VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NÔNG THỊ NHUNG
KỸ NĂNG GIAO TIẾP TRONG HOẠT ĐỘNG HỌC TẬP CỦA SINH VIÊN DÂN TỘC TÀY VÙNG ĐÔNG BẮC VIỆT NAM
LUẬN ÁN TIẾN SĨ TÂM LÝ HỌC
HÀ NỘI, 2017
VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NÔNG THỊ NHUNG
KỸ NĂNG GIAO TIẾP TRONG HOẠT ĐỘNG HỌC TẬP CỦA SINH VIÊN DÂN TỘC TÀY VÙNG ĐÔNG BẮC VIỆT NAM
Ngành: Tâm lý học Mã số : 62 31 04 01
LUẬN ÁN TIẾN SĨ TÂM LÝ HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. NGUYỄN THỊ MAI LAN
HÀ NỘI, 2017
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận án là trung thực và chưa có ai công bố trong bất kỳ công trình khoa học nào khác.
Tác giả luận án Nông Thị nhung
LỜI CẢM ƠN
Để có được kết quả như ngày hôm nay, tôi xin bày tỏ lời cám ơn sâu sắc đến
PGS.TS. Nguyễn Thị Mai Lan, người thầy đã tận tình hướng dẫn, chỉ bảo cho tôi trong quá trình thực hiện luận án. Tôi xin cám ơn sâu sắc Ban Giám đốc Học viện Khoa học xã hội, Các thầy cô giáo Khoa Tâm lý – Giáo dục, các phòng ban của Học viện và các anh chị của Học viện đã giúp đỡ và tạo mọi điều kiện để tôi thực hiện luận án. Tôi xin cám ơn chân thành các thầy cô ở các cấp hội đồng đánh giá luận án đã chỉ bảo cho tôi những điều quý báu đề tôi hoàn thiện luận án.
Tôi cũng xin bày tỏ sự biết ơn sâu sắc đến gia đình, bạn bè đã tận tình giúp
đỡ tôi trong quá trình thực hiện luận án. Hà Nội, ngày…tháng 6 năm 2017
Nông Thị Nhung
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................... 1
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VỀ KỸ NĂNG GIAO TIẾP
TRONG HOẠT ĐỘNG HỌC TẬP TRÊN LỚP CỦA SINH VIÊN ............................. 7
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu trên thế giới về kỹ năng giao tiếp của sinh viên ...... 7
1.2. Tổng quan tình hình nghiên cứu ở Việt Nam về kỹ năng giao tiếp của sinh viên
trong hoạt động học tập .............................................................................................. 17
Chương 2: LÝ LUẬN VỀ KỸ NĂNG GIAO TIẾP TRONG HOẠT ĐỘNG HỌC TẬP
TRÊN LỚP CỦA SINH VIÊN DÂN TỘC TÀY ......................................................... 28
2.1. Kỹ năng giao tiếp ................................................................................................ 28
2.2. Kỹ năng giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp của sinh viên dân tộc Tày ........ 41
2.3. Biểu hiện và mức độ của kỹ năng giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp của
sinh viên dân tộc Tày.................................................................................................. 50
2.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến kỹ năng giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp
của sinh viên dân tộc Tày ........................................................................................... 61
Chương 3 TỔ CHỨC VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ..................................... 66
3.1. Địa bàn và khách thể nghiên cứu ....................................................................... 66
3.2. Nghiên cứu lý luận .............................................................................................. 68
3.3. Nghiên cứu thực tiễn ........................................................................................... 69
3.4. Thực nghiệm tác động ......................................................................................... 77
Chương 4: THỰC TRẠNG KỸ NĂNG GIAO TIẾP TRONG HOẠT ĐỘNG HỌC
TẬP TRÊN LỚP CỦA SINH VIÊN DÂN TỘC TÀY VÙNG ĐÔNG BẮC VIỆT NAM80
4.1. Thực trạng kỹ năng giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp của sinh viên dân
tộc Tày ........................................................................................................................ 80
4.2. So sánh kỹ năng giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp sinh viên dân tộc
Tày qua biến số dân tộc, giới tính, năm học ............................................................ 119
4.3. Mối tương quan giữa các kỹ năng giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp của
sinh viên dân tộc Tày................................................................................................ 125
4.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến kỹ năng giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp
của sinh viên dân tộc Tày ......................................................................................... 126
4.5. Thực nghiệm tác động ....................................................................................... 134
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ................................................................................... 142
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN ........ 146
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................... 147
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1: Các mức độ kỹ năng giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp của sinh
viên dân tộc Tày ......................................................................................................... 59
Bảng 3.1: Tổng số khách thể sinh viên được nghiên cứu ......................................... 67
Bảng 3.2: Kết quả độ tin cậy Alpha của các thang đo như sau: .............................. 71
Bảng 4.1: Mức độ thực hiện kỹ năng giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp của
sinh viên dân tộc Tày.................................................................................................. 80
Bảng 4.2: Mức độ thực hiện kỹ năng giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp của
sinh viên dân tộc Tày so sánh theo các biến số giới tính, dân tộc, năm học ............. 81
các mối quan hệ trong hoạt động học tập trên lớp của sinh viên dân tộc Tày .......... 82
Bảng 4.3. Mức độ thực hiện kỹ năng tìm hiểu đối tượng giao tiếp .......................... 83
Bảng 4.4. Mức độ thực hiện kỹ năng thể hiện sự tôn trọng đối tượng ..................... 87
giao tiếp của sinh viên dân tộc Tày ............................................................................ 87
Bảng 4.5. Mức độ thực hiện kỹ năng thể hiện sự hợp với tác đối tượng giao tiếp
trong hoạt động học tập của sinh viên dân tộc Tày ................................................... 90
Bảng 4.6. Mức độ thực hiện kỹ năng thể hiện sự trung thực với đối tượng giao tiếp
trong hoạt động học tập của sinh viên dân tộc Tày ................................................... 94
Bảng 4.7: Mức độ thực hiện kỹ năng diễn đạt các nội dung học tập ........................ 98
trên lớp của sinh viên dân tộc Tày ............................................................................. 98
Bảng 4.8. Mức độ thực hiện kỹ năng lắng nghe của sinh viên dân tộc Tày ........... 101
Bảng 4.8. Mức độ thực hiện kỹ năng điều chỉnh cảm xúc ...................................... 104
của sinh viên dân tộc Tày ......................................................................................... 104
Bảng 4.10: Mức độ thực hiện kỹ năng sử dụng hiệu quả phương tiện giao tiếp bằng ngôn
ngữ nói trong hoạt động học tập của sinh viên dân tộc Tày ........................................... 110
Bảng 4.11. Mức độ thực hiện kỹ năng sử dụng hiệu quả phương tiện giao tiếp bằng
ngôn ngữ viết trong hoạt động học tập của sinh viên dân tộc Tày .......................... 113
Bảng 4.12. Mức độ thực hiện kỹ năng sử dụng hiệu quả phương tiện giao tiếp phi
ngôn ngữ trong hoạt động học tập của sinh viên dân tộc Tày ................................. 116
Bảng 4.13. Mức độ thực hiện kỹ năng giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp của
sinh viên dân tộc Tày và sinh viên dân tộc Kinh ..................................................... 120
Bảng 4.14: Mức độ thực hiện kỹ năng giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp
của nữ sinh viên dân tộc Tày và nam sinh viên dân tộc Tày ................................... 121
Bảng 4.15: Mức độ thực hiện kỹ năng giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp 124
của sinh viên dân tộc Tày theo biến số năm học ..................................................... 124
Bảng 4.16: Mức độ ảnh hưởng của các yếu tố chủ quan và khách quan đến kỹ năng
giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp của sinh viên dân tộc Tày..................... 127
Bảng 4.17: Mức độ ảnh hưởng của các yếu tố chủ quan đến kỹ năng giao tiếp trong
hoạt động học tập trên lớp của sinh viên dân tộc Tày ............................................. 127
Bảng 4.18: Mức độ ảnh hưởng của các yếu tố khách quan đến kỹ năng giao tiếp
trong hoạt động học tập trên lớp của sinh viên dân tộc Tày .................................... 129
Bảng 4.19: Dự báo mức độ ảnh hưởng của các yếu tố độc lập đơn nhất ............... 131
Bảng 4.20: Mức độ thay đổi kỹ năng giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp
của sinh viên dân tộc Tày trước - sau thực nghiệm và với lớp đối chứng .............. 135
Bảng 4.21: Sự thay đổi kỹ năng giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp của sinh
viên dân tộc Tày trước – sau thực nghiệm và lớp đối chứng .................................. 136
DANH MỤC CÁC BIỂU
Biểu đồ 4.1: Mức độ thực hiện nhóm kỹ năng thiết lập............................................ 82
Biểu đồ 4.2: Mức độ thực hiện nhóm kỹ năng giải quyết vấn đề học tập trên lớp của
sinh viên dân tộc Tày.................................................................................................. 97
Biểu đồ 4.3. Mức độ thực hiện nhóm kỹ năng sử dụng các phương tiện giao tiếp của
sinh viên dân tộc Tày................................................................................................ 109
DANH MỤC SƠ ĐỒ
Sơ đồ 4.1: Tương quan giữa các kỹ năng giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp
trên lớp của sinh viên dân tộc Tày ........................................................................... 125
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
ĐTB : Điểm trung bình ĐLC : Độ lệnh chuẩn TN : Thực nghiệm
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Giao tiếp có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy hiệu quả hoạt động, hình
thành phẩm chất, năng lực, kỹ năng nghề nghiệp. Giao tiếp giúp cho mỗi cá nhân
trở nên tích cực, chủ động trong công việc của mình. Đối với sinh viên, giao tiếp có
ý nghĩa hết sức quan trọng trong hoạt động học tập của các em tại trường đại học.
Bởi vì, nhờ có hoạt động giao tiếp giữa sinh viên với giảng viên, giữa sinh viên với
nhau, giữa sinh viên với lực lượng khác tham gia vào quá trình đào tạo các em sẽ
nắm bắt được các tri thức khoa học, các kỹ năng nghề nghiệp, nắm bắt được nội
quy, quy chế trong học tập và rèn luyện tại trường đại học. Mặt khác, nhờ có giao
tiếp sinh viên sẽ mở rộng đối tượng giao tiếp trong trường đại học, sẽ thoả mãn
được các nhu cầu giao tiếp của bản thân, sẽ có được những cơ hội thể hiện các kỹ
năng giao tiếp của mình.
Sinh viên dân tộc thiểu số nói chung và sinh viên dân tộc Tày nói riêng gặp
phải một số khó khăn nhất định trong hoạt động học tập ở trường đại học như: môi
trường sống và học tập tại trường đại học khác biệt so với môi trường sống tại
làng, bản, huyện mà đa số sinh viên dân tộc Tày đã sống; một số đặc điểm tâm lý
như ngại giao tiếp với người khác dân tộc, ngại giao tiếp với những người bạn
mới, thầy cô giáo mới, khả năng ứng xử chưa thật phù hợp, chưa thật tự tin, khả
năng làm việc độc lập và làm việc theo nhóm chưa cao. Trước khi bước vào môi
trường đại học, các em có một cuộc sống tương đối đơn giản, thoải mái, cách thức
suy nghĩ còn hạn chế, khi bước vào môi trường đại học các em phải có một cách
suy nghĩ, tư duy mới để đáp ứng yêu cầu khoa học của hoạt động học tập tại
trường đại học. Phương pháp học tập ở trường phổ thông và trường đại học hoàn
toàn khác nhau. Ở trường đại học đòi hỏi các em phải độc lập suy nghĩ, phải có tư
duy sáng tạo… Mặt khác, ngôn ngữ cũng là rào cản trong hoạt động học tập của
các em. Trong hoạt động học tập trên lớp, sinh viên dân Tày cũng gặp phải những
trở ngại nhất định. Để giúp các em vượt qua những khó khăn này thì giao tiếp có
vai trò quan trọng hơn bao giờ hết.
Tuy nhiên, để giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp của sinh viên dân
tộc Tày đạt hiệu quả cao đòi hỏi các em phải có kỹ năng giao tiếp tốt. Chính vì
1
những lí do trên rất cần phải giúp sinh viên dân tộc Tày có được kỹ năng giao tiếp
trong hoạt động học tập trên lớp tại trường đại học. Do vậy, việc nghiên cứu và tìm
hiểu để nắm bắt được kỹ năng giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp của sinh
viên dân tộc Tày là gì? Biểu hiện và mức độ của kỹ năng này ở sinh viên dân tộc
Tày hiện nay như thế nào? Những yếu tố nào ảnh hưởng đến kỹ năng này ở các em?
Cần có những biện pháp nào để nâng cao kỹ năng giao tiếp trong hoạt động học tập
trên lớp cho sinh viên dân tộc Tày? Từ những câu hỏi đặt ra trên đây cho thấy việc
nghiên cứu kỹ năng giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp của sinh viên dân tộc
Tày có ý nghĩa lý luận và thực tiễn cấp bách. Về lý luận, kết quả nghiên cứu của đề
tài có thể góp phần bổ sung một số tri thức lý luận về kỹ năng giao tiếp của sinh
viên dân tộc Tày trong tâm lý học dân tộc ở nước ta. Về thực tiễn, kết quả nghiên
cứu góp phần làm cơ sở để giúp sinh viên dân tộc Tày nâng cao kỹ năng giao tiếp
với giảng viên, sinh viên cùng lớp trong hoạt động học tập tại trường đại học nhằm
nâng cao hiệu quả học tập của các em.
Xuất phát từ những lý do trên, tôi chọn đề tài “Kỹ năng giao tiếp trong hoạt
động học tập của sinh viên dân tộc Tày vùng Đông Bắc Việt Nam” để làm luận án
tiến sĩ tâm lý học.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn về kỹ năng giao tiếp trong hoạt
động học tập trên lớp của sinh viên dân tộc Tày vùng Đông Bắc Việt Nam, đề xuất
một số biện pháp tác động tâm lý sư phạm nhằm nâng cao kỹ năng giao tiếp trong
hoạt động học tập trên lớp cho sinh viên dân tộc Tày ở vùng Đông Bắc Việt Nam.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
2.2.1. Xây dựng cơ sở lý luận nghiên cứu kỹ năng giao tiếp trong hoạt động học tập
trên lớp của sinh viên dân tộc Tày: Các khái niệm công cụ, biểu hiện, tiêu chí đánh giá
và mức độ của kỹ năng giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp của sinh viên dân tộc
Tày, các yếu tố ảnh hưởng đến kỹ năng giao tiếp của sinh viên dân tộc Tày.
2.2.2. Điều tra, khảo sát và phân tích thực trạng kỹ năng giao tiếp trong hoạt
động học tập trên lớp của sinh viên dân tộc Tày ở vùng Đông Bắc Việt Nam,
các yếu tố chủ quan, khách quan ảnh hưởng đến kỹ năng giao tiếp trong hoạt
2
động học tập trên lớp của sinh viên dân tộc Tày ở vùng Đông Bắc Việt Nam.
2.2.3. Đề xuất một số biện pháp tác động tâm lý sư phạm nhằm hoàn thiện kỹ
năng giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp của sinh viên dân tộc Tày ở vùng
Đông Bắc Việt Nam và hoạt động thực nghiệm để kiểm chứng các biện pháp này.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu
Biểu hiện và mức độ kỹ năng giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp của
sinh viên dân tộc Tày ở vùng Đông Bắc Việt Nam.
3.2. Phạm vi nghiên cứu 3.2.1.Giới hạn về phạm vi nội dung nghiên cứu
Có rất nhiều khía cạnh khác nhau có thể khai thác để nghiên cứu kỹ năng giao tiếp trong hoạt động học tập của sinh viên dân tộc Tày. Tuy nhiên, trong luận án này, tôi tập trung vào việc nghiên cứu lý luận và thực trạng kỹ năng giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp của sinh viên dân tộc Tày qua các nhóm kỹ năng thành phần như: (1) Kỹ năng thiết lập mối quan hệ trong hoạt động học tập trên lớp của sinh viên dân tộc Tày; (2) Kỹ năng trao đổi với giảng viên và sinh viên về nội dung học tập trên lớp; (3) Kỹ năng sử dụng các phương tiện giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp của sinh viên dân tộc Tày. 3.2.2.Giới hạn về phạm vi địa bàn nghiên cứu
Luận án tập trung nghiên cứu tại vùng Đông Bắc Việt Nam. Trong đó, nghiên cứu được thực hiện chính thức tại tỉnh Tuyên Quang và tỉnh Thái Nguyên. Bởi vì, đây là hai tỉnh thuộc vùng Đông Bắc Việt Nam, có 2 trường Đại học khá lớn (Đại học Sư phạm thuộc Đại học Thái Nguyên và Đại học Tân Trào, tỉnh Tuyên Quang). Tại 2 trường đại học này theo số liệu thống kê có số lượng sinh viên dân tộc Tày đang theo học đông nhất. 3.2.3. Giới hạn về phạm vi khách thể điều tra, khảo sát của luận án Tổng số khách thể nghiên cứu của đề tài luận án là: 670 người. Trong đó, số lượng khách thể nghiên cứu được phân bố cho từng giai đoạn nghiên cứu. 1) Giai đoạn xây dựng bộ công cụ nghiên cứu: Tổng số khách thể nghiên cứu cho giai đoạn này là: 120 người. Trong đó: chúng tôi điều tra bằng bảng hỏi 100 sinh viên 2 trường Đại học Sư phạm thuộc Đại học Thái Nguyên và Đại học Tân Trào, tỉnh Tuyên Quang và phỏng vấn sâu 20 giảng viên thuộc 2 trường đại học được nghiên cứu.
3
2) Giai đoạn nghiên cứu thực tiễn: Luận án tiến hành điều tra khảo sát bằng bảng hỏi trên tổng số: 500 khách thể. Trong đó, tại Đại học Tân Trào nghiên cứu: 250 sinh viên, tại Đại học Sư phạm thuộc Đại học Thái Nguyên: 250 sinh viên. Chúng tôi lựa chọn 50 sinh viên dân tộc Tày năm thứ nhất và năm thứ hai để phỏng vấn sâu. Luận án cũng tiến hành phỏng vấn sâu trên 50 giảng viên đại học của hai trường Đại học Tân Trào và Đại học Sư phạm thuộc Đại học Thái Nguyên. 4. Phương pháp luận, phương pháp nghiên cứu giả thuyết khoa học 4.1. Phương pháp luận nghiên cứu
Nghiên cứu kỹ năng giao tiếp của sinh viên dân tộc Tày, đề tài xuất phát từ
các nguyên tắc có tính phương pháp luận sau:
a) Nguyên tắc tâm lý học hoạt động: Kỹ năng giao tiếp của sinh viên dân tộc Tày được hình thành trong quá trình hành động, hoạt động của sinh viên. Do vậy để đánh giá được kỹ năng giao tiếp của sinh viên cần quan sát và đánh giá bằng kết quả hành động, hoạt động của sinh viên
b) Nguyên tắc hệ thống: Kỹ năng giao tiếp rất phức tạp và đa dạng, được coi là một hệ thống gồm các cấu thành có mối quan hệ chặt chẽ tác động qua lại lẫn nhau. Kỹ năng giao tiếp được thể hiện qua từng kỹ năng cụ thể với tư cách là biểu hiện của từng kỹ năng. Để đánh giá kỹ năng giao tiếp của sinh viên cần đánh giá một cách tổng thể, khái quát trong toàn bộ các kỹ năng chứ không thể dựa vào một kỹ năng riêng lẻ. Nghiên cứu kỹ năng giao tiếp của sinh viên dân tộc Tày trong mối quan hệ tác động qua lại với các yếu tố tính cách cá nhân, vốn kinh nghiệm của mỗi cá nhân, môi trường sống của gia đình, nhà trường, xã hội,…
c) Nguyên tắc phát triển: Tâm lý con người luôn vận động và phát triển. Vì vậy khi nghiên cứu về kỹ năng giao tiếp trong hoạt động học tập của sinh viên dân tộc Tày phải được tiến hành trong quá trình vận động và phát triển của chúng.
d) Nguyên tắc tiếp cận liên ngành: Đề tài sử dụng kiến thức của nhiều chuyên ngành: Tâm lý học dạy học, tâm lý học lứa tuổi và tâm lý học sư phạm, tâm lý học phát triển, tâm lý học giao tiếp…
4.2. Các phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu văn bản, tài liệu; - Phương pháp chuyên gia; - Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi; - Phương pháp quan sát;
4
- Phương pháp phỏng vấn sâu; - Phương pháp thực nghiệm tác động; - Phương pháp thống kê toán học.
4.3. Giả thuyết khoa học
1) Kỹ năng giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp của sinh viên dân tộc Tày là một kỹ năng phức hợp có cấu trúc gồm 3 nhóm kỹ năng thành phần: Nhóm kỹ năng thiết lập mối quan hệ trong hoạt động học tập trên lớp của sinh viên dân tộc Tày, nhóm kỹ năng trao đổi với giảng viên và sinh viên về nội dung học tập trên lớp, nhóm kỹ năng sử dụng các phương tiện giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp của sinh viên dân tộc Tày. Hiện nay kỹ năng giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp của sinh viên ở mức trung bình, trong đó, kỹ năng thiết lập mối quan hệ trong hoạt động học tập trên lớp thực hiện yếu nhất.
2) Kỹ năng giao tiếp trong hoạt động học tập của sinh viên dân tộc Tày chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố chủ quan và khách quan. Trong đó, yếu tố ý thức tham gia vào các hoạt động tập thể; tính cách của sinh viên; phương pháp giảng dạy của giảng viên, hình thức giáo dục trong gia đình, nhà trường, xã hội có ảnh hưởng đến kỹ năng giao tiếp này của sinh viên dân tộc Tày.
3) Có thể hoàn thiện hơn kỹ năng giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp của sinh viên dân tộc Tày thông qua chương trình tập huấn kỹ năng giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp bằng ngôn ngữ nói nhằm giúp cho các en nâng cao mức độ nhận thức, thực hành và ứng dụng trong quá trình giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp.
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
Luận án góp phần bổ sung và làm sáng tỏ hơn một số vấn đề lý luận về kỹ năng giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp của sinh viên dân tộc Tày như: xây dựng được các khái niệm công cụ kỹ năng giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp của sinh viên dân tộc Tày; chỉ ra các kỹ năng thành phần của kỹ năng giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp của sinh viên dân tộc Tày; xác định được các tiêu chí và mức độ đánh giá kỹ năng giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp của sinh viên dân tộc Tày; phân tích các yếu tố chủ quan và khách quan ảnh hưởng đến kỹ năng giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp của sinh viên dân tộc Tày.
Luận án đã nêu và phân tích thực trạng biểu hiện, mức độ của kỹ năng giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp của sinh viên dân tộc Tày hiện nay ở mức trung bình; đề cập mức độ ảnh hưởng của yếu tố chủ quan và khách quan tới kỹ
5
năng giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp của sinh viên dân tộc Tày; đưa ra các biện pháp thực nghiệm để nâng cao kỹ năng giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp của sinh viên dân tộc Tày.
Luận án giúp sinh viên dân tộc Tày bổ sung thêm về kỹ năng giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp. Đồng thời, luận án cũng là tài liệu tham khảo hữu ích trong các trường đại học nhằm giúp cho sinh viên dân tộc Tày nâng kỹ năng giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án 6.1. Về mặt lý luận
Hiện nay những nghiên cứu về kỹ năng giao tiếp của sinh viên dân tộc Tày chưa được nghiên cứu nhiều. Luận án góp phần làm sáng tỏ hơn lý luận về kỹ năng giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp của sinh viên dân tộc Tày. Đồng thời kết quả của luận án là cơ sở góp phần bổ sung thêm một số vấn đề lý luận vào tâm lý học giao tiếp và tâm lý học dân tộc. 6.2. Về mặt thực tiễn
Kết quả nghiên cứu cho thấy mức độ thực hiện kỹ năng giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp của sinh viên dân tộc Tày chỉ đạt ở mức trung bình. Như vậy, cần nâng cao kỹ năng giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp cho sinh viên dân tộc Tày để các em đạt được kết quả cao hơn trong trong học tập tại trường đại học.
Luận án là tài liệu tham khảo cho các trường đại học có nhiều sinh viên dân tộc Tày theo học nhằm xây dựng chương trình đào tạo, bồi dưỡng cho sinh viên dân tộc Tày để nâng cao kỹ năng giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp cho các em.
7. Cơ cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, kiến nghị, danh mục tài liệu tham khảo, phụ
lục, luận án gồm 4 chương.
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu về kỹ năng giao tiếp trong hoạt
động học tập trên lớp của sinh viên
Chương 2: Lý luận về kỹ năng giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp của
sinh viên dân tộc Tày
Chương 3: Tổ chức và phương pháp nghiên cứu Chương 4: Thực trạng kỹ năng giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp của
sinh viên dân tộc Tày vùng Đông Bắc Việt Nam
6
Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VỀ KỸ NĂNG GIAO TIẾP TRONG HOẠT ĐỘNG HỌC TẬP TRÊN LỚP CỦA SINH VIÊN 1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu trên thế giới về kỹ năng giao tiếp của sinh viên 1.1.1. Các hướng nghiên cứu trên thế giới về kỹ năng
Phạm trù kỹ năng được các nhà tâm lý học trên thế giới quan tâm nghiên cứu ở nhiều góc độ khác nhau. Tổng quan tình hình nghiên cứu trên thế giới chúng tôi nhận thấy có các hướng chính khi nghiên cứu về kỹ năng như sau: * Hướng nghiên cứu lí luận
Các nhà nghiên cứu đi theo hướng này đã tập trung vào việc nghiên cứu và xây dựng cơ sở lí luận cơ bản về kỹ năng (khái niệm, tiêu chí đánh giá,...) Trong đó, việc xây dựng khái niệm kỹ năng rất được coi trọng. Có hai xu hướng chính về khái niệm này.
Xu hướng thứ nhất: Các nhà khoa học khi tiếp cận khái niệm kỹ năng đã dựa trên quan điểm cho rằng, khi nghiên cứu kỹ năng cần phải xem xét kỹ năng như là kỹ thuật của hành động.
Xu hướng thứ hai: Các nhà khoa học đưa ra lập luận và chứng minh rằng, khi xây dựng khái niệm kỹ năng cần phải xem xét tới cả hai khía cạnh: kỹ năng là kỹ thuật hành động và kỹ năng là một năng lực hoặc là một biểu hiện năng lực của con người. - Các nhà nghiên cứu đại diện cho xu hướng thứ nhất gồm các tác giả: A.G. Kôvaliov [61]; A.V. Petrovski [87]; A.V. Kruchetxki [62]. Các nhà khoa học này đều có chung một nhận định rằng: khi nghiên cứu kỹ năng cần xem xét kỹ năng như là mặt kỹ thuật của hành động, coi kỹ năng như một phương thức thực hiện hành động mà con người nắm vững. Theo các nhà nghiên cứu nêu trên, khi xem xét kỹ năng cần chú ý tới việc xem xét hoạt động của cá nhân đó. Cá nhân khi muốn thực hiện được một hành động, phải hiểu được mục đích, phương thức và điều kiện để thực hiện nó. Vì vậy, nếu ta nắm được các tri thức về hành động, thực hiện được nó trong thực tiễn theo các yêu cầu khác nhau, tức là ta đã có kỹ năng hành động. Muốn phát triển kỹ năng, cá nhân phải có quá trình học tập và củng cố bằng luyện tập hành động trong thực tiễn.
- Các nhà nghiên cứu đại diện cho xu hướng thứ hai có A.D. Lêvitov [66, tr.3]; X.I. Kixegov [59]. Các nhà khoa học này cho rằng, khi xem xét khái niệm kỹ
7
năng cần xem kỹ năng là kỹ thuật hành động và là một năng lực hoặc là một biểu hiện năng lực của con người. Kỹ năng vừa có tính ổn định, vừa có tính linh hoạt, mềm dẻo. Việc xem xét kỹ năng với tư cách là năng lực hoạt động của cá nhân đặt ra yêu cầu không chỉ phân tích mặt kỹ thuật của hành động mà còn nghiên cứu các yếu tố nhân cách khác có liên quan đến việc triển khai hành động. Với hai xu hướng cơ bản nghiên cứu về kỹ năng nêu dẫn ở trên, các nhà nghiên cứu đã kế thừa và vận dụng nó vào việc nghiên cứu kỹ năng trong các hoạt động nghề nghiệp cụ thể, kỹ năng trong hoạt động học tập,… * Hướng nghiên cứu thực tiễn về kỹ năng
Hướng nghiên cứu này thu hút được rất nhiều nhà khoa học khác nhau tham gia nghiên cứu. Các nhà khoa học đã tập trung vào việc tiến hành các nghiên cứu thực tiễn về kỹ năng. Trong đó, có các hướng nghiên cứu thực tiễn về kỹ năng trong từng loại hình nghề nghiệp nhất định như: Kỹ năng nghề dạy học, kỹ năng nghề luật sư, kỹ năng nghề cảnh sát,… Một số nhà nghiên cứu lại tập trung vào các nghiên cứu các vấn đề liên quan đến kỹ năng học tập của học sinh, sinh viên,…Dưới đây chúng tôi sẽ nêu dẫn từng hướng nghiên cứu thực tiễn về kỹ năng: - Hướng nghiên cứu về kỹ năng nghề nghiệp
Đã có một số công trình nghiên cứu về kỹ năng nghề nghiệp cụ thể, trong đó có các nghiên cứu về kỹ năng nghề nghiệp nói chung, kỹ năng của giáo viên, kỹ năng của các nhà tư vấn,... Đại diện cho hướng nghiên cứu này có các tác giả như: Jones Lawrence; Kevin B. và Len King; F.N. Gônôbolin; Z. Zilic, …
Jones Lawrence, trong tác phẩm“Những kỹ năng nghề nghiệp bước vào thế kỷ 21” đã đặt vấn đề kỹ năng là chìa khoá của mọi thành công, trong đó, ông đề cập hai nhóm kỹ năng cơ bản và đặc thù nghề nghiệp đồng thời đưa ra một số trắc nghiệm về kỹ năng đó. Ông đưa ra nội hàm của một số kỹ năng như: Kỹ năng tư duy, kỹ năng sống trong cộng đồng, các kỹ năng động cơ,...Cũng theo ông, kỹ năng lãnh đạo phải bao gồm nội dung: Giao tiếp bằng ý nghĩ và cảm xúc để chứng tỏ vị trí của bạn; khuyến khích hay thuyết phục một cá nhân hay nhóm; sử dụng một cách tích cực những nguyên tắc và giá trị mà người khác tuân theo. [57, tr.99-111-115].
Kevin B. và Len King, khi đề cập kỹ năng của giáo viên, coi kỹ năng là năng lực thực hành của giáo viên. Các tác giả này chia kỹ năng dạy học ra thành ba nhóm tương ứng với ba giai đoạn của quá trình tự học: Nhóm kỹ năng xây dựng chương trình giảng dạy, nhóm kỹ năng giảng dạy và nhóm kỹ năng đánh giá. Các nhóm kỹ
8
năng này của giáo viên khi tương tác với học sinh sẽ giúp chúng phát triển các nhóm kỹ năng tương tự.
F.N. Gônôbolin, trong tác phẩm Những phẩm chất tâm lý của người giáo viên đã đưa ra danh mục 10 nhóm năng lực sư phạm mà người giáo viên cần có, tuy nhiên, tác giả lại chưa chỉ rõ được sự khác biệt giữa các nhóm năng lực dạy học và các nhóm năng lực giáo dục [38, tr. 83]. - Hướng nghiên cứu về kỹ năng học tập
Đây là hướng nghiên cứu dành được sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu,
cụ thể như sau:
V.V.Tsebưseva nghiên cứu sâu về kỹ năng lao động bà đã có nhận định rất quan trọng được thực tế kiểm nghiệm và được nhiều người thừa nhận. Bà cho rằng, khi huấn luyện kỹ năng nên rút dần vai trò của người dạy, người học sẽ hình thành kỹ năng nhanh chóng và ổn định hơn [Dẫn theo 112, tr. 13].
X.I.Kixegov nghiên cứu kỹ năng hoạt động sư phạm của sinh viên. Ông nhấn mạnh sự khác biệt giữa kỹ năng hoạt động sư phạm với kỹ năng lao động sản xuất về quá trình hình thành, nhất là về đối tượng hoạt động. Ông đã chia quá trình hình thành kỹ năng hoạt động sư phạm thành 5 giai đoạn:
- Giai đoạn 1: Giới thiệu cho sinh viên về những hoạt động sắp phải thực
hiện như thế nào.
- Giai đoạn 2: Trình bày, diễn đạt các quy tắc lĩnh hội hoặc tái hiện lại những hiểu
biết cơ bản, nền tảng mà dựa vào đó kỹ năng, kỹ xảo được hình thành.
- Giai đoạn 3: Trình bày mẫu hành động. - Giai đoạn 4: Sinh viên tiếp thu hành động qua thực tiễn. - Giai đoạn 5: Đưa ra hệ thống các bài tập độc lập [59].
1.1.2. Các hướng nghiên cứu trên thế giới về giao tiếp
Là một phạm trù trung tâm trong tâm lý học, giao tiếp đã được đề cập từ rất lâu, thu hút được rất nhiều nhà nghiên cứu nói chung và các nhà tâm lý học nói riêng tập trung nghiên cứu.
Ngay từ thời cổ đại các nhà triết học như: Platon (428-347, Socrat (460-399) đã nói tới đối thoại như là sự giao tiếp trí tuệ, phản ánh mối quan hệ giữa con người với con người [dẫn theo 71].
Sang thế kỷ XVIII, nhà triết học Hà Lan M.P. Hemxtec - Lôxis trong tiểu luận “Một bức thư về con người và các quan hệ của nó với người khác” đã quan tâm đến mối quan hệ giữa con người với con người - mối quan hệ giữa cái tôi với
9
cái tôi khác [dẫn theo 71].
Thế kỷ XIX, C. Mác trong tác phẩm “Bản thảo kinh tế - triết học” đã có tư tưởng về nhu cầu giao tiếp giữa con người với con người, coi giao tiếp như là “khí quan xã hội”, thông qua giao tiếp con người có thái độ đối với chính bản thân mình và đối với người khác. Trong tác phẩm “Hệ tư tưởng Đức”, C. Mác - Ph.Ănghen nhấn mạnh về sự tác động qua lại giữa cá nhân và xã hội, về vai trò của giao tiếp trong sự hình thành bản chất xã hội của con người [76]. Đa phần các quan điểm về giao tiếp mang nặng tính triết học, giao tiếp chưa thực sự được nghiên cứu dưới góc độ tâm lý học.
Đầu thế kỷ XX, các nhà tâm lý học Liên Xô đã nghiên cứu về bản chất quá trình giao tiếp, các vấn đề lý luận về giao tiếp nói chung. Từ đây, giao tiếp mới thực sự được nghiên cứu như một vấn đề tâm lý học.
Nhìn chung các công trình nghiên cứu về giao tiếp được chia thành hai hướng: Nghiên cứu những vấn đề lý luận về giao tiếp và nghiên cứu những vấn đề giao tiếp ứng dụng.
* Hướng thứ nhất: Nghiên cứu các vấn đề lý luận của giao tiếp Ở hướng nghiên cứu về giao tiếp lý luận có thể phân thành 4 nhóm chính: - Nhóm thứ nhất: Coi giao tiếp là một dạng hoạt động hay là điều kiện,
phương thức của hoạt động.
Điển hình cho quan điểm này là A.N.Lêônchiev. Ông cho rằng: “Hoạt động là một quá trình thực hiện sự chuyển hoá lẫn nhau giữa hai cực chủ thể và khách thể” và “Hoạt động của chủ thể cùng với những động cơ, mục đích, phương tiện tương ứng trở thành khâu trung gian cho mối liên hệ giữa chủ thể và khách thể ” [65]. Như vậy, theo A.N.Lêônchiev giao tiếp chính là một dạng hoạt động mà trong đó đối tượng của giao tiếp chính là con người – một chủ thể khác, kết quả là tạo ra sự thay đổi về cả hai chủ thể.
Sự phân loại hoạt động giao tiếp của A.N.Lêônchiev cho thấy không có tiêu chí chung cho việc xác định chủ thể và khách thể của hoạt động giao tiếp. B.Ph.Lômôv nhận xét rằng: Giao tiếp không được làm rõ bởi sơ đồ chủ thể - động cơ - đối tượng (khách thể) của hoạt động [73]. Ông đã “Ghép mọi sự đa dạng của đời sống con người vào một phạm trù - là phạm trù hoạt động” [73]. Điều này chứng tỏ rằng việc “biến đổi” và “mở rộng” quan điểm về giao tiếp của A.A.Lêônchiev vẫn bộc lộ sự bất ổn.
- Nhóm thứ hai: Nghiên cứu theo quan điểm coi giao tiếp là một phạm trù
10
độc lập với hoạt động.
Người khởi xướng là B.Ph.Lômôv. Theo B.Ph.Lômôv, “Giao tiếp là hình thức độc lập và đặc thù của tính tích cực của chủ thể”, “Giao tiếp là hình thái đặc trưng của sự tác động qua lại giữa người này và người khác như là tác động qua lại của các chủ thể” [73].
B.Ph.Lômôv đã chỉ ra, nếu theo quan điểm của A.N.Lêônchiev, khách thể hoạt động giao tiếp là con người; nói cách khác, một cá nhân có thể vừa là chủ thể vừa là khách thể của hoạt động giao tiếp. Nhưng khách thể này - theo B.Ph.Lômôv - lại hết sức đặc biệt, vì mỗi người khi tham gia giao tiếp sẽ quan hệ với người cùng giao tiếp với mình với tư cách là một chủ thể có tâm lý ý thức. Bởi thế “Việc đặt hoạt động trong quan hệ với nó ngang hàng các khách thể “khô khan” (vật chất) là việc làm rất khó khăn”.
Mặt khác, cần phải thấy rằng, nếu xét theo tiêu chí hoạt động thì khó có thể xác định được kết quả giao tiếp, vì kết quả này ở các cá nhân khác nhau có thể rất khác nhau về số lượng và chất lượng; thậm chí đôi khi “chỉ với một thời gian giao tiếp ngắn ngủi với người này hoặc người khác (hoặc nhóm người) có ảnh hưởng đến sự phát triển tâm lý cá nhân nhiều hơn rất nhiều so với thực hiện lâu dài một hoạt động có đối tượng nào đó của người đó”. Cũng theo B.Ph.Lômôv một trong những đặc trưng cơ bản của giao tiếp là “truyền đạt - nhận thông tin”; “quá trình giao tiếp là quá trình trao đổi các ý đồ, các tư tưởng, các hình tượng…” [73]. Chính trong giao tiếp các chủ thể giới thiệu cho nhau các kết quả của phản ánh tâm lý.
Khi nhấn mạnh những khác biệt về chất giữa giao tiếp và hoạt động B.Ph.Lômôv không đối lập hai phạm trù này với nhau. Theo B.Ph.Lômôv, giao tiếp và hoạt động “gắn bó mật thiết với nhau”, “chúng có thể chuyển tiếp và chuyển hoá” từ mặt này vào mặt khác. “Giao tiếp có thể đóng vai trò tiền đề, điều kiện, là yếu tố bên ngoài và bên trong của hoạt động và ngược lại”. “Trong một vài hoạt động với tư cách là phương tiện và các phương thức của hoạt động, các phương tiện và phương thức của giao tiếp đã được sử dụng, mà chính hoạt động được xây dựng theo các quy luật của giao tiếp. Trong những trường hợp khác, các hoạt động này hoặc khác được sử dụng với tư cách là các phương tiện và phương thức của giao tiếp và ở đây giao tiếp được xây dựng theo các quy luật của hoạt động (chẳng hạn: hành động biểu tình, tuần hành, biểu diễn trên sân khấu)” [73].
Cuối cùng, B.Ph.Lômôv khẳng định rằng, giao tiếp của con người chịu sự quy định của những yếu tố xã hội như: chức năng, vị trí xã hội của con
11
người, những quy tắc, những chuẩn mực đạo đức, những thiết chế xã hội, v.v.. B.Ph.Lômôv đã khắc phục những hạn chế của quan điểm coi giao tiếp là một loại hình hoạt động của A.N.Lêônchiev. Tuy nhiên, ông chưa giải thích được ảnh hưởng, vai trò của giao tiếp đối với tâm lý.
- Nhóm thứ ba: Giao tiếp là quá trình truyền và tiếp nhận thông tin. Nhà điều khiển học Wiener vào năm 1947 đã xây dựng mô hình giao tiếp dựa trên lý thuyết thông tin “lý thuyết về sự truyền thông tin ở các phức hệ có khả năng tự kiểm tra, về các giá trị mang thông tin được tạo thành từ các từ, các dấu hiệu, các tín hiệu”. Ông nhấn mạnh khái niệm “thông tin phản hồi”, nhấn mạnh sự điều chỉnh cần thiết đối với “bản thông điệp” của quá trình giao tiếp [dẫn theo 67, tr18].
Trong “Lý thuyết toán học trong giao tiếp”, C.Senen đã đưa ra sơ đồ “hệ
thống tổng hợp trong giao tiếp” bao gồm các yếu tố:
+ Nguồn gốc thông tin và người truyền đạt nó (máy phát); + Địa điểm thông tin và máy thu; + Kênh liên lạc (phương tiện truyền tải thông tin từ máy phát đến máy thu -
radio);
+ Nguyên nhân tiếng ồn (khi phát tin) [96]. Trên cơ sở đó H.Đ.Laswell đã đưa ra mô hình giao tiếp gồm: + Ai (truyền thông tin) - Người nhận thông tin; + Cái gì (được truyền đạt) - Thông báo; + Như thế nào (việc truyền đạt được thực hiện) - Kênh liên lạc; + Cho ai (thông tin hướng đến) - Người nhận; + Với tác dụng gì - tính hiệu quả. Ngoài ra, có thể kể đến hàng loạt các nghiên cứu khác về giao tiếp theo hướng này. Chẳng hạn Perdonici, cho rằng “Giao tiếp là một sự trao đổi hai chiều, một quá trình khép kín”. Thines và cộng sự đề cập tới “vấn đề tổ chức kênh để cho con đường liên lạc thực hiện được phần nhiệm vụ của nó trong giao tiếp”. . Weaver, nhà ngôn ngữ học (1982) khi xây dựng mô hình về giao tiếp đã quan tâm đến các yếu tố như “nguồn thông tin, để phân biệt bộ phát, tiếng ồn, ngữ nghĩa trong bản thông điệp, nguồn gốc tiếng ồn gây ra sự chênh lệch giữa thông tin phát đi và thông tin thu được, bộ thu ngữ nghĩa” [dẫn theo 96 tr. 12 - 16, tr. 64-79].
Nhìn chung, khi coi giao tiếp là quá trình truyền thông tin, các nhà nghiên cứu đã gạt bỏ yếu tố tâm lý cá nhân, văn hoá xã hội ra khỏi quá trình giao tiếp, làm
12
cho quá trình giao tiếp trở nên đơn giản hoá. Điều này giúp các nhà nghiên cứu có điều kiện đi sâu vào khía cạnh trao đổi thông tin, nhưng họ lại thiếu cái nhìn toàn diện về giao tiếp.
- Nhóm thứ tư: Nghiên cứu giao tiếp theo từng chuyên ngành hẹp của tâm lý
học hoặc theo tính chất và đặc trưng nghề nghiệp.
Các nhà nghiên cứu theo quan điểm này đã đi sâu nghiên cứu giao tiếp theo từng lĩnh vực của tâm lý học như: tâm lý học sư phạm, tâm lý học xã hội, tâm lý học trẻ em và, tâm lý học y học, tâm lý học quản lý v.v. * Hướng thứ hai: Nghiên cứu giao tiếp ứng dụng Với hướng nghiên cứu giao tiếp ứng dụng, các nhà nghiên cứu đã áp dụng tâm lý học giao tiếp vào giải quyết các vấn đề của cuộc sống thường ngày như: chăm sóc sức khoẻ, tư vấn, những quan hệ cá nhân, những vấn đề chính trị… Một số nhà nghiên cứu còn viết sách dạy nghệ thuật trong việc giao tiếp với từng đối tượng cụ thể: giao tiếp với người lạ, giao tiếp với bạn bè, giao tiếp với đồng nghiệp, với người khác giới, với khách hàng, với người không thân thiết…
Việc nghiên cứu ứng dụng được tiến hành trên nhiều lĩnh vực như: giao tiếp xã hội, giao tiếp ứng xử, quản lý, kinh tế...Một số công trình như: Kenin L.Hutchinson “Giao tiếp cộng đồng”; Willist.Robin “Cách ứng xử hiệu quả trong cộng đồn:sự kiện, nội dung và những kinh nghiệm của sinh viên [54].`
Hơn 20 năm trở lại đây, một khuynh hướng mới trong tâm lý học được hình thành: đó là tâm lý học giao tiếp khó khăn. Các nhà nghiên cứu đã quan tâm đến các bình diện khác nhau của giao tiếp khó khăn phản ánh quan điểm của tâm lý học xã hội, điều này được thể hiện trong các tác phẩm như: “Những khó khăn tâm lý trong giao tiếp của giáo viên mới vào nghề” (1995) của T.A.Arôgiakaêva; “Từ những vấn đề giao tiếp khó khăn đến giải quyết” (1997); “Tâm lý học giao tiếp khó khăn” (2001) của V.A.Labunkaia [4, 63]. 1.1.3 Các hướng nghiên cứu trên thế giới về kỹ năng giao tiếp
Là một phạm trù trung tâm trong tâm lý học, kỹ năng giao tiếp đã được đề cập tới từ rất lâu, thu hút được rất nhiều nhà nghiên cứu nói chung và các nhà tâm lý học nói riêng tập trung nghiên cứu.
Ngay từ thời cổ đại các nhà triết học như: Platon (428-347, Socrat (460-399) đã nói tới đối thoại như là sự giao tiếp trí tuệ, phản ánh mối quan hệ giữa con người với con người [dẫn theo 71].
Sang thế kỷ XVIII, nhà triết học Hà Lan M.P.Hemxtec - Lôxis trong tiểu
13
luận “Một bức thư về con người và các quan hệ của nó với người khác” đã quan tâm đến mối quan hệ giữa con người với con người - mối quan hệ giữa cái tôi với cái tôi khác [dẫn theo 71].
Thế kỷ XIX, C.Mác trong tác phẩm “Bản thảo kinh tế - triết học” đã có tư tưởng về nhu cầu giao tiếp giữa con người với con người, coi giao tiếp như là “khí quan xã hội”, thông qua giao tiếp con người có thái độ đối với chính bản thân mình và đối với người khác. Trong tác phẩm “Hệ tư tưởng Đức”, C.Mác - Ph.Ănghen nhấn mạnh về sự tác động qua lại giữa cá nhân và xã hội, về vai trò của giao tiếp trong sự hình thành bản chất xã hội của con người [76]. Đa phần các quan điểm về giao tiếp mang nặng tính triết học, giao tiếp chưa thực sự được nghiên cứu dưới góc độ Tâm lý học. Tuy nhiên, nhìn chung khi bàn về giao tiếp hầu hết các tác giả đều nhấn mạnh mặt kỹ năng giao tiếp. Đã có rất nhiều hướng nghiên cứu về kỹ năng giao tiếp. * Nghiên cứu kỹ năng giao tiếp dựa trên tính chất của tổ chức
Xu hướng này nghiên cứu phổ biến ở Phương Tây, đặc biệt là ở Mỹ. Tác giả Robert N. Lusier cho rằng kỹ năng giao tiếp cá nhân rất quan trọng trong các mối quan hệ của tổ chức. Kỹ năng giao tiếp cho phép bạn đạt được những mục tiêu cá nhân cũng như những mục tiêu của tổ chức. Robert N Lusier đưa ra kỹ năng giải quyết xung đột, kỹ năng lắng nghe, kỹ năng làm chủ cảm xúc bản thân, kỹ năng tạo ấn tượng ban đầu, kỹ năng suy nghĩ tích cực là cơ sở để thích nghi với tổ chức [139].
Kitty O Locker nghiên cứu giao tiếp trong lĩnh vực hành chính và kinh doanh diễn ra dưới nhiều hình thức như giao tiếp bàng điện thoại, email, giao tiếp trực tiếp... yêu cầu người nhân viên phải có những kỹ năng giao tiếp tương ứng để giao tiếp với cán bộ quản lý trực tiếp, đồng nghiệp, khách hàng đến làm việc... Tác giả nhấn mạnh các kỹ năng giao tiếp: kỹ năng viết, kỹ năng lắng nghe, kỹ năng trình bày có liên quan chặt chẽ đến hiệu quả hoạt động của lĩnh vực này [131]. Chín yếu tố được ông đưa ra như là những chỉ dẫn ảnh hưởng quyết định đến mối quan hệ trong tổ chức: Thái độ tích cực lạc quan, gọi người giao tiếp bằng tên riêng, luôn mỉm cười, sẵn lòng giúp đỗ, biết quan tâm đến người khác, biết lắng nghe, suy nghĩ trước khi hành động. * Nghiên cứu kỹ năng giao tiếp theo hướng tập chung phân tích mối quan hệ liên cá nhân
Các tác giả nghiên cứu theo hướng này đều tập trung mô tả các thành tố của quá trình giao tiếp như con người, tiếng ồn, ngữ cảnh, kênh giao tiếp, hiệu ứng...Qua trao
14
đổi thông tin qua lại với nhau con người mới biết về mình, về người khác. Giao tiếp là một trong những nhu cầu cơ bản nhất của con người. Sự trao đổi như vậy chỉ được xảy ra trong quá trình giao tiếp khi con người xây dựng được lòng tin về nhau để thiết lập mối quan hệ. Các thành tố đó đều ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình hiểu biết lẫn nhau giữa con người với con người. V.P.Dakharov cho rằng để có năng lực giao tiếp cần có các kỹ năng sau và chỉ khi thực hiện tốt các kỹ năng này giao tiếp mới đạt được kết quả: - Kỹ năng nghe và biết lắng nghe
- Kỹ năng tự kiềm chế và kiểm tra đối tượng giao tiếp - Kỹ năng tự chủ cảm xúc và hành vi - Kỹ năng diễn đạt dễ hiểu, ngắn gọn, mạch lạc - Kỹ năng thiết lập mối quan hệ trong giao tiếp - Kỹ năng biết cân bằng nhu cầu của chủ thể và đối tượng giao tiếp - Kỹ năng điều khiển quá trình giao tiếp - Kỹ năng linh hoạt mềm dẻo trong giao tiếp [dẫn theo 53].
Tiri K.Gamble, M. Gamble đề ra các kỹ năng giao tiếp cơ bản để thiết lập mối quan hệ liên cá nhân: Kỹ năng lắng nghe, kỹ năng sử dụng các phương tiện giao tiếp, kỹ năng hồi đáp, kỹ năng trình bày, kỹ năng làm chủ cảm xúc. Các tác giả cho rằng kỹ năng cần thiết nhất đối với giao tiếp liên cá nhân là kỹ năng làm chủ cảm xúc của bản thân và kỹ năng lắng nghe [dẫn theo 53].
Robert N.Lusier cho rằng giao tiếp đã đặt nền tảng cho quan hệ con người với con người. Cách mà chúng ta giao tiếp bao giờ cũng ảnh hưởng đến toàn bộ hành vi của chúng ta và những người khác [139]. J.sean.MCleneghan đánh giá tầm quan trọng của các kỹ năng trong mối quan hệ giữa con người với con người: Kỹ năng nhận thức các vấn đề xã hội, kỹ năng quản lý thời gian, kỹ năng nói, kỹ năng nghe, kỹ năng thuyết phục, kỹ năng đọc hiểu [dẫn theo 53]. Judy C.Pearson và Brian H.Spitzberg phân tích sâu vai trò của kỹ năng lắng nghe như là một biểu hiện sinh động nhất của việc làm chủ các kỹ năng giao tiếp của cá nhân trong viêc thiếp lập quan hệ [130]. Việc chỉ ra các rào cản làm ảnh hưởng đến chất lượng lắng nghe giúp mỗi cá nhân thực hiện tốt hơn kỹ năng này để đảm bảo thành công cho giao tiếp. Willam B.Gudykunst cho rằng kỹ năng giao tiếp là năng lực của cá nhân trong việc thực hiện các hành vi giao tiếp phù hợp, có hiệu quả [144]. Ông đã đề
15
cao 4 kỹ năng giao tiếp cần có để giao tiếp hiệu quả, thành công là: Biết đồng cảm, biết thích ứng, biết đưa ra những phán đoán chính xác, biết quan tâm đến đối tượng giao tiếp. John Stewart cho rằng yếu tố đảm bảo cho sự thành công trong giao tiếp liên cá nhân là kỹ năng tự nhận thức và kỹ năng lắng nghe, kỹ năng tạo ấn tượng ban đầu, kỹ năng sử dụng các phương tiện giao tiếp ngôn ngữ và phi ngôn ngữ [129]. * Nghiên cứu kỹ năng giao tiếp theo hướng thông qua sự kết hợp của phương tiện giao tiếp bằng ngôn ngữ và phi ngôn ngữ
Có rất nhiều nhà tâm lý học nghiên cứu kỹ năng giao tiếp theo hường này. Robert N.Lusier đồng nhất khái niệm giao tiếp với phương tiện truyền tải thông điệp. Ông đã đưa ra 3 phương tiện cơ bản là: ngôn ngữ viết, ngôn ngữ nói, phi ngôn ngữ [139]. Các tác giả: E.G.Horton, D. Brown chia kỹ năng giao tiếp thành 2 kỹ năng đó là: Kỹ năng nghe và kỹ năng biểu cảm không lời. Kỹ năng nghe được các ông đánh giá quan trọng nhất vì hiệu quả của lắng nghe sẽ ảnh hưởng đến sự biểu cảm. Ngôn ngữ của người nói, trọng âm, cách sử dụng ngữ pháp sẽ thể hiện cho người nghe nhiều điều [127]. Robert N. Lusier nghiên cứu khái niệm giao tiếp bằng ngôn ngữ và phi ngôn ngữ, chỉ ra những nhược điểm mà mỗi chúng ta hay gặp phải là nắm bắt chưa chọn vẹn ý nghĩa của mỗi một thông điệp không lời dẫn đến quá trình gửi và nhận thông tin bị "nhiễu" [139]. Mery Ellen Gufffey cho rằng, kỹ năng giao tiếp là kỹ năng quan trọng nhất đối với mỗi nhân viên khi ông đề cập kỹ năng giao tiếp trong lĩnh vực thương mại. Ông đưa ra 4 nhóm kỹ năng giao tiếp cơ bản: Nghe, nói, đọc, viết. Kỹ năng lắng nghe là quan trọng nhất. Đòi hỏi nhân viên không chỉ nghe và hiểu các thông điệp bằng lời nói mà cả những thông điệp không lời. Ông nhấn mạnh đến tầm quan trọng của giao tiếp phi ngôn ngữ [135]. 1.1.4. Nhận xét chung về tình hình nghiên cứu trên thế giới
Tổng quan tình hình nghiên cứu trên thế giới về vấn đề này cho thấy có các nhà
tâm lý học tập trung vào việc nghiên cứu theo các hướng chính sau đây:
- Các hướng nghiên cứu về kỹ năng: Tổng quan tình hình nghiên cứu cho thấy, các nhà tâm lí học đi sâu vào việc nghiên cứu lí luận về kỹ năng trong đó tập trung vào việc nghiên cứu và xây dựng những vấn đề lí luận cơ bản về kỹ năng (khái niệm, tiêu chí đánh giá,...) và đi sâu vào các nghiên cứu thực tiễn về kỹ năng. Hướng nghiên cứu thực tiễn về kỹ năng trong từng loại hình nghề nghiệp nhất định
16
như: kỹ năng nghề dạy học, kỹ năng nghề luật sư, kỹ năng nghề cảnh sát,… Một số nhà nghiên cứu khác lại tập trung vào các nghiên cứu liên quan đến kỹ năng học tập của học sinh, sinh viên,…
- Các hướng nghiên cứu về giao tiếp: Các nhà tâm lý học tập trung vào việc nghiên cứu các vấn đề lý luận của giao tiếp tập trung vào việc chứng minh giao tiếp là một dạng hoạt động hay là điều kiện, phương thức của hoạt động; giao tiếp là một phạm trù độc lập với hoạt động; giao tiếp là quá trình truyền và tiếp nhận thông tin và nghiên cứu giao tiếp theo từng chuyên ngành hẹp của tâm lý học hoặc theo tính chất và đặc trưng nghề nghiệp. Các nhà tâm lý học tập trung vào việc thực hiện các nghiên cứu thực tiễn về giao tiếp ứng dụng. Trong đó, các nhà nghiên cứu đã áp dụng tâm lý học giao tiếp vào giải quyết các vấn đề của cuộc sống thường ngày như: Chăm sóc sức khoẻ, tư vấn, những quan hệ cá nhân, những vấn đề chính trị… Một số nhà nghiên cứu còn viết sách dạy nghệ thuật trong việc giao tiếp với từng đối tượng cụ thể: giao tiếp với người lạ, giao tiếp với bạn bè, giao tiếp với đồng nghiệp, với người khác giới, với khách hàng, với người không thân thiết…
- Các hướng nghiên cứu về kỹ năng giao tiếp: Các nhà tâm lý học tập trung vào việc nghiên cứu các vấn đề lý luận của giao tiếp tập trung vào việc chứng minh các vấn đề lý luận và thực tiễn về: các kỹ năng giao tiếp dựa trên tính chất của tổ chức; kỹ năng giao tiếp theo hướng tập chung phân tích mối quan hệ liên cá nhân; kỹ năng giao tiếp theo hướng thông qua sự kết hợp của phương tiện giao tiếp bằng ngôn ngữ và phi ngôn ngữ.
Như vậy, có thể nhận thấy rằng, trên thế giới đã có rất nhiều nhà tâm lý học đi sâu nghiên cứu các vấn đề như: Kỹ năng, giao tiếp, kỹ năng giao tiếp, kỹ năng giao tiếp trong hoạt động nghề nghiệp và hoạt động học tập của học sinh, sinh viên. Điều này khẳng định chắc chắn rằng, đây là vấn đề nghiên cứu có ý nghĩa lý luận và thực tiễn tốt và vẫn là vấn đề nghiên cứu có tính mới, tính thời sự cần được giải quyết.
1.2. Tổng quan tình hình nghiên cứu ở Việt Nam về kỹ năng giao tiếp của sinh viên trong hoạt động học tập 1.2.1. Các hướng nghiên cứu ở Việt Nam về kỹ năng
Vấn đề kỹ năng được quan tâm nghiên cứu ở Việt Nam từ nhiều thập kỷ nay. Cho đến nay các nhà nghiên cứu ở Việt Nam cũng thường tập trung vào các khuynh hướng sau:
* Kỹ năng là mặt kỹ thuật thao tác, hành động hay hoạt động
17
Theo Đào Thị Oanh (1999): Kỹ năng là phương thức vận dụng tri thức vào
Tác giả Trần Trọng Thủy cho rằng kỹ năng là mặt kỹ thuật của hành động con người nắm được cách thức hành động tức là có kỹ thuật hành động, có kỹ năng [110]. Tác giả Dương Thị Thoan (2011) có quan điểm tiếp cận kỹ năng theo hướng này. Tác giả cho rằng: “Kỹ năng là sự vận dụng những tri thức và kinh nghiệm đã có vào thực hiện một hành động, hoạt động tương ứng. Có kỹ năng hoạt động nghĩa là cá nhân thực hiện hoạt động có kết quả và quá trình đi đến kết quả hoạt động của cá nhân phải bao gồm một tổ hợp các thao tác nhất định” [107]. hoạt động thực hành đã được củng cố [85], [86]. Nguyễn Văn Phương (2008) quan niệm, kỹ năng là sự vận dụng những tri thức và thao tác hợp lý để thực hiện các hành động giải quyết nhiệm vụ học tập có kết quả trong điều kiện nhất định. Như vậy, tác giả còn đưa thêm yếu tố thao tác vào trong kỹ năng [93].
Đặng Thành Hưng (2010) cho rằng: “Kỹ năng là một dạng hành động được thực hiện tự giác dựa trên tri thức về công việc, khả năng vận động và những điều kiện sinh học - tâm lý khác của cá nhân như nhu cầu, tình cảm, ý chí, tính tích cực cá nhân…để đạt được kết quả theo mục đích hay tiêu chí đã định, hoặc mức độ thành công theo chuẩn hay quy định”. Ở đây, tác giả còn đưa vào khái niệm kỹ năng những yếu tố tâm lý cá nhân ảnh hưởng đến kết quả thực hiện hành động [55, 56].
Các tác giả nêu trên nhấn mạnh phương thức của hành động, xem xét kỹ
năng trong mối liên hệ với hành động và khía cạnh kỹ thuật của hành động. *Kỹ năng là năng lực hành động của cá nhân trong hoạt động
Đại diện cho quan điểm này là các tác giả Nguyễn Quang Uẩn, Nguyễn Ánh Tuyết, Nguyễn Thạc, Vũ Dũng, Trần Quốc Thành, Hoàng Anh…
Trong cuốn Từ điển Tâm lý học - Vũ Dũng (chủ biên) có định nghĩa: “Kỹ năng là năng lực vận dụng có kết quả tri thức về phương thức hành động đã được chủ thể lĩnh hội để thực hiện những nhiệm vụ tương ứng” [29, tr. 132].
Nguyễn Quang Uẩn, Trần Quốc Thành và một số tác giả khác cũng coi kỹ năng
là một mặt năng lực của con người thực hiện một công việc có kết quả [105], [113]. Lê Văn Hồng cho rằng: Kỹ năng là khả năng vận dụng kiến thức để giải quyết một nhiệm vụ mới. Bất cứ kỹ năng nào cũng phải dựa trên cơ sở kiến thức. Muốn kiến thức là cơ sở của kỹ năng thì kiến thức đó phải phản ánh đầy đủ thuộc tính bản chất được thử thách trong thực tiễn và tồn tại trong ý thức với tư cách là công cụ của hành động [50, tr.131].
18
Tác giả Bùi Thị Xuân Mai khi nghiên cứu kỹ năng không chỉ dừng lại ở tiêu chí kết quả chính xác mà còn xét tới yếu tố thái độ, động cơ của cá nhân trong thực hiện hành động có kỹ năng đó. Tác giả cho rằng, để thực hiện kỹ năng cá nhân cần nắm rõ các tri thức hành động, bao gồm mục đích, yêu cầu thao tác, kỹ thuật hành động, phương thức thực hiện và vận dụng và hoạt động thực tiễn trong điều kiện cụ thể. Bùi Thị Xuân Mai định nghĩa: Kỹ năng là sự vận dụng đúng đắn những tri thức, giá trị (thái độ) liên quan vào hoạt động hay hành động thực tiễn trong điều kiện cụ thể để thực hiện hành động hay hoạt động có kết quả [57].
Theo Nguyễn Thị Thúy Hạnh (2011), ‘‘Kỹ năng là khả năng vận dụng có kết quả những tri thức, kinh nghiệm vào hành động để giải quyết nhiệm vụ” [44, tr 22]. Tác giả Trần Thị Thu Hằng quan niệm: Kỹ năng của cá nhân là một biểu hiện năng lực của họ trong lĩnh vực hoạt động hay công việc nhất định; Kỹ năng là sự thực hiện một hành động, hoạt động nào đó đạt kết quả, trên cơ sở vận dụng những kiến thức, kinh nghiệm đã có phù hợp với những mục tiêu, điều kiện thực tế đã cho. Theo quan niệm này, có thể hiểu kỹ năng là phức hợp các phẩm chất trí tuệ của nhân cách được nảy sinh, hình thành, phát triển và biểu hiện trong hoạt động. Kỹ năng chính là một dạng biểu hiện của khả năng, năng lực thực hiện của con người, được biểu hiện khi họ thực hiện hành động, hoạt động xuất phát từ nhu cầu hoặc nhiệm vụ xác định nhằm đạt được kết quả theo mục đích đã đặt ra với một đơn vị thời gian ngắn nhất có thể. Những hành động không dựa trên kiến thức và các điều kiện sinh học - tâm lý chủ quan của cá nhân thì không phải là kỹ năng, cho dù nó được thực hiện thuần thục, mà đó là thói quen, kỹ xảo hay hành vi tập tính mà ta thường gặp ở động vật hay hành vi tự động hóa ở người. Để đánh giá về kỹ năng, người ta có thể căn cứ theo chuẩn hoặc các tiêu chí, các quy định hay mục đích đã xác định từ trước [46, tr. 21].
Như vậy, các tác giả theo khuynh hướng này coi kỹ năng không chỉ được hiểu là kỹ thuật mà còn đem lại kết quả cho hoạt động. Các tác giả chưa quan tâm phân tích về mặt thao tác hành động của kỹ năng * Một số nhà nghiên cứu tiếp cận kỹ năng theo hướng tích hợp cả hai khuynh hướng trên Đỗ Thị Châu (1999) xem xét kỹ năng trên cả 2 khía cạnh: Thứ nhất, kỹ năng là mặt kỹ thuật của thao tác hay hành động nhất định (không có kỹ năng chung chung, trừu tượng tách rời hành động). Thứ hai, kỹ năng là một biểu hiện năng lực của con người nên vừa có tính ổn định vừa có tính mềm dẻo, linh hoạt và tính mục đích. Để
19
Các tác giả Vũ Văn Tảo, Bùi Hiền, Nguyễn Văn Giao, Nguyễn Hữu Quỳnh
có kỹ năng hành động, cá nhân không chỉ hiểu sâu sắc về hành động (mục đích, phương thức, điều kiện hành động) mà phải mềm dẻo, linh hoạt triển khai hành động trong mọi hoàn cảnh theo đúng logic của nó với mọi điều kiện có thể để đạt được mục đích của hành động [17, tr.19 - 20]. Tác giả Nguyễn Thị Thùy Dung (2009) đã đưa ra khái niệm: ‘‘Kỹ năng là một biểu hiện của năng lực con người thực hiện có kết quả một hành động hay một hoạt động nào đó bằng cách tiến hành đúng đắn kỹ thuật của hành động, trên cơ sở vận dụng những tri thức và kinh nghiệm vốn có về hành động đó” [26, tr.41]. (2001) trong cuốn Từ điển Giáo dục học đã phân chia kỹ năng như sau:
+ Kỹ năng bậc I: là khả năng thực hiện đúng hành động phù hợp với những mục tiêu và điều kiện cụ thể tiến hành hành động ấy, cho dù là hành động cụ thể hay hành động trí tuệ. Muốn có kỹ năng, trước hết phải có kiến thức làm cơ sở cho việc hiểu biết về nội dung công việc mà kỹ năng hướng vào và kiến thức về bản thân kỹ năng như quy trình luyện tập từng thao tác riêng rẽ cho đến khi thực hiện một hành động đúng với mục đích yêu cầu đã đề ra. Đây là những kỹ năng đơn giản và khi luyện tập đến mức hoàn hảo thì thành kỹ xảo.
+ Kỹ năng bậc II: là khả năng thực hiện hành động một cách thành thạo, linh hoạt, sáng tạo phù hợp với những mục tiêu trong những điều kiện khác nhau. Để đạt được kỹ năng này, cần trải qua các giai đoạn luyện tập trên cơ sở kỹ năng bậc I và kỹ xảo. Ở kỹ năng này, tính linh hoạt, sáng tạo là yếu tố cơ bản, đó là cơ sở cho mọi hoạt động đạt hiệu quả cao. Khi nói đến kỹ năng, thường nói kỹ năng bậc II, vì kỹ năng bậc I không đảm bảo cho nhiều hoạt động thành công. Cách phân loại kỹ năng như các tác giả trên giúp chúng ta phân biệt rõ kỹ năng và kỹ xảo cũng như thấy được mối quan hệ giữa chúng [97].
Khi nghiên cứu về Kỹ năng đọc chữ tiếng Việt của học sinh lớp 1 người dân tộc Cơ Ho, tác giả Cao Xuân Liễu quan niệm ‘‘Kỹ năng là sự vận dụng tri thức, kinh nghiệm đã có và các thao tác phù hợp với hành động, hoạt động để thực hiện hiệu quả hành động, hoạt động trong những điều kiện cụ thể, xác định’’. Tác giả cho rằng, trong định nghĩa về kỹ năng phải chứa đựng được các nội hàm sau: Kỹ năng biểu hiện trong hành động và hoạt động của cá nhân qua các thao tác. Kỹ năng là sự vận dụng các tri thức, kinh nghiệm và các giá trị phù hợp với điều kiện hoạt động cụ thể, xác định. Sự vận dụng kỹ năng phải đem lại kết quả cho hoạt động [68, tr. 20].
20
Theo Đào Thị Diệu Linh, kỹ năng là sự vận dụng tri thức, kinh nghiệm đã có vào thực hiện có hiệu quả hành động, hoạt động cụ thể phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh xác định. Với quan niệm này của tác giả kỹ năng bao hàm những nội dung sau: Kỹ năng trước hết được thể hiện thông qua các thao tác, mặt kỹ thuật của hành động/hoạt động. Không có kỹ năng chung chung, trừu tượng tách rời khỏi hoạt động. Chủ thể có kỹ năng hành động đồng nghĩa với hành động có kỹ năng; Kỹ năng là sự vận dụng tri thức, kinh nghiệm đã có vào từng trường hợp cụ thể, phù hợp với mục đích và điều kiện của hoạt động. Hành động có kỹ năng tức là hành động phải đem lại một hiệu quả nhất đinh, nói cách khác kỹ năng phải được thể hiện ở tính đúng đắn, mức độ thành thạo, sáng tạo, linh hoạt…[69, tr. 27].
Như vậy, các tác giả Việt Nam đã nhìn nhận khái niệm về kỹ năng theo các góc độ khác nhau. Tuy nhiên, các tác giả có chung quan điểm: Kỹ năng là sự vận dụng những tri thức, kinh nghiệm đã có vào hoạt động thực tiễn để thực hiện hoạt động có kết quả. 1.2.2. Các hướng nghiên cứu ở Việt Nam về giao tiếp
Vấn đề giao tiếp được quan tâm nghiên cứu tương đối muộn ở Việt Nam. Phải đến những năm 80 của thế kỉ XX, các công trình nghiên cứu về giao tiếp mới được công bố ở nước ta. Các tác giả chủ yếu đi theo hai hướng: nghiên cứu giao tiếp đại cương, hướng nghiên cứu giao tiếp sư phạm và hướng nghiên cứu về giao tiếp của học sinh các cấp.
* Hướng nghiên cứu đại cương về giao tiếp Nghiên cứu đại cương về giao tiếp có các tác giả như: Trần Trọng Thuỷ, Nguyễn Quang Uẩn, Đỗ Long, Bùi Văn Huệ, Phạm Minh Hạc…Các nghiên cứu này chủ yếu mang tính chất đại cương về giao tiếp, giải quyết những vấn đề lý luận, coi giao tiếp là một phạm trù độc lập với hoạt động [110], [70], [52].
* Hướng nghiên cứu giao tiếp sư phạm Hướng nghiên cứu này có các tác giả như: Ngô Công Hoàn, Hoàng Anh, Đặng Xuân Hoài, Trần Trọng Thuỷ, Phạm Minh Hạc…Các nghiên cứu theo hướng này đã nêu lên lý luận cơ bản về giao tiếp sư phạm, khẳng định giao tiếp sư phạm là giao tiếp đặc thù, giao tiếp mang tính chất nghề nghiệp.
* Hướng nghiên cứu về giao tiếp của học sinh Các công trình nghiên cứu về giao tiếp của học sinh là chưa nhiều: Nguyễn Ánh Tuyết trong cuốn: "Giáo dục trẻ em trong nhóm bạn bè" [104] đã trình bày kết quả nghiên cứu của mình về sự phát triển nhu cầu giao tiếp và đặc
21
điểm nhóm bè bạn của trẻ mẫu giáo.
Đề tài: "Đặc điểm giao tiếp của trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi" [101] do tác giả Nguyễn Thạc chủ trì nghiên cứu về nhu cầu giao tiếp của trẻ, xung đột trong giao tiếp của trẻ.
Trong cuốn "Một số vấn đề tâm lý học về giao tiếp sư phạm" Ngô Công
Hoàn đã trình bày quá trình xã hội hoá trẻ em và đặc điểm giao tiếp của trẻ [49].
Nguyễn Xuân Thức khi "Nghiên cứu tính tích cực giao tiếp của trẻ em mẫu giáo 5-6 tuổi" có đề cập tới một số đặc điểm giao tiếp của trẻ. Tác giả đã kết luận: "Trẻ nội thành có tính tích cực giao tiếp cao hơn trẻ ngoại thành", "Bé gái có tính tích cực giao tiếp cao hơn bé trai". Tác giả khảo sát tính tích cực giao tiếp theo ba thành tố tâm lý là: Nhu cầu giao tiếp, tính chủ động tham gia giao tiếp và mức độ hoà nhập trong giao tiếp của trẻ.
mở rộng hơn, tần số giao tiếp tăng lên, nội dung giao tiếp phong phú hơn và cách thức
sử dụng các phương tiện biểu đạt cũng trở nên đa dạng, ăn khớp hơn rất nhiều [49].
Lê Xuân Hồng nghiên cứu về "Đặc điểm giao tiếp của trẻ mẫu giáo trong nhóm chơi không cùng độ tuổi" đã chỉ ra sự khác biệt ở ba mặt: tần số, phương tiện và nội dung giao tiếp. Tác giả chỉ rõ ở những độ tuổi lớn hơn thì quan hệ giao tiếp sẽ
Nguyễn Liên Châu nghiên cứu về "Đặc điểm giao tiếp của hiệu trưởng trường tiểu học" ở góc độ giao tiếp của người quản lý. Trong đó tác giả đã đi vào tìm hiểu cụ thể về các đặc điểm giao tiếp như: Nhu cầu giao tiếp, mục đích, nội dung giao tiếp, nhận thức trong giao tiếp, các phẩm chất nhân cách trong giao tiếp, phong cách giao tiếp, kỹ năng giao tiếp [15].
Nguyễn Thị Thanh Hà nghiên cứu về "Giao tiếp của bác sỹ quân y với người bệnh trong khám, chữa bệnh”. Tác giả đã chỉ ra: "Giao tiếp giữa bác sỹ với người bệnh là giao tiếp có tính đặc thù và chịu ảnh hưởng của nghề nghiệp rõ rệt. Những đặc điểm đặc thù này biểu hiện ở: nhu cầu, nội dung, phạm vi, thời điểm giao tiếp”. Nghiên cứu về giao tiếp của sinh viên và giao tiếp của người dân tộc thiểu số
Các công trình nghiên cứu về giao tiếp của sinh viên là chưa nhiều: Nguyễn Thanh Bình nghiên cứu về một số trở ngại tâm lý trong giao tiếp của
sinh viên với học sinh sau khi thực tập tốt nghiệp [11].
Nguyễn Văn Đồng nghiên cứu về “Một số đặc điểm giao tiếp ngoài giảng
đường của sinh viên” [34]. 1.2.3. Các hướng nghiên cứu ở Việt Nam về kỹ năng giao tiếp và kỹ năng giao tiếp của sinh viên
22
Ở Việt Nam có nhiều tác giả nghiên cứu về kỹ năng giao tiếp:
Tác giả Hoàng Anh, Đỗ Thị Châu, Nguyễn Thạc cho rằng: Kỹ năng giao tiếp thực chất là sự phối hợp phức tạp giữa những chuẩn mực hành vi xã hội của cá nhân với sự vận động của cơ mặt, nụ cười, ánh mắt, tư thế đầu cổ, vai, tay, chân, đồng thời với ngôn ngữ nói, viết [3]. Các tác giả đã đưa ra 3 nhóm kỹ năng giao tiếp: Nhóm kỹ năng định hướng giao tiếp, nhóm kỹ năng định vị, kỹ năng điều khiển, điều chỉnh. Trần Trọng Thủy phân tích mối quan hệ giữa tình người, văn hóa, giao tiếp, ông cho rằng giao tiếp chính là phương tiện thể hiện tình người, là hình thức tác động qua lại của con người trong quá trình sống và hoạt động cùng nhau [110]. Thông qua giao tiếp bản chất con người được thể hiện, con người tiếp nhận được những tri thức về thế giới xung quanh, về bản thân, về người khác. Ông nhấn mạnh: Văn hóa giao tiếp có liên quan mật thiết với kỹ năng giao tiếp. Có một số kỹ năng giao tiếp đặc trưng của con người: Kỹ năng bước vào giao tiếp với người khác một cách không có định kiến, kỹ năng chỉnh sửa các ấn tượng ban đầu của mình về người khác khi mới làm quen với họ. Những kỹ năng này được hình thành thông qua học tập và rèn luyện. Trong những năm gần đây, xu hướng nghiên cứu kỹ năng nghề nghiệp được đặc biệt chú trọng như những công trình nghiên cứu về kỹ năng trong trường sư phạm có các tác giả: Hoàng Anh, Lê Xuân Hồng, Nguyễn Thạc, Ngô Công Hoan...Các tác giả đều cho rằng, người giáo viên cần có các kỹ năng định hướng, kỹ năng định vị, kỹ năng điều khiển điều chỉnh để giao tiếp tốt với học sinh. Khi nghiên cứu về “Nghệ thuật giao tiếp và thương lượng trong kinh doanh” tác giả Thái Trí Dũng đã trình bày một số kỹ năng giao tiếp cơ bản như: Kỹ năng lắng nghe, kỹ năng đặt câu hỏi, kỹ năng diễn thuyết và báo cáo miệng, kỹ năng giao dịch bằng điện tín, kỹ năng xã giao thông thường. Tuy nhiên, những kỹ năng mà tác giả đưa ra vẫn chỉ dừng lại ở mức độ liệt kê chưa phản ánh được đầy đủ tính nghệ thuật giao tiếp như mong muốn ban đầu của tác giả [27], [28]. Cũng trong lĩnh vực kinh doanh, tác giả Đoàn Thị Hồng Vân đã đi sâu vào phân tích các kỹ năng nghe hiểu, kỹ năng thuyết trình và kỹ năng viết, bên cạnh đó tác giả đã chỉ rõ mức độ quan trọng của các kỹ năng giao tiếp trong hoạt động kinh doanh cũng như trong đời sống hàng ngày [116]. Đối với hoạt động quản lý, tác giả Vũ Dũng đã đưa ra một số kỹ năng giao tiếp quan trọng là kỹ năng tạo lập mối quan hệ, kỹ năng lắng nghe, kỹ năng phản
23
đối tượng phải thường xuyên dành 60 đến 90% thời gian làm việc để giao tiếp [58]. Tác giả Nguyễn Bá Minh cho rằng, những kỹ năng giao tiếp của một người nhân viên cần phải rèn luyện là kỹ năng lập kế hoạch cho quá trình giao tiếp, kỹ năng biết lắng nghe tích cực, kỹ năng nói và kỹ năng báo cáo [79]. Tác giả Chu Văn Đức và Thái Trí Dũng đề ra một hệ thống những kỹ năng giao tiếp mà mỗi người nhân viên nên có nhằm đảm bảo cho giao tiếp thành công là kỹ năng lắng nghe, kỹ năng đặt câu hỏi, kỹ năng thuyết phục, kỹ năng thuyết trình, kỹ năng viết, kỹ năng đọc [35].
hồi. Theo tác giả, đây là những kỹ năng giao tiếp quan trọng có ảnh hưởng đến kết quả giao tiếp [30]. Mai Hữu Khuê khi phân tích kỹ năng giao tiếp trong hành chính đã đặc biệt nhấn mạnh đến các kỹ năng nghe, kỹ năng đọc, kỹ năng viết, kỹ năng nói và kỹ năng phản hồi. Đây là những kỹ năng cần có đối với nhân viên hành chính công vụ -
Tác giả Đào Ái Thi khi nghiên cứu về kỹ năng giao tiếp của đội ngũ công chức hành chính trong tiến trình cải cách nền hành chính nhà nước đã nêu ra các nhóm kỹ năng giao tiếp mà công chức hành chính cần có: Nhóm kỹ năng giao tiếp dựa trên phương diện năng lực người công chức, nhóm kỹ năng giao tiếp dựa trên phương diện hành vi hành chính, nhóm kỹ năng giao tiếp dựa trên phương diện 16 nghệ thuật quản lý, nhóm kỹ năng giao tiếp dựa trên phương diện kỹ thuật hành chính [108].
Ngoài ra cũng phải kể đến một vài công trình nghiên cứu của các tác giả khác như: “Một số kỹ năng giao tiếp trong vận động quần chúng của chủ tịch hội phụ nữ cấp cơ sở” của tác giả Trần Thị Thanh Hà, “Kỹ năng giao tiếp của cán bộ giao dịch ngân hàng” của tác giả Phạm Thị Tuyết … 1.2.4. Nhận xét chung về tình hình nghiên cứu ở Việt Nam
Tổng quan tình hình nghiên cứu ở Việt Nam cho thấy có các hướng nghiên cứu chính về kỹ năng, về giao tiếp, về kỹ năng giao tiếp trong hoạt động học tập của học sinh, sinh viên như sau:
- Các nghiên cứu về kỹ năng: Các nhà tâm lý học đã tập trung vào việc nghiên cứu những vấn đề lí luận và thực tiễn về kỹ năng theo các hướng như: Xem xét kỹ năng là mặt kỹ thuật thao tác, hành động hay hoạt động; xem xét kỹ năng là năng lực hành động của cá nhân trong hoạt động và có một số nhà nghiên cứu tiếp cận kỹ năng theo hướng tích hợp cả hai khuynh hướng trên.
- Các hướng nghiên cứu về giao tiếp: Vấn đề giao tiếp được quan tâm nghiên
24
cứu tương đối muộn ở Việt Nam. Phải đến những năm 80 của thế kỉ XX, các công trình nghiên cứu về giao tiếp mới được công bố ở nước ta. Các tác giả chủ yếu đi theo hai hướng: Nghiên cứu giao tiếp đại cương, hướng nghiên cứu giao tiếp sư phạm và hướng nghiên cứu về giao tiếp của học sinh các cấp.
- Các hướng nghiên cứu về kỹ năng giao tiếp và kỹ năng giao tiếp của sinh viên: Các nhà tâm lý học tập trung nghiên cứu về kỹ năng giao tiếp trên cả hai bình diện lý luận và thực tiễn. Các nghiên cứu theo hướng này đã tập trung vào việc xây dựng những vấn đề lí luận về kỹ năng giao tiếp (khái niệm công cụ; các biểu hiện của kỹ năng giao tiếp; tiêu chí đánh giá) và áp dụng các vấn đề lí luận này để xây dựng bộ công cụ nghiên cứu về kỹ năng giao tiếp trên các khách thể nghiên cứu khác nhau như học sinh, sinh viên, công nhân; nhà tham vấn tâm lý; luật sư; nhà kinh doanh; cán bộ hành chính cấp cơ sở; nhà lãnh đạo; quản lý,...
Như vậy, các nhà tâm lý học Việt Nam đã rất quan tâm nghiên cứu vấn đề này. Các công trình nghiên cứu đã tập trung giải quyết cơ bản những vấn đề lí luận và thực tiễn về kỹ năng giao tiếp nói chung và kỹ năng giao tiếp của học sinh, sinh viên nói riêng. Tuy nhiên, những nghiên cứu sâu về kỹ năng giao tiếp của sinh viên trong hoạt động học tập trên lớp và đặc biệt là các nghiên cứu này trên sinh viên dân tộc thiểu số thì còn rất ít được nghiên cứu. Do vậy, luận án này trên cơ sở kế thừa các nghiên cứu đi trước về kỹ năng, về giao tiếp, về kỹ năng giao tiếp trong hoạt động học tập của sinh viên để xây dựng khung lý thuyết nghiên cứu về kỹ năng giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp của sinh viên dân tộc Tày.
Có thể nhận thấy rằng, trên thế giới và ở Việt Nam đã có nhiều nhà tâm lý học đi sâu nghiên cứu các vấn đề như: Kỹ năng, giao tiếp, kỹ năng giao tiếp, kỹ năng giao tiếp trong hoạt động nghề nghiệp và hoạt động học tập của học sinh, sinh viên. Điều này khẳng định rằng, đây là vấn đề nghiên cứu có ý nghĩa lý luận và thực tiễn và vẫn là vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu từ các góc độ khác nhau, trong đó nghiên cứu về kỹ năng giao tiếp trong hoạt động học tập của sinh viên các dân tộc ít người.
Tiểu kết chương 1
Tổng quan tình hình nghiên cứu trên thế giới và ở Việt Nam về các vấn đề của đề tài luận án cho thấy các nhà tâm lý học tập trung vào việc nghiên cứu theo các hướng chính sau đây:
Các hướng nghiên cứu về kỹ năng: Các nhà tâm lý học đi sâu vào việc nghiên cứu lí luận về kỹ năng, trong đó tập trung vào việc nghiên cứu và xây dựng những vấn đề lí luận cơ bản về kỹ năng và đi sâu vào các nghiên cứu thực tiễn về kỹ
25
năng. Hướng nghiên cứu thực tiễn về kỹ năng trong từng loại hình nghề nghiệp nhất định như: Kỹ năng nghề dạy học, kỹ năng nghề luật sư, kỹ năng nghề cảnh sát,…Một số nhà nghiên cứu khác lại tập trung vào các nghiên cứu liên quan đến kỹ năng học tập của học sinh, sinh viên…
Các hướng nghiên cứu về giao tiếp: Các nhà tâm lý học tập trung vào việc nghiên cứu các vấn đề lý luận của giao tiếp tập trung vào việc chứng minh giao tiếp là một dạng hoạt động hay là điều kiện, phương thức của hoạt động; giao tiếp là một phạm trù độc lập với hoạt động; giao tiếp là quá trình truyền và tiếp nhận thông tin và nghiên cứu giao tiếp theo từng chuyên ngành hẹp của tâm lý học hoặc theo tính chất và đặc trưng nghề nghiệp. Các nhà tâm lý học tập trung vào việc thực hiện các nghiên cứu thực tiễn về giao tiếp ứng dụng. Trong đó, các nhà nghiên cứu đã áp dụng tâm lý học giao tiếp vào giải quyết các vấn đề của cuộc sống thường ngày như: Chăm sóc sức khoẻ, tư vấn, những quan hệ cá nhân, những vấn đề chính trị… Một số nhà nghiên cứu còn viết sách dạy nghệ thuật trong việc giao tiếp với từng đối tượng cụ thể: giao tiếp với người lạ, giao tiếp với bạn bè, giao tiếp với đồng nghiệp, với người khác giới, với khách hàng, với người không thân thiết…
Các hướng nghiên cứu về kỹ năng giao tiếp: Các nhà tâm lý học tập trung vào việc nghiên cứu các vấn đề lý luận của giao tiếp tập trung vào việc nghiên cứu kỹ năng giao tiếp dựa trên tính chất của tổ chức; nghiên cứu kỹ năng giao tiếp theo hướng tập chung phân tích mối quan hệ liên cá nhân; nghiên cứu kỹ năng giao tiếp theo hướng thông qua sự kết hợp của phương tiện giao tiếp bằng ngôn ngữ và phi ngôn ngữ. Những kỹ năng giao tiếp chủ yếu được đưa ra là kỹ năng giao tiếp bằng lời và không lời, kỹ năng lắng nghe, kỹ năng làm chủ cảm xúc, kỹ năng tạo ấn tượng ban đầu. Mỗi một nhóm tác giả luôn cố gắng chứng minh ý nghĩa cũng như tầm quan trọng của kỹ năng giao tiếp gắn với lĩnh vực hoạt động mà mình đang nghiên cứu bằng những minh chứng rất cụ thể nhưng vẫn có phần chưa coi trọng việc khái quát lý luận. Các nhà tâm lý học tập trung nghiên cứu về kỹ năng giao tiếp trên cả hai bình diện lý luận và thực tiễn. Các nghiên cứu theo hướng này đã hướng vào việc xây dựng những vấn đề lí luận về kỹ năng giao tiếp (khái niệm công cụ; các biểu hiện của kỹ năng giao tiếp; tiêu chí đánh giá) và áp dụng các vấn đề lí luận này để xây dựng bộ công cụ nghiên cứu về kỹ năng giao tiếp trên các khách thể nghiên cứu khác nhau như học sinh, sinh viên, công nhân; nhà tham vấn tâm lý; luật sư; nhà kinh doanh; cán bộ hành chính cấp cơ sở; nhà lãnh đạo; quản lý,...
26
Nhìn chung, các tác giả trong nước đều đã đưa ra những kỹ năng giao tiếp cần thiết và có giá trị thực tiễn đặc biệt đối với lĩnh vực hoạt động nghề nghiệp cụ thể. Kỹ năng giao tiếp phụ thuộc vào mục đích giao tiếp, tính chất của từng hoạt động, do đó có những cách phân loại kỹ năng giao tiếp khác nhau dẫn đến những quan điểm về kỹ năng giao tiếp giữa các tác giả chưa có sự thống nhất.
Tuy vậy, đến nay chưa có nhiều các công trình nghiên cứu về kỹ năng giao tiếp của sinh viên dân tộc Tày, đặc biệt là chưa có công trình nghiên cứu nào về Kỹ năng giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp của sinh viên dân tộc Tày ở vùng Đông Bắc Việt Nam - chủ đề mà chúng tôi lựa chọn làm đề tài nghiên cứu.
27
Chương 2 LÝ LUẬN VỀ KỸ NĂNG GIAO TIẾP TRONG HOẠT ĐỘNG HỌC TẬP TRÊN LỚP CỦA SINH VIÊN DÂN TỘC TÀY
2.1. Kỹ năng giao tiếp 2.1.1. Kỹ năng 2.1.1.1. Khái niệm kỹ năng
Tính đến thời điểm này, trên thế giới cũng như ở Việt Nam đã có rất nhiều nhà nghiên cứu tìm hiểu về vấn đề kỹ năng. Từ kết quả nghiên cứu của mình, các nhà khoa học đã chỉ ra các cách tiếp cận khác nhau khi nghiên cứu về kỹ năng và chỉ ra các khái niệm khác nhau về kĩ năng. Có 2 xu hướng chính bàn về khái niệm kỹ năng đó là (1) Kỹ năng như một phương thức thực hiện hành động mà con người nắm vững, cá nhân có kỹ năng sẽ sử dụng phù hợp các tri thức và hiểu biết đã có vào hoạt động cụ thể để đạt hiệu quả mong muốn; (2) Kỹ năng là năng lực, hoặc là biểu hiện năng lực của con người trong họat động nhằm đạt được hiệu quả của hoạt động đó; (3) Kỹ năng là hành vi ứng xử. Dưới đây chúng tôi sẽ nêu dẫn các khái niệm cụ thể của các nhà nghiên cứu theo hai xu hướng nêu trên.
(1) Xu hướng thứ nhất: Kỹ năng như một phương thức thực hiện hành động mà con người nắm vững, cá nhân có kỹ năng sẽ sử dụng phù hợp các tri thức và hiểu biết đã có vào hoạt động cụ thể để đạt hiệu quả mong muốn.
Đại diện cho xu hướng này chủ yếu là các nhà tâm lý học Liên Xô như A.G. Covaliov, V.A. Cruchetxki, P.A.Rudich, E.V. Gurianov và một số nhà tâm lý học Viêt Nam như Trần Trọng Thủy, Đào Thị Oanh, Trần Anh Tuấn, ...
Nhà tâm lý học A.G Côvaliov cho rằng: “Kỹ năng là phương thức thực hiện
hành động phù hợp với mục đích và điều kiện của hành động” [19]. Tác giả V.A. Cruchetxki nêu ra khái niệm kỹ năng như sau: “Kỹ năng là phương thức thực hiện hoạt động - những cái mà con người nắm vững”. Với ông, chỉ cần nắm vững phương thức của hành động là con người đã có kỹ năng, không cần đến kết quả của hành động [22]. Nhà tâm lý học người Nga, A.V. Muđrik cho rằng: “Kỹ năng là động tác mà cơ sở của nó là sự vận dụng thực tế các kiến thức đã tiếp thu được để đạt kết quả trong một hình thức hoạt động cụ thể” [81,tr124]. Tác giả chỉ ra đặc điểm cơ bản của kỹ năng: “Trong kỹ năng các thao tác riêng lẻ có thể là chưa hoàn toàn hoàn
28
thiện, chúng còn kéo dài quá, trong tiến trình thực hiện động tác còn mắc những sai lệch nào đó, đòi hỏi nỗ lực quá mức, gây nên sự mệt mỏi vì vậy người ta phân biệt kỹ năng lớn hơn hay kỹ năng bé hơn” [81,tr. 125]. Bên cạnh các khái niệm kỹ năng của các nhà nghiên cứu trên thế giới như đã nêu dẫn ở trên, một số nhà tâm lý học của Việt Nam cũng đưa ra khái niệm kỹ năng theo hướng này.
Tác giả Trần Trọng Thủy cho rằng: “Kỹ năng là mặt kỹ thuật của hành động con người nắm được cách thức hành động tức là có kỹ thuật hành động, có kỹ năng” [110].
(2) Xu hướng thứ hai: Kỹ năng là năng lực, hoặc là biểu hiện năng lực của
con người trong họat động nhằm đạt được hiệu quả của hoạt động đó.
Đại diện cho xu hướng này có các nhà tâm lý học Liên Xô và Việt Nam như K.K.Platônov, Xavier Roegiers, A.V.Petropxki, I. F. Khaclamop (1978), Nguyễn Quang Uẩn (2005), Vũ Dũng (2000), Trần Quốc Thành (1992), Hoàng Thị Anh (1992).
Theo quan điểm này, A.V.Pêtrôpxki cho rằng, “Kỹ năng là vận dụng tri thức, kỹ xảo đã có để lựa chọn và thực hiện những phương thức hành động tương ứng với mục đích đặt ra” [87].
(3) Xu hướng thứ ba: Kỹ năng là hành vi ứng xử. Tác giả Chu Liên Anh trong luận án tiến sĩ của mình đã chỉ ra xu hướng xem xét kỹ năng là hành vi ứng xử của con người. Tác giả đã chỉ ra các khái niệm cụ thể của các nhà tâm lý học trên thế giới đi theo xu hướng này như J.N.Richard, J. Louise,…
J.N.Richard (2003) cho rằng: Mọi hành vi của con người đều xuất phát từ cách mà con người ta suy nghĩ, kỹ năng là những hành vi được thể hiện ra hành động bên ngoài và chịu sự chi phối cách thức con người cảm nhận và suy nghĩ [dẫn theo 5].
J. Louise (1995) nhấn mạnh kỹ năng là yếu tố thực tiễn và là kết quả của sự
kết nối giữa lý thuyết và giá trị (thái độ, niềm tin) [Dẫn theo 5].
Như vậy, có 3 xu hướng chính bàn luận và nêu dẫn khái niệm kỹ năng. Tuy nhiên trong nghiên cứu này tác giả luận án đi theo xu hướng nghiên cứu kỹ năng như là năng lực, hoặc là biểu hiện năng lực của con người trong họat động nhằm đạt được hiệu quả của hoạt động đó. Do vậy, chúng tôi đưa ra khái niệm kỹ năng làm khái niệm cộng cụ nghiên cứu của đề tài luận án như sau:
29
Kỹ năng là sự vận dụng kiến thức, kinh nghiệm của bản thân và các thao tác
phù hợp với điều kiện thực tiễn của hoạt động để thực hiện hiệu quả hoạt động đó. 2.1.1.2. Các mức độ của kỹ năng
Khi bàn về các mức độ hình thành của kỹ năng, đã có nhiều nhà khoa học
trong và người nước nghiên cứu về vấn đề này.
Các tác giả: A.V. Petrovxki, V.A Crutetxki, N.D. Lêvitov, B.V.Belaiev, V.A. Archiomov, P.A.Ridic và G. Thodorson. Chẳng hạn, P.A.Ridic và G. Thodorson chia kỹ năng thành 2 mức độ: Mức độ các thao tác riêng lẻ, chưa được hoàn thiện và mức độ kỹ xảo. Các tác giả cho rằng: Mức độ của kỹ năng được đánh giá qua các tiêu chí là tính đầy đủ, tính thành thục của các thao tác, thể hiện số lượng và chất lượng của kỹ năng [dẫn theo 5].
Một số tác giả khác lại đánh giá mức độ biểu hiện kỹ năng theo các giai đoạn phát triển của nó. Chẳng hạn, tác giả Phạm Tất Dong đã đánh giá mức độ kỹ năng qua 4 giai đoạn phát triển [31]. Tác giả K.K.Platônov, G.G. Golubev, P.Ia. Ganperin cũng đánh giá kỹ năng qua 5 giai đoạn phát triển. Ở đây, các mức độ kỹ năng được đánh giá dựa trên một số thông số như: Mức thực hiện hành động, độ khái quát, sự toàn vẹn của các thao tác, trình độ thành thạo. Theo cách phân chia này, kỹ năng được bộc lộ từ thấp đến cao qua các giai đoạn: Từ nắm được tri thức về kỹ năng đến có kỹ năng nhưng chưa đầy đủ, chưa thành thục, rồi có đầy đủ và cao nhất là có kỹ năng đầy đủ, thực hiện chúng thành thục và linh hoạt trong mọi điều kiện của hoạt động. Kỹ năng không chỉ thể hiện qua tính đầy đủ và thành thạo mà còn qua sự ổn định, bền vững và linh hoạt, giúp đánh giá kỹ năng khá toàn diện về định lượng và định tính. Việc phân chia mức độ của kỹ năng thành nhiều giai đoạn giúp cho việc hình thành và nghiên cứu kỹ năng thuận lợi [dẫn theo 5].
Dựa vào nghiên cứu của các tác giả trên, trong đề tài này, chúng tôi đánh giá kỹ năng giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp của sinh viên dân tộc Tày theo 5 mức độ và dựa vào 3 tiêu chí như sau:
- Tính đầy đủ của kỹ năng: là sự có mặt đầy đủ biểu hiện của kỹ năng, gồm: Nhận thức đầy đủ mục đích, yêu cầu của kỹ năng, có đầy đủ các thao tác cần thiết của kỹ năng. Tiêu chí này giúp đánh giá định lượng về kỹ năng.
- Tính thành thục của kỹ năng: là sự vận dụng phù hợp các thao tác của kỹ năng với mục đích và điều kiện của hoạt động. Tính thành thục được thể hiện ở sự thành thạo của từng thao tác và sự kết hợp hợp lý các thao tác về số lượng và trình tự. Tiêu chí này giúp đánh giá về định tính của kỹ năng.
30
- Tính linh hoạt của kỹ năng: là sự thể hiện ổn định, bền vững và sáng tạo của kỹ năng trong các điều kiện khác nhau của hoạt động. Tiêu chí này giúp đánh giá định tính về kỹ năng. 2.1.1.3.Quá trình hình thành kỹ năng
G.Theodorson (1969), P.A.Rudic (1974) cho rằng, ban đầu kỹ năng mới chỉ là
những thao tác riêng lẻ chưa được hoàn thiện. Trong quá trình rèn luyện, chúng trở
thành hành động nhanh chóng, chính xác và sau đó trở thành kỹ xảo [dẫn theo 53]. K.K.Platonov và G.G. Golobev đưa ra 5 giai đoạn phát triển kỹ năng như sau: (1) Kỹ năng còn sơ đẳng khi chủ thể mới ý thức được mục đích và tìmkiếm cách thức hành động dưới dạng “thử và sai”; (2) Kỹ năng đã có nhưng chưa đầy đủ; (3) Kỹ năng chung còn mang tính riêng lẻ; (4) Kỹ năng ở trình độ cao, lúc này cá nhân sử dụng thành thạo các thao tác kỹ thuật, cách thức thực hiện để đạt được mục đích; (5) Kỹ năng tay nghề cao, khi cá nhân vừa thành thạo, sáng tạo trong sử dụng các kỹ năng ở những điều kiện khác nhau [90]. Tác giả Trần Quốc Thành có quan niệm: Quá trình thình thành kỹ năng đi từ hình thành nhận thức về mục đích, cách thức, điều kiện hành động tới việc quan sát và làm thử, cuối cùng là luyện tập để tiến hành hành động theo đúng yêu cầu nhằm đạt được mục đích đã đề ra [105]. Còn theo Bùi Thị Xuân Mai, quá trình hình thành kỹ năng qua các giai đoạn: (1) Nghe, nhìn để có thể nhận biết sơ bộ về hành vi kỹ năng; (2) Phân tích mục đích, cách thức, điều kiện thực hiện kỹ năng, nhận biết bước đầu về kỹ năng và sự thực hiện kỹ năng; (3) Khái quát hành vi kỹ năng, tổng hợp các yếu tố, điều kiện, kỹ thuật để có một bức tranh tổng thể về kỹ năng và thực hiện kỹ năng; (4) Áp dụng những tri thức về hành vi kỹ năng đã được tổng hợp, khái quát về kỹ năng vào hành động thực tiễn- thực hiện kỹ năng [77].
Kỹ năng được hình thành và phát triển theo từng giai đoạn với các mức độ từ thấp đến cao, từ chỗ có nhận thức về kỹ năng đến chỗ vận dụng và luyện tập để thực hiện thành thạo. Mức độ thấp là kỹ năng nguyên phát -dạng kỹ năng đơn giản, tương ứng với những thao tác của hành động nhất định. Mức độ cao là kỹ năng thứ phát, tập hợp của nhiều yếu tố để tạo nên kỹ năng phức hợp, nâng cao.
Tiếp thu các quan điểm khoa học của các tác giả nêu trên, trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, tôi chia quá trình hình thành kỹ năng thành các giai đoạn sau: Giai đoạn 1: Hình thành các tri thức, hiểu biết về kỹ năng và việc thực hiện
kỹ năng.
31
Giai đoạn 2: Tri giác để nắm được các thao tác của kỹ năng để nhận diện
đươc kỹ năng và cách thức tiến hành kỹ năng.
Giai đoạn 3: Vận dụng tri thức, kinh nghiệm, hiểu biết để có thể tiến hành
thao tác trong những tình huống cụ thể.
Giai đoạn 4: Luyện tập để tiến hành thuần thục các thao tác, thực hiện thành
thạo kỹ năng.
2.1.2. Giao tiếp 2.1.2.1. Khái niệm giao tiếp
Đã có nhiều nhà nghiên cứu trên thế giới bàn về khái niệm giao tiếp, đặc biệt là
các nhà nghiên cứu thuộc ngành tâm lý học Anh, Pháp, Mỹ, Liên Xô,…và Việt Nam. - Khái niệm giao tiếp theo quan điểm của các nhà tâm lý học phương Tây. M.Acgain (nhà tâm lý học Anh): Tác giả đã nhấn mạnh đến khía cạnh thông tin, thông báo trong giao tiếp, tác giả xem giao tiếp như là một quá trình hai mặt của sự thông báo, đó là quy trình thiết lập sự tiếp xúc và trao đổi thông tin.
T.Steczen (nhà tâm lý học Pháp: nhấn mạnh đến khía cạnh cảm xúc của sự giao tiếp, tác giả coi giao tiếp như là sự trao đổi những ý nghĩ, tình cảm, cảm xúc giữa con người với nhau.
Ba nhà tâm lý học Pháp là P. Oathavut, G.Bivans, D.Giactson nhấn mạnh đến khía cạnh hành động và hành vi của giao tiếp; các tác giả coi giao tiếp là một tổ hợp hành vi, nói cách khác giao tiếp là một quá trình xã hội thường xuyên diễn ra giữa các con người với nhau, quá trình này tích hợp nhiều loại hành vi: hành vi ngôn ngữ, hành vi cử chỉ, hành vi điệu bộ…[dẫn theo 71].
tiếng ồn ào bên ngoài, tiếng ồn ào sinh lý và tiếng ồn tâm lý’’ [dẫn theo 71].
James W.Vander Zander (nhà tâm lý học Mỹ) quan tâm đến sự tương tác lẫn nhau trong quá trình giao tiếp. Tác giả định nghĩa về giao tiếp như sau: “Giao tiếp là một quá trình tương tác diễn ra liên tục bao gồm những người tham gia, những người chiếm môi trường khác nhau nhưng chồng chéo lên nhau đồng thời là những người gửi và nhận thông điệp, nhiều trong số những thông điệp đó bị biến dạng bởi
- Khái niệm giao tiếp theo quan điểm của các nhà tâm lý học Liên Xô. L.X.Vưgôtxki cho rằng: Giao tiếp là sự thông báo hoặc là quan hệ qua lại một cách thuần tuý giữa người với người, như là một sự trao đổi quan điểm và cảm xúc [115].
Theo nhà tâm lý học A.G.Kôvaliôv, giao tiếp là sự giao thiệp bằng lời nói của một số người với mục đích giải quyết một vấn đề lý thuyết hay thực tiễn nào đó.
32
Quan điểm nêu trên nhấn mạnh đến khía cạnh thông báo, cảm xúc, phương tiện giao tiếp ngôn ngữ, hoặc hình thức bên ngoài của giao tiếp: “Hình thức liên kết giữa con người với nhau” [61].
G.M.Andrêeva đưa ra quan niệm: “Giao tiếp là sự tác động qua lại của con người. Nội dung của giao tiếp là sự nhận thức lẫn nhau và trao đổi thông tin nhờ sự giúp đỡ của các phương tiện khác nhau. Mục đích của quá trình này là xây dựng mối quan hệ qua lại trong quá trình hoạt động chung” [dẫn theo 71].
I.L.Kôlôminxki cho rằng, “Giao tiếp là sự tác động qua lại có đối tượng và thông tin giữa những con người. Trong quá trình tác động đó, các quan hệ liên nhân cách được hình thành, thể hiện và hiện thực hoá” [60].
Trong tác phẩm “Giao tiếp liên nhân cách” ba nhà tâm lý học V.N.Cunhisuna, V.N.Kadarinova, V.M.Pagansa đưa ra quan niệm giao tiếp như là sự tác động qua lại giữa các cá nhân, qua đó nảy sinh sự tiếp xúc về tâm lý và những mối quan hệ xác định giữa những người tham gia giao tiếp. Sự tác động qua lại đó được thực hiện bằng phương tiện ngôn ngữ hoặc phi ngôn ngữ. Cũng trong tác phẩm này, các tác giả giải thích giao tiếp như là một quá trình vừa gửi, vừa nhận thông tin một cách đồng thời giữa những người giao tiếp. Ở mỗi thời điểm cụ thể, mỗi cá nhân tham gia giao tiếp đều có khả năng nhận và giải mã thông tin của người đối thoại, phản hồi (đối đáp) lại hành vi của anh ta, đồng thời anh ta nhận được thông tin đó và phản hồi lại. Với cách giải thích này, các tác giả khẳng định: Giao tiếp là một quá trình mà trong đó con người hình thành nên các mối quan hệ khi tác động tương hỗ lẫn nhau” [dẫn theo 71].
E.I.Rôgôv giải thích trong cuốn “Tâm lý giao tiếp”: Sự giao tiếp là quá trình phức tạp và phong phú của sự hình thành và phát triển mối quan hệ giữa con người với nhau; là quá trình nảy sinh nhu cầu hoạt động tập thể nhằm trao đổi thông tin và xây dựng chiến lược hỗ trợ, tri giác và hiểu người khác. Hành động tương hỗ của các chủ thể được thể hiện bằng phương tiện riêng tạo nên nhu cầu hoạt động tập thể nhằm thay đổi đáng kể tình hình và hành vi của người đối thoại [dẫn theo 71].
- Khái niệm giao tiếp của các nhà tâm lý học Việt Nam.
Trong “Từ điển tâm lý học” của tác giả Vũ Dũng giao tiếp được định nghĩa: “Giao tiếp là quá trình thiết lập và phát triển tiếp xúc giữa các cá nhân xuất phát từ nhu cầu phối hợp hành động. Giao tiếp bao gồm hàng loạt các hành động như trao đổi thông tin, xây dựng hoạt động thống nhất, tri giác và tìm hiểu người khác…” [29].
33
Khi nói về giao tiếp, Phạm Minh Hạc nhấn mạnh đến khía cạnh thiết lập quan hệ xã hội, quan hệ liên nhân cách trong giao tiếp. Tác giả nêu lên định nghĩa về giao tiếp như sau: “Giao tiếp là hoạt động xác lập và vận hành các quan hệ người - người để thực hiện các mối quan hệ xã hội giữa người ta với nhau” [41]. Định nghĩa này cho chúng ta thấy con người có nhiều mối quan hệ xã hội, muốn cho các mối quan hệ này được hiện thực hoá thì phải có giao tiếp; nói cách khác giao tiếp là điều kiện, là phương thức để các quan hệ này được “xác lập”, “vận hành” phát triển.
Các tác giả: Nguyễn Ngọc Bích, Bùi Văn Huệ, Đỗ Mộng Tuấn đã định nghĩa: “Giao tiếp là sự tiếp xúc giữa hai hay nhiều người thông qua phương tiện ngôn ngữ nhằm trao đổi thông tin, tình cảm, hiểu biết, tác động qua lại và điều chỉnh lẫn nhau” [8, tr 23].
Tác giả Trần Trọng Thuỷ nhấn mạnh đến khía cạnh tâm lý trong giao tiếp. Ông cho rằng: “Giao tiếp của con người là một quá trình chủ định hay không chủ định, có ý thức hay không có ý thức mà trong đó các cảm xúc và tưởng được biểu đạt trong các thông điệp bằng ngôn ngữ hoặc bằng phi ngôn ngữ” [110, tr 8]. Trong cuốn “Tâm lý học đại cương”, Nguyễn Quang Uẩn đã nêu ra định nghĩa: “Giao tiếp là mối quan hệ giữa con người với con người, thể hiện sự tiếp xúc tâm lý giữa người với người thông qua đó con người trao đổi với nhau về thông tin, về cảm xúc, tri giác lẫn nhau, ảnh hưởng tác động qua lại với nhau. Nói cách khác, giao tiếp là quá trình xác lập và vận hành các quan hệ người - người, hiện thực hoá các quan hệ xã hội giữa chủ thể này với chủ thể khác” [113].
Theo định nghĩa này, tác giả xem giao tiếp như là điều kiện của sự tồn tại và phát triển con người. Thông qua giao tiếp con người trao đổi thông tin với nhau, tác động, ảnh hưởng lẫn nhau, hiểu biết về nhau…từ đó mà hình thành nên các mối quan hệ xã hội và quan hệ liên nhân cách. Tác giả Hoàng Anh cho rằng: “Giao tiếp là sự tiếp xúc tâm lý tạo nên mối quan hệ giữa hai hoặc nhiều người với nhau, chứa đựng một nội dung xã hội - lịch sử nhất định, có nhiều chức năng tác động hỗ trợ cùng nhau: thông báo, điều khiển, nhận thức, hành động và tình cảm…nhằm thực hiện mục đích nhất định của hoạt động” [1,tr 21]. Trong cuốn “Giao tiếp sư phạm” tác giả Ngô Công Hoàng, Hoàng Anh cho rằng: “Giao tiếp là hình thức đặc trưng của mối quan hệ giữa con người và con người, qua đó nảy sinh sự tiếp xúc tâm lý, được biểu hiện ở các quá trình trao
34
đổi thông tin, nhận biết rung cảm, ảnh hưởng và tác động lẫn nhau” [48,tr 16]. Từ các quan niệm khác nhau về khái niệm giao tiếp, có thể nêu lên một số điểm khái quát chung về giao tiếp như sau:
Cùng với “hoạt động có đối tượng” thể hiện mối quan hệ qua lại giữa chủ thể và khách thể (S-O) là mối quan hệ qua lại giữa con người với con người (quan hệ chủ thể này với chủ thể khác (S-S). Hai mối quan hệ S-O và S- S) tác động qua lại, bổ sung cho nhau tạo nên hoạt động sống của con người, thể hiện trong hệ thống hoạt động cùng nhau. Vì thế giao tiếp thể hiện rõ mối quan hệ xã hội của con người. Trong giao tiếp thể hiện sự tiếp xúc tâm lý giữa con người với con người, giữa cá nhân với cá nhân, giữa cá nhân với nhóm, giữa nhóm với nhóm, giữa các cộng đồng xã hội, trong đó thể hiện rõ 3 mặt:
+ Mặt trao đổi thông tin, trao đổi cảm xúc, thái độ; + Mặt nhận thức: tri giác con người, hiểu biết về nhau; + Mặt ảnh hưởng tác động qua lại giữa con người và con người; Giao tiếp sử dụng phương tiện ngôn ngữ và các phương tiện phi ngôn ngữ (cử chỉ, nét mặt, điệu bộ, hành vi…) giúp cho biểu đạt và tiếp nhận nội dung thông tin trong giao tiếp.
Giao tiếp đưa đến sự phát triển tâm lý, ý thức, nhân cách của cá nhân cũng như các hiện tượng tâm lý xã hội của con người - hiện thực hoá các mối quan hệ xã hội của con người.
Căn cứ vào tri thức của các nhà khoa học vừa được dẫn ở trên, tôi đưa ra định nghĩa về giao tiếp như sau: Giao tiếp là quá trình tiếp xúc tâm lý giữa con người với con người nhằm trao đổi với nhau về thông tin, về cảm xúc, nhận thức, ảnh hưởng và điều chỉnh lẫn nhau.
Đây là khái niệm công cụ mà tôi sẽ sử dụng làm khái niệm công cụ nghiên
cứu kỹ năng giao tiếp của sinh viên dân tộc Tày. 2.1.2.2. Các cấu thành của giao tiếp
Từ khái niệm trên, ta thấy rằng giao tiếp gồm nhiều thành phần cấu thành
như: Đối tượng, chủ thể giao tiếp, phượng tiện giao tiếp, nội dung giao tiếp…
Chủ thể và đối tượng giao tiếp: Quá trình giao tiếp được thực hiện bởi một hoặc nhiều người, trong giao tiếp cá nhân vừa là chủ thể, vừa là khách thể giao tiếp. Trong quá trình giao tiếp, các cá nhân luôn đổi chỗ vai trò chủ thể cho nhau và chi phối tác động lẫn nhau, họ cùng là đồng chủ thể và là đối tác của nhau. Theo tác giả
35
B.Ph.Lomov tính chất đồng chủ thể của giao tiếp được thể hiện ở ba phương diện: chiều hướng tác động, động cơ và mục đích giao tiếp, kết quả giao tiếp [dẫn theo 71].
Nhu cầu giao tiếp: Tác giả V.N.Cunhisưna cho rằng: Nhu cầu giao tiếp là nhu cầu đặc biệt của con người được xây dựng trên cơ sở nền tảng của sự khát khao của con người đối với những người cùng hội, cùng công tác [dẫn theo 71].
Lêbêdev nhận định: Nhu cầu giao tiếp là nhu cầu thông tin. Nhu cầu này có nghĩa là chúng ta phải trao đổi với nhau. Chúng ta cần có nhu cầu về sự đồng tình, ủng hộ, thông cảm của người khác [dẫn theo 71].
Đặc điểm của nhu cầu giao tiếp của chủ thể giao tiếp là có đối tượng - chủ thể giao tiếp khác. Đó là sự hướng tâm lý của chủ thể giao tiếp về một chủ thể giao tiếp nhất định để trao đổi thông tin, xúc cảm, tình cảm, …nhu cầu giao tiếp trở thành tâm thế của mỗi người, để họ sẵn sàng trò chuyện cùng nhau, tiếp cận nhau cùng hướng tới những mục đích nhất định trong giao tiếp.
Mục đích giao tiếp: Mỗi cá nhân khi tham gia giao tiếp đều có mục đích giao tiếp của riêng mình. Mục đích giao tiếp nhằm thảo mãn nhu cầu giao tiếp của con người. Tuy nhiên có những mục đích giao tiếp của hai cá nhân là đối kháng nhau. “Giao tiếp có nhiều mục đích như trong phần lớn công trình nghiên cứu, người ta thường nhấn mạnh ý nghĩa của giao tiếp đối với việc củng cố tập thể, nâng cao trình độ hiểu biết lẫn nhau, xây dựng những mục tiêu và phương tiện chung của hoạt động tập thể…Nhưng có một nghịch lý là giao tiếp có thể chia rẽ con người – những thủ thuật “chiến tranh tâm lý” – nói riêng, việc phao tin đồn có dụng ý – là một ví dụ” [dẫn theo 71]. Nội dung giao tiếp: Tác giả Trần Thị Minh Đức cho rằng nội dung giao tiếp được chia làm hai loại, đó là: Nội dung tâm lý và nội dung công việc. Nội dung tâm lý trong giao tiếp bao gồm các thành phần cơ bản là nhận thức và thái độ cảm xúc.
Nhận thức: Nội dung nhận thức trong giao tiếp rất phong phú, đa dạng, sinh động. Qua giao tiếp con người tiến hành truyền đạt và lĩnh hội những tri thức mới, thông tin mới, những kinh nghiệm mới. Qua giao tiếp con người trao đổi với nhau về tư tưởng, tình cảm, ý chí, về những vấn đề cùng quan tâm trong cuộc sống. Vì vậy, nhờ giao tiếp con người hiểu biết về mình, về người khác và con người tự điều chỉnh nhận thức, hành vi của mình cho phù hợp với chuẩn mực của xã hội.
+ Thái độ cảm xúc: Trong giao tiếp thông qua những cử chỉ, hành vi, nụ cười, ánh mắt…các chủ thể giao tiếp đều biểu hiện một trạng thái xúc cảm nhất định. Trong giao tiếp, con người bao giờ cũng thể hiện thái độ của mình. Những thái độ cảm xúc
36
này có thể thay đổi cùng với nội dung nhận thức và hoàn cảnh giao tiếp. Những xúc cảm âm tính có thể làm hạn chế hiệu quả của tiến trình giao tiếp.
+ Nội dung công việc trong giao tiếp: Nội dung công việc phản ánh tính chất của mối quan hệ xã hội giữa các chủ thể giao tiếp, nó chỉ những sự việc xảy ra trong quan hệ giữa con người với con người và mang tính chất hoàn cảnh, tình huống.
Tuy nhiên, sự phân chia về nội dung giao tiếp như trên chỉ có tính chất tương đối vì trong nội dung công việc bao giờ cũng có biểu hiện của nội dung tâm lý. Nội dung công việc là cái biểu hiện ra bên ngoài còn nội dung tâm lý là nguồn kích thích, là động lực bên trong thúc đẩy hoặc kìm hãm sự biểu hiện của nội dung công việc.
Nội dung giao tiếp gắn liền với nội dung hoạt động của chủ thể giao tiếp. Đây là một mặt quan trọng của quá trình giao tiếp giữa con người với con người. Nội dung giao tiếp đa dạng, phong phú…và chịu ảnh hưởng của lứa tuổi, giới tính, nghề nghiệp của chủ thể giao tiếp, chịu ảnh hưởng của hoàn cảnh, điều kiện giao tiếp, trạng thái tâm lý của chủ thể và đối tượng giao tiếp.
Hình thức giao tiếp: Có thể chia ra các hình thức giao tiếp sau: Căn cứ vào phương thức giao tiếp, giao tiếp được chia thành hai hình thức: Giao tiếp trực tiếp và giao tiếp gián tiếp; Căn cứ theo mục đích của giao tiếp, người ta chia thành giao tiếp chính thức và giao tiếp không chính thức; Căn cứ theo đối tượng giao tiếp: Giao tiếp song đôi và giao tiếp nhóm; Căn cứ theo phương tiện tiến hành giao tiếp có thể phân thành giao tiếp ngôn ngữ và phi ngôn ngữ; Căn cứ theo các lĩnh vực hoạt động: Là loại giao tiếp mang tính đặc trưng của một nghề nhất định: như giao tiếp sư phạm, giao tiếp kinh doanh...Đặc điểm của loại giao tiếp nghề nghiệp là tính chất giao tiếp được quy định bởi tính chất nghề nghiệp và chính nghề đó quy định phần nào tính cách, hành vi của người làm nghề đó cũng như nội dung thông tin trong khi giao tiếp.
Tuy nhiên các loại giao tiếp nói trên luôn bổ sung và tác động qua lại giúp
cho giao tiếp của con người trở nên đa dạng và phong phú.
- Phương tiện giao tiếp: Phương tiện ngôn ngữ và phương tiện phi ngôn ngữ. +Phương tiện ngôn ngữ: Đây là phương tiện đặc trưng cơ bản trong giao tiếp của
con người. Phương tiện ngôn ngữ bao gồm hai loại: Ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết.
+Phương tiện phi ngôn ngữ: Giao tiếp phi ngôn ngữ là giao tiếp bằng sự vận động cơ thể, cử chỉ, tư thế, nét mặt,….Phương tiện giao tiếp phi ngôn ngữ chứa đựng một nội dung thông tin nhất định và thường được sử dụng hỗ trợ, bổ sung giúp
37
cho nội dung thông tin bằng ngôn ngữ trở nên chính xác hơn, phong phú hơn hoặc để nhấn mạnh hoặc thể hiện.
Từ các cấu thành của giao tiếp này, tôi nhận thấy: Khi thực hiện hoạt động giao tiếp cả chủ thể giao tiếp và đối tượng giao tiếp đều phải có sự thiết lập mối quan hệ để tạo ấn tượng ban đầu, để tạo được sự thiện cảm trong giao tiếp. Trong giao tiếp chúng ta phải biết lắng nghe người giao tiếp với mình. Trong quá trình giao tiếp nội dung giao tiếp phải liên quan đến mục đích giao tiếp của chủ thể giao tiếp và đối tượng giao tiếp. Để đặt được hiệu quả cao trong giao tiếp cả chủ thể và đối tượng giao tiếp cần phải biết tự chủ cảm xúc của bản thân mình và phải biết phải sử dụng kết hợp các phương tiện giao tiếp ngôn ngữ và phi ngôn ngữ.
Trong nghiên cứu này, khi xem xét kỹ năng giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp của sinh viên dân tộc Tày, chúng tôi cũng xem xét kỹ năng này của sinh viên dựa vào việc các em thực hiện các kỹ năng này thông qua hoạt động học tập trên lớp. Trong đó, sinh viên phải giao tiếp với giảng viên và các bạn sinh viên cùng lớp, sinh viên cũng phải thực hiện hoạt động giao tiếp của mình thông qua các thành phần cấu thành như: Đối tượng, chủ thể giao tiếp, phượng tiện giao tiếp, nội dung giao tiếp. Việc xem xét kỹ năng giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp của sinh viên phải gắn liền với việc xem xét các em thực hiện các kỹ năng đó thông qua các cấu thành của giao tiếp nêu trên.
2.1.3. Kỹ năng giao tiếp 2.1.3.1. Khái niệm kỹ năng giao tiếp
William B.Gudykurst và Y. YunKim quan niệm: Kỹ năng giao tiếp là khả
Khi bàn về kỹ năng giao tiếp có nhiều quan niệm khác nhau: D. H. James, G.L. James, I.M.John cho rằng: Kỹ năng giao tiếp là kỹ thuật, trình độ truyền đạt và tiếp nhận thông tin nhằm thực hiện quá trình truyền đạt thông tin. Với quan điểm này, các tác giả đã đề cao vấn đề truyền đạt thông tin, xem đây như là yếu tố để đánh giá kỹ năng giao tiếp [24]. năng thực hiện các hành vi giao tiếp một cách phù hợp và có hiệu quả [139]. Như vậy, các tác giả đã coi kỹ năng giao tiếp là khả năng của cá nhân trong việc tổ chức, thực hiện các hành vi giao tiếp. Kết quả của việc thực hiện kỹ năng giao tiếp được đánh giá thông qua mức độ phù hợp và hiệu quả trong mỗi tình huống giao tiếp cụ thể.
38
Các tác giả Teri K. Gamble và Michael Gamble cho rằng các kỹ năng giao tiếp cơ bản là kỹ năng lắng nghe, kỹ năng nói, kỹ năng hiểu được nét mặt, cử chỉ, thái độ và các hành vi không lời, kỹ năng tạo ấn tượng ban đầu và kỹ năng làm chủ cảm xúc [135]. Robert N. Lussier đưa ra các yêu cầu để có được kỹ năng giao tiếp là: Luôn lạc quan, luôn chủ động, biết quan tâm đến mọi người, giữ nụ cười trên môi, gọi người khác bằng tên riêng, lắng nghe, sẵn lòng giúp đỡ, suy nghĩ trước khi hành động, luôn duy trì tình trạng giao tiếp thắng- thắng [134]. Các tác giả Hoàng Anh, Nguyễn Thạc, Đỗ Thị Châu cho rằng: Kỹ năng giao tiếp là khả năng nhận thức nhanh chóng những biểu hiện bên ngoài và những biểu hiện tâm lý bên trong của đối tượng và bản thân chủ thể giao tiếp; là khả năng sử dụng hợp lý các phương tiện ngôn ngữ và phi ngôn ngữ, biết cách tổ chức, điều khiển quá trình giao tiếp nhằm đạt mục đích giao tiếp [3]. Tác giả Vũ Dũng: Kỹ năng giao tiếp là năng lực vận dụng có hiệu quả những tri thức, hiểu biết về quá trình giao tiếp, các yếu tố tham gia và ảnh hưởng tới quá trình giao tiếp cũng như sử dụng có hiệu quả các phương tiện giao tiếp, phối hợp hài hoà toàn bộ hành vi, ứng xử, cử chỉ…để giúp chủ thể đạt được những mục đích nhất định của hoạt động giao tiếp [30]. Tổng hợp các quan điểm của các tác giả trên, chúng tôi cho rằng: Kỹ năng giao tiếp là sự vận dụng tri thức, kinh nghiệm của cá nhân vào trong những hoàn cảnh giao tiếp cụ thể nhằm thực hiện có hiệu quả các mục đích giao tiếp đã đề ra. 2.1.3.2. Các loại kỹ năng giao tiếp
Có nhiều cách phân chia khác nhau về kỹ năng giao tiếp: A.A.Leonchiep đã đưa ra các kỹ năng giao tiếp sư phạm: Kỹ năng quan sát, kỹ năng điều khiển hành vi, kỹ năng nhạy cảm xã hội, kỹ năng đọc hiểu mô hình hoá nhân cách, kỹ năng làm gương cho học sinh noi gương, kỹ năng kiến tạo sự tiếp xúc, kỹ năng giao tiếp ngôn ngữ, kỹ năng nhận thức [65].
Theo V.P.Dakharov phân chia kỹ năng giao tiếp gồm: Kỹ năng tiếp xúc và thiết lập mối quan hệ giao tiếp, kỹ năng biết nghe và biết lắng nghe đối tượng giao tiếp, kỹ năng tự chủ cảm xúc hành vi, kỹ năng kiềm chế, kỹ năng diễn đạt cụ thể dễ hiểu mạch lạc, kỹ năng biết cân bằng nhu cầu của chủ thể và đối tượng g iao tiếp, kỹ năng linh hoạt mềm dẻo trong giao tiếp, kỹ năng thuyết phục đối tượng giao tiếp, kỹ năng điều khiển quá trình giao tiếp, sự nhạy cảm trong giao tiếp [dẫn theo 53].
39
Tác giả Ngô Công Hoàn, Hoàng Anh chia kỹ năng giao tiếp ra thành ba nhóm: Kỹ năng định hướng giao tiếp, kỹ năng định vị trong giao tiếp, và kỹ năng điều khiển [48].
Kỹ năng định hướng giao tiếp là khả năng dựa vào sự tri giác ban đầu về đặc điểm bên ngoài của đối tượng giao tiếp như diện mạo, cử chỉ, ngôn ngữ, biểu cảm. Từ đó đoán biết được diễn biến tâm lý đang diễn ra trong đối tượng để định hướng trong quá trình giao tiếp. Thông qua những biểu hiện bên ngoài để xác định nhu cầu, động cơ, mục đích, sở thích, trạng thái tâm lý của đối tượng.
Kỹ năng định vị trong giao tiếp là khả năng chủ thể xác định vị trí của mình cũng như đối tượng trong quá trình giao tiếp nhằm tạo điều kiện cho đối tượng chủ động giao tiếp. Kỹ năng này được thể hiện ở việc xác định đúng thời gian, không gian giao tiếp và chủ thể biết đặt mình vào vị trí của đối tượng để có được sự đồng cảm với đối tượng và để từ sự đồng cảm này đối tượng sẽ tham gia giao tiếp chủ động, tích cực hơn.
Kỹ năng điều khiển quá trình giao tiếp: Kỹ năng điều khiển quá trình giao tiếp là khả năng lôi cuốn, thu hút đối tượng, tìm ra những đề tài giao tiếp mới lạ hấp dẫn, duy trì sự tập trung của đối tượng. Kỹ năng này bao gồm những kỹ năng nhỏ sau: Kỹ năng làm chủ cảm xúc, kỹ năng làm chủ các phương tiện giao tiếp, kỹ năn xử dụng các công cụ ngôn ngữ và phi ngôn ngữ.
Tác giả Chu Liên Anh, cũng đã căn cứ vào đặc thù của hoạt động tư vấn pháp luật của luật sư để xác định các kỹ năng thành phần thuộc kỹ năng tư vấn pháp luật của luật sư. Tác giả cho rằng, kỹ năng quan trọng đảm bảo hiệu quả tư vấn pháp luật của luật sư bao gồm: Nhóm kỹ năng xây dựng mối quan hệ với khách hàng, nhóm kỹ năng thu thập thông tin, nhóm kỹ năng cung cấp giải pháp [5] .
Tác giả, Nguyễn Phương Huyền căn cứ vào đối tượng cũng như mục đích nghiên cứu của của đề tài luận án “Kỹ năng giao tiếp của cán bộ công chức”, cùng ý kiến chuyên gia, tác giả đưa ra các kỹ năng giao tiếp cụ thể của cán bộ công chức gồm: Kỹ năng tạo ấn tượng ban đầu, kỹ năng lắng nghe tích cực, kỹ năng sử dụng có hiệu quả các phương tiện giao tiếp và kỹ năng điều khiển cảm xúc [53].
Trong luận án này, cũng xuất phát từ những cơ sở nêu trên, kế thừa các nghiên cứu đi trước của các nhà khoa học khác nhau. Chúng tôi xác định cách phân loại kỹ năng giao tiếp trong hoạt động học tập của sinh viên dân tộc Tày dựa vào việc kế thừa các nghiên cứu đi trước, dựa vào mục đích nghiên cứu của đề tài luận
40
án, dựa vào đặc điểm hoạt động học tập trên lớp và đặc điểm tâm lý của sinh viên dân tộc Tày. 2.2. Kỹ năng giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp của sinh viên dân tộc Tày 2.2.1. Hoạt động học tập của sinh viên tại trường đại học 2.2.1.1. Khái niệm sinh viên
Thuật ngữ “Sinh viên” theo gốc từ tiếng La tinh là “Studens”; tiếng Anh là
Từ cách hiểu thuật ngữ sinh viên như trên, theo tác giả luận án: Sinh viên
“Student”; tiếng Pháp là “Etudiant” và tiếng Nga là “студент” để chỉ những người theo học ở bậc đại học và cao đẳng, những người đang h ọc tập và rèn luyện để lĩnh hội một trình độ chuyên môn cao. là những người đang học tập và rèn luyện tại các trường đại học, cao đẳng nhằm lĩnh hội hệ thống tri thức, hình thành hành động và phẩm chất đạo đức đáp ứng với yêu cầu nghề nghiệp trong tương lai. 2.2.1.2. Khái niệm hoạt động học tập
Có rất nhiều nhà nghiên cứu khác nhau đưa ra khái niệm hoạt động học tập,
dưới đây chúng tôi sẽ nêu dẫn một số khái niệm cụ thể.
Tác giả Ruđich. P. A cho rằng: Học tập là loại hoạt động đặc biệt của con người, có mục đích là nắm vững tri thức, kỹ năng, kỹ xảo và các hình thức nhất định của hành vi [95].
Theo tác giả Lê Văn Hồng (1998): Hoạt động học tập là hoạt động đặc thù của con người được điều khiển bởi mục đích tự giác là lĩnh hội những tri thức, kỹ năng, kỹ xảo mới, những hình thức hành vi, những dạng hoạt động nhất định, những giá trị [50, tr. 106].
Tác giả Bùi Văn Huệ (1996) cho rằng: Hoạt động học tập là hoạt động có ý thức nhằm thay đổi bản thân chủ thể hoạt động. Trong hoạt động này, các phương thức chung của việc thực hiện những hành động nhận thức và thực tiễn trở thành mục đích trung tâm của hoạt động [52, tr. 232].
Tác giả Nguyễn Quang Uẩn: “Hoạt động học là loại hoạt động thực hiện theo phương thức nhà trường, do người học thực hiện dưới sự hướng dẫn của người lớn (giáo viên) nhằm lĩnh hội những tri thức, khái niệm khoa học và hình thành những kỹ năng, kỹ xảo tương ứng, làm phát triển trí tuệ và năng lực con người để giải quyết các nhiệm vụ do cuộc sống đặt ra” [113]. Như vậy, có thể nói rằng hoạt động học tập là hoạt động của người học tại nhà trường dưới sự hướng dẫn của giáo viên, thông qua hoạt động học tập người
41
Có thể thấy rằng, đối tượng của hoạt động học là tri thức và những kỹ năng,
- Mục đích của hoạt động học là hướng vào sự thay đổi chính mình. - Hoạt động học là hoạt động được điều khiển một cách có ý thức nhằm tiếp
học sẽ lĩnh hội được những tri thức, khái niệm khoa học giúp người học hình thành được những kỹ năng, kỹ xảo và phát triển trí tuệ, nhân cách nhờ đó người học sẽ có thể thực hiện được các nhiệm vụ do cuộc sống đặt ra. Từ cách hiểu như vậy chúng tôi đồng tình với khái niệm hoạt động học tập của tác giả Nguyễn Quang Uẩn đã nêu dẫn ở trên. Khái niệm trên sẽ được sử dụng làm khái niệm công cụ nghiên cứu đề tài luận án này. 2.2.1.3. Khái niệm hoạt động học tập của sinh viên trường đại học Theo tác giả Nguyễn Thạc, hoạt động học ở đại học là một loại hoạt động tâm lý được tổ chức một cách độc đáo của sinh viên nhằm mục đích có ý thức là chuẩn bị trở thành người chuyên gia phát triển toàn diện, sáng tạo và có trình độ nghiệp vụ cao. Từ khái niệm đã phân tích ở trên chúng tôi đưa ra khái niệm hoạt động học tập của sinh viên như sau: Hoạt động học tập của sinh viên là loại hoạt động nhận thức cơ bản của sinh viên được thực hiện dưới sự hướng dẫn của giảng viên nhằm giúp cho sinh viên tiếp thu các tri thức khoa học, hình thành những kỹ năng, kỹ xảo nghề nghiệp, phát triển những phẩm chất nhân cách người chuyên gia tương lai. 2.2.1.4. Đặc điểm hoạt động học tập của sinh viên trong nhà trường đại học. Hoạt động học của sinh viên trong trường đại học là hoạt động học tập có tính chất nghề nghiệp và chuyên môn. Hoạt động học của sinh viên đại học tập trung vào một chuyên môn nhất định, có tính nghiệp vụ cao; nội dung kiến thức có tính hệ thống cao của một lĩnh vực khoa học nhất định, có ý nghĩa phương pháp luận; khối lượng kiến thức lớn, khái quát, trừu tượng và khó khăn, kiến thức có trong giáo trình, tài liệu tham khảo không được coi là tuyệt đối đầy đủ, đúng và biến động. Hoạt động học tập của sinh viên ở đại học nói chung bao gồm các hoạt động như: Học tập trên lớp; Tự học ở nhà; Nghiên cứu khoa học; Thực tập, thực hành nghề nghiệp. kỹ xảo tương ứng với nó và được thể hiện ở các bản chất cơ bản sau: thu tri thức, kỹ năng, kỹ xảo. - Hoạt động học tập không chỉ hướng vào việc tiếp thu những tri thức, kỹ năng, kỹ xảo mà còn hướng vào việc tiếp thu cả những tri thức của chính bản thân hoạt động học.
42
Các nhiệm vụ học tập trên lớp của sinh viên trường đại học bao gồm: Nghe
kiến xây dựng bài, trao đổi với thầy cô và bạn bè về các nội dung học tập. Các nhiệm
- Hoạt động học của sinh viên về bản chất cũng giống như hoạt động học của học sinh phổ thông ở chỗ đều nhằm chiếm lĩnh những tri thức trong kho tàng trí tuệ của nhân loại và hình thành những kỹ năng, kỹ xảo tương ứng. Nhưng bên cạnh đó, nó có những điểm khác biệt cơ bản. Theo tác giả Nguyễn Thạc hoạt động học ở đại học là một loại hoạt động tâm lí được tổ chức một cách độc đáo của sinh viên nhằm mục đích có ý thức là chuẩn bị trở thành người chuyên gia phát triển toàn diện, sáng tạo và có trình độ nghiệp vụ cao [99]. 2.2.2. Hoạt động học tập trên lớp của sinh viên tại trường đại học Trong phạm vi của đề tài chúng tôi chỉ nghiên cứu kỹ năng giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp của sinh viên trường đại học. Do vậy, chúng tôi sẽ đi sâu trình bày khái niệm, nhiệm vụ, nội dung, cách thức tổ chức hoạt động học tập trên lớp của sinh viên trường đại học. 2.2.2.1.Khái niệm hoạt động học tập trên lớp của sinh viên trường đại học Kế thừa các khái niệm mà đề tài luận án đã xây dựng (hoạt động học tập; sinh viên; hoạt động học tập của sinh viên đại học) chúng tôi xác định khái niệm hoạt động học tập trên lớp của sinh viên trường đại học như sau: Hoạt động học tập trên lớp của sinh viên trường đại học là hoạt động trung tâm của quá trình dạy học trên lớp dưới sự hướng dẫn của giảng viên nhằm giúp cho sinh viên tiếp thu các tri thức khoa học, hình thành những kỹ năng, kỹ xảo nghề nghiệp, phát triển những phẩm chất nhân cách người chuyên gia tương lai. 2.2.2.2.Nhiệm vụ học tập trên lớp của sinh viên trường đại học giảng, ghi chép bài giảng, thảo luận nhóm với bạn, làm bài tập, thuyết trình, phát biểu ý
vụ này có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc giúp sinh viên lĩnh hội những kiến thức cơ bản của bài học, môn học, làm cơ sở cho việc tự học, tự nghiên cứu. Nội dung học tập trên lớp của sinh viên: Hệ thống tri thức khoa học, kỹ năng, kỹ xảo nghề nghiệp, phát triển những phẩm chất nhân cách người chuyên gia tương lai. trên lớp của sinh viên là sách vở, phòng thí nghiệm với các thiết bị bộ môn,… Cách thức tổ chức hoạt động học tập trên lớp của sinh viên: Cách thức tổ chức hoạt động học tập trên lớp của sinh viên được tổ chức tại giảng đường trường đại học, có sự tiếp xúc trực tiếp giữa giảng viên và người học. Giảng viên có nhiệm
Phương tiện học tập trên lớp của sinh viên: Phương tiện hoạt động học tập
43
vụ giảng bài, hướng dẫn sinh viên thực hiện các nội dung bài học theo giáo án và kế hoạch giảng dạy môn học. Sinh viên nghe giảng, thảo luận, làm bài tập… dưới sự hướng dẫn của giảng viên.
- Nội dung giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp của các em là các tri
2.2.3. Giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp của sinh viên đại học Từ khái niệm giao tiếp, khái niệm hoạt động học tập trên lớp của sinh viên trường đại học, chúng tôi xác định khái niệm giao tiếp của sinh viên trong hoạt động học tập trên lớp của sinh viên đại học như sau: Giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp của sinh viên trường đại học là quá trình tiếp xúc tâm lý giữa sinh viên với sinh viên, giữa sinh viên với giảng viên thông qua đó họ trao đổi với nhau về thông tin, về cảm xúc, nhận thức, ảnh hưởng và điều chỉnh với nhau bằng các phương tiện ngôn ngữ và phi ngôn ngữ nhằm thực thực hiện có hiệu quả các hoạt động học tập trên lớp tại trường đại học. - Đối tượng giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp của sinh viên trường đại học: Đối tượng các em giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp là những người có tri thức: Thầy cô giảng dạy và các bạn sinh viên cùng lớp. thức khoa học, các phương pháp, cách thức và nội dung bài học. - Hình thức giao tiếp trong hoạt động học tập tren lớp của các em là các hình thức giao tiếp ngôn ngữ và phi ngôn ngữ. Các em có thể trao đổi bài học trực tiếp trên lớp với giảng viên, với các bạn sinh viên khác trong lớp. Hiện nay với sự bùng nổ của công nghệ thông tin, hình thức giao tiếp được các em sử dụng trong hoạt động học tập là qua facebook, email, điện thoại…
2.2.4. Hoạt động học tập trên lớp của sinh viên dân tộc Tày tại trường đại học 2.2.4.1. Khái niệm sinh viên dân tộc Tày a. Vài nét về dân tộc Tày
Hiện nay ở Việt Nam thuật ngữ “Dân tộc” có thể được hiểu ở hai mức độ: ở mức độ rộng “Dân tộc (nation) hay quốc gia dân tộc là cộng đồng chính trị - xã hội được chỉ đạo bởi một Nhà nước, thiết lập trên một lãnh thổ nhất định, ban đầu được hình thành do sự tập hợp của nhiều bộ lạc và liên minh bộ lạc, sau này của nhiều cộng đồng mang tính tộc người (ethnie), của bộ phận tộc người” [16]. Như vậy ở mức độ này, Dân tộc đồng nghĩa với nhân dân một nước, một quốc gia hay đất nước, Tổ quốc.
Theo nghĩa hẹp “Dân tộc còn đồng nghĩa với cộng đồng mang tính tộc người, ví dụ dân tộc Tày, dân tộc Bana...” [16]. Ở mức độ này Dân tộc được hiểu là
44
một cộng đồng người hình thành trong lịch sử có những nét riêng về địa bàn cư trú, văn hóa, ngôn ngữ và phong tục tập quán.
Theo tài liệu Tổng điều tra dân số năm 1999 dân tộc Tày ở nước ta có số dân là 1.477.514 người (đứng thứ hai sau dân tộc Kinh) [16]. Dân tộc Tày có mặt ở hầu hết các tỉnh từ Bắc đến Nam. Tuy nhiên, nơi cơ trú tập trung của dân tộc này là các tỉnh thuộc khu vực Đông Bắc của Tổ quốc: Cao Bằng, Bắc Kạn, Thái Nguyên, Lạng Sơn, Hà Giang, Tuyên Quang. Đây là vùng rừng núi có biên giới giữa nước ta với Trung Quốc.
Về địa bàn cư trú: Đồng bào Tày thường sống xen kẽ, quần tụ với nhau thành từng bản, từng làng. So với các dân tộc khác ở miền núi thì dân tộc Tày sống tập trung hơn. Đây cũng là cơ sở để phát triển và giao lưu văn hóa với người Kinh và các dân tộc khác, có thể nói ở các thị xã thị trấn của các tỉnh Cao Bằng, Bắc Cạn, Lạng Sơn hiện nay thì người Tày có số lượng dân cư đông nhất sống xen kẽ với người Kinh. Trình độ nhận thức của người Tày xấp xỉ người Kinh [45].
Kinh tế của đồng bào Tày vẫn mang tính chất tự cung, tự cấp, thu nhập thấp,
đời sống còn nhiều khó khăn.
Về văn hóa – giao tiếp: Mặc dù còn một số hạn chế nêu trên, song nhìn chung đối với đồng bào Tày, ngôn ngữ cùng với nhiều truyền thống văn hóa, phong tục, tập quán của họ đã được hình thành từ lâu đời, trở thành phương tiện giao tiếp, trở thành nếp nghĩ, cách sống, cách sinh hoạt ổn định.
Hiện nay, ở một số vùng đồng bào Tày sống xen kẽ với nhiều dân tộc khác: Kinh, Dao, Cao Lan...nhìn chung ở khu vực Đông Bắc tiếng Tày được coi là ngôn ngữ chung trong giao tiếp hằng ngày. Trong quan hệ giao tiếp hằng ngày người Tày thường dùng tiếng mẹ đẻ của mình để trao đổi trực tiếp với nhau mà không cần ngôn ngữ thứ ba.
Nếp sinh hoạt văn hóa của người Tày thể hiện nhiều giá trị tinh thần, đạo đức đã trở thành “hằng số văn hóa”, trở thành chuẩn mực trong quan hệ ứng xử giữa đồng bào Tày với đồng bào các dân tộc khác như: đức thương người, tính trung thực, lòng vị tha, kính già, yêu trẻ...
Tiếp xúc với đồng bào Tày, một điều dễ nhận thấy ở họ về một nét tâm lý chung đó là phong cách nhu mì, giản dị, kiêm nhường, tính tình kín đáo, chân thật, ít khoa trương. Người Tày có một kho tàng văn hóa nghệ thuật dân gian phong phú và đậm đà sắc thái dân tộc, trong đó nổi bật nhất là các làn điệu hát lượn. Trong năm người Tày có nhiều ngày tết, ngày hội truyền thống. Các ngày tết như: tết
45
mùng 3 tháng 3 ân lịch, tết mùng 5 tháng 5 âm lịch, tết rằm tháng 7, tết mùng 10 tháng 10 âm lịch, các ngày hội như: lễ hội “lồng tồng”. Những đặc điểm của môi trường, của điều kiện sống cùng với những nét văn hóa cơ bản nêu trên có ảnh hưởng tất yếu đến hoạt động giao tiếp của người Tày ở mọi thế hệ, qua nhiều phương diện khác nhau.
Ở khu vực Đông Bắc nước ta, việc tiếng Tày được sử dụng như phương tiện giao tiếp ngôn ngữ phổ biến trong đời sống hằng ngày là điều kiện thuận lợi thúc đẩy mối quan hệ bền chặt giữa đồng bào Tày với đồng bào các dân tộc khác. Tuy nhiên, để thỏa mãn nhu cầu giao tiếp ở một không gian xã hội rộng lớn hơn cộng đồng người Tày phải sử dụng ngôn ngữ thứ hai đó là tiếng Việt. Hiện tượng giao thoa ngôn ngữ có thể xẩy ra đối với người Tày khi sử dụng tiếng Việt ở các mặt như phát âm, sử dụng từ ngữ...[45].
Từ việc phân tích những khái niệm như: Khái niệm sinh viên, khái niệm
dân tộc, chúng tôi cho rằng, khái niệm sinh viên dân tộc Tày được hiểu như sau:
b. Khái niệm sinh viên dân tộc Tày
Sinh viên dân tộc Tày là những người có cả bố và mẹ hoặc có bố hoặc mẹ là người dân tộc Tày. Họ sinh ra và lớn lên ở những nơi có điều kiện khó khăn về mặt kinh tế, xã hội, hạn chế về các điều kiện khoa học kỹ thuật, công nghệ thông tin và đời sống tinh thần. Họ đang học tập và rèn luyện tại các trường đại học, cao đẳng nhằm lĩnh hội hệ thống tri thức, hình thành hành động và phẩm chất đạo đức đáp ứng với yêu cầu nghề nghiệp trong tương lai.
Trong luận án này, nghiên cứu sinh sẽ sử dụng khái niệm sinh viên dân tộc
Tày nêu trên làm khái niệm công cụ. c. Một số đặc điểm tâm lý của sinh viên dân tộc Tày có liên quan đến giao tiếp trong hoạt động học tập. Đối với sinh viên dân tộc Tày những biểu hiện tâm lý của các em chịu sự tác động của yếu tố liên quan đến điều kiện sống, ảnh hưởng của kiều kiện kinh tế, văn hóa xã hội ở miền núi. Sinh viên dân tộc Tày có một đời sống tâm lý ổn định và có những đặc trưng tâm lý cơ bản khác biệt với sinh viên khác như sau:
Về hoạt động nhận thức: Sinh viên dân tộc Tày chưa có thói quen lao động trí óc, ngại suy nghĩ, ngại động não; tư duy độc lập và óc phê phán còn hạn chế. Các em ngại đi sâu tìm hiểu nguyên nhân, ý nghĩa của sự vật, hiện tượng. Ở nhiều sinh viên dân tộc Tày trí tưởng tượng có phần còn nghèo nàn, khả năng tư duy trìu tượng – logic còn hạn chế, các em có thói quen suy nghĩ đơn giản, một chiều, thiếu sâu sắc
46
khi nhìn nhận vấn đề. Tư duy của các em còn cứng nhắc, chưa mềm dẻo, linh hoạt. Nguyên nhân là do sống trong điều kiện kinh tế chưa được phát triển, môi trường giao tiếp hẹp, ít va chạm, ít tính phức tạp cho nên vốn sống, vốn hiểu biết của sinh viên dân tộc Tày còn hạn hẹp, sinh viên dân tộc Tày thường thỏa mãn với những cái sẵn có, thiếu suy xét cặn kẽ. Mặt khác, do vốn ngôn ngữ phổ thông của sinh viên dân tộc Tày còn bị hạn chế. Sự giao thoa ngôn ngữ gây khó khăn nhất định cho hoạt động nhận thức của các em. Những năm gần đây, do phương tiện thông tin đại chúng phát triển mạnh ở miền núi nên các em đã có những biến đổi rõ rệt về nhận thức. Trình độ hiểu biết của các em về xã hội, về nhiều nền văn hóa khác nhau của các dân tộc anh em trên phạm vi toàn quốc được mở rộng, tư duy của các em đang dần hòa nhập vào tư duy phổ thông, bởi vậy, việc giao tiếp của các em trở nên thuận lợi hơn.
Về đời sống tình cảm: Cũng như những sinh viên nói chung, tình cảm của sinh viên dân tộc Tày đã ổn định. Các em bộc lộ cảm xúc, tình cảm sâu sắc và bền vững. Các em rất coi trọng tình người với người, luôn khát khao những tình cảm đẹp, thắm thiết. Điều này được bộc lộ ở nhu cầu kết bạn “tồng” - kết bạn thân thiết, nhu cầu nhận người cùng họ của các em. Tuy nhiên, ở những sinh viên dân tộc Tày khác nhau, mức độ biểu hiện của nhu cầu kết bạn “tồng” có thể có sự khác nhau. Sinh viên nào sống cởi mở, dễ hòa nhập với tập thể thường có nhiều bạn thân và vì vậy, sẽ có khả năng kết được nhiều “tồng”, còn những sinh viên nào ít cởi mở hoặc quá “cẩn thận” thì sẽ ít có hoặc không có “tồng”.
Tình cảm của sinh viên dân tộc Tày sâu sắc mà thầm kín, ít khi bộc lộ ra bên ngoài một cách mạnh mẽ. Khi có những tình huống đặc biệt xuất hiện mới thấy rõ tình cảm của các em rất chân thành. Các em thích thể hiện tình cảm chân thành của mình bằng những việc làm cụ thể nhiều hơn là bằng lời nói.
Mối quan hệ xã hội: Đối với sinh viên dân tộc Tày khi họ đã yêu quý ai thì họ coi người đó như chính bản thân mình. Các em rất coi trọng chữ tín, đồng thời bộc lộ thái độ yêu, ghét rõ ràng. Các em cho rằng, việc đánh mất lòng tin với mọi người là một sai lầm không thể tha thứ. Khi sinh viên dân tộc Tày đã tin yêu ai đó thì họ tin yêu tuyệt đối, nếu đã ghét ai thì lại ghét hết thảy. Đặc điểm tâm lý này rất có thể gây ức chế ở các em trong giao tiếp với mọi người.
Sinh viên dân tộc Tày rất gắn bó với quê hương, làng bản, gắn bó với gia đình, dòng tộc. Khi xa gia đình, học tập ở môi trường mới sinh viên dân tộc Tày luôn có biểu hiện nhớ nhà, nhớ quê hương. Những biểu hiện này thường thấy ở
47
những sinh viên năm thứ nhất khi mới vào học ở các trường đại học.
Trong cuộc sống, trong các mối quan hệ, sinh viên dân tộc Tày có xu hướng ưa chuộng lối ứng xử nhẹ nhàng, tình cảm. Giọng nói tâm tình với những hành vi, cử chỉ nhẹ nhàng thận thiện sẽ dễ dàng cảm hóa sinh viên hơn là giọng nói gắt gỏng, bộ mặt lạnh lùng hoặc sự vồn vã thái quá. 2.2.4.2. Hoạt động học tập trên lớp của sinh viên dân tộc Tày tại các trường đại học
Hoạt động học tập của sinh viên dân tộc Tày có những đặc điểm giống như tất cả các sinh viên khác theo học tại trường đại học. Tuy nhiên, do đặc thù về đặc điểm dân tộc, tính cách, văn hoá của dân tộc nên các em gặp phải những khó khăn nhất định trong hoạt động học tập. Hoạt động học tập là hoạt động chủ đạo của sinh viên để chiếm lĩnh hệ thống tri thức khoa học chuyên ngành, hình thành những kỹ năng kỹ xảo nghề nghiệp, sinh viên phải giải quyết những nhiệm vụ học tập khác nhau đòi hỏi sự tư duy sáng tạo cao, sinh viên khó có thể đôc lập giải quyết nên cần có sự hợp tác. Thế nhưng, từ nhỏ các em sinh viên dân tộc Tày sống trong môi trường rừng núi, ít va chạm, sống khép kín, ít hòa đồng nên gặp khó khăn về hợp tác trong học tập.
khi được gọi tên đứng lên lại không thể diễn đạt được một câu rõ ràng. Sự thiếu tự tin
đã làm cho các em lo sợ rằng mình phát biểu sai, nói không đúng… Một số em biết mình phát âm chưa chuẩn, còn nói giọng địa phương nên rất ngại nói trước đám đông.
Các em sinh viên dân tộc Tày, phần lớn đến từ nông thôn, vùng núi hẻo lánh nên các em rất lúng túng, thiếu tự tin trong giao tiếp. Trong quá trình học tập các em rất ngại ngùng khi phát biểu hoặc trình bày ý kiến, quan điểm của mình, khó khăn trong việc thiết lập các mối quan hệ trong môi trường mới, thiếu linh hoạt và nhạy bén khi giải quyết các tình huống xảy ra trong quá trình giao tiếp nói chung và trong hoạt động học tập nói riêng. Do thiếu tự tin trong giao tiếp nên trong quá trình học tập do còn rụt rè và nên các em thường ngồi im, không phát biểu ý kiến cho dù các em nắm được vấn đề. Khi chưa hiểu bài các em cũng ngại bày tỏ với giảng viên. Có nhiều sinh viên không có thói quen phát biểu ý kiến, trình bày quan điểm,
Khó khăn trong việc thích nghi với nội dung, phương pháp học tập mới và những khó khăn trong giao tiếp đã ảnh hưởng đến kết quả học tập của các em làm cho các em gặp một loạt mâu thuẫn cần được giải quyết: Giữa lượng kiến thức nhiều phong phú với khả năng có hạn của bản thân, giữa kì vọng và khả năng, điều kiện của các em, giữa sở thích cá nhân muốn nghiên cứu sâu môn học với yêu cầu của chương trình học…Chính những mâu thuẫn này tạo cho các em sinh viên dân
48
tộc Tày nhiều áp lực trong học tập, thậm chí bị stress.
Để giải quyết được những khó khăn giao tiếp trong hoạt động học tập của sinh viên dân tộc Tày đòi hỏi các em phải có kỹ năng giao tiếp tốt trong hoạt động học tập. Do vậy, sinh viên dân tộc Tày cần phải có được các kỹ năng giao tiếp với giảng viên và sinh viên khác trong hoạt động học tập trên lớp.
2.2.5. Kỹ năng giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp của sinh viên dân tộc Tày
Từ việc phân tích các khái niệm công cụ như: Kỹ năng; giao tiếp; kỹ năng giao tiếp; sinh viên dân tộc Tày; hoạt động học tập trên lớp,…Chúng tôi đưa ra khái niệm kỹ năng giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp của sinh viên dân tộc Tày như sau:
Kỹ năng giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp của sinh viên dân tộc Tày
là sự vận dụng tri thức, kinh nghiệm sống của bản thân vào việc thiết lập các mối
quan hệ, giải quyết vấn đề học tập trên lớp, sử dụng các phương tiện giao tiếp
nhằm thực hiện có hiệu quả các hoạt động học tập trên lớp tại trường đại học.
Như vậy, kỹ năng giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp của sinh viên
dân tộc Tày là sự vận dụng vốn sống, vốn tri thức của cá nhân sinh viên dân tộc Tày
Một sinh viên dân tộc Tày có kỹ năng giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp
trước hết sinh viên đó phải biết thiết lập các mối quan hệ với thầy cô và các bạn sinh
viên cùng lớp thông qua việc biết tìm hiểu những thông tin về họ như đặc điểm tính
cách, năng lực sư phạm, năng lực giảng dạy, sở thích riêng. Khi giao tiếp, muốn thiết
lập được các mối quan hệ tốt đẹp với thầy cô và bạn bè sinh viên cần phải biết tôn
trọng họ, biết hợp tác với họ và đặc biệt là phải trung thực trong giao tiếp.
vào trong tình huống giao tiếp cụ thể trong hoạt động học tập trên trên lớp.
Một sinh viên dân tộc Tày có kỹ năng giao tiếp trong hoạt động học tập trên
lớp tức là sinh viên đó cần phải có được vốn kiến thức về chuyên ngành họ đang
theo học, biến vốn kiến thức đó thành các nội dung giao tiếp cụ thể để từ đó có thể
mở rộng thêm vốn tri thức, kỹ năng nghề nghiệp thông qua việc tiếp xúc, trao đổi
với thầy cô bạn bè nhằm thực hiện được các mục tiêu, nhiệm vụ học tập đã đề ra.
Mặt khác sinh viên dân tộc Tày cũng phải biết cách diễn đạt một cách mạch lạc, dễ
hiểu những vấn đề học tập trên lớp, biết lắng nghe thầy cô giảng bài, biết lắng nghe
các bạn sinh viên cùng lớp trao đổi về các nội dung học tập từ đó tiếp thu được
những kiến thức, kỹ năng học tập trên lớp một cách hiệu quả, biết điều chỉnh cảm
49
xúc của bản thân sao cho phù hợp.
Một sinh viên dân tộc Tày có kỹ năng giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp tức là sinh viên đó phải biết sử dụng các phương tiện giao tiếp ngôn ngữ và phi ngôn ngữ để biểu đạt được một cách thích hợp những nội dung giao tiếp với tình huống và đối tượng giao tiếp khác nhau góp phần làm tăng tính hiệu quả trong hoạt động học tập trên lớp của các em. 2.3. Biểu hiện và mức độ của kỹ năng giao tiếp trong hoạt động học tập trên
lớp của sinh viên dân tộc Tày
Có thể nói rằng, việc xem xét để xác định các kỹ năng thành phần hay nói
khác đi là các biểu hiện cụ thể của kỹ năng giao tiếp trong hoạt động học tập trên
lớp của sinh viên dân tộc Tày có thể dựa trên nhiều chứng khoa học khác nhau. Với
đề tài luận án này, chúng tôi hướng đến việc nghiên cứu kỹ năng giao tiếp trong
hoạt động học tập trên lớp của sinh viên dân tộc Tày, do vậy, chúng tôi sẽ dựa trên
những cơ sở khoa học sau đây:
Thứ nhất, dựa trên việc xác định nội hàm của khái niệm giao tiếp. Các nhà
khoa học (như chúng tôi đã phân tích ở nội dung trên của luận án) đều thừa nhận
rằng, khi nói đến giao tiếp tức là phải nói đến (1) Việc thiết lập mối quan hệ; (2)
Giao tiếp là phải biết lắng nghe người giao tiếp với mình; (3) Giao tiếp là phải tự
chủ cảm xúc của mình; (4) Giao tiếp là phải có nội dung; (5) Giao tiếp là phải sử
dụng các phương tiện giao tiếp ngôn ngữ và phi ngôn ngữ để xác định các kỹ năng
giao tiếp cần phải có được khi thực hiện hoạt động giao tiếp.
Thứ hai, căn cứ vào đặc thù của hoạt động học tập trên lớp của sinh viên đại
học; căn cứ vào đặc điểm tâm lý của sinh viên dân tộc Tày; căn cứ vào đặc điểm
của hoạt động giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp của sinh viên dân tộc Tày.
Thứ ba, căn cứ vào kết quả khảo sát mang tính phát hiện đối với 100 sinh
viên dân tộc Tày tại Đại học Tân Trào và trường Đại học Sư phạm thuộc Đại học
Thái Nguyên.
Dựa vào những cơ sở khoa học và cơ sở thực tiễn nêu trên, chúng tôi cho
rằng, kỹ năng giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp của sinh viên dân tộc Tày
bao gồm các nhóm kỹ năng thành phần sau đây: 1) Nhóm kỹ năng thiết lập các mối
quan hệ; 2) Nhóm kỹ năng giải quyết vấn các vấn đề học tập trên lớp; 3) Nhóm kỹ
năng sử dụng các phương tiện giao tiếp.
50
2.3.1 Biểu hiện của kỹ năng giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp của sinh viên dân tộc Tày 2.3.1.1. Nhóm kỹ năng thiết lập các mối quan hệ
* Mục đích, yêu cầu của mối quan hệ giao tiếp trong hoạt động học tập trên
lớp của sinh viên dân tộc Tày
Hoạt động học tập ở bậc đại học của sinh viên tạo ra một môi trường chung để giao tiếp đó là lớp, trường, khoa, các tổ chức đoàn thể. Trong hoạt động học tập trên lớp, sinh viên nói chung và sinh viên dân tộc Tày nói riêng luôn phải giao tiếp với giảng viên trực tiếp giảng dạy và các bạn sinh viên cùng lớp với mình. Trong đó, hoạt động giao tiếp của sinh viên với giảng viên trong hoạt động học tập trên lớp là giao tiếp theo chiều dọc và hoạt động giao tiếp giữa sinh viên dân tộc Tày và các bạn sinh viên cùng lớp là giao tiếp theo chiều ngang.
Mục đích giao tiếp chính của sinh viên dân tộc Tày với giảng viên trực tiếp giảng dạy và các bạn sinh viên cùng lớp nhằm tiếp thu được tri thức, kỹ năng nghề nghiệp thông qua việc nắm bắt các nội dung kiến thức của từng môn học và từ đó giúp cho các em nắm được các kiến thức chuyên môn về nghề nghiệp mà các em đang theo học cũng như các kỹ năng nghề nghiệp. Do vậy, muốn đạt được hiệu quả cao trong hoạt động học tập trên lớp đòi hỏi sinh viên phải có kỹ năng giao tiếp, trong đó kỹ năng thiết lập các mối quan hệ là rất cần thiết. Bởi vì, nhờ có kỹ năng này sẽ giúp cho sinh viên dân tộc Tày có được mối quan hệ tốt đẹp với giảng viên và các bạn sinh viên cùng lớp và với giảng viên.
Để đạt được mục tiêu trên, mối quan hệ trong hoạt động học tập của sinh
- Mối quan hệ giữa sinh viên dân tộc Tày với sinh viên, giữa sinh viên với
Việc sinh viên có được kỹ năng tạo lập mối quan hệ sẽ giúp các em đạt được các mục tiêu sau: (1) Tạo ra mối quan hệ tốt đẹp giữa sinh viên dân tộc Tày với các bạn sinh viên cùng lớp, giữa sinh viên dân tộc Tày với các giảng viên trực tiếp giảng dạy trên lớp. (2) Tạo ra mối quan hệ tôn trọng giữa sinh viên với giảng viên và giữa sinh viên với sinh viên. viên dân tộc Tày phải đáp ứng các yêu cầu sau: giảng viên phải được xây dựng trên sự tôn trọng, cởi mở và chân thành. - Mối quan hệ này phải được xây dựng trên sự tin cậy lẫn nhau. - Mối quan hệ này là mối quan hệ hợp tác. Đây là điều kiện đảm bảo cho sự tuân thủ các chuẩn mực xã hội thể hiện sự tôn sư trọng đạo của cha ông ta.
51
* Khái niệm kỹ năng thiết lập các mối quan hệ trong hoạt động học tập trên
lớp của sinh viên dân tộc Tày
* Biểu hiện cụ thể của nhóm kỹ năng thiết lập các mối quan hệ trong hoạt
Kỹ năng thiết lập mối quan hệ trong hoạt động học tập trên lớp của sinh viên dân tộc Tày là sự vận dụng tri thức, kinh nghiệm sống của bản thân vào việc tìm hiểu đối tượng giao tiếp, thể hiện sự tôn trọng đối tượng giao tiếp, thể hiện sự hợp tác, trung thực trong giao tiếp nhằm thiết lập được các mối quan hệ tốt đẹp với giảng viên và với sinh viên cùng lớp để thực hiện có hiệu quả các hoạt động học tập trên lớp tại trường đại học. động học tập trên lớp của sinh viên dân tộc Tày
Kỹ năng thiết lập các mối quan hệ trong hoạt động học tập trên lớp của sinh viên dân tộc Tày gồm một số kỹ năng thành phần như: Kỹ năng tìm hiểu đối tượng giao tiếp; Kỹ năng thể hiện tôn trọng đối tượng giao tiếp; Kỹ năng thể hiện sự trung thực với đối tượng giao tiếp; Kỹ năng thể hiện sự hợp tác với đối tượng giao tiếp. Dưới đây chúng tôi sẽ phân tích cụ thể từng kỹ năng thành phần này.
1) Kỹ năng tìm hiểu đối tượng giao tiếp
Có thể thấy rằng, kỹ năng tìm hiểu đối tượng giao tiếp là một trong những kỹ năng thành phần của nhóm kỹ năng thiết lập các mối quan hệ trong hoạt động giao tiếp. Kỹ năng này giúp cho sinh viên dân tộc Tày biết: Tìm hiểu về đặc điểm riêng của giảng viên và các bạn sinh viên. Trong đó, sinh viên dân tộc Tày biết chủ động đặt những câu hỏi để thăm dò nhu cầu, sở thích của các bạn sinh viên và giảng viên để có cách ứng xử phù hợp; Biết chủ động đặt những câu hỏi để thăm dò quan điểm sống của sinh viên và giảng viên; Biết chủ động đặt những câu hỏi để thăm dò tính cách của sinh viên và giảng viên; Biết nhớ tên thầy cô giáo và bạn bè để tạo được ấn tượng và thiện cảm. Việc sinh viên biết tìm hiểu những đặc điểm riêng của giảng viên và các bạn sinh viên cùng lớp là một trong những điều kiện rất cần thiết để giúp các em tìm hiểu được đối tượng giao tiếp của mình và có cách ứng xử và giao tiếp phù hợp đạt hiệu quả cao.
2) Kỹ năng thể hiện sự tôn trọng đối tượng giao tiếp
Để có được kỹ năng thiết lập các mối quan hệ trong hoạt động học tập trên lớp, bên cạnh việc sinh viên dân tộc Tày phải có kỹ năng tìm hiểu đối tượng giao tiếp thì các em cũng phải có được kỹ năng thể hiện sự tôn trọng đối tượng giao tiếp. Biết tôn trọng đối tượng giao tiếp của mình sẽ giúp sinh viên dân tộc Tày dễ dàng hơn trong việc thiết lập các mối quan hệ trong hoạt động học tập trên lớp. Nhờ có
52
kỹ năng này, sinh viên dân tộc Tày sẽ biết cách chú ý hơn đến trang phục của mình khi thực hiện hoạt động giao tiếp với thầy cô và bạn bè. Các em sẽ biết lựa chọn trang phục đi học kín đáo, lịch sự, phù hợp với môi trường học đường. Các em cũng sẽ chủ động trong việc phải chào hỏi giảng viên, các bạn sinh viên cùng lớp, biết dừng các công việc riêng như nghe điện thoại, nhắn tin, xem phim, …khi giảng viên vào lớp, khi giảng viên bắt đầu giảng bài và khi trao đổi các nội dung học tập với các bạn sinh viên cùng lớp.
3) Kỹ năng thể hiện sự hợp tác Là một trong những kỹ năng thành phần thuộc nhóm kỹ năng thiết lập các mối quan hệ trong hoạt động học tập của sinh viên dân tộc Tày. Kỹ năng thể hiện sự hợp tác với thầy cô và bạn bè có vai trò rất quan trọng tạo nên sự thành công trong giao tiếp trên lớp học của sinh viên dân tộc Tày. Nhờ có được kỹ năng này, sinh viên dân tộc Tày biết: Hợp tác với thầy cô và bạn bè trong các nội dung học tập trên lớp, thảo luận nhóm; chia sẻ thông tin, nội dung kiến thức của bản thân với các bạn sinh viên cùng lớp; phối hợp với thầy cô bạn bè để hoàn thành nhiệm vụ học tập chung của lớp; lắng nghe, trao đổi, cho ý kiến về các nội dung học tập trên lớp một cách tích cực.
4) Kỹ năng thể hiện trung thực Một trong những điều kiện giúp cho sinh viên dân tộc Tày thiết lập được các mối quan hệ trong hoạt động học tập trên lớp đó chính là sự trung thực. Để đối tượng giao tiếp với mình nhìn nhận và đánh giá được bản thân sinh viên dân tộc Tày trung thực trong giao tiếp thì các em phải có kỹ năng thể hiện sự trung thực trong giao tiếp. Trong đó, sinh viên dân tộc Tày cần biết: thắng thắn, trung thực trao đổi với giảng viên và các bạn sinh viên cùng lớp về nội dung bài học. Kết quả học tập phản ánh đúng khả năng của mình; trong giao tiếp luôn thể hiện sự ngay thẳng, thật thà với thầy cô và bạn bè; chấp hành đúng nội quy của trường lớp; biết sử dụng biểu cảm phi ngôn ngữ, ngôn ngữ phản ánh sự trung thực: ánh mắt luôn nhìn thẳng, giọng nói từ tốn và điềm đạm, cử chỉ dứt khoát và thoải mái, toát lên sự tự tin. Dùng từ dễ hiểu, chính xác, nên tránh dùng những từ mà người khác có thể hiểu theo nhiều nghĩa. 2.3.1.2. Nhóm kỹ năng giải quyết các vấn đề học tập trên lớp
* Mục đích, yêu cầu của kỹ năng giải quyết các vấn đề học tập trên lớp của
sinh viên dân tộc Tày
53
Trong hoạt động học tập trên lớp của sinh viên dân tộc Tày, nảy sinh rất
nhiều các vấn đề cụ thể liên quan đến hoạt động học tập như: luôn phải trả lời được
các câu hỏi liên quan đến nội dung bài học của giảng viên đặt ra, luôn phải có ý
kiến trao đổi một cách tích cực nhất liên quan đến nội dung bài học, luôn phải có ý
kiến tranh luận và trao đổi với các bạn sinh viên cùng lớp về nội dung học tập, biết
trình bày các nội dung học tập trên lớp khi được yêu cầu,… Do vậy, sinh viên dân
tộc Tày cần phải nắm bắt được các kỹ năng thành phần thuộc nhóm kỹ năng giải
quyết các vấn đề học tập trên lớp nhằm giúp cho các em lĩnh hội được hệ thống tri
thức ở trường đại học để các em đạt được kết quả cao trong học tập. Kỹ năng giải
quyết vấn đề học tập trên lớp của sinh viên dân tộc Tày bao gồm các một nhóm các
kỹ năng thành phần là: (1) Kỹ năng diễn đạt các nội dung học tập trên lớp của sinh
viên dân tộc Tày; (2) Kỹ năng lắng nghe; (3) Kỹ năng điều chỉnh cảm xúc bản thân.
Dưới đây, chúng tôi sẽ phân tích cụ thể từng biểu hiện của các kỹ năng thành
phần thuộc nhóm kỹ năng giải quyết các vấn đề học tập trên lớp của sinh viên dân
tộc Tày.
* Khái niệm kỹ năng giải quyết các vấn đề học tập trên lớp của sinh viên dân
tộc Tày
Kỹ năng giải quyết các vấn đề học tập trên lớp của sinh viên dân tộc Tày là sự
vận dụng tri thức, kinh nghiệm sống của bản thân vào việc diễn đạt các nội dung học
tập, lắng nghe những nội dung học tập do giảng viên truyền đạt và lắng nghe những
vấn đề học tập mà các bạn sinh viên cùng lớp trao đổi nhằm thực hiện có hiệu quả các
hoạt động học tập trên lớp tại trường đại học.
* Biểu hiện cụ thể của nhóm kỹ năng giải quyết các vấn đề học tập trong
hoạt động học tập trên lớp của sinh viên dân tộc Tày
1) Kỹ năng diễn đạt các nội dung học tập trên lớp
Kỹ năng này được thể hiện qua cách thức sinh viên dân tộc Tày trả lời câu
hỏi của giảng viên, cách trình bày vấn đề, đặt vấn đề. Một sinh viên dân tộc Tày có
kỹ năng diễn đạt các nội dung học tập trên lớp khi các em biết: Nói xúc tích, ngắn
gọn, đưa ra dẫn chứng cụ thể để minh hoạ khi thuyết trình một vấn đề nào đó trên
lớp, hay phát biểu ý kiến xây dựng bài; biết cách sâu chuỗi, tóm lược các vấn đề
liên quan đến nội dung bài học để thuyết trình hiệu quả; lập dàn ý và chú ý đến
54
những điểm cần nhấn mạnh hoặc cần trao đổi với bạn bè; biết sử dụng các phương
tiện hỗ trợ để làm rõ hơn phần trình bày của mình.
2) Kỹ năng lắng nghe trong hoạt động học tập trên lớp Trong hoạt động học tập trên lớp sinh viên dân tộc Tày cần phải biết lắng nghe. Lắng nghe trong hoạt động học tập trên lớp của sinh viên dân tộc Tày là quá trình tiếp nhận thông tin một cách có chủ ý và có mục đích. Lắng nghe là một kỹ thuật phức tạp gồm thu nhận, phân tích, đánh giá thông tin, ghi chép lại thông tin, quan sát tinh tế để hiểu được bài giảng của giảng viên, hiểu được các thông tin phản hồi về nội dung bài giảng từ phía các bạn sinh viên cùng lớp và đưa ra những phản hồi khi nghe giảng viên và các bạn sinh viên cùng lớp trình bày những nội dung liên quan đến học tập.
Để thực hiện tốt kỹ năng này, sinh viên dân tộc Tày cần thực hiện tốt các
thao tác của kỹ năng như:
Tập trung chú ý, không phân tán, không suy nghĩ về những điều khác khi nghe giảng bài trên lớp. Trong lớp học sinh viên dân tộc Tày phải hướng sự chú ý của các giác quan để nắm bắt được thông tin, nội dung bài giảng của giảng viên. Các em biết ghi chép lại thông tin để thu nhận, phân tích và đánh giá thông tin; biết gạt bỏ được các kích thích bên ngoài: tiếng ồn ngoài lớp học,…; biết dừng các công việc khác khi nghe giảng; biết tránh những suy nghĩ vào những vấn đề không liên quan đến nội dung học tập; tập trung chú ý vào giảng viên giảng bài, tránh nhìn ra cửu sổ, hoặc xung quanh; chú ý lắng nghe khi các thành viên khác trình bày, hay đưa ra ý kiến, quan điểm của mình.
Biết quan sát tinh tế khi lắng nghe. Quan sát để hiểu giảng viên và các sinh viên khác đang nói gì, có hành động, cử chỉ gì, biết chú ý quan sát mọi cử chỉ, hành vi, thái độ của giảng viên hoặc sinh viên khác trong hoạt động học tập trên lớp.
Nắm bắt và thực hiện tốt các biểu hiện cụ thể của kỹ năng này sẽ giúp sinh
viên dân tộc Tày có hoạt động học tập trên lớp hiệu quả hơn.
3) Kỹ năng điều chỉnh cảm xúc bản thân trong hoạt động học tập trên lớp Một trong những kỹ năng thành phần quan trọng thuộc nhóm kỹ năng giải quyết các vấn đề học tập trong hoạt động học tập trên lớp của sinh viên dân tộc Tày đó là kỹ năng điều chỉnh cảm xúc bản thân.
Kỹ năng này gồm các nội dung sau: Sinh viên dân tộc Tày biết nhận ra những cảm xúc không phù hợp so với yêu cầu cảm xúc của bản thân khi tham gia
55
vào hoạt động giao tiếp trên lớp học với giảng viên và các bạn sinh viên cùng lớp, từ đó sinh viên dân tộc Tày có hành vi lựa chọn các cách tự điều chỉnh xúc cảm hiệu quả để tạo ra sự thay đổi đáp ứng với yêu cầu của hoạt động học tập trên lớp. Để có được kỹ năng điều chỉnh cảm xúc bản thân sinh viên cần phải nắm bắt và thực hiện được một cách đúng đắn, linh hoạt và mềm dẻo các biểu hiện cụ thể của kỹ năng này đó là: Nhận biết được cảm xúc của bản thân, giảng viên và sinh viên; Cân nhắc kỹ trước khi nói hoặc làm bất cứ điều gì; Bình tĩnh khi thầy cô giáo và bạn bè chỉ ra những sai lầm của mình; Thuyết phục để giảng viên và sinh viên chấp thuận quan điểm và ý kiến của mình; Không để xúc cảm của mình tạo ảnh hưởng đến thầy cô và bạn bè; Khi giao tiếp với thầy cô và bạn bè, bạn luôn cân nhắc cách ứng xử của mình; Khi không thể ngăn được xúc cảm của mình, cần phải nhìn nhận và hiểu tại sao có xúc cảm đó; Không bị cuốn theo những xúc cảm tiêu cực của giảng viên và sinh viên. 2.3.1.3. Nhóm kỹ năng sử dụng các phương tiện giao tiếp
* Mục đích, yêu cầu của kỹ năng sử dụng các phương tiện ngôn ngữ giao
tiếp trong hoạt động học tập trên lớp của sinh viên dân tộc Tày
Việc sử dụng các phương tiện ngôn ngữ trong giao tiếp là rất quan trọng, kỹ
năng này diễn ra trong suất quá trình học tập của sinh viên.
Trong hoạt động học tập trên lớp, sinh viên dân tộc Tày có kỹ năng sử dụng các phương tiện giao tiếp bằng ngôn ngữ nói, ngôn ngữ viết, các phương tiện giao tiếp phi ngôn ngữ sẽ giúp các em đạt được hiệu qủa cao trong hoạt động học tập. Trong đó, thông tin được giảng viên tiếp nhận, các bạn sinh viên cùng lớp lĩnh hội và hiểu được ở mức độ nào là phụ thuộc vào kỹ năng sử dụng ngôn ngữ nói của sinh viên dân tộc Tày trong việc truyền đạt các nội dung bài học do giảng viên yêu cầu hoặc các nội dung phản hồi những vấn đề mà sinh viên cùng lớp trao đổi.
Hoạt động học tập trên lớp cũng đòi hỏi sinh viên phải sử dụng rất nhiều ngôn ngữ viết. Ngôn ngữ viết tốt sẽ giúp cho sinh viên thực hiện tốt nhất những bài kiểm tra viết, bài thi viết, trình bày các nội dung câu hỏi thảo luận một cách tường minh với ngôn ngữ viết trong sáng, mạch lạc, dễ hiểu, đúng với văn phong khoa học chuyên ngành. Việc biết sử dụng ngôn ngữ viết là điều kiện rất tốt để sinh viên đạt hiệu quả cao trong học tập.
Bên cạnh việc sinh viên dân tộc Tày biết sử dụng ngôn ngữ nói, ngôn ngữ viết trong hoạt động học tập của mình thì sinh viên dân tộc Tày cũng cần phải biết sử dụng cả những phương tiện giao tiếp phi ngôn ngữ nhằm biểu đạt chính xác
56
thông tin bản thân định truyền tải tới giảng viên, sinh viên cùng lớp và giúp sinh viên tương tác dễ dàng hơn với giảng viên và sinh viên trong các giờ học.
* Khái niệm kỹ năng sử dụng các phương tiện giao tiếp trong hoạt động học
tập trên lớp của sinh viên dân tộc Tày
* Biểu hiện cụ thể của nhóm kỹ năng sử dụng các phương tiện giao tiếp
Kỹ năng giải quyết các phương tiện giao tiếp trong học tập trên lớp của sinh viên dân tộc Tày là sự vận dụng tri thức, kinh nghiệm sống của bản thân vào việc sử dụng có hiệu quả các phương tiện giao tiếp bằng ngôn ngữ nói, ngôn ngữ viết, phương tiện giao tiếp phi ngôn ngữ nhằm thực hiện có hiệu quả các hoạt động học tập trên lớp tại trường đại học. trong hoạt động học tập trên lớp của sinh viên dân tộc Tày
Kỹ năng sử dụng có hiệu quả các phương tiện giao tiếp bao gốm nhóm các kỹ năng thành phần: Kỹ năng sử dụng phương tiện giao tiếp bằng ngôn ngữ nói; Kỹ năng sử dụng phương tiện giao tiếp bằng ngôn ngữ viết; Kỹ năng sử dụng các phương tiện giao tiếp phi ngôn ngữ. Dưới đây chúng tôi sẽ phân tích cụ thể các biểu hiện thuộc nhóm kỹ năng này.
1) Kỹ năng sử dụng phương tiện giao tiếp bằng ngôn ngữ nói Sinh viên dân tộc Tày có kỹ năng sử dụng phương tiện giao tiếp bằng ngôn ngữ nói tức là sinh viên biết: trình bày ý kiến quan điểm của mình một cách tường minh: nói ngắn gọn, rõ ràng, dễ hiểu…; biết kiểm soát chất giọng của mình khi nói: giọng nói có độ cao vừa phải, không quá mạnh, không quá yếu, truyền tải những âm thanh trầm ấm nếu người nói là nam sinh, nữ sinh thì phải dịu dàng, uyển chuyển khi diễn tả; biết đặt những câu hỏi hợp lý để khai thác được thông tin. Câu hỏi mà sinh viên đặt ra nên ngắn gọn, rõ ràng và dễ hiểu, tránh gây những hiểu lầm cho thầy cô và bạn bè. Tránh những câu hỏi theo kiểu xách mé; biết dành được cảm tình của người đối thoại bằng giọng nói, ngữ điệu, cách dùng từ… sử dụng từ ngữ, phát âm chính xác: không nói giọng địa phương, không dùng từ địa phương, không dùng những từ “à, ờ” mà dân tộc mình hay dùng. Phát âm chính xác đúng tiếng Việt. Biết bộc lộ thái độ thân thiện, cởi mở với bạn bè qua giọng nói.
2) Kỹ năng sử dụng phương tiện giao tiếp bằng ngôn ngữ viết Sinh viên dân tộc Tày có kỹ năng sử dụng phương tiện giao tiếp bằng ngôn
ngữ viết tức là sinh viên biết: sử dụng ngôn ngữ viết một cách đơn giản, dễ hiểu qua
email và các trang mạng xã hội để trao đổi với các bạn sinh viên khác về nội dung
57
học tập; sử dụng ngôn ngữ viết một cách khoa học, phù hợp, và có văn hóa; sử
dụng đúng các kỹ thuật trình bày văn bản: Các ý tứ, vấn đề trong văn bản cần được
sắp xếp một cách có logic tạo nên một chỉnh thể thống nhất trong văn bản. Văn bản
phải trình bày đẹp, nghiêm túc, văn phong trong sáng, mạch lạc, khúc triết. Biết
cách viết rõ ràng, chính xác, hoàn chỉnh về nội dung và đảm bảo các yêu cầu về thể
thức văn bản.
3) Kỹ năng sử dụng các phương tiện giao tiếp phi ngôn ngữ
Sinh viên dân tộc Tày có kỹ năng sử dụng phương tiện giao tiếp phi ngôn
ngữ tức là sinh viên biết: sử dung ngôn ngữ cơ thể trong giao tiếp: nhìn thẳng vào
mắt đối tượng giao tiếp, biết sử dụng các cử chỉ, điệu bộ, nét mặt khi giao tiếp và
biết tạo ra các cử chỉ, điệu bộ, nét mặt, trang phục…phù hợp; sử dụng giọng nói phù
hợp trong giao tiếp: khi nói giọng nói phải diễn tả cảm xúc theo nội dung nói, khi
phát âm thì âm vực phải chuẩn, tròn vành rõ chữ, không méo tiếng hay nuốt chữ,
không nhầm lẫn giữa các âm. Giọng nói cần phải rõ ràng, đủ nghe; Sử dụng không
gian và khoảng cách giao tiếp: Trên lý thuyết, khoảng cách được quy định như sau:
Thân thiện < 1m. Riêng tư < 1,5m. Xã giao < 4m. Công cộng > 4m. Tuỳ vào hoàn
cảnh giao tiếp các em lựa chọn cho mình khoảng cách giao tiếp thích hợp với giảng
viên và các sinh viên khác.
Tóm lại, từ việc phân tích những biểu hiện cụ thể hay chính là các kỹ năng
thành phần của kỹ năng giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp của sinh viên dân
tộc Tày cho thấy:
- Kỹ năng giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp của sinh viên dân tộc
Tày là tổ hợp các kỹ năng thành phần với những biểu hiện cụ thể của 3 nhóm kỹ
năng: 1) Nhóm kỹ năng thiết lập các mối quan hệ; 2) Nhóm kỹ năng giải quyết các
vấn đề học tập trên lớp; 3) Nhóm kỹ năng sử dụng các phương tiện giao tiếp.
- Phân tích này cũng cho thấy, đây là 3 nhóm kỹ năng quan trọng cấu thành
nên kỹ năng giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp của sinh viên dân tộc Tày. Nếu
sinh viên dân tộc Tày có được các kỹ năng này sẽ là điều kiện quan trọng góp phần
tạo nên thành công trong hoạt động học tập trên lớp của sinh viên.
- Phân tích trên cũng chỉ ra rằng, 3 nhóm kỹ năng thành phần này có mối
quan hệ biện chứng với nhau, tác động và bổ sung cho nhau. Vì vậy, kỹ năng thành
58
phần nào cũng quan trọng và đều có vai trò to lớn trong việc tạo nên hiệu quả của
giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp của sinh viên dân tộc Tày.
2.3.2. Mức độ kỹ năng giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp của sinh viên dân tộc Tày
Có nhiều cách phân chia mức độ của kỹ năng giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp của sinh viên dân tộc Tày. Trong luận án này chúng tôi chia kỹ năng giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp của sinh viên dân tộc Tày thành 5 mức độ là: (1) Mức độ rất thấp; (2) Mức độ thấp; (3) Mức độ trung bình, (4) Mức độ tương đối cao; (5) Mức độ cao.
Trong nghiên cứu này, chúng tôi cũng xem xét kỹ năng giao tiếp trong hoạt động trên lớp của sinh viên dân tộc Tày với 3 tiêu chí là: Tính đầy đủ; Tính thuần thục; Tính linh hoạt.
Bảng 2.1: Các mức độ kỹ năng giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp của sinh viên dân tộc Tày
Mức độ kỹ
Tính đầy đủ
Tính thuần thục
Tính linh hoạt
năng
Mức
rất
Hầu như không có các
Ở mức này sinh viên
Sinh viên dân tộc
thấp
biểu hiện thao tác của kỹ
dân tộc Tày không có
Tày hầu như không
năng. Ở mức này tính đầy đủ rất hạn chế, sinh viên
sự thành thạo, phù hợp cần thiết trong khi thực
có sự ổn định khi thực hiện các kỹ
dân tộc Tày chưa nhận
hiện các kỹ năng thành
năng
thành phần
thức được đầy đủ mục
phần. Tính thành thục
thuộc kỹ năng giao
đích, yêu cầu sử dụng kỹ
rất hạn chế. Đây là mức
tiếp
trong
hoạt
năng. Đây là mức thấp
thấp nhất.
động học tập trên
nhất.
lớp. Tính linh hoạt
của kỹ năng này rất là hạn chế. Đây
mức thấp nhất.
Mức thấp
Ở mức này, tính đầy đủ
Sinh viên dân tộc Tày
Sinh viên dân tộc
khi thực hiện các kỹ năng
mới chỉ có được sự
Tày mới chỉ
thể
thành phần thuộc kỹ năng
thành thạo ở rất ít thao
hiện sự ổn định của
giao tiếp trong hoạt động
tác, sự kết hợp các thao
kỹ năng trong điều
học tập trên lớp hạn chế.
tác và ít có sự hợp lý,
kiện học tập đơn
Sinh viên dân tộc Tày đã có được một ít thao tác
còn mắc nhiều lỗi khi thực hiện kỹ năng giao
giản, nhưng còn chưa có được sự ổn
59
của kỹ năng và nhận thức
tiếp trong hoạt động học
định và bền vững
được mục đích, yêu cầu
tập trên lớp. Tính thành
của kỹ năng này khi
sử dụng kỹ năng giao tiếp
thục hạn chế.
thực hiện trong các
trong hoạt động học tập
điều kiện khác nhau
trên lớp.
của hoạt động học
tập trên lớp. Chưa tạo. có sự sáng
Tính linh hoạt hạn
chế.
Mức
trung
Ở mức độ này, sinh viên
Đã có tính thành thục
Đã có
tính
linh
bình
dân tộc Tày đã thực hiện
cần thiết của kỹ năng.
hoạt cần thiết. Kỹ
đầy đủ các thao tác của
Sinh viên dân tộc Tày
năng giao
trong
các kỹ năng thành phần
đã có sự thành thạo
hoạt động học tập
thuộc kỹ năng giao tiếp trong hoạt động học tập
trong các thao tác riêng lẻ, sự kết hợp các thao
trên lớp của sinh viên dân tộc Tày đã
trên lớp. Sinh viên dân
tác đã có sự hợp lý và
thể hiện ổn định
tộc Tày đã nhận thức và
phù hợp trong điều kiện
trong điều giao tiếp
hiểu đầy đủ mục đích, yêu
hoạt động ổn định và
trong hoạt động học
cầu của kỹ năng này. Các
đơn giản, nhưng chưa
tập thông thường.
em đã có được các thao
thật sự hợp lý trong các
Nhưng
trong các
tác thiết yếu nhất của kỹ năng.
điều giao tiếp phức tạp, vẫn mắc lỗi.
điều kiện giao tiếp trong hoạt động học
tập khác nhau thì
kỹ năng thể hiện
còn chưa thật sự ổn
định và bền vững.
Tính sáng tạo còn rất hạn chế.
Mức tương đối cao
Ở mức này đã có tính đầy đủ tương đối tốt. Sinh
Tính thành thục của kỹ trong năng giao
tiếp
Tính linh hoạt của kỹ năng tương đối
viên dân tộc Tày hiểu đầy
hoạt động học tập trên
cao. Sinh viên dân
đủ mục đích, yêu cầu của
lớp là tương đối tốt.
tộc Tày vận dụng
kỹ năng giao tiếp trong
Sinh viên dân tộc Tày
khá ổn định và bền
hoạt động học tập trên lớp
thể hiện sự thành thạo
vững kỹ năng giao
và các em có gần như đầy đủ các thao tác của kỹ
các thao tác riêng lẻ, sự kết hợp các thao tác
hoạt trong tiếp động học tập trên
60
năng. Tuy nhiên, các em
trong tổ hợp tương đối
lớp trong các điều
vẫn còn thiếu một số ít
hợp lý và phù hợp với
kiện khác nhau. Đã
các kỹ năng thành phần
các mục đích và điều
thể hiện sự sáng tạo
thuộc nhóm kỹ năng này
kiện hoạt động, ít mắc
trong sự vận dụng
khi thực hiện hoạt động
lỗi.
kỹ năng này.
giao tiếp trong học tập trên lớp.
Mức cao
Ở mức này tính đầy đủ tốt. Sinh viên dân tộc Tày
Tính thành thạo thể hiện tốt. Sinh viên dân tộc
Tính linh hoạt của kỹ năng cao. Sinh
hiểu rõ, đầy đủ mục đích,
Tày thành thạo trong
viên dân tộc Tày đã
yêu cầu của kỹ năng giao
các thao tác, kết hợp các
vận dụng ổn định
tiếp trong hoạt động học
thao tác trong tổ hợp
và bền vững kỹ
tập trên lớp và có đầy đủ
hợp lý, phù hợp với mọi
năng giao tiếp trong
tất cả các thao tác của kỹ năng này. Đây là mức cao
điều kiện hoạt động và hầu như không mắc lỗi.
hoạt động học tập trên lớp với mọi
nhất.
Đây là mức cao nhất khi
điều kiện của giao
.
sinh viên dân tộc Tày
tiếp
trong
hoạt
thực hiện kỹ năng giao
động học tập, có sự
tiếp trong hoạt động học
sáng tạo cao trong
tập trên lớp .
khi thực hiện kỹ
năng này. Đây là mức cao nhất.
2.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến kỹ năng giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp của sinh viên dân tộc Tày 2.4.1. Yếu tố chủ quan
(1) Ý thức tham gia vào các phong trào hoạt động đoàn thể của lớp và của
trường
Trong môi trường đại học, hoạt động học tập của sinh viên không thể tách rời với các hoạt động đoàn thể. Khi tham gia vào các phong trào hoạt động đoàn thể, sinh viên dân tộc Tày có thể thiết lập nên nhiều mối quan hệ và các em được tự mình khẳng định bản thân. Hoạt động đoàn thể là một môi trường tốt để các em rèn luyện kỹ năng giao tiếp của bản thân mình. Phần lớn các em sinh viên đều thừa nhận rằng chính sự tham gia vào các hoạt động phong trào các em trở nên tự tin, có thể trình bày ý kiến trước đám đông một cách tự tin và các em không cảm thấy khó
61
khăn trong quá trình thuyết phục mọi người. Do vậy mức độ tham gia vào các phong trào hoạt động đoàn thể cũng có ảnh hưởng không nhỏ đến kỹ năng giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp của các em sinh viên dân tộc Tày.
(2) Tính cách của sinh viên dân tộc Tày Cho dù xem xét ở phương diện nào cũng không thể phủ nhận sức ảnh hưởng của những yếu tố thuộc về đặc điểm, thuộc tính riêng của cá nhân như khả năng sử dụng ngôn ngữ, tính cách, khí chất, năng lực…Những đặc điểm này có thể là những thuận lợi hoặc ngược lại là rào cản cho việc thực hiện kỹ năng giao tiếp của sinh viên dân tộc Tày.
Quá trình giao tiếp của sinh viên dân tộc Tày vừa chịu sự tác động bởi những nét tính cách chung của dân tộc, vừa chịu sự ảnh hưởng bởi những nét tính cách riêng của cá nhân. Khi nói đại bộ phận sinh viên dân tộc Tày thật thà, kín đáo là đúng nhưng chưa đủ vì ngoài những nét tính cách này thì sinh viên dân tộc Tày còn có những nét tính cách khác nhau, không giống nhau. Mặt khác, ngay cả khi có nét chung trong tính cách là sự thật thà, kín đáo thì mỗi cá nhân lại có cách bộc lộ mang những sắc thái riêng không trùng lặp với cá nhân khác. Sự khác nhau trong tính cách của mỗi cá nhân đã tác động và tạo ra một phần sự khác biệt trong quá trình giao tiếp của cá nhân đó. Trong tiến trình phát triển hiện nay, do được tiếp cận đầy đủ với nhiều nguồn thông tin, một số sinh viên dân tộc Tày đã sớm hình thành tính quảng giao, tính cởi mở trong giao tiếp, biểu hiện ở phạm vi đối tượng giao tiếp rộng rãi, mang tính đa sắc tộc, đa vùng miền. Do đó cũng ảnh hưởng trực tiếp đến kỹ năng giao tiếp của từng sinh viên dân tộc Tày.
2.4.2. Yếu tố khách quan (1) Phương pháp giảng dạy của giảng viên Phương pháp dạy học là tổ hợp cách thức tiến hành hoạt động dạy của giảng viên và cách thực tiến hành hoạt động học của sinh viên, trong đó phương pháp dạy đóng vai trò chủ đạo, phương pháp học đóng vai trò tự giác, tích cực, độc lập, sáng tạo. Đây là yếu tố rất quan trọng đối với sự hình thành, phát triển kỹ năng giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp của sinh viên dân tộc Tày. Hiện nay ở các trường đại học cho thấy, các phương pháp dạy học chủ yếu là phương pháp truyền thống và phương pháp dạy học hiện đại.
+ Phương pháp dạy học truyền thống: Giảng viên chú trọng tới việc cung cấp kiến thức cho sinh viên hơn việc hướng dẫn cho sinh viên cách tự giành lấy tri thức mà mình muốn có theo kiểu giảng viên đọc, sinh viên chép. Thầy cô không
62
đưa ra các bài tập để sinh viên giải quyết, các em không có cơ hội để trình bày ý kiến riêng, các em không có sự trao đổi, thảo luận giữa thầy và trò, giữa sinh viên và sinh viên. Do vậy, trong quá trình học tập các em bị hạn chế rất nhiều về giao tiếp. Các em chủ động, hay dựa dẩm hoặc ý lại. Các em không có khả năng tự diều chỉnh, điều khiển hoạt động học của mình theo hướng tự tiếp thu tri thức thông qua các kỹ năng giao tiếp khác nhau.
(2) Môi trường giáo dục của sinh viên dân tộc Tày: Gia đình, nhà trường,
+ Phương pháp dạy học hiện đại: Phương pháp này thay vì đọc cho sinh viên chép, giáo viên trở thành người giúp đỡ sinh viên trong quá trình học tập. Phương pháp này hình thành nên người học cách học chủ động, tích cực, năng dộng, sáng tạo ở sinh viên. Trước đây với phương pháp giảng dạy truyền thống các em không có cơ hội bày tỏ ý kiến, quan điểm riêng của mình cũng như tham gia vào việc trao đổi thảo luận vì thế các em trở nên nhút nhát, dè dặt, e ngại. Hiện nay giảng viên sử dụng phương pháp giảng giảng hiện đại thông qua các dạng bài tập: yêu cầu sinh viên thảo luận, viết báo cáo rồi trình bày trước lớp, giao chủ đề cho các em làm theo nhóm, yêu cầu các em đặt câu hỏi về những điều họ chưa hiểu, các em trở nên mạnh dạn, tích cực chủ động hơn trong quá trình giao tiếp với thầy cô và bạn bè. Vì thế mà kỹ năng giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp của sinh viên dân tộc Tày ngày một phát triển, hiệu quả học tập ngày càng tăng lên. cộng đồng
Giao tiếp của mỗi cá nhân chịu ảnh hưởng của môi trường giáo dục của mỗi cá nhân đó. Cho dù xét ở phương diện nào cũng không thể phủ nhận sức ảnh hưởng của yếu tố môi trường giáo dục như: gia đình, nhà trường, cộng đồng,... đối với sự hình thành và phát triển kỹ năng giao tiếp của sinh viên dân tộc Tày.
- Giáo dục trong gia đình: Giáo dục trong gia đình có sự ảnh hưởng nhất định đến kỹ năng giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp của sinh viên dân tộc Tày. Bởi lẽ, gia đình chính là nơi sinh viên dân tộc Tày được sinh ra, lớn lên và được giáo dục từ khi mới trào đời. Mỗi sinh viên dân tộc Tày đều chịu sự ảnh hưởng rất lớn từ môi trường gia đình. Trong gia đình, các em được giáo dục, các em được dạy bắt đầu từ tấm bé, từ các ăn, cách nói, cách ứng xử giao tiếp với các thành viên khác trong gia đình, cách giao tiếp với mọi người trong xã hội và ngay cả cách giao tiếp với bạn bè. Bên cạnh việc giáo dục và dạy dỗ trực tiếp các em cách giao tiếp, trong gia đình, ông bà, bố mẹ và những thành viên trong gia đình còn dạy các em tiếp thu được những kỹ năng giao tiếp bằng cách bản thân họ sẽ có những cách giao tiếp, ứng xử có văn hóa. Do vậy,
63
cách giáo dục của ông bà, bố mẹ của sinh viên dân tộc Tày sẽ góp phần đáng kể giúp các em hình thành những kỹ năng giao tiếp đầu tiên.
- Giáo dục ở nhà trường: Nhà trường chính là nơi sinh viên dân tộc Tày học tập và rèn luyện từ tấm bé. Nhà trường với những nội dung dạy học và giáo dục khác nhau, với những nội dung và hình thức giáo dục cho học sinh, sinh viên các cách thức giao tiếp và kỹ năng giao tiếp khác nhau sẽ giúp cho các em rèn luyện được kỹ năng giao tiếp cho bản thân mình. Nhiều nhà trường hiện nay, đã và đang đặt trọng tâm vào việc giáo dục cho học sinh, sinh viên những kỹ năng sống, trong đó kỹ năng giao tiếp rất được chú trọng. Nhiều trường, nội dung giáo dục này còn được đưa vào trong chương trình học chính khóa của các em. Mặt khác, nhiều trường thường xuyên tổ chức các loại hình hoạt động tập thể để các em có được những trải nghiệm về việc rèn kỹ năng giao tiếp của mình. Chính vì vậy, kỹ năng giao tiếp của sinh viên dân tộc Tày chịu ảnh hưởng nhiều của yếu tố giao dục trong nhà trường.
- Giáo dục ở cộng đồng: sinh viên dân tộc Tày không chỉ sống, hoạt động, học tập tại gia đình, trường học mà các em là một cá nhân của xã hội nên các em cũng là những chủ nhân tham gia chính vào các hoạt động tại cộng đồng. Chính trong quá trình các em giao tiếp với mọi người trong cộng đồng, thực hiện các hoạt động chung tại cộng đồng các em đã học được rất nhiều những quy tắc giao tiếp chung mà xã hội và cộng đồng quy định; các em có nhiều cơ hội để rèn luyện kỹ năng giao tiếp của mình; các em cũng có nhiều cơ hội để học hỏi những người khác trong cộng đồng về các kỹ năng giao tiếp cần có. do vậy, yếu tố giáo dục trong cộng đồng cũng có vai trò quan trọng đối với việc giúp sinh viên dân tộc Tày rèn luyện kỹ năng giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp.
Tiểu kết chương 2
Trong chương 2 này chúng tôi tập trung vào việc chỉ ra khung lý thuyết nghiên cứu kỹ năng giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp của sinh viên dân tộc Tày. Trong đó, đã xây dựng được hệ thống khái niệm cộng cụ nghiên cứu của đề tài luận án (khái niệm kỹ năng; khái niệm giao tiếp; khái niệm kỹ năng giao tiếp; khái niệm hoạt động học tập trên lớp; khái niệm giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp của sinh viên, khái niệm sinh viên dân tộc Tày; khái niệm kỹ năng giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp của sinh viên dân tộc Tày).
Khái niệm công cụ quan trọng nhất luận án xác định đó là: khái niệm kỹ năng giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp của sinh viên dân tộc Tày. Khái niệm này được trình bày như sau: Kỹ năng giao tiếp trong hoạt động học tập trên
64
lớp của sinh viên dân tộc Tày là sự vận dụng tri thức, kinh nghiệm sống của bản thân vào việc thiết lập các mối quan hệ, giải quyết vấn đề học tập trên lớp, sử dụng các phương tiện giao tiếp nhằm thực hiện có hiệu quả các hoạt động học tập trên lớp tại trường đại học.
Trong chương 2 này, chúng tôi cũng đã phân tích sâu từ góc độ khoa học tâm lý về những vấn đề như: giao tiếp; kỹ năng giao tiếp; hoạt động học tập trên lớp của sinh viên tại trường đại học; sinh viên dân tộc Tày và đặc điểm tâm lý của sinh viên dân tộc Tày; đặc điểm hoạt động học tập trên lớp của sinh viên dân tộc Tày tại trường đại học.
Đặc biệt nội dung lí luận về kỹ năng giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp của sinh viên dân tộc Tày đã được chúng tôi chú trọng trình bày với một dung lượng số trang khá lớn, đó là: biểu hiện kỹ năng giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp của sinh viên dân tộc Tày. Trong đó, chỉ rõ 3 nhóm kỹ năng thành phần thuộc kỹ năng này đó là: nhóm kỹ năng thiết lập các mối quan hệ; nhóm kỹ năng giải quyết các vấn đề học tập trên lớp; nhóm kỹ năng sử dụng các phương tiện giao tiếp.
Các nội dung lí luận về mức độ và tiêu chí đánh giá kỹ năng giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp của sinh viên dân tộc Tày cũng được trình bày tường minh. Trong đó, chúng tôi xác định có 5 mức độ đánh giá kỹ năng giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp của sinh viên dân tộc Tày đó là: Mức độ cao; mức độ tương đối cao; mức độ trung bình; mức độ thấp; mức độ rất thấp. Các tiêu chí đánh giá kỹ năng giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp của sinh viên dân tộc Tày được xác định là: Tính đầy đủ; tính thuần thục và tính linh hoạt.
Luận án cũng đã phân tích dưới góc độ lí luận các về các yếu tố ảnh hưởng tới kỹ năng giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp của sinh viên dân tộc Tày. Trong đó bao gồm nhiều yếu tố chủ quan và khách quan có thể ảnh hưởng tới kỹ năng này ở sinh viên. Tuy nhiên, trong luận án này chúng tôi tập trung phân tích các yếu tố sau đây: Ý thức tham gia vào các phong trào hoạt động đoàn thể; Tính cách của sinh viên dân tộc Tày; Phương pháp giảng dạy của giảng viên; Môi trường giáo dục của sinh viên dân tộc Tày: Gia đình, nhà trường, cộng đồng.
Những vấn đề lí luận được trình bày trong chương 2 này sẽ giúp tác giả luận án có định hướng tốt để xây dựng bộ công cụ nghiên cứu và thực hiện tiếp chương 3 và chương 4 của luận án.
65
Chương 3 TỔ CHỨC VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. Địa bàn và khách thể nghiên cứu 3.1.1. Địa bàn nghiên cứu
Như đã trình bày ở phần mở đầu, trong khuân khổ luận án này chúng tôi sẽ tiến hành nghiên cứu kỹ năng giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp của sinh viên dân tộc Tày vùng Đông Bắc Việt Nam tại Trường Đại học Tân Trào, tỉnh Tuyên Quang và Trường Đại học Sư phạm, Đại học Thái Nguyên.
Việc lựa chọn 2 trường đại học này để nghiên cứu xuất phát từ các lí do sau đây: Thứ nhất, đây là hai trường đại học vùng lớn nhất thuộc vùng Đông Bắc
Việt Nam.
Thứ hai, số lượng sinh viên dân tộc Tày theo học tại 2 trường đại học này là đông nhất so với các trường còn lại. Dưới đây, chúng tôi xin giới thiệu khái quát về 2 trường đại học này. 3.1.1.1. Trường Đại học Tân Trào
Trường Đại học Tân Trào tiền thân là trường Sơ cấp Sư phạm Tuyên Quang, được thành lập từ năm 1959. Qua nhiều thời kỳ phát triển, nhà trường đã nhiều lần nâng cấp và đổi tên: Trường Cao đẳng sư phạm Tuyên Quang, Trường Cao đẳng Tuyên Quang. Để đáp ứng nhu cầu học tập của con em các dân tộc tỉnh Tuyên Quang, học sinh vùng khó khăn và các tỉnh lân cận, ngày 14 tháng 8 năm 2013, Thủ tướng Chính phủ đã kí Quyết định số 1404/QĐ-TTg nâng cấp trường Cao đẳng Tuyên Quang thành Trường Đại học Tân Trào. Từ đây, Trường Đại học Tân Trào trở thành trường Đại học đầu tiên trên quê hương cách mạng, thủ đô khu giải phóng, thủ đô kháng chiến.
Trường Đại học Tân Trào là cơ sở đào tạo đại học, sau đại học, nghiên cứu khoa học, ứng dụng và chuyển giao công nghệ trong các lĩnh vực giáo dục, kinh tế, văn hoá, khoa học kỹ thuật phục vụ sự phát triển kinh tế - xã hội của khu vực miền núi phía Bắc và hội nhập quốc tế. 3.1.1.2. Trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên
Trường Đại học Sư phạm thuộc Đại học Thái Nguyên. Trước đây là Trường
Đại học Sư phạm Việt Bắc được thành lập ngày 18 tháng 7 năm 1966.
Trường Đại học Sư phạm, Đại học Thái Nguyên là trung tâm lớn đào tạo giáo viên và cán bộ khoa học trình độ cao đẳng, đại học và Sau đại học. Là cơ sở
66
bồi dưỡng và nghiên cứu khoa học có uy tín về các lĩnh vực khoa học cơ bản, khoa học giáo dục, phục vụ đắc lực sự nghiệp giáo dục cả nước và có vai trò đặc biệt quan trọng đối với vùng trung du, miền núi phía Bắc Việt Nam. Đến năm 2020 Trường Đại học Sư phạm, Đại học Thái Nguyên là trường đại học sư phạm trọng điểm của khu vực trung du miền núi phái Bắc Việt Nam, một trung tâm đào tạo, bồi dưỡng và nghiên cứu khoa học có uy tín, ngang tầm với các trường đại học lớn trong nước, vững vàng tiếp cận, hoà nhập với các trường đại học trong khu vực và thế giới. Trường cung cấp cho người học môi trường giáo dục đại học và nghiên cứu khoa học tốt, có tính chuyên nghiệp cao, đảm bảo cho người học sau khi tốt nghiệp có đủ năng lực cạnh tranh và thích ứng với nền giáo dục phát triển.
3.1.2. Khách thể nghiên cứu Tổng số khách thể nghiên là 670 người. Trong đó nghiên cứu trên 620 sinh viên và 50 giảng viên 2 trường Đại học Sư phạm thuộc Đại học Thái Nguyên và Đại học Tân Trào, tỉnh Tuyên Quang. Khách thể nghiên cứu được lựa chọn và xác định cho từng giai đoạn nghiên cứu, cụ thể như sau: 1) Giai đoạn xây dựng bộ công cụ nghiên cứu: Tổng số khách thể nghiên cứu cho giai đoạn này là: 120 người. Trong đó, gồm 100 sinh viên 2 trường Đại học Sư phạm thuộc Đại học Thái Nguyên và Đại học Tân Trào, tỉnh Tuyên Quang. Phỏng vấn 20 giảng viên của hai trường. 2) Giai đoạn nghiên cứu thực tiễn: Luận án tiến hành điều tra khảo sát bằng bảng hỏi trên tổng số: 500 khách thể. Trong đó, tại Đại học Tân Trào nghiên cứu: 250 sinh viên, tại Đại học Sư phạm thuộc Đại học Thái Nguyên: 250 sinh viên. Luận án cũng tiến hành phỏng vấn sâu 50 giảng viên đại học của hai trường Đại học Tân Trào và Đại học Sư phạm thuộc Đại học Thái Nguyên. Khách thể nghiên cứu cho giai đoạn nghiên cứu thực tiễn được chúng tôi mô tả qua bảng số liệu sau:
Bảng 3.1: Tổng số khách thể sinh viên được nghiên cứu
TT Trường Giới tính Số lượng Dân tộc Số lượng Số lượng
Nam 105 Tày 160
250 1 Nữ 145 Kinh 90 Đại học Sư Phạm Thái Nguyên
250 Nam 95 Tày 140
Đại học Tân Trào 2 Nữ 155 Kinh 110
67
Trong phạm vi đề tài, chúng tôi nghiên cứu trên khách thể là sinh viên dân tộc Tày ở các tỉnh Đông Bắc và đang học năm thứ nhất và năm thứ 2 hệ đại học chính quy theo hình thức tập trung của trường Đại học Sư phạm, Đại học Thái Nguyên và trường Đại học Tân Trào, tỉnh Tuyên Quang. Tổng số sinh viên được nghiên cứu là: 500 sinh viên, trong đó chia đều cho 2 trường. Trường Đại học Tân Trào, tỉnh Tuyên Quang nghiên cứu 250 sinh viên, với 95 sinh viên nam và 155 sinh viên nữ. Trường Đại học Sư phạm, Đại học Thái Nguyên nghiên cứu 250 sinh viên, trong đó, 105 sinh viên nam và 145 sinh viên nữ. Trong tổng số 500 sinh viên hai trường được nghiên cứu chúng tôi lựa chọn 25 sinh viên dân tộc Tày năm thứ nhất và năm thứ 2 để phỏng vấn sâu. Chúng tôi tiến hành lựa chọn khách thể nghiên cứu ngẫu nhiên. Tại mỗi trường, lựa chọn 3 khoa để nghiên cứu, mỗi khoa chọn 02 lớp để nghiên cứu. Trong các lớp đó, lựa chọn các lớp có tỷ lệ sinh viên người dân tộc Kinh và sinh viên người dân tộc Tày được đối đều nhau về số lượng. 3.2. Nghiên cứu lý luận 3.2.1. Mục đích nghiên cứu lý luận
- Tổng quan các nghiên cứu ở Việt Nam và nước ngoài về vấn đề liên quan đến kỹ năng, giao tiếp, kỹ năng giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp của sinh viên dân tộc Tày
- Hệ thống hóa một số lý luận cơ bản liên quan đến vấn đề nghiên cứu của luận án như: các khái niệm (kỹ năng, giao tiếp, kỹ năng giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp của sinh viên dân tộc Tày); biểu hiện kỹ năng giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp của sinh viên dân tộc Tày; mức độ, tiêu chí, mức độ đánh giá kỹ năng giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp của sinh viên dân tộc Tày và các yếu tố ảnh hưởng đến kỹ năng giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp của sinh viên dân tộc Tày.
- Xây dựng khung lý thuyết cho vấn đề nghiên cứu, từ đó chỉ đạo việc xây dựng công cụ và tiến hành nghiên cứu về thực trạng kỹ giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp của sinh viên dân tộc Tày ở vùng Đông Bắc Việt Nam.
3.2.2. Nội dung nghiên cứu lý luận
- Phân tích, tổng hợp những công trình nghiên cứu của các tác giả ở Việt Nam và trên thế giới về kỹ năng, kỹ năng giao tiếp của sinh viên dân tộc Tày, nêu ra những hạn chế, tồn tại của các công trình nghiên cứu đó.
- Xác định các khái niệm công cụ liên quan đến vấn đề nghiên cứu.
68
- Dựa vào kết quả phân tích lý thuyết, xác định các yếu tố cần nghiên cứu, khảo sát trong thực tiễn như: Các nhóm kỹ năng, các thành phần của từng kỹ năng, phân tích một số yếu tố ảnh hưởng đến kỹ năng giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp của .sinh viên dân tộc Tày. 3.2.3. Phương pháp nghiên cứu lý luận
- Đề tài sử dụng phương pháp nghiên cứu văn bản tài liệu để nghiên cứu lý luận. Tác giả phân tích, tổng hợp, hệ thống hóa lý thuyết và công trình nghiên cứu của các tác giả Việt Nam và trên thế giới về các vấn đề có liên quan đến kỹ năng, giao tiếp, kỹ năng giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp của sinh viên dân tộc Tày.
- Việc nghiên cứu lý luận còn được dựa trên phương pháp lấy ý kiến chuyên gia nhằm tranh thủ kinh nghiệm của các nhà tâm lý học chuyên nghiên cứu về kỹ năng, giao tiếp, kỹ năng giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp của sinh viên dân tộc Tày để phân tích, đánh giá các kỹ năng thành phần cụ thể của đề tài. 3.3. Nghiên cứu thực tiễn 3.3.1. Mục đích nghiên cứu thực tiễn
-Khảo sát thực trạng biểu hiện và các mức độ kỹ giao tiếp trong hoạt động
học tập trên lớp của sinh viên dân tộc Tày.
-Khảo sát và phân tích thực trạng ảnh hưởng của một số yếu tố chủ quan và khách quan đến kỹ năng giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp của sinh viên dân tộc Tày. -Thực nghiệm tác động nhằm nâng cao kỹ năng giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp của sinh viên dân tộc Tày. 3.3.2. Các giai đoạn và phương pháp nghiên cứu thực tiễn 3.3.2.1. Giai đoạn thiết kế công cụ điều tra (bảng hỏi, phiếu điều tra, phiếu quan sát, phỏng vấn sâu, thảo luận nhóm)
a. Tìm hiểu các kỹ năng giao tiếp cần thiết của sinh viên dân tộc Tày trong
hoạt động học tập trên lớp * Mục đích: Tìm ra các kỹ năng giao tiếp trong hoạt động học tập cần thiết và quan trọng
nhất của sinh viên dân tộc Tày để nghiên cứu và xây dựng bảng hỏi.
* Phương pháp - Nghiên cứu tài liệu để có những thông tin cơ bản về kỹ năng giao tiếp trong
hoạt động học tập của sinh viên dân tộc Tày.
- Lấy ý kiến chuyên gia. * Cách tiến hành
69
- Phân tích, tổng hợp các công trình nghiên cứu trong và ngoài nước về kỹ
năng giao tiếp.
- Xin ý kiến tư vấn của các chuyên gia để chọn ra nhóm kỹ năng giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp của sinh viên dân tộc Tày và các biểu hiện cụ thể của từng kỹ năng.
b. Thiết kế bảng hỏi, phỏng vấn sâu, biên bản quan sát * Hình thành sơ bộ các nội hàm của bảng hỏi, phỏng vấn sâu, biên bản quan sát. * Phương pháp: Lấy ý kiến chuyên gia và các phương pháp nghiên cứu tài liệu * Cách tiến hành - Phân tích tổng hợp, khái quát hoá các vấn đề lí luận về giao tiếp, kỹ năng giao tiếp và kỹ năng giao tiếp của sinh viên dân tộc Tày từ các tài liệu trong nước và ngoài nước.
- Những thông tin thu thập được từ ý kiến của các chuyên gia. - Thăm dò bằng một số câu hỏi mở về: Biểu hiện của các nhóm kỹ năng giao
tiếp trong hoạt động học tập trên lớp của sinh viên dân tộc Tày.
Dựa vào cơ sở nói trên, chúng tôi đã xây dựng các bảng hỏi và trưng cầu ý
kiến bằng hoàn thiện câu như sau:
- Phiếu trưng cầu ý kiến số 1 (dành cho sinh viên) gồm 6 phần: Phần 1: Tìm hiểu thực trạng mức độ biểu hiện nhóm kỹ năng thiết lập các
mối quan hệ của sinh viên dân tộc Tày.
Phần 2: Tìm hiểu thực trạng mức độ biểu hiện nhóm kỹ năng giải quyết vấn
đề học tập trên lớp của sinh viên dân tộc Tày
Phần 3: Tìm hiểu thực trạng mức độ biểu hiện nhóm kỹ năng sử dụng
phương tiện giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp của sinh viên dân tộc Tày
Phần 4: Tìm hiểu thực trạng các yếu tố ảnh hưởng đến kỹ năng giao tiếp
trong hoạt động học tập trên lớp của sinh viên dân tộc Tày
Phần 5: Thông tin về bản thân sinh viên: Khoa, Trường, tỉnh, giới tính, tuổi,
thành tích học tập…
Phần 6: Thông tin về gia đình của sinh viên như nghề nghiệp của bố mẹ,
chức danh của bố mẹ, trình độ của bố mẹ. 3.3.2.2. Giai đoạn điều tra thử
* Mục đích Xác định độ tin cậy của các bảng hỏi để chỉnh sửa lại những câu hỏi, không
đạt yêu cầu và không phù hợp với đề tài nghiên cứu. *Phương pháp: Tiến hành khảo sát bằng bảng hỏi.
70
*Khách thể nghiên cứu: 100 sinh viên và 20 giảng viên. Xử lý số liệu điều tra thử: Số liệu đã thu thập được xử lý bằng phần mềm SPSS 21.0 với chỉ số độ tin cậy của bảng hỏi. Sử dụng kĩ thuật phân tích độ tin cậy bằng phương pháp phân tích hệ số Alpha của Cronbach và đo độ giá trị của thang đo trong phiếu trưng cầu ý kiến. * Phân tích độ tin cậy bằng phương pháp phân tích hệ số Alpha của Cronbach:
Phương pháp này nhằm đánh giá mức độ ổn định của các mệnh đề thể hiện từng biểu hiện cụ thể trong từng kỹ năng. Mỗi nội dung cần đo chúng tôi thiết kế thành các mệnh đề, mỗi mệnh đề có các mức độ đánh giá khác nhau dẫn đến những lựa chọn khác nhau. Alpha được tính toán dựa trên phương sai của từng mệnh đề đưa ra ở mỗi nội dung cần đo hoặc dựa trên tương quan của điểm từng mệnh đề với tổng điểm của mỗi nội dung cần đo.
Trên cơ sở so sánh hệ số Alpha tìm được, chúng tôi điều chỉnh các mệnh đề trong phiếu trưng cầu ý kiến. Khi bỏ đi một mệnh đề nào đó, nếu hệ số Alpha bị giảm đi thì mệnh đề đó được xem là có giá trị. Ngược lại, nếu hệ số Alpha tăng lên thì cần xem xét lại giá trị của mệnh đề, có thể loại bỏ hay chỉnh sửa nó để có được độ tin cậy như mong muốn.
Bảng 3.2: Kết quả độ tin cậy Alpha của các thang đo như sau:
Độ tin cậy
Nhóm kĩ năng thiết lập mối quan hệ 0,882
Nhóm kĩ năng giải quyết vấn đề học tập trên lớp 0,882
Nhóm kĩ năng sử dụng phương tiện giao tiếp Kĩ năng tìm hiểu đối tượng giao tiếp 0,878 0,891
Kĩ năng thể hiện sự tôn trọng đối tượng giao tiếp 0,885
Kĩ năng thể hiện sự hợp tác với đối tượng giao tiếp 0,887
Kĩ năng thể hiện sự trung thực đối với đối tượng giao tiếp 0,897
Kĩ năng diễn đạt nội dung học tập trên lớp 0,893
Kĩ năng lắng nghe Kĩ năng điều chỉnh cảm xúc bản thân 0,889 0,883
Kĩ năng sử dụng phương tiện giao tiếp bằng ngôn ngữ nói 0,886
Kĩ năng sử dụng phương tiện giao tiếp bằng ngôn ngữ viết 0,914
Kĩ năng sử dụng phương tiện giao tiếp phi ngôn ngữ 0,889
Thang đo kĩ năng giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp 0,831
Thang đo yếu tố ảnh hưởng đến kỹ năng giao tiếp 0,853
71
Kết quả phân tích cho thấy, trong các thang đo của bảng hỏi, các mệnh đề đều có nội dung phù hợp với từng miền đo. Các mệnh đề trong một yếu tố có tương quan cao với một thành phần cụ thể của miền đo. *Phân tích độ giá trị Chúng tôi chú ý đến độ giá trị về mặt nội dung của phiếu trưng cầu ý kiến nhằm xem xét phiếu hỏi có được thiết kế để đo đúng cái mà mong muốn hay không. Chúng tôi sử dụng phương pháp phân tích yếu tố để đạt mục tiêu này. Đó là phương pháp rút ngắn từ một số lượng lớn các biến số thành một số các yếu tố.Mỗi yếu tố là một cụm các biến số có liên hệ với nhau về nội dung, sử dụng kĩ thuật phân tích yếu tố để đánh giá tính đông nhất về nội dung. Qua đó nhận biết được những mệnh đề nào trong cùng yếu tố nhưng không phù hợp về nội dung với đa số mệnh đề khác để chỉnh sửa, loại bỏ khỏi hệ thống các mệnh đề trong phiếu trưng cầu ý kiến. 3.3.2.3. Giai đoạn điều tra chính thức
Triển khai các khảo sát qua điều tra bảng hỏi, phỏng vấn sâu, quan sát trực
tiếp và thảo luận nhóm
a. Điều tra bảng hỏi * Mục đích nghiên cứu: Khảo sát thực trạng kỹ năng giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp của sinh viên dân tộc Tày ở vùng Đông Bắc Việt Nam và một số yếu tố ảnh hưởng đên kỹ năng giao tiếp của sinh viên dân tộc Tày.
* Khách thể nghiên cứu: chúng tôi tiến hành nghiên cứu trên 500 sinh viên năm thứ nhất của 2 trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên và Đại học Tân Trào, trong đó chia đều cho 2 trường. Trường Đại học Tân Trào, tỉnh Tuyên Quang nghiên cứu: 250 sinh viên, với 95 sinh viên nam và 155 sinh viên nữ. Trường Đại học Sư phạm, Đại học Thái Nguyên nghiên cứu trên 250 sinh viên, trong đó, 105 sinh viên nam và 145 sinh viên nữ.
Chúng tôi tiến hành lựa chọn khách thể nghiên cứu ngẫu nhiên. Tại mỗi trường, lựa chọn 3 khoa để nghiên cứu, mỗi khoa chọn 02 lớp để nghiên cứu. Trong các lớp đó, lựa chọn các lớp có tỷ lệ sinh viên người dân tộc Kinh và sinh viên người dân tộc Tày được đối đều nhau về số lượng. Trong đó, tổng số sinh viên dân tộc Tày được nghiên cứu là: 300 sinh viên; tổng số sinh viên dân tộc Kinh được nghiên cứu là 200.
* Cách tiến hành: Trước khi phát bảng hỏi chúng tôi nói rõ mục đích, ý nghĩa của điều tra. Để đảm bảo tính chính xác, khách quan của điều tra, chúng tôi hướng dẫn cách thức trả lời cho các loại câu hỏi cũng như điền các thông tin cá nhân.
72
b. Phương pháp quan sát * Mục đích: Quan sát trực tiếp những hành vi, cử chỉ, lời nói, thái độ…của sinh viên dân tộc Tày trong hoạt động học tập trên lớp để thu được những thông tin định lượng, bổ sung cho kết quả khảo sát về thực trạng kỹ năng giao tiếp trong hoạt động học tập của sinh viên dân tộc Tày.
* Khách thể: Chúng tôi tiến hành quan sát trên 3 lớp thuộc Khoa Khoa học Tự nhiên - Kỹ thuật và Công nghệ và Khoa Khoa học Xã hội và Nhân văn tại Trường Đại học Tân Trào, tỉnh Tuyên Quang và 3 lớp thuộc Khoa Giáo dục Mầm non, Khoa Toán tại Trường Đại học Sư phạm, Đại học Thái Nguyên.
* Cách tiến hành: Để quá trình quan sát được thuận lợi và khách quan, chúng tôi quan sát với vai trò là người dự giờ. Chúng tôi có sử dụng camera ghi hình hỗ trợ cho quá trình quan sát. Ghi biên bản quan sát từng cuộc tiếp xúc của sinh viên dân tộc Tày.
c. Phương pháp phỏng vấn sâu * Mục đích: Thu thập, bổ sung thêm thông tin định tính về kỹ năng giao
tiếp trong hoạt động học tập trên lớp của sinh viên dân tộc Tày.
* Khách thể: 25 sinh viên dân tộc Tày năm thứ nhất và năm thứ 2, 50 giảng
viên của hai trường đại học được nghiên cứu.
* Nội dung: Phỏng vấn về thực trạng kỹ năng giao tiếp của sinh viên dân
tộc Tày trong hoạt động học tập trên lớp và các yếu tố ảnh hưởng đến nó.
* Cách tiến hành: Nội dung phỏng vấn được chuẩn bị trước một cách rõ ràng, chi tiết theo các mảng vấn đề mà đề tài nghiên cứu. Sau đó gặp từng người để phỏng vấn về các câu hỏi đã được chuẩn bị trước đó. Khách thể được trả lời tự do theo những câu hỏi mở, gợi ý. Tạo ra tâm lý thoải mái đối với khách thể trong quá trình phỏng vấn.
3.3.3. Phương pháp xử lý số liệu và các thang đánh giá 3.3.3.1. Phương pháp xử lý số liệu nghiên cứu
Số liệu thu được sau khảo sát thực tiễn được xử lý bằng phần mềm SPSS phiên bản 21.0. Sử dụng các phép toán thống kê làm cơ sở cho việc tiến hành xử lý số liệu nghiên cứu.
* Phương pháp Phân tích thống kê mô tả Trong đề tài, các chỉ số được dùng trong phân tích thống kê mô tả gồm: - Độ lệch chuẩn được dùng để mô tả mức độ phân tán hay tập trung của các
câu trả lời được lựa chọn.
73
- Tần suất và chỉ số phần trăm phương án trả lời câu hỏi đóng, câu hỏi mở - Điểm trung bình cộng (Mean) dùng để tính điểm đạt được của từng mệnh đề, từng nội dung của mỗi kỹ năng và toàn bộ nhóm kỹ năng giao tiếp của sinh viên dân tộc Tày được nghiên cứu trong đề tài.
* Phương pháp phân tích thống kê suy luận Trong đề tài, các phép thống kê suy luận được sử dụng gồm: - Phân tích tương quan nhị biến: Dùng để xác định mức độ liên hệ giữa các thành phần của kỹ năng, giữa các kỹ năng với nhau. Trong đề tài, chúng tôi dùng hệ số tương quan Pearson hoặc Spearman (r). Hệ số này có giá trị từ ( - 1) đến (+ 1). Giá trị này cho biết độ mạnh và hướng của mối liên hệ. Giá trị dương (r >0) có nghĩa là chúng có mối liên hệ thuận. Giá trị âm (r <0) là thể hiện mối quan hệ nghịch. r = 0 thì hai biến số đó không có mối liên hệ.
- Phân tích hồi quy: Chúng tôi dùng để xác định mức độ ảnh hưởng của các yếu
tố đến kỹ năng giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp của sinh viên dân tộc Tày.
- Phân tích so sánh: Chúng tôi chủ yếu sử dụng phép so sánh giá trị trung bình (compare mean). Các giá trị trung bình được coi là khác nhau có ý nghĩa về mặt thống kê khi xác suất p< 0.05. Để so sánh hai nhóm, chúng tôi sử dụng phép kiểm định T về độc lập giữa hai mẫu (T-Test).
* Cách tính toán điểm số trong bảng hỏi: Để đánh giá mức độ kỹ năng giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp của sinh viên dân tộc Tày, chúng tôi cho điểm theo 5 mức độ trả lời như sau:
Rất tán thành: 5 điểm Tương đối tán thành: 4 điểm Tán thành một phần: 3 điểm Không tán thành: 2 điểm Rất không tán thành: 1 điểm 3.3.3.2. Xử lý số liệu nghiên cứu định tính
Các thông tin mà chúng tôi thu thập được từ phương pháp quan sát, phỏng vấn sâu dùng để minh hoạ, hỗ trợ cho việc diễn giải và biện luận các số liệu thu được từ xử lý số liệu định lượng và thực nghiệm tác động.
3.3.4. Tiêu chí và thang đánh giá 3.3.4.1. Tiêu chí đánh giá
Để đánh giá chính xác mức độ thực hiện kỹ năng giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp của sinh viên dân tộc Tày, chúng tôi kết hợp các tiêu chí
74
định lượng là điểm trung bình và định tính là tính là tính đầy đủ, tính thành thục và tính linh hoạt.
* Căn cứ vào điểm trung bình: Đây là tiêu chí đánh giá định lượng biểu hiện và mức độ các nhóm kỹ năng giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp của sinh viên dân tộc Tày. Chúng tôi căn cứ vào kết quả thu được từ các công cụ điều tra chính là bảng hỏi.
* Căn cứ vào các tiêu chí của kỹ năng: để đánh giá định tính thực trạng biểu hiện và mức độ kỹ giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp của sinh viên dân tộc Tày, mỗi nhóm kỹ năng được đánh giá trên 3 tiêu chí là: tính đúng đắn, tính thuần thục và tính linh hoạt. Những tiêu chí này được sử dụng để đánh giá kết quả thu được từ các phương pháp điều tra bằng bảng hỏi, quan sát, phỏng vấn sâu. 3.3.4.2. Thang đánh giá
Đánh giá kỹ năng giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp của sinh viên
- Mức rất thấp: Thực hiện không chính xác, lúng túng, bỏ xót nhiều thao tác,
dân tộc Tày được xây dựng dựa trên 5 mức: biểu hiện
- Mức thấp: Thực hiện lúng túng, hay mắc lỗi hoặc không chính xác, thiếu
- Mức trung bình: Thực hiện đầy đủ các thao tác, biểu hiện của từng kỹ năng,
- Mức tương đối cao: Thực hiện đầy đủ, chính xác các thao tác, biểu hiện của
- Mức cao: Thực hiện đầy đủ, rất thành thạo và linh hoạt các thao tác, biểu
- Điểm quy ước định lượng được tính như sau: + Thực hiện không chính xác, lúng túng: 1 điểm + Thực hiện chính xác nhưng thiếu linh hoạt: 2 điểm + Thực hiện chính xác, nhanh chóng, tương đối linh hoạt: 3 điểm Thực hiện chính xác, nhanh chóng, linh hoạt, đúng thời điểm thích hợp: 4 điểm + Thực hiện rất chính xác, nhanh chóng, linh hoạt, luôn đúng thời điểm thích
Điểm cao trung bình cao nhất là 5 và thấp nhất là 1. Điểm trung bình càng
thao tác, biểu hiện, chưa thành thạo và linh hoạt tương đối thành thạo và linh hoạt từng kỹ năng, thành thạo và linh hoạt hiện của từng kỹ năng. hợp: 5 điểm cao mức độ thực hiện các kỹ năng càng tốt. Các mức độ của thang đo:
75
- Mức cao: 5≥ ĐTB > (ĐTB + 2SD) - Mức tương đối cao: (ĐTB + 2SD)≥ ĐTB > (ĐTB + 1SD) - Mức trung bình: (ĐTB – 1SD) ≥ ĐTB > (ĐTB + 1SD) - Mức thấp: (ĐTB - 1SD) ≥ ĐTB > (ĐTB - 2SD) - Mức rất thấp: (ĐTB - 2SD) ≥ ĐTB > 1
Dựa trên cách đánh giá trên, chúng tôi đánh giá và phân loại các mức thực hiện kỹ năng giao tiếp của sinh viên dân tộc Tày căn cứ vào nghiên cứu thực tiễn trong đề tài với số điểm trung bình chung của toàn thang đo là 3.31, độ lệch chuẩn 0.20.
Thang đánh giá như sau: - Mức cao: 5 ≥ ĐTB > 3.71 - Mức tương đối cao: 3.71 ≥ ĐTB > 3.51 - Mức trung bình: 3.51 ≥ ĐTB > 3.11 - Mức thấp: 3.11 ≥ ĐTB > 2.91 - Mức rất thấp: 2.91 ≥ ĐTB > 1
Thang đánh giá mức độ ảnh hưởng của các yếu tố tác động đến kỹ năng giao trên lớp học của sinh viên dân tộc Tày:
76
+ Không ảnh hưởng: 1 điểm + Rất ít ảnh hưởng: 2 điểm + Ít ảnh hưởng: 3 điểm + Tương đối ảnh hưởng: 4 điểm + Rất ảnh hưởng: 5 điểm
3.4. Thực nghiệm tác động
3.4.1. Mục đích của thực nghiệm
Thông qua việc tập huấn kỹ năng giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp
bằng ngôn ngữ nói cho 25 sinh viên dân tộc Tày năm thứ nhất, khoa Khoa học xã
hội và Nhân văn, trường Đại học Tân Trào, nâng cao trình độ của các nhóm kỹ năng
thiết lập mối quan hệ; giải quyết các vấn đề học tập trên lớp; sử dụng hiệu quả các
phương tiện học tập trên lớp. Thực nghiệm còn góp phần đánh giá và kiểm nghiệm
tính đúng đắn của các biện pháp tác động.
3.4.2. Biện pháp thực nghiệm
Chúng tôi tiến hành thực nghiệm bằng 01 biện pháp: Tập huấn cho sinh viên
dân tộc Tày kỹ năng giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp bằng ngôn ngữ nói.
2.2.3.4. Giả thuyết thực nghiệm
Các biện pháp tác động tâm lý - sư phạm trên góp phần nâng cao kỹ năng giao tiếp
trong hoạt động học tập trên lớp cho sinh viên dân tộc Tày.
Chúng tôi thực nghiệm biện pháp tác động này trên 25 sinh viên dân tộc Tày
năm thứ nhất, khoa Khoa học Xã hội và Nhân văn, trường Đại học Tân Trào và đối
chứng trên 24 sinh viên dân tộc Tày, năm thứ nhất, khoa Giáo dục Mầm non, trường
Đại học Sư phạm, Đại học Thái Nguyên.
2.2.3.5. Khách thể thực nghiệm
2.2.3.6. Thời gian thực nghiệm tác động
Chúng tôi tổ chức thực hiện thực nghiệm tác động từ tháng 9/2015 đến tháng
2/2016.
2.2.3.7. Nội dung biện pháp thực nghiệm tác động
* Cách thực hiện: Biện pháp được áp dụng trên nhóm nhỏ sinh viên. Mỗi nhóm
khoảng 5 - 7 sinh viên dân tộc Tày cùng với 2 giảng viên và 1 tập huấn viên. Giảng
viên và sinh viên thật thoái mái trong môi trường giảng đường và thực hiện bài tập
tuần tự qua các bước:
77
- Nhấn mạnh cần mỗi chủ đề cần có ít nhất mấy lượt lời nói, của ai, cụ thể là
- Bước 2: Tập huấn viên làm mẫu, thực hiện các lời nói mẫu; sinh viên nghe,
- Bước 3: 01 tập huấn viên và 01 sinh viên dân tộc Tày làm mẫu, thực hiện
- Bước 4: 02 sinh viên làm mẫu, thực hiện các lời nói mẫu; giảng viên và các
- Bước 2: Gặp một số giảng viên có nhiều kinh nghiệm giảng dạy, hiện đang
Bước 1: - Tập huấn viên giáo viên giới thiệu về chủ đề rèn luyện kỹ năng nói qua việc thực hiện các nhóm kỹ năng thiết lập mối quan hệ; giải quyết các vấn đề học tập trên lớp; sử dụng hiệu quả các phương tiện học tập trên lớp. những lời nói nào; quan sát; ghi chép. các lời nói mẫu; các sinh viên và giảng viên còn lại quan sát; sinh viên còn lại quan sát, nhận xét. - Bước 5: Tập huấn viên chia sinh viên và giảng viên thành các nhóm để tập luyện kỹ năng nói qua các tình huống cụ thể để thiết lập mối quan hệ; giải quyết các vấn đề học tập trên lớp; sử dụng hiệu quả các phương tiện học tập trên lớp. Đồng thời, nhận xét, đánh giá và động viên sinh viên khi các em tiến hành thực hiện kỹ năng nói trong các tình huống giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp. (khi trẻ nói và làm * Nội dung cụ thể: được trình bày tại phụ lục. 2.2.3.8. Cách thực hiện biện pháp thực nghiệm - Bước 1: Gặp gỡ, làm việc với Ban giám hiệu Trường Đại học Tân Trào, xin ý kiến về thời gian, giảng viên, sinh viên cách tiến hành thực nghiệm và một số công việc khác liên quan đến quá trình tổ chức thực nghiệm. Được sự đồng ý của Ban giám hiệu, chúng tôi đã chọn sinh viên năm thứ nhất khoa Khoa Xã hội và Nhân văn của trường để triển khai biện pháp thực nghiệm. Chúng tôi lựa chọn 3 giảng viên viên lớp thực nghiệm và đối chứng tương đương nhau về giới tính (nữ), trình độ (Thạc sỹ), dân tộc (Kinh), độ tuổi 35-40. phụ trách khoa, để tiến hành xây dựng và hoàn thiện giáo án. - Bước 3: Nói rõ mục đích thực nghiệm cho 3 giảng viên viên, tổ chức tập huấn cho giảng viên thực hiện các kỹ năng nói trong các tình huống giao tiếp cụ thể trên lớp học (Các tình huống liên quan tới thiết lập mối quan hệ; giải quyết các vấn đề học tập trên lớp; sử dụng hiệu quả các phương tiện học tập trên lớp).
78
- Bước 4: Sau khi tất cả sinh viên của nhóm thực nghiệm đều được tập huấn các nội dung thực nghiệm, chúng tôi tổ chức quan sát và ghi hình để đánh giá kỹ năng giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp bằng ngôn ngữ nói ở lớp thực nghiệm và đối chứng theo các tiêu chí và thang đánh giá tương tự như khi khảo sát thực trạng.
Tiểu kết chương 3
Các số liệu được xử lý theo phương pháp định lượng và định tính, đảm bảo
Những cơ sở trên cho phép nghiên cứu thu nhận được những kết quả mang
Việc tổ chức nghiên cứu được tổ chức theo chu trình khoa học và chặt chẽ với sự phối hợp của nhiều phương pháp nghiên cứu khác nhau: nghiên cứu tài liệu, điều tra bằng bảng hỏi, quan sát, phỏng vấn sâu, phương pháp chuyên gia, thực nghiệm. Các phương pháp này bổ sung, hỗ trợ lẫn nhau giúp cho kết quả nghiên cứu được đầy đủ và chính xác trên nhiều bình diện. độ tin cậy và khoa học cho các kết luận của đề tài. tính khách quan và tính khoa học cao.
79
Chương 4 THỰC TRẠNG KỸ NĂNG GIAO TIẾP TRONG HOẠT ĐỘNG HỌC TẬP TRÊN LỚP CỦA SINH VIÊN DÂN TỘC TÀY VÙNG ĐÔNG BẮC VIỆT NAM 4.1. Thực trạng kỹ năng giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp của sinh viên dân tộc Tày 4.1.1. Đánh giá chung về thực trạng kỹ năng giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp của sinh viên dân tộc Tày
Chúng tôi nghiên cứu kỹ năng giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp của sinh viên dân tộc Tày thể hiện ở 3 nhóm kỹ năng lớn: kỹ năng thiết lập các mối quan hệ; kỹ năng giải quyết vấn đề học tập trên lớp; kỹ năng sử dụng các phương tiện giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp. Kỹ năng giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp của sinh viên dân tộc Tày được thể hiện ở bảng số liệu sau: Bảng 4.1: Mức độ thực hiện kỹ năng giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp
của sinh viên dân tộc Tày
Sinh viên tự đánh giá
Các nhóm kỹ năng
ĐTB
ĐLC
Mức độ
1. Nhóm kỹ năng thiết lập các mối quan hệ
3.27
0.36
Trung bình
2. Nhóm kỹ năng giải quyết vấn đề học tập trên lớp
3.30
0.36
Trung bình
3. Nhóm kỹ năng sử dụng các phương tiện giao tiếp
3.35
0.45
Trung bình
trong hoạt động học tập trên lớp
Điểm trung bình
3.31
0.20 Trung bình
Ghi chú: Mức cao: 5 ≥ ĐTB > 3.71; Mức tương đối cao: 3.71 ≥ ĐTB > 3.51; Mức trung bình: 3.51 ≥ ĐTB > 3.11; Mức thấp: 3.11 ≥ ĐTB > 2.91; Mức rất thấp: 2.91 ≥ ĐTB > 1.
Nhận xét chung: Phân tích bảng 4.1 cho thấy, kỹ năng giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp của sinh viên dân tộc Tày ở mức trung bình (ĐTB chung của toàn thang đo là 3.31, ĐLC = 0.20). Trong đó:
Xét theo các nhóm kỹ năng thành phần: nhóm kỹ năng sử dụng các phương tiện giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp có điểm trung bình cao hơn các nhóm kỹ năng còn lại (ĐTB chung của toàn thang đo là 3.35, ĐLC = 0.45). Sinh viên dân tộc Tày được nghiên cứu còn gặp khó khăn khi thực hiện các kỹ năng thành phần trong nhóm kỹ năng thiết lập các mối quan hệ.
80
Xét chung kết quả nghiên cứu từ các phương pháp nghiên cứu định tính: Kết
quả nghiên cứu từ các phương pháp nghiên cứu định tính (quan sát, phỏng vấn sâu)
cũng cho thấy kết quả tương đồng. Kỹ năng giao tiếp trong hoạt động học tập trên
lớp của sinh viên dân tộc Tày đạt mức độ trung bình. Sinh viên dân tộc Tày được
nghiên cứu đã có các kỹ năng này, sinh viên đã thực hiện đúng các kỹ năng tuy
nhiên chưa thật thành thạo và linh hoạt khi thực hiện từng nhóm kỹ năng thành phần
thuộc kỹ năng này.
Nhận xét chung khi so sánh theo các biến số:
Bảng 4.2: Mức độ thực hiện kỹ năng giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp của
sinh viên dân tộc Tày so sánh theo các biến số giới tính, dân tộc, năm học
Các biến số so sánh Giới T – Mức ý N ĐTB ĐLC tính test nghĩa
1.So sánh kỹ năng giao tiếp Nam 241 3,09 0,47
giữa nam sinh viên và nữ -13.5 0.00 Nữ 259 3,63 0,43 sinh viên
2.So sánh kỹ năng giao tiếp Kinh 200 3,46 0,71
2.96 0.00 giữa sinh viên dân tộc Tầy Tày 300 3,30 0,31 và sinh viên dân tộc Kinh
3.So sánh kỹ năng giao tiếp Năm thứ 247 3,19 0,51 giữa sinh viên năm thứ nhất nhất -8.09 0.00 và sinh viên năm thứ hai Năm 253 3,55 0,47 thứ hai
Số liệu bảng 4.2 cho thấy, có sự khác biệt có ý nghĩa về mặt thống kê khi so
sánh kỹ năng giao tiếp của sinh viên dân tộc Tày được nghiên cứu qua các biến số
giới tính, dân tộc, năm học. Trong đó, sự khác biệt thể hiện rõ nhất khi so sánh theo
biến số giới tính (sig = 0.00, T = -13,5). Trong đó, kỹ năng giao tiếp của nữ sinh
viên dân tộc Tày cao hơn sinh viên nam dân tộc Tày. So sánh theo biến số dân tộc
(sinh viên dân tộc Tày và sinh viên dân tộc kinh) cho thấy sự khác biệt ít nhất so với
2 biến số giới tính và năm học.
81
4.1.2. Thực trạng mức độ thực hiện các kỹ năng thành phần thuộc kỹ năng giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp của sinh viên dân tộc Tày 4.1.2.1. Thực trạng mức độ thực hiện nhóm kỹ năng thiết lập các mối quan hệ trong hoạt động học tập trên lớp của sinh viên dân tộc Tày
Kỹ năng thiết lập mối quan hệ trong hoạt động học tập trên lớp của sinh viên dân tộc Tày được chúng tôi tìm hiểu trên 4 khía cạnh: kỹ năng tìm hiểu đối tượng giao tiếp; kỹ năng thể hiện sự tôn trọng đối tượng giao tiếp; kỹ năng thể hiện sự hợp tác với đối tượng giao tiếp; kỹ năng thể hiện sự trung thực với đối tượng giao tiếp. Kết quả nghiên cứu về vấn đề này được chúng tôi tổng hợp ở biểu đồ dưới đây:
ĐTB: Điểm trung bình ĐLC: Độ lệch chuẩn KNTH: Kỹ năng tìm hiểu đối tượng giao tiếp KNTT: Kỹ năng thể hiện sự tôn trọng KNHT: Kỹ năng thể hiện sự hợp tác KNTrTh: Kỹ năng thể hiện sự trung thực KNTL: Kỹ năng thiết lập mối quan hệ
Ghi chú: Mức cao: 5 ≥ ĐTB > 3.71; Mức tương đối cao: 3.71 ≥ ĐTB > 3.51; Mức trung bình:
3.51 ≥ ĐTB > 3.11; Mức thấp: 3.11 ≥ ĐTB > 2.91; Mức rất thấp: 2.91 ≥ ĐTB > 1.
Biểu đồ 4.1: Mức độ thực hiện nhóm kỹ năng thiết lập các mối quan hệ trong hoạt động học tập trên lớp của sinh viên dân tộc Tày
Nhận xét chung: Phân tích biểu đồ 4.1 cho thấy, mức độ thực hiện kỹ năng thiết lập các mối quan hệ trong hoạt động học tập trên lớp của sinh viên dân tộc Tày đạt ở mức độ trung bình (ĐTB 3.27; ĐLC = 0.36). Điều này có nghĩa là sinh viên
82
dân tộc Tày đã thực hiện đúng các kỹ năng thành phần thuộc nhóm kỹ năng này. Tuy nhiên, chưa có sự linh hoạt, mềm dẻo khi thực hiện các kỹ năng thành phần.
Nhận xét theo các kỹ năng thành phần thuộc nhóm kỹ năng thiết lập các mối quan hệ trong hoạt động học tập trên lớp của sinh viên dân tộc Tày: Kết quả nghiên cứu cho thấy, sinh viên dân tộc Tày được nghiên cứu có kỹ năng ”thể hiện trung thực trong giao tiếp với giảng viên và sinh viên trong hoạt động học tập trên lớp” tốt nhất so với 3 kỹ năng thành phần còn lại. Kỹ năng ”tìm hiểu đối tượng giao tiếp” là kỹ năng sinh viên thực hiện yếu nhất. Dưới đây, chúng tôi sẽ đi sâu phân tích cụ thể từng kỹ năng thành phần thuộc nhóm kỹ năng này.
- Kỹ năng tìm hiểu đối tượng giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp của
sinh viên dân tộc Tày
Hiểu về đối tượng giao tiếp là “chiến lược” không những giúp thuận lợi trong việc khởi tạo mối quan hệ mà còn tạo nên sự gắn kết hơn giữa những đối tượng giao tiếp. Kết quả nghiên cứu về vấn đề này được chúng tôi tổng hợp tại bảng số liệu dưới đây:
Bảng 4.3. Mức độ thực hiện kỹ năng tìm hiểu đối tượng giao tiếp
Kỹ năng tìm hiểu đối tượng giao tiếp ĐTB ĐLC Thứ bậc Mức độ
3.20 0.75 2 Trung bình 1. Chủ động đặt những câu hỏi để thăm dò nhu cầu, sở thích của các bạn sinh viên và giảng viên để có cách ứng xử phù hợp
3.03 0.66 4 Thấp
2. Chủ động đặt những câu hỏi để thăm dò quan điểm sống của sinh viên và giảng viên để có cách ứng xử phù hợp
3.15 0.73 3 Trung bình 3. Chủ động đặt những câu hỏi để thăm dò tính cách của sinh viên và giảng viên để có cách ứng xử phù hợp
1 3.29 0.70 Trung bình 4. Nhớ tên thầy cô giáo và bạn bè để tạo được ấn tượng và thiện cảm
Điểm trung bình 3.17 0.68
Trung bình Ghi chú: Mức cao: 5 ≥ ĐTB > 3.71; Mức tương đối cao: 3.71 ≥ ĐTB > 3.51; Mức trung bình: 3.51 ≥ ĐTB > 3.11; Mức thấp: 3.11 ≥ ĐTB > 2.91; Mức rất thấp: 2.91 ≥ ĐTB > 1.
83
Phân tích bảng số liệu trên, cho ta thấy “Kỹ năng tìm hiểu đối tượng giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp của sinh viên dân tộc Tày”, chỉ đạt ở mức độ trung bình (ĐTB = 3.17; ĐLC = 0,68). Đây là kỹ năng thành phần có điểm trung bình thấp nhất trong bốn kỹ năng thuộc nhóm kỹ năng thiết lập mối quan hệ trong hoạt động học tập trên lớp của sinh viên dân tộc Tày. Kết quả nghiên cứu này cho thấy sinh viên dân tộc Tày đã có kỹ năng tìm hiểu đối tượng giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp, sinh viên dân tộc Tày thực hiện đúng các kỹ năng. Tuy nhiên, mức độ thuần thục và linh hoạt khi thực hiện các kỹ năng này trong các hoạt động giao tiếp cụ thể trong hoạt động học tập còn chưa tốt. Xét 4 biểu hiện trong kỹ năng này cho thấy có sự khác nhau về mức độ thực hiện. Trong đó, “Nhớ tên thầy cô giáo và bạn bè để tạo được ấn tượng và thiện cảm” có mức độ thực hiện tốt nhất (ĐTB = 3,29) và “Chủ động đặt những câu hỏi để thăm dò nhu cầu, sở thích của các bạn sinh viên và giảng viên để có cách ứng xử phù hợp” (ĐTB =3.20); kỹ năng có mức độ thực hiện thấp nhất trong số 4 kỹ năng thành phần thuộc nhóm kỹ năng này là kỹ năng “Chủ động đặt những câu hỏi để thăm dò quan điểm sống của sinh viên và giảng viên để có cách ứng xử phù hợp” (ĐTB = 3,03). Có thể nói, kỹ năng “Nhớ tên thầy cô giáo và bạn bè” và kỹ năng “Chủ động đặt những câu hỏi để thăm dò nhu cầu, sở thích của các bạn sinh viên và giảng viên để có cách ứng xử phù hợp”, là những kỹ năng thành phần được sinh viên thực hiện tốt nhất trong số các kỹ năng xem xét. Như vậy, để tìm hiểu đối tượng giao tiếp sinh viên dân tộc Tày được nghiên cứu đã biết tạo được ấn tượng và thiện cảm đối với thầy cô và bạn bè bằng cách nhớ tên và gọi tên đối tượng khi giao tiếp và bằng cách hiểu rõ nhu cầu, sở thích của giảng viên và sinh viên để có cách ứng xử phù hợp trong quá trình giao tiếp. Kết quả nghiên cứu định tính (phương pháp phỏng vấn sâu, phương pháp quan sát) của đề tài luận án cũng cho thấy kết quả tương đồng. Khi được hỏi về ý nghĩa của việc nhớ tên của thầy cô và bạn bè, bạn Đ.Tr cho rằng: “Nhớ tên của người mà mình giao tiếp cũng rất quan trọng, cái tên không chỉ để gọi, mà việc gọi ra tên người đó còn cho thấy bạn không quên họ. Ngay đối với bản thân em, em sẽ cảm thấy không vui, và một chút cảm giác như thể có vẻ mình không có dấu ấn gì khi một ai đó quên tên em, hay gọi là “bạn gì ơi!” dù cho đã gặp một vài lần” (SV Đ.Tr. trường Đại học Tân Trào).
84
Sự tích cực trong việc thực hiện kỹ năng này của sinh viên dân tộc Tày thể hiện ở việc các bạn chủ động trong việc tìm hiểu và ghi nhớ tên của thầy cô và bạn bè, P.Th chia sẻ: “Em biết tên của các bạn bằng cách nghe người khác gọi tên bạn ý, rồi em nhớ để em gọi lần sau chứ không phải hỏi bạn ý tên gì nữa, em cũng dễ quên tên mọi người nên em thường ghi lại”.
Bên cạnh đó, một số sinh viên được nghiên cứu vẫn chưa thật sự linh hoạt khi thực hiện kỹ năng “Nhớ tên thầy cô giáo và bạn bè” và “Chủ động đặt những câu hỏi để thăm dò nhu cầu, sở thích của các bạn sinh viên và giảng viên để có cách ứng xử phù hợp”. Trả lời phỏng vấn, em M.T.L cho biết “Em chỉ hay gọi tên những giáo viên dạy em, còn những giáo viên không dạy em không quan tâm đến tên của thầy cô”.
Sinh viên Đ.H chia sẻ: “Chúng em luôn tìm những bạn có cùng sở thích chủ đề để
làm việc nhóm với nhau, như vậy mới có hiệu quả”.
Thầy giáo Tr.V.M. chia sẻ: “Sinh viên dân tộc Tày bây giờ giao tiếp rất tốt. Nhiều khi, tôi cũng bất ngờ vì các em biết tên của mình, hiểu tương đối rõ về sở thích, tính cách
rồi thậm chí về chuyên môn của mình”. Thầy giáo Tr.V.M. trường ĐH Tân Trào”.
Cô giáo V.Ph.L. chia sẻ: “Các em sinh viên dân tộc Tày mà tôi được biết giao tiếp tương đối tốt, các em có ưu điểm là giao tiếp rất chân thành, tạo cho người giao tiếp cùng
cảm giác thoải mái, tin tưởng. Các em cũng đã biết chủ động giao tiếp với thầy cô và bạn
bè, biết gợi mở những nội dung giao tiếp phù hợp với nhu cầu, sở thích của thầy cô và các
bạn,…”, Cô giáo V.Ph.L. trường Đại học Sư phạm, Đại học Thái Nguyên.
Khi phỏng vấn sâu các thầy cô giáo của hai trường đại học được nghiên cứu đang trực tiếp giảng dạy sinh viên dân tộc Tày cũng cho thấy rõ những nhận định, đánh giá của chúng tôi về kỹ năng giao tiếp này của sinh viên dân tộc Tày được nghiên cứu là có cơ sở, phù hợp với thực tiễn hoạt động giao tiếp của các em. Dưới đây, chúng ta hãy nghe những chia sẻ và đánh giá của thầy cô giáo về kỹ năng giao tiếp này của sinh viên dân tộc Tày.
Kết quả nghiên cứu từ phương pháp quan sát trực tiếp cũng cho thấy kết quả tương đồng. So với các kỹ năng thành phần thuộc nhóm kỹ năng này thì kỹ năng tìm hiểu đối tượng giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp của sinh viên dân tộc Tày được sinh viên dân tộc Tày thực hiện đúng nhất, các em khá thành thạo khi sử dụng kỹ năng và đã có sự linh hoạt khi thực hiện các hoạt động giao tiếp cụ thể. Các em sinh viên này đều rất chủ động và khéo léo đặt những câu hỏi để tìm hiểu về nhu cầu, sở thích của các bạn sinh viên và giảng viên để có cách ứng xử phù hợp khi giao tiếp. Khi giao tiếp với giảng viên, sinh viên dân tộc Tày thường xuyên có
85
những câu hỏi rất khéo léo “Cô giáo ạ, sinh viên chúng em thường thích nói chuyện về thời trang, về tình yêu, về nghề nghiệp tương lai, về cách ứng xử với bạn bè, thầy cô và mọi người trong xã hội. Chủ đề nói chuyện của các thầy cô thường là về những gì ạ”, hay “Em rất thích mặc đồ, áo sơ mi mầu trắng, còn cô thích mặc mầu gì ạ”, “Cô mặc chiếc váy này đẹp, lịch sự và phù hợp với cô quá ạ”,… Quan sát các giảng viên thực hiện hoạt động giao tiếp cùng sinh viên dân tộc Tày cũng cho thấy, giảng viên tỏ ra rất vui và hào hứng khi nói chuyện với các em sinh viên dân tộc Tày. Điều này chứng tỏ, sinh viên dân tộc Tày được nghiên cứu đã biết tìm hiểu nhu cầu, sở thích của thầy cô và biết gợi câu chuyện đúng với nhu cầu và sở thích đó khi giao tiếp với thầy cô. Bên cạnh 2 kỹ năng thành phần có ĐTB cao nhất nêu trên, thì kỹ năng “Chủ động đặt những câu hỏi để thăm dò quan điểm sống của sinh viên và giảng viên để có cách ứng xử phù hợp” là kỹ năng được sinh viên thực hiện ở mức thấp, và có số ĐTB thấp nhất so với những kỹ năng được nghiên cứu thuộc nhóm kỹ năng này (ĐTB = 3.03). Như vậy, để tìm hiểu đối tượng giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp thì sinh viên dân tộc Tày thường vận dụng kỹ năng nhớ tên thầy cô giáo và bạn bè và kỹ năng chủ động đặt những câu hỏi để thăm dò nhu cầu, sở thích của các bạn sinh viên và giảng viên để có cách ứng xử phù hợp mà chưa chú ý nhiều đến việc chủ động đặt những câu hỏi để thăm dò quan điểm sống của sinh viên và giảng viên để có cách ứng xử phù hợp. Kết quả phỏng vấn sâu của đề tài luận án cũng sẽ giúp lý giải thêm kết quả nghiên cứu định lượng này. Qua phỏng vấn sâu có thể thấy, sinh viên dân tộc Tày không quá quan tâm đến quan điểm sống của đối tượng giao tiếp, một số sinh viên chia sẻ: “Không biết phải hỏi thế nào để biết được quan điểm sống của người khác, và các em cho rằng việc để hiểu được quan điểm sống của người khác cần thời gian tiếp xúc với họ”. Tuy nhiên, bên cạnh đó cũng có những sinh viên cho rằng việc hiểu về quan điểm sống của người khác sẽ giúp rất nhiều trong việc ứng xử phù hợp và quyết định mức độ thân mật của mối quan hệ. Bạn Đ.Tr chia sẻ: “Em thường quan tâm xem bạn bè em có tư tưởng, quan điểm sống giống em hay không, phải cùng tần số với nhau thì mới chơi được, còn không chỉ là bạn xã giao thôi, có những bạn cùng tần số với mình thì cả chơi và làm việc nhóm với các bạn đều rất thích”. Sinh viên Tr.Đ chia sẻ: “Nhiều khi hỏi các bạn sinh viên về quan điểm sống đã rất khó rồi chứ nói gì tới việc hỏi giảng viên của mình về vấn đề đó,…”.
86
Như vậy, kỹ năng tìm hiểu đối tượng giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp của sinh viên dân tộc Tày chưa thật sự đầy đủ nhưng đã có sự thành thạo và hợp lý nhất định. Sinh viên dân tộc Tày đã quan tâm đến kỹ năng nhớ tên thầy cô giáo và bạn bè để tạo được ấn tượng và thiện cảm và kỹ năng chủ động đặt những câu hỏi để thăm dò nhu cầu, sở thích của các bạn sinh viên và giảng viên để có cách ứng xử phù hợp. Bên cạnh đó, kỹ năng chủ động đặt những câu hỏi để thăm dò quan điểm sống của sinh viên và giảng viên để có cách ứng xử phù hợp chưa được sinh viên dân tộc Tày thực sự quan tâm.
- Kỹ năng thể hiện sự tôn trọng đối tượng giao tiếp của sinh viên dân tộc Tày Bảng 4.4. Mức độ thực hiện kỹ năng thể hiện sự tôn trọng đối tượng giao tiếp của sinh viên dân tộc Tày
ĐTB ĐLC Thứ bậc
3.57 1.01 1 Kỹ năng thể hiện sự tôn trọng đối tượng giao tiếp 1. Chú ý đến trang phục: Trang phục kín đáo, lịch sự, đầu tóc gọn gàng, nét mặt cởi mở Mức độ Tương đối cao
3.21 0.43 3 2. Sử dụng ngôn ngữ đơn giản, dễ hiểu phù hợp với người nghe Trung bình
3.47 0.94 2 Trung bình
4 2.99 0.70 Thấp
3. Chủ động chào hỏi với thái độ kính trọng, lễ phép với thầy cô và hoà nhã với bạn bè 4. Dừng các công việc riêng: nghe điện thoại, nhắn tin, xem phim…khi đối tượng giao tiếp xuất hiện
Điểm trung bình 3.31 0.56
bình: 3.51 ≥ ĐTB > 3.11; Mức thấp: 3.11 ≥ ĐTB > 2.91; Mức rất thấp: 2.91 ≥ ĐTB > 1.
Trung bình Ghi chú: Mức cao: 5 ≥ ĐTB > 3.71; Mức tương đối cao: 3.71 ≥ ĐTB > 3.51; Mức trung
Qua bảng 4.4 ta thấy, “Kỹ năng thể hiện sự tôn trọng đối tượng giao tiếp của sinh viên dân tộc Tày”, đạt ở mức trung bình có (ĐTB = 3.31, ĐLC = 0.56). Kỹ năng này được thể hiện trong 4 nội dung. Trong đó, kỹ năng “Biết lựa chọn những trang phục kín đáo, lịch sự, đầu tóc gọn gàng, nét mặt cởi mở” có ĐTB cao nhất (ĐTB = 3.57, mức tương đối cao). Các kỹ năng “Chủ động chào hỏi với thái độ kính trọng, lễ phép với thầy cô và hoà nhã với bạn bè”; kỹ năng “Sử dụng ngôn ngữ đơn giản, dễ hiểu phù hợp với người nghe” và kỹ năng “Dừng các công việc riêng:
87
dụng ngôn ngữ đơn giản, dễ hiểu phù hợp với người nghe và kỹ năng dừng các công
việc riêng: nghe điện thoại, nhắn tin, xem phim…khi đối tượng giao tiếp xuất hiện.
nghe điện thoại, nhắn tin, xem phim…khi đối tượng giao tiếp xuất hiện” có điểm trung bình thấp hơn, nằm từ 3,47 đến 2,99 (Bảng 4.4). Như vậy, khi thể hiện sự tôn trọng đối tượng giao tiếp, sinh viên dân tộc Tày có kỹ năng lựa chọn những trang phục kín đáo, lịch sự, đầu tóc gọn gàng, nét mặt cởi mở tốt hơn kỹ năng chủ động chào hỏi với thái độ kính trọng, lễ phép với thầy cô và hoà nhã với bạn bè; kỹ năng sử
Kỹ năng “Biết lựa chọn những trang phục kín đáo, lịch sự, đầu tóc gọn gàng, nét mặt cởi mở” có ĐTB cao nhất (ĐTB = 3.57, mức tương đối cao). Như vậy, để thể hiện sự tôn trọng đối tượng giao tiếp sinh viên dân tộc Tày thường có xu hướng chú ý nhiều hơn đến trang phục của mình, hình thức của mình, cách thức thể hiện các cử chỉ phi ngôn ngữ của khuân mặt hơn là việc chủ động chào hỏi, sử dụng các ngôn ngữ nói, hay là dừng các công việc riêng: nghe điện thoại, nhắn tin, xem phim…khi đối tượng giao tiếp xuất hiện. Các biểu hiện cụ thể có thể nhận ra là sự chỉnh chu trong trang phục của sinh viên dân tộc Tày khi đến giảng đường. Tạo cho mình diện mạo bề ngoài lịch sự với những bộ trang phục phù hợp đã trở thành nhu cầu và thói quen của số đông sinh viên dân tộc Tày. Sinh viên dân tộc Tày thực hiện kỹ năng này thuần thục và linh hoạt, điều này được thể hiện ngay trong trang phục của các em khi đến trường. Tính linh hoạt cũng bộc lộ khi ở trong những hoàn cảnh khác nhau, những hoạt động trên giảng đường khác nhau, sinh viên dân tộc Tày cũng thực hiện được những yêu cầu mang tính cơ bản nhất.
Kết quả nghiên cứu từ phương pháp quan sát cho thấy: sinh viên dân tộc Tày đã biết lựa chọn các trang phục phù hợp với môi trường học đường, phù hợp với lứa tuổi và hình dáng của các em, các em cũng đã biết chú ý nhiều hơn tới việc trang điểm, hay để các kiểu tóc phù hợp, quan sát các em giao tiếp với giảng viên và sinh viên trong các buổi học còn cho thấy khi các em giao tiếp với giảng viên và các bạn sinh viên các em đều biết biểu cảm cảm xúc của mình qua khuân mặt, với nét mặt tươi vui, hào hứng, phấn khởi, thân mật,…
Kết quả phỏng vấn sâu giảng viên và sinh viên về mức độ thực hiện kỹ năng
này ở sinh viên dân tộc Tày cũng cho thấy kết quả tương đồng.
Bạn N.T.H cho biết: “Chúng em rất chú ý về trang phục khi đến trường,
chúng em muốn ăn mặc trẻ trung, năng động, lịch sự”.
Cô giáo V.Th.L.H. chia sẻ: “Mỗi khi tới giảng đường, nhìn các em sinh viên dân tộc Tày không còn có thể phân biện được với các em sinh viên dân tộc Kinh,
88
các em ăn mặc trang phục rất đẹp, trang nhã, lịch sự phù hợp với môi trường học đường,…”.
Thầy giáo H.V.L. chia sẻ: “Các em sinh viên dân tộc Tày mà tôi được giảng dạy hoà nhập rất nhanh với môi trường mới, từ cách ăn mặc, đầu tóc đều được các em chú ý. Các em đã biết mặc trang phục đẹp và phù hợp, các em còn biết cách sử dụng hình thức giao tiếp phi ngôn ngữ để biểu cảm trạng thái cảm xúc vui vẻ, cởi mở của mình khi giao tiếp”.
Kỹ năng “Chủ động chào hỏi với thái độ kính trọng, lễ phép với thầy cô và
hoà nhã với bạn bè”, có ĐTB chung là 3.47 chiếm thứ bậc 2 trên tổng số. Việc sinh
viên giữ đúng chuẩn mực với người thầy cô giáo không những thể hiện thái độ tôn
sư trọng đạo của truyền thống của người Việt Nam ta, mà đó còn là một trong
những tiêu chí đánh giá đạo đức và phẩm chất nhân cách của con người. Sinh viên
dân tộc Tày đã thực hiện một cách đầy đủ, tương đối thuần thục và linh hoạt biểu
hiện của kỹ năng này. Điều này được thể hiện ở sự tôn trọng của các em đối với tất
cả các giảng viên. Các em không những chủ động chào hỏi những thầy cô giáo dạy
các em mà còn chủ động chào hỏi cả những giảng viên không trực tiếp dạy mình.
Các em sinh viên dân tộc Tày còn bộc lộ nhiều hạn chế ở kỹ năng: “Dừng các
công việc riêng: nghe điện thoại, nhắn tin, xem phim…khi đối tượng giao tiếp xuất
hiện”, ĐTB thấp nhất (ĐTB 2.99, ĐLC = 0.70) mức thấp. Thấp hơn nhiều so với
ĐTB toàn thang đo. Xu hướng khá phổ biến sinh viên dân tộc Tày thường bỏ qua
việc thực hiện những biểu hiện của kỹ năng này.
Qua quan sát giao tiếp của các em với bạn bè và với giảng viên, chúng tôi
thấy đa số các em sinh viên dân tộc Tày chưa dừng các công việc riêng của mình lại
khi vẫn đang giao tiếp với thầy cô bạn bè. Trong lớp nhiều em vừa nghe giảng, vừa
sử dụng điện thoại. Nhiều em vừa nói chuyện vừa nhắn tin. Đây cũng là xu hướng
chung của thanh niên hiện nay nói chung và của sinh viên nói riêng. Với sự phát
triển của khoa học công nghệ, đặc biệt là sự lan rộng của các trang mạng xã hội.
Hầu như sinh viên nào cũng sử dụng mạng facebook, thường xuyên cập nhật các tin
tức trong ngày. Và đã hình thành như một thói quen ở các em, vừa xem điện thoại
vừa giao tiếp với các đối tượng giao tiếp khác.
Kết quả phỏng vấn sâu giảng viên và sinh viên về mức độ thực hiện kỹ năng
này ở sinh viên dân tộc Tày cũng cho thấy kết quả tương đồng.
89
Bạn V.Th.Tr. cho biết: “Nhiều khi thành một thói quen, nên trong khi giao tiếp với các bạn, với thầy cô chúng em vẫn nghe điện thoại, vẫn xem tin nhắn, vẫn lướt facebook,…”.
Cô giáo Tr.Th.Ch. chia sẻ: “Sinh viên nói chung, sinh viên dân tộc Tày nói riêng thường xuyên sử dụng điện thoại trong giờ học, ngay cả khi trao đổi bài với thầy cô nhiều em vẫn còn nghe điện thoại, nhắn tin,..”.
Thầy giáo Ng.Ng.T. chia sẻ: “Việc sử dụng điện thoại di động khi đang giao tiếp với thầy cô và bạn bè làm ảnh hưởng rất nhiều tới hiệu quả của hoạt động giao tiếp. Tuy nhiên, đa số sinh viên tôi được biết thì các em xem việc này là chuyện bình thường và không có ý thức rèn luyện để có kỹ năng giao tiếp tốt hơn,…”.
- Kỹ năng thể hiện sự hợp tác với đối tượng giao tiếp của sinh viên khi tham
gia vào hoạt động học tập trên lớp với giảng viên và các bạn sinh viên cùng lớp
Bảng 4.5. Mức độ thực hiện kỹ năng thể hiện sự hợp với tác đối tượng giao tiếp trong hoạt động học tập của sinh viên dân tộc Tày
ĐTB ĐLC Thứ bậc
3.18 0.44 4 Kỹ năng thể hiện sự sự hợp tác với đối tượng giao tiếp 1. Hợp tác với thầy cô và bạn bè trong việc thực hiện các nội dung học tập trên lớp Mức độ Trung bình
3.23 0.52 2 2. Chia sẻ các thông tin, nội dung kiến thức của bản thân với các bạn sinh viên cùng lớp Trung bình
3.22 0.45 3
3.31 0.56 1 3. Phối hợp với thầy cô và bạn bè để hoàn thành nhiệm vụ học tập chung của lớp 4. Lắng nghe, trao đổi, cho ý kiến về các nội dung học tập trên lớp một cách tích cực Trung bình Trung bình
Điểm trung bình 3.24 0.41
Trung bình Ghi chú: Mức cao: 5 ≥ ĐTB > 3.71; Mức tương đối cao: 3.71 ≥ ĐTB > 3.51; Mức trung bình: 3.51 ≥ ĐTB > 3.11; Mức thấp: 3.11 ≥ ĐTB > 2.91; Mức rất thấp: 2.91 ≥ ĐTB > 1.
Theo kết quả ở bảng 4.5, kỹ năng ”Thể hiện sự hợp tác với đối tượng giao tiếp của sinh viên dân tộc Tày trong hoạt động học tập trên lớp”, được đánh giá ở mức trung bình (ĐTB = 3.24; ĐLC = 0.41). Kỹ năng này thể hiện ở 4 nội dung. Trong đó, kỹ năng ”lắng nghe, trao đổi, cho ý kiến về các nội dung học tập trên lớp một cách tích cực” đạt ở mức độ trung bình (ĐTB = 3.31, ĐLC = 0.56), có ĐTB
90
cao nhất so với 4 kỹ năng được xem xét và kỹ năng “Hợp tác với thầy cô và bạn bè trong việc thực hiện các nội dung học tập trên lớp” có ĐTB thấp nhất so với 4 kỹ năng thuộc nhóm kỹ năng này (ĐTB = 3,18). Kết quả nghiên cứu này sẽ được phân tích cụ thể dưới đây. Kỹ năng ”lắng nghe, trao đổi, cho ý kiến về các nội dung học tập trên lớp
một cách tích cực” có ĐTB cao nhất so với 4 kỹ năng được xem xét bởi lẽ, trong
hoạt động học tập, việc lắng nghe, trao đổi bài là một trong những nội dung rất quan
trọng để sinh viên dân tộc Tày nắm được tri thức, hiểu tri thức để đạt được kết quả
cao trong học tập. Bước đầu sinh viên dân tộc Tày đã biết lắng nghe, trao đổi bài rất
tích cực trên lớp với thầy cô và bạn bè. Các em thực hiện tương đối thuần thục và
linh hoạt biểu hiện của kỹ năng này.
Kết quả nghiên cứu từ phương pháp quan sát và phương pháp phỏng vấn sâu
cũng cho thấy kết quả tương đồng. Quan sát giờ học trên lớp cho thấy, để thể hiện
sự hợp tác với thầy cô và bạn bè trong hoạt động học tập trên lớp thì sinh viên dân
tộc Tày đã biết thực hiện tốt việc nghe giảng, tham gia tích cực vào các nội dung
học tập, thảo luận trên lớp. Quan sát giảng viên đưa ra những câu hỏi tìm hiểu sinh
viên về nội dung vừa học thì sinh viên dân tộc Tày cũng đã rất tích cực phát biểu ý
kiến, trình bày quan điểm của mình về nội dung bài học. So với sinh viên dân tộc
Kinh thì sự tham gia tích cực vào các hoạt động học tập trên lớp của sinh viên dân
tộc Tày cũng không thua kém gì. Phỏng vấn sâu giảng viên và sinh viên cũng cho
thấy rõ kết quả nghiên cứu này.
Cô T.T.Q cho biết “Trong giờ giảng của cô, các em sinh viên rất chăm chú,
chú ý lắng nghe và thảo luận nội dung bài học”.
Thầy V.T.Tr, chia sẻ: “Đối với sinh viên nói chung và sinh viên dân tộc Tày
nói riêng, việc lắng nghe, trao đổi, cho ý kiến về các nội dung học tập trên lớp là
yêu cầu và nhiệm vụ bắt buộc. Do đó, phần nào cũng đã tạo ra cho các em có một ý
thức tốt về việc cần phải rèn luyện kỹ năng này. Do vậy, các em sinh viên đều có kỹ
năng lắng nghe, trao đổi, thảo luận những nội dung học tập trên lớp một cách tích
cực. Đây cũng là điều kiện rất quan trọng để các em thể hiện sự hợp tác với thầy cô
và các bạn sinh viên cùng lớp trong hoạt động học tập trên lớp”.
Kỹ năng “Chia sẻ các thông tin, nội dung kiến thức của bản thân với các bạn
sinh viên cùng lớp”, có ĐTB = 3.23; ĐLC = 0.52 xếp thứ bậc 2. Để xây dựng mối
91
quan hệ tốt đẹp giữa sinh viên với sinh viên giúp đỡ bạn bè trong quá trình học tập
là một trong những tiêu chí quan trọng được mọi người đánh giá cao. Hầu hết
những sinh viên dân tộc Tày được hỏi đều trả lời: Em thường xuyên chia sẻ với các
bạn trong lớp về nội dung, phương pháp học tập. Việc giúp đỡ bạn bè, có thiện chí
trong việc giúp nhau cùng tiến bộ bao giờ cũng chiếm được cảm tình của bạn bè.
Đó cũng là cơ sở tốt vững trãi để xây dựng các mối quan hệ bạn bè lâu dài, bền
chặt. Thông qua việc trao đổi, chia sẻ, giúp đỡ nhau trong quá trình học tập, mối
quan hệ giữa sinh viên dân tộc Tày với các sinh viên khác ngày càng tốt đẹp hơn.
Bên cạnh hai kỹ năng có ĐTB cao nhất trong số các kỹ năng thuộc nhóm này
thì kỹ năng “Hợp tác với thầy cô và bạn bè trong việc thực hiện các nội dung học
tập trên lớp”, có ĐTB thấp nhất so với 4 kỹ năng thuộc nhóm kỹ năng này (ĐTB =
3,18, mức độ trung bình). Như vậy, có thể khẳng định sinh viên dân tộc Tày thường
sử dụng các kỹ năng “Lắng nghe, trao đổi, cho ý kiến về các nội dung học tập trên
lớp một cách tích cực” và kỹ năng “Chia sẻ các thông tin, nội dung kiến thức của
bản thân với các bạn sinh viên cùng lớp” để thể hiện sự hợp tác với thầy cô và các
bạn sinh viên cùng lớp trong hoạt động học tập trên lớp hơn là việc các em sử dụng
kỹ năng “Hợp tác với thầy cô và bạn bè trong việc thực hiện các nội dung học tập
trên lớp”. Kết quả nghiên cứu này hoàn toàn phù hợp với kết quả nghiên cứu định
tính của đề tài luận án. Việc hợp tác với thầy cô và bạn bè để thực hiện các nội dung
học tập trên lớp là rất quan trọng. Tuy nhiên, muốn hợp tác được, sinh viên phải có
kiến thức và kỹ năng về các nội dung bài học muốn hợp tác. Song đối với sinh viên
dân tộc Tày, việc hợp tác này ở các em còn hạn chế. Có rất nhiều lí do có thể giải
thích cho vấn đề này. Trong đó, do các em cũng chưa thật mạnh dạn, tự tin, vẫn bị
ảnh hưởng lối sống khép kín. Trình độ, hiểu biết về các nội dung bài học còn hạn
chế nên việc hợp tác với thầy cô và sinh viên cùng lớp các vấn đề liên quan đến nội
dung bài học chưa thật tốt. Kết quả phỏng vấn sâu và quan sát của đề tài luận án
cũng cho thấy rõ kết quả này.
Trong 10 buổi quan sát giờ học trên lớp có sự tham gia của sinh viên dân tộc
Tày được nghiên cứu chúng tôi nhận thấy: Trong 10 tình huống giáo viên đặt các
câu hỏi tìm hiểu trình độ và nhận thức của sinh viên thì các em sinh viên dân tộc
Tày có giơ tay phát biểu. Tuy nhiên, khi các em phát biểu thì các nội dung chưa thật
đúng như câu hỏi giảng viên đưa ra. Có thể chính do lí do này mà trong cùng một
92
giờ học trên lớp khi giảng viên đặt những câu hỏi trao đổi tiếp theo thì các em sinh
viên này thường không giơ tay phát biểu nữa.
Phỏng vấn sâu cô giáo L.K.A. cho biết: “Việc hợp tác với thầy cô và bạn bè
trong việc thực hiện các nội dung học tập trên lớp của sinh viên dân tộc Tày tương
đối hạn chế. Do nhiều nguyên nhân dẫn tới. Trong đó, nguyên nhân chính là do lực
học của các em và sự hiểu biết, kiến thức, kỹ năng của các em về nội dung học tập.
Chính những lí do này dẫn tới các em ít tham gia và nếu có tham gia vào các nội
dung học tập trên lớp thì hiệu quả cũng không thật cao”.
Sinh viên Đ. T. A cho biết: ”Mỗi khi nhóm em thảo luận nhóm hay thực hiện
các nội dung học tập theo nhóm, thì các bạn cũng không đồng tình lắm khi để các
bạn sinh viên dân tộc Tày chịu trách nhiệm chính trong việc thực hiện các nội dung
bài học. Bởi vì, các bạn đó học còn yếu, thiếu kỹ năng giải quyết các nội dung học
tập, nếu giao cho các bạn sẽ dẫn tới điểm thấp và ảnh hưởng tới nhóm”.
Thầy C.D.H cho biết ”Các em sinh viên dân tộc Tày trong lớp tôi dạy chưa
thành thạo và linh hoạt khi thực hiện kỹ năng hợp tác với thầy cô và bạn bè trong
việc thực hiện các nội dung học tập trên lớp. Có nhiều em do không hiểu bài, không
có kiến thức về nội dung đó, nhưng cũng có nhiều em biết, hiểu bài, nắm được nội
dung bài học nhưng lại không có khả năng trình bày những vấn đề mình hiểu cho
thầy cô giáo và các bạn cùng hiểu, nhiều em còn rụt rè nên chỉ ngồi nghe, không
phát biểu ý kiến xây dựng bài”.
Như vậy, qua kết quả nghiên cứu từ phương pháp định lượng và định tính
của đề tài luận án khẳng định, kỹ năng hợp tác với thầy cô và bạn bè trong việc thực
hiện các nội dung học tập trên lớp ở mức độ trung bình. Nhìn chung các em sinh
viên dân tộc Tày được nghiên cứu đã thực hiện tương đối khá thành thạo và hợp lý
các biểu hiện của kỹ năng, nhưng chưa thật sự đầy đủ và còn thiếu tính sáng tạo.
Khi hợp tác với thầy cô và bạn bè trong việc thực hiện các nội dung học tập trên lớp
thì sinh viên chưa thật quan tâm tới việc hợp tác, phối hợp với thầy cô và bạn bè
trong việc thực hiện các nội dung học tập trên lớp, hoàn thành nhiệm vụ học tập trên
lớp. Những hạn chế này khiến cho kết quả giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp
của sinh viên dân tộc Tày còn chưa cao và chưa giúp các em đạt được những thành
tích tốt trong học tập.
- Kỹ năng thể hiện sự trung thực với đối tượng giao tiếp
93
Bảng 4.6. Mức độ thực hiện kỹ năng thể hiện sự trung thực với đối tượng giao
tiếp trong hoạt động học tập của sinh viên dân tộc Tày
Kỹ năng thể hiện sự trung thực với đối Thứ Mức ĐTB ĐLC tượng giao tiếp bậc độ
1. Sinh viên thẳng thắn, trung thực trao đổi với Tương giảng viên và các bạn sinh viên cùng lớp về nội 3.60 1.04 1 đối cao dung bài học
2. Ngay thẳng, thật thà với thầy cô giáo và bạn Trung 3.21 0.55 3 bè bình
Tương 3. Chấp hành đúng nội quy của trường, lớp 3.52 0.98 2 đối cao
4 .Biết sử dụng biểu cảm phi ngôn ngữ, ngôn
ngữ thể hiện sự trung thực: ánh mắt luôn nhìn Trung 3.12 0.36 4 thẳng, giọng nói từ tốn và điềm đạm, cử chỉ dứt bình
khoát và thoải mái, toát lên sự tự tin.
Trung Điểm trung bình 3.36 0.55 bình
bình: 3.51 ≥ ĐTB > 3.11; Mức thấp: 3.11 ≥ ĐTB > 2.91; Mức rất thấp: 2.91 ≥ ĐTB > 1.
Ghi chú: Mức cao: 5 ≥ ĐTB > 3.71; Mức tương đối cao: 3.71 ≥ ĐTB > 3.51; Mức trung
Kết quả ở bảng 4.6 cho thấy, “Kỹ năng thể hiện sự trung thực với đối
tượng giao tiếp của sinh viên dân tộc Tày” được đánh giá ở mức trung bình
(ĐTB 3.36; ĐLC = 0.55). Trong 4 kỹ năng xem xét, có hai kỹ năng thành phần
thuộc nhóm kỹ năng này có mức độ thực hiện kỹ năng đạt ở mức độ tương đối
cao (ĐTB = 3,60 và ĐTB = 3,52). Đó là các kỹ năng “Sinh viên thẳng thắn,
trung thực trao đổi với giảng viên và các bạn sinh viên cùng lớp về nội dung bài
học”; “Chấp hành đúng nội quy của trường, lớp”. Kết quả quan sát cũng phản
ánh rõ thực trạng này. Phần đông các sinh viên dân tộc Tày đều luôn đi học đúng
giờ, ít vi phạm nội quy, quy định của trường lớp. Đặc biệt là các em rất trung
thực và thẳng thắn nêu ý kiến, quan điểm của mình về nội dung bài học với
giảng viên và các bạn sinh viên,… Kết quả phỏng vấn sâu sinh viên và giảng
viên cũng cho thấy kết quả tương đồng.
94
Sinh viên M.V.H. cho biết: “Chúng em rất nghiêm túc thực hiện nội quy của
trường đề ra”.
Sinh viên Ch.Th. T. cho biết: “Đối với vấn đề học tập trên lớp, sinh viên luôn
phải trung thực, thẳng thắn đưa ra những ý kiến đánh giá, nhận xét của mình. Bản thân
em luôn thực hiện được như vậy,…”.
Cô giáo Ng.Th.L.A, cho biết: “Các em sinh viên dân tộc Tày thường trung thực,
thật thà. Các em ít khi vi phạm các nội quy thi cử, ít khi vi phạm quy chế của trường và
của lớp. Do vậy, giảng viên và sinh viên cùng lớp rất yên tâm, tin tưởng khi giao tiếp
với các em sinh viên dân tộc Tày”.
Cô L.T.T cho biết “Các em sinh viên dân tộc Tày ở những lớp tôi dạy rất trung
thực, thẳng thắn trao đổi những ý kiến cá nhân về nội dung bài học cũng như những
vấn đề khác liên quan trực tiếp đến hoạt động học tập trên lớp và chấp hành tốt nội
quy của nhà trường”.
Bên cạnh các kỹ năng thuộc nhóm kỹ năng này đã được sinh viên dân tộc Tày
thực hiện ở mức độ tương đối cao thì vẫn có những kỹ năng thành phần thuộc nhóm
được thực hiện chưa tốt so với các kỹ năng khác đó là: “Biết sử dụng biểu cảm phi
ngôn ngữ, ngôn ngữ thể hiện sự trung thực: ánh mắt luôn nhìn thẳng, giọng nói từ
tốn và điềm đạm, cử chỉ dứt khoát và thoải mái, toát lên sự tự tin”, có ĐTB thấp
nhất (ĐTB 3.12; ĐLC = 0.36). Điều này chứng tỏ sinh viên dân tộc Tày thể hiện sự
trung thực trong việc thẳng thắn, trung thực trao đổi với giảng viên và các bạn sinh
viên cùng lớp về nội dung bài học hơn là thể hiện sự trung thực qua việc sử dụng
những biểu cảm ngôn ngữ, phi ngôn ngữ.
Kết quả nghiên cứu từ phương pháp quan sát cho thấy, đa số sinh viên dân
tộc Tày được nghiên cứu chưa có động tác chưa phù hợp khi giao tiếp với giảng
viên và các bạn sinh viên trong hoạt động học tập trên lớp. Những động tác thường
thấy là: mắt không nhìn trực diện, cử chỉ và điệu bộ còn ngượng ngập, tay khuơ
theo giọng nói, ngôn ngữ nói, nhất là giọng nói còn lúng túng, thiếu tự nhiên, sự kết
hợp biểu cảm nét mặt ở sinh viên viên dân tộc Tày về sự trung thực ít thể hiện,...
Những biểu hiện này hoàn toàn không có ý nghĩa giúp sinh viên biểu đạt được sự
trung thực trong giao tiếp.
95
Ý kiến của sinh viên dân tộc Tày phần nào lý giải được thực trạng này. Một
sinh viên cho rằng: "Sự trung thực sẽ được đánh giá bằng hành động và cách sống
hàng ngày, không nhất thiết phải sử dụng biểu cảm phi ngôn ngữ, ngôn ngữ". Một
số sinh viên dân tộc Tày khác thì chỉ chú ý đến giọng nói của mình sao cho từ tốn
và điềm đạm: "Giọng nói của em sẽ giúp em biểu đạt được sự trung thực của mình,
nên em chú trọng vào việc rèn ngôn ngữ nói, giọng nói sao cho từ tốn, điềm đạm"
(Đ.Đ.H). Như vậy, đa số sinh viên dân tộc Tày con chưa coi trọng việc sử dụng biểu
cảm phi ngôn ngữ, ngôn ngữ thể hiện sự trung thực: ánh mắt luôn nhìn thẳng, giọng
nói từ tốn và điềm đạm, cử chỉ dứt khoát và thoải mái, toát lên sự tự tin để thể hiện
sự trung thực trong hoạt động giao tiếp trên lớp với giảng viên và các bạn sinh viên.
- Đánh giá chung mức độ thực hiện nhóm kỹ năng thiết lập các mối quan hệ
trong hoạt động học tập trên lớp của sinh viên dân tộc Tày
Kỹ năng thiết lập mối quan hệ trong hoạt động học tập trên lớp của sinh viên
dân tộc Tày được chúng tôi tìm hiểu trên 4 khía cạnh: kỹ năng tìm hiểu đối tượng
giao tiếp; kỹ năng thể hiện sự tôn trọng đối tượng giao tiếp; kỹ năng thể hiện sự hợp
tác với đối tượng giao tiếp; kỹ năng thể hiện sự trung thực với đối tượng giao tiếp.
Kết hợp kết quả từ nhiều phương pháp điều tra cho phép nhận định:
- Nhìn chung, sinh viên dân tộc Tày được nghiên cứu có kỹ năng thiết lập mối
quan hệ trong hoạt động học tập trên lớp ở mức trung bình. Ở mức này, các em đã
có tương đối đầy đủ các biểu hiện của kỹ năng, thực hiện chúng tương đối thành
thục, phù hợp nhưng sự sáng tạo còn hạn chế. Các nội dung của kỹ năng biểu hiện
chưa đồng đều. Khi thực hiện kỹ năng thiết lập mối quan hệ trong hoạt động học tập
trên lớp, sinh viên thực hiện đúng, đầy đủ và bước đầu thành thạo và linh hoạt với
kỹ năng “thể hiện trung thực trong giao tiếp với giảng viên và sinh viên trong hoạt
động học tập trên lớp” và kỹ năng ”tìm hiểu đối tượng giao tiếp” chưa được sinh
viên dân tộc Tày quan tâm. Việc thực hiện kỹ năng này ở các em còn chưa thành
thạo và hợp lý.
- Việc thực hiện kỹ năng này chưa thành thạo và hợp lý sẽ ảnh hưởng nhất
định đến việc thiết lập mối quan hệ trong hoạt động học tập trên lớp của sinh viên
dân tộc Tày với giảng viên và sinh viên cùng lớp, làm hạn chế sự tương tác của các
em với giảng viên và sinh viên trong hoạt động học tập trên lớp.
96
4.1.2.2. Thực trạng mức độ thực hiện nhóm kỹ năng giải quyết vấn đề học tập trên lớp
ĐTB: Điểm trung bình
ĐLC: Độ lệch chuẩn KNDĐ: Kỹ năng diễn đạt nội dung học tập
KNLN: Kỹ năng lắng nghe
KNĐCCX: Kỹ năng điều chỉnh cảm xúc
KNGQ: Kỹ năng giải quyết vấn đề học tập trên lớp
Ghi chú: Mức cao: 5 ≥ ĐTB > 3.71; Mức tương đối cao: 3.71 ≥ ĐTB > 3.51; Mức trung
Biểu đồ 4.2: Mức độ thực hiện nhóm kỹ năng giải quyết vấn đề học tập trên lớp của sinh viên dân tộc Tày
bình: 3.51 ≥ ĐTB > 3.11; Mức thấp: 3.11 ≥ ĐTB > 2.91; Mức rất thấp: 2.91 ≥ ĐTB > 1. Qua biểu đồ 4.2 ta thấy, sinh viên dân tộc Tày thực hiện kỹ năng giải quyết vấn đề học tập trên lớp ở mức độ trung bình ( ĐTB = 3.30, ĐLC = 0.36). Có sự chênh lệch giữa các kỹ năng thành phần của nhóm kỹ năng này. “Kỹ năng lắng nghe” có ĐTB 3.42; ĐLC = 0.66 cao nhất so với 3 kỹ năng được xem xét, kỹ năng “Điều chỉnh cảm xúc” có ĐTB thấp nhất (ĐTB = 3.13, ĐLC = 0.42). Dưới đây, chúng tôi sẽ đi sâu phân tích cụ thể biểu hiện mức độ các kỹ năng thành phần thuộc nhóm kỹ năng này. - Kỹ năng diễn đạt các nội dung học tập trên lớp của sinh viên dân tộc Tày
97
Bảng 4.7: Mức độ thực hiện kỹ năng diễn đạt các nội dung học tập
trên lớp của sinh viên dân tộc Tày
ĐTB ĐLC Thứ bậc Mức độ
3.40 0.71 1 Trung bình Kỹ năng diễn đạt các nội dung học tập trên lớp 1. Nói xúc tích, ngắn gọn, đưa ra dẫn chứng cụ thể để minh hoạ khi thuyết trình một vấn đề nào đó trên lớp, hay phát biểu ý kiến xây dựng bài
3.33 0.66 3 Trung bình 2. Biết cách xâu chuỗi, tóm lược các vấn đề liên quan đến nội dung bài học để thuyết trình hiệu quả
3.35 0.71 2
3.27 0.62 4 3. Lập dàn ý và chú ý đến những điểm cần nhấn mạnh hoặc cần trao đổi với bạn bè 4. Sử dụng các phương tiện khác để làm rõ hơn phần trình bày của mình Trung bình Trung bình
Điểm trung bình 3.33 0.62
Trung bình Ghi chú: Mức cao: 5 ≥ ĐTB > 3.71; Mức tương đối cao: 3.71 ≥ ĐTB > 3.51; Mức trung bình: 3.51 ≥ ĐTB > 3.11; Mức thấp: 3.11 ≥ ĐTB > 2.91; Mức rất thấp: 2.91 ≥ ĐTB > 1.
Kết quả ở biểu đồ 4.7 cho ta thấy: Sinh viên dân tộc Tày thực hiện kỹ năng
“Diễn đạt các nội dung học tập trên lớp” ở mức trung bình, (ĐTB = 3.33, ĐLC =
0.62). Có sự chênh lệch giữa các nội dung biểu hiện của kỹ năng này. Tuy nhiên, sự
chênh lệch không đáng kể. Trong đó, kỹ năng “Nói xúc tích, ngắn gọn, đưa ra dẫn
chứng cụ thể để minh hoạ khi thuyết trình một vấn đề nào đó trên lớp”, có ĐTB cao
nhất (ĐTB = 3.40; ĐLC = 0.71), và kỹ năng “Sử dụng các phương tiện khác để làm
rõ hơn phần trình bày của mình” có ĐTB thấp nhất trong 4 kỹ năng thuộc nhóm kỹ
năng này. Như vậy, sinh viên dân tộc Tày khi diễn đạt các nội dung học tập trên lớp
thường vận dụng kỹ năng nói xúc tích, ngắn gọn, đưa ra dẫn chứng cụ thể để minh
hoạ khi thuyết trình một vấn đề nào đó trên lớp mà chưa chú ý nhiều đến kỹ năng sử
dụng các phương tiện khác để làm rõ hơn phần trình bày của mình. Cụ thể như sau:
Kỹ năng: “Nói xúc tích, ngắn gọn, đưa ra dẫn chứng cụ thể để minh hoạ khi
thuyết trình một vấn đề nào đó trên lớp, hay phát biểu ý kiến xây dựng bài”, (ĐTB
= 3.40, mức độ trung bình, xếp thứ nhất). Có thể lý giải kết quả nghiên cứu này như
98
sau: Đối với sinh viên nói chung, sinh viên dân tộc Tày nói riêng, khi các em tham
gia vào hoạt động học tập tại trường phổ thông và trường đại học, các em thường
xuyên được rèn luyện kỹ năng nói trong hoạt động học tập trên lớp. Vì vậy, đa số
các em sinh viên đều có kỹ năng nói nhất định. Các em đã thành thạo và sử dụng
tương đối linh hoạt ngôn ngữ nói trong hoạt động học tập trên lớp. Các em đã biết
sử dụng ngôn ngữ nói mạch lạc, ngắn gọn để trình bày những nội dung học tập trên
lớp khi có yêu cầu của thầy cô, hoặc khi muốn trình bày ý kiến, quan điểm của mình
liên quan tới các nội dung học tập.
Quan sát trực tiếp cho thấy, kỹ năng nói xúc tích, ngắn gọn, đưa ra dẫn chứng
cụ thể để minh hoạ khi thuyết trình một vấn đề nào đó trên lớp, hay phát biểu ý kiến
xây dựng bài của sinh viên dân tộc Tày thể hiện khá đầy đủ, thành thạo và đã có sự
sáng tạo. Các biểu hiện cụ thể như: khi đưa ra một nhận định, đánh giá nào đó sinh
viên đã biết nêu ra các chứng cứ, ví dụ cụ thể. Chẳng hạn, khi các em khẳng định: “đa
số sinh viên đều có ý thức cao trong hoạt động học tập của mình” thì các em nêu cụ
thể ví dụ minh hoạ “lớp ta có 36 sinh viên, trong đó, kết thúc học kỳ 1 vừa qua có tới
15 bạn sinh viên có điểm tổng kết các học phần đạt loại giỏi, 12 bạn loại khá, chỉ có
một số ít sinh viên loại trung bình”.
Kết quả phỏng vấn sâu cho thấy, đa số sinh viên dân tộc Tày đều quan niệm
"Việc rèn luyện kỹ năng nói là một trong những điều kiên quyết định chất lượng và
hiệu quả hoạt động học tập". Chúng ta hãy nghe một vài ý kiến cụ thể của sinh viên
và giảng viên về vấn đề này.
Thầy giáo V.M.S. chia sẻ: “Tôi vui mừng vì giờ đây sinh viên nói chung và
sinh viên dân tộc Tày nói riêng đã rất cố gắng trong việc rèn luyện kỹ năng nói.
Qua kiểm tra bài, trao đổi, thảo luận tại lớp học cho thấy, các em sinh viên đều đã
có kỹ năng này, các em vận dụng kỹ năng này khá tốt, nói năng lưu loát, trình bày
vấn đề người nghe dễ hiểu”.
Trong 4 kỹ năng thành phần thuộc nhóm kỹ năng này thì kỹ năng “Sử dụng
các phương tiện khác để làm rõ hơn phần trình bày của mình” có ĐTB thấp nhất so
với các kỹ năng thuộc nhóm, (ĐTB = 3,27, mức độ trung bình). Một trong những lí
do có thể lí giải cho kết quả nghiên cứu này đó là: sinh viên dân tộc Tày được
nghiên cứu đa số có xuất phát điểm thấp hơn một chút so với sinh viên dân tộc kinh
99
ở trình độ, kiến thức và kỹ năng học tập. Hơn nữa, các em lại ít được tiếp xúc và sử
dụng các phương tiện học tập hiện đại như máy tính; mạng internet, máy chiếu, các
vật mẫu, các biểu đồ, sơ đồ, và tài liệu học tập. Điều này dẫn tới các em chủ yếu là
sử dụng ngôn ngữ nói, ngôn ngữ viết, tài liệu học tập chính tại trường mà ít khi sử
dụng các phương tiện học tập khác để trình bày nội dung bài học của mình.
Kết quả quan sát cũng thống nhất với số liệu trên. Một trong những lý do
khiến giảng viên và sinh viên cùng lớp còn chưa thật sự hài lòng là sinh viên dân
tộc Tày còn chưa thật thành thạo khi sử dụng một số phương tiện máy tính; mạng
internet, máy chiếu, các vật mẫu, các biểu đồ, sơ đồ trong việc trình bày các nội
dung học tập: “Không biết cách sử dụng máy chiếu và làm các slide để trình chiếu
các nội dung học tập; nếu có sử dụng máy chiếu thì nội dung trong các slide cũng
toàn là chữ, dày đặc, không có hình ảnh, biểu đồ, sơ đồ minh hoạ,…”.
Kết quả phỏng vấn sâu đã giúp lý giải thêm sự chưa thật thành thạo trong kỹ
năng “Sử dụng các phương tiện khác để làm rõ hơn phần trình bày” của sinh viên
dân tộc Tày.
Sinh viên Ch.Th. T. tâm sự: “chúng em sống và học tập tại các trường THPT
vùng cao, điều kiện kinh tế còn quá khó khăn, chúng em thậm chí còn chưa thành
thạo việc sử dụng máy vi tính chứ chưa nói đến việc sử dụng máy tính để thực hiện
các nội dung bài học theo yêu cầu của giảng viên như: làm slide để trình chiếu, hay
vẽ biểu đồ, sơ đồ minh hoạ nội dung bài học trên máy tính,…”.
Thầy giáo M.V.Q. chia sẻ: “Đối với sinh viên dân tộc Tày, việc yêu cầu các
em sử dụng các phương tiện học tập hiện đại để giải quyết bài tập, bài thảo luận là
tương đối khó. Các em chưa bao giờ được làm quen và học tập những kỹ năng này
ở trường phổ thông. Do đó, cần có thời gian để các em rèn luyện các kỹ năng này”.
Như vậy, sinh viên dân tộc Tày thể hiện tương đối đầy đủ, thành thạo và linh
hoạt kỹ năng diễn đạt các nội dung học tập trên lớp. Với ưu điểm này, sinh viên dân
tộc Tày đã làm cho giảng viên và các bạn sinh viên cùng lớp hiểu rõ hơn sự cố
gắng, nỗ lực của các em và có sự tương tác tích cực hơn với các em trong các hoạt
năng thành phần “Nói xúc tích, ngắn gọn, đưa ra dẫn chứng cụ thể để minh hoạ khi
động học tập trên lớp. Tuy nhiên, đa số các em sử dụng thành thạo, linh hoạt hơn kỹ
100
thuyết trình một vấn đề nào đó trên lớp, hay phát biểu ý kiến xây dựng bài” hơn là kỹ
năng “Sử dụng các phương tiện khác để làm rõ hơn phần trình bày nội dung học tập”.
- Kỹ năng lắng nghe
Bảng 4.8. Mức độ thực hiện kỹ năng lắng nghe của sinh viên dân tộc Tày
Kỹ năng lắng nghe ĐTB ĐLC Thứ bậc Mức độ
3.46 0.74 1 Trung bình
3.40 0.72 4
3.37 0.59 5 Trung bình Trung bình
3.44 0.75 3 Trung bình
3.45 0.76 2 Trung bình 1. Huy động mọi giác quan (mắt nhìn, tai nghe, tay viết) tập trung chú ý để để thu thập thông tin tốt nhất và hiểu được thông tin 2. Không để ý tới những chủ đề không liên quan đến nội dung bài học 3. Đánh giá thông tin để xác định tính có căn cứ của thông tin 4. Quan sát để tìm hiểu xem giáo viên và sinh viên cùng lớp có những thái độ nào khi thuyết trình 5. Chăm chú ghi chép, ngước lên đều đặn đưa ánh mắt nhìn vào mắt giảng viên hoặc các bạn sinh viên khi họ thuyết trình
3.42 0.66 Điểm trung bình
Trung bình Ghi chú: Mức cao: 5 ≥ ĐTB > 3.71; Mức tương đối cao: 3.71 ≥ ĐTB > 3.51; Mức trung bình: 3.51 ≥ ĐTB > 3.11; Mức thấp: 3.11 ≥ ĐTB > 2.91; Mức rất thấp: 2.91 ≥ ĐTB > 1. Kết quả nghiên cứu cho thấy: Kỹ năng lắng nghe của sinh viên dân tộc Tày có ĐTB 3.42; ĐLC = 0,66. ĐTB của kỹ năng này cao nhất so với 3 nhóm kỹ năng thành phần thuộc kỹ năng giải quyết vấn đề học tập trên lớp của sinh viên dân tộc Tày. Kết quả nghiên cứu này khẳng định, sinh viên dân tộc Tày được nghiên cứu đã có kỹ năng lắng nghe, kỹ năng này được sinh viên thực hiện tương đối thành thạo, đã có sự kinh hoạt tuy nhiên đôi khi chưa thật hợp lý trong một số tình huống giao tiếp. Xem xét các kỹ năng thành phần thuộc nhóm kỹ năng lắng nghe cho thấy, sinh viên dân tộc Tày được nghiên cứu thực hiện tốt nhất kỹ năng ”Huy động mọi giác quan (mắt nhìn, tai nghe, tay viết) tập trung chú ý để để thu thập thông tin tốt nhất và hiểu được thông tin”, ĐTB = 3,46, xếp thứ nhất và kỹ năng “Đánh giá thông tin để xác định tính có căn cứ của thông tin”, có ĐTB thấp nhất so với 5 kỹ năng xem xét (ĐTB = 3,37). Như vậy, khi lắng nghe, sinh viên dân tộc Tày được
101
nghiên cứu quan tâm nhiều hơn đến các kỹ năng huy động các giác quan trong việc tập trung chú ý để để thu thập thông tin tốt nhất và hiểu được thông tin mà chưa chú ý nhiều đến việc đánh giá thông tin để xác định tính có căn cứ của thông tin. Một số phân tích sau đây thể hiện rõ điều này.
Đối với kỹ năng ”Huy động mọi giác quan (mắt nhìn, tai nghe, tay viết) tập trung chú ý để để thu thập thông tin tốt nhất và hiểu được thông tin”, ĐTB = 3,46, xếp thứ nhất cho thấy, sinh viên dân tộc Tày đã ý thức được hiệu quả của quá trình lắng nghe không chỉ đơn thuần phụ thuộc vào khả năng sử dụng thính giác của mỗi sinh viên mà còn phụ thuộc vào việc huy động, phối hợp các giác quan khác: Mắt quan sát những biểu hiện của người nói cũng như theo dõi cách trình bày trên bảng, tay ghi lại những điều họ quan tâm,…Các em thực hiện đầy đủ, tương đối thuần thục và linh hoạt những biểu hiện của kỹ năng này.
Kết quả nghiên cứu của đề tài từ phương pháp quan sát cũng cho thấy, kỹ năng huy động mọi giác quan (mắt nhìn, tai nghe, tay viết) tập trung chú ý để để thu thập thông tin tốt nhất và hiểu được thông tin thể hiện khá đầy đủ. Đa số sinh viên dân tộc Tày được nghiên cứu biết huy động các giác quan để lắng nghe và thu nhận được thông tin tốt nhất. Tuy nhiên, biểu hiện này có vẻ chưa thật sự ổn định và bền vững. Một số em chưa phối hợp được đồng bộ, nhịp nhàng các giác quan như mắt nhìn, tai nghe, tay viết. Nhiều khi, các em nghe rõ song chưa ghi kịp, nhiều em mắt nhìn chưa rõ nên ghi còn sai nội dung. Nghiên cứu trên 5 quyển vở ghi chép môn học của sinh viên dân tộc Tày cũng cho thấy sự thiếu hụt trong nội dung bài giảng của 2/5 quyển vở có nội dung bài học tương tự, cùng một giảng viên gảng dạy tại một lớp. Trong đó, 3 quyển vở ghi được 4 trang A4 về nội dung bài giảng, 2 nội dung còn lại chỉ ghi chép được 2,5 trang A4. Có một số từ sinh viên viết sai so với nội dung của các quyển vở ghi chép còn lại. Do vậy, kỹ năng này mặc dù có ĐTB cao nhất trong nhóm kỹ năng lắng nghe song vẫn chỉ đạt mức độ trung bình.
Phỏng vấn sâu cũng thu được kết quả tương tự. Theo một sinh viên: "khi nghe giảng viên giảng bài, em luôn cố gắng để phối hợp đồng bộ và tốt nhất tất cả các giác quan để ghi lại được đúng những nội dung bài học giảng viên vừa trình bày" (Ng.Th.Ng.).
Sinh viên H.Th.Tr. chia sẻ: “Em biết bản thân học còn yếu, nên cố gắng rèn cho mình kỹ năng biết lắng nghe những trao đổi của giảng viên và sinh viên cùng lớp để học tập tốt hơn”.
Cô giáo V.Th.L.A. chia sẻ: “Vào năm thứ nhất sinh viên dân tộc Tày học yếu hơn so với sinh viên dân tộc Kinh. Tuy nhiên, đến năm thứ hai và thứ ba, do các em
102
đã rèn luyện được các kỹ năng nhất định như kỹ năng lắng nghe (trong đó biết thực hiện thành thạo và linh hoạt việc lắng nghe và ghi chép) đã giúp các em tiến bộ trong học tập hơn rất nhiều”.
Giảng viên V.Th.H. chia sẻ: "Nhiều khi thấy sinh viên rất chăm chú lắng nghe, mắt nhìn, tay ghi nhưng khi xem nội dung các em viết trong vở vẫn thiếu kiến thức, một số nội dung chưa được viết chính xác ý giảng viên truyền đạt" (Cô giáo V.Th.H.).
Lý giải về hạn chế của kỹ năng này một sinh viên Tr.M. Kh. cho biết: "Khi lắng nghe, mặc dù em đã rất cố gắng phối hợp mọi giác quan như mắt, tai và sử dụng tay để ghi chép nhưng đối khi vẫn khó có thể thu nhận được 100% nội dung bài học giảng viên trình bày. Có nhiều yếu tố như, thời tiết, mắt kém, hay giờ học cuối cùng muộn quá ảnh hưởng tới việc thực hiện hiệu quả kỹ năng này!".
Trong 5 kỹ năng thành phần thuộc nhóm kỹ năng lắng nghe, kỹ năng “Đánh giá thông tin để xác định tính có căn cứ của thông tin”, có ĐTB thấp nhất (ĐTB = 3,37). Điều này khẳng định, sinh viên dân tộc Tày được nghiên cứu không chú ý nhiều tới việc đánh giá thông tin để xác định tính có căn cứ của thông tin. Với những tồn tại này, sinh viên dân tộc Tày được nghiên cứu gặp khó khăn nhất định khi tiếp nhận thông tin bài học trên lớp, trao đổi, thảo luận các nội dung học tập trên lớp, và điều này có thể làm ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng và hiệu quả học tập của sinh viên cũng như ảnh hưởng trực tiếp tới tính toàn diện, tính đầy đủ và chính xác của lắng nghe.
Kết quả nghiên cứu từ phương pháp phỏng vấn sâu và phương pháp quan sát cũng cho thấy kết quả tương đồng. Quan sát các giờ học trên lớp của sinh viên cũng cho thấy kết quả tương đồng.
Cô giáo V.M.H. chia sẻ: “Không thể tránh khỏi việc sinh viên không biết hoặc chưa thành thạo và linh hoạt trong việc đánh giá thông tin để xác định tính có căn cứ của thông tin. Việc này, nhiều khi hơi khó với sinh viên, nhất là đối với sinh viên dân tộc Tày”.
Sinh viên Tr.M. T. chia sẻ: “Nhiều khi biết khi nghe giảng viên và sinh viên cùng lớp troa đổi, thảo luận về nội dung bài học thì bản thân mình phải biết đánh giá thông tin. Tuy nhiên, việc đánh giá được thông tin cần và đòi hỏi sinh viên phải hiểu, có kiến thức về vấn đề đó mới đánh giá được”.
Như vậy, có thể thấy rằng, kỹ năng lắng nghe là một trong những kỹ năng được số đông sinh viên thừa nhận và đánh giá cao về vai trò cũng như mức độ ảnh hưởng của nó tới hiệu quả của quá trình học tập. Kỹ năng này liên quan trực tiếp tới việc tiếp thu bài giảng của sinh viên cũng như thu thập thông tin trong các giờ trao
103
đổi hoặc thảo luận. Do vậy, sinh viên dân tộc Tày đã có ý thức trong việc thực hiện kỹ năng này và mức độ thực hiện kỹ năng này là tương đối thuần thục và linh hoạt. - Kỹ năng điều chỉnh cảm xúc bản thân
Bảng 4.8. Mức độ thực hiện kỹ năng điều chỉnh cảm xúc của sinh viên dân tộc Tày
Kỹ năng điều chỉnh cảm xúc bản thân ĐTB ĐLC Thứ bậc Mức độ
3.27 0.75 1 Trung bình
3.24 0.71 2 Trung bình
3.22 0.75 3 Trung bình
2.81 0.66 7 Rất thấp
3.22 0.75 3 Trung bình
3.14 0.63 5 Trung bình
2.92 0.62 6 Thấp
3.22 0.56 3
3.16 0.73 4 1. Nhận biết được cảm xúc của bản thân, của giảng viên và các bạn sinh viên cùng lớp để có cách ứng xử phù hợp 2. Nhận biết được những cảm xúc có lợi, có hại đối với bản thân khi giao tiếp với giảng viên và sinh viên trong hoạt động học tập trên lớp 3. Tìm ra những nguyên nhân xuất hiện những cảm xúc đó để có cách điều chỉnh cảm xúc bản thân cho phù hợp 4. Giữ được thái độ bình tĩnh, khéo léo trước những tình huống căng thẳng hay bất lợi cho bản thân trong quá trình giao tiếp 5. Sử dụng cảm xúc phù hợp trong suy nghĩ cũng như giải quyết các vấn đề, tình huống phát sinh trong hoạt động học tập trên lớp 6. Giải toả được những cảm xúc tiêu cực, không có lợi cho bản thân trong quá trình giao tiếp với giảng viên và sinh viên cùng lớp 7. Không để xúc cảm của mình tạo ảnh hưởng đến thầy cô và bạn bè 8. Khi giao tiếp với thầy cô và bạn bè, bạn luôn cân nhắc cách ứng xử của mình cho phù hợp 9. Không bị cuốn theo những xúc cảm tiêu cực của giảng viên và sinh viên
Điểm trung bình 3.13 0.42 Trung bình Trung bình Trung bình
Ghi chú: Mức cao: 5 ≥ ĐTB > 3.71; Mức tương đối cao: 3.71 ≥ ĐTB > 3.51; Mức trung bình: 3.51 ≥ ĐTB > 3.11; Mức thấp: 3.11 ≥ ĐTB > 2.91; Mức rất thấp: 2.91 ≥ ĐTB > 1.
104
Phân tích bảng số liệu trên, cho phép ta rút ra nhận xét như sau: Kỹ năng điều chỉnh cảm xúc bản thân của sinh viên dân tộc Tày trong hoạt động học tập trên lớp chỉ đạt ở mức độ trung bình (ĐTB = 3.13 ĐLC= 0.42). Các em vận dụng chủ yếu là ở mức thi thoảng và hiếm khi và mới chỉ đạt ở tiêu chí đúng. Các tiêu chí như thuần thục và linh hoạt trong kỹ năng này còn hạn chế. Trong số 9 kỹ năng thành phần thuộc nhóm kỹ năng này thì kỹ năng “Nhận biết được cảm xúc của bản thân, của giảng viên và các bạn sinh viên cùng lớp để có cách ứng xử phù hợp”, có ĐTB cao nhất (ĐTB = 3,27) và đặc biệt có 02 kỹ năng có mức độ thực hiện thấp và rất thấp đó là: “Không để xúc cảm của mình tạo ảnh hưởng đến thầy cô và bạn bè”, (ĐTB = 2,92, mức độ thấp); và kỹ năng “Giữ được thái độ bình tĩnh, khéo léo trước những tình huống căng thẳng hay bất lợi cho bản thân trong quá trình giao tiếp”, (ĐTB = 2.81, mức độ rất thấp).
Có thể nói, trong các nội dung biểu hiện của kỹ năng điều chỉnh cảm xúc của sinh viên dân tộc Tày trong hoạt động học tập thì nội dung nhận biết được cảm xúc của bản thân, của giảng viên và các bạn sinh viên cùng lớp để có cách ứng xử phù hợp có ĐTB cao nhất là 3.27; ĐLC = 0.75. Có thể lý giải điều này như sau: khả năng nhìn, quan sát để nhận dạng cảm xúc là bước đơn giản nhất, những bước tiếp theo như kiểm soát, điều chỉnh, ứng dụng khó và phức tạp hơn. Do từ nhỏ các em sinh viên dân tộc Tày sinh sống trong môi trường không gian thiên nhiên rộng lớn với những cánh rừng thưa, yên tĩnh, cỏ cây, muông thú... nên các em rất nhạy cảm với các hiện tượng tự nhiên và có thói quen quan sát kỹ lưỡng. Trong quan hệ giao tiếp với mọi người các em cũng có thói quen quan sát tỷ mỷ, tinh tế như vậy và rất nhạy bén trước những biểu hiện của đối tượng để có thái độ ứng xử kịp thời đạt được kết quả cao trong hoạt động học tập.
Kết quả nghiên cứu từ phương pháp quan sát và phỏng vấn sâu cũng cho thấy kết quả tương đồng. Quan sát các giờ học trên lớp cho thấy, bước đầu sinh viên dân tộc Tày được nghiên cứu đã khá thành thạo trong việc nhận biết được cảm xúc của bản thân là phù hợp hay không phù hợp với tình huống, không gian và với đối tượng giao tiếp của mình trong học tập trên lớp. Khi trao đổi các nội dung học tập với thầy cô và các bạn sinh viên khác nhiều khi có sự mẫu thuẫn, không phù hợp quan điểm với nhau nhưng các em vẫn có những cảm xúc tích cực như bình tĩnh, không có thái độ quá gay gắt, không nổi nóng,…
Sinh viên H.Th.M. chia sẻ: “Nhiều khi các ý kiến trao đổi trong giờ học giữa em và giảng viên hay các bạn sinh viên cùng lớp không đồng thuận nhưng em hiểu
105
rõ rằng mình cần phải điều chỉnh cảm xúc của mình, không nên có những cảm xúc tiêu cực dẫn tới những thái độ tiêu cực với thầy cô và bạn bè”.
Kỹ năng “Nhận biết được những cảm xúc có lợi, có hại đối với bản thân khi giao tiếp với giảng viên và sinh viên trong hoạt động học tập trên lớp”, xếp thứ bậc 2 với ĐTB 3.24; ĐLC = 0.71. Kết quả này cũng phù hợp với thực tiễn. Biết được những cảm xúc có lợi, có hại và biết được nguyên nhân của những cảm xúc đó của bản thân, của thầy cô, bạn bè là một yếu tố rất quan trọng được các em sinh viên dân tộc Tày nắm vững và sử dụng để đạt hiệu quả giao tiếp trong hoạt động học tập của mình. Việc nhận biết được những cảm xúc tích cực và tiêu cực sẽ giúp sinh viên dân tộc Tày có cách ứng xử phù hợp và đạt được hiệu quả cao trong giao tiếp.
Quan sát các hoạt động giao tiếp trên lớp cũng cho thấy, nhiều sinh viên dân tộc Tày không có những cảm xúc tiêu cực như: bực bội, có cử chỉ ánh mắt, nét mặt cau có,… khi giảng viên và các bạn sinh viên có những nhận xét, đánh giá trái chiều với quan điểm của các em về nội dung học tập. Các em vẫn giữ được thái độ đúng mực, bình tĩnh tiếp nhận những ý kiến trái chiều đó và tìm các biện pháp khác để trao đổi lại với giảng viên và các bạn sinh viên để thống nhất ý kiến và quan điểm. Phỏng vấn sâu giảng viên và sinh viên cũng lý giải rõ hơn kết quả nghiên cứu này.
Cô giáo M.T.D. chia sẻ: “Nhiều khi cùng một nội dung học tập trên lớp vẫn có rất nhiều ý kiến trái chiều nhau. Tuy nhiên, giảng viên và sinh viên đều phải có thái độ đúng mực với vấn đề này. Biết biểu hiện những cảm xúc tích cực thay cho những cảm xúc tiêu cực như vậy sẽ đạt hiệu quả tốt hơn trong hoạt động học tập trên lớp”.
Sinh viên V.Th.Tr tâm sự: “Nhiều khi cũng thấy khó chịu trong lòng nhưng em biết rằng là sinh viên thì không được vô lễ với thầy cô, cần phải biết điều chỉnh cảm xúc của mình. Những cảm xúc tiêu cực hay tích cực biểu hiện không đúng lúc, đúng chỗ sẽ có hại cho bản thân”.
Bên cạnh việc sinh viên dân tộc Tày được nghiên cứu đã bước đầu thành thạo trong việc sử dụng các kỹ năng thành phần như “Nhận biết được cảm xúc của bản thân, của giảng viên và các bạn sinh viên cùng lớp để có cách ứng xử phù hợp” thì các em còn có nhiều hạn chế trong việc thực hiện kỹ năng “Không để xúc cảm của mình tạo ảnh hưởng đến thầy cô và bạn bè” và kỹ năng “Giữ được thái độ bình tĩnh, khéo léo trước những tình huống căng thẳng hay bất lợi cho bản thân trong quá trình giao tiếp”.
106
Kỹ năng“Không để xúc cảm của mình tạo ảnh hưởng đến thầy cô và bạn bè” có ĐTB 2.92; ĐLC = 0.62, đạt mức độ thấp. Phần đông sinh viên dân tộc Tày hay
bộc lộc cảm xúc của mình ra bên ngoài, điều đó cũng gây ảnh hưởng không tốt đến quá trình giao tiếp. Khi được phỏng vấn, đa số các em sinh viên dân tộc Tày đều trả
lời “Em không muốn dấu cảm xúc của mình nên hay bộc lộ ra bên ngoài. Em biết điều này đã làm ảnh hưởng đến những người xung quanh”.
Kỹ năng “Giữ được thái độ bình tĩnh, khéo léo trước những tình huống căng
thẳng hay bất lợi cho bản thân trong quá trình giao tiếp”, ở mức rất thấp với ĐTB là 2.81; ĐLC = 0.66. Sinh viên dân tộc Tày chưa có kỹ năng khi thực hiện nội dung này. Do nét tâm lý chung của người Tày đó là phong cách nhu mì, giản dị, kiêm
nhường, tính tình kín đáo, chân thật, ít khoa trương. Tính tình bộc trực nên nhiều khi những cảm xúc tiêu cực và cảm xúc tích cực các em đều khó kiềm chế được và biểu hiện luôn ra bên ngoài. Khi được hỏi về nội dung này, các em sinh viên dân tộc
Tày được phỏng vấn đều cho biết: Chúng em không kiềm chế được cảm xúc của mình nên không bình tĩnh trước những tình huống căng thẳng với thầy cô và bạn bè
trong lớp.
Em N.Đ.Đ chia sẻ với chúng tôi: “Một lần trong giờ thảo luận nhóm, ý kiến của em đúng, nhưng bạn K nhóm em cho rằng sai và cười đểu em, em đã không
kiềm chế được và xảy ra va chạm giữa em và bạn K. Cô giáo và các bạn trong nhóm phải can ngăn em”.
Sinh viên dân tộc Tày đã ý thức được hiệu quả của quá trình diễn đạt phụ
thuộc rất nhiều vào khả năng, thói quen ăn nói. Thực tế cho thấy, không phải cách trình bày dài dòng mới là cách tối ưu giúp mọi người hiểu được vấn đề. Hầu hết thầy cô và sinh viên khác thường có cảm tình với những sinh viên hay phát biểu bài
xây dựng bài. Một sinh viên có kỹ năng diễn đạt tốt đồng nghĩa với việc họ không cần nhiều thời gian, tốn nhiều ngôn từ mà vẫn có thể làm người nghe hiểu được
mình cần làm sáng tỏ. Sinh viên dân tộc Tày đã thực hiện kỹ năng này tương đối thuần thục và linh hoạt.
Qua quan sát các giờ học trên lớp của sinh viên dân tộc Tày, chúng tôi cũng
thu được kết quả tương đồng với kết quả nghiên cứu định lượng trên. Trong lớp học các em đã nhận biết được cảm xúc của bản thân, của giảng viên và các bạn sinh viên cùng lớp để có cách ứng xử phù hợp. Tuy nhiên, trong giờ thảo luận, khi có sự
tranh luận giữa các ý kiến trái chiều giữa các thành viên trong nhóm các em sinh
107
viên dân tộc Tày chưa thực sự điều chỉnh được cảm xúc của mình, dễ dàng nổi nóng, có những biểu hiện không vừa lòng,… tạo ảnh hưởng tiêu cực đến thầy cô và
bạn bè.
Như vậy, trên thực tế, sinh viên dân tộc Tày được nghiên cứu còn thiếu hụt
biểu hiện của kỹ năng điều chỉnh cảm xúc bản thân khi giải quyết vấn đề học tập trên lớp. Các em mới chỉ quan tâm đến các kỹ năng lắng nghe mà chưa coi trọng kỹ năng điều chỉnh cảm xúc bản thân. Khi vận dụng kỹ năng này để giải quyết các vấn
đề học tập trên lớp, các em còn chưa thể hiện được sự linh hoạt và sáng tạo cần thiết. Với những tồn tại này, các em gặp khó khăn nhất định khi tìm sự thống nhất quan điểm với giảng viên và các bạn sinh viên cùng lớp về các vấn đề liên quan tới
nội dung học tập. Điều này cũng ảnh hưởng đến tính toàn diện, tính đầy đủ và chính xác của kỹ năng giải quyết vấn đề học tập trên lớp.
- Đánh giá chung mức độ thực hiện nhóm kỹ năng giải quyết vấn đề học tập trên
lớp của sinh viên dân tộc Tày - Nhóm kỹ năng giải quyết vấn đề học tập trên lớp của sinh viên dân tộc Tày
ở mức trung bình. Ở mức này, các biểu hiện kỹ năng được sinh viên dân tộc Tày thực hiện đầy đủ song chưa thật thành thạo, hợp lý và tính sáng tạo rất hạn chế. Nhìn chung, sinh viên dân tộc Tày có xu hướng quan tâm đến kỹ năng lắng nghe mà
chưa coi trọng kỹ năng điều chỉnh cảm xúc.
- Một phần lý do của thực trạng này là sinh viên còn chưa có đầy đủ các tri thức cần thiết của kỹ năng điều chỉnh cảm xúc bản thân, đặc biệt là sự thiếu hụt
trong việc được đào tạo, rèn luyện kỹ năng này.
- Những hạn chế trong các biểu hiện kỹ năng giải quyết vấn đề học tập trên lớp ở sinh viên dân tộc Tày sẽ ảnh hưởng không nhỏ tới việc giải quyết vấn đề học
tập trên lớp, ảnh hưởng tới hiệu quả học tập của sinh viên. Với những hạn chế này, sinh viên được nghiên cứu mới chỉ nắm bắt được kiến thức, kỹ năng, nội dung học
tập mà chưa giải quyết tốt được những vấn đề, yêu cầu nảy sinh trong hoạt động học tập trên lớp. 4.1.2.3. Thực trạng mức độ thực hiện nhóm kỹ năng sử dụng có hiệu quả các phương
tiện giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp của sinh viên dân tộc Tày
Kết quả nghiên cứu chung về thực trạng kỹ năng sử dụng có hiệu quả các phương tiện giao tiếp trong hoạt động học tập của sinh viên dân tộc Tày được chúng
tôi tổng hợp ở bảng biểu đồ dưới đây:
108
ĐTB: Điểm trung bình
ĐLC: Độ lệch chuẩn NNN: Kỹ năng sử dụng phương tiện ngôn ngữ nói
NNV: Kỹ năng sử dụng phương tiện ngôn ngữ viết
PNN: Kỹ năng sử dung phương tiện phi ngôn ngữ
KNSDPT: Kỹ năng sử dụng các phương tiện giao tiếp
Ghi chú: Mức cao: 5 ≥ ĐTB > 3.71; Mức tương đối cao: 3.71 ≥ ĐTB > 3.51; Mức trung
bình: 3.51 ≥ ĐTB > 3.11; Mức thấp: 3.11 ≥ ĐTB > 2.91; Mức rất thấp: 2.91 ≥ ĐTB > 1.
Biểu đồ 4.3. Mức độ thực hiện nhóm kỹ năng sử dụng các phương tiện giao tiếp của sinh viên dân tộc Tày
Phân tích bảng số liệu trên cho phép ta rút ra nhận xét sau: Kỹ năng sử dụng
có hiệu quả các phương tiện giao tiếp trong hoạt động học tập của sinh viên dân
tộc chỉ đạt ở mức độ trung bình (ĐTB = 3.35; ĐLC = 0.45). Trong đó, “Kỹ năng sử
dụng phương tiện giao tiếp bằng ngôn ngữ viết trong hoạt động học tập”, có ĐTB
cao nhất so với 3 kỹ năng thành phần thuộc nhóm kỹ năng này và “Kỹ năng sử dụng
các phương tiện giao tiếp phi ngôn ngữ trong hoạt động học tập”, có ĐTB thấp
nhất. Mỗi kỹ năng thành phần trong kỹ năng sử dụng có hiệu quả các phương tiện
giao tiếp trong hoạt động học tập của sinh viên dân tộc Tày lại có những biểu hiện
109
với các mức độ khác nhau ở từng tiêu chí. Những điểm khác nhau này sẽ được phân
tích trong từng kỹ năng cụ thể dưới đây.
- Kỹ năng sử dụng hiệu quả phương tiện giao tiếp bằng ngôn ngữ nói
Kết quả nghiên cứu thực trạng mức độ thực hiện kỹ năng sử dụng hiệu quả
phương tiện giao tiếp bằng ngôn ngữ nói trong hoạt động học tập của sinh viên dân
tộc Tày được chúng tôi tổng hợp ở bảng số liệu dưới đây:
Bảng 4.10: Mức độ thực hiện kỹ năng sử dụng hiệu quả phương tiện giao tiếp bằng ngôn
ngữ nói trong hoạt động học tập của sinh viên dân tộc Tày
Kỹ năng sử dụng hiệu quả
phương tiện giao tiếp bằng ngôn ĐTB ĐLC Thứ bậc Mức độ ngữ nói
1. Trình bày ý kiến, quan điểm của Tương mình một cách rõ ràng và tường 3.60 1.02 1 đối cao minh
2. Biết kiểm soát chất giọng khi Trung 3.35 0.53 2 nói bình
3. Biết đặt những câu hỏi hợp lý Trung 3.32 0.55 3 để khai thác được thông tin bình
4. Dành được cảm tình của người Trung đối thoại bằng giọng nói, ngữ điệu, 3.28 0.61 4 bình cách dùng từ…
Trung Điểm trung bình 3.39 0.50 bình
Ghi chú: Mức cao: 5 ≥ ĐTB > 3.71; Mức tương đối cao: 3.71 ≥ ĐTB > 3.51; Mức
trung bình: 3.51 ≥ ĐTB > 3.11; Mức thấp: 3.11 ≥ ĐTB > 2.91; Mức rất thấp: 2.91 ≥
ĐTB > 1.
Kết quả thống kê được thể hiện trong bảng trên cho thấy kỹ năng sử dụng
hiệu quả phương tiện giao tiếp bằng ngôn ngữ nói trong hoạt động học tập của sinh
viên dân tộc Tày mới chỉ đạt mức độ trung bình (ĐTB = 3.39; ĐLC = 0.50). Sinh
viên dân tộc Tày đã biết sử dụng các phương tiện giao tiếp bằng ngôn ngữ nói để
giao tiếp trực tiêp với các bạn sinh viên cùng lớp trong hoạt động học tập như: trao
110
đổi và thảo luận với nhau về nội dung bài học; trao đổi và thảo luận với nhau về
phương pháp học tập; trao đổi và thảo luận với nhau về hình thức và nội dung các
bài tập và kiểm tra… Bước đầu các em đã biết vận dụng kỹ năng này trong quá
trình giao tiếp những nội dung liên quan đến hoạt động học tập trên lớp tương đối
thuần thục và linh hoạt.
Xem xét biểu hiện trong từng kỹ năng thành phần của kỹ năng này lại có
những biểu hiện ở những mức độ khác nhau. Trong 4 biểu hiện thuộc nhóm kỹ năng
này thì chỉ có 1 kỹ năng đạt mức độ tương đối cao đó là kỹ năng “Trình bày ý kiến,
quan điểm của mình một cách rõ ràng và tường minh”, (ĐTB = 3.60; ĐLC = 1.02);
đạt mức độ tương đối cao, xếp thứ nhất), 3 kỹ năng thành phần còn lại chỉ đạt ở
mức độ trung bình. Trong đó, kỹ năng “Dành được cảm tình của người đối thoại
bằng giọng nói, ngữ điệu, cách dùng từ,…” có ĐTB thấp nhất (ĐTB = 3.28). Như
vậy, có thể thấy rằng, để sử dụng hiệu quả phương tiện giao tiếp bằng ngôn ngữ nói
trong hoạt động học tập thì sinh viên dân tộc Tày thường quan tâm nhiều hơn tới
việc trình bày ý kiến, quan điểm của mình một cách rõ ràng và tường minh so với
việc các em sử dụng gọng nói, ngữ điệu, cách dùng từ để thuyết phục đối tượng
giao tiếp. Cụ thể như sau:
Kỹ năng “Trình bày ý kiến, quan điểm của mình một cách rõ ràng và tường
minh” có ĐTB cao nhất trong 4 nội dung của nhóm kỹ năng thành phần này (ĐTB
= 3.60; ĐLC = 1.02); đạt mức độ tương đối cao). Đây là nội dung duy nhất trong kỹ
năng sử dụng hiệu quả phương tiện giao tiếp bằng ngôn ngữ nói trong hoạt động
học tập của sinh viên dân tộc Tày đạt ở mức tương đối cao. Là một nội dung có liên
quan nhiều đến hoạt động chủ đạo của sinh viên là hoạt động học tập, nội dung này
được số đông sinh viên dân tộc Tày hiểu một cách tương đối thấu đáo. Trong hoạt
động học tập, sinh viên phải thường xuyên trình bày nội dung học tập, hình thức
học tập, phương pháp học tập trước bạn bè, thầy cô giáo,…các em thường xuyên
phải tập trình bày vấn đề một cách tường minh, khoa học. Đây là một trong những
yếu tố quan trọng giúp cho các em sinh viên dân tộc Tày có điều kiện để rèn luyện
kỹ năng giao tiếp này.
Kết quả nghiên cứu từ phương pháp phỏng vấn sâu cũng cho thấy rõ kết quả
nghiên cứu định lương nêu trên. Qua trao đổi với chúng tôi em Nông Thị T. cho
111
biết: “Là một sinh viên, người có tri thức nên đòi hỏi chúng em phải biết trình bày
vấn đề một cách khoa học và tường minh như vậy chúng em mới có được kết quả
cao trong học tập”.
Bên cạnh nội dung trong kỹ năng thành phần này đạt mức độ cao như đã trình
bày ở trên thì 3 nội dung còn lại chỉ đạt mức độ trung bình. Trong đó, nội dung biết
kiểm soát chất giọng khi nói có ĐTB cao hơn 2 nội dung còn lại, ĐTB = 3.35; ĐLC
= 0.53. Trong quá trình giao tiếp bằng ngôn ngữ nói. Chất giọng khi nói phù hợp
với nội dung trình bày, phù hợp với không gian, thời gian trình bày, phù hợp với đối
tượng giao tiếp... là một yếu tố vô cùng quan trọng tạo nên thành công của quá trình
giao tiếp. Đặc biệt trong hoạt động học tập, chất giọng khi nói, sẽ giúp cho sinh viên
trình bày vấn đề của môn học, bài học có sức thuyết phục cao, thu hút được sự chú
ý lắng nghe của thầy cô giáo và các bạn sinh viên vào vấn đề các em cần trình bày,
tạo nên thành công trong hoạt động học tập của các em. Với kết quả nghiên cứu
thực trạng này đã chứng tỏ, sinh viên dân tộc Tày đã bước đầu rèn luyện được nội
dung giao tiếp này, đây là một trong những dấu hiệu đáng mừng.
Hai nội dung còn lại trong kỹ năng thành phần này ĐTB thấp hơn các nội
dung trên là nội dung Biết đặt những câu hỏi hợp lý để khai thác được thông tin,
ĐTB = 3.32; ĐLC = 0.55. Nội dung dành được cảm tình của người đối thoại bằng
giọng nói, ngữ điệu, cách dùng từ…, ĐTB = 3.28; ĐLC = 0.61. Đây là những kỹ
năng rất cần thiết trong hoạt động học tập của sinh viên. Tuy nhiên, đối với sinh
viên dân tộc Tày, việc rèn luyện để có được những kỹ năng này cần nhiều thời gian
hơn các kỹ năng khác. Đây cũng là một trong những vấn đề rất cần được giảng viên
trực tiếp giảng dạy các em lưu ý trong hoạt động dạy học ở trên lớp tạo điều kiện
cho các em được phát biểu ý kiến nhiều hơn, có nhiều cơ hội trình bày nội dung học
tập trước tập thể lớp hơn,…nhằm giúp các em biết đặt câu hỏi để khai thác thông tin
trong giao tiếp, dành được tình cảm của người giao tiếp với mình bằng giọng nói,
ngữ điệu và cách dùng từ đúng tránh được việc sử dụng các từ địa phương, hoặc
ngôn ngữ riêng của dân tộc Tày.
- Kỹ năng sử dụng hiệu quả phương tiện giao tiếp bằng ngôn ngữ viết
trong hoạt động học tập của sinh viên dân tộc Tày
112
Bảng 4.11. Mức độ thực hiện kỹ năng sử dụng hiệu quả phương tiện giao tiếp bằng
ngôn ngữ viết trong hoạt động học tập của sinh viên dân tộc Tày
ĐTB ĐLC Mức độ Thứ bậc
3.48 1.01 2 Trung bình
Kỹ năng sử dụng hiệu quả phương tiện giao tiếp bằng ngôn ngữ viết 1. Biết sử dụng ngôn ngữ viết một cách đơn giản, dễ hiểu qua email và các trang mạng xã hội để trao đổi với các bạn sinh viên khác về nội dung học tập
3.53 0.98 1 2. Biết sử dụng ngôn ngữ viết một cách khoa học, phù hợp và có văn hóa Tương đối cao
3. Biết các kỹ thuật trình bày văn bản 3.27 0.80 3 Trung bình
Điểm trung bình 3.43 0.74 Trung bình
Ghi chú: Mức cao: 5 ≥ ĐTB > 3.71; Mức tương đối cao: 3.71 ≥ ĐTB > 3.51; Mức trung bình: 3.51 ≥ ĐTB > 3.11; Mức thấp: 3.11 ≥ ĐTB > 2.91; Mức rất thấp: 2.91 ≥ ĐTB > 1. Với kết quả ĐTB = 3.43; ĐLC = 0.74 có thể đánh giá mức độ vận dụng kỹ năng sử dụng có hiệu quả phương tiện giao tiếp bằng ngôn ngữ viết trong hoạt động học tập của sinh viên dân tộc Tày đã đạt được mức độ trung bình. Kỹ năng này có ĐTB cao nhất trong 3 kỹ năng thành phần xem xét thuộc nhóm kỹ năng sử dụng hiệu quả các phương tiện giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp. Kết quả này khẳng định, bước đầu sinh viên dân tộc Tày đã biết sử dụng phương tiện giao tiếp bằng ngôn ngữ viết trong hoạt động học tập. Các em sử dụng kỹ năng này tương đối thuần thục và linh họat. Đối với sinh viên nói chung, sinh viên dân tộc Tày nói riêng, hoạt động học tập tại các trường phổ thông và trường đại học đòi hỏi và yêu cầu sinh viên buộc phải có kỹ năng giao tiếp bằng ngôn ngữ viết. Bởi lẽ, ngôn ngữ viết, là ngôn ngữ được sử dụng bắt buộc trong nhà trường. Các em hàng ngày phải ghi chép lại nội dung bài học, sử dụng ngôn ngữ viết để trình bầy quan điểm, ý kiến của mình và nội dung bài tập, làm bài kiểm tra, bài thi,… Do vậy, việc các em sử dụng ngôn ngữ viết trong hoạt động học tập khá tốt, khá thành thạo, và linh hoạt là rất phù hợp với thực tiễn.
Khi xem xét mức độ thực hiện các kỹ năng thành phần thuộc nhóm kỹ năng này cho thấy có sự khác biệt nhất định về mức độ thực hiện. Trong đó, kỹ năng: “Biết sử dụng ngôn ngữ viết một cách khoa học, phù hợp, và có văn hóa” có ĐTB
113
cao nhất so với hai biểu hiện còn lại (ĐTB 3.53; ĐLC 0.98, mức tương đối cao). Kết quả nghiên cứu này cũng phù hợp và tương đồng với kết quả nghiên cứu từ phương pháp quan sát và phương pháp phỏng vấn sâu. Qua trao đổi, hầu hết sinh viên dân tộc Tày đều đánh giá đây chính là biểu hiện sinh động nhất cho một sinh viên có kỹ năng sử dụng có hiệu quả phương tiện giao tiếp bằng ngôn ngữ viết trong hoạt động học tập. Có thể nói rằng, đối với sinh viên dân tộc Tày với một tỷ lệ rất ít các em đỗ đại học. Do vậy, những sinh viên mà đề tài nghiên cứu là những sinh viên dân tộc Tày ưu tú, có thành tích học tập tốt. Do vậy, khi đã trở thành sinh viên một trường đại học các em đã biết sử dụng đúng kỹ năng này và đã thể hiện sự thuần thục và hiệu quả trong giao tiếp với giảng viên trong hoạt động học tập.
Khi phỏng vấn sâu các giảng viên trực tiếp giảng dạy những lớp có sinh viên dân tộc Tày theo học đều cho kết quả tương đồng với kết quả nghiên cứu trên. Trả lời câu hỏi của chúng tôi, giảng viên V.T.T cho biết “Phần lớn các em sinh viên dân tộc Tày ở những lớp tôi giảng dạy đều biết sử dụng ngôn ngữ viết một cách khoa học và có văn hoá. Các em còn mắc một số lỗi về kỹ thuật. Khi trình bày ý kiến quan điểm của mình về nội dung bài học, các em đã biết trình bày rõ ràng, mạch lạc. Tuy nhiên, các em còn lúng túng khi đặt những câu hỏi để khai thác những thông tin, nội dung tri thức bài học. Đây cũng là một hạn chế của các em sinh viên dân tộc Tày”.
Sinh viên V.Th.Tr. cho biết: “Đã là sinh viên thì bắt buộc phải sử dụng thành thạo ngôn ngữ viết, nếu sinh viên không rèn luyện để có được ngôn ngữ viết trong hoạt động học tập đạt mức độ tương đối tốt trở lên sẽ không thể thực hiện được các yêu cầu và nội dung học tập trên lớp,…”.
Quá trình quan sát một số giờ học trên lớp của sinh viên dân tộc Tày cũng thu được những kết quả tương đồng với nghiên cứu định lượng trên. Phần lớn các em sinh viên dân tộc Tày khi trình bày ý kiến quan điểm của mình về nội dung bài học bằng ngôn ngữ viết thể hiện trong vở ghi bài, bài kiểm tra, bài thi đều được đánh giá đạt yêu cầu từ mức trung bình trở lên. Ngôn ngữ viết được các em trình bầy một cách rõ ràng, tường minh. Ngôn ngữ trong sáng, mạch lạc, đúng chính tả. Kỹ năng: “Biết sử dụng ngôn ngữ viết một cách đơn giản, dễ hiểu qua email và các trang mạng xã hội để trao đổi với các bạn sinh viên khác về nội dung học tập”, xếp thứ bậc 2 (ĐTB = 3.48; ĐLC = 1.01). Với sinh viên dân tộc thiểu số hay sinh viên dân tộc đa số, thì hoạt động học tập trong nhà trường đại học hiện nay đòi hỏi các em phải tự học, thảo luận nhóm rất nhiều để phát huy hết khả năng, tính tích
114
cực, chủ động và sáng tạo trong hoạt động học tập, nên các em đều phải giao tiếp với các bạn sinh viên khác về nội dung học tập qua nhiều phương tiện giao tiếp khác nhau, trong đó có giao tiếp bằng ngôn ngữ viết qua email, qua các trang mạng cá nhân khác. Điều này đã dần dần hình thành ở các em sinh viên kỹ năng giao tiếp này. Kỹ năng: “Biết các kỹ thuật trình bày văn bản” có ĐTB thấp nhất khi so sánh với 3 kỹ năng thành phần thuộc nhóm kỹ năng này (ĐTB = 3.27; ĐLC = 0.80). Thực tế đã cho thấy, đối với các em sinh viên dân tộc Tày các kỹ thuật trình bày văn bản là chưa tốt. Các em đã và đang được rèn luyện kỹ thuật trình bày văn bản trong nhà trường. Tuy nhiên, do còn ít kinh nghiệm trong việc phải trình bày một văn bản cụ thể nên kỹ năng này còn chưa cao và cần phải được rèn luyện nhiều trong trường đại học. Kết quả này cũng cho thấy, các nhà trường đại học cần chú trọng hơn trong việc giúp các em sinh viên nói chung và sinh viên dân tộc Tày nói riêng rèn luyện nhiều hơn kỹ thuật trình bày văn bản trong hoạt động học tập tại nhà trường để nâng cao hiệu quả hoạt động học tập và có thể phúc đáp tốt hơn yêu cầu công việc của cơ quan, đơn vị khi các em tốt nghiệp đại học.
Kết quả nghiên cứu từ phương pháp định tính của luận án cũng cho kết quả tương đồng. Quan sát các văn bản, đơn thư các em sinh viên nộp cho lớp, cho nhà trường cho thấy. Hình thức và những quy định trình bầy văn bản hành chính như đơn xin nghỉ học, đơn xin học các học phần tự chọn, … vẫn có một số em sinh viên được nghiên cứu mắc lỗi. Ví dụ: Các em trình bầy sai quy định khi viết đơn xin nghỉ học. VD: Dòng thứ nhất: “CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM” được trình bày bằng chữ in hoa, cỡ chữ từ 12 đến 13, kiểu chữ đứng, đậm; Dòng thứ hai: “Độc lập - Tự do - Hạnh phúc” được trình bày bằng chữ in thường, cỡ chữ từ 13 đến 14, thì dòng thứ hai các em cũng viết in hoa như dòng thứ nhất,…
Phỏng vấn sâu giảng viên và sinh viên cũng lí giải rõ hơn điều này. Dưới đây
chúng ta hãy nghe một số ý kiến cụ thể:
Giảng viên Đ.Th. Y chia sẻ: “Đa số sinh viên ít khi học và rèn luyện kỹ năng này, mặc dù đây là kỹ năng rất cần thiết đối với các em. Tuy nhiên, nhiều em khi cứ phải viết đơn, viết văn bản nào đó thì lại cuống lên hỏi giảng viên cách viết, các em viết xong giảng viên còn phải sửa rất nhiều”. Sinh viên H.M.Tr. cho biết: “Thực ra em không được học bài bản về những quy định trình bầy văn bản hành chính. Do vậy, rất lúng túng khi phải viết các văn
115
bản hành chính này. Nhiều khi cần viết đơn, viết báo cáo, viết biên bản liên quan tới học tập của lớp mà mình được giao nhiệm vụ em thấy rất khó khăn”. Với kết quả nghiên cứu định lượng và định tính này cho thấy, sinh viên được nghiên cứu chưa thật sự thực hiện thành thạo kỹ năng này. Các em cần phải được học và rèn luyện để thực hiện tốt hơn, thành thạo hơn để góp phần tạo nên hiệu quả học tập cho bản thân. Đây chính là điểm cần lưu ý đối với giảng viên và cán bộ quản lý giáo dục tại các trường đại học. - Kỹ năng sử dụng hiệu quả phương tiện giao tiếp phi ngôn ngữ trong hoạt động
học tập của sinh viên dân tộc Tày
Bên cạnh hai kỹ năng thành phần đã được phân tích ở trên, để có cái nhìn toàn diện hơn về mức độ đạt được của kỹ năng sử dụng hiệu quả phương tiện giao tiếp trong hoạt động học tập của sinh viên dân tộc Tày chúng tôi phân tích thực trạng kỹ năng sử dụng hiệu quả phương tiện giao tiếp phi ngôn ngữ trong hoạt động học tập của sinh viên dân tộc Tày. Đây là một trong 3 kỹ năng cơ bản cấu thành nên kỹ năng này ở sinh viên dân tộc Tày. Kết quả nghiên cứu được tổng hợp tại bảng số liệu dưới đây.
Bảng 4.12. Mức độ thực hiện kỹ năng sử dụng hiệu quả phương tiện giao tiếp phi ngôn ngữ trong hoạt động học tập của sinh viên dân tộc Tày
ĐTB ĐLC Mức độ Thứ bậc
3.28 0.58 1 Trung bình Kỹ năng sử dụng hiệu quả phương tiện giao tiếp phi ngôn ngữ 1. Biết sử dung ngôn ngữ cơ thể trong giao tiếp
3.27 0.63 2 Trung bình
3.17 0.75 3 Trung bình 2. Biết sử dụng giọng nói phù hợp trong giao tiếp (khi nói giọng nói phải diễn tả cảm xúc theo nội dung nói, khi phát âm thì âm vực phải chuẩn, tròn vành rõ chữ, không méo tiếng hay nuốt chữ, không nhầm lẫn giữa các âm) 3. Biết sử dụng không gian và khoảng cách giao tiếp
Điểm trung bình 3.24 0.61 Trung bình
Ghi chú: Mức cao: 5 ≥ ĐTB > 3.71; Mức tương đối cao: 3.71 ≥ ĐTB > 3.51; Mức trung
bình: 3.51 ≥ ĐTB > 3.11; Mức thấp: 3.11 ≥ ĐTB > 2.91; Mức rất thấp: 2.91 ≥ ĐTB > 1.
116
Phân tích số liệu được tổng hợp tại bảng số liệu 4.12 cho thấy, mức độ thực
hiện kỹ năng sử dụng hiệu quả phương tiện giao tiếp phi ngôn ngữ trong hoạt động
học tập của sinh viên dân tộc Tày chỉ đạt ở mức độ trung bình (ĐTB = 3.24; ĐLC =
0.61). Điều này cho thấy, sinh viên được nghiên cứu bước đầu đã biết thực hiện
đúng kỹ năng này, cơ bản đã có sự thành thạo song sự linh hoạt trong việc sử dụng
hiệu quả phương tiện giao tiếp phi ngôn ngữ còn chưa cao.
Xem xét các kỹ năng thành phần thuộc nhóm kỹ năng này cho thấy, có sự
chênh lệch một chút khi xem xét ĐTB giữa 3 kỹ năng thành phần thuộc nhóm.
Trong đó, có 2 kỹ năng thành phần thuộc nhóm này có ĐTB gần tương đương
nhau đó là: là kỹ năng “Biết sử dung ngôn ngữ cơ thể trong giao tiếp”, ĐTB =
3,28, xếp thứ nhất và kỹ năng “Biết sử dụng giọng nói phù hợp trong giao tiếp
(khi nói giọng nói phải diễn tả cảm xúc theo nội dung nói, khi phát âm thì âm
vực phải chuẩn, tròn vành rõ chữ, không méo tiếng hay nuốt chữ, không nhầm
lẫn giữa các âm)”, ĐTB = 3,27, xếp thứ 2; kỹ năng có ĐTB thấp nhất đó là “Biết
sử dụng không gian và khoảng cách giao tiếp”, ĐTB = 3,17. Như vậy, việc sử
dụng phương tiện giao tiếp phi ngôn ngữ trong hoạt động học tập của sinh viên
dân tộc Tày đã được các em quan tâm thực hiện. Từ ngôn ngữ cơ thể, giọng nói,
cho đến việc sử dụng không gian và khoảng cách giao tiếp. Việc sử dụng hiệu
quả phương tiện giao tiếp phi ngôn ngữ trong hoạt động học tập trên lớp của các
em đã giúp các em có hiệu quả cao trong hoạt động này. Chúng tôi sẽ phân tích
cụ thể những nội dung này dưới đây.
Hai kỹ năng “Biết sử dung ngôn ngữ cơ thể trong giao tiếp” và kỹ năng
“Biết sử dụng giọng nói phù hợp trong giao tiếp (khi nói giọng nói phải diễn tả cảm
xúc theo nội dung nói, khi phát âm thì âm vực phải chuẩn, tròn vành rõ chữ, không
méo tiếng hay nuốt chữ, không nhầm lẫn giữa các âm)” được sinh viên dân tộc Tày
thực hiện đúng, và bước đầu đã có sự thành thục.
Sinh viên được nghiên cứu đã biết sử dụng ngôn ngữ cơ thể trong giao tiếp
với giảng viên và sinh viên trong các giờ học trên lớp, việc sử dụng kỹ năng này đã
thành thạo, tuy nhiên đôi khi còn chưa thật linh hoạt. Kết quả nghiên cứu từ phương
pháp quan sát và phỏng vấn sâu đã lí giải rõ điều này.
117
Cụ thể, quan sát các giờ giảng trên lớp, khi giảng viên giảng bàì có những
nội dung hay, phong phú, hấp dẫn, nhiều ví dụ minh hoạ, dễ hiểu thì các em biết
biểu lộ cảm xúc vui mừng, phấn khởi; ánh mắt chăm chú nghe giảng, ngồi nghiêm
chỉnh, ngay ngắn,… Khi sinh viên cùng lớp có bài trình bày nội dung bài thảo luận,
hay có những ý kiến phát biểu xây dựng bài tốt thì các em biết vỗ tay hoan
nghênh,…Tuy nhiên, việc sử dụng ngôn ngữ cơ thể trong giao tiếp với giảng viên
và sinh viên trong các giờ học trên lớp đôi khi còn thiếu linh hoạt ở một số tình
huống giao tiếp cụ thể.
Phỏng vấn sâu giảng viên cũng cho thấy những lí giải về kết quả nêu trên. Cô
giáo V.Q.A. chia sẻ: “Sinh viên dân tộc Tày đã biết sử dụng ngôn ngữ cơ thể khi
thực hiện hoạt động giao tiếp trên lớp học. Các em đã biết sử dụng ngôn ngữ cơ thể
để biểu đạt cảm xúc và thái độ của mình với thầy cô và bạn bè khi trao đổi các nội
dung học tập”.
Kỹ năng “Biết sử dụng giọng nói phù hợp trong giao tiếp (khi nói giọng nói
phải diễn tả cảm xúc theo nội dung nói, khi phát âm thì âm vực phải chuẩn, tròn
vành rõ chữ, không méo tiếng hay nuốt chữ, không nhầm lẫn giữa các âm)” được
sinh viên dân tộc Tày thực hiện đúng, và bước đầu đã có sự thành thục. Điều này
cũng phản ánh rõ nét khi quan sát trực tiếp các giờ học trên lớp của sinh viên. Quan
sát giờ học tên lớp của sinh viên cho thấy: khi các em được gọi lên trao đổi và thảo
phương tiện giúp giảng viên và sinh viên cùng lớp hiểu được nội dung mình trình bày.
Các em đã biết diễn tả cảm xúc theo nội dung nói, biết phát âm chuẩn, chính xác.
luận về nội dung bài giảng các em đã biết sử dụng giọng nói của mình như một
Tuy nhiên, ở một vài sinh viên, đôi khi còn thực hiện kỹ năng này chưa thật
thành thạo ở chỗ các em vẫn dùng từ địa phương, từ của dân tộc mình, từ lóng trong
khi trình bày nội dung bài học. Như ví dụ dưới đây: “SV: Em không đồng ý với khái
niệm Bạn L. đưa ra đâu nhé. Thật là “lạ đời” khi đưa ra khái niệm như vậy)"
(L.Đ.N.).
Kỹ năng “biết sử dụng không gian và khoảng cách giao tiếp, có ĐTB thấp
nhất so với 3 kỹ năng thành phần thuộc nhóm (ĐTB = 3.17; ĐLC = 0.75). Với kỹ
năng này, dường như các em sinh viên dân tộc Tày chưa thật sự quan tâm nhiều
trong việc rèn luyện để có được mức độ vận dụng kỹ năng này một cách thuần thục
118
và linh hoạt khi giao tiếp những nội dung liên quan đến hoạt động học tập với các
bạn sinh viên khác cũng như giảng viên.
Quan sát một số giờ thảo luận của sinh viên tại lớp học cho thấy: khi lớp chia
ra thành các nhóm thảo luận, một số sinh viên dân tộc Tày thường chọn các vị trí
ngồi phía dưới, ngồi tách ra khỏi nhóm, khoảng cách ngồi của các em với các bạn
trong nhóm còn hơi xa. Cũng quan sát giờ học trên lớp của sinh viên cho thấy: khi
sinh viên được gọi lên trả lời câu hỏi theo yêu cầu của giảng viên hoặc của sinh viên
cùng nhóm thảo luận, giảng viên và các bạn yêu cầu các em đứng hẳn lên bục giảng
để trình bầy thì một số sinh viên dân tộc Tày còn chưa biết đứng tại vị trí nào trong
không gian lớp học, hoặc không gian của bục giảng để trình bày.
- Đánh giá chung mức độ thực hiện nhóm kỹ năng sử dụng có hiệu quả các phương
tiện giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp của sinh viên dân tộc Tày
Từ phân tích số liệu điều tra, kết hợp với kết quả của các phương pháp
nghiên cứu khác nhau cho phép nhận định:
Sinh viên dân tộc tày có kỹ năng sử dụng có hiệu quả các phương tiện giao
tiếp trong hoạt động học tập của sinh viên dân tộc chỉ đạt ở mức độ trung bình. Tuy
nhiên, so với 3 nhóm kỹ năng thành phần thuộc kỹ năng giao tiếp trong hoạt động
học tập trên lớp của sinh viên dân tộc Tày thì kỹ năng này có ĐTB cao nhất, các em
thực hiện kỹ năng này tốt nhất. Ở mức này, sinh viên được nghiên cứu có tương đối
đầy đủ các biểu hiện kỹ năng, vận dụng chúng tương đối thành thục, nhưng chưa
thật sự ổn định, bền vững, linh hoạt khi sử dụng các phương tiện giao tiếp trong hoạt
động học tập trên lớp. Nhìn chung, sinh viên thiên về các biểu hiện kỹ năng sử dụng
phương tiện giao tiếp bằng ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết mà chưa quan tâm nhiều
đến kỹ năng sử dụng các phương tiện giao tiếp phi ngôn ngữ trong hoạt động học
tập trên lớp.
Với những tồn tại này, là trở ngại cho sinh viên dân tộc Tày trong việc sử
dụng có hiệu quả các phương tiện giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp.
4.2. So sánh kỹ năng giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp sinh viên dân
tộc Tày qua biến số dân tộc, giới tính, năm học
4.2.1. So sánh thực trạng kỹ năng giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp sinh
viên dân tộc Tày theo biến số dân tộc
119
Bảng 4.13. Mức độ thực hiện kỹ năng giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp của sinh viên dân tộc Tày và sinh viên dân tộc Kinh
Dân Tộc N ĐTB ĐLC Mức độ có ý nghĩa T – test
Kỹ năng giao tiếp 2.96 0.00
-1.33 0.19
3.80 200 300 200 300 200 3,46 3,30 3,19 3,26 3,50 0,719 0,312 0,693 0,362 0,700 0.00
Kinh Tày Kinh Tày Kinh Tày 300 3,29 0,358
200 3,59 1,000 3.22 0.00
Kinh Tày 300 3,35 0,454
4.88 0.00
-1.65 0.10
1.50 0.13
Nhóm kỹ năng thiết lập các mối quan hệ Nhóm kỹ năng giải quyết vấn đề học tập trên lớp Nhóm kỹ năng sử dụng phương tiện giao tiếp Kỹ năng tìm hiểu đối tượng giao tiếp Kỹ năng thể hiện sự tôn trọng Kỹ năng thể hiện sự hợp tác
-11.86 0.00
Kỹ năng thể hiện sự trung thực
5.66 0.00
Kỹ năng diễn đạt nội dung học tập
0.61 0.54
2.45 0.01
4.29 0.00
1.11 0.27
3.38 0.00
Kỹ năng điều chỉnh cảm xúc Kỹ năng sử dụng ngôn ngữ nói Kỹ năng sử dụng ngôn ngữ viết Kỹ năng sử dụng phi ngôn ngữ Kinh Tày Kinh Tày Kinh Tày Kinh Tày Kinh Tày Kỹ năng lắng nghe Kinh Tày Kinh Tày Kinh Tày Kinh Tày Kinh Tày 200 300 200 300 200 300 200 300 200 300 200 300 200 300 200 300 200 300 200 300 3,52 3,17 3,19 3,30 3,35 3,24 2,71 3,36 3,77 3,33 3,46 3,42 3,26 3,13 3,70 3,38 3,60 3,43 3,48 3,23 0,872 0,676 0,824 0,559 0,990 0,414 0,618 0,549 0,977 0,615 0,725 0,662 0,685 0,417 0,953 0,504 2,077 0,738 0,894 0,608
120
Qua bảng 4.13, ta thấy: Nhìn chung có sự khác biệt về mức độ thể hiện kỹ năng giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp của sinh viên dân tộc Tày và sinh viên dân tộc Kinh (sig = 0.00). Trong đó, mức độ thực hiện kỹ năng giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp của sinh viên dân tộc Kinh cao hơn mức độ thực hiện kỹ năng giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp của sinh viên dân tộc Tày với hệ số T = 2.96.
Mức độ thực hiện nhóm kỹ năng giải quyết vấn đề học tập trên lớp và nhóm kỹ năng sử dụng các phương tiện giao tiếp của sinh viên dân tộc Kinh cao hơn sinh viên dân tộc Tày với hệ số T lần lượt là T = 3.80 và T = 3.32.
Ngoài ra kết quả nghiên cứu cho thấy, mức độ thể hiện nhóm kỹ năng thiết lập mối quan hệ trong hoạt động học tập trên lớp giữa sinh viên dân tộc Tày và Kinh là như nhau.
Có sự khác biệt giữa mức độ thực hiện giữa các kỹ năng thành phần của các
nhóm kỹ năng này giữa sinh viên dân tộc Tày và sinh viên dân tộc Kinh.
Mức độ thực hiện kỹ năng tìm hiểu đối tượng giao tiếp; kỹ năng diễn đạt các nội dung học tập, kỹ năng điều chỉnh cảm xúc bản thân; kỹ năng sử dụng ngôn ngữ nói và kỹ năng sử dụng các phương tiện phi ngôn ngữ của sinh viên dân tộc kinh cao hơn dân tộc Tày.
Tuy nhiên, mức độ thực hiện kỹ năng thể hiện sự trung thực của dân tộc Tày lại
cao hơn dân tộc Kinh. 4.2.2. So sánh thực trạng kỹ năng giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp sinh viên dân tộc Tày theo biến số giới tính
Bảng 4.14: Mức độ thực hiện kỹ năng giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp của nữ sinh viên dân tộc Tày và nam sinh viên dân tộc Tày
Kĩ năng giao tiếp ý N ĐTB ĐLC T – test Giới tính
Kỹ năng giao tiếp Mức nghĩa 0.00 -13.58
Nhóm kỹ năng thiết lập -12.66 0.00
mối quan hệ
Nam 241 Nữ 259 Nam 241 259 Nữ Nam 241 -11.98 0.00 3,09 3,63 3,02 3,53 3,12 0,47 0,43 0,45 0,45 0,46
Nữ 259 3,62 0,47 Nhóm kỹ năng giải quyết vấn đề học tập trên lớp
Nam 241 3,13 0,76 -10.26 0.00
Nhóm kỹ năng sử dụng tiếp tiện giao Nữ 259 3,74 0,57 phương trong hoạt động học tập
121
Kết quả nghiên cứu bảng trên với mức ý nghĩa < 0.05 trong kiểm định T –
Test cho thấy có sự khác biệt rõ nét giữa nam và nữ về việc thực hiện kỹ năng giao
tiếp nói chung và các nhóm kỹ năng. Với hệ số T – test âm, cho thấy sinh viên nữ
người Tày có kỹ năng giao tiếp nói chung và thực hiện các nhóm kỹ năng giao tiếp
riêng ở mức tốt hơn so với sinh viên nam người Tày. Trong đó, việc thực hiện nhóm
kỹ năng thiết lập mối quan hệ có sự khác biệt lớn nhất giữa nam và nữ với T – Test
= -12.66. Sự khác biệt nhỏ thất thể hiện ở nhóm kỹ năng sử dụng phương tiện giao
tiếp trong hoạt động học tập (T – Test = -10.26).
Để thấy rõ hơn sự khác biệt của các nhóm kỹ năng theo biến số giới tính. Đề
tài đi vào so sánh từng nhóm kỹ năng thể hiện cụ thể như sau:
Nhóm kỹ năng thể hiện sự khác biệt lớn nhất theo biến số giới tính so với các
nhóm kỹ năng khác. Có thể đây là nhóm kỹ năng mà sinh viên nam người Tày gặp
nhiều trở ngại. Qua phỏng vấn sâu, một số sinh viên Nam đều có cùng chia sẻ rằng:
rất ngại khi tự dưng bắt chuyện với người bạn mới, ngại nói chuyện với thầy cô, và
cũng không có nhu cầu để hiểu về những sở thích, quan điểm của người khác. Thậm
chí các bạn còn cho rằng: việc hiểu quan điểm, tính cách của người khác không
quan trọng trong việc làm quen hay chơi với mọi người. Có thể thấy, đây là một
khía cạnh nhận thức chưa đúng về tầm quan trọng của việc tìm hiểu đối tượng giao
tiếp để thiết lập mối quan hệ.
Trong các kỹ năng thành phần của nhóm kỹ năng thiết lập mối quan hệ. Kỹ
năng thể hiện sự tôn trọng đối tượng giao tiếp có sự khác biệt lớn nhất giữa sinh
viên nam và sinh viên nữ người Tày (T = -10.87). Bạn Th.Th (sinh viên nữ, năm
nhất) chia sẻ: Đi học mình luôn mặc đồ dài, cao cổ, kín đáo. Môi trường học tập mà
mặc đồ cộc thì ngại lắm. Hay bạn Tr.Ph (sinh viên nữ, năm hai) khi được hỏi bạn
nghĩ như thế nào về việc nghe điện thoại, nhắn tin khi giao tiếp với người khác? bạn
chia sẻ rằng: Đó là việc làm rất không lịch sự và thiếu tôn trọng người khác. Nhiều
khi mình nói chuyện với bạn bè, nhưng thay vì lắng nghe mình, họ chỉ cặm cụi lướt
facebook, khiến mình cảm thấy không được lắng nghe, và cũng chẳng muốn nói
dùng điện thoại trong giờ. Dưới đánh giá chung về việc quan sát lớp học, đề tài nhận
chuyện. Trong giờ học mình luôn để điện thoại im lặng, nếu có vấn đề cấp bách mới
122
thấy, đa số sinh viên ngồi cuối lớp trong giờ học là sinh viên nam và việc dùng điện
thoại để chơi điện tử, xem phim, lướt web trong giờ học là chuyện không hiếm gặp.
Kỹ năng thể hiện sự hợp tác với đối tượng giao tiếp có sự khác biệt nhỏ nhất giữa sinh viên nam và sinh viên nữ người Tày (T = -7.37). Kỹ năng tìm hiểu đối tượng giao tiếp có sự khác biệt lớn thứ hai (T = - 8.09). “Nhóm kỹ năng giải quyết vấn đề học tập trên lớp theo biến số giới tính”, là nhóm kỹ năng có sự khác biệt lớn thứ hai giữa sinh viên nam và sinh viên nữ người Tày trong 3 nhóm kỹ năng giao tiếp, với hệ số T = -11.98 có thể nói sinh viên nữ người Tày có kỹ năng giải quyết vấn đề học tập trên lớp tốt hơn sinh viên nam người Tày. Trong nhóm kỹ năng này, kỹ năng điều chỉnh cảm xúc có sự khác biệt lớn nhất giữa nam và nữ (T = -10.90). Như vậy có thể nói, sinh viên nữ người Tày có khả năng điều chỉnh cảm xúc tốt hơn sinh viên Nam người Tày. Bạn Th.Th (nữ, năm hai) chia sẻ: khi buồn, hay tức giận luôn tự tìm hiểu vì sao lại có những cảm xúc đó. Mặc dù nó khiến bản thân không muốn học, nhưng vẫn phải cố gắng. Kỹ năng diễn đạt nội dung trên lớp là kĩ năng có sự khác biệt giữa sinh viên nữ và sinh viên nam người Tày thấp nhất, với hệ số T = -6.66 cho thấy sinh viên nữ người Tày có khả năng diễn đạt nội dung trên lớp tốt hơn sinh viên nam. Bạn N.T (nam) chia sẻ: chẳng bao giờ giơ tay phát biểu ý kiến, chỉ có bị gọi lên trả lời thôi, nhưng không biết phải nói như thế nào vì cũng không hiểu bài, cũng chưa bao giơ trao đổi với bạn bè khi gặp bài khó. Trừ khi cuối kì đi thi thì xin đề cương đọc để còn có cái mà viết thôi! Điều này cũng có thể đưa đến lý giải rằng thái độ học tập là một trong những yếu tố ảnh hưởng đến kỹ năng diễn đạt nội dung học tập trên lớp. Nhóm kỹ năng sử dụng phương tiện giao tiếp trong hoạt động học tập theo biến số giới tính ở nữ sinh viên người Tày ở mức tốt hơn so với sinh viên nam người Tày với T = -10.26. Trong nhóm kỹ năng trên, kỹ năng sử dụng phương tiện giao tiếp bằng ngôn ngữ nói có sự khác biệt lớn nhất giữa sinh viên nam và sinh viên nữ người Tày (T = -13.63). Bạn N.T (nam) chia sẻ: chẳng bao giờ phát biểu ý kiến, và cũng rất ngại trình bày trước đám đông, không biết nói như thế nào để cho đúng với bài học, vì bản thân cũng không hiểu bài. Cũng chẳng bao giờ đặt câu hỏi cho giáo viên về bài học. Có thể thấy, việc hiểu bài, nắm được kiến thức là một trong những điều quan trọng để sinh viên có khả năng trình bày ý kiến, quan điểm về nội dung bài học, đồng thời khai thác nội dung kiến thức.
123
4.2.3. So sánh thực trạng kỹ năng giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp sinh viên dân tộc Tày theo biến số năm học
Bảng 4.15: Mức độ thực hiện kỹ năng giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp của sinh viên dân tộc Tày theo biến số năm học
T – Mức ý Kĩ năng giao tiếp Năm học N ĐTB ĐLC test nghĩa
Năm nhất 247 3,19 0,51 Kỹ năng giao tiếp -8.09 0.00 Năm hai 253 3,55 0,47
Nhóm kỹ năng thiết lập mối Năm nhất 247 3,10 0,48 -8.23 0.00 quan hệ
Năm hai 253 3,46 Năm nhất 247 3,22 0,49 0,50 Nhóm kỹ năng giải quyết vấn -6.92 0.00 đề học tập trên lớp Năm hai 253 3,54 0,52
Nhóm kỹ năng Năm nhất 247 3,25 0,79
-6.23 0.00 Năm hai 253 3,64 0,61 sử dụng phương tiện giao tiếp trong hoạt động học tập
Kết quả bảng với mức ý nghĩa < 0.05 cho thấy, có sự khác biệt giữa sinh viên năm nhất và sinh viên năm hai dân tộc Tày trong việc thực hiện kỹ năng giao tiếp nói chung và các nhóm kỹ năng giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp. Với hệ số T là âm ở mỗi nhóm kỹ năng cho thấy sinh viên năm hai thực hiện kỹ năng giao tiếp ở mức độ tốt hơn sinh viên năm nhất. Trong đó sự khác biệt rõ nét nhất thể hiện ở nhóm kỹ năng thiết lập mối quan hệ. Đây là nhóm kỹ năng có sự khác biệt lớn nhất giữa sinh viên năm nhất và sinh viên năm hai dân tộc Tày, có thể do sự va chạm, kinh nghiệm theo độ tuổi và số năm học mà sinh viên năm hai thể hiện kỹ năng này tốt hơn. Hơn thế nữa, đây là nhóm kỹ năng đòi hỏi sự dạn dày về kinh nghiệm, hiểu biết, và sự tự tin, mạnh dạn. Trong khi đó, đây là những yếu tố mà sinh viên năm nhất còn thiếu, đặc biệt đối với những sinh viên ở vùng xa đi học. Trong nhóm kỹ năng này, kỹ năng tìm hiểu đối tượng giao tiếp là kỹ năng có sự khác biệt lớn nhất giữa sinh viên năm nhất và sinh viên năm hai dân tộc Tày (T = - 7.55), có thể nói, sinh viên năm thứ hai thực hiện kỹ năng tìm hiểu đối tượng giao tiếp tốt hơn so với sinh viên năm thứ nhất. Sinh viên P.Th (nữ, năm nhất) chia sẻ: Em ngại chủ động làm quen trước với mọi người, vì mới lên học cũng chẳng quen ai.
124
Kỹ năng sử dụng các phương tiện giao tiếp
0,292**
0,592**
Kỹ năng thể hiện sự tôn trọng có sự khác biệt thấp nhất giữa sinh viên năm nhất và sinh viên năm hai (T = -4.55). Sự khác biệt giữa sinh viên năm nhất và sinh viên năm hai trong việc thực hiện nhóm kỹ năng giải quyết vấn đề học tập trên lớp. Với hệ số T âm cho thấy sinh viên năm hai thực hiện nhóm kỹ năng này tốt hơn sinh viên năm nhất. Trong đó, sự khác biệt lớn nhất giữa hai khóa sinh viên này thể hiện ở kỹ năng điều chỉnh cảm xúc (T = -6.73). Kỹ năng diễn đạt nội dung học tập trên lớp có sự khác biệt nhỏ nhất (T = -3.65). Như vậy ta thấy, nhìn chung sinh viên năm hai có mức độ thực hiện các kỹ năng giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp tốt hơn sinh viên năm nhất. Với những phân tích và ví dụ như trên có thể nói sinh viên năm nhất – những người học còn đầy bỡ ngỡ, lạ lẫm trước một môi trường mới cho nên các em có thể gặp một số khó khăn và trở ngại về mặt tâm lý, do đó hạn chế trong việc thực hiện các kỹ năng giao tiếp. Do đó, việc giúp các em có những hiểu biết đầy đủ về môi trường mới như văn hóa, phương pháp học tập, quy chế, quy định trong đào tạo… là một việc làm hết sức cần thiết. 4.3. Mối tương quan giữa các kỹ năng giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp của sinh viên dân tộc Tày
Kỹ năng thiết lập mối quan hệ
Kỹ năng giải quyết vấn đề học tập trên lớp
Các kỹ năng thiết lập mối quan hệ, kỹ năng giải quyết vấn đề học tập trên lớp, kỹ năng sử dụng các phương tiện giao tiếp có mối liên hệ với nhau và có ảnh hưởng qua lại lẫn nhau trong quá trình giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp của sinh viên dân tộc Tày.
0,470** Sơ đồ 4.1: Tương quan giữa các kỹ năng giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp trên lớp của sinh viên dân tộc Tày
125
Nhìn vào Sơ đồ 4.1, cho thấy: giữa các nhóm kỹ năng giao tiếp trong hoạt
động học tập trên lớp của sinh viên dân tộc Tày là: Kỹ năng sử dụng các phương
tiện giao tiếp, kỹ năng thiết lập mối quan hệ và kỹ năng giải quyết vấn đề học tập
trên lớp có sự tương quan theo tỷ lệ thuận. Cụ thể, hệ số tương quan của từng biến
số như sau: Nhóm kỹ năng sử dung các phương tiện giao tiếp với kỹ năng giải quyết
vấn đề học tập trên lớp có r = 0,292; kỹ năng sử dụng các phương tiện giao tiếp với
nhóm kỹ năng thiết lập mối quan hệ có r = 0,592; Nhóm kỹ năng thiết lập mối quan
hệ với nhóm kỹ năng giải quyết vấn đề học tập trên lớp có r = 0,470. Tất cả hệ số
tương quan trên đều có ý nghĩa thống kê với P < 0.001. Điều này có nghĩa là: khi
điểm số của một nhóm kỹ năng này cao thì điểm số của nhóm kỹ năng kia cũng cao.
Ngược lại, khi điểm số của một nhóm kỹ năng này thấp thì điểm số của nhóm kỹ
năng kia cũng thấp.
Nhìn vào bảng số liệu, ta thấy hệ số tương quan có sự khác biệt, nhưng độ
chênh lệch giữa ba nhóm kỹ năng giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp của
sinh viên dân tộc Tày không nhiều. Nếu kỹ năng sử dụng các phương tiện giao tiếp
của sinh viên dân tộc Tày tốt, thì nó chẳng những làm cho nhóm kỹ năng giải quyết
vấn đề học tập trên lớp thể hiện tốt hơn mà còn ảnh hưởng tích cực đến nhóm kỹ
năng thiết lập mối quan hệ với thầy cô giáo và bạn bè, giúp cho những kỹ năng này
biểu hiện đầy đủ, thành thạo và linh hoạt. Ngược lại hạn chế trong kỹ năng sử dụng
các phương tiện ngôn ngữ sẽ kéo theo những thiếu hụt trong các nhóm kỹ năng thiết
lập các mối quan hệ và kỹ năng giải quyết vấn đề học tập trên lớp.
4.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến kỹ năng giao tiếp trong hoạt động học tập trên
lớp của sinh viên dân tộc Tày
4.4.1. Đánh giá chung các yếu tố ảnh hưởng đến kỹ năng giao tiếp trong hoạt
động học tập trên lớp của sinh viên dân tộc Tày
Qua quan sát định tính, chúng tôi nhận thấy có một số yếu tố ảnh hưởng đến kỹ
năng giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp của sinh viên dân tộc Tày. Từ đó,
chúng tôi thiết kế phiếu hỏi để trưng cầu ý kiến để tìm hiểu về vấn đề này. Kết quả
thể hiện ở bảng sau.
126
Bảng 4.16: Mức độ ảnh hưởng của các yếu tố chủ quan và khách quan đến kỹ năng giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp của sinh viên dân tộc Tày
STT 1 Nhóm yếu tố ảnh hưởng Nhóm yếu tố chủ quan ĐTB 3,09 ĐLC 0,72
2 Nhóm yếu tố khách quan 3,63 0,57
ĐTB chung 3,36 0,64
Các yếu tố được xem xét đều có ảnh hưởng nhất định đến kỹ năng giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp của sinh viên dân tộc Tày ở mức tương đối cao, với ĐTB = 3,36. Trong đó, nhóm yếu tố khách quan ảnh hưởng nhiều hơn một chút so với nhóm yếu tố chủ quan (ĐTB = 3,63 so với 3,09). Vậy từng yếu tố chủ quan và khách quan này ảnh hưởng đến đến kỹ năng giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp của sinh viên dân tộc Tày ra sao? Chúng tôi tiến hành đánh giá mức độ ảnh hưởng của từng yếu tố cụ thể trong hai nhóm yếu tố chủ quan và khách quan này như sau: 4.4.2. Mức độ ảnh hưởng của các yếu tố chủ quan đến kỹ năng giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp của sinh viên dân tộc Tày
Mức độ ảnh hưởng của các yếu tố chủ quan đến kỹ năng giao tiếp trong hoạt động
học tập trên lớp của sinh viên dân tộc Tày được thể hiện ở bảng sau. Bảng 4.17: Mức độ ảnh hưởng của các yếu tố chủ quan đến kỹ năng giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp của sinh viên dân tộc Tày
TT ĐTB ĐLC
A
Yếu tố chủ quan Ý thức tham gia vào các phong trào hoạt động đoàn thể của lớp và của trường
1 Tham gia hoạt động văn nghệ 2,77 1,02
2 Tham gia hoạt động thể thao 2,78 1,01
3 Tham gia hoạt động dã ngoại 2,81 1,06
4 Tham gia hoạt động tình nguyện 2,81 1,05
5 6 Tham gia hoạt động câu lạc bộ Tham gia hoạt động khu phố tổ chức 2,81 2,82 1,06 1,06
7 Tham gia câu lạc bộ ngoài trường 2,82 1,06
127
8 Tham gia hoạt động hiến máu 2,86 1,08
9 Tham gia hoạt động ủng hộ 2,80 1,05
10 Tham gia giúp đỡ người nghèo 2,81 1,06
11 Tham gia giúp học sinh nghèo vượt khó 2,84 1,09
12 Tham gia giúp đỡ gia đình neo đơn 2,84 1,09
13 Tham gia giúp đỡ người tàn tật bất hạnh 14 Tham gia đội tình nguyện của trường 2,79 2,79 1,05 1,04
ĐTB chung Tính cách của sinh viên dân tộc Tày B 2,81 0,94
1 Thật thà, kín đáo 3,30 0,57
2 Ngại giao tiếp 4,31 0,71
3 4 Sống nội tâm Sống khép kín 2,57 3,29 1,12 0,61
ĐTB chung 3,37 0,51
ĐTB chung toàn thang đo 3,08 0,72
Các yếu tố được nghiên cứu trong nhóm các yếu chủ quan đều có ảnh hưởng nhất định đến kỹ năng giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp của sinh viên dân tộc Tày (ĐTB = 3,08).
Trong đó, yếu tố ảnh hưởng rõ rệt nhất là: “Tính cách của sinh viên dân tộc Tày”, (ĐTB = 3,37; ĐLC = 0,51). Một trong những vấn đề cơ bản nhất ở các em sinh viên này là các em e ngại, không mạnh dạn trong việc thiết lập mối quan hệ với thầy cô và sinh viên cùng lớp. Các em cũng ngại giao tiếp với người không cùng dân tộc và đặc biệt là những người mới quen. Nhất là sinh viên dân tộc Tày năm thứ nhất. Các em mới chuyển sang một môi trường sống và học tập mới, hoàn toàn khác xa so với môi trường sống và học tập trước đây của các em. Thầy cô mới, bạn mới, … tất cả những vấn đề đó đã tác động trực tiếp đến giao tiếp của các em. Các em càng ngại giao tiếp do tính cách đặc thù của mình thì đồng nghĩa với việc kỹ năng giao tiếp yếu.
Tiếp đến là yếu tố: “Ý thức tham gia vào các phong trào hoạt động đoàn thể của lớp và của trường”, (ĐTB = 2,81; ĐLC = 0,94). Quan sát cho thấy, những sinh viên dân tộc Tày thường xuyên tham gia tự giác và tích cực vào hoạt động đoàn thể của lớp, của trường thì các em càng có kỹ năng giao tiếp tốt và ngược lại.
128
Chính thông qua các hoạt động tập thể này sinh viên dân tộc Tày có nhiều cơ hội được học hỏi các kỹ năng giao tiếp từ những bạn sinh viên khác, từ thầy cô giáo, đến mọi người xung quanh. Việc tham gia vào các hoạt động tập thể này cũng là điều kiện và là cơ hội để các em được thể hiện kỹ năng giao tiếp của mình, được rèn luyện và trải nghiệm những kỹ năng đó trong những hoàn cảnh, tình huống giao tiếp khác nhau. Chính từ những lí do này các em sẽ dần dần hình thành được kỹ năng, thực hiện đúng và linh hoạt các kỹ năng giao tiếp này và vận dụng nó một cách linh hoạt và sáng tạo vào kỹ năng giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp của sinh viên dân tộc Tày. 4.4.3. Mức độ ảnh hưởng của các yếu tố khách quan đến kỹ năng giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp của sinh viên dân tộc Tày
Bảng 4.18: Mức độ ảnh hưởng của các yếu tố khách quan đến kỹ năng giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp của sinh viên dân tộc Tày
TT ĐTB ĐLC
A Yếu tố khách quan Yếu tố phương pháp giảng dạy của giảng viên
1 Giảng viên đưa câu hỏi có tính vấn đề 3,88 0,74
2 Giảng viên khen và động viên khi sinh viên tích cực 3,90 0,72 trả lời câu hỏi
3 Giảng viên tạo cơ hội để sinh viên bày tỏ ý kiến 3,85 0,74
ĐTB chung
3,88 0,69
B 1 Yếu tố giáo dục gia đình, nhà trường, xã hội Bố mẹ hướng dẫn cách ứng xử 4,03 0,84
2 Bố mẹ khen khi ứng xử đúng 3,62 0,87
Bố mẹ để con phát triển tự do
3 4 Được học các môn kĩ năng, kĩ năng giao tiếp, ứng xử 4,33 2,26 0,77 1,33
5 Các môn học kĩ năng học cả lý thuyết và thực hành 2,28 1,35
6 Nhiều hoạt động ở trường giúp rèn luyện kĩ năng 4,02 0,75
7 Giao tiếp với mọi người trong xã hội giúp học được 4,01 0,76 nhiều kĩ năng
8 Những ứng xử không chuẩn mực bị lên án 2,70 1,06
ĐTB chung 3,39 0,46
ĐTB chung toàn thang đo 3.63
129
Trong các yếu tố khách quan, yếu tố thuộc về phương pháp giảng dạy của
giảng viên có ảnh hưởng rõ rệt hơn (ĐTB = 3,88) các yếu tố khác tới kỹ năng giao
tiếp trong hoạt động học tập trên lớp của sinh viên dân tộc Tày. Trong đó, các khía
cạnh thuộc về yếu tố phương pháp giảng dạy của giảng viên như: Giảng viên khen
và động viên khi sinh viên tích cực trả lời câu hỏi; Giảng viên đưa câu hỏi có tính
vấn đề; Giảng viên tạo cơ hội để sinh viên bày tỏ ý kiến đều ảnh hưởng nhiều tới kỹ
năng giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp của sinh viên dân tộc Tày. Như vậy,
phương pháp giảng dạy của giảng viên ảnh hưởng nhiều tới việc sinh viên biết và
rèn được một cách thành thạo và linh hoạt các kỹ năng giao tiếp trong hoạt động
học tập trên lớp. Sinh viên sẽ tự tin để tham gia vào các nội dung trao đổi và thảo
luận bài khi giảng viên yêu cầu khi mà giảng viên tạo cơ hội để sinh viên bày tỏ ý
kiến, giảng viên biết khen ngợi, động viên các em và đặc biệt phương pháp giảng
bài đặt ra nhiều tình huống có vấn đề yêu cầu sinh viên phải giải quyết sẽ bắt buộc
các em phải tham gia vào việc trao đổi và thảo luận các tình huống có vấn đề nảy
sinh trong bài giảng mà giáo viên đưa ra.
Bên cạnh yếu tố nêu trên, yếu tố giáo dục gia đình, nhà trường và xã hội
cũng có ảnh hưởng nhất định đến kỹ năng giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp
của sinh viên dân tộc Tày. Trong đó, các vấn đề của giáo dục trong gia đình như:
Bố mẹ để con phát triển tự do, việc giáo dục con cách ứng xử theo chuẩn mực là
yếu tố có ảnh hưởng nhiều hơn so với các yếu tố giáo dục trong nhà trường và giáo
dục của xã hội. Gai đình vẫn là cái gốc của giáo dục, sinh viên dân tộc Tày chịu sự
giáo dục chu đáo của gia đình các em sẽ dần dần hình thành được các kỹ năng giao
tiếp tốt ngày từ tấm bé. Do đó, các sinh viên này có sẵn vốn kiến thức và kỹ năng để
tiếp tục hoàn thiện những kỹ năng giao tiếp trong môi trường học tập mới, môi
trương học tập tại trường đại học.
Bên cạnh đó, cách giáo dục trong trường đại học và ở môi trường xã hội
cũng tác động nhiều đến việc thực hiện đúng, thành thạo và linh hoạt kỹ năng giao
tiếp của các em. Nếu nhà trường đại học với nhiều chương trình tập huấn, câu lạc
bộ, hội thảo và các chương trình học chính thức chú ý nhiều đến việc rèn kỹ năng
giao tiếp cho sinh viên thì đồng nghĩa với việc các em được học, được rèn luyện và
sử dụng kỹ năng giao tiếp này một cách thành thạo và linh hoạt.
130
4.2.2. Thực trạng mức độ dự báo của các yếu tố độc lập đơn nhất đến kỹ năng giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp của sinh viên dân tộc Tày
Chúng tôi tiến hành phân tích hồi quy với biến phụ thuộc lần lượt là các nhóm kỹ năng: Kỹ năng thiết lập các mối quan hệ; Kỹ năng giải quyết vấn đề học tập trên lớp; Kỹ năng sử dụng các phương tiện giao tiếp và các biến số độc lập là các yếu tố tác động đến kỹ năng giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp của sinh viên dân tộc Tày (Ý thức tham gia vào các hoạt động đoàn thể; Tính cách của sinh viên dân tộc Tày; Phương pháp giảng dạy của giảng viên; Môi trường giáo dục của sinh vien dân tộc Tày: Gia đình, nhà trường, cộng đồng). Kết quả nghiên cứu được tổng hợp tại bảng số liệu sau:
Bảng 4.19: Dự báo mức độ ảnh hưởng của các yếu tố độc lập đơn nhất
Các yếu tố độc lập
R2
Beta
Ảnh hưởng của yếu tố ý thức tham gia vào các hoạt động đoàn thể
Kỹ năng thiết lập các mối quan hệ
0,357
0,598
Kỹ năng giải quyết vấn đề học tập trên lớp
0,120
0,346
Kỹ năng sử dụng các phương tiện giao tiếp
0,135
0,367
0,293
0,541
Kĩ năng giao tiếp chung của sinh viên dân tộc Tày Ảnh hưởng của yếu tố tính cách của sinh viên dân tộc Tày
0,027
0,165
Kỹ năng thiết lập các mối quan hệ
0,037
0,192
Kỹ năng giải quyết vấn đề học tập trên lớp
0,015
0,121
Kỹ năng sử dụng các phương tiện giao tiếp
0,038
0,196
Kỹ năng giao tiếp chung của sinh viên dân tộc Tày Ảnh hưởng của yếu tố phương pháp giảng dạy của giảng viên
Kỹ năng thiết lập các mối quan hệ
0,385 0,182
0,621 0,427
Kỹ năng giải quyết vấn đề học tập trên lớp
0,207
0,455
Kỹ năng sử dụng các phương tiện giao tiếp
0,389
0,624
Kỹ năng giao tiếp chung của sinh viên dân tộc Tày
Ảnh hưởng của yếu tố môi trường giáo dục (Gia đình, nhà trường, cộng đồng).
0,274
0,523
Kỹ năng thiết lập các mối quan hệ
0,161
0,402
Kỹ năng giải quyết vấn đề học tập trên lớp
0,165
0,406
Kỹ năng sử dụng các phương tiện giao tiếp
0,305
0,553
Kỹ năng giao tiếp chung của sinh viên dân tộc Tày
131
Phân tích số liệu bảng trên cho phép ta rút ra một số nhận xét sau: Tất cả các yếu tố được nghiên cứu đều có mức độ ảnh hưởng nhất định đến kỹ năng giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp của sinh viên dân tộc Tày (R2 = 0,389; P<0,001). Mức độ ảnh hưởng của các yếu tố xem xét tới từng nhóm kỹ năng thành phần thuộc kỹ năng giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp của sinh viên dân tộc Tày cũng có mức độ tác động mạnh yếu khác nhau. Chúng tôi sẽ phân tích cụ thể dưới đây:
- Dự báo mức độ ảnh hưởng của yếu tố ý thức tham gia vào các hoạt động
đoàn thể: Phân tích kết quả nghiên cứu hồi quy thể hiện ở bảng trên cho thấy, yếu tố ý thức tham gia vào các hoạt động đoàn thể có mức độ dự báo sự ảnh hưởng có ý nghĩa về mặt thống kê đối với cả 3 nhóm kỹ năng thành phần thuộc kỹ năng giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp của sinh viên dân tộc Tày (P>0.001).
Tuy nhiên, số liệu cũng cho thấy mức độ dự báo của yếu tố này đến 3 nhóm kỹ năng thành phần thuộc kỹ năng giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp của sinh viên dân tộc Tày là không lớn lắm, điều này thể hiện rõ nét qua độ lớn của hệ số R2. Cụ thể như sau: yếu tố ý thức tham gia vào các hoạt động đoàn thể dự báo khoảng 35,7% cho sự biến thiên của kỹ năng thiết lập các mối quan hệ; dự báo khoảng 12,0% cho sự biến thiên của kỹ năng giải quyết vấn đề học tập trên lớp; dự báo khoảng 13,5% cho sự biến thiên của kỹ năng sử dụng các phương tiện giao tiếp - một tỷ lệ khá khiêm tốn. Như vậy, yếu tố ý thức tham gia vào các hoạt động tập thể có tỷ lệ dự báo cao nhất đối với nhóm kỹ năng thiết lập mối quan hệ còn mức độ dự báo của yếu tố này tới hai nhóm kỹ năng còn lại là không nhiều.
- Dự báo mức độ ảnh hưởng của yếu tố tính cách của sinh viên dân tộc Tày Trong các yếu tố được nghiên cứu thì yếu tố tính cách có mức độ dự báo thấp nhất so với các yếu tố khác tới kỹ năng giao tiếp của sinh viên dân tộc Tày (R2 = 0,389; P<0,001).
Mức độ dự báo của yếu tố này đến các nhóm kỹ năng thành phần thuộc kỹ năng giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp của sinh viên dân tộc Tày rất thấp. Điều này được thể hiện rõ nét qua độ lớn của hệ số R2. Theo chỉ số này, yếu tố tính cách của sinh viên dân tộc Tày dự báo khoảng 0,27% cho sự biến thiên của kỹ năng thiết lập mối quan hệ; dự báo khoảng 0,37% cho sự biến thiên của kỹ năng giải quyết vấn đề học tập và không dự báo với nhóm kỹ năng sử dụng các phương tiện giao tiếp (sig = 0.36).
132
- Dự báo mức độ ảnh hưởng của yếu tố phương pháp giảng dạy của giảng viên Phân tích kết quả nghiên cứu hồi quy thể hiện ở bảng trên cho thấy, yếu tố phương pháp giảng dạy của giảng viên có ảnh hưởng có ý nghĩa về mặt thống kê đối với cả 3 nhóm kỹ năng thành phần thuộc kỹ năng giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp của sinh viên dân tộc Tày (P>0.001).
Đây là yếu tố có mức độ dự báo cao nhất so với các kỹ năng được nghiên cứu tới kỹ năng giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp cảu sinh viên dân tộc Tày. Điều này được thể hiện rõ nét qua độ lớn của hệ số R2. Theo chỉ số này, yếu tố phương pháp giảng dạy của giảng viên dự báo khoảng 38,5% cho sự biến thiên của kỹ năng thiết lập mối quan hệ; dự báo khoảng 18,2% cho sự biến thiên của kỹ năng giải quyết vấn đề học tập trên lớp; dự báo khoảng 20,7% cho sự biến thiên của kỹ năng sử dụng các phương tiện giao tiếp. Như vậy, yếu tố phương pháp giảng dạy của giảng viên có mức độ dự báo cao nhất tới tất cả các nhóm kỹ năng thành phần thuộc kỹ năng giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp cảu sinh viên dân tộc Tày. Điều này khẳng định, giảng viên có phương pháp giảng dạy phù hợp, tạo được môi trường giao tiếp tích cực cho sinh viên trên lớp học, đặt ra được nhiều tình huống có vấn đề trong hoạt động học tập sẽ giúp cho các em rèn luyện và nâng cao được kỹ năng giao tiếp của mình.
- Dự báo mức độ ảnh hưởng của yếu tố môi trường giáo dục (Gia đình, nhà
trường, cộng đồng):
Bảng số liệu trên cho phép chúng tôi đưa ra nhận xét về dự báo mức độ ảnh hưởng của yếu tố độc lập đơn nhất (yếu tố môi trường giáo dục) tới 3 nhóm kỹ năng thành phần thuộc kỹ năng giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp của sinh viên dân tộc Tày. Kết quả nghiên cứu tổng hợp tại bảng số liệu trên đã chỉ ra rằng, yếu tố này có mức độ dự báo sự ảnh hưởng tới cả 3 nhóm kỹ năng thành phần thuộc kỹ năng giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp của sinh viên dân tộc Tày với (P>0.001). Cụ thể như sau:
Dự báo khoảng 27,4% cho sự biến thiên của kỹ năng thiết lập mối quan hệ; tiếp đến, dự báo khoảng 16,1% cho sự biến thiên của kỹ năng giải quyết vấn đề học tập trên lớp; dự báo khoảng 16,5% cho sự biến thiên của kỹ năng sử dụng các phương tiện giao tiếp.
Như vậy những yếu tố độc lập khi xét đơn lẻ ta thấy chúng đều có khả năng dự báo đối với cả 3 nhóm kỹ năng thành phần thuộc kỹ năng giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp của sinh viên dân tộc Tày. Điều này chứng tỏ, kỹ năng giao
133
tiếp trong hoạt động học tập trên lớp của sinh viên dân tộc Tày được dự báo bởi nhiều yếu tố khác nhau. Trong đó, các yếu tố có mức độ dự báo nhiều hơn các yếu tố khác được nghiên cứu tới kỹ năng giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp của sinh viên dân tộc Tày đó là: phương pháp giảng dạy của giảng viên; môi trường giáo dục (gia đình, nhà trường, xã hội); ý thức tham gia vào các hoạt động đoàn thể. Yếu tố có mức độ dự báo thấp nhất tới kỹ năng này của sinh viên được nghiên cứu là yếu tố tính cách của sinh viên dân tộc Tày. Kết quả nghiên cứu này cũng khẳng định, yếu tố phương pháp giảng dạy của giảng viên là yếu tố quan trọng, ảnh hưởng nhiều nhất tới kỹ năng giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp của sinh viên dân tộc Tày, tiếp đến là các yếu tố như môi trường giáo dục (gia đình, nhà trường, xã hội); ý thức tham gia vào các hoạt động đoàn thể. Yếu tố có mức độ ảnh hưởng ít nhất đó là yếu tố tính cách của sinh viên dân tộc Tày. 4.5. Thực nghiệm tác động 4.5.1. Cơ sở đề xuất biện pháp thực nghiệm tác động a) Cơ sở khoa học: (1) Kỹ năng giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp của sinh viên dân tộc Tày có vai trò quan trọng trong việc hình thành và phát triển các phẩm chất nhân cách cũng như kết quả học tập của các em tại trường đại học. (2) Kỹ năng giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp của sinh viên dân tộc Tày được hình thành bằng nhiều con đường khác nhau, cả tự phát (thông qua bắt chước, tập nhiễm) và tự giác (thông qua học tập, rèn luyện). Mỗi con đường này có những ưu thế và hạn chế hoặc khó khăn riêng. Đối với sinh viên dân tộc Tày, khi đã bắt đầu gia nhập vào môi trường học tập tại trường đại học thì việc hình thành kỹ năng bằng con đường tự giác lại phù hợp hơn và đạt hiệu quả cao hơn. Mà để hình thành kỹ năng giao tiếp trong hoạt động học tập cho sinh viên cần phải tạo ra môi trường cho sinh viên được thực hiện và thể hiện các kỹ năng giao tiếp này trong các hoàn cảnh khác nhau và qua những bước tập luyện cụ thể. b) Cơ sở thực tiễn:
Kết quả nghiên cứu thực tiễn cho thấy:
(1) Kỹ năng giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp của sinh viên dân tộc Tày hiện nay mới đạt mức trung bình. (2) Trong các yếu tố ảnh hưởng, các yếu tố khách quan có ảnh hưởng nhiều hơn yếu tố chủ quan. (3) Qua quan sát thực tế dạy và học tại hai trường đại học được nghiên cứu, chúng tôi nhận thấy: giảng viên và sinh viên cùng lớp chưa thật sự tạo điều kiện nhiều về môi trường giao tiếp cho sinh viên dân tộc Tày. Các em ít được giảng viên
134
chủ động nói chuyện, trao đổi, gọi lên để trao đổi về các nội dung học tập trên lớp. Các bạn sinh viên cùng lớp cũng vậy, ít khi chủ động giao tiếp với các em. Trong các giờ thảo luận nhóm, ít phân cho các em sinh viên dân tộc Tày được thay mặt nhóm thực hiện hoặc trình bày trước lớp, trước nhóm các nội dung thảo luận. Với bản tính rụt rè, sống khép kín, các em rất ngại giao tiếp và chủ động trong các hoạt động giao tiếp. 4.5.2. Biện pháp thực nghiệm tác động
Trên cơ sở kết quả nghiên cứu thực trạng và các yếu tố ảnh hưởng đến kỹ năng giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp của sinh viên dân tộc Tày, chúng tôi đề xuất biện pháp thực nghiệm: Tập huấn cho sinh viên dân tộc Tày kỹ năng giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp bằng ngôn ngữ nói. Nội dung cụ thể của biện pháp thực nghiệm, thời gian và cách tiến hành đã được mô tả tại chương 3.
Chúng tôi thực nghiệm biện pháp tác động này trên 25 sinh viên dân tộc Tày năm thứ nhất, khoa xã hội, trường Đại học Tân Trào và đối chứng trên 24 sinh viên dân tộc Tày, năm thứ nhất, khoa sinh học, trường Đại học Sư phạm, Đại học Thái Nguyên. Cả hai nhóm này tương đương nhau về các điều kiện học tập (giáo viên, cơ sở vật chất), giới tính (tỉ lệ trẻ nam - nữ trong một lớp), và mức độ kỹ năng giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp (với tính đúng đắn, tính thành thục, tính linh hoạt) đạt được trước thực nghiệm là tương đương nhau. Sở dĩ chúng tôi lựa chọn thực nghiệm tác động trên sinh viên năm thứ nhất là vì: (1) So với sinh viên năm thứ ba, kỹ năng giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp hiện nay là yếu nhất. Dù vậy, sinh viên dân tộc Tày hoàn toàn có đủ điều kiện (cả về mặt thể chất, tâm lý và xã hội) để đạt được kỹ năng này ở mức độ cao hơn. 4.5.3. Kết quả thực nghiệm tác động 4.5.3.1. Đánh giá chung sự thay đổi kỹ năng giao tiếp trong hoạt động học tập
trên lớp của sinh viên dân tộc Tày trước - sau thực nghiệm và với lớp đối chứng
được trình bày tại bảng sau:
Bảng 4.20: Mức độ thay đổi kỹ năng giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp của sinh viên dân tộc Tày trước - sau thực nghiệm và với lớp đối chứng
Trước thực nghiệm Sau thực nghiệm Lớp đối chứng
ĐTB ĐLC Mức độ TB 3.30 0.38 ĐTB ĐLC Mức độ TB 0.36 3.31 0.39 3.57
ĐTB ĐLC Mức độ Tương đối cao
135
Nhìn chung kết quả đạt được sau thực nghiệm cho thấy kỹ năng giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp của sinh viên dân tộc Tày đã được nâng lên ở mức độ tương đối cao (ĐTB = 3.57), so với mức điểm này ở lớp đối chứng (ĐTB = 3.31) và trước thực nghiệm (ĐTB = 3.30). Điều này cho thấy tác động thực nghiệm đã cải thiện tốt hơn kỹ năng giao tiếp của sinh viên dân tộc Tày trong hoạt động học tập trên lớp. Sử dụng kiểm định t-test so sánh cặp (p < 0,05) cho thấy có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về giá trị trung bình trước thực nghiệm và sau thực nghiệm.
Kỹ năng giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp của sinh viên dân tộc Tày đã được thay đổi một cách có ý nghĩa, cho thấy biện pháp tác động tâm lý - sư phạm có ảnh hưởng tích cực, góp phần nâng cao kỹ năng này ở sinh viên được nghiên cứu. Sự thay đổi này được phân tích cụ thể dưới đây:
4.5.3.2. Đánh giá sự thay đổi kỹ năng giao tiếp trong hoạt động học tập trên
lớp của sinh viên dân tộc Tày trước – sau thực nghiệm và lớp đối chứng Bảng 4.21: Sự thay đổi kỹ năng giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp của sinh viên dân tộc Tày trước – sau thực nghiệm và lớp đối chứng
Sau thực nghiệm Lớp đối chứng Trước thực nghiệm Các kỹ năng
ĐTB ĐLC ĐTB ĐLC ĐTB ĐLC Mức độ
Mức độ 3.26 0.35 TB Mức độ 3.55 0.37 TĐC 3.27 0.36 TB
1.Thiết lập mối quan hệ trong hoạt động học tập trên lớp
3.30 0.36 TB 3.65 0.35 TĐC 3.32 0.37 TB
2.Kỹ năng giải quyết vấn đề học tập trên lớp
3.35 0.45 TB 3.53 0.38 TĐC 3.36 0.44 TB
3.Kỹ năng sử dụng tiện các phương giao trong tiếp hoạt động học tập trên lớp
3.30 0.38 TB
Chung 3.57 0.36 TĐC 3.31 0.39 TB Kỹ năng giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp ở khách thể thực nghiệm có điểm trung bình trước tác động là 3,30 (ở mức trung bình) và sau tác động là
136
3,57 (ở mức tương đối cao). Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p < 0,05. Điều này cho thấy, tác động thực nghiệm đã thay đổi đáng kể kỹ năng giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp ở các khách thể.
Xem xét sự thay đổi cụ thể về kỹ năng này ở sinh viên qua các kỹ năng thành phần thuộc nhóm cho thấy, có sự khác biệt một chút trong sự thay đổi này. Trong đó, sự thay đổi nhiều nhất là ở nhóm kỹ năng “Kỹ năng giải quyết vấn đề học tập trên lớp”, ĐTB trước thực nghiệm là 3,30; sau thực nghiệm ĐTB = 3,65. Sự thay đổi ít nhất ở nhóm kỹ năng ”Kỹ năng sử dụng các phương tiện giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp”, ĐTB trước thực nghiệm = 3,35; sau thực nghiệm ĐTB = 3,53. Sau đây là phân tích cụ thể:
Sự thay đổi nhiều nhất là ở nhóm kỹ năng “Giải quyết vấn đề học tập trên lớp”, ĐTB trước thực nghiệm là 3,30; sau thực nghiệm ĐTB = 3,65. Kiểm định t- test so sánh cặp (p < 0,05) cho thấy có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về giá trị trung bình trước thực nghiệm và sau thực nghiệm.
Trước thực nghiệm, nhóm kỹ năng giải quyết vấn đề học tập trên lớp là kỹ năng mà sinh viên dân tộc Tày gặp khó khăn nhiều, các em mới chỉ quan tâm đến các kỹ năng lắng nghe mà chưa coi trọng kỹ năng điều chỉnh cảm xúc bản thân. Khi vận dụng kỹ năng này để giải quyết các vấn đề học tập trên lớp, các em còn chưa thể hiện được sự linh hoạt và sáng tạo cần thiết. Với những tồn tại này, các em gặp khó khăn nhất định khi tìm sự thống nhất quan điểm với giảng viên và các bạn sinh viên cùng lớp về các vấn đề liên quan tới nội dung học tập. Điều này cũng ảnh hưởng đến tính toàn diện, tính đầy đủ và chính xác của kỹ năng giải quyết vấn đề học tập trên lớp. Tuy nhiên, dưới tác động của biện pháp thực nghiệm, việc được cô giáo đặt ra yêu cầu buộc phải huy động vốn kiến thức, kỹ năng sử dụng ngôn ngữ nói để trình bầy ý kiến về nội dung bài học (cùng với sự hướng dẫn, điều chỉnh kịp thời của giảng viên, các bạn sinh viên cùng lớp) đã giúp các em rèn luyện được thành thạo và linh hoạt kỹ năng này. Các em đã trình bầy được các nội dung mình định nói một cách xúc tích, ngắn gọn, đưa ra được dẫn chứng cụ thể để minh hoạ khi thuyết trình một vấn đề nào đó trên lớp, hay phát biểu ý kiến xây dựng bài,…
Điểm tiến bộ rõ là các em đã biết cách xâu chuỗi, tóm lược các vấn đề liên quan đến nội dung bài học và sử dụng ngôn ngữ nói mạng lạc, trong sáng để thuyết trình hiệu quả. Có được điều này là khi tập huấn, sinh viên đã được học và được cung cấp một số kỹ năng cần thiết về vấn đề này. Đồng thời, do phương pháp ôn tập, củng cố của giảng viên trực tiếp giảng dạy đã giúp đỡ các em, sửa chữa cho các em.
137
Nhóm kỹ năng thiết lập mối quan hệ trong hoạt động học tập trên lớp, sau khi thực nghiệm mức độ kỹ năng này ở sinh viên được nâng lên tương đối nhiều (từ 3,26 trước thực nghiệm lên 3,55 sau thực nghiệm. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p < 0,05. Biểu hiện cụ thể là, sinh viên dân tộc Tày được nghiên cứu đã thực hiện đúng các kỹ năng thành phần thuộc nhóm kỹ năng này, đã biết sử dụng các kỹ năng thành phần này một cách linh hoạt. Các em đã biết chủ động nhiều hơn trong việc đặt những câu hỏi để thăm dò nhu cầu, sở thích của các bạn sinh viên và giảng viên để có cách ứng xử phù hợp; biết đặt những câu hỏi để thăm dò quan điểm sống của sinh viên và giảng viên để có cách ứng xử phù hợp. Những kỹ năng này trước khi thực nghiệm sinh viên thực hiện chưa tốt, chưa linh hoạt. Nhóm kỹ năng sử dụng các phương tiện giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp, cũng có sự thay đổi sau khi thực nghiệm tác động. Điểm trung bình của kỹ năng này sau thực nghiệm là 3,53; cao hơn so với trước thực nghiệm là 3.35 và lớp đối chứng là 3.36. Kiểm định t-test so sánh hai mẫu độc lập (p < 0,05) cho thấy có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về giá trị trung bình giữa lớp thực nghiệm và lớp đối chứng.
Kết quả khảo sát cho thấy sự thay đổi tương đối toàn diện trong kỹ năng sử
dụng phương tiện giao tiếp bằng ngôn ngữ nói.
Qua quan sat, chúng tôi thấy trước tác động các khách thể ít quan tâm đến biểu cảm ngôn ngữ khi truyền đạt thông tin, chưa biết kiểm soát chất giọng của mình khi nói. Nhiều em phát âm còn chưa chuẩn, hay dùng từ địa phương, dùng những từ “à”, “ừ”. Sau khi thực nghiệm các em đã biết kiểm soát, điều chỉnh giọng nói của mình. Các em đã biết trình bày ý kiến quan điểm của mình một cách tường minh: nói ngắn gọn, rõ ràng, dễ hiểu. Biết đặt những câu hỏi hợp lý để khai thác được thông tin. Biết dành được cảm tình của người đối thoại bằng giọng nói, ngữ điệu, cách dùng từ… sử dụng từ ngữ, phát âm chính xác: Không nói giọng địa phương, không dùng từ địa phương, không dùng những từ “à, ừ” mà dân tộc mình hay dùng. Phát âm chính xác đúng tiếng Việt. Biết bộc lộ thái độ thân thiện, cởi mở với bạn bè qua giọng nói.
Điển hình như trường hợp của em sinh viên M.V.Đ. Sau khi được tham gia lớp tập huấn về kỹ năng giao tiếp, em không còn dùng nhiều từ địa phương như trước nữa, những từ “vâng”, “dạ” đã được dùng thay thế bằng những từ “à”, “ừ”. Khi trình bày ý kiến quan điểm của mình, em nói rất ngắn gọn, dễ hiểu. Trước đây
138
em hay nói to, nhưng sau khi tham gia lớp tập huấn em đã biết kiểm soát chất giọng của mình khi nói. Em chia sẻ với chúng tôi “Khi nói chuyện với những người lớn tuổi hay nhỏ tuổi hơn mình, dân tộc em hay dùng từ ừ và từ ơi, em cũng có thói quen như vậy khi nói chuyện với thầy cô giáo. Nhưng sau khi tham gia lớp tập huấn về kỹ năng giao tiếp, khi nói chuyện với thầy cô giáo em không còn dùng từ ừ, ơi nữa và thay vào đó là dùng từ vâng và từ dạ”.
Khi được phỏng vấn em N.K.T, nữ 19 tuổi, ĐHSPTN cho biết “Trước đây em không hề biết là mình phát âm sai (thiếu chữ y) vì cả làng em đều phát âm như vây. Khi tham gia lớp tập huấn về kỹ năng giao tiếp, em đã nhận biết ra điều đó và giờ đây em đã không còn phát âm bị sai nữa”.
Bên cạnh sự thay đổi căn bản về khả năng sử dụng phương tiện ngôn ngữ nói sinh viên lớp thực nghiệm còn thay đổi cả kỹ năng sử dụng phương tiện giao tiếp bằng ngôn ngữ viết trong hoạt động học tập. Qua phỏng vấn sâu các em sinh viên dân tộc Tày cho chúng tôi biết: Trước đây, các em còn lúng túng khi sử dụng email để trao đổi bài học với thầy cô giáo và bạn bè, các em sử dụng ngôn ngữ viết con chưa được khoa học, hay nhầm lẫn giữa văn nói và văn viết. Đặc biệt còn nhiều em chưa biết cách trình bày các kỹ thuật văn bản. Nhưng sau khi tham gia khóa tập huấn về kỹ năng giao tiếp, đa số các em đã biết sử dụng thành thạo email để trao đổi với thầy cô và bạn bè, đã thành thạo về các kỹ thuật trình bày văn bản.
Việc sử dụng các phương tiện giao tiếp phi ngôn ngữ cũng có sự thay đổi đáng kể. Khách thể đã thể hiện gần như đầy đủ, hợp lý kỹ năng biểu cảm phi ngôn ngữ. Kết quả quan sát cũng khẳng định sự tiến bộ này. Trước thực nghiệm, các em sinhviên dân tộc Tày còn tỏ ra lúng túng khi sử dung ngôn ngữ cơ thể trong giao tiếp, khi nói giọng nói chưa diễn tả được cảm xúc theo nội dung nói. Sử dụng không gian và khoảng cách giao tiếp chưa hợp lý. Sau khi tham gia lớp tập huấn, các em sinh viên dân tộc Tày đã biết sử dung ngôn ngữ cơ thể trong giao tiếp khi nói: Nhìn thẳng vào mắt đối tượng giao tiếp, biết sử dụng các cử chỉ, điệu bộ, nét mặt khi giao tiếp và biết tạo ra các cử chỉ, điệu bộ, nét mặt, trang phục…phù hợp. Tuỳ vào hoàn cảnh giao tiếp các em biết đã lựa chọn cho mình khoảng cách giao tiếp thích hợp với giảng viên và các sinh viên khác. Ý kiến của khách thể cũng phản ánh sự thay đổi tích cực này. Đa số các em sinh viên dân tộc Tày đều cho rằng, khoá tập huấn đã giúp họ biết sử dụng những biểu cảm phi ngôn ngữ như công cụ để giao tiếp và tương tác hiệu quả.
139
Những phân tích trên đây cho thấy, thực nghiệm đã cải thiện đáng kể kỹ năng biểu cảm phi ngôn ngữ của khách thể. Họ đã thể hiện khá đầy đủ, hợp lý và sáng tạo kỹ năng phi ngôn ngữ để đạt hiệu quả cao trong học tập. * Đánh giá kết quả thực nghiệm:
Kết quả thực nghiệm tác động nâng cao kỹ năng giao tiếp cho sinh viên dân tộc Tày cho thấy: Kỹ năng giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp của sinh viên dân tộc Tày đã được nâng lên từ mức trung bình, lên mức tương đối cao. Sau thực nghiệm, sinh viên dân tộc Tày đã thực hiện các nhóm kỹ năng: thiết lập mối quan hệ, kỹ năng giải quyết vấn đề học tập trên lớp và kỹ năng sử dụng các phương tiện giao tiếp trong hoạt động học tập thuần thục, linh hoạt và sáng tạo.
Thông qua biện pháp tổ chức lớp tập huấn kỹ năng giao tiếp giúp cho sinh viên dân tộc Tày nâng cao hiểu biết về kỹ năng giao tiếp, thực hiện tốt các kỹ năng giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp: Kỹ năng thiết lập mối quan hệ, kỹ năng trao đổi với giảng viên và sinh viên về nội dung học tập trên lớp, kỹ năng sử dụng các phương tiện giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp của sinh viên dân tộc Tày. Giúp cho sinhviên dân tộc Tày đạt được kết quả cao trong học tập, hoàn thành tốt nhiệm vụ của một sinh viên.
Chương trình tập huấn được thiết kế với phương pháp tác động toàn diện đến quan điểm, nhận thức và hành động của người học. Phương pháp tập huấn tác động đến người học ở các khía cạnh: nghe, nhìn, hiểu, thực hiện…, thông qua hoạt động thực hành, thảo luận nhóm, tự đánh giá giúp sinh viên tự khám phá tri thức, điều chỉnh kỹ năng qua các tình huống thực tiễn đã hình thành được đầy đủ, thành thục và bền vững kỹ năng. Việc tập huấn kỹ năng cũng cho thấy, nội dung tập huấn cần bao quát cả những tri thức, kinh nghiệm cá nhân và thái độ với hoạt động học tập trên lớp của sinh viên. Sinh viên phải là người tích cực, tự giác và chủ động trong việc tham gia tích cực vào việc học tập và rèn luyện kỹ năng này theo yêu cầu của người tập huấn. Người tập huấn phải là người có kiến thức, có kỹ năng và có phương pháp giảng dạy tích cực để gợi mở, chia sẻ kinh nghiệm và định hướng đồng thời phải tạo ra môi trường giao tiếp tốt, tạo ra sự tương tác tốt với sinh viên.
Tiểu kết chương 4 Nghiên cứu thực trạng các kỹ năng giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp của sinh viên dân tộc Tày cho thấy:
140
Kỹ năng giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp của sinh viên dân tộc Tày hiện nay chỉ đạt ở mức trung bình. Khi xem xét từng nhóm kỹ năng thành phần cụ thể của kỹ giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp của sinh viên dân tộc Tày chúng tôi nhận thấy có sự khác biệt đôi chút về mức độ của kỹ năng. Trong đó, “kỹ năng sử dụng các phương tiện giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp” có ĐTB cao hơn hai nhóm kỹ năng còn lại. Nhóm kỹ năng thiết lập các mối quan hệ có ĐTB thấp nhất.
So sánh kỹ năng giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp sinh viên dân tộc Tày qua biến số dân tộc, giới tính, năm học: Trong đó, mức độ thực hiện kỹ năng giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp của sinh viên dân tộc Kinh cao hơn mức độ thực hiện kỹ năng giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp của sinh viên dân tộc Tày. Sinh viên nữ người Tày có kỹ năng giao tiếp nói chung và thực hiện các nhóm kỹ năng giao tiếp riêng ở mức tốt hơn so với sinh viên nam người Tày. Sinh viên năm hai thực hiện kỹ năng giao tiếp ở mức độ tốt hơn sinh viên năm nhất. Các nhóm kỹ năng: Kỹ năng thiết lập các mối quan hệ, kỹ năng trao đổi với giảng viên và sinh viên về nội dung học tập trên lớp, kỹ năng sử dụng các phương tiện giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp của sinh viên dân tộc Tày có mối quan hệ rất chặt chẽ với nhau.
Có nhiều yếu tố tác động đến kỹ năng giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp của sinh viên dân tộc Tày. Trong đó yếu tố phương pháp giảng dạy của giảng viên là yếu tố quan trọng, ảnh hưởng nhiều nhất tới kỹ năng giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp của sinh viên dân tộc Tày.
Kết quả thực nghiệm tác động nâng cao kỹ năng giao tiếp cho sinh viên dân tộc Tày cho thấy: Kỹ năng giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp của sinh viên dân tộc Tày đã được nâng lên từ mức trung bình, lên mức tương đối cao. Sau thực nghiệm, sinh viên dân tộc Tày đã thực hiện các nhóm kỹ năng: thiết lập mối quan hệ, kỹ năng giải quyết vấn đề học tập trên lớp và kỹ năng sử dụng các phương tiện giao tiếp trong hoạt động học tập thuần thục, linh hoạt và sáng tạo.
141
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. KẾT LUẬN 1.1. Nghiên cứu lý luận cho thấy: Giao tiếp là một hoạt động có ý nghĩa hết sức quan trọng trong hoạt động học tập của các em sinh viên nói chung sinh viên dân tộc Tày nói riêng tại trường đại học. Thông qua giao tiếp các em sẽ nắm bắt được các tri thức khoa học, các kỹ năng nghề nghiệp, nắm bắt được nội quy, quy chế trong học tập và rèn luyện tại trường đại học. Mặt khác, nhờ có giao tiếp sinh viên sẽ mở rộng đối tượng giao tiếp trong trường đaị học, sẽ thoả mãn được các nhu cầu giao tiếp của bản thân, sẽ có được những cơ hội thể hiện các kỹ năng giao tiếp của mình.
Kỹ năng giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp của sinh viên dân tộc Tày là sự vận dụng tri thức, kinh nghiệm sống của bản thân vào việc thiết lập các mối quan hệ, giải quyết vấn đề học tập trên lớp, sử dụng các phương tiện giao tiếp nhằm thực hiện có hiệu quả các hoạt động học tập trên lớp tại trường đại học.
Những kỹ năng quan trọng nhất, đảm bảo hiệu quả giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp của sinh viên dân tộc Tày gồm: Nhóm kỹ năng thiết lập mối quan hệ trong hoạt động học tập trên lớp; nhóm kỹ năng giải quyết vấn đề học tập trên lớp; nhóm kỹ năng sử dụng các phương tiện giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp của sinh viên dân tộc Tày. Nhóm kỹ năng thiết lập mối quan hệ trong hoạt động học tập trên lớp gồm: kỹ năng tìm hiểu đối tượng giao tiếp, kỹ năng thể hiện sự tôn trọng đối tượng giao tiếp, kỹ năng thể hiện sự hợp tác và kỹ năng thể hiện sự trung thực với đối tượng giao tiếp. Nhóm kỹ năng giải quyết vấn đề học tập trên lớp thể hiện khá đa dạng qua các kỹ năng: Kỹ năng diễn đạt các nội dung học tập trên lớp, kỹ năng lắng nghe trong hoạt động học tập trên lớp, kỹ năng điều chỉnh cảm xúc bản thân trong hoạt động học tập trên lớp. Nhóm kỹ năng sử dụng các phương tiện giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp gồm các kỹ năng sau: Kỹ năng sử dụng phương tiện giao tiếp bằng ngôn ngữ nói, kỹ năng sử dụng phương tiện giao tiếp bằng ngôn ngữ viết và kỹ năng sử dụng accs phương tiện giao tiếp phi ngôn ngữ. Các nhóm kỹ năng này chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố khác nhau. 1.2. Kết quả khảo sát thực trạng kỹ năng giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp của sinh viên dân tộc Tày cho thấy:
142
Kỹ năng giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp của sinh viên dân tộc Tày chủ yếu ở mức trung bình. Trong 3 nhóm kỹ năng xem xét thì nhóm kỹ năng sử dụng các phương tiện giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp có điểm trung bình cao hơn so với các nhóm kỹ năng còn lại và kỹ năng thiết lập mối quan hệ trong hoạt động học tập trên lớp là kỹ năng mà sinh viên dân tộc Tày thực hiện yếu nhất. Sinh viên dân tộc Tày đã thể hiện tương đối đầy đủ, thành thạo và linh hoạt các kỹ năng giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp nhưng vẫn còn có một số hạn chế. Cụ thể như sau: Ở nhóm kỹ năng thiết lập mối quan hệ trong hoạt động học tập trên lớp, sinh viên được nghiên cứu chú ý và thực hiện tốt hơn, thành thạo và linh hoạt hơn ở kỹ năng thể hiện trung thực trong giao tiếp với giảng viên và sinh viên trong hoạt động học tập trên lớp trong khi đó thì kỹ năng tìm hiểu về quan điểm sống của đối tượng giao tiếp để có ứng xử phù hợp thì chưa được quan tâm. Đối với nhóm kỹ năng giải quyết các vấn đề học tập trên lớp thì các em lại chú trọng nhiều hơn tới kỹ năng lắng nghe mà chưa coi trọng kỹ năng điều chỉnh cảm xúc bản thân. Nhóm kỹ năng sử dụng có hiệu quả các phương tiện giao tiếp trong hoạt động học tập, đây là nhóm kỹ năng được sinh viên dân tộc Tày thực hiện tốt, các em đã thành thạo kỹ năng này và đã có những cách thể hiện kỹ năng linh hoạt và sáng tạo trong những tình huống giao tiếp và đối tượng giao tiếp khác nhau. Tuy nhiên ở kỹ năng này, việc sử dụng phương tiện giao tiếp phi ngôn ngữ ở sinh viên vẫn còn hạn chế, các em chưa thật thuần thục, linh hoạt và sáng tạo khi thực hiện. Các nhóm kỹ năng thành phần thuộc nhóm kỹ năng giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp của sinh viên dân tộc Tày có mối quan hệ mật thiết với nhau, tác động và bổ sung cho nhau giúp sinh viên dân tộc Tày thực hiện hiệu quả kỹ năng giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp.
Có nhiều yếu tố tác động đến kỹ năng giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp của sinh viên dân tộc Tày. Trong đó có những yếu tố chủ quan và yếu tố khách quan. Các yếu tố có ảnh hưởng đáng kể đến kỹ năng giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp của sinh viên dân tộc Tày là: phương pháp giảng dạy của giảng viên, sự tham gia vào các hoạt động tập thể, phương pháp giáo dục gia đình, nhà trường và xã hội.
Kết quả thực nghiệm cho thấy, đào tạo kỹ năng giao tiếp bằng ngôn ngữ nói trong hoạt động học tập trên lớp cho sinh dân tộc Tày qua các biện pháp: nâng cao nhận thức về ngôn ngữ nói, rèn các kỹ thuật nói (âm lượng, chất giọng, biểu đạt giọng nói, khả năng phân tích ngôn ngữ nói) đã tạo ra tiến bộ đáng kể trong kỹ năng
143
giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp của sinh viên dân tộc Tày. Kỹ năng giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp của sinh viên dân tộc Tày đã được nâng lên từ mức trung bình, lên mức tương đối cao. Thực nghiệm còn góp phần đánh giá và kiểm nghiệm tính đúng đắn của các biện pháp tác động.
Có thể thấy, kết quả nghiên cứu của luận án đã khẳng định được giả thuyết
nghiên cứu và giải quyết được các nhiệm vụ mà nghiên cứu đã đề ra.
2. KIẾN NGHỊ Từ những kết quả nghiên cứu về lý luận và thực tiễn của đề tài, chúng tôi xin
đề xuất một số ý kiến như sau: 2.1. Kiến nghị với Trường đại học sư phạm Thái Nguyên, Trường Đại học Tân Trào
Kết quả nghiên cứu thực trạng kỹ năng giao tiếp của sinh viên dân tộc Tày trong hoạt động trên lớp cho thấy, kỹ năng này ở sinh viên chỉ đạt ở mức độ trung bình. Vì vậy, nhà trường cần phải: - Đưa vào chương trình khung của các ngành học học phần kỹ năng giao tiếp. Tăng cường giáo dục kỹ năng giao tiếp, mở các lớp tập huấn kỹ năng giao tiếp cho các em sinh viên.
- Nhà trường cần đặt yêu cầu cao hơn nữa về việc giáo viên đổi mới phương
pháp dạy học theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động của người học.
- Nhà trường cần chú ý hơn nữa tới việc tổ chức nhiều hoạt động tập thể, hoạt động ngoại khóa cho sinh viên dân tộc Tày tham gia nhiều hơn vào các hoạt động này để giúp các em tự tin, mạnh dạn hơn, bớt các tính cách vốn có của người dân tộc Tày như e thẹn, nhút nhát,... điều này sẽ giúp các em mạnh dạn thiết lập các mối quan hệ, giúp các em có những kỹ năng giao tiếp tốt hơn.
- Đưa ra những quy định chung về văn hoá giao tiếp trong nhà trường để tạo ra một môi trường giao tiếp lịch thiệp. Điều này sẽ giúp các em sinh viên dân tộc Tày ý thức hơn trong việc rèn luyện kỹ năng giao tiếp.
2.2. Kiến nghị với giảng viên trực tiếp giảng dạy sinh viên dân tộc Tày - Giảng viên tiếp tục đổi mới phương pháp dạy học nhằm phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người học. Giảng viên nên áp dụng phương pháp dạy học hiện đại: Đưa ra các hình thức thực hành thông qua việc giải quyết các bài tập tình huống theo các cách khác nhau như thảo luận, xemina … để nâng cao kỹ năng giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp của sinh viên dân tộc Tày.
144
- Trong quá trình giảng dạy, giảng viên nên cung cấp thêm những kiến thức, kinh nghiệm thực tế cho các em bằng cách trao đổi, truyền đạt, cởi mở và thân thiện hơn. Lắng nghe tâm tự, nguyện vọng của các em, tạo cho các em cảm nhận được sự gần gũi, nhiệt tình từ thầy cô.
2.3. Kiến nghị với sinh viên dân tộc Tày
- Sinh viên dân tộc Tày cần nhận thức được tầm quan trọng của kỹ năng giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp. - Sinh viên dân tộc Tày phải tự giác, chủ động, tích cực rèn luyện để nâng cao kỹ năng giao tiếp của mình trong hoạt động học tập. - Sinh viên dân tộc Tày cần đặt ra mục tiêu cần đạt trong giao tiếp, xem mục tiêu cần đạt được là thành công của mình. Trong quá trình giao tiếp luôn ý thức rút ra những bài học trong thực tiễn về giao tiếp để hoàn thiện kỹ năng giao tiếp của bản thân mình.
145
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
1. Nông Thị Nhung (2015), Kỹ năng sử dụng các phương tiện giao tiếp trong hoạt động học tập của sinh viên dân tộc Tày, Tạp chí Tâm lý học xã hội, số 10 – 2015.
2. Nông Thị Nhung (2016), Kỹ năng điều chỉnh cảm xúc bản thân trong hoạt động học tập của sinh viên dân tộc Tày, Tạp chí Tâm lý học xã hội, số 8 – 2016.
146
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu tiếng Việt 1. Hoàng Anh, Kỹ năng giao tiếp sư phạm của sinh viên, Luận án phó tiến sĩ,
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.
2. Hoàng Anh – Nguyễn Thanh Bình – Vũ Kim Thanh (2004), Giáo trình Tâm lý
học giao tiếp, Nhà xuất bản Đại học Sư phạm Hà Nội.
3. Hoàng Anh – Đỗ Thị Châu- Nguyễn Thạc (2007), Hoạt động – Giao tiếp –
Nhân cách, Nhà xuất bản Đại học Sư phạm.
4. T.A.A.rôgiakaêva, Những khó khăn tâm lý trong giao tiếp của giáo viên mới
vào nghề.
5. Chu Liên Anh (2010), Kỹ năng tư vấn của luật sư, Luận án tiến sĩ tâm lý học. 6. Triều Ân – Hoàng Quyết (1996), Từ điển thành ngữ - tục ngữ dân tộc Tày, Nhà
xuất bản Văn hóa dân tộc, Hà nội
7. Hoàng Bé, Hoàng Minh Lợi (1998), Làng bản của người Tày, Tạp chí Dân tộc
học, số 4, tr.41.
8. Nguyễn Ngọc Bích, Bùi Văn Huệ, Đỗ Mộng Tuấn (1995), Vai trò của giao tiếp
trong quan hệ xã hội và quan hệ nhân cách, Nhà xuất bản Giáo dục.
9. Nguyễn Thanh Bình (1991), Về nhu cầu giao tiếp của sinh viên sư phạm, Tạp
chí Nghiên cứu giáo dục số 6.
10. Nguyễn Thanh Bình (1993), Khả năng giao tiếp của sinh viên Đại học Sư
phạm, Tạp chí Nghiên cứu giáo dục số 12.
11. Nguyễn Thanh Bình (1996), Nghiên cứu một số trở ngại tâm lý trong giao tiếp của sinh viên với học sinh sau khi thực tập tốt nghiệp, Luận án tiến sĩ Tâm lý học, Hà Nội.
12. Phan Kế Bính (1990), Việt Nam phong tục, Nhà xuất bản Tổng hợp Đồng Tháp. 13. Lê Thị Bừng – Hải Vang (1997), Tâm lý học ứng xử, Nhà xuất bản Giáo dục. 14. Lê Thị Bừng (2000), Tâm lý học ứng xử, Nhà xuất bản Giáo dục. 15. Nguyễn Liên Châu (1998), Đặc điểm giao tiếp của hiệu trưởng trường tiểu học,
Luận án tiến sĩ, Đại học Sư phạm Hà Nội.
16. Nông Quốc Chấn, Huỳnh Khái Vinh (2002), Văn hoá các dân tộc Việt Nam
thống nhất mà đa dạng, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia.
17. Đỗ Thị Châu (1999), Nghiên cứu kỹ năng đọc hiểu tiếng Anh của học sinh lớp
6, Luận án tiến sĩ Tâm lý học, Đại học Sư phạm Hà Nội
147
18. Ma Thị Chung (2012), Lễ hội lồng tồng của người Tày Nùng vùng Đông Bắc Việt Nam, đề tài nghiên cứu khoa học cấp Viện, Bộ Văn hóa – Thông tin, Bảo tàng văn hóa các dân tộc Việt Nam, Thái Nguyên.
19. Covaliov A.G (1994), Tâm lý học cá nhân, Nhà xuất bản Giáo dục. 20. I.X.Côn (1988), Tâm lý học tình bạn và tuổi trẻ, Nhà xuất bản Thanh niên. 21. E.I.Chikhiepva (1975), Sự phát triển ngôn ngữ của trẻ em trước tuổi học, Nhà
xuất bản Lao động.
22. V.A.Cruchetxki (1989), Những cơ sở của tâm lý học sư phạm, Nhà xuất bản
Giáo dục.
23. V.N.Cunhisưna (2003), Giao tiếp liên nhân cách, Nhà xuất bản Khoa học
xã hội.
24. James H. Donnelly, JR; James L. Gibson và John M. Ivancevich (2000), Quản
trị học căn bản, Nhà xuất bản Thống kê.
25. Ma Ngọc Dung (2012), Văn hóa ẩm thực của người Tày, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ, Bộ Văn hóa – Thông tin, Bảo tàng văn hóa các dân tộc Việt Nam, Thái Nguyên.
26. Nguyễn Thị Thuý Dung (2009), Kỹ năng giải quyết tình huống quản lý của học viên các lớp bồi dưỡng hiệu trưởng tiểu học, Luận án tiến sĩ, Viện Khoa học xã hội Việt Nam
27. Thái Trí Dũng (1994), Tâm lý học quản trị và kinh doanh, Nhà xuất bản
Thống kê.
28. Thái Trí Dũng (1998), Nghệ thuật giao tiếp và thương lượng trong kinh doanh,
Nhà xuất bản Thống kê.
29. Vũ Dũng (2008), Từ điển Tâm lý học, Nhà xuất bản Từ điển Bách khoa Hà Nội 30. Vũ Dũng (2003), Tâm lý học giao tiếp, Trường Cao đẳng Lao động-Xã hội. 31. Phạm Tất Dong, Tâm lý học lao động, Cục Đào tạo bồi dưỡng, Bộ Giáo dục 32. Nguyễn Văn Đính (1997), Giáo trình tâm lý và nghệ thuật giao tiếp ứng xử
trong kinh doanh, Nhà xuất bản Đại học Kinh tế Quốc dân. Hà Nôi.
33. Đỗ Văn Đoạt, Kỹ năng ứng phó với stress trong hoạt động học tập theo tín chỉ của sinh viên đại học sư phạm, Luận án tiến sĩ Tâm lý học, Học viện Khoa học xã hội.
34. Nguyễn Văn Đồng (2007), Một số đặc điểm giao tiếp ngoài giảng đường của
sinh viên, Luận án Tiến sĩ Tâm lí học, Viện Tâm lý học.
35. Chu Văn Đức, Thái Trí Dũng (2005), Kỹ năng giao tiếp, Nhà xuất bản Hà Nội.
148
36. Daniel Goleman (1995), Trí tuệ xã hội – Môn khoa học mới mối quan hệ của
con người, Nhà xuất bản Lao động xã hội, Hà Nội.
37. Daniel Goleman (2002), Trí tuệ xúc cảm – Làm thế nào để biến những xúc cảm
của mình thành trí tuệ, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội.
38. F.N.Gônobôlin, Những phẩm chất tâm lý của người giáo viên. 39. Trần Thị Thanh Hà (2005),Một số kỹ năng giao tiếp trong vận động quần chúng của chủ tịch hội phụ nữ cấp cơ sở, Viện Tâm lý học – Viện khoa học xã hội Việt Nam, Luận án Tiến sỹ Tâm lý học.
40. Phạm Minh Hạc – Lê Khanh – Trần Trọng Thủy (1988), Tâm lý học tập I, II,
Nhà xuất bản Giáo dục.
41. Phạm Minh Hạc (2002), Tuyển tập Tâm lý học, Nhà xuất bản Giáo dục. 42. Phùng Đức Hải, Nguyễn Bá Dương (1991), Về trình độ tư duy của học sinh
trung học phổ thông miền núi, Tạp chí NCGD.
43. Phùng Đức Hải (1991), Về đặc điểm tâm lý học sinh phổ thông trung học miền
núi, Tạp chí NCGD, tháng 9/1991.
44. Nguyễn Thị Thuý Hạnh (2011), Kỹ năng học tập hợp tác của sinh viên sư
phạm, Luận án tiến sĩ Tâm lý học, Học viện Khoa học xã hội
45. Phùng Thị Hằng (2007), Đặc điểm giao tiếp của học sinh THPT dân tộc Tày,
Nùng, Luận án tiến sĩ, Đại học Sư phạm Hà Nội.
46. Trần Thị Thu Hằng, Kỹ năng thực hành nghề của sinh viên cơ khí, Luận án tiến
sĩ Tâm lý học, Học viện Khoa học xã hội
47. Nguyễn Hoàng Khắc Hiếu (2015), Kỹ năng tư duy phê phán của sinh viên Đại học Thành phố Hồ Chí Minh, Luận án tiến sĩ Tâm lý học, Học viện Khoa học xã hội.
48. Ngô Công Hoàn – Hoàng Anh (1999), Giao tiếp sư phạm, Nhà xuất bản Giáo
dục, Hà Nội
49. Lê Xuân Hồng, Đặc điểm giao tiếp của trẻ mẫu giáo trong nhóm chơi không
cùng độ tuổi.
50. Lê Văn Hồng (chủ biên) – Lê Ngọc Lan – Nguyễn Văn Thàng (1997), Tâm lý
học lứa tuổi và sư phạm, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội.
51. Phạm Bích Hợp (1993), Tâm lý dân tộc - tính cách và bản sắc, Nhà xuất bản,
Thành phố Hồ Chí Minh.
52. Bùi Văn Huệ (1996), Tâm lý học, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội.
149
53. Nguyễn Phương Huyền, Kỹ năng giao tiếp của cán bộ công chức, Luận án tiến
sĩ, Học viện Khoa học xã hội.
54. K.L.Hutchison (1992), Giao tiếp cộng đồng, Nhà xuất bản Thanh niên 55. Đặng Thành Hưng (2004), Hệ thống kỹ năng học tập hiện đại, tạp chí giáo dục
số 78, Viện chiến lược và chương trình giáo dục.
56. Đặng Thành Hưng (2010), Nhận diện và đánh giá kỹ năng, Tạp chí Khoa học
giáo dục, số 62, tháng 11/2010.
57. Jones Lawerence, Những kỹ năng nghề nghiệp bước vào thế kỉ 21. 58. Mai Hữu Khuê, Đinh Văn Tiến, Chu Xuân Khánh, Kỹ năng giao tiếp trong
hành chính, Nhà xuất bản Lao động, Hà Nội.
59. X.I. Kixegov(1976), Hình thành kỹ năng, kỹ xảo sư phạm cho sinh viên trong điều kiện nền giáo dục đại học, Tổ tư liệu Đại học Sư phạm Hà Nội dịch. 60. L.Kôlôminki (1976), Tâm lý học với các mối quan hệ qua lại trong nhóm nhỏ,
Nhà xuất bản Lao động.
61. A.G.Kôvaliov (1976), Tâm lý học xã hội, Nhà xuất bản Giáo dục. 62. V.A.Kruchetxki (1987), Những cơ sở của tâm lý học sư phạm, tập I, II. Nhà
xuất bản Giáo dục.
63. V.A.Lanbunskaia (2001), Tâm lý học giao tiếp khó khăn, Nhà xuất bản Khoa
học xã hội.
64. A.N.Leonchiev (1980), Sự phát triển tâm lý học trẻ em và tâm lý học sư phạm,
Nhà xuất bản Giáo dục.
65. A.N.Leonchiev (1987) Hoạt động – Ý thức – Nhân cách, Nhà xuất bản Giáo
dục.
66. Levitov N.D. (1970), Tâm lý học trẻ em và tâm lý học sư phạm, Nhà xuất bản
Giáo dục.
67. Nguyễn Văn Lê (1996); Giao tiếp nhân sự, giao tiếp phi ngôn ngữ, Nhà xuất
bản Trẻ.
68. Cao Xuân Liễu (2014), Kỹ năng đọc chữ tiếng Việt của học sinh lớp 1 người
dân tộc Cơ Ho, Luận án tiến sĩ Tâm lý học, Học viện Khoa học xã hội.
69. Đào Thị Diệu Linh, Kỹ năng ghi nhớ từ tiếng Anh của học sinh lớp 6, luận án
tiến sĩ tâm lý, Học viện Khoa học xã hội.
70. Đỗ Long, C.Mác và phạm trù giao tiếp, Nhà xuất bản Sự thật. 71. Đậu Minh Long, Đặc điểm giao tiếp của học sinh dân tộc Cơ Tu và Tà Ôi,
Luận án tiến sĩ, Học viện Khoa học xã hội.
150
72. Lã Văn Lô (1973), Bước đầu tìm hiểu các dân tộc thiểu số ở Việt Nam trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội. 73. B.Ph.Lômôv (2000), Những vấn đề lý luận và phương pháp luận Tâm lý học,
Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Nhà xuất bản Hà Nội.
74. Đặng Văn Lung, Nguyễn Sông Thao, Hoàng Văn Trụ (1997), Phong tục tập
quán các dân tộc Việt Nam, Nhà xuất bản Văn hoá dân tộc, Hà Nội.
75. Trần Hữu Luyến (3/2002), Kỹ năng lời nói và yêu cầu trong dạy học ngoại ngữ,
Tạp chí Tâm lý học.
76. C.Mác - Ph.Ăngghen (1970), Tuyển tập trọn bộ, Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội 77. Bùi Thị Xuân Mai (2007), Một số kỹ năng tham vấn cơ bản của cán bộ xã hội, Viện Tâm lý học – Viện Khoa học xã hội Việt Nam, Luận án Tiến sỹ Tâm lý học chuyên ngành.
78. Lã Văn Mến (2005), Nghiên cứu kỹ năng giải quyết tình huống sư phạm của sinh viên Cao đẳng Sư phạm Nam Định, Viện Tâm lý học - Viện khoa học xã hội Việt Nam, Luận án Tiến sỹ Tâm lý học.
79. Nguyễn Bá Minh (2008), Giáo trình nhập môn khoa học giao tiếp, Nhà xuất
bản Đại học Sư Phạm.
80. Patricia H. Miler (2003), Các thuyết về Tâm lý học phát triển, Nhà xuất bản
Văn hóa Thông tin.
81. A.V.Muđrik (1980), Giao tiếp như là một nhân tố giáo dục học sinh, Nhà xuất
bản Giáo dục.
82. Hoàng Nam (1992), Dân tộc Nùng ở Việt Nam, Nhà xuất bản Văn hóa dân tộc
Hà Nội.
83. Hoàng Nam (1998), Bước đầu tìm hiểu văn hóa tộc người văn hóa Việt Nam,
Nhà xuất bản Văn hóa dân tộc Hà Nội
84. Phan Trọng Ngọ (2003), Các lý thuyết phát triển tâm lý người, Nhà xuất bản
Đại học Sư phạm.
85. Đào Thị Oanh (1996), Tâm lý học xã hội Giáo trình dùng cho học viên cao học
Tâm lý học, Hà Nội.
86. Đào Thị Oanh (2002), Nhu cầu giao tiếp của học sinh cuối bậc tiểu học, tạp chí
tâm lý học số 10
87. A.V.Petrovski (1982), Tâm lý học lứa tuổi sư phạm tập I, II. Nhà xuất bản
Giáo dục.
88. Allan Pease (1994), Ngôn ngữ và cử chỉ, Nhà xuất bản ĐH & THCN.
151
89. Hoàng Phê (1998), Từ điển Tiếng Việt, Nhà xuất bản Đà Nẵng. 90. K.K. Platônốp (1992), Tâm lý học, Nhà xuất bản ĐH & THCN. 91. Petropxki.A.V.(1982), Tâm lý học lứa tuổi và Tâm lý học sư phạm, Nhà xuất
bản Giáo dục.
92. Đặng Thanh Phương (2000), Những nhân tố của sự phát triển trạng thái song/ đa ngữ ở vùng người Tày tỉnh Bắc Kạn, Chương trình nghiên cứu đề tài cấp Viện, Viện Dân tộc học.
93. Nguyễn Văn Phương (2008), Kỹ năng học tập các môn lỹ luận chính trị của học viên cao cấp lỹ luận chính trị khu vực II, Luận án tiến sĩ tâm lý học, Hà Nội 94. Phạm Hồng Quang (2003), Tổ chức dạy học cho học sinh dân tộc, miền núi,
Nhà xuất bản Đại học Sư phạm.
95. Rutđich P.N (1980), Tâm lý học thể dục thể thao, Nhà xuất bản Thể dục thể
thao Hà Nội.
96. C.Sennen (1948) Lý thuyết toán học trong giao tiếp. 97. Vũ Văn Tảo, Bùi Hiển, Nguyễn Văn Giao, Nguyễn Hữu Quỳnh (2011), Từ điển
Giáo dục học, Nhà xuất bản Từ điển Bách Khoa Hà Nội.
98. Hà Văn Tấn (1980), Về khái niệm dân tộc của Mác và Ăngghen và sự hình
thành dân tộc Việt, Tạp chí Dân tộc học số 2.
99. Nguyễn Thạc (1983), Nghiên cứu quá trình hình thành tính độc lập trong hoạt
động học tập của sinh viên Việt Nam, Luận án phó tiến sĩ.
100. Nguyễn Thạc (1992), Tâm lý học sư phạm đại học, Nhà xuất bản Giáo dục. 101. Nguyễn Thạc (2003), Đặc điểm giao tiếp của trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi, Nhà xuất
bản Đại học Sư phạm.
102. Nguyễn Thạc – Hoàng Anh (1995), Luyện giao tiếp sư phạm, Trường Đại học
sư phạm Hà Nội.
103. Nguyễn thạc, Phạm Thành Nghị (1992, 2007), Tâm lý học sư phạm đại học,
Nhà xuất bản Đại học Sư phạm.
104. Nguyễn Ánh Tuyết, giáo dục trẻ em trong nhóm bạn bè. 105. Trần Quốc Thành (1992), Kỹ năng tổ chức trò chơi của chi đội trưởng đội
thiếu niên tiền phong Hồ Chí Minh, Trường Đại học sư phạm Hà Nội.
106. Trần Ngọc Thêm (1997), Cơ sở Văn hoá Việt Nam, Đại học Khoa học xã hội
và nhân văn thành phố Hồ Chí Minh.
107. Dương Thị Thoan, Kỹ năng giảng dạy theo tín chỉ của giáo sinh thực tập sư
phạm, Luận án tiến sĩ, Học viện Khoa học xã hội.
152
108. Đào Thị Ái Thi (2008), Kỹ năng giao tiếp của đội ngũ công chức trong tiến trình
cải cách hành chính Nhà nước Việt Nam, Luận án tiến sĩ Hành chính công.
109. Nguyễn Cảnh Toàn (1996), Phương pháp giáo dục tích cực, bàn về học và
nghiên cưua khoa học, Nghiên cứu giáo dục 6, 18-20
110. Trần trọng Thuỷ (1981), Giao tiếp, tâm lý, nhân cách, Bộ giáo dục và Đào tạo,
Chương trình Giáo trình đại học, Hà Nội.
111. Hà Thị Thư, Kỹ năng công tác xã hội nhóm của sinh viên ngành công tác xã
hội, Luận án tiến sĩ Tâm lý học, Học viện Khoa học xã hội
112. Tsebuseva.V.V. (1975), Tâm lý học dạy lao động, Nhà xuất bản Giáo dục. 113. Nguyễn Quang Uẩn (1996), Tâm lý học đại cương, Nhà xuất bản Đại học
Quốc gia Hà Nội
114. Viện Khoa học Xã hội - Viện Dân tộc học (1992), Các dân tộc Tày, Nùng ở
Việt Nam, Hà Nội.
115. Vưgôtxki (1997), Tâm lý học Vưgôtxki, tập I, Nhà xuất bản Giáo dục. 116. Đoàn Thị Hồng Vân (2006), Giao tiếp trong kinh doanh và cuộc sống, Nhà
xuất bản Thống Kê.
117. La Công Ý- Nguyễn Văn Huy, Nguyễn Văn Dự -Đỗ Thúy Bình (1980), Một số vấn đề nguyện vọng và nhu cầu về đời sống tinh thần của đồng bào Tày, Nùng ở vùng Cao Bằng và Lạng Sơn, Tạp chí Dân tộc học, số 3,tr69.
118. Nguyễn Như Ý (1998), Đại từ điển Tiếng Việt, Nhà xuất bản Văn hóa thông tin.
Tài liệu tiếng anh 119. Benson.T.W & Peace.W.B (Ed). (1985). Speech communicationin the 20 120. Cormier Sherry & Cormier bill. (1988), Interviewing Strategies for Helpers,
Brooks/Cole Puplishing Company.
121. Balci S (1996). The effect of counseling skills training on the level of communication skills of university students. Unpublished PhD Thesis, Samsun (Turkey): Ondokuz Mayıs University.
122. Bolat S (1990). Teaching staff-college students communication in the higher (Turkey): Hacettepe
education. Unpublished Master Thesis, Ankara University.
123. Cihangir Z (2004). The effect of active listening skills training given to the college students on the listening skills. Gazi University, Journal of Turkish Science Education, 2(2): 237-251.
153
124. Dilekmen M, Başçi Z, Bektaş F (2008). Communication skills of the students in the faculty of education. Ataturk University Journal of Institute of Social Sciences, 12(2): 223-231.
125. Gloria J.Galanes, J.K Brillhard (1997), Communication in group:
Applications and Skills. McGraw – Hill
126. Guffey Mary Ellen(2004) Business communication: Process and product.
Western house
127. Horton, G. Evette và Brown, Duane (1990) The Importance of Interpersonal Skills in Consultee – Centered Consultation A Review.Journal of Counseling & Development, Vol.68 Issue 4.
128. Johnson, S. (1983), The one minute Mother, William morrow and Company.
New York.
129. John Steward(2002) Bridges not walls : A book about interperson
communication. McGraw – Hill
130. Judy Cornelia Pearson, Brain H. Spitzberg (1990). Interpersonal
communication, concepts, components and contexts . WmC Brown Public 131. Kiity O.Locker (1997) business and administrative communication
McGraw – Hill
132. Korkut F (1996). Development of communication skills assessment scale: Reliability and validity studies. Journal of Psychological Counseling and Guidance, 2(7): 18-23.
133. Lesikar, Raymond V. and Flatley, Marie E. (2002), Basic business communication : Skills for empowering the enternet generation, 9th, ed, McGraw – Hill, Boston.
134. Louis Janda, the psychologist’sbook of self tests, published by the berkley
publishing group.
135. Mary Ellen Guffey and Rasberry. R.W. (1997), Effective managerial
Communication. Boston: Wadsworth.
136. Michael P Thompson (1993), The skills of Inquiry and Advocacy: Why Managers need Both, Management Communication Quarterly, p32 – 37.. 137. Pauline E Henderson (1989) Communication without Words, Personnel
Journal, p22- 29.
138. R.S Cathcart, L.A.Samovar, L.D Henman(1997) Small group communication
: Theory and Practice- Brown & Bechmark Publishers
154
139. Robert Lussier: Humanrelations in organization-Askill building approach .
McGraw – Hill
140. Teri K.Gamble, Mecheal Gamble (2002) communication work , McGraw –
Hill college
141. Watson, A.K. (1995), Taking the sweat out of Communication Anxiety,
Personnel Journal 74, p111- 117.
142. Weaver, R.L.II. (2001), Understanding Interpersonal communication, 5th
ed., Scott.
143. Wilbur Schramm (1953), How Communication Works, Urbana: University
of lllinois Press, p3 – 17.
144. William B. Gudykunst, Young Yun Kim (1997), Communication with
strangers, Mc Graw Hill
155
PHỤ LỤC 1 CÁC LOẠI BẢNG HỎI
PHỤ LỤC 1.1. PHIẾU TRƯNG CẦU Ý KIẾN CHUYÊN GIA TÂM LÝ VỀ KỸ NĂNG GIAO TIẾP TRONG HOẠT ĐỘNG HỌC TẬP TRÊN LỚP CỦA SINH VIÊN DÂN TỘC TÀY
Chúng tôi đang tiến hành nghiên cứu về kỹ năng giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp của sinh viên dân tộc Tày. Bằng kinh nghiệm thực tiễn của mình, xin ông/bà hãy vui lòng cho biết ý kiến của mình về một số vấn đề có liên quan đến kỹ năng giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp của sinh viên dân tộc Tày. 1. Xin ông/bà hãy cho biết kỹ năng giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp của sinh viên dân tộc Tày gồm những kỹ năng nào? 2. Các kỹ năng đó được thể hiện như thế nào? 3. Ông/bà vui lòng cho biết những yếu tố ảnh hưởng tới kỹ năng giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp của sinh viên dân tộc Tày ? Xin trân trọng cảm ơn!
PHỤ LỤC 1.3. PHIẾU TRƯNG CẦU Ý KIẾN (Dành cho sinh viên)
Rất cám ơn sự hợp tác của anh/chị!
Chúng tôi đang tiến hành nghiên cứu về kỹ năng giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp của sinh viên dân tộc Tày để từ đó tìm ra các biện pháp tâm lý sư phạm nhằm cải thiện kỹ năng này ở sinh viên. Bằng hiểu biết và kinh nghiệm của mình, xin anh/chị hãy vui lòng trả lời đầy đủ những câu hỏi dưới đây! Những thông tin mà anh/ chị cung cấp sẽ giúp ích cho chúng tôi rất nhiều và được sử dụng vào mục đích nghiên cứu khoa học. Phần I. Nhóm kỹ năng thiết lập các mối quan hệ Câu1: Xin anh/chị cho biết sinh viên xây dựng mối quan hệ với giảng viên và các bạn sinh viên cùng lớp trong hoạt động học tập nhằm các mục đích gì? ....................................................................................................................................... ....................................................................................................................................... ........................................................................................................................ Câu 2: Dưới đây là một số ý kiến đánh giá về kỹ năng tìm hiểu đối tượng giao tiếp của sinh viên khi tham gia vào hoạt động học tập trên lớp với giảng viên và các bạn sinh viên cùng lớp. Xin anh/chị hãy đọc kỹ từng ý kiến, và từ kinh nghiệm thực tiễn, cho biết đánh giá của mình về kỹ năng giao tiếp này bằng cách đánh dấu X vào các ý kiến đúng với những suy nghĩ và hành vi thường làm của anh/chị khi tiếp xúc với giảng viên và sinh viên cùng lớp trong hoạt động tập theo 5 mức độ: rất tán thành, tán thành, còn phân vân, không tán thành, rất không tán thành
Ý kiến
Rất tán thành (5) Không tán thành (2) Rất không tán thành(1) Tương đối tán thành (4) Mức độ Tán thành một phần (3)
Khi giao tiếp với giảng viên và sinh viên trong hoạt động học tập trên lớp sinh viên biết: 1 Chủ động đặt những câu hỏi để thăm dò nhu cầu, sở thích của các bạn sinh viên và giảng viên để có cách ứng xử phù hợp
2 Chủ động đặt những câu hỏi để thăm
dò quan điểm sống của sinh viên và giảng viên để có cách ứng xử phù hợp
3 Chủ động đặt những câu hỏi để thăm dò tính cách của sinh viên và giảng viên để có cách ứng xử phù hợp
4 Nhớ tên thầy cô giáo và bạn bè để tạo được ấn tượng và thiện cảm
Câu 3: Dưới đây là một số ý kiến đánh giá về kỹ năng thể hiện sự tôn trọng đối tượng giao tiếp của sinh viên khi tham gia vào hoạt động học tập trên lớp với giảng viên và các bạn sinh viên cùng lớp. Xin anh/chị hãy đọc kỹ từng ý kiến, và từ kinh nghiệm thực tiễn, cho biết đánh giá của mình về kỹ năng giao tiếp này bằng cách đánh dấu X vào các ý kiến đúng với những suy nghĩ và hành vi thường làm của anh/chị khi tiếp xúc với giảng viên và sinh viên cùng lớp trong hoạt động tập theo 5 mức độ: rất tán thành, tán thành, còn phân vân, không tán thành, rất không tán thành
Ý kiến
Rất tán thành (5) Tương đối tán thành (4) Không tán thành (2) Rất không tán thành(1)
Mức độ Tán thành một phần (3)
Khi giao tiếp với giảng viên và sinh viên trong hoạt động học tập trên lớp sinh viên biết: 1 Chú ý đến trang phục: Trang phục kín đáo, lịch sự, đầu tóc gọn gàng, nét mặt cởi mở,
2 Sử dụng ngôn ngữ đơn giản, dễ hiểu phù hợp với người nghe
3 Chủ động chào hỏi với thái độ kính trọng, lễ phép với thầy cô và hoà nhã với bạn bè
4 Dừng các công việc riêng: nghe
điện thoại, nhắn tin, xem phim…khi đối tượng giao tiếp xuất hiện
Câu 4: Dưới đây là một số ý kiến đánh giá về kỹ năng thể hiện sự sự hợp tác đối tượng giao tiếp của sinh viên khi tham gia vào hoạt động học tập trên lớp với giảng viên và các bạn sinh viên cùng lớp. Xin anh/chị hãy đọc kỹ từng ý kiến, và từ kinh nghiệm thực tiễn, cho biết đánh giá của mình về kỹ năng giao tiếp này bằng cách đánh dấu X vào các ý kiến đúng với những suy nghĩ và hành vi thường làm của anh/chị khi tiếp xúc với giảng viên và sinh viên cùng lớp trong hoạt động tập theo 5
mức độ: rất tán thành, tán thành, còn phân vân, không tán thành, rất không tán thành
Ý kiến
Rất tán thành (5) Tương đối tán thành (4) Không tán thành (2) Rất không tán thành(1) Mức độ Tán thành một phần (3)
Khi giao tiếp với giảng viên và sinh viên trong hoạt động học tập trên lớp sinh viên biết: 1 Hợp tác với thầy cô và bạn bè trong việc thực hiện các nội dung học tập trên lớp
2 Chia sẻ các thông tin, nội dung kiến thức của bản thân với các bạn sinh viên cùng lớp
3 Phối hợp với thầy cô và bạn bè để
hoàn thành nhiệm vụ học tập chung của lớp
4 Lắng nghe, trao đổi, cho ý kiến về các nội dung học tập trên lớp một cách tích cực
Câu 5: Dưới đây là một số ý kiến đánh giá về kỹ năng thể hiện sự trung thực với đối tượng giao tiếp của sinh viên khi tham gia vào hoạt động học tập trên lớp với giảng viên và các bạn sinh viên cùng lớp. Xin anh/chị hãy đọc kỹ từng ý kiến, và từ kinh nghiệm thực tiễn, cho biết đánh giá của mình về kỹ năng giao tiếp này bằng cách đánh dấu X vào các ý kiến đúng với những suy nghĩ và hành vi thường làm của anh/chị khi tiếp xúc với giảng viên và sinh viên cùng lớp trong hoạt động tập
theo 5 mức độ: rất tán thành, tán thành, còn phân vân, không tán thành, rất không tán thành
Ý kiến
Rất tán thành (5) Không tán thành (2) Rất không tán thành(1)
Tương đối tán thành (4) Mức độ Tán thành một phần (3)
Khi giao tiếp với giảng viên và sinh viên trong hoạt động học tập trên lớp sinh viên biết: 1 Sinh viên thẳng thắn, trung thực trao đổi với giảng viên và các bạn sinh viên cùng lớp về nội dung bài học
2 Ngay thằng, thật thà với thầy cô giáo
và bạn bè
3 Chấp hành đúng nội quy của trường,
lớp
4 Biết sử dụng biểu cảm phi ngôn ngữ, ngôn ngữ thể hiện sự trung thực: ánh mắt luôn nhìn thẳng, giọng nói từ tốn và điềm đạm, cử chỉ dứt khoát và thoải mái, toát lên sự tự tin.
Phần II. Nhóm kỹ năng giải quyết vấn đề học tập trên lớp Câu 6: Xin anh/chị cho biết sinh viên cần có kỹ năng giải quyết vấn đề học tập trên lớp với giảng viên và các bạn sinh viên cùng lớp nhằm các mục đích gì? ....................................................................................................................................... ....................................................................................................................................... ......................................................................................................................... Câu 7: Dưới đây là một số ý kiến đánh giá về kỹ năng diễn đạt các nội dung học tập trên lớp của sinh viên khi tham gia vào hoạt động học tập trên lớp với giảng viên và các bạn sinh viên cùng lớp. Xin anh/chị hãy đọc kỹ từng ý kiến, và từ kinh nghiệm thực tiễn, cho biết đánh giá của mình về kỹ năng giao tiếp này bằng cách đánh dấu X vào các ý kiến đúng với những suy nghĩ và hành vi thường làm của anh/chị khi tiếp xúc với
giảng viên và sinh viên cùng lớp trong hoạt động tập theo 5 mức độ: rất tán thành,
tán thành, còn phân vân, không tán thành, rất không tán thành
Ý kiến
Rất tán thành (5) Không tán thành (2) Rất không tán thành(1)
Tương đối tán thành (4) Mức độ Tán thành một phần (3)
Khi giao tiếp với giảng viên và sinh viên trong hoạt động học tập trên lớp sinh viên biết: 1 Nói xúc tích, ngắn gọn, đưa ra dẫn
chứng cụ thể để minh hoạ khi thuyết trình một vấn đề nào đó trên lớp, hay phát biểu ý kiến xây dựng bài 2 Biết cách sâu chuỗi, tóm lược các vấn đề liên quan đến nội dung bài học để thuyết trình hiệu quả
3 Lập dàn ý và chú ý đến những điểm cần nhấn mạnh hoặc cần trao đổi với bạn bè
4 Sử dụng các phương tiện khác để làm rõ hơn phần trình bày của bạn
Câu 8: Dưới đây là một số ý kiến đánh giá về kỹ năng lắng nghe của sinh viên khi tham gia vào hoạt động học tập trên lớp với giảng viên và các bạn sinh viên cùng lớp. Xin anh/chị hãy đọc kỹ từng ý kiến, và từ kinh nghiệm thực tiễn, cho biết đánh giá của mình về kỹ năng giao tiếp này bằng cách đánh dấu X vào các ý kiến đúng với những suy nghĩ và hành vi thường làm của anh/chị khi tiếp xúc với giảng viên và sinh viên cùng lớp trong hoạt động tập theo 5 mức độ: rất tán thành, tán thành, còn phân vân, không tán thành, rất không tán thành
Ý kiến
Rất tán thành (5) Không tán thành (2) Rất không tán thành(1)
Tương đối tán thành (4) Mức độ Tán thành một phần (3)
Khi giao tiếp với giảng viên và sinh viên trong hoạt động học tập trên lớp sinh viên biết: 1 Huy động mọi giác quan (mắt nhìn, tai nghe, tay viết) tập trung chú ý để để thu thập thông tin tốt nhất vafhieeur được thông tin
2 Không để ý tới những chủ đề không liên quan đến nội dung bài học
3 Đánh giá thông tin để xác định tính
có căn cứ của thông tin
4 Quan sát để tìm hiểu xem giáo viên và sinh viên cùng lớp có những thái độ nào khi thuyết trình
5 Chăm chú ghi chép, ngước lên đều
đặn đưa ánh mắt nhìn vào mắt giảng viên hoặc các bạn sinh viên khi họ thuyết trình
Câu 9: Xin anh/chị cho biết sinh viên cần có kỹ năng điều chỉnh cảm xúc bản thân trong hoạt động học tập trên lớp với giảng viên và các bạn sinh viên cùng lớp nhằm các mục đích gì? ....................................................................................................................................... ....................................................................................................................................... ....................................................................................................................................... ................................................................................................................... Câu 10: Dưới đây là một số ý kiến đánh giá về kỹ năng điều chỉnh cảm xúc bản thân của sinh viên khi tham gia vào hoạt động học tập trên lớp. Xin anh/chị hãy đọc kỹ từng ý kiến, và từ kinh nghiệm thực tiễn, cho biết đánh giá của mình về kỹ năng giao tiếp này bằng cách đánh dấu X vào các ý kiến đúng với những suy nghĩ và hành vi thường làm của anh/chị khi tiếp xúc với giảng viên và sinh viên cùng lớp trong hoạt động tập theo 5 mức độ: rất tán thành, tán thành, còn phân vân,
không tán thành, rất không tán thành
Ý kiến
Rất tán thành (5) Không tán thành (2) Rất không tán thành(1) Tương đối tán thành (4) Mức độ Tán thành một phần (3)
Khi giao tiếp với giảng viên và sinh viên trong hoạt động học tập trên lớp sinh viên biết: 1 Nhận biết được cảm xúc của bản thân, của giảng viên và các bạn sinh viên cùng lớp để có cách ứng xử phù hợp
2 Những cảm xúc có lợi, có hại đối
với bản thân khi giao tiếp với giảng viên và sinh viên trong hoạt động học tập trên lớp
3 Tìm ra những nguyên nhân xuất hiện những cảm xúc đó để có cách điều chỉnh cảm xúc bản thân cho phù hợp 4 Giữ được thái độ bình tĩnh, khéo léo trước những tình huống căng thẳng hay bất lợi cho bản thân trong quá trình giao tiếp
5 Sử dụng cảm xúc phù hợp trong suy nghĩ cũng như giải quyết các vấn đề, tình huống phát sinh trong hoạt động học tập trên lớp
6 Giải toả được những cảm xúc tiêu
cực, không có lợi cho bản thân trong quá trình giao tiếp với giảng viên và sinh viên cùng lớp
7 Không để xúc cảm của mình tạo ảnh
hưởng đến thầy cô và bạn bè
8 Khi giao tiếp với thầy cô và bạn bè, bạn luôn cân nhắc cách ứng xử của mình cho phù hợp
9 Không bị cuốn theo những xúc cảm tiêu cực của giảng viên và sinh viên
Phần III. Nhóm kỹ năng sử dụng phương tiện giao tiếp trong HĐHT của SVDTT Câu 11: Xin anh/chị cho biết sinh viên cần có kỹ năng sử dụng phương tiện giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp với giảng viên và các bạn sinh viên cùng lớp nhằm các mục đích gì? ....................................................................................................................................... ....................................................................................................................................... ........................................................................................................................ Câu 12: Dưới đây là một số ý kiến đánh giá về kỹ năng sử dụng phương tiện giao tiếp bằng ngôn ngữ nói của sinh viên khi tham gia vào hoạt động học tập trên lớp. Xin anh/chị hãy đọc kỹ từng ý kiến, và từ kinh nghiệm thực tiễn, cho biết đánh giá của mình về kỹ năng giao tiếp này bằng cách đánh dấu X vào các ý kiến đúng với những suy nghĩ và hành vi thường làm của anh/chị khi tiếp xúc với giảng viên và sinh viên cùng lớp trong hoạt động tập theo 5 mức độ: rất tán thành, tán thành, còn phân vân, không tán thành, rất không tán thành
Ý kiến
Rất tán thành (5) Không tán thành (2) Rất không tán thành(1) Tương đối tán thành (4) Mức độ Tán thành một phần (3)
Khi giao tiếp với giảng viên và sinh viên trong hoạt động học tập trên lớp sinh viên biết: 1 Biết trình bày ý kiến quan điểm của mình một cách tường minh: nói ngắn gọn, rõ ràng, dễ hiểu
2 Biết kiểm soát chất giọng của mình
khi nói
3 Biết đặt những câu hỏi hợp lý để khai
thác được thông tin
4 Không bao giờ nói ngọng, nói giọng
địa phương
Câu 13: Dưới đây là một số ý kiến đánh giá về kỹ năng sử dụng phương tiện giao tiếp bằng ngôn ngữ viết của sinh viên khi tham gia vào hoạt động học tập trên lớp.
Xin anh/chị hãy đọc kỹ từng ý kiến, và từ kinh nghiệm thực tiễn, cho biết đánh giá của mình về kỹ năng giao tiếp này bằng cách đánh dấu X vào các ý kiến đúng với những suy nghĩ và hành vi thường làm của anh/chị khi tiếp xúc với giảng viên và sinh viên cùng lớp trong hoạt động tập theo 5 mức độ: rất tán thành, tán thành, còn phân vân, không tán thành, rất không tán thành
Ý kiến
Rất tán thành (5) Không tán thành (2) Rất không tán thành(1) Tương đối tán thành (4) Mức độ Tán thành một phần (3)
Khi giao tiếp với giảng viên và sinh viên trong hoạt động học tập trên lớp sinh viên biết: 1 Biết sử dụng ngôn ngữ viết một cách đơn giản, dễ hiểu qua email và các trang mạng xã hội để trao đổi với các bạn sinh viên khác về nội dung học tập
2 Biết sử dụng ngôn ngữ viết một cách khoa học, phù hợp, và có văn hóa
3 Trình bày bài viết của mình có khoa
học
4 Biết các kỹ thuật trình bày văn bản
Câu 14: Dưới đây là một số ý kiến đánh giá về kỹ năng sử dụng phương tiện giao tiếp phi ngôn ngữ của sinh viên khi tham gia vào hoạt động học tập trên lớp. Xin anh/chị hãy đọc kỹ từng ý kiến, và từ kinh nghiệm thực tiễn, cho biết đánh giá của mình về kỹ năng giao tiếp này bằng cách đánh dấu X vào các ý kiến đúng với những suy nghĩ và hành vi thường làm của anh/chị khi tiếp xúc với giảng viên và sinh viên cùng lớp trong hoạt động tập theo 5 mức độ: rất tán thành, tán thành, còn phân
vân, không tán thành, rất không tán thành
Ý kiến
Rất tán thành Tương đối tán Mức độ Tán thành một Không tán thành Rất không tán
(5) (2) thành(1)
thành (4) phần (3)
Khi giao tiếp với giảng viên và sinh viên trong hoạt động học tập trên lớp sinh viên biết: 1 Khi giao tiếp luôn nhìn thẳng vào
mắt người đối diện
2 Tạo ra cử chỉ, nét mắt, trang phục phù hợp với đối tượng giao tiếp
3 Sử dụng âm lượng giọng nói phù hợp
trong giao tiếp
4 Sử dụng không gian và khoảng cách
giao tiếp thích hợp
Phần 4: Các yếu tố ảnh hưởng tới kỹ năng giao tiếp Câu 15: Với bạn, việc suy nghĩ để có được kỹ năng giao tiếp tốt trong hoạt động học tập trên lớp có tầm quan trọng như thế nào? (Chọn 1 phương án trả lời và khoanh tròn vào 01 số trước phương án trả lời theo ý kiến của bạn)? 1.Rất quan trọng 2.Quan trọng 3.Quan trọng một phần lớn 4.Quan trọng một phần nhỏ 5.Không quan trọng Xin bạn cho biết vì sao? ……………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………….. Câu 16: Nếu như được hỏi “Em học để làm gì?” thì em sẽ trả lời là: (chọn 5 phương án trả lời em cho là quan trọng nhất với em và khoanh tròn vào số). 1. Để có tri thức 2. Để có các kỹ năng cần thiết phục vụ cho học tập và cuộc sống của bản thân 3. Để khẳng định cái Tôi của cá nhân 4. Không để làm gì, là sinh viên thì phải học 5. Để sau này sẽ có nghề nghiệp tốt phù hợp với mong muốn của bản thân 6. Để cuộc sống tương lai tốt đẹp
7. Để vui lòng cha mẹ 8. Để có cuộc sống vật chất đầy đủ 9. Để có khả năng cống hiến nhiều hơn cho đất nước 10. Khẳng định được cái Tôi trong quan hệ bạn bè 11. Khẳng định được cái Tôi trong quan hệ gia đình (với ông bà, bố mẹ, anh chị em) 12. Khẳng định được cái Tôi trong quan hệ với những người xung quanh Câu 17: Trong những hoạt động sau đây ở trường và ngoài xã hội, em tham gia ở mức độ nào?(đánh dấu cộng vào ý phù hợp)
Các hoạt động Không bao giờ tham gia Thỉnh thoảng có tham gia Tham gia nhiều nhưng không đầy đủ Tham gia thường xuyên và rất tích cực Tham gia thường xuyên như không thật tích cực
1. Hoạt động văn nghệ của lớp và của trường
2. Hoạt động thể thao
3. Hoạt động dã ngoại do lớp tổ chức
4. Hoạt động tình nguyện do Đoàn thanh niên, lớp, nhà trường, khu phố tổ chức
5. Tham gia sinh hoạt các câu lạc bộ ngoại khoá của nhà trường
6. Tham gia vào các hoạt động, phong trào chung do khu phố tổ chức
7. Tham gia các câu lạc bộ ngoài nhà trường 8. Tham gia hiến máu nhân đạo
9. Tham gia ủng hộ, giúp đỡ đồng bào bão lụt
10. Giúp đỡ các hộ nghèo
11. Giúp đỡ các bạn học sinh nghèo vượt khó
12. Giúp đỡ các gia đình neo đơn
13. Giúp đỡ người tàn tật, bất hạnh 14. Tham gia vào đội quân tình nguyện của nhà trường
Câu 18: Dưới đây là một số hình thức giáo dục của bố mẹ trong gia đình, tại nhà trường và cộng đồng nơi em sống em hãy cho biết ý kiến của mình: (đánh dấu cộng vào ý phù hợp)
Đúng Các hình thức giáo dục Không đúng Đúng nhiều hơn sai Hoàn toàn đúng Sai nhiều hơn đúng
1. Bố mẹ hướng dẫn em cách đối xử với với ông bà và những người lớn tuổi, dù giữa em và họ có những khác biệt về học vấn, đạo đức, lối sống 2. Bố mẹ thường xuyên khen thưởng và động viên kịp thời mỗi khi em có những hành vi ứng xử đúng mực, phù hợp
3.Bố mẹ để em được tự do không bao giờ có ý kiến gì về việc giao tiếp, ứng xử của em với mọi người trong gia đình, nhà trường, xã hội
4.Các môn học về giao tiếp, ứng xử, kỹ năng giao tiếp, ứng xử là một trong những môn học được dạy trong chương trình học chính thức tại trường
5. Các môn học về giao tiếp, ứng xử, kỹ năng giao tiếp, ứng xử đều được học cả lý thuyết và thực hành 6.Nhiều hoạt động ở trường đại học như: hoạt động ngoại khoá, hoạt động tập thể, các cuộc thi nghiệp vụ nghề nghiệp,… đã giúp cho sinh viên rèn luyện được các kỹ năng giao tiếp và ứng xử
7. Việc giao tiếp với mọi người trong xã hội đã giúp cho bản thân học được nhiều kỹ năng giao tiếp, ứng xử tốt
8.Những cách ứng xử, giao tiếp không đúng theo chuẩn mực, không phù hợp với mọi người trong xã hội luôn bị mọi người lên án
Câu 19: Dưới đây là một số phương pháp giảng dạy của giảng viên tại trường đại học hãy cho biết ý kiến của mình: (đánh dấu cộng vào ý phù hợp)
Các phương pháp Đúng Không đúng Đúng nhiều hơn sai Hoàn toàn đúng Sai nhiều hơn đúng
1. Giảng viên thường xuyên đưa ra các câu hỏi có tính vấn đề và yêu cầu sinh viên trả lời 2. Giảng viên thường xuyên khen ngợi và động viên kịp thời mỗi khi sinh viên tích cực trả lời các câu hỏi mà giảng viên đưa ra
3.Luôn tạo cho sinh viên nhiều cơ hội được bày tỏ ý kiến của mình về nội dung bài học trước thầy cô và bạn bè
Câu 20: Dưới đây là một số nét tính cách của sinh viên dân tộc Tày em hãy cho biết ý kiến của mình: (đánh dấu cộng vào ý phù hợp)
Đúng Nội dung Không đúng Đúng nhiều hơn sai Hoàn toàn đúng Sai nhiều hơn đúng
1.Sinh viên dân tộc Tày là những người luôn có tính cách thật thà, kín đáo
2.Sinh viên dân tộc Tày ngại giao tiếp với những người khác dân tộc; những người mới quen; những người không phải là anh em, họ hàng và bạn kết tồng
3.Sinh viên dân tộc Tày luôn quảng giao trong giao tiếp 4.Sinh viên dân tộc Tày có phạm vi đối tượng giao tiếp rộng rãi, mang tính đa sắc tộc, đa vùng miền
Phần F: Thông tin về bản thân Xin em cho biết vài nét về bản thân: 1: Khối:……………………………..2.Lớp:………………………………………. 3. Trường……………………………4. Tỉnh (thànphố)…………………………. 5. Nam…………6. Nữ…………… 7. Tuổi……………………………………. 8.Dân tộc: ………………………………………………………………………… 9. Thành tích học tập: - Điểm trúng tuyển vào trường:………………………………….. - Điểm trung bình cả năm nhất:………………………………… - Điểm trung bình cả năm thứ hai:…………………………………… - Điểm trung bình cả năm thứ ba:…………………………………… -Điểm trung bình cả năm thứ tư:……………………………………
10. Em có là cán bộ lớp (đoàn) không?
- Lớp phó
- Lớp trưởng
- Tổ trưởng
- Bí thư đoàn
- Tổ phó - Phó bí thư đoàn
- Cán sự bộ môn
- Chức vụ khác
Phần G: Xin em cho biết đôi nét về gia đình a, Nghề nghiệp của bố mẹ
Bố Nghề nghiệp - Công nhân viên chức nhà nước Mẹ
- Làm việc tại các công ty liên doanh nước ngoài
- Làm việc tại các doanh nghiệp lớn
- Làm việc tại các doanh nghiệp vừa và nhỏ
- Kinh doanh
- Buôn bán nhỏ - Làm nông nghiệp
- Thất nghiệp
- Hưu trí
- Nội trợ
- Giáo viên
- Quân đội - Công an
- Bác sỹ; Y tá
b, Chức danh của bố mẹ
Bố Mẹ
Chức danh - Giám đốc, chủ doanh nghiệp
- Giám đốc, chủ doanh nghiệp công ty liên doanh nước ngoài - Cán bộ cấp Tỉnh
- Cán bộ cấp huyện, xã
- Cán bộ cấp phòng (trưởng phó phòng)
- Không có chức danh
c, Trình độ của bố mẹ
Bố Trình độ - Trung học cơ sở (cấp II) Mẹ
- Trung học phổ thông (cấp III) - Trung học chuyên nghiệp (Trung học nghề)
- Cao đẳng
- Đại học
- Trên đại học
Xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ của em!
PHỤ LỤC 1.4 MẪU PHIẾU QUAN SÁT
Địa điểm quan sát: Đối tượng quan sat: Thời gian quan sat: Nội dung quan sát: Các kỹ năng giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp của sinh viên dân tộc Tày được sử dụng ……………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………… ……………………………… Biểu hiện của những kỹ năng giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp của sinh viên dân tộc Tày
Biểu hiện
Lời nói Hành vi,
STT Kỹ năng có sử dụng cử chỉ Ánh mắt
Biểu hiện khác
PHỤ LỤC 1.5 PHIẾU PHỎNG VẤN SÂU (Dành cho sinh viên)
Địa điểm phỏng vấn: Thời gian phỏng vấn: Người phỏng vấn: Người được phỏng vấn: Nội dung phỏng vấn Giới thiệu, làm quen Thông báo về mục đích phỏng vấn Câu hỏi phỏng vấn Câu 1: Mục đích sử dụng kỹ năng giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp của sinh viên dân tộc Tày Câu 2: Các kỹ năng giao tiếp được sử dụng trong hoạt động học tập lên lớp của sinh viên dân tộc Tày Câu 3: Bạn thực hiện các kỹ năng giao tiếp đó như thế nào? Câu 4: Bạn gặp khó khăn gì khi sử dụng các kỹ năng giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp? Câu 5: Những yếu tố nào ảnh hưởng đến kỹ năng giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp của bạn?
PHỤ LỤC 1.6. PHIẾU PHỎNG VẤN SÂU (Dành cho giáo viên)
Địa điểm phỏng vấn: Thời gian phỏng vấn: Người phỏng vấn: Người được phỏng vấn: Nội dung phỏng vấn Giới thiệu, làm quen Thông báo về mục đích phỏng vấn Câu hỏi phỏng vấn Câu 1: Thực trạng kỹ năng giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp của sinh viên dân tộc Tày hiện nay? Câu 2: Xin thầy cô cho biết cách thức để nâng cao kỹ năng giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp của sinh viên dân tộc Tày? Câu 3: Xin thầy cô cho biết trong quá trình giảng dạy thầy cô thường tổ chức lớp học và đưa ra các hình thức thực hành nào để rèn luyện kỹ năng giao tiếp trong hoạt động học tập cuả sinh viên dân tộc Tày? Câu 4: Xin thầy cô vui lòng cho biết đôi điều về bản thân? Xin chân thành cảm ơn sự hợp tác của thầy cô !
PHỤ LỤC 2
Phụ lục 2.1. Độ tin cậy của bảng hỏi
Case Processing Summary
N %
Cases Valid 300 60,0
200 40,0 Excluded a
Total 500 100,0
a. Listwise deletion based on all variables in the procedure.
Reliability Statistics
Cronbach's Alpha N of Items
,942 86
Item-Total Statistics
Scale Mean if Item Deleted Scale Variance if Item Deleted Corrected Item-Total Correlation Cronbach's Alpha if Item Deleted
254,3867 866,318 ,749 ,940
chu dong tham do nhu cau so thich moi nguoi de ung xu phu hop
254,5600 877,565 ,561 ,941
254,4367 869,437 ,698 ,941
254,2967 870,035 ,714 ,941
254,0300 882,551 ,271 ,942
254,3767 895,774 ,155 ,942
254,1267 884,619 ,257 ,942
254,5967 880,843 ,450 ,941
254,4067 892,316 ,287 ,942
254,3533 890,223 ,304 ,942
254,3667 891,049 ,321 ,942
254,2733 890,500 ,276 ,942
253,9900 879,709 ,311 ,942
254,3767 886,456 ,400 ,942
254,0700 878,667 ,349 ,942 chu dong tham do quan diem song de ung xu phu hop chu dong tham do tinh cach de ung xu phu hop nho ten thay co ban be chu y trang phuc su dung ngon ngu don gian, de hieu chu dong chao hoi, hoa nha dung cong viec rieng khi giao tiep hop tac voi thay co ban be thuc hien noi dung hoc tap tren lop chia se kien thuc voi ban be phoi hop voi ban be thay co de hoan thanh nhiem vu hoc tap lang nghe, trao doi, cho y kien ve noi dung hoc tap tren lop khong gian lan, khong chay diem ngay thang that tha voi thay co, ban be chap hanh noi quy lop hoc
254,4833 891,883 ,372 ,942
254,1967 893,771 ,134 ,943
254,3167 895,361 ,115 ,942
254,2400 890,330 ,217 ,942
254,2600 892,086 ,189 ,942
254,1300 882,113 ,393 ,942
254,1867 885,818 ,320 ,942
254,2167 885,990 ,397 ,942
254,1500 884,837 ,327 ,942
254,1433 882,424 ,375 ,942
254,3500 886,703 ,300 ,942
biet su dung bieu cam phi ngon ngu, ngon ngu the hien su trung thuc noi xuc tich, ngan gon, dan chung cu the biet xau chuoi tom luoc van de lap dan y va chu y den diem can nhan manh su dung phuong tien khac de lam ro hon phan trinh bay huy dong moi giac quan de thu thap thong tin khong de y den nhung chu de khong lien quan khong mat trat tu, noi chuyen rieng quan sat, tim hieu thai do cua sinh vien, thay co khi thuyet trinh cham chu ghi va quan sat khi gv, sv thuyet trinh nhan biet cam xuc ban than va moi nguoi de ung xu phu hop
254,3200 879,001 ,458 ,941
254,3667 880,795 ,416 ,942
254,7800 875,416 ,613 ,941
254,3667 883,430 ,359 ,942
254,4467 903,552 -,104 ,943
254,6667 882,042 ,481 ,941
254,3733 895,740 ,118 ,942
254,4267 888,406 ,254 ,942
253,9933 882,013 ,281 ,942
254,2367 883,573 ,517 ,941
254,2700 884,017 ,477 ,942
nhan biet duoc cam xuc co loi va co hai voi ban than khi giao tiep tim ra nhung nguyen nhan xuat hien cam xuc do va dieu chinh giu thai do binh tinh, kheo leo truoc tinh huong bat loi su dung cam xuc phu hop trong suy nghi va giai quyet tinh huong giai toa duoc cam xuc tieu cuc khong de cam xuc anh huong den thay co ban be khi giao tiep luon can nhac cach ung xu cho phu hop khong bi cuon theo xuc cam tieu cuc cua nguoi khac biet trinh bay quan diem mot cach tuong minh biet kiem soat chat giong khi noi biet dat cau hoi hop ly de khai thac thong tin
254,3100 882,964 ,461 ,941
254,0567 879,458 ,337 ,942
254,1067 882,162 ,280 ,942
254,3167 884,839 ,303 ,942
254,3100 890,776 ,257 ,942
254,3233 887,236 ,329 ,942
254,4200 882,338 ,383 ,942
255,6000 932,140 -,491 ,946
255,6167 894,324 ,194 ,942
255,5933 890,998 ,274 ,942
255,5933 891,881 ,252 ,942
255,6033 892,862 ,232 ,942
255,5067 891,669 ,047 ,945
255,6000 892,783 ,236 ,942
khong bao gio noi ngong, noi giong dia phuong su dung ngon ngu viet don gian, de hieu su dung ngon ngu viet phu hop, khoa hoc, van hoa biet cac ki thuat trinh bay van ban su dung ngon ngu co the khi giao tiep su dung giong noi phu hop khi giao tiep su dung khong gian va khoang cach giao tiep thich hop tam quan trong cua ki nang giao tiep tot trong hoat dong hoc tren lop hoc de co tri thuc hoc de co ki nang can thiet phuc vu hoc tap va cuoc song de khang dinh cai toi ban than khong de lam gi, la sinh vien thi phai hoc de co nghe tot de cuoc song tuong lai tot dep de vui long cha me 255,6333 895,297 ,170 ,942
255,5233 880,070 ,144 ,945
255,6333 892,955 ,235 ,942
255,6267 894,195 ,198 ,942
255,5967 891,940 ,255 ,942
255,6200 893,166 ,223 ,942
254,8200 854,931 ,738 ,940
254,8067 854,043 ,759 ,940
254,7800 850,982 ,777 ,940
254,7800 852,935 ,751 ,940
254,7800 851,577 ,767 ,940
254,7667 851,384 ,770 ,940
254,7667 851,544 ,765 ,940
254,7333 254,7867 850,792 851,018 ,765 ,779 ,940 ,940
254,7800 851,610 ,761 ,940
254,7467 850,230 ,764 ,940
254,7467 853,066 ,718 ,940 de co cuoc song vat chat day du de co kha nang cong hien cho dat nuoc khang dinh cai toi trong quan he ban be khang dinh cai toi trong quan he gia dinh khang dinh cai toi trong quan he voi nguoi xung quanh tham gia hoat dong van nghe tham gia hoat dong the thao tham gia hoat dong da ngoai tham gia hoat dong tinh nguyen tham gia cau lac bo tham gia hoat dong khu pho to chuc tham gia cau lac bo ngoai truong tham gia hien mau tham gia ung ho thamgia giup do ho ngheo tham gia giup hoc sinh ngheo vuot kho tham gia giup do gia dinh neo don
254,7967 854,811 ,721 ,940
254,8033 856,025 ,704 ,940
253,5567 899,579 -,006 ,943
253,9700 888,297 ,210 ,942
255,2600 841,698 ,779 ,939
255,3267 836,120 ,805 ,939
255,3133 835,821 ,796 ,939
253,5733 894,640 ,107 ,943
253,5800 895,696 ,082 ,943
254,8900 861,416 ,599 ,941
253,7133 891,101 ,188 ,942
253,6867 889,326 ,235 ,942
253,7367 892,375 ,160 ,942
254,2867 886,185 ,401 ,942 tham gia giup nguoi tan tat bat hanh tham gia doi quan tinh nguyen cua truong bo me huong dan cach ung xu bo me khen va dong vien kip thoi khi ung xu dung bo me de tu do cac mon hoc ki nang, giao tiep duoc day ca mon hoc ki nang, giao tiep hoc ca ly thuyet va thuc hanh nhieu hoat dong o truong dai hoc viec giao tiep voi moi nguoi trong xa hoi nhung ung xu khong phu hop chuan muc bi len an giang vien dua cau hoi co tinh van de de sinh vien tra loi giang vien khen ngoi va dong vien khi sinh vien tich cuc tra loi tao co hoi de sinh vien bay to y kien sinh vien dan toc Tay that tha, kin dao
255,8967 907,799 -,192 ,944
255,0167 855,649 ,657 ,940
254,2933 881,338 ,502 ,941
sinh vien dan toc Tay ngai giao tiep sinh vien dan toc Tay luon quang giao sinh vien dan toc Tay co pham vi giao tiep rong
Item-Total Statistics
Scale Mean if Item Deleted Scale Variance if Item Deleted Corrected Item-Total Correlation Cronbach's Alpha if Item Deleted
nhom1 40,4488 nhom2 40,3510 nhom3 40,2819 40,2528 kn2 40,4678 kn3 40,4468 kn4 40,6278 kn5 40,2188 kn7 40,2909 kn8 40,5433 kn10 40,2178 kn12 40,2333 kn13 40,3946 kn14 39,089 39,095 36,986 38,428 38,659 38,958 41,352 39,215 39,380 39,268 38,420 35,207 38,866 ,882 ,882 ,878 ,891 ,885 ,887 ,897 ,893 ,889 ,883 ,886 ,914 ,889 ,877 ,847 ,840 ,560 ,698 ,632 ,382 ,508 ,598 ,799 ,665 ,456 ,602
Mean = 3.31 Std. Dev = ,202 N = 300
PHỤ LỤC 2.2. KẾT QUẢ KỸ NĂNG GIAO TIẾP TRONG HOẠT ĐỘNG HỌC TẬP TRÊN LỚP CỦA SINH VIÊN DÂN TỘC TÀY THEO BẢNG HỎI
Statistics
KNGT
N Valid 300
Missing
Mean Median Std. Deviation 0 3,3067 3,2975 ,20275
Statistics
KNGT nhom1 nhom2 nhom3
N Valid 300 300 300 300
0 0 0 0 Missin g
Mean Std. Deviation 3,3067 3,2694 3,2987 3,3521 ,45480 ,31275 ,36289 ,35869
Statistics
N
Valid Missing Mean Std. Deviation
kn2 kn3 kn4 kn5 kn7 kn8 kn10 kn12 kn13 kn14 300 300 300 300 300 300 300 300 300 300 0 3,1700 0 3,3075 0 3,2400 0 3,3600 0 3,3367 0 3,4247 0 3,1348 0 3,3875 0 3,4300 0 3,2389 ,67648 ,55942 ,41490 ,54938 ,61543 ,66266 ,41774 ,50422 ,73854 ,60866
Statistics
N
Valid Missing Mean Std. Deviation
300 0 3,2033 ,75091
chu dong tham do nhu cau so thich moi nguoi de ung xu phu hop
300 0 3,0300 ,66123
300 0 3,1533 ,72911
300 0 3,2933 ,69923
300 0 3,5600 1,01810
300 0 3,2133 ,43411
300 0 3,4633 ,94780
300 0 2,9933 ,69875
300 0 3,1833 ,43630
300 0 3,2367 ,52431
300 0 3,2233 ,45550
300 0 3,3167 ,55746
300 0 3,6000 1,04097
300 0 3,2133 ,55574
300 0 3,5200 ,98293 chu dong tham do quan diem song de ung xu phu hop chu dong tham do tinh cach de ung xu phu hop nho ten thay co ban be chu y trang phuc su dung ngon ngu don gian, de hieu chu dong chao hoi, hoa nha dung cong viec rieng khi giao tiep hop tac voi thay co ban be thuc hien noi dung hoc tap tren lop chia se kien thuc voi ban be phoi hop voi ban be thay co de hoan thanh nhiem vu hoc tap lang nghe, trao doi, cho y kien ve noi dung hoc tap tren lop thẳng thắn trung thực ngay thang that tha voi thay co, ban be chap hanh noi quy lop hoc
300 0 3,1067 ,35924
300 0 3,3933 ,71202
300 0 3,2733 ,61635
300 0 3,3500 ,70888
300 0 3,3300 ,66022
300 0 3,4600 ,74178
300 0 3,4033 ,71813
300 0 3,3733 ,57885
300 0 3,4400 ,74940
300 0 3,4467 ,76317
300 0 3,2400 ,71468
biet su dung bieu cam phi ngon ngu, ngon ngu the hien su trung thuc noi xuc tich, ngan gon, dan chung cu the biet xau chuoi tom luoc van de lap dan y va chu y den diem can nhan manh su dung phuong tien khac de lam ro hon phan trinh bay huy dong moi giac quan de thu thap thong tin khong de y den nhung chu de khong lien quan đánh giá thông tin để xác định can cứ quan sat, tim hieu thai do cua sinh vien, thay co khi thuyet trinh cham chu ghi va quan sat khi gv, sv thuyet trinh nhan biet cam xuc ban than va moi nguoi de ung xu phu hop
300 0 3,2700 ,75210
300 0 3,2233 ,75411
300 0 2,8100 ,66486
300 0 3,2233 ,74966
300 0 3,1433 ,63572
300 0 2,9233 ,61540
300 0 3,2167 ,55746
300 0 3,1633 ,72922
300 0 3,5967 1,01526
300 0 3,3533 ,52543
300 0 3,3200 ,55253
nhan biet duoc cam xuc co loi va co hai voi ban than khi giao tiep tim ra nhung nguyen nhan xuat hien cam xuc do va dieu chinh giu thai do binh tinh, kheo leo truoc tinh huong bat loi su dung cam xuc phu hop trong suy nghi va giai quyet tinh huong giai toa duoc cam xuc tieu cuc khong de cam xuc anh huong den thay co ban be khi giao tiep luon can nhac cach ung xu cho phu hop khong bi cuon theo xuc cam tieu cuc cua nguoi khac biet trinh bay quan diem mot cach tuong minh biet kiem soat chat giong khi noi biet dat cau hoi hop ly de khai thac thong tin
300 0 3,2800 ,60786
300 0 3,5333 ,97916
300 0 3,4833 1,00985
300 0 3,2733 ,80464
300 0 3,2800 ,57970
300 0 3,2667 ,62998
300 0 3,1700 ,75032
khong bao gio noi ngong, noi giong dia phuong su dung ngon ngu viet don gian, de hieu su dung ngon ngu viet phu hop, khoa hoc, van hoa biet cac ki thuat trinh bay van ban su dung ngon ngu co the khi giao tiep su dung giong noi phu hop khi giao tiep su dung khong gian va khoang cach giao tiep thich hop
PHỤ LỤC 2.3
Tương quan giữa các tiểu thang đo trên mẫu sinh viên
Descriptive Statistics
Std. Deviation Mean N
nhom1 3,2694 nhom2 3,2987 nhom3 3,3521 ,36289 ,35869 ,45480 300 300 300
Correlations
nhom1 nhom2 nhom3
nhom1 Pearson 1 ,470** ,592** Correlation
Sig. (2-tailed) ,000 ,000
N 300 300 300
nhom2 Pearson ,470** 1 ,292** Correlation
Sig. (2-tailed) ,000 ,000
N 300 300 300
nhom3 Pearson ,592** ,292** 1 Correlation
Sig. (2-tailed) ,000 ,000
N 300 300 300
**. Correlation is significant at the 0.01 level (2-tailed).
PHỤ LỤC 2.4 So sánh giữa các biến số
dan toc N Mean Std. Deviation Std. Error Mean
KNGTfoCA kinh ,71992 ,05091 200 3,4667
tày ,31275 ,01806 300 3,3067
kinh nhomc1 ,68525 ,04845 200 3,3022
tày ,36289 ,02095 300 3,2694
kinh nhomc2 ,70059 ,04954 200 3,5027
tày ,35869 ,02071 300 3,2987
kinh nhomc3 1,00045 ,07074 200 3,5953
tày ,45480 ,02626 300 3,3521
kinh knc2 ,86347 ,06106 200 3,9413
tày ,67648 ,03906 300 3,1700
kinh knc3 ,82425 ,05828 200 3,1975
tày ,55942 ,03230 300 3,3075
kinh knc4 ,99025 ,07002 200 3,3513
tày ,41490 ,02395 300 3,2400
kinh knc5 ,61897 ,04377 200 2,7188
tày ,54938 ,03172 300 3,3600
kinh knc7 ,97757 ,06912 200 3,7763
tày ,61543 ,03553 300 3,3367
kinh knc8 ,72563 ,05131 200 3,4640
tày ,66266 ,03826 300 3,4247
kinh knc10 ,68586 ,04850 200 3,2678
tày ,41774 ,02412 300 3,1348
kinh knc12 ,95350 ,06742 200 3,7025
tày ,50422 ,02911 300 3,3875
kinh knc13 2,07724 ,14688 200 3,6000
tày ,73854 ,04264 300 3,4300
kinh knc14 ,89465 ,06326 200 3,4833
tày ,60866 ,03514 300 3,2389
SO SÁNH THEO GIớI
Group Statistics
sex
N
Mean
Std. Deviation
Std. Error Mean
241
3,0902
,46614
,03003
KNGTofTAY
nam
259
3,6317
,42545
,02644
nu
241
3,0187
,45171
,02910
nhom1
nam
259
3,5280
,44719
,02779
nu
241
3,1198
,46540
,02998
nhom2
nam
259
3,6227
,47242
,02935
nu
241
3,1322
,75634
,04872
nhom3
nam
259
3,7445
,57067
,03546
nu
Independent Samples Test
Levene's Test for Equality of
Variances
t-test for Equality of Means
95% Confidence Interval of the
Difference
Mean
Std. Error
F
Sig.
t
df
Sig. (2-tailed)
Difference
Difference
Lower
Upper
KNGTofTAY Equal variances assumed
1,837
,176
-13,580
498
,000
-,54151
,03987
-,61986
-,46317
Equal variances not
-13,536
485,121
-,54151
,04001
-,62012
-,46291
,000
assumed
nhom1
Equal variances assumed
1,486
,223
-12,664
498
-,50932
,04022
-,58834
-,43030
,000
Equal variances not
-12,659
494,654
-,50932
,04023
-,58837
-,43027
,000
assumed
nhom2
Equal variances assumed
2,411
,121
-11,979
498
-,50289
,04198
-,58537
-,42041
,000
Equal variances not
-11,986
496,374
-,50289
,04196
-,58533
-,42046
,000
assumed
nhom3
Equal variances assumed
,767
,382
-10,263
498
-,61233
,05966
-,72955
-,49510
,000
Equal variances not
-10,162
445,361
,000
-,61233
,06026
-,73075
-,49390
assumed
Group Statistics
sex
N
Mean
Std. Deviation
Std. Error Mean
nhom2
nam
241
3,1198
,46540
,02998
nu
259
3,6227
,47242
,02935
kn7
nam
241
3,2728
,80266
,05170
nu
259
3,7355
,75034
,04662
kn8
nam
241
3,1461
,54520
,03512
nu
259
3,7143
,69499
,04318
kn10
nam
241
2,9405
,47184
,03039
nu
259
3,4183
,50572
,03142
Independent Samples Test
Levene's Test for Equality of
Variances
t-test for Equality of Means
95% Confidence Interval of the
Difference
Mean
Std. Error
F
Sig.
t
Sig. (2-tailed)
Difference
Difference
Lower
Upper
df
nhom2 Equal variances assumed
2,411
,121
-11,979
498
-,50289
,04198
-,58537
-,42041
,000
Equal variances not
-11,986
496,374
-,50289
,04196
-,58533
-,42046
,000
assumed
kn7
Equal variances assumed
2,379
,124
-6,662
498
-,46270
,06945
-,59916
-,32624
,000
Equal variances not
-6,646
488,522
-,46270
,06962
-,59949
-,32591
,000
assumed
kn8
Equal variances assumed
47,956
,000
-10,121
498
-,56823
,05614
-,67853
-,45792
,000
Equal variances not
-10,208
484,362
-,56823
,05566
-,67760
-,45886
,000
assumed
kn10
Equal variances assumed
1,981
,160
-10,901
498
-,47775
,04383
-,56386
-,39164
,000
Equal variances not
-10,928
497,996
-,47775
,04372
-,56364
-,39186
,000
assumed
Group Statistics
sex
N
Mean
Std. Deviation
Std. Error Mean
nhom3
nam
241
3,1322
,75634
,04872
nu
259
3,7445
,57067
,03546
kn12
nam
241
3,1172
,62250
,04010
nu
259
3,8822
,63118
,03922
kn13
nam
241
3,2268
1,70896
,11008
nu
259
3,7503
1,06034
,06589
kn14
nam
241
3,0526
,71038
,04576
nu
259
3,6010
,67786
,04212
Independent Samples Test
Levene's Test for Equality of
Variances
t-test for Equality of Means
95% Confidence Interval of the
Difference
Mean
Std. Error
F
Sig.
t
df
Sig. (2-tailed)
Difference
Difference
Lower
Upper
nhom3 Equal variances assumed
,767
,382
-10,263
498
-,61233
,05966
-,72955
-,49510
,000
Equal variances not
-10,162
445,361
-,61233
,06026
-,73075
-,49390
,000
assumed
kn12
Equal variances assumed
,974
,324
-13,632
498
-,76502
,05612
-,87528
-,65476
,000
Equal variances not
-13,639
496,310
-,76502
,05609
-,87522
-,65482
,000
assumed
kn13
Equal variances assumed
3,044
,082
-4,146
498
-,52349
,12626
-,77155
-,27543
,000
Equal variances not
-4,080
395,527
-,52349
,12829
-,77571
-,27126
,000
assumed
kn14
Equal variances assumed
,037
,848
-8,834
498
-,54847
,06209
-,67046
-,42648
,000
Equal variances not
-8,819
491,058
-,54847
,06219
-,67067
-,42627
,000
assumed
SO SÁNH THEO NĂM HọC
Group Statistics
nam
N
Mean
Std. Deviation
Std. Error Mean
247
3,2504
,79003
,05027
nhom3
SVNN
253
3,6436
,61483
,03865
SVNH
247
3,2682
,69965
,04452
kn12
SVNN
253
3,7530
,68736
,04321
SVNH
247
3,3212
1,69364
,10776
kn13
SVNN
253
3,6706
1,09893
,06909
SVNH
247
3,1619
,74889
,04765
kn14
SVNN
253
3,5072
,70246
,04416
SVNH
Independent Samples Test
Levene's Test for Equality of
Variances
t-test for Equality of Means
95% Confidence Interval of the
Difference
Mean
Std. Error
F
Sig.
t
df
Sig. (2-tailed)
Difference
Difference
Lower
Upper
nhom3 Equal variances assumed
,739
,390
-6,218
498
-,39316
,06322
-,51738
-,26894
,000
Equal variances not
-6,200
464,417
-,39316
,06341
-,51777
-,26855
,000
assumed
kn12
Equal variances assumed
,040
,842
-7,815
498
-,48475
,06203
-,60662
-,36288
,000
Equal variances not
-7,813
497,133
-,48475
,06204
-,60664
-,36285
,000
assumed
kn13
Equal variances assumed
2,306
,130
-2,743
498
-,34943
,12738
-,59971
-,09916
,006
Equal variances not
-2,730
420,447
-,34943
,12801
-,60105
-,09781
,007
assumed
kn14
Equal variances assumed
,468
,494
-5,319
498
-,34530
,06492
-,47285
-,21775
,000
Equal variances not
-5,315
494,180
-,34530
,06497
-,47295
-,21765
,000
assumed
Group Statistics
nam
N
Mean
Std. Deviation
Std. Error Mean
nhom2
SVNN
247
3,2211
,50031
,03183
SVNH
253
3,5358
,51633
,03246
kn7
SVNN
247
3,3806
,81644
,05195
SVNH
253
3,6413
,78208
,04917
kn8
SVNN
247
3,2543
,62402
,03971
SVNH
253
3,6221
,70022
,04402
kn10
SVNN
247
3,0283
,50267
,03198
SVNH
253
3,3439
,53935
,03391
Independent Samples Test
Levene's Test for Equality of
Variances
t-test for Equality of Means
95% Confidence Interval of the
Difference
Mean
Std. Error
F
Sig.
t
df
Sig. (2-tailed)
Difference
Difference
Lower
Upper
nhom2 Equal variances assumed
,929
,336
-6,920
498
,000
-,31472
,04548
-,40408
-,22536
Equal variances not
-6,922
497,972
,000
-,31472
,04547
-,40405
-,22539
assumed
kn7
Equal variances assumed
,234
,629
-3,647
498
,000
-,26074
,07149
-,40120
-,12028
Equal variances not
-3,645
495,775
,000
-,26074
,07153
-,40127
-,12020
assumed
kn8
Equal variances assumed
14,374
,000
-6,197
498
,000
-,36788
,05936
-,48452
-,25125
Equal variances not
-6,206
493,928
,000
-,36788
,05928
-,48436
-,25141
assumed
kn10
Equal variances assumed
,768
,381
-6,763
498
,000
-,31553
,04665
-,40719
-,22387
Equal variances not
-6,769
496,935
,000
-,31553
,04661
-,40712
-,22395
assumed
Group Statistics
nam
N
Mean
Std. Deviation
Std. Error Mean
nhom1
SVNN
247
3,1020
,48135
,03063
SVNH
253
3,4587
,48812
,03069
SVNN
247
3,3077
,85151
,05418
kn2
SVNH
253
3,6453
,80665
,05071
SVNN
247
3,0435
,62582
,03982
kn3
SVNH
253
3,4783
,66145
,04159
SVNN
247
3,1316
,68365
,04350
kn4
SVNH
253
3,4338
,69495
,04369
SVNN
247
2,9251
,58951
,03751
kn5
SVNH
253
3,2777
,67497
,04243
Independent Samples Test
Levene's Test for Equality of
Variances
t-test for Equality of Means
95% Confidence Interval of the
Difference
Mean
Std. Error
F
Sig.
t
df
Sig. (2-tailed)
Difference
Difference
Lower
Upper
nhom1 Equal variances assumed
1,104
,294
-8,227
498
,000
-,35677
,04336
-,44197
-,27157
Equal variances not
-8,229
497,949
,000
-,35677
,04336
-,44196
-,27159
assumed
kn2
Equal variances assumed
3,872
,050
-4,552
498
,000
-,33756
,07416
-,48328
-,19185
Equal variances not
-4,549
494,983
,000
-,33756
,07421
-,48337
-,19176
assumed
kn3
Equal variances assumed
,136
,712
-7,546
498
,000
-,43474
,05761
-,54793
-,32154
Equal variances not
-7,551
497,512
,000
-,43474
,05758
-,54786
-,32162
assumed
kn4
Equal variances assumed
1,786
,182
-4,901
498
,000
-,30222
,06167
-,42337
-,18106
Equal variances not
-4,902
497,971
,000
-,30222
,06165
-,42335
-,18108
assumed
kn5
Equal variances assumed
3,362
,067
-6,215
498
,000
-,35257
,05673
-,46402
-,24111
Equal variances not
-6,225
491,969
,000
-,35257
,05664
-,46385
-,24129
assumed
Group Statistics
nam
N
Mean
Std. Deviation
Std. Error Mean
SVNN
nhom2
247
3,2211
,50031
,03183
SVNH
253
3,5358
,51633
,03246
SVNN
nhom3
247
3,2504
,79003
,05027
SVNH
253
3,6436
,61483
,03865
KNGTofTAY
SVNN
247
3,1912
,50842
,03235
SVNH
253
3,5460
,47193
,02967
nhom1
SVNN
247
3,1020
,48135
,03063
SVNH
253
3,4587
,48812
,03069
ndependent Samples Test
Levene's Test for Equality of
Variances
t-test for Equality of Means
95% Confidence Interval of the
Difference
Mean
Std. Error
F
Sig.
t
df
Sig. (2-tailed)
Difference
Difference
Lower
Upper
nhom2
Equal variances assumed
,929
,336
-6,920
498
,000
-,31472
,04548
-,40408
-,22536
Equal variances not
-6,922
497,972
-,31472
,04547
-,40405
-,22539
,000
assumed
nhom3
Equal variances assumed
,739
,390
-6,218
498
-,39316
,06322
-,51738
-,26894
,000
Equal variances not
-6,200
464,417
-,39316
,06341
-,51777
-,26855
,000
assumed
KNGTofTAY Equal variances assumed
1,435
,232
-8,092
498
-,35488
,04386
-,44105
-,26872
,000
Equal variances not
-8,085
493,232
-,35488
,04390
-,44113
-,26864
,000
assumed
nhom1
Equal variances assumed
1,104
,294
-8,227
498
-,35677
,04336
-,44197
-,27157
,000
Equal variances not
-8,229
497,949
,000
-,35677
,04336
-,44196
-,27159
assumed
Group Statistics
nam
N
Mean
Std. Deviation
Std. Error Mean
KNGTofTAY
SVNN
247
3,1912
,50842
,03235
SVNH
253
3,5460
,47193
,02967
nhom1
SVNN
247
3,1020
,48135
,03063
SVNH
253
3,4587
,48812
,03069
nhom2
SVNN
247
3,2211
,50031
,03183
SVNH
253
3,5358
,51633
,03246
nhom3
SVNN
247
3,2504
,79003
,05027
SVNH
253
3,6436
,61483
,03865
Independent Samples Test
Levene's Test for Equality of
Variances
t-test for Equality of Means
95% Confidence Interval of the
Difference
Mean
Std. Error
F
Sig.
t
df
Sig. (2-tailed)
Difference
Difference
Lower
Upper
KNGTofTAY Equal variances assumed
1,435
,232
-8,092
498
,000
-,35488
,04386
-,44105
-,26872
Equal variances not
-8,085
493,232
-,35488
,04390
-,44113
-,26864
,000
assumed
nhom1
Equal variances assumed
1,104
,294
-8,227
498
-,35677
,04336
-,44197
-,27157
,000
Equal variances not
-8,229
497,949
-,35677
,04336
-,44196
-,27159
,000
assumed
nhom2
Equal variances assumed
,929
,336
-6,920
498
-,31472
,04548
-,40408
-,22536
,000
Equal variances not
-6,922
497,972
-,31472
,04547
-,40405
-,22539
,000
assumed
nhom3
Equal variances assumed
,739
,390
-6,218
498
-,39316
,06322
-,51738
-,26894
,000
Equal variances not
-6,200
464,417
,000
-,39316
,06341
-,51777
-,26855
assumed
PHỤ LỤC 2.5 Các yếu tố ảnh hưởng
N
Valid Missing Mean Std. Deviation
300 200 2,7700 1,02008
300 200 2,7833 1,01315
300 200 2,8100 1,05718
300 200 2,8100 1,04764
300 200 2,8100 1,05718
300 200 2,8233 1,05633
300 200 2,8233 1,05950
300 300 200 200 2,8567 2,8033 1,07703 1,05278
300 200 2,8100 1,06349
300 200 2,8433 1,09061
300 200 2,8433 1,09061
300 200 2,7933 1,04607
300 200 2,7867 1,04152
300 200 2,8119 ,94208 tham gia hoat dong van nghe tham gia hoat dong the thao tham gia hoat dong da ngoai tham gia hoat dong tinh nguyen tham gia cau lac bo tham gia hoat dong khu pho to chuc tham gia cau lac bo ngoai truong tham gia hien mau tham gia ung ho thamgia giup do ho ngheo tham gia giup hoc sinh ngheo vuot kho tham gia giup do gia dinh neo don tham gia giup nguoi tan tat bat hanh tham gia doi quan tinh nguyen cua truong YTHĐ
Statistics
N
Valid Missing Mean Std. Deviation
300 200 4,0333 ,83739
300 200 3,6200 ,87454
300 200 2,2633 1,33414
300 200 2,2767 1,35385
300 200 4,0167 ,75162
300 200 4,0100 ,75618
300 200 2,7000 1,06479
217 300 283 200 4,3272 3,3885 ,76911 ,45912 bo me huong dan cach ung xu bo me khen va dong vien kip thoi khi ung xu dung cac mon hoc ki nang, giao tiep duoc day ca mon hoc ki nang, giao tiep hoc ca ly thuyet va thuc hanh nhieu hoat dong o truong dai hoc viec giao tiep voi moi nguoi trong xa hoi nhung ung xu khong phu hop chuan muc bi len an IV.18.3.ml YTGD
Statistics
giang vien dua cau hoi co tinh van de de sinh vien tra loi giang vien khen ngoi va dong vien khi sinh vien tich cuc tra loi tao co hoi de sinh vien bay to y kien YTPPDH
300 300 300 300 N Valid
Missing
200 3,8767 ,74159 200 3,9033 ,72277 200 3,8533 ,73958 200 3,8778 ,69335 Mean Std. Deviation
Statistics
sinh vien dan toc Tay that tha, kin dao sinh vien dan toc Tay luon quang giao sinh vien dan toc Tay co pham vi giao tiep rong nguoi tay ngai giao tiep YTTC
300 300 300 300 300 N Valid
200 200 200 200 200 Missin g
3,3033 2,5733 3,2967 4,3067 3,3700
,56485 1,12048 ,61366 ,71717 ,51298 Mean Std. Deviation
PHỤ LỤC 3 BIÊN BẢN PHỎNG VẤN Phụ lục 3.1. BIÊN BẢN PHỎNG VẤN SINH VIÊN NPV: Xin chào em, cô là Nhung làm việc ở Học viện Khoa học xã hội, cô có thể phiền em ít phút được không? SV: Dạ, Em chào cô! NPV: Cô đang tiến hành nghiên cứu về kỹ năng giao tiếp của sinh viên dân tộc Tày, qua cô Chuyên cô được biết em là dân tộc Tày và được gặp em. Cô có thể hỏi em một số câu hỏi liên quan đến kỹ năng giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp của các em có được không? SV: Vâng ạ NPV: Những câu trả lời của em giúp cô hiểu rõ hơn về kỹ năng giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp của các em, trên cơ sở đó mà có những đề xuất kiến nghị với nhà trường để nâng cao kỹ năng giao tiếp cho các em. Nó không ảnh hưởng đến việc đánh giá ý thức hay kết quả học tập của các em. Vì vậy, em cứ trả lời thật trung thực, khách quan những gì em biết và suy nghĩ. SV: Vâng ạ. NPV: Để đạt được thành tích cao trong học tập, theo em trong hoạt động học tập trên lớp sinh viên cần có kỹ năng gì?
SV: Dạ thưa cô em thấy cần tạo lập mối quan hệ tốt với thầy cô và bạn bè, cần có kỹ năng lắng nghe để tiếp thu được tốt bài giảng của giảng viên, kỹ năng diễn đạt, kỹ năng viết bài và kỹ năng sử dụng các phương tiện giao tiếp và phải biết điều chỉnh cảm xúc của bản thân nữa ạ.
NPV: Em đã thực hiện tốt những kỹ năng này chưa? SV: Dạ thưa cô, em thấy mình thực hiện chưa được tốt lắm ạ. NPV: Trong các kỹ năng này em thấy mình thực hiện tốt các kỹ năng nào?
Và các kỹ năng nào thực hiện chưa tốt?
SV: Dạ thưa cô, trong quan hệ với bạn bè, các bạn rất quý em vì bảo em thật thà. Tuy nhiên em lại thấy mình không khéo léo lắm khi giao tiếp với thầy cô. Ở quê em, trong giao tiếp với người lớn tuổi chúng em vẫn hay dùng từ ừ thay cho vâng, ơi thay cho dạ. Nên em hay quên, đôi khi giao tiếp với thầy cô em vẫn quen sử dụng như vậy.
NPV: Ở lớp em hay phát biểu xây dựng bài không? SV: Dạ thi thoảng thôi cô ạ
NPV: Tại em không hiểu bài hay lý do nào khác? SV: Dạ tại vì…em không tự tin lắm cô ạ NPV: Tại sao em lại thiếu tự tin vậy ?
SV: Tại vì nhiều khi em bị phát âm sai, nên nói trước đông người em hay thiếu tự tin. Em còn nhớ khi mới nhập học, các bạn bảo em đọc tên trường còn bị sai. Em toàn đọc tên trường là Đại học sư phạm Thái Nguên thôi ạ. Quê em ai cũng nói vậy nên em không biết mình phát âm sai, xuống đây học đại học em mới biết mình phát âm sai nên hay ngại cô ạ. NPV: Vậy em có học cách phát âm cho chuẩn không? SV: Dạ có chứ ạ. Trong kí túc xá của em có bạn tên Huyền và bạn tên Tuyến, khi nào em gọi đúng tên hai bạn đó thì các bạn mới thưa em đấy cô ạ. NPV: Em có hay tham gia các phong trào đoàn ở trong lớp và nhà trường không? SV: Thi thoảng thôi cô ạ. NPV: Em thích nhất phương pháp giảng dạy nào của giảng viên SV: Em thích phương pháp giảng dạy hiện đại cô ạ. Vì chúng em được thảo luận,
được trình bày ý kiến quan điểm của mình.
NPV: Theo em phương pháp giảng dạy hiện đại của giảng viên có giúp cho các em
nâng cao được kỹ năng giao tiếp không?
SV: Dạ có chứ ạ. Vì ở đó chúng em được thảo luận, được trình bày, dược diễn đạt
theo ý mình hiểu, mình thích.
NPV: Ở lớp em có được học môn nào về kỹ năng giao tiếp không? SV: Dạ có, Lớp em được học môn tâm lý, nhưng thầy cô làm gì có thời gian nói kỹ được. Các thầy cô chỉ nói về lý thuyết thôi chứ chúng em không được thực hành. Học lý thuyết xong lại chả nhớ gì cô ạ. NPV: Em đã được tham gia khóa tập huấn nào về kỹ năng giao tiếp chưa? SV: Dạ em muốn lắm cô ạ, nhưng em chưa được tham gia khóa học nào. NPV: Em có đề nghị gì với nhà trường, các thầy cô để tạo điều kiện cho các em nâng cao kỹ năng giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp, giúp các em đạt kết quả cao trong học tâp không? SV: Em muốn nhà trường tăng thêm tín chỉ cho môn học về kỹ năng giao tiếp, tạo điều kiện cho chúng em được thực hành về kỹ năng giao tiếp. NPV: Cảm ơn thông tin em đã chia sẻ với cô. Chúc em có kết quả học tập tốt và thành công trong sự nghiệp của mình !
PHỤ LỤC 3.2. BIÊN BẢN PHỎNG VẤN GIẢNG VIÊN GIẢNG NPV: Xin chào cô. Chúng tôi đang tiến hành nghiên cứu kỹ năng giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp của sinh viên dân tộc Tày. Trên cơ sở đó có những đề xuất, kiến nghị để nâng cao kỹ năng cho các em, giúp các em đạt được kết quả cao trong học tập. Chúng tôi rất mong được trao đổi với cô một số câu hỏi có liên quan. GV: Vâng, tôi sẽ trả lời những câu hỏi về vấn đề này trên cơ sở kinh nghiệm thực tiễn giảng dạy của mình. NPV: Cô đánh giá kỹ năng giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp của sinh viên dân tộc Tày như thế nào? GV: Nhìn chung, kỹ năng giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp của sinh viên dân tộc Tày là ở mức trung bình. Có một số ít em kỹ năng giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp khá tốt nhưng cũng có nhiều em thì chưa tốt. Còn đa số ở mức trung bình. NPV: Theo cô, nguyên nhân nào dẫn đến thực trạng kỹ năng giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp của các em sinh viên dân tộc Tày như vậy? GV: Có nhiều nguyên nhân. Về phía bản thân các em vì là con em dân tộc thiểu số nên còn rụt rè, chưa mạnh dạn, hay nhút nhát. Nguyên nhân khách quan rất quan trong ảnh hưởng đến sự hình thành kỹ năng giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp của các em là do các em chưa có nhiều điều kiện để luyện tập các kỹ năng giao tiếp. Chương trình học còn nặng về kiến thức, chưa quan tâm nhiều đến giáo dục kỹ năng mềm cho các em. NPV: Xin cô cho biết cách thức để nâng cao kỹ năng giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp của sinh viên dân tộc Tày? GV: Theo tôi để nâng cao kỹ năng giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp cho các em sinh viên dân tộc Tày thì về phía trà trường cần quan tâm hơn nữa đến việc giáo dục kỹ năng mềm cho các em. Như cần đưa vào khung chương trình các môn học về kỹ năng giao tiếp. Tạo điều kiện thuận lợi cho các em được tham gia các hoạt động ngoại khóa cũng như các hoạt động đoàn thể ở nhà trường. Đặc biệt là cần tổ chức các lớp tập huấn về kỹ năng giao tiếp cho các em để các em có cơ hội được rèn luyện, nâng cao kỹ năng giao tiếp của mình. Mặt khác, bản thân của các em cũng phải tự tự rèn luyện, hoàn thiện nâng cao kỹ năng giao tiếp của mình. NPV: Cô có thể cho biết trong quá trình giảng dạy, thầy thường sử dụng các phương pháp dạy học nào?
GV: Khi dạy phần lý thuyết, chúng tôi thường dùng phương pháp thuyết trình, vấn đáp, trực quan. Khi hướng dẫn phần thực hành, chủ yếu là dùng phương pháp thảo luận nhóm. NPV: Để nâng cao kỹ năng giao tiếp trong hoạt động học tập trên lớp của sinh viên dân tộc Tày, cô có đề xuất gì với nhà trường và sinh viên dân tộc Tày hay không? GV: Với nhà trường, chúng tôi muốn tổ chức cho các em sinh viên dân tộc Tày tham gia vào những lớp tập huấn về kỹ năng giao tiếp. Còn đối với sinh viên, tôi mong muốn nhất là các em chăm chỉ, tích cực hơn nữa trong việc tự rèn luyện kỹ năng giao tiếp của mình. NPV: Xin chân thành cảm ơn cô.