intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

KHU VƯỜN TRỞ THÀNH MỘT TÁC PHẨM TRỪU TƯỢNG

Chia sẻ: Nguyen Nhi | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:8

68
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Đây là Viện Bảo tàng Mỹ thuật Gagosian ở Chelsea, New York chăng ? Chưa hẳn như vậy ! Nhưng mấy năm nay, thỉnh thoảng gallery của Viện bảo tàng Gagosian đã hình thành một “phòng trưng bày mỹ thuật” (kunsthalle) đầy hoài bão lớn lao. Năm 2009, viện đã tổ chức CLAUDE MONET-chiếc cầu Nhật Bản-Sơn dầu một cuộc triển lãm hồi tưởng vô giá về Piero Manzoni, nghệ sĩ Biểu niệm chủ nghĩa đầu tiên, rồi đến cuộc khảo sát những tuyệt tác cuối đời của danh họa Picasso....

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: KHU VƯỜN TRỞ THÀNH MỘT TÁC PHẨM TRỪU TƯỢNG

  1. KHU VƯỜN TRỞ THÀNH MỘT TÁC PHẨM TRỪU TƯỢNG Đây là Viện Bảo tàng Mỹ thuật Gagosian ở Chelsea, New York chăng ? Chưa hẳn như vậy ! Nhưng mấy năm nay, thỉnh thoảng gallery của Viện bảo tàng Gagosian đã hình thành một “phòng trưng bày mỹ thuật” (kunsthalle) đầy hoài bão lớn lao. Năm 2009, viện đã tổ chức CLAUDE MONET-chiếc cầu Nhật một cuộc triển lãm hồi tưởng vô Bản-Sơn dầu giá về Piero Manzoni, nghệ sĩ Biểu niệm chủ nghĩa đầu tiên, rồi đến cuộc khảo sát những tuyệt tác cuối đời của danh họa Picasso. Giờ đây, trong một bước tiến gần hơn tới thế giới của các nghệ sĩ bậc thầy thuở trước, Viện lại tổ chức cuộc triển lãm “Claude Monet: Những sáng tác cuối đời” (Claude Monet: Late Work), một cuộc trưng bày hoành tráng (toàn những của hiếm từ đâu đến trên cõi đời này nhỉ?),
  2. gồm 27 trong số các họa phẩm do Monet vẽ khu vườn Giverny, từ 1904 đến 1922. Và chính xác những họa phẩm này đến từ đâu vậy? Từ rất nhiều nơi: Viện Bảo tàng Marmottan Monet ở Paris, Quỹ Beyeler ở Basel, Thụy Sĩ, Học viện Mỹ thuật Chicago, hai viện bảo tàng Nhật Bản, và nhiều bộ sưu tầm tư nhân khác. Những cuộc trưng bày các tác phẩm mượn được như cỡ này thường tốn kém vô cùng. Chắc chắn chúng là những khoản đầu tư có tính toán, thường là những gói xúc tiến thương mại cho từng tác phẩm mà gallery muốn bán. Nhưng trong trường hợp đặc biệt này, Viện bảo tàng Gagosian khẳng định, sẽ không bán tác phẩm nào hết. Trưng bày, chỉ là trưng bày. Vì thế các bạn cứ thỏa sức thưởng ngoạn. Mà phải thưởng ngoạn thực sự đấy. Vì đây toàn là những tác phẩm đẹp tuyệt trần, đẹp đến mức siêu phàm. Vào khoảng năm 1904, Monet đã trú ở Giverny, một ngôi làng cách Paris chừng 45 dặm, trong hơn một thập kỷ. ở đó, với một nhóm các thợ làm vườn chuyên về phong cảnh, Monet đã thiết kế và dần dần sắp đặt một khu vườn rất công phu, trồng các loài hoa và cả các loài cây, với một hồ hoa súng, đẹp đến kỳ lạ, hấp dẫn đến lạ thường. Ông quý khu vườn của ông, sắp đặt nó như một tác phẩm vườn cây mỹ thuật vĩ đại. Và đó là một dự án bất tận, với công nhân thường xuyên làm cỏ các luống hoa, trồng những cây liễu rủ, định hình lại khu hồ, xây thêm những chiếc cầu Nhật Bản, sắp xếp các mảng hoa súng... Đối
  3. với Monet, cuối cùng khu vườn trở thành một tác phẩm trừu tượng, một nhà hát tinh thần, một mô hình mẫu về xưởng họa, mà ông đòi hỏi khắt khe vì ông đã dành hết tâm sức của mình. Tuy nhiên, thực ra trong những năm đầu ở Giverny, ông cũng chỉ thỉnh thoảng mới chú ý tới nó được thôi. Ông hơi lấn bấn về chuyện gia đình. Sự nghiệp của ông lại đòi hỏi phải quan tâm nhiều hơn về thời gian. Ông lại thường xuyên đi chu du đây đó lúc tới Luân Đôn, Địa Trung Hải, và vẽ đủ mọi thứ từ những đống rơm cho đến những Tòa nhà Quốc hội. Rồi đến khi ông vẽ chính ngôi vườn của ông, ông có hơi cứng nhắc, miêu tả nó theo phong cách ấn tượng Cổ điển, với những nét nhỏ xíu vô định, hợp lại thành những bố cục vô cùng chặt chẽ. Ông vẽ với một tâm thế hội họa hẳn hoi như thể khu vườn không thực sự thuộc về ông, không phải của ông. Nhưng thực tế nó đã thực sự thuộc về ông, và có lúc ông đã nhập tâm ý tưởng đó và yên chí về mặt tâm lý. Việc ông chăm sóc khu vườn càng trở nên có tính chất cá nhân hơn, điều đó có nghĩa thực nghiệm hơn. Thế rồi ông thấy thoải mái hơn, và khu vườn cũng không níu kéo ông một cách sát sao nữa. Và điểm chính của cuộc trưng bày Gasgosian, do Paul Hayes Tucker, nhà nghiên cứu lịch sử mỹ thuật đứng ra tổ chức, là nhằm mô tả quá trình sáng tác như phản ánh trong các họa phẩm của ông.
  4. Rõ ràng đây là tâm trạng ổn định mà ông được thoải mái nhờ tình hình tài chính, được bảo đảm hơn. Vào đầu thế kỷ 20, Monet là một trong những nghệ sĩ giàu nhất nước Pháp, và ông đã sử dụng khả năng tài chính đó để tu bổ cho không gian môi trường sống của ông. Năm 1902, ông mở rộng hồ hoa súng gấp 3 lần diện tích ban đầu, cải tạo ao nước nông thành một cảnh quan hoành tráng, rộng mênh mông. Ngay sau đó, ông đã vẽ những bức đầu tiên của một series các họa phẩm nhan đề chung là “Hoa Súng” (Nymphéas). Tám bức mẫu, được vẽ từ 1904 đến 1908, treo ở phòng trưng bày thứ nhất dưới mái vòm sơn màu ghi của Viện bảo tàng. Và nếu bạn chỉ biết chút ít thôi về Monet thời kỳ tiền - Giverny, thì lập tức bạn sẽ thấy được bước tiến vọt của ông ở đây. Những cấu trúc cố định không còn nữa, cũng không hiện được những dấu vết đối với thời gian thực tại. Và rồi không gian trở nên khó xác định. Lúc này người xem tranh chúng ta đang đứng ở đâu đây? Trên bờ hồ chăng? Hay dưới nước chăng? Hay đang bay lượn là là trên mặt nước chăng? Hay nhìn sâu bên dưới những mảng hoa súng ở ngay trên đầu chúng ta chăng? Những cảnh gây mất phương hướng ấy có thể tạo nên những hiệu ứng đáng ngạc nhiên. Trong một bức họa vẽ năm 1907, ta như nhìn thấy một thác Niagara tuôn trào ánh sáng vàng tối xám rọi chiếu ra từ một kẽ nứt nào đó trong khoảng không vũ trụ vậy. Ta liên tưởng đến ngày tận thế, những núi lửa phun trào, cảnh trừu tượng lóe lên, nhưng thực ra những gì ta đang
  5. ngắm nhìn lại chính là cảnh hoàng hôn ở vườn Giverny được nước hồ phản chiếu. Cho dù đó là gì đi chăng nữa, những hiệu ứng mạnh mẽ như thế này quả là hiếm có. Phần lớn bức họa hồi đầu Giverny này của Mornet cho ta một cảm giác êm đềm, tươi sáng, lâng lâng. Họa phẩm bán trừu tượng này trông có vẻ đậm chất lãng du, nhưng cuộc phiêu lãng không tiến được xa lắm. Trong các bức tranh, bờ hồ hoa súng đều thể hiện rất rõ một đường dẫn chủ yếu tới thực tại mà ta biết. Nhiều năm sau 1908 là những năm bất hạnh dồn dập xảy đến với Monet. Vợ ông qua đời thế rồi tiếp đến một trong hai người con trai của ông - con trai thứ hai - bị ốm nặng, Thế chiến thứ nhất bùng nổ và kéo dài gây biết bao đau thương tang tóc. Ông bị ám ảnh về những mối lo nghề nghiệp, những cuộc khủng hoảng lòng tin. Ông biết rằng ông là một con khủng long của trường phái ấn tượng chủ nghĩa. Chủ nghĩa Dã thú và Chủ nghĩa Lập thể đều thể hiện rõ điều này và rằng dẫu sao ông cũng cần phải chuyển hướng sáng tác. Đồng thời thị lực của ông ngày một xấu đi do chứng đục nhân mắt, khiến ông không nhìn rõ mọi vật tới mức ông phải đánh số vào các ống tube sơn dầu để xác định ông đang sử dụng màu nào. Vì một số hoặc tất cả những lý do trên, cuộc trưng bày cho thấy, vào khoảng năm 1917, khu vườn Giverny đã trở thành thế giới của riêng ông và là đối tượng mỹ thuật hàng đầu của ông thời kỳ này. Các họa phẩm của ông rộng lớn hơn, rất hoành tráng, để ông thỏa thích vung bút
  6. sơn vẽ theo ý muốn. Mặt tranh, một thời được khống chế tỉ mỉ, thì nay luôn thay đổi, không ổn định, gồ ghề nổi cộm chỗ này, nhạt sơn, bỏ trống ở chỗ kia, như thể ta cảm nhận, thưởng thức tranh qua sờ mó, mân mê, chứ không phải qua chú mục, ngắm nhìn vậy Những yếu tố ngẫu nhiên trong các họa phẩm trước kia nay trở thành những sự kiện chính trong các tác phẩm mới. Những cây liễu rủ, một thời là những chi tiết thứ yếu, xuất hiện qua bóng cây hoặc chỉ là những cành ló ra từ mép tranh, giờ đây chiếm vị trí trung tâm. Ông muốn quan sát chúng, ngắm nhìn chúng thực sự, mà thực tế ông đã làm như vậy, vẽ nên những thân cây tươi tắn mà gân guốc mạnh mẽ, biến các cành cây thành những bức màn rủ màu đen. Có một thời, nghệ thuật của Monet chỉ chú trọng về ánh sáng, giờ đây hình như ông chỉ chú ý đến bóng tối, hoặc ánh sáng trốn chạy khỏi bóng tối. Ông vẽ về khu vườn vào ban đêm. Ai dám bảo một khu vườn nhất thiết phải là một không gian ôn hòa? Đó là một bãi chiến trường cạnh tranh tiến hóa, như học thuyết Darwin chủ trương, đầy rẫy cảnh bạo lực thầm lặng, trong lúc cây cỏ tranh nhau chiếm không gian, ánh sáng, độ ẩm, và nguồn sống. Đó là không gian của những cạm bẫy ngổn ngang, o ép đến ngạt thở, gồm toàn những thứ gây nhức nhối, độc hại chết người. Và cả những vẻ đẹp bất tận nữa. Thực tế là mọi thứ xảy ra ở thế giới bên ngoài đều có thể diễn ra trong khu vườn trên diện nhỏ, dưới một hình thức nào đó. Nắm được điểm này là bị lôi cuốn vào tấn kịch thực vật học rồi đấy. Monet đã bị thu hút vào nó, và ông đã cố gắng thể hiện tấn kịch ấy trong mỹ thuật.
  7. Về già, thể lực kém, ông không còn đủ sức làm việc nhiều nữa, do đó ông vẽ nên những khu vườn rộng mênh mông, với những hình thể liên quan, tường bao quanh những căn phòng hình tròn hoặc hình bầu dục, ôm lấy hoặc bao trùm cảnh vật, găm chúng ở bên trong. Vài năm trước khi ông qua đời, năm 1926, ông đã chắt lọc ý tưởng hòa quyện thiên nhiên vào mỹ thuật thành một loạt những bức tranh khổ nhỏ. Lối Hoa Hồng (L’Allée de Rosiers), hoặc Lối đi dưới Vòm Hoa Hồng (The Path Under the Rose Arches). 3 trong số những bức tranh này được trưng tại phòng cuối cùng của cuộc triển lãm này, và chúng đều là những tuyệt tác bốc lửa. Nếu một vài bức Hoa súng (Nympheas) về sau có sẫm màu như đổ sơn, thì trong những bức này, sơn đỏ, vàng và tím được trát, được phết vô cùng rực rỡ. Trong mỗi bức, khung vòm chi chít đóa hồng tươi mát đều mở ra một lối đi bên dưới, trông như lối vào một khu vườn, xuống một nhà mồ, vào trái tim của một bông hoa... Với những tác phẩm này của Monet, ta như đang đứng trước cổng lâu đài của Hội họa Trừu tượng; hãy dỡ bỏ chủ đề là chúng ta đã lọt vào bên trong lâu đài rồi. Joan Mitchell, người mê những tác phẩm này, chú tâm nghiên cứu từng ly từng tí một, đã nhận ra điều ấy. Các nghệ sĩ khác cũng cảm nhận được “hiệu ứng Monet” (the Monet effect) này. Mục đích thứ hai được công bố của cuộc triển lãm này là duy trì ảnh hưởng như thế được lâu dài, liên tục, như Larry Gagosian viết trong cuốn vựng tập về cuộc triển lãm là nhằm nhấn mạnh “chất cách mạng của những tác phẩm này ở thời đại của chúng cũng như tính cập nhật
  8. thức thời của chúng đối với các nghệ sĩ đang sáng tác ngày nay.” Rõ ràng đây hoàn toàn là một mục tiêu đáng trân trọng. Và ngày nay khi một số nhà mua bán tranh còn giàu hơn nhiều viện bảo tàng, thì rất có thể các gallery thương mại ngày càng ở vị trí có khả năng đưa ra những lời phán xét có tính chất lịch sử. Còn đối với các nghệ sĩ cách mạng khác đủ chín chắn cần được chú ý, thì tôi có cả một danh sách, và tôi tin chắc rằng ông Gagosian cũng có một danh sách của riêng ông. Chúng ta cùng xem ai sẽ là người được ông tán dương, tuyển chọn tiếp sau đây. Còn trong lúc này, chúng ta hãy cứ nghĩ đến Claude Monet đã. Điền Thanh (Sưu tầm và giới thiệu theo bài The garden that grew into a Muse đăng trên TBNY ngày 6/5/2010)
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2