BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ Y TẾ

VIỆN VỆ SINH DỊCH TỄ TRUNG ƯƠNG

----------*-----------

ĐẶNG CẨM TÚ

THỰC TRẠNG KIẾN THỨC, THÁI ĐỘ,

THỰC HÀNH NUÔI CON BẰNG SỮA MẸ

CỦA CÁC BÀ MẸ CÓ CON 0 - 25 THÁNG TUỔI

TẠI 3 TỈNH HÀ NAM, QUẢNG BÌNH, LÀO CAI

VÀ HIỆU QUẢ MỘT SỐ BIỆN PHÁP CAN THIỆP,

2012-2015

LUẬN ÁN TIẾN SỸ Y TẾ CÔNG CỘNG

HÀ NỘI - 2018

i

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ Y TẾ

VIỆN VỆ SINH DỊCH TỄ TRUNG ƯƠNG

-----------*-----------

ĐẶNG CẨM TÚ

THỰC TRẠNG KIẾN THỨC, THÁI ĐỘ,

THỰC HÀNH NUÔI CON BẰNG SỮA MẸ

CỦA CÁC BÀ MẸ CÓ CON 0 - 25 THÁNG TUỔI

TẠI 3 TỈNH HÀ NAM, QUẢNG BÌNH, LÀO CAI VÀ

HIỆU QUẢ MỘT SỐ BIỆN PHÁP CAN THIỆP, 2012 - 2015

Chuyên ngành: Y TẾ CÔNG CỘNG

Mã số: 62 72 03 01

LUẬN ÁN TIẾN SỸ Y TẾ CÔNG CỘNG

Người hướng dẫn khoa học:

1. PGS.TS. Hoàng Văn Tân

2. PGS.TS. Khương Văn Duy

HÀ NỘI - 2018

ii

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số

liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực và chưa từng được ai công bố

trong bất kỳ công trình nào khác.

Tác giả luận án

iii

LỜI CẢM ƠN

Hoàn thành luận án này, trước tiên tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc

tới PGS.TS. Hoàng Văn Tân và PGS.TS. Khương Văn Duy, là những người

thầy hướng dẫn trực tiếp, đã tận tình giúp đỡ, truyền đạt kiến thức trong suốt

quá trình học tập, thực hiện và hoàn thành luận án.

Tôi xin trân trọng cảm ơn Ban lãnh đạo, Bộ môn Y tế Công cộng,

Phòng Đào tạo sau đại học của Viện Vệ sinh Dịch tễ Trung ương, đã luôn

quan tâm, giúp đỡ, tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất trong suốt quá trình học

tập và hoàn thiện luận án.

Tôi xin trân trọng cảm ơn lãnh đạo, các cán bộ Hội Liên hiệp Phụ nữ

Việt Nam đã hỗ trợ kỹ thuật trong quá trình triển khai nghiên cứu.

Xin trân trọng cảm ơn lãnh đạo, các cán bộ Hội LHPN tỉnh Lào Cai,

Quảng Bình, Hà Nam đã hỗ trợ tôi trong quá trình thực hiện nghiên cứu, thu

thập số liệu cho luận án.

Tôi xin chân thành cảm ơn tất cả thành viên trong các hội đồng khoa

học chấm luận án đã đóng góp nhiều ý kiến quý báu để tôi có thêm kiến thức

và hoàn thiện luận án đạt chất lượng tốt hơn.

Nhân dịp này, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới cha mẹ, chồng,

các con và các anh chị em, bạn bè, đồng nghiệp thân thiết, đã hết lòng ủng

hộ, động viên, chia sẻ trong suốt quá trình học tập và hoàn thành luận án tốt

nghiệp.

Tác giả luận án

iv

MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN ............................................................................................ ii

LỜI CẢM ƠN ................................................................................................. iii

DANH MỤC VIẾT TẮT ............................................................................. viii

DANH MỤC CÁC BẢNG ............................................................................. ix

DANH MỤC BIỂU ĐỒ .................................................................................. xi

ĐẶT VẤN ĐỀ .................................................................................................. 1

MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU ........................................................................... 4

Chương 1: ........................................................................................................ 5

TỔNG QUAN .................................................................................................. 5

1.1. Một số khái niệm cơ bản về nuôi con bằng sữa mẹ ................................. 5

1.2. Thành phần cơ bản của sữa mẹ ..................................................................... 6

1.3. Các giai đoạn sản xuất sữa mẹ ....................................................................... 7

1.4. Lợi ích của nuôi con bằng sữa mẹ ................................................................. 8

1.4.1. Lợi ích đối với trẻ ............................................................................ 8

1.4.2. Lợi ích đối với bà mẹ .................................................................... 11

1.4.3. Một số lợi ích khác ....................................................................... 11

1.5. Thực trạng kiến thức và thực hành về nuôi con bằng sữa mẹ ........... 12

1.5.1. Kiến thức, thái độ và thực hành về nuôi con bằng sữa mẹ trên

thế giới ..................................................................................................... 12

1.5.2. Kiến thức, thái độ và thực hành về nuôi con bằng sữa mẹ ở

Việt Nam .................................................................................................. 17

1.6. Tác động của truyền thông nâng cao kiến thức, thái độ thực hành

nuôi con bằng sữa mẹ ............................................................................................. 21

1.7. Một số chương trình can thiệp cải thiện kiến thức, thái độ, thực

hành NCBSM ............................................................................................................ 25

v

1.7.1. Một số mô hình trên thế giới ....................................................... 25

1.7.2. Một số mô hình tại Việt Nam ....................................................... 27

1.8. Một số thông tin cơ bản về địa bàn nghiên cứu ...................................... 34

Chương 2: ...................................................................................................... 36

ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ............................... 36

2.1. Đối tượng nghiên cứu ..................................................................................... 36

2.1.1. Đối tượng nghiên cứu .................................................................. 36

2.1.2. Tiêu chuẩn loại trừ ....................................................................... 36

2.2. Địa điểm và thời gian nghiên cứu ............................................................... 36

2.2.1. Địa điểm nghiên cứu .................................................................... 36

2.2.2. Thời gian nghiên cứu ................................................................... 37

2.3. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................... 37

2.3.1. Thiết kế nghiên cứu ...................................................................... 37

2.3.2. Giai đoạn 1: điều tra cắt ngang kết hợp với nghiên cứu định

tính ........................................................................................................... 38

2.3.3. Giai đoạn 2: nghiên cứu can thiệp giáo dục truyền thông nâng

cao kiến thức và thái độ cho con bú sớm và bú mẹ hoàn toàn trong 6

tháng đầu của các bà mẹ có con từ 0 - 24 tháng và đánh giá sau can

thiệp .......................................................................................................... 44

2.3.4. Công cụ nghiên cứu ..................................................................... 49

2.4. Xử lý số liệu........................................................................................................ 51

2.5. Khống chế sai số trong nghiên cứu ............................................................. 52

2.6. Một số khái niệm sử dụng trong nghiên cứu ........................................... 52

2.7. Đạo đức trong nghiên cứu ............................................................................. 53

2.8. Hạn chế của đề tài ............................................................................................ 53

Chương 3: ...................................................................................................... 55

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ........................................................................... 55

vi

3.1. Đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu .............................................. 55

3.2.1. Kiến thức nuôi con bằng sữa mẹ ................................................. 60

3.2.2. Thái độ về nuôi con bằng sữa mẹ ................................................ 66

3.2.3. Thực hành nuôi con bằng sữa mẹ .............................................. 74

3.3. Hiệu quả can thiệp giáo dục truyền thông nâng cao kiến thức và

thái độ cho con bú sớm và bú mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu của các

bà mẹ có con từ 0 đến dưới 25 tháng tuổi......................................................... 77

3.3.1. Hiệu quả mô hình câu lạc bộ nuôi con bằng sữa mẹ ................ 78

3.3.2. Hiệu quả về kiến thức cho con bú mẹ sau sinh, thời gian cai sữa

và lợi ích nuôi con bằng sữa mẹ ............................................................. 86

3.3.3. Hiệu quả về thái độ nuôi con bằng sữa mẹ .................................. 91

3.3.4. Nguồn truyền thông giúp thay đổi kiến thức và hành vi về nuôi

con bằng sữa mẹ ..................................................................................... 99

Chương 4: .................................................................................................... 101

BÀN LUẬN .................................................................................................. 101

4.1. Đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu ............................................ 101

4.2. Mô tả kiến thức, thái độ và thực hành về nuôi con bằng sữa mẹ tại 3

tỉnh: Hà Nam, Lào Cai, Quảng Bình ............................................................... 103

4.2.1. Tỷ lệ nuôi con bằng sữa mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu và cho

bú ngay sau 1 giờ sau sinh và bú kéo dài đến 24 tháng tuổi ............. 103

4.2.2. Kiến thức, thái độ về việc nuôi con bằng sữa mẹ của những đối

tượng phụ nữ có con từ 0-25 tháng tuổi ............................................ 113

4.3. Hiệu quả can thiệp giáo dục truyền thông nâng cao kiến thức, thái

độ về việc nuôi con bằng sữa mẹ ....................................................................... 121

4.4. Một số hạn chế của nghiên cứu ................................................................. 126

KẾT LUẬN .................................................................................................. 127

KHUYẾN NGHỊ ......................................................................................... 129

vii

TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 132

Phụ lục 1: ..................................................................................................... 154

PHIẾU PHỎNG VẤN PHỤ NỮ VỀ NUÔI CON BẰNG SỮA MẸ ..... 154

Phụ lục 2: ..................................................................................................... 161

CÂU HỎI HƯỚNG DẪN THẢO LUẬN NHÓM ................................... 161

Phụ lục 3: ..................................................................................................... 162

GỢI Ý THẢO LUẬN NHÓM ................................................................... 162

viii

DANH MỤC VIẾT TẮT

CLB Câu lạc bộ

Hội LHPN Hội Liên hiệp Phụ nữ

NCBSM Nuôi con bằng sữa mẹ

NCBSMHT Nuôi con bằng sữa mẹ hoàn toàn

WHO Tổ chức Y tế thế giới

ix

DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 2.1: Thời gian thực hiện nghiên cứu ..................................................... 37

Bảng 2.2: Tổng hợp đối tượng nghiên cứu định tính giai đoạn 1 ................... 39

Bảng 2.3: Danh sách các tỉnh, huyện và xã được lựa chọn nghiên cứu........ 40

Bảng 2.4: Tổng hợp đối tượng nghiên cứu định tính giai đoạn 2 ................... 46

Bảng 3.1: Phân bố đối tượng nghiên cứu theo tuổi ....................................... 55

Bảng 3.2: Phân bố đối tượng nghiên cứu theo nghề nghiệp ......................... 57

Bảng 3.3: Phân bố đối tượng nghiên cứu theo tình trạng con cái ................. 58

Bảng 3.4: Phân bố đối tượng trẻ em < 25 tháng tuổi theo giới tính và theo

tình trạng sinh đẻ ............................................................................................ 59

Bảng 3.5: Kiến thức về lựa chọn nuôi con tốt nhất sau sinh ......................... 60

Bảng 3.6: Kiến thức về lợi ích của sữa mẹ .................................................... 63

Bảng 3.7: Kiến thức về lợi ích của nuôi con bằng sữa mẹ ............................ 64

Bảng 3.8: Nguồn thông tin về nuôi con bằng sữa mẹ.................................... 65

Bảng 3.9: Thái độ về việc nuôi con bằng sữa mẹ giúp bảo vệ trẻ không bị

bệnh tật tránh được viêm nhiễm ..................................................................... 66

Bảng 3.10: Thái độ về việc nuôi con bằng sữa mẹ tạo được sự kết gắn mẹ

con ................................................................................................................... 67

Bảng 3.11: Thái độ về việc nuôi con bằng sữa mẹ giúp trẻ khỏe mạnh hơn 67

Bảng 3.12: Thái độ về việc nuôi con bằng sữa mẹ có đầy đủ chất giúp trẻ

phát triển ......................................................................................................... 68

Bảng 3.13: Thái độ về việc nuôi con bằng sữa mẹ dễ hơn nuôi con bằng sữa

bột .................................................................................................................... 69

Bảng 3.14: Thái độ về việc nuôi con bằng sữa mẹ không gặp khó khăn trong

chăm sóc gia đình ........................................................................................... 69

Bảng 3.15: Thái độ về việc nuôi con bằng sữa mẹ là cách tốt nhất giảm chi

x

tiêu trong gia đình ........................................................................................... 70

Bảng 3.16: Làm mẹ là phải nuôi con bằng sữa mẹ ........................................ 71

Bảng 3.17: Thực hành cho con bú ngay sau sinh .......................................... 74

Bảng 3.18: Các hoạt động can thiệp .............................................................. 77

Bảng 3.19: Kiến thức lựa chọn nuôi con tốt nhất .......................................... 86

Bảng 3.20: Kiến thức về thời gian bú sữa mẹ hoàn toàn .............................. 87

Bảng 3.21: Kiến thức về thời gian cai sữa mẹ hoàn cho con ........................ 87

Bảng 3.22: Lợi ích nuôi con bằng sữa mẹ ..................................................... 88

Bảng 3.23: Nuôi con bằng sữa mẹ giúp bảo vệ trẻ không bị bệnh ............... 91

Bảng 3.24: Nuôi con bằng sữa mẹ tạo sự kết gắn giữa mẹ và con ............... 92

Bảng 3.25: Nuôi con bằng sữa mẹ giúp trẻ khỏe mạnh hơn trẻ không nuôi

con bằng sữa mẹ ............................................................................................. 92

Bảng 3.26: Nuôi con bằng sữa mẹ là sữa mẹ chứa đầy đủ chất giúp trẻ phát

triển .................................................................................................................. 93

Bảng 3.27: Nuôi con bằng sữa mẹ là dễ hơn nuôi con bằng ăn sữa bột ....... 93

Bảng 3.28: Nuôi con bằng sữa mẹ không gặp khó khăn trong chăm sóc gia

đình .................................................................................................................. 94

Bảng 3.29: Nuôi con bằng sữa mẹ là cách tốt nhất để giảm chi tiêu trong gia

đình .................................................................................................................. 94

Bảng 3.30: Nuôi con bằng sữa mẹ là làm mẹ phải nuôi con bằng sữa mẹ ... 95

Bảng 3.31: Nuôi con bằng sữa bột giúp trẻ khỏe mạnh, chống béo phì ....... 95

Bảng 3.32: Phụ nữ không nên cho con bú mẹ ở nơi công cộng .................... 96

Bảng 3.33: Nuôi con bằng sữa mẹ làm mất tự do của mẹ ............................. 96

Bảng 3.34: Nuôi con bằng sữa mẹ làm mất thời gian ................................... 97

Bảng 3.35: Nguồn truyền thông giúp thay đổi kiến thức và hành vi nuôi con

bằng sữa mẹ .................................................................................................... 99

xi

DANH MỤC BIỂU ĐỒ

Biểu đồ 3.1: Phân bố đối tượng nghiên cứu theo trình độ học vấn (n = 920)

......................................................................................................................... 56

Biểu đồ 3.2: Phân bố đối tượng nghiên cứu theo dân tộc (n = 920) ............. 58

Biểu đồ 3.3: Kiến thức về thời gian cho con bú sữa mẹ hoàn toàn (n = 920)

......................................................................................................................... 61

Biểu đồ 3.4: Kiến thức về thời gian cai sữa cho trẻ ...................................... 62

Biểu đồ 3.5: Thái độ về quan điểm nuôi con bằng sữa bột giúp trẻ có thân

hình khỏe mạnh, chống được béo phì ............................................................ 71

Biểu đồ 3.6: Thái độ về quan điểm phụ nữ không nên cho con bú nơi công

cộng ................................................................................................................. 72

Biểu đồ 3.7: Thái độ về quan điểm nuôi con bằng sữa mẹ làm mất thời gian

của mẹ ............................................................................................................. 73

Biểu đồ 3.8: Thực hành cho con bú sữa mẹ hoàn toàn (n = 652) ................. 75

Biểu đồ 3.9: Thực hành cai sữa cho trẻ (n=378) ........................................... 76

Biểu đồ 1.3: tỷ lệ cho con bú mẹ trong vòng 1 giờ đầu ở Madagascar từ năm

1997 đến năm 2002 ....................................................................................... 163

Biểu đồ 1.4: tỷ lệ cho con bú sữa mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu ở

Madagascar từ năm 1997 đến năm 2002 ..................................................... 164

Biểu đồ 1.5: Tỷ lệ nuôi con bằng sữa mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu tại một

số quốc gia trên thế giới ............................................................................... 165

1

ĐẶT VẤN ĐỀ

Nuôi con bằng sữa mẹ (NCBSM) là phương pháp nuôi dưỡng trẻ tự

nhiên mang lại lợi ích tối ưu nhất cho sự sống còn, lớn lên và phát triển của

trẻ. Cho trẻ bú sớm trong vòng 1 giờ đầu sau sinh, bú mẹ hoàn toàn trong 6

tháng đầu, tiếp tục cho ăn bổ sung hợp lý và duy trì bú sữa mẹ đến 24 tháng

tuổi bảo đảm sự tăng trưởng và phát triển thể chất, tinh thần và trí tuê ̣ của trẻ

[1]. Nuôi con bằng sữa mẹ là biện pháp can thiệp có hiệu quả nhất trong

giảm tỷ lệ mắc bệnh và tử vong cho trẻ. Nuôi con bằng sữa mẹ hoàn toàn

góp phần quan trọng giảm tỷ lệ mắc viêm phổi và tiêu chảy là 2 nguyên

nhân chính gây tử vong ở trẻ nhỏ. Theo ướ c tính củ a Tổ chức Y tế Thế giới

(WHO) và Quỹ Nhi đồng Liên hơ ̣p quố c (UNICEF) chỉ riêng với can thiệp

cho trẻ bú sớm và bú mẹ hoàn toàn (BMHT) trong 6 tháng đầu sẽ làm giảm

1,3 triê ̣u ca tử vong ở trẻ em dướ i 5 tuổi mỗi năm trên toàn thế giớ i [1].

Nuôi con bằng sữa mẹ còn có tác động tích cực đến sức khỏe bà mẹ.

Nhiều nghiên cứu đã chứng minh rằng các bà mẹ cho con bú giảm nguy cơ

mắc ung thư vú và buồng trứng là 2 nguy cơ hàng đầu gây tử vong ở phụ nữ.

Mặc dù lợi ích của NCBSM, đặc biệt là cho con bú sớm và bú mẹ

hoàn toàn đã được rất nhiều nghiên cứu khẳng định nhưng tỷ lệ vẫn NCBSM

đang có xu hướng giảm trong toàn cầu, đặc biệt là ở các nước có thu nhập

cao [171]. Đánh giá ở 127 quốc gia về tình trạng nuôi con bằng sữa mẹ cho

thấy chỉ có 37% trẻ dưới 6 tháng được BMHT và thời gian cho con bú ở các

nước thu nhập cao ngắn hơn ở các nước thu nhập thấp. Trong khi hầu hết

các bà mẹ ở châu Á và châu Phi vẫn cho con bú ở thời điểm trẻ được 12

tháng tuổi thì ở các nước Anh, Mỹ, Thụy Điển chỉ lệ này chỉ ở khoảng 20%

[167].

Tình trạng NCBSM ở Việt Nam cũng tương tự như các nước đang

2

phát triển khác. Theo số liệu thống kê gần đây nhất cho thấy chỉ có chỉ có

26,5% số bà mẹ cho con bú sớm và 24,3% số bà mẹ cho con BMHT trong 6

tháng đầu.

Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng NCBSM không được cải

thiện. Các yếu tố về chủ ng tô ̣c, khu vư ̣c số ng [128], văn hóa, tôn giáo, trình đô ̣ học vấn, điều kiê ̣n kinh tế và áp lư ̣c củ a gia đình cũng như các yếu tố về chính sách thai sản và sư ̣ quảng cáo củ a các hãng sữa được nhiều nhà nghiên

cứu khẳng định là ảnh hưởng đến thư ̣c hành NCBSM [170]. Chính vì thế,

một số mô hình can thiệp đã được tiến hành và cũng đã đạt được những

thành công nhất định. Theo báo cáo của Save the Children năm 2013 trong

10 năm (2000 - 2010), tỷ lệ BMHT trong 6 tháng tăng hơn 20% ở 27 quốc

gia. Một số quốc gia có tỷ lệ bú mẹ hoàn toàn tăng nhanh như ở Sri Lanka

tăng từ 17% (1993) lên 76% (2007); Campuchia từ 12% (2000) lên 74%

(2010); Ghana từ 7% (1993) lên 63% (2008). Trong khi đó một số nước bao

gồm cả Việt Nam, tỷ lệ BMHT trong 6 tháng đầu hầu như không cải thiện

[93]. Với hiện trạng đó, nhiều chính sách và can thiê ̣p hỗ trơ ̣ cho bà mẹ ở nước ta đã đươ ̣c xây dư ̣ng và thư ̣c hiê ̣n nhằm tăng tỷ lê ̣ NCBSM như: Chiến lươ ̣c Quố c gia Dinh dưỡng giai đoa ̣n 2011 – 2020 [49]. Chiến lươ ̣c Dân số

và sức khoẻ sinh sản giai đoa ̣n 2011 – 2020 [48], các quy định về quảng cáo

các sản phẩm sữa cho trẻ dướ i 12 tháng tuổi theo Nghị định số 21/2006/NĐ-

CP củ a Chính phủ và Luâ ̣t quảng cáo số 16/2012/QH13 củ a Quố c hô ̣i [47].

Luâ ̣t lao đô ̣ng sửa đổi số 10/2012/QH13 cho phép lao đô ̣ng nữ đươ ̣c nghỉ 6

tháng sau khi sinh nhằm khuyến khích và tăng tỷ lê ̣ NCBSMHT [17].

Để góp phần cải thiện thực hành cho trẻ bú sớm và BMHT, đồng thời

chuyển tải các chính sách, hướng dẫn vào thực tế chúng tôi thực hiện đề tài

“Thực trạng nuôi con bằng sữa mẹ hoàn toàn và hiệu quả can thiệp

truyền thông nâng cao kiến thức và thái độ nuôi con bằng sữa mẹ cho các

3

bà mẹ có con 0-25 tháng tuổi tại 3 tỉnh: Hà Nam, Lào Cai, Quảng Bình,

năm 2012-2015”.

4

MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU

1. Mô tả kiến thức, thái độ và thực hành về nuôi con bằng sữa mẹ của phụ

nữ có con từ 0 - 25 tháng tuổi tại tỉnh Hà Nam, Lào Cai và Quảng Bình năm

2012.

2. Đánh giá hiệu quả của biện pháp can thiệp truyền thông giáo dục sức khoẻ

đối với kiến thức, thái độ về nuôi con bằng sữa mẹ của các phụ nữ có con

dưới 2 tuổi tại tỉnh Hà Nam, Lào Cai và Quảng Bình từ năm 2012 đến 2015.

5

Chương 1:

TỔNG QUAN

1.1. Một số khái niệm cơ bản về nuôi con bằng sữa mẹ

Nuôi con bằng sữa mẹ: là cách nuôi dưỡng trong đó trẻ trư ̣c tiếp bú

sữa mẹ hoặc uố ng sữa từ vú mẹ vắt ra [176].

Bú sớm: là cho trẻ bú ngay trong vòng 1 giờ sau khi sinh [171]. Bú

sớm giúp trẻ tận dụng được sữa non là loại sữa tốt chỉ tiết trong những ngày

đầu sau đẻ, hoàn hảo về dinh dưỡng và các chất sinh học thích ứng với cơ

thể non nớt vừa ra đời của đứa trẻ.

Nuôi con bằng sữa mẹ hoàn toàn: là đứ a trẻ chỉ đươ ̣c bú sữa mẹ từ mẹ hoặc từ vú nuôi hoặc từ vú mẹ vắt ra, ngoài ra không ăn thêm bất kỳ loa ̣i

thứ c ăn, nước uống nào khác kể cả nướ c lọc, trừ các da ̣ng vitamin, khoáng chất bổ sung hoặc thuố c theo chỉ định của thầy thuốc [176]. Khuyến nghị

của WHO cho tất cả các bà mẹ cho con BMHT trong 6 tháng đầu.

Bú mẹ chủ yếu: là cách nuôi dưỡng trong đó nguồn dinh dưỡng chính

là sữa mẹ, tuy nhiên trẻ có thể đươ ̣c cho ăn thêm nướ c uố ng đơn thuần hoặc mô ̣t số thứ c ăn, đồ uố ng da ̣ng lỏng như nướ c hoa quả, nướ c đường, ORS hoặc các loa ̣i thứ c ăn lỏng cổ truyền vớ i số lượng ít [176].

Bú bình: là cho trẻ bú bằng bình sữa, bất kể sữa gì kể cả sữa mẹ vắt ra

cho vào bình [176].

Cai sữa: là sư ̣ chuyển giao vai trò cung cấp năng lươ ̣ng từ sữa mẹ sang các thư ̣c phẩm trong bữa ăn gia đình để kết thúc thời kỳ bú mẹ [174]. Theo khuyến cáo của WHO, sau thời gian bú mẹ hoàn toàn trong 6 tháng

đầu, cho trẻ ăn thức ăn bổ sung hợp lý và vẫn tiếp tục cho bú mẹ đến 24

tháng hoặc lâu hơn. Như vậy thời gian cai sữa khuyến nghị là 24 tháng hoặc

hơn [46].

6

1.2. Thành phần cơ bản của sữa mẹ

Sữa mẹ là thức ăn tự nhiên, lý tưởng nhất phù hơp với trẻ nhỏ. Sữa mẹ

có đủ Protein, Lipid, Vitamin và Khoáng chất với tỷ lệ thích hợp và dễ hấp

thu đáp ứng với từng giai đoạn phát triển của trẻ. Sữa mẹ còn chữa các chất

miễn dịch, kháng thể giúp trẻ chống các bệnh nhiễm khuẩn, dị ứng, suy dinh

dưỡng béo phì và một số bệnh tật khác [171].

Thành phần Protein, lipid, glucid trong sữa mẹ

Lượng protein trong sữa mẹ ít hơn sữa động vật nhưng lại có đủ các

axit amin cần thiết với tỷ lệ cân đối đồng thời lại dễ hấp thu. Protein của sữa

mẹ gồm nhiều casein kết cầu mềm dễ hấp thụ hơn so với sữa động vật.

Thành phần Lipid trong sữa mẹ gồm nhiều acid béo cần thiết chuỗi dài,

không no dễ hấp thu cho trẻ. Đặc biệt, sữa mẹ có nhiều acid béo đóng vai trò

quan trọng trong việc phát triển và hoàn thiện hệ thần kinh ở trẻ nhỏ như

DHA và ARA là 2 loại axit không có trong bất kỳ loại sữa động vật nào.

Lipid trong sữa mẹ cung cấp khoảng một nửa lượng Kalo cho trẻ bú mẹ.

Glucid trong sữa mẹ chủ yếu là đường lactose, hàm lượng 7g/10ml [171].

Thành phần Vitamin và muối khoáng

Vitamin trong sữa mẹ có đủ cho trẻ trong 4-6 tháng đầu nếu bà mẹ

được ăn uống đầy đủ, ngoại trừ Vitamin D là vitamin do cơ thể tự tổng hợp

khi tiếp xúc với ánh sáng mặt trời. Về thành phần muối khoáng thì lượng Fe

và ZinC trong sữa mẹ tuy ít nhưng có hoạt tính cao, dễ hấp thụ nên vẫn đáp

ứng được nhu cầu của trẻ [171].

Các yếu tố miễn dịch

Sữa mẹ được ví như như “liều vác xin đầu tiên” cho trẻ vì có chất thúc

đẩy hoàn thiện hệ thống miễn dịch ở trẻ sơ sinh, đặc biệt là trẻ đẻ non. Sữa

mẹ chứa nhiều globulin miễn dịch tạo kháng thể và các chất bảo vệ cơ thể

chống lại các bệnh nhiễm khuẩn bằng cách bọc niêm mạc ruột, bạch cầu,

7

tiêu diệt vi khuẩn, virut, nấm, chất không cho vi khuẩn bám mặt niêm mạc.

Hơn thế nữa, sữa mẹ còn thúc đẩy quá trình hình thành và phát triển hệ

thống miễn dịch ở trẻ về sau.

1.3. Các giai đoạn sản xuất sữa mẹ

Sữa non: có từ ngay sau khi sinh và trong tuần đầu sau đẻ. Số lượng ít

trong ngày đầu (khoảng 40-50ml), nhiều hơn từ ngày thứ 2-3. Sữa non có

màu vàng nhạt, đặc sánh có nhiều kháng thể, bạch cầu hơn sữa trưởng thành

giúp trẻ sơ sinh chống nhiễm khuẩn và dị ứng. Hơn thế nữa, các chất giúp

phòng nhiễm khuẩn này tiếp tục góp phần vào việc hình thành và hoàn chỉnh

hệ thống miễn dịch về sau cho trẻ. Chính vì vậy sữa non được coi như là liều

vắc xin đầu tiên giúp trẻ chống đỡ bệnh tật. Sữa non còn có tác dụng xổ nhẹ

giúp tống phân su nhanh, kéo theo đào thải bilirubin nhanh. Vì vậy, trẻ được

bú sữa non ít vàng da hơn và thời gian vàng da cũng ngắn hơn. Sữa non còn

có nhiều yếu tố phát triển giúp bộ máy tiêu hoá non nớt của trẻ nhanh chóng

trưởng thành. Lượng vitamin A trong sữa non rất nhiều giúp giảm nhẹ bệnh

khi trẻ mắc bệnh. Mặc dù số lượng sữa non ít nhưng vừa đủ so với kích

thước dạ dày và nhu cầu dinh dưỡng của trẻ sau khi sinh.

Sữa trung gian: là sữa tiết ra từ ngày 7-14, chuyển đổi từ sữa non sang

sữa trưởng thành. Lượng sữa nhiều hơn và có thay đổi một số thành phần cả

về số lượng và chất lượng.

Sữa trưởng thành: sữa được tiết ra sau 2 tuần là sữa trưởng thành. Nếu

bà mẹ được ăn uống đủ, nghỉ ngơi hợp lý sẽ sản xuất đủ sữa và giữ thành

phần sữa hằng định trong suốt thời gian cho con bú.

Chất lượng sữa tiết ra trong một bữa bú có khác nhau. Sữa tiết ra ngay

khi bắt đầu bữa bú gọi là sữa đầu, sữa tiết ra sau đó gọi là sữa cuối. Sữa đầu

thường loãng hơn, có màu hơi xanh so với sữa cuối và số lượng nhiều hơn.

Sữa đầu có rất nhiều chất đạm (protein), lactosa và nhiều chất dinh dưỡng

8

khác. Sữa cuối có màu trắng hơn so với sữa đầu vì chứa nhiều chất béo hơn

và cung cấp nhiều năng lượng cho trẻ. Vì vậy, trong mỗi bữa bú cần cho trẻ

bú hết từng bên vú một để trẻ nhận được đủ các chất đạm, dinh dưỡng ở sữa

đầu và nhiều chất béo ở sữa cuối.

1.4. Lợi ích của nuôi con bằng sữa mẹ

Nuôi con bằng sữa mẹ là một biện pháp tự nhiên, kinh tế và hiệu quả

bảo vệ sức khỏe bà mẹ và trẻ em. Kinh nghiệm thực tế và kết qủa của nhiều

nghiên cứu trên thế giới đã khẳng định các lợi ích của NCBSM đối với sự

lớn lên và phát triển toàn diện của trẻ; giảm nguy cơ bệnh tật cho mẹ và lợi

ích kinh tế cho cộng đồng.

1.4.1. Lợi ích đối với trẻ

Sữa mẹ là thức ăn tốt nhất bảo đảm cho sự sống còn và phát triển tối

ưu cho trẻ em mà không có một loại thức ăn nào có thể thay thế được. Sữa

mẹ có đầy đủ các chất dinh dưỡng cần thiết và dễ cho trẻ tiêu hoá, hấp thu.

Cùng với sự lớn lên của trẻ, sữa mẹ thay đổi số lượng để đáp ứ ng nhu cầu

thay đổi đó kể cả số lượng sản xuất trong ngày và cho từng bữa bú. Một số

thành phần trong sữa mẹ cũng thay đổi để đáp ứ ng phù hợp với nhu cầu phát triển củ a trẻ.

Cùng với lợi ích về dinh dưỡng, sữa mẹ có chứa các chất miễn dịch

giúp trẻ bảo vệ cơ thể chống lại các bệnh nhiễm khuẩn, giảm tỷ lệ mắc bệnh,

tử vong. Nuôi con bằng sữa mẹ là mô ̣t trong những thư ̣c hành có lơ ̣i nhất mà

bà mẹ có thể thư ̣c hiê ̣n để giảm nguy cơ nhiễm khuẩn cho con mình. Tổ

chức Y tế thế giới đã đưa các bằng chứng khẳng định là trẻ đươ ̣c bú mẹ ít

phải đến bê ̣nh viê ̣n hơn hoặc ít phải uố ng thuố c, giảm nguy cơ lây nhiễm và

mắc các bê ̣nh như tiêu chảy, viêm phổi, hen suyễn, nhiễm trù ng tai, nhiễm

khuẩn đường hô hấp [171]. Kết quả phân tích từ nghiên cứ u thuần tâ ̣p củ a Bachrach và cô ̣ng sư ̣ cho thấy rằng trẻ đươ ̣c nuôi bằng sữa công thứ c phải

9

đố i mặt vớ i mố i nguy nhâ ̣p viê ̣n do nhiễm khuẩn đường hô hấp dướ i trong

năm đầu tiên củ a cuô ̣c số ng cao gấp 3,6 lần so vớ i trẻ đươ ̣c bú mẹ hoàn toàn

hơn 4 tháng. Trẻ được bú sữa mẹ cũng được bảo vệ giảm nguy cơ nhiễm vi

rút vì chất béo trong sữa mẹ có tác du ̣ng kháng vi rút, đã biệt là vi rút Hơ ̣p

bào hô hấp (Respiratory Syncytial Virus - RSV) [169].

Sữa mẹ còn có các chất cần thiết cho sự phát triển của não, giúp hoàn

thiện hệ thống thần kinh trung ương, tạo điều kiện tối ưu cho sự phát triển trí

thông minh của trẻ. Trẻ được nuôi bằng sữa mẹ có chỉ số thông minh và kết quả học tâ ̣p cao hơn. Trẻ bú mẹ càng lâu thì càng có khả năng trí tuê ̣ cao hơn, điều này đươ ̣c thể hiê ̣n qua những kỹ năng vâ ̣n đô ̣ng, kỹ năng ngôn ngữ và khả năng nhâ ̣n thứ c hoàn thiê ̣n hơn, những trẻ đươ ̣c nuôi bằng sữa mẹ có

điểm IQ cao hơn 7,5 điểm so vớ i những đứ a trẻ không đươ ̣c bú mẹ [135].

Những nghiên cứu trong thập kỷ qua đã chứng minh được một vai trò

quan trọng của sữa mẹ nữa là bảo vệ trẻ không tăng cân quá mức, giảm nguy

cơ mắc đái tháo đường type I và II cũng như bê ̣nh tăng huyết áp và tim

ma ̣ch. Nghiên cứ u củ a Christopher G. Owen và cô ̣ng sự cho thấy rằng những đứ a trẻ đươ ̣c nuôi bằng sữa mẹ có nguy cơ bị béo phì khi trưởng thành chỉ bằng 0,87 lần so vớ i những đứ a trẻ đươ ̣c nuôi bằng sữa công thứ c [143]. Những đứ a trẻ đươ ̣c nuôi bằng sữa mẹ có nguy cơ mắc tiểu đường

type II chỉ bằng 0,61 lần so vớ i những đứ a trẻ đươ ̣c nuôi bằng sữa công thứ c

[144].

Với những lợi ích đối với sự sống còn và sự phát triển tối ưu cho trẻ

em mà không có một loại thức ăn nào có thể thay thế được, Quỹ Nhi đồng

Liên hơ ̣p quố c UNICEF đã coi viê ̣c NCBSM là 1 trong 4 biê ̣n pháp quan

trọng nhất để bảo vê ̣ sứ c khỏe trẻ em [176].

Cho trẻ bú sớm trong vòng 1 giờ sau đẻ là cung cấp cho trẻ nguồn sữa

non quý giá từ mẹ. Như đã đề cập ở trên, sữa non có trong bầu vú mẹ, ngay

10

sau khi sinh sẵn sàng cho con bú ngay khi trẻ vừa lọt lòng mẹ. Sữa non chứa

nhiều kháng thể, các protein kháng khuẩn và nhiều tế bào bạch cầu hơn sữa

trưởng thành giúp trẻ sơ sinh chống các bệnh nhiễm khuẩn nguy hiểm và

cung cấp khả năng miễn dịch đầu tiên cho trẻ chống nhiều bệnh mà trẻ có

thể mắc sau đẻ [37]. Sữa non có tác dụng xổ nhẹ, giúp thải phân su và cũng

có tác dụng thải bilirubin ra khỏi ruột, giảm mức độ vàng da. Thêm vào đó,

sữa non chứa nhiều yếu tố tăng trưởng giúp ruột chưa trưởng thành của trẻ

tiếp tục phát triển sau sinh, giúp trẻ phòng dị ứng và phòng bệnh không dung

nạp những thức ăn khác. Sữa non chứa nhiều vitamin A có tác dụng làm

giảm độ nặng của các bệnh nhiễm khuẩn mà trẻ có thể mắc phải. Vì vậy, trẻ

được bú sữa non trong những bữa bú đầu tiên là rất quan trọng, tận dụng

được thức ăn lý tưởng nhất, phù hợp nhất với trẻ mới sinh đồng thời cũng

tạo nền tảng vững chắc cho sự lớn lên và phát triển của trẻ [46].

Các phân tích về thành phần và số lượng sữa, các nhà khoa học đã

khẳng định là nếu bà mẹ khỏe mạnh, dinh dưỡng, nghỉ ngơi đầy đủ sẽ cung

cấp đủ dinh dưỡng cho trẻ trong 6 tháng mà không cần bất cứ thức ăn, nước

uống nào khác [176], [171]. Chính vì thế, WHO khuyến khích các bà mẹ

nuôi con bằng sữa mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu có thể cải thiê ̣n sự tăng trưởng và phát triển, kết quả học tâ ̣p và thâ ̣m chí cả khả năng thu nhâ ̣p củ a

trẻ trong tương lai [170]. Đồng thời WHO cũng chỉ ra rằng viê ̣c NCBSMHT

trong 6 tháng đầu đời là cách tố t nhất phòng tránh tử vong cho trẻ em, ướ c

tính có thể giảm hơn mô ̣t triê ̣u ca tử vong ở trẻ trên toàn thế giớ i mỗi năm [172]. Vì vâ ̣y, WHO khuyến cáo cho tất cả các bà mẹ cần cho con bú sớm trong vòng 1 giờ đầu sau đẻ, bú mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu, cho ăn bổ

sung hợp lý khi trẻ được tròn 6 tháng và tiếp tục bú mẹ cho đến 24 tháng

hoặc lâu hơn [171], [59].

11

1.4.2. Lợi ích đối với bà mẹ

Khi trẻ bú sẽ kích thích tuyến yên sản xuất oxytocin, vì thế cho con bú

sớm ngay sau khi đẻ sẽ giúp tử cung co hồi tốt, giảm nguy cơ chảy máu sau

đẻ [171]. Các bà mẹ cho con bú thườ ng giảm cân nhanh hơn, đồ ng thờ i ít

nguy cơ mắc các bê ̣nh như tiểu đường type II, ung thư vú, ung thư buồng

trứ ng, loãng xương. Hàm lượng oxytocin trong máu cao hơn nên có thể giảm

căng thẳng và chứ ng trầm cảm ở bà mẹ sau khi sinh [138], [109]. Nuôi con

bằng sữa mẹ hoàn toàn trong vòng 6 tháng đầu làm ức chế hoạt động của

buồng trứng, sẽ làm bà mẹ chậm có kinh trở lại, vì vậy nuôi con bằng sữa

mẹ có tác dụng như một biện pháp tránh thai tự nhiên [138]. Kết quả của

một số nghiên cứ u cho thấy rằng nếu bà mẹ cho con bú hoàn toàn trong 6 tháng đầu và không có dấu hiê ̣u có kinh nguyê ̣t trở la ̣i thì khả năng mang thai là dướ i 2% [128].

1.4.3. Một số lợi ích khác

Nuôi con bằng sữa mẹ giúp gắn bó, tăng cường tình cảm mẹ con. Sữa mẹ là nguồn thức ăn lúc nào cũng mới, sạch, luôn có sẵn trong bầu vú mẹ

lúc nào trẻ cũng có thể bú được, không phải đi mua, không mất công chuẩn

bị. Người bố và các thành viên gia đình không phải hỗ trợ nhiều trong việc

chuẩn bị thức ăn cho trẻ. Nuôi con bằng sữa mẹ tiện lợi và an toàn, các bà

mẹ có thể cho con bú bất cứ nơi nào có thể. Tính về hiệu quả kinh tế,

NCBSM mang lại hiệu quả cao vì không phải mất tiền mua mà lại mang lại

lợi ích tối đa nhất cho sức khỏe, giảm tỷ lệ bệnh tật và tử vong cho trẻ em.

Nuôi con bằng sữa mẹ đồng thời cũng là một hoạt động bảo vệ môi

trường vì rằng sữa mẹ là thức ăn tự nhiên có từ mẹ, không phải tốn nhiên

liệu để chế biến, chuyên chở, không phải dùng bao bì để đóng gói, không

tốn đất đai để xây dựng nhà máy sản xuất... vì vậy không sinh ra bất cứ một

thứ rác thải nào làm ô nhiễm môi trường.

12

1.5. Thực trạng kiến thức và thực hành về nuôi con bằng sữa mẹ

1.5.1. Kiến thức, thái độ và thực hành về nuôi con bằng sữa mẹ trên thế

giới

Lợi ích của sữa mẹ đã được khẳng định trong trong rất nhiều nghiên

cứu và đã được chứng minh rõ ràng trong thực tế. Phần lớn các bà mẹ ở các

nước trên thế giới hiểu biết và ủng hộ NCBSM, tuy nhiên kiến thức và thực

hành về cho trẻ bú sớm và BMHT còn hạn chế.

Một nghiên cứu được tiến hành năm 2010 tìm hiểu thực trạng kiến

thức, thái độ, thực hành của 322 bà mẹ người Trung Quốc sống ở Ai-len cho

thấy 87% trong số họ chọn nuôi con bằng sữa mẹ do họ biết sữa mẹ là tốt

hơn cho trẻ em, hơn 82% cho rằng sữa mẹ là thức ăn cung cấp đầy đủ dưỡng

chất cần thiết cho trẻ trong 6 tháng đầu, trên 70% biết các lợi ích về sức

khỏe của sữa mẹ và trên 60% nhận ra rằng sữa mẹ có thể phòng chống một

số bệnh [181].

Một nghiên cứu khác năm 2011 trên 653 phụ nữ Trung Quốc đang

mang thai từ 5 đến 22 tuần tại 4 trung tâm sức khỏe cộng đồng ở Thượng

Hải cho thấy hiểu biết của những người sắp làm mẹ này có hiểu biết tốt về

NCBSM. Hầu như tất cả các bà mẹ (99%) biết bú sữa mẹ là tốt cho sức khỏe

của em bé, tuy nhiên lợi ích đối với sức khỏe mẹ thì chỉ có 22% đối tượng

nghiên cứu đề cập đến. Gần 80% không biết định nghĩa về bú hoàn toàn và

khoảng 40% các bà mẹ biết là sữa mẹ có thể đáp ứng tất cả các nhu cầu dinh

dưỡng cho trẻ sơ sinh dưới 6 tháng tuổi [114]. Nghiên cứu của Sushma

Sriram và cộng sự (2013) về kiến thức NCBSM của 150 bà mẹ ở thành phố

Ahmedabad (Ấn Độ) cho kết là có đến 96% bà mẹ có kiến thức cho con bú

sữa mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu, 90,7% số bà mẹ biết được giá trị của

sữa non [159]. Cũng trong năm 2013, nghiên cứu của Abiola O Ogundele và

cộng sự ở 383 bà mẹ sống ở các vùng ngoại ô của Nigeria cho thấy có

13

71,3% số bà mẹ có kiến thức tốt về nuôi con bằng sữa mẹ [141].

Tuy nhiên kiến thức về NCBSM rất khác nhau theo địa bàn nghiên

cứu. Nhiều bà mẹ ở các nước nghèo, các vùng khó khăn hiểu biết rất ít về

sữa mẹ. Một nghiên cứu được thực hiện ở phía Tây Bắc A Rập trên 60 bà

mẹ độ tuổi sinh đẻ cho kết quả là chỉ có 31,2% số bà mẹ khẳng định sữa mẹ

có sức đề kháng chống đỡ bệnh tật, 27,1% cho rằng cung cấp đủ chất dinh

dưỡng cần thiết và có tới 16,7% không biết một chút lợi ích nào [158].

Nghiên cứu của RN Chaudhary, T Shah, S Raja (2011) về kiến thức và thực

hành của 200 bà mẹ có con dưới 1 tuổi tại khoa khám bệnh ngoài trú của

một bệnh viện ở Dharan ở Nepal. Kết quả cho thấy chỉ có 10% số bà mẹ

tham gia nghiên cứu có kiến thức cho con bú sớm sau sinh, 10% số bà mẹ

biết được ý nghĩa của việc cho con bú sớm, 25% số bà mẹ biết được tầm

quan trọng của sữa non, 15% bà mẹ biết được ý nghĩa của việc cho con

BMHT [92].

Nghiên cứu mới đây nhất vào tháng 4 năm 2015 trên 350 phụ nữ có

con dưới 2 tuổi ở thị trấn Mizan Aman, Tây Nam Ethiopia cho thấy 93,6%

các bà mẹ tham gia nghiên cứu đều được nghe về Nuôi con hoàn toàn bằng

sữa mẹ, nhưng chỉ có 34,7% biết về thời gian cho bú được khuyến nghị và

59,3% số bà mẹ tin rằng sữa mẹ có đủ chất cho trẻ phát triển đến 6 tháng

tuổi [163].

Thái độ của bà mẹ đối với NCBSM thường song hành với kiến thức

của họ. Kết quả của nhiều nghiên cứu cho thấy nếu bà mẹ hiểu biết đầy đủ

về lợi ích của NCBSM, họ có thái độ tích cực và ủng hộ NCBSM. Trong

nghiên cứu ở các bà mẹ Trung Quốc sống ở Ai-len, có hơn 3/4 số đối tượng

phủ nhận nhận định “Tôi không thích sữa mẹ” và 2/3 đồng ý rằng cho bú sữa

công thức làm mất đi niềm hạnh phúc lớn lao được làm mẹ. Trên 65% các

bà mẹ tin rằng cho bú sẽ kinh tế hơn và giúp họ nhanh lấy lại vóc dáng hơn

14

cho con uống sữa công thức. Hầu hết các bà mẹ (>90%) được hỏi đều không

đồng ý với nhận định “Cho bú là cổ hủ” và “Uống sữa ngoài mới là thể hiện

bạn có kinh tế” [181].

Nhìn chung, NCBSM được phần lớn bà mẹ và cộng đồng chấp nhận.

Thái độ tích cực với thực hành này đã được nhiều nghiên cứu ở nhiều nước

trên thế giới khẳng định [163]. Các nghiên cứu đều chỉ ra rằng những bà mẹ

không nuôi con bằng sữa mẹ có thái độ tiêu cực với sữa mẹ [98]. Nghiên

cứu trên 122 bà mẹ sau sinh ở phòng khám ngoại trú nhi và phòng tiêm

chủng tại Ấn Độ năm 2014, tác giả đã sử dụng Bảng kiểm đánh giá thái độ

nuôi dưỡng trẻ sơ sinh của IOWA, kết quả cho thấy hầu hết các bà mẹ không

đồng ý với nhận định “Cho trẻ bú sữa ngoài tiện lợi hơn bú mẹ” (83,6%),

73,8% các bà mẹ hoàn toàn đồng ý với nhận định “Nuôi con bằng sữa mẹ

giúp tăng tình mẫu tử” [168].

Kiến thức, thái độ về NCBSM mặc dù có khác nhau theo từng quốc

gia, lãnh thổ nhưng nhìn chung hiểu biết và ủng hộ NCBSM ở các bà mẹ

tương đối cao. Tuy nhiên, tỷ lệ bà mẹ thực hành NCBSM lại không được

như mong muốn, đặc biệt là bú mẹ sớm và BMHT. Nghiên cứu của Bhutta

thống kê trong vòng một thập niên qua từ năm 2000 đến năm 2010 của 66

quốc gia, tỷ lệ bà mẹ cho trẻ bú sớm trong giờ đầu sau sinh là 48% và tỷ lệ

trẻ được bú mẹ hoàn toàn dưới 6 tháng tuổi chỉ đạt 34% [88]. Nghiên cứu tại

thị trấn Mizan Aman cho thấy tỷ lệ trẻ được bú hoàn toàn trong 6 tháng đầu

chỉ đạt 26,4% [163]. Thống kê gần đây nhất cho thấy, thời gian cho trẻ bú ở

các nước có thu nhập cao ngắn hơn ở các nước có thu nhập thấp và trung

bình. Ở các nước thu nhập thấp, hầu hết các bà mẹ cho con bú đến 12 tháng,

trong khi đó tỷ lệ này ở các nước thu nhấp cao chỉ dưới mức 20%. Thời gian

NCBSM ở các nước phát triển cũng rất khác nhau với tỷ lệ thấp nhất là ở

Anh là chưa đến 1% cho con bú đến 12 tháng, trong khi ở Mỹ tỷ lệ này là

15

27%, Na Uy là 35% và Thụy Điển là 16% [167].

Chỉ số về tỷ lê ̣ bú sớm và BMHT chỉ có ở một vài nước trong nhóm

các nước thu nhập cao. Một nghiên cứu ở Anh cho thấy chỉ có 1,2% trẻ được

bú mẹ hoàn toàn trong vòng 6 tháng đầu [117]. Ở Mỹ, tuy có nhiều thay đổi

tích cư ̣c trong thập kỷ 90 nhưng tỷ lê ̣ bú sớ m và BMHT cũng ở mức 76,9%

và 47,2% năm 2009 [91]. Theo kết quả điều tra sức khỏe cộng đồng ở

Canada về xu hướng thực hành NCBSM trong giai đoạn 2001 - 2008 cho

thấy tỷ lệ bà mẹ cho con bú sữa mẹ ngay sau khi sinh tăng từ 81,6% lên

87,9% và tỷ lệ bà mẹ cho con BMHT trong vòng 6 tháng đầu tăng từ 17,3%

năm 2003 lên đến 23,1% năm 2008 [160].

Nhìn chung, thực hành NCBSM ở các ở các nước thu nhập thấp và

trung bình tốt hơn ở các nước thu nhập cao với hầu hết các bà mẹ đều cho

con bú và có đến hơn 60% kéo dài đến 20-23 tháng. Tuy nhiên, tỷ lệ cho con

bú sớm không đạt được như mong muốn và cũng chỉ có 37% số trẻ được

BMHT trong 6 tháng [167].

Số bà mẹ cho con bú sớm ở các nước thu nhập thấp khác nhau theo

các nghiên cứu. Nói chung phần lớn các bà mẹ đều cho bú sớm nhưng ở một

số vùng chỉ chưa đến một nửa số trẻ sinh ra được bú mẹ trong giờ đầu. Các

nước có tỷ lệ bú sớm cao như ở A-rập Xê-út, Tamilnadu, Nam Phi cho thấy

khoảng 78 - 98% số bà mẹ đã cho con bú mẹ trong vòng 24 giờ đầu sau khi

sinh [113].

Tuy nhiên cũng nghiên cứu ở A-rập Xê-út, tác giả Tarek Amin, Hatem

Hablas, and Ahmed AlAbd Al Qader (2011) lại cho kết quả chỉ có 41,5% số

bà mẹ được phòng vấn đã cho con bú trong vòng 1/2 giờ đầu sau sinh [76].

Tương tự, Ali Mohamed Al-Binali (2012) nghiên cứu trên 384 nữ giáo viên

ở huyện Abha, Tây Nam của A - rập Xê - út cho thấy chỉ có 31% số nữ giáo

viên đã cho con bú sữa mẹ trong vòng 1 giờ đầu sau sinh [133].

16

Một nghiên cứu khác ở Bhaktapur, Nepal trên 325 trẻ sơ sinh đến tiêm

sởi ở lúc 9 tháng tuổi, các bà mẹ được hỏi thông tin liên quan đến việc nuôi

dưỡng con mình từ khi sinh cho thấy 295 bà mẹ tương đương với 91% cho

con uống sữa non và 185 bà mẹ (57%) cho con bú sớm trong vòng 1 giờ đầu

sau sinh. Tỷ lệ cho con bú hoàn toàn trong 1 tháng, 3 tháng và 6 tháng lần

lượt là 240 (74%), 78 (24%) và 29 (9%), và cho ăn bổ sung từ 1 tháng, 3

tháng và 6 tháng là 49 (15%), 124 (38%) và 257 (79%). Lý do cho ăn bổ

sung sớm trước 6 tháng là do mẹ không đủ sữa [166].

Khi bà mẹ khởi đầu tốt với việc bú sớm sẽ có ảnh hưởng quan trọng

đến việc tiếp tục cho con bú về sau. Khuyến cáo của WHO về cho con bú

sớm và BMHT trong 6 tháng đầu đang là lĩnh vực được ưu tiên can thiệp

trong các chương trình NCBSM. Một tín hiệu tích cực là số bà mẹ cho con

bú sớm và BMHT có xu hướng cải thiện. Theo số liê ̣u từ 64 nướ c đang phát

triển chiếm 69% số trẻ em đươ ̣c sinh ra trên toàn thế giớ i từ năm 1996 đến năm 2006, tỷ lê ̣ trẻ em đươ ̣c bú mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu tăng từ 33%

lên 37%. Tăng nhanh nhất ở vù ng câ ̣n sa ma ̣c Sahara - châu Phi vớ i tỷ lê ̣ tăng từ 22% đến 30%, và châu Âu vớ i tỷ lê ̣ tăng từ 10% đến 19%. Ở châu Mỹ Latinh và Caribean ngoa ̣i trừ Brazil và Mexico, tỷ lê ̣ trẻ đươ ̣c bú mẹ hoàn toàn tăng từ 30% đến 45% [176], [175]. Kết quả của Cesar năm 2016

cũng cho thấy tỷ lệ NCBSM cũng tăng nhẹ từ 24,9% lên 35,7% trong giai

đoạn 1993 - 2013 ở các nước có thu nhập thấp [167].

Cũng tương tự như thực hành cho bú sớm, tỷ lệ BMHT không chỉ

khác nhau theo châu lục mà còn theo quốc gia và các vùng miền trong mỗi

quốc gia. Ta ̣i châu Á tỷ lê ̣ NCBSMHT ở Ấn Đô ̣ là 46%, Campuchia là 74%,

Philippin 34%, Bangladesh 43% [176], [136]. Ta ̣i Trung Quố c, tỷ lê ̣ bà mẹ cho con BMHT trong 4 tháng đầu là 35% nhưng đến 6 tháng thì tỷ lê ̣ này chỉ còn 28% [179]. Ở Al Hassa, A-rập Xê-út, kết quả nghiên cứu trong khu vực

17

thành phố, tỷ lệ này chỉ đạt 12,2% [76].

Theo tổng hợp của Cesar năm 2016, nhìn chung tỷ lệ BMHT ở vùng

Nam Phi cao hơn Tây Phi; Châu Mỹ Latin và Caribbean thấp hơn châu Phi;

Ở các nước Nam Á, bà mẹ cho con BMHT cao hơn các nước Bắc Phi và

Trung Đông [167].

Ở Tây Úc, một nghiên cứu về thực hành của các bà mẹ trong thời gian

nằm viện và tại 9 tuần sau đẻ cho thấy 93% các bà mẹ đều cho bú sớm.

Trong đó 73,5% các bà mẹ đã đẻ lần thứ 2 trở lên cho bú hoàn toàn trong

bệnh viện và các bà mẹ sinh con đầu tỷ lệ là 62,5% nhưng ở tuần thứ 9 thì

giảm thứ tự là 57,1% và 49,2% [106].

Lý do số bà mẹ cho con bú hoàn toàn trong 6 tháng đầu thấp nhìn

chung là giống nhau ở hầu hết các nghiên cứu trên thế giới. Mẹ không đủ

sữa, phải đi làm sớm, mẹ hoặc con bị bệnh là những lý do chính bà mẹ

không cho con bú hoàn toàn và cai sữa sớm [118], [133], [178]. Kết quả một

số nghiên cứu cho thấy có khoảng 8% số bà me ̣ không cho con bú vì không

thích làm công việc này [156].

1.5.2. Kiến thức, thái độ và thực hành về nuôi con bằng sữa mẹ ở Việt

Nam

Chương trình NCBSM đã được triển khai ở Việt Nam từ những năm

đầu của thập kỷ 90, vì thế kiến thức về NCBSM của các bà mẹ Việt Nam là

khá tốt, phần lớn các bà mẹ đã hiểu được vai trò của sữa mẹ tới sự phát triển

của trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ cũng như vai trò của việc cho trẻ bú mẹ hoàn toàn

trong 6 tháng đầu và lợi ích cho con bú cho tới khi trẻ được 2 tuổi. Theo kết

quả điều tra trên 1500 phụ nữ tại các doanh nghiệp cho thấy 77,7% số phụ

nữ biết lợi ích về dinh dưỡng của bú sữa mẹ, 79,6% biết về thời gian BMHT

trong 6 tháng đầu, và 44,8% hoàn toàn đồng ý với nhận định cho trẻ bú sữa

mẹ tới 2 tuổi thì trẻ sẽ khỏe mạnh [64].

18

Kết quả điều tra ban đầu dự án A&T năm 2011 cho biết hơn 3/4 số bà

mẹ biết là trẻ phải được cho bú ngay trong vòng 1 giờ sau sinh, 76% các bà

mẹ biết cần cho trẻ bú sữa non và 41% số bà mẹ biết cần cho bú theo nhu

cầu, bất cứ khi nào bé muốn [61].

Tuy nhiên, theo tác giả Vũ Phương Hà (2010), kiến thức của bà mẹ về

nuôi con bú và ăn bổ sung còn nhiều hạn chế. Có tới 27% bà mẹ không biết

cho bú lần đầu vào thời gian nào và bú hoàn toàn trong mấy tháng là phù

hợp. Chỉ có 46,8% bà me ̣ cho rằng nên cho bú hoàn toàn đến 6 tháng. Trên 50% các bà me ̣ cho rằ ng phải cho con ăn bổ sung trướ c 6 tháng hoă ̣c không biết nên bắt đầu cho ăn vào thờ i điểm nào [13].

Cũng như các nước có thu nhập thấp và trung bình, hầu hết các bà mẹ

Việt Nam đều cho con bú với thời gian trung bình khoảng 17 tháng [41].

Tuy nhiên, tỷ lệ cho con bú sớm và BMHT đạt mức thấp hơn so với các

nước trong khu vực và đang có xu hướng giảm trong thập kỷ qua. Các

nghiên cứu ở vùng nông thôn vào những năm 2008 cho kết quả tỷ lệ bú sớm

vào khoảng 70-80% và BMHT trong khoảng 18-20% [22], [25]. Ở các vùng

thành thị, các tỷ lệ này thấp hơn với tỷ lệ trẻ được cho bú sớm chỉ ở mức 30-

50% và BMHT trong khoảng 15-20% [38].

Các nghiên cứu gần đây ở các vùng miền trong cả nước cho kết quả về

tỷ lệ bú sớm và BMHT thấp hơn các số liệu công bố trong thập kỷ 90. Điều

tra của Viện dinh dưỡng năm 2010 cho thấy mới chỉ có chỉ có 62% trẻ em

Việt Nam được bú sớm sau sinh và 19,6% bà mẹ nuôi còn bằng SMHT trong

6 tháng đầu [9]. Tác giả Trần Thị Phúc Nguyê ̣t và cô ̣ng sự thư ̣c hiê ̣n ta ̣i xã

Khánh Hà, huyê ̣n Thường Tín, Hà Nô ̣i năm 2012 trên 220 bà mẹ cho thấy

chỉ có 42,3% các bà mẹ cho con bú sớ m trong vòng 1 giờ đầu sau sinh và tỷ

lê ̣ trẻ đươ ̣c BMHT trong 6 tháng đầu là 15,5% [42]. Cũng trong năm 2012, tác giả Huỳnh Văn Dũng, và cô ̣ng sư ̣ nghiên cứ u trên 370 bà mẹ củ a trẻ ở

19

huyê ̣n Tam Nông, Phú Thọ cho kết quả là 46,7% trẻ đươ ̣c bú sớm và 27,8%

trẻ dướ i 6 tháng tuổi đươ ̣c BMHT. Tác giả Nguyễn Lân (2012) nghiên cứu

tại Phổ Yên, Thái Nguyên cũng cho kết quả tương tự [33]. Tỷ lệ này rất thấp

trong báo cáo của UNICEF năm 2014, chỉ có 26,5% số bà mẹ cho con bú

sớm và 24,3% số bà mẹ cho con bú hoàn toàn trong 6 tháng đầu cảnh báo

tình trạng thực hành NCBSM đang bị coi nhẹ trong xu thế phát triển kinh tế

xã hội ở nước ta [28].

Điều cần nhấn mạnh là ở một số vùng nông thôn, vùng núi vẫn còn

đến hơn 50 - 62% bà mẹ vẫn còn cho trẻ uống sữa công thức cho trẻ sơ sinh,

nước đường, mật ong hoặc các thức ăn khác trước khi cho bú lần đầu [33].

Việc cho ăn thức ăn khác ngoài sữa mẹ làm ảnh hưởng đến bữa bú đầu cũng

như tăng tỷ lệ trẻ được cho ăn thêm ngoài sữa mẹ. Đây là nguy cơ tiềm ẩn

đối với sự phát triển cũng như phòng bệnh tật cho trẻ

Lý do trẻ không được bú sớm và bú mẹ hoàn toàn hoặc cai sữa sớm

cũng được nhiều nghiên cứu đề cập. Lý do phổ biến nhất là mẹ không đủ

sữa, mẹ phải đi làm, mẹ và con bị bệnh trong đó điều kiện yêu cầu công việc của bà mẹ là rào cản lớn nhất của việc thực hành nuôi con bằng sữa với 83%

lao động nữ đồng ý rằng việc quay trở lại làm việc khiến họ không thể thực

hiện cho trẻ bú mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu [42], [61], [159]. Kết quả

khảo sát đề án 5 triệu bà mẹ cho thấy nguyên nhân cản trở thực hành bú mẹ

chủ yếu là do vì cuộc sống quá khó khăn, chế độ ăn uống của người mẹ

không đủ dẫn đến tình trạng thiếu sữa hoặc không đủ sữa cho con bú; hoặc

cũng có nhiều trường hợp con không chịu bú mẹ [40].

Lý do bà mẹ không cho trẻ bú sớ m phu ̣ thuô ̣c vào tình tra ̣ng sứ c khỏ e củ a me ̣ và củ a trẻ mớ i sinh, tuổ i củ a me ̣, thờ i gian chuyển da ̣ hay tư vấn củ a nhân viên y tế. Bà me ̣ ít tiết sữa hoặc có cảm giác đau và khó chi ̣u cũng là

nguyên nhân củ a viê ̣c không cho trẻ bú sớ m. Trẻ đẻ non hoặc bị các bệnh lý

20

nặng, dị tật cản trở rất nhiều đến bú mẹ.

Ở nhiều nơi vẫn tồ n ta ̣i những phong tu ̣c la ̣c hâ ̣u sau khi sinh ngườ i phu ̣ nữ vắ t bỏ sữa non vì cho rằng nó không tố t. Cho trẻ ăn trước khi bú mẹ

bữa đầu mặc dù đã giảm rất nhiều nhưng vẫn còn tồn tại khá nhiều ở một số

vùng nông thôn và miền núi [171].

Một trong những lý do quan trọng và ngày càng chiếm đa số trong các

nguyên nhân làm giảm tỷ lệ trẻ bú sớm trong giờ đầu là tăng tỷ lệ mổ đẻ một

cách nhanh chóng trong những năm gần đây ở nước ta. Trẻ mổ đẻ hầu như

không được bú sớm mà thường phải ăn sữa ngoài. Nghiên cứu của Trần Thị

Hải Dung ở bệnh viện Phụ sản Hà Nội về thực hành bú sớm trong bệnh viện

cho thấy, không có bà mẹ mổ đẻ nào cho con bú sớm trong vòng giờ đầu [8].

Các nghiên cứu khác ở bệnh viện Đa khoa Kiên Giang, Cần Thơ cũng

cho kết quả tương tự [43], [55]. Như vậy có thể khẳng định rằng ở Việt

Nam, tất cả các bà mẹ phải mổ đẻ đều không cho con bú sớm trong vòng giờ

đầu như khuyến cáo của WHO. Một lý do mà tất cả các tác giả đều đề cập

đến là vì phải tách mẹ sau mổ mặc dù không có một văn bản nào qui định về

vấn đề này.

Hậu quả của việc không cho bú sớm là phải cho trẻ ăn thêm thức ăn

khác ngoài sữa mẹ. Số liệu của Alive & Thrive cho thấy những bà mẹ mổ đẻ

thường cho trẻ ăn sữa công thức trong 3 ngày đầu [61]. Như vậy hầu như các

trẻ này không được bú sữa non, thức ăn tốt nhất, phù hợp nhất đối với trẻ

mới sinh. Không những không được bú đủ sữa non, con của các bà mẹ sinh

mổ có nguy cơ không nuôi con hoàn toàn bằng sữa mẹ. Kết quả theo dõi

thực hành trong tuần đầu ở bệnh viện Sóc Trăng cho thấy nguy cơ không

cho BMHT ở bà mẹ mổ đẻ cao gấp 6 lần bà mẹ sinh thường [56].

Kiến thức, niềm tin là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến việc cho con

BMHT trong 6 tháng đầu. Một số nghiên cứu cho thấy rằng nhiều bà mẹ

21

không tin sữa mẹ có đủ chất cho trẻ phát triển đến 6 tháng tuổi, ví dụ trong

một khảo sát thực hiện online với 509 bà mẹ tham gia, có 30,3% bà mẹ cho

rằng sữa mẹ không đủ chất và lượng để cung cấp cho bé đến 6 tháng tuổi

[54]. Trong khi các quảng cáo của nhiều hãng sữa công thức ảnh hưởng rất

lớn đến tâm lý và thực hành của bà mẹ về cho trẻ BMHT [16]. Tác động của

các thành viên trong gia đình, về các thực hành truyền thống cũng ảnh

hưởng nhiều đến việc cho bú sớm và BMHT. Các cặp vợ chồng ở cùng bố

mẹ thường phải theo hướng dẫn theo kinh nghiệm của mẹ chồng hoặc mẹ đẻ

cho trẻ ăn sam sớm với nhận thức là để trẻ cứng cáp hơn. Mặt khác, sự thiếu

sư ̣ quan tâm từ phía gia đình như trong giai đoa ̣n cho con bú, hay các quan niê ̣m cho rằng sữa me ̣ không cung cấp đủ nhu cầu nă ng lươ ̣ng trong 6 tháng đầu, sữa me ̣ không tố t cũng là các rào cản đối với BMHT.

Một số tác giả cho thấy rằng còn có những lý do khác ảnh hưởng đến

thư ̣c hành NCBSM là ảnh hưở ng tiêu cư ̣c bở i các nghi lễ vă n hóa, tôn giáo, áp lư ̣c củ a gia đình đố i vớ i viê ̣c nuôi dưỡng và phát triển củ a trẻ nhỏ . Đối với một số bà mẹ trẻ hiện đại còn có suy nghĩ là NCBSM sẽ làm ảnh hưởng

đến sắc đẹp cũng cần được tư vấn để có kiến thức, thái độ tích cực hơn với

NCBSM [88], [98], [122], [127].

Ảnh hưởng của nhân viên y tế và truyền thông là lý do hết sức quan

trọng trong thực hiện NCBSM sẽ được trình bày chi tiết hơn ở phần tiếp

theo.

1.6. Tác động của truyền thông nâng cao kiến thức, thái độ thực hành

nuôi con bằng sữa mẹ

Nhiều nghiên cứ u cho thấy rằng truyền thông đóng vai trò quan trọng

đối với NCBSM cả tác động tích cực lẫn tiêu cực. Những thông tin đúng sẽ

cung cấp thêm kiến thức, thay đổi thái độ và cải thiện thực hành theo hướng

tích cực, ngược lại các quảng cáo hay những gói di ̣ch vu ̣ khuyến ma ̣i củ a các

22

hãng sữa thường làm giảm niềm tin vào sữa mẹ và ảnh hưởng nhiều đến các

thực hành NCBSM.

Nghiên cứ u củ a Howard C. R và cô ̣ng sư ̣ so sánh sư ̣ ảnh hưở ng củ a các tài liê ̣u về sữa công thứ c vớ i viê ̣c bú sớ m và thờ i gian NCBSM chỉ ra rằng không có sư ̣ ảnh hưở ng đến viê ̣c bú sớ m nhưng có sư ̣ thay đổ i đến viê ̣c cho con bú trong 2 tuần đầu khi tiếp xúc nhiều vớ i các tài liê ̣u về sữa công thứ c, đặ c biê ̣t vớ i những bà me ̣ có ý đi ̣nh NCBSM trong 12 tuần hoặ c ít hơ n thì thờ i gian bú hoàn toàn sẽ ít đi [94]. Ta ̣i Hoa Kỳ mô ̣t chươ ng trình cung cấp dinh dưỡng đặ c biê ̣t cho phu ̣ nữ, trẻ sơ sinh và trẻ em (WIC) thông qua viê ̣c cung cấp các khoản viê ̣n trơ ̣ về dinh dưỡng, chă m sóc sứ c khỏ e, giáo du ̣c dinh dưỡng cho phu ̣ nữ mang thai có thu nhâ ̣p thấp, phu ̣ nữ NCBSM, không NCBSM và trẻ sơ sinh, trẻ em dướ i 5 tuổ i. Tuy nhiên nghiên cứ u củ a Kent G. và Holmes A. V đánh giá về chươ ng trình này chỉ ra rằ ng chươ ng trình WIC làm thúc đẩy viê ̣c sử du ̣ng sữa công thứ c ở trẻ em qua đó đặ t trẻ em vào tình tra ̣ng nguy cơ cao đố i vớ i sứ c khỏ e [108]. Ta ̣i Philippines tỷ lê ̣ NCBSMHT trong 4 tháng đầu giảm từ 47,3% nă m 1998 xuố ng 40,1% nă m 2008. Nguyên nhân chính là do ảnh hưởng của các thông điê ̣p quảng cáo sữa công thứ c và đươ ̣c bác sĩ khuyên nên dùng sữa công thứ c. Nghiên cứ u cũng chỉ ra rằng những bà me ̣ có thể nhắ c la ̣i các thông điê ̣p quảng cáo cho con củ a mình sử du ̣ng sữa công thứ c gấp 2 lần những bà me ̣ còn la ̣i và những bà me ̣ đươ ̣c quảng cáo bở i bác sĩ cho con mình sử du ̣ng sữa công thứ c cao gấp 4 lần những bà me ̣ không đươ ̣c bác sĩ giớ i thiê ̣u về sữa công thứ c [161]. Nghiên cứ u theo dõi về thư ̣c hành NCBSM ta ̣i Trung Quố c cho thấy tỷ lê ̣ bú

sớ m sau sinh ở thành thi ̣, ngoa ̣i ô và nông thôn lần lươ ̣t là 96,5%, 96,8%,

97,4% tuy nhiên tỷ lê ̣ bú me ̣ hoàn toàn trong 6 tháng đầu giảm xuố ng chỉ còn 0,2%, 0,5% và 7,2% và viê ̣c quảng cáo các sản phẩm sữa công thứ c đươ ̣c xác đi ̣nh là có liên quan đến tình tra ̣ng này [150].

23

Ta ̣i Viê ̣t Nam, từ những năm đầu của thế kỷ XX, một số nhà nghiên

cứu đã khẳng định về ảnh hưởng lớn đến thực hành NCBSM. Kết quả

nghiên cứ u củ a Dương Văn Đa ̣t và cô ̣ng sư ̣ cho thấy có tớ i 98% bà me ̣ tiếp

câ ̣n vớ i các hãng sữa trong thờ i kỳ mang thai và sau sinh, trong đó có tớ i

53% bà me ̣ quyết đi ̣nh mua sữa công thứ c sau khi nhâ ̣n đươ ̣c những nô ̣i

dung quảng cáo này [96], [97], [95].

Trong báo cáo toàn văn điều tra 11 tỉnh củ a tổ chứ c A&T tiếp tu ̣c khẳng đi ̣nh sữa bô ̣t cho trẻ sơ sinh rất sẵn có đố i vớ i các bà me ̣ sinh con ta ̣i cơ sở y tế. Cho trẻ ăn các thứ c ăn lỏ ng ngoài sữa me ̣ cũng phổ biến hơn ta ̣i các bê ̣nh viê ̣n so vớ i các tra ̣m y tế xã và nhà hô ̣ sinh. Chỉ 42,4% các bà me ̣ sinh con ta ̣i bê ̣nh viê ̣n không cho trẻ sơ sinh dùng sữa bô ̣t trong 3 ngày đầu,

trong khi đó tỷ lê ̣ các bà me ̣ sinh ta ̣i tra ̣m y tế xã hoặc nhà hô ̣ sinh làm như

vâ ̣y là 69,1%. Khoảng 20% số các bà me ̣ mang theo sữa bô ̣t khi đến sinh ta ̣i

các cơ sở y tế, và gần mô ̣t nử a số bà me ̣ mua sữa ta ̣i hoặc gần các cơ sở y tế

sau khi sinh [61].

Để khắc phu ̣c tình tra ̣ng quảng cáo và tiếp thi ̣ tràn lan các loa ̣i sữa giành cho trẻ dướ i 12 tháng tuổ i Chính phủ đã thông qua Nghi ̣ đi ̣nh số 21/2006/NĐ-CP cấm quảng cáo và bán các loa ̣i sữa cho trẻ dướ i 12 tháng tuổ i và thư ̣c phẩm bổ sung cho trẻ dướ i 6 tháng tuổ i, viê ̣c tiếp xúc vớ i gia đình củ a trẻ em dướ i 12 tháng tuổ i để tiếp thi ̣, quảng cáo các sản phẩm sữa công thứ c cũng không đươ ̣c cho phép, tuy nhiên các hãng sữa la ̣i lách luâ ̣t bằng cách tiếp câ ̣n vớ i các bác sĩ trong bê ̣nh viê ̣n làm cầu nố i đố i vớ i gia đình trẻ nhỏ [47]. Theo đánh giá củ a Bô ̣ Y tế kết hơ ̣p vớ i UNICEF và A&T

về viê ̣c thư ̣c hiê ̣n Nghi ̣ đi ̣nh số 21 cho thấy các hãng sữa đã vi pha ̣m Nghi ̣

đi ̣nh này khi tiếp xúc vớ i bà me ̣ thông qua cán bô ̣ bê ̣nh viê ̣n như bác sĩ, điều dưỡng để quảng cáo cho các sản phẩm sữa củ a mình, có 8,6% bà me ̣ nhâ ̣n đươ ̣c các sản phẩm sữa khuyến mãi ta ̣i cơ sở y tế, trên 80% bà me ̣ nhâ ̣n

24

đươ ̣c tờ rơi quảng cáo sữa cho trẻ dướ i 12 tháng tuổ i từ nhân viên tiếp thi ̣. Ngoài ra có 32,4% các cử a hàng bán sữa cho trẻ dướ i 12 tháng tuổ i và chỉ có 48% nhãn sản phẩm dinh dưỡng dùng cho trẻ dướ i 6 tháng tuổ i tuân thủ tất cả các quy đi ̣nh củ a Nghi ̣ đi ̣nh số 21. Các hãng sữa thườ ng đưa ra những

tuyên bố không chính xác về tác du ̣ng củ a sữa công thứ c so vớ i sữa me ̣,

không đáp ứ ng đươ ̣c các yêu cầu về nhãn mác và thườ ng xuyên có các chương trình khuyến mãi như tặng quà, giảm giá sản phẩm nhằ m khuyến

khích bà me ̣ sử du ̣ng sữa cho trẻ dướ i 6 tháng tuổ i [148].

Trong khi các truyền thông về các sản phẩm dinh dưỡng cho bà mẹ

được đăng tải rộng rãi trên mọi phương tiện truyền thông đại chúng thì các

thông tin về NCBSM vẫn còn rất ha ̣n chế. Kết quả nghiên cứ u A&T cho

thấy tivi là phương tiê ̣n truyền thông quan tro ̣ng về NCBSM ta ̣i Viê ̣t Nam

nhưng các thông điê ̣p về NCBSM mà bà me ̣ nhâ ̣n đươ ̣c là chưa toàn diê ̣n và

cần tăng cườ ng tiếp câ ̣n những thông điê ̣p này [63]. Hơn nữa, các công ty sữa đã tiếp câ ̣n đươ ̣c số lươ ̣ng lớ n các bà me ̣ và ho ̣ đang có các chương trình

quảng cáo ca ̣nh tranh vớ i các chương trình truyền thông về NCBSM. Bà me ̣ tiếp câ ̣n quảng cáo sữa bô ̣t nhiều hơn so vớ i tiếp câ ̣n thông tin khuyến khích NCBSM trên tivi. So vớ i 83,7% bà me ̣ nhìn thấy quảng cáo sữa bô ̣t cho trẻ nhỏ trên tivi, chỉ có 40,4% bà me ̣ nhìn thấy quảng cáo khuyến khích NCBSM và viê ̣c tiếp xúc nhiều vớ i các thông tin quảng cáo về sữa công

thứ c này sẽ ảnh hưở ng nhiều đến viê ̣c thư ̣c hành NCBSM [63].

Cũng từ báo cáo của Viện Gia đình và Giới năm 2013 “Nuôi dưỡng

trẻ nhỏ ở một số địa phương tại Việt Nam: Thực tiễn và chính sách” lưu ý là

có hơn một nử a số các bà me ̣ có nghề nghiệp là công nhân, nhân viên không

biết đến khuyến cáo cho con bú me ̣ đến 24 tháng củ a ngành y tế [11]. Điều

này đặt ra yêu cầu cần quan tâm hơn đến việc tuyên truyền cho các bà me ̣

công nhân, nhân viên. Kết quả này cũng có thể còn do ở khu vư ̣c đô thi ̣ các

25

bà me ̣ thường tư ̣ tìm hiểu về các vấn đề chăm sóc con, trong khi đó ở nông thôn việ c tuyên truyền thông qua hội phu ̣ nữ là khá tố t. Trong hoàn cảnh đó, nếu công việ c quá bận bi ̣u thì các bà me ̣ ở đô thi ̣ hay là công nhân sẽ có ít điều kiện biết thông tin hơn.

Ảnh hưởng của các thông điệp truyền đến được với bà mẹ còn được

thông qua một kênh quan trọng là tư vấn của cán bộ y tế. Theo nghiên cứu

của Nguyễn Kim Tuyết, 85% số bà mẹ nhận được tư vấn NCBSM qua cán

bộ y tế, cao hơn số bà mẹ được nghe qua Tivi (81%) [68].

1.7. Một số chương trình can thiệp cải thiện kiến thức, thái độ, thực

hành NCBSM

1.7.1. Một số mô hình trên thế giới

Có khá nhiều chương trình can thiệp thúc đẩy kiến thức và thực hành

NCBSM ở nhiều nước trên thế giới. Tìm hiểu các số liệu thứ cấp trên thư

viện Pubmed, Medline, Cochrane Library, EMBASE và của WHO từ tháng

5/2012 đến 27/11/2012 cho kết quả có 372 chương trình can thiệp được thực

hiện, trong đó có 111 nghiên cứu sử dụng can thiệp truyền thông dựa và

cộng đồng, 21 can thiệp tại cộng đồng và 43 nghiên cứu kết hợp can thiệp ở

cộng đồng và ở các dịch vụ y tế. Trong số 111 nghiên cứu can thiệp truyền

thông dựa vào cộng động có 27 nghiên cứu ở các nước đang phát triển. Các

can thiệp ở những nghiên cứu này cũng chủ yếu tiến hành các truyền thông

cá nhân, truyền thông nhóm, thăm hộ gia đình và có thêm hình thức gọi điện

thoại hỏi thăm, tư vấn, khuyến khích các bà mẹ.

Dự án LINKAGES được thực hiện từ năm 1999 - 2003 ở Bolivia và

Madagascar áp dụng mô hình can thiệp dựa vào cộng đồng để mang đến

những thay đổi nhanh chóng trong hành vi cá nhân và cả cộng đồng liên

quan đến bú sớm và bú hoàn toàn [81]. Với các can thiệp được áp dụng:

truyền thông cộng đồng, truyền thông đại chúng, truyền thông trực tiếp, sinh

26

hoạt nhóm CLB phụ nữ, nhóm chữ thập đỏ, vận động sự tham gia của người

chồng hỗ trợ vợ mình NCBSM hoàn toàn, tư vấn nhóm, tư vấn cá nhân,

thăm hộ gia đình,... các nội dung dinh dưỡng, kế hoạch hoá gia đình. Bên

cạnh đó cũng kết hợp các nguồn lực của các tổ chức khác để thực hiện các

hoạt động phát triển cộng đồng, vì sự sống còn của trẻ nhỏ, nước sạch vệ

sinh môi trường, tín dụng vi mô. Các can thiệp tập trung tăng tỷ lệ bú sớm

trong vòng 1 giờ đầu, bú hoàn toàn trong 6 tháng với các hoạt động truyền

thông dựa vào cộng đồng. Đánh giá sau 3 năm thực hiện đã chỉ rõ hiệu quả

của các mô hình nhóm phụ nữ, CLB phụ nữ trong việc cung cấp kiến thức và

hướng dẫn các bà mẹ thực hành các hành vi đúng không chỉ trong nuôi

dưỡng trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ mà còn đối với sức khỏe của bản thân mình. Kết

quả ở Bolivia cho thấy tỷ lệ bú sớm sau sinh là 56% ở năm 2000 lên đến

69% ở năm 2001 và đạt đến 74% vào cuối năm 2003; tỷ lệ bú mẹ hoàn toàn

trong tháng đầu tiên là 81% năn 2000, có giảm nhẹ vào năm 2001 sau đó

tăng lên 88% vào cuối dự án năm 2003. Ở Madagasca, tỷ lệ bú sớm sau sinh

đi từ 34% khảo sát ban đầu năm 2000 lên 69% năm 2001 và 76% vào năm

2002, tăng lên 78% ở năm 2004; Tỷ lệ bú mẹ hoàn toàn trong tháng đầu bắt

đầu ở mức cao là 86% năm 2000, tăng lên trong suốt thời gian can thiệp của

chương trình và đến năm 2004 là 91%. Những kết quả này đạt được nhanh

chóng và giữ ổn định nhờ các can thiệp của chương trình [81].

Ở Ấn Độ thực hiện chương trình lồng ghép dựa vào cộng đồng để thúc

đẩy nuôi dưỡng trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ từ năm 1998 đến năm 2002. Các hoạt

động can thiệp truyền thông dựa vào cộng đồng gồm các CLB ông bố bà mẹ

sinh hoạt định kỳ hàng tháng, mạng lưới cộng tác viên, tuyên truyền viên hỗ

trợ tại gia đình và tổ chức các buổi họp nhóm các hộ gia đình liền kề. Các

hoạt động tập huấn cho cán bộ chủ chốt và thành viên CLB, tài liệu truyền

thông: tờ rơi, poster, thẻ tư vấn,… có sự phối hợp giữa nhân viên y tế, cán

27

bộ công tác xã hội, cán bộ Hội phụ nữ, bà đỡ thôn bản,… cùng thực hiện các

hoạt động. Cán bộ phụ nữ xã năng nổ, nhiệt tình với các hoạt động cộng

đồng, được đào tạo qua các lớp cơ bản về dinh dưỡng và y tế sẽ là những tư

vấn viên tại nhà, điều hành sinh hoạt các CLB hoặc hỗ trợ đến các dịch vụ y

tế gần nhất khi cần thiết của các hộ gia đình do mình quản lý. Kết quả đánh

giá cuối kỳ cho thấy, ở thời điểm 3 tháng các bà mẹ đã giảm việc cho con

uống và ăn thêm các thức ăn như mật ong, trà hoặc nước cháo pha loãng từ

là 31% ở các xã có can thiệp, tỷ lệ này là 75% ở các xã không có can thiệp

(p < 0,001). Tỷ lệ cho bú hoàn toàn ở thời điểm 3 tháng được hỏi các bà mẹ

trong 24 giờ qua tương ứng ở các xã can thiệp và không là 79% và 48% (p <

0,001). Các tác động tích cực của các can thiệp bú sữa mẹ hoàn toàn cũng

tăng lên ở 6 tháng tuổi. Bên cạnh đó, tỷ lệ mắc các bệnh tiêu chảy trong 7

ngày qua là thấp hơn đáng kể trong nhóm trẻ 3 tháng và 6 tháng tuổi ở xã

can thiệp so với xã chứng. Tăng trưởng ở trẻ sơ sinh đến 6 tháng tuổi là như

nhau ở xã can thiệp và xã chứng [87].

Từ các nghiên cứu đã thực hiện ở các nước trên thế giới, có thể thấy

rằng, hiệu quả các can thiệp truyền thông dựa vào cộng đồng có ý nghĩa

nâng cao nhận thức, kiến thức cho các bà mẹ và những người thân để tạo lập

một môi trường hỗ trợ cho các bà mẹ thực hành những hành vi đúng.

1.7.2. Một số mô hình tại Việt Nam

Mô hình tư vấn dinh dưỡng “Mặt trời bé thơ” được thành lập dựa

trên hệ thống y tế công lập, thiết kế các hoạt động cộng đồng, truyền thông

và hỗ trợ tiếp cận đến các phòng tư vấn dinh dưỡng. Mô hình được triển khai

tại 15 tỉnh, thành trên cả nước gồm: Hà Nội, Thái Nguyên, Hải Phòng,

Thanh Hóa, Quảng Bình, Quảng Trị, Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi,

Đắc Lắc, Đắc Nông, Khánh Hòa, Vĩnh Long, Tiền Giang và Cà Mau; nhiều

địa phương đã ghi nhận những cải thiện đáng kể trong cách thức nuôi dưỡng

28

và chăm sóc trẻ nhỏ. Mô hình “Mặt trời bé thơ” là một trong những sáng

kiến hoạt động của dự án Alive & Thrive (A&T) do Quỹ Bill & Melinda

Gates Foundation tài trợ và được triển khai tại Việt Nam trong vòng 6 năm

(2009 - 2014); tập trung vào các dịch vụ chuẩn mực như khuyến khích và hỗ

trợ cho con bú sữa mẹ hoàn toàn, quản lý cho con bú sữa mẹ hoàn toàn,

khuyến khích ăn bổ sung và quản lý ăn bổ sung, qua đó góp phần cải thiện

tình trạng trẻ bị suy dinh dưỡng.

Tại tỉnh Thanh Hóa đã thành lập 117 phòng tư vấn Mặt trời bé thơ tại

4 huyện: Cẩm Thủy, Hậu Lộc, Tĩnh Gia, Thiệu Hóa. Qua 5 năm hoạt động,

phòng tư vấn “Mặt trời bé thơ” đã khám và điều trị khoảng gần 400.000 lượt

trẻ với những biểu hiện của các bệnh liên quan đến dinh dưỡng. Qua kiểm

nghiệm lâm sàng, tình trạng dinh dưỡng của trẻ được cải thiện tốt: tăng cân

nặng, chiều cao, ăn ngon miệng, đỡ quấy đêm,... sau khoảng 3 tuần áp dụng

chế độ chăm sóc dinh dưỡng chuẩn, tăng cường nuôi con sữa mẹ. Đến năm

2015 đã phủ kín toàn bộ các xã tại 4 huyện đã triển khai; huy động nguồn

lực và nhân rộng mô hình ra 23 huyện/thị trong tỉnh. Riêng tại phòng tư vấn

dinh dưỡng “Mặt trời bé thơ” của Trung tâm CSSKSS tỉnh, BS. Lương Ngọc

Trương, Giám đốc Trung tâm cho biết năm vừa qua đã khám, tư vấn cho hơn

1.200 lượt trẻ em; gần 9.000 bà mẹ.

Tại tỉnh Thái Nguyên, tính đến năm 2014, sau gần 3 năm chính thức

triển khai, dự án Alive & Thrive đã thông qua 51 phòng tư vấn dinh dưỡng

“Mặt trời bé thơ” trên toàn tỉnh tổ chức truyền thông, tư vấn dinh dưỡng trẻ

em cho hàng trăm nghìn lượt người; qua đó, góp phần tăng tỷ lệ bà mẹ cho

con bú trong một giờ đầu sau sinh lên 50%, tỷ lệ nuôi con bằng sữa mẹ lên

60% và giảm tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng thể thấp còi hằng năm từ 1% đến 2%.

Mô hình đã giúp hàng trăm nghìn phụ nữ của tỉnh Thái Nguyên an tâm cho

tương lai con của mình khi chúng được bảo đảm chăm sóc dinh dưỡng ngay

29

từ khi còn trong bụng mẹ.

Tại Quảng Bình, toàn tỉnh đã có hơn 61 phòng tư vấn "Mặt trời bé

thơ" hoạt động ở một số trạm y tế tuyến xã. Mô hình "Mặt trời bé thơ" tại

Trạm y tế Võ Ninh được đánh giá là một trong những mô hình thực hiện có

hiệu quả nhất ở Quảng Bình. Trong năm 2013, trạm đã tư vấn cho hơn 1.100

lượt phụ nữ mang thai. Năm 2014 con số này đã tăng lên hơn 1.500 lượt phụ

nữ đến tư vấn. Ngoài những nội dung về các kiến thức chăm sóc trẻ trong

những tháng đầu sau khi sinh thì mô hình còn lồng ghép tư vấn thêm các nội

dung về các bệnh thường gặp ở trẻ như viêm phổi, tiêu chảy,...

Tại Quảng Ngãi, trên địa bàn tỉnh đã có 57 phòng tư vấn “Mặt trời bé

thơ” đi vào hoạt động với gần 11.000 lượt tư vấn cho các bà mẹ. Mô hình

“Mặt trời bé thơ” đã góp phần đáng kể trong việc giảm tỷ lệ trẻ thấp còi, suy

dinh dưỡng trên địa bàn tỉnh, đặc biệt giai đoạn từ năm 2013 đến năm 2014,

tỷ lệ trẻ thấp còi từ 16,8% giảm xuống còn 10,2%; tỷ lệ trẻ nhẹ cân dưới 5

tuổi từ 13,2% giảm xuống còn 9,8%; ngoài ra, tỷ lệ trẻ bú mẹ chủ yếu trong

6 tháng đầu tăng đáng kể từ 37% lên 73%.

Tại Quảng Trị, dư ̣ án A&T đươ ̣c triển khai từ tháng 12/2010. Qua 5 năm hoạt động, dư ̣ án đã thành lập 30 phòng tư vấn “Mặt trời bé thơ” và 78 nhóm hỗ trợ nuôi dưỡng trẻ nhỏ tại 4 huyện thuộc dự án. Bà Nguyễn Thị

Thanh, Phó Giám đốc Sở Y tế, Giám đốc Dự án A&T Quảng Trị cho biết:

Tình trạng SDD trẻ em đã giảm đáng kể và giảm bền vững qua các năm. Cụ

thể, tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em dưới 24 tháng tuổi từ 15,2% năm 2011 giảm

còn 9,4% năm 2014. Đặc biệt, việc đưa vào hoạt động các phòng tư vấn

“Mặt trời bé thơ” theo hình thức nhượng quyền xã hội đặt tại các trạm y tế

xã, các trung tâm y tế, các bệnh viện tuyến huyện và tỉnh với cơ sở vật chất,

trang thiết bị được A&T đầu tư theo chuẩn, đội ngũ cán bộ đảm trách công

tác tư vấn được đào tạo bài bản về chuyên môn và sáng tạo trong phương

30

pháp truyền thông đã thu hút hàng ngàn lượt bà mẹ mang thai, bà mẹ nuôi

con nhỏ đến tham gia tư vấn. Từ việc nâng cao nhận thức của bà mẹ và

những người nuôi trẻ, tỷ lệ trẻ được bú mẹ trong vòng 1 giờ đầu sau sinh tại

Quảng Trị đến nay đã đạt trên 99%, tỷ lệ trẻ được nuôi hoàn toàn bằng sữa

mẹ trong 6 tháng đầu tăng từ 21% lên 49%.

Tại Cà Mau, theo thống kê của Sở Y tế, toàn tỉnh có 99.313 trẻ dưới 5

tuổi trong đó có 38.413 trẻ dưới 2 tuổi. Trong số này có 15,1% trẻ suy dinh

dưỡng thể nhẹ cân và 26,1% trẻ suy dinh dưỡng thể thấp còi; cứ 4 trẻ thì có

1 trẻ bị trẻ suy dinh dưỡng thể thấp còi. Đó thực sự những con số đáng báo

động vì suy dinh dưỡng thấp còi là nguyên nhân chủ yếu làm giảm khả năng

miễn dịch, sức đề kháng của cơ thể yếu, não bộ và trí lực chậm phát triển,

khả năng tiếp thu kém,... dẫn đến tình trạng bệnh tật khi trưởng thành, tác

động tiêu cực đến sự phát triển chung của xã hội. Nguyên nhân chính của

tình trạng trẻ em tỉnh Cà Mau suy dinh dưỡng thể thấp còi là do việc chăm

sóc, nuôi dưỡng trẻ nhỏ của các bà mẹ và gia đình không đúng cách. Đặc

biệt là tình trạng nhiều bà mẹ không quan tâm đến việc nuôi con bằng sữa

mẹ trong 6 tháng đầu đời. Sau khi dự án A&T được triển khai trên địa bàn

tỉnh, tính đến tháng 12/2014, đã có 30 phòng tư vấn “Mặt trời bé thơ” được

thành lập trên địa bàn thành phố Cà Mau, huyện Cái Nước và Ðầm Dơi;

mang lại nhiều hiệu quả, giúp nâng cao nhận thức của các bà mẹ về tầm

quan trọng của sữa mẹ và lợi ích của việc nuôi con bằng sữa mẹ.

Sau 5 năm triển khai, Dự án đã hỗ trợ thành lập gần 800 phòng tư vấn

“Mặt trời bé thơ” tại các cơ sở y tế của 15 tỉnh trên cả nước (và mở rộng

thêm 250 phòng vào cuối kỳ dự án năm 2014). Riêng tại Hà Nội, đã có 121

phòng tư vấn “Mặt trời bé thơ” được thành lập trên 12 huyện, từ năm 2009

đến nay số lượng phòng tư vấn “Mặt trời bé thơ” đã tăng gấp 7 lần số lượng

phòng tư vấn ban đầu, với số lượt tư vấn trung bình tại mỗi phòng là trên

31

dưới 100 lượt/tháng.

Đối với cộng đồng dân tộc, mô hình “Mặt trời bé thơ” cũng đưa ra

khuyến nghị về các can thiệp phù hợp với phong tục, tập quán và văn hóa

của các vùng. Để cung cấp kiến thức, chia sẻ và hỗ trợ thực hiện các thực

hành NDTSS và TN được khuyến nghị với những vùng sâu, vùng xa, dự án

đã thiết kế các nhóm hỗ trợ. Thông qua mô hình các nhóm hỗ trợ này, dự án

muốn hướng đến mục tiêu giảm các rào cản để thực hành tối ưu

NDTSS&TN: cung cấp kiến thức cho các bà mẹ có con dưới 2 tuổi ở các

vùng sâu, vùng xa thông qua các hoạt động tại thôn, bản, ấp của mình; tạo ra

diễn đàn cho các bà mẹ và người chăm sóc để học hỏi và chia sẻ kiến thức

và kinh nghiệm của mình về thực hành NDTSS&TN với nhau; tìm hiểu và

thích ứng với các tập quán văn hóa từng dân tộc để có các giải pháp thúc đẩy

kiến thức, thực hành nuôi trẻ của người dân; cung cấp kiến thức cho các

thành viên trong gia đình, những người có ý kiến quyết định trong nhà để họ

hiểu và hỗ trợ các bà mẹ áp dụng các thực hành tốt về NDTSS&TN; tạo lập

một môi trường hỗ trợ từ trong gia đình, đến cộng đồng hỗ trợ cho bà mẹ và

trẻ em. Kết quả đánh giá cuối kỳ của dự án chưa được công bố, nhưng kết

quả đánh giá giữa kỳ năm 2012 cho thấy tỷ lệ bú sớm trong vòng 1 giờ đầu

sau sinh ở các vùng dự án là 58,8%, vùng không có dự án là 51,8%; tỷ lệ bú

hoàn toàn trong 6 tháng tuổi tương ứng là 18,9% và 17,8%; tỷ lệ bú kéo dài

đến 12 tháng tuổi là 87,5 và 73,8% [61].

Chương trình can thiệp cộng đồng “Chăm sóc vì sự phát triển

toàn diện của trẻ trong 1000 ngày đầu đời” được thực hiện từ năm 2013

đến năm 2015 tại Hà Nam. Bằng cách xây dựng mô hình CLB học tập cộng

đồng, sinh hoạt 2 buổi/tháng tập trung vào đối tượng các bà mẹ đang mang

thai và có con nhỏ, các bà nội, bà ngoại và cả những ông bố trên địa bàn can

thiệp. Chương trình can thiệp thay đổi tích cực nhận thức, hành vi của phụ

32

nữ mang thai và sau sinh. Tỷ lệ bú mẹ trong 1 giờ đầu sau sinh ở xã can

thiệp đầu kỳ là 42,1%, xã chứng là 36,7%, đánh giá sau can thiệp tỷ lệ này ở

xã can thiệp là 50% và ở xã chứng là 35,6%. Các buổi sinh hoạt CLB đã trở

thành chương trình hấp dẫn, hữu ích để giáo dục cha mẹ tại cộng đồng.

Mô hình “Tham gia của người cha về NCBSM ở Hải Dương”. Đây

là một can thiệp sử dụng thiết kế phỏng thực nghiệm có đối chứng và so

sánh trước sau, được triển khai trong giai đoạn từ tháng 5/2010 đến đến

tháng 9/2011. Địa bàn can thiệp là CHILILAB, là thực địa của Trường Đại

học Y tế công cộng, thị xã Hải Dương. Nguyên tắc của triển khai can thiệp

là lồng ghép với các hoạt động chăm sóc sức khỏe thường quy của địa

phương. Địa bàn can thiệp là 3 phường và 4 xã của thị xã Chí Linh - Hải

Dương. Địa bàn đối chứng được chọn là 7 xã/thị trấn của huyện Thanh Hà,

nơi không được tiếp cận với các biện pháp can thiệp đặc thù của nghiên cứu,

có đặc điểm kinh tế văn hóa xã hội và các chương trình, hoạt động chăm sóc

sức khỏe và dinh dưỡng khá tương đồng nhưng không giáp với Chí Linh

(CHILILAB).

Đối tượng nghiên cứu là người chồng cùng cư trú và sinh sống trong

cùng hộ gia đình trên địa bàn nghiên cứu, có vợ mang thai tuần thứ 7 đến

tuần thứ 30 của thai kỳ tại thời điểm ngày 1 tháng 8 năm 2010. Can thiệp

được thiết kế dựa trên mô hình giáo dục sức khỏe toàn diện nhằm khuyến

khích nuôi con bằng sữa mẹ với đối tượng đích là người cha sắp có con.

Các tài liệu và tư liệu truyền thông: bao gồm các bài phát thanh, pano,

tờ rơi. Nội dung của các thông điệp này được soạn thảo dựa trên y văn, sự

thiếu hụt kiến thức của người cha về NCBSMHT từ điều tra ban đầu. Các

chuyên gia tham gia soạn thảo là những người có kinh nghiệm trong lĩnh

vực sức khỏe bà mẹ trẻ em, dinh dưỡng, truyền thông và đồ họa. Các tài liệu

này đã được thử nghiệm qua các giai đoạn khác nhau trước khi được chính

33

thức đưa vào sử dụng trong chương trình.

Các hoạt động can thiệp bao gồm:

- Truyền thông đại chúng về tầm quan trọng của sữa mẹ, việc nuôi con

hoàn toàn bằng sữa mẹ được truyền tải cho cộng đồng thông qua đài

phát thanh của xã 2 lần một tuần. Các pano khổ lớn có các hành ảnh

và thông điệp liên quan đến nuôi con bằng sữa mẹ và nội dung các

hoạt động người cha cần làm được treo ở các trạm y tế xã, trung tâm y

tế và bệnh viện huyện Chí Linh.

- Tư vấn nuôi con bằng sữa mẹ dành cho người cha được thực hiện tại

trạm y tế ở các giai đoạn trước sinh và sau sinh. Mục đích và nội dung

của các hoạt động tư vấn này liên quan đến các nội dung và hoạt động

người cha cần biết và làm trong giai đoạn trước và sau sinh để bà mẹ

có điều kiện nuôi con hoàn toàn bằng sữa mẹ.

- Tư vấn các nhân tại hộ gia đình cho người cha về nuôi con hoàn toàn

bằng sữa mẹ, do y tế thôn thực hiện được tiến hành tại hộ gia đình 1

lần trước khi bà mẹ sinh con và 3 lần sau khi sinh. Nội dung của các

cuộc tư vấn cá nhân này được thiết kế phù hợp với giai đoạn dinh

dưỡng và phát triển của trẻ từ lức còn mang thai cho đến hết 6 tháng

tuổi.

- Cuộc thi dành cho người cha nhằm đánh giá kiến thức và động viên

người cha tham gia vào việc hỗ trợ bà mẹ nuôi con bằng SMHT.

Kết quả sau 1 năm can thiệp là có sự thay đổi kiến thức về nuôi con

bằng sữa mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu ở địa bàn can thiệp tốt hơn so với

người cha tại địa bàn không can thiệp. Tỷ lệ cho con bú sớm và bú mẹ hoàn

toàn ở địa bàn can thiệp cao hơn một cách có ý nghĩa so với địa bàn đối

chứng (tỷ lệ bú sớm là 81,4% so với 39,4%; bú mẹ hoàn toàn trong 6 tháng

đầu là 16% so với 3,9%) [3].

34

1.8. Một số thông tin cơ bản về địa bàn nghiên cứu

Hà Nam là một tỉnh nằm ở vùng đồng bằng sông Hồng Việt Nam, tiếp

giáp với Hà Nội, diện tích là 860,5km2 và dân số 811.126 người, là tỉnh đồng

bằng đất nông nghiệp chiếm 87% diện tích và kinh tế khá phát triển.

Lào Cai là một tỉnh vùng cao biên giới thuộc vùng trung du và miền

núi phía Bắc của Việt Nam, giáp ranh giữa vùng Tây Bắc và vùng Đông

Bắc. Phía Bắc Lào Cai giáp Trung Quốc, phía Tây giáp tỉnh Lai Châu, phía

đông giáp tỉnh Hà Giang, phía Nam giáp tỉnh Yên Bái. Diện tích là

6.384km2 và dân số là 665.900 người chủ yếu là đồng bào dân tộc thiểu số,

có 21 dân tộc sinh sống trên địa bàn tỉnh.

Quảng Bình là một tỉnh duyên hải thuộc vùng Bắc Trung Bộ Việt

Nam. Quảng Bình nằm ở nơi hẹp nhất theo chiều Đông - Tây của dải đất

hình chữ S của Việt Nam (50km theo đường ngắn nhất tính từ biên

giới Lào ra biển Đông). Tỉnh này giáp Hà Tĩnh về phía bắc với dãy Hoành

Sơn là ranh giới tự nhiên; giáp Quảng Trị về phía nam; giáp Biển Đông về

phía đông; phía tây là tỉnh Khăm Muộn và tây nam là

tỉnh Savannakhet của Lào với dãy Trường Sơn là biên giới tự nhiên. Là tỉnh

có diện tích rộng nhất trong 3 tỉnh nghiên cứu 8.650,3km2 và dân số là

882.352 người.

35

36

Chương 2:

ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

2.1. Đối tượng nghiên cứu

2.1.1. Đối tượng nghiên cứu

Phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ thoả mãn 1 trong các điều kiện sau:

- Những phụ nữ có con từ 0-25 tháng tuổi

- Những phụ nữ đã xây dựng gia đình đang mang thai

2.1.2. Tiêu chuẩn loại trừ

- Những đối tượng phụ nữ có con trên 25 tháng tuổi

- Những phụ nữ có chồng nhưng vô sinh

- Những phụ nữ chưa xây dựng gia đình

- Những phụ nữ bị bệnh tâm thần, hoặc những phụ nữ không có khả

năng giao tiếp (câm, điếc,…)

- Những đối tượng từ chối tham gia nghiên cứu hoặc đang tham gia

nghiên cứu vì lý do nào đó không tiếp tục tham gia cũng được loại ra

khỏi nghiên cứu

2.2. Địa điểm và thời gian nghiên cứu

2.2.1. Địa điểm nghiên cứu

Nghiên cứu được triển khai tại ba tỉnh Hà Nam, Lào Cai và Quảng

Bình. Là những tỉnh có vị trí địa lý thuận lợi, đặc trưng cả khu vực thành thị,

nông thôn, có mức sống và điều kiện kinh tế, xã hội tương đương nhau, có

dân tộc thiểu số sinh sống là một đối tượng đặc thù để khai thác khi tiến

hành nghiên cứu. Bên cạnh đó, nghiên cứu sinh sử dụng kết quả của chương

trình “Nuôi con bằng sữa mẹ” do Hội LHPN Việt Nam thực hiện tại các tỉnh

này, do đó đây cũng là cách chọn tỉnh thuận tiện, thuận lợi cho nghiên cứu

sinh thực hiện đề tài và kiểm tra giám sát tại các địa bàn này.

37

2.2.2. Thời gian nghiên cứu

Nghiên cứu được tiến hành từ tháng 11/2012 đến tháng 12/2015. Chi

tiết thời gian thực hiện như sau:

Bảng 2.1: Thời gian thực hiện nghiên cứu

TT Thời gian Hoạt động

1 11-12 /2012 Giới thiệu nghiên cứu với chính quyền địa

phương và các đơn vị liên quan; tập huấn

nghiên cứu viên và chuẩn bị thực địa nghiên

cứu

2 1/2013 – 3/2013 Nghiên cứu cắt ngang và nghiên cứu định tính

xác định chỉ số ban đầu

4/2013 Xử lý số liệu nghiên cứu ban đầu 3

5/2013 Tập huấn can thiệp cho nhóm nghiên cứu 4

6/2013 – 6/2015 Tiến hành can thiệp 5

7-8/2015 Điều tra sau can thiệp 6

9-12/2015 Phân tích số liệu, viết báo cáo nghiên cứu 7

2.3. Phương pháp nghiên cứu

2.3.1. Thiết kế nghiên cứu

Thiết kế nghiên cứu được lựa chọn trong nghiên cứu này gồm 2 giai

đoạn:

- Giai đoạn 1: thiết kế nghiên cứu điều tra cắt ngang kết hợp với nghiên

cứu định tính (thảo luận nhóm, phỏng vấn sâu) để xác định chỉ số ban

đầu.

- Giai đoạn 2: thiết kế nghiên cứu can thiệp cộng đồng không có đối

chứng bằng giáo dục truyền thông nâng cao kiến thức, hành vi về nuôi

con bằng sữa mẹ cho các đối tượng bà mẹ có con dưới 25 tháng tuổi

38

và bà mẹ đang mang thai. Đánh giá sau can thiệp thông qua các bộ

công cụ nghiên cứu.

2.3.2. Giai đoạn 1: điều tra cắt ngang kết hợp với nghiên cứu định tính

2.3.2.1. Cỡ mẫu nghiên cứu

a) Điều tra cắt ngang

Cỡ mẫu nghiên cứu cho 03 tỉnh trong nghiên cứu này dựa vào công

thức tính cỡ mẫu ước lượng một tỷ lệ trong quần thể với độ chính xác tương

đối:

n =

Theo báo cáo của Vụ Sức khỏe bà mẹ trẻ em (Bộ Y tế), tỷ lệ bà mẹ

nuôi con hoàn toàn bằng sữa mẹ trong 6 tháng đầu là 10% (p = 0,10) với

mức ý nghĩa 5% và với độ chính xác tương đối của ε là 0,265. Cỡ mẫu tính

được là 492 trường hợp đối tượng phụ nữ có con từ 0-25 tháng tuổi, phụ nữ

đang mang thai, nhưng để đảm bảo hiệu ứng thiểt kế, chúng tôi nhân đôi cỡ

mẫu là 984, thực tế chúng tôi đã điều tra được 920 trường hợp phụ nữ đang

có thai, và có con từ 0-25 tháng tuổi (đạt tỷ lệ 97,6%).

Nuôi con bằng sữa mẹ hoàn toàn là chỉ số quan trọng nhất và xuyên

suốt trong nghiên cứu của chúng tôi. Do đó, chúng tôi lựa chọn chỉ số này để

tính toán cỡ mẫu điều tra cho 03 tỉnh nghiên cứu.

b) Nghiên cứu định tính

Đối với nhóm phụ nữ có con từ 24 tháng tuổi trở xuống: mỗi xã chọn

một nhóm, mỗi nhóm gồm 8 đối tượng, những đối tượng được chọn là

những đối tượng không được chọn vào nghiên cứu định lượng, như vậy với

12 xã tham gia nghiên cứu sẽ có 12 nhóm thảo luận với 96 phụ nữ tham gia.

Đối tượng tham gia thảo luận nhóm được chọn chủ đích theo gợi ý của cán

bộ y tế xã.

39

Đối với nhóm phụ nữ đang mang thai: cũng tương tự nhóm phụ nữ có

con từ 0 - 25 tháng tuổi, mỗi nhóm 8 đối tượng và 12 xã có 12 nhóm với 96

đối tượng tham gia.

Ngoài ra để đánh giá ảnh hưởng của người thân lên quyết định

NCBSM của người mẹ chúng tôi đã chọn mỗi xã 1 nhóm thảo luận với

người chồng hoặc mẹ chồng, mẹ đẻ và 1 thảo luận với nhóm lãnh đạo xã:

UBND, Trạm trưởng y tế xã, Hội phụ nữ, Hội nông dân, Đoàn thanh niên để

thu thập thêm thông tin.

Bảng 2.2: Tổng hợp đối tượng nghiên cứu định tính giai đoạn 1

STT Nội dung Số lượng

1 Thảo luận nhóm bà mẹ có con dưới 24 tuổi, 12 nhóm/12 xã

mỗi nhóm 8-10 người

2 Thảo luận nhóm bà mẹ đang mang thai, mỗi 12 nhóm/12 xã

nhóm 8-10 người

3 Thảo luận nhóm chồng/mẹ chồng, mỗi 12 nhóm/12 xã

nhóm 8-10 người

4 Thảo luận nhóm lãnh đạo địa phương, các 12 nhóm/ 12 xã

tổ chức đoàn thể, mỗi nhóm 3-5 người

2.3.2.2. Kỹ thuật chọn mẫu

Kỹ thuật chọn mẫu trong nghiên cứu này, chúng tôi sử dụng kỹ thuật

chọn mẫu nhiều bước:

- Giai đoạn 1 chọn tỉnh nghiên cứu: sử dụng kỹ thuật chọn mẫu thuận

tiện để chọn ra 3 tỉnh nghiên cứu, đó là tỉnh Hà Nam, Lào Cai và

Quảng Bình. Lý do chọn các tỉnh này như sau:

+ Tỉnh Hà Nam: đây là tỉnh đại diện cho các tỉnh đồng bằng Bắc bộ,

trình độ học vấn và dân trí ở đây tương đối cao.

+ Tỉnh Lào Cai: là tỉnh thuộc miền núi, có nhiều dân tộc ít người và

40

dân tộc chủ yếu là dân tộc H’mông có trình độ dân trí thấp.

+ Tỉnh Quảng Bình: là tỉnh đại diện cho các tỉnh Bắc Trung Bộ, là

tỉnh khó khăn của Bắc Trung Bộ.

+ Cả 3 tỉnh này đang triển khai chương trình “Nuôi con bằng sữa mẹ”

do Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam thực hiện.

- Giai đoạn 2 chọn huyện nghiên cứu: mỗi tỉnh chọn chủ đích lấy 1

huyện. Với mục đích chọn huyện nghiên cứu này là dựa trên các tiêu

chí: (1) các cơ sở của Hội Liên hiệp Phụ nữ hoạt động mạnh, (2) các

thành viên trong Ban chấp hành Hội LHPN từ thôn đến xã và huyện

đều nhiệt tình và có tâm huyết với nuôi con bằng sữa mẹ, (3) sẵn sàng

tham gia nghiên cứu. Các huyện được chọn là:

+ Hà Nam: thành phố Phủ Lý,

+ Lào Cai: huyện Bảo Thắng,

+ Quảng Bình: huyện Bố Trạch.

- Giai đoạn 3 chọn xã tham gia nghiên cứu: việc chọn xã cũng sử dụng

kỹ thuật chọn mẫu chủ đích, với tiêu chuẩn là những xã này có cùng

điều kiện kinh tế, xã hội và các cán bộ Hội cũng như thành viên trong

Hội đều nhiệt tình tham gia. Các xã được chọn được trình bày trong

bảng dưới đây:

Bảng 2.3: Danh sách các tỉnh, huyện và xã được lựa chọn nghiên cứu

Tỉnh Huyện Xã nghiên cứu

Hà Nam TP. Phủ Lý Khánh Thiện, Liêm Chung, Lam

Hạ, Minh Khai

Lào Cai Bảo Thắng Gia Phú, Sơn Hải, thị trấn Tầng

Loỏng, Xuân Giao

Quảng Bình Bố Trạch Sơn Trạch, Tây Trạch, Xuân Trạch,

Vạn Trạch

41

- Giai đoạn 4 chọn đối tượng tham gia nghiên cứu: từ những xã được

chọn, chúng tôi tiến hành lập danh sách những đối tượng phụ nữ có

con từ 0-25 tháng tuổi, phụ nữ đang có thai (từ 18 tuổi trở lên) vào

một danh sách. Dựa vào danh sách đã lập, chúng tôi tiến hành chọn

ngẫu nhiên lấy đủ số lượng đối tượng yêu cầu tham gia nghiên cứu

bằng phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên hệ thống. Việc chọn mẫu

ngẫu nhiên hệ thống được tiến hành bằng cách lấy tổng số đối tượng

phụ nữ trong quần thể nghiên cứu chia cho số đối tượng mẫu, số tìm

được là khoảng cách mẫu. Việc chọn đối tượng thứ nhất vào tham gia

nghiên cứu được chọn ngẫu nhiên bằng bảng số ngẫu nhiên, số ngẫu

nhiên này có số ký tự bằng số ký tự của khoảng cách mẫu và số này

nhỏ hơn hoặc bằng số của khoảng cách mẫu, số được chọn này tương

ứng với số bất kỳ trong số thứ tự trong danh sách, đó là đối tượng thứ

nhất. Đối tượng thứ hai sẽ được chọn bằng lấy số ngẫu nhiên vừa chọn

cộng với khoảng cách mẫu, và đối tượng thứ ba cũng được tính như

vậy nhưng gấp hai lần khoảng cách mẫu và cứ như vậy chúng tôi sẽ

chọn đủ số đối tượng cần nghiên cứu, theo công thức sau: n + mk (n là

số ngẫu nhiên, k là khoảng cách mẫu, m là số tự nhiên từ 1 đến số vô

cùng). Khoảng cách mẫu được tính toán dựa theo danh sách đối tượng

nghiên cứu tại từng xã. Số đối tượng cần tham gia nghiên cứu của các

xã nghiên cứu được chọn tỷ lệ với kích thước của quần thể mẫu, điều

này có nghĩa xã nào có số phụ nữ trong quần thể nghiên cứu nhiều

được chọn vào quần thể mẫu nhiều, xã ít được chọn ít.

42

2.3.2.3. Các chỉ số nghiên cứu

- Tỷ lệ trẻ được bú sữa mẹ ngay trong giờ đầu sau sinh, và bú sữa mẹ

hoàn toàn trong 6 tháng đầu.

- Tỷ lệ trẻ được bú sữa mẹ đến 25 tháng tuổi.

- Tỷ lệ các bà mẹ có lý do không nuôi con bằng sữa mẹ hoàn trong 6

tháng đầu và cho con bú sữa mẹ ngay trong giờ đầu sau sinh.

- Tỷ lệ các bà mẹ đang có con dưới 6 tháng tuổi, đang mang thai có dự

định cho con bú sữa mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu.

- Tỷ lệ các bà mẹ có con dưới 25 tháng tuổi đã cho con ăn bổ sung dự

định và cai sữa cho con khi con từ 18 tháng tuổi trở lên.

- Tỷ lệ các bà mẹ chưa cho con ăn bổ sung, đang mang thai dự kiến cho

con bú sữa mẹ kéo dài đến 18 tháng tuổi trở lên.

- Tỷ lệ các bà mẹ có kiến thức về lựa chọn nuôi con sau sinh.

- Tỷ lệ các bà mẹ kể đúng lợi ích của việc nuôi con bằng sữa mẹ.

- Tỷ lệ các bà mẹ biết về lựa chọn nuôi con tốt nhất sau sinh

- Tỷ lệ các bà mẹ nhận được nguồn thông tin nuôi con bằng sữa mẹ từ

câu lạc bộ nuôi con bằng sữa mẹ.

- Tỷ lệ các bà mẹ có thái độ đúng về nuôi con bằng sữa mẹ:

+ Tỷ lệ các bà mẹ có thái độ đồng ý và rất đồng ý với việc nuôi con

bằng sữa mẹ giúp bảo vệ trẻ không bị bệnh/tránh được viêm nhiễm.

+ Tỷ lệ các bà mẹ có thái độ đồng ý và rất đồng ý với việc nuôi con

bằng sữa mẹ tạo được sự kết gắn giữa mẹ và con, bú bình không thể có

được.

+ Tỷ lệ các bà mẹ có thái độ đồng ý và rất đồng ý với việc nuôi con

bằng sữa mẹ trẻ khỏe mạnh hơn những đứa trẻ không được nuôi con bằng

sữa mẹ.

+ Tỷ lệ các bà mẹ có thái độ đồng ý và rất đồng ý với việc nuôi con

43

bằng sữa mẹ chứa đầy đủ các chất giúp trẻ phát triển.

+ Tỷ lệ các bà mẹ có thái độ đồng ý và rất đồng ý với việc nuôi con

bằng sữa mẹ dễ hơn nuôi con bằng cho ăn sữa bột.

+ Tỷ lệ các bà mẹ có thái độ đồng ý và rất đồng ý với việc nuôi con

bằng sữa mẹ không gặp khó khăn trong việc chăm sóc gia đình.

+ Tỷ lệ các bà mẹ có thái độ đồng ý và rất đồng ý với việc nuôi con

bằng sữa mẹ là cách tốt nhất để giảm chi tiêu trong gia đình.

+ Tỷ lệ các bà mẹ có thái độ đồng ý và rất đồng ý với việc nuôi con

bằng sữa mẹ là đã làm mẹ phải nuôi con bằng sữa mẹ.

+ Tỷ lệ các bà mẹ có thái độ không đồng ý với việc nuôi con bằng sữa

bột sẽ giúp cho trẻ có thân hình khỏe mạnh và chống được béo phì.

+ Tỷ lệ các bà mẹ có thái độ không đồng ý với quan điểm phụ nữ

không nên cho con bú mẹ tại nơi công cộng.

+ Tỷ lệ các bà mẹ có thái độ không đồng ý với việc nuôi con bằng sữa

mẹ làm mất tự do của mẹ.

+ Tỷ lệ các bà mẹ có thái độ không đồng ý với việc nuôi con bằng sữa

mẹ làm mất nhiều thời gian của mẹ.

2.3.2.4. Kỹ thuật thu thập thông tin

Nghiên cứu cắt ngang: điều tra viên phỏng vấn trực tiếp đối tượng

nghiên cứu bằng bộ câu hỏi cấu trúc, các thông tin thu được của từng câu hỏi

được điều tra viên khoanh tròn vào nội dung của từng câu hỏi. Những câu

trả lời ngoài những ý đã biên soạn trong bộ câu hỏi sẽ được điều tra viên gia

lại trong mục “khác” của bộ câu hỏi.

Nghiên cứu định tính: tổ chức nhóm nhỏ từ 6 đến 10 đối tượng (thảo

luận nhóm nhỏ tập trung) thảo luận những câu hỏi liên quan đến kiến thức

nhất là thái độ đối với việc nuôi con bằng sữa mẹ. Những ý kiến thảo luận

nhóm trước khi ghi âm vào băng, trước khi ghi âm vào băng điều tra viên

44

phải xin phép các đối tượng tham gia nghiên cứu mới được ghi.

2.3.3. Giai đoạn 2: nghiên cứu can thiệp giáo dục truyền thông nâng cao

kiến thức và thái độ cho con bú sớm và bú mẹ hoàn toàn trong 6 tháng

đầu của các bà mẹ có con từ 0 - 24 tháng và đánh giá sau can thiệp

2.3.3.1. Sơ đồ thiết kế nghiên cứu can thiệp

Số liệu điều tra ban đầu

So sánh trước sau Can thiệp

Số liệu điều tra Sau can thiệp

2.3.3.2. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu được chọn vào can thiệp trong luận án này bao

gồm:

- Phụ nữ đang mang thai: lý do chọn đối tượng vào câu lạc bộ là giúp

cho họ có kiến thức về nuôi con bằng sữa mẹ, thời gian cho con bú

sau sinh tốt nhất và nuôi con bằng sữa mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu

đời.

- Phụ nữ có con dưới 6 tháng tuổi chưa cho con ăn bổ sung và đang bú

sữa mẹ hoàn toàn đến thời điểm chọn vào câu lạc bộ.

- Phụ nữ mới xây dựng gia đình và chuẩn bị có con: lý do chọn đối

tượng này vào câu lạc bộ là nhằm giúp cho họ có kiến thức cũng như

thái độ với sữa mẹ, và sau này sinh con họ sẽ vận dụng kiến thức vào

nuôi con bằng sữa mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu đời, cũng như cho

con bú sữa mẹ sớm trong vòng 1 giờ đầu sau sinh.

Tiêu chuẩn loại trừ các đối tượng và nhóm can thiệp:

45

- Trong quá trình nghiên cứu vì một lý do nào đó không muốn sinh hoạt

câu lạc bộ thì những đối tượng này được rút khỏi nhóm nghiên cứu.

- Những bà mẹ đã có con từ 6 tháng tuổi trở lên đã ăn bổ sung hoặc

những bà mẹ đã cho con ăn bổ sung trước 6 tháng tuổi, những bà mẹ

cho con ăn sữa pha hoặc vừa bú mẹ vừa cho ăn sữa ngoài (sữa bột),

nước cháo,... cũng không chọn vào nhóm nghiên cứu.

2.3.3.3. Thiết kế nghiên cứu

Thiết kế nghiên cứu trong nghiên cứu của chúng tôi là nghiên cứu can

thiệp cộng đồng không có đối chứng, có nghĩa lấy số liệu điều tra ban đầu để

xác định các chỉ số sau đó can thiệp bằng truyền thông giáo dục để thay đổi

kiến thức, hành vi của các bà mẹ đang cho con bú và các bà mẹ có gia đình

nhưng chưa có con, đang mang thai.

2.3.3.4. Cỡ mẫu nghiên cứu

a) Nghiên cứu định lượng

Cỡ mẫu nghiên cứu trong nghiên cứu này dựa vào công thức tính cỡ

mẫu ước lượng nguy cơ tương đối với độ chính xác tương đối:

2 𝑛 = 𝑍1−𝛼/2

(1−𝑝1) 𝑝1

(1−𝑝2) 𝑝2

[ + ] /[𝑙𝑜𝑔𝑒(1 − 𝜀)]2

Trong đó:

n: là cỡ mẫu cần thiết cho nhóm nghiên cứu

p1: là tỷ lệ ước tính ban đầu 0,19

p2: là tỷ lệ ước tính sau can thiệp là 0,25

ε: Mức độ chính xác mong đợi. ε = 0,20

1-α/2: Giá trị của hệ số giới hạn tin cậy. Với α = 0,05 thì hệ số tin cậy

Z2

của ước lượng là 95% và Z1-α/2 = 1,96

Tra bảng tính được cỡ mẫu tối thiểu là 267 đối tượng cho can thiệp

nhưng thực thế số đối tượng bà mẹ được chọn vào nhóm nghiên cứu là 261

46

người (đạt 97,8%).

b) Nghiên cứu định tính

- Đối với nhóm phụ nữ có con từ 24 tháng tuổi trở xuống: mỗi huyện

chọn một nhóm, mỗi nhóm gồm 10-12 đối tượng phân bố đều ở các

CLB trong huyện đó, những đối tượng được chọn là những đối tượng

không được chọn vào nghiên cứu định lượng.

- Đối với nhóm phụ nữ đang mang thai: cũng tương tự nhóm phụ nữ có

con từ 0-25 tháng tuổi, mỗi nhóm 10-12 đối tượng.

- Phỏng vấn sâu với 01 người trong ban chủ nhiệm CLB, như vậy sẽ có

24 phỏng vấn sâu với 24 ban chủ nhiệm CLB.

- Phỏng vấn sâu với cán bộ Hội phụ nữ cấp tỉnh: 3 phỏng vấn sâu.

- 03 buổi thảo luận với nhóm lãnh đạo huyện và xã tổ chức tại huyện:

UBND, Trạm trưởng y tế xã, Hội phụ nữ, Hội nông dân, Đoàn thanh

niên để thu thập thêm thông tin.

Bảng 2.4: Tổng hợp đối tượng nghiên cứu định tính giai đoạn 2

STT Nội dung Số lượng

Thảo luận nhóm bà mẹ có con dưới 24 tuổi, 3 nhóm/3 huyện 1

mỗi nhóm 10-12 người

2 Thảo luận nhóm bà mẹ đang mang thai, mỗi 3 nhóm/3 huyện

nhóm 10-12 người

3 Thảo luận nhóm lãnh đạo địa phương, các 12 nhóm/ 12 xã

tổ chức đoàn thể, mỗi nhóm 3-5 người

4 Phỏng vấn sâu 01 chủ nhiệm CLB 24 PVS/24 CLB

47

2.3.3.5. Kỹ thuật chọn mẫu

Tương tự như kỹ thuật chọn mẫu ở giai đoạn một, có nghĩa là sử dụng

kỹ thuật chọn mẫu nhiều giai đoạn như ở giai đoạn chọn đối tượng tham gia

nghiên cứu. Những đối tượng tham gia nghiên cứu ban đầu chưa cho con ăn

bổ sung, đang mang thai (đủ tiêu chuẩn lựa chọn vào nghiên cứu) sẽ được

chọn vào nghiên cứu can thiệp và đánh giá sau can thiệp.

Địa bàn nghiên cứu ở giai đoạn 2 vẫn như giai đoạn 1 cùng tại 4 xã

của thành phố Phủ Lý, huyện Bảo Thắng và huyện Bố Trạch.

2.3.3.6. Các chỉ số nghiên cứu

- Tỷ lệ trẻ được bú sữa mẹ ngay trong giờ đầu sau sinh, và bú sữa mẹ

hoàn toàn trong 6 tháng đầu (ở đối tượng là phụ nữ chưa cho con ăn

bổ sung, đang mang thai ở giai đoạn điều tra ban đầu).

- Tỷ lệ trẻ được bú sữa mẹ đến 25 tháng tuổi (ở đối tượng là phụ nữ

chưa cho con ăn bổ sung, đang mang thai ở giai đoạn điều tra ban

đầu).

- Hiệu quả can thiệp về kiến thức lợi ích nuôi con bằng sữa mẹ trước và

sau can thiệp.

- Hiệu quả can thiệp về thái độ đúng về nuôi con bằng sữa mẹ trước và

sau can thiệp.

2.3.3.7. Phương pháp can thiệp

Trong luận án của tôi, tập trung can thiệp vào giáo dục về kiến thức,

thái độ, thực hành của các bà mẹ ở độ tuổi sinh đẻ đặc biệt ở những phụ nữ

chưa con ăn bổ sung, đang mang thai, những đối tượng phụ nữ mới sinh 1

con,… tham gia vào câu lạc bộ nuôi con bằng sữa mẹ, cụ thể các can thiệp

gồm:

- Tập huấn đào tạo kỹ năng truyền thông và kiến thức cho đội ngũ ban

chủ nhiệm câu lạc bộ/cán bộ phụ nữ cấp chi hội, tổ hội để có thể điều

48

hành sinh hoạt CLB, mỗi tỉnh 2 lớp 1 năm, mỗi lần 2 ngày.

- Tập huấn và kết hợp giao lưu chia sẻ kinh nghiệm của 24 CLB 1 năm

1 lần.

- Hàng tháng câu lạc bộ tổ chức 2- 3 buổi sinh hoạt chuyên đề về lợi ích

của nuôi con sữa mẹ, thời gian nuôi con bằng sữa mẹ hoàn toàn trong

6 tháng đầu, tại sao lại phải cho con bú sữa mẹ trong 6 tháng đầu? Tại

sao phải cho con bú sữa mẹ càng kéo dài càng tốt? Trong thành phần

sữa mẹ có gì để giúp cho trẻ lớn và phòng chống được bệnh tật,…

Tổng số buổi sinh hoạt câu lạc bộ đối với mỗi xã trong 2 năm can

thiệp là 40 - 45 buổi, trừ 2 tháng trước và sau tết âm lịch. Ngoài sinh

hoạt câu lạc bộ, can thiệp còn cung cấp sách, tài liệu phát tay và mời

các chuyên gia đến truyền thông cho các thành viên của câu lạc bộ, có

các giáo cụ trực quan sử dụng trong sinh hoạt CLB,… Hoạt động CLB

còn gắn với những nội dung khác của cấp Hội như lồng ghép với

chương trình tín dụng vi mô, do vậy ngoài lịch sinh hoạt cố định của

CLB theo can thiệp, có những buổi sinh hoạt để phổ biến các thông tin

của Hội, phát vốn và thu tiết kiệm đồng thời lồng ghép trao đổi về

chăm sóc con cái, gia đình.

- Tổ chức hội thi về kiến thức, thực hành nuôi con bằng sữa mẹ cho các

hội viên của câu lạc bộ (mỗi xã thực hiện mỗi năm 1 hội thi), như vậy

có 24 hội thi cho 12 xã nghiên cứu.

- Các thông tin về chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ được

phát trên loa, đài phát thanh trên địa bàn can thiệp 1 lần/tuần với các

chủ đề, cũng như các câu chuyện khác nhau (mỗi xã thực hiện phát

thanh trên loa từ 48 đến 50 buổi/năm).

- Ban chủ nhiệm CLB hay cán bộ phụ nữ cơ sở còn là các tuyên truyền

viên tại nhà, hỗ trợ các thành viên trong CLB hoặc phụ nữ trong địa

49

bàn trong thời gian mang thai, sau đẻ,… tư vấn và kết nối đến các dịch

vụ y tế.

- Trong thời gian tiến hành can thiệp, nghiên cứu sinh đã liên hệ hỗ trợ

cho địa bàn tiến hành nghiên cứu ở 3 tỉnh 2 đợt khám sức khoẻ định

kỳ và khám dinh dưỡng cho bé của Bệnh viện Bưu điện; tổ chức tại

mỗi xã 2 buổi truyền thông dinh dưỡng “Mẹ nấu ngon - Con lớn

khoẻ” và “Cơm ngon - con khoẻ” có sự tham gia của TS. Phạm Thị

Thuý Hoà, Viện trưởng Viện dinh dưỡng ứng dụng để tư vấn và giải

đáp các thắc mắc cho các bà mẹ.

- Thời gian can thiệp trong vòng 2 năm, sau đó sẽ đánh giá hiệu quả can

thiệp (1 năm).

2.3.3.8. Người thực hiện

- Nghiên cứu sinh

- Cán bộ thuộc nhóm nghiên cứu (cán bộ Ban gia đình xã hội thuộc Hội

liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Ban gia đình xã hội - Hội Liên hiệp phụ

nữ cấp tỉnh, huyện, xã).

2.3.3.9. Kỹ thuật thu thập thông tin

Do không theo dõi trực tiếp được từng đối tượng tham gia nghiên cứu,

giống như trong giai đoạn điều tra cắt ngang, có nghĩa là phỏng vấn trực tiếp

đối tượng tham gia nghiên cứu qua bộ câu hỏi đã điều tra ban đầu (Quasi -

Experimental study).

2.3.4. Công cụ nghiên cứu

2.3.4.1. Nghiên cứu định lượng

Bộ công cụ được thiết kế dựa trên các mục tiêu và chỉ số nghiên cứu.

Bộ công cụ này trước khi tiến hành nghiên cứu tại cộng đồng được phỏng

vấn thử tại cộng đồng với mục đích phát hiện những điểm chưa rõ cần bổ

sung và chỉnh lại ngôn ngữ trong các câu hỏi để người được phỏng vấn dễ

50

hiểu và cung cấp đầy đủ thông tin cần thiết phục vụ cho nghiên cứu. Sau

phỏng vấn thử tại cộng đồng, bộ câu hỏi sẽ được hoàn chỉnh trước khi triển

khai nghiên cứu (xem phụ lục 1).

Cấu trúc bộ câu hỏi gồm:

- Thông tin chung của đối tượng nghiên cứu (9 câu hỏi).

- Thời gian cho bú sữa mẹ với đối tượng đang cho con bú (11 câu hỏi).

- Phụ nữ chưa cho con ăn sam, đang mang thai (4 câu hỏi).

- Kiến thức về nuôi con bằng sữa mẹ (6 câu hỏi).

- Thái độ về nuôi con bằng sữa mẹ (12 câu hỏi).

2.3.4.2. Nghiên cứu định tính

Bộ câu hỏi hướng dẫn thảo luận nhóm được thiết kết với các nội dung

sau:

- Nuôi con bằng sữa mẹ có những lợi ích gì?

- Vì sao phải cho con bú sớm ngay trong giờ đầu sau khi sinh?

- Và thời gian cho con bú sữa mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu có những

lợi ích và gặp những trở ngại gì?

- Thời gian cho con bú kéo dài đến bao nhiêu tháng tuổi mới cai sữa?

và lý do tại sao?

- Làm thế nào để khuyến khích phụ nữ sau đẻ cho con bú ngay trong

giờ đầu?

- Làm thế nào để phụ nữ cho con bú sữa mẹ hoàn toàn trong 6 tháng

đầu?

2.3.4.3. Nghiên cứu can thiệp

Cẩm nang Nuôi con bằng sữa mẹ, hướng dẫn điều hành sinh hoạt CLB

NCBSM cung cấp cho Ban chủ nhiệm CLB, chủ yếu gồm 8 chủ đề, bao

gồm:

- Chủ đề 1: Thực trạng nuôi con bằng sữa mẹ; NCBSM có lợi gì; tại

51

sao?

- Chủ đề 2: Sữa mẹ được tạo thành như thế nào?

- Chủ đề 3: Cách cho bé bú thế nào là tốt?

- Chủ đề 4: Cách chăm sóc nguồn sữa mẹ?

- Chủ đề 5: Cách cho trẻ ăn bổ sung hợp lý?

- Chủ đề 6: Cách cai sữa bé thế nào?

- Chủ đề 7: Một số vấn đề liên quan tới nuôi con bằng sữa mẹ.

- Chủ đề 8: Một số khó khăn, thách thức trong quá trình nuôi con bằng

sữa mẹ.

2.4. Xử lý số liệu

- Đối với số liệu định lượng: số liệu sau khi được thu thập, được làm

sạch trước khi nhập vào máy tính. Sử dụng phần mềm EpiData 3.1 để

nhập số liệu với chương trình kiểm tra (check) để kiểm tra việc vào số

liệu và được nhập vào 2 máy tính khác nhau, nhằm tránh sai số khi

nhập số liệu. Sau khi số liệu được nhập xong sẽ chuyển sang phần

mềm SPSS 18.0 để phân tích thử số liệu đã nhập vào 2 máy tính. Khi

không có sự khác nhau giữa số liệu chạy thử từ 2 máy tính, chúng tôi

tiến hành xử lý tính tỷ lệ và X2, tỷ xuất chênh và hiệu quả can thiệp.

- Đối với số liệu định tính: ngay sau mỗi ngày điều tra, các giám sát

viên và điều tra viên phải bóc băng ngay ghi vào biên bản, đồng thời

so sánh giữa kết quả bóc băng và biên bản để bổ sung thông tin còn

thiếu để tránh mất thông tin cũng như quên. Và các thông tin này được

đưa vào bảng ma trận để tạo ra khung logic giữa các câu hỏi với nhau

và đưa ra các giải pháp can thiệp.

- Đối với nghiên cứu can thiệp: các số liệu sau khi thu thập được nhập

vào phần mềm EpiData 3.1, sau đó chuyển sang phần mềm SPSS 18.0

để tính các chỉ số theo mục tiêu nghiên cứu, áp dụng các thuật toán

52

thống kê để tính và so sánh các: tần số; tỷ lệ phần trăm; chỉ số hiệu

quả can thiệp (so sánh trước sau) và hiệu quả can thiệp giữa nhóm can

thiệp và với nhóm chứng.

- Chỉ số hiệu quả can thiệp (T-S) ở nhóm can thiệp (H1) = {(tỷ lệ điều

tra sau – tỷ lệ điều tra trước)/tỷ lệ điều tra sau} x 100%.

2.5. Khống chế sai số trong nghiên cứu

Để khống chế sai số trong nghiên cứu, chúng tôi đã thực hiện:

- Thiết kế bộ câu hỏi điều tra thật chặt chẽ, đảm bảo đầy đủ thông tin,

câu hỏi dễ hiểu và dễ trả lời để tránh sai số khi thu thập thông tin.

- Hàng ngày phải bóc băng ngay để tránh bỏ sót thông tin

- Làm sạch số liệu trước khi nhập vào máy tính và sử dụng 2 máy tính

cùng nhập bộ số liệu để kiểm tra độ chính xác sau khi nhập số liệu.

- Phân tích thử số liệu từ 2 bộ số liệu đã nhập để tránh thiếu, mất số

liệu khi nhập.

2.6. Một số khái niệm sử dụng trong nghiên cứu

- Hiệu quả dự phòng = 100 x {sự khác nhau về tỷ lệ (hoặc nguy cơ)/tỷ

lệ (hoặc nguy cơ) trong nhóm không tiếp xúc}.

𝑎×𝑑

- Tỷ suất chênh:

𝑏×𝑐

OR =

- Kiến thức đúng về nuôi con bằng sữa mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu:

là bà mẹ chỉ cho trẻ bú mẹ mà không cho ăn, uống bất kỳ thức ăn, đồ

uống nào khác kể cả nước trắng trong 6 tháng đầu.

- Kiến thức không đúng là bà mẹ cho con bú mẹ và cho ăn bổ sung các

thức ăn, đồ uống khác trong 6 tháng đầu hoặc bà mẹ chỉ cho bú dưới 6

tháng.

- Thực hành đúng về nuôi con bằng sữa mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu

đời: là bà mẹ đã cho con mẹ mà không ăn, uống thêm bất kỳ thức ăn,

53

đồ uống nào khác và đúng 6 tháng mới cho con ăn bổ sung, còn cho

ăn trước 6 tháng hoặc sau 6 tháng mới cho ăn bổ sung là thực hành

không đúng.

2.7. Đạo đức trong nghiên cứu

- Nghiên cứ u tuân thủ theo các điều kiệ n, quy trình đã đươ ̣c Hộ i đồ ng đa ̣o đứ c trong nghiên cứ u Y sinh ho ̣c củ a Viện vệ sinh dịch tễ phê duyệ t

- Tất cả các đối tượng tham gia nghiên cứu đều được thông báo về mục

đích nghiên cứu và các đối tượng có quyền từ chối không tham gia

nghiên cứu trong bất kỳ thời gian nào mà không cần nêu lý do.

- Các kết quả thu được từ các cuộc phỏng vấn các cá nhân được sử

dụng với mục đích nghiên cứu và đảm bảo bí mật thông tin mà đối

tượng nghiên cứu đã cung cấp, những người không có trách nhiệm

không được sử dụng những thông tin này.

- Nghiên cứu này là phỏng vấn trực tiếp đối tượng nghiên cứu, không

can thiệp vào thân thể đối tượng nghiên cứu.

- Các thông tin thu được sẽ được sử dụng cho việc can thiệp nâng cao

kiến thức và thực hành của người dân nhất là đối tượng phụ nữ đang

nuôi con, đang có thai và sẽ có con về nuôi con bằng sữa mẹ.

2.8. Hạn chế của đề tài

- Vì điều kiện về kinh phí nên không tổ chức thu thập thông tin theo

định kỳ mà chỉ sử dụng phương pháp Quasi (Quasi - Experimental

study) để đánh giá sau can thiệp.

- Và cũng vì điều kiện kinh phí nên chúng tôi không sử dụng phương

pháp nghiên cứu can thiệp cộng đồng có đối chứng, nên giá trị của kết

quả can thiệp chưa cao.

- Một số câu hỏi không thu được câu trả lời từ đối tượng nên kết quả

54

phỏng vấn đối với một số câu hỏi các mẫu số không hoàn toàn như

nhau, nhưng vẫn đảm bảo cỡ mẫu để xử lý thống kê.

- Trong nghiên cứu chọn địa bàn không mang tính ưu tiên và đặc thù

nên chưa chặt chẽ, tuy nhiên với thiết kế nghiên cứu được sử dụng

trong đề tài và các kết quả nghiên cứu đã được kiểm định bằng các

test thống kê một cách đầy đủ nên kết quả này vẫn có giá trị khoa học

và thực tiễn. Đây là thiết kế nghiên cứ u can thiệ p cộ ng đồ ng tự đối chứng. Đánh giá hiệ u quả bằng cách so sánh kết quả điều tra mô tả cắt ngang ta ̣i thờ i điểm trước can thiệp vớ i kết quả điều tra mô tả cắt ngang ta ̣i thờ i điểm sau can thiệp. Như vậ y đánh giá hiệ u quả củ a can thiệ p đã dư ̣a trên kết quả cắt ngang quần thể bà me ̣ có con từ 0-25 tháng tuổ i, bà mẹ đang mang thai ở hai thờ i điểm trước can thiệp và sau can thiệp. Cách này sẽ cho kết quả trung bình củ a can thiệ p đố i vớ i quần thể bà me ̣ có con từ 0-25 tháng tuổ i, bà mẹ đang mang thai ở các xã nghiên cứ u.

- Kết quả này sẽ thể hiệ n thấp hơ n các giá tri ̣ thậ t có thể có đươ ̣c từ can thiệ p. Đây là ha ̣n chế củ a thiết kế can thiệ p cộ ng đồ ng khi so sánh vớ i thiết kế nghiên cứ u theo dõi do ̣c trên cùng đố i tươ ̣ng. Tuy nhiên kết quả nghiên cứ u đã cho thấy bứ c tranh hiệ u quả can thiệ p trên bình diệ n cộ ng đồ ng gần vớ i thư ̣c tế và cách đánh giá hiệ u quả theo mô hình y tế công cộ ng.

- Tác động của can thiệp có thể bị hạn chế do nghiên cứu can thiệp chỉ

thực hiện trong vòng 24 tháng do đó không thể thấy rõ thay đổi ở các

bà mẹ đang mang thai sau thời gian can thiệp sẽ sinh con và nuôi con

đến 25 tháng.

55

Chương 3:

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

3.1. Đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu

Bảng 3.1: Phân bố đối tượng nghiên cứu theo tuổi

Tỉnh p Cộng Nhóm (chi2 Hà Nam Quảng bình Lào Cai tuổi test) N % n % n % n %

< 25 93 29,8 100 31,9 136 46,3 329 35,8

25 - 29 115 36,9 121 38,5 114 38,8 350 38,0 <0,001 30 - 34 62 19,9 56 17,8 33 11,2 151 16,4

≥ 35 42 13,4 37 11,8 11 3,7 90 9,8

Cộng 312 100 314 100 294 100 920 100

TB ± SD 28,3 ± 5,4 27,9 ± 5,4 25,7 ± 4,8 27,3 ± 5,3

Bảng 3.1 cho thấy, tuổi trung bình của các bà mẹ là 27,3 ± 5,3 tuổi. Tập

trung chủ yếu ở nhóm dưới 29 tuổi, 38,0% từ 25-29 tuổi và 35,8% dưới 25

tuổi. Thấp hơn ở nhóm 30-34 tuổi, chiếm 16,4% và thấp nhất ở nhóm từ 35

tuổi trở lên (9,8%).

Tuổi của bà mẹ tham gia nghiên cứu ở tỉnh Lào Cai thấp hơn so với

tỉnh Hà Nam và Quảng Bình.

4.4

3.7

100%

9.9

90%

21.2

23.6

80%

36.4

30.9

70%

Trung cấp, cao đăng, đại học

33

60%

Phổ thông trung học

50%

TH cơ sở

62.1

40%

Tiểu học

51.7

52.7

30%

44.2

20%

10%

1.6

9.9

8.2

6.5

0%

Chung

Hà Nam Quảng Bình Lào Cai

56

Biểu đồ 3.1: Phân bố đối tượng nghiên cứu theo trình độ học vấn (n = 920)

Hầu hết bà mẹ có trình độ học vấn cấp trung học cơ sở (51,7%) và phổ

thông trung học (30,9%). Chỉ có 9,9% có trình độ trung cấp, cao đẳng, đại

học. Vẫn còn 6,5% bà mẹ chỉ mới học đến tiểu học.

Có sự khác nhau rõ rệt về trình độ học vấn của bà mẹ tham gia nghiên

cứu theo tỉnh. Tại Hà Nam, tỷ lệ bà mẹ có trình độ học vấn từ cấp 3 trở lên

là cao nhất (21,2% trình độ trung cấp, cao đẳng, đại học và 33,0% trình độ

trung học phổ thông), tiếp đến là tỉnh Lào Cai (3,7% và 36,4%), thấp nhất là

tỉnh Quảng Bình (4,4% và 23,6%). Sự khác biệt là có ý nghĩa thông kê với

p<0,001.

57

Bảng 3.2: Phân bố đối tượng nghiên cứu theo nghề nghiệp

Tỉnh Cộng Nghề nghiệp Hà Nam Quảng bình Lào Cai

n % n % n % n %

Làm ruộng 26,6 248 79,0 146 49,7 477 51,9 83

Giáo viên 33 10,6 7 2,2 19 6,5 59 6,4

Công nhân 27 8,7 3 1,0 10 3,4 40 4,3

CBVC 36 11,5 10 3,2 10 3,4 56 6,1

Nội trợ 44 14,1 13 4,1 42 14,3 99 10,8

Buôn bán nhỏ 53 17,0 17 5,4 27 9,2 97 10,5

Khác 36 11,5 16 5,1 40 13,6 92 10,0

Cộng 312 100 314 100 294 100 920 100

Nghề nghiệp của các bà mẹ tham gia nghiên cứu tập trung chủ yếu là

nghề làm ruộng (51,9%), tiếp đến là nội trợ và buôn bán nhỏ (hơn 10%). Tỷ

lệ bà mẹ là giáo viên hoặc cán bộ, viên chức nhà nước là không cao.

Tại tỉnh Quảng Bình, 77,0% bà mẹ tham gia nghiên cứu làm ruộng,

cao hơn hẳn so với tỉnh Lào Cai (49,7%) và Hà Nam (26,6%). Sự khác nhau

về nghề nghiệp của các đối tượng nghiên cứu ở các tỉnh có ý nghĩa thống kê

(p < 0,001).

4.8

100%

0.3 0 0

10.2

1.8 3.3 4.2

0.7 0 0.3

90%

80%

12.9

70%

Khác

60%

Dao

Tày

50%

99.7

99

90.7

Kinh

40%

72.1

30%

20%

10%

0%

Chung

Hà Nam

Lào Cai

Quảng Bình

58

Biểu đồ 3.2: Phân bố đối tượng nghiên cứu theo dân tộc (n = 920)

Hầu hết bà mẹ là người dân tộc Kinh (90,7%), chỉ có 4,2% là người

dân tộc Tày, 3,2% là người dân tộc Dao và 1,8% là người dân tộc khác.

Tại 02 tỉnh Hà Nam và Quảng Bình, tỷ lệ bà mẹ là người Kinh chiếm

gần tuyệt đối (lần lượt là 99,0% và 99,7%). Tuy nhiên tại tỉnh Lào Cai, tỷ lệ

này chỉ chiếm 72,1%. Sự khác nhau về dân tộc của các đối tượng nghiên cứu

theo tỉnh là có ý nghĩa thống kê (p < 0,001).

Bảng 3.3: Phân bố đối tượng nghiên cứu theo tình trạng con cái

Tỉnh Cộng Tình trạng con Hà Nam Quảng bình Lào Cai cái n % n % n % n %

Đã có con 287 92,0 283 90,1 238 81,0 808 87,8

Đang mang thai 25 8,0 31 9,9 56 19,0 112 12,2

Cộng 312 100 314 100 294 100 920 100

Tỷ lệ bà mẹ đã có con từ 0-25 tháng tuổi chiếm 87,8% và 12,2% là bà

mẹ đang mang thai.

59

Trong đó, tại tỉnh Hà Nam số bà mẹ đã có con chiếm tới 92,0%, thấp

hơn ở tỉnh Quảng Bình (90,1%) và thấp nhất ở tỉnh Lào Cai (71,0%).

Bảng 3.4: Phân bố đối tượng trẻ em < 25 tháng tuổi theo giới tính và theo

tình trạng sinh đẻ

Tỉnh Cộng

Đặc điểm trẻ Hà Nam Quảng Bình Lào Cai

n % n % n % n %

Giới tính Nam 141 49,1 147 51,9 137 57,6 425 52,6

Nữ 146 50,9 136 48,1 101 42,4 383 47,4

Tình trạng Đẻ thường 215 74,9 265 93,6 198 83,2 678 83,9

sinh đẻ Mổ đẻ 72 25,1 18 6,4 40 16,8 130 16,1

Cộng 287 100 283 100 238 100 808 100

Phân bố trẻ theo giới tính là khá đồng đều, 52,6% trẻ nam và 47,4%

trẻ nữ. Tại tỉnh Lào Cai, có sự chênh lệch rõ nhất về giới tính ở trẻ (nam:

57,6%, nữ: 42,4%). Không có sự khác nhau về giới tính của trẻ giữa các tỉnh

nghiên cứu, p > 0,05.

83,9% trẻ đẻ thường và 16,1% trẻ đẻ mổ. Tỷ lệ trẻ đẻ thường cũng cao

hơn hẳn ở tỉnh Quảng Bình (93,6%) so với tỉnh Lào Cai (83,2%) và thấp

nhất ở tỉnh Hà Nam (74,9%). Sự khác biệt là có ý nghĩa thống kê với

p<0,001.

60

3.2. Kiến thức, thái độ, thực hành nuôi con bằng sữa mẹ

3.2.1. Kiến thức nuôi con bằng sữa mẹ

Bảng 3.5: Kiến thức về lựa chọn nuôi con tốt nhất sau sinh

Tỉnh Cộng Kiến thức lựa chọn nuôi Hà Nam Quảng Bình Lào Cai

con sau sinh tốt nhất n % n % n % n %

Con bú sữa mẹ hoàn toàn 289 92,6 300 95,5 283 96,3 872 94,8

Vừa bú mẹ, ăn sữa ngoài 17 5,5 9 2,9 9 3,1 35 3,8

1 0,3 0 0,0 1 0,1 0 0,0 Cho ăn sữa pha

4 1,3 2 0,7 12 1,3 6 1,9 Không biết

312 100 314 100 294 100 920 100 Cộng

Trong 920 bà mẹ được hỏi về kiến thức lựa chọn nuôi con tốt sau sinh,

94,8% bà mẹ có kiến thức đúng là việc cho con bú sữa mẹ hoàn toàn sau

sinh là tốt nhất. Tuy nhiên vẫn còn 3,8% bà mẹ cho rằng nên vừa cho trẻ bú

mẹ vừa ăn sữa ngoài và 0,1% cho trẻ ăn sữa pha ngay sau khi sinh, 1,3% bà

mẹ không biết. Không có sự khác nhau về kiến thức lựa chọn nuôi con sau

sinh tốt nhất của bà mẹ giữa 3 tỉnh, p > 0,05.

100%

17.5

90%

26

30.1

30.6

80%

70%

Không đúng

60%

Đúng

50%

82.5

40%

74

69.9

69.4

30%

20%

10%

0%

Hà Nam

Lào Cai

Chung

Quảng Bình

61

χ2 test: p<0,001

Biểu đồ 3.3: Kiến thức về thời gian cho con bú sữa mẹ hoàn toàn (n = 920)

Tỷ lệ bà mẹ có kiến thức đúng là nên cho trẻ bú sữa mẹ hoàn toàn

trong 6 tháng đầu rất cao (74,0%), trong đó cao nhất là tỉnh Quảng Bình

(82,5%), thấp hơn ở 2 tỉnh Hà Nam và Lào Cai (lần lượt là 69,9% và

69,4%). 26,0% bà mẹ có kiến thức sai là chỉ cho trẻ bú sữa mẹ hoàn toàn

dưới 6 tháng hoặc từ 7 tháng trở lên. Sự khác biệt về kiến thức của bà mẹ về

thời gian cho con bú sữa mẹ hoàn toàn là có ý nghĩa thống kê với p < 0,001.

100%

90%

80%

43.9

70%

61.2

68.5

70.2

24 tháng trở lên

60%

18-23 tháng

50%

13-17 tháng

12 tháng trở xuống

40%

42.5

30%

29.9

20%

24.5

23.4

10%

13.6

8.6

6.7

5.8

0.3

0.6

0.3

0

0%

Hà Nam

Lào Cai

Chung

Quảng Bình

62

χ2 test: p<0,001

Biểu đồ 3.4: Kiến thức về thời gian cai sữa cho trẻ

61,2% bà mẹ tham gia nghiên cứu có kiến thức đúng là thời gian cai

sữa cho con tốt nhất là từ 24 tháng tuổi trở lên, 29,9% cho rằng nên cai sữa

cho trẻ khi trẻ từ 18 đến 23 tháng tuổi và chỉ có 8,9% bà mẹ cho rằng thời

gian cai sữa thích hợp cho con là dưới 18 tháng tuổi.

Có sự khác nhau trong kiến thức về thời gian cai sữa cho trẻ giữa các

tỉnh (p < 0,001). Tỷ lệ bà mẹ có kiến thức đúng cao hơn hẳn ở 2 tỉnh Hà

Nam và Quảng Bình (70,2% và 68,5%) so với tỉnh Lào Cai (43,9%).

63

Bảng 3.6: Kiến thức về lợi ích của sữa mẹ

Tỉnh

Cộng Hà Nam Quảng Lào Cai Lợi ích của sữa mẹ Bình

n % n % n % n %

Sữa mẹ chứa đủ chất 177 56,7 130 41,4 152 51,7 459 49,9

Chứa nhiều loại kháng thể 213 68,3 141 44,9 176 59,9 530 57,6

Tinh khiết, an toàn 34 10,9 6 1,91 5 1,7 45 4,9

Tốt hơn loại thực phẩm khác 32 10,3 12 3,8 6 2,0 50 5,4

Chứa nhiều vitamin 24 7,7 8 2,6 8 2,7 40 4,4

Chứa nhiều can xi 16 5,1 9 2,9 2 0,7 27 2,9

Chứa nhiều khoáng chất 13 4,2 6 1,9 6 2,0 25 2,7

Khoảng một nửa số bà mẹ cho biết lợi ích của sữa mẹ là có chứa nhiều

chất kháng thể có lợi cho con (57,6%) và sữa mẹ chứa đủ chất dinh dưỡng

cần thiết giúp cho trẻ khỏe mạnh và phát triển bình thường trong 6 tháng đầu

mà không cần phải ăn thêm bất kỳ thức ăn nào cũng như uống thêm nước

(49,9%). Tuy nhiên, một số lợi ích quan trọng của sữa mẹ chưa được nhiều

bà mẹ nhắc đến như là loại thức ăn tinh khiết và an toàn, chứa nhiều

vitamin, canxi và khoáng chất,…

64

Bảng 3.7: Kiến thức về lợi ích của nuôi con bằng sữa mẹ

Tỉnh

Cộng Hà Nam Quảng Lào Cai Lợi ích nuôi con bằng sữa mẹ Bình

n % n % n % n %

Giúp trẻ khỏe mạnh 134 42,9 100 34,7 93 31,6 336 36,5

Bảo vệ sức khỏe cho trẻ 87 27,9 46 14,7 25 8,5 158 17,2

Giúp phát triển thể lực, trí não 48 15,4 38 12,1 31 10,5 117 12,7

Tốt cho hệ tiêu hóa 144 46,2 43 13,7 39 13,3 226 24,6

Giúp trẻ thông minh hơn 43 13,8 30 9,6 16 5,4 89 9,7

Tạo kết gắn giữa mẹ con 27 8,7 15 4,8 4 1,4 46 5,0

Là biện pháp tránh thai tốt 8 2,6 0 0 0 0 8 0,9

Giảm bệnh tiêu chảy ở TE 33 10,6 10 3,2 13 4,4 56 6,1

Phù hợp phong tục VN 10 3,2 4 1,3 0 0 14 1,5

Một số lợi ích của nuôi con bằng sữa mẹ được các bà mẹ nhắc đến là

giúp trẻ khỏe mạnh (36,5%), tốt cho hệ tiêu hóa của trẻ (24,6%), bảo vệ sức

khỏe cho trẻ (17,2%), giúp trẻ phát triển thể lực và trì não (12,7%), giúp trẻ

thông minh hơn (9,7%) và giảm bệnh tiêu chảy ở trẻ em (6,1%). Bên cạnh

đó còn 1 số tác dụng quan trọng mà chưa nhiều bà mẹ biết tới là tạo sự kết

gắn giữa mẹ và con (5%), là biện pháp tránh thai tốt (0,9%).

65

Bảng 3.8: Nguồn thông tin về nuôi con bằng sữa mẹ

Tỉnh Nguồn thông tin về Cộng nuôi con bằng sữa Hà Nam Quảng Bình Lào Cai

mẹ n=312 % n=314 % n=294 % n=920 %

Tivi, đài, báo 255 81,7 212 67,5 197 67,0 664 72,2

Cán bộ y tế 74 23,7 68 21,7 101 34,4 243 26,4

Cán bộ hội phụ nữ 25 8,0 113 36,0 34 11,6 172 18,7

2 0,6 2 0,6 1 0,3 5 0,5 Câu lạc bộ

87 27,9 66 21,0 47 16,0 200 21,7 Người thân

44 14,1 7 2,2 17 5,8 68 7,4 Khác

Nguồn thông tin chính về nuôi con bằng sữa mẹ mà bà mẹ nhận được

chủ yếu là từ tivi, đài báo (72,2%), trong đó cao nhất tại tỉnh Hà Nam

(81,7%), tiếp đến là Quảng Bình và Lào Cai (67,5% và 67,0%). Tiếp đến là

từ cán bộ y tế (26,4%), người thân (21,7%) và cán bộ hội phụ nữ (18,7%).

Chỉ có 1 số ít bà mẹ nhận được từ việc tham gia câu lạc bộ (0,5%). Bà mẹ tại

tỉnh Lào Cai được nhận thông tin từ cán bộ y tế là 34,4%, cao hơn so với Hà

Nam và Quảng Bình (23,7% và 21,7%).

66

3.2.2. Thái độ về nuôi con bằng sữa mẹ

3.2.2.1. Thái độ tích cực

Bảng 3.9: Thái độ về việc nuôi con bằng sữa mẹ giúp bảo vệ trẻ không bị

bệnh tật tránh được viêm nhiễm

Tỉnh

Cộng Giúp bảo vệ trẻ không Hà Nam Quảng Lào Cai

Bình bị bệnh

n % n % n % n %

Không đồng ý 1 0,3 2 0,7 3 1,0 7 0,7

180 57,7 246 78,3 253 86,1 713 73,8 Đồng ý

131 42,0 66 21,0 38 12,9 240 25,5 Rất đồng ý

312 100 314 100 294 100 920 100 Cộng

Tỷ lệ phụ nữ đồng ý là nuôi con bằng sữa mẹ giúp trẻ không bị bệnh

tật/tránh được viêm nhiễm là 73,8% và rất đồng ý chiếm 25,5%. Chỉ 0,7%

phụ nữ không đồng ý với quan điểm này.

Tỉnh Hà Nam có tỷ lệ bà mẹ rất đồng ý với ý kiến trên đạt tới 42,0%,

cao hơn so với tỉnh Quảng Bình (21,0%) và Lào Cai (12,9%). Sự khác nhau

về thái độ của các bà mẹ về việc nuôi con bằng sữa mẹ giúp trẻ không bị

bệnh tật/tránh được viêm nhiễm giữa các bà mẹ ở các tỉnh tham gia nghiên

cứu có ý nghĩa thống kê (p < 0,001).

67

Bảng 3.10: Thái độ về việc nuôi con bằng sữa mẹ tạo được sự kết gắn mẹ

con

Tỉnh

Cộng Tạo được sự kết gắn Hà Nam Quảng Lào Cai

Bình giữa mẹ và con

n % n % n % n %

Không đồng ý 1 0,3 10 3,2 4 1,4 15 1,6

Đồng ý 171 54,8 252 80,3 245 83,3 668 72,6

Rất đồng ý 140 44,9 52 16,5 45 15,3 237 25,8

Cộng 312 100 322 100 294 100 920 100

Tỷ lệ phụ nữ có thái độ đồng ý và rất đồng ý với việc nuôi con bằng

sữa mẹ tạo được sự kết gắn giữa mẹ và con chiếm tới 98,4%, trong đó 72,6%

đồng ý và 25,8% rất đồng ý. Tỷ lệ bà mẹ rất đồng ý với quan điểm này tại

tỉnh Hà Nam cũng cao hơn so với tỉnh Quảng Bình và Lào Cai, sự khác biệt

là có ý nghĩa thống kê (p < 0,001).

Bảng 3.11: Thái độ về việc nuôi con bằng sữa mẹ giúp trẻ khỏe mạnh hơn

Tỉnh

Cộng Giúp trẻ khỏe mạnh Hà Nam Quảng Lào Cai

Bình hơn

n % n % n % n %

Không đồng ý 11 3,5 5 1,6 12 4,1 28 3,0

Đồng ý 176 56,4 252 80,3 232 78,9 660 71,7

Rất đồng ý 125 40,1 57 18,1 50 17,0 232 25,2

Cộng 312 100 314 100 294 100 920 100

Tỷ lệ phụ nữ đồng ý là nuôi con bằng sữa mẹ giúp cho trẻ khỏe mạnh

hơn những trẻ không được nuôi bằng sữa mẹ chiếm 77,7% và rất đồng ý

chiếm 25,2%. Tỷ lệ bà mẹ tại tỉnh Hà Nam rất đồng ý với quan điểm này là

68

40,1%, cao hơn so với tỉnh Quảng Bình (18,1%) và Lào Cai (17,0%). Sự

khác biệt giữa các tỉnh là có ý nghĩa thống kê (p < 0,001).

Bảng 3.12: Thái độ về việc nuôi con bằng sữa mẹ có đầy đủ chất giúp trẻ

phát triển

Tỉnh

Cộng Hà Nam Quảng Lào Cai Giúp trẻ phát triển tốt Bình

n % n % n % n %

Không đồng ý 6 1,9 4 1,3 3 1,0 13 1,4

165 52,9 244 77,7 238 81,0 647 70,3 Đồng ý

141 45,2 66 21,0 53 18,0 260 28,3 Rất đồng ý

312 100 314 100 294 100 920 100 Cộng

Cũng tương tự như thái độ về nuôi con bằng sữa mẹ giúp trẻ khỏe

mạnh, tạo được sự kết gắn giữa mẹ và con, giúp trẻ không bị bệnh tật, tỷ lệ

phụ nữ có thái độ đồng ý, rất đồng ý với quan điểm này cao (70,3% và

28,3%). Tỷ lệ bà mẹ ở 2 tỉnh Quảng Bình và Lào Cai có thái độ rất đồng ý

thấp hơn các bà mẹ ở tỉnh Hà Nam, p < 0,001.

69

Bảng 3.13: Thái độ về việc nuôi con bằng sữa mẹ dễ hơn nuôi con bằng sữa

bột

Tỉnh

Cộng Nuôi con bằng sữa mẹ Hà Nam Quảng Lào Cai

Bình dễ hơn

n % n % n % n %

Không đồng ý 8 2,6 7 2,2 13 4,4 28 3,0

Đồng ý 160 51,3 270 86,0 249 84,7 679 73,8

Rất đồng ý 144 46,1 37 11,8 32 10,9 213 23,2

Cộng 312 100 314 100 294 100 920 100

Gần 100% có thái độ đồng ý, rất đồng ý với quan điểm này (73,8% và

23,2%). Tại tỉnh Hà Nam, tỷ lệ bà mẹ rất đồng ý là 46,1% cao hơn nhiều so

với tại 2 tỉnh Quảng Bình và Lào Cai (11,8% và 10,9%), p < 0,001.

Bảng 3.14: Thái độ về việc nuôi con bằng sữa mẹ không gặp khó khăn trong

chăm sóc gia đình

Tỉnh

Cộng Không gặp khó khăn Hà Nam Quảng Lào Cai

Bình chăm sóc gia đình

n % n % n % n %

Không đồng ý 16 5,1 26 8,3 28 9,5 70 7,6

Đồng ý 183 58,7 266 84,7 251 85,4 700 76,1

Rất đồng ý 113 36,2 22 7,0 15 5,1 150 16,3

Cộng 312 100 314 100 294 100 920 100

Tỷ lệ phụ nữ đồng ý với quan điểm nuôi con bằng sữa mẹ không gặp

khó khăn trong việc chăm sóc gia đình cao (76,1%). Tỷ lệ rất đồng ý là

16,3%. Các bà mẹ ở tỉnh Hà Nam có thái độ đồng ý và rất đồng ý cao hơn so

70

với các bà mẹ ở tỉnh Quảng Bình và Lào Cai (94,6% so với 91,9% và

90,0%), trong đó tỷ lệ bà mẹ rất đồng ý là cao hơn hẳn (36,2% so với 7,0%

và 5,1%) (p < 0,001).

Bảng 3.15: Thái độ về việc nuôi con bằng sữa mẹ là cách tốt nhất giảm chi

tiêu trong gia đình

Tỉnh

Cộng Hà Nam Quảng Lào Cai Giảm chi tiêu Bình

n % n % n % n %

Không đồng ý 14 4,5 24 7,7 28 9,5 66 7,2

128 41,0 218 69,4 222 75,5 568 61,7 Đồng ý

170 54,5 72 22,9 44 15,0 286 31,1 Rất đồng ý

312 100 314 100 294 100 920 100 Cộng

Tỷ lệ phụ nữ có thái độ đồng ý và rất đồng ý việc nuôi con bằng sữa

mẹ là cách tốt nhất để giảm chi tiêu trong gia đình chiếm 92,8%. Thái độ

này của các bà mẹ ở tỉnh Hà Nam tốt hơn so với các bà mẹ ở tỉnh Quảng

Bình và Lào Cai (95,6% so với 92,5% và 90,3% tương ứng với từng tỉnh).

Sự khác biệt là có ý nghĩa thống kê với p < 0,001.

71

Bảng 3.16: Làm mẹ là phải nuôi con bằng sữa mẹ

Tỉnh Cộng Làm mẹ là phải nuôi Hà Nam Quảng Bình Lào Cai con bằng sữa mẹ n % n % n % n %

Không đồng ý 12 3,8 27 8,6 8 2,7 47 5,1

Đồng ý 159 51,0 209 66,6 240 81,6 606 66,1

Rất đồng ý 141 44,2 78 24,8 46 15,7 265 28,8

Cộng 312 100 314 100 294 100 920 100

Đã có 94,9% bà mẹ đồng ý và rất đồng ý là làm mẹ là phải nuôi con

bằng sữa mẹ, vẫn có 5,1% bà mẹ không đồng ý với quan điểm này. Tỷ lệ bà

mẹ có thái độ này ở tỉnh Lào Cai tham gia nghiên cứu cao hơn so với các bà

mẹ ở tỉnh Hà Nam và Quảng Bình (97,2% so với 96,2% và 91,3% tương ứng

với từng tỉnh). Tỷ lệ bà mẹ rất đồng ý với quan điểm này ở tỉnh Hà Nam lại

cao hơn nhiều so với tỉnh Quảng Bình và Lào Cai, p < 0,001.

100

88.4

88.1

85.4

79.9

80

Rất đồng ý Đồng ý Không đồng ý

60

40

18.8

13.5

11.2

10.3

20

1.3

0.7

1.1

1.3

0

Hà Nam

Lào Cai

Chung

Quảng Bình

3.2.2.2. Thái độ tiêu cực

Biểu đồ 3.5: Thái độ về quan điểm nuôi con bằng sữa bột giúp trẻ có thân

hình khỏe mạnh, chống được béo phì

Tỷ lệ phụ nữ có thái độ không đồng ý với quan niệm nuôi con bằng

sữa bột giúp trẻ có thân hình khỏe mạnh và chống được béo phì chiếm tỷ lệ

cao (85,4%). Chỉ có 13,5% phụ nữ đồng ý và 1,1% rất đồng ý. Tính riêng

72

theo từng tỉnh, tỷ lệ bà mẹ ở tỉnh Quảng Bình tham gia nghiên cứu có thái độ

tiêu cực chiếm tỷ lệ 20,1% (đồng ý: 18,8% và rất đồng ý: 1,3%), các bà mẹ

ở tỉnh Hà Nam và Lào Cai tỷ lệ này thấp hơn (11,6% và 11,9% tương ứng

80

70.4

68.3

70

63.7

57.3

60

50

Rất đồng ý

40

Đồng ý

40

34.1

28.2

27.2

Không đồng ý

30

20

10

2.7

4.5

2.2

1.4

0

Hà Nam

Lào Cai

Chung

Quảng Bình

với từng tỉnh). Sự khác biệt là có ý nghĩa thống kê với p < 0,05.

Biểu đồ 3.6: Thái độ về quan điểm phụ nữ không nên cho con bú nơi công

cộng

Có 57,5% phụ nữ không đồng ý với quan điểm là phụ nữ không nên

cho con bú nơi công cộng. Tỷ lệ phụ nữ đồng ý là 40,0% và rất đồng ý là

2,7%. Tỷ lệ bà mẹ ở tỉnh Lào Cai có thái độ không đồng ý với quan điểm

này là 70,4%, tiếp theo là các bà mẹ ở tỉnh Hà Nam (68,3%) và tỷ lệ thấp

nhất là các bà mẹ ở tỉnh Quảng Bình (34,1%). Sự khác biệt là có ý nghĩa

thống kê với p < 0,001.

100

87.8

90

84.1

84

79.9

80

70

60

Rất đồng ý

Đồng ý

50

Không đồng ý

40

30

19.1

15

14.7

20

10.3

10

1.9

1.3

0.9

1

0

Hà Nam

Lào Cai

Chung

Quảng Bình

73

Biểu đồ 3.7: Thái độ về quan điểm nuôi con bằng sữa mẹ làm mất thời gian

của mẹ

Phần lớn phụ nữ không đồng ý với thái độ nuôi con bằng sữa mẹ làm

mất thời gian của mẹ, chiếm 84,0%. Tỷ lệ phụ nữ đồng ý là 14,7% và rất

đồng ý là 1,3%. Các bà mẹ ở tỉnh Hà Nam có thái độ đúng là không đồng ý

với quan niệm nuôi con bằng sữa mẹ làm mất thời gian của mẹ cao nhất

(87,8%) tiếp theo là các bà mẹ ở tỉnh Quảng Bình (84,1%) và tỉnh Lào Cai

(79,9%).

74

3.2.3. Thực hành nuôi con bằng sữa mẹ

Bảng 3.17: Thực hành cho con bú ngay sau sinh

Tỉnh

Cộng Thực hành cho trẻ bú mẹ Hà Nam Quảng Lào Cai

Bình sau sinh

n % n % n % n %

Cho trẻ bú sau sinh (n = 808)

Bú mẹ 247 86,1 276 97,5 224 94,1 747 92,4

Vừa bú mẹ vừa ăn ngoài 36 12,5 6 2,1 11 4,6 53 6,6

Ăn sữa pha 4 1,4 1 0,4 3 1,3 8 1,0

Thời gian bắt đầu cho trẻ bú sữa mẹ sau sinh (n = 800)

Trong 1 giờ đầu 197 69,6 259 91,8 133 56,6 589 73,6

86 30,4 23 8,2 102 43,4 211 26,4 Sau 1 giờ

Trong tổng số 808 trẻ, phần lớn được bú mẹ sau sinh chiếm 92,4%. Tỷ

lệ trẻ sau sinh vừa được bú mẹ và vừa ăn ngoài chiếm 6,6% và chỉ có 1,0%

số bà mẹ cho con ăn sữa pha ngay từ đầu. Tỷ lệ trẻ được bú mẹ sau sinh cao

nhất ở tỉnh Quảng Bình (97,5%), tiếp đến là Lào Cai (94,1%) và thấp nhất ở

Hà Nam (86,1%). Tỷ lệ trẻ vừa bú mẹ vừa ăn sữa ngoài và chỉ được ăn sữa

pha từ sau sinh cao hơn hẳn ở tỉnh Hà Nam (12,5% và 1,4%) so với 2 tỉnh

còn lại, sự khác biệt là có ý nghĩa thống kê (p < 0,001).

Tỷ lệ thực hành đúng là cho trẻ bú sữa mẹ trong vòng 1 giờ đầu sau

khi sinh là 73,6%, cao hơn hẳn ở tỉnh Quảng Bình (91,8%) so với tỉnh Hà

Nam (69,6%) và Lào Cai (56,6%). Sự khác biệt về thực hành cho trẻ bú sữa

mẹ sớm sau sinh giữa 3 tỉnh nghiên cứu là có ý nghĩa thống kê với p<0,001.

100%

90%

34.4

80%

56.8

70%

62.4

74

60%

Dưới 6 tháng

50%

6 tháng

40%

63.6

30%

43.3

20%

37.6

26

10%

0%

Hà Nam

Lào Cai

Chung

Quảng Bình

75

χ2 test: p < 0,001

Biểu đồ 3.8: Thực hành cho con bú sữa mẹ hoàn toàn (n = 652)

Khác với kiến thức của bà mẹ về thời gian cho con bú sữa mẹ hoàn

toàn, tỷ lệ bà mẹ thực hành đúng là không cao, chiếm 43,3%. Trong đó, tỉnh

có tỷ lệ bà mẹ thực hành đúng cao nhất là Quảng Bình (63,6%), tiếp đến là

Lào Cai (37,6%), thấp nhất là tỉnh Hà Nam (26,0%). Sự khác nhau về thực

hành cho con bú sữa mẹ hoàn toàn của bà mẹ là có ý nghĩa thống kê với

p<0,001.

Kết quả thảo luận nhóm cho thấy, lý do cho trẻ ăn thêm ngoài sữa mẹ

trong 6 tháng đầu là do mẹ không đủ sữa cho con bú: “Chúng em rất muốn

nuôi con bằng sữa mẹ, người mẹ nào đẻ con ra lại không muốn cho con bú

mẹ, nhưng vì không đủ sữa hoặc không có sữa cho con bú nên mới phải cho

con ăn thêm ngoài hoặc phải nuôi con bằng sữa bột” (Thảo luận nhóm bà

mẹ).

100%

8.7

16.1

17.6

90%

20.1

80%

70%

52.9

24 tháng trở lên

60%

49.5

49.6

47

18-23 tháng

50%

13-17 tháng

12 tháng trở xuống

40%

30%

23.2

28.6

27.5

20%

36.5

10%

9.6

5.8

5.4

1.9

0%

Hà Nam

Lào Cai

Chung

Quảng Bình

76

χ2 test: p < 0,05

Biểu đồ 3.9: Thực hành cai sữa cho trẻ (n=378)

Tỷ lệ bà mẹ thực hành đúng là cho con bú từ 24 tháng trở lên chỉ có

16,1%. Gần một nửa số bà mẹ thực hành cai sữa cho con trong khoảng 18-23

tháng tuổi (49,5%). Tỷ lệ trẻ bị cai sữa sớm trước 18 tháng tuổi là 34,4%,

trong đó dưới 12 tháng là 5,8%.

Thực hành cai sữa cho con của bà mẹ ở tỉnh Quảng Bình và tỉnh Hà

Nam tốt hơn so với tỉnh Lào Cai. Sự khác nhau về thực hành cai sữa cho trẻ

của bà mẹ giữa các tỉnh là có ý nghĩa thống kê với p < 0,05.

77

3.3. Hiệu quả can thiệp giáo dục truyền thông nâng cao kiến thức và

thái độ cho con bú sớm và bú mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu của các

bà mẹ có con từ 0 đến dưới 25 tháng tuổi

Bảng 3.18: Các hoạt động can thiệp

TT

Nội dung

Số lượng

1

Xây dựng các Câu lạc bộ Nuôi con bằng sữa mẹ

24 (mỗi xã 2 CLB)

2

Tập huấn cho ban chủ nhiệm câu lạc bộ từng tỉnh

12 lớp

3

Tập huấn kết hợp hội thảo chia sẻ kinh nghiệm của 3

2 hội thảo

tỉnh

4

Tài liệu truyền thông: sách lật Nuôi dưỡng trẻ sơ sinh

500 cuốn

và trẻ nhỏ

Tài liệu hướng dẫn giảng dạy: truyền thông thay đổi

200 cuốn

hành vi về nuôi dưỡng trẻ nhỏ tại cộng đồng

Hướng dẫn điều hành sinh hoạt CLB

1500

Hỏi đáp về sữa mẹ

5000 quyển

Tờ rơi Hướng dẫn NCBSM

2000 tờ

Video khuyến khích NCBSM

450 đĩa

Poster

600 tờ

Tuyên tuyền trên loa đài phát thanh tại xã

568 buổi (1 tuần/lần x 4

tuần x 24 tháng x 3 xã)

Tổ chức sinh hoạt định kỳ CLB.

5

527 buổi

Tổ chức sự kiện

Tổ chức hội thi tuyên truyền viên giỏi về NCBSM cấp

6 hội thi

huyện và tỉnh

Tổ chức hội thi tuyên truyền viên giữa 3 tỉnh

1 hội thi

Tổ chức các sự kiện truyền thông tại xã

24 buổi

6

Thăm hộ gia đình.

207 buổi (trong đó thăm bà

mẹ mang thai là 89 chị)

7

Tổ chức đoàn khám tại mỗi tỉnh trong 2 năm can thiệp

6 lần

78

3.3.1. Hiệu quả mô hình câu lạc bộ nuôi con bằng sữa mẹ

3.3.1.1. Thực trạng hoạt động của CLB NCBSM

Các CLB NCBSM ở các xã khảo sát tại 3 tỉnh Hà Nam, Lào Cai và

Quảng Bình đều được thành lập từ 2012, 2013 theo sự chỉ đạo chung của

TW Hội LHPNVN. TW Hội chỉ đạo và có những hướng dẫn cụ thể về qui

trình thành lập CLB để các tỉnh Hội triển khai. Dựa vào nội dung hướng dẫn

này, hàng năm Hội LHPN tỉnh xây dựng các kế hoạch hoạt động và hướng

dẫn cho các Ban chủ nhiệm CLB thực hiện.

Ban chủ nhiệm mỗi CLB NCBSM có 3 người, gồm chủ nhiệm và 2

phó chủ nhiệm. Chủ nhiệm CLB thường là chi hội trưởng phụ nữ hoặc cán

bộ y tế thôn bản. Việc có cán bộ y tế trong thành phần Ban chủ nhiệm đã hỗ

trợ rất tích cực cho việc truyền thông những kiến thức liên quan đến chăm

sóc sức khỏe của bà mẹ và trẻ em.

Thành viên nòng cốt của các CLB NCBSM có khoảng từ 25-30 người,

chủ yếu là những phụ nữ đang mang thai hoặc có con nhỏ từ 0 đến 25 tháng

tuổi, nhưng ở CLB 2 xã Liêm Trung và phường Lương Khánh Thiện (Hà

Nam) còn có thêm các thành viên nam, đó là những người chồng cùng tham

dự. Ngoài ra, hầu hết trong các buổi sinh hoạt các CLB, Ban chủ nhiệm đều

mời thêm những thành phần mở rộng như thành viên ban chấp hành Hội phụ

nữ xã/phường, các chi hội trưởng phụ nữ thôn/tổ dân phố, thậm chí có cả

những hội viên đã hết tuổi sinh đẻ đang chăm cháu cũng mong muốn được

tham gia.

Lịch sinh hoạt CLB cũng rất đa dạng, phụ thuộc vào điều kiện thực tế

của từng địa phương. Các CLB ở Hà Nam sinh hoạt 3 - 4 lần/tháng, còn

CLB ở Lào Cai thì sinh hoạt 2 lần/tháng, riêng ở Quảng Bình các CLB tổ

chức sinh hoạt hàng tháng. Địa điểm sinh hoạt CLB thường được tổ chức tại

các nhà văn hóa thôn, hoặc ở hội trường của UBND xã, thời gian mỗi buổi

79

sinh hoạt từ 1,5 đến 2 tiếng. Việc bố trí thời gian sinh hoạt cũng rất linh hoạt

do phụ thuộc vào công việc mùa màng, hoặc điều kiện thực tế của địa

phương nên có thể vào buổi chiều, buổi trưa hoặc buổi tối.

Đa số các buổi sinh hoạt CLB NCBSM tại địa bàn khảo sát là lồng

ghép với các nội dung sinh hoạt khác của Hội phụ nữ, thậm chí còn có các

nội dung hoạt động của thôn, của Trạm y tế… Việc tổ chức như vậy có cái

lợi là triệu tập được nhiều thành viên tham dự, nhưng cũng có điểm hạn chế

là thời gian truyền thông nội dung chính của CLB bị ảnh hưởng, thời gian

sinh hoạt bị kéo dài và đối tượng quá đông cũng sẽ khiến người nghe không

tập trung, tác động không tốt tới việc thảo luận và chia sẻ thông tin, kiến

thức, kinh nghiệm.

Nội dung truyền thông trong các buổi sinh hoạt CLB NCBSM đã được

hướng dẫn cụ thể theo cuốn sách “Cẩm nang Nuôi con bằng sữa mẹ” cung

cấp cho BCN CLB, chủ yếu gồm 8 chủ đề đã được qui định sẵn, gồm:

- Chủ đề 1: Thực trạng nuôi con bằng sữa mẹ; NCBSM có lợi gì; tại

sao?

- Chủ đề 2: Sữa mẹ được tạo thành như thế nào?

- Chủ đề 3: Cách cho bé bú thế nào là tốt?

- Chủ đề 4: Cách chăm sóc nguồn sữa mẹ?

- Chủ đề 5: Cách cho trẻ ăn bổ xung hợp lý?

- Chủ đề 6: Cách cai sữa bé thế nào?

- Chủ đề 7: Một số vấn đề liên quan tới nuôi con bằng sữa mẹ

- Chủ đề 8: Một số khó khăn, thách thức trong quá trình nuôi con bằng

sữa mẹ

Ngoài ra, trong các buổi sinh hoạt CLB còn lồng ghép một số nội

dung khác để trang bị thêm kiến thức cần thiết cho các bà mẹ, đồng thời làm

phong phú thêm nội dung truyền thông như kiến thức làm mẹ an toàn với

80

những hướng dẫn về cách chăm sóc trẻ sơ sinh, chăm sóc cho mẹ trước,

trong khi mang thai và sau khi sinh, kiến thức chăm sóc sức khỏe sinh

sản,…

Về kinh phí, thông thường mỗi buổi sinh hoạt CLB được cấp từ

300.000đ - 500.000đ từ nguồn chương trình TW Hội và của đề tài nghiên

cứu. Số tiền này một phần được chi bồi dưỡng cho BCN CLB, gồm người

trực tiếp truyền thông (Chủ nhiệm hoặc phó chủ nhiệm CLB) và những

người tham gia trong khâu tổ chức buổi sinh hoạt (thành viên khác của

CLB), còn phần lớn được sử dụng để mua bánh kẹo và chè nước cho các

thành viên tham dự.

Các cán bộ chuyên trách của Hội LHPN tỉnh hoặc Hội LHPN huyện

thường xuyên có mặt tại hầu hết các buổi sinh hoạt CLB NCBSM ở tất cả

các xã nhằm giám sát và hỗ trợ kỹ thuật đối với công tác truyền thông và

điều hành, quản lý CLB. Thông qua các bảng kiểm các giám sát viên sẽ theo

dõi, đánh giá kiến thức và kỹ năng cơ bản của người điều hành CLB. Việc

giám sát và hỗ trợ kỹ thuật này là rất cần thiết, giúp Ban chủ nhiệm CLB

không ngừng bổ sung và hoàn thiện từng bước nội dung, phương pháp và kỹ

năng truyền thông cũng như những vấn đề về tổ chức để có thể vận hành

CLB một cách hiệu quả, đảm bảo tính bền vững của các CLB.

81

3.3.1.2. Hình thức, phương pháp và nội dung truyền thông

Việc truyền thông kiến thức NCBSM tại các CLB NCBSM đã được

các tuyên truyền viên thực việc một cách hết sức đa dạng và linh hoạt. Từ

những hình thức và phương pháp như hỏi đáp, thuyết trình có mô hình mô

phỏng hay sử dụng phương pháp cùng tham gia bằng cách chia nhóm thảo

luận và cử đại diện lên trình bày ý kiến, hoặc thông qua thực hành để các

thành viên nhận biết và thực hiện dễ dàng hơn, nhất là với nội dung dinh

dưỡng trong chủ đề ăn dặm và nấu bột cho trẻ. Đặc biệt các CLB còn áp

dụng các hình thức như hái hoa dân chủ hoặc tổ chức những cuộc thi nhỏ và

có trao giải thưởng nhằm khuyến khích sự tham gia tích cực của các thành

viên, giải thưởng ở đây có khi chỉ là một bánh xà phòng hoặc một tràng vỗ

tay. Tại một số CLB một số nội dung truyền thông được sân khấu hóa đóng

vai trong các tiểu phẩm hoặc sáng tác các bài thơ bài vè về nội dung

NCBSM đã nhận được sự hưởng ứng rất lớn của cả người tham gia đóng và

người xem tiểu phẩm, vì vậy làm cho các nội dung truyền thông trở nên dễ

hiểu và dễ nhớ hơn. Ngoài các hình thức trên, trong các buổi sinh hoạt các

trò chơi hoặc các tiết mục văn nghệ cũng đã được đưa vào để tạo một không

khí sinh hoạt vui vẻ và thoải mái hơn.

82

“Chúng tôi hướng dẫn các bà các mẹ sinh hoạt bằng nhiều hình thức

như thơ ca hò vè, như bài thơ về củ quả của 4 loại thức ăn, tháp dinh dưỡng,

tuyên truyền bằng tờ rơi áp phích của Trung ương Hội” (Chủ nhiệm CLB,

phường Lương Khánh Thiện).

“Thôn em có 3 tổ, chúng em cho đóng kịch, rất vui, rồi dùng búp bê

nhựa cho con bú như thế nào. Có buổi em tuyên truyền bằng các tranh vẽ,

như cho các mẹ vẽ các tuyến sữa, rồi đố vui mẹ nào vẽ đẹp thì có thưởng.

Em còn cho hái hoa dân chủ nữa” (Chủ nhiệm CLB, xã Vạn Trạch).

“Ở đây có những mô hình tự làm, nuôi con bằng sữa mẹ thì có bầu

sữa để hướng dẫn cách cho bú, cách vắt sữa. Thuyết trình xong, mình hướng

dẫn và mời một số chị em lên cùng thực hành. Những buổi hướng dẫn cho

con ăn sam, chúng em mang nồi niêu lên, chúng em hướng dẫn cho ăn dặm,

cách nấu bột, cách cho thêm các thứ để đảm bảo đủ chất cho bé” (Cán bộ Y

tế xã Liêm Chung).

3.3.1.3. Thuận lợi và khó khăn

Thuận lợi và khó khăn của việc truyền thông được xem xét dưới 3

khía cạnh: kiến thức và kỹ năng của người truyền thông; tài liệu và các công

cụ hỗ trợ truyền thông và cuối cùng là sự tiếp nhận của người được truyền

thông.

Nhìn chung cán bộ truyền thông có những thuận lợi cơ bản vì hoặc

các chị là cán bộ Hội phụ nữ nên đã quen với các hoạt động truyền thông,

vận động và cũng đã được tập huấn hoặc ở TW Hội hoặc ở cấp tỉnh và được

cung cấp tài liệu để thực hiện công tác truyền thông.

Nhưng thực tế cho thấy các đội ngũ cán bộ truyền thông cũng gặp

nhiều khó khăn trong quá trình đảm nhận công tác truyền thông, đặc biệt đối

với các chị không được tham gia tập huấn tại TW Hội. Về mặt kiến thức

dường như các chị bị lệ thuộc rất nhiều vào tài liệu, chưa có được những

83

kiến thức mở rộng, đặc biệt là về lĩnh vực y tế, điều này gây khó khăn trong

việc giải đáp các thắc mắc của học viên. Để giải quyết vấn đề này thì trong

hầu hết các buổi sinh hoạt CLB đã có sự hỗ trợ của cán bộ Y tế.

“Cản trở lớn nhất là khi gặp phải những câu hỏi liên quan đến sức

khỏe, chị em lúng túng. Tài liệu nói thế thôi, nhưng khi hỏi đến là vướng”

(Hội phụ nữ tỉnh Hà Nam).

“Như hôm em giảng cho bé bú bị nứt đầu ti, các chị cãi cho bú đúng

cách mà vẫn nứt đầu ti thì mình bế tắc” (Chủ nhiệm CLB, xã Xuân Giao).

“Nhiều bà mẹ đặt câu hỏi cho em rất khó, em phải tìm trên mạng. Có

khi đặt câu hỏi là trẻ sơ sinh có nên cho tắm nắng không và cho tắm mất

tiếng” (Chủ nhiệm CLB, xã Vạn Trạch).

Bản thân các cán bộ truyền thông cũng nhận ra những điểm hạn chế

của mình trong việc diễn đạt câu từ cũng như kỹ năng nói trước đám đông,

đặc biệt là với các cán bộ y tế, một số chị tham gia công tác truyền thông

nhưng lại chưa được đi tập huấn về kỹ năng truyền thông.

“Có khi mình muốn nói nhiều, nhưng có khi do khả năng về ngôn từ

chưa đầy đủ, chưa phong phú, mình muốn nói điều đó nhưng khó nói ra

được” (Chủ nhiệm CLB, xã Liêm Chung).

“Vâng, nhiều khi mình không hay nói với bên ngoài, nên không lưu

loát mấy. Chúng em chỉ nói những điều thực tế ở đây thôi” (Cán bộ y tế, xã

Vạn Trạch).

“Sau hội nghị ở xã tự mình về nghiên cứu tài liệu. Khi lên tuyên

truyền cũng nói thẳng với chị em luôn là có sao dùng vậy. Lúc đầu ngại, rụt

rè, vì đã bao giờ đứng trước đám đông nói chuyện, hướng dẫn tuyên truyền

gì đâu. Sau vài lần nó thành thói quen” (TLN mẹ, xã Gia Phú).

Về tài liệu truyền thông, nói chung các cán bộ truyền thông cho rằng

đã được cung cấp đầy đủ và nhận xét là tài liệu có nội dung, hình thức tốt và

84

sát với thực tế. Tuy nhiên, có rất nhiều góp ý về vấn đề tài liệu dành cho các

học viên cả từ phía cán bộ truyền thông và các học viên. Các ý kiến tập

trung chủ yếu vào hai vấn đề, thứ nhất là tài liệu và một số tranh ảnh chỉ

được phát cho tất cả các học viên khi các CLB mới được thành lập, còn hiện

nay các thành viên mới chưa có tài liệu, thứ hai là tài liệu nên có thêm tranh

ảnh cho sinh động và dễ hiểu với học viên, tài liệu hiện nay có quá nhiều

chữ không thích hợp với chị em ở vùng nông thôn, đặc biệt là ở miền núi.

“Bọn em tham gia từ năm 2013 thì có tài liệu, còn các chị mới tham

gia CLB thì không có tài liệu” (PVS mẹ, 30t, xã Xuân Trạch).

“Cho thêm hình ảnh vì có những trường hợp người ta không đọc, nhìn

hình ảnh người ta dễ hiểu. Tuổi bọn em nghe dễ tiếp thu hơn là đọc” (TLN

mẹ, xã Gia Phú).

Với một số nội dung truyền thông cán bộ truyền thông mong muốn có

hình ảnh trực quan qua băng đĩa để học viên dễ hình dung và áp dụng hơn,

ví dụ như cách cho con bú, cách tắm cho con,… Đặc biệt ở một số CLB việc

truyền thông không có sự hỗ trợ của micro và loa phát thanh nên các cán bộ

rất mất sức và không thu hút được người nghe.

Thành viên tham gia sinh hoạt CLB cũng là một yếu tố có thể tạo

thuận lợi hoặc khó khăn cho công tác truyền thông. Thuận lợi chủ yếu ở đây

là các học viên rất mong muốn có thêm kiến thức nên nhiệt tình tham gia

sinh hoạt và chú ý lắng nghe. Khó khăn lớn nhất là trình độ học vấn của các

học viên không đồng đều nên mức độ tiếp thu khác nhau. Ngoài ra, một số

thành viên còn tỏ ra e dè, chưa tích cực tham gia phát biểu thảo luận hoặc

tham gia sinh hoạt không đều đặn nên việc tiếp thu kiến thức bị hạn chế. Mặt

khác, tại một số buổi sinh hoạt có các học viên mang theo con nhỏ hoặc có

quá nhiều người tham dự (trên 50 người) thì chất lượng truyền thông cũng bị

ảnh hưởng.

85

“Nói chung là rất nhiệt tình, cũng có một số chị em còn rụt rè ngại

đưa ra ý kiến, sợ sai, chỉ là số nhỏ thôi. Sau vài lần thì đã mạnh dạn hơn”

(TLN mẹ, xã Gia Phú).

“Có chị đi đầy đủ có chị đi ít và không có tài liệu để tự nghiên cứu.

Một số chị em do không có tài liệu, không có băng hình, nên vẫn chưa hiểu”

(PVS mẹ, 30t, xã Xuân Trạch).

Việc vận động các thành viên tham gia sinh hoạt cũng gặp không ít

khó khăn, đặc biệt là ở giai đoạn mới thành lập CLB. Một số hội viên và gia

đình họ nhận thức rằng cho con bú là việc đơn giản, tại sao lại phải mất thời

gian đi học.

“Nhiều người bảo sữa mẹ ở ngay trong vú mẹ thì cho con bú thôi cần

gì đi học, đi vào CLB làm gì” (PCN CLB, xã Xuân Giao).

“Đa số ủng hộ, có một vài chị em gia đình phản đối. Ví dụ, con nhỏ đi

làm gì, tốn thời gian” (CN CLB, xã Liêm Chung).

“Khó khăn là một số chị em không thể đi đều được, vì con nhỏ, con

ốm, công việc gia đình nhiều. Cho con đi thì con quấy khóc, gửi ở nhà lâu

thì không yên tâm” (TLN người thân, xã Liêm Chung).

Việc bố trí lịch sinh hoạt cũng là một khó khăn không nhỏ với hầu hết

các CLB. Với các xã làm nông nghiệp thì chị em bận mùa vụ, với các

xã/phường có nhiều chị em buôn bán hoặc công nhân, công chức thì càng

khó xếp lịch hơn. Do vậy lịch sinh hoạt CLB thường không cố định và điều

đó gây khó cho việc tổ chức và điều hành CLB.

“Phường Lương Khánh Thiện, các chị công chức và buôn bán, nên

buổi sinh hoạt mời cũng có khó khăn. Làm vào buổi tối còn tạm, làm ban

ngày cũng khó. Chúng em phải đi 4-5 lần, chứ không được ngay” (Trưởng

Trạm Y tế, Phường Lương Khánh Thiện).

86

“Mời được chị em rất vất vả, vì thôn của chúng em là buôn bán, nên

thời gian của chị em rất khó. Chiều người ta có thể đi chợ, công nhân còn đi

làm. Khi mới bắt đầu thành lập CLB, có vài buổi phải sinh hoạt vào buổi tối

vì ban ngày không tập trung được chị em” (TLN mẹ, xã Gia Phú).

3.3.2. Hiệu quả về kiến thức cho con bú mẹ sau sinh, thời gian cai sữa và

lợi ích nuôi con bằng sữa mẹ

Bảng 3.19: Kiến thức lựa chọn nuôi con tốt nhất

Kiến thức lựa chọn nuôi Trước can Sau can thiệp Hiệu quả can

con tốt nhất thiệp thiệp (%)

n % n %

Cho con bú mẹ hoàn toàn 252 96,6 256 98,1 +1,5

Vừa bú mẹ vừa ăn ngoài 6 2,3 4 1,5 -34,8

Nuôi bằng sữa bột 3 1,1 1 0,4 -63,6

261 100,0 261 100,0 Cộng

Trước can thiệp, tỷ lệ phụ nữ có con 0 - 25 tháng tuổi lựa chọn cho

con bú mẹ hoàn toàn tới 96,6%, sau can thiệp tỷ lệ phụ nữ 0 - 24 tuổi lựa

chọn cho con bú mẹ hoàn toàn tăng lên 98,1%. Hiệu quả trước và sau can

thiệp đạt 1,5%, nhưng hiệu quả lựa chọn nuôi con bằng sữa bột giảm tới

63,6% và vừa bú mẹ vừa cho ăn ngoài cũng giảm tới 34,8%.

87

Bảng 3.20: Kiến thức về thời gian bú sữa mẹ hoàn toàn

Kiến thức về thời gian Trước can thiệp Sau can thiệp Hiệu quả can

bú sữa mẹ hoàn toàn thiệp (%) n % n %

7 2,7 0 0,0 -100,0 ≤ 3 tháng

32 12,3 4 1,5 -87,8 4 tháng

36 13,8 3 1,1 -92,0 5 tháng

186 71,2 254 97,3 +36,2 ≥ 6 tháng

261 100,0 261 100,0 Cộng

Tỷ lệ phụ nữ có con 0 - 25 tháng tuổi đã có thay đổi kiến thức

về hiệu quả thời gian cho con bú sữa mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu tăng so

với trước can thiệp lên tới 36,2% và hiệu quả thời gian cho con bú sữa mẹ

hoàn toàn trong 4 tháng giảm tới 87,8%, bú sữa mẹ hoàn toàn trong 5 tháng

đầu giảm tới 92,0%. Đặc biệt không còn phụ nữ nào cho con bú sữa mẹ hoàn

toàn trong 3 tháng đầu.

Bảng 3.21: Kiến thức về thời gian cai sữa mẹ hoàn cho con

Thời gian cai sữa mẹ Trước can thiệp Sau can thiệp Hiệu quả can

cho con thiệp (%) n % n %

10 - 12 tháng 20 7,7 5 1,9 -75,3

13 - 17 tháng 20 7,7 4 1,5 -80,5

18 - 23 tháng 81 31,0 38 14,6 -52,9

≥ 24 tháng 140 53,6 214 82,0 +53,0

Cộng 261 100,0 261 100,0

Thời gian cai sữa cho con cũng có thay đổi sau can thiệp về kiến thức,

thái độ nuôi con bằng sữa mẹ. Hiệu quả can thiệp thay đổi kiến thức cho con

bú kéo dài từ 24 tháng trở lên đạt 53% và đặc biệt tỷ lệ cho con bú dưới 23

tháng đã thay đổi và tỷ lệ giảm so với trước can thiệp.

88

Bảng 3.22: Lợi ích nuôi con bằng sữa mẹ

Trước can Sau can Hiệu quả

Lợi ích nuôi con bằng sữa mẹ thiệp thiệp can thiệp

(%) n % n %

(261) (261)

149 57,1 259 99,2 +73,7 Sữa mẹ chứa đủ chất

131 50,2 259 99,2 +97,6 Chứa nhiều loại kháng thể

6,1 252 96,6 +1483,6 Tinh khiết, an toàn 16

32,6 257 98,5 +202,1 Giúp trẻ khỏe mạnh 85

Bảo vệ sức khỏe cho trẻ 12,6 253 96,9 +669,0 33

Giúp phát triển thể lực, trí não 12,6 252 96,6 +666,7 33

248 95,0 +1566,7 5,7 Tốt hơn loại thực phẩm khác 15

249 95,4 +2977,4 3,1 Chứa nhiều vitamin 8

22,6 255 97,7 +332,3 Tốt cho hệ tiêu hóa 59

242 92,7 +907,6 9,2 Giúp trẻ thông minh hơn 24

255 97,7 +1709,3 5,4 Tạo kết gắn giữa mẹ con 14

245 93,9 +3377,8 2,7 Chứa nhiều khoáng chất 7

165 63,2 +5645,5 1,1 Là biện pháp tránh thai tốt 3

248 95,0 +1965,2 4,6 Giảm bệnh tiêu chảy ở trẻ em 12

0,8 2 Phù hợp phong tục Việt Nam 235 90,0 +11150,0

Hiệu quả sau can thiệp so với trước can thiệp về lợi ích nuôi con bằng

sữa mẹ thay đổi rất lớn, thay đổi thấp nhất là kiến thức về sữa mẹ có đủ chất

cho con tăng lên 73,7% so với trước can thiệp và đặc biệt tăng lên tới

11.150% về kiến thức “nuôi con bằng sữa mẹ phù hợp với phong tục Việt

Nam”.

89

Kết quả nghiên cứu định tính cũng cho thấy, kiến thức về nuôi con

bằng sữa mẹ của bà mẹ đã được cải thiện đáng kể:

“Em thu được nhiều kiến thức, ví dụ nuôi con bằng sữa mẹ tiện hơn,

đầy đủ chất dinh dưỡng hơn, vì sữa mẹ chứa nhiều kháng khuẩn, bảo vệ cơ

thể trẻ chống lại bệnh tật. Trẻ bú mẹ ít bị tiêu chảy, nhiễm trùng đường ruột,

đường hô hấp và ít bị dị ứng hơn so với trẻ nuôi nhân tạo” (PVS mẹ, 35t, xã

Liêm Chung).

“Thứ nhất đến CLB biết cho bú ngay khi trẻ sinh ra, rồi bú mẹ đến

chừng nào, khi ăn dặm là cho ăn từ lỏng đến đặc, dinh dưỡng như thế nào là

phù hợp, rồi làm sao tạo bát bột cho đủ màu để cho trẻ thích ăn, ngon

miệng, rồi cách cho trẻ gần gũi với bố mẹ” (TLN người thân, xã Gia Phú).

Từ các kiến thức đã học được tại các CLB NCBSM, các bà mẹ đã áp

dụng vào thực tế nuôi con của mình, đồng thời các bà mẹ cũng tự tin hơn

trong việc thay đổi những cách nuôi và chăm sóc con không đúng cách theo

kinh nghiệm dân gian ở địa phương hoặc của các thế hệ trước truyền lại. Từ

những việc tưởng như rất nhỏ và đơn giản như cách cho con bú, thời gian

cho con bú, cách cho con ăn dặm, cách chăm sóc con,… cũng được các bà

mẹ áp dụng một cách rất hiệu quả.

“Nuôi đứa đầu thì cháu cũng chỉ nghe bà mẹ dạy lại thôi. Mới sinh ra

cháu không cho bú ngay mà cho trẻ bú nước đường 3 ngày. Sinh cháu thứ 2

thì cháu cho bú luôn” (PVS mẹ, 30t, xã Gia Phú).

“Sữa cuối cùng là dinh dưỡng nhiều nhất, nên cho bú kiệt một bên rồi

chuyển. Còn trước nhiều sữa cứ bên nào căng cháu cho bú xong chuyển bên

khác” (TLN mẹ, xã Xuân Giao).

“Sữa mẹ nhiều, em vắt lại cho cháu bú, ở nhà bà cho cháu ăn 2 tiếng

một lần. Đứa đầu em không làm như thế. Em đi từ sáng đến trưa mới về cho

cháu bú” (PVS mẹ, 35 tuổi, xã Liêm Chung).

90

“Trước kia cứ 2, 3 tháng đã cho trẻ ăn dặm rồi cứ kiêng không cho

trẻ em chất tanh. Bây giờ đã biết cho trẻ ăn từ loãng đến đặc, tô màu bát

bột, ăn ít đến nhiều. Nhiều người mang thai cai sữa cho trẻ luôn, nhưng học

thì biết bà mẹ mang thai vẫn có thể cho con bú đến khi sinh” (TLN mẹ, xã

Gia Phú).

Không chỉ biết cách chăm sóc cho con, các bà mẹ còn học được cách

chăm sóc cho chính bản thân mình để có sữa nhiều hơn, tốt hơn để cho con

bú với những bài học hết sức bổ ích.

“Thứ nhất, em cố gắng ăn uống đủ chất dinh dưỡng để làm sao có

nhiều sữa nhất cho con bú. Thứ hai, hiểu cách làm như thế nào để phòng

chống một số bệnh như nứt cổ gà, hay bị sưng do con cắn, mình phải vệ sinh

như thế nào để phòng chống những bệnh đấy” (TLN mẹ, xã Liêm Chung).

“Biết cách mát-xa để sữa về nhiều, xoa hai ngón tay và xoa sau lưng.

Bóp tay vào phần thâm, thì sữa ra nhiều hơn. Tôi học được kinh nghiệm đấy

(PVS mẹ, 38t, phường Lương Khánh Thiện)

Các bà mẹ thấy rất rõ hiệu quả của việc NCBSM và chăm sóc con

theo khoa học với việc so sánh tình trạng sức khỏe thể chất và tinh thần của

những đứa con được sinh ra trước và sau khi tham gia sinh hoạt CLB.

“Đứa thứ hai phát triển rất tốt, khoẻ mạnh, thấy thông minh hơn,

giảm bệnh tật, ít ốm đau. Đặc biệt là về bệnh tiêu chảy, đứa thứ nhất em cho

ăn sớm nên hay bị rối loạn đường ruột, hay đi bác sỹ hơn” (TLN mẹ, xã

Vạn Trạch).

“Em hoàn toàn cho con bú bằng sữa mẹ trong 6 tháng đầu, sức đề

kháng của con em cao hơn so với những đứa trẻ mà mẹ không cho bú sữa

bằng em. Cháu không bị ốm vặt, không bị sốt” (TLN mẹ, xã Liêm Chung).

“Cháu thứ hai em tham gia CLB em cho bú ngay lập tức, cháu thứ

nhất thì 2, 3 tiếng sau em mới cho bú. Đứa đầu tiên em cũng cho bú hoàn

91

toàn bằng sữa mẹ nhưng cai sữa 18 tháng, cháu thứ 2 phải 2 năm em mới

cho cai sữa. Đứa thứ nhất 4 tháng cho ăn sam rồi, đứa thứ 2 thì 6 tháng mới

cho ăn sam. Em nấu bột gạo loãng ra, cho đủ dinh dưỡng như tôm, cá, cua,

thịt bò, rau. Em áp dụng phương pháp của CLB vào đứa trẻ này nên sức

khỏe của nó tốt hơn đứa trước. Cháu thứ hai thông minh, nhanh nhẹn hơn

anh” (PVS mẹ, 35t, xã Xuân Giao).

3.3.3. Hiệu quả về thái độ nuôi con bằng sữa mẹ

3.3.3.1. Những thái độ tích cực

Bảng 3.23: Nuôi con bằng sữa mẹ giúp bảo vệ trẻ không bị bệnh

Giúp bảo vệ trẻ Trước can thiệp Sau can thiệp Hiệu quả can

không bị bệnh thiệp (%) n % n %

2 0,8 5 1,9 +137,5 Không đồng ý

196 75,1 149 57,1 -24,0 Đồng ý

63 24,1 107 41,0 +31,1 Rất đồng ý

261 100,0 261 100,0 Cộng

Tỷ lệ các bà mẹ có con 0 - 25 tháng tuổi sau can thiệp giáo dục sức

khỏe nuôi con bằng sữa mẹ về lợi ích của sữa mẹ giúp bảo vệ trẻ không bị

bệnh ở mức độ rất đồng ý tăng lên 31,1% so với trước can thiệp, nhưng tỷ lệ

không đồng ý về lợi ích nuôi con bằng sữa mẹ cũng tăng lên so với trước

can thiệp.

92

Bảng 3.24: Nuôi con bằng sữa mẹ tạo sự kết gắn giữa mẹ và con

Tạo sự kết gắn giữa Trước can thiệp Sau can thiệp Hiệu quả can

mẹ và con thiệp (%) n % n %

Không đồng ý 4 1,5 0 0,0 -100,0

Đồng ý 205 78,5 130 49,8 -36,6

Rất đồng ý 29 19,9 131 50,2 +152,3

Cộng 261 100,0 261 100,0

Tỷ lệ về thái độ lợi ích của nuôi con bằng sữa mẹ tạo sự kết gắn giữa

mẹ và con có hiệu quả thực sự sau giai đoạn can thiệp giáo dục sức khỏe

quan hoạt động của câu lạc bộ nuôi con bằng sữa mẹ, không có bà mẹ nào

không đồng ý (0,0% và hiệu quả can thiệp giảm tới 100,0%). Tỷ lệ bà mẹ rất

đồng ý với thái độ nuôi con bằng sữa mẹ tạo sự kết gắn giữa mẹ và con tăng

sau can thiệp so với trước can thiệp đạt tới 152,5%.

Bảng 3.25: Nuôi con bằng sữa mẹ giúp trẻ khỏe mạnh hơn trẻ không nuôi

con bằng sữa mẹ

Trước can thiệp Sau can thiệp Hiệu quả can Giúp trẻ khỏe mạnh thiệp (%) n % n %

Không đồng ý 10 3,8 1 0,4 -89,5

Đồng ý 190 72,8 142 54,4 -25,3

Rất đồng ý 61 23,4 118 45,2 +93,2

Cộng 261 100,0 261 100,0

Tương tự như thái độ nuôi con bằng sữa mẹ giúp tạo kết gắn giữa mẹ

và con, tỷ lệ bà mẹ có con 0 - 25 tháng tuổi đã thay đổi đáng kể sau can

thiệp so với trước can thiệp. Tỷ lệ bà mẹ rất đồng ý với thái độ này đạt tới

93,2% so sau can thiệp với trước can thiệp và chỉ còn 1/261 bà mẹ không

đồng ý với thái độ này.

93

Bảng 3.26: Nuôi con bằng sữa mẹ là sữa mẹ chứa đầy đủ chất giúp trẻ phát

triển

Sữa mẹ có đủ chất Trước can thiệp Sau can thiệp Hiệu quả can

cho trẻ phát triển thiệp (%) n % n %

2 0,8 4 1,5 +87,5 Không đồng ý

194 74,3 126 48,3 -35,0 Đồng ý

65 24,9 131 50,2 +101,6 Rất đồng ý

261 100,0 261 100,0 Cộng

Thái độ về nuôi con bằng sữa mẹ là sữa mẹ chứa đầy đủ chất giúp trẻ

phát triển đặc biệt thay đổi nhiều về ý kiến rất đồng ý với quan điểm này sau

can thiệp với trước can thiệp (đạt 101,6%), nhưng thái độ không đồng ý

cũng tăng so với trước can thiệp.

Bảng 3.27: Nuôi con bằng sữa mẹ là dễ hơn nuôi con bằng ăn sữa bột

Nuôi con bằng sữa Trước can thiệp Sau can thiệp Hiệu quả can

mẹ dễ hơn thiệp (%) n % n %

10 3,8 1 0,4 -89,5 Không đồng ý

206 78,9 143 54,8 -29,3 Đồng ý

45 17,2 117 44,8 +160,5 Rất đồng ý

261 100,0 261 100,0 Cộng

Thái độ về quan điểm nuôi can bằng sữa mẹ dễ hơn nuôi con bằng sữa

bột, tỷ lệ rất đồng ý đạt tới 160,5% so sánh sau với trước can thiệp, đặc biệt

trước can thiệp có 10/261 bà mẹ không đồng ý với quan điểm này nhưng sau

can thiệp đã thay đổi thái độ của những bà mẹ có con 0 - 25 tháng tuổi và

chỉ còn 1/261 bà mẹ không đồng ý với quan điểm này.

94

Bảng 3.28: Nuôi con bằng sữa mẹ không gặp khó khăn trong chăm sóc gia

đình

Không gặp khó khăn Trước can thiệp Sau can thiệp Hiệu quả can

chăm sóc gia đình thiệp (%) n % n %

Không đồng ý 23 8,8 6 2,3 -73,9

Đồng ý 210 80,5 156 60,9 -24,3

Rất đồng ý 28 10,7 96 36,8 +234,9

Cộng 261 100,0 261 100,0

Thái độ về quan điểm nuôi con bằng sữa mẹ không gặp khó khăn

trong chăm sóc gia đình so với trước can thiệp có thay đổi rất lớn, tỷ lệ bà

mẹ rất đồng ý với quan điểm này sau khi tham gia câu lạc bộ nuôi con bằng

sữa mẹ đạt tới 234,9% và tỷ lệ không đồng ý giảm đi 73,9%.

Bảng 3.29: Nuôi con bằng sữa mẹ là cách tốt nhất để giảm chi tiêu trong gia

đình

Giảm chi tiêu trong Trước can thiệp Sau can thiệp Hiệu quả can

gia đình thiệp (%) n % n %

21 8,1 5 1,9 -76,5 Không đồng ý

177 68,1 135 51,7 -24,1 Đồng ý

62 23,8 121 46,4 +95,0 Rất đồng ý

261 100,0 261 100,0 Cộng

Thái độ về nuôi con bằng sữa mẹ giúp giảm chi tiêu trong gia đình

cũng thay đổi đáng kể so với trước can thiệp, hiệu quả sau can thiệp giảm đi

76,5% và tăng cao tỷ lệ bà mẹ rất đồng ý với thái độ này (đạt 95,0% so với

trước can thiệp).

95

Bảng 3.30: Nuôi con bằng sữa mẹ là làm mẹ phải nuôi con bằng sữa mẹ

Làm mẹ phải nuôi Trước can thiệp Sau can thiệp Hiệu quả can

con bằng sữa mẹ thiệp (%) n % n %

Không đồng ý 14 5,4 10 3,8 -29,6

Đồng ý 191 73,2 128 49,0 -33,1

Rất đồng ý 56 21,5 123 47,1 +119,1

Cộng 261 100,0 261 100,0

Thái độ về nuôi con bằng sữa mẹ là làm mẹ phải nuôi con bằng sữa

mẹ, phù hợp với truyền thống lâu đời của Việt Nam, sau khi tham gia câu

lạc bộ nuôi con bằng sữa mẹ, thái độ của các bà mẹ đã thay đổi, tỷ lệ không

đồng ít giảm tới 29,6% và tỷ lệ rất đồng ý tăng lên tới 119,1%.

3.3.3.2. Những thái độ tiêu cực

Bảng 3.31: Nuôi con bằng sữa bột giúp trẻ khỏe mạnh, chống béo phì

Nuôi con bằng sữa Trước can thiệp Sau can thiệp Hiệu quả can

bột giúp trẻ khỏe thiệp (%) n % n %

mạnh

Không đồng ý 4 1,5 219 83,9 +5493,3

Đồng ý 34 13,4 26 10,0 -25,4

Rất đồng ý 223 85,4 16 6,1 -92,9

Cộng 261 100,0 261 100,0

Về thái độ tiêu cực, trước can thiệp tỷ lệ bà mẹ có con 0 - 25 tháng

tuổi có tỷ lệ rất đồng ý với thái độ nuôi con bằng sữa bột sẽ giúp trẻ có thân

hình khỏe mạnh, chống béo phì chiểm tới 85,5% số bà mẹ có con 0 - 25

tháng tuổi, nhưng sau khi can thiệp tham gia câu lạc bộ nuôi con bằng sữa

mẹ đã thay đổi ngược lại hoàn toàn. Tỷ lệ bà mẹ không đồng ý với quan

điểm này đạt tới 5493,3% so với trước can thiệp và tỷ lệ rất đồng ý đã giảm

tới 92,9%.

96

Bảng 3.32: Phụ nữ không nên cho con bú mẹ ở nơi công cộng

Phụ nữ không nên Trước can thiệp Sau can thiệp Hiệu quả can

cho con bú mẹ ở nơi thiệp (%) n % n %

công cộng

Không đồng ý 11 4,2 209 80,1 +1807,1

Đồng ý 97 37,2 48 18,4 -50,5

Rất đồng ý 153 58,6 4 1,5 -97,4

Cộng 261 100,0 261 100,0

Cũng như thái đổi về nuôi con bằng sữa bột sẽ giúp trẻ có thân hình

khỏe mạnh, chống béo phì, hiệu quả sau can thiệp cũng thay đổi ngược lại so

với trước can thiệp, tỷ lệ không đồng ý với thái độ phụ nữ không nên cho

con bú mẹ ở nơi công cộng từ từ 4,2% trước can thiệp lên đến 80,1% và hiệu

quả đạt tới 1807,1% và rất đồng ý giảm tới 97,4% so với trước can thiệp.

Bảng 3.33: Nuôi con bằng sữa mẹ làm mất tự do của mẹ

Nuôi con bằng sữa Trước can thiệp Sau can thiệp Hiệu quả can

mẹ làm mất tự do thiệp (%) n % n %

của mẹ

Không đồng ý 6 2,3 241 92,3 +3913,0

Đồng ý 42 16,1 19 7,3 -54,7

Rất đồng ý 213 81,6 1 0,4 -95,5

Cộng 261 100,0 261 100,0

Thái độ về nuôi con bằng sữa mẹ làm mất tự do của mẹ cũng thay đổi

rất nhiều so với trước can thiệp. Hiệu quả về tay đổi thái độ không đồng

quan điểm là nuôi con bằng sữa mẹ làm mất tự do của mẹ đạt tới 3.913,0%

so với trước can thiệp và thái độ đồng ý giảm tới 95,5%.

97

Bảng 3.34: Nuôi con bằng sữa mẹ làm mất thời gian

Nuôi con bằng sữa mẹ Trước can thiệp Sau can thiệp Hiệu quả can

làm mất thời gian thiệp (%) n % n %

Không đồng ý 5 1,9 249 95,4 +4921,1

Đồng ý 42 16,1 11 4,2 -73,9

Rất đồng ý 214 82,0 1 0,4 -99,5

Cộng 261 100,0 261 100,0

Tương tự như những thái độ tiêu cực về nuôi con bằng sữa mẹ, sau

can thiệp hiệu quả đã thay đổi, thái độ không đồng ý có hiệu quả lên đến

4.921,1% so với trước can thiệp và nhất là thái độ đồng ý với quan điểm

nuôi con bằng sữa mẹ làm mất thời gian của mẹ hiệu quả đã giảm tới gần

100% số bà mẹ có con 0 - 25 tháng tuổi. Đây là những điểm có giá trị về mặt

khoa học cũng như về thực tiễn làm thay đổi hành vi của các bà mẹ đang

nuôi con.

Kết quả nghiên cứu định tính cũng cho thấy sự thay đổi thái độ tích

cực trong việc nuôi con bằng sữa mẹ của bà mẹ và tác động tới người thân

trong gia đình.

“Khi mình hiểu biết, mình thực hiện việc đấy tự tin hơn nhiều. Ví dụ

vắt sữa để ra ngoài, mình sợ không tốt chẳng hạn, nhưng sau khi đi sinh

hoạt CLB, mình về truyền đạt cho mọi người, nếu mình bận đi làm, mình vắt

sữa để tủ lạnh. Khi cháu đòi bú, người nhà hâm lại sữa cho cháu bú” (PVS

mẹ, 35t, xã Liêm Chung).

“Nhiều chị bây giờ rất mạnh dạn, có thể đấu tranh với mẹ chồng. Có

chị vừa sinh, mẹ chồng bắt cho mật ong vào để làm sạch lưỡi, sạch đường

ruột, nhưng cương quyết không cho, dù bà mẹ rất giận” (Cán bộ Hội PN

tỉnh Hà Nam).

98

“Nhiều khi các cụ bắt mình làm theo những phương pháp mà các cụ

nghĩ là có kinh nghiệm đúng, nhưng sau khi mình đi học về, có kiến thức hơn

thì các cụ tôn trọng và bảo, thôi chúng mày được đi học như thế thì áp dụng,

các cụ không bắt làm theo ý các cụ nữa” (TLN mẹ, xã Liêm Chung).

Bên cạnh đó, việc thay đổi nhận thức, thái độ của người chồng và bố

mẹ chồng về việc NCBSM còn có thể đến từ việc họ được chứng kiến sự

thay đổi tích cực của con/cháu khi được các bà mẹ áp dụng một cách rất hiệu

quả kiến thức NCBSM và cách chăm sóc con đúng cách đã được học.

“Khi tham gia CLB về vợ cháu có thay đổi khẩu phần, con cháu thích

ăn hơn. Nhìn con ăn được là sướng rồi” (TLN người thân, xã Xuân Giao).

“Đẻ sau nửa tiếng đồng hồ cháu cho bú luôn, không vắt sữa đầu đi.

Cháu cho con bú, con ngủ khác hẳn. Cho ăn dặm cũng thế, nó cũng thay đổi

hẳn, không như ngày xưa, nó nấu bột trứng có khi hàng tuần, nửa tháng.

Bây giờ biết cách nấu bột cho con, nấu nhừ, chín tới” (TLN người thân, xã

Xuân Trạch).

“Trước chưa sinh hoạt CLB này nuôi con rất vụng, khi được học về

cháu nuôi con khác hẳn. Ví dụ cho con bú, đầu tiên là mẹ nằm con nằm. Bây

giờ đi học có kiến thức rồi thì cháu ngồi lên cho con bú, tháng đầu lên có

1,5 kg, bây giờ lên 1,8 kg, em thấy khác hẳn” (TLN người thân, xã Xuân

Giao).

Với những bằng chứng rõ rệt của việc áp dụng những kiến thức

NCBSM và chăm sóc con đúng cách của vợ/con dâu, người chồng và cha

mẹ chồng chuyển đổi hành vi từ chỗ không đồng tình ban đầu sang động

viên, thúc giục và hơn nữa còn tạo điều kiện cho vợ/con dâu tham gia sinh

hoạt CLB NCBSM.

“Lúc đầu, chồng, bố mẹ chồng bảo nhà còn đầy việc, tham gia làm gì.

Kinh nghiệm, nếu thích tao truyền cho” (TLN mẹ, xã Liêm Chung).

99

“Các cô báo đi sinh hoạt, đến giờ mình chưa đi là chồng bảo mẹ mày

hôm nay chưa đi họp à, cứ để đấy làm sau, đi cho đúng giờ, rồi chồn trông

con, dạy con học” (TLN mẹ, xã Xuân Giao).

“Ông bà giục đi họp để biết thêm kiến thức, thêm cách chăm sóc con.

Chồng cũng giục đi họp, việc nhà để chồng làm” (PVS mẹ, 30t, xã Xuân

Trạch).

3.3.4. Nguồn truyền thông giúp thay đổi kiến thức và hành vi về nuôi con

bằng sữa mẹ

Bảng 3.35: Nguồn truyền thông giúp thay đổi kiến thức và hành vi nuôi con

bằng sữa mẹ

Trước can thiệp Sau can thiệp Hiệu quả can Nguồn truyền thông n n thiệp (%) % % (261) (261)

187 71,6 233 89,3 +24,7 Từ đài, báo, TV

64 24,5 209 80,1 +226,9 Từ cán bộ y tế

47 18,0 218 83,5 +363,9 Từ cán bộ hội PN

2 0,8 256 97,7 +12112,5 Từ câu lạc bộ

52 19,9 233 89,3 +348,7 Từ người thân

Sau can thiệp, các bà mẹ đã tiếp cận nhiều hơn với tất cả các nguồn

thông tin về nuôi con bằng sữa mẹ. Trong đó, đặc biệt là từ câu lạc bộ tăng

từ 0,8% trước can thiệp lên 97,7% sau can thiệp, chỉ số hiệu quả lên tới

12.112,5%. Tiếp đến là từ người thân, cán bộ hội phụ nữ, cán bộ y tế và tăng

ít nhất là từ đài, báo, tivi.

“Lúc đầu còn ngại, mình đi thì đi không đi thì thôi, nhưng về sau mình

thích. Đầu tiên bỡ ngỡ. Sau vui vẻ, thoải mái. Bổ ích cho chị em” (TLN mẹ,

xã Vạn Trạch).

100

“Cháu thấy CLB này sinh hoạt rất tốt và tạo cho mẹ biết cách chăm

sóc bé thật hiệu quả, cháu mong muốn CLB này duy trì mãi mãi và ngày

càng phong phú hơn” (TLN mẹ, xã Xuân Giao).

“Khi tham gia sinh hoạt CLB, ngoài các kiến thức đã được các chị em

đứng lên chia sẻ kinh nghiệm, chị em còn tham gia chơi trò chơi, các hoạt

động tập thể, văn nghệ đầu giờ, nên em thấy các chị tự tin hơn, giao tiếp

cũng mạnh dạn hơn, chị em gần gũi gắn bó với nhau hơn” (CN CLB xã Vạn

Trạch).

“Từ khi có câu lạc bộ này nhiều thanh niên vẫn tham gia bên đoàn,

tham gia cả bên phụ nữ. Tức là hội viên từ 18 tuổi trở lên, nó tạo uy tín cho

tổ chức hội, đó là cái em thấy quan trọng nhất” (Cán bộ Hội LHPN tỉnh

Quảng Bình).

“Mọi người đánh giá Hội phụ nữ tốt hơn, mang lại nhiều hiệu quả

tích cực hơn cho cộng đồng và địa phương” (CN CLB xã Liêm Chung).

101

Chương 4:

BÀN LUẬN

4.1. Đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu

Tuổi: trong tổng số 920 bà mẹ tham gia nghiên cứu, chủ yếu là những

đối tượng dưới 25 tuổi (35,8%) và 25 - 29 tuổi (38,0%) và sau đó đến nhóm

tuổi 30 - 34 (16,4%). Tuổi trung bình của các đối tượng tham gia nghiên cứu

là 27,3 ± 5,3 tuổi; thấp nhất là 16 tuổi, cao nhất là 48 tuổi. Tuổi trung bình

của đối tượng tham gia nghiên cứu của chúng tôi trẻ hơn so với nghiên cứu

của Abiola O Ogundele và cộng sự (29,0 ± 4,96 tuổi) và đối tượng nghiên

cứu có tuổi đời từ 30 trở xuống thấp hơn nghiên cứu của chúng tôi (58,5%)

[141]. Nghiên cứu của Mohammad Khassawneh đối tượng nghiên cứu có

tuổi trung bình là 34,7 ± 5,9 tuổi, tuy nhiên lại tương tự về tuổi thấp nhất và

cao nhất (17 tuổi và 49 tuổi) [120]. Nghiên cứu của Alwelaie YA,

Alsuhaibani EA và cộng sự đối tượng tham gia nghiên cứu có tuổi đời 21-30

tuổi chiếm tới 61,5% thấp hơn kết quả nghiên cứu của chúng tôi (74,7%).

Các đối tượng có tuổi trẻ hơn thì có thể việc trả lời những câu hỏi nghiên

cứu đưa ra sẽ thuận lợi hơn nhiều so với những đối tượng lớn tuổi [178].

Trình độ học vấn: hầu hết phụ nữ tham gia nghiên cứu của chúng tôi

có trình độ học vấn cấp trung học cơ sở (51,7%) và phổ thông trung học

(30,9%). Chỉ có 9,9% có trình độ trung cấp, cao đẳng, đại học. Vẫn còn

6,5% phụ nữ chỉ mới học đến tiểu học. Kết quả này khá tương đồng với kết

quả nghiên cứu của Mohammad Khassawneh: 51,3% đối tượng tham gia

nghiên cứu có trình độ từ trung học phổ thông trở lên [120]. Nhưng so với

kết quả nghiên cứu của Adekemi E Olowookere và cộng sự đối tượng tham

gia nghiên cứu của chúng tôi có trình độ trung học cơ sở và trung học phổ

thông cao hơn (41,0% và 48,3% tương ứng với từng trình độ học vấn) [141].

Kết quả nghiên cứu của Alwelaie YA, Alsuhaibani EA và cộng sự thì số đối

102

tượng tham gia nghiên cứu có trình độ từ cao đẳng trở lên cao hơn nghiên

cứu của chúng tôi (48,9%) [178]. Trình độ học vấn phần nào phản ánh khả

năng nhận thức của bà mẹ, do đó có thể ảnh hưởng đến việc trả lời câu hỏi

nghiên cứu và tính chính xác của thông tin thu thập được.

Nghề nghiệp: trong kết quả nghiên cứu của chúng tôi, nghề nghiệp

chính của các đối tượng tham gia nghiên cứu tập trung chủ yếu là nghề làm

ruộng (51,9%), tiếp đến là nội trợ và buôn bán nhỏ (hơn 10,0%). Tỷ lệ phụ

nữ là giáo viên, cán bộ, viên chức nhà nước tham gia trong nghiên cứu này

không cao. Kết quả này là khá phù hợp với cơ cấu ngành nghề của Việt Nam

hiện nay. Kết quả của chúng tôi cũng khác với nghiên cứu của Mohammad

Khassawneh, đối tượng nghiên cứu chủ yếu là làm nội trợ (60,0%) [120].

Kết quả nghiên cứu của Adekemi E Olowookere và cộng sự đối tượng

nghiên cứu là cán bộ viên chức tham gia nghiên cứu cao hơn trong nghiên

cứu của chúng tôi (23,0%) nhưng đối tượng không có việc làm hoặc không

có tay nghề (57,2%) cao hơn và tất nhiên cũng ảnh hưởng đến kiến thức,

thực hành nuôi con bằng sữa mẹ [141]. Nghiên cứu của Madani và cộng sự,

tỷ lệ bà mẹ không có việc làm chiếm tới 96,2% và trình độ mù chữ tham gia

nghiên cứu tới 80% nhưng không liên quan đến việc cho con bú sữa mẹ sớm

cũng như bú sữa mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu [129]. Theo kết quả tổng

quan các nghiên cứu về nuôi con bằng sữa mẹ của Al Juaid DA, Binns

CW, Giglia RC ở A-rập Xê-út khuynh hướng nuôi con bằng sữa mẹ thay đổi

theo thời gian và trình độ học vấn cũng như nghề nghiệp của bà mẹ [118].

Nghiên cứu năm 2012 của Eldeek BS và cộng sự, các bà mẹ tham gia nghiên

cứu có tới 67% bà mẹ có nghề nghiệp và 91% bà mẹ có trình độ học vấn

trung học cơ sở. Với kết quả nghiên cứu của các tác giả chứng tỏ trình độ

học vấn và nghề nghiệp của đối tượng nghiên cứu cũng không ảnh hưởng

đến kết quả nghiên cứu.

103

Dân tộc: hầu hết phụ nữ là người dân tộc Kinh (90,7%), chỉ có 4,2%

là người dân tộc Tày, 3,2% là người dân tộc Dao và 1,8% là người dân tộc

khác. Do vậy phần nào đảm bảo độ chính xác của thông tin thu thập được

trong nghiên cứu.

Số con đã có: nghiên cứu của chúng tôi cho thấy tỷ lệ phụ nữ đã có

con từ 0 - 25 tháng tuổi chiếm 87,8%, 12,2% phụ nữ đang mang thai. Trong

tổng số 808 bà mẹ đã có con, có 852 trẻ em từ 0 - 25 tháng tuổi, trong đó số

trẻ nam chiếm 52,6%, số trẻ gái 47,4%. 83,9% trẻ đẻ thường và 16,1% trẻ

mổ đẻ.

4.2. Mô tả kiến thức, thái độ và thực hành về nuôi con bằng sữa mẹ tại 3

tỉnh: Hà Nam, Lào Cai, Quảng Bình

4.2.1. Tỷ lệ nuôi con bằng sữa mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu và cho bú

ngay sau 1 giờ sau sinh và bú kéo dài đến 24 tháng tuổi

Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), chế độ dinh dưỡng tốt cho trẻ

trong giai đoạn từ sơ sinh đến 24 tháng tuổi đóng vai trò quan trọng đối với

sự phát triển thể chất trong suốt cuộc đời trẻ. Do đó, WHO khuyến nghị, trẻ

sơ sinh cần được bú sớm trong vòng 1 giờ đầu sau khi sinh và được nuôi

hoàn toàn bằng sữa mẹ trong 6 tháng đầu đời, sau đó ăn bổ sung hợp lý

nhưng vẫn duy trì bú sữa mẹ đến 24 tháng tuổi. Chế độ dinh dưỡng hợp lý

trong suốt thời gian này sẽ cải thiện sự tăng trưởng và phát triển thể chất,

thành tích học tập của trẻ. Sữa mẹ là nguồn thức ăn hoàn chỉnh nhất cho trẻ

sơ sinh và nhũ nhi. Trong những tháng đầu sau sinh, sữa mẹ cung cấp đầy đủ

năng lượng và chất dinh dưỡng cần thiết cho trẻ, góp phần phòng chống

nhiều bệnh nhiễm trùng và dị ứng [57].

Bú sớm trong 1 giờ đầu sau sinh:

Sữa non là sữa có màu vàng, sánh được tạo vào cuối thai kỳ, là thực

phẩm hoàn hảo nhất cho trẻ sau sinh. Việc bắt đầu cho trẻ bú mẹ sớm trong

104

1 giờ đầu có thể giúp ngăn chặn tình trạng tử vong sơ sinh do nhiễm trùng

máu, viêm phổi và tiêu chảy. Cũng có thể ngăn chặn các trường hợp tử vong

do hạ thân nhiệt, đặc biệt ở trẻ sơ sinh đẻ non và nhẹ cân [85]. Tuy nhiên tỷ

lệ bà mẹ cho con bú trong vòng một giờ đầu sau khi sinh nói chung vẫn chưa

cao.

Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy, tỷ lệ bà mẹ cho trẻ bú trong 1 giờ

đầu chiếm 73,6%. Tỷ lệ cho con bú muộn sau 1 giờ là 26,4%. Nghiên cứu

của Từ Thị Mai và cộng sự cho kết quả thấp hơn, tỷ lệ trẻ được bú mẹ trong

vòng 1 giờ đầu sau sinh là 49,3% [38]. Nghiên cứu của Nguyễn Thị Thanh

Thuấn ở Chiêm Hóa, Tuyên Quang năm 2010, tỷ lệ này là 59,2% [65]. Hay

nghiên cứu của Trịnh Thị Tình tại Chiêm Hóa, Tuyên Quang là 50,3% [66].

Nghiên cứu tại thành phố Jinan, Trung Quốc cho thấy 51% bà mẹ cho con

bú lần đầu sau một giờ [180]. Nghiên cứu của Patel A, Badhoniya N,

Khadse S và cộng sự chỉ có 23,5% số trẻ đẻ ra được bú sữa mẹ trong vòng 1

giờ đầu sau sinh [146]. Nghiên cứu của Ali Mohamed Al-Binali ở Tây Nam

A-rập Xê-út cho thấy các bà mẹ là giáo viên đã cho con bú trong vòng 1 giờ

đầu sau sinh là 31,0% theo khuyến cáo của WHO, trong vòng 6 tiếng sau

sinh là 18%, từ 6 tiếng đến 24 tiếng là 16,1%; từ 24 đến 28 tiếng là 34,8%

[133]. Kết quả nghiên cứu của tác giả cũng tương tự với kết quả nghiên cứu

trên các nhân viên y tế nữ làm việc tại các bệnh viện của các trường đại học

[75]. Một số nghiên cứu khác ở A-rập Xê-út lại cho kết quả cao hơn nghiên

cứu của chúng tôi, tỷ lệ trẻ được bú sữa mẹ sớm ngay sau sinh từ 92% đến

98% [102], [129], [134]. Nghiên cứu của Jennifer HG, Muthukumar K tỷ lệ

trẻ được bú sữa mẹ sớm ngay sau sinh chiếm tới 97,5%, kết quả nghiên cứu

của tác giả so với tiêu chuẩn quốc gia của Ấn Độ và các nghiên cứu khác đã

thực hiện tại Ấn Độ [113], [154]. Theo tổng quan của Al Juaid DA, Binns

CW, Giglia RC về các nghiên cứu nuôi con bằng sữa mẹ ở A-rập Xê-út, tỷ lệ

105

bà mẹ cho con bú sữa mẹ ngày sau sinh ở vùng nông thôn lên tới 90% trong

khi đó ở vùng thành thị chỉ có 76% [118], [90]. Nghiên cứu El-Gilany và

cộng sự chỉ có 11,4% số bà mẹ sinh con cho con bú sữa mẹ trong vòng 1 giờ

đầu sau sinh trong khi đó nghiên cứu của Amin T và cộng sự có tới 77,8%

bà mẹ đã cho con bú sữa mẹ trong vòng 24 giờ đầu sau sinh [100], [76].

Nghiên cứu của Asfaw MM và cộng sự có tới 70,7% số bà mẹ đã cho con bú

sữa mẹ trong vòng 1 giờ đầu sau sinh nhưng nghiên cứu ở Tây Nepal tỷ lệ

này chỉ đạt 72,7% [78], [75]. Trong kết quả nghiên cứu về Sức khỏe và Dân

số của Ethiopia (EDHS, 2011) 57% số bà mẹ sống ở vùng thành thị và 51%

số bà mẹ sống ở vùng nông thôn cho con bú sữa mẹ trong vòng 1 giờ đầu

sau sinh, nhưng những bà mẹ sống ở vùng Amhara chỉ có 37,5% [110].

Nghiên cứu của Oche MO và cộng sự ở Nigeria tỷ lệ bà mẹ cho con bú sữa

mẹ trong vòng 30 phút sau sinh tới 53% [140]. Chiến lược quốc gia của

Ethiopia phấn đấu đến năm 2015 tỷ lệ trẻ được bú sữa mẹ trong vòng 1 giờ

đầu sau sinh phải đạt 92% [105].

Kết quả nghiên cứu của chúng tôi thấp hơn so với nghiên cứu của

Đinh Thị Thu Phương (82,4%) ở Văn Chấn, Yên Bái [50], Lê Trí Khải tại

Kon Tum năm 2008 là 77,3% [29], của Trần Văn Hà ở Hà Nội năm 2007 là

73,5% [12], của Phạm Tất Chủ ở Bắc Ninh là 83% [4]. Tuy nhiên kết quả

của chúng tôi lại cao hơn so với nghiên cứu của Phạm Văn Hoan và cộng sự

là 45,8% [14], nghiên cứu của Trương Thị Kim ở Bắc Ninh năm 2008 là

46,7% [32], nghiên cứu của Lưu Ngọc Hoạt và cộng sự ở Hà Nội năm 2010

là 30% [16], nghiên cứu của Vyas Shaili là 21,37% [155], nghiên cứu của

MICS tại Iraq năm 2006 là 31% [107].

Cũng theo báo cáo của Tổng cục Thống kê (2011), trình độ học vấn

của người mẹ càng cao và điều kiện kinh tế gia đình càng khá giả thì xác

suất đứa trẻ được bú sữa mẹ trong vòng một giờ đầu sau sinh càng thấp. Tỷ

106

lệ này ở các vùng nông thôn (43,5%) cũng cao hơn hẳn so với đô thị

(30,3%) [27]. Sự khác biệt giữa nghiên cứu của chúng tôi so với các nghiên

cứu khác có thể là do sự khác nhau về cỡ mẫu, phương pháp, thời gian và

địa điểm nghiên cứu.

Cơ chế tiết sữa là cơ chế thần kinh thể dịch, nếu bú nhiều sẽ kích thích

tiết sữa nhiều, mặt khác giúp bà mẹ co hồi tử cung tránh băng huyết sau sinh

[45], do vậy các cán bộ y tế nên khuyên bà mẹ cho con bú ngay trong vòng 1

giờ đầu kể cả khi bà mẹ chưa tiết sữa, phản xạ mút của trẻ sẽ kích thích sữa

mau về hơn và đó cũng được tính là thực hành đúng thời điểm bú lần đầu.

Mặt khác, cần tập huấn cho bà mẹ về lợi ích của bú sữa non và lợi ích của

việc cho bú sớm đối với đứa trẻ và bà mẹ.

Trong nghiên cứu của chúng tôi, vẫn còn 6,6% trẻ sau sinh vừa được

bú mẹ và vừa ăn ngoài và 1,0% số bà mẹ cho con ăn sữa pha từ đầu mà

không cho bú mẹ ngay. Kết quả này thấp hơn rất nhiều so với nghiên cứu

của tác giả Nguyễn Thành Quân (26,9%) (2011) [52], nghiên cứu của Hoàng

Thị Hồng Nhung tại Phủ Lý, Hà Nam (36,2%) và nghiên cứu của Lê Thị

Hương tại Thanh Hóa (2009) là 19,2% [44], [23]. Theo khuyến cáo của

WHO và UNICEF, không cần cho trẻ sơ sinh ăn uống thêm gì khác trước

khi bú lần đầu sau sinh. Vì những thức ăn này có thể gây nhiễm khuẩn cho

trẻ, làm trẻ bú kém, bỏ bú, ảnh hưởng đến việc tiết sữa của bà mẹ sau này.

Bú sữa mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu:

Theo khuyến cáo của WHO trong 6 tháng đầu chỉ cần cho trẻ bú sữa

mẹ hoàn toàn trẻ vẫn phát triển bình thường. Bú sữa mẹ hoàn toàn trong 6

tháng đầu có vai trò rất quan trọng đối với tình trạng dinh dưỡng và sức

khỏe của trẻ. Lợi ích của việc nuôi con bằng sữa mẹ đã được khẳng định,

chính việc áp dụng nuôi con bằng sữa mẹ còn làm cho trẻ dễ tiếp nhận các

trong sóc khác [104]. Việc cho trẻ bú sớm và cho bú hoàn toàn là khởi đầu

107

của sự chăm sóc liên tục cho bà mẹ và trẻ sơ sinh, có tác động lâu dài đến

sức khỏe và sự phát triển của trẻ [85].

Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy, chỉ có 43,3% bà mẹ thực hành

đúng là cho con bú sữa mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu. 56,8% bà mẹ chỉ

cho trẻ bú sữa mẹ hoàn toàn dưới 6 tháng. Lý do chính dẫn đến cho trẻ ăn

thêm ngoài sữa mẹ trong 6 tháng đầu là do mẹ không đủ sữa cho con bú. Kết

quả này cao hơn so với nghiên cứu của Từ Thị Mai và cộng sự [38], tỷ lệ trẻ

được bú mẹ trong vòng 6 tháng đầu là 16,2% và hoàn toàn trong 4 tháng đầu

là 28,4%, của Nguyễn Đình Quang là 34,3% [53], của Chu Diệu Hương là

13,3% [20], của Từ Ngữ là 33,6% [41], nghiên cứu của Lưu Ngọc Hoạt và

cộng sự ở Hà nội năm 2010 là 23% [16], nghiên cứu của Lê Thị Hương tại

Hải Lăng tỉnh Quảng Trị năm 2008 là 18,3% [22], nghiên cứu của Lê Thị

Hương tại Thanh Hóa năm 2007 là 19% [21], nghiên cứu của Lê Thị Hương,

Đỗ Hữu Hanh ở Yên Bái năm 2008 là 18% [24] và của Trương Thị Kim ở

Bắc Ninh năm 2008 là 10,6% [32]. Kết quả nghiên cứu của Suneth B

Agampodi và cộng sự, tỷ lệ phụ nữ có con từ 4 đến 12 tháng tuổi cho con bú

sữa mẹ hoàn toàn trong 4 tháng đầu chiếm 61,6% và trong vòng 6 tháng đầu

chiếm 15,5% [70]. Kết quả Điều tra về sức khỏe cộng đồng ở Canada về

Khuynh hướng thực hành nuôi con bằng sữa mẹ từ năm 2001 đến năm 2008,

tỷ lệ bà mẹ nuôi con bằng sữa mẹ hoàn toàn trong vòng 4 tháng đầu tăng có

ý nghĩa thống kê giữa năm 2003 (37,3%) đến năm 2005 (43,1%), nhưng sau

đó tỷ lệ nằm không tăng ở giữa các năm 2005, 2007 và 2008 (42,8%) [160].

Tỷ lệ bà mẹ nuôi con hoàn toàn bằng sữa mẹ trong vòng 6 tháng đầu hoặc

hơn tăng từ 17,3% năm 2003 lên đến 23,1% vào năm 2007 - 2008. Kết quả

nghiên cứu của Vyas Shaili cho thấy chỉ có 5,13% trẻ được bú sữa mẹ hoàn

toàn trong 6 tháng đầu [155]. Nghiên cứu của Ali Mohamed, Al-Binali chỉ

có 8,3 số bà mẹ nghiên cứu cho con bú sữa mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu

108

[133], nhưng kết quả của tác giả so với nghiên cứu của các tác giả khác cùng

ở A-rập Xê-út [102], và các nghiên cứu ở Mỹ và nghiên cứu sức khỏe nhân

viên y tế (15,9%) [116]. Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu của chúng tôi lại

thấp hơn so với kết quả nghiên cứu của Mohammad Khassawneh và cộng

sự, tỷ lệ trẻ bú sữa mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu chiếm 58,3%, vừa bú sữa

mẹ vừa ăn thêm sữa bột, nước cháo,… chiếm 30,3% và ăn sữa bột hoàn toàn

chiếm 11,4% [120]. Nghiên cứu của Sumera Ali, tỷ lệ trẻ được bú sữa mẹ

hoàn toàn trong 6 tháng đầu là 54% [74]. Kết quả thấp hơn so với nghiên

cứu ở Uganda (49,8%) [149]. Nghiên cứu của Jennifer HG, Muthukumar K

[113] tỷ lệ trẻ bú sữa mẹ hoàn toàn chiếm 68% so với tiêu chuẩn quốc gia

của Ấn Độ [137] cao hơn và cũng tương đương với các kết quả nghiên cứu

của các tác giả khác ở khu vực ngoài Ấn Độ [151]. Theo tổng quan của Al

Juaid DA, Binns CW, Giglia RC [118] về các nghiên cứu nuôi con bằng sữa

mẹ ở A-rập Xê-út từ kết quả nghiên cứu của El Mouzan và cộng sự [134] chỉ

có 8% bà mẹ cho con bú sữa mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu và kết quả này

trái ngược với kết quả nghiên cứu ở vùng trung tâm của A-rập Xê-út [102]

chỉ có 1,7% bà mẹ cho con bú sữa mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu. Nghiên

cứu của Mekuria G và cộng sự [131] tỷ lệ bà mẹ cho con bú sữa mẹ hoàn

toàn tới 60,8%, trong khi đó kết quả nghiên cứu của Jones JR và cộng sự

[116] ở Mỹ chỉ có 16,8%, Brazil 29,8% [130], Klang Malaysia 32,8% [121],

Peninsular Malaysia 43,1% [122], Tamil Nadu Ấn Độ 34% [152], Nagpur

Ấn Độ 36,84% [80], Al-Hassa A-rập Xê-út 24,4% [100], Ai Cập 9,7%

[103], Nigeria 31% [140], Tây Tanzania 58% [139], Harar Đông Ethiopia

51,8% [119], Arbaminch Nam Ethiopia 46,5% [126] và quận Mida-Woremo

ở khu Amhara Bắc Ethiopia 58,3% [101]. Một số nghiên cứu có tỷ lệ bú sữa

mẹ hoàn toàn cao như nghiên cứu ở một trung tâm y tế nội đô ở Tây Ấn Độ

61,5% [154], Zahedan Iran 98% [127] và quận Goba ở Đông Nam Ethiopia

109

71,3% [162]. Niguse Tadele và cộng sự [163] nghiên cứu ở Tây Nam

Ethiopia trên những bà mẹ có con dưới 24 tháng tuổi chỉ có 36,4% cho con

bú sữa mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu trong khi đó báo cáo của chính phủ

Ethiopia tỷ lệ này đạt tới 52%, ở các vùng khác của Ethiopia như Arba

minch Zuriya, Bedelle, Southern Ethiopia, Harar, North Gondar Zone, Debre

Berhan và Ambo Woreda West Shoa Zone Oromia tỷ lệ trẻ được bú sữa mẹ

hoàn toàn trong 6 tháng đầu 55,6%; 43,6%; 48,2%; 51,8%; 35,9%; 68,6% và

82,2% [119], [164], [177], [78], [83]. Nghiên cứu của Shifraw T và cộng sự

[157] ở Addis Ababa, Ethiopia tỷ lệ bà mẹ cho con bú sữa mẹ hoàn toàn

trong 6 tháng đầu đạt 29,3% và kết quả nghiên cứu này của Al Binali [75]

cũng ở Addis Ababa, Ethiopia tỷ lệ bà mẹ là giáo viên cho con bú sữa mẹ

hoàn toàn trong 6 tháng đầu chỉ có 8,3% và của Babakazo P và cộng sự

[145] ở Kinshasa, Congo cũng đạt 2,8%. Nghiên cứu của Asemahagn MA và

cộng sự, tỷ lệ trẻ được bú sữa mẹ hoàn toàn trong 3 tháng tới 97% nhưng 6

tháng còn 62% [77]. Nghiên cứu tại vùng Oromia tỷ lệ trẻ được bú sữa mẹ

hoàn toàn 4 tháng là 56,7% và 6 tháng đạt 49% [73]. Theo Onah S và cộng

sự [142] các bà mẹ có nhận thức và kiến thức tốt về nuôi con hoàn toàn bằng

sữa mẹ rất cao nhưng thực hành rất hạn chế, chỉ có khoảng 34% trẻ được bú

sữa mẹ hoàn toàn và tỷ lệ được bú sữa mẹ hoàn toàn 1 - 2 tháng khoảng 64%

xuống còn vào khoảng 4% ở trẻ 5 - 6 tháng tuổi và tỷ lệ trẻ dưới 6 tuổi bú

sữa mẹ hoàn toàn trong nghiên cứu của Onah S và cộng sự còn thấp hơn

nghiên cứu ở Harcout cảng Nam Nigeria (58%) [84] và ở Sokoto Bắc

Nigeria (41%) [79].

Lý do của sự khác nhau này có thể giải thích do cỡ mẫu nghiên cứu

của chúng tôi bé hơn so với một số nghiên cứu như Giám sát dinh dưỡng,

Điều tra sức khỏe cộng đồng Canada, mặt khác cũng do nhận thức của các

bà mẹ ngày càng được nâng cao, mỗi gia đình chỉ sinh từ 1 đến 2 con nên tỷ

110

lệ cho trẻ bú mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu tăng. Nhưng ở đây chúng ta

cần bàn đến một số lý do làm cho bà mẹ không cho con bú sữa mẹ hoàn toàn

trong 6 tháng đầu. Mặc dù những người mẹ này hoàn toàn đủ sữa cho con

bú, tuy nhiên do thời gian qui định về chế độ nghỉ thai sản thời điểm nghiên

cứu ban đầu chỉ có 4 tháng, nên những bà mẹ là cán bộ, công nhân, viên

chức, giáo viên,… đến tháng thứ 3 hoặc tháng thứ 4 bắt buộc phải cho con

ăn bổ sung sớm để đảm bảo đủ chất dinh dưỡng cho trẻ, như ý kiến của một

phụ nữ có con dưới 25 tháng tuổi nói “mặc dù em vẫn thừa sữa cho con bú

đến 6 tháng mới cho ăn sam nhưng vì hết tháng thứ 4 em phải đi làm, đi làm

xa nhà 4 - 5km, thời gian qui định cho trẻ bú chỉ được 30 phút mỗi buổi, em

không đủ thời gian quay về nhà cho trẻ bú, do vậy bắt buộc tụi em phải cho

trẻ ăn sam sớm”. Kết quả nghiên cứu của Adekemi E Olowookere và cộng

sự cũng cho thấy một lý do làm cho các bà mẹ ở Nigeria không có con bú

sữa mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu là do chỉ được nghỉ đẻ 3 tháng và tại nơi

làm việc không có chỗ để các bà mẹ cho con bú sữa mẹ [141]. Một lý do làm

rào cản cho phụ nữ không thể nuôi con hoàn toàn bằng sữa mẹ đó là hiện

nay trên thị trường có quá nhiều loại sữa và các nhà sản xuất lại có những

khuyến mại cho các bà mẹ nhất là bà mẹ đang mang thai về sữa non Mama

có đầy đủ các chất như sữa non của mẹ. Trong thời gian tới nên tuyên truyền

sâu hơn về lợi ích của sữa mẹ, BMHT, cách ngậm bắt vú đúng cách giúp trẻ

bú hiệu quả và cách bảo quản sữa mẹ vắt ra dự trữ cho trẻ ăn khi mẹ vắng

nhà, từ đó duy trì nguồn sữa mẹ dồi dào hơn và đảm bảo bà mẹ có thể cho

con bú hoàn toàn trong 6 tháng đầu.

Khoảng thời gian trẻ được nuôi bằng sữa mẹ:

Nghiên cứu của chúng tôi chỉ ra rằng, tỷ lệ bà mẹ thực hành đúng là

cho con bú từ đến 24 tháng và có thể duy trì lâu hơn chỉ có 16,1%. Gần một

nửa số bà mẹ thực hành cai sữa cho con trong khoảng 18 - 23 tháng tuổi

111

(49,5%). Tỷ lệ trẻ bị cai sữa sớm trước 18 tháng tuổi là 34,4%, trong đó dưới

12 tháng lên tới 5,8%.

So sánh với các nghiên cứu khác theo thời gian cho thấy, thời gian cai

sữa cho trẻ đã có những thay đổi đáng ghi nhận. Nghiên cứu của Đào Ngọc

Diễn và Nguyễn Trọng An (1983) cho thấy thời gian cai sữa trung bình là 12

tháng, trong đó 13,4% trẻ được cai sữa trước 12 tháng tuổi [7]. Nghiên cứu

của Hà Huy Khôi, Trần Thị Phúc Nguyệt và cộng sự (1988) cho thấy tỷ lệ

trẻ ở nội thành Hà Nội bú mẹ tới 1 tuổi chỉ đạt 40%, có 3% trẻ được bú mẹ

dưới 18 tháng [31]. Nghiên cứu của Nguyễn Đình Quang (1996) thì tỷ lệ trẻ

12 tháng tiếp tục được bú mẹ là 60%. Có 50% trẻ cai sữa trong độ tuổi từ

13-18 tháng, trên 18 tháng có 13,6% trẻ ở nội thành và 23,1% trẻ ở ngoại

thành cai sữa [53]. Còn trong một số nghiên cứu gần đây như của Cao Thu

Hương, Phạm Thúy Hòa và cộng sự ở các vùng sinh thái khác nhau cho thấy

hầu hết các bà mẹ cho con bú đến 1 tuổi (92,8%) và số trẻ từ 12-23 tháng

được bú mẹ là 52% [19]. Một nghiên cứu khác của Phạm Văn Hoan, Vũ

Quang Huy và cộng sự ở một số xã thuộc Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Ngãi,

Lai Châu, Điện Biên năm 2005 và Hà Tây năm 2006 cho thấy tỉ lệ trẻ 6-11

tháng tuổi tiếp tục được bú sữa mẹ rất cao (100%) ở Nghệ An, Hà Tĩnh,

Quảng Nghãi và Quảng Bình, tỉ lệ này thấp hơn ở Điện Biên và Lai Châu

(91,7%). 100% trẻ ở Nghệ An, Quảng Ngãi vẫn được bú khi trẻ 12-17 tháng

tuổi và thậm chí đến 18 - 23 tháng tỉ lệ còn cho bú vẫn rất cao (80% và 70,6)

[15]. Tỷ lệ bà mẹ cho trẻ bú mẹ đến 2 tuổi theo UNICEF khảo sát năm 2009

có sự khác biệt giữa các nước rất rõ: Nepal 95,0%, Benin 92,0%,

Bangladesh 91,0%, Ethiopia 88,0%, Myanmar 67,0%, nhưng Jordan chỉ

11,0%, Bosnia 6,0% [69]. Theo tổng quan của Al Juaid DA, Binns

CW, Giglia RC về các nghiên cứu nuôi con bằng sữa mẹ ở A-rập Xê-út, thời

gian trung bình cho con bú sữa mẹ trong các nghiên cứu về bú sữa mẹ ở A-

112

rập Xê-út giảm dần từ 13,4 tháng trong nghiên cứu năm 1987 xuống còn 6,8

tháng năm 1999 và đến năm 2010 thời gian cho con bú sữa mẹ lên đến 8,5

tháng; tác giả giải thích do có sự khác nhau về mẫu cũng như chọn mẫu

nghiên cứu mà thời gian cho con bú sữa mẹ khác nhau từ các nghiên cứu mà

tác giả đã tổng hợp [118].

Việt Nam có đến 93% bà mẹ nuôi con bằng sữa mẹ [60]. Tỷ lệ bà mẹ

Việt Nam cho con bú từ 18 - 24 tháng rất cao trong những năm gần đây cho

thấy công tác truyền thông giáo dục sức khỏe cùng với thực tiễn về lợi ích

của sữa mẹ đã thay đổi căn bản thực hành nuôi con bằng sữa mẹ ở nhiều

vùng miền trên cả nước [2], [6], [34].

Với các kết quả nghiên cứu cho thấy rằng tỉ lệ trẻ được bú mẹ ở các

lứa tuổi trong thời gian gần đây đã kéo dài hơn, điều đó chứng tỏ nhận thức

cũng như thực hành của các bà mẹ về NCBSM đã được nâng cao. Sự thay

đổi về nhận thức của các bà mẹ có thể là do các nguồn thông tin về nuôi con

bằng sữa mẹ, các hướng dẫn nuôi con có sẵn và nhất là trong thời buổi hiện

nay sự bùng nổ của internet, giúp các bà mẹ hiểu được thời gian cai sữa

thích hợp cho con và lợi ích tới sức khỏe của mẹ. Tuy nhiên, nuôi con bằng

sữa mẹ vẫn còn một số rào cản như sự phổ biến của sữa bột có thể thay thế

sữa mẹ được quảng cáo và bán trên thị trường “những bạn bằng lứa tuổi bọn

em nhà có kinh tế và do mải làm ăn đã cai sữa cho con mới được 12 tháng

Mặc dù truyền thống ở Việt Nam là nuôi con bằng sữa mẹ nhưng do hiện

nay ảnh hưởng của nền kinh tế thị trường, người cha, người mẹ mải lo làm kinh

tế và ảnh hưởng của sữa bột có thể phần nào dẫn tới thực hành nuôi con bằng

sữa mẹ chưa tốt. Do vậy đây là một điểm mấu chốt cần quan tâm trong các giai

đoạn can thiệp tiếp theo nhằm nâng cao tỷ lệ bà mẹ cho con bú sớm, bú sữa mẹ

hoàn toàn trong vòng 6 tháng đầu và thời gian cho bú kéo dài đến 2 năm.

tuổi, họ cũng không hiểu tại sao phải cho con bú kéo dài…” (TLN bà mẹ).

113

4.2.2. Kiến thức, thái độ về việc nuôi con bằng sữa mẹ của những đối

tượng phụ nữ có con từ 0-25 tháng tuổi

4.2.2.1. Kiến thức về nuôi con bằng sữa mẹ

Sữa mẹ là nguồn thức ăn lý tưởng cho trẻ trong 6 tháng đầu đời.

Nhưng trong cuộc sống hiện đại, người phụ nữ không có nhiều thời gian

dành cho con bú. Trong khi đó để nuôi con bằng sữa mẹ, người mẹ phải ăn

nhiều chất điều này có thể dẫn tới việc bà mẹ tăng cân không kiểm soát.

Theo khuyến cáo của UNICEF và Tổ chức Y tế thế giới (WHO), các bà mẹ

nên cho con bú hoàn toàn sữa mẹ trong 6 tháng, chỉ bổ sung thêm vitamin

cho những ngoại lệ thật cần thiết, sau đó trẻ tiếp tục được nuôi bằng sữa mẹ

ít nhất trong hai năm đầu, kết hợp với thức ăn bổ sung để cung cấp cho trẻ

một chế độ ăn đầy đủ cho sức khỏe.

Chúng ta đều biết thời gian nuôi con bằng sữa mẹ quá ngắn sẽ ảnh

hưởng không tốt đến sức khoẻ và sự phát triển trí, lực cho bé. Vì thức ăn bổ

sung thay thế sữa mẹ giá trị dinh dưỡng không đủ cho trẻ, gây nhiều nguy cơ

suy dinh dưỡng, giảm đề kháng với bệnh tật. Trẻ sẽ dễ bị nhiễm khuẩn cũng

như có nguy cơ mắc các bệnh truyền nhiễm. Nghiên cứu của chúng tôi cho

thấy, tỷ lệ bà mẹ có kiến thức đúng là nên cho trẻ bú sữa mẹ hoàn toàn trong

6 tháng đầu là 74,0%. Kết quả này khá tương đồng so với nghiên cứu của

Đào Thi ̣ Hồ ng Huê ̣ (2011) ta ̣i Chiêm Hó a, Tuyên Quang là 67,9% [18] và tác giả Nguyễn Thành Quân (2011) ta ̣i Hưng Yên và Hò a Bình [52], nghiên cứu của Bùi Trần Minh Nguyệt năm 2012 tại Lạc Sơn, Hòa Bình là 82,8%

[39]. Tuy nhiên lại cao hơn kết quả nghiên cứu của Vũ Phương Hà năm

2010 tại Quảng Trị là 47,0% [13] và nghiên cứu của Bùi Thị Duyên năm

2013 là 53,5% [10]. Kiến thức về bú mẹ sữa hoàn toàn của các bà mẹ là

khác nhau giữa các vùng miền. Nghiên cứu của chúng tôi cũng cho thấy, tỷ

lệ bà mẹ có kiến thức đúng cao hơn thực hành. Nguyên nhân chính dẫn tớ i

114

sư ̣ mâu thuẫn giữa kiến thứ c và thư ̣c hành phải chăng do sư ̣ tồ n ta ̣i củ a các yếu tố cản trở khiến các bà me ̣ không thể cho trẻ bú hoàn toàn trong 6 tháng

như các bà me ̣ thiếu sữa, các bà me ̣ phải đi làm hay do ảnh hưởng của người thân trong gia đình. Do đó , cần thiết phải có những hỗ trơ ̣ nhất định cho bà mẹ như chế đô ̣ nghỉ thai sản đầy đủ , hơ ̣p lý và môi trườ ng làm viê ̣c hỗ trơ ̣ cho viê ̣c chăm só c trẻ ban ngày củ a ngườ i thân khi bà me ̣ đi làm cũng rất cần đươ ̣c chú tro ̣ng trong các biê ̣n pháp can thiê ̣p dinh dưỡng thú c đẩy viê ̣c

nuôi con bằ ng sữa me ̣ hoàn toàn trong 6 tháng đầu.

Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy, khoảng một nửa số bà mẹ cho biết

lợi ích của sữa mẹ là có chứa nhiều chất kháng thể có lợi cho con khi con

được bú mẹ ngay sau sinh (57,6%) và sữa mẹ chứa đủ chất dinh dưỡng cần

thiết giúp cho trẻ khỏe mạnh và phát triển bình thường trong 6 tháng đầu mà

không cần phải ăn thêm bất kỳ thức ăn nào cũng như uống thêm nước

(49,9%). Một số lợi ích khác của nuôi con bằng sữa mẹ cũng được nhiều bà

mẹ đưa ra như sữa mẹ giúp trẻ khỏe mạnh (36,5%), tốt cho hệ tiêu hóa của

trẻ (24,6%),… Tuy nhiên, một số lợi ích quan trọng của sữa mẹ chưa được

nhiều bà mẹ nhắc đến như tác dụng giúp mẹ tránh thai tốt không cần sử dụng

các biện pháp tránh thai khác, tạo kết gắn giữa mẹ với con, là loại thức ăn

tinh khiết và an toàn,… Tương tự với nghiên cứu của chúng tôi, kết quả

nghiên cứu của Mohammad Khassawneh và cộng sự ở những phụ nữ có con

từ 6 đến 36 tháng tuổi có kiến thức về lợi ích của sữa mẹ giúp cho trẻ không

bị bệnh tiêu chảy đạt điểm rất cao, tới 84 điểm và là biện pháp tránh thai tốt

cho mẹ (68 điểm) [120]. Kết quả nghiên cứu của Tjiang L, Binns C 93%

sinh viên biết sữa mẹ là thức ăn đầu tiên đối với trẻ sơ sinh và 86% số sinh

viên biết được các lợi ích của sữa mẹ đối với trẻ, nhưng có tới 29% số sinh

viên không biết việc cho trẻ sơ sinh bú sữa mẹ càng sớm càng tốt [125]. Kết

quả nghiên cứu của Sushma Sriram và cộng sự 96% số bà mẹ tham gia

115

nghiên cứu có kiến thức nuôi con hoàn toàn bằng sữa mẹ và 90,67% biết

được lợi ích của sữa non tốt cho sức khỏe của bé, 36% số bà mẹ được chồng

hỗ trợ cho việc nuôi con bằng sữa mẹ, 78,67% số bà mẹ đã được các thầy

thuốc tư vấn nuôi con bằng sữa mẹ [159]. Theo kết quả nghiên cứu của

Adekemi E Olowookere và cộng sự, 71,3% phụ nữ sống vùng ngoại ô của

các thành phố ở Algeria có kiến thức tốt về nuôi con bằng sữa mẹ và có tới

54,0% có thái độ tích cực [141]. Theo Bartington và cộng sự những bà mẹ

sinh con tại bệnh viện thường cho con bú sữa mẹ ngay sau sinh nhiều hơn so

với những bà mẹ sinh con ở nhà hoặc không phải từ bệnh viện [82]. Kết quả

nghiên cứu của các tác giả khác ở Nigeria cũng khẳng định các bà mẹ ở khu

vực này có kiến thức về nuôi con bằng sữa mẹ hoàn toàn [72], [99], [165].

Có 93,6% bà mẹ có con dưới 24 tháng tuổi đã được nghe về nuôi con bằng

sữa mẹ hoàn toàn ở thị trấn Mizan Aman, Tây Nam Ethiopia và kết quả này

cũng tương đương với các nghiên cứu khác ở cùng địa phương và các nước

khác [163]. Wolde T và cộng sự nghiên cứu ở thị trấn Bedelle, Tây Nam

Ethiopia thấy rằng có 91,8% bà mẹ biết được tầm quan trọng của việc cho

con bú sữa mẹ hoàn toàn; 59,3% bà mẹ đã cho con bú sữa mẹ hoàn toàn

trong 6 tháng đầu và 89,5% số bà mẹ tham gia nghiên cứu có nhu cầu là cho

con bú sữa mẹ hoàn toàn [177]. 90,8% bà mẹ ở Ambo Woreda vành đai Tây

Shoa, khu vực Oromia, Ethiopia [83] và 88,0% bà mẹ ở Nigeria đã được

nghe về cho con bú sữa mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu, nhưng thực hành

cho con bú sữa mẹ chỉ có 1/3 (34,7%) [157], Nghiên cứu của Tamiru D và

cộng sự ở Arba minch Zuriya cho thấy kiến thức của bà mẹ về nuôi con

bằng sữa mẹ đạt tới 83,4% [164]. Trong kết quả nghiên cứu của Asfaw MM

và cộng sự có tới 97,5% bà mẹ đã nghe nói về bú sữa mẹ hoàn toàn và có tới

83,4% số bà mẹ trong nghiên cứu này đã biết chính xác thời gian cho trẻ bú

sữa mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu sau sinh [78]. Kết quả nghiên cứu ở

116

Kigali, Rwanda và thị trấn Kware của Bang Sokoto, Nigeria những bà mẹ

biết được thời gian cho con bú sữa mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu thấp hơn

so với nghiên cứu của Asfaw MM. Những bà mẹ tị nạn sống ở vùng thành

thị Kingali của Rwanda có tới 74,4% [115] có kiến thức về thời gian cho con

bú sữa mẹ hoàn toàn và 31,0% phụ nữ ở tuổi sinh đẻ sống ở vùng thị trấn

nhỏ có kiến thức về thời gian cho con bú sữa mẹ hoàn toàn [140]. Nghiên

cứu ở vùng Tây Nam Ethiopia có tới 2/3 số bà mẹ (67,0%) không có kiến

thức về nuôi con bằng sữa mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu.

Kết quả nghiên cứu của các tác giả cũng tương đồng với kết quả

nghiên cứu của chúng tôi việc cho con bú sữa mẹ sẽ tạo sự kết gắn giữa mẹ

và con [141], [123], [90], và cho cho bú thường xuyên sẽ giảm được vàng da

ở trẻ sơ sinh, trẻ phát triển tốt hơn so với trẻ nuôi con bằng sữa công thức

[71].

Điều này cho thấy, cần thiết phải tăng cường các hoạt động truyền

thông nhằm nâng cao nhận thức của bà mẹ về lợi ích của nuôi con bằng sữa

mẹ, từ đó cải thiện thực hành của bà mẹ.

Sữa mẹ không chỉ là thức ăn cho trẻ. Trong năm đầu tiên, hệ thống

miễn dịch của trẻ chưa phát triển đầy đủ và không thể chống lại các bệnh

nhiễm trùng, do đó sữa mẹ đặc biệt quan trọng trong việc tăng cường miễn

dịch cho trẻ. Với trẻ dưới 12 tháng tuổi, sữa mẹ là thức ăn quí giá nhất mà

không một thức ăn nhân tạo nào có thể so sánh được [58]. Nhiều nghiên cứu

chỉ rõ tỉ lệ SDD và mắc các bệnh nhiễm trùng hô hấp, tiêu chảy cao hơn một

cách có ý nghĩa ở nhóm trẻ mẹ bị thiếu sữa mẹ [35], [112]. Nhiều nghiên

cứu có nhận định là ở vùng nông thôn tình hình nuôi con bằng sữa mẹ luôn

có xu hướng tích cực hơn so với ở thành thị [30], [111], nhất là vùng nông

thôn ở các nước đang phát triển [173]. Trẻ cần được bú mẹ thường xuyên,

nên bú kéo dài từ 18 đến 24 tháng tuổi [67]. Kết quả nghiên cứu của chúng

117

tôi chỉ ra rằng 61,2% bà mẹ tham gia nghiên cứu cho rằng thời gian cai sữa

cho con tốt nhất là từ 24 tháng tuổi trở lên, 29,9% cho rằng nên cai sữa cho

trẻ khi trẻ từ 18 đến 23 tháng tuổi và chỉ có 9,9% bà mẹ cho rằng thời gian

cai sữa thích hợp cho con là dưới 18 tháng tuổi. Kiến thức của bà mẹ ảnh

hưởng rất nhiều tới thực hành của họ. Nếu chúng ta có biện pháp can thiệp

như giáo dục cho các bà mẹ về lợi ích của nuôi con bằng sữa mẹ và lợi ích

của việc cho con bú sữa mẹ đối với bà mẹ, thời gian cai sữa mẹ thì tỷ lệ này

có thể được cải thiện trong tương lai.

Nguồn thông tin giúp cho bà mẹ nuôi con bằng sữa mẹ chủ yếu là từ

tivi, đài báo (72,2%). Tiếp đến là từ cán bộ y tế (26,4%), người thân (21,7%)

và cán bộ hội phụ nữ (18,7%). Nghiên cứu của Bùi Thị Duyên và cộng sự

cũng cho kết quả tương tự, thông tin về nuôi con hoàn toàn bằng sữa mẹ mà

bà mẹ được nhận phần lớn là từ nguồn thông tin đại chúng (tivi, đài, báo)

chiếm tới 71,4% [10]. Trong nghiên cứu của chúng tôi, chỉ có 0,5% số đối

tượng nghiên cứu đề cập đến việc hiểu biết kiến thức nuôi con bằng sữa mẹ

qua kênh câu lạc bộ. Đây là một kênh thông tin chưa được áp dụng rộng rãi

để đưa vào công tác truyền thông về sức khỏe nói chung và về nuôi con bằng

sữa mẹ nói riêng. Kết quả từ thảo luận nhóm có nhiều ý kiến cho rằng: “hiện

nay ở địa phương em có nhiều câu lạc bộ lắm, lúc đầu khai trương thì rất

rầm rộ sau đó thì đi vào dĩ vãng. Theo em nên chỉ cần xây dựng một câu lạc

bộ và câu lạc bộ này phải đi sâu vào các chuyên đề, như chuyên đề nuôi con

bằng sữa mẹ và khi sinh hoạt cần mời những cán bộ có chuyên môn từ trên

xuống hướng dẫn cho chúng em thì mới có hiệu quả” (TLN bà mẹ). Do đó,

cần tăng cường các hình thức truyền thông trực tiếp từ phía cán bộ y tế, cán

bộ hội phụ nữ, câu lạc bộ nuôi con bằng sữa mẹ để bà mẹ dễ dàng tiếp cận

hơn với các nguồn thông tin.

118

4.2.2.2. Thái độ nuôi con bằng sữa mẹ

Hầu hết các bà mẹ tham gia nghiên cứu của chúng tôi đều có thái độ

tích cực hoặc rất tích cực đối với các vấn đề trong thực hành nuôi con bằng

sữa mẹ. 73,8% bà mẹ đồng ý và 25,5% rất đồng ý là nuôi con bằng sữa mẹ

giúp trẻ không bị bệnh tật/tránh được viêm nhiễm; 98,4% bà mẹ cho rằng

nuôi con bằng sữa mẹ tạo được sự kết gắn giữa mẹ và con. Tỷ lệ phụ nữ

đồng ý/rất đồng ý là nuôi con bằng sữa mẹ giúp cho trẻ khỏe mạnh hơn

những trẻ không được nuôi bằng sữa mẹ chiếm 96,9% và nuôi con bằng sữa

mẹ giúp trẻ không bị bệnh tật (98,6%). 92,4% bà mẹ đồng ý, rất đồng ý với

quan điểm nuôi con bằng sữa mẹ không gặp khó khăn trong việc chăm sóc

gia đình cao và 92,8% cho rằng nuôi con bằng sữa mẹ là cách tốt nhất để

giảm chi tiêu trong gia đình. 94,9% bà mẹ đồng ý và rất đồng ý là làm mẹ là

phải nuôi con bằng sữa mẹ, tuy nhiên vẫn có 5,1% bà mẹ không đồng ý với

quan điểm này. Kết quả nghiên cứu của GlobleScan ở 4 thành phố lớn: Hà

Nội, Hồ Chí Minh, Cần Thơ, Đà Nẵng cũng cho kết quả tương tự [26]. Thái

độ đối với nuôi con bằng sữa mẹ hầu hết là rất tích cực. Phần lớn những

người được hỏi đều đồng ý là lợi ích khi nuôi con bằng sữa mẹ là con có sức

khỏe và dinh dưỡng tốt, lại gắn kết về tình cảm mẹ con, nhất là thái độ về

nuôi con bằng sữa mẹ giúp bảo vệ trẻ em khỏi bệnh tật/tránh được viêm

nhiễm, nuôi con bằng sữa mẹ tạo được sự gắn kết đặc biệt giữa mẹ và con

mà sự bú bình không có được, trẻ nuôi bằng sữa mẹ khỏe mạnh hơn những

trẻ khác và sữa mẹ bao gồm đủ các chất mà trẻ cần tăng trưởng. Kết quả

nghiên cứu của Mohammad Khassawneh và cộng sự, điểm về thái độ của

các đối tượng về nuôi con bằng sữa mẹ dễ hơn nuôi con bằng sữa bột đạt tới

84 điểm, nuôi con bằng sữa mẹ giảm sự chi tiêu trong gia đình đạt 81 điểm,

nuôi con bằng sữa mẹ không gặp khó khăn trong việc chăm sóc gia đình đạt

71 điểm [120]. Do sự khác biệt về thang điểm của chúng tôi chỉ chia là 3

119

mức độ: 1 điểm, 2 điểm và 3 điểm nên cũng khó thể so sánh với tác giả

Mahammad Khassawneh, nhưng cũng cho thấy điểm trung bình của các đối

tượng trả lời vượt mức 2 điểm.

Nghiên cứu tại thị trấn Bedelle, Ethiopia 87,3% bà mẹ có thái độ tích

cực về việc cho con bú sữa mẹ hoàn toàn [177]. Nghiên cứu ở Debre Berhan

Ethiopia [78] 97,5% bà mẹ có thái độ tích cực về việc cho con bú sữa mẹ

hoàn toàn nhưng kết quả nghiên cứu của Eshetu K và cộng sự [132] ở Nam

Ethiopia tỷ lệ bà mẹ có thái độ hài lòng với việc cho con bú sữa mẹ hoàn

toàn chỉ đạt 56,7%, ở Nigeria chỉ có 50% [141].

Nghiên cứu của Asfaw MM và cộng sự [78] cũng cho thấy tỷ lệ cao

bà mẹ (97,5%) có thái độ tích cực về thực hành nuôi con bằng sữa mẹ, trong

khi đó các bà mẹ ở A-rập Xê-út có 90,1% có thái độ tích cực [75].

Theo kết quả điều tra về nghỉ thai sản và nuôi con bằng sữa mẹ của

lao động nữ đối với 1.500 phụ nữ tại các doanh nghiệp, 77,7% phụ nữ được

hỏi đều hiểu được rằng cách chăm sóc tốt hơn cho trẻ là cho bú sữa mẹ.

79,6% phụ nữ được hỏi đều cho rằng nên cho trẻ bú sữa mẹ hoàn toàn trong

6 tháng đầu, và 68,9% đồng ý với ý kiến cho trẻ ăn dặm sau khi trẻ được 6

tháng tuổi. 44,8% người được hỏi hoàn toàn đồng ý với nhận định cho trẻ bú

sữa mẹ tới 2 tuổi thì trẻ sẽ khỏe mạnh 42,5% người đồng ý với nhận định

trên. Qua kết quả của khảo sát trên có thể thấy được sự hiểu biết các kiến

thức về dinh dưỡng trẻ em và nuôi con bằng sữa mẹ của các bà mẹ là khá

tốt, phần lớn các bà mẹ đã hiểu được vai trò của sữa mẹ tới sự phát triển của

trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ cũng như vai trò của việc cho trẻ bú mẹ hoàn toàn

trong 6 tháng đầu và lợi ích cho con bú cho tới khi trẻ được hai tuổi [64].

Việc các đối tượng có thái độ nuôi con bằng sữa mẹ chỉ tập trung ở mức độ

đồng ý là một vấn đề cũng cần phải được quan tâm trong các hoạt động

truyền thông. Do đó, việc nâng cao nhận thức của bà mẹ và từ đó bà mẹ sẽ

120

có thái độ tốt hơn trong việc nuôi con bằng sữa mẹ.

Song song với những thái độ tích cực, còn có nhiều bà mẹ có thái độ

tiêu cực như 24,4% bà mẹ đồng ý/rất đồng ý với quan niệm nuôi con bằng

sữa bột giúp trẻ có thân hình khỏe mạnh và chống được béo phì. Tỷ lệ phụ

nữ đồng ý/rất đồng ý là phụ nữ không nên cho con bú nơi công cộng chiếm

42,7%. Và vẫn có 16,0% bà mẹ cho rằng nuôi con bằng sữa mẹ làm mất thời

gian của mẹ. Kết quả nghiên cứu của GlobleScan cho thấy tỷ lệ không đồng

ý với những quan điểm này, thấp nhất là từ 24% đến cao nhất là 37% [26].

Kết quả nghiên cứu của Mohammad Khassawneh chỉ có 21 điểm cho thái độ

nuôi con bằng sữa mẹ giúp cho trẻ có thân hình khỏe mạnh và chống được

béo phì [120]. Nghiên cứu của Sumera Ali cũng chỉ ra rằng, đa số các bà mẹ

đã có nhận thức đúng về lợi ích (92%) và các nhược điểm của việc cho con

bú mẹ (85%), tuy nhiên vẫn có nhiều bà mẹ nhận thức chưa đúng về việc

cho con sử dụng sữa công thức và cho rằng việc cho con bú làm bà mẹ yếu

đi [74]. Nghiên cứu của Adekemi E Olowookere và cộng sự hơn 50% bà mẹ

có thái đội tích cực về nuôi con bằng sữa mẹ và nghiên cứu của tác giả cũng

tương đồng với nghiên cứu của các tác giả khác về thực hành cho con bú sữa

mẹ hoàn toàn [141], [124], [147]. Sự khác nhau về thái độ giữa nghiên cứu

của chúng tôi với các tác giả có thể do những đặc tính về dân số xã hội,

chủng tộc, kinh tế, nghề nghiệp, trình độ học vấn và cỡ mẫu nghiên cứu khác

nhau.

Việc thay đổi thái độ của bà mẹ trong việc chăm sóc trẻ nói chung và

nuôi con bằng sữa mẹ nói riêng vẫn là một vấn đề cần được quan tâm và

nghiên cứu trong thời gian tới nhằm nâng cao thực hành của bà mẹ.

121

4.3. Hiệu quả can thiệp giáo dục truyền thông nâng cao kiến thức, thái

độ về việc nuôi con bằng sữa mẹ

Trong nghiên cứu của chúng tôi, mô hình câu lạc bộ NCBSM đã được

triển khai tại 3 tỉnh Hà Nam, Lào Cai và Quảng Bình vào các năm 2013,

2014 và 2015 nhằm truyền thông giáo dục, nâng cao kiến thức, thái độ, thực

hành nuôi con bằng sữa mẹ của người dân nói chung và đặc biệt là phụ nữ

đang mang thai, có con từ 0-25 tháng tuổi nói riêng. Lịch sinh hoạt CLB

cũng rất đa dạng, phụ thuộc vào điều kiện thực tế của từng địa phương. Địa

điểm sinh hoạt CLB thường được tổ chức tại các nhà văn hóa thôn, hoặc ở

hội trường của UBND xã, thời gian mỗi buổi sinh hoạt từ 1,5 đến 2 tiếng.

Nội dung truyền thông trong các buổi sinh hoạt CLB NCBSM đã được

hướng dẫn cụ thể theo cuốn sách “Cẩm nang Nuôi con bằng sữa mẹ” cung

cấp cho Ban chủ nhiệm CLB, chủ yếu gồm 8 chủ đề đã được qui định sẵn;

các tờ rơi và tranh lật, video clip về cách cho trẻ bú đúng,… Ngoài ra, trong

các buổi sinh hoạt CLB còn lồng ghép một số nội dung khác để trang bị

thêm kiến thức cần thiết cho các bà mẹ, đồng thời làm phong phú thêm nội

dung truyền thông như kiến thức làm mẹ an toàn với những hướng dẫn về

cách chăm sóc trẻ sơ sinh, chăm sóc cho mẹ trước, trong khi mang thai và

sau khi sinh, kiến thức chăm sóc sức khỏe sinh sản,…

Kết quả nghiên cứu của chúng tôi đã chỉ ra một số hiệu quả nhất định

của can thiệp giáo dục truyền thông tới nâng cao kiến thức, thái độ về việc

nuôi con bằng sữa mẹ của bà mẹ tham gia nghiên cứu. Trước can thiệp, tỷ lệ

phụ nữ có con 0 - 25 tháng tuổi lựa chọn cho con bú mẹ hoàn toàn tới

96,6%, sau can thiệp tỷ lệ này tăng lên 98,1% với chỉ số hiệu quả là 1,5%.

Tỷ lệ bà mẹ cho rằng nên cho trẻ bú sữa mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu

tăng từ 71,2% trước can thiệp lên 97,3% sau can thiệp, chỉ số hiệu quả can

thiệp đạt 36,3%. Kiến thức về thời điểm cai sữa cho trẻ cũng có những thay

122

đổi rõ rệt sau can thiệp. Tỷ lệ bà mẹ cho rằng nên cai sữa cho trẻ từ sau 24

tháng trở lên tăng từ 53,6% trước can thiệp lên 82% sau can thiệp với chỉ số

hiệu quả can thiệp đạt 53%. Trước can thiệp, tỷ lệ các bà mẹ biết các lợi ích

của sữa mẹ là không cao, dao động từ 2,7% (sữa mẹ chứa nhiều khoáng

chất) tới cao nhất là 57,1% (sữa mẹ chứa đủ chất). Sau can thiệp, hầu hết

các bà mẹ đã biết được các lợi ích của sữa mẹ, từ 93,4% đến 99,2%. Chỉ số

hiệu quả can thiệp khá cao, thấp nhất là biết sữa mẹ chứa đủ chất (73,7%) và

cao nhất là biết sữa mẹ chứa nhiều khoáng chất (3.377,8%). Tỷ lệ bà mẹ có

biết về các lợi ích của nuôi con bằng sữa mẹ tăng mạnh sau can thiệp so với

trước can thiệp, với chỉ số hiệu quả can thiệp cao, dao động từ 202,1% đến

11.150%. Bên cạnh đó, kết quả nghiên cứu định tính cũng cho thấy, kiến

thức về nuôi con bằng sữa mẹ của bà mẹ đã được cải thiện đáng kể. Từ các

kiến thức đã học được tại các CLB NCBSM, các bà mẹ đã áp dụng vào thực

tế nuôi con của mình, đồng thời các bà mẹ cũng tự tin hơn trong việc thay

đổi những cách nuôi và chăm sóc con không đúng cách theo kinh nghiệm

dân gian ở địa phương hoặc của các thế hệ trước truyền lại. Từ những việc

tưởng như rất nhỏ và đơn giản như cách cho con bú, thời gian cho con bú,

cách cho con ăn dặm, cách chăm sóc con,… cũng được các bà mẹ áp dụng

một cách rất hiệu quả. Không chỉ biết cách chăm sóc cho con, các bà mẹ còn

học được cách chăm sóc cho chính bản thân mình để có sữa nhiều hơn, tốt

hơn để cho con bú với những bài học hết sức bổ ích. Các bà mẹ thấy rất rõ

hiệu quả của việc NCBSM và chăm sóc con theo khoa học với việc so sánh

tình trạng sức khỏe thể chất và tinh thần của những đứa con được sinh ra

trước và sau khi tham gia sinh hoạt CLB. Tương tự với nghiên cứu của

chúng tôi, kết quả báo cáo tổng kết chương trình hỗ trợ nuôi con bằng sữa

mẹ tại nơi làm việc của Alive & Thrive năm 2012 cũng cho thấy, hơn 90%

lao động nữ sau truyền thông đã có hiểu biết rõ ràng hơn về thực hành

123

NCBSM, ví dụ như: (1) cho bú sớm trong vòng 1 giờ đầu (98%); (2) hiểu

biết cho bú hoàn toàn nghĩa là chỉ sữa mẹ, không có bất kỳ đồ ăn hoặc đồ

uống nào khác (94%); (3) nuôi con bằng sữa mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu

(97%); (4) cho bú cạn một bầu ngực trước khi chuyển sang bên kia vì sữa

cuối chứa nhiều chất béo hơn sữa đầu (89%); (5) tiếp tục cho bú đến ít nhất

24 tháng (94%) và (6) nhận biết rằng sữa mẹ có thể vắt và bảo quản trong tủ

lạnh cho trẻ (89%) [62]. Nghiên cứu của Trần Thị Tuyết Mai năm 2013 tại

tỉnh Khánh Hòa đã đánh giá kiến thức, thực hành nuôi dưỡng trẻ nhỏ của bà

mẹ ở các lĩnh vực: Chăm sóc thai nghén, NCBSM, cho trẻ ABS, chăm sóc

trẻ. Kết quả nghiên cứu cho thấy trước can thiệp, tỷ lệ bà mẹ có kiến thức

đạt về nuôi dưỡng trẻ tại địa bàn nghiên là thấp. Sau can thiệp, tỷ lệ kiến

thức đạt tăng từ hơn 30% lên tới trên 60%. Kết quả nghiên cứu đã chứng

minh hiệu quả của việc truyền thông đa dạng (tư vấn trực tiếp và truyền

thông gián tiếp) đối với kiến thức của bà mẹ [36]. Nghiên cứu của

Khamphanh Prabouasone cho thấy, trong nhóm đối chứng kết quả các phụ

nữ có kiến thức chăm sóc trong sinh về sinh con tại cơ sở y tế không khác

biệt trước và sau nghiên cứu nhưng ở nhóm can thiệp sự khác biệt hiểu biết

về sinh con tại cơ sở y tế rất khác biệt giữa trước và sau can thiệp (p<0,001).

Chỉ số hiệu quả giữa 2 nhóm can thiệp và đối chứng trước và sau can thiệp

tăng 1.270%, nhóm can thiệp (tăng từ 50,0% - 100% p < 0,001) [51]. Nghiên

cứu của Đinh Đạo tại tỉnh Quảng Nam cũng cho kết quả tương tự. Sau hai

năm can thiệp, nhận thức của bà mẹ về cách nuôi dưỡng, chăm sóc trẻ đã cải

thiện rõ rệt ở nhóm can thiệp so với nhóm đối chứng. Tỷ lệ bà mẹ hiểu biết

nuôi con chưa tốt giảm xuống ở nhóm can thiệp từ 80,0% xuống 42,7%

nhiều hơn nhóm đối chứng chỉ giảm từ 80,2% xuống 67,7%, hiệu quả can

thiệp đạt 31,0% [5]. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy, sau can

thiệp, tỷ lệ các bà mẹ rất đồng ý với quan điểm nuôi con bằng sữa mẹ giúp

124

bảo vệ trẻ không bị bệnh, tạo sự gắn kết mẹ con, giúp trẻ khỏe mạnh hơn

tăng lên đáng kể so với trước can thiệp. Tỷ lệ bà mẹ rất đồng ý với các quan

điểm sữa mẹ chứa đầy đủ chất giúp trẻ phát triển, NCBSM dễ hơn nuôi con

bằng sữa bột, làm mẹ phải NCBSM, NCBSM không gặp khó khăn trong

chăm sóc gia đình và giúp giảm chi tiêu trong gia đình cũng có thay đổi rõ

rệt sau can thiệp. Tỷ lệ các bà mẹ đồng ý/rất đồng ý với một số quan điểm

tiêu cực trong NCBSM cũng đã giảm sau can thiệp so với trước can thiệp

như nuôi con bằng sữa bột sẽ giúp trẻ có thân hình khỏe mạnh, chống béo

phì, phụ nữ không nên cho con bú ở nơi công cộng, nuôi con bằng sữa mẹ

làm mất tự do của mẹ. Kết quả nghiên cứu định tính cũng cho thấy sự thay

đổi thái độ tích cực trong việc nuôi con bằng sữa mẹ của bà mẹ và tác động

tới người thân trong gia đình. Bên cạnh đó, việc thay đổi nhận thức, thái độ

của người chồng và bố mẹ chồng về việc NCBSM còn có thể đến từ việc họ

được chứng kiến sự thay đổi tích cực của con/cháu khi được các bà mẹ áp

dụng một cách rất hiệu quả kiến thức NCBSM và cách chăm sóc con đúng

cách đã được học. Với những bằng chứng rõ rệt của việc áp dụng những

kiến thức NCBSM và chăm sóc con đúng cách của vợ/con dâu, người chồng

và cha mẹ chồng chuyển đổi hành vi từ chỗ không đồng tình ban đầu sang

động viên, thúc giục và hơn nữa còn tạo điều kiện cho vợ/con dâu tham gia

sinh hoạt CLB NCBSM. Chiến lược quốc gia về dinh dưỡng giai đoạn 2001-

2010 qua 10 năm triển khai, công tác truyền thông, vận động, giáo dục phổ

biến kiến thức thực hành dinh dưỡng hợp lý cho toàn dân đã đạt được kết

quả tốt, kể cả ở vùng sâu, vùng xa và vùng dân tộc thiểu số; nhờ đó đã tác

động rõ rệt tới nhận thức của các đối tượng trong cộng đồng [60]. Nghiên

cứu của Alive & Thrive cũng cho thấy, 95% lao động nữ hoàn toàn không

đồng ý rằng sữa bột tốt hơn sữa mẹ. Tuy nhiên, vẫn có 23% bà mẹ nghĩ rằng

họ nên cho trẻ dưới 6 tháng tuổi uống thêm nước vào mùa hè. Người mẹ mổ

125

đẻ sau 1 giờ vẫn có thể cho con bú ngay. Nhưng trên thực tế ở hầu hết tại

các bệnh viện ở Việt Nam điều đó là không thể thực hiện được do các

nguyên nhân sau: Người mẹ mổ đẻ phải cách ly con 6 tiếng ở phòng hậu

phẫu để bác sỹ chăm sóc riêng, người mẹ không thể gặp con sau 1 giờ sau

sinh; người mẹ mổ đẻ vết mổ rất đau, nếu không có y tá trợ giúp thì không

thể cho con bú trong vòng 12 giờ đầu sau mổ, mà ở Việt Nam không có chế

độ y tá chăm sóc riêng cho từng bệnh nhân do chi phí quá cao [62].

Nghiên cứu của chúng tôi cũng cho thấy, sau can thiệp, các bà mẹ đã

tiếp cận nhiều hơn với tất cả các nguồn thông tin về nuôi con bằng sữa mẹ.

Trong đó, đặc biệt là từ câu lạc bộ tăng từ 0,8% trước can thiệp lên 97,7%

sau can thiệp, chỉ số hiệu quả lên tới 12.112,5%. Tiếp đến là từ người thân,

cán bộ hội phụ nữ, cán bộ y tế và tăng ít nhất là từ đài, báo, tivi. Nghiên cứu

của Bùi Thị Duyên đã xác định những bà mẹ được tiếp cận với các loại

thông tin địa phương và thông tin tuyên truyền đại chúng sẽ có kiến thức cao

hơn so với những bà mẹ không được tiếp cận [10]. Tương tự như vậy, các

nghiên cứu của Shakila Zaman và cộng sự tại Pakistan với can thiệp tập

huấn kỹ năng tư vấn cho cán bộ y tế về Nuôi con bằng sữa mẹ và ăn bổ

sung. Can thiệp đã thay đổi hành vi của bà mẹ, tác động tích cực đến các chỉ

số nhân trắc của trẻ [10]. Kết quả này cũng tương tự với kết quả của các can

thiệp giáo dục cộng đồng khác [86], [153], [89]. Bên cạnh đó, nghiên cứu

giáo dục cộng đồng của Nguyễn Hữu Bích tại Hải Dương có đối tượng can

thiệp là người cha, sau can thiệp kiến thức của người cha về NCBSMHT

Từ kết quả can thiệp cộng đồng chứng tỏ rằng có thể cải thiện kiến thức

bà mẹ nuôi dưỡng trẻ em với những giải pháp tác động khác nhau phù hợp với

đặc điểm của từng địa phương nghiên cứu, góp phần tích cực chuyển đổi hành

vi có hại thành hành vi có lợi trong việc nuôi con của các bà mẹ.

cũng đã tăng lên so với trước can thiệp [3].

126

4.4. Một số hạn chế của nghiên cứu

Do đây là nghiên cứu can thiệp cộng đồng, việc chọn nhóm đối chứng

và theo dõi trong quá trình can thiệp thường gặp khó khăn. Nghiên cứu viên

không thường xuyên đến các địa phương để giám sát được do phụ thuộc

phương tiện cũng như tổ chức sinh hoạt câu lạc bộ của từng địa phương nên

khi đánh giá cuối kỳ phải dựa vào phương pháp Quasi - Experimental study

để đánh giá. Do vậy kết quả nghiên cứu không có giá trị cao như trong

nghiên cứu theo dõi (Follow up).

Mặt khác cỡ mẫu nghiên cứu cũng giới hạn do điều kiện kinh tế và

không có nhóm đối chứng, chỉ đánh giá dựa vào chỉ số đánh giá cuối so với

chỉ số ban đầu để đánh giá hiệu quả can thiệp, không so sánh được hiệu quả

giữa can thiệp và không can thiệp nên kết quả chưa được như mong đợi.

127

KẾT LUẬN

1. Thực trạng kiến thức, thái độ và thực hành về nuôi con bằng sữa mẹ

của phụ nữ có con từ 0 - 25 tháng tuổi tại tỉnh Hà Nam, Lào Cai, Quảng

Bình

Tỷ lệ trẻ được bú mẹ sau sinh chiếm 92,4%. 73,6% trẻ được bú mẹ

ngay sau khi vừa sinh ra trong vòng 1 giờ đầu.

Tỷ lệ bà mẹ có kiến thức đúng là nên cho trẻ bú sữa mẹ hoàn toàn

trong 6 tháng đầu là 74,0%, tuy nhiên chỉ có 43,3% bà mẹ thực hành đúng.

61,2% bà mẹ cho rằng thời gian cai sữa cho con tốt nhất là khi trẻ

được 24 tháng tuổi. Tuy nhiên, chỉ có 16,1% bà mẹ thực hành đúng. Tỷ lệ

trẻ bị cai sữa sớm trước 18 tháng tuổi là 34,4%, trong đó dưới 12 tháng lên

tới 5,8%.

57,6% bà mẹ cho biết lợi ích của sữa mẹ là có chứa nhiều chất kháng

thể có lợi cho con, chứa đủ chất dinh dưỡng cần thiết (49,9%), giúp trẻ khỏe

mạnh (36,5%), tốt cho hệ tiêu hóa của trẻ (24,6%),… Tuy nhiên, một số lợi

ích quan trọng của sữa mẹ chưa được nhiều bà mẹ biết đến như giúp tránh

thai, tạo kết gắn giữa mẹ với con, là loại thức ăn tinh khiết và an toàn…

Nguồn thông tin giúp cho bà mẹ nuôi con bằng sữa mẹ chủ yếu là từ

tivi, đài báo (72,2%). Tiếp đến là từ cán bộ y tế (26,4%), người thân (21,7%)

và cán bộ hội phụ nữ (18,7%).

Hầu hết phụ nữ có thái độ tích cực về việc NCBSM, chiếm khoảng

90%. Vẫn còn 42,7% phụ nữ đồng ý/rất đồng ý với quan điểm là phụ nữ

không nên cho con bú nơi công cộng.

2. Hiệu quả can thiệp giáo dục truyền thông nâng cao kiến thức, thái độ

về việc nuôi con bằng sữa mẹ

Câu lạc bộ nuôi con bằng sữa mẹ đã được triển khai thành công tại 3

tỉnh và đã có những hiệu quả đáng kể trong nâng cao kiến thức, thay đổi

128

thực hành của bà mẹ về việc NCSBM: cho con bú trong 1 giờ đầu sau sinh,

BSMHT trong 6 tháng đầu, cai sữa khi trẻ được 24 tháng tuổi, lợi ích của

sữa mẹ và lợi ích của NCBSM.

Sau can thiệp, tỷ lệ các bà mẹ có thái độ tích cực trong NCBSM cũng

tăng lên rõ rệt so với trước can thiệp.

129

KHUYẾN NGHỊ

1. Đối với UBND các cấp

Tiếp tục tạo điều kiện hơn nữa cho CLB cả về chủ trương, đường lối

và về cơ sở vật chất.

Đưa nội dung hoạt động của CLB NCBSM vào các hội nghị giao ban

hay các hội nghị của xã để các ban ngành cũng như các đoàn thể thấy được

mức độ ảnh hưởng và hiệu quả hoạt động của CLB NCBSM, từ đó tăng

cường hơn nữa công tác phối hợp giữa Hội PN với các ban, ngành, đoàn thể

trong xã, đặc biệt với ngành y tế trong công tác truyền thông kiến thức

NCBSM tại các CLB.

Hỗ trợ một phần kinh phí bằng nguồn chi không thường xuyên hàng

năm cho hoạt động của CLB NCBSM hoặc tạo điều kiện cho các thành viên

CLB có hoàn cảnh gia đình khó khăn, thuộc diện nghèo được vay vốn phát

triển kinh tế gia đình, tăng thu nhập, cải thiện cuộc sống.

2. Đối với các câu lạc bộ NCBSM

Chủ động báo cáo lịch và nội dung hoạt động với UBND xã để nhận

được sự ủng hộ về chủ trương, đường lối và tạo điều kiện về cơ sở vật chất

từ phía chính quyền xã.

Rà soát lại các thành viên tham gia để đảm bảo đó là các đối tượng

cần được truyền thông kiến thức NCBSM. Số lượng các thành viên cũng chỉ

nên duy trì ở một con số hợp lý để việc truyền thông được thực hiện hiệu

quả.

Chú trọng truyền thông hơn đến vai trò của người chống/mẹ chồng

trong gia đình.

Đưa các nội dung kiến thức về NCBSM vào sinh hoạt của các đoàn

thể khác như Đoàn Thanh niên, Mặt trận, Hội Nông dân,… để tạo sự quan

tâm của các thành viên các tổ chức này tới chủ để NCBSM để họ có thể

130

cùng đồng hành hoặc động viên, khuyến khích đối tượng thuộc diện ngành

quản lý hoặc người thân trong việc NCBSM.

131

DANH MỤC CÔNG TRÌNH

LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN ĐÃ CÔNG BỐ

1. Đặ ng Cẩm Tú, Khươ ng Vă n Duy, Hoàng Vă n Tân (2016), “Hiệ u quả can thiệ p truyền thông thay đổ i kiến thứ c về Nuôi con bằng sữa me ̣ củ a bà me ̣ có con từ 0-25 tháng tuổ i nă m 2012-2015”, Ta ̣p chí Y ho ̣c dư ̣ phòng XXVI số 13(186), tr. 238.

2. Đặ ng Cẩm Tú, Khươ ng Vă n Duy (2016), “Mố i liên quan giữa kiến thức củ a bà me ̣ vớ i nuôi con bằng sữa me ̣”, Ta ̣p chí Y ho ̣c thư ̣c hành tháng

1/2017(1031), tr.27.

3. Đặ ng Cẩm Tú, Khươ ng Vă n Duy, Hoàng Vă n Tân (2017), “Mố i liên quan giữa thư ̣c hành củ a bà me ̣ vớ i nuôi con bằng sữa me ̣”, Ta ̣p chí Y ho ̣c thư ̣c hành tháng 6/2017(1043), tr.48.

132

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tài liệu tham khảo Tiếng Việt

1. Liên minh Thế giới về các hoạt động Sữa mẹ (WABA) (1992), Đấu

tranh - bảo vệ - Khuyến khích - Hỗ trợ cho con bú mẹ, Khẩu hiệu hành

động, Malaysia

2. Nguyễn Thị Hải Anh và Lê Thị Hợp (2006), "Tình trạng dinh dưỡng và

một số yếu tố liên quan đến suy dinh dưỡng trẻ em dưới 5 tuổi tỉnh Lào

Cai năm 2005", Tạp chí dinh dưỡng và thực phẩm. 2(3+4), tr. 29-35.

3. Trần Hữu Bích và Đinh Thị Phương Hòa (2012), "Thay đổi kiến thức

người cha về nuôi con bằng sữa mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu - Phát

hiện từ chương trình can thiệp cộng đồng hướng tới người cha tại khu

vực nông thôn Việt Nam", Tạp chí Y tế công cộng. 24, tr. 43-49.

4. Phạm Tất Chủ (2003), Tình trạng suy dinh dưỡng của trẻ em dưới 5

tuổi và tác động của các hoạt động dinh dưỡng tới tình trạng đó tại xã

Long Châu, Yên Phong tỉnh Bắc Ninh, Luận văn thạc sỹ Y tế Công

cộng, Trường Đại học Y tế Công cộng, Hà Nội.

5. Đinh Đạo (2014), Nghiên cứu thực trạng và kết quả can thiệp phòng

chống suy dinh dưỡng trẻ em dưới 5 tuổi người dân tộc thiểu số tại

huyện Bắc Trà My tỉnh Quảng Nam, Luận án Tiến sĩ Y học, Trường

Đại học Y Dược, Đại học Huế, Huế.

6. Đinh Đạo và Đỗ Thị Hòa (2009), "Tình trạng dinh dưỡng của trẻ em

dưới 5 tuổi và thực hành nuôi con của các bà mẹ tại huyện Tam Kỳ,

tỉnh Quảng Nam năm 2007", Tạp chí Y học thực hành. 6(664), tr. 27-

29.

7. Đào Ngọc Diễn và Nguyễn Trọng An (1983), Tìm hiểu cách nuôi

dưỡng trẻ em trong thời kỳ bú mẹ, Hội thảo sữa mẹ, Hà Nội.

133

8. Trần Thị Hải Dung (2013), Thực trạng và một số yếu tố liên quan đến

thực hành cho trẻ bú sớm của các sản phụ tại bệnh viện phụ sản Hà

Nội năm 2013, Luân văn thạc sỹ Y tế công cộng, Trường Đại học Y tế

công cộng, Hà Nội.

9. Viện Dinh dưỡng (2010), Tổng điều tra dinh dưỡng 2009-2010, Nhà

xuất bản Y học, Hà Nô ̣i.

10. Bùi Thị Duyên, Trần Hà Linh và Phạm Hồng Tư (2013), "Mô tả kiến

thức và một số yếu tố ảnh hưởng đến kiến thức về bú sớm sau sinh và

bú mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu của những bà mẹ có con dưới 1 tuổi

tại 3 xã thuộc cụm Long Vân, huyện Bá Thước tỉnh Thanh Hóa", Tạp

chí Y tế công cộng. 27, tr. 16-22.

11. Viện gia đình và giới (2013), Nuôi dưỡng trẻ nhỏ ở một số địa phương

tại Việt Nam: Thực tiễn và chính sách.

12. Trần Văn Hà (2007), Thực trạng suy dinh dưỡng thể thấp còi, thể gầy

còm và một số yếu tố liên quan tại xã Việt Long và Phù Ninh, huyện

Sóc Sơn thành phố Hà Nội, Luận văn thạc sỹ Y tế công cộng, Trường

Đại học Y Hà Nội, Hà Nội.

13. Vũ Phương Hà (2010), Tình trạng dinh dưỡng và các yếu tố liên quan

của trẻ em dưới 2 tuổi vùng dân tộc thiểu số 2 huyện Hướng Hóa và

Đakrong, tỉnh Quảng Trị năm 2010, Luận văn thạc sỹ y học dự phòng,

Trường Đại học Y Hà Nội, Hà Nội.

14. Phạm Văn Hoan (2006), "Thực hành nuôi dưỡng và chăm sóc trẻ dưới

24 tháng tuổi tại một số xã tại Nghệ An, Quảng Bình, Hà Tĩnh, Quảng

Ngãi, Lai châu, Điện Biên năm 2005 và Hà Tây năm 2006", Tạp chí

dinh dưỡng và thực phẩm. 2(3+4), tr. 43-48.

15. Phạm Văn Hoan, Vũ Quang Huy và Erika Lutz (2006), "Thực hành

nuôi dưỡng và chăm sóc trẻ dưới 24 tháng tuổi tại một số xã thuộc

134

Nghệ An, Quảng Bình, Hà Tĩnh, Quảng Ngãi, Lai Châu, Điện Biên

2005 và Hà Tây 2006", Tạp chí Y học Việt Nam. 12, tr. 39-46.

16. Lưu Ngọc Hoạt, Lê Thị Hương và Lê Thị Thanh Xuân (2010), "Kiến

thức và thực hành nuôi con bằng sữa mẹ của các bà mẹ Hà Nội năm

2010 - các rào cản và yếu tố thúc đẩy", Tạp chí y học thực hành. 6, tr.

42-47.

17. Quốc Hội (2012), Bộ luật lao động sửa đổi bổ sung, chủ biên.

18. Đào Thi ̣ Hồ ng Huê ̣ (2011), Tình trạng dinh dưỡng và một số yếu tố liên quan của trẻ dướ i 5 tuổi huyê ̣n Chiêm Hó a tỉnh Tuyên Quang, Luâ ̣n văn tha ̣c sỹ, Đa ̣i ho ̣c Y Hà Nô ̣i, Hà Nội.

19. Cao Thu Hương, Phạm Thúy Hòa và Trần Thúy Nga (2003), "Tình

hình nuôi con bằng sữa mẹ ở một số xã thuộc các vùng sinh thái khác

nhau", Tạp chí Y học thực hành. 10, tr. 13-16.

20. Chu Diệu Hương (2001), Nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến việc

nuôi con hoàn toàn bắng sữa mẹ trong 4 tháng đầu tại 3 vùng dân cư,

Luận văn thạc sỹ Y học.

21. Lê Thị Hương (2007), "Điều kiện kinh tế hộ gia đình, kiến thức, thực

hành dinh dưỡng của bà mẹ và tình trạng dinh dưỡng trẻ em tại một

huyện miền núi Bắc Trung bộ", Tạp chí y học thực hành. 585, tr. 114-

118.

22. Lê Thị Hương (2008), "Kiến thức, thực hành của bà mẹ và tình trạng

dinh dưỡng của trẻ em dưới 2 tuổi tại huyện Hải Lăng tỉnh Quảng Trị",

Tạp chí dinh dưỡng và thực phẩm. 4(2), tr. 40-47.

23. Lê Thị Hương (2009), "Kiến thức, thực hành dinh dưỡng của bà mẹ và

tình trạng dinh dưỡng của trẻ tại một huyện miền núi tỉnh Thanh Hóa ",

Tạp chí y học thực hành. 669, tr. 2-6, 50,51.

24. Lê Thị Hương và Đỗ Hữu Hanh (2008), "Kiến thức, thực hành của bà

135

mẹ và tình trạng dinh dưỡng của trẻ em dưới 2 tuổi tại huyện Văn Yên

tỉnh Yên Bái", Tạp chí y học thực hành. 643, tr. 21-27.

25. Lê Thị Hương và Phạm Thị Thúy Hòa (2008), "Thực hành nuôi dưỡng

trẻ của bà mẹ và tình trạng dinh dưỡng của trẻ em dưới hai tuổi huyện

Kim Động tỉnh Hưng Yên", Tạp chí Y học thực hành, tr. 23-26.

26. GlobleScan Incorporated (2008), Quan điểm của cộng đồng về vấn đề

dinh dưỡng và cách nuôi trẻ sơ sinh ở Việt Nam, Việt Nam.

27. Tổng cục Thống kê, UNICEF và UNFPA (2011), Điều tra đánh giá

các mục tiêu trẻ em và phụ nữ 2011, Hà Nội.

28. Tổng cục Thống kê, UNICEF và UNFPA (2014), Điều tra Đánh giá

các Mục tiêu Trẻ em và Phụ nữ (MICS), Tổng cục thống kê, Hà Nội.

29. Lê Trí Khải (2008), Đánh giá dự án phòng chống suy dinh dưỡng trẻ

em trên địa bàn tỉnh Kon Tum giai đoạn 2006-2008, Luận văn thạc sỹ

Y tế công cộng, Trường Đại học y tế công cộng, Hà Nội.

30. Nguyễn Công Khẩn và các cộng sự. (2007), "Tiến triển suy dinh dưỡng

trẻ em từ năm 1990-2004", Tạp chí Y học Việt Nam. 337(16-22).

31. Hà Huy Khôi, Trần Thị Phúc Nguyệt và Hà Minh Trang (1992), Tình

hình nuôi con bằng sữa mẹ ở nội thành Hà Nội 1988, Kỷ yếu công

trình Đại học Y Hà Nội, Hà Nội.

32. Trương Thị Kim (2008), Đánh giá thực trạng phòng chống suy dinh

dưỡng và tình trạng dinh dưỡng trẻ em dưới 5 tuổi tại xã Trung chính

Lương Tài, Bắc Ninh năm 2008, Luận văn thạc sỹ Y tế công cộng,

Trường Đại học Y tế công cộng, Hà Nội.

33. Nguyên Lân (2012), Ảnh hưởng của sữa bổ sung pre-probiotic lên tình

trạng dinh dưỡng, nhiễm khuẩn và hệ vi khuẩn chí đường ruột ở trẻ 6-

12 tháng tại huyện Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên.

34. Hoàng Khải Lập, Hà Xuân Sơn và Nguyễn Minh Tuấn (2006), "Hiệu

136

quả cải thiện tình trạng dinh dưỡng trẻ em bằng giáo dục dinh dưỡng

cộng đồng cho các bà mẹ tại xã Nga My, huyện Phú Bình, tỉnh Thái

Nguyên", Tạp chí dinh dưỡng và thực phẩm. 2(3+4), tr. 36-42.

35. Hoàng Thị Liên (2005), Nghiên cứu tình hình suy dinh dưỡng trẻ dưới

5 tuổi sau 5 năm thực hiện chương trình phòng chống suy dinh dưỡng

tại xã Thủy Phù, Luận án chuyên khoa cấp II, chuyên ngành quản lý y

tế, Đại học Y Dược Huế, Huế.

36. Trần Thị Tuyết Mai (2013), Xây dựng và đánh giá hiệu quả mô hình

truyền thông đa dạng tại tuyến y tế cơ sở trong phòng chống suy dinh

dưỡng trẻ em tỉnh Khánh Hòa, Luận án Tiến sĩ Y tế công cộng, Trường

Đại học Y tế công cộng, Hà Nội.

37. Từ Thị Mai (2009), "Thực trạng nuôi con bằng sữa mẹ và một số yếu tố

liên quan của các bà mẹ đến khám tại Trung tâm khám tư vấn dinh

dưỡng, Viện Dinh dưỡng, Hà Nội", Tạp chí Dinh dưỡng và Thực phẩm.

5(2), tr. 39-47.

38. Từ Thị Mai và các cộng sự. (2008), Thực trạng nuôi con bằng sữa mẹ,

một số yếu tố ảnh hưởng và tình trạng dinh dưỡng của trẻ dưới 24

tháng tuổi đến khám tại trung tâm tư vấn dinh dưỡng – Viện Dinh

dưỡng, Đề tài cấp cơ sở, Hà Nội.

39. Bùi Trần Nguyệt Minh (2012), Kiến thức, thực hành chăm sóc trẻ của

các bà mẹ và tình trạng dinh dưỡng của trẻ em dưới 5 tuổi tại huyện

Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình năm 2012, Khóa luận tốt nghiệp Bác sỹ y học

dự phòng, Trường Đại học Y Hà Nội, Hà Nội.

40. Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam (2010), Báo cáo khảo sát ban đầu đề

án giáo dục 5 triệu bà mẹ nuôi dạy con tốt.

41. Từ Ngữ và các cộng sự. (2007), "Tìm hiểu về thực hành ăn bổ sung và

các yếu tố ảnh hưởng đến tình trạng dinh dưỡng ở trẻ 6 – 23 tháng tại 3

137

xã nông thôn Phú Thọ", Tạp chí dinh dưỡng và thực phẩm. 3(4), tr. 78-

87.

42. Trần Thị Phúc Nguyệt và Hà Minh Trang (2014), "Thực hành nuôi con

bằng sữa mẹ của các bà mẹ có con dưới 24 tháng tuổi tại xã Khánh Hà,

huyện Thường Tín, Hà Nội", Tạp chí Dinh dưỡng và Thực phẩm.

10(3), tr. 117-122.

43. Phạm Thị Yến Nhi (2014), Kiến thức, thái độ, thực hành và một số yếu

tố liên quan về nuôi con bằng sữa mẹ của sản phụ sau sinh tại Bệnh

viện Đa khoa Kiên Giang năm 2014, Luận văn thạc sỹ Y tế Công cộng,

Trường Đại học Y tế Công cộng Hà Nội.

44. Hoàng Thị Hồng Nhung (2012), Kiến thức, thực hành của bà mẹ, tình

trạng dinh dưỡng trẻ dưới 5 tuổi tại phường Trần Hưng Đạo, Phủ Lý,

Hà Nam năm 2012, Khóa luận tốt nghiệp cử nhân Y Khoa, Đại học Y

Hà Nội.

45. Bộ môn dinh dưỡng và an toàn thực phẩm trường Đại học Y Hà Nội

(2004), Dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm, Nhà xuất bản y học,

242-252.

46. Bộ môn Nhi - Trường Đại học Y Hà Nội (2009), Bài giảng nhi khoa

tập 1, "Nuôi con bằng sữa mẹ", Nhà xuất bản Y học, Hà Nội.

47. Chính phủ (2006), Nghị định Về việc kinh doanh và các sản phẩm dinh

dưỡng dùng cho trẻ nhỏ, chủ biên.

48. Chính phủ (2011), Chiến lược dân số và sức khỏe sinh sản giai đoạn

2011 - 2020, chủ biên, Nhà xuất bản Y học, Hà Nô ̣i.

49. Chính phủ (2012), Chiến lược Quốc gia về Dinh dưỡng giai đoạn 2011

- 2020, chủ biên, Nhà xuất bản Y học, Hà Nô ̣i.

50. Đinh Thị Thu Phương (2012), Tình trạng dinh dưỡng trẻ em dưới 24

tháng tuổi và kiến thức, thực hành nuôi trẻ của bà mẹ dân tộc Thái

138

huyện Văn Chấn, tỉnh Yên Bái năm 2011, Khóa luận tốt nghiệp bác sỹ y

khoa Đại học Y Hà Nội.

51. Khamphanh Prabouasone (2013), Kiến thức, thực hành về làm mẹ an

toàn của phụ nữ có con dưới 2 tuổi và hiệu quả can thiệp truyền thông

tại tỉnh Bo Lị Khăm Xay, năm 2010-2011, Luận án Tiến sĩ Y tế công

cộng, Trường Đại học Y tế công cộng, Hà Nội.

52. Nguyễn Thành Quân (2011), Kiến thức, thực hành của bà mẹ về nuôi

dưỡng trẻ và tình trạng dinh dưỡng của trẻ em dưới 5 tuổi tại huyện

Tiên Lữ, tỉnh Hưng Yên và huyện Yên Thủy, tỉnh Hòa Bình, Luận văn

thạc sĩ y học, Đại học Y Hà Nội, Hà Nội.

53. Nguyễn Đình Quang (1996), Thực hành nuôi con của bà mẹ nội, ngoại

thành Hà Nội giai đoạn hiện tại, Luận án thạc sỹ dinh dưỡng cộng

đồng Hà Nội.

54. Phạm Nguyên Quý và Nguyễn Hữu Châu Đức (2017), Khảo sát online

nuôi con bằng sữa mẹ, Group Nhi khoa – Y học cộng đồng, chủ biên.

55. Nguyễn Duy Tài và Nguyễn Thị Tố Lan (2013), "Nuôi con bằng sữa

mẹ của các bà mẹ sau sinh tại Bệnh viện Đa khoa thành phố Cần Thơ",

Y học TP Hồ Chí Minh. 17(1), tr. 72-75.

56. Phạm Thị Tâm (2010), "Thực hành nuôi con hoàn toàn bằng sữa mẹ

trong tuần đầu sau sinh của các bà mẹ tỉnh Sóc Trăng năm 2009", Y học

thực hành. 723(6), tr. 87-90.

57. Trần Thị Thanh Tâm (2004), Nuôi con bằng sữa mẹ, tập 1 Nhi khoa,

ed, Nhà Xuất bản Y học Thành phố Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh, 94-

100.

58. Bộ Y tế (2001), Chiến lược quốc gia về dinh dưỡng giai đoạn 2001-

2010, Ban hành kèm theo Quyết định số 21/2001/QĐ-TTg, ngày

22/02/2001 của Thủ tướng Chính phủ,, Hà Nội.

139

59. Bộ Y tế (2009), Hướng dẫn chuẩn quốc gia về các dịch vụ chăm sóc

sức khỏe sinh sản, Hà Nô ̣i.

60. Bộ Y tế (2012), Chiến lược quốc gia về dinh dưỡng giai đoạn 2010-

2020, tầm nhìn đến 2030, Ban hành kèm theo Quyết định số

226/QĐ/TTg, ngày 22/02/2012 của Thủ tướng Chính phủ, Hà Nội.

61. Alive and Thrive (2011), Báo cáo toàn văn điều tra thực trạng nuôi

con bằng sữa mẹ ở 11 tỉnh, Hà Nội.

62. Alive and Thrive (2012), Báo cáo tổng kết – Chương trình hỗ trợ

NCBSM tại nơi làm việc, Hà Nội.

63. Alive and Thrive và Viện Nghiên cứu Y xã hội học (2012), Báo cáo

toàn văn thực hành nuôi dưỡng trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ, Hà Nô ̣i.

64. Alive and Thrive và Tổng liên đoàn lao động Việt Nam (2012), Báo

cáo toàn văn khảo sát thực trạng nuôi con bằng sữa mẹ trong các nữ

công nhân, Hà Nội.

65. Nguyễn Thị Thanh Thuấn (2010), Tình trạng dinh dưỡng, tập quán

nuôi dưỡng và một số yếu tố ảnh hưởng ở trẻ em dưới 5 tuổi dân tộc

Tày tại 2 xã thuộc huyện Chiêm Hóa, Tuyên Quang, Luận văn Thạc sỹ

y học, Đại học Y Hà Nội, Hà Nội.

66. Trịnh Thị Tình (2012), Tình trạng dinh dưỡng và một số yếu tố ảnh

hưởng của trẻ dưới 5 tuổi tại xã Phúc Thịnh huyện Chiêm Hóa , tỉnh

Tuyên Quang 2012, Khóa luận tốt nghiệp

67. Phạm Duy Tường (2010), Dinh dưỡng và an toàn thực phẩm, Nhà xuất

bản Giáo dục Việt Nam, Hà Nội, 40-46, 75-82.

68. Nguyễn Kim Tuyết (2010), Kiến thức, thực hành và các yếu tố liên

quan về nuôi con bằng sữa mẹ hoàn toàn của các bà mẹ có con dưới

một tuổi xã An Bình huyện Cao Lãnh năm 2009, Luận văn chuyên khoa

I YTCC, Đại học Y tế công cộng, Hà Nội.

140

69. UNICEF (2009), Báo cáo tóm tắt tình hình trẻ em trên thế giới – Sức

khoẻ bà mẹ và trẻ sơ sinh.

Tài liệu tham khảo tiếng Anh

70. Suneth B Agampodi, Thilini C Agampoi và Udage Kankanamge D

Piyaseeli (2007), "Breastfeeding practices in a public health field

practice area in SriLanka: a survival analysis", International

Breastfeeding Journal. 2, tr. 13.

71. C Agostoni và các cộng sự. (1999), "Growth patterns of breast fed and

formula fed infants in the first 12 months of life: an Italian study",

Archives of Disease in Childhood. 81(5), tr. 395-399.

72. U Agu và MC Agu (2011), "Knowledge and practice of exclusive

breastfeeding among mothers in a rural population in south eastern

Nigeria", Tropical Journal of Medical Research. 15(2), tr. 39-44.

73. T Alemayehu, J Haidar và D Habte (2009), "Determinants of exclusive

breastfeeding practices in Ethiopia", Ethiopian Journal of Health

Development. 23(1), tr. 12–18.

74. Sumera Ali và các cộng sự. (2011), "Perception and practices of

breastfeeding of infants 0-6 months in an urban and a semi-urban

community in Pakistan: a cross-sectional study", Journal of the

Pakistan Medical Association. 61(1), tr. 99-104.

75. Al-Binali AM (2012), "Knowledge, Attitude and Practice of Breast-

Feeding Among Female Health Care Workers in Tertiary Care

Hospitals", The Medical Journal of Cairo University. 80(1), tr. 159–

164.

76. Tarek Amin, Hatem Hablas và Ahmed AlAbd Al Qader (2011),

"Determinants of initiation and exclusivity of breastfeeding in Al

141

Hassa, Saudi Arabia", Breastfeeding Medicine. 6(2), tr. 59-68.

77. Mulusew Andualem Asemahagn (2016), "Determinants of exclusive

breastfeeding practices among mothers in azezo district, northwest

Ethiopia", International Breastfeeding Journal. 11(1), tr. 22.

78. Maeza Mitiku Asfaw, Mesele Damte Argaw và Zelalem Kebede

Kefene (2015), "Factors associated with exclusive breastfeeding

practices in Debre Berhan District, Central Ethiopia: a cross sectional

community based study", International Breastfeeding Journal. 10(23).

79. Ekele BA và Ahmed H (1997), "Exclusive breastfeeding: hospital or

home practice? ", Nig Med Pract. 33, tr. 62–64.

80. Abhay Shivram Bagul và Madhulika Sahebrao Supare (2012), "The

Infant Feeding Practices in an Urban Slum of Nagpur, India", Journal

of Clinical and Diagnostic Research. 6(9), tr. 1525–1527.

81. Elizabeth Jean Baker, Linda C. Sanei và Nadra Franklin (2006), "Early

Initiation of an Exclusive Breastfeeding in large-scale community-

based programmes in Bolivia and Madagascar", Journal of Health,

Population and Nurtrition. 24(4), tr. 530-539.

82. Suzanne Bartington, Lucy J Griffiths và A Rosemary Tate (2006), "Are

breastfeeding rates higher among mothers delivering in Baby Friendly

accredited maternity units in the UK?", International Journal of

Epidemiology. 35(5), tr. 1178-1186.

83. Zenebu Begna Bayissa và các cộng sự. (2015), "Knowledge and

practice of mothers towards exclusive breastfeeding and its associated

factors in Ambo Woreda West Shoa Zone Oromia Region, Ethiopia",

Epidemiology: Open Access. 5(1), tr. 3.

84. Otaigbe BE, Alikor EAD và Nkaginieme KE (2005), "Growth pattern

of exclusively breastfed infants in the first six months of life: a study of

142

babies delivered at the University of Teaching Hospital, Rivers State

Nigeria", Nigerian Journal of Medicine. 14(2), tr. 137–145.

85. Khadija Begum và Kathryn G. Dewey (2010), "Impact of early

initiation of exclusive breastfeeding on newborn deaths", A&T

Technical. 1, tr. 1-7.

86. Kerr Rachel Bezner, Peter R Berti và Lizzie Shumba (2010), "Effects

of a participatory agriculture and nutrition education project on child

growth in northern Malawi", Public Health Nutrition.

87. Nita Bhandari và các cộng sự. (2003), "Effect of community-based

promotion of exclusive breastfeeding on diarrhoeal illness and growth:

a cluster randomised controlled trial", Lancet 2003. 361(9367), tr.

1418-1423.

88. Zulfiqar A Bhutta và các cộng sự. (2010), "Countdown to 2015 decade

report (2000-10): taking stock of maternal, newborn, and child

survival", Lancet. 375(9730), tr. 2032-2044.

89. Anabelle Bonvecchio và et al (2008), "Maternal Knowledge and Use of

a Micronutrient Supplement was Improved with a Programmatically

Feasible intervention in Mexico", The Journal of Nutrition. 137(2), tr.

440-446.

90. N C de Bruin và các cộng sự. (1998), "Energy utilization and growth in

breast-fed and formula-fed infants measured prospectively during the

first year of life", The American Journal of Clinical Nutrition. 67(5), tr.

885-896.

91. CDC (2012), Breastfeeding Report Card - United States, truy cập ngày

12/26-2013, tại trang web

http://www.cdc.gov/breastfeeding/data/reportcard.htm.

92. RN Chaudhary, T Shah và S Raja (2011), "Knowledge and practice of

143

mothers regarding breast feeding: a hospital based study", Health

Renaissance. 9(3), tr. 194-200.

93. Save the Children (2013), Super food for Babies - How overcoming

barriers to breastfeeding will save children's lives, London.

94. Howard CR và et al (2003), "Randomized clinical trial of pacifier use

and bottle-feeding or cupfeeding and their effect on breastfeeding",

Pediatrics 111(3), tr. 511-518.

95. Dat V Duong, Andy H Lee và Colin W Binns (2005), "Determinants of

breast-feeding within the first 6 months post-partum in rural Vietnam",

Journal of Paediatrics and Child Health. 41(7), tr. 338-343.

96. Duong DV, Binns CW và Lee AH (2004), "Breastfeeding initiation and

exclusive breastfeeding in rural in Viet Nam", Public Health Nutrition.

7(6), tr. 795-799.

97. Duong DV, Binns CW và Lee AH (2005), "Introduction of

complementary food to infants within the first six months postpartum

in rural Vietnam", Acta Pediatrics. 94(12), tr. 1714-20.

98. Holbrook EK và các cộng sự. (2013), "Maternal sociodemographic

characteristics and the use of IOWA Infant Attitude Feeding Scale to

describe breastfeeding initiation and duration in a population of urban,

Latin mothers: a prospective cohort study", International Breastfeeding

Journal. 8(1), tr. 7.

99. I. Ekanem và các cộng sự. (2012), "Attitude of Working Mothers to

Exclusive Breastfeeding in Calabar Municipality, Cross River State,

Nigeria", Journal of Food Research. 1(2), tr. 71-75.

100. Abdel-Hady El-Gilany, Ebrahim Shady và Randa Helal (2011),

"Exclusive breastfeeding in Al-Hassa, Saudi Arabia", Breastfeeding

Medicine. 6(4), tr. 209–213.

144

101. Fanosie F (2011), "Exclusive breast feeding practices in Mida-Woremo

District, Amhara Region, Ethiopia", Harar Bull Health Sci. 2, tr. 57-70.

102. Al-Hreashy FA và các cộng sự. (2008), "Patterns of breastfeeding

practice during the first 6 months of life in Saudi Arabia", Saudi

Medical Journal. 29(3), tr. 427-431.

103. Mohamed M.E. Al Ghwass và Dalia Ahmed (2011), "Prevalence and

predictors of 6-month exclusive breastfeeding in a rural area in Egypt",

Breastfeeding Medicine. 6(4).

104. WHO Multicentre Growth Reference Study Group (2006),

"Breastfeeding in the WHO Multicentre Growth Reference Study",

Acta Paediatrica Scandinavica Supplement. 450, tr. 16-26.

105. Argaw H (2007), The health extension program of Ethiopia. Summary

of concepts, progress, achievements and challenges, WHO Country

Office of Ethiopia, chủ biên.

106. Yvonne L. Hauck và các cộng sự. (2011), "A Western Australian

Survey of Breastfeeding Initiation, Prevalence and Early Cessation

Patterns", Maternal and Child Health Journal. 15(2), tr. 260-268.

107. United Nations Children’s Fund - Ministry of Health (2007),

Monitoring the Situation of Children and Women - Findings from the

IraqMultiple Indicator Cluster Survey 2006, Kurdistan Regional

Statistics Office.

108. Alison Volpe Holmes và các cộng sự. (2009), "A barrier to exclusive

breastfeeding for WIC enrollees: limited use of exclusive breastfeeding

food package for mothers", Breastfeed Medicine. 4(1), tr. 25-30.

109. IBFAN (2007), Issue Scientific breastfeeding, truy cập ngày 12/29-

2013, tại trang web http://www.ibfan.org/issue-scientific-

breastfeeding.html.

145

110. Central Statistical Agency and ICF International (2011), Ethiopian

Demographic and Health Survey (2011 EDHS), Addis Ababa, Ethiopia

and Calverton, Maryland, USA.

111. Randa J.S và et al (1993), Global breastfeeding prevalence and trends,

In: Breastfeeding-The technical basic and recommendation for action,

Geneva.

112. Teresa Janevic và et al (2010), "Risk factors for childhood malnutrition

in Roma settlements in Serbia", BMC Public Health. 10(1), tr. 509.

113. H. Gladius Jennifer và K. Muthukumar (2012), "A Cross-sectional

Descriptive Study was to Estimate the Prevalence of the Early Initiation

of and Exclusive Breast Feeding in the Rural Health Training Centre of

a Medical College in Tamilnadu, South India", Journal of Clinical and

Diagnostic Research. 6(9), tr. 1514-1517.

114. Hong Jiang và các cộng sự. (2012), "Awareness, Intention, and Needs

Regarding Breastfeeding: Findings from First-Time Mothers in

Shanghai, China", Breastfeeding Medical 7(6), tr. 526-534.

115. G. Bahemuka Jino, C. Munyanshongore và F. Birungi (2013),

"Knowledge, attitude and practice of exclusive breast-feeding of infants

aged 0–6 months by Urban Refugee Women in Kigali", Rwanda

Medical Journal. 70(1), tr. 7–10.

116. Jessica R. Jones và các cộng sự. (2011), "Factors associated with

exclusive breastfeeding in the United States", Pediatrics. 128(6), tr.

1117–1125.

117. Condon JR và các cộng sự. (1970), "Calcium and phosphorus

metabolism in relation to lactose tolerance", Lancet. 1(7655), tr. 1027-

1029.

118. Daifellah AM Al Juaid, Colin W Binns và Roslyn C Giglia (2014),

146

"Breastfeeding in Saudi Arabia: a review", International Breastfeeding

Journal. 9(1), tr. 1.

119. Abera K (2012), "Infant and young child feeding practices among

mothers living in Harar, Ethiopia", Harar Bull Health Sci. 4, tr. 66–78.

120. Mohammad Khassawneh và các cộng sự. (2006), "Knowledge, attitude

and practice of breastfeeding in the north of Jordan: a cross-sectional

study", International Breastfeeding Journal. 1(17).

121. Tan KL (2009), "Knowledge, attitude and practice on breastfeeding in

Klang, Malaysia", International Medical Journal. 8(1), tr. 17–22.

122. Tan KL (2011), "Factors associated with exclusive breastfeeding

among infants under six months of age in Peninsular Malaysia",

International Breastfeeding Journal. 6(1), tr. 2.

123. Marshall H. Klaus, John H. Kennell và Phyllis H. Klaus (1995),

Bonding: building the foundations of secure attachment and

independence, Addison-Wesley Pub. Co.

124. Kloeblen-Tarver và các cộng sự. (2002), "Intent to breast-feed: the

impact of attitudes, norms, parity and experience", American Journal of

Health Behavior. 26(3), tr. 182-187.

125. Tjiang L và Binns C (2001), "Indonesian students’ knowledge of

breastfeeding", Breastfeeding Review Journal. 9(2), tr. 5-9.

126. Echamo M (2012), "Exclusive breast feeding in Arbaminch, SNNPR,

Ethiopia", Harar Bull Health Sci. 5, tr. 44–59.

127. Roudbari M, Roudbari S và Fazaeli A (2009), "Factors associated with

breastfeeding patterns in women who recourse to health centers in

Zahedan, Iran", Singapore Medical Journal. 50(2), tr. 181-184.

128. Thomas M.Ball và David M.Bennett (2001), "The Economic Impact of

Breastfeeding", Pediatric Clinics of North America. 48(1), tr. 253-262.

147

129. Khalid A. Madani, A A Al-nowaisser và Rufaida H. Khashoggi (1994),

"Breastfeeding patterns in Saudi Arabia", Ecology of Food and

Nutrition. 31(4), tr. 239–245.

130. Queluz MC và các cộng sự. (2012), "Prevalence and determinants of

exclusive breastfeeding in the city of Serrana, São Paulo, Brazil",

Revista da Escola de Enfermagem da USP. 46(3), tr. 537–543.

131. Getnet Mekuria và Melkie Edris (2015), "Exclusive breastfeeding and

associated factors among mothers in Debre Markos, Northwest

Ethiopia: a cross-sectional study", International Breastfeeding Journal.

10(1), tr. 1.

132. Kassa Eshetu Modjo và Negash Wakgari Amanta (2015), "Attitude and

Practice Towards Exclusive Breast Feeding and Its Associated Factors

Among HIV Positive Mothers in Southern Ethiopia", American Journal

of Health Research. 3(2), tr. 105-115.

133. Ali Mohamed và Al-Binali (2012), "Breastfeeding knowledge, attitude

and practice among school teachers in Abha female educational district,

southwestern Saudi Arabia", International Breastfeeding Journal.

7(10).

134. Mohammed I. El Mouzan và các cộng sự. (2009), "Trends in infant

nutrition in Saudi Arabia: compliance with WHO recommendations",

Annals of Saudi Medicine. 29(1), tr. 20–23.

135. Kramer MS và các cộng sự. (2008), "Breast-feeding and child cognitive

development: new evidence from a large randomized trial", Archives Of

General Psychiatry. 65(5), tr. 578–584.

136. Altrena G. Mukuria, Monica T. Kothari và Noureddine Abderrahim

(2006), Infant and Young child feeding update.

137. Audrey J Naylor (2001), "A Baby-Friendly Hospital Initiative.

148

Protecting, promoting, and supporting breastfeeding in the twenty-first

century", Pediatric Clinics of North America. 48(2), tr. 475–483.

138. Audrey J. Naylor và Ruth A. Wester (2014), Lactation Management

Self-Study Modules Level I, Fourth Edition, chủ biên.

139. Tiras Eshton Nkala và Sia Emmanueli Msuya (2011), "Prevalence and

predictors of exclusive breastfeeding among women in Kigoma region,

Western Tanzania: a community based cross-sectional study",

International Breastfeeding Journal. 6(1), tr. 17.

140. MO Oche, AS Umar và H Ahmed (2011), "Knowledge and practice of

exclusive breastfeeding in Kware, Nigeria", African Health Sciences.

11(3), tr. 518–523.

141. Abiola O Ogundele và các cộng sự. (2013), "Knowledge, attitude and

techniques of breastfeeding among Nigerian mothers from a semi-

urban community", BMC Research Notes. 6(1), tr. 552.

142. Stanley Onah và các cộng sự. (2014), "Infant feeding practices and

maternal socio-demographic factors that influence practice of exclusive

breastfeeding among mothers in Nnewi South-East Nigeria: a cross-

sectional and analytical study", International Breastfeeding Journal.

9(1), tr. 6.

143. Christopher G Owen và et al (2005), "Effect of Infant Feeding on the

Risk of Obesity Across the Life Course: A Quantitative Review of

Published Evidenc", Pediatrics. 115(5), tr. 1367-1377.

144. Christopher G Owen và et al (2006), "Does breastfeeding influence risk

of type 2 diabetes in later life? A quantitative analysis of published

evidence", The American Journal of Clinic Nutrition. 84(5), tr. 1043-

1054.

145. Babakazo P và các cộng sự. (2015), "Predictors of discontinuing

149

exclusive breastfeeding before six months among mothers in

Kinshasa:a prospective study", International Breastfeeding Journal.

10(19).

146. Archana Patel và các cộng sự. (2010), "Infant and young child feeding

indicators and determinants of poor feeding practices in India:

secondary data analysis of National Family Health Survey 2005-2006",

Maternal & Child Nutrition. 8(s1), tr. 28-44.

147. Malini D. Persad và Janell L. Mensinger (2008), "Maternal

breastfeeding attitudes: association with breastfeeding intent and socio-

demographics among urban primiparas", Journal of Community Health.

33(2), tr. 53-60.

148. Nguyen PH và các cộng sự. (2011), "A situational review of infant and

young child feeding practices and interventions in Viet Nam", Asia

Pacific Journal Clinic Nutrition. 20(3), tr. 359-374.

149. Barbara L. Philipp và các cộng sự. (2003), "Sustained Breastfeeding

Rates at a US Baby-Friendly Hospital", Pediatrics. 112(3), tr. 234–236.

150. Liqian Qiu và các cộng sự. (2008), "A cohort study of infant feeding

practices in city, suburban and rural areas in Zhejiang Province, PR

China", International Breastfeeding Journal. 3(1), tr. 4.

151. Liqian Qiu và các cộng sự. (2009), "The initiation of breastfeeding and

the prevalence of exclusive breastfeeding at hospital discharges in the

urban, suburban and the rural areas of Zhejiang, China", International

Breastfeeding Journal 4(1), tr. 1.

152. Shankar Radhakrishnan và S Sangeetha Balamuruga (2012),

"Prevalence of exclusive breastfeeding practices among rural women in

Tamil Nadu", International Journal of Health & Allied Sciences. 1(2),

tr. 64–67.

150

153. Ingrid M le Roux và et al (2010), "Home visits by neighborhood

Mentor Mothers provide timely recovery from childhood malnutrition

in south Africa: results from a randomized controlled trial", Nutrition

Journal. 9(56).

154. Patil Sapna S và các cộng sự. (2009), "Prevalence of exclusive breast

feeding and its correlates in an Urban Slum in Western India",

International Journal of Medical Education. 3(2), tr. 14–18.

155. Vyas Shaili và các cộng sự. (2012), "A community based study on

breastfeeding practices in a rural area of Uttarakhand", National

Journal of Community Medicine. 3(2), tr. 283-287.

156. Norhan Zeki Shaker, Kareema Ahmad Hussein và awsan I.I. AL-

Azzawi (2012), "Knowledge, Attitude and Practices (KAP) of Mothers

toward Infant and Young Child Feeding in Primary Health Care (PHC)

Centers, Erbil City", Kufa Journal for Nursing Sciences. 2(2).

157. Tigest Shifraw, Amare Worku và Yemane Berhane (2015), "Factors

associated with exclusive breastfeeding practices of urban women in

Addis Ababa public health centers, Ethiopia: a cross sectional study",

Int Breastfeed Journal. 10(1), tr. 22.

158. Sohair AM Shommo và Hessa AS Al-Shubrumi (2014), "Breastfeeding

knowledge, attitude and practice among mothers in Hail district,

northwestern Saudi Arabia", IOSR Journal of Nursing and Health

Science (IOSR-JNHS). 3(1), tr. 49-56.

159. Sushma Sriram và các cộng sự. (2013), "Knowledge, Attitude and

Practices of Mothers Regarding Infant Feeding Practices", NATIONAL

JOURNAL OF MEDICAL RESEARCH. 3(2), tr. 147-150.

160. Canada Community Health Survey (2009), Trends in breastfeeding

practices in Canada, between 2001 and 2008.

151

161. Cerojano T (2011), Study: Infant formula ads reduce breast-feeding,

truy cập ngày 12/26-2013, tại trang web

http://www.globalgoodnews.com/health-

newsa.html?art=13202858316673318.

162. Setegn T và các cộng sự. (2012), "Factors associated with exclusive

breastfeeding practices among mothers in Goba district, southeast

Ethiopia: a cross-sectional study", International Breastfeeding Journal.

7(1), tr. 17.

163. Niguse Tadele và các cộng sự. (2016), "Knowledge, attitude and

practice towards exclusive breastfeeding among lactating mothers in

Mizan Aman town, Southwestern Ethiopia: descriptive cross-sectional

study", International Breastfeeding Journal. 11(1), tr. 3.

164. Dessalegn Tamiru và Shikur Mohammed (2013), "Maternal knowledge

of optimal breastfeeding practices and associated factors in rural

communities of Arba Minch Zuriya", International Journal of Nutrition

and Food Sciences. 2(3), tr. 122–129.

165. AU Ukegbu và các cộng sự. (2011), "Determinants of breastfeeding

patterns among mothers in Anambra State, Nigeria", South African

Journal of Child Health. 5(4), tr. 112-116.

166. Manjeswori Ulak và các cộng sự. (2012), "Infant feeding practices in

Bhaktapur, Nepal: a cross-sectional, health facility based survey",

International Breastfeeding Journal. 7(1), tr. 1.

167. Cesar G Victora và các cộng sự. (2016), "Breastfeeding in the 21st

century: Epidemiology, Mechanism and lifelong effect", Lancet 2016.

387(10017), tr. 475-490.

168. Poreddi Vijayalakshmi, T Susheela và D Mythili (2015), "Knowledge,

attitudes, and breast feeding practices of postnatal mothers: A cross

152

sectional survey", International Journal of Health Sciences. 9(4), tr.

364-374.

169. Bachrach VR, Schwarz E và Bachrach LR (2003), "Breastfeeding and

the Risk of Hospitalization for Respiratory Disease in Infancy: A Meta-

analysis", Archives of Pediatrics and Adolescent Medicine. 157(3), tr.

237-243.

170. WHO (2003), Global Strategy for Infant and Young child feeding,

Geneva.

171. WHO (2009), Infant and young child feeding, Geneva.

172. WHO (2013), Exclusive breast feeding, truy cập ngày 12/24-2013, tại

trang web www.who.int/nutrition/topic/exclusive_breastfeeding/en/.

173. WHO và UNICEF (1981), Infant and young child feeding current

issue, Geneva.

174. WHO, UNICEF và USAID (2008), Indicators for assessing infant and

young child feeding practices, Washington D.C.

175. WHO, UNICEF và USAID (2008), Learnig from large scale

communitybased programes to improve breasrfeeding practices,

Geneva.

176. WHO, UNICEF và USAID (2010), Indicators for assessing infant and

young child feeding practices, Malta.

177. Tsedeke Wolde và các cộng sự. (2014), "Knowledge, attitude and

practice of exclusive breastfeeding among lactating mothers in Bedelle

town, Southwestern Ethiopia: Descriptive cross sectional study",

Researcher. 6(11), tr. 91-97.

178. Alwelaie YA và các cộng sự. (2010), "Breastfeeding knowledge and

attitude among Saudi women in Central Saudi Arabia", Saudi Medical

Journal. 31(9), tr. 193-198.

153

179. Jingxu Zhang và các cộng sự. (2009), "An infant and child feeding

index is associated with child nutritional status in rural China", Early

Human Development. 85(4), tr. 247-252.

180. Ying Zhao và các cộng sự. (2003), "Early infant feeding practices in

Jinan City, Shandong Province, China", Asia Pacific Journal of

Clinical Nutrition. 12(1), tr. 104-108.

181. Qianling Zhou, Katherine M Younger và John M Kearney (2010), "An

exploration of the knowledge and attitudes towards breastfeeding

among a sample of Chinese mothers in Ireland", BMC Public Health.

10(1), tr. 722.

154

Phụ lục 1:

Họ và tên người được phỏng vấn:. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

Ngày tháng năm sinh: . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

Xã: . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . Huyện .. . . . . . . . . . . . . . . Tỉnh . . . . . . . . .

Ngày được phỏng vấn:. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

Họ và tên điều tra viên: . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

Xã can thiệp

1

Xã đối chứng

2

PHIẾU PHỎNG VẤN PHỤ NỮ VỀ NUÔI CON BẰNG SỮA MẸ

I. Thông tin chung

TT

Nội dung

Trả lời

Mã số

Xin chị cho biết trình độ học

1

vấn?

Lớp . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

2 Nghề nghiệp

Làm ruộng

1

Giáo viên

2

Công nhân

3

Cán bộ, viên chức

4

Nội trợ

5

Khác (ghi rõ): . . . . . . . . . . . . . . .

6

3 Dân tộc

Kinh

1

Mường

2

Tày

3

Nùng

4

Giao

5

Hmông

6

Mán

7

Khác (ghi rõ): . . . . . . . . . . . . . . .

8

4 Chị đã có con chưa?

Đã có

1

Đang mang thai (chuyển sang câu

2

18)

Chưa có con (chuyển sang câu 18)

3

Nếu đã có, chị có bao nhiêu

5

con?

. . . . . . . . . . . . . . con

Trong đó, có mấy con từ 0-25

6

tháng tuổi

. . . . . . . . . . . . . . con

155

II. Thông tin liên quan đến thời gian cho con bú

TT

Câu hỏi

Con thứ 1

Con thứ 2

7 Xin chị cho biết tên của từng cháu

. . . . . . . . . . .

. . . . . . . . . . .

8 Ngày tháng năm sinh

. . . ./. . . . / . . .

. . ./. . . / . . . .

9 Xin chị cho biết giới tính của cháu . . . .

Nam

1

1

Nữ

2

2

10 Chị sinh cháu bằng đẻ thường hay mổ đẻ?

Đẻ thường, dùng giác hút…

1

1

Mổ đẻ

2

2

Sau sinh chị có cho cháu ... bú sữa mẹ

11

không?

1

1

Vừa cho bú mẹ vừa ăn sữa ngoài

2

2

Ăn sữa ngoài (chuyển sang câu 22)

3

3

Khác (ghi rõ) . . . . . . . . . . . . . . . . .

4

4

Nếu có, thì sau sinh bao lâu chị cho con

12

bú sữa mẹ?

Cho con bú ngay

1

1

Sau 30 phút

2

2

Sau 1 giờ

3

3

Sau 2 giờ

4

4

Sau 3 giờ

5

5

Trên 3 giờ đến 12 giờ

6

6

Trên 12 giờ đến 24 giờ

7

7

Trên 24 giờ

8

8

13 Chị đã cho cháu . . . . . . . . ăn sam chưa?

Đã ăn sam

1

1

Chưa ăn sam (chuyển câu 18)

2

2

Và bắt đầu cho cháu ăn sam vào lúc cháu

14

mấy tháng tuổi?

Tháng bắt đầu cho ăn sam (bú mẹ

. . . . . . . . tháng

. . . . . . . tháng

hoàn toàn)

Tháng bắt đầu cho ăn sam (vừa bú mẹ

. . . . . . . . tháng

. . .. . . . . tháng

vừa ăn ngoài)

15 Chị đã cai sữa cho cháu . . . . . chưa?

1

1

Chưa cai (chuyển câu 17)

2

2

Đã cai

Nếu đã cai sữa cho cháu . . . . . thì chị cho

16

cháu bú đến đến mấy tháng thì cai?

. . . …... . tháng

. … . . . tháng

Nếu chưa cai sữa, thì chị dự định cho cháu

17

bú đến mấy tháng tuổi?

. . . . . . . . tháng

. . . . . . . tháng

156

III. Đối với phụ nữ chưa cho con ăn sam, đang có thai và chưa có thai

TT

Câu hỏi

Nội dung trả lời

Mã số

Chị thuộc đối tượng nào sau

Chưa cho con ăn sam (chuyển câu

1

18

đây?

20)

Đang có thai

2

Chưa có thai

3

19 Sau khi sinh chị có dự kiến

Cho con bú sữa mẹ

1

Vừa cho con bú mẹ vừa ăn sữa

2

nuôi con bằng gì?

ngoài

Ăn sữa ngoài

3

Không biết

4

20 Chị có ý định cho con bú sữa

. . . . . . . . . . . . . . . tháng

mẹ hoàn toàn mấy tháng mới

cho ăn sam?

21 Và dự định cho con bú mẹ đến

. . . . . . . . . . . . . . . tháng

mấy tháng tuổi thì cai sữa?

IV. Kiến thức về nuôi con bằng sữa mẹ (tất cả các đối tượng phụ nữ)

22

Cho con bú sữa mẹ hoàn toàn

1

Xin chị cho biết đối với trẻ từ 0

Vừa cho bú sữa mẹ và ăn thêm sữa

2

đến 6tháng tuổi lựa chọn nuôi

bột

con tốt nhất là gì?

Cho ăn sữa bột pha (chuyển câu 27)

3

Không biết

4

23 Theo chị thời gian thích hợp

nhất nuôi con hoàn toàn bằng

. . . . . . . . . . tháng

sữa mẹ là mấy tháng?

24 Theo chị thời gian cho trẻ bú

. . . . . . . . . . tháng

bao nhiêu lâu mới cai sữa?

Khác (ghi rõ): . . . . . . . . . . . . . . .

25

Sữa mẹ chứa đủ các chất

1

Chứa nhiều kháng thể, con có sức

2

Xin chị cho biết những lợi ích

đề kháng

cho con bú sữa mẹ là gì?

Tinh khiết, an toàn, không có chất

3

bảo quản

Giúp cho trẻ khỏe mạnh

4

Bảo vệ sức khỏe cho trẻ

5

Giúp trẻ phát triển thể lực và trí não

6

Tốt hơn bột nhân tạo, thực phẩm

7

khác

Chứa nhiều vitamin

8

157

Tốt cho hệ tiêu hóa

9

Giúp cho trẻ thông minh hơn

10

Tạo sự kết gắn giữa mẹ và con

11

Chứa nhiều canxi, giúp xương vững

12

chắc

Chứa nhiều khoáng chất

13

Cho con bú sữa mẹ là biện pháp

14

tránh thai tốt

Giảm được bệnh tiêu chảy ở trẻ

15

Phù hợp với phong tục Việt Nam

16

26

Chị biết được thông tin về việc

Từ đài, báo, vô tuyến

1

nuôi con bằng sữa từ những

Từ cán bộ y tế

2

nguồn nào?

Từ cán bộ hội phụ nữ

3

Từ các câu lạc bộ

4

Từ người thân

5

Khác (ghi rõ): . . . . . . . . . . . . . . .

6

Sữa bột nhân tạo hiện đại có thể

1

27

Xin chị cho biết lý do tại sao

thay thế thành công sữa mẹ

không cho con bú sữa mẹ?

Nuôi con bằng sữa bột tiện lợi hơn

2

nhiều so với nuôi con bằng sữa mẹ

Vắt sữa mẹ ra ngoài và sau đó mới

3

cho trẻ ăn là không hợp vệ sinh

Bất kỳ một loại sữa bột nào miễn là

4

phù hợp với lứa tuổi của trẻ đều có

lợi ích như sữa mẹ

Không có sữa nên phải cho ăn sữa

5

ngoài

Cho con bú mẹ ảnh hưởng đến hình

6

dáng của mẹ (làm cho mẹ sấu đi)

158

Khác (ghi rõ) . . . . . . . . . . . . . . . .

7

V. Thái độ nuôi con bằng sữa mẹ

Xin chị cho biết quan điểm của mình về việc nuôi con bằng sữa mẹ

159

Thang điểm

Không đồng

Rất đồng

TT

Câu hỏi

ý

Đồng ý

ý

(1 điểm)

(2 điểm)

(3 điểm)

28 Nuôi con bằng sữa mẹ giúp bảo vệ trẻ

khôngbị bệnh tật/tránh được viêm nhiễm

29 Nuôi con bằng sữa mẹ tạo được sự kết gắn

giữa mẹ và con, bú bình không thể có

được

Trẻ được nuôi bằng sữa mẹ khỏe mạnh

30

hơn

những trẻ không được nuôi bằng sữa mẹ

31 Sữa mẹ chứa đầy đủ các chất giúp cho trẻ

phát triển

32 Nuôi con bằng sữa mẹ dễ hơn là nuôi con

bằng cho ăn sữa bột

33 Bà mẹ cho con bú sữa mẹ không gặp khó

khăn trong việc chăm sóc gia đình

34 Nuôi con bằng sữa mẹ là cách tốt nhất để

giảm sự chi tiêu trong gia đình

35 Làm mẹ là phải nuôi con bằng sữa mẹ

36 Nuôi con bằng sữa bột sẽ giúp cho trẻ có

thân hình khỏe mạnh và chống được béo

phì

37 Phụ nữ không nên cho con bú ở nơi công

cộng

Nuôi con bằng sữa mẹ làm mất tự do của

38

mẹ

Nuôi con bằng sữa mẹ làm mất nhiều thời

39

giancủa mẹ

Chú ý: từ câu 36 đến câu 39 thang điểm cho ngược lại, nếu đồng ý là 1 điểm, không

đồng ý là 3 điểm

Xin cảm ơn chị đã trả lời câu hỏi của chúng tôi!

160

Điều tra viên ký tên

161

Phụ lục 2:

CÂU HỎI HƯỚNG DẪN THẢO LUẬN NHÓM

1. Xin các chị cho biết nuôi con bằng sữa mẹ có những lợi ích gì? và tại sao?

2. Nếu so với sữa bột hiện có đang bán tại thị trường, thì những sữa này có

thể thay thể được sữa mẹ không? và tại sao?

3. Theo các chị sau khi sinh bao lâu thì cho con bú sữa mẹ? và tại sao?

4. Và cho con bú sữa mẹ hoàn toàn trong mấy tháng đầu? và xin cho biết lý

do tại sao phải bú như thể?

5. Theo các chị trẻ em nên bú mẹ thời gian kéo dài đến bao nhiêu tháng tuổi

và lý do tại sao lại phải bú theo dài như thế?

6. Theo các chị hiện nay có những khó khăn gì đối với phụ nữ phải nuôi con

bằng sữa mẹ

7. Làm thế nào để giải quyết được những khó khăn này?

8. Và làm sao để cho các bà mẹ cho con bú sữa mẹ càng sớm càng tốt?

9. Và thời gian cho con sữa mẹ hoàn toàn đến 6 tháng tuổi?

162

Phụ lục 3:

GỢI Ý THẢO LUẬN NHÓM

(Dành cho NHÓM LÃNH ĐẠO)

* Giới thiệu qua về mục đích cuộc thảo luận nhóm

1. Một số thông tin chung về tình hình kinh tế - xã hội, an ninh trật tự, vị

thành niên vi phạm pháp luật và mắc tệ nạn xã hội tại địa phương hiện nay

từ năm 2011 đến nay.

2. Đánh giá chất lượng giáo dục - đào tạo; chất lượng chăm sóc sức khỏe

nhân dân, sức khỏe trẻ em những năm gần đây tại địa phương

3. Vai trò của chính quyền, đoàn thể và các ban ngành trong việc chỉ đạo

triển khai thực hiện các hoạt động liên quan tới giáo dục gia đình, nuôi dạy

con tốt tại địa phương như thế nào? (Hoặc Chính quyềnđịa phương và các

ban ngành liên quan đã có những chỉđạo hoặc hỗ trợ gì cho các gia đình

trong việc giáo dục và chăm sóc trẻ: chính sách, hỗ trợ vật chất, tinh thần...)

4. Đánh giá hoạt động của mô hình CLB nuôi con bằng sữa mẹ

5. Chính quyềnđịa phương đã thực hiện những chính sách gì của Nhà nước

trong việc hộ trợcác chương trình LMAT và nuôi dưỡng trẻ nhỏ trên địa

bàn?

6. Địa phương có đề xuất cụ thể nào?

163

Biểu đồ 1.3: tỷ lệ cho con bú mẹ trong vòng 1 giờ đầu ở Madagascar từ năm

1997 đến năm 2002

164

Biểu đồ 1.4: tỷ lệ cho con bú sữa mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu ở

Madagascar từ năm 1997 đến năm 2002

165

Biểu đồ 1.5: Tỷ lệ nuôi con bằng sữa mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu

tại một số quốc gia trên thế giới

(nguồn: http://www.childinfo.org/breastfeeding_iycf.php)