HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
BÙI ANH TUẤN
CÔNG TÁC VẬN ĐỘNG QUẦN CHÚNG
BẢO VỆ AN NINH, TRẬT TỰ CỦA LỰC LƯỢNG
CÔNG AN NHÂN DÂN THỜI KỲ ĐỔI MỚI THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: HỒ CHÍ MINH HỌC
Mã số: 62 31 02 04
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
1. PGS, TS. NGUYỄN ĐÌNH LÊ
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung
thực, có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo
quy định.
Tác giả
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
1
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI 6
1.1. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài 6
1.2. Kết quả nghiên cứu đã đạt được và những vấn đề luận án cần tiếp tục
nghiên cứu 22
Chương 2: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CÔNG TÁC VẬN ĐỘNG QUẦN CHÚNG BẢO VỆ AN NINH, TRẬT TỰ CỦA CÔNG AN NHÂN DÂN 26
2.1. Khái niệm 26
2.2. Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác vận động quần chúng
bảo vệ an ninh, trật tự của Công an nhân dân 38
2.3. Giá trị của tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác vận động quần chúng
bảo vệ an ninh trật tự của Công an nhân dân 70
Chương 3: CÔNG TÁC VẬN ĐỘNG QUẦN CHÚNG BẢO VỆ AN NINH, TRẬT TỰ CỦA LỰC LƯỢNG CÔNG AN NHÂN DÂN TRONG HƠN 30 NĂM QUA THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH 79
3.1. Thực trạng công tác vận động quần chúng bảo vệ an ninh, trật tự trong hơn 30 năm qua của Công an nhân dân theo tư tưởng Hồ Chí Minh 79
3.2. Những vấn đề đặt ra 108
Chương 4: CÔNG TÁC VẬN ĐỘNG QUẦN CHÚNG BẢO VỆ AN NINH, TRẬT TỰ CỦA LỰC LƯỢNG CÔNG AN NHÂN DÂN THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH TRONG TÌNH HÌNH MỚI 118
4.1. Dự báo những yếu tố tác động đến công tác vận động quần chúng
bảo vệ an ninh, trật tự 118
KẾT LUẬN
4.2. Những giải pháp cơ bản nâng cao hiệu quả công tác vận động quần chúng bảo vệ an ninh, trật tự của lực lượng Công an trong tình hình mới theo tư tưởng Hồ Chí Minh 129
DANH MỤC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
153
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
156
157
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Tư tưởng Hồ Chí Minh không chỉ có ý nghĩa soi đường cho cuộc đấu tranh giải
phóng dân tộc, mà còn có ý nghĩa to lớn trong công cuộc đổi mới xây dựng đất nước
và đã trở thành tài sản tinh thần to lớn của Đảng và nhân dân ta. Tư tưởng Hồ Chí
Minh về dân vận là một bộ phận khăng khít, quan trọng trong lý luận, chiến lược
cách mạng của Người về cách mạng Việt Nam, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn, đã trở
thành quan điểm chỉ đạo, soi đường cho toàn Đảng, toàn dân và toàn quân trong sự
nghiệp đấu tranh vì độc lập dân tộc và tự do, hạnh phúc cho nhân dân Việt Nam.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về bảo vệ an ninh, trật tự là nền tảng định hướng, là
nguồn gốc tạo nên mọi thắng lợi của cuộc đấu tranh bảo vệ an ninh, trật tự trong
suốt tiến trình lịch sử cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đó là hệ
thống quan điểm về vị trí, vai trò, mục tiêu, nhiệm vụ, đối tượng, phương pháp,
nghệ thuật và tổ chức lực lượng đấu tranh bảo vệ an ninh quốc gia, đảm bảo trật tự,
an toàn xã hội trong đó, nổi bật lên là về công tác vận động quần chúng bảo vệ an
ninh, trật tự. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhắc nhở: Công an theo đúng đường lối
nhân dân, biết dựa vào sức nhân dân, tổ chức và giáo dục nhân dân, làm cho mọi
người hiểu rõ phòng gian là nhiệm vụ chung của công dân, là một công việc ái
quốc. Người nhấn mạnh công an phải dựa vào dân, không được xa rời dân. Nếu
không thế sẽ thất bại. Khi nhân dân giúp đỡ ta nhiều thì thành công nhiều, giúp đỡ
ta ít thì thành công ít, giúp đỡ ta hoàn toàn thì thắng lợi hoàn toàn.
Nhận thức sâu sắc và quán triệt đầy đủ quan điểm chỉ đạo của Chủ tịch Hồ Chí
Minh và của Đảng, trong suốt quá trình xây dựng, chiến đấu và trưởng thành, lực
lượng Công an nhân dân luôn xác định vận động quần chúng là biện pháp cơ bản,
chiến lược của công tác công an, là nền tảng để xây dựng mối quan hệ gắn bó sống
còn với nhân dân, dựa vào nhân dân, được nhân dân giúp đỡ hoàn thành xuất sắc
nhiệm vụ bảo vệ an ninh, trật tự, góp phần to lớn vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc.
Vì vậy, việc cụ thể hóa, hiện thực hóa tư tưởng Hồ Chí Minh thành nhận thức
và hành động trong thực tiễn là một công tác mang tính khoa học, là một nội dung
quan trọng hàng đầu của công tác lý luận của lực lượng Công an nhân dân hiện nay.
2
Sau hơn 30 năm thực hiện đổi mới do Đảng lãnh đạo, Việt Nam đã đạt được
nhiều thành tựu to lớn trên mọi lĩnh vực, có ý nghĩa lịch sử, tạo cơ sở thuận lợi cho
sự nghiệp bảo vệ an ninh, trật tự. Tuy nhiên, chặng đường quá độ đi lên chủ nghĩa
xã hội ở phía trước vẫn còn nhiều khó khăn, thách thức. Các thế lực thù địch ra sức
triệt để lợi dụng những vấn đề “dân chủ”, “nhân quyền”, dân tộc, tôn giáo và “tự do
ngôn luận’ nhằm phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, kích động nhân dân gây
rối an ninh xã hội. Những thế lực này luôn tìm mọi cách chia rẽ mối quan hệ đã
được xây dựng và củng cố qua đấu tranh cách mạng giữa nhân dân với Đảng, Nhà
nước, giữa nhân dân với các lực lượng vũ trang nhằm phá vỡ nền tảng của sự
nghiệp bảo vệ Tổ quốc.
Những nhân tố đó đang là nguy cơ xâm hại nền tảng tư tưởng của xã hội ta,
phủ nhận chủ nghĩa Mác- Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, làm suy yếu thế trận lòng
dân và nền an ninh nhân dân. Đồng thời, những mặt trái của cơ chế thị trường, của
quá trình mở cửa, hội nhập quốc tế, của công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước đã làm nảy sinh không ít những vấn đề phức tạp, nghiêm trọng đối với sự
nghiệp bảo vệ an ninh, trật tự. Những yếu tố tác động đó đặt ra cho công tác bảo vệ
an ninh quốc gia và đảm bảo trật tự an toàn xã hội những phức tạp, tiềm ẩn vô vàn
yếu tố khó lường, đòi hỏi Đảng, Nhà nước và ngành Công an hơn bao giờ hết nhận
sức sâu sắc hơn vai trò to lớn của nhân dân.
Bên cạnh những đóng góp to lớn đã được Đảng, Nhà nước và nhân dân ghi
nhận, những tấm gương sáng của cán bộ, chiến sĩ công an trong công tác, chiến đấu
mưu trí, dũng cảm, vượt mọi khó khăn gian khổ, sẵn sàng hy sinh quên mình trong
đấu tranh chống tội phạm, được nhân dân tin yêu thì vẫn còn những hạn chế cần
phải xem xét một cách nghiêm túc. Tình hình tiêu cực, biểu hiện suy thoái về đạo
đức, lối sống trong lực lượng Công an có chiều hướng diễn biến phức tạp.
Một bộ phận cán bộ, chiến sĩ Công an trong thực hiện nhiệm vụ chỉ quan tâm
nhiều đến nghiệp vụ đơn thuần, trông cậy vào sự phát triển hiện đại của kỹ thuật
công nghệ hoặc vào các biện pháp công tác khác. Vẫn còn tồn tại một số cá nhân có
thái độ lơ là, ít coi trọng công tác vận động quần chúng, thậm chí xa dân, coi thường
dân. Đặc biệt có những biểu hiện lệch chuẩn về đạo đức, lối sống; tình trạng quan
liêu, hách dịch thiếu trách nhiệm trước nhân dân, sách nhiễu nhân dân, nhất là
những bộ phận trực tiếp tiếp xúc với nhân dân. Tuy đó chỉ là những “con sâu làm
3
rầu nồi canh” nhưng đã làm ảnh hưởng không nhỏ đến uy tín và danh dự của lực
lượng Công an nhân dân, làm giảm lòng tin yêu của nhân dân, từ đó làm giảm hiệu
quả của công tác vận động quần chúng bảo vệ an ninh, trật tự.
Chính vì vậy, nghiên cứu và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn
công tác vận động quần chúng bảo vệ an ninh, trật tự, nhằm nâng cao hơn nữa hiệu
quả tập hợp, đoàn kết các tầng lớp nhân dân trong đấu tranh phòng, chống tội phạm,
làm thất bại mọi âm mưu phá hoại của các thế lực thù địch, giữ vững an ninh quốc
gia, bảo đảm trật tự an toàn xã hội là rất cần thiết và cấp bách.
Là một cán bộ công an, với nhận thức như vậy, nghiên cứu sinh chọn "Công
tác vận động quần chúng bảo vệ an ninh, trật tự của lực lượng Công an nhân
dân thời kỳ đổi mới theo tư tưởng Hồ Chí Minh" làm đề tài tiến sĩ chuyên ngành
Hồ Chí Minh học tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Làm rõ nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác vận động quần chúng bảo
vệ an ninh, trật tự và vận dụng vào công tác vận động quần chúng bảo vệ an ninh,
trật tự của lực lượng Công an nhân dân hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống và phân tích tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác vận động quần
chúng bảo vệ an ninh, trật tự của Công an nhân dân.
- Phân tích thực trạng công tác vận động quần chúng bảo vệ an ninh, trật tự
của Công an nhân dân trong thời kỳ đổi mới theo tư tưởng Hồ Chí Minh và những
vấn đề đặt ra.
- Đề xuất những giải pháp nâng cao hiệu quả vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh
về công tác vận động quần chúng bảo vệ an ninh, trật tự thời gian tới.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là:
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về vận động quần chúng bảo vệ an ninh, trật tự của
lực lượng Công an nhân dân.
- Thực trạng công tác vận động quần chúng bảo vệ an ninh, trật tự của Công
an nhân dân thời kỳ đổi mới theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
4
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu, khảo sát:
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác vận động quần chúng bảo vệ an ninh, trật
tự (từ năm 1945 đến năm 1969);
- Hệ thống các chỉ thị, nghị quyết, chính sách của Đảng, Nhà nước và Ngành
công an về công tác vận động quần chúng bảo vệ an ninh, trật tự trong hơn 30 năm
qua (1986- 2017).
- Lực lượng Công an nhân dân vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong thực
tiễn công tác vận động quần chúng bảo vệ an ninh, trật tự trong thời gian từ 1986
đến nay, trên phạm vi toàn quốc.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh và các quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước, các quy định của ngành Công an về công tác vận động quần chúng bảo vệ an
ninh, trật tự.
Trong quá trình nghiên cứu, học viên sử dụng các phương pháp nghiên cứu
của các khoa học liên ngành và chuyên ngành, trong đó, đặc biệt chú trọng kết hợp
các phương pháp phân tích - tổng hợp, thống kê, phương pháp lịch sử, so sánh, khảo
sát, chuyên gia…
5. Những đóng góp mới về mặt khoa học của luận án
- Luận án khái quát hóa, làm rõ hơn các nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về
công tác vận động quần chúng bảo vệ an ninh, trật tự.
- Nghiên cứu, đánh giá thực trạng công tác vận động quần chúng bảo vệ an
ninh, trật tự của Công an nhân dân theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong thời gian xác
định, đặt ra một số vấn đề cần quan tâm.
- Đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả công tác vận động
quần chúng trong sự nghiệp bảo vệ an ninh, trật tự của lực lượng Công an nhân dân
trong tình hình mới theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
6. Ý nghĩa của luận án
6.1. Ý nghĩa lý luận
Làm rõ thêm hệ thống quan điểm của Hồ Chí Minh về vị trí, vai trò của quần
chúng nhân dân trong sự nghiệp bảo vệ an ninh, trật tự. Góp phần nâng cao một
5
bước lý luận về vận động quần chúng bảo vệ an ninh, trật tự của Công an nhân dân
theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong tình hình mới. Đồng thời có thể dùng làm tài liệu
nghiên cứu, giảng dạy và học tập trong các trường Công an nhân dân.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Phục vụ thiết thực cho Phong trào thi đua thực hiện học tập và làm theo tư
tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh trong toàn lực lượng Công an nhân dân
hiện nay.
Nâng cao hiệu quả công tác vận động quần chúng bảo vệ an ninh, trật tự trong
của Công an nhân dân trong tình hình mới.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận án được kết
cấu thành 4 chương, 9 tiết.
6
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1.1. Các công trình nghiên cứu liên quan đến tư tưởng Hồ Chí Minh về
công tác vận động quần chúng bảo vệ an ninh, trật tự của Công an nhân dân
Từ trước tới nay, đã có nhiều công trình khoa học của các cơ quan, cá nhân
trực tiếp hoặc gián tiếp nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác vận động
quần chúng (công tác dân vận) và một số nội dung khác có liên quan trong tư tưởng
của Người. Trong khuôn khổ luận án, có thể kể đến một số công trình tiêu biểu sau:
Cuốn sách Tư tưởng dân vận của Chủ tịch Hồ Chí Minh [13], trên cơ sở tập
hợp các tham luận tại Hội thảo khoa học được Ban Dân vận Trung ương tổ chức
tháng 11- 1994 tại Hà Nội nhân dịp kỷ niệm 45 năm bài báo Dân vận của Chủ tịch
Hồ Chí Minh ra đời. Sách gồm 3 phần: Phần thứ nhất là “Việc dân vận rất quan
trọng”, gồm 8 bài đề cập những quan điểm chung trong học thuyết Mác- Lê nin và
tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác dân vận trong lịch sử; Phần thứ 2 “Dân vận để
làm cho nước ta là nước dân chủ”, gồm 12 bài nghiên cứu nội dung của công tác
dân vận, làm nổi bật thực chất của công tác dân vận để xây dựng nước ta thành một
nước dân chủ; Phần thứ 3 là “Dân vận khéo thì việc gì cũng thành công” gồm 15
bài tập trung nghiên cứu phương thức công tác dân vận, trong đó dành phần quan
trọng để liên hệ và vận dụng các phương thức đó trong thực tiễn của công tác dân
vận hiện nay. Đây là tài liệu khoa học quý giá để tác giả luận án tiếp cận và chắt lọc
những quan điểm của các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, các nhà khoa học và
thực tiễn có tên tuổi ở nhiều lĩnh vực khi cùng bàn về tư tưởng dân vận của Hồ Chí
Minh về các nội dung: vai trò to lớn của quần chúng nhân dân; phát huy sức mạnh
của quần chúng nhân dân; nội dung vận động nhân dân; phương thức vận động
nhân dân, v.v…
Bài Tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác dân vận [56] của tác giả Võ Nguyên
Giáp, phát biểu tại Hội thảo Tư tưởng dân vận của Chủ tịch Hồ Chí Minh, ngày 12-
11-1994 tại Hà Nội, đã phân tích 04 vấn đề lớn, một là: Tư tưởng Hồ Chí Minh: tất
7
cả vì dân, tất cả do dân, có dân là có tất cả; hai là: về vai trò của người dân qua các
cuộc đấu tranh chống ngoại xâm của dân tộc; ba là: ai làm công tác dân vận? và bốn
là: Công tác dân vận trong tình hình hiện nay. Trong nội dung thứ 3, tác giả đã nhấn
mạnh quan điểm độc đáo của mình là “Vấn đề đặt ra cho công tác dân vận là, trong
khi kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, phải đổi mới nội dung và
hình thức để kịp thời đáp ứng yêu cầu của cách mạng”.
Đề tài khoa học cấp Nhà nước Tư tưởng Hồ Chí Minh về bảo vệ an ninh, trật
tự [41] của tác giả Phạm Văn Dần hoàn thành năm 1995, là công trình khá sớm
nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác bảo vệ an ninh, trật tự nói chung và
vấn đề phát huy vai trò của quần chúng nhân dân trong đấu tranh chống ngoại xâm,
chống phản cách mạng, bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ an ninh, trật tự.
Cuốn sách Chiến lược đại đoàn kết Hồ Chí Minh [115] do tác giả Phùng
Hữu Phú chủ biên, đã nghiên cứu về vấn đề đại đoàn kết dân tộc trong tư tưởng Hồ
Chí Minh, cơ sở và quá trình hình thành, nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí
Minh về đại đoàn kết dân tộc, v.v… Trong đó, tác giả luận án có thể tham khảo nội
dung về nội dung “tin vào dân, dựa vào dân, phấn đấu vì quyền lợi của dân là một
nguyên tắc cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc”, tác giả đã
nêu bật nguyên tắc “tin dân, vì dân, phấn đấu vì dân là hạt nhân cơ bản và còn là sự
quán triệt sâu sắc trong nhận thức, tình cảm, hành động nguyên lý mác xít: Cách
mạng là sự nghiệp của quần chúng.
Luận án tiến sĩ Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người với việc phát huy nhân
tố con người trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam hiện nay [67] của Lê
Quang Hoan, có Chương 2 “Nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về con
người trong cách mạng Việt Nam”, trong đó trình bày mối quan hệ giữa tin dân và
dân tin, và đòi hỏi phải thực hiện cho được niềm tin đó. Theo Hồ Chí Minh, mỗi
cán bộ, đảng viên “trước hết phải tin tưởng lực lượng và trí tuệ của nhân dân là vô
cùng tận”. Đây là điều kiện tiên quyết để có thể tiến hành có hiệu quả công tác vận
động quần chúng nhân dân.
Ban Dân vận Trung ương biên soạn cuốn sách Công tác dân vận của Đảng
thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước[12], góp phần tiếp tục
nghiên cứu, làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận và thực tiễn công tác dân vận của
8
Đảng thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, vì dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng, dân chủ, văn minh. Đây là cơ sở khoa học giúp cho công tác tham
mưu đề xuất với Đảng và Nhà nước nội dung, phương thức công tác dân vận trong
thời kỳ mới. Nội dung cuốn sách gồm 3 chương, trong đó có Chương 1 với tiêu đề
“Một số vấn đề lý luận về công tác dân vận”, với hai nội dung: “Chủ nghĩa Mác -
Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh về quần chúng nhân dân và công tác dân vận”,
“Tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về công tác
dân vận”, công trình này đưa ra quan điểm chỉ đạo công tác dân vận của Đảng ta
trong thời kỳ đổi mới, thấm nhuần sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh, như: cách mạng
là sự nghiệp của dân, do dân và vì dân; công tác quần chúng là trách nhiệm của
Đảng, Nhà nước và của các đoàn thể nhân dân; động lực thúc đẩy phong trào quần
chúng là đáp ứng lợi ích thiết thực của nhân dân và kết hợp hài hòa các lợi ích,
thống nhất quyền lợi với nghĩa vụ công dân.
Sách Phương pháp và phong cách Hồ Chí Minh [76] của tác giả Đặng Xuân
Kỳ (chủ biên), đã trình bày một cách cơ bản, hệ thống phương pháp và phong cách
Hồ Chí Minh, từ khái niệm đến hệ thống phương pháp và phong cách và mối liên
hệ giữa phương pháp cách mạng Việt Nam và phong cách của những người cộng
sản chân chính, v.v… Từ đó, tác giả cũng khẳng định tầm quan trọng của việc
nghiên cứu, vận dụng sáng tạo phương pháp và phong cách Hồ Chí Minh vào sự
nghiệp đổi mới của nước ta hiện nay. Trong trình bày hệ thống phương pháp, phong
cách của Hồ Chí Minh, tập thể tác giả đã đề cập đến một nội dung có liên quan trực
tiếp đến đề tài luận án, đó là: “Tập hợp, huy động lực lượng toàn dân tham gia sự
nghiệp cách mạng”.
Cuốn sách Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ [40] của tác giả Phạm Hồng
Chương, đã trình bày lịch sử hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ, những
quan điểm của Hồ Chí Minh về dân chủ như dân chủ là gì, dân chủ trong các lĩnh
vực chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội; những yêu cầu của thực hành dân chủ và cuối
cùng là phân tích những vấn đề thực tiễn hiện nay và việc đưa tư tưởng dân chủ Hồ
Chí Minh vào cuộc sống. Qua cuốn sách, có thể thấy rõ những nội dung sâu sắc về
tư tưởng “dân là chủ” của Hồ Chí Minh: “Nước ta là một nước dân chủ, địa vị cao
nhất là dân, vì dân là chủ”, đó là sự khẳng định mạnh mẽ quyền lực của nhân dân và
9
thể hiện nó trong thực tiễn là hòn đá thử về một nền dân chủ, một thiết chế dân chủ
ở mức độ nào. Với việc trình bày một cách hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh về dân
chủ, công trình có giá trị tham khảo quan trọng cho tác giả luận án.
Viện Chiến lược và khoa học công an - Bộ Công an biên soạn cuốn Tư tưởng
Hồ Chí Minh về bảo vệ an ninh, trật tự [149], là công trình khoa học đầu tiên trình
bày một cách có hệ thống những vấn đề cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về bảo
vệ an ninh, trật tự. Nội dung cuốn sách đã sơ bộ phân tích được những quan điểm
của Hồ Chí Minh về bảo vệ an ninh, trật tự như; vai trò và sức mạnh của nhân dân,
đại đoàn kết toàn dân tộc, nhân đạo và nhân văn, về các vấn đề nghệ thuật lãnh đạo
và về xây dựng lực lượng Công an nhân dân Việt Nam. Đặc biệt, lần đầu tiên, các
tác giả đã đưa ra một khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh về bảo vệ an ninh, trật tự là
“một bộ phận quan trọng trong hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh, bao gồm những
vấn đề cơ bản về nhận thức, quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ, đối tượng, phương
pháp, nghệ thuật và tổ chức lực lượng đấu tranh bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn
trật tự, an toàn xã hội.
Cuốn sách Phương pháp dân chủ Hồ Chí Minh [29] của TS. Phạm Văn
Bính, đã góp phần xác định và làm rõ hơn những vấn đề cơ bản trong phương pháp
dân chủ của Hồ Chí Minh, từ đó đề xuất hướng áp dụng phương pháp dân chủ của
Hồ Chí Minh trong hoàn thiện phương pháp lãnh đạo của Đảng ta trong giai đoạn
hiện nay, đặc biệt là nội dung cần tham khảo là “cơ sở hình thành phương pháp dân
chủ của Hồ Chí Minh” trong đó có những nội dung về sự tiếp thu những yếu tố và
hình thức dân chủ trong văn hóa truyền thống Việt Nam của Hồ Chí Minh, về ảnh
hưởng của văn hóa dân chủ phương Đông, giá trị tư tưởng và hình thức dân chủ tư
sản phương Tây, tư tưởng dân chủ của chủ nghĩa Mác - Lê nin và hình thức dân chủ
Xô viết, v.v… Về cơ bản, đây cũng là những cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí
Minh về công tác vận động quần chúng bảo vệ an ninh, trật tự.
Kỷ yếu Hội thảo khoa học 40 năm thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí
Minh của Học viện Chính trị - Hành chính khu vực I, bao gồm 27 bài viết xoay
quanh các vấn đề: tư tưởng Hồ Chí Minh về củng cố và tăng cường vai trò lãnh đạo
của Đảng cầm quyền, xây dựng, rèn luyện đạo đức cách mạng, xây dựng nền văn
10
hóa mới, con người mới, chiến lược đại đoàn kết toàn dân… trong Di chúc, đáng
chú ý, là nội dung mà luận án có thể tham khảo là “Về bài học lấy dân làm gốc
trong tư tưởng Hồ Chí Minh” và “Thực hiện “Di chúc” của Chủ tịch Hồ Chí Minh
trong việc củng cố và tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc”. Những bài viết này gợi mở một số khía cạnh trong tư tưởng Hồ
Chí Minh về công tác vận động quần chúng nhằm phát huy vai trò của nhân dân
trong sự nghiệp cách mạng.
Cuốn sách Góp phần nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh [141] của tác giả
Nguyễn Văn Trung, trong đó tập hợp các bài viết chuyên sâu nghiên cứu về quá
trình hình thành và phát triển của tư tưởng Hồ Chí Minh, nguồn gốc tư tưởng Hồ
Chí Minh và những luận điểm sáng tạo lớn của Hồ Chí Minh về các vấn đề của
cách mạng Việt Nam. Đặc biệt trong đó có nội dung được luận án quan tâm
là:“quan điểm nhân dân - toàn dân. Có dân là có tất cả” của Hồ Chí Minh. Nội
dung này có giá trị tham khảo khi nghiên cứu vai trò của nhân dân trong bảo vệ an
ninh, trật tự.
Luận án tiến sĩ triết học của Hà Trọng Thà: Tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò
quần chúng nhân dân đối với sự nghiệp bảo vệ an ninh Tổ quốc ở Việt Nam hiện
nay [130], đã luận giải cơ sở thực tiễn và tiền đề lý luận hình thành tư tưởng Hồ Chí
Minh về vai trò của quần chúng nhân dân; nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí
Minh về vai trò của quần chúng nhân dân đối với sự nghiệp bảo vệ an ninh Tổ
quốc; vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của quần chúng nhân dân đối với
sự nghiệp bảo vệ an ninh Tổ quốc ở Việt Nam hiện nay. Nhiều nội dung của luận án
có giá trị tham khảo nhất định, trong đó có phần trình bày quan điểm của Hồ Chí
Minh về tuyên truyền, vận động, tổ chức nhằm phát huy vai trò quần chúng nhân
dân là lực lượng cơ bản trong sự nghiệp bảo vệ an ninh Tổ quốc.
Cuốn sách Nghiên cứu, học tập và làm theo tư tưởng Hồ Chí Minh [57] của
tác giả Võ Nguyên Giáp, tuyển chọn các bài nói, bài viết của Đại tướng trong nhiều
năm qua, trong đó nhiều bài có giá trị gợi mở quan trọng. Chẳng hạn các bài: Một
số vấn đề về nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh, Chủ tịch Hồ Chí Minh với sự
nghiệp xây dựng con người mới, v.v… Đặc biệt trong bài Thực hiện tốt Sáu điều
11
Bác Hồ dạy để xứng đáng là công an của nhân dân Việt Nam anh hùng, tác giả đã
nhấn mạnh: “hiện giờ nói chung nhân dân rất biết ơn công an và tin ở công an,
mong có công an để có cuộc sống yên vui, nhưng cũng có phần nào, nơi nào đó còn
ngại công an. Cho nên công an phải kính trọng và lễ phép với nhân dân. Nhân dân
là nói đến toàn dân, nói đến các đoàn thể thanh niên, phụ nữ, công nhân, nông dân,
cựu chiến binh… Công an phải có quan hệ thật tốt với các đoàn thể nhân dân như
lời dạy của Bác”.
Cuốn sách Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhân dân [109] của tác giả Trần Quang
Nhiếp, Nhà xuất bản Công an nhân dân xuất bản (2014), đã phân tích sức mạnh của
nhân dân, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhân dân trong sự nghiệp cách mạng của dân
tộc, về sự gắn bó giữa Đảng với nhân dân và vấn đề đặt ra về sức mạnh trong quan
hệ giữa Đảng với nhân dân. Tác giả đã nhấn mạnh “tư tưởng Hồ Chí Minh- linh
hồn sức mạnh của Đảng ở năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu”; “sức mạnh tư tưởng
Hồ Chí Minh hòa trong sức mạnh của Đảng với lịch sử dân tộc”. Nội dung cuốn
sách cũng đề cập đến nội dung, hình thức biểu hiện sức mạnh của sự thống nhất tư
tưởng Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản và nhân dân; nhận diện các loại hình sức mạnh
trong lịch sử đấu tranh cách mạng của dân tộc. Qua đó, tác giả rút ra những giá trị
lịch sử, giá trị khoa học của sức mạnh thống nhất ba yếu tố đặc thù ở Việt Nam
trong thế kỷ XX.
Tác giả Nguyễn Cao Sơn trong bài viết Phát huy vai trò của quần chúng
nhân dân trong sự nghiệp bảo vệ an ninh trật tự - Tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh
[124] đã tập trung chứng minh những giá trị nhân văn Hồ Chí Minh trong việc phát
huy vai trò của nhân dân trong sự nghiệp giữ gìn an ninh, trật tự như: giữ an ninh
cho nhân dân mục tiêu cao nhất của sự nghiệp bảo vệ an ninh, trật tự; nhân dân vừa
là mục tiêu, vừa là chủ thể của sự nghiệp giữ gìn an ninh, trật tự; giá trị nhân văn Hồ
Chí Minh qua hoạt động tuyên truyền, giáo dục lực lượng Công an nhân dân phát
huy vai trò của nhân dân trong sự nghiệp bảo vệ an ninh, trật tự.
Cuốn sách Phát huy các nguồn lực của dân làm lợi cho dân theo tư tưởng
Hồ Chí Minh [3] do tác giả Phạm Ngọc Anh chủ biên, đã tập trung nghiên cứu một
cách cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh về phát huy các nguồn lực của dân, đồng thời
đưa ra những đánh giá tổng quan về các giá trị và điều kiện để phát huy tư tưởng Hồ
12
Chí Minh. Đồng thời các tác giả cũng đề ra các giải pháp chủ yếu nhằm vận dụng
sáng tạo và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh về phát huy các nguồn lực của dân làm
lợi cho dân trong công cuộc đổi mới hiện nay. Nội dung cuốn sách cũng đề cập đến
quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê nin về nhân dân, quan niệm của Hồ Chí Minh về
vai trò của nhân dân trong sự nghiệp cách mạng Việt Nam, đặc biệt đã phân tích
quan niệm của Hồ Chí Minh về nhu cầu, lợi ích của nhân dân, đó cũng được xác
định là một trong những vấn đề cốt lõi trong tư tưởng lấy dân làm gốc của Hồ Chí
Minh, v.v…
Cuốn sách Hồ Chí Minh - lấy dân làm gốc [114] của tác giả Bùi Đình Phong,
tập hợp 22 bài nghiên cứu của tác giả, trong đó có nhiều nội dung tham khảo có giá
trị như “Dân ủy quyền cho Quốc hội bầu Chính phủ để phục vụ dân”, “Mối quan hệ
giữa cán bộ với dân”, “Dân chủ Hồ Chí Minh - một giá trị văn hóa”, “Dân là gốc,
dân là chủ, dân làm chủ”, “Mất lòng tin của dân là mất tất cả”, “Tăng cường mối
quan hệ giữa Đảng cầm quyền với dân dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh”. Đây
là những bài viết góp phần đi sâu luận giải vai trò và việc phát huy vai trò của nhân
dân trong sự nghiệp cách mạng. Vì thế, công trình cũng có giá trị tham khảo khi
thực hiện luận án.
Cuốn sách Tư tưởng Hồ Chí Minh- Giá trị nhân văn và phát triển của Học
viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. Cuốn sách đã tập trung khẳng định và làm
sáng tỏ những giá trị nhân văn và phát triển trong tư tưởng Hồ Chí Minh trên nhiều
khía cạnh: chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội, giáo dục đào tạo, quốc phòng, an ninh,
đối ngoại, v.v, qua đó góp phần khẳng định giá trị và sức sống tư tưởng của Người
với tư cách là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi hoạt động của Đảng ta
trong suốt quá trình đấu tranh cách mạng trước đây cũng như sự nghiệp đổi mới
hiện nay. Trong đó có nhiều nội dung liên quan đến quá trình nghiên cứu của luận
án như bài “Nội dung và giá trị thời đại của tư tưởng Hồ Chí Minh về con người”,
“Giá trị nhân văn và phát triển trong tư tưởng dân chủ Hồ Chí Minh”, "Vai trò
động lực của yếu tố con người trong triết lý phát triển Hồ Chí Minh”, v.v… Các
công trình nói trên đã phân tích vai trò con người với tư cách động lực của phát
triển xã hội, nội dung và những giá trị cần phát huy trong tư tưởng dân chủ của Hồ
Chí Minh.
13
Cuốn sách Tư tưởng Hồ Chí Minh, một số vấn đề lý luận và thực tiễn [148],
do Viện Hồ Chí Minh và các lãnh tụ của Đảng tổ chức biên soạn, tập hợp nhiều
công trình nghiên cứu khoa học đã công bố nghiên cứu nội dung tư tưởng Hồ Chí
Minh trên các góc độ tiếp cận và khía cạnh khác nhau, chủ yếu vào hai phần chính
là: (1)Tư tưởng Hồ Chí Minh về những vấn đề chung của cách mạng: lý luận và
thực tiễn; (2) Tư tưởng Hồ Chí Minh về các lĩnh vực cụ thể của đời sống xã hội: lý
luận và thực tiễn. Trong đó có những nội dung có liên quan đến đề tài luận án như
“Về dân chủ trong tư tưởng Hồ Chí Minh”; “Quan điểm của Hồ Chí Minh về công
tác dân vận”; “Vai trò động lực của yếu tố con người trong triết lý phát triển Hồ
Chí Minh”. Những bài viết này đã luận giải nhiều khía cạnh khác nhau trong tư
tưởng Hồ Chí Minh về vận động quần chúng.
Cuốn sách Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng xã hội mới [2] do tác giả
Phạm Ngọc Anh (chủ biên), tập hợp nhiều bài tham luận Hội thảo khoa học “Tư
tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng xã hội mới - Giá trị lý luận và thực tiễn”. Cuốn
sách đã góp phần làm sáng tỏ hơn cơ sở hình thành, những nội dung cơ bản và giá
trị lý luận, thực tiễn của tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng xã hội mới, trong đó có
những vấn đề như: “Phát huy vai trò của nhân dân trong xây dựng nhà nước ở Việt
Nam hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh”; “Một số vấn đề về xây dựng nhà nước
thật sự của dân, do dân, vì dân ở nước ta theo tư tưởng Hồ Chí Minh"; v.v… Những
nội dung này đề cập đến một số phương pháp, cách thức, nội dung, điều kiện phát
huy vai trò của nhân dân trong sự nghiệp cách mạng, có giá trị tham khảo đối với
tác giả luận án.
Tác giả Đặng Văn Phúc trong bài viết Chủ tịch Hồ Chí Minh với tư tưởng
nhân dân là nền tảng của sự nghiệp bảo vệ an ninh trật tự [116], đã tập trung luận
giải những quan điểm của Hồ Chí Minh về vai trò to lớn của nhân dân trong sự
nghiệp cách mạng, trên cơ sở đó phân tích một số nội dung trong tư tưởng của
Người về vai trò của nhân dân trong bảo vệ an ninh trật tự với lập luận chủ yếu là:
giữ gìn an ninh, trật tự trước hết là việc của công an, bộ đội, cảnh sát. Nhưng chính
quyền ta là chính quyền dân chủ nên bất kỳ việc to nhỏ đều phải dựa vào lực lượng
của nhân dân để phụng sự lợi ích của nhân dân. Việc giữ gìn an ninh, trật tự càng
phải dựa vào sáng kiến và lực lượng của nhân dân. Muốn vậy, nhân dân phải đặt
14
dưới sự tổ chức hướng dẫn, chỉ đạo của lực lượng Công an.
Cuốn sách Tư tưởng Hồ Chí Minh: nhận thức và hành động [4], của tác giả
Phạm Ngọc Anh, tác giả đã phân tích những luận điểm sáng tạo của Hồ Chí Minh
trên nhiều lĩnh vực, trong đó có những nội dung về “những giá trị cốt lõi của tư
tưởng Hồ Chí Minh về dân vận”, “Cán bộ, công tác cán bộ là công việc gốc” hay
“Nhà nước pháp quyền và công bộc của nhân dân". Những nội dung này góp phần
cung cấp một số nhận thức mới, có tính hệ thống về tư tưởng vận động quần chúng
của Hồ Chí Minh, về vai trò của cán bộ, của Nhà nước trong thực hiện công tác này.
Bài Giá trị lý luận và thực tiễn của tư tưởng Hồ Chí Minh về dân vận, của
tác giả Nguyễn Thị Thu Thúy, đã phân tích 02 luận điểm cơ bản: thứ nhất, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ quần chúng nhân dân là chủ thể của cuộc cách mạng,
là nhân tố quyết định mọi sự thắng lợi của sự nghiệp cách mạng Việt Nam. Nhưng
để nhân dân nhận thức rõ vai trò, trách nhiệm của mình thì Đảng phải tiến hành
công tác tuyên truyền, vận động để người dân giác ngộ, tự nguyện làm tốt bổn
phận và trách nhiệm của mình. Đó chính là công tác dân vận của Đảng. Thứ hai,
tư tưởng Hồ Chí Minh về dân vận là một tài sản vô giá. Đó là sự kế thừa tư tưởng
“trọng dân”, “tin dân”, “dựa vào dân’ của ông cha ta, những giá trị văn hóa, nhân
văn, nhân bản của phương Đông, phương Tây mà đỉnh cao là chủ nghĩa Mác -
Lênin.
Bài Giá trị nhân văn trong tư tưởng dân vận của Chủ tịch Hồ Chí Minh
[108], của Ngô Thị Bích Ngọc in trong Kỷ yếu Hội thảo khoa học quốc gia kỷ niệm
125 ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh 19/5/ 2015, đã nêu một số nhận thức mới về
tính nhân văn trong tư tưởng dân vận Hồ Chí Minh. Tác giả đưa ra luận điểm về
tính nhân văn của tư tưởng Hồ Chí Minh về dân vận “không những thấy tư tưởng
tiến bộ, đúng đắn của chủ nghĩa Mác- Lê nin về vai trò của quần chúng trong lịch
sử, mà còn thấy thấm đẫm những giá trị nhân văn, sự phát triển sáng tạo và truyền
thống văn hóa của dân tộc Việt Nam. Giá trị nhân văn đó được thể thiện hết sức
phong phú ở quan điểm quần chúng, quan niệm về nhân dân, tình thương yêu nhân
dân, yêu thương con người, tin tưởng ở sức mạnh đoàn kết của nhân dân, tinh thần
trách nhiệm, hết lòng phục vụ nhân dân”. Luận điểm trên góp phần khẳng định giá
trị của tư tưởng Hồ Chí Minh về nhân dân và vận động nhân dân trong cách mạng.
15
1.1.2. Các công trình nghiên cứu liên quan đến thực trạng, giải pháp tiến
hành công tác vận động quần chúng bảo vệ an ninh, trật tự của Công an nhân
dân theo tư tưởng Hồ Chí Minh
Hiện đã có nhiều công trình khoa học trong và ngoài ngành công an nghiên
cứu các vấn đề có liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến thực trạng và giải pháp tiến
hành công tác vận động quần chúng bảo vệ an ninh, trật tự theo tư tưởng Hồ Chí
Minh. Có thể đề cập đến những công trình nổi bật sau:
Cuốn sách Đổi mới công tác dân vận của Quân đội nhân dân Việt Nam
trong tình hình mới: Công trình khẳng định công tác dân vận của Quân đội nhân
dân là một bộ phận trong công tác dân vận của Đảng cộng sản Việt Nam. Đồng thời
chỉ rõ trong quá trình thực hiện công cuộc đổi mới, thực hiện cơ chế kinh tế thị
trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa càng đòi hỏi phải được tăng cường tuyên
truyền vận động nhân dân cả về bề rộng lẫn chiều sâu. Tuy không trực tiếp nghiên
cứu thực trạng và giải pháp đổi mới công tác vận động quần chúng bảo vệ an ninh,
trật tự của Công an nhân dân, nhưng công trình gợi mở cách tiếp cận nghiên cứu
vấn đề, bởi Quân đội nhân dân và Công an nhân dân đều là lực lượng vũ trang và có
những điểm tương đồng nhất định khi tiến hành công tác vận động quần chúng.
Đề tài khoa học cấp Bộ: “Tổng kết lịch sử vận động quần chúng bảo vệ an
ninh trật tự” của Bộ Công an, [23]. Đề tài khoa học đánh giá, tổng kết lịch sử công
tác vận động quần chúng bảo vệ an ninh, trật tự, trong đó, tác giả luận án có thể
tham khảo nội dung về thực tiễn công tác vận động quần chúng bảo vệ an ninh, trật
tự thời kỳ đổi mới; các bài học kinh nghiệm rút ra trong công tác vận động quần
chúng bảo vệ an ninh, trật tự thời kỳ đổi mới.
Tổng kết lịch sử “Đảng lãnh đạo công tác bảo vệ an ninh, trật tự”(1945 -
2000) của Bộ Công an [42], do Phạm Văn Dần (chủ biên). Khái quát lịch sử quá
trình Đảng lãnh đạo công tác bảo vệ an ninh, trật tự (1945 - 2000); tổng kết những
vấn đề về đường lối, phương châm, nguyên tắc, chính sách và nghệ thuật chỉ đạo
của Đảng đối với đấu tranh phản cách mạng và tội phạm khác trong lịch sử cách
mạng Việt Nam; rút ra những bài học kinh nghiệm trong lãnh đạo công tác bảo vệ
an ninh, trật tự.
Cuốn sách Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào công tác dân vận trong
16
thời kỳ đổi mới [13] của Ban Dân vận Trung ương, gồm những bài tham luận của
các đồng chí lãnh đạo Ban Dân vận trung ương, các đoàn thể quần chúng, một số
ban, ngành địa phương, các nhà khoa học tham gia Hội thảo khoa học của Ban
Dân vận trung ương. Nội dung cuốn sách đã cung cấp nhiều luận điểm về khái
niệm, nguồn gốc và quá trình hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về dân vận, đồng
thời làm sáng rõ vai trò của tư tưởng Hồ Chí Minh với công tác dân vận, đặc biệt
là công tác dân vận theo tư tưởng của Người ở các ban, ngành, đoàn thể và các địa
phương. Trong đó, có bài “Công an của ta là công an của nhân dân, vì nhân dân
mà phục vụ và dựa vào dân mà làm việc” đã phân tích rõ vấn đề vận dụng tư
tưởng của Hồ Chí Minh về dân vận vào công tác công an trong tình hình mới.
Công an phải vì nhân dân mà phục vụ, dựa vào dân mà làm việc.
Cuốn sách Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận Tổ
quốc và các đoàn thể nhân dân trong thời kỳ mới [63] của nhiều tác giả do Trần
Hậu (chủ biên), đã đề cập khá sâu sắc một số vấn đề lý luận của Chủ nghĩa Mác -
Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về phương thức lãnh đạo của Đảng đối với các đoàn
thể quần chúng và giải pháp tăng cường mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân trong
thời kỳ mới. Luận án có thể tham khảo được từ công trình này những nội dung liên
quan đến nguyên tắc Đảng lãnh đạo trong tiến hành công tác vận động quần chúng
bảo vệ an ninh, trật tự của Công an nhân dân.
Sách “Vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh trong sự
nghiệp đổi mới [113] của tác giả Bùi Đình Phong, Nhà xuất bản Lao động xuất bản
(2007), viết về sự vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh của Đảng ta về các lĩnh
vực như độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, về xây dựng Đảng, Nhà nước và đại
đoàn kết dân tộc, về văn hóa xã hội, v.v… Tác giả luận án có thể đúc rút nhiều gợi
mở cho Công an nhân dân trong vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác vận
động quần chúng bảo vệ an ninh, trật tự hiện nay.
Cuốn sách Di sản Hồ Chí Minh trong thời đại ngày nay, tập hợp hàng chục
bài viết chọn lọc từ Kỷ yếu Hội thảo khoa học quốc tế kỷ niệm 120 năm Ngày sinh
Chủ tịch Hồ Chí Minh (19/5/1890- 19/5/2010), trong đó thể hiện sự dày công
nghiên cứu, thảo luận về những di sản văn hóa, tinh thần vô giá mà Người để lại, để
cho những di sản này mãi mãi soi đường cho chúng ta đi đến tương lai tươi sáng
17
của nhân loại. Trong đó, bài “Quan điểm của Hồ Chí Minh về xây dựng lực lượng
toàn dân bảo vệ an ninh, trật tự” của tác giả Lê Hồng Anh, trình bày 04 quan điểm
của Hồ Chí Minh là: An ninh cho nhân dân là mục tiêu cao nhất của sự nghiệp bảo
vệ an ninh, trật tự; Nhân dân là lực lượng vĩ đại nhất, không ai thắng được lực
lượng đó; Công an phải dựa vào sức mạnh rộng lớn của nhân dân để bảo vệ an ninh,
trật tự, công an phải kính trọng và phụng sự nhân dân; và Công an phải không
ngừng giáo dục tinh thần làm chủ và tinh thần cảnh giác cho nhân dân; tổ chức và
hướng dẫn cho nhân dân tự bảo vệ an ninh, trật tự. Đây là những gợi mở mang tính
định hướng cho tác giả luận án.
Cuốn sách Góp phần nghiên cứu, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về xây
dựng lực lượng Công an nhân dân trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế [16], của tác giả Nguyễn Bình Ban đã đi sâu
nghiên cứu một số nội dung cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng lực lượng
Công an nhân dân và quán triệt, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng lực
lượng Công an nhân dân trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và
hội nhập quốc tế. Từ đó tác giả đưa ra một số giải pháp cơ bản, góp phần nâng cao
hiệu quả việc nghiên cứu, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong công tác, chiến
đấu, học tập và xây dựng lực lượng Công an nhân dân ngày càng vững mạnh. Cụ
thể hơn, nội dung cuốn sách nhấn mạnh và đi sâu vào vấn đề khẳng định Công an
nhân dân Việt Nam mang bản chất giai cấp công nhân, tính cách mạng và tính nhân
dân sâu sắc, từ đó phải coi trọng việc xây dựng người công an cách mạng toàn diện
về đức tài, về bản lĩnh chính trị, năng lực chuyên môn nghiệp vụ, tuân thủ lề lối làm
việc dân chủ, sâu sát, gắn bó máu thịt với nhân dân, với địa bàn cơ sở. Đây là những
cơ sở quan trọng để có thể tiến hành một cách có hiệu quả công tác vận động quần
chúng bảo vệ an ninh, trật tự theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
Cuốn sách “Vận dụng tư tưởng dân vận của Hồ Chí Minh trong phong trào
toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc của lực lượng Công an nhân dân [74], của tác giả
Vũ Đức Khiển - Phạm Duy Hoàng là tài liệu tổng hợp về tư tưởng dân vận của Hồ
Chí Minh và việc vận dụng tư tưởng đó trong phong trào toàn dân bảo vệ an ninh
Tổ quốc của lực lượng Công an nhân dân. Trong đó, các tác giả đã đi sâu phân tích
sự vận dụng tư tưởng dân vận của Hồ Chí Minh vào phong trào toàn dân bảo vệ an
18
ninh Tổ quốc như: “tin tưởng ở nhân dân, dựa vào nhân dân, phát huy sức mạnh
toàn dân là phương châm hành động của Công an nhân dân, quán triệt phương
châm “tất cả vì dân”, phát huy sức mạnh của hệ thống chính trị đặt dưới sự lãnh đạo
của Đảng và cuối cùng là những bài học kinh nghiệm rút ra từ quá trình vận dụng tư
tưởng dân vận Hồ Chí Minh trong phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc. Tuy
nhiên, các tác giả chỉ nghiên cứu nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về phong trào
toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc, mà chưa nghiên cứu toàn diện về tư tưởng của
Người và sự vận dụng vào công tác vận động quần chúng bảo vệ an ninh, trật tự.
Phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc chỉ là một nội dung trong công tác vận
động quần chúng bảo vệ an ninh, trật tự.
Cuốn sách Nhân dân, cội nguồn sức mạnh bảo vệ an ninh Tổ quốc [119] của
tác giả Trần Đại Quang, tập hợp nhiều bài viết của tác giả trong các hội nghị chuyên
đề về Phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc. Trong đó tác giả đã nghiên cứu
sâu về vai trò của quần chúng nhân dân: nhân dân là nền tảng, sức mạnh to lớn
trong cuộc đấu tranh bảo vệ an ninh trật tự và nêu rõ quan điểm trong bối cảnh tình
hình an ninh trật tự phức tạp và diễn biến phức tạp như hiện nay, tư tưởng Hồ Chí
Minh về phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc vẫn còn nguyên vẹn giá trị và
là bài học quý giá đối với toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta, nhất là lực lượng công
an. Cuốn sách cũng trình bày thêm về cách thức, phương pháp và những bài học rút
ra trong quá trình xây dựng phong trào toàn dân bảo vệ an ninh, trật tự trong tình
hình mới.
Bộ Công an - Ban Tuyên giáo Trung ương - Báo Nhân dân - Tạp chí Cộng
sản xuất bản Kỷ yếu Hội thảo khoa học quốc gia 70 năm Công an nhân dân Việt
Nam xây dựng, chiến đấu và trưởng thành; 10 năm Ngày hội toàn dân bảo vệ an
ninh Tổ quốc [26]. Đây là cuộc hội thảo cấp quốc gia, thu hút được nhiều nhà khoa
học lớn và các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước tham gia viết bài mang tính lý
luận và thực tiễn cao nhân dịp Kỷ niệm 70 năm Ngày truyền thống Công an nhân
dân. Hội thảo bao gồm 07 chủ đề lớn, bao gồm chủ đề: Phát huy sức mạnh khối đại
đoàn kết toàn dân trong bảo vệ an ninh, trật tự. Trong các bài viết thuộc chủ đề
này, đáng chú ý có bài Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân vận và ý nghĩa thực tiễn trong
tổ chức xây dựng phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc, của tác giả Phạm
19
Ngọc Anh. Bài viết đã khẳng định những giá trị cốt lõi của tư tưởng Hồ Chí Minh
về dân vận; về phẩm chất và phong cách người cán bộ dân vận; đặc biệt đã phân
tích ý nghĩa của tư tưởng dân vận Hồ Chí Minh đối với việc tổ chức xây dựng
phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc. Tác giả cũng đánh giá công tác vận
động quần chúng bảo vệ an ninh, trật tự là “biện pháp căn cơ để hình thành nhân
cách văn hóa người công an cách mạng gần dân, trọng dân, tin dân, yêu dân để dân
tin, dân phục và thương yêu, đùm bọc, giúp đỡ; đặt sự tu dưỡng rèn luyện, phấn đấu
của mỗi cán bộ, chiến sĩ công an dưới sự theo dõi, nhận xét, đánh giá, kiểm tra,
giám sát, phản biện của nhân dân”. Đây là một tài liệu tham khảo quan trọng của
luận án.
Cũng trong Hội thảo nói trên có bài viết Ban Dân vận Trung ương phối hợp
với Bộ Công an thực hiện tốt công tác dân vận trong sự nghiệp bảo vệ an ninh, trật
tự theo tư tưởng Hồ Chí Minh [26]. Ngoài sự khẳng định “tư tưởng Hồ Chí Minh về
dân vận là kim chỉ nam theo suốt chặng đường lịch sử oai hùng của dân tộc… luôn
có ý nghĩa xuyên suốt mọi lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã hội và an ninh quốc phòng
của các ngành, các cấp, là công tác đặc biệt cơ bản trong sự nghiệp bảo vệ an ninh
quốc gia và giữ gìn trật tự xã hội”, thì tác giả đã tổng kết 4 thành tựu của Chương
trình phối hợp giữa Ban Dân vận trung ương với Bộ Công an thực hiện công tác
dân vận trong bảo vệ an ninh, trật tự, đặc biệt là những yếu tố khó khăn, thuận lợi
và một số giải pháp nhằm làm tốt hơn Chương trình phối hợp trong giai đoạn mới.
Bài viết Thấm nhuần sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh về phong trào toàn dân
bảo vệ an ninh Tổ quốc của tác giả Trần Đại Quang, đăng trong Kỷ yếu Hội thảo
khoa học quốc gia [118] kỷ niệm 125 năm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh, đã
khẳng định “tư tưởng Hồ Chí Minh về phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc,
đã và đang soi đường thắng lợi trong sự nghiệp bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật
tự an toàn xã hội của đất nước”. Tác giả cũng nêu bật quan điểm cơ bản, cốt lõi,
nhất quán trong tư tưởng Hồ Chí Minh về phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ
quốc là nhân dân: “Nhân dân là nền tảng, sức mạnh to lớn trong cuộc đấu tranh bảo
vệ an ninh, trật tự”. Trong bối cảnh hiện nay, “tư tưởng Hồ Chí Minh về phong trào
toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc vẫn sống động, vẫn còn nguyên giá trị và là bài
học quý báu đối với toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta, nhất là lực lượng công an
20
nhân dân trong sự nghiệp bảo vệ an ninh Tổ quốc. Thấm nhuần sâu sắc tư tưởng vĩ
đại và những lời dạy của Người, Công an nhân dân xác định rõ biện pháp vận động
quần chúng là một trong bảy biện pháp công tác công an, làm nền tảng cho các biện
pháp khác và toàn bộ hoạt động của lực lượng công an”. Bài viết cung cấp nhiều
quan điểm có giá trị định hướng cho việc nghiên cứu đề tài luận án.
Tác giả Nguyễn Việt Hùng có một số công trình nghiên cứu trực tiếp nội
dung của tư tưởng Hồ Chí Minh về phát huy vai trò của nhân dân trong bảo vệ an
ninh, trật tự như bài viết: tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò và phát huy vai trò của
nhân dân trong sự nghiệp bảo vệ an ninh, trật tự, in trong Sách tham khảo Vận
dụng một số nội dung khoa học chính trị trong công tác công an [70]. Trong bài
viết này, tác giả nêu lên một số nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của nhân
dân trong bảo vệ an ninh, trật tự và cho rằng để phát huy vai trò của nhân dân trong
sự nghiệp giữ gìn trật tự, an ninh Hồ Chí Minh yêu cầu phải coi trọng công tác xây
dựng, củng cố tổ chức của quần chúng; đặc biệt là coi trọng công tác tuyên truyền,
giáo dục, vận động quần chúng và phát huy vai trò của quần chúng cần thông qua
sức mạnh của toàn bộ hệ thống chính trị.
Cuốn sách Quần chúng nhân dân - nhân tố quyết định thắng lợi cuộc đấu
tranh bảo vệ an ninh, trật tự [81] của tác giả Tô Lâm, bao gồm 47 bài nói, bài viết
của tác giả về vai trò của nhân dân trong sự nghiệp bảo vệ an ninh, trật tự; quan
điểm của Đảng về xây dựng thế trận an ninh nhân dân; tăng cường sự lãnh đạo của
Đảng đối với phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc; về đường lối, chủ
trương, chính sách, nguyên tắc, phương châm hoạt động của công tác dân vận bảo
vệ an ninh, trật tự nói chung và phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc nói
riêng. Trong đó tác giả nhấn mạnh “hệ thống quan điểm của Đảng về bảo vệ an
ninh, trật tự được hình thành trên những cơ sở rất vững chắc như truyền thống dân
tộc, chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh”. Tác giả khẳng định “Lịch sử
Công an nhân dân 72 năm qua gắn liền với việc thực hiện tốt Sáu điều Chủ tịch Hồ
Chí Minh dạy Công an nhân dân và tiếp mãi về sau vẫn là như vậy”.
Cuốn sách Xây dựng, chỉnh đốn Đảng là nhiệm vụ then chốt để phát triển
đất nước [140], tuyển chọn 10 bài phát biểu của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng về
tăng cường công tác xây dựng, chỉnh đốn đảng; ngăn chặn đẩy lùi sự suy thoái về tư
21
tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”
trong nội bộ. Trong đó có nội dung “Củng cố và xây dựng tổ chức đảng thật sự
xứng đáng là người lãnh đạo, người đày tớ trung thành của nhân dân” đã nêu những
hạn chế, yếu kém của công tác dân vận trong tình hình hiện nay và sự cần thiết phải
tăng cường củng cố mối quan hệ máu thịt giữa Đảng với nhân dân để phát huy sức
mạnh to lớn của nhân dân xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Bài viết cung cấp nhiều cơ
sở lý luận quan trọng cho thực hiện đề tài luận án.
Bài viết Phát huy vai trò của quần chúng nhân dân - Yếu tố quyết định thắng
lợi của cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội [30],
của tác giả Phạm Thái Bình, đã khẳng định, để phát huy vai trò quần chúng nhân
dân trong đấu tranh phòng, chống tội phạm bảo đảm trật tự an toàn ở nước ta trong
giai đoạn hiện nay, lực lượng Công an nhân dân cần tập trung vào một số nội dung
sau: Một là, làm tốt công tác tuyên truyền để quần chúng nhân dân nâng cao tinh
thần cảnh giác, ý thức chủ động, tích cực đấu tranh phòng, chống tội phạm; Hai là,
phải làm cho dân tin, dân yêu, dân ủng hộ; Ba là, để phát huy vai trò quần chúng
nhân dân trong đấu tranh phòng, chống tội phạm cần làm tốt công tác nghiên cứu,
nắm tình hình, nắm rõ tâm tư và nguyện vọng của quần chúng, từ đó đề ra nội dung,
yêu cầu phù hợp phát động phong trào quần chúng đấu tranh phòng chống tội
phạm; Bốn là, xây dựng đội ngũ cán bộ chuyên trách làm công tác vận động quần
chúng, xây dựng phong trào Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc; Năm là, phát huy
vai trò của quần chúng nhân dân trong phòng ngừa xã hội, phòng ngừa nghiệp vụ
của lực lượng Công an nhân dân trong đấu tranh phòng, chống tội phạm.
Gần đây nhất, tác giả Bùi Văn Nam có công trình Tư tưởng Hồ Chí Minh về
phát huy sức mạnh nhân dân trong xây dựng phong trào toàn dân bảo vệ an ninh
Tổ quốc [106], đã đi sâu phân tích tư tưởng Hồ Chí Minh về sức mạnh nhân dân
trong sự nghiệp bảo vệ an ninh, trật tự; khẳng định nhân dân là nguồn gốc sức
mạnh, là nhân tố quyết định thành công của cách mạng Việt Nam; đề ra phương
hướng và giải pháp nhằm vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh để phát huy sức
mạnh nhân dân trong phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc.
22
1.2. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ĐÃ ĐẠT ĐƯỢC VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ LUẬN
ÁN CẦN TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU
1.2.1. Những kết quả nghiên cứu đạt được
Cho đến nay đã có rất nhiều cuốn sách, đề tài khoa học, bài viết nghiên cứu
về các vấn đề có liên quan trực tiếp đến đề tài tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác
vận động quần chúng bảo vệ an ninh, trật tự của lực lượng Công an nhân dân, và
chủ yếu là các công trình nghiên cứu của các nhà khoa học trong nước. Các công
trình nghiên cứu của học giả nước ngoài về Hồ Chí Minh rất phong phú và nhiều
công trình có giá trị. Tuy nhiên, thực tế khảo sát tình hình nghiên cứu cho thấy, hầu
như không có công trình nghiên cứu nước ngoài nào đề cập trực tiếp đến tư tưởng
Hồ Chí Minh về công tác vận động quần chúng bảo vệ an ninh, trật tự của Công an
nhân dân. Một số công trình nghiên cứu của học giả nước ngoài có đề cập đến một
số vấn đề có liên quan như tư tưởng Hồ Chí Minh về nhân dân, về dân chủ, v.v…
thì giá trị không cao hoặc quá xa với đề tài luận án, nên để tránh tản mạn, tác giả
luận án không đưa vào phần tổng quan.
Những công trình nghiên cứu trong nước có liên quan trực tiếp đến đề tài
luận án đã đạt được nhiều kết quả quan trọng:
Thứ nhất, trên phương diện nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác
vận động quần chúng, trong đó có công tác vận động quần chúng bảo vệ an ninh,
trật tự của Công an nhân dân.
Một là, đã làm rõ được một số cơ sở chủ yếu hình thành nên tư tưởng Hồ Chí
Minh về công tác vận động quần chúng, trong đó có công tác vận động quần chúng
của Công an nhân dân. Tuy nhiên, số lượng công trình đề cập đến vấn đề này chưa
nhiều, và nội dung các công trình này mới là những nhận thức bước đầu.
Hai là, đã hệ thống hóa và phân tích khá sâu sắc những nội dung cơ bản
trong tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác dân vận, công tác vận động quần chúng;
cũng đã có nhiều công trình nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về công an nhân
dân, các mảng công tác chủ yếu của Công an nhân dân, về công tác bảo vệ an ninh,
trật tự của công an nhân dân. Một số công trình cũng đã bước đầu nghiên cứu tư
tưởng Hồ Chí Minh về công tác vận động quần chúng bảo vệ an ninh, trật tự của
Công an nhân dân. Tuy nhiên, vẫn chưa có công trình nào trình bày được một cách
hệ thống, toàn diện và sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác vận động quần
23
chúng bảo vệ an ninh, trật tự của Công an nhân dân. Đây là một nhiệm vụ nghiên
cứu còn bỏ ngỏ.
Ba là, một số công trình đã tiến hành đánh giá giá trị của tư tưởng Hồ Chí
Minh về công tác vận động quần chúng, về bảo vệ an ninh, trật tự. Tuy nhiên, chưa
có công trình nào đánh giá một cách toàn diện giá trị của tư tưởng Hồ Chí Minh về
công tác vận động quần chúng bảo vệ an ninh, trật tự của Công an nhân dân, nhất là
đặt trong bối cảnh hiện nay.
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu hiện có chủ yếu nghiên cứu các vấn
đề cơ sở hình thành, nội dung và giá trị của tư tưởng Hồ Chí Minh về dân vận hay
vận động quần chúng về bảo vệ an ninh, trật tự. Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về
dân vận hay vận động quần chúng bảo vệ an ninh, trật tự của Công an nhân dân còn
ít công trình nghiên cứu, quy mô nghiên cứu và trình bày kết quả nghiên cứu còn
hạn chế, và hầu như chưa được nghiên cứu từ góc tiếp cận Hồ Chí Minh học.
Thứ hai, trên phương diện nghiên cứu thực trạng, giải pháp tiến hành công
tác vận động quần chúng bảo vệ an ninh, trật tự của Công an nhân dân theo tư
tưởng Hồ Chí Minh.
Một là, đã có khá nhiều công trình nghiên cứu thực trạng, nguyên nhân, vấn
đề đặt ra trong công tác vận động quần chúng bảo vệ an ninh, trật tự của công an
nhân dân. Tuy nhiên, dấu ấn tiếp cận nghiên cứu các vấn đề này từ góc tiếp cận Hồ
Chí Minh học còn mờ nhạt. Vấn đề đặt ra là cần nghiên cứu những vấn đề thực
trạng từ góc nhìn tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác vận động quần chúng bảo vệ
an ninh, trật tự của Công an nhân dân.
Hai là, đã có nhiều công trình đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao chất
lượng, hiệu quả công tác vận động quần chúng bảo vệ an ninh, trật tự của Công an
nhân dân. Tuy nhiên, mới chỉ có rất ít công trình trực tiếp vận dụng tư tưởng Hồ Chí
Minh về công tác vận động quần chúng bảo vệ an ninh, trật tự của Công an nhân
dân để đề xuất các giải pháp. Và những công trình ít ỏi này phần lớn mới ở dạng bài
viết, cung cấp những nhận thức bước đầu.
Nhìn chung, các công trình nêu trên đã đạt được nhiều thành quả nghiên cứu
có giá trị về thực trạng, nguyên nhân, vấn đề đặt ra và giải pháp cho công tác vận
động quần chúng nói chung, vận động quần chúng bảo vệ an ninh, trật tự nói riêng.
24
Tuy nhiên chưa có nhiều công trình xứng tầm nghiên cứu vấn đề này từ góc tiếp cận
Hồ Chí Minh học.
Công cuộc đổi mới của đất nước nói chung, cuộc đấu tranh bảo vệ an ninh,
trật tự nói riêng hiện nay đang có những diễn biến ngày càng phức tạp, khó lường.
Tình hình tội phạm về an ninh, trật tự đang có những thay đổi theo chiều hướng gia
tăng và xuất hiện nhiều loại tội phạm phi truyền thống. Xuất hiện ngày càng nhiều
yếu tố phức tạp tác động đến công tác dân vận nói chung, công tác vận động quần
chúng bảo vệ an ninh, trật tự nói riêng. Trong bối cảnh đó, công tác vận động quần
chúng bảo vệ an ninh, trật tự của Công an nhân dân phải bám sát đường lối của
Đảng, đặc biệt là tư tưởng Hồ Chí Minh. Có như vậy mới đáp ứng được yêu cầu
bảo vệ vững chắc an ninh, trật tự, phục vụ sự nghiệp bảo vệ và xây dựng đất nước.
1.2.2. Những vấn đề luận án tiếp tục nghiên cứu
Trên cơ sở tổng quan tình hình nghiên cứu, với tinh thần trân trọng những
thành quả nghiên cứu đã đạt được, đồng thời nhìn thẳng vào những vấn đề đang đặt
ra, luận án cần tiếp tục đi sâu nghiên cứu các vấn đề sau:
Hệ thống, khái quát đầy đủ, phân tích sâu sắc nội dung tư tưởng Hồ Chí
Minh về công tác vận động quần chúng bảo vệ an ninh, trật tự của Công an nhân
dân; khẳng định giá trị và sự cần thiết vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác
vận động quần chúng bảo vệ an ninh, trật tự của Công an nhân dân hiện nay.
Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh để nghiên cứu thực trạng, bao gồm cả
thành tựu, hạn chế, nguyên nhân của những hạn chế, những vấn đề đặt ra trong thực
tế tiến hành công tác vận động quần chúng bảo vệ an ninh, trật tự của Công an nhân
dân trong những năm đổi mới.
Bám sát tình hình thực tiễn nóng bỏng của sự nghiệp đấu tranh bảo vệ an
ninh, trật tự hiện nay, vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh, đề xuất những giải
pháp cơ bản nhằm tiến hành có chất lượng và hiệu quả công tác vận động quần
chúng bảo vệ an ninh, trật tự của lực lượng Công an nhân dân trong thời gian tới.
25
Tiểu kết Chương 1
Nghiên cứu Tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác vận động quần chúng bảo vệ
an ninh, trật tự của Công an nhân dân; về thực trạng và những giải pháp chủ yếu
nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác vận động quần chúng bảo vệ an ninh,
trật tự của Công an nhân dân trong tình hình mới theo tư tưởng Hồ Chí Minh là một
nhiệm vụ nghiên cứu thuộc chuyên ngành Hồ Chí Minh học.
Tổng quan tình hình nghiên cứu cho thấy, tuy đã có rất nhiều công trình có
liên quan có giá trị đã được công bố, nhưng những công trình trực tiếp nghiên cứu
vấn đề Công tác vận động quần chúng bảo vệ an ninh, trật tự của Công an nhân dân
trong thời kỳ đổi mới theo tư tưởng Hồ Chí Minh còn hạn chế về số lượng và chủ
yếu mới dừng lại ở mức độ đặt vấn đề, gợi mở.
Tác giả đã xác định ba vấn đề lớn mà luận án cần tiếp tục đi sâu nghiên cứu
từ góc tiếp cận Hồ Chí Minh học, đó là: (1) Nội dung và giá trị của tư tưởng Hồ Chí
Minh về công tác vận động quần chúng bảo vệ an ninh, trật tự của Công an nhân
dân; (2) Thực trạng và những vấn đề đặt ra trong tiến hành công tác vận động quần
chúng bảo vệ an ninh, trật tự của Công an nhân dân theo tư tưởng Hồ Chí Minh; (3)
Giải pháp chủ yếu tiến hành công tác vận động quần chúng bảo vệ an ninh, trật tự
của Công an nhân dân theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong tình hình mới.
26
Chương 2
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CÔNG TÁC VẬN ĐỘNG QUẦN CHÚNG
BẢO VỆ AN NINH, TRẬT TỰ CỦA CÔNG AN NHÂN DÂN
2.1. KHÁI NIỆM
2.1.1. Khái niệm Công tác vận động quần chúng
Ở Việt Nam, khái niệm Công tác vận động quần chúng trong nhiều trường
hợp được sử dụng thay thế nhau với khái niệm Công tác dân vận. Sự tương đồng về
nội hàm của hai khái niệm này được định nghĩa khá rõ trong trong các từ điển ngôn
ngữ thông dụng.
Chẳng hạn, theo Từ điển Tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học: Công tác là
“công việc của nhà nước hoặc của đoàn thể”; vận động là "tuyên truyền, giải thích,
động viên làm cho người khác tự nguyện làm việc gì, thường là theo một phong
trào nào đó”, quần chúng là "những người dân bình thường trong xã hội (nói tổng
quát và trong quan hệ với lãnh đạo)"; còn dân vận là “tuyên truyền, vận động nhân
dân”, trong đó, nhân dân được hiểu là "đông đảo người dân thuộc mọi tầng lớp,
đang sống trong một khu vực địa lý nào đó (nói tổng quát)" [151, tr.210, 247, 806]
Đại Từ điển tiếng Việt (1998) cũng định nghĩa khái niệm công tác là "công
việc của Đảng, Nhà nước và đoàn thể”; vận động quần chúng là “công tác tuyên
truyền, tổ chức, động viên và lãnh đạo quần chúng trong một cuộc đấu tranh”; còn
Dân vận là "tuyên truyền, vận động nhân dân" [156, tr.213, 360].
Với khái niệm Công tác, Từ điển Tiếng Việt (2008) của Trung tâm Từ điển
học định nghĩa: Công tác khi là danh động từ thì có nghĩa: “là công việc của nhà
nước hoặc của đoàn thể”. Tức là nói đến mặt công tác nào đó của nhà nước, của
đoàn thể, ví dụ: Công tác bảo vệ an ninh, công tác cán bộ, v.v… Khi là động từ thì
có nghĩa: “làm công việc của nhà nước, của đoàn thể”, ví dụ như: công tác tại bệnh
viện....” [142, tr.272].
Như vậy, khái quát lại, khi nói Công tác vận động quần chúng thì trong đó,
khái niệm Công tác được dùng với tư cách là một danh động từ, và dùng để chỉ
công việc, hay việc công, của Đảng, Nhà nước, đoàn thể chứ không phải là việc
riêng của cá nhân nào. Ở đây, công việc đó là "vận động quần chúng", tức là tuyên
27
truyền, cổ vũ, động viên đông đảo nhân dân hành động nhằm đạt tới mục tiêu hoặc
thực hiện nhiệm vụ chung nào đó.
Trong nghiên cứu khoa học, hầu hết các nhà khoa học cũng đều thống nhất
quan điểm cho rằng, công tác dân vận, hay công tác vận động quần chúng là công
việc của Đảng, Nhà nước hoặc của các đoàn thể nhằm tuyên truyền, giải thích, động
viên, làm cho đông đảo nhân dân ủng hộ hoặc tự nguyện tham gia những công việc
mang lại lợi ích chung. Chẳng hạn, tác giả Nguyễn Bá Quang trong công trình “Học
tập và làm theo phong cách “Dân vận khéo” Hồ Chí Minh” nêu quan niệm: “Dân
vận là công tác khoa học, nhưng cũng là nghệ thuật, nhằm giải quyết mối quan hệ
giữa Đảng và dân. Muốn làm tốt công tác dân vận, cán bộ phải có tâm trong sáng,
có trách nhiệm, có tri thức khoa học, tóm lại phải có tâm và có tài” [120, tr.80].
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, dân vận hay vận động quần chúng là những từ
đồng nghĩa. Ở Hồ Chí Minh, nói đến dân vận là nói đến vận động quần chúng, và
ngược lại, nói đến vận động quần chúng cũng chính là nói đến dân vận. Trong thực
tiễn, ngay từ rất sớm Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng công tác này. Năm 1923, trong
bức thư để lại cho các bạn cùng hoạt động ở Pháp, Người đã viết: “Đối với tôi, câu
trả lời đã rõ ràng: trở về nước, đi vào quần chúng, thức tỉnh họ, tổ chức họ, đoàn kết
họ, huấn luyện họ, đưa họ ra đấu tranh giành tự do độc lập” [89, tr.209]. Theo Hồ
Chí Minh, chính vì nhân dân là lực lượng có sức mạnh to lớn nhất trong xã hội, có
vai trò quyết định đối với thắng lợi của nghiệp cách mạng, nên cần thiết phải thực
hiện công tác vận động quần chúng. Người chỉ rõ: “lực lượng của dân rất to. Việc
dân vận rất quan trọng. Dân vận kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì
cũng thành công” [94, tr.234]. Dân vận chính là cái gốc, là khâu khởi động cho mọi
phong trào cách mạng của quần chúng, là mấu chốt của mọi thành công. Muốn sự
nghiệp cách mạng thành công, trước hết phải biết tuyên truyền và vận động nhân
dân, hay nói cách khác, chính là phải làm tốt công tác vận động quần chúng.
Hồ Chí Minh đã nêu lên một hệ thống quan niệm toàn diện và sâu sắc về dân
vận (vận động quần chúng) ở tất cả các chiều cạnh của nó. Người cho rằng, dân vận
tức là “vận động tất cả lực lượng của mỗi một người dân không để sót một người
dân nào, góp thành lực lượng toàn dân, để thực hành những công việc nên làm,
những công việc Chính phủ và Đoàn thể đã giao cho” [94, tr.232].
28
Quan niệm này của Hồ Chí Minh hết sức độc đáo, dân vận chính là vận động
quần chúng, cho nên mới viết: "dân vận tức là vận động tất cả lực lượng của mỗi
một người dân ". Trong khuôn khổ luận án này, đây là điểm rất quan trọng, bởi lẽ,
trong các tác phẩm của Hồ Chí Minh, không phải lúc nào Người cũng trực tiếp
dùng khái niệm vận động quần chúng, mà trong rất nhiều trường hợp lại dùng khái
niệm dân vận.
Cũng theo Hồ Chí Minh, vận động quần chúng là công việc của toàn bộ hệ
thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng, tiến hành tập hợp vận động, đoàn kết
nhân dân, đưa các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước vào cuộc sống, góp phần xây dựng đồng thuận xã hội, thực hiện thắng lợi
đường lối cách mạng của Đảng.
Vận động quần chúng có những nguyên tắc then chốt, cần được tuân thủ. Đó
là “phải tìm mọi cách giải thích cho mỗi một người dân hiểu rõ ràng việc đó là lợi
ích cho họ và nhiệm vụ của họ, họ phải hăng hái làm cho kỳ được” [94, tr.233] “là
bất cứ việc gì cũng phải bàn bạc với dân, hỏi ý kiến và kinh nghiệm của dân, cùng
với dân đặt kế hoạch cho thiết thực với hoàn cảnh địa phương, rồi động viên và tổ
chức toàn dân ra thi hành” [94, tr.233]. Do đó, cần hiểu công tác dân vận là khoa
học và cũng là nghệ thuật về lãnh đạo, là một nhiệm vụ cơ bản có ý nghĩa chiến
lược của Đảng nhằm tuyên truyền, giáo dục, vận động, tập hợp tất cả lực lượng của
mỗi một người dân góp thành khối đại đoàn kết toàn dân tộc và xây dựng mối quan
hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân trong sự nghiệp giải phóng, xây dựng và bảo
vệ đất nước.
Rõ ràng, nếu so sánh với nhận thức thông thường hay nhận thức khoa học
hiện có, quan niệm của Hồ Chí Minh về dân vận hay vận động quần chúng có nội
hàm phong phú hơn, có chiều sâu lý luận hơn
Trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và nhận thức
hiện có, tác giả luận án cho rằng: Công tác vận động quần chúng (hay Công tác dân
vận) là công việc của Đảng, Nhà nước hoặc của các đoàn thể; là việc tuyên truyền,
động viên, phối hợp với nhân dân, tập hợp và huy động đến mức cao nhất lực lượng
của nhân dân để tiến hành những nhiệm vụ mà sự nghiệp cách mạng yêu cầu, vì lợi
ích chung của dân tộc, trong đó có lợi ích của nhân dân.
29
2.1.2. Khái niệm Bảo vệ an ninh, trật tự
Bảo vệ an ninh, trật tự bao gồm 2 nội dung là bảo vệ an ninh quốc gia và giữ
gìn trật tự an toàn xã hội.
Khái niệm Bảo vệ an ninh quốc gia
An ninh là một từ Hán Việt, có nghĩa là "trật tự ổn định, không có rối loạn"
[169, tr.7]. Theo Từ điển Tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học, an ninh có nghĩa là
"Yên ổn về mặt chính trị, về trật tự xã hội" [151, tr.5].
Luật An ninh quốc gia xác định: “an ninh quốc gia là sự ổn định, phát triển
bền vững của chế độ xã hội chủ nghĩa và Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, sự bất khả xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của
Tổ quốc” [122, tr.8].
Như vậy, “bảo vệ an ninh quốc gia chính là bảo vệ chế độ chính trị, chế độ
nhà nước; bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc;
bảo vệ an ninh tư tưởng - văn hóa, kinh tế, đối ngoại, khối đại đoàn kết toàn dân
tộc; bảo vệ bí mật nhà nước, các mục tiêu quan trọng về an ninh quốc gia và các
lĩnh vực khác; bảo vệ an ninh quốc gia là phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn, đấu
tranh làm thất bại và loại trừ các hoạt động xâm phạm an ninh quốc gia, nguy cơ đe
dọa an ninh quốc gia” [122, tr.9].
Khái niệm Giữ gìn trật tự an toàn xã hội
Theo Từ điển Tiếng Việt (2004) của Viện Ngôn ngữ học, trật tự với tư cách
danh từ có nghĩa là "tình trạng ổn định, có tổ chức, có kỷ luật", còn an toàn có
nghĩa là "yên ổn, tránh được tai nạn, tránh được thiệt hại" [151, tr.1031]. Theo Từ
điển Từ và Ngữ Hán - Việt (Nguyễn Lân chủ biên), thì trật tự “là tình trạng ổn định,
có thứ bậc trên dưới, trước sau", và an toàn là "yên ổn trọn vẹn, yên ổn hẳn, không
sợ tai nạn” [83, tr.16, 704]. Như vậy, trật tự, an toàn xã hội là trạng thái xã hội ổn
định, có có trật tự, kỷ cương, tránh được tai nạn, thiệt hại. Giữ gìn trật tự, an toàn
xã hội chính là bảo đảm cho trạng thái xã hội trật tự an toàn được nguyên vẹn,
không bị làm cho biến đổi. Giữ gìn trật tự an, toàn xã hội có nghĩa tương đương với
bảo đảm trật tự, an toàn xã hội.
Điều 3 Luật Công an nhân dân của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam quy định: bảo đảm trật tự, an toàn xã hội “là phòng ngừa, phát hiện, ngăn
chặn, đấu tranh chống tội phạm và các hành vi vi phạm pháp luật về trật tự, an toàn
30
xã hội”. Đây là tổng thể các hoạt động phòng, chống tội phạm, phòng chống tệ nạn
xã hội, quản lý hành chính về trật tự xã hội, quản lý và bảo đảm trật tự an toàn giao
thông, trật tự công cộng, phòng cháy chữa cháy, giáo dục cải tạo phạm nhân.
Có thể thấy, trật tự, an toàn xã hội luôn gắn liền với an ninh quốc gia. Bảo
vệ an ninh quốc gia là bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ, bảo vệ thành quả của cách mạng
xã hội chủ nghĩa, giữ vững ổn định chính trị, tạo ra một trong những điều kiện cơ
bản nhất để xây dựng, phát triển đất nước vững mạnh về mọi mặt. Bảo vệ tốt trật tự,
an toàn xã hội sẽ tạo điều kiện cho an ninh quốc gia được củng cố vững chắc, hiệu
lực quản lý của Nhà nước được tăng cường, quyền làm chủ của nhân dân được bảo
đảm, cuộc sống của mọi người được yên vui, hạnh phúc.
Chủ tịch Hồ Chí Minh không sử dụng các khái niệm an ninh quốc gia, trật
tự an toàn xã hội như chúng ta hiện nay. Người sử dụng những khái niệm khác,
nhưng có nội hàm cơ bản tương đương. Cụ thể là, khái niệm bảo vệ “an toàn quốc
gia” và giữ gìn “trị an, trật tự” lần đầu tiên được Hồ Chí Minh nhắc đến trong Sắc
lệnh số 23 ngày 21- 02 - 1946 về thành lập Việt Nam Công an vụ, và sau đó, cùng
với quá trình lãnh đạo cách mạng, quan niệm của Người về các vấn đề trên dần dần
được bổ sung, hoàn chỉnh. Đặc biệt, trong bài“Giữ gìn trật tự an ninh” đăng trên
Báo Nhân dân số 236 (ngày 9 - 10/10/1954), Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Mọi người
công dân, bất kỳ già trẻ, gái trai, bất kỳ làm việc gì đều có nhiệm vụ giúp chính
quyền giữ gìn trật tự an ninh, vì trật tự an ninh trực tiếp quan hệ đến lợi ích bản thân
của mọi người” [97, tr.77]. Với Hồ Chí Minh, an ninh, trật tự là nhu cầu tối cao, tối
thượng của con người, một trong những giá trị cao nhất thuộc hệ giá trị con người.
Người chỉ ra nhân dân ta từ lâu đã đặt “an ninh” lên một vị trí cao nhất trong bảng
giá trị xã hội.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng nhìn nhận đúng đắn vấn đề an ninh con người
trong mối quan hệ với an ninh quốc gia, an ninh quốc tế. Bảo vệ an ninh quốc gia là
để hướng đến bảo vệ an ninh con người và ngược lại, bảo vệ an ninh con người chỉ
có thể thực hiện được khi mà an ninh quốc gia không bị xâm phạm. Hồ Chí Minh
đưa việc giữ vững trật tự, an ninh là yêu cầu bắt buộc để thực hiện mọi mục tiêu độc
lập, tự do và hạnh phúc cho nhân dân, cho con người. Người xem an ninh quốc gia
là điều kiện cho sự phát triển con người. “Có giữ vững trật tự an ninh, thì nhân
dân... mới an cư lạc nghiệp” [97, tr.77], dân có yên ổn làm ăn thì sản xuất mới phát
31
triển, kinh tế mới tăng trưởng. An ninh, quốc phòng ổn định tạo điều kiện cho sự
phát triển tiến bộ trên tất cả các mặt của đời sống xã hội, từ chính trị, kinh tế, văn
hóa, giáo dục. Có không ngừng cải thiện và nâng cao đời sống vật chất và tinh thần
cho nhân dân thì mới có thể thực hiện được sự nghiệp “trăm năm” là phát triển con
người toàn diện trên các phương diện về thể lực, trí lực, tâm lực.
Từ đó, Hồ Chí Minh cho rằng, an ninh, trật tự là một môi trường xã hội
không bị bọn tội phạm làm vẩn đục, ô nhiễm và mọi người dân được sống bình
yên. Đó là một xã hội mà giá trị và chuẩn mực đạo đức được đề cao, cái thiện
thống trị, cái ác bị đẩy lùi; những tiền đề, nguyên nhân gây nên sự mất an ninh,
trật tự cho xã hội trong từng con người cơ bản được khắc phục. Như vậy, có thể
thấy, trong quan điểm Hồ Chí Minh, bảo vệ an ninh, trật tự tức là xây dựng, bảo
vệ và giữ gìn một môi trường xã hội bình yên để mọi người trong xã hội đó được
sống thanh bình, yên ổn.
Tóm lại, tác giả luận án quan niệm: bảo vệ an ninh, trật tự là giữ vững độc
lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo vệ chế độ xã hội
chủ nghĩa, bảo vệ Đảng và Nhà nước; bảo vệ an ninh trên các lĩnh vực chính trị -
xã hội; phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn, đấu tranh chống tội phạm và các hành vi
vi phạm pháp luật về trật tự, an toàn xã hội.
2.1.3. Khái niệm Công tác vận động quần chúng bảo vệ an ninh, trật tự
của lực lượng Công an nhân dân và tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác vận
động quần chúng bảo vệ an ninh, trật tự
Công tác vận động quần chúng bảo vệ an ninh, trật tự của lực lượng Công
an nhân dân:
Hơn 73 năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng, được soi rọi bởi ánh sáng tư
tưởng Hồ Chí Minh, lực lượng Công an nhân dân luôn xác định công tác vận
động quần chúng là công tác cơ bản và xây dựng thành một biện pháp công tác
trong cuộc đấu tranh bảo vệ an ninh, trật tự. Biện pháp công tác đó ngày càng
được hoàn thiện và được xác định trong những Nghị quyết của Đảng đồng thời
được thể chế hoá bằng pháp luật của Nhà nước.
Ngày 12-2-1980, Bộ Chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa V
đã ra Nghị quyết số 31/NQ- TW “Về nhiệm vụ bảo vệ an ninh chính trị, giữ gìn
32
trật tự an toàn xã hội trong tình hình mới” đã xác định Công an nhân dân thực
hiện 6 biện pháp công tác trong đó có biện pháp phát động quần chúng. Nghị
quyết nêu rõ: “Các biện pháp trên đây có quan hệ chặt chẽ với nhau, trong đó
biện pháp rất cơ bản là dựa vào quần chúng và phát động quần chúng”. Nghị
quyết 40- NQ/TW của Bộ chính trị ngày 08-11-2004 “Về nâng cao chất lượng
và hiệu quả công tác công an trong tình hình mới” tiếp tục khẳng định: Lực
lượng Công an nhân dân được thực hiện biện pháp Vận động quần chúng để bảo
vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự an toàn xã hội và xây dựng lực lượng Công
an nhân dân, trong đó “huy động và phát huy sức mạnh của toàn dân”, xây dựng
lực lượng Công an nhân dân “gắn bó mật thiết với nhân dân” là một trong những
mục tiêu, yêu cầu và quan điểm chỉ đạo của Đảng.
Trên cơ sở đó Nhà nước đã từng bước thể chế và hoàn thiện hệ thống
pháp luật đặc biệt là Luật Công an. Luật Công an nhân dân (2005) quy định tại
Mục 3, Điều 5 như sau: Hoạt động của Công an nhân dân dựa vào dân và chịu sự
giám sát của nhân dân. Mục 6, Điều 15 Luật Công an quy định: Lực lượng An
ninh nhân dân có nhiệm vụ: Làm nòng cốt xây dựng thế trận an ninh nhân dân
trên các lĩnh vực, địa bàn.
Về nhận thức chung, tất cả các biện pháp công tác trong Công an nhân
dân đều quan trọng, vì mỗi biện pháp có vai trò, vị trí, nội dung, nguyên tắc, chủ
thể khác nhau nên không coi biện pháp nào là quan trọng nhất. Tuy nhiên, thấm
nhuần quan điểm của Đảng, tư tưởng Hồ Chí Minh, lực lượng Công an xác định
vận động quần chúng là biện pháp cơ bản, chiến lược và làm nền tảng cho các
biện pháp khác.
Lực lượng Công an có vai trò tham mưu cho các cấp ủy, chính quyền về
chủ trương, kế hoạch để chỉ đạo, điều hành nhằm huy động sức mạnh tổng hợp
của cả hệ thống chính trị, sức mạnh toàn dân, phối hợp, cộng tác, giúp đỡ Công
an nhân dân trong nhiệm vụ bảo vệ an ninh, trật tự, xây dựng phong trào toàn
dân bảo vệ an ninh Tổ quốc; xây dựng lực lượng nòng cốt làm nhiệm vụ bảo vệ
an ninh, trật tự trong sạch, vững mạnh; điều kiện đảm bảo cho hoạt động thực
33
hiện những chủ trương, kế hoạch của biện pháp vận động quần chúng.
Các lực lượng công an dù trực tiếp hay gián tiếp đều liên quan đến công
tác vận động quần chúng trong hoạt động công tác công an. Tuy nhiên cần phân
định rõ ràng, rành mạch về chủ thể trong từng lực lượng.
Cán bộ lãnh đạo chỉ huy, tham mưu, trực tiếp chiến đấu của lực lượng
Công an nhân dân các cấp áp dụng biện pháp vận động quần chúng để xây dựng
thế trận an ninh nhân dân, bảo vệ an ninh quốc gia; để giữ gìn trật tự an toàn xã
hội, phòng chống các loại tội phạm xâm phạm trật tự, an toàn xã hội.
Các lực lượng trong đơn vị phục vụ chiến đấu và xây dựng lực lượng
Công an nhân dân phối hợp cùng với các lực lượng nói trên để thực hiện nhiệm
vụ bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội và xây dựng lực lượng
Công an nhân dân.
Công an xã, phường, thị trấn nằm trong hệ thống tổ chức của Công an
nhân dân đóng vai trò trực tiếp tham mưu cho cấp ủy, chính quyền và trực tiếp
tham gia công tác vận động quần chúng làm nòng cốt, xây dựng phong trào toàn
dân bảo vệ an ninh Tổ quốc ở cơ sở.
Về công tác lãnh đạo, chỉ đạo: Nhiệm vụ bảo vệ an ninh, trật tự là nhiệm
vụ trọng yếu của Đảng, Nhà nước, của cả hệ thống chính trị và của toàn dân. Vì
vậy, phải có sự lãnh đạo của cấp ủy, quản lý, điều hành của chính quyền, sự phối
hợp các cơ quan, đoàn thể trong hệ thống chính trị.
Cấp ủy Đảng các cấp lãnh đạo về chủ trương, chính sách công tác vận
động quần chúng trong hoạt động của Công an nhân dân.
Ủy ban nhân dân các cấp, các cơ quan nhà nước từ trung ương đến địa
phương quản lý điều hành thực hiện những chủ trương, chính sách về công tác
vận động quần chúng trong hoạt động của Công an nhân dân theo pháp luật quy
định.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên các cấp phối hợp
với lực lượng Công an nhân dân, có trách nhiệm tuyên truyền, động viên mọi
tầng lớp nhân dân tham gia phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc.
34
Lực lượng nhân dân là nền tảng của cuộc đấu tranh bảo vệ an ninh, trật tự,
vừa là đối tượng tác động, vừa có quyền thực hiện quyền làm chủ của mình ở cơ
sở, có trách nhiệm vận động người khác trong cộng đồng bảo vệ an ninh quốc
gia, giữ gìn trật tự an toàn xã hội.
Đi đúng đường lối quần chúng của Đảng là vấn đề thuộc nguyên tắc, quan
điểm, lập trường và thước đo tiêu chuẩn của người cán bộ, chiến sĩ Công an nhân
dân.
Nhân dân là gốc rễ, là nền tảng của cuộc đấu tranh bảo vệ an ninh, trật tự.
Lấy sức mạnh của nhân dân để phòng ngừa, bảo vệ an ninh, trật tự. Chính kế
“sâu rễ bền gốc” là đảm bảo cho sự “gốc có vững cây mới bền lâu, xây lầu thắng
lợi trên nền nhân dân” như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy.
Vận động quần chúng bảo vệ an ninh, trật tự thể hiện quan điểm cách
mạng là sự nghiệp của quần chúng. Nội dung cụ thể của công tác vận động quần
chúng trong Công an nhân dân luôn đổi mới phù hợp để đáp ứng yêu cầu nhiệm
vụ trong tình hình cụ thể, từng giai đoạn cách mạng, tuy nhiên, chủ yếu vẫn bao
gồm các nội dung cơ bản sau:
Một là, tuyên truyền giáo dục nâng cao ý thức, trách nhiệm và năng lực
bảo vệ an ninh, trật tự của nhân dân.
Nhân dân không phải là lực lượng chuyên trách làm nhiệm vụ bảo vệ an
ninh, trật tự và không đủ kinh nghiệm chuyên môn để phát huy hết khả năng sức
mạnh trong cuộc đấu tranh. Trong những hoàn cảnh lịch sử cụ thể, nhân dân
cũng chưa thể nhận ra ngay âm mưu, phương thức, thủ đoạn thâm độc của kẻ thù
và các loại tội phạm; đồng thời cũng chưa hoàn toàn nhận thức được bảo vệ an
ninh, trật tự chính là bảo vệ chính mình, là trách nhiệm của toàn dân. Vẫn còn
không ít người cho đó là nhiệm vụ của Công an và các cơ quan bảo vệ pháp luật;
còn sợ liên lụy bản thân, gia đình, sợ bị trả thù mà không được bảo vệ… Vì vậy,
tuyên truyền, giáo dục nâng cao ý thức trách nhiệm và năng lực bảo vệ an ninh,
trật tự của nhân dân là nội dung cốt lõi của công tác vận động quần chúng trong
Công an nhân dân.
Hai là, phát động khí thế cách mạng của nhân dân, xây dựng phong trào
35
toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc.
Trong bảo vệ an ninh, trật tự, việc phát huy sức mạnh tổng hợp của quần
chúng là một đòi hỏi tất yếu. Thực tiễn cho thấy, kẻ địch luôn mạnh hơn chúng
ta, được đào tạo bài bản, trình độ chuyên môn nghiệp vụ cao, được hỗ trợ các
phương tiện kỹ thuật tiên tiến, hiện đại. Trong cuộc đấu tranh đó nếu không phát
động được khí thế cách mạng của quần chúng thì lực lượng công an không thể
hoàn thành được nhiệm vụ.
Phát huy truyền thống lịch sử và đúc rút kinh nghiệm từ phong trào toàn
dân “bảo mật phòng gian” và “bảo vệ trị an” trong hai cuộc kháng chiến chống
Pháp và chống Mỹ đến phong trào “bảo vệ an ninh Tổ quốc” hiện nay cho thấy:
hình thức thích hợp nhất, phổ biến nhất là phát động phong trào toàn dân bảo vệ
an ninh, trật tự. Vì vừa có nội dung phong phú, toàn diện, vừa có tác dụng nâng
cao ý thức, trách nhiệm và năng lực bảo vệ an ninh, trật tự của nhân dân, đồng
thời tạo ra niềm tin gắn bó và giúp đỡ, ủng hộ Công an nhiều hơn, tạo khí thế
mạnh mẽ của nhân dân trong cuộc đấu tranh bảo vệ an ninh, trật tự.
Phát động mạnh mẽ phong trào toàn dân bảo vệ an ninh, trật tự sẽ tạo điều
kiện để triển khai sâu biện pháp nghiệp vụ và các biện pháp khác trong hoạt
động của Công an nhân dân. Đồng thời có khả năng phòng ngừa xã hội và chủ
động trong phòng ngừa nghiệp vụ, tạo thành thế trận an ninh nhân dân vững chắc
bảo vệ an ninh, trật tự.
Sự kết hợp phát động phong trào toàn dân bảo vệ an ninh, trật tự với biện
pháp nghiệp vụ và các biện pháp khác trong công tác Công an thể hiện tính độc
đáo trong nghệ thuật lãnh đạo, giành thắng lợi trong cuộc đấu tranh bảo vệ an
ninh, trật tự.
Ba là, kết hợp nhuần nhuyễn với các biện pháp công tác khác vừa là nội
dung không thể thiếu được, vừa là một trong những nguyên tắc cơ bản trong áp
dụng biện pháp vận động quần chúng để bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự
an toàn xã hội. Vì vậy, trong khi thực hiện biện pháp nghiệp vụ, cũng như các
biện pháp khác, phải giáo dục ý thức, trách nhiệm, nâng cao cảnh giác và năng
36
lực bảo vệ an ninh, trật tự của nhân dân để giúp đỡ công an nhiều hơn, tốt hơn,
hoàn toàn hơn.
Kết hợp công tác vận động quần chúng với các công tác khác là một yêu
cầu vừa bảo đảm tạo thành sức mạnh liên hoàn vừa là nghệ thuật đấu tranh
phòng, chống tội phạm, bảo vệ an ninh, trật tự của lực lượng Công an nhân dân
trước kia và trong giai đoạn hiện nay.
Bốn là, tổ chức sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm.
Trong công tác vận động quần chúng bảo vệ an ninh, trật tự thì tổng kết
thực tiễn là kiểm nghiệm những chủ trương, kế hoạch, biện pháp thực hiện được
có hiệu quả cao hay thấp, đúng hay chưa đúng; hiệu quả đó tùy thuộc vào năng
lực chủ thể của biện pháp vận động quần chúng; thái độ với nhân dân, với nhiệm
vụ bảo vệ an ninh, trật tự… Chính qua tổng kết thực tiễn để phát hiện những
sáng kiến, những điểm sáng, những điển hình để nhân rộng, đồng thời để phát
hiện ra những khoảng trống, kẽ hở, những tồn tại yếu kém nhằm bổ sung, điều
chỉnh, khắc phục, tránh được những sai lầm trong thực tiễn công tác.
Chính vì vậy, tổng kết, rút kinh nghiệm thực tiễn là cơ sở để đổi mới nội
dung, phương pháp và một trong những nội dung quan trọng, không thể thiếu
trong quá trình vận động quần chúng bảo vệ an ninh, trật tự.
Trong thực tiễn, giá trị, tác dụng của mỗi biện pháp được phát huy cao
nhất khi được kết hợp chặt chẽ, đồng bộ, linh hoạt sáng tạo. Phải tùy vào yêu cầu
nhiệm vụ và thực tiễn cụ thể để lựa chọn nội dung, hình thức vận động quần
chúng phù hợp như vận động cá biệt để xây dựng lực lượng bí mật, điều tra cơ
bản, phân hóa tranh thủ hoạt động ngoại giao; vận động tập trung để giải quyết
“điểm nóng” về an ninh, trật tự, để xây dựng thế trận an ninh nhân dân; để
khoanh vùng trấn phản, tấn công chính trị, v.v. Tóm lại phải phát huy sức mạnh
tổng hợp của quần chúng được thực hiện trên cơ sở sử dụng linh hoạt các hình
thức tập hợp, vận động trong từng tình huống, địa bàn và yêu cầu, mục tiêu cụ
thể.
Nhận thức đúng về vị trí, vai trò, nội dung, chủ thể, nguyên tắc áp dụng và
37
mối liên hệ tác động của các biện pháp, vận dụng một cách linh hoạt, sáng tạo,
phối hợp chặt chẽ đồng bộ là quy luật tất yếu và nghệ thuật lãnh đạo giành thắng
lợi trong cuộc đấu tranh bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự an toàn xã hội
mà lực lượng Công an nhân dân làm nòng cốt, chuyên trách.
Tổng hợp các khái niệm thành phần nói trên, có thể định nghĩa: Công tác vận
động quần chúng bảo vệ an ninh, trật tự là công việc của Đảng, Nhà nước và các
đoàn thể; là việc tuyên truyền, động viên, phối hợp với nhân dân, tập hợp và huy
động đến mức cao nhất lực lượng của nhân dân để giữ vững độc lập, chủ quyền,
thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ
Đảng và Nhà nước; bảo vệ an ninh trên các lĩnh vực chính trị - xã hội; phòng ngừa,
phát hiện, ngăn chặn, đấu tranh chống tội phạm và các hành vi vi phạm pháp luật
về trật tự, an toàn xã hội.
Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng. Bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn
trật tự, an toàn xã hội là sự nghiệp của toàn bộ hệ thống chính trị và toàn dân dưới
sự lãnh đạo của Đảng, trong đó Công an nhân dân là lực lượng nòng cốt.
Trong Bài nói chuyện tại Hội nghị cán bộ công an, ngày 29 - 4-1963, Hồ Chí
Minh khẳng định, vận động quần chúng tham gia phong trào bảo vệ trật tự, trị an
tức là “giáo dục quần chúng nâng cao tinh thần làm chủ đất nước, tinh thần cảnh
giác đối với kẻ thù của nhân dân, tích cực phòng và chống gián điệp biệt kích” [102,
tr.72], Người cũng nhấn mạnh: “Công an phải luôn giúp đỡ, tổ chức giáo dục nhân
dân, làm cho mọi người dân đều là người giúp việc của mình, làm thành mạng lưới
công an nhân dân. Như thế công tác mới có kết quả” [100, tr.154]. Theo Hồ Chí
Minh, vận động quần chúng bảo vệ an ninh, trật tự là “làm cho mỗi người dân hiểu
nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, thì sẽ có hàng triệu người làm tai mắt giúp công an” [97,
tr.503]. Đó là làm sao để “tất cả công nhân và nông dân phải tỉnh táo, phải lấy mình
làm bức tường để bảo vệ chính quyền công nông; phải nổi dậy chống bọn mật thám,
bọn phản động”; “Làm cho mọi người hiểu rõ phòng gian là nhiệm vụ chung của
công dân, là một công việc ái quốc” [95, tr.53]. Quy tụ lại là làm sao để nhân dân
nhận thức đúng và tự giác thực hiện nghĩa vụ của mình trong việc bảo vệ an ninh,
trật tự. Ngay sau khi về tiếp quản Thủ đô tháng 10- 1954, Hồ Chí Minh đã viết
“Mọi người công dân, bất kỳ già trẻ gái trai, bất kỳ làm việc gì đều có nhiệm vụ
38
giúp chính quyền giữ gìn trật tự an ninh vì trật tự an ninh trực tiếp quan hệ đến lợi
ích bản thân của mọi người” [97, tr.77]. Người còn cho rằng, công việc vận động
nhân dân là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị, của toàn thể cán bộ, đảng viên và
những người hiểu biết được công việc trong dân. Hễ là người Việt Nam yêu nước
thì đều có trách nhiệm tuyên truyền, vận động nhân dân tham gia làm những việc
ích quốc, lợi dân. Đó là trách nhiệm của mỗi công dân đối với Tổ quốc của mình và
đối với chính mình.Với Hồ Chí Minh, công tác vận động quần chúng bảo vệ an
ninh, trật tự là một nhiệm vụ chiến lược, có ý nghĩa quyết định cho sự thành bại của
cách mạng trong bất cứ điều kiện và hoàn cảnh nào.
Khái quát lại, có thể thấy, tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác vận động quần
chúng bảo vệ an ninh, trật tự là một bộ phận hợp thành tư tưởng Hồ Chí Minh, là
hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản trong bảo vệ an
ninh, trật tự; đó là hệ thống quan điểm về mục đích, đối tượng, nội dung công tác
vận động quần chúng bảo vệ an ninh, trật tự, về lực lượng phụ trách công tác vận
động quần chúng bảo vệ an ninh, trật tự; về nguyên tắc, phương pháp vận động
quần chúng bảo vệ an ninh, trật tự.
Công an nhân dân vừa là một lực lượng chuyên trách bảo vệ an ninh, trật tự,
và có nhiệm vụ tiến hành công tác vận động quần chúng nhân dân bảo vệ an ninh,
trật tự. Hồ Chí Minh đã nêu lên một hệ thống quan điểm về công tác vận động quần
2.2. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CÔNG TÁC VẬN ĐỘNG QUẦN
CHÚNG BẢO VỆ AN NINH, TRẬT TỰ CỦA CÔNG AN NHÂN DÂN
chúng nhân dân bảo vệ an ninh, trật tự của Công an nhân dân.
2.2.1. Mục đích của công tác vận động quần chúng bảo vệ an ninh,
trật tự
Một là, vận động quần chúng bảo vệ an ninh, trật tự nhằm bảo vệ cuộc sống
bình yên của quần chúng, vì chính lợi ích của quần chúng.
Quán triệt và vận dụng sáng tạo Chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn cách
mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh đã nhận thức rằng, giành độc lập, tự do cho dân tộc,
giành chính quyền đã khó mà việc giữ chính quyền, đem lại tự do, hạnh phúc thực
sự cho nhân dân còn khó hơn nhiều.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột
bậc là làm cho đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành và đấu
39
tranh giành độc lập, tự do cho dân tộc cũng phải đi tới mục tiêu là mang lại cuộc
sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân. Với ý nghĩa đó, cuộc đấu tranh bảo vệ an
ninh, trật tự nhằm vào mục tiêu là xây dựng và giữ gìn một môi trường xã hội bình
yên để nhân dân được sống thanh bình, yên ổn. Hồ Chí Minh từng nói: có giữ gìn
trật tự trị an nhân dân mới an cư lạc nghiệp. Như vậy, “yên dân” là điều kiện để
“dân giàu”, đất nước mới vững mạnh.
Theo Hồ Chí Minh, một xã hội có an ninh chính trị và trật tự xã hội được bảo
đảm là một xã hội bình yên trong đó các giá trị và chuẩn mực đạo đức được đề cao,
cái thiện ngự trị, cái ác bị đẩy lùi. Theo Người, xã hội ta phải được “dạ bất bế hộ, lộ
bất thập di”, nghĩa là, “ban đêm không cần đóng cửa, ngoài đường không ai nhặt của
rơi” [97, tr.77]. Đây là quan niệm của Hồ Chí Minh về an ninh, trật tự cộng đồng. Rõ
ràng Người cho rằng, khi cá nhân và cộng đồng nhỏ được bảo đảm an ninh thì từ
cộng đồng lớn đến quốc gia sẽ vững chắc về an ninh, trật tự. Điều đó cho thấy, theo
một khía cạnh khác, khi nền an ninh quốc gia vững mạnh là nhờ sức mạnh từ sự bình
yên đối với mỗi người dân và an ninh của từng tế bào xã hội, thì mới có đủ kháng thể
bên trong chống lại mọi âm mưu và hoạt động phá hoại của kẻ địch.
Hồ Chí Minh cho rằng, mục tiêu cao nhất của sự nghiệp bảo vệ an ninh, trật
tự là an ninh, trật tự cho nhân dân, cho nhà nước của dân, do dân và vì dân, do đó,
việc giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội cũng nhằm mục đích cuối
cùng là bảo vệ lợi ích cho nhân dân, xây dựng một môi trường xã hội bình yên cho
cuộc sống của nhân dân. Tại Hội nghị Công an toàn quốc lần thứ 10, tháng 1- 1956,
Người quán triệt Công an nhân dân phải: “Nhận rõ nhiệm vụ của công an là phải
bảo vệ và phục vụ nhân dân, bảo vệ Đảng, bảo vệ chính quyền nhân dân” [98,
tr.259]; và “công an của ta là công an nhân dân, vì dân mà phục vụ và dựa vào dân
mà làm việc” [93, tr.498].
Là người sáng lập và rèn luyện lực lượng Công an nhân dân, Hồ Chí Minh
xác định rõ vai trò, chức năng và nhiệm vụ của Công an “là một bộ máy để thực
hiện chuyên chính dân chủ nhân dân, bảo vệ nền chuyên chính của nhân dân đối với
các thế lực phản động khác” [99, tr.598]. Đồng thời Người cũng chỉ rõ đối tượng
đấu tranh của lực lượng Công an là “bọn xâm lược và bọn phá hoại”[127, tr.154];
phải “xem xét, tìm tòi âm mưu phản động làm hại nhân dân” [100, tr.269], và “tẩy
trừ những kẻ gian tế” [98, tr.83]. Người luôn nhắc nhở công an phải luôn cảnh giác
40
ngăn ngừa những hành động phá hoại của kẻ địch để bảo vệ lợi ích của nhân dân,
bảo vệ sự nghiệp cách mạng. “Nếu ta luôn cảnh giác, cẩn thận, thì nó không thể phá
hoại ta được” [98, tr.259].
Theo Hồ Chí Minh, nhân dân là mục tiêu tấn công của các thế lực thù địch
và nhân dân cũng chính là đối tượng dễ bị tổn thương trước những âm mưu, hành
động phá hoại của bọn tội phạm. Do đó, trong Bài nói tại lớp nghiên cứu khóa I và
lớp Bổ túc khóa VI Trường Công an trung ương, Người chỉ đạo “muốn có dân chủ
thật sự phải chuyên chính thật sự, nếu không, bọn xấu sẽ làm hại nhân dân” [99,
tr.598].
Mặt khác, kẻ địch luôn tìm mọi cách lôi kéo, chia rẽ nhân dân thông qua các
hoạt động tuyên truyền xuyên tạc. Vậy nên Người yêu cầu Công an phải “chăm lo
đến việc củng cố quốc phòng, duy trì trật tự trị an…, đập tan âm mưu của bọn phản
động” [102, tr.167]. Từ những điều kiện hoàn cảnh cụ thể, Người đã nhắc nhở:
Ở trong thành thị và thôn quê, cũng vì hai lẽ ấy mà công việc trị an ta
cần phải hết sức chú ý. Ví dụ như bây giờ nghe nói bọn địa chủ phá
mùa màng, phá rau, phá khoai, hay là cố xuyên tạc, tuyên truyền di cư
vào Nam. Vì thế việc trị an, nói chung là việc nội trị ở địa phương, các
cấp phải thật hết sức chú ý. Ví dụ như đường xe lửa, công trình thủy
lợi, nếu ta không chú ý và tỉnh táo đề phòng thì sẽ gặp sự phá hoại của
địch [97, tr.437].
Đồng thời, Người yêu cầu Công an phải “giúp địa phương duy trì, giữ gìn
trật tự trị an, trấn áp thổ phỉ, bọn phản cách mạng và lại giúp cho các hợp tác xã
trong mùa màng” [101, tr.350].
Như vậy, theo Hồ Chí Minh, bảo vệ và phục vụ nhân dân là nhiệm vụ hàng
đầu của công tác an ninh, trật tự và do đó sự bình yên cho cuộc sống hạnh phúc của
nhân dân là mục tiêu cao nhất của sự nghiệp bảo vệ an ninh, trật tự. Mục tiêu đó
bắt nguồn từ ý chí, nguyện vọng của nhân dân. Người đặt ra câu hỏi: “Tiến lên chủ
nghĩa xã hội, công an có trách nhiệm gì?” [99, tr.247] và giao nhiệm vụ cho Công
an “phải bảo vệ dân chủ của nhân dân và thực hiện chuyên chính với những kẻ
chống lại dân chủ của nhân dân” [99, tr.247]. Nói chuyện với cán bộ, học viên công
an Trường công an trung cấp khóa 2 năm 1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ:
41
Công an nhân dân phải thực sự phục vụ nhân dân, nhưng hiện nay các cô
các chú đã làm tròn nhiệm vụ ấy chưa? Chưa. Tuy đã có nhiều người tận
tâm, cố gắng, nhưng lẻ tẻ vài nơi nhân dân còn chê trách đấy! Các cô các
chú phải cố gắng làm tròn nhiệm vụ của người công an nhân dân của một
nước dân chủ nhân dân [95, tr.269, 270].
Tại Hội nghị cán bộ ngành Công an ngày 29-4-1963, Hồ Chí Minh nhấn mạnh
nhiệm vụ quan trọng của Công an cách mạng: “Công an cách mạng là một vũ khí sắc
bén của chuyên chính vô sản. Cho nên nhiệm vụ công an là cực kỳ quan trọng. Nó
phải giữ gìn trật tự, trị an, bảo vệ cho nhân dân ta an cư, lạc nghiệp, để xây dựng
thắng lợi chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, làm cơ sở vững mạnh cho cuộc đấu tranh thực
hiện hòa bình, thống nhất nước nhà” [102, tr.71]. Người cũng xác định nhiệm vụ bảo
vệ an ninh, trật tự “là một nhiệm vụ nặng nề nhưng rất vẻ vang của toàn Đảng, toàn
quân và toàn dân ta, trong đó lực lượng công an nhân dân giữ một vai trò rất quan
trọng” [103, tr.168]. Đồng thời, Người cho rằng, lực lượng Công an nếu làm tốt
những việc đó thì nhất định thắng địch và “góp phần xứng đáng vào công cuộc xây
dựng chủ nghĩa xã hội” [100, tr.458]. Do vậy, toàn thể cán bộ và chiến sĩ công an
phải cố gắng vượt qua mọi khó khăn, làm tròn nhiệm vụ nặng nề nhưng rất vẻ vang
của công an cách mạng, xứng đáng với lòng tin cậy của nhân dân.
Hai là, vận động quần chúng nhằm giúp quần chúng thấy rõ quyền, nghĩa vụ
và trách nhiệm của mình trước những vấn đề đặt ra trong công tác bảo vệ an ninh,
trật tự.
Theo Hồ Chí Minh, mục đích của việc giáo dục và vận động nhân dân là
“làm cho mỗi người dân hiểu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, thì sẽ có hàng triệu người
làm tai mắt giúp công an” [97, tr.503]. Đó là làm sao để tất cả công nhân và nông
dân phải tỉnh táo, phải lấy mình làm bức tường để bảo vệ chính quyền công nông;
phải nổi dậy chống bọn mật thám, bọn phản động. Quy tụ lại là làm sao để nhân dân
nhận thức đúng và tự giác thực hiện nghĩa vụ của mình trong việc bảo vệ an ninh,
trật tự.
Hồ Chí Minh đã ví sự nghiệp bảo vệ an ninh, trật tự như một chiếc thuyền,
nhân dân là người trực tiếp chèo thuyền đi, cán bộ công an là người cầm lái, tức là
hướng con thuyền đó đi theo đúng đường lối của Đảng. Người dạy, “phải dựa vào
42
các đoàn thể mà tổ chức và giáo dục nhân dân trong việc phòng gian trừ gian, để
nhân dân thiết thực giúp đỡ công an” [94, tr.312].
Đề cập đến việc phát huy vai trò của nhân dân bảo vệ an ninh, trật tự, Hồ
Chí Minh yêu cầu: “Phải luôn luôn nâng cao tinh thần cảnh giác của nhân dân, giáo
dục cho nhân dân thấm nhuần tinh thần làm chủ và nghĩa vụ giữ gìn trật tự trị an,
nghĩa vụ bảo vệ bản làng và Tổ quốc” [101, tr.461]. Trong công tác giáo dục cũng
phải làm cho nhân dân hiểu rõ, bảo vệ an ninh, trật tự có liên quan mật thiết đến
cuộc sống, quyền lợi, tính mạng và tài sản của nhân dân, Người nói: “Phải ra sức
phát động quần chúng tham gia phong trào bảo vệ trị an, giáo dục quần chúng nâng
cao tinh thần làm chủ đất nước, tinh thần cảnh giác đối với kẻ thù của nhân dân, tích
cực phòng và chống gián điệp biệt kích” [102, tr.72].
Lực lượng Công an có nhiệm vụ vận động nhân dân hiểu rõ trong sự nghiệp
bảo vệ an ninh, trật tự, nhân dân vừa có quyền, đồng thời có nghĩa vụ bảo vệ Tổ
quốc. Đó là trách nhiệm, sứ mệnh lịch sử của nhân dân. Từ đó, Hồ Chí Minh kết
luận: “Giáo dục quần chúng nâng cao tinh thần làm chủ đất nước, tinh thần cảnh
giác đối với kẻ thù của nhân dân, tích cực phòng và chống gián điệp biệt kích.
Muốn đạt kết quả đó, thì công an phải hết lòng giúp đỡ nhân dân và dựa vào lực
lượng hùng mạnh của nhân dân” [102, tr.72].
Theo Hồ Chí Minh, tư tưởng chỉ đạo trong vấn đề này là tạo mọi điều kiện
để nhân dân trở thành chủ thể thực sự của sự nghiệp bảo vệ an ninh, trật tự trên cơ
sở thông qua tổ chức, để hướng dẫn, lãnh đạo nhân dân tham gia. Người đưa ra
minh chứng cụ thể là từ thành thị đến thôn quê, nhân dân tự động tổ chức những ủy
ban phòng gian, trừ gian. Hàng triệu lỗ tai, con mắt của nhân dân chăng thành
những bức “thiên la địa võng” nên lũ mật thám không sao thoát được. Có được kết
quả ấy, là nhờ công an đi theo đúng đường lối nhân dân, biết dựa vào sức nhân dân,
tổ chức và giáo dục nhân dân, làm cho mọi người hiểu rõ phòng gian là nhiệm vụ
chung của công dân, là một công việc ái quốc.
Làm chủ thông qua tổ chức và chỉ có thông qua tổ chức, con người mới
thấy được trách nhiệm và sự đóng góp của mình cho xã hội, được xã hội thừa
nhận. Mặt khác, tập hợp nhân dân trong một tổ chức chính là tạo ra lực cộng
hưởng tất cả sức mạnh của từng cá thể riêng biệt. Hồ Chí Minh cho rằng, công an
43
phải biết động viên, tổ chức, đoàn kết quần chúng, lấy sức quần chúng mà vượt
qua khó khăn; quần chúng tự giúp quần chúng, không nên ỷ lại, mà phải tự lực
cánh sinh. Đây cũng chính là sự nổi bật trong tư tưởng Hồ Chí Minh về huy động
sức dân nói chung và phát động phong trào quần chúng tham gia bảo vệ an ninh,
trật tự nói riêng.
Với số lượng có hạn, cán bộ chiến sĩ của ngành công an dù tài giỏi về chuyên
môn nghiệp vụ và được bố trí khắp các địa bàn hay theo đối tượng v.v, nhưng
không thể so sánh được với mạng lưới “tai mắt” của đông đảo nhân dân được giác
ngộ, vận động. Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Công an có bao nhiêu người? Dù có vài ba
nghìn hay năm bảy vạn đi nữa thì lực lượng ấy vẫn còn ít lắm bên cạnh lực lượng
nhân dân. Năm vạn người thì chỉ có 5 vạn cặp mắt, 5 vạn đôi bàn tay. Phải làm sao
có hàng chục triệu đôi bàn tay, hàng chục triệu cặp mắt và đôi tai mới được” [122,
tr.270]. Muốn như vậy, Công an phải dựa vào dân, không được xa rời dân. Bởi, nếu
không thế thì sẽ thất bại. “Khi nhân dân giúp đỡ ta nhiều thì thành công nhiều, giúp
đỡ ta ít thì thành công ít, giúp đỡ ta hoàn toàn thì thắng lợi hoàn toàn” [95, tr.270].
Trên cơ sở đó, việc tổ chức nhân dân tham gia bảo vệ an ninh, trật tự không
chỉ đơn thuần là việc lập các tổ, nhóm, v.v… phát động phong trào theo thời gian để
nhân dân có môi trường tham gia bảo vệ an ninh, trật tự mà chính là phải tạo ra cơ
chế để mọi người dân hình thành phản xạ tự bảo vệ được mình và cả xã hội.
Ba là, vận động quần chúng nhân dân nhằm giáo dục tinh thần làm chủ và
tinh thần cảnh giác cho nhân dân, tổ chức và hướng dẫn nhân dân tự bảo vệ an
ninh, trật tự.
V.I.Lênin đã chỉ ra rằng, một cuộc cách mạng chỉ có giá trị khi nào nó biết tự
bảo vệ. Như vậy, thành quả độc lập, tự do, hạnh phúc do cách mạng đem lại cho
nhân dân chỉ có giá trị vững chắc khi nào nhân dân biết tự bảo vệ nó. Sự bền vững
của chế độ, sự ổn định và phát triển của đất nước, cuộc sống bình yên, hạnh phúc
của nhân dân phụ thuộc vào sự nhận thức và tự giác thực hiện nghĩa vụ công dân
của mỗi người với tư cách là chủ thể của sự nghiệp bảo vệ an ninh, trật tự.
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhắc nhở lực lượng công an phải biết và thường
xuyên giáo dục tinh thần cảnh giác cách mạng và tinh thần làm chủ cho nhân dân,
hướng dẫn nhân dân tự bảo vệ tính mạng, tài sản của bản thân, gia đình và cộng
đồng, bảo vệ thôn làng và bảo vệ Tổ quốc. Theo Người, chỉ khi nào nhân dân ý thức
44
được tinh thần làm chủ đất nước, tự giác, chủ động thực hiện nghĩa vụ công dân thì
trật tự, an ninh mới có nền tảng vững chắc.
Vì lẽ đó nên đối với các phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc, nếu khi
xuống, khi lên theo sự phát động của cán bộ công an thì đó mới chỉ là phong trào
của ngành Công an chứ không được coi là phong trào của nhân dân. Người từng
nói, phong trào bảo vệ trị an: Đối với dân phải trở thành vườn hoa, đối với địch
phải trở thành hầm chông. Nghĩa là phong trào đó sau khi được lực lượng công an
gieo trồng phải được nhân dân chăm bón để ngày, tháng, quanh năm lúc nào cũng
hoa lá tốt tươi.
Hồ Chí Minh chỉ ra rằng, không đơn thuần dựa vào nhân dân mà còn phải
tuyên truyền, giáo dục, tổ chức nhân dân như thế nào để huy động lực lượng toàn
dân tham gia bảo vệ an ninh, trật tự; để tạo thành cái lưới trời khiến cho bất kỳ bọn
phá hoại nào, bọn mật thám nào cũng không lọt được cái lưới ấy của nhân dân.
Quan điểm đó của Người đã trở thành một phương châm chiến lược của công tác
công an: Huy động lực lượng nhân dân bằng cách tuyên truyền giáo dục và tổ chức,
cộng với năng lực của cơ quan chuyên môn tạo thành mạng lưới Công an nhân dân
- đó là lực lượng quyết định sự thắng lợi của cuộc đấu tranh bảo vệ an ninh, trật tự.
Có thể nói rằng “mạng lưới công an nhân dân” của Hồ Chí Minh như là một
phương án đánh địch mà lực lượng được huy động đủ để bố trí trinh sát với mọi đối
tượng, mọi địa bàn, mọi thời gian. Phương án đó rất tối ưu và có tính khả thi vì toàn
dân cùng tự giác tham gia.
Để huy động lực lượng nhân dân, cùng với việc giáo dục, Công an phải biết
thuyết phục, vận động và tổ chức nhân dân tham gia bảo vệ an ninh, trật tự. Tư
tưởng chỉ đạo trong vấn đề này theo Hồ Chí Minh là tạo mọi điều kiện để nhân dân
trở thành chủ thể thực sự của sự nghiệp bảo vệ an ninh, trật tự. Muốn vậy, phải
thông qua tổ chức để hướng dẫn, lãnh đạo nhân dân tham gia. Mặt khác, tập hợp
nhân dân trong một tổ chức chính là tạo ra lực cộng hưởng của tất cả sức mạnh của
từng cá thể riêng biệt: “Phải động viên, tổ chức, đoàn kết quần chúng. Lấy sức quần
chúng mà vượt qua khó khăn; quần chúng tự giúp quần chúng... Đảng và Chính phủ
đề ra c hính sách, phái cán bộ về hướng dẫn, thế là giúp đỡ. Nhưng đó là phụ. Lực
45
ượng nhân dân tổ chức nhau lại là chính. Không nên ỷ lại, mà phải tự lực cánh
sinh” [98, tr.310].
Theo Hồ Chí Minh thì việc tổ chức nhân dân bảo vệ an ninh, trật tự không
chỉ thuần túy là sự huy động họ tham gia vào từng vấn đề, từng vụ việc cụ thể mà
chính là góp phần để cả xã hội, cả dân tộc trở nên một chỉnh thể có đủ khả năng tự
hoàn thiện và tự bảo vệ trong quá trình tồn tại. Trong đó có việc mọi người tự mình
thể hiện vai trò người chủ nước nhà, tích cực bảo vệ an ninh, trật tự, bảo vệ cuộc
sống bình yên của mình. Theo nghĩa đó, việc tổ chức nhân dân tham gia bảo vệ an
ninh, trật tự không chỉ là việc lập các tổ, các nhóm, các ban bệ, phát động phong
trào theo thời gian để nhân dân có môi trường tham gia bảo vệ an ninh, trật tự (tuy
nhiên việc đó là quan trọng và cần thiết) mà chính là phải tạo ra cơ chế để mọi
người dân, mọi cộng đồng dân cư hình thành phản xạ tự bảo vệ, nhằm đảm bảo cho
sự tồn tại của mình và cả cộng đồng. Chỉ khi nào đạt tới trình độ đó thì mối tương
quan lực lượng trong cuộc đấu tranh mới có sự thay đổi căn bản về chất, và cũng
chỉ khi đó mới có cơ sở để khẳng định một cách đúng đắn rằng: “Địch không phải
tài tình gì đâu. Nó phá hoại được vì ta sơ hở, chủ quan. Nếu công an ta biết giữ gìn
và biết dựa vào nhân dân, làm cho nhân dân cũng biết cách giữ gìn, không để sơ hở
thì nhất định địch không làm gì được” [98, tr.259].
2.2.2. Nội dung công tác vận động quần chúng bảo vệ an ninh, trật tự
Xuất phát quan điểm “cách mạng là sự nghiệp của quần chúng”, chủ nghĩa
Mác - Lê nin đã khẳng định sức mạnh của quần chúng là vô tận, vô địch. Tuy nhiên,
sức mạnh ấy chỉ phát huy cao độ khi quần chúng được tổ chức, tuyên truyền, giác
ngộ lý tưởng cách mạng. Trên cơ sở đó, Hồ Chí Minh khẳng định: “Cách mạng là
sự nghiệp của quần chúng, chứ không phải là sự nghiệp của cá nhân anh hùng nào.
Thành công của Đảng ta là ở nơi đã tổ chức và phát huy lực lượng cách mạng vô
tận của nhân dân” [100, tr.672]; Từ đó có thể hiểu, quan điểm cơ bản của Hồ Chí
Minh về nội dung vận động quần chúng bảo vệ an ninh, trật tự là:
Thứ nhất, vận động được toàn dân tham gia sự nghiệp bảo vệ an ninh,
trật tự.
Hồ Chí Minh từng nói: “Việc gì mà một mình, tuy có tài giỏi mấy cũng
không làm được, mà nhiều người chung sức lại, thì việc gì cũng làm được” [98,
46
tr.310]. Nhân dân là chỗ dựa, là hậu thuẫn vững chắc, là nguồn lực vô tận cho lực
lượng công an. Tuy nhiên, để trở thành động lực thúc đẩy sự phát triển thắng lợi của
cuộc đấu tranh, nếu chỉ số lượng và sức mạnh không thôi thì chưa đủ mà nhân dân
phải được giác ngộ, nhận thức đầy đủ và tự giác tham gia vào cuộc đấu tranh.
Sự bền vững của chế độ, sự ổn định và phát triển của đất nước, cuộc sống
bình yên, hạnh phúc của nhân dân phụ thuộc vào sự nhận thức và tự giác thực hiện
nghĩa vụ công dân của mỗi người với tư cách là chủ thể của sự nghiệp bảo vệ an
ninh, trật tự. Vì lẽ đó, vấn đề an ninh, trật tự được đặt ra không chỉ là nhiệm vụ của
Nhà nước, của cơ quan công an mà trước hết phải coi đó là quyền lợi và nghĩa vụ
của nhân dân.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra:
Ai làm cách mạng? - Nhân dân! Ai kháng chiến thắng lợi? - Toàn dân…
Tuyên truyền, giáo dục, đoàn kết, tổ chức được trí tuệ và lực lượng đó thì
việc gì khó mấy cũng làm được. Trong kháng chiến, do lòng yêu nước
của đồng bào và do Đảng ta lãnh đạo đã tập hợp lực lượng của nhân dân
thành một khối lớn mạnh, đã đưa kháng chiến đến thắng lợi [100, tr.283].
Trong sự nghiệp bảo vệ an ninh, trật tự, nếu không được lòng dân, dân
không ủng hộ mà chỉ đơn thuần sử dụng nghiệp vụ thì khó đảm bảo thắng lợi. Vậy
nên Hồ Chí Minh đã khẳng định “Công an nhân dân hoàn toàn khác công an đế
quốc. Công an đế quốc là nanh vuốt của đế quốc để hà hiếp áp bức đa số nhân dân.
Công an nhân dân phải là kiểu mẫu, phải là người chuyên trách thi hành chính sách
phương châm của Đảng và Chính phủ cho tốt. Công an nhân dân phải thực sự phục
vụ nhân dân” [95, tr.269]. Hồ Chí Minh cho rằng bảo vệ an ninh, trật tự liên quan
trực tiếp đến lợi ích của mỗi người dân, có giữ vững an ninh, trật tự tốt thì nhân dân
mới an cư, lạc nghiệp. An ninh là nhu cầu cốt yếu của mỗi người dân, an ninh tốt thì
đời sống được yên vui, tính mạng và tài sản được bảo đảm.
Đồng thời, theo Hồ Chí Minh, giữ gìn trật tự, an ninh tốt còn là một tiêu chí
để khẳng định bản chất ưu việt của chế độ mới, của Nhà nước xã hội chủ nghĩa,
khác biệt hoàn toàn với bản chất áp bức, bóc lột, hiếp đáp của thực dân, đế quốc. Vì
vậy việc giữ gìn an ninh, trật tự của ta phải bảo đảm tốt, để cho thế giới nhìn vào và
nể trọng. Muốn vậy, không ai khác mà chính là toàn thể nhân dân, phải làm tròn
trách nhiệm của mình, thể hiện tốt vai trò là chủ thể, vai trò làm chủ, là chủ trong sự
47
nghiệp bảo vệ an ninh, trật tự.
Trong bài viết Công an và Nhân dân, ngày 18-8-1955, Hồ Chí Minh chỉ rõ:
“Công an cần phải đoàn kết nhân dân, tổ chức và giáo dục nhân dân, dựa vào lực
lượng rộng lớn của nhân dân. Như vậy nhân dân sẽ ra sức giúp công an làm tròn
nhiệm vụ” [98, tr.83,].
Thực tế cho thấy hiện nay, với sự phát triển của khoa học kỹ thuật và nghiệp
vụ công an, đã có một bộ phận cán bộ chiến sĩ công an coi trọng công tác nghiệp vụ
đơn thuần, trông cậy nhiều vào biện pháp kỹ thuật, coi nhẹ công tác phát huy sức
mạnh toàn dân tham gia bảo vệ an ninh, trật tự. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng dạy
Công an nhân dân “phải hết sức cảnh giác, không được chủ quan, khinh địch, phải
dựa vào lực lượng của nhân dân, phải làm cho mỗi người dân hiểu nhiệm vụ bảo vệ
Tổ quốc, thì sẽ có hàng triệu người làm tai mắt giúp công an, giúp bộ đội. Bọn phá
hoại không sao lọt vào cái lưới tai mắt của nhân dân”[97, tr 503].
Trong Bài Mật thám Mỹ đăng trên Báo Nhân Dân ngày 11-1-1956, Hồ Chí
Minh đã tổng kết:
Kinh nghiệm quốc tế chứng tỏ rằng: chống bọn phá hoại cũng như chống
mật thám Mỹ, cách tốt nhất là tổ chức và giáo dục nhân dân đến nơi đến
chốn. Lòng yêu nước nồng nàn và tinh thần cảnh giác của nhân dân,
cộng với sự cố gắng của bộ đội, công an là cái lưới “thiên la địa võng”,
bất kỳ bọn phá hoại nào, bọn mật thám nào cũng không lọt được cái lưới
ấy của nhân dân [98, tr.247].
Đây chính là một phương châm chiến lược của công tác công an. Huy động
lực lượng nhân dân bằng cách tuyên truyền giáo dục và tổ chức, cộng với năng lực
của cơ quan chuyên môn tạo thành mạng lưới an ninh nhân dân là bí quyết cho mọi
thắng lợi của cuộc đấu tranh bảo vệ an ninh, trật tự.
Thứ hai, tuyên truyền, giáo dục, vận động quần chúng phát huy tinh thần
dân chủ, bảo vệ an ninh Tổ quốc, hiểu rõ sự nghiệp giữ gìn an ninh, trật tự gắn liền
với lợi ích của nhân dân
Quan điểm của Hồ Chí Minh về nội dung giáo dục và vận động nhân dân là
phải “làm cho mỗi người dân hiểu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, thì sẽ có hàng triệu
người làm tai mắt giúp công an” [97, tr.503]. Đó là làm sao để “tất cả công nhân và
48
nông dân phải tỉnh táo, phải lấy mình làm bức tường để bảo vệ chính quyền công
nông; phải nổi dậy chống bọn mật thám, bọn phản động”; “Làm cho mọi người hiểu
rõ phòng gian là nhiệm vụ chung của công dân, là một công việc ái quốc” [95,
tr.53]. Quy tụ lại là làm sao để nhân dân nhận thức đúng và tự giác thực hiện nghĩa
vụ của mình trong việc bảo vệ an ninh, trật tự.
Đề cập đến nội dung vận động nhân dân bảo vệ an ninh, trật tự, Hồ Chí Minh
nhắc nhở: “Phải luôn luôn nâng cao tinh thần cảnh giác của nhân dân, giáo dục cho
nhân dân thấm nhuần tinh thần làm chủ và nghĩa vụ giữ gìn trật tự trị an, nghĩa vụ
bảo vệ bản làng và Tổ quốc” [101, tr.461]. Trong công tác giáo dục cũng phải làm
cho nhân dân hiểu rõ, bảo vệ an ninh, trật tự có liên quan mật thiết đến cuộc sống,
quyền lợi, tính mạng và tài sản của nhân dân, Người nói “Phải ra sức phát động
quần chúng tham gia phong trào bảo vệ trị an, giáo dục quần chúng nâng cao tinh
thần làm chủ đất nước, tinh thần cảnh giác đối với kẻ thù của nhân dân, tích cực
phòng và chống gián điệp biệt kích” [102, tr.72].
Lực lượng Công an có trách nhiệm vận động quần chúng thấm nhuần một
quan điểm: trong sự nghiệp bảo vệ an ninh, trật tự, nhân dân vừa có quyền, đồng
thời có nghĩa vụ bảo vệ Tổ quốc. Đó là trách nhiệm, sứ mệnh lịch sử của nhân dân,
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã yêu cầu: “Giáo dục quần chúng nâng cao tinh thần làm
chủ đất nước, tinh thần cảnh giác đối với kẻ thù của nhân dân, tích cực phòng và
chống gián điệp biệt kích. Muốn đạt kết quả đó, thì công an phải hết lòng giúp đỡ
nhân dân và dựa vào lực lượng hùng mạnh của nhân dân” [102, tr.72].
Theo Hồ Chí Minh, tư tưởng chỉ đạo trong vấn đề này là tạo mọi điều kiện
để nhân dân trở thành chủ thể thực sự của sự nghiệp bảo vệ an ninh, trật tự trên cơ
sở thông qua tổ chức, để hướng dẫn, lãnh đạo nhân dân tham gia. Làm chủ thông
qua tổ chức và chỉ có thông qua tổ chức, con người mới thấy được trách nhiệm và
sự đóng góp của mình cho xã hội, được xã hội thừa nhận. Mặt khác, tập hợp nhân
dân trong một tổ chức chính là tạo ra lực cộng hưởng của tất cả sức mạnh của từng
cá thể riêng biệt. Người viết: “Phải biết động viên, tổ chức, đoàn kết quần chúng.
Lấy sức quần chúng mà vượt qua khó khăn; quần chúng tự giúp quần chúng…
Đảng và Chính phủ đề ra chính sách, phái cán bộ về hướng dẫn, thế là giúp đỡ.
Nhưng đó là phụ, lực lượng nhân dân tổ chức nhau lại là chính. Không nên ỷ lại, mà
49
phải tự lực cánh sinh” [98, tr.310].
Trên cơ sở đó, việc tổ chức nhân dân tham gia bảo vệ an ninh, trật tự
không chỉ đơn thuần là việc lập các tổ, nhóm…, phát động phong trào theo thời
gian để nhân dân có môi trường tham gia bảo vệ an ninh, trật tự mà chính là phải
tạo ra cơ chế để mọi người dân hình thành phản xạ tự bảo vệ được mình và cả xã
hội. Hồ Chí Minh nói: “Địch không phải tài tình gì đâu. Nó phá hoại được là vì
ta sơ hở, chủ quan. Nếu công an ta biết giữ gìn và biết dựa vào nhân dân, làm
cho nhân dân cũng biết cách giữ gìn không để sơ hở thì nhất định địch không
làm gì được” [98, tr.259].
Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, cả hệ thống chính trị phải tham gia vận
động quần chúng bảo vệ an ninh, trật tự, trong đó Công an làm nòng cốt, chuyên
trách nên “Công an phải luôn luôn giúp đỡ, tổ chức, giáo dục nhân dân, làm cho
mọi người dân đều là người giúp việc của mình, làm thành mạng lưới Công an nhân
dân” [100, tr.154].
Tư tưởng nhân dân là nền tảng của sự nghiệp bảo vệ an ninh, trật tự, vận
động nhân dân là biện pháp quyết định sự thành công của sự nghiệp là một tư tưởng
lớn, xuyên suốt của Hồ Chí Minh. Theo Người, sự nghiệp bảo vệ an ninh, trật tự
phải đặt trên nền tảng nhân dân, nghĩa là: Nhân dân là chủ thể, công an là “công
bộc”; nhân dân là lực lượng, công an là hạt nhân, nòng cốt; công an là công cụ của
nhân dân để thực hiện mục tiêu đó. Đây chính là bí quyết của mọi thành công mà
Người để lại cho chúng ta:
Quân tốt, dân tốt,
Muôn sự đều nên.
Gốc có vững, cây mới bền,
Xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân [93, tr.502].
Tóm lại, quan điểm của Hồ Chí Minh về nội dung vận động quần chúng bảo
vệ an ninh, trật tự có thể khái quát thành các vấn đề lớn sau :
Một là, tuyên truyền, giáo dục quần chúng tinh thần làm chủ đất nước, tinh
thần bảo vệ Tổ quốc; giáo dục để cho nhân dân hiểu rõ đường lối, chủ trương của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đồng thời hiểu rõ sự nghiệp giữ gìn an
ninh, trật tự liên quan mật thiết đến lợi ích quốc gia và lợi ích vật chất và tinh thần
của toàn dân. Từ đó vận động được toàn dân tham gia vào sự nghiệp bảo vệ an
50
ninh, trật tự.
Hai là, làm cho nhân dân hiểu rõ âm mưu, phương thức, thủ đoạn hoạt động
của các thế lực thù địch, bọn tội phạm, vạch ra những biện pháp ứng phó hợp lý;
huấn luyện cho nhân dân biện pháp giữ bí mật, chống địch lợi dụng phá hoại, tham
gia đấu tranh phòng, chống tội phạm.
Phát động và xây dựng phong trào toàn dân bảo vệ an ninh, trật tự và làm
thành “mạng lưới tai mắt của nhân dân” [97, tr.503] là một quan điểm lớn, độc đáo
của Hồ Chí Minh trong việc tổ chức nhân dân tham gia bảo vệ an ninh, trật tự.
Chính tư tưởng này đã tạo nên những tiền đề thắng lợi cho lực lượng công an từ khi
mới ra đời và ngày càng được nâng cao, phát triển thành tư tưởng chiến lược là xây
dựng thế trận an ninh nhân dân - một tư tưởng lớn mà sức sống của nó được ghi
nhận trong sự nghiệp bảo vệ an ninh, trật tự suốt 73 năm qua của Công an nhân dân.
2.2.3. Lực lượng phụ trách công tác vận động quần chúng bảo vệ an
ninh, trật tự
Chỉ rõ ai là người làm công tác dân vận, Hồ Chí Minh viết: “Tất cả cán bộ
chính quyền, tất cả cán bộ đoàn thể và tất cả các hội viên của các tổ chức nhân dân
(Liên Việt, Việt Minh, v.v…) đều phải phụ trách dân vận” [94, tr.233]. Như vậy,
lực lượng làm công tác dân vận, theo Người - không chỉ là những người chuyên
trách công tác này, mà rất đông đảo, với nhiều tổ chức, cá nhân cùng tham gia.
Riêng với công tác vận động quần chúng bảo vệ an ninh, trật tự của Công an
nhân dân, Hồ Chí Minh cũng chỉ rõ phải có sự lãnh đạo của cấp ủy, quản lý, điều
hành của chính quyền, sự phối hợp các cơ quan, đoàn thể trong hệ thống chính trị.
Trong đó, cấp ủy Đảng các cấp lãnh đạo về chủ trương, chính sách công tác vận
động quần chúng trong hoạt động của Công an nhân dân. Các cơ quan nhà nước từ
trung ương đến địa phương, ủy ban nhân dân các cấp quản lý điều hành thực hiện
những chủ trương, chính sách về công tác vận động quần chúng trong hoạt động
của Công an nhân dân theo pháp luật quy định. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các
tổ chức thành viên các cấp phối hợp với lực lượng Công an nhân dân, có trách
nhiệm tuyên truyền, động viên mọi tầng lớp nhân dân tham gia phong trào toàn dân
bảo vệ an ninh Tổ quốc. Theo Hồ Chí Minh, đó là những lực lượng phụ trách chính
của công tác vận động quần chúng bảo vệ an ninh, trật tự; và trong phạm vi nhiệm
51
vụ của mình, các lực lượng này tích cực tham gia vào công tác dân vận với những
nội dung đấu tranh, phù hợp với từng đặc điểm và tình hình cụ thể. Sự kết hợp chặt
chẽ giữa các lực lượng trên là yếu tố hết sức quan trọng bảo đảm cho sự vận hành
có hiệu quả của các biện pháp vận động quần chúng bảo vệ an ninh, trật tự của
Công an nhân dân.
Chủ tịch Hồ Chí Minh thường xuyên nhấn mạnh, Công an nhân dân là lực
lượng nòng cốt trong sự nghiệp bảo vệ an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội.
Người cho rằng, các lực lượng công an dù trực tiếp hay gián tiếp đều liên quan đến
công tác vận động quần chúng trong hoạt động công tác công an. Tuy nhiên, theo
Hồ Chí Minh, cần phải có sự phân định rõ ràng, rành mạch từng chủ thể trong công
tác này. Các lực lượng phải thường xuyên cùng nhau bàn tính kỹ càng, phân công
rõ rệt, rồi cùng nhau đi giải thích cho dân hiểu, cổ động dân, giúp dân đặt kế hoạch,
tổ chức nhân công, sắp xếp việc làm, khuyến khích, đôn đốc, theo dõi, giúp đỡ dân
giải quyết những điều khó khăn. Mỗi lực lượng đều có cách vận động quần chúng
theo chức năng của mình, song phải có sự phối hợp thật chặt chẽ.
Từ nhận thức đúng đắn về vai trò quyết định, là “cái gốc của mọi công việc”
của người cán bộ đối với sự nghiệp cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt
quan tâm đến phẩm chất toàn diện của cán bộ công an làm công tác vận động quần
chúng bảo vệ an ninh, trật tự.
Về phẩm chất đạo đức, theo Hồ Chí Minh, người cán bộ, chiến sĩ công an
phải luôn trung thành với Đảng, hết lòng phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân,
“nâng cao lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, luôn cảnh giác, dũng cảm chiến đấu
bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ chủ nghĩa xã hội” [103, tr.169]. Đồng thời, Người cũng căn
dặn công an còn cần phải ra sức tu dưỡng, rèn luyện, xây dựng đội ngũ cán bộ vững
mạnh, thực hiện tốt vai trò, trọng trách là cánh tay đắc lực của Đảng, của nhà nước
chuyên chính vô sản, xứng đáng là lực lượng vũ trang trọng yếu, tin cậy để bảo vệ
Đảng, Nhà nước và nhân dân.
Ngay trong những năm đầu Công an nhân dân được thành lập, ngày
11/3/1948, trong Thư gửi đồng chí Hoàng Mai, Giám đốc Công an Khu 12, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã nêu sáu điều về Tư cách người Công an cách mệnh. Trong đó,
Người đã đặt yêu cầu “Đối với tự mình” lên trước tiên trong rèn luyện tư cách người
52
chiến sĩ công an. Bởi với Hồ Chí Minh, suy cho cùng, vấn đề tư cách là vấn đề ở
đời và làm người. Ở đời thì phải thân dân, làm người thì phải chính tâm. Đó là đạo
đức của người cách mạng, là cái gốc, cái căn bản để thực hiện lý tưởng và mục tiêu
cách mạng. Hồ Chí Minh nhấn mạnh, người cán bộ công an “phải triệt để sửa tác
phong mệnh lệnh, quan liêu, hống hách, phải gây quan hệ thật tốt giữa công an và
nhân dân” [103, tr.169].
Để thấm nhuần chuẩn mực đạo đức, cán bộ, chiến sĩ Công an nhân dân phải
vượt qua chủ nghĩa cá nhân, vì nó là nguồn gốc của mọi cái tiêu cực, trái với đạo
đức cách mạng. Hồ Chí Minh cho rằng: “Chủ nghĩa cá nhân đẻ ra nhiều cái xấu,
thiên hình vạn trạng… cho rằng ngành Công an gian khổ vất vả nhiều mà ít được ai
biết, ít được huân chương; đòi hỏi đãi ngộ, so bì lương thấp, lương cao” [100,
tr.222], Người cũng thấu hiểu rằng, “công an đánh địch bên ngoài đã khó, đánh địch
bên trong người còn khó khăn hơn” [99, tr.599].
Trong Bài nói chuyện với bộ đội, công an và cán bộ trước khi vào tiếp quản
Thủ đô (9-1954), Người đã căn dặn, có thể những người khi kháng chiến thì rất anh
dũng, trước bom đạn không chịu khuất phục, nhưng đến khi về thành thị lại bị tiền
bạc quyến rũ, mất lập trường, sa vào tội lỗi. Cho nên bom đạn của địch không nguy
hiểm bằng “đạn bọc đường” vì nó làm hại mình mà mình không trông thấy. Vì vậy,
“muốn giữ vững nhân cách, tránh khỏi hủ hóa, thì phải luôn thực hành 4 chữ mà
Bác thường nói, đó là Cần, Kiệm, Liêm, Chính” [97, tr.47]. Người thẳng thắn phê
bình “khuyết điểm của cán bộ nói chung, của công an nói riêng là: sợ khó, sợ khổ,
không bền gan, không quyết chí, kém cảnh giác, hữu khuynh” [98, tr.259].
Về tác phong, nghiệp vụ của người cán bộ, chiến sĩ công an, Hồ Chí Minh
cho rằng, người cán bộ công an làm công tác vận động quần chúng bảo vệ an ninh,
trật tự phải có phong cách làm việc khoa học, phải có trình độ, năng lực về mọi mặt,
nhất là sự hiểu biết về lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin; phải nắm vững đường lối, chủ
trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; phải hiểu rõ đối tượng, điều
kiện hoàn cảnh, tìm mọi cách giải thích cho quần chúng hiểu rõ, có như vậy mới tập
hợp được đông đảo quần chúng tham gia. Người còn chỉ rõ cho công an muốn làm
tốt công tác vận động quần chúng còn “phải triệt để sửa đổi tác phong mệnh lệnh,
quan liêu, hống hách; phải gây quan hệ thật tốt giữa công an với nhân dân” [103,
tr.169]. Hồ Chí Minh cũng luôn chú ý nhắc nhở, chỉ đạo cả hệ thống chính trị nói
53
chung và lực lượng công an nói riêng một tinh thần chung nhất quán là phải giữ gìn
và phát huy tinh thần đoàn kết và coi đó là sức mạnh quyết định thắng lợi sự nghiệp
bảo vệ an ninh, trật tự.
2.2.4. Đối tượng của công tác
Vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt
Nam, kế thừa tư tưởng của ông cha ta về vai trò to lớn của nhân dân trong lịch sử
đấu tranh dựng nước của dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định nhân dân là lực
lượng cơ bản của mọi cuộc cách mạng xã hội. Từ đó, Người đi đến kết luận đối
tượng của công tác dân vận chính là toàn thể nhân dân như một lẽ rất tự nhiên, bởi
Người thấy được tầm quan trọng, vị trí của nhân dân: “Trong bầu trời không gì quý
bằng nhân dân. Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân
dân” [98, tr.453]. Hoặc, “ở trong xã hội muốn thành công phải có ba điều kiện là
thiên thời, địa lợi và nhân hòa. Nhưng thiên thời không quan trọng bằng địa lợi, mà
địa lợi không quan trọng bằng nhân hòa. Nhân hòa là quan trọng hơn hết” [93,
tr.595]. Và “nếu không có nhân dân giúp sức, thì Đảng không làm được việc gì
hết... Rời xa dân chúng là cô độc. Cô độc thì nhất định thất bại” [93, tr.278].
Như vậy, Hồ Chí Minh luôn đánh giá rất cao vai trò của nhân dân và cho
rằng sức mạnh của toàn dân vũ trang là một ưu thế tuyệt đối để đánh thắng mọi kẻ
thù xâm lược. Toàn dân đứng dậy sẽ tạo ra sức mạnh vô cùng to lớn, không vũ khí
nào chống lại nổi. Chính bởi vậy mà quần chúng nhân dân là người sáng tạo ra lịch
sử và họ rõ ràng là người quyết định thắng lợi của mọi cuộc chiến tranh cách mạng.
Vấn đề quan trọng hàng đầu là phải xây dựng cơ sở chính trị trong nhân dân “phải
dựa vào dân, dựa chắc vào dân thì kẻ địch không thể nào tiêu diệt được”.
Trong Đường cách mệnh (1927), Hồ Chí Minh đã khẳng định: “cách mệnh
là việc chung cả dân chúng chứ không phải việc một hai người” [90, tr.283]. Nghĩa
là, việc chung thì mọi người phải cùng làm, muốn mọi người cùng làm thì phải vận
động họ tham gia. Trong Báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II
của Đảng (2/1951), Người cũng khẳng định “chúng ta tin chắc vào tinh thần và lực
lượng của quần chúng, của dân tộc” [95, tr.29]. Từ đó, Người tiếp tục khẳng định sự
nghiệp cách mạng là của quần chúng nhân dân. Bởi theo Người “có dân là có tất
cả” “khó trăm lần không dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong”. Quần
chúng là lực lượng đông đảo, có sức mạnh to lớn là động lực chủ yếu để đưa cách
54
mạng đến thành công. “Sự đồng tâm của đồng bào ta đúc thành một bức tường
đồng xung quanh Tổ quốc. Dù địch hung tàn, xảo quyệt đến mức nào, đụng đầu
nhằm bức tường đó, chúng sẽ phải thất bại” [93, tr.179], “không quân đội nào,
không khí giới nào có thể đánh ngã được tinh thần hy sinh của toàn thể một dân
tộc” [92, tr.89]. Do đó, Người cho rằng, nước lấy dân làm gốc, gốc có vững cây mới
bền, xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân. Quần chúng nhân dân vừa là mục tiêu, vừa
là động lực, vừa là bí quyết thắng lợi của mọi chủ trương, đường lối, chính sách của
Đảng và Nhà nước. Người chỉ rõ, thắng đế quốc phong kiến là tương đối dễ; thắng
bần cùng và lạc hậu còn khó hơn nhiều. Cách mạng xã hội chủ nghĩa là một cuộc
biến đổi khó khăn nhất và sâu sắc nhất. Chúng ta phải xây dựng một xã hội hoàn
toàn mới xưa nay chưa từng có trong lịch sử dân tộc ta. Phải tạo lập một lực lượng
sản xuất hiện đại và cải tạo quan hệ sản xuất cũ, xóa bỏ giai cấp bóc lột, xây dựng
quan hệ sản xuất mới.
Trong Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh coi “cuộc chiến đấu chống lại những
gì đã cũ kỹ, hư hỏng, để tạo ra những cái mới mẻ, tốt tươi” là “cuộc chiến đấu
khổng lồ” [103, tr.617]. Hư hỏng ở đây không đơn giản chỉ là vật chất mà nguy hại
hơn là con người, tư tưởng, tổ chức. Người lường trước những khó khăn, phức tạp
cho cách mạng Việt Nam, đòi hỏi Đảng đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế, vượt
qua khó khăn, chiến đấu với niềm tin nhất định thắng lợi. Thực hiện thành công sự
nghiệp đó hay không chính là do nhân dân quyết định, vì “cách mệnh là phá cái cũ
đổi ra cái mới” và “công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt niềm tin tuyệt đối vào nhân dân. Người không chỉ
tin tưởng vào sức mạnh phi thường của nhân dân mà còn tin tưởng vào cả tấm lòng
yêu nước, ý chí, quyết tâm, lòng dũng cảm và sự trung thành tuyệt đối của nhân dân
vào Đảng. Người khẳng định: “nhân dân ta rất anh hùng, dũng cảm, hăng hái cần
cù. Từ ngày có Đảng nhân dân ta luôn đi theo Đảng, rất trung thành với Đảng... Dù
khó khăn gian khổ đến mấy, nhân dân ta nhất định sẽ hoàn toàn thắng lợi” [103,
tr.623]. Ngay cả khi cách mạng đang ở trong tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”, Người
vẫn một lòng tin tưởng vào nhân dân. Người cho rằng “có dân sẽ có tất cả”, “có dân
việc gì cũng làm được” và Người thường xuyên động viên nhắc nhở mỗi người phải
ghi tạc chân lý: “Dân rất tốt. Lúc họ đã hiểu thì việc khó khăn mấy họ cũng làm
được, hy sinh mấy họ cũng không sợ” [93, tr.286]. Từ đó, Người cho rằng, phải liên
55
lạc mật thiết với dân chúng, không được xa rời dân chúng bởi xa rời dân chúng là
thất bại.
Như vậy, Hồ Chí Minh đã kế thừa những luận điểm tích cực trong tư tưởng
của các bậc tiền bối, đồng thời cũng đã có sự sáng tạo trong suy nghĩ để phù hợp
với hoàn cảnh của đất nước. Khác với một số nhà cách mạng đi trước ở trong nước
và nước ngoài, Hồ Chí Minh đã nhận thấy tiềm năng, sức mạnh to lớn của đông đảo
các tầng lớp quần chúng nhân dân, từ đó nêu cao tinh thần tập hợp tất cả họ vào
công cuộc đấu tranh cách mạng, giải phóng chính bản thân mình. Sự khác biệt giữa
tư tưởng công tác dân vận của Hồ Chí Minh với nhiều nhà yêu nước thời kỳ trước
xuất phát từ hoàn cảnh dân tộc, kinh nghiệm rút ra từ hoạt động tìm hiểu công tác
dân vận ở nhiều quốc gia. Chính sự khác biệt này đã tạo nên nét độc đáo và thành
công trong công cuộc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác dân vận vào
công cuộc cách mạng của Việt Nam.
2.2.5. Nguyên tắc tiến hành công tác
Với Hồ Chí Minh, vận động quần chúng bảo vệ an ninh, trật tự là một
nhiệm vụ có ý nghĩa chiến lược đối với toàn bộ sự nghiệp cách mạng, cả trong
thời kỳ chưa có chính quyền lẫn thời kỳ Đảng cầm quyền; là điều kiện quan trọng
bảo đảm cho sự lãnh đạo của Đảng đối với chính quyền và toàn xã hội, thắt chặt
mối liên hệ máu thịt giữa Đảng với dân. Vì vậy, để thực hiện có hiệu quả công tác
này trong bảo vệ an ninh, trật tự, Hồ Chí Minh yêu cầu cần đảm bảo các nguyên
tắc cơ bản sau:
Một là, công tác vận động quần chúng bảo vệ an ninh, trật tự của Công an
nhân dân phải đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Bảo vệ an ninh, trật tự là sự nghiệp của toàn dân dưới sự lãnh đạo của Đảng,
là cuộc đấu tranh toàn diện nhằm xây dựng, bảo vệ và giữ gìn một môi trường xã
hội bình yên để mọi người trong xã hội đó được sống thanh bình, yên ổn. Tính chất
căn bản của cuộc đấu tranh này là phức tạp, gay go, quyết liệt và lâu dài. Vì vậy, Hồ
Chí Minh cho rằng, sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp của Đảng đối với công tác vận
động quần chúng vào sự nghiệp bảo vệ an ninh, trật tự của Công an nhân dân vừa là
vấn đề mang tính nguyên tắc, vừa là một tất yếu đảm bảo cho mọi thắng lợi của mọi
mặt công tác công an nói chung và công tác vận động quần chúng bảo vệ an ninh,
56
trật tự của công an nói riêng, Người nói “Công an nhân dân vũ trang hay quân đội
cũng thế, phải phục tùng sự lãnh đạo của Đảng” [100, tr.153]. Bởi vì, chỉ có chính
Đảng của giai cấp công nhân được vũ trang bởi chủ nghĩa Mác - Lênin mới đánh
giá đúng được vai trò của quần chúng nhân dân trong lịch sử, mới vạch ra được
đường lối chiến lược và sách lược đúng đắn để lôi kéo, tập hợp quần chúng, biến
công tác dân vận trở thành ngày hội thực sự của quần chúng.
Hồ Chí Minh cho rằng, sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động quần chúng nhân dân bảo vệ an ninh, trật tự của Công an nhân dân vừa là một tất yếu, vừa phải có điều kiện. Người khẳng định “Công tác công an phải gắn chặt với đường lối chính trị của Đảng. Nếu thoát ly đường lối chính trị của Đảng, thì dù khéo mấy cũng không kết quả” [103, tr.140]. Tính tất yếu thể hiện ở năng lực nắm bắt thực tiễn, phát hiện ra các quy luật khách quan của sự vận động lịch sử để vạch ra đường lối và phương pháp vận động quần chúng phù hợp, lãnh đạo công tác vận động thực hiện thành công các nhiệm vụ cách mạng mà không một lực lượng nào, một tổ chức chính trị nào có thể làm được.
Tuy nhiên, để lãnh đạo thành công công tác vận động quần chúng bảo vệ an ninh, trật tự, điều kiện cần có là Đảng phải xây dựng được những chủ trương, chính sách đúng đắn, phù hợp với từng giai đoạn, từng thời kỳ cách mạng, phù hợp với quyền lợi và nguyện vọng của đại đa số nhân dân. Trong quá trình lãnh đạo công tác này, Đảng phải lãnh đạo Công an nhân dân đi đúng đường lối quần chúng, không được quan liêu, mệnh lệnh và gò ép quần chúng; phải dùng phương pháp tuyên tuyền, giáo dục, thuyết phục, nêu gương, lấy lòng chân thành để đối xử, cảm hóa, khơi gợi tinh thần tự giác, tự nguyện, tuyệt đối không được lấy quyền uy của mình để buộc quần chúng phải tuân theo. Tóm lại, “Các cấp ủy đảng phải thật sự giúp đỡ và lãnh đạo chặt chẽ công an” [102, tr.72].
Trong Bài nói tại Trường Công an Trung cấp Khóa 2, Hồ Chí Minh đã dặn dò cán bộ, chiến sĩ công an: “Làm công an không phải làm “quan cách mạng”. Làm công an là để giữ trật tự, an ninh cho nhân dân, xem xét tìm tòi âm mưu phản động làm hại nhân dân” [95, tr.269]; Người phân tích cụ thể: “Bọn phản động không bao giờ muốn cho chúng ta xây dựng chủ nghĩa xã hội thành công, công an phải luôn luôn cảnh giác, ngăn ngừa những hành động phá hoại của chúng để bảo vệ lợi ích của nhân dân, bảo vệ sự nghiệp cách mạng” [100, tr.221, 222]. Nên “phải đi đúng đường lối quần chúng thì nhân dân mới tin yêu, giúp công an và công an mới thành
57
công được. Phải đoàn kết nội bộ, đoàn kết với nhân dân và với các ngành thì công việc mới thắng lợi” [99, tr.599].
Hai là, công tác vận động quần chúng bảo vệ an ninh, trật tự phải luôn xuất
phát từ lợi ích của quần chúng nhân dân, thực hiện và bảo vệ lợi ích của nhân dân.
Theo Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam vừa là người lãnh đạo, vừa là
người đầy tớ thật trung thành của nhân dân; là Đảng của giai cấp công nhân, đồng
thời cũng là của dân tộc, không thiên tư, thiên vị;“ngoài lợi ích của nhân dân, Đảng
không có lợi ích nào khác” [13, tr.271]. Theo đó, Hồ Chí Minh luôn nhắc nhở cán
bộ, đảng viên, các tổ chức Đảng và chính quyền phải thực hành phương châm việc
gì có lợi cho dân ta phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân, ta phải hết sức tránh.
“Hết thảy những việc có thể nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của dân phải
được ta đặc biệt chú ý... Muốn được dân yêu mến, muốn được lòng dân trước hết
phải yêu dân, phải đặt quyền lợi của dân lên hết thảy, phải có tinh thần chí công vô
tư” [92, tr.52].
Đối với sự nghiệp bảo vệ an ninh, trật tự, theo Hồ Chí Minh, mục tiêu cao
nhất là an ninh, trật tự cho nhân dân, cho Nhà nước của dân, do dân và vì dân. Về
điều này, trong bài nói tại Trường Công an trung ương, ngày 28-1-1958, Người
từng nhấn mạnh: “Trước hết cán bộ phải có tư tưởng xã hội chủ nghĩa, lập trường
phải rõ ràng, vững chắc đã. Rồi cán bộ làm cho nhân dân hiểu để nhân dân hăng hái
tăng gia sản xuất thực hành tiết kiệm. Khi đó cả xã hội mới tiến lên chủ nghĩa xã hội
được. Tư tưởng xã hội chủ nghĩa là thế nào? Là mỗi người hãy nghĩ đến lợi ích
chung, lợi ích toàn dân trước. Phải chống chủ nghĩa cá nhân… Xác định toàn tâm
toàn ý 100% phục vụ nhân dân” [99, tr.249]. Theo nghĩa đó, việc giữ vững an ninh
chính trị và trật tự, an toàn xã hội nhằm mục đích cuối cùng là bảo vệ lợi ích cho
nhân dân, xây dựng một môi trường xã hội bình yên cho cuộc sống của nhân dân.
Nói cách khác, công tác vận động quần chúng bảo vệ an ninh, trật tự chỉ có thể
thành công nếu trước hết bảo vệ và đáp ứng được lợi ích chính đáng của nhân dân.
Đó là việc đảm bảo các quyền cơ bản của công dân; quyền được bình đẳng trước
pháp luật; quyền được sống một cuộc sống yên vui, trật tự, lành mạnh; được tham
gia quản lý nền an ninh, trật tự của đất nước; sử dụng các công cụ chuyên chính để
58
đấu tranh bảo vệ mình; v.v…
Ba là, công tác vận động quần chúng bảo vệ an ninh, trật tự phải đảm bảo
thực hành dân chủ rộng rãi.
Để vận động quần chúng bảo vệ an ninh, trật tự, việc thực hành dân chủ rộng
rãi là một trong những nguyên tắc hết sức quan trọng. Hồ Chí Minh từng nói: “Chế
độ ta là chế độ dân chủ, tư tưởng phải được tự do. Tự do là thế nào? Đối với mọi
vấn đề, mọi người tự do bày tỏ ý kiến của mình, góp phần tìm ra chân lý. Đó là một
quyền lợi mà cũng là một nghĩa vụ của mọi người. Khi mọi người đã phát biểu ý
kiến, đã tìm thấy chân lý, lúc đó quyền tự do tư tưởng hóa ra quyền tự do phục tùng
chân lý” [98, tr.378].
Nguyên tắc này đòi hỏi tất cả mọi vấn đề trong công tác vận động quần
chúng bảo vệ an ninh, trật tự đều phải được đưa ra để quần chúng cùng bàn bạc
công khai, để đi đến nhất trí, loại trừ mọi sự áp đặt hoặc dân chủ hình thức. Không
những vậy, đối với yêu cầu của sự nghiệp bảo vệ an ninh, trật tự, muốn hoàn thành
nhiệm vụ, ngoài sự cố gắng của bản thân, người công an rất cần sự giúp đỡ của
nhân dân, đoàn kết với nhân dân, sự giám sát của nhân dân để ngày càng hoàn
thiện. Người nói: “Việc quét bọn cao bồi, buôn lậu, công an không làm được một
mình mà phải dựa vào dân... Phải dựa vào dân mà giải quyết việc này” [103,
tr.488]. Hoặc, “trong thời kỳ 3 không - quần chúng hiểu và làm được, đồng thời
phát huy sáng tạo của mình. Ví dụ, khi địch rải gio, căng dây để phát hiện cán bộ,
thì quần chúng đã bảo vệ cán bộ và kẻ địch đã không phát hiện được cán bộ” [103,
tr.143]. Do đó, Hồ Chí Minh thẳng thắn chỉ ra: “Công an với dân phải đoàn kết
nghĩa là phải khuyến khích cho dân phê bình công an. Trong 10 lần phê bình cũng
có lần đúng, có lần không đúng. Đúng thì nhận, không đúng thì giải thích” [99,
tr.270], và “phải hoan nghênh nhân dân phê bình công an, để đi đến hiểu công an,
yêu công an và giúp đỡ công an” [94, tr.313]. Người còn cho rằng, không đi đường
lối quần chúng là không gần nhân dân, là thiếu dân chủ, là trở thành quan liêu.
Quan liêu thì không đoàn kết được ai. Chính vì vậy, cần phải thực hành dân chủ,
dựa vào quần chúng, đi đường lối quần chúng; có dân chủ mới làm cho cán bộ và
quần chúng đề ra sáng kiến và có phát huy dân chủ đến cao độ thì mới động viên tổ
chức tất cả lực lượng của nhân dân đưa cách mạng tiến lên. Thực hành và đề cao
59
dân chủ cũng là đề cao, tôn trọng nhân dân.
Do đó, đối với những biểu hiện quan liêu, cửa quyền, hách dịch “lên mặt làm
quan cách mạng” với nhân dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nghiêm khắc phê bình.
Người nói: “Tác phong của những “ông quan liêu” là thiếu dân chủ, không giữ
đúng nguyên tắc lãnh đạo tập thể, phân công phụ trách” [101, tr.417]. Từ đó dẫn
đến việc lãnh đạo, điều hành theo cảm tính, mệnh lệnh, miệng nói dân chủ nhưng
làm việc theo lối quan chủ, vi phạm đến chủ trương, đường lối của Đảng, pháp luật
của Nhà nước. Đồng thời, Chính phủ và Nhà nước cần không ngừng nâng cao dân
trí, nâng cao hiểu biết của người nhân để họ phát huy quyền làm chủ của mình trong
cuộc đấu tranh này.
Hồ Chí Minh cũng cho rằng, cần sớm hoàn thiện cơ chế để huy động được
đông đảo quần chúng nhân dân tham gia vào công tác vận động quần chúng bảo
vệ an ninh, trật tự của Công an nhân dân. Người còn chỉ rõ, để quần chúng có thể
và tích cực thực hiện được quyền phê bình của mình thì phải có cơ chế để những
kẻ ngăn cản phê bình sẽ bị trừng trị và những người phê bình đúng cần phải được
khen thưởng. Người nhấn mạnh: “Ai kiểm thảo đúng những người khác, sẽ được
khen thưởng… Ai ngăn cản, đe dọa những người kiểm thảo mình, sẽ bị kỷ luật”
[95, tr.361].
Bốn là, phải phát huy tinh thần đoàn kết trong vận động quần chúng bảo vệ
an ninh, trật tự.
Theo Hồ Chí Minh, đoàn kết là thành công, “lịch sử trong những năm qua
đã tỏ rõ lực lượng đoàn kết của nhân dân ta là vô địch” [98, tr.131]. Bởi vậy, dân
vận phải hướng tới mục tiêu đoàn kết dân tộc trên cơ sở có sự “đồng tâm”, “đồng
sức”, “đồng lòng”, “đồng thuận’, “đồng hưởng” của toàn dân. Từ nhiệm vụ và mục
tiêu đoàn kết, công tác vận động quần chúng bảo vệ an ninh, trật tự phải hướng toàn
dân tộc vào thực hiện mục tiêu lý tưởng: Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Theo đó, về phương pháp, cách thức vận động nhân dân bảo vệ an ninh, trật
tự, Hồ Chí Minh luôn chú ý nhắc nhở, chỉ đạo cả hệ thống chính trị nói chung và
lực lượng công an nói riêng, một nguyên tắc nhất quán là phải giữ gìn và phát huy
tinh thần đoàn kết và coi đó là sức mạnh quyết định thắng lợi sự nghiệp bảo vệ an
ninh, trật tự. Tháng 7 năm 1956, trong Thư gửi đồng bào cả nước, Người khẳng
định: “Đại đoàn kết là một lực lượng tất thắng” [98, tr.360]. Theo Hồ Chí Minh, dù
60
có nhiều phương pháp tốt mà không giữ được nguyên tắc đoàn kết thì không bao
giờ thành công. Đại đoàn kết toàn dân tộc là tư tưởng lớn và là thành công vĩ đại
của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong sự nghiệp vận động quần chúng làm cách mạng.
Tại Đại hội thi đua toàn lực lượng Công an nhân dân năm 1966, Người nhấn mạnh:
“Ở các đơn vị và cơ quan, nội bộ phải thật thà đoàn kết, phải xoá sạch chủ nghĩa cá
nhân. Phải triệt để sửa đổi tác phong mệnh lệnh, quan liêu, hống hách; phải gây
quan hệ thật tốt giữa công an với nhân dân… Phải thật sự đoàn kết giữa công an với
nhân dân… Đạo đức cách mạng, cần, kiệm, liêm chính, chí công, vô tư, liên hệ chặt
chẽ với quần chúng, một lòng một dạ phục vụ nhân dân” [97, tr.454].
Người cũng yêu cầu, lực lượng công an phải tăng cường xây dựng mối đoàn
kết, gắn bó công tác với các cơ quan, ban ngành khác để phát huy vai trò, sức mạnh
tổng hợp nhằm động viên tối đa sức dân, tuyên truyền nhân dân, củng cố các tổ
chức của nhân dân tham gia sự nghiệp bảo vệ an ninh, trật tự. “Thế mà đoàn kết là
rất cần thiết, đoàn kết nội bộ ngành công an, đoàn kết với các ngành khác, đoàn kết
với nhân dân. Có thế thì công tác mới làm được” [99, tr.249]. Người nhắc nhở lực
lượng công an: “Đồng thời phải dựa vào các đoàn thể mà tổ chức và giáo dục nhân
dân trong công việc phòng gian, trừ gian, để nhân dân thiết thực giúp đỡ công an”
[94, tr.312]. Nghĩa là, công an phải tăng cường xây dựng mối quan hệ đoàn kết, gắn
bó với các cơ quan, đơn vị, đoàn thể trong hệ thống chính trị để thông qua đó, phát
huy, giáo dục, tuyên truyền, tổ chức quần chúng làm tốt công tác phòng ngừa, phát
hiện, đấu tranh, bảo vệ, giáo dục người lầm lỗi, giúp công an luôn hoàn thành tốt
nhiệm vụ giữ gìn trật tự, an ninh.
2.2.6. Phương pháp tiến hành công tác
Với những lý lẽ về khái niệm “nhân dân” và vai trò của họ, Hồ Chí Minh
nhận định rằng, “quần chúng không nhất luật như nhau”, trong dân chúng có nhiều
tầng lớp khác nhau, trình độ khác nhau, ý thức khác nhau, ý kiến khác nhau, có lớp
tiền tiến, có lớp lừng chừng, có lớp lạc hậu, nên Người đã đưa ra những nhận định
đầu tiên cho công tác dân vận: “Người lãnh đạo phải dùng hạng hăng hái trung kiên
cho sự lãnh đạo, do trung kiên đó mà kéo hạng vừa vừa và hạng kém lên”[93,
tr.329, 330]. Hồ Chí Minh nhấn mạnh, làm công tác vận động quần chúng bảo vệ an
ninh, trật tự, trước hết cần phải lựa chọn và sử dụng phương pháp cụ thể cho từng
đối tượng quần chúng nhân dân. Chỉ như vậy mới có thể khai thác được hết tiềm
61
năng và sức mạnh của họ. Theo Hồ Chí Minh, để thực hiện có hiệu quả công tác
vận động quần chúng bảo vệ an ninh, trật tự, người cán bộ công an cần thiết phải
thực hiện tốt các phương pháp cụ thể sau:
Một là, trong công tác vận động quần chúng bảo vệ an ninh, trật tự cần giải
thích cho dân hiểu, bàn với dân, tổ chức để dân thi hành, cùng dân kiểm thảo lại
công việc.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, công tác vận động quần chúng bảo vệ an ninh,
trật tự cần của Công an nhân dân phải bắt đầu bằng việc giải thích cho nhân dân
hiểu được rằng việc đó là cần thiết, là có lợi cho họ. Nếu chỉ có sách vở, chỉ thị…
thì dân vận khó có thể đi vào thực tiễn, điều này đồng nghĩa với việc Đảng và nhà
nước ta không bao giờ có thể phát huy hết được sức mạnh to lớn từ nhân dân.
Vì thế, Người yêu cầu nội dung, cách thức tuyên truyền, giải thích phải đơn
giản, dễ hiểu. Nghĩa là người cán bộ dân vận nói chung, cán bộ công an nói riêng
phải phải truyền tải được đường lối, chủ trương, chính sách, biện pháp, nhiệm vụ,
quyền hạn của nhân dân trong công tác giữ gìn an ninh, trật tự một cách ngắn gọn,
súc tích, đơn giản, biến những lý luận cao siêu thành những vấn đề đời thường mà
ai nghe cũng hiểu. Có như vậy, công tác vận động quần chúng mới thật sự có hiệu
quả. Trên tinh thần sâu sắc mà hết sức thực tế, Chủ tịch Hồ Chí Minh dạy lực lượng
Công an: “Tuyên truyền không cần phải nói tràng giang đại hải. Mà nói ngắn gọn,
nói những vấn đề thiết thực, chắc chắn làm được, để mọi người hiểu rõ và quyết
tâm làm bằng được” [102, tr.169]. Người lấy ví dụ: “Mỗi công an viên đóng chỗ
nào thì cần dạy cho dân quân, tự vệ nơi đó cách điều tra, xét giấy, phòng gian,v.v..
Dạy cho dân nơi đó giữ bí mật” [93, tr.499]; “mỗi dân tộc có một tiếng nói riêng, có
khi hai dân tộc một tiếng nói. Cán bộ đi làm việc chỗ nào phải học tiếng ở đấy”
[102, tr.168].
Qua tuyên truyền, giác ngộ, giải thích sẽ giúp quần chúng hiểu rõ hơn
quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của mình trong sự nghiệp bảo vệ an ninh, trật tự;
hiểu rõ vị thế làm chủ của mình. Đồng thời thông qua giải thích, thuyết phục, quần
chúng mới hiểu rõ âm mưu, phương thức thủ đoạn của kẻ địch và tội phạm, Người
lý giải: “Kinh nghiệm quốc tế chứng tỏ rằng: chống bọn phá hoại cũng như chống
mật thám Mỹ, cách tốt nhất là tổ chức và giáo dục nhân dân đến nơi đến chốn. Lòng
nồng nàn yêu nước và tinh thần cảnh giác của nhân dân, cộng với sự cố gắng của bộ
62
đội và công an - là cái lưới (thiên la địa võng), bất kỳ bọn phá hoại nào, bọn mật
thám nào cũng không lọt được cái lưới ấy của nhân dân” [98, tr.246, 247]. Người
còn cụ thể chỉ ra những kinh nghiệm đúc rút từ thực tế ở các địa phương cho các tổ
chức, cán bộ làm công tác dân vận: “Kinh nghiệm các địa phương cho biết: nơi nào
công việc kém là vì cán bộ xa dân chúng, không cùng dân chúng bàn bạc, không
giải thích, biết cùng dân chúng bàn bạc, nhưng chưa hoàn toàn. Nơi nào khá lắm là
vì việc gì to nhỏ, cán bộ cũng biết giải thích, biết cùng dân chúng bàn bạc đến nơi
đến chốn, dựa vào dân chúng” [93, tr.335].
Công tác dân vận trong lực lượng Công an nhân dân không chỉ dừng lại ở
việc làm cho dân nghe, dân hiểu mà phải tôn trọng, lắng nghe ý kiến của nhân dân,
bàn bạc với nhân dân. Hồ Chí Minh cho rằng, mỗi khẩu hiệu, mỗi công tác, mỗi
chính sách đều phải dựa vào ý kiến và kinh nghiệm của dân chúng, phải nghe theo
nguyên vọng của dân chúng. Người cán bộ công an làm công tác vận động quần
chúng phải giữ vững nguyên tắc: “1. Việc gì cũng phải học hỏi và bàn bạc với dân
chúng, giải thích cho dân chúng. 2. Tin vào dân chúng. Đưa mỗi vấn đề cho dân
chúng thảo luận và giải quyết. Chúng ta có khuyết điểm, thì thật thà thừa nhận trước
mặt dân chúng. Nghị quyết gì mà dân chúng cho là không hợp thì để họ đề nghị sửa
chữa. Dựa vào ý kiến của dân chúng mà sửa chữa cán bộ và tổ chức của ta” [93,
tr.337, 338].
Theo Hồ Chí Minh, nhân dân muốn thể hiện nguyện vọng của mình, muốn
được tôn trọng, được bày tỏ ý kiến. Vì vậy, “mỗi một khẩu hiệu, mỗi một công tác,
mỗi một chính sách của chúng ta, phải dựa vào ý kiến và kinh nghiệm của dân
chúng, phải nghe theo nguyện vọng của dân chúng” [93, tr.333]. Xuất phát từ cảm
nhận sâu sắc về nhân dân, Hồ Chí Minh khẳng định, lắng nghe, tôn trọng ý kiến của
nhân dân nhưng “chúng ta tuyệt đối không theo đuôi quần chúng” [93, tr.338].
Người chỉ ra rằng, biết giúp đỡ nhân dân cũng là biết trọng dân. Người cán bộ công
an làm công tác vận động quần chúng bảo vệ an ninh, trật tự phải giữ mối liên hệ
chặt chẽ với nhân dân, làm việc gì cũng phải giữ nguyên tắc bàn bạc cùng dân và
quan trọng là để giải thích cho dân hiểu, để qua đó khơi dậy tinh thần dân chủ và sự
hăng hái ở họ. Phải thực sự tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân.
Cùng với việc tuyên truyền, giải thích cho dân hiểu, bàn bạc với nhân dân,
người cán bộ công an còn phải biết vận động và tổ chức nhân dân tham gia bảo vệ
63
an ninh, trật tự. “Phải làm thế nào cho được lòng dân, phải thật sự giúp đỡ nhân dân
trong công việc chứ không phải là lối ngoại giao qua loa. Có như thế thì người dân
mới tích cực trở lại giúp đỡ công an” [95, tr.270]. Hồ Chí Minh đề cập đến nhiều
vấn đề, từ cách thức huy động nhân dân tham gia cho đến từng việc cụ thể trong quá
trình nhận thức công tác của cán bộ chiến sĩ công an. Người dạy: “Cán bộ và chiến
sĩ không những làm gương mẫu trong việc giữ bí mật mà còn phải tuyên truyền
giáo dục cho nhân dân giữ bí mật, nhân dân hiểu biết thì chẳng những giữ được bí
mật của ta mà còn dò được bí mật của địch” [95, tr.280]. Người luôn nhấn mạnh,
công tác công an phải dựa vào quần chúng và “vấn đề quan trọng nhất là giáo dục
tuyên truyền cho dân, để quản lý tốt tai, mắt, miệng của nhân dân, làm thế nào dân
giúp công an để phát hiện địch và giấu địch những điều của ta. Nói cho địch là phải
nói dối, nói cho ta thì phải nói thật…” [103, tr.140]. Đi sâu vào cách thức vận động
và tổ chức quần chúng, Hồ Chí Minh dạy công an: “Đối với nhân dân, không thể lý
luận suông” [95, tr.176] mà phải vận động nhân dân để nhân dân tự nguyện, tự giác.
Vì vậy, khi trao đổi với cán bộ chiến sĩ công an về biện pháp vận động và tổ chức
nhân dân tham gia đấu tranh bảo vệ an ninh, trật tự, Người nói: “Giáo dục không
phải là đưa sách vở bắt buộc dân học, làm thế tức là phản lại lợi ích của dân, của
cách mạng, là quan liêu, mệnh lệnh. Phải vận động nhân dân, để nhân dân tự
nguyện, tự giác, nếu bắt buộc thì chỉ có thể có kết quả ngay lúc đó thôi, còn sau thì
không thấm” [95, tr.448].
Cuối cùng, sau khi giải thích cho dân hiểu, bàn với dân, tổ chức để dân thi
hành, Hồ Chí Minh yêu cầu cần phải cùng dân kiểm thảo lại công việc. Người viết:
“Khi thi hành xong phải cùng với nhân dân kiểm thảo lại công việc, rút kinh
nghiệm, phê bình, khen thưởng” [94, tr.233]. Trong công tác vận động quần chúng
bảo vệ an ninh, trật tự thì tổng kết thực tiễn là kiểm nghiệm những chủ trương, kế
hoạch, biện pháp thực hiện được có hiệu quả cao hay thấp, đúng hay chưa đúng.
Chính qua tổng kết thực tiễn để phát hiện những sáng kiến, những điểm sáng,
những điển hình để nhân rộng, đồng thời để phát hiện ra những khoảng trống, kẽ
hở, những tồn tại yếu kém nhằm bổ sung, điều chỉnh, khắc phục, tránh được những
sai lầm trong thực tiễn công tác, Hồ Chí Minh dạy “Phải tăng cường công tác điều
tra, nghiên cứu tỏng kết và trao đổi kinh nghiệm giữa các ngành công an” [103,
tr.170]. Đồng thời qua đó để tổ chức khen thưởng, kỷ luật kịp thời. Từ đó động viên
64
được những tấm gương điển hình, nhắc nhở những tổ chức, cá nhân làm chưa tốt,
chưa thực sự hết mình. Đây là nội dung góp phần thi đua không những trong quần
chúng nhân dân mà trong cả lực lượng Công an nhằm thực hiện ngày càng tốt hơn
sự nghiệp bảo vệ an ninh, trật tự. Chính vì vậy, tổng kết, rút kinh nghiệm thực tiễn
là cơ sở để đổi mới nội dung, phương pháp và một trong những nội dung quan
trọng, không thể thiếu trong quá trình vận động quần chúng bảo vệ an ninh, trật tự.
Thực tiễn cho thấy, do có sự vận dụng tốt quan điểm của Hồ Chí Minh về
phương pháp phát huy vai trò của nhân dân qua công tác vận động, thuyết phục,
giáo dục mà trong suốt tiến trình cách mạng, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân
ta đã luôn tin, hiểu rõ trách nhiệm và quyền lợi của mình, nhận rõ âm mưu và thủ
đoạn hoạt động của kẻ địch. Từ đó tuyệt đại đa số nhân dân đã có những đóng góp
to lớn, phát huy được vai trò và sức mạnh vô địch, là lực lượng quyết định sự thắng
lợi của sự nghiệp bảo vệ an ninh, trật tự.
Hai là, cần phải gần dân, bám sát thực tiễn và sâu sát cơ sở khi thực hiện
công tác vận động quần chúng bảo vệ an ninh, trật tự với tinh thần “óc nghĩ, mắt
trông, tai nghe, chân đi, miệng nói, tay làm”.
Vận động quần chúng bảo vệ an ninh, trật tự là sự tác động có mục đích đối
với từng đối tượng và con người cụ thể, trong từng thời điểm và địa bàn cụ thể, đòi
hỏi lực lượng Công an khi tổ chức xây dựng phong trào quần chúng bảo vệ an ninh,
trật tự cần phải gần dân, phù hợp với đối tượng, phải căn cứ vào tình hình cụ thể và
phải đáp ứng được lợi ích, nguyện vọng của nhân dân. Để làm được điều này, Hồ
Chí Minh yêu cầu cán bộ, chiến sĩ công an cũng như tất cả mọi cán bộ làm công tác
dân vận khác phải có “óc nghĩ, mắt trông, tai nghe, chân đi, miệng nói, tay làm”
[94, tr.233].
Óc nghĩ được Hồ Chí Minh đặt ở vị trí hàng đầu, cho thấy Người đặc biệt đề
cao trí tuệ và yêu cầu về sự động não của người làm công tác dân vận. Trong bảo vệ
an ninh, trật tự, khi nói óc nghĩ (tư duy) tức là nói đến sự suy tính, tìm tòi những mô
hình bảo vệ an ninh, trật tự phù hợp với từng đối tượng, địa bàn và lợi ích của quần
chúng trong từng giai đoạn cách mạng.
Với tinh thần đó, trong mỗi thời kỳ, mỗi giai đoạn cách mạng, công tác vận
động quần chúng bảo vệ an ninh, trật tự phải được tổ chức, thực hiện bằng những
hình thức phù hợp. Thực tế cho thấy, ngay từ những ngày đầu mới giành được chính
65
quyền cũng như trong suốt cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, phong trào bảo vệ
an ninh, trật tự được tiến hành theo các mô hình “bảo mật phòng gian”, “diệt tề trừ
gian” với khẩu hiệu “Ba không” (không nghe, không biết, không thấy) luôn được phát
động trong khắp các vùng miền của cả nước, kể cả những nơi bị địch tạm chiếm, đã
thu hút đông đảo các tầng lớp nhân dân tham gia, tạo thành sức mạnh vô hiệu hóa
nhiều âm mưu và hoạt động chống phá của địch, không để chúng gây thiệt hại cho
cách mạng.
Cùng với óc nghĩ người cán bộ dân vận còn cần phải mắt trông, tai nghe,
chân đi tức là phải quan sát thực tiễn, phải sâu sát cơ sở để lắng nghe tâm tư nguyện
vọng của nhân dân để qua đó đề xuất hoặc đề nghị điều chỉnh chính sách cho phù
hợp rồi vận động nhân dân thực hiện các chủ trương, chính sách một cách tích cực
và hiệu quả. Theo đó, cách tổ chức và cách làm việc nào không phù hợp thì phải đề
nghị lên cấp trên bỏ đi hoặc sửa lại. Cách nào hợp với quần chúng, quần chúng cần,
thì dù chưa có sẵn, thì phải đề nghị lên cấp trên áp dụng. Tai nghe là biểu thị thái độ
biết lắng nghe và nghe những ý kiến khác nhau, đặc biệt là ý kiến mà nhân dân chân
thành góp ý, sự phê bình của nhân dân đối với mình để tìm ra cách thức và mô hình
bảo vệ an ninh, trật tự thật sự hiệu quả.
Theo Hồ Chí Minh, lực lượng công an các cấp cần chỉ đạo cán bộ chiến sĩ
thường xuyên gần gũi, tiếp xúc với quần chúng, để nắm tâm tư nguyện vọng và
những vướng mắc của quần chúng, đặc biệt đối với những vùng đồng dân tộc và
vùng miền núi khó khăn. Trên cơ sở đó, cán bộ, chiến sĩ công an phải tuyên truyền
vận động và giải thích cho quần chúng hiểu rõ vị trí, vai trò của phong trào quần
chúng bảo vệ an ninh, trật tự với công tác quản lý xã hội của Nhà nước và hoạt
động phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm của lực lượng Công an nhân dân. Đồng
thời tuyên truyền hướng dẫn quần chúng biết cách tham gia vào các hoạt động
phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm và các hoạt động khác để bảo vệ an ninh, trật
tự. Không những vậy, cán bộ công an làm công tác vận động quần chúng bảo vệ an
ninh, trật tự cũng cần phải chân đi để gần dân, sát dân, và cũng là để giúp chính
những cán bộ, chiến sĩ đó không xa rời và lạc hậu với thực tiễn sinh động của cơ sở.
Không chỉ nghe dân nói, mà cán bộ dân vận phải biết nói cho dân nghe. Vì
vậy, miệng nói là nói để dân biết, dân hiểu rõ các chính sách, chủ trương của Đảng
và Nhà nước; nói để dân hiểu được quyền lợi và và trách nhiệm của mình trong sự
66
nghiệp bảo vệ an ninh, trật tự. Theo đó, nếu nói là để dân nghe, thì tay làm là để dân
thấy, dân tin, dân học làm theo. Đây là một yêu cầu, một phương pháp hết sức quan
trọng đối với cán bộ, trong đó có cán bộ, chiến sĩ công an làm công tác vận động
nhân dân bảo vệ an ninh, trật tự. Vì có như thế người làm công tác vận động quần
chúng mới thấu hiểu tâm tư, nguyện vọng và đời sống thực sự của nhân dân để có
những quyết sách phù hợp với nhân dân, hướng dẫn nhân dân đi đúng hướng. Công
tác vận động phải tiến hành “từ dưới lên”, tránh tình trạng “từ trên dội xuống”, nếu
không công cuộc vận động sẽ rất dễ xa rời quần chúng, xa rời thực tiễn và như vậy
dân vận khó có thể thành công được.
Ba là, phát động khí thế cách mạng của nhân dân, xây dựng cho được phong
trào toàn dân bảo vệ an ninh, trật tự.
Trên cơ sở nhận thức sâu sắc về vai trò quyết định của quần chúng đối với
thắng lợi của sự nghiệp cách mạng, Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Việc gì mà một
mình, tuy có tài giỏi mấy cũng không làm được, mà nhiều người chung sức lại, thì
việc gì cũng làm được” [98, tr.310]. Nhân dân là chỗ dựa, là hậu thuẫn vững chắc,
là nguồn lực vô tận cho lực lượng công an. Trong Bài nói chuyện tại lớp chỉnh huấn
khóa 2 của Bộ Công an, ngày 16-5-1959, Người nói “Nhân dân có hàng triệu tai
mắt thì kẻ địch khó mà che giấu được. Nếu trong công tác, các cô các chú được dân
ủng hộ, làm cho dân tin, dân phục, dân yêu thì nhất định các cô các chú thành công”
[100, tr.223]. Theo Hồ Chí Minh, một khi các yếu tố tích cực trong nhân dân được
nhân rộng nảy nở như hoa mùa xuân thì cái xấu, tức các yếu tố làm mất trật tự, an
ninh sẽ tự mất dần. Hơn nữa khi “Mấy mươi vạn con mắt soi sáng, mấy mươi vạn
lỗ tai nghe ngóng, thì bọn gian phi, côn đồ sẽ lòi ra và sẽ phải cải tà quy chính dưới
lực lượng to lớn của quần chúng” [97, tr.77].
Bằng các dẫn chứng cụ thể trên các lĩnh vực của công tác công an, Hồ Chí
Minh đã chỉ rõ năng lực tiềm tàng của nhân dân. Người dạy cán bộ, chiến sĩ công
an phải học hỏi nhân dân và phê phán những biểu hiện lệch lạc như: “Khinh nhân
dân, cho là “dân ngu khu đen”; “bảo sao làm vậy, không hiểu được chính trị, lý luận
cao xa như mình” [95, tr.176]. Bởi theo Người: “Dân rất thông minh. Quần chúng
kinh nghiệm, sáng kiến rất nhiều. Chỉ cần mình có biết học hay lợi dụng mà thôi”
[96, tr.101]. Tuy nhiên, để trở thành động lực thúc đẩy sự phát triển thắng lợi của
cuộc đấu tranh, nếu chỉ số lượng và sức mạnh không thôi thì chưa đủ mà nhân dân
67
phải được giác ngộ, nhận thức đầy đủ và tự giác tham gia vào cuộc đấu tranh.
Sự bền vững của chế độ, sự ổn định và phát triển của đất nước, cuộc sống bình
yên, hạnh phúc của nhân dân phụ thuộc vào sự nhận thức và tự giác thực hiện nghĩa
vụ công dân của mỗi người với tư cách là chủ thể của sự nghiệp bảo vệ an ninh, trật
tự. Vì lẽ đó, vấn đề an ninh, trật tự được đặt ra không chỉ là nhiệm vụ của Nhà nước,
của công an mà trước hết phải coi đó là quyền lợi và nghĩa vụ của nhân dân.
Trong sự nghiệp bảo vệ an ninh, trật tự, nếu không được lòng dân, dân không
ủng hộ mà chỉ đơn thuần sử dụng nghiệp vụ công an thì khó đảm bảo thắng lợi. Vậy
nên Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Công an nhân dân hoàn toàn khác công an đế
quốc. Công an đế quốc là nanh vuốt của đế quốc để hà hiếp áp bức đa số nhân dân.
Công an nhân dân phải là kiểu mẫu, phải là người chuyên trách thi hành chính sách
phương châm của Đảng và Chính phủ cho tốt. Công an nhân dân phải thực sự phục
vụ nhân dân” [95, tr.269]. Hồ Chí Minh cho rằng bảo vệ an ninh, trật tự liên quan
trực tiếp đến lợi ích của mỗi người dân, có giữ vững an ninh, trật tự tốt thì nhân dân
mới an cư, lạc nghiệp. An ninh là nhu cầu cốt yếu của mỗi người dân, an ninh tốt thì
đời sống được yên vui, tính mạng và tài sản được bảo đảm.
Đồng thời, theo Hồ Chí Minh, giữ gìn trật tự, an ninh tốt còn là một tiêu chí
để khẳng định bản chất ưu việt của chế độ mới, của Nhà nước xã hội chủ nghĩa,
khác biệt hoàn toàn với bản chất áp bức, bóc lột, hiếp đáp của thực dân, đế quốc. Vì
vậy việc giữ gìn an ninh, trật tự của ta phải bảo đảm tốt, để cho thế giới nhìn vào và
nể trọng. Muốn vậy, không ai khác mà chính là toàn thể nhân dân, phải làm tròn
trách nhiệm của mình, thể hiện tốt vai trò là chủ thể, vai trò làm chủ, là chủ trong sự
nghiệp bảo vệ an ninh, trật tự.
Trong bài viết Công an và Nhân dân, ngày 18-8-1955, Chủ tịch Hồ Chí Minh
chỉ rõ: “Nhiệm vụ của công an là bảo vệ nhân dân, giữ gìn trật tự trị an, tẩy trừ những
kẻ gian tế. Muốn làm tròn nhiệm vụ nặng nề mà vẻ vang ấy, công an cần phải đoàn
kết nhân dân, tổ chức và giáo dục nhân dân, dựa vào lực lượng rộng lớn của nhân
dân. Như vậy nhân dân sẽ ra sức giúp công an làm tròn nhiệm vụ” [98, tr.83].
Thực tế cho thấy với sự phát triển của khoa học kỹ thuật và nghiệp vụ công
an, đã có biểu hiện cán bộ chiến sĩ công an coi trọng công tác nghiệp vụ đơn thuần,
68
trông cậy nhiều vào biện pháp kỹ thuật, coi nhẹ công tác phát huy sức mạnh toàn
dân tham gia bảo vệ an ninh, trật tự. Vì vậy, phải luôn ghi nhớ lời Hồ Chí Minh đã
dạy: “Nếu biết dựa vào nhân dân thì việc gì cũng xong” [93, tr.498]. Người căn dặn
rất cụ thể: “Công an phải hết sức cảnh giác, không được chủ quan, khinh địch, phải
dựa vào lực lượng của nhân dân, phải làm cho mỗi người dân hiểu nhiệm vụ bảo vệ
Tổ quốc, thì sẽ có hàng triệu người làm tai mắt giúp công an, giúp bộ đội. Bọn phá
hoại không sao lọt vào cái lưới tai mắt của nhân dân” [97, tr.503]. Đây chính là một
phương châm chiến lược của công tác công an. Huy động lực lượng nhân dân bằng
cách tuyên truyền giáo dục và tổ chức, cộng với năng lực của cơ quan chuyên môn
tạo thành mạng lưới an ninh nhân dân là bí quyết cho mọi thắng lợi của cuộc đấu
tranh bảo vệ an ninh, trật tự.
Từ thực tiễn hoạt động cách mạng phong phú, Hồ Chí Minh rút ra rằng: “Giữ
gìn trật tự, an ninh trước hết là việc của công an, bộ đội, cảnh sát. Nhưng chính
quyền ta là chính quyền dân chủ, bất kỳ việc to việc nhỏ đều phải dựa vào lực lượng
của nhân dân để phụng sự lợi ích của nhân dân. Việc giữ gìn an ninh, trật tự càng
phải dựa vào sáng kiến và lực lượng của nhân dân” [97, tr.77].
Bốn là, trong công tác vận động quần chúng bảo vệ an ninh, trật tự, người
cán bộ công an phải tự mình làm gương cho quần chúng.
Tự mình nêu gương là điểm đặc sắc trong phong cách dân vận Hồ Chí Minh.
Thực tế cho thấy, các dân tộc phương Đông vốn giàu tình cảm và đối với họ, một
tấm gương sống còn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền. Sự “nêu
gương” có sức lan tỏa, thuyết phục, hướng dẫn rất lớn và lâu dài. Theo đó, Hồ Chí
Minh đã nhấn mạnh, cán bộ, đảng viên phải gương mẫu, phải thiết thực, miệng nói,
tay làm để làm gương cho nhân dân. Nói hay mà không làm thì nói vô ích. “Họ phải
thật thà nhúng tay vào việc” [94, tr.234].
Theo đó, Hồ Chí Minh cho rằng, việc phát huy cao độ vai trò tiền phong,
gương mẫu của chính đội ngũ cán bộ, chiến sĩ công an về ý thức tu dưỡng, rèn
luyện đạo đức cách mạng, đạo đức nghề nghiệp, thường xuyên tự học nâng cao
trình độ chính trị, chuyên môn, nghiệp vụ và sáng tạo trong các hoạt động để cho
quần chúng noi theo là một trong những biện pháp có ý nghĩa quan trọng, quyết
định đến hiệu quả của công tác vận động quần chúng bảo vệ an ninh, trật tự.
69
Người động viên “Mỗi cán bộ công an phải cố gắng, gương mẫu trong học tập,
trong công tác, gương mẫu về đạo đức cách mạng” [99, tr.250].
Ngay từ khi chính quyền cách mạng mới ra đời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
xác định rõ bản chất cách mạng của Công an nhân dân: “Công an nhân dân phải là
kiểu mẫu, phải là người chuyên trách thi hành chính sách, phương châm của Đảng,
Chính phủ cho tốt. Công an nhân dân phải thực sự phục vụ nhân dân” [95, tr.269].
Người nhấn mạnh: “Mỗi người công an phải là một chiến sĩ... Tôi mong rằng toàn
thể công an sẽ cố gắng thi đua để lập công trong cuộc thắng lợi chung”[94, tr.313].
Bức thư Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi đồng chí Hoàng Mai, Giám đốc Công an Khu
XII về “Tư cách người Công an cách mệnh” chính là lời huấn thị chung cho toàn
lực lượng Công an nhân dân. “Tư cách người Công an cách mệnh” đã trở thành
chuẩn mực đạo đức, lối sống, mục tiêu phấn đấu, rèn luyện, phương châm hành
động, biện pháp công tác của các thế hệ cán bộ, chiến sĩ công an; là nguồn gốc,
động lực, cội nguồn sức mạnh để lực lượng Công an nhân dân vượt qua mọi khó
khăn, thử thách, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao.
Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh, quần chúng chỉ quý mến những người có tư
cách, đạo đức, chứ không phải ta cứ viết lên trán chữ “cộng sản” mà ta được họ yêu
mến. Cho nên cán bộ, đảng viên, trong đó có cán bộ, chiến sĩ công an phải tự mình
làm gương cho quần chúng. Người nhắc nhở cán bộ đảng viên, chiến sĩ công an là
dù cho có công tác ở đâu và bất cứ địa vị nào cũng phải làm gương cho quần chúng
noi theo. Bởi, muốn lãnh đạo vững thì trước hết bản thân họ phải có tư tưởng, lập
trường vững chắc để lãnh đạo, xung phong làm gương mẫu. Chính việc làm gương
mẫu của cán bộ, chiến sĩ công an là lực hút mạnh mẽ để nhân dân tin và làm theo
trong bảo vệ an ninh, trật tự.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng để quần chúng theo gương mình thì mỗi cán
bộ, chiến sĩ công an phải là một tấm gương sáng về “nói đi đôi với làm”. Đó chính
là sự thống nhất biện chứng giữa lời nói và việc làm đòi hỏi mỗi cán bộ, chiến sĩ
công an phải vừa nói hay, vừa làm giỏi. Tuy nhiên, sự thống nhất biện chứng ấy
không có nghĩa là lời nói và việc làm lúc nào cũng phải cân bằng tuyệt đối với nhau
mà luôn luôn tuỳ thuộc vào từng môi trường, lĩnh vực, công việc cụ thể. Trong đó,
đối với lời nói, Người nhấn mạnh: “Mỗi tư tưởng, mỗi câu nói, mỗi chữ viết, phải tỏ
rõ cái tư tưởng và lòng ước ao của quần chúng” [93, tr.345]. Theo lời dạy của Chủ
70
tịch Hồ Chí Minh, việc nói, viết của cán bộ, chiến sĩ công an phải phản ánh đúng
tâm tư, nguyện vọng, lợi ích của quần chúng nhân dân, đúng với thực tế khách
quan, phải ngắn gọn, rõ ràng, rõ mục đích, dễ nhớ, dễ hiểu và dễ vận dụng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng chỉ rõ, để làm gương cho quần chúng, người cán
bộ, chiến sĩ công an còn cần phải có tinh thần tự chỉ trích, cần phải nhận thức và tự
giáo dục không ngừng. Người viết: “Tuy công an là của nhân dân, nhưng đồng thời
cũng phải biết phê bình người phạm sai lầm. Trong nội bộ, công an cũng phải phê
bình nhau”, và cương quyết “Đối với người không sửa được thì phải tẩy trừ ra khỏi
ngành kẻo để lại thì con sâu làm rầu nồi canh” [95, tr.270]. Người cho rằng phê
bình là để đoàn kết. “Trong nội bộ phải thực hành dân chủ, phải luôn luôn tự kiểm
thảo để đi đến đoàn kết. Phê bình và tự phê bình phải từ trên xuống dưới, từ dưới
lên trên. Phê bình trên công tác cách mạng, phê bình để tiến bộ, không phải để soi
mói” [95, tr.270].
Tại Lớp chỉnh huấn khóa 2 của Bộ Công an, ngày 16 - 5 - 1959, Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã chỉ thị: “Làm công an thì phải làm cho dân tin yêu, dân ủng hộ. Có
dựa vào dân thì công an mới hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình… nếu trong công
tác, các cô các chú được dân ủng hộ, làm cho dân tin, dân phục, dân yêu thì nhất
định các cô các chú thành công. Muốn được như vậy cũng phải trau dồi đạo đức
cách mạng, cũng phải chống chủ nghĩa cá nhân” [100, tr.223]. Vì vậy, Người
thường nhắc nhở cán bộ, chiến sĩ công an phải lấy gương người tốt, việc tốt để hằng
ngày giáo dục lẫn nhau là một trong những cách tốt nhất để xây dựng Đảng, xây
dựng các tổ chức cách mạng, xây dựng con người mới, cuộc sống mới và coi đó là
một trong những nguyên tắc cơ bản của đạo đức cách mạng, là dũng khí của những
2.3. GIÁ TRỊ CỦA TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CÔNG TÁC VẬN
ĐỘNG QUẦN CHÚNG BẢO VỆ AN NINH TRẬT TỰ CỦA CÔNG AN NHÂN DÂN
cán bộ hết lòng phụng sự Tổ quốc, vì Đảng, vì dân, vì nước.
2.3.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác vận động quần chúng nhân
dân bảo vệ an ninh, trật tự của Công an nhân dân kết tinh giá trị tư tưởng, văn
hóa của dân tộc và nhân loại
Tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung, tư tưởng của Người về công tác vận động
quần chúng nhân dân bảo vệ an ninh, trật tự của Công an nhân dân nói riêng được
hình thành trên một cơ sở quan trọng là kết tinh các giá trị tư tưởng, văn hóa của
71
dân tộc và nhân loại. Chính điều đó góp phần quan trọng làm nên giá trị tự thân
trong tư tưởng của Người.
Trong lịch sử dân tộc Việt Nam, các triều đại phong kiến đều rất coi trọng vấn đề bảo vệ an ninh, trật tự. Các bộ luật qua các triều đại đều có những điều khoản chế tài đối với các loại tội phạm xâm phạm an ninh, trật tự. Chẳng hạn, đối với tội trộm cắp, Bộ Hình thư (thời Lý) quy định: Kẻ nào ăn trộm trâu của công thì bị xử 100 trượng, một con phạt thành 2 con. Kẻ nào ăn trộm lúa giống, đồ vật, nếu lấy được rồi thì phạt 100 trượng, chưa lấy được mà chống trả đánh người thành thương thì bị tội lưu (phạt đi đày). Thời Trần, luật quy định, người ăn trộm với mức độ nhẹ thì bị chặt ngón tay, nặng có thể tới mức cho voi giày chết. Bộ luật Hồng Đức (thời hậu Lê) có nhiều điều luật đề cập đến việc răn đe hành vi trộm cắp tài sản, mức phạt cao nhất là khổ sai hoặc lưu đày. Riêng hành vi trộm cắp tài sản của vua bị xử chém. Thời Nguyễn, Hoàng Việt luật lệ quy định: Phàm đã tiến hành trộm cắp nhưng không lấy được đồ thì bị phạt 50 roi, miễn xăm chữ. Trong trường hợp lấy được đồ, không kể là chia tang vật hay không, thủ phạm và người liên quan bị xăm hai chữ “ăn trộm” ở tay, mỗi chữ to 5 phân, nét to 5 ly, v.v… Ngoài việc chế tài xử phạt những kẻ vi phạm, các chính quyền phong kiến luôn giáo dục người dân nâng cao ý thức cảnh giác, tích cực phòng chống các âm mưu, hành vi xâm phạm an ninh, trật tự. Tinh thần tự quản, giữ gìn an ninh, trật tự trong làng xã cũng được nêu cao. Có thể thấy rõ, truyền thống dĩ dân vi bản, chú trọng vận động và phát huy nhân dân bảo vệ an ninh, trật tự trong lịch sử dân tộc đã được Hồ Chí Minh chọn lọc, tiếp thu, qua đó góp phần hình thành nên tư tưởng của Người với nhiều nét độc đáo, sáng tạo.
Trong tư tưởng, văn hóa truyền thống phương Đông, Nho gia và Pháp gia cũng đặc biệt coi trọng vấn đề chính quyền phải vận động, tổ chức nhân dân bảo vệ an ninh, trật tự. Nho gia tuy coi trọng đạo đức, không tán đồng với những quy định luật pháp tuy có thể đúng, nhưng làm tổn hại các giá trị đạo đức nền tảng của xã hội, song không vì thế mà coi nhẹ pháp luật. Trái lại, họ muốn xây dựng một nền tảng đạo đức vững chắc trong mỗi con người, mỗi gia đình và trong toàn xã hội. Trên nền tảng đó dẫn dắt, kiểm soát, điều chỉnh hành vi của mọi người. Nói cách khác, họ muốn xây dựng một thứ luật pháp sinh ra từ đạo đức, mang bản chất đạo đức. Đó cũng là một cách độc đáo để kiến tạo và huy động lực lượng của toàn xã hội nhằm bảo vệ an ninh, trật tự.
72
Trong sách Luận ngữ, chương Học nhi, có chép lời của Khổng tử: Làm người, có nết hiếu, đễ thì ai dám xúc phạm bề trên. Không thích xúc phạm bề trên mà thích làm loạn thì chưa từng có. Người quân tử chăm chú vào việc gốc, gốc mà vững thì đạo đức sinh ra. Hiếu, đễ là cái gốc của đức nhân. Nếu Nho gia muốn xây dựng một xã hội an ninh, trật tự từ trong lòng người, thì Pháp gia lại chú trọng xây dựng một xã hội với luật pháp mạnh, với những cách thức cụ thể để phát huy vai trò của nhân dân trong bảo vệ an ninh trật tự. Thương Ưởng (hay còn gọi là Thương quân, Vệ Ưởng), là một trong những nhà tư tưởng tiên phong của Pháp gia, chủ trương trọng Pháp. Ông đã tiến hành cải cách pháp luật của nước Tần, qua đó góp phần làm cho nước Tần lớn mạnh. Về vấn đề bảo vệ an ninh trật tự, Thương Ưởng đề xuất một biện pháp độc đáo: chia dân thành từng nhóm, năm hộ, mười hộ, phải kiểm soát nhau và bị ràng buộc vào nhau, lại ra lệnh ai không tố cáo kẻ gian thì bị chém ngang lưng; ai tố cáo kẻ gian thì cũng được thưởng ngang với người chém đầu quân địch; người che giấu quân gian bị phạt ngang với người đầu hàng quân địch. Với biện pháp tổ chức nghiêm ngặt này, trật tự, trị an trong xã hội được bảo đảm, cho mọi người yên ổn làm ăn, đất nước nhờ đó mà phát triển. Chủ tịch Hồ Chí Minh xuất thân trong một gia đình nhà Nho, nhưng Người không chỉ tiếp thu những giá trị trong tư tưởng Nho gia, mà còn coi trọng việc chắt lọc tinh hoa trong các trường phái tư tưởng để làm giàu cho vốn tri thức của mình. Tinh hoa tư tưởng, văn hóa phương Đông thật sự là một cơ sở quan trọng hình thành nên tư tưởng của Người về công tác bảo vệ an ninh trật tự của Công an nhân dân.
Năm 1911, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành rời Việt Nam đi tìm con đường cứu nước. Người đã có một hành trình trải nghiệm vô cùng sâu sắc suốt 30 năm qua nhiều vùng đất, nhiều nền văn hóa. Chính trong hành trình này, nhiều giá trị tư tưởng, văn hóa phương Tây đã được Hồ Chí Minh chọn lọc, tiếp thu, trong đó, nổi bật chính là tư tưởng, văn hóa dân chủ, pháp quyền. Nghiên cứu nhiều tác phẩm của các nhà tư tưởng thời Phục hưng - Khai sáng, nhiều văn kiện chính trị - pháp lý quan trọng, có giá trị tầm cỡ thế giới, trực tiếp tham gia vào quá trình vận hành đời sống chính trị của nhiều nước tư bản phát triển phương Tây, v.v, Hồ Chí Minh hiểu sâu sắc vị trí, vai trò của người dân trong đời sống xã hội. Tư tưởng dân là chủ và dân làm chủ của người từng bước hình thành. Người dân là người chủ, có quyền và trách nhiệm làm chủ trong toàn bộ đời sống xã hội, trong đó có vấn đề bảo vệ an ninh, trật tự. Dân chủ đi liền với pháp quyền. Pháp quyền là quyền lực của
73
pháp luật, mà thực chất là sự thể hiện quyền lực của nhân dân, dưới hình thức luật pháp. Luật pháp là vũ khí bảo vệ người dân, là khung khổ để người dân tham gia một cách tích cực, chủ động và hiệu quả vào đời sống chính trị - xã hội, trong đó có các hoạt động bảo vệ an ninh, trật tự.
Cũng trong quá trình tìm tòi, khảo nghiệm ở phương Tây, Hồ Chí Minh không chỉ phát hiện ra những giá trị riêng, mà còn tìm ra những điểm cộng hưởng giữa phương Đông và phương Tây, đặc biệt là về văn hóa chính trị, văn hóa công dân. Không phải ngẫu nhiên mà Hồ Chí Minh là một trong những người sớm nói và nói nhiều đến vấn đề đạo đức công dân, và trong đạo đức công dân có vấn đề người dân phải tích cực bảo vệ an ninh, trật tự. Người mong muốn thông qua giáo dục và nhiều biện pháp khác để xây dựng nên những công dân đầy trách nhiệm đối với đất nước và xã hội, Người mong muốn hình thành nên trong xã hội một hệ thống giá trị định hướng nhận thức và hành vi, để khi có bất cứ tình huồng nào xuất hiện, người dân sẽ thực sự là thiên la địa võng, là tấm lá chắn vững chắc bảo vệ an ninh, trật tự. Tinh hoa văn hóa Đông - Tây thực sự đã hòa quyện để hình thành nên hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh với nhiều nội dung phong phú, đặc sắc, trong đó có tư tưởng về công tác vận động quần chúng bảo vệ an ninh, trật tự của Công an nhân dân.
Xuất phát từ quan điểm quần chúng là người làm nên lịch sử, cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác - Lênin, ngay từ khi xây dựng học thuyết cách mạng, đã đặt trọng tâm vào công tác nghiên cứu, xây dựng, phát triển lý luận về công tác vận động quần chúng. Theo các ông, vận động quần chúng tức là Đảng lãnh đạo, chính quyền giáo dục, tuyên truyền, động viên để thu hút một cách toàn diện, rộng rãi các tầng lớp nhân dân, đưa họ tham gia vào các công việc, hoạt động xã hội một cách tự giác và với tinh thần cách mạng cao nhất: “Nhất thiết phải công tác ở bất cứ nơi nào có quần chúng. Phải biết tự nguyện chịu mọi sự hy sinh, vượt những trở ngại lớn nhất để tiến hành một công tác tuyên truyền và cổ động có hệ thống, bền bỉ, dẻo dai và nhẫn nại, chính ngay trong các cơ quan, các hội, các tổ chức - thậm chí phản động nhất - nghĩa là bất cứ ở nơi nào có quần chúng vô sản hay nửa vô sản” [155, tr.47].
Thậm chí, theo Lê nin, vận động quần chúng còn là công việc giáo dục, tuyên truyền không chỉ đối với quần chúng trong một nước, mà còn đối với quần chúng lao động quốc tế, để tạo nên một lực lượng mang tính toàn thế giới cùng đấu tranh thực hiện lý tưởng cộng sản chủ nghĩa: “Phải làm cho học thuyết cộng sản
74
chân chính dành cho những người cộng sản ở các nước tiên tiến hơn, dịch ra tiếng nói của mỗi dân tộc; phải hoàn thành những nhiệm vụ thực tế cần hoàn thành tức khắc và phải liên hiệp với vô sản ở tất cả các nước để cùng nhau đấu tranh… Nên mở đường đi vào quần chúng lao động và bị bóc lột của các nước, và nói làm sao cho họ hiểu được rằng, mối hy vọng duy nhất của họ muốn được giải phóng, là thắng lợi của cách mạng thế giới, rằng giai cấp vô sản quốc tế là người bạn đồng minh duy nhất của hàng trăm triệu người lao động và bị bóc lột thuộc các dân tộc phương Đông” [154, tr.373-374, 346]. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về vận động quần chúng trong sự nghiệp cách mạng là nền tảng khoa học để hình thành nên tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác vận động quần chúng bảo vệ an ninh, trật tự của Công an nhân dân.
Tóm lại, tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác vận động quần chúng bảo vệ an ninh, trật tự của Công an nhân dân có giá trị đặc sắc, bởi trong đó kết tinh, hội tụ nhiều giá trị tiêu biểu trong tư tưởng, văn hóa của nhân loại. Hồ Chí Minh không chỉ tiếp biến nhiều giá trị tư tưởng, văn hóa nhân loại, mà còn phát triển, làm phong phú chúng trên cơ sở tổng kết thực tiễn Việt Nam và thế giới, khảm nhập vào trong đó những dấu ấn đậm chất đạo đức, nhân cách Hồ Chí Minh. Chính vì thế, việc nhận thức và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác vận động quần chúng bảo vệ an ninh, trật tự của Công an nhân dân trong bối cảnh hiện nay là vô cùng cần thiết.
2.3.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng, định hướng cho Đảng, Nhà
nước và lực lượng Công an nhân dân trong công tác vận động quần chúng
nhân dân bảo vệ an ninh, trật tự
Về Công tác vận động quần chúng, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam
ngay từ đầu đã thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh. Trong thời kỳ đổi mới, tư tưởng
Hồ Chí Minh về vận động quần chúng càng được Đảng Cộng sản Việt Nam nhận
thức và vận dụng một cách sáng tạo. Đảng đã ban hành nhiều chỉ thị, nghị quyết về
công tác vận động nhân dân, trong đó đặc biệt quan trọng là Nghị quyết 8B-
NQ/TW “Về đổi mới công tác quần chúng của Đảng, tăng cường mối quan hệ giữa
Đảng và nhân dân” được Hội nghị Trung ương 8 (khóa VI) ban hành ngày
27/3/1990. Theo tinh thần đổi mới, nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật,
nói rõ sự thật, Nghị quyết 8B đã chỉ rõ những hạn chế, khuyết điểm trong công tác
vận động quần chúng, đồng thời chỉ rõ những nguyên nhân, chủ yếu là nguyên nhân
75
chủ quan, dẫn đến những hạn chế khuyết điểm này. Từ đó, Nghị quyết nêu lên các
quan điểm chỉ đạo quan trọng: Một là, cách mạng là sự nghiệp của dân, do dân và vì
dân. Chúng ta cần tiếp tục phát huy khả năng to lớn của các giai cấp, các tầng lớp
nhân dân, tạo nên sức mạnh của cộng đồng dân tộc, phấn đấu xây dựng nước Việt
Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh, vì hạnh phúc của nhân dân; Hai là, động lực thúc
đẩy phong trào quần chúng là đáp ứng lợi ích thiết thực của nhân dân và kết hợp hài
hoà các lợi ích, thống nhất quyền lợi với nghĩa vụ công dân; Ba là, các hình thức tập
hợp nhân dân phải đa dạng; Bốn là, công tác quần chúng là trách nhiệm của Đảng,
Nhà nước và các đoàn thể.
Đặc biệt, Nghị quyết 8B đã dành hẳn một mục trong Phần thứ ba để nói đến
vấn đề Toàn dân chăm lo công tác quốc phòng, an ninh. Quan điểm cụ thể như sau:
(1) Trong tình hình mới, nhân dân ta càng phải tích cực tham gia chăm lo công tác
quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân, bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững an
ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội trong mọi tình huống. (2) Quân đội, công an
thường xuyên nâng cao ý chí cách mạng, tinh thần sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu
tốt, tiến hành cuộc đấu tranh chống tiêu cực, làm trong sạch nội bộ, thi hành nghiêm
pháp luật của Nhà nước; phát huy truyền thống tốt đẹp quan hệ "cá nước" giữa quân
với dân, tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện đường lối, chính sách của Đảng
và Nhà nước, giúp đỡ nhân dân trong sản xuất và đời sống, thực hiện nghiêm chỉnh
lời dạy của Bác Hồ về kỷ luật trong quan hệ với dân. (3) Toàn dân đề cao trách
nhiệm bảo vệ, chăm sóc, giúp đỡ bộ đội, công an hoàn thành tốt nhiệm vụ mà nhân
dân giao phó; thực hiện tốt chính sách hậu phương quân đội [55, tr.12].
Có thể thấy, nội dung Nghị quyết 8B tập trung nhiều quan điểm chỉ đạo quan
trọng, mang tính chiến lược của Đảng Cộng sản Việt Nam về công tác vận động
quần chúng nhân dân, bao gồm cả vấn đề Công an nhân dân vận động quần chúng
bảo vệ an ninh, trật tự, và trong đó, dấu ấn của tư tưởng Hồ Chí Minh là vô cùng
đậm nét.
Trên tinh thần đó Đảng, Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản như: Nghị
quyết số 07-NQ/BCT của Bộ Chính trị về “Tăng cường Mặt trận dân tộc thống
nhất” ngày 17/11/1993; Chỉ thị số 18-CT/2000/TTg của Thủ tướng Chính phủ
về “Tăng cường công tác dân vận” ngày 21/9/2000; Nghị quyết Hội nghị Trung
76
ương 7 (khóa IX) năm 2003 về “Phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc vì dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”, v.v… nhằm tiếp tục cụ
thể hóa, thể chế hóa nội dung Nghị quyết 8B.
Ngày 01- 12- 2011, Ban Bí thư Trung ương Đảng đã ra Chỉ thị số 09/
CT/TW về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với phong trào toàn dân bảo vệ
an ninh Tổ quốc trong tình hình mới”. Chỉ thị của Ban Bí thư đã xác định rõ mục
tiêu; đề ra 03 yêu cầu, 07 nhiệm vụ, giải pháp để tổ chức thực hiện.
Và sau đó, Nghị quyết số 25-NQ/TW ngày 03 tháng 6 năm 2013 về “tăng
cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận trong tình hình
mới” của Ban Chấp hành Trung ương khóa XI đã phát triển thêm một bước quan
điểm của Đảng về công tác vận động quần chúng.
Trong 7 nhiệm vụ và giải pháp, Nghị quyết số 25 dành nhiệm vụ và giải
pháp thứ 4 để đề cập đến vấn đề: Đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước, góp phần
thúc đẩy quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, hội nhập quốc tế, giữ vững độc
lập chủ quyền, an ninh chính trị.
Cũng như ở Nghị quyết 8B, Nghị quyết 25 càng thể hiện rõ nét hơn sự tiếp
thu và vận dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với tư tưởng Hồ Chí Minh về
vận động quần chúng. Như vậy, điểm qua 2 Nghị quyết quan trọng của Đảng trong
thời kỳ đổi mới, có thể thấy rõ giá trị to lớn của tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác
vận động quần chúng. Chính sự ra đời của các văn kiện quan trọng của Đảng và
Nhà nước trong đó in đậm dấu ấn tư tưởng Hồ Chí Minh cùng với nhưng chuyển
biến tích cực trong thực tiễn mà đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà
nước tạo nên là minh chứng thuyết phục nhất cho giá trị của tư tưởng Hồ Chí Minh
về dân vận nói chung, về công tác vận động quần chúng bảo vệ an ninh trật tự nói
riêng.
Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh, những quan điểm, đường lối chỉ đạo của Đảng, Nhà nước, Đảng ủy Công an trung ương và lãnh đạo Bộ Công an đã luôn khẳng định sức mạnh của Công an nhân dân bắt nguồn từ sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân. Làm tốt công tác vận động quần chúng là điều kiện cơ bản để nhân dân thực hiện quyền làm chủ trên lĩnh vực bảo vệ an ninh, trật tự; để tập hợp, thu hút, hướng dẫn, nâng cao năng lực trong việc giải quyết những yêu cầu, nhiệm
77
vụ bảo vệ an ninh, trật tự… tạo thế trận phòng ngừa xã hội, làm nền tảng và tạo điều kiện cho lực lượng công an tập trung triển khai sâu rộng phòng ngừa nghiệp vụ, phòng, chống tội phạm, xây dựng lực lượng Công an trong sạch, vững mạnh.
Trên nền tảng tư tưởng Hồ Chí Minh và các văn bản chỉ đạo của Đảng, Nhà nước, có thể khái quát quan điểm, phương châm, nguyên tắc chỉ đạo của Ngành Công an đối với công tác vận động quần chúng bảo vệ an ninh, trật tự trong giai đoạn hiện nay gồm những vấn đề cơ bản sau: (1). “Dân là gốc của nước”, “Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng” và nhân dân là nền tảng trong sự nghiệp bảo vệ an ninh, trật tự. (2). Công tác vận động quần chúng tiến hành cuộc đấu tranh bảo vệ an ninh, trật tự là vấn đề chiến lược, thực hiện theo cơ chế Đảng lãnh đạo, chính quyền quản lý, điều hành, Mặt trận Tổ quốc tập hợp lực lượng, các ban ngành, đoàn thể và toàn thể nhân dân tích cực tham gia, lực lượng công an làm tham mưu và là lực lượng nòng cốt, xung kích. (3). Mục tiêu, nội dung phải gắn liền và đáp ứng lợi ích thiết thực của nhân dân, kết hợp hài hòa các lợi ích, thống nhất quyền lợi với nghĩa vụ của công dân. (4). Tổ chức thực hiện phải gắn liền và phục vụ nhiệm vụ xây dựng, phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và các địa phương trong từng hoàn cảnh cụ thể. (5). Vận động toàn dân tham gia bảo vệ an ninh Tổ quốc phải đi đối với tấn công trấn áp tội phạm, kết hợp tính tích cực quả quần chúng với các biện pháp nghiệp vụ của cơ quan chuyên môn.
Toàn bộ những giá trị, bao gồm cả giá trị lý luận và giá trị thực tiễn, kết tinh trong tư tưởng Hồ Chí Minh cho thấy rõ, trong bối cảnh hiện nay, để phát huy những thành quả đã đạt được, khắc phục những hạn chế đang tồn tại, giải quyết những vấn đề mới xuất hiện, việc nghiên cứu, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác vận động quần chúng bảo vệ an ninh, trật tự của lực lượng Công an nhân dân càng trở nên cấp thiết và có ý nghĩa vô cùng to lớn.
Tiểu kết chương 2
Quan điểm về vận động quần chúng bảo vệ an ninh, trật tự nằm trong hệ
thống quan điểm về công tác vận động quần chúng trong sự nghiệp cách mạng của
Hồ Chí Minh. Xuất phát từ quan điểm “cách mạng là sự nghiệp của quần chúng”,
Hồ Chí Minh đã xác định bảo vệ an ninh, trật tự là sự nghiệp của toàn dân. Vận
78
động nhân dân tham gia sự nghiệp đó là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, trong
đó lực lượng Công an nhân dân làm nòng cốt.
Trong di sản Hồ Chí Minh, riêng liên quan lĩnh vực bảo vệ an ninh, trật tự,
thống kê chưa đầy đủ đã có 43 câu nói, viết liên quan đến nhân dân. Điều đó cho
thấy sự quan tâm của Người đối với mối quan hệ sâu sắc giữa nhân dân và công an
cũng như tầm quan trọng của công tác bảo vệ an ninh, trật tự cho nhân dân. Bảo vệ
an ninh cho nhân dân vừa là mục tiêu vừa là động lực của Công an nhân dân. Nhân
dân là lực lượng to lớn nhất, vĩ đại nhất quyết định sự thành bại của sự nghiệp bảo
vệ an ninh, trật tự. Đồng thời, phải giáo dục nhân dân cách thức, biện pháp bảo vệ
an ninh, trật tự có hiệu quả. Đây là một nét đặc sắc riêng có của Nhà nước ta so với
các nhà nước khác đã và đang tồn tại trong lịch sử.
Công tác vận động quần chúng bảo vệ an ninh, trật tự của Công an nhân dân
là một trong những nội dung hết sức quan trọng trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Trên
cơ sở phân tích rõ mục đích, đối tượng, nội dung và lực lượng phụ trách công tác
vận động quần chúng trong bảo vệ an ninh, trật tự, Hồ Chí Minh đã đề ra những
nguyên tắc, phương pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả của công tác này trong
Công an nhân dân. Tư tưởng của Hồ Chí Minh về công tác vận động quần chúng
bảo vệ an ninh, trật tự của Công an nhân dân không chỉ thể hiện trong các bài nói,
bài viết mà còn được thể hiện đậm nét, đầy sức thuyết phục bằng cuộc đời hoạt
động lãnh đạo cách mạng của Người, từ quá trình thành lập Đảng Cộng sản Việt
Nam đến quá trình đấu tranh giành chính quyền, thành lập, xây dựng, củng cố và
phát triển bộ máy Đảng, Nhà nước. Do bản chất của vấn đề và cách thức giải quyết,
hệ thống tư tưởng đó đã vượt qua thời gian, tiếp tục có ý nghĩa chỉ đạo công tác vận
động quần chúng bảo vệ an ninh, trật tự của lực lượng Công an nhân dân trong tình
hình mới ở nước ta hiện nay.
79
Chương 3
CÔNG TÁC VẬN ĐỘNG QUẦN CHÚNG BẢO VỆ AN NINH,
TRẬT TỰ CỦA LỰC LƯỢNG CÔNG AN NHÂN DÂN TRONG HƠN
30 NĂM QUA THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
3.1. THỰC TRẠNG CÔNG TÁC VẬN ĐỘNG QUẦN CHÚNG BẢO VỆ AN
NINH, TRẬT TỰ TRONG HƠN 30 NĂM QUA CỦA CÔNG AN NHÂN DÂN THEO
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
3.1.1. Những thành tựu cơ bản
Trong hơn 30 năm tiến hành đổi mới (1986 - nay), dưới ánh sáng tư tưởng
Hồ Chí Minh, đường lối của Đảng, sự chỉ đạo điều hành trực tiếp của Chính phủ,
được sự phối hợp, giúp đỡ của các ngành, các cấp và nhân dân, lực lượng Công an
nhân dân đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao, góp phần vào sự nghiệp đổi
mới đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Để hoàn thành được nhiệm vụ đó, lực
lượng Công an đã làm tốt các công tác trong đó có công tác vận động quần chúng
bảo vệ an ninh, trật tự với những thành tựu cơ bản như sau:
3.1.1.1. Tham mưu đắc lực cho Đảng, Nhà nước và trực tiếp chỉ đạo, tổ
chức thực hiện công tác vận động quần chúng bảo vệ an ninh, trật tự
Một là, Tham mưu cho Đảng và Nhà nước
Từ thực tiễn cách mạng, quán triệt sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh: “Cách
mạng là sự nghiệp của quần chúng, chứ không phải sự nghiệp của cá nhân anh hùng
nào. Thành công của Đảng ta đã tổ chức và phát huy lực lượng cách mạng vô tận
của nhân dân” [100, tr.672], Đảng ta đã rút ra những bài học kinh nghiệm cho giai
đoạn này là: “trong toàn bộ hoạt động của mình, Đảng phải quán triệt hơn nữa tư
tưởng “lấy dân làm gốc”, xây dựng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao
động. Đảng ta không có mục đích nào khác là đấu tranh vì hạnh phúc của nhân dân.
Quần chúng là người làm nên lịch sử” [150, tr.458].
Được sự tham mưu đắc lực của lực lượng Công an, Đảng ta đã luôn xác định
tầm quan trọng của sự nghiệp bảo vệ an ninh quốc gia và giữ gìn trật tự an toàn xã
hội trong thời kỳ đổi mới của đất nước. Điều đó đã thể hiện rõ nét qua văn kiện các
kỳ đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII đã đánh giá cao thành tích vận động
quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc:
80
Chúng ta đã liên tục phát động phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ
quốc, sáng tạo nhiều nội dung và hình thức phong phú bảo vệ an ninh,
trật tự, khôi phục và củng cố được nhiều phong trào ở nhiều nơi, nhất là
ở một số địa bàn trọng điểm trên các tuyến biên giới, bờ biển, thành phố
lớn…; liên kết và hình thành các tuyến, các khu an toàn liên hoàn, chủ
động phòng ngừa và tích cực tấn công các loại tội phạm [45, tr.38].
Nhất quán quan điểm huy động sức mạnh toàn dân bảo vệ an ninh, trật tự,
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII tiếp tục nhấn mạnh: “Phát huy sức mạnh tổng
hợp của toàn dân, của cả hệ thống chính trị, từng bước tăng cường tiềm lực quốc
phòng và an ninh của đất nước, xây dựng vững chắc nền quốc phòng toàn dân, thế
trận quốc phòng toàn dân, gắn với nền an ninh nhân dân và thế trận an ninh nhân
dân… bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và chủ nghĩa xã hội
ở nước ta” [47, tr.61].
Báo cáo chính trị Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX khẳng định “sức mạnh
bảo vệ Tổ quốc là sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân, của cả hệ thống chính
trị dưới sự lãnh đạo của Đảng, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức
mạnh của lực lượng và thế trận an ninh nhân dân” [49, tr.42].
Trước tình hình mới xuất hiện những mâu thuẫn, tranh chấp phát sinh trong
xã hội, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X đề ra phương châm “xây dựng thế trận
lòng dân làm nền tảng phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, trong đó Quân
đội nhân dân và Công an nhân dân là nòng cốt” [52, tr.36].
Đến Đại hội toàn quốc lần thứ XI và Đại hội lần thứ XII của Đảng luôn chủ
trương nhất quán: “Tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh; xây dựng thế trận
quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân vững chắc… Xây dựng “thế trận lòng dân”
tạo nền tảng vững chắc xây dựng nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân”
[54, tr.26].
Ngay từ thời kỳ đầu của sự nghiệp đổi mới đất nước, lực lượng Công an
cũng đã tích cực, chủ động tham mưu cho Đảng và Nhà nước đề ra nhiều chủ
trương quan trọng chỉ đạo công tác công an nói chung và công tác vận động quần
chúng bảo vệ an ninh, trật tự nói riêng.
Ngày 30/11/1987, Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 07/NQ-TW “Về nhiệm vụ
81
bảo vệ an ninh quốc gia và giữ gìn trật tự an toàn xã hội trong tình hình mới”, đã
nhấn mạnh việc thường xuyên giáo dục toàn Đảng, toàn dân, toàn quân nâng cao
cảnh giác cách mạng, đẩy mạnh phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc,
xây dựng trận địa an ninh vững chắc, hiệu quả trong tình hình mới.
Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh và các bài học kinh nghiệm của cách mạng
Việt Nam do Đại hội VI của Đảng đã tổng kết, Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành
Trung ương Đảng khóa VI đã ra Nghị quyết số 8B/NQ-HNTW về “Đổi mới công
tác quần chúng của Đảng, tăng cường mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân” đã
khẳng định:“Quan hệ mật thiết giữa Đảng và nhân dân đã trở thành nguồn sức
mạnh và truyền thống vô cùng quý báu của cách mạng Việt Nam” và xác định 4
quan điểm chỉ đạo công tác vận động quần chúng trong giai đoạn mới là: “Cách
mạng là sự nghiệp của dân, do dân và vì dân; động lực thúc đẩy phong trào quần
chúng là đáp ứng lợi ích thiết thực của nhân dân và kết hợp hài hòa lợi ích, thống
nhất giữa quyền lợi và nghĩa vụ công dân; các hình thức tập hợp nhân dân phải đa
dạng; công tác vận động quần chúng là nhiệm vụ của Đảng, Nhà nước và các đoàn
thể” [55, tr.43-52].
Ngày 01-12-2011, từ yêu cầu thực tiễn sinh động công tác bảo vệ an ninh,
trật tự phục vụ sự nghiệp đổi mới của đất nước, lực lượng Công an đã tham mưu
Ban Bí thư Trung ương Đảng ban hành Chỉ thị số 09- CT/TW về “ Tăng cường sự
lãnh đạo của Đảng đối với phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc trong tình
hình mới” nhằm giữ vững ổn định chính trị, đảm bảo trật tự an toàn xã hội, bảo vệ
Đảng, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ cuộc sống bình yên và hạnh phúc của
nhân dân, góp phần phục vụ công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Phấn đấu đến
năm 2020 không còn xã, phường, thị trấn, đơn vị có phong trào yếu. Ngoài mục tiêu
trên, Chỉ thị của Ban Bí thư đã đề ra 03 yêu cầu, 07 nhiệm vụ, giải pháp để tổ chức
thực hiện.
Điểm phát triển nổi bật là Ban Bí thư đã xác định rõ và đầy đủ nhiệm vụ của
cấp ủy, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên và người lãnh đạo
từ trung ương đến cơ sở phải xác định công tác xây dựng phong trào toàn dân bảo
vệ an ninh Tổ quốc là một trong những nhiệm vụ trọng tâm, thường xuyên của
mình, hằng năm đề ra chương trình, kế hoạch để thực hiện có hiệu quả, gắn với việc
thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị của đơn vị, địa phương; định kỳ sơ kết, tổng
82
kết, đánh giá tình hình, kết quả thực hiện. Đồng thời chỉ rõ người đứng đầu cấp ủy
và chính quyền các cấp phải chịu trách nhiệm chỉ đạo tổ chức thực hiện phong trào
toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc và chịu trách nhiệm về tình hình an ninh, trật tự ở
địa phương. Mỗi cán bộ, đảng viên có trách nhiệm tự giác thực hiện, đồng thời chủ
động tuyên truyền, giáo dục vận động gia đình và nhân dân tích cực tham gia phong
trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc.
Với tinh thần đổi mới mọi mặt để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình
mới, lực lượng Công an nhân dân đã chủ động, tích cực tham mưu cho Đảng, Quốc
hội và Nhà nước nhiều vấn đề cơ bản, mang tính chiến lược để huy động sức mạnh
toàn dân tham gia phong trào bảo vệ an ninh Tổ quốc, xây dựng lực lượng nòng cốt
làm nhiệm vụ bảo vệ an ninh, trật tự và xử lý các vấn đề phát sinh trong quá trình
hội nhập, phát triển đất nước. Cụ thể là các Luật và văn bản dưới luật như sau:
Luật An ninh quốc gia (2004), Luật Công an nhân dân (2005) và Luật Công
an nhân dân (sửa đổi năm 2014); Luật phòng cháy và chữa cháy (2001), Luật sửa
đổi bổ sung một số điều của Luật phòng cháy và chữa cháy (2013), Pháp lệnh Công
an xã (2008). Đồng thời tham mưu cho Chính phủ ban hành nhiều văn bản pháp
luật khác như Chỉ thị số 135/CT ngày 14/5/1989 của HĐBT về “Tăng cường công
tác bảo vệ trật tự an toàn xã hội trong tình hình mới”; Nghị quyết số 09/1998/NQ-
CP ngày 31/7/1998 của Chính phủ về “tăng cường công tác phòng chống tội phạm
trong tình hình mới” và Chương trình Quốc gia phòng, chống tội phạm giai đoạn
1998-2010; Nghị định của Chính phủ số 73/2001/NQ-CP ngày 05/11/2001 về “hoạt
động và tổ chức của lực lượng Bảo vệ cơ quan, doanh nghiệp”;
Thể chế hóa những chủ trương lớn của Đảng về bảo vệ an ninh, trật tự, ngày
13/6/2005 Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định số 521/QĐ-TTg lấy ngày 19/8 hàng
năm là ngày truyền thống của lực lượng Công an nhân dân và là “Ngày hội toàn
dân bảo vệ an ninh Tổ quốc”.
Tiếp đó, Chính phủ ban hành Nghị định số 40/CP/1999/NQ-CP ngày
23/6/1999 và Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Pháp lệnh số 06/2008/PL ngày
21/11/2008 về Công an xã; Nghị định số 38/2006/NĐ - CP ngày 17/4/2006 về tổ
chức và hoạt động của Bảo vệ dân phố; Chỉ thị số 06/2008/CT-TTg ngày 01- 2-
2008 của Thủ tướng Chính phủ về việc “phát huy vai trò người có uy tín trong
đồng bào dân tộc thiểu số trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”; Pháp lệnh
83
về Công an xã (năm 2010) Nghị định số 06/2014/NĐ ngày 21-1-2014 về “Biện
pháp vận động quần chúng bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự an toàn xã hội”.
Nhằm đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của sự nghiệp bảo vệ an ninh, trật tự phủ
hợp với tình hình mới, ngày 21-1-2014, Chính phủ đã có Nghị định số 06/2014/NĐ-
CP về biện pháp vận động quần chúng bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự an
toàn xã hội trong đó quy định lại nguyên tắc, nội dung, hình thức, trình tự, thủ tục,
thẩm quyền, trách nhiệm và bảo đảm điều kiện áp dụng biện pháp vận động quần
chúng bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự an toàn xã hội.
Công tác vận động quần chúng của lực lượng Công an trong thời kỳ này
mang tính toàn dân, toàn diện và toàn quốc được thể hiện qua việc đẩy mạnh công
tác xây dựng phong trào bảo vệ an ninh Tổ quốc trong tình hình mới, xây dựng nền
an ninh nhân dân, thế trận an ninh nhân dân kết hợp với nền quốc phòng toàn dân,
lấy lòng dân làm nền tảng của cuộc đấu tranh bảo vệ an ninh, trật tự. Bộ Công an
ban hành Nghị quyết số 08/NQ/ĐU(VP) ngày 23/9/1997 của Đảng ủy Công an
Trung ương về “Phát huy quyền làm chủ của nhân dân, cải tiến nâng cao hiệu quả
quản lý nhà nước trên lĩnh vực bảo vệ an ninh, trật tự, đẩy mạnh phong trào toàn
dân bảo vệ an ninh Tổ quốc”; Chỉ thị số 03/BNV (V28) ngày 03/01/1998 về “Đẩy
mạnh phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc trong tình hình mới”; Chỉ thị số
13/CT- BCA ngày 11/10/2001 về “Tăng cường công tác dân vận của lực lượng
Công an nhân dân”; Ban hành các Quy chế dân chủ trong Công an nhân dân và
giữa Công an với nhân dân; đẩy mạnh phong trào “Học tập thực hiện 6 điều Bác Hồ
dạy Công an nhân dân”, “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh -
Công an nhân dân vì nước quên thân, vì dân phục vụ”, tổ chức “Diễn đàn Công an
xã lắng nghe ý kiến nhân dân”…
Quán triệt sâu sắc tư tưởng ra sức phát động quần chúng của Chủ tịch Hồ
Chí Minh, nhằm đưa công tác vận động quần chúng bảo vệ an ninh, trật tự thời kỳ
đổi mới phát huy hiệu quả, chất lượng, lực lượng Công an đã hết sức chú trọng đẩy
mạnh công tác xây dựng phong trào Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc lên một bước
phát triển mới với nhiều nội dung, hình thức phong phú, đa dạng, hiệu quả, khơi
dậy sức mạnh tiềm lực to lớn của nhân dân trong công tác giữ gìn an ninh chính trị
và phòng ngừa, tấn công trấn áp tội phạm, tệ nạn xã hội, góp phần quan trọng vào
sự nghiệp bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự an toàn xã hội, phục vụ công cuộc
84
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Hai là, trực tiếp chỉ đạo, hướng dẫn và tổ chức thực hiện công tác vận động
quần chúng bảo vệ an ninh, trật tự
Đảng ủy Công an trung ương đã ban hành nhiều văn bản chuyên đề chỉ đạo
về công tác vận động quần chúng và xây dựng phong trào Toàn dân bảo vệ an ninh
Tổ quốc như Nghị quyết số 08-NQ/ĐU(VP) ngày 23- 9 -1997 về “Phát huy quyền
làm chủ của nhân dân, cải tiến nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước trên lĩnh vực
bảo vệ an ninh, trật tư, đẩy mạnh phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc”;
Quy chế số 02/QC-ĐUCA-VP ngày 09- 3- 2012 của Đảng ủy Công an trung ương
“Về công tác dân vận của lực lượng Công an nhân dân”.
Bộ Công an đã đặc biệt quan tâm chỉ đạo về công tác vận động quần chúng
và xây dựng “Phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc”. Cụ thể, đã ban hành
Chỉ thị số 05/CT- BCA-V28 ngày 30- 3- 2011 về thực hiện Chương trình mục tiêu
quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2010- 2020; Thông tư số 23/2012/TT-
BCA ngày 27- 4- 2012 quy định về khu dân cư, xã, phường, thị trấn, cơ quan doanh
nghiệp, nhà trường đạt tiêu chuẩn “an toàn về an ninh, trật tự”; Thông tư số
67/2012/TT-BCA, ngày 01- 11- 2012 quy định trách nhiệm của công an các đơn vị,
địa phương trong công tác xây dựng phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc;
Hướng dẫn số 07/HD- BCA- V28, ngày 14- 5- 2013 về “công tác tuyên truyền toàn
dân bảo vệ an ninh, trật tự”; Chỉ thị số 04/CT- BCA, ngày 21- 4- 2014 “ Về tăng
cường xây dựng, củng cố nền an ninh nhân dân, thế trận an ninh nhân dân, đáp
ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới”; Chỉ thị số 07/CT- BCA-V28 ngày 15- 8
-2014 về “đẩy mạnh phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc trong cơ quan,
doanh nghiệp, nhà trường đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ bảo đảm an ninh, trật tự
trong tình hình mới”; Chỉ thị số 09/CT- BCA-V28, ngày 01- 11- 2016 về “Tăng
cường công tác dân vận của lực lượng Công an nhân dân trong tình hình mới”.
Ngày 27- 4- 2012, Bộ Công an đã ban hành Thông tư số 23/2012/TT-BCA
quy định “Khu dân cư, xã, phường, thị trấn, cơ quan, doanh nghiệp, nhà trưởng đạt
tiêu chuẩn an toàn về ANTT”; ngày 01-11-2012, đã ban hành Thông tư số
67/2012/TT-BCA quy định “Trách nhiệm của Công an các đơn vị, địa phương
trong công tác xây dựng phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc”…
Đối với công tác phối hợp cùng các Bộ, Ban Ngành trung ương, Đảng ủy
85
Công anTrung ương và Bộ Công an đã tăng cường công tác liên kết, phối hợp với
Ban Dân vận Trung ương, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các
ban, ngành, đoàn thể ký kết nhiều nghị quyết, chương trình, kế hoạch liên tịch về
đẩy mạnh phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc và phòng, chống tội phạm,
điển hình như 02 Nghị quyết liên tịch (năm 1991, 2001), Chương trình phối hợp số
09/CTr- BCA- MTTQ, ngày 01- 8- 2013 giữa Bộ Công an với Ban thư ký, Ban
Thường trực Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam về đẩy mạnh phong
trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc trong các thời kỳ; ký các Nghị quyết liên tịch
số 01, 02, 03 với Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh về “Phòng
chống tội phạm và tệ nạn xã hội trong thanh thiếu niên”; Nghị quyết liên tịch số 01
và Chương trình phối hợp số 04/CTr - BCA- HCCB giữa Bộ Công an với Hội Cựu
chiến binh Việt Nam về “ Phối hợp xây dựng phong trào bảo vệ an ninh Tổ quốc”
và “ Thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh, trật tự của đất nước trong tình hình hiện
nay”; Nghị quyết liên tịch với Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam về “Giáo dục
công nhân viên chức không phạm tội và tệ nạn xã hội”; với Hội Nông dân Việt
Nam về “vận động nông dân tham gia phòng, chống tội phạm”; với Hội Phụ nữ
Việt Nam về “giáo dục chồng con không phạm tội, tệ nạn xã hội”; Chương trình số
38- CTr/BDVTW- BCA ngày 15- 6 - 2016 về việc phối hợp công tác dân vận giữa
Ban Dân vận Trung ương và Bộ Công an giai đoạn 2016-2021 và nhiều thông tư, kế
hoạch, chương trình phối hợp liên tịch khác với các bộ, ngành, đoàn thể Trung ương
về công tác bảo đảm an ninh, trật tự.
Thực hiện nghiêm túc chỉ đạo của Trung ương Đảng, Bộ Công an, các cấp
ủy từ tỉnh đến cơ sở đã thường xuyên đưa công tác chỉ đạo, tổ chức vận động quần
chúng tham gia bảo vệ an ninh, trật tự, xây dựng phong trào Toàn dân bảo vệ an
ninh Tổ quốc vào nghị quyết dài hạn, trung hạn và ngắn hạn của Đảng bộ, chi bộ;
ban hành hàng nghìn chỉ chị, nghị quyết chuyên đề chỉ đạo về công tác vận động
quần chúng nói chung và phong trào Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc nói riêng và
xây dựng các lực lượng bán chuyên trách, các tổ chức quần chúng tự quản làm
nhiệm vụ bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở. Các văn bản chỉ đạo của cấp ủy các cấp là
cơ sở để các cơ quan chức năng thể chế thành các văn bản quy phạm pháp luật, các
kế hoạch để triển khai thực hiện từ trung ương đến cơ sở.
Nhìn chung, các cấp ủy Đảng, chính quyền từ trung ương đến cơ sở đã hết
86
sức quan tâm chỉ đạo, tổ chức thực hiện công tác vận động quần chúng bảo vệ an
ninh, trật tự. Trong chỉ đạo đặc biệt chú trọng xác định trách nhiệm của hệ thống
chính trị trong quá trình tổ chức thực hiện. Các văn bản chỉ đạo của cấp ủy Đảng
các cấp sâu sát, kịp thời, toàn diện, cụ thể, đáp ứng yêu cầu, nội dung, hình thức, lực
lượng nòng cốt, lực lượng phối hợp, các điều kiện đảm bảo trong công tác dân vận
nói chung và xây dựng phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc từng thời kỳ.
Đã tạo nên sự thống nhất về nhận thức và hành động đối với toàn Đảng, toàn dân,
toàn quân trong thực hiện công tác chiến lược này.
Công tác xây dựng, hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật về công tác
vận động quần chúng bảo vệ an ninh, trật tự và xây dựng phong trào Toàn dân bảo
vệ an ninh Tổ quốc từng bước được quan tâm. Các cơ quan có thẩm quyền dã xây
dựng được nhiều văn bản quy phạm pháp luật, tạo hành lang pháp lý cho công tác
vận động quần chúng bảo vệ an ninh, trật tự. Cụ thể là: Đã xác định rõ trách nhiệm
của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong công tác vận động quần chúng và phong trào
toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc; xác định vị trí, vai trò của công tác vận động quần
chúng, công tác xây dựng phong trào và các lực lượng nòng cốt trong công tác; quy
định rõ thẩm quyền, trách nhiệm của cơ quan, cán bộ chuyên trách bảo vệ an ninh,
trật tự khi áp dụng biện pháp vận động quần chúng bảo vệ an ninh, trật tự và chế độ,
chính sách của lực lượng chuyên trách, nòng cốt trong phong trào toàn dân bảo vệ
an ninh Tổ quốc.
3.1.1.2. Lực lượng Công an nhân dân đổi mới toàn diện công tác vận động
quần chúng nhằm đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Chúng ta phải ghi tạc vào đầu cái
chân lý này: dân rất tốt. Lúc họ đã hiểu thì việc gì khó khăn mấy họ cũng làm được,
hy sinh mấy họ cũng không sợ. Nhưng trước hết cần phải chịu khó tìm đủ cách giải
thích cho họ hiểu rõ ràng rằng: những việc đó là vì lợi ích của họ mà phải làm” [93,
tr.286 ]. Vận dụng tư tưởng đó vào thời kỳ đổi mới, lực lượng Công an các cấp đã
tập trung tham mưu, phục vụ cấp ủy, chính quyền chỉ đạo đổi mới nội dung, hình
thức, biện pháp tuyên truyền, giáo dục, vận động nhân dân nâng cao ý thức cảnh
giác, trách nhiệm và năng lực bảo vệ an ninh, trật tự, tích cực tham gia phong trào
toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc; coi đó là nghĩa vụ và quyền lợi để góp phần bảo
vệ sự bình yên cho cá nhân, gia đình và cộng đồng xã hội. Chỉ thị số 09- CT/TW
87
ngày 01-12- 2012 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về Tăng cường sự lãnh đạo
của Đảng đối với phong trào Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc đã chỉ rõ “Đổi mới
nội dung, hình thức, biện pháp tuyên truyền, giáo dục, tổ chức vận động nhân dân
nâng cao ý thức cảnh giác, trách nhiệm và năng lực bảo vệ an ninh, trật tự, tích
cực tham gia phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc; coi đó là nghĩa vụ và
quyền lợi để góp phần bảo vệ sự bình yên cho cá nhân, gia đình và cộng đồng xã
hội”.
Với vai trò nòng cốt, lực lượng Công an đã tập trung tuyên truyền giáo dục
lòng yêu nước, lòng tự hào, tự tôn dân tộc; ý thức sống và làm việc theo Hiến pháp
và pháp luật; thực hiện nghiêm chỉnh các chủ trương, đường lối của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước, các quy định của địa phương, đơn vị về bảo vệ an
ninh, trật tự. Hình thức tuyên truyền đa dạng, phong phú: “Được lồng ghép trong
các buổi họp của cơ quan, tổ chức; qua các phương tiện thông tin đại chúng với
hàng trăm chuyên đề, chuyên mục, hàng nghìn phóng sự, hàng vạn tin, bài, ảnh
đăng tải trên các báo, tạp chí, phát trên đài phát thanh, truyền thanh, truyền hình của
Trung ương và địa phương hoặc tổ chức các hội nghị, hội thảo, tọa đàm trao đổi
kinh nghiệm, tuyên truyền, cổ động ở những nơi cộng cộng với hàng trăm nghìn
băng rôn, khẩu hiệu…
Đảng ủy Công an trung ương, Bộ Công an đã chỉ đạo, tổ chức xây dựng các
cơ quan truyền thông, với đầy đủ các loại hình báo in, báo nói, báo hình, báo điện tử
thuộc 29 đơn vị trong Công an nhân dân trong đó có Trang thông tin điện tử tổng
hợp Phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc. Tạp chí Công an nhân dân, Báo
Công an nhân dân là cơ quan ngôn luận, lý luận chính trị, pháp luật của Đảng ủy
Công an trung ương và Bộ Công an; Trung tâm phát thanh, truyền hình, điện ảnh
Công an nhân dân; Cổng thông tin điện tử của Bộ Công an; 05 tờ báo của Công an
địa phương ; 17 tạp chí của các đơn vị, nhà trường. Lãnh đạo Bộ Công an đã cho
phép Cục Xây dựng phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc tổ chức biên tập,
in, phát hành Bản tin tuyên truyền, hướng dẫn phong trào toàn dân bảo vệ an ninh
Tổ quốc phát hành đến cấp xã ; 11 địa phương đã in, phát hành thường kỳ tạp chí,
bản tin an ninh, trật tự, phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc phát hành đến
cơ sở’’ [27, tr.9].
88
Thực hiện tốt vai trò, chức năng của mình, các báo, tạp chí, phát thanh,
truyền hình trong Công an mở nhiều chuyên mục, chuyên đề, thường xuyên đăng
tải các tin, bài về phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc. Điển hình là các
chuyên mục Hương sắc đời thường của Truyền hình Công an nhân dân, Gương
sáng phố phường của Công an Thành phố Hồ Chí Minh; Vì bình yên cuộc sống của
báo An ninh thủ đô ; Công an trong lòng dân của Báo điện tử Công an nhân dân;
các chuyên mục và trang an ninh, trật tự của báo và truyền hình các địa phương…
Bộ Công an đã chỉ đạo xuất bản nhiều loại sách, đặc san, bản tin tuyên
truyền về các mô hình, điển hình tiên tiến, gương người tốt việc tốt trong phong trào
toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc. Điển hình là đã xuất bản và phát hành đến các địa
phương 10.000 cuốn sách Nhân dân cội nguồn sức mạnh bảo vệ an ninh Tổ quốc
trong năm 2015; 5.000 cuốn sách Tỏa sáng giữa đời thường năm 2015; 10.000
cuốn sách Quần chúng nhân dân - nhân tố quyết định sự thắng lợi cuộc đấu tranh
bảo vệ an ninh, trật tự năm 2017; 5000 cuốn Cẩm nang công tác xây dựng phong
trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc, năm 2017.
Viện Khoa học an ninh tổ chức biên soạn cuốn Sổ tay hướng dẫn các tổ tự
quản về an ninh, trật tự khu dân cư trong xây dựng nông thôn mới, Tổng cục Cảnh
sát tổ chức Liên hoan phim truyền hình toàn quốc về phòng chống tội phạm về tệ
nạn xã hội; tổ chức hội thảo Chia sẻ kinh nghiệm về quản lý, giáo dục con em trong
gia đình không vi phạm pháp luật và tệ nạn xã hội ; tổ chức tập huấn cho trên 4.000
lượt cán bộ phòng, chống ma túy ở cơ sở.
Tại các đơn vị, địa phương, lực lượng Công an nhân dân đã tổ chức hướng
dẫn cán bộ, công nhân viên, nhân dân tham gia xây dựng các quy ước, hương ước,
tự nguyện ký cam kết không vi phạm pháp luật, đưa nội dung phòng, chống tội
phạm vào chương trình giảng dạy trong các nhà trường... Chỉ tính ‘‘trong giai đoạn
2001-2011, cả nước có hàng chục triệu lượt hộ gia đình ký cam kết không vi phạm
pháp luật ; 50.055.199 lượt cán bộ, công nhân viên ký cam kết xây dựng cơ quan,
đơn vị vững mạnh, không có tội phạm và tệ nạn xã hội; 17.000 trường học từ bậc
tiểu học đến đại học tổ chức cho gần 17.000.000 lượt học sinh, sinh viên ký cam kết
không vi phạm pháp luật” [27, tr.9].
Những địa bàn có đông đồng bào dân tộc thiểu số, nơi tập trung đồng bào
theo các tôn giáo như: Ninh Bình, Nam Định, Phú Yên, Bình Thuận, Ninh Thuận,
89
Tây Ninh, Đồng Nai, lực lượng Công an đã tham mưu cho cấp ủy, chính quyền và
phối hợp với Mặt trận Tổ quốc cùng các ngành, đoàn thể, đặc biệt là Ban Tôn giáo -
Dân tộc thông qua các vị chức sắc trong các tôn giáo, các già làng, trưởng bản,
người có uy tín trong cộng đồng; tổ chức lồng ghép tuyên truyền phòng, chống tội
phạm; phòng, chống ma tuý, tệ nạn xã hội trong rao giảng giáo lý để nâng cao nhận
thức cho đồng bào.
Thông qua công tác xây dựng phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc,
nhân dân đã cung cấp “hàng chục triệu nguồn tin có liên quan đến công tác an ninh,
trật tự, trong đó có 60% đến 70% tin có giá trị giúp các cơ quan chức năng phát
hiện, điều tra, xử lý nhiều vụ phạm tội, đặc biệt là các vụ án tham nhũng, các vụ án
về ma túy, mua, bán người” [27, tr 10]. Nhân dân tham gia vận động và truy bắt
35.226 đối tượng truy nã, trốn thi hành án, tội phạm lẩn trốn; tham gia quản lý, cảm
hóa, giáo dục, giúp đỡ 316. 105 người lầm lỗi, trong đó có 169 510 người đã tiến
bộ, không tái phạm; phá bỏ hàng chục ngàn mét vuông trồng cây thuốc phiện, giao
nộp 79. 751 vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ, 72. 554 viên đạn các loại [27,tr.11].
Thực hiện Chỉ thị số 48-CT/TW ngày 22/10/2010 của Bộ Chính trị về “Tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tội phạm trong tình
hình mới”; Nghị quyết số 09/1998/NQ-CP của Chính phủ về Chương trình quốc gia
phòng, chống tội phạm; các chương trình quốc gia về phòng, chống tội phạm,
phòng chống ma túy, phòng, chống buôn bán người...; lực lượng Công an đã mở
nhiều cuộc vận động quần chúng tham gia phòng, chống tội phạm, tệ nạn xã hội.
Kết quả là, từ phát hiện của quần chúng, tính riêng trong 10 năm (2001 đến 2011),
cơ quan điều tra trong Công an nhân dân đã “tiếp nhận điều tra 420.753 vụ, xử lý
575.760 đối tượng phạm tội; bắt giữ 14.969 đối tượng truy nã, trốn thi hành án; vận
động 28.569 đối tượng phạm tội ra tự thú” [27, tr.12].
Ngoài ra, lực lượng Công an đã tập trung chỉ đạo xây dựng, củng cố phong
trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc ở các địa bàn trọng điểm chiến lược, vùng tập
trung đồng bào dân tộc, tôn giáo, khu công nghiệp tập trung, thành phố lớn… Đã
ban hành nhiều hướng dẫn chuyên đề; tổ chức nhiều hội nghị, hội thảo trao đổi kinh
nghiệm về xây dựng phong trào vùng núi phía Bắc, vùng Tây Bắc, Tây Nguyên,
Tây Nam Bộ…
90
3.1.1.3. Đóng vai trò nòng cốt, liên kết phối hợp lực lượng xây dựng phong
trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc
Đất nước đã hòa bình, thống nhất và trên đà quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội,
sự nghiệp bảo vệ an ninh, trật tự đã đạt được những thành tựu rất quan trọng, góp
phần đắc lực vào sự thành công của công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Để có
được những kết quả đó, lực lượng Công an nhân dân đã tuyệt đối trung thành với
nhân dân, tin tưởng và tuân thủ tuyệt đối sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, đặc biệt
là đã quán triệt sâu sắc và thực hiện nghiêm túc lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh
“Công an cần phải đoàn kết nhân dân, tổ chức và giáo dục nhân dân, dựa vào lực
lượng to lớn của nhân dân” [98, tr.83].
Để phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và của toàn dân
trong xây dựng phong trào Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc, lực lượng Công an đã
tăng cường sự liên kết phối hợp với các ngành, đoàn thể, ký nhiều Nghị quyết,
chương trình, kế hoạch liên tịch, liên ngành để tuyên truyền giáo dục, vận động cán
bộ, đảng viên, nhân dân tích cực tham gia phòng, chống tội phạm, tệ nạn xã hội.
Điển hình là Nghị quyết liên tịch số 01/2001/NQLT ngày 04/12/2001 giữa Ban
Thường trực Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và Bộ
Công an về “Đẩy mạnh phong trào Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc trong thời kỳ
mới”; Chương trình phối hợp số 09/CTr-BCA-MTTW ngày 01/8/2013 giữa Bộ
Công an với Ban Thường trực Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và
các tổ chức thành viên về “Đẩy mạnh phong trào Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc
trong tình hình mới”; Chương trình phối hợp số 04/CTr-BCA-HCCB ngày
14/8/2014 giữa Bộ Công an với Trung ương Hội Cựu chiến binh Việt Nam về
“Thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh, trật tự của đất nước trong tình hình hiện nay”;
Chương trình phối hợp hành động số 105-CTPH/HNCT-BCA ngày 08/4/2016 giữa
Trung ương Hội Người cao tuổi Việt Nam và Bộ Công an về “Phòng, chống tội
phạm giai đoạn 2016 - 2020”; Chương trình phối hợp số 45-CTPH/HND-BCA giữa
Trung ương Hội Nông dân Việt Nam và Bộ Công an về “Phối hợp thực hiện công
tác phòng, chống tội phạm” giai đoạn 2017 - 2021; Nghị quyết liên tịch số
03/2010/NQLT giữa Bộ Công an và Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ
91
Chí Minh; Nghị quyết liên tịch số 01/TW giữa Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ
Việt Nam và Bộ Công an về “Quản lý, giáo dục người thân trong gia đình không
phạm tội và tệ nạn xã hội”...
Nội dung các nghị quyết, chương trình, kế hoạch liên tịch, liên ngành giữa
Bộ Công an với các ban, bộ, ngành, đoàn thể, tổ chức xã hội gồm các nội dung chủ
yếu là phối hợp trong thực hiện một số nội dung cơ bản sau:
(1) Phối hợp tuyên truyền giáo dục, vận động thực hiện các chủ trương,
đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về công tác đảm bảo an
ninh, trật tự. Chỉ đạo các cơ quan truyền thông do mình phụ trách tuyên truyền.
Phối hợp tổ chức các hoạt động về “Ngày hội toàn dân bảo vệ ANTQ”. Thường
xuyên tăng cường lực lượng xuống cơ sở để tuyên truyền, vận động nhân dân thực
hiện phong trào Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc. Tham mưu cho cấp ủy, chính
quyền và phối hợp với các ngành, đoàn thể cơ sở tuyên truyền phòng, chống tội
phạm, phòng, chống ma tuý và tệ nạn xã hội, nâng cao nhận thức cho nhân dân,
không để kẻ địch lợi dụng kích động gây phức tạp tình hình.
(2) Phối hợp nắm bắt tình hình, tâm tư, nguyện vọng của nhân dân; vận động
quần chúng nâng cao cảnh giác, tích cực tham gia đấu tranh chống lại các luận điệu
tuyên truyền phản cách mạng và phòng, chống tội phạm. Tham mưu cho cấp ủy,
chính quyền chỉ đạo các ban, ngành, đoàn thể tập trung giải quyết kịp thời các mâu
thuẫn tranh chấp, khiếu kiện ở cơ sở, nhất là các vấn đề có liên quan đến tôn giáo,
dân tộc; các vấn đề phức tạp về an ninh, trật tự. Tập hợp vận động người cao tuổi,
các nhân sĩ trí thức, người có uy tín tiêu biểu trong các dân tộc, các chức sắc trong
tôn giáo tham gia vào công tác mặt trận và các tổ chức quần chúng làm công tác an
ninh, trật tự.
(3) Phối hợp xây dựng, nhân rộng các mô hình điển hình tiên tiến; hướng dẫn
xây dựng các quy ước, hương ước, tự nguyện ký cam kết không vi phạm pháp luật.
Các tổ chức thành viên của Mặt trận Tổ quốc đã gắn việc đẩy mạnh phong trào
Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc với thực hiện nhiệm vụ chính trị, các phong trào
thi đua, các cuộc vận động của mình như: “Cựu Chiến binh tham gia bảo vệ đường
biên cột mốc”; “Chi đoàn thanh niên không có tội phạm”, “Tổ phụ nữ không có
92
chồng, con phạm tội, vi phạm pháp luật, nghiện ma túy”, “Nông dân với pháp luật”,
“Tổ công nhân tự quản”, “Ông, bà, cha, mẹ mẫu mực, con cháu thảo hiền”...
(4) Phối hợp xây dựng lực lượng Công an nhân dân, Mặt trận Tổ quốc và các
tổ chức thành viên trong sạch, vững mạnh, gắn bó mật thiết với nhân dân, có năng
lực chuyên môn, sáng tạo làm nòng cốt cho phong trào. Công an, Mặt trận Tổ quốc
và các tổ chức thành viên đã tổ chức nhiều lớp tập huấn, hội thảo, bồi dưỡng nghiệp
vụ về công tác xây dựng phong trào Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc và phòng,
chống tội phạm nhằm nâng cao trình độ chuyên môn, năng lực công tác và sức
chiến đấu cho cán bộ, đoàn viên, hội viên; lực lượng Công an đã phối hợp tổ chức
hàng nghìn hội nghị, diễn đàn để tiếp xúc, lắng nghe ý kiến nhân dân, cùng với việc
duy trì, thực hiện phong trào “Học tập, thực hiện 6 điều Bác Hồ dạy”, việc học tập
và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, siết chặt kỷ luật, kỷ cương, điều
lệnh; xây dựng nếp sống văn hóa vì nhân dân phục vụ. Qua đó tác phong, lề lối làm
việc của cán bộ, chiến sĩ Công an đã có nhiều chuyển biến tốt, chủ động hơn trong
công tác phối hợp thực hiện nhiệm vụ đảm bảo an ninh, trật tự; chống các biểu hiện
tiêu cực, tham nhũng, quan liêu, hách dịch, gây phiền hà cho nhân dân. Trong công
tác và chiến đấu đã có nhiều tập thể, cá nhân có thành tích xuất sắc được các cấp
khen thưởng; nhiều tấm gương dũng cảm chiến đấu, hy sinh vì sự bình yên và hạnh
phúc cho nhân dân.
Thực hiện các nghị quyết, chương trình, kế hoạch liên tịch, liên ngành nêu
trên, hằng năm, Bộ Công an phối hợp với Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam và các tổ chức thành viên thành lập các đoàn liên ngành kiểm tra, hướng
dẫn thực hiện ở các địa phương trọng điểm, qua đó rút ra những kinh nghiệm hay,
cách làm tốt, sáng tạo, có hiệu quả để nhân rộng; kịp thời phát hiện thiếu sót, tồn tại
để chấn chỉnh, khắc phục. Việc thực các Nghị quyết, chương trình, kế hoạch liên
tịch, liên ngành đã tăng cường mối quan hệ phối hợp, gắn bó chặt chẽ giữa lực
lượng Công an với các ban, ngành, đoàn thể, đem lại hiệu quả thiết thực trong
phong trào Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc.
Nhằm rút ra những bài học kinh nghiệm để làm tốt hơn công tác vận động
quần chúng bảo vệ an ninh, trật tự, Bộ Công an đã phối hợp với Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam và các tổ chức thành viên chỉ đạo, tổ chức sơ kết toàn quốc 05 năm
(2006); tổng kết toàn quốc 10 năm (2012) thực hiện Nghị quyết liên tịch số
93
01/2001/NQLT và ký Chương trình phối hợp số 09/CTr-BCA-MTTW ngày
01/8/2013 về “Đẩy mạnh phong trào Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc trong tình
hình mới”. Chỉ đạo kiện toàn các Ban Chỉ đạo liên tịch, liên ngành giữa Bộ Công an
với Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên thống nhất thành một Ban Chỉ đạo
“Thực hiện phong trào Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc” Trung ương; kiện toàn,
thống nhất “Ban Chỉ đạo phòng, chống tội phạm, tệ nạn xã hội” và Ban Chỉ đạo
“Thực hiện phong trào Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc” thành một Ban Chỉ đạo
“Ban Chỉ đạo phòng, chống tội phạm, tệ nạn xã hội” và xây dựng phong trào Toàn
dân bảo vệ an ninh Tổ quốc” từ cấp tỉnh tới cơ sở.
Đến nay, 63/63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đã xây dựng Chương
trình phối hợp, kiện toàn Ban Chỉ đạo từ cấp tỉnh đến cấp cơ sở do Chủ tịch hoặc
Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân làm Trưởng ban, Giám đốc Công an làm Phó
Trưởng ban Thường trực, Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc làm Phó trưởng ban, lãnh đạo
một số ban, ngành làm Ủy viên Ban Chỉ đạo. Các Ban Chỉ đạo các cấp ở địa
phương đã thường xuyên duy trì chế độ giao ban, thông tin trao đổi tình hình, thống
nhất đánh giá kết quả, đề ra phương hướng để tiếp tục thực hiện; tập trung tham
mưu cấp ủy Đảng, chính quyền xây dựng chương trình, kế hoạch hoạt động, xác
định nội dung, địa bàn trọng điểm, tăng cường công tác kiểm tra, hướng dẫn. Cấp
huyện tập trung xác định vai trò lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy đảng, chính quyền;
trách nhiệm của lực lượng Công an; vai trò, nhiệm vụ của Mặt trận Tổ quốc và các
đoàn thể chính trị xã hội trong việc xây dựng nội dung, lựa chọn các nhiệm vụ, địa
bàn trọng tâm phân công phối hợp thực hiện. Đối với cấp xã tập trung nhân rộng
các mô hình tự quản về an ninh, trật tự tại địa bàn cơ sở; mỗi đoàn thể đảm nhận
một mô hình phù hợp với đặc điểm, nhiệm vụ của tổ chức mình.
Thực hiện nghiêm túc các nghị quyết liên tịch giữa Bộ Công an với Mặt trận
Tổ quốc và các bộ, ban ngành trung ương, lực lượng Công an đã chủ động phối hợp
với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các ban, ngành, đoàn thể nắm bắt tình hình, tâm
tư nguyện vọng của nhân dân; tổ chức nhiều hoạt động thiết thực để tập hợp vận
động người cao tuổi, các nhân sĩ trí thức, người có uy tín tiêu biểu trong các dân tộc,
các chức sắc trong tôn giáo tham gia các tổ chức quần chúng làm công tác an ninh,
trật tự; động viên khơi dậy truyền thống cách mạng, vận động quần chúng tham gia
các hoạt động nâng cao dân trí, phát triển sản xuất, cải thiện dân sinh, nâng cao cảnh
94
giác, tích cực tham gia đấu tranh chống lại các luận điệu tuyên truyền phản cách
mạng và phòng, chống tội phạm, góp phần xây dựng, củng cố khối đại đoàn kết
toàn dân tộc, đảm bảo sự ổn định chính trị, xã hội, tạo điều kiện cho kinh tế phát
triển, nâng cao đời sống, phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong công tác bảo
vệ an ninh, trật tự.
Trong quá trình chỉ đạo và tổ chức thực hiện, lực lượng Công an đã chú
trọng công tác tuyên truyền về truyền thống cách mạng, về chính sách đại đoàn kết
dân tộc của Đảng, về nâng cao tinh thần cảnh giác trước âm mưu, phương thức, thủ
đoạn hoạt động của các thế lực thù địch; vận động đồng bào định canh, định cư,
thực hiện quy chế dân chủ, quan tâm xây dựng hệ thống chính trị, lực lượng nòng
cốt bảo vệ an ninh, trật tự, đội ngũ cán bộ cơ sở; phát huy vai trò người có uy tín
trong cộng đồng; nhân rộng các mô hình, điển hình. Phối hợp với các ban, ngành,
đoàn thể ở Trung ương và địa phương triển khai đồng bộ các chủ trương, chính sách
của Đảng, Nhà nước về phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, đảm bảo quốc phòng, an
ninh, tạo thế trận an ninh nhân dân vững chắc, huy động sức mạnh tổng hợp của hệ
thống chính trị trong giải quyết tình hình phức tạp về an ninh, trật tự, nhất là các vụ
gây rối, gây bạo loạn chính trị, âm mưu kích động, lôi kéo đồng bào tham gia hoạt
động chống phá của các thế lực thù địch… góp phần đảm bảo an ninh, trật tự tại các
địa bàn trọng điểm.
3.1.1.4. Xây dựng, nhân rộng nhiều mô hình điển hình, phát huy hiệu quả
phòng, chống tội phạm, tệ nạn xã hội, bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở
Trong hơn 30 năm qua, trên tinh thần đổi mới toàn diện cả về nội dung lẫn
hình thức công tác vận động quần chúng bảo vệ an ninh, trật tự; dưới ánh sáng tư
tưởng Hồ Chí Minh phải dựa vào các đoàn thể mà tổ chức và giáo dục nhân dân;
vào sự lãnh đạo của cấp ủy Đảng, điều hành của chính quyền địa phương, lực lượng
Công an các cấp tăng cường tham mưu, hướng dẫn, chỉ đạo việc phát huy sức mạnh
tổng hợp của các cấp, các ngành, của cả hệ thống chính trị trong phong trào toàn
dân bảo vệ an ninh Tổ quốc. Phối hợp đẩy mạnh thực hiện các nghị quyết, kế
hoạch, chương trình liên tịch, liên ngành để huy động sức mạnh tổng hợp của cả hệ
thống chính trị cùng với lực lượng Công an nhân dân tuyên truyền giáo dục, vận
động cán bộ, đảng viên, nhân dân tích cực tham gia phong trào toàn dân bảo vệ an
ninh Tổ quốc.
95
Đảng, Nhà nước và Bộ Công an đã có nhiều chủ trương quan trọng chỉ đạo
công tác xây dựng mô hình, nhân điển hình tiên tiến trong phong trào Toàn dân bảo
vệ an ninh Tổ quốc. Rõ nét là Chỉ thị số 09-CT/TW ngày 01-11-2011 của Ban Bí
thư về Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với phong trào Toàn dân bảo vệ an
ninh Tổ quốc trong tình hình mới đã nhấn mạnh “Nâng cao chất lượng, hiệu quả
phong trào Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc. Chú trọng chỉ đạo, xây dựng và nhân
rộng các mô hình, điển hình tiên tiến, có hiệu quả theo hướng xã hội hóa ngày càng
cao, với nhiều hình thức tự quản, tự phòng, tự bảo vệ, tự hòa giải về an ninh trật tự
ở cơ sở”.
Phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc đã gắn kết chặt chẽ với các cuộc
vận động, các phong trào cách mạng khác do Đảng, Nhà nước, các ban, ngành,
đoàn thể phát động, như: Cuộc vận động “Xây dựng và chỉnh đốn Đảng”, “Toàn
dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá ở khu dân cư”, “Xoá đói giảm nghèo”,
“Đền ơn đáp nghĩa”, “Cả nước chung tay xây dựng nông thôn mới”; các phong
trào: “tuổi trẻ giữ nước” của Đoàn thanh niên; “phát huy truyền thống bộ đội Cụ
Hồ” của Hội Cựu Chiến binh… đến nay được thực hiện ở hầu hết các khu dân cư
trong cả nước. Theo báo cáo của 55/63 địa phương, cả nước có: “21.181.518 gia
đình đăng ký gia đình văn hóa, trong đó có: 17.199.393 gia đình đạt tiêu chuẩn, tỷ
lệ: 81.2%; 204.937 tập thể đăng ký đơn vị văn hóa, có 109.979 tập thể đạt tiêu
chuẩn, tỷ lệ: 53.6%; có 364.891 “Khu dân cư không có tội phạm và tệ nạn xã hội”,
tỷ lệ 53.4%; có 503.373 “Cơ quan doanh nghiệp, trường học an toàn”, tỷ lệ
81.48%” [27, tr.14].
Công tác xây dựng mô hình, điển hình tiên tiến trong phong trào toàn dân
bảo vệ an ninh Tổ quốc được chú trọng. Bộ Công an đã chỉ đạo tổ chức tổng kết
toàn quốc và từng giai đoạn về công tác xây dựng mô hình và nhân điển hình tiên
tiến trong phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc và phát động “Phong trào
học tập, đuổi kịp và vượt điển hình tiên tiến phong trào quần chúng bảo vệ an ninh
Tổ quốc”. Công an các cấp đã tham mưu phục vụ chính quyền cùng cấp tổ chức sơ
kết, tổng kết, hội thảo chuyên đề, nhân rộng các mô hình, điển hình có hiệu quả
trong công tác bảo vệ an ninh, trật tự.
Theo thống kê chưa đầy đủ, đến nay đã có hàng trăm loại mô hình, trên 5
nghìn cơ quan, đơn vị các cấp xây dựng các mô hình tổ chức quần chúng bảo vệ an
96
ninh, trật tự theo cơ chế “Dân tổ chức, dân tự quản lý, dân thực hiện, dân nuôi” có
sự chỉ đạo của cấp ủy Đảng, quản lý của chính quyền, Công an tham mưu, hướng
dẫn thực hiện. Các mô hình, điển hình trong phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ
quốc được phát triển đa dạng, phong phú, thiết thực, phù hợp với điều kiện, hoàn
cảnh cụ thể của từng vùng, từng khu vực, từng lĩnh vực, từng địa bàn cụ thể, điển
hình như: Vùng núi dân tộc có các mô hình: “Xây dựng làng, bản an toàn về an
ninh, trật tự”, “Xây dựng dòng họ, tộc họ tự quản về an ninh, trật tự”…; vùng
duyên hải có: “Làng chài bình yên”, “Cụm tàu thuyền an toàn”, “Đội dân phòng
tự quản phòng, chống tội phạm trên sông”…; khu vực thành phố, đồng bằng có:
“Hộ tự phòng, số nhà tự quản”, “Liên gia tự quản”, “Làng nghề bình yên”…; Khu
Công nghiệp và nơi có nhiều trường đại học có: “Đội công nhân tự quản”, “Nhà
trọ công nhân tự quản”, “Khu nội trú sinh viên an toàn, văn minh, không tội
phạm”, “Doanh nghiệp tự quản”…; các ban, ngành, đoàn thể có các mô hình: “Chi
hội Cựu chiến binh gương mẫu”, “Thanh, thiếu niên nói không với tội phạm ma
túy”, “Quản lý, giáo dục con em trong gia đình không phạm tội và tệ nạn xã hội”,
“Nông dân với pháp luật”, “Khu tập thể công nhân lao động văn minh”, “Ông, bà,
cha, mẹ mẫu mực, con cháu thảo hiền” v.v… đã phát huy được vai trò làm chủ, tính
tích cực, sáng tạo của nhân dân trong công tác giữ gìn an ninh, trật tự.
Nhiều địa phương đã có nhiều cách làm hay, sáng tạo để xây dựng, nhân
rộng các mô hình, điển hình tiên tiến trong công tác vận động quần chúng bảo vệ an
ninh, trật tự. Điển hình như tỉnh Bình Thuận đã tổ chức hội thảo chuyên đề Nâng
cao chất lượng, hiệu quả hoạt động mô hình tự phòng, tự quản, đảm bảo an ninh,
trật tự trong công tác xây dựng phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc;
Quảng Ngãi tổ chức nghiên cứu đề tài khoa học cấp tỉnh về Thực trạng và giải pháp
phát hiện, xây dựng, củng cố và nhân rộng các điển hình tiên tiến, xuất sắc trong
phòng chống tội phạm và tệ nạn xã hội trên địa bàn; tỉnh Khánh Hòa tổ chức hội
thảo Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả công tác xây dựng mô hình tự
quản về an ninh, trật tự trong phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc.
Hiện nay cả nước có trên “700 mô hình tổ chức quần chúng bảo vệ an ninh,
trật tự ở các cấp độ khác nhau (toàn quốc, vùng, miền, tỉnh, huyện, xã), qua phân
loại có 550 mô hình đạt loại khá đang phát huy tác dụng, huy động hàng chục vạn
nhân dân tham gia. 100% địa phương trong toàn quốc đều xây dựng được các mô
hình, điển hình tiên tiến từ cấp tỉnh đến cấp cơ sở và trực thuộc cấp cơ sở. Có mô
97
hình điển hình được nhân rộng toàn quốc như: “Xây dựng cụm liên kết bảo vệ an
ninh, trật tự”, “Xây dựng phường, xã, cơ quan, đơn vị, nhà trường an toàn không có
tội phạm, không có ma tuý” [27. tr.13].
Đã tổ chức tổng kết 10 năm xây dựng mô hình, nhân điển hình tiên tiến về
phong trào quần chúng bảo vệ ANTT (1998-2008); tổng kết 12 năm thực hiện Nghị
quyết số 09/1998/NQ-CP của Chính phủ về Chương trình quốc gia phòng, chống
tội phạm (1998-2010).
Qua công tác xây dựng mô hình, nhân điển hình tiên tiến đã xuất hiện hàng
vạn tập thể điển hình tiên tiến, nhiều đơn vị giành cờ thi đua xuất sắc của Bộ Công
an, Ủy ban nhân dân tỉnh nhiều năm. Có hàng ngàn quần chúng tiêu biểu, xuất sắc
dũng cảm, mưu trí trong truy bắt tội phạm, bảo vệ bình yên hạnh phúc cho xã hội và
nhân dân. Chỉ tính trong 10 năm qua, Bộ Công an đã đề xuất Chính phủ tặng hàng
trăm bằng khen, Bộ Công an tặng hàng chục ngàn Cờ thi đua, bằng khen, kỷ niệm
chương Bảo vệ an ninh Tổ quốc cho các tập thể, cá nhân có thành tích xuất sắc
trong phong trào bảo vệ an ninh, trật tự.
Những thành tích trên là kết quả của một quá trình phấn đấu, nỗ lực không
ngừng của lực lượng Công an nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự phối hợp,
giúp đỡ của các cấp, các ngành; sự tin yêu, đùm bọc, ủng hộ của toàn dân. Đó là kết
quả của sự nhất quán đường lối quần chúng của Chủ tịch Hồ Chí Minh mà sinh
thời, Người đã dạy cách đây hơn nửa thế kỷ: “Từ thành thị đến thôn quê, nhân dân
tự động tổ chức những ủy ban phòng gian, trừ gian. Hàng triệu lỗ tai, con mắt của
nhân dân chăng thành những bức “thiên la địa võng” [95, tr.53].
3.1.1.5. Xây dựng lực lượng nòng cốt, chuyên trách vận động quần chúng
bảo vệ an ninh, trật tự ngày càng vững mạnh
Quá trình chỉ huy, chỉ đạo lực lượng Công an nhân dân nghiêm túc thực hiện
đường lối từ trong quần chúng mà ra, về sâu trong quần chúng theo tư tưởng Hồ
Chí Minh, Đảng ủy Công an Trung ương và lãnh đạo Bộ Công an đã có nhiều chủ
trương, biện pháp xây dựng lực lượng Công an nhân dân trong sạch, vững mạnh;
từng bước kiện toàn đội ngũ cán bộ chuyên trách và lực lượng nòng cốt công tác
xây dựng phong trào từ Bộ đến cơ sở.
Đảng ủy Công an Trung ương và lãnh đạo Bộ Công an thường xuyên quan
tâm chỉ đạo đẩy mạnh công tác dân vận, cải cách hành chính, thực hiện quy chế dân
98
chủ, công tác thanh tra, kiểm tra góp phần củng cố mối quan hệ giữa Công an với
nhân dân. Công tác cải cách hành chính được chú trọng, nhất là các lĩnh vực liên
quan trực tiếp đến nhân dân theo hướng thực hiện dân chủ, giảm phiền hà, công
khai, minh bạch, đơn giản hóa thủ tục, hồ sơ, rút ngắn thời gian đi lại của nhân dân;
chấn chỉnh tác phong giao tiếp; áp dụng công nghệ thông tin, nâng cao chất lượng
cán bộ tiếp công dân. Các hoạt động xã hội từ thiện giúp đỡ nhân dân xóa đói giảm
nghèo, phòng, chống thiên tai, góp phần xây dựng quan hệ gắn bó mật thiết giữa lực
lượng Công an với nhân dân đã để lại tình cảm tốt đẹp, không phai mờ trong các
tầng lớp nhân dân.
Lực lượng Công an các cấp đã tổ chức nhiều hội nghị, diễn đàn để tiếp xúc,
lắng nghe ý kiến nhân dân. Thông qua ý kiến đóng góp của nhân dân, cùng với việc
duy trì, thực hiện phong trào “Học tập, thực hiện 6 điều Bác Hồ dạy”, cuộc vận
động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh - Công an nhân dân vì
nước quên thân, vì dân phục vụ”, “Công an nhân dân chấp hành nghiêm điều lệnh;
xây dựng nếp sống văn hóa vì nhân dân phục vụ”, tác phong, lề lối làm việc của cán
bộ, chiến sĩ Công an đã có nhiều chuyển biến tốt, chủ động hơn trong công tác phối
hợp thực hiện nhiệm vụ đảm bảo an ninh, trật tự; các biểu hiện tiêu cực, tham
nhũng, quan liêu, hách dịch, gây phiền hà cho nhân dân từng bước được hạn chế.
Lực lượng chuyên trách xây dựng phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ
quốc được xây dựng từ Bộ Công an đến công an cấp huyện: Ở Bộ Công an có Cục
Xây dựng phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc. Ở Công an các tỉnh, thành
phố trực thuộc Trung ương có Phòng Xây dựng phong trào toàn dân bảo vệ an ninh
Tổ quốc. Ở Công an cấp huyện có Đội Xây dựng phong trào và phụ trách xã về an
ninh, trật tự (ở huyện) hoặc Đội Xây dựng phong trào và quản lý Bảo vệ dân phố (ở
quận), riêng huyện trọng điểm phức tạp về an ninh, trật tự được bổ sung một Phó
Công an huyện phụ trách công tác xây dựng phong trào.
Cấp ủy, chính quyền, thủ trưởng đơn vị các cấp đã thường xuyên quan tâm,
kiện toàn tổ chức lực lượng nòng cốt và bán chuyên trách ở cơ sở. Lực lượng nòng
cốt xây dựng phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc ở cơ sở xã, phường, thị
trấn, cơ quan, doanh nghiệp (Công an xã, Bảo vệ dân phố, Bảo vệ cơ quan, doanh
nghiệp và các tổ chức quần chúng làm nhiệm vụ bảo vệ an ninh, trật tự) được quan
tâm chỉ đạo, tổ chức xây dựng ngày càng hoạt động có hiệu quả, từng bước đáp ứng
99
yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở. Hiện nay trong toàn quốc có
“107.009 Công an xã; 66.024 bảo vệ dân phố, 409 287 dân phòng, 303 391 bảo vệ
cơ quan, doanh nghiệp” [27, tr.14].
Đi đôi với công tác kiện toàn tổ chức, cấp ủy, lãnh đạo đơn vị các cấp luôn
quan tâm công tác giáo dục chính trị tư tưởng, nâng cao bản lĩnh chính trị, tinh thần
trách nhiệm, tổ chức các phong trào thi đua yêu nước; bồi dưỡng, tập huấn pháp
luật và nghiệp vụ; thực hiện các chế độ, chính sách; trang bị phương tiện làm việc;
xây dựng, nhân rộng các mô hình, điển hình tiên tiến; sơ kết, tổng kết, thi đua khen
thưởng đối với các lực lượng bán chuyên trách và nòng cốt làm công tác phong trào
Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc ở cơ sở. Lực lượng Công an các cấp đã luôn quan
tâm công tác hướng dẫn, đôn đốc, kiểm tra, đánh giá kết quả thực hiện các chủ
trương, biện pháp, kế hoạch công tác, thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được giao; các
quy định về lề lối làm việc, quy trình công tác, kịp thời phát hiện, uốn nắn, khắc
phục những hạn chế, thiếu sót ngay từ lúc mới phát sinh.
Ngoài ra, lực lượng Công an các cấp thường xuyên chỉ đạo mở các đợt vận
động tập trung để giải quyết các vấn đề bức xúc, nổi cộm, mở các đợt cao điểm tấn
công trấn áp tội phạm và tệ nạn xã hội, tạo khí thế, động viên nhân dân tham gia
phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc, điển hình như: Tổ chức đợt cao điểm
đồng loạt tấn công trấn áp tội phạm trong toàn quốc (thực hiện Chỉ thị số
135/HĐBT ngày 14/5/1989 của Hội đồng Bộ trưởng); tổ chức phát động “Tháng
hành động phòng, chống ma túy” (Tháng 6), “Tháng an toàn giao thông” (Tháng 9),
“Ngày toàn dân phòng cháy và chữa cháy” (04/10), “Ngày hội toàn dân bảo vệ an
ninh Tổ quốc” (19/8) hàng năm; mở nhiều đợt “Cao điểm tấn công trấn áp tội
phạm”, “Thu hồi vũ khí, vật liệu nổ”, “Vận động đối tượng ra tự thú”, “Phát hiện tố
giác tội phạm, giáo dục người lầm lỗi tại cộng đồng dân cư”.
Trong công tác và chiến đấu đã có nhiều tập thể, cá nhân có thành tích xuất
sắc được các cấp khen thưởng; có nhiều tấm gương dũng cảm chiến đấu, hy sinh vì
sự bình yên và hạnh phúc cho nhân dân (trong 10 năm gần đây, chỉ tính riêng lực
lượng Công an xã đã “có 64 đồng chí hy sinh, 440 đồng chí bị thương trong khi làm
nhiệm vụ, được các cấp, các ngành, đoàn thể và nhân dân khen ngợi)” [27, tr.14].
Qua tổ chức các đợt cao điểm tuyên truyền, vận động nhân dân tham gia bảo
100
vệ an ninh, trật tự và các đợt tấn công, trấn áp tội phạm, khí thế cách mạng, tinh
thần làm chủ của nhân dân được phát huy, góp phần gắn kết sức mạnh của nhân dân
với sức mạnh các cơ quan bảo vệ pháp luật, tạo khí thế cho phong trào toàn dân bảo
vệ an ninh Tổ quốc phát triển. Đây là những kết quả quan trọng, cơ bản trong công
tác vận động quần chúng bảo vệ an ninh, trật tự của lực lượng Công an nhân dân
trong hơn 30 năm qua, làm tiền đề, tạo đà thắng lợi cho những năm tiếp theo trong
sự nghiệp bảo vệ an ninh, trật tự phục vụ đắc lực sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc trong tình hình mới.
3.1.2. Một số hạn chế và nguyên nhân
3.1.2.1. Hạn chế
Trong hơn 30 năm đổi mới, những thành tích đã đạt được là rất cơ bản, nhìn
chung công tác vận động quần chúng của lực lượng Công an nhân dân đã đáp ứng
được yêu cầu của Đảng, Nhà nước và của Ngành, góp phần quan trọng vào thắng
lợi của sự nghiệp bảo vệ an ninh, trật tự. Tuy nhiên, qua thực tiễn công tác đã bộc lộ
một số hạn chế.
Một là, công tác nghiên cứu, dự báo tình hình, tham mưu của lực lượng Công
an với Đảng, Nhà nước và trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo công tác vận động quần chúng
bảo vệ an ninh, trật tự có lúc, có nơi chưa kịp thời, nhạy bén, nên còn bị động, lúng
túng khi xử lý các tình huống mới nảy sinh. Cơ chế pháp lý chưa đồng bộ
Biện pháp vận động quần chúng đã được lực lượng Công an áp dụng ngay từ
những ngày đầu thành lập; được xác định trong nhiều Nghị quyết, Chỉ thị của Đảng,
được thể chế hoá trong Luật An ninh Quốc gia, Luật Công an nhân dân…, nhưng
việc cụ thể hoá thành văn bản hướng dẫn thi hành còn chậm, chưa đồng bộ, thiếu
kiểm tra chặt chẽ. Khái niệm, vị trí, ý nghĩa, nội dung, chủ thể của biện pháp vận
động quần chúng với các biện pháp công tác Công an chưa được xác định hướng
dẫn thực hiện thống nhất trong các văn bản của Ngành công an, kể cả giáo trình
trong các trường Công an. Vì vậy, nhiều cán bộ, chiến sĩ Công an, kể cả lãnh đạo
chỉ huy nhận thức chưa rõ biện pháp quần chúng, nhầm lẫn giữa công tác vận động
quần chúng với phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc.
Việc thiếu các văn bản quy phạm pháp luật gây khó khăn, vướng mắc, hạn
chế trong huy động, sử dụng lực lượng, phát huy sức mạnh của quần chúng trong
xử lý các vấn đề phức tạp nảy sinh ở cơ sở, nhất là trong xử lý các đối tượng nguy
101
hại cho an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội.
Nhiều chủ trương, đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước về an ninh,
trật tự chưa được triển khai sâu rộng đến nhân dân; còn thiếu quy định cụ thể việc
“Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” công tác bảo vệ an ninh, trật tự; còn
nhiều quy định chưa phù hợp với yêu cầu động viên toàn dân tham gia quản lý trật
tự an toàn xã hội nên có nơi, có lúc phong trào bảo vệ an ninh Tổ quốc chưa thực
chất, chưa phải là phong trào tự giác của toàn dân.
Bước vào thời kỳ đổi mới đất nước, có nhiều vấn đề mới đặt ra, cuộc đấu
tranh bảo vệ an ninh, trật tự tiến hành trong điều kiện mới. Lực lượng Công an đã
kịp thời nghiên cứu điều chỉnh lại nhiều vấn đề cơ bản về quan điểm, chủ trương
nội dung, phương pháp công tác cho phù hợp. Nhưng công tác vận động quần
chúng còn nhiều nội dung chưa được xác định để chỉ đạo tập trung, vẫn nặng về tự
phát và đi vào những vấn đề cụ thể.
Hai là, nhận thức về công tác vận động quần chúng bảo vệ an ninh, trật tự
trong một số cấp ủy, chính quyền, cán bộ, đảng viên và một bộ phận nhân dân chưa
đầy đủ, sâu sắc, chưa đồng đều thậm chí có người còn hiểu lệch lạc, từ đó chưa tạo
được chuyển biến thực sự rõ nét.
Một số cấp ủy, chính quyền, thủ trưởng cơ quan, đơn vị tổ chức, triển khai
chỉ đạo của Đảng, Nhà nước, các cơ quan Trung ương về công tác vận động quần
chúng và xây dựng phong trào Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc chưa quyết liệt,
hằng năm chưa đề ra chương trình, kế hoạch thực hiện; có nơi, có lúc làm hình thức,
đối phó. Điển hình như, việc tổ chức thực hiện các văn bản của Đảng, Nhà nước,
các bộ, ngành Trung ương về xây dựng lực lượng Dân phòng ở cơ sở vẫn còn rất
chậm, thậm chí chưa triển khai thực hiện. Luật Phòng cháy và chữa cháy có hiệu
lực từ năm 2001 nhưng đến nay số Đội dân phòng trong toàn quốc mới chỉ đạt trên
20% so với quy định của Luật.
Nội dung, hình thức, cách thức vận động tuyền truyền có nơi, có lúc chưa
phù hợp với đối tượng tuyên truyền; hiệu quả tuyên truyền chưa cao, các văn bản
pháp luật về quyền, nghĩa vụ của công dân trong công tác đảm bảo an ninh, trật tự,
phòng, chống tội phạm, tệ nạn xã hội chưa thấm sâu vào các tầng lớp nhân dân; tính
chiến đấu trong đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái của các đối tượng thù
địch còn có mặt hạn chế; công tác tuyên truyên chưa được thực hiện thường xuyên,
102
liên tục, kịp thời; còn thiếu những tác giả, tác phẩm nổi bật, để lại dấu ấn sâu đậm
trong nhân dân về những gương người tốt, việc tốt trong xây dựng phong trào Toàn
dân bảo vệ an ninh Tổ quốc. Vì vậy, nhiều nơi nhân dân chưa nhận thức đầy đủ về
quyền và trách nhiệm của công dân trong bảo vệ an ninh, trật tự, còn lơ là, mất cảnh
giác trước âm mưu, hoạt động “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch và bọn
tội phạm; bị tác động, ảnh hưởng tiêu cực của các thông tin sai sự thật; bị các thế
lực thù địch, phản động lừa mị, kích động, lôi kéo thực hiện các hành vi sai pháp
luật, thậm chí có hành vi chống Đảng, Nhà nước.
Công tác xây dựng, nhân rộng mô hình, điển hình tiên tiến có nơi, có lúc còn
mang tính hình thức, chạy theo số lượng, nội dung chưa thiết thực; việc phát hiện
nhân tố mới chưa kịp thời; một số mô hình tự quản được hình thành tự phát nên chưa
được quan tâm chỉ đạo bài bản, đồng bộ, đúng quy trình, nên hoạt động thiếu ổn định,
thiếu tính bền vững, chưa phát huy tối đa nội lực, tiềm năng, sáng tạo của quần chúng
nhân dân trong phong trào bảo vệ an ninh Tổ quốc. Các mô hình phát triển chưa đồng
đều, chủ yếu tập trung ở địa bàn khu dân cư, chưa chú trọng xây dựng, phát triển
trong các cơ quan, doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài;
nhiều chủ doanh nghiệp thuê và giao khoán công tác đảm bảo an ninh, trật tự cho đơn
vị bảo vệ chuyên nghiệp, nên không quan tâm chỉ đạo công tác phòng ngừa, bảo đảm
an ninh, trật tự trong và ngoài công ty. Công tác kiểm tra, hướng dẫn, đầu tư kinh phí
hoạt động cho các mô hình chưa được quan tâm đúng mức.
Việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ được giao của lực lượng chuyên trách
vận động quần chúng, xây dựng phong trào Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc có
mặt còn hạn chế cả trong tham mưu và tổ chức thực hiện. Trình độ chuyên môn
nghiệp vụ nhìn chung chưa cao, chưa đồng đều.
Có biểu hiện mơ hồ, chủ quan, mất cảnh giác trước âm mưu và hoạt động
“diễn biến hòa bình”, gây bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch. Một bộp phận nhân
dân đã bị các phần tử xấu lôi kéo tiến hành những hoạt động tụ tập, yêu sách chống
đối chính quyền (như ở Hà Nội, Nghệ An, Hà Tĩnh, Bình Thuận, Bình Dương…).
Việc vi phạm chính sách, pháp luật còn diễn ra phức tạp, có lúc, thậm chí có
nơi nghiêm trọng về pháp luật tín ngưỡng, tôn giáo, pháp luật về đất đai (Điển hình
như vụ việc giáo dân bị kích động kéo đến đập phá tường rào tràn vào khuôn viên
103
tại 40 Nhà Chung, Hà Nội, gây rối trật tự công cộng, hủy hoại tài sản tại 178
Nguyễn Lương Bằng, Hà Nội năm 2008, vụ việc gây rối, biểu tình, phá hoại tài sản
tại Quỳnh Lưu, Nghệ An Tháng 7- 2017; cản trở thi hành công vụ, bắt giữ cán bộ
Công an tại Đồng Tâm, Mỹ Đức, Hà Nội tháng 4- 2017).
Công tác tuyên truyền, vận động các tầng lớp nhân dân tham gia bảo vệ an
ninh, trật tự ở một số địa phương hiệu quả chưa cao, nhận thức về trách nhiệm công
dân trong sự nghiệp bảo vệ an ninh, trật tự của một số cán bộ, đảng viên trong các
ngành, các cấp và một bộ phận nhân dân chưa đầy đủ, sâu sắc; nhất là ý thức cảnh
giác trước âm mưu “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch và hoạt động của
bọn tội phạm, nhận thức về phòng, chống tệ nạn xã hội, đảm bảo an toàn giao thông
còn bất cập. Tình trạng vi phạm trật tự giao thông, trật tự công cộng diễn ra phổ
biến, ý thức chấp hành pháp luật phòng, chống cháy nổ thấp kém. Công tác vận
động, phát huy vai trò của người có uy tín trong dân tộc thiểu số và chức sắc, chức
việc trong tôn giáo tuy có chuyển biến tích cực nhưng chưa tương xứng với vai trò,
khả năng của họ cũng như yêu cầu nhiệm vụ đòi hỏi.
Trong điều kiện toàn cầu hóa thông tin, xuất hiện tình trạng quần chúng bị
tác động, ảnh hưởng tiêu cực của nhiều thông tin ngoài luồng, thông tin “độc hại”
trong khi việc phổ biến, truyền đạt các thông tin chính thống của Đảng, Nhà nước
và cấp ủy, chính quyền, đoàn thể các địa phương đến nhân dân còn nhiều hạn chế,
chưa kịp thời phản bác, vô hiệu hóa luận điệu chống phá, lừa bịp của các thế lực thù
địch và phần tử xấu.
Việc lồng ghép thực hiện nội dung phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ
quốc với các chủ trương, chính sách phát triển kinh tế - xã hội của Đảng, Nhà nước
và các cuộc vận động, các phong trào thi đua yêu nước ở một số địa phương chưa
tốt; một số mô hình, điển hình, các tổ chức quần chúng chậm đổi mới, chất lượng,
hiệu quả hoạt động thấp; việc sơ kết rút kinh nghiệm và nhân rộng các mô hình
điểm chưa kịp thời.
Quá trình vận động quần chúng bảo vệ an ninh, trật tự thời gian qua chưa
thật sự bám sát tình hình thực tiễn đất nước thời kỳ đổi mới với cơ chế thị trường,
hội nhập kinh tế thế giới ngày càng sâu rộng đã có những tác động lớn đến công tác
dân vận nói chung, công tác vận động quần chúng bảo vệ an ninh, trật tự nói riêng.
Nhiều tổ chức, cá nhân nhiều lúc, nhiều nơi chưa nắm vững và thực hiện tốt quan
104
điểm của Đảng “Động lực thúc đẩy phong trào nhân dân là phát huy quyền làm chủ,
đáp ứng lợi ích thiết thực của nhân dân; kết hợp hài hòa các lợi ích; quyền lợi phải
đi đôi với bồi dưỡng sức dân” [8, tr.2].
Công tác vận động quần chúng, xây dựng phong trào ở vùng đồng bào dân
tộc thiểu số và vùng đồng bào theo đạo Thiên Chúa, Tin Lành bị tác động của các
thế lực thù địch và phần tử xấu.
Trong vùng đồng bào theo đạo, trở ngại lớn nhất là hiện tượng giáo dân còn
chịu sự ràng buộc, chi phối bởi các chức sắc tôn giáo. Nhiều chức sắc chống đối cực
đoan thường xuyên dùng thủ đoạn đẩy quần chúng ra đối đầu với chính quyền làm
cho việc giải quyết những mâu thuẫn phát sinh gặp nhiều khó khăn. Ở vùng đồng
bảo dân tộc thiểu số, bọn phản động lợi dụng sự ràng buộc của mối quan hệ đồng
tộc, dòng họ, lợi dụng tôn giáo , lợi dụng điều kiện dân trí thấp của quần chúng để
lừa bịp, kích động, xuyên tạc lôi kéo quần chúng vào các hoạt động vi phạm pháp
luật, công tác vận động quần chúng bảo vệ an ninh, trật tự trở nên khó khăn, có nơi
phong trào bị vô hiệu hóa hoàn toàn.
Đặc biệt việc để xảy ra các vụ đối tượng phá rối an ninh, biểu tình, bạo loạn
hoặc chống người thi hành công vụ, khiếu kiện đông người kéo dài đã làm bộc lộ
những yếu kém về các mặt của công tác vận động quần chúng như chưa sâu, chưa
hiệu quả, chưa tạo thế chủ động trong đề kháng và đấu tranh với hoạt động kích
động, lôi kéo của các thế lực thù địch và phần tử xấu. Phong trào vận động quần
chúng không được duy trì thường xuyên, có nơi, có lúc bị động, bất ngờ về khả
năng các đối tượng tập hợp, kích động được số lượng quần chúng trong phạm vi
rộng tham gia biểu tình bạo loạn, phá rối an ninh, trật tự với quy mô lớn (như ở
Tây Nguyên, Tây Bắc, Tây Nam Bộ), hoặc trước tình hình phức tạp mới xuất hiện
(như hoạt động của các đối tượng lợi dụng việc phản đối Trung Quốc để kích
động phá rối an ninh, trật tự; các tác động tiêu cực thông qua Internet), phản đối
Luật Đơn vị hành chính đặc biệt tháng 6-2018 vừa qua... Đã xảy ra hàng nghìn vụ
khiếu kiện, đình công, bãi công kéo dài, lôi kéo hàng vạn người tham gia, gây nên
tình hình phức tạp về an ninh, trật tự ở các khu công nghiệp, doanh nghiệp nước
ngoài đầu tư...
Ở nhiều nơi, phổ biến tình trạng đoàn thể tập hợp được nhiều quần chúng
nhưng lúc xảy ra vụ việc phức tạp không huy động được. Đã có tình trạng trong
105
một số trường hợp người dân thờ ơ, bỏ mặc khi cán bộ thi hành công vụ bị các
đối tượng chống đối, hành hung; khi chính quyền bắt đối tượng phạm tội thì
nhân dân phản ứng nhưng khi bắt cán bộ sai phạm thì nhân dân lại tỏ ra phấn
khởi… là những dấu hiệu cảnh báo sự bất bình của một bộ phận nhân dân đối với
chính quyền.
3.1.2.2. Nguyên nhân của những hạn chế
Một số cấp ủy Đảng, chính quyền, ban, ngành, đoàn thể:
chưa quán triệt sâu sắc đường lối dân vận của Đảng, chưa xác định đúng
vai trò, vị trí tầm quan trọng của công tác vận động quần chúng bảo vệ
an ninh, trật tự nên chưa quan tâm tập trung chỉ đạo quyết liệt, nhất là tổ
chức của lực lượng xây dựng phong trào ở các địa bàn trọng điểm như
vùng tập trung đồng bào dân tộc, tôn giáo… chưa huy động tốt sức mạnh
của cả hệ thống chính trị và của toàn dân cùng lực lượng Công an nhân
dân làm nhiệm vụ bảo vệ an ninh, trật tự. Sự liên kết, phối hợp giữa các
chủ thể của công tác vận động chưa chặt chẽ [27, tr.15].
Nhận thức về trách nhiệm làm công tác vận động quần chúng bảo vệ an ninh,
trật tự của một số lãnh đạo cơ quan, ban, ngành và cấp ủy chính quyền địa phương
còn hạn chế. Chưa thật sự quan tâm đầy đủ đến việc tập trung chỉ đạo, tổ chức huy
động các ngành, các lực lượng liên quan phối hợp chặt chẽ, đồng bộ. Theo đánh giá
của Ban Dân vận trung ương thì “Việc tập hợp nhân dân vào Mặt trận và các đoàn
thể còn nhiều hạn chế”.
Ý thức bảo vệ an ninh, trật tự của một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân
dân chưa được nâng cao. Nhận thức về công tác vận động quần chúng có nơi, có lúc
chưa đầy đủ. Trong công tác phòng ngừa, đấu tranh với các loại đối tượng xâm
phạm an ninh, trật tự có nơi, có lúc chưa chú trọng đúng mức đến việc giáo dục,
thuyết phục mà còn tình trạng nặng về sử dụng biện pháp hành chính, pháp luật,
nghiệp vụ đơn thuần.
Công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao ý thức, trách nhiệm và năng lực
bảo vệ an ninh, trật tự cho nhân dân chưa đáp ứng yêu cầu đặt ra. Một bộ phận nhân
dân chưa nhận thức được đầy đủ quyền và nghĩa vụ trong tham gia công tác bảo vệ
an ninh, trật tự; chưa nhận thức đầy đủ về âm mưu, phương thức, thủ đoạn hoạt
động của các thế lực thù địch và bọn tội phạm nên chưa biết cách phòng ngừa, đấu
106
tranh có hiệu quả. Do vậy công tác dân vận chưa đáp ứng tình hình đang ngày càng
biến đổi sâu sắc và diễn biến nhanh chóng trong nhân dân. Các vụ khiếu kiện đông
người vẫn còn nhiều, có lúc, có nơi gay gắt hơn. Tình hình đó một phần quan trọng
là do những bất cập trong một số chủ trương, chính sách và việc tổ chức thực hiện
chủ trương, chính sách (60-70% các vụ khiếu kiện là vấn đề đất đai và quan hệ giữa
nhân dân với các cơ quan nhà nước…), mặt khác do một bộ phận không nhỏ cán bộ
quan liêu, mất dân chủ, tham nhũng” [12, tr.120].
Yếu tố vô cùng quan trọng dẫn đến những hạn chế đó là “yếu tố lòng dân”,
nhất là lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và cấp ủy, chính quyền các
cấp trong một bộ phận đáng kể các tầng lớp nhân dân bị giảm sút. “Còn không ít
cán bộ phai nhạt lý tưởng cách mạng, suy thoái về tư tưởng, chính trị, yếu kém về
năng lực dân vận, thoái hoá biến chất về đạo đức, lối sống dẫn đến “tự diễn biến”,
“tự chuyển hóa”; một số chính quyền cơ sở hoạt động yếu kém, xa dân, thậm chí
còn sai phạm… làm cho quần chúng mất tín nhiệm, mất lòng tin” [27, tr.16].
Lực lượng Công an nhân dân chưa phát huy tốt vai trò nòng cốt xây dựng
phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc; còn một bộ phận cán bộ, đảng viên,
chiến sĩ, kể cả lãnh đạo, chỉ huy chưa nắm vững quan điểm, đường lối quần chúng
của Đảng; chưa nhận thức sâu sắc ý nghĩa và tầm quan trọng của công tác vận động
quần chúng bảo vệ an ninh, trật tự. Mặt khác còn một bộ phận không nhỏ cán bộ
chiến sĩ Công an có biểu hiện quan liêu, hách dịch, hành chính, nghiệp vụ đơn thuần
cộng với tiêu cực, thoái hoá, lợi dụng chức vụ, quyền hạn, nhũng nhiễu, ức hiếp
quần chúng, làm giảm sút lòng tin của nhân dân với lực lượng Công an.
Vai trò tham mưu, phối hợp của các ngành, các cấp, đoàn thể và lực lượng
Công an nhân dân về công tác vận động quần chúng bảo vệ an ninh, trật tự có
những hạn chế, thiếu chủ động sáng tạo; tổ chức, chỉ đạo xây dựng các mô hình,
điển hình tiên tiến còn chậm được tổng kết và nhân rộng. Có trường hợp tham mưu,
hướng dẫn của các ban, ngành trung ương chưa thống nhất dẫn tới lúng túng trong
việc triển khai thực hiện ở địa phương, cơ sở.
Trong quá trình thực hiện, lực lượng Công an còn chậm bổ sung hoàn thiện
quy định về cơ chế phối hợp giữa các đơn vị, các cấp Công an về công tác xây dựng
phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc; chưa có quy định về cơ chế và mối
107
quan hệ phối hợp trong việc thực hiện các biện pháp công tác Công an.
Quá trình tổ chức vận động quần chúng tham gia phong trào bảo vệ an ninh
Tổ quốc còn nhiều nội dung chưa được xác định để chỉ đạo tập trung, vẫn còn nặng
về tự phát và đi vào giải quyết các vấn đề cụ thể như vấn đề bảo vệ sự đoàn kết
thống nhất trong nhân dân trước tình hình xã hội có sự phân hóa mới; vấn đề bảo vệ
nội bộ, giữ vững bên trong trước sự tác động của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế;
vấn đề bảo vệ lợi ích chung với quyền lợi cá nhân trong cơ chế kinh thế mới; vấn đề
tổ chức phong trào quần chúng ở các cơ sở kinh tế có yếu tố nước ngoài vẫn còn bỏ
ngỏ. Đáng lưu ý là vấn đề phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa với giữ vững kỷ
cương trật tự, tôn trọng pháp luật chưa được vận dụng đồng bộ; ở một số nơi chưa
đảm bảo quyền làm chủ thực sự của nhân dân, buông lỏng quản lý an ninh, trật tự
dẫn đến khiếu kiện kéo dài.
Công tác tổ chức lực lượng vận động quần chúng còn nhiều những bất cập.
Tổ chức bộ máy lực lượng chuyên trách làm công tác vận động quần chúng bảo vệ
an ninh, trật tự không ổn định, lúc tách, lúc nhập. Công an quận, huyện là cấp nòng
cốt làm công tác vận động quần chúng, nhưng hiện nay chưa có Đội chuyên trách
làm công tác vận động quần chúng bảo vệ an ninh, trật tự. Cán bộ làm công tác vận
động quần chúng còn thiếu nhiều so với biên chế được duyệt, có 48/63 phòng cấp
tỉnh thiếu biên chế (76,1%), có 16 phòng Xây dựng phong trào toàn dân bảo vệ an
ninh Tổ quốc chỉ có 6 - 8 cán bộ [27, tr.20 ].
Năng lực cán bộ, kể cả cán bộ lãnh đạo chỉ huy của một số đơn vị, địa
phương, nhất là khu vực miền núi, dân tộc thiểu số còn yếu, chưa đáp ứng được yêu
cầu nhiệm vụ. Với tính chất đặc thù, lực lượng chuyên trách làm công tác vận động
quần chúng bảo vệ an ninh, trật tự thường xuyên phải đi cơ sở, bám sát cơ sở, nhất
là vùng sâu, vùng xa, địa bàn phức tạp về an ninh, trật tự, nhưng đến nay mới có chế
độ phụ cấp đặc thù, đời sống còn nhiều khó khăn dẫn đến chưa hoàn toàn yên tâm
công tác. Lực lượng công an xã hoạt động còn nhiều bất cập về mô hình, tổ chức,
chế độ và chính sách.
Việc giải quyết chế độ chính sách thương binh, liệt sĩ cho quần chúng nhân
dân và lực lượng bán chuyên trách tham gia đấu tranh phòng, chống tội phạm bị hy
sinh, bị thương, bị thiệt hại về vật chất, tinh thần còn nhiều bất cập. Việc thiếu các
108
văn bản quy phạm pháp luật về chính sách gây khó khăn trong huy động, sử dụng
lực lượng, phát huy sức mạnh của quần chúng trong xử lý các vấn đề phức tạp nảy
sinh ở cơ sở, nhất là trong xử lý các đối tượng vi phạm pháp luật, tội phạm và các
loại tệ nạn xã hội trong giai đoạn hiện nay.
Công tác trấn áp tội phạm có nơi, có lúc chưa có hiệu quả; bọn tội phạm
hoạt động manh động, tàn bạo, khống chế, đe doạ gây tâm lý lo ngại trong nhân
dân. Đây là nguyên nhân ảnh hưởng đến lòng nhiệt huyết, hăng hái của nhân dân
trong phong trào tố giác, vạch mặt tội phạm.
Điều kiện kinh tế của đất nước nói chung, đơn vị, địa phương nói riêng còn
khó khăn dẫn đến các chính sách, chế độ hỗ trợ, phụ cấp cho lực lượng cán bộ làm
công tác vận động quần chúng còn thấp. Chế độ đãi ngộ, bù đắp vật chất; phương
tiện, trang thiết bị, điều kiện đảm bảo cho hoạt động bảo vệ an ninh, trật tự chưa
được bảo đảm nên chưa thực sự khuyến khích, thu hút đông đảo nhân dân tham gia.
Công an một số đơn vị, địa phương vẫn chưa coi trọng việc bố trí cán bộ,
củng cố lực lượng chuyên trách làm công tác vận động quần chúng và xây dựng
phong trào toàn dân bảo vệ an ninh, trật tự. Thực hiện chế độ đặc thù với cán bộ
3.2. NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA
làm công tác vận động quần chúng chưa thống nhất trong toàn quốc.
Có thể khẳng định, những thành công, những đóng góp quan trọng trong sự
nghiệp bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn an ninh trật tự chủ yếu là do lực lượng
Công an biết dựa vào nhân dân, phát huy vai trò tích cực, sáng tạo của nhân dân
trong sự nghiệp bảo vệ an ninh, trật tự. Nhiều thành tích, chiến công, nhiều tấm
gương tiêu biểu xuất sắc, dũng cảm trong chiến đấu, tận tụy trong công việc của lực
lượng Công an nhân dân đều có nguyên nhân sâu xa từ mối quan hệ gắn bó máu thịt
với quần chúng, được nhân dân đùm bọc giúp đỡ, ủng hộ. Từ lý luận vận động quần
chúng của Chủ tịch Hồ Chí Minh và thực tiễn vận động quần chúng bảo vệ an ninh,
trật tự của lực lượng Công an nhân dân trong hơn 30 năm đổi mới có thể đặt ra một
số vấn đề như sau:
3.2.1. Thực tiễn đặt ra nhiều vấn đề cho công tác vận động quần chúng
bảo vệ an ninh, trật tự của lực lượng Công an nhân dân
Nghị quyết số 25- NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương khóa XI đã
109
nêu rõ:
Trong điều kiện Đảng cầm quyền, xây dựng nhà nước pháp quyền, phát
triển kinh tế thị trường đinh hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập quốc tế, có
rất nhiều vấn đề mới đặt ra tác động đến tư tưởng, tình cảm, đời sống của
cán bộ, đảng viên và nhân dân. Sự phân hóa giàu nghèo, phân tầng xã
hội, cùng với tệ quan liêu, tham nhũng, xa dân, xâm phạm quyền làm
chủ của nhân dân, làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối với Đảng, là
thách thức đối với mối quan hệ giữa nhân dân với Đảng [8, tr.1].
Thực tiễn hơn 30 năm đổi mới đất nước cho thấy đã có nhiều vấn đề thách
thức đối với công tác dân vận nói chung và công tác vận động quần chúng bảo vệ
an ninh, trật tự trên các mặt sau:
Một là, tình hình kinh tế - xã hội còn bộc lộ nhiều hạn chế và bất cập do chịu
tác động của kinh tế thế giới và những yếu tố trong nước như tính bền vững của
tăng trưởng chưa cao, hiệu quả đầu tư thấp, năng suất lao động thấp, chất lượng
hàng hóa và dịch vụ chưa cao và chưa cạnh tranh được trên thị trường khu vực và
thế giới. Môi trường bị tác động tiêu cực có xu hướng ngày càng diễn biến phức tạp.
Sức cạnh tranh và năng lực quản lý doanh nghiệp còn yếu và phổ biến. Hoạt động
tài chính tiền tệ còn tiềm ẩn nhiều rủi ro, lãi suất tiết kiệm còn cao so với lãi suất
đồng USD và rất cao so với khả năng sinh lời của nền kinh tế. Lãng phí và thất
thoát lớn trong đầu tư từ nguồn ngân sách và tài chính doanh nghiệp nhà nước vẫn
là vấn đề nhức nhối, chưa có biện pháp hữu hiệu khắc phục triệt để.
Những yếu kém và tồn tại trên đã và đang tác động rất lớn đến đời sống kinh
tế, xã hội của nhân dân, ảnh hưởng đến niềm tin của nhân dân vào sự nghiệp đổi
mới, vào sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước và trực tiếp ảnh hưởng đến hiệu quả của
công tác vận động quần chúng bảo vệ an ninh trật tự. Đặc biệt, sự phân hóa giàu
nghèo sẽ diễn ra ngày càng rõ rệt, xuất hiện tầng lớp ông chủ và người làm thuê.
Nạn thất nghiệp cũng là một yếu tố thường xuyên xảy ra, nhất là giai đoạn kinh tế
thế giới khủng hoảng theo chu kỳ. Đây là những vấn đề ảnh hưởng trực tiếp đến quá
trình tuyên truyền giáo dục ý thức cảnh giác, chấp hành pháp luật, tinh thần tích
cực, chủ động phòng, chống tội phạm, bảo vệ an ninh, trật tự của nhân dân
Hai là, những mặt trái của nền kinh tế thị trường, hội nhập kinh tế quốc tế đã
làm ảnh hưởng tiêu cực đến đạo đức xã hội, gia tăng tội phạm, là nguy cơ, thách
110
thức đối với an ninh, trật tự.
Kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế là xu thế khách quan, đã mang lại
những thành tựu to lớn, thúc đẩy đất nước phát triển toàn diện, quốc phòng, an ninh
được giữ vững. Tuy nhiên những mặt trái của nó cũng là những thách thức không
nhỏ. Do quản lý còn nhiều bất cập dẫn đến sự suy thoái về chính trị, tư tưởng và tha
hóa về đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên; sự mất cảnh
giác trước âm mưu phá hoại của các thế lực thù địch trong một bộ phận nhân dân; sự
thờ ơ về chính trị, lối sống buông thả, bất chấp đạo lý của một bộ phận thanh, thiếu
niên và học sinh, sự xuất hiện của nhiều loại tội phạm phi truyền thống và tệ nạn xã
hội mới du nhập từ bên ngoài vào đã và đang là vấn đề đặt ra cho sự nghiệp bảo vệ an
ninh trật tự, đặc biệt là công tác vận động quần chúng bảo vệ an ninh, trật tự.
Ba là, hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng sẽ đặt ra nhiều vấn đề
phức tạp về độc lập, chủ quyền quốc gia, dân chủ, nhân quyền, tôn giáo, dân tộc.
Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế là điều kiện cho các thế lực thù địch hoạt
động phá hoại nhiều mặt. Thông qua các hoạt động kinh tế, văn hóa trên đất nước
ta, chúng có thể hoạt động ngày càng mạnh mẽ, tinh vi và xảo quyệt. Đặc biệt tại
các khu kinh tế 100% vốn nước ngoài, các khu công nghệ cao, các tổ chức phi
chính phủ, các dự án văn hóa, giáo dục, y tế…
Các tập đoàn tư bản, các tổ chức quốc tế hùng mạnh đã và đang đầu tư vào
Việt Nam trên hầu hết các lĩnh vực kinh tế, văn hóa. Quá trình hợp tác song phương
và đa phương, họ thường kèm theo các ý đồ của các nhà cầm quyền để đưa ra
những yêu sách phi lý về những vấn đề chính trị đối với Nhà nước ta, gây sức ép
trong việc giải quyết các mối quan hệ chính sách đối nội, đối ngoại, kinh tế, quốc
phòng, an ninh…
Đồng thời, lợi dụng những vấn đề “dân chủ”, “nhân quyền”, “tôn giáo”, “dân
tộc”, họ đưa ra cái gọi là “tiêu chuẩn”, “giá trị” theo cách của họ ép Nhà nước ta
“mặc cả” các vấn đề kinh tế. Đây là những thách thức không hề nhỏ mà kèm theo
sự phát triển của nền kinh tế, là những bài toán chúng ta phải giải quyết trong sự
nghiệp vừa xây dựng vừa bảo vệ vững chắc Tổ quốc.
3.2.2. Công an nhân dân phải vận dụng sáng tạo “đường lối quần
chúng” theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong công tác tuyên truyền, vận động
quần chúng bảo vệ an ninh, trật tự
111
Thực tiễn cho thấy chỉ khi nào lực lượng công an vận động, giáo dục, thuyết
phục, động viên được nhân dân để họ thấu hiểu quyền và trách nhiệm của mình thì
công tác an ninh, trật tự mới mang lại hiệu quả. Quần chúng càng được phát động
mạnh mẽ thì cuộc đấu tranh chống phản cách mạng càng triệt để; quần chúng được
phát động tốt thì họ không chỉ có khả năng phát hiện truy tìm, trấn áp được kẻ địch
mà còn phân biệt đúng địch với ta, hạn chế không để lọt kẻ địch, không làm oan
người vô tội.
Trong Buổi nói chuyện tại Trường Công an Trung ương ngày 28/01/1958,
Người dặn dò: “Muốn phục vụ nhân dân tốt phải đi đường lối quần chúng. Được
nhân dân tin, yêu, phục thì việc gì cũng làm được. Không đi đường lối quần chúng
là không gần nhân dân, là thiếu dân chủ, là trở thành quan liêu...” [127, tr.250].
Chính vì vậy có thể nói đường lối quần chúng là đường lối căn bản trong toàn bộ
công tác nghiệp vụ nói chung và công tác vận động quần chúng nói riêng của lực
lượng Công an.
Trong thời kỳ đổi mới, điều kiện đất nước đã hòa bình, độc lập, thống nhất,
kinh tế, xã hội đã phát triển vượt bậc so với thời kỳ đất nước đang đồng thời làm hai
cuộc cách mạng đấu tranh giải phóng miền Nam và xây dựng miền Bắc xã hội chủ
nghĩa. Sự nghiệp bảo vệ an ninh, trật tự cũng có những thay đổi nhất định. Tuy
nhiên lực lượng Công an nhân dân vẫn phải kiên trì “đường lối quần chúng” theo tư
tưởng Hồ Chí Minh thì mới có thể hoàn thành nhiệm vụ như lời Người dạy: “Phải
dựa vào nhân dân, không được xa rời nhân dân. Nếu không thế thì sẽ thất bại. Khi
nhân dân giúp đỡ ta nhiều thì thành công nhiều, giúp đỡ ta ít thì thành công ít, giúp
đỡ ta hoàn toàn thì thành công hoàn toàn” [95, tr.270].
Thực tế cuộc đấu tranh bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự an toàn xã hội
đã cho thấy, không một âm mưu nào của các thế lực thù địch và bọn tội phạm lọt
qua được tai mắt của nhân dân. Nhiệm vụ của Công an nhân dân là phải làm cho
mọi công dân, bất kỳ già trẻ gái trai, bất kỳ làm việc gì đều có thể giúp chính quyền
giữ gìn an ninh, trật tự. Vì an ninh, trật tự quan hệ trực tiếp đến lợi ích của bản thân
mỗi người. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy “Mọi người công dân, bất kỳ già trẻ gái
trai, bất kỳ làm việc gì, đều có nhiệm vụ giúp chính quyền giữ gìn trật tự an ninh, vì
trật tự an ninh trực tiếp quan hệ đến lợi ích bản thân của mọi người” [97, tr.77].
Ở mỗi giai đoạn cách mạng khác nhau, lợi ích của nhân dân là không giống
112
nhau.Vì vậy lực lượng Công an nhân dân phải hiểu rõ và giải quyết một cách thiết
thực lợi ích của quần chúng để được quần chúng tin yêu và ủng hộ. Lợi ích của
nhân dân trong thời kỳ đấu tranh giành độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc là đấu
tranh chống bọn Việt gian phản động, bọn cường hào gian ác, bọn gián điệp, bọn tội
phạm khác... trong thời kỳ hòa bình, xây dựng phát triển kinh tế xã hội nhất là trong
thời kỳ đổi mới thì lợi ích của nhân dân là đấu tranh chống tham nhũng, là thực thi
quyền dân chủ, quyền bình đẳng, là đấu tranh với bọn tội phạm có tổ chức, tội phạm
hoạt động theo kiểu “xã hội đen” và nhất là đấu tranh phòng, chống ma túy, tệ nạn
xã hội đang hàng ngày, hàng giờ đe dọa cuộc sống bình yên của nhân dân.
Vừa qua, trong cuộc đấu tranh giải quyết các “điểm nóng”, “vùng nóng” về
an ninh trật tự như: ở Thái Bình, Nam Định, Hà Tây (cũ) và một số nơi khác những
năm 1996 - 2000; vụ bạo loạn Tây Nguyên tháng 1/2001 và tháng 4/2004, Đồng
Tâm tháng 4 - 2017, và đặc biệt ở Bình Thuận, Bình Dương, Thành phố Hồ Chí
Minh hồi tháng 6 - 2018... là bài học thực tế rất sâu sắc đối với lực lượng Công an
nhân dân trong suốt quá trình tổ chức vận động quần chúng bảo vệ an ninh, trật tự.
Hiện nay, ở từng nơi, từng lúc, ở từng lĩnh vực và địa bàn cụ thể, quan điểm
đường lối quần chúng chưa được quán triệt một cách sâu sắc dẫn đến thiếu kiên
nhẫn, thiếu thường xuyên vận động, giáo dục và chờ đợi sự chuyển biến giác ngộ
của quần chúng dẫn đến phát sinh tư tưởng “dễ làm, khó tránh”. Không ít cán bộ
chiến sỹ xem nhẹ công tác dân vận, dẫn đến quan liêu, hách dịch, coi thường dân...
những biểu hiện đó không chỉ làm giảm niềm tin của quần chúng đối với lực lượng
Công an mà còn làm giảm niềm tin của dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ xã
hội chủ nghĩa. Đó là vấn đề đặt ra cho sự khắc phục những hạn chế trong công tác
vận động quần chúng bảo vệ an ninh, trật tự trong tình hình hiện nay.
Thực tiễn đã chứng minh việc huy động sức mạnh toàn dân bảo vệ an ninh,
trật tự đã có những bước phát triển quan trọng và đạt những kết quả nhất định. Đó
chính là kết quả của việc lực lượng Công an nhân dân quán triệt, vận dụng sáng tạo
tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác vận động quần chúng bảo vệ an ninh, trật tự.
Trong bối cảnh hiện nay, tư tưởng của Người vẫn còn nguyên giá trị lý luận và thực
tiễn, có tác dụng định hướng về nội dung và phương pháp cho công tác vận động
quần chúng bảo vệ an ninh, trật tự của lực lượng Công an nhân dân.
113
3.2.3. Đòi hỏi tăng cường và đổi mới hơn nữa sự lãnh đạo của cấp ủy
Đảng và điều hành của chính quyền các cấp đối với công tác vận động quần
chúng bảo vệ an ninh, trật tự
Xuất phát từ thực tiễn quá trình lãnh đạo và đấu tranh bảo vệ an ninh Tổ quốc
của lực lượng Công an nhân dân thời kỳ đổi mới, Nghị quyết số 25 NQ/TW ngày
3/6/2013 của Ban Chấp hành TW Đảng về “Tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của
Đảng đối với công tác dân vận trong tình hình mới” đã nhấn mạnh: “Tăng cường và
đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận trong tình hình mới nhằm
củng cố vững chắc lòng tin của nhân dân đối với Đảng; tăng cường khối đại đoàn kết
toàn dân tộc và mối quan hệ máu thịt giữa Đảng với nhân dân” [8, tr.1].
Do đó để huy động được sức mạnh toàn dân tham gia bảo vệ an ninh Tổ
quốc, đòi hỏi phong trào phải đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp, toàn diện của các cấp
ủy Đảng và chính quyền địa phương. Thực tế cho thấy sự lãnh đạo tuyệt đối, trực
tiếp và toàn diện của các cấp ủy Đảng là đảm bảo cao nhất cho mọi thắng lợi của
cách mạng Việt Nam, trong đó có công tác vận động quần chúng bảo vệ an ninh,
trật tự. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: “Công tác công an phải gắn chặt với đường
lối chính trị của Đảng. Nếu thoát ly đường lối chính trị của Đảng, thì dù khéo mấy
cũng không kết quả” [103, tr.140].
Trong điều kiện Đảng cầm quyền, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập ngày
càng sâu rộng kinh tế quốc tế, có rất nhiều vấn đề đặt ra tác động đến tư tưởng, tình
cảm, đời sống của cán bộ, đảng viên và nhân dân. Từ đó ảnh hưởng đến công tác
dân vận nói chung và công tác vận động quần chúng bảo vệ an ninh, trật tự.
Trong thời kỳ đổi mới, lực lượng Công an đã làm tốt công tác vận động
quần chúng bảo vệ an ninh, trật tự phục vụ hoàn thành tốt các nhiệm vụ chính trị
của Đảng và Nhà nước. Thông qua công tác vận động quần chúng, lực lượng Công
an đã chứng tỏ là công cụ sắc bén của Đảng, là “thanh bảo kiếm” sắc bén bảo vệ
Đảng, bảo vệ chế độ, bảo vệ nhân dân. Đồng thời cũng xác định rõ, hoạt động của
lực lượng Công an cũng như công tác vận động quần chúng bảo vệ an ninh, trật tự
phải được đặt dưới sự lãnh đạo sát sao, toàn diện của các cấp ủy Đảng, chính quyền
các cấp trong mọi tình huống. Nơi nào cấp ủy Đảng, chính quyền thực sự quan tâm,
114
lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt: tranh thủ được sự phối hợp chặt chẽ, đồng bộ của các
ban, ngành, đoàn thể xã hội; đồng thời nơi nào lực lượng Công an làm tốt vai trò
tham mưu, nòng cốt thì nơi đó công tác vận động quần chúng nói chung và phong
trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc phát triển đúng hướng, đem lại hiệu quả cao.
3.2.4. Xây dựng lực lượng Công an nhân dân trong sạch, vững mạnh
phải gắn liền với phát huy dân chủ trong sự nghiệp bảo vệ an ninh, trật tự
Vấn đề đặt ra vô cùng quan trọng là đất nước đang ngày càng hội nhập sâu
rộng với kinh tế quốc tế, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ngày
càng rõ nét, sự phân hóa xã hội ngày càng lớn, công tác vận động quần chúng bảo
vệ an ninh trật tự càng có những khó khăn, thách thức. Việc phát huy vai trò to lớn
của quần chúng nói chung, trong sự nghiệp bảo vệ an ninh, trật tự nói riêng càng đòi
hỏi những yêu cầu trong công tác xây dựng lực lượng Công an nhân dân.
Xây dựng lực lượng Công an nhân dân trong sạch, vững mạnh trước hết phải
xây dựng Công an nhân dân vững về chính trị. Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn
quốc lần thứ X của Đảng đã đề ra: “xây dựng Quân đội nhân dân và Công an nhân
dân cách mạng, chính quy tinh nhuệ, từng bước hiện đại, có bản lĩnh chính trị vững
vàng; trung thành tuyệt đối với Tổ quốc, với Đảng và nhân dân... đủ sức hoàn thành
nhiệm vụ trực tiếp bảo vệ an ninh Tổ quốc trong tình hình mới”. Đảng ta còn chỉ rõ,
lực lượng Công an phải nâng cao chất lượng tổng hợp, sức chiến đấu để thật sự là
lực lượng chính trị trong sạch, vững mạnh, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với
Đảng, Nhà nước và nhân dân.
Hơn nữa, trong quá trình hội nhập quốc tế, lực lượng Công an nhân dân còn
bị tác động từ nhiều phía, cả mặt tích cực và tiêu cực trong xã hội nếu không được
rèn luyện tốt sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến lý tưởng cách mạng và đương nhiên sẽ
không làm tròn nhiệm vụ vận động quần chúng tham gia bảo vệ an ninh Tổ quốc,
thậm chí còn có hại cho phong trào. Nghị quyết Trung ương 7 khóa IX đã tổng kết
và khẳng định một tiêu chí quan trọng trong phong cách của người cán bộ cách
mạng, đó là “trọng dân”.
Trong thời gian tới, các thế lực thù địch và bọn tội phạm chắc chắn sẽ tiếp
tục thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình”, “bạo loạn lật đổ”, tìm mọi cách để uy
hiếp, khống chế, thậm chí là tấn công, trả thù nhân dân. Lực lượng Công an và lực
115
lượng nòng cốt bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở có trong sạch, vững mạnh mới thực
sự là công cụ hữu hiệu để bảo vệ nhân dân. Qua công tác vận động quần chúng bảo
vệ an ninh, trật tự, lực lượng Công an sẽ được thử thách, rèn luyện về bản lĩnh cách
mạng, phẩm chất đạo đức, trình độ nghiệp vụ và có điều kiện củng cố, xây dựng lực
lượng trong sạch, vững mạnh. Nhân dân là người giám sát, đánh giá hoạt động của
cán bộ, chiến sĩ Công an một cách đúng đắn nhất. Đồng thời qua tham gia công tác
bảo vệ an ninh, trật tự, nhân dân được tôi luyện, là nguồn bổ sung vô tận cho Công
an và lực lượng nòng cốt bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở. Sự trong sạch, vững mạnh
của Công an nhân dân vừa thúc đẩy vừa bảo vệ cho nhân dân tham gia bảo vệ an
ninh, trật tự, ngược lại phong trào cách mạng của nhân dân vừa tạo điều kiện thuận
lợi vừa đòi hỏi lực lượng Công an phải trong sạch, vững mạnh.
Đây là bài học rất sâu sắc về phương pháp công tác của người chiến sỹ Công
an nhân dân. Lịch sử hơn 70 năm chiến đấu và xây dựng lực lượng cho thấy chỉ khi
nào người chiến sỹ Công an nhận thức được mình là Công an nhân dân, từ nhân dân
mà ra, vì nhân dân mà phục vụ, lấy lợi ích của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu thì
sẽ được nhân dân hết lòng ủng hộ và giúp đỡ. Xa rời dân thì tài mấy cũng không
làm gì được. Mọi biểu hiện cửa quyền, hách dịch, quan liêu, mệnh lệnh với nhân
dân khi thi hành công vụ... là hoàn toàn trái ngược với phẩm chất của người chiến
sỹ Công an nhân dân, cần phải kiên quyết đấu tranh khắc phục.
Thời kỳ đổi mới đất nước, trong quá trình thực hiện cải cách hành chính, tư
pháp, bài học xây dựng Công an nhân dân trong sạch, vững mạnh càng có ý nghĩa
thời sự. Để thực hiện tốt nhiệm vụ của mình đòi hỏi lực lượng Công an nhân dân
phải đổi mới tổ chức và hoạt động, nhất là các lực lượng thường xuyên tiếp xúc với
nhân dân. Hiện nay, tổ chức bộ máy của Công an nhân dân còn cồng kềnh, qua
nhiều cấp trung gian, chồng chéo, phân công, phân cấp chưa hợp lý. Vì vậy nhiệm
vụ của Công an nhân dân trong thời gian tới là phải nhanh chóng kiện toàn tổ chức,
bộ máy sao cho thiết thực, vừa đảm bảo lãnh đạo tập trung thống nhất, vừa đảm bảo
chuyên sâu; vừa mạnh ở Trung ương vừa mạnh ở địa phương, cơ sở.
Vấn đề lớn nhất đặt ra là phải có tổ chức bộ máy tinh gọn, có đội ngũ cán bộ
lãnh đạo, chỉ huy giỏi, gần dân. Kiên quyết chống tư tưởng chủ quan, duy ý chí
trong công tác tổ chức xây dựng lực lượng và chống bệnh quan liêu, hành chính, xa
116
dân trong công tác công an. Vì thế trong quá trình xây dựng lực lượng, lãnh đạo
Công an các cấp phải quan tâm đến việc rèn luyện cho cán bộ chiến sỹ có quan
điểm quần chúng vững vàng. Công tác công an là công tác nghiệp vụ, bí mật, song
không thể thiếu vai trò to lớn của nhân dân.
Nhân dân là lực lượng quyết định mọi thắng lợi, biện pháp quần chúng luôn
luôn là biện pháp nghiệp vụ cơ bản nhất của Công an nhân dân. Sinh thời, Chủ tịch
Hồ Chí Minh thường nhắc rằng làm công an là làm đầy tớ cho nhân dân, không
phải làm “quan cách mạng”. Do vậy, phải toàn tâm, toàn ý phục vụ nhân dân, vượt
qua khó khăn, thách thức, phải làm cho hành động “thức cho dân ngủ ngon, gác cho
dân vui chơi, lấy hạnh phúc của nhân dân làm niềm vui hạnh phúc của mỗi cán bộ
chiến sỹ, lấy sự nghiệp của Đảng làm mục tiêu phấn đấu của toàn lực lượng Công
an nhân dân” trở thành hoài bão và lý tưởng cao đẹp, coi đó là một vấn đề thuộc lập
trường, nguyên tắc, là tiêu chuẩn quan trọng để xem xét phẩm chất cách mạng của
mỗi cán bộ chiến sỹ Công an nhân dân.
Tiểu kết chương 3
Chỉ thị số 09-CT/TW ngày 01/12/2011 của Ban Bí thư đã khẳng định: “Cùng
với những thành tích trong công tác bảo vệ an ninh, trật tự, những năm qua, phong
trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc tiếp tục được đẩy mạnh, có bước phát triển
mới với nhiều nội dung, hình thức phong phú, đa dạng, hiệu quả, khơi dậy sức
mạnh, tiềm lực to lớn của nhân dân trong công tác giữ gìn an ninh chính trị và
phòng ngừa, tấn công trấn áp tội phạm, tệ nạn xã hội, góp phần quan trọng vào sự
nghiệp bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội, phục vụ công cuộc
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.
Thực tiễn hơn 70 năm qua đã khẳng định kết quả bảo vệ an ninh, trật tự và
sự trưởng thành của lực lượng Công an nhân dân luôn gắn chặt với sự phát triển của
công tác vận động quần chúng bảo vệ an ninh, trật tự. Từ kinh nghiệm tổ chức vận
động quần chúng và sáng tạo của nhân dân trong cuộc đấu tranh bảo vệ an ninh, trật
tự là cơ sở để đề xuất với Đảng, Nhà nước ban hành những chủ trương mới chỉ đạo
công tác an ninh, trật tự. Đồng thời cũng là cơ sở để lực lượng Công an hình thành
các quan điểm, phương châm, nguyên tắc đấu tranh chống phản cách mạng, các loại
tội phạm, bảo vệ an ninh, trật tự, đồng thời là cơ sở để lực lượng Công an xây dựng
hệ thống lý luận, nghiệp vụ, phương pháp công tác. Thông qua phong trào quần
117
chúng, lực lượng Công an không ngừng phấn đấu rèn luyện, trưởng thành về mọi
mặt. Mỗi thành tích, mỗi chiến công của lực lượng Công an đều có công lao đóng
góp của nhân dân và được nhân dân ghi nhận.
Tinh thần, ý thức trách nhiệm của cán bộ, đảng viên và nhân dân đối với sự
nghiệp đảm bảo an ninh, trật tự có những bước chuyển tích cực. Đó là kết quả của
công tác tuyên truyền giáo dục thường xuyên các chương trình phổ biến, giáo dục
pháp luật, bồi dưỡng kiến thức an ninh, quốc phòng. Đặc biệt qua thực tiễn giải
quyết các vụ việc hoạt động chống phá của các thế lực thù địch cũng như các “điểm
nóng” về an ninh, trật tự kéo dài gây hậu quả nghiêm trọng, nhận thức của cán bộ,
đảng viên và nhân dân về âm mưu, thủ đoạn hoạt động của các thế lực thù địch và
bọn phản động đã được nâng lên một bước, phân biệt được đổi mới và lợi dụng đổi
mới để chuyển hóa chính trị; giữa hoạt động tôn giáo theo pháp luật và lợi dụng tôn
giáo; giữa nhân quyền và lợi dụng nhân quyền để chống phá đất nước, chế độ.
Thực tiễn hơn 30 năm qua đặt ra những vấn đề đầy thuận lợi cũng như thách
thức đối với sự nghiệp bảo vệ an ninh, trật tự nói chung và công tác vận động quần
chúng bảo vệ an ninh, trật tự nói riêng. Vấn đề đặt ra là trước những vận hội và
thách thức mới, phải làm thế nào để mỗi một người dân nhận thức đầy đủ về lợi ích
quốc gia, dân tộc và ý thức công dân để tự giác tham gia vào sự nghiệp bảo vệ an
ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, góp phần xây dựng và bảo vệ thành công Tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
118
Chương 4
CÔNG TÁC VẬN ĐỘNG QUẦN CHÚNG BẢO VỆ
AN NINH, TRẬT TỰ CỦA LỰC LƯỢNG CÔNG AN NHÂN DÂN
THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH TRONG TÌNH HÌNH MỚI
4.1. DỰ BÁO NHỮNG YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN CÔNG TÁC VẬN ĐỘNG
QUẦN CHÚNG BẢO VỆ AN NINH, TRẬT TỰ
4.1.1. Những yếu tố tác động từ bên ngoài
Nhận định về cục diện thế giới trong thời gian tới, Đại hội XII của Đảng xác
định: “Cục diện thế giới theo xu hướng đa cực, đa trung tâm diễn ra nhanh hơn. Các
nước lớn điều chỉnh chiến lược, vừa hợp tác, thỏa hiệp, vừa cạnh tranh, đấu tranh,
kiềm chế lẫn nhau, tác động mạnh đến cục diện thế giới và các khu vực. Những
biểu hiện của chủ nghĩa dân tộc cực đoan, chủ nghĩa cường quyền áp đặt, chủ nghĩa
thực dụng ngày càng nổi lên trong quan hệ quốc tế. Các thể chế đa phương đứng
trước những thách thức lớn. Các nước đang phát triển, nhất là những nước vừa và
nhỏ đang đứng trước những cơ hội và khó khăn, thách thức lớn trên con đường phát
triển. Trong bối cảnh đó, tập hợp lực lượng, liên kết, cạnh tranh, đấu tranh giữa các
nước trên thế giới và khu vực vì lợi ích của từng quốc gia tiếp tục diễn ra phức tạp”
[54, tr.72,73].
Trong vài thập kỷ tới, dự báo ít có khả năng xảy ra chiến tranh thế giới, hòa
bình hợp tác vẫn là cơ bản, xu thế hình thành thế giới đa cực ngày càng rõ hơn.
Song chiến tranh cục bộ, xung đột vũ trang, xung đột sắc tộc, tôn giáo, chạy đua vũ
trang, can thiệp, lật đổ, khủng bố, ly khai, tranh chấp biên giới, biển đảo, tài nguyên
thiên nhiên với tính chất ngày càng phức tạp. Cộng đồng quốc tế phải đối phó ngày
càng quyết liệt hơn với các thách thức an ninh truyền thống, đặc biệt là an ninh
mạng và các hình thái chiến tranh kiểu mới.
Toàn cầu hóa đang và sẽ là vấn đề lớn, mang lại nhiều cơ hội cho các quốc
gia đang phát triển. Tuy nhiên toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế cũng tác động
tiêu cực, tạo nên những thách thức mới đe dọa đến đảm bảo chủ quyền, an ninh quốc
gia cho mỗi đất nước trong đó có Việt Nam. Thể hiện trên những mặt sau:
Thứ nhất, là ngày càng tạo nên sự phân hóa giàu nghèo, sự bất bình đẳng
trong quan hệ quốc tế. Các nước lớn đã tạo ra một trật tự kinh tế thế giới không bình
119
đẳng, gia tăng khoảng cách giữa các cường quốc kinh tế và các nước đang phát
triển. Từ đó các nước lớn phát triển có thể chi phối các nước nghèo, bắt đầu là kinh
tế và dần dần sẽ mưu đồ chi phối về chính trị, xã hội.
Thứ hai, toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế là điều kiện lan truyền
khủng hoảng kinh tế, gia tăng nguy cơ các loại an ninh phi truyền thống như tội
phạm xuyên quốc gia, khủng bố, buôn bán phụ nữ, trẻ em, buôn lậu vũ khí, ma túy,
tội phạm rửa tiền, tội phạm công nghệ cao, tội phạm về môi trường, v.v.
Khu vực Đông Nam Á nói chung và các nước láng giềng của Việt Nam nói
riêng cơ bản vẫn ổn định. Song bất ổn chính trị, xã hội xảy ra ở một số nước, điển
hình như Thái Lan. Tranh chấp giữa các nước lớn đối với khu vực, tranh chấp giữa
các nước trong và ngoài khu vực về Biển Đông, biên giới, lãnh thổ, lãnh hải, tài
nguyên thiên nhiên… diễn ra phức tạp, làm ảnh hưởng đến việc giữ vững chủ
quyền, toàn vẹn lãnh thổ và bảo vệ lợi ích quốc gia, chi phối đến nhiệm vụ xây
dựng và bảo vệ đất nước.
Như vậy tình hình thế giới và khu vực đối với nước ta có thuận lợi là cơ bản
với sự phát triển năng động tạo điều kiện để bố trí thế chiến lược đan cài lợi ích, thu
hút nguồn lực phục vụ sự phát triển đất nước giàu mạnh. Nhưng khó khăn lớn là sự
phức tạp tiềm ẩn của khu vực thể hiện ở sự tranh giành ảnh hưởng của các nước
lớn, sự cạnh tranh về không gian sinh tồn và phát triển của các quốc gia trong khu
vực; sự đa dạng, phức tạp của các yếu tố gây mất ổn định như tôn giáo, dân tộc, sắc
tộc, vấn đề hạt nhân, đa dạng văn hóa, trình độ phát triển và chế độ xã hội, v.v.
Hội nhập kinh tế quốc tế là xu hướng tất yếu để phát triển đất nước song
cũng là thách thức không nhỏ trước sự biến động kinh tế toàn cầu. Cuộc khủng
hoảng kinh tế tài chính dẫn đến sự suy thoái kinh tế có thể kéo dài trong nhiều năm
tới và sẽ lan rộng ra nhiều khu vực, nhiều nước. Khủng hoảng năng lượng, thiên tai,
biến đổi khí hậu, dịch bệnh, ô nhiễm môi trường… đã và đang trở thành vấn đề
nghiêm trọng toàn cầu. Thế lực kinh tế luôn kèm theo thế lực chính trị, chiến tranh
xâm lược khó có khả năng xảy ra, nhưng “chiến tranh kinh tế”,“chiến tranh thương
mại” sẽ biến “thương trường” thành “chiến trường” và chiến trường này không
kém phần gay go, quyết liệt và phức tạp. Các thế lực thù địch không thể bỏ lỡ cơ
hội lợi dụng để thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình”, đặc biệt là thúc đẩy “tự
diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ Đảng, Nhà nước và nhân dân ta.
120
Những vấn đề đó sẽ tác động, thậm chí đe dọa đến an ninh quốc gia nhiều
nước thế giới, trong đó có Việt Nam. Các thế lực thù địch trong nước và ngoài nước
nhất định sẽ lợi dụng tình hình đó để chống phá cách mạng Việt Nam. Đặc biệt là
chúng triệt để lợi dụng các vấn đề tôn giáo, dân tộc, dân chủ, nhân quyền để phá
hoại khối đại đoàn kết toàn dân gây bất ổn chính trị, tạo cớ can thiệp, gây rối, bạo
loạn chính trị…
4.1.2. Những yếu tố tác động từ trong nước
Sau hơn 30 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành tựu vô cùng
to lớn và cơ bản về tất cả các mặt chính trị, kinh tế - xã hội, đối ngoại; quốc phòng,
an ninh được giữ vững. “Thế và lực, sức mạnh tổng hợp của đất nước tăng lên, uy
tín quốc tế của đất nước ngày càng được nâng cao, tạo ra những tiền đề quan trọng
để thực hiện nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” [54, tr.6].
Song “bốn nguy cơ mà Đảng ta chỉ ra vẫn tồn tại, nhất là nguy cơ tụt hậu xa
về kinh tế so với các nước trong khu vực và trên thế giới, nguy cơ “diễn biến hòa
bình của các thế lực thù địch nhằm chống phá nước ta, tình trạng suy thoái về tư
tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”
trong một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức và tệ quan liêu tham
nhũng, lãng phí diễn biến phức tạp, khoảng cách giàu nghèo, phân hóa xã hội ngày
càng tăng, đạo đức xã hội có mặt xuống cấp đáng lo ngại, làm giảm lòng tin của
nhân dân đối với Đảng và Nhà nước… Tình hình chính trị - xã hội ở một số địa bàn
còn tiềm ẩn nguy cơ mất ổn định”[ 54, tr.60]. Về công tác vận động quần chúng bảo
vệ an ninh, trật tự của Công an nhân dân trong tình hình mới, có thể phân tích một
số dự báo trên các mặt sau:
Thứ nhất là về kinh tế
Những thành tựu to lớn về kinh tế trong hơn 30 năm đổi mới đã có ý nghĩa
quan trọng và có thêm bài học kinh nghiệm để tiếp tục phát triển trong điều kiện
mới. Song nguy cơ tụt hậu xa hơn các nước trong khu vực vẫn là thách thức to lớn
và gay gắt; đất nước ta phải đi lên trong môi trường hội nhập kinh tế quốc tế, cạnh
tranh quyết liệt; cộng với cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế lan rộng,
còn kéo dài trong nhiều năm tới. Khi hội nhập sâu vào kinh tế thế giới thì suy thoái
kinh tế thế giới sẽ tác động đến nước ta nhanh, mạnh và trực tiếp hơn.
121
Từ đó, tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế sẽ chậm lại, sức cạnh tranh và
năng lực quản lý yếu, đời sống nhân dân sẽ gặp khó khăn, sẽ khiến nhân dân mất
dần lòng tin vào sự lãnh đạo của Đảng, vai trò quản lý của Nhà nước; nếu để kéo
dài sẽ gây nên nhiều phức tạp về an ninh kinh tế, tác động đến an ninh quốc gia dẫn
đến mất ổn định chính trị, kẻ địch nhất định sẽ triệt để lợi dụng để khoét sâu thêm,
thúc đẩy nhanh "tự chuyển hóa" và "tự diễn biến" trong nhân dân.
Tình hình suy thoái về kinh tế, khủng hoảng về tài chính trong những năm
gần đây cùng với những tác động tiêu cực của quá trình hội nhập ngày càng sâu
rộng kinh tế quốc tế đã tác động trực tiếp đến kinh tế trong nước; nhiều doanh
nghiệp bị phá sản; việc làm, đời sống vật chất và tinh thần của công nhân ở các khu
công nghiệp gặp nhiều khó khăn, bức xúc, nhất là ở bộ phận công nhân lao động
giản đơn tại các doanh nghiệp của tư nhân và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài đang đặt ra rất nhiều vấn đề cho công tác đảm bảo an ninh, trật tự.
Trong quản lý kinh tế còn nhiều sơ hở, chậm được khắc phục, đã và đang bị
bọn tội phạm lợi dụng... Hoạt động sản xuất kinh doanh của nhiều doanh nghiệp
tiếp tục gặp khó khăn, thua lỗ kéo dài... nảy sinh phức tạp về an ninh, trật tự. Vấn đề
ô nhiễm môi trường đang có chiều hướng gia tăng, đặc biệt liên quan đến hoạt động
sản xuất nhiệt điện, khai khoáng, xả thải chưa qua xử lý của các nhà máy, cảnh báo
an ninh môi trường đáng lo ngại. Điển hình là vụ gây ra sự cố môi trường tại một số
tỉnh miền Trung của Công ty Formosa Hà Tĩnh.
Một vấn đề lớn đang đặt ra là thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa đã từng bước được hoàn thiện, song vẫn chưa theo kịp yêu cầu của công
cuộc đổi mới toàn diện và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế; những yếu tố đảm bảo
định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế còn nhiều hạn chế, yếu kém. Nếu
không sớm khắc phục, kẻ địch càng có điều kiện lợi dụng để kéo đất nước ta đi
"chệch hướng", dẫn đến những nguy cơ mà nguy cơ lớn nhất là bị lệ thuộc về kinh
tế dẫn dến lệ thuộc về chính trị.
Tác động của mặt trái cơ chế thị trường tạo ra sự phân hóa giàu nghèo ngày
càng cao, trình độ phát triển và mức sống của nhân dân các vùng có sự khác biệt
khá lớn và xu hướng ngày càng rộng; nguy hiểm hơn nữa là xuất hiện nguy cơ phát
triển tâm lý thực dụng, làm giàu bất cứ giá nào, lối sống sùng bái đồng tiền, chà đạp
lên đạo đức nhân phẩm con người. Điều đó dẫn đến khó khăn trong việc thực hiện
122
tiến bộ, công bằng xã hội trên nhiều lĩnh vực. Phân hóa nội bộ trong nhân dân ngày
càng cao, đồng thuận xã hội có phần suy giảm.
Thứ hai là về tư tưởng chính trị
Nhìn chung, tuyệt đại đa số cán bộ đảng viên và quần chúng nhân dân luôn
tin tưởng vào đường lối đổi mới của Đảng, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn
liền với chủ nghĩa xã hội. Chất lượng và hiệu quả công tác tư tưởng, lý luận của
Đảng được nâng lên.
Tuy nhiên, tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống trong
một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên và nhân dân chưa được khắc phục, đạo
đức xã hội suy giảm; sự trỗi dậy của bệnh cơ hội, chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa thực
dụng, sa đọa biến chất... Tác động của lợi ích cá nhân trong điều kiện kinh tế thị
trường ngày càng rõ nét; sự phân hóa giàu nghèo ngày càng tăng trong xã hội và
ngay trong nội bộ Đảng là những vấn đề nghiêm trọng, làm tăng thêm bức xúc
trong nhân dân, làm giảm lòng tin của nhân dân với Đảng, Nhà nước và chế độ, làm
hạn chế chất lượng hiệu quả biện pháp vận động quần chúng bảo vệ an ninh, trật tự.
Nhận thức của một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân về nhiệm vụ bảo
vệ Tổ quốc, nhất là bảo vệ an ninh quốc gia trong tình hình mới còn hạn chế. Sự
thay đổi, xuất hiện những thang và chuẩn giá trị mới có ảnh hưởng không nhỏ đến
công tác vận động quần chúng nói chung và vận động quần chúng bảo vệ an ninh,
trật tự. Nhận thức về công tác bảo vệ chính trị nội bộ chưa đầy đủ.
Vẫn còn không ít cấp ủy, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc, đoàn thể, cán bộ,
đảng viên và nhân dân chưa nhận thức đúng (thậm chí còn mơ hồ) tính chất nguy
hiểm của âm mưu "diễn biến hòa bình", đặc biệt là tác hại của "tự chuyển hóa", "tự
diễn biến" trong nội bộ đang có xu hướng tăng lên. Đó chính là những cơ hội để các
thế lực thù địch và bọn cơ hội chính trị đẩy mạnh hơn chiến lược "diễn biến hòa
bình" chống phá Đảng, Nhà nước, chế độ, từng bước lái đất nước ta đi chệch hướng
con đường xã hội chủ nghĩa.
Công tác bảo vệ chính trị nội bộ có mặt còn hạn chế. Chưa nắm và giải quyết
tốt vấn đề chính trị hiện nay, trong khi những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển
hóa” có xu hướng diễn biến phức tạp trong Đảng, trong hệ thống chính trị và trong
xã hội. Không ít cán bộ, đảng viên có những biểu hiện dao động, mất phương
hướng, hoài nghi về vai trò lãnh đạo của Đảng, về mục tiêu, lý tưởng và con đường
123
đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đã xuất hiện những việc làm và phát ngôn vô
nguyên tắc, trái với cương lĩnh, đường lối, điều lệ Đảng ở một số cán bộ, đảng viên”
[54, tr.38].
Thứ ba là tình hình quan liêu, tham nhũng - lãng phí, lợi ích nhóm đang diễn
biến phức tạp
Trong những năm gần đây, tệ tham nhũng- lãng phí, đi cùng với hiện tượng
“lợi ích nhóm” có diễn biến ngày càng phức tạp, tác động tiêu cực đến đời sống
chính trị, xã hội. Vì thế Đảng và Nhà nước cũng đã xác định tham nhũng là một
trong bốn nguy cơ lớn đe dọa đến sự sống còn của chế độ và sự nghiệp đổi mới của
đất nước.
Chiến lược quốc gia về phòng, chống tham nhũng của Chính phủ đã xác định
“Phòng, chống tham nhũng là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh
đạo của Đảng, phát huy sức mạnh của các ngành các cấp, nhấn mạnh trách nhiệm
của người đứng đầu các cơ quan tổ chức, đơn vị, đề cao vai trò của xã hội, các tổ
chức đoàn thể và quần chúng nhân dân. Phòng, chống tham nhũng là nhiệm vụ
quan trọng, vừa cấp bách, vừa lâu dài”.
Tuy nhiên, nhìn thẳng vào sự thật để đánh giá thì kết quả của cuộc đấu tranh
này còn hạn chế, tình trạng tham nhũng, lãng phí trong một bộ phận không nhỏ cán
bộ, đảng viên vẫn rất nghiêm trọng mang tính phổ biến ở nhiều ngành, nhiều cấp
vẫn là vấn đề bức xúc gay gắt của xã hội và đang là một nguy cơ trực tiếp liên hệ
đến sự sống còn của hệ thống chính trị.
Trong khi đời sống của nhân dân ở nhiều nơi còn nhiều khó khăn, nhiều yêu
cầu thiết yếu của quần chúng chưa được bảo đảm, thì:
Có những cán bộ, đảng viên chỉ lo thu vén cá nhân, xoay sở làm giàu, ăn
uống chè chén bê tha; thậm chí có người vô trách nhiệm với dân, vô cảm
trước những khó khăn, đau khổ của quần chúng. Một số người còn lợi
dụng chức quyền để đục khoét, vơ vét của cải của Nhà nước, của tập thể,
trở thành những con sâu mọt tệ hại của xã hội. Có lẽ đây là những điều
mất mát lớn nhất trong tình cảm của nhân dân, là điều người dân cảm
thấy xót xa, buồn phiền nhất [140, tr.168].
Ba thứ giặc tham nhũng, lãng phí, quan liêu được Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ
ra đều là "giặc nội xâm", "giặc trong lòng", nguy hiểm và khó đánh hơn cả giặc
124
ngoại xâm. Tác hại của tham nhũng, lãng phí không chỉ là vấn đề thất thoát tài sản
của Nhà nước (thực chất là của nhân dân) mà điều nguy hại nhất là làm "thất thoát
lòng dân". Trong chiến tranh giải phóng dân tộc, cái nhục mất nước thôi thúc mọi
người dân đi theo Đảng đứng lên cứu nước, còn trong hòa bình, xây dựng đất nước
cái gì thôi thúc nhân dân tin theo Đảng? Đó là "Dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh".
Hiện nay, tình trạng tham nhũng, lãng phí, đặc quyền, đặc lợi còn phổ biến,
chưa bị đẩy lùi; tình trạng suy thoái về đạo đức xã hội trong một bộ phận không nhỏ
cán bộ, đảng viên chưa được khắc phục và có xu hướng ngày càng nghiêm trọng
đang là nguyên nhân cơ bản làm giảm sút niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà
nước và lực lượng Công an nhân dân. Đại hội Đảng lần thứ XII đã đánh giá “Nhiều
cấp ủy đảng, chính quyền các cấp chưa thực hiện tốt vai trò lãnh đạo, chỉ đạo, quản
lý, thực hiện công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí. Công tác phòng, chống
tham nhũng chưa đạt mục tiêu, yêu cầu. Tham nhũng, lãng phí vẫn còn nghiêm
trọng, với những biểu hiện ngày càng tinh vi, phức tạp, xảy ra trên nhiều lĩnh vực, ở
nhiều cấp, nhiều ngành, làm cản trở sự phát triển kinh tế - xã hội, gây bức xúc trong
dư luận, là thách thức nghiêm trọng đối với vai trò lãnh đạo của Đảng và hiệu lực
quản lý của Nhà nước, đe dọa sự tồn vong của chế độ” [54, tr.38].
Đây chính là mảnh đất tốt và là đồng minh của âm mưu "diễn biến hòa
bình", là cơ hội thuận lợi để các thế lực thù địch, phản động thúc đẩy "tự chuyển
hóa", "tự diễn biến" trong nội bộ Đảng và nhân dân, lái chệch hướng con đường xã
hội chủ nghĩa, xã hội mà Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và nhân dân ta lựa chọn.
Thứ tư là vấn đề phát huy vai trò của nhân dân trong sự nghiệp bảo vệ an
ninh, trật tự
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, được soi rọi bởi ánh sáng tư tưởng Hồ Chí
Minh, trong những năm qua, lực lượng Công an nhân dân đã đạt được nhiều thành
tựu rất quan trọng trong sự nghiệp giữ vững an ninh chính trị, đảm bảo trật tự an
toàn xã hội, phục vụ đắc lực sự nghiệp đổi mới đất nước. Đại đa số cán bộ, chiến sĩ
giữ vững bản lĩnh chính trị vững vàng, trung thành với Đảng, Nhà nước, biết dựa
vào nhân dân để làm việc, vì nhân dân phục vụ, thực sự là lực lượng nòng cốt xung
kích trong sự nghiệp bảo vệ an ninh, trật tự.
Bộ Công an đã tham mưu Trung ương Đảng nhiều Nghị quyết quan trọng về
125
nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác vận động quần chúng bảo vệ an ninh, trật
tự. Đảng ủy Công an Trung ương và lãnh đạo Bộ đã có nhiều nghị quyết, chỉ thị về
phát huy quyền làm chủ của nhân dân, cải tiến nâng cao hiệu quả hoạt động quản lý
nhà nước trên lĩnh vực bảo vệ an ninh chính trị và giữ gìn trật tự an toàn xã hội, tăng
cường công tác dân vận, đẩy mạnh phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc,
phát động nhiều cuộc vận động lớn về phong trào thi đua vì an ninh Tổ quốc, vì
nước quên thân vì dân phục vụ...
Tuy nhiên, trong bối cảnh an ninh thế giới và khu vực đang diễn biến phức
tạp; các thế lực thù địch đang quyết liệt đẩy mạnh "diễn biến hòa bình" nhằm xóa
bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta; những yếu tố đe
dọa đến ổn định chính trị - xã hội sẽ còn diễn biến phức tạp. Về công tác xây dựng
lực lượng, thời gian qua, có bộ phận nhỏ trong đội ngũ cán bộ chiến sĩ, kể cả cán bộ
chỉ huy, đặc biệt vừa qua có cả cán bộ cao cấp giữ vị trí lãnh đạo quan trọng thiếu tu
dưỡng rèn luyện, phấn đấu, vi phạm chế độ công tác, thậm chí thoái hóa biến chất,
dẫn đến vi phạm pháp luật nghiêm trọng, làm phai nhạt bản chất tốt đẹp lực lượng
Công an nhân dân, làm suy giảm niềm tin trong nhân dân.
Việc điều chỉnh, bố trí lực lượng, đổi mới phương thức và biện pháp công
tác vận động quần chúng còn chưa khoa học hợp lý; tổ chức bộ máy còn cồng kềnh,
trên to, dưới nhỏ; chồng chéo, phân công, phân cấp chưa hợp lý, hạn chế việc nâng
cao chất lượng và hiệu quả biện pháp vận động quần chúng. Vẫn còn không ít tập
thể, cá nhân Công an nhân dân chưa thực sự dựa vào lực lượng và sức mạnh của
nhân dân, xem nhẹ công tác vận động quần chúng, quan liêu hành chính, nghiệp vụ
đơn thuần; điều kiện đảm bảo công tác vận động quần chúng còn rất hạn chế.
Vấn đề nông thôn, nông nghiệp và nông dân luôn được xác định vị trí hết
sức quan trọng, chiến lược. Đây là lĩnh vực rộng lớn, liên quan nhiều mặt phức tạp.
Tuy vậy lực lượng công an chính quy khu vực này chủ yếu là công an cấp huyện bố
trí dàn mỏng chưa đủ mạnh để đảm đương nhiệm vụ. Điều đó ảnh hưởng lớn đến
công tác vận động quần chúng bảo vệ an ninh, trật tự.
Phong trào vận động quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc khu vực này còn
yếu và nhiều hạn chế do chưa được quan tâm và đầu tư đúng mức, dẫn tới những
hậu quả là xuất hiện mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân, giữa một bộ phận nhân dân
với chính quyền và cấp ủy cơ sở. Có những vụ việc hết sức nghiêm trọng, làm cho
126
nhân dân cả nước lo ngại, kẻ thù lợi dụng để tuyên truyền, kích động, xuyên tạc chế
độ. Khi xảy ra vụ việc thì còn lúng túng trong tham mưu các cấp và chưa có phương
án để xử lý dứt điểm.
Tình hình đó đã và đang tác động đến tâm lý, tình cảm, ý thức trách nhiệm
và năng lực bảo vệ an ninh, trật tự của nhân dân, làm giảm lòng tin của nhân dân
với lực lượng công an, phần nào gây khó khăn dẫn đến hạn chế chất lượng và hiệu
quả công tác vận động quần chúng bảo vệ an ninh, trật tự.
Dân chủ là yếu tố hết sức quan trọng để nhân dân có điều kiện phát huy sáng
kiến, nâng cao ý thức trách nhiệm và năng lực tham gia quản lý nhà nước trong sự
nghiệp bảo vệ an ninh, trật tự. Yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ an ninh, trật tự càng cao,
đòi hỏi trình độ dân chủ càng lớn. Thực hành dân chủ còn là vũ khí, là phương pháp
hữu hiệu nâng cao hiệu quả công tác vận động quần chúng bảo vệ an ninh trật tự.
Song, trên nhiều lĩnh vực đời sống xã hội nói chung và lĩnh vực bảo vệ an
ninh, trật tự nói riêng còn thiếu các văn bản pháp luật điều chỉnh. Một số chậm đi
vào cuộc sống của nhân dân, một số quy định không phù hợp với thực tiễn gây bức
xúc, phiền hà cho nhân dân, tạo điều kiện cho quan liêu sách nhiễu, gây bức xúc
trong xã hội; quyền làm chủ của nhân dân nhiều nơi, nhiều lĩnh vực còn bị xâm
phạm, chưa tạo điều kiện để nhân dân tham gia vào công việc bảo vệ an ninh, trật
tự, xây dựng Đảng, chính quyền và Công an nhân dân. Một số hiện tượng xã hội
không mang tính bản chất, nhưng do một phần nhân dân chưa hiểu, lại bị kẻ xấu
kích động, xuyên tạc nên nảy sinh những mâu thuẫn và hoài nghi.
Công tác vận động quần chúng ở một số nơi còn chưa được quan tâm đúng
mức, chưa được tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân.
Một số cán bộ, đảng viên nói đến quyền làm chủ của nhân dân như hô
một khẩu hiệu suông, không có hành động gì thiết thực. Không ít đảng
viên có thái dộ coi thường quần chúng, không lắng nghe ý kiến, không
học hỏi người lao động, không tích cực làm công tác giáo dục, thuyết
phục, vận động quần chúng. Một số cán bộ, công chức, nhân viên trực
tiếp có quan hệ với dân thì cửa quyền, hách dịch, sách nhiễu gây đủ thứ
phiền hà, khó khăn cho dân, thiếu lễ độ với dân. Có người còn ăn chặn
của dân, vòi vĩnh đòi quà cáp, biếu xén. Một số người có chức có quyền
giữ tác phong quan cách, gia trưởng… Thậm chí có những cá nhân và
127
tập thể trù dập, ức hiếp quần chúng [140, tr.171].
Tại một số ít địa phương có hiện tượng vi phạm quy chế dân chủ ở cơ sở.
Quyền người dân được biết, được bàn, được làm, được kiểm tra nhưng không được
hưởng đã và đang tác động lớn đến tâm tư, nguyện vọng, tư tưởng và tinh thần
trong nhân dân, “Tình trạng cục bộ địa phương, mất đoàn kết ở một số tổ chức cơ
sở đảng và chính quyền đang làm giảm hiệu lực lãnh đạo quản lý. Quan hệ gắn bó
giữa Đảng và nhân dân ở một số nơi bị suy yếu, thậm chí có nơi tổ chức Đảng,
chính quyền, tổ chức quần chúng bị vô hiệu hóa” [80, tr.46]. Điều này dẫn đến hạn
chế chất lượng, hiệu quả trong công tác vận động quần chúng bảo vệ an ninh, trật
tự, làm phai nhạt hình ảnh tốt đẹp của Đảng, chính quyền và công an trong lòng
nhân dân.
Thứ năm là tình hình an ninh, trật tự
Sự nghiệp đổi mới của đất nước ta đang giành được những thành tựu hết sức
cơ bản tuy nhiên cũng đang phải đối diện với những thách thức không nhỏ trong
bối cảnh chính trị, kinh tế, đối ngoại khu vực và thế giới có những diễn biến phức
tạp. Tình hình an ninh, trật tự cũng đang đứng trước những thuận lợi và khó khăn
nhất định.
Dự báo trong thời gian gần, chưa có khả năng xảy ra bạo loạn chính trị lớn,
nhưng có khả năng xảy ra bạo loạn ở phạm vi hẹp, hoặc bạo loạn ở các khu công
nghiệp, khu chế xuất có vốn đầu tư nước ngoài. Về lâu dài, các thế lực thù địch,
phản động sẽ ngày càng ráo riết hoạt động chống phá Việt Nam từ nhiều hướng,
bằng nhiều thủ đoạn, sử dụng mọi lực lượng để tác động vào Việt Nam nhằm mục
đích xóa bỏ sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, xóa bỏ chế độ xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam. Kiểu chiến tranh ở đây không phải bằng súng đạn, cũng không
phải như thời bao vây, cấm vận, cô lập... mà là "diễn biến hòa bình", thúc đẩy "tự
chuyển hóa", "tự diễn biến" trong nội bộ cán bộ và nhân dân, kéo chệch hướng về
chế độ kinh tế đến chệch hướng về chế độ chính trị.
Âm mưu của chúng là kích động chủ nghĩa dân tộc theo hướng ly khai, tự
trị; chia rẽ các dân tộc. Lôi kéo, tập hợp lực lượng trong các dân tộc thiểu số chống
lại khối đại đoàn kết toàn dân tộc do Đảng lãnh đạo; quốc tế hóa các vấn đề dân tộc
để can thiệp chủ quyền, công việc nội bộ của Việt Nam dưới chiêu bài “dân chủ”,
“nhân quyền”. Lợi dụng và biến tôn giáo thành vấn đề dân chủ, nhân quyền để
128
tuyên truyền xuyên tạc, can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam; tạo điều kiện
hỗ trợ về mọi mặt cho các tổ chức giáo hội tôn giáo ở Việt Nam phát triển thành lực
lượng chính trị đối trọng với Nhà nước xã hội chủ nghĩa; tạo dựng “ngọn cờ” nhằm
tập hợp lực lượng trong các tôn giáo chống lại Nhà nước.
Bọn phản động lợi dụng tôn giáo trong cộng đồng người Việt Nam ở nước
ngoài âm mưu thành lập các tổ chức tôn giáo của người Việt ở nước ngoài để lợi
dụng chống Việt Nam; lợi dụng tôn giáo để tuyên truyền chống Nhà nước Việt
Nam về vấn đề dân chủ, nhân quyền, tự do tôn giáo; móc nối, hậu thuẫn cho các
phần tử phản động lợi dụng tôn giáo ở trong nước tiến hành các hoạt động chống
Nhà nước; kích động tập hợp lực lượng biểu tình chống Việt Nam ở nước ngoài.
Các phần tử phản động trong nước đẩy mạnh các hoạt động trong nước;
hoạt động tôn giáo trái pháp luật, lấn lướt chính quyền nhằm vô hiệu hóa công tác
quản lý nhà nước đối với tôn giáo; tăng cường củng cố, sắp xếp lại nhân sự nhằm
thao túng bộ máy giáo hội để tập hợp lực lượng chống chính quyền; lợi dụng các
hoạt động từ thiện, xã hội để phát triển thế lực của giáo hội vì mục đích chính trị.
Các hiện tượng tôn giáo hoạt động trái phép xuất hiện ở nhiều nơi ngày càng gây
bức xúc, thậm chí ảnh hưởng nặng nề đến một bộ phận xã hội như học sinh, sinh
viên, người già, phụ nữ, v.v.
Mục tiêu của chúng là phá vỡ khối đại đoàn kết toàn dân, đào hố chia cắt
giữa nhân dân với Đảng, Nhà nước, với lực lượng vũ trang tiến tới "phi chính trị
hóa" lực lượng vũ trang. Phương thức thủ đoạn là triệt để lợi dụng các sơ hở yếu
kém của ta trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội; lợi dụng các
vấn đề dân chủ, nhân quyền, dân tộc, tôn giáo; lợi dụng cả những vấn đề tranh chấp,
mâu thuẫn về biển đảo, tài nguyên thiên nhiên của các nước lớn và trong khu vực...
để kích động tâm lý, phá hoại tư tưởng, phá vỡ sự nhất trí về tư tưởng và tinh thần
của toàn xã hội, làm lung lạc và xói mòn lòng tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân
với Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa.
Sự nghiệp đảm bảo trật tự an toàn xã hội cũng đang là một thách thức không
nhỏ. Khuynh hướng phạm tội có sử dụng bạo lực diễn ra trắng trợn, có sự liên kết
thành băng, nhóm, hoạt động theo kiểu "xã hội đen", bảo kê, xiết nợ thuê, đâm thuê,
chém mướn, bắt cóc, tống tiền... diễn ra ngày càng phức tạp. Gần đây xuất hiện
ngày càng nhiều hoạt động mang tính chất khủng bố như bom thư, đặt mìn, ném
129
chất nổ vào nhà riêng, công sở để trả thù hoặc răn đe, dùng vũ khí nóng cướp tiệm
vàng, công khai trắng trợn chống người thi hành công vụ, nhất là các cơ quan có
trách nhiệm bảo vệ pháp luật như cảnh sát, hải quan, kiểm lâm, thuế vụ... làm cho
nhân dân lo ngại và hoang mang.
Tình trạng tham nhũng, hối lộ xảy ra phổ biến ở nhiều ngành, nhiều cấp vẫn
sẽ còn nghiêm trọng kéo dài, cộng với nạn buôn lậu, buôn bán hàng cấm, kinh
doanh trốn thuế, sản xuất hàng giả và tiêu thụ hàng giả, tội phạm công nghệ cao...
ngày càng phát triển. Nhiều vụ án kinh tế gây thiệt hại hàng ngàn tỷ đồng, ảnh
hưởng nghiêm trọng đến nền kinh tế đất nước, làm tha hóa một bộ phận cán bộ, xói
mòn lòng tin của nhân dân đối với chế độ.
Tội phạm ma túy, mại dâm, cờ bạc, buôn bán phụ nữ, trẻ em phát triển lan
rộng, gây nhức nhối cho xã hội, đe dọa đến nền đạo đức, văn hóa dân tộc. Đặc biệt
“tội phạm ma túy có xu hướng tăng, đưa vào Việt Nam qua các tuyến biên giới…
số người nghiện ma túy tăng, nhất là trong tầng lớp học sinh, sinh viên. Bọn tội
phạm ma túy hoạt động có tổ chức và gắn liền với các loại tội phạm hình sự khác,
có sự móc nối với một số cán bộ thoái hóa, biến chất trong các cơ quan nhà nước và
sử dụng nhiều phương tiện kỹ thuật hiện đại để hoạt động…. Trật tự, an toàn giao
thông còn phức tạp, tai nạn giao thông còn nghiêm trọng, nhiều loại tệ nạn xã hội du
nhập từ nước ngoài vào Việt Nam. Hỏa hoạn, ngộ độc thực phẩm, tai nạn lao động
4.2. NHỮNG GIẢI PHÁP CƠ BẢN NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC
VẬN ĐỘNG QUẦN CHÚNG BẢO VỆ AN NINH, TRẬT TỰ CỦA LỰC LƯỢNG
CÔNG AN TRONG TÌNH HÌNH MỚI THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
sẽ còn là vấn đề nhức nhối” [80, tr.52].
Từ phân tích những thuận lợi, khó khăn, và dự báo tình hình, yêu cầu cao
nhất của việc nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp vận động quần chúng bảo vệ an
ninh, trật tự là: Phải tập trung chỉ đạo nhằm tạo ra một sự chuyển biến tích cực trong
tổ chức và hoạt động của toàn lực lượng Công an nhân dân trong công tác vận động
quần chúng, để huy động cho được sức mạnh to lớn của toàn dân trên mặt trận bảo
vệ an ninh, trật tự, đáp ứng yêu cầu của cuộc đấu tranh giữ vững an ninh quốc gia,
đảm bảo trật tự an toàn xã hội, bảo vệ vững chắc Tổ quốc, bảo vệ Đảng, bảo vệ chế
độ xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới.
130
Xuất phát từ đường lối dân vận của Đảng, thực tiễn và lý luận công tác vận
động quần chúng bảo vệ an ninh, trật tự của Công an nhân dân dưới ánh sáng tư
tưởng Hồ Chí Minh, có thể đưa ra một số giải pháp cơ bản sau:
4.2.1. Lực lượng Công an đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục ý thức, trách
nhiệm và năng lực bảo vệ an ninh, trật tự cho nhân dân
Đây là giải pháp phải được xác định là cơ bản, lâu dài và thường xuyên như
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: “Công an phải luôn luôn giúp đỡ, tổ chức, giáo dục
nhân dân, làm cho mọi người dân đều là người giúp việc của mình, làm thành mạng
lưới công an nhân dân” [100, tr.154].
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII cũng đã vạch ra: “Phát huy mạnh mẽ
sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị, tranh thủ tối đa sự
đồng tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế” [54, tr.27] trong sự nghiệp quốc phòng,
an ninh.
Để thực hiện giải pháp cần áp dụng một số biện pháp sau:
Thứ nhất, tăng cường công tác giáo dục truyền thống tốt đẹp của nhân dân
trong lịch sử dựng nước và giữ nước và xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa
Dân tộc ta vốn có lòng yêu nước nồng nàn, tình thương yêu, đoàn kết gắn
bó, được tôi luyện qua hàng ngàn năm lịch sử chống ngoại xâm, giành độc lập, tự
do của Tổ quốc. Yêu nước là nấc thang giá trị cao nhất của dân tộc Việt Nam. Phải
làm cho toàn dân thấm sâu lời Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Đồng bào ta
ngày nay cũng rất xứng đáng với tổ tiên ta ngày xưa” [95, tr.38].
Đoàn kết toàn dân là sức mạnh vĩ đại không kẻ thù nào chiến thắng nổi. Đó
là nét đẹp truyền thống quý báu của dân tộc ta; là cơ sở đảm bảo cho công tác giáo
dục chính trị, tư tưởng, giáo dục truyền thống của dân tộc trong sự nghiệp đấu tranh
bảo vệ an ninh, trật tự, bảo vệ bản sắc văn hóa dân tộc, củng cố lòng tự hào, nâng
cao bản lĩnh và năng lực tự bảo vệ của nhân dân; là cơ sở để cảm hóa, đấu tranh làm
thất bại mọi hành động xuyên tạc, lũng đoạn tư tưởng, bôi nhọ lịch sử và truyền
thống vẻ vang của dân tộc ta, đả kích vai trò lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, rắp
tâm chia rẽ mối đoàn kết quân - dân; đoàn kết giữa quân đội và công an; giữa đồng
bào các dân tộc, tôn giáo.
Phải chủ động đấu tranh, công khai chỉ ra những mặt trái, những mầm độc
hại của chủ nghĩa tư bản hiện đại, những biểu hiện xấu xa của những kẻ phản nước
131
hại dân đang hoạt động xuyên tạc, bôi nhọ chính dân tộc mình; chủ động bảo vệ
phát triển, vun đắp những truyền thống tốt đẹp của dân tộc, đồng thời mở rộng việc
tuyên truyền, quảng bá ra thế giới những giá trị tốt đẹp đó. Đồng thời, phải lấy mục
tiêu lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng, dân chủ, văn minh làm nội dung cốt lõi, là chỗ dựa cho công tác
chính trị tư tưởng trong thời kỳ mới. Nhiệm vụ trung tâm là củng cố lòng tin của
nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, với chế độ xã hội chủ nghĩa bằng việc giác ngộ
nhân dân về đường lối, chính sách, bước đi của cách mạng xã hội chủ nghĩa. Vấn đề
hết sức quan trọng là giác ngộ cho nhân dân vững tin vào Đảng, Nhà nước, chế độ
chính trị, tạo sự đồng thuận trong xã hội.
Tư tưởng Hồ Chí Minh luôn soi sáng cho toàn Đảng, toàn dân và toàn quân
ta trong sự nghiệp bảo vệ an ninh, trật tự. Mỗi con người Việt Nam yêu nước có
trách nhiệm tiếp tục phát triển giá trị tư tưởng do Người để lại: “Mọi người công
dân, bất kỳ già trẻ gái trai, bất kỳ làm việc gì, đều có nhiệm vụ giúp chính quyền,
giữ gìn trật tự, an ninh, vì trật tự, an ninh trực tiếp quan hệ đến lợi ích bản thân của
mọi người”.[97, tr.77].
Thứ hai, đẩy mạnh công tác giáo dục về ý thức pháp luật và trách nhiệm
công dân là chủ, làm chủ quần chúng nhân dân theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
Nước ta là nước dân chủ, Nhà nước ta là nhà nước của dân, do dân, vì dân.
Nhà nước thay mặt nhân dân quản lý xã hội bằng pháp luật. Cuộc đấu tranh bảo vệ
an ninh, trật tự cũng phải trên cơ sở pháp luật. Việc xây dựng ý thức pháp luật cho
nhân dân chính là điều kiện để nhân dân tham gia vai trò là chủ, làm chủ trong cuộc
đấu tranh bảo vệ an ninh, trật tự.
Trong sự nghiệp bảo vệ an ninh, trật tự, biện pháp hiệu quả nhất là khơi dậy
ý thức tự phòng ngừa, tự bảo vệ của mỗi người dân. Thông qua nhiều hình thức,
biện pháp giáo dục làm cho mỗi công dân hiểu sâu sắc “Lợi ích chung của đất nước
và lợi ích riêng của người dân là nhất trí; quyền lợi của công dân và nghĩa vụ của
công dân là nhất trí, đã là người của nước nhà thì phải phụ trách đối với Tổ quốc”
[97, tr.259], “Giang sơn và Chính phủ là giang sơn và Chính phủ của chúng ta. Vậy
nên tất cả dân tộc chúng ta phải đoàn kết chặt chẽ, để giữ gìn nước non ta, để ủng
hộ Chính phủ ta” [92, tr.250].
132
Quán triệt và thực hiện nghiêm túc Nghị quyết Đại hội XII của Đảng: “Thể
chế hóa và thực hiện tốt phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra…
Phát huy dân chủ phải đi liền với tăng cường pháp chế, đề cao trách nhiệm công
dân, giữ vững kỷ luật, kỷ cương và đề cao đạo đức xã hội. Phê phán những biểu
hiện dân chủ cực đoan, dân chủ hình thức. Xử lý nghiêm những hành vi lợi dụng
dân chủ để làm mất an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội và những hành vi vi
phạm quyền dân chủ và quyền làm chủ của nhân dân” [54, tr.32].
Phải đẩy mạnh công tác cải cách hành chính, công tác thanh tra và thực hiện
quy chế dân chủ trong Công an nhân dân. Tập trung thực hiện có hiệu quả công tác
cải cách hành chính cho phù hợp với công tác thực tiễn và đáp ứng nguyện vọng
của nhân dân. Tổ chức thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả quy chế dân chủ, nhất là
các lĩnh vực liên quan đến công tác tiếp công dân. Đổi mới biện pháp công tác
thanh tra, kiểm tra trong lực lượng Công an từ Bộ đến các đơn vị, địa phương; tập
trung giải quyết dứt điểm những vụ khiếu tố kéo dài; kịp thời xử lý các hiện tượng
tiêu cực, tham nhũng, sách nhiễu nhân dân trong thực thiện nhiệm vụ của cán bộ
chiến sĩ công an.
Thứ ba, tích cực giáo dục về ý thức cảnh giác cách mạng cho toàn dân trong
thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Phải tích cực tuyên truyền giáo dục làm cho cán bộ, đảng viên và nhân dân
nhận thức công tác bảo vệ an ninh, trật tự có vị trí đặc biệt quan trọng, liên quan
trực tiếp đến sự tồn vong của chế độ, sự ổn định và phát triển của đất nước. Nâng
cao nhận thức về những thách thức đối với nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia và giữ
gìn trật tự an toàn xã hội ở nước ta trong điều kiện toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế
quốc tế, hoàn thiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Không thể vận động được quần chúng xây dựng được phong trào, không thể
tạo ra sự nhất trí về chính trị và tinh thần cao của nhân dân trong sự nghiệp bảo vệ
an ninh, trật tự, nếu không giáo dục ý thức trách nhiệm và trang bị cho nhân dân
những hiểu biết về âm mưu, phương thức và thủ đoạn hoạt động của các thế lực thù
địch trong và ngoài nước chống phá sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta. Đặc biệt
là âm mưu “Diễn biến hòa bình”, thủ đoạn thúc đẩy “tự chuyển hóa”, “tự diễn
biến” trong nội bộ. Lực lượng Công an phải là nòng cốt làm cho nhân dân hiểu thực
trạng diễn biến của tình hình tội phạm và tệ nạn xã hội đang đe dọa cuộc sống yên
133
vui của nhân dân, của từng gia đình, đặc biệt là các loại tội phạm phi truyền thống,
tội phạm có tổ chức, tội phạm khủng bố, tội phạm xuyên quốc gia, tội phạm quốc tế
và tệ nạn ma túy… đồng thời trang bị cho nhân dân những kiến thức cơ bản về pháp
luật, một số hiểu biết mang tính phổ thông như cách bảo vệ hiện trường, cách nhận
diện, nhận dạng đối tượng, giữ bí mật…
Lực lượng Công an thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả chủ trương tăng
cường lực lượng trực tiếp chiến đấu cho cơ sở. Tăng cường và đổi mới công tác vận
động nhân dân tích cực tham gia phòng, chống tội phạm; tố giác tội phạm; cung cấp
tin báo; giao nộp vũ khí, vật liệu nổ; chấp hành giữ gìn trật tự, an toàn giao thông;
phòng cháy và chữa cháy; cứu nạn, cứu hộ; quản lý, giáo dục, cảm hóa người vi
phạm pháp luật tại cộng đồng dân cư, người chấp hành xong án phạt tù tái hòa nhập
cộng đồng; vận động đối tượng phạm tội tự thú, khai báo v.v. Tham mưu đắc lực
cho các cấp ủy Đảng và chính quyền lãnh đạo tổ chức phối hợp về công tác thông
tin, tuyên truyền, phát huy sức mạnh tổng hợp của các cơ quan thông tin đại chúng,
mở rộng các kênh thông tin truyền thông, qua đó tổ chức đối thoại trực tiếp với
nhân dân, giải đáp chính sách, pháp luật, góp phần ổn định tâm lý, tư tưởng, giải tỏa
những bức xúc, hoài nghi (nếu có) trong xã hội.
Đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền và hoạt động xã hội từ thiện trong
Công an nhân dân. Định hướng các cơ quan thông tin truyền thông của Công an tập
trung phản ánh các sự kiện chính trị, xã hội nổi bật, đăng tải nhiều tin, bài tuyên
truyền về kết quả công tác vận động quần chúng của lực lượng công an. Xây dựng
lực lượng báo chí, tuyên truyền Công an nhân dân tiếp tục phát triển mạnh mẽ, trở
thành công cụ tuyên truyền sắc bén của Đảng, Nhà nước và của lực lượng Công an
trên mặt trận tư tưởng và đấu tranh phòng, chống tội phạm.
Phối hợp với các cơ quan truyền thông, thông tin đại chúng của trung ương
và địa phương, đồng thời chỉ đạo công tác văn hóa, văn nghệ, báo chí, phát thanh,
truyền hình trong lực lượng Công an để tuyên truyền giáo dục sâu rộng trong nhân
dân ý thức trách nhiệm, kiến thức và năng lực bảo vệ an ninh, trật tự, đặc biệt là
những gương người tốt, việc tốt, điểm sáng, gương sáng để nhân rộng.
Chú trọng việc định hướng các phương tiện thông tin đại chúng, nhất là các
mạng xã hội, phát huy sức mạnh của dư luận xã hội lành mạnh hỗ trợ công tác vận
134
động quần chúng bảo vệ an ninh, trật tự. Đồng thời qua đó chủ động đấu tranh với
các luận điệu sai trái, xuyên tạc, kích động của các thế lực phản động, thù địch
chống phá khối đại đoàn kết toàn dân tộc, chia rẽ giữa Đảng, Nhà nước và lực
lượng Công an với nhân dân.
Thứ tư, nêu cao truyền thống của lực lượng Công an nhân dân gắn với
truyền thống Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc.
Ngày 13/6/2005, Thủ tướng Chính phủ có Quyết định số 52/QĐ-Ttg về
Ngày hội toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc. Luật Công an nhân dân (2005) quy
định: Ngày 19 Tháng 8 hàng năm là ngày truyền thống của Công an nhân dân và là
ngày hội “Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc”. Việc quy định này có ý nghĩa cực kỳ
quan trọng, khẳng định truyền thống vẻ vang của Công an nhân dân gắn liền với
truyền thống toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc; phong trào thi đua Vì an ninh Tổ
quốc trong lực lượng Công an nhân dân gắn với phong trào toàn dân bảo vệ an ninh
Tổ quốc. Đổi mới việc tổ chức phong trào thi đua và tổ chức kỷ niệm ngày truyền
thống của Công an nhân dân bằng cách tuyên truyền sâu rộng trong nhân dân về các
hoạt động tiến tới kỷ niệm ngày truyền thống của Công an nhân dân đồng thời với
các hoạt động tiến tới “Ngày hội toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc”; kết hợp việc tổ
chức ngày truyền thống của lực lượng Công an nhân dân với việc tổ chức “Ngày hội
toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc”; kết hợp phong trào thi đua Vì an ninh Tổ quốc
trong lực lượng Công an nhân dân với phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc.
Hàng năm, các tỉnh, thành phố thực thuộc Trung ương tổ chức tổng kết
phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc gắn với tổ chức các hoạt động “Ngày
hội toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc”, năm năm một lần, vào các năm tròn, năm
chẵn. Tổng kết toàn quốc phong trào và “Ngày hội toàn dân bảo vệ an ninh Tổ
quốc” vào dịp ngày truyền thống của Công an nhân dân sẽ nhân lên ý nghĩa và tác
dụng của phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc.
Phong trào phải có nội dung và linh hoạt, sáng tạo về phương pháp, hình
thức cụ thể. Phải có Ban chỉ đạo phong trào quần chúng gồm các ủy viên của cấp ủy
đảng, ủy ban nhân dân, công an và đại diện các tổ chức xã hội, các đoàn thể quần
chúng. Thành lập quỹ hoạt động của phong trào và quy định chế độ khen thưởng,
khuyến khích vật chất cho những người tích cực đấu tranh bảo vệ an ninh, trật tự ở
địa phương. Chú trọng chỉ đạo xây dựng và nhân rộng các mô hình, điển hình tiên
135
tiến theo hướng xã hội hóa ngày càng cao, với nhiều hình thức tự phòng, tự quản, tự
bảo vệ, tự hòa giải.
Động viên, khích lệ nhân dân tích cực tham gia xây dựng khu dân cư, xã
phường, thị trấn, cơ quan, doanh nghiệp, nhà trường an toàn về an ninh, trật tự.
Chủ động phòng ngừa, phát hiện, tố giác tội phạm, giáo dục, giúp đỡ, cảm hóa
người vi phạm pháp luật, tái hòa nhập cộng đồng; tăng cường công tác đấu tranh
phòng, chống tội phạm, tệ nạn xã hội. Kịp thời khen thưởng các tập thể, cá nhân
có thành tích xuất sắc trong phong trào vì an ninh Tổ quốc, có chính sách thỏa
đáng đối với những trường hợp bị thương, hy sinh hoặc bị thiệt hại về tài sản khi
tham gia phong trào.
Làm tốt những vấn đề trên có ý nghĩa tạo nên niềm tin mãnh liệt của nhân
dân, nuôi dưỡng “dân khí” trong toàn dân, nhất định sẽ nâng cao ý thức cảnh giác
cách mạng, trách nhiệm và năng lực bảo vệ an ninh, trật tự của toàn dân, trang bị
cho nhân dân khả năng tự quản, tự phòng ngừa, tự bảo vệ và tạo ra sức đề kháng
trước âm mưu “Diễn biến hòa bình”, chống được nguy cơ “tự diễn biến” và chuyển
hóa trong nội bộ.
4.2.2. Xây dựng lực lượng Công an nhân dân trong sạch, vững mạnh
gắn bó mật thiết với nhân dân, củng cố lòng tin của nhân dân, tạo nên“thế trận
lòng dân” vững chắc
Tổ chức xây dựng đội ngũ Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh
nhuệ, từng bước tiến lên hiện đại, tuyệt đối trung thành với Đảng, Nhà nước và
nhân dân, liên hệ máu thịt với nhân dân, được nhân dân tin yêu vừa là mục tiêu, yêu
cầu quan trọng, vừa là giải pháp quan trọng để lực lượng công an hoàn thành tốt
nhiệm vụ nòng cốt trong bảo vệ an ninh, trật tự. Xây dựng lực lượng công an nhân
dân là đòi hỏi xuất phát từ bản chất của công an “là Công an nhân dân, vì nhân dân
mà phục vụ và dựa vào nhân dân mà làm việc” [98, tr.498] như Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã dạy.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng hiện
nay, đất nước ta đang đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và đạt được những thành tựu quan trọng
về kinh tế, văn hóa, xã hội; quốc phòng, an ninh được giữ vững. Tuy nhiên, cùng
với những kết quả to lớn đó, nhiều vấn đề phức tạp cũng đang nảy sinh trong đời
136
sống xã hội. Lực lượng công an với vai trò là nòng cốt, đã có những đóng góp to
lớn trong sự nghiệp bảo đảm ổn định về an ninh, trật tự, thì bên cạnh những thành
tích to lớn cùng với hàng vạn tấm gương sáng của cán bộ, chiến sĩ công an mưu, trí,
dũng cảm, sẵn sàng hy sinh quên mình trong đấu tranh chống tội phạm, được nhân
dân tin yêu… thì vẫn còn những hiện tượng đáng phê phán.
Hiện tượng tiêu cực, vi phạm kỷ luật, điều lệnh Công an nhân dân trong một
bộ phận cán bộ, chiến sĩ có chiều hướng diễn biến phức tạp; vẫn còn tình trạng cán
bộ, chiến sĩ công an quan liêu, hách dịch, xa rời quần chúng, thiếu trách nhiệm với
nhân dân, sách nhiễu nhân dân… đã ảnh hưởng xấu đến uy tín và danh dự của lực
lượng công an, làm suy giảm lòng tin yêu vốn có của nhân dân.
Vì vậy, vấn đề xây dựng lực lượng Công an nhân dân cách mạng liên hệ mật
thiết với nhân dân, được nhân dân tin yêu cần phải được xác định là một nhiệm vụ
quan trọng, then chốt, thường xuyên của toàn ngành cũng như của từng cán bộ,
chiến sĩ như Chủ tịch Hồ Chí Minh dạy: “Phải đoàn kết, nhất trí, giữ vững đạo đức
cần, kiệm, liêm, chính; kiên quyết chống quan liêu, tham ô, lãng phí; hết lòng hết dạ
phục vụ nhân dân” [98, tr.424]. Đây cũng là điều kiện, cơ sở để tăng cường sự lãnh
đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước và đặc biệt là sự tham gia của nhân dân góp ý,
đánh giá, xây dựng lực lượng Công an nhân dân.
Dựa vào nhân dân, lắng nghe ý kiến của nhân dân trong quá trình lãnh đạo,
tự đặt tổ chức và hoạt động của mình vào khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật, chịu
sự kiểm soát và kiểm tra của nhân dân là đặc điểm nổi bật, là triết lý cầm quyền
quan trọng của Đảng ta. Trong xây dựng nhà nước nói chung và xây dựng lực
lượng công an nói riêng cũng vậy, đó là nêu cao tinh thần thực hiện nền dân chủ xã
hội chủ nghĩa theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
Để tiếp tục và tăng cường sự gắn bó máu thịt với nhân dân và cũng chính là
nhận được sự tin yêu tuyệt đối của nhân dân, lực lượng công an cần tạo các điều
kiện để khuyến khích nhân dân tham gia góp ý kiến, phê bình, xây dựng lực lượng
công an; đồng thời cũng phải xây dựng các cơ chế trong công tác để tiếp nhận, xử lý
những thông tin phản ánh sự giám sát của nhân dân, xác định đây là một kênh thông
tin quan trọng, làm cho công an gần gũi với nhân dân hơn.
Mặt khác, thông qua sự giám sát của nhân dân có thể giúp cấp ủy đảng, lãnh
đạo công an các cấp nắm bắt kịp thời được tình hình cán bộ, chiến sĩ thuộc quyền
137
về phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống v.v… để có hướng bồi dưỡng, sử dụng cán
bộ tốt hơn cũng như có biện pháp giáo dục, xử lý kịp thời những cán bộ, chiến sĩ sai
phạm, khắc phục, hạn chế những khuyết điểm.
Hiện nay việc điều chỉnh, bố trí lực lượng, đổi mới phương thức và biện
pháp công tác của lực lượng Công an chưa theo kịp sự phát triển của tình hình.
Chưa huy động tốt sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị và toàn dân cùng với
lực lượng Công an nhân dân làm nhiệm vụ bảo vệ an ninh, trật tự. Có lúc, có nơi
Công an chưa thực sự dựa vào sức mạnh đông đảo của quần chúng nhân dân, còn
biểu hiện quan liêu, hành chính, nghiệp vụ đơn thuần. Vẫn còn một bộ phận nhỏ
cán bộ, chiến sĩ Công an, thậm chí có cả một số cán bộ cao cấp sa ngã trước lợi ích
cá nhân, trở nên thoái hoá, biến chất, đã có hành vi lợi dụng chức vụ quyền hạn để
tham nhũng, tiêu cực, nhũng nhiễu, ức hiếp quần chúng, làm suy giảm lòng tin của
nhân dân vào Đảng, Nhà nước và lực lượng Công an nhân dân.
Vì vậy, thời gian tới cần tiếp tục nghiên cứu, phân tích một cách khoa học
các mối quan hệ công tác, chiến đấu để điều chỉnh tổ chức, bố trí lực lượng khoa
học, hợp lý với chủ thể làm công tác xây dựng phong trào toàn dân bảo vệ an ninh
Tổ quốc, áp dụng biện pháp vận động quần chúng trong công tác công an.
Chủ tịch Hồ Chí Minh dạy “Cán bộ là cái gốc của công việc”, việc to hay
việc nhỏ, chất lượng hiệu quả công việc phụ thuộc vào chất lượng đội ngũ cán bộ -
cán bộ là khâu quyết định thực hiện và áp dụng biện pháp. Thực tế thời gian qua,
trong việc xây dựng đội ngũ Công an vững vàng về bản lĩnh chính trị, năng lực và
phẩm chất đạo đức, còn xem nhẹ tiêu chuẩn “Dân vận khéo”. Vì vậy tình trạng một
bộ phận không nhỏ trong cán bộ chiến sỹ Công an các cấp còn xa dân, thiếu tôn
trọng và tin cậy nhân dân, sa đoạ, biến chất, ức hiếp, nhũng nhiễu... làm giảm lòng
tin của nhân dân với Công an.
Dưới tác động của mặt trái cơ chế thị trường và hội nhập kinh tế thế giới, vấn
đề bảo vệ sự trong sạch của lực lượng Công an nhân dân, lực lượng bán chuyên
trách làm nhiệm vụ bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở (Công an xã, bảo vệ dân phố, bảo
vệ cơ quan doanh nghiệp) là một vấn đề bức bách hơn bao giờ hết, có tác dụng
quyết định đến hiệu quả cuộc đấu tranh bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở.
Trên tinh thần Chủ tịch Hồ Chí Minh dạy “Phải đoàn kết và học tập lẫn
nhau, luôn giúp đỡ nhau tiến bộ. Phải dựa vào nhân dân, ra sức đoàn kết và giúp đỡ
138
nhân dân” [100, tr.155], lực lượng Công an phải tập trung chỉ đạo nhằm tạo ra
chuyển biến rõ rệt trong nhận thức và hành động toàn lực lượng về bản chất truyền
thống của Công an nhân dân. Nhất là phải biết dựa vào dân để làm việc, cái gì có lợi
cho dân phải hết sức làm, cái gì có hại cho dân phải hết sức tránh, lấy mục tiêu phục
vụ và bảo vệ nhân dân làm thước đo đạo đức, phong cách của mình; tạo mọi điều
kiện để nhân dân tham gia, giúp đỡ nhiều hơn, trực tiếp hơn, tốt hơn vào nhiệm vụ
bảo vệ an ninh, trật tự và xây dựng lực lượng Công an nhân dân.
Quan tâm xây dựng, củng cố tổ chức bộ máy, đội ngũ làm công tác vận
động quần chúng trong Công an nhân dân vững mạnh, đáp ứng tốt yêu cầu, nhiệm
vụ trong tình hình mới. Chú trọng luân chuyển, bồi dưỡng, bố trí, sử dụng đội ngũ
cán bộ làm công tác vận động quần chúng, khắc phục tình trạng đưa cán bộ phẩm
chất, năng lực yếu, kém và không có uy tín về làm công tác vận động quần chúng;
đồng thời làm tốt công tác tuyên truyền, nhân rộng những điển hình tiên tiến,
gương người tốt việc tốt, đưa công tác vận động quần chúng bảo vệ an ninh trật tự
ngày càng đi vào chiều sâu, có hiệu quả thiết thực. Mỗi cán bộ, chiến sĩ công an
phải quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh và thực hiện nghiêm túc ý kiến chỉ đạo của
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị Công an toàn quốc lần thứ 69: “Cán
bộ, chiến sĩ công an phải là những cán bộ dân vận giỏi nhất, cán bộ dân vận tốt
nhất; đây là yếu tố quan trọng nhất để các đồng chí hoàn thành nhiệm vụ được
giao” [82, tr.334].
Lãnh đạo, chỉ huy công an các cấp phải thường xuyên lắng nghe ý kiến của
nhân dân, có cơ chế kiểm tra giám sát, đánh giá tinh thần, thái độ phục vụ nhân dân
của cán bộ, chiến sĩ, đặc biệt là ở các bộ phận thường xuyên quan hệ, tiếp xúc và
giải quyết công việc liên quan đến lợi ích hàng ngày của nhân dân” [82, tr.335].
Trên cơ sở đó, điều chỉnh, cải tiến, đổi mới lề lối làm việc thuận lợi cho nhân dân,
qua đó làm cho nhân dân ngày càng tin yêu, quý mến, giúp đỡ lực lượng công an
hoàn thành nhiệm vụ.
Trong công tác, lực lượng công an phải luôn tìm tòi, đổi mới đặc biệt là tìm
cách điều chỉnh, cải tiến lề lối phương pháp phục vụ nhân dân, qua đó làm cho nhân
dân ngày càng thêm tin yêu, quý mến, giúp đỡ lực lượng công an. Trong công tác,
chiến đấu, cán bộ, chiến sĩ công an phải tuyệt đối thực hiện tốt phương châm “trọng
dân, gần dân, hiểu dân, học dân và có trách nhiệm với dân”; “nghe dân nói, nói cho
139
dân hiểu, làm cho dân tin”, đề cao ý thức chấp hành pháp luật, kỷ cương, kỷ luật;
kiên quyết chống bệnh hữu khuynh, né tránh, vô cảm, vô trách nhiệm trước yêu cầu
chính đáng của nhân dân. Phải “triệt để sửa đổi tác phong mệnh lệnh, quan liêu,
hống hách; phải gây quan hệ thật tốt giữa công an và nhân dân” [103, tr.169] như
lời Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy.
Xây dựng hình ảnh người chiến sĩ Công an “vì nhân dân phục vụ”; mọi
hành động, việc làm của cán bộ, chiến sĩ phải luôn vì lợi ích của nhân dân, phục vụ
nhân dân với tinh thần thức cho dân ngủ ngon, gác cho dân vui chơi, lấy niềm vui
của nhân dân làm niềm vui, lẽ sống của mình. Tổ chức điều chỉnh bố trí lực lượng
một cách khoa học, hợp lý, có đội ngũ cán bộ đảm bảo vừa vững về chuyên môn,
am hiểu pháp luật, tốt về phẩm chất đạo đức và biết làm tốt công tác dân vận, nhất
định sẽ khắc phục được những yếu kém, hạn chế, bất cập và nâng cao chất lượng,
hiệu quả công tác vận động quần chúng trong Công an nhân dân.
Xây dựng “hình ảnh đẹp Công an trong lòng dân”, bằng cách xây dựng ngày
càng nhiều hơn những tấm gương tiêu biểu về tận tuỵ vì dân, thương yêu kính trọng
nhân dân; kiên quyết đưa ra khỏi lực lượng những cán bộ chiến sĩ “không dựa
được” vào dân để làm việc, và dân “không cho dựa”, không “cần” đến nữa.
Nhân rộng và tiến tới quy định một cách nề nếp việc tổ chức diễn đàn “Công
an lắng nghe ý kiến nhân dân” ở các đơn vị, địa phương, đặc biệt là các lực lượng
trực tiếp chiến đấu, lực lượng thường giải quyết liên quan đến quyền và nghĩa vụ
của công dân trong lĩnh vực bảo vệ an ninh, trật tự. Đây là biện pháp rất quan trọng
để xây dựng mối quan hệ máu thịt giữa Công an và nhân dân. Lòng tin của nhân
dân đối với Đảng và Nhà nước và lực lượng Công an là yếu tố nền tảng để hình
thành thế trận lòng dân, là điều kiện tiên quyết để xây dựng nền an ninh nhân dân,
thế trận an ninh nhân dân vững mạnh, góp phần giữ gìn an ninh, trật tự. Xây dựng
thế trận lòng dân vững chắc là vấn đề chiến lược, xuyên suốt, cốt lõi trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Hiện nay, do nhiều nguyên nhân tác động khác nhau đã làm cho lòng tin của
một bộ phận nhân dân đối với Đảng và Nhà nước nói chung, lực lượng Công an nói
riêng có biểu hiện giảm sút, thậm chí suy giảm nghiêm trọng, đặc biệt là ở các vùng
sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số, đồng bào theo đạo. Những biểu hiện mâu
thuẫn, khiếu kiện trong nông dân; đình công, lãn công gây rối an ninh, trật tự trong
140
công nhân; tư tưởng ly khai, tự trị trong vùng dân tộc thiểu số; gây rối biểu tình, bạo
loạn ở một số vùng chiến lược; biểu tình, chống người thi hành công vụ trong giáo
dân... là sự phản ánh rạn nứt, suy giảm nghiêm trọng “thế trận lòng dân”.
Ở nhiều địa bàn tôn giáo hiện có tình trạng giáo dân không chấp hành chính
quyền mà chỉ nghe theo các chức sắc tôn giáo. Nhiều địa bàn miền núi, vùng sâu
vùng xa “trắng cơ sở đảng” nhiều năm mà không gây dựng được. Nếu không có
biện pháp khắc phục hữu hiệu những hiện tượng trên một cách kịp thời, triệt để thì
sẽ trở thành nguy cơ đặc biệt nghiêm trọng đến an ninh, trật tự, đe dọa an ninh quốc
gia. Thực tiễn cho thấy nhiều nơi trên thế giới, khi lòng dân không yên thì chính trị -
xã hội không ổn định. Không có bạo lực nào có thể ngăn cản được sức mạnh của
nhân dân.
Vấn đề quan trọng nhất hiện nay là phải củng cố lòng tin đối với Đảng, Nhà
nước và lực lượng Công an nhân dân như Đại hội XII của Đảng đã xác định rõ:
Củng cố vững chắc niềm tin của nhân dân đối với Đảng, tăng cường khối
đại đoàn kết toàn dân tộc và mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân
dân; tập hợp, vận động nhân dân… Đổi mới phương thức lãnh đạo của
Đảng về công tác dân vận trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Đội ngũ cán bộ, đảng viên phải
thật sự tin dân, trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân, dựa vào dân, có
trách nhiệm với dân. Giải quyết kịp thời, có hiệu quả những bức xúc,
những kiến nghị chính đáng của nhân dân và khiếu nại, tố cáo của công
dân [54, tr.42].
Chăm lo “mối quan hệ Đảng - Dân” trong tình hình hiện nay, Tổng bí thư
Nguyễn Phú Trọng đã nói “Hiện nay vấn đề có ý nghĩa quyết định để tăng cường
mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân là Đảng phải chăm lo đầy đủ và sâu sắc đến
đời sống, lợi ích của nhân dân; thật sự tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của
nhân dân; củng cố và xây dựng tổ chức đảng thật trong sạch, khắc phục những hiện
tượng tiêu cực trong cán bộ, đảng viên, làm cho Đảng thật sự xứng đáng là người
lãnh đạo và người đày tớ trung thành của nhân dân. Chăm lo lợi ích, hạnh phúc của
nhân dân là mục đích thiêng liêng, là lý tưởng cao quý của Đảng” [140, tr.167].
Phải thực hiện nghiêm thiết chế dân chủ theo hướng “dân biết, dân bàn, dân
làm, dân kiểm tra, dân thụ hưởng”. Mở rộng các hình thức dân chủ trực tiếp để phát
141
huy trí tuệ và quyền làm chủ của nhân dân. Kiên quyết đẩy lùi tệ quan liêu tham
nhũng, suy thoái về tư tưởng, đạo đức lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên
trong hệ thống chính trị nói chung và lực lượng Công an nói riêng để củng cố lòng
tin của nhân dân.
Chủ động, tích cực giải quyết dứt điểm các vụ án lớn, các vụ việc khiếu
nại, tố cáo, các vấn đề bức xúc trong xã hội trên tinh thần công bằng, tôn trọng và
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân trên tinh thần “Việc gì có lợi cho
dân thì hết sức làm, việc gì có hại cho dân thì hết sức tránh” [92, tr.21]. Xử lý
nghiêm minh, không có vùng cấm đối với cán bộ, đảng viên vi phạm pháp luật, vi
phạm quyền tự do, dân chủ của nhân dân. Đồng thời, phải xử lý nghiêm khắc
những phần tử lợi dụng dân chủ có những hành vi quá khích, kích động quần
chúng gây rối, vi phạm pháp luật. Tăng cường tổ chức các hình thức đối thoại,
lắng nghe ý kiến góp ý của nhân dân để tiếp thu và phát huy cao độ quyền làm chủ
của nhân dân. Nâng cao năng lực và sức chiến đấu của đội ngũ cán bộ, chiến sĩ.
Tăng cường công tác tuyên truyền pháp luật để nâng cao năng lực pháp luật, để
quần chúng hiểu và chấp hành pháp luật trong khiếu nại, tố cáo và giám sát quyền
lực, qua đó củng cố niềm tin của nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng, quản lý
của Nhà nước và đối với lực lượng Công an nhân dân.
Phát huy tối đa sức mạnh đại đoàn kết dân tộc trong sự nghiệp bảo vệ an
ninh, trật tự trong giai đoạn cách mạng hiện nay.
Sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân là yếu tố quyết định mọi thắng lợi
của cách mạng. Do vậy, phải tạo được sự đồng thuận cao và sự tham gia tích cực
của đông đảo các tầng lớp nhân dân vào các hoạt động phòng, chống tội phạm bảo
vệ an ninh, trật tự. Hiện nay các thế lực thù địch đang tìm mọi cách phá hoại khối
đại đoàn kết toàn dân nhằm tạo ra sự mất ổn định về chính trị, xã hội, nhất là các địa
bàn dân tộc ít người, tôn giáo, các vùng chiến lược. Chúng mưu đồ tạo ra sự mâu
thuẫn, chia rẽ mối quan hệ máu thịt giữa Đảng với nhân dân, giữa đồng bào các dân
tộc, các tôn giáo, các tầng lớp nhân dân; kích động tư tưởng ly khai, tự trị, thành lập
các “nhà nước Đề Ga” ở Tây Nguyên, “vương quốc Mông” ở Tây Bắc… kích động
người dân khiếu kiện, gây rối, biểu tình; công nhân đình công, lãn công; giáo dân
đòi đất đai, cơ sở thờ tự; học sinh sinh viên biểu tình v.v…
Đứng trước tình hình đó lực lượng Công an phải thông qua công tác vận
142
động quần chúng nắm chắc tình hình, tham mưu cho Đảng và Nhà nước những
chính sách tăng cường đoàn kết các dân tộc, các tầng lớp xã hội, tôn giáo và không
tôn giáo thành một khối vững chắc thống nhất trên cơ sở tạo được sự bình đẳng
giữa các dân tộc, các tầng lớp nhân dân, không phân biệt tôn giáo, dân tộc.
Phải thực hiện tốt chính sách dân tộc của Đảng. Thực hiện có hiệu quả các
chương trình quốc gia về phát triển kinh tế - xã hội ở vùng dân tộc thiểu số để đưa
mục tiêu “đưa miền núi tiến kịp miền xuôi” trở thành hiện thực. Đó là cách tốt nhất,
bền vững nhất để củng cố mối quan hệ tốt đẹp giữa các dân tộc. Tranh thủ được các
già làng, trưởng bản trong vận động đồng bào các dân tộc thiểu số tham gia phát
triển kinh tế, đảm bảo an ninh, trật tự. Tập trung đấu tranh với mọi âm mưu kích
động, phá hoại của các thế lực thù địch, giữ ổn định chính trị ở vùng dân tộc.
Tôn trọng nhu cầu tâm linh, tín ngưỡng của quần chúng giáo dân. Góp phần
tích cực vào sự đoàn kết giữa các tôn giáo; giữa những người theo tôn giáo và
không theo tôn giáo. Tạo điều kiện thuận lợi cho các tôn giáo hoạt động theo đúng
pháp luật. Tập trung giải quyết tốt, dứt điểm các “điểm nóng” không tạo sơ hở để
các thế lực thù địch lợi dụng kích động chống đối chính quyền. Tích cực xây dựng
lực lượng nòng cốt trong các tôn giáo, tranh thủ quần chúng giáo dân và giải quyết
các vấn đề phức tạp về tôn giáo.
Quan tâm nhiều hơn nữa đến đời sống vật chất và tinh thần của người lao
động, nhất là khu vực nông thôn và vùng sâu vùng xa, vùng căn cứ địa cách mạng.
Khắc phục cơ bản tình trạng thất nghiệp hoặc thu nhập quá thấp, không đảm bảo
cuộc sống tối thiểu. Củng cố mối quan hệ giữa các tầng lớp trong xã hội: công nhân,
nông dân, trí thức; mối quan hệ giữa các thế hệ, đặc biệt là mối quan hệ giữa các thế
hệ cha anh, những người đã tham gia các cuộc kháng chiến giữ nước và dựng nước
với các thế hệ trẻ được sinh ra, lớn lên trong hòa bình, được hưởng thụ các thành
quả cách mạng đem lại.
Đồng thời phải tăng cường công tác vận động đồng bào Việt Nam ở nước
ngoài để họ luôn hướng về Tổ quốc. Tạo chính sách để thắt chặt hơn nữa mối quan
hệ giữa họ với đất nước. Làm cho họ thấy rõ trách nhiệm của những người con xa
xứ trong công tác nắm tình hình và đấu tranh có hiệu quả với những hoạt động
chống phá cách mạng ở nước ngoài. Đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và luận
điệu tuyên truyền, xuyên tạc của các thế lực thù địch về chính sách của Đảng và
143
Nhà nước đối với đồng bào Việt Nam đang sinh sống, định cư ở nước ngoài.
Xây dựng thế trận lòng dân, củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng,
Nhà nước và lực lượng Công an không mới khi so với giai đoạn cách mạng cách
đây đúng 60 năm, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy Công an nhân dân “Được nhân dân
tin, yêu, phục thì việc gì cũng làm được” [99, tr.249]. Tuy nhiên, trong tình hình
mới, đây là giải pháp quan trọng nhất, là cơ sở vô cùng quan trọng cho sự thành
công của công tác vận động quần chúng bảo vệ an ninh, trật tự
4.2.3. Đổi mới sâu sắc, toàn diện công tác vận động quần chúng bảo vệ
an ninh, trật tự theo hướng “dân chủ gắn với dân sinh”
Đây là giải pháp quan trọng thể hiện sự quán triệt sâu sắc Nghị quyết số 25-
NQ/TW của Ban Chấp hành TW Đảng khóa XI về “Tăng cường và đổi mới sự lãnh
đạo của Đảng đối với công tác dân vận trong tình hình mới” và lời dạy của Chủ
tịch Hồ Chí Minh “Ta quan tâm đời sống quần chúng thì quần chúng sẽ theo ta”
[103, tr.142].
Giải pháp này cần tập trung thực hiện một số biện pháp cơ bản sau:
Thứ nhất, đổi mới sâu sắc, toàn diện công tác vận động quần chúng bảo vệ
an ninh, trật tự nói chung, phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc nói riêng
Vận động quần chúng là một trong những biện pháp chiến lược, cơ bản làm
nền tảng cho các biện pháp khác. Phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc là
một trong những phong trào cách mạng của Đảng, phải bám sát và phục vụ có hiệu
quả sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Bài học sâu sắc rút ra từ thực
tiễn cuộc đấu tranh bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự an toàn xã hội thời gian
qua đã khẳng định: Đảng lãnh đạo là then chốt, Công an nhân dân là lực lượng nòng
cốt, yếu tố quyết định thành công là sức mạnh toàn dân. Sức mạnh ấy được tạo nên
bởi công tác vận động quần chúng bảo vệ an ninh, trật tự. Quần chúng tạo nên
phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc, qua đó để chuẩn bị lực lượng đấu
tranh với mọi thế lực thù địch và tội phạm. Phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ
quốc là một trong những nội dung cốt lõi của công tác xây dựng, củng cố nền an
ninh nhân dân, thế trận an ninh nhân dân, là sự thể nghiệm rõ “thế trận lòng dân’
trong sự nghiệp bảo vệ an ninh Tổ quốc.
Trong tình hình hiện nay, trước những tác động tiêu cực từ mặt trái của kinh
144
tế thị trường, một bộ phận nhân dân có biểu hiện thờ ơ với các vấn đề chính trị, xã
hội, nhận thức chưa đầy đủ, thậm chí có biểu hiện thoái thác, trốn tránh tham gia
thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh, trật tự. Vì vậy, cần thiết phải có sự đổi mới
quyết liệt hình thức, phương pháp vận động quần chúng để tạo điều kiện cho nhân
dân tham gia nghĩa vụ, trách nhiệm, quyền lợi phù hợp, nhằm huy động sức mạnh
toàn dân có hiệu quả cao nhất trong sự nghiệp bảo vệ an ninh, trật tự.
Để huy động được sức mạnh của mọi tầng lớp nhân dân vào công tác xây
dựng phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc đảm bảo thiết thực, có hiệu quả,
phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của từng vùng, miền, lĩnh vực, địa bàn dân cư,
cần phải tập trung đổi mới mạnh mẽ hơn nữa nội dung, phương pháp, hình thức vận
động quần chúng. Nội dung, phương pháp và hình thức vận động phải luôn gắn liền
với những lợi ích thiết thực của quần chúng nhân dân. Đẩy mạnh công tác tuyên
truyền, giáo dục nâng cao nhận thức về nhiệm vụ bảo vệ an ninh, trật tự để nhân
dân thấy rõ trách nhiệm và quyền lợi của mình trong việc tham gia giữ gìn an ninh,
trật tự; có ý thức chủ động tự bảo vệ, tự đấu tranh với các hành vi vi phạm pháp
luật. Nội dung tuyên truyền phải thiết thực, sâu sắc, phù hợp với đặc điểm tình hình
cụ thể, tránh sáo rỗng, rập khuôn máy móc.
Lực lượng Công an nhân dân nghiên cứu, phân chia các giải pháp vận động
quần chúng theo từng tuyến, lĩnh vực và địa bàn cụ thể để chuyên sâu và nâng cao
hiệu quả trong tình hình mới. Cụ thể gồm có: (1). Giải pháp vận động quần chúng
trong vùng tôn giáo, (2). Giải pháp vận động quần chúng trong vùng đồng bào dân
tộc thiểu số, (3). Giải pháp vận động quần chúng khu vực nông thôn, (4). Giải pháp
vận động quần chúng khu vực biên giới, (5). Giải pháp vận động quần chúng trong
các cơ quan, doanh nghiệp nhà nước, (6). Giải pháp vận động quần chúng trong các
doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, (7). Giải pháp vận
động quần chúng trong các trường đại học, cao đẳng, đào tạo nghề, (8). Giải pháp
vận động quần chúng trong các tổ chức đoàn thể.
Kết hợp chặt chẽ giữa biện pháp vận động quần chúng với tổ chức các đợt
tấn công, trấn áp tội phạm, tệ nạn xã hội, Tháng hành động phòng, chống ma túy
(tháng 6 hàng năm), Ngày toàn dân phòng chống ma túy (ngày 26- 6). Đồng thời, tổ
chức tốt công tác nắm tình hình, hoạt động của tội phạm, quản lý địa bàn, quản lý
đối tượng… gắn công tác phòng, chống tội phạm với việc tiếp tục thực hiện các kế
145
hoạch chuyên đề về vận động quần chúng tham gia phát hiện, tố giác tội phạm, cảm
hóa, giáo dục người lầm lỗi tại cộng đồng dân cư; tham gia tiếp nhận, quản lý, giáo
dục, giúp đỡ người được đặc xá sớm hòa nhập cộng đồng, thực hiện các biện pháp
bảo đảm tái hòa nhập cộng đồng đối với người chấp hành xong án phạt tù; phát
hiện, truy bắt và vận động đối tượng truy nã ra đầu thú.
Thứ hai, Công an nhân dân tích cực tham mưu cho Đảng và Nhà nước, lãnh
đạo các cấp, các ngành, địa phương, đơn vị tập trung giải quyết những bức xúc,
nguyện vọng chính đáng của nhân dân, nhất là những vấn đề liên quan đến đời
sống, việc làm, đền bù thu hồi đất đai, tai nạn giao thông, tệ nạn xã hội.
Trong xây dựng thể chế, chính sách, cần quán triệt và thực hiện nghiêm
nguyên tắc, mọi chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước phải
thuận với lòng dân, xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chính đáng của nhân dân.
Chú trọng cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, nhất là điều kiện
sống, lao động, học tập, sáng tác, nghỉ ngơi, chăm sóc sức khỏe. Quan tâm điều
chỉnh hài hòa lợi ích giữa các giai tầng xã hội, các vùng miền, các lĩnh vực, gắn
nghĩa vụ với quyền lợi, cống hiến với hưởng thụ, lợi ích cá nhân với tập thể và cộng
đồng, xã hội.
Nghị quyết số 25 - NQ/TW của Đảng về tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo
của Đảng đã chỉ rõ:
Nghiên cứu sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện chính sách cụ thể đối với giai
cấp công nhân, giai cấp nông dân, đội ngũ trí thức, doanh nhân, thế hệ
trẻ, phụ nữ, cựu chiến binh, người cao tuổi. Ban hành các cơ chế, chính
sách hỗ trợ, giúp đỡ đồng bào định cư ở nước ngoài ổn định cuộc sống,
giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, hướng về Tổ quốc, đóng
góp xây dựng đất nước, góp phần tăng cường hợp tác, hữu nghị giữa
nhân dân ta với nhân dân các nước [8, tr.3]
Lực lượng Công an làm công tác vận động quần chúng phải nhận thức và
quán triệt sâu sắc ý kiến chỉ đạo của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng là:
“Trong điều kiện ngày nay, nếu không chăm lo một cách thiết thực đời sống vật
chất và tinh thần của nhân dân thì dù có nói bao nhiêu về quan điểm quần chúng, về
quyền làm chủ của nhân dân cũng đều là vô nghĩa và không có sức thuyết phục”
[140, tr.169].
146
Dân chủ gắn liền với dân sinh, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần là một
trong những điều kiện cơ bản để nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình trên
các lĩnh vực nhất là lĩnh vực bảo vệ an ninh, trật tự. Khó khăn, thiếu thốn, nghèo
nàn lạc hậu là điều kiện cho tội phạm phát triển, đồng thời cũng gây khó khăn cho
công tác phát động phong trào bảo vệ an ninh Tổ quốc, vận động quần chúng tố
giác, phòng và chống tội phạm.
Thứ ba, Công an nhân dân phát huy vai trò nòng cốt, phối hợp với các
ngành, đoàn thể làm tốt công tác vận động quần chúng bảo vệ an ninh, trật tự.
Một trong những nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự an toàn xã
hội là huy động và phát huy sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị, sức mạnh
của toàn dân, thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh, trật tự, trong đó lực lượng Công
an nhân dân đóng vai trò nòng cốt xung kích. Trong lãnh đạo chỉ đạo công tác Công
an phải quán triệt quan điểm cơ bản: lực lượng Công an nhân dân phải phối hợp
chặt chẽ với các tổ chức trong hệ thống chính trị, phát huy sức mạnh của quần
chúng nhân dân trong công tác bảo vệ an ninh, trật tự và xây dựng lực lượng như
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ đạo phải “đoàn kết nội bộ ngành công an, đoàn kết
với các ngành khác, đoàn kết với nhân dân. Có thế công tác mới làm được” [99,
tr.249, 250].
Phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc chỉ có sức sống, ngày càng phát
triển khi gắn kết và cùng phát triển với các phong trào cách mạng khác. Hình thức
phổ biến thích hợp nhất, và có hiệu quả nhất là nâng cao chất lượng thực hiện phối
hợp tốt với Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên về “Đẩy mạnh phong trào
toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc trong tình hình mới”, nâng cao chất lượng, hiệu
quả hoạt động của Ban Chỉ đạo “Phòng chống tội phạm, tệ nạn xã hội và xây dựng
phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc”; quy chế phối hợp giữa Công an với
Quân đội, với các ngành để vận động nhân dân cùng thực hiện các phong trào thi
đua yêu nước như cuộc vận động “Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong
cách Hồ Chí Minh”, “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá ở khu dân
cư”, “Tuổi trẻ giữ nước”, “Phát huy bản chất truyền thống bộ đội Cụ Hồ”… Như
vậy sẽ phục vụ tích cực cho việc xây dựng một nền an ninh nhân dân vững mạnh.
Tích cực đổi mới công tác phối hợp giữa lực lượng Công an với các ngành,
147
đoàn thể trong công tác vận động quần chúng bảo vệ an ninh, trật tự. Đặc biệt là ở
địa bàn biên giới, hải đảo, địa bàn dân tộc thiểu số, tôn giáo. Phải tạo được sự phối
hợp chặt chẽ giữa các lực lượng Công an nhân dân với Quân đội nhân dân, nhất là
với lực lượng Bộ đội Biên phòng trong hoạt động đảm bảo an ninh, trật tự.
Đẩy mạnh Chương trình phối hợp thực hiện công tác dân vận giữa Bộ Công
an và Ban Dân vận trung ương. Phối hợp trao đổi thông tin, nghiên cứu, thẩm định,
tham mưu, đề xuất các nội dung về công tác dân vận, công tác dân tộc, tôn giáo,
quy chế dân chủ ở cơ sở, phong trào thi đua “Dân vận khéo” và hướng dẫn, đôn
đốc, kiểm tra việc thực hiện ở các địa phương.
Đổi mới và tăng cường các biện pháp xây dựng phong trào toàn dân bảo vệ
an ninh Tổ quốc ở các địa bàn trọng điểm, phức tạp về an ninh, trật tự. Trong công
tác dân vận phải biết tranh thủ người có uy tín trong tôn giáo, dân tộc, cộng đồng
dân cư, dòng họ, cơ quan, tổ chức để làm hạt nhân cho phong trào. Phối hợp chặt
chẽ với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên trong chỉ đạo thực
hiện Chỉ thị số 09-CT/TW ngày 01-12-2011 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về
“Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ
quốc trong tình hình mới”. Kiện toàn các Ban chỉ đạo thực hiện các nghị quyết liên
tịch, liên ngành có nội dung liên quan đến công tác vận động quần chúng bảo vệ an
ninh, trật tự theo hướng tập trung, thống nhất từ trung ương đến cơ sở; gắn kết
phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc với các cuộc vận động, các phong trào
cách mạng khác và Ngày hội toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc.
4.2.4. Khai thác, áp dụng khoa học, công nghệ hiện đại trong công tác
vận động quần chúng bảo vệ an ninh, trật tự
Đại hội Đảng XII đã nhận định: “Cuộc cách mạng khoa học công nghệ đặc
biệt là công nghệ thông tin tiếp tục phát triển mạnh mẽ, thúc đẩy sự phát triển nhảy
vọt trên nhiều lĩnh vực” [54, tr.42 ].
Với những thành tựu phi thường của cuộc cách mạng khoa học công
nghệ hiện đại và sự xuất hiện của kinh tế tri thức, tác động sâu rộng đến
mọi mặt của dời sống kinh tế, chính trị, xã hội, tạo ra sự biến đổi tận gốc
của lực lượng sản xuất trong xã hội hiện đại. Khoa học công nghệ góp
phần nâng cao nhanh chóng trình độ nhận thức của nhân dân, giúp nhân
dân gia tăng quyền lực của mình đối với các tiến trình của đời sống xã
148
hội, nhưng mặt khác cũng đe dọa và thu hẹp quyền lực của Nhà nước, trở
thành một nhân tố không thể không tính đến trên con đường dân chủ hóa
quyền lực và cách thức quản lý xã hội [78, tr.237].
Các thế lực thù địch và bọn tội phạm đang tăng cường sử dụng các thành tựu
khoa học công nghệ cao, phương tiện kỹ thuật tiên tiến, vũ khí công nghệ mới nhất
để chống phá đất nước ta, xâm phạm an ninh quốc gia, làm mất ổn định trật tự, an
toàn xã hội. Trình độ khoa học, công nghệ của đất nước nói chung, lực lượng Công
an nói riêng nhìn chung còn lạc hậu so với nhiều nước trên thế giới và khu vực, khả
năng đầu tư còn hạn chế, vì vậy, chỉ thông qua công tác vận động quần chúng mới
có thể huy động được sức mạnh vật chất của khoa học công nghệ, kỹ thuật hiện đại
trong cuộc đấu tranh bảo vệ an ninh, trật tự.
Vừa qua, Quốc hội đã thông qua Luật An ninh mạng, đây là công cụ pháp
luật rất có ý nghĩa đối với quốc gia, tổ chức và cá nhân, đồng thời cũng rất quan
trọng đối với sự nghiệp bảo vệ an ninh, trật tự trong tình hình hiện nay. Luật An
ninh mạng sẽ là cơ sở pháp lý để đấu tranh, xử lý có hiệu quả đối với các hành vi
phá hoại an ninh quốc gia, xuyên tạc lịch sử, phủ nhận thành quả cách mạng, chống
thông tin sai sự thật trong nhân dân và đấu tranh chống các loại tội phạm mạng. Tuy
nhiên, để Luật an ninh mạng đi vào cuộc sống, lực lượng Công an nhân dân phải
tuyên truyền vận động quần chúng nhân dân hiểu rõ và ủng hộ một cách tối đa
nhằm tạo sự đồng thuận xã hội, giúp lực lượng Công an trong quá trình thực thi
pháp luật, bảo vệ an ninh, trật tự.
Trong xu thế tiến bộ nhanh chóng của khoa học và công nghệ, nhất là khi
cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đang diễn ra ngày càng sâu rộng trên toàn cầu, lực
lượng Công an nhân dân phải kịp thời tham mưu đề xuất và chủ động khai thác, ứng
dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật và công nghệ trong thực hiện các mặt công
tác vận động quần chúng bảo vệ an ninh, trật tự. Nhiều phương pháp tuyên truyền,
giáo dục, vận động truyền thống đã lạc hậu, không phát huy tác dụng, thay vào đó là
các phương thức mới áp dụng khoa học kỹ thuật hiện đại. Để đáp ứng yêu cầu đó,
lực lượng Công an cần có những giải pháp cụ thể như:
Một là, phải tập trung nguồn lực đầu tư xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật,
trang bị hiện đại phục vụ công tác vận động quần chúng. Khắc phục các phương
tiện thông tin, tuyên truyền, giáo dục lạc hậu, cũ kỹ nhằm theo kịp, thích hợp với
149
điều kiện phát triển của xã hội và nhân dân. Trong xu thế mới, buộc chúng ta phải
đổi mới phương pháp theo hướng áp dụng mạnh mẽ khoa học công nghệ để nâng
cao hiệu quả công tác vận động quần chúng bảo vệ an ninh, trật tự.
Hai là, Tổ chức đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao khả năng áp dụng các thành
tựu khoa học, công nghệ đặc biệt là công nghệ thông tin và truyền thông cho đội
ngũ cán bộ chuyên trách, nòng cốt làm công tác vận động quần chúng bảo vệ an
ninh, trật tự và quần chúng nhân dân. Thực tiễn cho thấy mạng xã hội đang là
thách thức vô cùng lớn cho công tác tuyên truyền, vận động quần chúng theo định
hướng đúng đắn. Thông tin xấu, độc hại lan truyền tốc độ chóng mặt và không dễ
ngăn chặn, đẩy lùi, mặt khác, thông tin tích cực, tiến bộ những gương người tốt,
việc tốt chưa được phổ biến rộng rãi, kịp thời. Nếu lực lượng Công an và lực
lượng nòng cốt cùng quần chúng nhân dân không thành thạo các kỹ năng sử dụng
phương tiện khoa học, kỹ thuật hiện đại sẽ trở nên bất lực trong cuộc đấu tranh gay
go ác liệt này.
Ba là, tăng cường hợp tác quốc tế và cộng đồng người Việt Nam yêu nước
trên thế giới nhằm tranh thủ nguồn lực, kinh nghiệm và sự hỗ trợ mọi mặt về khoa
học, công nghệ phục vụ công tác vận động quần chúng bảo vệ an ninh, trật tự.
Thực hiện tốt giải pháp áp dụng mạnh mẽ khoa học công nghệ hiện đại vào
công tác vận động quần chúng bảo vệ an ninh, trật tự cũng là thực hành đẩy mạnh
học tập và làm theo tư tưởng Hồ Chí Minh về phát huy các nguồn lực của dân để
làm lợi cho dân trong điều kiện xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.
4.2.5. Công an các cấp tăng cường kiểm tra, giám sát, xiết chặt kỷ
cương, tổ chức tổng kết rút kinh nghiệm công tác vận động quần chúng bảo vệ
an ninh, trật tự
Nhằm bảo đảm cho các nội dung, hình thức phát huy vai trò của quần
chúng trong công tác bảo vệ an ninh, trật tự được thực hiện trong thực tế thì một
yêu cầu quan trọng đặt ra là phải có cơ chế kiểm tra, giám sát việc thực hiện để có
đánh giá đúng tình hình thực hiện và có cơ chế xử lý sai phạm, điều chỉnh cho phù
hợp, hiệu quả.
Trên tinh thần học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí
Minh, lực lượng Công an nhân dân phải quán triệt sâu sắc lời dạy của Người “Đối
với những người có thành tích, phải khen thưởng, đối với những người mắc sai lầm
150
thì phải phê bình, kiểm thảo giúp họ sửa chữa. Khi cần thiết thì phải thi hành kỷ luật
nghiêm minh, đúng mức” [103, tr.170].
Bên cạnh việc biểu dương, khen thưởng, phát động các đợt học tập và làm theo tấm gương cán bộ, chiến sĩ dũng cảm trong đấu tranh phòng, chống tội phạm, tận tụy vì nhân dân phục vụ thì vấn đề kiểm tra, giám sát, tăng cường kỷ luật, phê phán, xử lý nghiêm khắc đối với các hành vi sai phạm cần được thực hiện nghiêm túc, hiệu quả. Đây là việc rất cần thiết nhằm góp phần xây dựng lực lượng Công an ngày càng trong sạch, vững mạnh được nhân dân tin yêu, giúp đỡ. Trong đó đặc biệt chú trọng công tác kiểm tra, giám sát và kiên quyết xử lý nghiêm minh đối với những hành vi sai phạm của cán bộ chiến sĩ công an trong quan hệ với nhân dân như quan liêu, hách dịch, nhũng nhiễu nhân dân.
Để làm tốt nội dung này đòi hỏi các cấp lãnh đạo, chỉ huy Công an phải có nhận thức đầy đủ bản chất, mục tiêu, tính chất của Công an nhân dân, thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh “Cấp trên phải thường xuyên kiểm tra cấp dưới. Cấp dưới phải phê bình cấp trên. Giúp nhau kinh nghiệm và sáng kiến, giúp nhau tiến bộ. Tự phê bình và phê bình nhau theo tinh thần thân ái và lập trường cách mệnh” [94, tr.312], từ đó đề cao trách nhiệm, tăng cường kỷ luật, nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra, thanh tra nhằm mục tiêu cuối cùng là xây dựng một đội ngũ Công an cách mạng ‘rất tốt, rất chắc chắn” [99, tr.250], đủ sức hoàn thành nhiệm vụ Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó.
Bên cạnh đó, cần coi trọng tổng kết thực tiễn, kiểm nghiệm những chủ trương, kế hoạch, biện pháp thực hiện có hiệu quả cao hay thấp, đúng hay chưa đúng; hiệu quả đó tùy thuộc vào năng lực chủ thể của biện pháp phát huy vai trò của quần chúng; thái độ với nhân dân, với nhiệm vụ bảo vệ an ninh, trật tự v.v. Chính qua tổng kết thực tiễn để phát hiện những sáng kiến, những điểm sáng, những điển hình để nhân rộng, đồng thời để phát hiện ra những khoảng trống, kẽ hở, những tồn tại yếu kém nhằm bổ sung, điều chỉnh, khắc phục, hạn chế được những sai sót, khuyết điểm.
Vì vậy, tổng kết, rút kinh nghiệm thực tiễn là cơ sở để đổi mới nội dung,
phương pháp, không thể thiếu trong quá trình phát huy vai trò của quần chúng bảo
vệ an ninh, trật tự, đồng thời, tăng cường công tác tổng kết thực tiễn, hoàn thiện hệ
thống lý luận về công tác vận động quần chúng, giải đáp kịp thời những vấn đề thực
tiễn đặt ra, nhất là xây dựng và củng cố niềm tin của nhân dân đối với Công an, mối
151
quan hệ giữa Công an với nhân dân như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy “Phải tăng
cường công tác điều tra nghiên cứu tổng kết và trao đổi kinh nghiệm giữa các ngành
công an” [103, tr.170].
Mặc dù đã có nhiều cố gắng, song cho đến nay chưa có một công trình khoa
học cũng như tổng kết một cách toàn diện và đầy đủ về công tác vận động quần
chúng bảo vệ an ninh, trật tự. Mới dừng ở tổng kết, hội thảo về công tác dân vận và
xây dựng phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc qua các thời kỳ. Vì vậy, chưa
giải quyết có căn cứ khoa học, thuyết phục được những vấn đề thực tiễn đang đặt ra.
Thời gian tới, phải chú trọng công tác sơ tổng kết rút kinh nghiệm, tổng kết
thực tiễn, đúc kết lý luận, từng bước xây dựng và hoàn thiện hệ thống lý luận cơ bản
về công tác vận động quần chúng bảo vệ an ninh, trật tự. Đồng thời phối hợp với
các nhà trường trong Công an nhân dân xây dựng, hoàn thiện hệ thống giáo trình về
công tác vận động quần chúng bảo vệ an ninh, trật tự phù hợp với các bậc đào tạo
nhằm mục tiêu trang bị kiến thức cơ bản cho học viên Công an từ bậc sơ, trung cấp
đến đại học.
Vận động quần chúng được xác định là biện pháp công tác cơ bản, chiến
lược và là nền tảng cho các biện pháp khác trong công tác Công an. Chủ thể áp
dụng biện pháp này là Công an nhân dân. Bản chất của Công an nhân dân là dựa
vào dân để làm việc, vì nhân dân để phục vụ, vì vậy cần đi sâu nghiên cứu vấn đề
xây dựng lực lượng Công an nhân dân có cơ cấu khoa học hợp lý, có đội ngũ vững
mạnh, có đủ điều kiện đảm bảo cho việc nâng cao chất lượng hiệu quả áp dụng biện
pháp vận động quần chúng bảo vệ an ninh, trật tự trong công tác Công an.
Tiểu kết chương 4
Trong hơn 70 năm chiến đấu, xây dựng và trưởng thành, những chiến công
xuất sắc của lực lượng Công an nhân dân luôn gắn liền với sự nhiệt tình giúp đỡ,
tham gia tích cực của nhân dân. Đó cũng chính là kết quả đạt được qua học tập
thấm nhuần và làm theo lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác vận động
quần chúng. Thực tiễn đó còn là cơ sở quan trọng giúp Công an nhân dân sáng tạo
không ngừng, ngày càng hoàn thiện lý luận công tác vận động quần chúng bảo vệ
an ninh, trật tự.
Hiện nay, trước những thời cơ và thử thách mới của đất nước, trên nền tảng
152
tư tưởng Hồ Chí Minh, quán triệt sâu sắc đường lối đổi mới công tác dân vận của
Đảng, lực lượng Công an nhân dân phải nắm chắc tình hình, đưa ra những dự báo
chiến lược về công tác an ninh quốc gia, đảm bảo trật tự an toàn xã hội để từ đó
tham mưu cho Đảng, Nhà nước và đề xuất kịp thời những giải pháp căn bản nhằm
nâng cao hiệu quả công tác vận động quần chúng bảo vệ an ninh, trật tự.
Từ những giải pháp đó, lực lượng Công an nhân dân phát huy triệt để quyền
làm chủ của nhân dân trong sự nghiệp bảo vệ an ninh Tổ quốc theo tinh thần “có
dân là có tất cả”. Thực hiện tốt các giải pháp, sẽ phát huy cao độ các nguồn lực tiềm
năng sẵn có trong nhân dân, sẽ xây dựng thế trận lòng dân vững chắc, thắt chặt và
củng cố mối quan hệ gắn bó máu thịt với nhân dân, là cơ sở để Công an nhân dân
hoàn thành nhiệm vụ.
Trong bối cảnh tình hình mới, tư tưởng Hồ Chí Minh có vai trò định hướng
nội dung và phương pháp vận động quần chúng bảo vệ an ninh, trật tự. Tư tưởng đó
đã giúp cho cán bộ, chiến sĩ công an nhận thức rõ phương châm tất cả vì nhân dân,
thực hành dân chủ và thật sự gắn bó với nhân dân. Lực lượng Công an xác định vận
động quần chúng luôn là biện pháp cơ bản, chiến lược và làm nền tảng cho các biện
pháp khác của Công an nhân dân, liên tục được củng cố, phát triển và ngày càng
hoàn thiện trong thực tiễn cuộc đấu tranh ngày càng gay go, ác liệt.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về vận động quần chúng bảo vệ an ninh, trật tự đã
thực sự trở thành “kim chỉ nam” định hướng cho Đảng ta, là cơ sở nền tảng để
Đảng lãnh đạo lực lượng Công an nhân dân nhận thức đúng đắn, sâu sắc vai trò to
lớn của nhân dân trong sự nghiệp bảo vệ an ninh, trật tự.
153
KẾT LUẬN
1. Sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong tư tưởng Hồ Chí Minh là:“Trong bầu trời
không có gì quý bằng nhân dân, trong thế giới không có gì mạnh bằng lực lượng
đoàn kết toàn dân”; “Lực lượng toàn dân là lực lượng vĩ đại hơn ai hết, không ai có
thể chiến thắng được lực lượng đó”. Nhận thức sâu sắc tinh thần đó, việc nghiên
cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về nhân dân, về sức mạnh của nhân dân trong sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc nói chung, bảo vệ an ninh, trật tự nói riêng là mong
muốn, là mục tiêu lớn của các nhà khoa học, các nhà hoạt động thực tiễn. Đã có
nhiều công trình khoa học, nhiều cuốn sách, bài viết phong phú, sinh động và tương
đối thành công về đề tài này, tuy nhiên việc nghiên cứu và vận dụng tư tưởng Hồ
Chí Minh về công tác vận động quần chúng bảo vệ an ninh, trật tự của lực lượng
Công an nhân dân vẫn luôn là nhiệm vụ quan trọng cần tiến hành liên tục, thường
xuyên và đòi hỏi kỹ lưỡng hơn nhằm đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp bảo vệ an
ninh, trật tự trong tình hình mới, đặc biệt là những vấn đề đặt ra và giải pháp tiến
hành công tác vận động quần chúng bảo vệ an ninh, trật tự của lực lượng Công an
nhân dân thời kỳ đổi mới theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
2. Thực tiễn cuộc đời hoạt động cách mạng gian khổ đầy thử thách của Hồ
Chí Minh đã trang bị cho Người một vốn sống, kinh nghiệm hoạt động phong phú
và sâu sắc. Từ đó Hồ Chí Minh đã đúc kết nên những bài học vô cùng quý giá về
nghệ thuật vận động quần chúng làm cách mạng, mà cụ thể ở đây là nghệ thuật vận
động quần chúng bảo vệ an ninh, trật tự. Đó là tài sản vô giá Người để lại cho Đảng,
Nhà nước ta và lực lượng Công an nhân dân
Tư tưởng Hồ Chí Minh về vận động quần chúng bảo vệ an ninh trật tự là hệ
thống quan điểm toàn diện về vai trò, mục đích, nội dung và phương pháp vận động
quần chúng trong sự nghiệp bảo vệ an ninh, trật tự của Công an nhân dân. Trong đó,
Hồ Chí Minh đã chú trọng đặc biệt đến vai trò của nhân dân trên quan điểm nhất
quán “cách mạng là sự nghiệp của quần chúng”. Hồ Chí Minh xác định cho lực
lượng công an rằng nếu nhân dân giúp đỡ nhiều thì thắng lợi nhiều, giúp đỡ ít thì
thắng lợi ít và nếu giúp hoàn toàn thì thắng lợi hoàn toàn.
Từ đó, Hồ Chí Minh còn xác định mục đích của công tác vận động quần
chúng để bảo vệ an ninh trật tự, đó là nhằm phát huy một cách triệt để không bỏ sót
154
một người nào để nhân dân cùng với công an hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ bảo vệ
an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự an toàn xã hội. Để đạt được nhiệm vụ đó, Hồ Chí
Minh đã vạch ra những nội dung và phương pháp vận động quần chúng rất cụ thể,
sát thực. Đó là những phương pháp có thể nói đã mang tầm nghệ thuật cách mạng.
3. Trong hơn 30 năm đổi mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng, học tập và làm
theo tư tưởng Hồ Chí Minh, lực lượng Công an nhân dân đã đặc biệt coi trọng công
tác vận động quần chúng bảo vệ an ninh, trật tự. Với vai trò là nòng cốt, chuyên
trách, lực lượng Công an đã chủ động tham mưu phục vụ các cấp ủy, chính quyền
địa phương chỉ đạo huy động sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và toàn
dân vào công tác đảm bảo an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự an toàn xã hội, phục vụ
đắc lực công cuộc đổi mới của đất nước.
Tinh thần, ý thức trách nhiệm của cán bộ đảng viên và nhân dân đối với sự
nghiệp bảo vệ an ninh, trật tự đã chuyển biến mạnh và phát triển lên một tầm cao
mới. Đó là kết quả của công tác thường xuyên liên tục tuyên truyền, giáo dục, các
chương trình phổ biến kiến thức pháp luật, an ninh, quốc phòng kết hợp với xây
dựng và nhân rộng các mô hình phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc. Đặc
biệt qua thực tiễn giải quyết các điểm nóng về an ninh trật tự kéo dài gây hậu quả
nghiêm trọng, lãnh đạo các cơ quan ban ngành cũng như cấp ủy, chính quyền các
cấp đã nhận thức rõ hơn về vai trò của quần chúng nhân dân trong sự nghiệp bảo vệ
an ninh trật tự theo tư tưởng Hồ Chí Minh, xác định rõ hơn trách nhiệm đối với
công tác tổ chức và củng cố công tác vận động quần chúng gắn liền với xây dựng
phong trào Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc, xây dựng thế trận an ninh nhân dân
trong đơn vị, địa phương mình.
Từ đó công tác vận động quần chúng bảo vệ an ninh trật tự được nâng cao
về chất lượng lên một tầm cao mới, thu hút được đông đảo các tầng lớp nhân dân
cùng với lực lượng Công an tham gia phòng ngừa, phát hiện và đấu tranh ngày càng
hiệu quả với các hoạt động chống phá của các thế lực thù địch và tội phạm các loại,
phục vụ đắc lực công cuộc đổi mới đất nước, mang lại sự ổn định chính trị và xã
hội, cuộc sống bình yên cho nhân dân.
4. Trong thời kỳ mới đất nước ta đang đứng trước những vận hội và thời cơ
mới nhưng cũng đầy những khó khăn thách thức, đặc biệt là sự nghiệp bảo vệ vững
155
chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, phục vụ tốt sự nghiệp xây dựng đất nước.
Trên cơ sở lý luận Chủ nghĩa Mác - Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta luôn
khẳng định, đại đoàn kết toàn dân là nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu và là nhân
tố quyết định đảm bảo thắng lợi bền vững của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc; vận động và tổ chức quần chúng làm cách mạng, bất cứ thời kỳ nào cũng là
nhiệm vụ chiến lược của Đảng; xây dựng nền an ninh nhân dân, thế trận an ninh
nhân dân, phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc là tư tưởng chiến lược lâu
dài trong sự nghiệp đấu tranh bảo vệ an ninh, trật tự.
Dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh, dưới sự lãnh đạo của Đảng, phong
trào toàn dân bảo vệ an ninh, trật tự hình thành, phát triển không ngừng từ thấp đến
cao, từ từng mặt đến toàn diện. Những bài học có giá trị vô cùng quý báu về vận
động nhân dân trong sự nghiệp bảo vệ an ninh, trật tự của Công an nhân dân Việt
Nam cần phải nghiên cứu, học tập và quán triệt sâu sắc. Phải tổ chức quán triệt, vận
dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về bảo vệ an ninh, trật tự nói chung và về công tác vận
động quần chúng vào sự nghiệp bảo vệ an ninh, trật tự trong tình hình mới. Bảo vệ
an ninh, trật tự nhất thiết phải theo đường lối quần chúng, dựa hẳn vào quần chúng,
phải vận động, tổ chức quần chúng mà tiến hành.
Phát động phong trào toàn dân bảo vệ an ninh, trật tự phải được coi là giải
pháp xuyên suốt, hàng đầu của lực lượng Công an nhân dân. Cán bộ, chiến sĩ Công
an nhân dân phải nhận thức sâu sắc về vai trò của quần chúng trong sự nghiệp cách
mạng nói chung, trong công tác bảo vệ an ninh, trật tự nói riêng, nhận rõ vận động
quần chúng bảo vệ an ninh, trật tự là biện pháp cơ bản nhất công tác công an. Đó là
vấn đề cốt tử, trung tâm hội tụ của công tác lý luận và công tác chỉ đạo thực tiễn của
Đảng, Nhà nước và lực lượng Công an nhân dân trong tình hình mới.
156
DANH MỤC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ
LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
1. Bùi Anh Tuấn (2018), “Xây dựng quan hệ gắn bó mật thiết giữa công an và nhân
dân hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh”, Tạp chí nghiên cứu Hồ Chí
Minh, (1), tr. 40-44.
2. Bùi Anh Tuấn (2018), “Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào vấn đề tự học trong
Công an nhân dân hiện nay”, Tạp chí Công an nhân dân (4), tr. 104-107.
3. Phạm Hồng Chương – Bùi Anh Tuấn (2018), “Lời kêu gọi thi đua ái quốc” của
Chủ tịch Hồ Chí Minh - 70 năm nhìn lại” (viết chung), Tạp chí Lịch sử
Đảng, (5), tr. 23-26.
4. Bùi Anh Tuấn (2018), “Vài nét cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác
Thương binh, liệt sĩ”, Tạp chí An ninh xã hội, (7), tr.8-9.
157
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lê Hồng Anh, (2011), "Xây dựng lực lượng Công an nhân dân đáp ứng yêu
cầu nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội trong
tình hình mới", Tạp chí Công an nhân dân, (3), Hà Nội.
2. Phạm Ngọc Anh, (2015), Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng xã hội mới, Nxb
Công an nhân dân, Hà Nội.
3. Phạm Ngọc Anh, (chủ biên), (2015), Phát huy các nguồn lực của dân làm lợi
cho dân theo tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
4. Phạm Ngọc Anh, (2018), Tư tưởng Hồ Chí Minh, nhận thức và hành động,
Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội.
5. Ban Bí thư Trung ương Đảng, (2003), “Chỉ thị về đẩy mạnh nghiên cứu, tuyên
truyền, giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh trong giai đoạn mới”, Hà Nội.
6. Ban Bí thư Trung ương Đảng, (2011), Chỉ thị số 09 -CT/TW về “Tăng cường sự
lãnh đạo của Đảng đối với phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc”,
Hà Nội.
7. Ban Bí thư Trung ương Đảng, (1980), Chỉ thị số 92/CT-TW về cuộc vận động
xây dựng lực lượng Công an nhân dân trong sạch vững mạnh và đẩy
mạnh phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc trong tình hình
mới, Hà Nội.
8. Ban Chấp hành Trung ương Đảng, (2013), Nghị quyết số 25- NQ/TW về
“Tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận
trong tình hình mới”, Hà Nội.
9. Ban chỉ đạo thực hiện phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc, (2007), 5
năm thực hiện nghị quyết liên tịch về đẩy mạnh phong trào toàn dân bảo
vệ an ninh Tổ quốc trong thời kì mới (2001 - 2006), Nxb. Công an nhân
dân, Hà Nội
10. Ban chỉ đạo thực hiện phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc, (2011),
Báo cáo tổng kết 10 năm thực hiện nghị quyết liên tịch về “Đẩy mạnh
phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc trong tình hình mới” (2001-
158
2011), Hà Nội.
11. Ban Dân vận trung ương, (1995) Tư tưởng dân vận Hồ Chí Minh. Nxb Chính
trị quốc gia. Hà Nội.
12. Ban Dân vận Trung ương, (2003), Công tác dân vận của Đảng thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
13. Ban Dân vận Trung ương, (2005), Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào công
tác dân vận trong thời kỳ mới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
14. Ban Dân vận Trung ương, (2006), 75 năm công tác dân vận của Đảng - Một
số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
15. Ban Dân vận Trung ương, (2006), Tập bài giảng về công tác dân vận, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
16. Nguyễn Bình Ban, (2012), Góp phần nghiên cứu, vận dụng tư tưởng Hồ Chí
Minh về xây dựng lực lượng Công an nhân dân thời kỳ công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế, Nxb. Công an nhân
dân, Hà Nội.
17. Hoàng Chí Bảo, (2005), Tìm hiểu phương pháp Hồ Chí Minh, Nxb. Lý luận
chính trị, Hà Nội.
18. Bộ Công an - Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, (2001), Nghị
quyết liên tịch số 01/2001/NQLT về “Đẩy mạnh phong trào toàn dân bảo
vệ an ninh Tổ quốc trong thời kỳ mới”, Hà Nội.
19. Bộ Công an - Viện Nghiên cứu Khoa học Công an, (1980), Chủ tịch Hồ Chí
Minh với Công an nhân dân, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội.
20. Bộ Công an, (1990), Bác Hồ với Công an nhân dân - Công an nhân dân với
Bác Hồ, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội
21. Bộ Công an, (2001) Chỉ thị số 13/2001/BCA về tăng cường công tác dân vận
của lực lượng Công an nhân dân. Hà Nội
22. Bộ Công an, (2002), Chỉ thị số 12/CT-BCA về “Tiếp tục đẩy mạnh phong trào
Công an nhân dân học tập, thực hiện sáu điều Bác Hồ dạy từ năm 2003
đến 2008”, Hà Nội.
23. Bộ Công an, (2003), Tổng kết lịch sử vận động quần chúng bảo vệ an ninh trật
159
tự (1945 -2000). Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội.
24. Bộ Công an, (2005), Hồ Chí Minh về An ninh, trật tự. Nxb. Công an nhân dân,
Hà Nội.
25. Bộ Công an, (2008), Báo cáo sơ kết 5 năm thực hiện quyết định 521/QĐ-TTg
của Thủ tướng Chính phủ về “Ngày hội toàn dân bảo vệ an ninh Tổ
quốc” (19/8/2005-19/8/2010), Hà Nội.
26. Bộ Công an - Ban Tuyên giáo trung ương- Báo Nhân dân- Tạp chí Cộng sản,
(2015): Kỷ yếu Hội thảo khoa học quốc gia 70 năm Công an nhân dân
Việt Nam, Hà Nội
27. Bộ Công an, (2016) Báo cáo tổng kết 30 năm xây dựng phong trào toàn dân
bảo vệ an ninh Tổ quốc (1986-2016), Hà Nội.
28. Bộ Giáo dục và Đào tạo, (1999), Đại từ điển Tiếng Việt. Nxb. Văn hóa thông
tin, Hà Nội
29. Phạm Văn Bính, (2008), Phương pháp dân chủ Hồ Chí Minh, Nxb. Chính trị
quốc gia, Hà Nội;
30. Phạm Thái Bình, (2017), "Phát huy vai trò của quần chúng nhân dân - yếu tố
quyết định thắng lợi của cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm, bảo đảm
trật tự an toàn xã hội", Tạp chí Cảnh sát nhân dân, (6), Hà Nội.
31. C. Mác và Ph. Ăng ghen, (1995), Toàn tập. Tập 1. Nxb. Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
32. Các Mác và Ăng ghen, (1995), Toàn tập. Tập 2. Nxb. Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
33. C.Mác và Ph.Ăngghen, (1978), Toàn tập, Tập 3, Nxb. Sự thật, Hà Nội
34. C.Mác và Ph.Ăngghen, (1994), Toàn tập, Tập 4, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà
Nội.
35. C.Mác và Ph.Ăngghen, (1995), Toàn tập, Tập 14, Nxb. Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
36. C.Mác và Ph.Ăngghen, (1995), Toàn tập, Tập 34, Nxb. Chính trị quốc
gia, Hà Nội
37. C.Mác và Ph.Ăngghen (1999), Toàn tập, Tập 39, Nxb. Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
160
38. Nguyễn Thị Cận, (2005), Quyền hạn và lợi ích của dân trong bài báo dân vận
của Hồ Chí Minh, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội
39. Trường Chinh, (1973), Hồ Chí Minh, lãnh tụ kính yêu của giai cấp công nhân
và nhân dân lao động Việt Nam, Nxb. Sự thật, Hà Nội
40. Phạm Hồng Chương, (2004), Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ. Nxb Lý luận
Chính trị, Hà Nội
41. Phạm Văn Dần (chủ nhiệm), (1995) Tư tưởng Hồ Chí Minh về bảo vệ an ninh,
trật tự, Đề tài khoa học cấp nhà nước, Bộ Công an chủ trì, Hà Nội
42. Phạm Văn Dần (chủ nhiệm), (2003), Tổng kết lịch sử “Đảng lãnh đạo công
tác bảo vệ an ninh, trật tự” (1945 - 2000), Đề tài khoa học cấp Bộ Công
an, Hà Nội.
43. Bùi Hải Dương, (2007) Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân vận và việc thực hiện
công tác dân vận tại thành phố Cần Thơ. Luận văn thạc sĩ khoa học
chính trị, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội
44. Cấn Thị Đạt, (2000) Phát huy vai trò của nhân dân trong sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Luận văn
tốt nghiệp lý luận chính trị cao cấp. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí
Minh, Hà Nội
45. Đảng Cộng sản Việt Nam, (1987), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VI, Nxb. Sự thật, Hà Nội.
46. Đảng Cộng sản Việt Nam, (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VII, Nxb. Sự thật, Hà Nội.
47. Đảng Cộng sản Việt Nam, (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
48. Đảng Cộng sản Việt Nam, (1998), Văn kiện Đảng toàn tập, T.1, Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội.
49. Đảng Cộng sản Việt Nam, (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
50. Đảng cộng sản Việt Nam, (2004), Các văn kiện của Đảng và Nhà nước về Quy
chế dân chủ ở cơ sở. Nxb. Chính trị quốc gia, Hà nội
161
51. Đảng Cộng sản Việt Nam, (2005), Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận -
thực tiễn qua 20 năm đổi mới (1986 - 2006), Hà Nội.
52. Đảng Cộng sản Việt Nam, (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
53. Đảng Cộng sản Việt Nam, (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XI, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
54. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ
XII. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội
55. Đảng Cộng sản Việt Nam, (1990) Nghị quyết số 8B (khóa VI) về Đổi mới
công tác vận động quần chúng của Đảng, tăng cường mối quan hệ giữa
Đảng với nhân dân. Hà Nội
56. Võ Nguyên Giáp, (1994), “Tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác dân vận”, Kỷ
yếu Hội thảo “Tư tưởng dân vận của Chủ tịch Hồ Chí Minh”, Hà Nội.
57. Võ Nguyên Giáp, (2014), Nghiên cứu, học tập và làm theo tư tưởng Hồ Chí
Minh, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội
58. Trần Văn Giàu, (2003), Sự phát triển của tư tưởng ở Việt Nam từ thế kỷ XIX
đến Cách mạng Tháng Tám, Tập 1, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội
59. Nguyễn Ngọc Hà - Lê Minh Tuấn, (2011), “Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây
dựng lực lượng Công an nhân dân cách mạng gắn bó mật thiết với nhân
dân”, Tạp chí Công an nhân dân, (5), Tr.56-60.
60. Trần Việt Hà, (2016). An ninh con người trong bối cảnh toàn cầu hóa, Tạp chí
Khoa học xã hội Việt Nam, (số 7), (104).
61. Đoàn Thế Hanh, (2003), “Quan hệ giữa Đảng Cộng sản cầm quyền với dân
trong tư tưởng Hồ Chí Minh”, Tạp chí Giáo dục lý luận, (1), tr.46-50.
62. Phạm Xuân Hảo, (2010), “Vì dân, chăm lo đời sống nhân dân theo tư tưởng
Hồ Chí Minh”, Tạp chí Cộng sản (15).
63. Trần Hậu, (chủ biên), (2006), Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với
Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân trong thời kỳ mới, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
64. Trần Hậu (2008), Góp phần nghiên cứu về đại đoàn kết dân tộc, Nxb. Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
65. Daniel Hemeery, (2001), Từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa Mác (Nguyễn
162
Trọng Cổn lược dịch), Nxb. Lao động, Hà Nội
66. Bùi Kim Hồng, (2009), Chủ tịch Hồ Chí Minh với công tác tổ chức, cán bộ,
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
67. Lê Quang Hoan, (2001), Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người với việc phát
huy nhân tố con người trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam,
Luận án tiến sĩ. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
68. Hội đồng Trung ương chỉ đạo biên soạn giáo trình quốc gia, (2008), Giáo trình
tư tưởng Hồ Chí Minh. Nxb. Chính trị quốc gia. Hà Nội
69. Hội thảo quốc tế về Hồ Chí Minh (1990): Trích tham luận của các đại biểu
quốc tế (1990), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
70. Nguyễn Việt Hùng, (2016), “Vận dụng một số nội dung khoa học chính trị
trong công tác công an”, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
71. Vũ Hùng, (1986), Dân và mối quan hệ giữa Đảng cầm quyền với dân trong tư
tưởng Hồ Chí Minh. Luận án tiến sĩ khoa học chính trị, Học viện Chính
trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội
72. Nguyễn Mạnh Hưởng, (2006), Quan điểm Hồ Chí Minh: Chính phủ là công
bộc của dân trong cuộc sống hiện nay, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.
73. Nguyễn Khánh, (2010) Một số suy nghĩ về mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước
và nhân dân, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội
74. Vũ Đức Khiển - Phạm Duy Hoàng, (2014), Vận dụng tư tưởng dân vận của
Hồ Chí Minh trong phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc của lực
lượng Công an nhân dân, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội
75. Hà Thị Khiết, (2013), "Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận
động quần chúng trong tình hình mới", Tạp chí Cộng sản, (6).
76. Đặng Xuân Kỳ, (1997), Phương pháp và phong cách Hồ Chí Minh, Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội,
77. Kỷ yếu Hội thảo quốc tế: Chủ tịch Hồ Chí Minh - Anh hùng giải phóng dân
tộc, Nhà văn hóa lớn (2004), Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội,
78. Tô Lâm, (2016), Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhân dân, Nxb. Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
163
79. Tô Lâm, (2016), Tư tưởng Hồ Chí Minh về Công an nhân dân, Nxb. Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
80. Tô Lâm, (2016), Đảng ủy Công an trung ương quán triệt, thực hiện nghị quyết
Đại hội XII của Đảng về bảo đảm an ninh, trật tự, xây dựng lực lượng
CAND. Nxb. Công an nhân dân. Hà Nội.
81. Tô Lâm, (2017), Quần chúng nhân dân, nhân tố quyết định thắng lợi cuộc đấu
tranh bảo vệ an ninh, trật tự. Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội.
82. Tô Lâm, (2017), Tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của nhân dân trong sự
nghiệp bảo vệ an ninh, trật tự. Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội.
83. Nguyễn Lân, (2003), Từ điển Từ và Ngữ Hán - Việt. Nxb. Văn học. Hà Nội.
84. Nguyễn Bá Linh, (2005), Khái niệm, quá trình hình thành tư tưởng Hồ Chí
Minh về dân vận, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội
85. Nguyễn Đức Lữ, (2011), Tôn giáo, quan điểm, chính sách đối với tôn giáo của
Đảng và Nhà nước Việt Nam, Nxb. Chính trị - Hành chính, Hà Nội.
86. Nguyễn Khắc Mai, (2001), 100 câu nói về dân chủ của Hồ Chí Minh, Nxb
Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh.
87. Võ Thị Mai (2009), Công tác dân vận trong thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc
tế. Tạp chí Cộng sản, số 25/12. Hà Nội.
88. Nông Đức Mạnh, (2003), Phát huy tinh thần độc lập tự chủ, đổi mới,
sáng tạo của tư tưởng Hồ Chí Minh trong thời kỳ mới, Nxb. Chính trị
Quốc gia, Hà Nội.
89. Hồ Chí Minh, (2011), Toàn tập, tập 1, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
90. Hồ Chí Minh, (2011), Toàn tập, tập 2, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
91. Hồ Chí Minh, (2011), Toàn tập, tập 3, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
92. Hồ Chí Minh, (2011), Toàn tập, tập 4, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
93. Hồ Chí Minh, (2011), Toàn tập, tập 5, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
94. Hồ Chí Minh, (2011), Toàn tập, tập 6, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
95. Hồ Chí Minh, (2011), Toàn tập, tập 7, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
96. Hồ Chí Minh, (2011), Toàn tập, tập 8, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
97. Hồ Chí Minh, (2011), Toàn tập, tập 9, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
98. Hồ Chí Minh, (2011), Toàn tập, tập 10, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nộ.i
164
99. Hồ Chí Minh, (2011), Toàn tập, tập 11, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
100. Hồ Chí Minh, (2011), Toàn tập, tập 12, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
101. Hồ Chí Minh, (2011), Toàn tập, tập 13, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
102. Hồ Chí Minh, (2011), Toàn tập, tập 14, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
103. Hồ Chí Minh, (2011), Toàn tập, tập 15, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
104. Hồ Chí Minh, (2005), Về an ninh - trật tự. Nxb.Công an nhân dân, Hà Nội.
105. Đỗ Mười, (1998), Xây dựng nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, Nxb. Chính trị Quốc gia,
Hà Nội.
106. Bùi Văn Nam, (2018), Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát huy sức mạnh nhân dân
trong xây dựng phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc, Nxb. Chính
trị quốc gia Sự thật. Hà Nội.
107. Lê Hữu Nghĩa - Nguyễn Đức Lữ, (2003), Tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo
và công tác tôn giáo, Nxb. Tôn giáo, Hà Nội.
108. Ngô Thị Bích Ngọc, (2015), Bài viết “Giá trị nhân văn trong tư tưởng dân
vận Hồ Chí Minh”. Kỷ yếu Hội thảo khoa học 19-5-2015. Nxb. Lý
luận chính trị, Hà Nội.
109. Trần Quang Nhiếp, (2014), Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhân dân, Nxb. Công
an nhân dân, Hà nội.
110. Trần Nhâm, (2011), Hồ Chí Minh - Nhà tư tưởng thiên tài, Nxb. Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
111. Vũ Dương Ninh - Nguyễn Văn Hồng, (2000), Lịch sử thế giới cận đại, Nxb
Giáo dục, Hà Nội.
112. Bùi Đình Phong, (2005), Trí tuệ và bản lĩnh Hồ Chí Minh, Nxb. Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
113. Bùi Đình Phong, (2007), Vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí
Minh trong sự nghiệp đổi mới, Nxb. Lao động, Hà Nội.
114. Bùi Đình Phong, (2015) Hồ Chí Minh - lấy dân làm gốc, Nxb. Dân trí,
Hà Nội.
115. Phùng Hữu Phú (1995), Chiến lược đại đoàn kết Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị
165
quốc gia, Hà Nội
116. Đặng Văn Phúc, (2012),"Chủ tịch Hồ Chí Minh với tư tưởng nhân dân là nền
tảng của sự nghiệp bảo vệ an ninh, trật tự", Tạp chí Công an nhân dân,
(6). Hà Nội
117. Đồng Văn Quân, (2004), “Dân là gốc” trong tư tưởng của Khổng Tử”, Tạp chí
Khoa học chính trị, (4).
118. Trần Đại Quang, (2015), Thấm nhuần sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh về phong
trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc. Kỷ yếu Hội thảo khoa học quốc
gia Kỷ niệm 125 Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh.
119. Trần Đại Quang, (2015), Nhân dân, cội nguồn sức mạnh bảo vệ an ninh Tổ
quốc, Nxb. Công an nhân dân. Hà Nội.
120. Nguyễn Bá Quang, (2013), Học tập và làm theo phong cách “dân vận khéo”
Hồ Chí Minh, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
121. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, (2002), Hiến pháp nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 (sửa đổi năm 2013), Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
122. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam Việt Nam, (2005), Luật
an ninh quốc gia, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
123. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam Việt Nam, (2007), Luật
Công an nhân dân, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội
124. Nguyễn Cao Sơn, (2015), “Phát huy vai trò của quần chúng nhân dân trong sự
nghiệp bảo vệ an ninh, trật tự- tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh”, Tạp chí
Khoa học và Giáo dục an ninh, số 7- 2015, Hà Nội.
125. Nguyễn Quốc Sơn, (2010), Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân làm chủ, Nhà nước
là công bộc của dân và sự vận dụng vào sự nghiệp đổi mới ở nước hiện
nay, Luận văn thạc sĩ khoa học chính trị. Học viện Chính trị quốc gia Hồ
Chí Minh, Hà Nội
126. Lê Quốc Sử, (2000), Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, Nxb. Thành phố Hồ Chí
Minh, Tp. Hồ Chí Minh.
127. Nguyễn Đình Tập, (2002) Một số vấn đề phát huy vai trò nhân dân bảo vệ an
166
ninh, trật tự ở nước ta hiện nay, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
128. Tạp chí Công an nhân dân, (2008), Chuyên đề về nâng cao chất lượng và hiệu
quả công tác dân vận của lực lượng Công an nhân dân trong tình hình
mới, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội.
129. Mạch Quang Thắng, (2009), Hồ Chí Minh - Nhà cách mạng sáng tạo, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
130. Hà Trọng Thà, (2011), Tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của quần chúng nhân
dân đối với sự nghiệp bảo vệ an ninh Tổ quốc ở Việt Nam hiện nay, Luận
án Tiến sĩ, Trường Đại học khoa học xã hội và nhân văn Thành phố Hồ
Chí Minh, Tp. Hồ Chí Minh.
131. Đàm Văn Thọ, Vũ Hùng, (1997), Mối quan hệ giữa Đảng và dân trong tư
tưởng Hồ Chí Minh, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
132. Thủ tướng Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, (2000), Chỉ thị
số 18/2000/CT-TTG về “Tăng cường công tác dân vận”, ngày 21/09/2000,
Hà Nội.
133. Thủ tướng Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, (2005),
Quyết định 521/QĐ-TTg về “Ngày hội toàn dân bảo vệ an ninh Tổ
quốc”, ngày 13/6/2005, Hà Nội.
134. Thương vụ ấn thư quán xuất bản, (2008), Hiện đại Hán ngữ từ điển, Bắc Kinh.
135. Lê Văn Thủy, (2008), Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân vận và vận dụng vào
công tác dân vận ở tỉnh Hải Dương. Luận văn thạc sĩ chính trị, Học viện
Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
136. Nguyễn Hữu Tiến, Nguyễn Đôn Phục, (1992), Mạnh Tử quốc văn giải thích.
Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh.
137. Tổng cục Xây dựng lực lượng Công an nhân dân, (2003), Công an nhân dân
thực hiện sáu điều Bác Hồ dạy trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội.
138. Tổng cục Xây dựng lực lượng Công an nhân dân (2003), Chủ tịch Hồ Chí
Minh với Công an nhân dân, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội.
139. Tổng cục Xây dựng lực lượng Công an nhân dân (2006), Phong trào quần
chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc - Biên niên lịch sử (1945 - 1954) và (1954
167
- 1975). Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội.
140. Nguyễn Phú Trọng, (2017), Xây dựng, chỉnh đốn Đảng là nhiệm vụ then chốt
để phát triển đất nước, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật. Hà Nội.
141. Nguyễn Văn Trung (2012), Góp phần nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb
Công an nhân dân, Hà Nội.
142. Trung tâm Từ điển học, (2008), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng.
143. Mạnh Tử, (1992) Quốc văn giải thích. Nxb Thành phố Hồ Chí Minh. Thành
phố Hồ Chí Minh.
144. Đỗ Quang Tuấn, (2005), Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân vận. Nxb Lý luận
chính trị, Hà Nội.
145. Thanh Tuyền, (2005), Phong cách dân vận của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Nxb
Chính trị quốc gia. Hà Nội.
146. Trần Thị Ánh Tuyết, (2006) Tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của
quần chúng nhân dân trong cách mạng Việt Nam. Luận văn thạc sĩ khoa
học chính trị. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
147. Viện Hồ Chí Minh và các lãnh tụ của Đảng, (2001), Hồ Chí Minh sống mãi
trong trái tim của nhân loại, Nxb. Lao động, Hà Nội.
148. Viện Hồ Chí Minh và các lãnh tụ của Đảng (2017), Tư tưởng Hồ Chí Minh,
một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb. Lý luận chính trị,
Hà Nội.
149. Viện Chiến lược và khoa học công an, (2005), Tư tưởng Hồ Chí Minh về bảo
vệ an ninh - trật tự. Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội.
150. Viện Chiến lược và khoa học Công an, (2017), Những văn kiện của Đảng về
an ninh, trật tự, Tập 6. Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội.
151. Viện Ngôn ngữ học, (2004) Từ điển Tiếng Việt, Nxb. Giáo dục, Hà Nội
152. Vũ Văn Vinh, (1998), Một số quan niệm về dân thời Lý - Trần, Tạp chí Triết
học, (2), Hà Nội.
153. La Trấn Vũ, (1964) Lịch sử tư tưởng Trung Quốc. Nxb. Sự thật, Hà Nội.
154. V.I. Lê nin, (1979), Toàn tập, Tập 39, Nxb. Tiến Bộ, Matxcơva.
155. V.I. Lê nin, (1979), Toàn tập, Tập 47, Nxb. Tiến Bộ, Matxcơva
156. Nguyễn Như Ý, (1998), Đại Từ điển Tiếng Việt, Nxb. Văn hóa Thông tin,
168