áp mức bồi thường đảm
bảo đúng đối tượng, đúng chính sách, vận dụng linh hoạt trong áp giá, áp mức bồi
thường, hỗ trợ và xét duyệt đối tượng thuộc diện bồi thường. Quá trình chi trả tiền
được thực hiện nghiêm túc theo đúng quy định.
Về chính sách hỗ trợ: trên cơ sở dựa vào quy định của UBND tỉnh và điều
kiện thực tế của địa phương, UBND thành phố Ninh Bình đã có những chính sách
cụ thể và thiết thực nhất để hỗ trợ cho người nông dân bị mất đất sản xuất nông
nghiệp nhằm phần nào bước đầu giảm bớt khó khăn cho họ về kinh tế.
Về giá đất bồi thường: đối với việc bồi thường đất ở cho các hộ gia đình thì
Hội đồng GPMB tiến hành chi trả bồi thường dựa trên giá đất cụ thể của UBND
tỉnh công bố hàng năm áp dụng cho từng khu vực, vị trí. Còn đối với đất nông
nghiệp, khi bị thu hồi ngoài việc bồi thường theo giá đất cùng mục đích sử dụng thì
các hộ gia đình, cá nhân còn nhận thêm những khoản tiền hỗ trợ theo quy định.
Nhìn chung, công tác xác định đối tượng, điều kiện bồi thường và chi trả của Hội
đồng GPMB được diễn ra công khai, dân chủ, thuận lợi.
Bồi thường về tài sản, cây cối, hoa màu, vật kiến trúc gắn liền với đất: Quá
trình bồi thường các loại công trình, các loại cây trồng, vật nuôi được thực hiện nhất
quán theo quy định của UBND tỉnh về quy định đơn giá nhà cửa, vật kiến trúc, cây
cối, hoa màu và mức giá bồi thường, hỗ trợ được quy định thống nhất trên cả 02 dự
án nêu trên. Cho dù cũng có không ít các hộ dân có ý kiến về mức hỗ trợ đối với
công trình xây dựng trên đất không hợp pháp là còn thấp, song với biện pháp tuyên
56
truyền, vận động, phổ biến chính sách bồi thường, hỗ trợ cho người dân thì đa phần
đã đồng tình, ủng hộ và chấp thuận.
Về vấn đề tái định cư: nhìn chung việc xác định và bố trí tái định cư cho các
hộ gia đình bị thu hồi đất ở phải di chuyển đến nơi ở mới đã thật sự đồng bộ và cụ
thể, đáp ứng kịp thời cho các hộ dân bị thu hồi đất ở có nơi ở mới đảm bảo ổn định
cuộc sống. Việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của người dân: do đặc thù của 02 dự án
nêu trên là có sự đa dạng về các loại đất trưng dụng, tài sản gắn liền với đất có giá
trị cao và diện tích đất của dự án là tương đối lớn nên quá trình bồi thường, hỗ trợ
gặp không ít những khó khăn, đặc biệt trong khâu khiếu kiện của người dân đã ảnh
hưởng không nhỏ đến tiến độ GPMB cũng như tiến độ giải ngân của các dự án. Các
đơn thư chủ yếu xoay quanh vấn đề chính sách bồi thường, hỗ trợ về đất, giá cả bồi
thường. Sau khi nhận các đơn thư thắc mắc của các hộ dân, lãnh đạo và hội đồng
GPMB trên cơ sở Luật định, Nghị định và các văn bản pháp luật liên quan và trên
chủ trương làm việc dân chủ, công khai với người dân, cộng thêm biện pháp tuyên
truyền, vận động thì đã giải quyết các trường hợp theo đúng trình tự, đúng thủ tục,
đúng thời gian quy định nên được đại bộ phận người dân đồng tình chấp thuận.
Trình độ hiểu biết pháp luật đất đai và bồi thường GPMB: đại bộ phận người
dân hiểu và thực hiện tốt nghĩa vụ của mình, đã phối hợp tốt với các cơ quan chức
năng trong việc kê khai nguồn gốc sử dụng đất, đo đạc, kiểm kê tài sản… Nhìn
chung công tác phổ biến pháp luật đất đai và chính sách bồi thường, GPMB và tái
định cư của Hội đồng bồi thường cho người dân bị thu hồi đất của thành phố nói
chung là chưa thật sự sâu sát, không đạt hiệu quả cao. Phần lớn người dân khi bị thu
hồi đất đều hết sức quan tâm đến chính sách bồi thường GPMB bởi vì nó liên quan
trực tiếp đến lợi ích của họ nhưng công tác tuyên truyền vấn đề này ở địa phương
còn nhiều hạn chế và chưa quan tâm đúng mức nên đã xảy ra tình trạng có nhiều hộ
gia đình có đơn thư thắc mắc xung quanh vấn đề chính sách bồi thường, chưa bàn
giao mặt bằng đúng thời hạn nên gây ảnh hưởng đến sự triển khai dự án.
Về vấn đề bồi thường GPMB cho các hộ dân ở cả 2 dự án nêu trên nhìn
chung được diễn ra dân chủ, công khai, theo đúng trình tự luật định đã quy định, cố
gắng đảm bảo đúng thời gian GPMB để các dự án diễn ra theo đúng kế hoạch
57
nhưng cũng gặp rất nhiều khó khăn, vướng mắc, một số ít các hộ dân chưa đồng
tình nhất trí trong chính sách bồi thường GPMB nên việc triển khai ở cả 2 dự án nêu
trên đã phải đình trệ trong một thời gian ngắn làm cho việc thi công ở các dự án đã
phải chậm tiến độ so với thời gian đã định.
2.2.3.2. Những mặt hạn chế trong thực tiễn áp dụng pháp luật bồi thường, hỗ trợ,
tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất ở địa bàn Tỉnh Ninh Bình.
Ngoài ra, công tác GPMB được thực hiện trong thời điểm một số luật như
Luật Đất đai năm 2013, Luật xây dựng năm 2014, Luật đầu tư năm 2014 mới có
hiệu lực thi hành nên các qui định pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi
nhà nước thu hồi đất để GPMB có nhiều thay đổi so với trước, các văn bản hướng
dẫn thi hành còn thiếu và chưa đồng bộ, làm ảnh hưởng lớn đến tiến độ GPMB và
công tác đầu tư xây dựng những công trình bị ảnh hưởng. Cơ quan có thẩm quyền
quy định về giá đất lại thường xuyên thay đổi nâng giá theo quy luật, theo thời gian
và giá biến động ngoài thị trường làm cho tình trạng giá đất không ổn định; khi bồi
thường cho người dân, hộ dân giao đất sớm lại nhận tiền đền bù thấp hơn hộ dân
giao đất muộn vì khi hộ dân giao đất muộn thì giá đất được đền bù đã thay đổi theo
thời gian và giá mới thường cao hơn giá cũ.
Giá đất do UBND tỉnh đưa ra so với giá thị trường còn chênh lệch khá lớn, giá
thực tế ở nhiều khu vực cao hơn nhiều so với giá đất cụ thể do UBND tỉnh quy định.
Việc điều chỉnh không kịp thời dẫn đến cơ quan Tòa án gặp nhiều khó khăn trong việc
giải quyết tranh chấp đất đai. Sự chênh lệch giữa giá đất Nhà nước quy định với giá đất
thực tế trên thị trường xuất phát từ sự yếu kém của hệ thống tài chính đất đai và hệ
thống quản lý đất đai, ít sử dụng đến các công cụ kinh tế để điều tiết.
Theo khoản 2 Điều 74 LĐĐ năm 2013 quy định: “Việc bồi thường được thực
hiện bằng việc giao đất có cùng mục đích sử dụng với loại đất thu hồi, nếu không có
đất để bồi thường thì được bồi thường bằng tiền theo giá đất cụ thể của loại đất thu
hồi do UBND cấp tỉnh quyết định tại thời điểm quyết định thu hồi đất”. Trong thực
tế khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp, quỹ đất nông nghiệp của tỉnh hạn chế nên
không thể bồi thường hết bằng đất nông nghiệp cho người có đất bị thu hồi mà phải
bồi thường bằng tiền. Chính vì áp dụng không thống nhất hình thức bồi thường nên
58
tình trạng khiếu nại, khiếu kiện về bồi thường đất bị kéo dài. Hơn thế nữa, ,theo
phản ánh của rất nhiều hộ dân, nhất là các hộ dân ở dự án thứ nhất nêu trên khi bị
thu hồi đất sản xuất nông nghiệp thì số lao động trong độ tuổi lao động ngày càng
dư thừa, không có công ăn việc làm dẫn đến nảy sinh tệ nạn xã hội, mất trật tự an
ninh trên địa bàn.
Trong dự án xây dựng tuyến đường kết nối giữa đường cao tốc Cầu Giẽ -
Ninh Bình với Quốc lộ 1 (giai đoạn II) tại địa bàn huyện Yên Khánh có trường hợp
gia đình ông Hưng chủ doanh nghiệp may xuất khẩu Đông Thịnh Hưng đề nghị thu hồi hết diện tích đất ở 1.440m2, kiểm đếm toàn bộ tài sản nhà xưởng, vật kiến trúc
và bố trí được ra khu tái định cư. Theo phương án bồi thường của dự án này thì diện
tích đất tối đa mà ông Thịnh được bồi thường do ảnh hưởng bởi dự án chỉ khoảng 600m2 đất. Nhưng ông đề nghị thu hồi hết vì diện tích đất còn lại sau khi bị Nhà
nước thu hồi không đủ để bố trí lại cơ cấu sản xuất ảnh hưởng tới hoạt động của doanh nghiệp và đời sống của hơn 100 công nhân, người lao động ở xã Ninh An32.
Tại điểm Khoản 1 Điều 6 Nghị định số 47/2014/NĐ-CP ngày 15 tháng 05 năm
2014 Qui định về bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất chỉ quy
định về phương thức bồi thường với trường hợp khi thu hồi hết đất ở hoặc phần
diện tích đất ở còn lại của hộ gia đình, cá nhân sau thu hồi không đủ điều kiện để ở
theo quy định của UBND cấp tỉnh nhưng chưa quy định về trường hợp sau khi thu
hồi đất ở của hộ gia đình, cá nhân mặc dù phần diện tích ở còn lại của họ vẫn đủ
điều kiện để ở nhưng lại làm ảnh hưởng tới sinh kế của một lượng lớn người dân
sinh sống tại địa phương thì phải xử lí thế nào.
Tóm lại, chương 2 của luận văn đã đi sâu phân tích các quy định pháp luật
hiện hành về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất để GPMB của
hộ gia đình, cá nhân, tổ chức, cơ sở tôn giáo. Qua đó, đã đánh giá những ưu điểm
32 Báo cáo số 70 /BC- UBND ngày 22 tháng 3 năm 2016 về tiến độ thực hiện GPMB tuyến kết nối
Cao tốc Cầu Giẽ -Ninh Bình với Quốc lộ 1A, đoạn qua huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình đến ngày
22/03./2016
đã đạt được cũng như những hạn chế, bất cập còn tồn tại và đưa ra một số nguyên
59
nhân dẫn tới những hạn chế, bất cập đó để làm cơ sở đề xuất những kiến nghị nhằm
hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư
khi nhà nước thu hồi đất của hộ gia đình, cá nhân, tổ chức, cơ sở tôn giáo trong thời
gian tới.
60
Chương 3
HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÊ BỒI THƯỜNG KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI
ĐẤT ĐỂ GIẢI PHÓNG MẶT BẰNG
3.1. Sự cần thiết phải bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất để giải phóng mặt bằng
Trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Nhà nước ngày càng
đẩy mạnh việc thu hồi đất để phục vụ cho các dự án phát triển kinh tế. Các khu đô
thị, khu công nghiệp, khu chế xuất… mọc lên ngày càng nhiều, kéo theo diện tích
đất của người dân ngày càng một bị thu hẹp đi. Nếu không giải quyết tốt vấn đề
quyền lợi của người bị thu hồi đất, sẽ dẫn đến tình trạng mất ổn định chính trị, xã
hội, sẽ gây phản ứng mạnh trong dân cư với những khiếu nại, tố cáo kéo dài, đặc
biệt là khiếu nại tập thể liên quan đến người bị thu hồi đất theo dự án kinh tế cụ thể.
Pháp luật là công cụ quan trọng nhất để quản lí, điều tiết các mối quan hệ trong
xã hội. Với tính bắt buộc cùng cơ chế đảm bảo sự thực hiện, pháp luật chính là cơ sở để
người dân bị thu hồi đất được bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của mình
LĐĐ năm 2013 và các văn bản hướng dẫn đã có những hoàn thiện đáng kể
và có một số nội dung mới, đặc biệt là về giá đất bồi thường. Nhưng nhìn chung vẫn
chủ yếu dừng lại ở việc luật hóa, hệ thống lại các quy định trong các Nghị định
hướng dẫn LĐĐ năm 2003 trước kia.
Thực trạng triển khai việc thu hồi đất để phục vụ cho các dự án phát triển
kinh tế ở nước ta trong thời gian qua đã có những bước tiến nhất định. Tuy nhiên,
tình trạng dự án treo kéo dài từ những năm trước đây vẫn chưa có cơ chế khắc phục
hiệu quả, những khiếu nại về giá bồi thường, những vướng mắc trong công tác tái
định cư và tạo việc làm sau khi thu hồi cho người nông dân vẫn còn tiếp diễn. LĐĐ
năm 2013 mới có hiệu lực không lâu, nhưng đã bộc lộ một số hạn chế. Điều này đặt
ra yêu cầu phải tiếp tục hoàn thiện các quy định pháp luật về đảm bảo quyền lợi của
người dân khi Nhà nước thu hồi đất để GPMB
3.2. Phương hướng hoàn thiện pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi
đất để giải phóng mặt bằng.
Bồi thường, giải phóng mặt bằng là vấn đề nhạy cảm và phức tạp. Vì vậy,
mặc dù các quy định của pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất thường
61
xuyên được sửa đổi, bổ sung nhằm khắc phục những hạn chế, bất cập. Tuy nhiên,
trên thực tế việc thi hành chế định pháp luật này gặp không ít khó khăn, sự không
đồng thuận của người bị thu hồi đất với phương án bồi thường dẫn đến việc cố tình
không bàn giao đất đúng thời gian quy định, tranh chấp khiếu kiện thường xuyên
xảy ra, tiềm ẩn nguy cơ mất ổn định chính trị- xã hội…Để khắc phục những khiếm
khuyết này, trên cơ sở tìm hiểu, đánh giá thực trạng áp dụng pháp luật về bồi
thường khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn TP. Ninh Bình, Tỉnh Ninh Bình, tác
giả cho rằng việc hoàn thiện lĩnh vực pháp luật này cần dựa trên 1 số định hướng cơ
bản sau đây:
Thứ nhất, hoàn thiện pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất phải dựa
trên quan điểm, đường lối của Đảng về vấn đề này. Pháp luật là sự thể chế hoá quan
điểm, đường lối của Đảng. Hay nói cách khác, quan điểm, đường lối của Đảng là sự định
hướng chính trị cho việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật. Chính vì vậy, việc hoàn thiện
pháp luật đất đai nói chung và pháp luật bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nói riêng
phải dựa trên quan điểm, đường lối của Đảng về bồi thường, giải phóng mặt bằng khi
Nhà nước thu đất nhằm bảo đảm tính định hướng về mặt chính trị.
Thứ hai, hoàn thiện pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất dựa
trên việc giải quyết hài hòa lợi ích của Nhà nước, lợi ích của người bị thu hồi đất và
lợi ích của nhà đầu tư. Trong đó cần quan tâm hơn nữa đến quyền và lợi ích của
người bị thu hồi đất, chủ thể yếu nhất trong mối quan hệ ba bên này. Thực tiễn thi
hành pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất cho thấy địa phương nào
giải quyết hài hòa lợi ích của Nhà nước, lợi ích của người bị thu hồi đất và lợi ích
của nhà đầu tư thì sẽ nhận được sự đồng thuận của người dân, công tác giải phóng
mặt bằng được thực hiện nhanh chóng, không phát sinh những tranh chấp, khiếu
kiện phức tạp, kéo dài. Vì vậy, để công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng diễn ra
thuận lợi, nhanh chóng, tránh phát sinh các tranh chấp, khiếu kiện phức tạp, kéo dài,
tiềm ẩn nguy cơ gây mất ổn định chính trị thì việc hoàn thiện chế định pháp luật này
cần giải quyết tốt hơn mối quan hệ ba bên này.
Thứ ba, hoàn thiện pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất phải
đảm bảo dân chủ, công bằng, công khai, minh bạch. Bồi thường khi Nhà nước thu
62
hồi đất là vấn đề ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của người bị thu hồi đất. Do vậy
tất cả những vấn đề liên quan đến bồi thường thu hồi đất như: lý do thu hồi, quy
hoạch, kế hoạch sử dụng đất, phương án bồi thường, hỗ trợ…đều phải được công
khai để người bị thu hồi đất được biết và tham gia nhằm bảo vệ các quyền lợi ích
chính đáng của mình. Nhờ việc công khai này mà người dân có thể đánh giá được
tính đúng đắn, tính hợp pháp của các quyết định liên quan đến vấn đề bồi thường
thu hồi đất của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Vì vậy, pháp luật về bồi thường
khi nhà nước thu hồi đất cần có những quy định để đảm bảo dân chủ, công bằng,
công khai và minh bạch. Có như vậy, pháp luật về lĩnh vực này mới có thể thực sự
phát huy được ý nghĩa bù đắp những thiệt hại, tổn thất gây ra từ việc thu hồi đất của
người sử dụng đất.
Thứ tư, hoàn thiện pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất phải
hướng đến sự phát triển bền vững. Điều này có nghĩa là các quy định về bồi thường,
hỗ trợ, tái định cư không chỉ giải quyết, bù đắp các thiệt hại vật chất thực tế như giá
trị đầu tư, thành quả lao động của người sử dụng đất; chi phí còn lại hoặc giá trị của
các tài sản gắn liền với đất được thu hồi. Hơn thế nữa nó còn phải xử lý được các
vấn đề an sinh xã hội, các hậu quả phát sinh trực tiếp từ việc Nhà nước thu hồi đất
như thiệt hại “vô hình” mà người sử dụng đất phải gánh chịu do việc Nhà nước thu
hồi đất gây ra, bao gồm: bị mất vị trí, địa thế kinh doanh; mất công ăn việc làm;
cộng đồng dân cư phải rời khỏi quê hương, nơi cư trú, sinh sống lâu đời gắn với
phong tục, tập quán, đời sống tâm linh của người dân; chú trọng đến việc đảm bảo
quyền lợi chính đáng cho những đối tượng yếu thế trong xã hội như người già, phụ
nữ, trẻ em, người tàn tật, đồng bào dân tộc thiểu số bị mất đất ở, đất sản xuất…Khi
xây dựng pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất cần xóa bỏ quan niệm
đánh đổi sự hy sinh lợi ích của người nông dân cho sự phát triển của đất nước. Bởi
vì, mọi sự đánh đổi cần có cái giá của nó, người bị thu hồi đất phải được hưởng lợi
từ việc Nhà nước thu hồi đất vì mục đích quốc phòng, an ninh; phát triển kinh tế- xã
hội vì lợi ích quốc gia, công cộng.
Thứ năm, hoàn thiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà
nước thu hồi đất cần xem xét, tham khảo kinh nghiệm và thực tiễn pháp lý của các
63
nước trên thế giới về lĩnh vực này. Hiện nay nước ta đã trở thành thành viên chính
thức của nhiều tổ chức quốc tế trong khu vực và thế giới như Hiệp hội các nước
Đông Nam Á (ASEAN). Diễn đàn hợp tác kinh tế Thái Bình Dương (APEC), Tổ
chức thương mại thế giới (WTO)…là nước thứ 12 đàm phán gia nhập Hiệp định đối
tác kinh tế chiến lược xuyên Thái Bình Dương (TPP). Quá trình hội nhập quốc tế
sâu rộng đạt gia yêu cầu Việt Nam phải cam kết tuân thủ luật lệ của các tổ chức
này. Muốn vậy, hệ thống pháp luật nói chung và pháp luật đất đai nói riêng của
nước ta phải tương thích với các quy tắc và luật lệ chung của thế giới. Mặt khác,
việc xây dựng và thực thi pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước
thu hồi đất ở nước ta dựa trên chế độ sở hữu toàn dân về đất đai do Nhà nước đại
diện chủ sở hữu trong điều kiện kinh tế thị trường là một điều đặc trưng ở Việt Nam
và chưa có tiền lệ trên thế giới. Hơn nữa, thực tiễn thi hành pháp luật này cho thấy
đây là vấn đề rất khó khăn, phức tạp do nó trực tiếp ảnh hưởng đến lợi ích thiết thực
của các bên có liên quan. Vì vậy, chúng ta phải từng bước xây dựng, sửa đổi và
hoàn thiện nhằm đáp ứng đòi hỏi của quá trình phát triển đất nước đặt trong bối
cảnh kinh tế thị trường. Việc nghiên cứu, tìm hiểu và tiếp thu có chọn lọc kinh
nghiệm và thực tiễn pháp lý của những nước trên thế giới (đặc biệt là kinh nghiệm
và thực tiễn pháp lý của những nước có nhiều điểm thương đồng về chính trị, lịch
sử, văn hóa, pháp luật… với Việt Nam) là rất cần thiết. Điều này không chỉ giúp
chúng ta lựa chọn, tiếp thu những kinh nghiệm bổ ích để vận dụng sáng vào quá
trình hoàn thiện pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất và làm cho lĩnh
vực này tương thích với pháp luật của các nước, mà còn giúp nước ta tránh lập lại
những sai lầm mà các nước đã gặp phải trong quá trình phát triển đất nước dưới tác
động của toàn cầu hóa.
3.3. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật bồi thường khi Nhà nước thu hồi
đất để giải phóng mặt bằng..
Một số quy định về thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư trong LĐĐ
năm 2013 và các văn bản hướng dẫn cho thấy vẫn chưa giải quyết được triệt để
những vướng mắc, bất cập, đáp ứng được yêu cầu thực tế. Do vậy để đảm bảo tốt
hơn quyền và lợi ích hợp pháp của các cá nhân, tổ chức bị thu hồi đất để phục vụ
64
cho các dự án phát triển kinh tế tác giả xin đề xuất một số kiến nghị cụ thể góp phần
hoàn thiện pháp luật sau đây:
3.3.1. Kiến nghị hoàn thiện quy phạm pháp luật về bồi thường khi Nhà nước
thu hồi đất để giải phóng mặt bằng
Mặc dù đã có nhiều thay đổi tích cực được ghi nhận trong LĐĐ năm 2013,
song một số quy định về đất đai, đặc biệt là các quy định về bồi thường khi Nhà
nước thu hồi đất vẫn còn những điểm hạn chế và chưa thể hiện được đầy đủ nguyện
vọng của nhân dân, do vậy đòi hỏi phải nỗ lực hơn nữa trong quá trình hoàn thiện
pháp luật về đất đai nói chung và pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất
nói riêng.
Thứ nhất, quy định về nguyên tắc định giá đất. Theo quy định của LĐĐ năm
2013, giá bồi thường đất là giá đất cụ thể do nhà nước quy định và giá này phải
“phù hợp với giá đất phổ biến trên thị trường của loại đất có cùng mục đích sử
dụng”. Vậy thế nào là “phù hợp” đây là một khái niệm mang tính định tính mà
không mang tính định lượng. Điều này sẽ gây ra những cách hiểu khác nhau giữa
các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong quá trình thực thi, tạo “kẽ hở” cho việc
áp đặt ý muốn chủ quan của các cơ quan công quyền trong áp dụng. Quy định giá
đất phổ biến trên thị trường là giá lúc định giá đất khi quy hoạch sử dụng đất hay
giá lúc thu hồi, đấu giá? Bởi từ lúc định giá đến lúc bồi thường, giá đất có thể đã
biến động rất khác.
Việc pháp luật xác định rõ ràng, chính xác giá đất cụ thể trong bồi thường là
điều kiện tiên quyết để vận dụng, thi hành pháp luật được chính xác. Vì vậy, Nhà
nước phải có hướng dẫn, quy định cụ thể về tiêu chí “phù hợp với giá đất thị
trường” để quy định này có thể thực sự đi vào thực tiễn cuộc sống.
Thứ hai, quy định về thẩm quyền định giá đất. LĐĐ năm 2013 vẫn quy định
thẩm quyền xác định giá đất do Chính phủ và UBND cấp tỉnh quyết định, tuy nhiên
có một điểm mới so với LĐĐ năm 2003 đó là quy định thành lập hội đồng thẩm
định giá đất để thẩm định giá trước khi UBND cấp tỉnh quyết định giá đất trong
những trường hợp cụ thể. Trong Hội đồng thẩm định giá bắt buộc có sự tham gia
của tổ chức có chức năng tư vấn định giá đất, tức là tổ chức cung cấp dịch vụ định
65
giá đất độc lập33. Tuy nhiên quy định này chưa làm rõ việc sử dụng dịch vụ định giá
đất có bắt buộc hay không. Vì khoản 3 Điều 114 LĐĐ năm 2013 quy định: “UBND
cấp tỉnh quyết định giá đất cụ thể. Cơ quan quản lý đất đai cấp tỉnh có trách nhiệm
giúp UBND cấp tỉnh tổ chức việc xác định giá đất cụ thể. Trong quá trình thực
hiện, cơ quan quản lý đất đai cấp tỉnh được thuê tổ chức có chức năng tư vấn xác
định giá đất để tư vấn xác định giá đất cụ thể.” Theo quy định này thì việc thuê tổ
chức có chức năng tư vấn xác định giá đất là không bắt buộc. Nhưng cũng tại khoản
3 Điều 114 LĐĐ năm 2013 lại quy định: “Căn cứ kết quả tư vấn xác định giá đất,
cơ quan quản lý đất đai cấp tỉnh trình Hội đồng thẩm định giá đất xem xét trước khi
trình UBND cùng cấp quyết định.” lại khiến người ta hiểu việc việc thuê tổ chức có
chức năng tư vấn xác định giá đất là bắt buộc. Sự phức tạp này cũng không được lí
giải rõ ràng trong Nghị định số 44/2014/NĐ-CP ngày 15 tháng 04 năm 2014 Quy
định về giá đất. Sự không rõ ràng này rất dễ dẫn đến tình trạng áp dụng tùy tiện vì
vậy cần thiết có sự hướng dẫn cụ thể trong các văn bản pháp luật hướng dẫn thi
hành LĐĐ năm 2013, xem trường hợp nào việc thuê tổ chức có chức năng tư vấn
xác định giá đất là bắt buộc, trường hợp nào thì không.
Hơn thế nữa, Chính phủ cũng cần quy định hướng dẫn cụ thể về thành phần
của Hội đồng thẩm định giá đất, quy đinh ý kiến của tổ chức tư vấn về giá đất chiếm
bao nhiêu phần trăm trong quyết định cuối cùng của Hội đồng thẩm định về giá đất.
Bởi lẽ, nếu theo quy định của LĐĐ năm 2013 thì tổ chức tư vấn giá đất chỉ là một
thành viên trong Hội đồng thẩm định giá đất. Các thành viên còn lại đều là đại diện
của cơ quan nhà nước. Thông thường, Hội đồng làm việc theo nguyên tắc tập thể và
quyết định theo đa số. Vì vậy, ý kiến của tổ chức tư vấn về giá đất chỉ là ý kiến
thiểu số nên giá cuối cùng của Hội đồng thẩm định lại do cơ quan nhà nước quyết
định. Nên vai trò của tổ chức tư vấn về giá đất chỉ mang tính hình thức và quy định
này của LĐĐ năm 2013 thực chất cũng chỉ là “bình mới rượu cũ”.
Thứ ba, qui định về thời điểm xác định giá bồi thường. Pháp luật trong thời
33 Khoản 3 Điều 114 LĐĐ năm 2013.
gian tới cần có quy định cụ thể, rõ ràng và chi tiết việc giải quyết trong trường hợp
66
có sự phát sinh chênh lệch giữa giá bồi thường tại thời điểm phê duyệt với giá bồi
thường tại thời điểm chi trả tiền bồi thường cho dân. Theo đó, cần phân biệt rõ các
trường hợp có sự phát sinh chênh lệch giữa giá bồi thường tại thời điểm phê duyệt
với giá bồi thường tại thời điểm chi trả tiền bồi thường cho dân. Bên cạnh đó, cần
có sự phân biệt rõ các trường hợp cụ thể và nguyên nhân của sự chênh lệch đó xuất
phát từ đâu để quy trách nhiệm tương ứng cho từng trường hợp, tránh tình trạng tất
cả đều quy về trách nhiệm cho nhà đầu tư. Nếu có sự chênh lệch về giá đất, theo đó,
giá tại thời điểm phê duyệt với giá bồi thường tại thời điểm chi trả tiền bồi thường
cũng thấp xa so với giá chuyển nhượng thực tế trên thị trường mà nguyên nhân do
lỗi của người sử dụng đất không chấp hành các quy định của pháp luật để di rời,
giải tỏa thì thiệt thòi này họ phải tự gánh chịu mà không thể yêu cầu Nhà nước hay
nhà đầu tư phải điều chỉnh lại mức bồi thường. Nếu có sự chênh lệch về giá đất
trong trường hợp nêu trên mà nguyên nhân do phía nhà đầu tư sai phạm, găm đất,
giữ đất mà không thực hiện đầu tư… thì nhà đầu tư phải có trách nhiệm bù đắp
khoản chênh lệch này cho người dân nếu Nhà nước điều chỉnh lại đơn giá bồi
thường cho phù hợp với giá thị trường tại thời điểm chi trả bồi thường. Nếu có sự
chênh lệch về giá đất trong trường hợp nêu trên nhưng nguyên nhân do cơ quan nhà
nước chậm trễ trong việc thực hiện việc bồi thường khi nhà nước thu hồi đất để
GPMB thì Nhà nước phải có trách nhiệm chi trả khoản chênh lệch đó cho người dân
từ nguồn tiền ngân sách nhà nước.
Thứ tư, về nâng cao sự đồng thuận của người dân đối với phương án bồi
thường, hỗ trợ, tái định cư. LĐĐ năm 2013 đã có quy định tại Điều 43 về việc lấy ý
kiến người dân về quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất. Để phương án bồi thường, hỗ
trợ, tái định cư do cơ quan có thẩm quyền đưa ra phù hợp, nhận được sự đồng thuận
của người dân, đảm bảo việc hỗ trợ được khách quan, công bằng, kịp thời, công
khai và đúng quy định, thì cần bổ sung quy định tỷ lệ cụ thể sự đồng thuận của
người dân về phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư được phê duyệt. Hậu quả
của thu hồi đất là người nông dân bị mất cả sinh kế từ nông nghiệp mà gần như
không có cơ hội tìm sinh kế mới. Vì vậy, phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư
cần thiết phải có sự đồng thuận của người dân, cần lấy ý kiến của toàn bộ cộng đồng
67
dân cư địa phương (không chỉ lấy ý kiến của người bị thu hồi đất) và phương án chỉ
được phê duyệt khi đạt được một tỉ lệ đồng thuận nhất định. Ngoài ra người mất đất
cũng cần có quyền được giới thiệu các tổ chức cung cấp dịch vụ định giá đất độc lập
tham gia vào danh sách đấu thầu cung cấp dịch vụ giá đất.
Thứ năm, về thu hồi đất, Hiến pháp năm 2013 khẳng định Nhà nước chỉ thu
hồi đất trong trường hợp thật cần thiết vì mục đích an ninh, quốc phòng, để phát
triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng. Cho dù Hiến pháp chỉ rõ
như vậy và LĐĐ năm 2013 khẳng định các dự án quan trọng cấp quốc gia phải do
Thủ tướng và Quốc hội quyết định, cấp tỉnh sẽ có thêm sự tham gia của HĐND.
Tuy nhiên, LĐĐ năm 2013 vẫn chưa làm rõ được giới hạn của cụm từ “thật sự cần
thiết” mà đã được chỉ ra trong Hiến pháp năm 2013. Thực tế, trong LĐĐ năm 2013
đã cụ thể hóa một phạm vi quá rộng các trường hợp được phép thu hồi đất. Do đó,
các quy định pháp luật về thu hồi đất trong tương lai cần làm rõ hơn nữa vai trò
kiểm soát việc thu hồi đất của HĐND nhằm hạn chế thu hồi đất tràn lan như trước
đây, nếu không việc quy định một phạm vi quá rộng về thu hồi đất như thế mà
không làm rõ khái niệm “thật sự cần thiết” sẽ có thể tiếp tục dẫn tới lạm dụng trong thu hồi đất34.
3.3.2. Kiến nghị hoàn thiện quy phạm pháp luật về hỗ trợ, tái định cư khi Nhà
nước thu hồi đất để giải phóng mặt bằng
Về chính sách bồi thường, hỗ trợ để đảm bảo ổn định sinh kế của người bị
thu hồi đất. LĐĐ năm 2013 chủ yếu được bổ sung một số quy định của Nghị định
số 69/2009/NĐ-CP ngày 13 tháng 8 năm 2009. Cách tiếp cận này không thể giải
quyết được những bất cập về mất sinh kế, mất việc làm của người bị thu hồi đất
đang diễn ra ở nhiều địa phương. Việc hỗ trợ khi thu hồi đất nông nghiệp cần phân
biệt rõ hai nhóm đối tượng bị thu hồi đất để thực hiện chính sách hỗ trợ cho phù
hợp, đó là: nhóm thứ nhất là nhóm nông dân trong độ tuổi lao động, nhóm thứ hai là
34
http://tuoitre.vn/tin/tuoi-tre-cuoi-tuan/20131210/luat-dat-dai-2013-nhung-viec-can-lam-
tiep/583999.html
nhóm nông dân ngoài độ tuổi lao động.
68
Nhóm thứ nhất sẽ được Nhà nước hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp và tạo việc
làm mới. Để giải quyết việc làm cho họ có thể có các giải pháp sau: đối với lao
động vùng chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp. Việc giải quyết việc làm
phải gắn với đào tạo nghề, nghĩa là Nhà nước nên hỗ trợ về kinh phí đào tạo những
nghề mà trong thị trường lao động đang cần để có thể tận dụng tối đa nguồn lao
động. Ngoài ra, Nhà nước nên yêu cầu các doanh nghiệp có dự án đầu tư phải ưu
tiên bố trí lao động địa phương vào làm việc trong các doanh nghiệp, phát triển các
làng nghề truyền thống thu hút lao động đối với những nơi có các làng nghề truyền
thống lâu đời và có thị trường tiêu thụ sản phẩm.
Còn đối với nhóm thứ hai, họ đã không còn hoặc còn rất ít khả năng lao động
thì cần có sự hỗ trợ để họ có thể dưỡng lão, an tâm với cuộc sống mới. Độ tuổi lao
động được quy định đối với nam là dưới 60 tuổi, với nữ là dưới 55 tuổi. Mặc dù
vậy, trên thực tế, ở nông thôn Việt Nam, những người ngoài độ tuổi này vẫn tham
gia các hoạt động nông nghiệp. Theo số liệu thống kê cho thấy có tới 77% số người
này vẫn phải làm việc tăng thu nhập và 42% là lao động chính để nuôi sống gia đình
và việc làm chủ yếu của họ vẫn là trên đồng ruộng. Khi bị thu hồi đất nông nghiệp,
nhóm đối tượng ngoài độ tuổi lao động hầu như không có cơ hội và khả năng để
chuyển đổi nghề nghiệp hay có việc làm mới phù hợp. Trong khi đó, nếu không bị
mất đất nông nghiệp thì cho dù đến 60 tuổi, họ vẫn có khả năng lao động nông
nghiệp. Vì vậy, trong thời gian tới, Nhà nước cần có sự quan tâm hơn tới đối tượng
này khi thu hồi đất nông nghiệp, thông qua các chính sách để hỗ trợ cho người nông
dân ngoài độ tuổi lao động như: cấp 100% kinh phí bảo hiểm y tế hay hỗ trợ một khoản tiền dưỡng lão đủ để họ duy trì cuộc sống khi về già.35
3.3.3. Kiến nghị về tổ chức thực hiện pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu
hồi đất để giải phóng mặt bằng.
Thứ nhất, các địa phương trong tỉnh cần có quy hoạch tổng thể tốt về phát
35 Phạm Thu Thủy, Bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất theo LĐĐ 2013, Trang
59 Tạp chí Luật học Đặc san 11/2014
triển kinh tế-xã hội, để từ đó đồng bộ trong việc quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch
69
công nghiệp, đô thị, quy hoạch nông nghiệp chuyển đổi cơ cấu cây trồng nhằm đảm
bảo, phát triển đồng bộ, tránh lãng phí đất cũng như làm xáo trộn cuộc sống ổn định
của người dân. Ngoài ra, Nhà nước trong quá trình lập quy hoạch phát triển công
nghiệp, đô thị nên nghiên cứu xem xét nên quy hoạch tại những khu vực đất nông
nghiệp có năng suất thấp, không nên quy hoạch khu công nghiệp, đô thị tại những
vùng có điều kiện thuận lợi cho phát triển nông nghiệp để đảm bảo sử dụng hợp lí
nguồn tài nguyên đất.
Thứ hai, việc định giá đất cụ thể trên địa bàn các tỉnh, thành phố cần phải có
đơn vị tư vấn độc lập, có đầy đủ chức năng và các điều kiện để hành nghề tư vấn
xác định giá đất theo quy định của pháp luật đất đai hiện hành thực hiện để đảm bảo
việc tư vấn giá đất được phản ánh một cách khách quan, trung thực và tuân thủ các
nguyên tắc, phương pháp định giá đất theo quy định tại Điều 112 của Luật Đất đai
năm 2013.
Thứ ba, công tác lập quy hoạch xây dựng các khu, điểm tái định cư để phục
vụ các dự án đầu tư, dự án phát triển trên địa bàn tỉnh, huyện cần được thực hiện
trong kế hoạch sử dụng đất hàng năm của cấp tỉnh, huyện. Trên cơ sở các dự án đã
được ghi vốn đầu tư, được HĐND tỉnh thông qua kế hoạch thu hồi đất để thực hiện
dự án. Cần xác định số hộ cần phải bố trí tái định cư và nhu cầu tái định cư về đất ở,
về nhà ở của các hộ bị thu hồi đất trong kế hoạch sử dụng đất của các dự án để chủ
động xây dựng các khu, điểm tái định cư hoàn chỉnh, đồng bộ về hạ tầng, tạo điều
kiện thuận lợi cho các dự án được triển khai và là điều kiện cần thiết trước khi Nhà
nước thực hiện việc thu hồi đất.
Thứ tư, UBND tỉnh cần ban hành cơ chế chính sách trong việc bố trí, sử
dụng nguồn vốn đầu tư, đơn vị quản lý các khu đất ở, nhà ở tái định cư phục vụ cho
nhu cầu tái định cư của các dự án. Quy định bắt buộc về trách nhiệm của các chủ
đầu tư trong việc bố trí nguồn vốn xây dựng khu tái định cư; đồng thời có chính
sách khuyến khích các chủ đầu tư được Nhà nước giao đất, cho thuê đất tham gia
xây dựng hạ tầng kỹ thuật khu đất tái định cư và nhà ở tái định cư nhằm ngày càng
nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân tái định cư và đưa pháp luật đất đai
vào đời sống xã hội.
70
3.3.4. Giải pháp về bổ trợ, tuyên truyền, giáo dục nhận thức pháp luật nâng cao
hiệu quả bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất.
Để cho công tác tuyên truyền, giáo dục, phổ biến pháp luật của người dân
khi thực hiện các quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi
đất để GPMB đạt được hiệu quả cao tác giả xin được được đưa ra một số giải pháp
cụ thể sau:
Thứ nhất, cần nâng cao trình độ, chuyên môn nghiệp vụ cho những người có
trách nhiệm làm công tác này. Bởi lẽ, không ít trường hợp ở các địa phương những
người làm công tác tuyên truyền còn có trình độ nhận thức thấp, chuyên môn
nghiệp vụ chưa cao, do vậy hiệu quả của công tác tuyên truyền giáo dục nâng cao
nhận thức pháp luật của người dân chưa thực sự đạt hiệu quả cao. Bộ máy cán bộ
tuyên truyền pháp luật có vai trò hết sức quan trọng, cán bộ thực hiện công tác này
cần được chuyên trách, chuyên nghiệp hóa, bồi dưỡng trình độ chuyên môn về pháp
luật đất đai đồng thời có tinh thần trách nhiệm với nhân dân. Ngoài ra trong quá
trình tuyên truyền giáo dục pháp luật, cán bộ tuyên truyền cần thường xuyên rà soát,
hệ thống hóa, kiểm tra, cập nhật các văn bản quy phạm pháp luật về bồi thường, hỗ
trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất mới nhất. Phải luôn đảm bảo người dân
được tiếp cận với những văn bản pháp luật mới, có hiệu lực. Ở các địa phương vùng
dân tộc thiểu số, nhiều người dân không nói được tiếng phổ thông. Chính vì vậy nhà
nước cần có biện pháp đào tạo và sử dụng các cán bộ tuyên truyền là người địa
phương, có thể nói được tiếng dân tộc để tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật
về đất đai cho chính người dân tộc mình.
Thứ hai, các cơ quan thẩm quyền địa phương nên đa dạng hóa hơn nữa các
hình thức tuyên truyền kết hơp với tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị,
hiện đại hóa phương tiện tuyên truyền. Trong công tác tuyên truyền giáo dục pháp
luật về bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi nhà nước thu hồi đất để giải phóng mặt
bằng cần có sự kết hợp các hình thức tuyên truyền miệng, tuyên truyền trên các
phương tiện thông tin đại chúng, báo chí, xuất bản, tờ rơi, tuyên truyền thông qua
hoạt động văn hóa, văn nghệ, bài dự thi, tuyên truyền thông qua các hoạt động trợ
giúp pháp lí… Tổ chức các đoàn, các tổ tuyên truyền đến từng hộ gia đình để phổ
71
biến những quy định của pháp luật về vấn đề này. Ngoài ra với sự phát triển của
công nghệ truyền thông, internet là một kênh tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật
hết sức hiệu quả, các địa phương có thể đăng các chính sách, quy định của nhà nước về
bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi nhà nước thu hồi đất để GPMB lên website của địa
phương. Đồng thời, có thể tổ chức các lớp học ngắn hạn đào tạo cung cấp những kiến
thức cơ bản cho người dân để người dân hiểu rõ hơn về vấn đề này.
Thứ ba, công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức pháp luật của
người dân trong việc thực thi các quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà
nước thi hồi đất để GPMB chỉ thực sự hiệu quả khi được thực hiện thường xuyên
liên tục. Vì vậy, các địa phương tiếp tục thực hiện hoạt động tuyên truyền chính
sách, pháp luật về bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi nhà nước thu hồi đất để GPMB
cho người dân một cách thường xuyên, liên tục và tập trung truyền thông để người
dân hiểu và tạo ra sự đồng thuận của người dân trong quá trình triển khai thực hiện.
Thứ tư, các địa phương cần duy trì thường xuyên và có sự kiểm tra đôn đốc
trong việc thực hiện công tác tuyên truyền và phổ biến giáo dục pháp luật nâng cao
nhận thức người dân về thực thi các quy định bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi
Nhà nước thu hồi đất để GPMB nhằm phát hiện những sai sót để kịp thời uốn nắn
sửa chữa. Đồng thời có những biện pháp cụ thể để động viên khen thưởng kịp thời
những đơn vị thực hiện tốt việc giáo dục và phổ biến pháp luật về bồi thường, hỗ trợ
tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất để GPMB.
Tóm lại, xuất phát từ lý luận cũng như các quy định hiện hiện hành và thực
tiễn đã đề cập ở hai chương trước, nội dung của chương 3 chủ yếu đề cập tới những
kiến nghị nhằm hoàn thiện hoàn thiện các quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định
cư khi Nhà nước thu hồi đất, kiến nghị về tổ chức thực hiện pháp luật về bồi
thường khi nhà nước thu hồi đất để giải phóng mặt bằng và các kiến nghị về bổ trợ,
tuyên truyền, giáo dục nhận thức pháp luật. Các kiến nghị được đề xuất ở chương
này nhằm đảm bảo được quyền, lợi ích hợp pháp cho các đối tượng bị thu hồi đất,
cho Nhà nước cũng như chủ đầu tư khi tiến hành bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi
Nhà nước thu hồi đất. Khi các đối tượng có đất thu hồi có được sự đền bù thỏa đáng
sẽ giúp giảm thiểu tình trạng khiếu nại, khiếu kiện liên quan tới vấn đề thu hồi đất,
72
cũng như không có các phản ứng tiêu cực khi bị cưỡng chế thu hồi đất. Theo đó,
Nhà nước và các nhà đầu tư cũng sẽ thuận lợi hơn trong việc GPMB để thực hiện
các dự án. Dẫn tới việc mục tiêu phát triển kinh tế- xã hội của Nhà nước cũng như
mục tiêu lợi nhuận của các nhà đầu tư cũng đạt được dễ dàng hơn.
73
KẾT LUẬN
Nước ta vốn là một nước nông nghiệp do đó đất đai là nguồn tài nguyên vô
cùng quý báu với người dân. Hơn thế nữa, những năm gần đây để hòa nhập với thế
giới, tiến trình công nghiệp hóa hiện đại hóa cũng được thúc đẩy không ngừng. Đất
nông nghiệp, đất ở của người dân bị thu hồi để phục vụ cho việc xây dựng các công
trình vì mục tiêu phát triển lâu dài của đất nước. Thực tiễn cho thấy việc bồi thường
cho người sử dụng đất khi bị Nhà nước thu hồi đất có rất nhiều bất cập, chính vì vậy
số đơn khiếu nại, tố cáo về vấn đề này không ngừng gia tăng. Do đó, đòi hỏi cấp
bách và thiết thực hoàn thiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà
nước thu hồi đất là vô cùng cần thiết.
Nhận thức được tính phức tạp và cấp thiết của đề tài, luận văn đã trình bày
một số vấn đề lí luận về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất qua việc làm rõ khái
niệm, sự cần thiết về thu hồi đất, bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất; lịch sử hình
thành và phát triển pháp luật về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi nhà nước thu
hồi đất; so sánh giữa những quy định của LĐĐ năm 2013 và LĐĐ năm 2003 để từ
đó làm nổi bật lên những thay đổi trong các quy định của Nhà nước về vấn đề thu
hồi đất, bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất. Bên cạnh đó, chỉ ra thực trạng áp
dụng các quy định pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất trong thực tiễn
tại tỉnh Ninh Bình thông qua 2 dự án đã nêu tại chương 2. Qua đây, tác giả phân
tích, đánh giá những ưu điểm cũng như hạn chế còn tồn tại khi áp dụng các quy
định về pháp luật bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất vào đời sống thực tiễn. Để từ
đó, tác giả cũng đề xuất một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả
áp dụng pháp luật bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất để giải
phóng mặt bằng. Tác giả hi vọng những kiến nghị này sẽ góp phần nhỏ bé vào việc
hoàn thiện các quy định của pháp luật cũng như giải quyết được những vướng mắc
trong thực tiễn thi hành pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất.
.
74
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hiến pháp năm 1959 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngày 31
tháng 12 năm 1959;
2. Hiến pháp năm 1980 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngày 18
tháng 12 năm 1980;
3. Hiến pháp năm 1992 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngày 15
tháng 4 năm 1992;
4. Hiến pháp năm 2013 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngày 28
tháng 11 năm 2013;
5. Luật đất đai số 24-L/CTN ngày ngày 14 tháng 7 năm 1993;
6. Luật đất đai số 13/2003/QH11 ngày 26 tháng 11 năm 2003;
7. Luật đất đai số 45/2013/QH13 ngày 29 tháng 11 năm 2013;
8. Luật Đất đai số 03/LCT/HĐNN ngày 08/01/1988;
9. Luật trưng dụng, trưng mua tài sản số 15/2008/QH12 ngày 03 tháng 06 năm
2008;
10. Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15 tháng 5 năm 2014 của Chính phủ quy
định chi tiết thi hành một số điều của Luật Đất đai năm 2013;
11. Nghị định số 44/2014/NĐ-CP ngày 15 tháng 5 năm 2014 của Chính phủ quy
định về giá đất;
12. Nghị định số 47/2014/NĐ-CP ngày 15 tháng 5 năm 2014 của Chính phủ quy
định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất;
13. Nghị định số 44/2014/NĐ-CP ngày 15 tháng 5 năm 2014 của Chính phủ;
14. Thông tư số 30/2014/TT-BTNMT ngày 02 tháng 6 năm 2014 của Bộ Tài
nguyên và Môi trường quy định về hồ sơ giao đất, cho thuê đất, chuyển mục
đích sử dụng đất, thu hồi đất;
15. Thông tư số 36/2014/TT-BTNMT ngày 30 tháng 6 năm 2014 của Bộ Tài
nguyên và Môi trường quy định chi tiết phương pháp định giá đất; xây dựng,
điều chỉnh bảng giá đất; định giá đất cụ thể và tư vấn xác định giá đất;
75
16. Thông tư số 02/2015/TT-BTNMT ngày 27 tháng 01 năm 2015 của Bộ Tài
nguyên và Môi trường quy định chi tiết một số điều của Nghị định số
43/2014/NĐ-CP;
17. Quyết định số 953/ QĐ-UBND ngày 15 tháng 09 năm 2015 phê duyệt báo
cáo kinh tế- kỹ thuật công trình xây dựng cơ sở hạ tầng khu tái định cư phục
vụ GPMB dự án tuyến đường kết nối cao tốc Cầu giẽ - Ninh bình với quốc lộ
1A tại xã Ninh Phúc, thành phố Ninh bình;
18. Quyết định số 26/2014/QĐ-UBND ngày 19 tháng 9 năm 2014 của UBND
tỉnh Ninh Bình về việc ban hành quy định một số chính sách bồi thường, hỗ
trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn tỉnh Ninh Bình;
19. Quyết định số 37/2014/QĐ-UBND ngày 26 tháng 12 năm 2014 của UBND
tỉnh Ninh Bình về việc ban hành bảng giá các loại đất giai đoạn 2015-2019
trên địa bàn tỉnh Ninh Bình;
20. Quyết định số 09/2016/QĐ-UBND ngày 13 tháng 04 năm 2016 về việc sửa
dổi bổ sung một số Điều tại bản quy định một số chính sách bồi thường, hỗ
trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn tỉnh Ninh Bình ban
hành kèm theo quyết định số 26/2014/QĐ-UBND ngày 19/09/2014 của
UBND tỉnh Ninh Bình;
21. Báo cáo số 70 /BC- UBND ngày 22 tháng 3 năm 2016 về tiến độ thực hiện
GPMB tuyến kết nối Cao tốc Cầu Giẽ -Ninh Bình với Quốc lộ 1A, đoạn qua
huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình đến ngày 22/03./2016;
22. Báo cáo số 173/BC-UBND của UBND huyện Hoa Lư ngày 15 tháng 9 năm
2015 về tình hình triển khai công tác GPMB thực hiện Dự án thành phần đầu
tư xây dựng tuyến đường kết nối giữa đường cao tốc cầu Giẽ - Ninh Bình
với quốc lộ 1 (giai đoạn 2) trên địa bàn xã Ninh An, huyện Hoa Lư đến ngày
14/9/2015;
23. Báo cáo số 70 /BC- UBND ngày 22 tháng 3 năm 2016 về tiến độ thực hiện
GPMB tuyến kết nối Cao tốc Cầu Giẽ -Ninh Bình với Quốc lộ 1A, đoạn qua
huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình đến ngày 22/03/2016;
76
24. Công văn số 1258/UBND-CT về việc thực hiện công tác GPMB dự án xây
dựng tuyến đường kết nối giữa đường cao tốc cầu Giẽ- Ninh bình với Quốc
lộ 1 (giai đoạn 2);
25. Tạp chí của Tổng cục Thống kê .ISNN 0866-7322. Số 12/2014 (493). Ra
hàng tháng. Năm thứ 53;
26. Bộ Tài nguyên và Môi trường (2012), Báo cáo đánh giá tác động LĐĐ( sửa
đổi), Hà Nội, tháng 8/2012, Tr.4;
27. Nguyễn Như Ý (chủ biên ), Từ điển Tiếng Việt thông dụng. NXB Giáo dục,
Hà Nội 2001, tr79;
28. Phạm Thu Thủy (2014), “Bồi thường hỗ trợ tái định cư khi nhà nước thu hồi
đất theo LĐĐ 2013”, Tạp chí luật học, đặc san 11/ 2014, Tr.54;
29. Lê Hoàng Dương (2009), Luận văn cử nhân luật học, Các vấn đề pháp lý về
tái định cư khi nhà nước thu hồi đất thực hiện các dự án đầu tư , Đại học
luật Hà Nội, Tr.4;
30. TS.Doãn Hồng Nhung (Chủ biên) CN. Nguyễn Ngọc Hà (2014), Pháp Luật
về định giá đất trong bồi thường GPMB ở Việt Nam, nhà xuất bản tư pháp
Hà Nội, Tr.83;
31. Phạm Thu Thủy (2014), Luận án TS Luật học, Pháp luật về bồi thường khi
nhà nước thu hồi đất nông nghiệp ở Việt Nam, Đại học Luật Hà Nội, Tr.60;
32. Phạm Thu Thủy (2014), “Bồi thường hỗ trợ tái định cư khi Nhà nước thu hồi
đất theo LĐĐ 2013”, Tạp chí luật học, đặc san 11/ 2014, Tr.57;
33. Lê Thị Yến (2010), Luận văn thạc sĩ, Pháp luật về bồi thường khi Nhà nước
thu hồi đất qua thực tiễn áp dụng tại địa bàn quận Tây Hồ, thành phố Hà
Nội, Khoa luật- ĐHQGHN;
34. Hoàng Thị Thu Trang (2012); Pháp luật về bồi thường khi nhà nước thu hồi
đất nông nghiệp của hộ gia đình, cá nhân và thực tiễn áp dụng tại Nghệ An,
Đại học Luật Hà Nội;
35. Trần Thị Phương Liên (2013), Pháp luật về bồi thường, hỗ trợ đối với hộ gia
đình, cá nhân khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp- thực trạng và hướng
hoàn thiện, Đại học Luật Hà Nội;
77
36. Vấn đề lý luận xung quanh khái niệm bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất,
TS. Nguyễn Quang Tuyến , Tạp chí luật học số 1/2009;
37. Vấn đề thu hồi đất và bồi thường khi thu hồi đất trong Dự thảo LĐĐ (sửa đổi, bổ
sung) của tác giả TS.Nguyễn Quang Tuyến,Tạp chí Luật học số 12/2008;
38. Pháp luật về bồi thường tái định cư khi nhà nước thu hồi đất của Singapore
và Trung quốc- những gợi mở cho Việt Nam trong hoàn thiện pháp luật về
bồi thường, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất của đồng tác giả TS.Nguyễn
Quang Tuyến và ThS.Nguyễn Ngọc Minh, Tạp chí Luật học số 10/2010;
39. Pháp luật về trình tự, thủ tục thu hồi đất, bồi thường và giải phóng mặt bằng
và những vướng mắc nảy sinh trong quá trình áp dụng của tác giả Nguyễn
Thị Nga, Tạp chí Luật học số 11/2010;
40. Cơ cấu dân số và lực lượng lao động tại Việt Nam.
http://mic.gov.vn/daotaonghe/thongke/Trang/C%C6%A1c%E1%BA%A5ud%C
3%A2ns%E1%BB%91v%C3%A0l%E1%BB%B1cl%C6%B0%E1%BB%A3n
glao%C4%91%E1%BB%99ngt%E1%BA%A1iVi%E1%BB%87tNam.aspx
41. http://hanoimoi.com.vn/Tin-tuc/Chinh-tri/724777/can-quyet-liet-thao-go-
tinh-trang-khieu-nai-to-cao
42. http://tnmtcaobang.gov.vn/index.php/vi/news/Quan-ly-dat-dai/Nhung-noi-
dung-doi-moi-quan-trong-cua-Luat-dat-dai-nam-2013-2010/
43. http://www.doisongphapluat.com/phap-luat/tinh-huong-phap-luat/thu-tuc-
thu-hoi-dat-va-quy-trinh-boi-thuong-tai-dinh-cu-a106597.html
44. https://luatminhgia.com.vn/kien-thuc-dat-dai/ho-tro-va-tai-dinh-cu-khi-nha-
nuoc-thu-hoi-dat-dai.aspx
45. https://vi.wikipedia.org/wiki/Ninh_B%C3%ACnh#V.E1.BB.8B_tr.C3.AD –
Vị trí địa lí, địa hình, hành chính của Tỉnh Ninh Bình.
46. http://baoninhbinh.org.vn/nam-2015-chi-so-pci-cua-ninh-binh-xep-hang-
3063-tinh-thanh-pho-20160331030247909p2c20.htm
47. http://nbtv.vn/tin-tuc-su-kien/ninh-binh-24h/thoi-su-chinh-tri/201601/tong-
thu-ngan-sach-nam-2015-tren-dia-ban-tinh-ninh-binh-dat-tren-4368-ty-dong-
656889
78
48. http://baoninhbinh.org.vn/bao-cao-tinh-hinh-ktxh-nam-2014-muc-tieu-va-
cac-nhiem-vu-chu-yeu-cua-nam-2015-20141216084442597p12c92.htm
49. http://en.baoninhbinh.org.vn/yen-khanh-thyc-hien-tot-quy-che-dan-chu-o-co-
so-20160125101852396p12c18.htm
50. http://tuoitre.vn/tin/tuoi-tre-cuoi-tuan/20131210/luat-dat-dai-2013-nhung-
viec-can-lam-tiep/583999.html
79