BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH NGUYỄN THỊ THÁI ĐẶC ĐIỂM NGÔN NGỮ NHÂN VẬT

TRONG TIỂU THUYẾT CHU LAI

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN NGHỆ AN - 2015

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH NGUYỄN THỊ THÁI ĐẶC ĐIỂM NGÔN NGỮ NHÂN VẬT

TRONG TIỂU THUYẾT CHU LAI

CHUYÊN NGÀNH: LÍ LUẬN NGÔN NGỮ

MÃ SỐ: 62 22 01 01 LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN

Người hướng dẫn khoa học:

PGS. TS. PHAN MẬU CẢNH TS. NGUYỄN HOÀI NGUYÊN NGHỆ AN - 2015

i

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số

liệu nêu trong luận án là trung thực. Những kết luận khoa học của luận án

chƣa từng đƣợc ai công bố trong bất kì công trình nào khác.

Tác giả luận án

Nguyễn Thị Thái

ii

MỤC LỤC

Trang

LỜI CAM ĐOAN .......................................................................................... i

MỤC LỤC CÁC BẢNG BIỂU THỐNG KÊ .............................................. v

MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1

1. Lí do chọn đề tài ..................................................................................... 1

2. Lịch sử vấn đề ......................................................................................... 3

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ........................................................ 10

4. Đối tượng, phạm vi và nguồn tư liệu của luận án .................................. 11

5. Phương pháp nghiên cứu ....................................................................... 12

6. Đóng góp mới của luận án .................................................................... 13

7. Cấu trúc của luận án .............................................................................. 13

Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ THUYẾT LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI ........ 14

1.1. Lí thuyết về hội thoại ......................................................................... 14

1.1.1. Khái niệm hội thoại ................................................................... 14

1.1.2. Vận động hội thoại .................................................................... 15

1.1.3. Các dạng thức hội thoại ............................................................. 19

1.1.4. Ngôn ngữ hội thoại .................................................................... 24

1.2. Tác phẩm văn học, nhân vật văn học .................................................. 25

1.2.1. Tác phẩm văn học ...................................................................... 25

1.2.2. Nhân vật văn học ....................................................................... 26

1.3. Giới thiệu tác giả và tác phẩm Chu Lai .............................................. 32

1.3.1. Nhà văn Chu Lai ........................................................................ 32

1.3.2. Các tác phẩm của Chu Lai ......................................................... 33

1.3.3. Hệ thống nhân vật trong tiểu thuyết của Chu Lai ....................... 37

1.4. Ngôn ngữ nhân vật và từ ngữ lời thoại nhân vật trong tác phẩm

của Chu Lai ............................................................................................... 40

1.5. Tiểu kết .............................................................................................. 45

iii

Chương 2. ĐẶC ĐIỂM NGÔN NGỮ NHÂN VẬT TRONG TIỂU THUYẾT

CHU LAI QUA TỪ NGỮ XƯNG HÔ ........................................................... 46

2.1. Một số vấn đề chung về từ ngữ xưng hô trong tiếng Việt ................... 46

2.1.1. Khái niệm từ xưng hô trong tiếng Việt ...................................... 46

2.1.2. Chức năng của từ xưng hô trong tiếng Việt................................ 47

2.2. Các loại từ ngữ xưng hô trong ngôn ngữ nhân vật của tiểu thuyết

Chu Lai ..................................................................................................... 48

2.2.1. Từ xưng hô là đại từ .................................................................. 48

2.2.2. Từ xưng hô có nguồn gốc danh từ thân tộc và các danh từ khác .... 57

2.3. Từ xưng hô và các kiểu nhân vật trong tiểu thuyết Chu Lai................ 75

2.3.1. Mối quan hệ giữa xưng hô và kiểu nhân vật .............................. 75

2.3.2. Từ xưng hô của một số kiểu nhân vật trong tác phẩm của

Chu Lai ...................................................................................... 77

2.4. Vai trò của từ xưng hô trong việc hình thành đặc trưng ngôn ngữ

nhân vật của tiểu thuyết Chu Lai ............................................................... 88

2.4.1. Từ xưng hô góp phần bộc lộ đặc điểm, tính cách, hoàn cảnh...

của nhân vật trong tác phẩm ..................................................... 88

2.4.2. Vai trò của từ xưng hô trong việc khắc họa đặc điểm

ngôn ngữ nhân vật trong tiểu thuyết Chu Lai ............................ 91

2.5. Tiểu kết .............................................................................................. 95

Chương 3. ĐẶC ĐIỂM NGÔN NGỮ NHÂN VẬT TRONG TIỂU THUYẾT

CHU LAI QUA TỪ THÔNG TỤC, QUÁN NGỮ VÀ THÀNH NGỮ............. 97

3.1. Từ thông tục ....................................................................................... 97

3.1.1. Khái niệm .................................................................................. 97

3.1.2. Từ thông tục trong lời thoại nhân vật ......................................... 98

3.1.3. Vai trò của từ thông tục trong ngôn ngữ nhân vật của tiểu

thuyết Chu Lai ......................................................................... 125

iv

3.1.4. Một vài so sánh bước đầu từ thông tục trong ngôn ngữ nhân

vật của tiểu thuyết Chu Lai với từ thông tục trong ngôn ngữ

nhân vật của một số nhà văn khác... ........................................ 128

3.2. Hệ thống quán ngữ trong ngôn ngữ nhân vật của tiểu thuyết Chu Lai .. 131

3.2.1. Vài nét về quán ngữ ................................................................. 131

3.2.2. Vai trò của quán ngữ qua các lời thoại nhân vật trong tiểu thuyết

của Chu Lai ............................................................................. 131

3.3. Các loại thành ngữ trong ngôn ngữ nhân vật của tiểu thuyết Chu Lai .. 133

3.3.1. Vài nét về thành ngữ tiếng Việt .............................................. 133

3.3.2. Vai trò của việc sử dụng các thành ngữ qua lời thoại nhân vật

trong tiểu thuyết Chu Lai ......................................................... 134

3.4. Tiểu kết ............................................................................................ 140

KẾT LUẬN ............................................................................................... 141

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CÔNG BỐ CÓ LIÊN QUAN

ĐẾN LUẬN ÁN ........................................................................................ 144

TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................ 145

TÁC PHẨM TRÍCH DẪN LÀM DẪN CHỨNG .................................... 157

PHẦN PHỤ LỤC ...................................................................................... 159

v

MỤC LỤC CÁC BẢNG BIỂU THỐNG KÊ

Trang

Bảng 1.1. Thống kê số lượng nhân vật chia theo giới tính và nghề nghiệp

chức vụ trong 10 cuốn tiểu thuyết của nhà văn Chu Lai ............. 39

Bảng 2.1. Bảng thống kê tần số sử dụng ĐTNX trong lời thoại nhân vật

của tiểu thuyết Chu Lai .............................................................. 49

Bảng 2.2. Số lượng và tần số xuất hiện các từ xưng hô có nguồn gốc từ

danh từ thân tộc và các danh từ khác của nhân vật trong tiểu

thuyết Chu Lai ........................................................................... 58

1

MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài

1.1. “Ngôn ngữ là phƣơng tiện giao tiếp trọng yếu nhất của con ngƣời”

(V.I Lênin). Giao tiếp bằng ngôn ngữ được chia thành hai phong cách: phong

cách nói (phong cách khẩu ngữ) và phong cách viết (phong cách sách vở).

Tác phẩm văn học là sản phẩm giao tiếp thuộc phong cách viết nhưng có tính

tích hợp cả hai phong cách (nói và viết) thành một dạng giao tiếp đặc thù:

giao tiếp nghệ thuật.

Văn học là tấm gương phản ánh đời sống xã hội. Ngôn ngữ trong tác

phẩm văn học, do vậy, thể hiện một cách sinh động hoạt động giao tiếp của con

người trong xã hội thông qua sự sáng tạo của nhà văn. Ở góc độ nghiên cứu,

ngôn ngữ học hiện đại đang chuyển sang một hướng tiếp cận mới là tìm hiểu sự

hành chức của ngôn ngữ trong cuộc sống và cuộc sống trong ngôn ngữ. Vì vậy,

việc khảo sát tìm hiểu ngôn ngữ trong tác phẩm văn học là một cách tiếp cận

phù hợp với xu hướng nghiên cứu mới cả về phương diện lí luận chung (đặc

điểm, vai trò, cơ chế hành chức của ngôn ngữ trong giao tiếp nói chung, giao

tiếp nghệ thuật nói riêng) và phương diện cụ thể (đặc điểm, vai trò, các quy

tắc hoạt động của ngôn ngữ trong tác phẩm văn học).

1.2. Các tác phẩm văn học Việt Nam sau 1975 đến nay, trong đó có thể

loại tiểu thuyết, đã góp phần không nhỏ trong việc tạo nên bản sắc, diện mạo

riêng cho thời kỳ văn học sau chiến tranh. Sự đổi mới về đề tài, cách miêu tả

hiện thực, quan niệm nghệ thuật về con người, đặc biệt là phong cách ngôn từ

thể hiện rất rõ trong các tác phẩm văn học thời kì này. Trong số các nhà văn có

nhiều tác phẩm thành công, tạo ra phong cách, giọng điệu riêng, người đầu tiên

và tiêu biểu nhất phải kể đến là nhà văn Chu Lai. Các tác phẩm của nhà văn đã

phản ánh được nhiều vấn đề nóng bỏng hiện nay về hiện thực xã hội; các nhân

vật trong tác phẩm của Chu Lai được mô tả là người lính vừa mang cốt cách

2

anh hùng trận mạc (thời chiến) vừa mang đặc điểm của con người sống trong

nhiều áp lực, thử thách của quãng đời phía sau chiến trận (thời bình). Ngôn ngữ

trong tiểu thuyết Chu Lai, đặc biệt là ngôn ngữ nhân vật, có nhiều đặc thù đáng

được quan tâm “có những trang hấp dẫn, ngƣời đọc đã cầm đến sách là phải

theo đuổi câu chuyện đến cùng...” [34, tr.9]. “Dấu vết thời đại đã ảnh hƣởng và

quy định cách nói năng, đối đáp, nhiều lớp từ mới đƣợc hình thành, quan niệm

về lời nói cũng đƣợc bổ sung những sắc thái biểu cảm mới. Ngôn ngữ tiểu

thuyết gần với ngôn ngữ đời thƣờng, giàu tính khẩu ngữ. Ngôn ngữ trong các

tiểu thuyết biểu hiện sự cá tính hoá mạnh mẽ, tính cách nào, lời lẽ ấy. Cách nói

trần trụi dân dã, thẳng thắn, bạo dạn” [34, tr.16] của các nhân vật là những

điểm nổi trội trong tác phẩm của Chu Lai.

Vì vậy, ở phương diện ngôn ngữ, tiểu thuyết Chu Lai có thể gợi mở

nhiều vấn đề mà ngôn ngữ học đang quan tâm, nhất là ở khía cạnh sự hành

chức của ngôn ngữ trong giao tiếp nghệ thuật, như: đặc điểm, vai trò của từ

ngữ trong tổ chức lời thoại; sự hành chức của ngôn từ thể hiện trong ngôn ngữ

nhân vật; ngôn ngữ đã thực hiện chức năng phản ánh và chức năng tổ chức

phát ngôn, thể hiện phong cách, giọng điệu tác phẩm và tác giả như thế nào…

1.3. Nghiên cứu ngôn ngữ trong tác phẩm văn học nói chung, nghiên

cứu ngôn ngữ hội thoại của nhân vật trong tiểu thuyết Chu Lai nói riêng,

không chỉ có ý nghĩa về mặt lí luận (góp phần xác định về phong cách giao

tiếp, phong cách ngôn ngữ nghệ thuật, ngôn ngữ nhân vật, các quy tắc giao

tiếp) mà còn có ý nghĩa đóng góp vào thực tiễn (cung cấp nguồn ngữ liệu để

làm rõ sự hành chức của ngôn từ trong giao tiếp nghệ thuật), cũng như tính

ứng dụng thực hành của đề tài (góp phần vào việc giảng dạy tác giả, tác

phẩm; phong cách ngôn ngữ nghệ thuật; diễn ngôn và phân tích diễn ngôn

trong nhà trường).

Từ những căn cứ lí luận và thực tiễn trên đây, chúng tôi lựa chọn đề tài

luận án: Đặc điểm ngôn ngữ nhân vật trong tiểu thuyết Chu Lai.

3

2. Lịch sử vấn đề

2.1. Những hướng nghiên cứu về ngôn ngữ trong giao tiếp và hội thoại

Việc nghiên cứu các vấn đề liên quan đến ngôn ngữ trong hoạt động

giao tiếp đã trở thành một trong những hướng được chú ý của ngôn ngữ học

hiện đại. Những kết quả nghiên cứu ở lĩnh vực này thể hiện rõ trong các công

trình của các nhà ngôn ngữ học trên thế giới, bắt đầu từ luận điểm quan trọng

bậc nhất của F.de Saussure trong cuốn Giáo trình ngôn ngữ học đại cƣơng

(1916) và sau đó được các nhà ngôn ngữ học khai thác theo những hướng

khác nhau. Có thể kể đến những hướng nghiên cứu chính, như: nghiên cứu về

dụng học - Pragmatics (J.L. Austin, 1965; Ch.W. Morris, 1966; J.R. Searle,

1969); hướng nghiên cứu về Ngôn ngữ học xã hội - Socio- Linguistics

(Nikolski, 1920; E.d Sapir, O.Jesperson, 1922...); hướng nghiên cứu về Ngôn

ngữ học văn bản - Text Linguistics (L.Bloomfield (1926), E.Benveniste

(1960), A.Reformatxky (1967), v.v…

Ở hướng nghiên cứu dụng học, các nhà ngôn ngữ học xác định có 4 vấn

đề: sự chiếu vật và chỉ xuất, nghĩa tường minh và hàm ẩn, các hành động ngôn

ngữ và lý thuyết hội thoại. Trong các vấn đề đó, lí thuyết hội thoại (bàn về lĩnh

vực giao tiếp đối thoại) được xem là vấn đề trọng tâm. Theo M. Bakhtin,

“Ngôn ngữ chỉ sống trong sự giao tiếp đối thoại giữa những ngƣời sử dụng

ngôn ngữ. Sự giao tiếp đối thoại chính là lĩnh vực đích thực của cuộc sống của

ngôn ngữ. Toàn bộ cuộc sống của ngôn ngữ, trong bất kì lĩnh vực nào sử dụng

nó (sinh hoạt, sự vụ, khoa học, nghệ thuật v.v...) đều thấm nhuần những quan

hệ đối thoại...” [2, tr.172). Nghiên cứu ngôn ngữ hội thoại nói chung, ngôn ngữ

nhân vật nói riêng “không thể tách nó ra khỏi lĩnh vực lời nói, tức khỏi ngôn

ngữ với tƣ cách là một hiện tƣợng toàn vẹn cụ thể” [2, tr.172].

Tiếp thu và phát triển quan điểm và kết quả của ngôn ngữ học thế giới,

các nhà ngôn ngữ học Việt Nam đã có nhiều công trình nghiên cứu về lĩnh

vực ngữ dụng học, ngôn ngữ học xã hội, ngôn ngữ học văn bản đề cập đến sự

4

hành chức của ngôn ngữ trong giao tiếp [thể hiện trong các tài liệu: 6, 20, 23,

47, 54, 70, 93, 105]. Riêng về vấn đề ngôn ngữ hội thoại, ngôn ngữ nhân vật,

các hành động ngôn ngữ, đã có nhiều công trình nghiên cứu ở các quy mô

khác nhau (chuyên luận, giáo trình, luận án, luận văn, bài báo) đề cập đến ở

những mức độ khác nhau (từ những vấn đề lí luận, các nguyên lí, khái niệm

đến thống kê, miêu tả, phân tích các đặc trưng, cách thức hoạt động của các

đơn vị trong hoạt động giao tiếp cụ thể từ tiếng Việt).

Trong các công trình trên, các tác giả đã nêu lí thuyết hội thoại, nhận

xét đánh giá về đặc điểm của hội thoại, các phương diện của hội thoại. Bàn

về hội thoại và vai trò của nó trong nghiên cứu, Đỗ Hữu Châu nhấn

mạnh:“Hội thoại là hoạt động giao tiếp căn bản, thƣờng xuyên, phổ biến

của sự hành chức ngôn ngữ. Các hình thức hành chức khác của ngôn ngữ

đều đƣợc giải thích dựa vào hoạt động căn bản này... Vấn đề phải nghiên

cứu sự hành chức của những cặp trả lời nhƣ cặp hỏi/trả lời theo một quan

điểm hội thoại, tức trong sự đối đáp của các nhân vật giao tiếp trong một

hoàn cảnh nhất định ” [20, tr.276, 267]. Nhiều công trình bàn về các lĩnh

vực của hội thoại, như: Về ngữ nghĩa của lời (Hoàng Phê, 1981); Phân tích

các nhân tố trong hội thoại (Nguyễn Thiện Giáp, 1999), Ngữ nghĩa lời hội

thoại (Đỗ Thị Kim Liên, 1999), v.v... Một số công trình bàn sâu về hội thoại,

miêu tả, phân tích các nhân tố của hội thoại, vai trò chức năng của các lời

thoại trong giao tiếp ngôn ngữ ở các ngữ cảnh. Trong đó có những công

trình nghiên cứu chuyên sâu về ngôn ngữ hội thoại trong các ngữ cảnh giao

tiếp. Chẳng hạn, phân tích về vai trò của từ trong hoạt động giao tiếp (Bùi

Minh Toán, 1999); bàn về vai xã hội và ứng xử trong giao tiếp (Nguyễn Như

Ý, 1990); phân tích đặc điểm của khẩu ngữ tiếng Việt và rèn luyện kỹ năng

giao tiếp (Nguyễn Chí Hòa, 2009); về từ xƣng hô trong gia đình đến ngoài

xã hội của ngƣời Việt (Bùi Minh Yến, 2001)...

5

2.2. Những hướng nghiên cứu ngôn ngữ và ngôn ngữ nhân vật trong

tác phẩm văn học

Cùng với việc nghiên cứu ngôn ngữ trong các bối cảnh giao tiếp, là

những công trình bàn về ngôn ngữ và ngôn ngữ trong giao tiếp nghệ thuật

nói chung, trong tác phẩm văn học nói riêng. Để xác định ngôn ngữ trong tác

phẩm văn học, người ta làm rõ mối quan hệ giữa ngôn ngữ phong cách viết

và phong cách nói: “...Ngay trong phong cách nói cũng có sự phân biệt giữa

lời nói đƣợc chọn lọc, trau giồi (ví dụ nhƣ lời diễn giảng, thuyết trình, lời

phát biểu chính thức có chuẩn bị sẵn...) với lời nói chƣa đƣợc chọn lọc kĩ và

trau giồi cẩn thận (ví dụ nhƣ trong nói năng thân mật thông thƣờng hàng

ngày, thậm chí có thể chấp nhận cả tính chất thông tục trong đó). Loại thứ

nhất ở đây nhích gần về phía ngôn ngữ thuộc phong cách viết hơn, còn loại

thứ hai, từ bản chất của nó, đƣợc gọi đích danh là khẩu ngữ - một tên gọi

mà tuy không nói ra một cách hiển minh, nhƣng ít nhiều bên trong, ngƣời ta

có ý phân biệt nó với ngôn ngữ nói, nói chung. Nhƣ thế, có thể nhận ra

trong từ vựng ba lớp từ mang đặc điểm của ba phong cách: lớp từ khẩu ngữ,

lớp từ ngữ thuộc phong cách viết, và cuối cùng là lớp từ ngữ trung tính

(hoặc còn gọi: trung hoà về phong cách) có thể dùng trong mọi phong cách

khác nhau” [29, tr.23]. Bàn về phong cách ngôn ngữ trong tác phẩm văn

học, các tác giả cho rằng ngôn ngữ trong tác phẩm văn học cũng có những

yếu tố mang phong cách khẩu ngữ theo lối “mô phỏng ngôn ngữ tự nhiên”.

Điều đó được thể hiện trong lời thoại nhân vật: “Lời đối thoại giữa các nhân

vật là một thành phần chủ yếu trong kết cấu lời nói của tác phẩm tự sự.

Chức năng chủ yếu của đối thoại không chỉ mang tính chất miêu tả hay

chuyển dẫn, trình bày sự kiện mà còn là bộc lộ tính cách, tâm lí của nhân

vật và quan điểm tƣ tƣởng” [68, tr.194].

Hội thoại là hình thức giao tiếp thường xuyên, phổ biến và liên tục của

cuộc sống hàng ngày. Gần đây, dựa vào lí thuyết hội thoại mà nhiều tác giả đề

6

cập đến nghệ thuật giao tiếp, như: Giao tiếp bất kì ai của Jo Condrill - Bennie

Bough (2001), Ngữ cảnh và giao tiếp, Phân tích hội thoại của Nguyễn Thiện

Giáp (1999)... Sự phát triển này cho thấy mảnh đất hội thoại ngày càng màu

mỡ được nhiều nhà nghiên cứu khám phá. Trong các văn bản văn học nhất là

thể loại tự sự, hội thoại góp phần thể hiện phẩm chất nhân vật, tình cảm và tư

tưởng của nhà văn tác động đến bạn đọc sâu sắc.

Nhiều bài viết, luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ cũng đã tìm hiểu các

phương diện khác nhau liên quan đến ngôn ngữ nhân vật trong tác phẩm văn

học. Chẳng hạn, Ngôn ngữ tác giả trong truyện Nguyễn Tuân (Đặng Lưu,

2006), Khảo sát ngôn ngữ hội thoại của nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn

Huy Thiệp (Lê Thị Trang, 2002); Hội thoại trong truyện ngắn Nam Cao (Mai

Thị Hảo Yến, 2006); Lời độc thoại nội tâm nhân vật trong truyện ngắn

Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Thị Thu Huệ (Lê Thị Sao

Chi, 2010), v.v...

Qua những công trình đã kể một cách rất khái quát và có tính đại

diện trên, phần nào ta có thể hình dung được vấn đề ngôn ngữ trong giao

tiếp, hội thoại, ngôn ngữ tác giả, ngôn ngữ nhân vật trong tác phẩm... đã

được nêu ra và bàn luận về mặt lí thuyết và phân tích miêu tả về mặt thực

tiễn từ nhiều góc độ và thu được nhiều kết quả rất có ý nghĩa, làm cơ sở

cho những hướng nghiên cứu đầy triển vọng về sự hành chức của ngôn ngữ

trong giao tiếp xã hội.

2.3. Những công trình viết về tác phẩm của Chu Lai từ góc độ văn

học và ngôn ngữ học

2.3.1. Nghiên cứu tác phẩm của Chu Lai từ góc độ phê bình văn học

Khi nghiên cứu, đánh giá về tác phẩm Chu Lai, nhìn chung, các nhà

nghiên cứu phê bình khẳng định thành công của Chu Lai là ở đề tài chiến

tranh với hình tượng trung tâm là người lính. Chiến tranh và người lính trong

sáng tác của Chu Lai được phản ánh dưới nhiều góc độ khác nhau chủ yếu

7

bằng cái nhìn sử thi và thế sự. Điều đáng chú ý là cách xây dựng nhân vật

trong sáng tác của Chu Lai được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm. Bùi Việt

Thắng viết: “Nhân vật Chu Lai đƣợc thể hiện nhƣ những con ngƣời tâm linh.

Họ sống bởi những ám ảnh của ảo giác, hối thúc bởi sự sám hối, luôn tìm

kiếm sự giải thoát. Đó là những con ngƣời trở về sau chiến tranh bị mất

thăng bằng, khó tìm đƣợc sự yên ổn trong tâm hồn. Họ sống trong cảm giác

không bình yên... Chu Lai làm ngƣời đọc bất ngờ vì những khám phá nghệ

thuật của mình: Nhân vật Chu Lai thƣờng tự soi tỏ mình, khám phá mình,

khám phá một bản ngã hay là một con ngƣời trong con ngƣời” [124, tr.104].

Hồng Diệu nhận xét: “Chu Lai là nhà văn thuỷ chung với đề tài chiến tranh,

anh có nhiều tác phẩm viết về đề tài ngƣời lính trên cả ba mặt trận: Văn học -

Sân khấu - Điện ảnh” [34, tr.6]. Trần Quốc Huấn trong Ngƣời chiến sĩ viết

văn hôm nay - đội ngũ kế tục những nhà văn chiến sĩ, khẳng định phẩm chất

của người lính trong chiến tranh: “Trong truyện Chu Lai, cái vốn tri thức văn

hóa, trí tuệ sáng suốt của ngƣời lính trẻ đã thấm nhuyễn một cách tự nhiên

vào từng chi tiết nhỏ của truyện, trong từng phán đoán nhạy bén, quả quyết,

để dẫn tới chiến thắng cuối cùng ở nhân vật” [65, tr.33]. Viết về người lính

sau hoà bình trong tiểu thuyết chiến tranh thời kỳ đổi mới, Nguyễn Hương

Giang cho rằng: “Sự thật về chiến tranh hôm nay đƣợc nhìn lại là một sự thật

đã trải qua những năm tháng day dứt, trăn trở trong tâm hồn nhà văn Chu

Lai, hơn thế, nó thực sự là những nếm trải của ngƣời “chịu trận”, “ngƣời

trong cuộc” [45, tr.20]. Lý Hoài Thu cũng khẳng định: “Dù trực tiếp viết về dĩ

vãng mịt mù bom đạn hay chuyển dịch sang tiếp cận những “kênh” thông tin

mới xô bồ của thời hiện tại, bao giờ Chu Lai cũng nghiền ngẫm suy tƣ về hiện

thực với sự nhiệt tâm và lòng trung thực của ngƣời lính... Nếu nhƣ trƣớc kia,

các nhân vật của anh đƣợc mô tả chủ yếu ở cốt cách anh hùng trận mạc thì

hiện nay (...) Chu Lai tập trung khai thác quãng đời thứ hai: quãng đời phía

sau chiến trận của ngƣời lính” [125, tr.63].

8

2.3.2. Nghiên cứu tác phẩm của nhà văn Chu Lai từ góc độ thi pháp

học và ngôn ngữ học

Đánh giá về phương diện nghệ thuật của tiểu thuyết Chu Lai, Phan Cự

Đệ trong Tiểu thuyết Việt Nam những năm đầu thời kỳ đổi mới cho rằng, tiểu

thuyết Chu Lai “không chỉ đa dạng trong các phƣơng thức tiếp cận mà cả

trong các biện pháp nghệ thuật, kết hợp độc thoại nội tâm, “dòng ý thức”,

nghệ thuật đồng hiện và có những thành công nhất định” [41, tr.18]. Về tiểu

thuyết Vòng tròn bội bạc, Hồng Diệu đánh giá cao nghệ thuật xây dựng nhân

vật, cách tạo tình huống, những xung đột, đặc biệt là cách nhìn khá mạnh dạn

của Chu Lai, “có những trang hấp dẫn, ngƣời đọc đã cầm đến sách là phải

theo đuổi câu chuyện đến cùng” [33, tr.9].

Xuân Trường nhận xét về nghệ thuật và ngôn ngữ trong tiểu thuyết

Ăn mày dĩ vãng qua Một vài cảm nhận sau khi đọc “Ăn mày dĩ vãng”, báo

Văn nghệ số 26/1993: “Có thể gọi tác phẩm này đầy chất lính, giọng văn

băm bổ, sôi động, các thứ tình cảm, suy tƣ đều đẩy đến tận cùng. Cốt truyện

có pha chút ly kỳ bí hiểm kiểu kiếm hiệp, đọc rất cuốn hút. Có những chƣơng,

những đoạn anh viết về chiến tranh hết sức sinh động, nếu không là ngƣời

trong cuộc, không dựng lại đƣợc không khí một địa bàn chiến đấu khá đặc

biệt này... Ăn mày dĩ vãng còn có chỗ chƣa hoàn mỹ. Chính cái giọng văn

băm bổ sôi động ấy, chính cái cách đẩy tình cảm, tƣ duy đến tận cùng ấy tạo

ra mặt trái khác bởi tính thái quá. Đấy là sự cƣờng điệu trong xử lý tình tiết,

sự lộng ngôn trong câu văn. Và cũng vì say sƣa với cốt truyện, tác giả đã

thiếu chặt chẽ trong lý giải tính cách nhân vật của mình. Từ bỏ quá khứ với

một ngƣời đàn bà dũng cảm, trung hậu nhƣ Ba Sƣơng, quả thật không phải

là điều quá dễ dàng. Dù sao đây cũng là cuốn tiểu thuyết sáng giá về chiến

tranh và ngƣời lính; với tầm tƣ tƣởng đúng đắn, trong sáng rất đáng trân

trọng, khích lệ” [tr.34].

9

Chu Bích Thu trong bài viết Những nỗ lực sáng tạo của tiểu thuyết Việt

Nam từ sau đổi mới đề cập đến một khía cạnh của thi pháp và ngôn ngữ trong

tiểu thuyết sau 1975 và trong tiểu thuyết Chu Lai: “Nhiều tiểu thuyết sau những

năm đổi mới đến nay đã sử dụng mô típ giấc mơ, giấc mơ chiêm bao nhƣ một

ngôn ngữ độc thoại đặc biệt để giải mã thế giới vô thức của con ngƣời. Thủ

pháp này thể hiện rõ trong các tiểu thuyết Thân phận của tình yêu (Bảo Ninh),

Ăn mày dĩ vãng (Chu Lai)” [tr.590]. Tác giả đã lưu ý đến một đặc điểm của

ngôn ngữ tiểu thuyết sau năm 1975: “Dấu vết thời đại đã ảnh hƣởng và quy

định cách nói năng, đối đáp, nhiều lớp từ mới đƣợc hình thành, quan niệm về

lời nói cũng đƣợc bổ sung những sắc thái biểu cảm mới. Ngôn ngữ tiểu thuyết

gần với ngôn ngữ đời thƣờng, giàu khẩu ngữ (...). Ngôn ngữ trong các tiểu

thuyết biểu hiện sự cá tính hoá mạnh mẽ, tính cách nào, lời lẽ ấy. Cách nói

trần trụi dân dã của ngƣời lính (Ăn mày dĩ vãng), cách nói thẳng thắn bạo dạn

của cánh nhà báo (Dấn thân, Một ngày và một đời)” [tr. 588, 589].

Nhiều ý kiến đi sâu vào phân tích riêng từng tác phẩm. Ở Cuộc trao

đổi về tiểu thuyết Ăn mày dĩ vãng in trên báo Văn nghệ số 39/1992 xuất

hiện những luồng ý kiến khác nhau, song chủ yếu vẫn là khen ngợi, đó là:

“Chu Lai đã “nhử” đƣợc ngƣời đọc bởi một cốt truyện li kì” (Cao Tiến Lê),

“Trên từng trang viết lộ rõ tâm huyết của tác giả tuy có khi tƣ tƣởng mới

chỉ dừng lại ở những câu triết lý” (Thiếu Mai). Trong bài viết Cuộc tìm tòi

về tiểu thuyết, tác giả Đỗ Văn Khang đã đề cập đến nghệ thuật xây dựng

nhân vật: “Lối chạm khắc nhân vật trong Ăn mày dĩ vãng cũng có nhiều

đóng góp mới. Ngày trƣớc nhân vật thƣờng mang một ý nghĩa phổ quát,

tức là có cái gì đó chung cho cả lớp ngƣời..., còn Hai Hùng của Chu Lai có

số phận đƣợc miêu tả nhƣ một yếu tố cá biệt độc nhất nhƣng vẫn mang tính

điển hình. Nhân vật Hai Hùng của Chu Lai tàn tạ về thân xác, nhƣng vạm

vỡ về tâm hồn. Hai Hùng có bộ khung “xuống cấp” vì thƣơng tật, vì sự hủy

10

hoại của mọi thứ vớ vẩn thời hậu chiến, nhƣng vẫn nhất quán một bản lĩnh,

một kiểu xông pha gần nhƣ bạt mạng vì không chịu chấp nhận một cái gì

lập lờ tráo trở” [tr.5].

Tác giả Hồng Diệu trong Vấn đề của tiểu thuyết Vòng tròn bội bạc viết:

“Với nghệ thuật xây dựng nhân vật, cách tạo tình huống, những xung đột, đặc

biệt là cách nhìn khá mạnh dạn, Chu Lai có những trang hấp dẫn, ngƣời đọc

đã cầm đến sách là phải theo đuổi câu chuyện đến cùng” [33, tr.41].

Từ góc độ nghiên cứu ngôn ngữ học, gần đây, một số luận án tiến sĩ,

luận văn thạc sĩ cũng đã đề cập một số đặc điểm ngôn ngữ tác phẩm, ngôn

ngữ nhân vật trong các truyện ngắn và tiểu thuyết của nhà văn Chu Lai.

Chẳng hạn như: Hành động trần thuật qua lời thoại nhân vật trong truyện

ngắn Nguyễn Minh Châu, Chu Lai, Lê Lựu (Cao Xuân Hải, Luận án Tiến sĩ,

2010), Sự thể hiện ngƣời lính thời hậu chiến trong tiểu thuyết của Chu Lai

(Lê Thị Luyến, Luận văn Thạc sĩ, 2006), Đặc điểm ngôn ngữ truyện ngắn

Chu Lai (Nguyễn Thúy Huệ, Luận văn Thạc sĩ, 2007),v.v...

Như vậy, có thể nói các công trình nghiên cứu về tác phẩm của Chu Lai

đã được nhiều tác giả quan tâm và thu được một số kết quả bước đầu nhưng

còn nhiều vấn đề cần được tiếp tục tìm hiểu, nhất là từ góc độ ngôn ngữ học.

Các kết quả của người đi trước là những gợi ý, nguồn ngữ liệu quan trọng

giúp chúng tôi đi sâu tìm hiểu, nghiên cứu đặc điểm ngôn ngữ nhân vật trong

tiểu thuyết Chu Lai.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

- Đề tài nhằm làm sáng tỏ một số đặc điểm và vai trò nổi bật của ngôn

ngữ nhân vật từ phương diện từ ngữ trong tiểu thuyết Chu Lai.

- Qua những kết quả phân tích và tổng hợp, đề tài nhằm làm rõ đặc

điểm ngôn ngữ nhân vật và phong cách ngôn ngữ của tác phẩm văn học thể

hiện trong tiểu thuyết Chu Lai.

11

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Để đạt được các mục đích trên, nhiệm vụ nghiên cứu của luận án được

xác định là:

- Tổng hợp những vấn đề lý luận chung liên quan đến đề tài, như: lý

thuyết hội thoại, nhân vật và ngôn ngữ nhân vật, vai trò của từ ngữ trong tác

phẩm, tác giả và tác phẩm và các vấn đề liên quan khác.

- Khảo sát, thống kê nguồn ngữ liệu liên quan đến ngôn ngữ hội thoại,

các lời thoại trong tiểu thuyết của Chu Lai.

- Miêu tả, phân tích, nêu vai trò của các lớp từ ngữ tiêu biểu trong việc

thể hiện đặc điểm ngôn ngữ nhân vật trong tiểu thuyết Chu Lai.

- Tổng hợp, rút ra những đặc điểm nổi trội về sự hành chức của các

lớp từ ngữ trong các lời thoại nhân vật và đặc điểm ngôn ngữ nhân vật trong

các tác phẩm khảo sát, từ đó góp phần làm rõ phong cách ngôn ngữ của nhà

văn Chu Lai.

4. Đối tượng, phạm vi và nguồn tư liệu của luận án

4.1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của luận án là khảo sát, làm rõ đặc điểm ngôn

ngữ nhân vật trong tiểu thuyết Chu Lai, nhưng ngôn ngữ nhân vật – xét từ

quan điểm tiếp cận của ngôn ngữ học - là một phạm trù rộng, có nhiều

phương diện (ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp, văn bản) và được xem xét từ nhiều

góc độ (cấu trúc, ngữ nghĩa, phong cách, ngữ dụng). Trong khuôn khổ của

luận án, chúng tôi giới hạn đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài ở việc

tìm hiểu hệ thống từ ngữ thể hiện qua lời thoại nhân vật trong tiểu thuyết của

nhà văn Chu Lai từ góc độ ngữ dụng.

4.2. Nguồn tư liệu khảo sát của luận án

Luận án khảo sát từ ngữ qua lời thoại nhân vật trong tiểu thuyết của

Chu Lai, gồm các tác phẩm:

12

1. Chu Lai (1979), Nắng đồng bằng, Nxb Quân đội nhân dân, Số trang: 351.

2. Chu Lai (1985), Gió không thổi từ biển, Nxb Phụ nữ, Số trang: 186.

3. Chu Lai (1990), Vòng tròn bội bạc, Nxb Thanh niên, Số trang: 351.

4. Chu Lai (1990), Bãi bờ hoang lạnh, Nxb Phụ nữ, Số trang: 210.

5. Chu Lai (1994), Ăn mày dĩ vãng, Nxb Hội Nhà văn, Số trang: 339.

6. Chu Lai (1999), Phố, Nxb Văn học, Số trang: 339.

7. Chu Lai (2000), Ba lần và một lần, Nxb Quân đội nhân dân, Số

trang: 343.

8. Chu Lai (2002), Cuộc đời dài lắm, Nxb Quân đội nhân dân, Số trang: 510.

9. Chu Lai (2002), Sông xa, Nxb Quân đội nhân dân, Số trang: 510.

10. Chu Lai (2002), Chỉ còn một lần, Nxb Quân đội nhân dân, Số

trang: 510.

5. Phương pháp nghiên cứu

5.1. Phương pháp thống kê - phân loại

Phương pháp này được dùng để thống kê các lời thoại nhân vật; các từ

ngữ tiêu biểu trong ngôn ngữ nhân vật; phân loại các lớp từ ngữ, tính tần số,

lượt dùng của từ ngữ... Phương pháp thống kê – phân loại vừa là cơ sở để xác

định đối tượng nghiên cứu (từ ngữ của ngôn ngữ nhân vật), vừa là cung cấp

các số liệu làm minh chứng cho các luận điểm trong từng chương của luận án.

5.2. Phương pháp phân tích diễn ngôn

Phân tích các ngữ liệu trên các bình diện của diễn ngôn hội thoại; tổng

hợp để rút ra đặc điểm khái quát về từ ngữ trong tác phẩm và vai trò, ảnh

hưởng của đặc điểm đó đến hệ thống chung, từ đó xác định đặc điểm của

ngôn ngữ nhân vật trong tác phẩm và phong cách ngôn từ của tác giả.

5.3. Phương pháp miêu tả

Phương pháp miêu tả dùng trong luận án liên quan đến các trường hợp

cần làm nổi bật các đặc điểm nào đó trong luận án (chẳng hạn: các lớp từ ngữ

13

trong lời thoại nhân vật, hệ thống từ xưng hô, từ thông tục, v.v...). Các kết quả

của phương pháp miêu tả trong luận án là cơ sở để phân tích, tổng hợp, đưa ra

các kết luận về đặc điểm ngôn ngữ nhân vật trong tiểu thuyết của Chu Lai.

6. Đóng góp mới của luận án

Đây là công trình đầu tiên nghiên cứu về đặc điểm ngôn ngữ nhân vật

trong tiểu thuyết Chu Lai ở bình diện từ ngữ từ góc độ ngữ dụng. Công trình

đã vận dụng những kiến thức cơ bản của ngữ dụng học để khảo sát, phân tích

về ngôn ngữ hội thoại, qua đó nhằm làm rõ sự hành chức của ngôn ngữ trong

giao tiếp xã hội nói chung, giao tiếp nghệ thuật nói riêng; đồng thời góp phần

làm rõ đặc điểm của ngôn ngữ nhân vật và phong cách ngôn ngữ nghệ thuật

trong tiểu thuyết của Chu Lai.

7. Cấu trúc của luận án

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, nội dung luận án

được trình bày trong ba chương:

Chƣơng 1: Những vấn đề lý thuyết liên quan đến đề tài

Chƣơng 2: Đặc điểm ngôn ngữ nhân vật trong tiểu thuyết Chu Lai qua

từ ngữ xưng hô

Chƣơng 3: Đặc điểm ngôn ngữ nhân vật trong tiểu thuyết Chu Lai qua

từ thông tục, quán ngữ, thành ngữ.

14

Chương 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ THUYẾT LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI

1.1. Lí thuyết về hội thoại

1.1.1. Khái niệm hội thoại

Theo quan điểm chung của các nhà nghiên cứu [thể hiện trong các tài

liệu:11, 15, 17, 20], thành tựu nổi bật nhất của ngôn ngữ học hiện đại là đã

dành sự quan tâm đặc biệt đến ngôn ngữ trong giao tiếp, sự hành chức của

ngôn ngữ trong thực tiễn. Dụng học (Pragmatics) ra đời theo hướng đó và phát

triển mạnh mẽ từ những năm 70 của thế kỷ XX. Giai đoạn đầu, dụng học chú ý

đến ngôn ngữ đơn thoại (lời nói một chiều, các diễn ngôn), sau đó dụng học

chuyển sang hướng quan tâm đến quan hệ hồi đáp (đặt các diễn ngôn vào chuỗi

các chuỗi lời nói trao qua đổi lại). Theo các nhà nghiên cứu, các diễn ngôn có

tính đơn thoại, tức là không có sự tương tác qua lại giữa các lời nói trong đó

(như một bài văn tả cảnh, một bài nghị luận) cũng đều hàm ẩn một cuộc trao

đổi, bởi vậy, dụng học thực sự phải là dụng học hội thoại (Pragmatique

dialogique). “Hội thoại là hoạt động giao tiếp căn bản, thƣờng xuyên, phổ biến

của sự hành chức ngôn ngữ. Các hình thức hành chức khác nhau của ngôn ngữ

đều đƣợc giải thích dựa vào hoạt động căn bản này” [20; tr.276].

Về khái niệm hội thoại, tác giả Nguyễn Như Ý xác định: “Hội thoại là

hoạt động giao tiếp bằng lời ở dạng nói giữa các nhân vật giao tiếp nhằm

trao đổi các nội dung miêu tả và liên cá nhân theo đích đƣợc đặt ra” (152;

tr.122). Theo Đỗ Thị Kim Liên: “Hội thoại là một trong những hoạt động

ngôn ngữ thành lời giữa hai hoặc nhiều nhân vật trực tiếp, trong một ngữ

cảnh nhất định mà giữa họ có sự tƣơng tác qua lại về hành vi ngôn ngữ hay

hành vi nhận thức nhằm đi đến một đích nhất định” [86, tr.18]. Trong tác

phẩm văn học, cùng với ngôn ngữ tác giả là sự xuất hiện luân phiên, xen kẽ

ngôn ngữ hội thoại của các nhân vật. Ví dụ:

15

... Một cái hôn nhẹ vào trán. Tiếng nói ai dịu nhẹ, mơn man:

- Ngủ đi! Ngủ một chút đi anh!... Đã hai ngày hai đêm nay, anh chƣa

chợp mắt chút nào rồi. Em sang hầm chị Hai đây. Em sợ vết thƣơng chị

nhiễm trùng. Tức cƣời ghê cơ! Vết thƣơng của mình không lo, cái sống của

mình không lo, lại cứ lo cho tiểu đoàn anh Tám bên kia sông. Chờ nghen! Em

sẽ quay lại ngay...

- Anh Hùng... Em không nghe nữa đâu - Cô gái vội lấy tay bịt tai lại.

... Sƣơng cúi đầu xuống một giây rồi ngẩng lên, nét mặt lạnh cứng:

- Dám!

- Đồng chí y tá! - Hùng cũng sắt mặt - Đây là lệnh, đồng chí không

đƣợc can thiệp vào. Anh em đâu? Thằng Khiển, thằng Vƣợng đâu? Cả thằng

Tuấn khốn nạn kia nữa, mày ngồi chết giẫm ở đó à? Mang nó ra hố pháo

chôn ngay!

- Không! Sƣơng thét - Không đƣợc chôn sống ngƣời ta nhƣ thế!

- Lôi con ngƣời lắm điều này đi! - Hùng chỉ tay ra cửa rừng.

Chát!... Cả khuôn mặt râu ria của Hùng hơi bật ngửa ra sau trƣớc một

cái tát quá bất ngờ” [XIII, tr.79].

Hội thoại hầu như có mặt trong các sáng tác (văn bản văn học) nhưng

chúng ta thấy rằng trong văn bản văn học (truyện ngắn, tiểu thuyết, kịch...),

hội thoại không xuất hiện độc lập mà nó luôn gắn liền với ngôn ngữ tác giả,

làm thành chỉnh thể văn bản – chỉnh thể tác phẩm văn học.

1.1.2. Vận động hội thoại

Thông thường, cấu trúc của một cuộc thoại gồm: sự trao lời, sự trao

đáp và sự tƣơng tác.

1.1.2.1. Sự trao lời

“Trao lời là vận động của ngƣời nói A nói ra và hƣớng lời nói của

mình về phía ngƣời nhận B”. Khi trao lời “có những vận động cơ thể (cử chỉ,

16

điệu bộ, nét mặt) hƣớng tới ngƣời nhận hoặc tự hƣớng về mình (gãi đầu, gãi

tai, đấm ngực...) bổ sung cho lời ngƣời nói”.

Tình thế trao lời ngầm ẩn rằng, người B tất yếu phải có mặt đi vào

trong lời của A. Vì thế “ngay trƣớc khi B đáp lời thì B đã đƣợc đi vào trong

lời trao của A và thƣờng xuyên kiểm tra, điều hành lời nói của A”. Cũng

chính vì thế, ở phía người nói - người trao lời nói có nghĩa là “lấn trƣớc vào

ngƣời nghe B, phải dự kiến trƣớc phản ứng của ngƣời nghe” để lựa chọn lời

thích hợp, làm sao có thể “áp đặt” điều mình muốn nói vào B” [24, tr.41].

Khi trao lời, có các vận động cơ thể (điệu bộ, nét mặt, cử chỉ,...) hướng

tới người nhận hoặc hướng về mình (gãi đầu, gãi tai, đấm ngực...) bổ sung

cho lời trao.

Một tiếng khóc tấm tức bật lên:

- Đừng giận... Đừng bỏ em nghe anh! Em chỉ có mình anh. Em...

thƣơng anh! [XIII, tr.82].

Ở ví dụ trên, hình ảnh của nhân vật Ba Sương, mỏng manh, yếu đuối

trước Hai Hùng, ngưòi hùng trận mạc trong tác phẩm Ăn mày dĩ vãng của Chu

Lai. Đặt trong vận động hội thoại, câu trao của Sương hướng tới Hùng bằng

các từ “em, anh”. Trong câu trao đã có sự hiện hữu của người nhận. Sự dịu

dàng, yếu đuối của nhân vật Sương được tác giả thể hiện bằng câu dẫn: “Một

tiếng khóc tấm tức bật lên”.

1.1.2.2. Sự trao đáp

Hội thoại chính thức hình thành khi người B đáp lại lượt lời của người

nói A. “Phát ngôn là sản phẩm của các hoạt động ở lời. Tất cả các hoạt động

ngôn ngữ đều đòi hỏi một sự hồi đáp” [93, tr.75]. Khi được thoả mãn bằng

một sự hồi đáp thì phát ngôn sẽ trở thành hội thoại, nghĩa là, hình thành một

cặp trao - đáp.

Tiếp theo ví dụ trên, sau những lời tấm tức yêu thương của Ba Sương,

Hai Hùng đáp lại lời của cô để hình thành một cặp trao - đáp.

17

Hùng quay mặt đi, tiếng nói ngàn ngạt:

- Thế là bao nhiêu công sức đổ vào đó mà phải dừng lại! Ngƣời ta sẽ

nghĩ gì?

- Không... không sao đâu. Em thay mặt lực lƣợng địa phƣơng... sẽ cùng

chịu trách nhiệm với anh.

- Sƣơng... [XIII, tr.82].

Khi xuất hiện lời đáp của nhân vật B thì vận động trao - đáp - cái lõi

của hội thoại diễn ra theo nhịp điệu của nội dung hội thoại. Có lúc, sự vận

động đó lắng lại theo tiếng ngập ngừng trong tâm trạng của nhân vật, có lúc

lại diễn biến nhanh, dồn dập. Sự thay đổi trong cặp vai người nói - người

nghe cũng biến đổi theo. Đây cũng là yếu tố cho sự phát triển hội thoại đạt

đến đích mong muốn. Trong ví dụ trên, nhân vật Hùng lúc sắp vai người nói

dưới hình thức câu hỏi “Ngƣời ta sẽ nghĩ gì?”, lúc lại chuyển thành người

nhận lời và có sự đáp lời: “Sƣơng...”.

1.1.2.3. Sự tƣơng tác

Trong cuộc thoại, các nhân vật giao tiếp, ảnh hưởng lẫn nhau, tác động

qua lại với nhau làm biến đổi lẫn nhau. Trước cuộc thoại, nhân vật có sự khác

biệt, đối lập về tính cách, tâm lý, hiểu biết tình cảm, v.v.. Trong quá trình

tham gia vào hội thoại, nhân vật sẽ tự điều phối những khác biệt này để cùng

cộng tác đi đến thoả hiệp hoặc có thể phát triển cao hơn, mở rộng những khác

biệt này làm cho cuộc thoại đi đến xung đột. Đây chính là sự tương tác trong

hội thoại. Theo Đỗ Hữu Châu, sự tương tác được hiểu là: “Các nhân vật giao

tiếp ảnh hƣởng lẫn nhau, tác động lẫn nhau đến cách ứng xử của từng ngƣời

trong quá trình hội thoại” [24, tr.42].

Với văn bản tác phẩm văn học, sự tương tác hội thoại có thể phát triển

theo những chiều hướng khác nhau.

- Tạo điều kiện cho tâm lý nhân vật phát triển, đưa cuộc thoại đạt đến đích:

18

Có tiếng nổ nhỏ trong đầu, tôi đứng dậy:

- Bữa nay mình là chủ xị phải không?

- Còn bàn cãi gì nữa - Ba Thành nói.

- Vậy dẹp đi! Và bây giờ lên xe trở về nhà thằng Tuấn. Sẽ nhậu tại đó.

- Còn chuyến tàu? - Tuấn hỏi.

- Cũng dẹp luôn! Tao sẽ ở lại với chúng mày để tìm bằng đƣợc tên giết

ngƣời đó [XIII, tr.339].

Trong ví dụ trên, cái đích của cuộc thoại đã được xác định, chiến tranh

với đạn bom khói lửa, chết chóc đã qua nhưng cuộc chiến trong cuộc sống đời

thường giữa ranh giới thiện - ác thì mới chỉ bắt đầu ở những người lính can

trường một thời này.

- Làm cho hội thoại thêm căng thẳng và đi đến xung đột do không hoà

phối được những khác biệt:

- Không! Không đi đâu cả! - Ông Hùng xô cửa bƣớc vào, giọng nói

tắc lại.

- Trời... Anh Hai! - Ba Sƣơng lùi ngƣời trở lại, hai tay bất giác đƣa lên

che đỡ lấy ngực nhƣ hôm nào.

- Sƣơng! Em cứ ở đây. Ngày mai tôi sẽ đƣa em về - Ông Hùng đứng

chắn ngang cửa, cặp mắt trũng sâu sáng lên - Nếu cái đoàn thanh tra ấy

muốn, chính tôi sẽ trả lời, nhân danh những ngƣời chết và những ngƣời sống,

tôi sẽ trả lời thay em.

Sƣơng càng lùi lại, miệng lắp bắp:

- Không... Không đƣợc đâu anh. Đừng anh [XIII, tr.331].

- Hé gợi sự tình của nhân vật với những cảm giác, những day dứt...

trong tâm trạng:

Như nhân vật Ba Sương, sau chiến tranh trở về, sự trớ trêu của số phận

hay là một hệ quả đau lòng của chiến tranh đã khiến cô buộc phải phản bội lại

19

chính mình để trở thành người đàn bà đẹp và uy quyền nhưng cũng nổi tiếng

là lạnh lùng, dửng dưng với đàn ông.

Một đám khói màu da cam đột nhiên trôi qua, phủ đầy vào mắt ngƣời

đàn bà. Sau một thoáng rùng mình ớn lạnh, bà ta cƣời, lắc đầu vẻ mệt mỏi:

- Thanh tra Bộ à?... Sao lại có thanh tra Bộ ở đây? Tội nghiệp! Chắc

lại một ca hội chứng chiến tranh đó thôi. Thôi đƣợc, không cần biết là ai

nhƣng đã đến đây thì coi nhƣ là khách. Anh làm ơn đƣa ổng về phòng nghỉ và

nói rằng, ở đây không có ai tên Sƣơng hết [XIII, tr.25].

1.1.3. Các dạng thức hội thoại

Qua khảo sát và thống kê tiểu thuyết Chu Lai, chúng tôi nhận thấy,

ngôn ngữ của tác giả sử dụng nhiều dạng thức hội thoại như đơn thoại, song

thoại, tam thoại, đa thoại, trong đó, song thoại xuất hiện và chiếm tỉ lệ nhiều

nhất. Cụ thể, các dạng hội thoại được thể hiện:

1.1.3.1. Đơn thoại

Là lời thoại của một nhân vật phát ra hướng đến người nghe nhưng

không có lời đáp trực tiếp. Việc tiếp nhận nội dung lời thoại được phản hồi

bằng hành động thể hiện hay cử chỉ không được tác giả mô tả thành lời.

Dạng đơn thoại biểu hiện rõ nhất ở kiểu lời trần thuật của nhân vật, có

nghĩa là, lời nói của nhân vật có xen kẽ một yếu tố kể của mình, của người.

Thấp thỏm chƣa thật tin vào cái nhận xét còn mang màu sắc võ đoán

ấy, tôi hạ nòng bắn thẳng một loạt đạn ria:

- Bà không phải là một cái gì hết. Đúng thế. Bởi vì bà chính là Ba

Sƣơng. Y tá Ba Sƣơng! Xã đội trƣởng Ba Sƣơng của ba xã vùng hạ lƣu sông

Sài Gòn cách đây hai mƣơi năm.

Lạnh lẽo, tôi bồi tiếp một loạt nữa:

- Bà có muốn nhận bà là Ba Sƣơng hay không. Tuỳ! Đó là quyền của

bà. Nhƣng tôi, tôi lại cần phải biết tại sao... [XIII, tr.234].

20

Giữa những lời dẫn thoại “bắn thẳng một loạt đạn ria”, “lạnh lẽo, tôi

bồi tiếp một loạt nữa” là “một thoáng xao động vút rất nhanh trong đôi mắt

mở to, một chút chuyển màu trên đôi môi không son phấn, một chút rung giật

ở gò má phơn phớt hồng” của người đàn bà chối bỏ quá khứ - Ba Sương.

Thông thường, dạng đơn thoại là vắng lời đáp, mỗi nhân vật tự đeo

đuổi một ý nghĩ riêng của mình nhưng đều tuân theo một logic. Ở nhân vật

Hai Hùng, sự dồn đuổi đến tận cùng để tìm ra sự thật về người con gái anh

yêu đã chết đau đớn trong trận càn của địch mà anh là người chứng kiến. Còn

ở Ba Sương, sự ngây ngất trong vầng hào quang giả dối đã khiến cô quay

lưng với tất cả kỷ niệm xưa. Sự im lặng của Ba Sương trong đoạn thoại trên

có tác động sâu sắc đến nội dung phát ngôn của nhân vật Hai Hùng.

1.1.3.2. Song thoại

Đây là dạng thoại chủ yếu và được quan tâm nhiều nhất trong lý thuyết

hội thoại. Theo Nguyễn Đức Dân: “Nếu không có chú thích gì đặc biệt thì

thuật ngữ hội thoại đƣợc hiểu là song thoại” [32, tr.77]. Song thoại là lời của

người trao hướng đến người nghe và có sự đối đáp bằng hành vi ngôn ngữ.

Chúng tôi gọi là hành vi trao lời và hành vi đáp lời. Ở dạng thoại này, nhân

vật trực tiếp đưa lời nói của mình vào hội thoại, bảo đảm yếu tố lời trao và lời

đáp của nhân vật, bảo đảm nguyên tắc luân phiên lượt lời hội thoại.

Kính râm đen rầm, ria mép đen nhức, bắp tay xoắn bện nhƣ xoắn thừng,

anh ta tiến đến, hất mặt hỏi rất hỗn:

- Có gì không mấy anh?

- Không... Không có gì. Đứng hóng mát thôi - Ông trƣởng phòng lúng

túng trả lời.

- Hóng mát thì mời đi chỗ khác. Chỗ này vừa thi công xong, nóng thấy

mẹ, có gì mà mát. Rảnh việc! [XV, tr.255].

Ở dạng song thoại, có thể không có lời dẫn và từ dẫn mà được biểu

hiện bằng dấu hình thức “gạch ngang đầu dòng”.

21

- Kìa... Đừng anh! Em sợ...

- Sợ cái gì nữa cơ chứ? Chúng mình chả đã từng gần nhau... cho nhau

hết một lần rồi ƣ?

- Chính vì thế mà em biết anh không thƣơng em.

- Tầm bậy nào! Không thƣơng mà tối tăm, mƣa gió thế này, anh bỏ cả

văn phòng giám đốc, bỏ cả vợ con xuống đây chỉ cốt đƣợc gặp em à?... Im!

Ngoan nào...Cho anh lần nữa nhé!

- Kìa! Đừng làm thế! Đứt hết khuy áo bây giờ... đấy, đứt rồi! Bỏ ra đi!

Em không đùa đâu!

- Ai đùa! Em ác lắm!... Em có biết rằng mấy tuần nay... không lúc nào

anh không mơ tƣởng về em...Về bộ ngực...về thân thể nóng rực của em. Anh...

thèm em.

- Không đƣợc! Dơ hết quần áo bây giờ... Kìa, dơ!

- Dơ, anh đền cho một trăm bộ, một ngàn bộ khác... Ôm anh đi! Ôm

chặt vào... Ôi! Ngực em ấm quá... Bộ ngực trinh nữ của em... Cả cặp đùi nữa!

Anh chƣa từng thấy ai có cặp đùi tròn và rắn nhƣ thế này...

- Ái đau... Cắn đau thế!

- Anh xin lỗi! Tại em đấy. Ai bảo em cứ ngon nhƣ một khúc giò. Nào!

Mở chân ra một chút đi! Anh xin...

- Không... [XVI, tr.118].

Tuy không có lời dẫn và từ dẫn nhưng người đọc vẫn hình dung được

thái độ, tình cảm, hành động của nhân vật trong cuộc thoại trên. Đây là nhân

vật được tạo nên từ cái nhập nhằng, nhá nhem giữa bóng tối và ánh sáng. Bề

ngoài thì lịch sự, hiểu biết nhưng bên trong lại là một tâm địa vô cùng đen tối,

đểu giả ngay cả trong quan hệ tình cảm.

Ở dạng song thoại còn xuất hiện xen độc thoại như là một hình thức để

nhân vật bộc lộ suy nghĩ thầm kín của mình hơn nữa trong dụng ý của tác giả:

- Sinh nhật chị.

22

- Sinh nhật tôi? - Chị tròn mắt rồi chợt nhớ và phá lên cƣời, cái cƣời

còn trẻ trung lắm - Chết thật! Năm nào cũng không nhớ và năm nào cũng

đƣợc Hoàng tặng hoa, kể từ ngày còn ở Hà Nội. Cám ơn! - Chị lúng túng

nhận bó hoa, không dấu đƣợc một chút cảm động ánh lên trong mắt - Cám ơn

nhiều lắm! [XV, tr.336].

Song thoại là dạng thức hội thoại cơ bản của lý thuyết hội thoại và cùng

là dạng thoại xuất hiện chủ yếu trong ngôn ngữ hội thoại tiểu thuyết.

1.1.3.3. Tam thoại

Tam thoại là dạng thoại xuất hiện khi có ba nhân vật giao tiếp cùng một

chủ đề, một không gian và cùng một thời điểm. Ở mọi cuộc trao đổi, giao tiếp

trong cuộc sống cũng như trong văn chương luôn xảy ra hiện tượng có hơn

hai nhân vật giao tiếp trở lên. Ở hình thức giao tiếp này có thể quy về dạng

tam thoại. Trong tiểu thuyết Chu Lai, dạng thức hội thoại này khá nhiều, điều

đó cũng thể hiện mối quan hệ đan xen nhiều chiều, phức tạp giữa các nhân vật

tiểu thuyết.

Anh vụt đứng dậy, móc hộp quẹt Zipo Mỹ còn giữ đƣợc, quẹt vào giữa

mặt kẻ dâm tặc, giọng rung lên vì giận:

- Bỏ cô ấy ra! Làm thằng đàn ông nhƣ vậy là rất nhục!

- Nhục kệ cha tao! - Sau phút quếnh quáng trƣớc quầng sáng lửa, gã

lấy lại giọng hách dịch - Mày là thằng nào? Mày chui ở xó nào ra thế? Định

giở trò rình rập hả? Đội mấy, nói!

Không thèm trả lời, anh quay lại phía cô gái lúc này đang cuống

cuồng bận lại áo xống:

- Cô về đi! Đối với loại đàn ông chó dái này, cô nên hết sức cẩn thận...

[XV, tr.119].

Ở đoạn thoại này có ba nhân vật giao tiếp: cô gái, gã, anh. Khi nhân vật

gã hướng câu hỏi liên tiếp đến nhân vật anh nhưng câu trả lời không xuất hiện

mà câu trao lại hướng đến nhân vật thứ ba là cô gái.

23

Cả trường hợp hai lời trao cùng hướng đến vai nhận, dẫn đến thoại

căng thẳng theo tình tiết truyện.

- Nổ đi! Mày có thể nâng súng lên mà nổ đƣợc rồi đấy - Năm Thành

gƣợng đứng dậy, mặt chuyển màu tái nhợt - Tao biết trƣớc...

Câu nói ấy đánh thốc vào mặt Sáu Nguyện nhƣ một cành trà gai. Khẩu

súng anh vừa đƣa lên lại hạ thấp dần xuống. Cùng lúc đó, Tƣ Chao từ trong

phòng chạy ào ra, gần nhƣ quỳ xuống chân anh, giọng nghẹn tắc:

- Đừng... Đừng bắn! Không phải...- Nói đến đây, giọng chị ta nấc lên,

nƣớc mắt trào ra - Em chỉ thƣơng nó... Nó đã biết gì đâu...

- Nó nào? - Sáu Nguyện gạt mạnh cánh tay mảnh dẻ đang cố bám lấy

mình - Nó là ai?

- Con em... [XV, tr.71].

1.1.3.4. Đa thoại

Đa thoại là lời của nhiều nhân vật đan xen vào nhau trong một ngữ

cảnh hội thoại cụ thể; chúng tôi gọi đây là lời của đám đông (nhân vật). Sử

dụng dạng thức đa thoại là sự sắp đặt đầy dụng ý của tác giả.

Tiếng cƣời âm u, tiếng thở dài nhớt nhát, tiếng nói lạnh lẽo úp chụp,

đậu lên vai, luồn vào tóc, chui cả vào ngực nhồn nhột, không mùi không vị:

“Thủ trƣởng ôi! Thủ trƣởng đi đâu đấy? Có nhận ra chúng tôi không? Có

nhớ chúng tôi không...” Tôi càng đi nhanh. Cái bóng của Viên vƣợt lên, hơi

thở ram ráp liếm vào tai tôi: “Anh quên em rồi sao anh Hai?...”. Bóng Viên

biến mất, cái bóng của Bảo thay thế, cũng hơi thở ram ráp: “Sao lại chôn vội

thế thủ trƣởng ơi!..”. Cái bóng của Khiên xồ tới, tanh nồng và rách rƣới:

“Anh khỏi áy náy... [XIII, tr.156].

Hay đoạn thoại trong một buổi sáng đình công ở nhà máy:

- Thế cánh chủ thợ họ trả lời thế nào mấy anh? - Sáu Nguyện hỏi.

- Trả lời cái mẹ gì! - Một ngƣời quật con bài đánh chát xuống mặt bàn

- Tất nhiên là đổ cho con nhỏ...

24

- Thật tội cho cô ấy - Ngƣời khác chêm vào với giọng từ tốn hơn - Mẹ

thì già, bố lâm trọng bệnh...

- Giúp!- Ngƣời nữ lại dằn giọng - Giúp thì dễ quá...? [XV, tr.236, 237].

Dạng thức đa thoại trong lý thuyết hội thoại đã xác định số lượng nhân

vật tham gia vào hội thoại: đám đông nhân vật, mà ở đó nhân vật được miêu

tả rõ nét nó nằm trong hệ thống nào, chỉ biết rằng nó xuất hiện cùng với lượt

lời để có thể nhận ra có nhân vật ấy trong đám đông ấy. Trong tiểu thuyết Chu

Lai, hình thức đa thoại không được sử dụng nhiều.

Tóm lại, trên cơ sở trình bày những vấn đề chung về hội thoại, có thể

dẫn ý kiến của Đỗ Hữu Châu làm định nghĩa khái niệm này:“Hội thoại là

hoạt động giao tiếp căn bản, thƣờng xuyên, phổ biến của sự hành chức ngôn

ngữ. Các hình thức hành chức khác của ngôn ngữ đều đƣợc giải thích dựa

vào hoạt động căn bản này... Vấn đề phải nghiên cứu sự hành chức của

những cặp trả lời nhƣ cặp hỏi/trả lời theo một quan điểm hội thoại, tức trong

sự đối đáp của các nhân vật giao tiếp trong một hoàn cảnh nhất định ” [20,

tr.276, 267].

1.1.4. Ngôn ngữ hội thoại

Việc nghiên cứu hội thoại tất yếu liên quan đến việc làm rõ ngôn ngữ

hội thoại. Ngôn ngữ hội thoại là một trong những vấn đề đã được đặt ra trong

ngôn ngữ học nói chung, ngữ dụng học và ngôn ngữ học văn bản nói riêng

của ngôn ngữ học hiện đại. Đã có nhiều công trình nghiên cứu ở nước ngoài

về lĩnh vực này, như: O. M. Moskalskaija, I. R.Galperin, J. Lyon (dẫn theo

Phan Mậu Cảnh, 2008)... Ở trong nước, giới Việt ngữ học khi nói đến lĩnh

vực văn bản và ngữ dụng học cũng có những cuốn tiểu thuyết đạt giải nhiều

tác giả đề cập đến vấn đề hội thoại như Đỗ Hữu Châu (2003), Diệp Quang

Ban (1998), Trần Ngọc Thêm (2005), Đỗ Thị Kim Liên (2005)...

Qua các nghiên cứu, có thể thấy, ngôn ngữ hội thoại là loại ngôn ngữ

thuộc phong cách hội thoại, tức là “Việc tổ chức, xây dựng lời nói dưới dạng

25

hội thoại” [52; tr.219]. Hội thoại có thể thể hiện trong giao tiếp hàng ngày

(thuộc phong cách khẩu ngữ) hay xuất hiện trong tác phẩm văn học (thuộc

phong cách nghệ thuật), tức là đều dưới dạng lời nói (có sự trao đáp bằng lời

qua lại giữa các nhân vật giao tiếp). Ngôn ngữ hội thoại “là hình thái nói,

nhưng có cách nói tuỳ tiện (gọi là khẩu ngữ); có cách nói trau dồi, trong cách

nói trau dồi này, có cách nói thông thường, văn nghệ hoặc khoa học. Ở hình

thái viết cũng vậy, có cách viết hệt như khẩu ngữ, có cách viết thông thường,

văn nghệ hoặc khoa học. Đó là các dạng khác nhau trong việc vận dụng các

phương tiện của ngôn ngữ toàn dân, gọi là các phong cách” [52; tr.215].

Theo các nhà nghiên cứu, ngôn ngữ trong tác phẩm văn học (văn xuôi

tự sự) có hình thức tổ chức theo lối mô phỏng ngôn ngữ tự nhiên thể hiện

trong cách sử dụng từ ngữ, các kiểu câu, các yếu tố ngữ âm... Đó là điều mà

Hegel gọi là cái nôm na của tác phẩm tự sự [68; tr.175]. Điều này đúng với

ngôn ngữ nhân vật thể hiện qua lời thoại nhân vật. Lời đối thoại giữa các nhân

vật là một thành phần chủ yếu trong kết cấu lời nói của tác phẩm tự sự, vừa

thể hiện tư tưởng của nhân vật, của tác phẩm vừa là “khúc xạ những ý chỉ của

tác giả và do đó, đến một mức độ nhất định, có thể được coi là ngôn ngữ thứ

hai của tác giả” [68; tr.195]...

Tóm lại, khái niệm hội thoại, những vấn đề liên quan đến hội thoại theo

quan điểm và kết quả nghiên cứu của các công trình đi trước là cơ sở để

chúng tôi tìm hiểu, làm rõ đặc điểm ngôn ngữ nhân vật trong các chương tiếp

theo của luận án.

1.2. Tác phẩm văn học, nhân vật văn học

1.2.1. Tác phẩm văn học

Tác phẩm văn học là một loại văn bản thuộc phong cách nghệ thuật; là

công trình nghệ thuật ngôn từ do một cá nhân hay tập thể sáng tác nhằm phản

ánh cuộc sống bằng hình tượng thông qua các thủ pháp nghệ thuật. Tác phẩm

văn học có thể tồn tại dưới hình thức truyền miệng hay hình thức văn bản

26

được ghi lại bằng văn tự, có thể được viết bằng văn vần hoặc văn xuôi. Các

tác phẩm có dung lượng rất khác nhau và có thể chia thành ba loại hình cơ

bản: tác phẩm tự sự, tác phẩm trữ tình, tác phẩm kịch.

Mỗi tác phẩm văn học là một hệ thống phức tạp bao gồm nhiều yếu tố

như chủ đề, tư tưởng, kết cấu, ngôn ngữ, hình tượng, v.v.. Ở những tác phẩm

có giá trị, sự kết hợp hài hoà và tác động qua lại giữa các yếu tố ấy khiến tác

phẩm trở thành một chỉnh thể nghệ thuật mang tính thống nhất hữu cơ, biện

chứng giữa nội dung thẩm mỹ và hình thức nghệ thuật. Tính phức tạp của tác

phẩm văn học không chỉ biểu hiện qua cấu trúc nội tại của bản thân nó mà

còn biểu hiện qua hàng loạt quan hệ khác. Với chủ thể sáng tạo, tác phẩm là

nơi ký thác, nơi khẳng định quan điểm nhân sinh, lý tưởng thẩm mỹ. Với hiện

thực khách quan, tác phẩm là hình ảnh phản ánh đời sống, là tấm gương ghi

giữ diện mạo lịch sử của một giai đoạn, một thời kỳ một đi không trở lại và

dự báo tương lai. Với người đọc, tác phẩm là đối tượng tích cực của cảm thụ

thẩm mỹ. Cố nhiên, trong thực tế, những quan hệ ấy xuyên thấm, tổng hoà với

nhau một cách biện chứng và sinh động.

1.2.2. Nhân vật văn học

Nhân vật văn học là yếu tố cơ bản nhất, là hạt nhân trung tâm của mỗi

tác phẩm văn học. Nhân vật là sự thể hiện quan niệm nghệ thuật của nhà văn.

Nhân vật văn học là thuật ngữ chỉ hình tượng nghệ thuật về con người, một

dấu hiệu về sự tồn tại toàn vẹn của con người. Bên cạnh con người, nhân vật

còn là các con vật, các loài cây, các sinh thể hoang đường được gán cho

những đặc điểm giống với con người. Nhân vật là phương thức nghệ thuật

nhằm khai thác những nét thuộc tính con người, nhân vật có ý nghĩa trước hết

ở các loại văn học tự sự, sân khấu, điện ảnh.

1.2.2.1. Kiểu loại nhân vật

Nhân vật trong văn học là một hiện tượng đa dạng về mặt kiểu loại.

Các nhà nghiên cứu (như: Phan Cự Đệ (2001), Đỗ Văn Khang (1996), Bùi

27

Việt Thắng (1994) và nhiều tác giả khác) đã phân chia nhân vật văn học thành

nhiều kiểu loại khác nhau: Nhân vật trong văn học dân gian khác nhân vật

trong văn học viết. Nhân vật thần thoại khác nhân vật truyền thuyết và cổ tích.

Xét về phương pháp sáng tác, nhân vật cổ điển khác nhân vật lãng mạn và

nhân vật hiện thực. Xét về thể loại, nhân vật tự sự khác nhân vật kịch và nhân

vật trữ tình. Xét về kết cấu, nhân vật chính khác nhân vật phụ, nhân vật trung

tâm. Xét về ý thức hệ, nhân vật chính diện khác nhân vật phản diện. Xét về

cấu trúc hình tượng, nhân vật chức năng, nhân vật loại hình, nhân vật tính

cách, nhân vật tư tưởng đều có những đặc trưng khác biệt nhau. Dưới đây là

một số kiểu loại cơ bản được phân biệt ở ba khía cạnh: kết cấu, ý thức hệ và

cấu trúc liên quan trực tiếp đến việc phân tích lời thoại nhân vật trong luận án.

- Xét về mặt cấu trúc: Dựa vào vị trí đối với nội dung cụ thể, với cốt

truyện của tác phẩm, nhân vật văn học được chia thành nhân vật chính và

nhân vật phụ, nhân vật trung tâm.

Nhân vật chính là nhân vật đóng vai trò chủ chốt giữ vị trí then chốt

trong việc triển khai diễn biến của sự kiện. Nhân vật chính thường tham gia

xuyên suốt, xuất hiện nhiều lần trong tác phẩm. Đó cũng là nhân vật được tác

giả dày công miêu tả, khắc họa, được hiện lên rõ nét, gây ấn tượng sâu đậm với

người đọc. Nhưng chủ yếu nhất, nhân vật chính vẫn là nhân vật có vai trò quan

trọng trong việc thể hiện tập trung đề tài, chủ đề và tư tưởng của tác phẩm.

Nhân vật Hai Hùng, Ba Sƣơng (Ăn mày dĩ vãng); Sáu Nguyện, Út Thêm (Ba

lần và một lần);… đều là những nhân vật chính trong tiểu thuyết Chu Lai.

Trong số những nhân vật chính của tác phẩm lại có thể có nhân vật

được thể hiện đặc biệt nổi bật, có ý nghĩa tư tưởng - thẩm mỹ sâu sắc nhất, đó

là nhân vật trung tâm. Nhân vật trung tâm là nhân vật xuất hiện từ đầu đến

cuối tác phẩm, có mối liên hệ với tất cả những nhân vật khác trong tác phẩm.

Chính vì thế mà nó là nhân vật quy tụ các đầu mối mâu thuẫn của tác phẩm, là

28

nơi thể hiện vấn đề trung tâm của tác phẩm. Nhân vật Hai Hùng (Ăn mày dĩ

vãng); Sáu Nguyện (Ba lần và một lần); Tám Linh (Vòng tròn bội bạc)… là

những nhân vật như thế.

Bên cạnh các nhân vật chính là các nhân vật phụ. Đó là những nhân vật

ít xuất hiện trong tác phẩm, đóng vai trò thứ yếu trong việc triển khai đề tài và

biểu hiện tư tưởng tác phẩm. Nhân vật phụ là nhân vật ít được mô tả, không

được chú trọng miêu tả nhưng lại không thể thiếu vì nó có vai trò “giăng nối”

các đầu mối quan hệ, bổ sung và hỗ trợ về nhiều mặt kể cả hình thức và nội

dung tác phẩm. Nhân vật phụ có thể góp phần thể hiện chủ đề, tư tưởng cũng

như làm nổi bật tính cách nhân vật chính trong tác phẩm.

Sự hiện diện của nhân vật phụ trong tác phẩm có hai mức độ: ít được

mô tả và hầu như không được mô tả. Ví dụ trong Ăn mày dĩ vãng ngoài nhân

vật Hai Hùng, Ba Sương còn có các nhân vật như Tường, Hai Hợi, Tám

Tính… Trong Ba lần và một lần ngoài Sáu Nguyện, Tư Chao, Út Thêm còn

có Ba Đẩu, Lan Thanh, Nguyện… là nhân vật phụ trong tác phẩm.

- Về mặt ý thức hệ: Dựa vào đặc điểm của tính cách, mối quan hệ với

tư tưởng tác giả và lý tưởng của thời đại, các nhân vật lại có thể chia ra nhân

vật chính diện và nhân vật phản diện. Thực ra cơ sở xã hội của hai loại nhân

vật này suy cho cùng là dựa trên những mâu thuẫn đối kháng, trên cơ sở đấu

tranh giai cấp, đấu tranh tư tưởng trong xã hội.

Nhân vật chính diện là nhân vật mang tư tưởng, quan điểm tư tưởng và

đạo đức tốt đẹp của tác giả, của thời đại và được tác giả đề cao, khẳng định,

trái lại, nhân vật phản diện lại mang những phẩm chất xấu xa, trái với đạo

đức, lý tưởng, đáng lên án và phủ định.

Việc phân biệt nhân vật chính diện và nhân vật phản diện đã có lịch sử

lâu đời. Có những thể loại nói chung chuyên viết về nhân vật chính diện như

tụng ca, sử thi, bi kịch. Lại có những thể loại chuyên viết về nhân vật phản

diện như thơ châm biếm, truyện cười và hài kịch.

29

Khái niệm “nhân vật chính diện” và “nhân vật phản diện” là những

khái niệm thuộc phạm trù lịch sử, chúng tương ứng với khuynh hướng xã hội

và quan niệm đạo đức của từng thời đại. Nhân vật chính diện của thời đại nào

thì mang lý tưởng thẩm mỹ và lý tưởng xã hội của thời đại đó.

Tiểu thuyết Chu Lai thường hướng tới khám phá con người ở góc độ

thế sự đời tư với nhiều mặt khác nhau trong một con người. Có tốt, xấu, có

cao cả, thấp hèn, có yếu mềm, anh dũng. Con người trong văn học sau 1975 ít

khi toàn diện, toàn mỹ theo hướng lý tưởng hóa và cũng thật khó chứng minh

rằng trong tác phẩm một nhân vật nào đó lại đại diện cho tư tưởng thẩm mỹ,

lý tưởng thời đại của nhà văn.

- Dựa vào cấu trúc hình tượng, người ta có thể chia nhân vật chức năng,

nhân vật loại hình, nhân vật tính cách và nhân vật tư tưởng.

Nhân vật chức năng: là loại nhân vật xuất hiện để thực hiện một số

chức năng nào đó. Loại nhân vật này thường có đặc điểm, tính cách ổn định

với những phẩm chất cố định, không thay đổi từ đầu đến cuối. Nhân vật chức

năng thông thường chỉ xuất hiện trong văn học dân gian, văn học cổ, văn học

trung đại như: Tiên, Bụt, Thần xuất hiện để giúp đỡ người tốt, thử thách con

người, ban phát hạnh phúc; yêu tinh, phù thủy để hãm hại người lành, gieo rắc

cái ác, hiểm nguy; các vai trung để thực hiện đạo lý, cương trực; vai nịnh

gièm pha, phản trắc…

Nhân vật loại hình: là loại nhân vật thể hiện tập trung các phẩm chất xã

hội, đạo đức của một loại người nhất định của một thời. Đó là nhân vật nhằm

khái quát cái chung về loại của các tính cách và nhờ vậy được gọi là điển

hình. Loại nhân vật này bao giờ cũng có một số phẩm chất loại biệt về mặt xã

hội được nêu bật hơn hẳn các tính chất khác. Dĩ nhiên nhân vật điển hình loại,

như mọi nhân vật văn học khác, đòi hỏi một cá tính nhất định, được thể hiện

một cách sinh động qua các chi tiết cụ thể, chân thực. Nhân vật loại hình

30

thường xuất hiện nhiều trong các trào lưu văn học cổ điển Acpagông,

Tactuyp, Giuốcđanh của Môlie là những nhân vật như thế…

Nhân vật tính cách: Nhân vật tính cách thường xuất hiện trong văn học

hiện đại, là loại nhân vật có cá tính nổi bật, được xây dựng cụ thể, sinh động

như con người thực ngoài cuộc đời. Khái niệm tính cách ở đây được dùng để

chỉ một loại nhân vật được mô tả như một nhân cách, một cá nhân có cá tính

nổi bật. Nhân vật tính cách thường có nhưng mâu thuẫn nội tại, những nghịch

lý, những chuyển hóa và chính vì vậy, tính cách thường có một quá trình tự

phát triển và nhân vật không đồng nhất giản đơn vào chính nó. Trong nhân

vật tính cách có tất cả những mâu thuẫn của một dòng đời đang vận động,

không tĩnh tại mà luôn luôn thay đổi, phát triển. Hạt nhân của nhân vật tính

cách là cá tính. Đó là “con người này” cụ thể, độc đáo, cá biệt nhưng xét từ

góc độ nào đó, trong những mối tương quan nào đó lại mang giá trị và ý nghĩa

phổ biến chung.

Nhân vật tư tưởng là nhân vật có tư tưởng, nhân cách nhưng cơ bản của

nó là hiện thân của ý thức, một tư tưởng đang diễn ra trong đời sống. Chẳng

hạn như Giăng Vangiăng, Giave của Huygô, A.Q của Lỗ Tấn… Trong sáng

tác, loại nhân vật này dễ rơi vào công thức, minh họa, trở thành cái loa tư

tưởng của tác giả.

Tất cả các loại hình nhân vật trên, sự phân biệt trên chỉ mang tính chất

tương đối, nó nhằm nhấn mạnh nét trội, nét đặc trưng cơ bản của một nhân

vật nào đó. Ranh giới phân chia giữa các nhân vật không phải lúc nào cũng

rạch ròi. Đặc biệt càng về sau này, văn học hướng tới việc thể hiện con người

chân thực, sinh động, đa chiều hơn.

1.2.2.2. Nhân vật tiểu thuyết

Nếu ví ngôn ngữ là cái áo của tư tưởng thì nhân vật là hình thù con

người mặc cái áo ấy. Nhân vật là những con người cụ thể, được miêu tả trong

tác phẩm văn học, thể hiện qua từ xưng hô, qua lời kể của tác giả. Trong hội

31

thoại, nhân vật đưa ra nội dung lời thoại, chọn từ xưng hô phù hợp, đặt mình

vào mối quan hệ trao đáp, lựa chọn các yếu tố tình thái… thể hiện thái độ,

tình cảm, xử lý các tình huống hội thoại.

Trong tiểu thuyết, các lời trao đáp được hình thành do sự vận động trao

lời và đáp lời của nhân vật. Mỗi tác phẩm tiểu thuyết có hệ thống nhân vật

phong phú với mối quan hệ đan xen nhiều chiều và các tình tiết của tiểu

thuyết đều xoay xung quanh số phận của các nhân vật này. Phần đầu của tác

phẩm bao giờ cũng là bối cảnh không gian, thời gian cụ thể với những tình

tiết mở vào cốt truyện. Nhân vật tiểu thuyết không phải là một “con ngƣời

đƣợc kể ra nhƣ một hình tƣợng khối lƣợng, toàn vẹn, có thực và tạo hình”

(Thômat Mann) mà là rất nhiều nhân vật với tính cách, số phận, tư tưởng khác

nhau thậm chí trái chiều nhau tạo nên hai thế giới đối lập trong truyện như: tốt

- xấu, chính nghĩa - phi nghĩa, v.v.. Tính cách, tâm lý của nhân vật được thể

hiện qua lời thoại và dẫn thoại cùng các yếu tố khác như không gian, thời

gian, v.v.. Mỗi lời thoại của nhân vật được đặt trong một ngữ cảnh khác nhau

nhằm tô đậm diễn biến truyện cũng như nhân vật. Điều đó cho thấy, mỗi lời

thoại phải nằm trong một hệ thống đảm bảo tính logic trong sự phát triển tính

cách nhân vật. Giá trị của nhân vật không chỉ nằm trong tác phẩm mà còn có

sức lan tỏa, khái quát cho một hình mẫu nào đó trong một thời kỳ văn học. Từ

đó cho thấy nhân vật văn học là một trong những khái niệm trung tâm để xem

xét khuynh hướng sáng tác của nhà văn.

Tiểu thuyết Chu Lai với chất thế sự đậm đặc như minh chứng cho sự

thay đổi quan niệm sáng tác của văn học sau 1975. Những cách tân về phương

diện tiểu thuyết gắn với những thay đổi trong quan niệm về con người trong

thời đại mới. M.Bakhtin đã từng viết, trong tiểu thuyết “nhân vật không tƣơng

hợp với số phận và vị thế của nó. Con ngƣời hoặc cao lớn hơn thân phận

mình, hoặc nhỏ bé hơn tính cách của mình” [3, tr.27], tức là không có những

32

tính cách nguyên phiến. Con người hiện ra với tất cả các mặt tốt xấu, người

tốt có thể trở thành kẻ xấu và ngược lại, thiên thần và ác quỷ đều có thể tồn tại

trong một con người. Đặc điểm nổi bật nhất, mang tính đặc thù nhất của nhân

vật tiểu thuyết – như Từ điển thuật ngữ văn học xác định - là “con người nếm

trải”, tư duy, chịu đau khổ, dằn vặt của cuộc đời (nhân vật của sử thi, nhân vật

kịch, nhân vật truyện trung cổ dường như không mang đặc điểm này). Tiểu

thuyết miêu tả nhân vật như “con người đang biến đổi trong hoàn cảnh, con

người đang trưởng thành do cuộc đời dạy bảo”...

1.3. Giới thiệu tác giả và tác phẩm Chu Lai

1.3.1. Nhà văn Chu Lai

Chu Lai tên khai sinh là Chu Ân Lai, họ tên đầy đủ là Chu Văn Lai,

sinh ngày 05- 02- 1946. Quê ông ở thôn Tam Nông, xã Hưng Đạo, huyện

Tiên Lữ, tỉnh Hưng Yên. Ông xuất thân trong một gia đình có truyền thống

văn học, cha là nhà viết kịch nổi tiếng Học Phi. Bản thân ông cũng sớm bộc lộ

năng khiếu nghệ thuật. Gia đình ông chuyển lên Hà Nội sinh sống từ những

ngày ông còn nhỏ. Vì thế, nếu như mảnh đất Hưng Yên ngọt ngào, bình yên

đã cho ông ký ức đẹp về quê hương, làng mạc, thì Thủ đô Hà Nội tạo cho ông

cốt cách lịch lãm, tài hoa của người con đất kinh thành.

Chu Lai tình nguyện lên đường nhập ngũ khi mới học hết năm thứ nhất

đại học. Thời kỳ đầu của quân ngũ, Chu Lai được điều về làm diễn viên Đoàn

kịch nói Tổng cục Chính trị. Sau đó ông ra chiến trường trực tiếp cầm súng

chiến đấu. Sau đó, ông chuyển về đơn vị đặc công chiến đấu ở vùng ven Sài

Gòn trong những ngày gian khổ ác liệt nhất của cuộc kháng chiến chống Mỹ.

Mười năm ở đơn vị đặc công, Chu Lai giữ chức đại đội trưởng đại đội trinh

sát chiến đấu cho đến ngày giải phóng Miền Nam, thống nhất đất nước. Sau

1975, ông về làm trợ lý tuyên huấn Quân khu VII. Cuối năm 1976, ông về trại

sáng tác văn học Tổng cục Chính trị, sau đó đi học lớp khoá I của trường viết

33

văn Nguyễn Du. Tốt nghiệp trường viết văn, ông về công tác tại tạp chí Văn

nghệ Quân đội.

1.3.2. Các tác phẩm của Chu Lai

1.3.2.1. Các giai đoạn sáng tác

Chu Lai sáng tác từ rất sớm, ngay từ khi 17 tuổi, nhà văn đã cho ra đời

vở kịch ngắn Hũ muối ngƣời Mơ Nông (1963) được đăng trên tờ báo ngành

nhưng không mấy tiếng vang. Phải đến 1975, với truyện ngắn Kỷ niệm vùng

ven đăng trên báo Văn nghệ - Chu Lai mới chính thức “gõ cửa” làng văn.

Hành trình sáng tác của Chu Lai gồm hai giai đoạn: giai đoạn tiền đổi mới

(1975 - 1986); giai đoạn đổi mới (1986 - đến nay).

Giai đoạn từ 1975 đến 1986, Chu Lai đã cho ra mắt bạn đọc các tác

phẩm Ngƣời im lặng (Tập truyện, 1976); Nắng đồng bằng (Tiểu thuyết, 1977);

Đôi ngả thời gian (Tập truyện, 1975); Đêm tháng hai (Tiểu thuyết, 1982);

Vùng đất xa xăm (Tập truyện, 1983); Út Teng (Tiểu thuyết, 1983); Gió không

thổi từ biển (Tiểu thuyết, 1985). Ở những tác phẩm này, mặc dù đã có sự đổi

mới nhưng ngòi bút Chu Lai về cơ bản vẫn trượt theo quán tính văn học của

giai đoạn trước; âm hưởng chung của các tác phẩm này chủ yếu là âm hưởng

sử thi. Người đọc vẫn gặp trong tác phẩm cách miêu tả quen thuộc về con

người ở văn xuôi trước 1975 - đó là sự phân định tính cách rõ ràng của nhiều

anh hùng tham gia trận mạc.

Giai đoạn từ 1986 đến nay, ngòi bút của Chu Lai đã thực sự đổi mới

toàn diện và mạnh mẽ. Cùng với những bức xúc, day dứt xung quanh vấn đề

người lính trở về sau chiến tranh, Chu Lai đã cho ra mắt bạn đọc một loạt tiểu

thuyết dài hơi tạo thành “dòng tiểu thuyết chiến tranh và ngƣời lính của Chu

Lai” góp phần làm phong phú đời sống văn xuôi Việt Nam những năm 1990

như Sông xa (Tiểu thuyết, 1986), Bãi bờ hoang lạnh (Tiểu thuyết, 1990),

Vòng tròn bội bạc (Tiểu thuyết, 1996), Ăn mày dĩ vãng (Tiểu thuyết, 1994),

34

Phố (Tiểu thuyết, 1993), Ba lần và một lần (Tiểu thuyết, 2000), Cuộc đời dài

lắm (Tiểu thuyết, 2002).

Chu Lai là nhà văn có nhiều tiểu thuyết dành được giải thưởng, như

Ăn mày dĩ vãng (giải A của Hội đồng văn học về đề tài chiến tranh cách

mạng và lực lượng vũ trang, Hội Nhà văn năm 1993, giải thưởng văn học Bộ

Quốc phòng năm 1994); Phố (giải thưởng tiểu thuyết Nhà xuất bản Hà Nội -

1993); Ba lần và một lần (Tặng thưởng cuộc thi tiểu thuyết do Hội Nhà văn

tổ chức năm 1998 - 2000); Cuộc đời dài lắm (Giải thưởng Hội Nhà văn,

2001). Chu Lai cũng là nhà văn có nhiều kịch bản sân khấu và kịch bản

phim được dàn dựng như Hà Nội đêm trở gió, Ngƣời Hà Nội, Ngƣời mẹ tự

cháy, Ăn mày dĩ vãng... Có thể thấy, các tác phẩm này đã có những bước bứt

phá, thể hiện những quan niệm mới về hiện thực và con người, phù hợp với

thị hiếu thẩm mỹ mới của công chúng hiện đại. Số phận con người được

quan tâm hơn ở góc độ đời tư, đặc biệt hình ảnh người lính trở về sau chiến

tranh đã trở thành vấn đề nhức nhối với một quá khứ ám ảnh mang nặng ký

ức chiến tranh, họ sẽ như thế nào trong cuộc sống hiện tại thời bình? Đó

chính là cảm hứng bao trùm trong các sáng tác của Chu Lai.

1.3.2.2. Giới thiệu một số tiểu thuyết của Chu Lai dùng làm ngữ liệu

trong luận án

Tiểu thuyết Nắng đồng bằng viết sau 1975 in đậm màu sắc sử thi, mang

nhiều yếu tố lãng mạn viết về chiến tranh. Tám Linh vốn là một chàng trai Hà

Nội tham gia vào một đơn vị đặc công. Cuộc đời của người lính ấy gắn với

những chiến công đầy tự hào khi anh băng rừng, vượt sông, tìm mọi cách tiếp

cận với ấp chiến lược. Sau bao nhiêu tháng ngày ở rừng, trong một đợt hành

quân, Linh bị lạc đường khá lâu. Tìm được đơn vị, anh sống trong một tâm

trạng tràn ngập niềm vui, cái nắng đồng bằng trải ngập trong anh với niềm

háo hức, đam mê tưởng chừng như so với những cái thiếu thốn mà những

35

người lính như anh đều trải qua trong rừng thì cái nắng đồng bằng quả là món

quà quí mà thiên nhiên đã hào phóng ban tặng. Hiện thực chiến tranh chỉ có

thể khiến người lính tăng thêm lòng căm thù chứ không thể giết chết tâm hồn

đẹp đẽ, lãng mạn của họ. Những cảm xúc rung động trong trái tim khi đứng

trước mảnh đất kỷ niệm của một thời trận mạc đã xoá nhoà đi cái nặng nề, u

ám của chết chóc, đau thương. Có lẽ, chính những âm hưởng lãng mạn trong

tác phẩm đã giúp cho những người lính vượt qua sự hi sinh, mất mát khủng

khiếp của chiến tranh, nơi mà sự sống và cái chết luôn cận kề, nơi mà “ngày

nào cũng chôn ngƣời chết và không biết bao giờ đến lƣợt mình”

Ăn mày dĩ vãng được xuất bản sau khi Nắng đồng bằng ra đời, với độ

chín của thời gian và sự chiêm nghiệm suy tư tác phẩm thực sự đã gây được

sự chú ý, hoan nghênh của độc giả. Những sự kiện lịch sử và cả những sự

kiện đời thường được phản chiếu qua tâm hồn người lính. Góc độ đời tư được

khai thác tối đa trong tác phẩm tạo nên những giá trị hiện thực đến nhức nhối.

Nhân vật Hai Hùng với một quá khứ oai hùng và một hành trình tìm về ký ức

với một miền đẹp đẽ, sâu thẳm trong tình yêu với người con gái có cái tên Ba

Sương. Hùng là một mẫu người đàn ông lý tưởng, lại càng lý tưởng hơn nữa

khi anh được đặt trong bối cảnh của cuộc chiến tranh. Ăn mày dĩ vãng cũng có

những trang viết tuyệt đẹp về tình đồng đội, đồng chí trong chiến tranh. Hai

Hùng đã có những mảng ký ức vẹn nguyên, ấm áp tình đồng đội thiêng liêng.

Tình cảm ấy được tôi luyện trong lò lửa chiến tranh và vẫn vẹn nguyên trong

thời hậu chiến khắc nghiệt. Đó là sự gắn bó cùng sẻ chia vui buồn, đắng cay,

gian khổ như anh em một nhà.

Nếu như ở Ăn mày dĩ vãng là những thông điệp từ sự khốc liệt của

chiến tranh in hằn lên số phận người lính trong chiến tranh thì Vòng tròn bội

bạc, người lính khi rời xa cuộc chiến để trở về với đời thường, họ lại mang

theo một bi kịch khác - bi kịch của những con người mang đầy ký ức lạc lõng

giữa dòng chảy hối hả của nền kinh tế thị trường.

36

Ký ức về những ngày ở rừng trong Linh là khoảnh không gian rộng

mở, là tình đồng chí, đồng đội, là một thời oanh liệt, oai hùng, là những tấm

huân chương, huy chương lấp lánh. Lẽ nào tất cả chỉ còn trong dĩ vãng. Lẽ

nào giờ đây nó trở nên vô nghĩa và vĩnh viễn ngủ yên dưới đáy ba lô của một

thời trận mạc khi cuộc đời của họ bước ra khỏi cuộc chiến tranh! Cuộc đời

nghiệt ngã với bao thất vọng, đau đớn, chỉ có trời đất bao la nhuốm một vẻ

đẹp hư ảo là cho anh những giây phút ý nghĩa của quá khứ một thời.

Sáu Nguỵên trong Ba lần và một lần cũng trở về sau chiến tranh với

một hành trang là quá khứ hào hùng của một chiến sĩ quân báo. Trong khoảng

gần bốn trăm trang sách, Chu Lai đã thể hiện rõ nét từng trang đời của người

lính quân báo đánh giặc quên chết này. Khác hẳn với Hai Hùng “kẻ ăn mày dĩ

vãng”, Sáu Nguyện không quên quá khứ và cũng không lảng tránh thực tại.

Từ rừng anh về thành phố mà chẳng cảm thấy lạ lẫm với trận địa mới.

Cũng như Linh trong Vòng tròn bội bạc, Sáu Nguyện trong Ba lần và

một lần, Vũ Nguyên trong Cuộc đời dài lắm đã góp thêm một gương mặt nữa

vào hàng ngũ những người lính kiên trung, anh dũng ngay trong cả thời bình.

Đại đội trưởng trinh sát Vũ Nguyên trở về với vùng rừng cao su trong cương

vị giám đốc nông trường. Trong những tháng ngày đánh vật với cây cao su

đầy nhọc nhằn, nếu không có bản lĩnh của một người lính từng tham gia chiến

trận thì rồi không hiểu cái đầu quá sức nhạy cảm, rất dễ tổn thương của anh sẽ

biến dạng mưng mủ thế nào trước sự oái ăm của cuộc đời.

Qua khảo sát một số tiểu thuyết tiêu biểu của Chu Lai, chúng tôi thấy

trong những trang viết của nhà văn nổi bật là hình ảnh người lính với những

cảm hứng phong phú khác nhau trong chiến tranh và sau chiến tranh. Chiến

tranh đã qua rất lâu, nhưng trong lòng người, đặc biệt là những con người như

Chu Lai thì dấu ấn của nó vẫn vẹn nguyên như ngày nào. Bởi vậy trong tác

phẩm, chiến tranh cũng thật sự ấn tượng ở khía cạnh đau thương, mát mát.

Nhưng dầu vậy, trong bản đàn ấy vẫn vang lên những thanh âm trong trẻo,

37

tinh sương của những tình yêu ban đầu, của tình người e ấp, ngọt ngào đầy

sắc màu lãng mạn.

1.3.3. Hệ thống nhân vật trong tiểu thuyết của Chu Lai

Thế giới nhân vật trong tiểu thuyết của Chu Lai khá đa dạng, phong

phú gần như là một bức tranh xã hội thu nhỏ với đủ các đặc điểm: về giới

tính (nam /nữ), về thành phần xuất thân (bộ đội, nông dân, trí thức), về

cương vị xã hội (thủ trƣởng, giám đốc, ngƣời lính, ngƣời làm thuê), về thái

độ (trân trọng, yêu thƣơng, căm ghét), về đạo đức (tốt, xấu, chân thành, xảo

trá), về quan hệ (đồng chí, bạn bè, ngƣời yêu, kẻ thù), v.v… Hoàn cảnh của

các nhân vật hoạt động cũng khá là rộng với thời gian trong chiến tranh (thời

chiến) và sau chiến tranh (hoà bình); không gian mà nhà văn miêu tả, trần

thuật cho các nhân vật hoạt động là chiến trường, công trường, nông trường,

trong đời thường.

Dù nhân vật thế nào, hoàn cảnh giao tiếp ra sao thì ngôn ngữ nhân

vật cũng được thể hiện sinh động qua giọng điệu, từ ngữ mà nhân vật thể

hiện trong hội thoại. Nhân vật thế nào thì tính cách, hành động và ngôn ngữ

thế ấy. Thế giới nhân vật của Chu Lai rất đa dạng, để tìm hiểu tính cá thể hóa

của các nhân vật mà nhà văn đã dày công xây dựng, trước hết chúng tôi hệ

thống hóa, phân loại và nêu một số kiểu nhân vật tiêu biểu.

1.3.3.1. Kiểu nhân vật ngƣời lính

Trong hệ thống nhân vật mà nhà văn đã xây dựng trong các tác phẩm,

đông đảo nhất và cũng là chủ đạo nhất là nhân vật người lính. Cụ thể, tác

phẩm: Ăn mày dĩ vãng có 15 nhân vật là người lính, Ba lần và một lần có 13

nhân vật, Gió không thổi từ biển có 4, Vòng tròn bội bạc có 9, Cuộc đời dài

lắm có 4, Phố có 9, Nắng đồng bằng có 28, Bãi bờ hoang lạnh có 6, Sông xa

có 13, Chỉ còn một lần có 9 nhân vật là người lính.

Trong số nhân vật người lính, nhà văn thường chọn lựa một kiểu

người lính nhất định là nhân vật chính, nhân vật trung tâm của tác phẩm.

38

Họ có thể là người lính trong chiến tranh (như: Sáu Nguyện trong Ba lần

và một lần, Hai Hùng trong Ăn mày dĩ vãng, Hai Thanh trong Sông xa,

Thanh Nhàn trong Gió không thổi từ biển…) hay người lính thời hậu chiến

(như:Vũ Hà Nguyên trong Cuộc đời dài lắm, Nam trong Phố, Linh trong

Vòng tròn bội bạc…).

1.3.3.2. Các kiểu nhân vật khác

Ngoài kiểu nhân vật người lính có tính trung tâm, chủ đạo, trong các

tác phẩm của mình, Chu Lai còn xây dựng một hệ thống các kiểu nhân vật

khác - không phải là người lính. Họ có vị thế, tính cách, hành động, suy nghĩ

và môi trường hoàn cảnh khá là đa dạng, phong phú.

Nhân vật người nông dân, như: Út Cò ngẳng, Rổn, Năm Thúy, Hương,

Má Sáu, trong Nắng đồng bằng; Riềng, Lê, Tiến trong Sông xa….

Nhân vật người trí thức, như: cán bộ sở lâm nghiệp trong Ăn mày dĩ

vãng; Hải, Nga, ông Luân trong Gió không thổi từ biển; Hạnh, bà trưởng

phòng, Tuyến, Thủy, chị vợ Thịnh, Khâm, Quỳnh, ông anh Linh trong Vòng

tròn bội bạc; Hà Thương trong Cuộc đời dài lắm; Lan Thanh, Cầu trong Ba

lần và một lần;…

Nhân vật kẻ thù, như: Địch, Tường, Giôn trong Ăn mày dĩ vãng; thằng

Xầm, Tư Hạnh trong Nắng đồng bằng; Thuấn, Hoàng Xanh, đô trưởng trong

Gió không thổi từ biển; Viên đại úy, đồn trưởng, Quang trong Sông xa;…

Và các nhân vật khác với đủ các ngành nghề, như: ông già thƣờng trực,

gã trai phục vụ nhà hàng, cô bé tiếp viên bia ôm, cô gái lễ tân, bà chủ quán…

trong Ăn mày dĩ vãng; nhân vật thợ may trong Nắng đồng bằng; nhân vật chủ

tiệm kim hoàn, thợ may trong Gió không thổi từ biển; Cô chủ quán Thanh

Thủy, Thuần đội trưởng đội bảo vệ, Tuấn tử thần buôn bán trong Cuộc đời

dài lắm; chị hàng mía, chị hàng nước, ông già bán cà phê trong Phố; Sáu

Phượng buôn bán nhỏ, Hương kinh doanh xe máy, chị tài vụ trong Ba lần và

một lần; Dung họa sĩ, Hòa giúp việc, Vũ bác sĩ kiêm đánh máy chữ, Thi Hoài

39

nhà thơ, ông già đánh cá trong Gió không thổi từ biển; Thu Mây ca sĩ, Hai

Tính trang trại viên, Chu Thiên trợ lý trong Chỉ còn một lần,v.v…

Đặc điểm chung của các nhân vật này là dù họ không phải là người lính,

nhưng ít nhiều đều bị cuốn hút vào môi trường chiến tranh (dù là chiến tranh

trực tiếp hay chiến tranh đã lùi xa) nên có những tính cách và suy nghĩ mà âm

hưởng chiến tranh vẫn ít nhiều vang vọng vào trong cuộc sống của họ, ngôn

ngữ của họ.

Có thể nhận thấy, thế giới nhân vật trong các tiểu thuyết của Chu Lai

như là một hình ảnh thu nhỏ của xã hội - con người Việt Nam trong một giai

đoạn lịch sử - xã hội đầy biến động: thời chiến và thời hậu chiến. Bối cảnh xã

hội ấy là nền để các nhân vật bộc lộ bản chất, tư tưởng và qua các đoạn hội

thoại giữa các nhân vật, làm ta thấy rõ hơn, cụ thể hơn về đặc điểm, tính cách

của từng kiểu nhân vật và của từng nhân vật.

Bảng 1.1. Thống kê số lượng nhân vật chia theo giới tính và nghề nghiệp

chức vụ trong 10 cuốn tiểu thuyết của nhà văn Chu Lai

Giới tính nhân vật Chức vụ, nghề nghiệp Tổng/Tỷ lệ TT của nhân vật % Nam Nữ

60/153 16/64 76/217 1 Nhân vật là lính (35,0%)

5/153 3/64 2 Nhân vật là nông dân 8/217 (3,6%)

33/153 7/64 40/217 3 Nhân vật là trí thức (18,4%)

55/153 38/64 4 93/217 (42,8%) Nhân vật làm các ngành nghề khác

153 (70,5%) 64 (29,4%) Tổng 100%

40

1.4. Ngôn ngữ nhân vật và từ ngữ lời thoại nhân vật trong tác

phẩm của Chu Lai

1.4.1. Ngôn ngữ nhân vật

Đã có nhiều công trình nghiên cứu, từ góc độ lý luận văn học, thi pháp

học, ngôn ngữ học bàn về khái niệm ngôn ngữ tác giả [chẳng hạn như trong các

tài liệu: 1, 2, 3, 36, 50, 58, 95, 126]. Trên bề mặt hình thức (văn bản in ấn) của

tác phẩm, có sự phân biệt rất rõ ngôn ngữ tác giả và ngôn ngữ nhân vật, trong

đó ngôn ngữ nhân vật được thể hiện thông qua lời thoại, được đánh dấu bằng

những dấu hiệu nhất định, thể hiện qua cuộc thoại, đoạn thoại, cặp thoại.

Những dấu hiệu đó thường là: có lời dẫn thoại báo hiệu, có dấu câu (mở đầu

gồm có dấu hai chấm, dấu gạch ngang/ hoặc dấu ngoặc kép). Ví dụ: Ông Bổng

bảo vợ tôi: - Chị Thủy luộc hộ con gà, nấu hộ nồi xôi (Nguyễn Huy Thiệp).

“Ngôn ngữ nhân vật là một trong các phƣơng tiện quan trọng đƣợc nhà

văn sử dụng nhằm thể hiện cuộc sống và cá tính nhân vật” [50; tr.183]. Ngôn

ngữ nhân vật có vai trò rất quan trọng trong việc liên kết các nội dung và thúc

đẩy sự kiện trong tác phẩm vận động và phát triển; nó còn có vai trò bộc lộ

suy nghĩ, tình cảm của nhân vật, thể hiện tư tưởng của tác giả - chủ đề của tác

phẩm. Có những ý kiến nhà văn không tự nói ra mà mượn lời nhân vật nói

thay mình như một sự vô can…

Ngôn ngữ tác giả là ngôn ngữ đơn thoại, còn ngôn ngữ nhân vật là

ngôn ngữ đối thoại (các lời thoại nhân vật). “Đối thoại là một dạng thức của

lời nói, trong đó có sự hiện diện của ngƣời nghe, mỗi phát ngôn đều hƣớng

đến ngƣời tiếp chuyện xoay quanh một chủ đề hạn chế của cuộc độc thoại”

[152, tr.56]. Ngôn ngữ nhân vật còn có thể tồn tại ở dạng độc thoại (thực chất

cũng là một dạng đối thoại - nhân vật đối thoại với chính mình).

Ngôn ngữ nhân vật, cùng với ngôn ngữ tác giả làm thành một chỉnh

thể, vừa liền mạch, vừa có những cách quãng; tạo nên tính đa diện, đa thanh,

tránh được sự đơn điệu một chiều của tác phẩm tự sự.

41

Trong tác phẩm tự sự và kịch, tác giả rất chú trọng xây dựng ngôn ngữ

nhân vật. Bởi vì ngôn ngữ của nhân vật chính là ngôn ngữ, tư tưởng, quan

niệm của tác giả. Tác giả mách bảo cho người đọc tính cách của nhân vật qua

ngôn ngữ hội thoại và các chi tiết khác. Nhân vật được xây dựng nên bằng

ngôn ngữ miêu tả của tác giả và bằng chính lời thoại của nhân vật.

Ngôn ngữ nhân vật chính là lời nói trực tiếp của nhân vật trong tác

phẩm văn học được biểu đạt bằng các tín hiệu ngôn ngữ thông qua sự lựa

chọn của nhà văn nhằm mục đích tái hiện một cách sinh động tính cách đặc

điểm của nhân vật. Tuy nhiên để thể hiện đời sống và cá tính nhân vật nhà

văn phải “cá thể hóa ngôn ngữ của nó” phải làm cho ngôn ngữ nhân vật trở

thành một hình thái biểu hiện riêng biệt. Đây là một luận điểm quan trọng khi

phân tích tìm hiểu ngôn ngữ nhân vật. Trong tiểu thuyết, ngôn ngữ nhân vật

không những có vai trò then chốt trong phương thức tự sự mà còn là yếu tố cơ

bản thể hiện phong cách nhà văn, truyền đạt cái nhìn, giọng điệu, cá tính của

tác giả. Ngôn ngữ nhân vật có thể chỉ có một giọng, có thể có hai giọng (lời

nhại, mỉa mai, lời nửa trực tiếp, v.v...) thể hiện sự đối thoại với ý thức khác về

cùng một đối tượng miêu tả. Ngôn ngữ nhân vật dưới hình thức lời người kể

chuyện còn mang sắc thái, quan điểm bổ sung do lập trường, đặc điểm tâm lý,

cá tính của nhân vật mang lại. Ngôn ngữ nhân vật tiểu thuyết là một trong các

phương tiện quan trọng được nhà văn sử dụng nhằm thể hiện cuộc sống và cá

tính nhân vật. Trong tiểu thuyết, nhà văn có thể cá thể hoá ngôn ngữ nhân vật

bằng nhiều cách: nhấn mạnh cách đặt câu, ghép từ, cách phát âm đặc biệt của

nhân vật, cho nhân vật lắp lại những từ, câu mà nhân vật thích nói, kể cả từ

nước ngoài và từ địa phương, v.v.. Trong các tác phẩm tiểu thuyết, nhà văn

còn thường trực tiếp miêu tả phong cách ngôn ngữ của nhân vật.

Trong tiểu thuyết Chu Lai, nhà văn đã dung nạp nhiều dạng thức khác

nhau của nhiều kiểu loại nhân vật. Ngôn ngữ thật sự được giải phóng, tạo nên

giá trị nghệ thuật cho tiểu thuyết thông qua đối thoại. Nhờ đối thoại mà các vấn

42

đề được xem xét bằng cái nhìn đa diện. Nhân vật được nhìn nhận với tư cách là

một chủ thể độc lập. Nhân vật có vị thế ngang bằng và cùng đối thoại với nhà

văn. Ý thức đối thoại trong tiểu thuyết Chu Lai được phát huy mạnh mẽ.

Khảo sát tiểu thuyết Chu Lai, có thể nhận thấy, ngôn ngữ nhân vật

trong tiểu thuyết hầu hết được cá thể hóa cao độ đồng thời lượng thông tin

được gia tăng. K.Gunnar đã khái quát: “Chân lí luôn nằm ngoài chúng ta và

thay vì lèn chặt đời mình bằng những ngôn từ, chúng ta có thể rút lại, nói ít

đi, nhƣng hãy làm gia tăng trọng lƣợng cho mỗi từ, hãy làm mỗi từ chứa đầy

sự bí ẩn và niềm kính sợ, ngôn ngữ xứng đáng đƣợc nhƣ vậy” [76, tr.10].

1.4.2. Từ ngữ, vai trò của từ ngữ trong tác phẩm và định hướng việc

nghiên cứu từ trong tác phẩm

1.4.2.1. Từ ngữ và vai trò của từ ngữ trong tác phẩm

Trong giao tiếp, người ta trao đổi thông tin, biểu đạt tình cảm với nhau

bằng nhiều phương tiện, song ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp quan trọng

nhất. Đơn vị giao tiếp cơ bản có chức năng truyền tải thông tin là ngôn bản và

câu. Trong câu, từ là “đơn vị ngôn ngữ mà bắt đầu từ nó ngôn ngữ mới thực

hiện chức năng giao tiếp và tƣ duy” [21, tr.20]. Từ là một đơn vị có nhiều bình

diện: ngữ âm, ngữ pháp, ngữ nghĩa, phong cách và chức năng. Ở bình diện

chức năng, từ đóng vai trò miêu tả, bộc lộ và tạo lập các hành động phát ngôn.

Khi đi vào giao tiếp, các bình diện ấy được hiện thực hóa một cách sinh động,

có những biến đổi linh hoạt trong lời nói. Nhiều công trình nghiên cứu của các

nhà Việt ngữ học (Đái Xuân Ninh, 1978; Đỗ Hữu Châu, 1999; Bùi Minh Toán,

1999) đã khẳng định điều này. Các tác giả khẳng định: từ ngữ là đóng vai trò

đặc biệt quan trọng; quan trọng không chỉ ở việc tạo lập thông tin của câu mà

còn biểu hiện tư tưởng, phong cách của chủ thể phát ngôn.

Do đó, một trong những hướng nghiên cứu đặc trưng của ngôn ngữ nói

chung, ngôn ngữ trong hoạt động nói riêng chính là tìm hiểu sự hành chức của

43

từ ngữ trong ngôn bản. Qua đây, người ta có thể đánh giá được một cách chân

xác đặc điểm, vai trò của từ ngữ thể hiện tính sinh động và linh hoạt như thế

nào trong các ngữ cảnh giao tiếp. Căn cứ vào phạm vi và phong cách sử dụng,

người ta chia từ làm hai loại: từ ngữ hội thoại và từ ngữ sách vở hay còn gọi

là từ thuộc phong cách nói và từ thuộc phong cách viết.

Từ là chất liệu đầu tiên của tác phẩm văn học. Tác phẩm văn học là sản

phẩm của nghệ thuật ngôn từ. Đó là những luận điểm được khẳng định hiển

nhiên, nói lên vai trò của từ ngữ trong sáng tạo nghệ thuật. Từ ngữ tham gia

vào trong giao tiếp hàng ngày cũng như trong tác phẩm văn học để tổ chức

thành các câu, các đoạn văn và toàn bộ tác phẩm; từ có mặt trong ngôn ngữ

tác giả (thường là những từ thuộc phong cách viết) và ngôn ngữ nhân vật

(thường là những từ thuộc phong cách nói)… Đối tượng nghiên cứu của luận

án là ngôn ngữ nhân vật, tức là tìm hiểu các lời đối thoại trong tác phẩm, mà

các quan hệ đối thoại, như M. Bakhtin đã chỉ rõ: “có thể đi sâu vào bên trong

lời phát ngôn, thậm chí thâm nhập vào từng từ ngữ, nếu trong từ ngữ đó có

hai tiếng nói xung đột nhau theo kiểu đối thoại” [2, tr.174].

1.4.2.2. Định hƣớng việc nghiên cứu từ trong tác phẩm để làm rõ đặc

điểm ngôn ngữ nhân vật trong tiểu thuyết Chu Lai

Khi tìm hiểu ngôn ngữ trong hội thoại, mà cụ thể ở đây là ngôn ngữ

nhân vật, để nhận xét rút ra các đặc điểm về sự hành chức của ngôn ngữ trong

đời sống nói chung, trong giao tiếp nghệ thuật nói riêng thì có nhiều vấn đề,

nhiều phương diện có thể khảo sát, nghiên cứu, chẳng hạn như: hành động

ngôn ngữ, lập luận, ý nghĩa tường minh và hàm ẩn, các đơn vị hội thoại,

v.v… Trước các vấn đề rộng lớn đặt ra như vậy, trong khuôn khổ luận án,

chúng tôi chỉ chọn một trong những phương diện có liên quan đến ngôn ngữ

nhân vật, phương diện đó là từ - đơn vị nhỏ nhất - góp phần tạo lập các đơn vị

hội thoại trong ngôn ngữ nhân vật.

44

Cơ sở để lựa chọn từ làm đối tượng và đơn vị khảo sát của luận án là

căn cứ vào vai trò và chức năng hoạt động của từ trong giao tiếp nói chung,

giao tiếp nghệ thuật nói riêng, căn cứ vào sự hành chức của từ trong tác phẩm

cũng như cách tiếp cận nghiên cứu từ từ quan điểm ngữ dụng. Cụ thể là:

a) Tác phẩm văn học là sản phẩm của nghệ thuật ngôn từ. Từ ngữ tham

gia vào trong giao tiếp hàng ngày cũng như trong tác phẩm văn học có thể có

đến hàng vạn từ, với nhiều đặc điểm về nguồn gốc, cấu tạo, ngữ nghĩa, phong

cách, chức năng… hết sức phong phú và đa dạng. Để làm sáng tỏ đặc điểm

hoạt động và vai trò của ngôn từ trong sáng tác văn học, cụ thể là làm rõ đặc

điểm ngôn ngữ nhân vật, chúng tôi dựa vào chức năng dụng học của từ thể

hiện ở lời thoại các nhân vật trong tiểu thuyết của Chu Lai.

Chức năng dụng học, theo Bùi Minh Toán, “là chức năng “bộc lộ” các

nhân vật giao tiếp về các mặt tình cảm, thái độ, quan hệ của họ đối với nhau,

và thái độ tình cảm của họ đối với sự vật, sự việc đƣợc nói tới hay đối với

chính hoạt động giao tiếp họ đang tiến hành” [136, tr.51].

b) Khi khảo sát các lớp từ từ góc độ chức năng dụng học, chúng tôi

nhận thấy các lớp từ nổi bật nhất trong tác phẩm của Chu Lai gồm: từ xƣng hô,

từ thông tục, quán ngữ và thành ngữ… Lí do chọn lựa các lớp từ này để tìm

hiểu, phân tích trong các chương của luận án là:

- Dựa vào kết quả thống kê hệ thống nhân vật, hệ thống từ ngữ ở lời

thoại trong các tiểu thuyết của nhà văn Chu Lai, chúng tôi nhận thấy: các từ

ngữ mang tính khẩu ngữ (từ xƣng hô, từ thông tục, quán ngữ và thành ngữ) có

điểm nổi bật về số lƣợng (xuất hiện nhiều trong các lời thoại) và tần số sử

dụng (lặp đi lặp lại);

- Căn cứ vào khả năng “bộc lộ”, chức năng “dụng học” của các từ ngữ

trong việc thể hiện đặc điểm và tính cách nhân vật. Theo Đỗ Hữu Châu: “Đại

từ là một hiện tượng dụng học bởi vì chúng chỉ được xác định nhờ mối quan

hệ với người nói người nghe, với vai trò và vị thế của người này...” [20, tr.

45

226]; các từ thông tục, quán ngữ, thành ngữ... cũng được xem xét từ góc độ

dụng học, bởi vì chúng cũng nằm trong số “có không ít những nét nghĩa có

quan hệ với người sử dụng ngôn ngữ, người nói hoặc người nghe” [20, tr. 229].

Theo chúng tôi, tìm hiểu phân tích các lớp từ ngữ dựa vào các căn cứ

này có thể giúp phát hiện ra đặc điểm ngôn ngữ nhân vật, ngôn ngữ của tác

phẩm và qua đó là phong cách của nhà văn trong việc phản ánh đời sống xã

hội trong những hoàn cảnh lịch sử nhất định. Đó là tiền đề và định hướng để

chúng tôi tìm hiểu đặc điểm ngôn ngữ nhân vật từ bình diện từ ngữ trong

trong tiểu thuyết của nhà văn Chu Lai.

1.5. Tiểu kết

Trong chương 1, chúng tôi đã trình bày những vấn đề lí thuyết liên

quan đến đề tài, bao gồm: lý thuyết về hội thoại, ngôn ngữ hội thoại, vai trò

của từ ngữ trong tác phẩm và cơ sở lý luận của việc tìm hiểu từ ngữ để làm rõ

đặc điểm của ngôn ngữ nhân vật trong tác phẩm của Chu Lai.

Chương 1 cũng giới thiệu một số điểm khái quát về tác giả Chu Lai và

các tác phẩm của ông liên quan đến nguồn ngữ liệu mà luận án khảo sát, phân

tích, chứng minh. Chu Lai là một tác giả có khối lượng tác phẩm khá đồ sộ,

nhiều vấn đề đặt ra trong các tác phẩm của nhà văn cần được nghiên cứu,

trong đó có vấn đề ngôn ngữ nhân vật. Tìm hiểu ngôn ngữ nhân vật có thể

giúp ta hiểu rõ hơn đặc trưng ngôn ngữ nghệ thuật và phong cách nghệ thuật

của nhà văn trong thời kỳ đương đại.

46

Chương 2

ĐẶC ĐIỂM NGÔN NGỮ NHÂN VẬT

TRONG TIỂU THUYẾT CHU LAI QUA TỪ NGỮ XƯNG HÔ

2.1. Một số vấn đề chung về từ ngữ xưng hô trong tiếng Việt

2.1.1. Khái niệm từ xưng hô trong tiếng Việt

Xƣng hô (hay còn gọi là xưng gọi) là thuật ngữ dùng để chỉ việc tự gọi

tên mình (xưng) và gọi tên người khác (hô). Có thể nói, trong bất kỳ cuộc

giao tiếp nào cũng không thể thiếu được hành động xưng hô và các từ ngữ

dùng để xưng hô. Từ xưng hô đã được nhiều tác giả đề cập trong các công

trình nghiên cứu về ngữ pháp, về dụng học (như: Nguyễn Tài Cẩn, Đỗ Hữu

Châu, Diệp Quang Ban, Đinh Văn Đức, Hoàng Trọng Phiến, Cù Đình Tú,

Nguyễn Văn Khang, Nguyễn Văn Chiến, Đỗ Thị Kim Liên, Bùi Thị Minh

Yến, Trương Thị Diễm)…

Xưng hô là “tự mình xƣng mình và gọi ngƣời khác là gì đó khi nói với

nhau khi biểu thị tính chất của mối quan hệ với nhau” (Từ điển tiếng Việt).

Theo Đỗ Thị Kim Liên: “Từ xƣng hô là những từ dùng để xƣng hô giữa các

nhân vật khi giao tiếp. Xƣng hô cũng đƣợc xem nhƣ một phạm trù, đó là phạm

trù ngôi. Khi nói đến từ xƣng hô, ngƣời ta thƣờng đề cập đến nhóm đại từ xƣng

hô đích thực và danh từ thân tộc chuyển hóa thành từ xƣng hô” [87, tr.174]. Các

loại từ dùng để xưng hô trong giao tiếp được Cù Đình Tú xác định: “Bên cạnh

các đại từ nhân xƣng: tôi, ta, tao, chúng tôi, chúng tao (ngôi 1), mày, bay, chúng

mày, chúng bay (ngôi 2), nó, hắn, y, va, nghỉ, chúng nó (ngôi 3), tiếng Việt còn

dùng tất cả các từ chỉ họ hàng, thân thuộc làm từ xƣng hô, nhƣ: cụ, bà, ông, cha,

mẹ, chú, thím, cô, dì, cậu, mợ, anh, chị, em, cháu… Tuy nhiều nhƣ vậy mà vẫn

chƣa đủ, ngƣời ta còn lấy các từ chỉ chức tƣớc của cá nhân, ngƣời ta còn lấy cả

họ, và cả tiếng đệm giữa họ và tên nữ giới (thị) để dùng làm từ xƣng hô, thậm

chí còn dùng cách nói trống không (từ xƣng hô zero) để xƣng hô” [141, tr.258].

47

Xưng hô là một tập quán và là biểu hiện của văn hoá ứng xử, qua cách

xưng hô người ta có thể nhận biết thái độ, tình cảm, quan hệ của những người

người đối thoại. Trong giao tiếp nói chung, giao tiếp bằng tiếng Việt nói

riêng, người ta huy động một số lượng khá lớn các từ để xưng hô và giao tiếp

cũng đòi hỏi người ta phải biết cách lựa chọn từ xưng hô thích hợp. Trong tác

phẩm văn học, hệ thống từ xưng hô phong phú là một “lợi thế” để các tác giả

thể hiện khả năng vận dụng và sáng tạo của mình vào tác phẩm. Việc vận

dụng thế nào là tùy vào cá nhân và các nhân vật (tính cách, tuổi tác, trình độ,

tình cảm…) gắn với hoàn cảnh giao tiếp của từng đối tượng. Khi giao tiếp,

người ta có thể dùng từ xưng hô hoặc có thể không (nói trống). Khảo sát lời

thoại giữa các nhân vật trong tiểu thuyết Chu Lai, số lượng lời thoại dùng từ

xưng hô là 22171 lần (chiếm tỉ lệ 98,1%) cao hơn hẳn số lượng lời thoại

không dùng từ xưng hô là 423 lần (chiếm tỉ lệ 1,8%).

2.1.2. Chức năng của từ xưng hô trong tiếng Việt

Từ xưng hô là một lớp từ thông dụng, được con người sử dụng khi thực

hiện hành vi giao tiếp bằng ngôn ngữ. Ngoài chức năng xưng - hô, nhóm từ

này còn có các chức năng khác, bởi khi dùng chúng trong giao tiếp các từ này

đã “mặc nhiên” bộc lộ các ý nghĩa, các thông tin nào đó mà không cần các

yếu tố phù trợ khác (thông tin tiền giả định).

Chẳng hạn, trong Ăn mày dĩ vãng chỉ một câu thoại ngắn “- Ba Sƣơng!”

đã có thể cho ta nhiều thông tin về các nhân vật (ngƣời nói /ngƣời nghe) trong

cuộc giao tiếp. Các thông tin đó có thể là:

1) Từ hô gọi (Ba Sƣơng): gọi tên riêng, ngôi 2, số ít;

2) Vị thế: ngang bằng nhau;

3) Mối quan hệ: thân mật, tình cảm;

4) Mục đích: chào hỏi, biểu cảm.

Lời thoại chỉ với một từ hô gọi như thế đã có thể bộc lộ nhiều thông tin

ta có thể suy ra mà chưa cần xem xét nó trong ngữ cảnh của cuộc thoại. Qua

48

những thông tin thể hiện qua ví dụ trên, có thể thấy rõ rằng từ xưng hô còn có

chức năng biểu thị vị thế và tình thái của các nhân vật tham gia giao tiếp.

Như vậy, có thể hiểu từ xƣng hô là những từ dùng để xƣng (bản thân) và

hô (với ngƣời khác) trong giao tiếp. Xét về nguồn gốc, từ xƣng hô có nhiều loại:

là những đại từ nhân xƣng chuyên dụng để xƣng hô (tôi, mày, nó), là những từ

loại khác chuyển loại dùng để xƣng hô (bác, em, đồng chí). Từ xƣng hô ngoài

chức năng dùng để xƣng hô còn biểu thị vị thế và tình thái trong giao tiếp.

2.2. Các loại từ ngữ xưng hô trong ngôn ngữ nhân vật của tiểu

thuyết Chu Lai

2.2.1. Từ xưng hô là đại từ

2.2.1.1. Xung quanh khái niệm đại từ nhân xƣng

a) Đại từ nhân xưng “là những từ dùng để chỉ ngƣời hay vật tham gia

giao tiếp”[5, tr.1].

Hệ thống đại từ nhân xưng (ĐTNX) xuất hiện trong ngôn ngữ giao tiếp

có chức năng trỏ ngôi trong xưng hô hay nói cách khác là mang tính phạm trù

của ngôi. Trong tiếng Việt, nhóm ĐTNX ngôi thứ nhất: trỏ người nói, có 24

đại từ, trong đó: số ít có 8 đại từ: ta, ngƣời ta, tôi, tớ, mình, tui, tao, thiếp (từ

cũ), số nhiều có 16 đại từ: chúng ta, chúng tôi, chúng tớ, chúng mình, chúng

tao, bọn ta, bọn tôi, bọn tớ, bọn mình, bọn tui, bọn tao, tụi tôi, tụi ta, tụi mình,

tụi tui, tụi tao. Nhóm ĐTNX thứ 2: trỏ người nghe, có 22 đại từ, gồm: 10 đại

từ số ít: bạn, mi, nhỏ, mày, ngƣơi, ngƣời, ngài, chàng- nàng (từ cũ), và 12 đại

từ số nhiều: các bạn, các cậu, chúng bay, bay, chúng mày, bọn bay, bọn mày,

mấy đứa, các ngƣơi, mấy ngƣời, các ngài. Nhóm ĐTNX ngôi thứ 3: trỏ người

hay vật được đề cập tới và không trực tiếp tham gia giao tiếp, có 21 đại từ

gồm: 8 đại từ số ít: nó, hắn, gã, y, lão, thị, ả, mụ và 13 đại từ số nhiều: ngƣời

ta, chúng, chúng nó, bọn chúng, lũ chúng nó, tụi nó, bọn nó, bọn hắn, các

hắn, các lão (ấy, đó), các thị, các ả, các mụ (ấy, đó).

Trong số 66 ĐTNX tiếng Việt, có một số ít đại từ có tính lưỡng ngôi

hoặc gộp ngôi: ta (ngôi 1 và ngôi 2), người ta (ngôi 1 và ngôi 3).

49

b) Thống kê số lần xuất hiện đại từ nhân xưng ở ngôn ngữ nhân vật

trong tiểu thuyết Chu Lai

Nhân vật trong tiểu thuyết Chu Lai sử dụng từ xưng hô rất phong phú

trong mỗi hoàn cảnh giao tiếp. Với mục đích xác định ngôi giao tiếp cho các

nhân vật, nhà văn đã có những thay đổi linh hoạt trong sử dụng ngôi nhân vật.

Việc khảo sát tiểu thuyết của nhà văn Chu Lai cho thấy, trong tổng số lời

thoại nhân vật có dùng các từ xưng hô là 22.171 lần thì ĐTNX là 8.820 lần,

chiếm 39,7%, các từ xưng hô khác là 13.351 lần, chiếm 60,2%.

Căn cứ vào hệ thống đại từ nhân xưng trong tiếng Việt, chúng tôi đã

khảo sát ngôn ngữ nhân vật Chu Lai trong 10 cuốn tiểu thuyết và thống kê số

lượng và tần số sử dụng đại từ nhân xưng trong lời thoại nhân vật cụ thể qua

bảng sau:

Bảng 2.1. Bảng thống kê tần số sử dụng ĐTNX trong lời thoại nhân vật

của tiểu thuyết Chu Lai

ĐTNX trong lời thoại (tần số)

ĐTNX ngôi 1

ĐTNX ngôi 2

ĐTNX ngôi 3

Số ít

Số nhiều

Số ít

Số nhiều

Số ít

Số nhiều

mày (1153), mi (14), bay (12).

bọn mày (120), chúng mày (34), bọn bây

nó (970), hắn (651), thằng (22), tớ (92), gã

chúng nó (223), người ta (187), chúng (34),

tôi (1639), tao (1230), tớ (437), mình (239),

chúng tôi (280), chúng ta (236), bọn mình (131),

(29), tụi bây (23).

(89), kẻ (12), người ta (10).

bọn nó (14), bọn chúng (12), bọn hắn (12).

tui (57), ta (48), bọn này (12), bọn tao (67), chúng ta (378), người

chúng mình (98), bọn tao (82), mình (75), ta (69), tụi mình (23).

ta (6).

4113/8820 (46,6%)

994/8820 (11,2%)

1179/8820 (13,3%)

206/8820 (2,3%)

1846/8820 (20,9%)

482/8820 (54,%)

50

Từ kết quả thống kê này, chúng tôi đi vào tìm hiểu vai trò của đại từ

nhân xưng ở các ngôi trong ngôn ngữ nhân vật.

2.2.1.2. Vai trò của đại từ nhân xƣng trong lời thoại nhân vật

Để làm rõ vai trò của đại từ nhân xưng thể hiện trong ngôn ngữ nhân

vật trong tiểu thuyết của Chu Lai, chúng tôi thống kê số lượng và tần số sử

dụng của các đại từ này. Số liệu thống kê cho thấy trong số các từ xưng hô

được dùng trong lời thoại nhân vật, đại từ nhân xưng ngôi 1 là 5107 lần chiếm

57,9%, trong đó đại từ nhân xưng ngôi thứ 1, số ít được dùng nhiều nhất với

4.113 lượt dùng chiếm 46,6%; những từ xuất hiện nhiều nhất của nhóm này

là: tôi, tao, tớ … đại từ nhân xưng ngôi 1, số nhiều là 994 lần chiếm 11,2%,

gồm các từ: chúng tôi, chúng ta, bọn mình...

Đại từ nhân xưng ngôi thứ 2 được sử dụng 1305 lần chiếm 14,7%,

trong đó đại từ nhân xưng ngôi thứ 2, số ít xuất hiện nhiều trong lời thoại

nhân vật với 1.179 lần, chiếm tỷ lệ 13,3%, từ xuất hiện nhiều nhất trong loại

từ này là: mày; số nhiều là 206 lần chiếm 2,3%, gồm những từ: bọn mày,

chúng mày…

Đại từ nhân xưng ngôi thứ 3 xuất hiện 2.328 lần chiếm 26,3%, trong đó

đại từ nhân xưng ngôi thứ ba, số ít là: 1846 lần, chiếm 20,9%, gồm các từ: nó,

hắn, thằng…; đại từ nhân xưng số nhiều là 482 lần, chiếm 5,4%, gồm các từ:

chúng nó, ngƣời ta, chúng...

Khảo sát lời thoại các nhân vật, ta thấy cách dùng từ xưng hô nói chung,

dùng đại từ nói riêng đã thể hiện khá rõ các thông tin liên quan giữa các nhân

vật. Các thông tin đó bao gồm: vị thế, thứ bậc (cao, thấp, ngang hàng), quan

hệ (gia đình, xã hội) và tình thái (trang trọng, bình thƣờng, thân mật, coi

thƣờng) giữa những người đối thoại.

Mỗi từ và nhóm đại từ nhân xưng đều có chức năng vai trò tự thân

(xƣng hô, thể hiện các thông tin), tuy nhiên khi ở trong các ngữ cảnh giao tiếp

51

(hành chức trong đời sống) về cơ bản chúng vẫn thể hiện các vai trò chức

năng đó nhưng linh hoạt phong phú trong các ngữ cảnh, nhất là vai trò biểu

thị tình thái. Sau đây, chúng tôi đi vào miêu tả các ngữ cảnh, phân tích vai trò

biểu thị tình thái của đại từ nhân xưng trong lời thoại nhân vật.

a) Đại từ nhân xưng biểu thị thái độ thân tình

- Tao nghe nói nó chƣa chết? Chết chó nào đƣợc! Mổ xẻ, vá víu cho nó

xong, tao chắc mẩm rằng nhất định nó sẽ nghẻo củ tỏi trên đƣờng chuyển về

phía sau, chín miểng đạn, toàn vào chỗ phạm chứ ít ỏi gì, vậy mà mấy tháng

sau đã lại nghe nói nó đang vồ đàn bà con gái ở trên rừng già rồi. Chỉ tội

nghiệp cho Hai Hợi… [XIII, tr.117].

Qua cách xưng hô của hai nhân vật trong đoạn hội thoại trên, đại từ

nhân xưng tao được sử dụng đã cho biết mối quan hệ giao tiếp của họ. Đây là

quan hệ thân tình giữa hai người bạn thân từng vào sinh ra tử trong chiến

tranh và bây giờ họ lại gặp lại nhau trong cuộc sống đời thường để ôn lại

những kỷ niệm một thời, những lo toan, trăn trở của cuộc sống hiện tại.

Hoặc đoạn thoại sau đây:

- Dòm cái bộ dạng mày lúc này là biết mày đang đói rũ. Đói ăn đói

uống còn đỡ, thằng đàn ông đói cái khoản này nhìn bệ rạc lắm!

… - Con khẹc!... - Tôi nghe rõ tiếng nó thở ra, nặng và sâu - Ngày xƣa

bom đạn chết chóc nhƣờng ấy mà thịt da mày vẫn săn seo, thân thể trùng trục

nặng 65 ki - lô, vậy mà hòa bình mới có mƣời năm, ngƣời ngợm mày đã hƣ

hỏng đi nhƣ thế! Hƣ từ trong ra ngoài. Khốn nạn cho mày, thằng chỉ huy

trinh sát đặc nhiệm quân giải phóng ơi!

… - Sao lại không nhắc - Hắn nhƣ gầm lên - Mày mắc cỡ à? Mày nhục

à? Cuộc sống bây giờ tuy khốn nạn thật nhƣng thử đứa nào xúc phạm đến

những chữ ấy coi. Tao bắn bỏ liền.

… - Mày có bỏ ngay cái kiểu cƣời ấy đi không! Tƣởng tao thích cái trò

đĩ điếm ấy lắm hả? Còn lâu. Đời thiếu gì gái góa chết chồng hay gái non

52

chán đời? Tao biết mày đang nghĩ đến con nhỏ Sƣơng, đang ám ảnh khổ sở vì

nó nên tao nói vậy cốt cho mày nổi khùng mà quên phứt nó đi. Hiểu chƣa,

khọm già? Tuy nhiên mày cũng nên sớm có lại một con đàn bà đi. Đàn bà cỡ

gì cũng đƣợc, miễn là đàn bà. Bởi lẽ với một cái đầu bệnh hoạn nhƣ của mày,

chỉ có một con đàn bà mới có thể làm quên đƣợc một con đàn bà. Tao nói thế

này vì… tao cũng đã trải qua hoàn cảnh nhƣ mày, có khi còn thê thiết hơn

[XIII, tr.117].

Ngôn ngữ thoại của nhân vật sử dụng đại từ nhân xưng mày với tần

xuất khá dày. Câu chuyện tâm sự đến tận đêm khuya của hai người bạn chung

một trận tuyến. Những ngang trái, những đau đớn dồn nén đã được bộc lộ qua

lời thoại sau bao nhiêu mất mát vì chiến tranh mà họ đã trải qua. Ba Thành

như dồn hết cả những ấm ức của mình và của bạn trong câu nói. Từ xưng hô

mày - tao giữa họ với nhau có sự thân tình, đồng cảm, có cả sự thân mật đến

suồng sã, nhưng có thể hiểu được vì họ từng là người lính với nhau, đã nếm

trải đủ mùi gian khổ, sống chết cùng chia sẻ nên họ bộc lộ tất cả tình thái

trong lời nói một cách tự nhiên mà không phải ý tứ, giữ gìn gì.

b) Đại từ nhân xưng biểu thị thái độ coi thường

Cặp đại từ xưng hô tao - mày không chỉ biểu thị sự thân mật, suồng sã

giữa các nhân vật giao tiếp mà trong những tình huống giao tiếp nhất định

chúng lại biểu thị tình thái khác:

(1) - Tha thứ cho bọn tao nhé, Bảo ơi!... Bọn tao không còn cách nào

khác… Không còn phƣơng tiện nào khác. Bọn tao không nỡ nhìn mày chết

trên đƣờng cáng đi phẫu. Xa lắm… muốn mày chết ở đây, giữa bạn bè. Hãy

tha thứ… Hãy nhắm mắt lại cho bọn tao đỡ khổ… Đƣợc không? [XIII, tr.80].

(2) - Thôi đi! Đừng ai nói gì nữa hết! - Linh đột ngột quay lại hét lên,

mắt bạc phếch - Chỉ cần nhƣ vậy cũng đủ để không chịu nổi nữa rồi - Anh đi

tới trƣớc mặt Hòe, giọng rin rít trong khi tên này vô tình đƣa tay lên mặt che

53

đỡ - Xéo ngay! Xéo ngay và đừng bao giờ để tao phải thấy lại cái mặt mày

nữa. Xéo! Không, thề có trời đất, tao sẽ quẳng mày từ trên sân thƣợng xuống

mặt đƣờng nhƣ quẳng một con chó bây giờ. Xéo! [XIV, tr.346].

Ở hai đoạn thoại trên, nhân vật đều dùng ngôn ngữ xưng hô mày - tao,

nhưng ý nghĩa biểu thị của cách xưng hô lại khác nhau. Ở ví dụ (1) là lời của

nhân vật Hai Hùng nói với Bảo - người đồng đội giữa chiến hào ác liệt. Lời

thoại nói chung, từ xưng hô mày - tao nói riêng thể hiện sự thân tình nhưng

xót thương, day dứt và đau đớn đến tận cùng khi phải bỏ lại người đồng đội bị

thương nặng mà không có cách nào cứu được. Ở ví dụ (2) là lời thoại của

Linh nói với Hòe - nhân vật từng là người lính cùng chiến hào trong chiến

tranh nhưng nay khi trở về thời bình lại biến thành kẻ sâu mọt, tráo trở, cường

hào áp bức những người dân vô tội. Lời thoại nhân vật Linh thẳng thắn, vạch

mặt kẻ phản bội, kẻ bôi nhọ hình ảnh và danh dự người lính trở về sau chiến

tranh mà họ đã cùng thề nguyền trước đây. Có thể nói, cách xưng hô trong lời

thoại như trên là phù hợp với tính cách của các nhân vật người lính: bộc trực,

thẳng thắn, bày tỏ thái độ yêu ghét dứt khoát, rõ ràng.

c) Đại từ nhân xưng biểu thị tình thái trung hòa

Trong tình huống giao tiếp khác, tác giả lại để cho các nhân vật giao

tiếp bộc lộ tình thái trung hòa, có phần khách khí và lạnh nhạt khi sử dụng từ

xưng hô tôi - ông:

- Ông kỳ quá! Ông làm nhƣ tôi và ông đang sống trong một tích tuồng

cải lƣơng mùi mẫn không bằng. Mời ông hút thuốc đi, cứ hút rồi nhìn gì thì

nhìn. Nhìn kỹ coi tôi có phải con ngáo ộp hay một nhân viên tình báo, một nữ

phản gián có hạng không?

… - Thôi đi! - Bất ngờ ngƣời đàn bà hất mặt lên đầy quyền uy và khắc

nghiệt - Sau một ngày làm việc mệt nhọc, lúc này tôi đang cần nghỉ ngơi. Xin

lỗi! Tôi không đủ thì giờ để ngồi nghe những lời nói rồ dại, ngớ ngẩn của ông.

54

Mà thực chất ông là ai nhỉ? Ông nhân danh ai, nhân danh cái gì để cho mình

đƣợc cái quyền đến đây hạch sách tôi? Cơ quan sắp đến giờ đóng cửa, ông nên

đi xuống kẻo nhân viên bảo vệ họ lên lại phiền. Mời ông! [XIII, tr.235].

Thái độ của nhân vật, con người nhân vật hoàn toàn phù hợp với từ

xưng hô ông - tôi. Ranh giới giữa hai nhân vật được xây dựng nên bằng một

“bức tƣờng” ngôn từ mang tính trung hoà, thậm chí có phần xa cách, lạnh

nhạt. Nhân vật Ba Sương trong tác phẩm từng là người yêu của ông, nhưng

sau bao năm họ gặp lại nhau, bà đã dùng những từ ngữ không mấy thân

thiện, pha chút mỉa mai, khinh miệt để che giấu cái chao nhẹ, rùng mình khi

đứng trước người đàn ông từng là người yêu mình năm xưa. Trong tình

huống này, từ xưng hô đã thể hiện quan hệ tình cảm, thái độ của các nhân

vật trong giao tiếp.

Trong giao tiếp, bên cạnh các nhân vật giao tiếp trực tiếp giữa người

nói (ngôi 1) và người nghe (ngôi 2), còn có thể có những từ xưng hô liên quan

đến ngôi 3 là nhân vật không trực tiếp xuất hiện trong cuộc thoại, nhưng lại

liên quan đến cuộc thoại. Tình thái giữa các nhân vật sẽ được bộc lộ khá rõ

trong cuộc thoại qua cách dùng từ xưng hô, nhưng không đơn giản một chiều

(thân tình, trung hòa, coi thƣờng…) mà đôi khi lại đan xen nhiều tình thái

phức tạp. Điều này được thể hiện trong một số lời thoại giữa các nhân vật

trong tác phẩm của Chu Lai.

Trong Ăn mày dĩ vãng, nhân vật Ba Sương đi tìm lại chính mình

trong hiện tại đã cay đắng nhận ra sự thật về những người mà cô đã từng

biết trước đó:

- Ngƣời ta là ai?... Chả lẽ lại là cái gã trung úy đồ tể ngồi chung xe với

chị dạo nọ? Cái gã đã…

- Thì ra anh cũng biết hắn?... Trời! Thôi, cũng chả sao. Rồi tất cả mọi

điều sẽ đƣợc biết hết. Nhƣng riêng lần này thì không phải là hắn. Đông hơn

hắn, khủng khiếp hơn hắn nhiều. Họ là… [XIII, tr.323].

55

Các đại từ gã, hắn, ngƣời ta trong lời thoại là thuộc ngôi thứ 3, nhân

vật vắng mặt nhưng có liên quan đến nội dung giao tiếp. Ở trong ngữ cảnh

này, Ba Sương muốn nhắc đến nhân vật Địch, một kẻ gây tội ác khủng khiếp

trong chiến tranh nhưng khi hòa bình lại khôn khéo và xảo trá núp bóng người

khác để làm người “lương thiện”.

Trong Ba lần và một lần cũng có những đoạn thoại mà các nhân vật

giao tiếp nhắc đến nhân vật thứ ba bằng các từ nó, hắn, quản đốc ngƣời Hàn.

Việc dùng từ hô gọi như thế, cùng với sự phù trợ của các ngôn từ khác trong

lời thoại, đã thể hiện sự khinh bỉ và căm hận của người nói:

- Quản đốc người Hàn? - Đến lượt anh trợn tròn mắt kinh ngạc - Sao

nó lại đánh? Sao có thể dám đánh?

- Tụi em làm lỗi ít mét vải do mệt quá… thiếu ngủ quá! Nó đánh cả tổ.

Đánh bằng dép… Cứ mặt nó nện…

- Thế tụi em chịu cho nó nện à? Đứng im à? Hả?...?

- … Nhƣng sao? Đánh chứ? Dạy cho nó bài học nữa chứ? - Anh hỏi

lại có vẻ sốt ruột.

- … Hắn đi tới…

- Hắn nào? Hắn là ai? [XV, tr.278].

Ở câu thoại đầu, ta thấy có sự thay đổi từ nhân xưng Quản đốc ngƣời

Hàn bằng nó. Với cách thay đổi đột ngột từ xưng hô này khiến ta hiểu thái độ

của người nói (và cũng là của tác giả): sự phẫn nộ của tụi em - những người

công nhân khi bị chà đạp về danh dự, nhân phẩm bởi một tay quản đốc ngoại

quốc. Và oái oăm thay kẻ tiếp tay cho những hành động khinh miệt người

Việt Nam lại chính là một người Việt Nam, một người lính từng tham gia

chiến tranh giải phóng dân tộc. Trong đoạn thoại tiếp theo, nhân vật hắn xuất

hiện bằng giọng nói ráo hoảnh và vô tình:

- Rút kinh nghiệm nghen, các cô. Người ta làm ăn theo kiểu công

nghiệp hiện đại đã quen, các cô lại quá tùy tiện, vẫn cái thái độ nông dân

56

manh mún, cái thói đƣợc chăng hay chớ, làm giả ăn thật, nên chẳng qua

ngƣời ta xót ruột, ngƣời ta thiếu kiềm chế một chút thôi. Xét cho cùng cũng là

tại mình, các cô nên bảo ban nhau mà làm ăn cho nghiêm ngắn đừng để xảy

ra những chuyện không đẹp nhƣ thế này nữa khiến chúng tôi buộc phải có

thái độ [XV, tr.280].

Hắn ở đây chỉ Năm Thành. Hắn có vẻ bề ngoài nhã nhặn và lịch thiệp,

cùng với sự rộng rãi trong việc làm từ thiện, hắn đã trở thành điển hình của

một doanh nhân thành đạt, tiêu biểu của cơ chế thị trường. Người ta tung hô

hắn, ngưỡng mộ hắn, nhưng thực ra, bên trong con người này là sự xảo trá

mưu mô. Cách xưng hô của hắn với công nhân các cô - mình tạo sự gần gũi,

thâm mật như người trong một nhà. Đứng trước sự xúc phạm nhân phẩm vượt

quốc gia như vậy, nhưng hắn vẫn nhẹ nhàng vỗ về gọi kẻ xúc phạm kia bằng

ngƣời ta. Và “nguy hiểm” hơn nữa, trong lời thoại của nhân vật này, ta thấy

có sự ma mãnh của một kẻ cơ hội nhưng rất hoạt ngôn: khi thì hắn đẩy bản

thân đứng cùng với người bị hại bằng từ mình để tranh thủ sự đồng lòng, mặt

khác hắn cũng thể hiện thái độ dọa dẫm chính những người người mà hắn vừa

đứng cùng ấy bằng từ chúng tôi. Qua các xưng hô của Năm Thành, ta thấy rõ

bản chất xảo quyệt của hắn.

Xuyên suốt trong các tiểu thuyết được khảo sát của Chu Lai, chúng tôi

thấy một đặc điểm chung là các đại từ nhân xưng được sử dụng trong lời thoại

nhân vật phụ thuộc vào đối tượng và hoàn cảnh giao tiếp. Do đó, các từ xưng

hô (như: mày - tao, ông - tôi…) có thể mang sắc thái khác nhau. Trong hoàn

cảnh chiến tranh ác liệt, các nhân vật của Chu Lai thường xưng hô mày - tao

thể hiện sự gắn bó thân thiết, ngang hàng nhưng trong hoàn cảnh thời bình, ở

một số tình huống, cách xưng hô đó lại mang một sắc thái khác, nó hàm chứa

thái độ coi thường, căm ghét của người nói (như các dẫn chứng đã nêu ở

trên). Điều đó cho thấy việc dùng từ xưng hô của nhân vật có liên quan đến

ngữ cảnh, đến mối quan hệ giữa các nhân vật trong ngữ cảnh ấy.

57

Trong một số lời thoại, có khi chính tác giả hóa thân vào nhân vật đến

mức đôi khi khó phân biệt lời tác giả và lời nhân vật. Chẳng hạn trong Ăn mày

dĩ vãng, không rõ tác giả Chu Lai hay nhân vật Hai Hùng gọi Địch là gã, một

đại từ nhân xưng ngôi thứ ba mang sắc thái không thân thiện vì toàn bộ phần

lời kể của tác giả về nhân vật này đều dùng gã… Thông qua từ xưng hô, cùng

với từ ngữ khác trong lời thoại, nhân vật đã bộc lộ rõ tính cách và bản chất

của mình:

- Ba Thành ơi, cái gã… đi cải tạo về chƣa? [XII, tr.258].

- Nói thêm một chút về gã… Gã nói năng rất bặm trợn… [VIII, tr.290].

- Ngày hôm sau, nhƣ cô ấy kể, gã trung úy mò tới… gã đã nhăng nhằng

bám theo cô... gã mới quật ngửa lá bài… [XIII, tr.291].

Như vậy, có thể nói, các từ xưng hô không chỉ đơn thuần dùng để gọi

hoặc xưng để thể hiện rõ sự phân biệt tuổi tác, giới tính, vị thế xã hội, quan hệ

giữa những người tham gia giao tiếp mà còn thể hiện thái độ, tình cảm, cách

đánh giá của người nói đối với nhân vật giao tiếp hoặc người được nói tới.

Cách dùng từ xưng hô cũng không tùy tiện mà theo những quy ước nhất định.

Hệ thống từ xưng hô của ngôn ngữ nhân vật trong tiểu thuyết Chu Lai không

chỉ dùng các đại từ nhân xưng mà còn sử dụng các từ xưng hô khác. Cách sử

dụng đại từ nhân xưng như vừa phân tích, cùng với việc sử dụng các lớp từ

thông tục, giàu tính biểu cảm khác đã làm cho ngôn ngữ trong tác phẩm của

nhà văn Chu Lai gần gũi với đời thực, tự nhiên, sống động, khắc họa rõ thêm

tính cách của nhân vật góp phần làm nên giá trị nội dung và nghệ thuật đặc

sắc cho tác phẩm.

2.2.2. Từ xưng hô có nguồn gốc danh từ thân tộc và các danh từ khác

2.2.2.1. Về nhóm từ xƣng hô có nguồn gốc khác với đại từ nhân xƣng

Ngoài các đại từ nhân xưng, trong giao tiếp, tiếng Việt còn dùng các từ

ngữ khác để xưng hô, tạo thành một bức tranh giao tiếp với nhiều màu sắc đa

58

dạng, phức tạp nhưng cũng rất tinh tế. Qua việc dùng từ ngữ xưng hô này, ta

phần nào đánh giá được dụng ý và tư tưởng của người nói. Các từ xưng hô

thuộc nhóm này có gốc từ danh từ (anh, Hùng, đồng chí), đại từ (ai, đây) hoặc

tính từ (nhỏ, cƣng) chuyển loại với một số lượng lớn. Chúng có khả năng

dùng để xưng hô với mọi đối tượng, mọi hoàn cảnh và mục đích giao tiếp và

làm thành đặc thù của tiếng Việt, phản ánh văn hóa ứng xử, văn hóa giao tiếp

của dân tộc Việt. Khảo sát sự xuất hiện và tần số sử dụng các từ xưng hô này

cũng là một trong những nhiệm vụ của luận án nhằm góp phần làm rõ đặc

trưng của ngôn ngữ nhân vật trong tác phẩm của Chu Lai.

Thống kê các từ xưng hô khác qua lời thoại nhân vật trong tiểu thuyết

Chu Lai, chúng tôi thu được kết quả sau:

Bảng 2.2. Số lượng và tần số xuất hiện các từ xưng hô

có nguồn gốc từ danh từ thân tộc và các từ các danh từ khác

của nhân vật trong tiểu thuyết Chu Lai

TT

Các nhóm từ xưng hô

Số lượng

Tỷ lệ %

9288/13351

69,5%

Các danh từ thân tộc

1

2040/13351

15,2%

Các từ chỉ tên riêng

2

Các từ chỉ chức vụ, nghề nghiệp

921/13351

6,8%

3

856/13351

6,4%

Các từ chỉ quan hệ xã hội

4

234/13351

1,7%

Các từ chuyển hóa

5

12/13351

0,08%

Các từ chỉ nơi chốn

6

Tổng

13351/13351

100%

Qua bảng thống kê trên, ta có kết quả về các từ xưng hô khác trong

ngôn ngữ nhân vật như sau:

- Xưng hô bằng các danh từ thân tộc: ông, bà, cô, cậu, dì, anh, em, chú,

bác, cháu, con,…, số lần xuất hiện 9288, chiếm tỷ lệ 69,5%.

59

- Xưng hô bằng các danh từ chỉ tên riêng: chị Út Thêm, anh Hai Hùng,

anh Tư…, số lần xuất hiện 2040, chiếm tỷ lệ 15,2%.

- Xưng hô bằng các từ chỉ chức vụ, nghề nghiệp: kĩ sư, bác sĩ, lính, thủ

trưởng, giám đốc, thiếu tướng, đại tá…, số lần xuất hiện 921, chiếm tỷ lệ 6,8%

- Xưng hô bằng các danh từ chỉ quan hệ xã hội: bạn, đồng chí, ông

chủ…, số lần xuất hiện 856, chiếm tỷ lệ 6,4%.

- Xưng hô bằng các tính từ (danh từ): cưng, út, nhỏ, bồ, …, số lần xuất

hiện 234, chiếm tỷ lệ 1,7%.

- Xưng hô bằng các đại từ chỉ định: đằng ấy, đó…, số lần xuất hiện 12,

chiếm tỷ lệ 0,08 %.

2.2.2.2. Vai trò của các từ xƣng hô có nguồn gốc từ danh từ thân tộc

trong lời thoại nhân vật

Cũng như việc dùng đại từ nhân xưng, các từ ngữ xưng hô khác cũng

có chức năng trước hết là để xưng (mình) và gọi (người); đồng thời qua đó có

thể biểu thị các thông tin khác, với các chức năng khác, như: bộc lộ vai giao

tiếp, vị thế giao tiếp, nhân thân giao tiếp và đặc biệt là tình thái giao tiếp. Có

thể thấy rất rõ rằng: từ xưng hô của tiếng Việt rất phong phú nhưng có chuẩn

mực và nguyên tắc sử dụng rõ ràng, chứ không phải tùy tiện, dù đó là quy ước

bất thành văn. Khảo sát các từ xưng hô lâm thời, không chính danh (so với đại

từ xưng hô chuyên dụng, chính danh), ta có thể thấy xưng hô trong đời

thường nói chung, xưng hô trong giao tiếp nghệ thuật nói riêng bộc lộ nhiều

điều thú vị. Điều đó thể hiện ở việc từ xưng hô trong lời thoại nhân vật trong

tiểu thuyết Chu Lai xuất hiện với số lượng lớn, tần số sử dụng cao, dùng trong

nhiều ngữ cảnh, tình huống khác nhau, chúng thể hiện rõ tâm lí, tình cảm và

tính cách của các nhân vật trong tác phẩm.

Sau đây, chúng tôi tìm hiểu sự hoạt động của các từ xưng hô được

chuyển loại, phân tích làm rõ vai trò của chúng trong các lời thoại nhân vật.

60

a) Xưng hô biểu thị sự thân mật, gần gũi

Văn hóa dân tộc Việt có đặc trưng gốc khởi phát từ nông nghiệp lúa

nước. Đặc trưng gốc này đã tạo nên các đặc trưng “phái sinh” như: người

Việt có lối sống trọng tình, gia đình là gốc, “làng xóm nhƣ cái gia đình mở

rộng và nƣớc nhƣ một cái làng lớn, nên ngôn ngữ xã hội vẫn là kiểu ngôn

ngữ gia đình và xu thế chính của tâm lí ngƣời Việt là kéo xã hội về với gia

đình” [153, tr.44]. Việc người Việt chúng ta lấy những từ chỉ quan hệ thân

tộc trong gia đình để làm từ xưng hô trong xã hội một cách tự nhiên và phổ

biến như vậy chắc hẳn có liên quan đến đặc trưng văn hóa vừa nêu. Quả thực

qua tư liệu thống kê số lượng và tần số xuất hiện trong giao tiếp giữa đại từ

nhân xưng với các danh từ thân tộc, mà cụ thể ở đây là thống kê trong lời

thoại nhân vật tiểu thuyết Chu Lai, ta có thể thấy rõ: các từ xưng hô có gốc

từ danh từ thân tộc có số lượng và tần số nhiều hơn hẳn so với các đại từ

nhân xưng (đại từ nhân xưng chiếm 39,7% trong tổng số lời thoại nhân vật

có sử dụng từ xưng hô, còn từ xưng hô có nguồn gốc từ danh từ thân tộc

chiếm 69,5% trong tổng số lời thoại sử dụng các từ xưng hô khác).

Qua khảo sát có thể nhận thấy lời thoại của nhân vật trong tiểu thuyết

Chu Lai sử dụng khá nhiều danh từ thân tộc (69,5%) để xưng hô. Các từ xưng

hô này có khả năng biểu thị tình cảm thái độ thân mật, rõ nhất là các từ như:

anh - em, chú - bác, con – cháu…

- Út!... Chị có thể đi thăm anh ấy đƣợc không?

- Quyền đi thăm là quyền của mọi ngƣời - Chị buông thõng - Nhƣng

hiện giờ thì chƣa nên vì chú ấy đang trong giai đoạn điều tra [XV, tr.332].

Những từ chị, anh ấy, chú ấy tạo cảm giác thân mật, gần gũi như trong

một gia đình giữa các nhân vật giao tiếp. Đoạn thoại giữa Út Thêm và chú Ba

Đẩu cũng sử dụng những danh từ thân tộc:

- Chú Sáu… chú có nhận ra tôi không?

61

… - Xin lỗi… Bà nhầm thế nào ấy chớ! Tôi thứ năm chớ đâu phải

thứ sáu.

- Không! Sao có thể nhầm đƣợc! - Giọng chị nghẹn lại - Chú Sáu…

Cháu là Thêm, Út Thêm, con bé bƣớng bỉnh ngày nào của chú vẫn còn sống

đây, con bé đã từng làm cực chú biết bao đêm ở cánh rừng ven sông hồi ấy

đây… [XV, tr.84].

Nhân vật dùng từ xưng hô chú Sáu, cháu như gợi nhớ đến những kỷ

niệm thân quen một thời mà họ từng có trong chiến tranh và bây giờ trong

tình cảm của Út Thêm, dù bao biến cố đã xảy ra, nhưng với cô hình ảnh chú

Sáu ngày nào vẫn vẹn nguyên trong ký ức. Việc xưng hô trong xã hội dùng

nhiều danh từ thân tộc như vậy, là một đặc tính xưng hô thể hiện văn hóa ứng

xử của người Việt, theo kiểu “kéo gia đình ra xã hội” và “đây là đầu mối

quan trọng để lí giải những vấn đề ngôn ngữ - văn hóa - xã hội cũng nhƣ tác

động của mối quan hệ gia đình - xã hội đến ứng xử giao tiếp của ngƣời Việt

(nhất là trong giao tiếp hành chính hiện nay” [73, tr.211].

Trong hội thoại, giữa người nói và người nghe có sự luân phiên lượt lời.

Trong tổ chức cuộc thoại, các nhân vật đều ít nhiều có sự hiểu biết, có những

thông tin nhất định về nhau. Việc dùng đúng từ xưng hô thể hiện vốn văn hóa,

sự hiểu biết, tính lịch thiệp, sự tôn trọng đối với người nghe. Cách xưng hô

của Nhàn và Lẫm trong Gió không thổi từ biển phản ánh khá rõ mối quan hệ

giữa những người thân thiết, tôn trọng, có khoảng cách nhưng cũng rất chân

thành qua cặp từ anh, chị:

- Bữa nay chị khỏi bệnh?

- Dạ! Cũng đỡ đỡ… Ủa! Nhƣng sao anh Lẫm biết tôi bệnh?

- Cả Sài Gòn này, cái gì xảy ra tôi cũng biết hết. Tôi còn biết có mấy

thằng cớm mấy bữa nay hay lảng vảng ở nhà chị nữa kia. Nhƣng chị khỏi lo.

Tôi đã cho bọn đàn em dọn sạch rồi.

62

- Chắc anh lầm đó: Tôi làm gì mà họ lảng vảng. Lần sau anh đừng

làm vậy, họ có cớ gây khó dễ cho tôi.

- Dạ? Có thể tôi lầm… Nhƣng mà chị yên chí đi. Không thằng nào

dám qua mặt tôi cả. Tôi chỉ cần… Nhƣng thôi, nói cái đó làm gì. Chị Hai…

Ngó bộ chị xanh quá? Nghe bọn em út nói chị nằm liệt mất ngày không ăn

uống gì, tôi định ghé tới thăm… Còn mệt, chị định đi đâu đây? [X, tr.112].

Việc xưng hô giữa các nhân vật giao tiếp, như ta đã thấy, thường dùng

theo từng cặp, trong đó cặp nhân xưng anh - em là khá tiêu biểu trong việc thể

hiện tình thái thân mật.

Trong Ăn mày dĩ vãng, nhân vật Hai Hùng và Ba Sương là những

người đồng đội rất hiểu nhau. Lời xưng hô giữa họ (anh - em) đã bộc lộ rõ

tình cảm thân thiết, thái độ chân thành. Cuộc trao đổi giữa hai người diễn ra

trong bối cảnh chiến tranh, một căn hầm nhỏ chỉ đủ chỗ cho hai người. Đạn

bom lúc nào cũng ác liệt, đe dọa mạng sống của họ. Anh nói với chị:

- Nằm xuống đi em! Nằm nghiêng, quay mặt vào nhau hay cùng quay

mặt vào vách cũng đƣợc. Vừa đó - Hay anh ngồi dậy cho em nằm nhé! Hai

đứa cứ thay nhau, một đứa gác, một đứa ngủ và ngƣợc lại đƣợc không?

[XIII, tr.215].

Ngôn ngữ thoại với cặp từ xưng hô anh - em thể hiện tình cảm thân mật

nhưng vẫn giữ được một sự tôn trọng lẫn nhau. Ở đây, các từ ngữ khác cùng

với từ xưng hô không chỉ nhằm thông báo một nội dung nào đó mà còn nhằm

chinh phục tình cảm của người khác. Anh - em không chỉ dùng để thực hiện

vai trao - đáp và xưng - gọi mà còn góp phần tạo nên nhịp cầu giao cảm giữa

hai tâm hồn. Tình yêu của họ vẫn nồng nàn, dù xung quanh bom đạn chết

chóc cận kề trong gang tấc:

- Còn giận em gần một năm qua làm mặt lạnh với anh không?

- Không! Càng yêu hơn. Yêu nhiều lắm!

63

- Em… Em thƣơng anh! Yêu anh [XIII, tr.216].

Lời trao đáp anh - em của cô gái đã hòa nhịp cùng cảm xúc với người

con trai. Cùng với những lời yêu thương khác, từ xưng hô đã góp phần bộc lộ,

thể hiện cảm xúc mãnh liệt của hai người yêu nhau trong chiến hào ác liệt.

Một điều đáng lưu ý là các từ xưng hô có vai trò bộc lộ tình thái theo

nhiều mức độ, tuỳ thuộc vào từng ngữ cảnh và đối tượng giao tiếp. Cặp từ

xưng hô anh - em, như đã phân tích ở dẫn chứng trên thể hiện tình cảm yêu

thương. Nhưng ở dẫn chứng sau thì từ xưng hô anh - em thể hiện tình thái có

phần phức tạp hơn.

Người đàn ông nói với cô gái:

- Em có lạnh không?- Có - Tiếng đàn bà run rẩy.

- Lại gần đây anh ủ ấm cho! - Không… em sợ lắm! - Giờ này có ma

nào nữa đâu mà sợ. Kìa! Lại đây kẻo mƣa hắt! - Nhƣng… anh không đƣợc

làm gì đâu đấy! - Tin anh đi. Anh thƣơng em mà. - Không phải! Anh chỉ… ấy

em thôi. - Khổ quá! - Tiếng nói càng gấp gáp hơn - Bao giờ em mới hiểu đƣợc

một chút cho anh nhờ? Trong tay có hàng vài trăm đàn bà con gái, anh thiếu

gì mà phải khổ sở thƣơng chiều một mình em. Lại đây… Chao! Ngƣời em ƣớt

hết cả rồi đây này. Để anh… - Kìa…- Đừng anh! Em sợ… - Sợ cái gì nữa kia

chứ? Chúng mình chả đã từng gần nhau… cho nhau hết một lần rồi ƣ? -

Chính vì thế mà em biết anh không thƣơng em. - Tầm bậy nào! Không thƣơng

mà tối tăm, mƣa gió thế này, anh bỏ cả văn phòng giám đốc, bỏ cả vợ con

xuống đây chỉ cốt đƣợc gặp em à?... Im! Ngoan nào… Cho anh lần nữa nhé! -

Kìa! Đừng làm thế! Em hét bây giờ… Đấy, khuy áo đứt rồi! Bỏ ra đi! Em

không đùa đâu! - Ai đùa! Em ác lắm!... Em có biết rằng mấy tuần nay…

không lúc nào anh không mơ tƣởng về em… về bộ ngực… về cái thân thể

nóng rực của em. Anh… thèm em. - Không đƣợc! Dơ hết quần áo bây giờ…

Kìa, dơ! - Dơ, anh đền cho một trăm bộ, một ngàn bộ khác… Ôm anh đi! Ôm

64

chặt vào… Ôi! Ngực em ấm quá… Bộ ngực trinh nữ của em… Cả cặp đùi nữa!

Anh chƣa từng thấy ai có cặp đùi tròn và rắn thế này…

- Ái đau… Cắn đau thế! Anh xin lỗi! Tại em đấy. Ai bảo em cứ ngon

nhƣ một khúc giò. Nào! Mở chân ra một chút đi! Anh xin…Không…Anh sẽ

không làm em sây xát nhƣ lần trƣớc đâu. Sẽ… sẽ không để cho em có chửa

đâu. Nào… đấy, lại khép vào rồi! Thế có chán không cơ chứ. Em không tin

à?... Dốt! Cái nông trƣờng toàn đàn bà con gái thế này mà không có kinh

nghiệm thì chửa đẻ tùm lum rồi còn gì. Nào… chiều anh chút đi cưng! Đằng

nào cũng lỡ rồi…

Bỗng vang lên một tiếng bốp khá gọn, ắng đi giây phút… rồi tiếng gã

đàn ông bật lên gầm gừ: - Cô làm cái trò gì thế? - Anh đứng dậy đi! Tiếng cô

gái đanh lại. Tôi không phải là thứ trò chơi của anh ở đây nhƣ những cô gái

khác. Anh nói cái gì kinh nghiệm? Anh đã có kinh nghiệm ngủ với bao nhiêu

ngƣời rồi hả? Đồ đểu! Tránh ra cho tôi đi! Tởm lắm! - Ừ, thì thằng này là

đồ đểu đấy, nhƣng cô cũng chẳng hơn gì. Cô tƣởng tôi không biết cô là loại

đàn bà nào à? Cô cắn cấu tôi, đến bây giờ vẫn còn vết, cô rúc đầu vào giữa

hai đùi tôi, cô rít rẩm, cô rít lên nhƣ phát rồ phát dại… Tôi khoái sống lại cái

cảm giác đó nên mới năn nỉ cô chứ cô tƣởng cô báu nõn lắm à. Cô… tóm lại,

cô chỉ là một thứ gái già, thứ đàn bà nạ dòng, cuồng dâm, hiểu chƣa?

- Đồ khốn nạn! Tao không ngờ mày…Chỉ nói được thế, cô gái òa khóc.

Nhưng tiếng hắn lại cười, cười rất đểu:

- Vâng! Cô không nói thì tôi cũng biết tôi khốn nạn từ lâu rồi. Và bây

giờ tôi lại tính khốn nạn một lần nữa đây! Nào, biết thân biết phận thì nằm

xuống và im lặng! Thằng này đã cởi đồ ra là không dễ mặc lại đâu. Nằm

xuống! [XV, tr.118, 119].

Đoạn thoại khá dài trong tiểu thuyết Ba lần và một lần giữa một người

đàn ông và một người đàn bà tránh mưa trong cái lán nhỏ giữa rừng cao su.

65

Mở đầu đoạn thoại là ngôn ngữ xưng hô bằng cặp từ anh - em, người đọc

hình dung đây là hai người đã có tình cảm với nhau từ lâu và nay họ lại gặp

nhau để tiếp nối những tình cảm âu yếm ấy. Ngôn ngữ người đàn ông lưu

loát, có phần mạnh bạo để tán tỉnh, chinh phục. Ngôn ngữ người con gái run

rẩy, sợ sệt, cách sử dụng từ xưng hô anh - em hoàn toàn phù hợp với bối cảnh

giao tiếp này cho dù ở lời thoại của nhân vật nữ đã có những băn khoăn nghi

ngại trước mọi cử chỉ của chàng trai. Đến giữa đoạn thoại, vẫn là từ xưng anh

- em nhưng ngôn ngữ của người phụ nữ đã có sự thay đổi, báo hiệu sự chuyển

biến đột ngột về tình cảm, thái độ đối với người đàn ông khi hắn ta đã dần dần

tự lột mặt nạ của mình. Đó không phải là người đàng hoàng đứng đắn và có tư

cách như chức vụ giám đốc hắn đang nắm giữ, mà thực chất đây chỉ là kẻ lợi

dụng sự yếu mềm, thiếu thốn tình cảm của chị em công nhân trong nông

trường để thỏa mãn dục vọng của mình. Chính vì vậy, khi hiểu thực chất hành

vi của người đàn ông này, lời nói của nhân vật nữ đã thay đổi nhanh chóng,

trong đó rõ nhất là sự chuyển ngôi từ anh - em, sang cách xưng hô anh - tôi.

Và đến tột đỉnh của sự khinh bỉ, căm thù, người đàn bà đã chuyển sang tao -

mày, đã ném vào hắn lời nói đích đáng: Đồ đểu! Tránh ra cho tôi đi! Tởm

lắm! Đồ khốn nạn! Tao không ngờ mày…

b) Xưng hô biểu thị sắc thái tình cảm trân trọng: Quan hệ xã hội là

loại quan hệ đa dạng, phức tạp với nhiều đối tượng và nhiều ngữ cảnh, hàng

ngày người ta phải đóng nhiều “vai” khác nhau. Bởi vậy, việc lựa chọn từ ngữ

giao tiếp, trong đó có dùng từ xưng hô, sao cho phù hợp là điều rất được

người Việt coi trọng.

Trong các từ xưng hô được sử dụng trong lời thoại nhân vật trong tiểu

thuyết Chu Lai, từ xưng hô chỉ quan hệ xã hội (đồng chí, bạn), chỉ chức vụ

nghề nghiệp (giám đốc, thủ trƣởng) xuất hiện khá nhiều. Nếu như khi giao

tiếp dùng mày - tao (đại từ nhân xưng), anh - em (từ xưng hô có gốc từ danh

66

từ) bộc lộ tình thái gần gũi, thân mật giữa những người bạn bè, đồng đội (giao

tiếp tự do), thì những từ xưng hô dùng các từ chỉ quan hệ xã hội (đồng chí),

các chức vụ nghề nghiệp (thủ trƣởng) lại mang sắc thái trang trọng (thường

hay xuất hiện trong giao tiếp nghi thức) như: họp hành, báo cáo, tuyên thệ

hay là những tình huống quyết định như: yêu cầu, ra lệnh trong chiến đấu…

Hai Hùng và Ba Sương đã có tình yêu đẹp và thơ mộng, nhưng trong

chiến tranh, ở những thời khắc quyết định, họ lại đặt việc chung trên tình

riêng. Từ xưng hô thể hiện điều đó, chính từ xưng hô đồng chí đã khiến cho

câu chuyện và quyết định của họ có sắc thái trang trọng, ít biểu cảm:

- Chào đồng chí! - tôi đứng nghiêm như một chú lính kèn.

- Tôi đến để bàn với đồng chí một việc hệ trọng (Đôi mắt đen im lặng

của Sương chỉ hơi nhướng lên). Nếu bây giờ ta quyết định giải tù binh đi

theo phƣơng án thì chết hết. Chết cả ngƣời giải lẫn ngƣời bị giải. Đó là điều

chắc chắn.

- … Khoan đã - Sương chới với trước những loạt đạn bắn thẳng dồn

chứa mọi sự ấm ức từ lâu của tôi - Em… Em thấy chƣa cần phải làm nhƣ thế.

Đề nghị đồng chí xem xét lại coi. Biết đâu…

- …Là người chỉ huy cao nhất ở đây, tôi muốn đồng chí phải trả lời

chính xác…

- Không - Bất thần nét mặt em đanh lại dễ sợ - Tôi sẽ chọn cả hai. Tại

sao đồng chí không tiến hành… [XIII, tr.176].

Nhân vật Năm Thành và Sáu Nguyện xưng hô với nhau lúc đầu là cậu -

tôi nhưng khi câu chuyện đến hồi gay cấn để quyết định cho trận đánh tiếp

theo, ngôn ngữ nhân vật chuyển sang giọng điệu khác, từ xưng hô cũng thay

đổi để phù hợp với mục đích cuộc thoại:

- Đã đến mức chết chóc đâu mà đồng chí nặng lời vậy? - Sáu Nguyện

bất ngờ chuyển sang xưng hô đồng chí…

67

- Tôi đề nghị đồng chí Sáu Nguyện nói rõ hơn! - Năm Thành cũng bất

ngờ chuyển sang đồng chí trong khi đôi mắt đẹp như mắt con gái quắc lên

nhọn sắc [XV, tr.27].

Trở về sau cuộc chiến tranh, với hành trang là một quá khứ đầy ắp kỷ

niệm và sự tự hào về một thời chiến đấu, ngôn ngữ của nhân vật Hai Hùng

trong cuộc sống thời bình, dù đầy những bon chen, giả tạo kia, vẫn giữ được

phong cách của một người lính:

- Chào bác! Chào đồng chí! - Tôi bắt chước với một chất giọng hết sức

chững chạc và tươi tỉnh còn sót lại của một thời cũng đã từng nếm qua mùi

hương quan chức... [XIII, tr.51].

Trong tình huống thông thường ở hoàn cảnh giao tiếp khác, nhân vật

thường sử dụng từ xưng hô tôi - anh, nhưng trong tình huống này, cách sử

dụng từ xưng hô đồng chí đã cho người đọc thấy sự trân trọng, nghiêm túc đối

với đối tượng giao tiếp. Ngôn từ xưng hô trong lời thoại phù hợp khi vai

người trao và người đáp đều là những người lính trở về sau chiến tranh.

Trong giao tiếp, việc chuyển cách xưng hô đồng thời cũng tạo ra một

sự thay đổi về mặt thái độ, tình thái… Sau đây là một số dẫn chứng thể hiện

rõ điều này.

Ở một hoàn cảnh giao tiếp nhất định, nhân vật trong Ăn mày dĩ vãng đã

mạnh dạn xóa bỏ quan hệ xã hội của nghi lễ để đến với bản chất hồn nhiên,

chân thật của người lính kể cả khi họ đã rời về cuộc sống đời thường bằng

những từ xưng hô tớ, cậu, mày, tao:

- Đồng chí hỏi tôi?- Vâng! Anh là Ba Thành, bác sĩ?

- Bác sĩ cái con mẹ gì? Thế đồng chí là…

- Vất mẹ nó đồng chí đi! Mình đây, Hai Hùng đây! Chao ôi! Chả lẽ tớ

già đến nỗi cậu không còn nhận ra nữa ƣ? Đầu viên đạn M16 cậu lấy ra từ

đùi, gần bìu dái, tớ vẫn còn giữ đƣợc [XIII, tr.107].

68

Và đây là tình huống trong trận chiến sinh tử, cái chết lơ lửng trên đầu,

Ba Tiến, phó bí thư quận ủy - mặc dù hèn hạ trốn chạy nhưng vẫn cố giữ cái

hình thức chỉ huy sáo rỗng của mình:

- Ấy cậu… Đồng chí! Tôi… Tôi đây mà. Tôi là Ba Tiến, phó bí thư

quận ủy đây mà. Bỏ… Bỏ tay ra đi, kẻo người ta thấy… Kìa!

- Chạy nhƣ chó mà xƣng là bí thư. Nhục!

- Này đồng chí! - Cái bóng cố gượng đứng dậy, hai cẳng chân để trần

va đập lục cục - Ăn nói cho có tổ chức. Ai là chó hả? Láo! Tất cả đều chạy,

bộ đội của đồng chí cũng chạy chứ riêng gì tôi. Láo! Láo quá! Phải giáo dục

thế nào chứ không thì… [XIII, tr.37].

Từ đồng chí, bí thƣ mà nhân vật xưng hô với người đồng đội đã bị

vạch mặt (chạy nhƣ chó) đã thể hiện bản chất và hình thức của kẻ hèn nhát,

sáo rỗng.

Còn ở không gian lãng đãng mùi hoa sữa của đêm trăng hòa bình, hai

người từng là đồng chí trong một khu phố nhà binh. Lời của anh cảnh sát

cần mẫn yêu dân và người phóng viên có những thước phim quý giá trong

chiến trận:

- Này đồng chí cảnh sát thân mến ơi…

- Thôi mà đồng chí… - Tôi đố đồng chí cảnh sát nhân dân đuổi đƣợc

cái đói nghèo của nhân dân đấy.

- Này này! - Anh công an hơi ưỡn người ra - Đồng chí là bộ đội, là sĩ

quan, đồng chí nói năng cẩn thận một tí nhé! [XIV, tr.32].

Như vậy trong tình huống này, từ đồng chí đã được linh hoạt sử dụng

vào cuộc sống đời thường nhưng phù hợp với thói quen của những người từng

là lính, từng vào sinh ra tử.

Biểu thị sắc thái trang trọng không chỉ có các từ xưng hô thuộc nhóm

chỉ quan hệ xã hội như đã nói trên, mà còn có nhóm từ chỉ nghề nghiệp, chức

69

tước của cá nhân, chức vụ xã hội như: chủ tịch, thầy giáo, bác sĩ, thƣợng tá,

thiếu úy, giám đốc, trƣởng phòng… dùng trong các cuộc thoại.

Trong giao tiếp tự do, người Việt có xu hướng dùng đại từ, dùng từ chỉ

quan hệ thân tộc, nhưng trong giao tiếp mang tính chính thức, việc dùng ngôn

từ được chọn lựa, cân nhắc kĩ hơn. Các từ xưng hô, theo đó cũng được người

nói có ý thức chọn lựa phù hợp. Khi các nhân vật xưng hô với nhau dùng

những từ chỉ nghề nghiệp, chức vụ thì chắc đó phải là cuộc giao tiếp trong

ngữ cảnh liên quan đến công việc chung. Và dĩ nhiên từ xưng hô như vậy

thường mang sắc thái trung hòa, trang trọng.

Trong tiểu thuyết Chu Lai, cách xưng hô là các chức danh nghề nghiệp

thường dùng trong môi trường giao tiếp mang tính nghi thức: hội nghị, nơi

làm việc công sở, giao tiếp công cộng. Đoạn thoại sau đây trong Phố của Chu

Lai thể hiện rõ điều đó:

- Này đồng chí cảnh sát thân mến ơi! - Tiếng nói của Bình đã nhừa

nhựa lắm song vẫn rành rẽ đến sắc lạnh - Cứ để họ ngủ tạm đêm nay cái đã,

có chết chóc gì đâu.

…- Này này! - Anh công an hơi ưỡn người ra -… Nhà của một ông đại

tá tư lệnh sư đoàn…

…- Cái nhà anh cảnh sát này cũng tội… [XIV, tr.41].

Những từ ngữ xưng hô đồng chí cảnh sát, ông đại tá tƣ lệnh sƣ đoàn,

anh cảnh sát góp phần làm cho không khí cuộc đối thoại thêm trang trọng,

nghiêm túc hơn.

Qua cách sử dụng từ xưng hô chỉ chức vụ, nghề nghiệp trong lời thoại

nhân vật, ta có thể xác lập được tư cách đối thoại của những người tham gia

giao tiếp. Các nhân vật tham gia cuộc thoại có thể ngang hàng, bình đẳng với

nhau (quan hệ kết liên), cũng có thể có quan hệ không ngang nhau (quan hệ

tôn ty hay còn quan hệ quyền thế):

70

(1). - Đƣợc! - Ngài đô trưởng thoắt trở nên hào hứng - Tôi xin đƣợc

tranh luận với giáo sư. Giáo sư muốn nói kết quả của biến cố Mậu Thân vừa

qua thành bại còn đang nằm trong hƣ thực phải không? [XIV, tr.41].

(2). - Thƣa thiếu tướng! Tôi có chuyện cần trình gấp lên ngài [X, tr.22].

(3). - Còn cái ông bạn giáo sư của tôi nữa? Cùng thật là khó hiểu. Có

lẽ tôi phải qua bên ông đại tá cảnh sát trưởng một chút [X, tr.29].

(4). - Mừng thủ trưởng có nhà mới - Người khách nói - Thủ trưởng có

còn nhớ em không? [XIV, tr.286].

(5). - … xin anh giới thiệu em với thủ trưởng Um vài chữ để em vào

thăm [XIV, tr.288].

Qua cách xưng hô, xét về mặt vị thế của vai giao tiếp, ta thấy (1) và (3)

quan hệ giữa người nói (tôi) và người nghe (giáo sư) là quan hệ ngang hàng;

ở (2), (4) và (5) là quan hệ không ngang hàng mà có thứ bậc, tôn ty rất rõ thể

hiện qua tôi - ngài, thủ trƣởng - em, anh - em. Xét về mặt tình thái, (1,2,3) có

tình thái thiên về trang trọng, trung hoà, ít biểu cảm, còn ở (4,5) lời nói của

nhân vật có sắc thái tình cảm rõ hơn, thân tình hơn.

Có khi nhà văn dùng nhiều từ ngữ xưng hô chỉ chức vụ nghề nghiệp để

truyền tải các thông tin về nhân vật, tạo vị thế trong cuộc giao tiếp nhất định:

- Hoan hô! Hoan hô bà giám đốc chịu chơi đệ nhất sáu tỉnh miền Nam.

Các quí vị khả kính thử đốt đuốc đi tìm xem cả đất nƣớc quê mùa này có ai

chịu làm, chịu chơi, tài sắc vẹn toàn nhƣ chị Tư của chúng ta không? Không.

Chắc chắn là không? Tôi dám lấy đầu ra để cuộc nhƣ vậy. Bà chúa rừng

xanh. Bà tiên tốt bụng của những sinh linh làm rừng nghèo khổ. Hoan hô!

- Một ly này xin chúc sức khỏe và ý chí cùng nhƣ tấm lòng nhân ái của

bà phó chủ tịch tƣơng lai.

- Không! Bà chủ tịch

- Bà bí thư tỉnh ủy

71

- Còn tôi… đồng chí ủy viên trung ương [XIII, tr.18].

Cuộc đối thoại cho thấy sự tâng bốc, sáo rỗng bên trong để tung hô

một người mà không rõ chức danh nào là thật và có giá trị với bản thân cuộc

đối thoại.

Ở các xưng hô bằng chức nói chung, xưng hô bằng các chức danh nói

riêng, người Việt ưa dùng “xưng khiêm hô tôn” theo phép lịch sự, tôn trọng

thể hiện qua chính chức danh của người đối thoại:

- Này đồng chí cảnh sát thân mến ơi!... [XIV, tr.41].

Căn cứ vào từ xưng hô chỉ chức vụ, nghề nghiệp giữa các các nhân vật,

ta có thể xác định được vị thế của mỗi nhân vật, quan hệ giữa họ.

c) Xưng hô biểu thị quan hệ thân mật, nũng nịu

Bên cạnh việc xưng hô là những đại từ nhân xưng, những từ thân tộc,

từ chỉ nghề nghiệp, chức vụ… tiếng Việt còn dùng những từ chuyển hóa, đó

là những từ như: bé, cƣng, nhóc…Số lượng những từ xưng hô này không

nhiều nhưng khi dùng trong giao tiếp, chúng biểu lộ những sắc thái tình cảm

khá đặc thù, đó là sự nũng nịu, thân mật. Lời thoại trong ngôn ngữ nhân vật

của tiểu thuyết Chu Lai xuất hiện không nhiều, nhưng khi xuất hiện, chúng

thể hiện khá rõ tính cách nhân vật mà nhà văn muốn thể hiện.

Để thể hiện tình cảm yêu mến của mình dành cho cô bé Niên Thảo,

Hùng đã sử dụng từ cƣng để gọi cô bé:

- Chú đi nghe cưng? [XIV, tr.252].

Hay sự yêu mến coi như người thân ruột thịt của Sáu Nguyện dành cho

nhóc tỳ Út Thêm:

- Nhỏ Út đó à - Út đó à cháu? - … Nói nghe này, nhỏ? - Chƣa nhớ

đâu nhóc tỳ à… [XIV, tr.74].

d) Sự phối hợp các từ xưng hô

Nhiều lời thoại trong tác phẩm Chu Lai dùng các từ xưng hô có nhiều

loại khác nhau: đại từ nhân xưng, danh từ thân tộc, các từ chỉ chức vụ nghề

72

nghiệp… Các cặp xưng hô cũng không phải lúc nào cũng tạo ra sự tương ứng,

mà có thể lệch pha, chẳng hạn: tôi - anh (chứ không phải em - anh), tôi - cậu

(chứ không phải cháu - cậu), tôi - bà (chứ không phải ông - bà), v.v… Và đi

kèm theo đó là mối quan hệ phức tạp trong mỗi cuộc giao tiếp. Chính các

quan hệ giao tiếp này đã quy định cách dùng các từ xưng hô như thế nào cho

phù hợp.

Cách xưng hô tôi - anh xuất hiện khá nhiều trong tiểu thuyết Chu Lai

để thể hiện vị thế: ngang hàng/ không ngang hàng, và tình thái: tôn trọng hoặc

trung hoà. Những người lãnh đạo có tác phong dân chủ thì thường có lời nói

thân mật, tự coi mình là thành viên của tập thể nên khen chê theo cách khuyên

giải, nhẹ nhàng, dân chủ ít tính mệnh lệnh. Họ cũng thường xưng hô “anh -

tôi” nhưng luôn khiến người nghe có cảm giác gần gũi, thân mật hơn cho dù

trong hoàn cảnh thực tế ngôn ngữ của họ cần phải lạnh lùng hơn nữa:

(1). - Anh nói tôi không phải chỉ là ý định mà hoàn toàn có chủ đích

giết ngƣời? - Chị hỏi - Tôi đã nói rồi và tôi không muốn nói lại nữa, thƣa bà!

- Người đàn ông vẫn lạnh tanh.

(2). - Này anh kia! Đến đây, anh phải nói năng thƣa gửi cho có lễ độ.

Đây không phải là cái xó xỉnh đầu hè cuối bãi của anh đâu mà anh cứ trỏng

lỏn nhƣ vậy! Anh có biết anh đang đứng trƣớc mặt ai đây không?

(3). - Thôi đƣợc! - Bất giác nét mặt chị nhăn lại, vội chuyển ánh mắt

nhìn sang chỗ khác - anh có thể chƣa cần trả lời câu hỏi này.

… - Nhƣng điều này thì anh phải nói: Khẩu K54 chúng tôi đang thu

giữ, vật chứng khẳng định anh có hành vi phạm tội là của ai đƣa cho anh?

[XV, tr.82].

Trong các ví dụ (1), (3), ngôn ngữ của nhân vật điềm đạm, nhã nhặn,

mặc dù xét trong hoàn cảnh giao tiếp giữa một phạm nhân và một bà trưởng

phòng điều tra xét hỏi, ngôn ngữ của nhân vật có thể có các xưng hô và ngữ

73

điệu khác, điều đó chứng tỏ nhân vật giao tiếp trong cuộc thoại là người cán

bộ giữ được tính lịch sự, mức độ vừa phải trong thể hiện thái độ, tình thái…

Còn ví dụ (2), chủ thể giao tiếp có ý thức biểu thị quyền uy trong giao tiếp đối

với đối tượng giao tiếp.

Hệ thống nhân vật trong tiểu thuyết của Chu Lai tuy có số lượng đông

đảo (trung bình mỗi tác phẩm có khoảng 30 nhân vật); họ “sống và hoạt

động” trong nhiều bối cảnh. Trong số đó, tác giả chú trọng và dành nhiều tâm

huyết xây dựng hình ảnh nhân vật là người lính (chiếm số lượng xấp xỉ 70%

trong tổng số nhân vật của các tác phẩm). Nhưng có một kiểu nhân vật mà tác

giả cũng có chủ ý khắc họa và đạt đến độ khá sâu sắc, đó là nhân vật tiêu cực,

có tính cách xảo trá, lươn lẹo và đểu giả. Loại nhân vật này xuất hiện nhiều

trong các tiểu thuyết lấy bối cảnh cuộc sống sau chiến tranh. Qua cách xưng

hô, cùng với những từ ngữ được đưa vào trong lờì thoại, ta có thể hiểu rõ loại

nhân vật này.

Sau đây là lời thoại giữa nhân vật Quách với nhân vật Linh trong Vòng

tròn bội bạc:

- Thì tôi đối với cậu xƣa nay đã có gì khuất tất đâu. Vào đây! Vào cái

quán này làm một ly cà phê cho tỉnh rồi ta sẽ trao đổi luôn. Thôi đừng nhƣớn

mắt lên nhƣ thế nữa, trông kinh bỏ mẹ! Vào đây!

- Nào bây giờ tôi nghe đây! Nghe một cách đàng hoàng. Nhƣng nhớ

đừng làm ầm ĩ lên nhé!...

- Này! - Quách làm vẻ ngạc nhiên nhăn nhó - Ở báo đã lâu, chả lẽ cậu

không hiểu rằng nghề của ta luôn luôn biến động à! Báo chứ có phải đâu là

một quy trình công nghệ. Cái cậu này thật… uống đi kẻo nguội.

- Thế cậu muốn tôi phải nói cái gì nữa nhỉ? Quái thật!

- Khoan đã - Ông Quách vội giữ tay Linh lại, cười nhạt. Nên biết thân

biết phận một chút ông bạn trẻ ạ! Cùng đã có một thời tôi hăng máu nhƣ ông

74

và để bây giờ… tôi vẫn còn ra thế này đây. Nƣớc đời đen bạc lắm. Nếu ông

không chú ý tới điều đó thì buộc tôi phải nhắc ông; ngoài bài báo có những

cứ liệu không khách quan đang làm rối cơ quan của ông ra, ông cũng có một

đơn kiện đấy.

- Cái gì? Anh muốn gì?

- Thằng du côn! Cút ngay không tao gông cổ lại bây giờ. Đồ thằng

lính mọi rợ! Cút ngay ra khỏi đây.

- Tao nói, chính tao nói mày và cả cái lũ chúng mày là mọi rợ.

- Kìa!... Tha lỗi cho tôi vì đã quá nóng nẩy. Linh… Đồng chí Linh!

Không nên thế! Đồng chí cứ bình tĩnh ngồi xuống đi. Chuyện đâu rồi sẽ có

đó… Chúng ta đều là những ngƣời cộng sản. Kìa… ơ! [XI, tr.264, 331].

Đây là lời thoại của nhân vật Quách trong tiểu thuyết Vòng tròn bội

bạc khi đối thoại với Linh - người lính trở về sau chiến tranh đang vạch trần

bộ mặt tham nhũng của bọn tham quan trong đó có lão Quách. Với cương vị

phó tổng biên tập, Quách đã không hoàn thành trách nhiệm, nhiệm vụ của

mình tệ hơn hắn lại bắt tay với chính những kẻ tham nhũng để “ăn tiền”. Bản

chất con người này được lột mặt nạ dần dần qua sự thay đổi trong từ xưng

hô ở lời thoại: tôi - cậu, cậu - ta, ông - tôi, anh, thằng du côn, thằng lính mọi

rợ - tao, tao - mày. Ở các xưng hô tôi - cậu, nhân vật còn đang giữ được mặt

nạ để che giấu bản chất bên trong, nhưng đến cuối đoạn thoại, bản chất hắn

được bộc lộ, phơi bày hoàn toàn trước những lời kết tội và vạch trần âm

mưu bỉ ổi của Linh, nhưng sau khi bị lộ mặt, bản chất xảo quyệt, giỏi ngụy

biện đã cho hắn vớt vát câu cuối cùng hòng cứu vãn tình thế bằng từ xưng

hô đồng chí - tôi. Qua cách xưng hô dùng nhiều loại từ nhân xưng của các

nhân vật, cùng với các ngôn từ khác được dùng trong lời thoại, nhà văn đã tô

đậm chân dung nhân vật cả trong đời thường và trong chiến tranh. Đó là con

người lừa thầy phản bạn, tên lưu manh chính trị, bất tài bất lực như lời của

Linh đã kết tội gã:

75

- Mƣời năm chiến tranh anh chỉ viết đƣợc một vài bài báo mỏng quẹt.

Mƣời năm hòa bình, anh ngồi im gặm nhấm nỗi buồn quan chức. Tất cả

những gì anh có hiện nay đều do bô báo, cơ hội, luồn lót mà nên. Vậy anh

nhân danh ai, nhân danh cái gì mà chơi đểu ngƣời khác, mà phán xét ngƣời

khác? [XI, tr.330].

Việc lựa chọn cách xưng hô và từ xưng hô trong giao tiếp là vấn đề

mang tính văn hoá - xã hội, nó bị chi phối bởi các điều kiện, các yếu tố khác

nhau, như: hoàn cảnh giao tiếp (giao tiếp chính thức hay tự do), vị thế của các

nhân vật giao tiếp (bình đẳng/ không bình đẳng), trạng thái tình cảm giữa hai

nhân vật giao tiếp trong giao tiếp (gần gũi, quen biết hay xa là, yêu ghét, giận

dữ, căm tức hay trung hòa), v.v…

Từ những phân tích, khảo sát trên cho thấy từ ngữ xưng hô được sử

dụng trong ngôn ngữ nhân vật của tiểu thuyết Chu Lai không chỉ ở nội dung

chỉ ngôi, số mà còn thể hiện thái độ, tình cảm, tâm lý, nhận thức, thói quen,

văn hóa… của nhân vật tham gia giao tiếp.

2.3. Từ xưng hô và các kiểu nhân vật trong tiểu thuyết Chu Lai

2.3.1. Mối quan hệ giữa xưng hô và kiểu nhân vật

Mỗi kiểu nhân vật có một loạt các đặc điểm chung và riêng về tính cách,

tư tưởng, hành động và ngôn ngữ như chính bản thân cuộc sống trong hiện

thực xã hội. Văn là người, ngôn ngữ của mỗi người thể hiện rõ tính cách của

mỗi người. Khi tìm hiểu lời thoại nhân vật trong tiểu thuyết Chu Lai, ta có thể

nhận thấy rõ mối quan hệ qua lại rất chặt chẽ giữa: ngôn ngữ nhân vật với các

nhân tố khác, như: tính cách nhân vật, giới tính, hoàn cảnh mà nhân vật đang

sống,v.v…

So sánh:

(1) - Thế thì đù mạ! Nhớ rồi. Mày là thằng Hùng ác ôn, thằng Hùng

trời gầm, đúng không? Nhƣng sao lóng rày mày già dữ vậy mày? Nếu không

nói tới viên đạn mắc dịch ấy thì ông cố nội tao nhận cũng không ra.

76

- Thì hai mƣơi năm rồi, một phần ba đời ngƣời rồi còn gì nữa.

- Ờ, lẹ hè! Tao nhớ ngày ấy mày ngon lắm kia mà. Cái giò của mày bự

bằng cả khúc bằng lăng, nếu không viên đạn ấy nó cắt cụt cu mày rồi, lão

khọm à.

- Thế bộ mày tƣởng mày còn trẻ lắm ƣ? Nếu thằng con mày nó không

nói ba cháu ở rẫy sắp về tới thì chắc tao nghĩ mày là ông già đẻ ra cái thằng

Ba Thành ngày xƣa quá!

- Khớ…Khá! Thằng khọm già vẫn còn giữ đƣợc cái giọng châm chọc

đểu giả thủa nào. Khá! Với cái giọng này mày nẫng đƣợc con nhỏ Ba Sương

trên tay ráo trọi bọn đàn ông trong này thì hận thật. Khá! [XIII, tr.108].

(2) Nhân vật Thêm và sau này là bà thẩm phán Út Thêm trong Ba lần

và một lần nói với thủ trưởng: - Còn công việc của cháu? - Cô bé lại buột

mồm hỏi mà không biết cái suy nghĩ bỏng rát lúc nãy của mình đã từ từ nguội

đi từ lúc nào.

- Công việc hả? Cứ chậm rãi! Việc cách mạng ngày dài tháng rộng,

không đi đâu mà vội. Có thể sớm mai thử theo chú ra bƣng vài lần làm quen

địa hình cái đã.

- Ngay sớm mai ƣ? Vậy mà - Giọng cô chìm đi - cháu đã định đêm mai sẽ...

- Sẽ bỏ đây đi chứ gì?

- Ơ! Sao chú biết hay vậy? [XV, tr.22].

Quan sát hai đoạn thoại, nhất là các từ được dùng trong mỗi đoạn thoại

ta sẽ thấy giữa chúng tuy cùng là những lời nói giữa các nhân vật, trao qua đổi

lại, nhưng có sự khác nhau.

Ở (1), các nhân vật nói với nhau bằng những từ ngữ rất đời thường,

thông tục, bỗ bã:

- Thể hiện trong xưng hô: mày, tao, thằng khọm già, con nhỏ, thằng

con mày, ông già…

77

- Thể hiện trong các từ tình thái: (già) dữ vậy, ngon, (cái giọng châm

chọc) đểu giả… đù mạ, lẹ hè, khớ, khá…

Ở (2), các nhân vật nói với nhau bằng những từ ngữ cũng rất đời

thường nhưng giàu màu sắc biểu cảm, nhẹ nhàng hơn:

- Thể hiện trong xưng hô: chú, cháu…

- Thể hiện trong các từ tình thái: ƣ, hả, ơ, chứ gì…

Đối chiếu từ được dùng trong hai đoạn thoại, ta thấy có sự khác nhau

về cách xưng hô, về những từ ngữ biểu cảm (Ở (1): thân mật, suồng sã, ở (2):

lịch sự, nhẹ nhàng). Sự khác nhau đó phù hợp với kiểu nhân vật, với trạng

thái tâm lí và hoàn cảnh nhân vật. Ở đoạn (1), nhân vật phát ngôn là người

lính, ở đoạn (2), nhân vật phát ngôn là người phụ nữ. Qua đó, có thể thấy, mỗi

kiểu nhân vật đều có một kiểu ăn nói nhất định, thể hiện rõ và cũng tương hợp

với nhân thân và hoàn cảnh sống của họ.

2.3.2. Từ xưng hô của một số kiểu nhân vật trong tác phẩm của Chu Lai

2.3.2.1. Từ xƣng hô và nhân vật ngƣời lính

Trong số hệ thống nhân vật các tiểu thuyết của Chu Lai, nhân vật người

lính chiếm số lượng đông đảo nhất. Họ đến từ nhiều vùng quê khác nhau, xuất

thân, hoàn cảnh và tuổi tác khác nhau, vị thế cũng không giống nhau, nhưng

có điểm chung là nhân vật người lính mang tính đặc thù “chất lính”, không

lẫn với các nhân vật khác. Chất lính này toát ra không chỉ trong lời giới thiệu,

miêu tả của nhà văn mà nó còn thể hiện sâu đậm nhất, ấn tượng nhất là ở

ngôn ngữ của họ, trong đó có từ xưng hô. Đó được xem là một trong những

thành công nhất của Chu Lai khi xây dựng nhân vật, khắc họa tính cách, đặc

điểm nhân vật. Các từ xưng hô, cùng với các từ ngữ khác của người lính thật

tự nhiên, bỗ bã:

- Tiếc quá! Mày lại có vợ rồi, nếu chƣa, tao xin hứa nếu còn sống trở

về, nhất định tao sẽ gả em gái cho. Em gái tao xinh nhất làng đó.

78

- Nó nói dóc đấy, làm đếch gì có em gái. Nó chỉ có bà chị gái sứt môi

lồi rốn bán thịt chó sống ở đầu chợ thôi.

- Thôi, đừng giỡn nữa! Giỡn hoài, nó chạnh lòng, nó lại chảy nƣớc (Hạ

giọng thật khẽ)… đái ra bây giờ. Có phải không chị Ba? [XIII, tr.93].

Còn đây là đoạn thoại khi hai người từng là đồng đội, gặp lại nhau sau

chiến tranh. Trong lời thoại, có nhiều từ xưng hô và thông tục được người

lính nói ra một cách tự nhiên:

Đồng chí hỏi tôi? Vâng! Anh là Ba Thành, bác sĩ? Bác sĩ con mẹ gì?

Thế đồng chí là… Vất mẹ nó đồng chí đi! Mình đây, Hai Hùng đây! Chao ôi!

Chả lẽ tớ già đến nỗi cậu không còn nhận ra nữa ƣ? Đầu viên đạn M16 cậu

lấy ra từ đùi, gần bìu dái, tớ vẫn giữ… Thế thì đù mạ! Nhớ rồi. Mày là thằng

Hùng ác ôn [XIII, tr.107].

Còn đây là lời của người lính khi gặp lại vị chỉ huy can trường dũng

cảm mà cũng nhân từ độ lượng với lỗi lầm của đồng đội năm nào của mình:

- Ông còn nhớ cái gì đây không?Đầu óc lão này hƣ rồi! Quên hết quá

khứ rồi! – anh ta trợn mắt – Cái dây dù bị cứa đứt đã làm ông té lộn cổ xuống

suối còn để lại thẹo đến tận bây giờ đó, nhớ chƣa!…Thế ra ông là… chính

ông là cái ngƣời đã…Đúng! Tôi chính là thằng Tính… thằng Hai Tính khốn

nạn đã hại ông đây! – Giọng anh ta méo đi như sắp khóc và ngay liền đó,

nước mắt anh ta lại chảy ra thật – Tôi khốn nạn thế mà ông vẫn không nhận

ra ƣ?... Ông không hận tôi ƣ?... Chết thôi! Ông khác đi nhiều quá! [XV,

tr.140].

Lời của người đồng đội năm xưa vẫn chân thật, tự nhiên không khách

sáo, không câu nệ thân phận.

Qua từ ngữ lời thoại, ta có thể thấy tính cách, suy nghĩ của người

lính thấm vào trong lời thoại, trong cách dùng từ xưng hô (đồng chí, mình,

tớ, cậu, mày, lão, thằng) và các từ ngữ thông tục khác (con mẹ, đùi, bìu dái,

79

đù mạ, chết thôi); chúng bộc lộ rõ tâm trạng, tình cảm của nhân vật và phù

hợp với hoàn cảnh giao tiếp. Ta có thể thấy, ngôn ngữ người lính là thứ

ngôn ngữ đậm chất đời thường, ít màu sắc tu từ, lối nói thẳng thắn, bộc

trực với thái độ dứt khoát… Các từ dùng và sắc thái như thế phù hợp tính

cách người lính.

2.3.2.2. Từ xƣng hô của nhân vật là ngƣời nông dân

Trong tiểu thuyết của Chu Lai, nhân vật người nông dân xuất hiện khá

nhiều, họ cùng các nhân vật khác, với những cách thức thể hiện khác nhau,

phản ánh hiện thực xã hội, bộc lộ rõ tư tưởng, chủ đề tác phẩm. Xét ở khía

cạnh ngôn ngữ, qua các lời thoại của các nhân vật người nông dân, có thể thấy

ngôn ngữ của họ phản ánh khá rõ tính cụ thể, gắn liền với hoàn cảnh, tình cảm,

suy nghĩ, phù hợp với bản chất: chân tình, giàu tính biểu cảm. Sau đây là một

số đặc điểm từ ngữ tiêu biểu:

Các nhân vật người dân bình thường được nhà văn miêu tả bằng thứ

ngôn ngữ khá dung dị, mộc mạc như chính đời sống, tâm hồn của họ. Các từ

xưng hô cũng thể hiện rõ điều này. Đọan thoại sau là lời bà má nói với các

chiến sĩ:

- Lính hôm nay xuống ba GMC, đầy nhóc. Tao đoán thằng “sƣ năm”

đổi về. Đi đứng coi chừng cho kỹ, mấy con!

Má quay lại chị phụ nữ:

- Con Út lấy thuốc đƣa cho cậu Tư mày chia cho mấy đứa nó hút! [VII,

tr.130].

Hay trong lời thoại:

- Của thằng Sáu đây! Uống chút thôi. Ráng dẹp cái chuyện ấy đi,

nghe con!

Đến lúc ấy Linh mới nhìn thấy bàn tay cầm can rượu của má co rút lại,

cả cánh tay quặt quẹo như tật nguyền. Má cười móm mém:

80

- Mấy đứa mới xuống hả? Có thằng nào ngƣời Bắc không? Linh

“dạ” khẽ.

Má chặc lưỡi:

- Tội nghiệp! Mƣa gió thế này… Thôi, tao về đây kẻo chúng nó nghi.

Mai tao ra cho mấy thằng Bắc lạng cà phê uống chơi [VII, tr.130].

So sánh cách xưng hô “mày - tao” bỗ bã của nhân vật người lính, ta

thấy có sự khác nhất định với cách xưng hô của nhân vật người nông dân. Từ

xưng hô trong hai đoạn trên thể hiện quan hệ giữa mẹ và con, nặng về tình

cảm với sắc thái thân mật: tao - con, đứa, thằng.

Bên cạnh từ xưng hô, các từ tình thái trong lời thoại nhân vật người

nông dân được nhà văn chọn lọc, đưa vào lời nhân vật phù hợp với suy nghĩ,

tình cảm của tính cách người nông dân. Một số dẫn chứng cụ thể:

Khi nói với Thúy, má Sáu của đồng ruộng bưng biền mắng yêu như

mắng đứa con, đứa cháu nhõng nhẽo của mình:

- Cha nội mày! Con nhỏ dòm càng ngày càng đẹp ra! Chồng con tính

sao chƣa, con? [VII, tr.131].

Lời của nhân vật nữ tên Hương nói với người yêu thể hiện sự chân tình,

chân chất, mộc mạc của người con gái thôn quê:

- Xa xôi lắm Hƣơng à! Chả biết bao giờ về, và có thể không bao giờ về

nữa… Thôi, quên anh đi! Anh không muốn mang sự chờ đợi mỏng manh của

em vào chiến trƣờng…

Hƣơng đã ngồi lặng đi thật lâu, rồi nói nhƣ một lời thề:

- Em đợi… Mai này anh về, dù có què cụt chân tay, em vẫn đợi! Em sẽ

làm lụng nuôi anh suốt đời… [VII, tr.15].

Đoạn thoại giữa cô gái nông dân chỉ biết đồng ruộng, chòm xóm chân

chất mà chưa bao giờ rời khỏi quê hương với cậu chủ nơi cô làm thuê:

- Tôi sẽ đƣa cô Hai về.

81

- Ý! Đâu có đƣợc cậu chủ.

- Đƣợc chớ, sao lại không đƣợc?

- Dạ, thôi cám ơn cậu, tôi về một mình, nhà gần mà.

Cậu ta bước đến sát trước mặt tôi, to cao lừng lững, từ vồng ngực nở

nang của cậu toát ra mùi nước hoa lẫn mùi rượu, mùi mồ hôi, nồng nồng. Mắt

cậu gườm gườm:

- Đừng làm phách. Hay có thằng nào khác đƣa đón rồi?

- Đâu có cậu, tôi gầy guộc, xấu xí, làm gì có ai đƣa đón. Cậu nói thế

tội nghiệp… [IX, tr.22].

Ngôn ngữ thẳng thắn, nóng nảy của Riềng, chàng trai sinh ra và lớn lên

ở làng, khỏe mạnh, cần cù:

- Mẹ nó! Thằng chủ xe nó chơi chó má. Cả ngày đạp ựa cơm, kiếm

đƣợc ba trăm, nó đòi hai. Không chịu, nó cúp luôn. Điên quá, em xáng cho nó

cái bạt tai rồi quẳng cả tiền lại, không thèm [IX, tr.26].

Đứng trước tình huống sẽ bị thất tiết bởi cậu chủ đang theo đuổi mình,

Cô gái Hai Thanh vốn dĩ hiền lành, chịu thương, chịu khó và nhường nhịn

mọi người trong từng lời ăn tiếng nói bỗng đanh lại để bảo vệ mình:

- Tôi không cần! Cậu đi đi!

- Vậy thì cô cứ việc kêu đi, kêu to lên!

Đến nước này thì không thể chịu được nữa, tôi quay phắt lại, người vẫn

dìm sâu trong nước, tôi quắc mắt:

- Cậu cút đi, đàn ông gì mà không biết nhục! [IX, tr.30].

Và cô gái ấy đã có hành động quyết liệt hơn để từ chối cái mà mình

không muốn:

- Cậu dang ra để tôi đi!

Tôi nhìn thẳng vào bộ mặt ấy và không thấy sợ hãi một chút nào.

- Tôi biết cô khinh tôi, giận tôi nhƣng đừng vì thế mà bỏ việc. Sao cô cố

chấp quá!

82

- Cậu mà cũng biết nói những điều nhƣ thế à? Muộn rồi! Nhờ cậu nói

giùm với ông bà chủ cho tôi nghỉ việc. Chào cậu! [IX, tr.32].

- Nhận xét chung:

Qua những đoạn thoại trên, có thể nhận thấy nhân vật người nông dân

có những đặc điểm sử dụng từ nổi bật:

- Về các loại từ được sử dụng trong lời thoại:

+ Sử dụng các từ xưng hô biểu thị các trạng thái tình cảm hay thái độ

phù hợp hoàn cảnh giao tiếp và phù hợp với tính cách nhân vật. Đó là những

từ xưng hô biểu thị thái độ thân mật, yêu thương: Hƣơng - anh; tao - con; anh

- chị Năm; thằng Sáu, con Út, mấy đứa, mấy thằng Bắc, mày, con nhỏ, con,

đứa, chị Hai - em, má,…

Biểu thị thái độ coi thường: chúng nó, thằng nào, nó, thằng chủ xe,…

Biểu thị tình thái trung hòa: tôi - ông, cô Hai - tôi, cậu chủ - tôi, cậu -

tôi, tôi - ông bà chủ…

+ Sử dụng nhiều từ tình thái trong lời thoại để vừa tạo sắc thái câu nói

vừa thể hiện rõ hơn các trạng thái, tình cảm của nhân vật với các đối tượng

giao tiếp cụ thể trong những hoàn cảnh nói năng cụ thể. Các từ tình thái xuất

hiện ở các đoạn thoại trên gồm: hả, dạ, à, chả biết, thôi, vẫn, nghe con, tội

nghiệp, cha nội mày, quá, muộn rồi, mấy con…

2.3.2.3. Từ xƣng hô của nhân vật ngƣời trí thức

Trong tiểu thuyết của Chu Lai, nhân vật người tri thức cũng được nhà

văn chú tâm xây dựng để phản ánh đúng hiện thực của xã hội, của thời đại

mới với một lớp người mới: người trí thức. Kiểu nhân vật trí thức của Chu Lai

khá đa dạng: giáo sƣ, giảng viên, giáo viên, sinh viên, kĩ sƣ, bác sỹ…

Ở khía cạnh ngôn từ, nhà văn đã khắc họa đặc điểm nhân vật trí thức

qua những lời miêu tả của chính tác giả qua các lời dẫn thoại và rõ nhất là qua

lời thoại nhân vật. Một số điểm nổi bật về mặt từ ngữ của nhân vật trí thức.

83

- Đây là lời của giáo sư Luân với những từ dùng trong đoạn thoại rất rõ

ràng, nhã nhặn của người có học. Điều đó trước hết thể hiện qua từ xưng hô.

Các từ xưng hô mang sắc thái trung hòa: tôi/anh:… Xã hội ta bây giờ

đang sao chép lối sống Mỹ một cách sống sít thì đúng hơn. Có quốc gia nào

tự tồn tại bởi những con ngƣời chuyên đi bắt chƣớc những cái bên ngoài. Thà

cứ sống khổ hạnh nhƣ phía bên kia lại giữ đƣợc bản ngã của mình. Anh hiểu

giùm, đây tôi không nói chuyện chính trị. Thú thực tôi không hiểu những

ngƣời cách mạng lắm và tôi cũng chƣa có ý định tìm hiểu [X, tr.25].

Hoặc những từ xưng hô thân mật: ba/con, anh/em:

Đây là cuộc tranh luận giữa hai bố con, mỗi người có những lý lẽ và ý

kiến riêng của mình trên quan điểm, lập trường của người trí thức khi bàn về

vấn đề chính trị: Con lại tranh luận rồi. Con định tranh luận đến bao giờ nữa.

Ngày mai, ở những cánh rừng ẩm thấp xa lạ, nếu con bị ăn một viên đạn của

ngƣời khác hoặc ngƣời khác ngã vật trƣớc mũi súng của con thì thử hỏi ba

còn muốn tranh cãi với con làm gì. Tất cả chúng ta bây giờ mắc cái bệnh nói

nhiều quá mà không làm… Thế là - Ông chuyển giọng - Con không tự cứu

đƣợc con một điều mà ba lo sợ, kể từ ngày má con mất đi. [X, tr.159].

Hay đoạn thoại giữa Nga và Hải, hai trí thức trẻ của Sài Gòn đang chao

đảo giữa cuộc sống thật giả xung quanh mà chưa chọn cho mình một con

đường đúng đắn: Thôi đừng nói nữa anh… Em van anh! Ráng chờ em học

xong, chúng mình sẽ bỏ tất cả về miệt vƣờn quê em. Em làm thầy thuốc, anh

viết bài hát… Ủa! Mà đâu có đƣợc. Người ta đâu có để anh đi. Nhạc sĩ tên

tuổi mà lại.

- Anh muốn quẳng đàn đi cho rồi. Càng viết càng thấy mình quẩn

quanh nhƣ chui vào cầu thang máy mất điện.

… - Không phải vậy đâu. Em cho là anh và ba rất giống nhau nhƣng

cách biểu hiện khác nhau mà thôi. Cả hai đều không chịu nổi cuộc sống lố

84

lăng này. Anh thì than vãn bằng tài năng của anh, ba thì càu nhàu đập phá

bằng niềm tiếc nuối cái cũ lớn lao của ba [X, tr.92].

Ước mơ về một cuộc sống hạnh phúc bình yên của những người trí thức

trong cuộc sống ngột ngạt đầy những tội ác và giết chóc này qua lời thoại của

Hải và Nga: Không! Anh sẽ ngồi chăm giấc ngủ cho em. Bởi vì có cái gì thuộc

về chúng mình đâu. Em không nghe tiếng xe cảnh sát dã chiến rú qua rú lại

ngoài kia ƣ? Con ngƣời đang từng giờ từng phút tìm cách giết nhau. Ngự trị

lên tất cả bây giờ là thứ âm thanh ghê tởm đó. Em có nghe thấy không?

… - Anh đừng nói nữa! Em hiểu anh… Cô gái ôm đầu người con trai

ghì chặt vào ngực mình - Anh… Em yêu anh! Anh đừng buồn khổ nhƣ thế nữa.

Nếu ba cho chúng mình là vợ là chồng em suốt đời ủ ấm cho anh [X, tr.94].

Có một đặc điểm khá nổi bật trong lời thoại của nhân vật trí thức (so

với lời thoại nhân vật người lính và nhân vật người nông dân) là từ xưng hô

cùng với hệ thống từ ngữ mang tính thuật ngữ xuất hiện khá cao. Đó là những

từ ngữ thể hiện suy nghĩ, hành động về các lĩnh vực đời sống mà nhân vật

đang đối diện, chẳng hạn như: tƣ duy năng động, sản phẩm kinh tế, bản ngã,

xã hội nhiễu nhƣơng, số phận con ngƣời, lòng tự trọng, quẩn quanh, cuộc

sống lố lăng, tƣ duy năng động, phạm trù kinh tế, sản phẩm kinh tế, giá trị

luân lý, giá trị đạo đức, tranh đấu, nƣớc mắt cao su nhƣ nƣớc mắt ngƣời,

chiêu bài dân chủ, chống tham nhũng…

- Sự vu cáo nào mà lại không hèn hạ. Anh đang đƣơng chức còn có thể

hiểu đƣợc. Tôi đã nghỉ hƣu rồi mà vẫn bị mới lạ chứ. Thời bao cấp ngƣời ta

chỉ nặc danh. Thời thị trường, ngƣời ta ký tên ký tuổi đàng hoàng. Chiêu bài

dân chủ đang đƣợc một số không ít ngƣời vấy bẩn, vặn xoắn để làm cái cớ

sát phạt nhau. Chống tham nhũng, chống tiêu cực cũng đang trở thành cây

cột buồm để cho một số kẻ bám níu vào đó mà loại trừ không thƣơng tiếc

những kẻ không ăn cánh. Buồn quá! Có lẽ tôi với anh chỉ là hai trong số

không ít nạn nhân đang nằm ngửa trên con dao hai lƣỡi đó [XVI, tr.95].

85

Ngôn ngữ nhân vật trí thức, qua từ ngữ, qua câu nói, cũng thể hiện tư

duy suy ngẫm, suy xét thậm chí mang triết lý như cái “tạng” chính tác giả.

Đây là lời thoại giữa nhân vật Vũ Nguyên và nhân vật Hà Thương:

- Anh… còn nhớ ngày ấy anh thƣờng nói với em câu gì không? - Tiếng

chị thoảng bay trong tiếng lá xào xạc - nước mắt cao su nhƣ nƣớc mắt

ngƣời… Còn em, em lại bảo, anh có một cái đầu thị trường sắc sảo nhƣng

anh lại có một trái tim bao cấp mềm yếu, vì thế mà đời anh vất vả nhƣng cũng

vì thế mà em yêu anh… Anh còn nhớ không? [XVI, tr.510].

Nhân vật thiếu tá mật thám Hoàng Xanh, kẻ phản bội cách mạng chạy

sang địch, khi gặp lại Ba Xuân, người hoạt động cách mạng dưới lốt một

người đàn ông Thượng bán thuốc nam dạo, Hoàng Xanh nói cũng là ngôn ngữ

nặng về triết lý:

… - Tôi không ngờ anh vẫn còn sống. Tất nhiên… Tất nhiên… Vâng!

Sau lần đó và ngay cả bây giờ có thể anh rất khinh tôi... Còn mai đây, nếu do

một sự vận động trái chiều nào đó của cuộc sống, tôi với anh ngồi chung

trong một cơ chế, chúng ta sẽ lại uống rƣợu với nhau [X, tr.65].

Qua các dẫn chứng và phân tích chúng có thể thấy cách xưng hô cùng

với kiểu nói của nhân vật trí thức, dù là nhân vật chính hay phụ, có các nghề

nghiệp khác nhau, vẫn có tính đặc thù: dùng các thuật ngữ chỉ nghề nghiệp

hoặc những câu nói mang tính suy ngẫm, triết lý. Chu Lai đã có ý thức xây

dựng ngôn ngữ nhân vật trí thức có tính đặc thù: người trí thức trong tác phẩm

nói thứ ngôn ngữ gần với ngôn ngữ văn hóa hơn so với ngôn ngữ nhân vật

người lính hay ngôn ngữ nhân vật người nông dân.

2.3.2.4. Từ xƣng hô của các kiểu nhân vật khác

Ngoài những nhân vật người lính, người nông dân, người trí thức, trong

các tiểu thuyết của Chu Lai còn có các nhân vật khác, như: nhân vật phản

diện (kẻ địch), ca sỹ, người buôn bán nhỏ…

86

Sau đây là một số đoạn thoại liên quan đến các kiểu nhân vật này.

- Ngôn ngữ của nhân vật kẻ thù trong Ăn mày dĩ vãng thể hiện rõ bản

chất của chúng. Từ tiếng nói khoái trá ra vẻ mình là chính nghĩa và cao

thượng cho đến sự đe nẹt, dọa dẫm của kẻ giết người không ghê tay và cuối

cùng là tính tục tằn, thô bỉ của những kẻ đại diện cho cái ác kia:

- … Trung úy đồn trưởng đang kêu gọi các bạn đây…

- A lô! Các bạn còn chần chừ gì nữa? - Vẫn cái tiếng nói khoái trá và

hãi hùng lọt xuống từng chập như tiếng gào của ma quỷ dưới địa ngục - Dù

muốn hay không, các bạn cùng chỉ có một con đƣờng đầu hàng hay tan xác?

Ba trái mìn cực mạnh đã đƣợc đặt lên nắp hầm, dây đã ròng xong, chỉ còn

chờ thái độ của mấy ngƣời là phát nổ…

- Đù mẹ bọn mọi ăn đất cát! - Bây giờ là tiếng chửi tục tằn vọng xuống

- Nhẹ không ƣa, ƣa nặng. Cơm không muốn ăn, ăn cứt! Thân con lừa! Vậy

tao cho bọn bay chết mẹ luôn. Lính đâu? Tao đếm từ ba đến một, không lên,

bấm [XIII, tr.226].

Ngôn ngữ trong lời thoại đầu tiên sử dụng cách xưng hô các bạn -

chúng tôi, trung úy đồn trƣởng, đến lời thoại tiếp theo sử dụng các bạn - mấy

ngƣời và lời thoại cuối từ xưng hô chuyển đổi khác hẳn cách sử dụng bằng

các từ “bọn mọi, tao, bọn bay” cùng với từ ngữ tục tĩu của những tiếng chửi

thề (đù mẹ, cứt, con lừa, chết mẹ) cho thấy bộ mặt thật thô bỉ, đểu giả, ác ôn

của kẻ địch.

Nhân vật Quang trung úy trưởng đồn, kẻ được mệnh danh là ác ôn khét

tiếng, xảo quyệt đến tàn bạo, nỗi kinh hoàng của những người dân trong vùng.

Nhưng cũng có khi nhân vật này lại dùng những từ xưng hô trung hoà (tôi/cô),

các từ tình thái biểu lộ tình cảm riêng (cám ơn, buồn, yêu, chính tôi, thế, chứ)

những câu nói bộc bạch tâm sự về tình cảm từ đáy lòng hắn với cô gái mà hắn

yêu thương:

87

- Cám ơn!... - Miệng hắn nhệch ra thành một đường hằn dữ tợn và cay

đắng - vì tôi yêu, tôi yêu cô. Yêu đến tận bây giờ. Khốn nạn! Chính tôi cũng

không rõ vì sao tôi lại đâm đổ đốn nhƣ thế? Cô là ai? Cô là cái quái gì mà

ám ảnh tôi hoài, càng xua đi, càng ám ảnh. Mà tôi đã là cái quái gì với cô kia

chứ, ngoài một vết tích gần nhƣ cƣỡng dâm! …con quỷ... [IX, tr.64].

Nhưng với bản chất của nhân vật (là kẻ địch, ác ôn khét tiếng, xảo

quyệt đến tàn bạo), từ ngữ hắn dùng, dù là trong ngữ cảnh bộc bạch tâm tình,

vẫn toát lên tính cách lỗ mãng, sắc thái dữ dằn của một tâm địa đen tối (biểu

hiện qua các động từ: đập, giết, cƣớp; từ tình thái: khốn nạn, đổ đốn,cƣỡng

dâm, cái quái gì, con quỷ).

Em là của tôi, cần gì phải giờ giấc. Bữa nay em dở ngƣời? Nói nghe

sƣớng chƣa? Thôi, anh ngồi chơi một chút rồi về, mai sớm em mắc công

chuyện. Hắn nhìn quanh quất trong phòng: Đầu mẩu thuốc của ai đây? Em

hút. Xua nay cô đâu có hút thứ thuốc lính này? Xƣa không thì nay có, làm chi

mà anh hạch sách tôi dữ dậy? Ả nhướng mắt lên - Mà tôi cũng nói cho anh

biết, anh chƣa là gì của tôi đâu mà nói cái giọng đó. Mệt lắm!....

Và bây giờ - Hắn cười cay đắng - khi tôi trơn lông đỏ da cô lại chán

tôi nhƣ những thằng đàn ông sạch bóng đã qua tay cô ngày trƣớc. Khốn nạn!

Hóa ra tôi chỉ là phƣơng tiện làm thỏa mãn cái tham lam chuộng lạ của cô?

… - Thôi mà cƣng! Đừng giận! Bữa nay em làm ăn thua lỗ quá. Mai

mốt cƣng lại, em bù cho [X, tr.110].

Từ ngữ của mỗi nhân vật bộc lộ rõ thái độ, tâm lí của từng cá nhân cũng

như hành vi của họ đối với nhau. Nhân vật “hắn” khi thì xưng hô với người đàn

bà với giọng thân thiết là tôi/ em, khi lại là giọng cay đắng: tôi/cô. Còn người

đàn bà, khi là em/ anh, rồi tôi/anh, rồi tôi/ông; nhưng cuối cùng lại chuyển

thành em/cƣng…Vì sao có sự xưng hô thay đổi như vậy giữa hai nhân vật? Qua

lời thoại, xét cho cùng, hoá ra giữa họ chẳng có một thứ tình cảm gì chân thực,

88

gắn bó sâu sắc. Ngôn ngữ của người đàn ông thì thực dụng; ngôn ngữ của

người đàn bà thì phù hợp với từng diễn biến tâm trạng: tức giận đến lạnh lùng,

đanh đá, chua ngoa, tàn nhẫn và cuối cùng bản chất của người đàn bà lọc lõi

mách bảo phải kết thúc câu chuyện bằng sự ngọt ngào bản năng trước một

người đàn ông mãnh thú như Hoàng Xanh. Ngôn ngữ hội thoại đã luồn lách

vào thế giới nội tâm với từng diễn biến tâm trạng nhỏ nhất trong hoàn cảnh

giao tiếp để từ đó từ ngữ chọn lựa sử dụng phù hợp với mỗi nhân vật.

Có thể nhận xét chung rằng, lời thoại các nhân vật nêu trên, dù nhiều

thành phần trong xã hội, nhưng đều thể hiện phần nào tâm lý, tính cách nhân

vật qua từ ngữ họ dùng. Ngôn ngữ của họ, cũng như chính cuộc sống xã hội,

mỗi người mỗi vẻ, làm nên sự phong phú, đa dạng cuộc sống và làm nên tính

hiện thực, tính sinh động của tác phẩm văn học.

Tóm lại, qua thống kê, phân tích từ ngữ trong lời thoại nhân vật của

tiểu thuyết Chu Lai, có thể rút ra điểm nổi bật: cùng với những đặc điểm phổ

quát chung cho các nhân vật trong tác phẩm, mỗi kiểu nhân vật thể hiện tính

cách, đặc trưng nhất định, điều đó thể hiện rõ nhất qua hệ thống từ ngữ trong

lời thoại của các nhân vật. Nhân vật người lính thiên về dùng các từ thông tục,

từ xưng hô và từ tình thái đậm chất khẩu ngữ, tự nhiên, bộc trực, thẳng thắn;

nhân vật người dân thiên về dùng những từ xưng hô, từ tình thái thể hiện rõ

tình cảm chân tình, mộc mạc; nhân vật trí thức thiên về dùng những từ xưng

hô, từ tình thái và đặc biệt các từ có tính thuật ngữ mang đậm chất triết lý,

chiêm nghiệm cuộc sống.

2.4. Vai trò của từ xưng hô trong việc hình thành đặc trưng ngôn

ngữ nhân vật của tiểu thuyết Chu Lai

2.4.1. Từ xưng hô góp phần bộc lộ đặc điểm, tính cách, hoàn cảnh...

của nhân vật trong tác phẩm

Hệ thống nhân vật trong tiểu thuyết của Chu Lai khá là đa dạng (trong

10 cuốn tiểu thuyết có 217 nhân vật), với đủ thành phần và nghề nghiệp:

89

người lính, công nhân, giáo viên, sinh viên (trong đó có gần 70% nhân vật là

người lính hay đã từng là người lính); chức vụ vị thế xã hội cũng rất khác

nhau: chỉ huy - người lính, giám đốc - nhân viên, giàu - nghèo)… Các nhân

vật “sống” trong hai bối cảnh chủ yếu là trong chiến tranh và sau chiến tranh

(Xem phần Phụ lục, bảng a. Danh sách tổng hợp các nhân vật trong tiểu

thuyết của Chu Lai).

Đặc điểm và tính cách của các nhân vật mà nhà văn đã xây dựng cũng

rất phong phú, mỗi nhân vật có một đặc điểm, một tính cách nhất định, như

chính bản thân con người trong đời sống. Có những nhân vật bộc lộ bản thân

qua lời giới thiệu, miêu tả, nhận xét trực tiếp từ tác giả, có những nhân vật tự

bộc lộ bản thân bằng hành động và ngôn ngữ của chính họ qua lời thoại.

Nhà văn chú trọng đến việc lựa chọn ngôn từ trong lời thoại để thể hiện

đặc điểm tính cách của từng loại nhân vật. Nhà văn đã dụng công khắc họa

khá sâu sắc nhiều loại nhân vật: nhân vật người lính (hoạt động trong bối cảnh

chiến tranh), nhân vật là những con người bình thường (trong chiến tranh

cũng như trong hòa bình) và nhân vật tiêu cực (có tính cách xảo trá, lươn lẹo

và đểu giả). Qua từ xưng hô, cách xưng hô (thể hiện qua lời đối thoại), ta có

thể hiểu rõ đặc điểm và tính cách của các nhân vật (trọng tâm là nhân vật

người lính) như thế nào.

Danh sách các từ xưng hô trong lời thoại thật đa dạng. Trong tiểu

thuyết Gió không thổi từ biển là các từ ngữ: cái nhà anh này, cô em, cô kia,

thằng nhỏ, cha, ông bạn, mụ nhà tôi, bà nhà tôi, bà Tƣ Mập, chúng nó, má

con nó, con vợ, sắp nhỏ, bà xã, anh Ba, mày, tao, bọn mày, các ông, hắn,

ngƣời đàn bà, bà này, chúng mình, bác, cô Bảy, lão già, chú mày, mấy thầy,

cha nội, kẻ non gan; trong tác phẩm Ăn mày dĩ vãng: anh Hai, tụi em, mày,

thằng Ba, con nít, chị Ba,con nhỏ, Ba Sƣơng, tôi, tao, anh em mình, má

thằng Hùng, thằng con mẹ, con khẹc, cậu, đồng chí, ông, cô, tụi em, cha nội,

90

chú mày, mình, cô ấy, ông bác sĩ, đồ tể, ả, bọn bay, lão tiền bối, bà vợ tôi,

thằng lính, bà ấy, ngƣời đàn bà i nốc, nó, mấy cha, cánh đàn bà bọn này,

bác sĩ con mẹ gì, Hùng trời gầm, Hùng ác ôn, ông cố nội, lão khọm, thằng

Ba Thành, con khọm già, các bạn, cha nó, thằng ăn mày, cô bé xinh đẹp,

thằng cha này con giống, thằng cha nƣớc lợ, con đàn bà; trong tác phẩm Ba

lần và một lần: chú Sáu Nguyện, Út Thêm, cháu, chú, hắn, ba cháu, hai chú

cháu, con gái, tiểu thƣ, nhóc tỳ, con nít gái, mày, con nhỏ cháu, mấy con

ranh, bé con, nhỏ Út, con bé, thằng cha,cái con khỉ,cha tao, anh Sáu, anh

Hai, thằng Ba Mập, Ba Đẩu này, mấy ả sồn sồn, ông anh, cái thằng tôi, Út

ơi; trong Cuộc đời dài lắm: ông anh, cái cậu này, nhà chị, thằng trọng tài

mặt con gái, bố mày, ngƣời hùng ngƣời hiếc gì đâu, Tuấn tử thần, đứa, lũ

đàn bà, thằng cha, bà chủ, nhà chị, thằng em, Thủy, bọn em, thằng nhỏ, chị

em, con gái trời gầm, lão dở ngƣời, thằng bặm trợn, ông mãnh…trong Vòng

tròn bội bạc: thằng, hai ông bà già, Huấn còi, bọn mình, nhà mình, cô chủ,

chú em nhà báo,chú mày, mày, tao, thủ lĩnh da đỏ, ấy, mụ xã tớ, cô nàng,

thiên thần, thằng cu, ngƣời đẹp, nhà báo… Trong Phố: mình, cậu Lãm, cái

nhà anh này, tớ, cậu, vợ chồng cậu, ông nỡm, đàn ông đàn ang…

Nhân vật người lính thường dùng những từ xưng hô thể hiện sự thân

mật, bỗ bã, tự nhiên như đời thường. Trong đó, các từ xưng ngôi 1 có tần số

sử dụng cao hơn hẳn các từ xưng cùng nhóm, đó là các từ: tao, tôi, tớ, mình,

anh. Các từ ở phần hô ngôi 2 cũng tương tự, đó là các từ: mày, cậu, em…

(Xem phần Phụ lục, bảng b&c. Danh sách tổng hợp các đại từ nhân xƣng và

từ xƣng hô khác trong tiểu thuyết của Chu Lai).

Cách xưng hô trong các lời thoại phản ánh đặc điểm nhân vật ở mấy

mặt sau đây:

Về quan hệ giao tiếp: quan hệ cơ bản giữa các các nhân vật người lính

là quan hệ ngang hàng (tôi - anh, đồng chí; tao - mày; tớ - cậu)…

91

Về thái độ: lời đối thoại giữa người nói và người nghe thể hiện tư tưởng,

tình cảm một cách rõ ràng, dứt khoát.

Về tình cảm: vừa thể hiện sự trân trọng (tình đồng chí, đồng đội, đồng

nghiệp); vừa thể hiện sự thân mật, suồng sã (tình bạn bè, người thân).

Về tính cách: qua xưng hô bộc lộ tính bộc trực, thẳng thắn của nhân vật.

2.4.2. Vai trò của từ xưng hô trong việc khắc họa đặc điểm ngôn ngữ

nhân vật trong tiểu thuyết Chu Lai

Qua cách xưng hô, qua những từ ngữ, khẩu khí và giọng điệu của các

nhân vật trong tiểu thuyết của Chu Lai, ta có thể hiểu rõ đặc điểm và tính cách

của các nhân vật: nhân vật người lính (hoạt động trong bối cảnh chiến tranh),

nhân vật là những con người bình thường (trong chiến tranh cũng như trong

hòa bình) và nhân vật tiêu cực (có tính cách xảo trá, lươn lẹo và đểu giả). Các

từ ngữ trong lời thoại nhân vật của Chu Lai bộc lộ khá rõ các thông tin về

nhân thân của họ (về giới tính, thành phần, nghề nghiệp, hoàn cảnh).

Chẳng hạn, nhân vật Ba Sương thường dùng những từ như: ông – tôi,

anh – em, tôi – anh, tôi – Địch, chị - em, các đồng chí, đồng chí,… Trong

chiến tranh tính cách nữ tính của nhân vật được thể hiện cùng hình ảnh mảnh

mai, nhẹ nhàng của bờ vai chim sẻ, của đôi mắt mở to lay láy có ánh nhìn

miên man tĩnh lặng của dòng sông yên ả, ngoại hình ấy cùng với những từ

ngữ đặc trưng trong ngôn ngữ lời thoại của nhân vật như cách xưng hô anh –

em, tôi – anh… nhẹ nhàng đầy nữ tính; những từ tình thái mang nét riêng

mềm mại của nhân vật nữ như: ơ kìa, ý, sợ lắm, sao thế, ôi, sao lại thế, trời

đất, anh Hùng ơi, ôi chao,… Sau chiến tranh cùng với sự thay đổi về ngoại

hình nhân vật là sự thay đổi rõ rệt trong ngôn ngữ nhân vật. Ở Ba Sương sau

chiến tranh là sự lạnh lùng, kiểu cách có phần kênh kiệu ở người đàn bà thành

đạt và ý thức được vị trí lãnh đạo của mình cho dù người đối diện với bà ta là

ai chăng nữa. Hệ thống từ xưng hô của nhân vật chuyển từ e ấp, rụt rè sang

92

mức độ biểu hiện của sự mạnh mẽ, lạnh lùng đầy khách khí: ông – tôi, anh –

tôi, đồng chí – tôi… Tuy nhiên, xét đến tận cùng của số phận nhân vật, dù

nhân vật Ba Sương có thay đổi như thế nào về ngoại hình và lời nói thì sâu

thẳm trong đôi mắt cô, trong đôi mắt lúc thảng thốt buồn vui vẫn có gì đó

không ổn, vẫn không thể hoàn toàn chối bỏ quá khứ bằng một thực tại viên

mãn. Những dấu lặng (…) xuất hiện trong lời thoại nhân vật như minh chứng

cho những bi kịch của kẻ muốn trốn chạy quá khứ kia.

Qua các từ ngữ xưng hô, tình thái xuất hiện trong lời nói của nhân vật

cứ lặp đi lặp lại, tạo thành tính cách đặc thù của nhân vật Ba Sương, Chu Lai

đã thành công trong việc xây dựng nhân vật nữ có tính cá thể hóa sâu sắc.

Để thấy rõ hơn nét riêng đặc sắc vừa nêu trên, ta cần nhìn đặc điểm từ

xưng hô trong ngôn ngữ nhân vật của tiểu thuyết Chu Lai trong mối liên hệ so

sánh với từ xưng hô trong ngôn ngữ nhân vật ở sáng tác của các nhà văn khác.

Nếu như nhân vật người lính của Chu Lai qua ngôn ngữ thể hiện tính

cách thẳng thắn, bộc trực, nghĩ sao nói vậy bằng một hệ thống từ ngữ đặc

trưng thể hiện cá tính nhân vật qua lớp từ xưng hô, từ thông tục, từ tình

thái… thì ở nhân vật người lính của Bảo Ninh, ngôn ngữ nhân vật người lính

chứa đựng chiều sâu ngôn từ với những ám ảnh buồn đau khủng khiếp thậm

chí còn hoài nghi chân lý. Lớp từ xưng hô được nhân vật sử dụng như: thằng,

tao, tớ, cậu, tôi, anh, mày, chúng mày, chúng, anh giai, em gái, mình,

Phƣơng, em, ông, cha,… Cũng vẫn là lớp từ ngữ phong phú như cách sử

dụng từ ngữ trong lời thoại nhân vật như ở tiểu thuyết Chu Lai, song dưới

ngòi bút của Bảo Ninh, lớp từ ngữ ấy lại xuất hiện trong ngôn ngữ nhân vật

với sắc thái và mục đích khác hẳn. Ngôn ngữ nhân vật Kiên như đong đầy

nỗi buồn đau triền miên với sự ám ảnh nặng nề của những kỷ niệm, những

ký ức đẫm máu vọng về từ quá khứ tuy xa mà gần, dù nhức buốt nhưng lại

chẳng thể lãng quên. Ngôn ngữ nhân vật “rối bời”, “bấn loạn” như “mấp mé

93

bờ vực” và nó khiến nhân vật luôn phải sống đơn độc và đau đớn vật vã.

Những giằng xé nội tâm, những hành động bất thường khiến những ngôn

ngữ nhân vật không thể “tự nhiên” như ngôn ngữ nhân vật trong tiểu thuyết

Chu Lai. Ngay trong tình huống phải xử lý bọn ác ôn trong trận quyết chiến

đầy sinh tử, nhân vật Kiên vẫn thể hiện nét riêng trong tính cách của mình

qua hệ thống từ ngữ giàu triết lý và vẫn thấm đẫm buồn đau của những chết

chóc và mất mát từ chiến tranh:

- Câm đi… - Sẽ chiều mày thôi. Nhƣng tao hỏi mày: Tụi mày tới vùng

này là để theo gót chúng tao, quan chủ lực cơ mà, hả? Vậy vì sao lại tấn công

họ? Cớ gì tụi mày giết hại ngƣời ta tàn bạo thế? Vì sao mà tụi mày căm thù

chúng tao hả? [XX, tr.46].

Cùng khai thác những vùng khuất tối của hiện thực chiến tranh qua số

phận người lính, nhưng tác phẩm của Chu Lai có thiên hướng nhấn vào khả

năng chịu đựng và những khát khao rất con người của người lính để mà chất

vấn cái hiện tại dửng dưng, tàn nhẫn. Còn tác phẩm của Bảo Ninh nổi rõ tinh

thần tự vấn về chính niềm tin quen thuộc của con người Việt Nam rằng chiến

tranh là lò thử vàng, là cơ hội cho những phẩm chất đẹp đẽ tỏa sáng. Ngòi bút

Chu Lai qua ngôn ngữ nhân vật sắc nhọn, đáo để, tự nhiên, bỗ bã khiến tâm

thế người đọc khá nhẹ nhõm khi tiếp cận. Còn nhân vật Bảo Ninh làm dậy lên

biết bao mối hoài nghi đau đớn và dư vị ngôn ngữ nhân vật còn làm tê tái mãi

trên từng câu chữ, trên từng trang sách kể cả khi đã gấp lại rồi.

Trong văn xuôi Việt Nam thời kì đổi mới, bên cạnh và sau Chu Lai,

Nguyễn Huy Thiệp là một trong những gương mặt tiêu biểu. Sáng tác của ông

đa dạng về thể loại: truyện ngắn, tiểu thuyết, kịch bản văn học. Nguyễn Huy

Thiệp là một tác giả có nhiều tìm tòi về kĩ thuật hội thoại. Hội thoại trong tác

phẩm của ông có nhiều nhân vật, nhiều kiểu hội thoại. Đây là điểm gặp nhau

trong tư tưởng cũng như trong “kỹ thuật” tổ chức lời thoại giữa Chu Lai và

Nguyễn Huy Thiệp.

94

Khi nghiên cứu cách dùng từ xưng hô trong truyện ngắn Nguyễn Huy

Thiệp qua 12 truyện ngắn tiêu biểu như: Chảy đi sông ơi, Tƣớng về hƣu,

Huyền thoại phố phƣờng, Không có vua, Muối của rừng, Con gái thủy thần,

Những ngƣời thợ xẻ, Những bài học nông thôn, Kiếm sắc, Thƣơng nhớ đồng

quê, Những ngọn gió Hua tat, Chút thoáng Xuân Hƣơng, chúng tôi thu được

kết quả sau: Đại từ nhân xưng số ít giữ vai trò chủ yếu, có tổng số lần xuất

hiện là 344 lần, trong đó chiếm nhiều nhất là ở truyện Con gái thủy thần là 79

lần; Những ngƣời thợ xẻ là 56 lần, Những bài học nông thôn là 48 lần xuất

hiện đại từ nhân xưng tôi. Điều đó cho thấy ngôn ngữ nhân vật trong tác phẩm

chủ yếu hiện lên là con người với những đặc điểm riêng thuộc về cá nhân, cá

thể, cần bộc lộ con người riêng của mình trước cái nhìn chung của tác phẩm.

Danh từ thân tộc đứng vị trí thứ hai trong tổng số các phương tiện dùng

từ xưng hô trong tổng số lượt sử dụng các phương tiện dùng để xưng hô trong

12 cuốn truyện ngắn đã khảo sát, chúng tôi thu được kết quả sau: Danh từ

thân tộc (anh) trong Tƣớng về hƣu sử dụng 22 lần, (em) 19 lần, (ông) 07 lần,

(chị) 10 lần, (chú) 8 lần, (bà) 11 lần. Thƣơng nhớ đồng quê sử dụng (anh 7

lần), (em) 17 lần. Những ngƣời thợ xẻ sử dụng (anh) 27 lần, (em) 32 lần. Con

gái thủy thần sử dụng (anh) 90 lần, (em) 04 lần.

Danh từ chỉ tên riêng, có kết quả khảo sát như sau: Tƣớng về hƣu: chị

Sinh được nhắc tới 94 lần; Chú Đoài 98 lần, anh Cấn 69 lần, Lão Kiền 55 lần.

Trong Những bài học nông thôn: Nhâm 7 lần, chị Hiên 71 lần, Hạnh 5 lần.

Những ngƣời thợ xẻ: anh Bường 200 lần, Ngọc 11 lần, em Quy 45 lần. Xét về

cấu tạo thì nhóm từ chỉ tên riêng có những cấu tạo chính sau: Danh từ chỉ tên

riêng gồm 1 âm tiết chiếm 21/64 trong tổng số danh từ chỉ tên riêng. Ví dụ:

Hiên, Lân, Hiếu, Ngọc...; Danh từ thân tộc + danh từ riêng chiếm 30/64 trong

tổng số danh từ chỉ tên riêng. Ví dụ: anh Nhâm, bà Hợp, bác Ba Đình…; Họ

và tên + đại từ nhân xưng chiếm 02/64 trong tổng số danh từ chỉ tên riêng. Ví

95

dụ: thằng Khải, thằng Ngọc…; Biệt danh chiếm 01/64 trong tổng số nhóm

danh từ chỉ tên riêng.

Danh từ chỉ nghề nghiệp, chức vụ chiếm vị trí thấp nhất trong tổng số

các phương tiện dùng để xưng hô. Qua khảo sát, chúng tôi thu được: Phẩm

tiết sử dụng danh từ: quận chúa 07 lần, chúa công 16 lần. Tƣớng về hƣu: bác

sĩ 01 lần. Chút thoáng Xuân Hƣơng: quan tri châu 04 lần. Số lượng các danh

tư chỉ chức vụ bằng khoảng 2/3 số lượng các danh từ chỉ nghề nghiệp và khi

đi vào hành chức trong văn bản thì tần số của chúng lớn gần gấp 10 lần so với

danh từ nghề nghiệp.

Điểm qua cách sử dụng từ xưng hô và khảo sát số lượng từ xưng hô sử

dụng trong tác phẩm Bảo Ninh, Nguyễn Huy Thiệp với các tác phẩm của Chu

Lai, chúng ta thấy có những điểm giống nhau giữa các nhà văn khi sử dụng từ

xưng hô (sử dụng nhiều từ xưng hô) nhưng cũng có những nét riêng của từng

tác giả, điều đó càng làm nổi rõ tính đặc thù trong hệ thống từ xưng hô trong

tác phẩm của Chu Lai. Ở đây, sự so sánh không phải để đề cao hay phủ nhận

ai, mỗi nhà văn có một phương thức sáng tạo riêng của mình và chính những

sáng tạo riêng ấy với những thanh âm bổng trầm tạo nên một bản đàn quyến

rũ trên dòng chảy của văn học Việt Nam.

2.5. Tiểu kết

Trong chương 2 của luận án, chúng tôi đã tiến hành thống kê, phân loại

các từ ngữ xưng hô trong lời thoại nhân vật trong 10 cuốn tiểu thuyết của nhà

văn Chu Lai để tìm những lớp từ ngữ có tần số sử dụng cao, lặp đi lặp lại

trong các lời thoại. Qua việc phân tích, có thể thấy nổi lên mấy điểm sau đây:

- Hệ thống từ xưng hô trong giao tiếp giữa các nhân vật xuất hiện với

số lượng lớn và có tần số sử dụng cao, hầu như tất cả các từ nhân xưng (đại

từ, danh từ thân tộc, tên riêng và các nhóm từ khác) đều được dùng trong các

lời thoại. Qua xưng hô ta có thể thấy khá rõ nhân thân của các nhân vật, bao

96

gồm: giới tính, thành phần xuất thân, tuổi tác, nghề nghiệp, chức vụ và cả

những thông tin khác: vị thế của giao tiếp (cao / thấp, ngang hàng), quan hệ

(gia đình, xã hội), tình thái (trọng, thân, khinh). Các nhân vật có cách xưng

hô rất tự nhiên, phù hợp tính cách các nhân vật và hoàn cảnh đang trải qua

nơi chiến hào ác liệt (trong thời chiến) hay trong công trường, nông trường

(khi hoà bình).

- Những khảo sát, phân tích trên đồng thời cho thấy từ ngữ xưng hô

được sử dụng trong ngôn ngữ nhân vật của tiểu thuyết Chu Lai không chỉ ở

nội dung chỉ ngôi, số mà còn thể hiện thái độ, tình cảm, tâm lý, nhận thức,

thói quen, văn hóa… của nhân vật tham gia giao tiếp.

97

Chương 3

ĐẶC ĐIỂM NGÔN NGỮ NHÂN VẬT TRONG TIỂU THUYẾT CHU LAI

QUA TỪ THÔNG TỤC, QUÁN NGỮ VÀ THÀNH NGỮ

3.1. Từ thông tục

3.1.1. Khái niệm

Từ ngữ thông tục (Colloquialism) hiện còn nhiều ý kiến khác nhau. Có

ý kiến cho từ thông tục là những từ tục, thường chỉ dùng trong lớp người gọi

là kém văn hoá (tudien.xalo.vn). Nhưng cũng có cách hiểu khác, rộng hơn: từ

thông tục thuộc khẩu ngữ, mà khẩu ngữ “là ngôn ngữ thông tục, “đời

thường”, chưa có sự gia công trau dồi, ít gắn với chuẩn tắc nghiêm nhặt...

Tính thông tục của khẩu ngữ nói chung và từ vựng khẩu ngữ nói riêng, không

phải là sự nói tục và các từ tục” [29; tr.233, 235]. Trong luận án, chúng tôi

xác định: từ thông tục là lớp từ tự nhiên (còn gọi là khẩu ngữ), đại đa số có

gốc thuần Việt, thuộc phong cách nói; lớp từ này thể hiện trực tiếp suy nghĩ,

tình cảm cá nhân người sử dụng trong nói năng thường nhật, ở trong một số

hoàn cảnh giao tiếp nhất định… Đối lập với từ ngữ thuộc khẩu ngữ, trong đó

có từ thông tục, là từ ngữ có sự trau chuốt gọt giũa trong sử dụng, thuộc

phong cách viết, được dùng trong các loại văn bản (hành chính, báo chí, chính

luận, nghệ thuật). Trên đại thể, lớp từ ngữ thông tục gồm những nhóm: từ tục

(cứt, đéo), từ ngữ chửi rủa (đ.mạ, đồ chó má), các từ ngữ suồng sã, biểu cảm

(mụ nhà tôi, trời ơi).

Tác phẩm văn học thuộc phong cách viết, tức là phong cách sử dụng

ngôn từ có sự chọn lọc, trau chuốt, gọt giũa. Tuy vậy, trong các sáng tác của

mình, bên cạnh việc sử dụng lớp từ thuộc phong cách viết, nhà văn có thể sử

dụng lớp từ thuộc phong cách nói, trong đó có lớp từ ngữ thông tục. Nhưng

phạm vi sử dụng lớp từ ngữ thông tục trong tác phẩm văn học là có điều kiện,

98

tức là chúng chỉ xuất hiện ở ngôn ngữ nhân vật (phần hội thoại, mang phong

cách nói) mà hầu như không xuất hiện trong ngôn ngữ tác giả (phần diễn

thoại, trần thuật, mang phong cách viết).

Khảo sát các tiểu thuyết Chu Lai có thể thấy lời thoại xuất hiện từ

thông tục của nhân vật có tần số sử dụng khá lớn. Ở tiểu thuyết Ăn mày dĩ

vãng, lời thoại có sử dụng từ thông tục là 156 lần, chiếm 5,0%; ở tiểu thuyết

Vòng tròn bội bạc là 134 lần, chiếm 4,6%; ở Ba lần và một lần là 155 lần,

chiếm 4,8%; ở Gió không thổi từ biển là 142 lần, chiếm 5,9%; ở Cuộc đời dài

lắm là 188 lần, chiếm 4,3%; ở Sông xa là 134 lần, chiếm 4,8%; ở Phố là 136

lần, chiếm 6,9%.

Để tìm hiểu rõ hơn về vốn từ thông tục sử dụng cho ngôn ngữ nhân vật,

chúng tôi tiếp tục khảo sát các loại từ ngữ thông tục của ngôn ngữ nhân vật

trong tiểu thuyết Chu Lai qua lượt từ được dùng. Kết quả thống kê có 1.436

lượt dùng các từ ngữ thông tục xuất hiện trong các tiểu thuyết của Chu Lai,

trong đó: từ tục: 666 từ, chiếm 49,5%; từ chửi rủa: 260, chiếm 18,2%; từ ngữ

suồng sã, biểu cảm: 510 từ, chiếm 32,3 %. Từ số liệu trên, có thể thấy nhà

văn có chủ ý lấy từ ngữ thông tục như là một trong những phương thức khắc

hoạ đặc điểm ngôn ngữ nhân vật.

3.1.2. Từ thông tục trong lời thoại nhân vật

3.1.2.1. Một số đặc điểm của từ thông tục trong lời thoại nhân vật ở

tiểu thuyết Chu Lai

Việc các từ ngữ thông tục xuất hiện với một số lượng và tần số cao như

con số thống kê trên đã làm cho ngôn ngữ tác phẩm nói chung, ngôn ngữ nhân

vật của nhà văn Chu Lai nói riêng bộc lộ tính cách của từng nhân vật, đặc biệt

là nhân vật người lính; qua lời thoại nhân vật như vậy, cùng với các nhân tố

khác trong tác phẩm mà ý tưởng của người viết và hiện thực cuộc sống đã

được phản ánh một cách sâu sắc.

99

Lời thoại của nhân vật trong tác phẩm Chu Lai có đặc điểm chung là tác

giả đã “để” cho nhân vật dùng nhiều lời ăn tiếng nói hàng ngày thuộc lớp từ

thông tục (như: các từ ngữ tục, các từ chửi rủa, các từ thân mật suồng sã…).

Lời thoại trong tác phẩm không kiêng kị, tránh né những lớp ngôn từ được

dùng trong lời nói tự nhiên hàng ngày; cách nói, giọng điệu nhân vật thì bạo

liệt, gân guốc, thô mộc, thậm chí là có lúc cay nghiệt, trần trụi… Sở dĩ nó vẫn

được chấp nhận, không gây phản cảm là bởi nhà văn đã đặt đúng nơi, đúng lúc,

tạo ra hiệu ứng nhất định với những ấn tượng mạnh. Và khi đặt lời thoại nhân

vật trong bối cảnh chiến tranh, ở ranh giới giữa cái chết và sự sống, người ta

không thấy những lời ấy là trần tục, thô thiển mà dường như nó mang một ý

nghĩa ngữ dụng khác hẳn với những tình huống giao tiếp bình thường.

Đặc điểm đầu tiên là trong các lời thoại, bên cạnh việc xuất hiện các từ

xưng hô (như đã nêu ở mục trên) là các thông tục thể hiện sự thân mật, suồng

sã vốn chỉ dùng trong giao tiếp tự nhiên hàng ngày, cũng được các nhân vật

dùng trong nhiều ngữ cảnh. Chẳng hạn ở Ăn mày dĩ vãng, không ít lần qua

ngôn từ, người ta có cảm giác sờ nắm được hiện vật qua cảm nhận của nhân

vật: “Mùi cá, mùi mắm, mùi nước đái, mùi xào nấu, mùi sống nƣớc và mùi

lưu manh đĩ điếm lảng vảng cả đêm bủa vây lấy tôi, muốn nuốt chửng, hòa

tan thể xác tôi vào cảnh đời bụi bặm và trƣờng tồn ấy. Thì tôi đã thối rữa ra

trong hàng trăm những cảnh đời đen bạc, uế tạp đó rồi sao?” [XIII, tr.50].

Trong ngôn từ của nhân vật Hai Hùng (nhân vật chính trong Ăn mày dĩ vãng),

các từ ngữ xuất hiện trong các lời đối đáp mang đậm chất đời thường, khẩu

ngữ, nghĩa là chúng trực tiếp, nói thẳng vào nội dung, ít thấy các từ ngữ được

sử dụng mang màu sắc tu từ, chọn lọc trau chuốt như ngôn ngữ miêu tả, ngôn

ngữ tác giả mà ta vẫn thường thấy trong tác phẩm văn chương. Đó là khi nhân

vật ở trong chiến hào với những tình huống ác liệt, đối diện với cái chết. Nhân

vật Hai Hùng phản ứng khi có người hỏi thăm mình:

100

- Thăm hỏi cái quái quỷ gì lúc này! Đây là chuyện sống chết mất còn

chứ không phải cái trò đực cái trăng hoa. Mày vẫn còn cái lối ủy mị rừng

già ấy là không trụ đƣợc ở vùng rừng lõm ác nghiệt này đâu. Đi! [XIII, tr.34].

Tác giả đã để nhân vật nói về việc đi tiểu tiện của người con gái:

- Trời! Làm thì làm đại đi mà! Cứ tắt xòe, tắt xòe mãi nghe nhƣ tiếng

rút chốt tạc đạn, ớn cái xương sống lắm! [XIII, tr.222].

Cái âm thanh sinh học được miêu tả qua ngôn ngữ của âm thanh đùa

vui, ví von đã xóa nhòa ranh giới ngượng ngùng cho nguời con gái trong

chiến tranh, nơi mà chỉ ít phút nữa thôi sẽ biến thành bãi chiến trường đẫm

máu, và người con gái ít phút trước còn đỏ mặt và cười xòa bởi câu nói của

đồng đội trở thành cái xác nát bấy trước sự tàn ác của quân giặc.

Hầu hết trong các tiểu thuyết của mình, Chu Lai dù ít hay nhiều đều nói

đến những điều tế nhị, kín đáo; với tác giả, không có vùng ngôn từ nào là

kiêng kị, miễn làm sao nó nói được thấu triệt tư tưởng tình cảm của mình.

Chẳng hạn, khi miêu tả cái chết bi thảm trong một cảnh huống trớ trêu đau

đớn đến tận cùng của người con gái giao liên mà mới vừa tối qua thôi cô còn

hạnh phúc trong vòng tay của người yêu, nhà văn đã đặc tả những chi tiết rất

thực tế để làm nền cho lời thoại:

… Thu chỉ còn là cái xác lõa lồ, chân tay dẹo dọ nằm trong một tƣ thế

kỳ dị. Rừng xanh, đất xanh, trời xanh… Da thịt sao trắng thế? Mái tóc xoải

dài, chấm ngọn xuống suối, đen đến tức tƣởi. Tƣởng nhƣ cô đang nằm ngủ hớ

hênh sau một đêm giao liên dẫn khách kiệt sức và sắp tỉnh dậy, cƣời thẹn

thùng, vấn lại tóc nếu nhƣ giữa cặp đùi trắng muốt hơi chãng ra của cô, ở

chỗ kín không có một chiếc cọc sần sùi, vạt nhọn cắm sâu vào, xuyên tới

đất… Máu đỏ nhƣ sơn nhểu xuống tận bắp chân, bắn từng giọt lên bụng, lên

gò ngực vẫn no tròn cái sự sống mới nứt, tạo thành những cánh bằng lăng ma

quái vừa ở đâu đó trên cao rụng xuống [XIII, tr.143].

101

Trước hoàn cảnh ấy, lời thoại của nhân vật không thể không sử dụng

đến những yếu tố dứt khoát để giải quyết tình huống:

- Đồng chí y tá! Hùng cũng sắt mặt - Đây là lệnh, đồng chí không đƣợc

can thiệp vào. Anh em đâu? Thằng Khiển, thằng Vƣợng đâu? Cả thằng Tuấn

khốn nạn kia nữa, mày ngồi chết giẫm ở đó à? Mang nó ra hố pháo chôn

ngay! [XIII, tr.79].

Những từ như khốn nạn, chết giẫm xuất hiện trong lời thoại, cùng với

giọng điệu, cách nói chua chát, có vẻ như vô tư lạnh lùng lại ẩn sau đó là một

tình cảm dồn nén sự đau đớn, để thúc đẩy những người lính vượt qua mất mát

vững bước đi tiếp trong cuộc chiến sinh tử này.

Thảm kịch của chiến tranh hiện lên qua lời thoại của người trung đội

trưởng miền Bắc nổi tiếng gan dạ khiến người đọc xót xa, hiểu thêm về sự tàn

khốc của chiến tranh khi lời thoại ấy có hàng loạt từ mang sắc thái đánh giá

chủ quan, trần tục:

- Không thấy. Chắc cũng chết rồi. Chỉ còn hai thằng tôi thôi. Ái! Các

cô làm cái chó gì thế? Nhẹ tay thôi, đếch nhìn thấy xƣơng đùi đằng này đã bị

gãy rời đây à?... Chắc ông ấy tiêu rồi. Trƣớc khi thoát ra đƣợc, tôi còn nhìn

thấy ông ấy hai tay hai sung bắn trả về phía chúng nó dữ lắm. Vừa bắn vừa

gầm lên nhƣ phát điên phát dại… Kìa! Đã bảo nhẹ tay chứ! Ông đ… cho

băng nữa bây giờ! [XIII, tr.47].

Lời thoại của người lính vừa trải qua cuộc chiến tái hiện những mất

mát, chết chóc và sự gan dạ hi sinh của đồng đội. Người đọc không còn thấy

yếu tố tục trong lời chửi mà chỉ còn sự xúc động trước tấm gương gan dạ của

anh mà thôi.

Thảm kịch chiến tranh đến qua hai hình hài đẫm máu rách nát và nhoe

nhoét, cả đại đội bàng hoàng ngơ ngẩn, những tiếng khóc bật qua kẽ tay bụm

chặt. Để xốc lại tinh thần cho đồng đội, không hơn gì là phải có tiếng nói

mạnh mẽ trấn an tinh thần cho tất cả:

102

- Khóc cái gì mà khóc hả, mấy con ranh này! Không lo đƣa thƣơng

binh ra trạm phẫu rồi nhanh chóng về củng cố lại hầm hào, để chúng nó

thông thốc đánh vào thì rồi là còn khóc nữa. Làm lẹ đi! [XV, tr.48].

Ngôn ngữ nhân vật trong đời thường, trong cuộc sống trở về sau chiến

tranh cũng được nhà văn chú ý, khắc họa để làm rõ bản chất của từng nhân

vật. Nếu như ở lời thoại của Sáu Nguyện thể hiện sự đàng hoàng của nhân

cách thì ngôn ngữ của Năm Thành, với những từ phàm tục xuất hiện trong lời

thoại đã bộc lộ bản tính của con người:

Trai gái đĩ bợm hay là trộm cướp, chích choác, hả? - Cút ngay, cút! Từ

giờ phút này tao thề là không có thằng con như mày nữa. Thà tao nuôi con

chó còn biết trung thành hơn với chủ. Cút! Tao không muốn trông thấy cái mặt

phản trắc, đểu giả của mày nữa. Anh ta nói với vợ: - Tất cả chỉ tại cô, một con

đĩ già! Ngày ấy tôi không lôi cô ra khỏi cái vùng nước đái chó ấy thì đời cô

bây giờ đã thành cái xác thối giữa rừng rồi. Cô yêu thƣơng cái thằng trông

nhƣ vƣợn dọc của cô lắm kia mà, sao ngày ấy cô không khăn gói vào rừng với

nó đi, cô lại cứ quặp chặt lấy tôi. Tôi khinh bỉ cô! Khinh bỉ tất cả và tôi cũng

khinh luôn cái gọi là bảo lãnh, cƣu mang của ông già cô [XV, tr.327].

Đặc điểm thứ hai, ngôn ngữ nhân vật trong tác phẩm của Chu Lai xuất

hiện tần số khá cao các từ chửi rủa. Chửi là hành vi kiêng kị trong giao tiếp,

nhưng trong những ngữ cảnh nhất định, nó lại hữu dụng.

Có lẽ trong bối cảnh của chiến tranh, nếu như không có những tiếng

chửi như khích lệ người lính xông trận thì chắc họ sẽ khó vượt qua sự khủng

khiếp của chiến tranh kia. Đoạn thoại sau đây nói về tình huống bị phục kích

bất ngờ, cả đội hình rối loạn và nhanh chóng bị xé nát đến tan tác, thảm hại.

Trong lúc ấy, có một cái bóng chiến sĩ chạy ngược trở lại mà không chịu tiến

công. Hai Hùng nói với ông phó bí thư quận ủy Hai Tiến:

- Thằng khốn! Chạy đi đâu? Mày bỏ bạn bè, đồng đội đi đâu? Cái

bóng nói hào hển, sặc sụa mùi thuốc thơm ru - bi: - Ấy cậu… Đồng chí! Tôi…

103

Tôi đây mà. Tôi là Ba Tiến, phó bí thƣ quận ủy đây mà. Bỏ… Bỏ tay ra đi, kẻo

ngƣời ta thấy… Kìa! … - Chạy như chó mà xƣng là bí thƣ. Nhục!

- Này đồng chí! - Cái bóng cố gượng dậy, hai cẳng chân để trần va đập

lục cục - ăn nói cho có tổ chức. Ai là chó hả? Láo! Tất cả đều chạy, bộ đội của

đồng chí cũng chạy chứ riêng gì tôi. Láo! Láo quá! Phải giáo dục thế nào chứ

không thì…- Cút! Cút về phía sau mà giáo dục. Cút! [XIII, tr.36, 37].

Chiến tranh ác liệt, mất mát, thương vong, nếu không có những con

người sẵn sàng hy sinh và thẳng thắn, bộc trực như Hai Hùng thì chắc dân tộc

không có chiến thắng thần thánh như vậy. Những từ thông tục: thằng khốn,

chạy nhƣ chó, nhục, láo, cút… được dùng trong các câu thoại tỏ ra phù hợp

tâm trạng của người trong cuộc và ngữ cảnh giao tiếp. Qua đó cho người đọc

thấy được tình huống sinh tử của chiến tranh là như thế nào, ngôn ngữ cần

phải diễn đạt ra sao.

Đây lại là đoạn đối thoại của hai người lính khi chứng kiến quá nhiều

cái chết, tình thế bị mắc kẹt, đòi hỏi phải có hành động mau lẹ:

- Sao thế Tuấn? Rút chứ! Muốn ăn phản pháo à? - Kệ mẹ tôi. Anh rút

trƣớc đi. Tôi nắm ngực áo nó đứng dậy: - Lại định giở trò hả? Rút! - Đồ dã

man! [XIII, tr.140].

Thứ ngôn từ tưởng như dung tục phản cảm ấy lại thể hiện một tội ác và

những nỗi đau. Nỗi đau ấy thuộc về con người Việt Nam, đối tượng hứng

chịu hậu quả, là những người như Tuấn, Hùng… và giờ đây đang bị đẩy đến

tận cùng của sự thảm khốc. Sự tàn khốc của chiến tranh khiến những người

can trường nhất cũng có khi lung lạc yếu lòng. Anh dũng nhất cũng là những

người chiến sĩ và đôi khi hèn nhát nhất lại cũng là chính một số trong họ. Chu

Lai đã xoáy sâu vào sự thật của cuộc chiến bằng những từ ngữ tưởng như

thông tục kia, cách nói đanh gọn, riết róng kia để rồi đằng sau lớp từ ngữ ấy,

giọng điệu ấy là cả thế giới tâm trạng của nhân vật in hình trên sự nghiệt ngã

của chiến tranh.

104

Nhân vật Hai Hùng, trở về từ cuộc chiến với một hình hài gầy gò, ốm

yếu, không vợ, không con, không hiện tại và tương lai, chỉ có mảnh quá khứ

phập phồng đập trong lồng ngực. Ở nhân vật này là hiện thực một thời đã

được thẩm thấu với cuộc sống muôn nẻo cam go của người lính trong cơ chế

thị trường ác liệt hơn chiến trường năm xưa. Vì thế ngôn từ trong lời thoại của

nhân vật cũng mang sắc thái riêng không dễ gì khuất phục như khi trả lời tên

vệ sĩ:

- Hết muốn đái rồi. Có sao không? - Tôi vênh mặt lên [VIII, tr.335].

Hay ở tình huống nhân vật dùng những câu cầu khiến để bảo vệ Ba

Sương:

- Bỏ cô ấy ra! Bỏ ngay ra rồi cút đi đâu thì cút. Mày không thấy cô ấy

đang có một vết thƣơng ở đầu à? Bỏ! [XIII, tr.335]

Đặc điểm thứ ba, các từ ngữ tục cũng thuộc nhóm kiêng kị trong giao

tiếp, thế nhưng Chu Lai đã sử dụng khá nhiều từ tục xuất hiện trong các đoạn

thoại giữa các nhân vật. Trong Ăn mày dĩ vãng là: bóp dái, đếch, sứt môi lồi

rốn, đái, rặn ỉa, ỉa đái, chạy nhƣ chó, đít, đánh đéo, con cặc, bìu dái, cu, chó

dái, làm chó gì, cứt thối, con khẹc, khổ nhƣ chó…Trong Ba lần và một lần:

cái chó gì, đếch, ông đ. cho, đàn ông chó dái, thiến mất dái, cơn động đực,

cái chim của mày, đống cứt, bốc cứt bốc đái mà ăn, vũng nƣớc đái chó;

Trong Cuộc đời dài lắm: đ.gì, đĩ non ngứa nghề, con đực đã bị thiến, ôm đít

vợ, đĩ, chó nó tin, cái đít toàn trứng, đ. quên cái gì, ông là cứt, cứt đái, thối,

con tƣờu, ỉa vãi, dại gái đến chảy nƣớc đái ra…

Trong Ăn mày dĩ vãng, nhân vật Tuấn giơ hai tay lên cửa hầm để pháo

tiện đứt tay cho được trở về với mẹ, anh nói với Hai Hùng:

- Anh đánh đéo gì tôi? Mẹ anh chứ! Thế trận càn tháng trƣớc thằng

con mẹ nào chúi đầu xuống hầm, một chân cứ giơ lên hứng đạn? Thằng

nào? Thằng giơ chân tƣởng oai hơn thằng giơ tay à? Lên mặt à? Con cặc!

[XIII, tr.107].

105

Cũng hiếm tìm thấy ở tác phẩm nào cách nói đưa từ tục vào thế này:

- Thế là vô sản. Tuyệt đối vô sản. Vô sản đến tận dái [XIII, tr.50].

Trong Ba lần và một lần, nhân vật Hai Hùng có những lúc buông xuôi

cho số phận thì với Sáu Nguyện, cuộc sống hiện tại của anh là một chiến

trường đấu tranh không khoan nhượng với cái xấu và cái ác, cho dù sau này

anh có phải trả giá bằng tính mạng đi chăng nữa. Lời thoại của nhân vật thể

hiện bản lĩnh của người từng một thời cầm súng:

Hòn than trong đầu Sáu Nguyện từ nãy đã cháy lom dom, đến lúc này

nó không thể âm ỉ được nữa, chợt bùng lên thành lửa. Anh vụt đứng dậy, móc

hộp quẹt Zipo Mỹ còn giữ được, quẹt vào giữa mặt gã dâm tặc, giọng rung lên

vì giận:

- Bỏ cô ấy ra! Làm thằng đàn ông nhƣ vậy là rất nhục! - Cô về đi! Đối

với loại đàn ông chó dái này, cô nên hết sức cẩn thận… [XV, tr.119].

Đoạn thoại giữa Hai Hùng và Ba Thành sau mười năm gặp lại vẫn thấm

đẫm chất lính tráng, bộc trực:

- Bác sĩ con mẹ gì? Thế đồng chí là…Vất mẹ đồng chí đi! Mình đây,

Hai Hùng đây! Chao ôi! Chả lẽ tớ già đến nỗi cậu không còn nhận ra nữa ƣ?

Đầu viên đạn M16 cậu lấy ra từ đùi, gần bìu dái, tớ vẫn giữ đƣợc. Từ đùi? Ừ,

đùi. Bìu dái? Ừ, dái? Vẫn còn giữ? Giữ. Thế thì đù mạ! Nhớ rồi. Mày là

thằng Hùng ác ôn, thằng Hùng trời gầm, đúng không? Nhƣng sao lóng rày

mày già dữ vậy mày? Nếu không nói tới viên đạn mắc dịch ấy thì ông cố nội

tao cũng không nhận ra… [XIII, tr.107].

Ngôn ngữ nhân vật với cách miêu tả và sử dụng từ ngữ mạnh tay như

vậy ta rất ít gặp trong các tác phẩm văn học trước 1975.

Bên cạnh ngôn ngữ nhân vật người lính, Chu Lai cũng chú ý sử dụng

các từ ngữ tục thể hiện đặc điểm ngôn ngữ nhân vật phản diện, cùng với cách

nói rất cộc lốc, đậm chất du côn, lính tẩy, đã khắc họa rõ tính cách nhân vật:

106

- Đù mẹ bọn mọi ăn đất cát! - Bây giờ là tiếng chửi tục tằn vọng xuống

- Nhẹ không ƣa, ƣa nặng. Cơm không muốn ăn, ăn cứt! Thân con lừa! Vậy

tao cho bọn bay chết mẹ luôn. Lính đâu? Tao đếm từ ba đến một, không lên,

bấm! - Ủa! Con Ba Sƣơng chỉ huy xã đội đây mà. Phải là nó thì mới có bàn

tay cụt ngón thế này. Tội hè! Việt cộng sử dụng cả đàn bà tật vô rừng làm đĩ.

Đĩ cụt! - Gọi hàng cái con tườu! Đánh mìn cho chết mẹ chúng nó đi, - Bài

học cái con cặc!... [XIII, tr.207].

Chỉ qua đoạn thoại trên, những từ thông tục được sử dụng đã tô đậm sự

tục tĩu, đểu cáng và phi nhân tính của nhân vật phản diện.

Có thể nói, vốn từ thông tục trong lời thoại của nhân vật đã góp phần

phản ánh sự khắc nghiệt của chiến tranh, của đời sống xã hội rõ nét hơn. Qua

ngôn ngữ nhân vật, ta thấy rõ người lính là những con người với những nhu

cầu, khát vọng như những con người bình thường khác. Điều đáng trân trọng là

trong chiến tranh, luôn phải đối mặt với gian khổ, hy sinh, chết chóc, từng có

những phút mềm lòng nhưng họ vẫn hoàn thành nhiệm vụ đánh giặc cứu nước.

Cách dùng vốn từ thông tục trong lời thoại nhân vật đã thể hiện rõ phong cách,

sở trường của nhà văn khi viết về chiến tranh và cũng tạo nên phong cách ngôn

ngữ đậm “chất lính” trong thế giới nhân vật tiểu thuyết Chu Lai.

Qua tìm hiểu ngôn ngữ đối thoại giữa các nhân vật trong tiểu thuyết

Chu Lai, ta có thể thấy rõ đặc điểm ngôn từ mà nhà văn sử dụng để khắc họa

tính cách nhân vật và qua đó biểu đạt tư tưởng của nhà văn. Ấn tượng rõ nhất

trong ngôn ngữ nhân vật của Chu Lai là hệ thống từ ngữ đời thường, mang

đậm phong cách khẩu ngữ, xuất hiện dày đặc các lớp từ thông tục (các từ

xưng hô hàng ngày; các từ ngữ đánh giá mang tính thân mật, suồng sã; các từ

tục, lời chửi). Cách nói của các nhân vật trong các tác phẩm của Chu Lai cũng

rất ngắn gọn, mạnh mẽ, không nói tránh mà trực diện, thái độ yêu ghét rõ

ràng... Tất cả được diễn đạt bằng một thứ ngôn ngữ rất sắc sảo, tự nhiên như

lời nói hàng ngày. Nhưng đằng sau đó là mạch ngầm - dòng chảy của những

107

triết lý nhân bản mà tác giả muốn gửi gắm qua từng về các nhân vật thấm đẫm

“chất lính” trong tác phẩm của nhà văn.

3.1.2.2. Từ ngữ thông tục của các nhân vật trong tiểu thuyết Chu Lai

a) Từ ngữ thông tục của một số kiểu nhân vật tiêu biểu trong tiểu thuyết

Chu Lai

Trong số hệ thống nhân vật các tiểu thuyết của Chu Lai, nhân vật

người lính chiếm số lượng đông đảo nhất. Họ đến từ nhiều vùng quê khác

nhau, xuất thân, hoàn cảnh và tuổi tác khác nhau, vị thế cũng không giống

nhau, nhưng có điểm chung trong tính cách là các nhân vật người lính có

“chất lính” rất rõ. Chất lính này toát ra không chỉ trong lời giới thiệu, miêu tả

của nhà văn mà nó thể hiện sâu đậm nhất, ấn tượng nhất là ở ngôn ngữ của họ.

Đó được xem là một trong những thành công nhất của Chu Lai khi xây dựng

nhân vật, khắc họa tính cách, đặc điểm nhân vật.

Đây là đoạn thoại của những người lính giữa rừng già sau một trận

đánh ác liệt: - Ơ Khiển! - Một người chiến sĩ thổi phù phù vào cái nòng M79

vừa thông xong - Thế cái lúc ba thằng biệt động to tƣớng nhƣ ba con trâu xô

đến, mày làm thế nào mà óe một cái, ba thằng chúi sang ba hƣớng nhƣ ba

con ngóe vậy?

Một chiến sĩ khác ngồi cạnh đó khum tay lên miệng nói khào khào

để cho mấy cô gái không nghe được: - Nó bóp dái. Hai tay ba củ, vừa bóp

vừa dứt.

Tiếng cười bật lên khoái trá khiến cho mấy cô chẳng hiểu gì cũng

cười theo.

- Tiếc quá! Mày lại có vợ rồi, nếu chƣa, tao xin hứa nếu còn sống trở

về, nhất định tao sẽ gả em gái cho. Em gái tao xinh nhất làng đó.

- Nó nói dóc đấy, làm đếch gì có em gái. Nó chỉ có bà chị gái sứt môi

lồi rốn bán thịt chó sống ở đầu chợ thôi.

108

- Thôi, đừng giỡn nữa! Giỡn hoài, nó trạnh lòng, nó lại chảy nƣớc (Hạ

giọng thật khẽ)… đái ra bây giờ. Có phải không chị Ba? [XIII, tr.93].

Những từ ngữ “óe”, “bóp dái”, “đếch”, “sứt môi lồi rốn”… là những từ

thông tục, nhân vật người lính nói với nhau một cách bình thường, họ bày tỏ

cái hoàn cảnh thực, tâm trạng thực với nhau, khiến cho lời thoại của nhân vật

người lính có những đặc điểm riêng không lẫn với các nhân vật khác. Tính

cách “lính” ăn sâu vào họ, nên từ ngữ họ nói ra, khi đang là lính hay khi họ

trở về đời thường vẫn mang dấu ấn của người lính.

Còn đây là đoạn thoại khi hai người từng là đồng đội, gặp lại nhau sau

chiến tranh. Trong lời thoại cũng có nhiều từ thông tục, được người lính nói

ra một cách tự nhiên:

- Đồng chí hỏi tôi?

- Vâng! Anh là Ba Thành, bác sĩ?

- Bác sĩ con mẹ gì? Thế đồng chí là…

- Vất mẹ nó đồng chí đi! Mình đây, Hai Hùng đây! Chao ôi! Chả lẽ tớ

già đến nỗi cậu không còn nhận ra nữa ƣ? Đầu viên đạn M16 cậu lấy ra từ

đùi, gần bìu dái, tớ vẫn giữ.

- Từ đùi?

- Ừ, đùi.

- Bìu dái?

- Ừ, dái.

- Vẫn còn giữ?

- Giữ.

- Thế thì đù mạ! Nhớ rồi. Mày là thằng Hùng ác ôn [XIII, tr.107].

Qua từ ngữ lời thoại, ta có thể thấy tính cách, suy nghĩ của người lính

ăn sâu vào trong tiềm thức họ thật sâu đậm. Những từ ngữ dùng trong lời

thoại con mẹ, đùi, bìu dái, đù mạ bộc lộ rõ tâm trạng, tình cảm của nhân vật

109

phù hợp với hoàn cảnh giao tiếp và tính cách nhân vật, dù là trong hay sau

chiến tranh.

- Dùng các từ mang sắc thái địa phƣơng:

Có khi nhà văn để cho nhân vật nói những từ ngữ quen thuộc như lời

nói hàng ngày, mang phong cách ngôn ngữ vùng Nam bộ:

- Má mày! Má thằng Sáu Nguyện! Má thằng bạc nghĩa vô tình, đi rồi là

đi miết, không một lần dòm ngó chi đến bạn bè hết. Bộ mày chết dấp chết dúi

ở đâu rồi cũng không cho ai đƣợc biết ƣ?

- Tao cũng hỏi tin mày hoài nhƣng ngƣời ta bảo mày đƣợc cử đi đào

tạo về làm cán bộ nguồn rồi. Tƣởng lóng rày mày đã ông tá ông tƣớng nhà

cao cửa rộng rồi kia chớ! Mãi hôm qua, vô tình gặp ông Bảy tỉnh đội mới biết

mày đã ra quân và đang sinh sống ở đây.

- Sao ốm quá vậy Sáu?... Toàn những xƣơng là xƣơng thôi nè!

- Thì tao có mập bao giờ đâu. Sao, bộ mày tính làm ông chủ đất ở đây hả?

- Nói chuyện mày đi. Từ đó đến nay mày sống ra sao? [XV, tr.178].

Đoạn thoại trên dùng các từ thuộc phương ngữ Nam Bộ, trong đó có từ

xưng hô (má), từ tình thái (miết, bộ, lóng rày, nè).

- Dùng các từ ngữ tình thái có tính suồng sã, biểu cảm:

Chu Lai đặt nhân vật vào các mối quan hệ phức tạp của cuộc sống hiện

đại để khai thác chiều sâu những giá trị nghĩa tình của con người. Linh trong

Vòng tròn bội bạc, Sáu Nguyện trong Ba lần và một lần là những trường hợp

bị xô đẩy giữa dòng đời phức tạp của cuộc sống mới. Nhưng bản lĩnh của

người lính, họ không nhượng bộ. Họ truy quét và tấn công cái ác đến tận cùng.

Khi gặp hoàn cảnh khó khăn, người lính vẫn giữ bản chất lính, thể hiện ngay

trong các từ ngữ họ nói ra:

- Con mẹ quản đốc ngƣời Đại Hàn nó đánh em - Giọng cô uất nghẹn.

- Quản đốc ngƣời Đại Hàn? - Đến lượt anh trợn tròn mắt kinh ngạc -

Sao nó lại đánh? Sao có thể dám đánh?

110

- Tụi em làm lỗi ít mét vải do mệt quá… thiếu ngủ quá! Nó đánh cả tổ.

Đánh bằng dép… Cứ mặt nó nện…

- Thế tụi em chịu cho nó nện à? Đứng im à? Hả? - Anh gằn giọng như

chính anh vừa bị đánh [XV, tr.278].

Trong lời thoại của nhân vật “anh” có các từ tình thái (sao, à, hả) xuất

hiện cùng với các từ khác (các động từ: đánh, dám, nện) đặt trong ngữ cảnh

câu cầu khiến hay nghi vấn, cùng với các từ miêu tả qua lời dẫn thoại (trợn

tròn mắt, gằn giọng) đã thể hiện rõ thái độ, tình cảm dứt khoát, thẳng thắn,

quyết đoán đầy chất “lính”.

Còn đây là lời của người lính khi gặp lại vị chỉ huy can trường dũng

cảm mà cũng nhân từ độ lượng với lỗi lầm của đồng đội năm nào của mình:

- Ông còn nhớ cái gì đây không?

- Một đoạn dây… có gì đâu?

- Đầu óc lão này hƣ rồi! Quên hết quá khứ rồi! - Anh ta trợn mắt - Cái

dây dù bị cứa đứt đã làm ông té lộn cổ xuống suối còn để lại thẹo đến tận bây

giờ đó, nhớ chƣa!

Một luồng khí lạnh toát chạy dọc theo sống lƣng khiến anh đờ ngƣời…

- Thế ra ông là… chính ông là cái ngƣời đã…

- Đúng! Tôi chính là thằng Tính… thằng Hai Tính khốn nạn đã hại ông

đây! - Giọng anh ta méo đi như sắp khóc và ngay liền đó, nước mắt anh ta lại

chảy ra thật - Tôi khốn nạn thế mà ông vẫn không nhận ra ƣ?... Ông không

hận tôi ƣ?... Chết thôi! Ông khác đi nhiều quá! [XV, tr.140].

Lời của người đồng đội năm xưa vẫn chân thật, tự nhiên không khách

sáo, không câu nệ thân phận. Các từ ngữ dùng trong lời thoại đã thể hiện rõ

điều đó (rồi, chƣa, ƣ, sao, quá, ơi, chết thôi).

Qua những dẫn chứng các đoạn thoại của nhân vật người lính, với việc

dùng các từ trong lời thoại (từ thông tục, từ tình thái), có thể thấy rõ: ngôn

ngữ người lính là thứ ngôn ngữ đậm chất đời thường, ít màu sắc tu từ, lối nói

111

thẳng thắn, bộc trực với thái độ dứt khoát… Các từ dùng và sắc thái như thế

phù hợp tính cách người lính.

Bên cạnh đó để thể hiện sự bẩn thỉu trong nhân cách, sự tục tĩu của kẻ

quen uống máu người và giết người không ghê tay các nhân vật này thường

dùng những từ thông tục như: đĩ, đĩ cụt, đù mẹ, thân con lừa, chết mẹ luôn,

tha cái con c,…thằng mọi, mọi rợ…

Hay những từ tình thái: thôi, khổ quá, hả, cái gì, quá, ủa, tội hè…

Các từ ngữ này xuất hiện trong lời nói của nhân vật cứ lặp đi lặp lại,

tạo thành tính cách nhân vật kẻ phản diện, đó là nhân vật được dựng lên từ

những hình ảnh, ngôn ngữ hội thoại sống động, chân thực. Đó là những điển

hình tiêu biểu cho loại kẻ thù ác ôn với những thủ đoạn tinh vi, tàn bạo như

thằng Xầm (Nắng đồng bằng), thằng Quang (Sông xa), thằng Địch (Ăn mày

dĩ vãng)… Nguy hiểm hơn, những nhân vật kẻ thù đó không chỉ là người

của chiến tranh mà còn là người của ngày hôm nay, nó hợp lực với sự tha

hóa của những người từng là lính chiến để thành một thứ nọc độc còn sót lại

và hoành hành trong thời kì hậu chiến, nó hiện diện như một thứ tội ác cần

phải loại bỏ.

Tuy nhiên, đánh giá một cách khách quan, trong việc xây dựng nhân

vật, nhân vật kẻ thù chưa được nhà văn khắc họa rõ nét. Chỉ có điều do cách

thay đổi cái nhìn về hiện thực, đặt kẻ thù dưới cái nhìn nhân bản, nhân tính,

nên Chu Lai đã có cái nhìn đa diện hơn về kẻ thù xâm lược và “kẻ thù” thời

bình. Mô tả chúng, nhà văn đã đứng ở góc độ khách quan để đánh giá chứ

không đơn giản là cái nhìn một chiều đại diện cho dân tộc bị áp bức. Dưới

ngòi bút của tác giả, kẻ thù không chỉ là tàn bạo, ngu dốt, chỉ biết có tiền, có

gái mà đôi khi họ cũng có tài, có nhân cách thực sự nhưng đã lầm đường lạc

lối. Họ có thể dẫm đạp, chém giết tất cả nhưng với tình yêu và lòng tự tôn

giống nòi ẩn sâu trong lòng luôn được họ tôn thờ và không dễ gì kẻ chung

112

trận tuyến chạm đến được (như: nhân vật Duy, Quang…). Đây là nét mới gắn

với sự đổi mới quan niệm nghệ thuật về con người của Chu Lai. Trong nhiều

trường hợp, tác giả không coi nhân vật kẻ thù là phụ, đệm, xuất hiện trong

từng tình huống để đối lập, làm nổi bật tính cách, phẩm chất anh hùng của

người lính cách mạng mà thực sự là một loại nhân vật với tư cách một con

người cá nhân có tính cách, có số phận.

b) Từ ngữ thông tục góp phần tạo tính cá thể hoá nhân vật trong tiểu

thuyết Chu Lai

Tính cá thể hóa nhân vật trong các tiểu thuyết của Chu Lai là khá đậm

nét. Hai Hùng là nhân vật chính, một người lính trong tiểu thuyết Ăn mày dĩ

vãng. Nói đến người lính là ta nghĩ đến những thanh niên trẻ trung, tính cách

mạnh mẽ, yêu ghét rõ ràng, lời họ nói dứt khoát, bộc trực, thẳng thắn. Đó là

những đặc điểm được “mặc định” về người lính. Quả thực, khi tìm hiểu các

nhân vật trong tác phẩm của Chu Lai, ta có thể thấy rõ những đặc điểm đó về

người lính, về tính cá thể hoá của nhân vật điển hình trong mọi hoàn cảnh

khác nhau.

Trong chiến tranh, Hai Hùng hiện lên với mẫu anh hùng của chiến

tranh sông lạch. Sự tinh nhạy, khôn khéo, can tràng của anh đã đạt đến độ

thần tượng của các cô gái du kích, hay các cô ở đội nữ pháo binh, bởi ngoài

chiến đấu giỏi anh còn rất đẹp trai. Chẳng thế, khi nói về anh, các cô thường

hít hà: Chao ôi!... Cứ để cho ảnh sống, ăn uống ngon lành, mỗi đêm đến với

chị em một lần, đến từng đứa, hết lƣợt lại quay lại từ đầu…[XIII, tr.32].

Nhưng anh chàng lính chiến được chị em ưu ái đưa vào giấc mơ đó lại không

phải là người thích đùa cợt, hoa lá. Nghe cậu trinh sát nói có người hỏi thăm

mình, Hai Hùng đã tỏ thái độ rất rõ ràng:

- Ba Sƣơng y tá của đội du kích. Chị ấy mát tay lắm và tỏ ra hết sức tin

cậy ở anh em trinh sát chúng mình. Hồi trƣa, chị ấy có hỏi thăm về anh…

113

- Thăm hỏi cái quái quỷ gì lúc này! Đây là chuyện sống chết mất còn

chứ không phải trò đực cái trăng hoa. Mày vẫn có cái lối ủy mị rừng già ấy

là không trụ đƣợc ở vùng rừng lõm ác nghiệt này đâu. Đi [XIII, tr.34]

Ngôn ngữ thẳng thắn, hơi tàn nhẫn “quái quỷ, đực cái trăng hoa, sống

chết mất còn” khi nhắc đến chuyện tình cảm cho thấy đây còn là mẫu nhân vật

khá lạnh lùng, khô khan và đã là nhiệm vụ thì người lính không gì phân tán tư

tưởng được kể cả khi đó là người con gái đẹp nhất rừng mà ai cũng mơ ước.

Tuy nhiên, cũng là con người ấy, trên chiến trường thì khô khan là vậy

nhưng với đồng đội anh là người rất chăm lo cho sự an toàn của chiến sĩ như

người thân yêu ruột thịt của mình:

- Nhƣng nhớ là đi chậm, thật chậm, quan sát thật kỹ, thấy cái gì khác là

dừng lại ngay [XIII, tr.36].

Hoặc trong tình huống chứng kiến sự phản bội, yếu hèn của người lính

dẫu người đó là cấp trên của mình, Hai Hùng vẫn thẳng thắn đến mức lạnh

lùng, tàn nhẫn qua cách sử dụng lời thoại có nhiều từ thông tục:

- Thằng khốn! Chạy đi đâu? Mày bỏ bạn bè, đồng đội đi đâu?

Cái bóng nói hào hển, sặc sụa mùi thuốc lá thơm ru - bi:

- Ấy cậu… Đồng chí! Tôi… Tôi đây mà. Tôi là Ba Tiến, phó bí thƣ

quận ủy đây mà. Bỏ… Bỏ tay ra đi, kẻo ngƣời ta thấy…Kìa!

- …Chạy như chó mà xƣng là bí thƣ. Nhục!

- Này đồng chí! - Cái bóng cố gượng đứng dậy, hai cẳng chân để trần

va đập lục cục - Ăn nói cho có tổ chức. Ai là chó hả? Láo! Tất cả đều chạy,

bộ đội của đồng chí cũng chạy chứ riêng gì tôi. Láo! Láo quá! Phải giáo dục

thế nào chứ không thì…

- Cút! Cút về sau mà giáo dục. Cút! [XIII, tr. 36].

Cuộc chiến kinh hoàng đã xé nát đội hình của đơn vị Hai Hùng, thi thể

người lính nát tươm bởi mìn clâymo khiến người chỉ huy đau đớn. Vậy mà

114

vẫn có kẻ mang tiếng là cấp trên những lại bỏ trốn một cách hèn hạ. Từ ngữ

chửi trong lời thoại nhân vật “thằng khốn”, “chạy như chó”, “cút”, “nhục”…

hoàn toàn hợp lý trong tình huống này.

Ngôn ngữ nhân vật người lính trong chiến tranh khi đứng trước cái chết

của người đồng đội phải có quyết định nhanh chóng để lấy lại tinh thần chiến

đấu cho mọi người:

- Đồng chí y tá! - Hùng cũng sắt mặt - Đây là lệnh, đồng chí không

đƣợc can thiệp vào. Anh em đâu? Thằng Khiển, thằng Vƣợng đâu? Cả thằng

Tuấn khốn nạn kia nữa, mày ngồi chết giẫm ở đó à? Mang nó ra hố pháo

chôn ngay! [XIII, tr.79].

Ngôn ngữ của người chỉ huy dứt khoát vì anh biết rằng một vết thương

như vậy, sự cứu chữa chỉ làm cho nó trầm trọng thêm, sẽ gây một mật độ

khiếp hãi không lường được cho tất cả mọi người mà chết vẫn hoàn chết. Lời

khấn nguyện cuối cùng của anh trước người đồng đội bạc mệnh như minh

chứng cho tội ác mà chiến tranh đã gây ra:

- Tha thứ cho bọn tao nhé, Bảo ơi!... Bọn tao không còn cách nào

khác… Không còn phƣơng tiện nào khác cả. Bọn tao không nỡ nhìn mày chết

trên đƣờng cáng đi phẫu. Xa lắm… Muốn mày chết ở đây, giữa bạn bè. Hãy

tha thứ… Hãy nhắm mắt lại cho bọn tao đỡ khổ… Đƣợc không? [XIII, tr.80].

Lời khấn nguyện chân thành đầy đau đớn của người đồng đội dành cho

người chiến sĩ hi sinh đã thẩm thấu đến thi thể dưới lòng đất kia, để rồi trong

đôi mắt mù mịt khẽ nhắm lại và rồi mở ra không bao giờ nhắm nữa. Người

chiến sĩ ấy đã chết đem vào lòng đất vết thương và sự yên lòng cho những

người đồng đội tiếp tục chiến đấu.

Đó là giây phút mất mát trong chiến đấu, còn những lúc cánh rừng yên

bình giữa hai làn bom đạn. Tiếng cười vô tư trong trẻo đùa vui của người lính

chiến như để lí giải cho ước mơ hạnh phúc, tuổi trẻ, tình yêu:

115

- Tiếc quá! Mày lại có vợ rồi, nếu chƣa, tao xin hứa nếu còn sống trở

về, nhất định tao sẽ gả em gái cho. Em gái tao xinh nhất làng đó.

- Nó nói dóc đấy. Làm đấy gì có em gái, nó chỉ có bà chị gái sứt môi lồi

rốn bán thịt chó sống ở đầu chợ thôi.

- Thôi đừng giỡn nữa! Giỡn hoài, nó trạnh lòng, nó lại chảy nƣớc (Hạ

giọng thật khẽ)… đái ra bây giờ. Có phải không chị Ba?

Sương thật thà ngẩng lên:

- Cái gì kia?

- Em bảo đừng giỡn nữa kẻo thằng Khiển nó buồn, nó lại chảy nước…

đái ra [XIII, tr.92].

Tiếng cười rộ lên của đám con trai làm át đi cảnh tượng hãi hùng vừa

mới xảy ra quanh đây thôi. Ngôn ngữ người lính mang tính chất ngôn từ hội

thoại, thông dụng như lời ăn tiếng nói hàng ngày. Qua đó những vấn đề nhân

bản của con người được hiện lên mang theo cả mùi vị của cuộc đời. Ngôn từ

của người lính trong chiến tranh ấy không hề bình lặng như vẻ tếu táo bên

ngoài mà cuộn bốc xoáy như chính cuộc đời nhân vật mà tác giả đã tạo ra:

- Anh đánh đéo gì tôi? Mẹ anh chứ! Thế trận càn tháng trƣớc thằng con

mẹ nào chúi đầu xuống hầm, một chân cứ giơ lên hứng đạn? Thằng nào? Thằng

giơ chân tƣởng oai hơn thằng giơ tay à? Lên mặt à? Con cặc! [XIII, tr.107].

Những lời tự trong tâm khảm của con người bột phát ra trong tình

huống đầy chết chóc. Tuấn với những phút giây yếu lòng muốn cối tiện đứt

tay để về quê với mẹ. Chu Lai đã để nhân vật sống thật nhất với con người

bản năng. Đây cũng chính là chất văn “mới” được hiện đại hóa của tác giả

trong cái nhìn nhân bản nhiều chiều về hình tượng khuôn mẫu một thời. Tác

giả đã để nhân vật tự đối thoại về những gì mà họ đang trải qua. Thứ ngôn từ

tưởng như dung tục, phản cảm ấy lại thể hiện một tội ác và nỗi đau. Tội ác

đến tận cùng ấy thuộc về bọn xâm lược. Còn nỗi đau là của con người Việt

116

Nam, đối tượng hứng chịu hậu quả chiến tranh, là những người như Hai Hùng,

Tuấn… và giờ đây số phận của họ đang bị đẩy đến tận cùng của sự thảm khốc.

Sự tàn khốc của chiến tranh khiến cho những người can tràng nhất cũng có

khi lung lạc, yếu lòng. Anh dũng nhất, ngoan cường nhất cũng là người chiến

sĩ mà đôi khi hèn nhát nhất lại cũng chính là họ. Nhiều lúc nhân vật người

lính cũng ném ra những “phản đề” đầy tính triết lý: - Lý thuyết, chủ thuyết,

giác ngộ, lý tƣởng ƣ? Thừa! Những điều cao siêu đó không phải bao giờ, ở

đâu cũng đắc địa, nếu không muốn nói có khi còn trở thành buồn cƣời [XIII,

tr.92], hoặc - Lý tƣởng ƣ? Mục đích ƣ? Giải phóng miền Nam ƣ? Vẫn còn đó

cả nhƣng nó lặn vào đâu đó trong ngƣời sâu lắm rồi [XIII, tr.126]. Những

suy nghĩ lạc dòng của nhân vật như thế chính là biểu hiện của tinh thần đối

thoại với văn chương viết về người lính thời trước. Hình thức câu bỏ ngỏ

cũng là một dạng đối thoại của nhân vật trong độc thoại. Để rồi sự nối tiếp

của số phận nhân vật người lính sau chiến tranh lại tiếp tục đi tìm lời giải đáp

cho vấn đề trong chiến tranh: Phải chăng sự báo oán của Sƣơng (nếu nhƣ em

chết thật) của bao linh hồn vất vƣởng khác thuộc bên này hay bên kia, do

chính tay tôi hoặc mệnh lệnh của tôi gây nên đã khiến tôi giờ đây thành thân

tàn ma dại nhƣờng này? [XIII, tr.132]. Nhân vật luôn bối rối khi phán xét quá

khứ: Khi trong ngƣời thấy khỏe, tôi cũng đủ tỉnh táo để nghĩ rằng, giết đi một

lực lƣợng đại diện cho cái ác thì có nghĩa là anh đang làm điều thiện…

Nhƣng nhỡ ở dƣới đó, ở nơi đâu đó, nơi âm ty tăm tối hay vùng đất xa lạ,

những linh hồn kia lại cãi họ mới chính là đại diện cho điều thiện thì sao?

[XIII, tr.133].

Cuộc đối thoại của người lính về những vấn đề tế nhị rất bản năng con

người được khai thác khá nhiều trong Ăn mày dĩ vãng. Người đọc như bị cuốn

vào dòng cảm xúc mới lạ về tình dục, tình yêu thiêng liêng, trong sáng qua lời

kể của Tuấn với Hùng khi cả hai đang làm nhiệm vụ trinh sát:

117

- Em… Em vừa đƣợc ngủ với đàn bà xong. Lạ lắm!

- Hả? Ngủ với đàn bà? [XIII, tr.135].

Lời thoại của nhân vật hồn nhiên, liền mạch với những từ ngữ tự nhiên

như nó đã từng diễn ra trong cuộc sống đời thường. Suy cho cùng, tất cả đều

là bình thường trong cuộc sống. Nhưng trong hoàn cảnh chiến tranh, điều

bình thường đó lại không là điều giản đơn. Cuộc trò chuyện đặc biệt diễn ra

khi đang căng mắt nhìn động tĩnh của kẻ địch không như những gì chúng ta

tưởng tượng về một bối cảnh nói những điều bình thường này. Bom đạn kẻ

thù không thể hủy diệt lòng ham sống và sự sinh tồn của con người. Ngôn

ngữ nhân vật nhiều khi vượt lên những vấn đề chính trị để xuất hiện trong tác

phẩm. Trong những trường hợp vấn đề chiến tranh tạm nhường chỗ cho lòng

vị tha và đạo đức con người. Ngôn ngữ nhân vật hóm hỉnh, đùa vui trong tình

huống giặc Mỹ bị thương vào chỗ kín, những người lính Việt Nam đã tạm

quên đi mối thù dân tộc để cứu một con người:

- Thằng cha này có con giống ngon lắm! Đ.mẹ! Băng đi băng lại hoài

không nổi mà thằng cha cứ ôm cứng lấy rên rỉ: “Cơơ- kơ… Mai - lootx -

cơơc - kơ!” [XIII, tr.254].

Bên cạnh thứ ngôn ngữ tưng tửng, đùa vui, gần gũi với cuộc sống đời

thường. Những người lính trong Ăn mày dĩ vãng còn có những phút thả mình

vào bóng đêm nhức nhối vừa nhẹ thả phủ tấm vải liệm màu đen xuống cánh

rừng nồng máu. Nơi đó, trong phút dịu nhẹ lắng lại của thanh âm chết chóc

vừa vang lên có người con gái mảnh mai với đôi bả vai chim sẻ đang ngước

mắt nhìn anh chờ đợi:

- Sắp có trăng rồi!... Trăng đêm nay mồng năm. Giá mà đƣợc ngồi đây

nhìn trăng khi nó từ từ lên? Chắc là đẹp lắm! [XIII, tr.208].

Ngôn ngữ mang đậm sắc thái biểu cảm lãng đãng đặc trưng của lãng

mạn trong tình yêu. Người con gái du kích từ gương mặt, mái tóc tỏa ra ánh

118

trăng xanh ngà, trinh trắng. Để người con trai nổi tiếng dũng cảm lạnh lùng

trong chiến đấu thoắt run lên như sắp tan chảy: Mặc ngƣời ta! Mặc tất cả!

[XIII, tr.209] và cúi xuống siết chặt vào đôi môi ướt lạnh của người con gái

một cái hôn tức tưởi và ngàn ngạt yêu thương.

Sau chiến tranh, nhân vật Hai Hùng hiện lên với hình dáng: Bốn mƣơi

chín tuổi và đang thất nghiệp… nửa cƣời nửa khổ [XIII, tr.6]. Nhân vật tự

nhận mình là con nộm rơm khốn khổ giữa cánh đồng đời đầy dông bão [XIII,

tr.6]. Ngay cả khi ngồi trong quán sang trọng do người đồng đội cũ nay là

quan chức đưa đến ăn nhậu, Hai Hùng choáng ngợp trong cái âm thanh của

sự giàu sang, để rồi sau những trạng thái khác nhau của tâm trạng, qua sự

mời gọi, trách móc ngọt ngào của cô gái tiếp viên, anh chỉ thốt lên được

những câu:

- Anh cƣời gì thế? - Cô bé ngước cặp mắt mê hồn lên tôi, hỏi với vẻ lo

lắng thật sự - Sao anh không nói gì với em? Anh mà cứ đăm chiêu hoài vậy,

bà chủ bả…

- Bả làm sao? - Tôi buộc lòng phải mở miệng - Việc khách vào đây, nói

ít hay nói nhiều, buồn hay vui, có liên quan gì đến bả [XIII, tr.12].

Thì ra sau những choáng ngợp đến lặng người trước sự đổi thay của xã

hội trong nhu cầu hưởng thụ ở thời buổi kinh tế thị trường. Câu nói đầu tiên

của nhân vật người lính trở về sau chiến tranh vẫn là giọng nói cứng cỏi,

ngang ngạnh như anh lính chiến ngày nào trong cánh rừng đầy bom đạn và

chết chóc vùng ven đô. Lời của gã phó huyện trưởng nhớt nháy phả vào mặt

Hai Hùng cũng như một minh chứng cho xã hội đầy những lạc thú xác thịt:

- Anh Hai…Thấy thế nào?

- Cái gì thế nào? Nhậu hả? Tốt quá nhƣng hơi tốn.

- Không phải - Hắn chém mắt sang cô bé - Muốn không?

- Muốn gì? - Tôi đã bắt đầu ngờ ngợ.

119

- Lại còn gì. Đuỗn cả mặt ra thế kia là hết muốn chịu nổi rồi. Một đêm,

một đêm chẵn với bé nghen! Rẻ thối. Trăm ngàn bạc mà đƣợc làm chủ cả một

thân hình kiều diễm dƣờng kia thì ở ngoài anh Hai có nằm mơ cũng không ra,

tán tỉnh cả đời cũng không đƣợc. Ƣng nhé! Tôi bao trọn gói.

- Hả?... Bậy mày! - Tôi trừng mắt một cách yếu ớt - Nó đáng tuổi con,

đừng nghĩ lộn xộn.

- Hớ!... Đáng tuổi cháu cũng đƣợc nữa. Càng ngon, thơm thịt, nhai

đƣợc cả xƣơng. Thế nào?

- Dẹp đi! - Lần này thì tôi gắt thật sự, phần vì lối nói chả chớt của gã,

phần vì tôi không muốn cô bé nghe được. Uống xong, về. Bộ thằng Ba mày

xỉn rồi hả? [XIII, tr.15].

Ngôn ngữ của nhân vật phó huyện trưởng sặc mùi thực dụng và xác thịt,

tưởng như nếu không có cái mác quan chức thì người ta dễ lầm tưởng đây là

ngôn ngữ của một gã kinh doanh những mặt hàng bẩn thỉu từ thân xác của

những cô gái. Còn Hai Hùng bắt đầu từ cái ngơ ngác trong từ ngữ mang sắc

thái hỏi “cái gì” cho đến thái độ bất bình, phản đối rõ rệt “dẹp đi” cho thấy

nỗi buồn xoáy nhức cứ dẫn lan tỏa trong từng từ trong lời thoại nhân vật. Nỗi

buồn của cuộc sống cứ khắc khoải triền miên trong lòng kẻ đi tìm quá vãng

mà không thể chấp nhận cuộc sống xô bồ này.

Và hơn hết, trong nhân vật Hai Hùng, cái mà anh đeo đuổi với quyết

tâm tìm ra sự thật không phải là ở những người bạn cùng chiến đấu nay như

thế nào trong cuộc sống kinh tế thị trường. Cái mà anh phải tìm ra đó chính

là người đàn bà đã in hình trong tâm trí anh những day dứt khổ đau lẫn ngọt

ngào. Nếu như ngày xưa trong chiến tranh là hình ảnh của cô người yêu bé

nhỏ dịu dàng như chú chim non hớp ánh sáng bình minh, cô gái bé nhỏ,

mảnh khảnh, e ấp dịu dàng thì nay người con gái ấy chỉ còn lại bằng hình hài:

ngƣời đàn bà trên bốn mƣơi tuổi… khóe môi thỉnh thoảng nhíu lại thành một

120

nếp hằn chạy ngƣợc lên má trông khắc khổ và hơi ang ác một tí [XIII, tr. 22].

Trước người đàn bà của quá khứ mà Hai Hùng đang tìm kiếm ấy, ngôn ngữ

của nhân vật như có luồng điện cao thế chạy vào khiến thanh âm run rẩy:

- Sƣơng… Ba Sƣơng… Không nhận ra tôi ƣ? Tôi đây, Hai Hùng!

…- Không! - Nhiệt huyết người lính chiến một thời trong tôi quẫy cựa

bướng bỉnh - Em là Sƣơng. Em phải là Sƣơng. Đối với thiên hạ em là Lan

nhƣng đối với tôi, riêng tôi thôi, em bao giờ cũng là Sƣơng… [XIII, tr.30].

Ngôn ngữ đầy thảng thốt trìu mến của cung bậc cảm xúc trong lời thoại

của người lính vẫn còn vẹn nguyên theo năm tháng cho dù cuộc sống có đổi

thay như thế nào. Nhưng ngôn ngữ ấy, khi đứng trước người đàn bà chỉ biết

đến quyền lực và cuộc sống giàu sang mà quên đi người yêu cũ đã không còn

đơn giản chỉ là yêu thương:

- Cảm ơn bà đã quá chu đáo…- Bà không phải là một cái gì hết. Đúng

thế. Bởi vì bà chính là Ba Sƣơng. Y tá Ba Sƣơng! Xã đội trƣởng Ba Sƣơng

của ba xã vùng hạ lƣu sông Sài Gòn cách đây hai mƣơi năm [XIII, tr.234].

Lời thoại nhân vật rành rọt, thẳng thắn như đang đứng trước hàng quân

duyệt tập. Phong cách người lính với sự thẳng thắn không ưa lối vòng vo

được dịp bộc lộ. Để nhân vật Tư Lan - Ba Sương chết sững người trong tình

huống bất ngờ này. Hai Hùng lại tiếp tục phản công như người lính trinh sát

từng một thời chiến đấu ngoan cường cho dù hoàn cảnh có khác nhau:

- Bà có muốn nhận bà là Ba Sƣơng hay không. Tùy! Đó là quyền của

bà. Nhƣng tôi, tôi lại cần biết tại sao một xác chết đã chôn sâu ba thƣớc đất

là lại có thể sống lại? Hiểu cho riêng tôi, cho nỗi giày vò và ân hận của riêng

tôi. Ngoài ra không để làm gì hết. Vì rút cuộc, bà vẫn là bà và tôi vẫn là tôi,

xa lạ, tách rời, không quá khứ, không hiện tại, tƣơng lai [XIII, tr.234].

Ngôn ngữ nhân vật cứng rắn như một vị quan tòa đang luận tội

phạm nhân. Những từ ngữ “tùy”, “đó là quyền bà”… như mang cả âm

121

hưởng sắc lạnh của người nói nhưng bên trong sự sắc lạnh ấy còn kèm

theo cả cảm giác rã rời, chán chường của người không muốn tin ấy là sự

thật. Ngôn ngữ ấy của người đàn ông, của người đồng đội từng dành hết

tình cảm của mình cho người đàn bà chối bỏ quá khứ dù cho cố làm vẻ

lạnh lùng những vẫn không sao dấu được cảm xúc khi biết người đàn bà

ấy cũng chỉ là nạn nhân:

- Sƣơng! Em cứ ở đây. Ngày mai tôi sẽ đƣa em về - Ông Hùng đứng

chắn ngang cửa, cặp mắt trũng sâu sáng lên - Nếu cái đoàn thanh tra ấy

muốn, chính tôi sẽ trả lời, nhân danh những ngƣời chết và những ngƣời sống,

tôi sẽ trả lời thay em [XIII, tr.331].

Tình cảm riêng tư trong hoàn cảnh khó khăn đã được nâng lên thành

tình đồng đội. Một Ba Sương bé nhỏ, một Hai Hùng kiên cường chiến đấu

ngày nào được tái hiện qua lời thoại đầy cảm động. Dù trong hoàn cảnh nào,

tình đồng đội của họ vẫn vượt lên tất cả:

- Ngày mai chúng tôi, có cả Ba Thành, cả thằng Tuấn, cả anh Tƣờng

đây cũng sẽ xuống đó. Sẽ xuống với một đồng đội đang cần đƣợc bảo vệ nhƣ

ngày xƣa [XIII, tr.331].

Với đồng đội trong ngày gặp lại, Hai Hùng dù trong hình hài của kẻ bị

xã hội lãng quên, anh vẫn là người lính năm nào thật thà, bỗ bã qua ngôn ngữ

tự nhiên đến thông tục:

- Vất mẹ nó đồng chí đi! Mình đây, Hai Hùng đây! Chao ôi! Chả lẽ tớ

già đến nỗi cậu không nhận ra nữa ƣ? Đầu viên đạn M16 cậu lấy ra từ đùi,

gần bìu dái, tớ vẫn giữ [XIII, tr.107].

Bổ sung cho Hai Hùng là nhân vật Ba Thành, tay bác sĩ đồ tể năm xưa

đã từng cứu sống bao chiến sĩ. Các đoạn thoại giữa Hai Hùng và Ba Thành đã

thể hiện rõ hơn phong cách ngôn ngữ của Hai Hùng. Thời gian đã biến anh

bác sĩ quân y Ba Thành hào hoa, hóm hỉnh ngày nào thành một lão nông lọm

122

khọm cày cuốc. Nhưng sự thay đổi chỉ ở hình thức bên ngoài của chàng bác sĩ,

còn bên trong, khi gặp lại người bạn mình từng cứu sống trong chiến trường,

sự hóm hỉnh, vui tươi, như trở lại trong anh:

- Thế thì đù mạ! Nhớ rồi. Mày là thằng Hùng ác ôn, thằng Hùng trời

gầm, đúng không? Nhƣng sao lóng rày mày già dữ vậy mày? Nếu không nói

tới viên đạn mắc dịch ấy thì ông cố nội tao nhận cũng không ra.

…- Ờ, lẹ hè! tao nhớ ngày ấy mày ngon lắm kia mà. Cái giò của mày

bự bằng cả khúc bằng lăng, nếu không viên đạn ấy nó cắt cụt cu mày rồi, lão

khọm à [XIII, tr.108].

Ngôn ngữ tự nhiên, giản dị như lời ăn tiếng nói trong cuộc sống hàng

ngày. Những lo toan, suy nghĩ từ những bất công trong cuộc sống hàng ngày

như tạm gác lại, chỉ còn tình bạn cùng chung chiến hào năm xưa. Người đọc

không thấy sự tục tĩu trong ngôn ngữ của họ mà chỉ thấy sự sảng khoái, thân

mật trong tình cảm của họ mà thôi.

Nhưng có lúc, cũng những từ ngữ thông tục được sử dụng với mục

đích khác:

- Mà đ.mẹ! Chiến tranh liên miên, không xấu mã thì đẹp cái con đĩ

ngựa nó à? Còn bạn bè? Tao không thèm đi thua đƣợc với bọi đi bằng đầu

gối, nói bằng môi đó. Có thằng lúc này đã ngồi ghế đầu tỉnh. Biết vậy, hổi đó

tao dục cha nó cái panh - sô vô ruột cho rồi [XIII, tr.109].

Lời nhân vật khi sử dụng lời tục chửi thề như chứa chất nỗi niềm từ

những bất công, vô ơn của những kẻ đi từ cuộc chiến những lại quay lưng lại

với đồng đội để bước lên con đường danh vọng. Nhưng, giây phút ấy chỉ

thoáng qua trong lời thoại của nhân vật người lính trở về sau chiến tranh, để

nhường chỗ cho sự bỗ bã, thân mật quen thuộc đã làm nên cá tính họ:

- Chết thế chó nào được! Mổ xẻ, vá víu cho nó xong, tao chắc mẩm

rằng nhất định nó sẽ nghẻo củ tỏi trên đƣờng chuyển về phía sau, chín miểng

123

đạn, toàn vào chỗ phạm chứ ít ỏi gì, vậy mà mấy tháng sau đã lại nghe nó

đang vồ đàn bà con gái ở trên rừng già rồi [XIII, tr.111].

Lời kể về quá khứ đau thương của người bác sĩ quân y tốt bụng nghe cứ

ráo hoảnh. Ngôn ngữ nhân vật không bi lụy đau thương khi nhắc về quá khứ

một thời cho dù quá khứ ấy phải đánh đổi bằng biết bao mất mát hi sinh. Đây

có lẽ là một trong những điểm nhấn trong ngôn ngữ tiểu thuyết Chu Lai khiến

người đọc nhớ mãi qua những trang viết về chiến tranh. Cuộc chiến của dân

tộc qua lăng kính của những người lính trở về vẫn vẹn nguyên khí thế hào

hùng và sẵn sàng hi sinh cho tổ quốc.

Có lúc, nhân vật người lính trở về ấy vô tư rủ bạn của mình:

- Đi chơi gái đi! Mới nửa đêm. Gần thôi.

- Hả… Cái gì gái? - Tôi ngoảnh hẳn sang võng hắn.

- Chơi gái. Ngoài thị trấn. Nhiều lắm! Tao bao. Tao có tiền. Nhiều tiền.

Vừa bán đƣợc lứa mít trên hai trăm trái, chơi xả láng. Đi [XIII, tr.115].

Ngôn ngữ cứ tưng tửng như những gì thuộc bản chất của họ. Nhưng

cuộc đời thật khốn nạn và bất công khi dành cho nhân vật một sinh lực còm

cõi, một vỏ ốc tự ti, một bầu trời trầm uất, để trong thân thể không còn chỗ

nào dành cho khái niệm đàn bà nữa. Câu trả lời của người bạn cũng thật thà,

thẳng thắn như lời mời kia:

- Ngủ đi! - tôi thở dài - Tao liệt rồi! Loay hoay không đâu vào đâu nó

cƣời, lại phí tiền [XIII, tr.116].

Ngôn từ ở hình tượng nhân vật người lính trở về mạnh, sắc nét lột tả

được bản chất sự việc:

- Con khẹc!... - Tôi nghe rõ tiếng nó thở ra, nặng và sâu - Ngày xƣa

bom đạn chết chóc nhƣờng ấy mà thịt da mày vẫn săn seo, thân thể trùng trục

nặng 65 ki - lô, vậy mà hòa bình mới có mƣời năm, ngƣời ngợm mày đã hƣ

hỏng đi nhƣ thế! Hƣ từ trong ra ngoài. Khốn nạn cho mày, thằng chỉ huy

trinh sát đặc nhiệm quân giải phóng ơi!

124

- Thôi đừng nhắc đến giải phóng, đến trinh sát nữa! - Tôi rên rỉ.

- Sao lại không nhắc - Hắn nhƣ gầm lên - Mày mắc cỡ à? Mày nhục à?

Cuộc sống bây giờ tuy khốn nạn thật nhƣng thử đứa nào xúc phạm đến

những chữ ấy coi. Tao bắn bỏ liền [XIII, tr.116].

Ký ức chiến tranh có buồn vui, đau đớn. Có tự hào, anh dũng kiên

cường của chiến thắng nhưng, vẫn là chữ “nhưng” trớ trêu ấy… Chiến tranh

đã lấy đi của họ tuổi trẻ, sự mạnh mẽ bản năng của đàn ông, của những sinh

lực tràn trề yêu đương, để lại, sau hòa bình là những tấm thân tả tơi, nhàu nhĩ

như chính tâm hồn buồn đau của họ vậy. Sự trớ trêu của thời gian hay hậu quả

của chiến tranh đem lại, người đọc không thấy sự đồi trụy trong nhân vật mà

chỉ còn một cảm giác xa xót trước số phận của họ mà thôi. Cách xưng hô

“mày - tao” trong lời thoại cho thấy giữa mối quan hệ của họ vẫn là tình đồng

đội như xưa vẫn là sự đồng cảm, giao hòa kể cả con người sinh lý của bạn.

Mọi cái có thể thay đổi, nhưng tình bạn, tình đồng chí của những con người

như Hai Hùng, Ba Thành vẫn còn mãi với thời gian.

Cuộc sống đời thường bỡn cợt cả những con người từng hi sinh tuổi trẻ,

thậm chí mạng sống của mình cho nó được bình yên. Cái vạt rừng cháy xém

kia như minh chứng cho sự hi sinh của họ giờ đã hồi sinh được đâu. Ngôn

ngữ nhân vật chua chát, xót xa. Nỗi niềm của nhân vật, của nhà văn, của

người đọc nhiều khi hòa cùng trong một dòng cảm xúc. Sự đa dạng trong biểu

hiện ý nghĩa ngôn từ qua lời thoại nhân vật trong tiểu thuyết Chu Lai phải nói

là không dễ gì kiến tạo được...

Hình tượng người lính trong tiểu thuyết Chu Lai phần đa được thể hiện

từ chiến tranh vắt sang đời thường. Bởi vậy ngôn ngữ nhân vật phù hợp

không thể là sử dụng từ ngữ đơn tuyến. Lời thoại nhân vật cho người đọc

nhiều xúc cảm do từ ngữ mang lại. Đó không chỉ làm cảm xúc, tình yêu, mà

còn là những triết lý, quan niệm sống đa dạng trong mỗi con người.

125

Trong lời thoại của các nhân vật, tiêu biểu là nhân vật Hai Hùng, về

mặt từ ngữ - các từ thông tục… xuất hiện nhiều, cứ lặp đi lặp lại, cho thấy đây

là một nhân vật có cá tính đậm nét (bộc trực, thẳng thắn, ngang tàng, quyết

liệt trong chiến đấu, với cái xấu, với kẻ thù nhưng cũng rất giàu tình cảm với

đồng chí, đồng đội, nhân dân); nhân vật Hai Hùng tiêu biểu cho hình tượng

người lính trong tiểu thuyết Chu Lai.

3.1.3. Vai trò của từ thông tục trong ngôn ngữ nhân vật của tiểu thuyết

Chu Lai

Danh sách các từ ngữ thông tục trong lời thoại thật đa dạng, có tần số

sử dung cao, lặp đi lặp lại. Đó là những từ chửi rủa trong Ăn mày dĩ vãng:

mẹ kiếp, đồ ăn mày, thằng khốn, cút xéo, thằng súc sinh, khốn nạn, thằng ngu

ngốc, đồ y tá lang băm, mẹ nó, thằng hèn, đồ khốn, im cái mồm, kệ mẹ tôi, đồ

dã man, mẹ mày, cha trời, con mẹ họ, tiên sƣ chúng mày, thằng con mẹ; trong

Gió không thổi từ biển: thằng điên, đồ con bò, ác hơn con hổ trên rừng, đồ

ăn hại, thằng mọi, đồ đĩ rựa, con mẹ nó, im mồm đi, khốn nạn, đồ rắn độc, đồ

mật vụ, đồ cảnh sát hạng bét, đồ ngu, mẹ kiếp, thằng phản bội; trong Ba lần

và một lần: im mồm, dốt, đồ đểu, đồ khốn nạn, đ.mẹ, má mày, dẹp mẹ nó, má

thằng bạc nghĩa vô tình, chết dấp chết dúi, đ.má thằng già, đồ ăn cháo đái bát,

chó má súc vật, con đĩ già, ông nội mày, con mẹ mày, con bồ mất nết; Cuộc

đời dài lắm: bỏ mẹ, cút, mẹ khỉ, mẹ chị, bố thằng nào, thằng khốn nạn, đồ

đạo đức giả, đồ khốn nạn, con mẹ nhà ông, má thằng bạc nghĩa vô tình, đ.má

thằng già, thằng ngu, ngu dại, dở hơi, thằng khốn, cút khỉ nhà tao, khốn nạn,

mẹ nó, đồ dâm tình, bịp bợm, thằng dại gái, đồ ăn cháo đái bát, tiên sƣ ông,

con mẹ ông…

Trong các lời thoại, có những từ tục xuất hiện không chút kiêng tránh:

bóp dái, rặn ỉa, ỉa đái, con cặc, bìu dái, chó dái, đàn ông chó dái, thiến mất

dái, cơn động đực, cái chim của mày, đống cứt, bốc cứt bốc đái mà ăn, vũng

126

nƣớc đái chó, ôm đít vợ, đĩ, chó nó tin, cái đít toàn trứng, đ.quên cái gì, ông

là cứt, cứt đái, bỏ mẹ, thối, con tƣờu, ỉa vãi, dại gái đến chảy nƣớc đái ra…

Với những từ thông tục xuất hiện khá nhiều trong các lời thoại đã liệt

kê cũng như phân tích ở các mục trên, có thể thấy nhân vật của Chu Lai bộc

lộ khá rõ các thông tin về nhân thân của họ ở mấy mặt sau đây:

Về giới tính, thành phần, nghề nghiệp: phần lớn số nhân vật trong tác

phẩm là người lính (trong và sau chiến tranh) hoặc từng là người lính (sau

chiến tranh); số đông trong họ là nam; nhân vật là nữ có số lượng ít hơn. Tất

cả họ đã tham gia vào cuộc chiến và xây dựng cuộc sống sau hòa bình ở nhiều

môi trường khác nhau.

Về quan hệ, hoàn cảnh và thái độ giao tiếp: quan hệ cơ bản giữa các các

nhân vật người lính là quan hệ ngang hàng; hoàn cảnh giao tiếp phần lớn là

trong các tình huống rất ngặt nghèo, ác liệt của chiến tranh, lúc đó người ta

phải xử lý mau lẹ, thái độ dứt khoát; cũng có thể là trong hoàn cảnh thời bình,

nhưng cuộc đấu tranh giữa cái tốt, cái xấu không kém phần quyết liệt, đòi hỏi

phải bày tỏ thái độ yêu ghét rõ ràng.

Về tính cách: qua lời thoại sử dụng các từ ngữ thông tục, từ chửi, các

nhân vật bộc lộ tính cách ngang tàng, dân dã, đời thường của những con

người sống trong thời kì bão lửa và những thử thách khủng khiếp của thời đại.

Điều này phù hợp với nhân vật là những người lính, phù hợp với hiện thực

đời sống trần trụi, đầy những bức xúc mà các nhân vật giao tiếp trải qua.

Vì sao nhân vật người lính lại phải dùng những từ tục trần trụi như thế?

Cả đội hình của ta rối loạn và nhanh chóng bị xé nát đến tan tác, thảm hại vì

bị địch phục kích bất ngờ. Trong lúc ấy, có một cái bóng chạy ngược trở lại

mà không chịu tiến công, Hai Hùng bức xúc chửi ngay:

- Thằng khốn! Chạy đi đâu? Mày bỏ bạn bè, đồng đội đi đâu? Cái

bóng nói hào hển, sặc sụa mùi thuốc thơm ru- bi: - Ấy cậu… Đồng chí! Tôi…

Tôi đây mà. Tôi là Ba Tiến, phó bí thƣ quận ủy đây mà. Bỏ… Bỏ tay ra đi, kẻo

127

ngƣời ta thấy… Kìa! … - Chạy như chó mà xƣng là bí thƣ. Nhục! - Này đồng

chí! - Cái bóng cố gượng dậy, hai cẳng chân để trần va đập lục cục - ăn nói

cho có tổ chức. Ai là chó hả? Láo! Tất cả đều chạy, bộ đội của đồng chí cũng

chạy chứ riêng gì tôi. Láo! Láo quá! Phải giáo dục thế nào chứ không thì…-

Cút! Cút về phía sau mà giáo dục. Cút! [XIII, tr.32].

Lời thoại trong tác phẩm không kiêng kị, tránh né những lớp ngôn từ

được dùng trong lời nói tự nhiên hàng ngày; cách nói, giọng điệu nhân vật thì

bạo liệt, gân guốc, thô mộc, thậm chí là có lúc cay nghiệt, đáo để… Sở dĩ nó

vẫn được chấp nhận, không gây phản cảm là bởi nhà văn đã đặt đúng nơi, đúng

lúc, tạo ra hiệu ứng sử dụng ngôn từ và cách nói. Và khi đặt lời thoại nhân vật

trong bối cảnh chiến tranh, ở cận kề ranh giới của cái chết và sự sống, người ta

không thấy những lời ấy là trần tục, thô thiển mà dường như nó đã mang một ý

nghĩa ngữ dụng khác hẳn với những tình huống giao tiếp bình thường.

Từ ngữ trong lời thoại làm cho ngôn ngữ nhân vật gần gũi đời sống,

phù hợp phong cách giao tiếp. Đó là những lời chửi: Mẹ kiếp, đồ ăn mày,

thằng khốn, thằng súc sinh, khốn nạn, thằng ngu ngốc, đồ y tá lang băm, mẹ

nó, thằng hèn, đồ khốn, đồ dã man, tiên sƣ chúng mày, đồ con bò, đồ ăn hại,

thằng mọi, đỗ đĩ rựa, đồ rắn độc, đồ mật vụ, đồ cảnh sát hạng bét, đồ ngu, mẹ

kiếp, đồ đểu, đồ khốn nạn, đ.mẹ, đ.má thằng già, đồ ăn cháo đái bát, chó má

súc vật, con đĩ già; bỏ mẹ, cút, mẹ khỉ, mẹ chị, bố thằng nào, thằng khốn nạn,

đồ đạo đức giả, đồ khốn nạn, con mẹ nhà ông, má thằng bạc nghĩa vô tình,

đ.má thằng già, thằng ngu, ngu dại, đồ dâm tình, bịp bợm… Những từ tục

xuất hiện không chút kiêng tránh: Bóp dái, rặn ỉa, ỉa đái, con cặc, bìu dái,

chó dái, đàn ông chó dái, thiến mất dái, cơn động đực, cái chim của mày,

đống cứt, bốc cứt bốc đái mà ăn, vũng nƣớc đái chó, ôm đít vợ, đĩ, chó nó tin,

cái đít toàn trứng, đ.quên cái gì, ông là cứt, cứt đái, bỏ mẹ, thối, con tƣờu, ỉa

vãi, dại gái đến chảy nƣớc đái ra…

128

3.1.4. Một vài so sánh bước đầu từ thông tục trong ngôn ngữ nhân

vật của tiểu thuyết Chu Lai với từ thông tục trong ngôn ngữ nhân vật của

một số nhà văn khác...

Trong tác phẩm của mình trong thời gian gần đây, Chu Lai cũng như

nhiều nhà văn khác đưa vào trong tác phẩm của mình, qua lời nhân vật nhiều

lớp từ ngữ đời sống mà trước đây các sáng tác văn học thường kiêng kỵ.

Dường như những yếu tố tục kia không gợi cho người đọc những gì như bản

chất từ ngữ mà đã hàm chứa một ý nghĩa khác - bản chất của cuộc sống tự

nhiên, bản năng trong mỗi con người. Chẳng hạn, trong các tác phẩm của

mình, Nguyễn Huy Thiệp cũng như Chu Lai, thường dùng khá nhiều các từ

ngữ thông tục.

Khảo sát yếu tố tục trong một số truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp,

chúng tôi nhận thấy thấy tác giả cũng rất chú trọng gửi các thông điệp qua

ngôn ngữ nhân vật. Ngôn ngữ nhân vật trong tác phẩm Nguyễn Huy Thiệp

cũng có những điểm gần giống với ngôn ngữ nhân vật của Chu Lai, có tính cá

thể hóa sâu sắc. Nhân vật tuy không nói nhiều lời nhưng để lại ấn tượng sâu

đậm. Lời nói của nhân vật không văn hoa sách vở, nó mộc mạc như tiếng nói

của đời thường. Họ phát ngôn một cách tự do. Nhân vật chẳng cần giữ ý, cứ

thản nhiên “văng” ra những khẩu ngữ, những câu chửi thề thô tục của mình.

Trong tác phẩm Tƣớng về hƣu, lời nhân vật ông Bổng có nhiều từ ngữ rất đời

thường, nói ra một cách hồn nhiên: mất mẹ bộ xa lông, bốc mộ cho chú bộ

ván… Không sao, bao giờ cả làng này chết tự tao cũng đủ tiền đi đò nhét vào

miệng họ. Lời nhân vật Thủy sắc sảo, rành mạch thể hiện một cá tính mạnh

mẽ: không thể đƣợc, tôi không thích, ăn là trên hết, họ hàng nhà anh kinh bỏ

mẹ. Lời của nhân vật Đoài (Không có vua) bộc lộ bản chất con người đểu

cáng vô lương: “Lạy mẹ, mẹ phù hộ cho con đi học nƣớc ngoài, kiếm cái xe

cúp… Mất thì giờ bỏ mẹ. Ai đồng ý bố chết giơ tay, tôi biểu quyết nhé… Các

bác già chết có gì là lạ” .

129

Loại nhân vật xuất hiện nhiều trong sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp là

loại nhân vật trần tục, tha hóa, biến chất. Đặc điểm của loại nhân vật này là

ngôn ngữ sử dụng nhiều từ tục như: mẹ mày, láo, kề miệng lỗ, cứt, ăn cứt, đồ

ruồi nhặng, lo thọt dái, ngu nhƣ chó, sợ vãi đái, bể cứt, mẹ cha mày, bỏ mẹ,

bóp vú,…Bất cứ nhân vật nào trong tác phẩm Nguyễn Huy Thiệp lúc cần cũng

có thể văng tục, từ một bà già nông thôn đến một ông vua vị tướng, từ những

kẻ trí thức có học đến những người bình dân ít học, từ những con người thực

trong lịch sử đến con người trong huyền thoại.

Qua thống kê từ ngữ qua lời thoại nhân vật của Chu Lai với thống kê sơ

bộ từ ngữ lời thoại nhân vật trong tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp, có thể

thấy những nét khá tương đồng: các nhân vật dùng nhiều từ ngữ như lời nói

thường, có tính thông tục, đậm chất khẩu ngữ. Ở đây, sự so sánh không phải

để đề cao hay phủ nhận ai, mỗi nhà văn có một phương thức sáng tạo riêng

của mình và chính những sáng tạo riêng ấy đã tạo nên phong cách ngôn ngữ

có nhiều dấu ấn mới của các tác phẩm văn học trong thời kỳ đương đại.

Ngôn ngữ nhân vật trong tiểu thuyết Chu Lai cũng sử dụng những từ

tục để chửi, nhưng cái chửi trong tình huống của những người lính gặp lại

nhau sau chiến tranh không phải là lời chửi tục tằn, bất hạnh mà đó là lời chửi

thoải mái của những tâm hồn người lính chân thật, phóng khoáng không câu

nệ lễ nghi. Ở họ dường như yếu tố tục trong lời chửi mất đi sự cay nghiệt,

căm hận mà chỉ còn lại tiếng cười sảng khoái, nhẹ nhàng đùa vui mà thôi.

Nhưng từ ngữ trong lời thoại nhân vật của nhà văn Nguyễn Khải thì lại

có điểm khác. Ngôn ngữ nhân vật tiểu thuyết Nguyễn Khải là sự kết hợp

nhuần nhuyễn các sắc điệu trong tác phẩm, khi hoài nghi, khi đùa vui, khi

chua chát đắng cay, lúc hùng hồn, khúc chiết, lúc luận chiến căng thẳng, khi

trôi theo dòng ý thức thâm trầm khiến nhân vật hiện lên cũng uyển chuyển,

duyên dáng, cái duyên dáng tự nhiên như cuộc đời với những mặt tốt đẹp vốn

là như vậy. Các nhân vật Nguyễn Khải gắn với những vấn đề chính trị xã hội

130

lớn lao của đất nước, hình tượng ngôn ngữ nhân vật thể hiện sự kiếm tìm, trăn

trở về đạo đức, khát vọng cao cả, vẻ đẹp nhân cách, tâm hồn con người trong

cuộc đời. Phông nền xuất hiện các nhân vật là cuộc sống mới đang được xây

dựng trên mảnh đất vừa trải qua chiến tranh.

Cùng xuất hiện hình ảnh nhân vật người lính như tác phẩm của nhà văn

Chu Lai, ở sáng tác của Nguyễn Khải là những người lính một thời xông pha

lửa đạn, nay trở về cuộc đời bình thường, làm nghĩa vụ một công dân họ vẫn

thể hiện những phẩm chất tốt đẹp của người chiến sĩ, sống giản dị, khiêm

nhường, cũng phải vật lộn với thử thách để đứng vững trên đôi chân của mình.

Ông Hai trong truyện Sƣ già chùa Thắm hội tụ những phẩm chất đẹp đẽ giàu

đức hi sinh, coi trọng nghĩa tình, không ham danh vọng, quyền lực và cũng

biết hòa nhập nhanh chóng với cuộc sống đời thường. Từ một sĩ quan quân

đội đang sống trong sự ưu đãi, ông đã tự nguyện xin nghỉ hưu, bỏ lại tất cả

mọi thứ ở đằng sau để trở về sống với những người ruột thịt, lặng lẽ sống như

bao người dân bình thường khác. Về cơ bản, những người lính xuất hiện trong

tác phẩm Nguyễn Khải có cuộc sống thanh đạm nhưng không mất đi chất lính.

Lớp từ ngữ sử dụng trong ngôn ngữ nhân vật thường sử dụng ngôn ngữ trải

nghiệm, xót xa, suy ngẫm. Lời kể của nhân vật thường dài, lời thoại thường

ngắn và bộc lộ cá tính. Ngôn ngữ các nhân vật thường chứa đựng sự thông

minh, hiểu biết rộng.

Sự đa dạng của loại hình nhân vật trong sáng tác Nguyễn Khải vừa

thể hiện sự thống nhất, vừa thể hiện sự đổi mới trong quan niệm con

người của ông. Nó vừa sâu sắc, vừa mới mẻ, vừa có sự tiếp nối liên tục,

không đứt đoạn. Nhìn chung, qua so sánh sơ bộ, có thể thấy các lớp từ

ngữ trong ngôn ngữ nhân vật của Nguyễn Khải phù hợp với kiểu nhân vật

của nhà văn, phù hợp với cái “tạng” của tác giả: nhuần nhị, nhẹ nhàng,

suy tư, triết luận, nó có nhiều điểm khác với ngôn ngữ nhân vật trong tác

phẩm của Chu Lai.

131

3.2. Hệ thống quán ngữ trong ngôn ngữ nhân vật của tiểu thuyết

Chu Lai

3.2.1. Vài nét về quán ngữ

Quán ngữ được hiểu là những cụm từ tương đối cố định, được dùng

theo thói quen, có chức năng đưa đẩy, chêm xen trong câu và liên kết các câu,

biểu thị tình thái nhất định của người nói.

Quán ngữ trong tiếng Việt có hai loại. Loại dùng trong nói năng hàng

ngày, mang tính khẩu ngữ, dùng để đưa đẩy, rào đón, chêm xen trong phát

ngôn. Loại này gồm: nói không phải, hỏi khí không phải, ấy là, chuyện thế

này, nhƣ thế là, ấy thế mà, không giấu gì bác, của đáng tội, nói trộm vía,

đƣợc cái đẹp, đƣợc cái xinh, nói bỏ quá cho… Khi ngôn ngữ học văn bản ra

đời, người ta còn nói đến một loại cụm từ có chức năng liên kết các câu, các

đoạn văn trong văn bản, gọi là quán ngữ liên kết, gồm những tổ hợp như: nói

tóm lại, nhƣ đã nói, nhƣ đã biết, từ đó suy ra, thứ nhất là, trƣớc tiên là, một

mặt thì, dĩ nhiên là…

Trong hai loại quán ngữ trên, thì quán ngữ dùng để rào đón, đưa đẩy

là loại thường dùng trong lời nói, mang đậm chất khẩu ngữ, vì vậy mà loại

này cũng thường xuất hiện trong lời thoại nhân vật. Đây cũng là loại chúng

tôi khảo sát để góp phần làm rõ đặc điểm ngôn ngữ nhân vật trong tiểu

thuyết của Chu Lai.

3.2.2. Vai trò của quán ngữ qua các lời thoại nhân vật trong tiểu

thuyết của Chu Lai

3.2.2.1. Quán ngữ dùng để giải thích về một nội dung nào đó mà người

nói cho là người nghe chưa nghe chưa biết hoặc chưa rõ. Loại này gồm các

quán ngữ như: chuyện thế này, ấy là, nhƣ thế là, ấy thế là, không dấu gì bác…

Để giải thích cho người khác hiểu về vấn đề mình đang muốn nói, Bảy

Lẫm đã thẳng thắn nói với Sáu Nguyện:

132

- Sai phạm à? - Ông vội ngắt lời - Tốt! Làm ngƣời ai chả sai phạm.

Thôi, bây giờ thế này - Ông cao giọng như đứng trước hàng quân - Căn cứ

vào yêu cầu nhiệm vụ của đơn vị, căn cứ vào… [XV, tr.202].

Hoặc giải thích trong tình huống:

- Nó đó. Một ngàn hai trăm ngƣời liên doanh hay gọi là làm thuê cho

thằng Korea đó. Thôi bây giờ thế này! - Anh… [XV, tr.209].

- Thế này nhé! - Anh đứng dậy, giọng nói lạnh hơn nhưng đôi mắt thật

buồn - Có thể do nể tôi là bạn chiến đấu… [XV, tr.275].

3.2.2.2. Quán ngữ dùng để đƣa đẩy nhằm tạo sự tin tưởng đồng cảm

với người nói. Loại này do các quán ngữ: nói thật chứ, nói thực lòng nhé,

thực tình thì…

Chẳng hạn, để diễn tả những suy nghĩ thực trong lòng, nhân vật đã sử

dụng quán ngữ:

- Ông Sáu này, tôi nói thực lòng nhé!... [XV, tr.143].

Có khi quán ngữ là một yếu tố đệm, chêm xen để tạo đà cho điều nói

tiếp theo được tiếp nhận chia sẻ. Chẳng hạn, trong một đoạn thoại:

- Mày khác trƣớc nhiều quá!... Khác ngay cả cái cách nhìn vào bạn bè.

Nói thực tình… ngay từ ngày đầu khi nghe mày nói tính gắn cả đời vào cô ấy,

tao đã thấy có điều gì không ổn nhƣng chửng lẽ mọi ngƣời ngãng ra hết, tao

lại cũng làm ngơ, chẳng ngờ… [XIV, tr.122].

- Ngƣời đàn bà giàu có sẵn sàng tài trợ cho anh suốt ấy. Nói thật nhé.

Đàn ông các anh khờ lắm! Liên quan đến chữ nghĩa nghệ thuật càng khờ

[XIV, tr.149].

3.2.2.3. Quán ngữ bày tỏ sự rào đón, lịch sự của chủ thể giao tiếp đối

với người tiếp nhận.

Câu nói của Bình với vợ chồng Thảo, thể hiện sự khiêm tốn đùa vui

của nhân vật:

133

- Không vợ con gì hết - Bình đột ngột đứng dậy, đứng hơi kiễng chân

nhưng chỉ chạm cằm bạn - Hai ngƣời mà còn mở miệng nói đến chuyện ấy

nữa là tôi… báo cảnh sát bắt liền. Ấy là tôi đang bắt chƣớc câu nói của một

nàng… [XIV, tr.22].

Hay trong những đoạn thoại khác:

- Chị bỏ quá cho! Tôi quả thật không phải [XIV, tr.141].

3.2.2.4. Quán ngữ đƣợc dùng để tạo thành yếu tố đệm, đƣa đẩy biểu thị

tình thái

Các quán ngữ mà nhân vật dùng trong lời thoại còn có vai trò chêm

xem vào trong các thông tin chính của câu, tạo cho câu các thông tin bổ sung

như: sự đánh giá, sự dẫn dắt mà người nói muốn hướng tới người nghe:

- Thì ra là thế đấy! Nghe ngƣời ta đồn có một cặp vợ chồng cùng đứa

con nhỏ đang sinh sống ở góc phố, tôi đã thoáng nghĩ đến cậu nhƣng quả thật

không thể… - Hỏi chị bỏ quá… Tôi nghe nói hình nhƣ lâu nay có một đôi vợ

chồng trẻ cùng đứa con đang lẩn quất sinh sống ở đây? [XIV, tr.192].),

- Có lẽ thế, em cũng không để ý lắm… [XI, tr.222].

Các quán ngữ: thì ra là thế đấy, bỏ quá, có lẽ thế đưa lại cho câu nói

của nhân vật tình thái lịch sự và tạo quan hệ cộng tác trong hội thoại.

3.3. Các loại thành ngữ trong ngôn ngữ nhân vật của tiểu thuyết

Chu Lai

3.3.1. Vài nét về thành ngữ tiếng Việt

Thành ngữ vốn là lời ăn tiếng nói hàng ngày đúc kết nên, trở thành

những tổ hợp cố định, có cấu trúc chặt chẽ; chúng thể hiện lối nói hình ảnh

hoặc có tác dụng nhấn mạnh, biểu cảm. Thành ngữ không có tính độc lập

trong lời nói (như tục ngữ) mà là một bộ phận của câu nói, giúp diễn đạt tình

ý của người nói một cách rõ ràng, có ấn tượng. Sử dụng thành ngữ, tục ngữ

trong giao tiếp thường dễ nhớ, dễ hiểu, tránh được sự tối nghĩa và giải thích

dài dòng.

134

Theo khảo sát của chúng tôi, số lượng thành ngữ xuất hiện với tần suất

khá nhiều trong tiểu thuyết Chu Lai. Lời thoại dùng các từ thông tục, quán

ngữ hay thành ngữ trong tác phẩm Chu Lai tùy theo tính cách và hoàn cảnh

của từng nhân vật; riêng trường hợp thành ngữ, nhìn chung, khi xuất hiện đơn

vị này ở lời nhân vật thì tình thái và ý nghĩa cụ thể của lời thoại được bộc lộ

rõ hơn.

Các quán ngữ đưa đẩy cùng với việc các thành ngữ trong nhiều lời

thoại (của đáng tội, cực chẳng đã, chả thế mà, thì đã biết, trơn lông đỏ da,

tham lam chuộng lạ, lừa thày phản bạn…), cho thấy nhà văn Chu Lai có ý

thức để cho nhân vật sử dụng lời ăn tiếng nói trong giao tiếp. Với cách dùng

như vậy, cùng với các loại từ ngữ khác, chúng góp phần tô đậm thêm tính

chất khẩu ngữ của ngôn ngữ nhân vật.

3.3.2. Vai trò của việc sử dụng các thành ngữ qua lời thoại nhân vật

trong tiểu thuyết Chu Lai

Trong câu nói, các từ ngữ tham gia kiến tạo câu để truyền đạt thông

tin có thể có nhiều loại, tùy thuộc vào tư tưởng, tình cảm người nói muốn

thể hiện; trong đó có những câu người ta có thể chen thêm những quán ngữ

hay thành ngữ, tục ngữ. Đó cũng là lẽ thường của giao tiếp. Những yếu tố

này có thể mang thông tin quan trọng trong câu, cũng có khi chúng chỉ cấp

cho câu thông tin phụ, bổ sung cho một sự tình nào đó (như: tình thái, nhấn

mạnh, lịch sự). Vai trò của những yếu tố này trong lời thoại khá là đa dạng,

phụ thuộc vào từng ngữ cảnh cụ thể. Vì vậy, xác định vai trò của việc sử

dụng các thành ngữ (cũng như các nhóm từ khác đã nêu ở các mục trên) qua

lời thoại trong tiểu thuyết Chu Lai là việc cần thiết nhưng thật khó để phân

loại, chỉ tên vai trò đó của tất cả các từ một cách minh bạch, rach ròi. Sau

đây chúng tôi nêu một số vai trò thường gặp nhất của thành ngữ được dùng

trong lời thoại.

135

3.3.2.1. Trước hết, thành ngữ có tác dụng nhấn mạnh nội dung thông

tin trong câu. Trong Ăn mày dĩ vãng, để diễn đạt cuộc sống đầy bi kịch ngày

trở về sau chiến tranh của những người lính, tác giả đã để nhân vật sử dụng

cách nói: tha phƣơng cầu thực, chửi tục nhƣ ranh, tứ chiếng giang hồ, bất đắc

dĩ, ăn tƣơi nuốt sống…và sau đó sự thay đổi chóng mặt của nền kinh tế thị

trường đã khiến thiên hạ nghĩ rằng người lính trở về ấy chỉ biết ăn no vác

nặng chứ không làm được gì cả. Hai Hùng đã chứng minh cho mọi người

thấy rằng, những người lính trở về ấy không phải như vậy, mà thực chất, họ

ngày trước thế nào, bây giờ thế ấy; họ là những huynh đệ chi binh chia lửa

cùng nhau, chiến hữu bang giao chí cốt cùng liên kết lại như tình đồng đội

năm xưa để đánh thù trong giặc ngoài. Chỉ khác là bây giờ trong thời bình,

đối tượng mà họ hướng đến để tiến công là lũ sâu mọt hại dân hại nước, là

những tham quan ăn hối lộ trắng trợn mà thôi.

Để chỉ thói xét nét, thức đêm như vạc, mò mẫm hết xó xỉnh này đến xó

xỉnh khác của Ba Thành, Hai Hùng dùng thành ngữ dì ghẻ con chồng để đánh

giá thái độ, tính cách của bạn có ấn tượng hơn. Nhưng người đọc không thấy

sự nặng nề trong lời đánh giá ấy mà chỉ thấy sự thân tình, thoải mái và hài

hước trong đoạn thoại:

- Cƣời cái gì vậy, khọm già. Từ cái võng bên cạnh, Ba Thành ngóc đầu

lên hỏi. - Ngủ đi! Lấy vợ đi!... xét nét nhƣ dì ghẻ con chồng ấy à? [XIII, tr.114].

Để nói với Nguyên về việc chuyển về nơi làm việc mới, ông Bảy đã

dùng tục ngữ “nhập gia tùy tục” để hướng dẫn anh cách thích ứng:

- Nhập gia tùy tục, ở đâu theo đó chứ. Họp hành, khai hội tối ngày,

đâu có ăn mặc xập xệ thế nào cũng xong nhƣ trƣớc đƣợc, mày! [XVI, tr.271].

Khi nói về sự phản bội, chối bỏ quá khứ của Ba Sương nhân vật được

nhà văn miêu tả là tự mình biến thành một con người khác đầy hãnh tiến và

giả dối, Quân đã dùng nhận xét về Ba Sương:

- Về đời tƣ thì nghe nói gần đây - Có vẻ thỏa mãn thấy thái độ của tôi,

136

nó làu bàu nói tiếp - Cũng chỉ nghe nói thôi heng! Bà ta bắt đầu sanh tật cưa

sừng làm nghé. Tức là cặp bồ toàn loại trai trẻ, vâm con, vừa phục vụ công

việc vừa đáp ứng sinh lý luôn. Hồi xuân mà [XIII, tr.165].

Có thể nói, chỉ bằng thành ngữ cƣa sừng làm nghé nhân vật đã nói

được một cách ngắn gọn nhưng có ấn tượng về sự thay đổi của người đàn bà

có cái tên Ba Sương này.

Cách nói của Năm Thành trong đêm gặp lại đồng đội cũ sau chiến tranh

khi dùng câu thành ngữ đệm vào đã làm cho nghĩa của câu có phần ngắn gọn,

súc tích hẳn; nó hỗ trợ được rất nhiều cho suy nghĩ, quan niệm của nhân vật

từng là người lính trở về hội nhập trong cuộc sống mới:

- Bù, bù cái con khẹc! Ngày ấy còn lý tƣởng, còn khát vọng, nó xua đi

cái ham hố vặt vãnh. Bây giờ còn cái chó gì nữa mà phải giữ mình. Vả lại…

đàn bà, dính vào mất việc. Sòng phẳng, ăn bánh trả tiền, đúng cơ chế thị

trƣờng, thế là xong [XIII, tr.115].

Những người lính, giữa hai trận càn của địch, trong khung cảnh cánh

rừng thời chiến âm u mùi khói súng và mùi đạn bom chết chóc, họ vẫn nhộn,

so sánh, ví von ngộ nghĩnh:

- Tiếc quá! Mày lại có vợ rồi, nếu chƣa, tao xin hứa nếu còn sống trở

về, nhất định tao sẽ gả em gái cho. Em gái tao xinh nhất làng đó. - Nó nói dóc

đấy! Làm đếch gì có em gái, nó chỉ có bà chị sứt môi lồi rốn bán thịt chó

sống ở đầu chợ thôi [XIII, tr.93].

Qua các dẫn chứng trên, có thể thấy các thành ngữ tục ngữ ở trong câu

đã tạo nên một điểm nhấn nhất định (về ý nghĩa, sắc thái) vào trong nội dung

thông báo của câu, bên cạnh thành ngữ, tục ngữ thường có phần thông tin đi

kèm giải thích thêm cho chúng.

3.3.2.2. Thành ngữ có tác dụng bổ sung nội dung thông tin trong câu

Trong Vòng tròn bội bạc nhân vật nói với nhau những điều rất đời

thường thực dụng, pha lẫn chất triết lý nhờ việc dùng thành ngữ (và tục ngữ):

137

- Mèo chê mỡ, chuyện ngƣợc đời đấy. Nói đùa mày chỉ cần đi với tao

vài chuyến là ngƣời ngợm nhẹ nhõm lại ngay. - Xét đến cùng thời nào cũng

vậy - Khâm vẫn nói theo ý mình - Ngƣời ta thƣờng nói “ác giả ác báo”, “ở

hiền gặp lành” nhƣng rút cục cái ác bao giờ cũng lấn át và ngự trị lên cái

thiện… [XI, tr.157].

Những câu có thành ngữ được sử dụng trong lời thoại tưởng chừng như

ít liên quan, hoặc chỉ là phần đệm vào nhưng đó lại là những yếu tố góp phần

chuyển tải thông tin bổ sung cần thiết cho câu nói. Thông qua cách dùng các

đơn vị cố định chêm xen vào câu như thế, nhà văn để cho nhân vật bộc lộ cái

nhìn về cuộc sống xã hội muôn màu muôn vẻ mà mặt trái của nó khiến cho

những con người sống vì lẽ phải kia phải lên tiếng đấu tranh.

Nhân vật ông bí thư huyện ủy trong Vòng tròn bội bạc là kiểu người có

cách ăn nói leo lẻo mà không có sự chân thực. Đây cũng là mẫu nhân vật tha

hóa mà tiểu thuyết Chu Lai đề cập đến như một hiện tượng đang nổi lên trong

xã hội theo nền kinh tế thị trường:

- Chết thôi! Biết các đồng chí đến hai hôm nay… - Ba hôm! - Khâm

nhắc. - Vâng, ba hôm. Nhƣng quả thực bận quá. Các đồng chí còn lạ gì cái

anh bí thƣ cấp huyện đầu chày đít thớt không việc gì là không dính đến, bận

như con mọn. Tôi cũng vừa ở thằng Hồng Dân về, chà, dƣới ấy linh tinh lắm.

Đúng là cán bộ ta không theo kịp đƣợc tình hình mới, cứ ỳ than cục ra, chết

mất thôi! Mà tôi thì… [XI, tr.161].

Nhân vật này nói những lời hay ho, dùng các thành ngữ để nói vẻ

khiêm tốn, tận tụy, nhưng thực chất chỉ biết a dua theo quyền lực và đồng tiền,

bị suy thoái về bản chất và nhân cách, trở thành nô lệ cho Hòe - một kẻ biến

chất và thâm độc chi phối tất cả theo ý hắn.

Cũng là giọng điệu như ông bí thư huyện ủy, nhưng ở nhân vật

Quách - tay thư ký tổng biên tập - nơi Linh làm việc, lại thâm hiểm hơn sau

138

vẻ mặt cười cợt giả nhân giả nghĩa. Ở hắn không chỉ là giọng nói nhạt nhẽo

xuôi chiều cho qua chuyện mà đã chuyển sang nấc bậc cao hơn của sự

nham hiểm:

- Khoan đã - Ông Quách vội giữ tay Linh lại, cƣời nhạt. Nên biết thân

phận một chút ông bạn trẻ ạ! Cũng đã có một thời tôi hăng máu nhƣ ông và

để bây giờ… tôi vẫn còn ra thế này đây. Đời đen bạc lắm… [XI, tr.266].

Nƣớc đời đen bạc là một câu tục ngữ nói về nhân tình thế thái, khi nhà

văn đưa vào trong lời nhân vật Quách lại tạo thành thông tin hàm ngôn, nó

vừa là câu nói lấp lửng (nói chung về sự đời), nhưng có vẻ như là có ý dọa

dẫm đến đối tượng giao tiếp, rằng hắn sẵn sàng hại anh nếu anh đụng chạm

đến “ đời đen bạc” của hắn.

3.3.2.3. Thành ngữ, tục ngữ không chỉ bổ sung thông tin cho câu mà

còn bộc lộ ý nghĩa tính thái trong lời thoại của nhân vật. Sau đây là một vài

trường hợp tiêu biểu. Trong Gió không thổi từ biển, tâm trạng Hoàng Xanh

đầy thảng thốt và hoang mang khi hắn nhận ra cuộc đời một thằng phản bội

như hắn sẽ có kết thúc bi đát như thế nào. Trong cơn hoảng loạn, hắn rẽ vào

nhà cô nhân tình chủ nhân tiệm Kim Hoàn, khi biết rõ thái độ của cô này hắn

đã không úp mở gì bộc lộ thái độ:

- Và bây giờ - Hắn cười cay đắng - khi cô trơn lông đỏ da, cô lại chán

tôi nhƣ những thằng đàn ông sạch bong đã qua tay cô ngày trƣớc. Khốn nạn!

Hóa ra tôi chỉ là phƣơng tiện làm thỏa mãn cái tham lam chuộng lạ của cô?

Thái độ của cô này đối với hắn là chửi thẳng vào mặt hắn: Thôi đi! - ả tái mét

mặt vì giận. Ông đi ra khỏi cửa nhà tôi ngay. Đây không chứa cái đồ mật vụ,

tráo trở lừa thày phản bạn ấy. Mời ông! [X, tr.111].

Lời đối đáp giữa hai nhân vật với thành ngữ (trơn lông đỏ da) và tục

ngữ (lừa thày phản bạn) đã bộc lộ thái độ và qua đó là quan hệ của các nhân

vật đối với nhau như thế nào.

139

Trong Cuộc đời dài lắm, một cán bộ nông trường nói về giám đốc mới:

Cùng lắm, hắn cũng chỉ có một đầu và tứ chi. Có thú dữ chăng nữa, chắc

cũng không khá hơn thằng giám đốc ăn tục nói phét, quát khẽ một tiếng đã

hồn xiêu phách lạc (tr.27). Các thành ngữ đã góp phần tô đậm tình thái của

người nói và bản chất của nhân vật.

Trước sự luận tội của đồng đội cũ, Huấn (trong Vòng tròn bội bạc)

đã nói:

- Bằng chứng đâu? Thử cho xin bằng chứng. Lời nói theo gió bay đi…

Ai đi tin vào một câu nói vu vơ đã cách đây cả chục năm. Hở! Đúng đấy! Cứ

tung bằng chứng ra là thằng này đầu hàng liền [XI, tr.344].

Ý nghĩa của câu tục ngữ “Lời nói gió bay” với hàm ý lời nói đã qua thì

không có gì để chứng minh, không đủ chứng cớ; đặt trong ngữ cảnh này nhân

vật có thái độ thách thức người bạn buộc tội mình (nếu không có bằng chứng

thì lời nói suông thôi sẽ chẳng có giá trị gì). Qua đó cũng thấy được bản chất

Các thành ngữ trong nhiều lời thoại (chuyện thế này, nhƣ thế là, ấy

con người Huấn là thực dụng và tráo trở.

thế là, không dấu gì bác; bỏ quá cho, quả thật, chả mấy khi, của đáng tội, cực

chẳng đã, chả thế mà, thì đã biết, trơn lông đỏ da, tham lam chuộng lạ, lừa

thày phản bạn…), cho thấy nhà văn Chu Lai có ý thức để cho nhân vật sử

dụng lời ăn tiếng nói trong giao tiếp. Với cách dùng như vậy, cùng với các

loại từ ngữ khác, chúng góp phần tô đậm thêm tính chất khẩu ngữ của ngôn

ngữ nhân vật. Có thể thấy tục ngữ là những lời răn dạy có tính chất giáo huấn

người đời, thành ngữ là cách nói tạo hình ảnh. Đó là nói chung về ý nghĩa và

vai trò của chúng, còn khi ở trong ngữ cảnh, chúng mới “phát huy, hiện thực

hóa” cái tiềm năng của mỗi đơn vị. Cái ý nghĩa “tích cực hoặc tiêu cực” của

thành ngữ và tục ngữ là tùy thuộc vào người sử dụng chúng, vào ngữ cảnh mà

chúng hành chức trong đó.

140

3.4. Tiểu kết

Qua phân tích, có thể thấy, ấn tượng sâu sắc nhất trong ngôn ngữ nhân

vật của Chu Lai là hệ thống từ ngữ thông tục xuất hiện với tần số khá cao,

gồm các từ tục, các từ ngữ chửi rủa. Thái độ của nhân vật giao tiếp là bày tỏ

sự giận dữ, bất bình; từ tục, lời chửi cũng có thể xuất hiện trong lời thoại giữa

các nhân vật là đồng đội, bạn bè, nhưng không có ý coi thường mà là mang

tính chất suồng sã, có khi hơi dung tục. Với lớp từ ngữ thông tục này, tính

cách nhân vật, nhất là nhân vật người lính hiện lên trên từng trang viết như từ

cuộc sống; lời thoại nhân vật không có khoảng cách so với lời nói thường.

Chúng phần nào thể hiện được tính cách nhân vật: không né tránh điều gì

trong cuộc sống, thái độ yêu ghét rõ ràng, trân trọng cái tốt đẹp, coi khinh, tỏ

rõ thái độ đến bạo liệt nghiệt ngã với cái xấu...

Lớp từ ngữ khác, như: quán ngữ, các thành ngữ không có tỉ lệ dùng phổ

biến như các lớp từ xưng hô và thông tục nhưng mỗi khi dùng trong lời thoại,

các từ ngữ này có thể không mang thông tin chính nhưng đem lại cho thông

tin của câu nói các giá trị khác, như: nhấn mạnh hay bổ sung thêm một tình ý

nào đó, tạo một điểm nhấn nhất định về tình thái, về hình ảnh (thành ngữ)

hoặc có ý rào đón, đưa đẩy, làm cho lời nói lịch sự, dễ được tiếp nhận (quán

ngữ). Ngôn ngữ nhân vật trong tác phẩm của nhà văn cũng thấm đẫm chất suy

tưởng, triết lý…

141

KẾT LUẬN

Từ góc độ giao tiếp, trên cơ sở của lý thuyết ngữ dụng học, lấy từ làm

đơn vị khảo sát, đối tượng là ngôn ngữ nhân vật, luận án tập trung làm rõ đặc

điểm đặc điểm ngôn ngữ nhân vật thể hiện trong tiểu thuyết của nhà văn Chu

Lai. Sau đây là một số kết luận chính:

1. Với hệ thống nhân vật đông đảo và phong phú, Chu Lai đã làm bật

nổi đặc trƣng ngôn ngữ nhân vật thông qua việc dùng một hệ thống từ ngữ

mang đậm phong cách khẩu ngữ, khắc họa rõ đặc điểm và tính cách nhân

vật, tạo ấn tƣợng đặc sắc. Qua thống kê, phân loại các lớp từ ngữ trong 10

cuốn tiểu thuyết của Chu Lai, luận án có cơ sở để xác định:

Hệ thống từ xưng hô trong giao tiếp giữa các nhân vật xuất hiện với số

lượng lớn và có tần số sử dụng cao. Qua từ xưng hô, có thể thấy khá rõ nhân

thân của các nhân vật, bao gồm: giới tính, thành phần xuất thân, tuổi tác, nghề

nghiệp, chức vụ và các thông tin khác. Nhân vật người lính trong tác phẩm có

cách xưng hô rất bộc trực, tự nhiên đúng như tính cách của họ, dù ở nơi chiến

hào ác liệt (trong thời chiến) hay trong công trường, nông trường, cuộc sống

thường nhật (khi hoà bình);

Điểm nổi bật trong ngôn ngữ nhân vật của Chu Lai là hệ thống từ ngữ

thông tục xuất hiện với tần số khá cao, gồm các từ tục, các từ chửi, lời chửi

rủa. Chúng làm cho lời thoại nhân vật không có khoảng cách so với lời nói

thường; qua đó bộc lộ hàm ý của nhà văn: thể hiện được tính cách nhân vật,

không né tránh điều gì trong cuộc sống, thái độ yêu ghét rõ ràng, trân trọng

cái tốt đẹp, coi khinh, tỏ rõ thái độ đến bạo liệt nghiệt ngã với cái xấu...

Lớp từ ngữ khác, như: quán ngữ, thành ngữ dù không có tỉ lệ dùng

phổ biến như các lớp từ xưng hô và thông tục nhưng mỗi khi dùng trong lời

thoại, các từ ngữ này có thể không mang thông tin chính nhưng đem lại cho

thông tin của câu nói các giá trị khác, như: nhấn mạnh hay bổ sung thêm một

142

tình ý nào đó, tạo một điểm nhấn nhất định về tình thái, về hình ảnh (thành

ngữ) hoặc có ý rào đón, đưa đẩy, làm cho lời nói lịch sự, dễ được tiếp nhận

(quán ngữ).

2. Hệ thống nhân vật trong tiểu thuyết Chu Lai rất đa dạng, nhiều kiểu

nhân vật. Tuy phong phú và đa dạng như vậy nhưng nhà văn có ý thức xây

dựng đặc điểm từng kiểu nhân vật theo những “lớp lang” nhất định. Cùng với

những đặc điểm phổ quát chung cho các nhân vật trong tác phẩm, ngôn ngữ

nhân vật có sự tƣơng hợp với kiểu nhân vật; mỗi kiểu nhân vật thể hiện tính

cách, đặc trưng qua hệ thống từ ngữ trong lời thoại của các nhân vật đó. Nhân

vật người lính thiên về dùng các từ đậm chất khẩu ngữ, tự nhiên, bộc trực,

thẳng thắn; nhân vật người dân thiên về dùng những từ xưng hô, từ tình thái

thể hiện rõ tình cảm chân tình, mộc mạc; nhân vật trí thức thiên về dùng

những từ xưng hô, từ tình thái và đặc biệt các từ có tính thuật ngữ mang đậm

chất triết lý, chiêm nghiệm cuộc sống.

3. Khảo sát từ ngữ trong tác phẩm của Chu Lai, đặc biệt từ xưng hô,

từ thông tục, quán ngữ và thành ngữ trong ngôn ngữ nhân vật, ta có thể phần

nào thấy được tƣ tƣởng và phong cách ngôn ngữ của nhà văn. Ngôn ngữ

nhân vật trong tiểu thuyết Chu Lai có sự tinh giản về câu chữ, lời thoại nhìn

chung thường ngắn, dồn nén ý tưởng, khêu gợi trí tưởng tượng của độc giả;

các từ ngữ nhân vật có xu hướng đan xen giữa từ khẩu ngữ và từ sách vở.

Chúng làm thành những điểm nổi bật: một mặt, ngôn ngữ nhân vật vừa trần

trụi dân dã, thẳng thắn, bộc trực; mặt khác, ngôn ngữ nhân vật, thể hiện qua

từ và các thông số khác của nhân vật, cũng rất giàu sắc thái biểu cảm, sắc

sảo, đầy chất trí tuệ.

4. Với những phân tích trên, có thể thấy nhà văn Chu Lai đã tạo nên

phong cách ngôn ngữ nhân vật đặc sắc, trong đó có việc làm giàu có thêm,

đa diện hơn ngôn ngữ tiểu thuyết. Ngôn ngữ nhân vật, cùng với ngôn ngữ

143

tác giả, đã liên kết với nhau tạo thành chỉnh thể của tác phẩm. Nhà văn đã

nâng tầm đối thoại trong tiểu thuyết thành tiêu điểm của thông tin, thành tín

hiệu thẩm mỹ. Ông đã thành công trong việc “mượn lời” nhân vật để chuyển

tải một cách tự nhiên tư tưởng, chủ đề của tác phẩm, tạo nên những ấn tượng

khó phai mờ, đọng lại những dư ba trong lòng người đọc, tạo phong cách

riêng (khác phong cách ngôn ngữ nhân vật các nhà văn cùng thời như Bảo

Ninh, Nguyễn Khải, Nguyễn Huy Thiệp…). Và như vậy, nhà văn có những

đóng góp đặc sắc vào ngôn ngữ nghệ thuật, đóng góp vào việc đổi mới nền

văn xuôi Việt Nam hiện đại.

Đề tài đặc điểm ngôn ngữ nhân vật trong tiểu thuyết Chu Lai còn nhiều

vấn đề đặt ra từ góc độ ngôn ngữ học nói chung, từ dụng học nói riêng, chẳng

hạn như: tổ chức lời thoại, ngữ nghĩa lời thoại, lập luận, mối quan hệ giữa

ngôn ngữ nhân vật và ngôn ngữ tác giả, v.v... Với khả năng có hạn, trong

khuôn khổ của luận án, chúng tôi lựa chọn phạm vi khảo sát ở bình diện từ

ngữ nhưng chúng tôi ý thức rằng, ngay phạm vi của đề tài cũng còn nhiều

khía cạnh chưa giải quyết thấu đáo được, kết quả ở đây thực sự mới chỉ giai

đoạn bước đầu.

144

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CÔNG BỐ

CÓ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN

1. Nguyễn Thị Thái (2009), “Nhân vật được xây dựng theo mô típ “Người

hùng - Mỹ nhân” trong tiểu thuyết của Chu Lai”, Tạp chí Khoa học,

Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, Tr. 64 - 72.

2. Nguyễn Thị Thái (2009), “Đặc điểm ngôn ngữ nhân vật trong tiểu thuyết

Chu Lai”, Tạp chí Khoa học, Trường Đại học Thái Nguyên, Tr. 92 - 96.

3. Nguyễn Thị Thái (2010), “Khảo sát đặc điểm ngôn ngữ lời dẫn thoại

trong tiểu thuyết của Chu Lai”, Tạp chí Khoa học, Trường Đại học Vinh,

Tr. 47 - 54.

4. Nguyễn Thị Thái (2013), “Một số đặc điểm ngôn ngữ người kể chuyện

trong tiểu thuyết Chu Lai”, Hội thảo khoa học quốc tế “Ngôn ngữ học

Việt Nam trong bối cảnh đổi mới và hội nhập”, Hà Nội, Tr. 173.

5. Nguyễn Thị Thái (2014), “Đặc điểm và vai trò của từ ngữ thông tục qua

lời thoại nhân vật trong tiểu thuyết của nhà văn Chu Lai”, số tháng 5/2014,

Tạp chí Ngôn ngữ và đời sống, Hà Nội, Tr.52 - 58.

6. Nguyễn Thị Thái (2014), “Số phận những người lính bị tha hóa sau chiến

tranh trong tiểu thuyết Chu Lai”, Hội thảo khoa học toàn quốc “Phát triển

văn học Việt Nam trong bối cảnh đổi mới và hội nhập”, Hà Nội, Tr. 65.

7. Nguyễn Thị Thái (2014), “Những biểu tượng trùng phức trong tiểu thuyết

viết về chiến tranh của Chu Lai”, Tạp chí Khoa học, Trường Đại học Vinh,

Tr. 73 - 80.

8. Nguyễn Thị Thái (2014), “Cách sử dụng đại từ nhân xưng trong tiểu

thuyết của Chu Lai”, số tháng 10/2014, Tạp chí Ngôn ngữ và đời sống, Hà

Nội, Tr.54 - 58.

145

TÀI LIỆU THAM KHẢO

I. PHẦN TIẾNG VIỆT

1. Lại Nguyên Ân (1999), 150 thuật ngữ văn học, Nxb Đại học Quốc gia,

Hà Nội.

2. M. Bakhtin (1993), Những vấn đề thi pháp Đôxtôiepxki, Nxb Giáo dục,

Hà Nội.

3. M. Bakhtin (2003), Lí luận và thi pháp tiểu thuyết, Phạm Vĩnh Cư tuyển

dịch và giới thiệu, Nxb Hội Nhà văn.

4. Ch. Bally (1972), Tu từ học tiếng Pháp, bản dịch tiếng Việt của trường

Đại học Sư phạm Vinh.

5. Diệp Quang Ban (cb), Hoàng Văn Thung (1996), Ngữ pháp tiếng Việt,

(Tập 1 & 2), Nxb Giáo dục, Hà Nội.

6. Diệp Quang Ban (1998), Văn bản và liên kết văn bản trong tiếng Việt,

Nxb Giáo dục, Hà Nội.

7. Lê Biên (1993), Từ loại tiếng Việt hiện đại, Trường Đại học Sư phạm,

Hà Nội.

8. Võ Bình, Lê Anh Hiền, Cù Đình Tú, Nguyễn Thái Hòa (1982), Phong

cách học tiếng Việt, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

9. Ngô Vĩnh Bình (2003), “Để có thêm những tác phẩm viết về quá khứ

hào hùng của dân tộc”, Tạp chí Văn nghệ Quân đội (số 4).

10. Nguyễn Thị Bình (1996), “Những đổi mới của văn xuôi nghệ thuật Việt

Nam sau 1975”, Luận án tiến sĩ, Hà Nội.

11. Brown và Yule (2002), Phân tích diễn ngôn (Trần Thuật dịch), Nxb Đại

học Quốc gia, Hà Nội.

12. R.A.Buragov, Tính thẩm mĩ của ngôn ngữ, Tài liệu đánh máy, Thư viện

trường Đại học Vinh.

146

13. Nguyễn Phan Cảnh (2000), Ngôn ngữ thơ, Nxb Văn hóa thông tin.

14. Phan Mậu Cảnh (1996), Các phát ngôn đơn phần tiếng Việt, Luận án

Phó tiến sĩ Ngữ Văn, Bộ GD & ĐT, Đại học Quốc gia, Hà Nội.

15. Phan Mậu Cảnh (2008), Lý thuyết và thực hành văn bản tiếng Việt, Nxb

ĐHQG, Hà Nội.

16. Nguyễn Tài Cẩn (1999), Ngữ pháp tiếng Việt, Nxb Đại học Quốc gia,

Hà Nội.

17. Chafe. W. L (1998), Ý nghĩa và cấu trúc của ngôn ngữ, Nxb Giáo dục,

Hà Nội.

18. Đỗ Hữu Châu (1987), Cơ sở ngữ nghĩa học từ vựng, Nxb Đại học và

Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội.

19. Đỗ Hữu Châu (1992), “Ngữ pháp chức năng dưới ánh sáng của dụng

học hiện nay”, Ngôn ngữ (số 1).

20. Đỗ Hữu Châu, Bùi Minh Toán (1996), Đại cƣơng Ngôn ngữ học, tập 2,

Nxb Giáo dục, Hà Nội.

21. Đỗ Hữu Châu (1999), Các bình diện từ và từ tiếng Việt, Nxb Đại học

Quốc gia, Hà Nội.

22. Đỗ Hữu Châu (1999), Từ vựng - ngữ nghĩa tiếng Việt, Nxb Giáo dục, Hà

Nội.

23. Đỗ Hữu Châu (2003), Cơ sở ngữ dụng học, tập 1, Nxb Đại học Sư phạm,

Hà Nội.

24. Đỗ Hữu Châu (2003), Giản yếu về ngữ dụng học, Nxb Đại học Sư phạm,

Hà Nội.

25. Hoàng Thị Châu (1989), Tiếng Việt trên các miền đất nƣớc, Nxb Khoa

học Xã hội, Hà Nội.

26. Nguyễn Minh Châu (1979), “Các nhà văn quân đội và đề tài chiến

tranh”, Báo Nhân dân ra ngày 08/02.

147

27. Lê Thị Sao Chi (2010), Khảo sát lời độc thoại nội tâm nhân vật trong

truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Thị Thu Huệ, Nguyễn Minh

Châu, Luận án Tiến sĩ Ngữ văn, Trường Đại học Vinh.

28. Nguyễn Văn Chiến (1993), “Từ xưng hô trong tiếng Việt”, Việt Nam

những vấn đề ngôn ngữ và văn hóa, Hội Ngôn ngữ học Việt Nam,

Trường Đại học Ngoại ngữ, Hà Nội.

29. Mai Ngọc Chừ, Vũ Đức Nghiệu, Hoàng Trọng Phiến (1992), Cơ sở

ngôn ngữ học và tiếng Việt, Nxb Đại học và Giáo dục chuyên nghiệp,

Hà Nội.

30. Nguyễn Đức Dân (1987), Lôgic - ngữ nghĩa - cú pháp, Nxb Đại học và

Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội.

31. Nguyễn Đức Dân (1998), Lôgic và tiếng Việt, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

32. Nguyễn Đức Dân (2000), Ngữ dụng học (tập 1), Nxb Giáo dục, Hà Nội.

33. Hồng Diệu (1991), “Vấn đề của tiểu thuyết “Vòng tròn bội bạc”, Tạp chí

Văn nghệ Quân đội (số 05).

34. Hồng Diệu (1994), “Chiến tranh và người lính qua một số truyện ngắn”,

Tạp chí Tác phẩm mới (số 16).

35. Trương Thị Diễm (2002), Từ xƣng hô có nguồn gốc thân tộc trong giao

tiếp tiếng Việt, Luận án Tiến sĩ Ngữ Văn, Trường Đại học Vinh.

36. Trương Đăng Dung (2003), Tác phẩm văn học nhƣ là quá trình, Nxb

Khoa học Xã hội.

37. Đinh Xuân Dũng (1995), “Văn học Việt Nam về chiến tranh - Hai giai

đoạn của sự phát triển”, Tạp chí Văn nghệ Quân đội (số 07).

38. Đặng Anh Đào (1994), Tài năng và ngƣời thƣởng thức, Nxb Hội Nhà

văn, Hà Nội.

39. Phạm Quang Đẩu (2003), “Chờ đợi và hy vọng”, Văn nghệ Quân đội

(số 610).

148

40. Trần Bạch Đằng (1991), “Văn học Việt Nam và vấn đề con người trong

chiến tranh”, Tạp chí Văn nghệ quân đội (số 07).

41. Phan Cự Đệ (2001), “Tiểu thuyết Việt Nam những năm đầu thời kỳ đổi

mới”, Tạp chí Văn nghệ quân đội (số 03).

42. Biện Minh Điền (2004), “Vấn đề tác giả và loại hình tác giả trong văn

học trung đại Việt Nam”, in trong sách Những vấn đề văn học và Ngôn

ngữ học, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.

43. Hà Minh Đức (chủ biên), (1997), Lý luận văn học, Nxb Giáo dục.

44. Đinh Văn Đức (1986), Ngữ pháp tiếng Việt - từ loại, Nxb Đại học Quốc

gia, Hà Nội.

45. Nguyễn Hương Giang (2001), “Người lính sau hoà bình trong tiểu thuyết

chiến tranh thời kỳ đổi mới”, Tạp chí Văn nghệ Quân đội (số 04).

46. Lê Xuân Giang (1987), “Ý nghĩ nhỏ của truyện ngắn về đề tài chiến

tranh”, Tạp chí Văn nghệ Quân đội (số 05).

47. Nguyễn Thiện Giáp (1999), Phân tích hội thoại, Viện Thông tin khoa

học xã hội, Hà Nội.

48. Nguyễn Thiện Giáp (1999), Ngữ cảnh và giao tiếp, Viện Thông tin khoa

học xã hội, Hà Nội.

49. Nam Hà (1992), “Sự thật chiến tranh và những tác phẩm văn học viết về

chiến tranh”, Tạp chí Văn nghệ Quân đội (số 07).

50. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (1999), Từ điển thuật ngữ

văn học, Nxb Giáo dục.

51. Hoàng Văn Hành (1982), “Về cấu trúc ngữ nghĩa của tính từ tiếng Việt”

(trong sự so sánh với tiếng Nga), Ngôn ngữ (số 3).

52. Cao Xuân Hạo (1991), Tiếng Việt - sơ thảo ngữ pháp chức năng, Nxb

Khoa học Xã hội, Hà Nội.

53. Nguyễn Hoa (2002), “Về tiểu thuyết "Cuộc đời dài lắm" của nhà văn

Chu Lai”, Tạp chí Văn nghệ Quân đội (số 03).

149

54. Nguyễn Hòa (2003), Phân tích diễn ngôn: Một số vấn đề lý luận và

phƣơng pháp, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.

55. Nguyễn Chí Hòa (1997), “Một vài nhận xét bước đầu về cấu trúc đoạn

thoại tiếng Việt hiện đại”, Ngữ học trẻ, Hà Nội.

56. Nguyễn Hoà, (1989), “Suy nghĩ về vấn đề con người trong văn học viết

về chiến tranh”, Báo Văn nghệ số 51.

57. Nguyễn Thái Hòa (1997), Dẫn luận phong cách học, Nxb Giáo dục.

58. Nguyễn Thái Hòa (2000), Những vấn đề thi pháp của truyện, Nxb

Giáo dục.

59. Hoàng Ngọc Hiến (1991), “Những nghịch lý chiến tranh”, Báo Văn nghệ

(số 15).

60. Đỗ Đức Hiểu (2000), Thi pháp hiện đại, Nxb Hội Nhà văn.

61. Ngô Hoàng (1990), “Hội thảo về hiện thực chiến tranh và người lính

trong văn xuôi gần đây”, Báo Văn nghệ (số 4).

62. Nguyễn Thị Huệ (1997), “Dấu hiệu đổi mới văn xuôi của tác giả :

Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Mạnh Tuấn, Nguyễn Khải”, Luận án Tiến

sĩ, ĐHSP Hà Nội.

63. Nguyễn Trí Huân (1994) “Những trang viết về người lính”, Báo Văn

nghệ (số 04).

64. Nguyễn Thanh Hùng (2004), “Chiến tranh đi qua, tình người ở lại”, Văn

nghệ Quân đội (số 12).

65. Trần Quốc Huấn (2005), “Người chiến sĩ viết văn hôm nay, đội ngũ kế

tục những nhà văn chiến sĩ”, Tạp chí Văn nghệ Quân đội (số 12).

66. Trần Bảo Hưng (1993), “Đôi nét về tình hình văn học mấy năm gần

đây”, Tạp chí Văn nghệ quân đội (số 03).

67. Nguyễn Thanh Hùng (1994), “Chiến tranh đi qua, tình người ở lại”, Tạp

chí Văn nghệ quân đội (số 12).

150

68. Đỗ Việt Hùng, Nguyễn Thị Ngân Hoa (2004), Phân tích phong cách

ngôn ngữ trong tác phẩm văn học, Nxb Đại học Sư phạm Hà Nội.

69. Đỗ Thu Hương (2001), “Phương thức huyền thoại hoá và sự biểu hiện

đời sống tâm linh trong văn xuôi Việt Nam từ sau 1975”, Luận văn

Thạc sĩ.

70. Đỗ Văn Khang (1990), “Cuộc tìm tòi về tiểu thuyết”, Báo Văn nghệ

(số 43).

71. Nguyễn Văn Khang (1996), “Sự bộc lộ giới tính trong giao tiếp ngôn

ngữ”, Ứng xử ngôn ngữ trong giao tiếp gia đình ngƣời Việt, Nxb Văn

hóa Thông tin.

72. Nguyễn Văn Khang (1996), Nghi thức lời nói trong gia đình ngƣời Việt,

Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội

73. Nguyễn Văn Khang (1999), Ngôn ngữ học xã hội - Những vấn đề cơ bản,

Nxb KHXH, Hà Nội.

74. Nguyễn Văn Khang (2003), “Ngôn ngữ tự nhiên và vấn đề chuyển mã

trong giao tiếp hội thoại (trên cơ sở tư liệu trạng thái đa ngữ xã hội ở

Việt Nam”, Ngôn ngữ (số 1).

75. Kerbat - Orecchioni C (1985), “Dụng học về sự phân tích hội thoại

(Pragmatique de I’ analýse conversationnelle)”, Chuyên đề trình bày tại

trường ĐHNN - ĐHQGHN, Bản in của đại sứ quán Pháp tại Việt Nam.

76. Kerbat - Orecchioni C (1998), Tƣơng tác lời nói (Les interactions

verbals), (Đỗ Hữu Châu dịch), Tài liệu tham khảo cho NCS, Đại học Sư

phạm, Hà Nội.

77. Krisijana Gunnar (2005), “Về những tiểu thuyết ngắn”, http://vnexpress.net.

78. Đinh Trọng Lạc (1994), Phong cách học văn bản, Nxb Giáo dục.

79. Đinh Trọng Lạc, Nguyễn Thái Hòa (1995), Phong cách học tiếng Việt,

Nxb Giáo dục.

151

80. Hồ Lê (1976), “Vấn đề lôgic ngữ nghĩa và tính thông tin trong lời nói”,

Ngôn ngữ (số 2).

81. Chu Lai, (1987) “Vài suy nghĩ về phản ánh sự thật trong chiến tranh”,

Tạp chí Văn nghệ Quân đội (số 04).

82. Chu Lai, (1995) “Nhân vật người lính trong văn học”, Tạp chí Văn nghệ

Quân đội (số 06).

83. Chu Lai, (1985) “Sử thi và hoành tráng câu trả lời cho một đời”, Tạp chí

Văn nghệ Quân đội (số 04).

84. Tôn Phương Lan (1980), “Tiểu thuyết về chiến tranh viết sau 1975”, Tạp

chí Văn học (số 05).

85. Nguyễn Lai (1996), Ngôn ngữ với sáng tạo và tiếp nhận văn học, Nxb

Giáo dục.

86. Đỗ Thị Kim Liên (1998), “Từ xưng hô trong hội thoại”, Ngữ học trẻ,

Hội Ngôn ngữ học Việt Nam.

87. Đỗ Thị Kim Liên (1999), Ngữ nghĩa lời hội thoại, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

88. Đỗ Thị Kim Liên (1999), Phương thức cấu tạo hàm ngôn trong hội thoại,

Kỷ yếu Hội thảo “Những vấn đề ngữ dụng học”, Trường Đại học Sư

phạm Hà Nội.

89. Đỗ Thị Kim Liên (2002), Ngữ pháp tiếng Việt, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

90. Đỗ Thị Kim Liên (2003), “Khảo sát các phát ngôn có động từ ngữ vi tiếc,

trách, ước, khuyên trong ca dao người Việt, Tạp chí khoa học, Trường

ĐH Vinh, Tập XXXII (số 1B).

91. Đỗ Thị Kim Liên (2005), “Vai trò của lập luận trong hội thoại”, Ngữ

học trẻ.

92. Đỗ Thị Kim Liên (2005), Giáo trình ngữ dụng học, Nxb Đại học Quốc

gia, Hà Nội.

93. Phạm Hùng Linh (2004), “Phương tiện điều chỉnh sự chú ý của người

nghe trong hội thoại Việt ngữ”, Ngôn ngữ (số 10).

152

94. Nguyễn Văn Long (1981), “Cuộc chiến tranh chống Mỹ và những trang

văn xuôi hôm nay”, Tạp chí Văn nghệ Quân đội (số 07).

95. Đặng Lưu (2006), Ngôn ngữ tác giả trong truyện Nguyễn Tuân, Luận án

Tiến sĩ Ngữ văn, Đại học Vinh.

96. Nguyễn Văn Lưu (1987), Văn học 1975 - 1985 - Tác phẩm và dƣ luận

Nxb Hội Nhà văn.

97. Phương Lựu (1991), “Góp bàn với một số truyện viết về sự hy sinh mất

mát trong chiến tranh”, Tạp chí Văn nghệ Quân đội (số 07).

98. Lyons, J. (1996), Nhập môn Ngôn ngữ học lý thuyết, Nxb Giáo dục,

Hà Nội.

99. Sương Nguyệt Minh (2004), “Văn xuôi viết về người lính - Một thách

đố nhà văn”, Tạp chí Văn nghệ Quân đội (số 610).

100. Đái Xuân Ninh (1978), Hoạt động của từ tiếng Việt, Nxb Khoa học Xã

hội, Hà Nội.

101. Lê Thành Nghị (1995), “Tiểu thuyết về chiến tranh mấy ý nghĩ góp bàn”,

Tạp chí Văn nghệ Quân đội (số 07).

102. Nhiều tác giả (1996), “Năm mươi năm văn học Việt Nam sau Cách

mạng tháng Tám”, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.

103. Nhiều tác giả (2003), “Nhà văn Chu Lai và những ám ảnh của nghiệp

viết”, http://vnexpress.net.Vn.Văn hóa, (12/12).

104. D. Nunan (1997), Dẫn nhập phân tích diễn ngôn (Hồ Mỹ Huyền, Trúc

Thanh dịch), Nxb Giáo dục, Hà Nội.

105. Phạm Xuân Nguyên (1992), “Văn học hôm nay có gì mới?”, Tạp chí

Văn học (số 06).

106. Nguyên Ngọc (1991), “Văn xuôi sau 1975 thử thăm dò đôi nét về quy

luật phát triển”, Tạp chí Văn nghệ Quân đội (số 04).

107. Hoàng Phê (1975), “Phân tích ngữ nghĩa”, Ngôn ngữ (số 2).

153

108. Hoàng Phê (1981), “Ngữ nghĩa của lời”, Ngôn ngữ (số 3, 4).

109. Hoàng Trọng Phiến (1980), Ngữ pháp tiếng Việt - Câu, Nxb Đại học và

Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội.

110. Ngô Đình Phương (2008), Hợp phần liên nhân của câu trong ngữ pháp

chức năng hệ thống (Trên ngữ liệu Anh và Việt), Nxb Đại học Quốc gia,

Hà Nội.

111. Huỳnh Như Phương (1991), “Văn xuôi những năm 80 và vấn đề dân chủ

hoá nền văn học”, Tạp chí Văn học (số 04).

112. Hồ Phương (1991), “Những tìm tòi không mệt mỏi”, Tạp chí Văn nghệ

Quân đội (số 09).

113. G.N Pospelop chủ biên, (1998), Dẫn luận nghiên cứu văn học, Nxb Giáo

dục.

114. V.Ia.Propp (2003), Tuyển tập (Tập 1), Nxb Văn hóa dân tộc - Tạp chí

Văn hóa Nghệ thuật.

115. F.D.Saussure (1973), Giáo trình ngôn ngữ học đại cƣơng, Hoàng Phê

dịch, Nxb Khoa học Xã hội.

116. Trần Đình Sử (cb, 2004), Tự sự học, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội.

117. Nguyễn Kim Thản (1963), Nghiên cứu ngữ pháp tiếng Việt, tập 1, Nxb

Khoa học Xã hội, Hà Nội.

118. Nguyễn Kim Thản (1963), Nghiên cứu ngữ pháp tiếng Việt, tập 2, Nxb

Khoa học Xã hội, Hà Nội.

119. Đào Thản (1998), Từ ngôn ngữ chung đến ngôn ngữ nghệ thuật, Nxb

Khoa học Xã hội, Hà Nội.

120. Nguyễn Thị Việt Thanh (1999), Hệ thống liên kết lời nói tiếng Việt, Nxb

Giáo dục, Hà Nội.

121. Ngô Thảo (2000), “Thử nhìn lại mức độ chân thật của các tác phẩm viết

về chiến tranh và quân đội”, sách Văn học với đời sống - đời sống với

văn học, Nxb Văn học, Hà Nội.

154

122. Lí Toàn Thắng (2000), “Về cấu trúc ngữ nghĩa của câu”, Tạp chí Ngôn

ngữ (số 3).

123. Bùi Việt Thắng (1992), “Phản ánh chân thật một hiện thực cách mạng”,

Tạp chí Văn nghệ Quân đội (số 9).

124. Bùi Việt Thắng (1994), “Những dấu hiệu đổi mới của tiểu thuyết nhìn từ

cấu trúc thể loại”, Tạp chí Tác phẩm mới (số 16).

125. Bùi Việt Thắng (1995), “Một đề tài không cạn kiệt”, Tạp chí Văn nghệ

Quân đội (số 02).

126. Phạm Văn Thấu (2000), Cấu trúc liên kết của cặp thoại, Luận án tiến sĩ

Ngữ Văn, Đại học Sư phạm, Hà Nội.

127. Trần Ngọc Thêm (1985), Hệ thống liên kết văn bản tiếng Việt, Nxb

Khoa học Xã hội, Hà Nội.

128. Trần Ngọc Thêm (1999), “Ngữ dụng học và văn hóa - ngôn ngữ học”,

Ngôn ngữ (số 4).

129. Lê Quang Thiêm (2008), Ngữ nghĩa học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

130. Nguyễn Bích Thu (1999), “Văn xuôi năm 1998 - Thực trạng và vấn đề”,

Tạp chí Văn học (số 01).

131. Lý Hoài Thu (2001) “Tiểu thuyết, tầm vóc hiện thực và số phận con

người”, Tạp chí Văn nghệ quân đội (số 2).

132. Huỳnh Văn Thông (1996), “Tìm hiểu một vài vấn đề về kết thúc lượt lời

trong hội thoại tiếng Việt”, Ngôn ngữ (số 4).

133. Khuất Quang Thụy (2004), “Không phải là vấn đề đề tài”, Tạp chí Văn

nghệ Quân đội (số 10).

134. Đỗ Lai Thúy biên soạn (2004), Sự đỏng đảnh của phƣơng pháp, Nxb

Văn hóa thông tin, Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, Hà Nội.

135. Nguyễn Minh Thuyết, Nguyễn Văn Hiệp (1998), Thành phần câu tiếng

Việt, Nxb Đại học quốc gia, Hà Nội.

155

136. Đặng Thị Hảo Tâm (2002), Cơ sở giải nghĩa hàm ẩn của các hành vi

ngôn ngữ gián tiếp trong hội thoại, Luận án tiến sĩ Ngữ văn, Đại học Sư

phạm, Hà Nội.

137. Bùi Minh Toán (1999), Từ trong hoạt động giao tiếp tiếng Việt, Nxb

Giáo dục, Hà Nội.

138. Tzvetan Todorov (2005), Thi pháp văn xuôi, Đặng Anh Đào, Lê Hồng

Sâm dịch, Nxb Đại học sư phạm, Hà Nội.

139. Nguyễn Đức Tồn (1991), “Cách nhận biết và phân biệt từ thuần Việt với

từ Hán - Việt”, Tạp chí Ngôn ngữ (số 2).

140. Nguyễn Văn Tu (1968), Từ vựng học tiếng Việt hiện đại, Nxb Giáo dục,

Hà Nội.

141. Cù Đình Tú (1982), Khảo sát từ vựng tiếng Việt theo bình diện phong

cách ngôn ngữ, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.

142. Hoàng Tuệ (2001), Tuyển tập ngôn ngữ học, Nxb Đại học Quốc gia TP

Hồ Chí Minh.

143. Lê Đình Tường (2002), “Hoàn cảnh cầu khiến trong hội thoại”, Ngữ học

trẻ, Hội Ngôn ngữ học Việt Nam.

144. Lê Ngọc Trà (1989), “Thi pháp học lịch sử”, Tạp chí Kiến thức ngày nay

(số 17).

145. Lê Quang Trang (1991), “Vài nét về thân phận người phụ nữ đi qua

chiến tranh”, Tạp chí Văn nghệ quân đội (số 03).

146. Lê Thị Trang (2002), Khảo sát ngôn ngữ hội thoại của nhân vật trong

truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, Luận văn cao học, Đại học Vinh.

147. Vân Trung, Ngô Hoàng, Bảo Hưng (1997), Văn học 1975 - 1985, tác

phẩm và dƣ luận, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.

148. Xuân Trường (1991), “Có sự đổi mới thực sự trong văn học”, Báo Văn

nghệ (số 43).

156

149. Lê Kim Vinh (1981), “Góp vào việc nhìn nhận tình hình văn xuôi từ sau

năm 1975”, Tạp chí Văn học (số 02).

150. UBKHXHVN (1998), Từ điển tiếng Việt, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.

151. Trần Quốc Vượng (1999), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Hà Nội.

152. Nguyễn Như Ý chủ biên (1996), Từ điển giải thích thuật ngữ ngôn ngữ

học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

153. Mai Thị Hảo Yến (2006), Hội thoại trong truyện ngắn Nam Cao, Luận

văn Thạc sĩ, Đại học Vinh.

II. PHẦN TIẾNG NƯỚC NGOÀI

154. Austin J.L (1975), How to do things with words, Cambridge

University press.

155. Anscombre J.C & Ducrot O. (1983), L’ Argumentation dans Langue,

Mardaga.

156. Armengaud F. (1985), Pragmatique, Presses universitaire de France.

157. Brown P. And Levinson S.C. (1987), Politeness, Some Universls in

language Usage, Cambridge University Press.

158. Coulthard M. (1991), Advances in spoken discourse Analysis, Routledge.

159. Ducrot O. (1988), Polifonia y argumentation, Universidad del Vanlle Cali.

160. Ducrot O. (1984), Le dire et le dit, Minuit.

161. Grice H. P. (1975), Logic and conversation, In: P. Cole & J.L. Morgan

(eds), Syntax and Semantics, Vol 3.

162. Grize J.B. (1983), De la logique à L’ argumentation, Genève: Droze.

163. Levinson S.C. (1983), Pragmatics, Cambridge University Press.

164. Lyons J. (1978), Élement de sémantique, Traduction de J. Durand,

Larousse.

165. Lyons J. (1980), Sémantique linguistique, Larousse.

166. Meyer M. (1983), Logique, language et argumentation, Hachette.

157

TÁC PHẨM TRÍCH DẪN LÀM DẪN CHỨNG

I. Nguyễn Minh Châu (1984), Dấu chân ngƣời lính, Nxb Thanh niên.

II. Nguyễn Khải (1960), Mùa lạc, Nxb Văn hóa.

III. Nguyễn Khải (1989), Một cõi nhân gian bé tí, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh.

IV. Nguyễn Khải (1990), Một ngƣời Hà Nội, Nxb Hà Nội.

V. Nguyễn Khải (1993), Sƣ chùa Thắm và ông Đại tá về hƣu, Nxb Hội Nhà văn.

VI. Nguyễn Khải (1999), Tuyển tập truyện ngắn Nguyễn Khải, Nxb Văn hóa.

VII. Chu Lai (1979), Nắng đồng bằng, Nxb Quân đội nhân dân.

VIII. Chu Lai (1982), Đêm tháng hai, Nxb Hà Nội.

IX. Chu Lai (1987), Sông xa, Nxb Phụ nữ.

X. Chu Lai (1985), Gió không thổi từ biển, Nxb Phụ nữ.

XI. Chu Lai (1990), Vòng tròn bội bạc, Nxb Thanh niên.

XII. Chu Lai (1990), Bãi bờ hoang lạnh, Nxb Phụ nữ.

XIII. Chu Lai (1994), Ăn mày dĩ vãng, Nxb Hội Nhà văn.

XIV. Chu Lai (1999), Phố, Nxb Văn học.

XV. Chu Lai (2000), Ba lần và một lần, Nxb Quân đội nhân dân.

XVI. Chu Lai (2002), Cuộc đời dài lắm, Nxb Quân đội nhân dân.

XVII. Chu Lai (2008), Chỉ còn một lần, Nxb Văn học.

XVIII. Chu Lai (2003) Truyện ngắn Chu Lai, Nxb Văn học.

XIX. Lê Lựu (1987), Thời xa vắng, Nxb Tác phẩm mới.

XX. Bảo Ninh (1990), Thân phận tình yêu, Nxb Hội Nhà văn.

XXI. Nguyên Ngọc (1969), Đất nƣớc đứng lên, Nxb Văn học.

XXII. Trần Huy Quang (1994), Nƣớc mắt đỏ, Nxb Lao động.

XXIII. Nguyễn Đình Thi (1969), Xung kích, Nxb Văn học.

XXIV. Nguyễn Huy Thiệp (1987), Tƣớng về hƣu, Báo Văn nghệ.

XXV. Nguyễn Huy Thiệp (2000), Thƣơng cho cả đời bạc, Nxb Văn hoá thông tin.

158

XXVI. Phan Tứ (1984), Gia đình Má Bảy, Nxb Văn học.

XXVII. Phan Tứ (1972) Mẫn và tôi, Nxb Thanh niên.

XXVIII. Nguyễn Khắc Trường (2000), Mảnh đất lắm ngƣời nhiều ma, Nxb

Văn nghệ.

XXIX. Nguyễn Trọng Oánh (1984), Đất trắng, Nxb Quân đội nhân dân.

XXX. Chu Văn, (1985), Sao đổi ngôi, Nxb Thanh niên.

159

PHẦN PHỤ LỤC

Bảng a. Danh sách tổng hợp các nhân vật trong tiểu thuyết của Chu Lai

(Bổ sung cho bảng 1.1)

Số lượng

Nhân vật nữ

nhân vật

(Tên, tuổi, vị trí công

Tác

Nhân vật nam

(nhân vật

(Tên, tuổi, vị trí công việc, nghề nghiệp)

việc,

phẩm

nam%; nhận

nghề nghiệp)

vật nữ%)

Tổng số 25

Hai Hùng (trong chiến tranh, 29 t, đội

Ba Sương (y tá đội du

Ăn mày

nhân vật trong

trƣởng đặc nhiệm; sau chiến tranh, 49t,

kích, cán bộ địa

dĩ vãng

đó số nhân vật

lính trở về sau chiến tranh, thất nghiệp),

phƣơng, bà chính ủy

nam là16

Ba Quân (chủ tịch, trẻ trai, choai con), gã

xã đội), Tư Lan

chiếm 64%,

Địch phản ngực (vệ sĩ, trƣởng phòng cung

(Giám đốc sở nông

nữ 9 chiếm

ứng vật tƣ), thằng nhỏ (14, 15t), Ba Tiến

lâm, lớn tuổi), Cô bé

36%

(phó bí thƣ quận ủy), Viên (lính đặc

tiếp viên bia ôm

nhiệm, trẻ tuổi), Bảo (lính đặc nhiệm,

(khoảng 25t, gái sec -

20t), Tuấn (lính đặc nhiệm, xạ thủ B41,

via, bán Bar), Hai

18t), Tám Tính (Tính cọp, tiểu đoàn

Hợi (xã đội trƣởng du

trƣởng, gần 30 tuổi), Ba Thành, (bác sĩ),

kích xƣa vốn là dân

ông già (thƣờng trực sở, đại tá về hƣu),

bán thịt, chừng 25

Khiển (mũi trƣởng thiện chiến, 21t),

tuổi), Thu (giao liên,

Tường (thám báo của địch, đại úy, chừng

trẻ trung), cô gái lễ

45t), ông tham mưu phó (trung tá), gã trai

tân sở, cán bộ sở

(phục vụ nhà hàng, nửa già nửa trẻ), Giôn

nông lâm nghiệp, bà

(ngƣời Mỹ, lính chiến Mỹ, trung niên).

chủ quán, cô gái trực

lễ tân sở (khá trẻ).

Tổng số 32

Người lính (thuộc binh đoàn chủ lực),

Cô gái (cứu thƣơng,

Nắng

nhân vật trong

chiến sĩ (thuộc binh đoàn chủ lực), Linh

thuộc binh đoàn chủ

đồng

đó số nhân vật

(trung đội điều nghiên trinh sát, trung đội

lực), Năm Thúy (cô

bằng

nam là 23

trƣởng), Tùng (tiểu đội trƣởng), Ma Hồ

cán sự dân quân),

chiếm 71,8%,

Lang (chiến sĩ),Cầu (chính trị viên), Sáu

Hương, Hai Thanh (y

nữ 9 chiếm

Hóa (tiểu đoàn trƣởng), Kiêu (đại đội

tá kiêm xã đội phó,

28,1%

trƣởng), chú Tư (bí thƣ xã), Năm Dân (bí

du kích vùng ven), má

thƣ kiêm xã đội trƣởng kiêm chính trị viên

Sáu (đảng viên mật),

xã đội), anh Chín (đứng tuổi, chính trị

Út (cơ sở tiếp tế cho

160

Số lượng

Nhân vật nữ

nhân vật

(Tên, tuổi, vị trí công

Tác

Nhân vật nam

(nhân vật

(Tên, tuổi, vị trí công việc, nghề nghiệp)

việc,

phẩm

nam%; nhận

nghề nghiệp)

vật nữ%)

viên Bộ tƣ lệnh), Anh y tá, Bảy Hoàng

cách mạng), người

(tham mƣu trƣởng), Sáu (trƣởng ban cán

đàn bà (chƣa tới 30t,

bộ), Chín ngón (thuộc binh đoàn chủ lực),

thợ may), cô gái (giao

anh Ba (Tƣ lệnh phó quân khu miền đông,

liên tỉnh ủy), Tư

quận trƣởng, tiểu đoàn trƣởng), ông Tư

Hạnh (thám báo của

(Tỉnh đội trƣởng), Mười Đảnh (xã đội

địch).

trƣởng), Sáu Dô (phó bí thƣ huyện ủy),

thằng trung úy (rất trẻ, đại đội trƣởng bảo

an), Út cò ngẳng (bẫy cò, bác sĩ trạm xá

trƣởng), Rổn (giao liên), thằng Xầm (ác

ôn, thiếu tá, quận trƣởng).

Tổng số 16

Ba Xuân (chiến sĩ biệt động Sài Gòn, đội

Thanh Nhàn (nữ

Gió

nhân vật trong

trƣởng đội biệt động, ngƣời đàn ông

chiến sĩ biệt động Sài

không

đó số nhân vật

ngƣời Thƣợng bán thuốc nam dạo,khó

Gòn, cô thợ may,

thổi từ

nam là12

đoán tuổi), cháu (chƣa đầy 2 tuổi), người

chƣa đầy 30t), bà má,

biển

chiếm 75%,

đàn ông (trung tuổi, du đãng Sài Gòn),

Nga (rất trẻ, ca sĩ),

nữ 4 chiếm

Hai Băng Giá - Phan Hồng Lẫm (du đãng

chủ nhân tiệm Kim

25%

Sài Gòn, ông trùm, trạc 30 t), người mặc

Hoàn.

áo lính (du đãng), đô trưởng (thiếu tƣớng

Mỹ ngụy), ông Luân (giáo sƣ), Hoàng

Xanh (thiếu tá ngụy, kẻ chiêu hồi), Hải

(nhạc sĩ, rất trẻ), Thuấn (đại úy ngụy),

chú Tư (trung tuổi, bộ tƣ lệnh), Tư Thanh

(phó tƣ lệnh quân ủy).

Tổng số 23 nhân

Linh (trên dƣới 30, nguyên thiếu úy đại đội

Mẹ Linh (cán bộ về

Vòng

vật trong đó số

trƣởng, hiện đang làm tòa soạn báo, phóng

hƣu, 60t), Hạnh, bà

tròn bội

nhân vật nam là

viên), Chiến (trên dƣới 30, nguyên là lính

trưởng phòng tài vụ,

bạc

16 chiếm

chiến trƣờng và bây giờ là chúa đảo, ông

Tuyến (giảng viên

69,5%, nữ 7

vua hồ), Huấn tức Hòe (trên dƣới 30,

Đại học Sƣ phạm),

chiếm 30,4%

nguyên lính chiến, hiện đang là bí thƣ xã

Thủy (kỹ sƣ thủy lợi),

Thanh Lâm), Vận (trên dƣới 30, cựu thiếu

chị vợ Thịnh (nhà

úy tiểu đoàn trƣởng, chủ ghi số đề), ông bố

giáo), Quỳnh (sinh

161

Số lượng

Nhân vật nữ

nhân vật

(Tên, tuổi, vị trí công

Tác

Nhân vật nam

(nhân vật

(Tên, tuổi, vị trí công việc, nghề nghiệp)

việc,

phẩm

nam%; nhận

nghề nghiệp)

vật nữ%)

Linh (viết sử học), ông anh Linh (kiến trúc

viên trƣờng pháp lý).

sƣ, phụ trách một viện thiết kế), Thanh chú

em Linh (giám đốc), Nguyễn Quách

(trƣởng phòng biên tập), Khâm (phóng viên

trang công nghiệp, hơn 30t), Thịnh (nguyên

lính chiến hiện là chủ nhiệm hợp tác xã),

Hùng (thiếu tá, chỉ huy trƣởng, thƣờng vụ

huyện ủy, tóc lốm đốm bạc), Luân (bí thƣ

huyện ủy), Chị trưởng ban kiểm tra đảng,

Tình (trƣởng công an, khoảng 25, 26t),

Phong (Tổng biên tập, có tuổi).

Tổng số 20

Long (17t, học lớp 12), Vũ Hà Nguyên

Hà Thương (nguyên

Cuộc đời

nhân vật trong

(giám đốc nông trƣờng cao su, nguyên đại

là cô giáo dạy tiếng

dài lắm

đó số nhân vật

đội trƣởng trinh sát), Vũ Lâm (về hƣu,

Anh và hiện tại là cán

nam là16

nguyên là Tổng giám đốc), Phạm Đăng

bộ trồng rừng),

chiếm 80%,

Điền (đội trƣởng nông trƣờng cao su),

Thanh Thủy (cô chủ

nữ 4 chiếm

Đoàn Thanh (phó giám đốc nông trƣờng

quán), thiếu phụ, A

20%

cao su), Tuấn tử thần (thành phần tự do,

Linh (ngƣời đàn bà

gần 30t), chàng trai người Thượng (làm

Trung Hoa, tổng

nƣơng rẫy), Tụ (trung đội trƣởng thông

giám đốc hơn hai

tin), Anh quản giáo (ngoài 20t), Thuần

chục công ty lớn nhỏ

(đội trƣởng bảo vệ), Người tù (trên 40t,

ở Trung Hoa).

từng là thiếu tá biên phòng), Bằng

(nguyên khẩu đội trƣởng Cachiusa), ông

chủ, Hùng tiền đồn, Ba Vinh (giám đốc

công ty cao su), Vận (phó giám đốc nông

trƣờng cao su).

Tổng số 15

Nam (kỹ sƣ công binh), Bình (đạo diễn

Thảo (bác sĩ quân y,

Phố

nhân vật trong

kiêm kiến trúc sƣ, thƣơng binh loại 4/8),

chừng 30t), Niên

đó số nhân vật

Thành, anh công an, Bố Lãm (hiệu trƣởng

Thảo (7t), chị hàng

nam là 9

trƣờng Đảng đã nghỉ hƣu), ông già bán cà

nước (vốn là giảng

chiếm 60%,

phê (ngoài 65t, nguyên cấp tƣớng đã về

viên đại học pháp lý),

162

Số lượng

Nhân vật nữ

nhân vật

(Tên, tuổi, vị trí công

Tác

Nhân vật nam

(nhân vật

(Tên, tuổi, vị trí công việc, nghề nghiệp)

việc,

phẩm

nam%; nhận

nghề nghiệp)

vật nữ%)

nữ 6 chiếm

hƣu), Um (nguyên tiểu đoàn trƣởng trinh

Loan (25t, nhân viên

40%

sát, chủ nhà ngục lớn nhất), Hùng (tổng

công ty kinh

giám đốc hãng điện tử, trên dƣới 40t),

doanh),Vợ Lãm

Dũng (chín năm tù giam mới mãn hạn tù,

(trông con), chị hàng

trên 30t), Lãm (trên 25t, kinh doanh mía).

mía (gần 40t, bán

nƣớc mía).

Tổng số 25

Trần Văn Thạch (hiện tại: trên dƣới 50t,

Út Thêm (cô bé quân

Ba lần và

nhân vật trong

bảo vệ), Sáu Nguyện (quá khứ: cán bộ

báo), Út Thêm

một lần

đó số nhân vật

quân báo tỉnh, trên dƣới 30t), Ba Đẩu

(khoảng 40t, thƣợng

nam là16

(cán bộ quân báo, ban chỉ huy lâm thời,

tá trƣởng phòng điều

chiếm 64%,

sau chiến tranh là ông chủ trồng rừng),

tra xét hỏi), Bảy Thu

nữ 9 chiếm

Huyện đội trưởng, Ông quận trưởng, Năm

(nữ pháo thủ, ngoài

36%

Thành (khoảng 30t,đại đội trƣởng trinh

20t), Tư Chao (chừng

sát), Ba Nguyên (đại úy, chỉ huy trạm

25,26t, cơ sở tiếp vận

phẫu), chú Bảy (tỉnh đội trƣởng), Hoàng

lƣơng thực cho bộ

(trung úy, viện kiểm sát), Phạm Thành

đội, chủ cửa hàng tạp

Long (tổng giám đốc công ty), Hiếu

hóa), cô du kích pháo

(chiến sĩ quân báo), ông lão, Hai Tính

thủ, Lan Thanh (sinh

(ông chủ cơ sở kinh doanh xe máy, trƣớc

viên khoa ngoại ngữ

là lính quân báo), ông chủ quán kiêm nhà

kiêm ngƣời mẫu thời

báo kiêm chiêm tinh, ông trưởng phòng,

trang, khoảng 20t),

ông giám đốc.

Sáu Phượng, bé gái

(khoảng 5,6t), Hương

(chủ cơ sở kinh doanh

xe máy), chị tài vụ.

Tổng số 12

Lân (chƣa đến 30t, chủ tịch thị trấn),

Phương Hạnh Dung

Bãi bờ

nhân vật trong

Quang (trong chiến tranh là trinh sát

(họa sĩ,35t), Hòa (cô

hoang

đó số nhân vật

nhƣng sau chiến tranh trở về bị tâm thần),

giúp việc).

lạnh

nam là10

Thi Hoài (nhà thơ, trẻ), ông già đánh cá,

chiếm 83,3%,

Lê Hoàng (giám đốc lâm trƣờng),Tư

nữ 2 chiếm

Đương, Vũ (bác sĩ, đánh máy chữ), người

16,6%

đàn ông (trên dƣới 40), ông Hai (lãnh đạo

163

Số lượng

Nhân vật nữ

nhân vật

(Tên, tuổi, vị trí công

Tác

Nhân vật nam

(nhân vật

(Tên, tuổi, vị trí công việc, nghề nghiệp)

việc,

phẩm

nam%; nhận

nghề nghiệp)

vật nữ%)

chủ chốt một bộ quan trọng của Trung

ƣơng), ông chủ tịch huyện.

Tổng số 27

Tịnh (chữa xe máy kiêm bán nƣớc ở ngã

Hai Thanh (trên dƣới

Sông xa

nhân vật trong

tƣ đƣờng, nguyên tiểu đoàn trƣởng trong

30, giao liên), Hai

đó số nhân vật

chiến tranh), Hoàng (viên chức cao cấp),

Thanh (trên dƣới

nam là 20

Ông tổng giám đốc, Thắng (thiếu tá, tiền

10t), Má cô Thanh,

chiếm 74%,

đồn Hà Tuyên), đồng chí cán bộ quân sự

cô Nghĩa (làm công,

nữ 7 chiếm

địa phương, ông Tám Nghệ (đánh Tây),

sau tham gia cách

25,9%

thằng Riềng (8t, sau làm cách mạng),

mạng), Thu (chừng

Quang (trên 20t, học tú tài, sau làm ác ôn

23,24t, giao liên),

cho giặc), Nhân (thầy giáo, độ 27, 28t,

Nguyễn Thị Sang,

làm cách mạng), ông chú (ty công an),

Thím.

Lính gác (hạ sĩ), viên đại úy, đồn trưởng,

Tám (hoạt động cách mạng), bí thư huyện

ủy, Chú Năm (huyện ủy), Thành (hoạt

động cách mạng), Anh bộ đội (đại đội

trƣởng), Lê (cán bộ giao liên), Tiến (hoạt

động cách mạng), Đức (3t).

Tổng số 22

Hoàng (đại úy phòng điều tra xét hỏi),

Út Thêm (trƣởng

Chỉ còn

nhân vật trong

Sáu Nguyện (phạm nhân), Năm Thành

phòng điều tra xét

một lần

đó số nhân vật

(nguyên tiểu đoàn trƣởng, tổng giám đốc),

hỏi, Thƣợng tá công

nam là 15

Bác sĩ, Trần Quyền (đại tá, phó giám đốc

an, chừng 40t), Tư

chiếm 68,1 %,

công an), Cầu, Chu Thiên (trợ lý an ninh

Chao (chừng 45t),

nữ 7 chiếm

kiêm vệ sĩ đặc biệt), Nguyễn Thanh (giám

Lan Thanh (chừng

31,8 %

đốc sở), Ba Đẩu (chủ trang trại thƣơng

18t), Bảy Thu (trên

binh), Bảy Ngạnh (tức nhà báo Trần

40t, công nhân thủy

Xuân), Trần Thanh, Hai Tính (trại viên

sản), Bà ca sĩ mù,

trang trại), Ba Bưởng (giám đốc nông lâm

Thu Mây (ca sĩ),

học), Chín Phòng (ngƣời tù năm xƣa), Tư

Phượng (chủ công ty

Nghĩa (nhà báo).

tƣ vấn tin học).

217

Tổng

164

Bảng b. Danh sách tổng hợp các đại từ nhân xưng trong tiểu thuyết của Chu Lai (Bổ sung cho bảng 2.1)

Đại từ nhân xưng được dùng trong NNNV (số lần)

Tên

ĐTNX ngôi 1

ĐTNX ngôi 2

ĐTNX ngôi 3

truyện

Số ít

Số nhiều

Số ít

Số nhiều

Số ít

Số nhiều

Tôi (124),

Tụi em

Mày (154),

Bọn bây

Gã (23), nó

Người ta

Ăn mày

mình (23),

(12), chúng

bạn (68),

(17).

(128),

(12).

dĩ vãng

tao (104),

ta (12), bọn

cậu (79).

thằng (43),

ta (3).

mình (18),

hắn (54), ả

(16), thằng

bọn tao

(19).

(45), ta

(12).

Tôi (146),

Chúng ta

Mày (123). Bọn mày

Hắn (109),

Người ta

Ba lần

tao (102),

(54), mình

(12).

nó (56), ả

(34), chúng

và một

tớ (120),

(8), bọn

(3), người

(32), chúng

lần

mình (12).

mình (45),

ta (2).

nó (34).

chúng tôi

(34), mình

(5).

Tôi (187),

Chúng ta

Bay (12),

Bọn mày

Hắn (67),

Bọn nó

Gió

tao (62), tui

(23), chúng

ngài (14),

(45).

thằng (32),

(14), người

không

(57), mình

tôi (37), tụi

mày (56),

nó (45), gã

ta (12),

thổi từ

(5), tao

mình (23),

mi (2).

(23), mụ

chúng nó

biển

(87).

chúng mình

(23), ả (3).

(43).

(32).

Tao (201),

Mình (11),

Mày (156). Chúng mày

Thằng (49),

Người ta

Vòng

mình (43),

bọn mình

(37).

hắn (76),

(15).

tròn bội

tôi (176),

(32), ta

người ta

bạc

bọn này

(34).

(3), nó

(12), bọn

(148).

tao (67),

chúng ta

(344).

Tôi (258),

Chúng tôi

Mày (74).

Chúng mày

Hắn (87),

Người ta

Cuộc

mình (34),

(34), mình

(24).

nó (45),

(23).

đời dài

165

Đại từ nhân xưng được dùng trong NNNV (số lần)

Tên

ĐTNX ngôi 1

ĐTNX ngôi 2

ĐTNX ngôi 3

truyện

Số ít

Số nhiều

Số ít

Số nhiều

Số ít

Số nhiều

tớ (49), tao

(12), chúng

thằng (23),

lắm

(84).

ta (45), bọn

người ta

ta (37), bọn

(5).

mình (18).

Mình (54),

Mình (5),

Nàng (3),

Bọn nhóc

Nó (96),

Người ta

Phố

tôi (134), tớ

chúng tôi

mày (106).

(8).

hắn (34),

(13), chúng

(123), tao

(54), ta (3).

thằng (23),

nó (69),

(167).

gã (43).

bọn chúng

(12).

Tôi (150),

Chúng tôi

Mày (165),

Bọn mày

Nó (34), tớ

Người ta

Nắng

tao (145).

(56), chúng

nàng (2).

(12).

(92), thằng

(32).

đồng

ta (23).

(23).

bằng

Mình (42),

Mình (12),

Mày (94).

Bọn mày

Ả (5), nó

Chúng nó

Bãi bờ

(23).

(34).

(31).

ta (11), tôi

ta (10),

hoang

(129), tớ

chúng ta

lạnh

(69), tao

(23).

(89).

Bọn mình

Mày (59),

Nó (87), kẻ

Chúng nó

Sông xa Người ta

(16), tao

(28), chúng

mi (12).

(12), hắn

(23), người

(65), tớ

mình (43).

(37).

ta (23), bọn

hắn (12).

(76), mình

(23), tôi

(145),

chúng ta

(44).

Tôi (197),

Chúng tôi

Tụi bây

Hắn (123),

Người ta

Chỉ còn

tao (134).

(75), chúng

(16), bọn

nó (97), ả

(25), chúng

một lần

ta (56),

bây (12).

(12), thằng

nó (23).

chúng mình

(12).

(23).

4113/8820

994/8820

1179/8820

206/8820

1846/8820

482/8820

Tổng

(46,6%)

(11,2%)

(13,3%)

(2,3%)

(20,9%)

(5,4%)

166

Bảng c. Danh sách tổng hợp các từ xưng hô (trừ đại từ nhân xưng) trong tiểu thuyết của Chu Lai (Bổ sung cho bảng 2.2)

Các từ xưng hô khác được dùng trong NNNV (số lần)

Tên

Các danh

Các từ chỉ

Các từ

Các từ chỉ

Các từ chỉ chức

Các từ chỉ

truyện

từ thân

quan hệ

chuyển

tên riêng

vụ, nghề nghiệp

nơi chốn

tộc

xã hội

hóa

Ảnh, anh

Ba Quân

Chủ tịch, sếp (6),

Đồng chí

Bà chúa

Đằng ấy

Ăn mày

(123), em

(2), Ba

giám đốc (12),

(142), bà

rừng xanh

(2).

dĩ vãng

(146), bả,

Thành (23),

phó chủ tịch (2),

chủ (3)

(2), bà

bà (86),

Tường (9),

chủ tịch (2), ủy

bạn (19).

tiên tốt

bụng (1),

cháu (9),

Tuấn (11),

viên trung ương

nhỏ (7),

chị (97),

Vượng (2),

(1), nhà báo (2),

cưng (16).

con bé

Khiển (2),

thanh tra chính

(12), ông

Ba Sương

phủ (3), đội

(49), cha

(18), Hai

trưởng đặc

(6), em út

Hợi (9), Hai

nhiệm (5), thanh

(8), cô

Hùng (33),

tra bộ (2), cửa

(39), con

Viên (6),

hàng trưởng (3),

gái (9), cố

Ba Tiến (4),

y tá (24), xã đội

nội (2),

Bảo (4),

trưởng (5), phó

chú (97),

Tám Tính

bí thư quận ủy

cha nội

(18), Tính

(2), bác sĩ (5),

(10), con

cọp (7).

lính (4).

(8), má

(13), bác

(71), bà

vợ (13),

ông (21),

Cậu

(187).

Em (95),

Chị Năm

Lính (84), trinh

Đồng chí

Thằng trời

Nắng

anh (87),

(3), Tùng

sát (5), đồng chí

(132), các

đánh hộ

đồng

chị (67),

(2), Hương

đại đội trưởng

bạn (18).

pháp (1),

bằng

ông (76),

(23),Linh

(5), bộ đội

lãng chúa

cậu (96),

(23), anh

(16),đồng chí bí

rừng chồi

ông (56),

Sáu (12),

thư, Huyện ủy

(1). người

167

Các từ xưng hô khác được dùng trong NNNV (số lần)

Tên

Các danh

Các từ chỉ

Các từ

Các từ chỉ

Các từ chỉ chức

Các từ chỉ

truyện

từ thân

quan hệ

chuyển

tên riêng

vụ, nghề nghiệp

nơi chốn

tộc

xã hội

hóa

chú em

Năm Dân

(2), thủ trưởng

đẹp (1),

(23), cô

(5), anh

(7), bọn lính

con mất

(124), ông

Kiên (11),

(21), tên đại úy

nết (1),

bà già ảnh

đồng chí

(11), bộ đội (12).

con khốn

(2), ba má

Tâm (3),

nạn (1).

anh ấy

Thúy

(2), thím

(23),anh

(7).

Chín (8),

anh Cầu

(12), anh

Tư (2), ông

Ba (6),

đồng chí

Linh (31),

thằng Sáu

Còi (2),

đồng chí

Đảnh (3),

đồng chí

Thúy (11),

Đại úy Sáu

Còi (2), anh

Sáu (5),

Thanh (17),

đồng chí

Hóa (2),

ông Tư

(12), Chín

Kiêu (8),

Tư Hạnh

(3), Phận

(1), con

Hạnh (7),

thằng Phận

168

Các từ xưng hô khác được dùng trong NNNV (số lần)

Tên

Các danh

Các từ chỉ

Các từ

Các từ chỉ

Các từ chỉ chức

Các từ chỉ

truyện

từ thân

quan hệ

chuyển

tên riêng

vụ, nghề nghiệp

nơi chốn

tộc

xã hội

hóa

(2), Thúy

(15).

Ảnh, anh

Anh Hai

Ông thầy thuốc

Ông bạn

Con nhỏ

Gió

(114),

(12), cô Hai

nam (6), ông

(12).

(4), thằng

không

ông, ổng

(3), ông Hai

thầy (24), ông

nhỏ

thổi từ

(121), mẹ

(11), Phan

bạn giáo sư

(12),bóng

biến

(31), cô

Hồng Lẫm

(3),giáo sư (7),

ma cộng

em (12),

(1), Anh

thiếu tá Xanh

sản (2),

con (41),

Lẫm (4),

(14),ông nhạc sĩ

nhạc sĩ

cô (43),

anh Luân

(12), nghị sĩ (2),

thời danh

chị (34),

(3), thằng

thiếu tá (3),thiếu

(1), người

cháu (37),

Hải (12),

tướng (2), Bộ tư

hùng (4),

chú (45),

anh Thuấn

lệnh (1), quan

nhỏ (12),

má (52),

(2), thiếu tá

(12),tư lệnh (12),

bà xã (2),

bà (32),

(8),chị Ba

ông đại úy (13),

cô bé xinh

lão (23),

(2), thằng

thượng sĩ (2),

đẹp (2),

các anh

Xuân (3),

ông bạn chuyên

cưng (7).

(17), ba

chú Tư (5),

gia tâm lý (3).

(43), cha

bà Tư (2),

nội (12),

Nhàn (16),

thím (9),

anh Ba

vợ (11),

(5),Ba

vợ chồng

Xuân (6),

(13), bà

ông Giôn

nhà tôi

(2), ông

(12), cậu

Thuấn (4),

(34),

anh Hải

chồng chị

(12), thằng

(12), bà

Chu Anh

(15), em

(2).

(96),ông

bà (12),

anh chị

(17), bác

169

Các từ xưng hô khác được dùng trong NNNV (số lần)

Tên

Các danh

Các từ chỉ

Các từ

Các từ chỉ

Các từ chỉ chức

Các từ chỉ

truyện

từ thân

quan hệ

chuyển

tên riêng

vụ, nghề nghiệp

nơi chốn

xã hội

hóa

tộc

(13), cô

(43).

Anh Linh

Cựu thiếu úy tiểu

Đồng chí

Thủ lĩnh

Anh

Vòng

(187), ông

(1 2), thằng

đoàn trưởng (1),

(23).

da đỏ (1),

tròn bội

(32), anh

Chiến (4),

lão giám đốc (6),

mụ xã tớ

bạc

(1), thiên

chị (23),

Huấn (7),

nhà báo (32), cô

thần (1),

nhà tôi

Linh (18),

chủ (4), lão

ông chủ

(12), em

anh Huấn

trưởng phòng

tương lai

(196), mẹ

(13), anh

(12), tổng biên

của bố

(21), con

Hùng (6),

tập (9), cha giám

(1), người

(29), bố

ông Phong

đốc (2), lính (8),

đẹp (1).

(32), chú

(6), lão

ông nhà nước

em (4),

Quách (14),

(1), đồng chí

ông cụ

anh Thanh

phái viên (1),

(12), chú

(2), anh Ba

đồng chí bí thư

mày (56),

(6), chị Ba

(7), Bộ Tổng

(5), thằng

tham mưu (1).

bố con

nhà nó

Minh (8),

(5), lão

thằng Cầm

(12), cu

(2), Thủy

cậu (15),

(13), bà

anh em

Thông (2),

trai (11),

chú Vận

chú mình

(6), bác

(18), cô

Vận (8),

(67), má

chú Tuần

(12), ông

(1), Quỳnh

cụ (12),

(12).

cháu (43),

ba (17),

chú (121),

chị (115),

bác (18),

cụ (12).

170

Các từ xưng hô khác được dùng trong NNNV (số lần)

Tên

Các danh

Các từ chỉ

Các từ

Các từ chỉ

Các từ chỉ chức

Các từ chỉ

truyện

từ thân

quan hệ

chuyển

tên riêng

vụ, nghề nghiệp

nơi chốn

tộc

xã hội

hóa

Ông (87),

Long (2),

Giám đốc (23),

Đồng chí

Anh bạn

Cuộc

cậu (147),

ông Vũ Hà

tụi nhà báo (9),

(76).

công tử

đời

bố (46),

Nguyên (1),

sếp (15).

bột (1),

dài lắm

nhỏ (7),

anh (87),

Thương

tay ấy (1).

em (137),

(23), ông

cô (152),

Thuần (2),

ông anh

anh Nguyên

(12), chú

(23), anh

(84), con

Thanh (12),

(34), má

Tuấn (12),

(32), bả

Thủy (13),

(23), bác

anh Hai (8),

(65).

anh Thanh

(23), anh

Linh (3),

anh Bằng

(4),bác Thái

(2), Long

(2).

Anh

Cậu Lãm

Cựu chiến binh

Đồng chí

Người đàn

Phố

(207), con

(9), bác

(2), đồng chí

(59).

bà mệnh

(23), em

Bình (23),

cảnh sát (23),

phụ (2),

(245), ông

Loan (21),

đồng chí sĩ quan

người đàn

(23), con

bé Niên

cao cấp (2), ông

bà giàu có

gái (6),

Thảo

nhà nước (2),

(1), nhóc

bác (34),

(5),anh

đồng chí cảnh sát

(5), người

bà (12),

Thành (2),

nhân dân (3),

đẹp (9),

cô (65),

chú Bình

giám đốc (13),

con nhỏ

chị (87),

(8), Thảo

thằng nhà báo

(12), cô tỷ

bố (56),

(23), thằng

(11), bà bác sĩ

phú xinh

mẹ (34),

Ưm (2), mẹ

quân y (2), cô

đẹp (1),

cụ (56),

Niên Thảo

hàng chè chén

Người

chú (48),

(12), bố

(4), Bộ (1), ông

tình kiều

ông ngoại

Bình (12),

chủ (6), thủ

diễm của

171

Các từ xưng hô khác được dùng trong NNNV (số lần)

Tên

Các danh

Các từ chỉ

Các từ

Các từ chỉ

Các từ chỉ chức

Các từ chỉ

truyện

từ thân

quan hệ

chuyển

tên riêng

vụ, nghề nghiệp

nơi chốn

tộc

xã hội

hóa

(7), ông

mẹ Loan

trưởng (23),

anh (1),

bác (2),

(12), giáo

chàng cửu vạn

cưng (6),

bà ấy

Khang (5),

(1), đồng chí

con đàn

(12), bà

anh Dắt (1),

giám đốc (2).

bà nhem

chị (14),

cô Thoa

nhuốc (1).

ông già

(1), lão

(12), chú

Hùng (3).

em (12),

ông nội

(12), cậu

em giai

(2), bố

con anh

(22), vợ

tôi (11),

cháu (14),

ông anh

(12), nhà

em (12).

Anh (83),

Thạch (2),

Nhà chức trách

Đồng chí

Cưng

Ba lần

bà (26),

Sáu Thẹo

(3), biệt kích (4),

(97).

(12), Út

và một

cháu

(2), phạm

đại đội trưởng

(32), nhỏ

lần

(4). Nhóc

(156), ổng

nhân Trần

(12), đồng chí

(2), con

(23), chú

Văn Thạch

chỉ huy trưởng

bồ mất nết

(137), má

(1), chú Sáu

(11), đồng chí

(1).

cháu (5),

Nguyện

đại úy quân báo

ba cháu

(14), Út

(16), bà thượng

(6), hai

Thêm (45),

tá trưởng phòng

chú cháu

chú Sáu

điều tra xét hỏi

(14), con

(32), đồng

(2), ông phó chủ

gai (12),

chí Sáu

tịch phụ trách

chú cháu

Nguyện

nội chính (2),

(11), cậu

(23), con

nhà nước (2),

(105), cô

mẹ Tư

đồng chí đội

172

Các từ xưng hô khác được dùng trong NNNV (số lần)

Tên

Các danh

Các từ chỉ

Các từ

Các từ chỉ

Các từ chỉ chức

Các từ chỉ

truyện

từ thân

quan hệ

chuyển

tên riêng

vụ, nghề nghiệp

nơi chốn

tộc

xã hội

hóa

(123), chú

Chao (1),

trưởng (6), Nữ

cháu mình

Tư Chao

chiến sĩ biệt

(34), bà dì

(12), cô Tư

động (2), ông

(2), anh

(15), Út

quan báo (4).

em (12),

(43), chú

ông ấy

Ba Đẩu

(34), em

(23), thằng

(87), anh

Thành (11),

(56), chị

thằng Năm

(92), mẹ

Thành (31),

(43), bố

Tư (8), nhỏ

(12), bác

Út (14),

(43).

Lan Thanh

(23), anh

Hoàng (21),

chú Hoàng

(2), cô Ba

(11), anh

Hai (21),

Sáu Phượng

(6), cô Sáu

(11), thằng

Ba Mập (5),

công dân

Trần Quang

Đẩu (1),

Thu (2), chị

Hai (4), chú

Năm (3),

cha Thành

Long (3).

Ông cố

Quang (7),

Lão chủ tịch (3),

Bạn (23),

Bãi bờ

nội (2),

phương

chủ tịch (6), bác

chủ nhân

hoang

ông (34),

Hạnh Dung

vạn chài (1),

(12), đồng

lạnh

173

Các từ xưng hô khác được dùng trong NNNV (số lần)

Tên

Các danh

Các từ chỉ

Các từ

Các từ chỉ

Các từ chỉ chức

Các từ chỉ

truyện

từ thân

quan hệ

chuyển

tên riêng

vụ, nghề nghiệp

nơi chốn

tộc

xã hội

hóa

cô (102),

(1), thằng

giám đốc (7), cậu

chí (34).

cậu (97),

Hoài (1),

chủ tịch thị trấn

chị (87),

chị Hai

(3), anh lính giải

em (92),

(32), chú

phóng (2), bác sĩ

anh (134),

Tư (13),

(7),nhà thơ (12),

cậu (87),

Dung (23),

nữ họa sĩ (12),

cháu (34),

Hòa (6),

nhà thơ cộng sản

ông cụ

anh Vũ (1),

(2), bọn công an

(23), chú

anh Hoàng

(2).

(23), chú

(1), giám

mày (3),

đốc Hoàng

ba (13),

(3), anh

bác (17).

Quang (6),

Quang (12),

Duy (1),

anh Hai (1),

chị Dung

(6), anh

Hoàng Như

Hẽn (1),

chú Hai (4),

thằng Lân

(1).

Anh Hai

Chú lính (2),

Cậu chủ

Con nhỏ

Sông xa Ông (23),

chị

(12), ông

thầy giáo (24),

(13), ông

(12), nhà

(76),cậu

Tịnh (13),

thầy (21), cảnh

bà chủ

tôi, hổ cái

(89), má

thằng

sát (3), ông chỉ

(12), đồng

rừng xanh

(34), cô

Thắng (4),

huy (5), ông đồn

chí (34).

(1), nữ

(124), bà

Thắng (12),

trưởng (8), cảnh

chúa

(13), con

cô Hai (23),

sát (7), chú lãnh

Đảng sơn

(23), má

Thanh (21),

đạo tỉnh (3), anh

lâm (1),

(23), em

cậu Hai

đại đội trưởng

nữ kiệt

(113), anh

(13), Nhân

(12), huyện ủy

rừng chồi

174

Các từ xưng hô khác được dùng trong NNNV (số lần)

Tên

Các danh

Các từ chỉ

Các từ

Các từ chỉ

Các từ chỉ chức

Các từ chỉ

truyện

từ thân

quan hệ

chuyển

tên riêng

vụ, nghề nghiệp

nơi chốn

tộc

xã hội

hóa

(95), bà

(12), anh

(1), ông quận

(1), cưng

(18), chú

Hai (13),

phó (2).

(13).

(43), con

cậu Riềng

(3), cháu

(5), cậu

(45), em

Quang (13),

trai

em Nghĩa

(6),chú

(23), thằng

em (4), bà

Nhân

thím (34),

(4),chị Hai

bà cháu

(21), Út

nó (5),

(23), Chị

ông bà

Nguyễn Thị

ngoại (2),

Sang (1),

má (13),

chị Phạm

cồng em

thị Thanh

(14).

(1), cô Ba

(17), anh

Tám bí thư

huyện ủy

(2), chú

Năm (1),

chị Ba (3),

Đức (14),

anh Tám

(12), chú

Năm (3),

thằng cha

Bảy Lù (1),

đồng chí

Thanh (11).

Anh

Hoàng (54),

Bác sĩ (32),thủ

Đồng chí

Con nhỏ

Chỉ còn

(129), chị

chị Út

trưởng (23),

(102), ông

(12), chân

một lần

156), ông

(12),đồng

đồng chí phó

chủ (23),

dài ngực

175

Các từ xưng hô khác được dùng trong NNNV (số lần)

Tên

Các danh

Các từ chỉ

Các từ

Các từ chỉ

Các từ chỉ chức

Các từ chỉ

truyện

từ thân

quan hệ

chuyển

tên riêng

vụ, nghề nghiệp

nơi chốn

tộc

xã hội

hóa

ta (34),

chí Hoàng

giám đốc (3), sếp

bà chủ

nhọn (1),

mẹ (65),

(28), cô Út

(45), đồng chí

(1), bạn

tráng sĩ

con (34),

(54), chú

đại úy (6), thủ

(34).

cướp tù

cháu (86),

Hoàng (12),

trưởng (6), thầy

(1), con

bác (34),

Cầu (4), chị

(12), đồng chí

quỷ cái

hai má

Bảy Thu

thượng tá (2).

hiện hình

người (1),

con (8),

(3), anh Sáu

thí chủ

chị em

(23), anh

(6), con

(7), ông

Bảy Ngạch

bé (3), cô

(34),ông

(1), Tư

em đỏng

già (12),

Chao (5),

đảnh (1),

bà già (8),

thằng Cầu

con nhỏ

chú

(2), ni cô

quân báo

(87),ba

Đàm Chao

(1).

(97), cụ

(4), Lan

(21), anh

Thanh (12),

(102), em

Tuyến (1),

(124), cậu

cậu Hai (2),

(86), bả

cô Ba (4),

(23),

Tũm (12),

thằng em

chị Mười

(2), chú

(3), Sáu

em (20).

Nguyện

(12), anh

Nguyên (2),

vợ chồng ca

sĩ Mai Linh

(1), chú Bảy

(12).

Tổng

9288/13351

2040/13351

921/13351

856/13351

234/13351

02/13351

(69,5%)

(15,2%)

(6,8%)

(6,4%)

(1,7%)

(0,08%)