BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA
HỒ CHÍ MINH
HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN
HỒ THỊ THANH BẠCH
THÔNG ĐIỆP VỀ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU TRÊN BÁO ĐẢNG KHU VỰC ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG (Khảo sát các báo An Giang, Cà Mau và Cần Thơ từ năm 2017 đến tháng 6 năm 2019)
LUẬN ÁN TIẾN SĨ BÁO CHÍ HỌC
HÀ NỘI - 2022
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA
HỒ CHÍ MINH
HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN
HỒ THỊ THANH BẠCH
THÔNG ĐIỆP VỀ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU TRÊN BÁO ĐẢNG KHU VỰC ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG (Khảo sát các báo An Giang, Cà Mau và Cần Thơ từ năm 2017 đến tháng 6 năm 2019)
Chuyên ngành : Báo chí học
Mã số
: 9 32 01 01
LUẬN ÁN TIẾN SĨ BÁO CHÍ HỌC
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:
1. PGS.TS. Nguyễn Văn Dững
2. PGS.TS. Nguyễn Quốc Dũng
HÀ NỘI - 2022
ỜI C ĐO N
T C
Tác giả luận án
Hồ Thị Thanh Bạch
ỤC ỤC
Trang
MỞ ĐẦU ............................................................................................................................... 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ..................................................................... 12 1. Hướng nghiên cứu về biến đổi khí hậu, truyền thông về biến đổi khí hậu ................. 12 2. Hướng nghiên cứu thông điệp trên báo chí về biến đổi khí hậu ................................. 17 3. “Báo Đảng” và các nghiên cứu về báo Đảng ............................................................... 34 4. Đánh giá tổng quan các công trình nghiên cứu liên quan đến luận án và đề ra
hướng nghiên cứu cho luận án .................................................................................. 36
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU THÔNG ĐIỆP BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU TRÊN BÁO ĐẢNG KHU VỰC ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG ................................................................................................ 41 1.1. Cơ sở lý luận ................................................................................................................ 41 1.2. Cơ sở thực tiễn ............................................................................................................. 53 Chƣơng 2: THỰC TRẠNG THÔNG ĐIỆP VỀ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU TRÊN BÁO ĐẢNG KHU VỰC ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG .......................................... 68 2.1. Tổng quan về đối tượng khảo sát ............................................................................... 68 2.2. Nội dung thông điệp biến đổi khí hậu trên báo Đảng khu vực đồng bằng
sông Cửu Long ........................................................................................................... 70
2.3. Hình thức thông điệp biến đổi khí hậu trên báo Đảng đồng bằng sông
Cửu Long .................................................................................................................... 92
Chƣơng 3: CÔNG CHÚNG BÁO ĐẢNG ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG VỚI THÔNG ĐIỆP BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU...................................................................... 111 3.1. Nhận diện công chúng báo Đảng đồng bằng sông Cửu Long ................................ 111 3.2. Nhận thức, thái độ và hành vi tiếp nhận thông điệp biến đổi khí hậu của
công chúng ................................................................................................................ 115
Chƣơng 4: THÀNH CÔNG, HẠN CHẾ VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT ƢỢNG THÔNG ĐIỆP BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU TRÊN BÁO ĐẢNG KHU VỰC ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG ................................................................................. 129 4.1. Thành công và hạn chế của thông điệp biến đổi khí hậu trên báo Đảng
đồng bằng sông Cửu Long hiện nay ....................................................................... 129
4.2. Một số giải pháp, khuyến nghị nâng cao chất lượng thông điệp biến đổi
khí hậu trên báo Đảng khu vực đồng bằng sông Cửu Long .................................. 147 KẾT LUẬN ....................................................................................................................... 156 CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ LIÊN QU N ĐẾN ĐỀ TÀI ......................................................................................................... 161 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................... 162 PHỤ LỤC .......................................................................................................................... 174
D NH ỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Từ viết tắt Giải thích
Báo AG Báo An Giang
Báo CM Báo Cà Mau
Báo CT Báo Cần Thơ
BĐKH Biến đổi khí hậu
Bộ TN&MT Bộ Tài nguyên và Môi trường
ĐBSCL Đồng bằng sông Cửu Long
ĐCS Đảng cộng sản
GS Giáo sư
HV BC&TT Học viện Báo chí và Tuyên truyền
IPCC Ủy ban Liên chính phủ về biến đổi khí hậu
KT - XH Kinh tế - Xã hội
LHQ Liên hiệp quốc
MTTT Môi trường truyền thông
NCS Nghiên cứu sinh
Nxb Nhà xuất bản
PGS Phó Giáo sư
PL Phụ lục
PVS Phỏng vấn sâu
TS Tiến sĩ
TTĐC Truyền thông đại chúng
DANH MỤC CÁC BẢNG
Trang
Bảng 3.1: Tổng hợp đánh giá của công chúng về nội dung và hình thức các
bài viết về BĐKH trên báo Đảng khu vực ĐBSCL ................................................ 119
Bảng 3.2: Tương quan đánh giá công chúng giữa các báo khảo sát ....................... 121
Bảng 3.3: Ý kiến của công chúng về việc điều chỉnh các các khía cạnh nội
dung bài viết BĐKH trên báo Đảng khu vực ĐBSCL ............................................ 125
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
Trang
Biểu đồ 2.1: Các khía cạnh nội dung thông điệp về BĐKH ..................................... 70
Biểu đồ 2.2: Các biểu hiện của BĐKH được đề cập trong thông điệp ..................... 71
Biểu đồ 2.3: Tỷ lệ các bài viết có đề cập đến nguyên nhân của BĐKH ................... 83
Biểu đồ 2.4: Thể loại bài viết về BĐKH trên báo Đảng khu vực ĐBSCL ............... 93
Biểu đồ 2.5: Tần suất đăng tải bài viết về BĐKH trên báo Đảng khu vực
ĐBSCL năm 2017 ................................................................................................... 106
Biểu đồ 2.6: Mức độ đề cập đến vấn đề BĐKH ..................................................... 107
Biểu đồ 2.7: Vị trí đăng tải các bài viết .................................................................. 108
Biểu đồ 3.1: Nghề nghiệp của công chúng tham gia khảo sát ................................ 112
Biểu đồ 3.2: Trình độ công chúng tham gia khảo sát ............................................. 113
Biểu đồ 3.3: Phương thức tiếp nhận thông tin về BĐKH của công chúng ............. 114
Biểu đồ 3.4: Mức độ quan tâm của công chúng đến vấn đề BĐKH ....................... 115
Biểu đồ 3.5: Nhận xét của công chúng về mức độ tác động của BĐKH ................ 116
Biểu đồ 3.6: Đánh giá của công chúng về nội dung các bài viết về BĐKH
trên báo Đảng khu vực ĐBSCL .............................................................................. 120
Biểu đồ 3.7: Đánh giá của công chúng về hình thức các bài viết về BĐKH
trên báo Đảng khu vực ĐBSCL .............................................................................. 120
Biểu đồ 3.8: Đánh giá của công chúng về thông tin tích cực và tiêu cực ............... 122
Biểu đồ 3.9: Đánh giá của công chúng về tần suất bài viết về BĐKH ................... 123
Biểu đồ 3.10: Mức độ đáp ứng nhu cầu thông tin về BĐKH ................................. 123
Biểu đồ 3.11: Tác động của thông điệp về BĐKH trên báo Đảng đến công
chúng địa phương .................................................................................................... 126
Biểu đồ 3.12: Mức độ tương tác giữa công chúng với cơ quan báo Đảng về
chủ đề BĐKH .......................................................................................................... 127
DANH MỤC CÁC HÌNH
Trang
Hình 2.1: Các bài viết về tác động tích cực của BĐKH trên báo Đảng khu
vực ĐBSCL ............................................................................................................... 78
Hình 2.2: Ảnh trong bài “Vàm Xoáy kêu cứu” (Báo CM ngày 31/3/2017) ........... 102
Hình 2.3: Các chùm ảnh/ phóng sự ảnh trên báo Cà Mau ...................................... 103
Hình 2.4: Ảnh trong bài viết “Chủ động đề phòng thời tiết nguy hiểm” ................ 104
Hình 2.5: Ảnh trong bài viết “Tăng cường giải pháp phòng chống khô hạn” ........ 104
Hình 2.6: Ảnh trong bài viết “Cần vào cuộc của toàn dân trong phòng
chống sạt lở” ............................................................................................................ 104
1
MỞ ĐẦU
1. ý do chọn đề tài
BĐKH là một trong những thách thức lớn nhất của nhân loại trong thế kỷ 21.
Sự thay đổi một cách bất thường của các xu hướng thời tiết ảnh hưởng tới sản xuất và
đời sống, đe dọa đến sức khỏe con người, là nguyên nhân “châm ngòi” cho các xung
đột nội bộ và giữa các quốc gia, khu vực…, đồng thời tác động làm gia tăng nhiều
nguy cơ khác làm thay đổi sự phát triển của thế giới. Theo ước tính của LHQ, từ nay
đến năm 2050, sẽ có khoảng 150 triệu người phải rời bỏ nơi sinh sống do BĐKH gây
ra các hiện tượng thời tiết cực đoan; phân nửa động thực vật sẽ đối mặt với nguy cơ
tuyệt chủng nếu nhiệt độ Trái Đất tăng thêm từ 1,1 - 6,4 độ C. Tại Hội nghị lần thứ 26
các bên tham gia Công ước khung của Liên hợp quốc về BĐKH (COP26), diễn ra
tại Glasgow (Vương quốc Anh) ngày 1/11/2021, Thủ tướng Chính phủ Việt Nam
Phạm Minh Chính nhấn mạnh: "Tác ộ BĐKH ở
ọ ơ ớ p ể bề ữ ọ
ề ộ ". [10] [11] [14].
Việt Nam nằm trong số 5 quốc gia chịu ảnh hưởng năng nề nhất của BĐKH.
Tác động của BĐKH đã gây nhiều tổn thất to lớn về người, tài sản, cơ sở hạ tầng, về
kinh tế, văn hoá, xã hội, tác động xấu đến môi trường, là nguy cơ hiện hữu cho việc
thực hiện các mục tiêu thiên niên kỷ và sự phát triển bền vững của đất nước.
ĐBSCL là một trong 03 đồng bằng trên thế giới dễ bị tổn thương nhất do nước
biển dâng. Theo các kịch bản BĐKH, vào cuối thế kỷ 21, nhiệt độ trung bình năm ở Việt Nam tăng khoảng 20 -300 C; mực nước biển có thể dâng cao thêm từ 75 cm đến 1
mét so với thời kỳ 1980 - 1999. Khi đó, sẽ có khoảng 40% diện tích vùng ĐBSCL bị
ngập, 35% dân số chịu ảnh hưởng xấu do thời tiết phức tạp. Thực tế diễn biến thời tiết
vùng ĐBSCL 10 năm trở lại đây cũng có nhiều dấu hiệu bất thường, tình trạng hạn
hán, xâm nhập mặn, sạt lở, ngập úng… trở nên nghiêm trọng hơn; 1,7 triệu người đã di
cư khỏi ĐBSCL, hơn gấp đôi trung bình cả nước. Tình trạng này tiềm ẩn những nguy
cơ lớn đối với quốc gia vì ĐBSCL là vùng địa kinh tế - chính trị, có số dân chiếm gần
18% dân số cả nước với 17 triệu dân, có vị trí trọng yếu về an ninh, quốc phòng, đóng
góp khoảng 18% GDP với 90% tổng lượng gạo xuất khẩu, gần 60% kim ngạch xuất
2
khẩu thủy sản và 70% sản lượng trái cây của Việt Nam, có vai trò đảm bảo an ninh
lương thực cho cả nước [11][13] [35][75][89]…
Với chức năng đặc trưng là cung cấp thông tin, định hướng dư luận xã hội [17],
báo chí nói riêng và truyền thông nói chung được nhiều quốc gia và tổ chức thế giới
nhìn nhận như một công cụ hữu ích và được tận dụng tối đa trong việc nâng cao nhận
thức về BĐKH cho công chúng, tạo dựng các diễn đàn thảo luận về giải pháp phù hợp
ứng phó với BĐKH đối với từng khu vực và cộng đồng cụ thể. Đây cũng là giải pháp
mà Đảng, Nhà nước và Chính phủ Việt Nam hướng đến nhằm nâng cao nhận thức,
năng lực thích nghi và ứng phó với BĐKH của cộng đồng. Bám sát những định hướng
chỉ đạo đó, báo chí Việt Nam thời gian qua đẩy mạnh thông tin tuyên truyền, phổ biến,
giải thích đường lối, chính sách, pháp luật về BĐKH và ứng phó với BĐKH. Những
thông điệp mà báo chí chuyển tải đã cung cấp nhiều kiến thức bổ ích giúp người dân,
cộng đồng thêm hiểu biết, có niềm tin và cơ sở để từ đó thực hiện đường lối của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước vào thực tiễn ứng phó với BĐKH [10][31][46]…
Mặc dù vậy, những nghiên cứu thực tiễn vừa qua cho thấy báo chí thông tin về
BĐKH vẫn còn những hạn chế nhất định, như: Một số cơ quan báo chí chỉ thông tin về
BĐKH khi có các sự kiện, hoạt động lớn về nội dung này chứ chưa chủ động xây dựng
kế hoạch thông tin thường xuyên. Các thông điệp rời rạc, thiếu hệ thống về BĐKH tác
động không đủ mạnh để công chúng nhận ra tầm quan trọng của vấn đề này với đời
sống nhân loại để từ đó thay đổi hành vi nhằm giảm thiểu những tác động có hại đến
môi trường. Nhiều tác phẩm báo chí khi đề cập đến nội dung BĐKH chú trọng mô tả
diễn biến, nhấn mạnh tác động tiêu cực mà chưa quan tâm những giải pháp “thích
nghi”, “thích ứng” với BĐKH; thông tin nhiều về những định hướng, chủ trương chính
sách về ứng phó với BĐKH hoặc các hoạt động, phát biểu của lãnh đạo Trung ương,
địa phương nhưng lại thiếu những bài phân tích sâu về nguyên nhân, các giải pháp ứng
phó và thích nghi hoặc chưa chủ động cung cấp kiến thức, thông tin cho công chúng,
cũng như chưa tổ chức diễn đàn thích ứng và dự báo về vấn đề này. Ngôn ngữ sử dụng
trong nhiều tác phẩm báo chí về lĩnh vực này còn khô khan, khó hiểu thậm chí chưa
chính xác... Những hạn chế này tạo nên những thông điệp hời hợt, sai lệch, chưa khoa
học về BĐKH khiến công chúng hoảng sợ, lo lắng và bi quan khi tiếp nhận; ảnh hưởng
đến mục tiêu nâng cao nhận thức, hiểu biết và hành động về ứng phó với BĐKH cho
công chúng nước nhà [16][31][46][65][93].
3
Tầm quan trọng của vùng ĐBSCL đối với quốc gia và những nguy cơ, hiểm họa
từ tác động tiêu cực của BĐKH mà vùng đất này đang đối mặt đòi hỏi cộng đồng dân
cư nơi đây phải nhận thức đúng đắn, có kiến thức và kỹ năng để chủ động ứng phó với
tác động tiêu cực của BĐKH một cách hiệu quả. Điều này lệ thuộc rất lớn vào thông
điệp mà họ tiếp nhận qua các phương tiện truyền thông, mà gần gũi nhất là báo chí địa
phương. Liệu báo địa phương ĐBSCL có làm tốt chức năng, vai trò định hướng xã hội
trong việc xây dựng và chuyển tải đến công chúng trong khu vực những thông điệp
khoa học, đa dạng, khách quan, dễ hiểu, có hệ thống …? Đó là câu hỏi đặt ra cần có
những nghiên cứu từ các công trình khoa học cụ thể.
Từ những lý do trên, tác giả lựa chọn đề tài “Thông điệp về biến đổi khí hậu
trên báo Đảng khu vực đồng bằng sông Cửu Long (Khảo sát các báo An Giang,
Cà Mau và Cần Thơ từ năm 2017 đến tháng 6 năm 2019)” làm đề tài luận án tiến
sĩ chuyên ngành Báo chí học.
2. Câu hỏi và giả thuyết nghiên cứu
Khi thực tiễn đặt ra yêu cầu cấp thiết về việc phải đẩy mạnh hiệu quả thông tin
nhằm nâng cao nhận thức và thay đổi hành vi của công chúng trong ứng phó với tác
động tiêu cực của BĐKH, báo Đảng khu vực ĐBSCL đã chuyển tải các thông điệp gì
và chuyển tải như thế nào về BĐKH đến công chúng? Mức độ ảnh hưởng của các
thông điệp về BĐKH trên báo Đảng ĐBSCL đến công chúng như thế nào? Thông điệp
về BĐKH trên báo Đảng khu vực ĐBSCL cần đáp ứng những tiêu chí nào? Là những
câu hỏi nghiên cứu mà Luận án sẽ tập trung kiến giải.
Cụ thể, có những vấn đề đặt ra cần quan tâm:
Để thích ứng với quá trình BĐKH, các nhà hoạch định chính sách cũng như cư
dân trong vùng cần có nhận thức, thái độ và hành vi phù hợp. Vậy trong quá trình này,
báo chí - truyền thông có những vai trò gì? Vai trò này được giới truyền thông khu vực
ĐBSCL thể hiện như thế nào qua hoạt động của mình? Trong đó, hệ thống báo Đảng
ĐBSCL có thực sự thể hiện vai trò trụ cột, nồng cốt của mình trong cung cấp kiến thức,
thông tin, để mở mang hiểu biết và thay đổi nhận thức, điều chỉnh thái độ và hành vi
công chúng? Nhà báo nói chuyện với công chúng bằng và thông qua thông điệp của
mình. Vậy thông điệp về BĐKH trên báo Đảng khu vực ĐBSCL hiện nay như thế nào
và vấn đề này có thể nghiên cứu, tổng kết nó nhằm tiếp tục nâng cao chất lượng thông
điệp, để nâng cao năng lực và hiệu quả tác động của nó đối với khả năng thích ứng với
quá trình BĐKH?
4
Chúng tôi cũng nêu ra các giả thuyết nghiên cứu như sau:
- Gi thuy t th nhất: - BĐKH đã và đang là vấn đề quyết định sự phát triển
bền vững của đất nước và khu vực ĐBSCL. Với hệ thống và mạng lưới truyền thông
rộng khắp khu vực ĐBSCL, báo Đảng địa phương có vai trò trụ cột, đã có những đóng
góp ngày càng tích cực vào quá trình cung cấp kiến thức, thay đổi nhận thức, thái độ và
hành vi công chúng xã hội và nhân dân nói chung trong khu vực nhằm thích ứng với
quá trình BĐKH.
- Gi thuy t th hai: - Thông điệp về BĐKH trên báo Đảng địa phương
ĐBSCL đã và đang đạt được những kết quả đáng khích lệ, và những kết quả này rất
cần được tổng kết để rút ra những vấn đề thực tiễn, đề xuất những giải pháp tiếp tục
nâng cao chất lượng và năng lực tác động của thông điệp.
- Gi thuy t th ba: - Năng lực, kỹ năng thiết kế thông điệp BĐKH của đội ngũ
nhà báo của báo Đảng địa phương khu vực ĐBSCL đang được cải thiện và cần được
nghiên cứu, tổng kết để tiếp tục nâng cao chất lượng và năng lực tác động của thông
điệp, đáp ứng nhu cầu công chúng bản địa.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở hệ thống hóa những vấn đề lý luận liên quan đến BĐKH và vai trò
của truyền thông, Luận án bước đầu hình thành khung lý thuyết cho vấn đề nghiên cứu;
từ đó khảo sát thực trạng, phân tích vấn đề thực tiễn thông điệp về BĐKH trên báo
Đảng địa phương khu vực ĐBSCL; đề xuất các giải pháp nâng cao chất lượng thông
điệp về BĐKH trên báo Đảng địa phương, góp phần thực hiện mục tiêu mở mang hiểu
biết, thay đổi nhận thức, thái độ và hành vi công chúng xã hội để ứng phó với BĐKH,
góp phần vào quá trình phát triển bền vững khu vực ĐBSCL.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục đích nghiên cứu nêu trên, luận án tập trung thực hiện một số
nhiệm vụ trọng tâm sau đây:
- Hệ thống hóa cơ sở lý luận và xây dựng khung lý thuyết cho vấn đề nghiên
cứu thông điệp về BĐKH nói chung, thông điệp về BĐKH trên báo Đảng khu vực
ĐBSCL nói riêng;
5
- Khảo sát thực trạng, nhận diện vấn đề thực tiễn của thông điệp BĐKH trên
báo Đảng khu vực ĐBSCL, tiếp cận ở cả hai hướng nội dung thông điệp và hình
thức thông điệp.
- Tìm hiểu việc tiếp nhận của công chúng về các thông điệp BĐKH trên báo
Đảng địa phương, đồng thời đánh giá mức độ ảnh hưởng của các thông điệp này đối
với công chúng xã hội trong khu vực.
- Phân tích những vấn đề thực tiễn đặt ra và đề xuất giải pháp nhằm nâng cao
chất lượng thông điệp về BĐKH trên báo đảng địa phương khu vực ĐBSCL
- Đề xuất các vấn đề cho các nghiên cứu tiếp theo.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là thông điệp về BĐKH trên báo Đảng khu
vực ĐBSCL.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
* P ạ : Nghiên cứu được tiến hành trên phạm vi không gian
như sau:
- Không gian nghiên cứu thông điệp về BĐKH chủ yếu ở khu vực ĐBSCL, bao
gồm 13 tỉnh, thành phố.
- Đối tượng khảo sát thông điệp truyền thông về BĐKH được thực hiện trên các
tờ báo in của Đảng bộ 3 địa phương, gồm: An Giang, Cà Mau và Cần Thơ - là các địa
phương chịu ảnh hưởng của BĐKH nặng nề hơn so với các địa phương còn lại trong
khía cạnh bị tác động mang tính đặc trưng của khu vực. Cụ thể:
+ An Giang là tỉnh đầu nguồn sông Cửu Long, nằm trong khu vực Tứ giác Long
Xuyên, có đường biên giới giáp với Campuchia. Do thuộc vùng trũng, đây là nơi
thường xuyên ngập lũ, đồng thời cũng là địa phương mà tình trạng sạt lở, sụt lún đất
diễn ra diện rộng và thường xuyên.
+ Cà Mau là địa phương ở cực Nam của Tổ quốc, với 3 mặt giáp biển và hệ
thống sông ngòi chằng chịt ăn thông ra biển, vì thế địa phương này hiện bị ảnh hưởng
nặng nề do nước biển dâng và xâm nhập mặn. Những năm gần đây, tình hình sạt lở bờ
biển gia tăng làm mỗi năm trên 800ha rừng phòng hộ xung yếu ven biển ở Cà Mau bị
mất, ảnh hưởng lớn đến sản xuất và đe dọa tính mạng, tài sản của người dân.
6
+ Thành phố Cần Thơ là đô thị loại I, có vị trí địa lý trung tâm vùng ĐBSCL. So
với các địa phương trong vùng, TP Cần Thơ không chịu ảnh hưởng nặng nề nhất của
BĐKH ở biểu hiện cụ thể nào, tuy nhiên tác động của BĐKH mang tính đặc trưng của
vùng ĐBSCL đều xuất hiện tại Cần Thơ, như: gia tăng tình trạng ngập lụt, sạt lở, hạn
hán, xâm nhập mặn, xuất hiện tình trạng lốc xoáy… vì thế, Cần Thơ được xem là một
trong những địa phương chịu tác động nặng nề của BĐKH trong khu vực.
- Công chúng báo Đảng địa phương được khảo sát tại 03 tinh/thành như trên.
* Phạm vi thời gian: Các tác phẩm báo chí được khảo sát đăng tải trên các báo
từ tháng 01 năm 2017 đến hết tháng 6 năm 2019.
Khảo sát công chúng, phỏng vấn sâu được tiến hành trong khung thời gian 2019
có kéo theo sang đầu năm 2020.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Để giải mã vấn đề nghiên cứu, công trình này dựa trên các cơ sở lý thuyết
sau đây:
- Cơ sở lý luận Mác-Lê-nin, Tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng
và Nhà nước Việt Nam; trong đó quan điểm Mác-Lê-nin cho rằng, báo chí “không chỉ
là người tuyên truyền tập thể, cổ động tập thể, mà còn là người tổ chức tập thể nữa”.
Tính tập thể ở đây có thể được hiểu, báo chí là cơ quan ngôn luận của Đảng - Đảng
lãnh đạo theo nguyên tắc “tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách”. Đây là cơ sở lý luận cơ
bản để luận án nghiên cứu thông điệp về BĐKH trên báo Đảng khu vục ĐBSCL.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, “Báo chí ta không phải để cho một số ít người
xem, mà để phục vụ đông đảo nhân dân lao động, để tuyên truyền giải thích đường lối,
chính sách của Đảng và Chính phủ, cho nên phải có tính chất quần chúng và tinh thần
chiến đấu” [52, tr.116]. Nếu coi quần chúng nhân dân là đối tượng chủ yếu, là mục tiêu
phục vụ của báo chí cách mạng thì phải viết sao cho quần chúng nhân dân dễ hiểu, dễ
đọc và dễ làm theo; sự lao động sáng tạo, ước vọng chân chính, những việc làm hay,
những gương sống tốt... của quần chúng nhân dân là chủ đề mà các nhà báo cách mạng
phải luôn theo dõi, bám sát.
ĐCS Việt Nam đã thiết lập các quan điểm cơ bản chỉ đạo hoạt động báo chí
trong Nghị quyết TW 5 (khoá X) về công tác tư tưởng, lý luận và báo chí trước yêu cầu
7
mới. Theo đó, báo chí phải nắm vững và tuyên truyền sâu rộng, kịp thời, có hiệu quả
đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; coi trọng đúng
mức việc phát hiện, biểu dương các nhân tố mới, điển hình tiên tiến; phải nâng cao chất
IX của ĐCS Việt Nam cũng chỉ rõ hệ thống thông tin đại chúng, trong đó có báo
lượng tư tưởng, tính hấp dẫn, mở rộng đối tượng độc giả... Văn kiện Đại hội lần thứ
chí phải “làm t t ch ă ền th c hi ờng l i, ch ơ
sách c Đ N ớc, phát hi n những nhân t mớ ẹp trong
xã hội, giới thi ơ ời t t, vi c t t, nhữ ển hình tiên ti n, phê phán các
hi ng tiêu c c, u n nắn những nh n th c l ch lạ ấu tranh với những quan
ểm sai trái, coi trọng nâng cao tính chân th t, tính giáo dục và tính chi ấu
thông điệp báo chí cần phải có để đáp ứng các mục tiêu, kỳ vọng mà xã hội
đặt ra đối với báo chí.
…” [27, tr.91]. Điều này cũng cho thấy những yêu cầu cơ bản mà
- Về lý thuyết chuyên ngành, luận án sử dụng các lý thuyết sau đây:
Một là, Lý thuyết Thiết lập chương trình nghị sự. Lý thuyết này cho rằng việc
thông tin của TTĐC là hoạt động có mục đích. Các cơ quan báo chí truyền thông dựa
vào mục đích tôn chỉ và môi trường thực tế để lựa chọn vấn đề hoặc nội dung mà họ
coi là quan trọng nhất để sản xuất và cung cấp cho công chúng. Tần suất, cường độ
của các chủ đề được TTĐC thông tin ảnh hưởng đến mức độ quan tâm, nhận thức của
công chúng về tầm quan trọng của vấn đề đó. Tiếp cận lý thuyết này vào vấn đề
nghiên cứu để thấy rằng thông điệp truyền thông có vai trò quan trọng trong việc chỉ
dẫn, định hướng công chúng. Tần suất, cường độ, nội dung của thông điệp về BĐKH
mà các cơ quan TTĐC chuyển tải sẽ ảnh hưởng đến nhận thức, thái độ và hành vi của
công chúng.
Hai là, Lý thuyết Đóng khung. Theo lý thuyết này, truyền thông có khả năng
dựng khung (framing) để định hướng và điều chỉnh dư luận xã hội. “Khung” là những
phần trừu tượng có tác dụng sắp xếp hoặc cấu trúc ý nghĩa của thông điệp; được thiết
kế để nâng cao hiểu biết hoặc được sử dụng làm một “lối tắt” nhận thức để liên kết một
vấn đề với bức tranh toàn cảnh của hiện thực. Các cơ quan TTĐC tạo ra “Khung” bằng
cách giới thiệu các thông tin trong một ngữ cảnh hẹp rồi làm cho nó nổi bật lên trên văn
8
bản truyền thông [33]. Từ việc lựa chọn và làm nổi bật các vấn đề, TTĐC tạo dựng các
nguyên lý được cộng đồng xã hội chia sẻ, áp dụng để xác định vấn đề, đưa ra định
nghĩa, giải thích nguyên nhân, đánh giá kết quả và gợi ý cách giải quyết vấn đề. Tiếp
cận lý thuyết này để thấy rằng thông điệp truyền thông gợi lên và chuyển tải những ý
tưởng gì, thì sẽ tạo thành khung nhận thức, cách hành xử của công chúng về vấn đề đó.
Ba là, Lý thuyết Truyền thông can thiệp xã hội. Lý thuyết này cho rằng, báo chí
- truyền thông tham gia can thiệp (hay giải quyết) các vấn đề KT-XH thông qua việc
cung cấp thông tin, kiến thức, tạo diễn đàn chia sẻ kỹ năng và kinh nghiệm cho công
chúng xã hội; thông qua đó giúp công chúng và nhân dân nói chung mở mang hiểu
biết, thay đổi nhận thức, thái độ và hành vi xã hội trong quá trình tham gia giải quyết
các vấn đề KT-XH đó [26, tr.27-28]. Tiếp cận lý thuyết này trong vấn đề nghiên cứu
cho thấy truyền thông có vai trò quan trọng trong việc giải quyết các vấn đề xã hội, bao
gồm những vấn đề có quy mô mang tính toàn cầu. Hiểu biết, nhận thức, thái độ, hành
vi và kỹ năng ứng phó với BĐKH của công chúng lệ thuộc rất lớn vào nội dung của
thông điệp về BĐKH mà TTĐC chuyển tải.
Ngoài ra, Luận án còn sử dụng các lý thuyết về tâm lý tiếp nhận của công
chúng, Lý thuyết sử dụng - hài lòng, Lý thuyết truyền thông điệp cho đối tượng. Lý
thuyết, phương pháp xã hội học TTĐC cũng được vận dụng trong nghiên cứu này.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
- P ơ p p u lý thuy t, được dùng để khảo cứu các công trình
khoa học liên quan đến vấn đề nghiên cứu, nhằm hệ thống hoá các vấn đề lý luận
liên quan vấn đề này, cũng như làm cơ sở để xây dựng khung lý thuyết cho vấn đề
của luận án.
- P ơ p p p ội dung, được thực hiện bằng cả hai hình thức định
tính và định lượng. Đối với phân tích nội dung định lượng, quy trình thực hiện là sau
khi hệ thống hóa các vấn đề lý luận, thao tác hóa các khái niệm bằng những chỉ báo cụ
thể có thể đo lường được, tác giả tiến hành lập bảng mã định lượng và phân tích trên
các bài báo đã được lựa chọn. Kết cấu của bảng mã bao gồm các thông tin định danh
và các chỉ báo về nội dung và hình thức thông điệp, được thiết kế dựa trên kết quả
nghiên cứu lý thuyết và thực tiễn của vấn đề nghiên cứu. Mẫu phân tích là 1.290 tác
phẩm báo chí trên báo in An Giang, Cà Mau và Cần Thơ xuất bản từ năm 1/1/2017 đến
9
30/ 6/2019 có chứa các từ khóa, bao gồm cụm từ “Biến đổi khí hậu” và các từ có liên
quan đến BĐKH như: sự nóng lên của bầu khí quyển (hay nóng lên toàn cầu); tình
trạng tan băng ở hai cực địa cầu; nước biển dâng; bão, lũ lụt, ngập lụt, hạn hán, sạt
lở, sụt lún, xói mòn, lốc xoáy, mưa trái quy luật (mưa trái mùa) hoặc cường độ bất
thường; hiện tượng El Nino, hiện tượng xâm nhập mặn, mất đa dạng sinh học…
Phần mềm SPSS 16.0 được sử dụng để hỗ trợ cho việc thống kê, phân tích bảng mã.
Phân tích nội dung định tính được thực hiện để phân tích sâu các tác phẩm báo
chí theo từng chủ đề nghiên cứu, rút trích các thông tin, mô tả, so sánh và kiểm tra một
số kết quả… nhằm làm rõ hơn các kết quả của phân tích định lượng.
- P ơ p p p ỏng vấn sâu được thực hiện qua hình thức câu hỏi với 18
người trả lời, gồm các chuyên gia - nhà khoa học về BĐKH, các nhà quản lý và các
nhà báo chuyên viết về BĐKH ở các báo khảo sát với mục đích thu thập thêm các cứ
liệu thực tế, thông tin định tính của vấn đề nghiên cứu.
- P ơ p p b ng hỏi anket, được dùng khảo sát công chúng ở 3 địa phương
diện khảo sát, mỗi địa phương 150 người, tổng cộng là 450 người, nhằm tìm hiểu mức
độ ảnh hưởng của các thông điệp BĐKH và thu nhận đánh giá của công chúng đối với
thông điệp về BĐKH trên báo Đảng địa phương.
- P ơ p p ng kê - phân loại được sử dụng để tìm hiểu tần suất và cơ cấu
các loại thông điệp về BĐKH trên báo Đảng diện khảo sát.
6. Đóng góp mới của luận án
- Luận án hệ thống những vấn đề lý luận về nghiên cứu thông điệp báo chí,
đặc biệt là trên báo in; xác định vai trò và những yêu cầu đối với báo Đảng khu vực
ĐBSCL trong thực hiện nhiệm vụ truyền thông nhằm tăng cường hiểu biết, thay đổi
nhận thức, thái độ và hành vi công chúng để thích ứng với BĐKH.
- Luận án chỉ ra thực trạng thông điệp về BĐKH trên báo Đảng khu vực
ĐBSCL hiện nay và thực trạng về thái độ tiếp nhận, nhu cầu công chúng ở ĐBSCL
đối với thông điệp về BĐKH.
- Luận án đưa ra những dự báo về thuận lợi và thách thức của báo Đảng trong
môi trường truyền thông mới, khuyến nghị những giải pháp để nâng cao chất lượng
thông điệp về BĐKH trên báo Đảng khu vực ĐBSCL để đáp ứng mục tiêu truyền
thông về chủ đề này.
10
7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án
7.1. Ý nghĩa khoa học
Là công trình nghiên cứu đầu tiên tiếp cận cơ bản và hệ thống vấn đề thông điệp
về BĐKH trên các báo in các tỉnh Đảng bộ khu vực ĐBSCL, luận án sẽ làm phong phú
thêm cho lĩnh vực nghiên cứu truyền thông, cụ thể là khía cạnh phân tích thông điệp
trên báo in.
Kết quả nghiên cứu của luận án góp phần nâng cao năng lực tác động và
hiệu quả truyền thông về BĐKH trên báo chí nói chung, báo Đảng khu vực ĐBSCL
nói riêng.
7.2. Ý nghĩa thực tiễn
Trên cơ sở phân tích, đánh giá khách quan, luận án sẽ cung cấp cái nhìn tổng
quan thực tiễn của thông điệp về BĐKH trên các tờ báo Đảng khu vực ĐBSCL nói
chung, cụ thể hơn là của các tờ báo trong diện khảo sát. Qua đó, giúp các cơ quan báo
chí nhìn nhận lại kết quả thực hiện nhiệm vụ thông tin trong thời gian qua, từ đó góp
phần cải thiện và nâng cao chất lượng thông tin về BĐKH.
Luận án cũng sẽ là tài liệu tham khảo bổ ích phục vụ công tác nghiên cứu khoa
học về đề tài BĐKH hoặc lĩnh vực nghiên cứu thông điệp và gợi mở hướng nghiên cứu
cho các đề tài khoa học khác có liên quan.
Luận án sẽ là tài liệu tham khảo bổ ích và thú vị cho giới báo chí - truyền thông,
cho các cơ sở nghiên cứu - đào tạo nguồn nhân lực cho báo chí - truyền thông về thông
điệp BDKKH nói chung, thông điệp BĐKH ở ĐBSCL trên báo in của Đảng bộ địa
phương nói riêng.
Công trình này cũng sẽ là tài liệu tham khảo có ích cho các nhà hoạch định
chính sách về BĐKH, nhất là ở ĐBSCL. Luận án cũng sẽ là tài liệu tham khảo cho
những ai, kể cả người nước ngoài, quan tâm đề thông điệp báo chí - truyền thông
về BĐKH.
8. Kết cấu của luận án
Ngoài Chương Tổng quan, Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo và
Phụ lục, luận án có kết cấu 4 chương.
Chương Tổng quan được viết theo mô thức chung, điểm xuyết một số công
trình tiêu biểu liên quan đến đề tài; từ đó tìm kiếm để kế thừa và khoảng trống để
11
góp phần lấp đầy những khoảng trống nghiên cứu đó. Chương 1, luận án thiết lập
cơ sở lý luận - thực tiễn cho vấn đề nghiên cứu; trong đó sau khi giải mã các khái
niệm công cụ cơ bản, minh giải các lý thuyết được sử dụng, luận án phân tích yêu
cầu thực tiễn cần yếu cho nghiên cứu này. Chương 2, tìm hiểu thực trạng thông
điệp BĐKH trên báo Đảng khu vực ĐBSCL; nhìn nhận rõ hơn vấn đề thực tế đặt
ra.... Chương 3, tìm hiểu công chúng báo Đảng khu vực ĐBSCL trong quá trình
tiếp nhận thông điệp về BĐKH. Theo quan điểm tiếp cận của báo chí học, chúng
tôi cho rằng nghiên cứu thông điệp không thể không đặt trong mối quan hệ (ở mức
độ nào đó) với công chúng báo chí; và từ kết quả nghiên cứu chương 3, luận án soi
chiếu với chương 2 để phân tích vấn đề thực tiễn. Chương 4, trên cơ sở đề cập môi
trường truyền thông mới và những yêu cầu đặt ra, luận án chủ yếu phân tích vấn
đề thực tiễn qua khảo sát, từ đó đề xuất giải pháp nâng cao chất lượng thông điệp
về BĐKH trên báo Đảng ĐBSCL.
12
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1. HƢỚNG NGHIÊN CỨU VỀ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU, TRUYỀN THÔNG VỀ
BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU
1.1. Tài liệu tiếng nƣớc ngoài
“Thông tin về BĐKH ề s nóng lên toàn c p ơ TTĐC
vai trò rất quan trọ i với nh n th ểm c ời về vấ ề này.
Bởi h u h t mọi ời không tr c ti p tr i nghi BĐKH p i d a vào nội dung
truyề ể phát triển s hiểu bi t về nó” [88]. Vì thế, nhiều nghiên cứu đã tập
trung làm rõ vai trò của truyền thông - báo chí đối với việc nâng cao nhận thức của
cộng đồng về BĐKH để điều chỉnh hành vi phù hợp.
The Role of Information and Communication Technologies for community -
based adaptation to climate change (2010) (tạm dịch: Vai trò c a công ngh thông tin
và truyề i với cộ ng - ơ ở ể thích ng vớ BĐKH) - nghiên cứu được
thực hiện bởi tổ chức Lương thực thế giới (FAO) nhấn mạnh việc áp dụng kỹ thuật,
công nghệ hiện đại để nâng cao hiệu quả truyền thông là mấu chốt để thực hiện 3 chiến
lược (1)thích ứng, (2)giảm thiểu và (3)cả hai - tức vừa thích ứng vừa giảm thiểu tác
động tiêu cực của BĐKH. Nghiên cứu này đề ra một quy trình “truyền thông cho sự
phát triển” (Communication for Development) gồm 6 giai đoạn, nhằm phát huy cao
nhất hiệu quả truyền thông, đáp ứng nhu cầu kiến thức và thông tin về BĐKH của các
tổ chức và các nhóm dễ bị tổn thương nhằm mục tiêu phát triển bền vững. Trong đó,
thiết kế thông điệp nằm trong giai đoạn thứ 3, được xem là giai đoạn đòi hỏi nhiều sự
sáng tạo nhất trong toàn bộ quy trình [110, tr16-18].
Sách A history of The science and politics of Climate change: The Role of the
Intergovernmental Panel on Climate Change (2008) (tạm dịch: L ch sử khoa học và
chính tr c BĐKH: V ò a IPCC i vớ BĐKH) [98] được viết bởi Giáo sư Bert
Bolin, Chủ tịch đầu tiên của IPCC, cung cấp cái nhìn trung thực về sự phức tạp để triển
khai xây dựng và thực hiện các chính sách về BĐKH cũng như những khuyến cáo, giải
pháp để các chính sách về BĐKH được thực thi một cách suôn sẻ và hiệu quả. Đề cập
đến TTĐC thông tin về về BĐKH, tác giả cho rằng các thông tin về BĐKH thời gian
qua “đã có một sự phân cực đáng tiếc” và các thông điệp về BĐKH trên truyền thông
đang rất hỗn độn. Thay vì nêu những dự báo và những gì nên làm, TTĐC lại cường
điệu hóa, mô tả BĐKH như một thảm họa…
13
“E C A S b M D ”
(2011) (Tạm d ch: T ổ ờng và nông nghi p bền vững ở ĐBSCL), do Mart
A. Stewart và Peter A. Coclanis biên tập là tập hợp những báo cáo, tham luận được
trình bày tại Hội thảo quốc tế “Thay đổi môi trường, Nông nghiệp bền vững và Phát
triển kinh tế”, được tổ chức tại Đại học Cần Thơ vào cuối tháng 3 năm 2010 [127]. 23
bài viết trong ấn phẩm đã cung cấp nhiều thông tin có giá trị về thực trạng BĐKH ở
ĐBSCL và những tác động của nó đến đời sống KT-XH, nhất là việc canh tác nông
nghiệp của vùng đất đang phải làm nhiệm vụ đảm bảo “an ninh lương thực” cho quốc
gia và nguồn cung cấp lương thực quan trọng của thế giới. Những giải pháp, khuyến
nghị nhằm nâng cao hiệu quả thích ứng được đề cập cũng nhấn mạnh yếu tố nâng cao
nhận thức và kỹ năng chống chịu của cộng đồng nơi đây đối với sự thay đổi bất thường
của môi trường.
Nghiên cứu về vai trò của truyền thông trong việc nâng cao hiệu quả ứng phó
với BĐKH, Y Prabhanjan Yadav và Rapaka Jhansi Rani - đến từ Ấn Độ - nhấn mạnh
vai trò tối quan trọng của truyền thông, cho rằng “chính quyề ờ ều phụ
thuộc vào truyền thông, không chỉ ể phổ bi n thông tin, mà còn trong vi c thi t l p
ơ s cho s phát triển và các hoạ ộng liên minh khác vì s phát triển
bền vững c a qu c gia” [141]. Trong tài liệu nghiên cứu “Role of communication in
climate change and sustainable development” (2011) (tạm dịch: Vai trò c a truyền
i vớ BĐKH p ển bền vững), hai tác giả nhấn mạnh: Yêu cầu về trách
nhiệm của báo chí là cung cấp thông tin hữu ích nhằm giúp xã hội hiểu sâu hơn các vấn
đề và khuyến khích tìm kiếm các giải pháp khả thi để thích ứng và giảm thiểu tác hại
của BĐKH. Trách nhiệm xã hội là tiêu chí duy nhất để phân biệt báo chí với blog,
thông tin sai lệch hoặc thông tin theo kiểu định hướng. Tác giả cũng xây dựng một quy
trình truyền thông cho trường hợp xảy ra thảm họa thiên tai và khuyến cáo các phương
tiện TTĐC nên tuân theo để giảm thiểu hậu quả đến mức thấp nhất…
Sự phát triển mạnh mẽ của các loại hình truyền thông xã hội trong hơn một
thập kỷ qua cũng mở ra cho các nhà khoa học nghiên cứu về BĐKH những góc nhìn
mới. Ashley A. Anderson đã chỉ ra trong nghiên cứu của mình The Role of the Media
in the Construction of Public Belief and Social Change (2017) (Tạm dịch: Vai trò c a
truyền thông trong vi c xây d ng niềm tin cộ ổi xã hội) [96] một số
14
“bằng chứng” cho thấy truyền thông xã hội đã tác động tích cực, nâng cao nhận thức về
BĐKH của công chúng bằng cách tạo ra những diễn đàn trao đổi về vấn đề này; hình
ảnh và video về các sự kiện thời tiết khắc nghiệt trong khu vực giúp người xem dễ dàng
tiếp thu, từ đó thay đổi quan niệm mặc định BĐKH là những “thông tin khoa học phức
tạp”, giúp tiếp cận đối tượng lớn công chúng thông qua chia sẻ và thảo luận. Tuy nhiên,
truyền thông xã hội thiếu sự kiểm soát và ý kiến khoa học trong một số trường hợp lại
làm gia tăng sự hoài nghi về BĐKH…
Trong khi phần đông các nhà khoa học và công chúng nhìn nhận BĐKH là vấn
đề hiện hữu và cần cấp thiết ứng phó, thì trên báo chí và TTĐC vẫn có những tiếng nói
“phủ nhận BĐKH” (Climate denial), thậm chí hình thành nên “Chủ nghĩa hoài nghi
BĐKH” (Climate skepticism). Trong một hướng nghiên cứu khác, (Cross-national
comparison of the presence of climate scepticism in the print media in six countries,
2007-2010) (2012). (Tạm dịch: So sánh xuyên qu c gia về s hi n di n c a ch ĩ
BĐKH ờ báo in ở sáu qu c gia, 2007-2010) [119], James Painter và
Teresa Ashe đã tiến hành đối chiếu mức độ và số lượng xuất hiện những quan điểm
theo Chủ nghĩa hoài nghi BĐKH trên báo in ở Brazil, Trung Quốc, Pháp, Ấn Độ, Anh
và Mỹ. Kết quả cho thấy báo Mỹ và Anh có tỷ lệ xuất hiện cao nhất các bài báo có
tiếng nói hoài nghi, trong khi báo chí Pháp và ba nước đang phát triển cung cấp ít
không gian hơn cho những đối tượng này. Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy có một sự
tương ứng mạnh mẽ giữa khuynh hướng chính trị của một tờ báo và sự sẵn sàng trích
dẫn hoặc sử dụng tiếng nói hoài nghi không kiểm chứng trong các ý kiến…
Trong báo cáo “Perceptions of Climate Change: The Role of Art and the
Media” (2011) (tạm dịch: Nh n th c về BĐKH: V ò a ngh thu t và truyền
thông) trình bày tại hội nghị chuyên đề “N Đạ T D ơ ề BĐKH:
V ò N T ề ”, được tổ chức vào ngày 18 và 19-10- 2010,
tại đại học Boston, hai nhà nghiên cứu Miquel Muñoz và Bernd Sommer nêu thực tế
ngày càng nhiều người Mỹ không tin BĐKH do con người gây ra và truyền thông về
BĐKH có lẽ là thất bại lớn nhất của báo chí Hoa Kỳ. Bởi lẽ xu hướng thương mại
đơn thuần khiến cho nhiều báo chí Hoa Kỳ thích “t p trung vào các nội dung xung
ột và bấ ng chính ki ể cung cấp cho khán gi c a họ một câu chuy n ly kỳ”
hơn là những thông tin dài hơi và không mấy mới mẻ của BĐKH. Đồng thời, khẳng
định các thông điệp tiếp nhận từ các phương tiện TTĐC và nghệ thuật là tác động
15
mạnh nhất đến định hình nhận thức của công chúng. Điều này càng thể hiện vai trò
quan trọng của truyền thông, bởi vì “nh n th c c a công chúng về nguyên nhân, r i
ro và h u qu c BĐKH i cùng sẽ chi ph i quy nh ph n ng chính tr , kinh t
và xã hộ i với nó” [131].
“E C A S b M D ”
(2011) (Tạm d ch: T ổ ờng và nông nghi p bền vững ở ĐBSCL), do Mart
A. Stewart và Peter A. Coclanis biên tập là tập hợp những báo cáo, tham luận được
trình bày tại Hội thảo quốc tế “Thay đổi môi trường, Nông nghiệp bền vững và Phát
triển kinh tế”, được tổ chức tại Đại học Cần Thơ vào cuối tháng 3 năm 2010 [127]. 23
bài viết trong ấn phẩm đã cung cấp nhiều thông tin có giá trị về thực trạng BĐKH ở
ĐBSCL và những tác động của nó đến đời sống KT-XH, nhất là việc canh tác nông
nghiệp của vùng đất đang phải làm nhiệm vụ đảm bảo “an ninh lương thực” cho quốc
gia và nguồn cung cấp lương thực quan trọng của thế giới. Những giải pháp, khuyến
nghị nhằm nâng cao hiệu quả thích ứng được đề cập cũng nhấn mạnh yếu tố nâng cao
nhận thức và kỹ năng chống chịu của cộng đồng nơi đây đối với sự thay đổi bất thường
của môi trường.
1.2. Tài liệu tiếng Việt
Đã có nhiều công trình nghiên cứu của các tác giả Việt Nam đề cập đến vấn đề
BĐKH ở những góc nhìn khác nhau, phổ biến nhất là góc độ khoa học tự nhiên nhằm
giúp cộng đồng hiểu đúng về BĐKH, những tác động của BĐKH. Phải kể đến trước
hết là các “K ch b BĐKH ớc biển dâng cho Vi N ” năm 2009, 2012 và
2016 do Bộ TN&MT Việt Nam công bố. Đây là những công trình nghiên cứu quy mô,
cung cấp thông tin tổng quan về tình hình, tác động BĐKH ở Việt Nam tại thời điểm
công bố và thảo những kịch bản về tác động của BĐKH trong tương lai, làm cơ sở để
hoạch định các giải pháp ứng phó ở tầm quốc gia cũng như địa phương.
“BĐKH ộ ở V N ” ấn phẩm của của Viện Khoa học Khí tượng
Thủy văn và Môi trường [88], gồm 4 phần, trình bày những kiến thức cơ bản về
BĐKH; lịch sử BĐKH và những sự kiện quan trọng gần đây về BĐKH ở Việt Nam;
kịch bản BĐKH ở Việt Nam; tác động của BĐKH đến các lĩnh vực KT-XH; các
phương pháp nghiên cứu BĐKH... Đặc biệt, ở chương 7 phần III, trong các giải pháp
16
chiến lược ứng phó với BĐKH ở Việt Nam, cũng đề cập đến khía cạnh nâng cao hiệu
quả truyền thông nhằm thay đổi nhận thức và khả năng thích ứng của cộng đồng.
“C ộng ng phó vớ BĐKH ẩy mạnh công tác b o v tài nguyên, môi
ờng - Một s vấ ề lý lu n và th c tiễn” (2013), là tài liệu do Hội đồng khoa học
các cơ quan Đảng Trung ương biên soạn gồm tập hợp các bài viết của các nhà khoa
học, các chuyên gia về BĐKH ở Việt Nam [42]. Trong đó có một số bài viết đã nêu lên
thực trạng và đưa ra những giải pháp chủ yếu cho công tác thông tin, tuyên truyền ứng
phó BĐKH, bảo vệ tài nguyên, môi trường ở Việt Nam hiện nay.
“P ơ p p ép BĐKH hoạch phát triển KT-XH p ơ ”
(2011) do Lê Anh Tuấn biên soạn với sự tài trợ của Tổ chức Rosa Luxemburg Stiftung
(CHLB Đức) [86]. Đây là sách hướng dẫn các bước thực hành việc lồng ghép nội dung
ứng phó BĐKH khi xây dựng kế hoạch phát triển KT-XH địa phương, đặc biệt thích
hợp với vùng ĐBSCL do dựa trên nghiên cứu về đặc điểm cư trú và tập quán canh tác
của người dân nơi đây. Đặc biệt, một phần lớn nội dung tài liệu hướng dẫn các kỹ năng
truyền thông hai chiều - phỏng vấn và tiếp cận người dân để thu thập thông tin về
BĐKH cho việc hoạch định chính sách và truyền thông về BĐKH.
“ ở BĐKH ớ p ụ ĐBSCL” (2014) do
Trần Hồng Thái chủ biên, trình bày tổng quan về lưu vực sông MeKong và ĐBSCL
[75]. Công trình đề cập các kịch bản BĐKH phục vụ đánh giá ảnh hưởng của BĐKH
đến tài nguyên nước ở ĐBSCL; Đánh giá ảnh hưởng của BĐKH đến tài nguyên nước
và đề xuất các biện pháp thích ứng với BĐKH trong khai thác và sử dụng hợp lý tài
nguyên nước ở ĐBSCL.
“Thích nghi vớ BĐKH - Một nghiên c u về ờng h p
ĐBSCL” (2014) là công trình nghiên cứu do Han Entzinger và Peter Scholten (Đức)
thực hiện tại Việt Nam - một trong 06 quốc gia là đối tượng nghiên cứu của Dự án “D
M ờng và BĐKH: Bằng ch ” do Liên minh Châu Âu tài trợ
và Tổ chức Di cư Quốc tế triển khai [35]. Báo cáo cho thấy được thực trạng và những
tác động sâu sắc của BĐKH đối với đời sống của người dân ĐBSCL trên nhiều phương
diện cũng như mức độ hiểu biết và khả năng thích ứng còn nhiều hạn chế của cộng
đồng dân cư nơi đây với tác động tiêu cực của BĐKH.
17
Ngoài các tác phẩm vừa nêu, còn nhiều luận án tiến sĩ với đề tài liên quan đến
BĐKH, như: Luận án “Vấ ề giới trong b i c nh c BĐKH (N ờng h p
tại xã Giao Xuân, huy n Giao Th y, tỉ N Đ )” của Vũ Phương Ly - Đại học
Khoa học Xã hội và Nhân văn (2017). Luận án “T ơ ấ p ỉ A
G ể p ớ BĐKH” của Nguyễn Hữu Thịnh - Học viện Chính trị Quốc gia
Hồ Chí Minh (2018). Luận án “Nghiên c ơ ở khoa học trong vi
gi i pháp thích ng với BĐKH - áp dụng cho tỉnh Qu N ã ” của Chu Thị Thanh
Hương - Viện Khoa học Khí tượng Thủy văn và BĐKH, Bộ Tài nguyên và Môi trường
(2018)... Mặc dù các công trình này nghiên cứu dưới góc nhìn chủ yếu của các nhà
khoa học tự nhiên, tuy nhiên, các nhà khoa học đã nhìn nhận, phân tích thực trạng
BĐKH dưới góc nhìn của khoa học xã hội và những tác động của nó đối với sự phát
triển bền vững cũng như các giải pháp của Việt Nam nói chung và ĐBSCL nói riêng để
giảm thiểu và thích ứng.
2. HƢỚNG NGHIÊN CỨU THÔNG ĐIỆP TRÊN BÁO CHÍ VỀ BIẾN ĐỔI
KHÍ HẬU
2.1. Nghiên cứu về thông điệp
2.1.1. Tài liệu tiếng nước ngoài
Phân tích thông điệp truyền thông (analyse media message) còn được gọi là
phân tích nội dung truyền thông (media content analyses), không chỉ bao gồm phân
tích văn bản (text analyses), mà còn có thể thực hiện đối với các bài phát biểu, các hoạt
động tương tác bằng lời nói, hình ảnh trực quan, hành vi phi ngôn từ, sự kiện âm thanh
và bất kỳ loại thông điệp nào khác. Trong nghiên cứu báo chí - truyền thông, nghiên
cứu thông điệp là một trong những hướng nghiên cứu cơ bản, bởi lẽ “ ấ
ã ộ ữ ộ ã ộ p
ã ộ ễ ộ ạ ” [59].
Đề cập đến nguồn gốc của phân tích thông điệp, nhiều nhà nghiên cứu khẳng
định đây là một phương pháp nghiên cứu có lịch sử lâu đời. [94][95][101][126]. Tuy
nhiên, nếu thời điểm Từ ể A của Webster năm 1961 đưa vào định nghĩa
"phân tích nội dung" như một bước ngoặt trong việc thành lập và công nhận lĩnh vực
thì năm 1927, thời điểm luận án tiến sĩ của Harod Lasswell ra đời, đã đánh dấu sự ra
đời của nghiên cứu thực nghiệm có giá trị lớn của nhánh nghiên cứu này. Với tên gọi
18
“Propaganda in Technique the World War", tạm dịch: Kỹ ề
C ớ ”, ban đầu Lassweell gọi phương pháp nghiên cứu trong luận án
của mình là “nghiên cứu không gian” (space analyse), để tìm hiểu về những tác động
của tuyên truyền chính trị đối với ý nghĩ công chúng. Từ luận án này, Lasswell sau đó
đã phát triển kỹ thuật nghiên cứu thông điệp một cách có hệ thống, nhất là phát triển kỹ
thuật phân tích nội dung định lượng. Tính ưu việt của phương pháp này, theo Lasswell
là “thông qua vi c sử dụ p ơ p p ng kê, phân tích nội dung nhằ ạt
c tính khách quan, chính xác và tổ T ờ c coi là
ều ki n tiên quy t c a nghiên c u khoa họ ộ ề ạ c trong
nghiên c u về hành vi c ờ ặc bi t là trong nghiên c u về hành vi bằng lời
nói” [115, tr.31]. Với công trình nghiên cứu này - như nhà nghiên cứu Sheram nhận
định - Lasswell đã đóng góp rất lớn trong quá trình nghiên cứu của ngành truyền thông,
trên cả 3 khía cạnh: “C ấp ộ p ơ p p ể ể
ộ ữ ờ p ộ ề ”;
“C ấp ộ p ắ ể ề ” và “T ộ ò
ề ữ ã ể bằ ộ
ừ b ử” [dẫn lại từ 142, tr.85]
Trong “The comparative study of symbols: An introduction” (1952) (Tạm dịch:
Đạ ơ ề ghiên c u so sánh các biể ng), khi định nghĩa về phân tích nội
dung, Lasswell cho rằng “P ộ ộ ỹ ằ ụ ớ
ộ ổ ữ ề ộ
ề ấ ở ộ ơ ấ ạ ộ ờ ể ấ ” [115, tr34]. Lasswell
cũng tuyên bố rằng “p ộ ạ ộ ằ bằ ờ
ộ ạ ờ ằ ò b ể ộ p ò
p ộ ạ ử” [115, tr34]...
Sách “Media Analyse technique” (Tạm dịch: Kỹ p ộ ) của
Arthur Asa Berger là giáo trình cho các sinh viên Trường Đại học San Fransico (Hoa
Kỳ) xuất bản đầu tiên vào năm 1982 và đã có 5 lần tái bản. Nội dung trọng tâm là trình
bày những khái niệm cơ bản của lý thuyết về ký hiệu, lý thuyết phân tâm học, lý thuyết
Mácxít và lý thuyết xã hội học, về các kỹ thuật diễn giải và cách áp dụng các lý thuyết
này vào việc phân tích nội dung trên các loại hình truyền thông khác nhau. Theo
Berger, “p ộ ề p p ẽ p ép
19
ể b ắ ề ộ ạ ( ụ: ề ) ữ ờ
ữ p ” [95, tr.125].
Tác giả cũng cho rằng kỹ thuật phân tích nội dung có 05 ưu điểm nổi bật. Đó là
(01) Không tốn kém để tiến hành; (02) Có thể dễ dàng để có được mẫu nghiên cứu;
(03) Không phô trương (do đó không ảnh hưởng đến các đối tượng của nó); (04) Mang
lại dữ liệu có thể được định lượng; và (05) Có thể được sử dụng để kiểm tra các sự kiện
hiện tại, sự kiện trong quá khứ hoặc cả hai [95, tr.126-127]. Tuy nhiên, ông cũng nhìn
nhận còn nhiều hạn chế trong phân tích nội dung, như: Khó để chắc chắn rằng mẫu
nghiên cứu là đại diện; Khó để có được một định nghĩa tốt về chủ đề đang được nghiên
cứu; Không phải lúc nào cũng dễ dàng tìm thấy một đơn vị đo lường được; Không thể
chứng minh rằng các suy luận được thực hiện trên cơ sở phân tích nội dung là chính
xác. Mặc dù thẳng thắng chỉ ra những hạn chế đó, Berger vẫn cho rằng phân tích nội
dung là một phương pháp nghiên cứu phù hợp để cho những công trình nghiên cứu lý
thú và bổ ích.
Sách “Analyzing media messages - Using Quantitative Content Analysis in
Research” (Tạm dịch: Phân tích thông điệp truyền thông - Sử dụng phân tích nội dung
định lượng trong nghiên cứu) (2005) của Daniel Riffe, Giáo sư trường Đại học Ohio -
Hoa Kỳ, và các cộng sự thực hiện không chỉ đưa ra các nguyên tắc quan trọng trong đo
lường, phân tích dữ liệu và suy luận để tiến hành phân tích nội dung định lượng, quyển
sách còn đi sâu vào việc hướng dẫn chọn từ khóa, lấy mẫu, các quy tắc mã hóa, phân
tích dữ liệu… Các tác giả cho rằng phân tích nội dung định lượng rất cần thiết trong 03
trường hợp: (01) Khả năng tiếp cận dữ liệu là một vấn đề và nhà nghiên cứu bị giới hạn
trong việc sử dụng chứng cứ tài liệu; (02) Cấu trúc và ngôn ngữ riêng của chủ thể sử
dụng là vấn đề rất quan trọng trong nghiên cứu (như khi nghiên cứu về ngôn ngữ của
bệnh nhân tâm thần); (03) Khối lượng ngữ liệu vượt quá khả năng cá nhân của nhà
nghiên cứu để kiểm tra nó [101, tr.39].
Trong “The Content Analysis Guidebook” (Tạm dịch: Sách hướng dẫn phân tích
nội dung) (2002), của Kimberly A. Neuendorf, Giáo sư Truyền thông tại Đại học bang
Cleveland (Hoa Kỳ), đã dành chương đầu tiên để điểm qua các cột mốc quan trọng của
nghiên cứu thông điệp và dành 7 chương còn lại để hướng dẫn các thao tác kỹ thuật
phân tích nội dung. Theo tác giả, khởi nguồn của phân tích thông điệp chính là “phân
20
tích hùng biện” (Rhetorical Analysis). Các nghiên cứu theo hướng phân tích thông điệp
đầu tiên còn lưu giữ “ ữ b p ạ b ờ
ề ú ã 4 000 ă ”
[123, tr.31]. Neuendorf đã trích lại nghiên cứu của Riffe và Freitag, thực hiện năm
1997, cho thấy sự gia tăng gần gấp sáu lần số lượng các bài báo về phân tích nội dung
trên tạp chí Báo chí - Truyền thông hàng quý trong khoảng thời gian 24 năm - từ 6,3%
năm 1971 lên 34,8% vào năm 1995. [123, tr.27]… Theo tác giả, “P ộ
ắ p p p ơ p p ọ (…)
ớ ạ ớ ạ b ể ờ ặ b
p ạ ặ b ” [123, tr.10]. Việc vận dụng các phương
thức khoa học vào nghiên cứu cần đặc biệt chú ý đến các tiêu chí: tính tương tác -
khách quan, phác thảo giả định, độ tin cậy, tính hợp lệ, tính tổng quát, khả năng nhân
rộng và kiểm định giả thuyết.
Trong cuốn sách “M M P b H ” (Tạm dịch: T p
ề ỏ ộ ) (2009) do Tiến sĩ Amy B. Jordan - Giám đốc Bộ
phận Nghiên cứu về Truyền thông và Trẻ em đang phát triển của Trung tâm Chính
sách công cộng Annenberg thuộc Đại học Pennsylvania (Hoa Kỳ) và các cộng sự thực
hiện [94], đã dành 2 phần đầu đề cập khá chi tiết về khái niệm và hướng dẫn kỹ thuật
thực hiện nghiên cứu phân tích nội dung; 2 phần còn lại là tập hợp những bài báo khoa
học, báo cáo kết quả công trình nghiên cứu về thông điệp truyền thông ở các khía cạnh
liên quan đến sức khỏe cộng đồng. Tài liệu này rất có ý nghĩa và giá trị kế thừa với
luận án mà tác giả đang thực hiện bởi mặc dù nội dung nghiên cứu chủ yếu về các khía
cạnh liên quan đến sức khỏe, tuy nhiên cách thức thực hiện các nghiên cứu khá đa dạng
với một số công trình thiên về phương pháp định lượng, một số công trình tập trung
yếu tố phân tích định tính hoặc kết hợp song song cả hai… giúp tác giả rút ra được
những kinh nghiệm quý báu để vận dụng trong thực tiễn quá trình nghiên cứu.
Klaus Krippendorff, tác giả của Content Analysis - An Introduction to Its
Methodology (tạm dịch: P ộ - G ớ ề p ơ p p )
(2013), cho rằng so với quá khứ, phân tích nội dung ngày nay có sự khác biệt đáng kể.
Trước đây, phân tích nội dung là một phương pháp dựa trên kinh nghiệm, là quá trình
khám phá, dự đoán hoặc suy luận theo ý định mang tính chủ quan của tác giả (định
tính). Tuy nhiên trong phân tích nội dung đương đại, sự kết hợp giữa định tính và định
21
lượng là không thể thiếu. Bởi lẽ, theo tác giả “mỗi phân tích nộ ò ỏi một b i
c ă b n có sẵ c kiểm tra” và “tất c ọ ă b n là
nh tính, ngay c ặ ểm nhấ nh c ă b c chuyể ổi
thành s ” [124, tr.22]. “Vi c phân bi / nh tính là ũ ĩ ời
s minh bạch và tính khách quan c a vi c xử lý dữ li u khoa học và sự phù hợp của các
phương pháp sử dụng tương ứng với bối cảnh đã lựa chọn” [124, tr.87]. Trên cơ sở đó,
Krippendorff cũng đã phát triển một khung khái niệm để phân tích nội dung gồm sáu
thành phần [124, tr.29-30]
Bên cạnh các tài liệu lý luận, các công trình nghiên cứu thực nghiệm áp dụng
phương pháp này - có thể bắt gặp trên rất nhiều lĩnh vực - giúp chúng ta rút ra được
những kinh nghiệm quý báu để vận dụng trong thực tiễn quá trình nghiên cứu, như:
“Sex on American television: An analysis across program genres and network types”
(Tạm dịch: Sex trên truyền hình Mỹ: Phân tích về các thể loại chương trình và loại
mạng); A Content Analysis of the Dallas Farmers Market Instagram (Tạm dịch: Phân
tích nội dung c I “T ờng nông dân Dallas”)…
Từ các tài liệu, công trình nghiên cứu mà tác giả đã tổng luận trên, có thể thấy
phương pháp phân tích thông điệp/ nội dung là một phương pháp nghiên cứu được ứng
dụng lâu đời trong lịch sử nghiên cứu báo chí truyền thông. Các tài liệu, công trình
nghiên cứu vừa đề cập cũng giúp tác giả luận án có được cái nhìn tổng quan về lịch sử
và phương pháp, cũng như cách thức tiến hành phân tích nội dung thông điệp báo chí -
truyền thông ra sao, những ưu điểm, hạn chế cũng như những vấn đề cần lưu ý của
phương pháp này, để từ đó có thể áp dụng vào việc phân tích nội dung thông điệp về
BĐKH trên báo Đảng ĐBSCL.
2.1.2. Tài liệu bằng tiếng Việt
Nhiều tài liệu nghiên cứu về TTĐC ở Việt Nam đã đề cập và dành dung lượng
thỏa đáng để giới thiệu về “thông điệp” - từ khái niệm, vai trò, ý nghĩa, phân loại…,
qua đó giúp người đọc có được kiến thức tổng quan về toàn bộ quy trình truyền thông
nói chung cũng như của riêng “thông điệp” trong quy trình này. Đáng kể đến như các
sách: “Truyề ại chúng” (2001) và “Cơ ở lý lu n báo chí” (1992) của Tạ Ngọc
Tấn; “Cơ ở lý lu n báo chí truyền thông” (2004) của Dương Xuân Sơn và cộng sự;
“Cơ ở lý lu n báo chí “(Nguyễn Văn Dững - 2012), “B n xã hộ ”
(Nguyễn Văn Dững - 2011), “Báo chí giám sát,ph n bi n xã hội ở Vi t N ” (Nguyễn
22
Văn Dững - 2017); “Truyền thông - Lý thuy t và kỹ ă ơ b n” (Nguyễn Văn Dững
và Đỗ Thị Thu Hằng - 2012), “Giáo trình Tâm lý họ b ” (2013) và “Tâm lý học
ng dụng trong nghề báo” (2013) của Đỗ Thị Thu Hằng; “Vai trò c a báo chí trong
ớ n xã hội” (2012) của tác giả Đỗ Chí Nghĩa…
Đối với phân tích thông điệp, có thể nói hiện nay ở Việt Nam, nhóm nghiên cứu
về báo chí - truyền thông dưới góc độ tiếp cận xã hội học đề cập khá rõ nét đến vấn đề
thông điệp báo chí - truyền thông, nhưng hướng nghiên cứu này lại chưa được triển
khai nhiều. Về mặt nghiên cứu lý luận, đến nay chưa có quyển sách nào của các nhà
nghiên cứu Việt Nam đề cập sâu về phương pháp nghiên cứu này.
Trong Truyền thông, Lý thuy t và Kỹ ă ơ b n (2012) của Nguyễn Văn
Dững (chủ biên) và Đỗ Thị Thu Hằng, các nhà nghiên cứu cho rằng truyền thông là
một quá trình diễn ra theo trình tự thời gian, trong đó bao gồm các yếu tố tham dự
chính là: Nguồn, Thông điệp, Kênh truyền thông, Công chúng, Phản hồi/Hiệu quả,
Nhiễu. Trong đó “thông điệp” được định nghĩa: “Là nộ ổi từ
ngu p ng ti p nh T p m, mong mu n,
ò ỏi, ý ki n, hiểu bi t, kinh nghi m s ng, tri th c khoa học - kỹ thu … c mã hoá
theo một h th ng ký hi H th ng này ph c c bên phát và bên nh n
cùng chấp nh n và có chung cách hiểu - t c là có kh ă i mã. Ti ng nói, chữ
vi t, h th ng biển báo, hình nh, cử chỉ biể ạt c ờ c sử dụ ể
chuyển t i p” [19, tr.13]. Theo các tác giả, thông điệp có 4 dạng là thông điệp
đích; thông điệp cụ thể; thông điệp tài liệu và thông điệp ẩn. Thông điệp trong một chu
trình truyền thông phải đảm bảo các yêu cầu, gồm: phải phù hợp với công chúng, nhóm
đối tượng và thể hiện rõ mục tiêu của chiến dịch truyền thông; phù hợp với chủ trương
chính sách của Đảng, Nhà nước; phù hợp với các quy tắc và giá trị xã hội, với văn hóa
- lối sống dân tộc và phát triển; phù hợp với tâm lý tâm trạng xã hội và thể hiện được
lợi ích của công chúng, nhóm đối tượng; phù hợp với các kênh truyền thông.
“Tâm lý học ng dụng trong nghề báo” (2013) của tác giả Đỗ Thị Thu Hằng
[39] khi đề cập đến các vấn đề cơ chế ảnh hưởng của tâm lý xã hội đến công chúng báo
chí truyền thông và tâm lý tiếp nhận sản phẩm báo chí của công chúng đã làm bật lên
vai trò quan trọng của “thông điệp” trong tác phẩm báo chí để tạo nên tác động tâm lý
xã hội đến từng cá nhân trong xã hội và các nhóm công chúng; gợi ý một số giải pháp
23
và kỹ năng xây dựng thông điệp báo chí phù hợp để tác động một cách có ý thức vào
các đối tượng xã hội theo những cơ chế nhất định….
Các bài báo khoa học của tác giả Mai Quỳnh Nam đã công bố các nghiên cứu
phân tích nội dung xã hội học TTĐC đầu tiên ở Việt Nam, như:
+ Trong “Truyền thông và phát triển nông thôn”, đăng trên tạp chí Xã hội học
số 3, năm 2003 [60], tác giả đã nhắc đến vai trò “rất quan trọng” của thông điệp trong
quá trình truyền thông khi phân tích cơ chế tác động của truyền thông đối với hành
động của con người.
+ Trong “Về ặ ểm và tính chất c a giao ti p ại chúng”, Tạp chí Xã hội học,
số 2 năm 2000, khi đề cập đến hoạt động tiếp nhận thông tin của công chúng, tác giả cho
rằng “S liên k t xã hội c ờ ọ ờ ời xem cho thấy m i quan tâm
chung c a họ i với các nộ p c truyền t ( ) K p
b ộ n các nhóm công chúng lớ ũ ĩ p
c hi n vai trò tổ ch c xã hội thông qua hoạ ộng truyền bá t p thể” [57]…
+ Trong bài “Thông p ề ẻ b b ”, tạp chí Xã hội học số
2- 2002, tác giả nhấn mạnh “T ặ ù p ơ p p p b
ấ ý ĩ p ữ ộ b ở
ạ ă b … ở b ặ ắ
bằ ữ… ở b ”. Tác giả nhấn mạnh quan hệ giữa thông điệp và thực tế
giao tiếp, môi trường truyền thông “ ụ ơ b p ơ p p p
p b ể p ớ p ã
p” [59].
Nghiên cứu phân tích quốc tế về “H ẻ b ” do Trung tâm
truyền thông ASIAN (AMIC) phối hợp với Viện Xã hội học thực hiện năm 1999.
Những người nghiên cứu đã quan sát các thông điệp về trẻ em được thông báo trong
tháng 10/1999 trên 10 tờ báo in, 2 đài truyền hình và tiến hành hơn 200 cuộc phỏng
vấn bằng nhiều hình thức để từ đó đúc rút những nhận định quan trọng về thông điệp
về trẻ em trên báo hình và báo in. Từ đó, tác giả đã đưa ra các khuyến cáo để công
chúng và các cơ quan báo chí điều chỉnh, nhằm thực hiện tốt vai trò xã hội trong hoạt
động báo chí vì các lợi ích cơ bản của trẻ em.
Trong “Cơ ộng c a báo chí”, Nguyễn Văn Dững đã đưa ra mô hình tác
động, theo đó từ thực tiễn đời sống, các chủ thể (nhà báo) thiết kế những thông điệp,
24
chuyển qua kênh truyền để tác động vào ý thức quần chúng (hay công chúng xã hội).
Đối tượng tiếp nhận - dựa trên nền tảng nhận thức chính trị, văn hóa và tri thức cá nhân
mà có những thái độ hành vi tương ứng và được xem là có hiệu lực/hiệu quả khi nó
phù hợp với mong muốn của chủ thể, đồng thời nó sẽ tác động trở lại thực tiễn đời
sống. Tác giả nhấn mạnh: “Để p - tác phẩm báo chí hay, hấp d n
ú ò ỏi ở ời vi ộng sáng tạo, công phu, nghiêm túc, có
tâm và nhi t thành, không chỉ ò ỏ ộ ă ò ă u nghề
nghi p; không chỉ ộ ă và v n s ng mà quan trọ ă c nh n th c,
s c b ă p n ng nhanh nhạ ớc s ki n và vấ ề
c a cuộc s ng” [17]...
Ngoài ra, còn có một số công trình nghiên cứu thực nghiệm có sử dụng phương
pháp phân tích thông điệp, như:
+ “T p truyền thông về ng tính luy n ái trên một s báo in và báo
mạng” (2011), do Viện nghiên cứu Xã hội, Kinh tế và Môi trường phối hợp với HV
BC&TT thực hiện. Các tác giả đã đưa ra các phân tích và đánh giá về cách một số báo
in và báo mạng đưa tin và bình luận về người đồng tính và sự thay đổi về cách đưa tin
qua các năm. Từ kết quả phân tích, các tác giả xem xét khả năng có thể gây ra kỳ thị
hoặc chống kỳ thị, đặc biệt là những nội dung liên quan đến văn hoá, lối sống, sự tham
gia và đóng góp của nhóm đồng tính vào sự phát triển chung của xã hội.
+ Công trình nghiên cứu của khoa Xã hội học, HV BC&TT về “Đ ớ
p ẩ ề p ơ TTĐC ” (2011) tác giả
Nguyễn Thị Tuyết Minh và nhóm nghiên cứu đã tìm kiếm và phân tích các vấn đề giới,
định kiến giới, khuôn mẫu giới trong thông điệp truyền thông trên các phương tiện
TTĐC qua hình ảnh minh họa và ngôn từ được sử dụng. Qua đó đề xuất một số khuyến
nghị và giải pháp nhằm giúp các nhà truyền thông đưa ra các thông điệp nhạy cảm giới,
không có định kiến giới.
+ “Hi u qu c a các bài vi t về bạo l b n tử Vi t Nam hi n
nay” (2011) là Luận án tiến sỹ Xã hội học của Phạm Hương Trà. Tác giả sử dụng
phương pháp phân tích thông điệp tìm hiểu việc phản ánh về bạo lực gia đình trên báo
điện tử qua nội dung bài viết, khuôn mẫu, hình thức, nguyên nhân, chân dung người bị
bạo lực và người gây bạo lực, ngôn ngữ sử dụng và hình ảnh minh hoạ… Đồng thời,
25
tác giả còn làm rõ thêm nhận thức, thái độ và hành vi của công chúng khi tiếp nhận
thông điệp của các bài viết.
+ “K ớ b Mỹ (K b ã N w
York Times và W S J ừ 2009-2012)” (2014) là Luận án tiến sĩ báo chí
học của Vũ Thanh Vân. Tác giả nghiên cứu các bài xã luận đăng từ năm 2009 đến
2012, trên báo New York Times và Wall Street Journal, nhằm xác định khuynh hướng
chính trị thể hiện trên hai tờ báo, chỉ ra mối quan hệ giữa chính trị và báo chí; rút ra
kinh nghiệm về nghệ thuật trình bày quan điểm trong bài xã luận, khả năng thuyết phục
và định hướng nhận thức cho công chúng.
+ Luận án tiến sĩ “T p ề ớ b
ử V N ” (2019) của Bùi Thị Minh Hải đã khảo sát tác phẩm báo chí viết
về đề tài hôn nhân có yếu tố nước ngoài trên các trang báo mạng điện tử:
Vietnamnet.vn, VnEpress.net, Giadinh.net.vn, Tuoitre.vn, Baophapluat.vn. Trên cơ sở
khảo sát, phân tích, đánh giá các tác phẩm báo mạng điện tử về hôn nhân có yếu tố
nước ngoài, luận án công bố thực trạng thông điệp hôn nhân có yếu tố nước ngoài trên
báo mạng điện tử Việt Nam hiện nay và chỉ ra những vấn đề đang đặt ra cần giải quyết
nhằm nâng cao chất lượng thông điệp về hôn nhân có yếu tố nước ngoài trên báo mạng
điện tử.
+ “T p về ũ b (N ờ p b N
b L ộ b T ổ ẻ ạ 2005 - 2014)” là luận án Xã hội học của tác
giả Nguyễn Thị Tuyết Minh. Luận án đã chỉ ra thực trạng nội dung và hình thức thông
điệp về tham nhũng trên báo in và khuyến nghị các giải pháp nhằm phát huy hiệu quả
thông điệp về tham nhũng trên báo in.
Các luận án vừa nêu đều có sử dụng phương pháp phân tích thông điệp, có giá
trị nhất định trong việc cung cấp những kinh nghiệm về phương pháp nghiên cứu và lý
luận, giúp tác giả luận án rút ra được nhiều bài học quý để vận dụng trong quá trình
nghiên cứu đề tài.
2.2. Nghiên cứu thông điệp truyền thông về biến đổi khí hậu
2.2.1. Tài liệu tiếng nước ngoài
Trên cơ sở phân tích các công trình nghiên cứu về truyền thông BĐKH, bài báo
khoa học “Content analysis methods for assessing climate change communication and
media portrayals” ( ạ : P ơ p p p ộ ể
26
ề BĐKH), in trong quyển The Oxford Encyclopedia of Climate
Change Communication, Julia Metag - Giáo sư Khoa học Truyền thông tại Đại học
Fribourg - Thụy Sĩ, khẳng định “p ộ ộ ữ p ơ p p
ử ụ ờ ấ ề BĐKH”.
Một tài liệu liên quan trực tiếp đến thông điệp BĐKH là Mediated messages
about climate change: reporting the IPCC Fourth Assessment in the UK print media
(2017) (Tạm dịch: T p p ề BĐKH: B
IPCC b ở A ). Công trình của Giáo sư Mike Hulme, Khoa Khoa học Môi
trường - Đại học East Anglia, Anh đã nghiên cứu trên 11 tờ báo có quyền sở hữu, mật
độ lưu thông, đối tượng độc giả, phong cách và khuynh hướng chính trị khác nhau.
Mẫu được chọn là các tờ báo xuất bản vào ngày 3 tháng 2, 7 tháng 4 và 5 tháng 5 của
năm 2007, tức là ngay sau ngày ba nhóm nghiên cứu khoa học (WG-1), tác động và
thích ứng (WG-2), giảm thiểu (WG-3) công bố bản tóm tắt đề xuất của họ, làm cơ sở
để tổng hợp hoàn thiện Báo cáo đánh giá lần thứ tư của IPCC. Nghiên cứu này giải
quyết các câu hỏi: mức độ khác nhau trong báo cáo của ba Nhóm làm việc IPCC trên
các tờ báo in của Anh? Những thông điệp nào từ Báo cáo IPCC mà các tờ báo khác
nhau chọn để làm nổi bật và những thông điệp nào loại bỏ? Các loại hình ngôn ngữ chủ
yếu được sử dụng trong báo cáo này là gì? Nghiên cứu kết luận rằng báo in ở Anh đăng
tải các bài báo mang thông điệp báo động và hù dọa hơn là các bài báo thể hiện sự lạc
quan về khả năng thích ứng của con người với BĐKH. Phương pháp tiến hành và kết
quả thu được từ nghiên cứu này là cơ sở để luận án tham chiếu trong quá trình nghiên
cứu thông điệp về BĐKH trên báo Đảng ĐBSCL.
Phân tích nội dung cũng là cách thức Nathan Young và Eric Dugas chọn để tiến
hành nghiên cứu về những thông điệp mà hai tờ báo lớn của Canada, The Globe and
Mail và The National Post, chuyển tải đến công chúng trong ba khung thời gian cách
nhau 10 năm là 1988-1989, 1998-1999 và 2007- 2008 (Representations of Climate
Change in Canadian National Print Media: The Banalization of Global Warming -
Tạm dịch: Đại di BĐKH b Q C : B ờng hóa s
nóng lên toàn c u). Phân tích nội dung 5.897 bài báo cho kết quả: Tần suất thông tin về
BĐKH trên hai tờ báo đại diện này ngày càng tăng, nhưng thông điệp chuyển tải đến
độc giả lại bị “lệch” bởi lẽ ngày càng ít tiếng nói của các nhà khoa học và những người
có trách nhiệm của chính quyền và công dân bình thường, trong khi đại diện của các
27
nhóm môi trường và doanh nghiệp/ngành công nghiệp ngày càng nổi bật. Tỉ lệ các bài
báo có kiến thức khoa học chuyên môn sâu và những chi tiết đắt giá đáng tin cậy,
những bài “thuần” nói về BĐKH giảm, trong khi ngày càng nhiều hơn các bài báo mà
vấn đề BĐKH chỉ được “điểm qua” trong bài báo nói về các vấn đề khác, như chính trị,
nghệ thuật và văn hóa, công nghệ và xu hướng kinh doanh. Những bài viết quan trọng,
chủ yếu lại dẫn từ các tài liệu báo chí Hoa Kỳ… Các nhà nghiên cứu lo ngại điều này
sẽ ảnh hưởng đến “s ộng chính tr cụ thể” của người Canada trong
việc hành động ứng phó với BĐKH.
Trong bài công bố kết quả nghiên cứu đăng trên tạp chí Science Communication
ngày 5/9/2007, tác giả khẳng định: Việc trình bày các nội dung của báo cáo đã áp
dụng những yếu tố gây hoang mang quá mức. BĐKH được trình bày với những chi
tiết rất đáng sợ, bằng ngôn ngữ của sự sợ hãi và thảm họa, thay vì diễn đạt nó như là
một hiện tượng ngẫu nhiên với kết quả có thể điều chỉnh nếu lựa chọn được các chính
sách đúng đắn. Nội dung về thích ứng - làm giảm sự nhạy cảm của xã hội đối với
BĐKH - không được ưu ái hoặc bị gạt ra ngoài lề. Việc thảo luận về lựa chọn chính
sách tiềm năng để giảm thiểu tác động tiêu cực của BĐKH của xã hội là nội dung ít
phổ biến nhất, bị loại ở vị trí thứ ba. Phương pháp nghiên cứu và những kết luận đúc
rút từ công trình nghiên cứu này mang tính gợi mở nhiều vấn đề quan trọng có liên
quan đến đề tài, đồng thời giúp tác giả luận án nắm bắt thêm thực tiễn thông tin về
BĐKH ở báo chí quốc tế [134].
Một nghiên cứu khác, A construal - level perspective of climate change images
in US newspapers (2017) (Tạm dịch: Một cách hiểu - cấp ộ diễ ạt c a hình nh về BĐKH ờ báo in Hoa Kỳ), Ran Duan và các cộng sự phân tích 635 hình ảnh về
BĐKH từ các tờ báo lưu hành rộng rãi ở Mỹ là USAToday, New York Times và Wall
Street Journal. Kết quả cho thấy, trái với những gì mọi người vẫn nghĩ, BĐKH đã được
mô tả trực quan là một vấn đề tương đối cụ thể chứ không phải trừu tượng và hầu hết
được miêu tả với mức độ đặc thù cao. Hình ảnh có chủ đề con người tác động và gây
ấn tượng hơn so với hình ảnh có chủ đề tự nhiên và chủ đề công nghiệp trong bối cảnh
môi trường bị tác động bởi BĐKH… Những vấn đề trên cung cấp thêm góc nhìn về tác
động của hình ảnh, có giá trị trong quá trình phân tích các yếu tố cấu thành nội dung
thông điệp BĐKH mà tác giả luận án nghiên cứu.
28
Sách Communicating on climate change: An essential resource for Journalists,
Scientists, and Educators (2008) (Tạm dịch: Truyền thông về BĐKH:Một tài li u hữu
ích cho các nhà báo, nhà khoa học và giáo dục) được xuất bản bởi Viện báo cáo môi
trường và biển Metcalf được xem là một bản “tổng kết lớn”, sau 6 lần hội thảo, được tổ
chức từ cuối năm 2003 đến tháng 6 năm 2006 với chủ đề “Science Communication and
N w M ” (Tạm dịch: Thông tin khoa học và tin t c truyền thông), có sự tham
dự của nhiều nhà khoa học hàng đầu và các nhà báo tên tuổi trong lĩnh vực này từ
nhiều quốc gia. Phân tích nội dung những bài báo về vấn đề này đối chiếu với những
thông tin khoa học chính thống được công bố cho thấy có nhiều sự chênh lệch khi
chuyển tải “thông tin khoa học” chuyển thành một “tin tức truyền thông”. 11 lý do nổi
cộm dẫn đến tình trạng này được liệt kê và đưa ra những khuyến nghị giải quyết. Đáng
kể đến là: Thu hút công chúng là cơ sở để báo chí tồn tại, trong khi tin tức BĐKH
thường “không có mùi thu c súng”; Các nhà báo đôi khi cường điệu những phát hiện,
nghiên cứu mới hoặc thiếu kiến thức khoa học cơ bản để thẩm định độ tin cậy của các
phát hiện đôi khi được tạo ra vì những lý do chính trị hoặc tài chính hơn là vì khoa học
và nhân sinh, dẫn đến sự nhầm lẫn và hoài nghi trong công chúng; Mối quan hệ giữa
nhà khoa học và nhà báo chưa chặt chẽ… Tài liệu này cung cấp những kiến thức cả về
lý luận và thực tiễn, giúp tác giả nhìn rõ hơn quan điểm và cách thức khai thác thông
tin về BĐKH ở môi trường báo chí quốc tế.
Framing Climate Change: A Content Analysis of Chinese Mainstream
Newspapers From 2005 to 2015 (2017) (Tạm dịch: K B ổ : P tích
ộ ờ b T Q ừ ă 2005 2015) là công
trình nghiên cứu của 3 nhà khoa học Jingjing Han, Shaojing Sun và Yanqin Lu. Các tác
giả đã phân tích 1.248 bài báo đề cập đến vấn đề BĐKH đăng trong thời gian diễn ra
Hội nghị các bên Công ước khung của Liên hợp quốc về BĐKH từ năm 2005 đến 2015
trên năm tờ báo chính thống của Trung Quốc. Trong đó, People‟s Daily, Xinhua
Telecom Daily là hai tờ báo của ĐCS Trung Quốc; Science and Technology Daily là tờ
báo khoa học quốc gia chuyên ngành; Southern Metropolis Daily và Xinmin Evening
News là các tờ báo tự chủ kinh phí. Kết quả nghiên cứu cho thấy các nội dung về
những tác động của BĐKH đến cuộc sống của con người xuất hiện nhiều nhất, tiếp
theo là các bài viết đề cập đến nguyên nhân, các xu hướng hợp tác đối phó với BĐKH,
những vấn đề còn gây tranh cãi về BĐKH... Nghiên cứu cũng cho thấy rằng các tờ báo
29
của ĐCS Trung Quốc ưu tiên đưa nhiều tin tức về hoạt động hoặc chỉ đạo của lãnh đạo
có liên quan đến BĐKH và“ gắng vẽ ra một hình nh tích c c và mang tính xây
d ng về những nỗ l c toàn c u về BĐKH (…) T bằng cách mô t sinh
ộng cuộc s ng cá nhân, các phóng viên c a tờ Southern Metropolis Daily c gắng
ơ i c m xúc trong khán gi và kêu gọ ộng công khai về BĐKH ộc
s ng hàng ngày c a họ” [120]. Nghiên cứu cho thấy thông điệp về BĐKH cần gắn với
cuộc sống thường nhật và cảm xúc của công chúng, đồng thời nền tảng tư tưởng, pháp
lý và tài chính chi phối đáng kể nội dung thông điệp về BĐKH.
Tại Chile, Devin M. Dotson và các cộng sự đã tiến hành nghiên cứu nhằm so
sánh “bức tranh” BĐKH được vẽ lên như thế nào ở hai tờ báo có hệ tư tưởng chính trị
khác nhau là El Mercurio, tờ báo có số lượng phát hành lớn nhất ở Santiago, Chile ủng
hộ Đảng bảo thủ, và một đối trọng khác - tờ La Nacio´n, ủng hộ quan điểm của Đảng
tự do. Báo cáo công trình nghiên cứu này trong bài báo khoa học Media Coverage of
Climate Change in Chile: A Content Analysis of Conservative and Liberal Newspapers
- (Tạm dịch: T ề ề BĐKH ở C : P ộ ờ
b B T ), La Nacio´n gần gấp đôi El Mercurio cả về số lượng tác phẩm
và dung lượng chữ trong mỗi bài viết về BĐKH. Số bài báo có minh họa của La
Nacio´n cũng nhiều hơn gấp 4 lần; thể loại tác phẩm cũng đa dạng hơn so với đối thủ.
Phân tích nội dung chi tiết về nguồn tin, thể loại, vị trí bài báo, tình tiết, mức độ thông
tin, tính hệ thống của vấn đề… các tác giả đã kết luận “Phe b o th ớng
chung là nghi ngờ BĐKH ng hộ ộ ể gi i quy t nó” [104 ].
“Climate on cable: The nature and impact of global warming coverage on Fox
News, CNN, and MSNBC” (Tạm dịch: Khí h u trên truyền hình cáp: B n chất và tác
ộng c a thông tin nóng lên toàn c u trên Fox News, CNN và MSNBC) do Lauren
Feldman và các cộng sự thực hiện đã phân tích nội dung các tác phẩm về BĐKH trên 3
kênh truyền hình cáp Fox News, CNN và MSNBC từ năm 2007 đến 2008. Đồng thời,
các tác giả cũng khảo sát công chúng thường xuyên theo dõi các kênh truyền hình này
để đánh giá về quan điểm và nhận thức của họ. Nghiên cứu này cung cấp bằng chứng
cho thấy người càng thường xuyên xem Fox News, họ càng ít chấp nhận sự nóng lên
toàn cầu. Ngược lại, việc xem CNN và MSNBC sẽ có nhận thức tốt hơn về vấn đề
này… Công trình nghiên cứu này cũng cho thấy một hướng đi mới trong nghiên cứu
thông điệp mà theo Julia Metag - Giáo sư Khoa học Truyền thông tại Đại học Fribourg,
30
Thụy Sĩ - đã chỉ ra. Đó là: N ớ u nội dung về truyền thông
BĐKH ờng th c hi n bằng mộ p ơ p p ơ ẻ ã ững
p ơ p p “ p c p ơ ” ể p ụ ớ B
ạ ớ p ữ p ề
ú p p ể ề ộ ề ề
BĐKH ớ ọ ch không chỉ d a trên gi nh rằng nội dung c a truyền
BĐKH ở n nh n th c c a công chúng về BĐKH ở một m ộ nào
[111].
Ngoài những công trình vừa nên trên, có thể tìm thấy nhiều nghiên cứu khác về
BĐKH trên báo chí Anh, Ấn Độ, Na Uy… trong các công trình nghiên cứu đã được
công bố trên các tạp chí khoa học quốc tế, như: Climate change and media usage:
Effects on problem awareness and behavioural intentions (Tạm dịch: BĐKH và
phương tiện truyền thông sử dụng: Ảnh hưởng đến nhận thức vấn đề và ý định hành
vi); Soil news - the soil carbon and climate policy journey in Australia and the role of
different media (Tạm dịch: Tin tức về đất - hành trình chính sách khí hậu và đất carbon
ở Úc và vai trò của các phương tiện truyền thông khác nhau); The uncertainties of
climate change in Spanish daily newspapers: content analysis of press coverage from
2000 to 2010 (Tính bất định của BĐKH trên các nhật báo Tây Ban Nha: phân tích nội
dung của thông tin báo chí từ năm 2000 đến 2010)… Các công trình nêu trên có ý
nghĩa tham khảo cho tác giả luận án ở nhiều góc độ về phương pháp nghiên cứu, về cơ
sở lý luận và các khía cạnh thực tiễn thông tin về BĐKH trên báo chí quốc tế.
2.2.2. Tài liệu tiếng Việt
“Báo chí với vấ ề BĐKH ở Vi t Nam” (2017) - sách chuyên khảo của hai tác
giả Đinh Văn Hường và Nguyễn Minh Trường là ấn phẩm được bổ sung, chỉnh sửa để
xuất bản và công bố chính từ đề tài nghiên cứu khoa học "Báo chí với vấn đề BĐKH ở
Việt Nam hiện nay" - được thực hiện từ năm 2015 đến năm 2017. Cuốn sách chuyển
tải 4 nội dung chính: BĐKH và vai trò của báo chí; Một số phương thức truyền thông
trên thế giới và kinh nghiệm cho Việt Nam; Thực tiễn thông tin, truyền thông về
BĐKH của báo chí Việt Nam; Bối cảnh, yêu cầu và giải pháp nâng cao chất lượng báo
chí về BĐKH. Để có căn cứ đánh giá về thực tiễn thông tin, truyền thông về BĐKH
của báo chí Việt Nam, các nhà nghiên cứu đã khảo sát, thống kê tin bài về BĐKH trên
5 tờ báo in (Nhân Dân, Tài nguyên và Môi trường, Thanh niên, Nam Định) và 2 báo
31
điện tử (Tuổi trẻ Online, Lao Động); áp dụng phương pháp phân tích nội dung từ các
mẫu đại diện và phỏng vấn sâu các cá nhân các nhà báo, nhà quản lý báo chí, nhà khoa
học… Từ đó, các tác giả đã chỉ ra những ưu điểm, hạn chế và làm rõ nhiều nguyên
nhân của các hạn chế về nội dung và hình thức chuyển tải thông tin về BĐKH trên báo
chí hiện nay, như: một số lãnh đạo báo chí chưa nhận thức đúng và đầy đủ tầm quan
trọng, cấp thiết và cần thiết đưa tin về BĐKH; sự hợp tác, chia sẻ và cung cấp thông tin
giữa cơ quan báo chí và cơ quan quản lý các cấp về lĩnh vực này chưa ăn khớp; năng
lực nghiệp vụ, kiến thức khoa học về lĩnh vực BĐKH của nhà báo chưa đáp ứng yêu
cầu… Nghiên cứu là tài liệu tham chiếu có ý nghĩa, giúp NCS bổ sung nền tảng kiến
thức về vấn đề nghiên cứu và đúc rút hướng nghiên cứu mới.
“B i c nh truyền thông về BĐKH ă p ơ TTĐC V t Nam”
(2015) do Lưu Hồng Minh và SonJa Schirmbeck đồng chủ biên là cuốn sách tập hợp
kết quả 3 chủ đề nghiên cứu nằm trong dự án hợp tác nghiên cứu về truyền thông do
HV BC&TT hợp tác cùng Viện Friedrich Ebert Stiftung (Đức) tại Việt Nam thực hiện.
Mặc dù nghiên cứu từ góc độ xã hội học về truyền thông BĐKH, nhưng công trình này
cũng vận dụng phương pháp phân tích nội dung làm chủ đạo. Cụ thể:
+ Nghiên cứu “Th c trạ ề BĐKH trên báo chí” của nhóm tác giả
Lưu Hồng Minh, Đỗ Đức Long và Phó Thanh Hương phân tích định lượng nội dung
bài viết về BĐKH đăng tải trên báo in và báo mạng giai đoạn 2011-2012 và các tin bài
phát sóng trên truyền hình năm 2013. Nghiên cứu cho thấy điểm tương đồng giữa
truyền hình và báo in, báo điện tử trong việc đăng tải thông tin BĐKH là những thông
tin về biểu hiện, cách ứng phó và hậu quả của BĐKH được đề cập nhiều hơn là những
thông tin nguyên nhân và dự báo BĐKH. Phần lớn các thông tin không nói về nguồn
thông tin, nhưng khi có nói đến nguồn thông tin thì chủ yếu phát từ các nhà lãnh đạo,
quản lý…
+ “Th c trạ ề BĐKH trên truyền hình” do Phạm Hương Trà và
Phạm Thị Tuyết Minh thực hiện đã thu thập và phân tích 271 tin bài có liên quan đến
BĐKH trên 6 chương trình của VTV1 (Đài Truyền hình Việt Nam) và THVL1 của Đài
truyền hình Vĩnh Long. Các tác giả đã chỉ ra một số đặc điểm, nhấn mạnh hạn chế các
chương trình truyền hình trong mẫu phân tích, như: Bối cảnh mà BĐKH xuất hiện chủ
yếu thông qua các hội nghị, hội thảo, các chuyến viếng thăm hoặc trong các chủ trương
32
mới của Đảng và Nhà nước, các sự kiện liên quan tới môi trường hoặc khi các thiên tai
mới xảy ra gây ảnh hưởng tới đời sống người dân. Các tin, chương trình vẫn còn thiếu
tính liên kết, chưa phân tích theo chiều sâu, đôi khi khiến người xem lầm tưởng là
những hiện tượng thiên nhiên bình thường. Chưa quan tâm nhiều tới hậu quả của
BĐKH đến đời sống văn hóa, xã hội mà chỉ tập trung đưa tin về hậu quả kinh tế, thể
chất của con người…
+ “B ề BĐKH” là chủ đề thứ 3, do Dương Thị Thu Hương báo
cáo kết quả trên cơ sở phân tích định tính 181 tin, bài đăng từ tháng 8/2011 đến tháng
7/2012 của 03 tờ báo in (Nhân Dân (hàng ngày), Tuổi Trẻ, Tạp chí Môi trường) và báo
mạng (Vnexpress, Vfej). Kết quả cho thấy báo in và báo mạng quan tâm thông tin về
biểu hiện, hậu quả, giải pháp nhiều hơn là nguyên nhân của BĐKH; ít truyền tải cho
người dân những thông tin về việc xử lý thực tế, phòng tránh, khắc phục thảm họa ra
sao. Các công trình nghiên cứu trên giúp luận án tiếp cận, hiểu và nắm rõ hơn các kiến
thức lý thuyết và thực tiễn sáng tạo thông điệp về BĐKH trên các loại hình báo chí ở
Việt Nam.
Ngoài hai tài liệu trên, có thể kể đến một số đề tài nghiên cứu, bài báo khoa học
và tham luận trình bày trong các hội thảo khoa học liên quan đến chủ đề báo chí -
truyền thông về BĐKH, như:
“C ề BĐKH” [6] là một nội dung trong Dự án “Tă
ờ ă p ớ BĐKH ở V N ằ ẹ ộ ể
p ”, do UNDP tài trợ, Viện Khí tượng thủy văn và môi trường, Bộ
TN&MT và Bộ NN và PTNT thực hiện tại thành phố Cần Thơ, tỉnh Bình Định và
Ninh Thuận. Nghiên cứu đã chỉ ra thực trạng là phần lớn các thông điệp truyền thông
và những bản tin/phóng sự/bài viết liên quan đến BĐKH ở Việt Nam đều tập trung mô
tả những khía cạnh tiêu cực như tác động và tính dễ bị tổn thương, bế tắc của các quá
trình đàm phán quốc tế v.v… thay vì đưa ra những minh họa chi tiết, những câu
chuyện, kinh nghiệm và giải pháp mang tính tích cực về BĐKH.
Đề tài nghiên cứu “Nh n th c, nhu c u thông tin về BĐKH ộ ũ làm
công tác truyền thông hi n nay” là một nghiên cứu khác của Phạm Thị Hương Trà (HV
BC&TT), công bố tháng 9/2014. Tác giả khảo sát để có câu trả lời cho những vấn đề:
Những người làm công tác truyền thông hiện nay có nhận thức như thế nào về BĐKH?
33
Họ có những nhu cầu gì về thông tin liên quan tới BĐKH? Mong muốn gì được cung
cấp những kiến thức gì về BĐKH? Nội dung đề tài giúp tác giả luận án có thêm nguồn
tư liệu thực tiễn để vận dụng trong quá trình luận giải, phân tích nguyên nhân thành
công và hạn chế của thông điệp BĐKH.
Bài báo khoa học “Báo chí Vi t Nam với vấ ề BĐKH” của Nhạc Phan Linh,
Lê Thu Hà đăng trên Tạp chí Lý luận Chính trị và Truyền thông (6/2012), khái quát
thực trạng đưa tin về BĐKH trên báo chí Việt Nam và việc triển khai các chương trình
truyền thông về BĐKH cho báo chí, từ đó nêu lên một số giải pháp để có thể nâng cao
chất lượng thông điệp BĐKH nói riêng và hiệu quả truyền thông về vấn đề này nói
chung. Từ góc nhìn bao quát của bài báo khoa học này, luận án sẽ tham chiếu để có
thêm cơ sở đề xuất các khuyến nghị nâng cao chất lượng thông điệp BĐKH trên báo
Đảng ĐBSCL.
Tham luận “TTĐC ớ BĐKH” của Đinh Hữu Dư đăng trong Kỷ yếu Hội
nghị môi trường toàn quốc lần thứ IV, do Bộ TN&MT tổ chức tại Hà Nội ngày
29/09/2015, nêu lên một thực tế là “ý ể ề BĐKH ộ
p ẹp ề ặp ặ b ạ ấ ũ ạ
ề ” [16]. Đề cập đến hình thức và kênh truyền tải thông điệp về
BĐKH hiện nay, tác giả cho rằng hình thức thông điệp truyền thông cho BĐKH cần có
những thay đổi theo hướng ngắn gọn, ấn tượng, nhiều thông tin, mang tính truyền
thông, dễ tiếp nhận chứ không phải mang tính tuyên truyền, thụ động, một chiều như
hiện nay.
Tại hội thảo khoa học quốc tế: “TTĐC ớ BĐKH ạ T ể ù M :
T ấ ” do HV BC&TT phối hợp với viện FES tổ chức năm 2012 tại Hà
Nội, đại diện Viện Thông tin - Văn hóa Lào đã trình bày tham luận “ TTĐC ớ BĐKH
ạ T ể ù M ”, nêu bật tầm quan trọng của việc phát huy tối đa vai trò
của TTĐC thông tin về BĐKH và những giải pháp để nâng cao chất lượng thông tin
lĩnh vực này. Cũng tại Hội thảo này, tham luận “Ứ p BĐKH - B
ộ ” của Phạm Thị Hương Trà đã đánh giá về các bài báo BĐKH của truyền thông
Trung Quốc, từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm để báo chí Việt Nam có thể vận
dụng. Nhà báo Nguyễn Chí Nhân với tham luận “B T ề ề
BĐKH” đã chia sẻ những câu chuyện thực tiễn về thuận lợi, khó khăn mà các nhà báo
thường gặp trong quá trình tác nghiệp thực hiện tác phẩm báo chí về BĐKH và kiến
34
nghị những giải pháp từ phía các ngành chức năng để có thể cùng nhà báo lấp đầy “lỗ
hổng thông tin” về BĐKH trong cộng đồng.
Trong hội thảo khoa học liên ngành “Ngu n nhân l c chấ ng cao trong
BĐKH ấ ề liên quan” do Đại học Quốc gia Hà Nội tổ chức năm 2013, tham
luận “Đ ạo ngu n nhân l c cho hoạ ộng truyền thông về BĐKH” của GS,TS.
Nguyễn Đức Ngữ đã phân tích những ưu điểm cũng như những tồn tại, hạn chế trong
việc thông tin về BĐKH trên báo chí - truyền thông, từ đó tác giả nêu ra những giải
pháp nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực để thực hiện các hoạt động truyền
thông về lĩnh vực này. Nhà báo Tô Vương, trong tham luận “Đ ề ộng c a
BĐKH i vớ ời s ờ ”, tại Hội thảo khoa học "Vai trò báo chí trong việc
ngăn chặn và giảm thiểu tác động của BĐKH” tổ chức tại TP Cần Thơ vào năm 2013,
nhấn mạnh: Để thông tin có hiệu quả, các cơ quan báo chí cần bám sát các nhiệm vụ,
kế hoạch triển khai của các bộ, ngành có liên quan đời sống con người đã được nêu
trong Chiến lược quốc gia về BĐKH, Chương trình mục tiêu quốc gia về ứng phó với
BĐKH; bám sát những biến động bất thường của thời tiết; kịp thời thông tin đến bạn
đọc những thông tin thu thập được thông qua các thể loại, thể tài, báo chí phù hợp trên
các loại hình và phương tiện thông tin.
Các công trình nghiên cứu, tham luận hội thảo… nêu trên cung cấp nền tảng
thông tin, kiến thức có giá trị về phương pháp thực hiện nghiên cứu thông điệp và các
kết quả nghiên cứu thông điệp về BĐKH trên các loại hình báo chí ở Việt Nam. Từ đó,
luận án xem xét các nội dung nào có thể kế thừa hoặc cần phát huy, những vấn đề nào
là khoảng trống cần lấp đầy… để giúp hình thành nền tảng kiến thức vững chắc về vấn
đề nghiên cứu, từ đó đúc rút hướng nghiên cứu mới và cơ sở để hình thành các luận cứ,
luận chứng nhằm chứng minh giả thuyết nghiên cứu của luận án.
3. “BÁO ĐẢNG” VÀ CÁC NGHIÊN CỨU VỀ BÁO ĐẢNG
Báo Đảng ở đây chủ yếu được giới hạn trong cách hiểu là báo in - cơ quan ngôn
luận của tổ chức cấp uỷ Đảng, như ở Trung ương có báo Nhân Dân, các tỉnh/thành có
báo Đảng thuộc quản lý của các Tỉnh/Thành ủy trực thuộc Trung ương.
Trên nền tảng lý luận của Chủ nghĩa Mác-Lê-nin, ĐCS Việt Nam luôn coi báo
chí là một bộ phận cấu thành hữu cơ trong bộ máy của Đảng; là vũ khí quan trọng
trên mặt trận tư tưởng, văn hoá. Lịch sử phát triển của báo chí cách mạng Việt Nam,
35
được đánh dấu từ thời điểm báo Thanh Niên do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và
trực tiếp chỉ đạo xuất bản số đầu tiên ngày 21-6-1925 đến nay, đã chứng minh những
đóng góp to lớn của báo chí trong công cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, thống
nhất đất nước cũng như trong tiến trình xây dựng và phát triển; đồng thời cho thấy vai
trò lãnh đạo toàn diện,, trực tiếp và triệt để của Đảng đối với nền báo chí Việt Nam.
Với vai trò quan trọng của báo chí nói chung, của báo Đảng nói riêng trong sự
nghiệp xây dựng và phát triển của đất nước, “Báo Đảng” được trực tiếp hoặc gián tiếp
đề cập trong nhiều công trình nghiên cứu, hội thảo, bài báo khoa học... Đáng kể đến
gồm những bài viết, ấn phẩm như:
Ngày 24-6-1954, trên Báo Nhân dân số 197 có bài viết “C n ph i xem báo
Đ ng” của Chủ tịch Hồ Chí Minh (ký bút danh C.B). Bác viết: “Tờ báo c Đ ng có
nhi m vụ ở ộng thông su t và th ng nhất”… “Tờ b Đ ng
ững lớp huấn luy n gi ơ t th c và rộng khắp, nó dạy b o chúng ta
nhữ ều c n bi t làm về tuyên truyền, tổ ch ã ạo và công tác. Hằng ngày nó
úp ộ chính tr ă ất công tác c a chúng ta” [4].
Kỷ yếu khoa học đề tài cấp bộ năm 2003 - 2004 “Đổi mớ p ơ c lãnh
ạo c Đ i vớ ơ b ở ớc ta hi ” (2004), do Ngô Mạnh Hà
(chủ biên) tập hợp một số chuyên đề về: Quan điểm của các nhà kinh điển của chủ
nghĩa Mác-Lênin-Hồ Chí Minh và ĐCS Việt Nam về sự lãnh đạo và phương thức lãnh
đạo của Đảng đối với báo chí cách mạng trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Phương thức lãnh đạo của cấp uỷ Đảng, cơ quan chủ quản và tổ chức Đảng trong cơ
quan báo chí đối với các cơ quan báo chí ở nước ta hiện nay; Những nét đặc thù, thành
tựu, hạn chế, những vấn đề đặt ra và phương hướng tiếp tục đổi mới sự lãnh đạo của
Đảng đối với báo chí. Qua đó, các tác giả đã phân tích những vấn đề cơ bản của quá
trình đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với các cơ quan báo chí ở địa
phương và một số bộ, ngành trong giai đoạn hiện nay.
Sách chuyên khảo “Báo chí Vi t Nam thời kỳ ổi mới từ 1986 n nay” (2013)
của tác giả Dương Xuân Sơn điểm lại những đóng góp của báo chí, đặc biệt là từ khi
Đảng thực hiện công cuộc đổi mới đồng thời tập trung nghiên cứu về vai trò của báo
chí thể hiện trên một số vấn đề: Vai trò của đội ngũ nhà báo; Báo chí với lĩnh vực đổi
mới kinh tế; Báo chí với công cuộc phòng chống tham nhũng; báo chí với vấn đề nông
36
nghiệp nông thôn; Kinh tế báo chí… và chỉ ra những hạn chế, khuyết điểm để báo chí
nước nhà phát triển hơn nữa.
Sách “C ã ạo, qu ý b 25 ă i n hành s nghi p ổi
mới” do TS Nguyễn Thế Kỷ chủ biên đã điểm lại các cột mốc và quan niệm về Đảng
lãnh đạo công tác báo chí, quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh và Đảng ta về báo chí, nội dung và cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với báo chí;
mặt khác, sách nêu những thành tựu, ưu điểm, chỉ ra hạn chế, khuyết điểm, nguyên
nhân của những hạn chế, khuyết điểm công tác lãnh đạo của Đảng đối với báo chí.
Sách “Ti p tục th c hi n Chỉ th s 22-CT/TW c a Bộ Chính tr khóa VIII về ổi
mới và ă ờng s ã ạo, qu n lý công tác báo chí, xuất b n” do Ban Tư tưởng-
Văn hóa Trung ương, Bộ Văn hóa - Thông tin và Hội Nhà báo Việt Nam phối hợp phát
hành đã khái quát lại những đóng góp của báo chí, trong đó có báo Đảng địa phương,
trong suốt quá trình Đảng lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ở
nước ta. Đồng thời, là cuốn sách cũng điểm qua quá trình đổi mới không ngừng về tư
duy, phong cách, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với công tác báo chí, xuất bản.
“Tính hấp d n c B Đ ng ở ớ ạn hi n nay” (2012) là
Luận án TS Báo chí học của Nguyễn Bá Sinh tại HV BC&TT. Tác giả đã khảo sát Báo
Nhân dân và một số tờ báo Đảng địa phương từ năm 2005 đến năm 2011, qua việc xác
định thực trạng về tính hấp dẫn của báo Đảng, Luận án đã đưa ra những giải pháp khả
thi để nâng cao tính chiến đấu, tính hấp dẫn và hiệu quả tuyên truyền của báo Đảng.
“B Đ p ơ ới vấ ề phát huy những giá tr ă ền
th ng” (2017) là Luận án TS Báo chí học của Nguyễn Việt Anh tại HV BC&TT.
Luận án đã khảo sát báo Thái Nguyên, Hà Nội mới, Bắc Ninh và Hải Phòng về thực
trạng báo Đảng địa phương giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống đưa
ra những khuyến nghị, giải pháp nâng cao chất lượng giữ gìn và phát huy các giá trị
văn hóa truyền thống thời kỳ công nghiệp hóa - hiện đại hóa và hội nhập quốc tế trên
báo Đảng.
4. ĐÁNH GIÁ TỔNG QUAN CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN
QU N ĐẾN LUẬN ÁN VÀ ĐỀ R HƢỚNG NGHIÊN CỨU CHO LUẬN ÁN
Qua tổng quan về các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài dự định nghiên
cứu của luận án, có thể đúc kết một số vấn đề sau:
37
(1) Tổ ề BĐKH ề BĐKH cho thấy vấn đề BĐKH được
các nhà khoa học nghiên cứu trên nhiều bình diện khác nhau, trong đó có nhiều nghiên
cứu ở lĩnh vực báo chí - truyền thông. Với khả năng tác động của mình, truyền thông
đã và đang tích cực gia tăng ảnh hưởng để góp phần giúp cộng đồng thay đổi nhận thức
và hành vi ứng phó với BĐKH. Các vấn đề lý luận liên quan đến BĐKH đã được các
nhà khoa học đề cập khá toàn diện, sâu sắc. Nhiều công trình đã đi sâu làm rõ khái
niệm BĐKH, chỉ rõ những biểu hiện của BĐKH, phác thảo các kịch bản BĐKH khác
nhau, phân tích những nguyên nhân gây ra BĐKH và đề xuất các giải pháp để thích
ứng, giảm thiểu những tác động của BĐKH trên phạm vi toàn cầu, khu vực, Việt Nam
và của riêng vùng ĐBSCL. Các nghiên cứu trên thế giới và trong nước có chung nhận
định truyền thông về BĐKH có vai trò rất quan trọng đối với nhận thức, quan điểm và
hành vi của con người về vấn đề này. Từ đó, đặt ra yêu cầu về trách nhiệm của báo chí
là phải tiếp tục cung cấp thông tin hữu ích nhằm giúp xã hội hiểu sâu hơn các vấn đề và
khuyến khích tìm kiếm các giải pháp khả thi để thích ứng và giảm thiểu tác hại của
BĐKH. Qua tổng quan cho thấy nghiên cứu về truyền thông BĐKH là hướng nghiên
cứu cần thiết, phù hợp và có ý nghĩa thời sự, thiết thực đối với lĩnh vực khoa học báo
chí - truyền thông cũng như đối với thực tiễn cuộc sống.
(2) Tổng quan về p p trên báo chí về BĐKH cho thấy:
Phân tích nội dung/ thông điệp là một hướng nghiên cứu cơ bản và có lịch sử lâu đời
trong nghiên cứu báo chí - truyền thông. Những đặc điểm của phương pháp phân tích
nội dung đặc biệt phù hợp và giúp nó trở thành một trong những phương pháp được sử
dụng thường xuyên nhất trong nghiên cứu truyền thông về BĐKH trên thế giới, với
nhiều góc độ tiếp cận khác nhau, như: Thông điệp về BĐKH phát triển theo thời gian
như thế nào? Có hay không sự khác nhau trong thông điệp về BĐKH giữa các quốc
gia, giữa các đảng phái chính trị hoặc các tờ báo có hệ tư tưởng khác nhau? Thông điệp
về BĐKH cung cấp “tiếng nói” của ai nhiều nhất?... Các phương pháp được vận dụng
trong quá trình nghiên cứu cũng không ngừng phát triển với những cách thức mới, từ
đơn giản (chỉ định lượng hoặc chỉ định tính) đến phức tạp hơn (kết hợp nghiên cứu
định tính, định lượng). Ngoài ra, còn có những thiết kế mới mang tính sáng tạo như
thiết kế “đa phương thức” hoặc phân tích thông điệp và nghiên cứu đối tượng công
chúng cùng nhau… cho phù hợp với câu hỏi và mục đích nghiên cứu cũng như đối
tượng nghiên cứu mà nhà khoa học lựa chọn.
38
Ở Việt Nam, chỉ có vài công trình nghiên cứu thông điệp truyền thông về
BĐKH, chủ yếu phân tích cách thức BĐKH được trình bày trên một số ít báo, tạp chí
trong tổng số hàng trăm cơ quan báo chí đang hoạt động trong cả nước. Đặc biệt, đến
nay chưa có luận án TS nào nghiên cứu về đề tài thông điệp về BĐKH trên báo Đảng
khu vực ĐBSCL. Bên cạnh đó, nhiều văn bản của cơ quan quản lý Nhà nước, ý kiến
của nhiều nhà khoa học, nhà báo… mà tổng quan có đề cập một phần, đều nhìn nhận
còn rất nhiều hạn chế trong thông tin về BĐKH trên báo chí cần khắc phục để góp
phần nâng cao chất lượng thông tin lĩnh vực này. Điều này cho thấy hướng nghiên cứu
thông điệp về BĐKH trên báo chí nước ta là một khoảng trống cần bổ sung.
(3) Tổng quan về “B Đ ” u về B Đ ng cho thấy: Là cơ
quan báo chí có cơ quan chủ quản là tổ chức của ĐCS Việt Nam, báo Đảng có vị trí
quan trọng trong hệ thống báo chí nước nhà. Báo Đảng đã và đang tiếp tục có những
đóng góp quan trọng trong công tác thông tin, tuyên truyền để toàn Đảng, toàn dân,
toàn quân ta thực hiện thắng lợi mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh. Những công trình đã nghiên cứu cho thấy được chức năng, nhiệm vụ, tổ
chức bộ máy… và một số khía cạnh khác trong hoạt động của cơ quan báo Đảng,
nhưng cũng chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu thông tin về BĐKH trên báo
Đảng, đặc biệt là tiếp cận sâu khía cạnh “thông điệp BĐKH trên báo Đảng”.
(4) S c n thi t và phù h p c a vấ ề nghiên c u:
Trên cơ sở tổng quan các hướng nghiên cứu chính đã nêu trên, xét trên góc độ
tổng thể, cho đến nay chưa tìm thấy một đề tài nghiên cứu nào đề cập một cách có hệ
thống và chuyên sâu về thông điệp BĐKH trên báo Đảng khu vực ĐBSCL. Nói cách
khác, vấn đề “T p về BĐKH b Đ ng khu v ĐBSCL” vẫn còn là một
khoảng trống, rất có ý nghĩa về mặt lý luận và thực tiễn đối với báo chí nói chung, với
thực tiễn các cơ quan báo chí ở ĐBSCL nói riêng.
kiến thức cơ bản, giúp NCS có thêm những kiến thức quý báu khi tiếp cận với các
Quá trình tổng quan các công trình nghiên cứu đi trước đã cung cấp nền tảng
góc nhìn đa chiều về khái niệm, vị trí và vai trò của thông điệp trong quy trình truyền
thông; những yêu cầu đặt ra đối với thông điệp báo chí... và các kiến thức, kỹ năng,
chuyên môn nghiệp vụ báo chí khác. Những kiến thức mang tính cơ sở lý luận này có
giá trị hữu ích trong việc việc xây dựng các khái niệm công cụ, xác lập mẫu nghiên
cứu, xây dựng các tiêu chí về thông điệp BĐKH, đồng thời phân tích, luận giải các số
39
liệu khảo sát thu được để có thể đưa ra các kết luận và giải pháp khoa học cho mục tiêu
nghiên cứu.
Với đề tài “Thông điệp về biến đổi khí hậu trên báo Đảng khu vực đồng bằng
sông Cửu Long”, luận án mong muốn tiếp cận khoảng trống trong nghiên cứu thông
điệp về BĐKH trên báo chí và tiếp tục phát triển, giải quyết các vấn đề theo hướng:
- Trên cơ sở hệ thống hóa những vấn đề lý luận liên quan đến BĐKH và vai trò
của truyền thông, Luận án xây dựng khung lý thuyết cho vấn đề nghiên cứu, từ đó khảo
sát và phân tích thực trạng thông điệp về BĐKH của báo Đảng khu vực ĐBSCL. Luận
án cũng sẽ khảo sát, tìm hiểu việc tiếp nhận của công chúng về các thông điệp BĐKH
trên báo Đảng, qua đó đánh giá mức độ ảnh hưởng của các thông điệp này đối với công
chúng xã hội trong khu vực.
- Phân tích những vấn đề thực tiễn đặt ra và đề xuất giải pháp nhằm nâng cao
chất lượng thông điệp về BĐKH trên báo đảng khu vực ĐBSCL.
- Đề xuất các giải pháp nâng cao chất lượng thông điệp về BĐKH, góp phần
nâng cao năng lực và hiệu quả tác động của báo chí trong hoạt động truyền thông về
BĐKH của báo Đảng khu vực ĐBSCL.
Tiểu kết Tổng quan
Chương Tổng quan đưa ra bức tranh khái quát các cơ sở lý luận, các kết quả
nghiên cứu đã được công bố liên quan đến đề tài “Thông điệp về BĐKH trên báo Đảng
khu vực ĐBSCL”.
Kết quả tổng quan cho thấy nghiên cứu về thông điệp BĐKH khá phổ biến và
được các nhà khoa học trên thế giới triển khai nghiên cứu thực nghiệm và phương pháp
nghiên cứu khác nhau, từ định lượng hoặc chỉ định tính, đến kết hợp cả định tính và
định lượng, thiết kế “đa phương thức” kết hợp phân tích thông điệp và nghiên cứu công
chúng… để tiếp cận nhiều khía cạnh khác về nội dung, hình thức, tác động của thông
điệp BĐKH trên các loại hình truyền thông khác nhau đến công chúng. Các nghiên cứu
này đã chỉ ra được tầm quan trọng của truyền thông cũng như thông điệp về BĐKH
trong việc tác động làm thay đổi nhận thức và chuyển biến trong hành vi của công
chúng để ứng phó hiệu quả với BĐKH.
Ở Việt Nam, nghiên cứu về BĐKH tập trung nhiều ở khía cạnh khoa học tự
nhiên, các nghiên cứu về báo chí - truyền thông chủ yếu hướng về công chúng, về bộ
40
máy và quy trình sản xuất, về hiệu quả của truyền thông… mà chưa chú ý nhiều đến
lĩnh vực nghiên cứu thông điệp truyền thông. Mặc dù gần đây đã có một số nghiên
cứu thực nghiệm về thông điệp BĐKH ở nhiều góc nhìn khác nhau. Tuy nhiên, chưa
có nghiên cứu thực nghiệm nào gắn kết các yếu tố thông điệp BĐKH trên báo Đảng,
đặc biệt là đề cập trực diện báo Đảng khu vực ĐBSCL, dưới góc nhìn báo chí học.
Tổng quan nghiên cứu giúp cho tác giả luận án tiếp cận, kế thừa các giá trị
nghiên cứu, đặc biệt là phương pháp phân tích nội dung thông điệp, mặt khác cung
cấp một hệ thống lý luận và bằng chứng thực tiễn nghiên cứu thông điệp về
BĐKH tại Việt Nam. Những công trình nghiên cứu, sách, bài báo, báo cáo, tham
luận khoa học… mà NCS tiếp cận qua quá trình tổng quan tình hình nghiên cứu là
những cơ sở khoa học quý báu giúp NCS hình thành tư duy nhận thức về thông
điệp báo chí nói chung và thông điệp về BĐKH nói riêng, cung cấp một hệ thống
lý luận và bằng chứng thực tiễn nghiên cứu giúp NCS dựa vào đó để xác định
đúng mục tiêu, phương pháp trong quá trình triển khai thực hiện các bước nghiên
cứu cho đề tài nghiên cứu của mình.
41
Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VẤN ĐỀ
NGHIÊN CỨU THÔNG ĐIỆP BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU TRÊN BÁO ĐẢNG
KHU VỰC ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG
1.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1.1. Các khái niệm cơ bản sử dụng trong luận án
1.1.1.1. Khí hậu
Khí hậu là một khái niệm khoa học dựa vào sự tổng hợp các số liệu thời tiết. Tổ
chức Khí tượng thế giới định nghĩa “Khí h u mô t ều ki n thời ti t trung bình
cho mộ ểm cụ thể và trong một kho ng thời gian dài” [135]. Cũng theo tổ chức
này, để xác định đặc trưng khí hậu tại một vùng nào đó, người ta cần phải thu thập số
liệu thời tiết tại đó ít nhất trong khoảng 30 năm.
Khí hậu thường bị nhầm lẫn với thời tiết bởi nó cùng liên quan đến các yếu tố
khí tượng như không khí, nhiệt độ, áp suất… Vận động của các yếu tố khí tượng này
tạo ra các hiện tượng thời tiết như nắng, mưa, lốc xoáy, sương mù… Thời tiết là biểu
hiện tức thời của các yếu tố khí tượng, còn khí hậu là tổng hợp các điều kiện thời tiết
trong một thời gian dài. Thời tiết luôn thay đổi nhưng khí hậu thì tương đối ổn định, ít
thay đổi.
Như vậy, khí hậu là quy luật của các hiện tượng thời tiết trong khoảng thời gian
dài ở một vùng, miền xác định. Nhũng thay đổi có tính quy luật này có thể sẽ bị phá vỡ
do quá trình BĐKH.
1.1.1.2. Biến đổi khí hậu
Theo Công ước Khung của Liên hiệp quốc về BĐKH (1992): BĐKH b ổ
ạ ạ ộ p p ờ
ổ p ể BĐKH
ờ ỳ ể [14].
Ủy ban Liên chính phủ về thay đổi khí hậu (IPCC) định nghĩa: BĐKH
ổi theo thời gian c a khí h b m những bi ổi t nhiên và
những bi ổi do các hoạ ộng c ời gây ra [12, tr.8].
Theo Chương trình Mục tiêu Quốc gia ứng phó với BĐKH năm 2008 của Bộ
TN&MT: BĐKH bi ổi trạng thái c a khí h u so với trung bình/ hoặc giao
42
ộng c a khí h u duy trì trong một kho ng thờ ờng là vài th p kỷ hoặc
ơ BĐKH ể là do các quá trình t nhiên bên trong, hoặ ộng bên
ngoài, hoặc do hoạ ộng c ờ ổi thành ph n c a khí
quyể …[10, tr.6]
Mặc dù được diễn đạt bằng những câu từ khác nhau, nhưng khái niệm “Biến đổi
khí hậu” do các nhà khoa học trong và ngoài nước nêu ra đều khẳng định con người có
vai trò trực tiếp hoặc gián tiếp tạo nên BĐKH, khiến cho các thành phần khí quyển có
sự biến động trái với quy luật tự nhiên. Sự gia tăng nhiệt độ trung bình (hay hiện tượng
ấm lên của địa cầu) và mực nước biển dâng được coi là 2 biểu hiện chính của BĐKH
toàn cầu; ngoài ra còn có các biểu hiện khác tùy vào đặc điểm khí hậu của từng vùng.
Trong luận án này, khái niệm về BĐKH được hiểu là s ổi
ộ p ấ … ớ b
ã ờ x y ra ch y ộng c a con
ời. Biểu hi n chính c BĐKH nóng lên toàn c u, m ớc biển dâng và gia
ă ng th ă trái quy lu t.
1.1.1.3. Thông điệp
Đến nay, khoa học truyền thông đã trải qua nhiều cột mốc phát triển, trong đó
có những vấn đề còn đang tranh luận chưa ngã ngũ, tuy nhiên “thông điệp” luôn được
các nhà khoa học thừa nhận như là một yếu tố căn bản của quá trình truyền thông.
Trong sách Human Communication Theory and Research: Concepts, Contexts, and
Challenges (Tạm dịch: Lý thuy t và nghiên c u truyền thông c ời: Khái
ni m, b i c nh và thách th c) Robert L. Heath và Jennings Bryant tổng hợp các nghiên
cứu đi trước để chỉ ra rằng có ba hướng quan điểm khác nhau khi định nghĩa về thông
điệp. [116, tr.76- 79].
- Quan điểm thứ nhất coi thông điệp là “viên đạn” đưa ý tưởng của nguồn phát
vào tâm trí người nhận.
-Quan điểm thứ hai định nghĩa thông điệp như một tác nhân kích thích ý nghĩa -
cái mà người nhận tự diễn giải, “là th ời nh n gi i thích ch không ph i là th
mà ngu n gử ời nh n nh c”.
- Quan điểm thứ ba coi thông điệp là ý nghĩa có thể được tạo ra hoặc được xác
định thông qua các tương tác liên tục của những người liên quan.
43
Một số khái niệm đại diện cho các quan niệm khác nhau về thông điệp vừa đề
cập có thể kể đến, như:
- Ở hƣớng thứ nhất, David K. Berlo (1960) định nghĩa thông điệp “ ữ
ọ bở p ể ể ụ ” [97, tr.59].
O'Keefe và Delia (1982) thì cho rằng " p là những cấu hình c a các
y u t hoặ ă a nhà s n xuấ c tạ ể giao ti p" [trích
lại từ 97, tr.47].
- Hƣớng thứ hai có thể nhìn thấy trong khái niệm thông điệp mà Joseph
A. DeVito (1986) đề cập. Theo ông, thông điệp là "bất kỳ tín hi u hoặc s k t h p các
tín hi ò ời nh n" [105, tr.201]. Robert và Jennings
(2000) cho rằng: “Đ ểm c ời nh p là s gi i
thích hành vi bằng lời nói và phi ngôn ngữ c a mộ ời bở ời khác” [116, tr.79].
- Hƣớng thứ ba thể hiện trong quan điểm của McQuail (1987) khi ông định
nghĩa thông điệp “là các cấu trúc biể ý ĩ i vớ ời gửi,
ời nh n hoặ ờng" [129, tr.330]. Đây cũng là quan niệm của Krippendorff
khi ông nhìn thông điệp như “một thùng ch a nội dung, mộ p ơ ể chuyển ý
ĩ ừ ơ ơ ” [124]…
Có thể thấy rằng, sự khác nhau trong quan điểm của các nhà khoa học một phần
là do khác biệt về lĩnh vực ứng dụng và giai đoạn nghiên cứu, bởi kỹ thuật truyền thông
thời gian qua luôn biến đổi và có sự phát triển vượt bậc. Tuy nhiên, nếu so sánh 2 quan
điểm đầu tiên, tác giả cho rằng trong lĩnh vực TTĐC hướng quan điểm thứ nhất là hợp
lý, tức thông điệp là nội dung thông tin từ nguồn phát đến đối tượng tiếp nhận. Bởi lẽ,
truyền thông diễn ra theo quy luật thời gian, do nguồn phát khởi xướng, chuyển nội
dung thông tin mà họ muốn gửi đến đối tượng đích; xác định thông điệp là nội dung
thông tin trao đổi từ nguồn phát đến đối tượng tiếp nhận là phù hợp quy luật. Đây cũng
là quan điểm chung của đa số các nhà nghiên cứu Việt Nam về thông điệp.
Trong “TTĐC” (2001), tác giả Tạ Ngọc Tấn định nghĩa “Th p là nội
ổi từ ngu p ng ti p nh n” [72, tr.8]. Các
tác giả Nguyễn Văn Dững và Đỗ Thị Thu Hằng nêu trong “Truyền thông lý thuy t và
kỹ ă ơ b n” (2012): “T p là nộ ổi từ ngu n
p ng ti p nh T p chính là nhữ m, mong
mu ò ỏi, ý ki n, hiểu bi t, kinh nghi m s ng, tri th c khoa học - kỹ thu c
44
mã hóa theo một h th ng ký hi H th ng này ph c c bên phát và
bên nh n cùng chấp nh n và có cùng chung cách hiểu - t c là có kh ă i mã.
Ti ng nói, chữ vi t, h th ng biển báo, hình nh, cử chỉ biể ạt c ờ c
sử dụ ể chuyển t p ” [19, tr.13]. Tác giả Mai Quỳnh Nam trong
“Truyền thông và phát triển nông thôn”: “T p ộ
ề p N ể ề p
ớ ú ” [60].
Hướng quan điểm thứ 3 không phù hợp trong một số loại hình TTĐC, bởi
không phải trong loại hình truyền thông nào giữa người phát và nhận cũng có thể tương
tác liên tục.
Với cách nhìn nhận đó, trong luận án này, p c hiểu là nội dung
ổi từ ngu p ng ti p nh T p chính là
những tin t c, ý ki ểm, mong mu n, kinh nghi m, tri th c c a ch thể truyền
c thể hi n qua các ký hi u truyề chữ vi t, hình nh, lời nói, âm
u bộ, cử chỉ c c bên phát và bên nh n cùng chấp nh n và có cùng
chung cách hiểu.
Đối với TTĐC mà cụ thể là báo chí, thông điệp là toàn bộ thông tin mà báo chí
chuyển đến cho công chúng thông qua các phương tiện kỹ thuật và công nghệ truyền
thông. Thông điệp chính là quan điểm, tư tưởng, ý kiến của chủ thể truyền thông và
được chủ thể truyền thông mã hóa bằng các hệ thống ký hiệu phù hợp với với đặc điểm
của kênh truyền tải. Trong đó, mỗi thể loại kênh truyền đòi hỏi những yếu tố chuyên
biệt để “định dạng” thông điệp mà nó muốn chuyển tải, như: chữ viết, hình ảnh tĩnh, ký
hiệu... đối với báo in; lời nói, tiếng động... (báo phát thanh); chữ viết, hình ảnh tĩnh,
hình ảnh động, âm thanh... đối với báo truyền hình...
Thông điệp có các loại hình và cấp độ khác nhau. Thông điệp đích là thông
điệp mà cả chiến dịch truyền thông hướng tới, được cấu thành bởi nhiều thông điệp
bộ phận. Thông điệp trực tiếp là loại thông điệp dễ nhận biết bởi nó chứa đựng nhiều
thông tin, dữ liệu cụ thể, rõ ràng để người nhận dễ nhận biết bằng trực quan; trong khi
thông điệp ẩn - ngược lại - đòi hỏi người nhận phải có quá trình tư duy, liên tưởng...
tích cực để nhận biết nó. Ngoài ra, còn có thông điệp tài liệu và thông điệp lý lẽ...
45
Mặc dù không có một hình mẫu chung cho một thông điệp truyền thông “chuẩn
mực”, để đạt được hiệu quả truyền thông cao nhất, một thông điệp truyền thông cần
phải đảm bảo 06 yếu tố, bao gồm:
- Thứ nhất, thông điệp phải phù hợp với công chúng - nhóm đối tượng và thể
hiện rõ mục tiêu của chiến dịch truyền thông. Đây là yêu cầu cao nhất bởi lẽ trong bản
thân thông điệp phải hài hòa giữa mục tiêu truyền thông với khả năng, nhu cầu, mong
đợi của nhóm đối tượng. Có như thế, đối tượng mới hiểu, chấp nhận và tin tưởng thông
điệp, dẫn đến thay đổi nhận thức và hành vi phù hợp với mong muốn của chủ thể
truyền thông.
- Thứ hai, thông điệp phải phù hợp với chủ trương chính sách của Đảng và
Nhà nước. Nền tảng tư tưởng chính trị của bộ máy cầm quyền tác động mạnh mẽ đến
việc xây dựng thông điệp báo chí của các báo chí đại diện, để đảm bảo báo chí đại diện
trở thành công cụ thể hiện quyền lực của mình. Ở Việt Nam, báo chí đặt dưới sự lãnh
đạo toàn diện của ĐCS Việt Nam, sự quản lý của Nhà nước, chính vì thế, phù hợp với
chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước là yêu cầu có tính nguyên tắc cho các
thông điệp được truyền phát trên các phương tiện thông tin đại chúng.
- Thứ ba, thông điệp phải phù hợp với các quy tắc và giá trị xã hội, với văn hóa -
lối sống dân tộc và phát triển.
Mỗi đất nước có những bản sắc văn hóa khác nhau. Trong một đất nước lại có
những đặc trưng văn hóa vùng, miền về tín ngưỡng, tâm lý, thói quen sinh hoạt…
Những hình ảnh, ngôn từ, giai điệu được sử dụng để thiết kế thông điệp ở đất nước, địa
phương này đôi khi lại mang đến những tác động không mong muốn với công chúng ở
những đất nước, địa phương khác hoặc những nhóm đối tượng không thuộc phạm vi
mong muốn ảnh hưởng.
- Thứ tư, thông điệp phải phù hợp với tâm lý, tâm trạng xã hội và thể hiện lợi
ích của công chúng, nhóm đối tượng. Hiệu quả thay đổi hành vi của công chúng đích sẽ
tăng lên khi nhóm đối tượng biết rằng thực hiện theo thông điệp thì họ sẽ có lợi.
- Thứ năm, thông điệp phải được thiết kế phù hợp với kênh truyền thông. Trong
môi trường truyền thông hiện tại, các kênh TTĐC như báo in, phát thanh, truyền hình
hay báo mạng điện tử có những đặc trưng, ưu điểm và hạn chế riêng. Chủ thể truyền
thông phải nắm bắt các đặc trưng, ưu điểm và hạn chế này để vận dụng, xây dựng nên
các thông điệp truyền thông có tính thuyết phục cao.
46
- Yêu cầu thứ sáu, thông điệp phải ngắn gọn, hàm súc, sinh động, dễ nhớ, dễ
hiểu và dễ làm theo. Để thực hiện được điều này, ngoài sự hiểu biết, năng lực sáng tạo
còn đòi hỏi những yếu tố khác như sự tinh tế và khả năng thuyết phục của nhà truyền
thông [19 tr.243-247].
Mỗi thông điệp truyền thông có đời sống riêng. Nó cần môi trường và điều kiện
cụ thể để ra đời, phát triển và suy thoái. Có những thông điệp sâu sắc, ấn tượng và có
giá trị thông tin cao được công chúng ghi nhớ, lan truyền, có đời sống lâu dài, nhưng
cũng có những thông điệp hời hợt, không gây ấn tượng và tác động gì cho công chúng
khi tiếp nhận. Vì thế, xem xét và đánh giá thông điệp một cách toàn diện cần xét tới
yếu tố đời sống thông điệp, phản ảnh qua mức độ nhận diện, hiệu quả tác động và đánh
giá của công chúng đối với thông điệp.
1.1.1.4. Thông điệp về biến đổi khí hậu
Hoạt động truyền thông của báo chí là sự trao đổi thông điệp từ nguồn phát
đến đối tượng tiếp nhận. Thông điệp ấy được chứa đựng trong “đơn vị cấu thành nhỏ
nhất của sản phẩm báo chí” là tác phẩm báo chí - theo Luật báo chí 2016. Vì vậy,
thông điệp của tác phẩm báo chí về mặt nào đó cũng là thông điệp bộ phận có cấp độ
nhỏ nhất. Các thông điệp có cấp độ lớn hơn là số báo (hoặc chương trình phát thanh/
truyền hình)… Tập hợp các thông điệp bộ phận về một vấn đề tạo nên thông điệp báo
chí về vấn đề đó, mà nhà truyền thông muốn chuyển đến công chúng tiếp nhận nhằm
đạt được mục đích của chủ thể truyền thông đưa ra. Thông điệp là cái làm nên sức
sống, giá trị sử dụng của tác phẩm báo chí và là mấu chốt tạo nên sức mạnh, uy tín
của cơ quan truyền thông.
Như vậy, trong luận án này, thông điệp về BĐKH, về tổng thể, là toàn bộ nội
dung thông tin về vấ ề BĐKH ề c p trên báo chí. T p về BĐKH
p c tạo nên từ p BĐKH bộ ph n trên các tác phẩm báo
ề c p n vấ ề T p BĐKH ểm, ý ki n, tình c m,
mong mu n, ki n th … ề BĐKH thể truyền thông chuyể n công chúng.
1.1.1.5. Báo Đảng và báo Đảng khu vực đồng bằng sông Cửu Long
Ở Việt Nam, báo chí dù thuộc loại hình nào cũng đặt dưới sự lãnh đạo của ĐCS
Việt Nam, sự quản lý của Nhà nước Việt Nam. Đến nay, chưa có một văn bản quy
phạm pháp luật nào nêu ra khái niệm “Báo Đảng”. Mặc dù vậy, theo Luật Báo chí
2016, “ ơ Đ ng, ơ ớc, tổ ch c chính tr - xã hội, tổ ch c chính
47
tr xã hội - nghề nghi p, tổ ch c xã hội, tổ ch c xã hội - nghề nghi p, tổ ch c tôn giáo
từ cấp tỉnh hoặ ơ ơ ở lên, hoạ ộng h p p p nh c a pháp lu t
Vi t Nam” là các tổ chức được quyền thành lập cơ quan báo chí. Như vậy, có thể hiểu
B Đ ng là khái ni ể chỉ mộ ơ b ơ qu n là tổ ch c c a
ĐCS Vi t Nam, để phân biệt với các tờ báo do các tổ chức chính trị xã hội, tổ chức
chính trị xã hội - nghề nghiệp hay tổ chức tôn giáo… làm cơ quan chủ quản.
Hệ thống báo Đảng ở Việt Nam hiện nay được chia thành hai cấp: Các báo, tạp
chí của Đảng ở Trung ương (Báo Nhân dân, Tạp chí công sản và các báo, tạp chí của
các cơ quan xây dựng Đảng ở trung ương) và các báo trực thuộc Đảng bộ của 63 tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương. Theo Quyết định số 338-QĐ/TW ngày 26/11/2010
của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy cơ
quan báo của đảng bộ tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương “Cơ báo c ng
bộ tỉnh, thành ph tr c thuộc tỉnh y, thành y có ch ă ơ n c a
ng bộ, chính quyề ng thời là c u n i thông tin giữ Đ ng, chính
quyền vớ p ơ ; ơ s nghi p có thu, hoạ ộng báo chí theo
nh c Đ ng, pháp lu t c N ớc” [5].
Đối tượng công chúng của báo Đảng là cán bộ, đảng viên, đoàn hội viên trong
hệ thống chính trị và quần chúng nhân dân. Theo Chỉ thị số 11-CT/TW, ngày 28-12-
1996 do Bộ Chính trị khóa VIII ban hành về việc mua và đọc báo, tạp chí của Đảng,
mỗi chi bộ đảng, mỗi uỷ ban nhân dân, hội đồng nhân dân xã, phường, mỗi cơ sở Đoàn
thanh niên CS Hồ Chí Minh trong cả nước đều phải có báo của đảng bộ địa phương
mình. Báo Đảng địa phương còn được coi là tài liệu sinh hoạt đảng, sinh hoạt dân cư và
phát không thu tiền đối với vùng biên giới, hải đảo, các cơ quan, đơn vị công tác ở
nước ngoài và vùng đặc biệt khó khăn.
Cũng như các địa phương khác trong cả nước, các Tỉnh ủy, Thành ủy trực thuộc
Trung ương ở khu vực ĐBSCL đều có cơ quan báo chí trực thuộc. Tính ở thời điểm
thực hiện nghiên cứu, các cơ quan này có các sản phẩm báo chí là báo in bằng tiếng
Việt, báo điện tử hoặc trang tin điện tử - chủ yếu đăng tải lại các bài viết trên báo in.
Báo CT và Trà Vinh có báo in tiếng Khmer phục vụ nhu cầu thông tin của đồng bào
dân tộc Khmer trên địa bàn. Báo CM có ấn phẩm Báo ảnh Đất Mũi (1 kỳ/tháng) và ấn
phẩm Cà Mau song ngữ Việt - Khmer (2 kỳ/tháng). Như vậy, báo in là loại hình chủ
lực, nòng cốt của các cơ quan báo Đảng khu vực ĐBSCL.
48
Trong lu n án này, thu t ngữ “b Đ ng khu v ĐBSCL” c hiểu là báo in
ti ng Vi ơ b tr c thuộc ng bộ tỉnh, thành ph tr c thuộc Trung
ơ ở khu v ĐBSCL ất b n.
1.1.1.6. Báo in và thông điệp tác phẩm báo in
“B ữ ấ p ẩ ấ b ỳ bằ ý ữ
ữ p ă ề ấ ề ờ p ộ ã
ỳ ằ p ụ ụ ú - ớ ụ ấ ”
[18, tr.102].
So với các loại hình báo chí khác, báo in có thế mạnh riêng và những hạn chế -
cũng chính là những thế mạnh và hạn chế của thông điệp báo in.
Thế mạnh lớn nhất của báo in là có thể thông tin, phân tích, bình luận, giải thích
và giải đáp những vấn đề phức tạp một cách hệ thống, có chiều sâu, mang những thông
điệp sâu sắc, tác động mạnh mẽ và có thời gian lưu giữ lâu dài trong nhận thức lý trí
của công chúng.
Thông tin trên báo in không thể hồi tố, khó chỉnh sửa, đòi hỏi quy trình xử lý
chặt chẽ nên thường có độ tin cậy cao, thường được công chúng tìm đến khi cần tìm rõ
căn nguyên, bản chất của vấn đề.
Khi chọn báo in, người đọc hoàn toàn chủ động việc bố trí thời điểm đọc, cách
đọc, tốc độ đọc, có thể đọc đi đọc lại nhiều lần… vì thế, có điều kiện để tiếp nhận
thông điệp một cách chính xác và sâu sắc nhất và thuận lợi lưu trữ hơn so với các loại
hình báo chí khác.
Hạn chế của báo in là phát hành theo hình thức trao tay, vì thế thông điệp trên
báo in đến với công chúng đôi khi không còn tính thời sự, tươi mới như báo mạng điện
tử hay phát thanh, truyền hình. Bên cạnh đó, ký hiệu thông tin của báo in chỉ có chữ
viết và hình ảnh tĩnh, có thể làm cho việc đọc báo bị giảm sự hứng thú nếu nội dung
thông tin không tạo được chú ý và thiết kế không bắt mắt. Điều kiện tương tác với công
chúng của báo in không cao, điều này khiến cho quy trình truyền thông từ báo in đến
công chúng gần như chỉ một chiều và thông điệp mang nặng tính tuyên truyền.
Tác phẩm báo in là đơn vị cấu thành nhỏ nhất của sản phẩm báo in, có nội dung
độc lập và cấu tạo hoàn chỉnh, được thể hiện bằng chữ viết, hình ảnh và các ngôn ngữ
phi văn tự.
49
Về ặ ộ , dù ở thể loại nào, nội dung của một tác phẩm báo chí phải trả
lời được các câu hỏi cơ bản của giao tiếp truyền thông (5W+1H) là: What? (Chuyện gì,
cái gì xảy ra?); Who? (Ai liên quan? Ai là người trong cuộc?); Where? (Xảy ra ở đâu?);
When? (Xảy ra khi nào); Why? (Tại sao xảy ra?) và How? (Xảy ra như thế nào?). Tùy
theo trọng tâm và chất liệu tác giả sử dụng trả lời các câu hỏi này mà người ta phân
chia tác phẩm thành tin, phóng sự, ghi nhanh, điều tra… Ví dụ, tin thường hội đủ 5W
với phương thức liên kết theo hình tháp ngược - những gì quan trọng nêu trước, ít quan
trọng nêu sau. Phóng sự chủ yếu tập trung trả lời câu hỏi “How?”. Một bài báo điều tra
sẽ gồm các chứng cứ để trả lời câu hỏi Tại sao?..., [18, tr.280-281].
Về ấ ạ ( ) tùy vào sự sáng tạo của tác giả, mỗi tác phẩm báo chí có
những đặc điểm cấu tạo riêng. Tuy vậy, hình thức, kết cấu của tác phẩm phải thể hiện
được nét đặc thù của thể loại và hướng đến các tiêu chí chung như mạch lạc, ngắn gọn,
dễ hiểu, ngôn ngữ, hình ảnh có hàm lượng thông tin cao; bố cục có sự ưu tiên cho
những thông tin hấp dẫn, quan trọng hơn…
Bên cạnh những thể loại báo chí mang tính truyền thống như chính luận, thông
tấn với các loại thể tin, bài phản ánh, phỏng vấn, bình luận, chuyên luận… những năm
gần đây các tác phẩm infographic (thông tin đồ họa) được nhiều tờ báo in chú trọng bởi
giúp người đọc dễ dàng nắm được những mắt xích thông tin qua hình ảnh sinh động,
thay vì đọc hằng ngàn con chữ để hiểu về một vụ việc.
Trên cơ sở kế thừa, tiếp thu các nghiên cứu của các nhà khoa học truyền thông,
đối chiếu với mục đích của luận án trong việc phân định thể loại tác phẩm báo chí
nhằm có cơ sở đánh giá thông điệp về BĐKH trên báo in, tác giả luận án chia tác phẩm
báo chí thành 4 nhóm:
(1) Nhóm tác phẩm thông tấn bao gồm các loại tin (tin điện, tin thường, tin vắn,
tin tường thuật, tin thông báo, tin tổng hợp, tin bình, tin đối ngoại...), các dạng bài
thông tấn, tường thuật, phản ánh, phỏng vấn, phóng sự, điều tra v.v...
(2) Nhóm tác phẩm chính luận (gồm các bài bình luận, xã luận, chuyên luận và
bài phân tích)
(3) Nhóm tác phẩm inforgaphich
(4) Nhóm tác phẩm được dịch từ báo nước ngoài hoặc tổ chức quốc tế.
Thông điệp trong tác phẩm báo in là nội dung thông tin cốt lõi được tạo nên từ
ngữ nghĩa của văn bản. Xét ở quy mô tác phẩm, mỗi tác phẩm báo in mang một thông
50
điệp (thông điệp đích mà bài báo muốn hướng tới), được cấu tạo từ các thông điệp chi
tiết (bộ phận) và có thể có liên quan hoặc hoàn toàn độc lập với các thông điệp của các
tác phẩm khác trong cùng một ấn phẩm. Các thông điệp về một chủ đề trong tác phẩm
báo in góp phần hình thành thông điệp đích về vấn đề đó - mà tờ báo muốn chuyển tải
đến công chúng của nó.
1.1.1.7. Thông điệp về biến đổi khí hậu trên báo Đảng khu vực đồng bằng
sông Cửu Long
Từ các khái niệm về khí hậu, BĐKH, thông điệp về BĐKH, báo Đảng khu vực
ĐBSCL và các khái niệm có liên quan nêu trên, luận án đưa ra khái niệm Thông điệp
về BĐKH trên báo Đảng khu vực ĐBSCL bộ ộ ề ề
BĐKH b Đ ĐBSCL; m, mong mu ò
hỏi, ý ki n, hiểu bi t, kinh nghi m s ng, tri th c khoa học - kỹ thu t... về BĐKH báo
Đ ĐBSCL chuyể n công chúng ti p nh n với mụ làm cho công
chúng nâng cao nh n th ổi hành vi nhằm ng phó hi u qu vớ BĐKH.
T p về BĐKH b Đ ng khu v ĐBSCL c mã hóa bằng h th ng ký
hi ặ a báo in là chữ vi t, ký hi u và các loại hình ngôn ngữ p ă
hình nh, b , biể ...
Thông điệp BĐKH trên báo Đảng khu vực ĐBSCL là thông điệp đích, được tạo
nên từ các thông điệp về BĐKH trong các tác phẩm có nội dung đề cập đến vấn đề
BĐKH. Bao gồm: các tác phẩm đề cập đến vấn đề BĐKH nói chung; 02 biểu hiện đặc
trưng của BĐKH là nhiệt độ trái đất gia tăng (hiện tượng ấm lên toàn cầu) và nước biển
dâng, hoặc các biểu hiện thời tiết thủy văn bất thường, trái quy luật, như: bão, lũ lụt,
hạn hán, sạt lở, sụt lún, hiện tượng xâm nhập mặn, mất đa dạng sinh học... Các nội
dung này có thể được đề cập trên nhiều phương diện khác nhau, như biểu hiện, diễn
biến, nguyên nhân, tác động và các hoạt động, giải pháp ứng phó với BĐKH.
Thông điệp về BĐKH trên báo Đảng khu vực ĐBSCL là thông điệp trên báo in,
vì thế nó mang những đặc điểm cơ bản của thông tin trên báo chí, như tính thời sự, tính
công khai, tính mục đích, tính định kỳ, tính phong phú, đa dạng, nhiều chiều, tính dễ
hiểu, dễ nhớ, dễ làm theo, tính tương tác và tính đa phương tiện. Những yếu tố được
coi là lợi thế cũng như hạn chế của báo in cũng là những ưu điểm và hạn chế của thông
điệp BĐKH trên báo Đảng khu vực ĐBSCL.
51
1.1.2. Một số lý thuyết làm cơ sở cho nghiên cứu
1.1.2.1. Lý thuyết Thiết lập chương trình nghị sự (Agenda Setting Theory)
Vai trò thiết lập chương trình nghị sự của báo chí chính thức được đưa ra năm
1972 khi Maxwell McCombs và Donald Shaw, các giáo sư trẻ tại Trường Đại học
North Carolina công bố kết quả thực nghiệm của mình. Cả hai đã sử dụng cuộc bầu
cử tổng thống Mỹ năm 1968 để nghiên cứu, tìm hiểu xem có mối quan hệ nào giữa
các vấn đề TTĐC ưu tiên thông tin và các vấn đề công chúng cho là quan trọng. Kết
quả là “ ạ ề ờ p ơ TTĐC p
ú ý ọ ộ ề T ờ ữ
ạ ấ ề ộ ổ b p ơ ề
ờ ở ổ b ” [128, tr.44-50]. Nói cách khác, trong xã hội,
nếu một tin tức nào đó được nhắc tới thường xuyên, liên tục và nổi bật, công chúng sẽ
nhớ tới và coi nó quan trọng hơn những thông tin khác.
Lý thuyết này là nhấn mạnh khả năng tác động đến công chúng của TTĐC,
đồng thời chỉ ra rằng, việc đưa tin của cơ quan truyền thông là một hoạt động lựa chọn
có mục đích. Bằng cách thiết lập chương trình nghị sự các phương tiện truyền thông
không chỉ giới hạn sự chú ý của công chúng vào một tập hợp vấn đề cụ thể, mà còn ảnh
hưởng đến sự hiểu biết và quan điểm của họ về các vấn đề đó. Bởi lẽ, mỗi vấn đề mang
nhiều thuộc tính chi tiết, sau khi lựa chọn vấn đề (thiết lập chương trình nghị sự cấp độ
1), cơ quan truyền thông sẽ cố gắng xây dựng một hình ảnh về các vấn đề - trong đó
các thuộc tính cụ thể trở nên đặc biệt nổi bật (chương trình nghị sự cấp 2), và tiếp tục
cấp độ 3 nếu cần thiết… Cứ thế, tạo ra sự khác biệt đáng kể trong cách mọi người nhìn
vấn đề đó [117].
Việc vận dụng lý thuyết này trong nghiên cứu là cơ sở suy luận và đưa ra các
đánh giá về hiệu quả, tác động của thông điệp về BĐKH đến công chúng với mục đích
truyền thông về vấn đề này.
1.1.2.2. Lý thuyết Đóng khung (Farming theory)
Khái niệm về khung được nhà Nhân chủng học Gregory Bateson đưa ra lần đầu
tiên vào năm 1972. Ông định nghĩa khung tâm lý là “giới hạn tạm thời và không gian
của tập hợp các thông điệp tương tác” [dẫn lại từ 102]. Năm 1974, Erving Goffman lần
đầu tiên đưa ra khái niệm “đóng khung” trong cuốn Frame analysis: An essay on the
organization of experience, theo đó “khung” chính là những gi n c a s diễn
52
gi i (schemata of interpretation) cho phép con người “ nh, ti p nh nh dạng
và dán nhãn cho vô s những s bi n diễn ra trong cuộc s ng c a họ” [dẫn lại từ 33].
Theo nhà khoa học Dennis Chong và James N. Druckman [102], đóng khung đề cập
đến quá trình mọi người phát triển một khái niệm cụ thể về một vấn đề hoặc định
hướng lại suy nghĩ của họ về một vấn đề. “Khung” là hệ thống các ý tưởng hình thành
trước, những nhận thức sẵn có này được con người sử dụng để tổ chức và giải thích khi
tiếp nhận các thông tin về các vấn đề trong xã hội.
Đề cập đến cách các phương tiện truyền thông “đóng khung” và trình bày thông
tin cho công chúng, Dennis và James cho rằng các phóng viên cũng bị ảnh hưởng bởi
các chuẩn mực xã hội, áp lực từ các nhóm lợi ích, thói quen làm báo và các định hướng
chính trị hay tư tưởng của chính họ. Những yếu tố này hình thành khung diễn giải của
riêng họ và chi phối việc các nhà báo chọn sự kiện nào để đưa tin và sự kiện nào nên
bỏ qua; giá trị và quan điểm nào sẽ được đề cập hoặc đưa ra… Do đó, một số định
nghĩa, đánh giá và khuyến nghị trong các bản tin được làm nổi bật hơn những định
nghĩa khác. Bằng cách này, các phương tiện truyền thông tác động đến cách mọi người
nhìn nhận thực tế một cách ngầm ẩn và được xem như là hiển nhiên.[102]
Quá trình các phương tiện TTĐC thực hiện việc “đóng khung” cũng gần giống
với quá trình thiết lập chương trình nghị sự bởi cả hai đều tập trung vào cách phương
tiện truyền thông thu hút sự chú ý của công chúng đến các chủ đề nào đó. Tuy nhiên
“đóng khung” tập trung vào bản chất của các vấn đề hơn là vào một chủ đề cụ thể.
Định nghĩa tường minh nhất về quá trình đóng khung của truyền thông đại chúng có lẽ
được đưa ra bởi Robert Entman: “Quá trình đóng khung chủ yếu liên quan tới việc l a
chọn (selection) và làm nổi b t (salience). Đóng khung có nghĩa là lựa chọn một số
khía cạnh trong cách hiểu về hiện thực, rồi làm cho nó nổi bật lên trên văn bản truyền
thông bằng cách nhấn mạnh vào một cách đặt vấn đề, một cách lý giải, một cách đánh
giá đạo đức, hoặc/và một cách xử lý nào đó” [dẫn lại từ 33]
1.1.2.3. Lý thuyết Truyền thông can thiệp xã hội
Thực tế hoạt động báo chí - truyền thông gần đây đã cho ra đời các lý thuyết
mới ngày càng gần với thực tiễn và môi trường truyền thông hiện đại. Lý thuyết
Truyền thông can thiệp xã hội được tác giả Nguyễn Văn Dững nhiều lần đề cập, rõ nét
nhất trong bài báo khoa học “H ớ b ờ ề
(N ừ ờ p b V N )” đăng trên tạp chí Lý luận Chính trị số 6
53
năm 2016 [24] và gần đây được các Nguyễn Văn Dững và Hồ Thị Thanh Bạch thể
hiện rõ nét hơn trong cuốn Q ý ạ ã ộ b bù ổ
thông tin [26, tr.19-33]. Theo tác giả, bản chất xã hội của truyền thông thể hiện qua 3
cấp độ: thông tin - giao tiếp kết nối xã hội can thiệp xã hội. Tức là trên cơ sở đáp
ứng nhu cầu thông tin - giao tiếp của công chúng xã hội, truyền thông thể hiện phương
tiện và phương thức kết nối xã hội, từ đó tạo lập sức mạnh xã hội để can thiệp xã hội,
góp phần giải quyết các vấn đề KT- XH đang đặt ra. Đối với báo chí, quy trình đi đến
mục tiêu cuối cùng là can thiệp xã hội có thể mô tả vắn tắt như sau: “B ấp
ạ ễ p ã ộ ú ể ọ ơ
ộ ẻ ỹ ă ề ấ ề
ặ ; ơ ở ấ úp ú ã ộ ở ể b ơ ở
ổ ; ừ b - ề p p ổ ề ỉ ộ
ã ộ ú ã ộ ộ ” [24].
Lý thuyết Truyền thông can thiệp xã hội được vận dụng để xem xét về mức độ
hiệu quả của thông điệp báo chí trên cơ sở nhận thức, thái độ và hành vi xã hội của
công chúng đích, và ngược lại. Từ đó, đưa ra các khuyến nghị để nâng cao chất lượng
thông điệp phù hợp với bối cảnh MTTT mới.
1.2. CƠ SỞ THỰC TIỄN
1.2.1. Cơ sở chính trị và cơ sở pháp lý
Nhiều năm qua, Đảng và Nhà nước Việt Nam coi BĐKH là vấn đề sống còn đối
với quốc gia, dân tộc, từ đó đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo dồn sức ứng phó.
Đối với quốc tế, Việt Nam đã sớm ký kết nhiều văn bản quốc tế về ứng phó
BĐKH, như: Công ước Vienna về bảo vệ tầng Ozone; Công ước khung của LHQ về
BĐKH; Nghị định thư Kyoto; Thỏa thuận Paris về khí hậu; các Nghị quyết của COP,
ASEAN..., và được đánh giá là một thành viên tích cực và có trách nhiệm trong thực
thi các cam kết quốc tế về ứng phó BĐKH.
Các quan điểm của Đảng CSVN về ứng phó với BĐKH cũng thể hiện qua
nhiều văn kiện Đại hội Đảng, các chỉ thị, kết luận, nghị quyết của Bộ Chính trị, Ban Bí
thư. Kể từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần VIII (năm 1996) đến Đại hội đại biểu toàn
quốc lần VIII (năm 2021) của Đảng, vấn đề BĐKH liên tục được đề cập trong văn kiện
các kỳ đại hội với mức độ quan tâm ngày càng cao hơn. Đặc biệt, văn kiện Đại hội XIII
54
của Đảng nhận định BĐKH là vấn đề toàn cầu, là một trong những thách thức lớn mà
Việt Nam phải đối mặt. Văn kiện xác định “ ộ ớ BĐKH ẹ b ” [28, tr.116] là một trong những định hướng phát triển đất
nước giai đoạn 2021 - 2030 và là một trong 6 nhiệm vụ trọng tâm trong nhiệm kỳ Đại
hội XIII của Đảng.
Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
(bổ sung, phát triển năm 2011), Đảng đánh giá vấn đề BĐKH là thách thức mang tính
toàn cầu, có ý nghĩa sống còn đối với sự phát triển của đất nước, xác định rõ định
hướng mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp để đẩy mạnh công tác chủ động ứng phó với
BĐKH. Chiến lược phát triển KT- XH 2011 - 2020 chỉ rõ, để đảm bảo phát triển nhanh
gắn liền với phát triển bền vững thì trong "p ể KT- XH p ọ b
ờ ộ p ớ BĐKH", xác định mục tiêu "
ộ p ớ BĐKH ấ ớ b ể ".
Đặc biệt, tháng 6 năm 2013, Ban chấp hành TƯ Đảng khóa XI ban hành Nghị
quyết số 24-NQ/TW về “Chủ động ứng phó với BĐKH, tăng cường quản lý tài nguyên
và bảo vệ môi trường”, với những cam kết đẩy mạnh các hoạt động chủ động ứng phó
với BĐKH; xác định ứng phó với BĐKH là “một trong những nhi m vụ quan trọng
nhất c a c h th ng chính tr ”.
Ở góc độ Nhà nước, từ 1996 đến cuối 2020, có 19 văn bản của Chính phủ, 60
văn bản của Thủ tướng Chính phủ và trên 220 văn bản của các bộ, ngành liên quan trực
tiếp hoặc gián tiếp đến các vấn đề của BĐKH. Đáng kể đến là Chương trình mục tiêu
quốc gia ứng phó với BĐKH, Chiến lược quốc gia về BĐKH và Chiến lược quốc gia
về tăng trưởng xanh của Việt Nam. Hai chiến lược này hình thành bộ khung chung và
đã được ưu tiên hóa và cụ thể hóa trong Kế hoạch BĐKH và Kế hoạch tăng trưởng
xanh cho thời gian đến năm 2020, trong đó có các kế hoạch hành động về ứng phó
BĐKH và tăng trưởng xanh cấp ngành và địa phương. Để giám sát và điều phối việc
thực hiện các hành động ứng phó với BĐKH, Chính phủ đã thành lập Uỷ ban quốc
gia về BĐKH và gần đây là Hội đồng cố vấn về BĐKH…
Đối với vùng ĐBSCL, Chính phủ đã ứng phó mạnh mẽ thông qua các chính
sách và chương trình nghị sự để xử lý tính dễ bị tổn thương với BĐKH ngày càng
tăng và thúc đẩy con đường phát triển bền vững thích ứng với BĐKH cho toàn vùng.
55
Đáng kể đến như Quyết định 1581/QĐ-TTg ngày 9/10/2009 Phê duyệt Quy hoạch
xây dựng Vùng ĐBSCL đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2050; Kết luận số 28-
KL/TW ngày 14/8/2012 của Bộ Chính trị về phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp phát
triển KT- XH và bảo đảm an ninh, quốc phòng vùng ĐBSCL đến năm 2020. Đặc
biệt, sau Hội nghị phát triển bền vững ĐBSCL thích ứng với BĐKH, tổ chức tại Cần
Thơ ngày 26/9/2017, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết 120/NQ-CP về Phát triển
bền vững ĐBSCL thích ứng với BĐKH, đưa ra những định hướng chiến lược, các
giải pháp toàn diện, căn cơ, đồng bộ, huy động tối đa các nguồn lực và sự tham gia
của các thành phần kinh tế để phát triển bền vững ĐBSCL. Sau đó, Thủ tướng Chính
phủ tiếp tục ban hành Quyết định 417 ngày 13/4/2019 về việc ban hành Chương trình
hành động tổng thể thực hiện Nghị quyết này…
Trong các giải pháp về ứng phó BĐKH mà Đảng, Chính phủ đã hoạch định cho
quốc gia cũng như cho vùng ĐBSCL, việc nâng cao hiệu quả thông tin - giáo dục -
truyền thông, với mục tiêu xây dựng mọ t cọ ng đồng ứng phó hiẹ u quả với BĐKH đu ợc
xác định là mục tiêu trọng tâm. Nghị quyết Đại hội XII của Đảng chỉ rõ nhiệm vụ:
“Tă ờ p ổ b p p ề ã ộ ề BVMT, b
p ớ BĐKH Đ b ã ộ ộ
BĐKH ấ ộ p ớ BĐKH” [27, tr.17]. Giải
pháp đầu tiên mà Nghị quyết số 24-NQ/TW về “Chủ động ứng phó với BĐKH, tăng
cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường” đề cập là “Tă ờ ổi mới công
tác tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nh n th c, hình thành ý th c ch ộng ng phó
vớ BĐKH ử dụng ti t ki m tài nguyên và BVMT” Trong Nghị quyết 120/NQ-CP về
Phát triển bền vững ĐBSCL thích ứng với BĐKH, Chính phủ giao nhiệm vụ cho
UBND cấp tỉnh trong vùng và các Bộ chuyên môn phải “ C ơ
ề ề p ể bề ữ ĐBSCL ớ BĐKH”; “ ẩ ạ
ề ấp ề ờ
chính xác các thá ặ ớ ĐBSCL ừ p ơ ù ;
ộ ớ BĐKH” [13].
Có 04 điểm nổi bật trong hệ thống quan điểm, đường lối, chính sách pháp luật
về BĐKH của Đảng và Chính phủ Việt Nam trong thời gian qua.
56
- Thứ nhất, các văn bản ban hành đã xây dựng hành lang pháp lý để Việt
Nam thực hiện quyền và nghĩa vụ của quốc gia tham gia vào công ước khung của
LHQ về BĐKH.
- Thứ hai, thông qua các văn bản này Đảng, Nhà nước định hướng và chỉ
đạo, điều hành các cơ quan, tổ chức, địa phương đơn vị thực hiện hoạt động ứng
phó với BĐKH.
- Thứ ba, các chính sách của Đảng và Nhà n ước cũng xác định nâng cao hiệu
quả truyền thông về BĐKH là một trong những nhiệm vụ trọng tâm để cộng đồng nhạ n
thức đẩy đủ và chính xác về BĐKH, từ đó thay đổi thái đọ và hành vi, chủ động ứng
phó với BĐKH. Đây là yếu tố quan trọng có ý nghĩa đặc biệt trong bối cảnh BĐKH đã
trở thành thách thức lớn với toàn cầu.
1.2.2. Thực tiễn biến đổi khí hậu
1.2.2.1. Tình hình biến đổi khí hậu trên thế giới
Theo báo cáo đánh giá lần thứ 5 của IPCC, trong ba thập kỷ qua, cứ sau mỗi
thập kỷ bề mặt trái đất đã liên tục nóng lên hơn bất kỳ thập kỷ nào trước đó. Riêng
giai đoạn từ 1983 đến 2012 dường như là khoảng thời gian 30 năm ấm nhất trong
1.400 năm.
Trong hai thập kỷ qua, sự tan chảy của hàng triệu tỷ tấn băng đã làm tốc độ
nước biển dâng từ giữa thế kỷ 19 lớn hơn so với tốc độ nước biển dâng trung bình
trong 2.000 năm trước đó. Nồng độ carbon dioxide đã tăng 40% kể từ thời tiền công
nghiệp, chủ yếu là phát thải từ đốt nhiên liệu hóa thạch và do rừng bị tàn phá để lấy đất
dùng vào việc khác. Các đại dương đã hấp thụ khoảng 30% lượng khí carbon dioxide
do con người thải ra, gây ra hiện tượng axit hóa đại dương. [117]
Báo cáo đánh giá lần thứ 5 của IPCC phác thảo các dự báo về BĐKH toàn cầu
trong thế kỷ 21. Cụ thể: Cuối thế kỷ 21, nhiệt độ trung bình toàn cầu có thể tăng
1,1÷2,6°C so với trung bình thời kỳ 1986-2005. Cực đoan nhiệt độ có xu thế tăng, nhiệt
độ ngày lạnh nhất tăng 5†10°C; nhiệt độ ngày nóng nhất tăng 5†7°C; số ngày sương
giá giảm; số đêm nóng tăng mạnh. Đến năm 2100 có thể không còn băng ở Bắc Cực.
Bão mạnh có chiều hướng gia tăng, mưa lớn do bão gia tăng… [12, tr.14]
Gần đây nhất, ngày 10/10/2019, tại Việt Nam, IPCC đã công bố B ặc bi t về vi c ấm lên toàn c u 1.5oC, đưa ra những cảnh báo đáng chú ý: Hiện tại, các
57
hoạt động của con người đã làm trái đất nóng lên khoảng 1.0°C so với thời kỳ tiền công
nghiệp và với tốc độ hiện tại sẽ tăng 1.5°C trong giai đoạn 2030 - 2052. Mức độ nóng
lên toàn cầu hiện nay đã làm trầm trọng thêm các yếu tố sức khỏe con người và sẽ trở
nên tồi tệ hơn với nhiệt độ tăng cao. Ở nhiệt độ gia tăng 1,5°C, số lượng siêu đô thị bị
căng thẳng sẽ tăng gấp 2 lần, khiến 350 triệu dân phải gánh chịu thảm họa chết người
do nhiệt độ gia tăng vào năm 2050; con người sẽ khó khăn và dễ bị tổn thương do mất
an ninh lương thực, giá lương thực cao, tổn thất thu nhập, cơ hội sinh kế bị mất, tác
động bất lợi đến sức khoẻ và chuyển dịch dân số…
Tác động của BĐKH đối với từng khu vực trên thế giới được các nhà khoa học
cảnh báo, bao gồm [88]:
Đ i với Châu Phi, 75 - 250 triệu dân chịu ảnh hưởng của khủng hoảng nước sau
năm 2020; Thu hẹp khu vực thích hợp với sản xuất nông nghiệp, giảm năng suất cây
trồng... đe dọa an ninh lương thực và dinh dưỡng. Các hệ sinh thái phải trải qua những
thay đổi về giống - loài hoặc dịch chuyển khu vực thích nghi.
Đ i với Châu Á, nguồn nước ngọt ở các châu thổ lớn giảm đi trong mùa khô tác
động tiêu cực đến hơn 1 tỷ người vào năm 2050; Gia tăng ngập lụt trên các khu vực bờ
biển tập trung cao độ dân cư ở Nam Á, Đông Á, Đông Nam Á. Năng suất lương thực
giảm 30% ở Trung Á, Nam Á, vào giữa thế kỷ 21.
Đ i với Châu Âu, BĐKH sẽ mở rộng sự phân hóa về tài nguyên thiên nhiên
và của cải vật chất. Vùng núi đối mặt với nạn tuyết lở, lượng tuyết giảm. Riêng khu
vực Australia và New Zealand, vấn đề an ninh nguồn nước trở nên căng thẳng hơn
từ năm 2030. Đa dạng sinh học bị tổn thất. Năng suất nông nghiệp và sản phẩm lâm
nghiệp giảm.
1.2.2.2. Tình hinh biến đổi khí hậu ở Việt Nam
Các biểu hiện của BĐKH ở Việt Nam gần đây ngày càng rõ nét, bởi những hiện
tượng thủy văn cực đoan xuất hiện ngày càng nhiều. BĐKH tác động ở cả ba yếu tố
bền vững về kinh tế, bền vững về xã hội và bền vững về tài nguyên thiên nhiên và điều
kiện tự nhiên, thách thức và cản trở việc thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững của
Việt Nam.
Kết quả tổng hợp của Bộ Tài nguyên và Môi trường từ các trạm quan trắc trong
cả nước cho thấy nhiệt độ ngày cao nhất và thấp nhất có xu thế tăng rõ rệt, với mức tăng cao nhất lên tới 10C/10 năm. Số ngày nóng (≥350C) có xu thế tăng ở hầu hết các
58
khu vực của cả nước. Các kỷ lục về nhiệt độ trung bình cũng như nhiệt độ tối cao liên
tục được ghi nhận từ năm này qua năm khác theo chiều hướng gia tăng. Số lượng các
đợt hạn hán, đặc biệt là hạn khắc nghiệt gia tăng trên phạm vi toàn quốc và hầu như
năm nào cũng xảy ra kể từ năm 2000 trở lại đây. Trong đó đợt hạn hán năm 2016 tại
Nam Trung bộ và Tây Nguyên được coi là kỷ lục trong hơn 100 năm qua với lượng
mưa thiếu hụt từ 30%-50%, thâm chí có nơi lên đến 80% so với mức trung bình. Đồng
thời, những đợt rét đậm kéo dài kỷ lục, những đợt rét hại có nhiệt độ khá thấp liên tục
xuất hiện. Một số nơi như Ba Vì (Hà Nội) và Kỳ Sơn (Nghệ An), trong mùa đông
2015-2016 có mưa tuyết lần đầu tiên trong lịch sử.
Các hiện tượng cực đoan liên quan đến mưa như mưa trái mùa và mưa lớn dị
thường - cả về thời gian, địa điểm, tần suất và cường độ - xảy ra nhiều hơn trong những
năm gần đây. Việt Nam có trên 3.000 km bờ biển, tập trung hàng triệu người sinh sống
và khai thác các nguồn lợi từ biển. Lượng mưa giảm dẫn tới hạn hán làm thay đổi
lượng nước ngầm được bổ sung, khiến cho tình trạng xâm nhập mặn diễn ra tại hầu hết
các địa phương ven biển.
Tính trung bình cho toàn dải ven biển Việt Nam, mực nước biển tăng khoảng
3,50±0,7 mm/năm. Khu vực ven biển Trung Bộ tăng mạnh nhất với tốc độ tăng khoảng
trên 4 mm/năm, trong đó lớn nhất tại khu vực ven biển Nam Trung Bộ với tốc độ tăng
đến trên 5,6 mm/năm…
Báo cáo của Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng chống thiên tai cho biết: trong
20 năm (1998-2017), thiên tai đã làm chết, mất tích khoảng 10.800 người; thiệt hại
bình quân hằng năm 20.000 tỉ đồng. Mức độ thiệt hại do thiên tai tăng dần: Năm 2015,
thiên tai đã làm 154 người chết, tổng thiệt hại kinh tế khoảng 8.114 tỉ đồng. Năm 2016,
264 người chết và mất tích, thiệt hại về kinh tế khoảng 39.726 tỉ đồng. Năm 2017 tăng
lên 386 người chết và mất tích, thiệt hại khoảng 60.000 tỉ đồng... Báo cáo mới công bố
của Quỹ Tiền tệ quốc tế, đến năm 2100, BĐKH sẽ ảnh hưởng hơn 12% dân số Việt
Nam và làm giảm tốc độ tăng trưởng GDP quốc gia xuống 10%, đưa Việt Nam thành
một trong 30 nước “cực rủi ro” vì BĐKH.
1.2.2.3. Biến đổi khí hậu ở đồng bằng sông Cửu Long
ĐBSCL là phần châu thổ hạ lưu sông Mê Công, có hệ sinh thái đa dạng, vùng
nước ngọt, lợ và mặn đan xen nhau, là khu vực duy nhất của cả nước tiếp giáp biển
59
Đông và biển Tây với bờ biển dài 750 km, chiếm 23% chiều dài bờ biển quốc gia; hơn 360 ngàn km2 vùng biển và đặc quyền kinh tế, với gần 200 đảo và quần đảo.
ĐBSCL có khí hậu nhiệt đới gió mùa, thời tiết phân thành 2 mùa nắng (khô),
mưa rõ rệt. Mùa khô kéo dài từ tháng 10 đến hết tháng 4, mùa mưa từ tháng 5 đến đầu tháng 11. Nhiệt độ trung bình của vùng gần 28oC. ĐBSCL xếp thứ 3 trên thế giới về
khả năng tổn thương trước tác động của BĐKH. Thời gian qua, thiên tai và thời tiết cực
đoan xuất hiện ở ĐBSCL ngày càng nhều hơn với cường độ gia tăng, đặc biệt là các
hiện tượng lũ lụt, hạn hán - xâm nhập mặn, sụt lún và xói mòn đất đai.[125]
Lũ lụt là đặc tính mùa thường xuyên ở ĐBSCL. Tuy nhiên, trong vài thập kỷ
gần đây, lũ ở khu vực ĐBSCL có những biến động bất thường, như đỉnh lũ gia tăng,
tình trạng ngập lụt ở các đô thị với diện tích rộng hơn và thời gian lâu hơn. Thông
thường, từ 4-6 năm toàn vùng mới xuất hiện một trận lũ lớn, tuy nhiên trong hơn một
thập kỷ qua, ĐBSCL liên tiếp gánh chịu những cơn lũ lớn và cực lớn, không theo quy
luật chung với “ ễ b ũ p ạp ằ ể b ã ũ ề ũ ụ
ở ĐBSCL” [43]. Liên tục các năm từ 2005 đến nay, triều cường lớn thường xuất hiện
vào kì nước lớn các tháng 10, 11 và 12 gây ngập lụt đáng kể tại các vùng ven biển và
cả các vùng đô thị vốn ít ngập. Theo Kịch bản BĐKH năm 2016 của Bộ TN&MT, nếu
mực nước biển dâng 100cm và không có giải pháp ứng phó hiệu quả, 38,9% diện tích
ĐBSCL là có nguy cơ ngập [11].
Tình trạng xói mòn đất đai mà rõ nhất qua việc sụt lún và sạt lở đất cũng đang là
vấn đề báo động của vùng ĐBSCL. Theo Cục Quản lý Tài nguyên nước - Bộ TN&MT,
năm 2010, toàn vùng chỉ xuất hiện 99 điểm sạt lở thì đến năm 2019 tăng lên gấp 7 lần
với 681 điểm, sạt lở bờ biển 52 điểm với tổng chiều dài 268km. Trung bình mỗi năm
ĐBSCL mất từ 300 đến 500 ha đất vì sạt lở bờ sông, bờ biển, khiến diện tích bị thu hẹp
dần, hàng chục nghìn hộ dân phải di dời khỏi vùng nguy hiểm. Kết quả nghiên cứu của
Viện Nghiên cứu BĐKH Trường Đại học Cần Thơ phối hợp với Hà Lan cho thấy,
trong 25 năm (1991-2016), ĐBSCL đã sụt lún 18cm. Hiện nay sụt lún vẫn diễn ra với
tốc độ ngày càng nhanh và nghiêm trọng, bình quân 2cm/ năm.
Do có cao độ thấp và tiếp giáp biển mà phần lớn diện tích ĐBSCL có nguy cơ
bị nhiễm mặn. Tuy nhiên trong những năm gần đây, thời gian xâm nhập mặn có xu
hướng xuất hiện sớm hơn trước từ 1 đến 1,5 tháng, phạm vi xâm nhập mặn tăng. Điển
60
hình đợt xâm nhập mặn năm 2016 được xem là lịch sử trong 100 năm qua đã khiến
20 triệu người dân ĐBSCL chịu ảnh hưởng; tổng thiệt hại về kinh tế hơn 5.500 tỷ
đồng [9]. Theo kịch bản BĐKH của Bộ TN&MT, năm 2050, ứng với kịch bản dòng
chảy kiệt thượng lưu giảm 15%, diện tích ảnh hưởng mặn toàn vùng sẽ chiếm 52,4%
(tăng 311.652ha so với hiện nay). Nguồn nước các đô thị trung tâm ĐBSCL cũng sẽ
nhiễm mặn [11].
BĐKH đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến hệ sinh thái và đa dạng sinh học vùng
ĐBSCL. Diện tích sinh cảnh tự nhiên và tính toàn vẹn của hệ sinh thái bị suy giảm.
Giai đoạn 1980-1995, các tỉnh ven biển ĐBSCL đã bị mất 72.825 ha rừng, hiện độ
che phủ của rừng tại ĐBSCL chỉ đạt 10% diện tích tự nhiên. Môi trường đất bị ô
nhiễm do quá trình phèn hóa gia tăng ở quy mô lớn; đa dạng sinh học bị suy giảm do
không còn điều kiện thích hợp để các loài sinh vật sinh sống và trú ngụ; ô nhiễm
nguồn nước gia tăng, sản lượng và chủng loài thủy sinh trong môi trường tự nhiên bị
suy giảm [75][30].
ĐBSCL hứng chịu nặng nề tác động BĐKH một phần là do đặc thù về địa lý
nền đất thấp, đối diện với 2 mặt biển cả phía Đông và Tây, nhưng nguyên nhân chính
là do tác động của con người. Phía thượng nguồn sông Mê Kông, các hoạt động kinh
tế sử dụng nguồn nước, như thủy điện, chuyển nước khỏi lưu vực hệ thống, suy giảm
nhanh diện tích rừng, thảm thực bì (nơi giữ nước, điều tiết nước) làm thay đổi căn
bản quy luật dòng chảy khi vào đến địa phận Việt Nam. Ngoài ra, những bất hợp lý
trong sự phát triển kinh tế nội tại, như thâm canh lúa 3 vụ, khai thác tài nguyên cát
sỏi, nguồn nước ngầm, xây dựng hạ tầng, nhà ở ven sông cùng với các hoạt động
kinh tế khác cũng gây nên tổn thương lớn đến vùng châu thổ và sự phát triển bền
vững của vùng. [29].
Thực tiễn về BĐKH cho thấy đây là một thách thức mang tính toàn cầu và gây ra
nhiều tác động tiêu cực với đời sống nhân loại. BĐKH ở Việt Nam trong những thập
kỷ gần đây diễn ra ngày càng nhanh, phức tạp, khó lường. Ở ĐBSCL sạt lở, sụt lún,
xói mòn đất đai, lũ lụt, hạn hán và xâm nhập mặn là những biểu hiện BĐKH mang
tính đặc trưng và ngày càng trầm trọng, gây nên tổn thương lớn ảnh hưởng đến sự phát
triển bền vững của vùng. Nguyên nhân của tình trạng này một phần là do các hoạt động
khai thác kinh tế và hành vi ứng xử chưa phù hợp của con người với môi trường, đặt ra
61
yêu cầu/vai trò cấp thiết cho báo chí - truyền thông trong việc nâng cao nhân thức và
thay đổi hành vi cộng đồng để giảm thiểu tác hại của BĐKH một cách hiệu quả.
1.2.3. Những yếu tố tác động đến việc thiết kế thông điệp biến đổi khí hậu
trên báo Đảng khu vực đồng bằng sông Cửu ong
1.2.3.1. Công chúng địa phương và tri thức bản địa
“Tri th c b c hình thành, t n tại và phát triển trong quá trình lao
ộng s n xuất, ng xử vớ ờng t nhiên và xã hội c a mọi thành viên trong cộng
c bổ sung, hoàn thi n d n d c truyền từ ờ ời khác thông
qua nhiều hình th : , t p tục, thói quen…” [34]. Tri
thức bản địa có vai trò ý nghĩa quan trọng trong đời sống của người dân, còn là một
kho thông tin quý giá cho các nhà khoa học và quản lý; chi phối mạnh mẽ công tác lập
kế hoạch và xây dựng chính sách nói chung, trong công tác ứng phó với BĐKH nói
riêng. Tri thức địa phương kết hợp với kiến thức khoa học và kinh nghiệm sẽ giúp việc
đánh giá, lập và triển khai kế hoạch thích ứng với BĐKH phù hợp với thực tiễn và hiệu
quả cao hơn.
ĐBSCL có khoảng 1,8 triệu dân. Trong đó, 79,11% dân số sống ở nông thôn,
hầu hết là nông dân; khoảng 1,1 triệu đồng bào dân tộc Khmer và có nhiều tôn giáo.
Hàng trăm năm qua, người dân ĐBSCL đã biết chủ động thích ứng “thuận thiên, hợp
địa”; không đắp đê chống lũ như miền Bắc mà tận dụng lũ để khai thác nguồn lợi thủy
sản tự nhiên rửa mặn, tẩy phèn, tiêu trừ sâu bọ, bồi đắp phù sa màu mỡ cho đất đai; sử
dụng hệ thống kênh, mương, sông rạch, động thái lên xuống của thủy triều, dòng chảy
của kênh rạch để phục vụ sản xuất. Việc hiện thực hóa triết lý “s ng chung vớ ũ t
ỉ ũ” đã giúp vùng đất này tạo nên nhiều kỳ tích về sản xuất lúa gạo, thủy sản,
trái cây. Chính vì thế, ứng phó với BĐKH ở ĐBSCL phải “tôn trọng quy lu t t nhiên,
phù h p vớ ều ki n th c t , tránh can thi p thô bạo vào t nhiên” [13]. Điều này có
nghĩa, không phải phát minh, khám phá khoa học nào về ứng phó với BĐKH cũng phù
hợp để thông tin, vận động áp dụng ở vùng đất này. Đồng thời, các nhà báo, các nhà
khoa học cần tìm hiểu và học hỏi những kiến thức đã được cư dân bản địa đúc kết qua
hàng trăm năm để thích ứng với những điều kiện KT- XH và sinh thái đặc thù với môi
trường, văn hóa vùng ĐBSCL, sử dụng nó như một nguồn ý tưởng và giả thuyết; đồng
thời, kiểm tra những giả thuyết đó trong khuôn khổ của khoa học hiện đại để khám phá
ra căn cứ hợp lý mà người dân ĐBSCL hành động - để có thông điệp phù hợp.
62
Trình độ dân trí ĐBSCL còn thấp so với mặt bằng chung, tỷ lệ lao động chưa
qua đào tạo chiếm 83,25%. Cộng đồng cư dân ĐBSCL mang đặc thù tính cách của dân
cư sông nước, tính thật thà, bình dị, dễ thân tình, ngang tàng nghĩa khí. Trong nếp sống,
cách suy nghĩ và nói năng của người nông dân nơi đây luôn thể hiện sự bộc trực, thẳng
thắn, thường không thích khách sáo, văn chương rào đón, bóng bẩy… Chính vì vậy,
thông điệp về BĐKH trên báo Đảng khu vực ĐBSCL cần được thể hiện bằng một văn
phong ngắn gọn, dễ hiểu, hạn chế những thông điệp ẩn đòi hỏi suy luận lắt léo.
1.2.3.2. Cơ sở chính trị - pháp lý
“T bộ ạ p ẩ b ề p b p bở
ữ N ạ b ũ ạ ộ ề
ã ộ ạ ờ ộ ở
ã ộ ” [61, tr.75].
Sự lãnh đạo, quản lý của cơ quan chủ quản đối với báo Đảng địa phương khá
bao quát, từ định hướng thông tin, tư tưởng, công tác tuyển chọn đề bạt cán bộ lãnh
đạo của cơ quan báo, cả về cơ sở vật chất, trang thiết bị, tài chính đảm bảo hoạt động
của báo…
Tuy nhiên, điều này cũng dẫn đến một thực tế là nơi nào lãnh đạo nhận thức
thấu đáu về vai trò, chức năng của báo chí, mạnh dạn cung cấp thông tin chính thức,
chính thống cho báo chí thì báo Đảng địa phương nơi đó thuận lợi tiếp cận thông tin
và phát huy dân chủ trong thông tin; thông điệp trên báo phản ánh đầy đủ thực tiễn đa
dạng phong phú, không né tránh các vấn đề phức tạp, nhạy cảm, không bỏ qua các
mặt trái. Ngược lại thì báo Đảng địa phương chỉ là phương tiện tuyên truyền thuần
tuý của cấp ủy Đảng, chính quyền, thông điệp trên báo chủ yếu thể hiện mong muốn
và ý chí của nhóm nhỏ, né tránh những vấn đề gai góc mà đúng ra báo Đảng phải là
nơi thông tin, đấu tranh mạnh mẽ nhất, để thuyết phục công chúng xã hội, lôi kéo họ
vào tầm ảnh hưởng.
1.2.3.3. Trình độ, kỹ năng và bản lĩnh của nhà báo
Đôi khi một sự việc, hiện tượng diễn ra trong thực tiễn, dưới ngòi bút của các nhà
báo lại truyền đến công chúng những thông điệp mang nội dung và giá trị khác nhau bởi
sự khác biệt về góc độ tiếp cận, khuynh hướng thể hiện, ngôn ngữ biểu đạt, thời điểm
thông tin… do sự khác biệt về nhận thức, năng lực và kỹ năng khác của nhà báo.
63
“Là nhà báo chân chính, ph i l a chọn, xử lý thông tin nhanh chóng, trung
th c, chính xác, ph ú n vọng c ú ú nh
ớng chính tr c Đ ộng tích c c, có hi u qu n ti n bộ xã hội”[68].
Thực tế, báo Đảng địa phương bị nhận xét thiếu sức chiến đấu bắt nguồn từ nguyên
nhân không ít người làm báo thiếu bản lĩnh và ý chí chiến đấu; ngại va chạm, không
dám đấu tranh với tiêu cực, nhất là khi có liên quan đến lãnh đạo của địa phương.
Không ít sai phạm nghiêm trọng về môi trường làm gia tăng tác hại của BĐKH trên
địa bàn nhưng nhà báo không dám đề cập vì sợ phật lòng lãnh đạo, người quen biết,
giữ sự “an toàn” và lợi ích cho bản thân. Nhà báo thiếu bản lĩnh và nhận thức chính
trị yếu kém còn là nguyên nhân dẫn đến những hạn chế, thiếu sót khác trong quá trình
thực hiện tác phẩm,…
Cùng với yêu cầu về bản lĩnh chính trị và đạo đức nghề nghiệp, năng lực
chuyên môn của nhà báo cũng là yếu tố quyết định đến chất lượng thông điệp. Một nhà
báo dù nhiệt huyết với nghề, nhưng trình độ lý luận, kiến thức thực tiễn hạn chế, không
am hiểu vấn đề, lĩnh vực mình viết, kỹ năng xử lý thông tin non nớt, thì cũng không thể
cho ra đời những tác phẩm báo chí có giá trị, khó có được những thông điệp sắc sảo, ấn
tượng, mang bản sắc riêng của mình. Năng lực, trình độ chuyên môn tốt cũng giúp nhà
báo giải quyết tốt mối quan hệ giữa việc bảo đảm thông tin nhanh chóng, chính xác và
đúng định hướng chính trị, bởi quyết định đúng thời điểm thông tin cũng như tìm cách
thức thông tin phù hợp, có hiệu quả.
1.2.4. Một số yêu cầu đối với thông điệp biến đổi khí hậu báo Đảng khu vực
đồng bằng sông Cửu Long
Thông điệp trong các lĩnh vực truyền thông khác nhau đòi hỏi phải đáp ứng
những tiêu chí khác nhau để phù hợp với sự kiện và vấn đề thông tin, với kênh truyền,
với công chúng tiếp nhận và tối ưu hóa mục đích truyền thông. Trong kinh doanh, một
câu slo-gan có thể là thông điệp quảng cáo lý tưởng, chỉ cần “ ú ú ý ữ
ơ ộ ” [133, tr.274] của khách hàng.
Nhưng với báo chí, thông điệp trong mỗi tác phẩm không chỉ phải đảm bảo các yêu cầu
cốt lõi cho mục tiêu truyền thông: nói cái gì (nội dung thông điệp)? nói như thế nào
(hình thức thông điệp)? cách nói thế nào cho hợp lý, logic (cấu trúc thông điệp)? nói
với ai (đối tượng tiếp nhận thông điệp), mà thông qua đó phải góp phần để báo chí thực
64
hiện các chức năng về tư tưởng, quản lý, giám sát - phản biện xã hội... Vì vậy, thông
điệp truyền thông phải tạo sự khác biệt và hướng mạnh tới mục đich truyền thông.
Hình thức và cấu trúc thông điệp phải hấp dẫn, gây sự chú ý và kích thích tâm lý tiếp
nhận của công chúng.
Công chúng mỗi loại hình báo chí khác nhau cũng khác nhau về xu hướng tiếp
nhận thông điệp. Nếu như phát thanh tác động mạnh vào công chúng bằng cơ chế ghi
nhớ tức thời, liên tưởng và cảm xúc, truyền hình tác động theo cơ chế tạo mẫu và đối
chiếu mẫu trong tiếp nhận, thì báo in tác động chủ yếu vào nhận thức lý tính, tạo sự
hấp dẫn cảm tính cho công chúng… [38, tr.31-44]. Đối với thông điệp nhằm vào
nhận thức lý trí, nội dung thông điệp cần phải hình thành những luận điểm, luận cứ
xác thực, lập luận logic; ngôn từ, các khái niệm phải chuẩn xác, các số liệu chứng
minh phải có sức thuyết phục. Bố cục thông điệp phải rành mạch, khoáng đạt, nên
chia các ý thành những đoạn ngắn để cho bài viết nhẹ nhàng và dễ tiếp thu [19, tr.74].
Từ đây, có thể nêu ra một số yêu cầu cơ bản đối với thông điệp về BĐKH trên
báo in của Đảng bộ địa phương khu vực ĐBSCL, như sau:
- Về nội dung: T p về BĐKH, trên tổng thể, ph i cung cấp toàn di n ki n
th c về BĐKH phù h p với ch ơ Đ ng, chính sách pháp lu t c N ớc.
T p c n b m yêu c u thể hi n rõ mụ ễ nhớ, dễ hiểu và dễ làm theo;
ph i nhanh nhạy, chuẩn xác, rõ ràng; thể hi n s ạng và thi t th c, có liên quan
n nhu c u và l i ích c a công chúng; có giá tr hữu dụng, góp ph n cổ ũ
ă c sáng tạo, ú ẩy y u t tích c c trong cộ ng.
Nghị quyết 120/NQ-CP về Phát triển bền vững ĐBSCL thích ứng với BĐKH
và Quyết định 417 ngày 13/4/2019 ban hành Chương trình hành động tổng thể thực
hiện Nghị quyết này đã chỉ ra nhiệm vụ của truyền thông về BĐKH là phải làm cho
công chúng nhận thức đầy đủ, chính xác các thách thức của BĐKH đang đặt ra đối với
ĐBSCL và từng địa phương trong vùng, từ đó thay đổi hành vi và chủ động trong thích
ứng với BĐKH. Điều này đòi hỏi báo Đảng ĐBSCL phải thông tin đa dạng, giúp công
chúng hiểu về BĐKH, nhận diện được các biểu hiện BĐKH - nhất là biểu hiện đặc
trưng của địa phương và vùng ĐBSCL, hiểu được nguyên nhân, tác động và học hỏi
được các giải pháp, kỹ năng để chủ động vận dụng ứng phó.
65
“C ú p ơ b ớ ể
ữ ờ ò ọ N ữ
ớ ấ bỏ ấ ú ỳ ọ ờ ” [63, tr.38].
Yếu tố thời sự, cập nhật có ý nghĩa quan trọng trong thông tin về BĐKH, đặc biệt là
những thông tin về diễn biến bất thường của thời tiết, cần thông tin đến người dân một
cách chính xác và càng sớm càng tốt thì người dân mới chủ động phòng tránh, giảm
thiểu được những hậu quả do BĐKH gây ra. Ngoài ra, những gì xảy ra gần gũi với khu
vực sống, đến lĩnh vực hoạt động, đến lợi ích cụ thể của người dân sẽ thu hút sự quan
tâm của công chúng.
Lịch sử hàng trăm năm khai phá khẩn hoang đã hình thành nên những phong
tục, tập quán trong sinh hoạt và sản xuất mang tính đặc trưng của người dân ĐBSCL.
Điều này bất lợi trong quá trình BĐKH. Vậy nên, báo Đảng địa phương cần phân tích,
làm rõ những hoạt động của con người hàng ngày như: khai thác tài nguyên một cách
triệt để, phá rừng, thải các khí gây hiệu ứng nhà kính làm ảnh hưởng đến môi trường, ô
nhiễm không khí... là nguyên nhân gây ra BĐKH...
Thông điệp về BĐKH trên báo Đảng khu vực ĐBSCL phải được cấu tạo bởi
“nhân vật”, “tiếng nói” của các nhóm xã hội khác nhau, như: nhà khoa học, chuyên gia,
nhà quản lý, quần chúng nhân dân… Bởi tùy theo hoạt động sinh kế, phái, tuổi, địa bàn
dân cư,… các nhóm xã hội khác nhau có thể có quan điểm và kiến thức khác nhau, tạo
nên những thông điệp khách quan đa dạng, có ý nghĩa đối với công tác đánh giá thực
tế, lập và triển khai kế hoạch và xây dựng định chế của chính quyền địa phương.
- Về hình th c, t p về BĐKH p i ngắn gọn, súc tích, dễ hiể ng thời
ph ộng hấp d ể thu hút s quan tâm c a công chúng.
“Nhu c u ũ ời s ng tinh th n c ời không chấp
nh n s ơ u, nghèo nàn” [19, tr.168]. Hình thức thông điệp báo chí khác với cách
kết cấu tác phẩm văn chương, hội họa. Thông điệp của tác phẩm báo in phải đa dạng,
phong phú đa chiều nhưng vẫn chịu sự quy định ràng buộc nhất định về kết cấu thể
hiện thông điệp, về thể loại ngôn ngữ và cấu trúc thông tin. Điều đó đòi hỏi nhà báo
phải sáng tạo hình thức biểu đạt một thông điệp sinh động cuốn hút sự chú ý quan tâm
và thuyết phục người đọc. Chưa kể, BĐKH là một lĩnh vực khoa học, nếu đưa thông
tin theo kiểu liệt kê những con số, sử dụng từ ngữ chuyên ngành sẽ rất khô khan, công
chúng sẽ khó tiếp nhận. Vì thế, ngôn ngữ cấu tạo nên thông điệp phải giản dị, dễ hiểu,
66
chuẩn xác nhưng sáng tạo như sử dụng các hình thức đảo câu, đảo ý, sử dụng trích dẫn,
ví dụ…; sử dụng ngôn ngữ phù hợp với ngữ cảnh và văn hóa bản địa để công chúng dễ
hiểu, góp phần mang lại cho bài viết sự chân thực và sống động.
Cần chú trọng phát huy tối đa những ưu điểm riêng có của báo in trong việc xây
dựng những tác phẩm báo chí có chiều sâu. Việc thể hiện mỗi tác phẩm báo chí phải
được chú trọng việc đặt “tít”, “Sapo”, “Box”, đồng thời kết hợp chữ viết với hình ảnh,
biểu đồ… để minh họa, trình bày đẹp, hấp dẫn, khoa học, hiện đại.
- Về p ơ c chuyển t : T p về BĐKH p i mang tính k hoạch và
liên tụ ể nâng cao hi u qu ộng.
Ứng phó với tác động tiêu cực của BĐKH là vấn đề cấp bách, mang tính sống
còn để duy trì và bảo vệ đời sống của nhân loại, vì thế thông tin báo chí phải liên tục
mà tốt nhất là xây dựng kế hoạch tuyên truyền theo định kỳ nhằm đem đến cho công
chúng một cái nhìn xuyên suốt, liên tục về thông tin. Chuyên mục định kỳ là sự giao
ước với cộng đồng, là hợp đồng trách nhiệm xã hội của cơ quan báo chí với công
chúng nên việc đảm bảo thông tin định kỳ còn phản ảnh mức độ quan tâm của cơ quan
báo chí đối với vấn đề này. Mặt khác, nếu như chuyên mục có những thông tin về vấn
đề mà đông đảo công chúng quan tâm, tờ báo đó có thể nhận được nhiều ý kiến bạn
đọc phản biện, góp ý hoặc chia sẻ những kinh nghiệm thực tiễn, trình bày quan điểm
riêng… tạo ra một diễn đàn thực sự.
Tiểu kết chƣơng 1
Chương 1 đã làm rõ nội hàm, phạm vi của một số khái niệm cơ bản liên quan
đến đề tài nghiên cứu, như: Khái niệm về thông điệp, về khí hậu và BĐKH, khái niệm
thông điệp về BĐKH trên báo Đảng khu vực ĐBSCL,… đồng thời nêu ra các yêu cầu
đối với thông điệp BĐKH trên báo Đảng khu vực ĐBSCL cũng như cũng như các yếu
tố khách quan có thể tác động đến quá trình xây dựng thông điệp.
Trong chương này, tác giả cũng đã trình bày cơ sở lý luận và đi sâu tìm hiểu các
hệ thống lý thuyết cơ bản liên quan trực tiếp đến đề tài nghiên cứu như: lý thuyết
“Thiết lập chương trình nghị sự”, lý thuyết “Đóng khung”, lý thuyết “Truyền thông
can thiệp xã hội” soi chiếu vào các nội dung Luận án để chỉ ra vai trò của truyền
thông trong việc chuyển tài các thông điệp phù hợp, góp phần thực hiện mục tiêu
nâng cao kiến thức, thay đổi hành vi của công chúng thích ứng với BĐKH. Bên
67
cạnh các cơ sở lý luận, cơ sở chính trị và cơ sở pháp lý thể hiện qua quan điểm, chính
sách pháp luật của Đảng và Nhà nước Việt Nam về BĐKH; thực trạng và những tác
động của BĐKH trên toàn cầu, với Việt Nam và các đặc trưng biểu hiện, tác động của
BĐKH với ĐBSCL cũng được rà soát để có những luận cứ quan trọng từ thực tiễn
nhằm xây dựng khung lý thuyết hoàn chỉnh cho vấn đề nghiên cứu.
Cơ sở lý thuyết của đề tài được tiếp cận từ các nghiên cứu có giá trị và ý nghĩa
được thừa nhận ở quy mô toàn cầu cũng như xu hướng, cam kết và giải pháp đang
được cộng đồng thế giới thực hiện; quan điểm, chính sách pháp luật của Đảng và Nhà
nước Việt Nam về BĐKH… đã giúp NCS có được cơ sở lý luận, nền tảng lý thuyết
vững chắc, sát hợp, làm cơ sở để phân tích vấn đề một cách khoa học.
Những nội dung này là cơ sở lý luận và thực tiễn để tác giả luận án tiếp tục thực
hiện các bước tiếp theo của việc nghiên cứu khảo sát thực trạng thông điệp về BĐKH
trên báo Đảng khu vực ĐBSCL, sẽ được trình bày trong chương 2 của luận án.
68
Chƣơng 2
THỰC TRẠNG THÔNG ĐIỆP VỀ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU
TRÊN BÁO ĐẢNG KHU VỰC ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG
2.1. TỔNG QUAN VỀ ĐỐI TƢỢNG KHẢO SÁT
2.1.1. Về báo Đảng khu vực đồng bằng sông Cửu Long
Sau nhiều lần chia tách địa giới hành chính, hiện nay, ĐBSCL có 13 đơn vị
hành chính cấp tỉnh, tương ứng là 13 cơ quan báo Đảng ở từng địa phương. Đa số các
báo Đảng ĐBSCL đều lấy tên gọi hành chính của địa phương làm tên gọi của báo
mình, như báo Long An, b T V b H G ngoại trừ tỉnh Tiền Giang (báo
Ấp Bắ ) và tỉnh Bến Tre (b Đ K ở ). Ngoại trừ báo CT là nhật báo, các tờ báo
còn lại xuất bản từ 3-5 kỳ/ tuần với lượng phát hành có sự chênh lệch khá rõ. Cao nhất
là báo AG với khoảng 10 nghìn tờ/ kỳ, Báo Trà Vinh, Đồng Tháp dưới 3.000 tờ/ kỳ;
các báo còn lại dao động từ 4.000 - 5.000 tờ/ kỳ. Tất cả các tờ báo Đảng ĐBSCL đều
được in khổ A3, từ 12-16 trang; trong đó trang bìa, cuối và 02 trang giữa được in nhiều
màu. Đại đa số báo phát hành trong các cơ quan, đơn vị, tổ chức chính trị - xã hội -
nghề nghiệp… của địa phương. Các báo Đảng ĐBSCL được ngân sách Nhà nước hỗ
trợ phần lớn kinh phí cho hoạt động xuất bản, đồng thời hầu hết số lượng báo phát
hành cũng được các cơ quan, đơn vị mua từ ngân sách Nhà nước nên gần như vẫn
trong tình trạng “bao cấp”. Số lượng báo Đảng địa phương bán cho người dân tại các
điểm bán sách, báo lẻ rất ít. Công chúng báo Đảng địa phương chủ yếu là cán bộ, đảng
viên ở các tổ chức cơ sở đảng.
2.1.2. Về mẫu khảo sát
Thông điệp về BĐKH được khảo sát trên các tờ báo in của Đảng bộ 3 địa
phương, gồm: An Giang, Cà Mau và Cần Thơ - là các địa phương có các biểu hiện của
BĐKH mang tính đặc trưng của khu vực khá rõ nét. Cụ thể:
2.1.2.1. Báo An Giang
Báo AG là cơ quan ngôn luận của Đảng bộ tỉnh An Giang, là đơn vị trực thuộc
quản lý của Tỉnh ủy An Giang.
Sau khi đất nước hoàn toàn giải phóng, ngày 19-8-1975 - nhân kỷ niệm 30 năm
Cách mạng Tháng Tám và Quốc Khánh 2-9, bộ phận Thông tấn - Báo chí thuộc Ban
69
Tuyên huấn Long Châu Hà cho ra mắt tờ tin tên gọi “Tin tức Long Châu Hà” với 4
trang và phát hành số lượng khoảng 1.000 tờ. Tháng 2-1976, tỉnh An Giang được thành
lập theo Quyết định số 19 của Bộ Chính trị và Nghị định của Chính phủ Cách mạng
lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam, báo Long Châu Hà đổi tên thành báo AG.
Về hình thức, báo AG hiện có 12 trang, khổ 30x40 cm (4 trang in màu, 8 trang
in 2 màu), phát hành 5 kỳ/tuần (từ thứ hai đến thứ sáu). Trong 10 năm gần đây, bình
quân báo AG phát hành trên 10.000 tờ/ kỳ; là 1 trong 10 tờ báo Đảng địa phương có số
lượng phát hành cao nhất cả nước.
Tổng số báo được khảo sát từ năm 2017 đến hết tháng 6/2019 là 648 số báo.
2.1.2.2. Báo Cà Mau
Tiền thân của báo CM trước 30/4/1975 là tờ Báo Chiến. Sau giải phóng miền
Nam, thống nhất đất nước, báo lấy tên theo địa giới hành chính của tỉnh là Báo Minh
Hải. Đến ngày 01 tháng 01 năm 1997, Chính phủ có quyết định tách tỉnh Minh Hải
thành hai tỉnh Cà Mau và Bạc Liêu, tờ báo của Đảng bộ tỉnh Cà Mau mang tên theo địa
danh hành chính mới là báo CM cho đến nay.
Báo CM hiện có 12 trang, khổ 30x40 cm, trong đó có 4 trang in màu (trang 1,
trang 6-7 và trang 12), còn lại 8 trang in 2 màu, xuất bản 4 kỳ/tuần vào các ngày (thứ
hai, thứ tư, thứ sáu và thứ bảy), mỗi kỳ xuất bản từ 5.000 đến 5.500 tờ báo. Trong mỗi
kỳ xuất bản, các huyện ủy, thành ủy, các sở, ngành đặt mua từ 3.000 tờ trở lên thông
qua các chuyên trang, chuyên mục đã phối hợp.
Tổng số báo được khảo sát từ năm 2017 đến hết tháng 6/2019 là 499 số báo.
2.1.2.3. Báo Cần Thơ
Báo CT tiền thân là Báo Lao Động - tờ báo in đầu tiên của tỉnh bộ Hội Việt
Nam cách mạng Thanh niên tỉnh Cần Thơ, ra đời chỉ 02 năm sau ngày Nguyễn Ái
Quốc xuất bản báo Thanh niên. Năm 1972, tờ báo chính thức mang tên là báo CT. Do
việc chia tách, sáp nhập địa giới hành chính, báo có lúc mang tên là báo Hậu Giang,
đến năm 1992 thì ổn định tên gọi báo CT đến nay.
Từ tháng 1/1/2000 Báo CT xuất bản 7 kỳ/ tuần, khổ 42 x 58 cm, in 2 màu, là
nhật báo đầu tiên trong các báo Đảng địa phương ở ĐBSCL. Từ đầu năm 2011, báo CT
giảm khổ báo xuống kích cỡ 28 x 40,5 cm, in 16 trang, hai màu. Từ 2015, tờ báo CT in
màu cho trang bìa và 2 trang ruột và xuất bản liên tục ổn định đến nay. Tổng số lượng
báo được khảo sát là 890 số báo.
70
2.2. NỘI DUNG THÔNG ĐIỆP BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU TRÊN BÁO ĐẢNG
KHU VỰC ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG
Luận án xem xét 04 khía cạnh nội dung của thông điệp về BĐKH, bao gồm (01)
T p ề b ể BĐKH; (02) T p ề ộ BĐKH (03)
T p ề BĐKH; và (04) T p ề p p/ ạ ộ
p ớ BĐKH Mỗi khía cạnh nội dung này tương ứng với một mục tiêu mà chiến
dịch truyền thông về BĐKH hướng đến là làm cho công chúng có thể “nhận diện”
được các biểu hiện của BĐKH, hiểu rõ cơ chế tác động, hình thành của các biểu hiện,
diễn biến trong hiện tại và những dự báo xu hướng trong tương lai cũng như những giải
pháp chủ động phòng ngừa và ứng phó. Bên cạnh đó, yếu tố con người, nguồn tin,
phạm vi địa lý thông điệp đề cập, quan điểm của tác giả về vấn đề BĐKH cũng sẽ được
làm rõ trong phần phân tích nội dung thông điệp.
Kết quả cho thấy, số lượng bài báo đề cập về B ể BĐKH nhiều nhất
với 943 bài, chiếm tỉ lệ 73,5% tổng số bài báo khảo sát, kế đến là đề cập về G
pháp/h ạ ộ phó ớ BĐKH tỉ lệ 66,4%. Thông tin về các T ộ
BĐKH xếp thứ 3 với 64,6%. Ít nhất là BĐKH, chỉ có 14.1%.
Đi sâu phân tích 4 nội dung chủ đề sẽ làm sáng tỏ hơn nữa nội dung thông điệp
73.5
80
66.4
64.6
60
40
14.1
20
0
Biểu hiện Nguyên nhân
Tác động/Hậu quả
Hoạt động ứng phó
về BĐKH ở các báo Đảng khu vực ĐBSCL.
Biểu đồ 2.1: Các khía cạnh nội dung thông điệp về BĐKH
(N : K b AG, báo CM và báo CT ừ 2017 6/2019)
2.2.1. Thông điệp về biểu hiện của biến đổi khí hậu
Thông điệp về biểu hiện của BĐKH thường được thể hiện qua các tin bài mô tả
diễn biến của một hoặc nhiều biểu hiện của BĐKH, gắn liền với thời gian và vị trí diễn
ra các biểu hiện, các số liệu mức độ, cường độ… của biểu hiện. Thông điệp về biểu
biện của BĐKH đặc biệt có ý nghĩa trong việc giúp công chúng “nhận diện” được các
71
dấu hiệu, diễn biến của các biểu hiện, từ đó có sự quan tâm, chú ý, có thể sớm nhận ra
những biểu hiện có dấu hiệu khác thường…
Kết quả khảo sát cho thấy biểu hiện của BĐKH có tỷ lệ xuất hiện cao nhất
(73,5%) trong các khía cạnh nội dung của thông điệp về BĐKH. Tương quan giữa các
tờ báo về nội dung này có sự chênh lệch không lớn. Cụ thể: Báo CT là 74.9%; báo AG
là 72.9% và báo CM là 72.1%. Điều này cho thấy, nội dung này rất được quan tâm và
tập trung thông tin trên báo Đảng các địa phương khu vực ĐBSCL.
Sạt lở là xuất hiện nhiều nhất trong các bài viết về BĐKH, với tỷ lệ là 34.7%.
Lũ lụt và bão chiếm 22.5%, xếp thứ hai, xâm nhập mặn và hạn hán cùng xếp thứ 3
(12,9%). Các biểu hiện được đề cập tiếp theo là triều cường (8,6%), nhiệt độ tăng
(giảm) (4,9%), nước biển dâng (3,3%), hiệu ứng nhà kính (3,2%), mưa trái mùa và
giông lốc cùng có tỉ lệ 2,2%. Ngoài ra, các thông tin về BĐKH còn đề cập đến các biểu
hiện khác, với tần suất xuất hiện của mỗi biểu hiện thấp, như bão tuyết, mất đa dạng
sinh học, tan băng ở Nam Cực, axit hóa đại dương, mưa đá, cháy rừng, hiện tượng El
34.7
22.5
12.9 12.9
10.1
8.6
4.9
3.3 3.2
Sạt lở Lũ lut, bão Xâm nhập mặn Hạn hán Khác Triều cường Nhiệt độ tăng, giảm Nước biển dâng Khí nhà kính Mưa trái mùa Giông, lốc
2.2 2.2
5
0
10
15
20
25
30
35
40
Nino, hiện tượng La Nina, sụt lún… được gom lại thành mục “Khác” trên biểu đồ.
Biểu đồ 2.2: Các biểu hiện của BĐKH đƣợc đề cập trong thông điệp
(N : K b AG, báo CM và báo CT ừ 2017 6/2019)
Thứ tự về tần suất xuất hiện của các biểu hiện này khá phù hợp với các biểu
hiện đặc trưng cho BĐKH ở các địa phương, được nêu trong kịch bản BĐKH năm
2016 của Bộ TN&MT và trong ý kiến của các nhà khoa học, nhà quản lý lĩnh vực này.
“B ể ạ ấ BĐKH ở ĐBSCL ạ ạ ở
bở bờ b ể ụ ú ấ ă ; ạ p ặ ữ
ă ễ b ũ ọ p ạp” (PVS -M2).
72
“BĐKH ớ b ể ù ạ ộ ă
ạ ớ p ặ ộ ; ù ạ
ề ờ ớ b ể p ú ạ ở ấ bờ bờ b ể ụp
ú ấ ạ ộ ơ ễ b p ạp… ở ấ ớ ờ ấ
ã ở p p ể KT-XH ỉ C M ”
(PVS -M14).
Mặc dù vậy, vẫn còn những hiện đáng lo ngại của BĐKH ở ĐBSCL được khoa
học cảnh báo nhưng lại rất ít xuất hiện trên mặt báo; như tình trạng sụt lún. Theo Kịch
bản BĐKH năm 2016 của Bộ TN&MT, mỗi năm ĐBSCL đang bị lún dần từ 1-2cm.
Các nghiên cứu của Viện Tai biến địa chất Na Uy và Đại học Utrecht (Hà Lan), công
bố năm 2019, cảnh báo có khu vực ở ĐBSCL đang bị lún đến 3 cm/năm. Với đà này,
ĐBSCL được dự đoán chỉ còn tồn tại khoảng 80 năm. Nguyên nhân chủ yếu của tình
trạng này là do người dân khai thác nước ngầm quá mức, đặc biệt là người dân các địa
phương ven biển lạm dụng khai thác nước ngầm để lấy nước ngọt nuôi tôm và canh
tác. Tuy nhiên, biểu hiện “sụt lún” được đề cập trên các báo Đảng khu vực ĐBSCL là
không đáng kể. Tương tự, BĐKH cộng với khai thác thủy sản theo kiểu “tận diệt” là
nguyên nhân gây nguy cơ mất đa dạng sinh học cho môi trường, nhưng biểu hiện này
chỉ được đề cập ở 15 bài trong 2,5 năm khảo sát của cả 03 tờ báo.
Dự báo là nhóm thông tin quan trọng và có ý nghĩa đối với đời sống của người
dân. Trong tình hình diễn biến của thời tiết bất thường do BĐKH, việc cảnh báo kịp
thời và chính xác sẽ giúp công chúng có những biện pháp kịp thời để ứng phó, giảm
nhẹ những tác động tiêu cực do BĐKH gây ra. Tăng cường năng lực dự báo, cảnh báo
sớm thiên tai và các điều kiện khí hậu, thời tiết cực đoan cũng là một trong những
nhóm giải pháp trọng tâm mà Kế hoạch quốc gia thích ứng với BĐKH giai đoạn 2021 -
2030, tầm nhìn đến năm 2050 do Chính phủ ban hành, có đề cập. Tuy nhiên, nội dung
dự báo về BĐKH xuất hiện không nhiều trên các báo khảo sát, chỉ với 14.1%. Nhóm
nội dung này được đăng trên báo CT nhiều hơn so với báo AG và báo CM. Các dự báo
có xu hướng viết về quá trình diễn biến, tác động của thiên tai và dự báo trong tương
lai gần, khung thời gian đưa ra các dự báo ừ 10 ă chiếm tỷ lệ cao nhất
là 68.3%., một số ít đề cập đến khung thời gian xa hơn, như ừ 11 20 ă
(2.4%), ừ 21 40 ă (2.4%) và ơ 40 ă (4.9%). Ngoài ra, có 22% số
thông điệp đề cập đến thông tin dự báo về BĐKH nhưng không đề cập thời gian cụ thể.
73
Kết quả phân tích nội dung cho thấy, thông điệp dự báo, cảnh báo về BĐKH
thường đi liền sau các thông tin về diễn biến của BĐKH; đặc biệt là các tin, bài dự báo
tình hình trước hoặc trong và sau thời gian diễn ra các thiên tai. Tiêu biểu như thời
điểm cơn bão Tembin tấn công nhiều quốc gia khu vực Đông Nam Á vào tháng
12/2017, dự kiến sẽ đi vào Nam bộ của Việt Nam, cả 03 báo trong diện khảo sát đều
đưa ra các thông tin cảnh báo sớm, chi tiết về cường độ, hướng đi, phác thảo các kịch
bản có khả năng xảy ra và các lĩnh vực tác động… Từ các cảnh báo đó, các địa phương
trong vùng đã chủ động thực hiện các giải pháp phòng, chống nhằm giảm thiệt hại của
bão đến mức thấp nhất. Cảnh báo về các điểm có nguy cơ sạt lở, hoặc dự báo diễn biến
của các yếu tố thời tiết cũng là những thông tin có ý nghĩa thiết thực, không chỉ đối với
đời sống người dân mà còn với công cuộc phòng chống thiên tai của cả xã hội. Nhìn
chung, trong một số bài viết, các tác giả đã khai thác được lợi thế của thể loại báo in
trong việc đưa thông tin dự báo chi tiết, có hệ thống, giúp cho các thông tin rõ ràng, dễ
hiểu, giúp cộng đồng nâng cao ý thức cảnh giác, chủ động bảo vệ tính mạng và tài sản
của mình. Mặc dù đại đa số các thông điệp dự báo về BĐKH (96.1%) là tiêu cực, một
số bài viết (3.9%) đã chỉ ra được những yếu tố khả quan, tích cực trong việc vận hành
của các yếu tố khí hậu.
“T p ỏ ù ể T ỏ P ề b ổ
ă 2015 ộ ớ ơ b ữ ỷ XIX 1,30C ữ ấ ằ ỉ 0 9-10C.
(…) M ộ ò ớ ĩ
ớ ặ ắ ơ “ ữ ộ ể
ộ ọ ” ớ ờ ớ ể
ỏ . (Báo CT ngày 21/9/2017 “BĐKH ạ ờ ĩ”)
Không thể phủ nhận BĐKH diễn biến nhanh theo hướng chú yếu là tiêu cực,
đòi hỏi phải cảnh báo để “thức tỉnh” cộng đồng. Tuy nhiên, những đánh giá hiện trạng,
dự báo phải chính xác, đa chiều chứ không phải chỉ nhấn mạnh, đào sâu các nội dung
tiêu cực. Việc ứng phó với BĐKH đã được triển khai nhiều thập kỷ, công chúng cũng
thấy được thành quả chứ không phải tất cả nỗ lực đều không mang lại ý nghĩa. Những
thông tin tiêu cực lan tỏa rộng sẽ tác động xấu đến cảm xúc của người tiếp nhận, thậm
chí trở thành tâm lý đám đông, có thể dẫn đến những hành động tiêu cực bột phát. Nếu
74
tiếp xúc trong một thời gian dài, có thể làm thay đổi nhận thức của người tiếp nhận
theo hướng tiêu cực. Vì thế, nghiên cứu thông tin dự báo đúng - trúng và chú trọng các
thông tin tích cực để tác động kích hoạt thái độ, hành động mang tính xây dựng của
công chúng nhằm ứng phó với BĐKH cũng là nội dung mà báo Đảng khu vực ĐBSCL
cần chú trọng hơn trong thời gian tới.
- Nguồn tin và phạm vi của các biểu hiện
Kết quả khảo sát đối tượng cung cấp các thông tin về biểu hiện của BĐKH được
đề cập đến nhiều nhất là ý (các cán bộ, công chức đang làm việc trong chính
quyền và các tổ chức, cơ quan Nhà nước) với 47.3%. Ngoài ra, những thông tin được
cung cấp bởi T p ể ( ơ ) với 16.4%; ọ là 13.4% và đối
tượng được đề cập đến ít nhất là ờ , chỉ 11.9%.
Trong tổng số 943 bài viết có đề cập đến biểu hiện BĐKH, có đến 255 bài
không nói cụ thể nguồn thông tin, tương đương với 19,8%. Đó là các bài viết mà
phần nguồn tin được thể hiện chung chung, như: “T ă ”, “Theo
thông tin mà ú ắ ”, “T ” hoặc không
ghi nguồn tin.
Thực tế cho thấy, các thông tin về biểu hiện của BĐKH được cung cấp bởi nhà
quản lý, nhà khoa học thường là các thông tin số liệu, thống kê, dự báo... mang tính
khoa học, trong khi các ý kiến của người dân chủ yếu là mô tả, cảm nhận, ước chừng.
Điều này do báo chí chưa chú trọng điều tra thông tin định lượng. Mặc dù vậy, các
thông tin được cung cấp bởi người dân lại tạo sự gần gũi, tin cậy bởi hầu hết nguồn tin
đều được cung cấp bởi những người trực tiếp chứng kiến, trải nghiệm.
“B T K C ở 3 p ờ T P ớ ớ ạ : “Lú
ù 10 ổ 20 ổ ă ơ bỗ ộ
3 ẹ ù ă ơ C ú ớ ớ ớ ò
ớ T b ò ớ ấ b bơ ờ
bơ ỏ ẹ ” (Báo CT ngày 18/10/2017 “Thiên
tai và nhân tai”).
“B p ề ă ò b
b B p ụ ấ ộ ỉ
ã ở ấ b ề úp ỡ ờ ẩ ấp C
75
ờ ạ ừ ừ ạ …” (Báo AG ngày 24/4/2017 “Vụ ạ ở
ở V N ễ b p ạp”)
Phạm vi xảy ra các biểu hiện về BĐKH được đề cập trong bài viết đại đa số là
trong nước, chiếm 83% tổng số thông điệp có đề cập. Trong đó, chủ yếu là tại địa
phương nơi báo hoạt động, khu vực ĐBSCL (14.2%) và trên toàn nước Việt Nam
(5.0%). Đối với 11.5% thông điệp có đề cập đến các diễn biến BĐKH xảy ra ở nước
ngoài, các thông điệp đề cập đến phạm vi Tiểu vùng sông Mê Kong (0.2%); Đông
Nam Á (0.5%); châu Á (2%) và các nước khác trên thế giới (8.8%).
Mặc dù tất cả các báo đều có “ưu tiên” thông tin về địa bàn, tuy nhiên phạm vi
phản ảnh là chỉ báo có sự khác biệt rõ giữa các tờ báo khảo sát. Toàn bộ báo CM không
có bài viết về diễn biến BĐKH ở nước ngoài mà chỉ phản ảnh diễn biến của BĐKH
trong nước, chủ yếu là tại Cà Mau (96,7%). Trong đó, 40.1% thông điệp phạm vi phản
ảnh đến xã/phường và 67.5% thông điệp đến quận/huyện. Trong khi đó, Báo CT chỉ có
35,9% phạm vi trong thành phố; 35,3% thông điệp về biểu hiện của BĐKH có phạm vi
phản ảnh là các địa phương khác trong khu vực ĐBSCL và cả nước, 15,2% số bài báo
đề cập đến diễn biến của BĐKH ở nước ngoài. Tỷ lệ này ở Báo AG lần lượt là 61,5%,
19,2% và 10,5%. Các chỉ báo này phụ thuộc nhiều vào đối tượng công chúng mà các tờ
báo hướng đến. Với báo CM và báo AG, đối tượng công chúng của báo là người dân
trong tỉnh thì với báo CT “ ú
ú ọ ờ ớ ờ TP C T ơ ừ b ớ
ớ ớ ờ ĐBSCL” (PVS -M6). Bên cạnh đó, cơ cấu tổ chức tòa soạn của
Báo CT có Ban Quốc tế, làm nhiệm vụ dịch thuật trực tiếp các tin tức từ báo quốc tế
tiếng Anh sang tiếng Việt nên thông tin quốc tế trên các lĩnh vực, bao gồm thông tin về
BĐKH, đăng tải trên báo CT nhiều hơn so với các báo trong khu vực.
Thông tin về diễn biến của BĐKH, yếu tố thời sự, cập nhật có ý nghĩa quan
trọng để người dân chủ động phòng trách, giảm thiểu những hậu quả, thiệt hại do
BĐKH gây ra. Vì thế, các thông điệp về biểu hiện của BĐKH thường xuất hiện ở các
tin bài thời sự trong kỳ báo xuất bản liền sau khi xảy ra sự kiện. Mốc thời gian xa hơn
thường xuất hiện trong các bài phân tích chuyên sâu cần đánh giá lại diễn biến BĐKH
nói chung hoặc của biểu hiện cụ thể của BĐKH.
Như vậy, biểu hiện của BĐKH là nội dung xuất hiện nhiều nhất trong số 04 nội
dung được khảo sát. Các báo đều quan tâm đưa tin kịp thời và phản ánh đúng thực tế
76
khách quan các biểu hiện của BĐKH nhằm cảnh báo, giúp người dân có những hoạt
động ứng phó kịp thời. Tần suất các biểu hiện BĐKH được đề cập cũng phù hợp với
diễn biến và tần suất xuất hiện của của các biểu hiện này trong thực tế tại ĐBSCL thời
gian gần đây; chú trọng nhiều vào tình trạng sạt lở bờ sông và xói lở bờ biển, tình trạng
hạn hán, xâm nhập mặn… ngày càng nhiều và nguy hiểm, ảnh hưởng lớn đến cuộc
sống của người dân cũng như sự phát triển KT-XH của cả khu vực.
Tuy nhiên, thông tin về biểu hiện chủ yếu là mô tả diễn biến, ít có các thông tin
có tính nghiên cứu, dự báo để người dân có thể chủ động phòng ngừa. Bên cạnh đó,
trong khi báo chí khá “ưu ái” cho các biểu hiện dễ nhận diện bằng mắt thường và gây
hậu quả trực tiếp, tức thì, vẫn còn một số biểu hiện BĐKH gây tác hại nghiêm trọng
nhưng âm thầm, như sụt lún, mất đa dạng sinh học… ít được phản ảnh. Điều này sẽ
khiến việc người dân chậm nhận thức nguy cơ từ các biểu hiện này của BĐKH, vì thế
việc điều chỉnh hành vi nhằm giảm nhẹ tác động tiêu cực của các biểu hiện này cũng ít
khả thi.
2.2.2. Thông điệp về tác động của biến đổi khí hậu
Qua thống kê có 64.6% (833) bài báo có đề cập đến tác động của BĐKH. Tỷ lệ
xuất hiện các bài viết có đề cập đến tác động của BĐKH trên 3 đầu báo không có sự
chênh lệch lớn, dao động từ 61.7% - 74.6%. Cao nhất là báo CM, có gần 75% bài có đề
cập đến hậu quả của BĐKH. Tỷ lệ này ở báo AG và báo CT là 62.1% và 61.7%.
- T ộ
Không thể phủ nhận những tác động của BĐKH đến môi trường và an sinh đa
số là bất lợi. Tuy nhiên, theo các nhà khoa học “N ề ã ỉ
ằ BĐKH ũ ữ ở C ẳ ạ ấ
p ớ b ạ ữ ộ ũ ẽ ữ
ù ộ T ấ p ể ổ ơ ấ
ù ụ BĐKH p p ỹ ỡ ể ấ
ữ ặ , ấ ơ b ể ”
[PVS-M2]. Tuy nhiên, số lượng bài có nói về những tác động tích cực của BĐKH rất
ít, chỉ 6 bài (0.7%) gồm 1 bài của báo AG, 1 bài của Báo CT và 4 bài của báo CM.
Thông tin định tính cho thấy, dù ít, các bài viết mang thông điệp tích cực về
BĐKH là những “mảng sáng” hiếm hoi rất đáng để đọc, với những phân tích khoa học
77
và câu chuyện ứng phó hiệu quả với BĐKH từ thực tiễn cơ sở. Điển hình như phóng sự
“Lú ù ổ ” đăng trên báo AG ngày 3/2/2017, kể lại chuyện người dân ở hai xã
Vĩnh Phước và Lương An Trà ở huyện Tri Tôn - An Giang, khôi phục giống lúa mùa
nổi. Bài viết đưa ra nhiều thông tin khoa học về đặc tính của giống lúa và hiệu quả thực
tiễn ứng dụng canh tác lúa mùa trong điều kiện lũ lụt ngày càng gia tăng do tác động
của BĐKH ở ĐBSCL. “Đấ ú ù ổ ỡ ờ
b ắ p ù ừ ũ ấ ữ ơ p ừ p ” còn là
nơi trú ngụ của hơn 150 loài tảo và cá đồng, “ úp b ạ ọ
ù ĐBSCL”. Với góc nhìn này, lũ lụt không phải là trở ngại mà còn mở ra một
hướng làm kinh tế “ ề ” hứa hẹn nhiều tiềm năng.
Trong bài “Lũ - ấ ” (Báo CT ngày 31/8/2018), tác giả khẳng
định lũ tăng cao là do tác động của BĐKH, tuy nhiên “ ổ ể
bằ ấ ề ”
“T ấ , ă ũ ú ể qua
T ẽ ă ạ ặ ắ ở ù b ể Bở ớ ặ ọ
ù b ể ĐBSCL bằ ữ b ể ớ
b ể ấ ớ ẩ ặ K ạ ặ
ù p ă ặ b ể ò
ụ ộ ấ ò ớ b ể b ể
ớ ẽ p p ú ơ Đ ấ ớ
T ũ ề ộ ớ p ù ớ ỡ
ọ ể b ỡ ấ ă ú ẽ ú ù ơ p p
b ừ P ù ề ề ũ ẽ b ắp bờ bờ b ể ạ ở.
T b ữ ă ũ ớ ò ớ ạ ể ề
ớ C ă ẽ ề ề ơ ữ ă ũ ấp C ơ ẽ
ạ ở bờ bờ b ể ĐBSCL
T ũ ề ộ ớ T ớ ũ ấ
ề ừ p ề p ặp ữ p
ũ ẽ ă ở ấ ắ è b
C ò ọ ớ ờ bằ C
p ỡ ọ ờ ấ ờ
è p ấ .” “Lũ - ấ ” (Báo CT ngày 31/8/2018)
78
Hình 2.1: Các bài viết về tác động tích cực của BĐKH trên báo Đảng
khu vực ĐBSC
Trong “H ở ụ ú ” (Báo CM ngày 5/9/2018), tác giả đã chỉ ra việc
mùa mưa năm rồi kết thúc trễ, năm nay đến sớm bất thường lại thuận lợi cho những
nông hộ thực hiện mô hình lúa ngắn ngày kết hợp với nuôi tôm trên đất phèn mặn, vì
“ ạ ề ờ ử ặ ạ ấ ể ”.
Trong “B ơ ộ ” (Báo CM ngày 28/6/2019), tác giả khẳng định:
Nếu biết khai thác hợp lý tiềm năng tài nguyên, thực hiện những giải pháp ứng phó phù
hợp, đồng bộ thì không chỉ “ b ớ ” mà địa phương còn có
thể tận dụng các tác động của BĐKH thành cơ hội để làm giàu.
Trái với những bài viết ít ỏi về các khía cạnh tích cực, có đến 78,6% số thông
điệp về BĐKH nói về những tác động tiêu cực đến đời sống của con người. Kết quả
này cho thấy sự mất cân đối nghiêm trọng giữa các thông điệp tiêu cực và tích cực, bởi
“T p ạ ạ “ ù ọ ” ớ ớ
ể ổ ở N ỉ ử ụ p ạ ề
lâu ể ấ ” [44, tr.89]. Bên cạnh đó, để mô tả hậu quả của
BĐKH, rất nhiều từ ngữ tiêu cực nặng nề đã được các tác giả sử dụng, như “kinh
hoàng”, “tàn phá”, “tồi tệ hơn chúng ta nghĩ”. Trong khi nhiều nghiên cứu khoa học đã
chỉ ra “ngôn ữ BĐKH “ ã '' é
ể p ú ẩ ổ '' [118]. Ở Việt Nam mà cụ thể là
ĐBSCL, một số nhà khoa học đã khuyến cáo rằng tình trạng “hù dọa” quá mức hơn là
gợi mở các giải pháp đã khiến cho “N ề ờ ề BĐKH
ộ ờ BĐKH ạ
79
ấ ử ờ ớ ; ũ ờ ằ BĐKH
ộ ổ ” (PVS-M5).
- C ĩ ở bở BĐKH ề p
b
Với số lượng đáng kể, thông điệp về hậu quả của BĐKH đã phản ảnh bức tranh
khá toàn diện và rõ nét về tác động tiêu cực của BĐKH đến các lĩnh vực của đời sống
an sinh; từ tính mạng, sức khỏe của con người đến kinh tế, công ăn việc làm, môi
trường sống... Số liệu thống kê cho thấy, các thiệt hại về vật chất như nhà cửa, đường
sá, đê điều, tiền (thu nhập, doanh thu, giá trị thiệt hại…) là các yếu tố được đề cập
nhiều nhất (53.1%). Đặc biệt, giá trị thiệt hại sau một vụ việc hoặc một khoảng thời
gian nhất định thường được các ngành chức năng hoặc chuyên môn tổng hợp trong các
báo cáo có thể giúp người đọc hình dung ngay hậu quả, được xem là thông tin quan
trọng và thường được đề cập đến trong các thông điệp về hậu quả của BĐKH. Như:
“T ă 2018 ớ ã ổ ấ 84 8 ỉ USD 10 ọ
BĐKH ũ ụ ắ bấ ờ ” (Báo CT
ngày 29/12/2018 “T ớ ổ ấ 85 ỉ USD 10 ọ ”).
“T ă 2017 V N ạ 59 300 ỷ
ạ ừ ” (Báo CT ngày 4/1/2018
“ĐBSCL - Q ạ p ể p ù p p BĐKH”).
Là “vựa lúa” quốc gia, nên những tác động của BĐKH đến lĩnh vực ọ -
ă rất được báo chí ĐBSCL quan tâm, đứng thứ 2 trong danh sách với tỷ lệ
41.1%. Không chỉ nêu chung chung các số liệu và tập trung vào sản xuất lúa, nhiều tin,
bài đã thông tin chi tiết, kịp thời những tác động của BĐKH đến nhiều lĩnh vực canh
tác, như: “N ấ ở ớ b ổ ” (Báo AG
2/4/2028) “T ạ ớ ” (Báo CM 2/5/2017)… Những thông tin này
có ý nghĩa rất quan trọng đến sự ổn định và phát triển kinh tế của cả khu vực. Những
lĩnh vực khác như tác động của BĐKH đến các ngành sản suất - kinh doanh; Tinh thần
của con người; Hệ sinh thái/đa dạng sinh học cũng được đề cập nhưng tỷ lệ thấp hơn,
lần lượt là 13.9%; 12.6% và 8.4%.
Sức khỏe, tính mạng của con người cũng được đề cập nhiều trong những thông
điệp về tác động của BĐKH, với tỷ lệ 27,9%. Đặc biệt, các thông tin về sinh mạng con
người thường được các báo đưa lên đầu bài viết hoặc rút thành tít bài tạo ấn tượng
80
mạnh mẽ, bởi có thể khiến công chúng bàng hoàng, cảm nhận được hậu quả, thiệt hại
to lớn của BĐKH, như: “Hơ 200 ờ ạ bã T b ở P pp ”
(Báo AG 25/12/2018); “72 ờ ũ ạ ở ấ ” (Báo AG 17/10/2017)
“M ũ ã 20 ờ 12 ờ b ấ ” (Báo CT ngày 12/10/2017); “Hơ
200 ờ ạ ở ấ ạ CNDC C ” (Báo AG 21/8/2017). Tuy nhiên,
trong khi các báo rất quan tâm thông tin số lượng người thiệt mạng, bị thương… trong
các vụ việc do BĐKH gây ra, thì thông tin về những tác động âm thầm của BĐKH đến
sức khỏe con người lại rất ít dù thực tế cho thấy BĐKH làm gia tăng vật trung gian gây
bệnh, gia tăng bệnh tiểu đường tuýp 2, các vấn đề hô hấp và đột quỵ, các vấn đề sức
khỏe tâm thân và tác động xấu đến hành vi con người. Điều này sẽ khiến cho “
ề ữ ạ BĐKH ờ ờ ở ộ ơ ấ
ắ ổ ừ ạ ở p ơ p
” (PVS -M4).
Về phạm vi tác động của BĐKH, các bài báo chủ yếu đề cập đến phạm vi trong
nước (71.1%), cao hơn gấp 8 lần so với khu vực ở ngoài nước (8.6%). Trong đó, thông
điệp đề cập đến phường, xã là 36%. Báo CM là tờ báo đề cập đến những hậu quả của
BĐKH đến tận phường/ xã, quận/huyện nhiều nhất nhưng cũng là tờ báo duy nhất
không có bài báo nào đề cập đến hậu quả của BĐKH ngoài phạm vi lãnh thổ. Các
nhóm đối tượng bị ảnh hưởng bởi BĐKH trên báo Đảng khu vực ĐBSCL cũng tập
trung chủ yếu là người dân ở địa phương.
Nghiên cứu định tính cho thấy, thông điệp đề cập đến người nghèo, phụ nữ và
trẻ em - đối tượng yếu thế đang là nạn nhân của BĐKH thường thể hiện bằng những
thông điệp đậm đà cảm xúc, tạo được ấn tượng mạnh mẽ, sâu sắc cho người tiếp nhận
thông điệp. Trong “V X ” (Báo CM ngày 31/3/2017), tác giả viết:
“C p V X ơ ă
ú ạ B p ò ể “ ý ở ” T ú L K C ờ
T ạ p b : Tộ p ấ ắ ề ũ ạ ạ ỡ
T ạ b p ò V X b ể ấ ớ ỉ 30
ò ỏ S ă é ấ ọ bỏ ọ
bọ ẻ V ở ấp ấ : “C ở ọ ú ổ
ớp 5 ớp 7 ỉ ” Đấ ở B ể ạ Mỗ ă V
81
X ù ộ ú ĩ ĩ b Ô T ở ấp : “K ể
b ù ớ ”
“N ữ ộ ử b ể ă ộ ộ è C è b
ờ ờ Sạ ở ắ ở ú ắ ổ ắ
V ù è ỗ ớ ụ ớ
ừ bắ C ộ b ừ b b ể ă ” H ớ b b ể
ừ C ộ ă ọ p ở
ọ E N B T ề ấp K Nă 12 ổ ớ ọ ớp 3 bỏ ọ
E ẻ: “Tạ è ề ọ ỉ N ỉ ọ ấ
b ớ ở ạ ớp ọ ” (Báo CM ngày 29/5/2019 “Sớ ờ
ộ ở ử b ể ”).
Nghiên cứu của Cơ quan LHQ về bình đẳng giới và trao quyền cho phụ nữ (UN
Women), công bố năm 2020, phụ nữ và trẻ em là những người dễ bị tổn thương gấp 14
lần so với nam giới trong các thảm họa thiên nhiên dưới tác động tiêu cực từ BĐKH.
Nguyên nhân do có sự chênh lệch về cơ địa, sức khỏe so với nam giới. Đặc biệt là với
phụ nữ, vai trò giới đã đặt ra cho họ cái trọng trách làm vợ, làm mẹ; chưa kể một số
người còn đang đảm đương hoặc đang chia sẻ cùng người đàn ông trách nhiệm gánh
vác gia đình nên khả năng bị tổn hại còn tăng cao hơn [84]. Thực tế, những đợt áp thấp
nhiệt đới, nắng nóng kéo dài hay mưa lũ bất chợt, số lượng phụ nữ và trẻ em nhập viện
lúc nào cũng gia tăng đột biến so với nam giới. Mưa dầm hoặc triều cường không chỉ
ảnh hưởng sức khỏe mà còn tác động đến thu nhập, kinh tế của những người phụ nữ
“mua gánh bán bưng”, khiến cho việc đến trường của trẻ em gặp khó, trẻ em nghèo
phải phụ gia đình mưu sinh thì càng vất vả, cơ cực bội phần… Tuy nhiên, những bài
phân tích về những tác động của BĐKH đến sức khỏe thể chất và tinh thần của Nhóm
yếu thế (trẻ em, phụ nữ, người già) trên mặt báo lại rất ỏi, chỉ có 1.6%. Bên cạnh đó, sự
hiện diện của phụ nữ ở vị trí ra quyết định và hành động BVMT, ứng phó BĐKH là rất
quan trọng nhìn từ quan điểm về quyền bình đẳng và cũng là hành động chiến lược để
giải quyết BĐKH. Tuy nhiên, hình ảnh những người phụ nữ xuất hiện trong bài viết
thường là nạn nhân, than thở, ca thán về những tổn thất do thiên tai. Việc phản ánh như
thế vô hình trung tạo ra sự bất bình đẳng có thể dẫn đến cái nhìn thiên lệch của công
chúng về trách nhiệm, vai trò của người phụ nữ trong ứng phó BĐKH.
82
Như vậy, qua khảo sát cho thấy các bài viết về tác động của BĐKH được các
báo Đảng khu vực ĐBSCL chú trọng triển khai thực hiện và đăng tải với tần suất cao.
Tuy nhiên, đại đa số nhìn nhận BĐKH là một vấn đề tiêu cực, còn mặt tích cực của
BĐKH thì rất ít đề cập. Thông điệp chủ yếu phản ảnh những tác động của BĐKH đến
đời sống và sự phát triển bền vững của địa phương, với đối tượng gánh chịu hậu quả
chủ yếu là người dân trên địa bàn. Các lĩnh vực được đề cập khá đa dạng, tuy nhiên
nhiều nhất vẫn là các hậu quả có thể quan sát, đặc biệt là các yếu tố vật chất như nhà
cửa, đường sá, đê điều, tiền, mùa màng, số người bị thương hay thiệt mạng… chứ ít tập
trung làm rõ những hậu quả tâm lý, tác động về sức khỏe lâu dài của BĐKH đối với
con người. Cũng vậy, các đối tượng yếu thế như trẻ em, người già, phụ nữ và người
nghèo - là đối tượng chịu nhiều tác động - cũng ít được đề cập trong các thông điệp về
tác động của BĐKH.
2.2.3. Thông điệp về nguyên nhân của biến đổi khỉ hậu
Thông điệp về nguyên nhân của BĐKH là một trong những nội dung quan trọng
của truyền thông về BĐKH. Vì nêu rõ nguyên nhân với những phân tích sâu sắc, khoa
học, từ các nguồn tin có độ tin cậy cao sẽ giúp công chúng nhận thức đúng đắn về lý do
khiến cho BĐKH ngày càng nhanh; có tác dụng “cảnh tỉnh”, giúp công chúng rà soát
và điều chỉnh hành vi của mình. Ngược lại, thông tin qua loa, hời hợt trên nền tảng tư
duy định kiến của tác giả hoặc từ các nguồn không đáng tin cậy sẽ dẫn đến những hiểu
lầm về BĐKH, hoặc kém thuyết phục công chúng truyền thông. Tuy nhiên, thông tin
về nguyên nhân của BĐKH đòi hỏi tính chuyên môn cao, không phải ai cũng có thể tùy
tiện đưa ra nhận định mà thường được phát ngôn bởi những người am hiểu như những
chuyên gia, nhà khoa học. Bên cạnh đó, quá trình phân tích, mổ xẻ, lý giải nguyên nhân
của các biểu hiện BĐKH đòi hỏi sử dụng nhiều thuật ngữ khoa học khô khan và không
dễ hiểu, buộc các nhà báo phải thấu hiểu vấn đề và có khả năng diễn đạt bằng từ ngữ
đại chúng, gần gũi nhưng chính xác. Vì thế, thông tin về nguyên nhân của BĐKH là
nhóm nội dung ít được đề cập trong các bài viết về BĐKH. Trong 1.290 bài báo mang
thông điệp về BĐKH được khảo sát, thông điệp lý giải nguyên nhân của BĐKH chỉ
chiếm 14,1%, với 182 bài báo. Trong đó, số lượng các bài báo có đề cập đến nguyên
nhân của BĐKH trên báo CT là 19.3%; báo AG 9.6%, báo CM đạt 13.6%.
14.1
Có đề cập Không đề cập
85.9
83
Biểu đồ 2.3: Tỷ lệ các bài viết có đề cập đến nguyên nhân của BĐKH
(N : K b AG, báo CM và báo CT ừ 2017 6/2019)
Bên cạnh yếu tố vận động của môi trường tự nhiên, có đến 95% hoạt động của
con người phải chịu trách nhiệm trước vấn đề nóng lên toàn cầu. Chủ yếu là do khai
thác tài nguyên thiên nhiên quá mức, sử dụng quá nhiều các nguyên liệu hóa thạch như
than, dầu, khí đốt; nuôi một lượng lớn các loại động vật thải ra lượng lớn khí mê-tan và
chặt phá những cánh rừng làm giảm sự hấp thu khí carbon dioxide từ không khí một
cách tự nhiên... [117]. Chính vì thế, nội dung về nguyên nhân của BĐKH thiết kế trong
bộ mã được xây dựng thành 2 nhóm chính: Nhóm nguyên nhân do con người, bao gồm
H ạ ộ ờ ; H ạ ộ ấ
ờ ở ờ ; H ạ ộ ạ ờ Nhóm
nguyên nhân do tự nhiên, gồm S ổ ề S ổ
ề ờ và Nộ
Kết quả khảo sát cho thấy, đa số các bài viết lý giải nguyên nhân của BĐKH là
các bài viết có nội dung đề cập về chủ đề BĐKH và thường đề cập đến chuỗi nguyên
nhân hơn là chỉ đề cập một nguyên nhân riêng lẻ. Trong đó, nhóm nguyên nhân do con
người được đề cập nhiều hơn. Nguyên nhân H ạ ộ ấ ờ
ở ờ có tần suất xuất hiện nhiều nhất, tỷ lệ là 78%; H ạ ộ
khai thác tài nguyên ờ là 48.9%; H ạ ộ ạ
ờ 15 9%. Nhóm nguyên nhân do tự nhiên, nội dung S ổ ộ
ờ tần suất xuất hiện là 46.2%. Nguyên nhân do S
ổ ề chiếm 24.2%.
Mặc dù nguyên nhân do con người được nhắc đến khá nhiều, tuy nhiên ít có
thông điệp nào “chỉ mặt, đặt tên” cho các nhóm người ở địa bàn cụ thể. Thay vào đó,
bài viết không đề cập đến đối tượng thực hiện hành vi hoặc mô tả bằng các danh từ
84
chung chung “con người”, “nông dân”… Vì thế, khó có thể khiến cư dân nhận thức
hành vi của mình để điều chỉnh cũng như tạo dựng được luồng dư luận xã hội nhằm lên
án các hành vi sai trái, vi phạm pháp luật, ảnh hưởng tới môi trường, đời sống xã hội.
Việc nêu nguyên nhân theo kiểu chung chung, nửa vời, thậm chí suy diễn, áp đặt… còn
khiến người dân ngộ nhận, dẫn đến nhận thức sai lầm về nguyên nhân của BĐKH.
Điển hình như việc khai thác cát không phải lúc nào cũng là nguyên nhân gây sạt lở bờ
sông, có nhiều trường hợp phải hút lớp bùn, cát, sỏi để nạo vét lòng sông nhằm thông
luồng, khơi thông dòng chảy cho tàu thuyền tải trọng lớn qua lại thuận tiện. Nhưng
dưới lăng kính báo chí, trong đó báo Đảng khu vực ĐBSCL cũng không ngoại lệ, cụm
từ “khai thác cát” “cát tặc”… luôn đi liền với nguyên nhân sạt lở đã khiến nhiều người
mặc nhiên cho rằng khai thác cát là sẽ gây sạt lở, chứ không nghĩ đến mặt tích cực của
nó. Thậm chí, người dân tìm cách ngăn chặn khi chính quyền thi công công trình hút
bùn cát thông luồng, khiến ảnh hưởng đến an ninh trật tự và thực hiện các mục tiêu
phát triển của địa phương. Bài báo “Vụ ờ Tấ Mỹ ă ặ p
: T ã ổ ”, đăng trên Báo AG ngày 30/5/2017, phản ảnh việc
người dân ở ấp Tấn Mỹ, huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang quyết liệt ngăn chặn đơn vị thi
công hút bùn cát thông luồng ở khu vực cồn Cũ, đã cho thấy thực trạng đáng buồn này.
Vai trò của báo chí không chỉ là phản ánh đời sống xã hội qua việc thông tin
nhanh những sự kiện và vấn đề thời sự, mà còn ở việc cung cấp thông tin định hướng
nhận thức công chúng. Những thông điệp từ báo chí tác động vào hàng triệu người sẽ
chi phối, kêu gọi, thúc đẩy, tổ chức họ tham gia giải quyết các vấn đề đang đặt ra. Điều
này được nói đến trong lý thuyết truyền thông can thiệp xã hội. Chính vì thế, có những
sự việc, vấn đề báo chí cần gắn thông tin, giải thích và bình luận bình luận, tiếp cận đa
chiều và có cơ sở khoa học để công chúng nhận thức một cách sâu sắc, từ đó có giá trị
gợi mở nhận thức.
Trong khi nguyên nhân do con người thường được đề cập một cách chung
chung, cố tình làm cho “nhẹ” đi, thì nhiều bài viết lại lý giải nguyên nhân của BĐKH là
do sự thay đổi của các yếu tố thời tiết, hay nói cách khác là do… chính nó.
“Nguyên nhân độ mặn tăng lên do mực nước biển tăng làm hiện tượng xâm
nhập ngày càng tăng nhanh ấ ạ ộ b TP C T ơ”
(Báo CT ngày 11/1/2018 “Tă ờ b p ặ ù ).
85
“Đặ b do ảnh hưởng gió mùa Đông Bắc kết hợp với triều cường
dâng cao 48 000 bờ b ể Đ b ạ ở ọ (… ) T
ă nguyên nhân dẫn đến sạt lở là do tác động của dòng chảy ven
bờ và của thủy triều; đặc biệt là tác động của sóng to, gió lớn” (Báo CM ngày
12/5/2017 “X ể ờ ỏ ù ạ ở”).
Theo đó, dường như BĐKH là do các yếu tố thời tiết tác động lẫn nhau và
không liên quan đến con người. Trong khi nhiều báo cáo khoa học đã chỉ ra rằng hành
vi của con người là nguyên nhân chính khiến cho BĐKH diễn ra nhanh như hiện nay.
Như nguyên nhân tình trạng sạt lở bờ biển, theo Bộ Tài nguyên và Môi trường, là “do
; ộ BĐKH ớ b ể ;
ở ; ạ
ể ạ é ạ ; ă é
ạ ử ở ù ử b ể ă ” [12].
Trong một số bài viết, nguyên nhân của BĐKH được nêu một cách hời hợt,
chung chung với những từ ngữ chuyên môn.
“Do sự thay đổi chế độ thủy văn ạ ở bờ ọ
b p ở ấ
bộ ạ ờ ” (Báo CT 2/6/2018 “Cơ ộ p
ớ BĐKH”).
Bên cạnh việc sử dụng thuật ngữ “ ổ ộ ă ” khó hiểu vì
mang tính chuyên môn cao, đáng lẽ cần có thêm lý giải những yếu tố dẫn đến sự thay
đổi này? Đối tượng gây ra sự thay đổi? Hành vi gây ra sự thay đổi?... thì bài báo này lại
không hề đề cập thêm bất kỳ thông tin nào để làm rõ. Thông điệp dù đề cập nguyên
nhân nhưng không cung cấp được nội dung hữu ích, không giúp tác nhân nhận ra và
sửa đổi hành vi.
Nguồn tin là yếu tố đặc biệt quan trọng, quyết định giá trị thông tin và tạo ra uy
tín cho tờ báo. Nguyên nhân BĐKH là thông tin đậm chất khoa học, vì thế thông tin
trích dẫn rõ ràng từ những nguồn đáng tin cậy, có uy tín như các nhà khoa học, các
chuyên gia nghiên cứu về lĩnh vực này sẽ làm tăng tính thuyết phục, giúp thông điệp có
“sức nặng” hơn. Qua khảo sát, thông tin về nguyên nhân của BĐKH được các báo
tường thuật, trích dẫn từ ý kiến của các chuyên gia, nhà khoa học chiếm tỉ lệ cao nhất là
31,9%. Nguồn tin từ ý và p ể ( ơ ơ ) lần lượt là 29.7% và
86
19.1%; nguồn tin từ ờ là 6%. Bên cạnh đó, có đến 28,6% số lượng thông điệp
về nguyên nhân của BĐKH nhưng không đề cập cụ thể nguồn tin hoặc nguồn thông tin
không cụ thể, như:
“Qua tìm hiểu thực tế ạ ữ b ễ ặ
ò ỉ ớ ặ ề ờ ”. (Báo CM 10/5/2019 “N ề ù ọ
ớ ơ ặ ”).
“Ngoài ra, theo các nhà khoa học NO2 ơ
CO2 ấp 300 T ấ p ộ ể N b ấ
b ạ U ặ S p A ã p ă
nhà kính” (Báo AG ngày 31/5/2017 “P b ớ -
ờ ”).
Những ví dụ nêu trên chứa đựng nhiều thông tin là các dữ liệu khoa học. Nếu
nguồn tin, nguồn trích dẫn rõ ràng, cụ thể hơn nữa, bởi những chuyên gia, nhà nghiên
cứu về BĐKH… sẽ tạo thêm sự tin tưởng đối với người đọc, nâng cao giá trị khoa học
cho chính tác phẩm và tăng tính thuyết phục cho thông điệp truyền thông.
Như vậy, nguyên nhân của BĐKH là nội dung ít được đề cập, và đề cập không
xác đáng trong các bài viết về BĐKH trên báo Đảng ĐBSCL. Trong khi một số ít bài
viết phân tích nguyên nhân sâu sắc, thấu đáu, cung cấp nhiều thông tin có giá trị và tác
dụng cảnh tỉnh công chúng, đa số các bài viết nêu nguyên nhân chung chung, hoặc
“đẩy” trách nhiệm về phía các yếu tố tự nhiên chứ ít khi làm rõ vai trò của con người
với loại hành vi cụ thể; nhiều thông điệp về nguyên nhân BĐKH còn nhiều từ ngữ,
cụm từ chuyên môn chưa được phổ thông hoá, gây khó hiểu cho công chúng tiếp nhận.
2.2.4. Thông điệp về giải pháp/ hoạt động thích ứng với biến đổi khí hậu
Thích ứng có thể được hiểu là từ ghép bao hàm hai ý nghĩa thích nghi và ứng
phó. “C ể ể ớ ờ
ữ ộ bấ ỏ ờ ộ ờ ử
ụ ữ ơ ộ ờ ạ ” [46, tr.106]. Kế hoạch
quốc gia thích ứng với BĐKH của Việt Nam xác định 3 nhóm nhiệm vụ, giải pháp
nhằm tăng cường khả năng chống chịu, năng lực thích ứng của cộng đồng, các thành
phần kinh tế và hệ sinh thái BĐKH, cụ thể: Nâng cao hiệu quả thích ứng với BĐKH
thông qua việc tăng cường công tác quản lý Nhà nước về BĐKH. Tăng cường khả
năng chống chịu và nâng cao năng lực thích ứng của cộng đồng, các thành phần kinh tế
87
và hệ sinh thái thông qua việc đầu tư cho các hành động thích ứng, khoa học và công
nghệ, nâng cao nhận thức để sẵn sàng điều chỉnh trước những thay đổi của khí hậu.
Giảm nhẹ rủi ro thiên tai và giảm thiểu thiệt hại, sẵn sàng ứng phó với khí hậu cực
đoan gia tăng do BĐKH.
Những giải pháp trên là cơ sở để tác giả chia thông điệp giải pháp thích ứng với
BĐKH thành 03 nhóm nội dung lớn. Nhóm thứ nhất là các thông điệp đề cập định
hướng, hoạt động thích ứng với BĐKH của hệ thống chính trị các cấp. Nhóm này gồm
các thông điệp về giải pháp thích ứng với BĐKH có nội dung (1) đề cập đến các chủ
trương của Đảng, chính sách của Nhà nước về các giải pháp ứng phó với BĐKH và các
hoạt động chỉ đạo, triển khai, thực hiện các giải pháp mà chủ thể thực hiện là chính
quyền và các tổ chức chính trị (gọi tắt là Chính sách) và (2) các H ạ ộ p
nhằm ứng phó với BĐKH. Nhóm thứ 02 là các thông điệp đề cập đến các giải
pháp thực tiễn để thích ứng với BĐKH, bao gồm việc (3) Ứ ụ bộ ọ
vào công tác ứng phó, thích nghi với BĐKH và (4) N ữ ỹ ă
p được người dân tự đúc kết, chia sẻ. Nhóm thứ 03 là thông điệp đề cập
đến giải pháp mang tính bền vững là (5) G ụ ề nhằm thay đổi nhận
thức và hành vi của con người.
Qua thống kê, thông điệp giải pháp thích ứng với BĐKH đề cập đến Chính sách
chiếm 55.1%; Ứ ụ bộ ọ - 24.6%; G ụ ề -
17.4%; H p - 8.6% và và K /Kỹ ă ú -7.8%. Ngoài ra,
còn có 10 bài viết đề cập đến những giải pháp Khác -1.2%. So sánh giữa các báo khảo
sát, các thông điệp về Chính sách có số lượng vượt trội, các khía cạnh giải pháp còn lại
có sự chênh lệch rõ rệt. Cụ thể như với báo AG, chuyên mục “Cù ”
xuất hiện trong mỗi kỳ báo là “mảnh đất” màu mỡ để Báo AG chia sẻ, hướng dẫn nông
dân ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ vào canh tác trong điều kiện BĐKH, với 116
bài viết đề cập, tỉ lệ 34.6%; trong khi tỷ lệ này ở báo CM là 22.5%, báo CT 30.7%. Ở
báo CM, tỷ lệ các bài viết chia sẻ những kinh nghiệm, kỹ năng mà người dân tự đúc rút
trong thực tiễn canh tác, sản xuất theo hướng thích nghi với BĐKH là 14.8%, cao hơn
gần gấp đôi báo CT (7.8%) và gấp 3 lần báo AG (3.9%). Cần Thơ với ưu thế là thành
phố trực thuộc Trung ương, đô thị loại I, nơi tập trung nhiều trường đại học và trung
tâm nghiên cứu lớn của cả nước, được chọn là nơi tổ chức nhiều hoạt động hợp tác
quốc tế của vùng và khu vực - nên giải pháp thích ứng BĐKH thông qua các hoạt động
88
H p ở Báo CT có tỷ lệ cao (23.5%), gấp nhiều lần so với so với báo AG
(11%) và báo CM (0.9%). Thông điệp về giải pháp ứng phó với BĐKH thông qua giáo
dục, truyền thông nhằm thay đổi hành vi của con người ở Báo CT cũng chiếm tỉ lệ cao
nhất là 38.9%, báo CM là 27.7% và báo AG ít nhất với 13.7%.
Có thể thấy, báo chí không chỉ tuyên truyền các văn bản chỉ đạo, thông điệp từ
các bài viết còn động viên, cổ vũ, khuyến khích... người dân và cộng đồng thực hiện,
cụ thể hóa thành hành động thực tiễn ứng phó với BĐKH.
“C G ờ T ấ ọ ộ ù ổ
ừ ữ ề ỏ ấ : ù ắ ữ b
ò ộ ờ ể ù ộ ơ ộ ờ ắ è Mỗ ộ ỏ ẽ
ý ĩ ớ p p ổ ộ ề BVMT,
ă p ớ BĐKH p p ữ ấ
ớ ỉ ú ò ơ V N
mãi sau này.” (Báo CT ngày 24/3/2017 “H ở G ờ T ấ : Tắ è
b ơ ”).
Không chỉ ở quy mô trong nước, các giải pháp hợp tác quốc tế cũng được
thông tin, phân tích cho thấy sự nỗ lực và quyết tâm của toàn cầu đối với việc thích
ứng với BĐKH.
“BVMT ĐBSCL ỉ b ữ ờ dân sinh
ọ M ò ú ẩ p ể b
Đ N Á T ấ ề ỉ V N ể
ò ỏ
ớ ” (Báo CT ngày 12/5/2017 “C ù ớ V N BĐKH
ễ ờ ”)
Nhóm thông điệp giải pháp về Chính sách xuất hiện nhiều trong các tin thời sự
cũng như đề cập trong các tác phẩm phân tích chuyên sâu… Trong một số tác phẩm,
nội dung đề cập sâu về chủ đề BĐKH thường đưa ra chuỗi các giải pháp, từ giải pháp
vĩ mô đến việc triển khai cụ thể trong thực tiễn đời sống. Đặc biệt, thông điệp về những
kinh nghiệm từ thực tiễn ứng phó với BĐKH, dẫu không nhiều, nhưng có ý nghĩa, bởi
nó chỉ ra những bài học từ thực tiễn sống động, thể hiện sự lao động nghiêm túc của
người làm báo và có tính ứng dụng cao bởi đã được kiểm chứng từ thực tế. Các thông
điệp này góp phần tạo dựng lại niềm tin với phương châm sống “thuận thiên” nếu con
89
người thay đổi và nỗ lực. Đó cũng là đều bài “C ấ b ể ” (Báo CM ngày 19/5/2018)
đem đến cho người đọc. Theo tác giả, cây mắm được xem là những “người lính biên
phòng” canh giữ, bảo vệ đất khỏi bị sạt lở trước sóng to gió lớn. Tuy nhiên, gỗ cây
mắm lại không có giá trị kinh tế nên việc phát triển loài cây tiên phong lấn biển này
không được người dân hưởng ứng. Tuy nhiên, bài toán khó này đã được lão nông Mai
Lam Phương, ở thị trấn Cái Nước, giải thành công với mô hình trồng thanh long
TOCCUOL trên các trụ đỡ là cây mắm mọc trên đất bãi bồi. “Thanh long TOCCUL có
ă p ể ử ụ ắ ù p ặ
ề ụ K ấ ộ
ể ộ ã ắp ù b ể
ở C M N ờ ẽ ắ ừ ấ ở ừ
ụ ể S b ă ạ ẽ p p
ể ạ p ừ p ò ộ b ể ă p ờ ữ
ừ ” (trích từ “C ấ b ể ”).
Hay mô hình làm cầu chống sạt lở ở Cần Thơ: “C b
b ừ 30 - 40 p ớ ụ b ổ
b ĩ ử ă p ò ữ ấ (…) K p
b ỉ bằ 1/3 ớ è bằ ép ề ò ớ è bằ ừ
ộ ừ ơ ơ ộ bề ơ
ẳ ; ờ b ỹ ” (Báo CT ngày 21/3/2017 “C b -
ạ ở ở B T ”)
Như vậy, có thể thấy rằng các thông tin liên quan tới giải pháp thích ứng với
BĐKH được các báo Đảng địa phương rất chú trọng; thông tin đa dạng, phong phú
cả ở phạm vi rộng lẫn phạm vi hẹp; từ các định hướng, chủ trương đến việc triển
khai cụ thể trong thực tiễn. Những thông tin báo chí cung cấp đã giúp cộng đồng
nhận thức được mức độ quan tâm, vào cuộc của hệ thống chính trị trong việc việc
ứng phó với BĐKH.
Tuy nhiên, số lượng thông điệp giải pháp và các bài học hay từ thực tiễn có sức
thuyết phục không nhiều mà chủ yếu dựa vào việc tiếp cận tài liệu, số liệu từ các báo
cáo, hội nghị, hội thảo, dự án…. Ở nhóm 1, các thông điệp về chính sách chủ yếu là
giới thiệu chính sách và mô tả, ca ngợi việc thực hiện chính sách của chính quyền chứ
chưa có nhiều bài viết đào sâu phân tích sự phù hợp hay không của chính sách đó với
90
thực tế địa phương; phản biện đối với các nhà hoạch định nhằm đạt được những chính
sách thông minh, cấp tiến nhằm thích ứng với BĐKH. Trong khi “ ữ
ề BĐKH p p ù
ép… ể ễ ờ ặp ă C
p ữ ớ ắ ơ
ề ẽ úp ă ắ bắ ử ý ấ ề p úp
ể ấ (PVS -M2). Cũng vậy, rất ít những bài
viết chỉ ra được tổ chức và cá nhân còn hạn chế, sai sót trong việc thực hiện các chủ
trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước về thích ứng với BĐKH. Kiểu
viết 1 chiều, khen chứ không chê, né tránh những vấn đề tiêu cực cũng chính là “căn
bệnh” chung của báo Đảng địa phương, trong đó có báo Đảng khu vực ĐBSCL [69].
Bên cạnh đó, nhiều bài viết chú trọng thông tin về hoạt động của cán bộ lãnh đạo hơn
là phân tích thấu đáu về giải pháp để người đọc có thể hiểu và vận dụng.
Bên cạnh việc thông tin theo kiểu “bề nổi” như trên, nhiều thông điệp giải pháp
lại nhấn mạnh số tiền đầu tư hơn là phân tích các cách thức thực hiện để thích ứng với
BĐKH. Nhiều bài viết rút tít, đưa thành “điểm nhấn” đậm nét, như: “A G ề
ỗ 123 ỷ ử ý ẩ ấp ạ ở” (Báo AG 1/5/2017); “G 244 ỷ ắ
p ụ ờ bộ b ạ bã ũ” (Báo AG 7/8/2017); “Hỗ 100 ỷ
ỉ ạ bã ” (Báo CT 1/12/2017), “W B 200 ỉ USD
BĐKH” (Báo CT 4/12/2018); “H U M : T 500 ỷ p ớ BĐKH”
(Báo CM ngày 4/12/2017) “Hơ 130 ỷ D b ừ b ể p ụ
ừ p ặ ” (Báo CM ngày 20/11/2018); “C M 1 100 ỷ
ạ ở ” (Báo CM ngày 5/12/2018)…
Việc thông tin đậm nét hoạt động của lãnh đạo chính quyền các cấp giúp công
chúng nhận ra nỗ lực, quyết tâm của lãnh đạo đối với công tác ứng phó với BĐKH,
nhưng ngược lại nó cũng dễ tạo nên tâm lý ỷ lại, cho rằng đây là việc của chính quyền
chứ không phải là của người dân. Thêm vào đó, những số tiền lớn được nhấn mạnh
khiến người tiếp nhận thông tin có cảm giác rằng việc ứng phó với BĐKH là việc rất
tốn kém mà chỉ có Nhà nước mới có khả năng. Vì thế, lạm dụng những thông điệp này
không khơi gợi, động viên, tạo sức mạnh cỗ vũ để người dân chủ động ra tay.
Thông tin - giáo dục - truyền thông là giải pháp mang tính bền vững để thay đổi
nhận thức, thái độ và hành vi của cư dân nhằm thích ứng với BĐKH. Tuy nhiên, trong
91
nhiều bài viết, các giải pháp này được đề cập rất chung chung, đối tượng không cụ thể.
Điều này sẽ làm giảm hiệu quả truyền thông về BĐKH vì công chúng tiếp thông điệp
khó xác định được cụ thể trách nhiệm của mình.
“Để b ĐDSH ( ạ ọ ) Cụ B
T ĐDSH ằ ă ờ ờ
ớ BVMT b ĐDSH C
ề p BVMT, b ĐDSH ộ
ờ p ể KT-XH; ắ ú ọ ừ
ữ ở p ể ớ
ĐDSH… (Báo CT ngày 24-6-2019 - “N ă ặ ạ
ọ ở V N ”).
“BĐKH ã ộ ạ b ấ ẩ ở A
G ĐBSCL Để ấ p ể ổ
p p p ể Đ ề ể
b p ể bề ữ ” (Báo AG ngày 12/4/2018 “N ấ
ộ ờ ”)
Không ít bài viết kêu gọi thực hiện các giải pháp thích ứng với BĐKH bằng
những cụm từ “C ề p ơ p …” “N ờ …” mà không
nêu cụ thể nhóm đối tượng cần tuyên truyền, giáo dục là những ai, thuộc địa bàn nào,
nên làm như thế nào… Như thế, hoạt động thông tin - giáo dục - truyền thông cũng
chưa đi sâu được vào lòng người, vì coi ứng phó BĐKH là việc chung, không của
riêng ai.
Về phạm vi thực hiện các biện pháp thích ứng với BĐKH, được đề cập nhiều
nhất là thuộc địa phương nơi cơ quan báo chí hoạt động, chỉ 4.5% bài viết đề cập đến
việc ứng phó với BĐKH ở phạm vi ngoài nước, gồm: Tiểu vùng sông Mê Kong
(0.2%); Đông Nam Á (0.3%); châu Á (0.5%) và các nước khác trên thế giới (3.5%).
Như vậy, thông điệp về giải pháp thích ứng với BĐKH có tần xuất xuất hiện
khá cao, qua đó cho thấy những quyết sách, nỗ lực của hệ thống chính trị; cung cấp cho
công chúng những kiến thức, kinh nghiệm quý báu về thích ứng với BĐKH, trong đó
có nhiều kinh nghiệm được hình thành, đúc kết từ thực tiễn… góp phần hun đúc thêm
niềm tin, động lực cho công chúng. Tuy nhiên đa số các bài viết thông tin về các hội
nghị, báo cáo và các hoạt động, chỉ đạo của lãnh đạo về ứng phó với BĐKH hơn là tìm
92
kiếm và giới thiệu các mô hình, cách làm hiệu quả từ thực tế. Các thông điệp về giải
pháp được nêu ra nhằm vận động, giáo dục để người dân hiểu và điều chỉnh hành vi
cho phù hợp còn chung chung, chưa hướng vào các nhóm đối tượng cụ thể, vì thế mà
khó tạo được tác động thay đổi hành vi ở các nhóm công chúng đích như mong muốn.
2.3. HÌNH THỨC THÔNG ĐIỆP BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU TRÊN BÁO ĐẢNG
ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG
Hình thức thông điệp là cách thông điệp được thiết kế (mã hóa) và là yếu tố
quan trọng để tạo nên giá trị của thông điệp. Tác động của thông điệp không chỉ tuỳ
thuộc vào điều đó nói cái gì (nội dung) mà còn ở cách nói ra sao (hình thức). Để thể
hiện nội dung thông điệp, phải tìm ra giọng điệu, từ ngữ, minh họa… tương thích, giúp
lột tả, biểu đạt nội dung một cách chính xác, sống động, cuốn hút. Chính vì thế, đánh
giá tác phẩm báo chí nói chung, thông điệp báo chí nói riêng, bên cạnh nội dung cần
xem xét thêm về hình thức như một chỉnh thể không thể tách rời.
Chúng tôi đánh giá hình thức thông điệp về BĐKH, tác giả sẽ xem xét ở hai
khía cạnh chính là cấu trúc thông điệp và cách tổ chức thông điệp.
2.3.1. Cấu trúc thông điệp
Theo từ điển tiếng Việt “Cấ ú ộ ắp p ổ b
ộ ặ ổ ”. Tác
phẩm báo chí là sản phẩm sáng tạo tác giả. Với tác phẩm báo in được hình thành từ các
ký tự và hình ảnh tĩnh, được tác giả lựa chọn sắp xếp có chủ đích, thông qua đó bộc lộ
nội dung muốn chuyển tải. Quá trình sắp xếp đó, các yếu tố như tít bài, ngôn ngữ, hình
ảnh... có mối quan hệ ràng buộc lẫn nhau và chịu sự quy định nhất định của yếu tố thể
loại mà tác giả lựa chọn. Vì thế, để phân tích cấu trúc của thông điệp, chúng tôi sẽ đi từ
yếu tố thể loại đến các yếu tố cấu thành thông điệp.
2.3.1.1. Thể loại và dung lượng
Kết quả khảo sát cho thấy, trên một trang báo thường cơ cấu một hoặc hai bài
và một số tin. Trừ trang 1, mỗi trang báo thường có 1-3 ảnh. Tin thường dưới 500 chữ,
tin vắn thường dưới 100 chữ; một bài bình thường từ 500 - 800 chữ, bài “đinh” trong
số báo thường chiếm trọn 1 trang báo, dài từ 1.000 -1.400 chữ. Trong khi báo CM và
AG có xu hướng viết tin, bài ngắn thì báo CT có nhiều tin, bài khá dài chiếm trọn trang
báo và phải tiếp trang. Như vậy, cách viết cho báo in chưa kịp thay đổi.
93
Kết quả thống kê 1.290 tác phẩm diện khảo sát, dựa trên các tiêu chí phân chia
thể loại tác phẩm được đề cập ở chương cơ sở lý luận, cho thấy: Nhóm tin bài thông tấn
(bao gồm các loại tin, các dạng bài thông tấn, tường thuật, phản ánh, phỏng vấn v.v...),
chiếm đa số với 92.6% và có tỉ lệ cao vượt trội ở cả 3 tờ báo khảo sát. Đặc biệt báo CM
có đến 99,6% thuộc nhóm thông tấn; trong khi tỷ lệ này ở báo AG là 88.9% và báo CT
là 92.4%. Những bài viết được dịch từ báo nước ngoài hoặc tổ chức quốc tế có 85 bài,
chiếm tỉ lệ 6.6%, chỉ xuất hiện ở báo AG và báo CT. Chỉ có 8 bài thuộc thể loại bài
chính luận (0,6%) về nội dung BĐKH trên cả 3 tờ báo và không có bài nào thuộc thể
loại infographic. Đ ề ấ ộ ũ b ă
b b Đ ò ấ ỏ
Tương ứng với thể loại, chỉ báo về dung lượng cho thấy, có 31.9% số tác phẩm
từ 100 - 300 từ; 21.9% có dung lượng từ 300-500 từ và 42.6% có dung lượng trên 500
từ. Dưới 100 từ chỉ có 45 tác phẩm- chiếm 3.5%, thường là các bản tin vắn không tít…
0
0.6
9.7
89.7
Nhóm thông tấn
Nhóm Chính luận
Infographic
Nhóm dịch từ báo nước ngoài
Biểu đồ 2.4: Thể loại bài viết về BĐKH trên báo Đảng khu vực ĐBSCL
(N : K b A G C M C T ơ ừ 2017 6/2019)
Trong nhóm tác phẩm thông tấn, thể loại tin và bài phản ánh được sử dụng
nhiều nhất. Điều này cũng dễ hiểu bởi tin và bài phản ảnh có thế mạnh là có thể tác
nghiệp nhanh và đáp ứng yêu cầu thời sự; được các phóng viên ưu tiên lựa chọn để
thông tin nhanh các biểu hiện của BĐKH vừa diễn ra trên địa bàn như các vụ sạt lở,
mưa bão…, các hội nghị, hội thảo và thông tin thời sự có liên quan đến BĐKH…. Tuy
nhiên nhiều tin có nội dung rất sơ lược, mang tính lễ tân; còn nhiều tin khai thác từ các
báo cáo cũ chứ ít thông tin mang tính phát hiện; tin là thông tin sự kiện, nhưng lại diễn
giải dài dòng. Như tin “T ạ ơ 510 ”, trang 12, báo CM ngày
10/3/2017:
94
“(CM-NP) T UBND T Vă T ờ ữ ơ
ù ừ ã ạ 510 ờ
b
Đ ạ ỗ ă 1000 ha,
p ở 3 ã: T H K B T K H N ờ
bấ ừ ã ờ ấ p ớ K ỉ
ữ ơ ụ ớ ũ p 4 500
ạ ẩ b ạ ă ấ 30%.”
Tin trên có 128 từ với những thông tin ước chừng, không rõ nghĩa. Đọc tin,
không thể biết được 510 ha đậu xanh bị thiệt hại do “ ữ ơ ù ừ
” là thời điểm nào, tuần rồi, tháng rồi hay của 3 tháng, 6 tháng trước? Mưa trái mùa
gây tác động gì khiến cho 510ha đậu xanh bị thiệt hại? Người nông dân cần lưu ý điều
gì để ứng phó với tình trạng trên trong thời gian tới? “T p ớ ” bị mất đi là
bao nhiêu?... Lượng thông tin ít ỏi cùng với bố cục của trang báo khiến người đọc có
cảm giác bản tin nhằm “lấp chỗ trống cho đầy trang báo” hơn là nhằm cảnh báo và
cung cấp thông tin có giá trị cho công chúng.
Cùng với tin, bài phản ảnh cũng được các tác giả ưu tiên lựa chọn tác nghiệp do
có thể thực hiện nhanh. Tuy nhiên, còn nhiều bài phản ánh nội dung kém sâu sắc, chủ
yếu mô tả diễn biến, hậu quả của BĐKH chứ ít khi phân tích về nguyên nhân. Một số
bài “bê nguyên xi” kế hoạch, báo cáo của các địa phương, rồi đưa vào đó một hoặc hai
ý kiến… khiến tác phẩm trở thành nửa tin - nửa bài, nội dung chung chung, “nhiều chữ
nhưng ít thông tin”, như bài “T ờ ễ b p ạp” trên Báo AG ngày
30/5/2017. Cả trục bài viết có 6 đoạn (bao gồm sapo), có đến 4 đoạn bắt đầu bằng trích
dẫn “G Đ K T ă ỉ A G L Vă N b ”, “Ông
N :”, “Ô N ”, “Ông Ninh thông tin”. Hai đoạn còn lại
cũng bắt đầu bằng “T Đ K T ă ỉ A G ” và “T B ỉ
P ò ạ ỉ ”. Với nguồn tư liệu nghèo nàn, lối
diễn đạt đơn điệu, bài viết là bản báo cáo được “báo chí hóa”, ít sự đầu tư.
Lợi thế của báo in là “ ể p p ữ
ấ ề p ạp ộ ắ ớ ộ ” [18, tr.108]. Nhìn
chung, các báo diện khảo sát đều có chú trọng phát huy ưu thế này trong việc tổ chức
loạt bài có quy mô nhiều kỳ, như: Báo CT có các loạt bài “Q p ể ù
95
ĐBSCL”, 4 kỳ, khởi đăng từ ngày 11/4/2017; Loạt bài “K ạ ể ĐBSCL p ể
bề ữ ”, 3 kỳ, khởi đăng từ 18/10/2017; Loạt bài “G ữ ớ ọ ù
ĐBSCL”, 3 kỳ, đăng từ ngày 18/2/2019 đến 20/2/2019... Báo AG có loạt bài “Nạ é
ỉ ò H ”, 2 kỳ, đăng từ 23 đến 24/10/2018.
Báo CM có loạt bài 3 kỳ “S ơ ”, khởi đăng từ ngày 23/6/2017; Loạt bài
2 kỳ “C ạ ở ”, đăng từ 23/11/2017, Loạt bài 2 kỳ “Qua vùng
ấ ” đăng từ 10/5/2017… Các loạt bài này đều được đầu tư công phu, với lượng
thông tin lớn, phân tích sâu nhiều khía cạnh của BĐKH từ diễn biến, tác động, phân
tích các nguyên nhân và dự báo các nguy cơ, cùng những giải pháp đã và đang thực
hiện… Điển hình như loạt bài 3 kỳ “G ữ ớ ọ ù ĐBSCL” trên Báo CT
giúp người đọc nắm bắt một cách có hệ thống, từ thực trạng, nguyên nhân, tác động
và giải pháp để bảo vệ tài nguyên nước; đồng thời truyền đi thông điệp các hoạt động
sinh hoạt và phát triển kinh tế nhưng thiếu kiểm soát của con người đã và đang làm
gia tăng các tác động tiêu cực của BĐKH, từ đó uy hiếp an ninh nguồn nước cũng
như sự phát triển bền vững của tài nguyên nước vùng ĐBSCL. Một số loạt bài như
“S ơ ”, “Q ù ấ ” trên báo CM thuộc thể loại phóng sự với
cách thể hiện đan xen các yếu tố văn học, văn phong khơi gợi nhiều cảm xúc… thu
hút người đọc. Thông điệp từ các tác phẩm cũng đậm tính nhân văn, dễ tác động, tạo
ấn tượng với công chúng.
Các bài báo thuộc nhóm chính luận như bình luận, chuyên luận phân tích, lý
giải vấn đề một cách hệ thống với những lập luận chặt chẽ, có tính thuyết phục. “L ạ
ể p ẩ b ể ổ ở ờ ể úp
ọ ữ p ơ p p ạ ộ ử ộ p ù
p” [67, lời tựa]. Tuy nhiên khảo cứu cho thấy, chỉ có 8 bài chính luận, 7 bài thuộc
báo AG và 1 bài đăng trên báo CM; riêng Báo CT không có bài chính luận nào. “Để
b ớ ý ẽ p p ắ ò ỏ p
ể ề ĩ BĐKH b ề p ơ ỹ ă ò
bú T p ề ĩ BĐKH
ể b ạ ” [PVS -M7]. Thực tế này cho
cho thấy thể loại thể hiện thông điệp BĐKH trên báo Đảng khu vực ĐBSCL thiếu đa
dạng, năng lực chính luận của đội ngũ nhà báo khu vực này còn quá mỏng.
Một trong những hạn chế của báo in là ký hiệu thông tin đơn điệu, chỉ có chữ
viết và hình ảnh tĩnh. Thể loại infographic sử dụng đồ họa trực quan để trình bày giúp
96
cho công chúng tiếp nhận thông tin, đặc biệt những thông tin phức tạp dễ dàng hơn và
góp phần đa dạng thể loại, giúp tác phẩm báo chí và cách thức thông tin của báo in
thêm sinh động. Tuy nhiên, không có tác phẩm báo chí nào được xây dựng theo thể
loại infographic. Bên cạnh đó, tin bài dịch từ báo chí nước ngoài giúp công chúng
nắm bắt được những diễn biến mới của BĐKH và cách thức ứng phó BĐKH của các
quốc gia, cộng đồng quốc tế để học tập những kinh nghiệm, sáng kiến mới… Báo
CM không có bài dịch từ báo nước ngoài và ít khi đăng tải thông tin về BĐKH ở
ngoài nước. Điều đó cho thấy khả năng bao quát hoặc trình độ ngoại ngữ của đội ngũ
có vấn đề.
2.3.1.2. Ngôn ngữ, giọng điệu thể hiện thông điệp
Báo chí không chỉ là phương tiện thông tin mà còn là phương tiện hữu hiệu phổ
biến quan điểm, đường lối chính trị, kiến thức xã hội, góp phần nâng cao tri thức và
giáo dục công chúng. Hướng đến một đối tượng đa dạng (không đồng nhất về trình độ,
về tuổi tác, về giới tính...), báo chí đã sử dụng kênh ngôn ngữ như một hệ đa chức năng
không chỉ để đem thông tin đến cho người đọc mà còn nhằm tác động đến mọi đối
tượng, trong mọi lĩnh vực.
Với báo in, ngôn ngữ là nhân tố quan trọng quyết định giá trị của tác phẩm báo
chí vì nó là phương tiện chuyển tải nội dung, tạo dựng nên những thông điệp. Ngôn
ngữ báo in cần chứa đựng những thông tin mới lạ, hấp dẫn, được tổ chức ngắn gọn, cô
đúc, rõ ràng, dễ hiểu; vừa mang tính chuẩn mực để phục vụ đa dạng nhóm đối tượng và
chuyển tải thông tin chuẩn mực, vừa mang tính sáng tạo để hấp dẫn và lôi cuốn độc
giả. Chính vì vậy phân tích ngôn ngữ là một trong những chỉ báo quan trọng để đánh
giá chất lượng thông điệp về BĐKH trên báo Đảng.
Ngôn ngữ tít: Tít (đầu đề/ tiêu đề) là tên gọi của tác phẩm, là cơ sở để phân biệt
bài báo này với bài báo khác.
Có thể nói tít là câu quan trọng nhất trong một tác phẩm báo chí, tác động mạnh
mẽ đến việc họ lựa chọn đọc tác phẩm báo chí hay không. Thông thường, tít bài phản
ảnh nội dung chính hoặc vấn đề mà tác giả cho rằng cốt lõi, quan trọng nhất, độc giả
quan tâm nhất trong các thông tin mà bài viết cung cấp. Việc đặt tít với những câu từ
độc đáo không chỉ thu hút độc giả mà còn góp phần làm nên hồn cốt của tác phẩm báo
chí và khắc họa diện mạo, phong cách của người cầm bút. Tác giả Đức Dũng lưu ý khi
đặt đầu đề cho tác phẩm báo chí: “K ù ữ ừ ặp ạ ề K
97
b ộ b ể ề T ù ấ p
ờ ề ĩ T ữ ữ ă ỗ Đừ K
b ơ ù bằ ề K b ă ạ bằ ề T
ữ ề ộ ụ ể” [15, tr.96].
Kết quả khảo sát có 12.7% tít bài có cụm từ BĐKH; 31,7% số tít bài có các từ
hoặc cụm từ về biểu hiện của BĐKH như sạt lở, hạn hán, xâm nhập mặn, bão, lũ, El
Nino…; 698 tít bài khác (54,1%) và 1,6% tin không tít.
Việc đưa cụm từ BĐKH và các biểu hiện của nó vào tiêu đề bài viết giúp cho
thông điệp về BĐKH được nhấn mạnh, làm cho nổi bật, giúp cho công chúng dễ dàng
nhận diện thông điệp; khả năng tác động của thông điệp đến công chúng nhờ đó cũng
gia tăng hơn. Với 44,3% số tít bài có cụm từ BĐKH và các biểu hiện của nó, cho thấy
các báo khảo sát cũng xác định vấn đề BĐKH là nội dung quan trọng và là vấn đề được
công chúng rất quan tâm.
Đại đa số các đầu đề tác phẩm báo chí diện khảo sát đều ngắn gọn, cụ thể, rõ
ràng, khái quát nội dung của tin, bài hoặc nêu lên khía cạnh hay vấn đề, sự kiện nổi bật,
phát ngôn quan trọng... như: “Đề p ò p ặ ” (Báo AG ngày 7/3/2017),
“B K ỗ ” (Báo CT ngày 4/9/2018), “Cù ộ b ể
xanh không rác” (Báo CM ngày 5/6/2019). Một số “thủ thuật” đặt đầu đề được các tác
giả vận dụng để tăng tính hấp dẫn, như đặt dưới dạng câu hỏi mà nội dung bài viết sẽ lý
giải; dùng thủ pháp nghịch lý hoặc đối lập hoặc hoặc dùng dấu ngoặc kép với những từ
có sắc thái nghĩa khác nhau hoặc các từ ngữ không phổ biến… nhằm gây ấn tượng, tạo
ra giá trị biểu cảm khiến cho tít trở nên sinh động, hấp dẫn, như: “V ử ý ạ
ở bờ H ?” (báo AG ngày 31/7/2017), “BĐKH ạ ờ
ĩ?” (báo CT ngày 20/9/2017). “T ơ ạ ” (báo CT ngày 11/1/2018),
“B ơ ộ ” (báo CM ngày 28/6/2019), “K T ù b ể
“ ặ ”” (báo CM ngày 5/1/2018), “Hộ D H ” ĐBSCL” (Báo AG ngày
26/9/2017), “T Đ “ ớ ” (báo CT ngày 26/3/2019).
Đối với các tác phẩm phóng sự, bút ký, ghi chép… tít bài thường có văn phong
mềm mại, uyển chuyển, thường sử dụng các biện pháp tu từ gợi cảm xúc tinh tế dễ “bắt
mắt” người đọc, như: “Oằ ắ ” (báo CM ngày 23/11/2018), “S
“ ạ ” ở Độ 12” (báo CM ngày 2/5/2018), “Để ấ “ ” ơ p
ể ” (báo AG ngày 12/6/2018)…
98
Tuy nhiên, một số đầu đề tác phẩm báo chí còn chung chung, không thể hiện
được nội dung trọng tâm, chưa tạo sự lôi cuốn dẫn dắt người đọc, thậm chí gây khó
hiểu, như: “Đ é ề ấ ề ọ ” (báo AG ngày
12/7/2018), “Thàn ừ ớ ộ ” (báo AG ngày
15/11/2018),… Tít bài quá dài, trùng lắp nhau còn khá phổ biến, như “T ớ
N ễ X P ú ử ọ b ĩ ớ ỉ
ĐBSCL ộ p ớ ” (báo CT ngày 31/10/2017), “C Q
ộ N ễ T K N : P ể TP C T ơ ở
ạ ò ộ p ể ù ĐBSCL” (báo CT
ngày 6/12/2017). Báo CM có tít bài “C ộ p ò / p ” lặp lại
rất nhiều lần. Thậm chí, trong 2 số báo liên tiếp (ngày 29/10/2018 và 2/11/2018) đều có
tít bài “C b ề ờ ”. Việc đặt tít theo kiểu “rập khuôn” như trên
cho thấy sự rập khuôn, khiến cho thông tin trở nên nghèo nàn, kém thu hút. Điều này
cho thấy kỹ năng làm nghề của nhà báo còn dễ dãi.
Hạn chế khác của ngôn ngữ đầu đề tác phẩm thể hiện thông điệp về BĐKH ở
báo Đảng khu vực ĐBSCL là việc lạm dụng các con số, chủ yếu là nhấn mạnh mức độ
thiệt hại hoặc số tiền cần đầu tư, như: “T 2 251 ỷ ỹ p ò
tai” (Báo AG ngày 17/6/2019) “Nă 2016 ạ 1 500 ỷ BĐKH”
(Báo CM ngày 22/3/2017); Có trường hợp tít không phù hợp với nội dung, thậm chí sai
với nội dung thông tin hoặc sai về ngữ nghĩa, như tin “Ở ĐBSCL, hậu quả của sụt lún
đáng quan ngại hơn so với rủi ro do BĐKH” (Báo CT ngày 22/3/2017). Theo đó, sụt
lún dường như không liên quan gì đến BĐKH, trong khi sụt lún là một trong những
biểu hiện tiêu biểu của BĐKH ở ĐBSCL. Nội dung bài viết cũng nêu rõ: “Vớ ộ
BĐKH ạ Đ N Á ộ ă ớ b ể
3-4 / ă N ề p ở ụ ú
10-20 / ă ; ở p ộ ụ ú
25 / ă Như vậy, hậu quả của sụt lún đáng quan ngại hơn rất nhiều so với các
dự báo về những rủi ro do BĐKH gây ra”... So sánh tít và nội dung đoạn in đậm, thấy
rõ ràng tình trạng “đầu một đàng, thân một nẻo” khiến cho thông tin trong tác phẩm
không nhất quán.
- Phong cách ngôn ngữ thể hiện thông điệp
Theo Vũ Quang Hào, ngôn ngữ báo chí có 3 kiểu phong cách thường sử dụng là
phong cách ngôn ngữ chính luận, phong cách ngôn ngữ khoa học và phong cách ngôn
99
ngữ hành chính. Trong đó, phong cách ngôn ngữ khoa học có chức năng chủ yếu là
thông báo, phản ánh hiện tượng một cách khách quan với những lập luận logic, chặt
chẽ và mạch lạc, ít có các biểu đạt mang tính chất cá nhân.
Kết quả phân tích các bài viết trong diện khảo sát thể hiện rõ phong cách ngôn
ngữ khoa học, như: sử dụng nhiều thuật ngữ khoa học, chỉ dùng với một nghĩa, không
dùng các biện pháp tu từ. Câu văn câu văn mang sắc thái trung hòa, mạch lạc, cú
pháp chuẩn; …
“R ĐBSCL ấ ề ặ b p ể bề ữ
ắ ớ BĐKH Đ ũ 1 9 p p ớ p
ò ạ ă 2018 ă 2019 ể ạ ụ ề
C ĐBSCL ơ p ò ạ BĐKH
p ọ ơ ấ ă ở bề ữ
ộ p b Vấ ề ù ạ ạ ấ ũ
ấ ” (“T p ể bề ữ ĐBSCL”, Báo CM
ngày 26/9/2018).
Đoạn trích trên thể hiện rõ những đặc điểm của phong cách ngôn ngữ khoa học,
với hàng loạt thuật ngữ chuyên môn, ít thông dụng, nhưng qua TTĐC ngày càng trở
nên phổ cập, như: “b ổ ”, “ ơ ấ ă ở ” “ ù ” “
ạ ” Các câu trong đoạn được viết mạch lạc, trọn nghĩa; từ ngữ được sử dụng với
nghĩa đen, ít bộc lộ sắc thái biểu cảm.
Tuy nhiên, một số bài viết còn sử dụng nhiều thuật ngữ khó hiểu, như:
“T ữ ă 2018 ạ ạ TP C T ơ
ĐBSCL ă ấ thời đoạn ò ấp b ộ ờ
ở ạ ấ ạ p ơ ” (Báo CT ngày 11/1/2018, “Tă
ờ b p ặ ù ”)
“K b ấ 3 ă ớ hệ thống
chỉnh trị thì phân chia lưu lượng ừ 17-20% ( ớ ạ
8-10%) N ò ẽ p ể ề p lưu tốc
p ă ở bờ ă ề hố xói ạ ở bờ ẽ
” (Báo AG ngày 23/10/2018 “Nạ é ỉ ò
H ”).
Không thể phủ nhận trong một số trường hợp việc sử dụng thuật ngữ là từ mượn
có nguồn gốc từ tiếng Anh, Pháp hay chữ Hán Việt là cần thiết để định danh các đối
100
tượng mà tiếng Việt chưa có từ ngữ biểu thị. Tuy nhiên các từ được in đậm trong ví dụ
trên hoàn toàn có thể diễn giải một cách đơn giản, dễ hiểu hơn mà yếu tố chính xác về
mặt ngữ nghĩa vẫn ở mức có thể chấp nhận được như “ ạ ” thay cho “ ỉ ”,
“ ạ ” thay cho “ ờ ạ ”; lượt bỏ bớt các thông tin quá đặc thù chuyên
ngành… để đảm bảo công chúng tiếp nhận thông tin có thể hiểu được chính xác nội
dung thông điệp mà tác phẩm muốn chuyển tải.
Do chịu ảnh hưởng của đặc trưng thể loại, nên nhìn chung có sự giống nhau về
kiểu tổ chức ngôn ngữ trên báo Đảng khu vực ĐBSCL. Ngôn ngữ trong các bản tin
thường là miêu tả, tường thuật; trong các bài phóng sự thường là ngôn ngữ biểu cảm;
trong các bài phỏng vấn, trả lời bạn đọc là ngôn ngữ hội thoại. Đặc biệt là trong các
bài viết thể loại phóng sự, phỏng vấn, các từ ngữ địa phương Tây Nam bộ cũng được
sử dụng khá nhiều. Đó là những từ ngữ định danh sự vật, hiện tượng riêng có ở Nam
Bộ như: ù ạ ạp; cách gọi khác của sự vật, hiện tượng,
đặc điểm, tính chất... xài (sử dụng), tui (tôi) b ể (bảo) (thật), (làm);
Những tiểu từ tình thái: hé (thế đấy, nhỉ), hen (nhé), nghen (nghe không)…
“A N ễ M C ở chóp " ở" bộ bạ : “Lở dữ lắm ấ
ú ơ Hồi đó nhà tui miết ngoài kia, lùi vô lần lần ớ N ớ
p ơ ” (Báo CM ngày 31/3/2017 “V X ”).
“C ù ờ ơ ạ ấp ỏ ỗ ớ ọ Dù
ữ ớ lu, khạp ử ụ ”
(Báo CT ngày18/2/2019 “N ớ ”)
“Nă ở ạ ộ b b T ớ dừng ạ ò
tum húm b é ” … “Cò mùa chướng thì đi mần ơ ò ă ở
không ”. (Báo CM ngày 15/12/2017 “G H ù ở ớ ”).
Việc sử dụng từ ngữ địa phương có tác dụng bảo tồn những đặc trưng văn hóa
riêng của vùng miền mà trong nhiều trường hợp khó thể thay thế bằng từ ngữ toàn dân.
Đồng thời, từ ngữ địa phương có giá trị cao về mặt phong cách (phù hợp với ngữ
cảnh,…); cách sử dụng ngôn ngữ như vậy tạo ra sự hấp dẫn, gần gũi đối với công
chúng ĐBSCL. Tuy nhiên, việc sử dụng các từ ngữ địa phương hay ngôn ngữ toàn dân
trong tác phẩm cũng cần phải cân nhắc, cẩn trọng để tác phẩm có thể đến với đại đa số
công chúng, đảm bảo tốt chức năng thông tin của báo chí.
Phân tích cũng cho thấy, để miêu tả về BĐKH, có những từ/ cụm từ lặp lại
nhiều lần như: “ ể ọ ” “ ” “ ể ọ ớ ấ
101
nhâ ạ ” “ ọ ” “ ấ ạ ” “ ”; nói về tác động của BĐKH thì
“ ” “ p” “ ọ ” “ ”… Nhiều bài viết tô đậm
các chi tiết tạo ấn tượng mạnh mẽ về sự mất mát và thiệt hại của BĐKH, như: “hàng
ụ ở BĐKH”, “BĐKH ể N Á
ơ ể ”, nhiều bài viết khác thì nhấn mạnh vào số người thương
vong... Cách sử dụng từ ngữ “gây sốc” như vậy sẽ thu hút sự chú ý, tác động mạnh đến
độc giả, giúp nâng cao hiệu quả cảnh báo về tác động của BĐKH đến đời sống con
người. Tuy vậy, sử dụng thường xuyên những từ ngữ mang tính “đe dọa” cũng vô tình
tạo ra những tác động không mong muốn đến công chúng, khiến họ nghĩ rằng BĐKH
là một vấn đề nằm ngoài tầm kiểm soát của con người và hoàn toàn không có giải pháp
ngăn chặn. Điều này không hiệu quả trong việc thúc đẩy công chúng thay đổi hành vi
để thích nghi và hạn chế tác động của BĐKH [118].
2.3.1.3. Ngôn ngữ phi văn tự
“T ữ p ă ể ọ ữ b
ă ớ ạ ă ạ ọ ọ b ể b
ơ b ể …” [47, tr.140]. Các thông tin phi văn tự có thể đứng độc lập để
biểu đạt thông điệp hoặc kết hợp trong bài viết, giúp tác phẩm báo chí sinh động và
hấp dẫn.
Qua khảo cứu, không có thông điệp về BĐKH được cấu tạo hoàn toàn bằng
ngôn ngữ phi văn tự mà chủ yếu đi kèm bài viết để làm nổi bật thông điệp tác giả muốn
chuyển tải. Trong đó, có 787 bài báo có kèm hình ảnh, chiếm tỷ lệ 61%. Duy nhất 01
bài viết có kèm bản đồ, sơ đồ (“B ề C Lớ - Cái Bé” Báo CT ngày
1/10/2018). Có 504 bài viết không đính kèm hình thức phi ngôn ngữ nào (39%). Điều
này một phần là do “ ạ p ă ọ ọ … ò
ỏ ỹ ă ỹ b p b ể
t ể p ụ ”. [PVS - M8]. Thực trạng cho thấy việc sử dụng các loại hình
ngôn ngữ phi văn tự để thể hiện thông điệp về BĐKH trên báo Đảng địa phương
ĐBSCL còn rất hạn chế.
- Hình ảnh:
Công chúng tiếp nhận thông tin qua hình ảnh sẽ nhanh chóng, dễ dàng và nhớ
lâu hơn so với chữ viết. “H ĩ p ơ ấ ể ấ ạ ộ
ú ạ ẽ ấ ạ ộ ể ọ ộ ặ ể ạ
ộ ạ ụ ể” [49, tr.212]. Ảnh báo chí đòi hỏi phải chặt chẽ về bố cục, rõ
102
ràng, sắc nét về hình thức, được ghi lại trong khoảnh khắc tự nhiên, chân thật, khách
quan gắn liền với sự kiện, nhân vật và có giá trị thông tin, được chú thích cụ thể.
Bức ảnh có giá trị sẽ làm nổi bật điểm quan trọng trong tác phẩm báo chí và tạo được
cảm xúc, sự hấp dẫn với công chúng.
Trong các tác phẩm thể hiện thông điệp về BĐKH trên báo Đảng khu vực
ĐBSCL có 419 bài báo (54.7%) có hình ảnh về BĐKH được lấy trực tiếp hiện trường,
42 hình ảnh về BĐKH (5.3%) mang tính minh họa và 40% hình ảnh khác (trong các
bài viết mà nội dung BĐKH được đề cập rất ít).
Các hình ảnh hiện trường chủ yếu tường thuật tác động của BĐKH như sạt lở
bở sông, cây đổ, ngập lụt, nhà cửa hư hại; các mô hình ứng phó với BĐKH... đã làm
tăng tính thuyết phục của thông tin bởi người đọc như được “nhìn tận mắt” sự kiện, sự
việc, mô hình… mà bài viết đề cập. Một số hình ảnh giúp bổ sung thông tin cho bài
viết, tạo những “điểm nhấn” đầy cảm xúc. Điển hình như bức ảnh ba đứa trẻ ngồi chơi
ở một khoảnh đất nhỏ đầy rác giữa các căn nhà bằng lá, vách dừng bằng tôn xiêu vẹo,
giúp cho thông tin về việc trẻ em thiếu sân chơi, thất học và về cuộc sống cơ cực, đói
kém vì phải “chạy sạt lở” của người dân nơi “chóp” Vàm Xoáy thêm thuyết phục
(“V X ” Báo CM ngày 31/3/2017). Hình ảnh trên không chỉ giúp cho tác
phẩm “bắt mắt”, giảm bớt sự đơn điệu tẻ nhạt của các con chữ mà còn tác động mạnh
vào thị giác, tạo được ấn tượng mạnh mẽ với công chúng về hậu quả khốc liệt và lâu
dài của BĐKH lên đời sống con người.
Hình 2.2: Ảnh trong bài “Vàm Xoáy kêu cứu” (Báo CM ngày 31/3/2017)
Tương quan giữa ba báo được khảo sát, Báo CM có tỷ lệ bài báo được trình bày
kèm theo ảnh có tỷ lệ cao nhất là (69.5%), kế đó là báo CT (66.4%) và báo AG
(49.7%). Không chỉ vượt trội về số lượng, hình ảnh trên báo CM khá chăm chút, nhiều
ảnh hiện trường có giá trị thực tế và giá trị nghệ thuật cao. Đặc biệt, trong khi cả 2 báo
103
còn lại không có phóng sự ảnh nào thì trên báo CM có đến 7 phóng sự ảnh về BĐKH.
Các phóng sự ảnh đều được in trang ruột giữa (trang in màu) nên hình ảnh rõ nét, đẹp
và tạo được ấn tượng với công chúng.
Hình 2.3: Các chùm ảnh/ phóng sự ảnh trên báo Cà au
Hạn chế về ảnh trong các tác phẩm báo chí mang thông điệp về BĐKH trên báo
Đảng khu vực ĐBSCL là một số ảnh chất lượng chưa tốt (ảnh quá tối hoặc bị mờ). Ảnh
của cùng một sự vụ nhưng sử dụng cho nhiều bài viết khác nhau. Việc sắp xếp vị trí
chưa hợp lý giữa hình ảnh và chữ viết khiến cho hình thức của bài viết không đẹp.
Một số hình ảnh có bố cục chưa đẹp, chưa mang phong cách ảnh báo chí hoặc chưa
phù hợp với nội dung bài viết… Điển hình như bài viết “C ộ ề p ò ờ
ể ” (báo AG ngày 16/6/2017) đề cập thời tiết bất thường gây nhiều tác hại
trên địa bàn. Tuy nhiên, bài viết đăng kèm bức ảnh đen trắng chụp bản đồ khí tượng
mà người không nằm trong ngành thật sự không hiểu nội dung bức ảnh muốn nói lên
điều gì. Bài “Tă ờ p p p ò ạ ” (báo CT ngày 11/3/2018)
đăng ảnh vườn cây với chú thích “Ngành p Cờ Đỏ ỗ
ể ổ ơ ấ ử ụ ớ ù ạ ”. Bức ảnh vườn cây
không một bóng người, được đăng với kích thước nhỏ, không rõ nét khiến người xem
không thể đoán được đó là mô hình gì. Điều đáng nói là trong bài viết không hề đề
cập đến việc huyện Cờ Đỏ đã hỗ trợ nông dân chuyển đổi cơ cấu cây trồng gì?
Chuyển đổi như thế nào?... Bức ảnh vừa kém thẩm mỹ, được gán ghép một cách
khiêm cưỡng không góp phần chuyển tải và nâng tầm thông điệp mà còn làm ảnh
hưởng đến giá trị thông tin của bài viết. Trang 2 báo CM ngày 14/5/2018, tin “C
ộ p ò ạ ở” đăng ảnh Chủ tịch UBND tỉnh Cà
Mau chống một tay vào cạnh sườn, một tay chỉ về phía trước tạo ấn tượng chưa đẹp
về tác phong của vị lãnh đạo, tính thẩm mỹ của ảnh chưa cao.
104
Hình 2.4: Ảnh trong bài viết “Chủ
động đề phòng thời tiết nguy
hiểm”
(Báo AG ngày 16/6/2017)
Hình 2.5: Ảnh trong bài viết “Tăng
cƣờng giải pháp phòng chống
khô hạn”
(Báo CT ngày 11/3/2018)
Hình 2.6: Ảnh trong bài viết “Cần
vào cuộc của toàn dân trong phòng
chống sạt lở”
(Báo CM ngày 14/5/2018
105
2.3.2. Cách thức tổ chức thông điệp biến đổi khí hậu trên báo Đảng đồng
bằng sông Cửu Long
2.3.2.1. Tần suất và cách thức tổ chức thông điệp về biến đổi khí hậu
Với 1.290 tác phẩm báo chí thể hiện thông điệp về BĐKH, có thể thấy nội dung
BĐKH được báo Đảng khu vực ĐBSCL rất chú trọng, tần suất tương đối dày. Tính tần
suất xuất hiện theo tỉ lệ bài báo có thể hiện thông điệp về BĐKH/ tổng số ấn phẩm
trong kỳ khảo sát thì tần xuất xuất hiện trên báo AG là vượt trội, chiếm 78.5%; Báo
CM là 56.7% và Báo CT có tỷ lệ 56.0%.
Nếu xét theo năm, số lượng bài báo thể hiện thông điệp về BĐKH trong năm
2017 nhiều nhất, 610 bài báo; năm 2018 có 442 bài và 6 tháng đầu năm 2019 là 238
bài. Trong số 3 tờ báo, báo CT có sự chênh lệch lớn về số lượng bài viết về BĐKH
giữa các năm. Năm 2017, Báo CT có 267 bài có thể hiện thông điệp về BĐKH, gần
gấp đôi so với năm liền sau (151 bài). Nguyên nhân của sự tăng vọt này là do năm
2017 Cần Thơ được lựa chọn là nơi tổ chức nhiều hoạt động, sự kiện mang tầm quốc tế
có liên quan đến BĐKH; trước, trong và liền sau các sự kiện báo CT đăng tải hàng loạt
tin, bài viết về công tác chuẩn bị, tường thuật sự kiện, ghi nhận các ý kiến bên lề… nên
số lượng bài báo tăng đáng kể. Cụ thể, tháng 8/2017, diễn ra T ễ A ơ
Đ ạ ấp ề ơ p bề ữ
ớ BĐKH, báo CT có 32 bài viết có thể hiện thông điệp về BĐKH, chênh
lệch vượt trội so với tháng liền trước chỉ có 14 bài. Tháng 9/2017- tháng diễn ra Hộ
ề p ể bề ữ ù ĐBSCL ớ BĐKH - báo CT có 40 bài, cao
gần gấp đôi so với tháng liền sau là 21 bài. Ở báo AG, tháng 5/2017, thời điểm sau khi
xảy ra vụ sạt lở nghiêm trọng ở sông Vàm Nao có 38 bài về BĐKH, trong khi hai tháng
thấp nhất của năm 2017 là tháng 3 và tháng 11 chỉ có 8 bài. Ở Cà Mau, mặc dù số
lượng không chênh lệch nhiều giữa các tháng, nhưng số bài viết về BĐKH cũng tăng
hơn vào tháng 4-5 và các tháng cuối năm.
Phân tích cho thấy, mặc dù vẫn đảm bảo dòng chảy thông tin nhưng số lượng
các bài viết về về BĐKH trên báo Đảng địa phương không ổn định mà thay đổi theo số
lượng, mức độ của sự kiện về BĐKH được tổ chức và tác động của BĐKH trên địa
bàn. Điều này, trong một số trường hợp có thể ảnh hưởng đến hiệu quả của chiến dịch
truyền thông đối với công chúng mục tiêu mà nó nhắm tới.
80
60
40
20
0
1
2
3
4
5
8
9
10
12
Báo An Giang
6 7 Báo Cà Mau
11 Báo Cần Thơ
106
Biểu đồ 2.5: Tần suất đăng tải bài viết về BĐKH trên báo Đảng
khu vực ĐBSC năm 2017
(N : K báo AG, báo CM và báo CT ừ 2017 6/2019)
Theo lý thuyết “Thiết lập chương trình nghị sự” của TTĐC, nếu một nội dung
được nhắc thường xuyên, liên tục và nổi bật, công chúng sẽ nhớ tới nó và coi nó quan
trọng hơn những thông tin khác. Một tác phẩm có nội dung trọng tâm về BĐKH, hay
mang thông điệp đích là về BĐKH, dĩ nhiên cũng sẽ làm cho công chúng chú ý, dễ
dàng nhận diện và có sức tác động mạnh mẽ hơn. Theo kết quả khảo sát, trong tổng số
1.290 bài báo có mang thông điệp về BĐKH, chỉ có 462 bài có nội dung chủ yếu nói về
BĐKH. Trong 828 bài, thông điệp về BĐKH chỉ là thông điệp bộ phận, không phải là
trọng tâm nội dung mà bài báo hướng tới. Ở báo An Giang, mặc dù có tần suất bài viết
có thể hiện thông điệp về BĐKH cao nhất, nhưng chỉ có 19,3% là chủ yếu nói về
BĐKH. Ở hai báo CT và báo CM số bài báo có nội dung trọng tâm là BĐKH không có
sự chênh lệch đáng kể và cao hơn gấp 2 lần so với báo An Giang, dao động từ 44.6%
và 49.1%.
Đáng lưu tâm là trong 828 bài mang thông điệp bộ phận về BĐKH có hơn một
nửa - 503 bài - nội dung BĐKH được đề cập rất ít. Thậm chí, trong hàng trăm bài viết
sơ kết, tổng kết và triển khai công tác giai đoạn mới của ngành, của tổ chức, đơn vị;
các tin, bài về đại biểu Quốc hội/ Hội đồng nhân dân tiếp xúc cử tri… nội dung về
BĐKH chỉ được đề cập thoáng qua một câu, với mô - tuýp phổ biến, như: “T b
BĐKH p ạp ờ p ơ …”, “ ử ề
ề ơ ữ p BĐKH”, “trong ă
( ặ ờ ớ ) ơ ã ( ẽ) ụ ọ (… )
ạ p BĐKH”, “ p ơ ụ ọ ờ
ớ (…) p ớ BĐKH”…
107
Các chỉ báo này cho thấy, mặc dù tần suất xuất hiện thông điệp về BĐKH trên
tổng số ấn phẩm trong kỳ khảo sát là khá cao, nhưng thật sự số lượng bài viết chuyên
sâu, có nội dung trọng tâm là BĐKH của các báo Đảng khu vực ĐBSCL là không
đáng kể. Xét tương quan ở các báo khảo sát, báo AG mặc dù có tỉ lệ bài báo có mang
thông điệp về BĐKH nhiều nhất nhưng lại rất ít bài mang nội dung trọng tâm về
BĐKH (19,3%) mà vấn đề này thường được đề cập thoáng qua (49,9%) hoặc nội
dung về BĐKH đề cập chung, ngang hàng với các chủ đề khác (30,5%). Ở báo CM
và báo CT, dù tần xuất thông điệp trên số kỳ báo xuất bản có ít hơn, nhưng tỷ lệ bài
báo mang thông điệp đích về BĐKH cao hơn gấp 2 lần so với báo AG, lần lượt là
44.6% và 49.1%.
Biểu đồ 2.6: ức độ đề cập đến vấn đề BĐKH
(N : K báo AG, báo CM và báo CT ừ 2017 6/2019)
2.3.2.2. Chuyên mục và vị trí đăng tải
Chuyên mục và vị trí đăng tải là chỉ báo quan trọng, phản ảnh tầm quan trọng
của chủ thể đối với thông điệp truyền thông về nội dung nào đó, đồng thời cũng cho
biết thông điệp đến với công chúng thuận lợi hay không. Trên báo in, chuyên mục là
nơi dành cho loại đề tài cụ thể xuất hiện định kỳ, ở một vị trí nhất định trên trang báo,
có tính chuyên biệt và tương đối ổn định về dung lượng, hình thức thể hiện... Chuyên
mục có thể coi là sự giao ước của cơ quan báo chí với công chúng trong việc cung cấp
thông tin, nếu có sự thay đổi hoặc có sự cố, cơ quan báo chí phải cáo lỗi và thông báo
trước cho công chúng. Vị trí trang đăng tải cũng có ý nghĩa nhất định khi đánh giá hiệu
quả tác động của thông điệp đến công chúng. Bởi lẽ, thông điệp xuất hiện ở vị trí trang
1 luôn dễ dàng thu hút người đọc hơn các trang khác vì dễ nhìn thấy.
108
Khảo sát cho thấy, cả 03 báo đều không có chuyên mục BĐKH cũng như
chuyên trang cố định dành riêng cho nội dung này, là một hạn chế rất lớn trong việc tạo
điều kiện để thông điệp BĐKH tiếp cận với công chúng. Bởi trong thực tế, có rất nhiều
công chúng đón đợi một tờ báo xuất bản hàng ngày chỉ là muốn theo dõi một dòng
thông tin, một chuyên mục nào đó trên báo mà thôi. Xây dựng chuyên mục định kỳ
giúp công chúng dễ theo dõi thông tin, đem đến cho công chúng một cái nhìn xuyên
suốt, liên tục về thông tin, tạo ra sức lan tỏa sâu rộng của thông tin. Nếu như một
chuyên mục có được những vấn đề mà đông đảo công chúng quan tâm, tờ báo đó có
thể nhận được nhiều ý kiến bạn đọc tranh luận sẽ tạo ra một diễn đàn thực sự. Việc báo
chí duy trì và quan tâm phát triển các chuyên mục với chất lượng ngày càng hấp dẫn
hơn, có dấu ấn riêng sẽ góp phần phát huy vai trò của báo chí một cách mạnh mẽ trong
đời sống xã hội.
Về vị trí đăng tải, cách bố trí nội dung của 03 báo khảo sát có nhiều nét tương
đồng: Cả 03 báo đều có 4 trang in màu là trang bìa, trang cuối và 2 trang giữa (trang
6,7 của báo CM, AG; trang 8-9 của báo CT). Ở trang 1, dưới măng sét sẽ giới thiệu các
tin, bài “đinh” của số báo. Tin, bài thời sự thường được đăng ở trang 2, trang 3 hoặc
các trang trong theo mức độ giảm dần tính quan trọng. Trang cuối thường dành cho
quảng cáo. Khi không đăng quảng cáo, Báo CT và báo AG đăng các tin bài thời sự
quốc tế, riêng báo CM vẫn đăng các bài viết có nội dung đề cập địa bàn trong nước
Các trang còn lại
Trang 2 – 3
Trang màu giữa
Trang cuối
hoặc trên địa bàn tỉnh.
Biểu đồ 2.7: Vị trí đăng tải các bài viết
(N : K b AG, báo CM và báo CT ừ 2017 6/2019)
Với 42,2% số bài viết được giới thiệu ở trang 1 và hơn 50% bài viết đăng ở
những trang có vị trí quan trọng (trang 2, 3, trang in màu) cho thấy các tòa soạn báo
Đảng khu vực ĐBSCL đều coi trọng nội dung thông tin này. Các tác phẩm báo chí
được đăng ở những vị trí quan trọng sẽ giúp thông điệp dễ dàng tiếp cận và lan tỏa.
109
2.3.2.3. Tác giả bài viết
“T p ơ ề ề ở ộ
ớ ề b MXH ĩ ề b
p p ừ úp b ắ bắ ễ ừ ă
ú ộ bạ ọ ò ” [2]. Các công tác
viên là “tai mắt”, giúp toà soạn kịp thời phát hiện, thông tin về về diễn biến, tác động
của BĐKH, việc thực thi các chính sách BĐKH… đảm bảo tính thực tiễn sâu sắc; vừa
là kênh phản hồi thông tin đánh giá tác phẩm báo chí - một thước đo quan trọng đánh
giá chất lượng của tờ báo.
Tuy nhiên, kết quả khảo sát cho thấy các báo Đảng khu vực ĐBSCL chưa làm
tốt công tác xây dựng và phát triển đội ngũ cộng tác viên cho tuyến bài viết về BĐKH.
Tác giả của các bài viết này chủ yếu là nhà báo (96,7%), có 19 bài được viết bởi các
chuyên gia, nhà khoa học và 15 bài viết bởi tập thể cơ quan. Số lượng bài do người dân
(thông tin viên, cộng tác viên) gửi đến và được tòa soạn đăng tải chỉ có 04 bài và 01 bài
của cán bộ quản lý. Có 04 bài không đề cập tên tác giả.
So sánh tương quan giữa các tờ báo khảo sát, báo CT có số lượng bài báo về
BĐKH do tác giả là Người dân; Tập thể và Chuyên gia, nhà khoa học nhiều hơn so với
hai báo còn lại, tuy nhiên số lượng này cũng không đáng kể, chỉ có 23 bài trong cả kỳ
khảo sát. Trong khi đó, báo AG có 15 bài do các chuyên gia, nhà khoa học viết - chủ
yếu chia sẻ và hướng dẫn kỹ năng canh tác nông nghiệp trong điều kiện BĐKH diễn
biến phức tạo - đăng ở các chuyên mục “Khuyến nông” và “Cùng nông dân ra đồng”.
Riêng báo CM, các bài viết do nhà khoa học, người quản lý và công tác viên thực hiện
mỗi loại chỉ có duy nhất 01 bài.
Cộng tác viên là “cánh tay nối dài” của các cơ quan báo chí, góp phần không
nhỏ trong việc xây dựng và phát triển một tờ báo. Với nội dung BĐKH, các bài phân
tích của các chuyên gia, các nhà khoa học với các căn cứ khoa học, lý luận chặt chẽ…
sẽ có tính thuyết phục hơn. Tương tự, những cộng tác viên là người dân sẽ giúp cho các
thông tin về BĐKH từ thực tiễn sớm đến được với trang báo, chính xác, cập nhật…
góp phần làm cho các thông điệp từ truyền thông tới gần hơn với công chúng. Các chỉ
báo về tác giả bài báo vừa nêu sẽ là cơ sở để đề tài đưa ra một số khuyến nghị giải pháp
phù hợp nhằm khuyến khích việc đăng tải những bài nhìn dưới góc độ của các đối
tượng tác giả này.
110
Tiểu kết chƣơng 2
Chương 2 trình bày kết quả khảo sát 2.037 tờ báo An Giang, Cà Mau và Cần
Thơ từ tháng 1/2017 đến tháng 6/2019, cho thấy được thực trạng thông điệp về BĐKH
trên báo Đảng khu vực ĐBSCL, cả về nội dung lẫn hình thức.
Nội dung thông điệp về BĐKH trên báo Đảng khu vực ĐBSCL được khai thác
ở nhiều góc độ tiếp cận khác nhau, lĩnh vực đề cập nhiều nhất lần lượt là biểu hiện,
hoạt động ứng phó, tác động, và nguyên nhân, của BĐKH. Cái bài viết trên báo cũng
đã thông tin kịp thời các chính sách và hoạt động thực thi các chích sách ứng phó
BĐKH; chia sẻ những kinh nghiệm, giải pháp hữu ích để thích ứng với BĐKH… để
người dân nắm bắt, vận dụng vào thực tiễn. Tuy nhiên, thông điệp về BĐKH trên báo
Đảng khu vực ĐBSCL có sự chênh lệch khá lớn phân tích nguyên nhân BĐKH với các
lĩnh vực còn lại. Đa số báo Đảng địa phương thông tin nhiều về việc tham gia hoạt
động ứng phó của lãnh đạo địa phương theo kiểu lễ tân; thông tin về nội dung các
chính sách hơn là giám sát việc thực thi chính sách về BĐKH, các giải pháp, cách thức
ứng phó và thích nghi cụ thể, những kinh nghiệm hay hoặc những nhận định, bình
luận, đánh giá có tính dự báo cao... cũng có chưa được đề cập nhiều.
Về hình thức, các thông điệp được thể hiện bằng văn phong ngôn ngữ gần gũi
dễ hiểu, có nhiều tác phẩm dài kỳ được đầu tư công phu, tâm huyết, trách nhiệm của
nhà báo với công tác phòng chống BĐKH. Một tỷ lệ lớn các bài báo được đăng ở các
trang màu, trang 2-3 và được giới thiệu ở trang 1 của tờ báo với hình ảnh đẹp. Tuy
nhiên, hầu hết các bài viết chứa thông điệp về BĐKH được đăng tải với thể loại tin, bài
thông tấn, những bài viết với thể loại chính luận, hoặc các bài được dịch từ báo nước
ngoài,… có số lượng rất ít; các thể loại báo chí mới như infographic chưa có; chưa tổ
chức được đội ngũ chuyên gia, nhà khoa học, cộng tác viên ổn định tham gia vào hoạt
động này; chưa tổ chức được chuyên mục BĐKH định kỳ trên báo...
Trong cuộc chiến lâu dài chống BĐKH, báo chí có vai trò to lớn trong việc góp
phần nâng cao nhận thức cho người dân, cho các ngành, các cấp lãnh đạo... để có hành
vi, thái độ ứng xử đúng đắn và quyết tâm cao trong hành động. Vì thế, từ kết quả khảo
cứu mà Chương 2 đã trình bày, cần có sự nhìn nhận nghiêm túc về thành công, hạn chế
và những giải pháp khắc phục hợp lý để truyền thông ứng phó với BĐKH trên báo
Đảng khu vực ĐBSCL phát huy hiệu quả hơn nữa.
111
Chƣơng 3
CÔNG CHÚNG BÁO ĐẢNG ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG
VỚI THÔNG ĐIỆP BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU
Thông điệp có đời sống riêng của nó. Những thông điệp được hiểu đúng, đi vào
trí nhớ của người nhận, có thể cải biến niềm tin và thái độ của người nhận theo hướng
mong muốn, được xem là những thông điệp có đời sống lâu dài, có giá trị. Đời sống
thông điệp có phát sinh, phát triển và suy thoái. Vậy nên, duy trì và đổi mới thông điệp
nói chung, thông điệp về BĐKH trên báo Đảng nói riêng, luôn có sức sống, sức hấp
dẫn là vấn đề luôn cần được quan tâm; chống suy thoái, sáo mòn thông điệp lại cũng là
câu chuyện càng nên ưu tâm.
Tìm hiểu thực trạng tiếp nhận thông điệp của công chúng không chỉ là cơ sở
quan trọng cho sự điều chỉnh nội dung, hình thức thông tin của các sản phẩm báo chí,
mà còn là cơ sở đánh giá, đề xuất những thay đổi về cơ chế tổ chức, phương thức
chuyển tải nhằm tạo ra dòng thông điệp báo chí phù hợp, nhằm nâng cao năng lực và
hiệu quả tác động của báo chí về BĐKH. các nhóm công chúng mục tiêu, có sức sống
lâu dài.
Để thấy được rõ thực trạng tiếp nhận, đánh giá và nhu cầu thông tin của công
chúng về BĐKH trên báo Đảng khu vực ĐBSCL, LA đã khảo sát 450 ý kiến công
chúng ở An Giang, Cà Mau và Cần Thơ (mỗi địa phương thu thập đủ 150 ý kiến) từ đó
đề xuất giải pháp thích hợp nâng cao chất lượng thông tin về BĐKH trên báo Đảng địa
phương nói riêng, hiệu quả công tác truyền thông về BĐKH nói chung.
3.1. NHẬN DIỆN CÔNG CHÚNG BÁO ĐẢNG ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG
3.1.1. Về nhân khẩu học xã hội
Về đặc điểm nhân khẩu học xã hội, kết quả khảo sát cho thấy:
Về ộ ổ , đa số công chúng báo Đảng khu vực ĐBSCL tham gia trả lời trong
khung tuổi lao động (từ 22-60 tuổi), trong đó tỷ lệ người trong độ 35-60 tuổi chiếm đa
số với 57.1%, 21.3% từ 22-35 tuổi. Có 56 người (14.4%) tuổi trên 60 và 33 người
(7.1%) dưới 22 tuổi.
Về ớ có 244 nữ giới, chiếm 54.2% và nam giới là 206 người, chiếm
45.8%. Điều này cho thấy, không có sự chênh lệch đáng kể giữa công chúng là nam
giới hoặc nữ giới, đồng thời cũng cho thấy đối tượng độc giả tìm hiểu thông tin về
BĐKH trên báo Đảng địa phương giữa nam và nữ tương đương nhau.
112
N ề p : Khảo sát cho thấy đại bộ phận đối tượng công chúng
đều làm trong cơ quan nhà nước (50.7% là cán bộ, công chức, viên chức, lực lượng vũ
trang (bộ đội, công an); 23.1% là công nhân, nông dân, buôn bán, dịch vụ và 20%
người là làm nội trợ, hưu trí; còn lại là học sinh, sinh viên (4.7%) hoặc những người
làm tự do (1.6%). So sánh giữa 3 địa phương khảo sát, tỷ lệ công chúng làm trong cơ
quan nhà nước ở Cần Thơ (60.6%) cao hơn so với An Giang (48%) và Cà Mau
(43.3%); tỷ lệ người dân về hưu hoặc ở nhà nội trợ tham gia đọc báo Đảng cao nhất so
với 2 địa phương còn lại, với tỷ lệ là 22.7%. Đối với nhóm Công nhân, Nông dân,
Buôn bán, dịch vụ, Cà Mau có tỷ lệ công chúng cao nhất, với tỷ lệ là 28.6%.
Có đến 96.4% số người được hỏi là Đảng viên/hội viên các tổ chức chính trị xã
hội (Công đoàn, Đoàn Thanh niên, Hội Liên hiệp Phụ nữ, Hội Cựu chiến binh, Hội
Nông dân) và chỉ có 3.6% là người không tham gia tổ chức chính trị xã hội nào. Số liệu
này hoàn toàn hợp lý nếu so sánh với chỉ báo về nghề nghiệp công chúng nêu phần
trên. Do đại bộ phận công chúng làm trong cơ quan nhà nước, vì thế tỷ lệ Đảng viên và
đoàn viên các tổ chức chính trị xã hội ở mức cao.
G ể
ể p ú b Đ b ý p
1.6
20
4.7
50.7
23.1
Cán bộ/ công chức/ viên chức/ lực lượng vũ trang Công nhân/ Nông dân/ Buôn bán, dịch vụ Học sinh, sinh viên
ơ ở.
Biểu đồ 3.1: Nghề nghiệp của công chúng tham gia khảo sát
3.1.2. Về trình độ văn hoá
Về ộ ọ ấ chủ yếu có trình độ Cao đẳng/Đại học (53.4%). 36.9%
người có trình độ ở cấp 3/Phổ thông trung học và 7.1% có trình độ trên Đại học. Ngoài
ra có 3.6% người có trình độ ở cấp 2/Trung học cơ sở.
113
Nếu chia trình độ học vấn cao nhất theo 2 cấp: Dưới Đại học và từ Đại học trở
lên, có thể thấy người từng tiếp nhận thông điệp về BĐKH trên báo Đảng khu vực có
trình độ Đại học trở lên chiếm đa số là 59,6%. Từng được xem là “vùng trũng” về giáo
dục trong cả nước, tỉ lệ này cho thấy sự đầu tư về giáo dục ngày càng mạnh mẽ và
được chú trọng đã góp phần nâng cao trình độ học vấn của người dân đồng bằng. Tuy
nhiên, nó cũng cho thấy báo Đảng khu vực ĐBSCL khá “kén” công chúng vì nội dung
nặng về chính trị, khoa giáo, ít có các nội dung mang tính giải trí để thu hút đối tượng
công chúng có trình độ văn hóa mức thấp.
So với 2 địa phương còn lại, Cần Thơ có tỉ lệ công chúng có trình độ học vấn
trên Đại học cao nhất (10%). Điều này cũng hợp lý vì Cần Thơ là nơi tập trung nhiều
trường Đại học, cao đẳng nhất so với các địa phương trong khu vực nên điều kiện học
tập của cư dân thuận lợi hơn. Bên cạnh đó, với vị thế là Thành phố loại 1 trực thuộc
trung ương, là đô thị hạt nhân của vùng, Cần Thơ quy tụ nhiều tập đoàn, doanh
nghiệp, cơ quan Trung ương và tổ chức quốc tế đặt trụ sở kéo theo nguồn nhân lực có
56
55
47.3
42
34.7
34
10
6
5.3
4.7
4
2
60 50 40 30 20 10 0
Sau đại học
Cấp 2/Trung học cơ sở
Cấp 3/Phổ thông trung học
Cao đẳng/ Đại học
An Giang
Cà Mau
Cần Thơ
trình độ cao.
Biểu đồ 3.2: Trình độ công chúng tham gia khảo sát
3.1.3. Về điều kiện tiếp nhận sản phẩm báo chí - truyền thông
Tỷ lệ đọc báo, xem truyền hình, nghe phát thanh, qua mạng internet và trao đổi,
hội họp và các hình thức khác của công chúng thể hiện sự chênh lệch khá lớn giữa các
hình thức tiếp nhận thông tin về BĐKH. Mặc dù tất cả đối tượng khảo sát khẳng định
từng đọc các thông tin về BĐKH trên báo Đảng địa phương, nhưng có đến 36% công
chúng cho rằng họ tiếp nhận thông tin về BĐKH nhiều nhất là xem ạ .
Tiếp theo đến là ề , chiếm 28.1%. Đọ b và nghe phát thanh có tỷ lệ
114
công chúng thấp hơn, tương ứng 12.8% và 12.5%. Điều này có thể lý giải bởi những
năm gần đây, sự phát triển không ngừng của công nghệ thông tin nói chung và Internet
nói riêng đã làm thay đổi thói quen của công chúng báo chí và mang lại cho các
phương tiện TTĐC ứng dụng kênh truyền này nguồn công chúng lớn. Mặt khác, đề tài
khảo sát công chúng chủ yếu ở các khu vực đô thị lớn nên đây là một trong những
nguyên nhân dẫn đến tỷ lệ công chúng tiếp nhận thông tin về BĐKH qua mạng Internet
cao hơn so với các hình thức khác bởi họ có cơ hội được tiếp xúc với phương tiện
40.7
33.6
33.1
29.5
29.4
25.5
16.2
16
14.8
13.6
13.5
10.6
10.2
7.2
6.2
45 40 35 30 25 20 15 10 5 0 1. Đọc báo
2. Xem truyền
3. Nghe phát thanh
hình
4. Qua mạng internet
5.Trao đổi, họp hội và các hình thức khác
An Giang
Cà Mau
Cần Thơ
truyền thông kỹ thuật hiện đại hơn.
Biểu đồ 3.3: Phƣơng thức tiếp nhận thông tin về BĐKH của công chúng
Nhận thấy, ở An Giang và Cà Mau, tỷ lệ công chúng tiếp cận thông tin về
BĐKH qua báo in cao hơn so với Cần Thơ, dao động từ 13.6% đến 14.8%, trong đó
Cần Thơ chỉ 10.2%. Cũng ở hai tỉnh An Giang và Cà Mau, số người xem tin tức về
BĐKH qua phát thanh không có sự chênh lệch đáng kể, với tỷ lệ lần lượt là 16% và
16.2% cao hơn gấp 2.5 lần so với tỷ lệ công chúng ở Cần Thơ. Tuy nhiên, đối với các
hình thức như Q ạ ; T ề và T ổ ọp ộ
khác, Cần Thơ có tỷ lệ công chúng cao nhất, lần lượt là 40.7%; 29.5% và 13.5%. Điều
này cho thấy, yếu tố tỉnh lị là một trong những căn cứ để giải thích việc tiếp cận thông
tin về BĐKH qua các hình thức.
Thông tin chung về đối tượng công chúng tham gia khảo sát cho thấy: mặc dù
công chúng mục tiêu của báo Đảng là toàn thể quần chúng nhân dân trên địa bàn, tuy
115
nhiên công chúng thực tế chủ yếu của báo Đảng khu vực ĐBSCL là những người cán
bộ, công chức/ viên chức/ lực lượng vũ trang đương chức hoặc hưu trí đã và đang làm
việc trong các cơ quan nhà nước, chứ chưa thật sự đến với đối tượng là quần chúng
nhân dân đại trà. Ưu thế của đối tượng công chúng này là có trình độ học vấn cao và
nhận thức chính trị khá tốt, nhận thức được trách nhiệm của mình trước vấn đề BĐKH;
khả năng thẩm định và đánh giá để trả lời các câu hỏi khảo sát đạt mức chính xác cao.
Tuy nhiên, vì đối tượng công chúng được khảo sát chưa đồng đều giữa các thành phần,
tầng lớp nhân dân trong xã hội nên các ý kiến đánh giá cũng như đề xuất những còn
những hạn chế nhất định về tính đại diện.
3.2. NHẬN THỨC, THÁI ĐỘ VÀ HÀNH VI TIẾP NHẬN THÔNG ĐIỆP
BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU CỦA CÔNG CHÚNG
3.2.1. Nhận thức của công chúng về BĐKH
Các câu hỏi về kiến thức của BĐKH nhằm kiểm tra mức độ ghi nhớ, hiểu biết
của công chúng về BĐKH nhằm đo lường hiệu quả tác động của thông điệp BĐKH
đến đối tượng công chúng mục tiêu.
7.8
Rất quan tâm
Quan tâm
36
56.2
Không quan tâm
Trả lời câu hỏi mức độ quan tâm về BĐKH cho thấy:
Biểu đồ 3.4: ức độ quan tâm của công chúng đến vấn đề BĐKH
Với câu hỏi “Quý vị có quan tâm đến vấn đề BĐKH không?” và 3 mức độ ấ
quan tâm; quan tâm và không quan tâm, trong tổng số 450 người được hỏi, 56.2%
người chọn quan tâm và 36% chọn ấ , chỉ có 7,8% công chúng thể hiện suy
nghĩ đến vấn đề BĐKH. Điều này cho thấy đại đa số công chúng báo
Đảng khu vực ĐBSCL nhận thức sâu sắc về những tác động của BĐKH đến đời sống
nhân sinh.
- Ở câu hỏi thứ hai, có 100% công chúng “nhận diện” chính xác BĐKH là “Các
hi ng thời ti t bấ ờng, c t t ù
116
nhi ộ ă ạ bã ũ ụ …” chứ không phải là “Các hi ng thời ti
ắng, gió, triề ờng lên xu … t t nhiên” như gợi ý thứ 1 của
bảng hỏi. Cũng vậy, với câu hỏi thứ 3 về các biểu hiện đăc trưng của BĐKH ở
ĐBSCL, 100% công chúng nhận thức được ũ é ũ ng không phải là các biểu hiện
đặc trưng của BĐKH vùng ĐĐBCL mà là các biểu hiện “Nhi ộ ă ớc biển
dâng, sạt lở, hạn hán, xâm nh p mặn, bã ũ ụ E N …”
Tr lời câu hỏi,“Theo quý v , bi ổi khí h u diễn bi n nay là
?”, (1). Hoàn toàn do quy lu t t nhiên (2). H ời (3). Ch
y u do quy lu t t ờ ộng một ph n nhỏ (4). Ch y u do hoạ ộng
sinh hoạt và s n xuất c ời và một ph n là quy lu t t nhiên,100% tham gia
khảo sát đều chọn câu trả lời chính xác.
Hỏi về mức độ tác động của BĐKH, 350 người cho rằng BĐKH
ữ ộ ớ chiếm đại đa số với 92.1%; BĐKH ộ
ể có 38 người lựa chọn, tỷ lệ 0,7% và không công chúng nào chọn đáp án BĐKH
120
97.3
92
100
84
80
60
40
16
20
8
2.6
0
0
0
0
Không có tác động
BĐKH đang gây ra những tác động lớn
Có tác động nhưng không đáng kể
An Giang
Cà Mau
Cần Thơ
ộ .
Biểu đồ 3.5: Nhận xét của công chúng về mức độ tác động của BĐKH
Đối với An Giang và Cà Mau, tỷ lệ công chúng đưa ra các nhận xét BĐKH
ữ ộ ớ đều ở mức cao, trong đó công chúng Cà Mau ở mức
gần tuyệt đối (97. 3%). Riêng với Cần Thơ, tỷ lệ công chúng cho rằng BĐKH
ữ ộ ớ ớ V N thấp nhất trong 3 tờ báo, chỉ 84%. Đồng thời
đây cũng là khu vực có số công chúng nhận thấy BĐKH ộ
ể cao hơn so với hai tờ báo còn lại, với tỷ lệ là 16%. Lý giải điều này, có thể giả
thuyết một số nguyên nhân, tuy nhiên không loại trừ lý do Cần Thơ nằm ở khu vực
117
trung tâm ĐBSCL, những tác động tiêu cực của BĐKH đối với Cần Thơ không gây
hậu quả nghiêm trọng như các địa bàn khác.
- Khảo sát ý kiến công chúng về ảnh hưởng của BĐKH đến cuộc sống con
người và môi trường, đề tài chia thành 3 mức độ ảnh hưởng:
và ý Qua khảo sát 450 công chúng, có
78.2% công chúng lựa chọn mức độ hoàn toàn tiêu ; xếp vị trí thứ hai là mức độ có
với tỷ lệ là 21.6%, 0.2% công chúng chọn khác và không có
công chúng nào chọn . Đối với mức độ tỷ lệ
công chúng của báo CM lựa chọn cao hơn so với 2 tờ báo còn lại, chiếm 82.7%. Trong
đó công chúng ở An Giang và Cần Thơ lần lượt là 74.7% và 77.3%.
- Với câu hỏi “Quý v ở ời sẽ thành công trong ng phó với
bi ổi khí h ?”, có 11.1% công chúng chọn “Tuy ởng”,
60.7% công chúng chọn “T ởng”, 25,8% công chúng chọn “Không chắc” và 2,4%
công chúng trả lời là “K ởng”. Tương quan giữa 03 địa phương, công chúng
An Giang có niềm tin vững chắc hơn vào sự thành công của con người trong cuộc
chiến thích ứng với BĐKH với 133/150 người chọn tin tưởng và tuyệt đối tin tưởng;
trong khi công chúng Cần Thơ có tỷ lệ hoài nghi nhiều nhất (34%). Trong số 11 câu trả
lời không tin tưởng, có 5 ý kiến từ công chúng báo An Giang, Cần Thơ và An Giang
mỗi địa phương có 3 công chúng chọn đáp án này.
Kết quả khảo sát với các câu hỏi kiến thức chung về BĐKH, trong đó có 100%
công chúng trả lời chính xác ở 03 câu hỏi về kiến thức cơ bản của BĐKH là một kết
quá bất ngờ thú vị trong khảo sát công chúng ĐBSCL, cho thấy công chúng báo Đảng
khu vực ĐBSCL có nền tảng kiến thức khá tốt về BĐKH. Bên cạnh việc nhận diện
được những biểu hiện đặc trưng của BĐKH vùng ĐBSCL, công chúng cũng nhận thức
sâu sắc con người là tác nhân khiến cho BĐKH diễn biến nhanh như hiện nay, gây ra
nhiều tác động tiêu cực ảnh hưởng lớn đến cuộc sống nhân sinh. Tuy nhiên, đa số công
chúng cũng tin tưởng rằng với sự nỗ lực không ngừng, công cuộc ứng phó với BĐKH
của con người sẽ thu lại kết quả thắng lợi. Các chỉ báo thu được từ nội dung khảo sát
này là những tín hiệu đáng phấn khởi, cho thấy người dân ĐBSCL có sự quan tâm
trang bị kiến thức về BĐKH cho mình. Đồng thời cũng là minh chứng cho thấy công
tác truyền thông về BĐKH, trong đó có vai trò truyền thông của báo in địa phương đến
công chúng, đã phát huy hiệu quả.
118
3.2.2. Thái độ tiếp nhận thông điệp biến đổi khí hậu
3.2.2.1. Đánh giá của công chúng về nội dung và hình thức thông điệp về
biến đổi khí hậu trên báo Đảng khu vực đồng bằng sông Cửu Long
Tiêu chí đánh giá được chia thành 2 phần lớn: phần nội dung và phần hình thức.
Đây được coi là thang đo phản hồi, là các chỉ báo căn bản cho thấy đời sống của thông
điệp về BĐKH trên báo Đảng khu vực ĐBSCL. Ngoài ra, khảo sát về đánh giá của
công chúng về nội dung và hình thức của các bài viết có ý nghĩa quan trọng để luận án
nêu ra các giải pháp nhằm phát triển, đổi mới và nâng cao chất lượng thông điệp nhằm
thu hút sự quan tâm và nâng cao hiệu quả tác động công chúng theo hướng chủ thể
truyền thông mong muốn.
Đề tài nghiên cứu phần đánh giá nội dung về các thông điệp BĐKH được đăng
tải trên 3 tờ báo Đảng địa phương ĐBSCL dựa trên các tiêu chí:
(1) T ờ ớ ẻ
(2) Thông tin khách quan và chính xác
(3) T
(4) T ớ ụ
(5) T ễ ể
(6) T ề ữ b ũ
(7) T ụ ễ
Đối với phần đánh giá về hình thức, tác giả chọn 03 tiêu chí chính:
(1) C b bắ ắ
(2) ọ p ù p ấ
(3) T ể ạ b ạ p p ú
Đối với từng tiêu chí đánh giá, tác giả đưa ra 5 mức độ để đánh giá: ấ é ;
é ; ạ ; và Để có thể hình dung khái quát mức độ công chúng đánh
giá của từng tiêu chí, luận án cho điểm theo mức độ hiệu quả, theo đó, giá trị càng lớn
mức độ hiệu quả càng cao (1= ấ é ; 2 = é ; 3 = ạ ; 4 = ; 5 = ấ ).
Bảng số liệu dưới đây mô tả số điểm trung bình được tính toán trên tổng số điểm mà
công chúng trả lời ở từng đáp án chia cho tổng số người được khảo sát.
119
Bảng 3.1: Tổng hợp đánh giá của công chúng về nội dung và hình thức
các bài viết về BĐKH trên báo Đảng khu vực ĐBSC
ức độ đánh giá (1 là thấp nhất, 5 là cao nhất)
Rất kém
Kém
Đạt yêu cầu
Khá
Tốt
Tiêu chí đánh giá
Tỷ
Tỷ
Tỷ
Tỷ
Tỷ
SL
SL
SL
SL
SL
%
%
%
%
%
1. Thông tin có
tính thời sự, mới
0
15
3.4
255
56.6
114
13.8
61
26.2
0
mẻ
2. Thông tin khách
quan và chính xác
0
11
2.5
218
48.4
100
22.2
121
26.9
0
3. Thông tin có
tính hệ thống và
0
17
3.8
224
49.8
106
23.6
103
22.9
0
toàn diện
4. Thông tin có
tính định hướng,
5
0
1.1
108
135
202
44.9
24
30
0
giáo dục
5. Thông tin dễ
0
0
0
188
41.8
105
23.3
157
34.9
0
hiểu
6. Thông tin về
0
những địa bàn gần
0
0
113
21.6
97
21.6
240
53.3
0
gũi
7. Thông tin có giá
trị ứng dụng trong
1
0,2
21
4.7
173
38.4
188
41.8
67
14.9
thực tiễn
8. Cách trình bày
0
0
19
4.2
252
56
84
18.7
95
21.1
lôi cuốn, bắt mắt
9. Ảnh minh họa
0
3
0.7
0
243
54.2
100
22.3
92
19.8
phù hợp, ấn tượng
10. Thể loại bài
0
viết
đa
dạng,
0
0
0
169
37.6
150
33.3
131
29.1
phong phú
Kết quả thống kê bảng hỏi cho thấy rất ít bạn đọc đánh giá mức độ ấ é và
kém cho các tiêu chí về nội dung BĐKH trên báo Đảng khu vực ĐBSCL. Cụ thể có 1
công chúng nhận xét ấ é cho tiêu chí T ụ ễ
03 trường hợp nhận xét ấ é cho tiêu chí ọ p ù p ấ và đều là
công chúng của Báo CT.
4.28
4.19
3.74
3.66
3.66
3.46
3.46
4.5 4 3.5 3 2.5 2 1.5 1 0.5 0
Thông tin dễ hiểu
Thông tin khách quan và chính xác
Thông tin có tính thời sự, mới mẻ
Thông tin có tính hệ thống và toàn diện
Thông tin về những địa bàn gần gũi
120
Biểu đồ 3.6: Đánh giá của công chúng về nội dung các bài viết về BĐKH
trên báo Đảng khu vực ĐBSC
Có 06 tiêu chí có công chúng đánh giá ở mức độ kém, trong đó tiêu chí thông tin
ụ ễ có 21 công chúng đánh giá kém, chiếm tỷ lệ “kém”
cao nhất là 4.7%; trong khi những tiêu chí còn lại chỉ từ 1.1% đến 3.8%. (Xem bảng 3.1)
Nhìn chung, đa số các tiêu chí về nội dung được công chúng đánh giá ở mức
trung bình khá ( ạ ) với khung điểm từ 3 đến dưới 4 điểm. Tiêu chí Thông
ờ ớ ẻ và T ễ ể bị đánh giá thấp nhất, chỉ có 3.46 điểm, kế
đến là các tiêu chí T và T ụ
ễ . Riêng hai tiêu chí T ề ữ b ũ và Thông tin
ớ ụ được công chúng đánh giá cao, ở mức tốt (lần lượt là
3.92
3.54
3.54
4 3.9 3.8 3.7 3.6 3.5 3.4 3.3
Cách trình bày lôi cuốn, bắt mắt
Ảnh minh họa phù hợp, ấn tượng
Thể loại bài viết đa dạng, phong phú
4.28 và 4.19 điểm).
Biểu đồ 3.7: Đánh giá của công chúng về hình thức các bài viết về BĐKH
trên báo Đảng khu vực ĐBSC
121
Về hình thức, công chúng đánh giá hình thức thông điệp BĐKH trên báo Đảng
khu vực ĐBSCL ở mức trung bình. Trong đó tiêu chí T ể ạ b ạ p
phú được đánh giá cao nhất là 3.92%. Cả hai tiêu chí về C b bắ
ắ và ọ p ù p ấ cùng đạt mức bình quân 3.54/5 điểm, ở mức
độ ạ .
Cũng với cách tính trên, ta tính được tương quan giữa các báo khảo sát, như sau:
Bảng 3.2: Tƣơng quan đánh giá công chúng giữa các báo khảo sát
Tiêu chí đánh giá Báo CT
1. Thông tin có tính thời sự, mới mẻ 2. Thông tin khách quan và chính xác 3. Thông tin có tính hệ thống và toàn diện 4. Thông tin có tính định hướng, giáo dục 5. Thông tin dễ hiểu 6. Thông tin về những địa bàn gần gũi 7. Thông tin có giá trị ứng dụng trong thực tiễn 8. Cách trình bày lôi cuốn, bắt mắt 9. Ảnh minh họa phù hợp, ấn tượng 10.Thể loại bài viết đa dạng, phong phú Báo An Giang 3.80 3.88 3.67 4.18 4.35 4.41 3.69 3.58 3.82 3.96 Báo Cà Mau 3.75 3.68 3.63 4.09 3.68 4.42 3.87 3.6 3.69 3.94 3.33 3.65 3.67 4.29 3.77 4.02 3.42 3.39 3.43 3.85
Từ kết quả trên, nhận thấy mức độ đánh giá về nội dung và hình thức của các
tác phẩm thể hiện thông điệp về BĐKH trên báo Đảng khu vực ĐBSCL không có sự
chênh lệch đáng kể. Tuy vậy, mức độ đánh giá của công chúng đối với báo Báo AG có
vượt trội hơn với 06/10 tiêu chí có số điểm cao hơn hai báo cùng khảo sát; 03 tiêu chí
được đánh giá ở mức khá tốt. Báo CM có 02 tiêu chí được điểm cao nhất; 02 tiêu chí
được đánh giá ở mức khá tốt, đặc biệt đây là tờ báo có tỷ lệ công chúng đánh giá tiêu
chí ụ ễ cao nhất trong 3 tờ báo khảo sát.
Báo CT có các mục công chúng đánh giá ở mức kém nhiều hơn so với các báo
địa phương khác, gồm 01 ấ é cho tiêu chí T ụ
ễ 03 nhận xét ấ é cho tiêu chí ọ p ù p ấ Số điểm mà
công chúng đánh giá cho báo CT ở các tiêu chí T ờ ớ ẻ
T ụ ễ đều thấp hơn so với 2 báo còn lại,... Về
hình thức, Báo CT cũng bị công chúng đánh giá thấp hơn so với tương quan hai tờ báo
cùng khảo sát ở cả 03 tiêu chí.
122
Báo CT là báo ra hàng ngày, có ưu thế nhất định về tính thời sự của thông điệp
do các tờ báo cùng khảo sát xuất bản thưa kỳ. Việc nhiều độc giả đánh giá ở mức kém
cho thấy báo CT còn nhiều hạn chế trong việc xây dựng, tổ chức và đăng tải các bài
viết nội dung về đề tài BĐKH. Tuy nhiên, các thống kê về nhân khẩu học của mẫu
nghiên cứu cho thấy công chúng Cần Thơ chủ yếu là cư dân đô thị, có trình độ học vấn
cao, điều kiện tiếp nhận các loại hình truyền thông hiện đại rất thuận lợi. Chính vì thế,
báo in với những ký tự và hình ảnh tĩnh chắc chắn sẽ kém thu hút và hấp dẫn, tính thời
sự cũng chậm hơn so với các loại hình truyền thông chuyển tải thông tin qua thiết bị kỹ
thuật số. Đối tượng công chúng này đòi hỏi Báo CT phải có những cải tiến mạnh mẽ cả
về nội dung và hình thức để đáp ứng yêu cầu mà công chúng đặt ra.
Với câu hỏi “Theo Quý v , thông tin về BĐKH b p ơ y u
ề c p n khía cạnh nào c BĐKH?” có đến 38,7% công chúng cho rằng thông tin
về BĐKH trên báo địa phương C bằ ữ . Số lượng công
chúng còn lại, 61,3%, chọn tiêu chí C Các tiêu chí C
và Khác không có người lựa chọn. Kết quả này có sự khác biệt đáng kể với thực tế
khảo cứu ở chương 3 của luận án là đại đa số các bài viết chứa thông điệp về BĐKH
tập trung khai thác các thông tin tiêu cực của BĐKH. Tuy nhiên, điều này có thể lý giải
bởi quá trình tiếp nhận thông điệp của công chúng có nhiều yếu tố gây nhiễu khiến họ
không hoàn toàn tiếp nhận chính xác cái mà thông điệp chuyển tải. Ngoài ra, người
nhận thông điệp thường có tâm lý „bóp méo có chọn lọc”, nghĩa là thêm vào thông điệp
những đều không có (phóng đại) và không tiếp nhận những điều khác thực có (lược
bớt) cho phù hợp với cái mà họ kỳ vọng muốn nghe thấy. Tuy nhiên, với 61,3% chọn
tiêu chí C cho thấy, đa số công chúng báo Đảng địa phương đã tiếp
0
38.7
Chủ yếu là tích cực
61.3
nhận khá chính xác nội dung chuyển tải của các thông điệp về BĐKH.
Biểu đồ 3.8: Đánh giá của công chúng về thông tin tích cực và tiêu cực
123
- Với câu hỏi đề nghị đánh giá tần suất thông điệp về BĐKH trên báo Đảng khu
vực ĐBSCL, 59,4% số người được khảo sát đánh giá số lượng các thông tin về BĐKH
trên báo in địa phương hiện nay là quá ít; 28.9% cho rằng tần xuất xuất hiện như thế là
p ý. Tỷ lệ công chúng đánh giá ề chiếm tỷ lệ không đáng kể (8.6%); 2.2%
số người cho ý kiến khác. Đây cũng là một trong những gợi ý cho đội ngũ báo chí có
những kế hoạch, chiến lược để thay đổi về số lượng bài viết phù hợp đáp ứng mức độ
2.2
29.8
Phù hợp
Quá nhiều
59.4
8.6
Quá ít
Ý kiến khác
quan tâm của công chúng.
Biểu đồ 3.9: Đánh giá của công chúng về tần suất bài viết về BĐKH
3.2.2.2. Mức độ đáp ứng nhu cầu thông tin về biến đổi khí hậu trên báo Đảng
khu vực đồng bằng sông Cửu Long
Kết quả khi được hỏi về mức độ đáp ứng nhu cầu thông tin về BĐKH của công
chúng trên 3 tờ báo khảo sát cho thấy phần lớn công chúng được khảo sát cho rằng các
thông tin đó chỉ p ộ p nhu cầu (63.4%), gấp 2.5 lần so với tỷ lệ công
chúng lựa chọn mức độ ỏ ã (24.4%) và gần gấp 3 lần tỷ lệ công chúng ỏ
80
68.2
64
58
60
32.7
40
25.2
20.7
15.3
20
9.3
6.6
0
Thỏa mãn
Đáp ứng được một phần Chưa thỏa mãn
An Giang
Cà Mau
Cần Thơ
mãn (12.2%).
Biểu đồ 3.10: ức độ đáp ứng nhu cầu thông tin về BĐKH
124
Tương quan giữa các địa bàn khảo sát cho thấy tỷ lệ công chúng báo CM
(32.7%) cảm thấy các nội dung trên báo địa phương đã ỏ ã nhu cầu tiếp nhận
thông tin của họ về vấn đề BĐKH nhiều hơn ở những tờ báo khác. Đặc biệt ở báo CT,
công chúng cảm thấy ỏ ã đối với các thông tin về BĐKH đăng tải cao nhất,
với tỷ lệ là 20.5%, gấp 3 lần so với công chúng ở An Giang và gấp hơn 2 lần so với Cà
Mau. Đề tài sẽ tập trung vào sự chênh lệch giữa tỷ lệ công chúng lựa chọn về mức độ
đáp ứng của thông tin nhằm đưa ra một số khuyến nghị nâng cao chất lượng các bài
viết về BĐKH để truyền tải thông điệp hiệu quả đến công chúng.
3.2.2.3. Ý kiến của công chúng về giải pháp nâng cao chất lượng thông tin về
BĐKH trên báo Đảng địa phương
Để có thể đưa ra các khuyến nghị cụ thể, chuyên đề thu thập ý kiến của công
chúng trên 5 khía cạnh nội dung lớn:
(1) T ề b ể BĐKH;
(2) T ọ ề BĐKH;
(3) T ề BĐKH;
(4) T ạ ộ ề BĐKH;
(5) T ớ ẻ ớ BĐKH
Với mỗi khía cạnh nội dung, đối tượng khảo sát có thể lựa chọn 1 trong 03 tiêu
chí là ă hoặc p ý. Kết quả khảo sát cho thấy tỷ lệ công chúng để nghị ă
cao gấp nhiều lần so với tỷ lệ công chúng yêu cầu hoặc cho rằng p ý ở tất cả
các khía cạnh nội dung. Trong đó, tỷ lệ công chúng đề nghị tăng các ớ
ẻ ớ BĐKH cao nhất; thấp nhất là tỷ lệ Thông tin về
h u qu BĐKH, 69,1%. Thông tin về h u qu BĐKH cũng là khía cạnh nội dung có tỷ
lệ công chúng yêu cầu cao nhất với 19.1% (Xem bảng 3.2). Xem xét kết quả khảo
sát ở từng địa phương, tác giả nhận thấy kết quả khá tương đồng với kết quả tổng hợp
và không có sự chênh lệch đáng kể.
125
Bảng 3.3: Ý kiến của công chúng về việc điều chỉnh các các khía cạnh
nội dung bài viết BĐKH trên báo Đảng khu vực ĐBSC
Tăng
Giảm
Hợp lý
Nội dung
Số lượng
Tỷ lệ (%)
Số lượng
Tỷ lệ (%)
Số lượng
Tỷ lệ (%)
357
79.3
32
7,1
61
13.6
376
83.5
21
4.7
53
11.8
311
69.1
86
19.1
77
17.1
370
82.2
24
5.3
56
12.4
399
88.7
14
3.1
37
8.2
1. Thông tin về diễn biến của BĐKH 2. Thông tin về nguyên nhân của BĐKH 3. Thông tin về hậu quả BĐKH 4. Thông tin các hoạt động thích ứng và chính sách về BĐKH 5. Thông tin hướng dẫn, chia sẻ kinh nghiệm thích ứng với BĐKH
Kết quả này cũng tương đồng với trả lời của công chúng về mức độ thỏa mãn
với các thông tin BĐKH trên báo Đảng khu vực ĐBSCL trong phần khảo sát phía trên;
đồng thời thể hiện rõ nhu cầu của công chúng là được cung cấp sâu sắc và toàn diện
hơn nữa các thông tin về vấn đề BĐKH.
3.2.3. Hành vi tiếp nhận thông điệp biến đổi khí hậu của công chúng báo
Đảng đồng bằng sông Cửu Long
Với câu hỏi “Những bài vi t về BĐKH b p ơ ờng g i cho
Quý v c nào?”, có 60.9% công chúng được khảo sát trả lời họ có tâm
trạng ắ sau khi đọc các bài viết về BĐKH trên báo in địa phương. Tỷ lệ chọn yếu
tố ắ cao nhất là công chúng báo AG với 64%, công chúng báo CM và báo CT
cùng đạt 59,3%. Có 32% công chúng trả lời họ cảm thấy ở ể ớ
BĐKH sau khi đọc các các thông tin về BĐKH và tỷ lệ 7.1% công chúng cảm thấy ạ
quan. Với kết quả này, có thể thấy các bài viết chứa thông điệp về BĐKH đã cung cấp
các thông tin tác động đến cảm xúc và nhận thức của công chúng. Tuy nhiên do quá tập
trung vào các yếu tố tiêu cực nên các thông điệp về BĐKH khiến công chúng lo lắng
nhiều hơn là bình tĩnh nhìn nhận lại vấn đề và thay đổi hành vi nhằm thích ứng với
BĐKH một cách hiệu quả.
0
7.1
Lo lắng
Bình thường
32
Lạc quan
60.9
Khác
126
Biểu đồ 3.11: Tác động của thông điệp về BĐKH trên báo Đảng
đến công chúng địa phƣơng
- Về mức độ tƣơng tác giữa công chúng với cơ quan báo chí
Tương tác báo chí là sự tác động qua lại giữa công chúng và cơ quan báo
chí, qua đó công chúng có thể bày tỏ ý kiến, quan điểm, cung cấp thêm thông tin
để làm rõ thêm nội dung, làm đẹp thêm về hình thức tác phẩm báo chí. Trên cơ sở
đó, cơ quan báo chí điều chỉnh, bổ sung, thay đổi về nội dung, hình thức, mức độ
thông tin… cho phù hợp, nhằm thu hút và tạo dựng lòng tin với họ. Thông qua
hoạt động tương tác, khoảng cách giữa báo chí và công chúng được rút ngắn, đồng
thời thúc đẩy sự cập nhật tin tức trên báo chí, khiến những vấn đề xã hội được
nhìn nhận một cách khách quan trên nhiều bình diện. Mức độ tương tác phản ảnh
được sự quan tâm của công chúng và phần nào nói lên hiệu quả truyền thông của
cơ quan báo chí đó.
Với câu hỏi “Quý v ã ừng ch ộng liên h với Toà soạn hoặc phóng
ể cung cấp, chia sẻ thông tin về BĐKH ?”, chỉ có 10 người (2.2%)
cho biết đã từng liên hệ và 97.8% người trả lời chưa bao giờ liên hệ với Toà soạn
hoặc phóng viên để trao đổi, nêu ý kiến hoặc cung cấp, chia sẻ thông tin về
BĐKH. Trong đó Báo CT có số công chúng từng liên hệ nhiều nhất là 07 người,
báo AG là 02 người và báo CM có 01 người. Tuy nhiên, với câu hỏi “T ơ
ớ ạ ề BĐKH Q ý ẵ ộ ớ
T ạ ặ p ể ý ặ ấp ?” thì
có 63.8% người cho biết họ sẵn sàng, 33.3% vẫn chưa sẵn sàng. Cụ thể hơn, công
chúng ở báo AG có tỷ lệ người sẵn sàng liên hệ thấp nhất, chỉ với 59.3%; CM là
61.3% và cao nhất là công chúng của báo CT là 70.7%.
97.8
63.8
Có
33.3
Không
Khác
2.9
2.2
120 100 80 60 40 20 0
Công chúng đã từng chủ động liên hệ
Công chúng sẵn sàng chủ động liên hệ
127
Biểu đồ 3.12: ức độ tƣơng tác giữa công chúng với cơ quan báo Đảng
về chủ đề BĐKH
Kết quả khảo sát trên cho thấy mặc dù mức độ tương tác giữa tòa soạn và công
chúng báo chí hiện tại ở mức thấp nhưng công chúng cũng đã nhận ra vai trò, trách
nhiệm của mình trong việc cùng cộng đồng ứng phó với BĐKH. Tuy nhiên, mức độ
tương tác thấp hiện tại cũng cho thấy mức độ tác động của các thông điệp về BĐKH
trên báo Đảng địa phương chưa như kỳ vọng. Vì thế người dân chưa cảm thấy sự cần
thiết trong việc chủ động liên lạc với tòa soạn, phóng viên; cũng không loại trừ họ còn
rụt rè, không dám lên ý kiến; chưa đủ am hiểu về BĐKH để có thể tự nhận biết các vấn
đề liên quan đến BĐKH để cung cấp ý kiến;… Những điều này đặt ra yêu cầu với cơ
quan báo Đảng trong việc nâng cao chất lượng thông tin, vai trò quản lý, tính định
hướng thông tin trong các hoạt động tương tác để nâng cao hơn nữa hiệu quả của thông
điệp về BĐKH.
Tiểu kết Chƣơng 3
Chương 3 đã phân tích các chỉ số từ kết quả khảo sát 450 công chúng báo
Đảng địa phương khu vực ĐBSCL. Kết quả cho thấy công chúng báo Đảng khu vực
ĐBSCL rất quan tâm và có nền tảng kiến thức tốt về BĐKH. Công chúng cũng
nhận thức sâu sắc con người là tác nhân khiến cho BĐKH diễn biến nhanh, gây ra
nhiều tác động tiêu cực ảnh hưởng lớn đến cuộc sống nhân sinh như hiện nay. Vì
thế, con người có trách nhiệm trong việc chung tay ứng phó với BĐKH. Điều này
minh chứng hiệu quả tác động của các thông điệp về BĐKH trên báo in địa phương
đến công chúng là khá tốt.
128
Tuy nhiên, giữa thông tin về BĐKH đã đăng tải và nhu cầu tiếp nhận thông
tin của công chúng còn khoảng cách nhất định. Đa số công chúng đánh giá về nội
dung và hình thức các bài viết chứa thông điệp về BĐKH trên báo Đảng địa
phương ở mức trung bình khá; mới đáp ứng được một phần nhu cầu thông tin của
độc giả. Đồng thời, phần lớn công chúng nhận thấy báo Đảng địa phương tập
trung thông tin nhiều về những ảnh hưởng tiêu cực của BĐKH, khiến cho họ cảm
thấy lo lắng khi đọc các bài viết về BĐKH được đăng tải. Mức độ tương tác giữa
công chúng và tòa soạn, phóng viên để nêu ý kiến hoặc cung cấp, chia sẻ thông tin
về BĐKH, ở hiện tại không nhiều. Công chúng cũng đề xuất tăng lượng bài về đề
tài này, đặc biệt là chia sẻ nhiều hơn nữa các kiến thức và kinh nghiệm ứng phó
với BĐKH từ cộng đồng.
129
Chƣơng 4
THÀNH CÔNG, HẠN CHẾ VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT
ƢỢNG THÔNG ĐIỆP BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU TRÊN BÁO ĐẢNG
KHU VỰC ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG
4.1. THÀNH CÔNG VÀ HẠN CHẾ CỦA THÔNG ĐIỆP BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU
TRÊN BÁO ĐẢNG ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG HIỆN NAY
4.1.1. Những thành công của thông điệp biến đổi khí hậu trên báo Đảng
đồng bằng sông Cửu Long
4.1.1.1. Góp phần nâng cao nhận thức cho công chúng về vấn đề biến đổi
khí hậu
Báo Đảng địa phương khu vực ĐBSCL đóng góp vai trò nòng cốt trong việc
cung cấp thông tin liên quan đến nội dung BĐKH, qua đó bổ sung kiến thức và định
hướng hành động ứng phó cho công chúng trên địa bàn.
Các dữ liệu khảo cứu thông điệp và khảo sát công chúng cho thấy các tờ báo
đã có rất nhiều nỗ lực trong việc xây dựng và thực hiện các bài viết về BĐKH, tần
suất tương đối dày, nội dung thông tin đa dạng và ngày càng thiết thực. Các thông tin
mang tính hệ thống và khá toàn diện đã cung cấp các kiến thức hữu ích, đa chiều cho
công chúng.
Đối với diễn biến của BĐKH, các báo đều quan tâm theo dõi, kịp thời cập nhật
và đưa ra các dự báo, cảnh báo để công chúng nắm bắt sự việc và chủ động có giải
pháp phòng ngừa, ứng phó cũng như cập nhật kịp thời tình hình khắc phục các hậu quả.
Các biểu hiện khí hậu được phản ảnh với nhiều hình ảnh thực tế, được cập nhật từ hiện
trường trực tiếp, làm tăng tính thuyết phục của thông tin bởi người đọc có thể hình
dung, liên tưởng ra ngay, thậm chí như được “nhìn tận mắt” sự kiện, sự việc, mô
hình… mà bài viết đề cập. Phạm vi thông tin gần gũi - với 83% số bài viết có phạm vi
phản ảnh trong nước mà chủ yếu là tại địa phương - giúp công chúng nhận ra mối liên
hệ của cá nhân với thông điệp, để từ đó họ bị “dẫn dắt” để tiếp tục quan tâm, tìm hiểu
và chịu tác động của thông điệp truyền thông.
Thông điệp về hậu quả của BĐKH đã phản ảnh một bức tranh khá rõ nét về tác
động của BĐKH đến các lĩnh vực của đời sống dân sinh, từ tính mạng, sức khỏe của
con người đến kinh tế, công ăn việc làm, môi trường sống, quan hệ ngoại giao và an
130
ninh giữa các quốc gia... Đời sống của các đối tượng yếu thế như người nghèo, người
già, phụ nữ và trẻ em trong bối cảnh BĐKH gia tăng cũng cũng được các báo nhìn
nhận, chia sẻ, thể hiện bằng những thông điệp đậm đà cảm xúc, tạo được ấn tượng
mạnh mẽ, sâu sắc cho người tiếp nhận thông điệp. Nhóm nội dung về giải pháp chiếm
vị trí thứ 2 về tần suất xuất hiện trong các bài viết về BĐKH đã góp phần làm lan tỏa
thông điệp về nỗ lực không mệt mỏi của toàn xã hội trong việc ứng phó với BĐKH.
Bằng việc thông tin liên tục những hoạt động ứng phó của chính quyền các cấp, những
giải pháp ứng dụng công nghệ mới cũng như những kinh nghiệm, kỹ năng được đúc
kết từ thực tiễn của người dân, báo chí đã giúp công chúng nhận ra vai trò, trách nhiệm
của mình và học tập được nhiều kiến thức, kinh nghiệm, kỹ năng ứng phó có giá trị
ứng dụng cao trong thực tiễn.
Thành công của các báo khi thông tin về BĐKH là mặc dù vấn đề mang tính
khoa học, với nhiều thuật ngữ phức tạp, khó hiểu, nhưng đa số đều được diễn giải linh
hoạt, bằng ngôn ngữ đại chúng, giúp công chúng dễ nhớ, dễ hiểu và dễ làm theo. Các
từ ngữ địa phương Tây Nam bộ được sử dụng phù hợp với ngữ cảnh và tạo nên tính
gần gũi đối với công chúng ĐBSCL. Các báo cũng chú trọng phát huy ưu thế loại hình
để tổ chức những loạt bài nhiều kỳ, cung cấp những kiến thức có chiều sâu và có hệ
thống cho công chúng.
Không có hiểu biết đúng, nhận thức đúng thì khó có hành động đúng. Con số
92,2% công chúng báo Đảng khu vực ĐBSCL quan tâm và rất quan tâm đến vấn đề
BĐKH; 92.1% công chúng nhận thức BĐKH đang gây ra những tác động to lớn đến
đời sống nhân sinh. 100% công chúng nắm rõ các biểu hiện tiêu biểu đặc trưng của
BĐKH ở ĐBSCL; 74% công chúng bày tỏ sự tin tưởng và tuyệt đối tin tưởng vào
tương lai thắng lợi của con người với BĐKH nếu quyết tâm và đồng lòng thay đổi hành
vi trong sinh hoạt và sản xuất… là những minh chứng quan trọng cho hiệu quả tác
động của thông điệp về BĐKH trên báo Đảng khu vực ĐBSCL trong việc giúp công
chúng có thêm kiến thức, hiểu biết và tham gia nhiều hơn và thực tiễn công tác giảm
nhẹ, ứng phó và thích nghi với BĐKH mà cả nước đang dốc toàn lực để thực hiện.
4.1.1.2. Góp phần cụ thể hóa chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của
Nhà nước về biến đổi khí hậu
Nhiều thông điệp chứa đựng trong các bài viết trên báo Đảng khu vực ĐBSCL
không chỉ giới thiệu, giải thích chính sách mà còn vận động, hướng dẫn để người dân
131
hiểu, ủng hộ và làm theo. Thông qua báo chí, nhân dân hiểu được định hướng của
Đảng và Nhà nước là phát triển kinh tế phải theo hướng bền vững, đi đôi với BVMT.
Đối với ĐBSCL, quan điểm chỉ đạo là kiến tạo phát triển bền vững, thịnh vượng, trên
cơ sở chủ động thích ứng, phát huy tiềm năng, thế mạnh, chuyển hóa những thách thức
thành cơ hội để phát triển. Các hoạt động ứng phó với BĐKH phải theo hướng tôn
trọng quy luật tự nhiên, phù hợp với điều kiện thực tế, tránh can thiệp thô bạo vào tự
nhiên; chọn mô hình thích ứng theo tự nhiên, thân thiện với môi trường và phát triển
bền vững theo phương châm sống chung với lũ, ngập, nước lợ, nước mặn… Ở hướng
ngược lại, công chúng được tiếp cận nhanh với những chính sách giảm nhẹ tác động
BĐKH mà Nhà nước đang triển khai nên ý thức hơn về trách nhiệm, quyền lợi của
mình…; từ đó tạo được sự rõ ràng, minh bạch trong thực thi chính sách - là một trong
những tiêu chí quan trọng để các chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà
nước về BĐKH được cụ thể hoá vào thực tiễn.
Báo Đảng khu vực ĐBSCL còn đăng tải, giải thích các văn bản quốc tế liên
quan đến BĐKH, như Công ước Khung của LHQ về BĐKH (năm 1992), Nghị định
thư Kyoto về cắt giảm khí nhà kính, các báo cáo và khuyến nghị thường niên và đặc
biệt của Ủy ban Liên chính phủ về BĐKH để giúp công chúng có sự hiểu biết rộng rãi
hơn về thực trạng, diễn biến cũng như quyết tâm trong cuộc chiến nhằm thích ứng và
giảm thiểu tác động của BĐKH của cộng đồng quốc tế.
Thông qua những tác phẩm báo chí phản ánh hơi thở cuộc sống, báo Đảng khu
vực ĐBSCL cũng thể hiện vai trò giám sát thực thi chính sách, lên án các hành vi gây ô
nhiễm, suy thoái môi trường, xâm hại và lãng phí tài nguyên thiên nhiên. Nhiều vấn đề,
sự kiện của đời sống dân sinh trong bối cảnh BĐKH không ngừng gia tăng tác động
tiêu cực, được báo chí tìm hiểu, khai thác và thông tin, gợi mở những vấn đề mới cho
các nhà nghiên cứu khoa học, cũng như sự quan tâm của những nhà hoạch định chính
sách; chẳng hạn như gợi mở vấn đề hỗ trợ chính sách trước tình trạng chậm triển khai
các dự án kè chống sạt lở; trẻ em ở các khu vực sạt lở phải bỏ học, vất vả mưu sinh
(“Vàm X ” Báo CM ngày 31/3/2017). Tình trạng giao đất, giao rừng cho
người dân sản xuất theo chủ trương của Nhà nước lại làm gia tăng nguy cơ cháy rừng
do diện tích đất sản xuất nằm xen kẽ với đất rừng, mùa khô hạn lại trùng với thời điểm
người dân thu hoạch vụ đông xuân, tiến hành đốt rơm rạ chuẩn bị cho vụ mùa sau
132
(“T ề ẩ ơ ừ ừ ữ ộ ” Báo CM ngày 10/3/2017). Tình
trạng quản lý lỏng lẻo trong việc khai thác nước ngầm làm thất thoát và lãng phí tài
nguyên, làm tăng nguy cơ sụt lún (“N ớc và s s ng” Báo AG ngày 22/3/2018), (“G ữ
ớ ọ ù ĐBSCL”, Báo CT từ ngày 18/2/2019 đến 20/2/2019). Hành vi xâm
chiếm bãi, bờ để xây công trình và nhà ở, nạn khai thác cát trái phép và phương tiện
đường thủy chở quá tải làm gia tăng nguy cơ gây xói lở (“Ki n tạ ể ĐBSCL p
triển an toàn bền vững”, Báo CT ngày 18/10/2017)...
Đặc biệt, báo Đảng khu vực ĐBSCL đã góp tiếng nói cùng báo chí trong nước
tạo sức ép để các bộ, ngành Chính phủ và các tổ chức quốc tế có hướng can thiệp về
tình trạng khai thác tài nguyên nước trên thượng nguồn châu thổ, xây dựng đập thủy
điện làm thay đổi dòng chảy, giảm lượng phù sa, suy giảm nguồn lợi thủy sản, xâm
nhập mặn sâu vào nội vùng, tác động tiêu cực đến phát triển KT-XH của vùng… Các
thông điệp chính sách tiếp cận theo hướng vi mô thường đậm hơi thở cuộc sống, sát
với thực tiễn, thể hiện được sức lao động và bản lĩnh của người làm báo, là những
thông điệp sâu sắc và có giá trị tích cực cần tiếp tục phát huy để hiệu quả tuyên truyền,
vận động, giám sát và phản biện xã hội việc triển khai thực hiện chính sách, pháp luật
về quản lý, sử dụng tài nguyên thiên nhiên, BVMT và ứng phó với BĐKH ngày càng
hiệu quả.
4.1.1.3. Tuyên truyền, phổ biến các kinh nghiệm hay, giải pháp tốt; góp
phần cổ vũ, khích lệ năng lực sáng tạo, thúc đẩy yếu tố tích cực trong hành động
ứng phó biến đổi khí hậu
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 (khóa X) “Về ởng, lý lu n và
b ớc yêu c u mớ ” đã chỉ ra “ Phát hi n và cổ ũ ững nhân t tích c c,
nhân t mới ũ ĩ b c ti p xây d ng xã hội mới ngày càng t t
ẹp”. Báo chí nói chung, đặc biệt là báo Đảng có vai trò quan trọng trong tạo lập, định
hướng và hướng dẫn dư luận xã hội; biểu dương, ghi nhận, tôn vinh và khích lệ, cổ vũ,
động viên đối với các gương người tốt việc tốt trong công tác ứng phó với BĐKH ở địa
phương, đơn vị. Những mô hình mới, cách làm hay trong công tác ứng phó với BĐKH
được phát hiện, động viên, cổ vũ kịp thời sẽ tạo nên tính lan tỏa trong xã hội, để mỗi
tập thể, cá nhân áp dụng vào thực tế tại đơn vị mình, gia đình mình.
Nghiên cứu thông điệp về BĐKH trên báo Đảng khu vực ĐBSCL cho thấy, các
hoạt động ứng phó, những mô hình mới, cách làm hay trong công tác ứng phó với
133
BĐKH được chú trọng khai thác, chuyển tải đến công chúng đã khơi dậy được niềm tin
và ý chí trong cộng đồng để nỗ lực hơn nữa. Đó là mô hình làm sao duy trì được sinh
kế cho người dân trong điều kiện đất đai, thổ nhưỡng, điều kiện tự nhiên, quy luật mùa
vụ có những thay đổi do BĐKH, như: Mô hình trồng lúa mùa nổi kết hợp với du lịch
của người dân ở hai xã Vĩnh Phước và Lương An Trà ở huyện Tri Tôn - tỉnh An Giang
(“Lú ù ổ ” báo AG ngày 3/2/2017). Mô hình trồng dừa trên đất mặn, khôi phục
những vùng đất “chết” vì nhiễm mặn ở huyện Phú Tân, tỉnh Cà Mau (“K p ụ ờ
ừ ấ ặ ”, báo CM ngày 13/9/2018). Mô hình kê liếp trồng tràm và cây keo lai
vừa mang lại thu nhập cao, vừa có hiệu quả ngăn ngừa cháy rừng trong mùa khô
(“T ừ ” báo CM ngày 16/3/2018). Mô hình trồng cây
mắm, vừa làm cây cố định đất chống xói lở, vừa làm trụ để trồng thanh long, làm giảm
nạn chặt phá rừng phòng hộ ven biển và tăng thu nhập cho người giữ rừng (“C ấ
b ể ” báo CM ngày 19/5/2018). Mô hình sản xuất sạch, sử dụng hữu cơ sinh học và
giảm thiểu sử dụng phân bón hóa học trong sản xuất nông nghiệp bền vững (“Sử dụng
phân hữ ơ - sinh học vùng hạn mặn” báo CT ngày 31/3/2017). Hoạt động tắt đèn
hưởng ứng giờ Trái đất và trồng cây xanh để BVMTcủa tuổi trẻ Cần Thơ (“Tuổi trẻ
C T ơ ởng ng Giờ Tr Đất” báo CT ngày 26/3/2017). Thông qua những mô
hình ấy, báo chí cũng giới thiệu, biểu dương tôn vinh nhiều tấm gương tập thể, những
nhân tố mới và cá nhân điển hình trong thực hiện các giải pháp thích ứng với BĐKH.
Đó là những nhà khoa học đang miệt mài nghiên cứu tìm ra những giống lúa có thể
chịu được hạn, mặn; những chuyên gia, nhà quản lý đang cùng người nông dân bám
rừng bám đất để kiểm tra việc ứng dụng một mô hình canh tác mới hay nhằm phát hiện
những bất thường của các yếu tố thời tiết, kịp thời cảnh báo cho nhân dân; là những
người nông dân không ngại từ bỏ những tập tục thói quen canh tác cũ có hại cho môi
trường và mạnh dạn ứng dụng cách làm mới… Cách thức tôn vinh khéo léo, lồng ghép
trong những chia sẻ về cách thức thực hiện hoạt động ứng phó, những suy nghĩ, trăn
trở, ý kiến, nhiệt huyết của họ vì một tương lai cuộc sống xanh và bền vững… tạo nên
những thông điệp chân thực khách quan giúp công chúng nhận thức rằng cho dù
BĐKH khốc liệt và nghiệt ngã, con người vẫn chưa bao giờ thoái chí, đầu hàng và
những nỗ lực ứng phó ấy sẽ thành công. Những thông điệp này có giá trị thiết thực, góp
phần cổ vũ, khích lệ năng lực sáng tạo, thúc đẩy yếu tố tích cực trong hành động ứng
phó BĐKH của công chúng.
134
4.1.2. Những hạn chế về sản xuất thông điệp biến đổi khí hậu trên báo
Đảng đồng bằng sông Cửu Long
4.1.2.1. Nội dung thông điệp chưa bao quát các khía cạnh của vấn đề biến
đổi khí hậu
Tiếp cận từ 04 nhóm nội dung Biểu hiện, Tác động, Nguyên nhân và Giải pháp
ứng phó BĐKH, có thể thấy nội dung thông điệp về BĐKH trên báo Đảng khu vực
ĐBSCL bị mất cân đối rõ nét. Các báo chủ yếu tập trung thông tin về biểu hiện, các tác
động và tường thuật các hoạt động ứng phó với BĐKH của các ngành, các địa phương
hơn là đưa các thông tin lý giải nguyên nhân của BĐKH. Nhóm thông tin về biểu hiện
chiếm đến 75,3% số bài báo đề cập đến nội dung BĐKH, cao hơn thông điệp đề cập
nguyên nhân (14,2%) đến hơn 5,3 lần và đều là thông tin có số lượng vượt trội ở cả 03
báo khảo sát.
Việc báo chí đưa thông tin biểu hiện quá nhiều mà không chỉ ra mối liên hệ với
BĐKH và lý giải nguyên nhân của các biểu hiện ấy, về lâu dài có thể làm cho công
chúng có nhận thức thiếu toàn diện, mất cảnh giác vì cho rằng đây là biểu hiện thời tiết
bình thường; cũng như thiếu ý thức điều chỉnh hành vi thực tiễn ngăn chặn và giảm
thiểu tác động tiêu cực của BĐKH.
Sự mất cân đối cũng thể hiện rõ trong từng nhóm nội dung thông điệp. Các
thông điệp về biểu hiện BĐKH chủ yếu đề cập các biểu hiện bề nổi, có thể dễ dàng
nhìn thấy như sạt lở, hạn hán, bão, lụ lụt, triều cường dâng cao gây ngập… Trong khi
các biểu hiện có diễn biến chậm, nhưng mức độ tác động vô cùng nghiêm trọng như
suy thoái đa dạng sinh học, phá hủy hệ sinh thái… ít được quan tâm phản ảnh. Góc
thông tin chưa bao quát của báo chí vô hình trung khiến công chúng nhận thức về
BĐKH không sâu, khó nhận biết mức độ phổ quát của BĐKH, những hiểm họa tiềm
ẩn, nghiêm trọng thực sự của nó, việc ứng phó vì thế cũng không thể mang tính chiến
lược, hiệu quả lâu dài.
Ở nhóm thông điệp về tác động, những hậu quả tiêu cực, thảm họa do BĐKH
gây ra chiếm lĩnh gần như hoàn toàn trên mặt báo, rất ít bài viết đề cập đến tác động
mang tính tích cực của sự thay đổi các yếu tố khí hậu ở từng thời điểm, vùng địa lý
khác nhau cũng như những cơ hội mà BĐKH đem đến để các nhóm cộng đồng chuyển
đổi kinh tế, phát triển sản xuất bứt phá, tạo lợi thế cạnh tranh. Nhiều bài viết thậm chí
mang yếu tố bi quan cực đoan, vì thế, chưa khơi dậy niềm tin, thúc đẩy cộng đồng cùng
135
chung tay hành động. Các thông điệp này không dừng lại ở mức độ cảnh báo mà còn
gây ra tâm trạng lo lắng quá mức cho đa số công chúng khi tiếp nhận thông điệp
(60.9% công chúng cho biết họ lo lắng sau khi đọc các tin, bài về BĐKH trên báo) có
thể kéo theo những hiệu ứng xã hội bất lợi. Lĩnh vực bị tác động cũng có sự chênh
lệch, báo Đảng địa phương chủ yếu thông tin các hậu quả có thể quan sát được như
thiệt hại về người, nhà cửa đường sá, mùa màng…; ít bài viết về những hậu quả tiềm
ẩn như sức khỏe tinh thần con người và các vấn đề an ninh sinh thái. Ở nhóm thông tin
giải pháp, trong khi thông tin về các sự kiện, hội nghị, hội thảo… có liên quan đến
BĐKH, đặc biệt là khi có lãnh đạo địa phương tham gia luôn được “ưu tiên” đưa lên
mặt báo, thì thông điệp chia sẻ những kỹ năng, kinh nghiệm mà người dân tự đúc rúc ra
được qua công việc, đời sống hằng ngày lại rất hiếm hoi; thiếu đi các thông tin mang
tính dự báo và chỉ dẫn để người dân vận dụng ứng phó với BĐKH trong thực tiễn.
Rất có thể, điều này do kiến thức, vốn hiểu biết về vấn đề BĐKH của đội ngũ
nhà báo còn hạn hẹp, phương pháp tiếp cận còn lúng túng, chưa chủ động bao quát vấn
đề thông tin giúp công chúng mở rộng tầm nhìn để chủ động ứng phó trong thực tiễn.
4.1.2.2. Nội dung thông điệp chưa sâu sắc, chưa làm nổi bật vai trò giám sát
và phản biện xã hội của báo Đảng đồng bằng sông Cửu Long về vấn đề biến đổi
khí hậu
Giám sát xã hội là theo dõi và kiểm tra, đánh giá một vấn đề nào đó của đời
sống xã hội xem có thực hiện đúng những điều đã quy định hay không. Còn phản biện
xã hội tức là sự biện luận, thẩm định, đánh giá của các lực lượng xã hội đối với những
chủ trương, chính sách, đề án, dự án xã hội... liên quan đến quyền lợi và đời sống của
các thành viên trong xã hội, đã được công bố hay đang hình thành.
Vai trò của báo chí trong thực hiện chức năng giám sát và phản biện xã hội về
BĐKH là cung cấp thông tin, các chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước về
BĐKH, kiểm tra xem có thực hiện đúng hay không; khẳng định mặt tích cực và chỉ ra
được hạn chế, bất hợp lý trong thực tiễn triển khai các quyết sách ấy để tìm kiếm giải
pháp khắc phục, bổ sung; đồng thời tạo diễn đàn để công chúng có thể thông tin, chia
sẻ kỹ năng, kinh nghiệm về ứng phó BĐKH.
Mặc dù việc giám sát thực thi chính sách BĐKH có nhiều nỗ lực, tuy nhiên,
thực tế thông tin về chính sách trên báo Đảng ĐBSCL còn mang tính một chiều; chủ
yếu vận động công chúng làm theo. Hiếm có bài viết nào phản biện mạnh mẽ về tính
136
hợp lý, hợp hiến cũng như khả năng thực thi hiệu quả của các chính sách BĐKH trong
thực tế, chỉ ra những bất cập giữa các hoạt động phát triển kinh tế với mục tiêu ứng phó
hiệu quả với BĐKH… buộc ngành chức năng phải nhìn nhận để có hướng xử lý hoặc
điều chỉnh các chính sách hiện hữu cho phù hợp. BĐKH có nguyên nhân chính là do
con người gây ra, nhưng cũng rất ít các bài viết dám mạnh dạn phanh phui các tổ chức,
cá nhân chạy theo lợi nhuận kinh tế bất chấp mục tiêu BVMT và ứng phó với BĐKH
theo quy định. Những bài viết có đề cập thì cũng nói chung chung chứ chưa “chỉ mặt -
đặt tên” cụ thể các cá nhân, tổ chức vi phạm. Vì thế, chưa thực sự tạo ra những “xung
lực” mạnh mẽ để dẫn tới việc thay đổi nhận thức, hành vi từ những nhóm đối tượng cụ
thể và tạo sức ép để điều chỉnh, thay đổi hoặc xiết chặt việc thực thi chính sách từ phía
các cơ quan quản lý.
Vai trò giám sát và phản biện xã hội của báo chí chỉ thật sự hiệu quả khi tập hợp
được nguồn lực trí tuệ và cảm xúc của toàn dân, tạo được diễn đàn để người dân mạnh
dạn nói lên tiếng nói của mình. Tuy nhiên, kết quả khảo cứu và khảo sát công chúng
cho thấy hoạt động tương tác, trao đổi thông tin về BĐKH giữa báo đảng địa phương
ĐBSCL và công chúng trên địa bàn rất ít. Trong khảo sát, chỉ có 04 bài của công tác
viên là người dân, 1 bài của công tác viên của cán bộ quản lý và 19 bài của các chuyên
gia, nhà khoa học (trong đó có 14 bài hướng dẫn sử dụng sản phẩm của một doanh
nghiệp bảo vệ thực vật trên địa bàn). 97.8% công chúng khảo sát cho biết họ chưa từng
tương tác với cơ quan báo chí địa phương để chia sẻ, cung cấp thông tin về BĐKH. Và
mặc dù nhận thức được những tác hại tiềm ẩn của BĐKH, 33.3% công chúng cho biết
trong tương lai cũng không sẵn sàng liên hệ với phóng viên, cơ quan báo Đảng khi có
thông tin mới về BĐKH. Đây là một chỉ báo đáng buồn mà để lý giải cần nhìn nhận ở
nhiều góc độ, từ tính cách, thói quen, mức độ quan tâm và am hiểu về BĐKH để công
chúng có thể tự nhận biết các vấn đề liên quan và cung cấp ý kiến… Tuy nhiên, không
loại trừ giả thuyết báo chí địa phương chưa tạo được môi trường gắn kết với công
chúng; chưa thể hiện được vai trò là cầu nối giữa người dân với cơ quan truyền thông
của Đảng bộ và chính quyền, chưa thật sự là “diễn đàn của nhân dân”. Vậy nên, vị thế,
uy tín của báo Đảng địa phương trong lòng công chúng chưa đủ mạnh, chưa được công
chúng xem là một điểm tựa đáng tin cậy để người dân có thể tin tưởng chia sẻ thông
tin, bày tỏ quan điểm của mình.
137
Theo GS Zaxyrxki, Chủ nhiệm khoa Báo chí ĐHTHQG Mát-xcơva (MGU), xét
cho cùng thì làm báo là nghệ thuật thuyết phục công chúng; thuyết phục là cơ sở quan
trọng nhất để tạo dựng niềm tin nơi công chúng và nhân dân. Nếu báo Đảng chưa làm
được điều đó, tức là tự tước mất sức mạnh của chính mình.
Tính tương tác giúp rút ngắn khoảng cách giữa báo chí và công chúng, khiến
những vấn đề xã hội, trong đó có vấn đề BĐKH được nhìn nhận một cách bao quát,
khách quan trên nhiều bình diện. Khả năng tương tác kém là hạn chế lớn nhất của báo
in so với các loại hình truyền thông khác như báo mạng điện tử, truyền hình hay phát
thanh và báo đảng ĐBSCL cũng không ngoại lệ. Để gia tăng tưong tác với công chúng,
nhiều cơ quan báo in đã tận dụng tối đa các ưu thế và khả năng của mình như mở các
chuyên trang, chuyên mục, diễn đàn định kỳ về một nội dung cụ thể để công chúng dễ
theo dõi, qua đó có thể cung cấp thông tin, chia sẻ ý kiến, tranh luận về một nội dung
nào đó… tạo sự liên kết gắn bó với công chúng. Cả 03 tờ báo diện khảo sát AG, CM và
CT chưa đưa nội dung BĐKH vào xây dựng chuyên trang, chuyên mục, diễn đàn định
kỳ. Các bài viết về BĐKH đăng tải rải rác ở các trang và khi ít, khi nhiều theo mức độ
các sự kiện BĐKH diễn ra. Vì thế, không thuận lợi cho công chúng, nhất là những
người quan tâm đến vấn đề này theo dõi, lưu trữ, tra cứu… Điều này cũng ảnh hưởng
đáng để đến hiệu quả tác động của thông điệp khi không thể đem đến cho công chúng
một cái nhìn xuyên suốt, liên tục về thông tin, làm giảm sự thu hút đối với tờ báo.
Đối tượng chịu tác động của BĐKH là tất cả cư dân trong vùng, nhưng những
người yếu thế như phụ nữ, người già, người nghèo và trẻ em là những người dễ bị tổn
thương gấp nhiều lần; khả năng và điều kiện ứng phó của họ cũng hạn chế hơn so với
các đối tượng còn lại. Vai trò giám sát mà báo chí cần phát huy trong bối cảnh này là
giúp các đối tượng yếu thế chia sẻ những tâm tư tình cảm, những vướng mắc, khó khăn
về tinh thần và vật chất; chuyển tải nguyện vọng đề xuất các chính sách hỗ trợ để họ
nâng cao năng lực thích ứng trước những tác động tiêu cực của BĐKH, đến với các
nhà soạn thảo chính sách, các cơ quan công quyền. Tuy nhiên, hình bóng các đối tượng
yếu thế trong thông điệp về BĐKH trên báo Đảng địa phương lại rất mờ nhạt. Điều này
cũng cho thấy vai trò giám sát - phản biện xã hội của báo Đảng khu vực ĐBSCL về
BĐKH chưa được rõ nét.
Thực tế này chứng tỏ rằng, hoặc là năng lực giám sát, phản biện xã hội của báo
Đảng khu vực khảo sát yếu kém; hoặc là năng lực chính luận, phân tích và kiến thức về
138
vấn đề đang bàn tới của đội ngũ nhà báo chưa đủ để cắt nghĩa, lý giải vấn đề một cách
hệ thống, có chiều sâu.
4.1.2.3. Phạm vi thông tin hẹp, hiệu quả gia tăng sự hiểu biết và hợp tác quốc
tế trong ứng phó và thích nghi với biến đổi khí hậu không đáng kể
Mặc dù mức độ tác động và đặc trưng biểu hiện của BĐKH ở mỗi vùng địa lý
là khác nhau, nhưng chúng đều tạo nên những tác động liên đới, ảnh hưởng đến các
khu vực khác. Từ khi Việt Nam tham gia Thỏa thuận Paris về BĐKH, Chính phủ đã
tập trung đẩy mạnh thực thi các chính sách nhằm góp phần cùng với các quốc gia
thực hiện cam kết toàn cầu ngăn sự ấm lên của Trái đất. Tăng cường hợp tác quốc tế
cũng được xem mà một giải pháp quan trọng cho tính khả thi của hoạt động ứng phó
với BĐKH ở Việt Nam. Vì lý do này, trọng tâm công tác truyền thông cũng phải theo
hướng cập nhật đầy đủ, khách quan tình hình BĐKH trong nước để bạn bè thế giới
hiểu biết và nhìn nhận đúng những nỗ lực của Việt Nam. Mặt khác, phải thông tin
nhanh chóng, chân thực về diễn biến của BĐKH trên thế giới để Chính quyền và
người dân Việt Nam có thể nắm bắt chính xác tình hình, diễn biến, tác động của
BĐKH ở phạm vi toàn cầu, chia sẻ những kinh nghiệm, giải pháp hay về ứng phó vời
BĐKH của cộng đồng quốc tế. Đây cũng là cách giúp Chính phủ và các địa phương
nhận biết được mối quan tâm trong ứng phó BĐKH của các quốc gia, tổ chức quốc
tế, từ đó nghiên cứu, đề xuất xây dựng các khuôn khổ hợp tác mới với các nước và
các đối tác quốc tế trong lĩnh vực BĐKH. Qua đó, tranh thủ sự ủng hộ, kêu gọi hợp
tác và hỗ trợ về tài chính, công nghệ cho việc xây dựng các chính sách và phát triển
các hoạt động thích ứng BĐKH tại Việt Nam.
Tuy nhiên, mật độ xuất hiện của các thông điệp về BĐKH có phạm vi phản ảnh
ngoài lãnh thổ trên báo Đảng khu vực ĐBSCL rất khiêm tốn (11.3%). Số tin, bài dịch
từ báo chí nước ngoài nhằm thông tin nhanh diễn biến và hoạt động ứng phó BĐKH
trên thế giới cũng là con số rất nhỏ (6.6%). Trong số 3 báo, báo CT có tổ chức lực
lượng biên dịch trực tiếp từ báo nước ngoài nên tổ chức các nội dung bài viết khá tốt,
thông tin kịp thời về các hội nghị cấp cao quốc tế về BĐKH; các cam kết chính trị, phát
ngôn chia sẻ của lãnh đạo Chính phủ và các tổ chức quốc tế đối với Việt Nam. Báo AG
đăng lại các bài dịch từ báo nước ngoài trên Thông tấn xã Việt Nam và các báo có liên
kết, nhưng chủ yếu là tin không tít hoặc các bản tin ngắn về các vụ thiên tai, hậu quả
139
lớn do BĐKH gây ra… Riêng báo CM không đăng tải các bài dịch từ báo nước ngoài,
cũng không có bài viết về BĐKH ở phạm vi ngoài nước. Điều này làm hạn chế sự hiểu
biết của công chúng về BĐKH ở quy mô toàn cầu. Công chúng không nhận ra được
việc ứng phó với BĐKH đang là nỗ lực chung của toàn nhân loại để động viên bản
thân cùng vào cuộc. Chưa kể, trước đòi hỏi sống còn của việc giảm thiểu BĐKH, nhiều
tổ chức phi chính phủ, tập đoàn kinh tế thế giới đề ra những kế hoạch, chương trình hỗ
trợ để khuyến khích các hoạt động phát triển kinh tế bền vững, quy mô đến tận hộ gia
đình. Người dân sẽ bỏ qua những cơ hội hợp tác đáng quý và đáng khích lệ nếu không
nắm bắt được những thông tin này; hiệu quả huy động nguồn lực kinh phí và kỹ thuật
từ các quốc gia và tổ chức quốc tế để ứng phó với BĐKH cũng bị hạn chế.
4.1.2.4. Thể loại tác phẩm báo chí thể hiện thông điệp chưa đa dạng, phong phú
Hầu hết bài viết về BĐKH trên báo Đảng khu vực ĐBSCL sử dụng các thể loại
nhóm thông tấn (tỷ lệ 92,4%). Trong đó, tin và bài phản ánh giữ vai trò chủ đạo bởi có
thể tác nghiệp nhanh và đáp ứng yêu cầu thời sự. Tuy nhiên, tin và bài phản ảnh chủ
yếu là mô tả, tường thuật lại sự việc, sự kiện, thường dừng lại ở mức nêu vấn đề chứ
chưa có sự phân tích, lý giải. Trong 2,5 năm khảo sát, chỉ có 8 bài viết thuộc thể loại
chính luận đăng trên báo AG và báo CM trong khi BĐKH là lĩnh vực có tầm quan
trọng và phạm vi tác động rộng, việc triển khai thực hiện chính sách hoặc những vấn đề
thực tiễn nảy sinh từ những tác động đa chiều của BĐKH rất cần những bài phân tích,
lý giải một cách thấu đáu. Nhiều vấn đề nhạy cảm như tình trạng ly nông - ly hương do
BĐKH khiến đời sống canh tác khó khăn; hoặc ngược lại, là những nỗ lực bám rừng,
bám biển, bám đất của những nông dân miền Tây cần cù chịu khó… hoàn toàn có thể
tổ chức thực hiện, thể hiện qua văn phong phóng sự, ký sự, tạo nên những thông điệp
chân thực, đậm đà cảm xúc, cũng chưa có nhiều. Các bài được dịch từ báo nước ngoài
có số lượng ít, thậm chí có báo không tổ chức tuyến bài này đã làm giảm đi tính thời
sự, cập nhật của thông điệp truyền thông do chậm được tiếp cận với các thông tin mới
về BĐKH đang diễn ra trên toàn cầu. Các báo khảo sát cũng cũng không có bài viết
nào thuộc thể loại infographic. Trong khi, bằng cách sử dụng hình ảnh để trình bày
thông tin, dữ liệu mà chữ viết và hình ảnh chụp không diễn tả được, thể loại báo chí
này giúp độc giả dễ dàng theo dõi, là giải pháp hữu hiệu giúp giảm bớt sự năng nề đơn
điệu trên tác phẩm báo in. Điều này cho thấy chưa có sự phối hợp tốt các thể loại tác
phẩm báo chí trong các thông điệp về BĐKH trên báo Đảng địa phương ĐBSCL.
140
Những thông điệp được chuyển tải một cách đều đặn, tác động liên tục và bền
bỉ sẽ hiệu quả hơn việc thông tin theo kiểu “mùa vụ”. Tần suất đăng tải các bài viết
chứa đựng thông điệp về BĐKH nhìn chung khá dày, tuy nhiên vẫn còn tính thời điểm,
không ổn định. Tin bài đăng tải dày đặc và chuyên sâu hơn mỗi khi có sự kiện về
BĐKH được tổ chức hoặc trên địa bàn xảy ra thiên tai, nhưng sau đó thì lại trầm lắng,
thông tin mờ nhạt. Nguyên nhân hạn chế này một phần do chưa xây dựng được chiến
lược truyền thông về BĐKH, chưa tổ chức được các chuyên trang, chuyên mục để duy
trì dòng chảy thông tin liên tục về nội dung này.
Thực tế này cho thấy, tính chuyên nghiệp trong sử dụng các thể loại tác phẩm
báo chí để chuyển tải thông điệp BĐKH chưa thuyết phục; đồng thời, năng lực chính
luận, viết các thể loại tác phẩm chính luận của nhà báo còn nhiều hạn chế.
4.1.2.5. Ngôn ngữ thể hiện thông điệp còn nghèo nàn, khô khan, sử dụng
nhiều từ ngữ cực đoan
Ngôn ngữ là phương tiện chuyển tải nội dung thông tin chủ đạo của báo in, có ý
nghĩa quyết định đến chất lượng của thông tin cũng như tác động và hiệu quả của
thông điệp báo chí. Các bài viết về BĐKH trên báo Đảng khu vực ĐBSCL chủ yếu
sử dụng phong cách ngôn ngữ khoa học, tuy nhiên, việc xử lý các thuật ngữ khoa học
trong nhiều bài viết chưa được linh hoạt, nhiều bài viết “bê” nguyên xi các từ ngữ hàn
lâm từ các bản báo cáo khoa học lên trang báo, khiến cho thông điệp về BĐKH trên
báo Đảng khu vực ĐBSCL đôi lúc còn khô khan, khó hiểu. Cách sử dụng thường
xuyên các từ ngữ mang tính tiêu cực, như: “ ” “ ể ọ ớ ấ
ạ ” “ ọ ” “ ấ ạ ” “ ” “ p” “
”… có khả năng tạo nên sự định kiến của công chúng, khiến họ nghĩ rằng BĐKH
là một vấn đề nằm ngoài tầm kiểm soát của con người và hoàn toàn không thể có giải
pháp ngăn chặn.
Tít có vai trò quan trọng trong việc tạo sự lôi cuốn, dẫn dắt người đọc tiếp tục
khám phá nội dung tác phẩm. Tuy nhiên, tít trong các bài viết về BĐKH trên báo Đảng
khu vực ĐBSCL thiếu sáng tạo, chưa thể hiện dấu ấn văn phong của tác giả. Số lượng
các tít bài sắc sảo, ấn tượng không nhiều. Tình trạng tít bài trùng lắp, khó hiểu, quá dài
hoặc quá lạm dụng các con số và chi tiết gây “sốc” trên tít vẫn còn xảy ra.
Bên cạnh ngôn ngữ biểu đạt cơ bản là chữ viết, đồ họa ảnh, tranh minh họa,
biểu bảng, đồ thị, sơ đồ, biểu đồ… là những loại hình ngôn ngữ phi văn tự mà báo in
141
thường sử dụng để bổ sung thông tin, làm cho tác phẩm thêm sống động, lôi cuốn, hấp
dẫn. Tuy nhiên, việc sử dụng ngôn ngữ phi văn tự trên báo Đảng ĐBSCL rất đơn điệu,
chủ yếu là hình ảnh. Dù vậy còn nhiều hình ảnh không đảm bảo chất lượng, chưa làm
bật lên nội dung hoặc hình ảnh không phù hợp với nội dung bài viết, chưa mang phong
cách ảnh báo chí…
4.1.3. Nguyên nhân của những thành công và hạn chế
4.1.3.1. Nguyên nhân của những thành công
Một là, lãnh đạo các ngành, các cấp Trung ương và các địa phương ở ĐBSCL
nhận thức khá đầy đủ về sự cấp bách và cần thiết của công tác ứng phó với BĐKH
cũng như tầm quan trọng của truyền thông trong việc thực hiện mục tiêu BVMT và
thích ứng với BĐKH, bước đầu có quan tâm phối hợp, tạo điều kiện cho phóng viên
các cơ quan truyền thông, đặc biệt là phóng viên của báo Đảng địa phương thực hiện
nhiệm vụ.
“Để khuy ộ b ề BĐKH ột cách k p thời,
ã ạo thành ph chỉ ạ ơ b ộng cung cấp
thông tin cho nhà báo khi có các hoạ ộng, s ki n, vấ ề liên quan; tr lời k p thời,
có trách nhi m những vấ ề b ặ ” (PVS -M3)
Cũng trên cơ sở quan tâm đó, trong vòng 5 năm qua, nhiều chính sách, Nghị
quyết về ứng phó với BĐKH cho vùng ĐBSCL được Trung ương ban hành, sau đó
được các bộ ngành và địa phương tiếp tục xây dựng thành các kế hoạch để cụ thể trong
thực tiễn. Đáng kể đến là Nghị quyết số 120/NQ - CP của Chính phủ về phát triển bền
vững ĐBSCL thích ứng với BĐKH, được Thủ tướng Chính phủ quyết liệt chỉ đạo
quyết liệt đã được cả hệ thống chính trị và người dân ĐBSCL vào cuộc hưởng ứng.
Bên cạnh đó, nhiều sự kiện, hội nghị, hội thảo lớn liên quan đến vấn đề BĐKH với sự
tham gia của lãnh đạo các Chính phủ, tổ chức quốc tế, các nhà nghiên cứu tên tuổi…
cũng chọn các địa phương trong vùng làm nơi tổ chức, triển khai. Qua đó, tạo môi
trường thông tin thuận lợi để báo chí địa phương tác nghiệp, thực hiện nhiều thông điệp
về BĐKH có tính thời sự, sinh động, đồng thời còn tạo nền tảng dữ liệu quý giá để các
nhà báo đối chiếu với thực tiễn để “nhìn” ra vấn đề, đề tài và tiếp tục triển khai thành
những bài viết mang thông điệp có ý nghĩa.
Hai là, lãnh đạo các cơ quan báo chí bước đầu cũng nhận thức việc đẩy
mạnh thông tin, chuyển đến công chúng những thông điệp về BĐKH, giúp công
142
chúng thêm kiến thức bổ ích để tham gia vào công cuộc ứng phó với BĐKH một
cách tích cực là nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên và trách nhiệm của những
người làm báo Đảng.
“Chúng tôi luôn nhắc nhở p ơ ở c n chú ý quan
ặt cho mình những câu hỏi: B ể p bấ ờ ? Hoạt
ộng th c thi pháp lu t về BVMT, ng phó vớ BĐKH ơ ý
v y là phù h p hay ? C c p có h p lý hay
không?... B AG ý p ớ ở ơ
p ơ ổ ề ề BĐKH ũ ộ ú
ờ ý ể ù ” (PVS -M11).
“N ữ ấ ề ề BĐKH p B B p ề
ờ ổ ý ể “ ấ ” p ẩ ặ p ụ
ý ở ắ b p ” (PVS -M16).
Ba là, đội ngũ các nhà báo trong cơ quan báo Đảng địa phương ĐBSCL phần
lớn là những người có năng lực, trình độ lý luận chính trị, giàu nhiệt huyết. Tác nghiệp
trong điều kiện cạnh tranh thông tin ngày càng gay gắt, những người làm báo Đảng địa
phương không ngừng tìm tòi, sáng tạo, đổi mới tư duy và kỹ năng làm báo để có được
những bài báo hay. Là những người am hiểu văn hoá bản địa, gắn bó mật thiết với cơ
sở, với nguồn tin nên mỗi khi có những biến cố khí hậu, thiên tai… báo Đảng địa
phương đều thông tin kịp thời. Công chúng nhận ra những điều gần gũi, thân quen với
cuộc sống của mình qua các thông điệp trên báo, vì thế họ dễ dàng lĩnh hội những nội
dung mà thông điệp báo chí chuyển tải.
B n là, báo Đảng khu vực ĐBSCL có lượng công chúng ổn định, trong đó
nhiều người có điều kiện để tiếp xúc, chia sẻ với người khác trong cùng tổ chức, trong
các cuộc họp, trò chuyện, giúp thông tin về BĐKH trên báo Đảng có điều kiện lan tỏa,
tác động đến những công chúng mới.
4.1.3.2. Nguyên nhân của những hạn chế
T ấ , là chưa xây dựng được chiến lược truyền thông về BĐKH. Để dự án
truyền thông hiệu quả, trước hết chủ thể truyền thông cần xác định việc truyền thông
điệp là nhằm đạt được mục đích gì? thực hiện như thế nào? trọng tâm từng giai đoạn ra
sao?; từ đó xây dựng chiến lược truyền thông, bám sát thực hiện. Điều này có nghĩa là
143
cơ quan báo Đảng khu vực ĐBSCL phải xác định được muốn đạt điều gì trong việc
truyền thông về BĐKH? (thông điệp đích), từ đó xây dựng kế hoạch triển khai các tác
phẩm báo chí, thiết kế thông điệp, hướng đến mục tiêu chung đó. Tuy nhiên, lãnh đạo
03 cơ quan báo khảo sát cho biết đơn vị chưa xây dựng chiến lược truyền thông về
BĐKH mà chủ yếu dựa vào thực tế diễn tiến của các vụ việc có liên quan đến BĐKH
để chỉ đạo. Điều này lý giải tình trạng nội dung thông tin thiếu cân đối, tần suất không
ổn định… trên báo Đảng ĐBSCL như thực tiễn khảo cứu đã đề cập.
T BĐKH là một vấn đề khó, những thành tựu và kiến thức cập nhật khoa
học về nguyên nhân cơ chế hình thành của các biểu hiện BĐKH là những kiến thức
chuyên ngành và mang tính kỹ thuật. Việc diễn giải các thông tin này bằng ngôn ngữ
đại chúng, dễ hiểu mà vẫn đảm bảo chính xác là điều khó khăn, thậm chí cả với những
nhà khoa học. Mặc dù báo chí nói chung, báo Đảng ĐBSCL nói riêng, có nỗ lực,
nhưng không phải lúc nào cũng thuận lợi và đạt kết quả như mong muốn. Để tránh sai
sót và để theo kịp áp lực thông tin, các nhà báo thường chọn giải pháp “lờ” đi nguyên
nhân, hoặc “bê nguyên xi” những thuật ngữ hàn lâm vào bài viết cho nhanh. Chính vì
thế, một số bài viết về BĐKH trên báo Đảng khu vực ĐBSCL khó hiểu, kém hấp dẫn.
T b , là do trình độ, năng lực của người làm trong các cơ quan báo Đảng khu
vực ĐBSCL không đồng đều, một bộ phận bị hạn chế về kiến thức, kỹ năng và kinh
nghiệm nghề nghiệp. Một số nhà báo chuyên viết về BĐKH chưa từng tham dự một
khóa bồi dưỡng nào về kỹ năng, kinh nghiệm viết báo lĩnh vực BĐKH và tất cả các nhà
báo chuyên viết về BĐKH ở 03 báo khảo sát cho biết rất mong muốn được tham gia
các lớp bồi dưỡng, tập huấn về kỹ năng viết về bài trong lĩnh vực này(PVS - M7, M8,
M12, M13, M18). Chưa kể, một bộ phận nhỏ còn thiếu nhiệt tình, trách nhiệm nghề
nghiệp nên trước các nội dung khó, như BĐKH, họ thường chọn giải pháp phản ánh
qua loa cho có những bài báo “lấp đầy chỗ trống” chứ chưa đặt mình vào vị trí công
chúng tiếp nhận để nhìn ra nội dung thông tin mà công chúng đang cần; tính hấp dẫn,
mới mẻ và tầm ảnh hưởng mà thông điệp bài viết tạo ra bị hạn chế.
“N ờ b ề BĐKH ò p ấp ữ tin
ề ý p b ơ ỉ
p ộ ễ ộ ụ Đ b
“ - ” ộ b b ơ ở không
ể ạ ữ p ẩ ”. (PVS-M4)
144
T để có bài viết lý giải thấu đáu, nhà báo cần thông tin từ rất nhiều phía.
Tuy nhiên, việc phối hợp truyền thông liên ngành và chia sẻ thông tin giữa các ngành,
lĩnh vực khác nhau hiện nay ở giữa các cơ quan trong địa phương đã khó, ngoài địa
phương càng nhiêu khê. Nhà báo khó tiếp cận được nguồn tin từ cơ quan chức năng, do
nhiều cơ quan không sẵn sàng hợp tác, cung cấp thông tin hoặc cung cấp chậm trễ nên
khi có được thông tin thì vấn đề đã không còn tính thời sự.
Th ă hầu hết cơ quan báo Đảng địa phương đang được bao cấp toàn bộ
hoặc một phần lớn kinh phí hoạt động. Kinh phí đã có cơ quan chủ quản lo, bao luôn
đầu ra nên một số cơ quan có tâm lý ỷ lại, không quan tâm nắm bắt nhu cầu, thị hiếu
tiếp nhận thông tin của bạn đọc. Đơn cử cả 3 báo trong diện khảo sát đều chưa từng tổ
chức nghiên cứu về công chúng (PVS-M6,M11,M16), dẫn đến thực tế là thông tin về
BĐKH trên báo Đảng ĐBSCL chỉ mới đáp ứng một phần nhu cầu của công chúng.
Mặt khác, điều kiện sống bằng bao cấp nên kinh phí hoạt động cho báo Đảng khu vực
ĐBSCL còn rất hạn chế, cơ sở vật chất, kỹ thuật chưa hiện đại ảnh hưởng đến khả năng
tác nghiệp của phóng viên cũng như chất lượng của các sản phẩm báo chí nói chung.
4.1.4. Một số vấn đề đặt ra
Từ thực tế khảo sát thông điệp về BĐKH của báo Đảng khu vực ĐBSCL, khảo
sát công chúng và phỏng vấn sâu các đối tượng có liên quan, có thể rút ra mấy vấn đề
sau đây.
4.1.4.1. Môi trường truyền thông mới đang đặt ra những thách thức lớn đối
với báo Đảng khu vực đồng bằng sông Cửu Long
Sự phát triển của khoa học công nghệ những thập niên gần đây đã tạo nên
MTTT số với những thay đổi và khác biệt đáng kể so với MTTT truyền thống, cả ở các
yếu tố môi trường tự nhiên lẫn yếu tố xã hội.
Xét ở mo i tru ờng tự nhie n, trước đây khoảng cách địa lý, địa hình, thời tiết…
ảnh hướng lớn đến việc bảo đảm cho tho ng điẹ p truyền đến đối tu ợng nhanh chóng và
trọn vẹn. Trong không gian Internet hiện nay, khoảng cách địa lý, tính định kỳ và giới
hạn của thông tin báo chí truyền thống đã xóa nhòa bởi MTTT mới có thể cung cấp
một khối lượng thông tin và dịch vụ khổng lồ cho công chúng bất cứ thời điểm nào chỉ
qua một thiết bị công nghệ số. Trong môi trường xã hội, nhiều phương tiện và phương
thức truyền thông mới qua internet, đặc biệt là mạng xã hội, dẫn đến sự thay đổi về vai
145
trò, chức năng, tâm lý của cả chủ thể và công chúng tiếp nhận, là các yếu tố chi phối rất
lớn đến na ng lực và hiẹ u quả truyền tho ng. Trong MTTT mới, “vai trò truyền thông
c a công chúng - ời ti p nh ờ ù ng mục tiêu thụ
ộng sẽ chấm d ộ ò ời tìm ki ấn,
nắm bắt, ph n h i thoạ ời chuy n trò” [49]. Công chúng ngày nay không bị
động ngồi chờ báo chí cung cấp thông tin như trước, mà họ tự tìm kiếm, kết nối, sản
xuất và chia sẻ thông tin… trở thành những "nhà báo công dân". Trong MTTT truyền
thống, mỗi loại hình báo chí có một dạng thức tồn tại đặc trưng là chữ viết, âm thanh và
hình ảnh, thì giờ đây báo điện tử, báo chí đa phương tiện, truyền thông hội tụ... đã tạo
nên những dạng thức báo chí mới có hiệu quả và năng lực truyền thông vượt trội.
Nằm trong vòng xoáy bùng nổ thông tin do MTTT mới tạo ra, việc đáp ứng nhu
cầu thông tin ngày càng nhanh, đa dạng, đúng và trúng, có chiều sâu của công chúng
đặt ra những thách thức rất lớn đối với báo Đảng ĐBSCL.
Th nhất, là việc đảm bảo tính thời sự của thông tin. Ngoại trừ báo Cần Thơ là
nhật báo, các báo Đảng khu vực ĐBSCL đều là báo thưa kỳ. Thêm vào đó, việc phát
hành bằng hình thức trao tay, trong điều kiện cơ sở hạ tầng vùng ĐBSCL còn khá
nhiều vùng sâu - vùng xa phải đến bằng tàu đò… thông tin đến tay bạn đọc không còn
mới mẻ. Trong khi đó, qua các thiết bị thông minh, công chúng có thể theo dõi tường
tận sự việc như đang ở hiện trường, còn có thể tương tác để tìm hiểu sâu hơn vấn đề khi
có nhu cầu.
Th hai, là việc giải quyết mâu thuẫn giữa đặc tính tuyên truyền của báo Đảng
và thuộc tính tin tức thời sự báo chí. Mặc dù định hướng lãnh đạo công tác thông tin
trên báo chí của Đảng và tôn chỉ, mục đích, nhiệm vụ của các cơ quan báo Đảng đều đề
cao tính chiến đấu của báo chí, khuyến khích vai trò báo chí phản biện xã hội, mạnh
dạn phản ảnh các vấn đề bức xúc của nhân dân, nhưng thực tế các cơ quan báo Đảng
khu vực ĐBSCL vẫn coi việc tuyên truyền là nhiệm vụ hàng đầu; không dám mạnh tay
với những tiêu cực ở địa phương. Đa số các bài viết chung chung, xuôi chiều để đảm
bảo “an toàn”, chưa mạnh dạn thể hiện quan điểm, chính kiến và nguyện vọng của
công chúng xã hội. Trong khi đây là điều công chúng kỳ vọng ở các báo chí chính
thống, nhất là báo Đảng, để tìm ra bản chất của vấn đề thực tiễn. Điều này, vô hình
trung càng “đẩy” công chúng đến những “nhà báo công dân” dám nói trên MXH bởi
không phải sức ép, chịu ràng buộc nào. Do đó, báo Đảng ngày càng mất dần công
chúng và thị phần thông tin.
146
Co ng chúng hiẹ n nay thu ờng thích các tin ngắn co đọng, súc tích, nhiều hình
ảnh sinh đọ ng ho n là các bài viết nhiều chữ trừ khi đó thực sự là mọ t vấn đề đáng quan
ta m. Thế nhưng cách thể hiện tác phẩm trên báo Đảng khu vực ĐBSCL vẫn theo lối
mòn với những bài viết dài chi chít chữ; cách đặt tít đơn điệu nhàm chán, hình ảnh kém
tính thẩm mỹ và nghệ thuật báo chí... vì thế chưa tạo được sự hấp dẫn, cuốn hút để giữ
chân và phát triển công chúng. Chính vì thế mà công chúng báo Đảng ĐBSCL hiện
nay cũng chỉ bó hẹp phạm vi các cán bộ, công chức, viên chức nhà nước và lực lượng
vũ trang (chủ yếu là người về hưu) như các dẫn liệu khảo sát ở chương 3 đã thể hiện.
Thông tin chậm, bài viết/thông điệp nặng tính khuôn mẫu, hình thức cũ kỹ kém
hấp dẫn và chưa thật sự lấy bạn đọc làm thước đo tính hiệu quả… là những thách thức
lớn mà báo Đảng ĐBSCL phải đối mặt trong MTTT mới.
4.1.4.2. Trình độ, kỹ năng tác nghiệp của nhà báo chưa thích nghi với môi
trường truyền thông mới và đáp ứng yêu cầu thực tiễn
Trong MTTT mới, công chúng thay đổi, báo chí cần phải bắt kịp sự thay đổi ấy
để đáp ứng nhu cầu, nguyện vọng, tâm lý, thị hiếu của công chúng. Vấn đề đặt ra cho
báo Đảng diện khảo sát là làm thế nào để tháo gỡ, giải quyết các vấn đề như nâng cao
năng lực giám sát và phản biện xã hội, gia tăng tính tương tác và kết nối xã hội, tổ chức
và quản lý diễn đàn trên mặt báo? Hay đơn giản là viết ngắn gọn, nổi bật từ đầu đề tác
phẩm đến cách diễn đạt, trình bày và ảnh, cũng như thông tin hình ảnh, đồ hoạ
inforgraphic,…
Thực tế khảo sát ở trên cho thấy, đội ngũ báo Đảng địa phương rất nhiệt tình,
xông xáo và bám sát thực tế, nhưng trình độ, năng lực tác nghiệp còn những hạn chế
cần khoả lấp. Trình độ ngoại ngữ chưa đáp ứng yêu cầu xu thế làm báo mới; chưa ứng
dụng được nhiều thành tựu công nghệ thông tin trong quá trình sáng tạo tác phẩm báo
chí (hoặc không thể áp dụng trong quá trình tác nghiệp do không phù hợp với hạ tầng
kỹ thuật và quy trình làm báo tại tòa soạn báo địa phương hiện nay); đặc điểm văn hóa
bản địa của công chúng chưa được khai thác hiệu quả; chưa tạo nên bản sắc riêng cho
thông điệp báo chí. Các báo diện khảo sát chưa chủ động xây dựng kế hoạch/chiến dịch
tuyên truyền/truyền thông về các chủ đề liên quan đến BĐKH; do đó tin/bài xuất hiện
tuỳ theo thời vụ, các chuyên trang/chuyên mục cũng không được thiết lập để cung cấp
kiến thức, thông tin và tạo diễn đàn chia sẻ kỹ năng/kinh nghiệm cho công chúng và
147
nhân dân. Nói cách khác, nhà báo báo thiên về gặp gì viết nấy, có gì viết nấy mà chưa
chủ động tổ chức thành kế hoạch/chiến dịch truyền thông, chưa xây dựng các chuyên
trang để có thể hình thành dòng thông điệp đủ mạnh và đủ sức thuyết phục công chúng
và nhân dân.
Mặt khác, hầu hết các nhà báo chỉ tập trung tác nghiệp vào các loại thể tác phẩm
báo chí thông tấn, còn các bài phân tích, bình luận hầu như rất ít. Nói cách khác, năng
lực phân tích, chính luận của nhà báo rất hạn chế.
4.1.4.3. Nhận thức và hiểu biết về biến đổi khí hậu và ứng phó với biến đổi
khí hậu của đội ngũ nhà báo địa phương đồng bằng sông Cửu Long chưa sâu và
chưa đồng bộ
Về bất kỳ vấn đề gì, hiểu biết làm nền tảng cho nhận thức; hiểu biết đúng và sâu
sắc sẽ là cơ sở giúp cho nhận thức đúng và chắc chắn. BĐKH là vấn đề mới và phức
tạp, từ đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý đến đội ngũ hoạt động báo chí - truyền thông
cần hệ kiến thức nhất định mới có thể có được nhận thức phù hợp; từ đó có cách thức
hành xử, ứng phó linh hoạt, hiệu quả. Hệ kiến thức này không chỉ từ sách vở, lý thuyết,
mà quan trọng không kém là kiến thức thực tiễn vùng. Do đó, cần có nhiều cuộc
nghiên cứu khảo sát của các chuyên gia, kết hợp với đội ngũ cán bộ, cả cư dân bản địa
và đội ngũ nhà báo; từ đó báo chí chia sẻ kiến thức, thông tin để giúp cộng đồng mở
mang hiểu biết, nâng cao nhận thức và tìm kiếm giái pháp thực tiễn ứng phó với
BĐKH hiệu quả.
Với đội ngũ nhà báo địa phương, thực tế cho thấy thiếu hụt về kiến thức BĐKH
cả về lý thuyết lần thực tiễn, cho nên tiếp cận và giải quyết vấn đề này trong tác phẩm
còn lúng túng, bị động, thậm chí một chiều. Bởi mỗi khi kiến thức thiếu hụt, hiểu biết
chưa sâu thì nhà báo rất khó có thể sáng tạo tác phẩm/thông điệp hấp dẫn.
4.2. MỘT SỐ GIẢI PHÁP, KHUYẾN NGHỊ NÂNG CAO CHẤT ƢỢNG
THÔNG ĐIỆP BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU TRÊN BÁO ĐẢNG KHU VỰC ĐỒNG BẰNG
SÔNG CỬU LONG
4.2.1. Một số giải pháp về nội dung, hình thức thông điệp về biến đổi khí hậu
4.2.1.1. Giải pháp về nội dung
Một là, thông tin bao quát các khía cạnh nội dung c BĐKH
Các biểu hiện của BĐKH cần phải được thông tin kịp thời, đầy đủ, thưởng
xuyên và chính xác. Thông tin về biểu hiện cần đi kèm với các thông tin dự báo, cảnh
148
báo về các dấu hiệu diễn biến bất thường để người dân nhận biết, chủ động phòng
tránh hiệu quả, giảm thiểu thiệt hại. Tăng cường nội dung phân tích nguyên nhân của
BĐKH, chỉ ra được mối liên hệ giữa việc gia tăng BĐKH với những tập tục, thói quen
chưa tốt trong sản xuất, sinh hoạt và hành vi khai thác thiếu bền vững các tài nguyên
thiên nhiên mà ĐBSCL đang là “điểm nóng” như lạm dụng khai thác cát sỏi, nước ngọt
ở bề mặt và nước ngầm… Tăng cường các bài viết về tác động của BĐKH đến đời
sống tinh thần của con người, đến việc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa, mối liên
quan giữa BĐKH và dịch bệnh, hoặc tiếp cận từ góc độ vai trò giới…; Làm đậm nét
các thông tin về tác động của BĐKH đến việc xây dựng các “vành đai an sinh” như đảo
đảm an ninh lương thực, an ninh năng lượng, an ninh nguồn nước, xóa đói giảm nghèo,
an sinh xã hội, nâng cao chất lượng đời sống, bảo vệ tài nguyên thiên nhiên… Song
song với thông tin về tiêu cực, cần bổ sung thông tin về các tác động tích cực của
BĐKH, giúp cộng đồng nhìn nhận BĐKH không chỉ đem đến nguy cơ mà còn mở ra
nhiều cơ hội để chuyển đổi kinh tế, phát triển sản xuất bứt phá, tạo lợi thế cạnh tranh.
Các chủ trương chính sách của Đảng, Chính phủ và các Bộ, ngành cũng như những
chính sách của địa phương về BĐKH dưới nhiều góc độ cần được thông tin, cập nhật
kịp thời để người dân biết - hiểu và chấp nhận tham gia thực hiện, biến nhiệm vụ chính
trị của chính quyền thành mục tiêu phấn đấu của người dân. Tăng cường thông tin các
mô hình, cách làm hay, đặc biệt là cách thức thay đổi tập quán sản xuất - kinh doanh, tổ
chức đời sống dân cư để thích nghi với điều kiện BĐKH.
H ă ộng theo chiều sâu, tính ng dụng c p
Một tác phẩm báo chí/thông điệp sâu sắc là khi nó nhìn nhận các sự kiện và vấn
đề theo chiều sâu và tính thực tiễn, không chỉ dừng lại ở việc nêu vấn đề mà cần đề
xuất hướng giải quyết vấn đề, phân tích thấu đáu, lý giải các vấn đề dưới các góc tiếp
cận và gợi mở hành động.
Để tăng cường chiều sâu và giá trị ứng dụng của thông điệp về BĐKH, báo
Đảng khu vực ĐBSCL thông tin về BĐKH cần tăng cường các bài viết mang tính phản
biện, tránh kiểu thông tin một chiều, áp đặt và thiên về ca ngợi. Thông tin về các chủ
trương chính sách mới về BĐKH cần đặt trong mối liên hệ với các chính sách khác
trong thục tiễn để xem xét mức độ phù hợp; giám sát chặt chẽ quá trình thực thi chính
sách và lên tiếng phản biện ngay khi thấy chưa phù hợp với mục tiêu phát triển bền
vững và đảm bảo an sinh xã hội. Giá trị ứng dụng của thông điệp sẽ tăng lên khi đi kèm
149
với những cảnh báo ấy là những giải pháp mới và hữu ích đã được cuộc sống kiểm
chứng. Những mâu thuẫn nội tại trong thực thi chính sách trong bối cảnh tác động đa
chiều do BĐKH, nếu được nhà báo khơi dậy từ thực tiễn, sử dụng sức mạnh truyền
thông khơi nguồn dư luận xã hội, gây được sức ép để có được sự can thiệp của chính
quyền, thì giá trị mang lại không chỉ cho đối tượng được phản ảnh, mà còn góp phần
tạo dựng niềm tin của công chúng, sự tin tưởng và đồng thuận của người dân với bộ
máy công quyền.
Ba là, mở rộng phạm vi thông tin về BĐKH
Mở rộng phạm vi thông tin trong trường hợp này gồm bổ sung thông tin về diễn
biến, hoạt động hợp tác quốc tế, các thành tựu khoa học mới về ứng phó BĐKH mà các
quốc gia, các tổ chức quốc tế đang thực hiện để cung cấp cho công chúng một cái nhìn
tổng quan toàn diện về BĐKH, giúp công chúng học tập, làm dày thêm kinh nghiệm,
kỹ năng ứng phó; đồng thời, tăng cường thông tin về thực trạng và những vấn đề phát
sinh và nỗ lực ứng phó BĐKH của Việt Nam đến cộng đồng quốc tế. Việc thông tin
như vậy không chỉ cho thấy cam kết và những nỗ lực của Việt Nam mà còn kêu gọi các
quốc gia, tổ chức quốc tế đến Việt Nam để nghiên cứu tìm giải pháp cũng như hỗ trợ
kỹ thuật, tài chính ứng phó với BĐKH.
4.2.1.2. Giải pháp về hình thức và cách thức tổ chức thông điệp
Nội dung và hình thức là hai yếu tố không thể tách rời tạo dựng nên thông điệp
và có quan hệ biện chứng, quyết định giá trị của thông điệp. Thông điệp không thể có
một nội dung hoàn chỉnh và giá trị thiết thực nếu các ngữ liệu cấu thành nội dung (ngôn
ngữ, tít, hình ảnh,…) được tổ chức thiếu hợp lý. Vì thế, để nâng cao chất lượng thông
điệp thì giải pháp đổi mới về mặt nội dung cũng cần triển khai với đổi mới hình thức.
Các giải pháp hình thức đề xuất để nâng cao chất lượng thông điệp về BĐKH trên báo
Đảng ĐBSCL có thể là:
T ấ ạ hoá ể ạ p ẩ báo chí
Sự đa dạng đan xen các thể loại báo chí giúp cho công chúng cảm thấy bớt
nhàm chán khi tiếp nhận thông tin, đồng thời phát huy hiệu quả thể hiện nội dung trong
nhiều trường hợp. Thể loại chính luận rất phù hợp trong các bài về chính sách BĐKH
bởi các phân tích, lý giải vấn đề có hệ thống với lập luận chặt chẽ giúp công chúng có
cái nhìn toàn diện, theo chiều sâu, hiểu được vấn đề đúng - sai. Hình thức infographic
cũng cần được quan tâm hơn, bởi đơn giản hóa các thông tin phức tạp, giảm sự đơn
điệu cho tác phẩm báo in.
150
Trong MTTT số, dù có nỗ lực như thế nào thì báo in cũng không thể “thắng”
báo mạng điện tử về độ nhanh nhạy, về khả năng tương tác với công chúng. Vì vậy,
nên lựa chọn những vấn đề trọng tâm mà công chúng quan tâm để tổ chức thực hiện
những bài/ loạt bài viết sâu sắc, có hệ thống… để mỗi bài viết là nguồn tư liệu bổ ích
và có giá trị cả về nhận thức và tham chiếu kỹ năng.
T ữ c b ẩ ạ ễ ể ễ và
ạ ừ ữ
Các bài viết cần lựa chọn ngôn ngữ dễ hiểu, đơn giản, gần gũi, hạn chế những từ
ngữ mang tính hàn lâm, khoa học và trừu tượng để người dân dễ tiếp thu; hạn chế các
từ ngữ biểu thị cực đoan và tăng cường sử dụng các loại hình ngôn ngữ phi văn tự như
đồ họa, biểu đồ… làm sinh động hình thức thông tin. Ảnh phải có chất lượng tốt, bố
cục rõ ràng, có tính thẩm mỹ lẫn giá trị thông tin.
T b ấ ă p b ụ ò
Bám sát định hướng và mục tiêu để xây dựng kế hoạch/chiến dịch truyền thông
về BĐKH hàng năm. Trên cơ sở đó triển khai các bài viết thường xuyên, ổn định
chuyên trang/chuyên mục, tần suất thông tin đảm bảo tính liên tục của dòng chảy thông
tin về BĐKH trên báo Đảng khu vực ĐBSCL.
T ụ ề BĐKH
Tính định kỳ và sự ổn định chuyên trang/chuyên mục là lời giao ước của toà
soạn báo chí với công chúng xã hội; đem đến cho công chúng một cái nhìn xuyên
suốt, liên tục về thông tin, cũng như làm tăng tính hấp dẫn, thu hút theo chiều sâu đối
với chuyên mục và tờ báo. Dựa trên phân bố trang mục hiện tại của các tờ báo khảo
sát, tác giả đề xuất chuyên mục “BĐKH” nên được bố trí ở vị trí ở các trang giữa
(trang 6-7 của báo AG và CM; trang 8 - 9 của báo CT), là các trang in màu, vì thế có
thể thiết kế các bài báo đẹp, tạo ấn tượng để thu hút công chúng.
- Mở rộng mạ ới cộng tác viên.
Môi trường truyền thông số tạo ra khả năng siêu kết nối, rất thuận cho việc xây
dựng mạng lưới cộng tác viên cho toà soạn. Để cải thiện tình trạng cộng tác viên ít ỏi
như hiện nay, báo Đảng khu vực ĐBSCL cần có chính sách khuyến khích, thu hút
những nhà chuyên môn, nhà hoạt động chính trị - xã hội và những cây bút có uy tín
tham gia viết về đề tài BĐKH. Để nâng cao chất lượng của đội ngũ cộng tác viên, các
cơ quan báo cần thường xuyên tổ chức các lớp tập huấn, bồi dưỡng về nghiệp vụ viết
151
báo, tổ chức các hội nghị cộng tác viên và thông tin hai chiều, nhằm kịp thời động viên,
khen thưởng, tôn vinh những cá nhân tích cực, tạo mối liên hệ gắn bó giữa cơ quan báo
và đội ngũ cộng tác viên.
4.2.2. Giải pháp nhằm nâng cao năng lực xây dựng và thiết kế thông điệp
4.2.2.1. Nâng cao hiệu quả lãnh đạo, hiệu lực quản lý báo chí theo định
hướng của Đảng
Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý báo chí là vấn đề có tính nguyên tắc, để báo
chí cách mạng Việt Nam giữ vững tôn chỉ, mục đích và phát triển một cách toàn diện.
Trong MTTT số, thông tin trên thế giới được truyền tải liên tục, nhiều chiều và dễ dàng
tới công chúng thông qua Internet, với những dạng thức truyền thông mới, trong đó
MXH đang chiếm ưu thế. Điều kiện phát triển mạnh mẽ của truyền thông xã hội đòi
hỏi việc lãnh đạo, quản lý báo chí phải thay đổi theo hướng hoàn thiện cơ chế, chính
sách để tạo điều kiện cho các cơ quan báo chí phát triển thích ứng với xu thế và phục
vụ có hiệu quả cao nhất những mục tiêu của cách mạng nước ta trong giai đoạn mới.
Trên thực tế, quan điểm lãnh đạo của Đảng đối với báo chí thời gian qua thể
hiện được tầm nhìn phù hợp với khuynh hướng phát triển của báo chí cách mạng.
Ngay từ năm 2007, trong Nghị quyết Trung ương 5 (Khóa X) về công tác tư tưởng,
lý luận và báo chí trước yêu cầu mới, Đảng đã thấy “s p ể ọ -
ạ ữ ơ ộ p ể
ũ ạ ă ” cho công tác tư tưởng, lý luận và
báo chí; trong khi “c ơ b ọ Đ N ớ ổ
ớ ộ ấp ấ ề
p ớ ã ộ ”.
Những yêu cầu, nhiệm vụ mà Đảng đề ra, như: “C ạ ạ b ỡ
bổ bộ p ẩ ấ ă ạ ề ề ơ ở ấ - ỹ
ể b ạp ổ ớ ấ ề ộ
ă p ụ ấp p p ạ p
ă p ớ ã ộ ”, đến nay vẫn là
những yêu cầu cấp thiết, hoàn toàn phù hợp để nâng cao năng lực toàn diện của cơ
quan báo chí trong MTTT mới.
Lãnh đạo tỉnh, thành phố khu vực ĐBSCL cần quán triệt sâu sắc quan điểm chỉ
đạo của Đảng về công tác tư tưởng, lý luận và báo chí trước yêu cầu mới; nhận thức
152
đúng tầm quan trọng của truyền thông về BĐKH trên báo Đảng địa phương. Từ đó,
giúp các cơ quan báo Đảng định hướng thông tin về BĐKH một cách đúng đắn. Chỉ
đạo các cơ quan, ban ngành địa phương tăng cường cung cấp thông tin và hợp tác với
báo Đảng địa phương đẩy mạnh thông tin cho cơ quan báo chí để báo chí kịp thời cung
cấp thông tin chính thức, chính thống cho công chúng.
Bên cạnh việc bố trí nguồn kinh phí đầu tư trang bị cơ sở vật chất đảm bảo yêu
cầu tác nghiệp cho cơ quan báo chí (ví dụ vào vùng lũ phải có máy ảnh chuyên
dụng….), lãnh đạo tỉnh, thành phố khu vực ĐBSCL cần đặc biệt quan tâm đến công
tác tổ chức, cán bộ, đào tạo nguồn nhân lực trong cơ quan báo Đảng. Lựa chọn, bổ
nhiệm những cán bộ có năng lực chính trị và nghiệp vụ báo chí đảm nhiệm những
vị trí chủ chốt trong cơ quan báo Đảng để phát huy vai trò các hạt nhân nòng cốt
này trong công tác lãnh đạo đội ngũ phóng viên nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ
chuyên môn và lòng nhiệt thành công hiến, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mới.
4.2.2.2. Tăng cường đào tạo, nâng cao trình độ mọi mặt cho các nhà báo
Việc đào tạo chính trị có thể thông qua các lớp trung cấp hoặc cao cấp chính
trị, các lớp triển khai nghị quyết, những buổi tọa đàm, sinh hoạt truyền thống, sinh
hoạt chuyên đề… để mỗi nhà báo phải thấm nhuần vai trò, ý thức trách nhiệm chính
trị - xã hội của người làm báo.
Công tác đào tạo, tập huấn nhằm cung cấp kiến thức về BĐKH, về chuyên môn
nghiệp vụ, nhất là năng lực chính luận và khả năng ứng dụng kỹ thuật công nghệ số rất
cần thiết. Cần chú trọng tổ chức các lớp tập huấn chuyên đề, cung cấp thông tin,
kiến thức và kỹ năng viết về BĐKH cho nhà báo. Khu vực ĐBSCL chưa tổ chức
nhiều các lớp như vậy, trong khi hiểu biết, nhận thức và kỹ năng tác nghiệp của nhà
báo về vấn đề này đang còn quá nhiều khoảng trống. Các nhà báo chuyên tác nghiệp
trong lĩnh vực BĐKH cần được đào tạo lại và cung cấp kiến thức cập nhật của khoa
học, pháp luật về BĐKH có tính chuyên môn sâu để không chỉ viết đúng và phải
viết “sắc” để có thể thiết kế những thông điệp về BĐKH đủ sức thuyết phục.
Cần thường xuyên coi trọng tổ chức các lớp tập huấn ngắn ngày theo chuyên
đề tác nghiệp thể loại tác phẩm báo chí, đặc biệt chú trọng đào tạo, bồi dưỡng năng
lực chính luận cho các nhà báo trong khu vực, cũng như kỹ năng làm tin/bài
inforgraphic, đồ hoạ và các kỹ năng khác, ….
153
Hội nhà báo cấp Tỉnh và các cơ quan báo chí cần chủ động tổ chức tập huấn
cho đội ngũ từ phó trưởng phòng, các nhà báo nòng cốt về kỹ năng xây dựng kế
hoạch/chiến dịch truyền thông hiệu quả, cũng như kỹ năng xây dựng chuyên trang,
chuyên mục cho tờ báo.
4.2.3. Một số khuyến nghị khoa học
4.2.3.1. Đối với các Bộ, ngành Trung ương và Hội Nhà báo Việt Nam
Bộ TN&MT và các Bộ, ngành có liên quan cần chủ động phối hợp, tạo điều
kiện giúp các cơ quan báo chí thành lập mạng lưới truyền thông về BĐKH nhằm kết
nối đội ngũ những nhà báo chuyên viết về BĐKH với nhà khoa học - nhà quản lý về
lĩnh vực này, xem đây là “cầu nối” để các cơ quan quản lý nhà nước chủ động phối
hợp và chia sẻ những thông tin mới nhất, chính thống nhất về tình hình, các hoạt
động ứng phó với BĐKH trong nước, khu vực và thế giới, tạo điều kiện cho các cơ
quan báo chí tiếp cận thông tin nhanh cả bề rộng và chiều sâu để có những thông tin
chính xác, khách quan và kịp thời.
Hội Nhà báo Việt Nam cần tranh thủ các nguồn lực định kỳ tổ chức các lớp
bồi dưỡng kỹ năng tác nghiệp, cập nhật kiến thức về BĐKH cho đội ngũ phóng
viên, biên tập viên các địa phương; ít nhất là 2 lớp/ năm cho các phóng viên đang
tác nghiệp ở những vùng nguy cơ cao về BĐKH như ĐBSCL. Hình thức bồi dưởng
cần kết hợp giữa lý thuyết và thực tiễn bằng cách cho phóng viên đi thực tế và tác
nghiệp ở những vùng BĐKH đặc trưng khác nhau. Quan tâm dành một phần kinh
phí hỗ trợ tác phẩm báo chí chất lượng cao về chủ đề BĐKH.
Các cơ sở đào tạo báo chí, truyền thông cần thiết kế và đưa nội dung giảng
dạy về BĐKH như một chuyên đề chuyên sâu nhằm đào tạo đội ngũ sinh viên báo
chí truyền thông có kiến thức về BĐKH.
4.2.3.2. Đối với lãnh đạo cơ quan báo chí khu vực đồng bằng sông Cửu Long
- Lãnh đạo cơ quan báo chí cần coi việc truyền thông về BĐKH là một trong
những nhiệm vụ quan trọng của cơ quan báo Đảng và trách nhiệm của người làm báo
trong bối cảnh hiện nay; từ đó, chủ động xây dựng kế hoạch/chiến dịch truyền thông
tổng thể, dài hơi về BĐKH, trong đó xác định rõ mục tiêu, cách thức, phương pháp
triển khai cho đến kết nối nguồn lực xã hội,...
- Phân công phóng viên chuyên trách ổn định theo dõi các lĩnh vực BĐKH
nhằm chuyên nghiệp hóa, chuyên môn hóa việc tuyên truyền, tạo điều kiện để mỗi nhà
báo viết về BĐKH thành các chuyên gia truyền thông có tầm.
154
- Xây dựng cơ chế, chính sách khuyến khích về nhuận bút đối với các bài viết
hay về BĐKH. Chế độ công tác phí hiện hành theo quy định của Nhà nước để phóng
viên trang trải cho các chuyến đi thực tế rất hạn hẹp. Chính sách khuyến khích về
nhuận bút sẽ tạo thêm động lực để nhà báo đầu tư công sức, trí tuệ cho sự sáng tạo.
- Tổ chức các hội thảo, toạ đàm chuyên môn trong nội bộ cơ quan, trong vùng
để chia sẻ kiến thức, kĩ năng và kinh nghiệm viết về đề tài BĐKH. Tạo điều kiện để các
nhà báo tham gia các lớp học tập, chia sẻ kỹ năng, kinh nghiệm tác nghiệp về BĐKH
trên phạm vi toàn quốc và quốc tế.
4.2.3.3. Đối với nhà báo
Các nhà báo cần rèn luyện bản lĩnh chính trị vững vàng, thực sự chuyển mình cả
về cách thức tư duy nội dung và kỹ năng tác nghiệp để có thể thiết kế những thông điệp
báo chí rõ ràng, có khả năng tác động và giá trị sử dụng cao.
Nhà báo cần chủ động học tập nâng cao trình độ, mở mang hiểu biết, tìm kiếm
cập nhật thông tin, không ngừng nâng cao trình độ, kỹ năng tác nghiệp chuyên sâu về
BĐKH. Đồng thời, bản thân mỗi nhà báo cũng phải luôn sáng tạo tìm cách để làm mới
mình trong mỗi tác phẩm báo chí và luôn có ý thức học hỏi để nâng cao trình độ, thích
nghi với mọi điều kiện, hoàn cảnh và MTTT số. Nhà báo cần coi việc tự học, tự cập
nhật kiến thức và kỹ năng là công việc hàng ngày.
Tiểu kết chƣơng 4
Từ kết quả khảo cứu thông điệp về BĐKH trên báo Đảng khu vực ĐBSCL
trong các chương trước, Chương 4 đã chỉ ra những thành công, hạn chế và phân tích
các nguyên nhân dẫn đến các thành công và hạn chế của thông điệp về BĐKH trên báo
Đảng khu vực ĐBSCL. Về thành công, báo Đảng khu vực ĐBSCL đã chuyển tải đến
công chúng những thông tin đa dạng, góp phần cụ thể hóa các chủ trương của Đảng,
chính sách pháp luật của Nhà nước về BĐKH; tuyên truyền, phổ biến các kinh nghiệm
hay, giải pháp tốt, góp phần cổ vũ, khích lệ năng lực sáng tạo, thúc đẩy yếu tố tích cực
trong hành động ứng BĐKH. Từ đó giúp công chúng có thêm kiến thức, nhận thức
những nguy hại và từng bước thay đổi hành vi ứng phó với BĐKH. Tuy vậy, thông
điệp về BĐKH trên báo Đảng khu vực ĐBSCL vẫn còn những hạn chế, như chưa bao
quát các khía cạnh thông tin, thông tin còn mang tính một chiều, nội dung tiêu cực lấn
155
át yếu tố tích cực; còn ít thông điệp có nội dung sâu sắc, chưa làm nổi bật vai trò giám
sát và phản biện xã hội của báo Đảng ĐBSCL về vấn đề BĐKH. Hình thức thông điệp
cũng còn những hạn chế, như nghèo nàn về mặt thể loại, tần suất không ổn định...
Những hạn chế này có một phần nguyên nhân do trình độ, kỹ năng tác nghiệp của nhà
báo ở báo Đảng địa phương ĐBSCL chưa thích nghi với MTTT mới và đáp ứng yêu
cầu thực tiễn; nhận thức và hiểu biết về BĐKH và ứng phó với BĐKH chưa sâu và
chưa đồng bộ…
Trên cơ sở phân tích nguyên nhân của những thành công và hạn chế cũng như
những thách thức mà báo Đảng khu vực ĐBSCL đang đối mặt trong MTTT số hiện
nay, tác giả đã đề ra các nhóm giải pháp nhằm nâng cao chất lượng thông điệp về
BĐKH trên báo Đảng khu vực ĐBSCL trong thời gian tới. Đối với nội dung và hình
thức thông điệp, các giải pháp trọng tâm gồm: Nội dung thông điệp phải bao quát, toàn
diện các khía cạnh của BĐKH; cần tăng cường chiều sâu và giá trị ứng dụng của nội
dung thông điệp và tăng cường phạm vi thông tin về BĐKH. Cần đa dạng thể loại tác
phẩm báo chí thể hiện thông điệp; ngôn ngữ thể hiện thông điệp cần đảm bảo sự đa
dạng, chuẩn xác, dễ hiểu và hạn chế các từ ngữ gây sốc; đổi mới cách thức tổ chức
thông điệp bằng việc xây dựng các chuyên trang, chuyên mục để công chúng dễ theo
dõi... Nhóm giải pháp nhằm nâng cao năng lực xây dựng và thiết kế thông điệp, tác giả
đề xuất cần nâng cao hiệu quả lãnh đạo, hiệu lực quản lý báo chí theo định hướng của
Đảng và tăng cường đào tạo, nâng cao trình độ về mọi mặt cho nhà báo các cơ quan
báo Đảng ĐBSCL.
Đồng thời, chương 4 cũng nêu ra một số khuyến nghị, đề xuất hướng đến các
cơ quan quản lý báo chí, lãnh đạo các tòa soạn báo và các phóng viên cơ quan báo
Đảng, nhằm nâng cao chất lượng thông điệp về BĐKH trên báo Đảng khu vực
ĐBSCL, tạo ra tác động mạnh mẽ để góp phần làm thay đổi nhận thức, hành động của
cộng đồng theo hướng tích cực.
156
KẾT LUẬN
ĐBSCL là một trong 03 đồng bằng trên thế giới dễ bị tổn thương nặng nề nhất
do nước biển dâng. Với chức năng, nhiệm vụ được giao, lợi thế thông tin tiệm cận và
khả năng cung cấp thông tin chính thức, chính thống và năng lực tác động trong hệ
thống chính trị, báo Đảng địa phương khu vực ĐBSCL đã và đang gia tăng ảnh hưởng
để góp phần giúp cộng đồng dân cư khu vực nâng cao nhận thức và thay đổi hành vi
nhằm thích ứng với BĐKH.
Với mục đích phân tích những vấn đề thực tiễn và đề xuất các giải pháp nhằm
nâng cao chất lượng thông điệp về BĐKH trên báo Đảng địa phương khu vực ĐBSCL,
luận án hệ thống hóa cơ sở lý luận và xây dựng khung lý thuyết cho vấn đề nghiên cứu;
khảo sát 1.290 bài viết có đề cập đến vấn đề BĐKH xuất bản từ năm 2017 đến hết
tháng 6/2019 trên báo An Giang, báo Cà Mau và báo Cần Thơ; khảo sát 450 công
chúng ở 03 địa phương tương ứng để tìm hiểu việc tiếp nhận của công chúng về các
thông điệp BĐKH trên báo Đảng địa phương. Đối chiếu với các câu hỏi nghiên cứu, cơ
sở lý luận và thức tiễn nghiên cứu, tác giả kết luận tổng quát về thông điệp về BĐKH
trên báo Đảng khu vực ĐBSCL, như sau:
khai thác phong phú ở nhiều góc độ tiếp cận khác nhau, thông tin kịp thời các
biểu hiện, tác động, lý giải nguyên nhân và giải pháp phó với BĐKH để người
dân nắm bắt, vận dụng vào thực tiễn. Tuy nhiên, hạn chế của truyền thông về
BĐKH trên báo Đảng khu vực ĐBSCL là chú trọng thông tin về biểu hiện và
hậu quả của BĐKH mà thiếu những phân tích sâu về nguyên nhân, các giải
pháp, cách thức ứng phó và thích nghi cụ thể, những kinh nghiệm hay hoặc
những nhận định, bình luận, đánh giá có tính dự báo cao... Thông tin về BĐKH
1. Về nội dung, thông điệp về BĐKH trên Báo Đảng khu vực ĐBSCL được
còn một chiều, nhấn mạnh tác động tiêu cực, nhiều bài viết mang yếu tố bi quan cực
đoan. Việc thông tin chính sách còn mang nặng tính tuyên truyền, chủ yếu giới thiệu,
giải thích và vận động công chúng làm theo, ít có bài viết phản biện mạnh mẽ về tính
hợp lý, hợp hiến cũng như khả năng thực thi hiệu quả của các chính sách BĐKH trong
thực tế. Phạm vi phản ảnh của thông điệp quá hẹp làm hạn chế sự hiểu biết về của công
chúng về BĐKH trên thế giới và giảm hiệu quả huy động nguồn lực kinh phí và kỹ
thuật từ bạn bè quốc tế để ứng phó với BĐKH.
2. Mặc dù vẫn đảm bảo dòng chảy thông tin, nhưng do chưa xây dựng định
hướng, kế hoạch thực hiện chiến lược truyền thông về BĐKH nên tần suất thông tin về
157
BĐKH trên báo Đảng khu vực ĐBSCL chưa ổn định, phụ thuộc nhiều vào các sự kiện
hoạt động liên quan đến BĐKH trên địa bàn. Hình thức thể hiện thông điệp chưa có
nhiều đổi mới. Yếu tố đa dạng về thể loại là một yêu cầu quan trọng để đảm tính mới
mẻ và hấp dẫn của thông điệp báo chí, tuy nhiên, hầu hết các thông điệp về BĐKH trên
báo Đảng ĐBSCL thuộc thể loại tin, bài thông tấn, chưa có sự đột phá sáng tạo về hình
thức ở những loại hình mới như infographic hay tác phẩm hoàn toàn bằng ngôn ngữ
phi văn tự. Nhiều bài viết sử dụng thuật ngữ khoa học gây khó hiểu, hoặc các từ ngữ
nhấn mạnh tác động của BĐKH theo hướng cực đoan. Do các báo Đảng khu vực
ĐBSCL chưa xây dựng được chuyên mục BĐKH, bài viết về BĐKH đăng rải rác ở
3. Hiệu quả tác động của các thông điệp về BĐKH trên báo Đảng khu vực
nhiều mục, nhiều trang, khiến cho công chúng khó theo dõi, phản hồi.
ĐBSCL đến công chúng là khá tốt. Công chúng rất quan tâm và có nền tảng kiến thức
tốt về BĐKH, nhận thức sâu sắc con người là tác nhân khiến cho BĐKH diễn biến
nhanh như hiện nay và con người phải có trách nhiệm ứng phó với BĐKH. Tuy nhiên,
công chúng đánh giá về nội dung và hình thức các bài viết chứa thông điệp về BĐKH
trên báo Đảng địa phương chỉ ở mức trung bình khá; mới đáp ứng được một phần nhu
cầu thông tin của độc giả. Trong đó tính thời sự mới mẻ của nội dung và sự lôi cuốn bắt
mắt trong hình thức bài viết bị đánh giá thấp nhất. Công chúng nhận thấy báo Đảng địa
phương tập trung thông tin nhiều về những ảnh hưởng tiêu cực của BĐKH, khiến cho
họ cảm thấy lo lắng khi đọc các bài viết về BĐKH được đăng tải; họ cũng chưa sẵn
sàng cho việc phối hợp cung cấp, chia sẻ thông tin với tòa soạn về BĐKH.
4. Kết quả phân tích cho thấy thông điệp về BĐKH trên báo Đảng khu vực
ĐBSCL có những hạn chế cần khắc phục để hoàn thành mục tiêu, nhiệm vụ truyền
thông về BĐKH mà Đảng và Nhà nước giao phó. Đặc biệt là trong điều kiện MTTT số
đang tạo ra những thay đổi về cách thức truyền tin và tiếp cận thông tin.
- C p p ớ ộ p:
Tăng cường nội dung phân tích nguyên nhân của BĐKH, chỉ ra được mối liên
hệ giữa việc gia tăng các biểu hiện, dấu hiệu, tác động của BĐKH với những tập tục,
thói quen chưa tốt trong sản xuất, sinh hoạt và hành vi khai thác thiếu bền vững các tài
nguyên thiên nhiên của con người. Cần bổ sung thông tin về các tác động tích cực của
BĐKH, giúp cộng đồng nhìn nhận BĐKH không chỉ đem đến nguy cơ mà còn mở ra
nhiều cơ hội để chuyển đổi kinh tế, phát triển sản xuất bứt phá, tạo lợi thế cạnh tranh.
Để nâng cao năng lực tác động và hiệu quả của thông điệp, báo Đảng ĐBSCL
thông tin về BĐKH cần tăng cường các bài viết mang tính phản biện, tránh kiểu thông
158
tin một chiều, áp đặt. Đổi mới tư duy lựa chọn đề tài, đổi mới cách tiếp cận và phân
tích vấn đề theo hướng bám sát từ cơ sở và thực tế cuộc sống; đặc biệt chú trọng tìm
hiểu, thông tin về những thương tổn, tâm tư, nguyện vọng, của nhóm người yếu thế bởi
những tác động không thể đo đếm của BĐKH. Những mâu thuẫn nội tại trong thực tiễn
vận hành của xã hội trong bối cảnh tác động đa chiều do BĐKH cần được nhà báo khơi
dậy, sử dụng sức mạnh truyền thông khơi thức thành dư luận để có được sự can thiệp
của chính quyền, thì giá trị không chỉ cho đối tượng được phản ảnh, mà còn góp phần
tạo dựng niềm tin của công chúng cũng như đồng thuận xã hội.
Mở rộng và đa dạng hoá thông tin về BĐKH, để cung cấp cho công chúng một
cái nhìn toàn diện về BĐKH trên thế giới, giúp công chúng học tập kinh nghiệm ứng
phó với BĐKH mà bạn bè quốc tế đang thực hiện. Đồng thời, tăng cường thông tin về
thực trạng và những thành tựu ứng phó BĐKH để cộng đồng quốc tế thấy được những
nỗ lực của Việt Nam; qua đó kêu gọi các quốc gia, tổ chức quốc tế đến Việt Nam để
nghiên cứu tìm giải pháp cũng như kêu gọi hỗ trợ kỹ thuật, tài chính để Việt Nam ứng
phó với BĐKH.
Cần thiết đa dạng thể loại để công chúng quan tâm đến đề tài cảm thấy bớt
nhàm chán khi tiếp nhận thông điệp, đồng thời giúp phát huy hiệu quả thể hiện nội
dung thông tin trong một số trường hợp cụ thể. Bên cạnh đó, việc xây dựng các bài
viết theo hình thức infographic cần được quan tâm hơn, bởi đây là một trong các hình
thức thể hiện mới mẻ, giúp giảm sự đơn điệu không chỉ cho tác phẩm mà cả ấn phẩm
báo Đảng.
Báo Đảng khu vực ĐBSCL chủ yếu sử dụng văn phong ngôn ngữ khoa học để
biểu đạt nội dung thông tin về chủ đề BĐKH là phù hợp. Tuy nhiên việc xử lý các thuật
ngữ khoa học cần linh hoạt hơn nữa. Các bài viết cần lựa chọn ngôn ngữ giúp công
chúng dễ hiểu, dễ nhớ và dễ làm theo, hạn chế những từ ngữ mang tính hàn lâm và các từ
ngữ biểu thị tính chất cực đoan khi mô tả về BĐKH. Tăng cường sử dụng các loại hình
ngôn ngữ phi văn tự trong việc biểu đạt nội dung thông điệp BĐKH như đồ họa, biểu
đồ… làm sinh động, phong phú cho bài viết. Hình ảnh phải có chất lượng tốt, bố cục rõ
ràng và có tính thẩm mỹ lẫn giá trị thông tin, phù hợp với nội dung thông điệp.
Báo Đảng khu vực ĐBSCL cần xây dựng kế hoạch tuyên truyền - truyền thông
về BĐKH hàng năm, hàng quý, hàng tháng để trên cơ sở đó triển khai đảm bảo tính
liên tục của dòng chảy thông tin về BĐKH trên báo. Cần có chính sách khuyến khích,
thu hút những nhà báo có kinh nghiệm, những cây bút có uy tín tham gia viết về đề tài
159
BĐKH, như tổ chức các hội nghị cộng tác viên, kịp thời động viên, khen thưởng, tôn
vinh những cá nhân tích cực, tạo mối liên hệ gắn bó giữa cơ quan báo và đội ngũ cộng
tác viên.
- Các gi i pháp nhằ ă c xây d ng và thi t k p
Lãnh đạo tỉnh, thành phố khu vực ĐBSCL cần quán triệt sâu sắc các quan điểm
chỉ đạo của Đảng về công tác tư tưởng, lý luận và báo chí, tạo điều kiện cho các cơ
quan báo chí ĐBSCL phát triển phù hợp với xu thế trong MTTT mới. Bên cạnh đó,
Hội nhà báo cấp Tỉnh và các cơ quan báo chí cần tăng cường đào tạo, nâng cao trình
độ, đặc biệt là ngoại ngữ, năng lực chính luận và khả năng ứng dụng kỹ thuật công
nghệ số, kỹ năng viết về BĐKH… cho nhà báo các cơ quan báo Đảng ĐBSCL.
5. Đối chiếu kết quả thực nghiệm với các giả thuyết nghiên cứu, tác giả nhận
thấy các giả thuyết đã nêu là có căn cứ, dựa vào các kết quả kiểm chứng sau:
Ở giả thuyết thứ nhất: Báo Đảng khu vực ĐBSCL đã rất nỗ lực trong việc thực
hiện các bài viết về BĐKH, đóng góp đáng kể trong việc cung cấp thông tin, bổ sung
kiến thức và định hướng hành động ứng phó với BĐKH cho công chúng trên địa bàn.
Năng lực và hiệu quả tác động của thông điệp về BĐKH trên báo Đảng địa phương
ĐBSCL đã từng bước nâng cao và phát huy hiệu quả trong quá trình tham gia giải
quyết vấn đề BĐKH khu vực ĐBSCL. Công chúng không chỉ nhận diện được các biểu
hiện, hiểu và ủng hộ với những chính sách can thiệp giảm nhẹ tác động BĐKH mà Nhà
nước đang triển khai mà còn học tập được nhiều kiến thức, kinh nghiệm, kỹ năng có
giá trị ứng dụng cao trong hành động thích ứng BĐKH.
Ở giả thuyết thứ hai: Với những đóng góp ngày càng tích cực vào quá trình thay
đổi nhận thức, thái độ và hành vi công chúng và nhân dân nói chung trong khu vực
nhằm thích ứng với BĐKH, báo Đảng địa phương đang tiếp tục khẳng định vai trò trụ
cột, nồng cốt trong hệ thống mạng lưới truyền thông. Việc nghiên cứu, tổng kết để rút
ra những vấn đề thực tiễn và tiếp tục đề xuất những giải pháp tiếp tục nâng cao chất
lượng và năng lực tác động của thông điệp, điều mà nghiên cứu này thực hiện, là cần
thiết và có ý nghĩa.
Ở giả thuyết thứ ba: Năng lực, kỹ năng thiết kế thông điệp BĐKH của đội ngũ
nhà báo của báo Đảng địa phương khu vực ĐBSCL khá tốt, minh chứng qua việc đã
thiết kế, sản xuất nhiều thông điệp về BĐKH hấp dẫn, sâu sắc, có tác động mạnh mẽ
đến công chúng bản địa. Tuy vậy, vẫn còn những hạn chế nhất định trong cách thức tư
duy nội dung và kỹ năng tác nghiệp. Những giải pháp và khuyến nghị đã nêu trong
160
luận án nếu được vận dụng sẽ giúp các nhà báo cũng như báo chí địa phương giải quyết
những hạn chế, hoàn thành tốt nhiệm vụ và còn phát huy được thế mạnh, bản sắc địa
phương để có thể phụng sự bạn đọc ngày càng tốt hơn trong bối cảnh truyền thông số.
6. Với sự tâm huyết, cầu thị, trách nhiệm, NCS đã cố gắng thu thập tư liệu và
thực hiện các bước nghiên cứu nhằm đưa ra các kết quả phân tích, đánh giá chính
xác khách quan và khoa học nhất về đề tài “Thông điệp về BĐKH trên báo Đảng
khu vực ĐBSCL” góc nhìn của báo chí học. Trên cơ sở đó, NCS đã đề xuất các
nhóm giải pháp nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả tác động của thông điệp về
BĐKH trên báo Đảng khu vực ĐBSCL. Tuy nhiên, Luận án chỉ giới hạn nghiên cứu
về thông điệp về BĐKH trên báo in của Đảng bộ các địa phương khu vực ĐBSCL giai
đoạn từ 2017 đến tháng 6/2019, khuôn khổ khảo sát giới hạn ở 03 báo AG, CM và CT,
mới đạt được những kết quả bước đầu. Trong bối cảnh thích ứng với BĐKH vẫn là vấn
đề cấp thiết, hướng nghiên cứu này cần được phát triển tiếp tục theo các góc nhìn mới
về không gian, thời gian, loại hình báo chí với các hướng tiếp cận mới hoặc phát triển
sâu hơn để có những kết quả hoàn thiện hơn. Qua đó, tiếp tục nâng cao chất lượng và
năng lực tác động của thông điệp nói riêng, nâng cao hiệu quả công tác thông tin, tuyên
truyền của báo chí cách mạng nói chung, phục vụ đắc lực cho thực hiện các mục tiêu,
nhiệm vụ xây dựng và phát triển bền vững đất nước./.
161
CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ
IÊN QU N ĐẾN ĐỀ TÀI
1. Nguyễn Văn Dững, Hồ Thị Thanh Bạch (2021), Qu n lý thông tin trên mạng xã
hội - ộ ti p c n từ quyền l c mềm, in trong quyển “Quản lý thông tin trên
mạng xã hội trong bối cảnh bùng nổ thông tin”, NXB Chính trị Quốc gia Sự
thật, tr.19-32.
2. Nguyễn Văn Dững, Hồ Thị Thanh Bạch (2021), “Thông điệp về biến đổi khí
hậu trên báo Đảng Đồng bằng sông Cửu Long - Về nội dung và hình thức thông
điệp”, Tạp chí Lý lu n Chính tr và Truyền thông, (9), tr.58-63.
3. Ho Thi Thanh Bach (2021), Enhancing the Effectiveness of Climate Change
Communication Messages in Local Newspapers in the Mekong Delta Region
(Nâng cao hi u qu p truyền thông về bi ổi khí h u trên b a
p ơ Đ ng bằng sông Cửu Long), 13th Neu-Kku International
Conference Socio-economic and Invironmental issues in development, 2021,
p.1089-p.1100 Ha Noi. The ISBN number of the Proceedings is: 978-604-79-
2811-8.
4. Hồ Thị Thanh Bạch (2021), “Thông điệp về biến đổi khí hậu trên báo in địa
phương đồng bằng sông Cửu Long”, Tạp chí Lý lu n Chính tr , (8), tr.101-106.
5. Hồ Thị Thanh Bạch (2020), H ý b
ạ ã ộ ở T p C T ơ, Kỷ yếu Hội thảo
KHQT “Quản lý thông tin trên mạng xã hội trong bối cảnh bùng nổ thông tin”,
Học viện Báo chí và Tuyên truyền, tr.624-635.
6. Hồ Thị Thanh Bạch (2017), “Vai trò của Truyền thông đại chúng đối với phát
triển kinh tế - xã hội vùng Đồng bằng sông Cửu Long trong hội nhập quốc tế
hiện nay”, Tạp chí Thông tin khoa học chính tr , số 03 (8), tr.35-37.
162
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
A. Tài liệu tiếng Việt
1. Lưu Văn An (2008), Truyề ại chúng trong tổ ch c h th ng quyền l c
ở ớ b n phát triển, NXB Lý luận chính trị, Hà Nội.
2. Nguyễn Việt Anh, Đỗ Minh Hùng (2019), Phát triển đội ngũ cộng tác viên phát
hành, bạn đọc các tạp chí của Đảng - nhiệm vụ cấp thiết và lâu dài,
http://tuyengiao.vn/nghien-cuu/phat-trien-doi-ngu-cong-tac-vien-phat-hanh-
ban-doc-cac-tap-chi-cua-dang-nhiem-vu-cap-thiet-va-lau-dai-122532
3. Ngọc Ánh (2019), Báo động tình trạng đa dạng sinh học Việt Nam vẫn trên đà
suy giảm và suy thoái https://moitruong.net.vn/bao-dong-tinh-trang-da-
dang-sinh-hoc-viet-nam-van-tren-da-suy-giam-va-suy-thoai/
4. C. B (1954), C n ph b Đ ng, Báo Nhân dân số 197 ngày 24-6-1954.
5. Ban Chấp hành Trung ương Đảng (2010), Quy nh s 338 - QĐ/TƯ Q nh
về ch ă m vụ, tổ ch c bộ ơ b Đ ng bộ tỉnh,
thành ph tr c thuộ T ơ
6. Ban Chỉ đạo Dự án CBCC (2010), Chi c truyền thông bi ổi khí h u,
Hà Nội. http://www.climatechange.hochiminhcity.gov.vn/hethongvanban/
Lists/ TaiLieuBienDoiKH/Attachments/20/chien-luoc-truyen-thong-du-an-
cbcc.pdf
7. Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương, Bộ Văn hóa - Thông tin và Hội Nhà báo
Việt Nam (2012) “Ti p tục th c hi n Chỉ th s 22-CT/TW c a Bộ Chính tr
khóa VIII về ổi mớ ă ờng s ã ạo, qu n lý công tác báo chí,
xuất b n”. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
8. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2010), D “N ă c thể
ch về qu n lý r i ro thiên tai tại Vi N ặc bi t là các r i ro liên quan
BĐKH”. Báo cáo tổng kết
9. Bộ Khoa học và công nghệ (2016) - Xâm nh p mặn tạ Đ ng bằng sông Cửu
L : ộng và các gi i pháp ng phó.
10. Bộ Tài nguyên và môi trường (2008), C ơ Mục tiêu Qu c gia ng phó
vớ BĐKH.
163
11. Bộ Tài nguyên và môi trường (2016), K ch b n bi ổi khí h ớc biển
dâng cho Vi t Nam. NXB Tài nguyên môi trường và Bản đồ Việt Nam.
Hà Nội.
12. Bộ Tài nguyên và môi trường (2020), Phòng, ch ng gi m thiểu hi ng sạt
lở bờ biển http://www.monre.gov.vn/Pages/phong-chong,-giam-thieu-hien-
tuong-sat-lo-bo-bien.aspx.
13. Chính phủ, (2017), Ngh quy t s 120/NQ-CP về phát triển bền vữ ĐBSCL
thích ng vớ BĐKH
14. Công ước khung của Liên Hiệp quốc về biến đổi khí hậu https://thuvien
phapluat.vn/van-ban/Tai-nguyen-Moi-truong/Cong-uoc-khung-thay-doi-
khi-hau-cua-Lien-hop-quoc-1992-67331.aspx
15. Đức Dũng (2001), Viết báo như thế nào, NXB Văn hóa Thông tin
16. Đinh Hữu Dư (2015), Truyề ại chúng với bi ổi khí h u, Kỷ yếu Hội
nghị môi trường toàn quốc lần thứ IV, Bộ TN&MT.
17. Nguyễn Văn Dững (2007), Cơ ộng c a báo chí, Tạp chí Khoa học
ĐHQGHN, Khoa học Xã họ i và Nhân va n.
18. Nguyễn Văn Dững (2012), Cơ ở ý b , NXB. Lao động, Hà Nội.
19. Nguyễn Văn Dững (Chủ biên) và Đỗ Thị Thu Hằng (2012); Truyền thông - Lý
thuy t và kỹ ă ơ b n, NXB Chính trị Quốc gia.
20. Nguyễn Văn Dững (chủ biên) (2017), Báo chí nhữ ểm nhìn từ th c tiễn (t p
3), NXB Đại học quốc gia Hà Nội.
21. Nguyễn Văn Dững (2012), B n xã hội; NXB Lao động;
22. Nguyễn Văn Dững (2017), Báo chí giám sát, ph n bi n xã hội ở Vi t Nam;
NXB Đại học Quốc gia hà Nội.
23. Nguyễn Văn Dững (2016), M ờng truyền thông s và vấ ề xây d ng
“b t n ” Tham luận tại Hội thảo khoa học do Hội truyền thông
Châu Âu, ĐH Vienner (CH Áo) và Học viện Báo chí và Tuyên truyền phối
hợp tổ chức, tháng 6/2016 tại ĐH Vienner.
24. Nguyễn Văn Dững, (2016), H ớ b ờ ề
(N ừ ờ p b V Nam) tạp chí Lý luận Chính trị;
số 6 năm 2016.
164
25. Nguyễn Văn Dững (2017), Tìm ki m mô hình truyền thông chính sách công cho
Vi t Nam, Tạp chí Lý luận Chính trị, số 6/2017.
26. Nguyễn Văn Dững và Hồ Thị Thanh Bạch (2021), Qu n lý thông tin trên mạng
xã hội trong b i c nh bùng nổ thông tin, tr.19-32. NXB Chính trị Quốc gia
Sự Thật
27. Đảng Cộng sản Việt Nam (2010), Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc thời
kỳ đổi mới (Khoá VI, VII, IX, X), Phần II, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
28. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Vă Đại hộ ại biểu toàn qu c l n th
XIII, Hà Nội.
29. Đangcongsan, Đ ng bằng sông Cửu Long: Ti p nỗi lo biển "gặm" bờ, "nu t"
ất http://dangcongsan.vn/khoa-giao/bai-2-thu-pham-khien dong- bang-
hung-chiu-tham-hoa-moi-de-doa-kep-532036.html
30. Thế Đạt, B o v ạng sinh học rừng ng p mặn tạ ng bằng sông Cửu
Long, https://nhandan.com.vn/tin-tuc-xa-hoi.
31. Nguyễn Đông, Tuyên truyền về b o v ờ ể thích ng với bi ổi khí
h ổi khí h u. http://www.tapchicongsan.org.vn/Home/Van-hoa-xa-
hoi/2018/50220/ Tuyen-truyen-ve-bao-ve-moi-truong-de-thich-ung-voi-
bien.aspx
32. Trung Đức (2018), Khí hậu và sức khỏe con người: Thông điệp từ Ủy ban Liên
chính phủ về Biến đổi Khí hậu toàn cầu, http://www.greenidvietnam.
org.vn/khi-hau-va-suc-khoe-con-nguoi-thong-diep-tu-uy-ban-lien-chinh-
phu-ve-bien-doi-khi-hau-toan-cau.html.
33. Nguyễn Thu Giang (2011), Truyền thông th ới s quy chi u c a lý
thuy , Tạp chí Nghiên cứu Con người, số 6/2011.
34. Vũ Trường Giang (2012), Tri th c b a, Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam,
tr.53-66- 6/2012
35. Han Entzinger và Peter Scholten (2016), Thích nghi với bi ổi khí h u thông
- Một nghiên c u về ờng h p Đ ng bằng sông Cửu Long. Tổ
chức Di cư Quốc tế. Thụy Sĩ.
36. Ngô Mạnh Hà (2004), Kỷ y u khoa họ ề tài cấp bộ ă 2003 - 2004 “Đổi
mớ p ơ ã ạo c Đ i vớ ơ b ở ớc ta
hi ”, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.
165
37. Nguyễn Thị Bích Hạnh (2011), Truyền thông và bi ổi khí h u, Nghiên cứu
Phát triển bền vững, Số 4.
38. Đỗ Thị Thu Hằng (2013), Giáo trình tâm lý học báo chí, NXB. Đại học quốc
gia Thành phố Hồ Chí Minh, Tp. Hồ Chí Minh.
39. Đỗ Thị Thu Hằng (2013), Tâm lý học ng dụng trong nghề báo, NXB. Thống
tấn, Hà Nội.
40. Đỗ Thị Thu Hằng (2015), Lý thuy t truyền thông hi ại, Học viện Báo chí và
Tuyên truyền.
41. Học viện Báo chí và Tuyên truyền, Viện FES (2012), Kỷ y u hội th o “Truyền
ại chúng với Bi ổi khí h u tại Tiểu vùng sông Mekong: Th c t
ấu”, Hà Nội.
42. Hội đồng khoa học các cơ quan Đảng Trung ương (2013), Ch ộng ng phó
với bi ổi khí h ẩy mạnh công tác b o v ờng -
Một s vấ ề lý lu n và th c tiễn, NXB Chính trị Quốc gia.
43. Trần Như Hối, Một s tr ũ ển hình và phân vùng ng p lụt ở ng bằng
sông Cửu Long http://www.vawr.org.vn/index.aspx?
44. Lương Khắc Hiếu (2013), Lý thuy t truyền thông, NXB Chính trị Quốc gia Sự
thật, Hà Nội.
45. Chu Thị Thanh Hương (2018), Nghiên c ơ ở khoa học trong vi
các gi i pháp thích ng với bi ổi khí h u - áp dụng cho tỉnh Qu ng
Ngãi, Luận án tiến sĩ, Viện Khoa học Khí tượng Thủy văn và Biến đổi khí
hậu, Bộ Tài nguyên và Môi trường.
46. Đinh Văn Hường, Nguyễn Minh Trường (2017), Báo chí với vấn ề bi n ổi khí
h u ở Vi t Nam hi n nay. NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.
47. Phan Văn Kiền (2016), Một s ớng mới c a báo chí truyền thông hi ại.
NXB Thông tin và Truyền thông. Hà Nội.
48. Nguyễn Thế Kỷ (2012), “C ã ạo, qu ý b 25 ă n
hành s nghi p ổi mới”. NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội
49. Nguyễn Thành Lợi (2014), Tác nghi p b ờng truyền thông
hi ại, NXB Thông tin và Truyền thông, Hà Nội.
50. Nguyễn Thành Lợi, Phạm Minh Sơn (2011) Thông tấn báo chí - Lý thuy t và kỹ
ă NXB Thông tin và Truyền Thông, Hà Nội.
166
51. Vũ Phương Ly (2017), Vấ ề giới trong b i c nh c a bi ổi khí h u (Nghiên
c ờng h p tại xã Giao Xuân, huy n Giao Th y, tỉ N Đ nh), Lu n
án ti ĩ Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn.
52. Hồ Chí Minh (2011), Toàn t p, tập 12, tr.166, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
53. Lưu Hồng Minh (2009), Truyền thông Vi t Nam trong b i c nh toàn c u hoá,
NXB Dân trí, Hà Nội.
54. Lưu Hồng Minh - Sonja Schrmbeck (đồng chủ biên) (2015), B i c nh truyền
thông về b ổi khí h ă p ơ ại chúng Vi t
Nam, NXB Thế giới.
55. Nguyễn Thị Tuyết Minh (2011), Đ nh ki n giới trong các s n phẩm truyền
thông trên p ơ n truyề ại chúng hi n nay, Khoa Xã hội
học, Học viện Báo chí và Tuyên truyền.
56. Mai Quỳnh Nam (1996), Truyề ạ ú n xã hội", Tạp chí
Xã hội học, số 1.
57. Mai Quỳnh Nam (2000), Về ặ ểm và tính chất c a giao ti p ại chúng, Tạp
chí Xã hội học, số 2.
58. Mai Quỳnh Nam (2001), Về vấ ề nghiên c u hi u qu c a Truyề ại
chúng, Tạp chí Xã hội học, số 4.
59. Mai Quỳnh Nam (2002), T p về trẻ em trên báo hình báo in, Tạp chí
Xã hội học, số 2 (78).
60. Mai Quỳnh Nam (2003), Truyền thông và phát triển nông thôn”, Tạp chí Xã hội
học, số 3
61. Lê Thị Nhã (2010), Giáo trình L ộ nhà báo, NXB Lý luận Chính trị, Hà Nội.
62. Đỗ Chí Nghĩa, Tác phẩm truyền hình về bi ổi khí h u - chấ ng và hi u
qu ộng, http://ajc.hcma.vn/Thong-tin-khoa-hoc/Tac-pham-truyen-
hinh-ve-bien-doi-khi-hau-chat-luong-va-hieu-qua-tac-dong/14948.ajc
63. Đỗ Chí Nghĩa (Chủ biên), Đinh Thị Thu Hằng (2014), Báo chí ạ ã ộ ,
NXB Lý luận Chính trị, Hà Nội.
64. Nguyễn Đức Ngữ (2013), Đ ạo ngu n nhân l c cho hoạ ộng truyền thông
về BĐKH Kỳ yếu Hội thảo khoa học liên ngành “Ngu n nhân l c chấ ng
cao BĐKH ấ ề liên quan” - Đại học Quốc gia Hà Nội.
167
65. PV (2020), Báo chí góp ph n phòng ngừa ng phó khắc phục h u qu thiên tai
http://nguoilambao.vn/bao-chi-gop-phan-phong-ngua-ung-pho-khac-phuc-
hau-qua-thien-tai-n8322.html
66. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (2016), Lu t báo chí.
67. Trần Thế Phiệt (1995), Tác phẩm chính lu n báo chí, NXB Chính trị Quốc gia
Sự Thật.
68. Lê Khả Phiêu (1998), “Trách nhiệm xã hội và nghĩa vụ công dân của nhà báo”.
Bài phát biểu tại Hội thảo toàn quốc. Hà Nội
69. Nguyễn Bá Sinh (2012), Tính hấp d n c B Đ ng ở ớ ạn
hi n nay, Luận án Tiến sĩ Báo chí - Học viện Báo chí và Tuyên truyền.
70. Dương Xuân Sơn (2013) Báo chí Vi t Nam thời kỳ ổi mới từ 1986 n nay,
NXB Đại học quốc gia Hà Nội.
71. Dương Xuân Sơn, Đinh Văn Hường, Trần Quang (2004), Cơ ở lý lu n báo chí
truyền thông, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.
72. Tạ Ngọc Tấn (2001), Truyền th ại chúng, NXB Chính trị Quốc gia,
Hà Nội.
73. Tạ Ngọc Tấn (1999), Cơ ở ý b , NXB. Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
74. Tạ Ngọc Tấn (1999), Từ ý ễ b , NXB. Văn hóa Thông
tin, Hà Nội.
75. Trần Hồng Thái, Lương Hữu Dũng (2014), ở b ổ
ớ p ụ ù bằ S Cử L Tạp chí Khoa
học Công nghệ Việt Nam số 16-2014.
76. Ngô Trọng Thuận, Nguyễn Văn Liêm (2014), Những thông tin c p nh t về bi n
ổi khí h ù ng cộ ng, NXB Tài nguyên môi
trường và Bản đồ Việt Nam, Hà Nội.
77. The Missouri Group (2020), Nhà báo hi ại, NXB Trẻ
78. Nguyễn Hữu Thiện (2016), Bi ổi khí h Đ ạng sinh học ng p ớc
ĐBSCL: S thi u hụt trong ng dụng, Bản tin Chính sách số 21 - Trung tâm
Con người và Thiên nhiên.
79. Nguyễn Hữu Thịnh (2018), T ơ ấ p ỉ A G ể
p ớ b ổ , Luận án tiến sĩ, Học viện Chính trị Quốc gia
Hồ Chí Minh.
168
80. Nguyễn Thị Thoa, Nguyễn Thị Hằng Thu (2011), Giáo trình tác phẩm báo chí
ạ ơ NXB Giáo dục Việt Nam
81. Tô Quang Toản, Tăng Đức Thắng (2009)- Ng p ũ ều biển dâng trên
ng bằng sông Cửu Long trong b i c nh bi ổi khí h u và một s gi i
pháp thích ng - Tạp chí KH&CN Thủy lợi
82. Phạm Hương Trà (2011), Hi u qu c a các bài vi t về bạo l
b n tử Vi t Nam hi n nay, Luận án Tiến sĩ Xã hội học - Học viện Báo
chí và Tuyên truyền.
83. Phạm Hương Trà (2014), Nh n th c, nhu c u thông tin về bi ổi khí h u c a
ộ ũ ền thông hi n nay, Khoa Xã hội học - Học viện
Báo chí và Tuyên truyền.
84. Phạm Hương Trà, Đỗ Thị Tuyết Minh (2013), Th c trạ b ề
bi ổi khí h u trên truyền hình. Khoa Xã hội học, Học viện Báo chí và
tuyên truyền.
85. Trường Đại học Cần Thơ (2010), P ể p bề ữ
ớ b ổ NXB Nông nghiệp, TP.HCM.
86. Nguyễn Hiếu Trung và cộng sự (2015), Quy hoạch chi c sử dụng bền
vữ ất và ớc thích ng với bi ổi khí h Đ ng bằng
Sông Cửu Long, NXB Nông Nghiệp.
87. Vũ Thanh Vân (2014), K ớng chính tr c a báo chí Mỹ (Kh o sát các
bài xã lu n c a New York Times và Wall Street Journal từ 2009-2012),
Luận án Tiến sĩ Báo chí học - Học viện Báo chí và Tuyên truyền.
88. Viện Khoa học Khí tượng Thủy văn và Môi trường (2010) B ổ
ộ ở V N Bộ Tài nguyên và Môi trường.
89. Viện Khoa học Khí tượng Thủy văn và Môi trường, (2017), C p nh t k ch b n
bi n ổi khí h ớc biển dâng cho khu v Đ ng bằng Sông Cửu
Long. Bộ Tài nguyên và Môi trường.
90. Viện Khoa học Khí tượng Thủy văn và Môi trường, (2017), C p nh t k ch b n
bi ổi khí h ớc biển dâng cho khu v Đ ng bằng Sông Cửu
Long, Bộ Tài nguyên và Môi trường.
91. Viện Nghiên cứu Biến đổi khí hậu - Đại học Cần Thơ (2011), P ơ p p ng
ghép bi ổi khí h u vào k hoạch phát triển kinh t - xã hộ p ơ
169
92. Viện nghiên cứu Xã hội, Kinh tế và Môi trường và Học viện Báo chí và Tuyên
truyền (2011), “T p truyền thông về ng tính luy n ái trên một s
báo in và báo mạng”, NXB Thế Giới. Hà Nội.
93. Tô Vương (2013), Đ ề ộng c a Bi ổi khí h i vớ ời s ng
ời, Tham luận tại Hội thảo khoa học "Vai trò báo chí trong việc
ngăn chặn và giảm thiểu tác động của biến đổi khí hậu”. Cần Thơ.
B. Tài liệu tiếng nƣớc ngoài
94. Amy B. Jordan and Dale Kunkel, Jennifer Manganello, Martin Fishbein (2009),
Media Messages and Public Health, Routledge, The UK.
95. Arthur Asa Berger (2014), Media analysis techniques, Fifth Edition San
Francisco State University, Sage Publlication, Inc.
96. Ashley A. Anderson (2017), The Role of the Media in the Construction of
Public Belief and Social Change. Oxford Research Encyclopedia, Climate
Science. http://oxfordre.com/climatescience/view/10.1093/acrefore/
9780190228620.001.0001/acrefore-9780190228620-e-369
97. Berlo, D. K. (1960). The Process of Communication: An Introduction to Theory
and Practice. Holt, Rinehart và Winston, New York
98. Bert Bolin (2008), A history of The science and politics of Climate change: The
Role of the Intergovernmental Panel on Climate Change, Cambridge
University Press, UK.
99. Bruce H. Westley and Malcoln S. Maclean, Jr., "A Conceptual Model for
Communications Research", Journalism Quarterlv, XXXIV (1957), pp. 37-51.
100. Bud Ward (2008), Communicating on Climate Change An Essential Resource
for Journalists, Scientists, and Educators, The Metcalf Institute for Marine
& Environmental Reporting - University of Rhode Island Graduate School
of Oceanography. The USA.
101. Daniel Riffe, Stephen Lacy, Frederick Fico (2005) Analyzing Media Messages:
Using Quantitative Content Analysis in Research, Second Edition, Lea
Published, London.
102. Dennis Chong and James N. Druckman (2007), Framing theory. Annual
Review of Political Science. editor / Nelson Polsby. 2007. pp. 103-126.
170
103. Denis McQuail (1997), Audience Analysis, Sage Publications, P.95.
104. Devin M. Dotson and Susan K. Jacobson, Lynda Lee Kaid & J. Stuart Carlton
(2012), Media Coverage of Climate Change in Chile: A Content Analysis of
Conservative and Liberal Newspapers. Environmental Communication Vol.
6, No. 1.
105. Devito, J. A. (1986), The communication handbook: A dictionary. Harper &
Row. New York.
106. Dorothee Arlt et al (2011), Climate change and media usage: Effects on
problem awareness and behavioural intentions. International
Communication Gazette, 73(1-2), 43.
107. Eberts, Courtney Elizabeth (2016). A Content Analysis of the Dallas Farmers
Market Instagram. Texas A & M University.
108. Emilia Lopera and Carolina Morenno (2014), The uncertainties of climate
change in Spanish daily newspapers: content analysis of press coverage
from 2000 to 2010. Science of Communication ISSN 1824-2049.
109. Everett M. Rogers, R. M. Rogers and F. Floyd Shoemaker (1971),
Communication of Innovations: A Cross-Cultural Approach, Free Press,
New York.
110. Fao, (2010), The Role of Information and Communication Technologies for
Community - Based adaptation to climate Change.
111. Feldman, L., Maibach, E. W., Roser-Renouf, C., & Leiserowitz, A. (2012).
“Climate on Cable: The Nature and Impact of Global Warming Coverage
F N w CNN MSNBC”. International Journal of Press/Politics,
17(1), 3-31.
112. Fisher, D., Hill, D., Grube, J., & Gruber, E. (2004). Sex on American television:
An analysis across program genres and network types. Journal of
Broadcasting & Electronic Media, 48, 529-553.
113. Gabriel A. Almond (1987), Biographical Memoir, National Academy of
Sciences, Washington D.C.
114. Harod Lasswell (1927). Propaganda technique in the world war. Assistant
Professior of Political Science, The University of Chicago. First Pulisched
1927, Reprinted 1938. New York.
171
115. Harod Lasswell, Daneil Lerner (1952), “The comparative study of symbols: An
introduction”, Standford University, Carlifornia, The USA.
116. Heath, Robert L.; Bryant, Jennings, (2000), Human Communication Theory
and Research: Concepts, Contexts, and Challenges - 2nd Edition.
Lawrencer Erlbaun Associates publisers. London
117. IPCC (2006) (2007) (2011) (2012) (2013) (2014 (2018) (2019)), Report,
https://www.ipcc.ch/reports.
118. James B. Risbey (2008), The new climate discourse: Alarmist or alarming?
Global Environmental Change, Global Environmental Change 18 (2008)
26-37
119. James Painter and Teresa Ashe (2012), “Cross-national comparison of the
presence of climate scepticism in the print media in six countries, 2007-
2010” E R L s, Volume 7, Number 4.
120. Jingjing Han, Shaojing Sun and Yanqin Lu (2017), Framing Climate Change:
A Content Analysis of Chinese Mainstream Newspapers From 2005 to
2015, International Journal of Communication 11.
121. Julia Metag (2016), “Content analysis methods for assessing climate change
p ”, Oxford Encyclopedia of Climate
Change Communication, Publisher: Oxford University Press, The USA
122. Katz, Elihu, Jay G. Blumler, and Michael Gurevitch (2011), "Uses and
Gratifications Research." Public Opinion Quarterly 4th ser. 37 (1973-1974):
509-23. JSTOR. Web. 14 Oct. 2011.
123. Kimberly A. Neuendorf (2002). The Content Analysis Guidebook. Cleveland
State University. Saga Publlication, Inc.
124. Klaus Krippendorff. (2013). Content analysis: an introduction to its
methodology. Sage Publlication, Inc. The USA
125. Le Anh Tuan, Chu Thai Hoanh, Fiona Miller, and Bach Tan Sinh, 2008. Floods
and Salinity Management in the Mekong Delta, Vietnam. In: Challenges to
sustainable Development in the Mekong Delta: Regional and National
Policy Issues and Research Needs, T.T. Be, B.T. Sinh and Fiona M. (Eds).
The Sustainable Mekong Research Network (Sumernet)'s publication,
Stockholm, Sweden.
172
126. Macnamara. J (2006). Media content analysis: Its uses; benefits and Best
practice Methodology. Asia Pacific Public Relations Journal, 6(1), 1-34.
127. Mart A. Stewart and Peter A. Coclanis (2011) Environmental Change and
Agricultural Sustainability in the Mekong Delta, Springer Science +
Bisiness Media. The USA.
128. Maxwell McCombs and Sebastián Valenzuela (2007), The Agenda-Setting
Theory, Cua Derno S De Inform Ación /N0 20 / JUL IO20 0 7 - I / I S SN 0
716 -162 X, p. 44-p.50
129. McQuail, D. (1987). Functions of communication: A nonfunctionalist overview.
In C. R. Berger & S. H. Chaffee (Eds.)
130. Michael D. Mastrandrea and Stephen H.Schneider (2010), Preparing for
Climate Change. Boston Review. The USA
131. Miquel Muñoz and Bernd Sommer (2011), Perceptions of Climate Change: The
Role of Art and the Media. The Frederick S. Pardee Center for the Study of
the Longer - Range Future, Boston University, Boston, MA 02215 US.
132. Mike Hulme (2007), Mediated messages about climate change: reporting
the IPCC Fourth Assessment in the UK print media, Science
Communication. UK.
133. Philip Kotler (2002). Marketing Management Millenium Edition, Pearson
Custom Publishingm, The USA.
134. Nathan Young and Eric Dugas (2011), Representations of Climate Change in
Canadian National Print Media: The Banalization of Global Warming.
Canadian Review of Sociology 48 (1), 1-22
135. OMO “C ” p ://p b w / / -mandate/climate 136. Ran Duan et al (2017), A construal - level perspective of climate change images
in US newspapers. Climatic Change. 142(3), 345-360. doi:10.1007/s10584-
017-1945-9.
137. Ron Aggs (2015), Soil news - the soil carbon and climate policy journey in
Australia and the role of different media. Earth and Environmental Science
25 012005.
173
138. Schramm (1971) "How Communication Works," in Schramm (ed.),.
The Process and Effects of Mass Communication. Urbana: University of.
Illinois Press, 1954
139. The World Bank (2010), Vietnam: Economics of Adaptation to Climate
Change.
140. The World Bank (2011), Climate-Resilient Development in Vietnam: Strategic
Directions for the World Bank.
141. Y Prabhanjan Yadav & Rapaka Jhansi Rani (2011), Role of communication in
climate change and sustainable development, Global Media Journal -
Indian Edition/ISSN 2249-5835.
142. Zahra Abazari, Mahshid Borjian Brojeni (2017), The role of Harold Lasswell
Communication Theory in Librarianship and Information Science,
International Academic Journal of Humanities Vol. 4, pp. 82-94.
174