BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG -----o0o-----
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
TÊN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN:
ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP RA NƯỚC NGOÀI CỦA CÁC DOANH NGHIỆP
VIỆT NAM SANG CÁC NƯỚC ASEAN TRONG KHUÔN KHỔ
CỘNG ĐỒNG KINH TẾ ASEAN (AEC)
Nghiên cứu sinh
: Trịnh Quang Hưng
Khóa
: 20A
Ngành
: Kinh tế quốc tế
Người hướng dẫn khoa học
: PGS,TS Lê Thị Thu Thủy
Hà Nội - 2021
i
LỜI CẢM ƠN
Trước tiên, tôi xin bày tỏ sự biết ơn sâu sắc tới PGS,TS Lê Thị Thu Thủy đã
hướng dẫn, chỉ bảo tận tình cho tôi trong suốt quá trình nghiên cứu và hoàn thành
luận án này.
Tôi xin trân trọng cảm ơn Trường Đại học Ngoại thương, Khoa Sau Đại học,
Viện Kinh tế và Kinh doanh quốc tế, Bộ môn Kinh tế và Quản lý đã quan tâm, tham
gia góp ý kiến và hỗ trợ tôi trong quá trình nghiên cứu để hoàn thiện luận án.
Tôi xin trân trọng cảm ơn Cục Đầu tư nước ngoài, Tổng cục Thống kê (Bộ
Kế hoạch và Đầu tư), các cơ quan, tổ chức, cá nhân đã quan tâm, giúp đỡ và tạo
điều kiện cung cấp tài liệu, thông tin về hoạt động đầu tư ra nước ngoài của các
doanh nghiệp Việt Nam, làm cơ sở quan trọng cho tôi nghiên cứu hoàn thành luận
án.
Tôi cũng gửi lời cảm ơn trân trọng tới Phòng Quản lý Đào tạo nơi tôi công
tác đã quan tâm hỗ trợ và tạo điều kiện cho tôi trong suốt quá trình nghiên cứu hoàn
thành luận án.
Cuối cùng, tôi xin trân trọng cảm ơn những người thân trong gia đình, bạn bè
và các đồng nghiệp đã luôn quan tâm, cổ vũ, động viên, tiếp thêm nghị lực cho tôi
trong suốt quá trình nghiên cứu hoàn thiện luận án này./.
Hà Nội, tháng 01 năm 2021
Tác giả luận án
Trịnh Quang Hưng
ii
LỜI CAM ĐOAN
Tên tôi là Trịnh Quang Hưng, tác giả luận án tiến sĩ: “Đầu tư trực tiếp ra
nước ngoài của các doanh nghiệp Việt Nam sang các nước ASEAN trong khuôn
khổ Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC)”. Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên
cứu độc lập của riêng tôi. Các số liệu được nêu và trích dẫn trong luận án là chính
xác và trung thực. Những kết quả nghiên cứu của luận án chưa từng được công bố
trong các công trình khác./.
Hà Nội, tháng 01 năm 2021
Tác giả luận án
Trịnh Quang Hưng
iii
MỤC LỤC LỜI CẢM ƠN ......................................................................................................... i
LỜI CAM ĐOAN .................................................................................................. ii
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT ........................................................................... vii
DANH MỤC CÁC BẢNG .................................................................................. viii
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ ............................................................................... ix
DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ .............................................................................. ix
PHẦN MỞ ĐẦU .................................................................................................... 1
1.Tính cấp thiết của đề tài ..................................................................................... 1
2.Mục tiêu nghiên cứu và câu hỏi nghiên cứu ...................................................... 3
2.1.Mục tiêu nghiên cứu ...................................................................................... 3
2.2.Câu hỏi nghiên cứu ....................................................................................... 3
3.Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ...................................................................... 3
3.1.Đối tượng nghiên cứu .................................................................................... 3
3.2.Phạm vi nghiên cứu ....................................................................................... 3
4. Phương pháp nghiên cứu .................................................................................. 4
4.1.Phương pháp tiếp cận .................................................................................... 4
4.2.Nguồn và phương pháp thu thập dữ liệu ........................................................ 4
4.3.Khung phân tích ............................................................................................ 5
4.4.Phương pháp ước lượng mô hình dữ liệu mảng ............................................. 5
4.5. Phương pháp xử lý dữ liệu ............................................................................ 6
5.Những đóng góp mới của luận án ...................................................................... 6
5.1.Về mặt lý luận ............................................................................................... 6
5.2.Về mặt thực tiễn............................................................................................. 7
6.Kết cấu của luận án ............................................................................................ 7
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN
QUAN ĐẾN CHỦ ĐỀ CỦA LUẬN ÁN ................................................................ 9
1.1.Tổng quan tình hình nghiên cứu ..................................................................... 9
1.1.1. Các nghiên cứu lý thuyết về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của các nước
đang phát triển và nền kinh tế chuyển đổi............................................................ 9
iv
1.1.2.Các công trình nghiên cứu về hoạt động đầu tư trực tiếp của các doanh
nghiệp Việt Nam ra nước ngoài ......................................................................... 14
1.2.Sự kế thừa các công trình nghiên cứu trước và khoảng trống nghiên cứu
của luận án ........................................................................................................... 27
1.2.1.Sự kế thừa các công trình nghiên cứu trước .............................................. 27
1.2.2.Khoảng trống nghiên cứu của luận án ...................................................... 28
CHƯƠNG 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP RA NƯỚC
NGOÀI TRONG KHUÔN KHỔ AEC VÀ KINH NGHIỆM QUỐC TẾ ......... 29
2.1.Tổng quan về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài ............................................... 29
2.1.1.Một số khái niệm về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài .................................. 29
2.1.2.Một số lý thuyết điển hình về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài .................... 32
2.1.3. Các yếu tố tác động đến đầu tư trực tiếp ra nước ngoài và mô hình các yếu
tố tác động ........................................................................................................ 40
2.2. Một số vấn đề về Cộng đồng Kinh tế ASEAN ............................................. 48
2.2.1. Khái quát về ASEAN và Cộng đồng Kinh tế ASEAN ................................ 48
2.2.2.Các hiệp định về đầu tư trong ASEAN ...................................................... 51
2.3. Tình hình đầu tư của một số quốc gia châu Á sang ASEAN và gợi ý cho
Việt Nam .............................................................................................................. 55
2.3.1. ĐTTT của Nhật Bản sang ASEAN ............................................................ 55
2.3.2. ĐTTT của Singapore sang ASEAN........................................................... 58
2.3.3. ĐTTT của Malaysia sang ASEAN ............................................................ 61
CHƯƠNG 3: PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP CỦA CÁC
DOANH NGHIỆP VIỆT NAM SANG ASEAN TRONG KHUÔN KHỔ AEC
.............................................................................................................................. 65
3.1.Phân tích thực trạng đầu tư trực tiếp của các doanh nghiệp Việt Nam sang
ASEAN ................................................................................................................. 65
3.1.1. Theo địa điểm đầu tư ............................................................................... 65
3.1.2.Theo giai đoạn đầu tư ............................................................................... 71
3.1.3.Theo lĩnh vực đầu tư ................................................................................. 74
3.1.4. Theo hình thức đầu tư và theo sở hữu của công ty mẹ ở Việt Nam ........... 80
v
3.2.Đánh giá tình hình đầu tư trực tiếp của các doanh nghiệp Việt Nam sang
ASEAN ................................................................................................................. 83
3.2.1. Kết quả đạt được ..................................................................................... 83
3.2.2.Một số hạn chế và nguyên nhân ................................................................ 89
CHƯƠNG 4. NHỮNG YẾU TỐ TÁC ĐỘNG TỚI ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP CỦA
DOANH NGHIỆP VIỆT NAM SANG ASEAN TRONG KHUÔN KHỔ AEC
............................................................................................................................ 102
4.1. Mô hình tác động ........................................................................................ 102
4.1.1. Cơ sở lý thuyết về mô hình ..................................................................... 102
4.1.2. Xây dựng mô hình .................................................................................. 103
4.2. Phân tích các yếu tố tác động đến đầu tư trực tiếp của các doanh nghiệp
Việt Nam sang ASEAN trong khuôn khổ AEC ................................................ 105
4.2.1.Mô tả về các biến trong mô hình ............................................................. 105
4.2.2.Kết quả ước lượng mô hình và kết luận rút ra từ mô hình ....................... 119
CHƯƠNG 5: ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP NHẰM THÚC ĐẨY ĐẦU TƯ TRỰC
TIẾP CỦA CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT NAM SANG ASEAN ĐẾN NĂM
2025, ĐỊNH HƯỚNG ĐẾN NĂM 2030 ............................................................ 126
5.1. Cơ hội và thách thức đối với các doanh nghiệp Việt Nam khi đầu tư sang
ASEAN trong bối cảnh AEC ............................................................................. 126
5.1.1.Cơ hội .................................................................................................... 126
5.1.2.Thách thức .............................................................................................. 127
5.2.Mục tiêu, định hướng của các doanh nghiệp Việt Nam và quan điểm của
nhà nước thúc đẩy đầu tư trực tiếp của các doanh nghiệp Việt Nam sang
ASEAN ............................................................................................................... 128
5.2.1.Mục tiêu ................................................................................................. 128
5.2.2.Định hướng ............................................................................................ 128
5.2.3.Quan điểm của nhà nước ........................................................................ 130
5.3.Đề xuất giải pháp nhằm thúc đẩy đầu tư trực tiếp sang ASEAN cho các
doanh nghiệp Việt Nam đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 ................ 132
5.3.1.Chủ động xây dựng chiến lược đầu tư có hiệu quả, chuẩn bị kỹ các điều
kiện trước khi đầu tư và chiến lược kinh doanh ............................................... 132
vi
5.3.2.Chủ động nâng cao năng lực cạnh tranh ................................................ 138
5.3.3.Đa dạng hóa các hình thức đầu tư .......................................................... 141
5.3.4.Tăng cường hợp tác với các tổ chức của Việt Nam ở trong và ngoài nước
........................................................................................................................ 142
5.3.5.Tăng cường trách nhiệm của doanh nghiệp đối với nhà nước và xã hội .. 143
5.3.6.Tăng cường khai thác cơ hội đầu tư từ AEC ........................................... 144
5.4.Kiến nghị đối với Nhà nước......................................................................... 146
5.4.1.Xây dựng kế hoạch chiến lược tổng thể cấp quốc gia về đầu tư sang ASEAN
gắn với chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đất nước................................ 146
5.4.2.Các giải pháp hỗ trợ đầu tư trực tiếp sang ASEAN ................................. 146
5.4.3.Các giải pháp nâng cao công tác quản lý nhà nước về hoạt động ĐTTT
sang ASEAN trong bối cảnh thực thi AEC ....................................................... 150
5.4.4.Tăng cường xúc tiến đầu tư sang ASEAN ............................................... 152
5.4.5.Kết hợp hiệu quả giữa đầu tư trực tiếp và hỗ trợ phát triển không chính
thức của Việt Nam sang ASEAN ...................................................................... 153
KẾT LUẬN ........................................................................................................ 155
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CÔNG BỐ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU CỦA
ĐỀ TÀI LUẬN ÁN ............................................................................................ 158
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................. 160
PHỤ LỤC ........................................................................................................... 174
vii
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
TIẾNG ANH TIẾNG VIỆT CHỮ VIẾT TẮT
AEC ASEAN Economic Community Cộng đồng kinh tế ASEAN
ASEAN
AVIL
AVIC
AVIM
ACIA
Association of Southeast Asian Nations Association of Vietnam Investors in Lao Association of Vietnam Investors in Cambodia Association of Vietnam Investors in Myanmar ASEAN Comprehensive Investment Agreemen ASEAN Investment Area AIA
Bilateral Investment Treaties BITs Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á Hiệp hội các nhà đầu tư Việt Nam sang Lào Hiệp hội các nhà đầu tư Việt Nam sang Campuchia Hiệp hội các nhà đầu tưViệt Nam sang Myanmar Hiệp định đầu tư toàn diện ASEAN Khu vực đầu tư ASEAN Các hiệp định đầu tư song phương
Bộ Kế hoạch và Đầu tư Bộ KH&ĐT
CLMV
Ministry of Planning and Investment Cambodia-Laos-Myanmar- Vietnam Foreign Investment Campuchia, Lào, Myanmar, Việt Nam Đầu tư nước ngoài ĐTNN
Đầu tư ra nước ngoài
Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài
Investment Abroad Outward Foreign Direct Investment Foreign Direct Investment Đầu tư trực tiếp nước ngoài ĐTRNN ĐTTTRNN (OFDI) FDI
Tổng sản phẩm quốc nội GDP
Các hiệp định đầu tư quốc tế IIAs
Gross Domestic Product International Investment Agreements National Treatment Most Favoured Nation
NT MFN ODA
OECD
TNCs MNCs
UNCTAD
Nguyên tắc đối xử quốc gia Nguyên tắc Tối huệ quốc Official Development Assistance Hỗ trợ phát triển chính thức Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế Tập đoàn xuyên quốc gia Công ty đa quốc gia Hội nghị Liên hợp quốc về Thương mại và Phát triển Báo cáo đầu tư thế giới Tổ chức thương mại thế giới Organisation for Economic Cooperation and Development Transnational Corporations Multinational Corporations United Nations of Conference on Trade and Development World Investment Report World Trade Organization WIR WTO
viii
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1.Tổng hợp về biến số trong mô hình ........................................................ 47
Bảng 3.1.Đầu tư trực tiếp của các doanh nghiệp Việt Nam sang ASEAN .............. 65
Bảng 3.2. Đầu tư trực tiếp của các doanh nghiệp Việt Nam sang ASEAN theo tình
trạng hiệu lực của dự án đầu tư giai đoạn 1991-2019 ............................................. 67
Bảng 3.3.Đầu tư trực tiếp của các doanh nghiệp Việt Nam sang ASEAN theo giai
đoạn đầu tư giai đoạn 1991-2019 ........................................................................... 71
Bảng 3.4. Đầu tư trực tiếp của các doanh nghiệp Việt Nam sang ASEAN theo lĩnh
vực đầu tư và các giai đoạn đầu tư giai đoạn 1991-2019 ........................................ 75
Bảng 3.5.Đầu tư trực tiếp của các doanh nghiệp Việt Nam sang ASEAN .............. 79
Bảng 3.6.Đầu tư trực tiếp của các doanh nghiệp Việt Nam sang ASEAN theo hình
thức đầu tư giai đoạn 1991-2019 ........................................................................... 81
Bảng 3.7. Đầu tư trực tiếp của các doanh nghiệp Việt Nam sang ASEAN theo hình
thức sở hữu công ty mẹ ở Việt Nam giai đoạn 1991-2019 ..................................... 82
ix
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 3.1.Đầu tư trực tiếp của các doanh nghiệp Việt Nam sang ASEAN theo địa
điểm đầu tư giai đoạn 1991-2019........................................................................... 66
Biểu đồ 3.2.Cơ cấu đầu tư trực tiếp củacác doanh nghiệp Việt Nam sang ASEAN
theo số dự án giai đoạn 1991-2019 (%).................................................................. 68
DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ
Hình 1. Khung phân tích của luận án ....................................................................... 5
Hình 2.1.Các hình thức mở rộng ra thị trường nước ngoài ..................................... 36
Hình 2.2.Quá trình hình thành và phát triển AEC .................................................. 50
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đang diễn ra rất mạnh mẽ đã tác động sâu
rộng tới tăng trưởng kinh tế của các nước trên thế giới với đặc trưng là sự phát triển
hoạt động đầu tư quốc tế. Phần lớn dòng vốn đầu tư vẫn chủ yếu từ các nước có nền
kinh tế phát triển, nhưng trong thời gian gần đây, hoạt động đầu tư quốc tế của các
nước đang phát triển và các nền kinh tế mới nổi cũng đang gia tăng mạnh mẽ, đang
trở thành một bộ phận quan trọng của dòng đầu tư quốc tế, chiếm khoảng 37% dòng
vốn đầu tư ra nước ngoài năm 2019 (World Investment Report, 2020). Nguyên nhân
là các nước đều nhận thức được vai trò của đầu tư quốc tế đem lại nhiều cơ hội cho
cả nước đi đầu tư và chủ đầu tư (đầu tư ra nước ngoài). Cụ thể, các nước đi đầu tư
có thể khai thác thị trường ở nước tiếp nhận đầu tư, bảo đảm được nguồn cung ứng
nguyên liệu đầu vào giá rẻ (nhân công, nguồn lợi tự nhiên), tạo sự ảnh hưởng đối
với nước tiếp nhận đầu tư theo hướng có lợi cho mình trong những vấn đề quốc tế
(Vũ Chí Lộc, 2012). Chính vì thế, các nước có dòng vốn ĐTRNN lớn đều quan tâm
đều tích cực thúc đẩy việc hình thành các khung pháp lý song phương, đa phương
trong các lĩnh vực đầu tư, thương mại, sở hữu trí tuệ... nhằm mục đích mở đường và
tạo khuôn khổ pháp lý thuận lợi, an toàn cho doanh nghiệp khi triển khai các hoạt
động đầu tư ở nước ngoài.
Quá trình hợp tác kinh tế của ASEAN được đẩy mạnh từ năm 1992, nhằm
tăng cường thương mại, thu hút đầu tư và hợp tác khu vực, các nước ASEAN đã ký
tuyên bố thành lập thị trường chung ASEAN – AEC vào ngày 22/11/2015 với mục
tiêu hình thành thị trường đơn nhất, tự do thương mại và đầu tư. Nhà đầu tư có thể
tham gia các dự án đầu tư đa dạng trên toàn khu vực một cách thuận lợi hơn do
khuôn khổ phát lý và quy định trở nên minh bạch, các hạn chế về vốn góp nước
ngoài được nới lỏng và qui định bảo hộ đầu tư hiệu quả hơn. Đặc biệt, doanh nghiệp
Việt Nam có cơ hội đầu tư trong khu vực với độ ổn định, minh bạch cao và rủi ro
thấp hơn. Với quy mô thị trường hơn 600 triệu người dùng và tổng sản phẩm quốc
nội (GDP) khoảng 3 nghìn tỷ USD, đứng vị trí thứ 5 trên thế giới năm 2018 về
GDP, ASEAN luôn là một trong những ưu tiên chiến lược trong các hoạt động
2
thương mại và đầu tư của các doanh nghiệp Việt Nam. Để tận dụng được các cơ hội
mà AEC đã mang lại, nhiều doanh nghiệp Việt Nam đã tích cực đầu tư sang khu
vực ASEAN trong nhiều lĩnh vực khác nhau. Chính phủ Việt Nam cũng có những
thay đổi về chính sách đầu tư, theo hướng tăng cường hỗ trợ về mặt chính sách cho
các doanh nghiệp trong nước thực hiện ĐTRNN từng bước được hoàn thiện. Số liệu
thống kê cho thấy từ năm 1991-2019, tổng số dự án ĐTTT của các doanh nghiệp
Việt Nam sang ASEAN liên tục tăng, lũy kế đạt 791 dự án, tổng số vốn là 11,23 tỷ
USD, quy mô bình quân của mỗi dự án đạt 14,1 triệu USD (Cục ĐTNN-Bộ
KH&ĐT, 2019).
Tuy nhiên, những thành quả đạt được của các doanh nghiệp Việt Nam khi đầu
tư sang ASEAN thực tế vẫn chưa tương xứng với tiềm năng sẵn có của Việt Nam và
đối tác. Hàng loạt các dự án đầu tư giai đoạn trước đó bị thua lỗ, phải giải thể và rút
về nước, nhiều nước đối tác cũng đã thắt chặt lại chính sách đầu tư, nhất là trong
các ngành khai khoáng, khai thác tài nguyên thiên nhiên. Nhiều dự án đình đám của
một số đại gia Việt Nam cũng bị ngừng trệ hoặc thực hiện kém hiệu quả. Khi AEC
được thành lập, nhiều cơ hội được mở ra đối với các doanh nghiệp Việt Nam, song
thách thức cũng lớn hơn trước khi có rất nhiều đối thủ cạnh tranh lớn trong nội bộ
khối cũng sẽ được hưởng những ưu đãi từ AEC. Bên cạnh đó, những thay đổi về
chính sách đầu tư ra nước ngoài ở Việt Nam và tình hình tái cơ cấu nền kinh tế tại
Việt Nam trong thời gian qua đã làm thay đổi cục diện về đầu tư ra nước ngoài của
các doanh nghiệp Việt Nam. Cơ hội đầu tư luôn sẵn có, nhất là khi các hiệp định
đầu tư trong AEC đã tạo ra điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp trong nội bộ
khối. Tuy nhiên không phải doanh nghiệp nào cũng có thể tận dụng tốt các cơ hội
đầu tư trên thị trường nước ngoài.
Với những lý do trên đây, tác giả đã lựa chọn đề tài “Đầu tư trực tiếp ra nước
ngoài của các doanh nghiệp Việt Nam sang ASEAN trong khuôn khổ Cộng đồng
Kinh tế ASEAN (AEC)”, nhằm xác định các lợi thế và khó khăn của Việt Nam khi
đầu tư sang ASEAN trong bối cảnh thực thi AEC. Từ đó, tác giả đề xuất một số giải
pháp thúc đẩy đầu tư sang ASEAN nhằm khai thác các cơ hội thị trường, nguồn
nguyên liệu đầu vào, phục vụ tăng trưởng trong nước trong những năm tới.
3
2.Mục tiêu nghiên cứu và câu hỏi nghiên cứu
2.1.Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu của luận án là phân tích, đánh giá hoạt động đầu tư trực
tiếp của các doanh nghiệp Việt Nam sang ASEAN trong bối cảnh cộng đồng kinh tế
ASEAN (AEC) được hình thành cuối năm 2015. Từ đó, luận án đề xuất một số giải
pháp nhằm thúc đẩy hoạt động đầu tư trực tiếp sang ASEAN đến năm 2025, định
hướng đến năm 2030.
2.2.Câu hỏi nghiên cứu
Để đạt được mục tiêu nghiên cứu của luận án, tác giả trả lời lần lượt các câu
hỏi nghiên cứu sau:
Thứ nhất, thực trạng ĐTTT của các doanh nghiệp Việt Nam sang ASEAN
như thế nào?
Thứ hai, ĐTTT của các doanh nghiệp Việt Nam sang ASEAN chịu tác động
của những yếu tố nào?
Thứ ba, các doanh nghiệp Việt Nam cần có những giải pháp chủ yếu nào để
đẩy mạnh ĐTTT sang ASEAN trong khuôn khổ AEC đến năm 2025, định hướng
đến năm 2030?
3.Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1.Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là ĐTTT của các doanh nghiệp Việt Nam
sang ASEAN.
3.2.Phạm vi nghiên cứu
- Về không gian: Luận án nghiên cứu ĐTTT của các doanh nghiệp Việt Nam
sang ASEAN, không đề cập đến đầu tư của các doanh nghiệp Việt Nam dưới hình
thức đầu tư gián tiếp sang ASEAN và đầu tư sang các khu vực khác trên thế giới.
- Thời gian nghiên cứu: Luận án tập trung nghiên cứu hoạt động đầu tư của
các doanh nghiệp Việt Nam sang ASEAN trong giai đoạn từ 2016 trở đi (đến năm
2019) trong so sánh với FDI của giai đoạn trước đó (1991-2015). Thời điểm năm
4
1991 là thời điểm khi Việt Nam bắt đầu có dự án đầu tư sang ASEAN, bởi vậy NCS
lấy mốc thời gian này để nghiên cứu. Một số dữ liệu liên quan đã được cập nhật đến
năm 2019. Tuy nhiên, do nhiều dữ liệu trong mô hình chưa được các nguồn chính
thống cập nhật đến năm 2018 và 2019, nên việc phân tích mô hình tác động chỉ sử
dụng dữ liệu đến năm 2017. Đây cũng có thể coi là một hạn chế của Luận án.
- Về nội dung: Luận án tập trung nghiên cứu thực trạng ĐTTT của các doanh
nghiệp Việt Nam sang ASEAN. Xây dựng mô hình ước lượng ảnh hưởng của việc
thành lập AEC và các yếu tố khác đến ĐTTT của các doanh nghiệp Việt Nam sang
ASEAN. Trên cơ sở đánh giá được các yếu tố tác động đến ĐTTT của doanh
nghiệp Việt Nam sang ASEAN, tác giả đề xuất các giải pháp thúc đẩy ĐTTT của
các doanh nghiệp Việt Nam sang ASEAN đến năm 2025 và định hướng đến năm
2030.
4. Phương pháp nghiên cứu
4.1.Phương pháp tiếp cận
Luận án dựa trên cơ sở phân tích các yếu tố kéo và yếu tố đẩy (ở góc độ của
cả nước đầu tư và nước tiếp nhận đầu tư) tác động đến dòng vốn đầu tư trực tiếp của
các doanh nghiệp Việt Nam sang ASEAN. Dựa trên việc đánh giá các yếu tố tác
động đến ĐTTT, từ đó đánh giá các cơ hội và thách thức mà các doanh nghiệp Việt
Nam có thể gặp phải khi đầu tư sang ASEAN trong bối cảnh AEC đã có hiệu lực từ
năm 2015.
4.2.Nguồn và phương pháp thu thập dữ liệu
Các dữ liệu chủ yếu là thứ cấp được thu thập từ nhiều nguồn chính thức khác
nhau, bao gồm các báo cáo và dữ liệu về các dự án ĐTTT của các doanh nghiệp
Việt Nam sang ASEAN của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Công Thương, Bộ Tài
chính, Ngân hàng Nhà nước, Tổng cục Thống kê, Phòng Thương mại và Công
nghiệp Việt Nam, Ban Thư ký ASEAN và một số doanh nghiệp của Việt Nam đầu
tư sang ASEAN. Các số liệu được lấy từ năm 1991 đến năm 2019. Dữ liệu này
nhằm mục đích đánh giá thực trạng về ĐTTT của Việt Nam trên thị trường
ASEAN, trên cơ sở đó đề xuất các giải pháp nhằm thúc đẩy hoạt động đầu tư của
5
các doanh nghiệp Việt Nam sang khu vực ASEAN, nhất là trong bối cảnh AEC đã
được thành lập.
Bên cạnh đó, để đo lường các yếu tố tác động đến ĐTTT của doanh nghiệp
Việt Nam sang ASEAN, tác giả đã sử dụng các dữ liệu từ World Bank của mười
quốc gia ASEAN giai đoạn 1991-2019, như GDP bình quân đầu người, chỉ số cơ sở
hạ tầng, chỉ số độ mở của nền kinh tế, chỉ số giá quy đổi theo tỷ giá hối đoái, chỉ số
tài nguyên thiên nhiên trên GDP, mức thuế suất đối với thu nhập doanh nghiệp, chỉ
số về lao động, chỉ số về rủi ro chính trị của nước tiếp nhận đầu tư và các biến giả.
4.3.Khung phân tích
Yếu tố đẩy
Yếu tố kéo
Các yếu tố môi trường quốc tế, cam kết quốc tế liên quan đến đầu tư
lực
OFDI
-GDP - Ổn định chính trị - Chính sách mở cửa nền kinh tế, thúc đẩy đầu tư
-Tăng trưởng kinh tế, mức độ ổn định chính trị -Nguồn (tài nguyên, năng suất lao động, cơ sở hạ tầng, -Chính sách của nước tiếp nhận (tỷ giá, thuế TNDN, độ mở của nền kinh tế)
Luận án được thực hiện theo khung phân tích dưới đây:
(Nguồn: Tác giả xây dựng)
Hình 1. Khung phân tích của luận án
4.4.Phương pháp ước lượng mô hình dữ liệu mảng
Trong đó, động cơ ĐTRNN của các doanh nghiệp Việt Nam đều chịu ảnh
hưởng từ hai nhóm yếu tố: yếu tố từ nước chủ đầu tư – từ góc độ của Việt Nam (yếu
tố đẩy) và nhóm yếu tố từ thị trường ASEN (yếu tố kéo). Bên cạnh đó, các cam kết
6
quốc tế cũng có thể ảnh hưởng đến các hoạt động ĐTTTRNN. Trên cơ sở đó tác giả
sẽ phân tích riêng biệt thành hai mô hình tác động đến ĐTTTRNN của Việt Nam
sang ASEAN. Mô hình thứ nhất, phân tích dưới góc độ của yếu tố đẩy, khi chính
sách của nhà nước và các yếu tố của nền kinh tế có thể tạo ra điều kiện thuận lợi
thôi thúc các doanh nghiệp đi đầu tư ra nước ngoài. Mô hình thứ hai, phân tích dưới
góc độ của yếu tố kéo, khi các yếu tố về điều kiện về thị trường kinh doanh thuận
lợi tại nước tiếp nhận như chi phí sản xuất, nhân lực, tài nguyên và chính sách tại thị
trường tiếp nhận có thể tác động tới hiệu quả đầu tư của doanh nghiệp. Góc độ thứ
hai cho thấy doanh nghiệp sẽ đi đầu tư tại những nơi nào có chi phí thấp hoặc hiệu
quả kinh doanh tốt hơn, hoạt động đầu tư cũng sẽ khác nhau theo các nhóm nước
tiếp nhận đầu tư khác nhau. Trong 2 mô hình trên, các biến về cam kết quốc tế liên
quan đến đầu tư trong ASEAN và yếu tố trình độ kinh tế của nước tiếp nhận đầu tư
sẽ được xem là các biến kiểm soát. Kết quả phân tích từ hai mô hình sẽ là gợi ý cho
các đề xuất giải pháp trong chương 5. Theo đó, các yếu tố đẩy liên quan chủ yếu
đến nhóm giải pháp ở góc độ vĩ mô và các yếu tố kéo liên quan đến nhóm giải pháp
vi mô.
4.5. Phương pháp xử lý dữ liệu
Để tính toán mức độ ảnh hưởng của các yếu tố tác động đến ĐTTT của các
doanh nghiệp Việt Nam sang ASEAN, tác giả đã sử dụng mô hình ước lượng theo
phương pháp hồi quy dữ liệu mảng với sự trợ giúp của phần mềm Stata.
5.Những đóng góp mới của luận án
Trên cơ sở các nghiên cứu về hoạt động ĐTTT của các doanh nghiệp Việt
Nam sang ASEAN, luận án có một số đóng góp về mặt lý luận và thực tiễn, cụ thể
như sau:
5.1.Về mặt lý luận
Luận án đã hệ thống hóa cơ sở lý luận về ĐTTTRNN và xây dựng mô hình
đánh giá các yếu tố tác động đến ĐTTT của các doanh nghiệp Việt Nam sang
ASEAN trong bối cảnh thực thi AEC. Đặc biệt, các chỉ tiêu như độ mở cửa, thuế
suất đã được điều chỉnh thay đổi của điều kiện của thị trường chung AEC. Một số
yếu tố khác tác động tới thu hút vốn đầu tư của nước tiếp nhận như GDP,
7
GDP/người, chỉ số tài nguyên thiên nhiên/GDP, chỉ số lao động, rủi ro chính trị…
được sử dụng phân tích tới mức độ hấp dẫn đầu tư. Đây là đóng góp quan trọng của
luận án so với các nghiên cứu trước mặc dù các yếu tố đánh giá không thay đổi
nhưng bối cảnh mới thì vai trò của các yếu tố đã được đánh giá và điều chỉnh lại.
5.2.Về mặt thực tiễn
Thứ nhất, luận án đã phân tích tình hình đầu tư của một số quốc gia châu Á
đầu tư sang ASEAN như Nhật Bản, Singapore, Malaysia. Đây là bài học kinh
nghiệm quan trọng cho cơ quan lập chính sách xây dựng hệ thống khung chính sách
phù hợp hỗ trợ cho các doanh nghiệp Việt Nam tiến hành đầu tư sang ASEAN trong
thời gian tới.
Thứ hai, luận án đã chỉ ra những kết quả, hạn chế và tìm ra nguyên nhân
thông qua phân tích thực trạng ĐTTT của các doanh nghiệp Việt Nam sang ASEAN
giai đoạn 1991-2019. Trong đó, luận án tiến hành đánh giá những khác biệt về thực
trạng ĐTTT của doanh nghiệp trong nước sang ASEAN trước và sau khi thực thi
AEC.
Thứ ba, luận án đã đề xuất các giải pháp, nhóm giải pháp mới, phù hợp với
thực tiễn của AEC nhằm thúc đẩy ĐTTT của các doanh nghiệp Việt Nam sang
ASEAN đến năm 2025, định hướng đến năm 2030.
6.Kết cấu của luận án
Ngoài Phần mở đầu và Kết luận, luận án bao gồm năm chương:
Chương 1: Tổng quan các công trình nghiên cứu có liên quan đến chủ đề
của luận án
Chương 2: Cơ sở lý luận về đầu tư đầu tư trực tiếp ra nước ngoài trong
khuôn khổ AEC và kinh nghiệm quốc tế
Chương 3: Phân tích thực trạng đầu tư trực tiếp của các doanh nghiệp Việt
Nam sang ASEAN trong khuôn khổ AEC
Chương 4: Những yếu tố tác động tới đầu tư trực tiếp sang ASEAN của các
doanh nghiệp Việt Nam sang ASEAN trong khuôn khổ AEC
8
Chương 5: Đề xuất giải pháp nhằm thúc đẩy đầu tư trực tiếp sang ASEAN
của các doanh nghiệp Việt Nam sang ASEAN đến năm 2025, định hướng đến năm
2030.
9
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN
QUAN ĐẾN CHỦ ĐỀ CỦA LUẬN ÁN
1.1.Tổng quan tình hình nghiên cứu
1.1.1. Các nghiên cứu lý thuyết về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của các nước
đang phát triển và nền kinh tế chuyển đổi
Trong số các lý thuyết tìm cách lý giải về đầu tư quốc tế, các lý thuyết dựa
trên những lý giải về tổ chức doanh nghiệp hiện có ảnh hưởng lớn nhất. Những lý
giải về tổ chức doanh nghiệp của FDI bắt nguồn từ luận án tiến sĩ nổi tiếng của
Hymer hoàn thành năm 1960, công bố năm 1978. Trong luận án của mình, trước
tiên Hymer phân biệt giữa đầu tư chứng khoán và ĐTTT, kết luận rằng các giả
thuyết về trao đổi vốn thông qua thị trường chứng khoán lý giải sự di chuyển vốn
quốc tế không phù hợp với sự phân bố vốn thực tế của các MNC và không thể lý
giải nguyên nhân của FDI. Hymer đưa ra một nền tảng mới về cách lý giải vi mô
đối với FDI bằng cách chỉ ra rằng FDI không phân bố một cách ngẫu nhiên giữa các
ngành công nghiệp và rằng các điều kiện cạnh tranh, đặc biệt là các điều kiện về thị
trường sản phẩm, ảnh hưởng rất lớn đến dòng vốn FDI. Áp dụng lý thuyết về tổ
chức doanh nghiệp, Hymer chỉ ra rằng nếu các MNC nước ngoài hoàn toàn giống
với các doanh nghiệp trong nước sẽ chẳng tìm thấy lợi ích gì khi thâm nhập vào thị
trường nước đó, vì rõ ràng chúng phải trả những chi phí phụ trội khi kinh doanh ở
những nước khác, ví dụ như phí liên lạc và vận chuyển, chi phí cao hơn cho nhân
viên làm việc ở nước ngoài, rào cản về ngôn ngữ, hải quan và phải hoạt động ngoài
mạng lưới kinh doanh nội địa (đây là những bất lợi của công ty khi đầu tư ra nước
ngoài). Vậy nên Hymer cho rằng để các MNC tiến hành sản xuất ở nước ngoài cần
có một số lợi thế sở hữu riêng như nhãn hiệu nổi tiếng, công nghệ cao hơn và được
bảo hộ, kỹ năng quản lý hoặc chi phí thấp hơn nhờ mở rộng quy mô…những lợi thế
này để bù lại những bất lợi mà doanh nghiệp phải đương đầu trong cạnh tranh với
các công ty khác ở nước sở tại.
Việc doanh nghiệp quyết định sẽ khai thác các lợi thế này bằng cách cấp giấy
phép sử dụng công nghệ cao cho đối tác (cấp license) hoặc FDI phụ thuộc vào bản
10
chất của các lợi thế và mức độ không hoàn hảo của các thị trường đối với các lợi thế
mà doanh nghiệp nắm giữ. Sự không hoàn hảo càng cao thì doanh nghiệp càng có
xu hướng lựa chọn FDI và kiểm soát hoạt động hơn là tiến hành những giao dịch
thương mại thông thường. Như vậy, Hymer đã đề cập đến nhân tố về lợi thế sở hữu
của doanh nghiệp song chưa đề cập đến lợi thế về địa điểm cũng như tác động của
ĐTTTRNN.
Tiếp đó lý thuyết về Vòng đời quốc tế sản phẩm của Vernon (1966) giải
thích các yếu tố quyết định đến thương mại quốc tế, đầu tư quốc tế và mối quan hệ
giữa thương mại quốc tế và đầu tư quốc tế. Lý thuyết này được S.Hirsch (1976)
phát triển tiếp trên trên cơ sở nghiên cứu các doanh nghiệp của Mỹ. Theo đó, mối
quan hệ đầu tư quốc tế và thương mại quốc tế, coi đầu tư quốc tế là một giai đoạn tự
nhiên trong vòng đời sản phẩm. Lý thuyết này cho thấy vai trò của các phát minh,
sáng chế trong thương mại và đầu tư quốc tế bằng cách phân tích quá trình quốc tế
hóa sản xuất theo các giai đoạn nối tiếp nhau. Hai ý tưởng làm căn cứ xuất phát của
lý thuyết này là: (i) Mỗi sản phẩm có một vòng đời, xuất hiện-tăng trưởng mạnh-
chững lại-suy giảm tương ứng với quy trình xâm nhập-tăng trưởng-bão hòa-suy
giảm; (ii) Vòng đời này dài hay ngắn tùy thuộc từng sản phẩm. Ban đầu phần lớn
các sản phẩm mới được sản xuất tại nước phát minh ra nó và được xuất khẩu đi các
nước khác. Nhưng khi các sản phẩm mới đã được chấp nhận rộng rãi trên thị trường
thế giới thì sản xuất bắt đầu được tiến hành ở các nước khác. Và theo lý thuyết này,
kết quả rất có thể là sản phẩm sau đó sẽ được xuất khẩu trở lại nước phát minh ra
nó. Cụ thể, vòng đời quốc tế của sản phẩm gồm 3 giai đoạn: (i) Sản phẩm mới xuất
hiện cần thông tin phản hồi nhanh và được bán ở trong nước phát minh ra sản phẩm,
xuất khẩu không đáng kể; (ii) Sản phẩm chín muồi, nhu cầu tăng, xuất khẩu tăng
mạnh, các đối thủ cạnh tranh trong và ngoài nước xuất hiện, FDI xuất hiện; (iii) Sản
phẩm và quy trình sản xuất được tiêu chuẩn hóa, thị trường ổn định, hàng hóa trở
nên thông dụng, các doanh nghiệp chịu áp lực giảm chi phí càng nhiều càng tốt để
tăng lợi nhuận hoặc giảm giá để tăng năng lực cạnh tranh, FDI tiếp tục phát triển.
Để khắc phục hạn chế của Lý thuyết Vòng đời quốc tế của sản phẩm của
Vernon, một số nhà kinh tế học khác đề xuất mở rộng các giả thuyết của Vernon
bằng cách đưa thêm các chi phí khác ngoài chi phí lao động vào để lý giải hiện
11
tượng FDI của tất cả các nước phát triển. Lý thuyết vòng đời sản phẩm chưa đề cập
đến các yếu tố khác như lợi thế địa điểm cũng có tác động đến đầu tư ra nước ngoài.
Buckley và Casson (1976) phát triển lý thuyết nội bộ hóa để lý giải sự phát
triển của các MNC trên cơ sở lý thuyết về chi phí giao dịch. Theo quan sát của
Buckley và Casson, để các MNC thâm nhập các thị trường nước ngoài thông qua
FDI hơn là thông qua các hình thức kinh doanh khác, như xuất khẩu hoặc cấp
license, cần phải có một số lợi thế về nội bộ hóa, nghĩa là cần có các lợi ích kinh tế
gắn việc doanh nghiệp khai thác một cơ hội thị trường thông qua các hoạt động
trong nội bộ hơn là thông qua các giao dịch bên ngoài (các hoạt động thương mại
thông thường). Cách tiếp cận nội bộ hóa gắn với ý tưởng về sự không hoàn hảo của
thị trường do Hymer đề xuất và mở rộng hơn để đưa ra cách lý giải về sự tồn tại của
các MNC vượt qua biên giới quốc gia. Lý thuyết này cho rằng đương đầu với sự
không hoàn hảo của thị trường các tài sản vô hình và thông tin, doanh nghiệp có xu
hướng nội bộ hóa các hoạt động để giảm đến mức thấp nhất các chi phí giao dịch và
tăng hiệu quả sản xuất.
Tổng hợp các yếu tố chính của nhiều công trình khác chỉ ra ba điều kiện cần
thiết để một doanh nghiệp tiến hành đầu tư trực tiếp ra nước ngoài, Dunning (1977,
1988) trên cơ sở kết hợp các giả thuyết về tổ chức doanh nghiệp, nội bộ hóa và lợi
thế địa điểm để lý giải về đầu tư quốc tế. Theo tác giả nên đầu tư dưới hình thức
FDI khi cả ba yếu tố lợi thế về địa điểm, lợi thế về quyền sở hữu và lợi thế về nội bộ
hóa được thỏa mãn. Ba yếu tố trên được kết hợp trong một mô hình có tên gọi OLI,
trong đó O (Owership advantages) là lợi thế về quyền sở hữu, L (Location
advantages) là lợi thế về địa điểm và I (Internalization advantages) là lợi thế về nội
bộ hóa.
MNC sẽ so sánh giữa những điểm lợi và điểm bất lợi của các hình thức trên
và lựa chọn hình thức nào có lợi thế nhất cho mình. Theo các giả thuyết về nội bộ
hóa, FDI sẽ được sử dụng nhằm thay thế các giao dịch trên các thị trường bằng các
giao dịch nội bộ khi các nhà đầu tư thấy các giao dịch nội bộ sẽ ít tốn kém, an toàn
và khả thi hơn các giao dịch trên thị trường bên ngoài. Điều này thường xảy ra do
sự không hoàn hảo của thị trường các yếu tố đầu vào của sản xuất. Sự không hoàn
12
hảo của thị trường xuất phát từ hai nhóm nguyên nhân chủ yếu, đó là những yếu
kém tự nhiên và những yếu kém về cơ cấu của thị trường.
Như vậy, khi thị trường bên ngoài không hoàn hảo, các doanh nghiệp sẽ có
được lợi thế nội bộ hóa khi lựa chọn FDI là hình thức xâm nhập thị trường nước
ngoài. Lợi thế này sẽ giúp doanh nghiệp giảm được chi phí và khắc phục những rào
cản, rủi ro do sự không hoàn hảo của thị trường bên ngoài gây ra (rào cản thuế quan
và phi thuế quan, biến động bất thường của thị trường hàng hóa bên ngoài…).
Chính các lợi thế nội bộ hóa giúp các MNC tiến hành hoạt động kinh doanh đồng
bộ và hoàn chỉnh, sản xuất ở nhiều nước và sử dụng thương mại trong nội bộ doanh
nghiệp để lưu chuyển hàng hóa, dịch vụ và các yếu tố vô hình giữa các chi nhánh
của chúng.
Tuy nhiên, cũng cần lưu ý rằng mặc dù nội bộ hóa đem lại nhiều lợi ích
nhưng cũng phải trả những chi phí nhất định cho quá trình liên kết kinh doanh. Một
trong những chi phí quan trọng nhất đó là chi phí quản lý, nghĩa là chi phí điều hành
một doanh nghiệp lớn với nhiều công ty thành viên hợp tác trong cùng ngành hoặc
trong cùng ngành có tính chất bạn hàng của nhau, các doanh nghiệp này có thị
trường nội bộ rất phức tạp về hàng hóa, dịch vụ và các tài sản vô hình. Thứ hai, việc
liên kết kinh doanh trên toàn cầu đòi hỏi các nguồn tài chính khổng lồ mà có thể
không có sẵn đối với doanh nghiệp hoặc chỉ sẵn có với chi phí cao hơn so với các
hình thức khác. Thứ ba, các phương pháp kinh doanh mới có thể kéo theo những
đòi hỏi đặc biệt hoặc các tài sản chuyên dụng mà MNC không có, khi đó doanh
nghiệp có thể chọn các hình thức xâm nhập khác.
Khi đã có lợi thế về quyền sở hữu và lợi thế nội bộ hóa, các doanh nghiệp sẽ
còn phải cân nhắc để chọn địa điểm đầu tư trực tiếp ở nước nào có lợi nhất cho việc
phát huy hai lợi thế trên. Vấn đề này sẽ được giải đáp thông qua các đánh giá về lợi
thế địa điểm hay còn gọi là lợi thế riêng của nước nhận đầu tư với chủ đầu tư. Sau
lý thuyết OLI, Dunning đã phát triển lên lý thuyết IDP (Investment Development
Path) để giải thích hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài. Theo lý thuyết này, quá
trình phát triển của các nước được chia ra thành 5 giai đoạn:
13
Giai đoạn 1: Lợi thế L của một nước ít hấp dẫn, luồng vào FDI không đáng
kể do hạn chế của thị trường trong nước: thu nhập thấp, cơ sở hạ tầng lạc hậu, giáo
dục yếu kém, lao động không có kỹ năng…và hiếm khi thấy luồng ra FDI.
Giai đoạn 2: Luồng vào của FDI bắt đầu tăng do lợi thế L đã hấp dẫn các nhà
đầu tư: sức mua trong nước bắt đầu tăng, cơ sở hạ tầng đã được cải thiện…FDI
trong bước này chủ yếu là đầu tư vào sản xuất để thay thế nhập khẩu và những
ngành khai thác tài nguyên thiên nhiên hoặc sản xuất ra nguyên vật liệu, sản phẩm
sơ chế. Luồng ra của FDI trong giai đoạn này không đáng kể.
Giai đoạn 3: Luồng vào của FDI bắt đầu giảm và luồng ra lại bắt đầu tăng.
Khả năng kỹ thuật của nước sở tại đã tiến tới sản xuất sản phẩm được tiêu chuẩn
hoá. Mặt khác lợi thế về lao động giảm dần, nên phải chuyển đầu tư sang những
nước có lợi thế tương đương đối về lao động nhằm tìm kiếm thị trường hoặc giành
những tài sản chiến lược để bảo vệ lợi thế O. Trong giai đoạn này, luồng vào của
FDI tập trung vào những ngành thay thế nhập khẩu có hiệu quả.
Giai đoạn 4: Lợi thế O của các công ty trong nước tăng lên. Những công
nghệ sử dụng nhiều lao động dần dần được thay thế bởi công nghệ sử dụng nhiều
vốn. Mặt khác chi phí vốn trở nên rẻ hơn chi phí lao động. Kết quả là, lợi thế L của
đất nước sẽ chuyển sang các tài sản. FDI từ các nước đang phát triển ở bước 4 sẽ
vào nước này để tìm kiếm những tài sản trên hoặc từ các nước kém phát triển hơn
nhằm tìm kiếm thị trường và đặt quan hệ thương mại. Trong bước này các công ty
trong nước vẫn thích thực hiện FDI ra nước ngoài hơn là xuất khẩu sản phẩm, bởi vì
họ có thể khai thác lợi thế I của mình. Do vậy, luồng vào và luồng ra của FDI vẫn
tăng, nhưng luồng ra sẽ nhanh hơn.
Giai đoạn 5: Luồng ra và luồng vào của FDI tiếp tục và khối lượng tương tự
nhau. Luồng vào từ các nước có mức độ phát triển thấp hơn với mục đích tìm kiếm
thị trường và kiến thức; hoặc từ các nước đang phát triển ở bước 4 và 5 để tìm kiếm
sản xuất có hiệu quả. Do vậy luồng ra và luồng vào là tương tự.
Mô hình OLI giải thích hiện tượng FDI theo trạng thái tĩnh, trong khi lý
thuyết IDP lại xem xét hiện tượng FDI trong trạng thái động với sự thay đổi các lợi
thế này trong từng bước phát triển. Lý thuyết này cùng với mô hình OLI là thích
14
hợp nhất để giải thích hiện tượng FDI trên toàn thế giới, tất nhiên trong đó có Việt
Nam.
Như vậy, lý thuyết OLI và IDP của Dunning là lý thuyết có thể giải thích tại
sao doanh nghiệp lại tiến hành đầu tư trực tiếp ra nước ngoài, đồng thời cũng chỉ
ra các nhóm nhân tố tác động đến ĐTTTRNN. Những lý thuyết này được tác giả
tiếp thu có chọn lọc trong nghiên cứu của mình.
1.1.2.Các công trình nghiên cứu về hoạt động đầu tư trực tiếp của các doanh
nghiệp Việt Nam ra nước ngoài
1.1.2.1.Các công trình nghiên cứu về đầu tư trực tiếp của các doanh nghiệp Việt
Nam ra nước ngoài
Hiện có một số công trình là luận án tiến sỹ đã nghiên cứu về vấn đề này,
trong đó, đáng chú ý là công trình của hai tác giả: Vũ Thị Minh Ngọc và Nguyễn
Thị Nhung.
Trong luận án tiến sĩ của mình về “Đổi mới quản lý nhà nước đối với hoạt
động đầu tư trực tiếp của các doanh nghiệp Việt Nam ra nước ngoài”, Vũ Thị Minh
Ngọc (2016) nghiên cứu tiếp cận trên góc độ quản lý nhà nước để phân tích hoạt
động quản lý nhà nước và đổi mới quản lý nhà nước trong lĩnh vực ĐTTTRNN, từ
đó, đưa ra các giải pháp đổi mới quản lý nhà nước đối với ĐTTTRNN trong bối
cảnh kinh tế mới. Về mặt thời gian, công trình nghiên cứu hoạt động ĐTRNN của
các doanh nghiệp Việt Nam từ năm 1991 đến năm 2014, đồng thời nghiên cứu hệ
thống quản lý nhà nước về lĩnh vực ĐTTTRNN từ năm 1999 đến 2016. Về phương
pháp nghiên cứu, tác giả sử dụng phương pháp nghiên cứu định tính như duy vật
biện chứng, duy vật lịch sử, phương pháp tổng hợp, quy nạp, diễn dịch, so
sánh...Những đóng góp mới của công trình này thể hiện ở một vài điểm như sau: (1)
Đã tổng quan cơ sở lý luận về quản lý nhà nước đối với hoạt động đầu tư trực tiếp
ra nước ngoài, trong đó nêu rõ các mục tiêu, phương pháp quản lý, nội dung và mô
hình quản lý đối với hoạt động ĐTTTRNN; (2) Tổng kết một số bài học thành công
và chưa thành công từ kinh nghiệm đổi mới quản lý nhà nước đối với ĐTTTRNN
của một số quốc gia châu Á như Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc, Thái Lan...Đây
là cơ sở quan trọng để đối chiếu và so sánh để đánh giá hoạt động đổi mới quản lý
15
nhà nước tại Việt Nam; (3) Đi sâu phân tích tình hình đầu tư trực tiếp ra nước ngoài
của Việt Nam từ năm 1991-2014. Quá trình đổi mới quản lý nhà nước đối với hoạt
động ĐTTTRNN tại Việt Nam. Công trình đã sử dụng các số liệu điều tra thu thập
được để đánh giá đổi mới quản lý nhà nước, dưới nhiều góc độ: cơ quan quản lý,
các doanh nghiệp, các chuyên gia kinh tế...; (4) Đã phân tích bối cảnh kinh tế thế
giới, khu vực và Việt Nam, xu hướng đầu tư ra nước ngoài của các doanh nghiệp
Việt Nam tác động đến sự đổi mới quản lý nhà nước đối với hoạt động ĐTTTRNN
của các doanh nghiệp Việt Nam. Đây là cơ sở để thực hiện đồng bộ các giải pháp
đổi mới quản lý nhà nước trong hoạt động ĐTTTRNN.
Sau đó năm 2017, trong công trình nghiên cứu về “Vai trò của nhà nước với
hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của Việt Nam trong thời kỳ hội nhập”, tác
giả Nguyễn Thị Nhung đã tập trung nghiên cứu vai trò quản lý của nhà nước đến
hoạt động ĐTTTRNN của các doanh nghiệp bao gồm: (i) nhà nước tạo hành lang
pháp lý cho hoạt động ĐTTTRNN; (ii) nhà nước tạo lập, mở rộng quan hệ hợp tác
quốc tế về hoạt động ĐTTTRNN; (iii) nhà nước định hướng và điều tiết các chính
sách vĩ mô liên quan đến hoạt động ĐTTTRNN; (iv) nhà nước hỗ trợ hoạt động
ĐTTTRNN. Về thời gian nghiên cứu, nghiên cứu thực trạng vai trò của nhà nước
đến hoạt động ĐTTTRNN từ năm 1991 đến 2015. Về phương pháp nghiên cứu,
Ngoài phương pháp thống kê mô tả để nghiên cứu thực trạng vai trò nhà nước với
hoạt động ĐTTTRNN của Việt Nam, tác giả sử dụng phương pháp phân tích định
lượng để đánh giá ảnh hưởng, mức độ tác động của các vai trò của nhà nước với
hoạt động ĐTTTRNN của các doanh nghiệp; để kiểm định các giả thuyết đã đưa ra,
Thông qua phương pháp mô hình cấu trúc (SEM), phần mềm SPSS và AMOS. Kết
quả đạt được của nghiên cứu thể hiện: Thứ nhất, hoạt động ĐTTTRNN của Việt
Nam ngày càng gia tăng mạnh mẽ, các doanh nghiệp Việt Nam mạnh dạn đầu tư
trong những lĩnh vực có thế mạnh, gắn với xu hướng phát triển của cuộc cách mạng
công nghệ lần thứ 4. Mặc dù hoạt động ĐTTTRNN chưa có được các hiệu quả rõ
nét, nhưng đã chuyển dịch theo hướng tích cực hơn. Thứ hai, thông qua kết quả
điều tra và kiểm chứng bằng công cụ định lượng đã chỉ ra: (i) có sự tác động thuận
chiều của nhà nước trong các vai trò tạo lập, mở rộng quan hệ quốc tế, vai trò điều
tiết chính sách vĩ mô và nhà nước thực hiện các chính sách hỗ trợ đến hoạt động
16
ĐTTTRNN. Trong đó, vai trò nhà nước hỗ trợ hoạt động ĐTTTRNN có ảnh hưởng
mạnh nhất đến hoạt động ĐTTTRNN của các doanh nghiệp Việt Nam và (ii) các
doanh nghiệp đánh giá chưa cao vai trò định hướng của nhà nước, vai trò cung cấp
thông tin về môi trường đầu tư cũng như vai trò hỗ trợ của cáccơ quan đại diện
ngoại giao ở nước ngoài đối với ĐTTTRNN của DNVN trong thời gian qua. Thứ
ba, vai trò quản lý nhà nước với hoạt động ĐTTTRNN cần được điều chỉnh linh
hoạt theo lộ trình, hạn chế sử dụng các biện pháp hành chính để can thiệp vào công
tác quản lý nhà nước với hoạt động ĐTTTRNN. Thứ tư, nhà nước cần quan tâm hỗ
trợ hơn các doanh nghiệp có dự án ĐTTTRNN tại những khu vực biên giới có ảnh
hưởng đến vấn đề quốc phòng an ninh của quốc gia.
Tuy nhiên, hai công trình nghiên cứu trên lại xuất phát ở góc độ phân tích
của quản lý nhà nước, chưa đứng ở góc độ của các doanh nghiệp để phân tích, bởi
vậy, về phạm vi nghiên cứu của các công trình nghiên cứu trên không trùng lặp với
phạm vi nghiên cứu trong Luận án này.
Ngoài ra, có nhiều công trình được thể hiện dưới hình thức sách tham khảo,
các bài báo, đề cập đến tình hình đầu tư trực tiếp của các doanh nghiệp Việt Nam ra
nước ngoài nói chung. Có thể điểm qua một số công trình như: Luận án Tiến sĩ kinh
tế của Nguyễn Hữu Huy Nhựt, trường Đại học Kinh tế Tp.Hồ Chí Minh, 2011,
Chiến lược đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của Việt Nam trong tiến trình hội nhập
kinh tế quốc tế; Bài viết của Trương Tiến Sĩ đăng trên Tạp chí Công nghệ Ngân
hàng, số 37+38/2009, 20 năm đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của Việt Nam. Thực
trạng và triển vọng.
Đây là các công trình nghiên cứu về đầu tư trực tiếp của các doanh nghiệp
Việt Nam ra nước ngoài nói chung, có đề cập hoặc đề cập rất ít về ĐTTT của các
doanh nghiệp Việt Nam sang ASEAN, hầu hết sử dụng phương pháp nghiên cứu
định tính.
17
1.1.2.2.Các công trình nghiên cứu về đầu tư trực tiếp của các doanh nghiệp Việt
Nam sang ASEAN trong khuôn khổ AEC
Liên quan đến đầu tư trực tiếp của các doanh nghiệp Việt Nam sang ASEAN
và liên quan tới AEC, đáng chú ý là bài viết của các tác giả Vũ Thị Minh Ngọc, Vũ
Thị Lan, Trần Nam Trung và Trịnh Quang Hưng.
Vũ Thị Minh Ngọc (2006) “Phân tích thực trạng và các giải pháp thúc đẩy
đầu tư trực tiếp của Việt Nam sang các nước Đông Nam Á” thấy rằng đầu tư trực
tiếp nước ngoài là một xu thế tất yếu trong bối cảnh toàn cầu hóa kinh tế hiện nay.
Các nước trên thế giới ngoài việc cải thiện môi trường đầu tư trong nước nhằm thu
hút đầu tư nước ngoài, cũng đồng thời xúc tiến đầu tư ra nước ngoài nhằm tận dụng
sự ưu đãi đầu tư ở các môi trường khác. Điều này, một mặt, giúp cho các nước chủ
đầu tư giữ được thị trường cung cấp nguyên liệu, thị trường tiêu thụ hàng hóa, mặt
khác, gây ảnh hưởng đến nước tiếp nhận đầu tư. Các quá trình thu hút đầu tư trực
tiếp nước ngoài và đầu tư trực tiếp ra nước ngoài thực chất chỉ là hai mặt của một
vấn đề, đó là đầu tư trực tiếp nước ngoài. Việc đầu tư ra nước ngoài hay nhận đầu tư
trực tiếp nước ngoài sẽ đem lại những tác động tích cực đối với từng quốc gia. Vấn
đề nằm ở chỗ mỗi quốc gia sẽ có chiến lược như thế nào để những hoạt động này
đem lại hiệu quả cao nhất cho nền kinh tế của mình. Đối với Việt Nam, theo xu
hướng chung này, ngoài việc tích cực trong việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài, thì cũng đồng thời nên khuyến khích các doanh nghiệp trong nước có đủ tiềm
lực về tài chính và công nghệ đầu tư ra nước ngoài. Hiện nay, tiềm lực của các
doanh nghiệp Việt Nam còn yếu thì việc lựa chọn một môi trường đầu tư vừa sức
với mình là điều cần thiết và khôn ngoan. Thị trường Đông Nam Á là một thị
trường tiềm năng, được các nhà đầu tư nước ngoài đánh giá cao, đồng thời cũng là
thị trường có những đặc điểm gần tương đồng và có quan hệ gần gũi với Việt Nam.
Do vậy, đầu tư vào thị trường này, các doanh nghiệp sẽ hạn chế được rủi ro hơn.
Đây cũng là một thị trường quan trọng để làm bàn đạp giúp các doanh nghiệp Việt
Nam tiến sâu sang các thị trường khác.
Vũ Thị Lan (2015) nghiên cứu về “Đầu tư trực tiếp nước ngoài của Việt
Nam vào một số nước ASEAN: Thực trạng và giải pháp” đã phân tích về các yếu tố
ảnh hưởng đến hoạt động ĐTTTRNN của Việt Nam, khái quát như sau: ĐTRNN
18
của Việt Nam chịu sự tác động chủ yếu của hai nhóm yếu tố: yếu tố đẩy và yếu tố
kéo. Các yếu tố đẩy bao gồm: (1) Mục tiêu hay động cơ của các doanh nghiệp Việt
Nam, trong đó, mục tiêu tìm kiếm thị trường, tài nguyên và tìm kiếm hiệu quả là các
mục tiêu rõ nét nhất; (2) Vai trò của Chính phủ Việt Nam đối với hoạt động
ĐTRNN của các doanh nghiệp, thể hiện qua các quy định pháp lý do Chính phủ ban
hành để hướng dẫn, quy định về hoạt động đầu tư ra nước ngoài. Các quy định đó
vừa là cơ sở pháp lý vừa là động lực có tác dụng thúc đẩy các nhà đầu tư; (3) Các
yếu tố thuộc môi trường kinh tế vĩ mô, đó là tăng trưởng kinh tế trong nước và áp
lực cạnh tranh của thị trường nội địa. Tuy không có tác động trực tiếp nhưng hai
yếu tố này tạo ra các tác động gián tiếp góp phần thúc đẩy ĐTRNN của Việt Nam.
Yếu tố kéo có tác động thu hút đầu tư của Việt Nam bao gồm: (1) Thị trường tiêu
thụ rộng lớn của của quốc gia tiếp nhận đầu tư; (2) Sự gần kề về khoảng cách địa lý,
nguồn nguyên liệu dồi dào và nguồn lao động giá rẻ ở quốc gia tiếp nhận vốn.
Ngoài ra, một yếu tố đặc biệt ảnh hưởng đến đầu tư ra nước ngoài của các doanh
nghiệp Việt Nam là mối quan hệ hữu nghị lâu đời giữa Việt Nam và một số nước
trong khu vực như Lào, Campuchia. Đây vừa là yếu tố kéo và đồng thời cũng là yếu
tố thúc đẩy hoạt động đầu tư ra nước ngoài của Việt Nam.
Trần Nam Trung (2016) nghiên cứu về “Quản lý nhà nước về đầu tư trực
tiếp của Việt Nam sang Campuchia”, chỉ nêu nên các nhân tố ảnh hưởng đến quản
lý nhà nước đối với đầu tư trực tiếp ra nước ngoài mà không phân tích chi tiết, cụ
thể. Các nhân tố từ phía chính phủ nước đi đầu tư gồm: (1) Chính sách tài chính,
tiền tệ, xuất nhập khẩu và quản lý ngoại hối. Các chính sách này có ảnh hưởng trực
tiếp đến hiệu quả sử dụng vốn, khả năng luân chuyển vốn của nhà đầu tư; (2) Các
hoạt động hỗ trợ, thúc đẩy ĐTTTRNN của chính phủ cũng đóng vai trò quan trọng.
Việc ký kết các hiệp định song phương, đa phương có ý nghĩa to lớn là cơ sở pháp
lý quan trọng tạo ra sân chơi bình đẳng, minh bạch cho các nhà đầu tư, cũng như
đảm bảo quyền lợi của nhà đầu tư trong quá trình tiến hành sản xuất kinh doanh ở
nước nhận đầu tư. Các nhân tố từ phía quốc gia nhận đầu tư gồm: (1) Sự ổn định
chính trị, kinh tế, xã hội; (2) Các yếu tố về tài nguyên, điều kiện tự nhiên, vị trí địa
lý; (3) Các yếu tố về môi trường pháp lý, cơ chế chính sách, thủ tục hành chình; (4)
Các yếu tố về cơ sở hạ tầng, điện, đường, trường...; (5) Vị thế các quốc gia nhận
19
đầu tư; (6) Mối quan hệ chính trị, văn hóa, kinh tế giữa các quốc gia nhận đầu tư với
các quốc gia tiến hành ĐTTTRNN. Các nhân tố từ phía doanh nghiệp tiến hành hoạt
động đầu tư gồm: (1) Năng lực tài chính; (2) Trình độ khoa học công nghệ; (3)
Năng lựu cạnh tranh của doanh nghiệp; (4) Nguồn nhân lực, đặc biệt là đội ngũ cán
bộ có trình độ quản lý sản xuất kinh doanh.
Trên cơ sở tham khảo từ các nghiên cứu trước, tác giả Trịnh Quang Hưng
(2017) nghiên cứu về Đầu tư trực tiếp của doanh nghiệp Việt Nam sang các nước
ASEAN trong khuôn khổ AEC: Những vấn đề đặt ra và khuyến nghị, làm rõ hơn một
số vấn đề về: Nội dung hợp tác đầu tư trong ASEAN:với AEC, đặc biệt Hiệp định
ACIA, Việt Nam cùng với các quốc gia trong và ngoài ASEAN khác có một khuôn
khổ pháp lý toàn diện và đáng tin cậy hơn nhằm thuận lợi hóa và định hướng hoạt
động đầu tư cũng như bảo đảm lợi ích chính đáng của doanh nghiệp, nhất là doanh
nghiệp vừa và nhỏ (SMEs) khi đầu tư tại thị trường ASEAN; Chính sách đầu tư ra
nước ngoài của Việt Nam: dù còn nhiều ý kiến về việc liệu có nên hay không
khuyến khích doanh nghiệp Việt Nam đầu tư ra nước ngoài trong bối cảnh nền kinh
tế đang cần rất nhiều vốn đầu tư, nhưng nhìn chung Chính phủ khuyến khích hoạt
động đầu tư ra nước ngoài của doanh nghiệp Việt Nam, đặc biệt tại các nước láng
giềng trong khu vực Đông Nam Á như Lào, Campuchia và Myanmar; tác giả
nghiên cứu những khó khăn, thách thức doanh nghiệp Việt Nam phải đối mặt khi
đầu tư sang các nước ASEAN trong khuôn khổ AEC như hạn chế về năng lực cạnh
tranh và khả năng mở rộng sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp Việt Nam, các
doanh nghiệp Việt Nam dường như chưa dành sự chú ý, quan tâm đúng mức đến
AEC, chính sách đầu tư ra nước ngoài và các hình thức hỗ trợ, khuyến khích cho
doanh nghiệp của Việt Nam còn nhiều hạn chế, bất cập…; một số vấn đề đặt ra và
khuyến nghị đối với hoạt động đầu tư sang các nước ASEAN trong khuôn khổ AEC
những năm tiếp theo.
Như đã phân tích ở trên, mặc dù đã có một vài tác giả nghiên cứu về ĐTTT
của các doanh nghiệp Việt Nam ra nước ngoài nói chung và sang ASEAN nói riêng
nhưng chưa có tác giả nào đề cập đến ĐTTT của các doanh nghiệp Việt Nam sang
ASEAN trong bối cảnh mới khi thành lập Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC) và sử
dụng phương pháp nghiên cứu định lượng để phân tích, dự báo. Các số liệu mới chỉ
20
dừng lại ở vốn đăng ký, chưa đưa ra được số vốn thực hiện, hiệu quả đầu tư, lợi
nhuận khi thực hiện dự án đầu tư. Chưa phân tích được những cam kết về đầu tư
trong khuôn khổ AEC tác động đến đầu tư của các doanh nghiệp Việt Nam sang
ASEAN.
1.1.2.3. Các công trình nghiên cứu về yếu tố tác động đến đầu tư ra nước ngoài
* Các công trình nghiên cứu của các tác giả nước ngoài
Các nghiên cứu về động cơ đầu tư trực tiếp ra nước ngoài: Theo lý thuyết
chung về đầu tư trực tiếp nước ngoài, hoạt động đầu tư ra nước ngoài của doanh
nghiệp có thể khái quát trong mô hình chiết trung của Dunning. Ba động lực chính
trong hoạt động đầu tư ra nước ngoài của doanh là để tìm kiếm thị trường ở nước
ngoài; tìm kiếm sự hiệu quả (ví dụ như để giảm thiểu chi phí); tìm kiếm nguồn lực
sản xuất như một chiến lược tài sản (Dunning 1977, 1993); xác định tài nguyên, lao
động và định hướng thị trường như ba động cơ chính đằng sau quá trình đầu tư quốc
tế của một công ty (Kojima 1975, 1985). Nói chung, “hầu hết các lý thuyết đầu tư
trực tiếp ra nước ngoài đều cho rằng, các lựa chọn đầu tư ra nước ngoài của một
công ty đều là do nỗ lực muốn khai thác lợi thế riêng của công ty đó trên các thị
trường nước ngoài” (Han-Sheng Lei, Yung-Shuan Chen, 2011).
Các nghiên cứu thực nghiệm về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài ở một số
quốc gia cho thấy, cả các nước phát triển lẫn các nước đang phát triển, đã góp phần
củng cố cho những kết luận của dòng lý thuyết đầu tư trực tiếp ra nước ngoài truyền
thống, đồng thời có những phát hiện mới về các yếu tố ảnh hưởng, thúc đẩy cũng
như những lợi thế của doanh nghiệp khi tiến hành hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước
ngoài. Lecraw (1977) và Wells (1983) chỉ ra rằng, các doanh nghiệp ở các nước
đang phát triển thường có sức mạnh ở các ngành cạnh tranh về giá thay vì công
nghệ tiến tiến hoặc sự khác biệt về sản phẩm.
Nghiên cứu của Hiratsuka (2006) “Outward FDI from and intraregional FDI
in ASEAN: Trends and drivers”, chỉ ra các nước khu vực ASEAN thường đầu tư
vào các nước láng giềng trong khu vực ASEAN và Đông Á trước, sau đó mới đến
các thị trường rộng lớn hơn. Yếu tố quyết định để thúc đẩy họ đầu tư ra nước ngoài
đó là chi phí lao động và đất đai ở những nước mà họ đầu tư rẻ hơn. Thái Lan,
21
Malaysia và Singapore là ba nước thành công nhất trong việc đầu tư ra nước ngoài
do đã đa dạng hóa lĩnh vực đầu tư với số vốn tăng nhanh. Chính phủ Malaysia luôn
khuyến khích các doanh nghiệp kể cả doanh nghiệp vừa và nhỏ mở rộng ra bên
ngoài thông qua sự hỗ trợ của các cơ quan chuyên trách, thường xuyên mở cửa đối
với cả dòng vốn vào lẫn dòng vốn ra và xem đầu tư trực tiếp ra nước ngoài là một
trong những chiến lược tăng cường năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trong
nước. Còn đối với Singapore, chính phủ thực hiện ưu đãi thuế và ưu đãi tài chính
cho các công ty. Tất cả các công ty đầu tư ra nước ngoài mà có được lợi nhuận và
các doanh nghiệp đầu tư vào các nước chưa có hiệp định bảo hộ đầu tư với
Singapore đều được miễn thuế.
Bên cạnh đó, UNCTAD (2007) “Global players from emerging markets:
strengthen enterprise competitiveness through outward investment”, trong đó có
khá nhiều bài viết của nhiều tác giả về xu hướng ĐTTTRNN của các quốc gia đang
phát triển như Trung Quốc, Brazil, Thổ Nhĩ Kỳ, Hàn Quốc...Trong bài viết, các tác
giả cũng đã nhấn mạnh việc đầu tư trực tiếp ra nước ngoài có nhiều tác động tích
cực hơn tiêu cực, trong đó, các doanh nghiệp có thể nâng cao năng lực cạnh tranh,
nâng cao hình ảnh của mình ở bình diện quốc tế. Chính vì vậy, các quốc gia thường
sử dụng nhiều biện pháp hỗ trợ từ chính sách để hiện thực hóa “giấc mơ đi ra toàn
cầu” của các doanh nghiệp trong nước.
Ngoài ra, nghiên cứu của Anwar và Mughal (2014) “Why do Russian firms
invest abroad? A firm level analysis” về ĐTTTRNN của Nga giai đoạn 1999-2003,
sử dụng lý thuyết OLI để xem xét các nhân tố: GDP bình quân đầu người, xuất
khẩu, thể chế tác động thế nào tới đầu tư ra nước ngoài của Nga. Số liệu được sử
dụng là dữ liệu thứ cấp từ WB, OECD... Kết quả của nghiên cứu cho thấy GDP
bình quân đầu người, xuất khẩu có quan hệ thuận với ĐTTTRNN của Nga, còn
nhân tố thể chế của nước nhận đầu tư không có tác dụng đối với dòng vốn đầu tư ra
nước ngoài của Nga. Tác giả còn chỉ ra rằng, ĐTTTRNN của Nga có mục tiêu tìm
kiếm thị trường, tài nguyên và công nghệ ở nước ngoài, còn mục tiêu tìm kiếm hiệu
quả không phải là nhân tố quan trọng đối với hoạt động ĐTTTRNN của Nga.
Nghiên cứu đã sử dụng lý thuyết OLI, phân tích định lượng để từ đó tìm ra các nhân
tố tác động đến hoạt động ĐTTTRNN của Nga.
22
* Các công trình nghiên cứu của các tác giả Việt Nam
Trong công trình nghiên cứu của Nguyễn Hải Đăng, 2012, Đầu tư của cá các
doanh nghiệp Việt Nam ra nước ngoài trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, tác
giả tập trung nghiên cứu đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của các doanh nghiệp Việt
Nam dưới góc độ kinh tế chính trị, hoạt động ĐTTTRNN của các doanh nghiệp
Việt Nam trong mối quan hệ tác động, ảnh hưởng qua lại lẫn nhau giữa hoạt động
ĐTTTRNN của các doanh nghiệp Việt Nam với sự phát triển kinh tế xã hội của đất
nước. Giữa lợi ích kinh tế thuần túy của doanh nghiệp với lợi ích chung liên quan
đến chính trị, quan hệ đối ngoại, an ninh, quốc phòng. Từ đó đưa ra những quan
điểm, định hướng, những giải pháp khả thi, không chỉ mang lại lợi ích thuần túy cho
các doanh nghiệp mà còn phải đảm bảo lợi ích chung của đất nước. Về thời gian
nghiên cứu, công trình nghiên cứu đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của các doanh
nghiệp Việt Nam từ năm 2005 đến năm 2011. Về phương pháp nghiên cứu, trên
quan điểm của kinh tế chính trị, tác giả sử dụng phương pháp nghiên cứu định tính
chủ yếu là duy vật biện chứng, duy vật lịch sử và nghiên cứu kinh nghiệm của các
nước. Ngoài ra, tác giả còn sử dụng phương pháp thống kê, mô tả và phương pháp
dự báo kinh tế. Dưới góc độ kinh tế chính trị, công trình có một số đóng góp mới
đáng kể là: (1) Hệ thống hóa được những vấn đề lý luận về hoạt động ĐTTTRNN
của các doanh nghiệp và lựa chọn một mô hình lý thuyết cụ thể để luận giải những
vấn đề liên quan đến ĐTTTRNN; (2) Phân tích đánh giá ảnh hưởng của hoạt động
ĐTTTRNN đối với lợi ích và sự phát triển của các doanh nghiệp, cũng như tác động
của đầu tư ra nước ngoài đối với lợi ích chung của quốc gia, sự phát triển kinh tế
trong nước và những vấn đề chính trị, quốc phòng, an ninh trong quá trình hội nhập
kinh tế quốc tế ở Việt Nam; (3) Phân tích được các nhân tố tác động đến hoạt động
đầu tư ra nước ngoài của các doanh nghiệp, đặc biệt là các nhân tố có liên quan đến
khung khổ chính sách, pháp luật, sự quản lý, điều tiết của nhà nước Việt Nam; (4)
Đưa ra một số quan điểm định hướng và các giải pháp khả thi nhằm nâng cao hiệu
quả hoạt động ĐTTTRNN, đảm bảo lợi ích của quốc gia và lợi ích của các doanh
nghiệp Việt Nam. Phân tích về các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động ĐTTTRNN
của các doanh nghiệp, tác giả cũng đã phân tích rõ nhân tố đẩy là môi trường kinh
doanh của nước chủ đầu tư trực tiếp ra nước ngoài (bao gồm: chính sách kinh tế vĩ
23
mô, các hoạt động thúc đẩy đầu tư ra nước ngoài, tiềm lực kinh tế, khoa học-công
nghệ); nhân tố kéo là môi trường kinh doanh của nước nhận đầu tư (bao gồm tình
hình chính trị, chính sách, pháp luật, vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên, trình độ phát
triển của nền kinh tế, đặc điểm phát triển văn hóa, xã hội); Các nhân tố thuộc về
môi trường quốc tế (bao gồm: xu hướng đối thoại chính trị giữa các nước, sự phát
triển của các liên kết khu vực và quốc tế, tăng trưởng của các TNCs, tốc độ toàn cầu
hóa).
Ở góc độ nghiên cứu khác, công trình nghiên cứu “Các nhân tố thúc đẩy đầu
tư trực tiếp ra nước ngoài của Hàn Quốc”, Nguyễn Thị Ngọc Mai, 2016, Hàn Quốc
là quốc gia đang phát triển với số vốn ĐTTRNN lớn thứ 13 trên thế giới vào năm
2014 và ngày càng tăng, đóng góp đáng kể vào sự phát triển kinh tế của đất nước.
Bằng phương pháp nghiên cứu định tính tác giả đã phân tích các nhân tố chính thúc
đẩy ĐTTRNN của Hàn Quốc từ đó rút ra bài học kinh nghiệm cho Việt Nam. Kết
quả cho thấy, các nhân tố thúc đẩy ĐTTRNN của Hàn Quốc gồm: Thứ nhất, là quy
mô thị trường và rào cản thương mại. Lấy ví dụ như Samsung trong giai đoạn đầu
tiên của ĐTTTRNN của Hàn Quốc đã truy cập vào thị trường các đang phát triển
như Việt Nam nhằm sản xuất ti vi, màn hình ti vi và các thiết bị gia dụng khác rồi
bán cho thị trường Việt Nam. Bên cạnh đó các công ty đa quốc gia của Hàn Quốc
thành lập các chi nhánh ở nước ngoài nhằm tránh được rào cản thương mại ở nước
nhận đầu tư. Thứ hai, là chi phí sản xuất. Các doanh nghiệp Hàn Quốc đầu tư vào
châu Á với mục đích tìm kiếm lao động có chi phí thấp để giảm bớt chi phí sản
xuất. Trung Quốc là địa điểm đầu tư đầu tiên của Hàn Quốc bởi chi phí lao động ở
Trung Quốc thấp hơn nhiều so với chi phí lao động ở Hàn Quốc. Thứ ba, là yếu tố
công nghệ. Thường công nghệ là lợi thế đặc thù quan trọng mà các công ty đa quốc
gia ở các nước phát triển mới có được lợi thế này. Trong khi ở các nước đang phát
triển, sự thiếu hụt về công nghệ rất cao, bởi vậy các doanh nghiệp ĐTRNN được coi
như là một phương thức để vượt qua điểm bất lợi này hay nói cách khác ĐTRNN
như là một cách để doanh nghiệp có được lợi thế cần thiết ở nước ngoài. Thứ tư,
chính sách của Chính phủ là nhân tố quan trọng thúc đẩy ĐTRNN của Hàn Quốc.
Chính phủ Hàn Quốc đã thực hiện các chính sách với sự thay đổi qua từng giai
đoạn.
24
Công trình nghiên cứu về Trung Quốc, “Các nhân tố thúc đẩy đầu tư trực
tiếp ra nước ngoài của Trung Quốc”, Nguyễn Thị Ngọc Mai, 2016, Trung Quốc là
quốc gia ĐTTTRNN lớn thứ ba thế giới năm 2014. Bài viết cũng đã phân tích,
nghiên cứu các nhân tố chính thúc đẩy ĐTTTRNN của Trung Quốc. Thứ nhất, đó là
sự thiếu hụt nguồn năng lượng và tài nguyên thiên nhiên khiến Trung Quốc
ĐTTTRNN nhằm bù đắp sự thiếu hụt này. Từ năm 1993, Trung Quốc đã mở rộng
đầu tư vào xăng dầu và khí ga ở châu Phi và châu Á khi có sự thâm hụt thương mại
trong nước đối với loại hàng hóa này. Thứ hai, đó là sự thiếu hụt về khoa học và
công nghệ đã thúc đẩy Trung Quốc ĐTTTRNN để tìm kiếm công nghệ. Một doanh
nghiệp rất thành công trong việc ĐTTTRNN với mục tiêu tìm kiếm công nghệ đó là
Haier. Thứ ba, tác động nhiều nhất đến dòng ĐTTTRNN của Trung Quốc đó là
chính sách của Chính phủ Trung Quốc. Theo đó, Chính phủ Trung Quốc từ hạn chế
đến tạo thuận lợi rồi đến khuyến khích ĐTTTRNN theo nhiều giai đoạn khác nhau
phụ thuộc vào tình hình thực tế. Phương pháp nghiên cứu được dùng là phương
pháp nghiên cứu định tính.
Nguyễn Thị Ngọc Mai (2016), trong luận án tiến sĩ “Đầu tư trực tiếp ra nước
ngoài của Việt Nam: Nhân tố tác động và hàm ý chính sách” đề cập đến những
nhân tố nào tác động tới ĐTTTRNN của Việt Nam. Tác giả đã sử dụng kết hợp giữa
các phương pháp nghiên cứu định tính (phương pháp phân tích hệ thống, phương
pháp phân tích tổng hợp và so sánh) với phương pháp nghiên cứu định lượng (ước
lượng mô hình panel) và phương pháp nghiên cứu điển hình để trả lời các câu hỏi
nghiên cứu, trong đó tập trung phân tích các nhân tố tác động đến dòng vốn
ĐTRNN của Việt Nam. Các phương pháp nghiên cứu có độ tin cậy cao, đảm bảo
tính hiện đại. Những mặt đạt được của công trình nghiên cứu: (1) Về lý thuyết, tác
giả đã phân tích, chỉ ra những nhân tố tác động đến ĐTTTRNN của một quốc gia,
trong đó đã nhấn mạnh đến các lý thuyết OLI, IDP là những lý thuyết nền tảng để
phân tích đánh giá tác động của các nhân tố đối với hoạt động ĐTRNN của một
quốc gia; (2) Tác giả đã phân tích, làm rõ thực trạng ĐTTTRNN của Việt Nam,
phân tích các nhân tố tác động đến ĐTTTRNN của Việt Nam theo ba cách: phân
tích định tính, phân tích trường hợp điển hình, phân tích định lượng bằng mô hình
hồi quy dữ liệu mảng, từ đó có những nhận xét đánh giá về tác động tích cực và tác
25
động cản trở của các nhân tố này tới ĐTRNN của Việt Nam. Từ đó đưa ra một số
gợi ý chính sách đối với hoạt động ĐTTTNN của Việt Nam nhằm khắc phục những
nhân tố cản trở, phát huy những nhân tố tích cực thúc đẩy dòng vốn ĐTTTRNN của
Việt Nam. Ngoài những mặt đạt được, công trình nghiên cứu còn số một số mặt hạn
chế: (1) Tác giả đã thu hẹp phạm vi nghiên cứu các nhân tố ở nước đi đầu tư mà
không đề cập đến các nhân tố phía nước tiếp nhận đầu tư là không hợp lý khi các
nhân tố sau này lại rât quan trọng như yếu tố thị trường, chi phí lao động, nguồn lợi
khoáng sản, thể chế chính sách, các yếu tố hài hòa lợi ích của bên đầu tư và tiếp
nhận đầu tư…; (2) Không nghiên cứu sâu về các nhân tố tác động tới hiệu quả,
hướng đầu tư hay lĩnh vực đầu tư, xu hướng ngành nghề…(3) Các giải pháp chưa
gắn chặt với những phân tích về những nhân tố tác động tới dòng vốn ĐTTTRNN
của Việt Nam.
Liên quan đến khu vực ASEAN, công trình nghiên cứu của Trần Thị Ngọc
Quyên, 2016, “Hài hòa khung chính sách đầu tư theo hướng phát triển bền vững
(IPFSD) trong Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á và gợi ý cho Việt Nam”, tác giả
lại phân tích tới những nhân tố ảnh hưởng đến chính sách đầu tư hướng đến phát
triển bền vững tại ASEAN thời gian qua, theo đó, các nhân tố đó là: Nhân tố thứ
nhất, Những thay đổi nền tảng trong bối cảnh chung của hoạt động đầu tư. Hiện
nay, các quốc gia đang phát triển và các nền kinh tế chuyển đổi là những địa điểm
đầu tiên được lựa chọn khi các chủ đầu tư tiến hành FDI và tầm quan trọng của
nhóm nước tiếp nhận này ngày càng gia tăng; Nhân tố thứ hai, Chính phủ đóng vai
trò ngày càng quan trọng trong nền kinh tế và định hướng chính sách đầu tư; Nhân
tố thứ ba, Gia tăng nhu cầu phối hợp chính sách đầu tư toàn cầu. Trong lĩnh vực đầu
tư, có nhiều hướng tăng cường phối hợp giữa các quốc gia ở phạm vi quốc tế sẽ
giúp họ tránh khỏi xu hướng bảo hộ và phân biệt đối xử với các nhà đầu tư nước
ngoài; Nhân tố thứ tư, Xuất hiện thế hệ mới “chính sách đầu tư”; Nhân tố thứ năm,
Hội nhập sâu rộng giữa các nền kinh tế tại ASEAN. Trong hơn 20 năm qua,
ASEAN đã có nhiều Hiệp định liên quan đến phát triển dịch vụ và các nội dung đều
hướng tới thuận lợi hóa đầu tư; Nhân tố thứ sáu, Biến đổi khí hậu đã ngày càng ảnh
hưởng đến sự phát triển của các quốc gia tại ASEAN.
26
Liên quan đến thu hút ĐTTT tại khu vực ASEAN và AEC, đáng chú ý là
công trình của Nguyễn Xuân Thiên, 2013, “Những nhân tố tác động tới việc thu hút
FDI ở các nước ASEAN hiện nay”, tác giả nêu lên trong bối cảnh mới toàn cầu hóa
và hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu sắc, Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC)
được thành lập, điều đó sẽ tác động đến sức thu hút FDI vào các nước ASEAN. Bài
viết chỉ rõ môi trường đầu tư nói chung và đặc biệt là môi trường FDI nói riêng sẽ
ảnh hưởng trực tiếp đến các nhà đầu tư nước ngoài. Một môi trường đầu tư hấp dẫn,
tính cạnh tranh cao sẽ có sức thu hút các đối tác tăng cường đầu tư vào các thị
trường mục tiêu đã được xác định. Bên cạnh những nhân tố cấu thành điểm mạnh
của môi trường FDI ở ASEAN với tư cách là Hiệp hội, từng nước ASEAN cũng có
những điểm mạnh, nổi bật có sức thu hút FDI, nhưng cũng có những nhân tố yếu
kém làm cản trở hoặc hạn chế đến thu hút FDI. Nước nào có môi trường FDI hấp
dẫn, có sức thu hút thì quy mô và ảnh hưởng của FDI sẽ lớn hơn. Thấy rõ tác động
của các nhân tố tạo thành môi trường FDI ở các nước ASEAN là hết sức cần thiết
trong khuôn khổ AEC. Để tăng cường thu hút FDI có chất lượng nhằm phát triển
kinh tế bền vững, các nước ASEAN cần phát huy các yếu tố tích cực và giảm thiểu
các yếu tố hạn chế nhất là các yếu tố chủ quan làm ảnh hưởng đến môi trường FDI
của từng nước nói riêng và cộng đồng nói chung. Kinh nghiệm của các nước trong
việc đưa ra các giải pháp nhằm thúc đẩy hoạt động đầu tư ra nước ngoài.
Như vậy, cho đến nay, đã có một vài công trình nghiên cứu về cácyếu tố tác
động đến ĐTTTRNN trên thế giới, song chưa có nghiên cứu nào đề cập về các yếu
tố tác động đến ĐTTT của các doanh nghiệp Việt Nam sang ASEAN.
Trên cơ sở tổng quan các công trình khoa học, trên bình diện quốc gia và
quốc tế, có thể thấy rằng số lượng các công trình nghiên cứu về ĐTTTRNN là khá
phong phú, đề cập tới nhiều khía cạnh khác nhau cả về học thuật lẫn giá trị trong
thực tiễn. Bên cạnh đó, đã có một số công trình nghiên cứu về thực trạng hoạt động
ĐTTTRNN và các yếu tố tác động đến hoạt động này, song do đặc thù từng nghiên
cứu, đặc thù quốc gia mà các nghiên cứu đó chỉ nghiên cứu, đề cập tới một số yếu
tố có tác đống đến hoạt động ĐTTTRNN ở nước đi đầu tư. Hơn nữa, hầu hết các
nghiên cứu đó là nghiên cứu định tính. Như vậy, hiện chưa có nghiên cứu nào
nghiên cứu đầy đủ, sâu rộng về ĐTTT của các doanh nghiệp Việt Nam sang
27
ASEAN và các yếu tố tác động tới hoạt động này, đặc biệt trong bối cảnh mới khi
Cộng đồng Kinh tế ASEAN được thành lập ngày 31/12/2015. Đó chính là những
gợi mở để nghiên cứu sinh hình thành ý tưởng nghiên cứu mới.
1.2.Sự kế thừa các công trình nghiên cứu trước và khoảng trống nghiên cứu
của luận án
1.2.1.Sự kế thừa các công trình nghiên cứu trước
Từ các công trình nghiên cứu của các tác giả trước, luận án kế thừa một số
kết quả sau:
Thứ nhất, lý thuyết OLI và IDP là lý thuyết gần nhất giải thích được các yếu
tố tác động đến hoạt động ĐTTTRNN, do đó, luận án sử dụng lý thuyết này làm cơ
sở cho phân tích các nhân tố tác động đến ĐTTT của Việt Nam sang ASEAN.
Ngoài ra, dựa vào mô hình này, tác giả tiếp cận ở góc độ của cả yếu tố kéo và yếu tố
đẩy, nghĩa là đứng dưới góc độ của nước chủ đầu tư và nước tiếp nhận đầu tư.
Thứ hai, có nhiều yếu tố tác động đến ĐTTTRNN ở nước đi đầu tư, song sự
phân chia các nhân tố thành bốn nhóm của UNCTAD (2006, 2010) gồm: nhóm yếu
tố điều kiện thị trường và thương mại, nhóm yếu tố chính sách chính phủ, nhóm yếu
tố chi phí sản xuất, nhóm yếu tố điều kiện kinh doanh là tổng quát nhất. Do vậy,
luận án sẽ kế thừa các nhân tố này để phân tích các nhân tố tác động đến ĐTTT của
Việt Nam sang ASEAN.
Thứ ba, để có kết quả về các yếu tố tác động ĐTTT của Việt Nam sang
ASEAN, luận án sẽ kế thừa phương pháp mà các công trình nghiên cứu trước đã sử
dụng gồm mô hình hồi quy dữ liệu bảng và trường hợp điển hình.
Thứ tư, luận án kế thừa các nghiên cứu về bài học kinh nghiệm của Nhật
Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc khi đầu tư sang ASEAN để từ đó làm bài học cho Việt
Nam.
Thứ năm, các công trình nghiên cứu về thực trạng, chính sách và vai trò của
nhà nước với hoạt động ĐTTTRNN là những tài liệu rất hữu ích cho vấn đề nghiên
cứu. Do vậy, luận án sẽ kế thừa những nội dung này để đưa ra các giải pháp, nhóm
28
giải pháp nhằm thúc đẩy hoạt động ĐTTT của Việt Nam sang ASEAN đến năm
2025, định hướng đến năm 2030.
1.2.2.Khoảng trống nghiên cứu của luận án
Từ tổng quan các công trình nghiên cứu trước đây cho thấy còn một số các
hạn chế, khoảng trống, đó là:
Thứ nhất, một vài công trình nghiên cứu của Việt Nam về ĐTTTRNN nhưng
chỉ là nghiên cứu định tính, thiếu những phân tích định lượng để hỗ trợ cho các kết
luận một cách thuyết phục.
Thứ hai, các công trình nghiên cứu thực nghiệm ở nước ngoài, đã đề cập các
yếu tố tác động đến ĐTTTRNN của một số quốc gia như Nga, Trung Quốc, Hàn
Quốc. Tuy nhiên, hiện chưa có nghiên cứu nào tiến hành đánh giá ĐTRNN của Việt
Nam sang ASEAN trong bối cảnh mới là AEC được thành lập cuối năm 2015. Môi
trường đầu tư và thương mại giữa các nước trong khu vực đã có những thay đổi
quan trọng cần có đánh giá và phân tích chuyên sâu để xác định hoạt động đầu tư
của doanh nghiệp Việt Nam sang ASEAN sẽ chịu ảnh hưởng của những nhân tố
nào. Đây chính là lí do tác giả luận án sử dụng một số bài học kinh nghiệm của các
quốc gia này để áp dụng cho trường hợp Việt Nam.
Thứ ba, các công trình nghiên cứu trước chưa lượng hoá các yếu tố ảnh
hưởng tới đầu tư sang ASEAN của các doanh nghiệp Việt Nam.
Thứ tư, việc chỉ ra nguyên nhân thành công và chưa thành công của hoạt
động ĐTTT sang ASEAN thời gian qua của các doanh nghiệp Việt Nam cần gắn
với môi trường mới AEC– mức độ hội nhập sâu rộng của Việt Nam vào nền kinh tế
khu vực.
Thứ năm, việc phân tích hoạt động ĐTTTRNN chưa được phân tích trên
quan điểm lợi thế động của cả hai phía, nhà đầu tư và nước nhận đầu tư theo cách
tiếp cận hiện đại, lợi thế trong không gian toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế,
tốc độ di chuyển cao và độ rủi ro lớn. Phương pháp tiếp cận này cho phép xây dựng
những khuyến nghị về chính sách thúc đẩy ĐTTT sang ASEAN đến năm 2025, định
hướng đến năm 2030 phù hợp và có tính khả thi.
29
CHƯƠNG 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP RA NƯỚC
NGOÀI TRONG KHUÔN KHỔ AEC VÀ KINH NGHIỆM QUỐC TẾ
2.1.Tổng quan về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài
2.1.1.Một số khái niệm về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài
2.1.1.1.Khái niệm
Theo Quỹ tiền tệ quốc tế IMF (1993), “đầu tư trực tiếp nước ngoài nhằm đạt
được những lợi ích lâu dài trong một doanh nghiệp hoạt động trên lãnh thổ của một
nền kinh tế khác nền kinh tế nước chủ đầu tư, mục đích của chủ đầu tư là giành
quyền quản lý thực sự doanh nghiệp”.
Tổ chức thương mại thế giới WTO (1996) cho rằng “Đầu tư trực tiếp ra nước
ngoài xuất hiện khi một nhà đầu tư từ một nước (nước chủ đầu tư) có được một tài
sản ở nước khác (nước tiếp nhận đầu tư) cùng với quyền quản lý tài sản đó. Phương
diện quản lý là yếu tố để phân biệt đầu tư trực tiếp ra nước ngoài với các công cụ tài
chính khác”.
UNTAD (1998) định nghĩa “đầu tư trực tiếp ra nước ngoài được định nghĩa
là một khoản đầu tư trong thời gian dài, phản ánh lợi ích lâu dài và sự kiểm soát của
một công ty ở trong một nền kinh tế (nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài hay công ty
mẹ) đối với công ty con ở nền kinh tế khác”.
Theo quan điểm của John Dunning (2008): “đầu tư trực tiếp ra nước ngoài
phải có dự di chuyển tài sản hay sản phẩm trung gian, bao gồm vốn tài chính,
chuyên gia quản lý, công nghệ…và không bao gồm bất kỳ sự thay đổi nào về sở
hữu hay quyền kiểm soát các quyết định về việc sử dụng các nguồn lực nằm trong
tay nhà đầu tư.”
Ở Việt Nam, Luật đầu tư 2020 đã đưa ra các khái niệm: Đầu tư ra nước
ngoài là việc nhà đầu tư đưa vốn bằng tiền và các tài sản hợp pháp khác từ Việt
Nam ra nước ngoài để tiến hành hoạt động đầu tư.
Khái niệm đầu tư trực tiếp ra nước ngoài được quy định trong Nghị định số
83/2015/NĐ-CP, theo đó, Đầu tư ra nước ngoài là việc nhà đầu tư chuyển vốn;
hoặc thanh toán mua một phần hoặc toàn bộ cơ sở kinh doanh; hoặc xác lập quyền
30
sở hữu để thực hiện hoạt động đầu tư kinh doanh ngoài lãnh thổ Việt Nam; đồng
thời trực tiếp tham gia quản lý hoạt động đầu tư đó.
Từ những khái niệm trên, có thể hiểu một cách khái quát đầu tư trực tiếp ra
nước ngoài của các doanh nghiệp Việt Nam như sau: “Đầu tư trực tiếp ra nước
ngoài là việc nhà đầu tư chuyển vốn; hoặc thanh toán mua một phần hoặc toàn bộ
cơ sở kinh doanh; hoặc xác lập quyền sở hữu để thực hiện hoạt động đầu tư kinh
doanh ngoài lãnh thổ Việt Nam; đồng thời trực tiếp tham gia quản lý hoạt động đầu
tư đó nhằm thu được lợi nhuận”.
2.1.1.2.Đặc điểm
Thứ nhất, FDI chủ yếu là đầu tư tư nhân với mục đích hàng đầu là tìm kiếm
lợi nhuận. Khi thừa vốn tương đối ở trong nước và khi thị trường trong nước đã bão
hòa, các doanh nghiệp thường lựa chọn đầu tư ra nước ngoài nhằm hưởng tỷ suất lợi
nhuận cao hơn. Đây cũng là một trong những điểm và V.I.Lê Nin đã từng khẳng
định: Xuất khẩu tư bản quốc tế xảy ra là do tư bản trong nước bị thừa tương đối do
lợi nhuận (hay hiệu quả đầu tư) trong nước giảm sút nên cần xuất khẩu tư bản ra
nước ngoài để tìm kiếm lợi nhuận cao hơn. Theo quy định pháp luật của nhiều
nước, FDI là đầu tư tư nhân. Tuy nhiên, luật pháp của một số nước, trong đó có Việt
Nam, quy định FDI có thể có sự tham gia góp vốn của Nhà nước. Dù chủ thể là tư
nhân hay Nhà nước, cũng cần khẳng định FDI có mục đích ưu tiên hàng đầu là lợi
nhuận. Các nước nhận đầu tư, nhất là các nước đang phát triển cần phải đặc biệt lưu
ý điều này khi tiến hành thu hút FDI. Các nước tiếp nhận vốn FDI cần phải xây
dựng cho mình một hành lang pháp lý đủ mạnh và các chính sách thu hút FDI hợp
lý để hướng FDI vào phục vụ cho các mục tiêu phát triển kinh tế, xã hội của nước
mình, tránh tình trạng FDI chỉ phục vụ cho mục đích tìm kiếm lợi nhuận của các
chủ đầu tư.
Thứ hai, các chủ đầu tư nước ngoài phải đóng góp một tỷ lệ vốn tối thiểu
trong vốn pháp định hoặc vốn điều lệ tùy theo quy định của luật pháp từng nước để
giành quyền kiểm soát hoặc tham gia kiểm soát doanh nghiệp nhận đầu tư. Luật các
nước thường quy định không giống nhau về vấn đề này. Tỷ lệ góp vốn của các chủ
31
đầu tư sẽ quy định quyền và nghĩa vụ mỗi bên, đồng thời lợi nhuận và rủi ro cũng
được phân chia dựa vào tỷ lệ này.
Thứ ba, chủ đầu tư tự quyết định đầu tư. Quyết định sản xuất kinh doanh và
tự chịu trách nhiệm về lỗ, lãi. Hình thức này mang tính khả thi và hiệu quả kinh tế
cao, không có những ràng buộc về chính trị. Thu nhập của chủ đầu tư phụ thuộc và
kết quả kinh doanh của doanh nghiệp mà họ bỏ vốn đầu tư, nó mang tính chất thu
nhập kinh doanh chứ không phải lợi tức.
Thứ tư, FDI thường kèm theo chuyển giao công nghệ cho các nước tiếp nhận
đầu tư thông qua việc đưa máy móc, thiết bị, bằng phát minh, sáng chế, bí quyết kỹ
thuật, cán bộ quản lý…vào nước nhận đầu tư để thực hiện dự án.
2.1.1.3.Hình thức đầu tư
Theo Luật đầu tư của Việt Nam năm 2014, nhà đầu tư thực hiện hoạt động
đầu tư ra nước ngoài theo các hình thức sau đây:
- Thành lập tổ chức kinh tế theo quy định của pháp luật nước tiếp nhận đầu
tư: thành lập doanh nghiệp hoặc thành lập hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã.
Tổ chức kinh tế ở nước ngoài là tổ chức kinh tế được thành lập hoặc đăng ký
kinh doanh ở nước ngoài theo quy định của pháp luật quốc gia, vùng lãnh thổ tiếp
nhận đầu tư để thực hiện các hoạt động đầu tư ở quốc gia, vùng lãnh thổ tiếp nhận
đầu tư, trong đó nhà đầu tư Việt Nam sở hữu một phần hay toàn bộ vốn đầu tư.
- Thực hiện hợp đồng hợp tác kinh doanh (BCC) ở nước ngoài: tức là nhà
đầu tư Việt Nam sẽ ký kết hợp đồng hợp tác kinh doanh với nhà đầu tư của nước
tiếp nhận đầu tưnhằm hợp tác kinh doanh phân chia lợi nhuận, phân chia sản phẩm
mà không thành lập tổ chức kinh tế.
- Mua lại một phần hoặc toàn bộ vốn điều lệ của tổ chức kinh tế ở nước
ngoài để tham gia quản lý và thực hiện hoạt động đầu tư kinh doanh tại nước
ngoài: Ở hình thức này nhà đầu tư có quyền tham gia quản lý và thực hiện hoạt
động đầu tư kinh doanh tại nước ngoài.
- Mua, bán chứng khoán, giấy tờ có giá khác hoặc đầu tư thông qua các quỹ
đầu tư chứng khoán, các định chế tài chính trung gian khác ở nước ngoài: Loại
32
hình thức này nhà đầu tư có thể dễ dàng đầu tư và rút vốn khi cần thiết, lợi nhuận
dựa trên việc gia tăng giá trị của cổ phiếu nhưng nhà đầu tư không có quyền quản
lý, điều hành trong công ty.
- Các hình thức đầu tư khác theo quy định của pháp luật nước tiếp nhận đầu tư.
2.1.2.Một số lý thuyết điển hình về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài
Dưới góc độ nghiên cứu của đề tài, tác giả lựa chọn hai lý thuyết gắn với
mục tiêu nghiên cứu.
2.1.2.1.Lý thuyết về vòng đời quốc tế của sản phẩm
Lý thuyết này được S.Hirsch đưa ra trước tiên và sau đó được R.Vernon phát
triển một cách có hệ thống từ năm 1966 trên cơ sở nghiên cứu các doanh nghiệp của
Mỹ. Lý thuyết chỉ ra mối quan hệ giữa đầu tư quốc tế và thương mại quốc tế, coi
đầu tư quốc tế là một giai đoạn tự nhiên trong vòng đời sản phẩm. Lý thuyết này
cho thấy vai trò của các phát minh, sáng chế trong thương mại và đầu tư quốc tế
bằng cách phân tích quá trình quốc tế hóa sản xuất theo các giai đoạn nối tiếp nhau.
Hai ý tưởng làm căn cứ xuất phát của lý thuyết này là: Mỗi sản phẩm có một vòng
đời, xuất hiện-tăng trưởng mạnh-chững lại-suy giảm tương ứng với quy trình xâm
nhập-tăng trưởng-bão hòa-suy giảm; vòng đời này dài hay ngắn tùy thuộc từng sản
phẩm.
Các nước công nghiệp phát triển thường nắm giữ những công nghệ độc
quyền do họ khống chế khâu nghiên cứu, triển khai và do có lợi thế về quy mô. Giả
thuyết này dễ dàng được chứng minh ở Mỹ trong những năm 1960. Theo OECD,
trong số 110 phát minh hoặc các phát minh chủ yếu được triển khai trong giai đoạn
1945-1960, 74 phát minh có nguồn gốc từ Mỹ, 18 từ Anh, 14 từ Đức và 4 từ Nhật
(Vũ Chí Lộc, 2012).
Theo lý thuyết này, ban đầu phần lớn các sản phẩm mới được sản xuất tại
nước phát minh ra nó và được xuất khẩu đi các nước khác. Nhưng khi các sản phẩm
mới đã được chấp nhận rộng rãi trên thị trường thế giới thì sản xuất bắt đầu được
tiến hành ở các nước khác. Và theo lý thuyết này, kết quả rất có thể là sản phẩm sau
33
đó sẽ được xuất khẩu trở lại nước phát minh ra nó. Cụ thể, vòng đời quốc tế của sản
phẩm gồm 3 giai đoạn:
Giai đoạn 1: Sản phẩm mới xuất hiện cần thông tin phản hồi nhanh và được
bán ở trong nước phát minh ra sản phẩm, xuất khẩu không đáng kể.
Một công ty phát minh và đưa ra thị trường một sản phẩm sáng tạo mới
nhằm đáp ứng nhu cầu đã phát hiện được trên thị trường nội địa ở nước công nghiệp
phát triển. Ban đầu công ty cần giám sát chặt chẽ xem sản phẩm có thỏa mãn nhu
cầu của khách hàng không (cần thông tin phản hồi nhanh), vậy nên thông thường,
sản phẩm được tiêu thụ ở nước phát minh ra sản phẩm. Quy trình sản xuất còn phức
tạp, chủ yếu là sản xuất nhỏ. Ban đầu doanh nghiệp thường muốn tối thiểu hóa chi
phí đầu tư nên chưa muốn mở rộng thị trường ra nước ngoài. Xuất khẩu trong giai
đoạn này chưa đáng kể và chỉ xuất khẩu sang một số thị trường phát triển khác.
Người tiêu dùng chú trọng đến chất lượng và độ tin cậy hơn là giá bán sản phẩm vì
vậy độ co giãn của cầu so với giá bán hầu như bằng không, sản phẩm có thể được
bán với giá cao.
Giai đoạn 2: Sản phẩm chín muồi, nhu cầu tăng, xuất khẩu tăng mạnh, các
đối thủ cạnh tranh trong và ngoài nước xuất hiện, FDI xuất hiện.
Các khách hàng đã thừa nhận giá trị của sản phẩm. Doanh nghiệp phát minh
sản phẩm gia tăng công suất, thậm chí có thể đầu tư xây dựng thêm các nhà máy
mới ở trong nước và bắt đầu nghĩ đến việc xuất khẩu sang các thị trường khác, đặc
biệt là các thị trường có thu nhập bình quân đầu người cao như các nước phát minh
ra sản phẩm (nước công nghiệp phát triển). Các đối thủ cạnh tranh trong và ngoài
nước xuất hiện vì thế có thể kiếm được nhiều lợi nhuận. Giá trở thành yếu tố quan
trọng trong quyết định của người tiêu dùng. Để đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng ở
thị trường nước ngoài và để đương đầu với cạnh tranh, doanh nghiệp phát minh ra
sản phẩm tìm cách đầu tư sang các nước có nhu cầu sản phẩm cao để rút ngắn
khoảng cách giữa địa điểm sản xuất và thị trường tiêu thụ nhằm giảm chi phí, FDI
xuất hiện. Trong giai đoạn này nước phát minh ra sản phẩm vẫn giữ được vai trò là
nước xuất khẩu sản phẩm, còn các nước khác vẫn là các nước nhập khẩu sản phẩm.
34
Tuy nhiên, cần lưu ý rằng nhu cầu về sản phẩm ở nước phát minh giảm dần vào
cuối giai đoạn này, chỉ có nhu cầu ở nước ngoài tiếp tục tăng.
Giai đoạn 3: Sản phẩm và quy trình sản xuất được tiêu chuẩn hóa, thị trường
ổn định, hàng hóa trở nên thông dụng, các doanh nghiệp chịu áp lực giảm chi phí
càng nhiều càng tốt để tăng lợi nhuận hoặc giảm giá để tăng năng lực cạnh tranh,
FDI tiếp tục phát triển.
Cạnh tranh ngày càng khốc liệt, giá trở thành công cụ quan trọng trong cạnh
tranh giữa các nhà sản xuất. Doanh nghiệp phát minh ra sản phẩm tìm cách đầu tư
trực tiếp sang các nước đang phát triển để tận dụng các lợi thế về chi phí đầu tư rẻ,
đặc biệt là chi phí lao động. Nhiều nước xuất khẩu sản phẩm trong các giai đoạn
trước (trong đó có nước phát minh ra sản phẩm) nay trở thành nước chủ đầu tư và
phải nhập khẩu chính sản phẩm đó vì sản phẩm sản xuất trong nước không thể cạnh
tranh được về giá trên thị trường quốc tế.
Lý thuyết trên được xây dựng chủ yếu vào tình hình thực tế của Mỹ trong
những năm 1950-1960, là thời kỳ Mỹ dẫn đầu thế giới về phát minh sáng chế. Ngày
nay, sản phẩm được phát minh sáng chế ở nhiều nước. Mạng lưới sản xuất quốc tế
ngày càng phức tạp không thể lý giải được nếu chỉ dựa vào các giả thuyết đơn giản
về vòng đời quốc tế của sản phẩm của Vernon. Bản thân Vernon cũng thừa nhận
điều này và cho rằng khi khoảng cách về công nghệ và thu nhập giữa Mỹ và các
nước công nghiệp khác đã được thu hẹp lại thì lý thuyết trên có nhiều hạn chế trong
việc lý giải thương mại và đầu tư quốc tế. Để khắc phục hạn chế của Lý thuyết
Vòng đời quốc tế của sản phẩm của Vernon, một số nhà kinh tế học khác đề xuất
mở rộng các giả thuyết của Vernon bằng cách đưa thêm các chi phí khác ngoài chi
phí lao động vào để lý giải hiện tượng FDI của tất cả các nước phát triển.
2.1.2.2.Lý thuyết chiết trung về sản xuất quốc tế
Lý thuyết chiết trung được Dunning đề xuất từ năm 1977 trên cơ sở kết hợp
các giả thuyết về tổ chức doanh nghiệp, nội bộ hóa và lợi thế địa điểm để lý giải về
đầu tư quốc tế. Theo tác giả nên đầu tư dưới hình thức FDI khi cả ba yếu tố lợi thế
về địa điểm, lợi thế về quyền sở hữu và lợi thế về nội bộ hóa được thỏa mãn. Ba yếu
tố trên được kết hợp trong một mô hình có tên gọi OLI, trong đó O (Ownership
35
advantages): là lợi thế về quyền sở hữu, L (Location advantages): là lợi thế về địa
điểm và I (Internalization advantages): là lợi thế về nội bộ hóa.
Lợi thế về quyền sở hữu hay còn gọi là lợi thế riêng của doanh nghiệp
(Firm specific advantages-FSA)
Một doanh nghiệp tiến hành sản xuất và kinh doanh tại nước ngoài phải trả
những chi phí phụ trội (gọi là chi phí hoạt động ở nước ngoài) so với đối thủ cạnh
tranh nội địa ở nước đó. Chi phí phụ trội này có thể là do: (i) sự khác biệt về văn
hóa, luật pháp, thể chế và ngôn ngữ; (ii) thiếu hiểu biết về các điều kiện thị trường
nội địa; và/hoặc (iii) chi phí thông tin liên lạc và hoạt động cao hơn do sự cách biệt
về địa lý. Vì vậy, để có thể tồn tại được ở thị trường nước ngoài, doanh nghiệp phải
tìm cách để có được thu nhập cao hơn hoặc chi phí thấp hơn đối thủ cạnh tranh
nhằm bù đắp lại những bất lợi về chi phí phụ trội đã đề cập ở trên. Muốn làm được
điều này, doanh nghiệp phải sở hữu một hoặc một số lợi thế cạnh tranh đặc biệt gọi
là lợi thế về quyền sở hữu hoặc lợi thế riêng của doanh nghiệp. Chính các lợi thế
không bị chia sẻ với các đối thủ cạnh tranh sẽ giúp các doanh nghiệp thành công
trong việc chinh phục các thị trường nước ngoài. Các lợi thế này (ít ra là một phần)
phải là lợi thế riêng biệt của doanh nghiệp, sẵn sàng chuyển giao trong nội bộ doanh
nghiệp và giữa các nước. Doanh nghiệp sở hữu lợi thế này một cách độc quyền và
có thể khai thác chúng ở nước ngoài và sẽ có thu nhập cận biên cao hơn hoặc chi
phí cận biên thấp hơn so với các đối thủ cạnh tranh. Điều này giúp doanh nghiệp
khắc phục bất lợi thế về chi phí phụ trội khi hoạt động ở nước ngoài, thậm chí
doanh nghiệp còn có thể có thu nhập cao hơn các đối thủ cạnh tranh.
Lợi thế nội vi hóa
Khi có các lợi thế về quyền sở hữu, doanh nghiệp có thể tăng thu nhập bằng
cách sử dụng các lợi thế này ở nước ngoài. Doanh nghiệp có nhiều cách mở rộng
hoạt động ra nước ngoài từ cách xuất khẩu đơn thuần, hoặc cấp license, nhượng
quyền đến các hình thức FDI như liên doanh hoặc doanh nghiệp 100% vốn nước
ngoài. Mỗi hình thức đem lại những lợi ích và những chi phí riêng cho các MNC và
điều này thay đổi tùy thuộc vào nước chủ đầu tư và nước nhận đầu tư, vào các đối
36
tác tiềm năng, vào thị trường sản phẩm, vào các rào cản thương mại của chính phủ
hoặc phi chính phủ…
Các hình thức mở rộng hoạt động ra thị trường nước ngoài bao gồm: xuất
khẩu, cấp giấy phép quản lý, nhượng quyền thương mại, liên doanh, doanh nghiệp
100% vốn nước ngoài…Trong đó, xuất khẩu là hình thức mà thị trường giao dịch là
100% bên ngoài (xuất khẩu cho các đối tác không có quan hệ liên kết) với chi phí
quản lý và mức độ kiểm soát của doanh nghiệp đối với hoạt động ở nước ngoài rất
Doanh nghiệp với các lợi thế cạnh tranh
1
Khai thác các lợi thế cạnh tranh ở nước ngoài
Thay đổi lợi thế cạnh tranh
2
Sản xuất trong nước xuất khẩu
Sản xuất ở nước ngoài
3
Hợp đồng cấp giấy phép quản lý
Kiểm soát tài khoản ở nước ngoài
4
Liên doanh
Sở hữu toàn bộ công ty con ở nước ngoài
5
Đầu tư mới
Mua lại doanh nghiệp nước ngoài
thấp nhưng chi phí giao dịch rất cao.
Hình 2.1.Các hình thức mở rộng ra thị trường nước ngoài
(Nguồn: Buckley & Casson, 1976)
Việc thiết lập doanh nghiệp thuộc sở hữu 100% của công ty mẹ thì giao dịch là
100% nội bộ, trong đó chi phí quản lý và quyền kiểm soát cao nhưng chi phí giao
dịch thấp. Như vậy, khi các hình thức mở rộng hoạt động ra thị trường nước ngoài
chuyển dịch từ trên xuống dưới, các chi phí giao dịch sẽ giảm đi, chi phí quản lý và
quyền kiểm soát sẽ tăng lên.
37
MNC sẽ so sánh giữa những điểm lợi và điểm bất lợi của các hình thức trên và
lựa chọn hình thức nào có lợi thế nhất cho mình. Theo các giả thuyết về nội bộ hóa,
FDI sẽ được sử dụng nhằm thay thế các giao dịch trên các thị trường bằng các giao
dịch nội bộ khi các nhà đầu tư thấy các giao dịch nội bộ sẽ ít tốn kém, an toàn và
khả thi hơn các giao dịch trên thị trường bên ngoài. Điều này thường xảy ra do sự
không hoàn hảo của thị trường các yếu tố đầu vào của sản xuất. Sự không hoàn hảo
của thị trường xuất phát từ hai nhóm nguyên nhân chủ yếu, đó là những yếu kém tự
nhiên và những yếu kém về cơ cấu của thị trường.
38
Những yếu kém tự nhiên của thị trường bắt nguồn từ sự yếu kém hoặc thiếu
các thị trường tư nhân; những yếu kém này nảy sinh một cách tự nhiên trong quá
trình hình thành thị trường. Có nhiều loại không hoàn hảo của thị trường xuất hiện
một cách tự nhiên trong các thị trường bên ngoài. Hai trong số những sự không
hoàn hảo quan trọng nhất đó là sự không hoàn hảo hoặc thiếu một thị trường tri thức
và sự tồn tại các chi phí giao dịch cao trên các thị trường bên ngoài. Các yếu kém
quan trọng khác của thị trường xuất hiện do nguyên nhân rủi ro và tính không chắc
chắn và sự phụ thuộc lẫn nhau giữa cung và cầu. Những yếu kém về cơ cấu thị
trường như: thuế quan, hạn ngạch, các chính sách thuế và các chính sách ưu đãi
khác, hạn chế khả năng tiếp cận của đối tác nước ngoài vào thị trường vốn trong
nước, các chính sách thay thế nhập khẩu (một hình thức của bảo hộ các ngành công
nghiệp non trẻ).
Như vậy, khi thị trường bên ngoài không hoàn hảo, các doanh nghiệp sẽ có
được lợi thế nội vi hóa khi lựa chọn FDI là hình thức xâm nhập thị trường nước
ngoài. Lợi thế này sẽ giúp doanh nghiệp giảm được chi phí và khắc phục những rào
cản, rủi ro do sự không hoàn hảo của thị trường bên ngoài gây ra (rào cản thuế quan
và phi thuế quan, biến động bất thường của thị trường hàng hóa bên ngoài…).
Chính các lợi thế nội bộ hóa giúp các MNC tiến hành hoạt động kinh doanh đồng
bộ và hoàn chỉnh, sản xuất ở nhiều nước và sử dụng thương mại trong nội bộ doanh
nghiệp để lưu chuyển hàng hóa, dịch vụ và các yếu tố vô hình giữa các chi nhánh
của chúng.
Tuy nhiên, cũng cần lưu ý rằng mặc dù nội bộ hóa đem lại nhiều lợi ích
nhưng cũng phải trả những chi phí nhất định cho quá trình liên kết kinh doanh. Một
trong những chi phí quan trọng nhất đó là chi phí quản lý, nghĩa là chi phí điều hành
một doanh nghiệp lớn với nhiều công ty thành viên hợp tác trong cùng ngành hoặc
trong cùng ngành có tính chất bạn hàng của nhau, các doanh nghiệp này có thị
trường nội bộ rất phức tạp về hàng hóa, dịch vụ và các tài sản vô hình. Thứ hai, việc
liên kết kinh doanh trên toàn cầu đòi hỏi các nguồn tài chính khổng lồ mà có thể
không có sẵn đối với doanh nghiệp hoặc chỉ sẵn có với chi phí cao hơn so với các
hình thức khác. Thứ ba, các phương pháp kinh doanh mới có thể kéo theo những
39
đòi hỏi đặc biệt hoặc các tài sản chuyên dụng mà MNC không có, khi đó doanh
nghiệp có thể chọn các hình thức xâm nhập khác.
Khi đã có lợi thế về quyền sở hữu và lợi thế nội bộ hóa, các doanh nghiệp sẽ
còn phải cân nhắc để chọn địa điểm đầu tư trực tiếp ở nước nào có lợi nhất cho việc
phát huy hai lợi thế trên. Vấn đề này sẽ được giải đáp thông qua các đánh giá về lợi
thế địa điểm của các nước tiếp nhận đầu tư đối với chủ đầu tư.
Lợi thế địa điểm hay còn gọi là lợi thế riêng của nước nhận đầu tư (Country
Specific Advantages–CSA).
Doanh nghiệp sẽ chỉ tiến hành hoạt động FDI khi hoạt động này có lợi hơn
hoạt động đầu tư ở trong nước nhờ các điều kiện sản xuất thuận lợi (lao động rẻ
hơn, thị trường đóng cửa…). Động cơ di chuyển đầu tư ra nước ngoài là sử dụng lợi
thế riêng của doanh nghiệp (FSA) cùng với các yếu tố ở nước ngoài. Thông qua các
yếu tố này (ví dụ như lao động, đất đai), MNC có thể khai thác hiệu quả các lợi thế
về quyền sở hữu để có được thu nhập cao hơn. Lợi thế địa điểm của nhiều nước là
yếu tố quan trọng trong việc xác định nước nào sẽ trở thành điểm đến của các
MNC.
Việc lựa chọn địa điểm đầu tư phụ thuộc vào những tính toán phức tạp giữa
các yếu tố kinh tế, xã hội và chính trị. Các lợi thế kinh tế bao gồm số lượng và chất
lượng các yếu tố sản xuất, phân bổ các yếu tố sản xuất về mặt không gian, chi phí
sản xuất và năng suất, dung lượng và phạm vi thị trường, chi phí vận tải, viễn
thông…Các lợi thế về văn hóa xã hội gồm sự khác biệt về văn hóa giữa nước chủ
đầu tư và nước nhận đầu tư, thái độ chung đối với nước ngoài, khác biệt về ngôn
ngữ và văn hóa, quan điểm đối với tự do hành động. Lợi thế chính trị gồm sự ổn
định về chính trị, các chính sách chung và riêng của chính phủ có ảnh hưởng đến
dòng FDI, đến sản xuất quốc tế và đến thương mại giữa các doanh nghiệp. Cần lưu
ý rằng độ hấp dẫn tương đối của các địa điểm khác nhau có thể thay đổi theo thời
gian, vậy nên nước nhận đầu tư trong chừng mực nhất định có thể thiết kế lợi thế
cạnh tranh của mình để trở thành một địa điểm hấp dẫn FDI.
Tóm lại, việc lựa chọn giữa thâm nhập bằng con đường thương mại hay đầu
tư không hoàn toàn đơn giản. Một doanh nghiệp thành công là doanh nghiệp biết
40
kết hợp đồng thời cả ba nhóm lợi thế để thiết kế mạng lưới hoạt động và các chi
nhánh của mình nhằm thực hiện một cách tốt nhất chiến lược phát triển của doanh
nghiệp.
2.1.3. Các yếu tố tác động đến đầu tư trực tiếp ra nước ngoài và mô hình các yếu
tố tác động
2.1.3.1.Các yếu tố tác động đến đầu tư trực tiếp ra nước ngoài
Trên góc độ của nước đi đầu tư (yếu tố đẩy)
Những yếu tố thuộc môi trường kinh doanh của nước đi đầu tư bao gồm chính
sách kinh tế vĩ mô, các hoạt động thúc đẩy ĐTRNN và tiềm lực kinh tế, khoa học
công nghệ có tác động rất lớn đối với hoạt động ĐTTTRNN của các doanh nghiệp.
Thứ nhất, thay đổi chính sách kinh tế vĩ mô.
Những chính sách như tài chính tiền tệ, xuất nhập khẩu và quản lý ngoại hối
của nước đầu tư ảnh hưởng rất lớn đến luồng đầu tư trực tiếp của nước này sang các
nước khác. Sự thay đổi các chính sách tiền tệ tác động mạnh đến lãi suất, làm tăng
hoặc giảm khả năng tạo lợi nhuận của các nhà đầu tư. Thay đổi chính sách tiền tệ sẽ
làm ảnh hưởng đến lạm phát, lạm phát cao có nghĩa là đồng nội tệ mất giá khiến
hoạt động ĐTRNN giảm bởi để mua được cùng một lượng dịch vụ đầu tư ở nước
ngoài thì các nhà đầu tư phải tốn nhiều tiền hơn và ngược lại.
Ảnh hưởng của chính sách xuất nhập khẩu của nước đầu tư đến dòng vốn
ĐTRNN được thể hiện ở chỗ: các ưu đãi khuyến khích xuất khẩu trong các hiệp
định thương mại sẽ khiến cho hàng hóa và dịch vụ của nước đầu tư có cơ hội thuận
lợi thâm nhập thị trường nước khác, do đó động cơ ĐTRNN để vượt qua rào cản
thương mại sẽ giảm mạnh. Đối với nhập khẩu cũng vậy, nếu nước đầu tư hạ mức
rào cản đối với hàng hóa từ nước ngoài nhất là từ các nước đang phát triển thì các
nhà đầu tư trong nước sẽ có nhiều cơ hội tiến hành hoạt động ĐTRNN nhằm khai
thác triệt để lợi thế so sánh trong phân công lao động quốc tế, tìm kiếm nguồn
nguyên liệu mới để sản xuất hàng hóa và lại nhập khẩu vào nước mình. Như vậy, độ
mở của nền kinh tế, được đo bởi tỷ trọng của XNK trên GDP có thể cho thấy các
41
Nếu nước đầu tư nới lỏng các chính sách quản lý ngoại hối theo hướng tự do
hóa thị trường vốn thì các nhà đầu tư được quyền tự do chuyển vốn ra nước ngoài
và ngược lại.
Như vậy, các chính sách về mở cửa nền kinh tế, chính sách ổn định kinh tế vĩ
mô, ổn định lạm phát ở trong nước sẽ có tác động tạo ra nền tảng vững chắc để giúp
các doanh nghiệp yên tâm tiến hành các hoạt động đầu tư ra nước ngoài.
Thứ hai, các hoạt động thúc đẩy đầu tư ra nước ngoài.
Các hiệp định đầu tư song phương, đa biên, hiệp định tránh đánh thuế hai
lần, hỗ trợ tài chính, bảo hiểm đầu tư và các chính sách đối ngoại của nước đầu tư
có tác động mạnh tới luồng vốn đầu tư ra nước ngoài của quốc gia này. Việc ký kết
các hiệp định đầu tư với nước ngoài là cơ sở pháp lý quan trọng hàng đầu để đảm
bảo tin tưởng cho các nhà đầu tư khi đầu tư ở nước ngoài. Hiệp định đầu tư song
phương được ký giữa nước đầu tư và nước nhận đầu tư, còn hiệp định đa biên được
ký giữa các nước trong cùng một nhóm. Nội dung của những hiệp định này quy
định nhiều nguyên tắc cơ bản nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư. Hiệp
định tránh đánh thuế hai lần giữa nước đầu tư với nước ngoài cũng tạo sự hấp dẫn
cho các nhà đầu tư bởi họ chỉ chịu một lần thuế ở nước nhận đầu tư. Mặt khác, việc
nước đầu tư áp dụng chính sách bảo hiểm vốn đầu tư cũng là yếu tố tác động mạnh
đến luồng ĐTRNN. Bên cạnh đó, các chính sách về phát triển khoa học công nghệ
cũng có thể tạo ra các lợi thế so sánh đối với các doanh nghiệp đẩu tư ra nước
ngoài. Các chính sách đầu tư vào cơ sở hạ tầng như internet, hạ tầng giao thông…
cũng tạo ra tiềm lực kinh tế, hỗ trợ các hoạt động khoa học công nghệ của các
doanh nghiệp. Với vị thế đầu tư cao hơn khi ở một trình độ khoa học công nghệ cao
hơn sẽ giúp các doanh nghiệp lựa chọn được các thị trường đầu tư phù hợp hơn.
Thứ ba, mức độ ổn định về mặt chính trị ở nước đầu tư cũng khiến cho việc
hợp tác đầu tư giữa các quốc gia trở nên thuận lợi hơn, từ đó tạo điều kiện cho việc
triển khai đầu tư của các doanh nghiệp. Bởi vậy, việc ổn định chính trị trong nước
và ổn định trong quan hệ chính trị giữa nước chủ đầu tư và nước tiếp nhận đầu tư sẽ
tạo ra cơ hội thuận lợi cho doanh nghiệp cả hai quốc gia khi tiến hành đầu tư lẫn
nhau.
42
Thứ tư, tốc độ tăng trưởng kinh tế của nước chủ đầu tư cũng tạo nên sự thôi
thúc khiến các doanh nghiệp trong nước liên tục phải tìm kiếm thị trường mới để
theo kịp tốc độ phát triển nhanh và nóng của thị trường. Nhiều doanh nghiệp dư
thừa vốn, công nghệ và công suất lựa chọn một thị trường mới ở nước ngoài để tận
dụng các nguồn lực dư thừa, tăng doanh thu và lợi nhuận, đồng thời thỏa mãn giấc
mơ “quốc tế” và ‘toàn cầu” trong chiến lược phát triển của mình.
Thứ năm, nhu cầu tìm kiếm lợi nhuận của các doanh nghiệp hay chênh lệch
lợi nhuận giữa nước đầu tư và nước tiếp nhận đầu tư đã tạo ra yếu tố đẩy giúp vốn
đầu tư được chuyển dịch, nhất là đối với các doanh nghiệp trong nội bộ khối
ASEAN, khi AEC đã được hình thành, mở rộng cơ hội tự do luân chuyển vốn đầu
tư trong nội bộ khối.
Trên góc độ của nước tiếp nhận đầu tư
Thứ nhất, GDP bình quân đầu người của nước tiếp nhận đầu tư.
Đây là một yếu tố tác động đến quy mô đầu tư và tổng lợi nhuận của nhà đầu
tư. Để thu hút ĐTNN ngoài tiềm năng đông dân thì việc cải thiện đời sống, tăng thu
nhập, tăng sức mua của cư dân trong nước cũng có tác động rất lớn đến thu hút
ĐTNN. Bên cạnh đó việc gia nhập các liên kết kinh tế trong khu vực và thế giới
cũng đã tạo ra thị trường rộng mở cho các nhà đầu tư và cũng là nhân tố tác động
lớn đến việc quyết định địa bàn đầu tư của các nhà đầu tư nước ngoài.
Thứ hai, cơ sở hạ tầng của nước tiếp nhận đầu tư.
Cơ sở hạ tầng của nước tiếp nhận đầu tư là một trong những yếu tố cơ bản để
thu hút nguồn vốn ĐTNN và cũng là yếu tố thúc đẩy hoạt động ĐTNN phát triển,
các yếu tố này có ảnh hưởng quyết định đến hiệu quả sản xuất kinh doanh. Khi tiến
hành đầu tư vào các dự án, các nhà đầu tư nước ngoài tập trung vào hoạt động sản
xuất kinh doanh với kết cấu hạ tầng đầu tư tốt thời gian thực hiện các dự án sẽ được
rút ngắn, bên cạnh đó sẽ làm giảm chi phí vận chuyển, chi phí thông tin liên lạc cho
các khâu và sẽ làm tăng hiệu quả đầu tư. Một quốc gia có kết cấu hạ tầng tốt, hệ
thống đường sá, bến cảng, sân bay, thông tin liên lạc tốt sẽ giúp cho các doanh
nghiệp đầu tư thuận tiện trong việc vận chuyển, xây dựng các hệ thống sản xuất
hiện đại đáp ứng về yêu cầu kỹ thuật, tối ưu hóa chi phí sản xuất, giảm giá thành
43
sản phẩm, mang lại hiệu quả cao. Do đó, để thu hút các nguồn vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài, nước sở tại phải đảm bảo cho hoạt động của các nhà đầu tư nước ngoài
được thuận lợi thông qua việc ưu tiên phát triển đường sá, nhà ga, sân bay, bến
cảng, hệ thống điện, nước, hệ thống thông tin, internet, liên lạc trước khi tiếp nhận
đầu tư.
Thứ ba, độ mở của nền kinh tế.
Độ mở của nền kinh tế theo nghĩa hẹp được đo bằng giá trị kim ngạch xuất
nhập khẩu/GDP. Nền kinh tế càng mở cửa thì mức độ giao thương, buôn bán càng
mạnh, các doanh nghiệp sẽ có thị trường xuất nhập khẩu lớn hơn và có nhiều cơ hội
hơn trong đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh. Một quốc gia có chỉ số độ mở của
nền kinh tế lớn thì có khả năng thu hút ĐTNN nhiều hơn các quốc gia khác.
Thứ tư, chính sách ngoại hối.
Chính sách ngoại hối bao gồm các quy định về việc mở tài khoản ngoại tệ, tỷ
giá hối đoái, chuyển ngoại tệ ra nước ngoài. Đối với nhiều nước, việc mở tài khoản
ngoại tệ cho doanh nghiệp có vốn ĐTNN phải được sự cho phép của cơ quan quản
lý ngoại tệ của nước này để nhằm kiểm soát được dòng ngoại tệ ra vào. Việc chuyển
đổi giữa đồng nội tệ và ngoại tệ cũng được quy định khác nhau giữa các nước. Việc
chuyển ngoại tệ ra nước ngoài, mỗi nước tùy theo tình hình cụ thể của mình có
những quy định khác nhau.
Thứ năm, tài nguyên thiên nhiên và điều kiện tự nhiên.
Mặc dù tiến bộ độ khoa học kỹ thuật không ngừng phát triển và được áp
dụng sâu rộng trong sản xuất. Các yếu tố nhập lượng có nguồn gốc từ thiên nhiên
ngày càng được sử dụng tiết kiệm và hiệu quả. Tuy nhiên nhiều nguồn tài nguyên
thiên nhiên vẫn đóng vai trò quyết định trong sản xuất sản phẩm của ngành và quốc
gia (nông nghiệp, công nghiệp khai khoáng…). Thực tiễn minh chứng quốc gia nào
có nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, đa dạng, giàu về trữ lượng và chất
lượng sẽ có nhiều thuận lợi trong thu hút ĐTNN và ngược lại.
Yếu tố tự nhiên như khí hậu, tài nguyên, dân số, khoảng cách…liên quan đến
việc lựa chọn lĩnh vực để đầu tư và khả năng sinh lời. Khí hậu nhiệt đới gió mùa
44
thường ảnh hưởng không tốt đến tuổi thọ của máy móc thiết bị có nguồn gốc từ
phương Tây nếu như không được bảo quản tốt. Nguồn nguyên vật liệu đầu vào
phong phú sẽ thu hút các nhà đầu tư, giảm chi phí và giá thành. Dân cư đông sẽ là
nguồn cung cấp sức lao động dồi dào và là thị trường tiềm năng để tiêu thụ hàng
hóa.
Thứ sáu, thuế thu nhập doanh nghiệp và sức hấp dẫn về lợi nhuận từ những
thị trường mới
Do mục tiêu lớn nhất của các nhà đầu tư nước ngoài là lợi nhuận, nên thuế
thu nhập doanh nghiệp thấp là một yếu tố quan trọng để thu hút ĐTNN.Chính sách
ưu đãi thuế, đặc biệt là chính sách ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp đã góp phần
thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại và phát huy các lợi thế so
sánh của đất nước. Việc sử dụng công cụ thuế thu nhập doanh nghiệp kết hợp với
các yếu tố khác như hoàn thiện thể chế, mở cửa nền kinh tế, tăng cường đào tạo
nhân lực chất lượng cao... đã giúp khắc phục điểm yếu về quy mô kinh tế nhờ đó
thành công trong thu hút ĐTNN.
Bên cạnh việc tận dụng các ưu đãi về thuế, các doanh nghiệp nước ngoài
thường nhắm đến những thị trường mới tại nước tiếp nhận đầu tư. Họ thường tiếp
Thứ bảy, lực lượng lao động.
Lao động là một yếu tố đầu vào của sản xuất, do vậy đóng vai trò quan trọng
trong thu hút ĐTNN. Do các dòng vốn ĐTNN có những định hướng khác nhau như
ĐTNN hướng vào giảm chi phí lao động và ĐTNN nhằm tận dụng đội ngũ chuyên
gia nên nguồn nhân lực tác động tới thu hút ĐTNN từ cả khía cạnh số lượng lao
động cũng như chất lượng lao động. Nguồn nhân lực dồi dào giúp giảm chi phí lao
động và chất lượng lao động cao đều tác động tích cực tới thu hút ĐTNN.
Thứ tám, sự ổn định chính trị.
Ổn định chính trị là yếu tố quan trọng hàng đầu đối với sự thu hút ĐTNN bởi
nó đảm bảo việc thực hiện các cam kết của chính phủ trong các vấn đề sở hữu vốn
đầu tư, hoạch định các chính sách ưu tiên, định hướng phát triển đầu tư của một
45
nước. Ổn định chính trị sẽ tạo ra sự ổn định về kinh tế xã hội và làm giảm bớt độ rủi
ro cho các nhà đầu tư nhất là các nhà đầu tư nước ngoài.
Thứ chín, môi trường pháp luật.
Quá trình đầu tư liên quan đến rất nhiều lĩnh vực hoạt động trong một thời
gian dài nên một môi trường pháp lý ổn định và có hiệu lực là một yếu tố quan
trọng để quản lý và thực hiện đầu tư một cách có hiệu quả. Môi trường này bao gồm
các chính sách, quy định, luật cần thiết đảm bảo sự nhất quán, không mẫu thuẫn,
chồng chéo nhau và có tính hiệu lực cao.
2.1.3.2.Mô hình các yếu tố tác động
Nhiều nghiên cứu đã sử dụng mô hình OLI của Dunning để giải thích sự thu
hút của các quốc gia đối với dòng vốn nước ngoài. Các nghiên cứu này xuất phát cả
ở góc độ nước chủ đầu tư và nước tiếp nhận vốn đầu tư.
Mô hình OLI cho thấy, các doanh nghiệp khi đi đầu tư ra nước ngoài thường
có các động cơ tìm kiếm hiệu quả kinh tế, tìm kiếm thị trường, tìm kiếm nguồn
nguyên liệu và các động cơ khác (Dunning, 1977). Việc đầu tư ra nước ngoài ngoài
việc dựa vào lợi thế của các doanh nghiệp thì cũng nhờ vào sự hỗ trợ từ phía nhà
nước chủ đầu tư với việc tạo lập môi trường đầu tư ổn định, đảm bảo chính trị ổn
định, thúc đẩy đầu tư ra nước ngoài. Các yếu tố đẩy từ phía nước chủ đầu tư và các
yếu tố kéo từ phía nước tiếp nhận đầu tư (bao gồm tình hình chính trị, chính sách
pháp luật, trình độ phát triển, các nguồn lực như tài nguyên thiên nhiên, trình độ lao
động, cơ sở hạ tầng).
Các nhân tố thuộc về môi trường quốc tế được thể hiện bằng các cam kết
quốc tế, trong đó bao gồm các hiệp định thương mại tự do (gồm cả các nội dung
cam kết về đầu tư), các hiệp định về đầu tư song phương và đa phương và các cam
kết quốc tế khác liên quan đến đầu tư.
Trên cơ sở mô hình cấu trúc như trên, luận án xây dựng mô hình ước lượng
các yếu tố tác động đến ĐTTT của các doanh nghiệp Việt Nam sang ASEAN trong
khuôn khổ AEC. Có 2 mô hình tác động được xây dựng dựa trên cơ sở các yếu tố
đẩy và yếu tố kéo, dựa trên góc độ tác động từ phía nước chủ đầu tư và nước tiếp
nhận đầu tư. Mô hình phân tích chung được thể hiện theo công thức như sau :
46
OFDIVN= f(LNGDP, INFR, OPE, EXR, RES, CORTAX, LAB, PORISK,
GR, AIA, ACIA, AEC)
Trong đó:
OFDIVN: Vốn đăng ký hàng năm sang từng nước thành viên của ASEAN.
LNGDP: GDP bình quân đầu người (đối với mô hình 1 – mô hình dựa trên các yếu tố đẩy, dữ liệu sẽ được lấy của Việt Nam, đối với mô hình 2 – mô hình dựa
trên các yếu tố kéo, dữ liệu GDP bình quân đầu người được thu thập từ các nước
tiếp nhận đầu tư trong ASEAN)
INFR: Chỉ số cơ sở hạ tầng, được tính theo tỷ lệ cá nhân sử dụng internet
trong 1 năm.
OPE: Chỉ số độ mở của nền kinh tế trong 1 năm, được tính theo tỷ lệ XNK
trên GDP của nước tiếp nhận đầu tư.
EXR: Chỉ số giá quy đổi theo tỷ giá hối đoái trong 1 năm.
RES: Chỉ số tài nguyên thiên nhiên trên GDP trong 1 năm.
CORTAX: Mức thuế suất đối với thu nhập doanh nghiệp trong 1 năm.
LAB: Chỉ số về lao động, được tính bằng số lao động trên GDP trong 1 năm.
PORISK: Chỉ số về rủi ro chính trị trong 1 năm.
ATIGA, ACIA, AEC: Các biến giả thể hiện tác động của các hiệp định
thương mại và đầu tư trong ASEAN đến việc thu hút vốn FDI của Việt Nam vào
ASEAN. Các chỉ số này sẽ nhận giá trị là 1 từ thời điểm có hiệu lực đối với từng
nước thành viên khi tham gia, các thời điểm trước đó sẽ nhận giá trị là 0.
Đối với góc độ nước chủ đầu tư, NCS chỉ tiếp cận dưới góc độ mô hình
chính sách, bao gồm các chính sách về kinh tế vĩ mô (thể hiện thông qua chỉ số GDP), chính sách mở cửa (thể hiện trong chỉ số OPE), sự ổn định về mặt chính trị và các chính sách tác động trực tiếp đến OFDI như chính sách về tỷ giá. Các yếu tố
về Hiệp định thương mại và đầu tư trong ASEAN cũng được thêm vào để đánh giá ảnh hưởng của việc tham gia các Hiệp định trong ASEAN có tác động như thế nào đến hoạt động đầu tư trực tiếp của Việt Nam sang ASEAN.
Tổng kết về biến số, kỳ vọng và cơ sở các kỳ vọng được thể hiện trong bảng
sau:
47
Bảng 2.1.Tổng hợp về biến số trong mô hình
Nguồn lấy dữ liệu
Cơ sở các kỳ vọng
Biến (Ký hiệu)
Kỳ vọng
OFDIVN
Dữ liệu từ Cục Đầu tư nước ngoài, Bộ KH&ĐT Việt Nam
+
LNGDP
Dữ liệu của World Bank
Hatab và các cộng sự (2010); Sevela (2002), Anwar và Mughal, 2014
Choi (2003), Liu and Nath (2013)
-
INFR
Tỷ lệ cá nhân sử dụng internet trong tổng dân số của quốc gia theo dữ liệu của WB qua các năm
+
OPE
Độ mở của nền kinh tế, được tính theo tỷ lệ XNK trên GDP của nước tiếp nhận đầu tư
-
EXR
Tỷ lệ mức giá của yếu tố chuyển đổi PPP (GDP) lấy theo số liệu của WB
+
RES
Chỉ số Total natural resources rents của World Bank
CORTAX
-
Dữ liệu của World Bank và các cơ quan thuế của các nước ASEAN
LAB
-
Chỉ số về tỷ trọng lao động trong GDP, lấy theo dữ liệu của WB
M.Mele và cộng sự (2017), Buckley et al. (2007); Pradhan (2009); Sanflippo (2010); Kolstad và Wiig (2012), Anwar và Mughal, 2014 Scott (2002); Warner và cộng sự (2004); Buckley và cộng sự (2007) Buckley et al. (2007); Pradhan (2009); Sanflippo (2010); Kolstad và Wiig (2012) M.Mele và cộng sự (2017), Buckley et al. (2007); Pradhan (2009); Sanflippo (2010); Kolstad và Wiig (2012) M.Mele và cộng sự (2017), Buckley et al. (2007); Pradhan, (2009); Sanflippo (2010); Kolstad và Wiig (2012), OECD (2012)
PORISK
-
Ietto-Gillies (2005)
+
Tác giả đề xuất
ATIGA, ACIA, AEC
Chỉ số được tính trung bình từ một số chỉ số khác từ nguồn của the Economist Intelligence Unit, Diễn đàn Kinh tế toàn cầu (the World Economic Forum), và Dịch vụ Rủi ro chính trị (the Political Risk Services) (theglobaleconomy.com) Biến giả, đối với các nước tham gia các Hiệp định này, sẽ nhận giá trị 1 từ thời điểm tham gia, còn các thời điểm trước đó nhận giá trị là 0
(Nguồn: Tác giả tự xây dựng, 2020)
48
Đối với biến số về cơ sở hạ tầng, do các chỉ số về cơ sở hạ tầng cứng hoặc
chỉ số LPI không được cập nhật liên tục từ năm 1991 đến nay, nên tác giả lựa chọn
sử dụng biến chỉ số hạ tầng mềm về tỷ lệ sử dụng internet trên đầu người là cơ sở để
phân tích ảnh hưởng của các yếu tố hạ tầng đến việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp của
các doanh nghiệp Việt Nam trên thị trường các nước ASEAN. Nghiên cứu của
Choi, 2003 cũng cho thấy cứ tăng 10% số lượng người dùng internet trong một
nước sẽ dẫn tới làm tăng 2% thu hút vốn FDI vào trong nước.
2.2. Một số vấn đề về Cộng đồng Kinh tế ASEAN
2.2.1. Khái quát về ASEAN và Cộng đồng Kinh tế ASEAN
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) được thành lập ngày 8 tháng 8
năm 1967 trên cơ sở Tuyên bố Băng-cốc, với 5 nước thành viên ban đầu là
Indonesia, Malaixia, Philippines, Singapore và Thái Lan. Sau 40 năm tồn tại và phát
triển với nhiều thăng trầm, ASEAN ngày nay đã trở thành một tổ chức hợp tác khu
vực liên Chính phủ bao gồm cả 10 quốc gia Đông Nam Á (thêm 5 nước là Brunei,
Cămpuchia, Lào, Myanmar và Việt Nam), là một thực thể chính trị-kinh tế quan
trọng ở Châu Á-Thái Bình Dương và là đối tác không thể thiếu trong chính sách
khu vực của các nước lớn và các trung tâm quan trọng trên thế giới. Hiện nay,
ASEAN đang chuyển sang giai đoạn phát triển mới với mục tiêu bao trùm là hình
thành Cộng đồng ASEAN vào năm 2015 và hoạt động dựa trên cơ sở pháp lý là
Hiến chương ASEAN.
Tháng 12/1997, nhân kỷ niệm 30 năm ngày thành lập ASEAN và sau khi
Hiệp hội đã bao gồm cả 10 quốc gia Đông Nam Á, Lãnh đạo các nước ASEAN đã
thông qua văn kiện quan trọng Tầm nhìn ASEAN 2020, với mục tiêu tổng quát là
đưa Hiệp hội trở thành “một nhóm hài hoà các dân tộc Đông Nam Á, gắn bó trong
một cộng đồng các xã hội đùm bọc lẫn nhau”. Để triển khai Tầm nhìn 2020, Hội
nghị Cấp cao ASEAN 6 (Hà Nội, tháng 12/1998) đã thông qua Chương trình Hành
động Hà Nội (HPA) cho giai đoạn 1999-2004, trong đó đề ra các biện pháp/hoạt
động cụ thể để thúc đẩy hợp tác ASEAN trên các lĩnh vực chính trị-an ninh, kinh tế,
văn hóa-xã hội và quan hệ đối ngoại. Do chịu tác động nặng nề của cuộc khủng
hoảng tài chính khu vực năm 1997-1998, nên hợp tác ASEAN nói chung và việc
49
thực hiện các dự án trong khuôn khổ HPA nói riêng giai đoạn này chủ yếu tập trung
vào khôi phục và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong khu vực cũng như khắc phục
những hậu quả về mặt xã hội của cuộc khủng hoảng đối với các nước thành viên.
Tháng 10/2003, Lãnh đạo các nước ASEAN đã ký Tuyên bố Hòa hợp
ASEAN II (hay còn gọi là Tuyên bố Ba-li II), nhất trí đề ra mục tiêu hình thành
Cộng đồng ASEAN vào năm 2020 với ba trụ cột chính: Cộng đồng An ninh (ASC),
Cộng đồng Kinh tế (AEC) và Cộng đồng Văn hóa-Xã hội (ASCC); đồng thời khẳng
định ASEAN sẽ tiếp tục đẩy mạnh và mở rộng quan hệ với các đối tác bên ngoài, vì
mục tiêu chung là hòa bình, ổn định và hợp tác cùng có lợi ở khu vực. Để triển khai
và kế tục Chương trình Hành động Hà Nội (HPA), ASEAN đã đề ra Chương trình
Hành động Viên Chăn (VAP) cho giai đoạn 2004-2010 và các Kế hoạch hành động
(KHHĐ) để xây dựng ba trụ cột Cộng đồng về chính trị-an ninh, kinh tế và văn hóa-
xã hội, trong đó có hợp phần quan trọng là thực hiện Sáng kiến Liên kết ASEAN
(IAI) nhằm giúp thu hẹp khoảng cách phát triển trong ASEAN với kế hoạch hành
động và các dự án cụ thể.
Để kịp thích ứng với những chuyển biến nhanh chóng và phức tạp của tình
hình quốc tế và khu vực cũng như trên cơ sở những thành tựu của ASEAN trong 40
năm qua nhất là kết quả thực hiện Chương trình Hành động Viên Chăn (VAP),
Lãnh đạo các nước ASEAN tháng 1/2007 đã quyết tâm đẩy nhanh tiến trình liên kết
nội khối dựa trên cơ sở pháp lý là Hiến chương ASEAN, nhất trí mục tiêu hình
thành Cộng đồng ASEAN vào năm 2015 (thay vì vào năm 2020 như thỏa thuận
trước đây).
Theo đó, ASEAN đã khẩn trương xúc tiến xây dựng các Kế hoạch tổng thể
(Blueprint) để xây dựng Cộng đồng Chính trị-An ninh (APSC), Cộng đồng Kinh tế
(AEC) và Cộng đồng Văn hóa-Xã hội (ASCC), trong đó đề ra mục tiêu và thời hạn
hoàn thành đối với từng biện pháp/hoạt động cụ thể.
50
Hình 2.2.Quá trình hình thành và phát triển AEC
(Nguồn: Tổng hợp của tác giả)
Tại Hội nghị Cấp cao ASEAN-13 (tháng 11/2007), Lãnh đạo các nước đã ký
Hiến chương ASEAN nhằm tạo cơ sở pháp lý và khuôn khổ thể chế cho gia tăng
liên kết khu vực, trước mắt là hỗ trợ mục tiêu hình thành Cộng đồng ASEAN vào
năm 2015. Hiến chương đã chính thức có hiệu lực ngày 15/12/2008.
Mục tiêu của AEC
Bốn mục tiêu cũng là bốn yếu tố cấu thành AEC:
(1) Một thị trường đơn nhất và cơ sở sản xuất chung, được xây dựng thông
qua: Tự do lưu chuyển hàng hoá; Tự do lưu chuyển dịch vụ; Tự do lưu chuyển đầu
tư; Tự do lưu chuyển vốn và Tự do lưu chuyển lao động có tay nghề.
(2) Một khu vực kinh tế cạnh tranh, được xây dựng thông qua các khuôn khổ
chính sách về cạnh tranh, bảo hộ người tiêu dùng, quyền sở hữu trí tuệ, phát triển cơ
sở hạ tầng, thuế quan và thương mại điện tử.
(3) Phát triển kinh tế cân bằng, được thực hiện thông qua các kế hoạch phát
triển doanh nghiệp vừa và nhỏ (SME) và thực hiện sáng kiến hội nhập nhằm thu hẹp
khoảng cách phát triển trong ASEAN.
(4) Hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu, được thực hiện thông qua việc tham
vấn chặt chẽ trong đàm phán đối tác và trong tiến trình tham gia vào mạng lưới
cung cấp toàn cầu (WTO).
51
Bản chất của AEC
- Mặc dù được gọi với cái tên “Cộng đồng kinh tế”, AEC thực chất chưa thể
được coi là một cộng đồng kinh tế gắn kết như Cộng đồng Kinh tế châu Âu bởi
AEC không có cơ cấu tổ chức chặt chẽ và những cam kết ràng buộc với lộ trình
thực hiện cụ thể.
AEC thực chất là đích hướng tới của các nước ASEAN thông qua việc hiện
thực hóa dần dần 04 mục tiêu kể trên (trong đó chỉ mục tiêu 01 là được thực hiện
tương đối toàn diện và đầy đủ thông qua các hiệp định và thỏa thuận ràng buộc, các
mục tiêu còn lại mới chỉ dừng lại ở việc xây dựng lộ trình và thực hiện một số sáng
kiến khu vực).
- AEC là một tiến trình hội nhập kinh tế khu vực chứ không phải là một Thỏa
thuận hay Hiệp định với các cam kết ràng buộc thực chất. Tham gia vào các mục
tiêu của AEC là hàng loạt các Hiệp định, Thỏa thuận, Tuyên bố… giữa các nước
ASEAN có liên quan tới các mục tiêu này. Những văn bản này có thể bao gồm
những cam kết có tính ràng buộc thực thi, cũng có những văn bản mang tính tuyên
bố, mục tiêu hướng tới không bắt buộc của các nước ASEAN.
- Việc hiện thực hóa AEC đã được triển khai trong cả quá trình dài trước đây
(thông qua việc thực hiện các cam kết tại các Hiệp định cụ thể về thương mại đã ký
kết giữa các nước ASEAN) và sẽ được tiếp tục thực hiện trong thời gian tới (tiếp
tục thực hiện theo lộ trình các Hiệp định, Thỏa thuận đã có và các vấn đề mới, nếu
có).
2.2.2.Các hiệp định về đầu tư trong ASEAN
* Hiệp định Khuyến khích & bảo hộ đầu tư (AIGA) và Hiệp định khung về
Khu vực đầu tư ASEAN (AIA)
Cùng với thương mại hang hóa và thương mại dịch vụ, hợp tác về đầu tư của
ASEAN cũng được tiến hành từ lâu. Tuy nhiên từ khi hiệp hội được thành lập, các
hoạt động hợp tác về đầu tư trong khu vực diễn ra nhỏ lẻ, manh nhúm, chủ yếu
được thực hiện theo các thỏa thuận song phương giữa các quốc gia thành viên. Dần
dần, xuất phát từ sự ngày một phổ biến của các thỏa thuận thương mại song phương
52
về đầu tư giữa các thành viên nhằm khuyến khích và bảo hộ luồng di chuyển dòng
vốn, ngày 15/12/1987 những nhà lãnh đạo phụ trách các vấn đề kinh tế của các
nước ASEAN 6 đã kí kết hiệp định hợp tác về đầu tư mang quy mô toàn ASEAN
đầu tiên có tên là Hiệp định Khuyến khích và bảo hộ đầu tư (AIGA-Agreement for
the Promotion and Protecttion of Investment) để tiến hành hợp tác sâu hơn trong
lĩnh vực đầu tư trong khu vực. Hiệp định Khuyến khích và bảo hộ đầu tư có hiệu
lực từ ngày 2/8/1988, sau đó được sửa đổi một lần vào năm 1996. Hiệp định này
khá ngắn, chỉ bao gồm 13 điều khoảnvới mục tiêu chung là bảo vệ đầu tư như đảm
bảo đối xử công bằng, bình đẳng trong đầu tư, các quy định về quốc hữu hóa và bồi
thường, quyền chuyển vốn và lợi nhuận về nước của nhà đầu tư, thế quyền, cơ chế
giải quyết tranh chấp giữa các thành viên của hiệp định.
Đến những năm 90, tình hình quốc tế và khu vực Đông Nam Á có nhiều thay
đổi quan trọng, điển hình là sự kiện chiến tranh lạnh kết thúc, chấm dứt sự đối đầu
giữa hai cực Tư bản chủ nghĩa và Xã hội chủ nghĩa. Đối với khu vực Đông Nam Á
nói riêng, sự kiện này đã làm giảm bớt các cam kết an ninh mà đi kèm với nó là
những giúp đỡ về kinh tế của Hoa Kỳ và Trung Quốc đối với các quốc gia thành
viên ASEAN, khiến các nước trong khối bắt đầu phải tự mình đối mặt với sự cạnh
tranh gay gắt về kinh tế từ một số nước có nền kinh tế mới nổi như Trung Quốc, Ấn
Độ và một số tổ chức quốc tế khu vực đang ngày một lớn mạnh như Liên minh
Châu Âu (EU).
Bên cạnh đó, quá trình toàn cầu hóa kinh tế diễn ra nhanh chóng trong giai
đoạn này cũng kéo theo các hoạt động đầu tư nước ngoài không ngừng tăng lên về
quy mô và số lượng, vốn đầu tư nước ngoài trở thành một trong những nhân tố
chiến lược cho sự phát triển kinh tế của các quốc gia. Trong khi các thị trường
Trung Quốc, Nga, Đông Âu ngày càng trở thành môi trường đầu tư hấp dẫn không
chỉ bởi những lợi thế về tài nguyên thiên nhiên, về nguồn nhân lực mà đặc biệt còn
phụ thuộc vào chính sách mở cửa, khuyến khích và ưu đãi rộng rãi cho các nhà đầu
tư nước ngoài thì ASEAN trở nên kém cạnh tranh hơn từ chính những hạn chế trong
chính sách đầu tư của mình. Trước tình hình đó, nhằm tăng cường tính hấp dẫn và
thu hút hơn nữa dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, tăng cường khả năng cạnh
tranh về đầu tư cho toàn khu vực, tại Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ 5 vào tháng
53
12 năm 1995, các nhà lãnh đạo ASEAN đã nhất trí đưa ra Chương trình hành động
ASEAN về hợp tác và xúc tiến đầu tư trực tiếp nước ngoài, đầu tư trong phạm vi
ASEAN, đồng thời đưa ra sáng kiến thành lập Khu vực thương mại đầu tư ASEAN.
Ngày 7/10/1998, tại Hội nghị Bộ trưởng Kinh tế ASEAN lần thứ 30 tại Manila,
Hiệp định khung về Khu vực đầu tư ASEAN (AIA) đã được kí kết, khai sinh ra
Khu vực đầu tư ASEAN. Hiệp định này chính thức có hiệu lực vào ngày 21/6/1999.
Với mục tiêu tạo ra môi trường kinh doanh cạnh tranh, tự do, minh bạch, so với
IGA, AIA tiếp tụcđưa ra các thỏa thuận nâng cao hơn nữa tiến trình tự do hóa, xúc
tiến, thuận lợi hóa và hài hòa hóa chính sách đầu tư nước ngoài đang được thực hiện
trong ASEAN; loại trừ danh mục đầu tư và bổ sung điều khoản về áp dụng nguyên
tắc đối xử quốc gia và đối xử tối hệ quốc, bảo hộ đầu tư.
Có thể nói rằng hai hiệp định AIGA và AIA đã có những tác động tích cực và
quan trọng trong thúc đẩy FDI ở ASEAN kể từ khi ra đời cho tới nay, điển hình là
nâng dòng FDI từ bên ngoài đầu tư vào khu vựctăng một cách đáng ngạc nhiên từ
460 triệu USD (năm 1970) đến 34.099 triệu USD (năm 1997). Đặc biệt năm 2007,
khi các nền kinh tế ASEAN phải đối mặt với nhiều khó khăn mang tính toàn cầu,
dòng FDI nội khối của ASEAN vẫn tăng mạnh mẽ so với dự đoán tới 74,395 triệu
USD (Nguồn: Cục ĐTNN-Bộ KH&ĐT, 2019). Tuy nhiên, mặc dù AIA đã tạo ra
một thị trường tự do hơn để thu hút FDI nhưng hiệp định này vẫn chưa đủ toàn diện
để hấp dẫn thêm các nhà đầu tư nước ngoài vào ASEAN.
* Hiệp định đầu tư toàn diện ASEAN (ACIA)
Năm 2003, các nhà lãnh đạo ASEAN đưa ra quyết nghị thành lập Cộng đồng
kinh tế ASEAN. Tuyên bố Bali 2 ghi nhận rằng: “hướng tới Cộng đồng kinh tế
ASEAN, ASEAN sẽ xây dựng cơ chế và các biện pháp mới để tăng cường thực hiện
các sáng kiến kinh tế hiện có bao gồm Khu vực thương mại tự do ASEAN (AFTA),
Hiệp định khung ASEAN về dịch vụ (AFAS) và Khu vực đầu tư ASEAN (AIA);
thúc đẩy hội nhập khu vực các lĩnh vực ưu tiên; tạo điều kiện cho sự di chuyển của
thể nhân, lao động lành nghề và nhân tài; củng cố các thể chế của ASEAN, bao gồm
cả việc cơ chế giải quyết tranh chấp hiện có để giải quyết các tranh chấp về kinh tế
nhanh chóng và ràng buộc về mặt pháp lý” hướng tới mục tổng thể là tạo lập “một
54
khu vực kinh tế ASEAN phát triển ổn định, thịnh vượng, đồng đều, có tính cạnh
tranh cao và hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu”. Với những mục tiêu mới của AEC,
nhiều điều khoản trong AIA và IGA không đáp ứng được mục tiêu mà AEC đặt ra
như AIA chỉ bao gồm các thỏa thuận về tiếp cận thị trường, các thỏa thuận về bảo
hộ đầu tư theo IGA cũng trở nên lạc hậu với tình hình đầu tư, thương mại trong khu
vực. Vì vậy, các nước thành viên ASEAN đã thống nhất quan điểm soạn thảo văn
bản mới thay thế hai Hiệp định về đầu tư hiện hành nhằm cải thiện môi trường đầu
tư cạnh tranh, minh bạch, tự do và thông thoáng hơn. Sau hơn 2 năm chuẩn bị và
soạn thảo, Hiệp định đầu tư toàn diện ASEAN (ACIA) đã được kí kết vào ngày
26/02/2009 và có hiệu lực vào ngày 29/3/2012. Hiệp định ACIA gồm 3 phần với 49
Điều khoản, trong đó, ngoài việc kế thừa các quy định trong IGA và AIA, căn cứ
vào thực tiễn đầu tư quốc tế và khu vực, ACIA còn đưa ra những điều chỉnh mới
nhằm cải thiện môi trường đầu tư ASEAN như: mở rộng khái niệm nhà đầu tư
ASEAN, đưa ra cơ chế giải quyết tranh chấp phát sinh giữa nhà đầu tư nước ngoài
và quốc gia thành viên, bổ sung những điều khoản với về chuyển giao và đãi ngộ
đầu tư, đưa ra 1 danh sách các biện pháp hạn chế đầu tư và các tiêu cực trong đầu
tư…
* Những điểm mới cơ bản theo qui định của ACIA so với qui định của AIA
và IGA
ACIA được ban hành vào 2009 tái khẳng định một số qui định trong hai hiệp
định AIA và IGA như nguyên tắc đối xử quốc gia (NT-National Treatment),
nguyên tắc đối xử tối huệ quốc (MFN-Most Favored Nation), tịch biên và bồi
thường…Bên cạnh đó ACIA cũng sửa đổi và bổ sung một số qui định mới về khu
vực đầu tư ASEAN như trình tự giải quyết tranh chấp giữa nhà đầu tư ASEAN và
quốc gia thành viên, các biện pháp đầu tư bị cấm (các biện pháp yêu cầu đối với đầu
tư nước ngoài, các biện pháp về quản trị doanh nghiệp)…Cụ thể những điểm khác
biệt trong qui định của ACIA so với hai hiệp định trước như sau:
Thứ nhất, ACIA chứa định những qui định khá toàn diện về khu vực đầu tư
ASEAN theo đó hoạt động đầu tư trong ASEAN bao gồm bốn trụ cột: tự do hóa đầu
tư, bảo hộ đầu tư, thuận lợi hóa đầu tư và xúc tiến đầu tư.
55
Thứ hai, ACIA ngay lập tức dành ưu đãi cho nhà đầu tư ASEAN và nhà đầu tư
nước ngoài tại ASEAN với thời hạn đạt được môi trường đầu tư mở và tự do được
rút ngắn vào năm 2015. Trong khi đó, AIA dành ưu đãi cho nhà đầu tư ASEAN đầu
tiên và sau đó sẽ dành ưu đãi cho nhà đầu tư nước ngoài tại ASEAN vào năm 2020.
Thứ ba, ACIA đưa ra các định nghĩa liên quan tới khu vực đầu tư ASEAN một
cách toàn diện hơn và phù hợp với những hoạt động đầu tư hiện hành.
Thứ tư, Hoạt động tự do hóa đầu tư theo qui định của ACIA rộng hơn rất
nhiều so với qui định trong IGA và AIA.
Thứ năm, ACIA qui định một cách chi tiết trình tự thủ tục giải quyết tranh
chấp giữa nhà đầu tư với quốc gia thành viên.
Có thể thấy rằng đây không phải là qui định hoàn toàn mới mà còn là một
điểm tiến bộ trong các qui định của ACIA. Tranh chấp, xung đột xảy ra trong lĩnh
vực kinh tế, đặc biệt là hoạt động đầu tư là một điều không thể tránh khỏi trên thực
tế. Cho nên để hạn chế tối đa những thiệt hại đối với nhà đầu tư ASEAN đã có
những nỗ lực trong việc ban hành những qui định về giải quyết tranh chấp trong
lĩnh vực này một cách thống nhất, tiến bộ và phù hợp với đặc thù riêng của
ASEAN.
2.3. Tình hình đầu tư của một số quốc gia châu Á sang ASEAN và gợi ý cho
Việt Nam
2.3.1. ĐTTT của Nhật Bản sang ASEAN
Nhật Bản có diện tích có diện tích 377.915 km2, là một quốc đảo với 6.852
hòn đảo, dân số 130 triệu người, GDP 4.770 tỷ USD. Kinh tế Nhật Bản được chia
thành ba ngành chính: dịch vụ (thương mại và tài chính), công nghiệp (chế tạo tàu
biển, xe hơi và xe gắn máy) và nông nghiệp (đánh bắt và nuôi trồng thủy sản) với
đóng góp GDP lần lượt là 73,1%; 25,7% và 1,2%.
* Về đối tác đầu tư
Các doanh nghiệp Nhật Bản hướng mạnh vào các nền kinh tế mới nổi như
ASEAN (Thái Lan, Việt Nam, Indonesia…) đầu tư vào các ngành thân thiện với
môi trường, sản xuất vật liệu mới, chăm sóc sức khỏe cộng đồng…Nhật Bản là nhà
56
đầu tư chủ lực cho các nền kinh tế ASEAN trong những năm gần đây. Ngoài ra, sự
phát triển phồn thịnh của ASEAN đã nâng tầm khu vực, trở thành một điểm thu hút
đầu tư cho sản xuất, tiêu thụ nội địa và là một nơi giúp cho sản xuất xuất khẩu.
Theo báo cáo đầu tư 2014 của Tổ chức xúc tiến thương mại và đầu tư Nhật
Bản (JETRO), các công ty Nhật Bản đang chuyển hướng đầu tư ra khỏi Trung Quốc
và tăng cường đầu tư vào các nước ASEAN. Nguyên nhân là do chi phí nhân công
ngày càng cao ở Trung Quốc và những căng thẳng ngày càng tăng giữa hai quốc gia
về chủ quyền biển đảo. ASEAN với thị trường 600 triệu dân đã thu hút được lượng
FDI cao kỷ lục từ Nhật Bản là 23,6 tỷ USD, tăng gấp 2,2 lần so với năm 2013.
* Về lĩnh vực đầu tư
Nhật Bản tích cực tăng cường cả về số lượng và chất lượng các dự án
ĐTRNN, đặc biệt tập trung vào các hạng mục về cơ sở hạ tầng.. Ngành sản xuất ô
tô và phụ kiện điện tử tại Nhật Bản đã thâm nhập thị trường Thái Lan và Việt Nam.
Trong những năm gần đây, ngành cung ứng của Nhật Bản đã phát triển mạnh mẽ ở
Lào, Campuchia, đặc biệt là ngành khoáng sản thô và các hoạt động sản xuất lắp
ráp. Nếu tính cả ngành dệt may và sản xuất giày dép, nhập khẩu từ Campuchia và
Lào chiếm tới 92,4% và 32,5% của Nhật Bản trong năm 2012.
Các doanh nghiệp Nhật Bản chiếm tới 15% lượng FDI đầu tư vào ASEAN
trong năm 2013, đạt mức 21,3%, cao gấp đôi so với Trung Quốc. Tuy nhiên, lượng
đầu tư của Nhật Bản vào các nước ASEAN là khác nhau. Thái Lan là điểm đến hấp
dẫn nhất cho các nhà đầu tư Nhật Bản, chiếm tới hơn 60%, tiếp đó là Malaixia và
Indonesia. Có tới hơn 6.135 công ty Nhật Bản đăng ký kinh doanh hoạt động tại
ASEAN và Nhật Bản tiếp tục mở rộng vào các thị trường mới với số lượng công ty
tăng gấp đôi tại Campuchia và tăng gấp ba tại thị trường Myanmar trong năm 2012
và 2014. Trong khoảng thời gian từ năm 2003-2014, luồng FDI chảy từ Nhật Bản
tới thị trường ASEAN khoảng 156 tỷ USD và tạo ra hơn 667.000 việc làm cho khối
(Nguồn: JETRO,2014).
* Về mục đích đầu tư
Nhật Bản tích cực ủng hộ hình thức đầu tư phối hợp đối tác công-tư (PPP)
trong các dự án phát triển hạ tầng ở nước ngoài (ước tính hằng trăm tỷ USD từ
57
2011đến 2030) nhằm tạo điều kiện cho các tập đoàn có thêm công ăn việc làm, bán
thiết bị máy móc ra bên ngoài và tránh được rủi ro trong xuất khẩu (do đồng Yên
lên cao).
Nói đến đầu tư của Nhật Bản sang ASEAN không thể không nhắc tới nguồn
tài trợ chính chính thức ODA. Hợp tác giữa Nhật Bản và ASEAN tiếp tục củng cố
và đẩy mạnh khi Nhật Bản cam kết viện trợ nguồn vốn ODA liên quan tới sức khỏe
và sự phát triển nguồn nhân lực. Mặc dù vẫn đóng vai trò chủ đạo trong việc cung
cấp nguồn ODA cho Indonesia dưới góc độ tổng nguồn ODA giải ngân, giá trị ròng
của nguồn ODA đã trở nên âm do hai quốc gia nêu trên bắt đầu hoàn trợ nguồn
ODA. Nhật Bản giờ đây tập trung hơn vào các thị trường đang phát triển như Việt
Nam và Myanmar với kỳ vọng về nguồn ODA giải ngân không chỉ trong lĩnh vực
phát triển cơ sở hạ tầng, đẩy mạnh công nghiệp mà còn thúc đẩy các chương trình
phát triển cộng đồng. Các nước ASEAN vẫn có những khoảng cách về cơ sở hạ
tầng nên làm cho các kết cấu và việc liên kết giữa các quốc gia trong khu vực trở
nên khó khăn.Thách thức này với mỗi quốc gia là khác nhau, Indonesia và
Phillippine đối mặt với các vấn đề về kết nối đường biển, Lào lại đối mặt với vấn đề
kết nối giữa các quốc gia trong khu vực. Các dự án đầu tư từ Nhật đã góp phần nâng
cao sự kết nối giữa các vùng trong khu vực: nâng cao hành lang kinh tế giữa khu
vực Tây-Đông, Bắc-Nam trong khu vực Mekong, nâng cấp cầu và sân bay trong
khu vực Lào và Campuchia, hiện đại hóa các bến cảng của Malaysia, Indonesia,
Philippine…
* Về biện pháp thúc đẩy đầu tư
Việc ĐTRNN của các doanh nghiệp Nhật Bản được thực hiện tương đối chặt
chẽ. Hầu hết các doanh nghiệp khi đi đầu tư đều thực hiện theo chuỗi. Khi đầu tư ra
nước ngoài, các doanh nghiệp Nhật Bản không đầu tư riêng lẻ mà đầu tư theo liên
kết chuỗi, bao gồm các công ty tài chính, các ngân hàng, các công ty cung cấp dịch
vụ vận chuyển, bảo hiểm đi cùng với các doanh nghiệp sản xuất. Việc đầu tư theo
chuỗi liên kết khiến cho hoạt động đầu tư của các doanh nghiệp Nhật Bản luôn hiệu
quả trên thị trường nước ngoài, kể cả trong khu vực ASEAN. Phần lớn nguyên nhân
thành công của doanh nghiệp Nhật Bản trên thị trường ASEAN là (i) tận dụng được
58
chi phí nhân công giá rẻ tại ASEAN khi Nhật Bản có dân số già và chi phí nhân
công cao; (ii) tận dụng được sức mạnh của đồng Yên trên thị trường của các nước
ASEAN, nhất là các thị trường kém phát triển như các nước trong khối CMVL; (iii)
phần lớn các dự án đầu tư của các doanh nghiệp Nhật là tập trung vào các dự án có
giá trị gia tăng cao trong chuỗi giá trị toàn cầu; sử dụng kết hợp các công cụ đầu tư
của nhà nước như ODA để tăng uy tín và tiếng nói của doanh nghiệp Nhật trên thị
trường các nước ASEAN.
Bên cạnh các chiến lược đầu tư của doanh nghiệp Nhật, chính phủ Nhật Bản
cũng đã tạo ban hành nhiều chính sách khuyến khích OFDI thông qua các hỗ trợ về
đổi mới công nghệ, về đào tạo nhân lực, trên cơ sở đó cho phép tự do hóa về hoạt
động đầu tư, thực hiện các hỗ trợ về tài chính – tín dụng, tăng cường xúc tiến đầu tư
với khu vực ASEAN để mở đường cho dòng vốn tư nhân của các doanh nghiệp
sang thị trường này.
* Gợi ý cho Việt Nam
Thứ nhất, nên có liên kết giữa các doanh nghiệp khi tiến hành đầu tư để vừa
tạo ra sự hỗ trợ, tương tác lẫn nhau giữa các doanh nghiệp, đồng thời cho phép tăng
giá trị đầu tư trong các ngành, lĩnh vực khác nhau.
Thứ hai, sử dụng các lợi thế so sánh để tiến hành đầu tư ra nước ngoài. Với
các doanh nghiệp Nhật, ngoài việc tận dụng về tỷ giá hối đoái, nhân công giá rẻ, các
doanh nghiệp Nhật còn tận dụng được ưu thế về công nghệ, cũng như uy tín của
mình để tiến hành đầu tư ra nước ngoài.
Thứ ba, tự do hóa hoạt động đầu tư ra nước ngoài, đồng thời tận dụng các
FTA để thúc đẩy dòng vốn đầu tư của Nhật sang các nước ASEAN.
Thứ tư, nhà nước tạo điều kiện hỗ trợ hết sức cần thiết để giúp các doanh
nghiệp nâng cao năng lực cạnh tranh trên thị trường quốc tế.
Singapore từ lâu đã gặp phải vấn đề khó khăn về giá nhân công, đất đai,
2.3.2. ĐTTT của Singapore sang ASEAN
chi phí sản xuất cao, tốc độ tăng dân số thấp, cơ cấu dân số đang già đi, đi đôi
với việc cạnh tranh kinh tế ngày càng trở nên gay gắt. Nhằm đối phó với những
59
thách thức này, Singapore chủ trương nâng cao hơn nữa sức cạnh tranh của nền
kinh tế, tăng năng suất lao động, tăng cường đầu tư ra nước ngoài và tìm kiếm thị
trường, nguồn tài nguyên và kỹ thuật mới, đặc biệt chú trọng vào việc thành lập
các tam, tứ giác phát triển với các nước láng giềng để phục vụ cho chủ trương trên
và đưa Singapore trở thành một trung tâm điều phối sản xuất, gia công lắp ráp sản
phẩm của các công ty đa quốc gia trên thế giới. Những nước được nhận đầu tư
nhiều nhất và sớm nhất của các công ty Singapore là các nước Đông Nam Á.
Sau đó hoạt động đầu tư đã được mở rộng sang các thị trường khác như Châu Âu
và Bắc Mỹ, Châu Mỹ Latinh.
Ở Singapore, các doanh nghiệp đầu tư ra nước ngoài được chia thành 2 loại:
các công ty thuộc sở hữu trong nước và các công ty thuộc sở hữu nước ngoài.
Các công ty thuộc sở hữu trong nước là những công ty có hơn 50% vốn pháp
định thuộc sở hữu của người Singapore, các công ty thuộc sở hữu nước ngoài thì
ngược lại, là những công ty có hơn 50% vốn pháp định thuộc sở hữu của người
nước ngoài. Các công ty có vốn đầu tư trong nước sở hữu hơn một nửa số vốn đầu
tư ra nước ngoài, và có một số lượng lớn các chi nhánh ở nước ngoài. Các công ty
này, do vậy đóng một vai trò quan trọng trong việc xây dựng nền kinh tế hướng
ngoại của Singapore.
* Về chính sách đầu tư
Bên cạnh đó, chính phủ Singapore cũng đóng góp một phần khá quan trọng
thúc đẩy hoạt động đầu tư của các doanh nghiệp trong nước trên thị trường nước
ngoài. Mặc dù không có Luật cụ thể về thúc đẩy đầu tư trực tiếp ra nước ngoài,
song chính phủ đã có những biện pháp thúc đẩy hoạt động này thông qua 3 bộ phận
giúp việc chính: Hội Doanh nghiệp quốc tế Singapore (IE Singapore), Ban phát
triển kinh tế (EDB), Ban Tiêu chuẩn, Năng suất và đổi mới (SPRING). Các bộ phận
này sẽ có một số chức năng chính như:
- Trợ giúp các doanh nghiệp có trụ sở tại Singapore thực hiện quá trình quốc tế
hóa (IE Singapore); thúc đẩy các doanh nghiệp Singapore thực hiện khu vực hóa
(EDB).
- Tạo ra tính cạnh tranh của các doanh nghiệp Singapore thông qua các hình
thức: Khuyến khích đổi mới công nghệ; Chú trọng đào tạo đội ngũ nhân lực cung
60
cấp cho các doanh nghiệp, tập đoàn trong nước, giúp gia tăng các cơ hội kinh doanh
và tiếp cận thị trường... (SPRING). Đây chính là một điểm khác biệt của Singapore
so với một số quốc gia khác. Việc tập trung vào nguồn lực cho phép nâng cao khả
năng cạnh tranh không chỉ của các doanh nghiệp, mà còn của quốc gia, tạo nên
thương hiệu Singapore cho các dòng chảy của vốn và công nghệ.
- Cung cấp các khoản tài trợ, cho vay ưu đãi (EDB) giúp các công ty cải thiện
khả năng tiếp cận tài chính ở nước ngoài trong quá trình tiến hành đầu tư, khuyến
khích các khả năng sáng tạo nhằm tạo ra khả năng phát triển thị trường trên quy mô
toàn cầu
- Thực hiện ưu đãi về thuế và bảo hiểm các khoản đầu tư (IE và EDB) cho các
doanh nghiệp.
Sự gần gũi về mặt địa lý, các quan hệ kinh tế khiến các nước trong khu vực
Đông Nam Á trở thành điểm đến quen thuộc đối với dòng vốn đầu tư trực tiếp của
các doanh nghiệp Singapore. Châu Á với rất nhiều thị trường mới nổi và có sức
tăng trưởng nhanh ngày càng thu hút sự chú ý của nhiều doanh nghiệp nước ngoài,
trong đó có các doanh nghiệp Singapore. Năm 2018, theo số liệu của Cục Thống kê
Singapore, khu vực châu Á chiếm 55,3% vốn FDI của Singapore, trong đó, dòng
vốn đến các nước khác trong ASEAN chiếm khoảng 19,4% tổng vốn FDI ra nước
ngoài của Singapore. Các doanh nghiệp đầu tư sang ASEAN đa phần là các doanh
nghiệp vừa và nhỏ, thuộc sở hữu trong nước, hoạt động đầu tư chủ yếu dựa trên các
mối quan hệ tương tác quen biết và tin cậy với chính quyền và doanh nghiệp tại
nước bản địa. Các thỏa thuận và Hiệp định ưu đãi đầu tư song phương và đa phương
được ký kết giữa Singapore và các nước thành viên ASEAN cũng tạo điều kiện thúc
đẩy hoạt động đầu tư của các doanh nghiệp Singapore.
* Gợi ý cho Việt Nam
Thứ nhất, các doanh nghiệp Singapore lựa chọn đầu tư trong những lĩnh vực
dịch vụ là chủ yếu để tận dụng các lợi thế so sánh về nhân lực chất lượng cao, trong
lĩnh vực dịch vụ, nhất là các dịch vụ như kho bãi, vận chuyển, bán luôn bán lẻ và
tận dụng hệ thống mạng lưới chi nhánh và đối tác lớn trên khắp thế giới để tiến
hành đầu tư ra nước ngoài và sang khu vực ASEAN nói riêng.
61
Thứ hai, thực hiện các chính sách về ưu đãi đầu tư và xây dựng bộ máy tổ
chức thống nhất, chuyên biệt có chức năng hỗ trợ các doanh nghiệp đầu tư ra nước
ngoài trong những lĩnh vực cụ thể như xúc tiến đầu tư, tài chính, pháp lý, giảm thiểu
các thủ tục hành chính để khuyến khích các hoạt động đầu tư của doanh nghiệp
trong nước, giúp các doanh nghiệp có thể tận dụng được các ưu thế từ các hiệp định
như AEC.
Thứ ba, xây dựng các MNCs lớn để thúc đẩy các hoạt động đầu tư ra nước
ngoài, giúp các doanh nghiệp có thể tồn tại trên thị trường mà không cần sự can
thiệp sâu từ phía nhà nước.
2.3.3. ĐTTT của Malaysia sang ASEAN
Kinh tế Malaysia là một nền kinh tế thị trường công nghiệp mới phát triển.
Năm 2019, quốc gia này có quy mô GDP danh nghĩa đạt 365,3 tỷ USD, lớn thứ 3
tại khu vực Đông Nam Á, xếp hạng 33 thế giới, thứ 12 châu Á. Thu nhập bình quân
đầu người đạt mức 11,484 USD/người. Trong số các nước Ðông Nam Á, Malaysia
(gia nhập ASEAN ngày 8-8-1967) được đánh giá luôn duy trì tốc độ tăng trưởng ổn
định. GDP Malaysia tăng trưởng trung bình 6,5% mỗi năm, là nền kinh tế lớn thứ tư
trong ASEAN, thứ 14 châu Á và thứ 38 trên thế giới. Chế tạo là lĩnh vực then chốt
của công nghiệp Malaysia.
Thương mại quốc tế của Malaysia rất thuận lợi do nằm sát tuyến đường tàu
thủy qua eo biển Malacca. Malaysia là nước xuất khẩu tài nguyên thiên nhiên và
nông sản, dầu mỏ. Malaysia nằm trong số các nhà xuất khẩu lớn nhất thế giới về
thiết bị bán dẫn, điện tử, sản phẩm công nghệ thông tin và truyền thông, đồng thời
là nhà sản xuất và xuất khẩu dầu cọ lớn nhất thế giới. Tăng trưởng kinh tế năm 2019
của Malaysia ước đạt 4,9%, tăng nhẹ so với mức 4,72% năm 2018.
* Về chính sách thúc đẩy đầu tư
Chính sách của Malaysia hỗ trợ cho ĐTTTRNN bắt đầu có những thay đổi
đáng kể từ năm 1991, bằng việc khuyến khích các doanh nghiệp (kể cả doanh
nghiệp vừa và nhỏ) mở rộng ra bên ngoài thông qua sự hỗ trợ của các cơ quan
chuyên trách, các chương trình xúc tiến đầu tư, các ưu đãi tài chính, ưu đãi thuế,
thành lập quỹ hỗ trợ ĐTTTRNN. Chính sách đầu tiên mà Chính phủ Malaysia thực
62
hiện thúc đẩy ĐTTTRNN là “Chính sách kinh tế mới” và “Tái cơ cấu kinh tế
Malaysia” (Mohamed Ariff, 2006) với mục tiêu thúc đẩy ĐTTTRNN. Chính phủ
Malaysia thông qua các doanh nghiệp sở hữu nhà nước mua lại các công ty ở
Malaysia vào cuối những năm 1970 và đầu những năm 1980. Các công ty này đã
tham gia vào thương mại quốc tế, khai thác mỏ thiếc, nông nghiệp trồng trọt và có
kinh doanh trong khu vực Đông Nam Á với trụ sở chính ở Malaysia.
Một yếu tố quan trọng nữa thúc đẩy ĐTTTRNN là việc thực hiện Đạo luật
điều phối công nghiệp (ICA) năm 1975. ICA yêu cầu cấp phép hoạt động sản xuất
tại Malaysia để đảm bảo “tăng trưởng và phát triển ngành công nghiệp”. Tuy nhiên,
ĐTTTRNN trong giai đoạn 1970-1990 là không đáng kể. Do đó, từ năm 1991,
Chính phủ Malaysia đã tăng hỗ trợ cho ĐTTTRNN bằng hình thức miễn thuế, các
ưu đãi về thuế và các quỹ đặc biệt. Theo đó, Chính phủ giảm thuế thu nhập doanh
nghiệp ở nước ngoài và khấu trừ thuế cho các chi phí trước khi doanh nghiệp hoạt
động kinh doanh ở nước ngoài. Từ năm 1995, tất cả thu nhập của các công ty
Malaysia đầu tư ở nước ngoài (trừ ngân hàng, bảo hiểm, doanh nghiệp vận tải hàng
không) được miễn hoàn toàn thuế thu nhập doanh nghiệp.
Các nghiên cứu về ĐTTTRNN của Malaysia (Kueh et al, 2008, 2009) cho
thấy rằng, sự gia tăng mở cửa thương mại là yếu tố quan trọng khuyến khích
ĐTTTRNN. Mức mở cửa thương mại cao sẽ giúp cho các doanh nghiệp xuất khẩu
học được nhiều hơn ở thị trường nước ngoài và các quy định có liên quan đến tiêu
chuẩn, khắc phục được khác biệt về ngôn ngữ, văn hóa và pháp lý, định vị được
khách hàng ở nước ngoài, tổ chức các hoạt động ở nước ngoài và tiếp thị được sản
phẩm trên thị trường quốc tế…Sự mở cửa thương mại có vai trò quan trọng trong
việc khuyến khích ĐTTTRNN, đặc biệt khi nó trở thành một chiến lược quan trọng
làm tăng dòng vốn ĐTTTRNN của nước này.
* Gợi ý cho Việt Nam
Trên cơ sở kinh nghiệm thúc đẩy đầu tư của Malaysia, gợi ý cho Việt Nam
một số điểm sau:
Thứ nhất, Malaysia coi ĐTTTRNN là chiến lược quan trọng để phát triển
kinh tế đất nước. Từ đó, Malaysia đã xây dựng chiến lược, chính sách ĐTTTRNN
63
từng bước rõ bỏ rào cản đối với doanh nghiệp ĐTTTRNN. Vì vậy, Việt Nam cần
đánh giá lại vai trò của ĐTTTRNN. Luật Đầu tư năm 2014 đã tạo được bước tiến
trong nhận thức về DDTTTRNN với nhiều quy định mới và tiếp đó là Nghị định
83/2015/NĐ-CP ngày 25/09/2015 về ĐTRNN. Song, Việt Nam vẫn cần một chiến
lược ĐTRNN, trong đó quy định rõ những ngành nghề cần khuyến khích và cơ chế
hỗ trợ. Mặc dù Việt Nam là quốc gia đang phát triển, rất cần vốn để phát triển trong
nước, song cần có cách tiếp cận mở, đầu tư phải hiệu quả. Bởi vậy, cơ hội phải tìm
kiếm trên thị trường thế giới, không nên có tư duy giữ vốn, hạn chế doanh nghiệp
mang vốn ra đầu tư ở nước ngoài. Viettel, Vinamilk, TH Truemilk là một số hình
mẫu trong đầu tư ra nước ngoài, không những có lãi đem ngoại tệ về cho đất nước,
mà còn làm tăng vị thế của doanh nghiệp Việt Nam.
Thứ hai, Malaysia tích cực đàm phán ký kết các hiệp định song phương, đa
phương về thương mại, đầu tư. Đặc biệt, chính sách mở cửa thương mại góp phần
thúc đẩy ĐTTTRNN của Malaysia. Việt Nam mặc dù đã tích cực ký đàm phán
thương mại song phương và đa phương nhưng đàm phán về đầu tư vẫn chưa được
thực hiện ở nhiều quốc gia dẫn đến khả năng tiếp cận thị trường nước ngoài của các
doanh nghiệp Việt Nam còn hạn chế, khó khăn làm giảm cơ hội ĐTRNN. Do đó,
các doanh nghiệp Việt Nam cần có sự hỗ trợ từ Chính phủ thông qua việc ký kết các
hiệp định không chỉ về thương mại mà còn cả về đầu tư để từ đó làm tiền đề cho các
doanh nghiệp dễ dàng hơn ở nước ngoài.
Thứ ba, Nhà nước cần khuyến khích hỗ trợ việc thành lập các hiệp hội doanh
nghiệp Việt Nam ĐTRNN ở từng nước sở tại nhằm tăng cường sự hợp tác, liên kết,
hỗ trợ lẫn nhau khi các doanh nghiệp Việt Nam cung ĐTRNN. Hiệp hội còn có tác
dụng bảo vệ quyền lợi của các doanh nghiệp Việt Nam ở nước ngoài (giống như
cách thức các nhà đầu tư nước ngoài thành lập tại Việt Nam các tổ chức theo hình
thức hiệp hội như EuroCharm của các nhà đầu tư đến từ châu Âu, KorCharm của
các nhà đầu tư đến từ Hàn Quốc hay MBC của các nhà đầu tư đến từ Malaysia…đã
lên tiếng bảo vệ quyền lợi của bất kỳ doanh nghiệp nào trong tổ chức của họ.
Như vậy, có thể khẳng định từ thực tiễn khi ĐTTT sang ASEAN qua các
thời kỳ của Nhật Bản, Singapore và Malaysia có thể là gợi ý để Việt Nam căn cứ
64
vào điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của mình trong việc hoàn thiện các cơ chế, chính
sách về ĐTTT sang ASEAN trong thời gian tới. ĐTTT sang ASEAN là một hoạt
động có vai trò và tầm quan trọng rất lớn trong xã hội hiện nay, bên cạnh việc giúp
củng cố vai trò chính trị và địa vị kinh tế của Việt Nam trong khu vực và trên thế
giới, thúc đẩy nhanh tiến trình hội nhập sâu rộng kinh tế quốc tế, hoạt động đầu tư
này còn giúp các doanh nghiệp Việt Nam thâm nhập sâu hơn vào thị trường thế
giới, tìm kiếm cơ hội đầu tư tốt hơn tại ASEAN.
65
CHƯƠNG 3: PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP CỦA CÁC
DOANH NGHIỆP VIỆT NAM SANG ASEAN TRONG KHUÔN KHỔ AEC
3.1.Phân tích thực trạng đầu tư trực tiếp của các doanh nghiệp Việt Nam sang
ASEAN
3.1.1. Theo địa điểm đầu tư
Về giá trị
Hoạt động đầu tư trực tiếp của các doanh nghiệp Việt Nam sang ASEAN bắt
đầu được thực hiện từ năm 1991 với liên doanh đầu tư kinh doanh du lịch trong lĩnh
vực Kinh doanh du lịchcủa Công ty Du lịch Thành phố Hồ Chí Minh
(Saigontourist). Đây là dự án đầu tiên, đặt nền móng cho hoạt động ĐTTT của các
doanh nghiệp Việt Namsang ASEAN, giúp các doanh nghiệp Việt Nam tiếp cận
được với thị trường khu vực.
Bảng 3.1.Đầu tư trực tiếp của các doanh nghiệp Việt Nam sang ASEAN
giai đoạn 1991-2019
Dự án
Vốn đăng ký đầu tư
Stt
Quốc gia
Quy mô bình quân mỗi dự án (USD/dự án)
Số tiền (USD)
Số lượng
Tỷ trọng (%) 36,66
Tỷ trọng (%) 5.124.424.886 45,65
17.549.400
290
1
Lào
27,05
3.074.403.356 27,39
14.366.371
214
2
Campuchia
13,40
1.466.384.054 13,06
13.833.812
106
3
Myanmar
2,78
1.169.191.705 10,42
53.145.078
22
4
Malaysia
2.661.397
5
Singapore
111
14,03
295.415.083
2,63
17
2,15
56.020.416
0,50
3.295.319
6
Indonesia
22
2,78
30.058.650
0,27
1.366.302
7
Thái Lan
7
0,88
6.484.780
0,06
926.397
8
Philippines
2
0,25
3.650.000
0,03
1.825.000
9
Brunei
Tổng số
791
100
11.226.032.930
100
14.182.304
(Nguồn: Tính toán của tác giả dựa trên số liệu về các dự án đầu tư của Cục ĐTNN-
Bộ KH&ĐT, 2019)
66
Theo số liệu của Cục ĐTNN-Bộ KH&ĐT, tính đến hết năm 2019, Việt Nam
có lũy kế 791 dự án đầu tư ra sang ASEAN đã được cấp Giấy chứng nhận đăng ký
đầu tư với tổng vốn đăng ký đầu tư ra nước ngoài gần 11,23 tỷ USD, quy mô bình
5,124,424,886
3,074,403,356
1,466,384,054
1,169,191,705
295,415,083
56,020,416 30,058,650
6,484,780
3,650,000
quân mỗi dự án đạt gần 14,2 triệu USD.
Biểu đồ 3.1.Đầu tư trực tiếp của các doanh nghiệp Việt Nam sang ASEAN theo
địa điểm đầu tư giai đoạn 1991-2019
Đơn vị tính: USD
(Nguồn: Tính toán của tác giả dựa trên số liệu về các dự án đầu tư của Cục ĐTNN- Bộ KH&ĐT, 2019)
Trong đó, số dự án đầu tư còn hiệu lực khá lớn, có 622 giấy chứng nhận đăng
ký đầu tư còn hiệu lực (chiếm 78,63 % tổng số dự án), tổng vốn đăng ký là 10,2 tỷ
USD (chiếm 90,66 % tổng số vốn đăng ký đầu tư).
Phần lớn các dự án hết hiệu lực là từ trước năm 2015, các giai đoạn trước khi
AEC được ký kết, số lượng các dự án đầu tư trong giai đoạn này khá đông, nhưng
giá trị thấp, thời gian đầu tư ngắn, chỉ mang tính chất thăm dò, các dự án đầu tư chủ
yếu tập trung ồ ạt tại Lào, Campuchia, Singapore, và sau đó là Myanmar. Sau năm
2015, khi AEC được ký kết, các dự án đầu tư của doanh nghiệp Việt Nam đã triển
khai sang một số thị trường trước đây chưa thâm nhập sâu như Phillippines, Thái
Lan, Malaysia, Indonesia. Số lượng các dự án không ồ ạt như trước mà đi vào chiều
sâu.
67
Bảng 3.2. Đầu tư trực tiếp của các doanh nghiệp Việt Nam sang ASEAN theo
tình trạng hiệu lực của dự án đầu tư giai đoạn 1991-2019
Số dự án
Vốn đăng ký đầu tư
Tình trạng hiệu lực của dự án
Số lượng
Tỷ trọng (%)
Số tiền (USD)
Tỷ trọng (%)
Còn hiệu lực
622
78,31
10.177.301.486
90,66
Hết hiệu lực
169
21,37
1.048.731.444
9,34
Tổng
791
100
11.226.032.930
100
(Nguồn: Tính toán của tác giả dựa trên số liệu về các dự án đầu tư của Cục ĐTNN-
Bộ KH&ĐT, 2019)
Cho đến nay, đầu tư của Việt Nam đã có mặt ở cả 9 quốc gia trong ASEAN,
trong đó, bảng xếp hạng những nước tiếp nhận vốn đầu tư trực tiếp của Việt Nam
liên tục thay đổi theo từng năm. Tuy nhiên, nhóm ba vị trí dẫn đầu trong các địa
điểm được các nhà đầu tư Việt Nam lựa chọn để tiến hành bỏ vốn đầu tư, sản xuất
kinh doanh vẫn thuộc về các nước như Lào, Campuchia, Myanmar. Trong đó, vốn
đầu tư tập trung nhiều nhất tại Lào (5,12 tỷ USD, chiếm 45,65% tổng số vốn đăng
ký đầu tư), tiếp đó là Camphuchia (3,07 tỷ USD, chiếm 27,39% tổng số vốn đăng
ký đầu tư), Myanmar (1,47 tỷ USD, chiếm 13,06%). Tiếp theo là các thị trường
Malaysia (1,16 tỷ USD), Singapore (295 triệu USD), Indonesia (56 triệu USD),
Thái Lan (30 triệu USD, chỉ chiếm 0,27%), Philippines (6,4 triệu USD, chỉ chiếm
0,06%) và thấp nhất là Brunei (3,6 triệu USD, chỉ chiếm 0,03%) (Cục ĐTNN-Bộ
KH&ĐT, 2019). Từ số liệu trên cho thấy, đa số các doanh nghiệp Việt Nam đầu tư
vào Lào, Campuchia và Myanmar vì nguồn tài nguyên thiên nhiên ở các nước này
khá dồi dào, giá thuê nhân công tương đối rẻ, điều kiện đi lại thuận tiện, chi phí
thấp, cũng như có nhiều nét tương đồng về văn hóa.
Một số nước có tổng số vốn đầu tư lớn nhất
* Tại Lào
68
2.15 0.88
2.78 2.78
0.25
Lào
13.40
Campuchia
36.66
Singapore
Myanmar
14.03
Malaysia
Thái Lan
Indonesia
27.05
Philippines
Brunei
Biểu đồ 3.2.Cơ cấu đầu tư trực tiếp củacác doanh nghiệp Việt Nam sang
ASEAN theo số dự án giai đoạn 1991-2019 (%)
(Nguồn: Tính toán của tác giả dựa trên số liệu về các dự án đầu tư của Cục ĐTNN-
Bộ KH&ĐT, 2019)
Cũng tại bảng 3.2 và sơ đồ 3.2, các số liệu thống kê cho thấy, số dự án đầu tư
trực tiếp của các doanh nghiệp Việt Nam sang Lào là nhiều nhất trong số 9 quốc gia
ASEAN với 290 dự án, chiếm 36,66% tổng số dự án đầu tư trực tiếp sang
ASEANcủa Việt Nam. Tổng số vốn đăng ký đầu tư của phía Việt Nam đạt 5,12 tỷ
USD, quy mô đầu tư bình quân đạt khoảng 17,5 triệu USD/dự án (Cục ĐTNN-Bộ
KH&ĐT, 2019). Lào có nhiều tiềm năng về đất đai, tài nguyên thiên nhiên, năng
lượng, khoáng sản và lao động giá rẻ nhưng lại thiếu vốn, công nghệ tiên tiến.
Trong những năm gần đây hai bên đã hợp tác phát triển nhiều dự án về hạ tầng,
năng lượng và nguồn nguyên liệu. Việt Nam coi đầu tư sang Lào là hình thức hợp
tác kinh tế có tính chiến lược lâu dài, Chính phủ luôn tạo điều kiện để các doanh
nghiệp đầu tư tại Lào có hiệu quả. Hơn nữa Lào là quốc gia láng giềng, có thể tiết
kiệm được chi phí vận chuyển, thời gian di chuyển. Các dự án đầu tư ở Lào chủ yếu
là khai thác khoáng sản, thủy điện, sản xuất vật liệu xây dựng, chế biến gỗ, xây
dựng cầu đường, sản xuất hàng gia dụng, kinh doanh siêu thị, du lịch…
Tổng vốn thực hiện lũy kế đạt khoảng 2 tỷ USD, trong đó một số dự án đã đi
vào hoạt động đạt hiệu quả tốt, nhà đầu tư đã có doanh thu và đã thực hiện các
nghĩa vụ tài chính với các cơ quan nhà nước Lào và tạo ra việc làm ổn định cho
69
khoảng hàng vạn lao động của Lào. Các dự án trồng cây công nghiệp của các doanh
nghiệp Việt Nam đã góp phần phát triển kinh tế-xã hội Lào, cải thiện đời sống nhân
dân địa phương, cải thiện môi trường, thay đổi tập quán người dân, nhất là tập quán
du canh du cư của người dân Lào.
Nhiều dự án đầu tư của Việt Nam tại Lào hoạt động, đóng góp cho sự phát
triển kinh tế-xã hội của Lào, đã được phía Lào ghi nhận và đánh giá cao. Trong quá
trình triển khai thực hiện các dự án đầu tư tại Lào, các doanh nghiệp Việt Nam cũng
phối hợp tốt với các chính quyền địa phương của Lào, đặc biệt đã tham gia tích cực
các hoạt động cộng đồng tại các địa phương với số tiền hàng hơn 80 triệu USD
thông qua việc xây dựng một số trường học, bệnh xá, đường, nhà tái định cư cho
người dân vùng dự án…
Các dự án đầu tư hiện tại của Việt Nam tạo nền tảng, cơ sở cho việc hình thành
và phát triển các ngành công nghiệp, nông nghiệp, phát triển đô thị, khách sạn, ngân
hàng, dịch vụ…của Lào, đồng thời tạo việc làm cho hàng vạn lao động, giúp nâng
cao năng lực lao động, tạo thu nhập, cải thiện đời sống người lao động; bổ sung
nguồn thu cho ngân sách nhà nước Lào.
* Tại Campuchia
Số liệu thống kê cho thấy, số lượng dự án của các doanh nghiệp Việt Nam đầu
tư vào Campuchia đứng thứ hai sau Lào. Tính đến hết năm 2019, Việt Nam có 214
dự án dầu tư vào Campuchia, chiếm khoảng 27.05% tổng số dự án đầu tư sang
ASEAN. Tổng số vốn đăng ký đầu tư của phía Việt Nam vào Campuchia vào đạt
3,07 tỷ USD, quy mô đầu tư bình quân đạt khoảng 14,3 triệu USD/dự án, thấp hơn
so với mức đầu tư bình quân tại Lào (Cục ĐTNN-Bộ KH&ĐT, 2019).
Đến hết năm 2019, vốn chuyển ra nước ngoài để thực hiện dự án (chưa kể các
dự án vay vốn Ngân hàng Việt Nam tại Campuchia) lũy kế đến nay đạt 1,5 tỷ USD,
chiếm 53,57% tổng vốn đầu tư đăng ký (Cục ĐTNN-Bộ KH&ĐT, 2019). Trong đó,
nhiều dự án đã đi vào hoạt động đạt hiệu quả tốt, nhà đầu tư đã có doanh thu và đã
thực hiện các nghĩa vụ tài chính với các cơ quan nhà nước Campuchia và tạo ra việc
làm ổn định cho hàng vạn lao động của Campuchia.
70
Các dự án nông nghiệp và trồng cây công nghiệp của các doanh nghiệp Việt
Nam đã góp phần phát triển kinh tế-xã hội Campuchia, cải thiện đời sống nhân dân
địa phương, cải thiện môi trường, thay đổi tập quán người dân, nhất là tập quán du
canh du cư của người dân Campuchia.
Nhìn chung, nhiều dự án đầu tư của Việt Nam tại Campuchia hoạt động tốt,
đóng góp nhiều mặt cho kinh tế-xã hội Campuchia, đã được phía Campuchia ghi
nhận và đánh giá cao. Các dự án đầu tư hiện tại của Việt Nam đã có thương hiệu
mạnh tại Campuchia, tạo nền tảng, cơ sở cho việc thành lập các ngành công nghiệp
trong tương lai của Campuchia như hãng viễn thông Metfone của Viettel; Hãng
hàng không quốc gia Campuchia Angkor Air do Vietnam Airline nắm cổ phần chi
phối; Ngân hàng đầu tư phát triển Campuchia (BIDC), Công ty TNHH Sữa Angkor
(AngkorMilk); các dự án trong lĩnh vực nông lâm nghiệp…; nhiều hàng nông sản
của Campuchia xuất sang thị trường châu Âu, Nhật Bản, Hàn Quốc...do các doanh
nghiệp Việt Nam đầu tư. Các dự án đầu tư của Việt Nam đồng thời tạo việc làm cho
hàng vạn lao động, giúp nâng cao năng lực lao động, tạo thu nhập, cải thiện đời
sống người lao động; bổ sung nguồn thu cho ngân sách nhà nước Campuchia.
* Tại Myanmar
Tại Myanmar, tính đến hết năm 2019, Việt Nam có 106 dự án dầu tư vào
Myanmar, chiếm khoảng 13,4% tổng số dự án đầu tư sang ASEAN. Tổng số vốn
đăng ký đầu tư của phía Việt Nam vào Myanmar vào khoảng 1,46 tỷ USD, quy mô
đầu tư bình quân đạt 13,8 triệu USD/dự án, thấp hơn so với mức đầu tư bình quân
tại Lào, Campuchia (Cục ĐTNN-Bộ KH&ĐT, 2019).
Các dự án đầu tư của Việt Nam sang Myanmar tập trung nhiều nhất trong lĩnh
vực viễn thông (60,5%), bất động sản hạ tầng (17,3%), tài chính-ngân hàng-bảo
hiểm (10,4%), khai khoáng (10,5%) và các dịch vụ khác (2%). Việt Nam vươn lên
từ vị trí là nước đầu tư đứng thứ 22 tại thị trường Myanmar năm 2009 lên vị trí thứ
bảy trong các quốc gia đầu tư vào Myanmar năm 2019 (Cục ĐTNN-Bộ KH&ĐT,
2019). Trong đó, nổi bật nhất là dự án đầu tư của Tập đoàn Công nghệ Viễn thông
Quân đội (Viettel). Ngoài ra, còn có dự án đầu tư của các tập đoàn lớn như: Hoàng
Anh Gia Lai, Ngân hàng đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV)…Hiện nhiều doanh
71
nghiệp của Việt Nam cũng có kế hoạch mở rộng đầu tư vào Myanmar như: FPT,
VNPT, Đông Á, Minh Đức, Eurowindow...
Trong những năm gần đây, thị trường Myanmar trở nên đặc biệt hấp dẫn, thu
hút đông đảo các doanh nghiệp Việt Nam tới làm ăn, kinh doanh. Đó là nhờ vào
việc Myanmar đã và đang thực hiện nhiều biện pháp cải cách, mở cửa liên quan đến
thương mại và đầu tư, hướng tới việc phát triển một nền kinh tế bền vững. Điều
được thể hiện ở việc ban hành Luật đầu tư mới 2016 và Luật doanh nghiệp 2017 có
hiệu lực thi hành vào tháng 8/2018. Điểm nổi trội nhất của Luật doanh nghiệp 2017
là nhà đầu tư nước ngoài có thể mua tối đa 35% cổ phần trong doanh nghiệp bản địa
và có thể thực hiện chức năng kinh doanh, điều mà trước đây nhà đầu tư nước ngoài
không được phép (Cục ĐTNN-Bộ KH&ĐT, 2019).
3.1.2.Theo giai đoạn đầu tư
Các dự án ĐTTT của Việt Nam sang ASEAN có thể được chia theo 4 giai
đoạn: Giai đoạn 1:1991-1998; Giai đoạn 2: 1999-2005; Giai đoạn 3: 2006-2015;
Giai đoạn 4: 2016-2019 (sau khi AEC bắt đầu có hiệu lực)
Bảng 3.3.Đầu tư trực tiếp của các doanh nghiệp Việt Nam sang ASEAN theo
giai đoạn đầu tư giai đoạn 1991-2019
Giai đoạn
Dự án Số lượng Tỷ trọng
Quy mô vốn bình quân mỗi dự án (USD/dự án)
Vốn đăng ký đầu tư Số tiền (USD)
1991-1998
7
Tỷ trọng (%) 0,03
3.664.811
523.544
(%) 0,88
1999-2005
72
2.047.879.417
18,24
28.442.770
9,10
2006–2015
465
7.653.835.239
68,18
16.459.861
58,79
2016-2019
247
1.520.653.463
13,55
6.156.492
31,23
Tổng số
791
100
11.226.032.930
100
14.192.203
(Nguồn: Tính toán của tác giả dựa trên số liệu về các dự án đầu tư của Cục
ĐTNN-Bộ KH&ĐT, 2019)
Giai đoạn 1: 1991-1998 (giai đoạn thăm dò)
Các hoạt động ĐTRNN diễn ra trước khi có quy định của Nhà nước trong lĩnh
vực này. Phần lớn hoạt động đầu tư ra nước ngoài mang tính tự phát, chưa có hướng
72
dẫn và sự thừa nhận chính thức từ hệ thống pháp luật của Nhà nước. Chính vì vậy, các
doanh nghiệp Việt Nam còn khá dè dặt trong việc ĐTRNN, chủ yếu là các công ty có
vốn nhà nước thành lập liên doanh với đối tác nước ngoài, hoạt động đầu tư chỉ mang
tính chất thăm dò thị trường, số dự án đầu tư khá thấp với 7 dự án, tổng vốn đầu tư là
3,66 triệu USD, chiếm tỷ trọng 0,88% tổng quy mô vốn đăng ký đầu tư. Quy mô bình
quân của mỗi dự án đạt 0,5 triệu USD (Cục ĐTNN-Bộ KH&ĐT, 2019).
Giai đoạn2:1999-2005 (giai đoạn phát triển)
Chính phủ Việt Nam bắt đầu thừa nhận tính hợp pháp của hoạt động
ĐTRNN bằng Nghị định 22/1999/NĐ-CP quy định về ĐTRNN của các doanh
nghiệp Việt Nam và văn bản hướng dẫn thi hành như Thông tư 05/2001/TT-
BKH hướng dẫn hoạt động ĐTRNN của các doanh nghiệp Việt Nam, cùng các
văn bản khác quy định về các vấn đề liên quan như quản lý ngoại hối, thuế áp
dụng đối với các doanh nghiệp ĐTRNN. Đây là những cơ sở pháp lý đầu tiên,
mang tính chất định hướng cho các doanh nghiệp Việt Nam trong quá trình
ĐTRNN, nói chung và sang ASEAN nói riêng. Được sự thừa nhận của luật pháp,
từ đây hoạt động ĐTRNN bắt đầu thu hút nhiều doanh nghiệp tham gia hơn, các
hoạt động ĐTTT sang ASEAN của các doanh nghiệp Việt Nam đã có nhiều khởi
sắc. Đầu tiên, các doanh nghiệp tập trung đầu tư tại Lào, Campuchia, sau dần
dần đã đầu tư sang Thái Lan, Singapore, Malaysia…Đến hết năm 2005, các
doanh nghiệp Việt Nam đã đầu tư sang 6 quốc gia là Singapore, Malaysia,
Indonesia, Thái Lan, Lào, Campuchia. Riêng giai đoạn 1999-2005, tổng số vốn
đăng ký đầu tư là 2,04 tỷ USD chiếm tỷ trọng 18,24% tổng quy mô vốn đăng ký đầu
tư. Quy mô bình quân của mỗi dự án đạt trên 28,4 triệu USD (Cục ĐTNN-Bộ
KH&ĐT, 2019). Quy mô vốn đầu tư trong cả giai đoạn này tăng khoảng 551 lần so
với giai đoạn trước đó, điều đó chứng tỏ sự tăng trưởng quy mô vốn đăng ký đầu
tư rất lớn.
Giai đoạn 3: 2006-2015 (giai đoạn bùng nổ)
Luật Đầu tư 2005 và Nghị định 78/2006/NĐ-CP hướng dẫn về ĐTRNN ra đời,
dẫn đến ĐTRNN tăng mạnh về mặt số lượng cũng như số vốn đăng ký. Nguyên
nhân tăng mạnh hoạt động ĐTRNN gồm: xu hướng hội nhập quốc tế, sự phổ cập
73
rộng rãi quy định pháp luật về ĐTRNN, sự lớn mạnh nhất định của doanh nghiệp
trong nước. Ngoài ra, giai đoạn này nhiều doanh nghiệp nhà nước thực hiện
ĐTRNN theo Quyết định 236 về khuyến khích ĐTRNN của Thủ tướng Chính phủ.
Các dự án ĐTRNN của DNNN thường ở trong các lĩnh vực đòi hỏi vốn lớn (thăm
dò khai thác dầu khí, khai khoáng, trồng cây công nghiệp, viễn thông, thủy điện…)
dẫn đến sự gia tăng mạnh vốn đăng ký ĐTRNN trong giai đoạn này. Trong 8 năm
của giai đoạn này, mỗi năm bình quân có 58 dự án mới được đăng ký của các doanh
nghiệp Việt Nam đầu tư sang ASEAN, với quy mô bình quân mỗi dự án đạt 16,45
triệu USD. Quy mô vốn đăng ký đầu tư đạt 7,65 tỷ USD, chiếm tỷ trọng 68,18%
tổng số vốn đăng ký. Quy mô vốn đầu tư trong cả giai đoạn này tăng khoảng 3,7 lần
so với giai đoạn trước đó (Cục ĐTNN-Bộ KH&ĐT, 2019).
Hầu hết các dự án đều có quy mô lớn và tập trung trong nhiều lĩnh vực đòi hỏi
vốn lớn, công nghệ cao như dầu khí, khai khoáng, viễn thông, ngân hàng. Số lượng
quốc gia tiếp nhận vốn đầu tư của các doanh nghiệp Việt Nam đã rải khắp tất cả các
nước thành viên của ASEAN. Điều này cho thấy sự tăng trưởng của hoạt động
ĐTTT sang ASEAN cả về chiều rộng và chiều sâu.
Giai đoạn 4: 2016-2019 (giai đoạn ổn định)
Trong giai đoạn này, Luật Đầu tư 2015 và Nghị định 83/2015/NĐ-CP đã có
hiệu lực, thay thế các quy định cũ về ĐTRNN. Về cơ bản cách thức quản lý
ĐTRNN không thay đổi nhưng chuyển từ nguyên tắc thẩm tra cấp Giấy chứng nhận
ĐTRNN sang nguyên tắc ghi nhận cấp Giấy chứng nhận đăng ký ĐTRNN, đơn giản
hóa thủ tục hành chính cấp Giấy chứng nhận ĐTRNN.
Đặc biệt, Cộng đồng Kinh tế ASEAN được thành lập vào ngày 31/12/2015 đã
đem lại cơ hội cho các doanh nghiệp như được tiếp cận nguồn đầu vào (nguyên
nhiên vật liệu, hàng hóa trung gian) giá thấp hơn do hàng rào thuế quan cơ bản được
xóa bỏ và chi phí giao dịch, thương mại trong ASEAN giảm xuống; được hưởng lợi
do chi phí giảm và thủ tục xuất khẩu thuận lợi hơn, nhờ việc cắt giảm thuế quan,
quy tắc xuất xứ linh hoạt và thủ tục hải quan thuận lợi hơn, cùng nhiều lợi thế khác
là kết quả của hợp tác khu vực; có cơ hội tiếp cận thị trường các nước thành viên
ASEAN khác do các biện pháp phân biệt đối xử trong ASEAN được xóa bỏ; Nhà
74
đầu tư có thể tham gia các dự án đầu tư đa dạng trên toàn khu vực một cách thuận
lợi hơn do luật và quy định trở nên minh bạch, các hạn chế về vốn góp nước ngoài
được nới lỏng và đầu tư được bảo hộ hiệu quả hơn; Lao động có tay nghề có nhiều
cơ hội việc làm trong ASEAN.
Trong gần 5 năm của giai đoạn này, khá ngắn so với giai đoạn trước đó, đã có
247 dự án với tổng số vốn đầu tư 1,52 tỷ USD, quy mô bình quân mỗi dự án đạt
6,15 triệu USD (Cục ĐTNN-Bộ KH&ĐT, 2019). Nguyên nhân: số lượng hoạt động
ĐTRNN của doanh nghiệp nhà nước/có vốn nhà nước trong các lĩnh vực có quy mô
vốn lớn giảm. Tuy nhiên, số lượng hoạt động đầu tư vẫn ổn định và tăng nhẹ (do sự
tham gia ngày càng nhiều của doanh nghiệp nhà nước và của các cá nhân) cho thấy
xu hướng ĐTRNN vẫn là xu hướng tất yếu cùng với sự phát triển và tính chất mở
cửa của nền kinh tế.
Trong giai đoạn này phải kể đến một số hoạt động ĐTTT của các doanh
nghiệp Việt Nam sang ASEAN có vốn đăng ký lớn trên 80 triệu USD: Dự án đầu tư
và kinh doanh mạng viễn thông và công nghệ thông tin tại Myanmar (Telecom
International Myanmar Co Ltd) của Tổng công ty CP Đầu tư Quốc tế Viettel: 860
triệu USD; Dự án Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam-Chi nhánh
Yangon tại Myanmar của Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam: 85
triệu USD; Dự án Ngân hàng 100% vốn của Vietcombank tại Lào (Vietcombank
Laos Limited) của Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank): 80
triệu USD).
3.1.3.Theo lĩnh vực đầu tư
Giai đoạn 1: 1991-1998
Trong giai đoạn đầu khi tiến hành đầu tư, các nhà đầu tư Việt Nam thường
chỉ tập trung trong một số lĩnh vực như bán buôn, bán lẻ; vận tả kho bãi hoặc dịch
vụ với số vốn ít, thời gian đầu tư ngắn, địa bàn thường tại Lào, Thái Lan với số dự
án thưa thớt, mỗi năm có 1-2 dự án đầu tư. Năm 1994, có một dự án đầu tư quan
trọng tại Lào với tổng số vốn đầu tư lên tới 1 triệu USD trong lĩnh vực nông nghiệp,
lâm nghiệp và thủy sản của Tổng Công ty xây dựng 11 (Tổng Công ty Thành An,
Tổng cục Hậu Cần, Bộ Quốc Phòng). Dự án này đánh dấu sự mở đầu trong tăng
75
trưởng về quy mô và mở rộng lĩnh vực đầu tư trong các giai đoạn tiếp theo. Đến
cuối năm 1998, có thêm mộ dự án quan trọng khác trong lĩnh vực xây dựng, đó là
dự án Cty Xây lắp, COECCO Việt Lào, Công ty Hợp tác Kinh tế (COECCO-L) của
Công ty Hợp tác Kinh tế-Quân khu 4, Bộ Quốc Phòng tại Lào, mục tiêu của dự án
xây dựng nhà cửa, cầu, đường, công trình thủy lợi và công trình khác với số vốn
đăng ký đầu tư tại thời điểm đó lên tới 1,5 triệu USD. Đây là dự án xây dựng cơ sở
hạ tầng cho người dân Lào, tạo tiền đề cho các dự án tiếp theo.
Bảng 3.4. Đầu tư trực tiếp của các doanh nghiệp Việt Nam sang ASEAN
theo lĩnh vực đầu tư và các giai đoạn đầu tư giai đoạn 1991-2019
Lĩnh vực đầu tư
Giai đoạn
Vốn đăng ký (USD)
1991- 1998
Công nghiệp chế biến, chế tạo Dịch vụ khác Nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản Vận tải kho bãi Xây dựng
Tổng
Số dự án 1 1 1 3 1 7
Tỷ trọng (%) 306.811 8,37 98.000 2,67 1.000.000 27,29 760.000 20,74 1.500.000 40,93 100 3.664.811
9
1.685.331 0,08
29 2
20.152.561 0,98 407.647 0,02
7
3.657.756 0,18
1999- 2005
1 9 7
100.000 0,00 1.633.457.529 79,76 110.693.902 5,41
1
273.111.000 13,34
Bán buôn và bán lẻ; sửa chữa ô tô, mô tô, xe máy và xe có động cơ khác Công nghiệp chế biến, chế tạo Dịch vụ khác Hoạt động chuyên môn, khoa học và công nghệ Hoạt động hành chính và dịch vụ hỗ trợ Khai khoáng Nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản Sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí Thông tin và truyền thông Xây dựng
Tổng
1 6 72
29.500 0,00 4.584.191 0,22 100
2.047.879.417
79
87.120.237 1,14
59
234.156.840 3,06
2
7.920.000 0,10
2006- 2015
15 11 3
9.718.912 0,13 105.211.448 1,37 1.846.700 0,02
21
217.258.957 2,84
Bán buôn và bán lẻ; sửa chữa ô tô, mô tô, xe máy và xe có động cơ khác Công nghiệp chế biến, chế tạo Cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải Dịch vụ khác Dịch vụ lưu trú và ăn uống Giáo dục và đào tạo Hoạt động chuyên môn, khoa học và công nghệ Hoạt động hành chính và dịch vụ hỗ trợ
14
6.048.129 0,08
76
Lĩnh vực đầu tư
Giai đoạn
Vốn đăng ký (USD)
Số dự án 12 18 73 1 88
Tỷ trọng (%) 369.958.138 4,83 617.754.489 8,07 723.929.771 9,46 1.000.000.000 13,07 2.776.015.792 36,27
6
1.142.891.587 14,93
Hoạt động kinh doanh bất động sản Hoạt động tài chính, ngân hàng và bảo hiểm Khai khoáng Nghệ thuật, vui chơi và giải trí Nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản Sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí Thông tin và truyền thông Vận tải kho bãi Xây dựng Y tế và hoạt động trợ giúp xã hội
Tổng
21 18 21 3 465
246.537.594 3,22 52.668.000 0,69 40.828.230 0,53 13.970.415 0,18 100
7.653.835.239
65
77.893.751 5,12
22
71.216.925 4,68
2
551.000 0,04
4 2 1
28.389,232 1,87 469,019 0,03 135,000 0,01
26
6,415,077 0,42
2016 - 2019
8 2 5 8 1 11
1,503,916 0,10 5,770,000 0,38 167,719,999 11,03 50,085,735 3,29 82,000 0,01 134,960,756 8,88
2
70,545,000 4,64
Bán buôn và bán lẻ; sửa chữa ô tô, mô tô, xe máy và xe có động cơ khác Công nghiệp chế biến, chế tạo Cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải Dịch vụ khác Dịch vụ lưu trú và ăn uống Giáo dục và đào tạo Hoạt động chuyên môn, khoa học và công nghệ Hoạt động hành chính và dịch vụ hỗ trợ Hoạt động kinh doanh bất động sản Hoạt động tài chính, ngân hàng và bảo hiểm Khai khoáng Nghệ thuật, vui chơi và giải trí Nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản Sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí Thông tin và truyền thông Vận tải kho bãi Xây dựng Y tế và hoạt động trợ giúp xã hội
Tổng
26 10 49 3 247
877,266,795 57,69 7,880,000 0,52 17,749,258 1,17 2,020,000 0,13 100
1,520,653,463
(Nguồn: Tính toán của tác giả dựa trên số liệu về các dự án đầu tư của Cục ĐTNN-
Bộ KH&ĐT, 2019)
Giai đoạn2: 1999-2005
Đến giai đoạn 2, các lĩnh vực đầu tư được mở rộng, đa dạng hơn (10 lĩnh
vực, tăng 4 lĩnh vực so với gian đoạn trước), xu hướng đầu tư vào lĩnh vực Khai
khoáng; Sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa
77
không khí; Nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản; Công nghiệp chế biến, chế tạo
tăng nhanh. Lĩnh vực khai khoáng trong giai đoạn này chiếm 79,76% tổng số vốn
đầu tư sang ASEAN (1,63 tỷ USD). Các dự án điển hình đó là, dự án Công ty
TNHH Hoá chất và Muối mỏ Việt–Lào với mục tiêu thăm dò muối mỏ tại Bản
Nomg Lom, huyện Nong Bok, tỉnh Khăm Muộn, Lào của Tổng công ty Hóa chất
Việt Nam, số vốn đầu tư 522,4 triệu USD. Dự án Hợp đồng thăm dò, khai thác lô
PM 304-Malaysia tại Malaysia của Công ty TNHH MTV-Tổng Công ty thăm dò
khai thác dầu khí, số vốn đầu tư lên tới 804,2 triệu USD. Điểm nổi bật trong giai
đoạn này, năm 2005, trong lĩnh vực sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng,
hơi nước và điều hòa không khí đó là dự án duy nhất của Cty TNHH Điện Xekaman
3 tại Lào của Công ty Cổ Phần Điện Việt–Lào, số vốn đăng ký 273 triệu USD đây
là dự án đầu tiên làm tiền đề cho các dự án thủy điện sau này. Các lĩnh vực Sản xuất
và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí tăng nhanh
với số vốn đăng ký đầu tư chiếm 13,34%. Lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo tỷ
trọng trong vốn đầu tư giảm nhưng số dự án tăng từ 1 lên 29 dự án và tăng vốn đầu
tư từ 0,3 triệu USD lên 20 triệu USD) (Cục ĐTNN-Bộ KH&ĐT, 2019).
Giai đoạn 3: 2006-2015
Giai đoạn tiếp theo, đây là giai đoạn bùng nổ về số dự án, tổng số dự án lũy kế
đạt 465 dự án, tăng 393 dự án so với giai đoạn trước. Về lĩnh vực đầu tư, đã mở
rộng đầu tư sang 18 lĩnh vực, tăng 8 lĩnh vực đầu tư so với gia đoạn trước đó. Các
lĩnh vực đầu tư mới đó là: Nghệ thuật, vui chơi và giải trí (1 dự án duy nhất đó là
Đặc khu kinh tế Long Thành-Viên Chăn tại Lào của Công ty Cổ phần Đầu tư và
Kinh doanh Golf Long Thành, vốn đăng ký đầu tư 1 triệu USD; Hoạt động tài
chính, ngân hàng và bảo hiểm (18 dự án; 617,7 triệu USD); Hoạt động kinh doanh
bất động sản (12 dự án; 369,9 triệu USD); Vận tải kho bãi (18 dự án; 52,6 triệu
USD); Y tế và hoạt động trợ giúp xã hội (3 dự án; 13,9 triệu USD); và Cung cấp
nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải (2 dự án; 7,9 triệu USD) (Cục
ĐTNN-Bộ KH&ĐT, 2019). Trong đó, đáng chú ý nhất là lĩnh vực tài chính, ngân
hàng & bảo hiểm và thông tin &truyền thông. Tuy là ngành nghề ĐTRNN có điều
kiện nhưng do được “cởi trói” về chính sách nên trong giai đoạn này, số lượng dự
78
án trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng & bảo hiểm tăng nhanh, lên đến 18 dự án tại
Lào và Campuchia, phần nào hỗ trợ cho các doanh nghiệp Việt Nam khi đầu tư
sang 2 nước này trong việc giải tỏa vướng mắc về vốn đầu tư. Các dự án trong lĩnh
vực thông tin và truyền thông với sự góp mặt của các đại gia Việt Nam trong ngành
thông tin và truyền thông như Viettel, Vinafone, Mobifone, FPT…đã góp phần tạo
nên sự tăng trưởng vượt bậc của các dự án trong ngành trong một thời gian ngắn
(chiếm 3,22% tổng số vốn đăng ký đầu tư giai đoạn này). Đây là các dự án đầu tư
vào cơ sở hạ tầng, thông tin, nâng cao mức sống và dân chí cho người dân địa
phương. Tiếp đến là lĩnh vực kinh doanh bất động sản cũng có sự tăng trưởng
mạnh, 12 dự án với số vốn đăng ký 369,9 triệu USD chiếm 4,83% tổng số vốn đăng
ký đầu tư. Đây là ngành nghề không khuyến khích ĐTRNN bởi phần lớn dự án
trong lĩnh vực này là do cá nhân đăng ký thực hiện, tiềm ẩn nhiều rủi ro cũng như
thất thoát nguồn lực đất nước.
Giai đoạn 4: 2016-2019
Trong gần 5 năm của giai đoạn này, lĩnh vực đầu tư vẫn được duy trì 18 lĩnh
vực so với giai đoạn trước đó. Giai đoạn này khá ngắn cùng với các điểm nhấn về
mặt chính sách như Luật Đầu tư 2015 và Nghị định 83/2015/NĐ-CP ra đời, Cộng
đồng Kinh tế ASEAN (AEC) được thành lập vào ngày 31/12/2015, do đó quản lý
hoạt động ĐTRNN chặt chẽ hơn, minh bạch hơn. Số dự án đầu tư sang ASEAN giai
đoạn này là 247 dự án, tổng số vốn đăng ký đầu tư 1,55 tỷ USD. Lĩnh vực Thông tin
và truyền thông vươn lên đứng đầu với số vốn đăng ký 876,7 triệu USD, chiếm
57,69%; Lĩnh vực Tài chính, ngân hàng và bảo hiểm đứng ở vị trí thứ hai với 167,7
triệu USD, chiếm 11,03%; Lĩnh vực Nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản đứng thứ
ba với 134 triệu USD, chiếm 8,88%; Lĩnh vực khai khoáng chỉ chiếm 3,29%, với 50
triệu USD (Cục ĐTNN-Bộ KH&ĐT, 2019).
Như vậy, từ số liệu của Bảng 3.5 ta nhận thấy, các doanh nghiệp Việt Nam tập
trung đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản là nhiều nhất với
107 dự án và 3,02 tỷ USD, chiếm 26,93% tổng số vốn đăng ký đầu tư. Thứ hai là
lĩnh vực khai khoáng (90 dự án và 2,4 tỷ USD, chiếm 21,45% tổng số vốn đăng ký
đầu tư).
79
Bảng 3.5.Đầu tư trực tiếp của các doanh nghiệp Việt Nam sang ASEAN
theo lĩnh vực đầu tư giai đoạn 1991-2019
Vốn đăng ký đầu tư
Tỷ trọng
Stt
Lĩnh vực đầu tư
Số dự án
(USD)
(%)
Quy mô vốn bình quân mỗi dự án (USD/dự án)
1
153
166.699.319
1,48
1.089.538
2
111
325.833.137
2,90
2.935.434
3
4
8.471.000
0,08
2.117.750
4 5 6
22 13 4
38.613.791 105.680.467 1.981.700
0,34 0,94 0,02
1.755.172 8.129.267 495.425
7
54
227.331.790
2,03
4.209.848
8
23
7.652.045
0,07
332.698
9
14
375.728.138
3,35
26.837.724
10
23
785.474.488
7,00
34.151.065
11
90
2.407.473.035 21.45
26.749.700
12
2
1.000.082.000
8,91
500.041.000
13
107
3.022.670.450 26,93
28.249.257
14
9
1.486.547.587 13,24 165.171.954
15 16 17
48 31 77
1.123.833.889 10,01 0,55 0,58
61.308.000 64.661.679
23.413.206 1.977.677 839.762
18
6
15.990.415
0,14
2.665.069
Bán buôn và bán lẻ; sửa chữa ô tô, mô tô, xe máy và xe có động cơ khác Công nghiệp chế biến, chế tạo Cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải Dịch vụ khác Dịch vụ lưu trú và ăn uống Giáo dục và đào tạo Hoạt động chuyên môn, khoa học và công nghệ Hoạt động hành chính và dịch vụ hỗ trợ Hoạt động kinh doanh bất động sản Hoạt động tài chính, ngân hàng và bảo hiểm Khai khoáng Nghệ thuật, vui chơi và giải trí Nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản Sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí Thông tin và truyền thông Vận tải kho bãi Xây dựng Y tế và hoạt động trợ giúp xã hội
Tổng
791
11.226.032.930
100
14.192.203
(Nguồn: Tính toán của tác giả dựa trên số liệu về các dự án đầu tư của Cục ĐTNN-
Bộ KH&ĐT, 2019)
80
Thứ ba là lĩnh vực sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và
điều hòa không khí (9 dự án và 1,48 tỷ USD, chiếm 13,2% tổng số vốn đăng ký đầu
tư). Thứ tư là lĩnh vực thông tin và truyền thông (48 dự án và 1,12 tỷ USD, chiếm
10,01% tổng số vốn đăng ký đầu tư). Thứ năm là lĩnh vực nghệ thuật, vui chơi và
giải trí (2 dự án và 1 tỷ USD, chiếm 8,91% tổng số vốn đăng ký đầu tư) (Cục
ĐTNN-Bộ KH&ĐT, 2019).
Đây là những lĩnh vực đầu tư mà Việt Nam có thế mạnh, tuy nhiên, trong
những năm gần đây, các doanh nghiệp Việt Nam còn đầu tư sang nhiều lĩnh vực,
ngành nghề khác nhau như tài chính, ngân hàng và bảo hiểm; kinh doanh bất động
sản; công nghiệp chế biến, chế tạo; Giáo dục và đào tạo…
Ngoài ra, hoạt động ĐTTT sang ASEAN cũng mở rộng ra đối với một số lĩnh
vực như viễn thông, ngân hàng, bất động sản, sản xuất, chế tạo…đem lại giá trị gia
tăng cao hơn. Nhiều doanh nghiệp đã thực hiện đầu tư theo lợi thế, ví dụ như
Viettel, dựa trên lợi thế về công nghệ viễn thông, đã thực hiện đầu tư các mạng viễn
thông và tạo ra các thương hiệu riêng được định vị trên thị trường các nước ASEAN
như: Metfone tại Campuchia, Unitel tại Lào, Mytel ở Myanmar. Viettel đã tận dụng
được các lợi thế về sở hữu công nghệ, về lợi thế nội vi hóa của doanh nghiệp và tận
dụng những lợi thế về chính sách kinh tế tại các nước ASEAN để phát triển và tạo
ra sự thành công như hiện nay.
Khi AEC được thành lập, nhiều lĩnh vực dịch vụ được mở cửa, tạo ra cơ hội
cho các doanh nghiệp Việt Nam. Chính vì vậy, hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam
đã chuyển hướng sang các lĩnh vực dịch vụ, thiên về thế mạnh của các doanh
nghiệp hơn như các doanh nghiệp về vận tải và kho bãi, thông tin, xây dựng, du
lịch, bán buôn bán lẻ với các doanh nghiệp điển hình như Vietcombank, TCTCP
Bưu chính Viettel, Công ty TNHH Nhà thép Trí Việt, Công ty TNHH Giao nhận
Viet Trans Link, CTCP Xây dựng Kiến trúc AA…
3.1.4. Theo hình thức đầu tư và theo sở hữu của công ty mẹ ở Việt Nam
Theo hình thức đầu tư
81
Các hình thức đầu tư trong các dự án đầu tư của Việt Nam khá đa dạng, bao
gồm cả việc thành lập một tổ chức kinh tế (như công ty 100% vốn của Việt Nam,
công ty liên doanh, với các hình thức kinh doanh như công ty trách nhiệm hữu hạn,
công ty cổ phần); đầu tư theo hình thức hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hợp
tác (BCC); đầu tư theo hình thức xây dựng kinh doanh chuyển giao; đầu tư theo
hình thức hợp doanh; đầu tư theo hình thức mua lại; hoặc đầu tư theo hình thức mua
cổ phần trên thị trường tài chính của nước tiếp nhận đầu tư.
Bảng 3.6.Đầu tư trực tiếp của các doanh nghiệp Việt Nam sang ASEAN
theo hình thức đầu tư giai đoạn 1991-2019
Hình thức đầu tư Số dự án Tỷ lệ % về số dự án Số vốn đăng ký đầu tư (USD) Tỷ lệ % về số vốn đăng ký đầu tư
584 73,90 8.116.291.904 72.299 100% vốn Việt Nam
Liên doanh 1 23,20 150.000 17.509
13 1,64 1.113.676.819 9.920
Hợp đồng hợp tác kinh doanh (BCC) ở nước ngoài Mua cổ phần 184 0,63 1.965.556.707 0.171
Mua lại 5 0,50 19.147.500 0.100
Hợp danh 4 0,13 11.210.000 0.001
Tổng 791 100 11.226.032.930 100
Nguồn: Tính toán của tác giả dựa trên số liệu về các dự án đầu tư của Cục ĐTNN-
Bộ KH&ĐT, 2019
Như vậy, có thể thấy hình thức đầu tư của các doanh nghiệp Việt Nam sang
ASEAN khá đang dạng, trong đó, hình thức lập tổ chức kinh tế mới vẫn chiếm đa
số chiếm 97% số dự án và chiếm 89% số vốn đăng ký đầu tư. Các dự án đầu tư theo
hình thức BCC chủ yếu là trong các lĩnh vực thăm dò, khai thác dầu khí.
Theo hình thức sở hữu của công ty mẹ ở Việt Nam
Tính đến hết năm 2019, các nhà đầu tư Việt Nam sang ASEAN là nhà đầu
tư cá nhân chiếm 0,33% số vốn đăng ký đầu tư, các doanh nghiệp tư nhân chiếm
52.73% , các doanh nghiệp có vốn đầu tư nhà nước chiếm 46,88% và doanh nghiệp
82
có yếu tố nước ngoài chiếm 0,06% (Cục ĐTNN-Bộ KH&ĐT, 2019). Điều này cho
thấy, các doanh nghiệp tư nhân ngày càng quan tâm hơn đến hoạt động ĐTTT sang
ASEAN. Về tổng giá trị vốn đầu tư, khối doanh nghiệp tư nhân (trong đó có nhiều
doanh nghiệp FDI, nhiều doanh nghiệp Việt Nam lớn như Viettel, FPT, Hoàng Anh
Gia Lai, Vinamilk…) nắm ưu thế với hơn 80% giá trị vốn đầu tư. Các doanh nghiệp
nhà nước chủ yếu đầu tư trong các lĩnh vực đòi hỏi nhiều vốn lớn như khai khoáng,
thủy điện, thăm dò dầu khí…Tuy nhiên, phần lớn các dự án trong lĩnh vực thăm dò
khai thác dầu khí chỉ có thời gian ngắn, đầu tư theo hình thức hợp đồng hợp tác
kinh doanh (BCC) ở nước ngoài; do vậy tổng vốn đầu tư của các doanh nghiệp này
chỉ chiếm khoảng 9,9% tổng giá trị vốn đăng ký đầu tư của các doanh nghiệp Việt
Nam sang ASEAN. Các nhà đầu tư cá nhân chỉ chiếm khoảng 0,33% tổng giá trị
vốn đăng ký đầu tư của Việt Nam sang ASEAN. Đây là một con số nhỏ, xong cũng
cho thấy nhu cầu đầu tư sang ASEAN của các tầng lớp dân cư Việt Nam.
Bảng 3.7. Đầu tư trực tiếp của các doanh nghiệp Việt Nam sang ASEAN theo
hình thức sở hữu công ty mẹ ở Việt Nam giai đoạn 1991-2019
Số vốn đăng ký đầu tư Hình thức đầu tư Tỷ lệ % (USD)
Cá nhân 37.446.157 0,33
5.920.034.786 52,73
5.262.348.928 46,88
6.203.060 0,06 Doanh nghiệp tư nhân Doanh nghiệp có vốn nhà nước Doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài
11.226.032.930 100 Tổng
(Nguồn: Tính toán của tác giả dựa trên số liệu về các dự án đầu tư của Cục ĐTNN-
Bộ KH&ĐT, 2019)
Xu hướng này đặt ra yêu cầu cho các cơ quan quản lý nhà nước cần phải
thực hiện đồng bộ các giải pháp hỗ trợ để khối đầu tư tư nhân có thể tiếp cận được
với các gói trợ giúp của nhà nước để tận dụng được các cơ hội đầu tư trên thị trường
ASEAN.
83
3.2.Đánh giá tình hình đầu tư trực tiếp của các doanh nghiệp Việt Nam sang
ASEAN
3.2.1. Kết quả đạt được
ĐTTT của các doanh nghiệp Việt Nam sang ASEAN trong khuôn khổ AEC
đã đạt được một số mục đích như sau:
Thứ nhất, các dự án ĐTTT sang ASEAN đã mang lại doanh thu ngoại tệ cho
đất nước đem lại lợi ích kinh tế xã hội, đóng góp cho sự phát triển kinh tế của Việt
Nam. Tính hết hết năm 2019, tổng số tiền đã chuyển về nước của các dự án đã báo
cáo là 793 triệu USD, bằng 20,03% tổng vốn đầu tư đã thực hiện (Cục ĐTNN-Bộ
KH&ĐT, 2019). Phần lớn các dự án ĐTTT sang ASEAN quy mô lớn mới được cấp
Giấy chứng nhận đầu tư và hiện đang trong giai đoạn triển khai thực hiện, chưa có
doanh thu, chưa phát sinh lợi nhuận. Một số dự án mới đi vào hoạt động, doanh thu
còn thấp, chưa phát sinh nhiều lợi nhuận nên hoạt động chuyển tiền về nước chưa
đáng kể. Tuy nhiên, các dự án đầu tư nêu trên thuộc những lĩnh vực Việt Nam đang
cần khai thác như khoáng sản; các dự án điện; dịch vụ viễn thông; hàng không;
ngân hàng…Các dự án đầu tư trong lĩnh vực này đã và đang chiếm lĩnh đáng kể và
phát triển nhanh tại thị trường một số địa bàn đầu tư trọng điểm; khi đi vào hoạt
động hiệu quả sẽ đóng góp tích cực cho sự phát triển kinh tế của Việt Nam. Sau khi
AEC có hiệu lực, nhiều doanh nghiệp Việt Nam đã quan tâm hơn đến các thị trường
trong khối ASEAN, giá trị đầu tư vào các dự án tại các quốc gia ASEAN đã tăng
lên với thời hạn đầu tư dài hơn.
Thứ hai, các dự án ĐTTT sang ASEAN giúp Việt Nam tăng cường hợp tác
kinh tế quốc tế, bảo đảm an ninh, quốc phòng.
Giai đoạn 2006-2019 đã có sự gia tăng mạnh mẽ cả về số lượng dự án và quy
mô vốn (chiếm 89,92% số dự án đầu tư và 81,78% tổng số vốn đăng ký ĐTTT của
Việt Nam sang ASEAN) và tập trung phần lớn vào các địa bàn Lào, Campuchia,
Myanmar…là những địa bàn phù hợp với định hướng chiến lược ĐTRNN của Việt
Nam và cũng tập trung phần lớn vào những ngành, lĩnh vực phù hợp với chiến lược
phát triển của Việt Nam như dầu khí; thủy điện, trồng cây công nghiệp, sản xuất,
xuất khẩu và tiêu thụ hàng hóa của Việt Nam tại nước ngoài...(Cục ĐTNN-Bộ
84
KH&ĐT, 2019). Ngoài ra, hoạt động ĐTRNN đã được mở rộng ra cả quốc gia
thuộc ASEAN, trong đó có một số địa bàn mới có nhiều hoạt động đầu tư như
Indonesia, Brunei, Phillipines.
Hoạt động ĐTRNN đã tạo điều kiện mở rộng quan hệ hợp tác kinh tế quốc tế
theo hướng đa phương hóa và đa dạng hóa, thúc đẩy Việt Nam chủ động hội nhập
kinh tế khu vực và thế giới, đẩy nhanh tiến trình tự do hoá thương mại và đầu tư.
Đến nay, Việt Nam là thành viên chính thức của ASEAN, APEC, ASEM và WTO.
Việt Nam cũng đã ký kết 63 Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư, trong đó có
Hiệp định thương mại song phương Việt Nam–Hoa Kỳ (BTA), Hiệp định khuyến
khích và bảo hộ đầu tư với Nhật Bản...Thông qua tiếng nói và sự ủng hộ của các
nhà đầu tư nước ngoài, hình ảnh và vị thế của Việt Nam không ngừng được cải
thiện.
Việt Nam đang là một trong những nước đứng đầu về đầu tư tại thị trường
Lào và Campuchia. Đây là địa bàn chiến lược cả về kinh tế lẫn an ninh quốc phòng.
Việc tăng cường các hoạt động đầu tư vào hai địa bàn này sẽ thúc đẩy hợp tác phát
triển kinh tế, đầu tư, thương mại giữa Việt Nam với Lào và Campuchia; đồng thời
củng cố mối quan hệ truyền thống ngày càng bền chặt, góp phần bảo đảm an ninh,
quốc phòng của quốc gia.
Thứ ba, hoạt động đầu tư trực tiếp sang ASEAN ngày càng đa dạng hơn.
Sau khi AEC được thành lập, số dự án đầu tư đã phát triển một cách đa dạng,
trong đó:
+ Đa dạng về thị trường (cả 9 nước tại ASEAN)–các nước có nền công
nghiệp phát triển lẫn nước đang phát triển.
+ Đa dạng về ngành đầu tư: công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ…
+ Đa dạng về quy mô đầu tư: có nhiều dự án chỉ vài trăm ngàn USD, có
những dự án vài trăm triệu USD (có dự án trên 1 tỷ USD–đã được cấp giấy phép).
+ Đa dạng về hình thức đầu tư: 100% vốn liên doanh; hợp đồng hợp tác kinh
doanh; hợp đồng phân chia sản phẩm (dầu khí); chuyển nhượng quyền thương
hiệu…
85
+ Đa dạng về các thành phần kinh tế tham gia đầu tư ra nước ngoài: doanh
nghiệp Nhà nước; doanh nghiệp tư nhân; doanh nghiệp liên doanh với nước ngoài
(Vietsovpetro); cá nhân…
+ Đa dạng về loại hình doanh nghiệp tham gia đầu tư: Tập đoàn kinh tế,
doanh nghiệp có quy mô vừa, doanh nghiệp có quy mô nhỏ.
Thứ tư, hoạt động ĐTTT sang ASEAN giúp các doanh nghiệp Việt Nam
tham gia mạnh mẽ hơn vào chuỗi phân phối lao động toàn cầu.
Các hoạt động này cũng đã hình thành một đội ngũ doanh nhân Việt Nam có
năng lực đàm phán trong đấu thầu quốc tế, trong liên doanh với nước ngoài để tổ
chức thực hiện các dự án hợp tác đầu tư ở nước ngoài và đã có những đóng góp tích
cực cho sự phát triển kinh tế và an sinh xã hội cho nước sở tại, tạo công ăn việc làm
cho người lao động địa phương làm việc cho dự án…
Hoạt động ĐTTT sang đã tạo việc làm cho hàng vạn lao động nước sở tại và
lao động Việt Nam. Trong thời gian tới, khi các dự án đầu tư quy mô lớn, sử dụng
nhiều lao động, đặc biệt là các dự án thủy điện, trồng cây cao su đi vào hoạt động...
thì nhu cầu về lao động là người Việt Nam làm việc cho các dự án nêu trên là rất
lớn, chắc chắn số lao động Việt Nam làm việc cho các dự án của các doanh nghiệp
Việt Nam tại nước ngoài sẽ tăng cao.
Hoạt động đầu tư của các doanh nghiệp Việt Nam, cùng với đó là các chính
sách hỗ trợ an sinh của các doanh nghiệp Việt Nam tại nước sở tại đã góp phần tạo
công ăn việc làm cho đông đảo người dân của Lào và Campuchia; góp phần ổn định
cuộc sống, xóa đói, giảm nghèo cho người dân một số khu vực vùng nông thôn của
Lào và Campuchia, Myanmar...
Thứ năm, các dự án ĐTTT sang ASEAN đã góp phần tạo ra các doanh
nghiệp, tập đoàn quốc tế đi tiên phong trong hoạt động đầu tư sang ASEAN, có khả
năng cạnh tranh trên thị trường khu vực, toàn cầu và nâng cao vị thế của Việt Nam
trên trường quốc tế.
Các doanh nghiệp Việt Nam đã tận dụng được lợi thế so sánh của một số
nước để sản xuất và kinh doanh, mở rộng thị trường sản xuất đang từng bước tạo
86
dựng được thương hiệu, khả năng cạnh tranh của mình trên trường quốc tế. Hơn nữa
việc thực hiện hoạt động ĐTTT sang ASEAN cũng giúp Việt Nam có thêm nhiều
bạn bè trên thế giới, mở rộng mối quan hệ kinh tế-xã hội với các nước trên thế giới.
Có thể thấy, các dự án đưa vào khai thác và hoạt động tại nước ngoài đã có vai trò
quan trọng trong việc nâng cao vị thế của Tập đoàn Dầu khí Việt Nam trong lĩnh
vực công nghiệp dầu khí thế giới. Tập đoàn Công nghiệp Cao su Việt Nam đã có
thêm hàng trăm ngàn ha nguyên liệu cho ngành công nghiệp cao su tại thị trường
Lào và Campuchia. Còn Viettel hiện đã trở thành một trong những nhà cung cấp
dịch vụ viễn thông hàng đầu tại thị trường Lào, Campuchia, Myanmar.
Ngoài ra, ĐTTT của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh có xu hướng tăng
mạnh trong thời gian gần đây, cụ thể là Công ty cổ phần Hoàng Anh Gia Lai đã đầu
tư nhiều dự án quy mô lớn tại Lào và Campuchia, Myamar; một số nhà đầu tư khác
của Việt Nam tranh thủ thị trường bất động sản thế giới sụt giảm mạnh để đầu tư
mua lại một số cửa hàng kinh doanh, cơ sở sản xuất, trung tâm thương mại quy mô
vừa và nhỏ tại Myanmar, Lào…để mở rộng phạm vi ảnh hưởng của mình ra bên
ngoài. Các dự án đầu tư của tư nhân đã bắt đầu phát huy hiệu quả, tuy nhiên phần
lớn các dự án đầu tư quy mô lớn, mục tiêu đầu tư mang tính dài hạn nên trong ngắn
hạn chưa thể hiện được các con số về doanh thu và lợi nhuận chuyển về nước.
Thứ sáu, hoạt động ĐTTT sang ASEAN đã và đang giúp cho Việt Nam mở
rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm và tránh những hàng rào bảo hộ thương mại của
nước tiếp nhận đầu tư, tận đụng được các cơ hội về thị trường để tìm kiếm chênh
lệch lợi nhuận.
Hoạt động ĐTTT sang ASEAN trước 2015 tập trung nhiều ở Lào và
Campuchia do đây là các quốc gia có điều kiện vị trí lân cận, có quan hệ ngoại giao
tốt với Việt Nam và giữa Việt Nam và các nước này có nhiều quan hệ hợp tác trên
nhiều lĩnh vực. Trong giai đoạn 2015-2019, Việt Nam cũng thúc đẩy mạnh mẽ hoạt
động đầu tư sang các địa bàn này, thể hiện thông qua nhiều chương trình, hội nghị
xúc tiến đầu tư, hoạt động của các hiệp hội nhà đầu tư, quan hệ hợp tác giữa các bộ
ngành địa phương Việt Nam và bộ ngành địa phương của Lào và Campuchia, thông
qua việc nghiên cứu, xây dựng các chính sách khuyến khích đầu tư. Hai quốc gia
87
này, đặc biệt là Lào có quan hệ khá đặc thù là chính quyền trung ương có sự hợp tác
với bộ, ngành Việt Nam trong công tác quản lý các dự án đầu tư của Việt Nam tại
thị trường này, điều này có mặt thuận lợi cho hỗ trợ hoạt động đầu tư của Việt Nam
tại Lào nhưng cũng gây ra những bất cập vì mục tiêu quản lý và hệ thống pháp luật
của hai nước là khác nhau và các dự án đầu tư không đạt kết quả mong đợi dễ gây
ảnh hưởng đến quan hệ ngoại giao giữa hai nước. Tuy nhiên, những năm gần đây,
dòng vốn ĐTTT sang ASEAN có xu hướng dịch chuyển khỏi hai thị trường này, số
lượng vốn đầu tư sang Campuchia đang sụt giảm mạnh, số lượng dự án đầu tư sang
Lào cũng tương tự. Thay vào đó, nhiều nhà đầu tư tăng đầu tư vào các thị trường
Myanmar, Singapore, Malaysia…
Hiện tại, Việt Nam có 157 dự án ĐTTT sang ASEAN trong lĩnh vực bán
buôn và bán lẻ; sửa chữa ô tô, mô tô, xe máy và xe có động cơ khác; 107 dự án đầu
tư trong lĩnh vực nông nghiệp, thủy hải sản; 110 dự án đầu tư trong lĩnh vực chế
biến, chế tạo; 13 dự án trong lĩnh vực lưu trú, ăn uống; 31 dự án đầu tư trong lĩnh
vực kho bãi, 14 dự án đầu tư trong lĩnh vực bất động sản…Các dự án nêu trên có
quy mô đầu tư không lớn, nhưng được phân bổ trên khắp ASEAN và có vai trò tích
cực trong việc thúc đẩy các hoạt động sản xuất, xuất khẩu và tiêu thụ hàng hóa của
Việt Nam tại thị trường các nước sở tại. Vinamilk đã xây dựng các nhà náy sản
xuất, chế biến sữa tại Lào, Campuchia...; Tổng công ty Lương thực Việt Nam đã có
cơ sở phân phối hàng hóa Việt Nam tại Singapore; đã đầu tư xây dựng nhà máy chế
biến lương thực tại Campuchia để xuất khẩu sang thị trường Châu Âu với thương
hiệu Việt Nam; một số công ty thủy hải sản của Việt Nam đã có các cơ sở phân phối
mặt hàng thủy, hải sản và nông nghiệp tại Singapore; Tổng Công ty Lương thực
Miền Nam có dự án Công ty Cổ phần Lương thực Thực phẩm Camphuchia-Việt
Nam (CAVIFOODS) tại Campuchia…Với thị trường bão hòa ở trong nước, việc
mở rộng đầu tư sang các nước trong khu vực ASEAN đã giúp các doanh nghiệp
Việt Nam có thể tăng lợi nhuận khi mở rộng được thị trường tiêu thụ. Bên cạnh đó,
do hầu hết các nước trong ASEAN đã đạt được thỏa thuận về khuyến khích đầu tư
cũng như tránh đánh thuế hai lần, nên nhiều doanh nghiệp đã và đang đẩy mạnh
hoạt động đầu tư sang các nước có thuế thu nhập doanh nghiệp thấp như Singapore,
Campuchia, Thái Lan.
88
Hơn nữa, hoạt động ĐTTT sang ASEAN thời gian qua còn giúp các doanh
nghiệp Việt Nam thâm nhập và tránh đựơc hàng rào bảo hộ thương mại của nước
tiếp nhận đầu tư. Việc thực hiện hoạt động ĐTTT sang ASEAN đã giúp các doanh
nghiệp Việt Nam có thể giảm được đáng kể những chi phí vận chuyển, bảo quản,
bảo hiểm bên cạnh đó doanh nghiệp còn có thể tận dụng được những ưu đãi của
nước tiếp nhận đầu tư đối với các nhà đầu tư nước ngoài.
Thứ bảy, hoạt động ĐTTT sang ASEAN còn giúp các doanh nghiệp Việt
Nam có thêm cơ hội tiếp cận với khoa học công nghệ cao.
Khi thực hiện hoạt động ĐTTT vào các nước tiên tiến có trình độ khoa
họccông nghệ phát triển cao như Singapore, Thái Lan, Brunei, Malaysia…các
doanh nghiệp Việt Nam sẽ có cơ hội tiếp cận với những thực tế ứng dụng của các
thành tựu này. Hơn nữa, doanh nghiệp cũng có thể triển khai những tiến bộ khoa
học công nghệ mà trong nước không có cơ hội áp dụng sang các nước mới, thị
trường mới để tạo ra một thị trường có sức cạnh tranh cao hơn.
Các quốc gia phát triển luôn có những cơ chế về quản lý tài chính, quản lý
nhân sự, phương pháp tiếp cận với công nghệ một cách hiệu quả, trình độ khoa học
công nghệ hiện đại. Đầu tư vào những nước này Việt Nam có thêm cơ hội mở rộng
thị trường, tiếp thị xuất khẩu, cũng như học hỏi được những kinh nghiệm quản
lý…Hơn nữa khi thực hiện hoạt động ĐTTT sang ASEAN các doanh nghiệp Việt
Nam sẽ có thêm những hiểu biết mới về thị trường, thay đổi tầm nhìn, học hỏi được
những kinh nghiệm và tiến bộ trong phong cách làm việc cũng như cách thức quản
lý của các nước trên thế giới. Từ đó, thay đổi nhiều đến cách nghĩ, cách kinh doanh
của các nhà đầu tư Việt Nam.
Hoạt động ĐTTT của các doanh nghiệp Việt Nam sang ASEAN trong gần 30
năm qua đã có những thành tựu bước đầu rất đáng ghi nhận. Trước hết phải kể đến
sự nỗ lực, chủ động của các doanh nghiệp Việt Nam trong những thời điểm khó
khăn cả về cơ sở pháp lý và năng lực cạnh tranh. Kế đến là quyết tâm từ phía Chính
phủ và các cơ quan hữu quan tìm mọi cách tháo gỡ khó khăn về cơ sở pháp lý và
thủ tục hành chính giúp doanh nghiệp Việt Nam vươn ra đầu tư tại các nước
ASEAN.
89
3.2.2.Một số hạn chế và nguyên nhân
3.2.2.1.Một số hạn chế
Thứ nhất, hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam chưa đạt được mục đích tìm
kiếm lợi nhuận ở thị trường nước ngoài. Số lợi nhuận được chuyển về trong nước
rất khiêm tốn. Các doanh nghiệp chủ yếu chỉ đạt được mục đích mở rộng thị trường,
nhất là đối với các doanh nghiệp như Viettel, thị phần thị trường của doanh nghiệp
này đang ở vị trí số 1 trên thị trường Lào, Campuchia và Myanmar. Với các mục
tiêu khác như tìm kiếm nguồn cung đầu vào tốt hơn cũng chưa thực sự đạt được
hiệu quả, nhất là trong các dự án về khai mỏ hoặc nông nghiệp của một số doanh
nghiệp như Hoàng Anh Gia Lai và Vinachem (với dự án khai thác và chế biến mỏ
Kali tại Cộng hòa Dân chủ nhân dân Lào).
Thứ hai, một số dự án đầu tư chưa đáp ứng được tiến độ cam kết, số lượng
dự án đầu tư chủ yếu tập trung vào một số thị trường quen thuộc.
Một số dự án đầu tư quan trọng, quy mô lớn lớn trong lĩnh vực thủy điện,
khoáng sản chậm được triển khai hoặc thời hạn thực hiện dự án kéo dài hơn so với
dự kiến làm ảnh hưởng đến tiến độ đầu tư, giảm hiệu quả đầu tư; một số dự án chưa
tính toán hết được các yếu tố rủi ro cả về quy mô vốn, thị trường cũng như các điều
kiện về thủ tục pháp lý, các rào cản về ngôn ngữ, văn hóa... nên khi thực hiện gặp
khó khăn, gây chậm trễ trong việc triển khai thực hiện; một số dự án khác đi vào
hoạt động nhưng hiệu quả không cao.
Các doanh nghiệp Việt Nam đã mở rộng thị trường 9 quốc gia tại ASEAN.
Tuy nhiên, trên thực tế số lượng dự án đầu tư sang ASEAN vẫn chủ yếu tập trung ở
một số quốc gia quen thuộc (tại Lào chiếm 36,52% tổng số dự án, tại Campuchia
chiếm 27,08%, tại Singapore chiếm 14,48%, tại Myanmar chiếm 13,73%) (Cục
ĐTNN-Bộ KH&ĐT,2019). Doanh nghiệp Việt Nam chưa xâm nhập sâu vào thị
trường ASEAN, trong đó các thị trường có khá ít dự án của Việt Nam như Brunei,
thị trường Phillippines. Thị trường Myanmar trước năm 2016 khi AEC chưa có hiệu
lực có khá nhiều dự án đã được triển khai, nhưng kể từ cuối năm 2015, số lượng dự
án được triển khai trên thị trường này này có dấu hiệu chậm lại.
90
Tại các thị trường mới, nhiều doanh nghiệp Việt Nam ĐTTT sang ASEAN
nhưng hoạt động còn mang tính tự phát, do đó rất dễ xảy ra tranh chấp. Khi đó việc
xử lý rất khó khăn, phức tạp, ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh.
Thứ hai, tỷ lệ vốn triển khai thực hiện và kết quả kinh doanh của các dự án
ĐTTT sang ASEAN còn thấp, hiệu quả đầu tư chưa cao.
Ngoài việc vốn đầu tư còn hạn chế thì tỷ lệ vốn triển khai thực hiện của các
dự án ĐTTT sang ASEAN còn thấp. Nhiều dự án đầu tư đã được cấp phép nhưng
vẫn không triển khai được do nhiều nguyên nhân. Trong quá trình triển khai thực
hiện dự án đầu tư, các doanh nghiệp Việt Nam còn gặp nhiều vướng mắc cần được
hỗ trợ từ các cơ quan nhà nước liên quan của cả hai phía (Việt Nam và nước sở tại)
để có giải pháp khắc phục nhằm giúp các doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả hơn.
Cùng với tỷ lệ vốn triển khai thực hiện thấp, kết quả kinh doanh của các
doanh nghiệp Việt Nam đầu tư sang ASEAN trong thời gian qua còn khiêm tốn. Số
lượng các dự án đầu tư đi vào hoạt động sản xuất kinh doanh đã ít, nhưng số các dự
án đầu tư có lãi lại càng ít hơn. Vì thế, kết quả kinh doanh đem lại cho các doanh
nghiệp nói riêng và mức độ đóng góp trong tổng sản phẩm quốc gia nói chung chưa
cao. Đến nay, vẫn chưa thống kê được mức độ đóng góp của các dự án ĐTTT sang
ASEAN cho ngân sách nhà nước là bao nhiêu do doanh nghiệp chưa tuân thủ chế
độ báo cáo tình hình hoạt động đầu tư tại nước ngoài, khiến cơ quan quản lý đầu tư
không nắm được thông tin triển khai dự án.
Thứ ba, hình thức đầu tư sang ASEAN còn hạn chế.
Theo pháp luật hiện hành, doanh nghiệp Việt Nam tiến hành ĐTRNN theo
nămhình thức (thành lập tổ chức kinh tế theo quy định tại nước tiếp nhận đầu tư;
thực hiện hợp đồng hợp tác kinh doanh BCC ở nước ngoài; mua lại một phần hoặc
toàn bộ vốn điều lệ của tổ chức kinh tế ở nước ngoài; mua bán chứng khoán hoặc
giấy tờ có giá trị khác ở nước ngoài và các hình thức đầu tư khác theo quy định tại
nước tiếp nhận đầu tư), trong đó, hình thứcthành lập tổ chức kinh tế 100% vốn của
Việt Nam chiếm tới 73,9% tổng số các dự án ĐTTT sang ASEAN. Mặt khác, các
dự án đầu tư sang ASEAN nói trên đều là dự án đầu tư mới, cho nên tốn chi phí,
mất nhiều thời gian và rủi ro cao hơn. Hình thức đầu tư này cũng có những ưu điểm
91
như có thể linh hoạt hơn để tạo ra một doanh nghiệp theo ý muốn; xây dựng văn
hoá tổ chức cho một công ty mới dễ hơn là thay đổi văn hoá từ công ty cũ khác.
Hiện nay, chưa có một doanh nghiệp Việt Nam tiến hành ĐTRNN theo hình thức
mua lại và sáp nhập (M&A).
Thứ tư, hệ thống các hình thức đầu tư theo chuỗi , hiệp hội còn quá ít.
Có thể thấy trong cơ cấu đầu tư của Việt Nam, đa số các doanh nghiệp đầu tư
theo kiểu nhỏ lẻ, độc lập, thiếu vắng các chuỗi đầu tư đa ngành, bên cạnh đó, các
dịch vụ hỗ trợ đầu tư như thanh toán, bảo hiểm và các dịch vụ thị trường đầu tư ra
nước ngoài quá ít. Còn ít các ngân hàng trong nước vươn ra ASEAN để lập doanh
nghiệp hoặc lập chi nhánh.
Điều này khiến các nhà đầu tư của Việt Nam sang ASEAN khó khăn trong
tiếp cận nguồn vốn để triển khai dự án, ngoài ra việc ngân hàng Việt Nam đầu tư
sang ASEAN ít cũng ảnh hưởng nhất định đến hoạt động thanh toán thương mại
quốc tế của Việt Nam.
3.2.2.2.Nguyên nhân của các hạn chế
Về phía Nhà nước Việt Nam
Thứ nhất, Việt Nam chưa xây dựng chiến lược đầu tư sang ASEAN cả trong
trung và dài hạn.
Việt Nam chưa có chiến lược đầu tư sang ASEAN trong trung và dài hạn, trừ
ngành dầu khí có những kế hoạch dài hạn, còn từ cấp trung ương, địa phương,
ngành…chưa xây dựng chiến lược đầu tư sang ASEAN, cho nên Chính phủ chưa
xây dựng những biện pháp hỗ trợ sự phát triển hoạt động đầu tư sang ASEAN. Hoạt
động đầu tư sang ASEAN hiện nay của các doanh nghiệp Việt Nam vẫn chủ yếu
mang tính tự phát.
Thứ hai, hạn chế trong cơ chế chính sách hỗ trợ đầu tư.
Hiện nay, pháp luật về ĐTRNN của Việt Nam còn thiếu các biện pháp
khuyến khích và hỗ trợ doanh nghiệp ĐTRNN. Đến nay, mới có quy định về đầu tư
nước ngoài trong hoạt động dầu khí theo Quyết định số 124/2017/NĐ-CP ngày
15/11/2017 của Thủ tướng Chính phủ. Nghị định quy định về ĐTRNN ban hành
92
theo Nghị định số 83/2015/NĐ-CP ngày 25/09/2015 của Thủ tướng Chính phủ.
Hướng dẫn và ban hành mẫu văn bản thực hiện thủ tục ĐTRNN ban hành theo
Thông tư số 03/2018/TT-BKHĐT ngày 17/10/2018. Quy định về hoạt động cho vay
vốn để ĐTRNN của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài đối với
khách hàng được ban hành năm 2018 theo quy định tại Thông tư số 36/2018/TT–
NHNN ngày 25/12/2018 của Ngân hàng nhà nước Việt Nam. Thông tư hướng dẫn
về quản lý ngoại hối đối với hoạt động ĐTRNN theo Thông tư số 12/2016/TT-
NHNN.Đề án Thúc đẩy đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài theo Quyết định số
236/QĐ-TTg nhưng thực tế thực hiện vẫn còn nhiều vướng mắc.
Các doanh nghiệp Việt Nam đang đầu tư, kinh doanh ở nước ngoài chưa có
được sự quan tâm, hỗ trợ đúng mức từ phía các cơ quan nhà nước. Đối với các
doanh nghiệp đang tìm kiếm cơ hội ĐTRNN cũng chưa được hỗ trợ tìm hiểu môi
trường pháp lý, cơ hội và đối tác đầu tư, hướng dẫn về luật pháp, chính sách và thủ
tục đầu tư của nước sở tại, vì vậy, phần lớn các doanh nghiệp phải tự mình tìm kiếm
thông tin nên mất nhiều thời gian và chi phí.
Hạn chế của Đại diện của Chính phủ Việt Nam ở nước ngoài như Đại sứ
quán, Lãnh sự quán, đại diện thương mại trong việc tham gia hỗ trợ các dự án
ĐTTT sang ASEAN. Mối liên hệ giữa cơ quan đại diện ngoại giao và thương vụ ở
nước ngoài với các doanh nghiệp ĐTTT sang ASEAN còn lỏng lẻo nên khi có việc
tranh chấp xảy ra sẽ không tranh thủ được tối đa sự hỗ trợ của nhà nước. Công tác
hỗ trợ giải quyết các khó khăn vướng mắc của các dự án ĐTRNN cũng có nhiều
hạn chế do dự án đầu tư nằm ở nước ngoài, gặp các khó khăn do môi trường, thủ
tục, chính sách pháp luật nước ngoài, rất khó để nhà nước Việt Nam có thể can
thiệp hỗ trợ, kể cả ở các thị trường mà đầu tư của Việt Nam thuộc top đầu tư nước
ngoài vào các quốc gia đó (như Lào và Campuchia). Đối với việc hỗ trợ về tài chính
cho các dự án ĐTRNN, nhà nước Việt Nam chưa có đủ điều kiện để áp dụng các ưu
đãi về mặt tài chính cho những hoạt động ĐTRNN cần thiết.
Chưa tận dụng và phát huy hết tiềm năng, nguồn lực của cộng đồng người
Việt Nam đang định cư, học tập và làm việc tại ASEAN để thúc đẩy đầu tư có
hiệu quả từ Việt Nam sang ASEAN.
93
Vai trò, sự ảnh hưởng của các Hiệp hội doanh nghiệp Việt Nam, Hiệp hội
các nhà đầu tư Việt Nam ở nước ngoài chưa rõ nét, nhất là trong việc đề xuất các
kiến nghị với các cơ quan có thẩm quyền của nước tiếp nhận đầu tư để họ điều
chỉnh chính sách, thủ tục, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp Việt Nam
đầu tư, kinh doanh.
Công tác hỗ trợ giải quyết các khó khăn vướng mắc của các dự án ĐTTT
sang ASEAN cũng có nhiều hạn chế do dự án đầu tư nằm ở nước ngoài, gặp các
khó khăn do môi trường, thủ tục, chính sách pháp luật nước ngoài, rất khó để nhà
nước Việt Nam có thể can thiệp hỗ trợ, kể cả ở các thị trường mà đầu tư của Việt
Nam thuộc nhóm đầu tư nước ngoài nhiều nhất vào các quốc gia đó (như Lào và
Campuchia). Đối với việc hỗ trợ về tài chính cho các dự án, nhà nước Việt Nam
chưa có đủ điều kiện để áp dụng các ưu đãi về mặt tài chính cho những hoạt động
đầu tư cần thiết.
Thứ ba, công tác xúc tiến ĐTTT sang ASEAN cũng chưa thực hiện có hiệu
quả.
Trong khi hoạt động xúc tiến ĐTNN vào Việt Nam được đẩy mạnh thì hoạt
động xúc tiến ĐTTT sang ASEAN chưa được quan tâm đúng mức ở các ngành, các
cấp. Trừ một số ngành (dầu khí, điện, than, bưu chính viễn thông) bước đầu triển
khai các hoạt động xúc tiến và đã thu được kết quả nhất định, hoạt động xúc tiến
nhìn chung mới được triển khai ở quy mô nhỏ, chủ yếu tập trung ở một số quốc gia
quen thuộc (Lào, Campuchia), nhưng hiệu quả chưa cao, do vậy, chưa thực sự thu
hút được quan tâm của các doanh nghiệp Việt Nam có nhu cầu đầu tư sang ASEAN.
Hiện tại, hướng dẫn xây dựng chương trình xúc tiến đầu tư năm 2019 theo Công
văn số 7176/KKHĐT-ĐTNN mới chỉ hướng tới xúc tiến để thu hút vốn đầu tư trực
tiếp nước ngoài vào Việt Nam mà chưa chú trọng tới xúc tiến để ĐTRNN.
Các thông tin về môi trường đầu tư tại ASEAN cũng chưa được coi trọng
Nếu như Chính phủ Trung Quốc có chỉ thị cho các cơ quan ngoại giao của Trung
Quốc ở nước ngoài phải có trách nhiệm nghiên cứu môi trường đầu tư bao gồm cơ
chế pháp lý, đặc điểm môi trường đầu tư; các cơ hội đầu tư…thông báo về trong
nước và hệ thống thông tin về thị trường đầu tư được thiết lập từ Trung ương đến
94
các Bộ ngành, đến các hiệp hội và doanh nghiệp…thì ở Việt Nam, trên trang web
của Cục xúc tiến đầu tư chỉ đề cập một số quy chế đầu tư ở Lào, còn chưa cơ quan
nào của Chính phủ được giao nhiệm vụ thông tin về môi trường đầu tư, cơ hội đầu
tư ở các nước. Đây là một trong những nguyên nhân khiến hoạt động đầu tư ra nước
ngoài còn thiếu bài bản, thiếu nhạc trưởng, doanh nghiệp tự khai thác thông tin tốn
kém và không đầy đủ.
Bên cạnh đó, việc tuyên truyền về AEC từ các ban ngành có liên quan còn
yếu và thiếu. Doanh nghiệp chỉ mới tiếp cận được thông tin Việt Nam cam kết
những gì, mở cửa thị trường bao nhiêu phần trăm, cắt giảm thuế đối với bao nhiêu
danh mục mặt hàng…song thông tin về các nước đối tác, về những cam kết của
những nước thành viên thuộc AEC, tỷ lệ mở cửa thị trường ở nước họ, những quy
định về vi phạm hay những ưu đãi đầu tư ra sao…thì rất thiếu hoặc chưa được làm
đầy đủ. Chính vì lẽ đó, doanh nghiệp dù biết nhưng chưa được hiểu đầy đủ, chưa
biết làm thế nào để biến thách thức thành cơ hội, thậm chí chưa biết cách tận dụng
những lợi thế và ưu đãi gì từ AEC…
Thứ tư, hạn chế trong công tác quản lý đầu tư trực tiếp của doanh nghiệp
Việt Nam sang ASEAN.
Công tác quản lý nhà nước thực tế còn đặt nặng mục tiêu về quản lý hiệu quả
đầu tư thể hiện ở con số lỗ lãi, vốn chuyển ra, tiền chuyển về…Dẫn đến tư tưởng
can thiệp sâu vào hoạt động đầu tư kinh doanh của nhà đầu tư. Cụ thể: một số hồ sơ
đăng ký ĐTRNN vẫn yêu cầu giải trình về khả năng thu xếp vốn, hoặc tính khả thi
của dự án, các cấp lãnh đạo thường đề ra mục tiêu nâng cao hiệu quả của hoạt động
ĐTRNN, bảo tồn và phát triển vốn đầu tư…trong khi mục tiêu chính của quản lý
nhà nước đối với ĐTRNN là tạo điều kiện cho hoạt động ĐTRNN trong bối cảnh
duy trì quản lý ngoại tệ chuyển ra nước ngoài do điều kiện hạn chế hiện tại của nền
kinh tế, bởi vì nguyên tắc về ĐTRNN quy định tại Luật Đầu tư là khuyến khích
ĐTRNN.
Các hoạt động đầu tư kinh doanh tại nước ngoài ngày càng biến đổi, phát
triển đa dạng dưới nhiều hình thức. Đồng thời, do tuân thủ pháp luật nước ngoài nên
các hoạt động đầu tư kinh doanh tại nước ngoài có thể diễn ra trong các ngành nghề
95
lĩnh vực và hình thức đầu tư khác với ở Việt Nam. Hoạt động trong các lĩnh vực mà
tại Việt Nam cấm, hạn chế; thành lập các công ty con, cháu tại nhiều nước thứ ba;
các hoạt động đầu tư của nhà đầu tư Việt Nam tại nước ngoài có sự hợp nhất, liên
kết, sở hữu một phần của nhau, đầu tư theo cách hình thức chưa được quy định theo
pháp luật Việt Nam…Các quy định của pháp luật Việt Nam không thể bao trùm và
dự báo được hết tất cả những quy định của pháp luật nước ngoài về các hình thức,
cách thức đầu tư cũng như không thể kiểm soát hoạt động của tổ chức kinh tế thành
lập tại nước ngoài trong việc tổ chức đó tiếp tục đầu tư, nhất là trong trường hợp
nhà đầu tư Việt Nam chỉ sở hữu một phần tổ chức kinh tế đó.
Nhiều dự án ĐTRNN sau khi cấp giấy chứng nhận đăng ký ĐTRNN một thời
gian, cơ quan quản lý không thể liên hệ được với nhà đầu tư để đề nghị báo cáo tình
hình hoạt động của dự án. Hơn nữa, hoạt động ĐTRNN diễn ra tại nước ngoài nên
rất khó cho các cơ quan quản lý nhà nước trực tiếp kiểm tra, giám sát tại thực địa
cũng như làm việc trực tiếp với các tổ chức kinh tế thành lập tại nước ngoài trong
dự án ĐTRNN vì các tổ chức này là các pháp nhân nước ngoài, không phải pháp
nhân Việt Nam.
Bên cạnh đó, thiếu công cụ quản lý hoạt động đầu tư tại nước ngoài. Chứng
nhận đăng ký ĐTRNN do Bộ KH&ĐT cấp và thủ tục đăng ký chuyển ngoại tệ ra
nước ngoài với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chỉ là công cụ để kiểm soát lượng
ngoại tệ chuyển ra nước ngoài, không có tác dụng trong việc quản lý hoạt động đầu
tư tại nước ngoài. Sau khi nhà đầu tư đã chuyển ngoại tệ ra nước ngoài, nhà nước
không có biện pháp/công cụ để kiểm soát hoạt động ĐTRNN, để không cho thực
hiện hay buộc chấm dứt dự án tại nước ngoài trong trường hợp nhà đầu tư có các vi
phạm quy định về ĐTRNN. Lý do là vì hoạt động ĐTRNN diễn ra tại nước ngoài,
các tổ chức kinh tế thành lập tại nước ngoài trong dự án là pháp nhân nước ngoài,
hoạt động theo pháp luật nước ngoài, không thể bị cưỡng bức giải thế, tạm ngừng
hoạt động theo quyết định của nhà nước Việt Nam. Ngay cả biện pháp chấm dứt
hiệu lực Giấy chứng nhận đăng ký ĐTRNN đối với các dự án không thực hiện chế
độ báo cáo theo quy định có thể không buộc được nhà đầu tư chấm dứt hoạt động
của công ty đã được thành lập tại nước ngoài trong dự án đó.
96
Một số cơ quan quản lý, đặc biệt ở các địa phương không có đầu mối quản
lý/theo dõi tập trung về ĐTRNN hoặc ít quan tâm đến nội dung quản lý ĐTRNN
với lý do địa phương không cấp giấy chứng nhận đăng ký ĐTRNN và không được
nhận báo cáo hoạt động của các dự án ĐTRNN.
Cơ chế liên kết, trao đổi thông tin các loại về ĐTRNN bao gồm tình hình cấp
giấy chứng nhận đăng ký ĐTRNN, tình hình hoạt động của dự án, tình hình về môi
trường, chính sách đầu tư tại một số địa bàn chủ yếu, tình hình ĐTRNN của doanh
nghiệp nhà nước, tình hình chuyển vốn ra nước ngoài, tình hình báo cáo và thực
hiện nghĩa vụ tài chính...giữa các cơ quan quản lý nhà nước (bộ ngành, địa phương)
chưa thật sự hiệu quả, kịp thời, đáp ứng nhu cầu của các đơn vị.
Đối với công tác quản lý hoạt động đầu tư của doanh nghiệp nhà nước sang
ASEAN, đặc biệt là quản lý về tính hiệu quả của dự án đầu tư: Hiện chưa xác định
rõ vai trò của các đơn vị đến đâu và ai là đầu mối chịu trách nhiệm về tính hiệu quả
đối với các dự án của doanh nghiệp nhà nước: cơ quan cấp giấy chứng nhậnđăng ký
ĐTRNN, cơ quan chủ quan phụ trách lĩnh vực, cơ quan tài chính, cơ quan chủ sở
hữu vốn nhà nước trong doanh nghiệp nhà nước.
Công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát chủ yếu được thực hiện thông qua
thông tin trong báo cáo của nhà đầu tư, trong khi đó, các nhà đầu tư chưa nghiêm
túc thực hiện chế độ báo cáo, không báo cáo thường xuyên, báo cáo không gửi đến
đầy đủ các cơ quan theo quy định, báo cáo không đúng hạn, nội dung báo cáo
không chuẩn xác, không thống nhất, sơ sài, thiếu thông tin...khiến số liệu tổng hợp
không chính xác, không phản ảnh chính xác bức tranh đầu tư và không phục vụ tốt
cho công tác tổng hợp, phân tích, đánh giá và dự báo. Dẫn đến các Bộ, ngành, địa
phương không có đủ thông tin để thực hiện các công tác quản lý hay hỗ trợ doanh
nghiệp.
Một số cơ quan đại diện ngoại giao ở nước ngoài chưa có kinh phí và cơ chế
tài chính hỗ trợ hoạt động ĐTRNN nên hoạt động thẩm tra, xác minh thông tin còn
gặp nhiều khó khăn.
Từ phía các doanh nghiệp Việt Nam
Thứ nhất, năng lực của doanh nghiệp Việt Nam khi đầu tư sang ASEAN còn
yếu.
97
Mặc dù dòng vốn ĐTTT sang ASEAN của Việt Nam có xu hướng tăng trong
vài năm qua nhưng vẫn còn dưới mức tiềm năng. Tính đến hết năm 2019, tổng số
vốn đăng ký ĐTTT của Việt Nam sang ASEAN đạt 11,26 tỷ USD, quy mô bình
quân mỗi dự án đạt 14,18 triệu USD. Trừ một số dự án lớn của một số tập đoàn và
tổng công ty nhà nước có vốn đầu tư hàng trăm triệu đô la Mỹ, còn lại các dự án của
khu vực doanh nghiệp tư nhân có quy mô rất nhỏ. Nhìn chung, quy mô vốn đầu tư
còn hạn chế do tiềm lực tài chính nói chung của các doanh nghiệp Việt Nam nhất là
khu vực tư nhân. Các dự án đầu tư có quy mô vốn lớn đều do các tập đoàn, công ty
nhà nước trong lĩnh vực dầu khí, viễn thông, điện thực hiện...Các dự án này được sự
bảo hộ và hỗ trợ của Chính phủ hai nước nên có thể đứng vững trên thị trường. Các
dự án còn lại của doanh nghiệp tư nhân phải tự đảm bảo về tài chính khi hoạt động
ĐTRNN nên gặp rất nhiều khó khăn.
Trừ một số doanh nghiệp thuộc Tập đoàn Dầu khí, Tập đoàn Điện lực Việt
Nam…đa số các doanh nghiệp đầu tư sang ASEAN có tiềm năng khiêm tốn: vốn
ít, khó tiếp cận nguồn vốn, trình độ có hạn, khả năng kinh nghiệm hoạt động
trong môi trường kinh doanh quốc tế bị hạn chế, thương hiệu công ty, thương
hiệu sản phẩm, dịch vụ chưa có…nên gặp khó khăn trong cạnh tranh với các nhà
đầu tư đến từ các nước khác trong giành thầu, thực hiện liên doanh, liên kết với
các đối tác ở nước tiếp nhận vốn đầu tư.
ĐTTTRNN là lĩnh vực mới, phức tạp đối với Việt Nam nên các cơ quan
quản lý và đội ngũ doanh nhân Việt Nam chưa có nhiều kiến thức kinh nghiệm.
Hoạt động ĐTTT sang ASEAN của các doanh nghiệp Việt Nam đòi hỏi tính chuyên
môn cao, nhà đầu tư phải am hiểu các quy định về luật pháp chính sách, thị trường
của nước nhận đầu tư cũng như quản lý doanh nghiệp. Trừ một số ít trường hợp,
phần lớn các doanh nghiệp Việt Nam đều hạn chế trong việc tìm hiểu các thông tin
về thị trường đầu tư, lạc hậu về trình độ quản lý và công nghệ nên việc tìm kiếm cơ
hội đầu tư, triển khai thực hiện các dự án ĐTTT sang ASEAN còn gặp không ít khó
khăn. Nhiều dự án không triển khai được hoặc bị thua lỗ, phá sản do chủ đầu tư
không đủ trình độ quản lý và thông tin về thị trường. Vì thế, phần lớn các doanh
nghiệp khi ĐTTT sang ASEAN có xu hướng tập trung vào một số thị trường quen
thuộc, e ngại việc đầu tư sang các thị trường mới.
98
Trên thực tế, các doanh nghiệp Việt Nam khi ĐTTT sang ASEAN còn gặp
phải sự cạnh tranh rất quyết liệt của các doanh nghiệp thuộc các quốc gia khác, ví
dụ các doanh nghiệp Việt Nam đầu tư tại Lào đang phải cạnh tranh với các doanh
nghiệp Trung Quốc và Thái Lan trong lĩnh vực khai thác khoáng sản, trồng cao su,
trồng cây công nghiệp, khai thác gỗ...Các doanh nghiệp Trung Quốc có tiềm lực
hơn các doanh nghiệp Việt Nam về vốn, kinh nghiệm, đặc biệt, họ tổ chức thành
các hiệp hội doanh nghiệp để hỗ trợ, chia sẻ thông tin, liên kết để thao túng, chiếm
lĩnh thị trường. Trong khi đó, các doanh nghiệp Việt Nam còn thiếu sự liên kết chặt
chẽ, việc chia sẻ thông tin với nhau còn hạn chế, thậm chí còn xảy ra hiện tượng
cạnh tranh giữa các doanh nghiệp Việt Nam với nhau.
Thực chất, những vấn đề này vẫn là cố hữu của các doanh nghiệp Việt Nam
kể cả từ giai đoạn trước khi AEC được thành lập và sau khi AEC được thành lập.
Tuy nhiên, dường như trong giai đoạn sau khi AEC được thành lập, những vấp váp
và cạnh tranh khốc liệt từ nhiều doanh nghiệp lớn của các nước khác trong khu vực
đã khiến các doanh nghiệp Việt Nam phải tính toán tốt hơn các bài toán về chiến
lược đầu tư hiệu quả. Bởi vậy, số lượng dự án đầu tư trong giai đoạn sau khi AEC
được thành lập giảm hơn so với trước, nhưng lại tập trung vào nhiều lĩnh vực hiệu
quả hơn. Nếu như những doanh nghiệp nhà nước đầu tư trái ngành hoặc đa ngành ồ
ạt ra nước ngoài vào những giai đoạn trước đó, thì sau khi AEC có hiệu lực, phần
lớn các doanh nghiệp lại tập trung đầu tư vào các ngành mà mình có lợi thế hơn và
đầu tư dài hạn chứ không mang tính thăm dò như giai đoạn trước đó.
Thứ hai, thiếu thông tin về thị trường đầu tư, trình độ quản lý và công
nghệ còn lạc hậu.
Hoạt động ĐTRNN đòi hỏi tính chuyên môn cao, nhà đầu tư phải am hiểu
các quy định về luật pháp chính sách, thị thường của nước nhận đầu tư cũng như
quản lý doanh nghiệp. Nhìn chung, trừ một số ít trường hợp, phần lớn các doanh
nghiệp Việt Nam đều hạn chế trong việc tìm hiểu các thông tin về thị trường đầu
tư, lạc hậu về trình độ quản lý và công nghệ nên việc tìm kiếm cơ hội đầu tư,
triển khai thực hiện các dự án ĐTTT sang ASEAN còn gặp không ít khó khăn.
Nhiều dự án không triển khai được hoặc bị thua lỗ, phá sản do chủ đầu tư không
99
đủ trình độ quản lý và thông tin về thị trường. Vì thế, phần lớn các doanh nghiệp
khi ĐTTT sang ASEAN có xu hướng tập trung vào một số thị trường quen thuộc,
e ngại việc đầu tư sang các thị trường mới.
Trên thực tế, các doanh nghiệp Việt Nam khi ĐTTT sang ASEAN còn gặp
phải sự cạnh tranh rất quyết liệt của các doanh nghiệp thuộc các quốc gia khác.
Các doanh nghiệp Việt Nam đầu tư tại Lào đang phải cạnh tranh với các doanh
nghiệp Trung Quốc và Thái Lan trong lĩnh vực khai thác khoáng sản, trồng cao
su, trồng cây công nghiệp, khai thác gỗ...Các doanh nghiệp Trung Quốc có tiềm
lực hơn các doanh nghiệp Việt Nam về vốn, kinh nghiệm, đặc biệt, họ mềm dẻo
nhưng kiên quyết trong tổ chức thực hiện dự án và có kinh nghiệm quản lý tốt.
Trong khi đó, các doanh nghiệp Việt Nam còn thiếu sự liên kết chặt chẽ, việc
chia sẻ thông tin với nhau còn hạn chế, thậm chí còn xảy ra hiện tượng cạnh
tranh giữa các doanh nghiệp Việt Nam với nhau.
Thứ ba, thiếu sự hợp tác chặt chẽ của doanh nghiệp với cơ quan chức năng
trong quá trình thực hiện đầu tư ở nước ngoài.
Việc chấp hành chế độ báo cáo tình hình thực hiện ĐTTT sang ASEAN của
doanh nghiệp chưa đầy đủ. Nhiều các doanh nghiệp Việt Nam đầu tư sang ASEAN
thiếu cập nhật các chính sách ĐTRNN của Việt Nam, thực hiện chế độ báo cáo tình
hình thực hiện dự án chưa nghiêm và chưa đầy đủ, không thực hiện việc đăng ký
điều chỉnh giấy chứng nhận đầu tư khi có thay đổi về nội dung hoạt động ở nước
ngoài, hình thức đầu tư ở nước ngoài, quy mô ĐTRNN. Điều này ảnh hưởng đến
công tác quản lý của nhà nước. Bên cạnh đó, do thiếu thông tin từ phía doanh
nghiệp nên các cơ quan quản lý cũng không thể hỗ trợ kịp thời cho doanh nghiệp
giải quyết các vướng mắc, khó khăn trong quá trình đầu tư.
Nhiều doanh nghiệp Việt Nam ĐTTT sang ASEAN thiếu cập nhật các
chính sách ĐTRNN của Việt Nam, thực hiện chế độ báo cáo tình hình thực hiện
dự án chưa nghiêm và chưa đầy đủ, không thực hiện việc đăng ký điều chỉnh
giấy chứng nhận đầu tư khi có thay đổi về nội dung hoạt động ở nước ngoài,
hình thức đầu tư ở nước ngoài, quy mô ĐTRNN.
100
Thứ tư, một số doanh nghiệp Việt Nam khi đầu tư sang ASEAN chưa tuân
thủ đúng pháp luật nước sở tại.
Hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam ĐTTT sang ASEAN đều phối hợp tốt
với chính quyền địa phương và tham gia tích cực các hoạt động hỗ trợ cộng đồng
như: xây dựng trường học, bệnh viện, đường sá, nhà tái định cư cho người dân
vùng dự án, góp phần phát triển kinh tế xã hội quốc gia tiếp nhận đầu tư, đặc biệt
là tại Lào và Campuchia. Tuy nhiên, không phải doanh nghiệp nào cũng tuân thủ
đầy đủ các quy định về cấp phép, đặc biệt là các quy định về bảo vệ môi trường,
trong đó có nội dung báo cáo đánh giá môi trường, xã hội của các dự án đầu tư.
Điều này khiến hoạt động của một số doanh nghiệp không được cộng đồng địa
phương và các tổ chức xã hội dân sự ở quốc gia tiếp nhận đầu tư đón nhận, thậm
chí còn vấp phải sự phản đối quyết liệt.
Thứ năm, sự liên kết giữa các nhà đầu tư Việt Nam còn yếu
Các doanh nghiệp Việt Nam thường kinh doanh đơn lẻ, thiếu sự liên kết hợp
tác, chia sẻ thông tin với nhau, thậm chí còn cạnh tranh không lành mạnh để tranh
giành dự án, ảnh hưởng đến uy tín của các doanh nghiệp Việt Nam. Các doanh
nghiệp Việt Nam chưa quan tâm và tích cực tham gia các hoạt động của các Hiệp
hội doanh nghiệp đầu tư tại nước sở tại nên chưa có tiếng nói chung với chính
quyền địa phương. Hiện tại mới có ba hiệp hội các nhà đầu tư Việt Nam tại Lào,
Campuchia và Myanmar.
Nhiều doanh nghiệp Việt Nam đầu tư sang ASEAN nhưng hoạt động còn
mang tính tự phát, do đó rất dễ xảy ra tranh chấp. Khi đó, việc xử lý tranh chấp
rất khó khăn, phức tạp, ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh. Trong khi, về mặt
quản lý nhà nước, hiện chưa có cơ quan đủ thẩm quyền, điều kiện và năng lực
triển khai quản lý, theo dõi, nắm bắt tình hình hoạt động đầu tư, sản xuất, kinh
doanh của tất cả các doanh nghiệp Việt Nam đang hoạt động tại ASEAN.
Thứ sáu, thiếu vắng các chiến lược đầu tư sang ASEAN tại các doanh
nghiệp Việt Nam nhằm tận dụng các cơ hội mà AEC đem lại.
Một số doanh nghiệp quá vội vàng đầu tư mà không nghiên cứu kỹ về thị
trường, môi trường đầu tư, kinh doanh, đặc điểm lối sống, nhu cầu, thị hiếu ở
101
nước tiếp nhận đầu tư nên khi thực hiện dự án gặp nhiều khó khăn, một số dự án
không triển khai được hoặc bị thu lỗ phá sản. Đây cũng là lý do giải thích xu
hướng đầu tư trực tiếp sang ASEAN của các doanh nghiệp Việt Nam thường tập
trung vào một số thị trường quen thuộc, ít đầu tư vào thị trường mới. Bên cạnh
đó, nhiều doanh nghiệp cũng chưa thực sự nghiên cứu kỹ các cơ hội đầu tư mà
AEC có thể đem lại đối với mình. Trên cơ sở đó xây dựng các chiến lược và kế
hoạch đầu tư phù hợp.
102
CHƯƠNG 4. NHỮNG YẾU TỐ TÁC ĐỘNG TỚI ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP CỦA
DOANH NGHIỆP VIỆT NAM SANG ASEAN TRONG KHUÔN KHỔ AEC
4.1. Mô hình tác động
4.1.1. Cơ sở lý thuyết về mô hình
Tác giả thực hiện nghiên cứu mô hình dựa trên cơ sở lý thuyết về đầu tư của
Dunning (1981, 1993, 1997, 2000). Theo các lý thuyết chiết trung, lý thuyết OLI và
ILP của Dunning, các doanh nghiệp khi đầu tư ra nước ngoài sẽ dựa vào các lợi thế
nhất định của mình để tiến hành đầu tư như quyền sở hữu, địa bàn đầu tư và tính
quốc tế trong quy mô hoạt động của doanh nghiệp.
Các yếu tố về chính sách đầu tư và môi trường đầu tư của nước chủ đầu tư tạo
ra các yếu tố đẩy đối với đầu tư trực tiếp của các doanh nghiệp Việt Nam sang
ASEAN.
Bên cạnh đó, với các động cơ khác nhau, các doanh nghiệp sẽ hình thành nên
các chiến lược đầu tư khác nhau, trong đó bao gồm: động cơ về thị trường, động cơ
tìm kiếm tài nguyên, động cơ tìm kiếm tài sản chiến lược và động cơ tìm kiếm hiệu
quả đầu tư. Các động cơ này tạo nên yếu tố kéo đối với vốn đầu tư trực tiếp của các
doanh nghiệp trên thị trường nước ngoài.
Với góc độ tiếp cận theo hướng động cơ của các nhà đầu tư, có thể thấy có
nhiều yếu tố tác động đến đầu tư trực tiếp của các doanh nghiệp Việt Nam sang
ASEAN.
M.Mele và cộng sự (2017) khi giải thích các yếu tố tác động đến đầu tư trực
tiếp của Trung Quốc vào các nước ASEAN đã cho thấy, các yếu tố tác động OFDI
bao gồm: độ mở của nền kinh tế, rủi ro về chính trị, sự gần gũi về văn hóa, lãi suất,
khoảng cách, mức độ mở của FDI. Các yếu tố này đã được sử dụng trong một số
nghiên cứu thực nghiệm về các yếu tố quyết định của nước chủ nhà đối với FDI của
Trung Quốc (Buckley và cộng sự, 2007; Cheng và Ma, 2008; Amighini et al.,
2011), cho thấy các nhà đầu tư khi tiến hành đầu tư đều dựa trên các động cơ về thị
trường, về tài nguyên hay hiệu quả đầu tư.
Kết quả nghiên cứu tại các quốc gia OECD cho thấy các nhà đầu tư quyết định
OFDI đầu tư sang thị trường này là từ yếu tố thị trường, dẫn tới các yếu tố tác động
đến OFDI căn cứ vào tốc độ tăng trưởng của các nền kinh tế trong ASEAN (Kolstad
103
và Wiig, 2012; Thành và Mã, 2008; Cheung và Qian, 2008); trong khi đó một số
nghiên cứu xem xét trường hợp của các quốc gia không thuộc OECD lại cho thấy
tài nguyên thiên nhiên lại có vai trò tạo động lực để thu hút đầu tư vào trong nước
(Buckley et al., 2007; Pradhan, 2009; Sanflippo, 2010; Kolstad và Wiig, 2012).
Một số nghiên cứu ở góc độ phân tích trong một ngành công nghiệp cho thấy
động cơ về tìm kiếm tài sản chiến lược lại có tính quyết định đến OFDI Trung Quốc
cả trong sản xuất và dịch vụ các lĩnh vực (Noorbakhsh và Paloni, 2001; Amighini et
al., 2011).
Ngoài ra, các yếu tố khác được các nhà nghiên cứu chỉ ra ảnh hưởng đến việc
thu hút vốn FDI vào trong nước bao gồm rủi ro chính trị (Ietto-Gillies, 2005), sự
không hoàn hảo của thị trường vốn (Yamin, 2000) kết hợp với hệ thống ngân hàng
kém hiệu quả (Warner et al., 2004; Trẻ em và Coleues, 2005; Antkiewicz và
Whalley, 2006), cho phép các doanh nghiệp nhà nước có sẵn vốn cho họ ở bên dưới
theo cách đó, tỷ giá thị trường, có được lợi thế so với các doanh nghiệp tư nhân
(Scott, 2002; Warner và cộng sự, 2004; Buckley và cộng sự, 2007). Nhiều nghiên
cứu cho thấy, việc đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước không nhất thiết theo đuổi
mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận mà dựa vào ưu đãi của chính phủ để thực hiện các
mục tiêu chính trị, do vậy các quyết định đầu tư của các doanh nghiệp này khác với
các quốc gia khác (Morck và cộng sự, 2008; Yeung và Liu, 2008). Có thể thấy theo
lý thuyết truyền thống, rủi ro chính trị có thể làm giảm thu hút FDI (Chekrabarti,
2001), song với trường hợp của Trung Quốc, dòng vốn đầu tư lại đổ đến những có
độ rủi ro chính trị và kinh tế cao (Buckley et al., 2007; Johanson và Vahalne, 1977).
Ngoài ra, các nghiên cứu khác cũng cho thấy có các yếu tố khác tác động đến
vốn đầu tư của các doanh nghiệp ra nước ngoài, như khoảng cách địa lý (Tang &
Trevino, 2010), Ghemawat, 2001) trong đó khoảng cách tồn tại không chỉ trong địa
lý, mà còn trong khoảng cách chênh lệch về kinh tế, về văn hóa về quản lý. Cụ thể,
sự gần gũi về văn hóa dẫn đến giao tiếp và giao dịch thấp hơn chi phí kinh doanh do
đó làm tăng vốn FDI (Ivanov và Ivanov, 2015).
4.1.2. Xây dựng mô hình
Dựa trên cơ sở góc độ phân tích mô hình các yếu tố đẩy và yếu tố kéo tác động
đến đầu tư trực tiếp của các doanh nghiệp Việt Nam trên thị trường ASEAN, tác giả
104
đã đề xuất 2 mô hình tác động, trong đó, mô hình thứ nhất xuất phát từ các yếu tố về
phía nước chủ đầu tư (tạo ra yếu tố đẩy đối với hoạt động đầu tư) và mô hình thứ
hai tiếp cận dưới góc độ của nước tiếp nhận đầu tư (tạo ra yếu tố kéo tác động đến
động cơ đầu tư của các doanh nghiệp Việt Nam).
Hai mô hình được thể hiện thông qua công thức như sau:
* Mô hình 1:
OFDIVN= f(LNGDP, OPE, EXR, PORISK, GR, AIA, ACIA, AEC)
Trong đó:
OFDIVN: Vốn đăng ký hàng năm sang từng nước thành viên của ASEAN.
LNGDP: GDP bình quân đầu người (đối với mô hình 1 – mô hình dựa trên các
yếu tố đẩy, dữ liệu sẽ được lấy của Việt Nam)
OPE: Chỉ số độ mở của nền kinh tế Việt Nam trong 1 năm, được tính theo tỷ
lệ XNK trên GDP của nước tiếp nhận đầu tư.
EXR: Chỉ số giá quy đổi theo tỷ giá hối đoái USD/VN trong 1 năm.
PORISK: Chỉ số về rủi ro chính trị của Việt Nam trong 1 năm.
ATIGA, ACIA, AEC: Các biến giả thể hiện tác động của các hiệp định thương
mại và đầu tư trong ASEAN đến việc thúc đẩy vốn Việt Nam vào ASEAN. Các chỉ
số này sẽ nhận giá trị là 1 từ thời điểm có hiệu lực đối với từng nước thành viên khi
tham gia, các thời điểm trước đó sẽ nhận giá trị là 0.
* Mô hình 2:
OFDIVN= f(LNGDP, INFR, OPE, EXR, RES, CORTAX, LAB, PORISK,
GR, AIA, ACIA, AEC)
Trong đó:
OFDIVN: Vốn đăng ký hàng năm sang từng nước thành viên của ASEAN.
LNGDP: GDP bình quân đầu người (đối với mô hình 1 – mô hình dựa trên các
yếu tố đẩy, dữ liệu sẽ được lấy của Việt Nam, đối với mô hình 2 – mô hình dựa trên
các yếu tố kéo, dữ liệu GDP bình quân đầu người được thu thập từ các nước tiếp
nhận đầu tư trong ASEAN)
INFR: Chỉ số cơ sở hạ tầng, được tính theo tỷ lệ cá nhân sử dụng internet
trong 1 năm.
105
OPE: Chỉ số độ mở của nền kinh tế trong 1 năm, được tính theo tỷ lệ XNK
trên GDP của nước tiếp nhận đầu tư.
EXR: Chỉ số giá quy đổi theo tỷ giá hối đoái trong 1 năm.
RES: Chỉ số tài nguyên thiên nhiên trên GDP trong 1 năm.
CORTAX: Mức thuế suất đối với thu nhập doanh nghiệp trong 1 năm.
LAB: Chỉ số về lao động, được tính bằng số lao động trên GDP trong 1 năm.
PORISK: Chỉ số về rủi ro chính trị trong 1 năm.
ATIGA, ACIA, AEC: Các biến giả thể hiện tác động của các hiệp định thương
mại và đầu tư trong ASEAN đến việc thu hút vốn FDI của Việt Nam vào ASEAN.
Các chỉ số này sẽ nhận giá trị là 1 từ thời điểm có hiệu lực đối với từng nước thành
viên khi tham gia, các thời điểm trước đó sẽ nhận giá trị là 0.
4.2. Phân tích các yếu tố tác động đến đầu tư trực tiếp của các doanh nghiệp
Việt Nam sang ASEAN trong khuôn khổ AEC
4.2.1.Mô tả về các biến trong mô hình
4.2.1.1.Đầu tư trực tiếp của các doanh nghiệp Việt Nam sang ASEAN (OFDIVN)
Tính đến hết năm 2018, tổng số dự án đầu tư của các doanh nghiệp Việt Nam
sang các nước ASEAN lên tới 764 dự án, trong đó có 601 dự án còn hiệu lực.
Số vốn đầu tư của các doanh nghiệp Việt Nam sang thị trường ASEAN ngày
càng đa dạng hơn về địa bàn đầu tư và lĩnh vực đầu tư.
Bảng 4.1.Vốn đầu tư trực tiếp của các doanh nghiệp Việt Nam sang ASEAN
qua các giai đoạn
Số vốn đăng ký đầu tư Giai đoạn đầu tư Số dự án (triệu USD)
8 3,7 1991 - 1998
72 2.047,9 1999 - 2005
711 9.209,2 2006 - 2019
(Nguồn: Tính toán của tác giả dựa trên số liệu về các dự án đầu tư của Cục ĐTNN-
Bộ KH&ĐT, 2019)
Trước năm 1998, chỉ có 8 dự án của các doanh nghiệp Việt Nam đầu tư sang 3
thị trường là Thái Lan, Singapore và Lào với tổng số vốn đầu tư là hơn 3,7 triệu
106
USD, trong các lĩnh vực như Vận tải kho bãi; Nông nghiệp, lâm nghiệp &thủy sản;
Công nghiệp chế biến, chế tạo và Xây dựng. Từ năm 1999 đến năm 2005, có thêm
một số nước như Indonesia, Brunei, Malaysia tiếp nhận vốn đầu tư của Việt Nam,
với các lĩnh vực đa dạng hơn như khoa học công nghệ, xây dựng, vận tải kho bãi,
thông tin và truyền thông, dịch vụ lưu trú và ăn uống. Từ năm 2006 đến 2019, vốn
đầu tư của các doanh nghiệp Việt Nam tiếp cận nhiều hơn với các thị trường như
Myanmar, Thái Lan và Philippines; các lĩnh vực đầu tư cũng được mở rộng, ngoài
việc tiếp tục thực hiện đầu tư trong các lĩnh vực như trước đây, các dự án đầu tư
cũng đã hoạt động hành chính và dịch vụ hỗ trợ, dịch vụ y tế và hỗ trợ. Tổng số vốn
đăng ký đầu tư trong giai đoạn này lên tới 9,2 tỷ USD, với 711 dự án đầu tư.
Các số liệu này cho thấy, ASEAN là một thị trường trọng điểm và là điểm đến
không thể thiếu cho vốn đầu tư của các doanh nghiệp Việt Nam.
4.2.1.2.Chỉ số GDP bình quân đầu người (LNGDP)
Trong số các nước ASEAN, xét về tổng giá trị GDP của các quốc gia,
Indonesia và Thái Lan hiện đang dẫn đầu ASEAN, trong đó Indonesia đạt 1090 tỷ
USD vào năm 2017, bỏ xa nước đứng thứ hai là Thái Lan, với GDP đạt 455 tỷ USD
(năm 2017).
Tuy nhiên, xét về mức GDP bình quân đầu người thì Singapore và Brunei đạt
hiệu quả cao nhất, với dữ liệu tương ứng của 2 nước lần lượt là 57.714
USD/người/năm và 28.291 USD/người/năm (World Bank, 2018). Đến năm 2019,
mức GDP bình quân đầu người của 10 nước ASEAN lần lượt là: Singapore – 65,2
nghìn USD/người, Brunei 31 nghìn USD/người, Malaysia – 11,4 nghìn USD/người,
Thái Lan – 7,8 nghìn USD/người, Indonesia – 4,1 nghìn USD/người, Phillippines –
3,4 nghìn USD/người, Việt Nam – 2,7 nghìn USD/người, Lào – 2,5 nghìn
USD/người, Campuchia – 1,6 nghìn USD/người, Myanmar – 1,4 nghìn USD/người.
Việt Nam mặc dù có nhiều tiến bộ vượt bậc trong việc phát triển kinh tế xã
hội, song mức thu nhập bình quân đầu người vẫn ở mức thấp trong khu vực
ASEAN.
(Đơn vị tính: USD/người)
107
57714
60000
50000
28291
40000
30000
9945
6594
38472457
1384
1299
2343
2989
20000
2015
10000
2005
1993
0
1993
2000
2005
2010
2015
2017
Biểu đồ 4.1.GDP bình quân đầu người của các quốc gia trong ASEAN
(Nguồn: Số liệu thống kê của World Bank về chỉ số của các nước qua các
năm - https://data.worldbank.org/ )
Điều này cũng đặt ra cho chính phủ Việt Nam những thách thức không nhỏ để
cải thiện môi trường kinh tế xã hội, tạo điều kiện nâng cao mức sống cho người dân
và nâng cao năng lực cạnh tranh đối với các doanh nghiệp nội địa.
4.2.1.3.Chỉ số cơ sở hạ tầng (INFR)
Một số nghiên cứu sử dụng chỉ số LPI (Logistics Performance Index) của
World Bank để đo lường về hệ số cơ sở hạ tầng (Doan Nguyen và Thang Le Van,
2017), song các chỉ số này chỉ xác định theo một số năm, tỷ lệ dữ liệu thiếu khá
nhiều.
Có nhiều chỉ số xác định về cơ sở hạ tầng, có thể đo lường bởi số lượng người
dùng internet, điện thoại di động hoặc chỉ số vận chuyển hành khách. Trong đề tài
này, tác giả lựa chọn chỉ số đo lường người dùng internet, bởi chỉ số này đánh giá
thước đo sự phát triển của nền kinh tế theo hướng công nghệ hiện đại. Hạ tầng cơ sở
phát triển vừa thể hiện nhu cầu xã hội ngày càng tăng, đồng thời cũng hàm ý chi phí
đầu tư phải đủ lớn để thích ứng với nhu cầu xã hội tại nước tiếp nhận đầu tư.
108
Bảng 4.2.Chỉ số sử dụng internet tại các nước ASEAN
Quốc gia Năm 1999 Năm 2005 Năm 2014 Năm 2015 Năm 2016 Năm 2017 Năm 2018
Campuchia 0.03 0.32 14.00 22.33 32.40 50.00 40
Lào 0.04 0.85 14.26 18.20 21.87 35.00 -
Brunei 7.67 36.47 68.77 71.20 90.00 95.60 -
Indonesia 0.44 3.60 17.14 21.98 25.37 32,29 40
Myanmar 0.00 0.07 11.52 21.73 25.07 34.00 -
Malaysia 12.31 48.63 63.67 71.06 78.79 80.14 81
Philippines 1.43 5.40 49.60 53.70 55.50 63.00 -
Singapore 24.16 61.00 79.03 79.01 81.00 84.45 88
Thái Lan 2.43 15.03 34.89 39.32 47.50 52,9 56,8
Việt Nam 0.13 12.74 41.00 43.50 46.50 67.00 70
(Nguồn: Số liệu thống kê của World Bank về chỉ số của các nước qua các
năm - https://data.worldbank.org)
Chỉ số người sử dụng internet được thể hiện theo tỷ lệ phần trăm số người
được truy cập internet kể cả tại nhà, tại nơi làm việc và khu vực công cộng. Trong
vòng 3 tháng gần nhất thông qua các phương tiện như máy tính, điện thoại, phương
tiện kỹ thuật số cá nhân, máy chơi game, ti vi kỹ thuật số…Chỉ số này được lấy từ
tỷ lệ cá nhân sử dụng internet trong tổng dân số của quốc gia theo dữ liệu của WB
qua các năm.
Có thể thấy Việt Nam là một trong những nước có tốc độ phát triển hạ tầng
thông tin nhanh nhất trong khu vực ASEAN, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh
nghiệp Việt Nam khi ĐTRNN và giúp cho Việt Nam có thể giành lợi thế khi tham
gia vào nền kinh tế kỷ nguyên số và thông tin.
4.2.1.4. Chỉ số độ mở của nền kinh tế trong một năm (OPE)
Để tính toán mức độ mở của nền kinh tế, nhiều tác giả đã sử dụng công thức
tính dựa trên tỷ lệ giữa tổng giá trị thương mại quốc tế và GDP. Theo Pritchett
(1996) và Hoàng Xuân Bình (2011), độ mở của nền kinh tế được đo bằng cường độ
109
thương mại của nền kinh tế, tính theo mức độ tăng trưởng của xuất nhập khẩu/GDP
năm thứ i+1 so với năm thứ i.
Trong luận án này, tác giả sử dụng chỉ số thương mại trong tổng giá trị GDP
của WB qua các năm, chỉ số này được tính theo công thức tính tỷ trọng của tổng giá
trị xuất nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ trên GDP. Tác giả sử dụng chỉ số này để phù
hợp với các số liệu về GDP bình quân đầu người và các dữ liệu tính toán khác. Tác
giả không sử dụng chỉ số về cường độ thương mại do các chỉ số khác không tính
toán theo mức độ tăng trưởng.
Bảng 4.3. Độ mở trong nền kinh tế của các quốc gia ASEAN
Năm Năm Năm Năm
(Đơn vị tính: % trong GDP) Năm Năm
Năm Quốc gia 2000 2005 2010 2015 2016 2017 2019
Campuchia 110.89 136.83 113.60 127.86 126.95 124.89 123.56
Lào 68.84 71.79 84.72 85.80 75.09 75.83 -
Brunei 103.17 97.46 95.37 84.90 87.32 85.18 108.51
Indonesia 71.44 63.99 46.70 41.94 37.44 39.54 37.3
Myanmar 1.17 0.27 0.18 47.36 39.06 39.06 -
Malaysia 220.41 203.85 157.94 133.55 128.64 135.92 123.09
Philippines 104.73 97.88 71.42 62.69 64.90 70.66 68.61
Singapore 366.07 422.65 373.44 329.05 310.26 322.43 319.15
Thái Lan 121.30 137.85 127.25 125.90 121.66 121.66 110.3
Việt Nam 111.42 130.71 152.22 178.77 184.69 200.31 210.4
(Nguồn: Số liệu thống kê của World Bank về chỉ số của các nước qua các năm - https://data.worldbank.org)
Xét về độ mở của các nền kinh tế trong ASEAN có thể thấy, Singapore vẫn là
quốc gia đứng đầu trong việc mở cửa đối với hàng hóa và dịch vụ từ nước ngoài
vào trong nước. Chỉ số thương mại hàng hóa và dịch vụ/GDP của Singapore hàng
năm đều giữ ở mức cao, trên 300. Việt Nam là nước có mức độ mở cửa nhanh qua
các năm. Đến năm 2017, Việt Nam đã vươn lên đứng thứ 2 trong ASEAN sau
Singapore về độ mở của nền kinh tế. Tiếp theo là Malaysia, Campuchia và Thái Lan
110
với độ mở ở mức trên 100. Myanmar mặc dù đã có những tiến bộ đáng kể so với
năm 2000 (năm 2017 tăng 39 lần so với năm 2000), nhưng Myanmar vẫn là thị
trường có mức độ mở cửa thị trường thấp nhất trong khu vực. Bên cạnh đó,
Indonesia, do nhiều năm xung đột, căng thẳng về chính trị đã ảnh hưởng đến hoạt
động thương mại của nước này. Năm 2017, cùng với Myanmar, Indonesia là thị
trường có mức độ mở cửa thấp nhất trong ASEAN. Năm 2018, mức độ mở cửa của
Myanmar tăng đáng kể, đạt 60,69%, điều này cho thấy sau khi mở cửa nền kinh tế,
nền kinh tế Myanmar đang bứt tốc khá nhanh chóng với những chính sách thương
mại và đầu tư thông thoáng.
Mức độ mở cửa thị trường ở các nước có tác động không nhỏ đến hoạt động
đầu tư của các doanh nghiệp nước ngoài, trong đó có các doanh nghiệp Việt Nam.
4.2.1.5. Chỉ số giá quy đổi theo tỷ giá hối đoái trong một năm (EXR)
Chỉ số giá quy đổi cũng là một trong các yếu tố ảnh hưởng đến các quyết định
đầu tư của các doanh nghiệp, nhất là khi các doanh nghiệp Việt Nam thường sử
dụng đồng USD hoặc các đồng ngoại tệ để tiến hành đầu tư ra nước ngoài.
Chỉ số này cho phép các doanh nghiệp Việt Nam có thể so sánh mức chi phí
đầu tư sản xuất ở các quốc gia tiếp nhận vốn, từ đó đưa ra lựa chọn về thị trường và
lĩnh vực đầu tư phù hợp.
Tỷ lệ mức giá của yếu tố chuyển đổi PPP (GDP) so với tỷ giá hối đoái thị
trường: Hệ số chuyển đổi ngang giá sức mua là số đơn vị tiền tệ của một quốc gia
cần mua cùng một lượng hàng hóa và dịch vụ ở thị trường nội địa được mua bằng
một đô la Mỹ tại Hoa Kỳ. Tỷ lệ của hệ số chuyển đổi PPP với tỷ giá hối đoái thị
trường là kết quả thu được bằng cách chia hệ số chuyển đổi PPP cho tỷ giá hối đoái.
Tỷ lệ này còn được gọi là ngang giá quốc gia, có thể so sánh chi phí của giỏ hàng
hóa trong tổng sản phẩm quốc nội (GDP) giữa các quốc gia. Nó cho biết cần bao
nhiêu đô la để mua hàng hóa trị giá một đô la trong nước so với Hoa Kỳ..
111
0.80
0.71
0.70
0.61
0.57
0.60
0.48
0.50
0.41
0.41
0.41
0.35
0.37
0.35
0.35
0.29
0.36
0.36
0.33
0.40
0.33
0.34
0.31
0.31
0.29
Năm 2011
0.30
Năm 2017
0.20
0.10
0.00
Biểu đồ 4.2. Chỉ số giá quy đổi theo ngang giá sức mua (PPP) tại ASEAN
(Nguồn: Số liệu thống kê của World Bank về chỉ số của các nước qua các
năm - https://data.worldbank.org)
Chỉ số giá quy đổi theo tỷ giá thị trường ở ASEAN thường có xu hướng tăng
lên ở các nước CMVL, trong khi lại có xu hướng giảm ở ASEAN-6. Hai nước có
chỉ số giá cao nhất trong ASEAN là Singapore và Brunei, song trong năm 2017, chỉ
số giá của Brunei cũng đã giảm xuống xấp xỉ với các nước khác trong khu vực. Chỉ
số giá của Singapore vẫn ở mức cao là 0,61.
Năm 2019, chỉ số giá quy đổi của các nước lần lượt là: Singapore – 0,64,
Brunei – 0,48, Thái Lan 0,4. Các nước còn lại chỉ số này dao động trong khoảng
0,31 đến 0,38.
4.2.1.6.Chỉ số tài nguyên thiên nhiên trên GDP (RES)
Tài nguyên thiên nhiên sẽ là yếu tố có tác động kéo các nhà đầu tư bỏ vốn đầu
tư tại một quốc gia. Chính vì vậy, tác giả sẽ sử dụng chỉ số về tài nguyên thiên nhiên
để phân tích trong mô hình. Số liệu về chi phí tài nguyên được xác định theo chỉ số
TNRR (Total Natural Resources Rents) của WB. Các tài nguyên thiên nhiên được liệt
kê trong chỉ số này bao gồm: dầu thô, khí tự nhiên, than, chất khoáng và gỗ.
Chỉ số này đo lường tỷ lệ chi phí thuê tài nguyên trong tổng giá trị sản phẩm
quốc nội của một quốc gia nhất định trong một năm. Việc tính toán tỷ trọng phân bổ
của tài nguyên trong tổng sản phẩm đầu ra của nền kinh tế là rất quan trọng trong việc
xây dựng khung phân tích phát triển bền vững của một quốc gia. Ở một số quốc gia,
thu nhập từ tài nguyên thiên nhiên, đặc biệt là từ nhiên liệu hóa thạch, khoáng sản,
112
chiếm tỷ trọng lớn trong GDP và phần lớn thu nhập này ở dạng tiền thuê, doanh thu
từ tiền thuê cao hơn chi phí khai thác tài nguyên. Tài nguyên thiên nhiên làm tăng giá
thuê kinh tế vì chúng không sản xuất được.
Bảng 4.4.Chỉ số về thuê tài nguyên thiên nhiên của các nước ASEAN
(Đơn vị tính: %)
Quốc gia Năm 2000 Năm 2005 Năm 2015 Năm 2016 Năm 2017
Campuchia 2.46904 1.71983 1.74574 1.90250 1.90250
Lào 4.03002 7.18459 10.21555 9.46952 9.46952
Brunei 26.39209 29.70018 8.33601 9.18575 9.18575
Indonesia 8.76422 8.74675 2.59219 2.49632 2.49632
Myanmar 6.07340 10.20330 4.74102 4.94287 4.94287
Malaysia 9.80154 11.29549 4.43961 4.29616 4.29616
Philippines 0.51829 1.14493 1.79587 1.33035 1.33035
Singapore 0.00033 0.00031 0.00037 0.00046 0.00046
Thái Lan 1.22054 2.17427 1.17908 1.20553 1.20553
Việt Nam 9.09127 10.93613 2.32984 2.30111 2.30111
(Nguồn: Số liệu thống kê của World Bank về chỉ số của các nước qua các năm - https://data.worldbank.org 1)
Đối với các hàng hóa và dịch vụ sản xuất khác, các doanh nghiệp sẽ mở rộng
nguồn cung cho đến khi lợi nhuận kinh tế bị giảm về 0, nhưng tài nguyên thiên nhiên
với nguồn cung cố định lại thường mang lại lợi nhuận vượt quá chi phí sản xuất. Giá
thuê từ các tài nguyên không thể tái tạo-nhiên liệu hóa thạch và khoáng sản-cũng như
tiền thuê từ việc khai thác rừng quá mức cho thấy tính thanh khoản vốn của một quốc
gia. Khi các quốc gia sử dụng tiền thuê như vậy để hỗ trợ cho tiêu dùng hiện tại thay
vì đầu tư vào vốn mới để thay thế những gì đang được sử dụng hết, thực tế, họ đang
1 Dữ liệu của các nước năm 2018 và 2019 chưa được WB cập nhật.
vay mượn từ tương lai của họ.
113
Nhìn vào bảng dữ liệu trên, có thể thấy Singapore do diện tích đất nhỏ, hầu hết
các nguồn tài nguyên thiên nhiên hạn chế, do vậy, tỷ trọng các nguồn thu hoặc chi
phí tài nguyên chiếm khá thấp trong tỷ trọng GDP. Trong khi đó, Brunei mặc dù
diện tích cũng khá nhỏ, song lại phụ thuộc khá lớn vào nguồn thu từ dầu mỏ, dẫn tới
tỷ trọng chi phí về tài nguyên chiếm khá lớn trong GDP (năm 2000 đạt chỉ số
26,39%, năm 2017 giảm xuống còn 9,18%).
Do lo ngại về sự suy giảm tài nguyên thiên nhiên, cũng như do các nước đã
tăng cường hỗ trợ phát triển các hoạt động chế biến công nghiệp và dịch vụ khác,
nên tỷ trọng nguồn thu từ cho thuê tài nguyên thiên nhiên giảm hẳn trong những
năm gần đây. Phần lớn các nước đều chỉ dừng ở mức tỷ trọng 1-2%, song vẫn còn
một số nước như Myanmar và Malaysia, tỷ trọng này vẫn ở mức 4%, Lào và Brunei
ở mức 9%. Đặc biệt ở Lào, tỷ trọng chi phí thuê tài nguyên có xu hướng tăng lên từ
năm 2000 cho đến 2017. Năm 2000, chi phí thuê tài nguyên chỉ chiếm 4%, đến năm
2005 chiếm 7%, năm 2015 là 10%, năm 2016 và 2017 ở mức ổn định là 9%. Điều
này cho thấy, nguồn thu từ cho thuê tài nguyên vẫn là một trong những nguồn quan
trọng cho GDP của nước này. Chỉ số này cũng phần nào thể hiện chính sách tại Lào
có xu hướng lỏng hơn so với các nước khác trong việc quản lý các hoạt động đầu tư
vào các lĩnh vực khai thác tài nguyên tại nơi này. Qua chỉ số này, lý giải lý do vốn
đầu tư của các doanh nghiệp Việt Nam trong lĩnh vực khai thác và chế biến khoáng
sản nhiều hơn so với tại các quốc gia khác trong ASEAN.
4.2.1.7.Mức thuế suất đối với thu nhập doanh nghiệp trong một năm (CORTAX)
Thuế xuất nhập khẩu trong AEC hiện đã giảm xuống 0% đối với hầu hết các
mặt hàng, bởi vậy, việc lựa chọn đầu tư sang ASEAN đối với nhiều doanh nghiệp
nội khối có thể nhằm lẩn tránh thuế TNDN. Việc thành lập doanh nghiệp trên thị
trường nước ngoài giúp các doanh nghiệp Việt Nam giảm các chi phí cũng như
thuế, tạo ra nguồn lợi nhuận cao hơn.
Dữ liệu về thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp được thu thập từ nhiều nguồn
khác nhau, do trong dữ liệu của WB còn thiếu nhiều thông tin về thuế suất của các
quốc gia trong ASEAN trong nhiều năm. Tác giả đã thu thập bổ sung các dữ liệu về
thuế suất Thuế thu nhập doanh nghiệp từ các cơ quan quản lý thuế của các quốc gia
thành viên trong ASEAN như: Cục thuế-Bộ Tài chính Brunei, Tổng Cục Thuế
114
Campuchia, Cục Thuế Indonesia, Bộ Tài chính Lào, Hội đồng doanh thu nội địa của
Malaysia, Cục Thuế Quốc tế Myanmar, Cục Thuế Nội địa Philippines, Cục Thuế nội
địa Malaysia, Tổng cục Thuế Thái Lan, Tổng Cục Thuế-Bộ Tài chính Việt Nam.
Bảng 4.5.Thuế suất thuế Thu nhập doanh nghiệp tại ASEAN
Quốc gia Năm 2001 Năm 2008 Năm 2009 Năm 2010 Năm 2017
27.5 25.5 23.5 18.5 Brunei 30
Campuchia 20 20 20 20 20
Indonesia 30 30 28 25 25
Lào 20 20 35 35 24
Malaysia 28 26 25 25 24
Myanmar 30 30 30 35 25
Philippines 35 35 30 30 30
Singapore 25.5 18 18 17 17
Thái Lan 30 30 30 30 20
Việt Nam 32 28 25 25 20
(Nguồn: tác giả thu thập từ các dữ liệu từ thông tin website của các cơ quan
quản lý thuế của các nước thành viên ASEAN)
Nhằm tạo ra sự thu hút đối với các doanh nghiệp nước ngoài đến đầu tư, từng
quốc gia nước thành viên ASEAN đều có xu hướng giảm thuế suất thuế thu nhập
doanh nghiệp. Năm 2001, hầu hết mức thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp ở các
nước ASEAN ở vào khoảng 20% đến 32%, trong đó mức thuế suất ở Việt Nam là
cao nhất (32%). Đến năm 2017, Singapore vẫn là môi trường đầu tư tương đối
thuận lợi, với mức thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp thấp nhất (ở mức 17%).
Việt Nam sau nhiều năm thay đổi về chính sách đầu tư, các mức thuế suất thuế thu
nhập doanh nghiệp đều được điều chỉnh giảm, xuống còn 28% (năm 2008), 25%
(năm 2009), 22% (năm 2014, 2015), và 20% (từ năm 2016 đến nay).
Philippines là quốc gia có thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp vẫn ở mức
cao (30%), mức độ giảm thuế suất chậm. Mức thuế suất thu nhập cao tại Philippines
là một trong các trở ngại cho việc thu hút vốn đầu tư vào quốc gia này. Đây cũng là
115
một trong những yếu tố cản trở vốn đầu tư của các doanh nghiệp Việt Nam. Cho
đến cuối năm 2018, các doanh nghiệp Việt Nam mới chỉ có 6 dự án đầu tư vào
Philippines với tổng số vốn đầu tư khá thấp, chỉ vào mức 6 triệu USD, bình quân 1
triệu USD/dự án đầu tư. Bốn quốc gia khác cũng cần nghiên cứu giảm thuế để tăng
cường thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào trong nước trong thời gian tới, đó là
Indonesia, Myanmar (mức thuế suất 25%), Lào và Malaysia (24%).
Năm 2019, các mức thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp của các quốc gia
vẫn chưa có sự thay đổi so với năm 2017.
4.2.1.8.Chỉ số về lao động (LAB)
Khi đầu tư ra nước ngoài, việc lựa chọn nguồn nhân lực cũng rất quan trọng
đối với các doanh nghiệp Việt Nam, bởi nó sẽ quyết định sự tồn tại và phát triển của
công ty tại thị trường nước ngoài. Có nhiều tác giả sử dụng các chỉ số về lao động
để đánh giá sự thu hút của một quốc gia hoặc một địa phương đối với vốn FDI, như
Esiyok và Ugur (2015), Hoang và Goujon (2014), Meyer và Nguyen (2005) , Doan
Nguyen và Thang Le Van (2017) sử dụng chỉ số lao động trên 15 tuổi để thể hiện
chất lượng lao động và thu nhập bình quân/tháng của lao động trên 15 tuổi để thể
hiện chi phí lao động.
Theo Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD), năng suất lao động được
tính bằng số sản phẩm hàng hóa và dịch vụ cuối cùng được tạo ra cho một đơn vị
lao động tham gia vào hoạt động sản xuất. Hàng hoá và dịch vụ cuối cùng được tạo
ra của nền kinh tế là tổng sản phẩm trong nước (GDP). Lao động tham gia vào hoạt
độngsản xuất tạo ra GDP phản ánh thời gian, công sức và kỹ năng của lực lượng lao
động và thường được tính bằng lao động đang làm việc, giờ công lao động, hay lực
lượng lao động được điều chỉnh theo chất lượng.
Theo hệ thống chỉ tiêu thống kê trong luận án này, do thiếu các thông tin về
chi phí lao động (được thể hiện bởi tiền lương lao động) trong khoảng thời gian liên
tục từ năm 1992 đến năm 2017 nên tác giả sử dụng chỉ số về tỷ trọng lao động trong
GDP, được xác định bởi tỷ lệ dân số từ 15 tuổi trở lên tham gia vào hoạt động kinh
tế, bao gồm cả các cá nhân đang có việc làm và hiện đang thất nghiệp trên GDP.
Chỉ số này cũng sẽ là yếu tố để các doanh nghiệp Việt Nam cân nhắc trong việc xây
dựng các luận chứng kinh tế kỹ thuật. Chỉ số này thể hiện để tạo ra 1 đồng GDP cần
116
sử dụng bao nhiêu lao động. Do vậy, chỉ số này càng cao nghĩa là cần phải sử dụng
nhiều lao động hơn để tạo ra 1 đồng USD, năng suất lao động thấp. Ngoài ra, hàm ý
của chỉ số này cũng cho thấy, các nước có chỉ số lao động/GDP cao hơn thường có
hàm lượng lao động dồi dào, đồng thời, chi phí lao động tại các nước này sẽ thấp
hơn ở mức tương đối.
Bảng 4.6.Tỷ trọng lao động/GDP của các nước ASEAN
Quốc gia Năm 2000 Năm 2005 Năm 2014 Năm 2015 Năm 2016 Năm 2017
Campuchia 0.00152 0.00108 0.00053 0.00050 0.00046 0.00042
Lào 0.00140 0.00099 0.00026 0.00024 0.00022 0.00021
Brunei 0.00003 0.00002 0.00001 0.00002 0.00002 0.00002
Indonesia 0.00060 0.00037 0.00014 0.00014 0.00013 0.00013
Myanmar 0.00251 0.00194 0.00038 0.00042 0.00040 0.00037
Malaysia 0.00010 0.00008 0.00004 0.00005 0.00005 0.00005
Philippines 0.00037 0.00033 0.00015 0.00015 0.00014 0.00014
Singapore 0.00002 0.00002 0.00001 0.00001 0.00001 0.00001
Thái Lan 0.00028 0.00020 0.00010 0.00010 0.00009 0.00009
Việt Nam 0.00136 0.00082 0.00030 0.00029 0.00028 0.00026
(Nguồn: tác giả tính toán từ chỉ số về lực lượng lao động và GDP của các
nước ASEAN, lấy từ nguồn dữ liệu của World Bank về chỉ số của các nước qua các
năm - https://data.worldbank.org/)
Đối với các doanh nghiệp đầu tư trong lĩnh vực sử dụng nhiều lao động, với
chi phí lao động thấp thì cần chọn các quốc gia có tỷ lệ này cao. Với các quốc gia
có tỷ trọng lao động/GDP thấp thì các doanh nghiệp không nên đầu tư vào các lĩnh
vực sử dụng nhiều lao động. Đây cũng là căn cứ để lý giải lĩnh vực đầu tư của các
doanh nghiệp Việt Nam trên ASEAN.
Nhìn vào bảng tỷ trọng lao động/GDP của ASEAN, có thể thấy các nước có
hàm lượng lao động dồi dào và sử dụng nhiều lao động trong các ngành nghề sản
xuất ở trong nước, bao gồm các nước trong nhóm ASEAN4-CMVL. Chỉ số về lao
động/GDP tại các nước này vào khoảng 1-2% năm 2000. Do vậy, tại những quốc
117
gia này, vốn đầu tư nước ngoài thường có xu hướng đổ vào các ngành sử dụng
nhiều nhân công không yêu cầu trình độ tay nghề cao như giày dép, may mặc, khai
thác khoáng sản, xây dựng...Trong những năm gần đây, tốc độ tăng trưởng kinh tế
của các nước này có sự khởi sắc hơn, chỉ số về sử dụng lao động trong GDP đã
giảm, điều này có nghĩa là chỉ cần số lượng lao động ít hơn có thể tạo ra một đồng
GDP. Song, năng suất lao động của các nước này vẫn thấp hơn so với các nước
ASEAN-6.
4.2.1.9. Chỉ số về rủi ro chính trị trong một năm (PORISK)
Các biến động về mặt chính trị sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến nguồn vốn đầu tư
và hoạt động triển khai dự án đầu tư của doanh nghiệp tại nước sở tại.
Thực tế tại nhiều nước trong ASEAN, các căng thẳng và xung đột về chính trị
và kinh tế giữa các nước thành viên, cũng như xung đột trong nội bộ quốc gia, đã
ảnh hưởng đến việc thu hút vốn đầu tư vào trong nước. Như tại Campuchia, năm
2008-2009 xảy ra Chiến tranh biên giới Campuchia-Thái Lan, năm 2015 căng thẳng
biên giới với Việt Nam khiến cho vốn đầu tư từ các thị trường này vào Campuchia
sụt giảm đáng kể. Năm 2014, Việt Nam đầu tư hơn 565 triệu USD vào Campuchia
thì sang năm 2015 sụt giảm xuống còn 80 triệu, 2 năm tiếp sau đó vốn đầu tư giảm
xuống ở mức 59 triệu USD và 9 triệu USD.
Nội chiến, khủng hoảng liên miên tại Thái Lan năm 2004-2006, năm 2008-
2010, năm 2014-2015 đã khiến cho nền kinh tế Thái Lan gặp khó khăn trong nhiều
năm liền. Tại các nước Hồi giáo như Malaysia và Indonesia, sự hiện hữu của vấn
nạn IS vào những năm 2002, 2009, năm 2015 đã làm cho nền kinh tế các nước này
chao đảo.
Để đo lường các rủi ro về chính trị, từ đó sử dụng chỉ số này trong đánh giá tác
động của yếu tố chính trị đến hoạt động đầu tư của các doanh nghiệp, tác giả sử
dụng chỉ số ổn định chính trị và không có bạo lực, khủng bố của WB.
Chỉ số ổn định chính trị và không có bạo lực, khủng bố (The index of Political
Stability and Absence of Violence/Terrorism) đo lường về khả năng chính phủ bất
ổn hoặc bị lật đổ bằng các phương tiện bạo lực hoặc bất hợp pháp, bao gồm bạo lực
có động cơ chính trị và khủng bố. Chỉ số được tính trung bình từ một số chỉ số khác
118
từ nguồn của Diễn đàn Kinh tế toàn cầu (The World Economic Forum)và Dịch vụ
Rủi ro chính trị (The Political Risk Services).
Chỉ số này được đánh giá trong thang điểm từ -2.5 đến 2.5, trong đó -2.5 là
yếu nhất và mạnh nhất là 2.5.
Bảng 4.7.Chỉ số ổn định chính trị và không có bạo lực, khủng bố của ASEAN
Quốc gia
Năm 2000
Năm 2005
Năm 2008
Năm 2009
Năm 2012
Năm 2013
Năm 2014
Năm 2016
Năm 2017
Năm 2018
Thái Lan
0.46
-0.87
-1.27
-1.42
-1.22
-1.31
-0.91
-0.99
-0.76
-0.73
Singapore
1.14
1.16
1.35
1.18
1.37
1.38
1.19
1.5
1.39
1.51
Malaysia
0.09
0.56
0.11
-0.04
-0.01
0.05
0.27
0.14
0.16
0.24
Lào
-0.58
-0.49
0.02
-0.16
0.03
0.07
0.5
0.53
0.43
0.42
Campuchia
-0.78
-0.4
-0.3
-0.56
-0.1
-0.14
0.02
0.21
0.17
0.11
Philippines
-1.39
-1.18
-1.78
-1.73
-1.19
-1.08
-0.71
-1.38
-1.24
-1.12
Myanmar
-1.67
-0.9
-1.09
-1.29
-0.94
-1.14
-1.09
-0.8
-1.08
-1.31
Indonesia
-2
-1.52
-1.06
-0.75
-0.59
-0.52
-0.42
-0.37
-0.51
-0.53
Brunei
1.3
1.21
1.13
1.39
0.91
1.07
1.26
1.15
1.19
1.2
Việt Nam
0.41
0.48
0.16
0.27
0.27
0.25
-0.02
0.23
0.31
0.2
(Nguồn: Số liệu thống kê của World Bank về chỉ số của các nước qua các
năm - https://data.worldbank.org)
Các nước có hệ số chính trị ổn định nhất trong ASEAN là Singapore, Brunei,
Việt Nam và Lào. Sự ổn định chính trị có tác động dương đến việc thu hút vốn đầu
tư từ nước ngoài, tạo thuận lợi cho sự phát triển kinh tế của quốc gia. Ở Việt Nam,
chỉ số năm 2014 ở vào mức âm nhẹ, do tại thời điểm này, căng thẳng trên biển
Đông với Trung Quốc làm nhiều nhà phân tích chính trị lo ngại. Tuy nhiên, sau đó,
sự mềm dẻo trong chính sách chính trị của Việt Nam đã khiến cho chỉ số này tăng
trở lại.
Các nước được đánh giá thấp hơn trong hệ số này bao gồm Thái Lan,
Philippines, Myanmar, Indonesia với các hệ số ổn định chính trị thường xuyên ở
mức âm. Tại Campuchia, mặc dù nhiều năm trước, nước này không được đánh giá
119
tốt về mức độ ổn định chính trị, song từ năm 2014 trở lại đây, tình hình đã được cải
thiện hơn.
4.2.1.10.Các biến khác
Ngoài các biến trên, để xem xét việc phân chia theo 2 nhóm nước: ASEAN-6
(Singapore, Thái Lan, Malaisia, Indonesia, Philippines và Brunei)và ASEAN-4
(Campuchia, Lào, Myanmar và Việt Nam) có tác động như thế nào đến việc định
hướng đầu tư của doanh nghiệp, tác giả đặt tiêu chí nhóm nước thành biến giả.
Nhóm nước ASEAN-6 sẽ mang giá trị 1 và nhóm nước ASEAN-4 mang giá trị 0.
Việc tham gia vào các Hiệp định trong ASEAN như AIA, ACIA và tham gia
vào AEC có thể tác động đến chiến lược đầu tư của các doanh nghiệp của các nước
thành viên. Mở cửa thị trường hàng hóa và thị trường vốn sẽ tạo điều kiện cho dòng
hàng và dòng vốn luân chuyển trên khắp thị trường ASEAN, giúp đạt đến nền kinh
tế chung thống nhất như trong mục tiêu của AEC.
Các biến về AIA, ACIA và AEC là các biến giả và sẽ nhận giá trị gán là 1 từ
thời điểm tham gia và nhận giá trị 0 thời điểm trước đó. Các biến giả này được sử
dụng để đo lường tác động từ việc tham gia vào ASEAN cũng như AEC đến hoạt
động đầu tư sang ASEAN của các doanh nghiệp Việt Nam.
4.2.2.Kết quả ước lượng mô hình và kết luận rút ra từ mô hình
4.2.2.1.Kết quả ước lượng mô hình
* Mô hình đo lường các yếu tố từ phía nước chủ đầu tư (yếu tố đẩy)
Có thể thấy, trong các mô hình trên, các yếu tố về mặt chính sách không tác
động nhiều đến việc ra quyết định đầu tư của doanh nghiệp Việt Nam sang thị trường ASEAN.
Nhưng việc ký kết các Hiệp định đầu tư và Hiệp định thương mại tự do có tác động nhất định đến đầu tư của các doanh nghiệp. Địa bàn đầu tư cũng có tác động đến việc lựa chọn địa bàn đầu tư của doanh nghiệp Việt Nam. Doanh nghiệp Việt Nam thường lựa chọn đầu tư sang các thị trường có thu nhập thấp, điều này phù hợp với quy luật dòng chảy của vốn FDI. Tuy nhiên, mặc dù AEC đã có hiệu
lực, song tại Việt Nam, dường như tác động đang ngược chiều, có vẻ như các doanh
120
nghiệp Việt Nam chưa thực sự nhận thức được các cơ hội mà AEC tạo ra khi đầu tư sang thị trường ASEAN.
Bảng 4.8.Kết quả ước lượng mô hình đo lường các yếu tố đẩy
Biến số
LNgdp
OPE
EXR
PORISK
AIA
ACIA
AEC
OFDI 1 0.797 (0.658) -0.041 (0.203) 14.21 (0.330) 1.408 (0.441) 1.881 (0.147) 0.426 (0.667) -0.408 (0.441) -3.240***
OFDI 2 -0.788 (0.547) 13.90 (0.342) 1.78 (0.324) 1.655 (0.198) 1.006 (0.257) -1.264** (0.027) -3.269***
OFDI 3 0.313 (0.607) 1.539 (0.390) 1.117 (0.331) 1.47 ** (0.049) -1.39*** (0.012) -3.26***
GR
(0.000)
(0.000)
(0.000)
Hệ số chặn
-2.591 (0.947) 103
31.43 (0.276 103
7.774 (0.591) 103
0.5127
0.5042
0.54995
Số quan sát Hệ số xác định Mean vif
18.08
11.11
2.89
(Nguồn: Tác giả tổng hợp từ dữ liệu nghiên cứu với sự trợ giúp của phần mềm Stata; Giá trị trong ngoặc đơn là p-value, *,**,*** hệ số hồi quy có ý nghĩa ởmức 10%, 5% và 1%).
Bên cạnh đó, trong các chính sách của chính phủ Việt Nam, chưa thực sự gắn kết với các cam kết về đầu tư, nhất là đầu tư ra nước ngoài. Chính vì vậy, Chính phủ Việt Nam dường như còn nhiều việc phải làm để có thể khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư ra nước ngoài.
* Mô hình đo lường các yếu tố từ phía nước tiếp nhận đầu tư (yếu tố kéo)
Kết quả ước lượng mô hình được thể hiện trong Bảng 4.9 dưới đây:
121
Bảng 4.9. Kết quả ước lượng mô hình đo lường các yếu tố kéo
Biến số
Mô hình POLS
LNgdp
INFR
OPE
EXP
RES
CORTAX
LAB
PORISK
AIA
ACIA
AEC
GR
Hệ số chặn
0.052 (0.893) -0.023** (0.015) 0.015** (0.015) -1.195 (0.764) 0.188*** (0.004) -13.908*** (0.009) 1411.61 (0.133) -0.8598* (-0.100) 1.386* (0.076) 1.18 *** ( 0.000) -0.181 (0.781) -2.78*** (0.003) 15.644*** (0.000) 103 0.5975
Mô hình OLS có Robust 0.052 (0.905) -0.023** (0.024) 0.015** (0.015) -1.195 (0.764) 0.188*** (0.004) -13.908** (0.009) 1411.61* (0.088) -0.8598* (-0.100) 1.386 (0.133) 1.18 *** (0.000) -0.181 (0.802) -2.78*** (0.000) 15.644*** (0.000) 103 0.5975
Mô hình tác động ngẫu nhiên -0.031 (0.933) -0.020 (0.245) 0.017*** (0.009) -2.961 (0.488) 0.179*** (0.007) -13.001** (0.011) 1437.94* (0.064) -0.777 (0.147) 1.373 (0.130) 1.93 ** (0.022) -0.281 (0.773) -2.98*** (0.000) 16.355*** (0.000) 103 0.5963 chibar2(01) =0.7 Prob>Chibar2 =0.2015
F(3, 88) = 0.46 Prob > F = 0.7091 chi2(1) = 1.24 Prob > chi2 = 0.2655 chi2(1) = 36.77
Prob > chi2 = 0.000
Số quan sát Hệ số xác định Kết quả kiểm định lựa chọn mô hình Kết quả kiểm định bỏ sót biến Kết quả kiểm định PSSS Kiểm định tự tương quan bậc 1
(Nguồn: Tác giả tổng hợp từ dữ liệu nghiên cứu với sự trợ giúp của phần mềm Stata; Giá trị trong ngoặc đơn là p-value, *,**,*** hệ số hồi quy có ý nghĩa ởmức 10%, 5% và 1%).
Theo kết quả ước lượng ở Bảng 4.9, do kết quả kiểm định lựa chọn mô hình
cho kết quả p-value lớn nên không bác bỏ H0, do đó mô hình POLS là phù hợp hơn
122
mô hình tác động ngẫu nhiên. Kết quả kiểm định các vi phạm giả thuyết của mô
hình POLS cho biết, mô hình không bỏ sót biến và có PSSS không đổi (do p-value
lớn). Tuy nhiên mô hình bị tự tương quan bậc 1. Để kiểm soát vi phạm này, hồi quy
OLS có Robust được lựa chọn. Như vậy, mô hình cuối cùng được sử dụng để phân
tích là mô hình OLS có Robust.
Kết quả ước lượng mô hình OLS có Robust cho biết, một số biến có ảnh
hưởng đến ĐTTT của các doanh nghiệp Việt Nam sang các nước ASEAN như: Chi
phí cơ sở hạ tầng (INFR), Độ mở của nền kinh tế (OPE), Tài nguyên thiên nhiên
(RES), Thuế suất thu nhập doanh nghiệp (CORTAX), Năng suất lao động (LAB),
Chỉ số ổn định chính trị (PORISK) và nhóm biến giả ATIGA, IGA, ACIA, GR.
Ngược lại, hệ số hồi quy của các biến khác không có ý nghĩa thống kê. Cụ thể:
Thứ nhất, chi phí cơ sở hạ tầng kỹ thuật làm giảm đầu tư sang ASEAN: Mặc
dù cơ sở hạ tầng kỹ thuật tốt sẽ tạo điều kiện thu hút các doanh nghiệp nước ngoài
vào đầu tư. Nhưng qua nghiên cứu cho thấy các doanh nghiệp Việt Nam thường đầu
tư nhiều hơn vào những nước có cơ sở hạ tầng thấp hơn như Lào, Campuchia,
Myanmar. Nguyên nhân chính có thể là do chi phí đầu tư vào thuê cơ sở hạ tầng kỹ
thuật của các nước khác như Singapore, Brunei khá đắt. Do vậy, tác động từ chi phí
cơ sở hạ tầng đến đầu tư trực tiếp của Việt Nam trên thị trường ASEAN là tác động
nghịch. Chi phí cơ sở hạ tầng tăng 1% thì vốn đầu tư của các doanh nghiệp Việt
Nam trên thị trường ASEAN giảm 0,03%. Bên cạnh đó, năng lực và trình độ kỹ
thuật của các doanh nghiệp Việt Nam vẫn ở mức thấp, chỉ phù hợp hơn với các thị
trường đầu tư có trình độ năng lực kỹ thuật tương đồng. Với các thị trường đầu tư
khác, các doanh nghiệp Việt Nam đầu tư ít dự án hơn, nên tập trung vào các dự án
đầu tư trong lĩnh vực dịch vụ. Tuy nhiên, các doanh nghiệp Việt Nam cũng cần lưu
tâm hơn đến xu hướng phát triển cách mạng công nghiệp 4.0. Xu hướng có thể ảnh
hưởng đến cơ cấu đầu tư, nếu chỉ chạy theo các dự án đòi hỏi sử dụng nhiều lao
động và nguồn nguyên liệu mà chưa tập trung chú ý đến các dự án đầu tư công nghệ
cao thì các doanh nghiệp Việt Nam sẽ gặp thất bại không chỉ trên thị trường nước
tiếp nhận đầu tư mà còn ngay trên sân nhà.
Thứ hai, tăng trưởng kinh tế không ảnh hưởng đến đến tăng trưởng vốn đầu
tư trực tiếp của các doanh nghiệp Việt Nam vào thị trường ASEAN.
123
Thứ ba, độ mở của nền kinh tế có tác động kích thích tăng vốn của các doanh
nghiệp Việt Nam trên thị trường ASEAN. Nền kinh tế các nước càng mở cửa, việc
thâm nhập vào thị trường các nước càng trở nên dễ dàng hơn thông qua việc giảm
các hàng rào thủ tục hành chính, có thể ảnh hưởng đến hoạt động đầu tư. Thông qua
các nước tiếp nhận đầu tư, các doanh nghiệp Việt Nam có thể xuất khẩu hàng hóa
nhằm tận dụng các ưu thuế từ các cam kết ưu đãi thương mại giữa nước đầu tư và
nước tiếp nhận đầu tư.
Thứ tư, chỉ số giá quy đổi theo tỷ giá hối đoái có tác động làm giảm đầu tư
của các doanh nghiệp Việt Nam sang ASEAN. Nguyên nhân là do hầu hết các dự án
đầu tư của các doanh nghiệp Việt Nam đều sử dụng ngoại tệ, chủ yếu là USD để
tiến hành đầu tư nên khi chỉ số giá thay đổi theo hướng tăng sẽ khiến các doanh
nghiệp Việt Nam phải mất nhiều VND hơn để mua USD đầu tư ra nước ngoài. Tỷ
giá USD/VND liên tục tăng trong thời gian qua dẫn tới doanh nghiệp gặp khó khăn
hơn trong việc thu hút vốn để tiến hành đầu tư ra nước ngoài.
Thứ năm, tài nguyên thiên nhiên là yếu tố chủ yếu làm tăng đầu tư của các
doanh nghiệp Việt Nam. Chỉ số tỷ trọng vốn thuê tài nguyên trong GDP tăng cho
thấy các nước dựa nhiều vào nguồn tài nguyên thiên nhiên để thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế. Đối với các doanh nghiệp Việt Nam theo đuổi mục tiêu tìm kiếm nguồn tài
nguyên thì việc tăng tỷ lệ khai thác tài nguyên tại nước tiếp nhận đầu tư lên 1% sẽ
khiến cho vốn đầu tư của các doanh nghiệp Việt Nam tăng 0,2%. Tuy nhiên, vốn tài
nguyên thiên nhiên luôn là vốn quý của các quốc gia, do vậy, các quốc gia thường
có động thái bảo vệ nguồn tài nguyên của mình để đảm bảo phát triển bền vững.
Các doanh nghiệp Việt Nam khi đầu tư sang một số nước ASEAN như Lào,
Campuchia, Myanmar nếu chỉ dựa vào động cơ khai thác nguồn tài nguyên thiên
nhiên thì cần phải tính toán lại các bài toán khai thác, bởi các nước này đã có nhiều
động thái bảo hộ nguồn tài nguyên như dừng các dự án khai thác tài nguyên. Việc
đầu tư vào các lĩnh vực như khai mỏ, hoặc khai thác các tài nguyên nông nghiệp cần
được tính toán kỹ càng hơn.
Thứ sáu, thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp làm giảm vốn đầu tư của các
doanh nghiệp Việt Nam tại ASEAN, trong bài toán kinh doanh của doanh nghiệp
cần phải cân nhắc kỹ vấn đề này. Trong xu thế hội nhập, thuế suất thuế thu nhập
124
doanh nghiệp tại ASEAN đã có xu hướng giảm, khiến cho doanh nghiệp cảm thấy
có lãi hơn khi tiến hành đầu tư tại nước sở tại, kích thích doanh nghiệp tiếp tục bỏ
vốn đầu tư tại thị trường này. Xu hướng lựa chọn các nước tiếp nhận đầu tư có
nhiều ưu đãi thuế, miễn thuế là tất yếu trong chiến lược đầu tư của các doanh
nghiệp Việt Nam.
Thứ bảy, chỉ số về lao động có tác động dương tới thu hút vốn đầu tư. Năng
suất lao động nơi nào càng cao sẽ khiến các doanh nghiệp càng muốn bỏ vốn đầu tư
vào thị trường đó. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, mặc dù năng suất lao động của các
nước như Campuchia, Lào, Myanmar thấp hơn các nước khác trong khu vực, song
do hoạt động đầu tư của các doanh nghiệp Việt Nam tập trung vào các lĩnh vực sử
dụng nhiều lao động như trong khai mỏ, trong các dự án nông nghiệp nên đây vẫn là
những thị trường ưu tiên đối với dòng vốn của các doanh nghiệp Việt Nam trong
lĩnh vực này. Mặc dù vậy, các doanh nghiệp Việt Nam cũng cần tính đến các bài
toán ứng dụng công nghệ vào trong các dự án nông nghiệp để nâng cao năng suất
lao động, đồng thời giảm bớt các chi phí lao động, qua đó nâng cao hiệu quả của
các dự án đầu tư.
Thứ tám, chỉ số về chính trị có tác động ngược chiều đối với các dự án đầu tư
của các doanh nghiệp Việt Nam trên ASEAN. Thực tế cho thấy, tại những nước có
xung đột về chính trị xảy ra thường xuyên như Indonesia và Philippines thì dòng
vốn của Việt Nam thường tại đây thường thấp.
Thứ chín, do có cùng trình độ phát triển kinh tế và năng lực về khoa học kỹ
thuật nên dòng vốn của các doanh nghiệp Việt Nam thường đổ vào các nước như
Lào, Campuchia, Myanmar nhiều so với các nước khác trong khu vực. Đây cũng là
vấn đề mà các doanh nghiệp Việt Nam cần tính đến trong các chiến lược đầu tư tiếp
theo, bởi nếu không nâng cao năng lực cạnh tranh, không những các doanh nghiệp
Việt Nam không tận dụng được các cơ hội từ các ưu đãi trong AEC mà còn có nguy
cơ bị đánh bật ra khỏi thị trường truyền thống.
Thứ mười, các cam kết về tự do thương mại, tự do đầu tư trong ASEAN đều
có tác động thuận tới việc đầu tư của các doanh nghiệp Việt Nam. Tuy nhiên, do tác
động trễ của các cam kết ở cấp độ chính phủ, biến AEC chưa có ý nghĩa. Trong thời
gian tới, các doanh nghiệp Việt Nam cần tăng cường hơn nữa trong việc nghiên cứu
125
các cơ hội và thách thức có thể đến khi AEC thực sự tác động vào nền kinh tế
ASEAN.
4.2.2.2.Thảo luận kết quả nghiên cứu
Các kết quả nghiên cứu cho thấy:
Một là, chính phủ cần hoàn thiện hơn nữa các chính sách liên quan đến đầu
tư trực tiếp ra nước ngoài. Các chính sách đầu tư của Việt Nam chưa thực sự tác
động tạo ra thuận lợi đối với hoạt dộng đấu tư trực tiếp của doanh nghiệp Việt Nam
sang ASEAN, chưa thực sự đủ mạnh để tạo ra yếu tố kích thích dòng vốn đầu tư của
doanh nghiệp ra nước ngoài nói chung.. Việc đầu tư ra nước ngoài hiện nay tại Việt
Nam còn vướng nhiều ở cơ chế chính sách, về định hướng về chiến lược đầu tư.
Các cơ quan quản lý nhà nước chưa thực sự coi đầu tư ra nước ngoài là một hoạt
động được khuyến khích. Bởi vậy, rất nhiều chính sách của Việt Nam vẫn còn hạn
chế việc chuyển vốn đầu tư ra nước ngoài hoặc chưa có cơ chế thực sự hỗ trợ đầu tư
của các doanh nghiệp ra nước ngoài nói chung và sang thị trường ASEAN nói riêng.
Việc hoàn thiện các chính sách đầu tư, bao gồm các quy định về thủ tục, về quản lý
và các cơ chế hỗ trợ đối với đầu tư trực tiếp ra nước ngoài là cần thiết để tăng cường
hoạt động đầu tư trực tiếp của doanh nghiệp Việt Nam sang ASEAN.
Hai là, các yếu tố về chi phí sản xuất, chi phí cơ sở hạ tầng, chi phí về thuế
thu nhập doanh nghiệp, năng suất lao động đều có tác động đến hiệu quả về đầu tư.
Bởi vậy, các doanh nghiệp khi lựa chọn chiến lược đầu tư cần cân nhắc các yếu tố
này. Việc lựa chọn địa điểm đầu tư và lĩnh vực đầu tư cần phải dựa trên cơ sở năng
lực của doanh nghiệp. Đối với các doanh nghiệp Việt Nam, các thị trường kém phát
triển vẫn là phù hợp hơn. Điều này đòi hỏi các doanh nghiệp cần phải có những lựa
chọn hợp lý để tăng hiệu quả vốn đầu tư trên thị trường ASEAN.
Ba là, việc ký kết các Hiệp định trong ASEAN, trong đó có AEC có tác động
thuận lợi tới đầu tư. Tuy nhiên, các doanh nghiệp Việt Nam cần tăng cường hiểu
biết và nhận thức hơn nữa về AEC, đánh giá được các cơ hội và thách thức mà
doanh nghiệp có thể gặp trong quá trình triển khai các hoạt động đầu tư trên thị
trường này.
126
CHƯƠNG 5: ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP NHẰM THÚC ĐẨY ĐẦU TƯ TRỰC
TIẾP CỦA CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT NAM SANG ASEAN ĐẾN NĂM
2025, ĐỊNH HƯỚNG ĐẾN NĂM 2030
5.1. Cơ hội và thách thức đối với các doanh nghiệp Việt Nam khi đầu tư sang
ASEAN trong bối cảnh AEC
5.1.1.Cơ hội
AEC sẽ mang lại những cơ hội mới cho các doanh nghiệp Việt Nam khi đầu
tư sang ASEAN, đó là:
Thứ nhất, AEC mở ra một khu vực thị trường chung rộng lớn, thống nhất với
dân số trên 600 triệu người và quy mô GDP hiện nay khoảng 2.400 tỷ USD, thì
AEC sẽ trở thành nền kinh tế đứng thứ 7 thế giới, là khu vực xuất khẩu đứng thứ 4
thế giới sẽ tạo điều kiện để hàng hóa, dịch vụ, vốn, công nghệ và lao động có tay
nghề được tự do lưu chuyển trong các nước thành viên ASEAN mà không phải chịu
sự phân biệt đối xử. Nhờ đó, người tiêu dùng Việt Nam có nhiều lựa chọn về hàng
hóa và dịch vụ với giá cả thấp và chất lượng cao hơn. Các doanh nghiệp Việt Nam
có cơ hội hưởng lợi nhờ phát huy hiệu quả kinh tế theo quy mô để tăng năng suất và
giảm chi phí sản xuất, dẫn tới giá cả hàng hóa cạnh tranh hơn. Mặt khác, AEC tạo
nên sự liên kết chuỗi giữa các doanh nghiệp ASEAN.
Thứ hai, AEC mở ra cơ hội cho các doanh nghiệp Việt Nam đầu tư sang
ASEAN: môi trường kinh doanh được mở rộng theo hướng minh bạch và bình đẳng
hơn sẽ là điều kiện để ĐTRNN, để Việt Nam có thể tham gia và chuỗi giá trị khu
vực và toàn cầu.
Thứ ba, AEC tạo ra sức ép, nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh
nghiệp Việt Nam: tham gia vào một sân chơi chung và chịu áp lực cạnh tranh từ các
đối tác khu vực cả về trình độ quản lý, công nghệ và nhân lực sẽ buộc các doanh
nghiệp Việt Nam phải tự cải tổ, thay đổi, nâng cao năng lực cạnh tranh để có thể tồn
tại và phát triển.
Thứ tư, AEC sẽ giúp các doanh nghiệp trong lĩnh vực ngân hàng, bảo hiểm,
chứng khoán của Việt Nam có cơ hội mở rộng thị phần và tiếp cận với công nghệ
127
quản trị tiên tiến, hiện đại. AEC sẽ giúp tăng cường phạm vi che phủ và mức độ
phục vụ của ngành dịch vụ tài chính ở những vùng, những ngành mà mức độ thâm
nhập và phục vụ của dịch vụ tài chính vẫn còn thấp. Ngành bảo hiểm trong khu vực
sẽ được hưởng lợi đáng kể từ dòng chảy lao động và dịch vụ logistics giữa các nước
thành viên ASEAN với nhiều điều kiện để tạo áp lực giúp phát triển thêm các sản
phẩm bảo hiểm mới dành riêng cho thị trường ASEAN.
Thứ năm, gia nhập AEC còn đem lại nhiều lợi ích cho lao động Việt Nam.
AEC sẽ cho phép Việt Nam cạnh tranh được trên thị trường toàn cầu trên cơ sở tăng
năng suất và kỹ năng của người lao động. Việt Nam sẽ là một trong một số nước
hưởng lợi nhiều hơn từ việc hội nhập kinh tế khu vực sâu rộng so với các nước khác
do nền kinh tế Việt Nam phụ thuộc nhiều vào ngoại thương.
5.1.2.Thách thức
Bên cạnh các cơ hội, các doanh nghiệp Việt Nam cũng sẽ phải đối mặt với
nhiều thách thức không nhỏ, các thách thức này xuất phát từ bản thân các doanh
nghiệp, cũng như từ các yếu tố bên ngoài.
Thứ nhất, thách thức lớn nhất trong AEC đối với Việt Nam hiện tại là sức ép
cạnh tranh từ hàng hóa từ các nước ASEAN: với cơ cấu sản phẩm tương đối giống
nhau ở cả 10 nước ASEAN, việc mở cửa thị trường sẽ tạo ra áp lực cạnh tranh rất lớn
đối với các doanh nghiệp Việt Nam, đặc biệt là các doanh nghiệp có sức cạnh tranh yếu
và ở các ngành vốn được bảo hộ cao từ trước tới nay.
Thứ hai, thách thức về dịch vụ. Nếu mục tiêu tự do lưu chuyển dịch vụ trong
AEC được hiện thực hóa,các doanh nghiệp Việt Nam trong lĩnh vực dịch vụ chắc chắn
sẽ bị đặt trong môi trường cạnh tranh khốc liệt hơn nhiều (bởi hiện nay các rào cản/điều
kiện đối với nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài vào Việt Nam vẫn còn tương đối cao, do
đó doanh nghiệp dịch vụ Việt Nam hiện đang được “bao bọc” khá kỹ lưỡng trong
nhiều lĩnh vực dịch vụ);
Thứ ba, thách thức về lao động. Khi AEC hoàn tất mục tiêu tự do lưu chuyển
lao động, nếu không có sự chuẩn bị đầy đủ, lao động Việt Nam tay nghề kém, thiếu các
kỹ năng cần thiết (ngoại ngữ, tính chuyên nghiệp…) có thể sẽ gặp khó khăn hơn.
128
5.2.Mục tiêu, định hướng của các doanh nghiệp Việt Nam và quan điểm của
nhà nước thúc đẩy đầu tư trực tiếp của các doanh nghiệp Việt Nam sang
ASEAN
5.2.1.Mục tiêu
* Đối với Nhà nước
Khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi để nhà đầu tư Việt Nam thuộc mọi
thành phần kinh tế, nhất là thành phần kinh tế ngoài nhà nước mở rộng thị trường
đầu tư, kinh doanh, khai thác tiềm năng, thế mạnh ở bên ngoài; tăng khả năng xuất
khẩu hàng hóa, dịch vụ, thu ngoại tệ; tạo công ăn việc làm cho người lao động Việt
Nam; tiếp cận công nghệ hiện đại, nâng cao năng lực quản trị doanh nghiệp và bổ
sung nguồn lực phát triển kinh tế-xã hội đất nước.
Tạo ra các công cụ, biện pháp hỗ trợ hoạt động ĐTRNN đem lại hiệu quả,
phát triển bền vững. Quản lý có hiệu quả hoạt động ĐTRNN, đặc biệt là các hoạt
động đầu tư, kinh doanh ở nước ngoài có sử dụng vốn nhà nước.
Trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam với quy mô còn nhỏ, năng lực cạnh
tranh hạn chế và đặc biệt là đang cần dành dành nguồn lực đầu tư phát triển kinh tế
ở trong nước. Hoạt động ĐTRNN phải đảm bảo cân bằng cán cân thanh toán quốc
tế của Việt Nam; không làm ảnh hưởng đến nguồn vốn đầu tư trong nước và cân đối
vĩ mô của nền kinh tế.
* Đối với các doanh nghiệp Việt Nam
Đầu tư ra nước ngoài cần đảm bảo định hướng, mục tiêu về hiệu quả đầu tư,
đảm bảo dựa trên cơ sở lợi thế so sánh cốt lõi để đảm bảo có lợi thế cạnh tranh
trong đầu tư với các doanh nghiệp khác trong cùng khu vực, nhất là với các công ty
đa và xuyên quôc gia đang hiện diện trên thị trường các nước ASEAN, được hưởng
các ưu đãi về đầu tư trong khuôn khổ AEC.
5.2.2.Định hướng
Thứ nhất, về đối tác đầu tư tại ASEAN.
Các doanh nghiệp Việt Nam nên tiếp tục phát huy các thế mạnh và lợi thế so
sánh trong việc đầu tư vào các khu vực thị trường truyền thống mà ta có lợi thế như
Lào, Campuchia, Myanmar...trên cơ sở khai thác triệt để các hiệp định song phương
và khu vực.
129
Nhà nước cần có biện pháp hỗ trợ và khuyến khích đầu tư đặc biệt đối với
các dự án ĐTTT sang ASEAN vào một số thị trường mang tính chiến lược, liên
quan đến an ninh quốc gia, biên giới lãnh thổ. Từng bước mở rộng đầu tư sang các
nước, các thị trường mới trên cơ sở lợi thế so sánh và thực lực của các doanh nghiệp
Việt Nam.
Thứ hai, về lĩnh vực đầu tư tại ASEAN.
Doanh nghiệp Việt Nam nên tập trung nhiều hơn vào các lĩnh vực dịch vụ,
tăng cường khai thác, đầu tư vào các sản phẩm ứng dụng về công nghệ để tăng năng
lực cạnh tranh, đảm bảo cho vị thế đầu tư trên thị trường khu vực.
Nhà nước cũng cần khuyến khích và hỗ trợ các dự án ĐTTT trong các lĩnh
vực năng lượng, sản xuất điện để có thể đáp ứng nhu cầu về điện của nền kinh tế;
Khuyến khích và hỗ trợ các dự án ĐTTT sang ASEAN trong lĩnh vực khai thác tài
nguyên thiên nhiên, trong đó đặc biệt chú trọng các lĩnh vực thăm dò khai thác dầu
khí và khoáng sản khác nhằm đáp ứng nhu cầu về nguyên liệu và nhiên liệu phục vụ
sản xuất của nền kinh tế; Khuyến khích và hỗ trợ các dự án ĐTTT sang ASEAN
trong lĩnh vực trồng rừng nhất là ở các địa bàn đầu tư như Lào, Campuchia...nhằm
đáp ứng yêu cầu về nguyên liệu phục vụ sản xuất và xuất khẩu; Tạo điều kiện thuận
lợi cho các dự án ĐTTT sang ASEAN trong các lĩnh vực công nghiệp, xây dựng,
dịch vụ nhằm mở rộng thị trường và tăng cường khả năng cạnh tranh của doanh
nghiệp...
Thứ ba, về chủ thể đầu tư tại ASEAN.
Các thành phần doanh nghiệp Việt Nam đều có thể tận dụng cơ hội từ AEC
để liên doanh, liên kết với các doanh nghiệp trong và ngoài nước để nâng cao năng
lực đầu tư. Trong khuôn khổ AEC, nên tận dụng cơ hội để tiếp cận với các doanh
nghiệp trong khu vực ASEAN để có thể đầu tư vào những lĩnh vực
Khuyến khích các thành phần kinh tế ĐTTT sang ASEAN, trong đó hướng
các tập đoàn kinh tế nhà nước, vào các lĩnh vực liên quan đến năng lượng, dầu khí,
viễn thông, khai thác tài nguyên thiên nhiên, trồng rừng; Khuyến khích và đối xử
bình đẳng giữa doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp có vốn ĐTNN trong việc
ĐTTT sang ASEAN. Việc khuyến khích các doanh nghiệp có vốn ĐTNN tiếp tục
130
ĐTTT sang ASEAN nhằm góp phần làm cho các nhà ĐTNN coi Việt Nam như một
địa điểm để đặt trụ sở chính trong quá trình mở rộng các hoạt động đầu tư, kinh
doanh; Khuyến khích việc hình thành các liên doanh, liên kết giữa doanh nghiệp
nhà nước với các doanh nghiệp thuộc mọi thành kinh tế nhất là các doanh nghiệp có
vốn ĐTNN trong việc ĐTTT sang ASEAN; Khuyến khíchcác doanh nghiệp Việt
NamĐTTT sang ASEAN trên cơ sở liên doanh, liên kết với người Việt Nam ở nước
ngoài; Tạo điều kiện thuận lợi cho người Việt Nam ở nước ngoài đầu tư về nước
với mục đích để tiếp tục ĐTTT sang ASEAN.
Thứ tư, về chính sách đối với đầu tư tại ASEAN.
Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện khung pháp luật, chính sách về ĐTRNN
nhằm tạo điều kiện và định hướng cho các doanh nhân và doanh nghiệp ĐTTT sang
ASEAN an toàn và thuận lợi; Cải tiến thủ tục hành chính đối ĐTTT sang ASEAN
theo hướng đơn giản thuận tiện, mở rộng hơn nữa diện các dự án thuộc diện đăng
ký, giảm bớt sự can thiệp bằng các biện pháp hành chính ngay cả đối với các dự án
sử dụng vốn nhà nước, tăng quyền chủ động, tự chịu trách nhiệm của doanh nghiệp;
Từng bước phân cấp việc cấp Giấy chứng nhận ĐTRNN cho các Bộ, ngành và địa
phương nhằm tạo tính chủ động và đảm bảo thời gian thực hiện các thủ tục hành
chính; Quy định đồng bộ các biện pháp khuyến khích và hỗ trợ ĐTTT sang ASEAN
một cách cụ thể, trong đó đặc biệt chú trọng các biện pháp hỗ trợ như về cung cấp
thông tin, hướng dẫn, bảo vệ quyền lợi của doanh nghiệp ĐTTT sang ASEAN.
Nghiên cứu khả năng thành lập quỹ hỗ trợ ĐTTT sang ASEAN của Việt Nam nhằm
hỗ trợ tài chính cho các dự án ĐTTT sang ASEAN và hỗ trợ các doanh nghiệp Việt
Nam khi họ gặp những rủi ro trong quá trình kinh doanh ở nước ngoài; Rà soát để
thúc đẩy đàm phán, ký kết và tăng cường tuyên truyền, phổ biến các hiệp định quốc
tế song phương, đa phương và khu vực liên quan trực tiếp và gián tiếp đến hoạt
động ĐTTT sang ASEAN, trước hết là các hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu
tư, hiệp định tránh đánh thuế hai lần, các hiệp định tạo thuận lợi cho việc lưu
chuyển hàng hoá, dịch vụ, lao động qua biên giới quốc gia.
5.2.3.Quan điểm của nhà nước
131
Nhà nước khuyến khích đầu tư ra nước ngoài với mục đích nhằm khai thác,
phát triển, mở rộng thị trường; tăng khả năng xuất khẩu hàng hóa, dịch vụ, thu
ngoại tệ; tiếp cận công nghệ hiện đại, nâng cao năng lực quản trị và bổ sung nguồn
lực phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, các quan điểm của nhà nước về
ĐTTTRNN được thể hiện như sau:
Thứ nhất, ĐTRNN là phương thức quan trọng nhằm giành quyền chủ động
trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. ĐTRNN là việc chuyển các nguồn lực có
lợi thế so sánh ở trong nước ra bên ngoài để tạo thế cạnh tranh, nâng cao năng lực
sản xuất, tìm nguồn tài nguyên thay thế, hạn chế ô nhiễm môi trường ở trong nước
và mở rộng thị trường tiêu thụ, thúc đẩy điều chỉnh cơ cấu kinh tế và phân bố nguồn
lực trong không gian rộng lớn hơn; tăng cường động lực để phát triển nền kinh tế an
toàn và bền vững nhằm thu được lợi ích cao nhất cho đất nước.
Thứ hai, ĐTRNN phải được coi là một bộ phận cấu thành trong chiến lược,
quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội nói chung, cũng như của từng ngành,
từng địa phương nhằm định hướng cho việc điều chỉnh thể chế, chính sách; định
hướng thị trường, lĩnh vực, đối tác đầu tư; đảm bảo thực hiện cân đối, sát với thực
tế, tránh lãng phí các nguồn lực, hướng dẫn các doanh nghiệp đầu tư sao cho có lợi
nhất.
Thứ ba, chủ thể ĐTRNN là các doanh nghiệp được thành lập và hoạt động
theo pháp luật Việt Nam không phân biệt thành phần kinh tế và hình thức sở hữu,
đều được Nhà nước đối xử và bảo hộ bình đẳng khi thực hiện ĐTRNN. Coi các nhà
ĐTNN đó có mặt tại Việt Nam như một cầu nối quan trọng trong việc thúc đẩy các
hoạt động ĐTRNN.
Thứ tư, coi trọng và phát huy có hiệu quả vai trò của cộng đồng người Việt
Nam ở nước ngoài trong việc thúc đẩy các hoạt động ĐTRNN nhằm tận dụng các
nguồn tài chính, chất xám, các quan hệ thân thuộc đa dạng, nhiều chiều, nhiều cấp
độ và hữu ích đang có tại nước ngoài.
Thứ năm, khung pháp luật, chính sách về ĐTRNN cần được hoàn thiện theo
tinh thần cải cách pháp luật nói chung, trong đó, chú trọng cải tiến thủ tục đầu tư;
tăng cường các biện pháp cụ thể khuyến khích, hỗ trợ cho các doanh nghiệp
132
ĐTRNN; quy định cụ thể trách nhiệm của các cơ quan nhà nước (bao gồm cả các cơ
quan đại diện ngoại giao ở nước ngoài) và chế tài đối với doanh nghiệp, tăng cường
công tác tổng hợp tình hinh ĐTRNN và nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với
hoạt động ĐTRNN.
5.3.Đề xuất giải pháp nhằm thúc đẩy đầu tư trực tiếp sang ASEAN cho các
doanh nghiệp Việt Nam đến năm 2025, định hướng đến năm 2030
5.3.1.Chủ động xây dựng chiến lược đầu tư có hiệu quả, chuẩn bị kỹ các điều
kiện trước khi đầu tư và chiến lược kinh doanh
Thứ nhất, chủ động xây dựng chiến lược đầu tư có hiệu quả.
Để tồn tại và cạnh tranh hiệu quả trên thị trường quốc tế, các doanh nghiệp
cần phải xây dựng chiến lược đầu tư sang ASEAN với những bước đi, lộ trình thích
hợp trên cơ sở năng lực của doanh nghiệp và mục tiêu của hoạt động đầu tư. Đối
với thị trường đầu tư truyền thống thì lại cần xây dựng chiến lược đầu tư một cách
chi tiết hơn nữa để tận dụng những lợi thế của Việt Nam cũng như những ưu đãi
nước sở tại để đạt được hiệu quả đầu tư tối đa nhất. Có thể nói đến một số chiến
lược mà một số các doanh nghiệp Việt Nam đã áp dụng thành công tại ASEAN
như: (i) Chiến lược là người tiên phong và dẫn đầu thị trường ngách; (ii) Chiến lược
dựa vào ưu thế độc quyền; (iii) Chiến lược đa dạng hóa lĩnh vực đầu tư; (iv) Chiến
lược đầu tư từ gần đến xa; (v) Chiến lược thâm nhập từ văn hóa, lan tỏa thương
hiệu; (vi) Chiến lược đầu tư về nhân sự…
Viettel là nhà cung cấp dịch vụ viễn thông lớn tại Việt Nam, đầu tư, hoạt
động và kinh doanh tại 13 quốc gia trải dài từ Châu Á, Châu Mỹ, Châu Phi với quy
mô thị trường 270 triệu dân, gấp khoảng 3 lần dân số Việt Nam, họ đã kết hợp các
chiến lược đầu tư một cách khoa học, sáng tạo và luôn đổi mới. Viettel đã áp dụng
rất thành công: “Chiến lược là người tiên phong và dẫn đầu thị trường ngách”. Năm
2006, Viettel còn là một công ty rất nhỏ nhưng Viettel đã có một ước mơ lớn, đi ra
nước ngoài để được cạnh tranh, được học hỏi những công ty hàng đầu trên thế giới,
để Viettel cạnh tranh hơn, để Viettel giỏi hơn. Đi ra nước ngoài đầu tư cùng phát
triển, để thắt chặt tình đoàn kết, hữu nghị với các nước láng giềng, giữ gìn hòa bình,
bảo vệ đất nước từ xa. Năm 2006, Ban quản lý dự án đầu tư nước ngoài được thành
133
lậpchỉ có 6 người và nhiệm vụ là đầu tư sang Campuchia. Sau 10 năm, gia đình
nước ngoài của Viettel đã là 10 nước, với dân số 230 triệu người, lớn gấp 2,5 lần
dân số Việt Nam. Tại Châu Á có 4 nước là: Campuchia, Lào, Đông Timor và
Myanmar. Tại Châu Phi có 4 nước là: Mozambique, Cameroon, Burundi và
Tanzania. Tại Châu Mỹ có 2 nước là: Haiti và Peru. Số thuê bao của Viettel tại
nước ngoài đã trên 35 triệu. Doanh thu là 1,4 tỷ đôla mỗi năm. Tốc độ tăng trưởng
hàng năm là trên 25%. Tạo công ăn việc làm cho trên 10.000 người nước ngoài
(2019).
Thời gian đầu, Viettel phải mất đến 3 năm để hoàn thiện các thủ tục, xây
dựng hạ tầng, triển khai xong đội ngũ nhân sự quản lý và kinh doanh,thì nay, con số
ấy chỉ còn 1 năm. Điều này đã được thực hiện tại Tanzania–quốc gia có diện tích
lớn gấp gần 3 lần Việt Nam và là thị trường thứ 9 của Viettel và sẽ tiếp tục được
thực hiện tại Myanmar, thị trường thứ 10 của Viettel. Quá trình đầu tư nhanh giúp
chúng tôi tối ưu chi phí, giúp cho người dân nước sở tại sớm được hưởng một dịch
vụ chất lượng cao, giá cả phù hợp.
Viettel lập kỷ lục của thế giới là trong vòng 4 năm, từ nhà mạng thứ 4, vươn
lên thứ nhất tại Việt Nam, thì tại Campuchia- thị trường nước ngoài đầu tiên, Viettel
chỉ mất 3 năm, tại Mozambique-thị trường nước ngoài thứ tư, Viettel mất 1 năm và
tại Burundi-thị trường thứ 9 chỉ mất 6 tháng để có được vị trí số 1. Đến nay, trong
tổng số 9 thị trường đã kinh doanh, Viettel đứng ở vị trí số 1 tại 5 thị trường là: Lào,
Campuchia, Đông Timor, Mozambique và Burundi. Tốc độ tăng trưởng hàng năm
của các thị trường đều đạt 20-30%, cao gấp gần 10 lần so với tốc độ tăng trưởng
chung của toàn ngành viễn thông trên thế giới (Viettel, 2019).
Tại nhiều thị trường, các doanh nghiệp viễn thông hàng đầu thế giới và khu
vực như Vodafone, Telefonica, Orange, Digicel... đã có mặt trước Viettel cả chục
năm trời, nhưng hầu như không đầu tư nhiều cho hạ tầng băng rộng cáp quang,
vùng phủ sóng chỉ tập trung ở các thành phố thì Viettel, ngay khi mới có mặt, đã tạo
ra vùng phủ dịch vụ sâu rộng khắp mọi vùng miền và luôn là doanh nghiệp dẫn đầu
thị trường về hạ tầng viễn thông cáp quang, băng thông rộng.
134
Viettel cũng đã rất thành công với “Chiến lược thâm nhập từ văn hóa, lan tỏa
thương hiệu”. Viettel đầu tư vào công nghệ hiện đại, đầu tư vào hạ tầng bền vững,
chuyển giao và đào tạo cho người sở tại và đặc biệt, xây dựng những thương hiệu
riêng cho mỗi thị trường, để mỗi công ty mà Viettel đầu tư là thương hiệu của quốc
gia đó, là công ty của chính những người sở tại, là niềm tự hào của mỗi quốc gia đó.
Ở Lào là Unitel–là thể hiện sự đoàn kết của các bộ tộc Lào; ở Campuchia là
Metphone–là thể hiện tình cảm bạn bè; ở Đông Timor là Telmor–là viễn thông của
đất đước Đông Timor; ở Myanmar là MyTel–là viễn thông của tôi, của đất nước
Myanmar; ở Mozambique là Movitel–là viễn thông của đất nước Mozambique đang
phát triển; ở Cameroon là Nexttel–là viễn thông thế hệ mới cho Cameroon; ở
Burundi là Lumitel–Một tương lai tươi sáng cho đất nước Burundi; ở Tanzania là
Halotel–Là tiếng chào, là mặt trời bừng sáng tại Tanzania; ở Haiti là Natcom–Là
công ty viễn thông quốc gia của Haiti; và ở Peru là Bitel–Là công ty viễn thông
mang màu cờ sắc áo của đất nước Peru. Trong số hàng ngàn tập đoàn toàn cầu thì
Viettel là tập đoàn duy nhất có triết lý thương hiệu này, các tập đoàn khác thì chỉ có
một thương hiệu mẹ ở tất cả các nước (Viettel, 2019).
Thứ hai, chuẩn bị kỹ các điều kiện trước khi đầu tư sang ASEAN.
Đầu tư sang ASEAN mở ra không gian rộng lớn để doanh nghiệp phát triển
nhưng cũng có nhiều khó khăn, thách thức vì môi trường kinh doanh xa lạ, nhiều sự
khác biệt, mức độ rủi ro cao hơn nhiều so với đầu tư trong nước. Để đầu tư thành
công, các doanh nghiệp Việt Nam phải thực hiện một cách bài bản, tìm hiểu kỹ về
môi trường đầu tư, môi trường kinh doanh như hệ thống pháp luật, chính sách, trình
độ dân trí, đặc điểm nhu cầu, thị hiếu của người dân, hệ thống cơ sở hạ tầng, mức
độ cạnh tranh, thu nhập của người dân, văn hóa, tín ngưỡng, phong tục tập
quán…tại nước sở tại. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp cần chuẩn bị thật tốt các điều
kiện về vốn, công nghệ, nhân sự, quản lý mới có thể đảm bảo thành công trong hoạt
động đầu tư, kinh doanh tại ASEAN.
Trên thực tế, có một số dự án đầu tư của Việt Nam sang ASEAN tiến độ
triển khai chậm hơn với cam kết mà nguyên nhân xuất phát từ sự không tính toán kỹ
để cân đối nguồn vốn hợp lý, công nghệ và nhân lực. Không ít doanh nghiệp đã sử
135
dụng vốn vay trong ngắn hạn để đầu tư dài hạn, hoặc quá vội vàng thực hiện đầu tư
mà không nghiên cứu kỹ về môi trường đầu tư và kinh doanh ở nước tiếp nhận đầu
tư nên đã gặp những khó khăn lớn ngoài dự tính. Sự khác biệt về phong tục tập
quán, thói quen đã làm cho các doanh nghiệp khó khăn trong quá trình thực hiện sản
xuất kinh doanh. Kinh nghiệm đầu tư của các doanh nghiệp lớn cho thấy, việc
nghiên cứu một cách nghiêm túc, đầy đủ về môi trường đầu tư và làm đúng hướng
dẫn của các cơ quan có thẩm quyền là rất quan trọng để doanh nghiệp đưa ra những
phương án, giải pháp đầu tư phù hợp với từng thị trường bản địa.
Việt Nam tham gia cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC) thì việc tìm hiểu thị
trường, thủ tục giao thương giữa các nước này thôi vẫn chưa đủ mà cần phải tìm
hiểu về văn hóa ứng xử của các nước này. Ví dụ như chào hỏi: Philippines: đàn ông
có thể vỗ vai nhau sau khi bắt tay còn phụ nữ thì hôn lên má, Thái Lan: người nhỏ
hơn hay chức vụ thấp hơn vái chào trước và cúi sâu hơn để thể hiện sự kính trọng;
Tiệc mời đối tác tại Indonesia thì lưu ý tuyệt đối không được có thịt heo; quà tặng
cho người Indonesia: không phải là thức uống có cồn và bất kỳ quà tặng nào cũng
phải có dấu “halal” dành cho người Hồi giáo, Singapore gói quà không được màu
đen và xanh dương vì là màu tang, còn Thái Lan gói quà nên là màu vàng…
Con người là yếu tố quyết định quan trọng nhất, muốn đầu tư sang ASEAN
thành công phải có đội ngũ cán bộ có khả năng để thực hiện. Các doanh nghiệp Việt
Nam cần chú trọng nâng cao năng lực quản lý dự án đầu tư quốc tế. Đặc biệt là xây
dựng nguồn nhân lực có chuyên môn cao để sử dụng trong các dự án đầu tư sang
ASEAN nhằm giữ bí quyết công nghệ của doanh nghiệp khi sản xuất kinh doanh ở
nước sở tại. Công tác quản lý, sử dụng lao động cần được đặc biệt quan tâm với các
nước có trình độ lao động hạn chế, thiếu lao động có tay nghề cao như Lào,
Campuchia, Myanmar…để có chính sách đào tạo lao động tại chỗ hoặc đưa sang
Việt Nam hoặc một số nước khác đào tạo.
Thứ ba, chủ động xây dựng chiến lược kinh doanh tại nước tiếp nhận đầu tư.
Để tồn tại và phát triển tại nước sở tại, các doanh nghiệp luôn phải tìm cách
nâng cao năng lực cạnh tranh của mình để có thể chiến thắng các đối thủ cạnh tranh
trên thị trường hiện tại đã được xác lập-đại dương đỏ. Tuy nhiên, bên cạnh việc đối
136
đầu trực tiếp với các đối thủ cạnh tranh để tồn tại và phát triển, các doanh nghiệp
vẫn có thể tìm hướng phát triển của mình ở một thị trường mới mà ở đó không có
đe dọa từ đối thủ cạnh tranh-đại dương xanh. Nhiều doanh nghiệp trên thế giới và
Việt Nam đã lựa chọn hướng đi này và rất thành công như Vinamik, TH True
milk…Để bước chân vào thị trường này, doanh nghiệp sẽ phải tạo ra những yếu tố
giá trị mới, được người tiêu dùng chấp nhận và đánh giá cao.
Trên thực tế, một thị trường đã được thiết lập với các doanh nghiệp hiện tại
đang hoạt động trong ngành-đại dương đỏ, các doanh nghiệp sẽ xây dựng cho mình
một trong ba chiến lược cạnh tranh như chiến lược chi phí thấp, chiến lược khác
biệt hóa, chiến lược tập trung (hay còn gọi là chiến lược trọng tâm) để có thể đương
đầu với các đối thủ cạnh tranh. Trong thị trường đại dương đỏ, cạnh tranh sẽ luôn
gay gắt và khốc liệt, các doanh nghiệp lớn sẽ tìm cách loại bỏ đối thủ cạnh tranh,
tăng thị phần, tăng lợi nhuận. Bên cạnh các thị trường hiện tại-đại dương đỏ, tồn tại
một đại dương xanh là các khoảng thị trường trống chưa được các doanh nghiệp
khai thác. Chiến lược đại dương xanh là một chiến lược nhằm tìm ra và thỏa mãn
các nhu cầu chưa được biết đến của khách hàng với với mức chi phí vừa phải, dễ
được khách hàng chấp thuận, qua đó trở thành người dẫn đầu trong đại dương xanh
mới được khai thác. Bản chất của chiến lược này là thay vì cạnh tranh, doanh
nghiệp sẽ phát triển, nuôi dưỡng nhu cầu mới của khách hàng mà các đối thủ khác
chưa tiếp cận đến, hay nói cách khác là thay vì tranh nhau một chiếc bánh đã có
bằng chiến lược cạnh tranh, doanh nghiệp sẽ tìm cho mình một chiếc bánh mới chưa
có người tranh giành và thoát khỏi cạnh tranh bằng chiến lược đại dương xanh.
Sau khi, Cộng đồng Kinh tế ASEAN chính thức được thành lập vào ngày
31/12/2015. Các doanh nghiệp Việt Nam sẽ phải đối đầu với những công ty lớn, có
nhiều hoạt động trên thj trường quốc tế. Trong bối cảnh cạnh tranh ngày càng gay
gắt, các doanh nghiệp Việt Nam nếu hoạt động không hiệu quả sẽ nhanh chóng phải
đóng cửa. Bên cạnh việc tìm kiếm các giải pháp để nâng cao năng lực cạnh tranh,
việc tìm ra những con đường mới để tìm kiếm thị trường, chinh phục khách hàng
với chính khả năng, tiềm lực của mình bằng chiến lược đại dương xanh cũng là một
hướng đi phù hợp cho các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ,
không có kinh nghiệm và nguồn lực mạnh.
137
Để xây dựng và thực hiện chiến lược đại dương xanh, doanh nghiệp phải bắt
đầu bằng việc tìm hiểu môi trường vĩ mô và môi trường ngành kinh doanh hiện tại.
Tìm hiểu ngành kinh doanh cần chú trọng vào việc đánh giá đối thủ cạnh tranh và
nghiên cứu khách hàng. Tìm hiểu xem các đối thủ cạnh tranh hiện nay đang cung
cấp, mang lại những điều gì cho khách hàng, có thể đưa đến cho khách hàng những
sản phẩm gì, dịch vụ gì mới hơn không? Nghiên cứu khách hàng để tìm hiểu xem
nhu cầu của họ như thế nào? liệu họ có nhu cầu nào khác mà vẫn chưa được thỏa
mãn hay không? Tiếp theo đó, doanh nghiệp cần xác định cơ hội mở ra đại dương
xanh. Việc doanh nghiệp cần làm là tìm hiểu xem trong ngành của mình có những
nhóm sản phẩm, dịch vụ nào đang được các doanh nghiệp cung cấp và tại sao khách
hàng lại chọn nhóm cao hơn và tại sao lại chọn nhóm thấp hơn. Từ đó doanh nghiệp
sẽ tìm ra đại dương xanh cho chính mình. Tập trung vào nhóm những người mục
tiêu trong ngành sẽ có thể giúp các doanh nghiệp khám phá ra đại dương xanh mới,
tập trung nâng cao và khác biệt hóa các sản phẩm, dịch vụ bổ sung có thể sẽ tạo ra
đại dương xanh cho doanh nghiệp.
Để thực hiện thành công chiến lược đại dương xanh buộc các doanh nghiệp
phải đạt được cả hai yếu tố là chi phí thấp và khác biệt khóa. Tuy nhiên, chiến lược
này chỉ giúp doanh nghiệp thoát khỏi cạnh tranh ở giai đoạn đầu khi tự mình khai
phá và chiếm lĩnh mảng thị trường mới, để thành công lâu dài, các doanh nghiệp
cần xây dựng thương hiệu mạnh và thực hiện nhiều chiến lược khác như chiến lược
marketing, chiến lược nhân sự, chiến lược nghiên cứu phát triển…Các doanh
nghiệp nên phân tích và chia nhỏ nhu cầu của khách hàng để tạo ra một chuỗi giá trị
riêng biệt, theo đó giá bán không thấp hơn nhưng chất lượng vẫn đảm bảo. Nguyên
tắc chung đối với doanh nghiệp khi xây dựng và thực hiện chiến lược đại dương
xanh là giảm bớt những yếu tố thấp hơn tiêu chuẩn chung trong ngành; gia tăng
những yếu tố cần cao hơn tiêu chuẩn chung; loại bỏ những yếu tố thừa và hình
thành yếu tố mới.
Khi đã có đại dương xanh, các doanh nghiệp đã có lợi thế của doanh nghiệp
dẫn đầu. Tuy nhiên, nếu đây là một thị trường hấp dẫn và có quy mô lớn thì sẽ có
nhiều doanh nghiệp khác sẽ bắt chước và xem xét việc gia nhập ngành, cạnh tranh
với doanh nghiệp dẫn đầu. Dần dần đại dương xanh sẽ trở thành đại dương đỏ.
138
Chính vì vậy, doanh nghiệp dẫn đầu phải luôn tập trung khả năng, tiềm lực của
mình để vươn càng xa càng tốt trong mảng thị trường này. Xây dựng được thương
hiệu mạnh song song với việc không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm, uy tín
của doanh nghiệp sẽ giúp doanh nghiệp định hướng khách hàng, duy trì và phát
triển khách hàng. Đồng thời doanh nghiệp phải đưa ra nhiều cải tiến, đổi mới cho
sản phẩm để thỏa mãn được nhiều hơn yêu cầu của khách hàng song không được
làm mất đi giá trị ban đầu.
5.3.2.Chủ động nâng cao năng lực cạnh tranh
Nhằm cải thiện năng lực cạnh tranh, các doanh Việt Nam cũng cần xây dựng
chiến lược đầu tư trung hạn và dài hạn, đồng thời tăng cường mối liên kết giữa các
doanh nghiệp ĐTTT sang ASEAN với nhau và chủ động nhận diện rõ rủi ro sẽ phải
đối mặt, qua đó có phương án phòng ngừa cụ thể.
Việc xây dựng năng lực cạnh tranh phải được thực hiện, thường xuyên, liên
tục và không ngừng cải tiến, bởi nó quyết định đến khả năng tồn tại của một doanh
nghiệp trên thị trường. Hơn nữa, đối với các doanh nghiệp ĐTRNN môi trường
cạnh tranh lại càng khốc liệt hơn, đòi hỏi các doanh nghiệp phải có ưu thế riêng của
mình trên thị trường mới có thể xâm nhập và đứng vững trên thị trường toàn cầu.
Về tài chính: Doanh nghiệp phải đảm bảo tiếp cận được những nguồn vốn
huy động một các có hiệu quả, đồng thời có thể mở rộng hoạt động sản xuất, đầu tư
kinh doanh. Xây dựng các kế hoạch dự phòng để giảm thiểu các rủi ro trong kinh
doanh.
Về chất lượng nguồn nhân lực: trong khi nhiều người nghĩ rằng, sẽ thật khó
để có đủ người tài khi đi đầu tư ra nước ngoài, Viettel lại nghĩ rằng, 90% trong mỗi
con người đang ngủ, chỉ có những việc khó, cao hơn sức của mình thì mới có thể
đánh thức những tiềm năng ấy, đi ra nước ngoài, đến một thị trường mới, khác ngôn
ngữ, khác văn hoá, là một cách để đánh thức sự tài giỏi trong mỗi con người. Và
cũng vì thế, Viettel hiện có hàng ngàn cán bộ trẻ đã và đang được rèn luyện ở khắp
10 quốc gia, hàng ngày hàng giờ cạnh tranh với những đối thủ giàu kinh nghiệm
nhất thế giới. Khi ra đi họ là những người có tri thức, khát vọng và lòng dũng cảm,
khi trở về họ có thêm cả sự tự tin, năng động, cách tư duy mới mẻ, độc đáo và sự
139
dày dạn kinh nghiệm mà không trường lớp nào dạy được. Đây thực sự là nguồn tài
sản quý giá, sẽ trực tiếp trở thành lớp kế cận quyết định tương lai vận mệnh của
Viettel trong tương lai không xa và rộng hơn là của Việt Nam.
Đây là yếu tố quan trọng để giúp các doanh nghiệp có thể tồn tại và thành
công trên thị trường. Lợi thế của các doanh nghiệp ĐTRNN trên thị trường nước
ngoài chính là nhờ vào đội ngũ lao động có trình độ cao. Bên cạnh việc đào tạo các
đội ngũ chuyên gia trong nước cũng cần lên kế hoạch để đảm bảo đội ngũ lao động
ở nước sở tại để có thể đáp ứng được các yêu cầu của công việc, nâng cao hiệu quả
sản xuất; đồng thời cũng cần tính đến các chi phí nguồn nhân lực để đảm bảo hiệu
quả kinh doanh. Tận dụng những cơ hội mà AEC mang lại, lao động có tay nghề có
nhiều cơ hội việc làm trong ASEAN.
Về trình độ công nghệ: Với các doanh nghiệp lớn, có thể tự tiến hành tổ chức
đầu tư nghiên cứu và phát triển khoa học công nghệ phục vụ chính lợi ích của doanh
nghiệp. Bí quyết công nghệ cũng là một trong các yếu tố giúp các doanh nghiệp có
thể nâng cao năng lực cạnh tranh trên thị trường và cũng là một hướng đi đúng nếu
các doanh nghiệp Việt Nam muốn trở thành các TNC, MNC có tên tuổi trên thế
giới. Việc đầu tư hệ thống thiết bị, cơ sở vật chất, con người để tiến hành chuyển
đổi số, nghiên cứu, đổi mới không hề đơn giản. Với các doanh nghiệp vừa và nhỏ,
khi nguồn tài chính và nhân lực hạn hẹp, có thể tiếp cận với các tổ chức hỗ trợ công
nghệ cả trong và ngoài nước để mua lại các công nghệ phù hợp với năng lực sản
xuất của doanh nghiệp mình. Trong quá trình sản xuất kinh doanh nên động viên,
khuyến khích các bộ phận trong doanh nghiệp cải tiến công nghệ, chuyển đổi số
phù hợp để tạo ra các công nghệ riêng mang bản sắc của mỗi doanh nghiệp. Đây là
cách thức riêng để các doanh nghiệp Việt Nam tồn tại lâu dài.
Không ai có thể dự đoán chắc chắn những gì mà cuộc cách mạng công
nghiệp lần thứ 4 sẽ mang tới. Ba mươi năm trước, chúng ta không thể biết rằng một
cái gì đó gọi là Internet sẽ làm nên một cuộc cách mạng kinh tế. Nhưng hôm nay,
Viettel đã xây dựng một hạ tầng viễn thông rộng khắp, hiện đại và bền vững ở tất cả
10 quốc gia mà Viettel có mặt. Hạ tầng đó là nền tảng cho Internet di động, cho dữ
liệu lớn, cho điện toán đám mây và internet vạn vật. Đây là những hạ tầng nền tảng
140
quan trọng cho cuộc cách mạng công nghiệp 4.0. Nó sẽ thay đổi cách chúng ta sống,
cách chúng ta học tập, làm việc và cách chúng ta giải trí nữa. Điện thoại thông minh
và di động băng rộng sẽ là một cơ hội tuyệt vời cho những quốc gia đang phát triển.
Chi phí của điện thoại thông minh hiện đã rẻ đi 10 lần so với máy tính. Giá của dịch
vụ internet di động cũng rẻ hơn 10 lần so với internet cố định. Rẻ đi 10 lần có nghĩa
là mỗi người dân ở các quốc gia mà Viettel đầu tư đều có thể có một chiếc điện
thoại thông minh kết nối Internet di động. Mười năm trước, đó là một ước mơ của
bất kỳ một quốc gia đang phát triển nào thì ngày nayđiều đó đã thành hiện thực.
Để thu hẹp khoảng cách giữa thành thị và nông thôn, giữa người giàu và
người nghèo không hề dễ dàngcần thời gian, thậm chí rất nhiều thời gian. Nhưng
viễn thông có thể làm điều đó trong một thời gian rất ngắn. Đó là lý do tại sao
Viettel nhanh chóng xây dựng các đường cáp quang băng thông rộng. Hiện nay,
tổng số cáp quang của Viettel trên tất cả 10 thị trường bao gồm cả Việt Nam là
360.000 km, đủ để quấn 9 vòng quanh trái đất. Đó là lý do tại sao Viettel không
ngừng dành mọi nguồn lực có thể để đầu tư và kết nối thế giới với những khu vực
nông thôn, vùng sâu, vùng xa. Viettel có niềm tin rằng, người nghèo thì sẽ không
nghèo mãi nếu chúng ta cho họ một cơ hội, nếu chúng ta giúp họ có được thông tin,
có được tri thức, được kết nối với thế giới thông qua viễn thông và internet. Khi họ
giàu có hơn, họ sẽ trở thành khách hàng của Viettel.
Về quảng bá sản phẩm, cùng với việc đầu tư cho quảng bá sản phẩm,các
doanh nghiệp Việt Nam cũng cần phải đầu tư cho công tác cải tiến mẫu mã, chất
lượng sản phẩm. Muốn thực hiện tốt nhiệm vụ này các doanh nghiệp phải thực sự
quan tâm một cách thỏa đáng đến công tác phát huy sáng kiến, đổi mới kỹ thuật.
Các doanh nghiệp Việt Nam có thể học tập các doanh nghiệp Nhật Bản, Hàn Quốc,
Trung Quốc…về tư duy liên tục cải tiến sản phẩm. Đặc biệt trong bối cảnh dịch
bệnh covid 19 bùng phát trên toàn cầu, hạn chế việc đi lại thì việc quảng bá sản
phẩn online, website trực tuyến cần phải được chú trọng đầu tư, nghiên cứu, áp
dụng.
Sau 10 năm ra mắt thị trường, các sản phẩm sữa tươi sạch TH true milk đã
được người tiêu dùng đón nhận và đánh giá cao. Với gần 50% thị phần sữa tươi, TH
141
đang trở thành nhà cung cấp sữa tươi sạch đứng đầu cả nước. Bên cạnh yếu tố quyết
định là chất lượng nguồn nguyên liệu đầu vào, việc áp dụng công nghệ sản xuất và
đóng gói hiện đại cũng là yếu tố quan trọng giúp mang đến cho người tiêu dùng
những hộp sữa tươi sạch, tinh túy nhất. Sữa tươi sạch tiệt trùng TH true MILK áp
dụng công nghệ chế biến tiệt trùng UHT với quy trình xử lý nhiệt siêu cao và làm
lạnh cực nhanh giúp tiêu diệt hết vi khuẩn, vi sinh vật hay các loại nấm có hại…
đồng thời giữ lại tối đa các chất dinh dưỡng và mùi vị tự nhiên của sản phẩm. Sữa
thành phẩm sau đó được đóng gói trong bao bì giấy tiệt trùng 6 lớp ở môi trường
hoàn toàn vô trùng, trong đó mỗi lớp sẽ có một chức năng khác nhau. Các sản phẩm
sữa tiệt trùng TH true milk nhờ vậy rất an toàn và có hạn dùng tới 6 tháng mà không
cần dùng chất bảo quản và trữ lạnh.
5.3.3.Đa dạng hóa các hình thức đầu tư
Thực trạng các doanh nghiệp Việt Nam đầu tư sang ASEAN chủ yếu tập
trung vào hình thức đầu tư 100% vốn và một số ít theo hình thức liên doanh. Trong
khi đó các hình thức đầu tư BOT, BTO, BT hoặc linh hoạt chuyển đổi các hình thức
đầu tư chưa được các doanh nghiệp Việt Nam chú ý. Thực tế, hình thức đầu tư
BOT, BTO, BT tương đối phổ biến tại Việt Nam, đây là giải pháp đầu tư tương đối
an toàn, ít rủi ro rất cần được các doanh nghiệp Việt Nam
quan tâm nghiên cứu.
Trong bối cảnh kinh tế thế giới có nhiều biến động, các doanh nghiệp cạnh
tranh nhau dẫn đến nhiều doanh nghiệp trong ASEAN lâm vào tình trạng phá sản
hoặc bán một phần vốn của doanh nghiệp hoặc nhiều dự án đầu tư không thể thực
hiện được hoặc các doanh nghiệp nhà nước đang trong tiến trình cổ phần hóa, đây là
cơ hội tốt cho các doanh nghiệp Việt Nam mua lại. Đó cũng là các chiến lược đầu
tư kinh doanh rất hiệu quả mà các doanh nghiệp Thái Lan, Singapore, Malaysia…áp
dụng thành công tại ASEAN thời gian vừa qua.
Vinamilk là doanh nghiệp đi tiên phong trong việc mở rộng đầu tư theo hình
thức mua bán sáp nhập (M&A) ở nước ngoài. Các dự án được Vinamilk thực hiện
M&A tại nước ngoài đều đang mang lại doanh thu rất khả quan và ngày càng có vị
trí quan trọng trong tổng doanh thu của Vinamilk. Cụ thể, với dự án đầu tư tại Hoa
142
Kỳ và New Zealand, Vinamilk đang từng bước nắm giữ vai trò quản trị then chốt và
tăng trưởng doanh thu ổn định. Tại thị trường ASEAN, dự án đầu tư của Vinamilk ở
Campuchia cũng được triển khai theo hình thức M&A và đang gặt hái nhiều kết quả
rất khả quan. Tương tự, dự án tại Lào khi liên doanh với đối tác Nhật Bản cũng giúp
Vinamilk phát triển trang trại bò sữa organic quy mô lớn. Theo báo cáo tài chính
hợp nhất 6 tháng đầu năm 2019, với doanh thu xuất khẩu tăng 15% so với cùng kỳ,
đóng góp 4.152 tỷ đồng (tương ứng gần 15%) vào tổng doanh thu 6 tháng đầu năm
2019 (Vinamilk, 2019).
Để giải quyết được vấn đề này, các doanh nghiệp Việt Nam cần nghiên cứu
kỹ đặc điểm kinh doanh của nước tiếp nhận đầu tư. Các chỉ số này gồm có các chỉ
số kinh doanh phản ánh năng lực hoạt động của nước này trong từng lĩnh vực cụ
thể; các chính sách, định hướng phát triển ngành nghề trong tương lai; khả năng
khai thác thông tin về môi trường đầu tư; thủ tục và chi phí hành chính liên quan
đến giấy phép và triển khai dự án, tình trạng tham nhũng, chất lượng nguồn nhân
lực và chi phí lương, tỷ giá đồng nội tệ so với USD.
5.3.4.Tăng cường hợp tác với các tổ chức của Việt Nam ở trong và ngoài nước
Thứ nhất, tích cực tham gia hiệp hội các nhà đầu tư Việt Nam tại nước ngoài.
Khác với các doanh nghiệp của Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc, Đài
Loan, Singapore…các doanh nghiệp Việt Nam thường thiếu tính liên kết trong kinh
doanh, thậm chí còn cạnh tranh không lành mạnh với nhau làm thiệt hại lợi ích của
chính các doanh nghiệp Việt Nam ở nước ngoài. Vì vậy, các doanh nghiệp Việt
Nam cũng cần tích cực tham gia hoạt động Hiệp hội các doanh nghiệp Việt Nam
đầu tư ở nước ngoài, hiện tại mới có AIVL, AIVC, AIVM được thành lập tại Lào,
Campuchia và Myanmar tại ASEAN. Khi tham gia vào hiệp hội các doanh nghiệp
đảm bảo được cạnh tranh lành mạnh, nâng cao uy tín và bảo vệ lợi ích củacác doanh
nghiệp Việt Nam trong quá trình đầu tư ở nước ngoài. Bên cạnh đó, các doanh
nghiệp có thể tìm kiếm được những đối tác kinh doanh, học hỏi được những kinh
nghiệm và thông tin hữu ích cho hoạt động đầu tư của mình ở nước ngoài. Hơn nữa,
các hiệp hội có thể hỗ trợ và bảo vệ lợi ích của doanh nghiệp ở nước ngoài.
143
Cácdoanh nghiệp Việt Nam cũng chủ động tham gia vào hội nhập kinh tế
quốc tế trong khu vực và trên thế giới. Đặc biệt, tại khu vực ASEAN, các doanh
nghiệp cần chủ động tìm hiểu kỹ những cơ hội và thách thức mà AEC mang lại
trong thuận lợi hóa, tự do hóa bảo hộ và xúc tiến đầu tư.
Thứ hai, tăng cường kết nối, trao đổi với cộng đồng người Việt Nam đang
sinh sống, làm việc và học tập tại ASEAN.
Hiện nay, hầu như ở các nướCasean, nhất là ở Lào, Campuchia đều có cộng
đồng người Việt sinh sống và làm ăn. Những cộng đồng này là nguồn cung cấp
thông tin vô cùng quý giá mà các doanh nghiệp Việt Nam khi đầu tư sang ASEAN
cần tiếp cận. Cách tiếp cận với cộng đồng doanh nghiệp Việt kiều không khó, các
doanh nghiệp Việt Nam khi đầu tư sang ASEAN có thể tìm kiếm thông tin về người
Việt Nam ở ASEAN thông qua các cơ quan Đại diện thương vụ của Việt Nam đặt
tại nước tiếp nhận đầu tư, hoặc thông qua Ủy ban về người Việt Nam ở nước ngoài
thuộc Bộ Ngoại giao Việt Nam, thông qua Hiệp hội các nhà đầu tư Việt Nam tại
Lào, Campuchia, Myanmar.
Một cách tìm kiếm thông tin cũng khá hiệu quả là thông qua các doanh
nghiệp Việt Kiều đang đầu tư về Việt Nam. Thông qua họ, các doanh nghiệp Việt
Nam muốn đầu tư sang ASEAN có thể tìm hiểu được các thông tin về chính sách
pháp luật, thông tin về sản phẩm và các đối tác cạnh tranh trong lĩnh vực mà các
doanh nghiệp này dự định đầu tư. Bởi hơn ai hết, chính các doanh nghiệp Việt Kiều
là người hiểu rõ nhất các thông tin về nơi mà họ đang cư trú, hưởng các đặc quyền
và thực hiện các nghĩa vụ của một công dân.
Thông qua các tổ chức xúc tiến đầu tư để tiếp cận với thị trường. Khi sử
dụng kênh thông tin từ các tổ chức xúc tiến đầu tư, doanh nghiệp có thể tiết kiệm
thời gian, chi phí để nghiên cứu thị trường, đồng thời có thể yêu cầu hỗ trợ khi cần
thiết.
Bên cạnh đó, các nhà đầu tư cũng nên chủ động tìm kiếm các hỗ trợ về mặt
tài chính và các hoạt đông nghiên cứu và phát triển nhằm nâng cao năng lực cạnh
tranh của doanh nghiệp, đảm bảo hiệu quả cho các dự án đầu tư.
5.3.5.Tăng cường trách nhiệm của doanh nghiệp đối với nhà nước và xã hội
144
Thái độ, trách nhiệm của doanh nghiệp đối với nhà nước và xã hội thể hiện
doanh nghiệp có tồn tại và thành công trên thị trường hay không. Doanh nghiệp
cũng cần ý thức được trách nhiệm đóng góp vào sự phát triển kinh tế xã hội thông
qua việc chủ động chấp hành tốt các quy định của pháp luật, không những tại nước
tiếp nhận đầu tư mà còn chính tại nước mình, phải tuân thủ các quy định của pháp
luật Việt Nam về đầu tư ra nước ngoài mà phải chấp hành nhiêm quy định của quốc
gia sở tại cũng như các cam kết, thỏa thuận quốc tế mà Việt nam ký kết. Ngoài ra,
cần tìm hiểu, tôn trọng truyền thống văn hóa, phong tục tập quán của nước bạn,
phối hợp chặt chẽ với cộng đồng và các tổ chức xã hội địa phương trong việc thực
hiện các dự án đầu tư, đặc biệt là các dự án thâm dụng tài nguyên và dễ tác động
tiêu cực đến môi trường như: khai khoáng, thủy điện, nông lâm nghiệp…Bên cạnh
đó, mỗi doanh nghiệp cũng cần nhận thức rõ ngoài mục tiêu lợi nhuận, cần nỗ lực
xây dựng giá trị, thương hiệu, đề cao trách nhiệm xã hội, góp phần xây dựng hình
ảnh Việt Nam thân thiện, hợp tác, hữu nghị và phát triển.
Các khoản viện trợ, hỗ trợ của Việt Nam cho một số nước (Lào, Campuchia,
Myanmar…) cần gắn chặt và tạo thuận lợi cho hoạt động đầu tư. Ví dụ hỗ trợ đào
tạo nghề gắn với các lĩnh vực đầu tư của các doanh nghiệp Việt Nam sang Lào,
Campuchia, Myanmar; viện trợ đào tạo các cán bộ cấp xã của Lào, Campuchia tại
Việt Nam.
Ngoài việc thực hiện một số chương trình hỗ trợ nhân đạo nhằm thực hiện
chiến lược quảng bá hình ảnh phục vụ cho hoạt động đầu tư kinh doanh, quan trọng
hơn doanh nghiệp phải nộp thuế và các nghĩa vụ tài chính đầy đủ, thực hiện nghiêm
túc các chế độ về báo cáo với cơ quan quản lý nhà nước. Doanh nghiệp có thể coi
đây là một khoản chi phí để quảng bá hình ảnh của mình, hay một khoản đầu tư cho
xã hội mà doanh nghiệp cũng là người được hưởng lợi từ các khoản đầu tư đó một
cách gián tiếp. Có thể thấy được Tập đoàn Hoàng Anh Gia Lai, Viettel, Vinamilk,
KOVA…đã thực hiện thành công tại các quốc gia Đông Nam Á.
5.3.6.Tăng cường khai thác cơ hội đầu tư từ AEC
Việc tuyên truyền về AEC từ các cấp ngành có liên quan còn quá yếu và
thiếu. Doanh nghiệp chỉ mới tiếp cận được thông tin Việt Nam cam kết những gì,
145
mở cửa thị trường bao nhiêu phần trăm, cắt giảm thuế đối với bao nhiêu danh mục
mặt hàng…song thông tin về các nước đối tác, về những cam kết của những nước
thành viên thuộc AEC, tỷ lệ mở cửa thị trường ở nước họ, những quy định về vi
phạm hay những ưu đãi đầu tư ra sao…thì rất thiếu hoặc chưa được làm đầy đủ.
Chính vì lẽ đó, doanh nghiệp dù biết nhưng chưa được hiểu đầy đủ, chưa biết làm
thế nào để biến thách thức thành cơ hội, thậm chí chưa biết cách tận dụng những lợi
thế và ưu đãi gì từ AEC…
Theo VCCI, chỉ có 46,79% doanh nghiệp Việt Nam chủ động tìm hiểu thông
tin về AEC. Trong gần 94% doanh nghiệp biết về AEC thì chỉ có 16,4% doanh
nghiệp thực sự hiểu rõ về AEC và các cam kết pháp lý có liên quan. Nguyên do là
doanh nghiệp quá thiếu những thông tin bổ ích, những kênh tiếp cận hữu hiệu và
thuận lợi để nắm bắt thông tin thị trường, thông tin đối tác, thông tin hàng hóa theo
các cam kết hoặc về những đối tác cạnh tranh trong khu vực.
Mặc dù, cộng đồng đều có chung cảm nhận tích cực về AEC và những tác
động đối với nền kinh tế Việt Nam và các doanh nghiệp Việt Nam. Song hầu hết họ
đều hoài nghi về khả năng tiến triển và thực thi của AEC.
Với tính chất là mục tiêu mang tính lộ trình, và với cấu thành là những Hiệp
định, Thỏa thuận đã và đang thực hiện, tại thời điểm hình thành AEC (cuối năm
2015), cơ chế cũng như chính sách thương mại với các nước ASEAN sẽ không có
thay đổi gì đáng kể so với hiện tại, và do đó cũng sẽ không tạo tác động gây sốc nào
đối với các doanh nghiệp Việt Nam.
Doanh nghiệp vẫn cần chủ động để tìm hiểu các nội dung và cam kết của các
Hiệp định đang có hiệu lực trong AEC để tận dụng các cơ hội và hạn chế thách thức
từ việc thực thi các hiệp định này. Ngoài ra, các doanh nghiệp cũng cần quan tâm
tới lộ trình thực hiện các mục tiêu tương lai của AEC để có sự chuẩn bị sẵn sàng
cho một khu vực thị trường và sản xuất chung sẽ được hình thành khi các mục tiêu
của AEC được hoàn tất.
AEC không phải là mục tiêu hội nhập duy nhất của Việt Nam, bên cạnh đó
còn rất nhiều các FTA khác với các đối tác quan trọng, dự kiến sẽ có tác động lớn,
mang tính cộng hưởng đến nền kinh tế và các doanh nghiệp Việt Nam. Vì vậy,
146
doanh nghiệp cần tập trung mọi nỗ lực để nâng cao năng lực cạnh tranh, trong đó có
cả việc tận dụng các cơ hội hội nhập để nâng cao năng lực cạnh tranh, qua đó có thể
tồn tại và phát triển được trong thời gian tới khi Việt Nam hội nhập sâu hơn nữa vào
nền kinh tế thế giới.
5.4.Kiến nghị đối với Nhà nước
5.4.1.Xây dựng kế hoạch chiến lược tổng thể cấp quốc gia về đầu tư sang ASEAN
gắn với chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đất nước
Nhận thức được tầm quan trọng của hoạt động ĐTTT sang ASEAN, Thủ
tướng Chính phủ đã chỉ đạo Bộ KH&ĐT phối hợp với các bộ ngành liên quan và
doanh nghiệp xây dựng cơ chế, chính sách nhằm khuyến khích, thúc đẩy ĐTRNN
nói chung và sang ASEAN nói riêng. Năm 2009, Chính phủ đã ký ban hành Đề án
“Thúc đẩy đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài” ban hành kèm theo Quyết định số
236/QĐ-TTgngày 20/2/2009, tuy nhiên các giải pháp trong đề án chỉ mang tính
ngắn hạn, chưa đồng bộ như chưa xây dựng được cơ chế ưu đãi, hỗ trợ tài chính cho
hoạt động ĐTRNN, hay chưa xây dựng quỹ hỗ trợ hoạt động ĐTRNN, chưa quy
định rõ về trách nhiệm của các cơ quan tính pháp lý chưa cao.
Xuất phát từ quan điểm ĐTRNN phải được coi là một bộ phận cấu thành
trong chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội nói chung, tác giả
cho rằng rất cần thiết phải xây dựng kế hoạch chiến lược tổng thể cấp quốc gia về
ĐTRNN gắn với chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đất nước cũng như của
từng ngành, từng địa phương. Chỉ có chiến lược quốc gia mới có tầm nhìn dài hạn,
mang tính tổng thể, thể hiện sự thống nhất về nhận thức và đồng bộ trong các giải
pháp quản lý, điều hành, hỗ trợ của nhà nước đối với hoạt động này. Chỉ khi có
chiến lược quốc gia mới tạo cơ sở, động lực và định hướng cho các doanh nghiệp
trong việc xác định chiến lược, lộ trình đối với ĐTRNN của mình.
5.4.2.Các giải pháp hỗ trợ đầu tư trực tiếp sang ASEAN
Một số doanh nghiệp đầu tư sang ASEAN còn gặp nhiều khó khăn mà thiếu
sự hỗ trợ từ các cấp có thẩm quyền. Có thể nói hoạt động ĐTTT sang ASEAN là
một hoạt động đầu tư đầy mạo hiểm và mang tính rủi ro cao. Thực tế hiện nay thì sự
hỗ trợ còn rất hạn chế. Chính vì vậy, sự hỗ trợ của các cơ quan nhà nước có thẩm
147
quyền đối với các nhà đầu tư tại ASEAN là hết sức cần thiết, nhất là các dự án đầu
tư sang ASEAN có sử dụng vốn đầu tư của nhà nước. Bên cạnh sự hỗ trợ của nhà
nước, chủ đầu tư cũng cần có trách nhiệm tuân thủ chặt chẽ các quy định của pháp
luật về việc sử dụng vốn nhà nước để đầu tư sang ASEAN, phải bảo đảm đầu tư
hiệu quả, minh bạch, tập trung vào lĩnh vực sản xuất kinh doanh chính tránh đầu tư
dàn trải, lãng phí, thất thoát vốn của nhà nước.
Thứ nhất, tiếp tục xây dựng và hoàn thiện khung pháp lý, chính sách về
ĐTTT sang ASEAN trong bối cảnh AEC được thành lập đã được 5 năm, nhằm tạo
điều kiện thuận lợi và định hướng cho các nhà đầu tư Việt Nam an toàn và hiệu quả.
Tạo lập khuôn khổ pháp lý hợp tác đầu tư thông qua việc đẩy mạnh đàm phán, ký
kết và thực hiện các thỏa thuận, hiệp định song phương với các đối tác có tiềm năng
hợp tác đầu tư, tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động đầu tư và bảo vệ quyền, lợi
ích hợp pháp của nhà đầu tư.
Thứ hai, tiếp tục thực hiện công khai, minh bạch về thủ tục hành chính về
ĐTRNN; đơn giản hóa hồ sơ và các giấy tờ liên quan, rút ngắn thời gian, giảm chi
phí xã hội cho nhà đầu tư.
Thứ ba, hình thành đồng bộ các công cụ, biện pháp hỗ trợ hoạt động
ĐTRNN, trong đó đặc biệt chú trọng các biện pháp hỗ trợ như tạo khuôn khổ pháp
lý an toàn; hỗ trợ cung cấp thông tin chính sách và cơ hội đầu tư nước sở tại, bảo hộ
quyền lợi của nhà đầu tư trong quá trình đầu tư, kinh doanh ở nước ngoài; có chính
sách hỗ trợ về tài chính, tín dụng đối với hoạt động ĐTRNN đối với một số dự án
thuộc lĩnh vực, địa bàn khuyến khích ĐTRNN theo pháp luật Việt Nam và phù hợp
với các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên.
- Hỗ trợ nguồn vốn đầu tư.
Đối với một số dự án ĐTRNN để thực hiện mục tiêu quan trọng có tác động
tích cực tới phát triển kinh tế của Việt Nam, có trong danh mục các ngành nghề/dự
án khuyến khích ĐTRNN (dự kiến ban hành phù hợp điều kiện thực tế từng thời
kỳ), như: dự án sản xuất điện nhập khẩu về Việt Nam, dầu khí, khai thác tài nguyên,
khoáng sản thay thế nguyên liệu nhập khẩu phục vụ sản xuất chế biến trong nước,
148
trồng và chế biến cây công nghiệp...đề nghị được hưởng chính sách ưu đãi hỗ trợ về
nguồn vốn, cụ thể:
Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam cho phép chủ đầu tư vay tối thiểu
30% tổng vốn đầu tư của dự án, miễn hình thức đảm bảo tiền vay bằng tài sản và
được hưởng lãi suất ưu đãi. Chính phủ có thể đứng ra bảo lãnh vốn vay của doanh
nghiệp. Các ngân hàng thương mại trong nước cho vay vốn đối với các dự án đầu tư
tại một số nền kinh tế đặc biệt (Lào, Campuchia, Myanmar) trong các lĩnh vực nêu
trên và được phép cho vay vượt 15% vốn điều lệ của mình.
Trong một số trường hợp đặc biệt, Nhà nước có thể góp vốn cùng với doanh
nghiệp để thực hiện dự án, chia sẻ rủi ro với doanh nghiệp.
- Tăng tính chuyển đổi của đồng Việt Nam trong hoạt động ĐTRNN.
Chính phủ cũng cần tiếp tục định hướng kiểm soát chặt chẽ, thận trọng vốn
ĐTRNN vì nhiều trường hợp, một số tổ chức, cá nhân có tài sản ở nước ngoài (đầu
tư hoặc cất giấu) cơ quan chức năng chưa kiểm soát được. Chính phủ nên tiếp tục
kiên trì thực hiện theo đúng chủ trương của đề án “Định hướng lộ trình tự do hóa
giao dịch vốn của Việt Nam´ban hành theo quyết định số 1590/QĐ-TTg ngày
11/08/2016 của Thủ tướng Chính phủ”.
Theo đó, tăng tính chuyển đổi của đồng Việt Nam (VND), tập trung thực
hiện các giải pháp nhằm ổn định kinh tế vĩ mô, cải thiện cán cân thanh toán, nâng
cao sức cạnh tranh của nền kinh tế và có tính đến việc ĐTRNN bằng đồng Việt
Nam. Khi điều kiện kinh tế vĩ mô ổn định bền vững, các yếu tố hỗ trợ về thị trường
tài chính, tiền tệ, ngoại hối được củng cố, xem xét xây dựng các chính sách nâng
cao tính chuyển đổi của VND trên thị trường quốc tế. Cho phép sử dụng VND để
ĐTRNN với những quốc gia tiếp nhận vốn là những nước có thỏa thuận đầu tư và
thanh toán bằng đồng nội tệ với Việt Nam, cho phép VND tham gia vào các giao
dịch cho vay ra nước ngoài trong trường hợp bên đi vay có nhu cầu sử dụng nguồn
vốn vay bằng VND để thanh toán trực tiếp cho người thụ hưởng trên lãnh thổ Việt
Nam hoặc thanh toán bù trừ cho bên thứ ba bằng VND.
- Về chính sách về thuế.
149
+ Đối với một số lĩnh vực khuyến khích ĐTRNN các doanh nghiệp đầu tư sẽ
được hưởng chính sách ưu đãi sau: Miễn nộp thuế thu nhập doanh nghiệp đối với
phần lợi nhuận chuyển về nước sau khi đã nộp thuế thu nhập doanh nghiệp tại nước
sở tại. Miễn thuế xuất khẩu, tạm xuất tái nhập đối với các hàng hóa, máy móc thiết
bị để thực hiện dự án ĐTRNN. Cho phép nhà đầu tư sử dụng lợi nhuận ở nước
ngoài để góp vốn đầu tư.
+ Tăng cường ký kết các hiệp định tránh đánh thuế 2 lần với các nước để
đảm bảo các nhà đầu tư không bị nộp thuế trùng.
Trong khu vực Đông Nam Á, Việt Nam đã ký kết 8 Hiệp định về tránh đánh
thuế hai lần và ngăn ngừa trốn lậu thuế đối với các loại thuế đánh vào thu nhập với
các nước: Thái Lan (1992), Singapore (1994), Malaysia (1995), Lào (1996),
Indonesia (1997), Myanmar (2000), Philippines (2001), Brunei (2007). Ngày
24/12/2013, Bộ Tài chính cũng ban hành Thông tư số 205/2013/TT-BTC, hướng
dẫn thực hiện các hiệp định tránh đánh thuế hai lần và ngăn ngừa việc trốn lậu thuế
đối với các loại thuế đánh vào thu nhập và tài sản giữa Việt Nam với các nước và
vùng lãnh thổ có hiệu lực thi hành tại Việt Nam.
- Thực hiện các hiệp định về đầu tư trong khuôn khổ Cộng đồng Kinh tế
ASEAN (AEC).
Nhanh chóng triển khai và thực hiện thống nhất các nội dung của các hiệp
định, thỏa thuận song phương, đa phương giữa Việt Nam với các nước, bao gồm
Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư; Hiệp định tránh đánh thuế trùng, để làm
cơ sở cho hoạt động đầu tư của doanh nghiệp tại mỗi nước. Xúc tiến đàm phán, ký
kết các hiệp định trên đối với một số nước tại ASEAN mà các doanh nghiệp Việt
Nam có tiềm năng đầu tư.
Thứ tư, khuyến khích, hỗ trợ việc thành lập và nâng cao hiệu quả các Hiệp
hội doanh nghiệp Việt Nam tại ASEAN. Các Hiệp hội doanh nghiệp của các nhà
đầu tư Việt Nam tại nước ngoài cần tăng cường năng lực chuyên môn để hỗ trợ nhà
đầu tư Việt Nam tiếp cận các cơ hội đầu tư, kinh doanh ở nước ngoài và đấu tranh
bảo vệ quyền lợi, lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư Việt Nam trong quá trình đầu tư,
kinh doanh ở nước ngoài.
150
Thứ năm, kết nối giữa các nhà đầu tư Việt Nam ở nước ngoài, tạo sức mạnh
khi đầu tư vào các địa bàn cụ thể, đảm bảo phát huy thế mạnh của từng nhà đầu tư
và bổ sung cho nhau cùng phát triển. Phát huy tối đa vai trò và nguồn lực của cộng
đồng người Việt Nam ở nước ngoài để kết nối, hợp tác và mở rộng hoạt động đầu
tư, kinh doanh của doanh nghiệp Việt Nam tại nước ngoài.
Mặc dù chưa có số liệu thống kê chính thức về tình hình đầu tư của cộng
đồng người Việt Nam ở tại ASEAN nhưng căn cứ vào lượng kiều hối chuyển về
Việt Nam những năm qua; cũng như qua khảo sát nắm tình hình tại Lào,
Campuchia…có thể dự báo quy mô đầu tư của cộng đồng người Việt ở nước ngoài
không nhỏ. Trên cơ sở tiềm năng về kinh nghiệm, trình độ và sự am hiểu thị trường
cũng như năng lực về tài chính, cộng đồng người Việt ở ASEAN đã có vai trò rất
quan trọng, là cầu nối thúc đẩy và hỗ trợ nhiều mặt cho hoạt động đầu tư của các
doanh nghiệp Việt Nam. Trong một số trường hợp, cộng đồng người Việt ở nước
ngoài đã tham gia trực tiếp vào nhiều dự án đầu tư của cả doanh nghiệp nhà nước và
doanh nghiệp tư nhân.
Thứ sáu, xây dựng cơ chế tôn vinh: thưởng, tặng, hỗ trợ đối với nhà đầu tư
thành đạt ở nước ngoài, có đóng góp nhiều cho nền kinh tế nước nhà.
5.4.3.Các giải pháp nâng cao công tác quản lý nhà nước về hoạt động ĐTTT
sang ASEAN trong bối cảnh thực thi AEC
Thứ nhất, xác định rõ nội hàm quản lý nhà nước về ĐTRNN.
Tiến tới thay vì quản lý trực tiếp từng dự án đầu tư, từng hoạt động đầu tư cụ
thể của nhà đầu tư bằng quản lý theo mục tiêu, định hướng, dòng tiền dịch chuyển
và hiệu quả đầu tư để bảo đảm tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm của nhà đầu tư và
phù hợp với xu thế hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng.
Hướng tới thay thế hình thức quản lý nhà nước về ĐTRNN từ biện pháp
hành chính (như cấp Giấy chứng nhận đăng ký ĐTRNN, thẩm tra, thẩm định cấp
Giấy chưng nhận đăng ký ĐTRNN…) sang phương thức quản lý nhà nước về
ĐTRNN theo cơ chế thị trường như thông qua chính sách về ngoại hối (quản lý
dòng tiền) và chính sách tiền tệ, tài khóa (lãi suất, chính sách đồng tiền yếu, đồng
tiền mạnh, chính sách ưu đãi về thuế…).
151
Đa dạng hóa công cụ quản lý nhà nước ĐTRNN theo hướng giảm dần chế độ
kiểm soát bằng hình thức báo cáo giấy. Theo đó, đẩy nhanh việc xây dựng và vận
hành Hệ thống thông tin quốc gia về ĐTRNN để thuận tiện cho việc báo cáo của
nhà đầu tư; đồng thời thông tin được thông suốt giữa các cơ quan quản lý nhà nước
về ĐTRNN.
Xác định rõ trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước, đặc biệt là vai trò
của cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài đối với hoạt động ĐTRNN.
Thứ hai, cải cách thủ tục hành chính đối với ĐTRNN theo hướng đơn giản
thuận tiện, từng bước phân cấp quản lý nhà nước đối với hoạt động ĐTRNN, tiến
tới bỏ Giấy chứng nhận đăng ký ĐTRNN; tăng quyền chủ động và tự chịu trách
nhiệm trước pháp luật của nhà đầu tư.
Thứ ba, kiểm soát chặt chẽ các giao dịch ngoại hối liên quan đến ĐTRNN;
giảm dần và quản lý chặt chẽ hoạt động ĐTRNN có sử dụng vốn của nhà nước;
kiểm soát các hành vi rửa tiền trong hoạt động đầu tư ra nước ngoài, lách luật để
chuyển tiền đầu tư, kinh doanh hoặc định cư ở nước ngoài.
Thứ tư, nâng cao sự phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong quản lý hoạt
động ĐTRNN, bảo đảm hiệu quả và hiệu lực quản lý nhà nước về ĐTRNN .
Điểm mới đáng chú ý trong giải pháp này là thay đổi căn bản cơ chế quản lý
nhà nước ĐTRNN. Theo đó, sẽ phân cấp quản lý về ĐTRNN, tiến tới bỏ thủ tục cấp
Giấy chứng nhận đăng ký ĐTRNN; xây dựng hệ thống thông tin Quốc gia về
ĐTRNN và áp dụng cơ chế liên thông trong quản lý và hỗ trợ hoạt động ĐTRNN để
chia sẻ thông tin giữa các cơ quan quản lý nhà nước với nhau và giữa các cơ quan
quản lý nhà nước với nhà đầu tư, giảm đầu mối nhà đầu tư phải báo cáo.
Thứ năm, đẩy mạnh nghiên cứu ứng dụng khoa học công nghệ để phát triển
theo chiều sâu, tạo lợi thế trong cạnh tranh.
Nhà nước và các doanh nghiệp Việt Nam phải đầu tư mạnh mẽ có trọng
điểm, tích cực đẩy mạnh nghiên cứu, ứng dụng khoa học công nghệ, tăng cường
tiềm lực khoa học công nghệ để chủ động tạo ra những lợi thế trong cạnh tranh quốc
tế. Trong điều kiện tiềm lực kinh tế có hạn, Nhà nước và doanh nghiệp cần xác định
152
một số hướng ưu tiên để tập trung nghiên cứu tạo ra những sản phẩm công nghệ đặc
trưng có thương hiệu mạnh của Việt Nam. Đây là yếu tố quan trọng đảm bảo sự
phát triển bền vững và theo chiều sâu, tạo cơ sở cho hoạt động đầu tư sang ASEAN.
Thứ sáu, hỗ trợ các doanh nghiệp tiến hành chuyển đổi số, giúp quản lý
doanh nghiệp hiệu quả trong bối cảnh dịch bệnh bùng phát toàn cầu.
5.4.4.Tăng cường xúc tiến đầu tư sang ASEAN
Nhiệm vụ đầu tiên của công tác xúc tiến ĐTRNN là hỗ trợ doanh nghiệp
Việt Nam tìm hiểu cơ chế, chính sách đầu tư tại các quốc gia mà doanh nghiệp quan
tâm, tiếp cận, tìm kiếm cơ hội đầu tư kinh doanh phù hợp. Bên cạnh mục tiêu kết
nối, tìm kiếm cơ hội đầu tư ở nước ngoài, hoạt động xúc tiến còn có mục tiêu hỗ
trợ, thúc đẩy triển khai có hiệu quả các dự án đã có, định hướng các dự án đầu tư
mới vào các ngành, lĩnh vực, địa bàn thuận lợi, có lợi ích gắn với nền kinh tế trong
nước.
Thời gian qua hoạt động xúc tiến ĐTTT sang ASEAN chưa mạnh, tác động
lớn đến hoạt động đầu tư của các nhà đầu tư Việt Nam. Vì vậy, Chính phủ và các cơ
quan liên quan cần tăng cường xúc tiến đầu tư sang ASEAN nhằm tạo điều kiện
thuận lợi hơn cho các nhà đầu tư trong tìm kiếm cơ hội đầu tư, trước hết tập trung
vào các lĩnh vực mà Việt Nam có lợi thế so sánh, đưa ra các biện pháp thiết thực
nhằm tăng cường cung cấp các loại dịch vụ hỗ trợ cho doanh nghiệp. Cụ thể: cần tổ
chức các cuộc gặp gỡ, tiếp xúc định kỳ hoặc không định kỳ giữa Chính phủ với các
doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp đang có dự án triển khai ở nước ngoài.
Việc xúc tiến đầu tư sang ASEAN không chỉ chú trọng vào những dự án quy mô
lớn, doanh nghiệp lớn mà cần tập trung vào những vấn đề cụ thể, chi tiết, hướng tới
thu hút đầu tư của các doanh nghiệp vừa và nhỏ, hiện đang chiếm số đông và trong
tương lai sẽ là những doanh nghiệp mạnh. Trước mắt, tập trung vào một số hoạt
động sau:
Thứ nhất, hình thành hệ thống thông tin quốc gia về ĐTTT sang ASEAN.
Theo đó, hệ thống cung cấp thông tin miễn phí cho doanh nghiệp; Trang web của hệ
thống nằm trong trang web của Bộ Kế hoạch và Đầu tư (www.mpi.gov.vn) và nối
kết với các trang web của Bộ Công thương (www.moit.gov.vn) và các trang web thị
153
trường nước ngoài. Chính phủ xây dựng cơ chế phối hợp giữa các Bộ để cung cấp
thông tin cho hệ thống thông tin quốc gia về ĐTTT sang ASEAN.
Thứ hai, tiếp tục chủ động tham gia các hoạt động kinh tế quốc tế (tổ chức
hội nghị quốc tế, hội chợ triển lãm quốc tế), mở rộng quan hệ hợp tác toàn diện với
các quốc gia khác trên thế giới. Phát huy tối đa các lợi thế của thành viên WTO, các
cam kết trong AEC. Kết hợp với các chuyến đi thăm, làm việc nước ngoài của các
nhà lãnh đạo Đảng, Chính phủ để tổ chức các cuộc hội thảo giới thiệu môi trường
đầu tư lẫn nhau, xây dựng hình ảnh tốt về sự quan tâm của Chính phủ đối với hoạt
động khuyến khích ĐTRNN. Từ đó, giúp các doanh nghiệp trong nước và nhà đầu
tư nước ngoài có cơ hội tìm hiểu, tiếp cận, giao lưu học hỏi kinh nghiệm, đầu tư lẫn
nhau.
5.4.5.Kết hợp hiệu quả giữa đầu tư trực tiếp và hỗ trợ phát triển không chính
thức của Việt Nam sang ASEAN
Dòng phát triển hỗ trợ không chính thức cùng với hoạt động ngoại gia phù
hợp được coi là điều kiện mở đường cho ĐTTT sang ASEAN. Việt Nam là nước
đang phát triển, đang tiếp tục nhận hỗ trợ phát triển ODA từ bên ngoài. Tuy nhiên,
trong những năm gần đây, cùng với sự phát triển kinh tế và trách nhiệm quốc tế,
Việt Nam đã có một số hoạt động hỗ trợ phát triển ra bên ngoài và trong tương lai
ODA của Việt Nam sang ASEAN tiếp tục tăng.
Chính sách ODA của Việt Nam sang ASEAN cần phải gắn kết chặt chẽ với
chính sách thúc đẩy đầu tư sang ASEAN để tạo điều kiện cho hoạt động đầu tư,
kinh doanh của các doanh nghiệp Việt Nam ở địa bàn nước sở tại. Các khoản viện
trợ của Việt Nam sang Lào, Campuchia, Myanmar…cần gắn chặt và tạo thuận lợi
cho hoạt động đầu tư như hỗ trợ đào tạo nghề gắn với các lĩnh vực đầu tư của các
doanh nghiệp Việt Nam. Lực lượng lao động của ba nước này có trình độ chuyên
môn thấp, chưa đáp ứng được nhu cầu cả về số lượng và chất lượng nên các doanh
nghiệp phải đưa lao động Việt Nam sang làm việc, đào tạo lao động nước sở tại
hoặc đưa lao động Lào, Campuchia về Việt Nam đào tạo. Vì vậy, Chính phủ cần có
cơ chế, chính sách hỗ trợ để các doanh nghiệp đầu tư sang Lào, Campuchia,
154
Myanmar đào tạo lao động tại nước bản địa. Đây là biện pháp được Chính phủ Nhật
Bản, Hàn Quốc và Trung Quốc thực hiện rất thành công trong nhiều năm qua.
155
KẾT LUẬN
Có thể khẳng định rằng, hoạt động ĐTTT của các doanh nghiệp Việt Nam
sang ASEAN trong thời gian qua, đặc biệt là trong vòng 14 năm trở lại đây (từ năm
2006) đã đạt được những chuyển biến tích cực về quy mô vốn đầu tư, địa bàn đầu
tư, lĩnh vực đầu tư và một số dự án đầu tư đã bắt đầu phát huy hiệu quả, góp phần
quan trong vào việc tăng cường hội nhập và hợp tác kinh tế ngày càng sâu rộng của
Việt Nam; đồng thời tạo dựng uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế, tăng cường,
củng cố các quan hệ hợp tác giữa Việt Nam với các địa bàn truyền thống như: Lào,
Campuchia, Myanmar…
Trong những năm qua, vốn ĐTTT của các doanh nghiệp Việt Nam sang
ASEAN đã đạt được kết quả tích cực, với số dự án và vốn đăng ký năm sau luôn
cao hơn năm trước. Điều này cho thấy, thế và lực của các doanh nghiệp Việt Nam
đã được nâng cao rõ rệt. Các doanh nghiệp Việt Nam đã có sự trưởng thành và
không ngừng lớn mạnh, không chỉ tập trung đầu tư ở trong nước mà còn mở rộng
đầu tư sang ASEAN để khẳng định thương hiệu, vị thế của mình trên trường quốc
tế, nhất là trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng.
Bên cạnh những thành tựu đạt được, ĐTTT của các doanh nghiệp Việt Nam
sang ASEAN cũng còn nhiều tồn tại, hạn chế ở tất cả các khâu từ định hướng chiến
lược, hoạch định chính sách, đến khâu triển khai thực hiện và tác động đến hiệu quả
đầu tư, những tồn tại nêu trên cần sớm được khắc phục. Trong bối cảnh AEC được
thành lập từ cuối năm 2015, hoạt động đầu tư sang ASEAN của các doanh nghiệp
Việt Nam cũng đang đứng trước những cơ hội và thách thức mới, đòi hỏi Việt Nam
phải phải điều chỉnh định hướng đầu tư của Việt Nam sang ASEAN để thích ứng
với hoàn cảnh mới. Luận án đạt được một số kết quả sau:
Thứ nhất, Luận án đã hệ thống cơ sở lý luận về đầu tư trực tiếp nước ngoài;
Xây dựng mô hình các yếu tố tác động đến đầu tư trực tiếp của doanh nghiệp Việt
Nam sang ASEAN; Những kinh nghiệm đầu tư ra nước ngoài của một số quốc gia
châu Á như Nhật Bản, Singapore, Malaisia sẽ là những bài học đáng quý để các
doanh nghiệp Việt Nam có thể điều chỉnh hoạt động đầu tư ra nước ngoài nói chung
và sang thị trường ASEAN nói riêng.
156
Thứ hai, từ phân tích thực trạng đầu tư trực tiếp của các doanh nghiệp Việt
Nam sang ASEAN thời gian qua cho thấy hoạt động này đã có một số đóng góp
như, đem lại một số lợi ích kinh tế xã hội, giúp Việt Nam tăng cường hợp tác với
các nước trong khu vực, doanh nghiệp Việt Nam tham gia mạnh mẽ hơn vào chuỗi
phân công lao động trong khu vực và góp phần tạo ra thế hệ doanh nghiệp có khả
năng cạnh tranh trong khu vực. Tuy nhiên, việc đầu tư sang khu vực ASEAN trong
thời gian trước và sau khi AEC có hiệu lực cho thấy, nhiều doanh nghiệp Việt Nam
vẫn chưa thực sự đầu tư có hiệu quả trong khu vực ASEAN, tỷ lệ vốn triển khai còn
thấp, hình thức đầu tư hạn chế, thiếu tính liên kết, chưa tạo ra hệ thống đầu tư bài
bản giữa các doanh nghiệp Việt Nam, điều này dẫn tới nhiều doanh nghiệp chưa tận
dụng được các cơ hội mà AEC mang tới. Số lượng dự án đầu tư sau khi AEC được
thành lập giảm hẳn và đi vào chiều sâu với một số doanh nghiệp đầu tư trong lĩnh
vực cốt lõi hơn là đầu tư dàn trải.
Thứ ba, nghiên cứu mô hình trọng lực trong đầu tư cho thấy: các yếu tố chi
phí sản xuất (cơ sở hạ tầng, tỷ giá hối đoái, thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp và
rủi ro chính trị) có tác động tiêu cực đến đầu tư của các doanh nghiệp Việt Nam
sang ASEAN. Các yếu tố như GDP bình quân, độ mở của nền kinh tế, nguồn tài
nguyên thiên nhiên, chỉ số năng suất lao động, và sự giống nhau về điều kiện kinh tế
giữa Việt Nam và các nước tiếp nhận đầu tư có tác động tích cực, thúc đẩy đầu tư
trực tiếp của các doanh nghiệp Việt Nam sang thị trường ASEAN. Do độ trễ của các
chính sách kinh tế, nên cam kết về AEC không có tác động nhiều đến việc thúc đẩy
đầu tư trực tiếp của các doanh nghiệp Việt Nam sang ASEAN, song các Hiệp định
thương mại và đầu tư có hiệu lực trước đó đều có tác động tích cực đến thúc đẩy
đầu tư của Việt Nam.
Thứ tư, từ các phân tích trên cho thấy các doanh nghiệp Việt Nam cần tính
tới các bài toán về nghiên cứu thị trường, tăng cường liên kết trong và ngoài nước
để tạo ra chuỗi giá trị và chuỗi cung ứng trong đầu tư ra nước ngoài, thay vì chỉ đầu
tư riêng lẻ như hiện nay. Các mô hình kinh doanh cũng cần đa dạng, tính tới các tác
động từ các Hiệp định đầu tư và thương mại tự do trong ASEAN, cũng như xu
hướng tác động của cách mạng công nghiệp 4.0 đang dần hiện hữu trong đời sống
kinh tế của các quốc gia. Đây là cơ sở để Chính phủ và các doanh nghiệp Việt Nam
157
có thể điều chỉnh các công cụ về chính sách, chiến lược đầu tư nhằm thúc đẩy đầu
tư trực tiếp của các doanh nghiệp Việt Nam ra nước ngoài, nhất là tại thị trường
ASEAN.
Bên cạnh những đóng góp, luận án còn một số hạn chế như: hạn chế về dữ
liệu (do sử dụng dữ liệu theo vốn đăng ký, dữ liệu mảng không cân bằng), chưa thể
sử dụng các kịch bản đầu tư cho các doanh nghiệp trong các lĩnh vực nhất định trên
từng thị trường. Bên cạnh đó, luận án chưa đánh giá được hiệu quả đầu tư, trên cơ
sở đó để các doanh nghiệp và các cơ quan nhà nước đưa ra các quyết định đầu tư và
ban hành chính sách đầu tư phù hợp. Ngoài ra, dữ liệu đánh giá trong 5 năm sau khi
AEC được thành lập là chưa đủ dài để nhận thấy rõ nét tác động của AEC đối với
hoạt động ĐTTT của các doanh nghiệp Việt Nam sang ASEAN.
Trong những nghiên cứu tiếp theo nghiên cứu sinh cố gắng khắc phục các
hạn chế nêu trên./.
158
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CÔNG BỐ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
CỦA ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
Bài báo
1. Trần Thị Ngọc Quyên, Trịnh Quang Hưng (2015), Đổi mới kinh tế và cải
thiện môi trường đầu tư tại Myanmar, Tạp chí Những vấn đề Kinh tế và
Chính trị thế giới, số 4(228) 2015 (số ISSN 0868-2984).
2. Trần Thị Ngọc Quyên, Trịnh Quang Hưng (2016), Thu hút vốn đầu tư trực
tiếp nước ngoài trong bối cảnh đổi mới kinh tế tại Myanmar, Tạp chí Kinh tế
đối ngoại, số 82(5/2016) (số ISSN 1859-4050).
3. Trịnh Quang Hưng (2016), Đầu tư trực tiếp nước ngoài của các doanh
nghiệp Việt Nam sang Campuchia, Lào và Myanmar những năm gần đây,
Tạp chí Những vấn đề Kinh tế và Chính trị thế giới, số 9(245) 2016 (số ISSN
0868-2984).
4. Trịnh Quang Hưng (2017), Đầu tư trực tiếp nước ngoài của Việt Nam sang
một số nước trong Cộng đồng Kinh tế ASEAN: Thực trạng và một số vấn đề
đặt ra, Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á, số 5(206) 2017 (số ISSN 0868-
2739).
5. Đào Kim Anh, Trịnh Quang Hưng (2017), Hiện tượng Treaty Shopping
trong giải quyết tranh chấp đầu tư quốc tế: Phân tích vụ việc Philip Morris
kiện Chính phủ Úc và liên hệ với Việt Nam, Tạp chí Kinh tế đối ngoại, số
95(6/2017) (số ISSN 1859-4050).
Đề tài nghiên cứu khoa học
6. Nguyễn Huyền Minh (Chủ nhiệm), Trịnh Quang Hưng (Thành viên) (2013),
Nghiên cứu khả năng triển khai đào tạo về lĩnh vực truyền thông ở trường
Đại học Ngoại thương, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp trường Đại học
Ngoại thương.
159
7. Trần Thị Ngọc Quyên (Chủ nhiệm), Trịnh Quang Hưng (Thành viên) (2015-
2016), Hài hòa hóa khung chính sách đầu tư theo hướng phát triển bền vững
(IPFSD) trong Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) và gợi ý cho
Việt Nam, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ Giáo dục và Đào tạo.
8. Trần Sĩ Lâm (Chủ nhiệm), Trịnh Quang Hưng (Thành viên) (2017), Áp dụng
phương pháp case study trong giảng dạy Logistics và Quản lý chuỗi cung
ứng tại Trường Đại học Ngoại thương, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp
trường Đại học Ngoại thương.
9. Nguyễn Xuân Minh (Chủ nhiệm), Trịnh Quang Hưng (Thành viên) (2018-
2019), Nhân rộng áp dụng công cụ chỉ số hoạt động chính (KPI) vào các tổ
chức, các doanh nghiệp Việt Nam năm 2018, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp
Nhà nước.
10. Trần Sĩ Lâm (Chủ nhiệm), Trịnh Quang Hưng (Thành viên) (2019-2020),
Nghiên cứu, hướng dẫn triển khai mô hình quản lý chất lượng dịch vụ tại các
doanh nghiệp ngành dịch vụ Việt Nam, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Nhà
nước.
Sách
11. Trần Sĩ Lâm (Chủ biên), Trịnh Quang Hưng (Thành viên) (2015), Phòng
chống trục lợi bảo hiểm hàng hóa vận chuyển bằng đường biển cho Việt
Nam, Nhà xuất bản Thống kê.
12. Trần Sĩ Lâm (Chủ biên), Trịnh Quang Hưng (Thành viên) (2019), Các Case
Study Logistics và quản lý chuỗi cung ứng từ thực tiễn kinh doanh trên thị
trường, Nhà xuất bản Lao động.
160
TÀI LIỆU THAM KHẢO
I. Tài liệu tiếng Việt
1. Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam, 2005, Luật đầu tư năm 2005.
2. Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam, 2014, Luật đầu tư năm 2014.
3. Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam, 2020, Luật đầu tư năm 2020.
4. Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam, Luật số 03 /2016/QH14, Luật sửa
đổi, bổ sung Điều 6, Phụ lục 4 về danh mục ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều
kiện của Luật đầu tư.
5. Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam, Số: 04/VBHN-VPQH ngày
28/06/2017 về Luật đầu tư sửa đổi.
6. Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam, 2015, Nghị định số: 83/2015/NĐ-
CP ngày 25/9/2015 quy định về đầu tư ra nước ngoài.
7. Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam, 2017, Nghị định số: 124/2017/NĐ-
CP ngày 15/11/2017 quy định về đầu tư ra nước ngoài trong hoạt động dầu khí.
8. Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam, 2015, Nghị định số: 84/2015/NĐ-
CP ngày 30/9/2015 quy định về giám sát và đánh giá đầu tư.
9. Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam, 2009, Quyết định số: 236/QĐ-TTg
ngày 20/2/2009, Đề án thúc đẩy đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài.
10. Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam, 2016, Quyết định số: 1590/QĐ-TTg
ngày 11/8/2016, Phê duyệt Đề án định hướng lộ trình tự do hóa giao dịch vốn của
Việt Nam.
11. Văn phòng Chính phủ, 2015, Đề án thúc đẩy đầu tư của Việt Nam vào Lào
đến năm 2025 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại văn bản thông báo số
2390/VPP-QHQT ngày 09/11/2015.
161
12. Văn phòng Chính phủ, 2015, Đề án thúc đẩy đầu tư của Việt Nam vào
Campuchia đến năm 2025 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại văn bản
thông báo số 2276/VPP-QHQT ngày 27/10/2015.
13. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, 2016, Thông tư số số: 12/2016/TT-NHNN
ngày 29/06/2016 hướng dẫn về quản lý ngoại hối đối với hoạt động đầu tư ra nước
ngoài.
14. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, 2018, Thông tư số số: 31/2018/TT-NHNN
ngày 18/12/2018 hướng dẫn về quản lý ngoại hối đối với đầu tư ra nước ngoài
trong hoạt động dầu khí.
15. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, 2018, Thông tư 36/2018/TT-NHNN quy
định về hoạt động cho vay để đầu tư ra nước ngoài của tổ chức tín dụng, chi nhánh
ngân hàng nước ngoài đối với khách hàng.
16. Bộ Tài chính, 2011, Thông tư số 104/2011/TT-BTC ngày 12/07/2011 về
sửa đổi, bổ sung Thông tư số 11/2010/TT-BTC ngày 19/01/2010 của Bộ Tài chính
hướng dẫn thực hiện nghĩa vụ thuế đối với nhà đầu tư Việt Nam đầu tư ra nước
ngoài.
17. Bộ Tài chính, 2013, Thông tư số: 205/2013/TT-BTC ngày 24/12/2013 về
việc hướng dẫn thực hiện các hiệp định tránh đánh thuế hai lần và ngăn ngừa việc
trốn lậu thuế đối với các loại thuế đối với các loại thuế đánh vào thu nhập và tài
sản giữa Việt Nam với các nước và vùng lãnh thổ có hiệu lực thi hành tại Việt Nam.
18. Bộ Khoa học và Công nghệ, Quỹ phát triển khoa học và công nghệ quốc
gia, 2016, Tài liệu hội thảo: Thực tiễn vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối
với quá trình tái cơ cấu nền kinh tế tại một số quốc gia Đông Á.
19. Bộ Kế hoạch và Đầu tư, 2018, Hướng dẫn số 7176/BKHĐT-ĐTNN ngày
10/10/2018 về việc hướng dẫn xây dựng chương trình xúc tiến đầu tư năm 2019.
20. Bộ Kế hoạch và Đầu tư, 2018, Hướng dẫn số 03/2018/TT-BKHĐT ngày
17/10/2018 hướng dẫn và ban hành mẫu văn bản thực hiện thủ tục đầu tư ra nước
ngoài.
162
21. Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Cục Đầu tư nước ngoài, 2017, Tài liệu hội thảo:
Hội thảo đầu tư bền vững trong lĩnh vực nông nghiệp Việt Nam ở Tiểu vùng sông
Mê Kông.
22. Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Cục Đầu tư nước ngoài, 2020, Tình hình đầu tư
trực tiếp của Việt Nam ra nước ngoài năm 2019.
23. Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Tổng cục thống kê, Niên giám thống kê 2014,
2015,2016, 2017, 2018, 2019, 2020.
24. Bộ Công thương, Dự án hỗ trợ Chính sách thương mại và đầu tư của châu
Âu, 2016, Cộng đồng Kinh tế ASEAN 2015. Kết quả hội nhập và cơ hội cho doanh
nghiệp, người dân Việt Nam.
25. Hiệp hội các nhà đầu tư Việt Nam sang Campuchia (AVIC), 2016, Báo
cáo tình hình Kinh tế Việt Nam-Campuchia giai đoạn 2011-2015 và định hướng
hợp tác giai đoạn 2016-2020.
26. Hiệp hội các nhà đầu tư Việt Nam sang Lào (AVIL), 2016, Báo cáo tình
hình Kinh tế Việt Nam-Lào giai đoạn 2011-2015 và định hướng hợp tác giai đoạn
2016-2020.
27. Hiệp hội các nhà đầu tư Việt Nam sang Myanmar (AVIM), 2016, Báo
cáo tình hình Kinh tế Việt Nam-Myanmar giai đoạn 2011-2015 và định hướng hợp
tác giai đoạn 2016-2020.
28. Trung tâm WTO và Hội nhập, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt
Nam, 2016, Cẩm nang tóm lược Cộng đồng Kinh tế ASEAN.
29. Trung tâm WTO và Hội nhập, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt
Nam, 2016, Tài liệu hội thảo: Việt Nam và Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC). Nhìn
lại chặng đường AEC. Ra mắt cổng thông tin AEC cho doanh nghiệp.
30. Trường Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2013, Tài liệu hội
thảo Quốc tế: Tham gia vào Cộng đồng Kinh tế ASEAN: Kinh nghiệm quốc tế và
Hàm ý cho Việt Nam.
163
31. Trường Đại học Kinh tế quốc dân, 2015, Giáo trình Lý thuyết mô hình
toán kinh tế, Nhà xuất bản Đại học Kinh tế quốc dân.
32. Đào Kim Anh, Trịnh Quang Hưng, 2017, Hiện tượng Treaty shopping
trong giải quyết tranh chấp đầu tư quốc tế: Phân tích vụ việc Philip Morris kiện
Chính phủ Úc và liên hệ với Việt Nam, Tạp chí Kinh tế đối ngoại, số 92 (3/2017),
trang 57-72.
33. Từ Thúy Anh, 2016, Hội nhập ASEAN+6, Sách chuyên khảo, NXB Lao
động.
34. Nguyễn Hải Đăng, 2012, Đầu tư của các doanh nghiệp Việt Nam ra nước
ngoài trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, Luận án Tiến sĩ kinh tế, trường Đại
học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội.
35. Nguyễn Thị Việt Hoa, 2015, Điều chỉnh hành lang pháp lý đối với đầu tư
trực tiếp nước ngoài hướng tới xây dựng Cộng đồng ASEAN, Kỷ yếu hội thảo:
ASEAN-Việt Nam-Hoa Kỳ: 20 năm hợp tác và phát triển, trang 153-162.
36. Nguyễn Thị Việt Hoa, Cao Thị Hồng Vinh, 2016, Tác động của các Hiệp
định đầu tư song phương tới dòng vốn FDI vào Việt Nam, Tài liệu Hội thảo Đánh
giá tác động của các Hiệp định đầu tư quốc tế đến dòng vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài vào các nước-Cơ sở lý luận và thực tiễn, Đề tài nghiên cứu khoa học do
SECO, WTI tài trợ, trang 65-90.
37. Phùng Mạnh Hùng, Phạm Thị Diệu Anh, 2015, Phát triển các doanh
nghiệp nhỏ và vừa ở Hàn Quốc, Nhật Bản và kinh nghiệm cho Việt Nam, Tạp chí
Kinh tế đối ngoại, số 78 (12/2015), trang 19-28.
38. Trịnh Quang Hưng, 2017, Đầu tư trực tiếp của Việt Nam sang một số
nước trong Cộng đồng Kinh tế ASEAN: Thực trạng và một số vấn đề đặt ra, Tạp chí
Nghiên cứu Đông Nam Á, số 5/2017, trang 54-64.
39. Trịnh Quang Hưng, 2017, Đầu tư trực tiếp nước ngoài của các doanh
nghiệp Việt Nam sang Campuchia, Lào và Myanmar những năm gần đây, Tạp chí
Những vấn đề Kinh tế và Chính trị thế giới, số 9(245) 2016, trang 70-77.
164
40. Nguyễn Thị Hường, 2014, Giáo trình Quản trị doanh nghiệp FDI, NXB
Đại học Kinh tế quốc dân.
41. Vũ Thị Lan, 2015, Đầu tư trực tiếp nước ngoài của Việt Nam vào một số
nước ASEAN: Thực trạng và giải pháp, Luận văn Thạc sĩ kinh tế, trường Đại học
Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội.
42. Vũ Chí Lộc, 2012, Giáo trình Đầu tư quốc tế, trường Đại học Ngoại
thương.
43. Nguyễn Thị Ngọc Mai, 2017, Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của Việt
Nam: Nhân tố tác động và hàm ý chính sách, Luận án Tiến sĩ kinh tế, trường Đại
học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội.
44. Nguyễn Thị Ngọc Mai, 2016, Các nhân tố thúc đẩy đầu tư ra nước ngoài
của Hàn Quốc, Tạp chí Kinh tế Châu Á-Thái Bình Dương, số 475 (tháng 8/2016),
trang 28-30.
45. Nguyễn Thị Ngọc Mai, 2016, Các nhân tố thúc đẩy đầu tư ra nước ngoài
của Trung Quốc, Tạp chí Kinh tế Châu Á-Thái Bình Dương, số 472 (tháng 5/2016),
trang 22-24.
46. Nguyễn Thị Ngọc Mai, 2016, Đầu tư ra nước ngoài và tăng trưởng kinh
tế ở Việt Nam, Tạp chí Kinh tế và Phát triển, số 226 (tháng 4/2016), trang 1-16.
47. Nguyễn Thị Ngọc Mai, 2016, Các nhân tố thúc đẩy đầu tư ra nước ngoài
của Việt Nam, Tạp chí Kinh tế và Phát triển, số 225 (tháng 3/2016), trang 1-12.
48. Nguyễn Thị Ngọc Mai, 2015, Kinh nghiệm đầu tư ra nước ngoài của
Malaysia, Tạp chí Kinh tế và Dự báo, số 22 (tháng 11/2015), trang 44-46.
49. Vũ Thị Minh Ngọc, 2006, Thực trạng và các giải pháp thúc đẩy đầu tư
trực tiếp của Việt Nam sang các nước Đông Nam Á, Luận văn Thạc sĩ kinh tế,
trường Đại học Ngoại thương.
50. Vũ Thị Minh Ngọc, 2012, Trào lưu đầu tư vào ASEAN và sự dịch chuyển
vốn đầu tư trực tiếp củacác doanh nghiệp Việt Nam sang khu vực Đông Nam Á, Tạp
chí Kinh tế đối ngoại, số 52 (06/2012), trang 52-77.
165
51. Vũ Thị Minh Ngọc, 2016, Đổi mới quản lý nhà nước đối với hoạt động
đầu tư trực tiếp của các doanh nghiệp Việt Nam ra nước ngoài, Luận án Tiến sĩ
kinh tế, trường Đại học Ngoại thương.
52. Vũ Thị Minh Ngọc, 2014, Cơ hội đầu tư sang Myanmar cho các doanh
nghiệp Việt Nam, Tạp chí Kinh tế Đối ngoại, số 64, trang 12-15.
53. Vũ Thị Minh Ngọc, 2014, Nhận diện các chiến lược đầu tư ra nước ngoài
của các doanh nghiệp Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu Châu Âu, số 5, trang 20-23.
54. Nguyễn Hữu Huy Nhựt, 2011, Chiến lược đầu tư trực tiếp ra nước ngoài
của Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, Luận án Tiến sĩ kinh tế,
trường Đại học Kinh tế Tp.Hồ Chí Minh.
55. Nguyễn Thị Nhung, 2017, Vài trò của nhà nước với hoạt động đầu tư trực
tiếp ra nước ngoài của Việt Nam trong thời kỳ hội nhập, Luận án Tiến sĩ kinh tế,
trường Đại học Kinh tế quốc dân.
56. Từ Quang Phương, Phạm Văn Hùng, Giáo trình Kinh tế đầu tư, Nhà xuất
bản Kinh tế quốc dân, 2012.
57. Đỗ Quang, 2016, Nghiên cứu tác động của Cộng đồng Kinh tế ASEAN
(AEC) đến phát triển thương mại của Việt Nam, Đề tài Khoa học và Công nghệ,
Viện Nghiên cứu Thương mại, Bộ Công thương.
58. Trần Thị Ngọc Quyên, 2016, Hài hòa hóa khung chính sách đầu tư theo
hướng phát triển bền vững (IPFSD) trong Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
(ASEAN) và gợi ý cho Việt Nam, Đề tài Khoa học và Công nghệ cấp Bộ.
59. Trần Thị Ngọc Quyên, Trịnh Quang Hưng, 2015, Đổi mới kinh tế và cải
thiện môi trường đầu tư tại Myanmar, Tạp chí Những vấn đề Kinh tế và Chính trị
thế giới, số 4(228) 2015, trang 45-50.
60. Trần Thị Ngọc Quyên, Trịnh Quang Hưng, 2016, Thu hút dòng vốn đầu
tư trực tiếp nước ngoài trong bối cảnh đổi mới kinh tế tại Mianma (2011-2015),
Tạp chí Kinh tế đối ngoại, số 82 (5/2016), trang 14-22.
166
61. Trương Tiến Sĩ, 2009, 20 năm đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của Việt
Nam. Thực trạng và triển vọng, Tạp chí Công nghệ Ngân hàng, số 37, trang 13-15
và số 38, trang 10-20.
62. Lê Thị Thu Thủy, 2013, Chiến lược Đại dương xanh-Hướng đi cho các
doanh nghiệp Việt Nam, Tạp chí Kinh tế Đối ngoại, số 57, trang 89-95.
63. Lê Hà Trang, 2019, Chi phí và lợi ích từ các hiệp định đầu tư quốc tế-
tổng quan nghiên cứu và thực tiễn tại Việt Nam, Tạp chí Kinh tế Đối ngoại, số 119
(7/2019), trang 30-41.
64. Trần Nam Trung, 2016, Quản lý nhà nước đối với hoạt động đầu tư trực
tiếp của Việt Nam sang Campuchia, Tạp chí Kinh tế và Dự báo, số 8, trang 6-8.
65. Trần Nam Trung, 2016, Quản lý nhà nước về đầu tư trực tiếp của Việt
Nam sang Campuchia, Luận văn Thạc sĩ Quản lý kinh tế, trường Đại học Kinh tế,
Đại học Quốc gia Hà Nội.
66. Cao Thị Hồng Vinh, 2017, Mối quan hệ qua lại giữa nguồn vốn đầu tư
trực tiếp nước ngoài FDI và phát triển bền vững của Việt Nam, Luận án Tiến sĩ
kinh tế, trường Đại học Ngoại thương.
II. Tài liệu tiếng Anh
1. Anwar và Mughal, 2014, Why do Russian firms invest in board? A firm
level analysis, MPRA, Paper No.58178.
2. Buckley, P., & Casson, M., 1976, The Future of Multinational Enterprise,
London: Macmillan.
3. Bergstrand, J.H., 1989, The generalised gravity equation, monopolistic
competition, and the factor-proportions theory in international trade, The Review of
Economics and Statistics 67, pp 474-481.
4. Brada, J. C., Mendez, J. A., 1983, Regional Economic Integration and the
Volume of Intra-Regional Trade: A Comparison of Developed and Developing
Country Experience, Kyklos, 36, pp 92-105.
167
5. Bougheas, S et al. , 1999, Infrastructure, transport costs, and trade”, Jounal
of International Economics, 47, pp 169-189
6. Carrère and Schiff , 2006, On the Geography of Trade: Distance is Alive
and Well, Revue Economique, 56, pp 1249-1274.
7. Dunning, J. H. (1977). Trade, location of economic activity and the MNE: a
The international allocation of economic activity: proceedings of a Nobel Symposium held
at Stockholm, London: The Macmillan Press Ltd, pp 395-418.
search for an eclectic approach. In B. Ohlin, P. Hesselborn, P. M.Wijkman (Eds.),
8. Dunning, L. H., 1981, International Production and the Multinational
Enterprise, Harper Collins Publisher Ltd.
9. Dunning, L. H., 1993, Multinational Enterprise and the Global Economy,
Workingham: Addison-Wesley Publishing.
10. Glick, Reuven, and Andrew Rose, Does a Currency Union Affect Trade?
The Time Series Evidence, NBER Working Paper No. 8396, July 2002.
11. Greene, W.H.,2002,Econometric Analysis. 5th Edition, Prentice Hall,
Upper Saddle River, 802.
12. Hausman, J. A.,1978,Specification Tests in Econometrics. Econometrica,
46, pp 1251-1271.
13. F.M. Pericoli, E. Pierucci và L. Ventura, 2014, A note on gravity models
and international investment patterns, Applied Financial Economics, 2014, Vol. 24,
No. 21, pp 1393–1400.
14. Svetlana Ledyaeva & Svetlana Ledyaeva, 2006, Testing for Foreign
Direct Investment Gravity Model for Russian Regions.
15. Stephen Frost, 2004, Mainland Chinese outward direct investment in
Southeast Asia: How much is invested, and what does it mean for ASEAN?, City
University of Hong Kong.
168
16. Marco Mele1*, Angelo Quarto, 2017, A Gravitational Model for Estimate
the Determinants of Outward Foreign Direct Investment of China, International
Journal of Economics and Financial Issues, 2017, 7(1), pp 1-5.
17. Mátyás, L., 1997, Proper Econometric Specification of the Gravity Model,
The World Economy 20 (3): pp 363-368.
18. Martinez- Zaroso and Nowak - Lehmann, 2003, Augmented gravity
model: an empirical application to mercosur-euopean union trade flows, Journal of
Applied Economecs,Vol.VI, No.2, pp 291-316.
19. Tran Thanh Phuong, Dinh Hoang Minh, 2015, VietNam Outward FDI into
ASEAN, ASEAN-VIETNAM-USA: 20 years of Cooperation and Development, Labor
Publishing House, ISBN: 978-604-59-4991, pp 177-185.
20. Thanh Nga Nguyen, 2011, Foreign Direct Investment in Real Estate
Projects and Macroeconomic Instability, ASEAN Economic Bulletin Vol.28, No.1
21. Prema-chandra Athukorala, Swarnim Wagle, 2011, Foreign Direct
Investment in Southeast Asia. Is Malaysia Falling Behind?, ASEAN Economic
Bulletin Vol.28, No.2.
22. Polpat Kotrajaras, Bangorn Tubtimtong, Paitoon Wiboon chutikula, Does
FDI Enhance Economic Growth? New Evidence from East Asia, ASEAN Economic
Bulletin Vol.28, No.2.
23. Nathapornpan Piyaareekul Uttama, Nicolas Peridy, 2009, The Impact of
Regional Integration and Third-Country Effects on FDI. Evidence from ASEAN,
ASEAN Economic Bulletin Vol.26, No.3.
24. Hossein Jalilian John Weiss, 2002, Foreign Direct Investment and Poverty
in the ASEAN Region, ASEAN Economic Bulletin Vol.19, No.3.
25. Frankel, Jeffrey, and David Romer, Does Trade Cause Growth?,
American Economic Review, LXXXIX (2002), pp 379–399
26. Linnemann, H. , 1966, An Econometric Study of International Trade
Flows, Ed. North Holland
169
27. David H.D. Truong, Carolyn L. Gates, 1996, Vietnam in ASEAN-
Economic Reform, Openness and Transformation, ASEAN Economic Bulletin
Vol.13, No.2.
28. David Dollar, 1996, Economic Reform, Openness, and Vietnam's Entry
into ASEAN, ASEAN Economic Bulletin Vol.13, No.2.
29. Jung Soo Seo, Chung-Sok Suh, 2006, An Analysis of Home Country Trade
Effects of Outward Foreign Direct Investment. The Korean Experience with
ASEAN, 1987-2002, ASEAN Economic Bulletin Vol.23, No.2.
30. Chee-Keong Choong, Zulkornain Yusop, Siew-Choo Soo, 2004, Foreign
Direct Investment, Economic Growth, and Financial Sector Development. A
Comparative Analysis, ASEAN Economic Bulletin Vol.21, No.3.
31. Stephen Guisinger, 2004, Foreign Direct Investment Flows in East and
Southeast Asian. Policy Issues, ASEAN Economic Bulletin Vol.8, No.1.
32. Pöyhönen, P. , 1963, A Tentative Model for the Volume of Trade between
Countries, Weltwirtschaftliches Archiv, 90(1), pp 93-100.
33. Tinbergen, Jan., 1962, An Analysis of World Trade Flows, in Shaping the
World Economy, edited by Jan Tinbergen. New York, NY: Twentieth Century
Fund.
34. Cao Thi Hong Vinh, 2013, Does world trade organization (WTO)
membership account for the increase in FDI inflows to Vietnam? What about other
factors?, Tạp chí KTĐN.
35. Daisuke Hiratsuka, 2006, Outward FDI from and Intraregional FDI in
ASEAN: Trends and Drivers,Institute of Development Economies (IDE) JETRO, pp
1-24.
36. Ivan Deseatnicov and Hiroya Akiba, 2011, Effects of Exchange rate and
Political Risks on Japanese Outward FDI: a panel data analysis, Waseda
University Tokyo, Japan.
37. IMF, 1993, Balance of Payments manual, 5th Edition, Washington DC.
170
38. Shaoming Cheng, Roger R. Stough, 2005, The Pattern and Magnitude of
China’s Outward FDI in Asia, Regional Research Institute, West Virginia
University and School of Public Policy, George Mason University.
39. Seong -Bong Lee, 2007, Korea New Trade and Outward FDI policies:
Facilitating the Presence of Korean SMEs in Regional and Global Market,
UNESCAP.
40. Niu YingYing, 2007, An Analysis of the Effects of China Outward FDI on
the Domestic Technology Level, Master’s Thesis, Tongji University.
41. UNCTAD, 1998, World Investment Report 1998: Trends and
Determinants, New York and Geneva: UNCTAD.
42. Hitoshi Hayami, Masao Nakamura,Alice Nakamura, 2012, “Wages,
overseas investment and ownership: implication for international labour markets in
Japan”, The International Journal of Human Resource Management.
43. Shujie Yao, Dylan Sutherland, Jian Chen, 2010, China's Outward FDI
and Resource-Seeking Strategy: A Case Study on Chinalco and Rio Tinto,
Internationalization and the China Economy: Special Issue for the 2010 APJAE
Symposium, Volume 17, Issue No. 3, December 2010, pp 313-326.
44. WTO, Report “Trade and foreign direct investment”, 9 October 1996, box
1.
II. Tài liệu internet
45. Bảo Bình, 2019, Triển vọng thu hút đầu tư tại Đông Nam Á, Báo Nhân
Dân điện tử, http://www.nhandan.com.vn/thegioi/item/39213902-trien-vong-thu-
hut-dau-tu-tai-dong-nam-a.html truy cập ngày 16/2/2019.
tiep-tuc-quan-chat-dong-von-ra-nuoc-ngoai-20160813091808788.htm
truy
cập ngày
22/05/2020.
46. Bích Diệp, Báo điện tử Dân trí, https://dantri.com.vn/kinh-doanh/viet-nam-se-
47. Thanh Hằng, 2019, ASEAN - Điểm đầu tư hấp dẫn trong năm 2019, Tạp
chí Sài Gòn Giải phóng online, http://www.sggp.org.vn/asean-diem-dau-tu-hap-
dan-trong-nam-2019-571963.html truy cập ngày 21/01/2019.
171
48. Hiền Hòa, Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam,
http://www.dangcongsan.vn/kinh-te/kinh-te-tu-nhan-tung-buoc-khang-dinh-vai-tro-
quan-trong-cua-nen-kinh-te-520953.html truy cập ngày 05/05/2019.
49. Nguyễn Mạnh Hùng, 2017, http://ictnews.vn/kinh-doanh/doanh-
nghiep/ceo-viettel-mot-dieu-se-khong-thay-doi-la-khat-vong-viettel-luon-chay-
khong-ngung-146978.ict truy cập ngày 23/05/2020.
nghiệp đầu tư trực tiếp ra nước ngoài, http://tapchitaichinh.vn/nghien-cuu-trao-doi/co-che-
chinh-sach-doi-voi-doanh-nghiep%C2%A0dau-tu-truc-tiep-ra-nuoc-ngoai-301354.html
truy cập ngày 19/05/2020.
50. Trần Hoài Nam, Tạp chí tài chính, 2018, Cơ chế chính sách đối với doanh
51. Nguyễn Quang Việt, 2017, Tổng cục giáo dục nghề nghiệp-Bộ Lao động
thương binh và xã hội,
http://gdnn.gov.vn/AIAdmin/News/View/tabid/66/newsid/26542/seo/Thoa-thuan-
cong-nhan-lan-nhau-ve-nghe-nghiep-trong-ASEAN--Co-che-va-tien-trinh-thuc-
hien/Default.aspx truy cập ngày 04/08/2017.
52. Nguyễn Cẩm Tú, 2016, Cộng đồng Kinh tế ASEAN 2025: Cơ hội và thách
thức mới đối với Việt Nam, Bộ Công thương, http://www.moit.gov.vn/tin-chi-tiet/-
/chi-tiet/cong-%C4%91ong-kinh-te-asean-2025-co-hoi-va-thach-thuc-moi-
%C4%91oi-voi-viet-nam-107430-22.html truy cập ngày 12/8/2016.
53. https://dautunuocngoai.gov.vn/tinbai/4159/Xu-huong-dau-tu-ra-nuoc-
ngoai-cua-Han-Quoc truy cập ngày 15/05/2020.
54. https://dautunuocngoai.gov.vn/tinbai/4114/Xu-huong-dau-tu-ra-nuoc-
ngoai-cua-Nhat-Ban truy cập ngày 15/05/2020.
55. https://dantri.com.vn/doanh-nghiep/vi-sao-th-true-milk-co-2-loai-bao-bi-
1437887989.htm truy cập ngày 24/05/2020.
56. http://www.doanhnhansaigon.vn/tu-van-phap-luat/dau-tu-ra-nuoc-ngoai-
tu-bai-hoc-hoang-anh-gia-lai/1075911truy cập ngày 24/05/2020.
57. https://thanhnien.vn/tai-chinh-kinh-doanh/262-du-an-bat-dong-san-dau-tu-
ra-nuoc-ngoai-tiem-an-nhieu-rui-ro-1121020.htmltruy cập ngày 24/05/2020.
172
58. http://tapchinganhang.gov.vn/dau-tu-truc-tiep-ra-nuoc-ngoai-cua-cac-
nhtm-thuc-tien-va-khuyen-nghi-chinh-sach-cho-viet-nam.htm truy cập ngày
24/05/2020.
59. https://thongtinphapluatdansu.edu.vn/2010/07/28/ho%E1%BA%A1t-
d%E1%BB%99ng-d%E1%BA%A7u-t%C6%B0-tr%E1%BB%B1c-
ti%E1%BA%BFp-ra-n%C6%B0%E1%BB%9Bc-ngoi-c%E1%BB%A7a-cc-doanh-
nghi%E1%BB%87p-vi%E1%BB%87t-nam/truy cập ngày 07/06/2020.
60. VCCI, 2016, Doanh nghiệp và tự do hóa thương mại, Trung tâm WTO và
hội nhập-Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam,
http://www.trungtamwto.vn/download/16529/Tom%20luoc%20AEC.pdf truy cập
ngày 15/4/2017.
61. Nhân dân điện tử, 2018, Hội nghị WEF ASEAN 2018-Chung tay xây dựng
cộng đồng ASEAN trong thời kỳ cách mạng công nghiệp 4.0, Báo Lao động online,
https://laodong.vn/thoi-su/hoi-nghi-wef-asean-2018-chung-tay-xay-dung-cong-
dong-asean-trong-thoi-ky-cach-mang-cong-nghiep-40-630125.ldo truy cập ngày
11/9/2018.
62. IPCS, 2018, Xu hướng đầu tư ra nước ngoài của một số nước châu Á tại
Việt Nam, truy cập tại địa chỉ http://www.ipcs.vn/vn/xu-huong-dau-tu-ra-nuoc-
ngoai-cua-mot-so-nuoc-chau-a-tai-viet-nam-W1809.htm, ngày truy cập 26/1/2021.
63. Ban thư ký ASEAN: www.asean.org; https://data.aseanstats.org/
64. Báo cáo đầu tư thế giới-World Investment Report 1998, 2006, 2010, 2019,
2020: https://worldinvestmentreport.unctad.org
65. Cục Đầu tư nước ngoài, Bộ Kế hoạch và Đầu tư: http://fia.mpi.gov.vn
66. Bộ Kế hoạch và Đầu tư: http://www.mpi.gov.vn
67. Tổng cục Thống kê, Bộ Kế hoạch và Đầu tư: https://www.gso.gov.vn
68. Đầu tư trong ASEAN: https://investasean.asean.org
69. Bộ Công Thương, http://www.moit.gov.vn
70. Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, http://vcci.com.vn
173
71. Trung tâm WTO và Hội nhập–Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt
Nam, www.aecvcci.vn
174
PHỤ LỤC
PHỤ LỤC 1: HIỆP ĐỊNH TRÁNH ĐÁNH THUẾ HAI LẦN VÀ NGĂN NGỪA VIỆC TRỐN LẬU THUẾ GIỮA VIỆT NAM VÀ CÁC QUỐC GIA ASEAN
STT
Tên Hiệp định
Ngày ký kết
Quốc gia ASEAN
Ngày có hiệu lực
Nội dung văn kiện
1
Bản tiếng Việt
Thái Lan
23/12/1992
29/12/1992
Hiệp định giữa Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ Vương quốc Thái Lan về tránh đánh thuế hai lần và ngăn ngừa việc trốn lậu thuế đối với thuế đánh vào thu nhập
2
Singapore
02/3/1994
09/9/1994
Bản tiếng Việt
Hiệp định giữa Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa việt nam và Chính phủ hoà nước Cộng Singapore về tránh đánh thuế hai lần và ngăn ngừa việc trốn lậu thuế đối với thuế đánh vào thu nhập
Singapore
12/9/2012
11/01/2013
2a Nghị định thư sửa đổi Hiệp định Hiệp định giữa Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa việt nam và Chính phủ nước Cộng hoà Singapore về tránh đánh thuế hai lần và ngăn ngừa việc trốn lậu thuế đối với thuế đánh vào thu nhập
3
Malaysia
07/9/1995
13/8/1996
Bản tiếng Việt
Hiệp định giữa Chính phủ của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ của Malaysia nhằm tránh đánh thuế hai lần và ngăn cản trốn tránh nghĩa vụ tài chính đối với các loại thuế thu nhập
4
Lào
14/01/1996
30/9/1996
Bản tiếng Việt
Hiệp định giữa Chính phủ cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào về tránh đánh thuế hai lần và ngăn ngừa việc trốn lậu thuế đối với các loại thuế đánh vào thu nhập
5
Indonesia
22/12/1997
10/02/1999
Bản tiếng Việt
Hiệp định giữa Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính
175
hoà nước Cộng phủ Indonesia về tránh đánh thuế hai lần và ngăn ngừa việc trốn lậu thuế đối với các loại thuế đánh vào thu nhập
6
Myanmar
12/5/2000
12/8/2003
Bản tiếng Anh
Hiệp định giữa Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ bang nước Liên Myanmar về tránh đánh thuế hai lần và ngăn ngừa việc trốn lậu thuế đối với các loại thuế đánh vào thu nhập
7
Philippines
14/11/2001
29/9/2003
Bản tiếng Việt
Hiệp định giữa Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ hòa nước Cộng Philippines về tránh đánh thuế hai lần và ngăn ngừa việc trốn lậu thuế đối với các loại thuế đánh vào thu nhập
8
16/8/2007
01/01/2009
Bản tiếng Việt
Brunei Darussalam
Hiệp định giữa Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ vương quốc hồi giáo Brunei Darussalam về tránh đánh thuế hai lần và ngăn ngừa việc trốn lậu thuế đối với các loại thuế đánh vào thu nhập
(Nguồn: aecvcci.vn, 2020)
176
PHỤ LỤC 2: TỔNG HỢP CÁC FTA CỦA VIỆT NAM TÍNH ĐÊN HẾT NĂM 2019
STT
FTA
Hiện trạng
Đối tác
FTAs đã có hiệu lực
Có hiệu lực từ 1993
ASEAN
1
AFTA
Có hiệu lực từ 2003
ASEAN, Trung Quốc
2
ACFTA
Có hiệu lực từ 2007
ASEAN, Hàn Quốc
3
AKFTA
Có hiệu lực từ 2008
ASEAN, Nhật Bản
4
AJCEP
Có hiệu lực từ 2009
Việt Nam, Nhật Bản
5
VJEPA
Có hiệu lực từ 2010
ASEAN, Ấn Độ
6
AIFTA
Có hiệu lực từ 2010
ASEAN, Úc, New Zealand
7
AANZFTA
Có hiệu lực từ 2014
Việt Nam, Chi Lê
8
VCFTA
Có hiệu lực từ 2015
Việt Nam, Hàn Quốc
9
VKFTA
Có hiệu lực từ 2016
10
VN – EAEU FTA
Việt Nam, Nga, Belarus, Amenia, Kazakhstan, Kyrgyzstan
lực
hiệu
11
CPTPP
(Tiền thân là TPP) AHKFTA
12
Việt Nam, Canada, Mexico, Peru, Chi Lê, New Zealand, Úc, Nhật Bản, Singapore, Brunei, Malaysia ASEAN, Hồng Kông (Trung Quốc)
Có từ 30/12/2018, có hiệu lực tại Việt Nam từ 14/1/2019 Có hiệu lực tại Hồng Kông (Trung Quốc), Lào, Myanmar, Thái Lan, Singapore và Việt Nam từ 11/6/2019 FTA đã ký nhưng chưa có hiệu lực
Ký kết vào 30/6/2019
Việt Nam, EU (28 thành viên)
13
EVFTA
FTA đang đàm phán
14
RCEP
Khởi động đàm phán tháng 3/2013
15
ASEAN, Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ, Úc, New Zealand Việt Nam, EFTA (Thụy Sĩ, Na uy, Iceland, Liechtenstein) Việt Nam, Israel
16
Khởi động đàm phán tháng 5/2012 Khởi động đàm phán tháng 12/2015
Việt Nam– EFTA FTA Việt Nam– Israel FTA
(Nguồn: aecvcci.vn, 2020)