BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA

HỒ CHÍ MINH

HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN

HỒ THỊ THANH BẠCH

THÔNG ĐIỆP VỀ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU TRÊN BÁO ĐẢNG KHU VỰC ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG (Khảo sát các báo An Giang, Cà Mau và Cần Thơ từ năm 2017 đến tháng 6 năm 2019)

LUẬN ÁN TIẾN SĨ BÁO CHÍ HỌC

HÀ NỘI - 2022

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA

HỒ CHÍ MINH

HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN

HỒ THỊ THANH BẠCH

THÔNG ĐIỆP VỀ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU TRÊN BÁO ĐẢNG KHU VỰC ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG (Khảo sát các báo An Giang, Cà Mau và Cần Thơ từ năm 2017 đến tháng 6 năm 2019)

Chuyên ngành : Báo chí học

Mã số

: 9 32 01 01

LUẬN ÁN TIẾN SĨ BÁO CHÍ HỌC

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:

1. PGS.TS. Nguyễn Văn Dững

2. PGS.TS. Nguyễn Quốc Dũng

HÀ NỘI - 2022

ỜI C ĐO N

T C

Tác giả luận án

Hồ Thị Thanh Bạch

ỤC ỤC

Trang

MỞ ĐẦU ............................................................................................................................... 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ..................................................................... 12 1. Hướng nghiên cứu về biến đổi khí hậu, truyền thông về biến đổi khí hậu ................. 12 2. Hướng nghiên cứu thông điệp trên báo chí về biến đổi khí hậu ................................. 17 3. “Báo Đảng” và các nghiên cứu về báo Đảng ............................................................... 34 4. Đánh giá tổng quan các công trình nghiên cứu liên quan đến luận án và đề ra

hướng nghiên cứu cho luận án .................................................................................. 36

Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU THÔNG ĐIỆP BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU TRÊN BÁO ĐẢNG KHU VỰC ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG ................................................................................................ 41 1.1. Cơ sở lý luận ................................................................................................................ 41 1.2. Cơ sở thực tiễn ............................................................................................................. 53 Chƣơng 2: THỰC TRẠNG THÔNG ĐIỆP VỀ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU TRÊN BÁO ĐẢNG KHU VỰC ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG .......................................... 68 2.1. Tổng quan về đối tượng khảo sát ............................................................................... 68 2.2. Nội dung thông điệp biến đổi khí hậu trên báo Đảng khu vực đồng bằng

sông Cửu Long ........................................................................................................... 70

2.3. Hình thức thông điệp biến đổi khí hậu trên báo Đảng đồng bằng sông

Cửu Long .................................................................................................................... 92

Chƣơng 3: CÔNG CHÚNG BÁO ĐẢNG ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG VỚI THÔNG ĐIỆP BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU...................................................................... 111 3.1. Nhận diện công chúng báo Đảng đồng bằng sông Cửu Long ................................ 111 3.2. Nhận thức, thái độ và hành vi tiếp nhận thông điệp biến đổi khí hậu của

công chúng ................................................................................................................ 115

Chƣơng 4: THÀNH CÔNG, HẠN CHẾ VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT ƢỢNG THÔNG ĐIỆP BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU TRÊN BÁO ĐẢNG KHU VỰC ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG ................................................................................. 129 4.1. Thành công và hạn chế của thông điệp biến đổi khí hậu trên báo Đảng

đồng bằng sông Cửu Long hiện nay ....................................................................... 129

4.2. Một số giải pháp, khuyến nghị nâng cao chất lượng thông điệp biến đổi

khí hậu trên báo Đảng khu vực đồng bằng sông Cửu Long .................................. 147 KẾT LUẬN ....................................................................................................................... 156 CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ LIÊN QU N ĐẾN ĐỀ TÀI ......................................................................................................... 161 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................... 162 PHỤ LỤC .......................................................................................................................... 174

D NH ỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

Từ viết tắt Giải thích

Báo AG Báo An Giang

Báo CM Báo Cà Mau

Báo CT Báo Cần Thơ

BĐKH Biến đổi khí hậu

Bộ TN&MT Bộ Tài nguyên và Môi trường

ĐBSCL Đồng bằng sông Cửu Long

ĐCS Đảng cộng sản

GS Giáo sư

HV BC&TT Học viện Báo chí và Tuyên truyền

IPCC Ủy ban Liên chính phủ về biến đổi khí hậu

KT - XH Kinh tế - Xã hội

LHQ Liên hiệp quốc

MTTT Môi trường truyền thông

NCS Nghiên cứu sinh

Nxb Nhà xuất bản

PGS Phó Giáo sư

PL Phụ lục

PVS Phỏng vấn sâu

TS Tiến sĩ

TTĐC Truyền thông đại chúng

DANH MỤC CÁC BẢNG

Trang

Bảng 3.1: Tổng hợp đánh giá của công chúng về nội dung và hình thức các

bài viết về BĐKH trên báo Đảng khu vực ĐBSCL ................................................ 119

Bảng 3.2: Tương quan đánh giá công chúng giữa các báo khảo sát ....................... 121

Bảng 3.3: Ý kiến của công chúng về việc điều chỉnh các các khía cạnh nội

dung bài viết BĐKH trên báo Đảng khu vực ĐBSCL ............................................ 125

DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ

Trang

Biểu đồ 2.1: Các khía cạnh nội dung thông điệp về BĐKH ..................................... 70

Biểu đồ 2.2: Các biểu hiện của BĐKH được đề cập trong thông điệp ..................... 71

Biểu đồ 2.3: Tỷ lệ các bài viết có đề cập đến nguyên nhân của BĐKH ................... 83

Biểu đồ 2.4: Thể loại bài viết về BĐKH trên báo Đảng khu vực ĐBSCL ............... 93

Biểu đồ 2.5: Tần suất đăng tải bài viết về BĐKH trên báo Đảng khu vực

ĐBSCL năm 2017 ................................................................................................... 106

Biểu đồ 2.6: Mức độ đề cập đến vấn đề BĐKH ..................................................... 107

Biểu đồ 2.7: Vị trí đăng tải các bài viết .................................................................. 108

Biểu đồ 3.1: Nghề nghiệp của công chúng tham gia khảo sát ................................ 112

Biểu đồ 3.2: Trình độ công chúng tham gia khảo sát ............................................. 113

Biểu đồ 3.3: Phương thức tiếp nhận thông tin về BĐKH của công chúng ............. 114

Biểu đồ 3.4: Mức độ quan tâm của công chúng đến vấn đề BĐKH ....................... 115

Biểu đồ 3.5: Nhận xét của công chúng về mức độ tác động của BĐKH ................ 116

Biểu đồ 3.6: Đánh giá của công chúng về nội dung các bài viết về BĐKH

trên báo Đảng khu vực ĐBSCL .............................................................................. 120

Biểu đồ 3.7: Đánh giá của công chúng về hình thức các bài viết về BĐKH

trên báo Đảng khu vực ĐBSCL .............................................................................. 120

Biểu đồ 3.8: Đánh giá của công chúng về thông tin tích cực và tiêu cực ............... 122

Biểu đồ 3.9: Đánh giá của công chúng về tần suất bài viết về BĐKH ................... 123

Biểu đồ 3.10: Mức độ đáp ứng nhu cầu thông tin về BĐKH ................................. 123

Biểu đồ 3.11: Tác động của thông điệp về BĐKH trên báo Đảng đến công

chúng địa phương .................................................................................................... 126

Biểu đồ 3.12: Mức độ tương tác giữa công chúng với cơ quan báo Đảng về

chủ đề BĐKH .......................................................................................................... 127

DANH MỤC CÁC HÌNH

Trang

Hình 2.1: Các bài viết về tác động tích cực của BĐKH trên báo Đảng khu

vực ĐBSCL ............................................................................................................... 78

Hình 2.2: Ảnh trong bài “Vàm Xoáy kêu cứu” (Báo CM ngày 31/3/2017) ........... 102

Hình 2.3: Các chùm ảnh/ phóng sự ảnh trên báo Cà Mau ...................................... 103

Hình 2.4: Ảnh trong bài viết “Chủ động đề phòng thời tiết nguy hiểm” ................ 104

Hình 2.5: Ảnh trong bài viết “Tăng cường giải pháp phòng chống khô hạn” ........ 104

Hình 2.6: Ảnh trong bài viết “Cần vào cuộc của toàn dân trong phòng

chống sạt lở” ............................................................................................................ 104

1

MỞ ĐẦU

1. ý do chọn đề tài

BĐKH là một trong những thách thức lớn nhất của nhân loại trong thế kỷ 21.

Sự thay đổi một cách bất thường của các xu hướng thời tiết ảnh hưởng tới sản xuất và

đời sống, đe dọa đến sức khỏe con người, là nguyên nhân “châm ngòi” cho các xung

đột nội bộ và giữa các quốc gia, khu vực…, đồng thời tác động làm gia tăng nhiều

nguy cơ khác làm thay đổi sự phát triển của thế giới. Theo ước tính của LHQ, từ nay

đến năm 2050, sẽ có khoảng 150 triệu người phải rời bỏ nơi sinh sống do BĐKH gây

ra các hiện tượng thời tiết cực đoan; phân nửa động thực vật sẽ đối mặt với nguy cơ

tuyệt chủng nếu nhiệt độ Trái Đất tăng thêm từ 1,1 - 6,4 độ C. Tại Hội nghị lần thứ 26

các bên tham gia Công ước khung của Liên hợp quốc về BĐKH (COP26), diễn ra

tại Glasgow (Vương quốc Anh) ngày 1/11/2021, Thủ tướng Chính phủ Việt Nam

Phạm Minh Chính nhấn mạnh: "Tác ộ BĐKH ở

ọ ơ ớ p ể bề ữ ọ

ề ộ ". [10] [11] [14].

Việt Nam nằm trong số 5 quốc gia chịu ảnh hưởng năng nề nhất của BĐKH.

Tác động của BĐKH đã gây nhiều tổn thất to lớn về người, tài sản, cơ sở hạ tầng, về

kinh tế, văn hoá, xã hội, tác động xấu đến môi trường, là nguy cơ hiện hữu cho việc

thực hiện các mục tiêu thiên niên kỷ và sự phát triển bền vững của đất nước.

ĐBSCL là một trong 03 đồng bằng trên thế giới dễ bị tổn thương nhất do nước

biển dâng. Theo các kịch bản BĐKH, vào cuối thế kỷ 21, nhiệt độ trung bình năm ở Việt Nam tăng khoảng 20 -300 C; mực nước biển có thể dâng cao thêm từ 75 cm đến 1

mét so với thời kỳ 1980 - 1999. Khi đó, sẽ có khoảng 40% diện tích vùng ĐBSCL bị

ngập, 35% dân số chịu ảnh hưởng xấu do thời tiết phức tạp. Thực tế diễn biến thời tiết

vùng ĐBSCL 10 năm trở lại đây cũng có nhiều dấu hiệu bất thường, tình trạng hạn

hán, xâm nhập mặn, sạt lở, ngập úng… trở nên nghiêm trọng hơn; 1,7 triệu người đã di

cư khỏi ĐBSCL, hơn gấp đôi trung bình cả nước. Tình trạng này tiềm ẩn những nguy

cơ lớn đối với quốc gia vì ĐBSCL là vùng địa kinh tế - chính trị, có số dân chiếm gần

18% dân số cả nước với 17 triệu dân, có vị trí trọng yếu về an ninh, quốc phòng, đóng

góp khoảng 18% GDP với 90% tổng lượng gạo xuất khẩu, gần 60% kim ngạch xuất

2

khẩu thủy sản và 70% sản lượng trái cây của Việt Nam, có vai trò đảm bảo an ninh

lương thực cho cả nước [11][13] [35][75][89]…

Với chức năng đặc trưng là cung cấp thông tin, định hướng dư luận xã hội [17],

báo chí nói riêng và truyền thông nói chung được nhiều quốc gia và tổ chức thế giới

nhìn nhận như một công cụ hữu ích và được tận dụng tối đa trong việc nâng cao nhận

thức về BĐKH cho công chúng, tạo dựng các diễn đàn thảo luận về giải pháp phù hợp

ứng phó với BĐKH đối với từng khu vực và cộng đồng cụ thể. Đây cũng là giải pháp

mà Đảng, Nhà nước và Chính phủ Việt Nam hướng đến nhằm nâng cao nhận thức,

năng lực thích nghi và ứng phó với BĐKH của cộng đồng. Bám sát những định hướng

chỉ đạo đó, báo chí Việt Nam thời gian qua đẩy mạnh thông tin tuyên truyền, phổ biến,

giải thích đường lối, chính sách, pháp luật về BĐKH và ứng phó với BĐKH. Những

thông điệp mà báo chí chuyển tải đã cung cấp nhiều kiến thức bổ ích giúp người dân,

cộng đồng thêm hiểu biết, có niềm tin và cơ sở để từ đó thực hiện đường lối của Đảng,

chính sách, pháp luật của Nhà nước vào thực tiễn ứng phó với BĐKH [10][31][46]…

Mặc dù vậy, những nghiên cứu thực tiễn vừa qua cho thấy báo chí thông tin về

BĐKH vẫn còn những hạn chế nhất định, như: Một số cơ quan báo chí chỉ thông tin về

BĐKH khi có các sự kiện, hoạt động lớn về nội dung này chứ chưa chủ động xây dựng

kế hoạch thông tin thường xuyên. Các thông điệp rời rạc, thiếu hệ thống về BĐKH tác

động không đủ mạnh để công chúng nhận ra tầm quan trọng của vấn đề này với đời

sống nhân loại để từ đó thay đổi hành vi nhằm giảm thiểu những tác động có hại đến

môi trường. Nhiều tác phẩm báo chí khi đề cập đến nội dung BĐKH chú trọng mô tả

diễn biến, nhấn mạnh tác động tiêu cực mà chưa quan tâm những giải pháp “thích

nghi”, “thích ứng” với BĐKH; thông tin nhiều về những định hướng, chủ trương chính

sách về ứng phó với BĐKH hoặc các hoạt động, phát biểu của lãnh đạo Trung ương,

địa phương nhưng lại thiếu những bài phân tích sâu về nguyên nhân, các giải pháp ứng

phó và thích nghi hoặc chưa chủ động cung cấp kiến thức, thông tin cho công chúng,

cũng như chưa tổ chức diễn đàn thích ứng và dự báo về vấn đề này. Ngôn ngữ sử dụng

trong nhiều tác phẩm báo chí về lĩnh vực này còn khô khan, khó hiểu thậm chí chưa

chính xác... Những hạn chế này tạo nên những thông điệp hời hợt, sai lệch, chưa khoa

học về BĐKH khiến công chúng hoảng sợ, lo lắng và bi quan khi tiếp nhận; ảnh hưởng

đến mục tiêu nâng cao nhận thức, hiểu biết và hành động về ứng phó với BĐKH cho

công chúng nước nhà [16][31][46][65][93].

3

Tầm quan trọng của vùng ĐBSCL đối với quốc gia và những nguy cơ, hiểm họa

từ tác động tiêu cực của BĐKH mà vùng đất này đang đối mặt đòi hỏi cộng đồng dân

cư nơi đây phải nhận thức đúng đắn, có kiến thức và kỹ năng để chủ động ứng phó với

tác động tiêu cực của BĐKH một cách hiệu quả. Điều này lệ thuộc rất lớn vào thông

điệp mà họ tiếp nhận qua các phương tiện truyền thông, mà gần gũi nhất là báo chí địa

phương. Liệu báo địa phương ĐBSCL có làm tốt chức năng, vai trò định hướng xã hội

trong việc xây dựng và chuyển tải đến công chúng trong khu vực những thông điệp

khoa học, đa dạng, khách quan, dễ hiểu, có hệ thống …? Đó là câu hỏi đặt ra cần có

những nghiên cứu từ các công trình khoa học cụ thể.

Từ những lý do trên, tác giả lựa chọn đề tài “Thông điệp về biến đổi khí hậu

trên báo Đảng khu vực đồng bằng sông Cửu Long (Khảo sát các báo An Giang,

Cà Mau và Cần Thơ từ năm 2017 đến tháng 6 năm 2019)” làm đề tài luận án tiến

sĩ chuyên ngành Báo chí học.

2. Câu hỏi và giả thuyết nghiên cứu

Khi thực tiễn đặt ra yêu cầu cấp thiết về việc phải đẩy mạnh hiệu quả thông tin

nhằm nâng cao nhận thức và thay đổi hành vi của công chúng trong ứng phó với tác

động tiêu cực của BĐKH, báo Đảng khu vực ĐBSCL đã chuyển tải các thông điệp gì

và chuyển tải như thế nào về BĐKH đến công chúng? Mức độ ảnh hưởng của các

thông điệp về BĐKH trên báo Đảng ĐBSCL đến công chúng như thế nào? Thông điệp

về BĐKH trên báo Đảng khu vực ĐBSCL cần đáp ứng những tiêu chí nào? Là những

câu hỏi nghiên cứu mà Luận án sẽ tập trung kiến giải.

Cụ thể, có những vấn đề đặt ra cần quan tâm:

Để thích ứng với quá trình BĐKH, các nhà hoạch định chính sách cũng như cư

dân trong vùng cần có nhận thức, thái độ và hành vi phù hợp. Vậy trong quá trình này,

báo chí - truyền thông có những vai trò gì? Vai trò này được giới truyền thông khu vực

ĐBSCL thể hiện như thế nào qua hoạt động của mình? Trong đó, hệ thống báo Đảng

ĐBSCL có thực sự thể hiện vai trò trụ cột, nồng cốt của mình trong cung cấp kiến thức,

thông tin, để mở mang hiểu biết và thay đổi nhận thức, điều chỉnh thái độ và hành vi

công chúng? Nhà báo nói chuyện với công chúng bằng và thông qua thông điệp của

mình. Vậy thông điệp về BĐKH trên báo Đảng khu vực ĐBSCL hiện nay như thế nào

và vấn đề này có thể nghiên cứu, tổng kết nó nhằm tiếp tục nâng cao chất lượng thông

điệp, để nâng cao năng lực và hiệu quả tác động của nó đối với khả năng thích ứng với

quá trình BĐKH?

4

Chúng tôi cũng nêu ra các giả thuyết nghiên cứu như sau:

- Gi thuy t th nhất: - BĐKH đã và đang là vấn đề quyết định sự phát triển

bền vững của đất nước và khu vực ĐBSCL. Với hệ thống và mạng lưới truyền thông

rộng khắp khu vực ĐBSCL, báo Đảng địa phương có vai trò trụ cột, đã có những đóng

góp ngày càng tích cực vào quá trình cung cấp kiến thức, thay đổi nhận thức, thái độ và

hành vi công chúng xã hội và nhân dân nói chung trong khu vực nhằm thích ứng với

quá trình BĐKH.

- Gi thuy t th hai: - Thông điệp về BĐKH trên báo Đảng địa phương

ĐBSCL đã và đang đạt được những kết quả đáng khích lệ, và những kết quả này rất

cần được tổng kết để rút ra những vấn đề thực tiễn, đề xuất những giải pháp tiếp tục

nâng cao chất lượng và năng lực tác động của thông điệp.

- Gi thuy t th ba: - Năng lực, kỹ năng thiết kế thông điệp BĐKH của đội ngũ

nhà báo của báo Đảng địa phương khu vực ĐBSCL đang được cải thiện và cần được

nghiên cứu, tổng kết để tiếp tục nâng cao chất lượng và năng lực tác động của thông

điệp, đáp ứng nhu cầu công chúng bản địa.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

Trên cơ sở hệ thống hóa những vấn đề lý luận liên quan đến BĐKH và vai trò

của truyền thông, Luận án bước đầu hình thành khung lý thuyết cho vấn đề nghiên cứu;

từ đó khảo sát thực trạng, phân tích vấn đề thực tiễn thông điệp về BĐKH trên báo

Đảng địa phương khu vực ĐBSCL; đề xuất các giải pháp nâng cao chất lượng thông

điệp về BĐKH trên báo Đảng địa phương, góp phần thực hiện mục tiêu mở mang hiểu

biết, thay đổi nhận thức, thái độ và hành vi công chúng xã hội để ứng phó với BĐKH,

góp phần vào quá trình phát triển bền vững khu vực ĐBSCL.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Để thực hiện mục đích nghiên cứu nêu trên, luận án tập trung thực hiện một số

nhiệm vụ trọng tâm sau đây:

- Hệ thống hóa cơ sở lý luận và xây dựng khung lý thuyết cho vấn đề nghiên

cứu thông điệp về BĐKH nói chung, thông điệp về BĐKH trên báo Đảng khu vực

ĐBSCL nói riêng;

5

- Khảo sát thực trạng, nhận diện vấn đề thực tiễn của thông điệp BĐKH trên

báo Đảng khu vực ĐBSCL, tiếp cận ở cả hai hướng nội dung thông điệp và hình

thức thông điệp.

- Tìm hiểu việc tiếp nhận của công chúng về các thông điệp BĐKH trên báo

Đảng địa phương, đồng thời đánh giá mức độ ảnh hưởng của các thông điệp này đối

với công chúng xã hội trong khu vực.

- Phân tích những vấn đề thực tiễn đặt ra và đề xuất giải pháp nhằm nâng cao

chất lượng thông điệp về BĐKH trên báo đảng địa phương khu vực ĐBSCL

- Đề xuất các vấn đề cho các nghiên cứu tiếp theo.

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của luận án là thông điệp về BĐKH trên báo Đảng khu

vực ĐBSCL.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

* P ạ : Nghiên cứu được tiến hành trên phạm vi không gian

như sau:

- Không gian nghiên cứu thông điệp về BĐKH chủ yếu ở khu vực ĐBSCL, bao

gồm 13 tỉnh, thành phố.

- Đối tượng khảo sát thông điệp truyền thông về BĐKH được thực hiện trên các

tờ báo in của Đảng bộ 3 địa phương, gồm: An Giang, Cà Mau và Cần Thơ - là các địa

phương chịu ảnh hưởng của BĐKH nặng nề hơn so với các địa phương còn lại trong

khía cạnh bị tác động mang tính đặc trưng của khu vực. Cụ thể:

+ An Giang là tỉnh đầu nguồn sông Cửu Long, nằm trong khu vực Tứ giác Long

Xuyên, có đường biên giới giáp với Campuchia. Do thuộc vùng trũng, đây là nơi

thường xuyên ngập lũ, đồng thời cũng là địa phương mà tình trạng sạt lở, sụt lún đất

diễn ra diện rộng và thường xuyên.

+ Cà Mau là địa phương ở cực Nam của Tổ quốc, với 3 mặt giáp biển và hệ

thống sông ngòi chằng chịt ăn thông ra biển, vì thế địa phương này hiện bị ảnh hưởng

nặng nề do nước biển dâng và xâm nhập mặn. Những năm gần đây, tình hình sạt lở bờ

biển gia tăng làm mỗi năm trên 800ha rừng phòng hộ xung yếu ven biển ở Cà Mau bị

mất, ảnh hưởng lớn đến sản xuất và đe dọa tính mạng, tài sản của người dân.

6

+ Thành phố Cần Thơ là đô thị loại I, có vị trí địa lý trung tâm vùng ĐBSCL. So

với các địa phương trong vùng, TP Cần Thơ không chịu ảnh hưởng nặng nề nhất của

BĐKH ở biểu hiện cụ thể nào, tuy nhiên tác động của BĐKH mang tính đặc trưng của

vùng ĐBSCL đều xuất hiện tại Cần Thơ, như: gia tăng tình trạng ngập lụt, sạt lở, hạn

hán, xâm nhập mặn, xuất hiện tình trạng lốc xoáy… vì thế, Cần Thơ được xem là một

trong những địa phương chịu tác động nặng nề của BĐKH trong khu vực.

- Công chúng báo Đảng địa phương được khảo sát tại 03 tinh/thành như trên.

* Phạm vi thời gian: Các tác phẩm báo chí được khảo sát đăng tải trên các báo

từ tháng 01 năm 2017 đến hết tháng 6 năm 2019.

Khảo sát công chúng, phỏng vấn sâu được tiến hành trong khung thời gian 2019

có kéo theo sang đầu năm 2020.

5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu

5.1. Cơ sở lý luận

Để giải mã vấn đề nghiên cứu, công trình này dựa trên các cơ sở lý thuyết

sau đây:

- Cơ sở lý luận Mác-Lê-nin, Tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng

và Nhà nước Việt Nam; trong đó quan điểm Mác-Lê-nin cho rằng, báo chí “không chỉ

là người tuyên truyền tập thể, cổ động tập thể, mà còn là người tổ chức tập thể nữa”.

Tính tập thể ở đây có thể được hiểu, báo chí là cơ quan ngôn luận của Đảng - Đảng

lãnh đạo theo nguyên tắc “tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách”. Đây là cơ sở lý luận cơ

bản để luận án nghiên cứu thông điệp về BĐKH trên báo Đảng khu vục ĐBSCL.

Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, “Báo chí ta không phải để cho một số ít người

xem, mà để phục vụ đông đảo nhân dân lao động, để tuyên truyền giải thích đường lối,

chính sách của Đảng và Chính phủ, cho nên phải có tính chất quần chúng và tinh thần

chiến đấu” [52, tr.116]. Nếu coi quần chúng nhân dân là đối tượng chủ yếu, là mục tiêu

phục vụ của báo chí cách mạng thì phải viết sao cho quần chúng nhân dân dễ hiểu, dễ

đọc và dễ làm theo; sự lao động sáng tạo, ước vọng chân chính, những việc làm hay,

những gương sống tốt... của quần chúng nhân dân là chủ đề mà các nhà báo cách mạng

phải luôn theo dõi, bám sát.

ĐCS Việt Nam đã thiết lập các quan điểm cơ bản chỉ đạo hoạt động báo chí

trong Nghị quyết TW 5 (khoá X) về công tác tư tưởng, lý luận và báo chí trước yêu cầu

7

mới. Theo đó, báo chí phải nắm vững và tuyên truyền sâu rộng, kịp thời, có hiệu quả

đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; coi trọng đúng

mức việc phát hiện, biểu dương các nhân tố mới, điển hình tiên tiến; phải nâng cao chất

IX của ĐCS Việt Nam cũng chỉ rõ hệ thống thông tin đại chúng, trong đó có báo

lượng tư tưởng, tính hấp dẫn, mở rộng đối tượng độc giả... Văn kiện Đại hội lần thứ

chí phải “làm t t ch ă ền th c hi ờng l i, ch ơ

sách c Đ N ớc, phát hi n những nhân t mớ ẹp trong

xã hội, giới thi ơ ời t t, vi c t t, nhữ ển hình tiên ti n, phê phán các

hi ng tiêu c c, u n nắn những nh n th c l ch lạ ấu tranh với những quan

ểm sai trái, coi trọng nâng cao tính chân th t, tính giáo dục và tính chi ấu

thông điệp báo chí cần phải có để đáp ứng các mục tiêu, kỳ vọng mà xã hội

đặt ra đối với báo chí.

…” [27, tr.91]. Điều này cũng cho thấy những yêu cầu cơ bản mà

- Về lý thuyết chuyên ngành, luận án sử dụng các lý thuyết sau đây:

Một là, Lý thuyết Thiết lập chương trình nghị sự. Lý thuyết này cho rằng việc

thông tin của TTĐC là hoạt động có mục đích. Các cơ quan báo chí truyền thông dựa

vào mục đích tôn chỉ và môi trường thực tế để lựa chọn vấn đề hoặc nội dung mà họ

coi là quan trọng nhất để sản xuất và cung cấp cho công chúng. Tần suất, cường độ

của các chủ đề được TTĐC thông tin ảnh hưởng đến mức độ quan tâm, nhận thức của

công chúng về tầm quan trọng của vấn đề đó. Tiếp cận lý thuyết này vào vấn đề

nghiên cứu để thấy rằng thông điệp truyền thông có vai trò quan trọng trong việc chỉ

dẫn, định hướng công chúng. Tần suất, cường độ, nội dung của thông điệp về BĐKH

mà các cơ quan TTĐC chuyển tải sẽ ảnh hưởng đến nhận thức, thái độ và hành vi của

công chúng.

Hai là, Lý thuyết Đóng khung. Theo lý thuyết này, truyền thông có khả năng

dựng khung (framing) để định hướng và điều chỉnh dư luận xã hội. “Khung” là những

phần trừu tượng có tác dụng sắp xếp hoặc cấu trúc ý nghĩa của thông điệp; được thiết

kế để nâng cao hiểu biết hoặc được sử dụng làm một “lối tắt” nhận thức để liên kết một

vấn đề với bức tranh toàn cảnh của hiện thực. Các cơ quan TTĐC tạo ra “Khung” bằng

cách giới thiệu các thông tin trong một ngữ cảnh hẹp rồi làm cho nó nổi bật lên trên văn

8

bản truyền thông [33]. Từ việc lựa chọn và làm nổi bật các vấn đề, TTĐC tạo dựng các

nguyên lý được cộng đồng xã hội chia sẻ, áp dụng để xác định vấn đề, đưa ra định

nghĩa, giải thích nguyên nhân, đánh giá kết quả và gợi ý cách giải quyết vấn đề. Tiếp

cận lý thuyết này để thấy rằng thông điệp truyền thông gợi lên và chuyển tải những ý

tưởng gì, thì sẽ tạo thành khung nhận thức, cách hành xử của công chúng về vấn đề đó.

Ba là, Lý thuyết Truyền thông can thiệp xã hội. Lý thuyết này cho rằng, báo chí

- truyền thông tham gia can thiệp (hay giải quyết) các vấn đề KT-XH thông qua việc

cung cấp thông tin, kiến thức, tạo diễn đàn chia sẻ kỹ năng và kinh nghiệm cho công

chúng xã hội; thông qua đó giúp công chúng và nhân dân nói chung mở mang hiểu

biết, thay đổi nhận thức, thái độ và hành vi xã hội trong quá trình tham gia giải quyết

các vấn đề KT-XH đó [26, tr.27-28]. Tiếp cận lý thuyết này trong vấn đề nghiên cứu

cho thấy truyền thông có vai trò quan trọng trong việc giải quyết các vấn đề xã hội, bao

gồm những vấn đề có quy mô mang tính toàn cầu. Hiểu biết, nhận thức, thái độ, hành

vi và kỹ năng ứng phó với BĐKH của công chúng lệ thuộc rất lớn vào nội dung của

thông điệp về BĐKH mà TTĐC chuyển tải.

Ngoài ra, Luận án còn sử dụng các lý thuyết về tâm lý tiếp nhận của công

chúng, Lý thuyết sử dụng - hài lòng, Lý thuyết truyền thông điệp cho đối tượng. Lý

thuyết, phương pháp xã hội học TTĐC cũng được vận dụng trong nghiên cứu này.

5.2. Phương pháp nghiên cứu

- P ơ p p u lý thuy t, được dùng để khảo cứu các công trình

khoa học liên quan đến vấn đề nghiên cứu, nhằm hệ thống hoá các vấn đề lý luận

liên quan vấn đề này, cũng như làm cơ sở để xây dựng khung lý thuyết cho vấn đề

của luận án.

- P ơ p p p ội dung, được thực hiện bằng cả hai hình thức định

tính và định lượng. Đối với phân tích nội dung định lượng, quy trình thực hiện là sau

khi hệ thống hóa các vấn đề lý luận, thao tác hóa các khái niệm bằng những chỉ báo cụ

thể có thể đo lường được, tác giả tiến hành lập bảng mã định lượng và phân tích trên

các bài báo đã được lựa chọn. Kết cấu của bảng mã bao gồm các thông tin định danh

và các chỉ báo về nội dung và hình thức thông điệp, được thiết kế dựa trên kết quả

nghiên cứu lý thuyết và thực tiễn của vấn đề nghiên cứu. Mẫu phân tích là 1.290 tác

phẩm báo chí trên báo in An Giang, Cà Mau và Cần Thơ xuất bản từ năm 1/1/2017 đến

9

30/ 6/2019 có chứa các từ khóa, bao gồm cụm từ “Biến đổi khí hậu” và các từ có liên

quan đến BĐKH như: sự nóng lên của bầu khí quyển (hay nóng lên toàn cầu); tình

trạng tan băng ở hai cực địa cầu; nước biển dâng; bão, lũ lụt, ngập lụt, hạn hán, sạt

lở, sụt lún, xói mòn, lốc xoáy, mưa trái quy luật (mưa trái mùa) hoặc cường độ bất

thường; hiện tượng El Nino, hiện tượng xâm nhập mặn, mất đa dạng sinh học…

Phần mềm SPSS 16.0 được sử dụng để hỗ trợ cho việc thống kê, phân tích bảng mã.

Phân tích nội dung định tính được thực hiện để phân tích sâu các tác phẩm báo

chí theo từng chủ đề nghiên cứu, rút trích các thông tin, mô tả, so sánh và kiểm tra một

số kết quả… nhằm làm rõ hơn các kết quả của phân tích định lượng.

- P ơ p p p ỏng vấn sâu được thực hiện qua hình thức câu hỏi với 18

người trả lời, gồm các chuyên gia - nhà khoa học về BĐKH, các nhà quản lý và các

nhà báo chuyên viết về BĐKH ở các báo khảo sát với mục đích thu thập thêm các cứ

liệu thực tế, thông tin định tính của vấn đề nghiên cứu.

- P ơ p p b ng hỏi anket, được dùng khảo sát công chúng ở 3 địa phương

diện khảo sát, mỗi địa phương 150 người, tổng cộng là 450 người, nhằm tìm hiểu mức

độ ảnh hưởng của các thông điệp BĐKH và thu nhận đánh giá của công chúng đối với

thông điệp về BĐKH trên báo Đảng địa phương.

- P ơ p p ng kê - phân loại được sử dụng để tìm hiểu tần suất và cơ cấu

các loại thông điệp về BĐKH trên báo Đảng diện khảo sát.

6. Đóng góp mới của luận án

- Luận án hệ thống những vấn đề lý luận về nghiên cứu thông điệp báo chí,

đặc biệt là trên báo in; xác định vai trò và những yêu cầu đối với báo Đảng khu vực

ĐBSCL trong thực hiện nhiệm vụ truyền thông nhằm tăng cường hiểu biết, thay đổi

nhận thức, thái độ và hành vi công chúng để thích ứng với BĐKH.

- Luận án chỉ ra thực trạng thông điệp về BĐKH trên báo Đảng khu vực

ĐBSCL hiện nay và thực trạng về thái độ tiếp nhận, nhu cầu công chúng ở ĐBSCL

đối với thông điệp về BĐKH.

- Luận án đưa ra những dự báo về thuận lợi và thách thức của báo Đảng trong

môi trường truyền thông mới, khuyến nghị những giải pháp để nâng cao chất lượng

thông điệp về BĐKH trên báo Đảng khu vực ĐBSCL để đáp ứng mục tiêu truyền

thông về chủ đề này.

10

7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án

7.1. Ý nghĩa khoa học

Là công trình nghiên cứu đầu tiên tiếp cận cơ bản và hệ thống vấn đề thông điệp

về BĐKH trên các báo in các tỉnh Đảng bộ khu vực ĐBSCL, luận án sẽ làm phong phú

thêm cho lĩnh vực nghiên cứu truyền thông, cụ thể là khía cạnh phân tích thông điệp

trên báo in.

Kết quả nghiên cứu của luận án góp phần nâng cao năng lực tác động và

hiệu quả truyền thông về BĐKH trên báo chí nói chung, báo Đảng khu vực ĐBSCL

nói riêng.

7.2. Ý nghĩa thực tiễn

Trên cơ sở phân tích, đánh giá khách quan, luận án sẽ cung cấp cái nhìn tổng

quan thực tiễn của thông điệp về BĐKH trên các tờ báo Đảng khu vực ĐBSCL nói

chung, cụ thể hơn là của các tờ báo trong diện khảo sát. Qua đó, giúp các cơ quan báo

chí nhìn nhận lại kết quả thực hiện nhiệm vụ thông tin trong thời gian qua, từ đó góp

phần cải thiện và nâng cao chất lượng thông tin về BĐKH.

Luận án cũng sẽ là tài liệu tham khảo bổ ích phục vụ công tác nghiên cứu khoa

học về đề tài BĐKH hoặc lĩnh vực nghiên cứu thông điệp và gợi mở hướng nghiên cứu

cho các đề tài khoa học khác có liên quan.

Luận án sẽ là tài liệu tham khảo bổ ích và thú vị cho giới báo chí - truyền thông,

cho các cơ sở nghiên cứu - đào tạo nguồn nhân lực cho báo chí - truyền thông về thông

điệp BDKKH nói chung, thông điệp BĐKH ở ĐBSCL trên báo in của Đảng bộ địa

phương nói riêng.

Công trình này cũng sẽ là tài liệu tham khảo có ích cho các nhà hoạch định

chính sách về BĐKH, nhất là ở ĐBSCL. Luận án cũng sẽ là tài liệu tham khảo cho

những ai, kể cả người nước ngoài, quan tâm đề thông điệp báo chí - truyền thông

về BĐKH.

8. Kết cấu của luận án

Ngoài Chương Tổng quan, Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo và

Phụ lục, luận án có kết cấu 4 chương.

Chương Tổng quan được viết theo mô thức chung, điểm xuyết một số công

trình tiêu biểu liên quan đến đề tài; từ đó tìm kiếm để kế thừa và khoảng trống để

11

góp phần lấp đầy những khoảng trống nghiên cứu đó. Chương 1, luận án thiết lập

cơ sở lý luận - thực tiễn cho vấn đề nghiên cứu; trong đó sau khi giải mã các khái

niệm công cụ cơ bản, minh giải các lý thuyết được sử dụng, luận án phân tích yêu

cầu thực tiễn cần yếu cho nghiên cứu này. Chương 2, tìm hiểu thực trạng thông

điệp BĐKH trên báo Đảng khu vực ĐBSCL; nhìn nhận rõ hơn vấn đề thực tế đặt

ra.... Chương 3, tìm hiểu công chúng báo Đảng khu vực ĐBSCL trong quá trình

tiếp nhận thông điệp về BĐKH. Theo quan điểm tiếp cận của báo chí học, chúng

tôi cho rằng nghiên cứu thông điệp không thể không đặt trong mối quan hệ (ở mức

độ nào đó) với công chúng báo chí; và từ kết quả nghiên cứu chương 3, luận án soi

chiếu với chương 2 để phân tích vấn đề thực tiễn. Chương 4, trên cơ sở đề cập môi

trường truyền thông mới và những yêu cầu đặt ra, luận án chủ yếu phân tích vấn

đề thực tiễn qua khảo sát, từ đó đề xuất giải pháp nâng cao chất lượng thông điệp

về BĐKH trên báo Đảng ĐBSCL.

12

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU

1. HƢỚNG NGHIÊN CỨU VỀ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU, TRUYỀN THÔNG VỀ

BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU

1.1. Tài liệu tiếng nƣớc ngoài

“Thông tin về BĐKH ề s nóng lên toàn c p ơ TTĐC

vai trò rất quan trọ i với nh n th ểm c ời về vấ ề này.

Bởi h u h t mọi ời không tr c ti p tr i nghi BĐKH p i d a vào nội dung

truyề ể phát triển s hiểu bi t về nó” [88]. Vì thế, nhiều nghiên cứu đã tập

trung làm rõ vai trò của truyền thông - báo chí đối với việc nâng cao nhận thức của

cộng đồng về BĐKH để điều chỉnh hành vi phù hợp.

The Role of Information and Communication Technologies for community -

based adaptation to climate change (2010) (tạm dịch: Vai trò c a công ngh thông tin

và truyề i với cộ ng - ơ ở ể thích ng vớ BĐKH) - nghiên cứu được

thực hiện bởi tổ chức Lương thực thế giới (FAO) nhấn mạnh việc áp dụng kỹ thuật,

công nghệ hiện đại để nâng cao hiệu quả truyền thông là mấu chốt để thực hiện 3 chiến

lược (1)thích ứng, (2)giảm thiểu và (3)cả hai - tức vừa thích ứng vừa giảm thiểu tác

động tiêu cực của BĐKH. Nghiên cứu này đề ra một quy trình “truyền thông cho sự

phát triển” (Communication for Development) gồm 6 giai đoạn, nhằm phát huy cao

nhất hiệu quả truyền thông, đáp ứng nhu cầu kiến thức và thông tin về BĐKH của các

tổ chức và các nhóm dễ bị tổn thương nhằm mục tiêu phát triển bền vững. Trong đó,

thiết kế thông điệp nằm trong giai đoạn thứ 3, được xem là giai đoạn đòi hỏi nhiều sự

sáng tạo nhất trong toàn bộ quy trình [110, tr16-18].

Sách A history of The science and politics of Climate change: The Role of the

Intergovernmental Panel on Climate Change (2008) (tạm dịch: L ch sử khoa học và

chính tr c BĐKH: V ò a IPCC i vớ BĐKH) [98] được viết bởi Giáo sư Bert

Bolin, Chủ tịch đầu tiên của IPCC, cung cấp cái nhìn trung thực về sự phức tạp để triển

khai xây dựng và thực hiện các chính sách về BĐKH cũng như những khuyến cáo, giải

pháp để các chính sách về BĐKH được thực thi một cách suôn sẻ và hiệu quả. Đề cập

đến TTĐC thông tin về về BĐKH, tác giả cho rằng các thông tin về BĐKH thời gian

qua “đã có một sự phân cực đáng tiếc” và các thông điệp về BĐKH trên truyền thông

đang rất hỗn độn. Thay vì nêu những dự báo và những gì nên làm, TTĐC lại cường

điệu hóa, mô tả BĐKH như một thảm họa…

13

“E C A S b M D ”

(2011) (Tạm d ch: T ổ ờng và nông nghi p bền vững ở ĐBSCL), do Mart

A. Stewart và Peter A. Coclanis biên tập là tập hợp những báo cáo, tham luận được

trình bày tại Hội thảo quốc tế “Thay đổi môi trường, Nông nghiệp bền vững và Phát

triển kinh tế”, được tổ chức tại Đại học Cần Thơ vào cuối tháng 3 năm 2010 [127]. 23

bài viết trong ấn phẩm đã cung cấp nhiều thông tin có giá trị về thực trạng BĐKH ở

ĐBSCL và những tác động của nó đến đời sống KT-XH, nhất là việc canh tác nông

nghiệp của vùng đất đang phải làm nhiệm vụ đảm bảo “an ninh lương thực” cho quốc

gia và nguồn cung cấp lương thực quan trọng của thế giới. Những giải pháp, khuyến

nghị nhằm nâng cao hiệu quả thích ứng được đề cập cũng nhấn mạnh yếu tố nâng cao

nhận thức và kỹ năng chống chịu của cộng đồng nơi đây đối với sự thay đổi bất thường

của môi trường.

Nghiên cứu về vai trò của truyền thông trong việc nâng cao hiệu quả ứng phó

với BĐKH, Y Prabhanjan Yadav và Rapaka Jhansi Rani - đến từ Ấn Độ - nhấn mạnh

vai trò tối quan trọng của truyền thông, cho rằng “chính quyề ờ ều phụ

thuộc vào truyền thông, không chỉ ể phổ bi n thông tin, mà còn trong vi c thi t l p

ơ s cho s phát triển và các hoạ ộng liên minh khác vì s phát triển

bền vững c a qu c gia” [141]. Trong tài liệu nghiên cứu “Role of communication in

climate change and sustainable development” (2011) (tạm dịch: Vai trò c a truyền

i vớ BĐKH p ển bền vững), hai tác giả nhấn mạnh: Yêu cầu về trách

nhiệm của báo chí là cung cấp thông tin hữu ích nhằm giúp xã hội hiểu sâu hơn các vấn

đề và khuyến khích tìm kiếm các giải pháp khả thi để thích ứng và giảm thiểu tác hại

của BĐKH. Trách nhiệm xã hội là tiêu chí duy nhất để phân biệt báo chí với blog,

thông tin sai lệch hoặc thông tin theo kiểu định hướng. Tác giả cũng xây dựng một quy

trình truyền thông cho trường hợp xảy ra thảm họa thiên tai và khuyến cáo các phương

tiện TTĐC nên tuân theo để giảm thiểu hậu quả đến mức thấp nhất…

Sự phát triển mạnh mẽ của các loại hình truyền thông xã hội trong hơn một

thập kỷ qua cũng mở ra cho các nhà khoa học nghiên cứu về BĐKH những góc nhìn

mới. Ashley A. Anderson đã chỉ ra trong nghiên cứu của mình The Role of the Media

in the Construction of Public Belief and Social Change (2017) (Tạm dịch: Vai trò c a

truyền thông trong vi c xây d ng niềm tin cộ ổi xã hội) [96] một số

14

“bằng chứng” cho thấy truyền thông xã hội đã tác động tích cực, nâng cao nhận thức về

BĐKH của công chúng bằng cách tạo ra những diễn đàn trao đổi về vấn đề này; hình

ảnh và video về các sự kiện thời tiết khắc nghiệt trong khu vực giúp người xem dễ dàng

tiếp thu, từ đó thay đổi quan niệm mặc định BĐKH là những “thông tin khoa học phức

tạp”, giúp tiếp cận đối tượng lớn công chúng thông qua chia sẻ và thảo luận. Tuy nhiên,

truyền thông xã hội thiếu sự kiểm soát và ý kiến khoa học trong một số trường hợp lại

làm gia tăng sự hoài nghi về BĐKH…

Trong khi phần đông các nhà khoa học và công chúng nhìn nhận BĐKH là vấn

đề hiện hữu và cần cấp thiết ứng phó, thì trên báo chí và TTĐC vẫn có những tiếng nói

“phủ nhận BĐKH” (Climate denial), thậm chí hình thành nên “Chủ nghĩa hoài nghi

BĐKH” (Climate skepticism). Trong một hướng nghiên cứu khác, (Cross-national

comparison of the presence of climate scepticism in the print media in six countries,

2007-2010) (2012). (Tạm dịch: So sánh xuyên qu c gia về s hi n di n c a ch ĩ

BĐKH ờ báo in ở sáu qu c gia, 2007-2010) [119], James Painter và

Teresa Ashe đã tiến hành đối chiếu mức độ và số lượng xuất hiện những quan điểm

theo Chủ nghĩa hoài nghi BĐKH trên báo in ở Brazil, Trung Quốc, Pháp, Ấn Độ, Anh

và Mỹ. Kết quả cho thấy báo Mỹ và Anh có tỷ lệ xuất hiện cao nhất các bài báo có

tiếng nói hoài nghi, trong khi báo chí Pháp và ba nước đang phát triển cung cấp ít

không gian hơn cho những đối tượng này. Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy có một sự

tương ứng mạnh mẽ giữa khuynh hướng chính trị của một tờ báo và sự sẵn sàng trích

dẫn hoặc sử dụng tiếng nói hoài nghi không kiểm chứng trong các ý kiến…

Trong báo cáo “Perceptions of Climate Change: The Role of Art and the

Media” (2011) (tạm dịch: Nh n th c về BĐKH: V ò a ngh thu t và truyền

thông) trình bày tại hội nghị chuyên đề “N Đạ T D ơ ề BĐKH:

V ò N T ề ”, được tổ chức vào ngày 18 và 19-10- 2010,

tại đại học Boston, hai nhà nghiên cứu Miquel Muñoz và Bernd Sommer nêu thực tế

ngày càng nhiều người Mỹ không tin BĐKH do con người gây ra và truyền thông về

BĐKH có lẽ là thất bại lớn nhất của báo chí Hoa Kỳ. Bởi lẽ xu hướng thương mại

đơn thuần khiến cho nhiều báo chí Hoa Kỳ thích “t p trung vào các nội dung xung

ột và bấ ng chính ki ể cung cấp cho khán gi c a họ một câu chuy n ly kỳ”

hơn là những thông tin dài hơi và không mấy mới mẻ của BĐKH. Đồng thời, khẳng

định các thông điệp tiếp nhận từ các phương tiện TTĐC và nghệ thuật là tác động

15

mạnh nhất đến định hình nhận thức của công chúng. Điều này càng thể hiện vai trò

quan trọng của truyền thông, bởi vì “nh n th c c a công chúng về nguyên nhân, r i

ro và h u qu c BĐKH i cùng sẽ chi ph i quy nh ph n ng chính tr , kinh t

và xã hộ i với nó” [131].

“E C A S b M D ”

(2011) (Tạm d ch: T ổ ờng và nông nghi p bền vững ở ĐBSCL), do Mart

A. Stewart và Peter A. Coclanis biên tập là tập hợp những báo cáo, tham luận được

trình bày tại Hội thảo quốc tế “Thay đổi môi trường, Nông nghiệp bền vững và Phát

triển kinh tế”, được tổ chức tại Đại học Cần Thơ vào cuối tháng 3 năm 2010 [127]. 23

bài viết trong ấn phẩm đã cung cấp nhiều thông tin có giá trị về thực trạng BĐKH ở

ĐBSCL và những tác động của nó đến đời sống KT-XH, nhất là việc canh tác nông

nghiệp của vùng đất đang phải làm nhiệm vụ đảm bảo “an ninh lương thực” cho quốc

gia và nguồn cung cấp lương thực quan trọng của thế giới. Những giải pháp, khuyến

nghị nhằm nâng cao hiệu quả thích ứng được đề cập cũng nhấn mạnh yếu tố nâng cao

nhận thức và kỹ năng chống chịu của cộng đồng nơi đây đối với sự thay đổi bất thường

của môi trường.

1.2. Tài liệu tiếng Việt

Đã có nhiều công trình nghiên cứu của các tác giả Việt Nam đề cập đến vấn đề

BĐKH ở những góc nhìn khác nhau, phổ biến nhất là góc độ khoa học tự nhiên nhằm

giúp cộng đồng hiểu đúng về BĐKH, những tác động của BĐKH. Phải kể đến trước

hết là các “K ch b BĐKH ớc biển dâng cho Vi N ” năm 2009, 2012 và

2016 do Bộ TN&MT Việt Nam công bố. Đây là những công trình nghiên cứu quy mô,

cung cấp thông tin tổng quan về tình hình, tác động BĐKH ở Việt Nam tại thời điểm

công bố và thảo những kịch bản về tác động của BĐKH trong tương lai, làm cơ sở để

hoạch định các giải pháp ứng phó ở tầm quốc gia cũng như địa phương.

“BĐKH ộ ở V N ” ấn phẩm của của Viện Khoa học Khí tượng

Thủy văn và Môi trường [88], gồm 4 phần, trình bày những kiến thức cơ bản về

BĐKH; lịch sử BĐKH và những sự kiện quan trọng gần đây về BĐKH ở Việt Nam;

kịch bản BĐKH ở Việt Nam; tác động của BĐKH đến các lĩnh vực KT-XH; các

phương pháp nghiên cứu BĐKH... Đặc biệt, ở chương 7 phần III, trong các giải pháp

16

chiến lược ứng phó với BĐKH ở Việt Nam, cũng đề cập đến khía cạnh nâng cao hiệu

quả truyền thông nhằm thay đổi nhận thức và khả năng thích ứng của cộng đồng.

“C ộng ng phó vớ BĐKH ẩy mạnh công tác b o v tài nguyên, môi

ờng - Một s vấ ề lý lu n và th c tiễn” (2013), là tài liệu do Hội đồng khoa học

các cơ quan Đảng Trung ương biên soạn gồm tập hợp các bài viết của các nhà khoa

học, các chuyên gia về BĐKH ở Việt Nam [42]. Trong đó có một số bài viết đã nêu lên

thực trạng và đưa ra những giải pháp chủ yếu cho công tác thông tin, tuyên truyền ứng

phó BĐKH, bảo vệ tài nguyên, môi trường ở Việt Nam hiện nay.

“P ơ p p ép BĐKH hoạch phát triển KT-XH p ơ ”

(2011) do Lê Anh Tuấn biên soạn với sự tài trợ của Tổ chức Rosa Luxemburg Stiftung

(CHLB Đức) [86]. Đây là sách hướng dẫn các bước thực hành việc lồng ghép nội dung

ứng phó BĐKH khi xây dựng kế hoạch phát triển KT-XH địa phương, đặc biệt thích

hợp với vùng ĐBSCL do dựa trên nghiên cứu về đặc điểm cư trú và tập quán canh tác

của người dân nơi đây. Đặc biệt, một phần lớn nội dung tài liệu hướng dẫn các kỹ năng

truyền thông hai chiều - phỏng vấn và tiếp cận người dân để thu thập thông tin về

BĐKH cho việc hoạch định chính sách và truyền thông về BĐKH.

“ ở BĐKH ớ p ụ ĐBSCL” (2014) do

Trần Hồng Thái chủ biên, trình bày tổng quan về lưu vực sông MeKong và ĐBSCL

[75]. Công trình đề cập các kịch bản BĐKH phục vụ đánh giá ảnh hưởng của BĐKH

đến tài nguyên nước ở ĐBSCL; Đánh giá ảnh hưởng của BĐKH đến tài nguyên nước

và đề xuất các biện pháp thích ứng với BĐKH trong khai thác và sử dụng hợp lý tài

nguyên nước ở ĐBSCL.

“Thích nghi vớ BĐKH - Một nghiên c u về ờng h p

ĐBSCL” (2014) là công trình nghiên cứu do Han Entzinger và Peter Scholten (Đức)

thực hiện tại Việt Nam - một trong 06 quốc gia là đối tượng nghiên cứu của Dự án “D

M ờng và BĐKH: Bằng ch ” do Liên minh Châu Âu tài trợ

và Tổ chức Di cư Quốc tế triển khai [35]. Báo cáo cho thấy được thực trạng và những

tác động sâu sắc của BĐKH đối với đời sống của người dân ĐBSCL trên nhiều phương

diện cũng như mức độ hiểu biết và khả năng thích ứng còn nhiều hạn chế của cộng

đồng dân cư nơi đây với tác động tiêu cực của BĐKH.

17

Ngoài các tác phẩm vừa nêu, còn nhiều luận án tiến sĩ với đề tài liên quan đến

BĐKH, như: Luận án “Vấ ề giới trong b i c nh c BĐKH (N ờng h p

tại xã Giao Xuân, huy n Giao Th y, tỉ N Đ )” của Vũ Phương Ly - Đại học

Khoa học Xã hội và Nhân văn (2017). Luận án “T ơ ấ p ỉ A

G ể p ớ BĐKH” của Nguyễn Hữu Thịnh - Học viện Chính trị Quốc gia

Hồ Chí Minh (2018). Luận án “Nghiên c ơ ở khoa học trong vi

gi i pháp thích ng với BĐKH - áp dụng cho tỉnh Qu N ã ” của Chu Thị Thanh

Hương - Viện Khoa học Khí tượng Thủy văn và BĐKH, Bộ Tài nguyên và Môi trường

(2018)... Mặc dù các công trình này nghiên cứu dưới góc nhìn chủ yếu của các nhà

khoa học tự nhiên, tuy nhiên, các nhà khoa học đã nhìn nhận, phân tích thực trạng

BĐKH dưới góc nhìn của khoa học xã hội và những tác động của nó đối với sự phát

triển bền vững cũng như các giải pháp của Việt Nam nói chung và ĐBSCL nói riêng để

giảm thiểu và thích ứng.

2. HƢỚNG NGHIÊN CỨU THÔNG ĐIỆP TRÊN BÁO CHÍ VỀ BIẾN ĐỔI

KHÍ HẬU

2.1. Nghiên cứu về thông điệp

2.1.1. Tài liệu tiếng nước ngoài

Phân tích thông điệp truyền thông (analyse media message) còn được gọi là

phân tích nội dung truyền thông (media content analyses), không chỉ bao gồm phân

tích văn bản (text analyses), mà còn có thể thực hiện đối với các bài phát biểu, các hoạt

động tương tác bằng lời nói, hình ảnh trực quan, hành vi phi ngôn từ, sự kiện âm thanh

và bất kỳ loại thông điệp nào khác. Trong nghiên cứu báo chí - truyền thông, nghiên

cứu thông điệp là một trong những hướng nghiên cứu cơ bản, bởi lẽ “ ấ

ã ộ ữ ộ ã ộ p

ã ộ ễ ộ ạ ” [59].

Đề cập đến nguồn gốc của phân tích thông điệp, nhiều nhà nghiên cứu khẳng

định đây là một phương pháp nghiên cứu có lịch sử lâu đời. [94][95][101][126]. Tuy

nhiên, nếu thời điểm Từ ể A của Webster năm 1961 đưa vào định nghĩa

"phân tích nội dung" như một bước ngoặt trong việc thành lập và công nhận lĩnh vực

thì năm 1927, thời điểm luận án tiến sĩ của Harod Lasswell ra đời, đã đánh dấu sự ra

đời của nghiên cứu thực nghiệm có giá trị lớn của nhánh nghiên cứu này. Với tên gọi

18

“Propaganda in Technique the World War", tạm dịch: Kỹ ề

C ớ ”, ban đầu Lassweell gọi phương pháp nghiên cứu trong luận án

của mình là “nghiên cứu không gian” (space analyse), để tìm hiểu về những tác động

của tuyên truyền chính trị đối với ý nghĩ công chúng. Từ luận án này, Lasswell sau đó

đã phát triển kỹ thuật nghiên cứu thông điệp một cách có hệ thống, nhất là phát triển kỹ

thuật phân tích nội dung định lượng. Tính ưu việt của phương pháp này, theo Lasswell

là “thông qua vi c sử dụ p ơ p p ng kê, phân tích nội dung nhằ ạt

c tính khách quan, chính xác và tổ T ờ c coi là

ều ki n tiên quy t c a nghiên c u khoa họ ộ ề ạ c trong

nghiên c u về hành vi c ờ ặc bi t là trong nghiên c u về hành vi bằng lời

nói” [115, tr.31]. Với công trình nghiên cứu này - như nhà nghiên cứu Sheram nhận

định - Lasswell đã đóng góp rất lớn trong quá trình nghiên cứu của ngành truyền thông,

trên cả 3 khía cạnh: “C ấp ộ p ơ p p ể ể

ộ ữ ờ p ộ ề ”;

“C ấp ộ p ắ ể ề ” và “T ộ ò

ề ữ ã ể bằ ộ

ừ b ử” [dẫn lại từ 142, tr.85]

Trong “The comparative study of symbols: An introduction” (1952) (Tạm dịch:

Đạ ơ ề ghiên c u so sánh các biể ng), khi định nghĩa về phân tích nội

dung, Lasswell cho rằng “P ộ ộ ỹ ằ ụ ớ

ộ ổ ữ ề ộ

ề ấ ở ộ ơ ấ ạ ộ ờ ể ấ ” [115, tr34]. Lasswell

cũng tuyên bố rằng “p ộ ạ ộ ằ bằ ờ

ộ ạ ờ ằ ò b ể ộ p ò

p ộ ạ ử” [115, tr34]...

Sách “Media Analyse technique” (Tạm dịch: Kỹ p ộ ) của

Arthur Asa Berger là giáo trình cho các sinh viên Trường Đại học San Fransico (Hoa

Kỳ) xuất bản đầu tiên vào năm 1982 và đã có 5 lần tái bản. Nội dung trọng tâm là trình

bày những khái niệm cơ bản của lý thuyết về ký hiệu, lý thuyết phân tâm học, lý thuyết

Mácxít và lý thuyết xã hội học, về các kỹ thuật diễn giải và cách áp dụng các lý thuyết

này vào việc phân tích nội dung trên các loại hình truyền thông khác nhau. Theo

Berger, “p ộ ề p p ẽ p ép

19

ể b ắ ề ộ ạ ( ụ: ề ) ữ ờ

ữ p ” [95, tr.125].

Tác giả cũng cho rằng kỹ thuật phân tích nội dung có 05 ưu điểm nổi bật. Đó là

(01) Không tốn kém để tiến hành; (02) Có thể dễ dàng để có được mẫu nghiên cứu;

(03) Không phô trương (do đó không ảnh hưởng đến các đối tượng của nó); (04) Mang

lại dữ liệu có thể được định lượng; và (05) Có thể được sử dụng để kiểm tra các sự kiện

hiện tại, sự kiện trong quá khứ hoặc cả hai [95, tr.126-127]. Tuy nhiên, ông cũng nhìn

nhận còn nhiều hạn chế trong phân tích nội dung, như: Khó để chắc chắn rằng mẫu

nghiên cứu là đại diện; Khó để có được một định nghĩa tốt về chủ đề đang được nghiên

cứu; Không phải lúc nào cũng dễ dàng tìm thấy một đơn vị đo lường được; Không thể

chứng minh rằng các suy luận được thực hiện trên cơ sở phân tích nội dung là chính

xác. Mặc dù thẳng thắng chỉ ra những hạn chế đó, Berger vẫn cho rằng phân tích nội

dung là một phương pháp nghiên cứu phù hợp để cho những công trình nghiên cứu lý

thú và bổ ích.

Sách “Analyzing media messages - Using Quantitative Content Analysis in

Research” (Tạm dịch: Phân tích thông điệp truyền thông - Sử dụng phân tích nội dung

định lượng trong nghiên cứu) (2005) của Daniel Riffe, Giáo sư trường Đại học Ohio -

Hoa Kỳ, và các cộng sự thực hiện không chỉ đưa ra các nguyên tắc quan trọng trong đo

lường, phân tích dữ liệu và suy luận để tiến hành phân tích nội dung định lượng, quyển

sách còn đi sâu vào việc hướng dẫn chọn từ khóa, lấy mẫu, các quy tắc mã hóa, phân

tích dữ liệu… Các tác giả cho rằng phân tích nội dung định lượng rất cần thiết trong 03

trường hợp: (01) Khả năng tiếp cận dữ liệu là một vấn đề và nhà nghiên cứu bị giới hạn

trong việc sử dụng chứng cứ tài liệu; (02) Cấu trúc và ngôn ngữ riêng của chủ thể sử

dụng là vấn đề rất quan trọng trong nghiên cứu (như khi nghiên cứu về ngôn ngữ của

bệnh nhân tâm thần); (03) Khối lượng ngữ liệu vượt quá khả năng cá nhân của nhà

nghiên cứu để kiểm tra nó [101, tr.39].

Trong “The Content Analysis Guidebook” (Tạm dịch: Sách hướng dẫn phân tích

nội dung) (2002), của Kimberly A. Neuendorf, Giáo sư Truyền thông tại Đại học bang

Cleveland (Hoa Kỳ), đã dành chương đầu tiên để điểm qua các cột mốc quan trọng của

nghiên cứu thông điệp và dành 7 chương còn lại để hướng dẫn các thao tác kỹ thuật

phân tích nội dung. Theo tác giả, khởi nguồn của phân tích thông điệp chính là “phân

20

tích hùng biện” (Rhetorical Analysis). Các nghiên cứu theo hướng phân tích thông điệp

đầu tiên còn lưu giữ “ ữ b p ạ b ờ

ề ú ã 4 000 ă ”

[123, tr.31]. Neuendorf đã trích lại nghiên cứu của Riffe và Freitag, thực hiện năm

1997, cho thấy sự gia tăng gần gấp sáu lần số lượng các bài báo về phân tích nội dung

trên tạp chí Báo chí - Truyền thông hàng quý trong khoảng thời gian 24 năm - từ 6,3%

năm 1971 lên 34,8% vào năm 1995. [123, tr.27]… Theo tác giả, “P ộ

ắ p p p ơ p p ọ (…)

ớ ạ ớ ạ b ể ờ ặ b

p ạ ặ b ” [123, tr.10]. Việc vận dụng các phương

thức khoa học vào nghiên cứu cần đặc biệt chú ý đến các tiêu chí: tính tương tác -

khách quan, phác thảo giả định, độ tin cậy, tính hợp lệ, tính tổng quát, khả năng nhân

rộng và kiểm định giả thuyết.

Trong cuốn sách “M M P b H ” (Tạm dịch: T p

ề ỏ ộ ) (2009) do Tiến sĩ Amy B. Jordan - Giám đốc Bộ

phận Nghiên cứu về Truyền thông và Trẻ em đang phát triển của Trung tâm Chính

sách công cộng Annenberg thuộc Đại học Pennsylvania (Hoa Kỳ) và các cộng sự thực

hiện [94], đã dành 2 phần đầu đề cập khá chi tiết về khái niệm và hướng dẫn kỹ thuật

thực hiện nghiên cứu phân tích nội dung; 2 phần còn lại là tập hợp những bài báo khoa

học, báo cáo kết quả công trình nghiên cứu về thông điệp truyền thông ở các khía cạnh

liên quan đến sức khỏe cộng đồng. Tài liệu này rất có ý nghĩa và giá trị kế thừa với

luận án mà tác giả đang thực hiện bởi mặc dù nội dung nghiên cứu chủ yếu về các khía

cạnh liên quan đến sức khỏe, tuy nhiên cách thức thực hiện các nghiên cứu khá đa dạng

với một số công trình thiên về phương pháp định lượng, một số công trình tập trung

yếu tố phân tích định tính hoặc kết hợp song song cả hai… giúp tác giả rút ra được

những kinh nghiệm quý báu để vận dụng trong thực tiễn quá trình nghiên cứu.

Klaus Krippendorff, tác giả của Content Analysis - An Introduction to Its

Methodology (tạm dịch: P ộ - G ớ ề p ơ p p )

(2013), cho rằng so với quá khứ, phân tích nội dung ngày nay có sự khác biệt đáng kể.

Trước đây, phân tích nội dung là một phương pháp dựa trên kinh nghiệm, là quá trình

khám phá, dự đoán hoặc suy luận theo ý định mang tính chủ quan của tác giả (định

tính). Tuy nhiên trong phân tích nội dung đương đại, sự kết hợp giữa định tính và định

21

lượng là không thể thiếu. Bởi lẽ, theo tác giả “mỗi phân tích nộ ò ỏi một b i

c ă b n có sẵ c kiểm tra” và “tất c ọ ă b n là

nh tính, ngay c ặ ểm nhấ nh c ă b c chuyể ổi

thành s ” [124, tr.22]. “Vi c phân bi / nh tính là ũ ĩ ời

s minh bạch và tính khách quan c a vi c xử lý dữ li u khoa học và sự phù hợp của các

phương pháp sử dụng tương ứng với bối cảnh đã lựa chọn” [124, tr.87]. Trên cơ sở đó,

Krippendorff cũng đã phát triển một khung khái niệm để phân tích nội dung gồm sáu

thành phần [124, tr.29-30]

Bên cạnh các tài liệu lý luận, các công trình nghiên cứu thực nghiệm áp dụng

phương pháp này - có thể bắt gặp trên rất nhiều lĩnh vực - giúp chúng ta rút ra được

những kinh nghiệm quý báu để vận dụng trong thực tiễn quá trình nghiên cứu, như:

“Sex on American television: An analysis across program genres and network types”

(Tạm dịch: Sex trên truyền hình Mỹ: Phân tích về các thể loại chương trình và loại

mạng); A Content Analysis of the Dallas Farmers Market Instagram (Tạm dịch: Phân

tích nội dung c I “T ờng nông dân Dallas”)…

Từ các tài liệu, công trình nghiên cứu mà tác giả đã tổng luận trên, có thể thấy

phương pháp phân tích thông điệp/ nội dung là một phương pháp nghiên cứu được ứng

dụng lâu đời trong lịch sử nghiên cứu báo chí truyền thông. Các tài liệu, công trình

nghiên cứu vừa đề cập cũng giúp tác giả luận án có được cái nhìn tổng quan về lịch sử

và phương pháp, cũng như cách thức tiến hành phân tích nội dung thông điệp báo chí -

truyền thông ra sao, những ưu điểm, hạn chế cũng như những vấn đề cần lưu ý của

phương pháp này, để từ đó có thể áp dụng vào việc phân tích nội dung thông điệp về

BĐKH trên báo Đảng ĐBSCL.

2.1.2. Tài liệu bằng tiếng Việt

Nhiều tài liệu nghiên cứu về TTĐC ở Việt Nam đã đề cập và dành dung lượng

thỏa đáng để giới thiệu về “thông điệp” - từ khái niệm, vai trò, ý nghĩa, phân loại…,

qua đó giúp người đọc có được kiến thức tổng quan về toàn bộ quy trình truyền thông

nói chung cũng như của riêng “thông điệp” trong quy trình này. Đáng kể đến như các

sách: “Truyề ại chúng” (2001) và “Cơ ở lý lu n báo chí” (1992) của Tạ Ngọc

Tấn; “Cơ ở lý lu n báo chí truyền thông” (2004) của Dương Xuân Sơn và cộng sự;

“Cơ ở lý lu n báo chí “(Nguyễn Văn Dững - 2012), “B n xã hộ ”

(Nguyễn Văn Dững - 2011), “Báo chí giám sát,ph n bi n xã hội ở Vi t N ” (Nguyễn

22

Văn Dững - 2017); “Truyền thông - Lý thuy t và kỹ ă ơ b n” (Nguyễn Văn Dững

và Đỗ Thị Thu Hằng - 2012), “Giáo trình Tâm lý họ b ” (2013) và “Tâm lý học

ng dụng trong nghề báo” (2013) của Đỗ Thị Thu Hằng; “Vai trò c a báo chí trong

ớ n xã hội” (2012) của tác giả Đỗ Chí Nghĩa…

Đối với phân tích thông điệp, có thể nói hiện nay ở Việt Nam, nhóm nghiên cứu

về báo chí - truyền thông dưới góc độ tiếp cận xã hội học đề cập khá rõ nét đến vấn đề

thông điệp báo chí - truyền thông, nhưng hướng nghiên cứu này lại chưa được triển

khai nhiều. Về mặt nghiên cứu lý luận, đến nay chưa có quyển sách nào của các nhà

nghiên cứu Việt Nam đề cập sâu về phương pháp nghiên cứu này.

Trong Truyền thông, Lý thuy t và Kỹ ă ơ b n (2012) của Nguyễn Văn

Dững (chủ biên) và Đỗ Thị Thu Hằng, các nhà nghiên cứu cho rằng truyền thông là

một quá trình diễn ra theo trình tự thời gian, trong đó bao gồm các yếu tố tham dự

chính là: Nguồn, Thông điệp, Kênh truyền thông, Công chúng, Phản hồi/Hiệu quả,

Nhiễu. Trong đó “thông điệp” được định nghĩa: “Là nộ ổi từ

ngu p ng ti p nh T p m, mong mu n,

ò ỏi, ý ki n, hiểu bi t, kinh nghi m s ng, tri th c khoa học - kỹ thu … c mã hoá

theo một h th ng ký hi H th ng này ph c c bên phát và bên nh n

cùng chấp nh n và có chung cách hiểu - t c là có kh ă i mã. Ti ng nói, chữ

vi t, h th ng biển báo, hình nh, cử chỉ biể ạt c ờ c sử dụ ể

chuyển t i p” [19, tr.13]. Theo các tác giả, thông điệp có 4 dạng là thông điệp

đích; thông điệp cụ thể; thông điệp tài liệu và thông điệp ẩn. Thông điệp trong một chu

trình truyền thông phải đảm bảo các yêu cầu, gồm: phải phù hợp với công chúng, nhóm

đối tượng và thể hiện rõ mục tiêu của chiến dịch truyền thông; phù hợp với chủ trương

chính sách của Đảng, Nhà nước; phù hợp với các quy tắc và giá trị xã hội, với văn hóa

- lối sống dân tộc và phát triển; phù hợp với tâm lý tâm trạng xã hội và thể hiện được

lợi ích của công chúng, nhóm đối tượng; phù hợp với các kênh truyền thông.

“Tâm lý học ng dụng trong nghề báo” (2013) của tác giả Đỗ Thị Thu Hằng

[39] khi đề cập đến các vấn đề cơ chế ảnh hưởng của tâm lý xã hội đến công chúng báo

chí truyền thông và tâm lý tiếp nhận sản phẩm báo chí của công chúng đã làm bật lên

vai trò quan trọng của “thông điệp” trong tác phẩm báo chí để tạo nên tác động tâm lý

xã hội đến từng cá nhân trong xã hội và các nhóm công chúng; gợi ý một số giải pháp

23

và kỹ năng xây dựng thông điệp báo chí phù hợp để tác động một cách có ý thức vào

các đối tượng xã hội theo những cơ chế nhất định….

Các bài báo khoa học của tác giả Mai Quỳnh Nam đã công bố các nghiên cứu

phân tích nội dung xã hội học TTĐC đầu tiên ở Việt Nam, như:

+ Trong “Truyền thông và phát triển nông thôn”, đăng trên tạp chí Xã hội học

số 3, năm 2003 [60], tác giả đã nhắc đến vai trò “rất quan trọng” của thông điệp trong

quá trình truyền thông khi phân tích cơ chế tác động của truyền thông đối với hành

động của con người.

+ Trong “Về ặ ểm và tính chất c a giao ti p ại chúng”, Tạp chí Xã hội học,

số 2 năm 2000, khi đề cập đến hoạt động tiếp nhận thông tin của công chúng, tác giả cho

rằng “S liên k t xã hội c ờ ọ ờ ời xem cho thấy m i quan tâm

chung c a họ i với các nộ p c truyền t ( ) K p

b ộ n các nhóm công chúng lớ ũ ĩ p

c hi n vai trò tổ ch c xã hội thông qua hoạ ộng truyền bá t p thể” [57]…

+ Trong bài “Thông p ề ẻ b b ”, tạp chí Xã hội học số

2- 2002, tác giả nhấn mạnh “T ặ ù p ơ p p p b

ấ ý ĩ p ữ ộ b ở

ạ ă b … ở b ặ ắ

bằ ữ… ở b ”. Tác giả nhấn mạnh quan hệ giữa thông điệp và thực tế

giao tiếp, môi trường truyền thông “ ụ ơ b p ơ p p p

p b ể p ớ p ã

p” [59].

Nghiên cứu phân tích quốc tế về “H ẻ b ” do Trung tâm

truyền thông ASIAN (AMIC) phối hợp với Viện Xã hội học thực hiện năm 1999.

Những người nghiên cứu đã quan sát các thông điệp về trẻ em được thông báo trong

tháng 10/1999 trên 10 tờ báo in, 2 đài truyền hình và tiến hành hơn 200 cuộc phỏng

vấn bằng nhiều hình thức để từ đó đúc rút những nhận định quan trọng về thông điệp

về trẻ em trên báo hình và báo in. Từ đó, tác giả đã đưa ra các khuyến cáo để công

chúng và các cơ quan báo chí điều chỉnh, nhằm thực hiện tốt vai trò xã hội trong hoạt

động báo chí vì các lợi ích cơ bản của trẻ em.

Trong “Cơ ộng c a báo chí”, Nguyễn Văn Dững đã đưa ra mô hình tác

động, theo đó từ thực tiễn đời sống, các chủ thể (nhà báo) thiết kế những thông điệp,

24

chuyển qua kênh truyền để tác động vào ý thức quần chúng (hay công chúng xã hội).

Đối tượng tiếp nhận - dựa trên nền tảng nhận thức chính trị, văn hóa và tri thức cá nhân

mà có những thái độ hành vi tương ứng và được xem là có hiệu lực/hiệu quả khi nó

phù hợp với mong muốn của chủ thể, đồng thời nó sẽ tác động trở lại thực tiễn đời

sống. Tác giả nhấn mạnh: “Để p - tác phẩm báo chí hay, hấp d n

ú ò ỏi ở ời vi ộng sáng tạo, công phu, nghiêm túc, có

tâm và nhi t thành, không chỉ ò ỏ ộ ă ò ă u nghề

nghi p; không chỉ ộ ă và v n s ng mà quan trọ ă c nh n th c,

s c b ă p n ng nhanh nhạ ớc s ki n và vấ ề

c a cuộc s ng” [17]...

Ngoài ra, còn có một số công trình nghiên cứu thực nghiệm có sử dụng phương

pháp phân tích thông điệp, như:

+ “T p truyền thông về ng tính luy n ái trên một s báo in và báo

mạng” (2011), do Viện nghiên cứu Xã hội, Kinh tế và Môi trường phối hợp với HV

BC&TT thực hiện. Các tác giả đã đưa ra các phân tích và đánh giá về cách một số báo

in và báo mạng đưa tin và bình luận về người đồng tính và sự thay đổi về cách đưa tin

qua các năm. Từ kết quả phân tích, các tác giả xem xét khả năng có thể gây ra kỳ thị

hoặc chống kỳ thị, đặc biệt là những nội dung liên quan đến văn hoá, lối sống, sự tham

gia và đóng góp của nhóm đồng tính vào sự phát triển chung của xã hội.

+ Công trình nghiên cứu của khoa Xã hội học, HV BC&TT về “Đ ớ

p ẩ ề p ơ TTĐC ” (2011) tác giả

Nguyễn Thị Tuyết Minh và nhóm nghiên cứu đã tìm kiếm và phân tích các vấn đề giới,

định kiến giới, khuôn mẫu giới trong thông điệp truyền thông trên các phương tiện

TTĐC qua hình ảnh minh họa và ngôn từ được sử dụng. Qua đó đề xuất một số khuyến

nghị và giải pháp nhằm giúp các nhà truyền thông đưa ra các thông điệp nhạy cảm giới,

không có định kiến giới.

+ “Hi u qu c a các bài vi t về bạo l b n tử Vi t Nam hi n

nay” (2011) là Luận án tiến sỹ Xã hội học của Phạm Hương Trà. Tác giả sử dụng

phương pháp phân tích thông điệp tìm hiểu việc phản ánh về bạo lực gia đình trên báo

điện tử qua nội dung bài viết, khuôn mẫu, hình thức, nguyên nhân, chân dung người bị

bạo lực và người gây bạo lực, ngôn ngữ sử dụng và hình ảnh minh hoạ… Đồng thời,

25

tác giả còn làm rõ thêm nhận thức, thái độ và hành vi của công chúng khi tiếp nhận

thông điệp của các bài viết.

+ “K ớ b Mỹ (K b ã N w

York Times và W S J ừ 2009-2012)” (2014) là Luận án tiến sĩ báo chí

học của Vũ Thanh Vân. Tác giả nghiên cứu các bài xã luận đăng từ năm 2009 đến

2012, trên báo New York Times và Wall Street Journal, nhằm xác định khuynh hướng

chính trị thể hiện trên hai tờ báo, chỉ ra mối quan hệ giữa chính trị và báo chí; rút ra

kinh nghiệm về nghệ thuật trình bày quan điểm trong bài xã luận, khả năng thuyết phục

và định hướng nhận thức cho công chúng.

+ Luận án tiến sĩ “T p ề ớ b

ử V N ” (2019) của Bùi Thị Minh Hải đã khảo sát tác phẩm báo chí viết

về đề tài hôn nhân có yếu tố nước ngoài trên các trang báo mạng điện tử:

Vietnamnet.vn, VnEpress.net, Giadinh.net.vn, Tuoitre.vn, Baophapluat.vn. Trên cơ sở

khảo sát, phân tích, đánh giá các tác phẩm báo mạng điện tử về hôn nhân có yếu tố

nước ngoài, luận án công bố thực trạng thông điệp hôn nhân có yếu tố nước ngoài trên

báo mạng điện tử Việt Nam hiện nay và chỉ ra những vấn đề đang đặt ra cần giải quyết

nhằm nâng cao chất lượng thông điệp về hôn nhân có yếu tố nước ngoài trên báo mạng

điện tử.

+ “T p về ũ b (N ờ p b N

b L ộ b T ổ ẻ ạ 2005 - 2014)” là luận án Xã hội học của tác

giả Nguyễn Thị Tuyết Minh. Luận án đã chỉ ra thực trạng nội dung và hình thức thông

điệp về tham nhũng trên báo in và khuyến nghị các giải pháp nhằm phát huy hiệu quả

thông điệp về tham nhũng trên báo in.

Các luận án vừa nêu đều có sử dụng phương pháp phân tích thông điệp, có giá

trị nhất định trong việc cung cấp những kinh nghiệm về phương pháp nghiên cứu và lý

luận, giúp tác giả luận án rút ra được nhiều bài học quý để vận dụng trong quá trình

nghiên cứu đề tài.

2.2. Nghiên cứu thông điệp truyền thông về biến đổi khí hậu

2.2.1. Tài liệu tiếng nước ngoài

Trên cơ sở phân tích các công trình nghiên cứu về truyền thông BĐKH, bài báo

khoa học “Content analysis methods for assessing climate change communication and

media portrayals” ( ạ : P ơ p p p ộ ể

26

ề BĐKH), in trong quyển The Oxford Encyclopedia of Climate

Change Communication, Julia Metag - Giáo sư Khoa học Truyền thông tại Đại học

Fribourg - Thụy Sĩ, khẳng định “p ộ ộ ữ p ơ p p

ử ụ ờ ấ ề BĐKH”.

Một tài liệu liên quan trực tiếp đến thông điệp BĐKH là Mediated messages

about climate change: reporting the IPCC Fourth Assessment in the UK print media

(2017) (Tạm dịch: T p p ề BĐKH: B

IPCC b ở A ). Công trình của Giáo sư Mike Hulme, Khoa Khoa học Môi

trường - Đại học East Anglia, Anh đã nghiên cứu trên 11 tờ báo có quyền sở hữu, mật

độ lưu thông, đối tượng độc giả, phong cách và khuynh hướng chính trị khác nhau.

Mẫu được chọn là các tờ báo xuất bản vào ngày 3 tháng 2, 7 tháng 4 và 5 tháng 5 của

năm 2007, tức là ngay sau ngày ba nhóm nghiên cứu khoa học (WG-1), tác động và

thích ứng (WG-2), giảm thiểu (WG-3) công bố bản tóm tắt đề xuất của họ, làm cơ sở

để tổng hợp hoàn thiện Báo cáo đánh giá lần thứ tư của IPCC. Nghiên cứu này giải

quyết các câu hỏi: mức độ khác nhau trong báo cáo của ba Nhóm làm việc IPCC trên

các tờ báo in của Anh? Những thông điệp nào từ Báo cáo IPCC mà các tờ báo khác

nhau chọn để làm nổi bật và những thông điệp nào loại bỏ? Các loại hình ngôn ngữ chủ

yếu được sử dụng trong báo cáo này là gì? Nghiên cứu kết luận rằng báo in ở Anh đăng

tải các bài báo mang thông điệp báo động và hù dọa hơn là các bài báo thể hiện sự lạc

quan về khả năng thích ứng của con người với BĐKH. Phương pháp tiến hành và kết

quả thu được từ nghiên cứu này là cơ sở để luận án tham chiếu trong quá trình nghiên

cứu thông điệp về BĐKH trên báo Đảng ĐBSCL.

Phân tích nội dung cũng là cách thức Nathan Young và Eric Dugas chọn để tiến

hành nghiên cứu về những thông điệp mà hai tờ báo lớn của Canada, The Globe and

Mail và The National Post, chuyển tải đến công chúng trong ba khung thời gian cách

nhau 10 năm là 1988-1989, 1998-1999 và 2007- 2008 (Representations of Climate

Change in Canadian National Print Media: The Banalization of Global Warming -

Tạm dịch: Đại di BĐKH b Q C : B ờng hóa s

nóng lên toàn c u). Phân tích nội dung 5.897 bài báo cho kết quả: Tần suất thông tin về

BĐKH trên hai tờ báo đại diện này ngày càng tăng, nhưng thông điệp chuyển tải đến

độc giả lại bị “lệch” bởi lẽ ngày càng ít tiếng nói của các nhà khoa học và những người

có trách nhiệm của chính quyền và công dân bình thường, trong khi đại diện của các

27

nhóm môi trường và doanh nghiệp/ngành công nghiệp ngày càng nổi bật. Tỉ lệ các bài

báo có kiến thức khoa học chuyên môn sâu và những chi tiết đắt giá đáng tin cậy,

những bài “thuần” nói về BĐKH giảm, trong khi ngày càng nhiều hơn các bài báo mà

vấn đề BĐKH chỉ được “điểm qua” trong bài báo nói về các vấn đề khác, như chính trị,

nghệ thuật và văn hóa, công nghệ và xu hướng kinh doanh. Những bài viết quan trọng,

chủ yếu lại dẫn từ các tài liệu báo chí Hoa Kỳ… Các nhà nghiên cứu lo ngại điều này

sẽ ảnh hưởng đến “s ộng chính tr cụ thể” của người Canada trong

việc hành động ứng phó với BĐKH.

Trong bài công bố kết quả nghiên cứu đăng trên tạp chí Science Communication

ngày 5/9/2007, tác giả khẳng định: Việc trình bày các nội dung của báo cáo đã áp

dụng những yếu tố gây hoang mang quá mức. BĐKH được trình bày với những chi

tiết rất đáng sợ, bằng ngôn ngữ của sự sợ hãi và thảm họa, thay vì diễn đạt nó như là

một hiện tượng ngẫu nhiên với kết quả có thể điều chỉnh nếu lựa chọn được các chính

sách đúng đắn. Nội dung về thích ứng - làm giảm sự nhạy cảm của xã hội đối với

BĐKH - không được ưu ái hoặc bị gạt ra ngoài lề. Việc thảo luận về lựa chọn chính

sách tiềm năng để giảm thiểu tác động tiêu cực của BĐKH của xã hội là nội dung ít

phổ biến nhất, bị loại ở vị trí thứ ba. Phương pháp nghiên cứu và những kết luận đúc

rút từ công trình nghiên cứu này mang tính gợi mở nhiều vấn đề quan trọng có liên

quan đến đề tài, đồng thời giúp tác giả luận án nắm bắt thêm thực tiễn thông tin về

BĐKH ở báo chí quốc tế [134].

Một nghiên cứu khác, A construal - level perspective of climate change images

in US newspapers (2017) (Tạm dịch: Một cách hiểu - cấp ộ diễ ạt c a hình nh về BĐKH ờ báo in Hoa Kỳ), Ran Duan và các cộng sự phân tích 635 hình ảnh về

BĐKH từ các tờ báo lưu hành rộng rãi ở Mỹ là USAToday, New York Times và Wall

Street Journal. Kết quả cho thấy, trái với những gì mọi người vẫn nghĩ, BĐKH đã được

mô tả trực quan là một vấn đề tương đối cụ thể chứ không phải trừu tượng và hầu hết

được miêu tả với mức độ đặc thù cao. Hình ảnh có chủ đề con người tác động và gây

ấn tượng hơn so với hình ảnh có chủ đề tự nhiên và chủ đề công nghiệp trong bối cảnh

môi trường bị tác động bởi BĐKH… Những vấn đề trên cung cấp thêm góc nhìn về tác

động của hình ảnh, có giá trị trong quá trình phân tích các yếu tố cấu thành nội dung

thông điệp BĐKH mà tác giả luận án nghiên cứu.

28

Sách Communicating on climate change: An essential resource for Journalists,

Scientists, and Educators (2008) (Tạm dịch: Truyền thông về BĐKH:Một tài li u hữu

ích cho các nhà báo, nhà khoa học và giáo dục) được xuất bản bởi Viện báo cáo môi

trường và biển Metcalf được xem là một bản “tổng kết lớn”, sau 6 lần hội thảo, được tổ

chức từ cuối năm 2003 đến tháng 6 năm 2006 với chủ đề “Science Communication and

N w M ” (Tạm dịch: Thông tin khoa học và tin t c truyền thông), có sự tham

dự của nhiều nhà khoa học hàng đầu và các nhà báo tên tuổi trong lĩnh vực này từ

nhiều quốc gia. Phân tích nội dung những bài báo về vấn đề này đối chiếu với những

thông tin khoa học chính thống được công bố cho thấy có nhiều sự chênh lệch khi

chuyển tải “thông tin khoa học” chuyển thành một “tin tức truyền thông”. 11 lý do nổi

cộm dẫn đến tình trạng này được liệt kê và đưa ra những khuyến nghị giải quyết. Đáng

kể đến là: Thu hút công chúng là cơ sở để báo chí tồn tại, trong khi tin tức BĐKH

thường “không có mùi thu c súng”; Các nhà báo đôi khi cường điệu những phát hiện,

nghiên cứu mới hoặc thiếu kiến thức khoa học cơ bản để thẩm định độ tin cậy của các

phát hiện đôi khi được tạo ra vì những lý do chính trị hoặc tài chính hơn là vì khoa học

và nhân sinh, dẫn đến sự nhầm lẫn và hoài nghi trong công chúng; Mối quan hệ giữa

nhà khoa học và nhà báo chưa chặt chẽ… Tài liệu này cung cấp những kiến thức cả về

lý luận và thực tiễn, giúp tác giả nhìn rõ hơn quan điểm và cách thức khai thác thông

tin về BĐKH ở môi trường báo chí quốc tế.

Framing Climate Change: A Content Analysis of Chinese Mainstream

Newspapers From 2005 to 2015 (2017) (Tạm dịch: K B ổ : P tích

ộ ờ b T Q ừ ă 2005 2015) là công

trình nghiên cứu của 3 nhà khoa học Jingjing Han, Shaojing Sun và Yanqin Lu. Các tác

giả đã phân tích 1.248 bài báo đề cập đến vấn đề BĐKH đăng trong thời gian diễn ra

Hội nghị các bên Công ước khung của Liên hợp quốc về BĐKH từ năm 2005 đến 2015

trên năm tờ báo chính thống của Trung Quốc. Trong đó, People‟s Daily, Xinhua

Telecom Daily là hai tờ báo của ĐCS Trung Quốc; Science and Technology Daily là tờ

báo khoa học quốc gia chuyên ngành; Southern Metropolis Daily và Xinmin Evening

News là các tờ báo tự chủ kinh phí. Kết quả nghiên cứu cho thấy các nội dung về

những tác động của BĐKH đến cuộc sống của con người xuất hiện nhiều nhất, tiếp

theo là các bài viết đề cập đến nguyên nhân, các xu hướng hợp tác đối phó với BĐKH,

những vấn đề còn gây tranh cãi về BĐKH... Nghiên cứu cũng cho thấy rằng các tờ báo

29

của ĐCS Trung Quốc ưu tiên đưa nhiều tin tức về hoạt động hoặc chỉ đạo của lãnh đạo

có liên quan đến BĐKH và“ gắng vẽ ra một hình nh tích c c và mang tính xây

d ng về những nỗ l c toàn c u về BĐKH (…) T bằng cách mô t sinh

ộng cuộc s ng cá nhân, các phóng viên c a tờ Southern Metropolis Daily c gắng

ơ i c m xúc trong khán gi và kêu gọ ộng công khai về BĐKH ộc

s ng hàng ngày c a họ” [120]. Nghiên cứu cho thấy thông điệp về BĐKH cần gắn với

cuộc sống thường nhật và cảm xúc của công chúng, đồng thời nền tảng tư tưởng, pháp

lý và tài chính chi phối đáng kể nội dung thông điệp về BĐKH.

Tại Chile, Devin M. Dotson và các cộng sự đã tiến hành nghiên cứu nhằm so

sánh “bức tranh” BĐKH được vẽ lên như thế nào ở hai tờ báo có hệ tư tưởng chính trị

khác nhau là El Mercurio, tờ báo có số lượng phát hành lớn nhất ở Santiago, Chile ủng

hộ Đảng bảo thủ, và một đối trọng khác - tờ La Nacio´n, ủng hộ quan điểm của Đảng

tự do. Báo cáo công trình nghiên cứu này trong bài báo khoa học Media Coverage of

Climate Change in Chile: A Content Analysis of Conservative and Liberal Newspapers

- (Tạm dịch: T ề ề BĐKH ở C : P ộ ờ

b B T ), La Nacio´n gần gấp đôi El Mercurio cả về số lượng tác phẩm

và dung lượng chữ trong mỗi bài viết về BĐKH. Số bài báo có minh họa của La

Nacio´n cũng nhiều hơn gấp 4 lần; thể loại tác phẩm cũng đa dạng hơn so với đối thủ.

Phân tích nội dung chi tiết về nguồn tin, thể loại, vị trí bài báo, tình tiết, mức độ thông

tin, tính hệ thống của vấn đề… các tác giả đã kết luận “Phe b o th ớng

chung là nghi ngờ BĐKH ng hộ ộ ể gi i quy t nó” [104 ].

“Climate on cable: The nature and impact of global warming coverage on Fox

News, CNN, and MSNBC” (Tạm dịch: Khí h u trên truyền hình cáp: B n chất và tác

ộng c a thông tin nóng lên toàn c u trên Fox News, CNN và MSNBC) do Lauren

Feldman và các cộng sự thực hiện đã phân tích nội dung các tác phẩm về BĐKH trên 3

kênh truyền hình cáp Fox News, CNN và MSNBC từ năm 2007 đến 2008. Đồng thời,

các tác giả cũng khảo sát công chúng thường xuyên theo dõi các kênh truyền hình này

để đánh giá về quan điểm và nhận thức của họ. Nghiên cứu này cung cấp bằng chứng

cho thấy người càng thường xuyên xem Fox News, họ càng ít chấp nhận sự nóng lên

toàn cầu. Ngược lại, việc xem CNN và MSNBC sẽ có nhận thức tốt hơn về vấn đề

này… Công trình nghiên cứu này cũng cho thấy một hướng đi mới trong nghiên cứu

thông điệp mà theo Julia Metag - Giáo sư Khoa học Truyền thông tại Đại học Fribourg,

30

Thụy Sĩ - đã chỉ ra. Đó là: N ớ u nội dung về truyền thông

BĐKH ờng th c hi n bằng mộ p ơ p p ơ ẻ ã ững

p ơ p p “ p c p ơ ” ể p ụ ớ B

ạ ớ p ữ p ề

ú p p ể ề ộ ề ề

BĐKH ớ ọ ch không chỉ d a trên gi nh rằng nội dung c a truyền

BĐKH ở n nh n th c c a công chúng về BĐKH ở một m ộ nào

[111].

Ngoài những công trình vừa nên trên, có thể tìm thấy nhiều nghiên cứu khác về

BĐKH trên báo chí Anh, Ấn Độ, Na Uy… trong các công trình nghiên cứu đã được

công bố trên các tạp chí khoa học quốc tế, như: Climate change and media usage:

Effects on problem awareness and behavioural intentions (Tạm dịch: BĐKH và

phương tiện truyền thông sử dụng: Ảnh hưởng đến nhận thức vấn đề và ý định hành

vi); Soil news - the soil carbon and climate policy journey in Australia and the role of

different media (Tạm dịch: Tin tức về đất - hành trình chính sách khí hậu và đất carbon

ở Úc và vai trò của các phương tiện truyền thông khác nhau); The uncertainties of

climate change in Spanish daily newspapers: content analysis of press coverage from

2000 to 2010 (Tính bất định của BĐKH trên các nhật báo Tây Ban Nha: phân tích nội

dung của thông tin báo chí từ năm 2000 đến 2010)… Các công trình nêu trên có ý

nghĩa tham khảo cho tác giả luận án ở nhiều góc độ về phương pháp nghiên cứu, về cơ

sở lý luận và các khía cạnh thực tiễn thông tin về BĐKH trên báo chí quốc tế.

2.2.2. Tài liệu tiếng Việt

“Báo chí với vấ ề BĐKH ở Vi t Nam” (2017) - sách chuyên khảo của hai tác

giả Đinh Văn Hường và Nguyễn Minh Trường là ấn phẩm được bổ sung, chỉnh sửa để

xuất bản và công bố chính từ đề tài nghiên cứu khoa học "Báo chí với vấn đề BĐKH ở

Việt Nam hiện nay" - được thực hiện từ năm 2015 đến năm 2017. Cuốn sách chuyển

tải 4 nội dung chính: BĐKH và vai trò của báo chí; Một số phương thức truyền thông

trên thế giới và kinh nghiệm cho Việt Nam; Thực tiễn thông tin, truyền thông về

BĐKH của báo chí Việt Nam; Bối cảnh, yêu cầu và giải pháp nâng cao chất lượng báo

chí về BĐKH. Để có căn cứ đánh giá về thực tiễn thông tin, truyền thông về BĐKH

của báo chí Việt Nam, các nhà nghiên cứu đã khảo sát, thống kê tin bài về BĐKH trên

5 tờ báo in (Nhân Dân, Tài nguyên và Môi trường, Thanh niên, Nam Định) và 2 báo

31

điện tử (Tuổi trẻ Online, Lao Động); áp dụng phương pháp phân tích nội dung từ các

mẫu đại diện và phỏng vấn sâu các cá nhân các nhà báo, nhà quản lý báo chí, nhà khoa

học… Từ đó, các tác giả đã chỉ ra những ưu điểm, hạn chế và làm rõ nhiều nguyên

nhân của các hạn chế về nội dung và hình thức chuyển tải thông tin về BĐKH trên báo

chí hiện nay, như: một số lãnh đạo báo chí chưa nhận thức đúng và đầy đủ tầm quan

trọng, cấp thiết và cần thiết đưa tin về BĐKH; sự hợp tác, chia sẻ và cung cấp thông tin

giữa cơ quan báo chí và cơ quan quản lý các cấp về lĩnh vực này chưa ăn khớp; năng

lực nghiệp vụ, kiến thức khoa học về lĩnh vực BĐKH của nhà báo chưa đáp ứng yêu

cầu… Nghiên cứu là tài liệu tham chiếu có ý nghĩa, giúp NCS bổ sung nền tảng kiến

thức về vấn đề nghiên cứu và đúc rút hướng nghiên cứu mới.

“B i c nh truyền thông về BĐKH ă p ơ TTĐC V t Nam”

(2015) do Lưu Hồng Minh và SonJa Schirmbeck đồng chủ biên là cuốn sách tập hợp

kết quả 3 chủ đề nghiên cứu nằm trong dự án hợp tác nghiên cứu về truyền thông do

HV BC&TT hợp tác cùng Viện Friedrich Ebert Stiftung (Đức) tại Việt Nam thực hiện.

Mặc dù nghiên cứu từ góc độ xã hội học về truyền thông BĐKH, nhưng công trình này

cũng vận dụng phương pháp phân tích nội dung làm chủ đạo. Cụ thể:

+ Nghiên cứu “Th c trạ ề BĐKH trên báo chí” của nhóm tác giả

Lưu Hồng Minh, Đỗ Đức Long và Phó Thanh Hương phân tích định lượng nội dung

bài viết về BĐKH đăng tải trên báo in và báo mạng giai đoạn 2011-2012 và các tin bài

phát sóng trên truyền hình năm 2013. Nghiên cứu cho thấy điểm tương đồng giữa

truyền hình và báo in, báo điện tử trong việc đăng tải thông tin BĐKH là những thông

tin về biểu hiện, cách ứng phó và hậu quả của BĐKH được đề cập nhiều hơn là những

thông tin nguyên nhân và dự báo BĐKH. Phần lớn các thông tin không nói về nguồn

thông tin, nhưng khi có nói đến nguồn thông tin thì chủ yếu phát từ các nhà lãnh đạo,

quản lý…

+ “Th c trạ ề BĐKH trên truyền hình” do Phạm Hương Trà và

Phạm Thị Tuyết Minh thực hiện đã thu thập và phân tích 271 tin bài có liên quan đến

BĐKH trên 6 chương trình của VTV1 (Đài Truyền hình Việt Nam) và THVL1 của Đài

truyền hình Vĩnh Long. Các tác giả đã chỉ ra một số đặc điểm, nhấn mạnh hạn chế các

chương trình truyền hình trong mẫu phân tích, như: Bối cảnh mà BĐKH xuất hiện chủ

yếu thông qua các hội nghị, hội thảo, các chuyến viếng thăm hoặc trong các chủ trương

32

mới của Đảng và Nhà nước, các sự kiện liên quan tới môi trường hoặc khi các thiên tai

mới xảy ra gây ảnh hưởng tới đời sống người dân. Các tin, chương trình vẫn còn thiếu

tính liên kết, chưa phân tích theo chiều sâu, đôi khi khiến người xem lầm tưởng là

những hiện tượng thiên nhiên bình thường. Chưa quan tâm nhiều tới hậu quả của

BĐKH đến đời sống văn hóa, xã hội mà chỉ tập trung đưa tin về hậu quả kinh tế, thể

chất của con người…

+ “B ề BĐKH” là chủ đề thứ 3, do Dương Thị Thu Hương báo

cáo kết quả trên cơ sở phân tích định tính 181 tin, bài đăng từ tháng 8/2011 đến tháng

7/2012 của 03 tờ báo in (Nhân Dân (hàng ngày), Tuổi Trẻ, Tạp chí Môi trường) và báo

mạng (Vnexpress, Vfej). Kết quả cho thấy báo in và báo mạng quan tâm thông tin về

biểu hiện, hậu quả, giải pháp nhiều hơn là nguyên nhân của BĐKH; ít truyền tải cho

người dân những thông tin về việc xử lý thực tế, phòng tránh, khắc phục thảm họa ra

sao. Các công trình nghiên cứu trên giúp luận án tiếp cận, hiểu và nắm rõ hơn các kiến

thức lý thuyết và thực tiễn sáng tạo thông điệp về BĐKH trên các loại hình báo chí ở

Việt Nam.

Ngoài hai tài liệu trên, có thể kể đến một số đề tài nghiên cứu, bài báo khoa học

và tham luận trình bày trong các hội thảo khoa học liên quan đến chủ đề báo chí -

truyền thông về BĐKH, như:

“C ề BĐKH” [6] là một nội dung trong Dự án “Tă

ờ ă p ớ BĐKH ở V N ằ ẹ ộ ể

p ”, do UNDP tài trợ, Viện Khí tượng thủy văn và môi trường, Bộ

TN&MT và Bộ NN và PTNT thực hiện tại thành phố Cần Thơ, tỉnh Bình Định và

Ninh Thuận. Nghiên cứu đã chỉ ra thực trạng là phần lớn các thông điệp truyền thông

và những bản tin/phóng sự/bài viết liên quan đến BĐKH ở Việt Nam đều tập trung mô

tả những khía cạnh tiêu cực như tác động và tính dễ bị tổn thương, bế tắc của các quá

trình đàm phán quốc tế v.v… thay vì đưa ra những minh họa chi tiết, những câu

chuyện, kinh nghiệm và giải pháp mang tính tích cực về BĐKH.

Đề tài nghiên cứu “Nh n th c, nhu c u thông tin về BĐKH ộ ũ làm

công tác truyền thông hi n nay” là một nghiên cứu khác của Phạm Thị Hương Trà (HV

BC&TT), công bố tháng 9/2014. Tác giả khảo sát để có câu trả lời cho những vấn đề:

Những người làm công tác truyền thông hiện nay có nhận thức như thế nào về BĐKH?

33

Họ có những nhu cầu gì về thông tin liên quan tới BĐKH? Mong muốn gì được cung

cấp những kiến thức gì về BĐKH? Nội dung đề tài giúp tác giả luận án có thêm nguồn

tư liệu thực tiễn để vận dụng trong quá trình luận giải, phân tích nguyên nhân thành

công và hạn chế của thông điệp BĐKH.

Bài báo khoa học “Báo chí Vi t Nam với vấ ề BĐKH” của Nhạc Phan Linh,

Lê Thu Hà đăng trên Tạp chí Lý luận Chính trị và Truyền thông (6/2012), khái quát

thực trạng đưa tin về BĐKH trên báo chí Việt Nam và việc triển khai các chương trình

truyền thông về BĐKH cho báo chí, từ đó nêu lên một số giải pháp để có thể nâng cao

chất lượng thông điệp BĐKH nói riêng và hiệu quả truyền thông về vấn đề này nói

chung. Từ góc nhìn bao quát của bài báo khoa học này, luận án sẽ tham chiếu để có

thêm cơ sở đề xuất các khuyến nghị nâng cao chất lượng thông điệp BĐKH trên báo

Đảng ĐBSCL.

Tham luận “TTĐC ớ BĐKH” của Đinh Hữu Dư đăng trong Kỷ yếu Hội

nghị môi trường toàn quốc lần thứ IV, do Bộ TN&MT tổ chức tại Hà Nội ngày

29/09/2015, nêu lên một thực tế là “ý ể ề BĐKH ộ

p ẹp ề ặp ặ b ạ ấ ũ ạ

ề ” [16]. Đề cập đến hình thức và kênh truyền tải thông điệp về

BĐKH hiện nay, tác giả cho rằng hình thức thông điệp truyền thông cho BĐKH cần có

những thay đổi theo hướng ngắn gọn, ấn tượng, nhiều thông tin, mang tính truyền

thông, dễ tiếp nhận chứ không phải mang tính tuyên truyền, thụ động, một chiều như

hiện nay.

Tại hội thảo khoa học quốc tế: “TTĐC ớ BĐKH ạ T ể ù M :

T ấ ” do HV BC&TT phối hợp với viện FES tổ chức năm 2012 tại Hà

Nội, đại diện Viện Thông tin - Văn hóa Lào đã trình bày tham luận “ TTĐC ớ BĐKH

ạ T ể ù M ”, nêu bật tầm quan trọng của việc phát huy tối đa vai trò

của TTĐC thông tin về BĐKH và những giải pháp để nâng cao chất lượng thông tin

lĩnh vực này. Cũng tại Hội thảo này, tham luận “Ứ p BĐKH - B

ộ ” của Phạm Thị Hương Trà đã đánh giá về các bài báo BĐKH của truyền thông

Trung Quốc, từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm để báo chí Việt Nam có thể vận

dụng. Nhà báo Nguyễn Chí Nhân với tham luận “B T ề ề

BĐKH” đã chia sẻ những câu chuyện thực tiễn về thuận lợi, khó khăn mà các nhà báo

thường gặp trong quá trình tác nghiệp thực hiện tác phẩm báo chí về BĐKH và kiến

34

nghị những giải pháp từ phía các ngành chức năng để có thể cùng nhà báo lấp đầy “lỗ

hổng thông tin” về BĐKH trong cộng đồng.

Trong hội thảo khoa học liên ngành “Ngu n nhân l c chấ ng cao trong

BĐKH ấ ề liên quan” do Đại học Quốc gia Hà Nội tổ chức năm 2013, tham

luận “Đ ạo ngu n nhân l c cho hoạ ộng truyền thông về BĐKH” của GS,TS.

Nguyễn Đức Ngữ đã phân tích những ưu điểm cũng như những tồn tại, hạn chế trong

việc thông tin về BĐKH trên báo chí - truyền thông, từ đó tác giả nêu ra những giải

pháp nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực để thực hiện các hoạt động truyền

thông về lĩnh vực này. Nhà báo Tô Vương, trong tham luận “Đ ề ộng c a

BĐKH i vớ ời s ờ ”, tại Hội thảo khoa học "Vai trò báo chí trong việc

ngăn chặn và giảm thiểu tác động của BĐKH” tổ chức tại TP Cần Thơ vào năm 2013,

nhấn mạnh: Để thông tin có hiệu quả, các cơ quan báo chí cần bám sát các nhiệm vụ,

kế hoạch triển khai của các bộ, ngành có liên quan đời sống con người đã được nêu

trong Chiến lược quốc gia về BĐKH, Chương trình mục tiêu quốc gia về ứng phó với

BĐKH; bám sát những biến động bất thường của thời tiết; kịp thời thông tin đến bạn

đọc những thông tin thu thập được thông qua các thể loại, thể tài, báo chí phù hợp trên

các loại hình và phương tiện thông tin.

Các công trình nghiên cứu, tham luận hội thảo… nêu trên cung cấp nền tảng

thông tin, kiến thức có giá trị về phương pháp thực hiện nghiên cứu thông điệp và các

kết quả nghiên cứu thông điệp về BĐKH trên các loại hình báo chí ở Việt Nam. Từ đó,

luận án xem xét các nội dung nào có thể kế thừa hoặc cần phát huy, những vấn đề nào

là khoảng trống cần lấp đầy… để giúp hình thành nền tảng kiến thức vững chắc về vấn

đề nghiên cứu, từ đó đúc rút hướng nghiên cứu mới và cơ sở để hình thành các luận cứ,

luận chứng nhằm chứng minh giả thuyết nghiên cứu của luận án.

3. “BÁO ĐẢNG” VÀ CÁC NGHIÊN CỨU VỀ BÁO ĐẢNG

Báo Đảng ở đây chủ yếu được giới hạn trong cách hiểu là báo in - cơ quan ngôn

luận của tổ chức cấp uỷ Đảng, như ở Trung ương có báo Nhân Dân, các tỉnh/thành có

báo Đảng thuộc quản lý của các Tỉnh/Thành ủy trực thuộc Trung ương.

Trên nền tảng lý luận của Chủ nghĩa Mác-Lê-nin, ĐCS Việt Nam luôn coi báo

chí là một bộ phận cấu thành hữu cơ trong bộ máy của Đảng; là vũ khí quan trọng

trên mặt trận tư tưởng, văn hoá. Lịch sử phát triển của báo chí cách mạng Việt Nam,

35

được đánh dấu từ thời điểm báo Thanh Niên do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và

trực tiếp chỉ đạo xuất bản số đầu tiên ngày 21-6-1925 đến nay, đã chứng minh những

đóng góp to lớn của báo chí trong công cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, thống

nhất đất nước cũng như trong tiến trình xây dựng và phát triển; đồng thời cho thấy vai

trò lãnh đạo toàn diện,, trực tiếp và triệt để của Đảng đối với nền báo chí Việt Nam.

Với vai trò quan trọng của báo chí nói chung, của báo Đảng nói riêng trong sự

nghiệp xây dựng và phát triển của đất nước, “Báo Đảng” được trực tiếp hoặc gián tiếp

đề cập trong nhiều công trình nghiên cứu, hội thảo, bài báo khoa học... Đáng kể đến

gồm những bài viết, ấn phẩm như:

Ngày 24-6-1954, trên Báo Nhân dân số 197 có bài viết “C n ph i xem báo

Đ ng” của Chủ tịch Hồ Chí Minh (ký bút danh C.B). Bác viết: “Tờ báo c Đ ng có

nhi m vụ ở ộng thông su t và th ng nhất”… “Tờ b Đ ng

ững lớp huấn luy n gi ơ t th c và rộng khắp, nó dạy b o chúng ta

nhữ ều c n bi t làm về tuyên truyền, tổ ch ã ạo và công tác. Hằng ngày nó

úp ộ chính tr ă ất công tác c a chúng ta” [4].

Kỷ yếu khoa học đề tài cấp bộ năm 2003 - 2004 “Đổi mớ p ơ c lãnh

ạo c Đ i vớ ơ b ở ớc ta hi ” (2004), do Ngô Mạnh Hà

(chủ biên) tập hợp một số chuyên đề về: Quan điểm của các nhà kinh điển của chủ

nghĩa Mác-Lênin-Hồ Chí Minh và ĐCS Việt Nam về sự lãnh đạo và phương thức lãnh

đạo của Đảng đối với báo chí cách mạng trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Phương thức lãnh đạo của cấp uỷ Đảng, cơ quan chủ quản và tổ chức Đảng trong cơ

quan báo chí đối với các cơ quan báo chí ở nước ta hiện nay; Những nét đặc thù, thành

tựu, hạn chế, những vấn đề đặt ra và phương hướng tiếp tục đổi mới sự lãnh đạo của

Đảng đối với báo chí. Qua đó, các tác giả đã phân tích những vấn đề cơ bản của quá

trình đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với các cơ quan báo chí ở địa

phương và một số bộ, ngành trong giai đoạn hiện nay.

Sách chuyên khảo “Báo chí Vi t Nam thời kỳ ổi mới từ 1986 n nay” (2013)

của tác giả Dương Xuân Sơn điểm lại những đóng góp của báo chí, đặc biệt là từ khi

Đảng thực hiện công cuộc đổi mới đồng thời tập trung nghiên cứu về vai trò của báo

chí thể hiện trên một số vấn đề: Vai trò của đội ngũ nhà báo; Báo chí với lĩnh vực đổi

mới kinh tế; Báo chí với công cuộc phòng chống tham nhũng; báo chí với vấn đề nông

36

nghiệp nông thôn; Kinh tế báo chí… và chỉ ra những hạn chế, khuyết điểm để báo chí

nước nhà phát triển hơn nữa.

Sách “C ã ạo, qu ý b 25 ă i n hành s nghi p ổi

mới” do TS Nguyễn Thế Kỷ chủ biên đã điểm lại các cột mốc và quan niệm về Đảng

lãnh đạo công tác báo chí, quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí

Minh và Đảng ta về báo chí, nội dung và cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với báo chí;

mặt khác, sách nêu những thành tựu, ưu điểm, chỉ ra hạn chế, khuyết điểm, nguyên

nhân của những hạn chế, khuyết điểm công tác lãnh đạo của Đảng đối với báo chí.

Sách “Ti p tục th c hi n Chỉ th s 22-CT/TW c a Bộ Chính tr khóa VIII về ổi

mới và ă ờng s ã ạo, qu n lý công tác báo chí, xuất b n” do Ban Tư tưởng-

Văn hóa Trung ương, Bộ Văn hóa - Thông tin và Hội Nhà báo Việt Nam phối hợp phát

hành đã khái quát lại những đóng góp của báo chí, trong đó có báo Đảng địa phương,

trong suốt quá trình Đảng lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ở

nước ta. Đồng thời, là cuốn sách cũng điểm qua quá trình đổi mới không ngừng về tư

duy, phong cách, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với công tác báo chí, xuất bản.

“Tính hấp d n c B Đ ng ở ớ ạn hi n nay” (2012) là

Luận án TS Báo chí học của Nguyễn Bá Sinh tại HV BC&TT. Tác giả đã khảo sát Báo

Nhân dân và một số tờ báo Đảng địa phương từ năm 2005 đến năm 2011, qua việc xác

định thực trạng về tính hấp dẫn của báo Đảng, Luận án đã đưa ra những giải pháp khả

thi để nâng cao tính chiến đấu, tính hấp dẫn và hiệu quả tuyên truyền của báo Đảng.

“B Đ p ơ ới vấ ề phát huy những giá tr ă ền

th ng” (2017) là Luận án TS Báo chí học của Nguyễn Việt Anh tại HV BC&TT.

Luận án đã khảo sát báo Thái Nguyên, Hà Nội mới, Bắc Ninh và Hải Phòng về thực

trạng báo Đảng địa phương giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống đưa

ra những khuyến nghị, giải pháp nâng cao chất lượng giữ gìn và phát huy các giá trị

văn hóa truyền thống thời kỳ công nghiệp hóa - hiện đại hóa và hội nhập quốc tế trên

báo Đảng.

4. ĐÁNH GIÁ TỔNG QUAN CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN

QU N ĐẾN LUẬN ÁN VÀ ĐỀ R HƢỚNG NGHIÊN CỨU CHO LUẬN ÁN

Qua tổng quan về các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài dự định nghiên

cứu của luận án, có thể đúc kết một số vấn đề sau:

37

(1) Tổ ề BĐKH ề BĐKH cho thấy vấn đề BĐKH được

các nhà khoa học nghiên cứu trên nhiều bình diện khác nhau, trong đó có nhiều nghiên

cứu ở lĩnh vực báo chí - truyền thông. Với khả năng tác động của mình, truyền thông

đã và đang tích cực gia tăng ảnh hưởng để góp phần giúp cộng đồng thay đổi nhận thức

và hành vi ứng phó với BĐKH. Các vấn đề lý luận liên quan đến BĐKH đã được các

nhà khoa học đề cập khá toàn diện, sâu sắc. Nhiều công trình đã đi sâu làm rõ khái

niệm BĐKH, chỉ rõ những biểu hiện của BĐKH, phác thảo các kịch bản BĐKH khác

nhau, phân tích những nguyên nhân gây ra BĐKH và đề xuất các giải pháp để thích

ứng, giảm thiểu những tác động của BĐKH trên phạm vi toàn cầu, khu vực, Việt Nam

và của riêng vùng ĐBSCL. Các nghiên cứu trên thế giới và trong nước có chung nhận

định truyền thông về BĐKH có vai trò rất quan trọng đối với nhận thức, quan điểm và

hành vi của con người về vấn đề này. Từ đó, đặt ra yêu cầu về trách nhiệm của báo chí

là phải tiếp tục cung cấp thông tin hữu ích nhằm giúp xã hội hiểu sâu hơn các vấn đề và

khuyến khích tìm kiếm các giải pháp khả thi để thích ứng và giảm thiểu tác hại của

BĐKH. Qua tổng quan cho thấy nghiên cứu về truyền thông BĐKH là hướng nghiên

cứu cần thiết, phù hợp và có ý nghĩa thời sự, thiết thực đối với lĩnh vực khoa học báo

chí - truyền thông cũng như đối với thực tiễn cuộc sống.

(2) Tổng quan về p p trên báo chí về BĐKH cho thấy:

Phân tích nội dung/ thông điệp là một hướng nghiên cứu cơ bản và có lịch sử lâu đời

trong nghiên cứu báo chí - truyền thông. Những đặc điểm của phương pháp phân tích

nội dung đặc biệt phù hợp và giúp nó trở thành một trong những phương pháp được sử

dụng thường xuyên nhất trong nghiên cứu truyền thông về BĐKH trên thế giới, với

nhiều góc độ tiếp cận khác nhau, như: Thông điệp về BĐKH phát triển theo thời gian

như thế nào? Có hay không sự khác nhau trong thông điệp về BĐKH giữa các quốc

gia, giữa các đảng phái chính trị hoặc các tờ báo có hệ tư tưởng khác nhau? Thông điệp

về BĐKH cung cấp “tiếng nói” của ai nhiều nhất?... Các phương pháp được vận dụng

trong quá trình nghiên cứu cũng không ngừng phát triển với những cách thức mới, từ

đơn giản (chỉ định lượng hoặc chỉ định tính) đến phức tạp hơn (kết hợp nghiên cứu

định tính, định lượng). Ngoài ra, còn có những thiết kế mới mang tính sáng tạo như

thiết kế “đa phương thức” hoặc phân tích thông điệp và nghiên cứu đối tượng công

chúng cùng nhau… cho phù hợp với câu hỏi và mục đích nghiên cứu cũng như đối

tượng nghiên cứu mà nhà khoa học lựa chọn.

38

Ở Việt Nam, chỉ có vài công trình nghiên cứu thông điệp truyền thông về

BĐKH, chủ yếu phân tích cách thức BĐKH được trình bày trên một số ít báo, tạp chí

trong tổng số hàng trăm cơ quan báo chí đang hoạt động trong cả nước. Đặc biệt, đến

nay chưa có luận án TS nào nghiên cứu về đề tài thông điệp về BĐKH trên báo Đảng

khu vực ĐBSCL. Bên cạnh đó, nhiều văn bản của cơ quan quản lý Nhà nước, ý kiến

của nhiều nhà khoa học, nhà báo… mà tổng quan có đề cập một phần, đều nhìn nhận

còn rất nhiều hạn chế trong thông tin về BĐKH trên báo chí cần khắc phục để góp

phần nâng cao chất lượng thông tin lĩnh vực này. Điều này cho thấy hướng nghiên cứu

thông điệp về BĐKH trên báo chí nước ta là một khoảng trống cần bổ sung.

(3) Tổng quan về “B Đ ” u về B Đ ng cho thấy: Là cơ

quan báo chí có cơ quan chủ quản là tổ chức của ĐCS Việt Nam, báo Đảng có vị trí

quan trọng trong hệ thống báo chí nước nhà. Báo Đảng đã và đang tiếp tục có những

đóng góp quan trọng trong công tác thông tin, tuyên truyền để toàn Đảng, toàn dân,

toàn quân ta thực hiện thắng lợi mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân

chủ, văn minh. Những công trình đã nghiên cứu cho thấy được chức năng, nhiệm vụ, tổ

chức bộ máy… và một số khía cạnh khác trong hoạt động của cơ quan báo Đảng,

nhưng cũng chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu thông tin về BĐKH trên báo

Đảng, đặc biệt là tiếp cận sâu khía cạnh “thông điệp BĐKH trên báo Đảng”.

(4) S c n thi t và phù h p c a vấ ề nghiên c u:

Trên cơ sở tổng quan các hướng nghiên cứu chính đã nêu trên, xét trên góc độ

tổng thể, cho đến nay chưa tìm thấy một đề tài nghiên cứu nào đề cập một cách có hệ

thống và chuyên sâu về thông điệp BĐKH trên báo Đảng khu vực ĐBSCL. Nói cách

khác, vấn đề “T p về BĐKH b Đ ng khu v ĐBSCL” vẫn còn là một

khoảng trống, rất có ý nghĩa về mặt lý luận và thực tiễn đối với báo chí nói chung, với

thực tiễn các cơ quan báo chí ở ĐBSCL nói riêng.

kiến thức cơ bản, giúp NCS có thêm những kiến thức quý báu khi tiếp cận với các

Quá trình tổng quan các công trình nghiên cứu đi trước đã cung cấp nền tảng

góc nhìn đa chiều về khái niệm, vị trí và vai trò của thông điệp trong quy trình truyền

thông; những yêu cầu đặt ra đối với thông điệp báo chí... và các kiến thức, kỹ năng,

chuyên môn nghiệp vụ báo chí khác. Những kiến thức mang tính cơ sở lý luận này có

giá trị hữu ích trong việc việc xây dựng các khái niệm công cụ, xác lập mẫu nghiên

cứu, xây dựng các tiêu chí về thông điệp BĐKH, đồng thời phân tích, luận giải các số

39

liệu khảo sát thu được để có thể đưa ra các kết luận và giải pháp khoa học cho mục tiêu

nghiên cứu.

Với đề tài “Thông điệp về biến đổi khí hậu trên báo Đảng khu vực đồng bằng

sông Cửu Long”, luận án mong muốn tiếp cận khoảng trống trong nghiên cứu thông

điệp về BĐKH trên báo chí và tiếp tục phát triển, giải quyết các vấn đề theo hướng:

- Trên cơ sở hệ thống hóa những vấn đề lý luận liên quan đến BĐKH và vai trò

của truyền thông, Luận án xây dựng khung lý thuyết cho vấn đề nghiên cứu, từ đó khảo

sát và phân tích thực trạng thông điệp về BĐKH của báo Đảng khu vực ĐBSCL. Luận

án cũng sẽ khảo sát, tìm hiểu việc tiếp nhận của công chúng về các thông điệp BĐKH

trên báo Đảng, qua đó đánh giá mức độ ảnh hưởng của các thông điệp này đối với công

chúng xã hội trong khu vực.

- Phân tích những vấn đề thực tiễn đặt ra và đề xuất giải pháp nhằm nâng cao

chất lượng thông điệp về BĐKH trên báo đảng khu vực ĐBSCL.

- Đề xuất các giải pháp nâng cao chất lượng thông điệp về BĐKH, góp phần

nâng cao năng lực và hiệu quả tác động của báo chí trong hoạt động truyền thông về

BĐKH của báo Đảng khu vực ĐBSCL.

Tiểu kết Tổng quan

Chương Tổng quan đưa ra bức tranh khái quát các cơ sở lý luận, các kết quả

nghiên cứu đã được công bố liên quan đến đề tài “Thông điệp về BĐKH trên báo Đảng

khu vực ĐBSCL”.

Kết quả tổng quan cho thấy nghiên cứu về thông điệp BĐKH khá phổ biến và

được các nhà khoa học trên thế giới triển khai nghiên cứu thực nghiệm và phương pháp

nghiên cứu khác nhau, từ định lượng hoặc chỉ định tính, đến kết hợp cả định tính và

định lượng, thiết kế “đa phương thức” kết hợp phân tích thông điệp và nghiên cứu công

chúng… để tiếp cận nhiều khía cạnh khác về nội dung, hình thức, tác động của thông

điệp BĐKH trên các loại hình truyền thông khác nhau đến công chúng. Các nghiên cứu

này đã chỉ ra được tầm quan trọng của truyền thông cũng như thông điệp về BĐKH

trong việc tác động làm thay đổi nhận thức và chuyển biến trong hành vi của công

chúng để ứng phó hiệu quả với BĐKH.

Ở Việt Nam, nghiên cứu về BĐKH tập trung nhiều ở khía cạnh khoa học tự

nhiên, các nghiên cứu về báo chí - truyền thông chủ yếu hướng về công chúng, về bộ

40

máy và quy trình sản xuất, về hiệu quả của truyền thông… mà chưa chú ý nhiều đến

lĩnh vực nghiên cứu thông điệp truyền thông. Mặc dù gần đây đã có một số nghiên

cứu thực nghiệm về thông điệp BĐKH ở nhiều góc nhìn khác nhau. Tuy nhiên, chưa

có nghiên cứu thực nghiệm nào gắn kết các yếu tố thông điệp BĐKH trên báo Đảng,

đặc biệt là đề cập trực diện báo Đảng khu vực ĐBSCL, dưới góc nhìn báo chí học.

Tổng quan nghiên cứu giúp cho tác giả luận án tiếp cận, kế thừa các giá trị

nghiên cứu, đặc biệt là phương pháp phân tích nội dung thông điệp, mặt khác cung

cấp một hệ thống lý luận và bằng chứng thực tiễn nghiên cứu thông điệp về

BĐKH tại Việt Nam. Những công trình nghiên cứu, sách, bài báo, báo cáo, tham

luận khoa học… mà NCS tiếp cận qua quá trình tổng quan tình hình nghiên cứu là

những cơ sở khoa học quý báu giúp NCS hình thành tư duy nhận thức về thông

điệp báo chí nói chung và thông điệp về BĐKH nói riêng, cung cấp một hệ thống

lý luận và bằng chứng thực tiễn nghiên cứu giúp NCS dựa vào đó để xác định

đúng mục tiêu, phương pháp trong quá trình triển khai thực hiện các bước nghiên

cứu cho đề tài nghiên cứu của mình.

41

Chƣơng 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VẤN ĐỀ

NGHIÊN CỨU THÔNG ĐIỆP BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU TRÊN BÁO ĐẢNG

KHU VỰC ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG

1.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN

1.1.1. Các khái niệm cơ bản sử dụng trong luận án

1.1.1.1. Khí hậu

Khí hậu là một khái niệm khoa học dựa vào sự tổng hợp các số liệu thời tiết. Tổ

chức Khí tượng thế giới định nghĩa “Khí h u mô t ều ki n thời ti t trung bình

cho mộ ểm cụ thể và trong một kho ng thời gian dài” [135]. Cũng theo tổ chức

này, để xác định đặc trưng khí hậu tại một vùng nào đó, người ta cần phải thu thập số

liệu thời tiết tại đó ít nhất trong khoảng 30 năm.

Khí hậu thường bị nhầm lẫn với thời tiết bởi nó cùng liên quan đến các yếu tố

khí tượng như không khí, nhiệt độ, áp suất… Vận động của các yếu tố khí tượng này

tạo ra các hiện tượng thời tiết như nắng, mưa, lốc xoáy, sương mù… Thời tiết là biểu

hiện tức thời của các yếu tố khí tượng, còn khí hậu là tổng hợp các điều kiện thời tiết

trong một thời gian dài. Thời tiết luôn thay đổi nhưng khí hậu thì tương đối ổn định, ít

thay đổi.

Như vậy, khí hậu là quy luật của các hiện tượng thời tiết trong khoảng thời gian

dài ở một vùng, miền xác định. Nhũng thay đổi có tính quy luật này có thể sẽ bị phá vỡ

do quá trình BĐKH.

1.1.1.2. Biến đổi khí hậu

Theo Công ước Khung của Liên hiệp quốc về BĐKH (1992): BĐKH b ổ

ạ ạ ộ p p ờ

ổ p ể BĐKH

ờ ỳ ể [14].

Ủy ban Liên chính phủ về thay đổi khí hậu (IPCC) định nghĩa: BĐKH

ổi theo thời gian c a khí h b m những bi ổi t nhiên và

những bi ổi do các hoạ ộng c ời gây ra [12, tr.8].

Theo Chương trình Mục tiêu Quốc gia ứng phó với BĐKH năm 2008 của Bộ

TN&MT: BĐKH bi ổi trạng thái c a khí h u so với trung bình/ hoặc giao

42

ộng c a khí h u duy trì trong một kho ng thờ ờng là vài th p kỷ hoặc

ơ BĐKH ể là do các quá trình t nhiên bên trong, hoặ ộng bên

ngoài, hoặc do hoạ ộng c ờ ổi thành ph n c a khí

quyể …[10, tr.6]

Mặc dù được diễn đạt bằng những câu từ khác nhau, nhưng khái niệm “Biến đổi

khí hậu” do các nhà khoa học trong và ngoài nước nêu ra đều khẳng định con người có

vai trò trực tiếp hoặc gián tiếp tạo nên BĐKH, khiến cho các thành phần khí quyển có

sự biến động trái với quy luật tự nhiên. Sự gia tăng nhiệt độ trung bình (hay hiện tượng

ấm lên của địa cầu) và mực nước biển dâng được coi là 2 biểu hiện chính của BĐKH

toàn cầu; ngoài ra còn có các biểu hiện khác tùy vào đặc điểm khí hậu của từng vùng.

Trong luận án này, khái niệm về BĐKH được hiểu là s ổi

ộ p ấ … ớ b

ã ờ x y ra ch y ộng c a con

ời. Biểu hi n chính c BĐKH nóng lên toàn c u, m ớc biển dâng và gia

ă ng th ă trái quy lu t.

1.1.1.3. Thông điệp

Đến nay, khoa học truyền thông đã trải qua nhiều cột mốc phát triển, trong đó

có những vấn đề còn đang tranh luận chưa ngã ngũ, tuy nhiên “thông điệp” luôn được

các nhà khoa học thừa nhận như là một yếu tố căn bản của quá trình truyền thông.

Trong sách Human Communication Theory and Research: Concepts, Contexts, and

Challenges (Tạm dịch: Lý thuy t và nghiên c u truyền thông c ời: Khái

ni m, b i c nh và thách th c) Robert L. Heath và Jennings Bryant tổng hợp các nghiên

cứu đi trước để chỉ ra rằng có ba hướng quan điểm khác nhau khi định nghĩa về thông

điệp. [116, tr.76- 79].

- Quan điểm thứ nhất coi thông điệp là “viên đạn” đưa ý tưởng của nguồn phát

vào tâm trí người nhận.

-Quan điểm thứ hai định nghĩa thông điệp như một tác nhân kích thích ý nghĩa -

cái mà người nhận tự diễn giải, “là th ời nh n gi i thích ch không ph i là th

mà ngu n gử ời nh n nh c”.

- Quan điểm thứ ba coi thông điệp là ý nghĩa có thể được tạo ra hoặc được xác

định thông qua các tương tác liên tục của những người liên quan.

43

Một số khái niệm đại diện cho các quan niệm khác nhau về thông điệp vừa đề

cập có thể kể đến, như:

- Ở hƣớng thứ nhất, David K. Berlo (1960) định nghĩa thông điệp “ ữ

ọ bở p ể ể ụ ” [97, tr.59].

O'Keefe và Delia (1982) thì cho rằng " p là những cấu hình c a các

y u t hoặ ă a nhà s n xuấ c tạ ể giao ti p" [trích

lại từ 97, tr.47].

- Hƣớng thứ hai có thể nhìn thấy trong khái niệm thông điệp mà Joseph

A. DeVito (1986) đề cập. Theo ông, thông điệp là "bất kỳ tín hi u hoặc s k t h p các

tín hi ò ời nh n" [105, tr.201]. Robert và Jennings

(2000) cho rằng: “Đ ểm c ời nh p là s gi i

thích hành vi bằng lời nói và phi ngôn ngữ c a mộ ời bở ời khác” [116, tr.79].

- Hƣớng thứ ba thể hiện trong quan điểm của McQuail (1987) khi ông định

nghĩa thông điệp “là các cấu trúc biể ý ĩ i vớ ời gửi,

ời nh n hoặ ờng" [129, tr.330]. Đây cũng là quan niệm của Krippendorff

khi ông nhìn thông điệp như “một thùng ch a nội dung, mộ p ơ ể chuyển ý

ĩ ừ ơ ơ ” [124]…

Có thể thấy rằng, sự khác nhau trong quan điểm của các nhà khoa học một phần

là do khác biệt về lĩnh vực ứng dụng và giai đoạn nghiên cứu, bởi kỹ thuật truyền thông

thời gian qua luôn biến đổi và có sự phát triển vượt bậc. Tuy nhiên, nếu so sánh 2 quan

điểm đầu tiên, tác giả cho rằng trong lĩnh vực TTĐC hướng quan điểm thứ nhất là hợp

lý, tức thông điệp là nội dung thông tin từ nguồn phát đến đối tượng tiếp nhận. Bởi lẽ,

truyền thông diễn ra theo quy luật thời gian, do nguồn phát khởi xướng, chuyển nội

dung thông tin mà họ muốn gửi đến đối tượng đích; xác định thông điệp là nội dung

thông tin trao đổi từ nguồn phát đến đối tượng tiếp nhận là phù hợp quy luật. Đây cũng

là quan điểm chung của đa số các nhà nghiên cứu Việt Nam về thông điệp.

Trong “TTĐC” (2001), tác giả Tạ Ngọc Tấn định nghĩa “Th p là nội

ổi từ ngu p ng ti p nh n” [72, tr.8]. Các

tác giả Nguyễn Văn Dững và Đỗ Thị Thu Hằng nêu trong “Truyền thông lý thuy t và

kỹ ă ơ b n” (2012): “T p là nộ ổi từ ngu n

p ng ti p nh T p chính là nhữ m, mong

mu ò ỏi, ý ki n, hiểu bi t, kinh nghi m s ng, tri th c khoa học - kỹ thu c

44

mã hóa theo một h th ng ký hi H th ng này ph c c bên phát và

bên nh n cùng chấp nh n và có cùng chung cách hiểu - t c là có kh ă i mã.

Ti ng nói, chữ vi t, h th ng biển báo, hình nh, cử chỉ biể ạt c ờ c

sử dụ ể chuyển t p ” [19, tr.13]. Tác giả Mai Quỳnh Nam trong

“Truyền thông và phát triển nông thôn”: “T p ộ

ề p N ể ề p

ớ ú ” [60].

Hướng quan điểm thứ 3 không phù hợp trong một số loại hình TTĐC, bởi

không phải trong loại hình truyền thông nào giữa người phát và nhận cũng có thể tương

tác liên tục.

Với cách nhìn nhận đó, trong luận án này, p c hiểu là nội dung

ổi từ ngu p ng ti p nh T p chính là

những tin t c, ý ki ểm, mong mu n, kinh nghi m, tri th c c a ch thể truyền

c thể hi n qua các ký hi u truyề chữ vi t, hình nh, lời nói, âm

u bộ, cử chỉ c c bên phát và bên nh n cùng chấp nh n và có cùng

chung cách hiểu.

Đối với TTĐC mà cụ thể là báo chí, thông điệp là toàn bộ thông tin mà báo chí

chuyển đến cho công chúng thông qua các phương tiện kỹ thuật và công nghệ truyền

thông. Thông điệp chính là quan điểm, tư tưởng, ý kiến của chủ thể truyền thông và

được chủ thể truyền thông mã hóa bằng các hệ thống ký hiệu phù hợp với với đặc điểm

của kênh truyền tải. Trong đó, mỗi thể loại kênh truyền đòi hỏi những yếu tố chuyên

biệt để “định dạng” thông điệp mà nó muốn chuyển tải, như: chữ viết, hình ảnh tĩnh, ký

hiệu... đối với báo in; lời nói, tiếng động... (báo phát thanh); chữ viết, hình ảnh tĩnh,

hình ảnh động, âm thanh... đối với báo truyền hình...

Thông điệp có các loại hình và cấp độ khác nhau. Thông điệp đích là thông

điệp mà cả chiến dịch truyền thông hướng tới, được cấu thành bởi nhiều thông điệp

bộ phận. Thông điệp trực tiếp là loại thông điệp dễ nhận biết bởi nó chứa đựng nhiều

thông tin, dữ liệu cụ thể, rõ ràng để người nhận dễ nhận biết bằng trực quan; trong khi

thông điệp ẩn - ngược lại - đòi hỏi người nhận phải có quá trình tư duy, liên tưởng...

tích cực để nhận biết nó. Ngoài ra, còn có thông điệp tài liệu và thông điệp lý lẽ...

45

Mặc dù không có một hình mẫu chung cho một thông điệp truyền thông “chuẩn

mực”, để đạt được hiệu quả truyền thông cao nhất, một thông điệp truyền thông cần

phải đảm bảo 06 yếu tố, bao gồm:

- Thứ nhất, thông điệp phải phù hợp với công chúng - nhóm đối tượng và thể

hiện rõ mục tiêu của chiến dịch truyền thông. Đây là yêu cầu cao nhất bởi lẽ trong bản

thân thông điệp phải hài hòa giữa mục tiêu truyền thông với khả năng, nhu cầu, mong

đợi của nhóm đối tượng. Có như thế, đối tượng mới hiểu, chấp nhận và tin tưởng thông

điệp, dẫn đến thay đổi nhận thức và hành vi phù hợp với mong muốn của chủ thể

truyền thông.

- Thứ hai, thông điệp phải phù hợp với chủ trương chính sách của Đảng và

Nhà nước. Nền tảng tư tưởng chính trị của bộ máy cầm quyền tác động mạnh mẽ đến

việc xây dựng thông điệp báo chí của các báo chí đại diện, để đảm bảo báo chí đại diện

trở thành công cụ thể hiện quyền lực của mình. Ở Việt Nam, báo chí đặt dưới sự lãnh

đạo toàn diện của ĐCS Việt Nam, sự quản lý của Nhà nước, chính vì thế, phù hợp với

chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước là yêu cầu có tính nguyên tắc cho các

thông điệp được truyền phát trên các phương tiện thông tin đại chúng.

- Thứ ba, thông điệp phải phù hợp với các quy tắc và giá trị xã hội, với văn hóa -

lối sống dân tộc và phát triển.

Mỗi đất nước có những bản sắc văn hóa khác nhau. Trong một đất nước lại có

những đặc trưng văn hóa vùng, miền về tín ngưỡng, tâm lý, thói quen sinh hoạt…

Những hình ảnh, ngôn từ, giai điệu được sử dụng để thiết kế thông điệp ở đất nước, địa

phương này đôi khi lại mang đến những tác động không mong muốn với công chúng ở

những đất nước, địa phương khác hoặc những nhóm đối tượng không thuộc phạm vi

mong muốn ảnh hưởng.

- Thứ tư, thông điệp phải phù hợp với tâm lý, tâm trạng xã hội và thể hiện lợi

ích của công chúng, nhóm đối tượng. Hiệu quả thay đổi hành vi của công chúng đích sẽ

tăng lên khi nhóm đối tượng biết rằng thực hiện theo thông điệp thì họ sẽ có lợi.

- Thứ năm, thông điệp phải được thiết kế phù hợp với kênh truyền thông. Trong

môi trường truyền thông hiện tại, các kênh TTĐC như báo in, phát thanh, truyền hình

hay báo mạng điện tử có những đặc trưng, ưu điểm và hạn chế riêng. Chủ thể truyền

thông phải nắm bắt các đặc trưng, ưu điểm và hạn chế này để vận dụng, xây dựng nên

các thông điệp truyền thông có tính thuyết phục cao.

46

- Yêu cầu thứ sáu, thông điệp phải ngắn gọn, hàm súc, sinh động, dễ nhớ, dễ

hiểu và dễ làm theo. Để thực hiện được điều này, ngoài sự hiểu biết, năng lực sáng tạo

còn đòi hỏi những yếu tố khác như sự tinh tế và khả năng thuyết phục của nhà truyền

thông [19 tr.243-247].

Mỗi thông điệp truyền thông có đời sống riêng. Nó cần môi trường và điều kiện

cụ thể để ra đời, phát triển và suy thoái. Có những thông điệp sâu sắc, ấn tượng và có

giá trị thông tin cao được công chúng ghi nhớ, lan truyền, có đời sống lâu dài, nhưng

cũng có những thông điệp hời hợt, không gây ấn tượng và tác động gì cho công chúng

khi tiếp nhận. Vì thế, xem xét và đánh giá thông điệp một cách toàn diện cần xét tới

yếu tố đời sống thông điệp, phản ảnh qua mức độ nhận diện, hiệu quả tác động và đánh

giá của công chúng đối với thông điệp.

1.1.1.4. Thông điệp về biến đổi khí hậu

Hoạt động truyền thông của báo chí là sự trao đổi thông điệp từ nguồn phát

đến đối tượng tiếp nhận. Thông điệp ấy được chứa đựng trong “đơn vị cấu thành nhỏ

nhất của sản phẩm báo chí” là tác phẩm báo chí - theo Luật báo chí 2016. Vì vậy,

thông điệp của tác phẩm báo chí về mặt nào đó cũng là thông điệp bộ phận có cấp độ

nhỏ nhất. Các thông điệp có cấp độ lớn hơn là số báo (hoặc chương trình phát thanh/

truyền hình)… Tập hợp các thông điệp bộ phận về một vấn đề tạo nên thông điệp báo

chí về vấn đề đó, mà nhà truyền thông muốn chuyển đến công chúng tiếp nhận nhằm

đạt được mục đích của chủ thể truyền thông đưa ra. Thông điệp là cái làm nên sức

sống, giá trị sử dụng của tác phẩm báo chí và là mấu chốt tạo nên sức mạnh, uy tín

của cơ quan truyền thông.

Như vậy, trong luận án này, thông điệp về BĐKH, về tổng thể, là toàn bộ nội

dung thông tin về vấ ề BĐKH ề c p trên báo chí. T p về BĐKH

p c tạo nên từ p BĐKH bộ ph n trên các tác phẩm báo

ề c p n vấ ề T p BĐKH ểm, ý ki n, tình c m,

mong mu n, ki n th … ề BĐKH thể truyền thông chuyể n công chúng.

1.1.1.5. Báo Đảng và báo Đảng khu vực đồng bằng sông Cửu Long

Ở Việt Nam, báo chí dù thuộc loại hình nào cũng đặt dưới sự lãnh đạo của ĐCS

Việt Nam, sự quản lý của Nhà nước Việt Nam. Đến nay, chưa có một văn bản quy

phạm pháp luật nào nêu ra khái niệm “Báo Đảng”. Mặc dù vậy, theo Luật Báo chí

2016, “ ơ Đ ng, ơ ớc, tổ ch c chính tr - xã hội, tổ ch c chính

47

tr xã hội - nghề nghi p, tổ ch c xã hội, tổ ch c xã hội - nghề nghi p, tổ ch c tôn giáo

từ cấp tỉnh hoặ ơ ơ ở lên, hoạ ộng h p p p nh c a pháp lu t

Vi t Nam” là các tổ chức được quyền thành lập cơ quan báo chí. Như vậy, có thể hiểu

B Đ ng là khái ni ể chỉ mộ ơ b ơ qu n là tổ ch c c a

ĐCS Vi t Nam, để phân biệt với các tờ báo do các tổ chức chính trị xã hội, tổ chức

chính trị xã hội - nghề nghiệp hay tổ chức tôn giáo… làm cơ quan chủ quản.

Hệ thống báo Đảng ở Việt Nam hiện nay được chia thành hai cấp: Các báo, tạp

chí của Đảng ở Trung ương (Báo Nhân dân, Tạp chí công sản và các báo, tạp chí của

các cơ quan xây dựng Đảng ở trung ương) và các báo trực thuộc Đảng bộ của 63 tỉnh,

thành phố trực thuộc Trung ương. Theo Quyết định số 338-QĐ/TW ngày 26/11/2010

của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy cơ

quan báo của đảng bộ tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương “Cơ báo c ng

bộ tỉnh, thành ph tr c thuộc tỉnh y, thành y có ch ă ơ n c a

ng bộ, chính quyề ng thời là c u n i thông tin giữ Đ ng, chính

quyền vớ p ơ ; ơ s nghi p có thu, hoạ ộng báo chí theo

nh c Đ ng, pháp lu t c N ớc” [5].

Đối tượng công chúng của báo Đảng là cán bộ, đảng viên, đoàn hội viên trong

hệ thống chính trị và quần chúng nhân dân. Theo Chỉ thị số 11-CT/TW, ngày 28-12-

1996 do Bộ Chính trị khóa VIII ban hành về việc mua và đọc báo, tạp chí của Đảng,

mỗi chi bộ đảng, mỗi uỷ ban nhân dân, hội đồng nhân dân xã, phường, mỗi cơ sở Đoàn

thanh niên CS Hồ Chí Minh trong cả nước đều phải có báo của đảng bộ địa phương

mình. Báo Đảng địa phương còn được coi là tài liệu sinh hoạt đảng, sinh hoạt dân cư và

phát không thu tiền đối với vùng biên giới, hải đảo, các cơ quan, đơn vị công tác ở

nước ngoài và vùng đặc biệt khó khăn.

Cũng như các địa phương khác trong cả nước, các Tỉnh ủy, Thành ủy trực thuộc

Trung ương ở khu vực ĐBSCL đều có cơ quan báo chí trực thuộc. Tính ở thời điểm

thực hiện nghiên cứu, các cơ quan này có các sản phẩm báo chí là báo in bằng tiếng

Việt, báo điện tử hoặc trang tin điện tử - chủ yếu đăng tải lại các bài viết trên báo in.

Báo CT và Trà Vinh có báo in tiếng Khmer phục vụ nhu cầu thông tin của đồng bào

dân tộc Khmer trên địa bàn. Báo CM có ấn phẩm Báo ảnh Đất Mũi (1 kỳ/tháng) và ấn

phẩm Cà Mau song ngữ Việt - Khmer (2 kỳ/tháng). Như vậy, báo in là loại hình chủ

lực, nòng cốt của các cơ quan báo Đảng khu vực ĐBSCL.

48

Trong lu n án này, thu t ngữ “b Đ ng khu v ĐBSCL” c hiểu là báo in

ti ng Vi ơ b tr c thuộc ng bộ tỉnh, thành ph tr c thuộc Trung

ơ ở khu v ĐBSCL ất b n.

1.1.1.6. Báo in và thông điệp tác phẩm báo in

“B ữ ấ p ẩ ấ b ỳ bằ ý ữ

ữ p ă ề ấ ề ờ p ộ ã

ỳ ằ p ụ ụ ú - ớ ụ ấ ”

[18, tr.102].

So với các loại hình báo chí khác, báo in có thế mạnh riêng và những hạn chế -

cũng chính là những thế mạnh và hạn chế của thông điệp báo in.

Thế mạnh lớn nhất của báo in là có thể thông tin, phân tích, bình luận, giải thích

và giải đáp những vấn đề phức tạp một cách hệ thống, có chiều sâu, mang những thông

điệp sâu sắc, tác động mạnh mẽ và có thời gian lưu giữ lâu dài trong nhận thức lý trí

của công chúng.

Thông tin trên báo in không thể hồi tố, khó chỉnh sửa, đòi hỏi quy trình xử lý

chặt chẽ nên thường có độ tin cậy cao, thường được công chúng tìm đến khi cần tìm rõ

căn nguyên, bản chất của vấn đề.

Khi chọn báo in, người đọc hoàn toàn chủ động việc bố trí thời điểm đọc, cách

đọc, tốc độ đọc, có thể đọc đi đọc lại nhiều lần… vì thế, có điều kiện để tiếp nhận

thông điệp một cách chính xác và sâu sắc nhất và thuận lợi lưu trữ hơn so với các loại

hình báo chí khác.

Hạn chế của báo in là phát hành theo hình thức trao tay, vì thế thông điệp trên

báo in đến với công chúng đôi khi không còn tính thời sự, tươi mới như báo mạng điện

tử hay phát thanh, truyền hình. Bên cạnh đó, ký hiệu thông tin của báo in chỉ có chữ

viết và hình ảnh tĩnh, có thể làm cho việc đọc báo bị giảm sự hứng thú nếu nội dung

thông tin không tạo được chú ý và thiết kế không bắt mắt. Điều kiện tương tác với công

chúng của báo in không cao, điều này khiến cho quy trình truyền thông từ báo in đến

công chúng gần như chỉ một chiều và thông điệp mang nặng tính tuyên truyền.

Tác phẩm báo in là đơn vị cấu thành nhỏ nhất của sản phẩm báo in, có nội dung

độc lập và cấu tạo hoàn chỉnh, được thể hiện bằng chữ viết, hình ảnh và các ngôn ngữ

phi văn tự.

49

Về ặ ộ , dù ở thể loại nào, nội dung của một tác phẩm báo chí phải trả

lời được các câu hỏi cơ bản của giao tiếp truyền thông (5W+1H) là: What? (Chuyện gì,

cái gì xảy ra?); Who? (Ai liên quan? Ai là người trong cuộc?); Where? (Xảy ra ở đâu?);

When? (Xảy ra khi nào); Why? (Tại sao xảy ra?) và How? (Xảy ra như thế nào?). Tùy

theo trọng tâm và chất liệu tác giả sử dụng trả lời các câu hỏi này mà người ta phân

chia tác phẩm thành tin, phóng sự, ghi nhanh, điều tra… Ví dụ, tin thường hội đủ 5W

với phương thức liên kết theo hình tháp ngược - những gì quan trọng nêu trước, ít quan

trọng nêu sau. Phóng sự chủ yếu tập trung trả lời câu hỏi “How?”. Một bài báo điều tra

sẽ gồm các chứng cứ để trả lời câu hỏi Tại sao?..., [18, tr.280-281].

Về ấ ạ ( ) tùy vào sự sáng tạo của tác giả, mỗi tác phẩm báo chí có

những đặc điểm cấu tạo riêng. Tuy vậy, hình thức, kết cấu của tác phẩm phải thể hiện

được nét đặc thù của thể loại và hướng đến các tiêu chí chung như mạch lạc, ngắn gọn,

dễ hiểu, ngôn ngữ, hình ảnh có hàm lượng thông tin cao; bố cục có sự ưu tiên cho

những thông tin hấp dẫn, quan trọng hơn…

Bên cạnh những thể loại báo chí mang tính truyền thống như chính luận, thông

tấn với các loại thể tin, bài phản ánh, phỏng vấn, bình luận, chuyên luận… những năm

gần đây các tác phẩm infographic (thông tin đồ họa) được nhiều tờ báo in chú trọng bởi

giúp người đọc dễ dàng nắm được những mắt xích thông tin qua hình ảnh sinh động,

thay vì đọc hằng ngàn con chữ để hiểu về một vụ việc.

Trên cơ sở kế thừa, tiếp thu các nghiên cứu của các nhà khoa học truyền thông,

đối chiếu với mục đích của luận án trong việc phân định thể loại tác phẩm báo chí

nhằm có cơ sở đánh giá thông điệp về BĐKH trên báo in, tác giả luận án chia tác phẩm

báo chí thành 4 nhóm:

(1) Nhóm tác phẩm thông tấn bao gồm các loại tin (tin điện, tin thường, tin vắn,

tin tường thuật, tin thông báo, tin tổng hợp, tin bình, tin đối ngoại...), các dạng bài

thông tấn, tường thuật, phản ánh, phỏng vấn, phóng sự, điều tra v.v...

(2) Nhóm tác phẩm chính luận (gồm các bài bình luận, xã luận, chuyên luận và

bài phân tích)

(3) Nhóm tác phẩm inforgaphich

(4) Nhóm tác phẩm được dịch từ báo nước ngoài hoặc tổ chức quốc tế.

Thông điệp trong tác phẩm báo in là nội dung thông tin cốt lõi được tạo nên từ

ngữ nghĩa của văn bản. Xét ở quy mô tác phẩm, mỗi tác phẩm báo in mang một thông

50

điệp (thông điệp đích mà bài báo muốn hướng tới), được cấu tạo từ các thông điệp chi

tiết (bộ phận) và có thể có liên quan hoặc hoàn toàn độc lập với các thông điệp của các

tác phẩm khác trong cùng một ấn phẩm. Các thông điệp về một chủ đề trong tác phẩm

báo in góp phần hình thành thông điệp đích về vấn đề đó - mà tờ báo muốn chuyển tải

đến công chúng của nó.

1.1.1.7. Thông điệp về biến đổi khí hậu trên báo Đảng khu vực đồng bằng

sông Cửu Long

Từ các khái niệm về khí hậu, BĐKH, thông điệp về BĐKH, báo Đảng khu vực

ĐBSCL và các khái niệm có liên quan nêu trên, luận án đưa ra khái niệm Thông điệp

về BĐKH trên báo Đảng khu vực ĐBSCL bộ ộ ề ề

BĐKH b Đ ĐBSCL; m, mong mu ò

hỏi, ý ki n, hiểu bi t, kinh nghi m s ng, tri th c khoa học - kỹ thu t... về BĐKH báo

Đ ĐBSCL chuyể n công chúng ti p nh n với mụ làm cho công

chúng nâng cao nh n th ổi hành vi nhằm ng phó hi u qu vớ BĐKH.

T p về BĐKH b Đ ng khu v ĐBSCL c mã hóa bằng h th ng ký

hi ặ a báo in là chữ vi t, ký hi u và các loại hình ngôn ngữ p ă

hình nh, b , biể ...

Thông điệp BĐKH trên báo Đảng khu vực ĐBSCL là thông điệp đích, được tạo

nên từ các thông điệp về BĐKH trong các tác phẩm có nội dung đề cập đến vấn đề

BĐKH. Bao gồm: các tác phẩm đề cập đến vấn đề BĐKH nói chung; 02 biểu hiện đặc

trưng của BĐKH là nhiệt độ trái đất gia tăng (hiện tượng ấm lên toàn cầu) và nước biển

dâng, hoặc các biểu hiện thời tiết thủy văn bất thường, trái quy luật, như: bão, lũ lụt,

hạn hán, sạt lở, sụt lún, hiện tượng xâm nhập mặn, mất đa dạng sinh học... Các nội

dung này có thể được đề cập trên nhiều phương diện khác nhau, như biểu hiện, diễn

biến, nguyên nhân, tác động và các hoạt động, giải pháp ứng phó với BĐKH.

Thông điệp về BĐKH trên báo Đảng khu vực ĐBSCL là thông điệp trên báo in,

vì thế nó mang những đặc điểm cơ bản của thông tin trên báo chí, như tính thời sự, tính

công khai, tính mục đích, tính định kỳ, tính phong phú, đa dạng, nhiều chiều, tính dễ

hiểu, dễ nhớ, dễ làm theo, tính tương tác và tính đa phương tiện. Những yếu tố được

coi là lợi thế cũng như hạn chế của báo in cũng là những ưu điểm và hạn chế của thông

điệp BĐKH trên báo Đảng khu vực ĐBSCL.

51

1.1.2. Một số lý thuyết làm cơ sở cho nghiên cứu

1.1.2.1. Lý thuyết Thiết lập chương trình nghị sự (Agenda Setting Theory)

Vai trò thiết lập chương trình nghị sự của báo chí chính thức được đưa ra năm

1972 khi Maxwell McCombs và Donald Shaw, các giáo sư trẻ tại Trường Đại học

North Carolina công bố kết quả thực nghiệm của mình. Cả hai đã sử dụng cuộc bầu

cử tổng thống Mỹ năm 1968 để nghiên cứu, tìm hiểu xem có mối quan hệ nào giữa

các vấn đề TTĐC ưu tiên thông tin và các vấn đề công chúng cho là quan trọng. Kết

quả là “ ạ ề ờ p ơ TTĐC p

ú ý ọ ộ ề T ờ ữ

ạ ấ ề ộ ổ b p ơ ề

ờ ở ổ b ” [128, tr.44-50]. Nói cách khác, trong xã hội,

nếu một tin tức nào đó được nhắc tới thường xuyên, liên tục và nổi bật, công chúng sẽ

nhớ tới và coi nó quan trọng hơn những thông tin khác.

Lý thuyết này là nhấn mạnh khả năng tác động đến công chúng của TTĐC,

đồng thời chỉ ra rằng, việc đưa tin của cơ quan truyền thông là một hoạt động lựa chọn

có mục đích. Bằng cách thiết lập chương trình nghị sự các phương tiện truyền thông

không chỉ giới hạn sự chú ý của công chúng vào một tập hợp vấn đề cụ thể, mà còn ảnh

hưởng đến sự hiểu biết và quan điểm của họ về các vấn đề đó. Bởi lẽ, mỗi vấn đề mang

nhiều thuộc tính chi tiết, sau khi lựa chọn vấn đề (thiết lập chương trình nghị sự cấp độ

1), cơ quan truyền thông sẽ cố gắng xây dựng một hình ảnh về các vấn đề - trong đó

các thuộc tính cụ thể trở nên đặc biệt nổi bật (chương trình nghị sự cấp 2), và tiếp tục

cấp độ 3 nếu cần thiết… Cứ thế, tạo ra sự khác biệt đáng kể trong cách mọi người nhìn

vấn đề đó [117].

Việc vận dụng lý thuyết này trong nghiên cứu là cơ sở suy luận và đưa ra các

đánh giá về hiệu quả, tác động của thông điệp về BĐKH đến công chúng với mục đích

truyền thông về vấn đề này.

1.1.2.2. Lý thuyết Đóng khung (Farming theory)

Khái niệm về khung được nhà Nhân chủng học Gregory Bateson đưa ra lần đầu

tiên vào năm 1972. Ông định nghĩa khung tâm lý là “giới hạn tạm thời và không gian

của tập hợp các thông điệp tương tác” [dẫn lại từ 102]. Năm 1974, Erving Goffman lần

đầu tiên đưa ra khái niệm “đóng khung” trong cuốn Frame analysis: An essay on the

organization of experience, theo đó “khung” chính là những gi n c a s diễn

52

gi i (schemata of interpretation) cho phép con người “ nh, ti p nh nh dạng

và dán nhãn cho vô s những s bi n diễn ra trong cuộc s ng c a họ” [dẫn lại từ 33].

Theo nhà khoa học Dennis Chong và James N. Druckman [102], đóng khung đề cập

đến quá trình mọi người phát triển một khái niệm cụ thể về một vấn đề hoặc định

hướng lại suy nghĩ của họ về một vấn đề. “Khung” là hệ thống các ý tưởng hình thành

trước, những nhận thức sẵn có này được con người sử dụng để tổ chức và giải thích khi

tiếp nhận các thông tin về các vấn đề trong xã hội.

Đề cập đến cách các phương tiện truyền thông “đóng khung” và trình bày thông

tin cho công chúng, Dennis và James cho rằng các phóng viên cũng bị ảnh hưởng bởi

các chuẩn mực xã hội, áp lực từ các nhóm lợi ích, thói quen làm báo và các định hướng

chính trị hay tư tưởng của chính họ. Những yếu tố này hình thành khung diễn giải của

riêng họ và chi phối việc các nhà báo chọn sự kiện nào để đưa tin và sự kiện nào nên

bỏ qua; giá trị và quan điểm nào sẽ được đề cập hoặc đưa ra… Do đó, một số định

nghĩa, đánh giá và khuyến nghị trong các bản tin được làm nổi bật hơn những định

nghĩa khác. Bằng cách này, các phương tiện truyền thông tác động đến cách mọi người

nhìn nhận thực tế một cách ngầm ẩn và được xem như là hiển nhiên.[102]

Quá trình các phương tiện TTĐC thực hiện việc “đóng khung” cũng gần giống

với quá trình thiết lập chương trình nghị sự bởi cả hai đều tập trung vào cách phương

tiện truyền thông thu hút sự chú ý của công chúng đến các chủ đề nào đó. Tuy nhiên

“đóng khung” tập trung vào bản chất của các vấn đề hơn là vào một chủ đề cụ thể.

Định nghĩa tường minh nhất về quá trình đóng khung của truyền thông đại chúng có lẽ

được đưa ra bởi Robert Entman: “Quá trình đóng khung chủ yếu liên quan tới việc l a

chọn (selection) và làm nổi b t (salience). Đóng khung có nghĩa là lựa chọn một số

khía cạnh trong cách hiểu về hiện thực, rồi làm cho nó nổi bật lên trên văn bản truyền

thông bằng cách nhấn mạnh vào một cách đặt vấn đề, một cách lý giải, một cách đánh

giá đạo đức, hoặc/và một cách xử lý nào đó” [dẫn lại từ 33]

1.1.2.3. Lý thuyết Truyền thông can thiệp xã hội

Thực tế hoạt động báo chí - truyền thông gần đây đã cho ra đời các lý thuyết

mới ngày càng gần với thực tiễn và môi trường truyền thông hiện đại. Lý thuyết

Truyền thông can thiệp xã hội được tác giả Nguyễn Văn Dững nhiều lần đề cập, rõ nét

nhất trong bài báo khoa học “H ớ b ờ ề

(N ừ ờ p b V N )” đăng trên tạp chí Lý luận Chính trị số 6

53

năm 2016 [24] và gần đây được các Nguyễn Văn Dững và Hồ Thị Thanh Bạch thể

hiện rõ nét hơn trong cuốn Q ý ạ ã ộ b bù ổ

thông tin [26, tr.19-33]. Theo tác giả, bản chất xã hội của truyền thông thể hiện qua 3

cấp độ: thông tin - giao tiếp  kết nối xã hội  can thiệp xã hội. Tức là trên cơ sở đáp

ứng nhu cầu thông tin - giao tiếp của công chúng xã hội, truyền thông thể hiện phương

tiện và phương thức kết nối xã hội, từ đó tạo lập sức mạnh xã hội để can thiệp xã hội,

góp phần giải quyết các vấn đề KT- XH đang đặt ra. Đối với báo chí, quy trình đi đến

mục tiêu cuối cùng là can thiệp xã hội có thể mô tả vắn tắt như sau: “B ấp

ạ ễ p ã ộ ú ể ọ ơ

ộ ẻ ỹ ă ề ấ ề

ặ ; ơ ở ấ úp ú ã ộ ở ể b ơ ở

ổ ; ừ b - ề p p ổ ề ỉ ộ

ã ộ ú ã ộ ộ ” [24].

Lý thuyết Truyền thông can thiệp xã hội được vận dụng để xem xét về mức độ

hiệu quả của thông điệp báo chí trên cơ sở nhận thức, thái độ và hành vi xã hội của

công chúng đích, và ngược lại. Từ đó, đưa ra các khuyến nghị để nâng cao chất lượng

thông điệp phù hợp với bối cảnh MTTT mới.

1.2. CƠ SỞ THỰC TIỄN

1.2.1. Cơ sở chính trị và cơ sở pháp lý

Nhiều năm qua, Đảng và Nhà nước Việt Nam coi BĐKH là vấn đề sống còn đối

với quốc gia, dân tộc, từ đó đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo dồn sức ứng phó.

Đối với quốc tế, Việt Nam đã sớm ký kết nhiều văn bản quốc tế về ứng phó

BĐKH, như: Công ước Vienna về bảo vệ tầng Ozone; Công ước khung của LHQ về

BĐKH; Nghị định thư Kyoto; Thỏa thuận Paris về khí hậu; các Nghị quyết của COP,

ASEAN..., và được đánh giá là một thành viên tích cực và có trách nhiệm trong thực

thi các cam kết quốc tế về ứng phó BĐKH.

Các quan điểm của Đảng CSVN về ứng phó với BĐKH cũng thể hiện qua

nhiều văn kiện Đại hội Đảng, các chỉ thị, kết luận, nghị quyết của Bộ Chính trị, Ban Bí

thư. Kể từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần VIII (năm 1996) đến Đại hội đại biểu toàn

quốc lần VIII (năm 2021) của Đảng, vấn đề BĐKH liên tục được đề cập trong văn kiện

các kỳ đại hội với mức độ quan tâm ngày càng cao hơn. Đặc biệt, văn kiện Đại hội XIII

54

của Đảng nhận định BĐKH là vấn đề toàn cầu, là một trong những thách thức lớn mà

Việt Nam phải đối mặt. Văn kiện xác định “ ộ ớ BĐKH ẹ b ” [28, tr.116] là một trong những định hướng phát triển đất

nước giai đoạn 2021 - 2030 và là một trong 6 nhiệm vụ trọng tâm trong nhiệm kỳ Đại

hội XIII của Đảng.

Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội

(bổ sung, phát triển năm 2011), Đảng đánh giá vấn đề BĐKH là thách thức mang tính

toàn cầu, có ý nghĩa sống còn đối với sự phát triển của đất nước, xác định rõ định

hướng mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp để đẩy mạnh công tác chủ động ứng phó với

BĐKH. Chiến lược phát triển KT- XH 2011 - 2020 chỉ rõ, để đảm bảo phát triển nhanh

gắn liền với phát triển bền vững thì trong "p ể KT- XH p ọ b

ờ ộ p ớ BĐKH", xác định mục tiêu "

ộ p ớ BĐKH ấ ớ b ể ".

Đặc biệt, tháng 6 năm 2013, Ban chấp hành TƯ Đảng khóa XI ban hành Nghị

quyết số 24-NQ/TW về “Chủ động ứng phó với BĐKH, tăng cường quản lý tài nguyên

và bảo vệ môi trường”, với những cam kết đẩy mạnh các hoạt động chủ động ứng phó

với BĐKH; xác định ứng phó với BĐKH là “một trong những nhi m vụ quan trọng

nhất c a c h th ng chính tr ”.

Ở góc độ Nhà nước, từ 1996 đến cuối 2020, có 19 văn bản của Chính phủ, 60

văn bản của Thủ tướng Chính phủ và trên 220 văn bản của các bộ, ngành liên quan trực

tiếp hoặc gián tiếp đến các vấn đề của BĐKH. Đáng kể đến là Chương trình mục tiêu

quốc gia ứng phó với BĐKH, Chiến lược quốc gia về BĐKH và Chiến lược quốc gia

về tăng trưởng xanh của Việt Nam. Hai chiến lược này hình thành bộ khung chung và

đã được ưu tiên hóa và cụ thể hóa trong Kế hoạch BĐKH và Kế hoạch tăng trưởng

xanh cho thời gian đến năm 2020, trong đó có các kế hoạch hành động về ứng phó

BĐKH và tăng trưởng xanh cấp ngành và địa phương. Để giám sát và điều phối việc

thực hiện các hành động ứng phó với BĐKH, Chính phủ đã thành lập Uỷ ban quốc

gia về BĐKH và gần đây là Hội đồng cố vấn về BĐKH…

Đối với vùng ĐBSCL, Chính phủ đã ứng phó mạnh mẽ thông qua các chính

sách và chương trình nghị sự để xử lý tính dễ bị tổn thương với BĐKH ngày càng

tăng và thúc đẩy con đường phát triển bền vững thích ứng với BĐKH cho toàn vùng.

55

Đáng kể đến như Quyết định 1581/QĐ-TTg ngày 9/10/2009 Phê duyệt Quy hoạch

xây dựng Vùng ĐBSCL đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2050; Kết luận số 28-

KL/TW ngày 14/8/2012 của Bộ Chính trị về phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp phát

triển KT- XH và bảo đảm an ninh, quốc phòng vùng ĐBSCL đến năm 2020. Đặc

biệt, sau Hội nghị phát triển bền vững ĐBSCL thích ứng với BĐKH, tổ chức tại Cần

Thơ ngày 26/9/2017, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết 120/NQ-CP về Phát triển

bền vững ĐBSCL thích ứng với BĐKH, đưa ra những định hướng chiến lược, các

giải pháp toàn diện, căn cơ, đồng bộ, huy động tối đa các nguồn lực và sự tham gia

của các thành phần kinh tế để phát triển bền vững ĐBSCL. Sau đó, Thủ tướng Chính

phủ tiếp tục ban hành Quyết định 417 ngày 13/4/2019 về việc ban hành Chương trình

hành động tổng thể thực hiện Nghị quyết này…

Trong các giải pháp về ứng phó BĐKH mà Đảng, Chính phủ đã hoạch định cho

quốc gia cũng như cho vùng ĐBSCL, việc nâng cao hiệu quả thông tin - giáo dục -

truyền thông, với mục tiêu xây dựng mọ t cọ ng đồng ứng phó hiẹ u quả với BĐKH đu ợc

xác định là mục tiêu trọng tâm. Nghị quyết Đại hội XII của Đảng chỉ rõ nhiệm vụ:

“Tă ờ p ổ b p p ề ã ộ ề BVMT, b

p ớ BĐKH Đ b ã ộ ộ

BĐKH ấ ộ p ớ BĐKH” [27, tr.17]. Giải

pháp đầu tiên mà Nghị quyết số 24-NQ/TW về “Chủ động ứng phó với BĐKH, tăng

cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường” đề cập là “Tă ờ ổi mới công

tác tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nh n th c, hình thành ý th c ch ộng ng phó

vớ BĐKH ử dụng ti t ki m tài nguyên và BVMT” Trong Nghị quyết 120/NQ-CP về

Phát triển bền vững ĐBSCL thích ứng với BĐKH, Chính phủ giao nhiệm vụ cho

UBND cấp tỉnh trong vùng và các Bộ chuyên môn phải “ C ơ

ề ề p ể bề ữ ĐBSCL ớ BĐKH”; “ ẩ ạ

ề ấp ề ờ

chính xác các thá ặ ớ ĐBSCL ừ p ơ ù ;

ộ ớ BĐKH” [13].

Có 04 điểm nổi bật trong hệ thống quan điểm, đường lối, chính sách pháp luật

về BĐKH của Đảng và Chính phủ Việt Nam trong thời gian qua.

56

- Thứ nhất, các văn bản ban hành đã xây dựng hành lang pháp lý để Việt

Nam thực hiện quyền và nghĩa vụ của quốc gia tham gia vào công ước khung của

LHQ về BĐKH.

- Thứ hai, thông qua các văn bản này Đảng, Nhà nước định hướng và chỉ

đạo, điều hành các cơ quan, tổ chức, địa phương đơn vị thực hiện hoạt động ứng

phó với BĐKH.

- Thứ ba, các chính sách của Đảng và Nhà n ước cũng xác định nâng cao hiệu

quả truyền thông về BĐKH là một trong những nhiệm vụ trọng tâm để cộng đồng nhạ n

thức đẩy đủ và chính xác về BĐKH, từ đó thay đổi thái đọ và hành vi, chủ động ứng

phó với BĐKH. Đây là yếu tố quan trọng có ý nghĩa đặc biệt trong bối cảnh BĐKH đã

trở thành thách thức lớn với toàn cầu.

1.2.2. Thực tiễn biến đổi khí hậu

1.2.2.1. Tình hình biến đổi khí hậu trên thế giới

Theo báo cáo đánh giá lần thứ 5 của IPCC, trong ba thập kỷ qua, cứ sau mỗi

thập kỷ bề mặt trái đất đã liên tục nóng lên hơn bất kỳ thập kỷ nào trước đó. Riêng

giai đoạn từ 1983 đến 2012 dường như là khoảng thời gian 30 năm ấm nhất trong

1.400 năm.

Trong hai thập kỷ qua, sự tan chảy của hàng triệu tỷ tấn băng đã làm tốc độ

nước biển dâng từ giữa thế kỷ 19 lớn hơn so với tốc độ nước biển dâng trung bình

trong 2.000 năm trước đó. Nồng độ carbon dioxide đã tăng 40% kể từ thời tiền công

nghiệp, chủ yếu là phát thải từ đốt nhiên liệu hóa thạch và do rừng bị tàn phá để lấy đất

dùng vào việc khác. Các đại dương đã hấp thụ khoảng 30% lượng khí carbon dioxide

do con người thải ra, gây ra hiện tượng axit hóa đại dương. [117]

Báo cáo đánh giá lần thứ 5 của IPCC phác thảo các dự báo về BĐKH toàn cầu

trong thế kỷ 21. Cụ thể: Cuối thế kỷ 21, nhiệt độ trung bình toàn cầu có thể tăng

1,1÷2,6°C so với trung bình thời kỳ 1986-2005. Cực đoan nhiệt độ có xu thế tăng, nhiệt

độ ngày lạnh nhất tăng 5†10°C; nhiệt độ ngày nóng nhất tăng 5†7°C; số ngày sương

giá giảm; số đêm nóng tăng mạnh. Đến năm 2100 có thể không còn băng ở Bắc Cực.

Bão mạnh có chiều hướng gia tăng, mưa lớn do bão gia tăng… [12, tr.14]

Gần đây nhất, ngày 10/10/2019, tại Việt Nam, IPCC đã công bố B ặc bi t về vi c ấm lên toàn c u 1.5oC, đưa ra những cảnh báo đáng chú ý: Hiện tại, các

57

hoạt động của con người đã làm trái đất nóng lên khoảng 1.0°C so với thời kỳ tiền công

nghiệp và với tốc độ hiện tại sẽ tăng 1.5°C trong giai đoạn 2030 - 2052. Mức độ nóng

lên toàn cầu hiện nay đã làm trầm trọng thêm các yếu tố sức khỏe con người và sẽ trở

nên tồi tệ hơn với nhiệt độ tăng cao. Ở nhiệt độ gia tăng 1,5°C, số lượng siêu đô thị bị

căng thẳng sẽ tăng gấp 2 lần, khiến 350 triệu dân phải gánh chịu thảm họa chết người

do nhiệt độ gia tăng vào năm 2050; con người sẽ khó khăn và dễ bị tổn thương do mất

an ninh lương thực, giá lương thực cao, tổn thất thu nhập, cơ hội sinh kế bị mất, tác

động bất lợi đến sức khoẻ và chuyển dịch dân số…

Tác động của BĐKH đối với từng khu vực trên thế giới được các nhà khoa học

cảnh báo, bao gồm [88]:

Đ i với Châu Phi, 75 - 250 triệu dân chịu ảnh hưởng của khủng hoảng nước sau

năm 2020; Thu hẹp khu vực thích hợp với sản xuất nông nghiệp, giảm năng suất cây

trồng... đe dọa an ninh lương thực và dinh dưỡng. Các hệ sinh thái phải trải qua những

thay đổi về giống - loài hoặc dịch chuyển khu vực thích nghi.

Đ i với Châu Á, nguồn nước ngọt ở các châu thổ lớn giảm đi trong mùa khô tác

động tiêu cực đến hơn 1 tỷ người vào năm 2050; Gia tăng ngập lụt trên các khu vực bờ

biển tập trung cao độ dân cư ở Nam Á, Đông Á, Đông Nam Á. Năng suất lương thực

giảm 30% ở Trung Á, Nam Á, vào giữa thế kỷ 21.

Đ i với Châu Âu, BĐKH sẽ mở rộng sự phân hóa về tài nguyên thiên nhiên

và của cải vật chất. Vùng núi đối mặt với nạn tuyết lở, lượng tuyết giảm. Riêng khu

vực Australia và New Zealand, vấn đề an ninh nguồn nước trở nên căng thẳng hơn

từ năm 2030. Đa dạng sinh học bị tổn thất. Năng suất nông nghiệp và sản phẩm lâm

nghiệp giảm.

1.2.2.2. Tình hinh biến đổi khí hậu ở Việt Nam

Các biểu hiện của BĐKH ở Việt Nam gần đây ngày càng rõ nét, bởi những hiện

tượng thủy văn cực đoan xuất hiện ngày càng nhiều. BĐKH tác động ở cả ba yếu tố

bền vững về kinh tế, bền vững về xã hội và bền vững về tài nguyên thiên nhiên và điều

kiện tự nhiên, thách thức và cản trở việc thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững của

Việt Nam.

Kết quả tổng hợp của Bộ Tài nguyên và Môi trường từ các trạm quan trắc trong

cả nước cho thấy nhiệt độ ngày cao nhất và thấp nhất có xu thế tăng rõ rệt, với mức tăng cao nhất lên tới 10C/10 năm. Số ngày nóng (≥350C) có xu thế tăng ở hầu hết các

58

khu vực của cả nước. Các kỷ lục về nhiệt độ trung bình cũng như nhiệt độ tối cao liên

tục được ghi nhận từ năm này qua năm khác theo chiều hướng gia tăng. Số lượng các

đợt hạn hán, đặc biệt là hạn khắc nghiệt gia tăng trên phạm vi toàn quốc và hầu như

năm nào cũng xảy ra kể từ năm 2000 trở lại đây. Trong đó đợt hạn hán năm 2016 tại

Nam Trung bộ và Tây Nguyên được coi là kỷ lục trong hơn 100 năm qua với lượng

mưa thiếu hụt từ 30%-50%, thâm chí có nơi lên đến 80% so với mức trung bình. Đồng

thời, những đợt rét đậm kéo dài kỷ lục, những đợt rét hại có nhiệt độ khá thấp liên tục

xuất hiện. Một số nơi như Ba Vì (Hà Nội) và Kỳ Sơn (Nghệ An), trong mùa đông

2015-2016 có mưa tuyết lần đầu tiên trong lịch sử.

Các hiện tượng cực đoan liên quan đến mưa như mưa trái mùa và mưa lớn dị

thường - cả về thời gian, địa điểm, tần suất và cường độ - xảy ra nhiều hơn trong những

năm gần đây. Việt Nam có trên 3.000 km bờ biển, tập trung hàng triệu người sinh sống

và khai thác các nguồn lợi từ biển. Lượng mưa giảm dẫn tới hạn hán làm thay đổi

lượng nước ngầm được bổ sung, khiến cho tình trạng xâm nhập mặn diễn ra tại hầu hết

các địa phương ven biển.

Tính trung bình cho toàn dải ven biển Việt Nam, mực nước biển tăng khoảng

3,50±0,7 mm/năm. Khu vực ven biển Trung Bộ tăng mạnh nhất với tốc độ tăng khoảng

trên 4 mm/năm, trong đó lớn nhất tại khu vực ven biển Nam Trung Bộ với tốc độ tăng

đến trên 5,6 mm/năm…

Báo cáo của Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng chống thiên tai cho biết: trong

20 năm (1998-2017), thiên tai đã làm chết, mất tích khoảng 10.800 người; thiệt hại

bình quân hằng năm 20.000 tỉ đồng. Mức độ thiệt hại do thiên tai tăng dần: Năm 2015,

thiên tai đã làm 154 người chết, tổng thiệt hại kinh tế khoảng 8.114 tỉ đồng. Năm 2016,

264 người chết và mất tích, thiệt hại về kinh tế khoảng 39.726 tỉ đồng. Năm 2017 tăng

lên 386 người chết và mất tích, thiệt hại khoảng 60.000 tỉ đồng... Báo cáo mới công bố

của Quỹ Tiền tệ quốc tế, đến năm 2100, BĐKH sẽ ảnh hưởng hơn 12% dân số Việt

Nam và làm giảm tốc độ tăng trưởng GDP quốc gia xuống 10%, đưa Việt Nam thành

một trong 30 nước “cực rủi ro” vì BĐKH.

1.2.2.3. Biến đổi khí hậu ở đồng bằng sông Cửu Long

ĐBSCL là phần châu thổ hạ lưu sông Mê Công, có hệ sinh thái đa dạng, vùng

nước ngọt, lợ và mặn đan xen nhau, là khu vực duy nhất của cả nước tiếp giáp biển

59

Đông và biển Tây với bờ biển dài 750 km, chiếm 23% chiều dài bờ biển quốc gia; hơn 360 ngàn km2 vùng biển và đặc quyền kinh tế, với gần 200 đảo và quần đảo.

ĐBSCL có khí hậu nhiệt đới gió mùa, thời tiết phân thành 2 mùa nắng (khô),

mưa rõ rệt. Mùa khô kéo dài từ tháng 10 đến hết tháng 4, mùa mưa từ tháng 5 đến đầu tháng 11. Nhiệt độ trung bình của vùng gần 28oC. ĐBSCL xếp thứ 3 trên thế giới về

khả năng tổn thương trước tác động của BĐKH. Thời gian qua, thiên tai và thời tiết cực

đoan xuất hiện ở ĐBSCL ngày càng nhều hơn với cường độ gia tăng, đặc biệt là các

hiện tượng lũ lụt, hạn hán - xâm nhập mặn, sụt lún và xói mòn đất đai.[125]

Lũ lụt là đặc tính mùa thường xuyên ở ĐBSCL. Tuy nhiên, trong vài thập kỷ

gần đây, lũ ở khu vực ĐBSCL có những biến động bất thường, như đỉnh lũ gia tăng,

tình trạng ngập lụt ở các đô thị với diện tích rộng hơn và thời gian lâu hơn. Thông

thường, từ 4-6 năm toàn vùng mới xuất hiện một trận lũ lớn, tuy nhiên trong hơn một

thập kỷ qua, ĐBSCL liên tiếp gánh chịu những cơn lũ lớn và cực lớn, không theo quy

luật chung với “ ễ b ũ p ạp ằ ể b ã ũ ề ũ ụ

ở ĐBSCL” [43]. Liên tục các năm từ 2005 đến nay, triều cường lớn thường xuất hiện

vào kì nước lớn các tháng 10, 11 và 12 gây ngập lụt đáng kể tại các vùng ven biển và

cả các vùng đô thị vốn ít ngập. Theo Kịch bản BĐKH năm 2016 của Bộ TN&MT, nếu

mực nước biển dâng 100cm và không có giải pháp ứng phó hiệu quả, 38,9% diện tích

ĐBSCL là có nguy cơ ngập [11].

Tình trạng xói mòn đất đai mà rõ nhất qua việc sụt lún và sạt lở đất cũng đang là

vấn đề báo động của vùng ĐBSCL. Theo Cục Quản lý Tài nguyên nước - Bộ TN&MT,

năm 2010, toàn vùng chỉ xuất hiện 99 điểm sạt lở thì đến năm 2019 tăng lên gấp 7 lần

với 681 điểm, sạt lở bờ biển 52 điểm với tổng chiều dài 268km. Trung bình mỗi năm

ĐBSCL mất từ 300 đến 500 ha đất vì sạt lở bờ sông, bờ biển, khiến diện tích bị thu hẹp

dần, hàng chục nghìn hộ dân phải di dời khỏi vùng nguy hiểm. Kết quả nghiên cứu của

Viện Nghiên cứu BĐKH Trường Đại học Cần Thơ phối hợp với Hà Lan cho thấy,

trong 25 năm (1991-2016), ĐBSCL đã sụt lún 18cm. Hiện nay sụt lún vẫn diễn ra với

tốc độ ngày càng nhanh và nghiêm trọng, bình quân 2cm/ năm.

Do có cao độ thấp và tiếp giáp biển mà phần lớn diện tích ĐBSCL có nguy cơ

bị nhiễm mặn. Tuy nhiên trong những năm gần đây, thời gian xâm nhập mặn có xu

hướng xuất hiện sớm hơn trước từ 1 đến 1,5 tháng, phạm vi xâm nhập mặn tăng. Điển

60

hình đợt xâm nhập mặn năm 2016 được xem là lịch sử trong 100 năm qua đã khiến

20 triệu người dân ĐBSCL chịu ảnh hưởng; tổng thiệt hại về kinh tế hơn 5.500 tỷ

đồng [9]. Theo kịch bản BĐKH của Bộ TN&MT, năm 2050, ứng với kịch bản dòng

chảy kiệt thượng lưu giảm 15%, diện tích ảnh hưởng mặn toàn vùng sẽ chiếm 52,4%

(tăng 311.652ha so với hiện nay). Nguồn nước các đô thị trung tâm ĐBSCL cũng sẽ

nhiễm mặn [11].

BĐKH đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến hệ sinh thái và đa dạng sinh học vùng

ĐBSCL. Diện tích sinh cảnh tự nhiên và tính toàn vẹn của hệ sinh thái bị suy giảm.

Giai đoạn 1980-1995, các tỉnh ven biển ĐBSCL đã bị mất 72.825 ha rừng, hiện độ

che phủ của rừng tại ĐBSCL chỉ đạt 10% diện tích tự nhiên. Môi trường đất bị ô

nhiễm do quá trình phèn hóa gia tăng ở quy mô lớn; đa dạng sinh học bị suy giảm do

không còn điều kiện thích hợp để các loài sinh vật sinh sống và trú ngụ; ô nhiễm

nguồn nước gia tăng, sản lượng và chủng loài thủy sinh trong môi trường tự nhiên bị

suy giảm [75][30].

ĐBSCL hứng chịu nặng nề tác động BĐKH một phần là do đặc thù về địa lý

nền đất thấp, đối diện với 2 mặt biển cả phía Đông và Tây, nhưng nguyên nhân chính

là do tác động của con người. Phía thượng nguồn sông Mê Kông, các hoạt động kinh

tế sử dụng nguồn nước, như thủy điện, chuyển nước khỏi lưu vực hệ thống, suy giảm

nhanh diện tích rừng, thảm thực bì (nơi giữ nước, điều tiết nước) làm thay đổi căn

bản quy luật dòng chảy khi vào đến địa phận Việt Nam. Ngoài ra, những bất hợp lý

trong sự phát triển kinh tế nội tại, như thâm canh lúa 3 vụ, khai thác tài nguyên cát

sỏi, nguồn nước ngầm, xây dựng hạ tầng, nhà ở ven sông cùng với các hoạt động

kinh tế khác cũng gây nên tổn thương lớn đến vùng châu thổ và sự phát triển bền

vững của vùng. [29].

Thực tiễn về BĐKH cho thấy đây là một thách thức mang tính toàn cầu và gây ra

nhiều tác động tiêu cực với đời sống nhân loại. BĐKH ở Việt Nam trong những thập

kỷ gần đây diễn ra ngày càng nhanh, phức tạp, khó lường. Ở ĐBSCL sạt lở, sụt lún,

xói mòn đất đai, lũ lụt, hạn hán và xâm nhập mặn là những biểu hiện BĐKH mang

tính đặc trưng và ngày càng trầm trọng, gây nên tổn thương lớn ảnh hưởng đến sự phát

triển bền vững của vùng. Nguyên nhân của tình trạng này một phần là do các hoạt động

khai thác kinh tế và hành vi ứng xử chưa phù hợp của con người với môi trường, đặt ra

61

yêu cầu/vai trò cấp thiết cho báo chí - truyền thông trong việc nâng cao nhân thức và

thay đổi hành vi cộng đồng để giảm thiểu tác hại của BĐKH một cách hiệu quả.

1.2.3. Những yếu tố tác động đến việc thiết kế thông điệp biến đổi khí hậu

trên báo Đảng khu vực đồng bằng sông Cửu ong

1.2.3.1. Công chúng địa phương và tri thức bản địa

“Tri th c b c hình thành, t n tại và phát triển trong quá trình lao

ộng s n xuất, ng xử vớ ờng t nhiên và xã hội c a mọi thành viên trong cộng

c bổ sung, hoàn thi n d n d c truyền từ ờ ời khác thông

qua nhiều hình th : , t p tục, thói quen…” [34]. Tri

thức bản địa có vai trò ý nghĩa quan trọng trong đời sống của người dân, còn là một

kho thông tin quý giá cho các nhà khoa học và quản lý; chi phối mạnh mẽ công tác lập

kế hoạch và xây dựng chính sách nói chung, trong công tác ứng phó với BĐKH nói

riêng. Tri thức địa phương kết hợp với kiến thức khoa học và kinh nghiệm sẽ giúp việc

đánh giá, lập và triển khai kế hoạch thích ứng với BĐKH phù hợp với thực tiễn và hiệu

quả cao hơn.

ĐBSCL có khoảng 1,8 triệu dân. Trong đó, 79,11% dân số sống ở nông thôn,

hầu hết là nông dân; khoảng 1,1 triệu đồng bào dân tộc Khmer và có nhiều tôn giáo.

Hàng trăm năm qua, người dân ĐBSCL đã biết chủ động thích ứng “thuận thiên, hợp

địa”; không đắp đê chống lũ như miền Bắc mà tận dụng lũ để khai thác nguồn lợi thủy

sản tự nhiên rửa mặn, tẩy phèn, tiêu trừ sâu bọ, bồi đắp phù sa màu mỡ cho đất đai; sử

dụng hệ thống kênh, mương, sông rạch, động thái lên xuống của thủy triều, dòng chảy

của kênh rạch để phục vụ sản xuất. Việc hiện thực hóa triết lý “s ng chung vớ ũ t

ỉ ũ” đã giúp vùng đất này tạo nên nhiều kỳ tích về sản xuất lúa gạo, thủy sản,

trái cây. Chính vì thế, ứng phó với BĐKH ở ĐBSCL phải “tôn trọng quy lu t t nhiên,

phù h p vớ ều ki n th c t , tránh can thi p thô bạo vào t nhiên” [13]. Điều này có

nghĩa, không phải phát minh, khám phá khoa học nào về ứng phó với BĐKH cũng phù

hợp để thông tin, vận động áp dụng ở vùng đất này. Đồng thời, các nhà báo, các nhà

khoa học cần tìm hiểu và học hỏi những kiến thức đã được cư dân bản địa đúc kết qua

hàng trăm năm để thích ứng với những điều kiện KT- XH và sinh thái đặc thù với môi

trường, văn hóa vùng ĐBSCL, sử dụng nó như một nguồn ý tưởng và giả thuyết; đồng

thời, kiểm tra những giả thuyết đó trong khuôn khổ của khoa học hiện đại để khám phá

ra căn cứ hợp lý mà người dân ĐBSCL hành động - để có thông điệp phù hợp.

62

Trình độ dân trí ĐBSCL còn thấp so với mặt bằng chung, tỷ lệ lao động chưa

qua đào tạo chiếm 83,25%. Cộng đồng cư dân ĐBSCL mang đặc thù tính cách của dân

cư sông nước, tính thật thà, bình dị, dễ thân tình, ngang tàng nghĩa khí. Trong nếp sống,

cách suy nghĩ và nói năng của người nông dân nơi đây luôn thể hiện sự bộc trực, thẳng

thắn, thường không thích khách sáo, văn chương rào đón, bóng bẩy… Chính vì vậy,

thông điệp về BĐKH trên báo Đảng khu vực ĐBSCL cần được thể hiện bằng một văn

phong ngắn gọn, dễ hiểu, hạn chế những thông điệp ẩn đòi hỏi suy luận lắt léo.

1.2.3.2. Cơ sở chính trị - pháp lý

“T bộ ạ p ẩ b ề p b p bở

ữ N ạ b ũ ạ ộ ề

ã ộ ạ ờ ộ ở

ã ộ ” [61, tr.75].

Sự lãnh đạo, quản lý của cơ quan chủ quản đối với báo Đảng địa phương khá

bao quát, từ định hướng thông tin, tư tưởng, công tác tuyển chọn đề bạt cán bộ lãnh

đạo của cơ quan báo, cả về cơ sở vật chất, trang thiết bị, tài chính đảm bảo hoạt động

của báo…

Tuy nhiên, điều này cũng dẫn đến một thực tế là nơi nào lãnh đạo nhận thức

thấu đáu về vai trò, chức năng của báo chí, mạnh dạn cung cấp thông tin chính thức,

chính thống cho báo chí thì báo Đảng địa phương nơi đó thuận lợi tiếp cận thông tin

và phát huy dân chủ trong thông tin; thông điệp trên báo phản ánh đầy đủ thực tiễn đa

dạng phong phú, không né tránh các vấn đề phức tạp, nhạy cảm, không bỏ qua các

mặt trái. Ngược lại thì báo Đảng địa phương chỉ là phương tiện tuyên truyền thuần

tuý của cấp ủy Đảng, chính quyền, thông điệp trên báo chủ yếu thể hiện mong muốn

và ý chí của nhóm nhỏ, né tránh những vấn đề gai góc mà đúng ra báo Đảng phải là

nơi thông tin, đấu tranh mạnh mẽ nhất, để thuyết phục công chúng xã hội, lôi kéo họ

vào tầm ảnh hưởng.

1.2.3.3. Trình độ, kỹ năng và bản lĩnh của nhà báo

Đôi khi một sự việc, hiện tượng diễn ra trong thực tiễn, dưới ngòi bút của các nhà

báo lại truyền đến công chúng những thông điệp mang nội dung và giá trị khác nhau bởi

sự khác biệt về góc độ tiếp cận, khuynh hướng thể hiện, ngôn ngữ biểu đạt, thời điểm

thông tin… do sự khác biệt về nhận thức, năng lực và kỹ năng khác của nhà báo.

63

“Là nhà báo chân chính, ph i l a chọn, xử lý thông tin nhanh chóng, trung

th c, chính xác, ph ú n vọng c ú ú nh

ớng chính tr c Đ ộng tích c c, có hi u qu n ti n bộ xã hội”[68].

Thực tế, báo Đảng địa phương bị nhận xét thiếu sức chiến đấu bắt nguồn từ nguyên

nhân không ít người làm báo thiếu bản lĩnh và ý chí chiến đấu; ngại va chạm, không

dám đấu tranh với tiêu cực, nhất là khi có liên quan đến lãnh đạo của địa phương.

Không ít sai phạm nghiêm trọng về môi trường làm gia tăng tác hại của BĐKH trên

địa bàn nhưng nhà báo không dám đề cập vì sợ phật lòng lãnh đạo, người quen biết,

giữ sự “an toàn” và lợi ích cho bản thân. Nhà báo thiếu bản lĩnh và nhận thức chính

trị yếu kém còn là nguyên nhân dẫn đến những hạn chế, thiếu sót khác trong quá trình

thực hiện tác phẩm,…

Cùng với yêu cầu về bản lĩnh chính trị và đạo đức nghề nghiệp, năng lực

chuyên môn của nhà báo cũng là yếu tố quyết định đến chất lượng thông điệp. Một nhà

báo dù nhiệt huyết với nghề, nhưng trình độ lý luận, kiến thức thực tiễn hạn chế, không

am hiểu vấn đề, lĩnh vực mình viết, kỹ năng xử lý thông tin non nớt, thì cũng không thể

cho ra đời những tác phẩm báo chí có giá trị, khó có được những thông điệp sắc sảo, ấn

tượng, mang bản sắc riêng của mình. Năng lực, trình độ chuyên môn tốt cũng giúp nhà

báo giải quyết tốt mối quan hệ giữa việc bảo đảm thông tin nhanh chóng, chính xác và

đúng định hướng chính trị, bởi quyết định đúng thời điểm thông tin cũng như tìm cách

thức thông tin phù hợp, có hiệu quả.

1.2.4. Một số yêu cầu đối với thông điệp biến đổi khí hậu báo Đảng khu vực

đồng bằng sông Cửu Long

Thông điệp trong các lĩnh vực truyền thông khác nhau đòi hỏi phải đáp ứng

những tiêu chí khác nhau để phù hợp với sự kiện và vấn đề thông tin, với kênh truyền,

với công chúng tiếp nhận và tối ưu hóa mục đích truyền thông. Trong kinh doanh, một

câu slo-gan có thể là thông điệp quảng cáo lý tưởng, chỉ cần “ ú ú ý ữ

ơ ộ ” [133, tr.274] của khách hàng.

Nhưng với báo chí, thông điệp trong mỗi tác phẩm không chỉ phải đảm bảo các yêu cầu

cốt lõi cho mục tiêu truyền thông: nói cái gì (nội dung thông điệp)? nói như thế nào

(hình thức thông điệp)? cách nói thế nào cho hợp lý, logic (cấu trúc thông điệp)? nói

với ai (đối tượng tiếp nhận thông điệp), mà thông qua đó phải góp phần để báo chí thực

64

hiện các chức năng về tư tưởng, quản lý, giám sát - phản biện xã hội... Vì vậy, thông

điệp truyền thông phải tạo sự khác biệt và hướng mạnh tới mục đich truyền thông.

Hình thức và cấu trúc thông điệp phải hấp dẫn, gây sự chú ý và kích thích tâm lý tiếp

nhận của công chúng.

Công chúng mỗi loại hình báo chí khác nhau cũng khác nhau về xu hướng tiếp

nhận thông điệp. Nếu như phát thanh tác động mạnh vào công chúng bằng cơ chế ghi

nhớ tức thời, liên tưởng và cảm xúc, truyền hình tác động theo cơ chế tạo mẫu và đối

chiếu mẫu trong tiếp nhận, thì báo in tác động chủ yếu vào nhận thức lý tính, tạo sự

hấp dẫn cảm tính cho công chúng… [38, tr.31-44]. Đối với thông điệp nhằm vào

nhận thức lý trí, nội dung thông điệp cần phải hình thành những luận điểm, luận cứ

xác thực, lập luận logic; ngôn từ, các khái niệm phải chuẩn xác, các số liệu chứng

minh phải có sức thuyết phục. Bố cục thông điệp phải rành mạch, khoáng đạt, nên

chia các ý thành những đoạn ngắn để cho bài viết nhẹ nhàng và dễ tiếp thu [19, tr.74].

Từ đây, có thể nêu ra một số yêu cầu cơ bản đối với thông điệp về BĐKH trên

báo in của Đảng bộ địa phương khu vực ĐBSCL, như sau:

- Về nội dung: T p về BĐKH, trên tổng thể, ph i cung cấp toàn di n ki n

th c về BĐKH phù h p với ch ơ Đ ng, chính sách pháp lu t c N ớc.

T p c n b m yêu c u thể hi n rõ mụ ễ nhớ, dễ hiểu và dễ làm theo;

ph i nhanh nhạy, chuẩn xác, rõ ràng; thể hi n s ạng và thi t th c, có liên quan

n nhu c u và l i ích c a công chúng; có giá tr hữu dụng, góp ph n cổ ũ

ă c sáng tạo, ú ẩy y u t tích c c trong cộ ng.

Nghị quyết 120/NQ-CP về Phát triển bền vững ĐBSCL thích ứng với BĐKH

và Quyết định 417 ngày 13/4/2019 ban hành Chương trình hành động tổng thể thực

hiện Nghị quyết này đã chỉ ra nhiệm vụ của truyền thông về BĐKH là phải làm cho

công chúng nhận thức đầy đủ, chính xác các thách thức của BĐKH đang đặt ra đối với

ĐBSCL và từng địa phương trong vùng, từ đó thay đổi hành vi và chủ động trong thích

ứng với BĐKH. Điều này đòi hỏi báo Đảng ĐBSCL phải thông tin đa dạng, giúp công

chúng hiểu về BĐKH, nhận diện được các biểu hiện BĐKH - nhất là biểu hiện đặc

trưng của địa phương và vùng ĐBSCL, hiểu được nguyên nhân, tác động và học hỏi

được các giải pháp, kỹ năng để chủ động vận dụng ứng phó.

65

“C ú p ơ b ớ ể

ữ ờ ò ọ N ữ

ớ ấ bỏ ấ ú ỳ ọ ờ ” [63, tr.38].

Yếu tố thời sự, cập nhật có ý nghĩa quan trọng trong thông tin về BĐKH, đặc biệt là

những thông tin về diễn biến bất thường của thời tiết, cần thông tin đến người dân một

cách chính xác và càng sớm càng tốt thì người dân mới chủ động phòng tránh, giảm

thiểu được những hậu quả do BĐKH gây ra. Ngoài ra, những gì xảy ra gần gũi với khu

vực sống, đến lĩnh vực hoạt động, đến lợi ích cụ thể của người dân sẽ thu hút sự quan

tâm của công chúng.

Lịch sử hàng trăm năm khai phá khẩn hoang đã hình thành nên những phong

tục, tập quán trong sinh hoạt và sản xuất mang tính đặc trưng của người dân ĐBSCL.

Điều này bất lợi trong quá trình BĐKH. Vậy nên, báo Đảng địa phương cần phân tích,

làm rõ những hoạt động của con người hàng ngày như: khai thác tài nguyên một cách

triệt để, phá rừng, thải các khí gây hiệu ứng nhà kính làm ảnh hưởng đến môi trường, ô

nhiễm không khí... là nguyên nhân gây ra BĐKH...

Thông điệp về BĐKH trên báo Đảng khu vực ĐBSCL phải được cấu tạo bởi

“nhân vật”, “tiếng nói” của các nhóm xã hội khác nhau, như: nhà khoa học, chuyên gia,

nhà quản lý, quần chúng nhân dân… Bởi tùy theo hoạt động sinh kế, phái, tuổi, địa bàn

dân cư,… các nhóm xã hội khác nhau có thể có quan điểm và kiến thức khác nhau, tạo

nên những thông điệp khách quan đa dạng, có ý nghĩa đối với công tác đánh giá thực

tế, lập và triển khai kế hoạch và xây dựng định chế của chính quyền địa phương.

- Về hình th c, t p về BĐKH p i ngắn gọn, súc tích, dễ hiể ng thời

ph ộng hấp d ể thu hút s quan tâm c a công chúng.

“Nhu c u ũ ời s ng tinh th n c ời không chấp

nh n s ơ u, nghèo nàn” [19, tr.168]. Hình thức thông điệp báo chí khác với cách

kết cấu tác phẩm văn chương, hội họa. Thông điệp của tác phẩm báo in phải đa dạng,

phong phú đa chiều nhưng vẫn chịu sự quy định ràng buộc nhất định về kết cấu thể

hiện thông điệp, về thể loại ngôn ngữ và cấu trúc thông tin. Điều đó đòi hỏi nhà báo

phải sáng tạo hình thức biểu đạt một thông điệp sinh động cuốn hút sự chú ý quan tâm

và thuyết phục người đọc. Chưa kể, BĐKH là một lĩnh vực khoa học, nếu đưa thông

tin theo kiểu liệt kê những con số, sử dụng từ ngữ chuyên ngành sẽ rất khô khan, công

chúng sẽ khó tiếp nhận. Vì thế, ngôn ngữ cấu tạo nên thông điệp phải giản dị, dễ hiểu,

66

chuẩn xác nhưng sáng tạo như sử dụng các hình thức đảo câu, đảo ý, sử dụng trích dẫn,

ví dụ…; sử dụng ngôn ngữ phù hợp với ngữ cảnh và văn hóa bản địa để công chúng dễ

hiểu, góp phần mang lại cho bài viết sự chân thực và sống động.

Cần chú trọng phát huy tối đa những ưu điểm riêng có của báo in trong việc xây

dựng những tác phẩm báo chí có chiều sâu. Việc thể hiện mỗi tác phẩm báo chí phải

được chú trọng việc đặt “tít”, “Sapo”, “Box”, đồng thời kết hợp chữ viết với hình ảnh,

biểu đồ… để minh họa, trình bày đẹp, hấp dẫn, khoa học, hiện đại.

- Về p ơ c chuyển t : T p về BĐKH p i mang tính k hoạch và

liên tụ ể nâng cao hi u qu ộng.

Ứng phó với tác động tiêu cực của BĐKH là vấn đề cấp bách, mang tính sống

còn để duy trì và bảo vệ đời sống của nhân loại, vì thế thông tin báo chí phải liên tục

mà tốt nhất là xây dựng kế hoạch tuyên truyền theo định kỳ nhằm đem đến cho công

chúng một cái nhìn xuyên suốt, liên tục về thông tin. Chuyên mục định kỳ là sự giao

ước với cộng đồng, là hợp đồng trách nhiệm xã hội của cơ quan báo chí với công

chúng nên việc đảm bảo thông tin định kỳ còn phản ảnh mức độ quan tâm của cơ quan

báo chí đối với vấn đề này. Mặt khác, nếu như chuyên mục có những thông tin về vấn

đề mà đông đảo công chúng quan tâm, tờ báo đó có thể nhận được nhiều ý kiến bạn

đọc phản biện, góp ý hoặc chia sẻ những kinh nghiệm thực tiễn, trình bày quan điểm

riêng… tạo ra một diễn đàn thực sự.

Tiểu kết chƣơng 1

Chương 1 đã làm rõ nội hàm, phạm vi của một số khái niệm cơ bản liên quan

đến đề tài nghiên cứu, như: Khái niệm về thông điệp, về khí hậu và BĐKH, khái niệm

thông điệp về BĐKH trên báo Đảng khu vực ĐBSCL,… đồng thời nêu ra các yêu cầu

đối với thông điệp BĐKH trên báo Đảng khu vực ĐBSCL cũng như cũng như các yếu

tố khách quan có thể tác động đến quá trình xây dựng thông điệp.

Trong chương này, tác giả cũng đã trình bày cơ sở lý luận và đi sâu tìm hiểu các

hệ thống lý thuyết cơ bản liên quan trực tiếp đến đề tài nghiên cứu như: lý thuyết

“Thiết lập chương trình nghị sự”, lý thuyết “Đóng khung”, lý thuyết “Truyền thông

can thiệp xã hội” soi chiếu vào các nội dung Luận án để chỉ ra vai trò của truyền

thông trong việc chuyển tài các thông điệp phù hợp, góp phần thực hiện mục tiêu

nâng cao kiến thức, thay đổi hành vi của công chúng thích ứng với BĐKH. Bên

67

cạnh các cơ sở lý luận, cơ sở chính trị và cơ sở pháp lý thể hiện qua quan điểm, chính

sách pháp luật của Đảng và Nhà nước Việt Nam về BĐKH; thực trạng và những tác

động của BĐKH trên toàn cầu, với Việt Nam và các đặc trưng biểu hiện, tác động của

BĐKH với ĐBSCL cũng được rà soát để có những luận cứ quan trọng từ thực tiễn

nhằm xây dựng khung lý thuyết hoàn chỉnh cho vấn đề nghiên cứu.

Cơ sở lý thuyết của đề tài được tiếp cận từ các nghiên cứu có giá trị và ý nghĩa

được thừa nhận ở quy mô toàn cầu cũng như xu hướng, cam kết và giải pháp đang

được cộng đồng thế giới thực hiện; quan điểm, chính sách pháp luật của Đảng và Nhà

nước Việt Nam về BĐKH… đã giúp NCS có được cơ sở lý luận, nền tảng lý thuyết

vững chắc, sát hợp, làm cơ sở để phân tích vấn đề một cách khoa học.

Những nội dung này là cơ sở lý luận và thực tiễn để tác giả luận án tiếp tục thực

hiện các bước tiếp theo của việc nghiên cứu khảo sát thực trạng thông điệp về BĐKH

trên báo Đảng khu vực ĐBSCL, sẽ được trình bày trong chương 2 của luận án.

68

Chƣơng 2

THỰC TRẠNG THÔNG ĐIỆP VỀ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU

TRÊN BÁO ĐẢNG KHU VỰC ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG

2.1. TỔNG QUAN VỀ ĐỐI TƢỢNG KHẢO SÁT

2.1.1. Về báo Đảng khu vực đồng bằng sông Cửu Long

Sau nhiều lần chia tách địa giới hành chính, hiện nay, ĐBSCL có 13 đơn vị

hành chính cấp tỉnh, tương ứng là 13 cơ quan báo Đảng ở từng địa phương. Đa số các

báo Đảng ĐBSCL đều lấy tên gọi hành chính của địa phương làm tên gọi của báo

mình, như báo Long An, b T V b H G ngoại trừ tỉnh Tiền Giang (báo

Ấp Bắ ) và tỉnh Bến Tre (b Đ K ở ). Ngoại trừ báo CT là nhật báo, các tờ báo

còn lại xuất bản từ 3-5 kỳ/ tuần với lượng phát hành có sự chênh lệch khá rõ. Cao nhất

là báo AG với khoảng 10 nghìn tờ/ kỳ, Báo Trà Vinh, Đồng Tháp dưới 3.000 tờ/ kỳ;

các báo còn lại dao động từ 4.000 - 5.000 tờ/ kỳ. Tất cả các tờ báo Đảng ĐBSCL đều

được in khổ A3, từ 12-16 trang; trong đó trang bìa, cuối và 02 trang giữa được in nhiều

màu. Đại đa số báo phát hành trong các cơ quan, đơn vị, tổ chức chính trị - xã hội -

nghề nghiệp… của địa phương. Các báo Đảng ĐBSCL được ngân sách Nhà nước hỗ

trợ phần lớn kinh phí cho hoạt động xuất bản, đồng thời hầu hết số lượng báo phát

hành cũng được các cơ quan, đơn vị mua từ ngân sách Nhà nước nên gần như vẫn

trong tình trạng “bao cấp”. Số lượng báo Đảng địa phương bán cho người dân tại các

điểm bán sách, báo lẻ rất ít. Công chúng báo Đảng địa phương chủ yếu là cán bộ, đảng

viên ở các tổ chức cơ sở đảng.

2.1.2. Về mẫu khảo sát

Thông điệp về BĐKH được khảo sát trên các tờ báo in của Đảng bộ 3 địa

phương, gồm: An Giang, Cà Mau và Cần Thơ - là các địa phương có các biểu hiện của

BĐKH mang tính đặc trưng của khu vực khá rõ nét. Cụ thể:

2.1.2.1. Báo An Giang

Báo AG là cơ quan ngôn luận của Đảng bộ tỉnh An Giang, là đơn vị trực thuộc

quản lý của Tỉnh ủy An Giang.

Sau khi đất nước hoàn toàn giải phóng, ngày 19-8-1975 - nhân kỷ niệm 30 năm

Cách mạng Tháng Tám và Quốc Khánh 2-9, bộ phận Thông tấn - Báo chí thuộc Ban

69

Tuyên huấn Long Châu Hà cho ra mắt tờ tin tên gọi “Tin tức Long Châu Hà” với 4

trang và phát hành số lượng khoảng 1.000 tờ. Tháng 2-1976, tỉnh An Giang được thành

lập theo Quyết định số 19 của Bộ Chính trị và Nghị định của Chính phủ Cách mạng

lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam, báo Long Châu Hà đổi tên thành báo AG.

Về hình thức, báo AG hiện có 12 trang, khổ 30x40 cm (4 trang in màu, 8 trang

in 2 màu), phát hành 5 kỳ/tuần (từ thứ hai đến thứ sáu). Trong 10 năm gần đây, bình

quân báo AG phát hành trên 10.000 tờ/ kỳ; là 1 trong 10 tờ báo Đảng địa phương có số

lượng phát hành cao nhất cả nước.

Tổng số báo được khảo sát từ năm 2017 đến hết tháng 6/2019 là 648 số báo.

2.1.2.2. Báo Cà Mau

Tiền thân của báo CM trước 30/4/1975 là tờ Báo Chiến. Sau giải phóng miền

Nam, thống nhất đất nước, báo lấy tên theo địa giới hành chính của tỉnh là Báo Minh

Hải. Đến ngày 01 tháng 01 năm 1997, Chính phủ có quyết định tách tỉnh Minh Hải

thành hai tỉnh Cà Mau và Bạc Liêu, tờ báo của Đảng bộ tỉnh Cà Mau mang tên theo địa

danh hành chính mới là báo CM cho đến nay.

Báo CM hiện có 12 trang, khổ 30x40 cm, trong đó có 4 trang in màu (trang 1,

trang 6-7 và trang 12), còn lại 8 trang in 2 màu, xuất bản 4 kỳ/tuần vào các ngày (thứ

hai, thứ tư, thứ sáu và thứ bảy), mỗi kỳ xuất bản từ 5.000 đến 5.500 tờ báo. Trong mỗi

kỳ xuất bản, các huyện ủy, thành ủy, các sở, ngành đặt mua từ 3.000 tờ trở lên thông

qua các chuyên trang, chuyên mục đã phối hợp.

Tổng số báo được khảo sát từ năm 2017 đến hết tháng 6/2019 là 499 số báo.

2.1.2.3. Báo Cần Thơ

Báo CT tiền thân là Báo Lao Động - tờ báo in đầu tiên của tỉnh bộ Hội Việt

Nam cách mạng Thanh niên tỉnh Cần Thơ, ra đời chỉ 02 năm sau ngày Nguyễn Ái

Quốc xuất bản báo Thanh niên. Năm 1972, tờ báo chính thức mang tên là báo CT. Do

việc chia tách, sáp nhập địa giới hành chính, báo có lúc mang tên là báo Hậu Giang,

đến năm 1992 thì ổn định tên gọi báo CT đến nay.

Từ tháng 1/1/2000 Báo CT xuất bản 7 kỳ/ tuần, khổ 42 x 58 cm, in 2 màu, là

nhật báo đầu tiên trong các báo Đảng địa phương ở ĐBSCL. Từ đầu năm 2011, báo CT

giảm khổ báo xuống kích cỡ 28 x 40,5 cm, in 16 trang, hai màu. Từ 2015, tờ báo CT in

màu cho trang bìa và 2 trang ruột và xuất bản liên tục ổn định đến nay. Tổng số lượng

báo được khảo sát là 890 số báo.

70

2.2. NỘI DUNG THÔNG ĐIỆP BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU TRÊN BÁO ĐẢNG

KHU VỰC ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG

Luận án xem xét 04 khía cạnh nội dung của thông điệp về BĐKH, bao gồm (01)

T p ề b ể BĐKH; (02) T p ề ộ BĐKH (03)

T p ề BĐKH; và (04) T p ề p p/ ạ ộ

p ớ BĐKH Mỗi khía cạnh nội dung này tương ứng với một mục tiêu mà chiến

dịch truyền thông về BĐKH hướng đến là làm cho công chúng có thể “nhận diện”

được các biểu hiện của BĐKH, hiểu rõ cơ chế tác động, hình thành của các biểu hiện,

diễn biến trong hiện tại và những dự báo xu hướng trong tương lai cũng như những giải

pháp chủ động phòng ngừa và ứng phó. Bên cạnh đó, yếu tố con người, nguồn tin,

phạm vi địa lý thông điệp đề cập, quan điểm của tác giả về vấn đề BĐKH cũng sẽ được

làm rõ trong phần phân tích nội dung thông điệp.

Kết quả cho thấy, số lượng bài báo đề cập về B ể BĐKH nhiều nhất

với 943 bài, chiếm tỉ lệ 73,5% tổng số bài báo khảo sát, kế đến là đề cập về G

pháp/h ạ ộ phó ớ BĐKH tỉ lệ 66,4%. Thông tin về các T ộ

BĐKH xếp thứ 3 với 64,6%. Ít nhất là BĐKH, chỉ có 14.1%.

Đi sâu phân tích 4 nội dung chủ đề sẽ làm sáng tỏ hơn nữa nội dung thông điệp

73.5

80

66.4

64.6

60

40

14.1

20

0

Biểu hiện Nguyên nhân

Tác động/Hậu quả

Hoạt động ứng phó

về BĐKH ở các báo Đảng khu vực ĐBSCL.

Biểu đồ 2.1: Các khía cạnh nội dung thông điệp về BĐKH

(N : K b AG, báo CM và báo CT ừ 2017 6/2019)

2.2.1. Thông điệp về biểu hiện của biến đổi khí hậu

Thông điệp về biểu hiện của BĐKH thường được thể hiện qua các tin bài mô tả

diễn biến của một hoặc nhiều biểu hiện của BĐKH, gắn liền với thời gian và vị trí diễn

ra các biểu hiện, các số liệu mức độ, cường độ… của biểu hiện. Thông điệp về biểu

biện của BĐKH đặc biệt có ý nghĩa trong việc giúp công chúng “nhận diện” được các

71

dấu hiệu, diễn biến của các biểu hiện, từ đó có sự quan tâm, chú ý, có thể sớm nhận ra

những biểu hiện có dấu hiệu khác thường…

Kết quả khảo sát cho thấy biểu hiện của BĐKH có tỷ lệ xuất hiện cao nhất

(73,5%) trong các khía cạnh nội dung của thông điệp về BĐKH. Tương quan giữa các

tờ báo về nội dung này có sự chênh lệch không lớn. Cụ thể: Báo CT là 74.9%; báo AG

là 72.9% và báo CM là 72.1%. Điều này cho thấy, nội dung này rất được quan tâm và

tập trung thông tin trên báo Đảng các địa phương khu vực ĐBSCL.

Sạt lở là xuất hiện nhiều nhất trong các bài viết về BĐKH, với tỷ lệ là 34.7%.

Lũ lụt và bão chiếm 22.5%, xếp thứ hai, xâm nhập mặn và hạn hán cùng xếp thứ 3

(12,9%). Các biểu hiện được đề cập tiếp theo là triều cường (8,6%), nhiệt độ tăng

(giảm) (4,9%), nước biển dâng (3,3%), hiệu ứng nhà kính (3,2%), mưa trái mùa và

giông lốc cùng có tỉ lệ 2,2%. Ngoài ra, các thông tin về BĐKH còn đề cập đến các biểu

hiện khác, với tần suất xuất hiện của mỗi biểu hiện thấp, như bão tuyết, mất đa dạng

sinh học, tan băng ở Nam Cực, axit hóa đại dương, mưa đá, cháy rừng, hiện tượng El

34.7

22.5

12.9 12.9

10.1

8.6

4.9

3.3 3.2

Sạt lở Lũ lut, bão Xâm nhập mặn Hạn hán Khác Triều cường Nhiệt độ tăng, giảm Nước biển dâng Khí nhà kính Mưa trái mùa Giông, lốc

2.2 2.2

5

0

10

15

20

25

30

35

40

Nino, hiện tượng La Nina, sụt lún… được gom lại thành mục “Khác” trên biểu đồ.

Biểu đồ 2.2: Các biểu hiện của BĐKH đƣợc đề cập trong thông điệp

(N : K b AG, báo CM và báo CT ừ 2017 6/2019)

Thứ tự về tần suất xuất hiện của các biểu hiện này khá phù hợp với các biểu

hiện đặc trưng cho BĐKH ở các địa phương, được nêu trong kịch bản BĐKH năm

2016 của Bộ TN&MT và trong ý kiến của các nhà khoa học, nhà quản lý lĩnh vực này.

“B ể ạ ấ BĐKH ở ĐBSCL ạ ạ ở

bở bờ b ể ụ ú ấ ă ; ạ p ặ ữ

ă ễ b ũ ọ p ạp” (PVS -M2).

72

“BĐKH ớ b ể ù ạ ộ ă

ạ ớ p ặ ộ ; ù ạ

ề ờ ớ b ể p ú ạ ở ấ bờ bờ b ể ụp

ú ấ ạ ộ ơ ễ b p ạp… ở ấ ớ ờ ấ

ã ở p p ể KT-XH ỉ C M ”

(PVS -M14).

Mặc dù vậy, vẫn còn những hiện đáng lo ngại của BĐKH ở ĐBSCL được khoa

học cảnh báo nhưng lại rất ít xuất hiện trên mặt báo; như tình trạng sụt lún. Theo Kịch

bản BĐKH năm 2016 của Bộ TN&MT, mỗi năm ĐBSCL đang bị lún dần từ 1-2cm.

Các nghiên cứu của Viện Tai biến địa chất Na Uy và Đại học Utrecht (Hà Lan), công

bố năm 2019, cảnh báo có khu vực ở ĐBSCL đang bị lún đến 3 cm/năm. Với đà này,

ĐBSCL được dự đoán chỉ còn tồn tại khoảng 80 năm. Nguyên nhân chủ yếu của tình

trạng này là do người dân khai thác nước ngầm quá mức, đặc biệt là người dân các địa

phương ven biển lạm dụng khai thác nước ngầm để lấy nước ngọt nuôi tôm và canh

tác. Tuy nhiên, biểu hiện “sụt lún” được đề cập trên các báo Đảng khu vực ĐBSCL là

không đáng kể. Tương tự, BĐKH cộng với khai thác thủy sản theo kiểu “tận diệt” là

nguyên nhân gây nguy cơ mất đa dạng sinh học cho môi trường, nhưng biểu hiện này

chỉ được đề cập ở 15 bài trong 2,5 năm khảo sát của cả 03 tờ báo.

Dự báo là nhóm thông tin quan trọng và có ý nghĩa đối với đời sống của người

dân. Trong tình hình diễn biến của thời tiết bất thường do BĐKH, việc cảnh báo kịp

thời và chính xác sẽ giúp công chúng có những biện pháp kịp thời để ứng phó, giảm

nhẹ những tác động tiêu cực do BĐKH gây ra. Tăng cường năng lực dự báo, cảnh báo

sớm thiên tai và các điều kiện khí hậu, thời tiết cực đoan cũng là một trong những

nhóm giải pháp trọng tâm mà Kế hoạch quốc gia thích ứng với BĐKH giai đoạn 2021 -

2030, tầm nhìn đến năm 2050 do Chính phủ ban hành, có đề cập. Tuy nhiên, nội dung

dự báo về BĐKH xuất hiện không nhiều trên các báo khảo sát, chỉ với 14.1%. Nhóm

nội dung này được đăng trên báo CT nhiều hơn so với báo AG và báo CM. Các dự báo

có xu hướng viết về quá trình diễn biến, tác động của thiên tai và dự báo trong tương

lai gần, khung thời gian đưa ra các dự báo ừ 10 ă chiếm tỷ lệ cao nhất

là 68.3%., một số ít đề cập đến khung thời gian xa hơn, như ừ 11 20 ă

(2.4%), ừ 21 40 ă (2.4%) và ơ 40 ă (4.9%). Ngoài ra, có 22% số

thông điệp đề cập đến thông tin dự báo về BĐKH nhưng không đề cập thời gian cụ thể.

73

Kết quả phân tích nội dung cho thấy, thông điệp dự báo, cảnh báo về BĐKH

thường đi liền sau các thông tin về diễn biến của BĐKH; đặc biệt là các tin, bài dự báo

tình hình trước hoặc trong và sau thời gian diễn ra các thiên tai. Tiêu biểu như thời

điểm cơn bão Tembin tấn công nhiều quốc gia khu vực Đông Nam Á vào tháng

12/2017, dự kiến sẽ đi vào Nam bộ của Việt Nam, cả 03 báo trong diện khảo sát đều

đưa ra các thông tin cảnh báo sớm, chi tiết về cường độ, hướng đi, phác thảo các kịch

bản có khả năng xảy ra và các lĩnh vực tác động… Từ các cảnh báo đó, các địa phương

trong vùng đã chủ động thực hiện các giải pháp phòng, chống nhằm giảm thiệt hại của

bão đến mức thấp nhất. Cảnh báo về các điểm có nguy cơ sạt lở, hoặc dự báo diễn biến

của các yếu tố thời tiết cũng là những thông tin có ý nghĩa thiết thực, không chỉ đối với

đời sống người dân mà còn với công cuộc phòng chống thiên tai của cả xã hội. Nhìn

chung, trong một số bài viết, các tác giả đã khai thác được lợi thế của thể loại báo in

trong việc đưa thông tin dự báo chi tiết, có hệ thống, giúp cho các thông tin rõ ràng, dễ

hiểu, giúp cộng đồng nâng cao ý thức cảnh giác, chủ động bảo vệ tính mạng và tài sản

của mình. Mặc dù đại đa số các thông điệp dự báo về BĐKH (96.1%) là tiêu cực, một

số bài viết (3.9%) đã chỉ ra được những yếu tố khả quan, tích cực trong việc vận hành

của các yếu tố khí hậu.

“T p ỏ ù ể T ỏ P ề b ổ

ă 2015 ộ ớ ơ b ữ ỷ XIX 1,30C ữ ấ ằ ỉ 0 9-10C.

(…) M ộ ò ớ ĩ

ớ ặ ắ ơ “ ữ ộ ể

ộ ọ ” ớ ờ ớ ể

ỏ . (Báo CT ngày 21/9/2017 “BĐKH ạ ờ ĩ”)

Không thể phủ nhận BĐKH diễn biến nhanh theo hướng chú yếu là tiêu cực,

đòi hỏi phải cảnh báo để “thức tỉnh” cộng đồng. Tuy nhiên, những đánh giá hiện trạng,

dự báo phải chính xác, đa chiều chứ không phải chỉ nhấn mạnh, đào sâu các nội dung

tiêu cực. Việc ứng phó với BĐKH đã được triển khai nhiều thập kỷ, công chúng cũng

thấy được thành quả chứ không phải tất cả nỗ lực đều không mang lại ý nghĩa. Những

thông tin tiêu cực lan tỏa rộng sẽ tác động xấu đến cảm xúc của người tiếp nhận, thậm

chí trở thành tâm lý đám đông, có thể dẫn đến những hành động tiêu cực bột phát. Nếu

74

tiếp xúc trong một thời gian dài, có thể làm thay đổi nhận thức của người tiếp nhận

theo hướng tiêu cực. Vì thế, nghiên cứu thông tin dự báo đúng - trúng và chú trọng các

thông tin tích cực để tác động kích hoạt thái độ, hành động mang tính xây dựng của

công chúng nhằm ứng phó với BĐKH cũng là nội dung mà báo Đảng khu vực ĐBSCL

cần chú trọng hơn trong thời gian tới.

- Nguồn tin và phạm vi của các biểu hiện

Kết quả khảo sát đối tượng cung cấp các thông tin về biểu hiện của BĐKH được

đề cập đến nhiều nhất là ý (các cán bộ, công chức đang làm việc trong chính

quyền và các tổ chức, cơ quan Nhà nước) với 47.3%. Ngoài ra, những thông tin được

cung cấp bởi T p ể ( ơ ) với 16.4%; ọ là 13.4% và đối

tượng được đề cập đến ít nhất là ờ , chỉ 11.9%.

Trong tổng số 943 bài viết có đề cập đến biểu hiện BĐKH, có đến 255 bài

không nói cụ thể nguồn thông tin, tương đương với 19,8%. Đó là các bài viết mà

phần nguồn tin được thể hiện chung chung, như: “T ă ”, “Theo

thông tin mà ú ắ ”, “T ” hoặc không

ghi nguồn tin.

Thực tế cho thấy, các thông tin về biểu hiện của BĐKH được cung cấp bởi nhà

quản lý, nhà khoa học thường là các thông tin số liệu, thống kê, dự báo... mang tính

khoa học, trong khi các ý kiến của người dân chủ yếu là mô tả, cảm nhận, ước chừng.

Điều này do báo chí chưa chú trọng điều tra thông tin định lượng. Mặc dù vậy, các

thông tin được cung cấp bởi người dân lại tạo sự gần gũi, tin cậy bởi hầu hết nguồn tin

đều được cung cấp bởi những người trực tiếp chứng kiến, trải nghiệm.

“B T K C ở 3 p ờ T P ớ ớ ạ : “Lú

ù 10 ổ 20 ổ ă ơ bỗ ộ

3 ẹ ù ă ơ C ú ớ ớ ớ ò

ớ T b ò ớ ấ b bơ ờ

bơ ỏ ẹ ” (Báo CT ngày 18/10/2017 “Thiên

tai và nhân tai”).

“B p ề ă ò b

b B p ụ ấ ộ ỉ

ã ở ấ b ề úp ỡ ờ ẩ ấp C

75

ờ ạ ừ ừ ạ …” (Báo AG ngày 24/4/2017 “Vụ ạ ở

ở V N ễ b p ạp”)

Phạm vi xảy ra các biểu hiện về BĐKH được đề cập trong bài viết đại đa số là

trong nước, chiếm 83% tổng số thông điệp có đề cập. Trong đó, chủ yếu là tại địa

phương nơi báo hoạt động, khu vực ĐBSCL (14.2%) và trên toàn nước Việt Nam

(5.0%). Đối với 11.5% thông điệp có đề cập đến các diễn biến BĐKH xảy ra ở nước

ngoài, các thông điệp đề cập đến phạm vi Tiểu vùng sông Mê Kong (0.2%); Đông

Nam Á (0.5%); châu Á (2%) và các nước khác trên thế giới (8.8%).

Mặc dù tất cả các báo đều có “ưu tiên” thông tin về địa bàn, tuy nhiên phạm vi

phản ảnh là chỉ báo có sự khác biệt rõ giữa các tờ báo khảo sát. Toàn bộ báo CM không

có bài viết về diễn biến BĐKH ở nước ngoài mà chỉ phản ảnh diễn biến của BĐKH

trong nước, chủ yếu là tại Cà Mau (96,7%). Trong đó, 40.1% thông điệp phạm vi phản

ảnh đến xã/phường và 67.5% thông điệp đến quận/huyện. Trong khi đó, Báo CT chỉ có

35,9% phạm vi trong thành phố; 35,3% thông điệp về biểu hiện của BĐKH có phạm vi

phản ảnh là các địa phương khác trong khu vực ĐBSCL và cả nước, 15,2% số bài báo

đề cập đến diễn biến của BĐKH ở nước ngoài. Tỷ lệ này ở Báo AG lần lượt là 61,5%,

19,2% và 10,5%. Các chỉ báo này phụ thuộc nhiều vào đối tượng công chúng mà các tờ

báo hướng đến. Với báo CM và báo AG, đối tượng công chúng của báo là người dân

trong tỉnh thì với báo CT “ ú

ú ọ ờ ớ ờ TP C T ơ ừ b ớ

ớ ớ ờ ĐBSCL” (PVS -M6). Bên cạnh đó, cơ cấu tổ chức tòa soạn của

Báo CT có Ban Quốc tế, làm nhiệm vụ dịch thuật trực tiếp các tin tức từ báo quốc tế

tiếng Anh sang tiếng Việt nên thông tin quốc tế trên các lĩnh vực, bao gồm thông tin về

BĐKH, đăng tải trên báo CT nhiều hơn so với các báo trong khu vực.

Thông tin về diễn biến của BĐKH, yếu tố thời sự, cập nhật có ý nghĩa quan

trọng để người dân chủ động phòng trách, giảm thiểu những hậu quả, thiệt hại do

BĐKH gây ra. Vì thế, các thông điệp về biểu hiện của BĐKH thường xuất hiện ở các

tin bài thời sự trong kỳ báo xuất bản liền sau khi xảy ra sự kiện. Mốc thời gian xa hơn

thường xuất hiện trong các bài phân tích chuyên sâu cần đánh giá lại diễn biến BĐKH

nói chung hoặc của biểu hiện cụ thể của BĐKH.

Như vậy, biểu hiện của BĐKH là nội dung xuất hiện nhiều nhất trong số 04 nội

dung được khảo sát. Các báo đều quan tâm đưa tin kịp thời và phản ánh đúng thực tế

76

khách quan các biểu hiện của BĐKH nhằm cảnh báo, giúp người dân có những hoạt

động ứng phó kịp thời. Tần suất các biểu hiện BĐKH được đề cập cũng phù hợp với

diễn biến và tần suất xuất hiện của của các biểu hiện này trong thực tế tại ĐBSCL thời

gian gần đây; chú trọng nhiều vào tình trạng sạt lở bờ sông và xói lở bờ biển, tình trạng

hạn hán, xâm nhập mặn… ngày càng nhiều và nguy hiểm, ảnh hưởng lớn đến cuộc

sống của người dân cũng như sự phát triển KT-XH của cả khu vực.

Tuy nhiên, thông tin về biểu hiện chủ yếu là mô tả diễn biến, ít có các thông tin

có tính nghiên cứu, dự báo để người dân có thể chủ động phòng ngừa. Bên cạnh đó,

trong khi báo chí khá “ưu ái” cho các biểu hiện dễ nhận diện bằng mắt thường và gây

hậu quả trực tiếp, tức thì, vẫn còn một số biểu hiện BĐKH gây tác hại nghiêm trọng

nhưng âm thầm, như sụt lún, mất đa dạng sinh học… ít được phản ảnh. Điều này sẽ

khiến việc người dân chậm nhận thức nguy cơ từ các biểu hiện này của BĐKH, vì thế

việc điều chỉnh hành vi nhằm giảm nhẹ tác động tiêu cực của các biểu hiện này cũng ít

khả thi.

2.2.2. Thông điệp về tác động của biến đổi khí hậu

Qua thống kê có 64.6% (833) bài báo có đề cập đến tác động của BĐKH. Tỷ lệ

xuất hiện các bài viết có đề cập đến tác động của BĐKH trên 3 đầu báo không có sự

chênh lệch lớn, dao động từ 61.7% - 74.6%. Cao nhất là báo CM, có gần 75% bài có đề

cập đến hậu quả của BĐKH. Tỷ lệ này ở báo AG và báo CT là 62.1% và 61.7%.

- T ộ

Không thể phủ nhận những tác động của BĐKH đến môi trường và an sinh đa

số là bất lợi. Tuy nhiên, theo các nhà khoa học “N ề ã ỉ

ằ BĐKH ũ ữ ở C ẳ ạ ấ

p ớ b ạ ữ ộ ũ ẽ ữ

ù ộ T ấ p ể ổ ơ ấ

ù ụ BĐKH p p ỹ ỡ ể ấ

ữ ặ , ấ ơ b ể ”

[PVS-M2]. Tuy nhiên, số lượng bài có nói về những tác động tích cực của BĐKH rất

ít, chỉ 6 bài (0.7%) gồm 1 bài của báo AG, 1 bài của Báo CT và 4 bài của báo CM.

Thông tin định tính cho thấy, dù ít, các bài viết mang thông điệp tích cực về

BĐKH là những “mảng sáng” hiếm hoi rất đáng để đọc, với những phân tích khoa học

77

và câu chuyện ứng phó hiệu quả với BĐKH từ thực tiễn cơ sở. Điển hình như phóng sự

“Lú ù ổ ” đăng trên báo AG ngày 3/2/2017, kể lại chuyện người dân ở hai xã

Vĩnh Phước và Lương An Trà ở huyện Tri Tôn - An Giang, khôi phục giống lúa mùa

nổi. Bài viết đưa ra nhiều thông tin khoa học về đặc tính của giống lúa và hiệu quả thực

tiễn ứng dụng canh tác lúa mùa trong điều kiện lũ lụt ngày càng gia tăng do tác động

của BĐKH ở ĐBSCL. “Đấ ú ù ổ ỡ ờ

b ắ p ù ừ ũ ấ ữ ơ p ừ p ” còn là

nơi trú ngụ của hơn 150 loài tảo và cá đồng, “ úp b ạ ọ

ù ĐBSCL”. Với góc nhìn này, lũ lụt không phải là trở ngại mà còn mở ra một

hướng làm kinh tế “ ề ” hứa hẹn nhiều tiềm năng.

Trong bài “Lũ - ấ ” (Báo CT ngày 31/8/2018), tác giả khẳng

định lũ tăng cao là do tác động của BĐKH, tuy nhiên “ ổ ể

bằ ấ ề ”

“T ấ , ă ũ ú ể qua

T ẽ ă ạ ặ ắ ở ù b ể Bở ớ ặ ọ

ù b ể ĐBSCL bằ ữ b ể ớ

b ể ấ ớ ẩ ặ K ạ ặ

ù p ă ặ b ể ò

ụ ộ ấ ò ớ b ể b ể

ớ ẽ p p ú ơ Đ ấ ớ

T ũ ề ộ ớ p ù ớ ỡ

ọ ể b ỡ ấ ă ú ẽ ú ù ơ p p

b ừ P ù ề ề ũ ẽ b ắp bờ bờ b ể ạ ở.

T b ữ ă ũ ớ ò ớ ạ ể ề

ớ C ă ẽ ề ề ơ ữ ă ũ ấp C ơ ẽ

ạ ở bờ bờ b ể ĐBSCL

T ũ ề ộ ớ T ớ ũ ấ

ề ừ p ề p ặp ữ p

ũ ẽ ă ở ấ ắ è b

C ò ọ ớ ờ bằ C

p ỡ ọ ờ ấ ờ

è p ấ .” “Lũ - ấ ” (Báo CT ngày 31/8/2018)

78

Hình 2.1: Các bài viết về tác động tích cực của BĐKH trên báo Đảng

khu vực ĐBSC

Trong “H ở ụ ú ” (Báo CM ngày 5/9/2018), tác giả đã chỉ ra việc

mùa mưa năm rồi kết thúc trễ, năm nay đến sớm bất thường lại thuận lợi cho những

nông hộ thực hiện mô hình lúa ngắn ngày kết hợp với nuôi tôm trên đất phèn mặn, vì

“ ạ ề ờ ử ặ ạ ấ ể ”.

Trong “B ơ ộ ” (Báo CM ngày 28/6/2019), tác giả khẳng định:

Nếu biết khai thác hợp lý tiềm năng tài nguyên, thực hiện những giải pháp ứng phó phù

hợp, đồng bộ thì không chỉ “ b ớ ” mà địa phương còn có

thể tận dụng các tác động của BĐKH thành cơ hội để làm giàu.

Trái với những bài viết ít ỏi về các khía cạnh tích cực, có đến 78,6% số thông

điệp về BĐKH nói về những tác động tiêu cực đến đời sống của con người. Kết quả

này cho thấy sự mất cân đối nghiêm trọng giữa các thông điệp tiêu cực và tích cực, bởi

“T p ạ ạ “ ù ọ ” ớ ớ

ể ổ ở N ỉ ử ụ p ạ ề

lâu ể ấ ” [44, tr.89]. Bên cạnh đó, để mô tả hậu quả của

BĐKH, rất nhiều từ ngữ tiêu cực nặng nề đã được các tác giả sử dụng, như “kinh

hoàng”, “tàn phá”, “tồi tệ hơn chúng ta nghĩ”. Trong khi nhiều nghiên cứu khoa học đã

chỉ ra “ngôn ữ BĐKH “ ã '' é

ể p ú ẩ ổ '' [118]. Ở Việt Nam mà cụ thể là

ĐBSCL, một số nhà khoa học đã khuyến cáo rằng tình trạng “hù dọa” quá mức hơn là

gợi mở các giải pháp đã khiến cho “N ề ờ ề BĐKH

ộ ờ BĐKH ạ

79

ấ ử ờ ớ ; ũ ờ ằ BĐKH

ộ ổ ” (PVS-M5).

- C ĩ ở bở BĐKH ề p

b

Với số lượng đáng kể, thông điệp về hậu quả của BĐKH đã phản ảnh bức tranh

khá toàn diện và rõ nét về tác động tiêu cực của BĐKH đến các lĩnh vực của đời sống

an sinh; từ tính mạng, sức khỏe của con người đến kinh tế, công ăn việc làm, môi

trường sống... Số liệu thống kê cho thấy, các thiệt hại về vật chất như nhà cửa, đường

sá, đê điều, tiền (thu nhập, doanh thu, giá trị thiệt hại…) là các yếu tố được đề cập

nhiều nhất (53.1%). Đặc biệt, giá trị thiệt hại sau một vụ việc hoặc một khoảng thời

gian nhất định thường được các ngành chức năng hoặc chuyên môn tổng hợp trong các

báo cáo có thể giúp người đọc hình dung ngay hậu quả, được xem là thông tin quan

trọng và thường được đề cập đến trong các thông điệp về hậu quả của BĐKH. Như:

“T ă 2018 ớ ã ổ ấ 84 8 ỉ USD 10 ọ

BĐKH ũ ụ ắ bấ ờ ” (Báo CT

ngày 29/12/2018 “T ớ ổ ấ 85 ỉ USD 10 ọ ”).

“T ă 2017 V N ạ 59 300 ỷ

ạ ừ ” (Báo CT ngày 4/1/2018

“ĐBSCL - Q ạ p ể p ù p p BĐKH”).

Là “vựa lúa” quốc gia, nên những tác động của BĐKH đến lĩnh vực ọ -

ă rất được báo chí ĐBSCL quan tâm, đứng thứ 2 trong danh sách với tỷ lệ

41.1%. Không chỉ nêu chung chung các số liệu và tập trung vào sản xuất lúa, nhiều tin,

bài đã thông tin chi tiết, kịp thời những tác động của BĐKH đến nhiều lĩnh vực canh

tác, như: “N ấ ở ớ b ổ ” (Báo AG

2/4/2028) “T ạ ớ ” (Báo CM 2/5/2017)… Những thông tin này

có ý nghĩa rất quan trọng đến sự ổn định và phát triển kinh tế của cả khu vực. Những

lĩnh vực khác như tác động của BĐKH đến các ngành sản suất - kinh doanh; Tinh thần

của con người; Hệ sinh thái/đa dạng sinh học cũng được đề cập nhưng tỷ lệ thấp hơn,

lần lượt là 13.9%; 12.6% và 8.4%.

Sức khỏe, tính mạng của con người cũng được đề cập nhiều trong những thông

điệp về tác động của BĐKH, với tỷ lệ 27,9%. Đặc biệt, các thông tin về sinh mạng con

người thường được các báo đưa lên đầu bài viết hoặc rút thành tít bài tạo ấn tượng

80

mạnh mẽ, bởi có thể khiến công chúng bàng hoàng, cảm nhận được hậu quả, thiệt hại

to lớn của BĐKH, như: “Hơ 200 ờ ạ bã T b ở P pp ”

(Báo AG 25/12/2018); “72 ờ ũ ạ ở ấ ” (Báo AG 17/10/2017)

“M ũ ã 20 ờ 12 ờ b ấ ” (Báo CT ngày 12/10/2017); “Hơ

200 ờ ạ ở ấ ạ CNDC C ” (Báo AG 21/8/2017). Tuy nhiên,

trong khi các báo rất quan tâm thông tin số lượng người thiệt mạng, bị thương… trong

các vụ việc do BĐKH gây ra, thì thông tin về những tác động âm thầm của BĐKH đến

sức khỏe con người lại rất ít dù thực tế cho thấy BĐKH làm gia tăng vật trung gian gây

bệnh, gia tăng bệnh tiểu đường tuýp 2, các vấn đề hô hấp và đột quỵ, các vấn đề sức

khỏe tâm thân và tác động xấu đến hành vi con người. Điều này sẽ khiến cho “

ề ữ ạ BĐKH ờ ờ ở ộ ơ ấ

ắ ổ ừ ạ ở p ơ p

” (PVS -M4).

Về phạm vi tác động của BĐKH, các bài báo chủ yếu đề cập đến phạm vi trong

nước (71.1%), cao hơn gấp 8 lần so với khu vực ở ngoài nước (8.6%). Trong đó, thông

điệp đề cập đến phường, xã là 36%. Báo CM là tờ báo đề cập đến những hậu quả của

BĐKH đến tận phường/ xã, quận/huyện nhiều nhất nhưng cũng là tờ báo duy nhất

không có bài báo nào đề cập đến hậu quả của BĐKH ngoài phạm vi lãnh thổ. Các

nhóm đối tượng bị ảnh hưởng bởi BĐKH trên báo Đảng khu vực ĐBSCL cũng tập

trung chủ yếu là người dân ở địa phương.

Nghiên cứu định tính cho thấy, thông điệp đề cập đến người nghèo, phụ nữ và

trẻ em - đối tượng yếu thế đang là nạn nhân của BĐKH thường thể hiện bằng những

thông điệp đậm đà cảm xúc, tạo được ấn tượng mạnh mẽ, sâu sắc cho người tiếp nhận

thông điệp. Trong “V X ” (Báo CM ngày 31/3/2017), tác giả viết:

“C p V X ơ ă

ú ạ B p ò ể “ ý ở ” T ú L K C ờ

T ạ p b : Tộ p ấ ắ ề ũ ạ ạ ỡ

T ạ b p ò V X b ể ấ ớ ỉ 30

ò ỏ S ă é ấ ọ bỏ ọ

bọ ẻ V ở ấp ấ : “C ở ọ ú ổ

ớp 5 ớp 7 ỉ ” Đấ ở B ể ạ Mỗ ă V

81

X ù ộ ú ĩ ĩ b Ô T ở ấp : “K ể

b ù ớ ”

“N ữ ộ ử b ể ă ộ ộ è C è b

ờ ờ Sạ ở ắ ở ú ắ ổ ắ

V ù è ỗ ớ ụ ớ

ừ bắ C ộ b ừ b b ể ă ” H ớ b b ể

ừ C ộ ă ọ p ở

ọ E N B T ề ấp K Nă 12 ổ ớ ọ ớp 3 bỏ ọ

E ẻ: “Tạ è ề ọ ỉ N ỉ ọ ấ

b ớ ở ạ ớp ọ ” (Báo CM ngày 29/5/2019 “Sớ ờ

ộ ở ử b ể ”).

Nghiên cứu của Cơ quan LHQ về bình đẳng giới và trao quyền cho phụ nữ (UN

Women), công bố năm 2020, phụ nữ và trẻ em là những người dễ bị tổn thương gấp 14

lần so với nam giới trong các thảm họa thiên nhiên dưới tác động tiêu cực từ BĐKH.

Nguyên nhân do có sự chênh lệch về cơ địa, sức khỏe so với nam giới. Đặc biệt là với

phụ nữ, vai trò giới đã đặt ra cho họ cái trọng trách làm vợ, làm mẹ; chưa kể một số

người còn đang đảm đương hoặc đang chia sẻ cùng người đàn ông trách nhiệm gánh

vác gia đình nên khả năng bị tổn hại còn tăng cao hơn [84]. Thực tế, những đợt áp thấp

nhiệt đới, nắng nóng kéo dài hay mưa lũ bất chợt, số lượng phụ nữ và trẻ em nhập viện

lúc nào cũng gia tăng đột biến so với nam giới. Mưa dầm hoặc triều cường không chỉ

ảnh hưởng sức khỏe mà còn tác động đến thu nhập, kinh tế của những người phụ nữ

“mua gánh bán bưng”, khiến cho việc đến trường của trẻ em gặp khó, trẻ em nghèo

phải phụ gia đình mưu sinh thì càng vất vả, cơ cực bội phần… Tuy nhiên, những bài

phân tích về những tác động của BĐKH đến sức khỏe thể chất và tinh thần của Nhóm

yếu thế (trẻ em, phụ nữ, người già) trên mặt báo lại rất ỏi, chỉ có 1.6%. Bên cạnh đó, sự

hiện diện của phụ nữ ở vị trí ra quyết định và hành động BVMT, ứng phó BĐKH là rất

quan trọng nhìn từ quan điểm về quyền bình đẳng và cũng là hành động chiến lược để

giải quyết BĐKH. Tuy nhiên, hình ảnh những người phụ nữ xuất hiện trong bài viết

thường là nạn nhân, than thở, ca thán về những tổn thất do thiên tai. Việc phản ánh như

thế vô hình trung tạo ra sự bất bình đẳng có thể dẫn đến cái nhìn thiên lệch của công

chúng về trách nhiệm, vai trò của người phụ nữ trong ứng phó BĐKH.

82

Như vậy, qua khảo sát cho thấy các bài viết về tác động của BĐKH được các

báo Đảng khu vực ĐBSCL chú trọng triển khai thực hiện và đăng tải với tần suất cao.

Tuy nhiên, đại đa số nhìn nhận BĐKH là một vấn đề tiêu cực, còn mặt tích cực của

BĐKH thì rất ít đề cập. Thông điệp chủ yếu phản ảnh những tác động của BĐKH đến

đời sống và sự phát triển bền vững của địa phương, với đối tượng gánh chịu hậu quả

chủ yếu là người dân trên địa bàn. Các lĩnh vực được đề cập khá đa dạng, tuy nhiên

nhiều nhất vẫn là các hậu quả có thể quan sát, đặc biệt là các yếu tố vật chất như nhà

cửa, đường sá, đê điều, tiền, mùa màng, số người bị thương hay thiệt mạng… chứ ít tập

trung làm rõ những hậu quả tâm lý, tác động về sức khỏe lâu dài của BĐKH đối với

con người. Cũng vậy, các đối tượng yếu thế như trẻ em, người già, phụ nữ và người

nghèo - là đối tượng chịu nhiều tác động - cũng ít được đề cập trong các thông điệp về

tác động của BĐKH.

2.2.3. Thông điệp về nguyên nhân của biến đổi khỉ hậu

Thông điệp về nguyên nhân của BĐKH là một trong những nội dung quan trọng

của truyền thông về BĐKH. Vì nêu rõ nguyên nhân với những phân tích sâu sắc, khoa

học, từ các nguồn tin có độ tin cậy cao sẽ giúp công chúng nhận thức đúng đắn về lý do

khiến cho BĐKH ngày càng nhanh; có tác dụng “cảnh tỉnh”, giúp công chúng rà soát

và điều chỉnh hành vi của mình. Ngược lại, thông tin qua loa, hời hợt trên nền tảng tư

duy định kiến của tác giả hoặc từ các nguồn không đáng tin cậy sẽ dẫn đến những hiểu

lầm về BĐKH, hoặc kém thuyết phục công chúng truyền thông. Tuy nhiên, thông tin

về nguyên nhân của BĐKH đòi hỏi tính chuyên môn cao, không phải ai cũng có thể tùy

tiện đưa ra nhận định mà thường được phát ngôn bởi những người am hiểu như những

chuyên gia, nhà khoa học. Bên cạnh đó, quá trình phân tích, mổ xẻ, lý giải nguyên nhân

của các biểu hiện BĐKH đòi hỏi sử dụng nhiều thuật ngữ khoa học khô khan và không

dễ hiểu, buộc các nhà báo phải thấu hiểu vấn đề và có khả năng diễn đạt bằng từ ngữ

đại chúng, gần gũi nhưng chính xác. Vì thế, thông tin về nguyên nhân của BĐKH là

nhóm nội dung ít được đề cập trong các bài viết về BĐKH. Trong 1.290 bài báo mang

thông điệp về BĐKH được khảo sát, thông điệp lý giải nguyên nhân của BĐKH chỉ

chiếm 14,1%, với 182 bài báo. Trong đó, số lượng các bài báo có đề cập đến nguyên

nhân của BĐKH trên báo CT là 19.3%; báo AG 9.6%, báo CM đạt 13.6%.

14.1

Có đề cập Không đề cập

85.9

83

Biểu đồ 2.3: Tỷ lệ các bài viết có đề cập đến nguyên nhân của BĐKH

(N : K b AG, báo CM và báo CT ừ 2017 6/2019)

Bên cạnh yếu tố vận động của môi trường tự nhiên, có đến 95% hoạt động của

con người phải chịu trách nhiệm trước vấn đề nóng lên toàn cầu. Chủ yếu là do khai

thác tài nguyên thiên nhiên quá mức, sử dụng quá nhiều các nguyên liệu hóa thạch như

than, dầu, khí đốt; nuôi một lượng lớn các loại động vật thải ra lượng lớn khí mê-tan và

chặt phá những cánh rừng làm giảm sự hấp thu khí carbon dioxide từ không khí một

cách tự nhiên... [117]. Chính vì thế, nội dung về nguyên nhân của BĐKH thiết kế trong

bộ mã được xây dựng thành 2 nhóm chính: Nhóm nguyên nhân do con người, bao gồm

H ạ ộ ờ ; H ạ ộ ấ

ờ ở ờ ; H ạ ộ ạ ờ Nhóm

nguyên nhân do tự nhiên, gồm S ổ ề S ổ

ề ờ và Nộ

Kết quả khảo sát cho thấy, đa số các bài viết lý giải nguyên nhân của BĐKH là

các bài viết có nội dung đề cập về chủ đề BĐKH và thường đề cập đến chuỗi nguyên

nhân hơn là chỉ đề cập một nguyên nhân riêng lẻ. Trong đó, nhóm nguyên nhân do con

người được đề cập nhiều hơn. Nguyên nhân H ạ ộ ấ ờ

ở ờ có tần suất xuất hiện nhiều nhất, tỷ lệ là 78%; H ạ ộ

khai thác tài nguyên ờ là 48.9%; H ạ ộ ạ

ờ 15 9%. Nhóm nguyên nhân do tự nhiên, nội dung S ổ ộ

ờ tần suất xuất hiện là 46.2%. Nguyên nhân do S

ổ ề chiếm 24.2%.

Mặc dù nguyên nhân do con người được nhắc đến khá nhiều, tuy nhiên ít có

thông điệp nào “chỉ mặt, đặt tên” cho các nhóm người ở địa bàn cụ thể. Thay vào đó,

bài viết không đề cập đến đối tượng thực hiện hành vi hoặc mô tả bằng các danh từ

84

chung chung “con người”, “nông dân”… Vì thế, khó có thể khiến cư dân nhận thức

hành vi của mình để điều chỉnh cũng như tạo dựng được luồng dư luận xã hội nhằm lên

án các hành vi sai trái, vi phạm pháp luật, ảnh hưởng tới môi trường, đời sống xã hội.

Việc nêu nguyên nhân theo kiểu chung chung, nửa vời, thậm chí suy diễn, áp đặt… còn

khiến người dân ngộ nhận, dẫn đến nhận thức sai lầm về nguyên nhân của BĐKH.

Điển hình như việc khai thác cát không phải lúc nào cũng là nguyên nhân gây sạt lở bờ

sông, có nhiều trường hợp phải hút lớp bùn, cát, sỏi để nạo vét lòng sông nhằm thông

luồng, khơi thông dòng chảy cho tàu thuyền tải trọng lớn qua lại thuận tiện. Nhưng

dưới lăng kính báo chí, trong đó báo Đảng khu vực ĐBSCL cũng không ngoại lệ, cụm

từ “khai thác cát” “cát tặc”… luôn đi liền với nguyên nhân sạt lở đã khiến nhiều người

mặc nhiên cho rằng khai thác cát là sẽ gây sạt lở, chứ không nghĩ đến mặt tích cực của

nó. Thậm chí, người dân tìm cách ngăn chặn khi chính quyền thi công công trình hút

bùn cát thông luồng, khiến ảnh hưởng đến an ninh trật tự và thực hiện các mục tiêu

phát triển của địa phương. Bài báo “Vụ ờ Tấ Mỹ ă ặ p

: T ã ổ ”, đăng trên Báo AG ngày 30/5/2017, phản ảnh việc

người dân ở ấp Tấn Mỹ, huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang quyết liệt ngăn chặn đơn vị thi

công hút bùn cát thông luồng ở khu vực cồn Cũ, đã cho thấy thực trạng đáng buồn này.

Vai trò của báo chí không chỉ là phản ánh đời sống xã hội qua việc thông tin

nhanh những sự kiện và vấn đề thời sự, mà còn ở việc cung cấp thông tin định hướng

nhận thức công chúng. Những thông điệp từ báo chí tác động vào hàng triệu người sẽ

chi phối, kêu gọi, thúc đẩy, tổ chức họ tham gia giải quyết các vấn đề đang đặt ra. Điều

này được nói đến trong lý thuyết truyền thông can thiệp xã hội. Chính vì thế, có những

sự việc, vấn đề báo chí cần gắn thông tin, giải thích và bình luận bình luận, tiếp cận đa

chiều và có cơ sở khoa học để công chúng nhận thức một cách sâu sắc, từ đó có giá trị

gợi mở nhận thức.

Trong khi nguyên nhân do con người thường được đề cập một cách chung

chung, cố tình làm cho “nhẹ” đi, thì nhiều bài viết lại lý giải nguyên nhân của BĐKH là

do sự thay đổi của các yếu tố thời tiết, hay nói cách khác là do… chính nó.

“Nguyên nhân độ mặn tăng lên do mực nước biển tăng làm hiện tượng xâm

nhập ngày càng tăng nhanh ấ ạ ộ b TP C T ơ”

(Báo CT ngày 11/1/2018 “Tă ờ b p ặ ù ).

85

“Đặ b do ảnh hưởng gió mùa Đông Bắc kết hợp với triều cường

dâng cao 48 000 bờ b ể Đ b ạ ở ọ (… ) T

ă nguyên nhân dẫn đến sạt lở là do tác động của dòng chảy ven

bờ và của thủy triều; đặc biệt là tác động của sóng to, gió lớn” (Báo CM ngày

12/5/2017 “X ể ờ ỏ ù ạ ở”).

Theo đó, dường như BĐKH là do các yếu tố thời tiết tác động lẫn nhau và

không liên quan đến con người. Trong khi nhiều báo cáo khoa học đã chỉ ra rằng hành

vi của con người là nguyên nhân chính khiến cho BĐKH diễn ra nhanh như hiện nay.

Như nguyên nhân tình trạng sạt lở bờ biển, theo Bộ Tài nguyên và Môi trường, là “do

; ộ BĐKH ớ b ể ;

ở ; ạ

ể ạ é ạ ; ă é

ạ ử ở ù ử b ể ă ” [12].

Trong một số bài viết, nguyên nhân của BĐKH được nêu một cách hời hợt,

chung chung với những từ ngữ chuyên môn.

“Do sự thay đổi chế độ thủy văn ạ ở bờ ọ

b p ở ấ

bộ ạ ờ ” (Báo CT 2/6/2018 “Cơ ộ p

ớ BĐKH”).

Bên cạnh việc sử dụng thuật ngữ “ ổ ộ ă ” khó hiểu vì

mang tính chuyên môn cao, đáng lẽ cần có thêm lý giải những yếu tố dẫn đến sự thay

đổi này? Đối tượng gây ra sự thay đổi? Hành vi gây ra sự thay đổi?... thì bài báo này lại

không hề đề cập thêm bất kỳ thông tin nào để làm rõ. Thông điệp dù đề cập nguyên

nhân nhưng không cung cấp được nội dung hữu ích, không giúp tác nhân nhận ra và

sửa đổi hành vi.

Nguồn tin là yếu tố đặc biệt quan trọng, quyết định giá trị thông tin và tạo ra uy

tín cho tờ báo. Nguyên nhân BĐKH là thông tin đậm chất khoa học, vì thế thông tin

trích dẫn rõ ràng từ những nguồn đáng tin cậy, có uy tín như các nhà khoa học, các

chuyên gia nghiên cứu về lĩnh vực này sẽ làm tăng tính thuyết phục, giúp thông điệp có

“sức nặng” hơn. Qua khảo sát, thông tin về nguyên nhân của BĐKH được các báo

tường thuật, trích dẫn từ ý kiến của các chuyên gia, nhà khoa học chiếm tỉ lệ cao nhất là

31,9%. Nguồn tin từ ý và p ể ( ơ ơ ) lần lượt là 29.7% và

86

19.1%; nguồn tin từ ờ là 6%. Bên cạnh đó, có đến 28,6% số lượng thông điệp

về nguyên nhân của BĐKH nhưng không đề cập cụ thể nguồn tin hoặc nguồn thông tin

không cụ thể, như:

“Qua tìm hiểu thực tế ạ ữ b ễ ặ

ò ỉ ớ ặ ề ờ ”. (Báo CM 10/5/2019 “N ề ù ọ

ớ ơ ặ ”).

“Ngoài ra, theo các nhà khoa học NO2 ơ

CO2 ấp 300 T ấ p ộ ể N b ấ

b ạ U ặ S p A ã p ă

nhà kính” (Báo AG ngày 31/5/2017 “P b ớ -

ờ ”).

Những ví dụ nêu trên chứa đựng nhiều thông tin là các dữ liệu khoa học. Nếu

nguồn tin, nguồn trích dẫn rõ ràng, cụ thể hơn nữa, bởi những chuyên gia, nhà nghiên

cứu về BĐKH… sẽ tạo thêm sự tin tưởng đối với người đọc, nâng cao giá trị khoa học

cho chính tác phẩm và tăng tính thuyết phục cho thông điệp truyền thông.

Như vậy, nguyên nhân của BĐKH là nội dung ít được đề cập, và đề cập không

xác đáng trong các bài viết về BĐKH trên báo Đảng ĐBSCL. Trong khi một số ít bài

viết phân tích nguyên nhân sâu sắc, thấu đáu, cung cấp nhiều thông tin có giá trị và tác

dụng cảnh tỉnh công chúng, đa số các bài viết nêu nguyên nhân chung chung, hoặc

“đẩy” trách nhiệm về phía các yếu tố tự nhiên chứ ít khi làm rõ vai trò của con người

với loại hành vi cụ thể; nhiều thông điệp về nguyên nhân BĐKH còn nhiều từ ngữ,

cụm từ chuyên môn chưa được phổ thông hoá, gây khó hiểu cho công chúng tiếp nhận.

2.2.4. Thông điệp về giải pháp/ hoạt động thích ứng với biến đổi khí hậu

Thích ứng có thể được hiểu là từ ghép bao hàm hai ý nghĩa thích nghi và ứng

phó. “C ể ể ớ ờ

ữ ộ bấ ỏ ờ ộ ờ ử

ụ ữ ơ ộ ờ ạ ” [46, tr.106]. Kế hoạch

quốc gia thích ứng với BĐKH của Việt Nam xác định 3 nhóm nhiệm vụ, giải pháp

nhằm tăng cường khả năng chống chịu, năng lực thích ứng của cộng đồng, các thành

phần kinh tế và hệ sinh thái BĐKH, cụ thể: Nâng cao hiệu quả thích ứng với BĐKH

thông qua việc tăng cường công tác quản lý Nhà nước về BĐKH. Tăng cường khả

năng chống chịu và nâng cao năng lực thích ứng của cộng đồng, các thành phần kinh tế

87

và hệ sinh thái thông qua việc đầu tư cho các hành động thích ứng, khoa học và công

nghệ, nâng cao nhận thức để sẵn sàng điều chỉnh trước những thay đổi của khí hậu.

Giảm nhẹ rủi ro thiên tai và giảm thiểu thiệt hại, sẵn sàng ứng phó với khí hậu cực

đoan gia tăng do BĐKH.

Những giải pháp trên là cơ sở để tác giả chia thông điệp giải pháp thích ứng với

BĐKH thành 03 nhóm nội dung lớn. Nhóm thứ nhất là các thông điệp đề cập định

hướng, hoạt động thích ứng với BĐKH của hệ thống chính trị các cấp. Nhóm này gồm

các thông điệp về giải pháp thích ứng với BĐKH có nội dung (1) đề cập đến các chủ

trương của Đảng, chính sách của Nhà nước về các giải pháp ứng phó với BĐKH và các

hoạt động chỉ đạo, triển khai, thực hiện các giải pháp mà chủ thể thực hiện là chính

quyền và các tổ chức chính trị (gọi tắt là Chính sách) và (2) các H ạ ộ p

nhằm ứng phó với BĐKH. Nhóm thứ 02 là các thông điệp đề cập đến các giải

pháp thực tiễn để thích ứng với BĐKH, bao gồm việc (3) Ứ ụ bộ ọ

vào công tác ứng phó, thích nghi với BĐKH và (4) N ữ ỹ ă

p được người dân tự đúc kết, chia sẻ. Nhóm thứ 03 là thông điệp đề cập

đến giải pháp mang tính bền vững là (5) G ụ ề nhằm thay đổi nhận

thức và hành vi của con người.

Qua thống kê, thông điệp giải pháp thích ứng với BĐKH đề cập đến Chính sách

chiếm 55.1%; Ứ ụ bộ ọ - 24.6%; G ụ ề -

17.4%; H p - 8.6% và và K /Kỹ ă ú -7.8%. Ngoài ra,

còn có 10 bài viết đề cập đến những giải pháp Khác -1.2%. So sánh giữa các báo khảo

sát, các thông điệp về Chính sách có số lượng vượt trội, các khía cạnh giải pháp còn lại

có sự chênh lệch rõ rệt. Cụ thể như với báo AG, chuyên mục “Cù ”

xuất hiện trong mỗi kỳ báo là “mảnh đất” màu mỡ để Báo AG chia sẻ, hướng dẫn nông

dân ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ vào canh tác trong điều kiện BĐKH, với 116

bài viết đề cập, tỉ lệ 34.6%; trong khi tỷ lệ này ở báo CM là 22.5%, báo CT 30.7%. Ở

báo CM, tỷ lệ các bài viết chia sẻ những kinh nghiệm, kỹ năng mà người dân tự đúc rút

trong thực tiễn canh tác, sản xuất theo hướng thích nghi với BĐKH là 14.8%, cao hơn

gần gấp đôi báo CT (7.8%) và gấp 3 lần báo AG (3.9%). Cần Thơ với ưu thế là thành

phố trực thuộc Trung ương, đô thị loại I, nơi tập trung nhiều trường đại học và trung

tâm nghiên cứu lớn của cả nước, được chọn là nơi tổ chức nhiều hoạt động hợp tác

quốc tế của vùng và khu vực - nên giải pháp thích ứng BĐKH thông qua các hoạt động

88

H p ở Báo CT có tỷ lệ cao (23.5%), gấp nhiều lần so với so với báo AG

(11%) và báo CM (0.9%). Thông điệp về giải pháp ứng phó với BĐKH thông qua giáo

dục, truyền thông nhằm thay đổi hành vi của con người ở Báo CT cũng chiếm tỉ lệ cao

nhất là 38.9%, báo CM là 27.7% và báo AG ít nhất với 13.7%.

Có thể thấy, báo chí không chỉ tuyên truyền các văn bản chỉ đạo, thông điệp từ

các bài viết còn động viên, cổ vũ, khuyến khích... người dân và cộng đồng thực hiện,

cụ thể hóa thành hành động thực tiễn ứng phó với BĐKH.

“C G ờ T ấ ọ ộ ù ổ

ừ ữ ề ỏ ấ : ù ắ ữ b

ò ộ ờ ể ù ộ ơ ộ ờ ắ è Mỗ ộ ỏ ẽ

ý ĩ ớ p p ổ ộ ề BVMT,

ă p ớ BĐKH p p ữ ấ

ớ ỉ ú ò ơ V N

mãi sau này.” (Báo CT ngày 24/3/2017 “H ở G ờ T ấ : Tắ è

b ơ ”).

Không chỉ ở quy mô trong nước, các giải pháp hợp tác quốc tế cũng được

thông tin, phân tích cho thấy sự nỗ lực và quyết tâm của toàn cầu đối với việc thích

ứng với BĐKH.

“BVMT ĐBSCL ỉ b ữ ờ dân sinh

ọ M ò ú ẩ p ể b

Đ N Á T ấ ề ỉ V N ể

ò ỏ

ớ ” (Báo CT ngày 12/5/2017 “C ù ớ V N BĐKH

ễ ờ ”)

Nhóm thông điệp giải pháp về Chính sách xuất hiện nhiều trong các tin thời sự

cũng như đề cập trong các tác phẩm phân tích chuyên sâu… Trong một số tác phẩm,

nội dung đề cập sâu về chủ đề BĐKH thường đưa ra chuỗi các giải pháp, từ giải pháp

vĩ mô đến việc triển khai cụ thể trong thực tiễn đời sống. Đặc biệt, thông điệp về những

kinh nghiệm từ thực tiễn ứng phó với BĐKH, dẫu không nhiều, nhưng có ý nghĩa, bởi

nó chỉ ra những bài học từ thực tiễn sống động, thể hiện sự lao động nghiêm túc của

người làm báo và có tính ứng dụng cao bởi đã được kiểm chứng từ thực tế. Các thông

điệp này góp phần tạo dựng lại niềm tin với phương châm sống “thuận thiên” nếu con

89

người thay đổi và nỗ lực. Đó cũng là đều bài “C ấ b ể ” (Báo CM ngày 19/5/2018)

đem đến cho người đọc. Theo tác giả, cây mắm được xem là những “người lính biên

phòng” canh giữ, bảo vệ đất khỏi bị sạt lở trước sóng to gió lớn. Tuy nhiên, gỗ cây

mắm lại không có giá trị kinh tế nên việc phát triển loài cây tiên phong lấn biển này

không được người dân hưởng ứng. Tuy nhiên, bài toán khó này đã được lão nông Mai

Lam Phương, ở thị trấn Cái Nước, giải thành công với mô hình trồng thanh long

TOCCUOL trên các trụ đỡ là cây mắm mọc trên đất bãi bồi. “Thanh long TOCCUL có

ă p ể ử ụ ắ ù p ặ

ề ụ K ấ ộ

ể ộ ã ắp ù b ể

ở C M N ờ ẽ ắ ừ ấ ở ừ

ụ ể S b ă ạ ẽ p p

ể ạ p ừ p ò ộ b ể ă p ờ ữ

ừ ” (trích từ “C ấ b ể ”).

Hay mô hình làm cầu chống sạt lở ở Cần Thơ: “C b

b ừ 30 - 40 p ớ ụ b ổ

b ĩ ử ă p ò ữ ấ (…) K p

b ỉ bằ 1/3 ớ è bằ ép ề ò ớ è bằ ừ

ộ ừ ơ ơ ộ bề ơ

ẳ ; ờ b ỹ ” (Báo CT ngày 21/3/2017 “C b -

ạ ở ở B T ”)

Như vậy, có thể thấy rằng các thông tin liên quan tới giải pháp thích ứng với

BĐKH được các báo Đảng địa phương rất chú trọng; thông tin đa dạng, phong phú

cả ở phạm vi rộng lẫn phạm vi hẹp; từ các định hướng, chủ trương đến việc triển

khai cụ thể trong thực tiễn. Những thông tin báo chí cung cấp đã giúp cộng đồng

nhận thức được mức độ quan tâm, vào cuộc của hệ thống chính trị trong việc việc

ứng phó với BĐKH.

Tuy nhiên, số lượng thông điệp giải pháp và các bài học hay từ thực tiễn có sức

thuyết phục không nhiều mà chủ yếu dựa vào việc tiếp cận tài liệu, số liệu từ các báo

cáo, hội nghị, hội thảo, dự án…. Ở nhóm 1, các thông điệp về chính sách chủ yếu là

giới thiệu chính sách và mô tả, ca ngợi việc thực hiện chính sách của chính quyền chứ

chưa có nhiều bài viết đào sâu phân tích sự phù hợp hay không của chính sách đó với

90

thực tế địa phương; phản biện đối với các nhà hoạch định nhằm đạt được những chính

sách thông minh, cấp tiến nhằm thích ứng với BĐKH. Trong khi “ ữ

ề BĐKH p p ù

ép… ể ễ ờ ặp ă C

p ữ ớ ắ ơ

ề ẽ úp ă ắ bắ ử ý ấ ề p úp

ể ấ (PVS -M2). Cũng vậy, rất ít những bài

viết chỉ ra được tổ chức và cá nhân còn hạn chế, sai sót trong việc thực hiện các chủ

trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước về thích ứng với BĐKH. Kiểu

viết 1 chiều, khen chứ không chê, né tránh những vấn đề tiêu cực cũng chính là “căn

bệnh” chung của báo Đảng địa phương, trong đó có báo Đảng khu vực ĐBSCL [69].

Bên cạnh đó, nhiều bài viết chú trọng thông tin về hoạt động của cán bộ lãnh đạo hơn

là phân tích thấu đáu về giải pháp để người đọc có thể hiểu và vận dụng.

Bên cạnh việc thông tin theo kiểu “bề nổi” như trên, nhiều thông điệp giải pháp

lại nhấn mạnh số tiền đầu tư hơn là phân tích các cách thức thực hiện để thích ứng với

BĐKH. Nhiều bài viết rút tít, đưa thành “điểm nhấn” đậm nét, như: “A G ề

ỗ 123 ỷ ử ý ẩ ấp ạ ở” (Báo AG 1/5/2017); “G 244 ỷ ắ

p ụ ờ bộ b ạ bã ũ” (Báo AG 7/8/2017); “Hỗ 100 ỷ

ỉ ạ bã ” (Báo CT 1/12/2017), “W B 200 ỉ USD

BĐKH” (Báo CT 4/12/2018); “H U M : T 500 ỷ p ớ BĐKH”

(Báo CM ngày 4/12/2017) “Hơ 130 ỷ D b ừ b ể p ụ

ừ p ặ ” (Báo CM ngày 20/11/2018); “C M 1 100 ỷ

ạ ở ” (Báo CM ngày 5/12/2018)…

Việc thông tin đậm nét hoạt động của lãnh đạo chính quyền các cấp giúp công

chúng nhận ra nỗ lực, quyết tâm của lãnh đạo đối với công tác ứng phó với BĐKH,

nhưng ngược lại nó cũng dễ tạo nên tâm lý ỷ lại, cho rằng đây là việc của chính quyền

chứ không phải là của người dân. Thêm vào đó, những số tiền lớn được nhấn mạnh

khiến người tiếp nhận thông tin có cảm giác rằng việc ứng phó với BĐKH là việc rất

tốn kém mà chỉ có Nhà nước mới có khả năng. Vì thế, lạm dụng những thông điệp này

không khơi gợi, động viên, tạo sức mạnh cỗ vũ để người dân chủ động ra tay.

Thông tin - giáo dục - truyền thông là giải pháp mang tính bền vững để thay đổi

nhận thức, thái độ và hành vi của cư dân nhằm thích ứng với BĐKH. Tuy nhiên, trong

91

nhiều bài viết, các giải pháp này được đề cập rất chung chung, đối tượng không cụ thể.

Điều này sẽ làm giảm hiệu quả truyền thông về BĐKH vì công chúng tiếp thông điệp

khó xác định được cụ thể trách nhiệm của mình.

“Để b ĐDSH ( ạ ọ ) Cụ B

T ĐDSH ằ ă ờ ờ

ớ BVMT b ĐDSH C

ề p BVMT, b ĐDSH ộ

ờ p ể KT-XH; ắ ú ọ ừ

ữ ở p ể ớ

ĐDSH… (Báo CT ngày 24-6-2019 - “N ă ặ ạ

ọ ở V N ”).

“BĐKH ã ộ ạ b ấ ẩ ở A

G ĐBSCL Để ấ p ể ổ

p p p ể Đ ề ể

b p ể bề ữ ” (Báo AG ngày 12/4/2018 “N ấ

ộ ờ ”)

Không ít bài viết kêu gọi thực hiện các giải pháp thích ứng với BĐKH bằng

những cụm từ “C ề p ơ p …” “N ờ …” mà không

nêu cụ thể nhóm đối tượng cần tuyên truyền, giáo dục là những ai, thuộc địa bàn nào,

nên làm như thế nào… Như thế, hoạt động thông tin - giáo dục - truyền thông cũng

chưa đi sâu được vào lòng người, vì coi ứng phó BĐKH là việc chung, không của

riêng ai.

Về phạm vi thực hiện các biện pháp thích ứng với BĐKH, được đề cập nhiều

nhất là thuộc địa phương nơi cơ quan báo chí hoạt động, chỉ 4.5% bài viết đề cập đến

việc ứng phó với BĐKH ở phạm vi ngoài nước, gồm: Tiểu vùng sông Mê Kong

(0.2%); Đông Nam Á (0.3%); châu Á (0.5%) và các nước khác trên thế giới (3.5%).

Như vậy, thông điệp về giải pháp thích ứng với BĐKH có tần xuất xuất hiện

khá cao, qua đó cho thấy những quyết sách, nỗ lực của hệ thống chính trị; cung cấp cho

công chúng những kiến thức, kinh nghiệm quý báu về thích ứng với BĐKH, trong đó

có nhiều kinh nghiệm được hình thành, đúc kết từ thực tiễn… góp phần hun đúc thêm

niềm tin, động lực cho công chúng. Tuy nhiên đa số các bài viết thông tin về các hội

nghị, báo cáo và các hoạt động, chỉ đạo của lãnh đạo về ứng phó với BĐKH hơn là tìm

92

kiếm và giới thiệu các mô hình, cách làm hiệu quả từ thực tế. Các thông điệp về giải

pháp được nêu ra nhằm vận động, giáo dục để người dân hiểu và điều chỉnh hành vi

cho phù hợp còn chung chung, chưa hướng vào các nhóm đối tượng cụ thể, vì thế mà

khó tạo được tác động thay đổi hành vi ở các nhóm công chúng đích như mong muốn.

2.3. HÌNH THỨC THÔNG ĐIỆP BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU TRÊN BÁO ĐẢNG

ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG

Hình thức thông điệp là cách thông điệp được thiết kế (mã hóa) và là yếu tố

quan trọng để tạo nên giá trị của thông điệp. Tác động của thông điệp không chỉ tuỳ

thuộc vào điều đó nói cái gì (nội dung) mà còn ở cách nói ra sao (hình thức). Để thể

hiện nội dung thông điệp, phải tìm ra giọng điệu, từ ngữ, minh họa… tương thích, giúp

lột tả, biểu đạt nội dung một cách chính xác, sống động, cuốn hút. Chính vì thế, đánh

giá tác phẩm báo chí nói chung, thông điệp báo chí nói riêng, bên cạnh nội dung cần

xem xét thêm về hình thức như một chỉnh thể không thể tách rời.

Chúng tôi đánh giá hình thức thông điệp về BĐKH, tác giả sẽ xem xét ở hai

khía cạnh chính là cấu trúc thông điệp và cách tổ chức thông điệp.

2.3.1. Cấu trúc thông điệp

Theo từ điển tiếng Việt “Cấ ú ộ ắp p ổ b

ộ ặ ổ ”. Tác

phẩm báo chí là sản phẩm sáng tạo tác giả. Với tác phẩm báo in được hình thành từ các

ký tự và hình ảnh tĩnh, được tác giả lựa chọn sắp xếp có chủ đích, thông qua đó bộc lộ

nội dung muốn chuyển tải. Quá trình sắp xếp đó, các yếu tố như tít bài, ngôn ngữ, hình

ảnh... có mối quan hệ ràng buộc lẫn nhau và chịu sự quy định nhất định của yếu tố thể

loại mà tác giả lựa chọn. Vì thế, để phân tích cấu trúc của thông điệp, chúng tôi sẽ đi từ

yếu tố thể loại đến các yếu tố cấu thành thông điệp.

2.3.1.1. Thể loại và dung lượng

Kết quả khảo sát cho thấy, trên một trang báo thường cơ cấu một hoặc hai bài

và một số tin. Trừ trang 1, mỗi trang báo thường có 1-3 ảnh. Tin thường dưới 500 chữ,

tin vắn thường dưới 100 chữ; một bài bình thường từ 500 - 800 chữ, bài “đinh” trong

số báo thường chiếm trọn 1 trang báo, dài từ 1.000 -1.400 chữ. Trong khi báo CM và

AG có xu hướng viết tin, bài ngắn thì báo CT có nhiều tin, bài khá dài chiếm trọn trang

báo và phải tiếp trang. Như vậy, cách viết cho báo in chưa kịp thay đổi.

93

Kết quả thống kê 1.290 tác phẩm diện khảo sát, dựa trên các tiêu chí phân chia

thể loại tác phẩm được đề cập ở chương cơ sở lý luận, cho thấy: Nhóm tin bài thông tấn

(bao gồm các loại tin, các dạng bài thông tấn, tường thuật, phản ánh, phỏng vấn v.v...),

chiếm đa số với 92.6% và có tỉ lệ cao vượt trội ở cả 3 tờ báo khảo sát. Đặc biệt báo CM

có đến 99,6% thuộc nhóm thông tấn; trong khi tỷ lệ này ở báo AG là 88.9% và báo CT

là 92.4%. Những bài viết được dịch từ báo nước ngoài hoặc tổ chức quốc tế có 85 bài,

chiếm tỉ lệ 6.6%, chỉ xuất hiện ở báo AG và báo CT. Chỉ có 8 bài thuộc thể loại bài

chính luận (0,6%) về nội dung BĐKH trên cả 3 tờ báo và không có bài nào thuộc thể

loại infographic. Đ ề ấ ộ ũ b ă

b b Đ ò ấ ỏ

Tương ứng với thể loại, chỉ báo về dung lượng cho thấy, có 31.9% số tác phẩm

từ 100 - 300 từ; 21.9% có dung lượng từ 300-500 từ và 42.6% có dung lượng trên 500

từ. Dưới 100 từ chỉ có 45 tác phẩm- chiếm 3.5%, thường là các bản tin vắn không tít…

0

0.6

9.7

89.7

Nhóm thông tấn

Nhóm Chính luận

Infographic

Nhóm dịch từ báo nước ngoài

Biểu đồ 2.4: Thể loại bài viết về BĐKH trên báo Đảng khu vực ĐBSCL

(N : K b A G C M C T ơ ừ 2017 6/2019)

Trong nhóm tác phẩm thông tấn, thể loại tin và bài phản ánh được sử dụng

nhiều nhất. Điều này cũng dễ hiểu bởi tin và bài phản ảnh có thế mạnh là có thể tác

nghiệp nhanh và đáp ứng yêu cầu thời sự; được các phóng viên ưu tiên lựa chọn để

thông tin nhanh các biểu hiện của BĐKH vừa diễn ra trên địa bàn như các vụ sạt lở,

mưa bão…, các hội nghị, hội thảo và thông tin thời sự có liên quan đến BĐKH…. Tuy

nhiên nhiều tin có nội dung rất sơ lược, mang tính lễ tân; còn nhiều tin khai thác từ các

báo cáo cũ chứ ít thông tin mang tính phát hiện; tin là thông tin sự kiện, nhưng lại diễn

giải dài dòng. Như tin “T ạ ơ 510 ”, trang 12, báo CM ngày

10/3/2017:

94

“(CM-NP) T UBND T Vă T ờ ữ ơ

ù ừ ã ạ 510 ờ

b

Đ ạ ỗ ă 1000 ha,

p ở 3 ã: T H K B T K H N ờ

bấ ừ ã ờ ấ p ớ K ỉ

ữ ơ ụ ớ ũ p 4 500

ạ ẩ b ạ ă ấ 30%.”

Tin trên có 128 từ với những thông tin ước chừng, không rõ nghĩa. Đọc tin,

không thể biết được 510 ha đậu xanh bị thiệt hại do “ ữ ơ ù ừ

” là thời điểm nào, tuần rồi, tháng rồi hay của 3 tháng, 6 tháng trước? Mưa trái mùa

gây tác động gì khiến cho 510ha đậu xanh bị thiệt hại? Người nông dân cần lưu ý điều

gì để ứng phó với tình trạng trên trong thời gian tới? “T p ớ ” bị mất đi là

bao nhiêu?... Lượng thông tin ít ỏi cùng với bố cục của trang báo khiến người đọc có

cảm giác bản tin nhằm “lấp chỗ trống cho đầy trang báo” hơn là nhằm cảnh báo và

cung cấp thông tin có giá trị cho công chúng.

Cùng với tin, bài phản ảnh cũng được các tác giả ưu tiên lựa chọn tác nghiệp do

có thể thực hiện nhanh. Tuy nhiên, còn nhiều bài phản ánh nội dung kém sâu sắc, chủ

yếu mô tả diễn biến, hậu quả của BĐKH chứ ít khi phân tích về nguyên nhân. Một số

bài “bê nguyên xi” kế hoạch, báo cáo của các địa phương, rồi đưa vào đó một hoặc hai

ý kiến… khiến tác phẩm trở thành nửa tin - nửa bài, nội dung chung chung, “nhiều chữ

nhưng ít thông tin”, như bài “T ờ ễ b p ạp” trên Báo AG ngày

30/5/2017. Cả trục bài viết có 6 đoạn (bao gồm sapo), có đến 4 đoạn bắt đầu bằng trích

dẫn “G Đ K T ă ỉ A G L Vă N b ”, “Ông

N :”, “Ô N ”, “Ông Ninh thông tin”. Hai đoạn còn lại

cũng bắt đầu bằng “T Đ K T ă ỉ A G ” và “T B ỉ

P ò ạ ỉ ”. Với nguồn tư liệu nghèo nàn, lối

diễn đạt đơn điệu, bài viết là bản báo cáo được “báo chí hóa”, ít sự đầu tư.

Lợi thế của báo in là “ ể p p ữ

ấ ề p ạp ộ ắ ớ ộ ” [18, tr.108]. Nhìn

chung, các báo diện khảo sát đều có chú trọng phát huy ưu thế này trong việc tổ chức

loạt bài có quy mô nhiều kỳ, như: Báo CT có các loạt bài “Q p ể ù

95

ĐBSCL”, 4 kỳ, khởi đăng từ ngày 11/4/2017; Loạt bài “K ạ ể ĐBSCL p ể

bề ữ ”, 3 kỳ, khởi đăng từ 18/10/2017; Loạt bài “G ữ ớ ọ ù

ĐBSCL”, 3 kỳ, đăng từ ngày 18/2/2019 đến 20/2/2019... Báo AG có loạt bài “Nạ é

ỉ ò H ”, 2 kỳ, đăng từ 23 đến 24/10/2018.

Báo CM có loạt bài 3 kỳ “S ơ ”, khởi đăng từ ngày 23/6/2017; Loạt bài

2 kỳ “C ạ ở ”, đăng từ 23/11/2017, Loạt bài 2 kỳ “Qua vùng

ấ ” đăng từ 10/5/2017… Các loạt bài này đều được đầu tư công phu, với lượng

thông tin lớn, phân tích sâu nhiều khía cạnh của BĐKH từ diễn biến, tác động, phân

tích các nguyên nhân và dự báo các nguy cơ, cùng những giải pháp đã và đang thực

hiện… Điển hình như loạt bài 3 kỳ “G ữ ớ ọ ù ĐBSCL” trên Báo CT

giúp người đọc nắm bắt một cách có hệ thống, từ thực trạng, nguyên nhân, tác động

và giải pháp để bảo vệ tài nguyên nước; đồng thời truyền đi thông điệp các hoạt động

sinh hoạt và phát triển kinh tế nhưng thiếu kiểm soát của con người đã và đang làm

gia tăng các tác động tiêu cực của BĐKH, từ đó uy hiếp an ninh nguồn nước cũng

như sự phát triển bền vững của tài nguyên nước vùng ĐBSCL. Một số loạt bài như

“S ơ ”, “Q ù ấ ” trên báo CM thuộc thể loại phóng sự với

cách thể hiện đan xen các yếu tố văn học, văn phong khơi gợi nhiều cảm xúc… thu

hút người đọc. Thông điệp từ các tác phẩm cũng đậm tính nhân văn, dễ tác động, tạo

ấn tượng với công chúng.

Các bài báo thuộc nhóm chính luận như bình luận, chuyên luận phân tích, lý

giải vấn đề một cách hệ thống với những lập luận chặt chẽ, có tính thuyết phục. “L ạ

ể p ẩ b ể ổ ở ờ ể úp

ọ ữ p ơ p p ạ ộ ử ộ p ù

p” [67, lời tựa]. Tuy nhiên khảo cứu cho thấy, chỉ có 8 bài chính luận, 7 bài thuộc

báo AG và 1 bài đăng trên báo CM; riêng Báo CT không có bài chính luận nào. “Để

b ớ ý ẽ p p ắ ò ỏ p

ể ề ĩ BĐKH b ề p ơ ỹ ă ò

bú T p ề ĩ BĐKH

ể b ạ ” [PVS -M7]. Thực tế này cho

cho thấy thể loại thể hiện thông điệp BĐKH trên báo Đảng khu vực ĐBSCL thiếu đa

dạng, năng lực chính luận của đội ngũ nhà báo khu vực này còn quá mỏng.

Một trong những hạn chế của báo in là ký hiệu thông tin đơn điệu, chỉ có chữ

viết và hình ảnh tĩnh. Thể loại infographic sử dụng đồ họa trực quan để trình bày giúp

96

cho công chúng tiếp nhận thông tin, đặc biệt những thông tin phức tạp dễ dàng hơn và

góp phần đa dạng thể loại, giúp tác phẩm báo chí và cách thức thông tin của báo in

thêm sinh động. Tuy nhiên, không có tác phẩm báo chí nào được xây dựng theo thể

loại infographic. Bên cạnh đó, tin bài dịch từ báo chí nước ngoài giúp công chúng

nắm bắt được những diễn biến mới của BĐKH và cách thức ứng phó BĐKH của các

quốc gia, cộng đồng quốc tế để học tập những kinh nghiệm, sáng kiến mới… Báo

CM không có bài dịch từ báo nước ngoài và ít khi đăng tải thông tin về BĐKH ở

ngoài nước. Điều đó cho thấy khả năng bao quát hoặc trình độ ngoại ngữ của đội ngũ

có vấn đề.

2.3.1.2. Ngôn ngữ, giọng điệu thể hiện thông điệp

Báo chí không chỉ là phương tiện thông tin mà còn là phương tiện hữu hiệu phổ

biến quan điểm, đường lối chính trị, kiến thức xã hội, góp phần nâng cao tri thức và

giáo dục công chúng. Hướng đến một đối tượng đa dạng (không đồng nhất về trình độ,

về tuổi tác, về giới tính...), báo chí đã sử dụng kênh ngôn ngữ như một hệ đa chức năng

không chỉ để đem thông tin đến cho người đọc mà còn nhằm tác động đến mọi đối

tượng, trong mọi lĩnh vực.

Với báo in, ngôn ngữ là nhân tố quan trọng quyết định giá trị của tác phẩm báo

chí vì nó là phương tiện chuyển tải nội dung, tạo dựng nên những thông điệp. Ngôn

ngữ báo in cần chứa đựng những thông tin mới lạ, hấp dẫn, được tổ chức ngắn gọn, cô

đúc, rõ ràng, dễ hiểu; vừa mang tính chuẩn mực để phục vụ đa dạng nhóm đối tượng và

chuyển tải thông tin chuẩn mực, vừa mang tính sáng tạo để hấp dẫn và lôi cuốn độc

giả. Chính vì vậy phân tích ngôn ngữ là một trong những chỉ báo quan trọng để đánh

giá chất lượng thông điệp về BĐKH trên báo Đảng.

Ngôn ngữ tít: Tít (đầu đề/ tiêu đề) là tên gọi của tác phẩm, là cơ sở để phân biệt

bài báo này với bài báo khác.

Có thể nói tít là câu quan trọng nhất trong một tác phẩm báo chí, tác động mạnh

mẽ đến việc họ lựa chọn đọc tác phẩm báo chí hay không. Thông thường, tít bài phản

ảnh nội dung chính hoặc vấn đề mà tác giả cho rằng cốt lõi, quan trọng nhất, độc giả

quan tâm nhất trong các thông tin mà bài viết cung cấp. Việc đặt tít với những câu từ

độc đáo không chỉ thu hút độc giả mà còn góp phần làm nên hồn cốt của tác phẩm báo

chí và khắc họa diện mạo, phong cách của người cầm bút. Tác giả Đức Dũng lưu ý khi

đặt đầu đề cho tác phẩm báo chí: “K ù ữ ừ ặp ạ ề K

97

b ộ b ể ề T ù ấ p

ờ ề ĩ T ữ ữ ă ỗ Đừ K

b ơ ù bằ ề K b ă ạ bằ ề T

ữ ề ộ ụ ể” [15, tr.96].

Kết quả khảo sát có 12.7% tít bài có cụm từ BĐKH; 31,7% số tít bài có các từ

hoặc cụm từ về biểu hiện của BĐKH như sạt lở, hạn hán, xâm nhập mặn, bão, lũ, El

Nino…; 698 tít bài khác (54,1%) và 1,6% tin không tít.

Việc đưa cụm từ BĐKH và các biểu hiện của nó vào tiêu đề bài viết giúp cho

thông điệp về BĐKH được nhấn mạnh, làm cho nổi bật, giúp cho công chúng dễ dàng

nhận diện thông điệp; khả năng tác động của thông điệp đến công chúng nhờ đó cũng

gia tăng hơn. Với 44,3% số tít bài có cụm từ BĐKH và các biểu hiện của nó, cho thấy

các báo khảo sát cũng xác định vấn đề BĐKH là nội dung quan trọng và là vấn đề được

công chúng rất quan tâm.

Đại đa số các đầu đề tác phẩm báo chí diện khảo sát đều ngắn gọn, cụ thể, rõ

ràng, khái quát nội dung của tin, bài hoặc nêu lên khía cạnh hay vấn đề, sự kiện nổi bật,

phát ngôn quan trọng... như: “Đề p ò p ặ ” (Báo AG ngày 7/3/2017),

“B K ỗ ” (Báo CT ngày 4/9/2018), “Cù ộ b ể

xanh không rác” (Báo CM ngày 5/6/2019). Một số “thủ thuật” đặt đầu đề được các tác

giả vận dụng để tăng tính hấp dẫn, như đặt dưới dạng câu hỏi mà nội dung bài viết sẽ lý

giải; dùng thủ pháp nghịch lý hoặc đối lập hoặc hoặc dùng dấu ngoặc kép với những từ

có sắc thái nghĩa khác nhau hoặc các từ ngữ không phổ biến… nhằm gây ấn tượng, tạo

ra giá trị biểu cảm khiến cho tít trở nên sinh động, hấp dẫn, như: “V ử ý ạ

ở bờ H ?” (báo AG ngày 31/7/2017), “BĐKH ạ ờ

ĩ?” (báo CT ngày 20/9/2017). “T ơ ạ ” (báo CT ngày 11/1/2018),

“B ơ ộ ” (báo CM ngày 28/6/2019), “K T ù b ể

“ ặ ”” (báo CM ngày 5/1/2018), “Hộ D H ” ĐBSCL” (Báo AG ngày

26/9/2017), “T Đ “ ớ ” (báo CT ngày 26/3/2019).

Đối với các tác phẩm phóng sự, bút ký, ghi chép… tít bài thường có văn phong

mềm mại, uyển chuyển, thường sử dụng các biện pháp tu từ gợi cảm xúc tinh tế dễ “bắt

mắt” người đọc, như: “Oằ ắ ” (báo CM ngày 23/11/2018), “S

“ ạ ” ở Độ 12” (báo CM ngày 2/5/2018), “Để ấ “ ” ơ p

ể ” (báo AG ngày 12/6/2018)…

98

Tuy nhiên, một số đầu đề tác phẩm báo chí còn chung chung, không thể hiện

được nội dung trọng tâm, chưa tạo sự lôi cuốn dẫn dắt người đọc, thậm chí gây khó

hiểu, như: “Đ é ề ấ ề ọ ” (báo AG ngày

12/7/2018), “Thàn ừ ớ ộ ” (báo AG ngày

15/11/2018),… Tít bài quá dài, trùng lắp nhau còn khá phổ biến, như “T ớ

N ễ X P ú ử ọ b ĩ ớ ỉ

ĐBSCL ộ p ớ ” (báo CT ngày 31/10/2017), “C Q

ộ N ễ T K N : P ể TP C T ơ ở

ạ ò ộ p ể ù ĐBSCL” (báo CT

ngày 6/12/2017). Báo CM có tít bài “C ộ p ò / p ” lặp lại

rất nhiều lần. Thậm chí, trong 2 số báo liên tiếp (ngày 29/10/2018 và 2/11/2018) đều có

tít bài “C b ề ờ ”. Việc đặt tít theo kiểu “rập khuôn” như trên

cho thấy sự rập khuôn, khiến cho thông tin trở nên nghèo nàn, kém thu hút. Điều này

cho thấy kỹ năng làm nghề của nhà báo còn dễ dãi.

Hạn chế khác của ngôn ngữ đầu đề tác phẩm thể hiện thông điệp về BĐKH ở

báo Đảng khu vực ĐBSCL là việc lạm dụng các con số, chủ yếu là nhấn mạnh mức độ

thiệt hại hoặc số tiền cần đầu tư, như: “T 2 251 ỷ ỹ p ò

tai” (Báo AG ngày 17/6/2019) “Nă 2016 ạ 1 500 ỷ BĐKH”

(Báo CM ngày 22/3/2017); Có trường hợp tít không phù hợp với nội dung, thậm chí sai

với nội dung thông tin hoặc sai về ngữ nghĩa, như tin “Ở ĐBSCL, hậu quả của sụt lún

đáng quan ngại hơn so với rủi ro do BĐKH” (Báo CT ngày 22/3/2017). Theo đó, sụt

lún dường như không liên quan gì đến BĐKH, trong khi sụt lún là một trong những

biểu hiện tiêu biểu của BĐKH ở ĐBSCL. Nội dung bài viết cũng nêu rõ: “Vớ ộ

BĐKH ạ Đ N Á ộ ă ớ b ể

3-4 / ă N ề p ở ụ ú

10-20 / ă ; ở p ộ ụ ú

25 / ă Như vậy, hậu quả của sụt lún đáng quan ngại hơn rất nhiều so với các

dự báo về những rủi ro do BĐKH gây ra”... So sánh tít và nội dung đoạn in đậm, thấy

rõ ràng tình trạng “đầu một đàng, thân một nẻo” khiến cho thông tin trong tác phẩm

không nhất quán.

- Phong cách ngôn ngữ thể hiện thông điệp

Theo Vũ Quang Hào, ngôn ngữ báo chí có 3 kiểu phong cách thường sử dụng là

phong cách ngôn ngữ chính luận, phong cách ngôn ngữ khoa học và phong cách ngôn

99

ngữ hành chính. Trong đó, phong cách ngôn ngữ khoa học có chức năng chủ yếu là

thông báo, phản ánh hiện tượng một cách khách quan với những lập luận logic, chặt

chẽ và mạch lạc, ít có các biểu đạt mang tính chất cá nhân.

Kết quả phân tích các bài viết trong diện khảo sát thể hiện rõ phong cách ngôn

ngữ khoa học, như: sử dụng nhiều thuật ngữ khoa học, chỉ dùng với một nghĩa, không

dùng các biện pháp tu từ. Câu văn câu văn mang sắc thái trung hòa, mạch lạc, cú

pháp chuẩn; …

“R ĐBSCL ấ ề ặ b p ể bề ữ

ắ ớ BĐKH Đ ũ 1 9 p p ớ p

ò ạ ă 2018 ă 2019 ể ạ ụ ề

C ĐBSCL ơ p ò ạ BĐKH

p ọ ơ ấ ă ở bề ữ

ộ p b Vấ ề ù ạ ạ ấ ũ

ấ ” (“T p ể bề ữ ĐBSCL”, Báo CM

ngày 26/9/2018).

Đoạn trích trên thể hiện rõ những đặc điểm của phong cách ngôn ngữ khoa học,

với hàng loạt thuật ngữ chuyên môn, ít thông dụng, nhưng qua TTĐC ngày càng trở

nên phổ cập, như: “b ổ ”, “ ơ ấ ă ở ” “ ù ” “

ạ ” Các câu trong đoạn được viết mạch lạc, trọn nghĩa; từ ngữ được sử dụng với

nghĩa đen, ít bộc lộ sắc thái biểu cảm.

Tuy nhiên, một số bài viết còn sử dụng nhiều thuật ngữ khó hiểu, như:

“T ữ ă 2018 ạ ạ TP C T ơ

ĐBSCL ă ấ thời đoạn ò ấp b ộ ờ

ở ạ ấ ạ p ơ ” (Báo CT ngày 11/1/2018, “Tă

ờ b p ặ ù ”)

“K b ấ 3 ă ớ hệ thống

chỉnh trị thì phân chia lưu lượng ừ 17-20% ( ớ ạ

8-10%) N ò ẽ p ể ề p lưu tốc

p ă ở bờ ă ề hố xói ạ ở bờ ẽ

” (Báo AG ngày 23/10/2018 “Nạ é ỉ ò

H ”).

Không thể phủ nhận trong một số trường hợp việc sử dụng thuật ngữ là từ mượn

có nguồn gốc từ tiếng Anh, Pháp hay chữ Hán Việt là cần thiết để định danh các đối

100

tượng mà tiếng Việt chưa có từ ngữ biểu thị. Tuy nhiên các từ được in đậm trong ví dụ

trên hoàn toàn có thể diễn giải một cách đơn giản, dễ hiểu hơn mà yếu tố chính xác về

mặt ngữ nghĩa vẫn ở mức có thể chấp nhận được như “ ạ ” thay cho “ ỉ ”,

“ ạ ” thay cho “ ờ ạ ”; lượt bỏ bớt các thông tin quá đặc thù chuyên

ngành… để đảm bảo công chúng tiếp nhận thông tin có thể hiểu được chính xác nội

dung thông điệp mà tác phẩm muốn chuyển tải.

Do chịu ảnh hưởng của đặc trưng thể loại, nên nhìn chung có sự giống nhau về

kiểu tổ chức ngôn ngữ trên báo Đảng khu vực ĐBSCL. Ngôn ngữ trong các bản tin

thường là miêu tả, tường thuật; trong các bài phóng sự thường là ngôn ngữ biểu cảm;

trong các bài phỏng vấn, trả lời bạn đọc là ngôn ngữ hội thoại. Đặc biệt là trong các

bài viết thể loại phóng sự, phỏng vấn, các từ ngữ địa phương Tây Nam bộ cũng được

sử dụng khá nhiều. Đó là những từ ngữ định danh sự vật, hiện tượng riêng có ở Nam

Bộ như: ù ạ ạp; cách gọi khác của sự vật, hiện tượng,

đặc điểm, tính chất... xài (sử dụng), tui (tôi) b ể (bảo) (thật), (làm);

Những tiểu từ tình thái: hé (thế đấy, nhỉ), hen (nhé), nghen (nghe không)…

“A N ễ M C ở chóp " ở" bộ bạ : “Lở dữ lắm ấ

ú ơ Hồi đó nhà tui miết ngoài kia, lùi vô lần lần ớ N ớ

p ơ ” (Báo CM ngày 31/3/2017 “V X ”).

“C ù ờ ơ ạ ấp ỏ ỗ ớ ọ Dù

ữ ớ lu, khạp ử ụ ”

(Báo CT ngày18/2/2019 “N ớ ”)

“Nă ở ạ ộ b b T ớ dừng ạ ò

tum húm b é ” … “Cò mùa chướng thì đi mần ơ ò ă ở

không ”. (Báo CM ngày 15/12/2017 “G H ù ở ớ ”).

Việc sử dụng từ ngữ địa phương có tác dụng bảo tồn những đặc trưng văn hóa

riêng của vùng miền mà trong nhiều trường hợp khó thể thay thế bằng từ ngữ toàn dân.

Đồng thời, từ ngữ địa phương có giá trị cao về mặt phong cách (phù hợp với ngữ

cảnh,…); cách sử dụng ngôn ngữ như vậy tạo ra sự hấp dẫn, gần gũi đối với công

chúng ĐBSCL. Tuy nhiên, việc sử dụng các từ ngữ địa phương hay ngôn ngữ toàn dân

trong tác phẩm cũng cần phải cân nhắc, cẩn trọng để tác phẩm có thể đến với đại đa số

công chúng, đảm bảo tốt chức năng thông tin của báo chí.

Phân tích cũng cho thấy, để miêu tả về BĐKH, có những từ/ cụm từ lặp lại

nhiều lần như: “ ể ọ ” “ ” “ ể ọ ớ ấ

101

nhâ ạ ” “ ọ ” “ ấ ạ ” “ ”; nói về tác động của BĐKH thì

“ ” “ p” “ ọ ” “ ”… Nhiều bài viết tô đậm

các chi tiết tạo ấn tượng mạnh mẽ về sự mất mát và thiệt hại của BĐKH, như: “hàng

ụ ở BĐKH”, “BĐKH ể N Á

ơ ể ”, nhiều bài viết khác thì nhấn mạnh vào số người thương

vong... Cách sử dụng từ ngữ “gây sốc” như vậy sẽ thu hút sự chú ý, tác động mạnh đến

độc giả, giúp nâng cao hiệu quả cảnh báo về tác động của BĐKH đến đời sống con

người. Tuy vậy, sử dụng thường xuyên những từ ngữ mang tính “đe dọa” cũng vô tình

tạo ra những tác động không mong muốn đến công chúng, khiến họ nghĩ rằng BĐKH

là một vấn đề nằm ngoài tầm kiểm soát của con người và hoàn toàn không có giải pháp

ngăn chặn. Điều này không hiệu quả trong việc thúc đẩy công chúng thay đổi hành vi

để thích nghi và hạn chế tác động của BĐKH [118].

2.3.1.3. Ngôn ngữ phi văn tự

“T ữ p ă ể ọ ữ b

ă ớ ạ ă ạ ọ ọ b ể b

ơ b ể …” [47, tr.140]. Các thông tin phi văn tự có thể đứng độc lập để

biểu đạt thông điệp hoặc kết hợp trong bài viết, giúp tác phẩm báo chí sinh động và

hấp dẫn.

Qua khảo cứu, không có thông điệp về BĐKH được cấu tạo hoàn toàn bằng

ngôn ngữ phi văn tự mà chủ yếu đi kèm bài viết để làm nổi bật thông điệp tác giả muốn

chuyển tải. Trong đó, có 787 bài báo có kèm hình ảnh, chiếm tỷ lệ 61%. Duy nhất 01

bài viết có kèm bản đồ, sơ đồ (“B ề C Lớ - Cái Bé” Báo CT ngày

1/10/2018). Có 504 bài viết không đính kèm hình thức phi ngôn ngữ nào (39%). Điều

này một phần là do “ ạ p ă ọ ọ … ò

ỏ ỹ ă ỹ b p b ể

t ể p ụ ”. [PVS - M8]. Thực trạng cho thấy việc sử dụng các loại hình

ngôn ngữ phi văn tự để thể hiện thông điệp về BĐKH trên báo Đảng địa phương

ĐBSCL còn rất hạn chế.

- Hình ảnh:

Công chúng tiếp nhận thông tin qua hình ảnh sẽ nhanh chóng, dễ dàng và nhớ

lâu hơn so với chữ viết. “H ĩ p ơ ấ ể ấ ạ ộ

ú ạ ẽ ấ ạ ộ ể ọ ộ ặ ể ạ

ộ ạ ụ ể” [49, tr.212]. Ảnh báo chí đòi hỏi phải chặt chẽ về bố cục, rõ

102

ràng, sắc nét về hình thức, được ghi lại trong khoảnh khắc tự nhiên, chân thật, khách

quan gắn liền với sự kiện, nhân vật và có giá trị thông tin, được chú thích cụ thể.

Bức ảnh có giá trị sẽ làm nổi bật điểm quan trọng trong tác phẩm báo chí và tạo được

cảm xúc, sự hấp dẫn với công chúng.

Trong các tác phẩm thể hiện thông điệp về BĐKH trên báo Đảng khu vực

ĐBSCL có 419 bài báo (54.7%) có hình ảnh về BĐKH được lấy trực tiếp hiện trường,

42 hình ảnh về BĐKH (5.3%) mang tính minh họa và 40% hình ảnh khác (trong các

bài viết mà nội dung BĐKH được đề cập rất ít).

Các hình ảnh hiện trường chủ yếu tường thuật tác động của BĐKH như sạt lở

bở sông, cây đổ, ngập lụt, nhà cửa hư hại; các mô hình ứng phó với BĐKH... đã làm

tăng tính thuyết phục của thông tin bởi người đọc như được “nhìn tận mắt” sự kiện, sự

việc, mô hình… mà bài viết đề cập. Một số hình ảnh giúp bổ sung thông tin cho bài

viết, tạo những “điểm nhấn” đầy cảm xúc. Điển hình như bức ảnh ba đứa trẻ ngồi chơi

ở một khoảnh đất nhỏ đầy rác giữa các căn nhà bằng lá, vách dừng bằng tôn xiêu vẹo,

giúp cho thông tin về việc trẻ em thiếu sân chơi, thất học và về cuộc sống cơ cực, đói

kém vì phải “chạy sạt lở” của người dân nơi “chóp” Vàm Xoáy thêm thuyết phục

(“V X ” Báo CM ngày 31/3/2017). Hình ảnh trên không chỉ giúp cho tác

phẩm “bắt mắt”, giảm bớt sự đơn điệu tẻ nhạt của các con chữ mà còn tác động mạnh

vào thị giác, tạo được ấn tượng mạnh mẽ với công chúng về hậu quả khốc liệt và lâu

dài của BĐKH lên đời sống con người.

Hình 2.2: Ảnh trong bài “Vàm Xoáy kêu cứu” (Báo CM ngày 31/3/2017)

Tương quan giữa ba báo được khảo sát, Báo CM có tỷ lệ bài báo được trình bày

kèm theo ảnh có tỷ lệ cao nhất là (69.5%), kế đó là báo CT (66.4%) và báo AG

(49.7%). Không chỉ vượt trội về số lượng, hình ảnh trên báo CM khá chăm chút, nhiều

ảnh hiện trường có giá trị thực tế và giá trị nghệ thuật cao. Đặc biệt, trong khi cả 2 báo

103

còn lại không có phóng sự ảnh nào thì trên báo CM có đến 7 phóng sự ảnh về BĐKH.

Các phóng sự ảnh đều được in trang ruột giữa (trang in màu) nên hình ảnh rõ nét, đẹp

và tạo được ấn tượng với công chúng.

Hình 2.3: Các chùm ảnh/ phóng sự ảnh trên báo Cà au

Hạn chế về ảnh trong các tác phẩm báo chí mang thông điệp về BĐKH trên báo

Đảng khu vực ĐBSCL là một số ảnh chất lượng chưa tốt (ảnh quá tối hoặc bị mờ). Ảnh

của cùng một sự vụ nhưng sử dụng cho nhiều bài viết khác nhau. Việc sắp xếp vị trí

chưa hợp lý giữa hình ảnh và chữ viết khiến cho hình thức của bài viết không đẹp.

Một số hình ảnh có bố cục chưa đẹp, chưa mang phong cách ảnh báo chí hoặc chưa

phù hợp với nội dung bài viết… Điển hình như bài viết “C ộ ề p ò ờ

ể ” (báo AG ngày 16/6/2017) đề cập thời tiết bất thường gây nhiều tác hại

trên địa bàn. Tuy nhiên, bài viết đăng kèm bức ảnh đen trắng chụp bản đồ khí tượng

mà người không nằm trong ngành thật sự không hiểu nội dung bức ảnh muốn nói lên

điều gì. Bài “Tă ờ p p p ò ạ ” (báo CT ngày 11/3/2018)

đăng ảnh vườn cây với chú thích “Ngành p Cờ Đỏ ỗ

ể ổ ơ ấ ử ụ ớ ù ạ ”. Bức ảnh vườn cây

không một bóng người, được đăng với kích thước nhỏ, không rõ nét khiến người xem

không thể đoán được đó là mô hình gì. Điều đáng nói là trong bài viết không hề đề

cập đến việc huyện Cờ Đỏ đã hỗ trợ nông dân chuyển đổi cơ cấu cây trồng gì?

Chuyển đổi như thế nào?... Bức ảnh vừa kém thẩm mỹ, được gán ghép một cách

khiêm cưỡng không góp phần chuyển tải và nâng tầm thông điệp mà còn làm ảnh

hưởng đến giá trị thông tin của bài viết. Trang 2 báo CM ngày 14/5/2018, tin “C

ộ p ò ạ ở” đăng ảnh Chủ tịch UBND tỉnh Cà

Mau chống một tay vào cạnh sườn, một tay chỉ về phía trước tạo ấn tượng chưa đẹp

về tác phong của vị lãnh đạo, tính thẩm mỹ của ảnh chưa cao.

104

Hình 2.4: Ảnh trong bài viết “Chủ

động đề phòng thời tiết nguy

hiểm”

(Báo AG ngày 16/6/2017)

Hình 2.5: Ảnh trong bài viết “Tăng

cƣờng giải pháp phòng chống

khô hạn”

(Báo CT ngày 11/3/2018)

Hình 2.6: Ảnh trong bài viết “Cần

vào cuộc của toàn dân trong phòng

chống sạt lở”

(Báo CM ngày 14/5/2018

105

2.3.2. Cách thức tổ chức thông điệp biến đổi khí hậu trên báo Đảng đồng

bằng sông Cửu Long

2.3.2.1. Tần suất và cách thức tổ chức thông điệp về biến đổi khí hậu

Với 1.290 tác phẩm báo chí thể hiện thông điệp về BĐKH, có thể thấy nội dung

BĐKH được báo Đảng khu vực ĐBSCL rất chú trọng, tần suất tương đối dày. Tính tần

suất xuất hiện theo tỉ lệ bài báo có thể hiện thông điệp về BĐKH/ tổng số ấn phẩm

trong kỳ khảo sát thì tần xuất xuất hiện trên báo AG là vượt trội, chiếm 78.5%; Báo

CM là 56.7% và Báo CT có tỷ lệ 56.0%.

Nếu xét theo năm, số lượng bài báo thể hiện thông điệp về BĐKH trong năm

2017 nhiều nhất, 610 bài báo; năm 2018 có 442 bài và 6 tháng đầu năm 2019 là 238

bài. Trong số 3 tờ báo, báo CT có sự chênh lệch lớn về số lượng bài viết về BĐKH

giữa các năm. Năm 2017, Báo CT có 267 bài có thể hiện thông điệp về BĐKH, gần

gấp đôi so với năm liền sau (151 bài). Nguyên nhân của sự tăng vọt này là do năm

2017 Cần Thơ được lựa chọn là nơi tổ chức nhiều hoạt động, sự kiện mang tầm quốc tế

có liên quan đến BĐKH; trước, trong và liền sau các sự kiện báo CT đăng tải hàng loạt

tin, bài viết về công tác chuẩn bị, tường thuật sự kiện, ghi nhận các ý kiến bên lề… nên

số lượng bài báo tăng đáng kể. Cụ thể, tháng 8/2017, diễn ra T ễ A ơ

Đ ạ ấp ề ơ p bề ữ

ớ BĐKH, báo CT có 32 bài viết có thể hiện thông điệp về BĐKH, chênh

lệch vượt trội so với tháng liền trước chỉ có 14 bài. Tháng 9/2017- tháng diễn ra Hộ

ề p ể bề ữ ù ĐBSCL ớ BĐKH - báo CT có 40 bài, cao

gần gấp đôi so với tháng liền sau là 21 bài. Ở báo AG, tháng 5/2017, thời điểm sau khi

xảy ra vụ sạt lở nghiêm trọng ở sông Vàm Nao có 38 bài về BĐKH, trong khi hai tháng

thấp nhất của năm 2017 là tháng 3 và tháng 11 chỉ có 8 bài. Ở Cà Mau, mặc dù số

lượng không chênh lệch nhiều giữa các tháng, nhưng số bài viết về BĐKH cũng tăng

hơn vào tháng 4-5 và các tháng cuối năm.

Phân tích cho thấy, mặc dù vẫn đảm bảo dòng chảy thông tin nhưng số lượng

các bài viết về về BĐKH trên báo Đảng địa phương không ổn định mà thay đổi theo số

lượng, mức độ của sự kiện về BĐKH được tổ chức và tác động của BĐKH trên địa

bàn. Điều này, trong một số trường hợp có thể ảnh hưởng đến hiệu quả của chiến dịch

truyền thông đối với công chúng mục tiêu mà nó nhắm tới.

80

60

40

20

0

1

2

3

4

5

8

9

10

12

Báo An Giang

6 7 Báo Cà Mau

11 Báo Cần Thơ

106

Biểu đồ 2.5: Tần suất đăng tải bài viết về BĐKH trên báo Đảng

khu vực ĐBSC năm 2017

(N : K báo AG, báo CM và báo CT ừ 2017 6/2019)

Theo lý thuyết “Thiết lập chương trình nghị sự” của TTĐC, nếu một nội dung

được nhắc thường xuyên, liên tục và nổi bật, công chúng sẽ nhớ tới nó và coi nó quan

trọng hơn những thông tin khác. Một tác phẩm có nội dung trọng tâm về BĐKH, hay

mang thông điệp đích là về BĐKH, dĩ nhiên cũng sẽ làm cho công chúng chú ý, dễ

dàng nhận diện và có sức tác động mạnh mẽ hơn. Theo kết quả khảo sát, trong tổng số

1.290 bài báo có mang thông điệp về BĐKH, chỉ có 462 bài có nội dung chủ yếu nói về

BĐKH. Trong 828 bài, thông điệp về BĐKH chỉ là thông điệp bộ phận, không phải là

trọng tâm nội dung mà bài báo hướng tới. Ở báo An Giang, mặc dù có tần suất bài viết

có thể hiện thông điệp về BĐKH cao nhất, nhưng chỉ có 19,3% là chủ yếu nói về

BĐKH. Ở hai báo CT và báo CM số bài báo có nội dung trọng tâm là BĐKH không có

sự chênh lệch đáng kể và cao hơn gấp 2 lần so với báo An Giang, dao động từ 44.6%

và 49.1%.

Đáng lưu tâm là trong 828 bài mang thông điệp bộ phận về BĐKH có hơn một

nửa - 503 bài - nội dung BĐKH được đề cập rất ít. Thậm chí, trong hàng trăm bài viết

sơ kết, tổng kết và triển khai công tác giai đoạn mới của ngành, của tổ chức, đơn vị;

các tin, bài về đại biểu Quốc hội/ Hội đồng nhân dân tiếp xúc cử tri… nội dung về

BĐKH chỉ được đề cập thoáng qua một câu, với mô - tuýp phổ biến, như: “T b

BĐKH p ạp ờ p ơ …”, “ ử ề

ề ơ ữ p BĐKH”, “trong ă

( ặ ờ ớ ) ơ ã ( ẽ) ụ ọ (… )

ạ p BĐKH”, “ p ơ ụ ọ ờ

ớ (…) p ớ BĐKH”…

107

Các chỉ báo này cho thấy, mặc dù tần suất xuất hiện thông điệp về BĐKH trên

tổng số ấn phẩm trong kỳ khảo sát là khá cao, nhưng thật sự số lượng bài viết chuyên

sâu, có nội dung trọng tâm là BĐKH của các báo Đảng khu vực ĐBSCL là không

đáng kể. Xét tương quan ở các báo khảo sát, báo AG mặc dù có tỉ lệ bài báo có mang

thông điệp về BĐKH nhiều nhất nhưng lại rất ít bài mang nội dung trọng tâm về

BĐKH (19,3%) mà vấn đề này thường được đề cập thoáng qua (49,9%) hoặc nội

dung về BĐKH đề cập chung, ngang hàng với các chủ đề khác (30,5%). Ở báo CM

và báo CT, dù tần xuất thông điệp trên số kỳ báo xuất bản có ít hơn, nhưng tỷ lệ bài

báo mang thông điệp đích về BĐKH cao hơn gấp 2 lần so với báo AG, lần lượt là

44.6% và 49.1%.

Biểu đồ 2.6: ức độ đề cập đến vấn đề BĐKH

(N : K báo AG, báo CM và báo CT ừ 2017 6/2019)

2.3.2.2. Chuyên mục và vị trí đăng tải

Chuyên mục và vị trí đăng tải là chỉ báo quan trọng, phản ảnh tầm quan trọng

của chủ thể đối với thông điệp truyền thông về nội dung nào đó, đồng thời cũng cho

biết thông điệp đến với công chúng thuận lợi hay không. Trên báo in, chuyên mục là

nơi dành cho loại đề tài cụ thể xuất hiện định kỳ, ở một vị trí nhất định trên trang báo,

có tính chuyên biệt và tương đối ổn định về dung lượng, hình thức thể hiện... Chuyên

mục có thể coi là sự giao ước của cơ quan báo chí với công chúng trong việc cung cấp

thông tin, nếu có sự thay đổi hoặc có sự cố, cơ quan báo chí phải cáo lỗi và thông báo

trước cho công chúng. Vị trí trang đăng tải cũng có ý nghĩa nhất định khi đánh giá hiệu

quả tác động của thông điệp đến công chúng. Bởi lẽ, thông điệp xuất hiện ở vị trí trang

1 luôn dễ dàng thu hút người đọc hơn các trang khác vì dễ nhìn thấy.

108

Khảo sát cho thấy, cả 03 báo đều không có chuyên mục BĐKH cũng như

chuyên trang cố định dành riêng cho nội dung này, là một hạn chế rất lớn trong việc tạo

điều kiện để thông điệp BĐKH tiếp cận với công chúng. Bởi trong thực tế, có rất nhiều

công chúng đón đợi một tờ báo xuất bản hàng ngày chỉ là muốn theo dõi một dòng

thông tin, một chuyên mục nào đó trên báo mà thôi. Xây dựng chuyên mục định kỳ

giúp công chúng dễ theo dõi thông tin, đem đến cho công chúng một cái nhìn xuyên

suốt, liên tục về thông tin, tạo ra sức lan tỏa sâu rộng của thông tin. Nếu như một

chuyên mục có được những vấn đề mà đông đảo công chúng quan tâm, tờ báo đó có

thể nhận được nhiều ý kiến bạn đọc tranh luận sẽ tạo ra một diễn đàn thực sự. Việc báo

chí duy trì và quan tâm phát triển các chuyên mục với chất lượng ngày càng hấp dẫn

hơn, có dấu ấn riêng sẽ góp phần phát huy vai trò của báo chí một cách mạnh mẽ trong

đời sống xã hội.

Về vị trí đăng tải, cách bố trí nội dung của 03 báo khảo sát có nhiều nét tương

đồng: Cả 03 báo đều có 4 trang in màu là trang bìa, trang cuối và 2 trang giữa (trang

6,7 của báo CM, AG; trang 8-9 của báo CT). Ở trang 1, dưới măng sét sẽ giới thiệu các

tin, bài “đinh” của số báo. Tin, bài thời sự thường được đăng ở trang 2, trang 3 hoặc

các trang trong theo mức độ giảm dần tính quan trọng. Trang cuối thường dành cho

quảng cáo. Khi không đăng quảng cáo, Báo CT và báo AG đăng các tin bài thời sự

quốc tế, riêng báo CM vẫn đăng các bài viết có nội dung đề cập địa bàn trong nước

Các trang còn lại

Trang 2 – 3

Trang màu giữa

Trang cuối

hoặc trên địa bàn tỉnh.

Biểu đồ 2.7: Vị trí đăng tải các bài viết

(N : K b AG, báo CM và báo CT ừ 2017 6/2019)

Với 42,2% số bài viết được giới thiệu ở trang 1 và hơn 50% bài viết đăng ở

những trang có vị trí quan trọng (trang 2, 3, trang in màu) cho thấy các tòa soạn báo

Đảng khu vực ĐBSCL đều coi trọng nội dung thông tin này. Các tác phẩm báo chí

được đăng ở những vị trí quan trọng sẽ giúp thông điệp dễ dàng tiếp cận và lan tỏa.

109

2.3.2.3. Tác giả bài viết

“T p ơ ề ề ở ộ

ớ ề b MXH ĩ ề b

p p ừ úp b ắ bắ ễ ừ ă

ú ộ bạ ọ ò ” [2]. Các công tác

viên là “tai mắt”, giúp toà soạn kịp thời phát hiện, thông tin về về diễn biến, tác động

của BĐKH, việc thực thi các chính sách BĐKH… đảm bảo tính thực tiễn sâu sắc; vừa

là kênh phản hồi thông tin đánh giá tác phẩm báo chí - một thước đo quan trọng đánh

giá chất lượng của tờ báo.

Tuy nhiên, kết quả khảo sát cho thấy các báo Đảng khu vực ĐBSCL chưa làm

tốt công tác xây dựng và phát triển đội ngũ cộng tác viên cho tuyến bài viết về BĐKH.

Tác giả của các bài viết này chủ yếu là nhà báo (96,7%), có 19 bài được viết bởi các

chuyên gia, nhà khoa học và 15 bài viết bởi tập thể cơ quan. Số lượng bài do người dân

(thông tin viên, cộng tác viên) gửi đến và được tòa soạn đăng tải chỉ có 04 bài và 01 bài

của cán bộ quản lý. Có 04 bài không đề cập tên tác giả.

So sánh tương quan giữa các tờ báo khảo sát, báo CT có số lượng bài báo về

BĐKH do tác giả là Người dân; Tập thể và Chuyên gia, nhà khoa học nhiều hơn so với

hai báo còn lại, tuy nhiên số lượng này cũng không đáng kể, chỉ có 23 bài trong cả kỳ

khảo sát. Trong khi đó, báo AG có 15 bài do các chuyên gia, nhà khoa học viết - chủ

yếu chia sẻ và hướng dẫn kỹ năng canh tác nông nghiệp trong điều kiện BĐKH diễn

biến phức tạo - đăng ở các chuyên mục “Khuyến nông” và “Cùng nông dân ra đồng”.

Riêng báo CM, các bài viết do nhà khoa học, người quản lý và công tác viên thực hiện

mỗi loại chỉ có duy nhất 01 bài.

Cộng tác viên là “cánh tay nối dài” của các cơ quan báo chí, góp phần không

nhỏ trong việc xây dựng và phát triển một tờ báo. Với nội dung BĐKH, các bài phân

tích của các chuyên gia, các nhà khoa học với các căn cứ khoa học, lý luận chặt chẽ…

sẽ có tính thuyết phục hơn. Tương tự, những cộng tác viên là người dân sẽ giúp cho các

thông tin về BĐKH từ thực tiễn sớm đến được với trang báo, chính xác, cập nhật…

góp phần làm cho các thông điệp từ truyền thông tới gần hơn với công chúng. Các chỉ

báo về tác giả bài báo vừa nêu sẽ là cơ sở để đề tài đưa ra một số khuyến nghị giải pháp

phù hợp nhằm khuyến khích việc đăng tải những bài nhìn dưới góc độ của các đối

tượng tác giả này.

110

Tiểu kết chƣơng 2

Chương 2 trình bày kết quả khảo sát 2.037 tờ báo An Giang, Cà Mau và Cần

Thơ từ tháng 1/2017 đến tháng 6/2019, cho thấy được thực trạng thông điệp về BĐKH

trên báo Đảng khu vực ĐBSCL, cả về nội dung lẫn hình thức.

Nội dung thông điệp về BĐKH trên báo Đảng khu vực ĐBSCL được khai thác

ở nhiều góc độ tiếp cận khác nhau, lĩnh vực đề cập nhiều nhất lần lượt là biểu hiện,

hoạt động ứng phó, tác động, và nguyên nhân, của BĐKH. Cái bài viết trên báo cũng

đã thông tin kịp thời các chính sách và hoạt động thực thi các chích sách ứng phó

BĐKH; chia sẻ những kinh nghiệm, giải pháp hữu ích để thích ứng với BĐKH… để

người dân nắm bắt, vận dụng vào thực tiễn. Tuy nhiên, thông điệp về BĐKH trên báo

Đảng khu vực ĐBSCL có sự chênh lệch khá lớn phân tích nguyên nhân BĐKH với các

lĩnh vực còn lại. Đa số báo Đảng địa phương thông tin nhiều về việc tham gia hoạt

động ứng phó của lãnh đạo địa phương theo kiểu lễ tân; thông tin về nội dung các

chính sách hơn là giám sát việc thực thi chính sách về BĐKH, các giải pháp, cách thức

ứng phó và thích nghi cụ thể, những kinh nghiệm hay hoặc những nhận định, bình

luận, đánh giá có tính dự báo cao... cũng có chưa được đề cập nhiều.

Về hình thức, các thông điệp được thể hiện bằng văn phong ngôn ngữ gần gũi

dễ hiểu, có nhiều tác phẩm dài kỳ được đầu tư công phu, tâm huyết, trách nhiệm của

nhà báo với công tác phòng chống BĐKH. Một tỷ lệ lớn các bài báo được đăng ở các

trang màu, trang 2-3 và được giới thiệu ở trang 1 của tờ báo với hình ảnh đẹp. Tuy

nhiên, hầu hết các bài viết chứa thông điệp về BĐKH được đăng tải với thể loại tin, bài

thông tấn, những bài viết với thể loại chính luận, hoặc các bài được dịch từ báo nước

ngoài,… có số lượng rất ít; các thể loại báo chí mới như infographic chưa có; chưa tổ

chức được đội ngũ chuyên gia, nhà khoa học, cộng tác viên ổn định tham gia vào hoạt

động này; chưa tổ chức được chuyên mục BĐKH định kỳ trên báo...

Trong cuộc chiến lâu dài chống BĐKH, báo chí có vai trò to lớn trong việc góp

phần nâng cao nhận thức cho người dân, cho các ngành, các cấp lãnh đạo... để có hành

vi, thái độ ứng xử đúng đắn và quyết tâm cao trong hành động. Vì thế, từ kết quả khảo

cứu mà Chương 2 đã trình bày, cần có sự nhìn nhận nghiêm túc về thành công, hạn chế

và những giải pháp khắc phục hợp lý để truyền thông ứng phó với BĐKH trên báo

Đảng khu vực ĐBSCL phát huy hiệu quả hơn nữa.

111

Chƣơng 3

CÔNG CHÚNG BÁO ĐẢNG ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG

VỚI THÔNG ĐIỆP BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU

Thông điệp có đời sống riêng của nó. Những thông điệp được hiểu đúng, đi vào

trí nhớ của người nhận, có thể cải biến niềm tin và thái độ của người nhận theo hướng

mong muốn, được xem là những thông điệp có đời sống lâu dài, có giá trị. Đời sống

thông điệp có phát sinh, phát triển và suy thoái. Vậy nên, duy trì và đổi mới thông điệp

nói chung, thông điệp về BĐKH trên báo Đảng nói riêng, luôn có sức sống, sức hấp

dẫn là vấn đề luôn cần được quan tâm; chống suy thoái, sáo mòn thông điệp lại cũng là

câu chuyện càng nên ưu tâm.

Tìm hiểu thực trạng tiếp nhận thông điệp của công chúng không chỉ là cơ sở

quan trọng cho sự điều chỉnh nội dung, hình thức thông tin của các sản phẩm báo chí,

mà còn là cơ sở đánh giá, đề xuất những thay đổi về cơ chế tổ chức, phương thức

chuyển tải nhằm tạo ra dòng thông điệp báo chí phù hợp, nhằm nâng cao năng lực và

hiệu quả tác động của báo chí về BĐKH. các nhóm công chúng mục tiêu, có sức sống

lâu dài.

Để thấy được rõ thực trạng tiếp nhận, đánh giá và nhu cầu thông tin của công

chúng về BĐKH trên báo Đảng khu vực ĐBSCL, LA đã khảo sát 450 ý kiến công

chúng ở An Giang, Cà Mau và Cần Thơ (mỗi địa phương thu thập đủ 150 ý kiến) từ đó

đề xuất giải pháp thích hợp nâng cao chất lượng thông tin về BĐKH trên báo Đảng địa

phương nói riêng, hiệu quả công tác truyền thông về BĐKH nói chung.

3.1. NHẬN DIỆN CÔNG CHÚNG BÁO ĐẢNG ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG

3.1.1. Về nhân khẩu học xã hội

Về đặc điểm nhân khẩu học xã hội, kết quả khảo sát cho thấy:

Về ộ ổ , đa số công chúng báo Đảng khu vực ĐBSCL tham gia trả lời trong

khung tuổi lao động (từ 22-60 tuổi), trong đó tỷ lệ người trong độ 35-60 tuổi chiếm đa

số với 57.1%, 21.3% từ 22-35 tuổi. Có 56 người (14.4%) tuổi trên 60 và 33 người

(7.1%) dưới 22 tuổi.

Về ớ có 244 nữ giới, chiếm 54.2% và nam giới là 206 người, chiếm

45.8%. Điều này cho thấy, không có sự chênh lệch đáng kể giữa công chúng là nam

giới hoặc nữ giới, đồng thời cũng cho thấy đối tượng độc giả tìm hiểu thông tin về

BĐKH trên báo Đảng địa phương giữa nam và nữ tương đương nhau.

112

N ề p : Khảo sát cho thấy đại bộ phận đối tượng công chúng

đều làm trong cơ quan nhà nước (50.7% là cán bộ, công chức, viên chức, lực lượng vũ

trang (bộ đội, công an); 23.1% là công nhân, nông dân, buôn bán, dịch vụ và 20%

người là làm nội trợ, hưu trí; còn lại là học sinh, sinh viên (4.7%) hoặc những người

làm tự do (1.6%). So sánh giữa 3 địa phương khảo sát, tỷ lệ công chúng làm trong cơ

quan nhà nước ở Cần Thơ (60.6%) cao hơn so với An Giang (48%) và Cà Mau

(43.3%); tỷ lệ người dân về hưu hoặc ở nhà nội trợ tham gia đọc báo Đảng cao nhất so

với 2 địa phương còn lại, với tỷ lệ là 22.7%. Đối với nhóm Công nhân, Nông dân,

Buôn bán, dịch vụ, Cà Mau có tỷ lệ công chúng cao nhất, với tỷ lệ là 28.6%.

Có đến 96.4% số người được hỏi là Đảng viên/hội viên các tổ chức chính trị xã

hội (Công đoàn, Đoàn Thanh niên, Hội Liên hiệp Phụ nữ, Hội Cựu chiến binh, Hội

Nông dân) và chỉ có 3.6% là người không tham gia tổ chức chính trị xã hội nào. Số liệu

này hoàn toàn hợp lý nếu so sánh với chỉ báo về nghề nghiệp công chúng nêu phần

trên. Do đại bộ phận công chúng làm trong cơ quan nhà nước, vì thế tỷ lệ Đảng viên và

đoàn viên các tổ chức chính trị xã hội ở mức cao.

G ể

ể p ú b Đ b ý p

1.6

20

4.7

50.7

23.1

Cán bộ/ công chức/ viên chức/ lực lượng vũ trang Công nhân/ Nông dân/ Buôn bán, dịch vụ Học sinh, sinh viên

ơ ở.

Biểu đồ 3.1: Nghề nghiệp của công chúng tham gia khảo sát

3.1.2. Về trình độ văn hoá

Về ộ ọ ấ chủ yếu có trình độ Cao đẳng/Đại học (53.4%). 36.9%

người có trình độ ở cấp 3/Phổ thông trung học và 7.1% có trình độ trên Đại học. Ngoài

ra có 3.6% người có trình độ ở cấp 2/Trung học cơ sở.

113

Nếu chia trình độ học vấn cao nhất theo 2 cấp: Dưới Đại học và từ Đại học trở

lên, có thể thấy người từng tiếp nhận thông điệp về BĐKH trên báo Đảng khu vực có

trình độ Đại học trở lên chiếm đa số là 59,6%. Từng được xem là “vùng trũng” về giáo

dục trong cả nước, tỉ lệ này cho thấy sự đầu tư về giáo dục ngày càng mạnh mẽ và

được chú trọng đã góp phần nâng cao trình độ học vấn của người dân đồng bằng. Tuy

nhiên, nó cũng cho thấy báo Đảng khu vực ĐBSCL khá “kén” công chúng vì nội dung

nặng về chính trị, khoa giáo, ít có các nội dung mang tính giải trí để thu hút đối tượng

công chúng có trình độ văn hóa mức thấp.

So với 2 địa phương còn lại, Cần Thơ có tỉ lệ công chúng có trình độ học vấn

trên Đại học cao nhất (10%). Điều này cũng hợp lý vì Cần Thơ là nơi tập trung nhiều

trường Đại học, cao đẳng nhất so với các địa phương trong khu vực nên điều kiện học

tập của cư dân thuận lợi hơn. Bên cạnh đó, với vị thế là Thành phố loại 1 trực thuộc

trung ương, là đô thị hạt nhân của vùng, Cần Thơ quy tụ nhiều tập đoàn, doanh

nghiệp, cơ quan Trung ương và tổ chức quốc tế đặt trụ sở kéo theo nguồn nhân lực có

56

55

47.3

42

34.7

34

10

6

5.3

4.7

4

2

60 50 40 30 20 10 0

Sau đại học

Cấp 2/Trung học cơ sở

Cấp 3/Phổ thông trung học

Cao đẳng/ Đại học

An Giang

Cà Mau

Cần Thơ

trình độ cao.

Biểu đồ 3.2: Trình độ công chúng tham gia khảo sát

3.1.3. Về điều kiện tiếp nhận sản phẩm báo chí - truyền thông

Tỷ lệ đọc báo, xem truyền hình, nghe phát thanh, qua mạng internet và trao đổi,

hội họp và các hình thức khác của công chúng thể hiện sự chênh lệch khá lớn giữa các

hình thức tiếp nhận thông tin về BĐKH. Mặc dù tất cả đối tượng khảo sát khẳng định

từng đọc các thông tin về BĐKH trên báo Đảng địa phương, nhưng có đến 36% công

chúng cho rằng họ tiếp nhận thông tin về BĐKH nhiều nhất là xem ạ .

Tiếp theo đến là ề , chiếm 28.1%. Đọ b và nghe phát thanh có tỷ lệ

114

công chúng thấp hơn, tương ứng 12.8% và 12.5%. Điều này có thể lý giải bởi những

năm gần đây, sự phát triển không ngừng của công nghệ thông tin nói chung và Internet

nói riêng đã làm thay đổi thói quen của công chúng báo chí và mang lại cho các

phương tiện TTĐC ứng dụng kênh truyền này nguồn công chúng lớn. Mặt khác, đề tài

khảo sát công chúng chủ yếu ở các khu vực đô thị lớn nên đây là một trong những

nguyên nhân dẫn đến tỷ lệ công chúng tiếp nhận thông tin về BĐKH qua mạng Internet

cao hơn so với các hình thức khác bởi họ có cơ hội được tiếp xúc với phương tiện

40.7

33.6

33.1

29.5

29.4

25.5

16.2

16

14.8

13.6

13.5

10.6

10.2

7.2

6.2

45 40 35 30 25 20 15 10 5 0 1. Đọc báo

2. Xem truyền

3. Nghe phát thanh

hình

4. Qua mạng internet

5.Trao đổi, họp hội và các hình thức khác

An Giang

Cà Mau

Cần Thơ

truyền thông kỹ thuật hiện đại hơn.

Biểu đồ 3.3: Phƣơng thức tiếp nhận thông tin về BĐKH của công chúng

Nhận thấy, ở An Giang và Cà Mau, tỷ lệ công chúng tiếp cận thông tin về

BĐKH qua báo in cao hơn so với Cần Thơ, dao động từ 13.6% đến 14.8%, trong đó

Cần Thơ chỉ 10.2%. Cũng ở hai tỉnh An Giang và Cà Mau, số người xem tin tức về

BĐKH qua phát thanh không có sự chênh lệch đáng kể, với tỷ lệ lần lượt là 16% và

16.2% cao hơn gấp 2.5 lần so với tỷ lệ công chúng ở Cần Thơ. Tuy nhiên, đối với các

hình thức như Q ạ ; T ề và T ổ ọp ộ

khác, Cần Thơ có tỷ lệ công chúng cao nhất, lần lượt là 40.7%; 29.5% và 13.5%. Điều

này cho thấy, yếu tố tỉnh lị là một trong những căn cứ để giải thích việc tiếp cận thông

tin về BĐKH qua các hình thức.

Thông tin chung về đối tượng công chúng tham gia khảo sát cho thấy: mặc dù

công chúng mục tiêu của báo Đảng là toàn thể quần chúng nhân dân trên địa bàn, tuy

115

nhiên công chúng thực tế chủ yếu của báo Đảng khu vực ĐBSCL là những người cán

bộ, công chức/ viên chức/ lực lượng vũ trang đương chức hoặc hưu trí đã và đang làm

việc trong các cơ quan nhà nước, chứ chưa thật sự đến với đối tượng là quần chúng

nhân dân đại trà. Ưu thế của đối tượng công chúng này là có trình độ học vấn cao và

nhận thức chính trị khá tốt, nhận thức được trách nhiệm của mình trước vấn đề BĐKH;

khả năng thẩm định và đánh giá để trả lời các câu hỏi khảo sát đạt mức chính xác cao.

Tuy nhiên, vì đối tượng công chúng được khảo sát chưa đồng đều giữa các thành phần,

tầng lớp nhân dân trong xã hội nên các ý kiến đánh giá cũng như đề xuất những còn

những hạn chế nhất định về tính đại diện.

3.2. NHẬN THỨC, THÁI ĐỘ VÀ HÀNH VI TIẾP NHẬN THÔNG ĐIỆP

BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU CỦA CÔNG CHÚNG

3.2.1. Nhận thức của công chúng về BĐKH

Các câu hỏi về kiến thức của BĐKH nhằm kiểm tra mức độ ghi nhớ, hiểu biết

của công chúng về BĐKH nhằm đo lường hiệu quả tác động của thông điệp BĐKH

đến đối tượng công chúng mục tiêu.

7.8

Rất quan tâm

Quan tâm

36

56.2

Không quan tâm

Trả lời câu hỏi mức độ quan tâm về BĐKH cho thấy:

Biểu đồ 3.4: ức độ quan tâm của công chúng đến vấn đề BĐKH

Với câu hỏi “Quý vị có quan tâm đến vấn đề BĐKH không?” và 3 mức độ ấ

quan tâm; quan tâm và không quan tâm, trong tổng số 450 người được hỏi, 56.2%

người chọn quan tâm và 36% chọn ấ , chỉ có 7,8% công chúng thể hiện suy

nghĩ đến vấn đề BĐKH. Điều này cho thấy đại đa số công chúng báo

Đảng khu vực ĐBSCL nhận thức sâu sắc về những tác động của BĐKH đến đời sống

nhân sinh.

- Ở câu hỏi thứ hai, có 100% công chúng “nhận diện” chính xác BĐKH là “Các

hi ng thời ti t bấ ờng, c t t ù

116

nhi ộ ă ạ bã ũ ụ …” chứ không phải là “Các hi ng thời ti

ắng, gió, triề ờng lên xu … t t nhiên” như gợi ý thứ 1 của

bảng hỏi. Cũng vậy, với câu hỏi thứ 3 về các biểu hiện đăc trưng của BĐKH ở

ĐBSCL, 100% công chúng nhận thức được ũ é ũ ng không phải là các biểu hiện

đặc trưng của BĐKH vùng ĐĐBCL mà là các biểu hiện “Nhi ộ ă ớc biển

dâng, sạt lở, hạn hán, xâm nh p mặn, bã ũ ụ E N …”

Tr lời câu hỏi,“Theo quý v , bi ổi khí h u diễn bi n nay là

?”, (1). Hoàn toàn do quy lu t t nhiên (2). H ời (3). Ch

y u do quy lu t t ờ ộng một ph n nhỏ (4). Ch y u do hoạ ộng

sinh hoạt và s n xuất c ời và một ph n là quy lu t t nhiên,100% tham gia

khảo sát đều chọn câu trả lời chính xác.

Hỏi về mức độ tác động của BĐKH, 350 người cho rằng BĐKH

ữ ộ ớ chiếm đại đa số với 92.1%; BĐKH ộ

ể có 38 người lựa chọn, tỷ lệ 0,7% và không công chúng nào chọn đáp án BĐKH

120

97.3

92

100

84

80

60

40

16

20

8

2.6

0

0

0

0

Không có tác động

BĐKH đang gây ra những tác động lớn

Có tác động nhưng không đáng kể

An Giang

Cà Mau

Cần Thơ

ộ .

Biểu đồ 3.5: Nhận xét của công chúng về mức độ tác động của BĐKH

Đối với An Giang và Cà Mau, tỷ lệ công chúng đưa ra các nhận xét BĐKH

ữ ộ ớ đều ở mức cao, trong đó công chúng Cà Mau ở mức

gần tuyệt đối (97. 3%). Riêng với Cần Thơ, tỷ lệ công chúng cho rằng BĐKH

ữ ộ ớ ớ V N thấp nhất trong 3 tờ báo, chỉ 84%. Đồng thời

đây cũng là khu vực có số công chúng nhận thấy BĐKH ộ

ể cao hơn so với hai tờ báo còn lại, với tỷ lệ là 16%. Lý giải điều này, có thể giả

thuyết một số nguyên nhân, tuy nhiên không loại trừ lý do Cần Thơ nằm ở khu vực

117

trung tâm ĐBSCL, những tác động tiêu cực của BĐKH đối với Cần Thơ không gây

hậu quả nghiêm trọng như các địa bàn khác.

- Khảo sát ý kiến công chúng về ảnh hưởng của BĐKH đến cuộc sống con

người và môi trường, đề tài chia thành 3 mức độ ảnh hưởng:

và ý Qua khảo sát 450 công chúng, có

78.2% công chúng lựa chọn mức độ hoàn toàn tiêu ; xếp vị trí thứ hai là mức độ có

với tỷ lệ là 21.6%, 0.2% công chúng chọn khác và không có

công chúng nào chọn . Đối với mức độ tỷ lệ

công chúng của báo CM lựa chọn cao hơn so với 2 tờ báo còn lại, chiếm 82.7%. Trong

đó công chúng ở An Giang và Cần Thơ lần lượt là 74.7% và 77.3%.

- Với câu hỏi “Quý v ở ời sẽ thành công trong ng phó với

bi ổi khí h ?”, có 11.1% công chúng chọn “Tuy ởng”,

60.7% công chúng chọn “T ởng”, 25,8% công chúng chọn “Không chắc” và 2,4%

công chúng trả lời là “K ởng”. Tương quan giữa 03 địa phương, công chúng

An Giang có niềm tin vững chắc hơn vào sự thành công của con người trong cuộc

chiến thích ứng với BĐKH với 133/150 người chọn tin tưởng và tuyệt đối tin tưởng;

trong khi công chúng Cần Thơ có tỷ lệ hoài nghi nhiều nhất (34%). Trong số 11 câu trả

lời không tin tưởng, có 5 ý kiến từ công chúng báo An Giang, Cần Thơ và An Giang

mỗi địa phương có 3 công chúng chọn đáp án này.

Kết quả khảo sát với các câu hỏi kiến thức chung về BĐKH, trong đó có 100%

công chúng trả lời chính xác ở 03 câu hỏi về kiến thức cơ bản của BĐKH là một kết

quá bất ngờ thú vị trong khảo sát công chúng ĐBSCL, cho thấy công chúng báo Đảng

khu vực ĐBSCL có nền tảng kiến thức khá tốt về BĐKH. Bên cạnh việc nhận diện

được những biểu hiện đặc trưng của BĐKH vùng ĐBSCL, công chúng cũng nhận thức

sâu sắc con người là tác nhân khiến cho BĐKH diễn biến nhanh như hiện nay, gây ra

nhiều tác động tiêu cực ảnh hưởng lớn đến cuộc sống nhân sinh. Tuy nhiên, đa số công

chúng cũng tin tưởng rằng với sự nỗ lực không ngừng, công cuộc ứng phó với BĐKH

của con người sẽ thu lại kết quả thắng lợi. Các chỉ báo thu được từ nội dung khảo sát

này là những tín hiệu đáng phấn khởi, cho thấy người dân ĐBSCL có sự quan tâm

trang bị kiến thức về BĐKH cho mình. Đồng thời cũng là minh chứng cho thấy công

tác truyền thông về BĐKH, trong đó có vai trò truyền thông của báo in địa phương đến

công chúng, đã phát huy hiệu quả.

118

3.2.2. Thái độ tiếp nhận thông điệp biến đổi khí hậu

3.2.2.1. Đánh giá của công chúng về nội dung và hình thức thông điệp về

biến đổi khí hậu trên báo Đảng khu vực đồng bằng sông Cửu Long

Tiêu chí đánh giá được chia thành 2 phần lớn: phần nội dung và phần hình thức.

Đây được coi là thang đo phản hồi, là các chỉ báo căn bản cho thấy đời sống của thông

điệp về BĐKH trên báo Đảng khu vực ĐBSCL. Ngoài ra, khảo sát về đánh giá của

công chúng về nội dung và hình thức của các bài viết có ý nghĩa quan trọng để luận án

nêu ra các giải pháp nhằm phát triển, đổi mới và nâng cao chất lượng thông điệp nhằm

thu hút sự quan tâm và nâng cao hiệu quả tác động công chúng theo hướng chủ thể

truyền thông mong muốn.

Đề tài nghiên cứu phần đánh giá nội dung về các thông điệp BĐKH được đăng

tải trên 3 tờ báo Đảng địa phương ĐBSCL dựa trên các tiêu chí:

(1) T ờ ớ ẻ

(2) Thông tin khách quan và chính xác

(3) T

(4) T ớ ụ

(5) T ễ ể

(6) T ề ữ b ũ

(7) T ụ ễ

Đối với phần đánh giá về hình thức, tác giả chọn 03 tiêu chí chính:

(1) C b bắ ắ

(2) ọ p ù p ấ

(3) T ể ạ b ạ p p ú

Đối với từng tiêu chí đánh giá, tác giả đưa ra 5 mức độ để đánh giá: ấ é ;

é ; ạ ; và Để có thể hình dung khái quát mức độ công chúng đánh

giá của từng tiêu chí, luận án cho điểm theo mức độ hiệu quả, theo đó, giá trị càng lớn

mức độ hiệu quả càng cao (1= ấ é ; 2 = é ; 3 = ạ ; 4 = ; 5 = ấ ).

Bảng số liệu dưới đây mô tả số điểm trung bình được tính toán trên tổng số điểm mà

công chúng trả lời ở từng đáp án chia cho tổng số người được khảo sát.

119

Bảng 3.1: Tổng hợp đánh giá của công chúng về nội dung và hình thức

các bài viết về BĐKH trên báo Đảng khu vực ĐBSC

ức độ đánh giá (1 là thấp nhất, 5 là cao nhất)

Rất kém

Kém

Đạt yêu cầu

Khá

Tốt

Tiêu chí đánh giá

Tỷ

Tỷ

Tỷ

Tỷ

Tỷ

SL

SL

SL

SL

SL

%

%

%

%

%

1. Thông tin có

tính thời sự, mới

0

15

3.4

255

56.6

114

13.8

61

26.2

0

mẻ

2. Thông tin khách

quan và chính xác

0

11

2.5

218

48.4

100

22.2

121

26.9

0

3. Thông tin có

tính hệ thống và

0

17

3.8

224

49.8

106

23.6

103

22.9

0

toàn diện

4. Thông tin có

tính định hướng,

5

0

1.1

108

135

202

44.9

24

30

0

giáo dục

5. Thông tin dễ

0

0

0

188

41.8

105

23.3

157

34.9

0

hiểu

6. Thông tin về

0

những địa bàn gần

0

0

113

21.6

97

21.6

240

53.3

0

gũi

7. Thông tin có giá

trị ứng dụng trong

1

0,2

21

4.7

173

38.4

188

41.8

67

14.9

thực tiễn

8. Cách trình bày

0

0

19

4.2

252

56

84

18.7

95

21.1

lôi cuốn, bắt mắt

9. Ảnh minh họa

0

3

0.7

0

243

54.2

100

22.3

92

19.8

phù hợp, ấn tượng

10. Thể loại bài

0

viết

đa

dạng,

0

0

0

169

37.6

150

33.3

131

29.1

phong phú

Kết quả thống kê bảng hỏi cho thấy rất ít bạn đọc đánh giá mức độ ấ é và

kém cho các tiêu chí về nội dung BĐKH trên báo Đảng khu vực ĐBSCL. Cụ thể có 1

công chúng nhận xét ấ é cho tiêu chí T ụ ễ

03 trường hợp nhận xét ấ é cho tiêu chí ọ p ù p ấ và đều là

công chúng của Báo CT.

4.28

4.19

3.74

3.66

3.66

3.46

3.46

4.5 4 3.5 3 2.5 2 1.5 1 0.5 0

Thông tin dễ hiểu

Thông tin khách quan và chính xác

Thông tin có tính thời sự, mới mẻ

Thông tin có tính hệ thống và toàn diện

Thông tin về những địa bàn gần gũi

120

Biểu đồ 3.6: Đánh giá của công chúng về nội dung các bài viết về BĐKH

trên báo Đảng khu vực ĐBSC

Có 06 tiêu chí có công chúng đánh giá ở mức độ kém, trong đó tiêu chí thông tin

ụ ễ có 21 công chúng đánh giá kém, chiếm tỷ lệ “kém”

cao nhất là 4.7%; trong khi những tiêu chí còn lại chỉ từ 1.1% đến 3.8%. (Xem bảng 3.1)

Nhìn chung, đa số các tiêu chí về nội dung được công chúng đánh giá ở mức

trung bình khá ( ạ ) với khung điểm từ 3 đến dưới 4 điểm. Tiêu chí Thông

ờ ớ ẻ và T ễ ể bị đánh giá thấp nhất, chỉ có 3.46 điểm, kế

đến là các tiêu chí T và T ụ

ễ . Riêng hai tiêu chí T ề ữ b ũ và Thông tin

ớ ụ được công chúng đánh giá cao, ở mức tốt (lần lượt là

3.92

3.54

3.54

4 3.9 3.8 3.7 3.6 3.5 3.4 3.3

Cách trình bày lôi cuốn, bắt mắt

Ảnh minh họa phù hợp, ấn tượng

Thể loại bài viết đa dạng, phong phú

4.28 và 4.19 điểm).

Biểu đồ 3.7: Đánh giá của công chúng về hình thức các bài viết về BĐKH

trên báo Đảng khu vực ĐBSC

121

Về hình thức, công chúng đánh giá hình thức thông điệp BĐKH trên báo Đảng

khu vực ĐBSCL ở mức trung bình. Trong đó tiêu chí T ể ạ b ạ p

phú được đánh giá cao nhất là 3.92%. Cả hai tiêu chí về C b bắ

ắ và ọ p ù p ấ cùng đạt mức bình quân 3.54/5 điểm, ở mức

độ ạ .

Cũng với cách tính trên, ta tính được tương quan giữa các báo khảo sát, như sau:

Bảng 3.2: Tƣơng quan đánh giá công chúng giữa các báo khảo sát

Tiêu chí đánh giá Báo CT

1. Thông tin có tính thời sự, mới mẻ 2. Thông tin khách quan và chính xác 3. Thông tin có tính hệ thống và toàn diện 4. Thông tin có tính định hướng, giáo dục 5. Thông tin dễ hiểu 6. Thông tin về những địa bàn gần gũi 7. Thông tin có giá trị ứng dụng trong thực tiễn 8. Cách trình bày lôi cuốn, bắt mắt 9. Ảnh minh họa phù hợp, ấn tượng 10.Thể loại bài viết đa dạng, phong phú Báo An Giang 3.80 3.88 3.67 4.18 4.35 4.41 3.69 3.58 3.82 3.96 Báo Cà Mau 3.75 3.68 3.63 4.09 3.68 4.42 3.87 3.6 3.69 3.94 3.33 3.65 3.67 4.29 3.77 4.02 3.42 3.39 3.43 3.85

Từ kết quả trên, nhận thấy mức độ đánh giá về nội dung và hình thức của các

tác phẩm thể hiện thông điệp về BĐKH trên báo Đảng khu vực ĐBSCL không có sự

chênh lệch đáng kể. Tuy vậy, mức độ đánh giá của công chúng đối với báo Báo AG có

vượt trội hơn với 06/10 tiêu chí có số điểm cao hơn hai báo cùng khảo sát; 03 tiêu chí

được đánh giá ở mức khá tốt. Báo CM có 02 tiêu chí được điểm cao nhất; 02 tiêu chí

được đánh giá ở mức khá tốt, đặc biệt đây là tờ báo có tỷ lệ công chúng đánh giá tiêu

chí ụ ễ cao nhất trong 3 tờ báo khảo sát.

Báo CT có các mục công chúng đánh giá ở mức kém nhiều hơn so với các báo

địa phương khác, gồm 01 ấ é cho tiêu chí T ụ

ễ 03 nhận xét ấ é cho tiêu chí ọ p ù p ấ Số điểm mà

công chúng đánh giá cho báo CT ở các tiêu chí T ờ ớ ẻ

T ụ ễ đều thấp hơn so với 2 báo còn lại,... Về

hình thức, Báo CT cũng bị công chúng đánh giá thấp hơn so với tương quan hai tờ báo

cùng khảo sát ở cả 03 tiêu chí.

122

Báo CT là báo ra hàng ngày, có ưu thế nhất định về tính thời sự của thông điệp

do các tờ báo cùng khảo sát xuất bản thưa kỳ. Việc nhiều độc giả đánh giá ở mức kém

cho thấy báo CT còn nhiều hạn chế trong việc xây dựng, tổ chức và đăng tải các bài

viết nội dung về đề tài BĐKH. Tuy nhiên, các thống kê về nhân khẩu học của mẫu

nghiên cứu cho thấy công chúng Cần Thơ chủ yếu là cư dân đô thị, có trình độ học vấn

cao, điều kiện tiếp nhận các loại hình truyền thông hiện đại rất thuận lợi. Chính vì thế,

báo in với những ký tự và hình ảnh tĩnh chắc chắn sẽ kém thu hút và hấp dẫn, tính thời

sự cũng chậm hơn so với các loại hình truyền thông chuyển tải thông tin qua thiết bị kỹ

thuật số. Đối tượng công chúng này đòi hỏi Báo CT phải có những cải tiến mạnh mẽ cả

về nội dung và hình thức để đáp ứng yêu cầu mà công chúng đặt ra.

Với câu hỏi “Theo Quý v , thông tin về BĐKH b p ơ y u

ề c p n khía cạnh nào c BĐKH?” có đến 38,7% công chúng cho rằng thông tin

về BĐKH trên báo địa phương C bằ ữ . Số lượng công

chúng còn lại, 61,3%, chọn tiêu chí C Các tiêu chí C

và Khác không có người lựa chọn. Kết quả này có sự khác biệt đáng kể với thực tế

khảo cứu ở chương 3 của luận án là đại đa số các bài viết chứa thông điệp về BĐKH

tập trung khai thác các thông tin tiêu cực của BĐKH. Tuy nhiên, điều này có thể lý giải

bởi quá trình tiếp nhận thông điệp của công chúng có nhiều yếu tố gây nhiễu khiến họ

không hoàn toàn tiếp nhận chính xác cái mà thông điệp chuyển tải. Ngoài ra, người

nhận thông điệp thường có tâm lý „bóp méo có chọn lọc”, nghĩa là thêm vào thông điệp

những đều không có (phóng đại) và không tiếp nhận những điều khác thực có (lược

bớt) cho phù hợp với cái mà họ kỳ vọng muốn nghe thấy. Tuy nhiên, với 61,3% chọn

tiêu chí C cho thấy, đa số công chúng báo Đảng địa phương đã tiếp

0

38.7

Chủ yếu là tích cực

61.3

nhận khá chính xác nội dung chuyển tải của các thông điệp về BĐKH.

Biểu đồ 3.8: Đánh giá của công chúng về thông tin tích cực và tiêu cực

123

- Với câu hỏi đề nghị đánh giá tần suất thông điệp về BĐKH trên báo Đảng khu

vực ĐBSCL, 59,4% số người được khảo sát đánh giá số lượng các thông tin về BĐKH

trên báo in địa phương hiện nay là quá ít; 28.9% cho rằng tần xuất xuất hiện như thế là

p ý. Tỷ lệ công chúng đánh giá ề chiếm tỷ lệ không đáng kể (8.6%); 2.2%

số người cho ý kiến khác. Đây cũng là một trong những gợi ý cho đội ngũ báo chí có

những kế hoạch, chiến lược để thay đổi về số lượng bài viết phù hợp đáp ứng mức độ

2.2

29.8

Phù hợp

Quá nhiều

59.4

8.6

Quá ít

Ý kiến khác

quan tâm của công chúng.

Biểu đồ 3.9: Đánh giá của công chúng về tần suất bài viết về BĐKH

3.2.2.2. Mức độ đáp ứng nhu cầu thông tin về biến đổi khí hậu trên báo Đảng

khu vực đồng bằng sông Cửu Long

Kết quả khi được hỏi về mức độ đáp ứng nhu cầu thông tin về BĐKH của công

chúng trên 3 tờ báo khảo sát cho thấy phần lớn công chúng được khảo sát cho rằng các

thông tin đó chỉ p ộ p nhu cầu (63.4%), gấp 2.5 lần so với tỷ lệ công

chúng lựa chọn mức độ ỏ ã (24.4%) và gần gấp 3 lần tỷ lệ công chúng ỏ

80

68.2

64

58

60

32.7

40

25.2

20.7

15.3

20

9.3

6.6

0

Thỏa mãn

Đáp ứng được một phần Chưa thỏa mãn

An Giang

Cà Mau

Cần Thơ

mãn (12.2%).

Biểu đồ 3.10: ức độ đáp ứng nhu cầu thông tin về BĐKH

124

Tương quan giữa các địa bàn khảo sát cho thấy tỷ lệ công chúng báo CM

(32.7%) cảm thấy các nội dung trên báo địa phương đã ỏ ã nhu cầu tiếp nhận

thông tin của họ về vấn đề BĐKH nhiều hơn ở những tờ báo khác. Đặc biệt ở báo CT,

công chúng cảm thấy ỏ ã đối với các thông tin về BĐKH đăng tải cao nhất,

với tỷ lệ là 20.5%, gấp 3 lần so với công chúng ở An Giang và gấp hơn 2 lần so với Cà

Mau. Đề tài sẽ tập trung vào sự chênh lệch giữa tỷ lệ công chúng lựa chọn về mức độ

đáp ứng của thông tin nhằm đưa ra một số khuyến nghị nâng cao chất lượng các bài

viết về BĐKH để truyền tải thông điệp hiệu quả đến công chúng.

3.2.2.3. Ý kiến của công chúng về giải pháp nâng cao chất lượng thông tin về

BĐKH trên báo Đảng địa phương

Để có thể đưa ra các khuyến nghị cụ thể, chuyên đề thu thập ý kiến của công

chúng trên 5 khía cạnh nội dung lớn:

(1) T ề b ể BĐKH;

(2) T ọ ề BĐKH;

(3) T ề BĐKH;

(4) T ạ ộ ề BĐKH;

(5) T ớ ẻ ớ BĐKH

Với mỗi khía cạnh nội dung, đối tượng khảo sát có thể lựa chọn 1 trong 03 tiêu

chí là ă hoặc p ý. Kết quả khảo sát cho thấy tỷ lệ công chúng để nghị ă

cao gấp nhiều lần so với tỷ lệ công chúng yêu cầu hoặc cho rằng p ý ở tất cả

các khía cạnh nội dung. Trong đó, tỷ lệ công chúng đề nghị tăng các ớ

ẻ ớ BĐKH cao nhất; thấp nhất là tỷ lệ Thông tin về

h u qu BĐKH, 69,1%. Thông tin về h u qu BĐKH cũng là khía cạnh nội dung có tỷ

lệ công chúng yêu cầu cao nhất với 19.1% (Xem bảng 3.2). Xem xét kết quả khảo

sát ở từng địa phương, tác giả nhận thấy kết quả khá tương đồng với kết quả tổng hợp

và không có sự chênh lệch đáng kể.

125

Bảng 3.3: Ý kiến của công chúng về việc điều chỉnh các các khía cạnh

nội dung bài viết BĐKH trên báo Đảng khu vực ĐBSC

Tăng

Giảm

Hợp lý

Nội dung

Số lượng

Tỷ lệ (%)

Số lượng

Tỷ lệ (%)

Số lượng

Tỷ lệ (%)

357

79.3

32

7,1

61

13.6

376

83.5

21

4.7

53

11.8

311

69.1

86

19.1

77

17.1

370

82.2

24

5.3

56

12.4

399

88.7

14

3.1

37

8.2

1. Thông tin về diễn biến của BĐKH 2. Thông tin về nguyên nhân của BĐKH 3. Thông tin về hậu quả BĐKH 4. Thông tin các hoạt động thích ứng và chính sách về BĐKH 5. Thông tin hướng dẫn, chia sẻ kinh nghiệm thích ứng với BĐKH

Kết quả này cũng tương đồng với trả lời của công chúng về mức độ thỏa mãn

với các thông tin BĐKH trên báo Đảng khu vực ĐBSCL trong phần khảo sát phía trên;

đồng thời thể hiện rõ nhu cầu của công chúng là được cung cấp sâu sắc và toàn diện

hơn nữa các thông tin về vấn đề BĐKH.

3.2.3. Hành vi tiếp nhận thông điệp biến đổi khí hậu của công chúng báo

Đảng đồng bằng sông Cửu Long

Với câu hỏi “Những bài vi t về BĐKH b p ơ ờng g i cho

Quý v c nào?”, có 60.9% công chúng được khảo sát trả lời họ có tâm

trạng ắ sau khi đọc các bài viết về BĐKH trên báo in địa phương. Tỷ lệ chọn yếu

tố ắ cao nhất là công chúng báo AG với 64%, công chúng báo CM và báo CT

cùng đạt 59,3%. Có 32% công chúng trả lời họ cảm thấy ở ể ớ

BĐKH sau khi đọc các các thông tin về BĐKH và tỷ lệ 7.1% công chúng cảm thấy ạ

quan. Với kết quả này, có thể thấy các bài viết chứa thông điệp về BĐKH đã cung cấp

các thông tin tác động đến cảm xúc và nhận thức của công chúng. Tuy nhiên do quá tập

trung vào các yếu tố tiêu cực nên các thông điệp về BĐKH khiến công chúng lo lắng

nhiều hơn là bình tĩnh nhìn nhận lại vấn đề và thay đổi hành vi nhằm thích ứng với

BĐKH một cách hiệu quả.

0

7.1

Lo lắng

Bình thường

32

Lạc quan

60.9

Khác

126

Biểu đồ 3.11: Tác động của thông điệp về BĐKH trên báo Đảng

đến công chúng địa phƣơng

- Về mức độ tƣơng tác giữa công chúng với cơ quan báo chí

Tương tác báo chí là sự tác động qua lại giữa công chúng và cơ quan báo

chí, qua đó công chúng có thể bày tỏ ý kiến, quan điểm, cung cấp thêm thông tin

để làm rõ thêm nội dung, làm đẹp thêm về hình thức tác phẩm báo chí. Trên cơ sở

đó, cơ quan báo chí điều chỉnh, bổ sung, thay đổi về nội dung, hình thức, mức độ

thông tin… cho phù hợp, nhằm thu hút và tạo dựng lòng tin với họ. Thông qua

hoạt động tương tác, khoảng cách giữa báo chí và công chúng được rút ngắn, đồng

thời thúc đẩy sự cập nhật tin tức trên báo chí, khiến những vấn đề xã hội được

nhìn nhận một cách khách quan trên nhiều bình diện. Mức độ tương tác phản ảnh

được sự quan tâm của công chúng và phần nào nói lên hiệu quả truyền thông của

cơ quan báo chí đó.

Với câu hỏi “Quý v ã ừng ch ộng liên h với Toà soạn hoặc phóng

ể cung cấp, chia sẻ thông tin về BĐKH ?”, chỉ có 10 người (2.2%)

cho biết đã từng liên hệ và 97.8% người trả lời chưa bao giờ liên hệ với Toà soạn

hoặc phóng viên để trao đổi, nêu ý kiến hoặc cung cấp, chia sẻ thông tin về

BĐKH. Trong đó Báo CT có số công chúng từng liên hệ nhiều nhất là 07 người,

báo AG là 02 người và báo CM có 01 người. Tuy nhiên, với câu hỏi “T ơ

ớ ạ ề BĐKH Q ý ẵ ộ ớ

T ạ ặ p ể ý ặ ấp ?” thì

có 63.8% người cho biết họ sẵn sàng, 33.3% vẫn chưa sẵn sàng. Cụ thể hơn, công

chúng ở báo AG có tỷ lệ người sẵn sàng liên hệ thấp nhất, chỉ với 59.3%; CM là

61.3% và cao nhất là công chúng của báo CT là 70.7%.

97.8

63.8

33.3

Không

Khác

2.9

2.2

120 100 80 60 40 20 0

Công chúng đã từng chủ động liên hệ

Công chúng sẵn sàng chủ động liên hệ

127

Biểu đồ 3.12: ức độ tƣơng tác giữa công chúng với cơ quan báo Đảng

về chủ đề BĐKH

Kết quả khảo sát trên cho thấy mặc dù mức độ tương tác giữa tòa soạn và công

chúng báo chí hiện tại ở mức thấp nhưng công chúng cũng đã nhận ra vai trò, trách

nhiệm của mình trong việc cùng cộng đồng ứng phó với BĐKH. Tuy nhiên, mức độ

tương tác thấp hiện tại cũng cho thấy mức độ tác động của các thông điệp về BĐKH

trên báo Đảng địa phương chưa như kỳ vọng. Vì thế người dân chưa cảm thấy sự cần

thiết trong việc chủ động liên lạc với tòa soạn, phóng viên; cũng không loại trừ họ còn

rụt rè, không dám lên ý kiến; chưa đủ am hiểu về BĐKH để có thể tự nhận biết các vấn

đề liên quan đến BĐKH để cung cấp ý kiến;… Những điều này đặt ra yêu cầu với cơ

quan báo Đảng trong việc nâng cao chất lượng thông tin, vai trò quản lý, tính định

hướng thông tin trong các hoạt động tương tác để nâng cao hơn nữa hiệu quả của thông

điệp về BĐKH.

Tiểu kết Chƣơng 3

Chương 3 đã phân tích các chỉ số từ kết quả khảo sát 450 công chúng báo

Đảng địa phương khu vực ĐBSCL. Kết quả cho thấy công chúng báo Đảng khu vực

ĐBSCL rất quan tâm và có nền tảng kiến thức tốt về BĐKH. Công chúng cũng

nhận thức sâu sắc con người là tác nhân khiến cho BĐKH diễn biến nhanh, gây ra

nhiều tác động tiêu cực ảnh hưởng lớn đến cuộc sống nhân sinh như hiện nay. Vì

thế, con người có trách nhiệm trong việc chung tay ứng phó với BĐKH. Điều này

minh chứng hiệu quả tác động của các thông điệp về BĐKH trên báo in địa phương

đến công chúng là khá tốt.

128

Tuy nhiên, giữa thông tin về BĐKH đã đăng tải và nhu cầu tiếp nhận thông

tin của công chúng còn khoảng cách nhất định. Đa số công chúng đánh giá về nội

dung và hình thức các bài viết chứa thông điệp về BĐKH trên báo Đảng địa

phương ở mức trung bình khá; mới đáp ứng được một phần nhu cầu thông tin của

độc giả. Đồng thời, phần lớn công chúng nhận thấy báo Đảng địa phương tập

trung thông tin nhiều về những ảnh hưởng tiêu cực của BĐKH, khiến cho họ cảm

thấy lo lắng khi đọc các bài viết về BĐKH được đăng tải. Mức độ tương tác giữa

công chúng và tòa soạn, phóng viên để nêu ý kiến hoặc cung cấp, chia sẻ thông tin

về BĐKH, ở hiện tại không nhiều. Công chúng cũng đề xuất tăng lượng bài về đề

tài này, đặc biệt là chia sẻ nhiều hơn nữa các kiến thức và kinh nghiệm ứng phó

với BĐKH từ cộng đồng.

129

Chƣơng 4

THÀNH CÔNG, HẠN CHẾ VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT

ƢỢNG THÔNG ĐIỆP BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU TRÊN BÁO ĐẢNG

KHU VỰC ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG

4.1. THÀNH CÔNG VÀ HẠN CHẾ CỦA THÔNG ĐIỆP BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU

TRÊN BÁO ĐẢNG ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG HIỆN NAY

4.1.1. Những thành công của thông điệp biến đổi khí hậu trên báo Đảng

đồng bằng sông Cửu Long

4.1.1.1. Góp phần nâng cao nhận thức cho công chúng về vấn đề biến đổi

khí hậu

Báo Đảng địa phương khu vực ĐBSCL đóng góp vai trò nòng cốt trong việc

cung cấp thông tin liên quan đến nội dung BĐKH, qua đó bổ sung kiến thức và định

hướng hành động ứng phó cho công chúng trên địa bàn.

Các dữ liệu khảo cứu thông điệp và khảo sát công chúng cho thấy các tờ báo

đã có rất nhiều nỗ lực trong việc xây dựng và thực hiện các bài viết về BĐKH, tần

suất tương đối dày, nội dung thông tin đa dạng và ngày càng thiết thực. Các thông tin

mang tính hệ thống và khá toàn diện đã cung cấp các kiến thức hữu ích, đa chiều cho

công chúng.

Đối với diễn biến của BĐKH, các báo đều quan tâm theo dõi, kịp thời cập nhật

và đưa ra các dự báo, cảnh báo để công chúng nắm bắt sự việc và chủ động có giải

pháp phòng ngừa, ứng phó cũng như cập nhật kịp thời tình hình khắc phục các hậu quả.

Các biểu hiện khí hậu được phản ảnh với nhiều hình ảnh thực tế, được cập nhật từ hiện

trường trực tiếp, làm tăng tính thuyết phục của thông tin bởi người đọc có thể hình

dung, liên tưởng ra ngay, thậm chí như được “nhìn tận mắt” sự kiện, sự việc, mô

hình… mà bài viết đề cập. Phạm vi thông tin gần gũi - với 83% số bài viết có phạm vi

phản ảnh trong nước mà chủ yếu là tại địa phương - giúp công chúng nhận ra mối liên

hệ của cá nhân với thông điệp, để từ đó họ bị “dẫn dắt” để tiếp tục quan tâm, tìm hiểu

và chịu tác động của thông điệp truyền thông.

Thông điệp về hậu quả của BĐKH đã phản ảnh một bức tranh khá rõ nét về tác

động của BĐKH đến các lĩnh vực của đời sống dân sinh, từ tính mạng, sức khỏe của

con người đến kinh tế, công ăn việc làm, môi trường sống, quan hệ ngoại giao và an

130

ninh giữa các quốc gia... Đời sống của các đối tượng yếu thế như người nghèo, người

già, phụ nữ và trẻ em trong bối cảnh BĐKH gia tăng cũng cũng được các báo nhìn

nhận, chia sẻ, thể hiện bằng những thông điệp đậm đà cảm xúc, tạo được ấn tượng

mạnh mẽ, sâu sắc cho người tiếp nhận thông điệp. Nhóm nội dung về giải pháp chiếm

vị trí thứ 2 về tần suất xuất hiện trong các bài viết về BĐKH đã góp phần làm lan tỏa

thông điệp về nỗ lực không mệt mỏi của toàn xã hội trong việc ứng phó với BĐKH.

Bằng việc thông tin liên tục những hoạt động ứng phó của chính quyền các cấp, những

giải pháp ứng dụng công nghệ mới cũng như những kinh nghiệm, kỹ năng được đúc

kết từ thực tiễn của người dân, báo chí đã giúp công chúng nhận ra vai trò, trách nhiệm

của mình và học tập được nhiều kiến thức, kinh nghiệm, kỹ năng ứng phó có giá trị

ứng dụng cao trong thực tiễn.

Thành công của các báo khi thông tin về BĐKH là mặc dù vấn đề mang tính

khoa học, với nhiều thuật ngữ phức tạp, khó hiểu, nhưng đa số đều được diễn giải linh

hoạt, bằng ngôn ngữ đại chúng, giúp công chúng dễ nhớ, dễ hiểu và dễ làm theo. Các

từ ngữ địa phương Tây Nam bộ được sử dụng phù hợp với ngữ cảnh và tạo nên tính

gần gũi đối với công chúng ĐBSCL. Các báo cũng chú trọng phát huy ưu thế loại hình

để tổ chức những loạt bài nhiều kỳ, cung cấp những kiến thức có chiều sâu và có hệ

thống cho công chúng.

Không có hiểu biết đúng, nhận thức đúng thì khó có hành động đúng. Con số

92,2% công chúng báo Đảng khu vực ĐBSCL quan tâm và rất quan tâm đến vấn đề

BĐKH; 92.1% công chúng nhận thức BĐKH đang gây ra những tác động to lớn đến

đời sống nhân sinh. 100% công chúng nắm rõ các biểu hiện tiêu biểu đặc trưng của

BĐKH ở ĐBSCL; 74% công chúng bày tỏ sự tin tưởng và tuyệt đối tin tưởng vào

tương lai thắng lợi của con người với BĐKH nếu quyết tâm và đồng lòng thay đổi hành

vi trong sinh hoạt và sản xuất… là những minh chứng quan trọng cho hiệu quả tác

động của thông điệp về BĐKH trên báo Đảng khu vực ĐBSCL trong việc giúp công

chúng có thêm kiến thức, hiểu biết và tham gia nhiều hơn và thực tiễn công tác giảm

nhẹ, ứng phó và thích nghi với BĐKH mà cả nước đang dốc toàn lực để thực hiện.

4.1.1.2. Góp phần cụ thể hóa chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của

Nhà nước về biến đổi khí hậu

Nhiều thông điệp chứa đựng trong các bài viết trên báo Đảng khu vực ĐBSCL

không chỉ giới thiệu, giải thích chính sách mà còn vận động, hướng dẫn để người dân

131

hiểu, ủng hộ và làm theo. Thông qua báo chí, nhân dân hiểu được định hướng của

Đảng và Nhà nước là phát triển kinh tế phải theo hướng bền vững, đi đôi với BVMT.

Đối với ĐBSCL, quan điểm chỉ đạo là kiến tạo phát triển bền vững, thịnh vượng, trên

cơ sở chủ động thích ứng, phát huy tiềm năng, thế mạnh, chuyển hóa những thách thức

thành cơ hội để phát triển. Các hoạt động ứng phó với BĐKH phải theo hướng tôn

trọng quy luật tự nhiên, phù hợp với điều kiện thực tế, tránh can thiệp thô bạo vào tự

nhiên; chọn mô hình thích ứng theo tự nhiên, thân thiện với môi trường và phát triển

bền vững theo phương châm sống chung với lũ, ngập, nước lợ, nước mặn… Ở hướng

ngược lại, công chúng được tiếp cận nhanh với những chính sách giảm nhẹ tác động

BĐKH mà Nhà nước đang triển khai nên ý thức hơn về trách nhiệm, quyền lợi của

mình…; từ đó tạo được sự rõ ràng, minh bạch trong thực thi chính sách - là một trong

những tiêu chí quan trọng để các chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà

nước về BĐKH được cụ thể hoá vào thực tiễn.

Báo Đảng khu vực ĐBSCL còn đăng tải, giải thích các văn bản quốc tế liên

quan đến BĐKH, như Công ước Khung của LHQ về BĐKH (năm 1992), Nghị định

thư Kyoto về cắt giảm khí nhà kính, các báo cáo và khuyến nghị thường niên và đặc

biệt của Ủy ban Liên chính phủ về BĐKH để giúp công chúng có sự hiểu biết rộng rãi

hơn về thực trạng, diễn biến cũng như quyết tâm trong cuộc chiến nhằm thích ứng và

giảm thiểu tác động của BĐKH của cộng đồng quốc tế.

Thông qua những tác phẩm báo chí phản ánh hơi thở cuộc sống, báo Đảng khu

vực ĐBSCL cũng thể hiện vai trò giám sát thực thi chính sách, lên án các hành vi gây ô

nhiễm, suy thoái môi trường, xâm hại và lãng phí tài nguyên thiên nhiên. Nhiều vấn đề,

sự kiện của đời sống dân sinh trong bối cảnh BĐKH không ngừng gia tăng tác động

tiêu cực, được báo chí tìm hiểu, khai thác và thông tin, gợi mở những vấn đề mới cho

các nhà nghiên cứu khoa học, cũng như sự quan tâm của những nhà hoạch định chính

sách; chẳng hạn như gợi mở vấn đề hỗ trợ chính sách trước tình trạng chậm triển khai

các dự án kè chống sạt lở; trẻ em ở các khu vực sạt lở phải bỏ học, vất vả mưu sinh

(“Vàm X ” Báo CM ngày 31/3/2017). Tình trạng giao đất, giao rừng cho

người dân sản xuất theo chủ trương của Nhà nước lại làm gia tăng nguy cơ cháy rừng

do diện tích đất sản xuất nằm xen kẽ với đất rừng, mùa khô hạn lại trùng với thời điểm

người dân thu hoạch vụ đông xuân, tiến hành đốt rơm rạ chuẩn bị cho vụ mùa sau

132

(“T ề ẩ ơ ừ ừ ữ ộ ” Báo CM ngày 10/3/2017). Tình

trạng quản lý lỏng lẻo trong việc khai thác nước ngầm làm thất thoát và lãng phí tài

nguyên, làm tăng nguy cơ sụt lún (“N ớc và s s ng” Báo AG ngày 22/3/2018), (“G ữ

ớ ọ ù ĐBSCL”, Báo CT từ ngày 18/2/2019 đến 20/2/2019). Hành vi xâm

chiếm bãi, bờ để xây công trình và nhà ở, nạn khai thác cát trái phép và phương tiện

đường thủy chở quá tải làm gia tăng nguy cơ gây xói lở (“Ki n tạ ể ĐBSCL p

triển an toàn bền vững”, Báo CT ngày 18/10/2017)...

Đặc biệt, báo Đảng khu vực ĐBSCL đã góp tiếng nói cùng báo chí trong nước

tạo sức ép để các bộ, ngành Chính phủ và các tổ chức quốc tế có hướng can thiệp về

tình trạng khai thác tài nguyên nước trên thượng nguồn châu thổ, xây dựng đập thủy

điện làm thay đổi dòng chảy, giảm lượng phù sa, suy giảm nguồn lợi thủy sản, xâm

nhập mặn sâu vào nội vùng, tác động tiêu cực đến phát triển KT-XH của vùng… Các

thông điệp chính sách tiếp cận theo hướng vi mô thường đậm hơi thở cuộc sống, sát

với thực tiễn, thể hiện được sức lao động và bản lĩnh của người làm báo, là những

thông điệp sâu sắc và có giá trị tích cực cần tiếp tục phát huy để hiệu quả tuyên truyền,

vận động, giám sát và phản biện xã hội việc triển khai thực hiện chính sách, pháp luật

về quản lý, sử dụng tài nguyên thiên nhiên, BVMT và ứng phó với BĐKH ngày càng

hiệu quả.

4.1.1.3. Tuyên truyền, phổ biến các kinh nghiệm hay, giải pháp tốt; góp

phần cổ vũ, khích lệ năng lực sáng tạo, thúc đẩy yếu tố tích cực trong hành động

ứng phó biến đổi khí hậu

Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 (khóa X) “Về ởng, lý lu n và

b ớc yêu c u mớ ” đã chỉ ra “ Phát hi n và cổ ũ ững nhân t tích c c,

nhân t mới ũ ĩ b c ti p xây d ng xã hội mới ngày càng t t

ẹp”. Báo chí nói chung, đặc biệt là báo Đảng có vai trò quan trọng trong tạo lập, định

hướng và hướng dẫn dư luận xã hội; biểu dương, ghi nhận, tôn vinh và khích lệ, cổ vũ,

động viên đối với các gương người tốt việc tốt trong công tác ứng phó với BĐKH ở địa

phương, đơn vị. Những mô hình mới, cách làm hay trong công tác ứng phó với BĐKH

được phát hiện, động viên, cổ vũ kịp thời sẽ tạo nên tính lan tỏa trong xã hội, để mỗi

tập thể, cá nhân áp dụng vào thực tế tại đơn vị mình, gia đình mình.

Nghiên cứu thông điệp về BĐKH trên báo Đảng khu vực ĐBSCL cho thấy, các

hoạt động ứng phó, những mô hình mới, cách làm hay trong công tác ứng phó với

133

BĐKH được chú trọng khai thác, chuyển tải đến công chúng đã khơi dậy được niềm tin

và ý chí trong cộng đồng để nỗ lực hơn nữa. Đó là mô hình làm sao duy trì được sinh

kế cho người dân trong điều kiện đất đai, thổ nhưỡng, điều kiện tự nhiên, quy luật mùa

vụ có những thay đổi do BĐKH, như: Mô hình trồng lúa mùa nổi kết hợp với du lịch

của người dân ở hai xã Vĩnh Phước và Lương An Trà ở huyện Tri Tôn - tỉnh An Giang

(“Lú ù ổ ” báo AG ngày 3/2/2017). Mô hình trồng dừa trên đất mặn, khôi phục

những vùng đất “chết” vì nhiễm mặn ở huyện Phú Tân, tỉnh Cà Mau (“K p ụ ờ

ừ ấ ặ ”, báo CM ngày 13/9/2018). Mô hình kê liếp trồng tràm và cây keo lai

vừa mang lại thu nhập cao, vừa có hiệu quả ngăn ngừa cháy rừng trong mùa khô

(“T ừ ” báo CM ngày 16/3/2018). Mô hình trồng cây

mắm, vừa làm cây cố định đất chống xói lở, vừa làm trụ để trồng thanh long, làm giảm

nạn chặt phá rừng phòng hộ ven biển và tăng thu nhập cho người giữ rừng (“C ấ

b ể ” báo CM ngày 19/5/2018). Mô hình sản xuất sạch, sử dụng hữu cơ sinh học và

giảm thiểu sử dụng phân bón hóa học trong sản xuất nông nghiệp bền vững (“Sử dụng

phân hữ ơ - sinh học vùng hạn mặn” báo CT ngày 31/3/2017). Hoạt động tắt đèn

hưởng ứng giờ Trái đất và trồng cây xanh để BVMTcủa tuổi trẻ Cần Thơ (“Tuổi trẻ

C T ơ ởng ng Giờ Tr Đất” báo CT ngày 26/3/2017). Thông qua những mô

hình ấy, báo chí cũng giới thiệu, biểu dương tôn vinh nhiều tấm gương tập thể, những

nhân tố mới và cá nhân điển hình trong thực hiện các giải pháp thích ứng với BĐKH.

Đó là những nhà khoa học đang miệt mài nghiên cứu tìm ra những giống lúa có thể

chịu được hạn, mặn; những chuyên gia, nhà quản lý đang cùng người nông dân bám

rừng bám đất để kiểm tra việc ứng dụng một mô hình canh tác mới hay nhằm phát hiện

những bất thường của các yếu tố thời tiết, kịp thời cảnh báo cho nhân dân; là những

người nông dân không ngại từ bỏ những tập tục thói quen canh tác cũ có hại cho môi

trường và mạnh dạn ứng dụng cách làm mới… Cách thức tôn vinh khéo léo, lồng ghép

trong những chia sẻ về cách thức thực hiện hoạt động ứng phó, những suy nghĩ, trăn

trở, ý kiến, nhiệt huyết của họ vì một tương lai cuộc sống xanh và bền vững… tạo nên

những thông điệp chân thực khách quan giúp công chúng nhận thức rằng cho dù

BĐKH khốc liệt và nghiệt ngã, con người vẫn chưa bao giờ thoái chí, đầu hàng và

những nỗ lực ứng phó ấy sẽ thành công. Những thông điệp này có giá trị thiết thực, góp

phần cổ vũ, khích lệ năng lực sáng tạo, thúc đẩy yếu tố tích cực trong hành động ứng

phó BĐKH của công chúng.

134

4.1.2. Những hạn chế về sản xuất thông điệp biến đổi khí hậu trên báo

Đảng đồng bằng sông Cửu Long

4.1.2.1. Nội dung thông điệp chưa bao quát các khía cạnh của vấn đề biến

đổi khí hậu

Tiếp cận từ 04 nhóm nội dung Biểu hiện, Tác động, Nguyên nhân và Giải pháp

ứng phó BĐKH, có thể thấy nội dung thông điệp về BĐKH trên báo Đảng khu vực

ĐBSCL bị mất cân đối rõ nét. Các báo chủ yếu tập trung thông tin về biểu hiện, các tác

động và tường thuật các hoạt động ứng phó với BĐKH của các ngành, các địa phương

hơn là đưa các thông tin lý giải nguyên nhân của BĐKH. Nhóm thông tin về biểu hiện

chiếm đến 75,3% số bài báo đề cập đến nội dung BĐKH, cao hơn thông điệp đề cập

nguyên nhân (14,2%) đến hơn 5,3 lần và đều là thông tin có số lượng vượt trội ở cả 03

báo khảo sát.

Việc báo chí đưa thông tin biểu hiện quá nhiều mà không chỉ ra mối liên hệ với

BĐKH và lý giải nguyên nhân của các biểu hiện ấy, về lâu dài có thể làm cho công

chúng có nhận thức thiếu toàn diện, mất cảnh giác vì cho rằng đây là biểu hiện thời tiết

bình thường; cũng như thiếu ý thức điều chỉnh hành vi thực tiễn ngăn chặn và giảm

thiểu tác động tiêu cực của BĐKH.

Sự mất cân đối cũng thể hiện rõ trong từng nhóm nội dung thông điệp. Các

thông điệp về biểu hiện BĐKH chủ yếu đề cập các biểu hiện bề nổi, có thể dễ dàng

nhìn thấy như sạt lở, hạn hán, bão, lụ lụt, triều cường dâng cao gây ngập… Trong khi

các biểu hiện có diễn biến chậm, nhưng mức độ tác động vô cùng nghiêm trọng như

suy thoái đa dạng sinh học, phá hủy hệ sinh thái… ít được quan tâm phản ảnh. Góc

thông tin chưa bao quát của báo chí vô hình trung khiến công chúng nhận thức về

BĐKH không sâu, khó nhận biết mức độ phổ quát của BĐKH, những hiểm họa tiềm

ẩn, nghiêm trọng thực sự của nó, việc ứng phó vì thế cũng không thể mang tính chiến

lược, hiệu quả lâu dài.

Ở nhóm thông điệp về tác động, những hậu quả tiêu cực, thảm họa do BĐKH

gây ra chiếm lĩnh gần như hoàn toàn trên mặt báo, rất ít bài viết đề cập đến tác động

mang tính tích cực của sự thay đổi các yếu tố khí hậu ở từng thời điểm, vùng địa lý

khác nhau cũng như những cơ hội mà BĐKH đem đến để các nhóm cộng đồng chuyển

đổi kinh tế, phát triển sản xuất bứt phá, tạo lợi thế cạnh tranh. Nhiều bài viết thậm chí

mang yếu tố bi quan cực đoan, vì thế, chưa khơi dậy niềm tin, thúc đẩy cộng đồng cùng

135

chung tay hành động. Các thông điệp này không dừng lại ở mức độ cảnh báo mà còn

gây ra tâm trạng lo lắng quá mức cho đa số công chúng khi tiếp nhận thông điệp

(60.9% công chúng cho biết họ lo lắng sau khi đọc các tin, bài về BĐKH trên báo) có

thể kéo theo những hiệu ứng xã hội bất lợi. Lĩnh vực bị tác động cũng có sự chênh

lệch, báo Đảng địa phương chủ yếu thông tin các hậu quả có thể quan sát được như

thiệt hại về người, nhà cửa đường sá, mùa màng…; ít bài viết về những hậu quả tiềm

ẩn như sức khỏe tinh thần con người và các vấn đề an ninh sinh thái. Ở nhóm thông tin

giải pháp, trong khi thông tin về các sự kiện, hội nghị, hội thảo… có liên quan đến

BĐKH, đặc biệt là khi có lãnh đạo địa phương tham gia luôn được “ưu tiên” đưa lên

mặt báo, thì thông điệp chia sẻ những kỹ năng, kinh nghiệm mà người dân tự đúc rúc ra

được qua công việc, đời sống hằng ngày lại rất hiếm hoi; thiếu đi các thông tin mang

tính dự báo và chỉ dẫn để người dân vận dụng ứng phó với BĐKH trong thực tiễn.

Rất có thể, điều này do kiến thức, vốn hiểu biết về vấn đề BĐKH của đội ngũ

nhà báo còn hạn hẹp, phương pháp tiếp cận còn lúng túng, chưa chủ động bao quát vấn

đề thông tin giúp công chúng mở rộng tầm nhìn để chủ động ứng phó trong thực tiễn.

4.1.2.2. Nội dung thông điệp chưa sâu sắc, chưa làm nổi bật vai trò giám sát

và phản biện xã hội của báo Đảng đồng bằng sông Cửu Long về vấn đề biến đổi

khí hậu

Giám sát xã hội là theo dõi và kiểm tra, đánh giá một vấn đề nào đó của đời

sống xã hội xem có thực hiện đúng những điều đã quy định hay không. Còn phản biện

xã hội tức là sự biện luận, thẩm định, đánh giá của các lực lượng xã hội đối với những

chủ trương, chính sách, đề án, dự án xã hội... liên quan đến quyền lợi và đời sống của

các thành viên trong xã hội, đã được công bố hay đang hình thành.

Vai trò của báo chí trong thực hiện chức năng giám sát và phản biện xã hội về

BĐKH là cung cấp thông tin, các chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước về

BĐKH, kiểm tra xem có thực hiện đúng hay không; khẳng định mặt tích cực và chỉ ra

được hạn chế, bất hợp lý trong thực tiễn triển khai các quyết sách ấy để tìm kiếm giải

pháp khắc phục, bổ sung; đồng thời tạo diễn đàn để công chúng có thể thông tin, chia

sẻ kỹ năng, kinh nghiệm về ứng phó BĐKH.

Mặc dù việc giám sát thực thi chính sách BĐKH có nhiều nỗ lực, tuy nhiên,

thực tế thông tin về chính sách trên báo Đảng ĐBSCL còn mang tính một chiều; chủ

yếu vận động công chúng làm theo. Hiếm có bài viết nào phản biện mạnh mẽ về tính

136

hợp lý, hợp hiến cũng như khả năng thực thi hiệu quả của các chính sách BĐKH trong

thực tế, chỉ ra những bất cập giữa các hoạt động phát triển kinh tế với mục tiêu ứng phó

hiệu quả với BĐKH… buộc ngành chức năng phải nhìn nhận để có hướng xử lý hoặc

điều chỉnh các chính sách hiện hữu cho phù hợp. BĐKH có nguyên nhân chính là do

con người gây ra, nhưng cũng rất ít các bài viết dám mạnh dạn phanh phui các tổ chức,

cá nhân chạy theo lợi nhuận kinh tế bất chấp mục tiêu BVMT và ứng phó với BĐKH

theo quy định. Những bài viết có đề cập thì cũng nói chung chung chứ chưa “chỉ mặt -

đặt tên” cụ thể các cá nhân, tổ chức vi phạm. Vì thế, chưa thực sự tạo ra những “xung

lực” mạnh mẽ để dẫn tới việc thay đổi nhận thức, hành vi từ những nhóm đối tượng cụ

thể và tạo sức ép để điều chỉnh, thay đổi hoặc xiết chặt việc thực thi chính sách từ phía

các cơ quan quản lý.

Vai trò giám sát và phản biện xã hội của báo chí chỉ thật sự hiệu quả khi tập hợp

được nguồn lực trí tuệ và cảm xúc của toàn dân, tạo được diễn đàn để người dân mạnh

dạn nói lên tiếng nói của mình. Tuy nhiên, kết quả khảo cứu và khảo sát công chúng

cho thấy hoạt động tương tác, trao đổi thông tin về BĐKH giữa báo đảng địa phương

ĐBSCL và công chúng trên địa bàn rất ít. Trong khảo sát, chỉ có 04 bài của công tác

viên là người dân, 1 bài của công tác viên của cán bộ quản lý và 19 bài của các chuyên

gia, nhà khoa học (trong đó có 14 bài hướng dẫn sử dụng sản phẩm của một doanh

nghiệp bảo vệ thực vật trên địa bàn). 97.8% công chúng khảo sát cho biết họ chưa từng

tương tác với cơ quan báo chí địa phương để chia sẻ, cung cấp thông tin về BĐKH. Và

mặc dù nhận thức được những tác hại tiềm ẩn của BĐKH, 33.3% công chúng cho biết

trong tương lai cũng không sẵn sàng liên hệ với phóng viên, cơ quan báo Đảng khi có

thông tin mới về BĐKH. Đây là một chỉ báo đáng buồn mà để lý giải cần nhìn nhận ở

nhiều góc độ, từ tính cách, thói quen, mức độ quan tâm và am hiểu về BĐKH để công

chúng có thể tự nhận biết các vấn đề liên quan và cung cấp ý kiến… Tuy nhiên, không

loại trừ giả thuyết báo chí địa phương chưa tạo được môi trường gắn kết với công

chúng; chưa thể hiện được vai trò là cầu nối giữa người dân với cơ quan truyền thông

của Đảng bộ và chính quyền, chưa thật sự là “diễn đàn của nhân dân”. Vậy nên, vị thế,

uy tín của báo Đảng địa phương trong lòng công chúng chưa đủ mạnh, chưa được công

chúng xem là một điểm tựa đáng tin cậy để người dân có thể tin tưởng chia sẻ thông

tin, bày tỏ quan điểm của mình.

137

Theo GS Zaxyrxki, Chủ nhiệm khoa Báo chí ĐHTHQG Mát-xcơva (MGU), xét

cho cùng thì làm báo là nghệ thuật thuyết phục công chúng; thuyết phục là cơ sở quan

trọng nhất để tạo dựng niềm tin nơi công chúng và nhân dân. Nếu báo Đảng chưa làm

được điều đó, tức là tự tước mất sức mạnh của chính mình.

Tính tương tác giúp rút ngắn khoảng cách giữa báo chí và công chúng, khiến

những vấn đề xã hội, trong đó có vấn đề BĐKH được nhìn nhận một cách bao quát,

khách quan trên nhiều bình diện. Khả năng tương tác kém là hạn chế lớn nhất của báo

in so với các loại hình truyền thông khác như báo mạng điện tử, truyền hình hay phát

thanh và báo đảng ĐBSCL cũng không ngoại lệ. Để gia tăng tưong tác với công chúng,

nhiều cơ quan báo in đã tận dụng tối đa các ưu thế và khả năng của mình như mở các

chuyên trang, chuyên mục, diễn đàn định kỳ về một nội dung cụ thể để công chúng dễ

theo dõi, qua đó có thể cung cấp thông tin, chia sẻ ý kiến, tranh luận về một nội dung

nào đó… tạo sự liên kết gắn bó với công chúng. Cả 03 tờ báo diện khảo sát AG, CM và

CT chưa đưa nội dung BĐKH vào xây dựng chuyên trang, chuyên mục, diễn đàn định

kỳ. Các bài viết về BĐKH đăng tải rải rác ở các trang và khi ít, khi nhiều theo mức độ

các sự kiện BĐKH diễn ra. Vì thế, không thuận lợi cho công chúng, nhất là những

người quan tâm đến vấn đề này theo dõi, lưu trữ, tra cứu… Điều này cũng ảnh hưởng

đáng để đến hiệu quả tác động của thông điệp khi không thể đem đến cho công chúng

một cái nhìn xuyên suốt, liên tục về thông tin, làm giảm sự thu hút đối với tờ báo.

Đối tượng chịu tác động của BĐKH là tất cả cư dân trong vùng, nhưng những

người yếu thế như phụ nữ, người già, người nghèo và trẻ em là những người dễ bị tổn

thương gấp nhiều lần; khả năng và điều kiện ứng phó của họ cũng hạn chế hơn so với

các đối tượng còn lại. Vai trò giám sát mà báo chí cần phát huy trong bối cảnh này là

giúp các đối tượng yếu thế chia sẻ những tâm tư tình cảm, những vướng mắc, khó khăn

về tinh thần và vật chất; chuyển tải nguyện vọng đề xuất các chính sách hỗ trợ để họ

nâng cao năng lực thích ứng trước những tác động tiêu cực của BĐKH, đến với các

nhà soạn thảo chính sách, các cơ quan công quyền. Tuy nhiên, hình bóng các đối tượng

yếu thế trong thông điệp về BĐKH trên báo Đảng địa phương lại rất mờ nhạt. Điều này

cũng cho thấy vai trò giám sát - phản biện xã hội của báo Đảng khu vực ĐBSCL về

BĐKH chưa được rõ nét.

Thực tế này chứng tỏ rằng, hoặc là năng lực giám sát, phản biện xã hội của báo

Đảng khu vực khảo sát yếu kém; hoặc là năng lực chính luận, phân tích và kiến thức về

138

vấn đề đang bàn tới của đội ngũ nhà báo chưa đủ để cắt nghĩa, lý giải vấn đề một cách

hệ thống, có chiều sâu.

4.1.2.3. Phạm vi thông tin hẹp, hiệu quả gia tăng sự hiểu biết và hợp tác quốc

tế trong ứng phó và thích nghi với biến đổi khí hậu không đáng kể

Mặc dù mức độ tác động và đặc trưng biểu hiện của BĐKH ở mỗi vùng địa lý

là khác nhau, nhưng chúng đều tạo nên những tác động liên đới, ảnh hưởng đến các

khu vực khác. Từ khi Việt Nam tham gia Thỏa thuận Paris về BĐKH, Chính phủ đã

tập trung đẩy mạnh thực thi các chính sách nhằm góp phần cùng với các quốc gia

thực hiện cam kết toàn cầu ngăn sự ấm lên của Trái đất. Tăng cường hợp tác quốc tế

cũng được xem mà một giải pháp quan trọng cho tính khả thi của hoạt động ứng phó

với BĐKH ở Việt Nam. Vì lý do này, trọng tâm công tác truyền thông cũng phải theo

hướng cập nhật đầy đủ, khách quan tình hình BĐKH trong nước để bạn bè thế giới

hiểu biết và nhìn nhận đúng những nỗ lực của Việt Nam. Mặt khác, phải thông tin

nhanh chóng, chân thực về diễn biến của BĐKH trên thế giới để Chính quyền và

người dân Việt Nam có thể nắm bắt chính xác tình hình, diễn biến, tác động của

BĐKH ở phạm vi toàn cầu, chia sẻ những kinh nghiệm, giải pháp hay về ứng phó vời

BĐKH của cộng đồng quốc tế. Đây cũng là cách giúp Chính phủ và các địa phương

nhận biết được mối quan tâm trong ứng phó BĐKH của các quốc gia, tổ chức quốc

tế, từ đó nghiên cứu, đề xuất xây dựng các khuôn khổ hợp tác mới với các nước và

các đối tác quốc tế trong lĩnh vực BĐKH. Qua đó, tranh thủ sự ủng hộ, kêu gọi hợp

tác và hỗ trợ về tài chính, công nghệ cho việc xây dựng các chính sách và phát triển

các hoạt động thích ứng BĐKH tại Việt Nam.

Tuy nhiên, mật độ xuất hiện của các thông điệp về BĐKH có phạm vi phản ảnh

ngoài lãnh thổ trên báo Đảng khu vực ĐBSCL rất khiêm tốn (11.3%). Số tin, bài dịch

từ báo chí nước ngoài nhằm thông tin nhanh diễn biến và hoạt động ứng phó BĐKH

trên thế giới cũng là con số rất nhỏ (6.6%). Trong số 3 báo, báo CT có tổ chức lực

lượng biên dịch trực tiếp từ báo nước ngoài nên tổ chức các nội dung bài viết khá tốt,

thông tin kịp thời về các hội nghị cấp cao quốc tế về BĐKH; các cam kết chính trị, phát

ngôn chia sẻ của lãnh đạo Chính phủ và các tổ chức quốc tế đối với Việt Nam. Báo AG

đăng lại các bài dịch từ báo nước ngoài trên Thông tấn xã Việt Nam và các báo có liên

kết, nhưng chủ yếu là tin không tít hoặc các bản tin ngắn về các vụ thiên tai, hậu quả

139

lớn do BĐKH gây ra… Riêng báo CM không đăng tải các bài dịch từ báo nước ngoài,

cũng không có bài viết về BĐKH ở phạm vi ngoài nước. Điều này làm hạn chế sự hiểu

biết của công chúng về BĐKH ở quy mô toàn cầu. Công chúng không nhận ra được

việc ứng phó với BĐKH đang là nỗ lực chung của toàn nhân loại để động viên bản

thân cùng vào cuộc. Chưa kể, trước đòi hỏi sống còn của việc giảm thiểu BĐKH, nhiều

tổ chức phi chính phủ, tập đoàn kinh tế thế giới đề ra những kế hoạch, chương trình hỗ

trợ để khuyến khích các hoạt động phát triển kinh tế bền vững, quy mô đến tận hộ gia

đình. Người dân sẽ bỏ qua những cơ hội hợp tác đáng quý và đáng khích lệ nếu không

nắm bắt được những thông tin này; hiệu quả huy động nguồn lực kinh phí và kỹ thuật

từ các quốc gia và tổ chức quốc tế để ứng phó với BĐKH cũng bị hạn chế.

4.1.2.4. Thể loại tác phẩm báo chí thể hiện thông điệp chưa đa dạng, phong phú

Hầu hết bài viết về BĐKH trên báo Đảng khu vực ĐBSCL sử dụng các thể loại

nhóm thông tấn (tỷ lệ 92,4%). Trong đó, tin và bài phản ánh giữ vai trò chủ đạo bởi có

thể tác nghiệp nhanh và đáp ứng yêu cầu thời sự. Tuy nhiên, tin và bài phản ảnh chủ

yếu là mô tả, tường thuật lại sự việc, sự kiện, thường dừng lại ở mức nêu vấn đề chứ

chưa có sự phân tích, lý giải. Trong 2,5 năm khảo sát, chỉ có 8 bài viết thuộc thể loại

chính luận đăng trên báo AG và báo CM trong khi BĐKH là lĩnh vực có tầm quan

trọng và phạm vi tác động rộng, việc triển khai thực hiện chính sách hoặc những vấn đề

thực tiễn nảy sinh từ những tác động đa chiều của BĐKH rất cần những bài phân tích,

lý giải một cách thấu đáu. Nhiều vấn đề nhạy cảm như tình trạng ly nông - ly hương do

BĐKH khiến đời sống canh tác khó khăn; hoặc ngược lại, là những nỗ lực bám rừng,

bám biển, bám đất của những nông dân miền Tây cần cù chịu khó… hoàn toàn có thể

tổ chức thực hiện, thể hiện qua văn phong phóng sự, ký sự, tạo nên những thông điệp

chân thực, đậm đà cảm xúc, cũng chưa có nhiều. Các bài được dịch từ báo nước ngoài

có số lượng ít, thậm chí có báo không tổ chức tuyến bài này đã làm giảm đi tính thời

sự, cập nhật của thông điệp truyền thông do chậm được tiếp cận với các thông tin mới

về BĐKH đang diễn ra trên toàn cầu. Các báo khảo sát cũng cũng không có bài viết

nào thuộc thể loại infographic. Trong khi, bằng cách sử dụng hình ảnh để trình bày

thông tin, dữ liệu mà chữ viết và hình ảnh chụp không diễn tả được, thể loại báo chí

này giúp độc giả dễ dàng theo dõi, là giải pháp hữu hiệu giúp giảm bớt sự năng nề đơn

điệu trên tác phẩm báo in. Điều này cho thấy chưa có sự phối hợp tốt các thể loại tác

phẩm báo chí trong các thông điệp về BĐKH trên báo Đảng địa phương ĐBSCL.

140

Những thông điệp được chuyển tải một cách đều đặn, tác động liên tục và bền

bỉ sẽ hiệu quả hơn việc thông tin theo kiểu “mùa vụ”. Tần suất đăng tải các bài viết

chứa đựng thông điệp về BĐKH nhìn chung khá dày, tuy nhiên vẫn còn tính thời điểm,

không ổn định. Tin bài đăng tải dày đặc và chuyên sâu hơn mỗi khi có sự kiện về

BĐKH được tổ chức hoặc trên địa bàn xảy ra thiên tai, nhưng sau đó thì lại trầm lắng,

thông tin mờ nhạt. Nguyên nhân hạn chế này một phần do chưa xây dựng được chiến

lược truyền thông về BĐKH, chưa tổ chức được các chuyên trang, chuyên mục để duy

trì dòng chảy thông tin liên tục về nội dung này.

Thực tế này cho thấy, tính chuyên nghiệp trong sử dụng các thể loại tác phẩm

báo chí để chuyển tải thông điệp BĐKH chưa thuyết phục; đồng thời, năng lực chính

luận, viết các thể loại tác phẩm chính luận của nhà báo còn nhiều hạn chế.

4.1.2.5. Ngôn ngữ thể hiện thông điệp còn nghèo nàn, khô khan, sử dụng

nhiều từ ngữ cực đoan

Ngôn ngữ là phương tiện chuyển tải nội dung thông tin chủ đạo của báo in, có ý

nghĩa quyết định đến chất lượng của thông tin cũng như tác động và hiệu quả của

thông điệp báo chí. Các bài viết về BĐKH trên báo Đảng khu vực ĐBSCL chủ yếu

sử dụng phong cách ngôn ngữ khoa học, tuy nhiên, việc xử lý các thuật ngữ khoa học

trong nhiều bài viết chưa được linh hoạt, nhiều bài viết “bê” nguyên xi các từ ngữ hàn

lâm từ các bản báo cáo khoa học lên trang báo, khiến cho thông điệp về BĐKH trên

báo Đảng khu vực ĐBSCL đôi lúc còn khô khan, khó hiểu. Cách sử dụng thường

xuyên các từ ngữ mang tính tiêu cực, như: “ ” “ ể ọ ớ ấ

ạ ” “ ọ ” “ ấ ạ ” “ ” “ p” “

”… có khả năng tạo nên sự định kiến của công chúng, khiến họ nghĩ rằng BĐKH

là một vấn đề nằm ngoài tầm kiểm soát của con người và hoàn toàn không thể có giải

pháp ngăn chặn.

Tít có vai trò quan trọng trong việc tạo sự lôi cuốn, dẫn dắt người đọc tiếp tục

khám phá nội dung tác phẩm. Tuy nhiên, tít trong các bài viết về BĐKH trên báo Đảng

khu vực ĐBSCL thiếu sáng tạo, chưa thể hiện dấu ấn văn phong của tác giả. Số lượng

các tít bài sắc sảo, ấn tượng không nhiều. Tình trạng tít bài trùng lắp, khó hiểu, quá dài

hoặc quá lạm dụng các con số và chi tiết gây “sốc” trên tít vẫn còn xảy ra.

Bên cạnh ngôn ngữ biểu đạt cơ bản là chữ viết, đồ họa ảnh, tranh minh họa,

biểu bảng, đồ thị, sơ đồ, biểu đồ… là những loại hình ngôn ngữ phi văn tự mà báo in

141

thường sử dụng để bổ sung thông tin, làm cho tác phẩm thêm sống động, lôi cuốn, hấp

dẫn. Tuy nhiên, việc sử dụng ngôn ngữ phi văn tự trên báo Đảng ĐBSCL rất đơn điệu,

chủ yếu là hình ảnh. Dù vậy còn nhiều hình ảnh không đảm bảo chất lượng, chưa làm

bật lên nội dung hoặc hình ảnh không phù hợp với nội dung bài viết, chưa mang phong

cách ảnh báo chí…

4.1.3. Nguyên nhân của những thành công và hạn chế

4.1.3.1. Nguyên nhân của những thành công

Một là, lãnh đạo các ngành, các cấp Trung ương và các địa phương ở ĐBSCL

nhận thức khá đầy đủ về sự cấp bách và cần thiết của công tác ứng phó với BĐKH

cũng như tầm quan trọng của truyền thông trong việc thực hiện mục tiêu BVMT và

thích ứng với BĐKH, bước đầu có quan tâm phối hợp, tạo điều kiện cho phóng viên

các cơ quan truyền thông, đặc biệt là phóng viên của báo Đảng địa phương thực hiện

nhiệm vụ.

“Để khuy ộ b ề BĐKH ột cách k p thời,

ã ạo thành ph chỉ ạ ơ b ộng cung cấp

thông tin cho nhà báo khi có các hoạ ộng, s ki n, vấ ề liên quan; tr lời k p thời,

có trách nhi m những vấ ề b ặ ” (PVS -M3)

Cũng trên cơ sở quan tâm đó, trong vòng 5 năm qua, nhiều chính sách, Nghị

quyết về ứng phó với BĐKH cho vùng ĐBSCL được Trung ương ban hành, sau đó

được các bộ ngành và địa phương tiếp tục xây dựng thành các kế hoạch để cụ thể trong

thực tiễn. Đáng kể đến là Nghị quyết số 120/NQ - CP của Chính phủ về phát triển bền

vững ĐBSCL thích ứng với BĐKH, được Thủ tướng Chính phủ quyết liệt chỉ đạo

quyết liệt đã được cả hệ thống chính trị và người dân ĐBSCL vào cuộc hưởng ứng.

Bên cạnh đó, nhiều sự kiện, hội nghị, hội thảo lớn liên quan đến vấn đề BĐKH với sự

tham gia của lãnh đạo các Chính phủ, tổ chức quốc tế, các nhà nghiên cứu tên tuổi…

cũng chọn các địa phương trong vùng làm nơi tổ chức, triển khai. Qua đó, tạo môi

trường thông tin thuận lợi để báo chí địa phương tác nghiệp, thực hiện nhiều thông điệp

về BĐKH có tính thời sự, sinh động, đồng thời còn tạo nền tảng dữ liệu quý giá để các

nhà báo đối chiếu với thực tiễn để “nhìn” ra vấn đề, đề tài và tiếp tục triển khai thành

những bài viết mang thông điệp có ý nghĩa.

Hai là, lãnh đạo các cơ quan báo chí bước đầu cũng nhận thức việc đẩy

mạnh thông tin, chuyển đến công chúng những thông điệp về BĐKH, giúp công

142

chúng thêm kiến thức bổ ích để tham gia vào công cuộc ứng phó với BĐKH một

cách tích cực là nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên và trách nhiệm của những

người làm báo Đảng.

“Chúng tôi luôn nhắc nhở p ơ ở c n chú ý quan

ặt cho mình những câu hỏi: B ể p bấ ờ ? Hoạt

ộng th c thi pháp lu t về BVMT, ng phó vớ BĐKH ơ ý

v y là phù h p hay ? C c p có h p lý hay

không?... B AG ý p ớ ở ơ

p ơ ổ ề ề BĐKH ũ ộ ú

ờ ý ể ù ” (PVS -M11).

“N ữ ấ ề ề BĐKH p B B p ề

ờ ổ ý ể “ ấ ” p ẩ ặ p ụ

ý ở ắ b p ” (PVS -M16).

Ba là, đội ngũ các nhà báo trong cơ quan báo Đảng địa phương ĐBSCL phần

lớn là những người có năng lực, trình độ lý luận chính trị, giàu nhiệt huyết. Tác nghiệp

trong điều kiện cạnh tranh thông tin ngày càng gay gắt, những người làm báo Đảng địa

phương không ngừng tìm tòi, sáng tạo, đổi mới tư duy và kỹ năng làm báo để có được

những bài báo hay. Là những người am hiểu văn hoá bản địa, gắn bó mật thiết với cơ

sở, với nguồn tin nên mỗi khi có những biến cố khí hậu, thiên tai… báo Đảng địa

phương đều thông tin kịp thời. Công chúng nhận ra những điều gần gũi, thân quen với

cuộc sống của mình qua các thông điệp trên báo, vì thế họ dễ dàng lĩnh hội những nội

dung mà thông điệp báo chí chuyển tải.

B n là, báo Đảng khu vực ĐBSCL có lượng công chúng ổn định, trong đó

nhiều người có điều kiện để tiếp xúc, chia sẻ với người khác trong cùng tổ chức, trong

các cuộc họp, trò chuyện, giúp thông tin về BĐKH trên báo Đảng có điều kiện lan tỏa,

tác động đến những công chúng mới.

4.1.3.2. Nguyên nhân của những hạn chế

T ấ , là chưa xây dựng được chiến lược truyền thông về BĐKH. Để dự án

truyền thông hiệu quả, trước hết chủ thể truyền thông cần xác định việc truyền thông

điệp là nhằm đạt được mục đích gì? thực hiện như thế nào? trọng tâm từng giai đoạn ra

sao?; từ đó xây dựng chiến lược truyền thông, bám sát thực hiện. Điều này có nghĩa là

143

cơ quan báo Đảng khu vực ĐBSCL phải xác định được muốn đạt điều gì trong việc

truyền thông về BĐKH? (thông điệp đích), từ đó xây dựng kế hoạch triển khai các tác

phẩm báo chí, thiết kế thông điệp, hướng đến mục tiêu chung đó. Tuy nhiên, lãnh đạo

03 cơ quan báo khảo sát cho biết đơn vị chưa xây dựng chiến lược truyền thông về

BĐKH mà chủ yếu dựa vào thực tế diễn tiến của các vụ việc có liên quan đến BĐKH

để chỉ đạo. Điều này lý giải tình trạng nội dung thông tin thiếu cân đối, tần suất không

ổn định… trên báo Đảng ĐBSCL như thực tiễn khảo cứu đã đề cập.

T BĐKH là một vấn đề khó, những thành tựu và kiến thức cập nhật khoa

học về nguyên nhân cơ chế hình thành của các biểu hiện BĐKH là những kiến thức

chuyên ngành và mang tính kỹ thuật. Việc diễn giải các thông tin này bằng ngôn ngữ

đại chúng, dễ hiểu mà vẫn đảm bảo chính xác là điều khó khăn, thậm chí cả với những

nhà khoa học. Mặc dù báo chí nói chung, báo Đảng ĐBSCL nói riêng, có nỗ lực,

nhưng không phải lúc nào cũng thuận lợi và đạt kết quả như mong muốn. Để tránh sai

sót và để theo kịp áp lực thông tin, các nhà báo thường chọn giải pháp “lờ” đi nguyên

nhân, hoặc “bê nguyên xi” những thuật ngữ hàn lâm vào bài viết cho nhanh. Chính vì

thế, một số bài viết về BĐKH trên báo Đảng khu vực ĐBSCL khó hiểu, kém hấp dẫn.

T b , là do trình độ, năng lực của người làm trong các cơ quan báo Đảng khu

vực ĐBSCL không đồng đều, một bộ phận bị hạn chế về kiến thức, kỹ năng và kinh

nghiệm nghề nghiệp. Một số nhà báo chuyên viết về BĐKH chưa từng tham dự một

khóa bồi dưỡng nào về kỹ năng, kinh nghiệm viết báo lĩnh vực BĐKH và tất cả các nhà

báo chuyên viết về BĐKH ở 03 báo khảo sát cho biết rất mong muốn được tham gia

các lớp bồi dưỡng, tập huấn về kỹ năng viết về bài trong lĩnh vực này(PVS - M7, M8,

M12, M13, M18). Chưa kể, một bộ phận nhỏ còn thiếu nhiệt tình, trách nhiệm nghề

nghiệp nên trước các nội dung khó, như BĐKH, họ thường chọn giải pháp phản ánh

qua loa cho có những bài báo “lấp đầy chỗ trống” chứ chưa đặt mình vào vị trí công

chúng tiếp nhận để nhìn ra nội dung thông tin mà công chúng đang cần; tính hấp dẫn,

mới mẻ và tầm ảnh hưởng mà thông điệp bài viết tạo ra bị hạn chế.

“N ờ b ề BĐKH ò p ấp ữ tin

ề ý p b ơ ỉ

p ộ ễ ộ ụ Đ b

“ - ” ộ b b ơ ở không

ể ạ ữ p ẩ ”. (PVS-M4)

144

T để có bài viết lý giải thấu đáu, nhà báo cần thông tin từ rất nhiều phía.

Tuy nhiên, việc phối hợp truyền thông liên ngành và chia sẻ thông tin giữa các ngành,

lĩnh vực khác nhau hiện nay ở giữa các cơ quan trong địa phương đã khó, ngoài địa

phương càng nhiêu khê. Nhà báo khó tiếp cận được nguồn tin từ cơ quan chức năng, do

nhiều cơ quan không sẵn sàng hợp tác, cung cấp thông tin hoặc cung cấp chậm trễ nên

khi có được thông tin thì vấn đề đã không còn tính thời sự.

Th ă hầu hết cơ quan báo Đảng địa phương đang được bao cấp toàn bộ

hoặc một phần lớn kinh phí hoạt động. Kinh phí đã có cơ quan chủ quản lo, bao luôn

đầu ra nên một số cơ quan có tâm lý ỷ lại, không quan tâm nắm bắt nhu cầu, thị hiếu

tiếp nhận thông tin của bạn đọc. Đơn cử cả 3 báo trong diện khảo sát đều chưa từng tổ

chức nghiên cứu về công chúng (PVS-M6,M11,M16), dẫn đến thực tế là thông tin về

BĐKH trên báo Đảng ĐBSCL chỉ mới đáp ứng một phần nhu cầu của công chúng.

Mặt khác, điều kiện sống bằng bao cấp nên kinh phí hoạt động cho báo Đảng khu vực

ĐBSCL còn rất hạn chế, cơ sở vật chất, kỹ thuật chưa hiện đại ảnh hưởng đến khả năng

tác nghiệp của phóng viên cũng như chất lượng của các sản phẩm báo chí nói chung.

4.1.4. Một số vấn đề đặt ra

Từ thực tế khảo sát thông điệp về BĐKH của báo Đảng khu vực ĐBSCL, khảo

sát công chúng và phỏng vấn sâu các đối tượng có liên quan, có thể rút ra mấy vấn đề

sau đây.

4.1.4.1. Môi trường truyền thông mới đang đặt ra những thách thức lớn đối

với báo Đảng khu vực đồng bằng sông Cửu Long

Sự phát triển của khoa học công nghệ những thập niên gần đây đã tạo nên

MTTT số với những thay đổi và khác biệt đáng kể so với MTTT truyền thống, cả ở các

yếu tố môi trường tự nhiên lẫn yếu tố xã hội.

Xét ở mo i tru ờng tự nhie n, trước đây khoảng cách địa lý, địa hình, thời tiết…

ảnh hướng lớn đến việc bảo đảm cho tho ng điẹ p truyền đến đối tu ợng nhanh chóng và

trọn vẹn. Trong không gian Internet hiện nay, khoảng cách địa lý, tính định kỳ và giới

hạn của thông tin báo chí truyền thống đã xóa nhòa bởi MTTT mới có thể cung cấp

một khối lượng thông tin và dịch vụ khổng lồ cho công chúng bất cứ thời điểm nào chỉ

qua một thiết bị công nghệ số. Trong môi trường xã hội, nhiều phương tiện và phương

thức truyền thông mới qua internet, đặc biệt là mạng xã hội, dẫn đến sự thay đổi về vai

145

trò, chức năng, tâm lý của cả chủ thể và công chúng tiếp nhận, là các yếu tố chi phối rất

lớn đến na ng lực và hiẹ u quả truyền tho ng. Trong MTTT mới, “vai trò truyền thông

c a công chúng - ời ti p nh ờ ù ng mục tiêu thụ

ộng sẽ chấm d ộ ò ời tìm ki ấn,

nắm bắt, ph n h i thoạ ời chuy n trò” [49]. Công chúng ngày nay không bị

động ngồi chờ báo chí cung cấp thông tin như trước, mà họ tự tìm kiếm, kết nối, sản

xuất và chia sẻ thông tin… trở thành những "nhà báo công dân". Trong MTTT truyền

thống, mỗi loại hình báo chí có một dạng thức tồn tại đặc trưng là chữ viết, âm thanh và

hình ảnh, thì giờ đây báo điện tử, báo chí đa phương tiện, truyền thông hội tụ... đã tạo

nên những dạng thức báo chí mới có hiệu quả và năng lực truyền thông vượt trội.

Nằm trong vòng xoáy bùng nổ thông tin do MTTT mới tạo ra, việc đáp ứng nhu

cầu thông tin ngày càng nhanh, đa dạng, đúng và trúng, có chiều sâu của công chúng

đặt ra những thách thức rất lớn đối với báo Đảng ĐBSCL.

Th nhất, là việc đảm bảo tính thời sự của thông tin. Ngoại trừ báo Cần Thơ là

nhật báo, các báo Đảng khu vực ĐBSCL đều là báo thưa kỳ. Thêm vào đó, việc phát

hành bằng hình thức trao tay, trong điều kiện cơ sở hạ tầng vùng ĐBSCL còn khá

nhiều vùng sâu - vùng xa phải đến bằng tàu đò… thông tin đến tay bạn đọc không còn

mới mẻ. Trong khi đó, qua các thiết bị thông minh, công chúng có thể theo dõi tường

tận sự việc như đang ở hiện trường, còn có thể tương tác để tìm hiểu sâu hơn vấn đề khi

có nhu cầu.

Th hai, là việc giải quyết mâu thuẫn giữa đặc tính tuyên truyền của báo Đảng

và thuộc tính tin tức thời sự báo chí. Mặc dù định hướng lãnh đạo công tác thông tin

trên báo chí của Đảng và tôn chỉ, mục đích, nhiệm vụ của các cơ quan báo Đảng đều đề

cao tính chiến đấu của báo chí, khuyến khích vai trò báo chí phản biện xã hội, mạnh

dạn phản ảnh các vấn đề bức xúc của nhân dân, nhưng thực tế các cơ quan báo Đảng

khu vực ĐBSCL vẫn coi việc tuyên truyền là nhiệm vụ hàng đầu; không dám mạnh tay

với những tiêu cực ở địa phương. Đa số các bài viết chung chung, xuôi chiều để đảm

bảo “an toàn”, chưa mạnh dạn thể hiện quan điểm, chính kiến và nguyện vọng của

công chúng xã hội. Trong khi đây là điều công chúng kỳ vọng ở các báo chí chính

thống, nhất là báo Đảng, để tìm ra bản chất của vấn đề thực tiễn. Điều này, vô hình

trung càng “đẩy” công chúng đến những “nhà báo công dân” dám nói trên MXH bởi

không phải sức ép, chịu ràng buộc nào. Do đó, báo Đảng ngày càng mất dần công

chúng và thị phần thông tin.

146

Co ng chúng hiẹ n nay thu ờng thích các tin ngắn co đọng, súc tích, nhiều hình

ảnh sinh đọ ng ho n là các bài viết nhiều chữ trừ khi đó thực sự là mọ t vấn đề đáng quan

ta m. Thế nhưng cách thể hiện tác phẩm trên báo Đảng khu vực ĐBSCL vẫn theo lối

mòn với những bài viết dài chi chít chữ; cách đặt tít đơn điệu nhàm chán, hình ảnh kém

tính thẩm mỹ và nghệ thuật báo chí... vì thế chưa tạo được sự hấp dẫn, cuốn hút để giữ

chân và phát triển công chúng. Chính vì thế mà công chúng báo Đảng ĐBSCL hiện

nay cũng chỉ bó hẹp phạm vi các cán bộ, công chức, viên chức nhà nước và lực lượng

vũ trang (chủ yếu là người về hưu) như các dẫn liệu khảo sát ở chương 3 đã thể hiện.

Thông tin chậm, bài viết/thông điệp nặng tính khuôn mẫu, hình thức cũ kỹ kém

hấp dẫn và chưa thật sự lấy bạn đọc làm thước đo tính hiệu quả… là những thách thức

lớn mà báo Đảng ĐBSCL phải đối mặt trong MTTT mới.

4.1.4.2. Trình độ, kỹ năng tác nghiệp của nhà báo chưa thích nghi với môi

trường truyền thông mới và đáp ứng yêu cầu thực tiễn

Trong MTTT mới, công chúng thay đổi, báo chí cần phải bắt kịp sự thay đổi ấy

để đáp ứng nhu cầu, nguyện vọng, tâm lý, thị hiếu của công chúng. Vấn đề đặt ra cho

báo Đảng diện khảo sát là làm thế nào để tháo gỡ, giải quyết các vấn đề như nâng cao

năng lực giám sát và phản biện xã hội, gia tăng tính tương tác và kết nối xã hội, tổ chức

và quản lý diễn đàn trên mặt báo? Hay đơn giản là viết ngắn gọn, nổi bật từ đầu đề tác

phẩm đến cách diễn đạt, trình bày và ảnh, cũng như thông tin hình ảnh, đồ hoạ

inforgraphic,…

Thực tế khảo sát ở trên cho thấy, đội ngũ báo Đảng địa phương rất nhiệt tình,

xông xáo và bám sát thực tế, nhưng trình độ, năng lực tác nghiệp còn những hạn chế

cần khoả lấp. Trình độ ngoại ngữ chưa đáp ứng yêu cầu xu thế làm báo mới; chưa ứng

dụng được nhiều thành tựu công nghệ thông tin trong quá trình sáng tạo tác phẩm báo

chí (hoặc không thể áp dụng trong quá trình tác nghiệp do không phù hợp với hạ tầng

kỹ thuật và quy trình làm báo tại tòa soạn báo địa phương hiện nay); đặc điểm văn hóa

bản địa của công chúng chưa được khai thác hiệu quả; chưa tạo nên bản sắc riêng cho

thông điệp báo chí. Các báo diện khảo sát chưa chủ động xây dựng kế hoạch/chiến dịch

tuyên truyền/truyền thông về các chủ đề liên quan đến BĐKH; do đó tin/bài xuất hiện

tuỳ theo thời vụ, các chuyên trang/chuyên mục cũng không được thiết lập để cung cấp

kiến thức, thông tin và tạo diễn đàn chia sẻ kỹ năng/kinh nghiệm cho công chúng và

147

nhân dân. Nói cách khác, nhà báo báo thiên về gặp gì viết nấy, có gì viết nấy mà chưa

chủ động tổ chức thành kế hoạch/chiến dịch truyền thông, chưa xây dựng các chuyên

trang để có thể hình thành dòng thông điệp đủ mạnh và đủ sức thuyết phục công chúng

và nhân dân.

Mặt khác, hầu hết các nhà báo chỉ tập trung tác nghiệp vào các loại thể tác phẩm

báo chí thông tấn, còn các bài phân tích, bình luận hầu như rất ít. Nói cách khác, năng

lực phân tích, chính luận của nhà báo rất hạn chế.

4.1.4.3. Nhận thức và hiểu biết về biến đổi khí hậu và ứng phó với biến đổi

khí hậu của đội ngũ nhà báo địa phương đồng bằng sông Cửu Long chưa sâu và

chưa đồng bộ

Về bất kỳ vấn đề gì, hiểu biết làm nền tảng cho nhận thức; hiểu biết đúng và sâu

sắc sẽ là cơ sở giúp cho nhận thức đúng và chắc chắn. BĐKH là vấn đề mới và phức

tạp, từ đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý đến đội ngũ hoạt động báo chí - truyền thông

cần hệ kiến thức nhất định mới có thể có được nhận thức phù hợp; từ đó có cách thức

hành xử, ứng phó linh hoạt, hiệu quả. Hệ kiến thức này không chỉ từ sách vở, lý thuyết,

mà quan trọng không kém là kiến thức thực tiễn vùng. Do đó, cần có nhiều cuộc

nghiên cứu khảo sát của các chuyên gia, kết hợp với đội ngũ cán bộ, cả cư dân bản địa

và đội ngũ nhà báo; từ đó báo chí chia sẻ kiến thức, thông tin để giúp cộng đồng mở

mang hiểu biết, nâng cao nhận thức và tìm kiếm giái pháp thực tiễn ứng phó với

BĐKH hiệu quả.

Với đội ngũ nhà báo địa phương, thực tế cho thấy thiếu hụt về kiến thức BĐKH

cả về lý thuyết lần thực tiễn, cho nên tiếp cận và giải quyết vấn đề này trong tác phẩm

còn lúng túng, bị động, thậm chí một chiều. Bởi mỗi khi kiến thức thiếu hụt, hiểu biết

chưa sâu thì nhà báo rất khó có thể sáng tạo tác phẩm/thông điệp hấp dẫn.

4.2. MỘT SỐ GIẢI PHÁP, KHUYẾN NGHỊ NÂNG CAO CHẤT ƢỢNG

THÔNG ĐIỆP BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU TRÊN BÁO ĐẢNG KHU VỰC ĐỒNG BẰNG

SÔNG CỬU LONG

4.2.1. Một số giải pháp về nội dung, hình thức thông điệp về biến đổi khí hậu

4.2.1.1. Giải pháp về nội dung

Một là, thông tin bao quát các khía cạnh nội dung c BĐKH

Các biểu hiện của BĐKH cần phải được thông tin kịp thời, đầy đủ, thưởng

xuyên và chính xác. Thông tin về biểu hiện cần đi kèm với các thông tin dự báo, cảnh

148

báo về các dấu hiệu diễn biến bất thường để người dân nhận biết, chủ động phòng

tránh hiệu quả, giảm thiểu thiệt hại. Tăng cường nội dung phân tích nguyên nhân của

BĐKH, chỉ ra được mối liên hệ giữa việc gia tăng BĐKH với những tập tục, thói quen

chưa tốt trong sản xuất, sinh hoạt và hành vi khai thác thiếu bền vững các tài nguyên

thiên nhiên mà ĐBSCL đang là “điểm nóng” như lạm dụng khai thác cát sỏi, nước ngọt

ở bề mặt và nước ngầm… Tăng cường các bài viết về tác động của BĐKH đến đời

sống tinh thần của con người, đến việc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa, mối liên

quan giữa BĐKH và dịch bệnh, hoặc tiếp cận từ góc độ vai trò giới…; Làm đậm nét

các thông tin về tác động của BĐKH đến việc xây dựng các “vành đai an sinh” như đảo

đảm an ninh lương thực, an ninh năng lượng, an ninh nguồn nước, xóa đói giảm nghèo,

an sinh xã hội, nâng cao chất lượng đời sống, bảo vệ tài nguyên thiên nhiên… Song

song với thông tin về tiêu cực, cần bổ sung thông tin về các tác động tích cực của

BĐKH, giúp cộng đồng nhìn nhận BĐKH không chỉ đem đến nguy cơ mà còn mở ra

nhiều cơ hội để chuyển đổi kinh tế, phát triển sản xuất bứt phá, tạo lợi thế cạnh tranh.

Các chủ trương chính sách của Đảng, Chính phủ và các Bộ, ngành cũng như những

chính sách của địa phương về BĐKH dưới nhiều góc độ cần được thông tin, cập nhật

kịp thời để người dân biết - hiểu và chấp nhận tham gia thực hiện, biến nhiệm vụ chính

trị của chính quyền thành mục tiêu phấn đấu của người dân. Tăng cường thông tin các

mô hình, cách làm hay, đặc biệt là cách thức thay đổi tập quán sản xuất - kinh doanh, tổ

chức đời sống dân cư để thích nghi với điều kiện BĐKH.

H ă ộng theo chiều sâu, tính ng dụng c p

Một tác phẩm báo chí/thông điệp sâu sắc là khi nó nhìn nhận các sự kiện và vấn

đề theo chiều sâu và tính thực tiễn, không chỉ dừng lại ở việc nêu vấn đề mà cần đề

xuất hướng giải quyết vấn đề, phân tích thấu đáu, lý giải các vấn đề dưới các góc tiếp

cận và gợi mở hành động.

Để tăng cường chiều sâu và giá trị ứng dụng của thông điệp về BĐKH, báo

Đảng khu vực ĐBSCL thông tin về BĐKH cần tăng cường các bài viết mang tính phản

biện, tránh kiểu thông tin một chiều, áp đặt và thiên về ca ngợi. Thông tin về các chủ

trương chính sách mới về BĐKH cần đặt trong mối liên hệ với các chính sách khác

trong thục tiễn để xem xét mức độ phù hợp; giám sát chặt chẽ quá trình thực thi chính

sách và lên tiếng phản biện ngay khi thấy chưa phù hợp với mục tiêu phát triển bền

vững và đảm bảo an sinh xã hội. Giá trị ứng dụng của thông điệp sẽ tăng lên khi đi kèm

149

với những cảnh báo ấy là những giải pháp mới và hữu ích đã được cuộc sống kiểm

chứng. Những mâu thuẫn nội tại trong thực thi chính sách trong bối cảnh tác động đa

chiều do BĐKH, nếu được nhà báo khơi dậy từ thực tiễn, sử dụng sức mạnh truyền

thông khơi nguồn dư luận xã hội, gây được sức ép để có được sự can thiệp của chính

quyền, thì giá trị mang lại không chỉ cho đối tượng được phản ảnh, mà còn góp phần

tạo dựng niềm tin của công chúng, sự tin tưởng và đồng thuận của người dân với bộ

máy công quyền.

Ba là, mở rộng phạm vi thông tin về BĐKH

Mở rộng phạm vi thông tin trong trường hợp này gồm bổ sung thông tin về diễn

biến, hoạt động hợp tác quốc tế, các thành tựu khoa học mới về ứng phó BĐKH mà các

quốc gia, các tổ chức quốc tế đang thực hiện để cung cấp cho công chúng một cái nhìn

tổng quan toàn diện về BĐKH, giúp công chúng học tập, làm dày thêm kinh nghiệm,

kỹ năng ứng phó; đồng thời, tăng cường thông tin về thực trạng và những vấn đề phát

sinh và nỗ lực ứng phó BĐKH của Việt Nam đến cộng đồng quốc tế. Việc thông tin

như vậy không chỉ cho thấy cam kết và những nỗ lực của Việt Nam mà còn kêu gọi các

quốc gia, tổ chức quốc tế đến Việt Nam để nghiên cứu tìm giải pháp cũng như hỗ trợ

kỹ thuật, tài chính ứng phó với BĐKH.

4.2.1.2. Giải pháp về hình thức và cách thức tổ chức thông điệp

Nội dung và hình thức là hai yếu tố không thể tách rời tạo dựng nên thông điệp

và có quan hệ biện chứng, quyết định giá trị của thông điệp. Thông điệp không thể có

một nội dung hoàn chỉnh và giá trị thiết thực nếu các ngữ liệu cấu thành nội dung (ngôn

ngữ, tít, hình ảnh,…) được tổ chức thiếu hợp lý. Vì thế, để nâng cao chất lượng thông

điệp thì giải pháp đổi mới về mặt nội dung cũng cần triển khai với đổi mới hình thức.

Các giải pháp hình thức đề xuất để nâng cao chất lượng thông điệp về BĐKH trên báo

Đảng ĐBSCL có thể là:

T ấ ạ hoá ể ạ p ẩ báo chí

Sự đa dạng đan xen các thể loại báo chí giúp cho công chúng cảm thấy bớt

nhàm chán khi tiếp nhận thông tin, đồng thời phát huy hiệu quả thể hiện nội dung trong

nhiều trường hợp. Thể loại chính luận rất phù hợp trong các bài về chính sách BĐKH

bởi các phân tích, lý giải vấn đề có hệ thống với lập luận chặt chẽ giúp công chúng có

cái nhìn toàn diện, theo chiều sâu, hiểu được vấn đề đúng - sai. Hình thức infographic

cũng cần được quan tâm hơn, bởi đơn giản hóa các thông tin phức tạp, giảm sự đơn

điệu cho tác phẩm báo in.

150

Trong MTTT số, dù có nỗ lực như thế nào thì báo in cũng không thể “thắng”

báo mạng điện tử về độ nhanh nhạy, về khả năng tương tác với công chúng. Vì vậy,

nên lựa chọn những vấn đề trọng tâm mà công chúng quan tâm để tổ chức thực hiện

những bài/ loạt bài viết sâu sắc, có hệ thống… để mỗi bài viết là nguồn tư liệu bổ ích

và có giá trị cả về nhận thức và tham chiếu kỹ năng.

T ữ c b ẩ ạ ễ ể ễ và

ạ ừ ữ

Các bài viết cần lựa chọn ngôn ngữ dễ hiểu, đơn giản, gần gũi, hạn chế những từ

ngữ mang tính hàn lâm, khoa học và trừu tượng để người dân dễ tiếp thu; hạn chế các

từ ngữ biểu thị cực đoan và tăng cường sử dụng các loại hình ngôn ngữ phi văn tự như

đồ họa, biểu đồ… làm sinh động hình thức thông tin. Ảnh phải có chất lượng tốt, bố

cục rõ ràng, có tính thẩm mỹ lẫn giá trị thông tin.

T b ấ ă p b ụ ò

Bám sát định hướng và mục tiêu để xây dựng kế hoạch/chiến dịch truyền thông

về BĐKH hàng năm. Trên cơ sở đó triển khai các bài viết thường xuyên, ổn định

chuyên trang/chuyên mục, tần suất thông tin đảm bảo tính liên tục của dòng chảy thông

tin về BĐKH trên báo Đảng khu vực ĐBSCL.

T ụ ề BĐKH

Tính định kỳ và sự ổn định chuyên trang/chuyên mục là lời giao ước của toà

soạn báo chí với công chúng xã hội; đem đến cho công chúng một cái nhìn xuyên

suốt, liên tục về thông tin, cũng như làm tăng tính hấp dẫn, thu hút theo chiều sâu đối

với chuyên mục và tờ báo. Dựa trên phân bố trang mục hiện tại của các tờ báo khảo

sát, tác giả đề xuất chuyên mục “BĐKH” nên được bố trí ở vị trí ở các trang giữa

(trang 6-7 của báo AG và CM; trang 8 - 9 của báo CT), là các trang in màu, vì thế có

thể thiết kế các bài báo đẹp, tạo ấn tượng để thu hút công chúng.

- Mở rộng mạ ới cộng tác viên.

Môi trường truyền thông số tạo ra khả năng siêu kết nối, rất thuận cho việc xây

dựng mạng lưới cộng tác viên cho toà soạn. Để cải thiện tình trạng cộng tác viên ít ỏi

như hiện nay, báo Đảng khu vực ĐBSCL cần có chính sách khuyến khích, thu hút

những nhà chuyên môn, nhà hoạt động chính trị - xã hội và những cây bút có uy tín

tham gia viết về đề tài BĐKH. Để nâng cao chất lượng của đội ngũ cộng tác viên, các

cơ quan báo cần thường xuyên tổ chức các lớp tập huấn, bồi dưỡng về nghiệp vụ viết

151

báo, tổ chức các hội nghị cộng tác viên và thông tin hai chiều, nhằm kịp thời động viên,

khen thưởng, tôn vinh những cá nhân tích cực, tạo mối liên hệ gắn bó giữa cơ quan báo

và đội ngũ cộng tác viên.

4.2.2. Giải pháp nhằm nâng cao năng lực xây dựng và thiết kế thông điệp

4.2.2.1. Nâng cao hiệu quả lãnh đạo, hiệu lực quản lý báo chí theo định

hướng của Đảng

Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý báo chí là vấn đề có tính nguyên tắc, để báo

chí cách mạng Việt Nam giữ vững tôn chỉ, mục đích và phát triển một cách toàn diện.

Trong MTTT số, thông tin trên thế giới được truyền tải liên tục, nhiều chiều và dễ dàng

tới công chúng thông qua Internet, với những dạng thức truyền thông mới, trong đó

MXH đang chiếm ưu thế. Điều kiện phát triển mạnh mẽ của truyền thông xã hội đòi

hỏi việc lãnh đạo, quản lý báo chí phải thay đổi theo hướng hoàn thiện cơ chế, chính

sách để tạo điều kiện cho các cơ quan báo chí phát triển thích ứng với xu thế và phục

vụ có hiệu quả cao nhất những mục tiêu của cách mạng nước ta trong giai đoạn mới.

Trên thực tế, quan điểm lãnh đạo của Đảng đối với báo chí thời gian qua thể

hiện được tầm nhìn phù hợp với khuynh hướng phát triển của báo chí cách mạng.

Ngay từ năm 2007, trong Nghị quyết Trung ương 5 (Khóa X) về công tác tư tưởng,

lý luận và báo chí trước yêu cầu mới, Đảng đã thấy “s p ể ọ -

ạ ữ ơ ộ p ể

ũ ạ ă ” cho công tác tư tưởng, lý luận và

báo chí; trong khi “c ơ b ọ Đ N ớ ổ

ớ ộ ấp ấ ề

p ớ ã ộ ”.

Những yêu cầu, nhiệm vụ mà Đảng đề ra, như: “C ạ ạ b ỡ

bổ bộ p ẩ ấ ă ạ ề ề ơ ở ấ - ỹ

ể b ạp ổ ớ ấ ề ộ

ă p ụ ấp p p ạ p

ă p ớ ã ộ ”, đến nay vẫn là

những yêu cầu cấp thiết, hoàn toàn phù hợp để nâng cao năng lực toàn diện của cơ

quan báo chí trong MTTT mới.

Lãnh đạo tỉnh, thành phố khu vực ĐBSCL cần quán triệt sâu sắc quan điểm chỉ

đạo của Đảng về công tác tư tưởng, lý luận và báo chí trước yêu cầu mới; nhận thức

152

đúng tầm quan trọng của truyền thông về BĐKH trên báo Đảng địa phương. Từ đó,

giúp các cơ quan báo Đảng định hướng thông tin về BĐKH một cách đúng đắn. Chỉ

đạo các cơ quan, ban ngành địa phương tăng cường cung cấp thông tin và hợp tác với

báo Đảng địa phương đẩy mạnh thông tin cho cơ quan báo chí để báo chí kịp thời cung

cấp thông tin chính thức, chính thống cho công chúng.

Bên cạnh việc bố trí nguồn kinh phí đầu tư trang bị cơ sở vật chất đảm bảo yêu

cầu tác nghiệp cho cơ quan báo chí (ví dụ vào vùng lũ phải có máy ảnh chuyên

dụng….), lãnh đạo tỉnh, thành phố khu vực ĐBSCL cần đặc biệt quan tâm đến công

tác tổ chức, cán bộ, đào tạo nguồn nhân lực trong cơ quan báo Đảng. Lựa chọn, bổ

nhiệm những cán bộ có năng lực chính trị và nghiệp vụ báo chí đảm nhiệm những

vị trí chủ chốt trong cơ quan báo Đảng để phát huy vai trò các hạt nhân nòng cốt

này trong công tác lãnh đạo đội ngũ phóng viên nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ

chuyên môn và lòng nhiệt thành công hiến, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mới.

4.2.2.2. Tăng cường đào tạo, nâng cao trình độ mọi mặt cho các nhà báo

Việc đào tạo chính trị có thể thông qua các lớp trung cấp hoặc cao cấp chính

trị, các lớp triển khai nghị quyết, những buổi tọa đàm, sinh hoạt truyền thống, sinh

hoạt chuyên đề… để mỗi nhà báo phải thấm nhuần vai trò, ý thức trách nhiệm chính

trị - xã hội của người làm báo.

Công tác đào tạo, tập huấn nhằm cung cấp kiến thức về BĐKH, về chuyên môn

nghiệp vụ, nhất là năng lực chính luận và khả năng ứng dụng kỹ thuật công nghệ số rất

cần thiết. Cần chú trọng tổ chức các lớp tập huấn chuyên đề, cung cấp thông tin,

kiến thức và kỹ năng viết về BĐKH cho nhà báo. Khu vực ĐBSCL chưa tổ chức

nhiều các lớp như vậy, trong khi hiểu biết, nhận thức và kỹ năng tác nghiệp của nhà

báo về vấn đề này đang còn quá nhiều khoảng trống. Các nhà báo chuyên tác nghiệp

trong lĩnh vực BĐKH cần được đào tạo lại và cung cấp kiến thức cập nhật của khoa

học, pháp luật về BĐKH có tính chuyên môn sâu để không chỉ viết đúng và phải

viết “sắc” để có thể thiết kế những thông điệp về BĐKH đủ sức thuyết phục.

Cần thường xuyên coi trọng tổ chức các lớp tập huấn ngắn ngày theo chuyên

đề tác nghiệp thể loại tác phẩm báo chí, đặc biệt chú trọng đào tạo, bồi dưỡng năng

lực chính luận cho các nhà báo trong khu vực, cũng như kỹ năng làm tin/bài

inforgraphic, đồ hoạ và các kỹ năng khác, ….

153

Hội nhà báo cấp Tỉnh và các cơ quan báo chí cần chủ động tổ chức tập huấn

cho đội ngũ từ phó trưởng phòng, các nhà báo nòng cốt về kỹ năng xây dựng kế

hoạch/chiến dịch truyền thông hiệu quả, cũng như kỹ năng xây dựng chuyên trang,

chuyên mục cho tờ báo.

4.2.3. Một số khuyến nghị khoa học

4.2.3.1. Đối với các Bộ, ngành Trung ương và Hội Nhà báo Việt Nam

Bộ TN&MT và các Bộ, ngành có liên quan cần chủ động phối hợp, tạo điều

kiện giúp các cơ quan báo chí thành lập mạng lưới truyền thông về BĐKH nhằm kết

nối đội ngũ những nhà báo chuyên viết về BĐKH với nhà khoa học - nhà quản lý về

lĩnh vực này, xem đây là “cầu nối” để các cơ quan quản lý nhà nước chủ động phối

hợp và chia sẻ những thông tin mới nhất, chính thống nhất về tình hình, các hoạt

động ứng phó với BĐKH trong nước, khu vực và thế giới, tạo điều kiện cho các cơ

quan báo chí tiếp cận thông tin nhanh cả bề rộng và chiều sâu để có những thông tin

chính xác, khách quan và kịp thời.

Hội Nhà báo Việt Nam cần tranh thủ các nguồn lực định kỳ tổ chức các lớp

bồi dưỡng kỹ năng tác nghiệp, cập nhật kiến thức về BĐKH cho đội ngũ phóng

viên, biên tập viên các địa phương; ít nhất là 2 lớp/ năm cho các phóng viên đang

tác nghiệp ở những vùng nguy cơ cao về BĐKH như ĐBSCL. Hình thức bồi dưởng

cần kết hợp giữa lý thuyết và thực tiễn bằng cách cho phóng viên đi thực tế và tác

nghiệp ở những vùng BĐKH đặc trưng khác nhau. Quan tâm dành một phần kinh

phí hỗ trợ tác phẩm báo chí chất lượng cao về chủ đề BĐKH.

Các cơ sở đào tạo báo chí, truyền thông cần thiết kế và đưa nội dung giảng

dạy về BĐKH như một chuyên đề chuyên sâu nhằm đào tạo đội ngũ sinh viên báo

chí truyền thông có kiến thức về BĐKH.

4.2.3.2. Đối với lãnh đạo cơ quan báo chí khu vực đồng bằng sông Cửu Long

- Lãnh đạo cơ quan báo chí cần coi việc truyền thông về BĐKH là một trong

những nhiệm vụ quan trọng của cơ quan báo Đảng và trách nhiệm của người làm báo

trong bối cảnh hiện nay; từ đó, chủ động xây dựng kế hoạch/chiến dịch truyền thông

tổng thể, dài hơi về BĐKH, trong đó xác định rõ mục tiêu, cách thức, phương pháp

triển khai cho đến kết nối nguồn lực xã hội,...

- Phân công phóng viên chuyên trách ổn định theo dõi các lĩnh vực BĐKH

nhằm chuyên nghiệp hóa, chuyên môn hóa việc tuyên truyền, tạo điều kiện để mỗi nhà

báo viết về BĐKH thành các chuyên gia truyền thông có tầm.

154

- Xây dựng cơ chế, chính sách khuyến khích về nhuận bút đối với các bài viết

hay về BĐKH. Chế độ công tác phí hiện hành theo quy định của Nhà nước để phóng

viên trang trải cho các chuyến đi thực tế rất hạn hẹp. Chính sách khuyến khích về

nhuận bút sẽ tạo thêm động lực để nhà báo đầu tư công sức, trí tuệ cho sự sáng tạo.

- Tổ chức các hội thảo, toạ đàm chuyên môn trong nội bộ cơ quan, trong vùng

để chia sẻ kiến thức, kĩ năng và kinh nghiệm viết về đề tài BĐKH. Tạo điều kiện để các

nhà báo tham gia các lớp học tập, chia sẻ kỹ năng, kinh nghiệm tác nghiệp về BĐKH

trên phạm vi toàn quốc và quốc tế.

4.2.3.3. Đối với nhà báo

Các nhà báo cần rèn luyện bản lĩnh chính trị vững vàng, thực sự chuyển mình cả

về cách thức tư duy nội dung và kỹ năng tác nghiệp để có thể thiết kế những thông điệp

báo chí rõ ràng, có khả năng tác động và giá trị sử dụng cao.

Nhà báo cần chủ động học tập nâng cao trình độ, mở mang hiểu biết, tìm kiếm

cập nhật thông tin, không ngừng nâng cao trình độ, kỹ năng tác nghiệp chuyên sâu về

BĐKH. Đồng thời, bản thân mỗi nhà báo cũng phải luôn sáng tạo tìm cách để làm mới

mình trong mỗi tác phẩm báo chí và luôn có ý thức học hỏi để nâng cao trình độ, thích

nghi với mọi điều kiện, hoàn cảnh và MTTT số. Nhà báo cần coi việc tự học, tự cập

nhật kiến thức và kỹ năng là công việc hàng ngày.

Tiểu kết chƣơng 4

Từ kết quả khảo cứu thông điệp về BĐKH trên báo Đảng khu vực ĐBSCL

trong các chương trước, Chương 4 đã chỉ ra những thành công, hạn chế và phân tích

các nguyên nhân dẫn đến các thành công và hạn chế của thông điệp về BĐKH trên báo

Đảng khu vực ĐBSCL. Về thành công, báo Đảng khu vực ĐBSCL đã chuyển tải đến

công chúng những thông tin đa dạng, góp phần cụ thể hóa các chủ trương của Đảng,

chính sách pháp luật của Nhà nước về BĐKH; tuyên truyền, phổ biến các kinh nghiệm

hay, giải pháp tốt, góp phần cổ vũ, khích lệ năng lực sáng tạo, thúc đẩy yếu tố tích cực

trong hành động ứng BĐKH. Từ đó giúp công chúng có thêm kiến thức, nhận thức

những nguy hại và từng bước thay đổi hành vi ứng phó với BĐKH. Tuy vậy, thông

điệp về BĐKH trên báo Đảng khu vực ĐBSCL vẫn còn những hạn chế, như chưa bao

quát các khía cạnh thông tin, thông tin còn mang tính một chiều, nội dung tiêu cực lấn

155

át yếu tố tích cực; còn ít thông điệp có nội dung sâu sắc, chưa làm nổi bật vai trò giám

sát và phản biện xã hội của báo Đảng ĐBSCL về vấn đề BĐKH. Hình thức thông điệp

cũng còn những hạn chế, như nghèo nàn về mặt thể loại, tần suất không ổn định...

Những hạn chế này có một phần nguyên nhân do trình độ, kỹ năng tác nghiệp của nhà

báo ở báo Đảng địa phương ĐBSCL chưa thích nghi với MTTT mới và đáp ứng yêu

cầu thực tiễn; nhận thức và hiểu biết về BĐKH và ứng phó với BĐKH chưa sâu và

chưa đồng bộ…

Trên cơ sở phân tích nguyên nhân của những thành công và hạn chế cũng như

những thách thức mà báo Đảng khu vực ĐBSCL đang đối mặt trong MTTT số hiện

nay, tác giả đã đề ra các nhóm giải pháp nhằm nâng cao chất lượng thông điệp về

BĐKH trên báo Đảng khu vực ĐBSCL trong thời gian tới. Đối với nội dung và hình

thức thông điệp, các giải pháp trọng tâm gồm: Nội dung thông điệp phải bao quát, toàn

diện các khía cạnh của BĐKH; cần tăng cường chiều sâu và giá trị ứng dụng của nội

dung thông điệp và tăng cường phạm vi thông tin về BĐKH. Cần đa dạng thể loại tác

phẩm báo chí thể hiện thông điệp; ngôn ngữ thể hiện thông điệp cần đảm bảo sự đa

dạng, chuẩn xác, dễ hiểu và hạn chế các từ ngữ gây sốc; đổi mới cách thức tổ chức

thông điệp bằng việc xây dựng các chuyên trang, chuyên mục để công chúng dễ theo

dõi... Nhóm giải pháp nhằm nâng cao năng lực xây dựng và thiết kế thông điệp, tác giả

đề xuất cần nâng cao hiệu quả lãnh đạo, hiệu lực quản lý báo chí theo định hướng của

Đảng và tăng cường đào tạo, nâng cao trình độ về mọi mặt cho nhà báo các cơ quan

báo Đảng ĐBSCL.

Đồng thời, chương 4 cũng nêu ra một số khuyến nghị, đề xuất hướng đến các

cơ quan quản lý báo chí, lãnh đạo các tòa soạn báo và các phóng viên cơ quan báo

Đảng, nhằm nâng cao chất lượng thông điệp về BĐKH trên báo Đảng khu vực

ĐBSCL, tạo ra tác động mạnh mẽ để góp phần làm thay đổi nhận thức, hành động của

cộng đồng theo hướng tích cực.

156

KẾT LUẬN

ĐBSCL là một trong 03 đồng bằng trên thế giới dễ bị tổn thương nặng nề nhất

do nước biển dâng. Với chức năng, nhiệm vụ được giao, lợi thế thông tin tiệm cận và

khả năng cung cấp thông tin chính thức, chính thống và năng lực tác động trong hệ

thống chính trị, báo Đảng địa phương khu vực ĐBSCL đã và đang gia tăng ảnh hưởng

để góp phần giúp cộng đồng dân cư khu vực nâng cao nhận thức và thay đổi hành vi

nhằm thích ứng với BĐKH.

Với mục đích phân tích những vấn đề thực tiễn và đề xuất các giải pháp nhằm

nâng cao chất lượng thông điệp về BĐKH trên báo Đảng địa phương khu vực ĐBSCL,

luận án hệ thống hóa cơ sở lý luận và xây dựng khung lý thuyết cho vấn đề nghiên cứu;

khảo sát 1.290 bài viết có đề cập đến vấn đề BĐKH xuất bản từ năm 2017 đến hết

tháng 6/2019 trên báo An Giang, báo Cà Mau và báo Cần Thơ; khảo sát 450 công

chúng ở 03 địa phương tương ứng để tìm hiểu việc tiếp nhận của công chúng về các

thông điệp BĐKH trên báo Đảng địa phương. Đối chiếu với các câu hỏi nghiên cứu, cơ

sở lý luận và thức tiễn nghiên cứu, tác giả kết luận tổng quát về thông điệp về BĐKH

trên báo Đảng khu vực ĐBSCL, như sau:

khai thác phong phú ở nhiều góc độ tiếp cận khác nhau, thông tin kịp thời các

biểu hiện, tác động, lý giải nguyên nhân và giải pháp phó với BĐKH để người

dân nắm bắt, vận dụng vào thực tiễn. Tuy nhiên, hạn chế của truyền thông về

BĐKH trên báo Đảng khu vực ĐBSCL là chú trọng thông tin về biểu hiện và

hậu quả của BĐKH mà thiếu những phân tích sâu về nguyên nhân, các giải

pháp, cách thức ứng phó và thích nghi cụ thể, những kinh nghiệm hay hoặc

những nhận định, bình luận, đánh giá có tính dự báo cao... Thông tin về BĐKH

1. Về nội dung, thông điệp về BĐKH trên Báo Đảng khu vực ĐBSCL được

còn một chiều, nhấn mạnh tác động tiêu cực, nhiều bài viết mang yếu tố bi quan cực

đoan. Việc thông tin chính sách còn mang nặng tính tuyên truyền, chủ yếu giới thiệu,

giải thích và vận động công chúng làm theo, ít có bài viết phản biện mạnh mẽ về tính

hợp lý, hợp hiến cũng như khả năng thực thi hiệu quả của các chính sách BĐKH trong

thực tế. Phạm vi phản ảnh của thông điệp quá hẹp làm hạn chế sự hiểu biết về của công

chúng về BĐKH trên thế giới và giảm hiệu quả huy động nguồn lực kinh phí và kỹ

thuật từ bạn bè quốc tế để ứng phó với BĐKH.

2. Mặc dù vẫn đảm bảo dòng chảy thông tin, nhưng do chưa xây dựng định

hướng, kế hoạch thực hiện chiến lược truyền thông về BĐKH nên tần suất thông tin về

157

BĐKH trên báo Đảng khu vực ĐBSCL chưa ổn định, phụ thuộc nhiều vào các sự kiện

hoạt động liên quan đến BĐKH trên địa bàn. Hình thức thể hiện thông điệp chưa có

nhiều đổi mới. Yếu tố đa dạng về thể loại là một yêu cầu quan trọng để đảm tính mới

mẻ và hấp dẫn của thông điệp báo chí, tuy nhiên, hầu hết các thông điệp về BĐKH trên

báo Đảng ĐBSCL thuộc thể loại tin, bài thông tấn, chưa có sự đột phá sáng tạo về hình

thức ở những loại hình mới như infographic hay tác phẩm hoàn toàn bằng ngôn ngữ

phi văn tự. Nhiều bài viết sử dụng thuật ngữ khoa học gây khó hiểu, hoặc các từ ngữ

nhấn mạnh tác động của BĐKH theo hướng cực đoan. Do các báo Đảng khu vực

ĐBSCL chưa xây dựng được chuyên mục BĐKH, bài viết về BĐKH đăng rải rác ở

3. Hiệu quả tác động của các thông điệp về BĐKH trên báo Đảng khu vực

nhiều mục, nhiều trang, khiến cho công chúng khó theo dõi, phản hồi.

ĐBSCL đến công chúng là khá tốt. Công chúng rất quan tâm và có nền tảng kiến thức

tốt về BĐKH, nhận thức sâu sắc con người là tác nhân khiến cho BĐKH diễn biến

nhanh như hiện nay và con người phải có trách nhiệm ứng phó với BĐKH. Tuy nhiên,

công chúng đánh giá về nội dung và hình thức các bài viết chứa thông điệp về BĐKH

trên báo Đảng địa phương chỉ ở mức trung bình khá; mới đáp ứng được một phần nhu

cầu thông tin của độc giả. Trong đó tính thời sự mới mẻ của nội dung và sự lôi cuốn bắt

mắt trong hình thức bài viết bị đánh giá thấp nhất. Công chúng nhận thấy báo Đảng địa

phương tập trung thông tin nhiều về những ảnh hưởng tiêu cực của BĐKH, khiến cho

họ cảm thấy lo lắng khi đọc các bài viết về BĐKH được đăng tải; họ cũng chưa sẵn

sàng cho việc phối hợp cung cấp, chia sẻ thông tin với tòa soạn về BĐKH.

4. Kết quả phân tích cho thấy thông điệp về BĐKH trên báo Đảng khu vực

ĐBSCL có những hạn chế cần khắc phục để hoàn thành mục tiêu, nhiệm vụ truyền

thông về BĐKH mà Đảng và Nhà nước giao phó. Đặc biệt là trong điều kiện MTTT số

đang tạo ra những thay đổi về cách thức truyền tin và tiếp cận thông tin.

- C p p ớ ộ p:

Tăng cường nội dung phân tích nguyên nhân của BĐKH, chỉ ra được mối liên

hệ giữa việc gia tăng các biểu hiện, dấu hiệu, tác động của BĐKH với những tập tục,

thói quen chưa tốt trong sản xuất, sinh hoạt và hành vi khai thác thiếu bền vững các tài

nguyên thiên nhiên của con người. Cần bổ sung thông tin về các tác động tích cực của

BĐKH, giúp cộng đồng nhìn nhận BĐKH không chỉ đem đến nguy cơ mà còn mở ra

nhiều cơ hội để chuyển đổi kinh tế, phát triển sản xuất bứt phá, tạo lợi thế cạnh tranh.

Để nâng cao năng lực tác động và hiệu quả của thông điệp, báo Đảng ĐBSCL

thông tin về BĐKH cần tăng cường các bài viết mang tính phản biện, tránh kiểu thông

158

tin một chiều, áp đặt. Đổi mới tư duy lựa chọn đề tài, đổi mới cách tiếp cận và phân

tích vấn đề theo hướng bám sát từ cơ sở và thực tế cuộc sống; đặc biệt chú trọng tìm

hiểu, thông tin về những thương tổn, tâm tư, nguyện vọng, của nhóm người yếu thế bởi

những tác động không thể đo đếm của BĐKH. Những mâu thuẫn nội tại trong thực tiễn

vận hành của xã hội trong bối cảnh tác động đa chiều do BĐKH cần được nhà báo khơi

dậy, sử dụng sức mạnh truyền thông khơi thức thành dư luận để có được sự can thiệp

của chính quyền, thì giá trị không chỉ cho đối tượng được phản ảnh, mà còn góp phần

tạo dựng niềm tin của công chúng cũng như đồng thuận xã hội.

Mở rộng và đa dạng hoá thông tin về BĐKH, để cung cấp cho công chúng một

cái nhìn toàn diện về BĐKH trên thế giới, giúp công chúng học tập kinh nghiệm ứng

phó với BĐKH mà bạn bè quốc tế đang thực hiện. Đồng thời, tăng cường thông tin về

thực trạng và những thành tựu ứng phó BĐKH để cộng đồng quốc tế thấy được những

nỗ lực của Việt Nam; qua đó kêu gọi các quốc gia, tổ chức quốc tế đến Việt Nam để

nghiên cứu tìm giải pháp cũng như kêu gọi hỗ trợ kỹ thuật, tài chính để Việt Nam ứng

phó với BĐKH.

Cần thiết đa dạng thể loại để công chúng quan tâm đến đề tài cảm thấy bớt

nhàm chán khi tiếp nhận thông điệp, đồng thời giúp phát huy hiệu quả thể hiện nội

dung thông tin trong một số trường hợp cụ thể. Bên cạnh đó, việc xây dựng các bài

viết theo hình thức infographic cần được quan tâm hơn, bởi đây là một trong các hình

thức thể hiện mới mẻ, giúp giảm sự đơn điệu không chỉ cho tác phẩm mà cả ấn phẩm

báo Đảng.

Báo Đảng khu vực ĐBSCL chủ yếu sử dụng văn phong ngôn ngữ khoa học để

biểu đạt nội dung thông tin về chủ đề BĐKH là phù hợp. Tuy nhiên việc xử lý các thuật

ngữ khoa học cần linh hoạt hơn nữa. Các bài viết cần lựa chọn ngôn ngữ giúp công

chúng dễ hiểu, dễ nhớ và dễ làm theo, hạn chế những từ ngữ mang tính hàn lâm và các từ

ngữ biểu thị tính chất cực đoan khi mô tả về BĐKH. Tăng cường sử dụng các loại hình

ngôn ngữ phi văn tự trong việc biểu đạt nội dung thông điệp BĐKH như đồ họa, biểu

đồ… làm sinh động, phong phú cho bài viết. Hình ảnh phải có chất lượng tốt, bố cục rõ

ràng và có tính thẩm mỹ lẫn giá trị thông tin, phù hợp với nội dung thông điệp.

Báo Đảng khu vực ĐBSCL cần xây dựng kế hoạch tuyên truyền - truyền thông

về BĐKH hàng năm, hàng quý, hàng tháng để trên cơ sở đó triển khai đảm bảo tính

liên tục của dòng chảy thông tin về BĐKH trên báo. Cần có chính sách khuyến khích,

thu hút những nhà báo có kinh nghiệm, những cây bút có uy tín tham gia viết về đề tài

159

BĐKH, như tổ chức các hội nghị cộng tác viên, kịp thời động viên, khen thưởng, tôn

vinh những cá nhân tích cực, tạo mối liên hệ gắn bó giữa cơ quan báo và đội ngũ cộng

tác viên.

- Các gi i pháp nhằ ă c xây d ng và thi t k p

Lãnh đạo tỉnh, thành phố khu vực ĐBSCL cần quán triệt sâu sắc các quan điểm

chỉ đạo của Đảng về công tác tư tưởng, lý luận và báo chí, tạo điều kiện cho các cơ

quan báo chí ĐBSCL phát triển phù hợp với xu thế trong MTTT mới. Bên cạnh đó,

Hội nhà báo cấp Tỉnh và các cơ quan báo chí cần tăng cường đào tạo, nâng cao trình

độ, đặc biệt là ngoại ngữ, năng lực chính luận và khả năng ứng dụng kỹ thuật công

nghệ số, kỹ năng viết về BĐKH… cho nhà báo các cơ quan báo Đảng ĐBSCL.

5. Đối chiếu kết quả thực nghiệm với các giả thuyết nghiên cứu, tác giả nhận

thấy các giả thuyết đã nêu là có căn cứ, dựa vào các kết quả kiểm chứng sau:

Ở giả thuyết thứ nhất: Báo Đảng khu vực ĐBSCL đã rất nỗ lực trong việc thực

hiện các bài viết về BĐKH, đóng góp đáng kể trong việc cung cấp thông tin, bổ sung

kiến thức và định hướng hành động ứng phó với BĐKH cho công chúng trên địa bàn.

Năng lực và hiệu quả tác động của thông điệp về BĐKH trên báo Đảng địa phương

ĐBSCL đã từng bước nâng cao và phát huy hiệu quả trong quá trình tham gia giải

quyết vấn đề BĐKH khu vực ĐBSCL. Công chúng không chỉ nhận diện được các biểu

hiện, hiểu và ủng hộ với những chính sách can thiệp giảm nhẹ tác động BĐKH mà Nhà

nước đang triển khai mà còn học tập được nhiều kiến thức, kinh nghiệm, kỹ năng có

giá trị ứng dụng cao trong hành động thích ứng BĐKH.

Ở giả thuyết thứ hai: Với những đóng góp ngày càng tích cực vào quá trình thay

đổi nhận thức, thái độ và hành vi công chúng và nhân dân nói chung trong khu vực

nhằm thích ứng với BĐKH, báo Đảng địa phương đang tiếp tục khẳng định vai trò trụ

cột, nồng cốt trong hệ thống mạng lưới truyền thông. Việc nghiên cứu, tổng kết để rút

ra những vấn đề thực tiễn và tiếp tục đề xuất những giải pháp tiếp tục nâng cao chất

lượng và năng lực tác động của thông điệp, điều mà nghiên cứu này thực hiện, là cần

thiết và có ý nghĩa.

Ở giả thuyết thứ ba: Năng lực, kỹ năng thiết kế thông điệp BĐKH của đội ngũ

nhà báo của báo Đảng địa phương khu vực ĐBSCL khá tốt, minh chứng qua việc đã

thiết kế, sản xuất nhiều thông điệp về BĐKH hấp dẫn, sâu sắc, có tác động mạnh mẽ

đến công chúng bản địa. Tuy vậy, vẫn còn những hạn chế nhất định trong cách thức tư

duy nội dung và kỹ năng tác nghiệp. Những giải pháp và khuyến nghị đã nêu trong

160

luận án nếu được vận dụng sẽ giúp các nhà báo cũng như báo chí địa phương giải quyết

những hạn chế, hoàn thành tốt nhiệm vụ và còn phát huy được thế mạnh, bản sắc địa

phương để có thể phụng sự bạn đọc ngày càng tốt hơn trong bối cảnh truyền thông số.

6. Với sự tâm huyết, cầu thị, trách nhiệm, NCS đã cố gắng thu thập tư liệu và

thực hiện các bước nghiên cứu nhằm đưa ra các kết quả phân tích, đánh giá chính

xác khách quan và khoa học nhất về đề tài “Thông điệp về BĐKH trên báo Đảng

khu vực ĐBSCL” góc nhìn của báo chí học. Trên cơ sở đó, NCS đã đề xuất các

nhóm giải pháp nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả tác động của thông điệp về

BĐKH trên báo Đảng khu vực ĐBSCL. Tuy nhiên, Luận án chỉ giới hạn nghiên cứu

về thông điệp về BĐKH trên báo in của Đảng bộ các địa phương khu vực ĐBSCL giai

đoạn từ 2017 đến tháng 6/2019, khuôn khổ khảo sát giới hạn ở 03 báo AG, CM và CT,

mới đạt được những kết quả bước đầu. Trong bối cảnh thích ứng với BĐKH vẫn là vấn

đề cấp thiết, hướng nghiên cứu này cần được phát triển tiếp tục theo các góc nhìn mới

về không gian, thời gian, loại hình báo chí với các hướng tiếp cận mới hoặc phát triển

sâu hơn để có những kết quả hoàn thiện hơn. Qua đó, tiếp tục nâng cao chất lượng và

năng lực tác động của thông điệp nói riêng, nâng cao hiệu quả công tác thông tin, tuyên

truyền của báo chí cách mạng nói chung, phục vụ đắc lực cho thực hiện các mục tiêu,

nhiệm vụ xây dựng và phát triển bền vững đất nước./.

161

CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ

IÊN QU N ĐẾN ĐỀ TÀI

1. Nguyễn Văn Dững, Hồ Thị Thanh Bạch (2021), Qu n lý thông tin trên mạng xã

hội - ộ ti p c n từ quyền l c mềm, in trong quyển “Quản lý thông tin trên

mạng xã hội trong bối cảnh bùng nổ thông tin”, NXB Chính trị Quốc gia Sự

thật, tr.19-32.

2. Nguyễn Văn Dững, Hồ Thị Thanh Bạch (2021), “Thông điệp về biến đổi khí

hậu trên báo Đảng Đồng bằng sông Cửu Long - Về nội dung và hình thức thông

điệp”, Tạp chí Lý lu n Chính tr và Truyền thông, (9), tr.58-63.

3. Ho Thi Thanh Bach (2021), Enhancing the Effectiveness of Climate Change

Communication Messages in Local Newspapers in the Mekong Delta Region

(Nâng cao hi u qu p truyền thông về bi ổi khí h u trên b a

p ơ Đ ng bằng sông Cửu Long), 13th Neu-Kku International

Conference Socio-economic and Invironmental issues in development, 2021,

p.1089-p.1100 Ha Noi. The ISBN number of the Proceedings is: 978-604-79-

2811-8.

4. Hồ Thị Thanh Bạch (2021), “Thông điệp về biến đổi khí hậu trên báo in địa

phương đồng bằng sông Cửu Long”, Tạp chí Lý lu n Chính tr , (8), tr.101-106.

5. Hồ Thị Thanh Bạch (2020), H ý b

ạ ã ộ ở T p C T ơ, Kỷ yếu Hội thảo

KHQT “Quản lý thông tin trên mạng xã hội trong bối cảnh bùng nổ thông tin”,

Học viện Báo chí và Tuyên truyền, tr.624-635.

6. Hồ Thị Thanh Bạch (2017), “Vai trò của Truyền thông đại chúng đối với phát

triển kinh tế - xã hội vùng Đồng bằng sông Cửu Long trong hội nhập quốc tế

hiện nay”, Tạp chí Thông tin khoa học chính tr , số 03 (8), tr.35-37.

162

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

A. Tài liệu tiếng Việt

1. Lưu Văn An (2008), Truyề ại chúng trong tổ ch c h th ng quyền l c

ở ớ b n phát triển, NXB Lý luận chính trị, Hà Nội.

2. Nguyễn Việt Anh, Đỗ Minh Hùng (2019), Phát triển đội ngũ cộng tác viên phát

hành, bạn đọc các tạp chí của Đảng - nhiệm vụ cấp thiết và lâu dài,

http://tuyengiao.vn/nghien-cuu/phat-trien-doi-ngu-cong-tac-vien-phat-hanh-

ban-doc-cac-tap-chi-cua-dang-nhiem-vu-cap-thiet-va-lau-dai-122532

3. Ngọc Ánh (2019), Báo động tình trạng đa dạng sinh học Việt Nam vẫn trên đà

suy giảm và suy thoái https://moitruong.net.vn/bao-dong-tinh-trang-da-

dang-sinh-hoc-viet-nam-van-tren-da-suy-giam-va-suy-thoai/

4. C. B (1954), C n ph b Đ ng, Báo Nhân dân số 197 ngày 24-6-1954.

5. Ban Chấp hành Trung ương Đảng (2010), Quy nh s 338 - QĐ/TƯ Q nh

về ch ă m vụ, tổ ch c bộ ơ b Đ ng bộ tỉnh,

thành ph tr c thuộ T ơ

6. Ban Chỉ đạo Dự án CBCC (2010), Chi c truyền thông bi ổi khí h u,

Hà Nội. http://www.climatechange.hochiminhcity.gov.vn/hethongvanban/

Lists/ TaiLieuBienDoiKH/Attachments/20/chien-luoc-truyen-thong-du-an-

cbcc.pdf

7. Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương, Bộ Văn hóa - Thông tin và Hội Nhà báo

Việt Nam (2012) “Ti p tục th c hi n Chỉ th s 22-CT/TW c a Bộ Chính tr

khóa VIII về ổi mớ ă ờng s ã ạo, qu n lý công tác báo chí,

xuất b n”. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

8. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2010), D “N ă c thể

ch về qu n lý r i ro thiên tai tại Vi N ặc bi t là các r i ro liên quan

BĐKH”. Báo cáo tổng kết

9. Bộ Khoa học và công nghệ (2016) - Xâm nh p mặn tạ Đ ng bằng sông Cửu

L : ộng và các gi i pháp ng phó.

10. Bộ Tài nguyên và môi trường (2008), C ơ Mục tiêu Qu c gia ng phó

vớ BĐKH.

163

11. Bộ Tài nguyên và môi trường (2016), K ch b n bi ổi khí h ớc biển

dâng cho Vi t Nam. NXB Tài nguyên môi trường và Bản đồ Việt Nam.

Hà Nội.

12. Bộ Tài nguyên và môi trường (2020), Phòng, ch ng gi m thiểu hi ng sạt

lở bờ biển http://www.monre.gov.vn/Pages/phong-chong,-giam-thieu-hien-

tuong-sat-lo-bo-bien.aspx.

13. Chính phủ, (2017), Ngh quy t s 120/NQ-CP về phát triển bền vữ ĐBSCL

thích ng vớ BĐKH

14. Công ước khung của Liên Hiệp quốc về biến đổi khí hậu https://thuvien

phapluat.vn/van-ban/Tai-nguyen-Moi-truong/Cong-uoc-khung-thay-doi-

khi-hau-cua-Lien-hop-quoc-1992-67331.aspx

15. Đức Dũng (2001), Viết báo như thế nào, NXB Văn hóa Thông tin

16. Đinh Hữu Dư (2015), Truyề ại chúng với bi ổi khí h u, Kỷ yếu Hội

nghị môi trường toàn quốc lần thứ IV, Bộ TN&MT.

17. Nguyễn Văn Dững (2007), Cơ ộng c a báo chí, Tạp chí Khoa học

ĐHQGHN, Khoa học Xã họ i và Nhân va n.

18. Nguyễn Văn Dững (2012), Cơ ở ý b , NXB. Lao động, Hà Nội.

19. Nguyễn Văn Dững (Chủ biên) và Đỗ Thị Thu Hằng (2012); Truyền thông - Lý

thuy t và kỹ ă ơ b n, NXB Chính trị Quốc gia.

20. Nguyễn Văn Dững (chủ biên) (2017), Báo chí nhữ ểm nhìn từ th c tiễn (t p

3), NXB Đại học quốc gia Hà Nội.

21. Nguyễn Văn Dững (2012), B n xã hội; NXB Lao động;

22. Nguyễn Văn Dững (2017), Báo chí giám sát, ph n bi n xã hội ở Vi t Nam;

NXB Đại học Quốc gia hà Nội.

23. Nguyễn Văn Dững (2016), M ờng truyền thông s và vấ ề xây d ng

“b t n ” Tham luận tại Hội thảo khoa học do Hội truyền thông

Châu Âu, ĐH Vienner (CH Áo) và Học viện Báo chí và Tuyên truyền phối

hợp tổ chức, tháng 6/2016 tại ĐH Vienner.

24. Nguyễn Văn Dững, (2016), H ớ b ờ ề

(N ừ ờ p b V Nam) tạp chí Lý luận Chính trị;

số 6 năm 2016.

164

25. Nguyễn Văn Dững (2017), Tìm ki m mô hình truyền thông chính sách công cho

Vi t Nam, Tạp chí Lý luận Chính trị, số 6/2017.

26. Nguyễn Văn Dững và Hồ Thị Thanh Bạch (2021), Qu n lý thông tin trên mạng

xã hội trong b i c nh bùng nổ thông tin, tr.19-32. NXB Chính trị Quốc gia

Sự Thật

27. Đảng Cộng sản Việt Nam (2010), Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc thời

kỳ đổi mới (Khoá VI, VII, IX, X), Phần II, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

28. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Vă Đại hộ ại biểu toàn qu c l n th

XIII, Hà Nội.

29. Đangcongsan, Đ ng bằng sông Cửu Long: Ti p nỗi lo biển "gặm" bờ, "nu t"

ất http://dangcongsan.vn/khoa-giao/bai-2-thu-pham-khien dong- bang-

hung-chiu-tham-hoa-moi-de-doa-kep-532036.html

30. Thế Đạt, B o v ạng sinh học rừng ng p mặn tạ ng bằng sông Cửu

Long, https://nhandan.com.vn/tin-tuc-xa-hoi.

31. Nguyễn Đông, Tuyên truyền về b o v ờ ể thích ng với bi ổi khí

h ổi khí h u. http://www.tapchicongsan.org.vn/Home/Van-hoa-xa-

hoi/2018/50220/ Tuyen-truyen-ve-bao-ve-moi-truong-de-thich-ung-voi-

bien.aspx

32. Trung Đức (2018), Khí hậu và sức khỏe con người: Thông điệp từ Ủy ban Liên

chính phủ về Biến đổi Khí hậu toàn cầu, http://www.greenidvietnam.

org.vn/khi-hau-va-suc-khoe-con-nguoi-thong-diep-tu-uy-ban-lien-chinh-

phu-ve-bien-doi-khi-hau-toan-cau.html.

33. Nguyễn Thu Giang (2011), Truyền thông th ới s quy chi u c a lý

thuy , Tạp chí Nghiên cứu Con người, số 6/2011.

34. Vũ Trường Giang (2012), Tri th c b a, Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam,

tr.53-66- 6/2012

35. Han Entzinger và Peter Scholten (2016), Thích nghi với bi ổi khí h u thông

- Một nghiên c u về ờng h p Đ ng bằng sông Cửu Long. Tổ

chức Di cư Quốc tế. Thụy Sĩ.

36. Ngô Mạnh Hà (2004), Kỷ y u khoa họ ề tài cấp bộ ă 2003 - 2004 “Đổi

mớ p ơ ã ạo c Đ i vớ ơ b ở ớc ta

hi ”, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.

165

37. Nguyễn Thị Bích Hạnh (2011), Truyền thông và bi ổi khí h u, Nghiên cứu

Phát triển bền vững, Số 4.

38. Đỗ Thị Thu Hằng (2013), Giáo trình tâm lý học báo chí, NXB. Đại học quốc

gia Thành phố Hồ Chí Minh, Tp. Hồ Chí Minh.

39. Đỗ Thị Thu Hằng (2013), Tâm lý học ng dụng trong nghề báo, NXB. Thống

tấn, Hà Nội.

40. Đỗ Thị Thu Hằng (2015), Lý thuy t truyền thông hi ại, Học viện Báo chí và

Tuyên truyền.

41. Học viện Báo chí và Tuyên truyền, Viện FES (2012), Kỷ y u hội th o “Truyền

ại chúng với Bi ổi khí h u tại Tiểu vùng sông Mekong: Th c t

ấu”, Hà Nội.

42. Hội đồng khoa học các cơ quan Đảng Trung ương (2013), Ch ộng ng phó

với bi ổi khí h ẩy mạnh công tác b o v ờng -

Một s vấ ề lý lu n và th c tiễn, NXB Chính trị Quốc gia.

43. Trần Như Hối, Một s tr ũ ển hình và phân vùng ng p lụt ở ng bằng

sông Cửu Long http://www.vawr.org.vn/index.aspx?

44. Lương Khắc Hiếu (2013), Lý thuy t truyền thông, NXB Chính trị Quốc gia Sự

thật, Hà Nội.

45. Chu Thị Thanh Hương (2018), Nghiên c ơ ở khoa học trong vi

các gi i pháp thích ng với bi ổi khí h u - áp dụng cho tỉnh Qu ng

Ngãi, Luận án tiến sĩ, Viện Khoa học Khí tượng Thủy văn và Biến đổi khí

hậu, Bộ Tài nguyên và Môi trường.

46. Đinh Văn Hường, Nguyễn Minh Trường (2017), Báo chí với vấn ề bi n ổi khí

h u ở Vi t Nam hi n nay. NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.

47. Phan Văn Kiền (2016), Một s ớng mới c a báo chí truyền thông hi ại.

NXB Thông tin và Truyền thông. Hà Nội.

48. Nguyễn Thế Kỷ (2012), “C ã ạo, qu ý b 25 ă n

hành s nghi p ổi mới”. NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội

49. Nguyễn Thành Lợi (2014), Tác nghi p b ờng truyền thông

hi ại, NXB Thông tin và Truyền thông, Hà Nội.

50. Nguyễn Thành Lợi, Phạm Minh Sơn (2011) Thông tấn báo chí - Lý thuy t và kỹ

ă NXB Thông tin và Truyền Thông, Hà Nội.

166

51. Vũ Phương Ly (2017), Vấ ề giới trong b i c nh c a bi ổi khí h u (Nghiên

c ờng h p tại xã Giao Xuân, huy n Giao Th y, tỉ N Đ nh), Lu n

án ti ĩ Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn.

52. Hồ Chí Minh (2011), Toàn t p, tập 12, tr.166, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

53. Lưu Hồng Minh (2009), Truyền thông Vi t Nam trong b i c nh toàn c u hoá,

NXB Dân trí, Hà Nội.

54. Lưu Hồng Minh - Sonja Schrmbeck (đồng chủ biên) (2015), B i c nh truyền

thông về b ổi khí h ă p ơ ại chúng Vi t

Nam, NXB Thế giới.

55. Nguyễn Thị Tuyết Minh (2011), Đ nh ki n giới trong các s n phẩm truyền

thông trên p ơ n truyề ại chúng hi n nay, Khoa Xã hội

học, Học viện Báo chí và Tuyên truyền.

56. Mai Quỳnh Nam (1996), Truyề ạ ú n xã hội", Tạp chí

Xã hội học, số 1.

57. Mai Quỳnh Nam (2000), Về ặ ểm và tính chất c a giao ti p ại chúng, Tạp

chí Xã hội học, số 2.

58. Mai Quỳnh Nam (2001), Về vấ ề nghiên c u hi u qu c a Truyề ại

chúng, Tạp chí Xã hội học, số 4.

59. Mai Quỳnh Nam (2002), T p về trẻ em trên báo hình báo in, Tạp chí

Xã hội học, số 2 (78).

60. Mai Quỳnh Nam (2003), Truyền thông và phát triển nông thôn”, Tạp chí Xã hội

học, số 3

61. Lê Thị Nhã (2010), Giáo trình L ộ nhà báo, NXB Lý luận Chính trị, Hà Nội.

62. Đỗ Chí Nghĩa, Tác phẩm truyền hình về bi ổi khí h u - chấ ng và hi u

qu ộng, http://ajc.hcma.vn/Thong-tin-khoa-hoc/Tac-pham-truyen-

hinh-ve-bien-doi-khi-hau-chat-luong-va-hieu-qua-tac-dong/14948.ajc

63. Đỗ Chí Nghĩa (Chủ biên), Đinh Thị Thu Hằng (2014), Báo chí ạ ã ộ ,

NXB Lý luận Chính trị, Hà Nội.

64. Nguyễn Đức Ngữ (2013), Đ ạo ngu n nhân l c cho hoạ ộng truyền thông

về BĐKH Kỳ yếu Hội thảo khoa học liên ngành “Ngu n nhân l c chấ ng

cao BĐKH ấ ề liên quan” - Đại học Quốc gia Hà Nội.

167

65. PV (2020), Báo chí góp ph n phòng ngừa ng phó khắc phục h u qu thiên tai

http://nguoilambao.vn/bao-chi-gop-phan-phong-ngua-ung-pho-khac-phuc-

hau-qua-thien-tai-n8322.html

66. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (2016), Lu t báo chí.

67. Trần Thế Phiệt (1995), Tác phẩm chính lu n báo chí, NXB Chính trị Quốc gia

Sự Thật.

68. Lê Khả Phiêu (1998), “Trách nhiệm xã hội và nghĩa vụ công dân của nhà báo”.

Bài phát biểu tại Hội thảo toàn quốc. Hà Nội

69. Nguyễn Bá Sinh (2012), Tính hấp d n c B Đ ng ở ớ ạn

hi n nay, Luận án Tiến sĩ Báo chí - Học viện Báo chí và Tuyên truyền.

70. Dương Xuân Sơn (2013) Báo chí Vi t Nam thời kỳ ổi mới từ 1986 n nay,

NXB Đại học quốc gia Hà Nội.

71. Dương Xuân Sơn, Đinh Văn Hường, Trần Quang (2004), Cơ ở lý lu n báo chí

truyền thông, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.

72. Tạ Ngọc Tấn (2001), Truyền th ại chúng, NXB Chính trị Quốc gia,

Hà Nội.

73. Tạ Ngọc Tấn (1999), Cơ ở ý b , NXB. Văn hóa Thông tin, Hà Nội.

74. Tạ Ngọc Tấn (1999), Từ ý ễ b , NXB. Văn hóa Thông

tin, Hà Nội.

75. Trần Hồng Thái, Lương Hữu Dũng (2014), ở b ổ

ớ p ụ ù bằ S Cử L Tạp chí Khoa

học Công nghệ Việt Nam số 16-2014.

76. Ngô Trọng Thuận, Nguyễn Văn Liêm (2014), Những thông tin c p nh t về bi n

ổi khí h ù ng cộ ng, NXB Tài nguyên môi

trường và Bản đồ Việt Nam, Hà Nội.

77. The Missouri Group (2020), Nhà báo hi ại, NXB Trẻ

78. Nguyễn Hữu Thiện (2016), Bi ổi khí h Đ ạng sinh học ng p ớc

ĐBSCL: S thi u hụt trong ng dụng, Bản tin Chính sách số 21 - Trung tâm

Con người và Thiên nhiên.

79. Nguyễn Hữu Thịnh (2018), T ơ ấ p ỉ A G ể

p ớ b ổ , Luận án tiến sĩ, Học viện Chính trị Quốc gia

Hồ Chí Minh.

168

80. Nguyễn Thị Thoa, Nguyễn Thị Hằng Thu (2011), Giáo trình tác phẩm báo chí

ạ ơ NXB Giáo dục Việt Nam

81. Tô Quang Toản, Tăng Đức Thắng (2009)- Ng p ũ ều biển dâng trên

ng bằng sông Cửu Long trong b i c nh bi ổi khí h u và một s gi i

pháp thích ng - Tạp chí KH&CN Thủy lợi

82. Phạm Hương Trà (2011), Hi u qu c a các bài vi t về bạo l

b n tử Vi t Nam hi n nay, Luận án Tiến sĩ Xã hội học - Học viện Báo

chí và Tuyên truyền.

83. Phạm Hương Trà (2014), Nh n th c, nhu c u thông tin về bi ổi khí h u c a

ộ ũ ền thông hi n nay, Khoa Xã hội học - Học viện

Báo chí và Tuyên truyền.

84. Phạm Hương Trà, Đỗ Thị Tuyết Minh (2013), Th c trạ b ề

bi ổi khí h u trên truyền hình. Khoa Xã hội học, Học viện Báo chí và

tuyên truyền.

85. Trường Đại học Cần Thơ (2010), P ể p bề ữ

ớ b ổ NXB Nông nghiệp, TP.HCM.

86. Nguyễn Hiếu Trung và cộng sự (2015), Quy hoạch chi c sử dụng bền

vữ ất và ớc thích ng với bi ổi khí h Đ ng bằng

Sông Cửu Long, NXB Nông Nghiệp.

87. Vũ Thanh Vân (2014), K ớng chính tr c a báo chí Mỹ (Kh o sát các

bài xã lu n c a New York Times và Wall Street Journal từ 2009-2012),

Luận án Tiến sĩ Báo chí học - Học viện Báo chí và Tuyên truyền.

88. Viện Khoa học Khí tượng Thủy văn và Môi trường (2010) B ổ

ộ ở V N Bộ Tài nguyên và Môi trường.

89. Viện Khoa học Khí tượng Thủy văn và Môi trường, (2017), C p nh t k ch b n

bi n ổi khí h ớc biển dâng cho khu v Đ ng bằng Sông Cửu

Long. Bộ Tài nguyên và Môi trường.

90. Viện Khoa học Khí tượng Thủy văn và Môi trường, (2017), C p nh t k ch b n

bi ổi khí h ớc biển dâng cho khu v Đ ng bằng Sông Cửu

Long, Bộ Tài nguyên và Môi trường.

91. Viện Nghiên cứu Biến đổi khí hậu - Đại học Cần Thơ (2011), P ơ p p ng

ghép bi ổi khí h u vào k hoạch phát triển kinh t - xã hộ p ơ

169

92. Viện nghiên cứu Xã hội, Kinh tế và Môi trường và Học viện Báo chí và Tuyên

truyền (2011), “T p truyền thông về ng tính luy n ái trên một s

báo in và báo mạng”, NXB Thế Giới. Hà Nội.

93. Tô Vương (2013), Đ ề ộng c a Bi ổi khí h i vớ ời s ng

ời, Tham luận tại Hội thảo khoa học "Vai trò báo chí trong việc

ngăn chặn và giảm thiểu tác động của biến đổi khí hậu”. Cần Thơ.

B. Tài liệu tiếng nƣớc ngoài

94. Amy B. Jordan and Dale Kunkel, Jennifer Manganello, Martin Fishbein (2009),

Media Messages and Public Health, Routledge, The UK.

95. Arthur Asa Berger (2014), Media analysis techniques, Fifth Edition San

Francisco State University, Sage Publlication, Inc.

96. Ashley A. Anderson (2017), The Role of the Media in the Construction of

Public Belief and Social Change. Oxford Research Encyclopedia, Climate

Science. http://oxfordre.com/climatescience/view/10.1093/acrefore/

9780190228620.001.0001/acrefore-9780190228620-e-369

97. Berlo, D. K. (1960). The Process of Communication: An Introduction to Theory

and Practice. Holt, Rinehart và Winston, New York

98. Bert Bolin (2008), A history of The science and politics of Climate change: The

Role of the Intergovernmental Panel on Climate Change, Cambridge

University Press, UK.

99. Bruce H. Westley and Malcoln S. Maclean, Jr., "A Conceptual Model for

Communications Research", Journalism Quarterlv, XXXIV (1957), pp. 37-51.

100. Bud Ward (2008), Communicating on Climate Change An Essential Resource

for Journalists, Scientists, and Educators, The Metcalf Institute for Marine

& Environmental Reporting - University of Rhode Island Graduate School

of Oceanography. The USA.

101. Daniel Riffe, Stephen Lacy, Frederick Fico (2005) Analyzing Media Messages:

Using Quantitative Content Analysis in Research, Second Edition, Lea

Published, London.

102. Dennis Chong and James N. Druckman (2007), Framing theory. Annual

Review of Political Science. editor / Nelson Polsby. 2007. pp. 103-126.

170

103. Denis McQuail (1997), Audience Analysis, Sage Publications, P.95.

104. Devin M. Dotson and Susan K. Jacobson, Lynda Lee Kaid & J. Stuart Carlton

(2012), Media Coverage of Climate Change in Chile: A Content Analysis of

Conservative and Liberal Newspapers. Environmental Communication Vol.

6, No. 1.

105. Devito, J. A. (1986), The communication handbook: A dictionary. Harper &

Row. New York.

106. Dorothee Arlt et al (2011), Climate change and media usage: Effects on

problem awareness and behavioural intentions. International

Communication Gazette, 73(1-2), 43.

107. Eberts, Courtney Elizabeth (2016). A Content Analysis of the Dallas Farmers

Market Instagram. Texas A & M University.

108. Emilia Lopera and Carolina Morenno (2014), The uncertainties of climate

change in Spanish daily newspapers: content analysis of press coverage

from 2000 to 2010. Science of Communication ISSN 1824-2049.

109. Everett M. Rogers, R. M. Rogers and F. Floyd Shoemaker (1971),

Communication of Innovations: A Cross-Cultural Approach, Free Press,

New York.

110. Fao, (2010), The Role of Information and Communication Technologies for

Community - Based adaptation to climate Change.

111. Feldman, L., Maibach, E. W., Roser-Renouf, C., & Leiserowitz, A. (2012).

“Climate on Cable: The Nature and Impact of Global Warming Coverage

F N w CNN MSNBC”. International Journal of Press/Politics,

17(1), 3-31.

112. Fisher, D., Hill, D., Grube, J., & Gruber, E. (2004). Sex on American television:

An analysis across program genres and network types. Journal of

Broadcasting & Electronic Media, 48, 529-553.

113. Gabriel A. Almond (1987), Biographical Memoir, National Academy of

Sciences, Washington D.C.

114. Harod Lasswell (1927). Propaganda technique in the world war. Assistant

Professior of Political Science, The University of Chicago. First Pulisched

1927, Reprinted 1938. New York.

171

115. Harod Lasswell, Daneil Lerner (1952), “The comparative study of symbols: An

introduction”, Standford University, Carlifornia, The USA.

116. Heath, Robert L.; Bryant, Jennings, (2000), Human Communication Theory

and Research: Concepts, Contexts, and Challenges - 2nd Edition.

Lawrencer Erlbaun Associates publisers. London

117. IPCC (2006) (2007) (2011) (2012) (2013) (2014 (2018) (2019)), Report,

https://www.ipcc.ch/reports.

118. James B. Risbey (2008), The new climate discourse: Alarmist or alarming?

Global Environmental Change, Global Environmental Change 18 (2008)

26-37

119. James Painter and Teresa Ashe (2012), “Cross-national comparison of the

presence of climate scepticism in the print media in six countries, 2007-

2010” E R L s, Volume 7, Number 4.

120. Jingjing Han, Shaojing Sun and Yanqin Lu (2017), Framing Climate Change:

A Content Analysis of Chinese Mainstream Newspapers From 2005 to

2015, International Journal of Communication 11.

121. Julia Metag (2016), “Content analysis methods for assessing climate change

p ”, Oxford Encyclopedia of Climate

Change Communication, Publisher: Oxford University Press, The USA

122. Katz, Elihu, Jay G. Blumler, and Michael Gurevitch (2011), "Uses and

Gratifications Research." Public Opinion Quarterly 4th ser. 37 (1973-1974):

509-23. JSTOR. Web. 14 Oct. 2011. .

123. Kimberly A. Neuendorf (2002). The Content Analysis Guidebook. Cleveland

State University. Saga Publlication, Inc.

124. Klaus Krippendorff. (2013). Content analysis: an introduction to its

methodology. Sage Publlication, Inc. The USA

125. Le Anh Tuan, Chu Thai Hoanh, Fiona Miller, and Bach Tan Sinh, 2008. Floods

and Salinity Management in the Mekong Delta, Vietnam. In: Challenges to

sustainable Development in the Mekong Delta: Regional and National

Policy Issues and Research Needs, T.T. Be, B.T. Sinh and Fiona M. (Eds).

The Sustainable Mekong Research Network (Sumernet)'s publication,

Stockholm, Sweden.

172

126. Macnamara. J (2006). Media content analysis: Its uses; benefits and Best

practice Methodology. Asia Pacific Public Relations Journal, 6(1), 1-34.

127. Mart A. Stewart and Peter A. Coclanis (2011) Environmental Change and

Agricultural Sustainability in the Mekong Delta, Springer Science +

Bisiness Media. The USA.

128. Maxwell McCombs and Sebastián Valenzuela (2007), The Agenda-Setting

Theory, Cua Derno S De Inform Ación /N0 20 / JUL IO20 0 7 - I / I S SN 0

716 -162 X, p. 44-p.50

129. McQuail, D. (1987). Functions of communication: A nonfunctionalist overview.

In C. R. Berger & S. H. Chaffee (Eds.)

130. Michael D. Mastrandrea and Stephen H.Schneider (2010), Preparing for

Climate Change. Boston Review. The USA

131. Miquel Muñoz and Bernd Sommer (2011), Perceptions of Climate Change: The

Role of Art and the Media. The Frederick S. Pardee Center for the Study of

the Longer - Range Future, Boston University, Boston, MA 02215 US.

132. Mike Hulme (2007), Mediated messages about climate change: reporting

the IPCC Fourth Assessment in the UK print media, Science

Communication. UK.

133. Philip Kotler (2002). Marketing Management Millenium Edition, Pearson

Custom Publishingm, The USA.

134. Nathan Young and Eric Dugas (2011), Representations of Climate Change in

Canadian National Print Media: The Banalization of Global Warming.

Canadian Review of Sociology 48 (1), 1-22

135. OMO “C ” p ://p b w / / -mandate/climate 136. Ran Duan et al (2017), A construal - level perspective of climate change images

in US newspapers. Climatic Change. 142(3), 345-360. doi:10.1007/s10584-

017-1945-9.

137. Ron Aggs (2015), Soil news - the soil carbon and climate policy journey in

Australia and the role of different media. Earth and Environmental Science

25 012005.

173

138. Schramm (1971) "How Communication Works," in Schramm (ed.),.

The Process and Effects of Mass Communication. Urbana: University of.

Illinois Press, 1954

139. The World Bank (2010), Vietnam: Economics of Adaptation to Climate

Change.

140. The World Bank (2011), Climate-Resilient Development in Vietnam: Strategic

Directions for the World Bank.

141. Y Prabhanjan Yadav & Rapaka Jhansi Rani (2011), Role of communication in

climate change and sustainable development, Global Media Journal -

Indian Edition/ISSN 2249-5835.

142. Zahra Abazari, Mahshid Borjian Brojeni (2017), The role of Harold Lasswell

Communication Theory in Librarianship and Information Science,

International Academic Journal of Humanities Vol. 4, pp. 82-94.

174

PHỤ LỤC