YOMEDIA
Lớp Giun ít tơ (Oligochaeta) - Đặc điểm cấu tạo và sinh lý
Chia sẻ: Nguyễn Thị Phương Anh
| Ngày:
| Loại File: PDF
| Số trang:12
580
lượt xem
30
download
Download
Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ
Giun ít tơ có khoảng 4.000 loài, có quan hệ gần gũi với giun nhiều tơ nhưng đặc điểm hình thái có biến đổi để phù hợp với lối sống chui luồn trong đất, đáy các thuỷ vực hay sống bám trên cây thuỷ sinh. Giun ít tơ sống ở nước ngọt có kích thước bé, đường kính thân khoảng một vài mm. Giun đất có cỡ lớn hơn (0,5 - 50mm) có thể dài tới 3m (Megascolides australis).
AMBIENT/
Chủ đề:
Nội dung Text: Lớp Giun ít tơ (Oligochaeta) - Đặc điểm cấu tạo và sinh lý
- Lớp Giun ít tơ
(Oligochaeta) - Đặc điểm
cấu tạo và sinh lý
Giun ít tơ có khoảng 4.000 loài, có quan hệ gần
gũi với giun nhiều tơ nhưng đặc điểm hình thái
có biến đổi để phù hợp với lối sống chui luồn
trong đất, đáy các thuỷ vực hay sống bám trên
cây thuỷ sinh.
Giun ít tơ sống ở nước ngọt có kích thước bé,
đường kính thân khoảng một vài mm. Giun đất
có cỡ lớn hơn (0,5 - 50mm) có thể dài tới 3m
(Megascolides australis).
- Số đốt thân thường thay đổi từ 7 – 8 đốt đến
hàng trăm đốt. Ở giun ít tơ các bộ phận cảm
giác trên đầu và chi bên bị tiêu giảm. Tơ thường
xếp thành 4 chùm tơ hay vành tơ trên mỗi đốt.
Tơ là điểm tựa bám vào thành hang khi di
chuyển. Một số loài sống tự do trong nước thì
có lông tơ dài (giống Acoloma thuộc họ
Naididae) (hình 7.9).
- Thành cơ thể của giun ít tơ
cũng có cấu tạo như ở giun nhiều tơ: Lớp
cuticun bao ngoài, trong suốt, có nhiều gờ chéo
nên bền vững. Tiếp theo là lớp biểu mô có xen
lẫn các tế bào tuyến và tế bào cảm giác. Chức
năng của tế bào tuyến là tiết chất nhầy, đôi khi
dính đất, sỏi, cát… tạo thành vỏ tách khỏi lớp
cuticun hay tạo thành đai sinh dục (tế bào tuyến
tạo đai sinh dục có 2 loại, một loại thì tạo thành
lớp vỏ ngoài của đai, sau này thành vỏ kén để
bọc trứng, một loại khác thì hình thành chất dinh
dưỡng để nuôi phôi. Tế bào cảm giác có tiêm
- mao, có khi tập trung thành nhú cảm giác. Bao
cơ của giun ít tơ có lớp cơ vòng ngoài và
cơ dọc trong (ở họ Branchiobdellidae còn có
thêm lớp cơ xiên) (hình 7.10).
Nhìn chung mức độ phát triển của các lớp cơ
phụ thuộc vào cách chuyển vận của giun ít tơ:
hoặc là tế bào cơ có sợi phân bố đều trong các
lớp cơ hoặc là tạo thành bó cơ. Xoang cơ thể là
xoang thứ sinh, trong xoang có nhiều vách ngăn
đốt, ứng với ngấn đốt bên ngoài. Trong xoang
chứa đầy dịch thể xoang.
Hệ tiêu hóa của giun ít tơ có 3 phần (ruột trước,
ruột giữa và ruột sau). Từ trước ra sau có lỗ
miệng, xoang miệng, hầu, thực quản, dạ dày,
ruột giữa, ruột thẳng và hậu môn. Ruột trước
biến đổi nhiều tùy thuộc vào lối dinh dưỡng như
hầu có thành cơ dày, có thể phóng ra ngoài,
- phía sau hầu có nhiều tuyến tiêu hoá đơn
bào. Ở giun đất Pheretima aspergillum, vùng
hầu có nhiều bó cơ khỏe giúp cho quá trình co
bóp, trong hầu có hàm kitin để phù hợp với lối
ăn mùn, đất. Thực quản là một ống dài, thành
mỏng. Mề là khối cơ dày, phình to.
Dạ dày tuyến là phần thu hẹp sau dạ dày cơ, có
thành mỏng. Ruột giữa là phần sau dạ dày,
phình to, có thành mỏng. Ở một số họ như
Lumbricidae, Megascolecidae, có rãnh ruột chạy
dọc phía lưng, phía chính giữa nhằm tăng diện
tích hấp thụ. Quanh ruột có lớp tế bào vàng
(chloragogen). Ruột được treo lơ lửng trong
xoang cơ thể nhờ màng treo ruột. Phần sau của
ống tiêu hóa là ruột thẳng hay ruột sau và ít sai
khác so với ruột trước. Phần lớn giun đất có 2
manh tràng mọc ra từ ruột giữa.
- Tuyến tiêu hoá đổ vào thực quản, có tên gọi
khác nhau tuỳ nhóm (ở giun đất thì được gọi là
tuyến moren, nhận các ion CO3- và Ca++ thừa
trong máu và đưa vào thực quản để trung hoà
axit humic có trong thức ăn. Ruột của họ
Naididae và họ Tubifficidae có biểu mô có tiêm
mao tạo dòng nước ngược làm nhiệm vụ hô
hấp.
Hệ tuần hoàn có sơ đồ cấu tạo như giun nhiều
tơ. Hệ tuần hoàn kín, cấu tạo khá phức tạp. Máu
đỏ do có sắc tố hemoglobin. Hệ tuần hoàn
của Pheretima gồm hệ mạch máu trung tâm, hệ
mạch máu quanh ruột và trên thành cơ thể. Hệ
mạch trung tâm có 3 mạch máu chính chạy dọc
cơ thể là mạch lưng (phía trên ruột), mạch bụng
(phía dưới ruột) và mạch dưới thần kinh. Mạch
lưng và bụng nối với nhau bằng các quai mạch
tương ứng với các đốt. Một số quai mạch bao
- quanh thực quản phình rộng, có khả năng co
bóp (các tim bên). Máu từ mạch lưng
chuyển xuống mạch bụng vào mao quản da
và các nội quan. Ngoài ra còn có các mạch bên
thần kinh. Sau khi lấy ôxy từ da về, máu qua các
mạch nối dưới thần kinh để về mạch lưng. Mạch
lưng vốn có khả năng co bóp để vận chuyển
máu (hình 7.11).
- Hệ bài tiết điển hình của giun ít tơ là hậu
đơn thận. Nhiều loài trong họ
Megascolecidae và Glossoscolecidae có cơ
quan bài tiết là vi thận. Ví dụ như ở giun
khoang, cơ quan bài tiết gồm nhiều vi thận, là
dạng biến đổi của hậu đơn thận. Có 3 loại vi
thận là vi thận hầu, vi thận da và vi thận vách.
Ngoài các vi thận, còn có tế bào vàng (tế bào
Chloragoren) bao quanh ruột cũng tham gia
vào chức phận bài tiết. Ngoài ra còn có hàng
lỗ lưng, tiết chất dịch thể xoang ra ngoài vừa
tham gia điều áp suất thể dịch, vừa tham gia bài
tiết (hình 7.12).
Hệ thần kinh theo kiểu chung của giun đốt:
Gồm có hạch não, vòng thần kinh hầu, hạch
dưới hầu và chuỗi hạch thần kinh bụng. Từ não
có 3 đôi dây thần kinh đến hầu, xoang miệng, và
- thùy trước miệng. Hạch thần kinh dưới hầu lớn,
có 3 đôi dây thần kinh tới vách các đốt I, II và III.
Ở chuỗi thần kinh bụng, các tế bào thần kinh tập
trung thành hạch ở mỗi đốt. Từ hạch thần kinh
có một đôi dây thần kinh đi tới thành cơ thể và
một đôi dây thần kinh phía trước đi tới vách đốt.
Như vậy cấu tạo chuỗi thần kinh sắp xếp đều
đặn trong mỗi đốt cũng thể hiện tính chất phân
đốt đồng hình ở giun đất. Cơ quan cảm giác ở
dạng tế bào riêng lẻ phân tán dưới da để cảm
nhận ánh sáng (hình 7.13).
- Hệ sinh dục: Giun ít tơ là động vật lưỡng tính.
Lấy giun khoang Pheretima asperrgilum làm ví
dụ. Cơ quan sinh dục đực gồm 2 đôi tuyến tinh
có hình khối bầu dục, màu vàng nhạt, nằm ở
phía bụng của các đốt X và XI. Túi chứa tinh lớn
hơn, chia thùy, màu trắng đục và phủ quanh dạ
dày ở các đốt từ XI - XIII. Từ 2 tuyến tinh có 2
ống dẫn đổ ra phía sau, phần cuối tạo thành ống
phóng tinh, có thành cơ phát triển và đổ ra ngoài
qua lỗ sinh dục đực ở mặt bên bụng đốt XVIII.
Cạnh ống phóng tinh dễ dàng nhìn thấy tuyến
tiền liệt hình hạt đậu nhiều thùy màu trắng, nằm
dọc chiều dài các đốt (XVII - XIX), có ống dẫn
ngắn đổ thẳng vào ống phóng tinh. Cơ quan
sinh dục cái gồm một đôi tuyến trứng hình hạt
tròn, màu vàng nhạt, nhỏ hơn tuyến tinh và
nằm sau tuyến tinh, bám trên mặt sau
vách đốt XII - XIII. Hai phễu trứng nằm
trong đốt XIII, từ đó có ống dẫn trứng ngắn,
- xuyên qua vách ngăn đốt XIII và XIV rồi đổ
chung ra ngoài qua lỗ sinh dục cái ở mặt bụng
đốt XIV (đốt thứ nhất của đai sinh dục). Cơ quan
sinh dục đực còn có 2 đôi túi nhận tinh nằm
trong các đốt VII và VIII. Mỗi túi nhận tinh gồm
2 phần: Túi chứa lớn và ống dẫn dài, cả 2
đều thông ra ngoài theo lỗ nhận tinh.
Hương Thảo (Theo giáo trình ĐVKXS)
Thêm tài liệu vào bộ sưu tập có sẵn:
Báo xấu
LAVA
ERROR:connection to 10.20.1.98:9315 failed (errno=111, msg=Connection refused)
ERROR:connection to 10.20.1.98:9315 failed (errno=111, msg=Connection refused)
Đang xử lý...