ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

KHOA LUẬT

--------o0o-------

NGUYỄN THỊ HUYỀN TRANG

PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƯỜNG

KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT ĐỂ GIẢI PHÓNG MẶT BẰNG

QUA THỰC TIỄN TẠI TỈNH NINH BÌNH

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC HỆ CHÍNH QUY

Ngành: Luật kinh doanh

HÀ NỘI - 2016

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

KHOA LUẬT

--------o0o-------

NGUYỄN THỊ HUYỀN TRANG

PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƯỜNG

KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT ĐỂ GIẢI PHÓNG MẶT BẰNG

QUA THỰC TIỄN TẠI TỈNH NINH BÌNH

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC HỆ CHÍNH QUY

Ngành: Luật kinh doanh

Cán bộ hướng dẫn: PGS.TS. Doãn Hồng Nhung

Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Huyền Trang

Lớp: K57-LKD

Khóa: QHL-2012

HÀ NỘI – 2016

LỜI CAM ĐOAN

Em xin cam đoan rằng toàn bộ những nội dung và số liệu trong luận văn này

do em tự nghiên cứu, khảo sát và thực hiện.

Sinh viên

Nguyễn Thị Huyền Trang

LỜI CẢM ƠN

Để có thể hoàn thành khóa luận với đề tài “Pháp luật về bồi thường khi Nhà

nước thu hồi đất để giải phóng mặt bằng qua thực tiễn tại Tỉnh Ninh Bình”, bên

cạnh những nỗ lực của bản thân, em đã nhận được rất nhiều sự giúp đỡ, động viên,

khích lệ, hướng dẫn của các thầy, cô giáo, gia đình và bạn bè.

Trong 04 năm học tập và rèn luyện tại Khoa Luật, em đã nhận được sự chỉ

bảo và giảng dạy tận tình của các thầy cô, đặc biệt là các thầy cô bộ môn Luật Kinh

Doanh. Chính các thầy cô đã cho chúng em những kiến thức nền tảng và kiến thức

chuyên môn trong suốt thời gian học ở trường.

Em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến PGS.TS. Doãn Hồng Nhung, người đã

dành rất nhiều thời gian và tâm huyết hướng dẫn, sửa chữa giúp đỡ em hoàn thành

tốt khóa luận tốt nghiệp của mình.

Cuối cùng, em xin gửi lời cảm ơn đến gia đình, tập thể lớp k57LKD và

những người bạn thân đã luôn bên cạnh động viên, khích lệ, giúp đỡ em trong quá

trình học tập cũng như hoàn thành khóa luận tốt nghiệp này.

Hà Nội, tháng 05 năm 2016

Sinh viên

Nguyễn Thị Huyền Trang

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

LĐĐ : Luật Đất đai

GPMB : Giải phóng mặt bằng

BTGPMB : Bồi thường giải phóng mặt bằng

UBND : Ủy ban nhân dân

MTTQVN : Mặt trận tổ quốc Việt Nam

HĐND : Hội đồng nhân dân

MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN

LỜI CẢM ƠN

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 1

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƯỜNG KHI NHÀ

NƯỚC THU HỒI ĐẤT ......................................................................................... 6

1.1. Khái niệm thu hồi đất, bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất ...................... 6

1.1.1. Khái niệm thu hồi đất và các trường hợp thu hồi đất ...................................... 6

1.1.2. Khái niệm bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất............................................. 9

1.2. Hệ quả của hoạt động thu hồi đất. ............................................................... 11

1.2.1. Hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất ................................................................... 11

1.2.2. Tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất ........................................................... 12

1.3. Phân biệt trưng dụng đất và thu hồi đất. .................................................... 13

1.4. Thẩm quyền thu hồi đất ............................................................................... 14

1.5. Khái quát chung về giải phóng mặt bằng .................................................... 15

1.5.1. Khái niệm bồi thường giải phóng mặt bằng.................................................. 15

1.5.2. Sự cần thiết phải bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất để giải phóng mặt bằng ... 16

1.6. Lịch sử hình thành và phát triển pháp luật về bồi thường khi Nhà nước

thu hồi đất ............................................................................................................ 17

1.6.1. Giai đoạn trước năm 1993 ............................................................................ 17

1.6.2. Giai đoạn từ năm 1993 đến năm 2003 .......................................................... 18

1.6.3. Giai đoạn từ năm 2003 đến năm 2013 .......................................................... 20

1.6.4. Giai đoạn từ năm 2013 đến nay. ................................................................... 22

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƯỜNG KHI NHÀ

NƯỚC THU HỒI ĐẤT VÀ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƯỜNG KHI

NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT QUA THỰC TIỄN GIẢI PHÓNG MẶT BẰNG

TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH NINH BÌNH ................................................................. 26

2.1. Pháp luật thực định điều chỉnh hoạt động bồi thường hỗ trợ tái định cư

khi Nhà nước thu hồi đất .................................................................................... 26

2.1.1. Trình tự thủ tục thực hiện việc bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất ............ 26

2.1.2. Qui đinh về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất ........................................ 27

2.1.3. Qui định về hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất ................................................ 41

2.1.4. Qui định về tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất. ........................................ 42

2.1.5. Qui định các trường hợp đặc biệt về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà

nước thu hồi đất ..................................................................................................... 44

2.2. Thực tiễn thi hành pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà

nước thu hồi đất trên địa bàn Tỉnh Ninh Bình. ................................................. 44

2.2.1. Khái quát về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của tỉnh Ninh Bình. ........... 44

2.2.2. Nội dung các quy định hiện hành của Ủy ban nhân dân tỉnh Ninh Bình về tổ

chức thi hành pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất. ........................... 46

2.2.3. Đánh giá thực tiễn thi hành pháp luật bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi Nhà

nước thu hồi đất trên địa bàn Tỉnh Ninh Bình. ....................................................... 50

CHƯƠNG 3: HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÊ BỒI THƯỜNG KHI NHÀ

NƯỚC THU HỒI ĐẤT ĐỂ GIẢI PHÓNG MẶT BẰNG .................................. 61

3.1. Sự cần thiết phải bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất để giải phóng

mặt bằng .............................................................................................................. 61

3.2. Phương hướng hoàn thiện pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi

đất để giải phóng mặt bằng. ................................................................................ 61

3.3. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật bồi thường khi Nhà nước thu hồi

đất để giải phóng mặt bằng.. ............................................................................... 64

3.3.1. Kiến nghị hoàn thiện quy phạm pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu

hồi đất để giải phóng mặt bằng .............................................................................. 65

3.3.2. Kiến nghị hoàn thiện quy phạm pháp luật về hỗ trợ, tái định cư khi Nhà

nước thu hồi đất để giải phóng mặt bằng ............................................................... 68

3.3.3. Kiến nghị về tổ chức thực hiện pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi

đất để giải phóng mặt bằng. ................................................................................... 69

3.3.4. Giải pháp về bổ trợ, tuyên truyền, giáo dục nhận thức pháp luật nâng cao hiệu

quả bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất. .............................................................. 71

KẾT LUẬN .......................................................................................................... 74

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................ 75

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Đất đai là nguồn tài nguyên thiên nhiên vô cùng quý giá, đất đai là tư liệu sản xuất

không gì có thể thay thế được trong sản xuất nông lâm nghiệp, là thành phần quan trọng

hàng đầu của môi trường sống, là nơi sinh sống của cộng đồng dân cư, xây dựng cơ sở

hạ tầng kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh - quốc phòng của đất nước. Nếu sử dụng đất đai

hợp lý giúp đất nước ngày càng phát triển và giàu mạnh hơn. Hơn thế nữa trong bối cảnh

dân số nước ta tăng nhanh chóng, tính đến 1/4/2011, dân số Việt Nam là 87.610.947 người, trong đó dân số thành thị chiếm 30,6%, dân số nông thôn chiếm 69,4%1. Từ đó có

thể thấy dân số nông thôn chiếm phần lớn dân số nước ta. Do đó đất nông nghiệp lại

càng trở nên quan trọng với người dân, đó là nguồn sống, nguồn việc làm, là cái duy trì

phát triển sự sống của mỗi người, mỗi gia đình.

Quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa ở Việt Nam đã được thực hiện hơn hai

thập kỷ qua, nó đặc biệt diễn ra mạnh mẽ ở những năm gần đây. Tốc độ đô thị hóa

của Việt Nam diễn ra mạnh mẽ trong suốt 15 năm, từ mức 21,7% năm 1999 và đến nay đã đạt 33,1% (bình quân mỗi năm tăng gần 1 điểm phần trăm)2.Trong quá trình

đó chúng ta đã và đang triển khai nhiều dự án với các mục tiêu phát triển các khu

kinh tế, khu công nghiệp, các công trình hạ tầng kinh tế - xã hội, hạ tầng cho các

khu đô thị… Trong đó, công tác thu hồi đất, bồi thường GPMB để thực hiện các

công trình là điều kiện ban đầu và tiên quyết để triển khai thực hiện các dự án.

Nhưng trên thực tế việc chuyển quỹ đất vào triển khai các dự án không đơn giản, vì

nó tác động tới mọi mặt đời sống kinh tế, xã hội và cộng đồng dân cư, ảnh hưởng

trực tiếp đến lợi ích của Nhà nước, của chủ đầu tư, đặc biệt với hộ gia đình, cá nhân

có đất bị thu hồi trên phạm vi cả nước, đến từng địa phương, cơ sở. Đây là một

1 Cơ cấu dân số và lực lượng lao động tại Việt Nam.

http://mic.gov.vn/daotaonghe/thongke/Trang/C%C6%A1c%E1%BA%A5ud%C3%A2ns%E1%BB%91v%C3%A0l%E1

%BB%B1cl%C6%B0%E1%BB%A3nglao%C4%91%E1%BB%99ngt%E1%BA%A1iVi%E1%BB%87tNam.aspx

2 Tạp chí của Tổng cục Thống kê .ISNN 0866-7322. Số 12/2014 (493). Ra hàng tháng. Năm thứ 53

thách thức rất lớn đối với việc triển khai các dự án hiện nay, nó đòi hỏi chúng ta

1

phải giải quyết hàng loạt các vấn đề liên quan đến người dân mất đất như: đời sống,

việc làm của người dân bị thu hồi đất và giá trị phần đất đai bị thu hồi của người

dân phải được xác định như thế nào để đền bù thỏa đáng những thiệt hại mà họ phải

gánh chịu, giải quyết ổn thỏa tâm trạng của người dân sau khi bị mất đất cũng là

những vấn đề vô cùng quan trọng.

Đất đai luôn là một vấn đề nóng và nhận được nhiều sự quan tâm đặc biệt của

Đảng, Nhà nước và của toàn xã hội. Kể từ khi Luật Đất đai đầu tiên được ban hành vào

năm 1987 đến nay, pháp luật đất đai liên tục được sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện cho

phù hợp với tình hình phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam. Pháp luật đất đai đã

từng bước được hoàn thiện theo hướng tiếp cận cơ chế thị trường, đưa đất đai trở thành nội lực, nguồn vốn để phát triển đất nước3. Tuy nhiên, tình hình tranh chấp, khiếu nại,

tố cáo về đất đai ngày càng gay gắt và kéo dài. Tổng thanh tra Chính phủ Huỳnh Phong

Tranh cho biết, năm 2014 cả nước đã phát sinh hơn 81.000 đơn khiếu nại tố cáo. Mặc

dù số lượng đơn giảm 71%, vụ việc giảm 9,8%, nhưng số vụ khiếu nại phức tạp đông

người lại tăng 5,2%. Trong 81.000 đơn khiếu nại tố cáo đó, khiếu nại về đất đai chiếm

96,27%. Cụ thể, khiếu nại xuất phát từ việc bồi thường đất hỗ trợ tái định cư, GPMB phục vụ các dự án phát triển xã hội chiếm 50% 4.

Với những lí do trên, tác giả chọn đề tài “Pháp luật về bồi thường khi nhà

nước thu hồi đất để giải phóng mặt bằng qua thực tiễn tại Tỉnh Ninh Bình” cho đề

tài luận văn cử nhân luật học của mình. Tác giả hi vọng với những nghiên cứu và

phân tích của mình góp phần nhỏ vào việc hoàn thiện hơn nữa những qui định của

pháp luật về công tác bồi thường giải phóng mặt bằng.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài.

Bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất là vấn đề quan trọng, nó có tác động

không nhỏ đến quyền lợi của người sử dụng đất khi có đất bị thu hồi, chính vì vậy

3 Bộ Tài nguyên và Môi trường (2012), Báo cáo đánh giá tác động LĐĐ( sửa đổi), Hà Nội, tháng

8/2012, Tr.4

4 http://hanoimoi.com.vn/Tin-tuc/Chinh-tri/724777/can-quyet-liet-thao-go-tinh-trang-khieu-nai-to-cao

trên thực tế đã nảy sinh rất nhiều vụ khiếu kiện liên quan đến vấn đề này. Trong

2

giới nghiên cứu luật pháp, đây cũng là vấn đề được nhiều người quan tâm nghiên

cứu. Điều này thể hiện ở việc có không ít các bài viết, công trình nghiên cứu về bồi

thường khi Nhà nước thu hồi đất. Có thể kể đến một số Luận văn thạc sĩ tiêu biểu

như: pháp luật về bồi thường khi nhà nước thu hồi đất qua thực tiễn áp dụng tại địa

bàn quận Tây Hồ, thành phố Hà Nội, của tác giả Lê Thị Yến năm 2010, pháp luật về

bồi thường khi nhà nước thu hồi đất nông nghiệp của hộ gia đình, cá nhân và thực

tiễn áp dụng tại Nghệ An, của tác giả Hoàng Thị Thu Trang năm 2012; pháp luật về

bồi thường, hỗ trợ đối với hộ gia đình, cá nhân khi nhà nước thu hồi đất nông

nghiệp- thực trạng và hướng hoàn thiện của tác giả Trần Thị Phương Liên năm

2013. Ngoài ra còn có nhiều bài viết trong các tạp chí như: vấn đề lý luận xung

quanh khái niệm bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất, TS. Nguyễn Quang Tuyến,

Tạp chí luật học số 1/2009; vấn đề thu hồi đất và bồi thường khi thu hồi đất trong

Dự thảo LĐĐ (sửa đổi, bổ sung) của tác giả TS. Nguyễn Quang Tuyến, Tạp chí

Luật học số 12/2008; pháp luật về bồi thường tái định cư khi nhà nước thu hồi đất

của Singapore và Trung quốc- những gợi mở cho Việt Nam trong hoàn thiện pháp

luật về bồi thường, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất của đồng tác giả TS.

Nguyễn Quang Tuyến và ThS. Nguyễn Ngọc Minh, Tạp chí Luật học số 10/2010;

pháp luật về trình tự, thủ tục thu hồi đất, bồi thường và giải phóng mặt bằng và

những vướng mắc nảy sinh trong quá trình áp dụng của tác giả Nguyễn Thị Nga,

Tạp chí Luật học số 11/2010; bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi Nhà nước thu hồi

đất theo luật đất đai năm 2013 của tác giả Phạm Thu Thủy, tạp chí luật học đặc san

11/2014; dự thảo Luật Đất đai năm 2013 với các quy định về thu hồi đất của tái giả

ThS. Lê Ngọc Thạnh, Tạp chí nghiên cứu lập pháp điện tử…

Các bài viết, công trình khoa học trên đây đã nghiên cứu vấn đề bồi

thường khi Nhà nước thu hồi đất ở mức độ khác nhau. Có công trình, bài viết đã

nghiên cứu một cách có hệ thống, toàn diện về vấn đề bồi thường khi Nhà nước thu

hồi đất; có những công trình , bài viết lại đi sâu nghiên cứu về từng vấn đề cụ thể

như: phương thức bồi thường, trình tự thủ tục thu hồi đất và bồi thường, cơ chế giải

quyết tranh chấp, khiếu nại liên quan đến vấn đề này; có những công trình còn

nghiên cứu pháp luật bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất ở nước ngoài để rút ra

3

bài học kinh nghiệm cho Việt Nam …Tuy nhiên đến nay, chưa có công trình nào

tập trung nghiên cứu tìm hiểu về thực trạng pháp luật bồi thường khi nhà nước thu

hồi đất để GPMB sau khi LĐĐ năm 2013 chính thức có hiệu lực tại địa bàn tỉnh

Ninh Bình. Vì vậy, tác giả muốn đi sâu nghiên cứu pháp luật về bồi thường khi Nhà

nước thu hồi đất để GPMB và thực tiễn áp dụng ở địa bàn Tỉnh Ninh Bình sau khi

LĐĐ năm 2013 chính thức có hiệu lực; để từ đó thấy rõ hơn sự phù hợp, không phù

hợp trong quy định của pháp luật với thực tiễn cũng như đánh giá được quá trình

thực thi pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất. Qua đây, tác giả đưa ra

một số đề xuất góp phần hoàn thiện quy định của pháp luật và góp phần hoàn thiện

quá trình thực thi pháp luật trong thực tiễn.

3. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài

Một là: Nghiên cứu để làm rõ các quy định của pháp luật về bồi thường, hỗ

trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất để GPMB và thực tiến áp dụng ở địa bàn

Tỉnh Ninh Bình.

Hai là: Nghiên cứu để hệ thống hóa các quy định của pháp luật về bồi thường, hỗ

trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất để tìm ra những qui định cần sửa đổi để phù hợp

với thực tiễn triển khai công việc bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất.

Ba là: Nghiên cứu để tìm ra những nguyên nhân, hạn chế khi áp dụng pháp

luật hiện hành để đưa ra những giải pháp kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về

bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài

Đối tượng nghiên cứu của đề tài bao gồm:

- Các quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng về bồi thường khi Nhà

nước thu hồi đất.

- Các quy định của pháp LĐĐ hiện hành về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất

- Các nghị định, thông tư của Nhà nước ban hành về hướng dẫn thực hiện

pháp luật bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất để GPMB và thực tiễn áp dụng ở địa

bàn Tỉnh Ninh Bình.

Phạm vi nghiên cứu của đề tài bao gồm:

Nghiên cứu đánh giá nội dung những quy định của LĐĐ 2013 và các văn

bản hướng dẫn thi hành về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất và quá trình áp

4

dụng pháp luật để GPMB ở địa bàn Tỉnh Ninh Bình, đặt trong mối tương quan so

sánh với LĐĐ năm 2003 và các văn bản hướng dẫn LĐĐ năm 2003 trước đây.

5. Phương pháp nghiên cứu của đề tài

Trong quá trình thực hiện đề tài nghiên cứu, tác giả sử dụng kết hợp

nhiều phương pháp nghiên cứu trong đó chủ yếu là các phương pháp như:

- Phương pháp phân tích: Tác giả áp dụng trong việc phân tích các khái niệm, các

điều khoản của pháp luật về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư như làm rõ khái niệm về

bồi thường, hỗ trợ, tái định cư; thẩm quyền thu hồi đất; các nguyên tắc thu hồi đất; các

nhân tố ảnh hưởng đến BTGPMB; phân tích các thuận lợi khó khăn trong BTGPMB…

- Phương pháp tổng hợp: Tác giả áp dụng trong việc tổng hợp các số liệu

trong các quyết định của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền liên quan đến vấn đề bồi

thường, GPMB như diện tích đất cần thu hồi phục vụ dự án; số tiền bồi thường về

đất, về tài sản; số tiền được tái định cư; diện tích đất giao tái định cư. Thông qua

việc tổng hợp các số liệu, con số chúng ta dễ dàng hiểu và tiếp cận luận văn hơn.

- Phương pháp bình luận: Trong quá trình nghiên cứu tác giả đưa ra ý kiến,

quan điểm của mình về các quy định của pháp luật liên quan đến bồi thường, giải

phóng mặt bằng. Đó là quan điểm về giá đất; thời hạn thông báo thu hồi đất; hoàn

thiện tổ chức phát triển quĩ đất; trưng dụng đất; các chính sách hỗ trợ di chuyển, hỗ

trợ ổn định đời sống sản xuất…

- Phương pháp so sánh: Tác giả áp dụng việc so sánh giữa các quy định của

LĐĐ năm 2003 và LĐĐ năm 2013.

6. Kết cấu của luận văn

Ngoài lời mở đầu, phần kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của

luận văn gồm 3 chương:

Chương 1 : Cơ sở lí luận pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất

để giải phóng mặt bằng.

Chương 2 : Thực trạng pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất và

áp dụng pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất qua thực tiễn giải phóng

mặt bằng trên địa bàn Tỉnh Ninh Bình.

Chương 3: Hoàn thiện pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất để

giải phóng mặt bằng.

5

Chương 1

CƠ SỞ LÍ LUẬN PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƯỜNG KHI NHÀ NƯỚC THU

HỒI ĐẤT

1.1. Khái niệm thu hồi đất, bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất

1.1.1. Khái niệm thu hồi đất và các trường hợp thu hồi đất

1.1.1.1. Khái niệm thu hồi đất

Xây dựng khái niệm là yếu tố tiên quyết để tạo lập cơ sở lý luận trong khoa

học pháp lý. Do đó, khi nghiên cứu về pháp luật về bồi thường khi nhà nước thu hồi

đất để GPMB ở VN, trước hết, ta phải làm rõ khái niệm thế nào là thu hồi đất.

LĐĐ năm 2003 quy định: “Thu hồi đất là việc nhà nước ra quyết định hành

chính để thu lại quyền sử dụng đất hoặc thu lại đất đã giao cho tổ chức, UBND xã, phường, thị trấn quản lý”5

LĐĐ năm 2013 quy định về khái niệm thu hồi đất như sau: “Nhà nước thu hồi đất

là việc Nhà nước quyết định thu lại quyền sử dụng đất của người được Nhà nước trao quyền sử dụng đất hoặc thu lại đất của người sử dụng đất vi phạm pháp luật về đất đai”6

Từ những khái niệm trên, cho thấy thu hồi đất có những đặc điểm sau:

Thứ nhất, thu hồi đất là một trong những phương thức của Nhà nước để thực

hiện quyền đại diện chủ hữu về đất đai được pháp luật đất đai quy định. Nhà nước

không phải là chủ sở hữu đất đai mà chỉ là người đại diện chủ sở hữu toàn dân về

đất đai. Pháp luật qui định quyền đại diện chủ sở hữu đất đai của Nhà nước. Vì vậy

Nhà nước thực hiện việc thu hồi đất phải tuân theo các qui định của pháp luật.

Thứ hai, Thu hồi đất được thực hiện thông qua một quyết định hành chính

của cơ quan nhà nước có thẩm quyền có tên gọi là quyết định thu hồi đất, trong đó

xác định rõ chủ thể bị thu hồi, lý do bị thu hồi, mục đích thu hồi và diện tích đất bị

thu hồi. Quyết định này là căn cứ pháp lý chấm dứt quan hệ pháp luật đất đai giữa

5 Khoản 5 Điều 4 LĐĐ năm 2003 6 Khoản 11 Điều 23 LĐĐ năm 2013

Nhà nước và người sử dụng đất.

6

Thứ ba, thu hồi đất không chỉ chấm dứt quyền sử dụng đất của tổ chức, hộ

gia đình, cá nhân với một mảnh đất nhất định mà còn gây ra những hậu quả xã hội

như cuộc sống sinh hoạt và sản xuất của họ bị đảo lộn, rơi vào hoàn cảnh không có

nghề nghiệp hoặc không có chỗ ở.

Thứ tư, thu hồi đất xuất phát từ nhu cầu Nhà nước và xã hội như để sử dụng

vào mục đích quốc phòng, an ninh, phát triển kinh tế-xã hội, vì lợi ích quốc gia,

công cộng; hoặc để để xử lí các hành vi vi phạm pháp luật đất đai của người sử

dụng hay do hết thời hạn sử dụng đất, người sử dụng đất trả lại đất.

1.1.1.2. Các trường hợp thu hồi đất

Để thực hiện sự minh bạch trong thu hồi đất, các trường hợp thu hồi đất được

thể hiện cụ thể tại các điều từ Điều 61 tới Điều 65 LĐĐ năm 2013. So với LĐĐ

năm 2003, qui định các trường hợp thu hồi đất rõ ràng và cụ thể hơn rất nhiều. Khác

với cách thức liệt kê các trường hợp thu hồi đất của Điều 38 LĐĐ năm 2003, LĐĐ

năm 2013 qui định rõ thành 5 loại chính đó là: thu hồi đất để sử dụng vào mục đích

quốc phòng, an ninh; thu hồi đất để sử dụng vào mục đích lợi ích quốc gia, lợi ích

công cộng; thu hồi đất để thực hiện các dự án phát triển kinh tế, xã hội; thu hồi đất

do vi phạm pháp luật đất đai; thu hồi đất do chấm dứt việc sử dụng đất theo pháp

luật hoặc tự nguyện.

Thứ nhất, thu hồi đất do nhu cầu của nhà nước bao gồm các trường hợp:

Sử dụng đất vào mục đích quốc phòng, an ninh được qui định tại điều 61

LĐĐ năm 2013. Ta có thể thấy tại LĐĐ năm 2013 đã chuyển Khoản 1 Điều 89

LĐĐ năm 2003 thành 10 khoản của Điều 61 LĐĐ năm 2013 để làm rõ các trường

hợp Nhà nước thu hồi đất vào mục đích quốc phòng, an ninh.

Sử dụng đất vào mục đích lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng. Đây là

một điều mới của LĐĐ năm 2013, tuy nhiên nội dung của nó thì chỉ là cụ thể hóa

Khoản 1 Điều 38 của LĐĐ năm 2003 và luật hóa quy định của các Nghị định như:

Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29 tháng 10 năm 2004, Nghị định số

17/2006/NĐ-CP ngày 21 tháng 01 năm 2006, nghị định số 84/2004/NĐ-CP ngày 25

tháng 05 năm 2007 để làm rõ các trường hợp Nhà nước thu hồi đất để sử dụng vào

mục đích lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng.

7

Sử dụng đất để thực hiện các dự án phát triển kinh tế, xã hội được qui định

tại Điều 62 LĐĐ năm 2013. Điều luật này đã cụ thể hóa khoản 1 Điều 38 và khoản

1 Điều 40 của LĐĐ năm 2003 trên cơ sở luật hóa quy định của các Nghị định như:

Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29 tháng 10 năm 2004, nghị định số

17/2006/NĐ-CP ngày 21 tháng 01 năm 2006, nghị định số 84/2004/NĐ-CP ngày 25

tháng 05 năm 2007 để làm rõ các trường hợp Nhà nước thu hồi đất để sử dụng vào

mục đích phát triển kinh tế, xã hội. Đồng thời, các nhà làm luật cũng sửa đổi cụm từ

“thu hồi đất để sử dụng vào mục đích phát triển kinh tế” thành cụm từ “thu hồi đất để

thực hiện các dự án phát triển kinh tế, xã hội” để cụ thể và thu hẹp các trường hợp thu

hồi đất để sản xuất kinh doanh chuyển sang cơ chế thực hiện các quyền của người sử

dụng đất thông qua việc chuyển nhượng, cho thuê, góp vốn quy định tại Điều 73 của

LĐĐ năm 2013. Ngoài ra, LĐĐ năm 2013 còn bổ sung qui định về căn cứ thu hồi đất

để sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng, thực

hiện các dự án phát triển kinh tế, xã hội đó là: “Dự án thuộc các trường hợp thu hồi đất

quy định tại Điều 61 và Điều 62 của Luật này; kế hoạch sử dụng đất hàng năm của cấp

huyện đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt; tiến độ sử dụng đất thực hiện dự án”7. Quy định này đã giải quyết vướng mắc cơ bản trong thực tiễn thi hành

LĐĐ năm 2003 như: khó thực hiện thu hồi đất do làm mất quyền lợi của người sử

dụng đất trong khi chưa có quy định về căn cứ cụ thể đối với từng trường hợp thu hồi

đất, khắc phục tình trạng xử lý vụ việc cụ thể đã xảy ra tại địa phương có tính chất rất

phức tạp. Thực tế địa phương thu hồi đất khó xác định cho đúng với từng trường hợp

thu hồi đất cụ thể do có luật quy định có nhiều trường hợp thu hồi đất nhưng không rõ

để áp dụng cơ chế giải quyết cho phù hợp.

Thứ hai, Thu hồi đất do vi phạm LĐĐ được qui định tại Điều 64 LĐĐ năm

2013. Đây là một điều luật mới được tách ra từ các khoản 3, 4, 5, 6, 9, 11 và 12

Điều 38 LĐĐ năm 2003 và bổ sung 1 số nội dung sau:

Bổ sung trường hợp thu hồi đất không được chuyển nhượng, tặng cho mà cố

7 Điều 63 LĐĐ năm 2013

ý nhận chuyển nhượng, nhận tặng cho, nhằm bổ sung chế tài mạnh nhất là thu hồi

8

để xử lý vi phạm đang diễn ra phổ biến hiện nay như chuyển nhượng trái phép đất

trồng lúa để chờ quy hoạch, găm, thu gom đất nông nghiệp lập dự án đầu tư phi

nông nghiệp.

Bổ sung điều kiện thu hồi đất đối với trường hợp người sử dụng đất không

thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước thì chỉ thu hồi khi đã bị xử phạt mà cố ý không

chấp hành, nhằm đảm bảo tính khả thi, phù hợp với cách xử lý vi phạm hành chính

trong lĩnh vực đất đai hiện hành.

Bổ sung quy định người bị thu hồi đất trong các trường hợp quy định tại điểm

h khoản 1 Điều 64 LĐĐ năm 2013 không được trả lại tiền sử dụng đất, tiền thuê đất

đã nộp; không được thanh toán giá trị đầu tư vào đất còn lại và tài sản gắn liền với

đất nhằm đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật, buộc người sử dụng đất có trách

nhiệm sử dụng đất hiệu quả, ngăn chặn cơ chế xin cho trong việc giao đất.

Bổ sung quy định về việc thu hồi đất trong các trường hợp quy định tại

khoản 1 Điều 64 LĐĐ năm 2013 phải căn cứ vào các văn bản, quyết định của cơ

quan nhà nước có thẩm quyền xác định hành vi vi phạm pháp luật đất đai.

Thứ ba, do chấm dứt việc sử dụng đất theo pháp luật hoặc tự nguyện qui định tại

Điều 65 LĐĐ năm 2013. Trường hợp này nhà nước thu hồi đất không xuất phát từ

nhu cầu của nhà nước, cũng không do lỗi của người sử dụng đất mà chỉ đơn thuần là

các lí do: tổ chức được Nhà nước giao đất không thu tiền sử dụng đất mà bị giải thể,

phá sản; cá nhân sử dụng đất chết mà không có người thừa kế; người sử dụng đất tự

nguyện trả lại đất; đất được Nhà nước giao, cho thuê có thời hạn mà không được gia

hạn khi hết hạn.

1.1.2. Khái niệm bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất

Theo từ điển thông dụng thì bồi thường được hiểu là: “Đền bù những tổn hại đã gây ra”8. Riêng lĩnh vực đất đai, thuật ngữ “bồi thường” khi Nhà nước thu hồi

đất (trước đây là bồi thường thiệt hại hay đền bù thiệt hại) được ghi nhận từ rất sớm.

Tại nghị định 151/TTg ngày 14/01/1959 của Hội Đồng Chính phủ quy định Thể lệ

8 Nguyễn Như Ý (chủ biên ), Từ điển Tiếng Việt thông dụng. NXB Giáo dục, Hà Nội 2001, tr79

tạm thời về trưng dụng ruộng đất, tại Chương II đã đề cập đến việc “bồi thường cho

9

người có ruộng đất bị trưng dụng”. Tiếp theo, LĐĐ năm 1987 ra đời, cùng với đó là

sự ra đời của các văn bản hướng dẫn thi hành, lúc này thuật ngữ “bồi thường” đã bị

thay thế bởi thuật ngữ “đền bù”. Sau đó thuật ngữ “đền bù thiệt hại” lại được tiếp

tục sử dụng trong LĐĐ năm 1993, luật sửa đổi bổ sung một số điều của LĐĐ năm

1998 và các văn bản hướng dẫn thi hành. Tuy nhiên, thuật ngữ “bồi thường” lại

được sử dụng trở lại trong LĐĐ năm 2003. Theo Khoản 6 Điều 4 LĐĐ năm 2003

đưa ra cách giải thích khái niệm này như sau “Bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất

là việc nhà nước trả lại giá trị quyền sử dụng đất đối với diện tích đất bị thu hồi cho

người thu hồi đất”.

Từ các cách định nghĩa trên ta có thể thấy bồi thường khi nhà nước thu hồi

đất có những đặc điểm cơ bản sau:

Thứ nhất, về phạm vi bồi thường, bồi thường chỉ được thực hiện đối với

trường hợp nhà nước thu hồi đất vì mục đích quốc phòng an ninh, lợi ích quốc gia,

lợi ích công cộng và phát triển kinh tế. Bởi lẽ, các trường hợp thu hồi đất này, người

sử dụng đất không có lỗi mà do Nhà nước thu hồi để sử dụng cho mục đích chung

của xã hội. Do đó, Nhà nước phải bồi thường, bù đắp cho người sử dụng đất về

những thiệt hại do việc thu hồi đất gây ra.

Hơn thế nữa, ngoài việc bồi thường về đất và thiệt hại về tài sản trên đất, Nhà

nước còn thực hiện hỗ trợ ổn định đời sống, hỗ trợ di chuyển chỗ ở; giải quyết vấn đề

tái định cư; đào tạo chuyển đổi nghề, bố trí việc làm mới cho người sử dụng đất

Thứ hai, về đối tượng được bồi thường, bồi thường chỉ được thực hiện đối

với trường hợp nhà nước thu hồi đất vì mục đích quốc phòng an ninh, lợi ích quốc

gia, lợi ích công cộng và phát triển kinh tế, do đó những đối tượng được bồi thường

là: hộ gia đình, cá nhân, tổ chức trong nước, tổ chức nước ngoài, cộng đồng dân cư,

cơ sở tôn giáo, người Việt Nam định cư ở nước ngoài về đầu tư ở Việt Nam ... Theo

đó, người bị thu hồi đất được Nhà nước bồi thường khi được cấp Giấy chứng nhận

quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và các tài sản gắn liền với đất hoặc các diều

kiện khác mà pháp luật đất đai hiện hành qui định.

Thứ ba, về giá đất bồi thường, bồi thường khi nhà nước thu hồi đất phải tuân

thủ các quy định của pháp luật về điều kiện bồi thường, giá đất để tính bồi thường

10

được xác định theo mục đích sử dụng đất tại thời điểm có quyết định thu hồi đất.

Việc bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất khác với bồi thường thiệt hại ngoài hợp

đồng trong pháp luật dân sự dựa trên nguyên tắc tự nguyện thỏa thuận, căn cứ vào

thiệt hại thực tế và bồi thường trên cơ sở ngang giá. Có sự khác biệt như vậy bởi vì

đất đai thuộc sở hữu toàn dân mà Nhà nước là đại diện chủ sở hữu, bản thân người

sử dụng đất không phải là chủ sở hữu đối với từng diện tích đất riêng lẻ mà họ đang

sử dụng, họ chỉ được nhà nước trao quyền thông qua giao, cho thuê, công nhận

quyền sử dụng đất hoặc cho phép nhận chuyển quyền.

1.2. Hệ quả của hoạt động thu hồi đất.

1.2.1. Hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất

“Bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất đều là hậu quả pháp lí trực tiếp

do hành vi thu hồi đất của Nhà nước gây ra. Có thể cho rằng bồi thường là chế định

pháp luật độc lập và hệ quả tất yếu của việc thu hồi đất; còn hỗ trợ được xem như

biện pháp bổ sung và là sự “kéo dài” của quá trình bồi thường, đóng vai trò khoả lấp

khoảng trống mà các qui định về bồi thường chưa giải quyết được, nhằm bù đắp

một cách thỏa đáng những thiệt hại do bị Nhà nước thu hồi đất gây ra. Bởi vì, khi

Nhà nước thu hồi đất, mặc dù đối tượng bị thu hồi chỉ là một diện tích đất song thiệt

hại đối với người dân không chỉ nằm ở đó. Ngoài các thiệt hại hữu hình về giá trị

quyền sử dụng đất, công trình xây dựng, cây trồng vật nuôi còn các thiệt hại vô hình

khác như mất ổn định cuộc sống, mất chỗ ở, mất tư liệu sản xuất, phải học nghề mới, bị thiệt hại về tinh thần…9”.

Việc thu hồi đất gây ra vô số những hệ quả, nhất là đối với đời sống, sinh

hoạt, làm việc của nhân dân. Nước ta vốn là một nước nông nghiệp, “miếng cơm,

manh áo” của người nông dân đều trông chờ vào hạt lúa trên đồng, trông mong vào

từng tấc đất. Chính vì vậy, có rất nhiều người dân sau khi bị thu hồi đất, mặc dù đã

được bồi thường theo đúng chính sách của nhà nước. Tuy nhiên họ lại không biết

9 Phạm Thu Thủy (2014), “Bồi thường hỗ trợ tái định cư khi nhà nước thu hồi đất theo LĐĐ 2013”,

Tạp chí luật học, đặc san 11/ 2014, Tr.54.

tương lai họ làm gì để sinh sống vì cả đời họ chỉ biết làm ruộng, làm đồng. Nhằm

11

bù đắp những tổn thất và giúp đỡ những người bị thu hồi đất vượt qua khó khăn từ

việc thu hồi đất, nhanh chóng ổn định về đời sống sản xuất; Nhà nước đã qui định

và tổ chức thực hiện nhiều chính sách hỗ trợ cho người bị thu hồi đất. Theo Khoản

14 Điều 4 LĐĐ năm 2013 qui định: “Hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất là việc Nhà

nước trợ giúp cho người có đất bị thu hồi”.

1.2.2. Tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất

Tái định cư là một thuật ngữ sử dụng phổ biến trong sách, báo pháp lý ở

nước ta hiện nay, đặc biệt là trong các qui định của pháp luật đất đai về bồi thường,

hỗ trợ tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất. Tuy nhiên, LĐĐ năm 2013 và các văn

bản hướng dẫn thi hành lại không đưa khái niệm về tái định cư.

Theo Khoản 2 Điều 86 LĐĐ năm 2013: “Người có đất thu hồi được bố trí tái

định cư tại chỗ nếu tại khu vực thu hồi đất có dự án tái định cư hoặc có điều kiện bố trí

tái định cư…” và Khoản 4 Điều 86 LĐĐ năm 2013: “Trường hợp người có đất thu hồi

được bố trí tái định cư mà tiền bồi thường, hỗ trợ không đủ để mua một suất tái định cư

tối thiểu thì được Nhà nước hỗ trợ tiền đủ để mua một suất tái định cư tối thiểu”

Theo Điểm a Khoản 1 Điều 6 Nghị định số 47/2014/NĐ-CP ngày 15 tháng 05

năm 2014 của Chính phủ về bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi nhà nước thu hồi đất thì

tái định cư được giải thích là: “trường hợp thu hồi hết đất ở hoặc phần diện tích đất ở còn

lại sau thu hồi không đủ điều kiện để ở theo quy định của UBND cấp tỉnh mà hộ gia

đình, cá nhân không còn đất ở, nhà ở nào khác trong địa bàn xã, phường, thị trấn nơi có

đất ở thu hồi thì được bồi thường bằng đất ở hoặc nhà ở tái định cư”.

Căn cứ vào các qui định trên, khái niệm về tái định cư có thể hiểu là: “Tái

định cư là việc người sử dụng đất được bố trí nơi ở mới bằng một trong các hình

thức: bồi thường bằng nhà ở mới hoặc bồi thường bằng giao đất ở mới hoặc bồi

thường bằng tiền để tự lo chỗ ở mới khi họ bị Nhà nước thu hồi đất ở và phải chuyển chỗ ở”10

Thực tế diễn ra cho thấy, việc thu hồi đất dẫn tới hệ quả rất nhiều người dân

10 Lê Hoàng Dương (2009), Luận văn cử nhân luật học, Các vấn đề pháp lý về tái định cư khi nhà

nước thu hồi đất thực hiện các dự án đầu tư , Đại học luật Hà Nội, Tr.4.

không còn nơi ăn chốn ở, phải di chuyển đến nơi khác để sinh sống, cuộc sống của

12

họ gặp vô số khó khăn cho nên Nhà nước phải có trách nhiệm xã hội của mình trong

việc bố trí một trong các hình thức tái định cư để người bị thu hồi đất tạo lập cuộc

sống mới. Vì vậy, tái định cư chính là sự sắp xếp nơi ở mới cho người bị thu hồi đất

không còn đất ở hoặc tạo điều kiện để người bị thu hồi đất tự lo nơi ở mới của mình

thông qua các hỗ trợ tài chính từ phía Nhà nước.

1.3. Phân biệt trưng dụng đất và thu hồi đất.

Thứ nhất, về mục đích trưng dụng đất và thu hồi đất. Theo Luật Trưng mua,

trưng dụng tài sản năm 2008 trưng dụng tài sản là việc Nhà nước sử dụng có thời hạn

tài sản của tổ chức, cá nhân, hộ gia đình, cộng đồng dân cư thông qua quyết định hành

chính trong trường hợp thật cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh và vì lợi ích quốc gia11. Và theo Khoản 1 Điều 23 Luật trưng mua, trưng dụng tài sản năm 2008 đất đai là

tài sản thuộc đối tượng trưng dụng. Như vậy, trưng dụng đất chỉ được thực hiện trong

trường hợp thật cần thiết, là biện pháp cuối cùng được cân nhắc khi Nhà nước cần sử

dụng một diện tích nhất định của tổ chức cá nhân để thực hiện nhiệm vụ quốc phòng,

an ninh hoặc trong tình trạng chiến tranh, tình trạng khẩn cấp, phòng, chống thiên tai.

Thu hồi đất được thực hiện theo quy định của LĐĐ năm 2013, thu hồi đất là việc nhà

nước ra quyết định hành chính để thu lại quyền sử dụng đất hoặc thu lại đất đã giao cho

tổ chức, UBND xã, phường, thị trấn quản lý theo quy định do nhu cầu Nhà nước, do vi

phạm pháp luật đất đai hoặc vì các lý do đương nhiên.

Thứ hai, về thẩm quyền trưng dụng đất và thu hồi đất, thẩm quyền trưng dụng

đất được giao cho bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Bộ trưởng Bộ Công an, Bộ trưởng Bộ

Giao thông vận tải, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ trưởng Bộ

Y tế, Bộ trưởng Bộ Công Thương, Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường, Chủ tịch

UBND cấp tỉnh, Chủ tịch UBND cấp huyện có thẩm quyền quyết định trưng dụng đất,

quyết định gia hạn trưng dụng đất. Tuy nhiên, thẩm quyền thu hồi đất lại chỉ được giao

cho hai cấp chính quyền địa phương bao gồm cấp huyện và cấp tỉnh.

“Như vậy, số lượng cơ quan có thẩm quyền trưng dụng đất đa dạng hơn

11 Khoản 2 Điều 2 Luật trưng dụng, trưng mua tài sản năm 2008

nhiều so với số lượng cơ quan có thẩm quyền quyết định thu hồi đất, xuất phát từ

13

tính cấp thiết và cấp bách của các trường hợp trưng dụng đất, trái ngược với tính ổn

định lâu dài của các trường hợp thu hồi đất bởi thu hồi đất được thực hiện theo quy hoạch, kế hoạch đã được phê duyệt từ trước”12.

Một điểm khác nhau cơ bản nữa về thẩm quyền giữa trưng dụng đất và thu hồi

đất đó là: người có thẩm quyền trưng dụng đất không được phân cấp thẩm quyền cho

người khác còn đối với thẩm quyền thu hồi đất ủy ban nhân dân cấp tỉnh có thể ủy

quyền cho ủy ban nhân dân cấp huyện trong một số trường hợp cụ thể do luật qui định.

Thứ ba, về cách thức thực hiện trưng dụng đất và thu hồi đất. Trưng dụng đất

cũng như thu hồi đất đều được thực hiện bằng một quyết định hành chính do cơ

quan nhà nước có thẩm quyền ban hành và được thể hiện bằng văn bản. Tuy nhiên

đối với trường hợp trưng dụng đất, quyết định trưng dụng đất có thể thể hiện bằng

lời nói trong trường hợp khẩn cấp nhưng phải viết giấy xác nhận việc quyết định.

Thứ tư, về việc bồi thường trong trưng dụng đất và thu hồi đất. Người có đất

trưng dụng được bồi thường thiệt hại trong trường hợp đất trưng dụng bị hủy hoại.

Theo Điều 19 và Điều 38 Luật trưng mua, trưng dụng tài sản năm 2008, hình thức

bồi thường của trưng mua, trưng dụng chủ yếu bằng tiền. Tuy nhiên, đối với việc

bồi thường trong trưng dụng đất, không phải ai có đất bị thu hồi cũng được bồi

thường, các trường hợp Nhà nước thu hồi đất không được bồi thường tài sản gắn

liền với đất được liệt kê tại Điều 92 LĐĐ năm 2013. Bồi thường về đất là việc Nhà

nước trả lại giá trị quyền sử dụng đất đối với diện tích đất thu hồi cho người sử

dụng đất. Các hình thức bồi thường trong trường hợp này có sự đa dạng hơn. Có thể

bồi thường bằng đất, bằng nhà hoặc có thể bồi thường bằng tiền.

1.4. Thẩm quyền thu hồi đất

Thẩm quyền thu hồi đất được qui định rõ ràng, hợp lý, phù hợp với thẩm

quyền giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất. Theo đó, cơ

quan nào giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất sẽ có thẩm

12 TS.Doãn Hồng Nhung (Chủ biên) CN. Nguyễn Ngọc Hà (2014), Pháp Luật về định giá đất trong

bồi thường GPMB ở Việt Nam, nhà xuất bản tư pháp Hà Nội, Tr.83.

quyền thu hồi đất.

14

“UBND cấp tỉnh quyết định thu hồi đất trong các trường hợp đối với tổ chức,

cơ sở tôn giáo, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, tổ chức nước ngoài có chức

năng ngoại giao, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và thu hồi đất nông nghiệp

thuộc quỹ đất công ích của xã, phường, thị trấn. UBND cấp huyện quyết định thu

hồi đất đối với hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư và người Việt Nam định cư ở nước ngoài được sở hữu nhà ở tại Việt Nam.”13

Điểm mới trong quy định về thẩm quyền thu hồi đất của LĐĐ năm 2013 so

với LĐĐ năm 2003 đó là trường hợp trong khu vực thu hồi đất có cả đối tượng

thuộc thẩm quyền thu hồi đất của UBND cấp tỉnh và cả đối tượng thuộc thẩm quyền

thu hồi đất của UBND cấp huyện thì UBND cấp tỉnh quyết định thu hồi đất hoặc ủy

quyền cho UBND cấp huyện quyết định thu hồi đất. Như vậy, nếu có quyết định thu

hồi đất đối với cả tổ chức và cá nhân thì quyết định thu hồi thuộc UBND cấp tỉnh.

1.5. Khái quát chung về giải phóng mặt bằng

1.5.1. Khái niệm bồi thường giải phóng mặt bằng

Như chúng ta đã biết, bồi thường GPMB là vấn đề thời sự nóng hổi, nó ảnh

hưởng rất lớn tới sự phát triển của mỗi quốc gia và cũng là vấn đề mà nhiều nước

đang phải đối mặt. Việt Nam cũng không ngoại lệ, nhất là những năm gần đây, vấn

đề này trở thành trung tâm của dư luận, là mối quan tâm hàng đầu của các nhà

hoạch định chính sách. Thực tiễn đã chứng minh rằng, làm tốt công tác bồi thường

GPMB không chỉ tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển, thu hút đầu tư mà còn góp

phần tạo được lòng tin nhân dân, khắc phục tình trạng cán bộ nhà nước gây khó dễ

cho nhân dân, chống tham nhũng…Bản chất của công tác bồi thường khi Nhà nước

thu hồi đất là phải đảm bảo lợi ích của những người dân bị thu hồi đất, lợi ích đó là

những người dân này phải có được chỗ ở ổn định, có điều kiện sống bằng hoặc cao

hơn nơi ở cũ để tạo điều kiện cho người dân sống ổn định và phát triển. Trong LĐĐ

năm 2013 không đề cập tới khái niệm bồi thường GPMB nhưng ta có thể hiểu bồi

thường GPMB là việc chi trả, bù đắp những tổn thất về đất đai và tài sản gắn liền

13 Khoản 1, Khoản 2 Điều 66 LĐĐ năm 2013

với đất, những chi phí tháo dỡ, di chuyển nhà cửa, vật, kiến trúc công trình hạ tầng

15

kỹ thuật, cây cối hoa màu và chi phí để ổn định đời sống, chuyển đổi nghề nghiệp

cho người sử dụng đất, sở hữu tài sản khi Nhà nước tổ chức thu hồi đất để sử dụng

vào mục đích an ninh, quốc phòng, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng. Nhà nước có

thể bồi thường bằng đất hoặc bằng bằng tiền. Bồi thường thiệt hại bằng tiền được

xác định trên cơ sở định giá đất, tài sản trên đất theo những qui định hướng dẫn của

Nhà nước. Bồi thường thiệt hại bằng đất là việc dùng một diện tích đất khác bồi

thường thiệt hại cho người bị thu hồi, trả các chi phí trực tiếp cho việc thực hiện tổ

chức bồi thường, di chuyển GPMB, xây dựng cơ sở hạ tầng, khu tái định cư cho

người bị thu hồi trong trường hợp Nhà nước thu hồi đất mà phải xây dựng khu tái

định cư.

1.5.2. Sự cần thiết phải bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất để giải phóng mặt bằng

Việc điều chỉnh vấn đề bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất bằng pháp luật

dựa trên những lí do cơ bản sau đây:

Thứ nhất, xuất phát từ việc đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của người bị

thu hồi đất. Khi Nhà nước thu hồi một diện tích đất để sử dụng vào các mục đích

kinh tế, xã hội sẽ khiến cho những người có đất bị thu hồi chịu những thiệt hại

không nhỏ, những thiệt hại này bao gồm cả vật chất và tinh thần. Thiệt hại về vật

chất mà người sử dụng đất có thể phải gánh chịu bao gồm: thiệt hại về công sức đầu

tư, mất quyền khai thác và hưởng các lợi ích từ đất đai; thiệt hại về tài sản là thành

quả lao động và kết quả đầu tư vào đất; thiệt hại về chi phí đầu tư vào đất tính đến

thời điểm Nhà nước thu hồi đất vẫn chưa thu lại được; thiệt hại do bị ngừng việc,

ngừng sản xuất - kinh doanh; các thiệt hại vật chất vô hình khác mà người bị thu hồi

đất phải gánh chịu như: đất ở khu vực Nhà nước chuyển mục đích sử dụng sẽ tăng

giá trị mà họ không được hưởng, trong khi những người sử dụng đất ở khu vực đó

lại được hưởng. Bên cạnh những thiệt hại về vật chất, người bị thu hồi đất còn phải

gánh chịu thiệt hại về mặt tinh thần. Việc Nhà nước thu hồi đất dẫn đến đảo lộn đời

sống, sản xuất cũng như sinh hoạt của người dân bị thu hồi đất. Bên cạnh đó việc

chuyển đến nơi ở mới cũng làm người dân phải mất một khoảng thời gian dài để

thích nghi với môi trường sống mới. Thậm chí họ phải mất rất nhiều thời gian mới

có thể tìm kiếm được công ăn, việc làm ổn định…Với những thiệt hại nói trên, việc

16

ban hành pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất là rất cần thiết, giúp

người dân nắm được quyền và lợi ích hợp pháp mà mình được hưởng khi bị thu hồi

đất, qua đó có sự tham gia, giám sát chủ động, tích cực vào quá trình thực thi pháp

luật của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Như vậy, việc ban hành pháp luật về

bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất góp phần đảm bảo các quyền và lợi ích hợp

pháp của người dân trong quá trình thu hồi đất.

Thứ hai, xuất phát từ vai trò của Nhà nước trong quản lí đất đai. Việc Nhà

nước khi tiến hành thu hồi đất là để tạo ra một quỹ đất hợp lý sử dụng cho các mục

đích quốc phòng, an ninh, phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng.

Tuy nhiên khi thu hồi đất, Nhà nước phải tạo được sự đồng thuận trong nhân dân

bằng việc thực hiện các chính sách bồi thường cho người dân bị thu hồi đất, cần

thiết phải ban hành pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất để tạo cơ sở

pháp lý cho cơ quan nhà nước trong quá trình triển khai thực hiện bồi thường.

1.6. Lịch sử hình thành và phát triển pháp luật về bồi thường khi Nhà nước

thu hồi đất

1.6.1. Giai đoạn trước năm 1993

Lịch sử hình thành pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất được

đánh dấu bằng sự ra đời Nghị định số 151-TTg ngày 14/04/1959 của Hội đồng

Chính phủ qui định thể lệ tạm thời trưng dụng ruộng đất. Tiếp đó là sự ra đời của

Thông tư liên hộ số 1424/TTLB ngày 6/7/1959 về việc thi hành Nghị định số 151-

TTg ngày 14/04 /1959 của Thủ tướng Chính phủ qui định về thể lệ tạm thời trưng

dụng ruộng đất.

Hiến pháp năm 1959 ra đời ghi nhận sự bảo hộ của Nhà nước đối với quyền

sở hữu của công dân về của cải, thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở và các

thứ vật dụng riêng khác (Điều 18 Hiến pháp năm 1959), và chỉ khi nào cần thiết vì

lợi ích chung, Nhà nước mới trưng mua hoặc trưng dụng, trưng thu có bồi thường

thích đáng các tư liệu sản xuất ở thành thị và nông thôn trong phạm vi điều kiện do

pháp luật qui định (Điều 20 Hiến pháp năm 1959)

Sau đó, tới năm 1970, vấn đề bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất lại được

qui định tại Thông tư số 1972/TTg ngày 11/01/1970 của Thủ tướng Chính phủ quy

17

định một số điểm tạm thời về bồi thường nhà cửa, đất đai, cây cối lưu niên, các hoa

mầu cho nhân dân ở những vùng xây dựng kinh tế mở rộng thành phố.

Hiến pháp 1980 ra đời qui định đất đai thuộc sở hữu toàn dân. Bên cạnh đó,

bản Hiến pháp này cũng khẳng định: “Khi thật cần thiết vì lợi ích chung, Nhà nước

có thể trưng thu, trưng mua trưng dụng hoặc trưng thu có bồi thường tài sản của cá nhân hoặc của tập thể”14. Để cụ thể hoá qui định của Hiến pháp năm 1980, luật đất

đai đầu tiên của nước ta được ra đời đó là LĐĐ năm 1987. Nó đã khẳng định

nguyên tắc đất đai thuộc sở hữu toàn dân và Nhà nuớc thống nhất quản lí đất đai.

Bên cạnh đó, Luật này cũng quy định về các trường hợp Nhà nước thu hồi đất,

trong đó cũng chia ra làm hai trường hợp: trường hợp thứ nhất thu hồi do lỗi của

người sử dụng đất và trường hợp thứ hai thu hồi không do lỗi của người sử dụng đất

(Điều 14 Hiến pháp 1980). Tuy nhiên luật này vẫn còn thiếu sót khi chưa quy định

rõ về đền bù thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất sử dụng vào mục đích lợi ích quốc

gia, lợi ích công cộng.

1.6.2. Giai đoạn từ năm 1993 đến năm 2003

Cùng với sự ra đời của Hiến pháp năm 1992 là sự thay thế LĐĐ năm 1987

bằng LĐĐ năm 1993. Với những qui định của LĐĐ năm 1993, pháp luật về bồi

thường khi Nhà nước thu hồi đất bước sang giai đoạn mới. Điều 27 LĐĐ năm 2003

qui định: “Trong trường hợp cần thiết, Nhà nước thu hồi đất đang sử dụng của

người sử dụng đất để sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia,

lợi ích công cộng thì người bị thu hồi đất được đền bù thiệt hại”. Đồng thời LĐĐ

năm 1993 cũng qui định về thẩm quyền, trình tự thu hồi đất.

Sau sự ra đời của LĐĐ năm 1993 là hàng loạt các văn bản hướng dẫn thi

hành. Trong đó, có thể kể đến một số văn bản qui định về bồi thường khi Nhà nước

thu hồi đất sau đây:

Nghị định số 90-CP ngày 17/08/1994 ban hành qui định về việc đền bù thiệt

hại khi nhà nước thu hồi đất để sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích

14 Điều 28 Hiến Pháp 1980

quốc gia, lợi ích công cộng; Nghị định số 87/CP ngày 17/08/1994 của Chính phủ

18

qui định khung giá các loại đất; Nghị định số 22/1998/NĐ-CP ngày 24/04/1998 về

việc đền bù thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất để sử dụng vào mục đích quốc

phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng (thay nghị định số 90-CP ngày

17/08/1994).

Thông tư Liên Bộ Ban vật giá Chính phủ Tài chính- Xây dựng- Tổng cục địa

chính số 94/TTLB ngày 14/11/1994 hướng dẫn thi hành Nghị định số 87/CP ngày

17/08/1994 của Chính phủ quy định khung giá các loại đất; Thông tư số

145/1998/TT-BTC ngày 04/11/1998 của Bộ tài chính hướng dẫn thi hành; Nghị

định số 22/1998/NĐ-CP ngày 24/04/1998 về việc đền bù thiệt hại khi Nhà nước thu

hồi đất vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng;

Quyết định số 302/TTg ngày 13/05/1996 của Thủ tướng Chính phủ về việc điều

chỉnh hệ số (K) trong khung giá đất ban hành kèm theo Nghị định số 87/CP ngày

17/08/1994.

Nhìn vào những chính sách về bồi thường trong giai đoạn này có thể thấy rõ nhà

nước đã có sự quan tâm tới vấn đề bồi thường cho những người dân bị thu hồi đất.

Những chính sách về bồi thường giai đoạn này thể hiện sự thống nhất chính sách bồi

thường thiệt hại cho mọi trường hợp bị Nhà nước thu hồi đất; bên cạnh bồi thường,

Nhà nước còn tiến hành các chính sách hỗ trợ nhằm đảm bảo ổn định cuộc sống cho

người dân tại nơi ở cũ hoặc nơi ở mới; quy định đầy đủ phạm vi, đối tượng áp dụng,

nguyên tắc điều kiện được bồi thường, chi tiết và cụ thể hóa các trường hợp bồi thường

thiệt hại về đất, nhà và các tài sản khác gắn liền với đất cho phù hợp với thực tế quản lí

sử dụng đất, tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình tổ chức thực hiện; đảm bảo quyền tự

do lựa chọn phương thức bồi thường bao gồm bồi thường bằng đất, bằng tiền, nhằm tạo

điều kiện chủ động cho người dân, nhằm chặn sự áp đặt hành chính từ phía cơ quan

nhà nước. Mặt khác, trách nhiệm tổ chức, bồi thường, lập phương án bồi thường được

giao cho các địa phương đã tạo sự chủ động, áp dụng chính sách linh hoạt phù hợp với

điều kiện thực tế của từng địa phương.

Tuy nhiên, Nghị định số 22/1998/NĐ-CP ngày 24 tháng 4 năm 1998 và các

văn bản liên quan đã bộc lộ các hạn chế như: việc bồi thường đất ở với các trường

hợp sử dụng đất trước LĐĐ năm 1993 chưa được quy định cụ thể nên trong tổ chức

19

thực hiện còn nhiều cách làm khác nhau dẫn đến khiếu kiện. Hơn thế nữa, các loại

tài sản nào không được bồi thường, hay loại tài sản có thể di chuyển thì được bồi

thường, hỗ trợ như thế nào thì lại chưa có quy định. Điều này đã dẫn đến việc một

số đối tượng lợi dụng để đầu tư các tài sản trái phép mong được hưởng lợi khi bồi

thường; chưa có văn bản hướng dẫn, quy định về quy trình lập và thẩm định kế

hoạch tái định cư cũng như cưỡng chế thi hành quyết định thu hồi đất, quyết định

bồi thường đối với các trường hợp cố tình không thực hiện, dẫn đến lợi dụng kẽ hở

trong chính sách của Nhà nước cản trở công tác bồi thường hỗ trợ, tái định cư khi

nhà nước thu hồi đất.

1.6.3. Giai đoạn từ năm 2003 đến năm 2013

Giai đoạn này nước ta đang trên đà phát triển, công cuộc công nghiệp hóa

hiện đại hóa buộc Nhà nước phải thu hồi nhiều đất hơn để phục vụ cho mục đính

quốc phòng, phát triển kinh tế- xã hội, xây dựng cơ sở hạ tầng …Vì vậy, việc khắc

phục những hạn chế của các văn bản pháp luật trước đây là rất cần thiết, ngày

23/11/2003, LĐĐ năm 2003 được thông qua với nhiều quy định về bồi thường khi

Nhà nước thu hồi đất được sửa đổi bổ sung. LĐĐ năm 2003 để quy định về thu hồi

đất và bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất tại mục 4 chương 2 với nhiều sửa đổi

bổ sung quan trọng. Cụ thể hóa quy định về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất

trong LĐĐ năm 2003, nhiều văn bản hướng dẫn được ban hành như:

Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 của Chính phủ về thi hành

LĐĐ năm 2003; Nghị định số 197/2004/NĐ-CP ngày 03/12/2004 của Chính phủ về

bồi thường, hỗ trợ tài tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất; Thông tư số

116/2004/TT-BTC ngày 07/12/2004 của Bộ tài chính hướng dẫn thực hiện Nghị

định số 197/2004/NĐ-CP ngày 03/12/2004 của Chính phủ về bồi thường, hỗ trợ và

tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất; Nghị định số 188/2004/ NĐ-CP ngày

16/11/2004 của Chính phủ về phương pháp xác định giá đất và khung giá các loại

đất; Nghị định số 84/2007/NĐ-CP ngày 25/05/2007 của Chính phủ quy định bổ

sung về việc Cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thu hồi đất, thực hiện quyền

sử dụng đất, trình tự, thủ tục bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi

đất và giải quyết khiếu nại về đất đai; Nghị định số 69/2009/NĐ-CP ngày

20

13/08/2009 của Chính phủ quy định bổ sung về quy hoạch sử dụng đất, giá đất, thu

hồi đất, bồi thường, hỗ trợ tái định cư; Thông tư số 14/2009/TT-BTNMT ngày

01/10/2009 của Bộ Tài nguyên và Môi trường quy định chi tiết về bồi thường hỗ

trợ, tái định cư và trình tự, thủ tục thu hồi đất, giao đất, cho thuê đất…

Đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước, pháp luật về bồi thường khi Nhà

nước thu hồi đất giai đoạn này đã được quy định đầy đủ, cụ thể hơn, bảo vệ tốt hơn

quyền của người bị thu hồi đất. Các trường hợp bị thu hồi đất vì mục đích quốc

phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng và vì mục tiêu phát triển kinh tế

được quy định cụ thể để hạn chế việc một số cơ quan nhà nước lạm dụng quyền

hành thu hồi đất bừa bãi. Về điều kiện để được bồi thường đất và bồi thường tài sản

khi bị Nhà nước thu hồi đất cũng được liệt kê cụ thể. Hơn thế nữa, để đảm bảo

quyền lợi cho người có đất bị thu hồi, tại các nghị định, thông tư hướng dẫn của

LĐĐ năm 2003 quy định chi tiết những trường hợp người sử dụng đất không có

giấy tờ về quyền sử dụng đất nhưng vẫn được xem xét để bồi thường, hỗ trợ khi

Nhà nước thu hồi đất. Các chính sách hỗ trợ, nhất là hỗ trợ ổn định đời sống và sản

xuất, hỗ trợ đào tạo chuyển đổi nghề và tạo việc làm đối với trường hợp thu hồi đất

nông nghiệp cũng được quy định chi tiết tại các văn bản pháp luật hướng dẫn thi

hành LĐĐ năm 2003.

Tuy nhiên, các qui định này vẫn bộc lộ nhiều mặt hạn chế trong thực tiễn áp

dụng tại các địa phương do các nguyên nhân cơ bản sau: giá đất bồi thường còn

thấp so với giá thị trường do chủ yếu thực hiện theo khung giá Nhà nước quy định.

Việc để cho nhà đầu tư tự thỏa thuận với người dân về giá đất bồi thường mặc dù

giúp chủ động quỹ đất để thực hiện dự án, việc giải phóng mặt bằng có thể tiến

hành nhanh chóng hơn, nhưng nó lại khiến giá đất bồi thường trong cùng 1 khu vực

nhưng lại có sự chênh lệch khác nhau. Điều này đã vô hình làm các vụ khiếu kiện

về đất đai tăng lên. Hơn thế nữa, có một số người bị thu hồi đất đã lợi dụng quy

định này đòi hỏi nhà đầu tư phải bồi thường giá đất cao hơn rất nhiều so với giá thị

trường khiến việc giải phóng mặt bằng gặp vô số khó khăn, dự án bị chậm tiến độ.

“Việc thu hồi đất, bồi thường, GPMB còn khá nhiều bất cập, chưa có cơ chế

giải quyết một cách rõ ràng, minh bạch, hài hòa về lợi ích giữa Nhà nước, người có

21

đất bị thu hồi và nhà đầu tư; chưa có quy định về việc sử dụng tư vấn giá đất, giải

quyết khiếu nại về giá đất. Việc chuẩn bị phương án bồi thường, hỗ trợ chưa được

các cấp chính quyền quan tâm đúng mức, nhất là phương án giải quyết việc làm cho

người nông dân bị thu hồi đất nông nghiệp, chưa có một chế tài đủ mạnh khiến các

chủ đầu tư phải có ý thức trách nhiệm trong việc sắp xếp việc làm cho người bị thu hồi đất15”

1.6.4. Giai đoạn từ năm 2013 đến nay.

Ngày 29/11/2013 LĐĐ năm 2013 đã được thông qua. Luật có hiệu lực thi

hành từ 1/7/2014. Việc ra đời của LĐĐ năm 2013 nhận được vô số sự quan tâm của

dư luận trong nước, đây là đạo luật được kì vọng sẽ khắc phục được những hạn chế,

vướng mắc mà LĐĐ năm 2003 chưa làm được. LĐĐ năm 2013 đã có nhiều quy

định bổ sung, sửa đổi, đồng thời cũng đã luật hóa và quy định cụ thể trong luật

nhiều nội dung liên quan đến vẫn đề bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất. LĐĐ

năm 2013 có 14 chương với 212 điều, tăng 07 chương và 66 điều so với LĐĐ năm

2003, đã thể chế hóa đúng và đầy đủ những quan điểm, định hướng nêu trong Nghị

quyết số 19-NQ/TW Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng, đồng

thời khắc phục, giải quyết được những tồn tại, hạn chế phát sinh trong quá trình thi

hành LĐĐ năm 2003. Sau khi LĐĐ năm 2013 được ban hành và chính thức có hiệu

lực, các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền đã ban hành nhiều văn bản hướng dẫn thi

hành về lĩnh vực bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất để giải phóng mặt

bằng, đó là:

Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15 tháng 5 năm 2014 của Chính phủ quy

định chi tiết thi hành một số điều của LĐĐ; Nghị định số 44/2014/NĐ-CP ngày 15

tháng 5 năm 2014 của Chính phủ quy định về giá đất; Nghị định số 47/2014/NĐ-CP

ngày 15 tháng 5 năm 2014 của Chính phủ quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định

cư khi Nhà nước thu hồi đất; Nghị định số 44/2014/NĐ-CP ngày 15 tháng 5 năm

15 Phạm Thu Thủy (2014), Luận án TS Luật học, Pháp luật về bồi thường khi nhà nước thu hồi đất

nông nghiệp ở Việt Nam, Đại học luật Hà Nội, Tr.60.

2014 của Chính phủ.

22

Thông tư số 30/2014/TT-BTNMT ngày 02 tháng 6 năm 2014 của Bộ Tài

nguyên và Môi trường quy định về hồ sơ giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử

dụng đất, thu hồi đất; Thông tư số 36/2014/TT-BTNMT ngày 30 tháng 6 năm 2014

của Bộ Tài nguyên và Môi trường quy định chi tiết phương pháp định giá đất; xây

dựng, điều chỉnh bảng giá đất; định giá đất cụ thể và tư vấn xác định giá đất; Thông

tư số 02/2015/TT-BTNMT ngày 27 tháng 01 năm 2015 của Bộ Tài nguyên và Môi

trường quy định chi tiết một số điều của Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày

15/05/2014.

Về thu hồi đất, Luật Đất đai năm 2013 có các nội dung đổi mới sau đây:

LĐĐ năm 2013 đã khẳng định một cách rõ ràng nguyên tắc công khai, minh

bạch và dân chủ trong công tác thu hồi đất thông qua các quy định cụ thể về các

trường hợp Nhà nước thu hồi đất; trình tự, thủ tục thu hồi đất; bồi thường, hỗ trợ, tái

định cư khi Nhà nước thu hồi đất.

Quy định chế tài mạnh để xử lý đối với trường hợp không đưa đất đã được

giao, cho thuê vào sử dụng hoặc chậm đưa đất vào sử dụng đó là cho phép chậm

tiến độ hơn so với quy định hiện hành 24 tháng và chủ đầu tư phải nộp một khoản

tiền tương ứng với tiền sử dụng đất, tiền thuê đất trong thời hạn đó; nếu hết 24

tháng cho phép chậm tiến độ này mà vẫn chưa đưa đất vào sử dụng thì Nhà nước

thu hồi đất mà không bồi thường về đất, tài sản gắn liền với đất.

Bổ sung các quy định về các trường hợp Nhà nước trưng dụng đất, thẩm

quyền, thời hạn, hiệu lực, hình thức của việc trưng dụng đất. Sửa đổi thẩm quyền

thu hồi đất để cải cách hành chính khi thực hiện các dự án theo hướng Ủy ban nhân

dân cấp tỉnh quyết định thu hồi đất đối với trường hợp khu đất thu hồi có cả tổ chức

và hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất.

Quy định cụ thể trong LĐĐ năm 2013 về trình tự, thủ tục thu hồi đất vì mục

đích quốc phòng, an ninh; phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng;

nguyên tắc, điều kiện, trình tự, thủ tục thực hiện cưỡng chế thực hiện quyết định kiểm

đếm bắt buộc và thực hiện cưỡng chế quyết định thu hồi đất nhằm tạo điều kiện cho

các địa phương triển khai thực hiện thống nhất. Đối với trình tự, thu hồi đất, LĐĐ năm

2013 đã quy định theo hướng tăng cường hơn sự tham gia trực tiếp của nhân dân trong

23

việc đo đạc, kiểm đếm đất đai, tài sản gắn liền với đất và xây dựng phương án bồi

thường, hỗ trợ và tái định cư; trách nhiệm đối thoại và giải trình của cơ quan nhà nước

có thẩm quyền khi người dân chưa có ý kiến đồng thuận.

Về vấn đề bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất, LĐĐ

năm 2013 đã quy định khá đầy đủ, chi tiết, đã bổ sung những quy định rất quan

trọng như:

Quy định giá đất bồi thường không áp dụng theo bảng giá đất mà áp dụng giá

đất cụ thể do UBND cấp tỉnh quyết định tại thời điểm quyết định thu hồi đất. Quy

định cụ thể điều kiện được bồi thường về đất, bồi thường chi phí đầu tư vào đất còn

lại, bồi thường tài sản gắn liền với đất; bồi thường khi thu hồi đối với từng loại đất

và từng đối tượng cụ thể. Yêu cầu đảm bảo sinh kế cho người có đất thu hồi đã

được quy định cụ thể, rõ ràng, đầy đủ hơn trong LĐĐ năm 2013 thông qua quy định

về các khoản hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất như hỗ trợ ổn định đời sống và sản

xuất; hỗ trợ đào tạo, chuyển đổi nghề và tạo việc làm; hỗ trợ tái định cư đối với trường

hợp thu hồi đất ở mà phải di chuyển chỗ ở và một số khoản hỗ trợ khác. Ủy ban nhân

dân cấp tỉnh có trách nhiệm tổ chức lập và thực hiện phương án đào tạo, chuyển đổi

nghề, hỗ trợ tìm kiếm việc làm cho người có đất thu hồi là đất nông nghiệp, đất ở kết hợp

kinh doanh dịch vụ và phê duyệt đồng thời với phương án bồi thường, hỗ trợ, tái cư. Quy

định khi thu hồi đất mà phải bố trí tái định cư thì Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện có

trách nhiệm tổ chức lập và tổ chức thực hiện dự án tái định cư trước khi thu hồi đất. Khu

tái định cư tập trung phải xây dựng cơ sở hạ tầng đồng bộ bảo đảm tiêu chuẩn, quy chuẩn

xây dựng; phù hợp với điều kiện, phong tục, tập quán của từng vùng, miền. Việc thu hồi

đất ở chỉ được thực hiện sau khi hoàn thành xây dựng nhà ở hoặc cơ sở hạ tầng của khu

tái định cư. Bổ sung quy định xử lý đối với trường hợp chậm chi trả bồi thường do lỗi

của cơ quan Nhà nước và do lỗi của người có đất thu hồi gây để đảm bảo trách nhiệm

của các cơ quan nhà nước trong thực thi công vụ cũng như tăng cường ý thức chấp hành

pháp luật của nhân dân. LĐĐ năm 2013 đã quy định cụ thể hơn về quyền tham gia của

24

người dân trong quá trình lập và thực hiện phương án bồi thường, hỗ trợ tái định cư; thẩm quyền16.

Tóm lại, pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất là tổng hợp các

qui phạm pháp luật để điều chỉnh quan hệ phát sinh trong quá trình Nhà nước thu

hồi đất của người dân để GPMB. Thu hồi đất là một yêu cầu tất yếu của quá trình

công nghiệp, hiện đại hóa đất nước. Bên cạnh những tác động tích cực nó mang lại

trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế quốc dân thì thu hồi đất cũng để lại những ảnh

hưởng tiêu cực nhất định đối với đời sống của người dân. Chính vì vậy, nhà nước

cần phải có chính sách bồi thường thích đáng đối với những người dân bị thu hồi

đất. Trong phạm vi chương 1 của luận văn đã làm rõ một số vấn đề lí luận về bồi

thường khi nhà nước thu hồi đất để GPMB. Những lí luận này sẽ làm cơ sở cho

những phân tích, đánh giá các quy định của pháp luật Việt Nam về bồi thường, hỗ

http://tnmtcaobang.gov.vn/index.php/vi/news/Quan-ly-dat-dai/Nhung-noi-dung-doi-moi-quan-

16

trong-cua-Luat-dat-dai-nam-2013-2010/

trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất ở những chương sau.

25

Chương 2

THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƯỜNG KHI NHÀ NƯỚC THU

HỒI ĐẤT VÀ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƯỜNG KHI NHÀ NƯỚC

THU HỒI ĐẤT QUA THỰC TIỄN GIẢI PHÓNG MẶT BẰNG TRÊN ĐỊA

BÀN TỈNH NINH BÌNH

2.1. Pháp luật thực định điều chỉnh hoạt động bồi thường hỗ trợ tái định cư

khi Nhà nước thu hồi đất

2.1.1. Trình tự thủ tục thực hiện việc bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất

Thứ nhất, trước khi có quyết định thu hồi đất, trong trường hợp đất phi nông

nghiệp thì cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải thông báo chậm nhất là 180 ngày; và

90 ngày đối với đất nông nghiệp. Thông báo phải được gửi đến từng người có đất thu

hồi, họp phổ biến đến người dân trong khu vực có đất bị thu hồi; thông báo trên

phương tiện thông tin đại chúng, niêm yết tại trụ sở UBND cấp xã. Sau khi có kết quả

thống nhất, hoặc hết thời hạn thông báo thì UBND cấp có thẩm quyền ra quyết định thu

hồi đất. Đây là một trong những điểm mới của LĐĐ năm 2013, việc thông báo trước

một khoảng thời gian nhất định cho người dân có đất bị thu hồi và họp lấy ý kiến của

người dân giúp cho người dân nắm rõ được kế hoạch thu hồi đất, điều tra, khảo sát, đo

đạc, kiểm đếm đồng thời có thể giải thích cho họ hiểu việc thu hồi đất để thực hiện dự

án là phục vụ cho lợi ích phát triển của đất nước nói chung hay chính bản thân họ nói

riêng. Như vậy, việc GPMB sẽ diễn ra thuận lợi và nhanh chóng hơn.

Thứ hai, sau khi có quyết định thu hồi, UBND xã có trách nhiệm phối hợp

với ban bồi thường, giải phóng mặt bằng tiến hành kế hoạch thu hồi đất, kiểm tra,

khảo sát, đo đạc. Khi này thì những cá nhân, tổ chức có đất bị thu hồi có trách

nhiệm phối hợp thực hiện nhiệm vụ trên.

Thứ ba, trên cơ sở kết quả kiểm tra, khảo sát, đo đạc, kiểm đếm thì ban bồi

thường, giải phóng mặt bằng có trách nhiệm lập phương án bồi thường, hỗ trợ, tái

định cư đối với từng tổ chức, cá nhân, hộ gia đình có đất thu hổi để lấy ý kiến. Sau

khi phương án chi tiết được lập, tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt

bằng có trách nhiệm phối hợp với UBND cấp xã nơi có đất thu hồi tổ chức lấy ý

26

kiến của nhân dân, nhất là các đối tượng bị thu hồi đất. Hình thức lấy ý kiến là: tổ

chức họp trực tiếp với người dân trong khu vực có đất thu hồi, đồng thời niêm yết

công khai phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư tại trụ sở UBND cấp xã, địa

điểm sinh hoạt chung của khu dân cư nơi có đất thu hồi. Việc tổ chức lấy ý kiến

phải được lập thành biên bản có xác nhận của đại diện UBND cấp xã, đại diện Ủy

ban MTTQVN cấp xã, đại diện những người có đất thu hồi. Tổ chức làm nhiệm vụ

bồi thường, giải phóng mặt bằng có trách nhiệm tổng hợp ý kiến đóng góp bằng văn

bản, ghi rõ số lượng ý kiến đồng ý, số lượng ý kiến không đồng ý, số lượng ý kiến

khác đối với phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư; phối hợp với UBND cấp xã

nơi có đất thu hồi tổ chức đối thoại đối với trường hợp còn có ý kiến không đồng ý

về phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư; hoàn chỉnh phương án trình cơ quan

có thẩm quyền. Điều này sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho người dân nơi có đất bị thu

hồi biết được rõ ràng phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư để từ đó biết được

mình có thuộc đối tượng được bồi thường không, nếu thuộc đối tượng bồi thường

thì được bồi thường như thế nào? Lựa chọn hình thức bồi thường bằng việc giao đất

mới hay bằng tiền cũng như có thể phản ánh với UBND cấp xã lí do tại sao không

đồng ý với phương án bồi thường. Để từ đó tìm cách tháo gỡ tránh tình trạng người

dân có những phản ứng gay gắt khi bị cưỡng chế thu hồi đất.

Thứ tư, phương án được duyệt và thực hiện trên thực tế. Tổ chức, cá nhân,

hộ gia đình có đất bị thu hồi bàn giao mặt bằng cho ban dự án, nhận tiền bồi thường

và hưởng phương án tái định cư được lập và thông qua. Trường hợp người có đất bị

thu hồi không bàn giao mặt bằng thì bị cưỡng chế thu hồi đất theo quy định tại Điều 71 LĐĐ năm 201317.

2.1.2. Qui đinh về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất

2.1.2.1. Điều kiện được bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất

Các đối tượng được bồi thường hỗ trợ về đất khi Nhà nước thu hồi đất nếu có

http://www.doisongphapluat.com/phap-luat/tinh-huong-phap-luat/thu-tuc-thu-hoi-dat-va-quy-

17

trinh-boi-thuong-tai-dinh-cu-a106597.html

đủ điều kiện được bồi thường quy định tại Điều 75, Điều 100, Điều 101 của LĐĐ

27

năm 2013; Từ Điều 5 tới Điều 8, Điều 13, Điều 15 của nghị định số 47/2014/NĐ-

CP Qui định về bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi nhà nước thu hồi đất thì được bồi

thường về đất khi Nhà nước thu hồi đất.

Điều kiện đối với hộ gia đình, cá nhân:

Thứ nhất, hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất không phải là đất thuê trả

tiền thuê đất hàng năm, có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận

quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất,

quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất

Thứ hai, hộ gia đình, cá nhân đủ điều kiện để được cấp Giấy chứng nhận quyền

sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất theo quy định của

pháp luật đất đai hiện hành mà chưa được cấp. Đó là các trường hợp sau đây:

Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất ổn định, được UBND cấp xã xác nhận

không có tranh chấp và có một trong các loại giấy tờ như: những giấy tờ về quyền

được sử dụng đất trước ngày 15 tháng 10 năm 1993 do cơ quan có thẩm quyền cấp

trong quá trình thực hiện chính sách đất đai của Nhà nước Việt Nam dân chủ Cộng

hòa, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam và Nhà nước

Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tạm thời

được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp hoặc có tên trong Sổ đăng ký ruộng đất,

sổ địa chính trước ngày 15 tháng 10 năm 1993; giấy tờ hợp pháp về thừa kế, tặng

cho quyền sử dụng đất hoặc tài sản gắn liền với đất; giấy tờ giao nhà tình nghĩa, nhà

tình thương gắn liền với đất; giấy tờ chuyển nhượng quyền sử dụng đất, mua bán

nhà ở gắn liền với đất ở trước ngày 15 tháng 10 năm 1993 được UBND cấp xã xác

nhận là đã sử dụng trước ngày 15 tháng 10 năm 1993. Giấy tờ thanh lý, hóa giá nhà

ở gắn liền với đất ở; giấy tờ mua nhà ở thuộc sở hữu nhà nước theo quy định của

pháp luật; giấy tờ về quyền sử dụng đất do cơ quan có thẩm quyền thuộc chế độ cũ

cấp cho người sử dụng đất. Ngoài ra các loại giấy tờ khác được xác lập trước ngày

15 tháng 10 năm 1993 theo quy định của Chính phủ cũng được công nhận. Nếu hộ

gia đình, cá nhân đang sử dụng đất có một trong các loại giấy tờ quy định nêu trên

mà trên giấy tờ đó ghi tên người khác, kèm theo giấy tờ về việc chuyển quyền sử

dụng đất có chữ ký của các bên có liên quan nhưng chưa thực hiện thủ tục chuyển

28

quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật và đất đó không có tranh chấp thì

vẫn thuộc đối tượng được bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất.

Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất có hộ khẩu thường trú tại địa phương

và trực tiếp sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản, làm muối tại

vùng có điều kiện kinh tế- xã hội khó khăn ở miền núi, hải đảo, nay được xác nhận

là người đã sử dụng đất ổn định không có tranh chấp.

Hộ gia đình, cá nhân được sử dụng đất theo bản án hoặc quyết định của Tòa

án nhân dân, quyết định thi hành án của cơ quan thi hành án, văn bản công nhận kết

quả hòa giải thành, quyết định giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về đất đai của

cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã được thi hành.

Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất được Nhà nước giao đất, cho thuê đất

từ ngày 15 tháng 10 năm 1993 đến thời điểm LĐĐ năm 2013 có hiệu lực thi hành

mà chưa được cấp Giấy chứng nhận.

Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất không có các giấy tờ nào về quyền sử

dụng đất nhưng đất đã được sử dụng ổn định từ trước ngày 01 tháng 7 năm 2004 và

không vi phạm pháp luật về đất đai, nay được UBND cấp xã xác nhận là đất không có

tranh chấp, phù hợp với quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch chi tiết xây dựng đô thị,

quy hoạch xây dựng điểm dân cư nông thôn đã được cơ quan nhà nước có thẩm

quyền phê duyệt đối với nơi đã có quy hoạch. Căn cứ xác định việc sử dụng đất ổn

định quy định tại Điều 21 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15 tháng 05 năm 2014

Quy định chi tiết thi hành một số điều của LĐĐ năm 2013 đó là việc sử dụng đất liên

tục vào một mục đích chính nhất định kể từ thời điểm bắt đầu sử dụng đất vào mục

đích đó đến thời điểm cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở

và tài sản khác gắn liền với đất hoặc đến thời điểm quyết định thu hồi đất của cơ quan

nhà nước có thẩm quyền đối với trường hợp chưa cấp giấy chứng nhận quyền sử

dụng đất, giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở, giấy chứng

nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất.

Hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất không có bất kì loại giấy tờ nào về quyền

sử dụng đất, nhưng có nhà ở, công trình xây dựng khác từ trước ngày 15 tháng 10

năm 1993; nay được UBND cấp xã nơi có đất xác nhận không có tranh chấp sử

29

dụng đất; việc sử dụng đất tại thời điểm nộp hồ sơ đề nghị cấp giấy chứng nhận

quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất là phù hợp

với quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch chi tiết xây dựng đô thị hoặc quy hoạch xây

dựng điểm dân cư nông thôn hoặc quy hoạch xây dựng nông thôn mới đã được cơ

quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt hoặc không phù hợp với quy hoạch nhưng

đã sử dụng đất từ trước thời điểm phê duyệt quy hoạch hoặc sử dụng đất tại nơi

chưa có quy hoạch.

Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất mà trước đây

cơ quan nhà nước đã có quyết định quản lý đối với đất đai, tài sản đó trong quá trình

thực hiện chính sách của Nhà nước nhưng thực tế Nhà nước chưa thực hiện, hộ gia

đình, cá nhân đó vẫn sử dụng.

Thứ ba, người Việt Nam định cư ở nước ngoài thuộc đối tượng được sở hữu

nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất ở tại Việt Nam mà có Giấy chứng nhận hoặc

có đủ điều kiện được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở

và tài sản khác gắn liền với đất theo quy định của Luật này mà chưa được cấp.

Điều kiện đối với tổ chức

Tổ chức được Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất, cho thuê đất trả tiền

thuê đất một lần cho cả thời gian thuê hoặc tổ chức có đất nhận thừa kế quyền sử

dụng đất mà tiền sử dụng đất đã nộp không có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước, có

Giấy chứng nhận hoặc có đủ điều kiện được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng

đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất theo quy định của LĐĐ

năm 2013 mà chưa được cấp. Ngoài ra, đất mà tổ chức được Nhà nước giao có thu

tiền sử dụng đất mà tiền sử dụng đất đã nộp không có nguồn gốc từ ngân sách nhà

nước hoặc đất tổ chức được nhận chuyển nhượng của người sử dụng đất hợp pháp

mà tiền trả cho việc chuyển nhượng không có nguồn từ ngân sách nhà nước thì

cũng được bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất theo quy định của LĐĐ năm 2013.

Điều kiện đối với cộng đồng dân cư:

Cộng đồng dân cư, cơ sở tôn giáo, tín ngưỡng đang sử dụng đất mà không

phải là đất do Nhà nước giao, cho thuê và có giấy chứng nhận hoặc có đủ điều kiện

30

để được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản

khác gắn liền với đất theo quy định của LĐĐ năm 2013 mà chưa được cấp.

Ta có thể thấy LĐĐ năm 2013 đã quy định cụ thể và làm rõ các điều kiện để

được bồi thường về đất khi Nhà nước thu hồi đất vì mục đích quốc phòng, an ninh;

phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng đối với từng loại đối tượng

mà Nhà nước thu hồi đất. LĐĐ năm 2013 bổ sung thêm 2 trường hợp được bồi

thường về đất khi Nhà nước thu hồi đất đó là:

Trường hợp thứ nhất, bổ sung bồi thường đối với các trường hợp sử dụng đất

thuê trả tiền thuê đất một lần cho cả thời gian thuê nhằm đảm bảo sự bình đẳng giữa

người sử dụng đất theo hình thức thuê đất trả tiền một lần cho cả thời gian thuê với

người được giao đất có thu tiền sử dụng đất (có cùng nghĩa vụ tài chính như nhau).

Trường hợp thứ hai, bổ sung bồi thường đối với trường hợp cơ sở tôn giáo,

cộng đồng dân cư đang sử dụng đất mà không phải là đất do nhà nước giao, cho

thuê và có giấy chứng nhận hoặc có đủ điều kiện để được cấp giấy chứng nhận

quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất theo quy

định của LĐĐ năm 2013 này mà chưa được cấp. LĐĐ năm 2003 chưa quy định

việc bồi thường, hỗ trợ đất đối với đất do cơ sở tôn giáo đang sử dụng vào mục đích

sản xuất nông nghiệp, sản xuất lâm nghiệp, sản xuất kinh doanh phi công nghiệp,

làm cơ sở hoạt động từ thiện, không phải đất do được nhà nước giao mà có nguồn

gốc do nhận chuyển nhượng, nhận tặng cho hợp pháp hoặc khai hoang trước ngày

01/7/2004 nên gây vướng mắc trong thực hiện tại nhiều địa phương. Vì vậy, việc bổ

sung thêm quy định này có ý nghĩa quan trọng, góp phần hoàn thiện chính sách,

pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất.

Các chế định bồi thường về đất, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi

đất được quy định trong Điều 41, Điều 42, và Điều 43 của LĐĐ năm 2003 trên

thực tế đã chưa thể chế hết các quy định mang tính nguyên tắc này để thực hiện

thống nhất khi xử lý những vấn đề phức tạp phát sinh trong thực tiễn thu hồi đất,

bồi thường, hỗ trợ, tái định cư tại các địa phương. Khắc phục hạn chế này, LĐĐ

năm 2013 đã tách nguyên tắc bồi thường về đất và nguyên tắc bồi thường thiệt hại

về tài sản, ngừng sản xuất kinh doanh khi Nhà nước thu hồi đất thành 2 điều riêng

31

biệt là Điều 74 và Điều 88 trong LĐĐ năm 2013. Trong đó, quy định cụ thể các

nguyên tắc bồi thường về đất và các nguyên tắc bồi thường thiệt hại về tài sản gắn

liền với đất khi Nhà nước thu hồi đất để các bộ, ngành, địa phương và người thu hồi

đất căn cứ vào đó thống nhất thực hiện.

2.1.2.2 Nội dung các qui định bồi thường về đất

Nguyên tắc bồi thường về đất

Các nguyên tắc bồi thường về đất khi Nhà nước thu hồi đất được quy định tại

Điều 74 LĐĐ năm 2013. Theo đó bao gồm những nội dung sau:

Thứ nhất, người sử dụng đất khi Nhà nước thu hồi đất nếu có đủ điều kiện

được bồi thường theo quy định tại Điều 75 LĐĐ năm 2013 thì được bồi thường.

Nếu người sử dụng đất được bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất mà chưa thực

hiện nghĩa vụ tài chính về đất đai đối với Nhà nước theo quy định của pháp luật thì

phải trừ đi khoản tiền chưa thực hiện nghĩa vụ tài chính vào số tiền được bồi thường

để hoàn trả ngân sách nhà nước. Cụ thể, việc trừ khoản tiền chưa thực hiện nghĩa vụ

tài chính về đất đai vào số tiền được bồi thường quy định tại Khoản 4 Điều 93 của

LĐĐ năm 2013.

Thứ hai, việc bồi thường được thực hiện bằng việc giao đất có cùng mục

đích sử dụng với loại đất thu hồi, nếu không có đất để bồi thường thì được bồi

thường bằng tiền theo giá đất cụ thể của loại đất thu hồi do UBND cấp tỉnh quyết

định tại thời điểm quyết định thu hồi đất; trường hợp bồi thường bằng việc giao đất

mới hoặc giao đất ở tái định cư hoặc nhà ở tái định cư, nếu có chênh lệch về giá trị

thì phần chênh lệch đó được thanh toán bằng tiền theo quy định sau:

Nếu tiền bồi thường về đất lớn hơn tiền đất ở, nhà ở hoặc tiền nhà ở tại khu

tái định cư thì người tái định cư được nhận phần chênh lệch đó. Tuy nhiên, trường

hợp tiền bồi thường về đất nhỏ hơn tiền đất ở, nhà ở hoặc tiền nhà ở tái định cư thì

18 Khoản 2 Điều 30 Nghị định số 47/2014/NĐ-CP ngày 15/05/2014 Quy định về bồi thường, hỗ trợ

tái định cư khi nhà nước thu hồi đất.

người được bố trí tái định cư phải nộp phần chênh lệch, trừ trường hợp quy định tại Khoản 1 Điều 22 của Nghị định số 47/2014/NĐ-CP ngày 15/05/201418

32

Thứ ba, việc bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất phải đảm bảo dân chủ,

khách quan, công bằng, công khai, kịp thời và đúng quy định của pháp luật.

Giá đất để tính bồi thường và chi phí đầu tư vào đất còn lại

Điều 112 LĐĐ năm 2013 đã quy định các nguyên tắc xác định giá đất. Nó

được xây dựng trên cơ sở khoản 1 Điều 56 LĐĐ năm 2003. Các quy định về

nguyên tắc định giá đất trong LĐĐ năm 2003 chưa định lượng được thế nào là “sát”

với giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất thực tế trên thị trường và chưa làm rõ

được thế nào là “trong điều kiện bình thường”, chưa quy định theo mục đích sử

dụng đất và thời hạn sử dụng đất; đồng thời, chưa bao hàm hết đối với những nơi,

những loại đất không có giao dịch mà việc định giá phải áp dụng các phương pháp

khác. Vì vậy, LĐĐ năm 2013 đã sửa đổi, bổ sung và quy định riêng tại Điều 112

LĐĐ năm 2013 về nguyên tắc để xác định giá đất nhằm khắc phục những bất cập

trên. Theo đó, khi thực hiện xác định giá đất phải tuân theo bốn nguyên tắc:

Thứ nhất, theo mục đích sử dụng đất hợp pháp tại thời điểm định giá.

Thứ hai, theo thời hạn sử dụng đất.

Thứ ba, phù hợp với giá đất phổ biến trên thị trường của loại đất có cùng

mục đích sử dụng đã chuyển nhượng, giá trúng đấu giá quyền sử dụng đất đối với

những nơi có đấu giá quyền sử dụng đất hoặc thu nhập từ việc sử dụng đất.

Thứ tư, cùng một thời điểm, các thửa đất liền kề nhau có cùng mục đích sử

dụng, khả năng sinh lợi, thu nhập từ việc sử dụng đất tương tự như nhau thì có mức giá như nhau.19

Căn cứ nguyên tắc, phương pháp định giá đất và khung giá đất,

UBND cấp tỉnh xây dựng và trình Hội đồng nhân dân cùng cấp thông qua bảng giá

đất trước khi ban hành. Bảng giá đất được xây dựng định kỳ 5 năm một lần và công

bố công khai vào ngày 1 tháng 1 của năm đầu kỳ. Trong thời gian thực hiện bảng

giá đất, khi Chính phủ điều chỉnh khung giá đất hoặc giá đất phổ biến trên thị

trường có biến động thì UBND cấp tỉnh điều chỉnh bảng giá đất cho phù hợp.

Theo quy định của LĐĐ năm 2013, Chính phủ ban hành khung giá đất định

19 Khoản 1 Điều 112 LĐĐ 2013

kì 5 năm một lần đối với từng loại đất, theo từng vùng. Khung giá đất này sẽ là căn

33

cứ để Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh tại các địa phương ban hành “bảng giá đất” và “giá

đất cụ thể”. Trong đó, “bảng giá đất” được xây dựng định kì 5 năm một lần và công

bố công khai vào ngày 1 tháng 1 của năm đầu kì, bảng giá đất được sử dụng làm

căn cứ xác định các nghĩa vụ tài chính của người sử dụng đất trong quá trình sử

dụng đất như tính tiền sử dụng đất trong hạn mức đối với hộ gia đình, cá nhân, tính

thuế sử dụng đất, tính phí và lệ phí trong quản lí, sử dụng đất… Còn “giá đất cụ

thể” được xác định trong những trường hợp cụ thể và được sử dụng làm căn cứ để

tính tiền sử dụng đất khi Nhà nước công nhận quyền sử dụng đất của hộ gia đình, cá

nhân đối với phần diện tích đất ở vượt hạn mức. Tính tiền sử dụng đất khi Nhà nước

giao đất có thu tiền sử dụng đất không thông qua hình thức đấu giá quyền sử dụng

đất. Đặc biệt, “giá đất cụ thể” này sẽ được sử dụng làm căn cứ để tính tiền bồi

thường khi Nhà nước thu hồi đất (khoản 4 Điều 114 LĐĐ năm 2013). Đây là điểm

mới và tiến bộ của LĐĐ năm 2013 so với LĐĐ năm 2003. LĐĐ năm 2003 quy định

khung giá đất chung để áp dụng cho nhiều mục đích khác nhau, trong đó có việc

xác định các nghĩa vụ tài chính của người sử dụng đất và tính tiền bồi thường khi

Nhà nước thu hồi đất. Đây là quy định chứa nhiều bất cập bởi các nghĩa vụ tài chính

như nộp tiền sử dụng đất, nộp thuế sử dụng đất, nộp lệ phí địa chính… là những

nghĩa vụ mà hầu hết người sử dụng đất đều phải thực hiện đối với Nhà nước trong

quá trình sử dụng đất. Trong khi đó, việc Nhà nước thu hồi đất và thực hiện bồi

thường chỉ thực hiện đối với một nhóm người sử dụng đất nhất định, ở những khu

vực quy hoạch để phục vụ cho quốc phòng an ninh hay phát triển đô thị hoặc xây

dựng các khu công nghiệp. Do vậy, việc thu hồi đất chỉ ảnh hưởng đến lợi ích của

một bộ phận người bị thu hồi đất, Nhà nước cần phải xác định giá đất bồi thường

như thế nào cho phù hợp để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của họ. Để khắc

phục sự bất cập về việc xác định giá đất bồi thường, trong LĐĐ năm 2003 đã quy

định Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh phải thường xuyên điều chỉnh bảng giá đất hàng năm

cho sát với giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất thực tế trên thị trường. Tuy nhiên,

giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất thực tế trên thị trường có những thời điểm

tăng cao khiến UBND tỉnh buộc phải điều chỉnh bảng giá đất hàng năm tăng theo.

Đồng nghĩa với việc nghĩa vụ tài chính về đất đai đối với nhà nước của người sử

34

dụng đất cũng tăng lên. Điều này sẽ ảnh hưởng lớn tới những người sử dụng đất có

thu nhập thấp ở khu vực đô thị hay người dân ở khu vực nông thôn. Bởi vì nghĩa vụ

tài chính về sử dụng đất lúc này quá cao so với mức thu nhập của họ. Ngược lại, giá

đất này được sử dụng để tính bồi thường thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất thì lại

không được người sử dụng đất chấp nhận, bởi vì khi họ bị thu hồi đất họ phải đối

mặt với việc phải thay đổi nơi ăn chốn ở, công việc của họ cũng có thể bị ảnh

hưởng, với số tiền bồi thường đó, người dân không thể nhận lại được một mảnh đất

có giá trị sử dụng tương ứng. Vì vậy, việc Nhà nước quy định một loại giá đất làm

cơ sở để thực hiện các nghĩa vụ tài chính và tính bồi thường khi Nhà nước thu hồi

đất là không hợp lí. LĐĐ năm 2013 đã khắc phục hạn chế này bằng cách quy định

hai loại giá đất, đó là giá đất theo “bảng giá đất” và “giá đất cụ thể”. Do tính chất ổn

định của bảng giá đất nên nó được sử dụng làm căn cứ để tính các nghĩa vụ tài

chính của người sử dụng đất. Còn “giá đất cụ thể” được xác định ở thời điểm nhất

định, dựa trên cơ sở điều tra, thu thập thông tin về thửa đất, giá đất thị trường và

thông tin về giá đất trong cơ sở dữ liệu đất đai. Giá đất cụ thể được xác định làm

căn cứ tính tiền bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất. Quy định này giúp cho giá đất

bồi thường sát thực và phù hợp với giá đất phổ biến trên thị trường, nhằm đảm bảo quyền lợi cho người bị thu hồi đất20.

Qui định bồi thường đối với đất nông nghiệp

Quy định về bồi thường đất nông nghiệp được quy định tại Điều 77, Điều 78

LĐĐ năm 2013 và Nghị định số 47/2014/NĐ-CP ngày 15/05/2014 Qui định về bồi

thường, hỗ trợ tái định cư khi nhà nước thu hồi đất như sau:

Thứ nhất, đối với hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất nông nghiệp khi

Nhà nước thu hồi đất thì được bồi thường về đất, chi phí đầu tư vào đất còn lại theo

quy định sau đây:

Diện tích đất nông nghiệp được bồi thường bao gồm diện tích trong hạn

20 Phạm Thu Thủy (2014), “Bồi thường hỗ trợ tái định cư khi nhà nước thu hồi đất theo LĐĐ 2013”,

Tạp chí luật học, đặc san 11/ 2014, Tr.57.

mức. Đối với diện tích đất nông nghiệp vượt hạn mức thì không được bồi thường về

35

đất nhưng được bồi thường chi phí đầu tư vào đất còn lại. Đối với diện tích đất nông

nghiệp do nhận chuyển quyền sử dụng đất vượt hạn mức trước ngày LĐĐ năm

2013 có hiệu lực thi hành thì việc bồi thường, hỗ trợ được thực hiện theo quy định

của Điều 4 Nghị định số 47/2014/NĐ-CP ngày 15/05/2014 Qui định về bồi thường,

hỗ trợ tái định cư khi nhà nước thu hồi đất. Đối với đất nông nghiệp đã sử dụng

trước ngày 1 tháng 7 năm 2004 mà người sử dụng đất là hộ gia đình, cá nhân trực

tiếp sản xuất nông nghiệp nhưng không có Giấy chứng nhận hoặc không đủ điều

kiện để được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài

sản khác gắn liền với đất theo quy định của LĐĐ năm 2013 thì được bồi thường đối

với diện tích đất thực tế đang sử dụng, diện tích được bồi thường không vượt quá

hạn mức giao đất nông nghiệp quy định tại Điều 129 của LĐĐ năm 2013

Thứ hai, đối với tổ chức kinh tế, tổ chức sự nghiệp công lập tự chủ tài chính,

cộng đồng dân cư, cơ sở tôn giáo.

Tổ chức kinh tế đang sử dụng đất nông nghiệp được Nhà nước giao đất có

thu tiền sử dụng đất, cho thuê đất trả tiền thuê đất một lần cho cả thời gian thuê,

nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất khi Nhà nước thu hồi đất, nếu có đủ điều

kiện được bồi thường quy định tại Điều 75 của LĐĐ năm 2013 thì được bồi thường

về đất; mức bồi thường về đất được xác định theo thời hạn sử dụng đất còn lại.

Tổ chức kinh tế, tổ chức sự nghiệp công lập tự chủ tài chính đang sử dụng đất

nông nghiệp được Nhà nước cho thuê trả tiền thuê đất hàng năm khi Nhà nước thu hồi

đất thì không được bồi thường về đất nhưng được bồi thường chi phí đầu tư vào đất còn

lại nếu chi phí này không có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước. Trường hợp đất nông

nghiệp không phải là đất rừng đặc dụng, đất rừng phòng hộ, đất rừng sản xuất là rừng tự

nhiên của tổ chức kinh tế đã giao khoán cho hộ gia đình, cá nhân theo quy định của pháp

luật khi Nhà nước thu hồi đất thì hộ gia đình, cá nhân nhận khoán không được bồi

thường về đất nhưng được bồi thường chi phí đầu tư vào đất còn lại.

Cộng đồng dân cư, cơ sở tôn giáo đang sử dụng đất nông nghiệp khi Nhà

nước thu hồi đất mà có đủ điều kiện được bồi thường quy định tại Điều 75 LĐĐ

năm 2013 thì được bồi thường về đất theo quy định của Điều 5 Nghị định số

47/2014/NĐ-CP ngày 15/05/2014 Qui định về bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi

Nhà nước thu hồi đất.

36

Qui định bồi thường với đất phi nông nghiệp

Thứ nhất, Quy định về bồi thường đất phi nông nghiệp không phải là đất ở

được quy định tại Điều 80 và Điều 81 LĐĐ năm 2013. Cụ thể như sau:

Một là, đối với hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất phi nông nghiệp không

phải là đất ở khi Nhà nước thu hồi đất, nếu có đủ điều kiện được bồi thường quy

định tại Điều 75 của LĐĐ năm 2013 thì được bồi thường bằng đất có cùng mục

đích sử dụng; trường hợp không có đất để bồi thường thì được bồi thường bằng tiền

theo thời hạn sử dụng đất còn lại đối với đất sử dụng có thời hạn. Hộ gia đình, cá

nhân đang sử dụng đất phi nông nghiệp không phải là đất ở được Nhà nước cho

thuê đất thu tiền thuê đất hàng năm; cho thuê đất trả tiền thuê đất một lần cho cả

thời gian thuê nhưng được miễn tiền thuê đất, khi Nhà nước thu hồi đất thì không

được bồi thường về đất nhưng được bồi thường chi phí đầu tư vào đất còn lại, trừ

trường hợp hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất do thực hiện chính sách đối với người

có công với cách mạng.

Hai là, đối với tổ chức kinh tế, tổ chức sự nghiệp công lập tự chủ tài chính,

cộng đồng dân cư, cơ sở tôn giáo, tín ngưỡng, người Việt Nam định cư ở nước

ngoài, tổ chức nước ngoài có chức năng ngoại giao, doanh nghiệp có vốn đầu tư

nước ngoài ở qui định bồi thường với đất phi nông nghiệp như sau:

Tổ chức kinh tế, người Việt Nam định cư ở nước ngoài đang sử dụng đất phi

nông nghiệp không phải là đất ở, đất nghĩa trang, nghĩa địa, khi Nhà nước thu hồi

đất, nếu có đủ điều kiện được bồi thường quy định tại Điều 75 LĐĐ năm 2013 thì

được bồi thường bằng đất có cùng mục đích sử dụng; trường hợp không có đất để

bồi thường thì được bồi thường bằng tiền theo thời hạn sử dụng đất còn lại.

Tổ chức kinh tế đang sử dụng đất được Nhà nước giao đất để làm nghĩa

trang, nghĩa địa quy định tại khoản 4 Điều 55 của LĐĐ năm 2013; doanh nghiệp

liên doanh sử dụng đất phi nông nghiệp không phải là đất ở do nhận góp vốn bằng

quyền sử dụng đất quy định tại Điều 184 của LĐĐ năm 2013 khi Nhà nước thu hồi

đất thì được bồi thường về đất theo quy định tại Điều 8 Nghị định số 47/2014/NĐ-

CP ngày 15/05/2014 Qui định về bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi nhà nước thu

hồi đất

37

Tổ chức kinh tế, tổ chức sự nghiệp công lập tự chủ tài chính, người Việt

Nam định cư ở nước ngoài, tổ chức nước ngoài có chức năng ngoại giao, doanh

nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đang sử dụng đất phi nông nghiệp được Nhà nước

cho thuê đất trả tiền thuê đất một lần cho cả thời gian thuê, khi Nhà nước thu hồi đất

nếu đủ điều kiện được bồi thường quy định tại Điều 75 của LĐĐ năm 2013 thì được

bồi thường về đất theo thời hạn sử dụng đất còn lại.

Tổ chức kinh tế, tổ chức sự nghiệp công lập tự chủ tài chính, người Việt Nam

định cư ở nước ngoài, tổ chức nước ngoài có chức năng ngoại giao, doanh nghiệp

có vốn đầu tư nước ngoài đang sử dụng đất phi nông nghiệp được Nhà nước cho

thuê đất trả tiền thuê đất hàng năm, khi Nhà nước thu hồi đất thì được bồi thường

chi phí đầu tư vào đất còn lại.

Ba là, cộng đồng dân cư, cơ sở tôn giáo, tín ngưỡng đang sử dụng đất phi

nông nghiệp, khi Nhà nước thu hồi đất mà có đủ điều kiện được bồi thường quy

định tại Điều 75 của LĐĐ 2013 thì được bồi thường về đất theo quy định tại Điều 5

Nghị định số 47/2014/NĐ-CP ngày 15/05/2014 Qui định về bồi thường, hỗ trợ tái

định cư khi Nhà nước thu hồi đất.

Thứ hai, việc bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất phi nông nghiệp là đất ở

được quy định tại Điều 79 LĐĐ năm 2013. Cụ thể như sau:

Một là, đối với hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất ở, người Việt Nam

định cư ở nước ngoài đang sở hữu nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất tại Việt

Nam mà có đủ điều kiện được bồi thường quy định tại Điều 75 LĐĐ năm 2013 khi

Nhà nước thu hồi đất thì được bồi thường thường bằng đất ở hoặc nhà ở hoặc bằng

tiền nếu không có nhu cầu bồi thường bằng đất ở hoặc nhà ở với trường hợp họ

không còn đất ở, nhà ở nào khác trong địa bàn xã, phường, thị trấn nơi có đất thu

hồi. Tuy nhiên, nếu họ còn đất ở, nhà ở trong địa bàn xã, phường, thị trấn nơi có đất

thu hồi thì được bồi thường bằng tiền. Đối với địa phương có điều kiện về quỹ đất ở

thì được xem xét để bồi thường bằng đất ở. Ngoài ra, hộ gia đình, cá nhân khi Nhà

nước thu hồi đất gắn liền với nhà ở phải di chuyển chỗ ở mà không đủ điều kiện

được bồi thường về đất ở, nếu không có chỗ ở nào khác thì được Nhà nước bán, cho

thuê, cho thuê mua nhà ở hoặc giao đất ở có thu tiền sử dụng đất.

38

Hai là, tổ chức kinh tế, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, doanh nghiệp

có vốn đầu tư nước ngoài đang sử dụng đất để thực hiện dự án xây dựng nhà ở khi

Nhà nước thu hồi đất, nếu có đủ điều kiện được bồi thường quy định tại Điều 75 của

LĐĐ năm 2013 thì được bồi thường về đất.

2.1.2.3 Nội dung các qui định bồi thường về tài sản trên đất khi Nhà nước thu hồi đất

Nguyên tắc bồi thường về tài sản trên đất

Tại Điều 88 LĐĐ năm 2013 quy định nguyên tắc bồi thường thiệt hại về tài

sản, ngừng sản xuất, kinh doanh khi Nhà nước thu hồi đất như sau:

Thứ nhất, khi Nhà nước thu hồi đất mà chủ sở hữu tài sản hợp pháp gắn liền

với đất bị thiệt hại về tài sản thì được bồi thường.

Thứ hai, khi Nhà nước thu hồi đất mà tổ chức, hộ gia đình, cá nhân, người

Việt Nam định cư ở nước ngoài, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài phải

ngừng sản xuất, kinh doanh mà có thiệt hại thì được bồi thường thiệt hại.

Đây là một điểm mới của LĐĐ năm 2013 so với LĐĐ năm 2003 khi quan

tâm tới việc bồi thường không chỉ đất và các tài sản hữu hình trên đất mà còn quan

tâm tới bồi thường những thiệt hại về tài sản vô hình là hệ quả để lại của việc thu

hồi đất, đó là việc các tổ chức, cá nhân có đất phải ngừng sản xuất kinh doanh khi bị

Nhà nước thu hồi đất. Vì đất là tư liệu sản xuất của người bị thu hồi đất nên ngoài

việc bồi thường giá trị như một tài sản còn phải bồi thường về thu nhập, sinh kế cho

người mất đất.

Qui định bồi thường thiệt hại đối với nhà ở, công trình xây dựng trên đất

Việc bồi thường thiệt hại về nhà ở, công trình xây dựng trên đất được quy

định tại Điều 89 LĐĐ năm 2013 như sau:

Thứ nhất, đối với nhà ở, công trình phục vụ sinh hoạt gắn liền với đất của hộ

gia đình, cá nhân, người Việt Nam định cư ở nước ngoài khi Nhà nước thu hồi đất

phải tháo dỡ toàn bộ hoặc một phần mà phần còn lại không bảo đảm tiêu chuẩn kỹ

thuật theo quy định của pháp luật thì chủ sở hữu nhà ở, công trình đó được bồi

thường bằng giá trị xây dựng mới của nhà ở, công trình có tiêu chuẩn kỹ thuật

tương đương. Nếu phần còn lại của nhà ở, công trình vẫn bảo đảm tiêu chuẩn kỹ

thuật theo quy định của pháp luật thì bồi thường theo thiệt hại thực tế.

39

Thứ hai, đối với nhà, công trình xây dựng khác gắn liền với đất không thuộc

trường hợp thứ nhất nêu trên, khi Nhà nước thu hồi đất mà bị tháo dỡ toàn bộ hoặc

một phần mà phần còn lại không bảo đảm tiêu chuẩn kỹ thuật theo quy định của

pháp luật thì được bồi thường thiệt hại theo quy định tại Điều 9 Nghị định số

47/2014/NĐ-CP ngày 15/05/2014 Qui định về bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi nhà

nước thu hồi đất.

Thứ ba, đối với công trình hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội gắn liền với đất

đang sử dụng không thuộc trường hợp thứ nhất và thứ hai nêu trên thì mức bồi

thường tính bằng giá trị xây dựng mới của công trình có tiêu chuẩn kỹ thuật tương đương theo quy định của pháp luật chuyên ngành.21

Đối với vật nuôi, cây trồng hoa màu trên đất

Thứ nhất, khi Nhà nước thu hồi đất mà gây thiệt hại đối với cây trồng thì

việc bồi thường thực hiện theo quy định sau đây:

Đối với cây hàng năm, mức bồi thường được tính bằng giá trị sản lượng của

vụ thu hoạch. Giá trị sản lượng của vụ thu hoạch được tính theo năng suất của vụ

cao nhất trong 3 năm trước liền kề của cây trồng chính tại địa phương và giá trung

bình tại thời điểm thu hồi đất. Đối với cây lâu năm, mức bồi thường được tính bằng

giá trị hiện có của vườn cây theo giá ở địa phương tại thời điểm thu hồi đất mà

không bao gồm giá trị quyền sử dụng đất. Đối với cây trồng chưa thu hoạch nhưng

có thể di chuyển đến địa điểm khác thì được bồi thường chi phí di chuyển và thiệt

hại thực tế do phải di chuyển, phải trồng lại. Đối với cây rừng trồng bằng nguồn

vốn ngân sách nhà nước, cây rừng tự nhiên giao cho tổ chức, hộ gia đình, cá nhân

trồng, quản lý, chăm sóc, bảo vệ thì bồi thường theo giá trị thiệt hại thực tế của

vườn cây; tiền bồi thường được phân chia cho người quản lý, chăm sóc, bảo vệ theo

quy định của pháp luật về bảo vệ và phát triển rừng.

Thứ hai, khi Nhà nước thu hồi đất mà gây thiệt hại đối với vật nuôi là thủy

sản thì việc bồi thường thực hiện theo quy định sau đây:

21 Điều 89 LĐĐ năm 2013

Đối với vật nuôi là thủy sản mà tại thời điểm thu hồi đất đã đến thời kỳ thu

40

hoạch thì không phải bồi thường. Đối với vật nuôi là thủy sản mà tại thời điểm thu hồi

đất chưa đến thời kỳ thu hoạch thì được bồi thường thiệt hại thực tế do phải thu hoạch

sớm; trường hợp có thể di chuyển được thì được bồi thường chi phí di chuyển và thiệt

hại do di chuyển gây ra; mức bồi thường cụ thể do UBND cấp tỉnh quy định.

2.1.3. Qui định về hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất

2.1.3.1 Nguyên tắc hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất

Nguyên tắc hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất là một điểm mới của LĐĐ năm

2013 so với LĐĐ năm 2003 và được quy định tại Khoản 1 Điều 83 LĐĐ năm 2013.

Cụ thể như sau:

Thứ nhất, người sử dụng đất khi Nhà nước thu hồi đất ngoài việc được bồi

thường theo quy định của LĐĐ năm 2013 còn được Nhà nước xem xét hỗ trợ.

Thứ hai, việc hỗ trợ phải bảo đảm khách quan, công bằng, kịp thời, công

khai và đúng quy định của pháp luật.

2.1.3.2 Các khoản hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất

Các khoản hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất được quy định cụ thể tại Khoản 2

Điêu 89 LĐĐ năm 2013. Theo đó bao gồm:

Thứ nhất, hỗ trợ ổn định đời sống và sản xuất.

Thứ hai, hỗ trợ đào tạo, chuyển đổi nghề và tìm kiếm việc làm đối với trường

hợp thu hồi đất nông nghiệp của hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông

nghiệp; thu hồi đất ở kết hợp kinh doanh dịch vụ của hộ gia đình, cá nhân mà phải

di chuyển chỗ ở.

Thứ ba, hỗ trợ tái định cư đối với trường hợp thu hồi đất ở của hộ gia đình,

cá nhân, người Việt Nam định cư ở nước ngoài mà phải di chuyển chỗ ở.

Thứ tư, hỗ trợ người đang thuê nhà ở không thuộc sở hữu Nhà nước.

Thứ năm, hỗ trợ khi thu hồi đất công ích của xã, phường, thị trấn.

Thứ sáu, hỗ trợ khác đối với người sử dụng đất khi Nhà nước thu hồi đất.

Ngoài việc hỗ trợ quy định nêu trên, căn cứ vào tình hình thực tế tại địa phương,

Chủ tịch UBND cấp tỉnh quyết định biện pháp hỗ trợ khác để bảo đảm có chỗ ở, ổn

định đời sống, sản xuất và công bằng đối với người có đất thu hồi; trường hợp hộ

gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp khi Nhà nước thu hồi đất nông

41

nghiệp mà không đủ điều kiện được bồi thường theo quy định tại Điều 75 của LĐĐ

năm 2013 thì UBND cấp tỉnh xem xét hỗ trợ cho phù hợp với thực tế của địa

phương; trường hợp đặc biệt trình Thủ tướng Chính phủ quyết định.

2.1.4. Qui định về tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất.

2.1.4.1 Lập và thực hiện dự án tái định cư

Việc lập và thực hiện dự án tái định cư được quy định tại Điều 85 LĐĐ năm

2013 và Điều 26 Nghị định số 47/2014/NĐ-CP ngày 15/05/2014 Qui định về bồi

thường, hỗ trợ tái định cư khi nhà nước thu hồi đất. Theo đó:

UBND cấp tỉnh, UBND cấp huyện có trách nhiệm tổ chức lập và thực hiện

dự án tái định cư trước khi thu hồi đất. Khu tái định cư tập trung phải xây dựng cơ

sở hạ tầng đồng bộ, bảo đảm tiêu chuẩn, quy chuẩn xây dựng, phù hợp với điều

kiện, phong tục, tập quán của từng vùng, miền. Việc thu hồi đất ở chỉ được thực

hiện sau khi hoàn thành xây dựng nhà ở hoặc cơ sở hạ tầng của khu tái định cư. Dự

án tái định cư được lập và phê duyệt độc lập với phương án bồi thường, hỗ trợ, tái

định cư nhưng phải bảo đảm có đất ở, nhà ở tái định cư trước khi cơ quan nhà nước

có thẩm quyền quyết định thu hồi đất. Việc lập dự án tái định cư, lựa chọn chủ đầu

tư thực hiện theo quy định của pháp luật về phát triển và quản lý nhà ở tái định cư

và phải bảo đảm các quy định tại Khoản 2 và Khoản 3 Điều 69 của LĐĐ năm 2013.

Khu tái định cư được lập cho một hoặc nhiều dự án; nhà ở, đất ở trong khu

tái định cư được bố trí theo nhiều cấp nhà, nhiều mức diện tích khác nhau phù hợp

với các mức bồi thường và khả năng chi trả của người được tái định cư. Đối với dự

án khu tái định cư tập trung có phân kỳ xây dựng theo các dự án thành phần thì tiến

độ thu hồi đất và hoàn thành xây dựng nhà ở hoặc cơ sở hạ tầng của khu tái định cư

được thực hiện theo tiến độ của từng dự án thành phần nhưng các công trình cơ sở

hạ tầng của từng dự án thành phần trong khu tái định cư phải bảo đảm kết nối theo

đúng quy hoạch chi tiết đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt.

2.1.4.2. Qui định bố trí tái định cư cho người có đất ở thu hồi mà phải di chuyển

chỗ ở.

Thứ nhất, tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng được

UBND cấp tỉnh, UBND cấp huyện giao trách nhiệm bố trí tái định cư phải thông

báo cho người có đất ở thu hồi thuộc đối tượng phải di chuyển chỗ ở về dự kiến

42

phương án bố trí tái định cư và niêm yết công khai ít nhất là 15 ngày tại trụ sở

UBND cấp xã, địa điểm sinh hoạt chung của khu dân cư nơi có đất thu hồi và tại

nơi tái định cư trước khi cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt phương án bố

trí tái định cư. Nội dung thông báo gồm địa điểm, quy mô quỹ đất, quỹ nhà tái định

cư, thiết kế, diện tích từng lô đất, căn hộ, giá đất, giá nhà tái định cư; dự kiến bố trí

tái định cư cho người có đất thu hồi.

Thứ hai, người có đất thu hồi được bố trí tái định cư tại chỗ nếu tại khu vực

thu hồi đất có dự án tái định cư hoặc có điều kiện bố trí tái định cư. Có sự ưu tiên vị

trí thuận lợi cho người có đất thu hồi sớm bàn giao mặt bằng, người có đất thu hồi

là người có công với cách mạng. Phương án bố trí tái định cư đã được phê duyệt

phải được công bố công khai tại trụ sở UBND cấp xã, địa điểm sinh hoạt chung của

khu dân cư nơi có đất thu hồi và tại nơi tái định cư.

Thứ ba, giá đất cụ thể tính thu tiền sử dụng đất tại nơi tái định cư, giá bán

nhà ở tái định cư do UBND cấp tỉnh quyết định.

Thứ tư, trường hợp người có đất thu hồi được bố trí tái định cư mà tiền bồi

thường, hỗ trợ không đủ để mua một suất tái định cư tối thiểu thì được Nhà nước hỗ

trợ tiền đủ để mua một suất tái định cư tối thiểu. Theo Điều 27 Nghị định số

47/2014/NĐ-CP ngày 15/05/2014 Qui định về bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi

nhà nước thu hồi đất thì suất tái định cư tối thiểu được quy định bằng đất ở, nhà ở

hoặc bằng nhà ở hoặc bằng tiền để phù hợp với việc lựa chọn của người được bố trí

tái định cư. Cụ thể được quy định như sau: nếu suất tái định cư tối thiểu được quy

định bằng đất ở, nhà ở thì diện tích đất ở tái định cư không nhỏ hơn diện tích tối

thiểu được phép tách thửa tại địa phương và diện tích nhà ở tái định cư không nhỏ

hơn diện tích căn hộ tối thiểu theo quy định của pháp luật về nhà ở. Còn nếu suất tái

định cư tối thiểu được quy định bằng nhà ở thì diện tích nhà ở tái định cư không nhỏ

hơn diện tích căn hộ tối thiểu theo quy định của pháp luật về nhà ở. Ngoài ra,

trường hợp suất tái định cư tối thiểu được tính bằng tiền thì khoản tiền cho suất tái

22 https://luatminhgia.com.vn/kien-thuc-dat-dai/ho-tro-va-tai-dinh-cu-khi-nha-nuoc-thu-hoi-dat-dai.aspx

định cư tối thiểu tương đương với giá trị một suất tái định cư tối thiểu bằng đất ở, nhà ở tại nơi bố trí tái định cư22.

43

2.1.5. Qui định các trường hợp đặc biệt về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà

nước thu hồi đất

Các trường hợp đặc biệt về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi

đất cũng là một qui định mới của LĐĐ năm 2013 so với LĐĐ năm 2003, được quy định

tại Điều 87 LĐĐ năm 2013. Tuy nhiên Điều luật này chủ yếu là luật hóa Điều 38 Nghị

định số 197/2004/NĐ-CP ngày 3 tháng 12 năm 2004 quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái

định cư mà đã phù hợp với thực tiễn. Theo đó các trường hợp đặc biệt đó là:

Thứ nhất, đối với dự án đầu tư do Quốc hội quyết định chủ trương đầu tư,

Thủ tướng Chính phủ chấp thuận chủ trương đầu tư mà phải di chuyển cả cộng

đồng dân cư, làm ảnh hưởng đến toàn bộ đời sống, kinh tế - xã hội, truyền thống

văn hóa của cộng đồng, các dự án thu hồi đất liên quan đến nhiều tỉnh, thành phố

trực thuộc trung ương thì Thủ tướng Chính phủ quyết định khung chính sách bồi

thường, hỗ trợ, tái định cư.

Thứ hai, đối với dự án sử dụng vốn vay của các tổ chức quốc tế, nước ngoài

mà Nhà nước Việt Nam có cam kết về khung chính sách bồi thường, hỗ trợ, tái định

cư thì thực hiện theo khung chính sách đó.

Thứ ba, đối với trường hợp thu hồi ở trong khu vực bị ô nhiễm môi trường

có nguy cơ đe dọa tính mạng con người; đất ở có nguy cơ sạt lở, sụt lún, bị ảnh

hưởng bởi hiện tượng thiên tai khác đe dọa tính mạng con người.

2.2. Thực tiễn thi hành pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà

nước thu hồi đất trên địa bàn Tỉnh Ninh Bình.

2.2.1. Khái quát về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của tỉnh Ninh Bình.

2.2.1.1. Về điều kiện tự nhiên

Ninh Bình nằm ở vị trí ranh giới 3 khu vực địa lý: Tây Bắc, châu thổ sông

Hồng và Bắc Trung Bộ. Tỉnh này cũng nằm giữa 3 vùng kinh tế: vùng Hà Nội, vùng

duyên hải Bắc Bộ và vùng duyên hải miền Trung. phía bắc giáp với Hòa Bình, Hà

Nam, phía đông giáp Nam Định qua sông Đáy, phía tây giáp Thanh Hóa, phía nam

giáp biển (vịnh Bắc Bộ). Trung tâm tỉnh là thành phố Ninh Bình cách thủ đô Hà Nội

93 km về phía nam. Kết quả thống kê đất đai năm 2010 của các xã, thị trấn, thành

phố trên địa bàn Tỉnh cho thấy, tính đến ngày 01/01/2010, tổng diện tích đất theo

44

địa giới hành chính của tỉnh là 1.400 km, dân số: 898.459 người (điều tra dân số

01/04/2009), mật độ dân số 642 người/km². Tỉnh Ninh Bình có 2 thành phố và 6

huyện (145 đơn vị hành chính cấp xã gồm 121 xã, 17 phường và 7 thị trấn).

Ở vị trí điểm mút của cạnh đáy tam giác châu thổ sông Hồng, Ninh Bình bao

gồm cả ba loại địa hình. Vùng đồi núi và bán sơn địa ở phía tây bắc bao gồm các

huyện Nho Quan, Gia Viễn, Hoa Lư, Tam Điệp. Vùng đồng bằng ven biển ở phía

đông nam thuộc 2 huyện Kim Sơn và Yên Khánh. Xen giữa 2 vùng lớn là vùng

chiêm trũng chuyển tiếp. Rừng ở Ninh Bình có đủ cả rừng sản xuất và rừng đặc

dụng các loại. Có 4 khu rừng đặc dụng gồm rừng Cúc Phương, rừng môi trường

Vân Long, rừng văn hóa lịch sử môi trường Hoa Lư và rừng phòng hộ ven biển Kim

Sơn. Khu rừng đặc dụng Hoa Lư - Tràng An đã được UNESCO công nhận là di sản

thế giới thuộc quần thể danh thắng Tràng An. Ninh Bình có bờ biển dài 18 km. Bờ

biển Ninh Bình hàng năm được phù sa bồi đắp lấn ra trên 100m. Vùng ven biển và

biển Ninh Bình đã được UNESCO công nhận là khu dự trữ sinh quyển thế giới. Hiện có 2 đảo thuộc Ninh Bình là đảo Cồn Nổi và Cồn Mờ. 23

2.2.1.2. Về điều kiện kinh tế- xã hội

Ninh Bình có vị trí quan trọng của vùng cửa ngõ miền Bắc và vùng kinh tế

trọng điểm phía Bắc. Đây là nơi tiếp nối giao lưu kinh tế và văn hóa giữa khu vực

châu thổ sông Hồng với Bắc Trung Bộ, giữa vùng đồng bằng Bắc Bộ với vùng rừng

núi Tây Bắc. Thế mạnh kinh tế nổi bật của Ninh Bình là các ngành công nghiệp vật

liệu xây dựng và du lịch.

Trong những năm gần đây kinh tế Ninh Bình liên tục tăng trưởng ở mức 2 con số, Năm 2015 chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh xếp thứ 30/6324, liên tục nằm

trong nhóm tỉnh đứng đầu miền Bắc. Ninh Bình là một trong những tỉnh thu hút vốn

đầu tư nước ngoài lớn của Việt Nam; tổng thu ngân sách nhà nước trên địa bàn tỉnh

23 https://vi.wikipedia.org/wiki/Ninh_B%C3%ACnh#V.E1.BB.8B_tr.C3.AD – Vị trí địa lí, địa hình,

hành chính của Tỉnh Ninh Bình.

http://baoninhbinh.org.vn/nam-2015-chi-so-pci-cua-ninh-binh-xep-hang-3063-tinh-thanh-pho-

24

20160331030247909p2c20.htm

năm 2015 đạt trên 4.368 tỷ đồng, vượt 35,7% so với dự toán HĐND tỉnh giao, tăng

45

trưởng 38,6% so với cùng kỳ25 . trong khi diện tích và dân số tỉnh chỉ đứng thứ

56/63 và 43/63. Cơ cấu kinh tế trong GDP trong năm 2014: Về cơ cấu kinh tế trong

GDP: công nghiệp - xây dựng chiếm 46%; nông, lâm nghiệp, thuỷ sản 14%; dịch vụ chiếm 40%.26

2.2.2. Nội dung các quy định hiện hành của Ủy ban nhân dân tỉnh Ninh Bình về

tổ chức thi hành pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất.

Công tác bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất đóng vai trò quan trọng trong

quá trình giải phóng mặt bằng, vì vậy để thống nhất công tác bồi thường thu hồi đất,

UBND Tỉnh Ninh Bình đã ban hành một số văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh

vấn đề này như: quyết định số 953/QĐ-UBND ngày 15 tháng 09 năm 2015 phê

duyệt báo cáo kinh tế- kỹ thuật công trình xây dựng cơ sở hạ tầng khu tái định cư

phục vụ GPMB dự án tuyến đường kết nối cao tốc Cầu giẽ - Ninh Bình với quốc lộ

1A tại xã Ninh Phúc, thành phố Ninh Bình; quyết định số 26/2014/QĐ-UBND ngày

19 tháng 9 năm 2014 của UBND tỉnh Ninh Bình về việc ban hành quy định một số

chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn

tỉnh Ninh Bình; Quyết định số 37/2014/QĐ-UBND ngày 26 tháng 12 năm 2014 của

UBND tỉnh Ninh Bình về việc ban hành bảng giá các loại đất giai đoạn 2015-2019

trên địa bàn tỉnh Ninh Bình; Quyết định số 09/2016/QĐ-UBND ngày 13 tháng 04

năm 2016 về việc sửa đổi bổ sung một số điều tại bản quy định một số chính sách

bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn tỉnh Ninh

Bình ban hành kèm theo Quyết định số 26/2014/QĐ-UBND ngày 19/09/2014 của

UBND tỉnh Ninh Bình. Các quyết định của UBND tỉnh đã dựa trên cơ sở các quy

định của LĐĐ năm 2013 và các nghị quyết hướng dẫn thi hành LĐĐ năm 2013

đồng thời quy định cụ thể hơn về các chính sách bồi thường đối với các đối tượng bị

thu hồi đất trên địa bàn tỉnh Ninh Bình. Đặc biệt là quy định cụ về giá đất bồi

25

http://nbtv.vn/tin-tuc-su-kien/ninh-binh-24h/thoi-su-chinh-tri/201601/tong-thu-ngan-sach-nam-

2015-tren-dia-ban-tinh-ninh-binh-dat-tren-4368-ty-dong-656889

26 http://baoninhbinh.org.vn/bao-cao-tinh-hinh-ktxh-nam-2014-muc-tieu-va-cac-nhiem-vu-chu-yeu-

cua-nam-2015-20141216084442597p12c92.htm

thường cho từng loại đất, trên từng địa bàn khác nhau thuộc tỉnh Ninh Bình. Đây

46

cũng chính là căn cứ giúp cho các cán bộ thực hiện công tác GPMB nắm được và áp

dụng các chính sách, quy định pháp luật về vấn đề bồi thường dễ dàng hơn. Cụ thể

các Quyết định của UBND tỉnh Ninh Bình về tổ chức thi hành quy định bồi thường

khi Nhà nước thu hồi đất có những nội dung cơ bản như sau:

Thứ nhất, về nguyên tắc thực hiện, công tác bồi thường, hỗ trợ và tái định cư

khi Nhà nước thu hồi đất để GPMB trên tỉnh Ninh Bình thực hiện theo nguyên tắc

công khai, dân chủ đúng quy định của Pháp luật, chính sách hiện hành của Nhà

nước, các quy định của UBND tỉnh.

Thứ hai, một số quy định bổ sung về chính sách khi nhà nước thu hồi đất

như: đối với hộ gia đình thuộc trường hợp được bồi thường theo quy định của pháp

luật mà trong hộ có nhiều thế hệ, nhiều cặp vợ chồng cùng chung sống trên một

thửa đất ở thu hồi nếu đủ điều kiện để tách thành từng hộ gia đình riêng theo quy

định của pháp luật về cư trú hoặc có nhiều hộ gia đình có chung quyền sử dụng một

thửa đất ở bị thu hồi thì được giao mỗi cặp vợ chồng hoặc mỗi hộ gia đình một suất

tái định cư tối thiểu và phải thực hiện nghĩa vụ tài chính theo quy định của pháp

luật. Đối với việc bồi thường thiệt hại do hạn chế khả năng sử dụng đất, thiệt hại tài

sản khác gắn liền với đất đối với đất thuộc hành lang an toàn khi xây dựng công

trình có hành lang bảo vệ trong trường hợp không làm thay đổi mục đích sử dụng

đất, đối với công trình đường dây dẫn điện trên không có điện áp từ 110 KV đến

220 KV được quy định như sau:

Một là, đất ở; đất vườn, ao không được công nhận là đất ở trong cùng thửa

đất có nhà ở hợp pháp trong hành lang bảo vệ an toàn bị hạn chế khả năng sử dụng

đất thì chủ sử dụng đất được bồi thường một lần do hạn chế khả năng sử dụng đất

với mức bằng 50% mức bồi thường đối với trường hợp khi Nhà nước thu hồi đất.

Người được bồi thường không được bố trí tái định cư. Trường hợp người sử dụng

thửa đất nằm dưới hành lang bảo vệ an toàn tự tìm được đất ở mới và có nguyện

vọng di chuyển khỏi hành lang bảo vệ an toàn mới mà tự thực hiện việc di chuyển

thì được bồi thường về đất và tài sản gắn liền với đất theo quy định đối với trường

hợp khi Nhà nước thu hồi đất và còn được hỗ trợ chi phí di chuyển tài sản.

47

Hai là, đất trồng cây lâu năm, đất rừng sản xuất trong hành lang bảo vệ an

toàn bị hạn chế khả năng sử dụng thì chủ sử dụng đất được bồi thường một lần do

hạn chế khả năng sử dụng đất với mức bằng 30% mức bồi thường khi Nhà nước thu

hồi đất trồng cây lâu năm, đất rừng sản xuất.

Ba là, đối với nhà ở, công trình phục vụ sinh hoạt của hộ gia đình, cá nhân

xây dựng trên đất hợp pháp được bồi thường một lần do hạn chế khả năng sử dụng

đất và ảnh hưởng trong sinh hoạt như sau: nếu nhà ở, công trình phục vụ sinh hoạt

có một phần hoặc toàn bộ diện tích nằm trong hành lang bảo vệ an toàn được xây

dựng trước ngày thông báo thực hiện dự án công trình được cấp có thẩm quyền phê

duyệt thì được bồi thường đối với diện tích trong hành lang an toàn với mức 50%

mức bồi thường giá trị của nhà, công trình tương đương. Trường hợp nhà ở, công

trình phục vụ sinh hoạt bị phá dỡ một phần mà phần còn lại vẫn tồn tại, sử dụng

được và đáp ứng các điều kiện quy định thì được bồi thường phần giá trị bị phá dỡ

và chi phí cải tạo hoàn thiện lại công trình theo tiêu chuẩn kỹ thuật tương đương của

nhà ở, công trình trước khi bị phá dỡ.

Bốn là, đối với tài sản là cây có trước khi thông báo thực hiện dự án công

trình trên đất đủ điều kiện bồi thường về đất trong hành lang bảo vệ an toàn do hạn

chế khả năng sử dụng đất thì được bồi thường một lần với mức bồi thường như sau:

trường hợp cây phải chặt bỏ thì được bồi thường theo quy định hiện hành. Trường

hợp cây không phải chặt bỏ thì được bồi thường với mức 80% mức bồi thường cây

bị chặt bỏ. Đối với cây cối, hoa màu trồng trên đất sử dụng không hợp pháp được

hỗ trợ công chặt hạ, di chuyển, mức hỗ trờ bằng 80% mức bồi thường theo quy

định, trường hợp trồng sau khi có thông báo thì phải chịu mọi chi phí.

Ngoài ra, UBND tỉnh còn quy định mức giá đối với việc bồi thường về di chuyển

mồ mả như sau: mộ chưa được cải táng có thời gian hung táng dưới một năm là

20.000.000 đồng/1 mộ; mộ chưa cải táng có thời gian hung táng từ đủ 1 năm đến dưới

hai năm là 15.000.000/1 mộ; mộ chưa cải táng có thời gian hung táng từ đủ 2 năm đến

đủ 3 năm là 10.000.000 đồng/1 mộ; mộ chưa được cải táng có thời gian hung táng trên

03 (ba) năm là: 7.000.000 đồng/mộ; mộ đã được cải táng là: 3.000.000 đồng/1 mộ.

48

Về mức hỗ trợ, thời gian hỗ trợ và chi trả hỗ trợ ổn định đời sống và sản xuất

khi Nhà nước có thu hồi đất được quy định như sau: hộ gia đình, cá nhân thuộc đối

tượng được hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp thì được hỗ trợ như sau:

thu hồi từ 30% đến 70% diện tích đất nông nghiệp đang sử dụng thì được hỗ trợ

trong thời gian 6 tháng nếu không phải di chuyển chỗ ở và trong thời gian 12 tháng

nếu phải di chuyển chỗ ở. Người bị thu hồi đất ở phải di chuyển chỗ ở đến nơi mới

mà không còn chỗ ở nào khác thì trong thời gian chờ tạo lập chỗ ở mới được bố trí

nhà ở tạm thời hoặc được hỗ trợ tiền thuê nhà ở là 06 tháng với mức 2.000.000

đồng/1 tháng. Trường hợp phải di chuyển đến các địa bàn có điều kiện kinh tế - xã

hội khó khăn hoặc có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn thì thời gian hỗ

trợ là 24 tháng. Thu hồi trên 70% diện tích đất nông nghiệp đang sử dụng thì được

hỗ trợ 12 tháng cho trường hợp không phải di chuyển chỗ ở và 24 tháng cho trường

hợp phải di chuyển chỗ ở; trường hợp phải di chuyển chỗ ở đến địa bàn có điều kiện

kinh tế - xã hội khó khăn hoặc có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn thì hỗ

trợ 36 tháng. Mức hỗ trợ cho một nhân khẩu của hộ gia đình, cá nhân được tính

bằng tiền tương đương với 30kg gạo/tháng theo giá trung bình do cơ quan nhà nước

có thẩm quyền quy định tại thời điểm hỗ trợ. Đối với tổ chức kinh tế, hộ gia đình, cá

nhân sản xuất, kinh doanh, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thì được hỗ trợ

ổn định sản xuất bằng tiền với mức cao nhất bằng 30% một năm thu nhập sau thuế,

theo mức thu nhập bình quân của 03 năm liền kề trước đó. Người lao động do tổ

chức kinh tế, hộ gia đình, cá nhân sản xuất, kinh doanh, doanh nghiệp có vốn đầu tư

nước ngoài thuộc đối tượng thuê lao động theo hợp đồng lao động thì được áp dụng

hỗ trợ chế độ trợ cấp ngừng việc theo quy định của pháp luật về lao động nhưng

thời gian trợ cấp không quá 6 tháng.

Mức hỗ trợ đào tạo, chuyển đổi nghề và tìm kiếm việc làm đối với trường

hợp Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp của hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất

nông nghiệp. Hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp khi Nhà nước thu

hồi đất nông nghiệp mà không có đất để bồi thường thì ngoài việc được bồi thường

bằng tiền theo quy định còn được hỗ trợ đào tạo chuyển đổi nghề và tìm kiếm việc

làm với mức hỗ trợ tiền bằng 02 lần giá đất nông nghiệp (cùng loại trong Bảng giá

49

đất của UBND tỉnh quy định tại địa bàn) đối với toàn bộ diện tích đất nông nghiệp

bị thu hồi của hộ gia đình, cá nhân nhưng không vượt quá hạn mức giao đất nông

nghiệp tại địa phương.

Ngoài ra, về hỗ trợ đào tạo, chuyển đổi nghề và tìm kiếm việc làm đối với

trường hợp Nhà nước thu hồi đất ở kết hợp kinh doanh, dịch vụ của hộ gia đình, cá

nhân mà phải di chuyển chỗ ở. Nếu địa phương có điều kiện về quỹ đất thì thực

hiện bồi thường bằng quỹ đất có vị trí tương đương, có thể kết hợp với kinh doanh

dịch vụ. Trường hợp này không phải thực hiện hỗ trợ đào tạo, chuyển đổi nghề và

tìm kiếm việc làm cho người bị thu hồi đất. Trường hợp địa phương không còn quỹ

đất đáp ứng được điều kiện theo quy định pháp luật thì hỗ trợ đào tạo, chuyển đổi

nghề và tìm kiếm việc làm cho người bị thu hồi đất với mức tương đương 30kg

gạo/khẩu/tháng trong thời gian 12 tháng theo giá trị tại thời điểm thu hồi đất

Qui định suất tái định cư tối thiểu bằng đất ở, bằng nhà ở và bằng tiền để làm

cơ sở thực hiện hỗ trợ tái định cư. Suất tái định cư tối thiểu bằng đất ở như sau: tại các phường, thị trấn là 60 m2, tại các xã là 80 m2. Suất tái định cư tối thiểu bằng nhà ở. Tại các phường, thị trấn là 60 m2 sàn sử dụng, tại các xã là: 80 m2 sàn sử dụng.

Suất tái định cư tối thiểu bằng tiền tại các phường, thị trấn: giá trị một suất tái định cư tối thiểu = Giá giao đất tại vị trí tái định cư x 60 m2, tại các xã: giá trị một suất tái định cư tối thiểu = Giá giao đất tại vị trí tái định cư x 80 m2.

Đối với trường hợp đất nhận khoán để sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp,

nuôi trồng thủy sản, làm muối quy định tại điểm d Khoản 1 Điều 76 LĐĐ năm 2013

mà không có hồ sơ, chứng từ chứng minh chi phí đã đầu tư vào đất, mức bồi thường

chi phí đầu tư còn lại vào đất bằng 30% giá đất bồi thường cho loại đất cùng mục

đích sử dụng tại thời điểm thu hồi đất.

2.2.3. Đánh giá thực tiễn thi hành pháp luật bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi

Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn Tỉnh Ninh Bình.

Để đánh giá thực tiễn thi hành pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi

đất trên địa bàn Tỉnh Ninh Bình, tác giả đi vào nghiên cứu công tác bồi thường, hỗ

trợ tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất của các dự án trong địa bàn tỉnh:

50

Dự án thứ nhất: Dự án xây dựng tuyến đường kết nối giữa đường cao tốc

Cầu Giẽ - Ninh Bình với Quốc lộ 1 (giai đoạn II) .

Dự án này đi qua địa bàn thành phố Ninh Bình và 3 huyện với tổng diện tích

đất phải thu hồi trên 42 ha, tổng số hộ bị ảnh hưởng là trên 1.000 hộ và gần 200 hộ

phải tái định cư. Cụ thể như sau:

Tại huyện Yên Khánh, dự án cắt qua địa bàn khu dân cư xã Khánh Hòa với

chiều dài 3,2km tuyến chính, 1km tuyến nhánh kết nối với đường vành đai Cầu

Vòm – Ninh Phúc, có phạm vi ảnh hưởng lớn, cụ thể như sau: tổng số hộ bị ảnh

hưởng là 625 hộ, tổng diện tích đất phải thu hồi là 21 ha. Trong đó, tổng số hộ có

nhà cửa, vật kiến trúc bị ảnh hưởng là 139 hộ, số hộ có đất nông nghiệp phải thu hồi

là 486 hộ; tổng số mồ mả mà phải di chuyển là 38 mộ; khu tái định cư và các công

trình công cộng bị ảnh hưởng bao gồm 2 khu tái định cư, 2 nghĩa trang, 1 nhà văn

hóa, 1 sân vận động, đường xóm Rậm, hệ thống kênh trục nội đồng. UBND huyện

đã chỉ đạo Hội đồng bồi thường GPMB chủ trì phối hợp với các phòng, ban chuyên

môn và UBND xã Khánh Hòa thực hiện đầy đủ các trình tự, thủ tục theo quy định.

Đến 10/3/ 2015 và 30/9/2015 đã hoàn thành và ra quyết định thu hồi đất; lập, thẩm

định và phê duyệt xong phương án bồi thường GPMB cho 625 hộ bị ảnh hưởng

trong phạm vi: cầu vượt QL.10; 3,2km tuyến chính, 1 km tuyến nhánh; 2 khu tái

định cư; sân vận động; nghĩa trang Đồng Bụt, nghĩa trang Đồng Tráng. Hội đồng

bồi thường GPMB đã tiến hành chi trả xong tiền bồi thường, hỗ trợ GPMB cho 635

hộ bị ảnh hưởng. 100% các hộ bị ảnh hưởng đã nhận tiền bồi thường, di rời nhà

cửa, vật kiến trúc, mồ mả…để bàn giao mặt bằng cho hội Đồng bồi thường GPMB.

Ngày 19/5/ 2015 Hội đồng bồi thường GPMB đã bàn giao mặt bằng sạch cho chủ

đầu tư và nhà thầu tổ chức lễ khởi công thi công cầu vượt QL 10. Ngày 30/10/2015

27 Báo cáo số 70 /BC- UBND ngày 22 tháng 3 năm 2016 về tiến độ thực hiện GPMB tuyến kết nối

Cao tốc Cầu Giẽ -Ninh Bình với Quốc lộ 1A, đoạn qua huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình đến ngày

22/03./2016

đã bàn giao mặt bằng sạch 3,2/3,2 km (đạt 100%) cho chủ đầu tư và nhà thầu triển khai thi công.27

51

Tại huyện Hoa Lư, dự án thành phần đầu tư xây dựng tuyến đường kết nối

giữa đường cao tốc Cầu Giẽ - Ninh Bình với quốc lộ 1 (giai đoạn 2) đi qua địa bàn

xã Ninh An, huyện Hoa Lư có chiều dài khoảng 1,7km có điểm đầu tại cầu Thịnh

Hội (Sông Vạc) điểm cuối cầu Quán Vinh (Sông Vó). Ngày 31/8/ 2015 UBND

huyện đã giao các phòng ban chức năng của huyện phối hợp với UBND xã Ninh An

nhận mốc GPMB bổ sung từ chủ đầu tư. Đối với đất nông nghiệp thì đã thực hiện

xong công tác bồi thường, hỗ trợ GPMB trên phần đất nông nghiệp (thuộc phạm vi

theo mốc GPMB chủ đầu tư đã thực hiện bàn giao giai đoạn 1) với tổng số tiền chi

trả 7.441.450.000 (bao gồm tiền bồi thường về đất, hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp

việc làm, hỗ trợ ổn định đời sống) của 157 hộ gia đình và phần đất nông nghiệp thuộc quỹ đất công ích của xã với tổng diện tích 48.220m2; ngày 09/6/2015 trung

tâm phát triển quỹ đất huyện phối hợp với các phòng ban chuyên môn thực hiện bàn

giao mặt bằng trên phần đất nông nghiệp cho chủ đầu tư với chiều dài tuyến đã bàn

giao khoảng 1,4km. Về công tác GPMB đã bàn giao giai đoạn 1, tổng số tổ chức, cá

nhân có đất, tài sản, vật kiến trúc bị ảnh hưởng bởi dự án là 35 hộ, tổ chức cá nhân

trong đó số hộ gia đình có đất thổ cư và tài sản vật kiến trúc bị thu hồi là 17 hộ gia đình với diện tích đất ở là 3.569,9m2, đất vườn ao là 370 m2; Số hộ gia đình có đất thổ cư bị thu hồi (không có tài sản) là 5 hộ gia đình với diện tích đất ở 642 m2; số tổ chức, cá nhân có tài sản, vật kiến trúc (không có đất) là 13 tổ chức, cá nhân28.

Tại huyện Yên Mô, tuyến đường kết nối giữa đường cao tốc Cầu Giẽ- Ninh

Bình với Quốc lộ 1 qua địa phận huyện Yên Mô có tổng chiều dài 2,85km trong đó

xã Khánh Thượng 1,15km, xã Mai Sơn 1,7km. Tiến độ GPMB như sau: đoạn qua

xã Khánh Thượng đã được phê duyệt phương án, chi trả tiền bồi thường, hỗ trợ và

bàn giao cho chủ đầu tư ngày 26/8/2015; đoạn qua xã Mai Sơn do có sự điều chỉnh

hướng tuyến nút giao với ĐT477, ngày 13/07/2015 UBND huyện nhận bàn giao bổ

28 Báo cáo số 173/BC-UBND của UBND huyện Hoa Lư ngày 15 tháng 9 năm 2015 về tình hình

triển khai công tác GPMB thực hiện Dự án thành phần đầu tư xây dựng tuyến đường kết nối giữa đường cao

tốc cầu Giẽ - Ninh Bình với quốc lộ 1 (giai đoạn 2) trên địa bàn xã Ninh An, huyện Hoa Lư đến ngày

14/9/2015.

sung cùng với biên bản giao cọc mốc điều chỉnh. Đến nay đã hoàn thiện công tác

52

kiểm đếm, xây dựng phương án bồi thường, hỗ trợ đối với các công trình bị ảnh

hưởng trực tiếp bở dự án này. Ban giải phóng mặt bằng hiện đang rà soát hồ sơ địa

chính, kiểm tra thực địa các công trình, nhà cửa, đất sản xuất nông nghiệp bị ảnh

hưởng gián tiếp (như không có đường đi, không đủ điều kiện sản xuất nông nghiệp, kinh doanh… khi dự án hoàn thành)29.

Trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo, cấp uỷ, chính quyền đã bám sát chủ

trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, huy động cả hệ

thống chính trị từ huyện đến cơ sở tham gia tuyên truyền vận động nhân dân thực

hiện bồi thường, giải phóng mặt bằng, thu hồi đất được huyện coi là nhiệm vụ trọng

tâm, thường xuyên của các cấp, các ngành… Từ quan điểm đó, nhân dân bị thu hồi

đất được cung cấp mọi thông tin về các dự án và về công tác giải phóng mặt bằng

của dự án. Người dân được tham gia cùng hội đồng đền bù giải phóng mặt bằng của

huyện để phân loại nguồn gốc đất đai, kê khai tài sản, vật kiến trúc, cây cối, hoa

màu... có sự giám sát của MTTQ, các đoàn thể, tổ chức chính trị - xã hội các cấp.

Quá trình lập hồ sơ thu hồi đất, lập phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư giải

phóng mặt bằng cũng được thực hiện công khai, dân chủ, tôn trọng ý kiến của nhân

dân. Việc kiểm đếm được giám sát chặt chẽ, chi tiết; bản dự thảo áp giá đền bù

được thực hiện công khai, gửi xuống từng hộ để các hộ xem và ký xác nhận. Khi có

kiến nghị, thắc mắc, các thành viên của tổ công tác giải phóng mặt bằng đến từng

gia đình để tiếp thu, đối thoại, giải đáp kịp thời. Bên cạnh đó, các lực lượng tham

gia giải phóng mặt bằng phải bám sát địa bàn, nắm bắt kịp thời tâm tư, nguyện vọng

của nhân dân, thực hiện tốt công tác dân vận. Coi trọng công tác tuyên truyền, vận

động trước, trong và sau giải phóng mặt bằng, lắng nghe ý kiến, kiến nghị của nhân

dân, giải quyết triệt để những phát sinh ngay từ cơ sở. Đối với những nội dung vượt

quá thẩm quyền giải quyết của hội đồng giải phóng mặt bằng, các đồng chí lãnh đạo

UBND huyện đã chủ trì, tổ chức các buổi đối thoại trực tiếp với nhân dân, lắng

29 Công văn số 1258/UBND-CT về việc thực hiện công tác GPMB dự án xây dựng tuyến đường kết

nối giữa đường cao tốc cầu Giẽ- Ninh bình với Quốc lộ 1 (giai đoạn 2)

nghe, tiếp thu ý kiến của nhân dân để có giải pháp chỉ đạo, từng bước tháo gỡ khó

53

khăn. Nhờ vậy, việc bàn giao mặt bằng cho đơn vị thi công được bảo đảm đúng tiến độ, đồng thời đảm bảo lợi ích của nhân dân.30

Dự án thứ hai: Dự án nạo vét xây kè bảo tồn cảnh quan sông Sào Kê trên địa

bàn Huyện Hoa Lư

Dự án nạo vét, xây kè bảo tồn cảnh quan sông Sào Khê thuộc Khu di tích

lịch sử văn hóa Cố đô Hoa Lư với tổng mức đầu tư trên 2.590 tỷ đồng, thời gian

thực hiện từ năm 2005 - 2016. Về tình hình thực hiện công tác giải phóng mặt bằng:

Tổng diện tích cần thu hồi phục vụ thi công dự án là trên 176 ha, đã thu hồi được

trên 101 ha, nhưng chưa đáp ứng được yêu cầu tiến độ thực hiện dự án. Thực hiện

Thông báo số 74/TB-UBND ngày 24/12/2015 của UBND tỉnh, Ban quản lý dự án

đã phối hợp với các địa phương và đơn vị liên quan thực hiện xong việc nghiệm thu

khối lượng đã thi công; phối hợp với huyện Hoa Lư thống kê lại toàn bộ diện tích

phải GPMB và các hộ phải di chuyển ra khu tái định cư; thực hiện hoàn ứng kinh

phí GPMB trong tháng 3 năm 2016. Về việc GPMB của dự án tại huyện Hoa Lư

vẫn còn một số tồn tại như đoạn từ cầu Hội đến cửa hang Luồn còn tồn tại 26 hộ gia

đình thuộc phạm vi GPMB nhưng đến nay chưa thực hiện xong tháo dỡ, bàn giao

mặt bằng với các lí do cụ thể như:

Có 15 hộ gia đình (bao gồm cả các hộ sống chung cùng một thửa đất) đã được thu

hồi đất tại Quyết định số 629/QĐ-UBND ngày 17/12/2007 của UBND huyện Hoa Lư,

tuy nhiên đến năm 2009 và năm 2010 mới được phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ

GPMB tại các Quyết định số 508/QĐ-UBND ngày 11/08/2009; 714/QĐ-UBND ngày

30/09/2009; 208/QĐ-UBND ngày 22/03/2010 của UBND huyện Hoa Lư với tổng số

tiền 7.933 triệu đồng trong đó bồi thường về đất 4.774 triệu đồng (giá đất bồi thường từ 450.000 đến 600.000 đ/m2), bồi thường, hỗ trợ về tài sản, vật kiến trúc 3.159 triệu đồng.

Năm 2013 khi bố trí được nguồn kinh phí, Hội đồng GPMB huyện Hoa Lư tiến hành chi

trả cho các hộ dân nhưng các hộ dân không đồng ý nhận tiền bồi thường, hỗ trợ GPMB

với các lí do: đơn giá bồi thường hỗ trợ, GPMB theo các Quyết định phê duyệt năm 2009

30 http://en.baoninhbinh.org.vn/yen-khanh-thyc-hien-tot-quy-che-dan-chu-o-co-so-20160125101852396p12c18.htm

và năm 2010 là thấp và không còn phù hợp với thời điểm chi trả; các hộ dân vẫn còn

54

kiến nghị về nguồn gốc đất, diện tích đất hợp pháp và đất không hợp pháp, nhất là đối

với đất ở ven sông, ven núi.

Có 11 hộ gia đình (bao gồm cả các hộ sống chung cùng một thửa đất) nằm

xen kẽ trong khu vực nghĩa trang Hạng Châu đã được thu hồi đất tại Quyết định số

738/QĐ-UBND ngày 13/10/2009 của UBND huyện Hoa Lư nhưng chưa tổ chức

kiểm đếm vì chờ phương án di chuyển 2.500 ngôi mộ tại nghĩa trang Hạng Châu đến nghĩa trang Áng Cao31.

Mức giá bồi thường về đất của các dự án trên được tính theo bảng giá đất ban

hành kèm theo Quyết định số 37/2014/QĐ-UBND Ninh Bình, ngày 26 tháng 12 năm

2014 ban hành bảng giá các loại đất giai đoạn 2015-2019 trên địa bàn tỉnh Ninh Bình.

Qua việc tìm hiểu, nghiên cứu việc bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà

nước thu hồi đất để giải phóng mặt bằng của các công trình trên đã được hội đồng

bồi thường thực hiện nghiêm túc, đúng theo quy định của Nhà nước cũng như quy

định của UBND tỉnh Ninh Bình. Song bên cạnh đó, việc thi hành pháp luật về bồi

thường khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn Tỉnh Ninh Bình còn gặp một số vướng

mắc. Sau đây, tác giả xin trình bày cụ thể những kết quả đạt được và những tồn tại

vướng mắc trong quá trình thực thi pháp luật.

2.2.3.1. Những kết quả đạt được trong thực tiễn áp dụng pháp luật về bồi thường,

hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn Tỉnh Ninh Bình.

Trên thực tế về công tác bồi thường, GPMB được triển khai ở các dự án đã

cho ta thấy một cách nhìn tổng quan về công tác bồi thường, GPMB khi Nhà nước

thu hồi đất trên địa bàn thành phố Ninh Bình. Có thể nói thành phố Ninh Bình đã

thực hiện khá tốt về công tác bồi thường, đảm bảo nguyên tắc công bằng lợi ích cho

người dân, thực hiện trên tinh thần dân chủ, công khai.

Việc thực hiện các nội dung xung quanh vấn đề bồi thường GPMB khi Nhà

31 Báo cáo số 322/BC-UBND ngày 30 tháng 12 năm 2015 của UBND huyện Hoa Lư về kết quả rà

soát sơ bộ hồ sơ, thủ tục, công tác GPMB đối với các hộ khu vực từ cầu Đông đến hang Luồn xã Trường Yên

thuộc dự án nạo vét xây kè bảo tồn cảnh quan sông Sào Khê trên địa bàn huyện Hoa Lư.

nước thu hồi đất trên địa bàn thành phố Ninh Bình qua 2 dự án đã nêu trên đã được

55

các cấp chính quyền của thành phố triển khai thực hiện tốt về cơ bản theo quy định

của LĐĐ năm 2013, Nghị định số 47/2014/NĐ-CP ngày 15 tháng 5 năm 2014 quy

định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất và Quyết định số

37/2014/QĐ-UBND ngày 26 tháng 12 năm 2014 của UBND tỉnh Ninh Bình về việc

ban hành bảng giá các loại đất giai đoạn 2015-2019 trên địa bàn tỉnh Ninh Bình, đã

thực hiện thống nhất về chính sách bồi thường cho từng dự án, các văn bản hướng

dẫn thi hành của thành phố mang tính đồng bộ, có điều chỉnh để phù hợp theo từng

thời điểm và từng dự án cụ thể.

Thực hiện nghiêm túc việc phân loại nguồn gốc đất, áp mức bồi thường đảm

bảo đúng đối tượng, đúng chính sách, vận dụng linh hoạt trong áp giá, áp mức bồi

thường, hỗ trợ và xét duyệt đối tượng thuộc diện bồi thường. Quá trình chi trả tiền

được thực hiện nghiêm túc theo đúng quy định.

Về chính sách hỗ trợ: trên cơ sở dựa vào quy định của UBND tỉnh và điều

kiện thực tế của địa phương, UBND thành phố Ninh Bình đã có những chính sách

cụ thể và thiết thực nhất để hỗ trợ cho người nông dân bị mất đất sản xuất nông

nghiệp nhằm phần nào bước đầu giảm bớt khó khăn cho họ về kinh tế.

Về giá đất bồi thường: đối với việc bồi thường đất ở cho các hộ gia đình thì

Hội đồng GPMB tiến hành chi trả bồi thường dựa trên giá đất cụ thể của UBND

tỉnh công bố hàng năm áp dụng cho từng khu vực, vị trí. Còn đối với đất nông

nghiệp, khi bị thu hồi ngoài việc bồi thường theo giá đất cùng mục đích sử dụng thì

các hộ gia đình, cá nhân còn nhận thêm những khoản tiền hỗ trợ theo quy định.

Nhìn chung, công tác xác định đối tượng, điều kiện bồi thường và chi trả của Hội

đồng GPMB được diễn ra công khai, dân chủ, thuận lợi.

Bồi thường về tài sản, cây cối, hoa màu, vật kiến trúc gắn liền với đất: Quá

trình bồi thường các loại công trình, các loại cây trồng, vật nuôi được thực hiện nhất

quán theo quy định của UBND tỉnh về quy định đơn giá nhà cửa, vật kiến trúc, cây

cối, hoa màu và mức giá bồi thường, hỗ trợ được quy định thống nhất trên cả 02 dự

án nêu trên. Cho dù cũng có không ít các hộ dân có ý kiến về mức hỗ trợ đối với

công trình xây dựng trên đất không hợp pháp là còn thấp, song với biện pháp tuyên

56

truyền, vận động, phổ biến chính sách bồi thường, hỗ trợ cho người dân thì đa phần

đã đồng tình, ủng hộ và chấp thuận.

Về vấn đề tái định cư: nhìn chung việc xác định và bố trí tái định cư cho các

hộ gia đình bị thu hồi đất ở phải di chuyển đến nơi ở mới đã thật sự đồng bộ và cụ

thể, đáp ứng kịp thời cho các hộ dân bị thu hồi đất ở có nơi ở mới đảm bảo ổn định

cuộc sống. Việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của người dân: do đặc thù của 02 dự án

nêu trên là có sự đa dạng về các loại đất trưng dụng, tài sản gắn liền với đất có giá

trị cao và diện tích đất của dự án là tương đối lớn nên quá trình bồi thường, hỗ trợ

gặp không ít những khó khăn, đặc biệt trong khâu khiếu kiện của người dân đã ảnh

hưởng không nhỏ đến tiến độ GPMB cũng như tiến độ giải ngân của các dự án. Các

đơn thư chủ yếu xoay quanh vấn đề chính sách bồi thường, hỗ trợ về đất, giá cả bồi

thường. Sau khi nhận các đơn thư thắc mắc của các hộ dân, lãnh đạo và hội đồng

GPMB trên cơ sở Luật định, Nghị định và các văn bản pháp luật liên quan và trên

chủ trương làm việc dân chủ, công khai với người dân, cộng thêm biện pháp tuyên

truyền, vận động thì đã giải quyết các trường hợp theo đúng trình tự, đúng thủ tục,

đúng thời gian quy định nên được đại bộ phận người dân đồng tình chấp thuận.

Trình độ hiểu biết pháp luật đất đai và bồi thường GPMB: đại bộ phận người

dân hiểu và thực hiện tốt nghĩa vụ của mình, đã phối hợp tốt với các cơ quan chức

năng trong việc kê khai nguồn gốc sử dụng đất, đo đạc, kiểm kê tài sản… Nhìn

chung công tác phổ biến pháp luật đất đai và chính sách bồi thường, GPMB và tái

định cư của Hội đồng bồi thường cho người dân bị thu hồi đất của thành phố nói

chung là chưa thật sự sâu sát, không đạt hiệu quả cao. Phần lớn người dân khi bị thu

hồi đất đều hết sức quan tâm đến chính sách bồi thường GPMB bởi vì nó liên quan

trực tiếp đến lợi ích của họ nhưng công tác tuyên truyền vấn đề này ở địa phương

còn nhiều hạn chế và chưa quan tâm đúng mức nên đã xảy ra tình trạng có nhiều hộ

gia đình có đơn thư thắc mắc xung quanh vấn đề chính sách bồi thường, chưa bàn

giao mặt bằng đúng thời hạn nên gây ảnh hưởng đến sự triển khai dự án.

Về vấn đề bồi thường GPMB cho các hộ dân ở cả 2 dự án nêu trên nhìn

chung được diễn ra dân chủ, công khai, theo đúng trình tự luật định đã quy định, cố

gắng đảm bảo đúng thời gian GPMB để các dự án diễn ra theo đúng kế hoạch

57

nhưng cũng gặp rất nhiều khó khăn, vướng mắc, một số ít các hộ dân chưa đồng

tình nhất trí trong chính sách bồi thường GPMB nên việc triển khai ở cả 2 dự án nêu

trên đã phải đình trệ trong một thời gian ngắn làm cho việc thi công ở các dự án đã

phải chậm tiến độ so với thời gian đã định.

2.2.3.2. Những mặt hạn chế trong thực tiễn áp dụng pháp luật bồi thường, hỗ trợ,

tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất ở địa bàn Tỉnh Ninh Bình.

Ngoài ra, công tác GPMB được thực hiện trong thời điểm một số luật như

Luật Đất đai năm 2013, Luật xây dựng năm 2014, Luật đầu tư năm 2014 mới có

hiệu lực thi hành nên các qui định pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi

nhà nước thu hồi đất để GPMB có nhiều thay đổi so với trước, các văn bản hướng

dẫn thi hành còn thiếu và chưa đồng bộ, làm ảnh hưởng lớn đến tiến độ GPMB và

công tác đầu tư xây dựng những công trình bị ảnh hưởng. Cơ quan có thẩm quyền

quy định về giá đất lại thường xuyên thay đổi nâng giá theo quy luật, theo thời gian

và giá biến động ngoài thị trường làm cho tình trạng giá đất không ổn định; khi bồi

thường cho người dân, hộ dân giao đất sớm lại nhận tiền đền bù thấp hơn hộ dân

giao đất muộn vì khi hộ dân giao đất muộn thì giá đất được đền bù đã thay đổi theo

thời gian và giá mới thường cao hơn giá cũ.

Giá đất do UBND tỉnh đưa ra so với giá thị trường còn chênh lệch khá lớn, giá

thực tế ở nhiều khu vực cao hơn nhiều so với giá đất cụ thể do UBND tỉnh quy định.

Việc điều chỉnh không kịp thời dẫn đến cơ quan Tòa án gặp nhiều khó khăn trong việc

giải quyết tranh chấp đất đai. Sự chênh lệch giữa giá đất Nhà nước quy định với giá đất

thực tế trên thị trường xuất phát từ sự yếu kém của hệ thống tài chính đất đai và hệ

thống quản lý đất đai, ít sử dụng đến các công cụ kinh tế để điều tiết.

Theo khoản 2 Điều 74 LĐĐ năm 2013 quy định: “Việc bồi thường được thực

hiện bằng việc giao đất có cùng mục đích sử dụng với loại đất thu hồi, nếu không có

đất để bồi thường thì được bồi thường bằng tiền theo giá đất cụ thể của loại đất thu

hồi do UBND cấp tỉnh quyết định tại thời điểm quyết định thu hồi đất”. Trong thực

tế khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp, quỹ đất nông nghiệp của tỉnh hạn chế nên

không thể bồi thường hết bằng đất nông nghiệp cho người có đất bị thu hồi mà phải

bồi thường bằng tiền. Chính vì áp dụng không thống nhất hình thức bồi thường nên

58

tình trạng khiếu nại, khiếu kiện về bồi thường đất bị kéo dài. Hơn thế nữa, ,theo

phản ánh của rất nhiều hộ dân, nhất là các hộ dân ở dự án thứ nhất nêu trên khi bị

thu hồi đất sản xuất nông nghiệp thì số lao động trong độ tuổi lao động ngày càng

dư thừa, không có công ăn việc làm dẫn đến nảy sinh tệ nạn xã hội, mất trật tự an

ninh trên địa bàn.

Trong dự án xây dựng tuyến đường kết nối giữa đường cao tốc Cầu Giẽ -

Ninh Bình với Quốc lộ 1 (giai đoạn II) tại địa bàn huyện Yên Khánh có trường hợp

gia đình ông Hưng chủ doanh nghiệp may xuất khẩu Đông Thịnh Hưng đề nghị thu hồi hết diện tích đất ở 1.440m2, kiểm đếm toàn bộ tài sản nhà xưởng, vật kiến trúc

và bố trí được ra khu tái định cư. Theo phương án bồi thường của dự án này thì diện

tích đất tối đa mà ông Thịnh được bồi thường do ảnh hưởng bởi dự án chỉ khoảng 600m2 đất. Nhưng ông đề nghị thu hồi hết vì diện tích đất còn lại sau khi bị Nhà

nước thu hồi không đủ để bố trí lại cơ cấu sản xuất ảnh hưởng tới hoạt động của doanh nghiệp và đời sống của hơn 100 công nhân, người lao động ở xã Ninh An32.

Tại điểm Khoản 1 Điều 6 Nghị định số 47/2014/NĐ-CP ngày 15 tháng 05 năm

2014 Qui định về bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất chỉ quy

định về phương thức bồi thường với trường hợp khi thu hồi hết đất ở hoặc phần

diện tích đất ở còn lại của hộ gia đình, cá nhân sau thu hồi không đủ điều kiện để ở

theo quy định của UBND cấp tỉnh nhưng chưa quy định về trường hợp sau khi thu

hồi đất ở của hộ gia đình, cá nhân mặc dù phần diện tích ở còn lại của họ vẫn đủ

điều kiện để ở nhưng lại làm ảnh hưởng tới sinh kế của một lượng lớn người dân

sinh sống tại địa phương thì phải xử lí thế nào.

Tóm lại, chương 2 của luận văn đã đi sâu phân tích các quy định pháp luật

hiện hành về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất để GPMB của

hộ gia đình, cá nhân, tổ chức, cơ sở tôn giáo. Qua đó, đã đánh giá những ưu điểm

32 Báo cáo số 70 /BC- UBND ngày 22 tháng 3 năm 2016 về tiến độ thực hiện GPMB tuyến kết nối

Cao tốc Cầu Giẽ -Ninh Bình với Quốc lộ 1A, đoạn qua huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình đến ngày

22/03./2016

đã đạt được cũng như những hạn chế, bất cập còn tồn tại và đưa ra một số nguyên

59

nhân dẫn tới những hạn chế, bất cập đó để làm cơ sở đề xuất những kiến nghị nhằm

hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư

khi nhà nước thu hồi đất của hộ gia đình, cá nhân, tổ chức, cơ sở tôn giáo trong thời

gian tới.

60

Chương 3

HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÊ BỒI THƯỜNG KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI

ĐẤT ĐỂ GIẢI PHÓNG MẶT BẰNG

3.1. Sự cần thiết phải bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất để giải phóng mặt bằng

Trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Nhà nước ngày càng

đẩy mạnh việc thu hồi đất để phục vụ cho các dự án phát triển kinh tế. Các khu đô

thị, khu công nghiệp, khu chế xuất… mọc lên ngày càng nhiều, kéo theo diện tích

đất của người dân ngày càng một bị thu hẹp đi. Nếu không giải quyết tốt vấn đề

quyền lợi của người bị thu hồi đất, sẽ dẫn đến tình trạng mất ổn định chính trị, xã

hội, sẽ gây phản ứng mạnh trong dân cư với những khiếu nại, tố cáo kéo dài, đặc

biệt là khiếu nại tập thể liên quan đến người bị thu hồi đất theo dự án kinh tế cụ thể.

Pháp luật là công cụ quan trọng nhất để quản lí, điều tiết các mối quan hệ trong

xã hội. Với tính bắt buộc cùng cơ chế đảm bảo sự thực hiện, pháp luật chính là cơ sở để

người dân bị thu hồi đất được bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của mình

LĐĐ năm 2013 và các văn bản hướng dẫn đã có những hoàn thiện đáng kể

và có một số nội dung mới, đặc biệt là về giá đất bồi thường. Nhưng nhìn chung vẫn

chủ yếu dừng lại ở việc luật hóa, hệ thống lại các quy định trong các Nghị định

hướng dẫn LĐĐ năm 2003 trước kia.

Thực trạng triển khai việc thu hồi đất để phục vụ cho các dự án phát triển

kinh tế ở nước ta trong thời gian qua đã có những bước tiến nhất định. Tuy nhiên,

tình trạng dự án treo kéo dài từ những năm trước đây vẫn chưa có cơ chế khắc phục

hiệu quả, những khiếu nại về giá bồi thường, những vướng mắc trong công tác tái

định cư và tạo việc làm sau khi thu hồi cho người nông dân vẫn còn tiếp diễn. LĐĐ

năm 2013 mới có hiệu lực không lâu, nhưng đã bộc lộ một số hạn chế. Điều này đặt

ra yêu cầu phải tiếp tục hoàn thiện các quy định pháp luật về đảm bảo quyền lợi của

người dân khi Nhà nước thu hồi đất để GPMB

3.2. Phương hướng hoàn thiện pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi

đất để giải phóng mặt bằng.

Bồi thường, giải phóng mặt bằng là vấn đề nhạy cảm và phức tạp. Vì vậy,

mặc dù các quy định của pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất thường

61

xuyên được sửa đổi, bổ sung nhằm khắc phục những hạn chế, bất cập. Tuy nhiên,

trên thực tế việc thi hành chế định pháp luật này gặp không ít khó khăn, sự không

đồng thuận của người bị thu hồi đất với phương án bồi thường dẫn đến việc cố tình

không bàn giao đất đúng thời gian quy định, tranh chấp khiếu kiện thường xuyên

xảy ra, tiềm ẩn nguy cơ mất ổn định chính trị- xã hội…Để khắc phục những khiếm

khuyết này, trên cơ sở tìm hiểu, đánh giá thực trạng áp dụng pháp luật về bồi

thường khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn TP. Ninh Bình, Tỉnh Ninh Bình, tác

giả cho rằng việc hoàn thiện lĩnh vực pháp luật này cần dựa trên 1 số định hướng cơ

bản sau đây:

Thứ nhất, hoàn thiện pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất phải dựa

trên quan điểm, đường lối của Đảng về vấn đề này. Pháp luật là sự thể chế hoá quan

điểm, đường lối của Đảng. Hay nói cách khác, quan điểm, đường lối của Đảng là sự định

hướng chính trị cho việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật. Chính vì vậy, việc hoàn thiện

pháp luật đất đai nói chung và pháp luật bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nói riêng

phải dựa trên quan điểm, đường lối của Đảng về bồi thường, giải phóng mặt bằng khi

Nhà nước thu đất nhằm bảo đảm tính định hướng về mặt chính trị.

Thứ hai, hoàn thiện pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất dựa

trên việc giải quyết hài hòa lợi ích của Nhà nước, lợi ích của người bị thu hồi đất và

lợi ích của nhà đầu tư. Trong đó cần quan tâm hơn nữa đến quyền và lợi ích của

người bị thu hồi đất, chủ thể yếu nhất trong mối quan hệ ba bên này. Thực tiễn thi

hành pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất cho thấy địa phương nào

giải quyết hài hòa lợi ích của Nhà nước, lợi ích của người bị thu hồi đất và lợi ích

của nhà đầu tư thì sẽ nhận được sự đồng thuận của người dân, công tác giải phóng

mặt bằng được thực hiện nhanh chóng, không phát sinh những tranh chấp, khiếu

kiện phức tạp, kéo dài. Vì vậy, để công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng diễn ra

thuận lợi, nhanh chóng, tránh phát sinh các tranh chấp, khiếu kiện phức tạp, kéo dài,

tiềm ẩn nguy cơ gây mất ổn định chính trị thì việc hoàn thiện chế định pháp luật này

cần giải quyết tốt hơn mối quan hệ ba bên này.

Thứ ba, hoàn thiện pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất phải

đảm bảo dân chủ, công bằng, công khai, minh bạch. Bồi thường khi Nhà nước thu

62

hồi đất là vấn đề ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của người bị thu hồi đất. Do vậy

tất cả những vấn đề liên quan đến bồi thường thu hồi đất như: lý do thu hồi, quy

hoạch, kế hoạch sử dụng đất, phương án bồi thường, hỗ trợ…đều phải được công

khai để người bị thu hồi đất được biết và tham gia nhằm bảo vệ các quyền lợi ích

chính đáng của mình. Nhờ việc công khai này mà người dân có thể đánh giá được

tính đúng đắn, tính hợp pháp của các quyết định liên quan đến vấn đề bồi thường

thu hồi đất của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Vì vậy, pháp luật về bồi thường

khi nhà nước thu hồi đất cần có những quy định để đảm bảo dân chủ, công bằng,

công khai và minh bạch. Có như vậy, pháp luật về lĩnh vực này mới có thể thực sự

phát huy được ý nghĩa bù đắp những thiệt hại, tổn thất gây ra từ việc thu hồi đất của

người sử dụng đất.

Thứ tư, hoàn thiện pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất phải

hướng đến sự phát triển bền vững. Điều này có nghĩa là các quy định về bồi thường,

hỗ trợ, tái định cư không chỉ giải quyết, bù đắp các thiệt hại vật chất thực tế như giá

trị đầu tư, thành quả lao động của người sử dụng đất; chi phí còn lại hoặc giá trị của

các tài sản gắn liền với đất được thu hồi. Hơn thế nữa nó còn phải xử lý được các

vấn đề an sinh xã hội, các hậu quả phát sinh trực tiếp từ việc Nhà nước thu hồi đất

như thiệt hại “vô hình” mà người sử dụng đất phải gánh chịu do việc Nhà nước thu

hồi đất gây ra, bao gồm: bị mất vị trí, địa thế kinh doanh; mất công ăn việc làm;

cộng đồng dân cư phải rời khỏi quê hương, nơi cư trú, sinh sống lâu đời gắn với

phong tục, tập quán, đời sống tâm linh của người dân; chú trọng đến việc đảm bảo

quyền lợi chính đáng cho những đối tượng yếu thế trong xã hội như người già, phụ

nữ, trẻ em, người tàn tật, đồng bào dân tộc thiểu số bị mất đất ở, đất sản xuất…Khi

xây dựng pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất cần xóa bỏ quan niệm

đánh đổi sự hy sinh lợi ích của người nông dân cho sự phát triển của đất nước. Bởi

vì, mọi sự đánh đổi cần có cái giá của nó, người bị thu hồi đất phải được hưởng lợi

từ việc Nhà nước thu hồi đất vì mục đích quốc phòng, an ninh; phát triển kinh tế- xã

hội vì lợi ích quốc gia, công cộng.

Thứ năm, hoàn thiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà

nước thu hồi đất cần xem xét, tham khảo kinh nghiệm và thực tiễn pháp lý của các

63

nước trên thế giới về lĩnh vực này. Hiện nay nước ta đã trở thành thành viên chính

thức của nhiều tổ chức quốc tế trong khu vực và thế giới như Hiệp hội các nước

Đông Nam Á (ASEAN). Diễn đàn hợp tác kinh tế Thái Bình Dương (APEC), Tổ

chức thương mại thế giới (WTO)…là nước thứ 12 đàm phán gia nhập Hiệp định đối

tác kinh tế chiến lược xuyên Thái Bình Dương (TPP). Quá trình hội nhập quốc tế

sâu rộng đạt gia yêu cầu Việt Nam phải cam kết tuân thủ luật lệ của các tổ chức

này. Muốn vậy, hệ thống pháp luật nói chung và pháp luật đất đai nói riêng của

nước ta phải tương thích với các quy tắc và luật lệ chung của thế giới. Mặt khác,

việc xây dựng và thực thi pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước

thu hồi đất ở nước ta dựa trên chế độ sở hữu toàn dân về đất đai do Nhà nước đại

diện chủ sở hữu trong điều kiện kinh tế thị trường là một điều đặc trưng ở Việt Nam

và chưa có tiền lệ trên thế giới. Hơn nữa, thực tiễn thi hành pháp luật này cho thấy

đây là vấn đề rất khó khăn, phức tạp do nó trực tiếp ảnh hưởng đến lợi ích thiết thực

của các bên có liên quan. Vì vậy, chúng ta phải từng bước xây dựng, sửa đổi và

hoàn thiện nhằm đáp ứng đòi hỏi của quá trình phát triển đất nước đặt trong bối

cảnh kinh tế thị trường. Việc nghiên cứu, tìm hiểu và tiếp thu có chọn lọc kinh

nghiệm và thực tiễn pháp lý của những nước trên thế giới (đặc biệt là kinh nghiệm

và thực tiễn pháp lý của những nước có nhiều điểm thương đồng về chính trị, lịch

sử, văn hóa, pháp luật… với Việt Nam) là rất cần thiết. Điều này không chỉ giúp

chúng ta lựa chọn, tiếp thu những kinh nghiệm bổ ích để vận dụng sáng vào quá

trình hoàn thiện pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất và làm cho lĩnh

vực này tương thích với pháp luật của các nước, mà còn giúp nước ta tránh lập lại

những sai lầm mà các nước đã gặp phải trong quá trình phát triển đất nước dưới tác

động của toàn cầu hóa.

3.3. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật bồi thường khi Nhà nước thu hồi

đất để giải phóng mặt bằng..

Một số quy định về thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư trong LĐĐ

năm 2013 và các văn bản hướng dẫn cho thấy vẫn chưa giải quyết được triệt để

những vướng mắc, bất cập, đáp ứng được yêu cầu thực tế. Do vậy để đảm bảo tốt

hơn quyền và lợi ích hợp pháp của các cá nhân, tổ chức bị thu hồi đất để phục vụ

64

cho các dự án phát triển kinh tế tác giả xin đề xuất một số kiến nghị cụ thể góp phần

hoàn thiện pháp luật sau đây:

3.3.1. Kiến nghị hoàn thiện quy phạm pháp luật về bồi thường khi Nhà nước

thu hồi đất để giải phóng mặt bằng

Mặc dù đã có nhiều thay đổi tích cực được ghi nhận trong LĐĐ năm 2013,

song một số quy định về đất đai, đặc biệt là các quy định về bồi thường khi Nhà

nước thu hồi đất vẫn còn những điểm hạn chế và chưa thể hiện được đầy đủ nguyện

vọng của nhân dân, do vậy đòi hỏi phải nỗ lực hơn nữa trong quá trình hoàn thiện

pháp luật về đất đai nói chung và pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất

nói riêng.

Thứ nhất, quy định về nguyên tắc định giá đất. Theo quy định của LĐĐ năm

2013, giá bồi thường đất là giá đất cụ thể do nhà nước quy định và giá này phải

“phù hợp với giá đất phổ biến trên thị trường của loại đất có cùng mục đích sử

dụng”. Vậy thế nào là “phù hợp” đây là một khái niệm mang tính định tính mà

không mang tính định lượng. Điều này sẽ gây ra những cách hiểu khác nhau giữa

các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong quá trình thực thi, tạo “kẽ hở” cho việc

áp đặt ý muốn chủ quan của các cơ quan công quyền trong áp dụng. Quy định giá

đất phổ biến trên thị trường là giá lúc định giá đất khi quy hoạch sử dụng đất hay

giá lúc thu hồi, đấu giá? Bởi từ lúc định giá đến lúc bồi thường, giá đất có thể đã

biến động rất khác.

Việc pháp luật xác định rõ ràng, chính xác giá đất cụ thể trong bồi thường là

điều kiện tiên quyết để vận dụng, thi hành pháp luật được chính xác. Vì vậy, Nhà

nước phải có hướng dẫn, quy định cụ thể về tiêu chí “phù hợp với giá đất thị

trường” để quy định này có thể thực sự đi vào thực tiễn cuộc sống.

Thứ hai, quy định về thẩm quyền định giá đất. LĐĐ năm 2013 vẫn quy định

thẩm quyền xác định giá đất do Chính phủ và UBND cấp tỉnh quyết định, tuy nhiên

có một điểm mới so với LĐĐ năm 2003 đó là quy định thành lập hội đồng thẩm

định giá đất để thẩm định giá trước khi UBND cấp tỉnh quyết định giá đất trong

những trường hợp cụ thể. Trong Hội đồng thẩm định giá bắt buộc có sự tham gia

của tổ chức có chức năng tư vấn định giá đất, tức là tổ chức cung cấp dịch vụ định

65

giá đất độc lập33. Tuy nhiên quy định này chưa làm rõ việc sử dụng dịch vụ định giá

đất có bắt buộc hay không. Vì khoản 3 Điều 114 LĐĐ năm 2013 quy định: “UBND

cấp tỉnh quyết định giá đất cụ thể. Cơ quan quản lý đất đai cấp tỉnh có trách nhiệm

giúp UBND cấp tỉnh tổ chức việc xác định giá đất cụ thể. Trong quá trình thực

hiện, cơ quan quản lý đất đai cấp tỉnh được thuê tổ chức có chức năng tư vấn xác

định giá đất để tư vấn xác định giá đất cụ thể.” Theo quy định này thì việc thuê tổ

chức có chức năng tư vấn xác định giá đất là không bắt buộc. Nhưng cũng tại khoản

3 Điều 114 LĐĐ năm 2013 lại quy định: “Căn cứ kết quả tư vấn xác định giá đất,

cơ quan quản lý đất đai cấp tỉnh trình Hội đồng thẩm định giá đất xem xét trước khi

trình UBND cùng cấp quyết định.” lại khiến người ta hiểu việc việc thuê tổ chức có

chức năng tư vấn xác định giá đất là bắt buộc. Sự phức tạp này cũng không được lí

giải rõ ràng trong Nghị định số 44/2014/NĐ-CP ngày 15 tháng 04 năm 2014 Quy

định về giá đất. Sự không rõ ràng này rất dễ dẫn đến tình trạng áp dụng tùy tiện vì

vậy cần thiết có sự hướng dẫn cụ thể trong các văn bản pháp luật hướng dẫn thi

hành LĐĐ năm 2013, xem trường hợp nào việc thuê tổ chức có chức năng tư vấn

xác định giá đất là bắt buộc, trường hợp nào thì không.

Hơn thế nữa, Chính phủ cũng cần quy định hướng dẫn cụ thể về thành phần

của Hội đồng thẩm định giá đất, quy đinh ý kiến của tổ chức tư vấn về giá đất chiếm

bao nhiêu phần trăm trong quyết định cuối cùng của Hội đồng thẩm định về giá đất.

Bởi lẽ, nếu theo quy định của LĐĐ năm 2013 thì tổ chức tư vấn giá đất chỉ là một

thành viên trong Hội đồng thẩm định giá đất. Các thành viên còn lại đều là đại diện

của cơ quan nhà nước. Thông thường, Hội đồng làm việc theo nguyên tắc tập thể và

quyết định theo đa số. Vì vậy, ý kiến của tổ chức tư vấn về giá đất chỉ là ý kiến

thiểu số nên giá cuối cùng của Hội đồng thẩm định lại do cơ quan nhà nước quyết

định. Nên vai trò của tổ chức tư vấn về giá đất chỉ mang tính hình thức và quy định

này của LĐĐ năm 2013 thực chất cũng chỉ là “bình mới rượu cũ”.

Thứ ba, qui định về thời điểm xác định giá bồi thường. Pháp luật trong thời

33 Khoản 3 Điều 114 LĐĐ năm 2013.

gian tới cần có quy định cụ thể, rõ ràng và chi tiết việc giải quyết trong trường hợp

66

có sự phát sinh chênh lệch giữa giá bồi thường tại thời điểm phê duyệt với giá bồi

thường tại thời điểm chi trả tiền bồi thường cho dân. Theo đó, cần phân biệt rõ các

trường hợp có sự phát sinh chênh lệch giữa giá bồi thường tại thời điểm phê duyệt

với giá bồi thường tại thời điểm chi trả tiền bồi thường cho dân. Bên cạnh đó, cần

có sự phân biệt rõ các trường hợp cụ thể và nguyên nhân của sự chênh lệch đó xuất

phát từ đâu để quy trách nhiệm tương ứng cho từng trường hợp, tránh tình trạng tất

cả đều quy về trách nhiệm cho nhà đầu tư. Nếu có sự chênh lệch về giá đất, theo đó,

giá tại thời điểm phê duyệt với giá bồi thường tại thời điểm chi trả tiền bồi thường

cũng thấp xa so với giá chuyển nhượng thực tế trên thị trường mà nguyên nhân do

lỗi của người sử dụng đất không chấp hành các quy định của pháp luật để di rời,

giải tỏa thì thiệt thòi này họ phải tự gánh chịu mà không thể yêu cầu Nhà nước hay

nhà đầu tư phải điều chỉnh lại mức bồi thường. Nếu có sự chênh lệch về giá đất

trong trường hợp nêu trên mà nguyên nhân do phía nhà đầu tư sai phạm, găm đất,

giữ đất mà không thực hiện đầu tư… thì nhà đầu tư phải có trách nhiệm bù đắp

khoản chênh lệch này cho người dân nếu Nhà nước điều chỉnh lại đơn giá bồi

thường cho phù hợp với giá thị trường tại thời điểm chi trả bồi thường. Nếu có sự

chênh lệch về giá đất trong trường hợp nêu trên nhưng nguyên nhân do cơ quan nhà

nước chậm trễ trong việc thực hiện việc bồi thường khi nhà nước thu hồi đất để

GPMB thì Nhà nước phải có trách nhiệm chi trả khoản chênh lệch đó cho người dân

từ nguồn tiền ngân sách nhà nước.

Thứ tư, về nâng cao sự đồng thuận của người dân đối với phương án bồi

thường, hỗ trợ, tái định cư. LĐĐ năm 2013 đã có quy định tại Điều 43 về việc lấy ý

kiến người dân về quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất. Để phương án bồi thường, hỗ

trợ, tái định cư do cơ quan có thẩm quyền đưa ra phù hợp, nhận được sự đồng thuận

của người dân, đảm bảo việc hỗ trợ được khách quan, công bằng, kịp thời, công

khai và đúng quy định, thì cần bổ sung quy định tỷ lệ cụ thể sự đồng thuận của

người dân về phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư được phê duyệt. Hậu quả

của thu hồi đất là người nông dân bị mất cả sinh kế từ nông nghiệp mà gần như

không có cơ hội tìm sinh kế mới. Vì vậy, phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư

cần thiết phải có sự đồng thuận của người dân, cần lấy ý kiến của toàn bộ cộng đồng

67

dân cư địa phương (không chỉ lấy ý kiến của người bị thu hồi đất) và phương án chỉ

được phê duyệt khi đạt được một tỉ lệ đồng thuận nhất định. Ngoài ra người mất đất

cũng cần có quyền được giới thiệu các tổ chức cung cấp dịch vụ định giá đất độc lập

tham gia vào danh sách đấu thầu cung cấp dịch vụ giá đất.

Thứ năm, về thu hồi đất, Hiến pháp năm 2013 khẳng định Nhà nước chỉ thu

hồi đất trong trường hợp thật cần thiết vì mục đích an ninh, quốc phòng, để phát

triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng. Cho dù Hiến pháp chỉ rõ

như vậy và LĐĐ năm 2013 khẳng định các dự án quan trọng cấp quốc gia phải do

Thủ tướng và Quốc hội quyết định, cấp tỉnh sẽ có thêm sự tham gia của HĐND.

Tuy nhiên, LĐĐ năm 2013 vẫn chưa làm rõ được giới hạn của cụm từ “thật sự cần

thiết” mà đã được chỉ ra trong Hiến pháp năm 2013. Thực tế, trong LĐĐ năm 2013

đã cụ thể hóa một phạm vi quá rộng các trường hợp được phép thu hồi đất. Do đó,

các quy định pháp luật về thu hồi đất trong tương lai cần làm rõ hơn nữa vai trò

kiểm soát việc thu hồi đất của HĐND nhằm hạn chế thu hồi đất tràn lan như trước

đây, nếu không việc quy định một phạm vi quá rộng về thu hồi đất như thế mà

không làm rõ khái niệm “thật sự cần thiết” sẽ có thể tiếp tục dẫn tới lạm dụng trong thu hồi đất34.

3.3.2. Kiến nghị hoàn thiện quy phạm pháp luật về hỗ trợ, tái định cư khi Nhà

nước thu hồi đất để giải phóng mặt bằng

Về chính sách bồi thường, hỗ trợ để đảm bảo ổn định sinh kế của người bị

thu hồi đất. LĐĐ năm 2013 chủ yếu được bổ sung một số quy định của Nghị định

số 69/2009/NĐ-CP ngày 13 tháng 8 năm 2009. Cách tiếp cận này không thể giải

quyết được những bất cập về mất sinh kế, mất việc làm của người bị thu hồi đất

đang diễn ra ở nhiều địa phương. Việc hỗ trợ khi thu hồi đất nông nghiệp cần phân

biệt rõ hai nhóm đối tượng bị thu hồi đất để thực hiện chính sách hỗ trợ cho phù

hợp, đó là: nhóm thứ nhất là nhóm nông dân trong độ tuổi lao động, nhóm thứ hai là

34

http://tuoitre.vn/tin/tuoi-tre-cuoi-tuan/20131210/luat-dat-dai-2013-nhung-viec-can-lam-

tiep/583999.html

nhóm nông dân ngoài độ tuổi lao động.

68

Nhóm thứ nhất sẽ được Nhà nước hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp và tạo việc

làm mới. Để giải quyết việc làm cho họ có thể có các giải pháp sau: đối với lao

động vùng chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp. Việc giải quyết việc làm

phải gắn với đào tạo nghề, nghĩa là Nhà nước nên hỗ trợ về kinh phí đào tạo những

nghề mà trong thị trường lao động đang cần để có thể tận dụng tối đa nguồn lao

động. Ngoài ra, Nhà nước nên yêu cầu các doanh nghiệp có dự án đầu tư phải ưu

tiên bố trí lao động địa phương vào làm việc trong các doanh nghiệp, phát triển các

làng nghề truyền thống thu hút lao động đối với những nơi có các làng nghề truyền

thống lâu đời và có thị trường tiêu thụ sản phẩm.

Còn đối với nhóm thứ hai, họ đã không còn hoặc còn rất ít khả năng lao động

thì cần có sự hỗ trợ để họ có thể dưỡng lão, an tâm với cuộc sống mới. Độ tuổi lao

động được quy định đối với nam là dưới 60 tuổi, với nữ là dưới 55 tuổi. Mặc dù

vậy, trên thực tế, ở nông thôn Việt Nam, những người ngoài độ tuổi này vẫn tham

gia các hoạt động nông nghiệp. Theo số liệu thống kê cho thấy có tới 77% số người

này vẫn phải làm việc tăng thu nhập và 42% là lao động chính để nuôi sống gia đình

và việc làm chủ yếu của họ vẫn là trên đồng ruộng. Khi bị thu hồi đất nông nghiệp,

nhóm đối tượng ngoài độ tuổi lao động hầu như không có cơ hội và khả năng để

chuyển đổi nghề nghiệp hay có việc làm mới phù hợp. Trong khi đó, nếu không bị

mất đất nông nghiệp thì cho dù đến 60 tuổi, họ vẫn có khả năng lao động nông

nghiệp. Vì vậy, trong thời gian tới, Nhà nước cần có sự quan tâm hơn tới đối tượng

này khi thu hồi đất nông nghiệp, thông qua các chính sách để hỗ trợ cho người nông

dân ngoài độ tuổi lao động như: cấp 100% kinh phí bảo hiểm y tế hay hỗ trợ một khoản tiền dưỡng lão đủ để họ duy trì cuộc sống khi về già.35

3.3.3. Kiến nghị về tổ chức thực hiện pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu

hồi đất để giải phóng mặt bằng.

Thứ nhất, các địa phương trong tỉnh cần có quy hoạch tổng thể tốt về phát

35 Phạm Thu Thủy, Bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất theo LĐĐ 2013, Trang

59 Tạp chí Luật học Đặc san 11/2014

triển kinh tế-xã hội, để từ đó đồng bộ trong việc quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch

69

công nghiệp, đô thị, quy hoạch nông nghiệp chuyển đổi cơ cấu cây trồng nhằm đảm

bảo, phát triển đồng bộ, tránh lãng phí đất cũng như làm xáo trộn cuộc sống ổn định

của người dân. Ngoài ra, Nhà nước trong quá trình lập quy hoạch phát triển công

nghiệp, đô thị nên nghiên cứu xem xét nên quy hoạch tại những khu vực đất nông

nghiệp có năng suất thấp, không nên quy hoạch khu công nghiệp, đô thị tại những

vùng có điều kiện thuận lợi cho phát triển nông nghiệp để đảm bảo sử dụng hợp lí

nguồn tài nguyên đất.

Thứ hai, việc định giá đất cụ thể trên địa bàn các tỉnh, thành phố cần phải có

đơn vị tư vấn độc lập, có đầy đủ chức năng và các điều kiện để hành nghề tư vấn

xác định giá đất theo quy định của pháp luật đất đai hiện hành thực hiện để đảm bảo

việc tư vấn giá đất được phản ánh một cách khách quan, trung thực và tuân thủ các

nguyên tắc, phương pháp định giá đất theo quy định tại Điều 112 của Luật Đất đai

năm 2013.

Thứ ba, công tác lập quy hoạch xây dựng các khu, điểm tái định cư để phục

vụ các dự án đầu tư, dự án phát triển trên địa bàn tỉnh, huyện cần được thực hiện

trong kế hoạch sử dụng đất hàng năm của cấp tỉnh, huyện. Trên cơ sở các dự án đã

được ghi vốn đầu tư, được HĐND tỉnh thông qua kế hoạch thu hồi đất để thực hiện

dự án. Cần xác định số hộ cần phải bố trí tái định cư và nhu cầu tái định cư về đất ở,

về nhà ở của các hộ bị thu hồi đất trong kế hoạch sử dụng đất của các dự án để chủ

động xây dựng các khu, điểm tái định cư hoàn chỉnh, đồng bộ về hạ tầng, tạo điều

kiện thuận lợi cho các dự án được triển khai và là điều kiện cần thiết trước khi Nhà

nước thực hiện việc thu hồi đất.

Thứ tư, UBND tỉnh cần ban hành cơ chế chính sách trong việc bố trí, sử

dụng nguồn vốn đầu tư, đơn vị quản lý các khu đất ở, nhà ở tái định cư phục vụ cho

nhu cầu tái định cư của các dự án. Quy định bắt buộc về trách nhiệm của các chủ

đầu tư trong việc bố trí nguồn vốn xây dựng khu tái định cư; đồng thời có chính

sách khuyến khích các chủ đầu tư được Nhà nước giao đất, cho thuê đất tham gia

xây dựng hạ tầng kỹ thuật khu đất tái định cư và nhà ở tái định cư nhằm ngày càng

nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân tái định cư và đưa pháp luật đất đai

vào đời sống xã hội.

70

3.3.4. Giải pháp về bổ trợ, tuyên truyền, giáo dục nhận thức pháp luật nâng cao

hiệu quả bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất.

Để cho công tác tuyên truyền, giáo dục, phổ biến pháp luật của người dân

khi thực hiện các quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi

đất để GPMB đạt được hiệu quả cao tác giả xin được được đưa ra một số giải pháp

cụ thể sau:

Thứ nhất, cần nâng cao trình độ, chuyên môn nghiệp vụ cho những người có

trách nhiệm làm công tác này. Bởi lẽ, không ít trường hợp ở các địa phương những

người làm công tác tuyên truyền còn có trình độ nhận thức thấp, chuyên môn

nghiệp vụ chưa cao, do vậy hiệu quả của công tác tuyên truyền giáo dục nâng cao

nhận thức pháp luật của người dân chưa thực sự đạt hiệu quả cao. Bộ máy cán bộ

tuyên truyền pháp luật có vai trò hết sức quan trọng, cán bộ thực hiện công tác này

cần được chuyên trách, chuyên nghiệp hóa, bồi dưỡng trình độ chuyên môn về pháp

luật đất đai đồng thời có tinh thần trách nhiệm với nhân dân. Ngoài ra trong quá

trình tuyên truyền giáo dục pháp luật, cán bộ tuyên truyền cần thường xuyên rà soát,

hệ thống hóa, kiểm tra, cập nhật các văn bản quy phạm pháp luật về bồi thường, hỗ

trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất mới nhất. Phải luôn đảm bảo người dân

được tiếp cận với những văn bản pháp luật mới, có hiệu lực. Ở các địa phương vùng

dân tộc thiểu số, nhiều người dân không nói được tiếng phổ thông. Chính vì vậy nhà

nước cần có biện pháp đào tạo và sử dụng các cán bộ tuyên truyền là người địa

phương, có thể nói được tiếng dân tộc để tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật

về đất đai cho chính người dân tộc mình.

Thứ hai, các cơ quan thẩm quyền địa phương nên đa dạng hóa hơn nữa các

hình thức tuyên truyền kết hơp với tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị,

hiện đại hóa phương tiện tuyên truyền. Trong công tác tuyên truyền giáo dục pháp

luật về bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi nhà nước thu hồi đất để giải phóng mặt

bằng cần có sự kết hợp các hình thức tuyên truyền miệng, tuyên truyền trên các

phương tiện thông tin đại chúng, báo chí, xuất bản, tờ rơi, tuyên truyền thông qua

hoạt động văn hóa, văn nghệ, bài dự thi, tuyên truyền thông qua các hoạt động trợ

giúp pháp lí… Tổ chức các đoàn, các tổ tuyên truyền đến từng hộ gia đình để phổ

71

biến những quy định của pháp luật về vấn đề này. Ngoài ra với sự phát triển của

công nghệ truyền thông, internet là một kênh tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật

hết sức hiệu quả, các địa phương có thể đăng các chính sách, quy định của nhà nước về

bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi nhà nước thu hồi đất để GPMB lên website của địa

phương. Đồng thời, có thể tổ chức các lớp học ngắn hạn đào tạo cung cấp những kiến

thức cơ bản cho người dân để người dân hiểu rõ hơn về vấn đề này.

Thứ ba, công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức pháp luật của

người dân trong việc thực thi các quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà

nước thi hồi đất để GPMB chỉ thực sự hiệu quả khi được thực hiện thường xuyên

liên tục. Vì vậy, các địa phương tiếp tục thực hiện hoạt động tuyên truyền chính

sách, pháp luật về bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi nhà nước thu hồi đất để GPMB

cho người dân một cách thường xuyên, liên tục và tập trung truyền thông để người

dân hiểu và tạo ra sự đồng thuận của người dân trong quá trình triển khai thực hiện.

Thứ tư, các địa phương cần duy trì thường xuyên và có sự kiểm tra đôn đốc

trong việc thực hiện công tác tuyên truyền và phổ biến giáo dục pháp luật nâng cao

nhận thức người dân về thực thi các quy định bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi

Nhà nước thu hồi đất để GPMB nhằm phát hiện những sai sót để kịp thời uốn nắn

sửa chữa. Đồng thời có những biện pháp cụ thể để động viên khen thưởng kịp thời

những đơn vị thực hiện tốt việc giáo dục và phổ biến pháp luật về bồi thường, hỗ trợ

tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất để GPMB.

Tóm lại, xuất phát từ lý luận cũng như các quy định hiện hiện hành và thực

tiễn đã đề cập ở hai chương trước, nội dung của chương 3 chủ yếu đề cập tới những

kiến nghị nhằm hoàn thiện hoàn thiện các quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định

cư khi Nhà nước thu hồi đất, kiến nghị về tổ chức thực hiện pháp luật về bồi

thường khi nhà nước thu hồi đất để giải phóng mặt bằng và các kiến nghị về bổ trợ,

tuyên truyền, giáo dục nhận thức pháp luật. Các kiến nghị được đề xuất ở chương

này nhằm đảm bảo được quyền, lợi ích hợp pháp cho các đối tượng bị thu hồi đất,

cho Nhà nước cũng như chủ đầu tư khi tiến hành bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi

Nhà nước thu hồi đất. Khi các đối tượng có đất thu hồi có được sự đền bù thỏa đáng

sẽ giúp giảm thiểu tình trạng khiếu nại, khiếu kiện liên quan tới vấn đề thu hồi đất,

72

cũng như không có các phản ứng tiêu cực khi bị cưỡng chế thu hồi đất. Theo đó,

Nhà nước và các nhà đầu tư cũng sẽ thuận lợi hơn trong việc GPMB để thực hiện

các dự án. Dẫn tới việc mục tiêu phát triển kinh tế- xã hội của Nhà nước cũng như

mục tiêu lợi nhuận của các nhà đầu tư cũng đạt được dễ dàng hơn.

73

KẾT LUẬN

Nước ta vốn là một nước nông nghiệp do đó đất đai là nguồn tài nguyên vô

cùng quý báu với người dân. Hơn thế nữa, những năm gần đây để hòa nhập với thế

giới, tiến trình công nghiệp hóa hiện đại hóa cũng được thúc đẩy không ngừng. Đất

nông nghiệp, đất ở của người dân bị thu hồi để phục vụ cho việc xây dựng các công

trình vì mục tiêu phát triển lâu dài của đất nước. Thực tiễn cho thấy việc bồi thường

cho người sử dụng đất khi bị Nhà nước thu hồi đất có rất nhiều bất cập, chính vì vậy

số đơn khiếu nại, tố cáo về vấn đề này không ngừng gia tăng. Do đó, đòi hỏi cấp

bách và thiết thực hoàn thiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà

nước thu hồi đất là vô cùng cần thiết.

Nhận thức được tính phức tạp và cấp thiết của đề tài, luận văn đã trình bày

một số vấn đề lí luận về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất qua việc làm rõ khái

niệm, sự cần thiết về thu hồi đất, bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất; lịch sử hình

thành và phát triển pháp luật về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi nhà nước thu

hồi đất; so sánh giữa những quy định của LĐĐ năm 2013 và LĐĐ năm 2003 để từ

đó làm nổi bật lên những thay đổi trong các quy định của Nhà nước về vấn đề thu

hồi đất, bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất. Bên cạnh đó, chỉ ra thực trạng áp

dụng các quy định pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất trong thực tiễn

tại tỉnh Ninh Bình thông qua 2 dự án đã nêu tại chương 2. Qua đây, tác giả phân

tích, đánh giá những ưu điểm cũng như hạn chế còn tồn tại khi áp dụng các quy

định về pháp luật bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất vào đời sống thực tiễn. Để từ

đó, tác giả cũng đề xuất một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả

áp dụng pháp luật bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất để giải

phóng mặt bằng. Tác giả hi vọng những kiến nghị này sẽ góp phần nhỏ bé vào việc

hoàn thiện các quy định của pháp luật cũng như giải quyết được những vướng mắc

trong thực tiễn thi hành pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất.

.

74

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Hiến pháp năm 1959 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngày 31

tháng 12 năm 1959;

2. Hiến pháp năm 1980 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngày 18

tháng 12 năm 1980;

3. Hiến pháp năm 1992 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngày 15

tháng 4 năm 1992;

4. Hiến pháp năm 2013 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngày 28

tháng 11 năm 2013;

5. Luật đất đai số 24-L/CTN ngày ngày 14 tháng 7 năm 1993;

6. Luật đất đai số 13/2003/QH11 ngày 26 tháng 11 năm 2003;

7. Luật đất đai số 45/2013/QH13 ngày 29 tháng 11 năm 2013;

8. Luật Đất đai số 03/LCT/HĐNN ngày 08/01/1988;

9. Luật trưng dụng, trưng mua tài sản số 15/2008/QH12 ngày 03 tháng 06 năm

2008;

10. Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15 tháng 5 năm 2014 của Chính phủ quy

định chi tiết thi hành một số điều của Luật Đất đai năm 2013;

11. Nghị định số 44/2014/NĐ-CP ngày 15 tháng 5 năm 2014 của Chính phủ quy

định về giá đất;

12. Nghị định số 47/2014/NĐ-CP ngày 15 tháng 5 năm 2014 của Chính phủ quy

định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất;

13. Nghị định số 44/2014/NĐ-CP ngày 15 tháng 5 năm 2014 của Chính phủ;

14. Thông tư số 30/2014/TT-BTNMT ngày 02 tháng 6 năm 2014 của Bộ Tài

nguyên và Môi trường quy định về hồ sơ giao đất, cho thuê đất, chuyển mục

đích sử dụng đất, thu hồi đất;

15. Thông tư số 36/2014/TT-BTNMT ngày 30 tháng 6 năm 2014 của Bộ Tài

nguyên và Môi trường quy định chi tiết phương pháp định giá đất; xây dựng,

điều chỉnh bảng giá đất; định giá đất cụ thể và tư vấn xác định giá đất;

75

16. Thông tư số 02/2015/TT-BTNMT ngày 27 tháng 01 năm 2015 của Bộ Tài

nguyên và Môi trường quy định chi tiết một số điều của Nghị định số

43/2014/NĐ-CP;

17. Quyết định số 953/ QĐ-UBND ngày 15 tháng 09 năm 2015 phê duyệt báo

cáo kinh tế- kỹ thuật công trình xây dựng cơ sở hạ tầng khu tái định cư phục

vụ GPMB dự án tuyến đường kết nối cao tốc Cầu giẽ - Ninh bình với quốc lộ

1A tại xã Ninh Phúc, thành phố Ninh bình;

18. Quyết định số 26/2014/QĐ-UBND ngày 19 tháng 9 năm 2014 của UBND

tỉnh Ninh Bình về việc ban hành quy định một số chính sách bồi thường, hỗ

trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn tỉnh Ninh Bình;

19. Quyết định số 37/2014/QĐ-UBND ngày 26 tháng 12 năm 2014 của UBND

tỉnh Ninh Bình về việc ban hành bảng giá các loại đất giai đoạn 2015-2019

trên địa bàn tỉnh Ninh Bình;

20. Quyết định số 09/2016/QĐ-UBND ngày 13 tháng 04 năm 2016 về việc sửa

dổi bổ sung một số Điều tại bản quy định một số chính sách bồi thường, hỗ

trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn tỉnh Ninh Bình ban

hành kèm theo quyết định số 26/2014/QĐ-UBND ngày 19/09/2014 của

UBND tỉnh Ninh Bình;

21. Báo cáo số 70 /BC- UBND ngày 22 tháng 3 năm 2016 về tiến độ thực hiện

GPMB tuyến kết nối Cao tốc Cầu Giẽ -Ninh Bình với Quốc lộ 1A, đoạn qua

huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình đến ngày 22/03./2016;

22. Báo cáo số 173/BC-UBND của UBND huyện Hoa Lư ngày 15 tháng 9 năm

2015 về tình hình triển khai công tác GPMB thực hiện Dự án thành phần đầu

tư xây dựng tuyến đường kết nối giữa đường cao tốc cầu Giẽ - Ninh Bình

với quốc lộ 1 (giai đoạn 2) trên địa bàn xã Ninh An, huyện Hoa Lư đến ngày

14/9/2015;

23. Báo cáo số 70 /BC- UBND ngày 22 tháng 3 năm 2016 về tiến độ thực hiện

GPMB tuyến kết nối Cao tốc Cầu Giẽ -Ninh Bình với Quốc lộ 1A, đoạn qua

huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình đến ngày 22/03/2016;

76

24. Công văn số 1258/UBND-CT về việc thực hiện công tác GPMB dự án xây

dựng tuyến đường kết nối giữa đường cao tốc cầu Giẽ- Ninh bình với Quốc

lộ 1 (giai đoạn 2);

25. Tạp chí của Tổng cục Thống kê .ISNN 0866-7322. Số 12/2014 (493). Ra

hàng tháng. Năm thứ 53;

26. Bộ Tài nguyên và Môi trường (2012), Báo cáo đánh giá tác động LĐĐ( sửa

đổi), Hà Nội, tháng 8/2012, Tr.4;

27. Nguyễn Như Ý (chủ biên ), Từ điển Tiếng Việt thông dụng. NXB Giáo dục,

Hà Nội 2001, tr79;

28. Phạm Thu Thủy (2014), “Bồi thường hỗ trợ tái định cư khi nhà nước thu hồi

đất theo LĐĐ 2013”, Tạp chí luật học, đặc san 11/ 2014, Tr.54;

29. Lê Hoàng Dương (2009), Luận văn cử nhân luật học, Các vấn đề pháp lý về

tái định cư khi nhà nước thu hồi đất thực hiện các dự án đầu tư , Đại học

luật Hà Nội, Tr.4;

30. TS.Doãn Hồng Nhung (Chủ biên) CN. Nguyễn Ngọc Hà (2014), Pháp Luật

về định giá đất trong bồi thường GPMB ở Việt Nam, nhà xuất bản tư pháp

Hà Nội, Tr.83;

31. Phạm Thu Thủy (2014), Luận án TS Luật học, Pháp luật về bồi thường khi

nhà nước thu hồi đất nông nghiệp ở Việt Nam, Đại học Luật Hà Nội, Tr.60;

32. Phạm Thu Thủy (2014), “Bồi thường hỗ trợ tái định cư khi Nhà nước thu hồi

đất theo LĐĐ 2013”, Tạp chí luật học, đặc san 11/ 2014, Tr.57;

33. Lê Thị Yến (2010), Luận văn thạc sĩ, Pháp luật về bồi thường khi Nhà nước

thu hồi đất qua thực tiễn áp dụng tại địa bàn quận Tây Hồ, thành phố Hà

Nội, Khoa luật- ĐHQGHN;

34. Hoàng Thị Thu Trang (2012); Pháp luật về bồi thường khi nhà nước thu hồi

đất nông nghiệp của hộ gia đình, cá nhân và thực tiễn áp dụng tại Nghệ An,

Đại học Luật Hà Nội;

35. Trần Thị Phương Liên (2013), Pháp luật về bồi thường, hỗ trợ đối với hộ gia

đình, cá nhân khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp- thực trạng và hướng

hoàn thiện, Đại học Luật Hà Nội;

77

36. Vấn đề lý luận xung quanh khái niệm bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất,

TS. Nguyễn Quang Tuyến , Tạp chí luật học số 1/2009;

37. Vấn đề thu hồi đất và bồi thường khi thu hồi đất trong Dự thảo LĐĐ (sửa đổi, bổ

sung) của tác giả TS.Nguyễn Quang Tuyến,Tạp chí Luật học số 12/2008;

38. Pháp luật về bồi thường tái định cư khi nhà nước thu hồi đất của Singapore

và Trung quốc- những gợi mở cho Việt Nam trong hoàn thiện pháp luật về

bồi thường, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất của đồng tác giả TS.Nguyễn

Quang Tuyến và ThS.Nguyễn Ngọc Minh, Tạp chí Luật học số 10/2010;

39. Pháp luật về trình tự, thủ tục thu hồi đất, bồi thường và giải phóng mặt bằng

và những vướng mắc nảy sinh trong quá trình áp dụng của tác giả Nguyễn

Thị Nga, Tạp chí Luật học số 11/2010;

40. Cơ cấu dân số và lực lượng lao động tại Việt Nam.

http://mic.gov.vn/daotaonghe/thongke/Trang/C%C6%A1c%E1%BA%A5ud%C

3%A2ns%E1%BB%91v%C3%A0l%E1%BB%B1cl%C6%B0%E1%BB%A3n

glao%C4%91%E1%BB%99ngt%E1%BA%A1iVi%E1%BB%87tNam.aspx

41. http://hanoimoi.com.vn/Tin-tuc/Chinh-tri/724777/can-quyet-liet-thao-go-

tinh-trang-khieu-nai-to-cao

42. http://tnmtcaobang.gov.vn/index.php/vi/news/Quan-ly-dat-dai/Nhung-noi-

dung-doi-moi-quan-trong-cua-Luat-dat-dai-nam-2013-2010/

43. http://www.doisongphapluat.com/phap-luat/tinh-huong-phap-luat/thu-tuc-

thu-hoi-dat-va-quy-trinh-boi-thuong-tai-dinh-cu-a106597.html

44. https://luatminhgia.com.vn/kien-thuc-dat-dai/ho-tro-va-tai-dinh-cu-khi-nha-

nuoc-thu-hoi-dat-dai.aspx

45. https://vi.wikipedia.org/wiki/Ninh_B%C3%ACnh#V.E1.BB.8B_tr.C3.AD –

Vị trí địa lí, địa hình, hành chính của Tỉnh Ninh Bình.

46. http://baoninhbinh.org.vn/nam-2015-chi-so-pci-cua-ninh-binh-xep-hang-

3063-tinh-thanh-pho-20160331030247909p2c20.htm

47. http://nbtv.vn/tin-tuc-su-kien/ninh-binh-24h/thoi-su-chinh-tri/201601/tong-

thu-ngan-sach-nam-2015-tren-dia-ban-tinh-ninh-binh-dat-tren-4368-ty-dong-

656889

78

48. http://baoninhbinh.org.vn/bao-cao-tinh-hinh-ktxh-nam-2014-muc-tieu-va-

cac-nhiem-vu-chu-yeu-cua-nam-2015-20141216084442597p12c92.htm

49. http://en.baoninhbinh.org.vn/yen-khanh-thyc-hien-tot-quy-che-dan-chu-o-co-

so-20160125101852396p12c18.htm

50. http://tuoitre.vn/tin/tuoi-tre-cuoi-tuan/20131210/luat-dat-dai-2013-nhung-

viec-can-lam-tiep/583999.html

79