BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH NGUYỄN THỊ THÁI ĐẶC ĐIỂM NGÔN NGỮ NHÂN VẬT
TRONG TIỂU THUYẾT CHU LAI
LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN NGHỆ AN - 2015
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH NGUYỄN THỊ THÁI ĐẶC ĐIỂM NGÔN NGỮ NHÂN VẬT
TRONG TIỂU THUYẾT CHU LAI
CHUYÊN NGÀNH: LÍ LUẬN NGÔN NGỮ
MÃ SỐ: 62 22 01 01 LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN
Người hướng dẫn khoa học:
PGS. TS. PHAN MẬU CẢNH TS. NGUYỄN HOÀI NGUYÊN NGHỆ AN - 2015
i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu nêu trong luận án là trung thực. Những kết luận khoa học của luận án
chƣa từng đƣợc ai công bố trong bất kì công trình nào khác.
Tác giả luận án
Nguyễn Thị Thái
ii
MỤC LỤC
Trang
LỜI CAM ĐOAN .......................................................................................... i
MỤC LỤC CÁC BẢNG BIỂU THỐNG KÊ .............................................. v
MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài ..................................................................................... 1
2. Lịch sử vấn đề ......................................................................................... 3
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ........................................................ 10
4. Đối tượng, phạm vi và nguồn tư liệu của luận án .................................. 11
5. Phương pháp nghiên cứu ....................................................................... 12
6. Đóng góp mới của luận án .................................................................... 13
7. Cấu trúc của luận án .............................................................................. 13
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ THUYẾT LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI ........ 14
1.1. Lí thuyết về hội thoại ......................................................................... 14
1.1.1. Khái niệm hội thoại ................................................................... 14
1.1.2. Vận động hội thoại .................................................................... 15
1.1.3. Các dạng thức hội thoại ............................................................. 19
1.1.4. Ngôn ngữ hội thoại .................................................................... 24
1.2. Tác phẩm văn học, nhân vật văn học .................................................. 25
1.2.1. Tác phẩm văn học ...................................................................... 25
1.2.2. Nhân vật văn học ....................................................................... 26
1.3. Giới thiệu tác giả và tác phẩm Chu Lai .............................................. 32
1.3.1. Nhà văn Chu Lai ........................................................................ 32
1.3.2. Các tác phẩm của Chu Lai ......................................................... 33
1.3.3. Hệ thống nhân vật trong tiểu thuyết của Chu Lai ....................... 37
1.4. Ngôn ngữ nhân vật và từ ngữ lời thoại nhân vật trong tác phẩm
của Chu Lai ............................................................................................... 40
1.5. Tiểu kết .............................................................................................. 45
iii
Chương 2. ĐẶC ĐIỂM NGÔN NGỮ NHÂN VẬT TRONG TIỂU THUYẾT
CHU LAI QUA TỪ NGỮ XƯNG HÔ ........................................................... 46
2.1. Một số vấn đề chung về từ ngữ xưng hô trong tiếng Việt ................... 46
2.1.1. Khái niệm từ xưng hô trong tiếng Việt ...................................... 46
2.1.2. Chức năng của từ xưng hô trong tiếng Việt................................ 47
2.2. Các loại từ ngữ xưng hô trong ngôn ngữ nhân vật của tiểu thuyết
Chu Lai ..................................................................................................... 48
2.2.1. Từ xưng hô là đại từ .................................................................. 48
2.2.2. Từ xưng hô có nguồn gốc danh từ thân tộc và các danh từ khác .... 57
2.3. Từ xưng hô và các kiểu nhân vật trong tiểu thuyết Chu Lai................ 75
2.3.1. Mối quan hệ giữa xưng hô và kiểu nhân vật .............................. 75
2.3.2. Từ xưng hô của một số kiểu nhân vật trong tác phẩm của
Chu Lai ...................................................................................... 77
2.4. Vai trò của từ xưng hô trong việc hình thành đặc trưng ngôn ngữ
nhân vật của tiểu thuyết Chu Lai ............................................................... 88
2.4.1. Từ xưng hô góp phần bộc lộ đặc điểm, tính cách, hoàn cảnh...
của nhân vật trong tác phẩm ..................................................... 88
2.4.2. Vai trò của từ xưng hô trong việc khắc họa đặc điểm
ngôn ngữ nhân vật trong tiểu thuyết Chu Lai ............................ 91
2.5. Tiểu kết .............................................................................................. 95
Chương 3. ĐẶC ĐIỂM NGÔN NGỮ NHÂN VẬT TRONG TIỂU THUYẾT
CHU LAI QUA TỪ THÔNG TỤC, QUÁN NGỮ VÀ THÀNH NGỮ............. 97
3.1. Từ thông tục ....................................................................................... 97
3.1.1. Khái niệm .................................................................................. 97
3.1.2. Từ thông tục trong lời thoại nhân vật ......................................... 98
3.1.3. Vai trò của từ thông tục trong ngôn ngữ nhân vật của tiểu
thuyết Chu Lai ......................................................................... 125
iv
3.1.4. Một vài so sánh bước đầu từ thông tục trong ngôn ngữ nhân
vật của tiểu thuyết Chu Lai với từ thông tục trong ngôn ngữ
nhân vật của một số nhà văn khác... ........................................ 128
3.2. Hệ thống quán ngữ trong ngôn ngữ nhân vật của tiểu thuyết Chu Lai .. 131
3.2.1. Vài nét về quán ngữ ................................................................. 131
3.2.2. Vai trò của quán ngữ qua các lời thoại nhân vật trong tiểu thuyết
của Chu Lai ............................................................................. 131
3.3. Các loại thành ngữ trong ngôn ngữ nhân vật của tiểu thuyết Chu Lai .. 133
3.3.1. Vài nét về thành ngữ tiếng Việt .............................................. 133
3.3.2. Vai trò của việc sử dụng các thành ngữ qua lời thoại nhân vật
trong tiểu thuyết Chu Lai ......................................................... 134
3.4. Tiểu kết ............................................................................................ 140
KẾT LUẬN ............................................................................................... 141
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CÔNG BỐ CÓ LIÊN QUAN
ĐẾN LUẬN ÁN ........................................................................................ 144
TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................ 145
TÁC PHẨM TRÍCH DẪN LÀM DẪN CHỨNG .................................... 157
PHẦN PHỤ LỤC ...................................................................................... 159
v
MỤC LỤC CÁC BẢNG BIỂU THỐNG KÊ
Trang
Bảng 1.1. Thống kê số lượng nhân vật chia theo giới tính và nghề nghiệp
chức vụ trong 10 cuốn tiểu thuyết của nhà văn Chu Lai ............. 39
Bảng 2.1. Bảng thống kê tần số sử dụng ĐTNX trong lời thoại nhân vật
của tiểu thuyết Chu Lai .............................................................. 49
Bảng 2.2. Số lượng và tần số xuất hiện các từ xưng hô có nguồn gốc từ
danh từ thân tộc và các danh từ khác của nhân vật trong tiểu
thuyết Chu Lai ........................................................................... 58
1
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. “Ngôn ngữ là phƣơng tiện giao tiếp trọng yếu nhất của con ngƣời”
(V.I Lênin). Giao tiếp bằng ngôn ngữ được chia thành hai phong cách: phong
cách nói (phong cách khẩu ngữ) và phong cách viết (phong cách sách vở).
Tác phẩm văn học là sản phẩm giao tiếp thuộc phong cách viết nhưng có tính
tích hợp cả hai phong cách (nói và viết) thành một dạng giao tiếp đặc thù:
giao tiếp nghệ thuật.
Văn học là tấm gương phản ánh đời sống xã hội. Ngôn ngữ trong tác
phẩm văn học, do vậy, thể hiện một cách sinh động hoạt động giao tiếp của con
người trong xã hội thông qua sự sáng tạo của nhà văn. Ở góc độ nghiên cứu,
ngôn ngữ học hiện đại đang chuyển sang một hướng tiếp cận mới là tìm hiểu sự
hành chức của ngôn ngữ trong cuộc sống và cuộc sống trong ngôn ngữ. Vì vậy,
việc khảo sát tìm hiểu ngôn ngữ trong tác phẩm văn học là một cách tiếp cận
phù hợp với xu hướng nghiên cứu mới cả về phương diện lí luận chung (đặc
điểm, vai trò, cơ chế hành chức của ngôn ngữ trong giao tiếp nói chung, giao
tiếp nghệ thuật nói riêng) và phương diện cụ thể (đặc điểm, vai trò, các quy
tắc hoạt động của ngôn ngữ trong tác phẩm văn học).
1.2. Các tác phẩm văn học Việt Nam sau 1975 đến nay, trong đó có thể
loại tiểu thuyết, đã góp phần không nhỏ trong việc tạo nên bản sắc, diện mạo
riêng cho thời kỳ văn học sau chiến tranh. Sự đổi mới về đề tài, cách miêu tả
hiện thực, quan niệm nghệ thuật về con người, đặc biệt là phong cách ngôn từ
thể hiện rất rõ trong các tác phẩm văn học thời kì này. Trong số các nhà văn có
nhiều tác phẩm thành công, tạo ra phong cách, giọng điệu riêng, người đầu tiên
và tiêu biểu nhất phải kể đến là nhà văn Chu Lai. Các tác phẩm của nhà văn đã
phản ánh được nhiều vấn đề nóng bỏng hiện nay về hiện thực xã hội; các nhân
vật trong tác phẩm của Chu Lai được mô tả là người lính vừa mang cốt cách
2
anh hùng trận mạc (thời chiến) vừa mang đặc điểm của con người sống trong
nhiều áp lực, thử thách của quãng đời phía sau chiến trận (thời bình). Ngôn ngữ
trong tiểu thuyết Chu Lai, đặc biệt là ngôn ngữ nhân vật, có nhiều đặc thù đáng
được quan tâm “có những trang hấp dẫn, ngƣời đọc đã cầm đến sách là phải
theo đuổi câu chuyện đến cùng...” [34, tr.9]. “Dấu vết thời đại đã ảnh hƣởng và
quy định cách nói năng, đối đáp, nhiều lớp từ mới đƣợc hình thành, quan niệm
về lời nói cũng đƣợc bổ sung những sắc thái biểu cảm mới. Ngôn ngữ tiểu
thuyết gần với ngôn ngữ đời thƣờng, giàu tính khẩu ngữ. Ngôn ngữ trong các
tiểu thuyết biểu hiện sự cá tính hoá mạnh mẽ, tính cách nào, lời lẽ ấy. Cách nói
trần trụi dân dã, thẳng thắn, bạo dạn” [34, tr.16] của các nhân vật là những
điểm nổi trội trong tác phẩm của Chu Lai.
Vì vậy, ở phương diện ngôn ngữ, tiểu thuyết Chu Lai có thể gợi mở
nhiều vấn đề mà ngôn ngữ học đang quan tâm, nhất là ở khía cạnh sự hành
chức của ngôn ngữ trong giao tiếp nghệ thuật, như: đặc điểm, vai trò của từ
ngữ trong tổ chức lời thoại; sự hành chức của ngôn từ thể hiện trong ngôn ngữ
nhân vật; ngôn ngữ đã thực hiện chức năng phản ánh và chức năng tổ chức
phát ngôn, thể hiện phong cách, giọng điệu tác phẩm và tác giả như thế nào…
1.3. Nghiên cứu ngôn ngữ trong tác phẩm văn học nói chung, nghiên
cứu ngôn ngữ hội thoại của nhân vật trong tiểu thuyết Chu Lai nói riêng,
không chỉ có ý nghĩa về mặt lí luận (góp phần xác định về phong cách giao
tiếp, phong cách ngôn ngữ nghệ thuật, ngôn ngữ nhân vật, các quy tắc giao
tiếp) mà còn có ý nghĩa đóng góp vào thực tiễn (cung cấp nguồn ngữ liệu để
làm rõ sự hành chức của ngôn từ trong giao tiếp nghệ thuật), cũng như tính
ứng dụng thực hành của đề tài (góp phần vào việc giảng dạy tác giả, tác
phẩm; phong cách ngôn ngữ nghệ thuật; diễn ngôn và phân tích diễn ngôn
trong nhà trường).
Từ những căn cứ lí luận và thực tiễn trên đây, chúng tôi lựa chọn đề tài
luận án: Đặc điểm ngôn ngữ nhân vật trong tiểu thuyết Chu Lai.
3
2. Lịch sử vấn đề
2.1. Những hướng nghiên cứu về ngôn ngữ trong giao tiếp và hội thoại
Việc nghiên cứu các vấn đề liên quan đến ngôn ngữ trong hoạt động
giao tiếp đã trở thành một trong những hướng được chú ý của ngôn ngữ học
hiện đại. Những kết quả nghiên cứu ở lĩnh vực này thể hiện rõ trong các công
trình của các nhà ngôn ngữ học trên thế giới, bắt đầu từ luận điểm quan trọng
bậc nhất của F.de Saussure trong cuốn Giáo trình ngôn ngữ học đại cƣơng
(1916) và sau đó được các nhà ngôn ngữ học khai thác theo những hướng
khác nhau. Có thể kể đến những hướng nghiên cứu chính, như: nghiên cứu về
dụng học - Pragmatics (J.L. Austin, 1965; Ch.W. Morris, 1966; J.R. Searle,
1969); hướng nghiên cứu về Ngôn ngữ học xã hội - Socio- Linguistics
(Nikolski, 1920; E.d Sapir, O.Jesperson, 1922...); hướng nghiên cứu về Ngôn
ngữ học văn bản - Text Linguistics (L.Bloomfield (1926), E.Benveniste
(1960), A.Reformatxky (1967), v.v…
Ở hướng nghiên cứu dụng học, các nhà ngôn ngữ học xác định có 4 vấn
đề: sự chiếu vật và chỉ xuất, nghĩa tường minh và hàm ẩn, các hành động ngôn
ngữ và lý thuyết hội thoại. Trong các vấn đề đó, lí thuyết hội thoại (bàn về lĩnh
vực giao tiếp đối thoại) được xem là vấn đề trọng tâm. Theo M. Bakhtin,
“Ngôn ngữ chỉ sống trong sự giao tiếp đối thoại giữa những ngƣời sử dụng
ngôn ngữ. Sự giao tiếp đối thoại chính là lĩnh vực đích thực của cuộc sống của
ngôn ngữ. Toàn bộ cuộc sống của ngôn ngữ, trong bất kì lĩnh vực nào sử dụng
nó (sinh hoạt, sự vụ, khoa học, nghệ thuật v.v...) đều thấm nhuần những quan
hệ đối thoại...” [2, tr.172). Nghiên cứu ngôn ngữ hội thoại nói chung, ngôn ngữ
nhân vật nói riêng “không thể tách nó ra khỏi lĩnh vực lời nói, tức khỏi ngôn
ngữ với tƣ cách là một hiện tƣợng toàn vẹn cụ thể” [2, tr.172].
Tiếp thu và phát triển quan điểm và kết quả của ngôn ngữ học thế giới,
các nhà ngôn ngữ học Việt Nam đã có nhiều công trình nghiên cứu về lĩnh
vực ngữ dụng học, ngôn ngữ học xã hội, ngôn ngữ học văn bản đề cập đến sự
4
hành chức của ngôn ngữ trong giao tiếp [thể hiện trong các tài liệu: 6, 20, 23,
47, 54, 70, 93, 105]. Riêng về vấn đề ngôn ngữ hội thoại, ngôn ngữ nhân vật,
các hành động ngôn ngữ, đã có nhiều công trình nghiên cứu ở các quy mô
khác nhau (chuyên luận, giáo trình, luận án, luận văn, bài báo) đề cập đến ở
những mức độ khác nhau (từ những vấn đề lí luận, các nguyên lí, khái niệm
đến thống kê, miêu tả, phân tích các đặc trưng, cách thức hoạt động của các
đơn vị trong hoạt động giao tiếp cụ thể từ tiếng Việt).
Trong các công trình trên, các tác giả đã nêu lí thuyết hội thoại, nhận
xét đánh giá về đặc điểm của hội thoại, các phương diện của hội thoại. Bàn
về hội thoại và vai trò của nó trong nghiên cứu, Đỗ Hữu Châu nhấn
mạnh:“Hội thoại là hoạt động giao tiếp căn bản, thƣờng xuyên, phổ biến
của sự hành chức ngôn ngữ. Các hình thức hành chức khác của ngôn ngữ
đều đƣợc giải thích dựa vào hoạt động căn bản này... Vấn đề phải nghiên
cứu sự hành chức của những cặp trả lời nhƣ cặp hỏi/trả lời theo một quan
điểm hội thoại, tức trong sự đối đáp của các nhân vật giao tiếp trong một
hoàn cảnh nhất định ” [20, tr.276, 267]. Nhiều công trình bàn về các lĩnh
vực của hội thoại, như: Về ngữ nghĩa của lời (Hoàng Phê, 1981); Phân tích
các nhân tố trong hội thoại (Nguyễn Thiện Giáp, 1999), Ngữ nghĩa lời hội
thoại (Đỗ Thị Kim Liên, 1999), v.v... Một số công trình bàn sâu về hội thoại,
miêu tả, phân tích các nhân tố của hội thoại, vai trò chức năng của các lời
thoại trong giao tiếp ngôn ngữ ở các ngữ cảnh. Trong đó có những công
trình nghiên cứu chuyên sâu về ngôn ngữ hội thoại trong các ngữ cảnh giao
tiếp. Chẳng hạn, phân tích về vai trò của từ trong hoạt động giao tiếp (Bùi
Minh Toán, 1999); bàn về vai xã hội và ứng xử trong giao tiếp (Nguyễn Như
Ý, 1990); phân tích đặc điểm của khẩu ngữ tiếng Việt và rèn luyện kỹ năng
giao tiếp (Nguyễn Chí Hòa, 2009); về từ xƣng hô trong gia đình đến ngoài
xã hội của ngƣời Việt (Bùi Minh Yến, 2001)...
5
2.2. Những hướng nghiên cứu ngôn ngữ và ngôn ngữ nhân vật trong
tác phẩm văn học
Cùng với việc nghiên cứu ngôn ngữ trong các bối cảnh giao tiếp, là
những công trình bàn về ngôn ngữ và ngôn ngữ trong giao tiếp nghệ thuật
nói chung, trong tác phẩm văn học nói riêng. Để xác định ngôn ngữ trong tác
phẩm văn học, người ta làm rõ mối quan hệ giữa ngôn ngữ phong cách viết
và phong cách nói: “...Ngay trong phong cách nói cũng có sự phân biệt giữa
lời nói đƣợc chọn lọc, trau giồi (ví dụ nhƣ lời diễn giảng, thuyết trình, lời
phát biểu chính thức có chuẩn bị sẵn...) với lời nói chƣa đƣợc chọn lọc kĩ và
trau giồi cẩn thận (ví dụ nhƣ trong nói năng thân mật thông thƣờng hàng
ngày, thậm chí có thể chấp nhận cả tính chất thông tục trong đó). Loại thứ
nhất ở đây nhích gần về phía ngôn ngữ thuộc phong cách viết hơn, còn loại
thứ hai, từ bản chất của nó, đƣợc gọi đích danh là khẩu ngữ - một tên gọi
mà tuy không nói ra một cách hiển minh, nhƣng ít nhiều bên trong, ngƣời ta
có ý phân biệt nó với ngôn ngữ nói, nói chung. Nhƣ thế, có thể nhận ra
trong từ vựng ba lớp từ mang đặc điểm của ba phong cách: lớp từ khẩu ngữ,
lớp từ ngữ thuộc phong cách viết, và cuối cùng là lớp từ ngữ trung tính
(hoặc còn gọi: trung hoà về phong cách) có thể dùng trong mọi phong cách
khác nhau” [29, tr.23]. Bàn về phong cách ngôn ngữ trong tác phẩm văn
học, các tác giả cho rằng ngôn ngữ trong tác phẩm văn học cũng có những
yếu tố mang phong cách khẩu ngữ theo lối “mô phỏng ngôn ngữ tự nhiên”.
Điều đó được thể hiện trong lời thoại nhân vật: “Lời đối thoại giữa các nhân
vật là một thành phần chủ yếu trong kết cấu lời nói của tác phẩm tự sự.
Chức năng chủ yếu của đối thoại không chỉ mang tính chất miêu tả hay
chuyển dẫn, trình bày sự kiện mà còn là bộc lộ tính cách, tâm lí của nhân
vật và quan điểm tƣ tƣởng” [68, tr.194].
Hội thoại là hình thức giao tiếp thường xuyên, phổ biến và liên tục của
cuộc sống hàng ngày. Gần đây, dựa vào lí thuyết hội thoại mà nhiều tác giả đề
6
cập đến nghệ thuật giao tiếp, như: Giao tiếp bất kì ai của Jo Condrill - Bennie
Bough (2001), Ngữ cảnh và giao tiếp, Phân tích hội thoại của Nguyễn Thiện
Giáp (1999)... Sự phát triển này cho thấy mảnh đất hội thoại ngày càng màu
mỡ được nhiều nhà nghiên cứu khám phá. Trong các văn bản văn học nhất là
thể loại tự sự, hội thoại góp phần thể hiện phẩm chất nhân vật, tình cảm và tư
tưởng của nhà văn tác động đến bạn đọc sâu sắc.
Nhiều bài viết, luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ cũng đã tìm hiểu các
phương diện khác nhau liên quan đến ngôn ngữ nhân vật trong tác phẩm văn
học. Chẳng hạn, Ngôn ngữ tác giả trong truyện Nguyễn Tuân (Đặng Lưu,
2006), Khảo sát ngôn ngữ hội thoại của nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn
Huy Thiệp (Lê Thị Trang, 2002); Hội thoại trong truyện ngắn Nam Cao (Mai
Thị Hảo Yến, 2006); Lời độc thoại nội tâm nhân vật trong truyện ngắn
Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Thị Thu Huệ (Lê Thị Sao
Chi, 2010), v.v...
Qua những công trình đã kể một cách rất khái quát và có tính đại
diện trên, phần nào ta có thể hình dung được vấn đề ngôn ngữ trong giao
tiếp, hội thoại, ngôn ngữ tác giả, ngôn ngữ nhân vật trong tác phẩm... đã
được nêu ra và bàn luận về mặt lí thuyết và phân tích miêu tả về mặt thực
tiễn từ nhiều góc độ và thu được nhiều kết quả rất có ý nghĩa, làm cơ sở
cho những hướng nghiên cứu đầy triển vọng về sự hành chức của ngôn ngữ
trong giao tiếp xã hội.
2.3. Những công trình viết về tác phẩm của Chu Lai từ góc độ văn
học và ngôn ngữ học
2.3.1. Nghiên cứu tác phẩm của Chu Lai từ góc độ phê bình văn học
Khi nghiên cứu, đánh giá về tác phẩm Chu Lai, nhìn chung, các nhà
nghiên cứu phê bình khẳng định thành công của Chu Lai là ở đề tài chiến
tranh với hình tượng trung tâm là người lính. Chiến tranh và người lính trong
sáng tác của Chu Lai được phản ánh dưới nhiều góc độ khác nhau chủ yếu
7
bằng cái nhìn sử thi và thế sự. Điều đáng chú ý là cách xây dựng nhân vật
trong sáng tác của Chu Lai được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm. Bùi Việt
Thắng viết: “Nhân vật Chu Lai đƣợc thể hiện nhƣ những con ngƣời tâm linh.
Họ sống bởi những ám ảnh của ảo giác, hối thúc bởi sự sám hối, luôn tìm
kiếm sự giải thoát. Đó là những con ngƣời trở về sau chiến tranh bị mất
thăng bằng, khó tìm đƣợc sự yên ổn trong tâm hồn. Họ sống trong cảm giác
không bình yên... Chu Lai làm ngƣời đọc bất ngờ vì những khám phá nghệ
thuật của mình: Nhân vật Chu Lai thƣờng tự soi tỏ mình, khám phá mình,
khám phá một bản ngã hay là một con ngƣời trong con ngƣời” [124, tr.104].
Hồng Diệu nhận xét: “Chu Lai là nhà văn thuỷ chung với đề tài chiến tranh,
anh có nhiều tác phẩm viết về đề tài ngƣời lính trên cả ba mặt trận: Văn học -
Sân khấu - Điện ảnh” [34, tr.6]. Trần Quốc Huấn trong Ngƣời chiến sĩ viết
văn hôm nay - đội ngũ kế tục những nhà văn chiến sĩ, khẳng định phẩm chất
của người lính trong chiến tranh: “Trong truyện Chu Lai, cái vốn tri thức văn
hóa, trí tuệ sáng suốt của ngƣời lính trẻ đã thấm nhuyễn một cách tự nhiên
vào từng chi tiết nhỏ của truyện, trong từng phán đoán nhạy bén, quả quyết,
để dẫn tới chiến thắng cuối cùng ở nhân vật” [65, tr.33]. Viết về người lính
sau hoà bình trong tiểu thuyết chiến tranh thời kỳ đổi mới, Nguyễn Hương
Giang cho rằng: “Sự thật về chiến tranh hôm nay đƣợc nhìn lại là một sự thật
đã trải qua những năm tháng day dứt, trăn trở trong tâm hồn nhà văn Chu
Lai, hơn thế, nó thực sự là những nếm trải của ngƣời “chịu trận”, “ngƣời
trong cuộc” [45, tr.20]. Lý Hoài Thu cũng khẳng định: “Dù trực tiếp viết về dĩ
vãng mịt mù bom đạn hay chuyển dịch sang tiếp cận những “kênh” thông tin
mới xô bồ của thời hiện tại, bao giờ Chu Lai cũng nghiền ngẫm suy tƣ về hiện
thực với sự nhiệt tâm và lòng trung thực của ngƣời lính... Nếu nhƣ trƣớc kia,
các nhân vật của anh đƣợc mô tả chủ yếu ở cốt cách anh hùng trận mạc thì
hiện nay (...) Chu Lai tập trung khai thác quãng đời thứ hai: quãng đời phía
sau chiến trận của ngƣời lính” [125, tr.63].
8
2.3.2. Nghiên cứu tác phẩm của nhà văn Chu Lai từ góc độ thi pháp
học và ngôn ngữ học
Đánh giá về phương diện nghệ thuật của tiểu thuyết Chu Lai, Phan Cự
Đệ trong Tiểu thuyết Việt Nam những năm đầu thời kỳ đổi mới cho rằng, tiểu
thuyết Chu Lai “không chỉ đa dạng trong các phƣơng thức tiếp cận mà cả
trong các biện pháp nghệ thuật, kết hợp độc thoại nội tâm, “dòng ý thức”,
nghệ thuật đồng hiện và có những thành công nhất định” [41, tr.18]. Về tiểu
thuyết Vòng tròn bội bạc, Hồng Diệu đánh giá cao nghệ thuật xây dựng nhân
vật, cách tạo tình huống, những xung đột, đặc biệt là cách nhìn khá mạnh dạn
của Chu Lai, “có những trang hấp dẫn, ngƣời đọc đã cầm đến sách là phải
theo đuổi câu chuyện đến cùng” [33, tr.9].
Xuân Trường nhận xét về nghệ thuật và ngôn ngữ trong tiểu thuyết
Ăn mày dĩ vãng qua Một vài cảm nhận sau khi đọc “Ăn mày dĩ vãng”, báo
Văn nghệ số 26/1993: “Có thể gọi tác phẩm này đầy chất lính, giọng văn
băm bổ, sôi động, các thứ tình cảm, suy tƣ đều đẩy đến tận cùng. Cốt truyện
có pha chút ly kỳ bí hiểm kiểu kiếm hiệp, đọc rất cuốn hút. Có những chƣơng,
những đoạn anh viết về chiến tranh hết sức sinh động, nếu không là ngƣời
trong cuộc, không dựng lại đƣợc không khí một địa bàn chiến đấu khá đặc
biệt này... Ăn mày dĩ vãng còn có chỗ chƣa hoàn mỹ. Chính cái giọng văn
băm bổ sôi động ấy, chính cái cách đẩy tình cảm, tƣ duy đến tận cùng ấy tạo
ra mặt trái khác bởi tính thái quá. Đấy là sự cƣờng điệu trong xử lý tình tiết,
sự lộng ngôn trong câu văn. Và cũng vì say sƣa với cốt truyện, tác giả đã
thiếu chặt chẽ trong lý giải tính cách nhân vật của mình. Từ bỏ quá khứ với
một ngƣời đàn bà dũng cảm, trung hậu nhƣ Ba Sƣơng, quả thật không phải
là điều quá dễ dàng. Dù sao đây cũng là cuốn tiểu thuyết sáng giá về chiến
tranh và ngƣời lính; với tầm tƣ tƣởng đúng đắn, trong sáng rất đáng trân
trọng, khích lệ” [tr.34].
9
Chu Bích Thu trong bài viết Những nỗ lực sáng tạo của tiểu thuyết Việt
Nam từ sau đổi mới đề cập đến một khía cạnh của thi pháp và ngôn ngữ trong
tiểu thuyết sau 1975 và trong tiểu thuyết Chu Lai: “Nhiều tiểu thuyết sau những
năm đổi mới đến nay đã sử dụng mô típ giấc mơ, giấc mơ chiêm bao nhƣ một
ngôn ngữ độc thoại đặc biệt để giải mã thế giới vô thức của con ngƣời. Thủ
pháp này thể hiện rõ trong các tiểu thuyết Thân phận của tình yêu (Bảo Ninh),
Ăn mày dĩ vãng (Chu Lai)” [tr.590]. Tác giả đã lưu ý đến một đặc điểm của
ngôn ngữ tiểu thuyết sau năm 1975: “Dấu vết thời đại đã ảnh hƣởng và quy
định cách nói năng, đối đáp, nhiều lớp từ mới đƣợc hình thành, quan niệm về
lời nói cũng đƣợc bổ sung những sắc thái biểu cảm mới. Ngôn ngữ tiểu thuyết
gần với ngôn ngữ đời thƣờng, giàu khẩu ngữ (...). Ngôn ngữ trong các tiểu
thuyết biểu hiện sự cá tính hoá mạnh mẽ, tính cách nào, lời lẽ ấy. Cách nói
trần trụi dân dã của ngƣời lính (Ăn mày dĩ vãng), cách nói thẳng thắn bạo dạn
của cánh nhà báo (Dấn thân, Một ngày và một đời)” [tr. 588, 589].
Nhiều ý kiến đi sâu vào phân tích riêng từng tác phẩm. Ở Cuộc trao
đổi về tiểu thuyết Ăn mày dĩ vãng in trên báo Văn nghệ số 39/1992 xuất
hiện những luồng ý kiến khác nhau, song chủ yếu vẫn là khen ngợi, đó là:
“Chu Lai đã “nhử” đƣợc ngƣời đọc bởi một cốt truyện li kì” (Cao Tiến Lê),
“Trên từng trang viết lộ rõ tâm huyết của tác giả tuy có khi tƣ tƣởng mới
chỉ dừng lại ở những câu triết lý” (Thiếu Mai). Trong bài viết Cuộc tìm tòi
về tiểu thuyết, tác giả Đỗ Văn Khang đã đề cập đến nghệ thuật xây dựng
nhân vật: “Lối chạm khắc nhân vật trong Ăn mày dĩ vãng cũng có nhiều
đóng góp mới. Ngày trƣớc nhân vật thƣờng mang một ý nghĩa phổ quát,
tức là có cái gì đó chung cho cả lớp ngƣời..., còn Hai Hùng của Chu Lai có
số phận đƣợc miêu tả nhƣ một yếu tố cá biệt độc nhất nhƣng vẫn mang tính
điển hình. Nhân vật Hai Hùng của Chu Lai tàn tạ về thân xác, nhƣng vạm
vỡ về tâm hồn. Hai Hùng có bộ khung “xuống cấp” vì thƣơng tật, vì sự hủy
10
hoại của mọi thứ vớ vẩn thời hậu chiến, nhƣng vẫn nhất quán một bản lĩnh,
một kiểu xông pha gần nhƣ bạt mạng vì không chịu chấp nhận một cái gì
lập lờ tráo trở” [tr.5].
Tác giả Hồng Diệu trong Vấn đề của tiểu thuyết Vòng tròn bội bạc viết:
“Với nghệ thuật xây dựng nhân vật, cách tạo tình huống, những xung đột, đặc
biệt là cách nhìn khá mạnh dạn, Chu Lai có những trang hấp dẫn, ngƣời đọc
đã cầm đến sách là phải theo đuổi câu chuyện đến cùng” [33, tr.41].
Từ góc độ nghiên cứu ngôn ngữ học, gần đây, một số luận án tiến sĩ,
luận văn thạc sĩ cũng đã đề cập một số đặc điểm ngôn ngữ tác phẩm, ngôn
ngữ nhân vật trong các truyện ngắn và tiểu thuyết của nhà văn Chu Lai.
Chẳng hạn như: Hành động trần thuật qua lời thoại nhân vật trong truyện
ngắn Nguyễn Minh Châu, Chu Lai, Lê Lựu (Cao Xuân Hải, Luận án Tiến sĩ,
2010), Sự thể hiện ngƣời lính thời hậu chiến trong tiểu thuyết của Chu Lai
(Lê Thị Luyến, Luận văn Thạc sĩ, 2006), Đặc điểm ngôn ngữ truyện ngắn
Chu Lai (Nguyễn Thúy Huệ, Luận văn Thạc sĩ, 2007),v.v...
Như vậy, có thể nói các công trình nghiên cứu về tác phẩm của Chu Lai
đã được nhiều tác giả quan tâm và thu được một số kết quả bước đầu nhưng
còn nhiều vấn đề cần được tiếp tục tìm hiểu, nhất là từ góc độ ngôn ngữ học.
Các kết quả của người đi trước là những gợi ý, nguồn ngữ liệu quan trọng
giúp chúng tôi đi sâu tìm hiểu, nghiên cứu đặc điểm ngôn ngữ nhân vật trong
tiểu thuyết Chu Lai.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
- Đề tài nhằm làm sáng tỏ một số đặc điểm và vai trò nổi bật của ngôn
ngữ nhân vật từ phương diện từ ngữ trong tiểu thuyết Chu Lai.
- Qua những kết quả phân tích và tổng hợp, đề tài nhằm làm rõ đặc
điểm ngôn ngữ nhân vật và phong cách ngôn ngữ của tác phẩm văn học thể
hiện trong tiểu thuyết Chu Lai.
11
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được các mục đích trên, nhiệm vụ nghiên cứu của luận án được
xác định là:
- Tổng hợp những vấn đề lý luận chung liên quan đến đề tài, như: lý
thuyết hội thoại, nhân vật và ngôn ngữ nhân vật, vai trò của từ ngữ trong tác
phẩm, tác giả và tác phẩm và các vấn đề liên quan khác.
- Khảo sát, thống kê nguồn ngữ liệu liên quan đến ngôn ngữ hội thoại,
các lời thoại trong tiểu thuyết của Chu Lai.
- Miêu tả, phân tích, nêu vai trò của các lớp từ ngữ tiêu biểu trong việc
thể hiện đặc điểm ngôn ngữ nhân vật trong tiểu thuyết Chu Lai.
- Tổng hợp, rút ra những đặc điểm nổi trội về sự hành chức của các
lớp từ ngữ trong các lời thoại nhân vật và đặc điểm ngôn ngữ nhân vật trong
các tác phẩm khảo sát, từ đó góp phần làm rõ phong cách ngôn ngữ của nhà
văn Chu Lai.
4. Đối tượng, phạm vi và nguồn tư liệu của luận án
4.1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là khảo sát, làm rõ đặc điểm ngôn
ngữ nhân vật trong tiểu thuyết Chu Lai, nhưng ngôn ngữ nhân vật – xét từ
quan điểm tiếp cận của ngôn ngữ học - là một phạm trù rộng, có nhiều
phương diện (ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp, văn bản) và được xem xét từ nhiều
góc độ (cấu trúc, ngữ nghĩa, phong cách, ngữ dụng). Trong khuôn khổ của
luận án, chúng tôi giới hạn đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài ở việc
tìm hiểu hệ thống từ ngữ thể hiện qua lời thoại nhân vật trong tiểu thuyết của
nhà văn Chu Lai từ góc độ ngữ dụng.
4.2. Nguồn tư liệu khảo sát của luận án
Luận án khảo sát từ ngữ qua lời thoại nhân vật trong tiểu thuyết của
Chu Lai, gồm các tác phẩm:
12
1. Chu Lai (1979), Nắng đồng bằng, Nxb Quân đội nhân dân, Số trang: 351.
2. Chu Lai (1985), Gió không thổi từ biển, Nxb Phụ nữ, Số trang: 186.
3. Chu Lai (1990), Vòng tròn bội bạc, Nxb Thanh niên, Số trang: 351.
4. Chu Lai (1990), Bãi bờ hoang lạnh, Nxb Phụ nữ, Số trang: 210.
5. Chu Lai (1994), Ăn mày dĩ vãng, Nxb Hội Nhà văn, Số trang: 339.
6. Chu Lai (1999), Phố, Nxb Văn học, Số trang: 339.
7. Chu Lai (2000), Ba lần và một lần, Nxb Quân đội nhân dân, Số
trang: 343.
8. Chu Lai (2002), Cuộc đời dài lắm, Nxb Quân đội nhân dân, Số trang: 510.
9. Chu Lai (2002), Sông xa, Nxb Quân đội nhân dân, Số trang: 510.
10. Chu Lai (2002), Chỉ còn một lần, Nxb Quân đội nhân dân, Số
trang: 510.
5. Phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp thống kê - phân loại
Phương pháp này được dùng để thống kê các lời thoại nhân vật; các từ
ngữ tiêu biểu trong ngôn ngữ nhân vật; phân loại các lớp từ ngữ, tính tần số,
lượt dùng của từ ngữ... Phương pháp thống kê – phân loại vừa là cơ sở để xác
định đối tượng nghiên cứu (từ ngữ của ngôn ngữ nhân vật), vừa là cung cấp
các số liệu làm minh chứng cho các luận điểm trong từng chương của luận án.
5.2. Phương pháp phân tích diễn ngôn
Phân tích các ngữ liệu trên các bình diện của diễn ngôn hội thoại; tổng
hợp để rút ra đặc điểm khái quát về từ ngữ trong tác phẩm và vai trò, ảnh
hưởng của đặc điểm đó đến hệ thống chung, từ đó xác định đặc điểm của
ngôn ngữ nhân vật trong tác phẩm và phong cách ngôn từ của tác giả.
5.3. Phương pháp miêu tả
Phương pháp miêu tả dùng trong luận án liên quan đến các trường hợp
cần làm nổi bật các đặc điểm nào đó trong luận án (chẳng hạn: các lớp từ ngữ
13
trong lời thoại nhân vật, hệ thống từ xưng hô, từ thông tục, v.v...). Các kết quả
của phương pháp miêu tả trong luận án là cơ sở để phân tích, tổng hợp, đưa ra
các kết luận về đặc điểm ngôn ngữ nhân vật trong tiểu thuyết của Chu Lai.
6. Đóng góp mới của luận án
Đây là công trình đầu tiên nghiên cứu về đặc điểm ngôn ngữ nhân vật
trong tiểu thuyết Chu Lai ở bình diện từ ngữ từ góc độ ngữ dụng. Công trình
đã vận dụng những kiến thức cơ bản của ngữ dụng học để khảo sát, phân tích
về ngôn ngữ hội thoại, qua đó nhằm làm rõ sự hành chức của ngôn ngữ trong
giao tiếp xã hội nói chung, giao tiếp nghệ thuật nói riêng; đồng thời góp phần
làm rõ đặc điểm của ngôn ngữ nhân vật và phong cách ngôn ngữ nghệ thuật
trong tiểu thuyết của Chu Lai.
7. Cấu trúc của luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, nội dung luận án
được trình bày trong ba chương:
Chƣơng 1: Những vấn đề lý thuyết liên quan đến đề tài
Chƣơng 2: Đặc điểm ngôn ngữ nhân vật trong tiểu thuyết Chu Lai qua
từ ngữ xưng hô
Chƣơng 3: Đặc điểm ngôn ngữ nhân vật trong tiểu thuyết Chu Lai qua
từ thông tục, quán ngữ, thành ngữ.
14
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ THUYẾT LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1. Lí thuyết về hội thoại
1.1.1. Khái niệm hội thoại
Theo quan điểm chung của các nhà nghiên cứu [thể hiện trong các tài
liệu:11, 15, 17, 20], thành tựu nổi bật nhất của ngôn ngữ học hiện đại là đã
dành sự quan tâm đặc biệt đến ngôn ngữ trong giao tiếp, sự hành chức của
ngôn ngữ trong thực tiễn. Dụng học (Pragmatics) ra đời theo hướng đó và phát
triển mạnh mẽ từ những năm 70 của thế kỷ XX. Giai đoạn đầu, dụng học chú ý
đến ngôn ngữ đơn thoại (lời nói một chiều, các diễn ngôn), sau đó dụng học
chuyển sang hướng quan tâm đến quan hệ hồi đáp (đặt các diễn ngôn vào chuỗi
các chuỗi lời nói trao qua đổi lại). Theo các nhà nghiên cứu, các diễn ngôn có
tính đơn thoại, tức là không có sự tương tác qua lại giữa các lời nói trong đó
(như một bài văn tả cảnh, một bài nghị luận) cũng đều hàm ẩn một cuộc trao
đổi, bởi vậy, dụng học thực sự phải là dụng học hội thoại (Pragmatique
dialogique). “Hội thoại là hoạt động giao tiếp căn bản, thƣờng xuyên, phổ biến
của sự hành chức ngôn ngữ. Các hình thức hành chức khác nhau của ngôn ngữ
đều đƣợc giải thích dựa vào hoạt động căn bản này” [20; tr.276].
Về khái niệm hội thoại, tác giả Nguyễn Như Ý xác định: “Hội thoại là
hoạt động giao tiếp bằng lời ở dạng nói giữa các nhân vật giao tiếp nhằm
trao đổi các nội dung miêu tả và liên cá nhân theo đích đƣợc đặt ra” (152;
tr.122). Theo Đỗ Thị Kim Liên: “Hội thoại là một trong những hoạt động
ngôn ngữ thành lời giữa hai hoặc nhiều nhân vật trực tiếp, trong một ngữ
cảnh nhất định mà giữa họ có sự tƣơng tác qua lại về hành vi ngôn ngữ hay
hành vi nhận thức nhằm đi đến một đích nhất định” [86, tr.18]. Trong tác
phẩm văn học, cùng với ngôn ngữ tác giả là sự xuất hiện luân phiên, xen kẽ
ngôn ngữ hội thoại của các nhân vật. Ví dụ:
15
... Một cái hôn nhẹ vào trán. Tiếng nói ai dịu nhẹ, mơn man:
- Ngủ đi! Ngủ một chút đi anh!... Đã hai ngày hai đêm nay, anh chƣa
chợp mắt chút nào rồi. Em sang hầm chị Hai đây. Em sợ vết thƣơng chị
nhiễm trùng. Tức cƣời ghê cơ! Vết thƣơng của mình không lo, cái sống của
mình không lo, lại cứ lo cho tiểu đoàn anh Tám bên kia sông. Chờ nghen! Em
sẽ quay lại ngay...
- Anh Hùng... Em không nghe nữa đâu - Cô gái vội lấy tay bịt tai lại.
... Sƣơng cúi đầu xuống một giây rồi ngẩng lên, nét mặt lạnh cứng:
- Dám!
- Đồng chí y tá! - Hùng cũng sắt mặt - Đây là lệnh, đồng chí không
đƣợc can thiệp vào. Anh em đâu? Thằng Khiển, thằng Vƣợng đâu? Cả thằng
Tuấn khốn nạn kia nữa, mày ngồi chết giẫm ở đó à? Mang nó ra hố pháo
chôn ngay!
- Không! Sƣơng thét - Không đƣợc chôn sống ngƣời ta nhƣ thế!
- Lôi con ngƣời lắm điều này đi! - Hùng chỉ tay ra cửa rừng.
Chát!... Cả khuôn mặt râu ria của Hùng hơi bật ngửa ra sau trƣớc một
cái tát quá bất ngờ” [XIII, tr.79].
Hội thoại hầu như có mặt trong các sáng tác (văn bản văn học) nhưng
chúng ta thấy rằng trong văn bản văn học (truyện ngắn, tiểu thuyết, kịch...),
hội thoại không xuất hiện độc lập mà nó luôn gắn liền với ngôn ngữ tác giả,
làm thành chỉnh thể văn bản – chỉnh thể tác phẩm văn học.
1.1.2. Vận động hội thoại
Thông thường, cấu trúc của một cuộc thoại gồm: sự trao lời, sự trao
đáp và sự tƣơng tác.
1.1.2.1. Sự trao lời
“Trao lời là vận động của ngƣời nói A nói ra và hƣớng lời nói của
mình về phía ngƣời nhận B”. Khi trao lời “có những vận động cơ thể (cử chỉ,
16
điệu bộ, nét mặt) hƣớng tới ngƣời nhận hoặc tự hƣớng về mình (gãi đầu, gãi
tai, đấm ngực...) bổ sung cho lời ngƣời nói”.
Tình thế trao lời ngầm ẩn rằng, người B tất yếu phải có mặt đi vào
trong lời của A. Vì thế “ngay trƣớc khi B đáp lời thì B đã đƣợc đi vào trong
lời trao của A và thƣờng xuyên kiểm tra, điều hành lời nói của A”. Cũng
chính vì thế, ở phía người nói - người trao lời nói có nghĩa là “lấn trƣớc vào
ngƣời nghe B, phải dự kiến trƣớc phản ứng của ngƣời nghe” để lựa chọn lời
thích hợp, làm sao có thể “áp đặt” điều mình muốn nói vào B” [24, tr.41].
Khi trao lời, có các vận động cơ thể (điệu bộ, nét mặt, cử chỉ,...) hướng
tới người nhận hoặc hướng về mình (gãi đầu, gãi tai, đấm ngực...) bổ sung
cho lời trao.
Một tiếng khóc tấm tức bật lên:
- Đừng giận... Đừng bỏ em nghe anh! Em chỉ có mình anh. Em...
thƣơng anh! [XIII, tr.82].
Ở ví dụ trên, hình ảnh của nhân vật Ba Sương, mỏng manh, yếu đuối
trước Hai Hùng, ngưòi hùng trận mạc trong tác phẩm Ăn mày dĩ vãng của Chu
Lai. Đặt trong vận động hội thoại, câu trao của Sương hướng tới Hùng bằng
các từ “em, anh”. Trong câu trao đã có sự hiện hữu của người nhận. Sự dịu
dàng, yếu đuối của nhân vật Sương được tác giả thể hiện bằng câu dẫn: “Một
tiếng khóc tấm tức bật lên”.
1.1.2.2. Sự trao đáp
Hội thoại chính thức hình thành khi người B đáp lại lượt lời của người
nói A. “Phát ngôn là sản phẩm của các hoạt động ở lời. Tất cả các hoạt động
ngôn ngữ đều đòi hỏi một sự hồi đáp” [93, tr.75]. Khi được thoả mãn bằng
một sự hồi đáp thì phát ngôn sẽ trở thành hội thoại, nghĩa là, hình thành một
cặp trao - đáp.
Tiếp theo ví dụ trên, sau những lời tấm tức yêu thương của Ba Sương,
Hai Hùng đáp lại lời của cô để hình thành một cặp trao - đáp.
17
Hùng quay mặt đi, tiếng nói ngàn ngạt:
- Thế là bao nhiêu công sức đổ vào đó mà phải dừng lại! Ngƣời ta sẽ
nghĩ gì?
- Không... không sao đâu. Em thay mặt lực lƣợng địa phƣơng... sẽ cùng
chịu trách nhiệm với anh.
- Sƣơng... [XIII, tr.82].
Khi xuất hiện lời đáp của nhân vật B thì vận động trao - đáp - cái lõi
của hội thoại diễn ra theo nhịp điệu của nội dung hội thoại. Có lúc, sự vận
động đó lắng lại theo tiếng ngập ngừng trong tâm trạng của nhân vật, có lúc
lại diễn biến nhanh, dồn dập. Sự thay đổi trong cặp vai người nói - người
nghe cũng biến đổi theo. Đây cũng là yếu tố cho sự phát triển hội thoại đạt
đến đích mong muốn. Trong ví dụ trên, nhân vật Hùng lúc sắp vai người nói
dưới hình thức câu hỏi “Ngƣời ta sẽ nghĩ gì?”, lúc lại chuyển thành người
nhận lời và có sự đáp lời: “Sƣơng...”.
1.1.2.3. Sự tƣơng tác
Trong cuộc thoại, các nhân vật giao tiếp, ảnh hưởng lẫn nhau, tác động
qua lại với nhau làm biến đổi lẫn nhau. Trước cuộc thoại, nhân vật có sự khác
biệt, đối lập về tính cách, tâm lý, hiểu biết tình cảm, v.v.. Trong quá trình
tham gia vào hội thoại, nhân vật sẽ tự điều phối những khác biệt này để cùng
cộng tác đi đến thoả hiệp hoặc có thể phát triển cao hơn, mở rộng những khác
biệt này làm cho cuộc thoại đi đến xung đột. Đây chính là sự tương tác trong
hội thoại. Theo Đỗ Hữu Châu, sự tương tác được hiểu là: “Các nhân vật giao
tiếp ảnh hƣởng lẫn nhau, tác động lẫn nhau đến cách ứng xử của từng ngƣời
trong quá trình hội thoại” [24, tr.42].
Với văn bản tác phẩm văn học, sự tương tác hội thoại có thể phát triển
theo những chiều hướng khác nhau.
- Tạo điều kiện cho tâm lý nhân vật phát triển, đưa cuộc thoại đạt đến đích:
18
Có tiếng nổ nhỏ trong đầu, tôi đứng dậy:
- Bữa nay mình là chủ xị phải không?
- Còn bàn cãi gì nữa - Ba Thành nói.
- Vậy dẹp đi! Và bây giờ lên xe trở về nhà thằng Tuấn. Sẽ nhậu tại đó.
- Còn chuyến tàu? - Tuấn hỏi.
- Cũng dẹp luôn! Tao sẽ ở lại với chúng mày để tìm bằng đƣợc tên giết
ngƣời đó [XIII, tr.339].
Trong ví dụ trên, cái đích của cuộc thoại đã được xác định, chiến tranh
với đạn bom khói lửa, chết chóc đã qua nhưng cuộc chiến trong cuộc sống đời
thường giữa ranh giới thiện - ác thì mới chỉ bắt đầu ở những người lính can
trường một thời này.
- Làm cho hội thoại thêm căng thẳng và đi đến xung đột do không hoà
phối được những khác biệt:
- Không! Không đi đâu cả! - Ông Hùng xô cửa bƣớc vào, giọng nói
tắc lại.
- Trời... Anh Hai! - Ba Sƣơng lùi ngƣời trở lại, hai tay bất giác đƣa lên
che đỡ lấy ngực nhƣ hôm nào.
- Sƣơng! Em cứ ở đây. Ngày mai tôi sẽ đƣa em về - Ông Hùng đứng
chắn ngang cửa, cặp mắt trũng sâu sáng lên - Nếu cái đoàn thanh tra ấy
muốn, chính tôi sẽ trả lời, nhân danh những ngƣời chết và những ngƣời sống,
tôi sẽ trả lời thay em.
Sƣơng càng lùi lại, miệng lắp bắp:
- Không... Không đƣợc đâu anh. Đừng anh [XIII, tr.331].
- Hé gợi sự tình của nhân vật với những cảm giác, những day dứt...
trong tâm trạng:
Như nhân vật Ba Sương, sau chiến tranh trở về, sự trớ trêu của số phận
hay là một hệ quả đau lòng của chiến tranh đã khiến cô buộc phải phản bội lại
19
chính mình để trở thành người đàn bà đẹp và uy quyền nhưng cũng nổi tiếng
là lạnh lùng, dửng dưng với đàn ông.
Một đám khói màu da cam đột nhiên trôi qua, phủ đầy vào mắt ngƣời
đàn bà. Sau một thoáng rùng mình ớn lạnh, bà ta cƣời, lắc đầu vẻ mệt mỏi:
- Thanh tra Bộ à?... Sao lại có thanh tra Bộ ở đây? Tội nghiệp! Chắc
lại một ca hội chứng chiến tranh đó thôi. Thôi đƣợc, không cần biết là ai
nhƣng đã đến đây thì coi nhƣ là khách. Anh làm ơn đƣa ổng về phòng nghỉ và
nói rằng, ở đây không có ai tên Sƣơng hết [XIII, tr.25].
1.1.3. Các dạng thức hội thoại
Qua khảo sát và thống kê tiểu thuyết Chu Lai, chúng tôi nhận thấy,
ngôn ngữ của tác giả sử dụng nhiều dạng thức hội thoại như đơn thoại, song
thoại, tam thoại, đa thoại, trong đó, song thoại xuất hiện và chiếm tỉ lệ nhiều
nhất. Cụ thể, các dạng hội thoại được thể hiện:
1.1.3.1. Đơn thoại
Là lời thoại của một nhân vật phát ra hướng đến người nghe nhưng
không có lời đáp trực tiếp. Việc tiếp nhận nội dung lời thoại được phản hồi
bằng hành động thể hiện hay cử chỉ không được tác giả mô tả thành lời.
Dạng đơn thoại biểu hiện rõ nhất ở kiểu lời trần thuật của nhân vật, có
nghĩa là, lời nói của nhân vật có xen kẽ một yếu tố kể của mình, của người.
Thấp thỏm chƣa thật tin vào cái nhận xét còn mang màu sắc võ đoán
ấy, tôi hạ nòng bắn thẳng một loạt đạn ria:
- Bà không phải là một cái gì hết. Đúng thế. Bởi vì bà chính là Ba
Sƣơng. Y tá Ba Sƣơng! Xã đội trƣởng Ba Sƣơng của ba xã vùng hạ lƣu sông
Sài Gòn cách đây hai mƣơi năm.
Lạnh lẽo, tôi bồi tiếp một loạt nữa:
- Bà có muốn nhận bà là Ba Sƣơng hay không. Tuỳ! Đó là quyền của
bà. Nhƣng tôi, tôi lại cần phải biết tại sao... [XIII, tr.234].
20
Giữa những lời dẫn thoại “bắn thẳng một loạt đạn ria”, “lạnh lẽo, tôi
bồi tiếp một loạt nữa” là “một thoáng xao động vút rất nhanh trong đôi mắt
mở to, một chút chuyển màu trên đôi môi không son phấn, một chút rung giật
ở gò má phơn phớt hồng” của người đàn bà chối bỏ quá khứ - Ba Sương.
Thông thường, dạng đơn thoại là vắng lời đáp, mỗi nhân vật tự đeo
đuổi một ý nghĩ riêng của mình nhưng đều tuân theo một logic. Ở nhân vật
Hai Hùng, sự dồn đuổi đến tận cùng để tìm ra sự thật về người con gái anh
yêu đã chết đau đớn trong trận càn của địch mà anh là người chứng kiến. Còn
ở Ba Sương, sự ngây ngất trong vầng hào quang giả dối đã khiến cô quay
lưng với tất cả kỷ niệm xưa. Sự im lặng của Ba Sương trong đoạn thoại trên
có tác động sâu sắc đến nội dung phát ngôn của nhân vật Hai Hùng.
1.1.3.2. Song thoại
Đây là dạng thoại chủ yếu và được quan tâm nhiều nhất trong lý thuyết
hội thoại. Theo Nguyễn Đức Dân: “Nếu không có chú thích gì đặc biệt thì
thuật ngữ hội thoại đƣợc hiểu là song thoại” [32, tr.77]. Song thoại là lời của
người trao hướng đến người nghe và có sự đối đáp bằng hành vi ngôn ngữ.
Chúng tôi gọi là hành vi trao lời và hành vi đáp lời. Ở dạng thoại này, nhân
vật trực tiếp đưa lời nói của mình vào hội thoại, bảo đảm yếu tố lời trao và lời
đáp của nhân vật, bảo đảm nguyên tắc luân phiên lượt lời hội thoại.
Kính râm đen rầm, ria mép đen nhức, bắp tay xoắn bện nhƣ xoắn thừng,
anh ta tiến đến, hất mặt hỏi rất hỗn:
- Có gì không mấy anh?
- Không... Không có gì. Đứng hóng mát thôi - Ông trƣởng phòng lúng
túng trả lời.
- Hóng mát thì mời đi chỗ khác. Chỗ này vừa thi công xong, nóng thấy
mẹ, có gì mà mát. Rảnh việc! [XV, tr.255].
Ở dạng song thoại, có thể không có lời dẫn và từ dẫn mà được biểu
hiện bằng dấu hình thức “gạch ngang đầu dòng”.
21
- Kìa... Đừng anh! Em sợ...
- Sợ cái gì nữa cơ chứ? Chúng mình chả đã từng gần nhau... cho nhau
hết một lần rồi ƣ?
- Chính vì thế mà em biết anh không thƣơng em.
- Tầm bậy nào! Không thƣơng mà tối tăm, mƣa gió thế này, anh bỏ cả
văn phòng giám đốc, bỏ cả vợ con xuống đây chỉ cốt đƣợc gặp em à?... Im!
Ngoan nào...Cho anh lần nữa nhé!
- Kìa! Đừng làm thế! Đứt hết khuy áo bây giờ... đấy, đứt rồi! Bỏ ra đi!
Em không đùa đâu!
- Ai đùa! Em ác lắm!... Em có biết rằng mấy tuần nay... không lúc nào
anh không mơ tƣởng về em...Về bộ ngực...về thân thể nóng rực của em. Anh...
thèm em.
- Không đƣợc! Dơ hết quần áo bây giờ... Kìa, dơ!
- Dơ, anh đền cho một trăm bộ, một ngàn bộ khác... Ôm anh đi! Ôm
chặt vào... Ôi! Ngực em ấm quá... Bộ ngực trinh nữ của em... Cả cặp đùi nữa!
Anh chƣa từng thấy ai có cặp đùi tròn và rắn nhƣ thế này...
- Ái đau... Cắn đau thế!
- Anh xin lỗi! Tại em đấy. Ai bảo em cứ ngon nhƣ một khúc giò. Nào!
Mở chân ra một chút đi! Anh xin...
- Không... [XVI, tr.118].
Tuy không có lời dẫn và từ dẫn nhưng người đọc vẫn hình dung được
thái độ, tình cảm, hành động của nhân vật trong cuộc thoại trên. Đây là nhân
vật được tạo nên từ cái nhập nhằng, nhá nhem giữa bóng tối và ánh sáng. Bề
ngoài thì lịch sự, hiểu biết nhưng bên trong lại là một tâm địa vô cùng đen tối,
đểu giả ngay cả trong quan hệ tình cảm.
Ở dạng song thoại còn xuất hiện xen độc thoại như là một hình thức để
nhân vật bộc lộ suy nghĩ thầm kín của mình hơn nữa trong dụng ý của tác giả:
- Sinh nhật chị.
22
- Sinh nhật tôi? - Chị tròn mắt rồi chợt nhớ và phá lên cƣời, cái cƣời
còn trẻ trung lắm - Chết thật! Năm nào cũng không nhớ và năm nào cũng
đƣợc Hoàng tặng hoa, kể từ ngày còn ở Hà Nội. Cám ơn! - Chị lúng túng
nhận bó hoa, không dấu đƣợc một chút cảm động ánh lên trong mắt - Cám ơn
nhiều lắm! [XV, tr.336].
Song thoại là dạng thức hội thoại cơ bản của lý thuyết hội thoại và cùng
là dạng thoại xuất hiện chủ yếu trong ngôn ngữ hội thoại tiểu thuyết.
1.1.3.3. Tam thoại
Tam thoại là dạng thoại xuất hiện khi có ba nhân vật giao tiếp cùng một
chủ đề, một không gian và cùng một thời điểm. Ở mọi cuộc trao đổi, giao tiếp
trong cuộc sống cũng như trong văn chương luôn xảy ra hiện tượng có hơn
hai nhân vật giao tiếp trở lên. Ở hình thức giao tiếp này có thể quy về dạng
tam thoại. Trong tiểu thuyết Chu Lai, dạng thức hội thoại này khá nhiều, điều
đó cũng thể hiện mối quan hệ đan xen nhiều chiều, phức tạp giữa các nhân vật
tiểu thuyết.
Anh vụt đứng dậy, móc hộp quẹt Zipo Mỹ còn giữ đƣợc, quẹt vào giữa
mặt kẻ dâm tặc, giọng rung lên vì giận:
- Bỏ cô ấy ra! Làm thằng đàn ông nhƣ vậy là rất nhục!
- Nhục kệ cha tao! - Sau phút quếnh quáng trƣớc quầng sáng lửa, gã
lấy lại giọng hách dịch - Mày là thằng nào? Mày chui ở xó nào ra thế? Định
giở trò rình rập hả? Đội mấy, nói!
Không thèm trả lời, anh quay lại phía cô gái lúc này đang cuống
cuồng bận lại áo xống:
- Cô về đi! Đối với loại đàn ông chó dái này, cô nên hết sức cẩn thận...
[XV, tr.119].
Ở đoạn thoại này có ba nhân vật giao tiếp: cô gái, gã, anh. Khi nhân vật
gã hướng câu hỏi liên tiếp đến nhân vật anh nhưng câu trả lời không xuất hiện
mà câu trao lại hướng đến nhân vật thứ ba là cô gái.
23
Cả trường hợp hai lời trao cùng hướng đến vai nhận, dẫn đến thoại
căng thẳng theo tình tiết truyện.
- Nổ đi! Mày có thể nâng súng lên mà nổ đƣợc rồi đấy - Năm Thành
gƣợng đứng dậy, mặt chuyển màu tái nhợt - Tao biết trƣớc...
Câu nói ấy đánh thốc vào mặt Sáu Nguyện nhƣ một cành trà gai. Khẩu
súng anh vừa đƣa lên lại hạ thấp dần xuống. Cùng lúc đó, Tƣ Chao từ trong
phòng chạy ào ra, gần nhƣ quỳ xuống chân anh, giọng nghẹn tắc:
- Đừng... Đừng bắn! Không phải...- Nói đến đây, giọng chị ta nấc lên,
nƣớc mắt trào ra - Em chỉ thƣơng nó... Nó đã biết gì đâu...
- Nó nào? - Sáu Nguyện gạt mạnh cánh tay mảnh dẻ đang cố bám lấy
mình - Nó là ai?
- Con em... [XV, tr.71].
1.1.3.4. Đa thoại
Đa thoại là lời của nhiều nhân vật đan xen vào nhau trong một ngữ
cảnh hội thoại cụ thể; chúng tôi gọi đây là lời của đám đông (nhân vật). Sử
dụng dạng thức đa thoại là sự sắp đặt đầy dụng ý của tác giả.
Tiếng cƣời âm u, tiếng thở dài nhớt nhát, tiếng nói lạnh lẽo úp chụp,
đậu lên vai, luồn vào tóc, chui cả vào ngực nhồn nhột, không mùi không vị:
“Thủ trƣởng ôi! Thủ trƣởng đi đâu đấy? Có nhận ra chúng tôi không? Có
nhớ chúng tôi không...” Tôi càng đi nhanh. Cái bóng của Viên vƣợt lên, hơi
thở ram ráp liếm vào tai tôi: “Anh quên em rồi sao anh Hai?...”. Bóng Viên
biến mất, cái bóng của Bảo thay thế, cũng hơi thở ram ráp: “Sao lại chôn vội
thế thủ trƣởng ơi!..”. Cái bóng của Khiên xồ tới, tanh nồng và rách rƣới:
“Anh khỏi áy náy... [XIII, tr.156].
Hay đoạn thoại trong một buổi sáng đình công ở nhà máy:
- Thế cánh chủ thợ họ trả lời thế nào mấy anh? - Sáu Nguyện hỏi.
- Trả lời cái mẹ gì! - Một ngƣời quật con bài đánh chát xuống mặt bàn
- Tất nhiên là đổ cho con nhỏ...
24
- Thật tội cho cô ấy - Ngƣời khác chêm vào với giọng từ tốn hơn - Mẹ
thì già, bố lâm trọng bệnh...
- Giúp!- Ngƣời nữ lại dằn giọng - Giúp thì dễ quá...? [XV, tr.236, 237].
Dạng thức đa thoại trong lý thuyết hội thoại đã xác định số lượng nhân
vật tham gia vào hội thoại: đám đông nhân vật, mà ở đó nhân vật được miêu
tả rõ nét nó nằm trong hệ thống nào, chỉ biết rằng nó xuất hiện cùng với lượt
lời để có thể nhận ra có nhân vật ấy trong đám đông ấy. Trong tiểu thuyết Chu
Lai, hình thức đa thoại không được sử dụng nhiều.
Tóm lại, trên cơ sở trình bày những vấn đề chung về hội thoại, có thể
dẫn ý kiến của Đỗ Hữu Châu làm định nghĩa khái niệm này:“Hội thoại là
hoạt động giao tiếp căn bản, thƣờng xuyên, phổ biến của sự hành chức ngôn
ngữ. Các hình thức hành chức khác của ngôn ngữ đều đƣợc giải thích dựa
vào hoạt động căn bản này... Vấn đề phải nghiên cứu sự hành chức của
những cặp trả lời nhƣ cặp hỏi/trả lời theo một quan điểm hội thoại, tức trong
sự đối đáp của các nhân vật giao tiếp trong một hoàn cảnh nhất định ” [20,
tr.276, 267].
1.1.4. Ngôn ngữ hội thoại
Việc nghiên cứu hội thoại tất yếu liên quan đến việc làm rõ ngôn ngữ
hội thoại. Ngôn ngữ hội thoại là một trong những vấn đề đã được đặt ra trong
ngôn ngữ học nói chung, ngữ dụng học và ngôn ngữ học văn bản nói riêng
của ngôn ngữ học hiện đại. Đã có nhiều công trình nghiên cứu ở nước ngoài
về lĩnh vực này, như: O. M. Moskalskaija, I. R.Galperin, J. Lyon (dẫn theo
Phan Mậu Cảnh, 2008)... Ở trong nước, giới Việt ngữ học khi nói đến lĩnh
vực văn bản và ngữ dụng học cũng có những cuốn tiểu thuyết đạt giải nhiều
tác giả đề cập đến vấn đề hội thoại như Đỗ Hữu Châu (2003), Diệp Quang
Ban (1998), Trần Ngọc Thêm (2005), Đỗ Thị Kim Liên (2005)...
Qua các nghiên cứu, có thể thấy, ngôn ngữ hội thoại là loại ngôn ngữ
thuộc phong cách hội thoại, tức là “Việc tổ chức, xây dựng lời nói dưới dạng
25
hội thoại” [52; tr.219]. Hội thoại có thể thể hiện trong giao tiếp hàng ngày
(thuộc phong cách khẩu ngữ) hay xuất hiện trong tác phẩm văn học (thuộc
phong cách nghệ thuật), tức là đều dưới dạng lời nói (có sự trao đáp bằng lời
qua lại giữa các nhân vật giao tiếp). Ngôn ngữ hội thoại “là hình thái nói,
nhưng có cách nói tuỳ tiện (gọi là khẩu ngữ); có cách nói trau dồi, trong cách
nói trau dồi này, có cách nói thông thường, văn nghệ hoặc khoa học. Ở hình
thái viết cũng vậy, có cách viết hệt như khẩu ngữ, có cách viết thông thường,
văn nghệ hoặc khoa học. Đó là các dạng khác nhau trong việc vận dụng các
phương tiện của ngôn ngữ toàn dân, gọi là các phong cách” [52; tr.215].
Theo các nhà nghiên cứu, ngôn ngữ trong tác phẩm văn học (văn xuôi
tự sự) có hình thức tổ chức theo lối mô phỏng ngôn ngữ tự nhiên thể hiện
trong cách sử dụng từ ngữ, các kiểu câu, các yếu tố ngữ âm... Đó là điều mà
Hegel gọi là cái nôm na của tác phẩm tự sự [68; tr.175]. Điều này đúng với
ngôn ngữ nhân vật thể hiện qua lời thoại nhân vật. Lời đối thoại giữa các nhân
vật là một thành phần chủ yếu trong kết cấu lời nói của tác phẩm tự sự, vừa
thể hiện tư tưởng của nhân vật, của tác phẩm vừa là “khúc xạ những ý chỉ của
tác giả và do đó, đến một mức độ nhất định, có thể được coi là ngôn ngữ thứ
hai của tác giả” [68; tr.195]...
Tóm lại, khái niệm hội thoại, những vấn đề liên quan đến hội thoại theo
quan điểm và kết quả nghiên cứu của các công trình đi trước là cơ sở để
chúng tôi tìm hiểu, làm rõ đặc điểm ngôn ngữ nhân vật trong các chương tiếp
theo của luận án.
1.2. Tác phẩm văn học, nhân vật văn học
1.2.1. Tác phẩm văn học
Tác phẩm văn học là một loại văn bản thuộc phong cách nghệ thuật; là
công trình nghệ thuật ngôn từ do một cá nhân hay tập thể sáng tác nhằm phản
ánh cuộc sống bằng hình tượng thông qua các thủ pháp nghệ thuật. Tác phẩm
văn học có thể tồn tại dưới hình thức truyền miệng hay hình thức văn bản
26
được ghi lại bằng văn tự, có thể được viết bằng văn vần hoặc văn xuôi. Các
tác phẩm có dung lượng rất khác nhau và có thể chia thành ba loại hình cơ
bản: tác phẩm tự sự, tác phẩm trữ tình, tác phẩm kịch.
Mỗi tác phẩm văn học là một hệ thống phức tạp bao gồm nhiều yếu tố
như chủ đề, tư tưởng, kết cấu, ngôn ngữ, hình tượng, v.v.. Ở những tác phẩm
có giá trị, sự kết hợp hài hoà và tác động qua lại giữa các yếu tố ấy khiến tác
phẩm trở thành một chỉnh thể nghệ thuật mang tính thống nhất hữu cơ, biện
chứng giữa nội dung thẩm mỹ và hình thức nghệ thuật. Tính phức tạp của tác
phẩm văn học không chỉ biểu hiện qua cấu trúc nội tại của bản thân nó mà
còn biểu hiện qua hàng loạt quan hệ khác. Với chủ thể sáng tạo, tác phẩm là
nơi ký thác, nơi khẳng định quan điểm nhân sinh, lý tưởng thẩm mỹ. Với hiện
thực khách quan, tác phẩm là hình ảnh phản ánh đời sống, là tấm gương ghi
giữ diện mạo lịch sử của một giai đoạn, một thời kỳ một đi không trở lại và
dự báo tương lai. Với người đọc, tác phẩm là đối tượng tích cực của cảm thụ
thẩm mỹ. Cố nhiên, trong thực tế, những quan hệ ấy xuyên thấm, tổng hoà với
nhau một cách biện chứng và sinh động.
1.2.2. Nhân vật văn học
Nhân vật văn học là yếu tố cơ bản nhất, là hạt nhân trung tâm của mỗi
tác phẩm văn học. Nhân vật là sự thể hiện quan niệm nghệ thuật của nhà văn.
Nhân vật văn học là thuật ngữ chỉ hình tượng nghệ thuật về con người, một
dấu hiệu về sự tồn tại toàn vẹn của con người. Bên cạnh con người, nhân vật
còn là các con vật, các loài cây, các sinh thể hoang đường được gán cho
những đặc điểm giống với con người. Nhân vật là phương thức nghệ thuật
nhằm khai thác những nét thuộc tính con người, nhân vật có ý nghĩa trước hết
ở các loại văn học tự sự, sân khấu, điện ảnh.
1.2.2.1. Kiểu loại nhân vật
Nhân vật trong văn học là một hiện tượng đa dạng về mặt kiểu loại.
Các nhà nghiên cứu (như: Phan Cự Đệ (2001), Đỗ Văn Khang (1996), Bùi
27
Việt Thắng (1994) và nhiều tác giả khác) đã phân chia nhân vật văn học thành
nhiều kiểu loại khác nhau: Nhân vật trong văn học dân gian khác nhân vật
trong văn học viết. Nhân vật thần thoại khác nhân vật truyền thuyết và cổ tích.
Xét về phương pháp sáng tác, nhân vật cổ điển khác nhân vật lãng mạn và
nhân vật hiện thực. Xét về thể loại, nhân vật tự sự khác nhân vật kịch và nhân
vật trữ tình. Xét về kết cấu, nhân vật chính khác nhân vật phụ, nhân vật trung
tâm. Xét về ý thức hệ, nhân vật chính diện khác nhân vật phản diện. Xét về
cấu trúc hình tượng, nhân vật chức năng, nhân vật loại hình, nhân vật tính
cách, nhân vật tư tưởng đều có những đặc trưng khác biệt nhau. Dưới đây là
một số kiểu loại cơ bản được phân biệt ở ba khía cạnh: kết cấu, ý thức hệ và
cấu trúc liên quan trực tiếp đến việc phân tích lời thoại nhân vật trong luận án.
- Xét về mặt cấu trúc: Dựa vào vị trí đối với nội dung cụ thể, với cốt
truyện của tác phẩm, nhân vật văn học được chia thành nhân vật chính và
nhân vật phụ, nhân vật trung tâm.
Nhân vật chính là nhân vật đóng vai trò chủ chốt giữ vị trí then chốt
trong việc triển khai diễn biến của sự kiện. Nhân vật chính thường tham gia
xuyên suốt, xuất hiện nhiều lần trong tác phẩm. Đó cũng là nhân vật được tác
giả dày công miêu tả, khắc họa, được hiện lên rõ nét, gây ấn tượng sâu đậm với
người đọc. Nhưng chủ yếu nhất, nhân vật chính vẫn là nhân vật có vai trò quan
trọng trong việc thể hiện tập trung đề tài, chủ đề và tư tưởng của tác phẩm.
Nhân vật Hai Hùng, Ba Sƣơng (Ăn mày dĩ vãng); Sáu Nguyện, Út Thêm (Ba
lần và một lần);… đều là những nhân vật chính trong tiểu thuyết Chu Lai.
Trong số những nhân vật chính của tác phẩm lại có thể có nhân vật
được thể hiện đặc biệt nổi bật, có ý nghĩa tư tưởng - thẩm mỹ sâu sắc nhất, đó
là nhân vật trung tâm. Nhân vật trung tâm là nhân vật xuất hiện từ đầu đến
cuối tác phẩm, có mối liên hệ với tất cả những nhân vật khác trong tác phẩm.
Chính vì thế mà nó là nhân vật quy tụ các đầu mối mâu thuẫn của tác phẩm, là
28
nơi thể hiện vấn đề trung tâm của tác phẩm. Nhân vật Hai Hùng (Ăn mày dĩ
vãng); Sáu Nguyện (Ba lần và một lần); Tám Linh (Vòng tròn bội bạc)… là
những nhân vật như thế.
Bên cạnh các nhân vật chính là các nhân vật phụ. Đó là những nhân vật
ít xuất hiện trong tác phẩm, đóng vai trò thứ yếu trong việc triển khai đề tài và
biểu hiện tư tưởng tác phẩm. Nhân vật phụ là nhân vật ít được mô tả, không
được chú trọng miêu tả nhưng lại không thể thiếu vì nó có vai trò “giăng nối”
các đầu mối quan hệ, bổ sung và hỗ trợ về nhiều mặt kể cả hình thức và nội
dung tác phẩm. Nhân vật phụ có thể góp phần thể hiện chủ đề, tư tưởng cũng
như làm nổi bật tính cách nhân vật chính trong tác phẩm.
Sự hiện diện của nhân vật phụ trong tác phẩm có hai mức độ: ít được
mô tả và hầu như không được mô tả. Ví dụ trong Ăn mày dĩ vãng ngoài nhân
vật Hai Hùng, Ba Sương còn có các nhân vật như Tường, Hai Hợi, Tám
Tính… Trong Ba lần và một lần ngoài Sáu Nguyện, Tư Chao, Út Thêm còn
có Ba Đẩu, Lan Thanh, Nguyện… là nhân vật phụ trong tác phẩm.
- Về mặt ý thức hệ: Dựa vào đặc điểm của tính cách, mối quan hệ với
tư tưởng tác giả và lý tưởng của thời đại, các nhân vật lại có thể chia ra nhân
vật chính diện và nhân vật phản diện. Thực ra cơ sở xã hội của hai loại nhân
vật này suy cho cùng là dựa trên những mâu thuẫn đối kháng, trên cơ sở đấu
tranh giai cấp, đấu tranh tư tưởng trong xã hội.
Nhân vật chính diện là nhân vật mang tư tưởng, quan điểm tư tưởng và
đạo đức tốt đẹp của tác giả, của thời đại và được tác giả đề cao, khẳng định,
trái lại, nhân vật phản diện lại mang những phẩm chất xấu xa, trái với đạo
đức, lý tưởng, đáng lên án và phủ định.
Việc phân biệt nhân vật chính diện và nhân vật phản diện đã có lịch sử
lâu đời. Có những thể loại nói chung chuyên viết về nhân vật chính diện như
tụng ca, sử thi, bi kịch. Lại có những thể loại chuyên viết về nhân vật phản
diện như thơ châm biếm, truyện cười và hài kịch.
29
Khái niệm “nhân vật chính diện” và “nhân vật phản diện” là những
khái niệm thuộc phạm trù lịch sử, chúng tương ứng với khuynh hướng xã hội
và quan niệm đạo đức của từng thời đại. Nhân vật chính diện của thời đại nào
thì mang lý tưởng thẩm mỹ và lý tưởng xã hội của thời đại đó.
Tiểu thuyết Chu Lai thường hướng tới khám phá con người ở góc độ
thế sự đời tư với nhiều mặt khác nhau trong một con người. Có tốt, xấu, có
cao cả, thấp hèn, có yếu mềm, anh dũng. Con người trong văn học sau 1975 ít
khi toàn diện, toàn mỹ theo hướng lý tưởng hóa và cũng thật khó chứng minh
rằng trong tác phẩm một nhân vật nào đó lại đại diện cho tư tưởng thẩm mỹ,
lý tưởng thời đại của nhà văn.
- Dựa vào cấu trúc hình tượng, người ta có thể chia nhân vật chức năng,
nhân vật loại hình, nhân vật tính cách và nhân vật tư tưởng.
Nhân vật chức năng: là loại nhân vật xuất hiện để thực hiện một số
chức năng nào đó. Loại nhân vật này thường có đặc điểm, tính cách ổn định
với những phẩm chất cố định, không thay đổi từ đầu đến cuối. Nhân vật chức
năng thông thường chỉ xuất hiện trong văn học dân gian, văn học cổ, văn học
trung đại như: Tiên, Bụt, Thần xuất hiện để giúp đỡ người tốt, thử thách con
người, ban phát hạnh phúc; yêu tinh, phù thủy để hãm hại người lành, gieo rắc
cái ác, hiểm nguy; các vai trung để thực hiện đạo lý, cương trực; vai nịnh
gièm pha, phản trắc…
Nhân vật loại hình: là loại nhân vật thể hiện tập trung các phẩm chất xã
hội, đạo đức của một loại người nhất định của một thời. Đó là nhân vật nhằm
khái quát cái chung về loại của các tính cách và nhờ vậy được gọi là điển
hình. Loại nhân vật này bao giờ cũng có một số phẩm chất loại biệt về mặt xã
hội được nêu bật hơn hẳn các tính chất khác. Dĩ nhiên nhân vật điển hình loại,
như mọi nhân vật văn học khác, đòi hỏi một cá tính nhất định, được thể hiện
một cách sinh động qua các chi tiết cụ thể, chân thực. Nhân vật loại hình
30
thường xuất hiện nhiều trong các trào lưu văn học cổ điển Acpagông,
Tactuyp, Giuốcđanh của Môlie là những nhân vật như thế…
Nhân vật tính cách: Nhân vật tính cách thường xuất hiện trong văn học
hiện đại, là loại nhân vật có cá tính nổi bật, được xây dựng cụ thể, sinh động
như con người thực ngoài cuộc đời. Khái niệm tính cách ở đây được dùng để
chỉ một loại nhân vật được mô tả như một nhân cách, một cá nhân có cá tính
nổi bật. Nhân vật tính cách thường có nhưng mâu thuẫn nội tại, những nghịch
lý, những chuyển hóa và chính vì vậy, tính cách thường có một quá trình tự
phát triển và nhân vật không đồng nhất giản đơn vào chính nó. Trong nhân
vật tính cách có tất cả những mâu thuẫn của một dòng đời đang vận động,
không tĩnh tại mà luôn luôn thay đổi, phát triển. Hạt nhân của nhân vật tính
cách là cá tính. Đó là “con người này” cụ thể, độc đáo, cá biệt nhưng xét từ
góc độ nào đó, trong những mối tương quan nào đó lại mang giá trị và ý nghĩa
phổ biến chung.
Nhân vật tư tưởng là nhân vật có tư tưởng, nhân cách nhưng cơ bản của
nó là hiện thân của ý thức, một tư tưởng đang diễn ra trong đời sống. Chẳng
hạn như Giăng Vangiăng, Giave của Huygô, A.Q của Lỗ Tấn… Trong sáng
tác, loại nhân vật này dễ rơi vào công thức, minh họa, trở thành cái loa tư
tưởng của tác giả.
Tất cả các loại hình nhân vật trên, sự phân biệt trên chỉ mang tính chất
tương đối, nó nhằm nhấn mạnh nét trội, nét đặc trưng cơ bản của một nhân
vật nào đó. Ranh giới phân chia giữa các nhân vật không phải lúc nào cũng
rạch ròi. Đặc biệt càng về sau này, văn học hướng tới việc thể hiện con người
chân thực, sinh động, đa chiều hơn.
1.2.2.2. Nhân vật tiểu thuyết
Nếu ví ngôn ngữ là cái áo của tư tưởng thì nhân vật là hình thù con
người mặc cái áo ấy. Nhân vật là những con người cụ thể, được miêu tả trong
tác phẩm văn học, thể hiện qua từ xưng hô, qua lời kể của tác giả. Trong hội
31
thoại, nhân vật đưa ra nội dung lời thoại, chọn từ xưng hô phù hợp, đặt mình
vào mối quan hệ trao đáp, lựa chọn các yếu tố tình thái… thể hiện thái độ,
tình cảm, xử lý các tình huống hội thoại.
Trong tiểu thuyết, các lời trao đáp được hình thành do sự vận động trao
lời và đáp lời của nhân vật. Mỗi tác phẩm tiểu thuyết có hệ thống nhân vật
phong phú với mối quan hệ đan xen nhiều chiều và các tình tiết của tiểu
thuyết đều xoay xung quanh số phận của các nhân vật này. Phần đầu của tác
phẩm bao giờ cũng là bối cảnh không gian, thời gian cụ thể với những tình
tiết mở vào cốt truyện. Nhân vật tiểu thuyết không phải là một “con ngƣời
đƣợc kể ra nhƣ một hình tƣợng khối lƣợng, toàn vẹn, có thực và tạo hình”
(Thômat Mann) mà là rất nhiều nhân vật với tính cách, số phận, tư tưởng khác
nhau thậm chí trái chiều nhau tạo nên hai thế giới đối lập trong truyện như: tốt
- xấu, chính nghĩa - phi nghĩa, v.v.. Tính cách, tâm lý của nhân vật được thể
hiện qua lời thoại và dẫn thoại cùng các yếu tố khác như không gian, thời
gian, v.v.. Mỗi lời thoại của nhân vật được đặt trong một ngữ cảnh khác nhau
nhằm tô đậm diễn biến truyện cũng như nhân vật. Điều đó cho thấy, mỗi lời
thoại phải nằm trong một hệ thống đảm bảo tính logic trong sự phát triển tính
cách nhân vật. Giá trị của nhân vật không chỉ nằm trong tác phẩm mà còn có
sức lan tỏa, khái quát cho một hình mẫu nào đó trong một thời kỳ văn học. Từ
đó cho thấy nhân vật văn học là một trong những khái niệm trung tâm để xem
xét khuynh hướng sáng tác của nhà văn.
Tiểu thuyết Chu Lai với chất thế sự đậm đặc như minh chứng cho sự
thay đổi quan niệm sáng tác của văn học sau 1975. Những cách tân về phương
diện tiểu thuyết gắn với những thay đổi trong quan niệm về con người trong
thời đại mới. M.Bakhtin đã từng viết, trong tiểu thuyết “nhân vật không tƣơng
hợp với số phận và vị thế của nó. Con ngƣời hoặc cao lớn hơn thân phận
mình, hoặc nhỏ bé hơn tính cách của mình” [3, tr.27], tức là không có những
32
tính cách nguyên phiến. Con người hiện ra với tất cả các mặt tốt xấu, người
tốt có thể trở thành kẻ xấu và ngược lại, thiên thần và ác quỷ đều có thể tồn tại
trong một con người. Đặc điểm nổi bật nhất, mang tính đặc thù nhất của nhân
vật tiểu thuyết – như Từ điển thuật ngữ văn học xác định - là “con người nếm
trải”, tư duy, chịu đau khổ, dằn vặt của cuộc đời (nhân vật của sử thi, nhân vật
kịch, nhân vật truyện trung cổ dường như không mang đặc điểm này). Tiểu
thuyết miêu tả nhân vật như “con người đang biến đổi trong hoàn cảnh, con
người đang trưởng thành do cuộc đời dạy bảo”...
1.3. Giới thiệu tác giả và tác phẩm Chu Lai
1.3.1. Nhà văn Chu Lai
Chu Lai tên khai sinh là Chu Ân Lai, họ tên đầy đủ là Chu Văn Lai,
sinh ngày 05- 02- 1946. Quê ông ở thôn Tam Nông, xã Hưng Đạo, huyện
Tiên Lữ, tỉnh Hưng Yên. Ông xuất thân trong một gia đình có truyền thống
văn học, cha là nhà viết kịch nổi tiếng Học Phi. Bản thân ông cũng sớm bộc lộ
năng khiếu nghệ thuật. Gia đình ông chuyển lên Hà Nội sinh sống từ những
ngày ông còn nhỏ. Vì thế, nếu như mảnh đất Hưng Yên ngọt ngào, bình yên
đã cho ông ký ức đẹp về quê hương, làng mạc, thì Thủ đô Hà Nội tạo cho ông
cốt cách lịch lãm, tài hoa của người con đất kinh thành.
Chu Lai tình nguyện lên đường nhập ngũ khi mới học hết năm thứ nhất
đại học. Thời kỳ đầu của quân ngũ, Chu Lai được điều về làm diễn viên Đoàn
kịch nói Tổng cục Chính trị. Sau đó ông ra chiến trường trực tiếp cầm súng
chiến đấu. Sau đó, ông chuyển về đơn vị đặc công chiến đấu ở vùng ven Sài
Gòn trong những ngày gian khổ ác liệt nhất của cuộc kháng chiến chống Mỹ.
Mười năm ở đơn vị đặc công, Chu Lai giữ chức đại đội trưởng đại đội trinh
sát chiến đấu cho đến ngày giải phóng Miền Nam, thống nhất đất nước. Sau
1975, ông về làm trợ lý tuyên huấn Quân khu VII. Cuối năm 1976, ông về trại
sáng tác văn học Tổng cục Chính trị, sau đó đi học lớp khoá I của trường viết
33
văn Nguyễn Du. Tốt nghiệp trường viết văn, ông về công tác tại tạp chí Văn
nghệ Quân đội.
1.3.2. Các tác phẩm của Chu Lai
1.3.2.1. Các giai đoạn sáng tác
Chu Lai sáng tác từ rất sớm, ngay từ khi 17 tuổi, nhà văn đã cho ra đời
vở kịch ngắn Hũ muối ngƣời Mơ Nông (1963) được đăng trên tờ báo ngành
nhưng không mấy tiếng vang. Phải đến 1975, với truyện ngắn Kỷ niệm vùng
ven đăng trên báo Văn nghệ - Chu Lai mới chính thức “gõ cửa” làng văn.
Hành trình sáng tác của Chu Lai gồm hai giai đoạn: giai đoạn tiền đổi mới
(1975 - 1986); giai đoạn đổi mới (1986 - đến nay).
Giai đoạn từ 1975 đến 1986, Chu Lai đã cho ra mắt bạn đọc các tác
phẩm Ngƣời im lặng (Tập truyện, 1976); Nắng đồng bằng (Tiểu thuyết, 1977);
Đôi ngả thời gian (Tập truyện, 1975); Đêm tháng hai (Tiểu thuyết, 1982);
Vùng đất xa xăm (Tập truyện, 1983); Út Teng (Tiểu thuyết, 1983); Gió không
thổi từ biển (Tiểu thuyết, 1985). Ở những tác phẩm này, mặc dù đã có sự đổi
mới nhưng ngòi bút Chu Lai về cơ bản vẫn trượt theo quán tính văn học của
giai đoạn trước; âm hưởng chung của các tác phẩm này chủ yếu là âm hưởng
sử thi. Người đọc vẫn gặp trong tác phẩm cách miêu tả quen thuộc về con
người ở văn xuôi trước 1975 - đó là sự phân định tính cách rõ ràng của nhiều
anh hùng tham gia trận mạc.
Giai đoạn từ 1986 đến nay, ngòi bút của Chu Lai đã thực sự đổi mới
toàn diện và mạnh mẽ. Cùng với những bức xúc, day dứt xung quanh vấn đề
người lính trở về sau chiến tranh, Chu Lai đã cho ra mắt bạn đọc một loạt tiểu
thuyết dài hơi tạo thành “dòng tiểu thuyết chiến tranh và ngƣời lính của Chu
Lai” góp phần làm phong phú đời sống văn xuôi Việt Nam những năm 1990
như Sông xa (Tiểu thuyết, 1986), Bãi bờ hoang lạnh (Tiểu thuyết, 1990),
Vòng tròn bội bạc (Tiểu thuyết, 1996), Ăn mày dĩ vãng (Tiểu thuyết, 1994),
34
Phố (Tiểu thuyết, 1993), Ba lần và một lần (Tiểu thuyết, 2000), Cuộc đời dài
lắm (Tiểu thuyết, 2002).
Chu Lai là nhà văn có nhiều tiểu thuyết dành được giải thưởng, như
Ăn mày dĩ vãng (giải A của Hội đồng văn học về đề tài chiến tranh cách
mạng và lực lượng vũ trang, Hội Nhà văn năm 1993, giải thưởng văn học Bộ
Quốc phòng năm 1994); Phố (giải thưởng tiểu thuyết Nhà xuất bản Hà Nội -
1993); Ba lần và một lần (Tặng thưởng cuộc thi tiểu thuyết do Hội Nhà văn
tổ chức năm 1998 - 2000); Cuộc đời dài lắm (Giải thưởng Hội Nhà văn,
2001). Chu Lai cũng là nhà văn có nhiều kịch bản sân khấu và kịch bản
phim được dàn dựng như Hà Nội đêm trở gió, Ngƣời Hà Nội, Ngƣời mẹ tự
cháy, Ăn mày dĩ vãng... Có thể thấy, các tác phẩm này đã có những bước bứt
phá, thể hiện những quan niệm mới về hiện thực và con người, phù hợp với
thị hiếu thẩm mỹ mới của công chúng hiện đại. Số phận con người được
quan tâm hơn ở góc độ đời tư, đặc biệt hình ảnh người lính trở về sau chiến
tranh đã trở thành vấn đề nhức nhối với một quá khứ ám ảnh mang nặng ký
ức chiến tranh, họ sẽ như thế nào trong cuộc sống hiện tại thời bình? Đó
chính là cảm hứng bao trùm trong các sáng tác của Chu Lai.
1.3.2.2. Giới thiệu một số tiểu thuyết của Chu Lai dùng làm ngữ liệu
trong luận án
Tiểu thuyết Nắng đồng bằng viết sau 1975 in đậm màu sắc sử thi, mang
nhiều yếu tố lãng mạn viết về chiến tranh. Tám Linh vốn là một chàng trai Hà
Nội tham gia vào một đơn vị đặc công. Cuộc đời của người lính ấy gắn với
những chiến công đầy tự hào khi anh băng rừng, vượt sông, tìm mọi cách tiếp
cận với ấp chiến lược. Sau bao nhiêu tháng ngày ở rừng, trong một đợt hành
quân, Linh bị lạc đường khá lâu. Tìm được đơn vị, anh sống trong một tâm
trạng tràn ngập niềm vui, cái nắng đồng bằng trải ngập trong anh với niềm
háo hức, đam mê tưởng chừng như so với những cái thiếu thốn mà những
35
người lính như anh đều trải qua trong rừng thì cái nắng đồng bằng quả là món
quà quí mà thiên nhiên đã hào phóng ban tặng. Hiện thực chiến tranh chỉ có
thể khiến người lính tăng thêm lòng căm thù chứ không thể giết chết tâm hồn
đẹp đẽ, lãng mạn của họ. Những cảm xúc rung động trong trái tim khi đứng
trước mảnh đất kỷ niệm của một thời trận mạc đã xoá nhoà đi cái nặng nề, u
ám của chết chóc, đau thương. Có lẽ, chính những âm hưởng lãng mạn trong
tác phẩm đã giúp cho những người lính vượt qua sự hi sinh, mất mát khủng
khiếp của chiến tranh, nơi mà sự sống và cái chết luôn cận kề, nơi mà “ngày
nào cũng chôn ngƣời chết và không biết bao giờ đến lƣợt mình”
Ăn mày dĩ vãng được xuất bản sau khi Nắng đồng bằng ra đời, với độ
chín của thời gian và sự chiêm nghiệm suy tư tác phẩm thực sự đã gây được
sự chú ý, hoan nghênh của độc giả. Những sự kiện lịch sử và cả những sự
kiện đời thường được phản chiếu qua tâm hồn người lính. Góc độ đời tư được
khai thác tối đa trong tác phẩm tạo nên những giá trị hiện thực đến nhức nhối.
Nhân vật Hai Hùng với một quá khứ oai hùng và một hành trình tìm về ký ức
với một miền đẹp đẽ, sâu thẳm trong tình yêu với người con gái có cái tên Ba
Sương. Hùng là một mẫu người đàn ông lý tưởng, lại càng lý tưởng hơn nữa
khi anh được đặt trong bối cảnh của cuộc chiến tranh. Ăn mày dĩ vãng cũng có
những trang viết tuyệt đẹp về tình đồng đội, đồng chí trong chiến tranh. Hai
Hùng đã có những mảng ký ức vẹn nguyên, ấm áp tình đồng đội thiêng liêng.
Tình cảm ấy được tôi luyện trong lò lửa chiến tranh và vẫn vẹn nguyên trong
thời hậu chiến khắc nghiệt. Đó là sự gắn bó cùng sẻ chia vui buồn, đắng cay,
gian khổ như anh em một nhà.
Nếu như ở Ăn mày dĩ vãng là những thông điệp từ sự khốc liệt của
chiến tranh in hằn lên số phận người lính trong chiến tranh thì Vòng tròn bội
bạc, người lính khi rời xa cuộc chiến để trở về với đời thường, họ lại mang
theo một bi kịch khác - bi kịch của những con người mang đầy ký ức lạc lõng
giữa dòng chảy hối hả của nền kinh tế thị trường.
36
Ký ức về những ngày ở rừng trong Linh là khoảnh không gian rộng
mở, là tình đồng chí, đồng đội, là một thời oanh liệt, oai hùng, là những tấm
huân chương, huy chương lấp lánh. Lẽ nào tất cả chỉ còn trong dĩ vãng. Lẽ
nào giờ đây nó trở nên vô nghĩa và vĩnh viễn ngủ yên dưới đáy ba lô của một
thời trận mạc khi cuộc đời của họ bước ra khỏi cuộc chiến tranh! Cuộc đời
nghiệt ngã với bao thất vọng, đau đớn, chỉ có trời đất bao la nhuốm một vẻ
đẹp hư ảo là cho anh những giây phút ý nghĩa của quá khứ một thời.
Sáu Nguỵên trong Ba lần và một lần cũng trở về sau chiến tranh với
một hành trang là quá khứ hào hùng của một chiến sĩ quân báo. Trong khoảng
gần bốn trăm trang sách, Chu Lai đã thể hiện rõ nét từng trang đời của người
lính quân báo đánh giặc quên chết này. Khác hẳn với Hai Hùng “kẻ ăn mày dĩ
vãng”, Sáu Nguyện không quên quá khứ và cũng không lảng tránh thực tại.
Từ rừng anh về thành phố mà chẳng cảm thấy lạ lẫm với trận địa mới.
Cũng như Linh trong Vòng tròn bội bạc, Sáu Nguyện trong Ba lần và
một lần, Vũ Nguyên trong Cuộc đời dài lắm đã góp thêm một gương mặt nữa
vào hàng ngũ những người lính kiên trung, anh dũng ngay trong cả thời bình.
Đại đội trưởng trinh sát Vũ Nguyên trở về với vùng rừng cao su trong cương
vị giám đốc nông trường. Trong những tháng ngày đánh vật với cây cao su
đầy nhọc nhằn, nếu không có bản lĩnh của một người lính từng tham gia chiến
trận thì rồi không hiểu cái đầu quá sức nhạy cảm, rất dễ tổn thương của anh sẽ
biến dạng mưng mủ thế nào trước sự oái ăm của cuộc đời.
Qua khảo sát một số tiểu thuyết tiêu biểu của Chu Lai, chúng tôi thấy
trong những trang viết của nhà văn nổi bật là hình ảnh người lính với những
cảm hứng phong phú khác nhau trong chiến tranh và sau chiến tranh. Chiến
tranh đã qua rất lâu, nhưng trong lòng người, đặc biệt là những con người như
Chu Lai thì dấu ấn của nó vẫn vẹn nguyên như ngày nào. Bởi vậy trong tác
phẩm, chiến tranh cũng thật sự ấn tượng ở khía cạnh đau thương, mát mát.
Nhưng dầu vậy, trong bản đàn ấy vẫn vang lên những thanh âm trong trẻo,
37
tinh sương của những tình yêu ban đầu, của tình người e ấp, ngọt ngào đầy
sắc màu lãng mạn.
1.3.3. Hệ thống nhân vật trong tiểu thuyết của Chu Lai
Thế giới nhân vật trong tiểu thuyết của Chu Lai khá đa dạng, phong
phú gần như là một bức tranh xã hội thu nhỏ với đủ các đặc điểm: về giới
tính (nam /nữ), về thành phần xuất thân (bộ đội, nông dân, trí thức), về
cương vị xã hội (thủ trƣởng, giám đốc, ngƣời lính, ngƣời làm thuê), về thái
độ (trân trọng, yêu thƣơng, căm ghét), về đạo đức (tốt, xấu, chân thành, xảo
trá), về quan hệ (đồng chí, bạn bè, ngƣời yêu, kẻ thù), v.v… Hoàn cảnh của
các nhân vật hoạt động cũng khá là rộng với thời gian trong chiến tranh (thời
chiến) và sau chiến tranh (hoà bình); không gian mà nhà văn miêu tả, trần
thuật cho các nhân vật hoạt động là chiến trường, công trường, nông trường,
trong đời thường.
Dù nhân vật thế nào, hoàn cảnh giao tiếp ra sao thì ngôn ngữ nhân
vật cũng được thể hiện sinh động qua giọng điệu, từ ngữ mà nhân vật thể
hiện trong hội thoại. Nhân vật thế nào thì tính cách, hành động và ngôn ngữ
thế ấy. Thế giới nhân vật của Chu Lai rất đa dạng, để tìm hiểu tính cá thể hóa
của các nhân vật mà nhà văn đã dày công xây dựng, trước hết chúng tôi hệ
thống hóa, phân loại và nêu một số kiểu nhân vật tiêu biểu.
1.3.3.1. Kiểu nhân vật ngƣời lính
Trong hệ thống nhân vật mà nhà văn đã xây dựng trong các tác phẩm,
đông đảo nhất và cũng là chủ đạo nhất là nhân vật người lính. Cụ thể, tác
phẩm: Ăn mày dĩ vãng có 15 nhân vật là người lính, Ba lần và một lần có 13
nhân vật, Gió không thổi từ biển có 4, Vòng tròn bội bạc có 9, Cuộc đời dài
lắm có 4, Phố có 9, Nắng đồng bằng có 28, Bãi bờ hoang lạnh có 6, Sông xa
có 13, Chỉ còn một lần có 9 nhân vật là người lính.
Trong số nhân vật người lính, nhà văn thường chọn lựa một kiểu
người lính nhất định là nhân vật chính, nhân vật trung tâm của tác phẩm.
38
Họ có thể là người lính trong chiến tranh (như: Sáu Nguyện trong Ba lần
và một lần, Hai Hùng trong Ăn mày dĩ vãng, Hai Thanh trong Sông xa,
Thanh Nhàn trong Gió không thổi từ biển…) hay người lính thời hậu chiến
(như:Vũ Hà Nguyên trong Cuộc đời dài lắm, Nam trong Phố, Linh trong
Vòng tròn bội bạc…).
1.3.3.2. Các kiểu nhân vật khác
Ngoài kiểu nhân vật người lính có tính trung tâm, chủ đạo, trong các
tác phẩm của mình, Chu Lai còn xây dựng một hệ thống các kiểu nhân vật
khác - không phải là người lính. Họ có vị thế, tính cách, hành động, suy nghĩ
và môi trường hoàn cảnh khá là đa dạng, phong phú.
Nhân vật người nông dân, như: Út Cò ngẳng, Rổn, Năm Thúy, Hương,
Má Sáu, trong Nắng đồng bằng; Riềng, Lê, Tiến trong Sông xa….
Nhân vật người trí thức, như: cán bộ sở lâm nghiệp trong Ăn mày dĩ
vãng; Hải, Nga, ông Luân trong Gió không thổi từ biển; Hạnh, bà trưởng
phòng, Tuyến, Thủy, chị vợ Thịnh, Khâm, Quỳnh, ông anh Linh trong Vòng
tròn bội bạc; Hà Thương trong Cuộc đời dài lắm; Lan Thanh, Cầu trong Ba
lần và một lần;…
Nhân vật kẻ thù, như: Địch, Tường, Giôn trong Ăn mày dĩ vãng; thằng
Xầm, Tư Hạnh trong Nắng đồng bằng; Thuấn, Hoàng Xanh, đô trưởng trong
Gió không thổi từ biển; Viên đại úy, đồn trưởng, Quang trong Sông xa;…
Và các nhân vật khác với đủ các ngành nghề, như: ông già thƣờng trực,
gã trai phục vụ nhà hàng, cô bé tiếp viên bia ôm, cô gái lễ tân, bà chủ quán…
trong Ăn mày dĩ vãng; nhân vật thợ may trong Nắng đồng bằng; nhân vật chủ
tiệm kim hoàn, thợ may trong Gió không thổi từ biển; Cô chủ quán Thanh
Thủy, Thuần đội trưởng đội bảo vệ, Tuấn tử thần buôn bán trong Cuộc đời
dài lắm; chị hàng mía, chị hàng nước, ông già bán cà phê trong Phố; Sáu
Phượng buôn bán nhỏ, Hương kinh doanh xe máy, chị tài vụ trong Ba lần và
một lần; Dung họa sĩ, Hòa giúp việc, Vũ bác sĩ kiêm đánh máy chữ, Thi Hoài
39
nhà thơ, ông già đánh cá trong Gió không thổi từ biển; Thu Mây ca sĩ, Hai
Tính trang trại viên, Chu Thiên trợ lý trong Chỉ còn một lần,v.v…
Đặc điểm chung của các nhân vật này là dù họ không phải là người lính,
nhưng ít nhiều đều bị cuốn hút vào môi trường chiến tranh (dù là chiến tranh
trực tiếp hay chiến tranh đã lùi xa) nên có những tính cách và suy nghĩ mà âm
hưởng chiến tranh vẫn ít nhiều vang vọng vào trong cuộc sống của họ, ngôn
ngữ của họ.
Có thể nhận thấy, thế giới nhân vật trong các tiểu thuyết của Chu Lai
như là một hình ảnh thu nhỏ của xã hội - con người Việt Nam trong một giai
đoạn lịch sử - xã hội đầy biến động: thời chiến và thời hậu chiến. Bối cảnh xã
hội ấy là nền để các nhân vật bộc lộ bản chất, tư tưởng và qua các đoạn hội
thoại giữa các nhân vật, làm ta thấy rõ hơn, cụ thể hơn về đặc điểm, tính cách
của từng kiểu nhân vật và của từng nhân vật.
Bảng 1.1. Thống kê số lượng nhân vật chia theo giới tính và nghề nghiệp
chức vụ trong 10 cuốn tiểu thuyết của nhà văn Chu Lai
Giới tính nhân vật Chức vụ, nghề nghiệp Tổng/Tỷ lệ TT của nhân vật % Nam Nữ
60/153 16/64 76/217 1 Nhân vật là lính (35,0%)
5/153 3/64 2 Nhân vật là nông dân 8/217 (3,6%)
33/153 7/64 40/217 3 Nhân vật là trí thức (18,4%)
55/153 38/64 4 93/217 (42,8%) Nhân vật làm các ngành nghề khác
153 (70,5%) 64 (29,4%) Tổng 100%
40
1.4. Ngôn ngữ nhân vật và từ ngữ lời thoại nhân vật trong tác
phẩm của Chu Lai
1.4.1. Ngôn ngữ nhân vật
Đã có nhiều công trình nghiên cứu, từ góc độ lý luận văn học, thi pháp
học, ngôn ngữ học bàn về khái niệm ngôn ngữ tác giả [chẳng hạn như trong các
tài liệu: 1, 2, 3, 36, 50, 58, 95, 126]. Trên bề mặt hình thức (văn bản in ấn) của
tác phẩm, có sự phân biệt rất rõ ngôn ngữ tác giả và ngôn ngữ nhân vật, trong
đó ngôn ngữ nhân vật được thể hiện thông qua lời thoại, được đánh dấu bằng
những dấu hiệu nhất định, thể hiện qua cuộc thoại, đoạn thoại, cặp thoại.
Những dấu hiệu đó thường là: có lời dẫn thoại báo hiệu, có dấu câu (mở đầu
gồm có dấu hai chấm, dấu gạch ngang/ hoặc dấu ngoặc kép). Ví dụ: Ông Bổng
bảo vợ tôi: - Chị Thủy luộc hộ con gà, nấu hộ nồi xôi (Nguyễn Huy Thiệp).
“Ngôn ngữ nhân vật là một trong các phƣơng tiện quan trọng đƣợc nhà
văn sử dụng nhằm thể hiện cuộc sống và cá tính nhân vật” [50; tr.183]. Ngôn
ngữ nhân vật có vai trò rất quan trọng trong việc liên kết các nội dung và thúc
đẩy sự kiện trong tác phẩm vận động và phát triển; nó còn có vai trò bộc lộ
suy nghĩ, tình cảm của nhân vật, thể hiện tư tưởng của tác giả - chủ đề của tác
phẩm. Có những ý kiến nhà văn không tự nói ra mà mượn lời nhân vật nói
thay mình như một sự vô can…
Ngôn ngữ tác giả là ngôn ngữ đơn thoại, còn ngôn ngữ nhân vật là
ngôn ngữ đối thoại (các lời thoại nhân vật). “Đối thoại là một dạng thức của
lời nói, trong đó có sự hiện diện của ngƣời nghe, mỗi phát ngôn đều hƣớng
đến ngƣời tiếp chuyện xoay quanh một chủ đề hạn chế của cuộc độc thoại”
[152, tr.56]. Ngôn ngữ nhân vật còn có thể tồn tại ở dạng độc thoại (thực chất
cũng là một dạng đối thoại - nhân vật đối thoại với chính mình).
Ngôn ngữ nhân vật, cùng với ngôn ngữ tác giả làm thành một chỉnh
thể, vừa liền mạch, vừa có những cách quãng; tạo nên tính đa diện, đa thanh,
tránh được sự đơn điệu một chiều của tác phẩm tự sự.
41
Trong tác phẩm tự sự và kịch, tác giả rất chú trọng xây dựng ngôn ngữ
nhân vật. Bởi vì ngôn ngữ của nhân vật chính là ngôn ngữ, tư tưởng, quan
niệm của tác giả. Tác giả mách bảo cho người đọc tính cách của nhân vật qua
ngôn ngữ hội thoại và các chi tiết khác. Nhân vật được xây dựng nên bằng
ngôn ngữ miêu tả của tác giả và bằng chính lời thoại của nhân vật.
Ngôn ngữ nhân vật chính là lời nói trực tiếp của nhân vật trong tác
phẩm văn học được biểu đạt bằng các tín hiệu ngôn ngữ thông qua sự lựa
chọn của nhà văn nhằm mục đích tái hiện một cách sinh động tính cách đặc
điểm của nhân vật. Tuy nhiên để thể hiện đời sống và cá tính nhân vật nhà
văn phải “cá thể hóa ngôn ngữ của nó” phải làm cho ngôn ngữ nhân vật trở
thành một hình thái biểu hiện riêng biệt. Đây là một luận điểm quan trọng khi
phân tích tìm hiểu ngôn ngữ nhân vật. Trong tiểu thuyết, ngôn ngữ nhân vật
không những có vai trò then chốt trong phương thức tự sự mà còn là yếu tố cơ
bản thể hiện phong cách nhà văn, truyền đạt cái nhìn, giọng điệu, cá tính của
tác giả. Ngôn ngữ nhân vật có thể chỉ có một giọng, có thể có hai giọng (lời
nhại, mỉa mai, lời nửa trực tiếp, v.v...) thể hiện sự đối thoại với ý thức khác về
cùng một đối tượng miêu tả. Ngôn ngữ nhân vật dưới hình thức lời người kể
chuyện còn mang sắc thái, quan điểm bổ sung do lập trường, đặc điểm tâm lý,
cá tính của nhân vật mang lại. Ngôn ngữ nhân vật tiểu thuyết là một trong các
phương tiện quan trọng được nhà văn sử dụng nhằm thể hiện cuộc sống và cá
tính nhân vật. Trong tiểu thuyết, nhà văn có thể cá thể hoá ngôn ngữ nhân vật
bằng nhiều cách: nhấn mạnh cách đặt câu, ghép từ, cách phát âm đặc biệt của
nhân vật, cho nhân vật lắp lại những từ, câu mà nhân vật thích nói, kể cả từ
nước ngoài và từ địa phương, v.v.. Trong các tác phẩm tiểu thuyết, nhà văn
còn thường trực tiếp miêu tả phong cách ngôn ngữ của nhân vật.
Trong tiểu thuyết Chu Lai, nhà văn đã dung nạp nhiều dạng thức khác
nhau của nhiều kiểu loại nhân vật. Ngôn ngữ thật sự được giải phóng, tạo nên
giá trị nghệ thuật cho tiểu thuyết thông qua đối thoại. Nhờ đối thoại mà các vấn
42
đề được xem xét bằng cái nhìn đa diện. Nhân vật được nhìn nhận với tư cách là
một chủ thể độc lập. Nhân vật có vị thế ngang bằng và cùng đối thoại với nhà
văn. Ý thức đối thoại trong tiểu thuyết Chu Lai được phát huy mạnh mẽ.
Khảo sát tiểu thuyết Chu Lai, có thể nhận thấy, ngôn ngữ nhân vật
trong tiểu thuyết hầu hết được cá thể hóa cao độ đồng thời lượng thông tin
được gia tăng. K.Gunnar đã khái quát: “Chân lí luôn nằm ngoài chúng ta và
thay vì lèn chặt đời mình bằng những ngôn từ, chúng ta có thể rút lại, nói ít
đi, nhƣng hãy làm gia tăng trọng lƣợng cho mỗi từ, hãy làm mỗi từ chứa đầy
sự bí ẩn và niềm kính sợ, ngôn ngữ xứng đáng đƣợc nhƣ vậy” [76, tr.10].
1.4.2. Từ ngữ, vai trò của từ ngữ trong tác phẩm và định hướng việc
nghiên cứu từ trong tác phẩm
1.4.2.1. Từ ngữ và vai trò của từ ngữ trong tác phẩm
Trong giao tiếp, người ta trao đổi thông tin, biểu đạt tình cảm với nhau
bằng nhiều phương tiện, song ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp quan trọng
nhất. Đơn vị giao tiếp cơ bản có chức năng truyền tải thông tin là ngôn bản và
câu. Trong câu, từ là “đơn vị ngôn ngữ mà bắt đầu từ nó ngôn ngữ mới thực
hiện chức năng giao tiếp và tƣ duy” [21, tr.20]. Từ là một đơn vị có nhiều bình
diện: ngữ âm, ngữ pháp, ngữ nghĩa, phong cách và chức năng. Ở bình diện
chức năng, từ đóng vai trò miêu tả, bộc lộ và tạo lập các hành động phát ngôn.
Khi đi vào giao tiếp, các bình diện ấy được hiện thực hóa một cách sinh động,
có những biến đổi linh hoạt trong lời nói. Nhiều công trình nghiên cứu của các
nhà Việt ngữ học (Đái Xuân Ninh, 1978; Đỗ Hữu Châu, 1999; Bùi Minh Toán,
1999) đã khẳng định điều này. Các tác giả khẳng định: từ ngữ là đóng vai trò
đặc biệt quan trọng; quan trọng không chỉ ở việc tạo lập thông tin của câu mà
còn biểu hiện tư tưởng, phong cách của chủ thể phát ngôn.
Do đó, một trong những hướng nghiên cứu đặc trưng của ngôn ngữ nói
chung, ngôn ngữ trong hoạt động nói riêng chính là tìm hiểu sự hành chức của
43
từ ngữ trong ngôn bản. Qua đây, người ta có thể đánh giá được một cách chân
xác đặc điểm, vai trò của từ ngữ thể hiện tính sinh động và linh hoạt như thế
nào trong các ngữ cảnh giao tiếp. Căn cứ vào phạm vi và phong cách sử dụng,
người ta chia từ làm hai loại: từ ngữ hội thoại và từ ngữ sách vở hay còn gọi
là từ thuộc phong cách nói và từ thuộc phong cách viết.
Từ là chất liệu đầu tiên của tác phẩm văn học. Tác phẩm văn học là sản
phẩm của nghệ thuật ngôn từ. Đó là những luận điểm được khẳng định hiển
nhiên, nói lên vai trò của từ ngữ trong sáng tạo nghệ thuật. Từ ngữ tham gia
vào trong giao tiếp hàng ngày cũng như trong tác phẩm văn học để tổ chức
thành các câu, các đoạn văn và toàn bộ tác phẩm; từ có mặt trong ngôn ngữ
tác giả (thường là những từ thuộc phong cách viết) và ngôn ngữ nhân vật
(thường là những từ thuộc phong cách nói)… Đối tượng nghiên cứu của luận
án là ngôn ngữ nhân vật, tức là tìm hiểu các lời đối thoại trong tác phẩm, mà
các quan hệ đối thoại, như M. Bakhtin đã chỉ rõ: “có thể đi sâu vào bên trong
lời phát ngôn, thậm chí thâm nhập vào từng từ ngữ, nếu trong từ ngữ đó có
hai tiếng nói xung đột nhau theo kiểu đối thoại” [2, tr.174].
1.4.2.2. Định hƣớng việc nghiên cứu từ trong tác phẩm để làm rõ đặc
điểm ngôn ngữ nhân vật trong tiểu thuyết Chu Lai
Khi tìm hiểu ngôn ngữ trong hội thoại, mà cụ thể ở đây là ngôn ngữ
nhân vật, để nhận xét rút ra các đặc điểm về sự hành chức của ngôn ngữ trong
đời sống nói chung, trong giao tiếp nghệ thuật nói riêng thì có nhiều vấn đề,
nhiều phương diện có thể khảo sát, nghiên cứu, chẳng hạn như: hành động
ngôn ngữ, lập luận, ý nghĩa tường minh và hàm ẩn, các đơn vị hội thoại,
v.v… Trước các vấn đề rộng lớn đặt ra như vậy, trong khuôn khổ luận án,
chúng tôi chỉ chọn một trong những phương diện có liên quan đến ngôn ngữ
nhân vật, phương diện đó là từ - đơn vị nhỏ nhất - góp phần tạo lập các đơn vị
hội thoại trong ngôn ngữ nhân vật.
44
Cơ sở để lựa chọn từ làm đối tượng và đơn vị khảo sát của luận án là
căn cứ vào vai trò và chức năng hoạt động của từ trong giao tiếp nói chung,
giao tiếp nghệ thuật nói riêng, căn cứ vào sự hành chức của từ trong tác phẩm
cũng như cách tiếp cận nghiên cứu từ từ quan điểm ngữ dụng. Cụ thể là:
a) Tác phẩm văn học là sản phẩm của nghệ thuật ngôn từ. Từ ngữ tham
gia vào trong giao tiếp hàng ngày cũng như trong tác phẩm văn học có thể có
đến hàng vạn từ, với nhiều đặc điểm về nguồn gốc, cấu tạo, ngữ nghĩa, phong
cách, chức năng… hết sức phong phú và đa dạng. Để làm sáng tỏ đặc điểm
hoạt động và vai trò của ngôn từ trong sáng tác văn học, cụ thể là làm rõ đặc
điểm ngôn ngữ nhân vật, chúng tôi dựa vào chức năng dụng học của từ thể
hiện ở lời thoại các nhân vật trong tiểu thuyết của Chu Lai.
Chức năng dụng học, theo Bùi Minh Toán, “là chức năng “bộc lộ” các
nhân vật giao tiếp về các mặt tình cảm, thái độ, quan hệ của họ đối với nhau,
và thái độ tình cảm của họ đối với sự vật, sự việc đƣợc nói tới hay đối với
chính hoạt động giao tiếp họ đang tiến hành” [136, tr.51].
b) Khi khảo sát các lớp từ từ góc độ chức năng dụng học, chúng tôi
nhận thấy các lớp từ nổi bật nhất trong tác phẩm của Chu Lai gồm: từ xƣng hô,
từ thông tục, quán ngữ và thành ngữ… Lí do chọn lựa các lớp từ này để tìm
hiểu, phân tích trong các chương của luận án là:
- Dựa vào kết quả thống kê hệ thống nhân vật, hệ thống từ ngữ ở lời
thoại trong các tiểu thuyết của nhà văn Chu Lai, chúng tôi nhận thấy: các từ
ngữ mang tính khẩu ngữ (từ xƣng hô, từ thông tục, quán ngữ và thành ngữ) có
điểm nổi bật về số lƣợng (xuất hiện nhiều trong các lời thoại) và tần số sử
dụng (lặp đi lặp lại);
- Căn cứ vào khả năng “bộc lộ”, chức năng “dụng học” của các từ ngữ
trong việc thể hiện đặc điểm và tính cách nhân vật. Theo Đỗ Hữu Châu: “Đại
từ là một hiện tượng dụng học bởi vì chúng chỉ được xác định nhờ mối quan
hệ với người nói người nghe, với vai trò và vị thế của người này...” [20, tr.
45
226]; các từ thông tục, quán ngữ, thành ngữ... cũng được xem xét từ góc độ
dụng học, bởi vì chúng cũng nằm trong số “có không ít những nét nghĩa có
quan hệ với người sử dụng ngôn ngữ, người nói hoặc người nghe” [20, tr. 229].
Theo chúng tôi, tìm hiểu phân tích các lớp từ ngữ dựa vào các căn cứ
này có thể giúp phát hiện ra đặc điểm ngôn ngữ nhân vật, ngôn ngữ của tác
phẩm và qua đó là phong cách của nhà văn trong việc phản ánh đời sống xã
hội trong những hoàn cảnh lịch sử nhất định. Đó là tiền đề và định hướng để
chúng tôi tìm hiểu đặc điểm ngôn ngữ nhân vật từ bình diện từ ngữ trong
trong tiểu thuyết của nhà văn Chu Lai.
1.5. Tiểu kết
Trong chương 1, chúng tôi đã trình bày những vấn đề lí thuyết liên
quan đến đề tài, bao gồm: lý thuyết về hội thoại, ngôn ngữ hội thoại, vai trò
của từ ngữ trong tác phẩm và cơ sở lý luận của việc tìm hiểu từ ngữ để làm rõ
đặc điểm của ngôn ngữ nhân vật trong tác phẩm của Chu Lai.
Chương 1 cũng giới thiệu một số điểm khái quát về tác giả Chu Lai và
các tác phẩm của ông liên quan đến nguồn ngữ liệu mà luận án khảo sát, phân
tích, chứng minh. Chu Lai là một tác giả có khối lượng tác phẩm khá đồ sộ,
nhiều vấn đề đặt ra trong các tác phẩm của nhà văn cần được nghiên cứu,
trong đó có vấn đề ngôn ngữ nhân vật. Tìm hiểu ngôn ngữ nhân vật có thể
giúp ta hiểu rõ hơn đặc trưng ngôn ngữ nghệ thuật và phong cách nghệ thuật
của nhà văn trong thời kỳ đương đại.
46
Chương 2
ĐẶC ĐIỂM NGÔN NGỮ NHÂN VẬT
TRONG TIỂU THUYẾT CHU LAI QUA TỪ NGỮ XƯNG HÔ
2.1. Một số vấn đề chung về từ ngữ xưng hô trong tiếng Việt
2.1.1. Khái niệm từ xưng hô trong tiếng Việt
Xƣng hô (hay còn gọi là xưng gọi) là thuật ngữ dùng để chỉ việc tự gọi
tên mình (xưng) và gọi tên người khác (hô). Có thể nói, trong bất kỳ cuộc
giao tiếp nào cũng không thể thiếu được hành động xưng hô và các từ ngữ
dùng để xưng hô. Từ xưng hô đã được nhiều tác giả đề cập trong các công
trình nghiên cứu về ngữ pháp, về dụng học (như: Nguyễn Tài Cẩn, Đỗ Hữu
Châu, Diệp Quang Ban, Đinh Văn Đức, Hoàng Trọng Phiến, Cù Đình Tú,
Nguyễn Văn Khang, Nguyễn Văn Chiến, Đỗ Thị Kim Liên, Bùi Thị Minh
Yến, Trương Thị Diễm)…
Xưng hô là “tự mình xƣng mình và gọi ngƣời khác là gì đó khi nói với
nhau khi biểu thị tính chất của mối quan hệ với nhau” (Từ điển tiếng Việt).
Theo Đỗ Thị Kim Liên: “Từ xƣng hô là những từ dùng để xƣng hô giữa các
nhân vật khi giao tiếp. Xƣng hô cũng đƣợc xem nhƣ một phạm trù, đó là phạm
trù ngôi. Khi nói đến từ xƣng hô, ngƣời ta thƣờng đề cập đến nhóm đại từ xƣng
hô đích thực và danh từ thân tộc chuyển hóa thành từ xƣng hô” [87, tr.174]. Các
loại từ dùng để xưng hô trong giao tiếp được Cù Đình Tú xác định: “Bên cạnh
các đại từ nhân xƣng: tôi, ta, tao, chúng tôi, chúng tao (ngôi 1), mày, bay, chúng
mày, chúng bay (ngôi 2), nó, hắn, y, va, nghỉ, chúng nó (ngôi 3), tiếng Việt còn
dùng tất cả các từ chỉ họ hàng, thân thuộc làm từ xƣng hô, nhƣ: cụ, bà, ông, cha,
mẹ, chú, thím, cô, dì, cậu, mợ, anh, chị, em, cháu… Tuy nhiều nhƣ vậy mà vẫn
chƣa đủ, ngƣời ta còn lấy các từ chỉ chức tƣớc của cá nhân, ngƣời ta còn lấy cả
họ, và cả tiếng đệm giữa họ và tên nữ giới (thị) để dùng làm từ xƣng hô, thậm
chí còn dùng cách nói trống không (từ xƣng hô zero) để xƣng hô” [141, tr.258].
47
Xưng hô là một tập quán và là biểu hiện của văn hoá ứng xử, qua cách
xưng hô người ta có thể nhận biết thái độ, tình cảm, quan hệ của những người
người đối thoại. Trong giao tiếp nói chung, giao tiếp bằng tiếng Việt nói
riêng, người ta huy động một số lượng khá lớn các từ để xưng hô và giao tiếp
cũng đòi hỏi người ta phải biết cách lựa chọn từ xưng hô thích hợp. Trong tác
phẩm văn học, hệ thống từ xưng hô phong phú là một “lợi thế” để các tác giả
thể hiện khả năng vận dụng và sáng tạo của mình vào tác phẩm. Việc vận
dụng thế nào là tùy vào cá nhân và các nhân vật (tính cách, tuổi tác, trình độ,
tình cảm…) gắn với hoàn cảnh giao tiếp của từng đối tượng. Khi giao tiếp,
người ta có thể dùng từ xưng hô hoặc có thể không (nói trống). Khảo sát lời
thoại giữa các nhân vật trong tiểu thuyết Chu Lai, số lượng lời thoại dùng từ
xưng hô là 22171 lần (chiếm tỉ lệ 98,1%) cao hơn hẳn số lượng lời thoại
không dùng từ xưng hô là 423 lần (chiếm tỉ lệ 1,8%).
2.1.2. Chức năng của từ xưng hô trong tiếng Việt
Từ xưng hô là một lớp từ thông dụng, được con người sử dụng khi thực
hiện hành vi giao tiếp bằng ngôn ngữ. Ngoài chức năng xưng - hô, nhóm từ
này còn có các chức năng khác, bởi khi dùng chúng trong giao tiếp các từ này
đã “mặc nhiên” bộc lộ các ý nghĩa, các thông tin nào đó mà không cần các
yếu tố phù trợ khác (thông tin tiền giả định).
Chẳng hạn, trong Ăn mày dĩ vãng chỉ một câu thoại ngắn “- Ba Sƣơng!”
đã có thể cho ta nhiều thông tin về các nhân vật (ngƣời nói /ngƣời nghe) trong
cuộc giao tiếp. Các thông tin đó có thể là:
1) Từ hô gọi (Ba Sƣơng): gọi tên riêng, ngôi 2, số ít;
2) Vị thế: ngang bằng nhau;
3) Mối quan hệ: thân mật, tình cảm;
4) Mục đích: chào hỏi, biểu cảm.
Lời thoại chỉ với một từ hô gọi như thế đã có thể bộc lộ nhiều thông tin
ta có thể suy ra mà chưa cần xem xét nó trong ngữ cảnh của cuộc thoại. Qua
48
những thông tin thể hiện qua ví dụ trên, có thể thấy rõ rằng từ xưng hô còn có
chức năng biểu thị vị thế và tình thái của các nhân vật tham gia giao tiếp.
Như vậy, có thể hiểu từ xƣng hô là những từ dùng để xƣng (bản thân) và
hô (với ngƣời khác) trong giao tiếp. Xét về nguồn gốc, từ xƣng hô có nhiều loại:
là những đại từ nhân xƣng chuyên dụng để xƣng hô (tôi, mày, nó), là những từ
loại khác chuyển loại dùng để xƣng hô (bác, em, đồng chí). Từ xƣng hô ngoài
chức năng dùng để xƣng hô còn biểu thị vị thế và tình thái trong giao tiếp.
2.2. Các loại từ ngữ xưng hô trong ngôn ngữ nhân vật của tiểu
thuyết Chu Lai
2.2.1. Từ xưng hô là đại từ
2.2.1.1. Xung quanh khái niệm đại từ nhân xƣng
a) Đại từ nhân xưng “là những từ dùng để chỉ ngƣời hay vật tham gia
giao tiếp”[5, tr.1].
Hệ thống đại từ nhân xưng (ĐTNX) xuất hiện trong ngôn ngữ giao tiếp
có chức năng trỏ ngôi trong xưng hô hay nói cách khác là mang tính phạm trù
của ngôi. Trong tiếng Việt, nhóm ĐTNX ngôi thứ nhất: trỏ người nói, có 24
đại từ, trong đó: số ít có 8 đại từ: ta, ngƣời ta, tôi, tớ, mình, tui, tao, thiếp (từ
cũ), số nhiều có 16 đại từ: chúng ta, chúng tôi, chúng tớ, chúng mình, chúng
tao, bọn ta, bọn tôi, bọn tớ, bọn mình, bọn tui, bọn tao, tụi tôi, tụi ta, tụi mình,
tụi tui, tụi tao. Nhóm ĐTNX thứ 2: trỏ người nghe, có 22 đại từ, gồm: 10 đại
từ số ít: bạn, mi, nhỏ, mày, ngƣơi, ngƣời, ngài, chàng- nàng (từ cũ), và 12 đại
từ số nhiều: các bạn, các cậu, chúng bay, bay, chúng mày, bọn bay, bọn mày,
mấy đứa, các ngƣơi, mấy ngƣời, các ngài. Nhóm ĐTNX ngôi thứ 3: trỏ người
hay vật được đề cập tới và không trực tiếp tham gia giao tiếp, có 21 đại từ
gồm: 8 đại từ số ít: nó, hắn, gã, y, lão, thị, ả, mụ và 13 đại từ số nhiều: ngƣời
ta, chúng, chúng nó, bọn chúng, lũ chúng nó, tụi nó, bọn nó, bọn hắn, các
hắn, các lão (ấy, đó), các thị, các ả, các mụ (ấy, đó).
Trong số 66 ĐTNX tiếng Việt, có một số ít đại từ có tính lưỡng ngôi
hoặc gộp ngôi: ta (ngôi 1 và ngôi 2), người ta (ngôi 1 và ngôi 3).
49
b) Thống kê số lần xuất hiện đại từ nhân xưng ở ngôn ngữ nhân vật
trong tiểu thuyết Chu Lai
Nhân vật trong tiểu thuyết Chu Lai sử dụng từ xưng hô rất phong phú
trong mỗi hoàn cảnh giao tiếp. Với mục đích xác định ngôi giao tiếp cho các
nhân vật, nhà văn đã có những thay đổi linh hoạt trong sử dụng ngôi nhân vật.
Việc khảo sát tiểu thuyết của nhà văn Chu Lai cho thấy, trong tổng số lời
thoại nhân vật có dùng các từ xưng hô là 22.171 lần thì ĐTNX là 8.820 lần,
chiếm 39,7%, các từ xưng hô khác là 13.351 lần, chiếm 60,2%.
Căn cứ vào hệ thống đại từ nhân xưng trong tiếng Việt, chúng tôi đã
khảo sát ngôn ngữ nhân vật Chu Lai trong 10 cuốn tiểu thuyết và thống kê số
lượng và tần số sử dụng đại từ nhân xưng trong lời thoại nhân vật cụ thể qua
bảng sau:
Bảng 2.1. Bảng thống kê tần số sử dụng ĐTNX trong lời thoại nhân vật
của tiểu thuyết Chu Lai
ĐTNX trong lời thoại (tần số)
ĐTNX ngôi 1
ĐTNX ngôi 2
ĐTNX ngôi 3
Số ít
Số nhiều
Số ít
Số nhiều
Số ít
Số nhiều
mày (1153), mi (14), bay (12).
bọn mày (120), chúng mày (34), bọn bây
nó (970), hắn (651), thằng (22), tớ (92), gã
chúng nó (223), người ta (187), chúng (34),
tôi (1639), tao (1230), tớ (437), mình (239),
chúng tôi (280), chúng ta (236), bọn mình (131),
(29), tụi bây (23).
(89), kẻ (12), người ta (10).
bọn nó (14), bọn chúng (12), bọn hắn (12).
tui (57), ta (48), bọn này (12), bọn tao (67), chúng ta (378), người
chúng mình (98), bọn tao (82), mình (75), ta (69), tụi mình (23).
ta (6).
4113/8820 (46,6%)
994/8820 (11,2%)
1179/8820 (13,3%)
206/8820 (2,3%)
1846/8820 (20,9%)
482/8820 (54,%)
50
Từ kết quả thống kê này, chúng tôi đi vào tìm hiểu vai trò của đại từ
nhân xưng ở các ngôi trong ngôn ngữ nhân vật.
2.2.1.2. Vai trò của đại từ nhân xƣng trong lời thoại nhân vật
Để làm rõ vai trò của đại từ nhân xưng thể hiện trong ngôn ngữ nhân
vật trong tiểu thuyết của Chu Lai, chúng tôi thống kê số lượng và tần số sử
dụng của các đại từ này. Số liệu thống kê cho thấy trong số các từ xưng hô
được dùng trong lời thoại nhân vật, đại từ nhân xưng ngôi 1 là 5107 lần chiếm
57,9%, trong đó đại từ nhân xưng ngôi thứ 1, số ít được dùng nhiều nhất với
4.113 lượt dùng chiếm 46,6%; những từ xuất hiện nhiều nhất của nhóm này
là: tôi, tao, tớ … đại từ nhân xưng ngôi 1, số nhiều là 994 lần chiếm 11,2%,
gồm các từ: chúng tôi, chúng ta, bọn mình...
Đại từ nhân xưng ngôi thứ 2 được sử dụng 1305 lần chiếm 14,7%,
trong đó đại từ nhân xưng ngôi thứ 2, số ít xuất hiện nhiều trong lời thoại
nhân vật với 1.179 lần, chiếm tỷ lệ 13,3%, từ xuất hiện nhiều nhất trong loại
từ này là: mày; số nhiều là 206 lần chiếm 2,3%, gồm những từ: bọn mày,
chúng mày…
Đại từ nhân xưng ngôi thứ 3 xuất hiện 2.328 lần chiếm 26,3%, trong đó
đại từ nhân xưng ngôi thứ ba, số ít là: 1846 lần, chiếm 20,9%, gồm các từ: nó,
hắn, thằng…; đại từ nhân xưng số nhiều là 482 lần, chiếm 5,4%, gồm các từ:
chúng nó, ngƣời ta, chúng...
Khảo sát lời thoại các nhân vật, ta thấy cách dùng từ xưng hô nói chung,
dùng đại từ nói riêng đã thể hiện khá rõ các thông tin liên quan giữa các nhân
vật. Các thông tin đó bao gồm: vị thế, thứ bậc (cao, thấp, ngang hàng), quan
hệ (gia đình, xã hội) và tình thái (trang trọng, bình thƣờng, thân mật, coi
thƣờng) giữa những người đối thoại.
Mỗi từ và nhóm đại từ nhân xưng đều có chức năng vai trò tự thân
(xƣng hô, thể hiện các thông tin), tuy nhiên khi ở trong các ngữ cảnh giao tiếp
51
(hành chức trong đời sống) về cơ bản chúng vẫn thể hiện các vai trò chức
năng đó nhưng linh hoạt phong phú trong các ngữ cảnh, nhất là vai trò biểu
thị tình thái. Sau đây, chúng tôi đi vào miêu tả các ngữ cảnh, phân tích vai trò
biểu thị tình thái của đại từ nhân xưng trong lời thoại nhân vật.
a) Đại từ nhân xưng biểu thị thái độ thân tình
- Tao nghe nói nó chƣa chết? Chết chó nào đƣợc! Mổ xẻ, vá víu cho nó
xong, tao chắc mẩm rằng nhất định nó sẽ nghẻo củ tỏi trên đƣờng chuyển về
phía sau, chín miểng đạn, toàn vào chỗ phạm chứ ít ỏi gì, vậy mà mấy tháng
sau đã lại nghe nói nó đang vồ đàn bà con gái ở trên rừng già rồi. Chỉ tội
nghiệp cho Hai Hợi… [XIII, tr.117].
Qua cách xưng hô của hai nhân vật trong đoạn hội thoại trên, đại từ
nhân xưng tao được sử dụng đã cho biết mối quan hệ giao tiếp của họ. Đây là
quan hệ thân tình giữa hai người bạn thân từng vào sinh ra tử trong chiến
tranh và bây giờ họ lại gặp lại nhau trong cuộc sống đời thường để ôn lại
những kỷ niệm một thời, những lo toan, trăn trở của cuộc sống hiện tại.
Hoặc đoạn thoại sau đây:
- Dòm cái bộ dạng mày lúc này là biết mày đang đói rũ. Đói ăn đói
uống còn đỡ, thằng đàn ông đói cái khoản này nhìn bệ rạc lắm!
… - Con khẹc!... - Tôi nghe rõ tiếng nó thở ra, nặng và sâu - Ngày xƣa
bom đạn chết chóc nhƣờng ấy mà thịt da mày vẫn săn seo, thân thể trùng trục
nặng 65 ki - lô, vậy mà hòa bình mới có mƣời năm, ngƣời ngợm mày đã hƣ
hỏng đi nhƣ thế! Hƣ từ trong ra ngoài. Khốn nạn cho mày, thằng chỉ huy
trinh sát đặc nhiệm quân giải phóng ơi!
… - Sao lại không nhắc - Hắn nhƣ gầm lên - Mày mắc cỡ à? Mày nhục
à? Cuộc sống bây giờ tuy khốn nạn thật nhƣng thử đứa nào xúc phạm đến
những chữ ấy coi. Tao bắn bỏ liền.
… - Mày có bỏ ngay cái kiểu cƣời ấy đi không! Tƣởng tao thích cái trò
đĩ điếm ấy lắm hả? Còn lâu. Đời thiếu gì gái góa chết chồng hay gái non
52
chán đời? Tao biết mày đang nghĩ đến con nhỏ Sƣơng, đang ám ảnh khổ sở vì
nó nên tao nói vậy cốt cho mày nổi khùng mà quên phứt nó đi. Hiểu chƣa,
khọm già? Tuy nhiên mày cũng nên sớm có lại một con đàn bà đi. Đàn bà cỡ
gì cũng đƣợc, miễn là đàn bà. Bởi lẽ với một cái đầu bệnh hoạn nhƣ của mày,
chỉ có một con đàn bà mới có thể làm quên đƣợc một con đàn bà. Tao nói thế
này vì… tao cũng đã trải qua hoàn cảnh nhƣ mày, có khi còn thê thiết hơn
[XIII, tr.117].
Ngôn ngữ thoại của nhân vật sử dụng đại từ nhân xưng mày với tần
xuất khá dày. Câu chuyện tâm sự đến tận đêm khuya của hai người bạn chung
một trận tuyến. Những ngang trái, những đau đớn dồn nén đã được bộc lộ qua
lời thoại sau bao nhiêu mất mát vì chiến tranh mà họ đã trải qua. Ba Thành
như dồn hết cả những ấm ức của mình và của bạn trong câu nói. Từ xưng hô
mày - tao giữa họ với nhau có sự thân tình, đồng cảm, có cả sự thân mật đến
suồng sã, nhưng có thể hiểu được vì họ từng là người lính với nhau, đã nếm
trải đủ mùi gian khổ, sống chết cùng chia sẻ nên họ bộc lộ tất cả tình thái
trong lời nói một cách tự nhiên mà không phải ý tứ, giữ gìn gì.
b) Đại từ nhân xưng biểu thị thái độ coi thường
Cặp đại từ xưng hô tao - mày không chỉ biểu thị sự thân mật, suồng sã
giữa các nhân vật giao tiếp mà trong những tình huống giao tiếp nhất định
chúng lại biểu thị tình thái khác:
(1) - Tha thứ cho bọn tao nhé, Bảo ơi!... Bọn tao không còn cách nào
khác… Không còn phƣơng tiện nào khác. Bọn tao không nỡ nhìn mày chết
trên đƣờng cáng đi phẫu. Xa lắm… muốn mày chết ở đây, giữa bạn bè. Hãy
tha thứ… Hãy nhắm mắt lại cho bọn tao đỡ khổ… Đƣợc không? [XIII, tr.80].
(2) - Thôi đi! Đừng ai nói gì nữa hết! - Linh đột ngột quay lại hét lên,
mắt bạc phếch - Chỉ cần nhƣ vậy cũng đủ để không chịu nổi nữa rồi - Anh đi
tới trƣớc mặt Hòe, giọng rin rít trong khi tên này vô tình đƣa tay lên mặt che
53
đỡ - Xéo ngay! Xéo ngay và đừng bao giờ để tao phải thấy lại cái mặt mày
nữa. Xéo! Không, thề có trời đất, tao sẽ quẳng mày từ trên sân thƣợng xuống
mặt đƣờng nhƣ quẳng một con chó bây giờ. Xéo! [XIV, tr.346].
Ở hai đoạn thoại trên, nhân vật đều dùng ngôn ngữ xưng hô mày - tao,
nhưng ý nghĩa biểu thị của cách xưng hô lại khác nhau. Ở ví dụ (1) là lời của
nhân vật Hai Hùng nói với Bảo - người đồng đội giữa chiến hào ác liệt. Lời
thoại nói chung, từ xưng hô mày - tao nói riêng thể hiện sự thân tình nhưng
xót thương, day dứt và đau đớn đến tận cùng khi phải bỏ lại người đồng đội bị
thương nặng mà không có cách nào cứu được. Ở ví dụ (2) là lời thoại của
Linh nói với Hòe - nhân vật từng là người lính cùng chiến hào trong chiến
tranh nhưng nay khi trở về thời bình lại biến thành kẻ sâu mọt, tráo trở, cường
hào áp bức những người dân vô tội. Lời thoại nhân vật Linh thẳng thắn, vạch
mặt kẻ phản bội, kẻ bôi nhọ hình ảnh và danh dự người lính trở về sau chiến
tranh mà họ đã cùng thề nguyền trước đây. Có thể nói, cách xưng hô trong lời
thoại như trên là phù hợp với tính cách của các nhân vật người lính: bộc trực,
thẳng thắn, bày tỏ thái độ yêu ghét dứt khoát, rõ ràng.
c) Đại từ nhân xưng biểu thị tình thái trung hòa
Trong tình huống giao tiếp khác, tác giả lại để cho các nhân vật giao
tiếp bộc lộ tình thái trung hòa, có phần khách khí và lạnh nhạt khi sử dụng từ
xưng hô tôi - ông:
- Ông kỳ quá! Ông làm nhƣ tôi và ông đang sống trong một tích tuồng
cải lƣơng mùi mẫn không bằng. Mời ông hút thuốc đi, cứ hút rồi nhìn gì thì
nhìn. Nhìn kỹ coi tôi có phải con ngáo ộp hay một nhân viên tình báo, một nữ
phản gián có hạng không?
… - Thôi đi! - Bất ngờ ngƣời đàn bà hất mặt lên đầy quyền uy và khắc
nghiệt - Sau một ngày làm việc mệt nhọc, lúc này tôi đang cần nghỉ ngơi. Xin
lỗi! Tôi không đủ thì giờ để ngồi nghe những lời nói rồ dại, ngớ ngẩn của ông.
54
Mà thực chất ông là ai nhỉ? Ông nhân danh ai, nhân danh cái gì để cho mình
đƣợc cái quyền đến đây hạch sách tôi? Cơ quan sắp đến giờ đóng cửa, ông nên
đi xuống kẻo nhân viên bảo vệ họ lên lại phiền. Mời ông! [XIII, tr.235].
Thái độ của nhân vật, con người nhân vật hoàn toàn phù hợp với từ
xưng hô ông - tôi. Ranh giới giữa hai nhân vật được xây dựng nên bằng một
“bức tƣờng” ngôn từ mang tính trung hoà, thậm chí có phần xa cách, lạnh
nhạt. Nhân vật Ba Sương trong tác phẩm từng là người yêu của ông, nhưng
sau bao năm họ gặp lại nhau, bà đã dùng những từ ngữ không mấy thân
thiện, pha chút mỉa mai, khinh miệt để che giấu cái chao nhẹ, rùng mình khi
đứng trước người đàn ông từng là người yêu mình năm xưa. Trong tình
huống này, từ xưng hô đã thể hiện quan hệ tình cảm, thái độ của các nhân
vật trong giao tiếp.
Trong giao tiếp, bên cạnh các nhân vật giao tiếp trực tiếp giữa người
nói (ngôi 1) và người nghe (ngôi 2), còn có thể có những từ xưng hô liên quan
đến ngôi 3 là nhân vật không trực tiếp xuất hiện trong cuộc thoại, nhưng lại
liên quan đến cuộc thoại. Tình thái giữa các nhân vật sẽ được bộc lộ khá rõ
trong cuộc thoại qua cách dùng từ xưng hô, nhưng không đơn giản một chiều
(thân tình, trung hòa, coi thƣờng…) mà đôi khi lại đan xen nhiều tình thái
phức tạp. Điều này được thể hiện trong một số lời thoại giữa các nhân vật
trong tác phẩm của Chu Lai.
Trong Ăn mày dĩ vãng, nhân vật Ba Sương đi tìm lại chính mình
trong hiện tại đã cay đắng nhận ra sự thật về những người mà cô đã từng
biết trước đó:
- Ngƣời ta là ai?... Chả lẽ lại là cái gã trung úy đồ tể ngồi chung xe với
chị dạo nọ? Cái gã đã…
- Thì ra anh cũng biết hắn?... Trời! Thôi, cũng chả sao. Rồi tất cả mọi
điều sẽ đƣợc biết hết. Nhƣng riêng lần này thì không phải là hắn. Đông hơn
hắn, khủng khiếp hơn hắn nhiều. Họ là… [XIII, tr.323].
55
Các đại từ gã, hắn, ngƣời ta trong lời thoại là thuộc ngôi thứ 3, nhân
vật vắng mặt nhưng có liên quan đến nội dung giao tiếp. Ở trong ngữ cảnh
này, Ba Sương muốn nhắc đến nhân vật Địch, một kẻ gây tội ác khủng khiếp
trong chiến tranh nhưng khi hòa bình lại khôn khéo và xảo trá núp bóng người
khác để làm người “lương thiện”.
Trong Ba lần và một lần cũng có những đoạn thoại mà các nhân vật
giao tiếp nhắc đến nhân vật thứ ba bằng các từ nó, hắn, quản đốc ngƣời Hàn.
Việc dùng từ hô gọi như thế, cùng với sự phù trợ của các ngôn từ khác trong
lời thoại, đã thể hiện sự khinh bỉ và căm hận của người nói:
- Quản đốc người Hàn? - Đến lượt anh trợn tròn mắt kinh ngạc - Sao
nó lại đánh? Sao có thể dám đánh?
- Tụi em làm lỗi ít mét vải do mệt quá… thiếu ngủ quá! Nó đánh cả tổ.
Đánh bằng dép… Cứ mặt nó nện…
- Thế tụi em chịu cho nó nện à? Đứng im à? Hả?...?
- … Nhƣng sao? Đánh chứ? Dạy cho nó bài học nữa chứ? - Anh hỏi
lại có vẻ sốt ruột.
- … Hắn đi tới…
- Hắn nào? Hắn là ai? [XV, tr.278].
Ở câu thoại đầu, ta thấy có sự thay đổi từ nhân xưng Quản đốc ngƣời
Hàn bằng nó. Với cách thay đổi đột ngột từ xưng hô này khiến ta hiểu thái độ
của người nói (và cũng là của tác giả): sự phẫn nộ của tụi em - những người
công nhân khi bị chà đạp về danh dự, nhân phẩm bởi một tay quản đốc ngoại
quốc. Và oái oăm thay kẻ tiếp tay cho những hành động khinh miệt người
Việt Nam lại chính là một người Việt Nam, một người lính từng tham gia
chiến tranh giải phóng dân tộc. Trong đoạn thoại tiếp theo, nhân vật hắn xuất
hiện bằng giọng nói ráo hoảnh và vô tình:
- Rút kinh nghiệm nghen, các cô. Người ta làm ăn theo kiểu công
nghiệp hiện đại đã quen, các cô lại quá tùy tiện, vẫn cái thái độ nông dân
56
manh mún, cái thói đƣợc chăng hay chớ, làm giả ăn thật, nên chẳng qua
ngƣời ta xót ruột, ngƣời ta thiếu kiềm chế một chút thôi. Xét cho cùng cũng là
tại mình, các cô nên bảo ban nhau mà làm ăn cho nghiêm ngắn đừng để xảy
ra những chuyện không đẹp nhƣ thế này nữa khiến chúng tôi buộc phải có
thái độ [XV, tr.280].
Hắn ở đây chỉ Năm Thành. Hắn có vẻ bề ngoài nhã nhặn và lịch thiệp,
cùng với sự rộng rãi trong việc làm từ thiện, hắn đã trở thành điển hình của
một doanh nhân thành đạt, tiêu biểu của cơ chế thị trường. Người ta tung hô
hắn, ngưỡng mộ hắn, nhưng thực ra, bên trong con người này là sự xảo trá
mưu mô. Cách xưng hô của hắn với công nhân các cô - mình tạo sự gần gũi,
thâm mật như người trong một nhà. Đứng trước sự xúc phạm nhân phẩm vượt
quốc gia như vậy, nhưng hắn vẫn nhẹ nhàng vỗ về gọi kẻ xúc phạm kia bằng
ngƣời ta. Và “nguy hiểm” hơn nữa, trong lời thoại của nhân vật này, ta thấy
có sự ma mãnh của một kẻ cơ hội nhưng rất hoạt ngôn: khi thì hắn đẩy bản
thân đứng cùng với người bị hại bằng từ mình để tranh thủ sự đồng lòng, mặt
khác hắn cũng thể hiện thái độ dọa dẫm chính những người người mà hắn vừa
đứng cùng ấy bằng từ chúng tôi. Qua các xưng hô của Năm Thành, ta thấy rõ
bản chất xảo quyệt của hắn.
Xuyên suốt trong các tiểu thuyết được khảo sát của Chu Lai, chúng tôi
thấy một đặc điểm chung là các đại từ nhân xưng được sử dụng trong lời thoại
nhân vật phụ thuộc vào đối tượng và hoàn cảnh giao tiếp. Do đó, các từ xưng
hô (như: mày - tao, ông - tôi…) có thể mang sắc thái khác nhau. Trong hoàn
cảnh chiến tranh ác liệt, các nhân vật của Chu Lai thường xưng hô mày - tao
thể hiện sự gắn bó thân thiết, ngang hàng nhưng trong hoàn cảnh thời bình, ở
một số tình huống, cách xưng hô đó lại mang một sắc thái khác, nó hàm chứa
thái độ coi thường, căm ghét của người nói (như các dẫn chứng đã nêu ở
trên). Điều đó cho thấy việc dùng từ xưng hô của nhân vật có liên quan đến
ngữ cảnh, đến mối quan hệ giữa các nhân vật trong ngữ cảnh ấy.
57
Trong một số lời thoại, có khi chính tác giả hóa thân vào nhân vật đến
mức đôi khi khó phân biệt lời tác giả và lời nhân vật. Chẳng hạn trong Ăn mày
dĩ vãng, không rõ tác giả Chu Lai hay nhân vật Hai Hùng gọi Địch là gã, một
đại từ nhân xưng ngôi thứ ba mang sắc thái không thân thiện vì toàn bộ phần
lời kể của tác giả về nhân vật này đều dùng gã… Thông qua từ xưng hô, cùng
với từ ngữ khác trong lời thoại, nhân vật đã bộc lộ rõ tính cách và bản chất
của mình:
- Ba Thành ơi, cái gã… đi cải tạo về chƣa? [XII, tr.258].
- Nói thêm một chút về gã… Gã nói năng rất bặm trợn… [VIII, tr.290].
- Ngày hôm sau, nhƣ cô ấy kể, gã trung úy mò tới… gã đã nhăng nhằng
bám theo cô... gã mới quật ngửa lá bài… [XIII, tr.291].
Như vậy, có thể nói, các từ xưng hô không chỉ đơn thuần dùng để gọi
hoặc xưng để thể hiện rõ sự phân biệt tuổi tác, giới tính, vị thế xã hội, quan hệ
giữa những người tham gia giao tiếp mà còn thể hiện thái độ, tình cảm, cách
đánh giá của người nói đối với nhân vật giao tiếp hoặc người được nói tới.
Cách dùng từ xưng hô cũng không tùy tiện mà theo những quy ước nhất định.
Hệ thống từ xưng hô của ngôn ngữ nhân vật trong tiểu thuyết Chu Lai không
chỉ dùng các đại từ nhân xưng mà còn sử dụng các từ xưng hô khác. Cách sử
dụng đại từ nhân xưng như vừa phân tích, cùng với việc sử dụng các lớp từ
thông tục, giàu tính biểu cảm khác đã làm cho ngôn ngữ trong tác phẩm của
nhà văn Chu Lai gần gũi với đời thực, tự nhiên, sống động, khắc họa rõ thêm
tính cách của nhân vật góp phần làm nên giá trị nội dung và nghệ thuật đặc
sắc cho tác phẩm.
2.2.2. Từ xưng hô có nguồn gốc danh từ thân tộc và các danh từ khác
2.2.2.1. Về nhóm từ xƣng hô có nguồn gốc khác với đại từ nhân xƣng
Ngoài các đại từ nhân xưng, trong giao tiếp, tiếng Việt còn dùng các từ
ngữ khác để xưng hô, tạo thành một bức tranh giao tiếp với nhiều màu sắc đa
58
dạng, phức tạp nhưng cũng rất tinh tế. Qua việc dùng từ ngữ xưng hô này, ta
phần nào đánh giá được dụng ý và tư tưởng của người nói. Các từ xưng hô
thuộc nhóm này có gốc từ danh từ (anh, Hùng, đồng chí), đại từ (ai, đây) hoặc
tính từ (nhỏ, cƣng) chuyển loại với một số lượng lớn. Chúng có khả năng
dùng để xưng hô với mọi đối tượng, mọi hoàn cảnh và mục đích giao tiếp và
làm thành đặc thù của tiếng Việt, phản ánh văn hóa ứng xử, văn hóa giao tiếp
của dân tộc Việt. Khảo sát sự xuất hiện và tần số sử dụng các từ xưng hô này
cũng là một trong những nhiệm vụ của luận án nhằm góp phần làm rõ đặc
trưng của ngôn ngữ nhân vật trong tác phẩm của Chu Lai.
Thống kê các từ xưng hô khác qua lời thoại nhân vật trong tiểu thuyết
Chu Lai, chúng tôi thu được kết quả sau:
Bảng 2.2. Số lượng và tần số xuất hiện các từ xưng hô
có nguồn gốc từ danh từ thân tộc và các từ các danh từ khác
của nhân vật trong tiểu thuyết Chu Lai
TT
Các nhóm từ xưng hô
Số lượng
Tỷ lệ %
9288/13351
69,5%
Các danh từ thân tộc
1
2040/13351
15,2%
Các từ chỉ tên riêng
2
Các từ chỉ chức vụ, nghề nghiệp
921/13351
6,8%
3
856/13351
6,4%
Các từ chỉ quan hệ xã hội
4
234/13351
1,7%
Các từ chuyển hóa
5
12/13351
0,08%
Các từ chỉ nơi chốn
6
Tổng
13351/13351
100%
Qua bảng thống kê trên, ta có kết quả về các từ xưng hô khác trong
ngôn ngữ nhân vật như sau:
- Xưng hô bằng các danh từ thân tộc: ông, bà, cô, cậu, dì, anh, em, chú,
bác, cháu, con,…, số lần xuất hiện 9288, chiếm tỷ lệ 69,5%.
59
- Xưng hô bằng các danh từ chỉ tên riêng: chị Út Thêm, anh Hai Hùng,
anh Tư…, số lần xuất hiện 2040, chiếm tỷ lệ 15,2%.
- Xưng hô bằng các từ chỉ chức vụ, nghề nghiệp: kĩ sư, bác sĩ, lính, thủ
trưởng, giám đốc, thiếu tướng, đại tá…, số lần xuất hiện 921, chiếm tỷ lệ 6,8%
- Xưng hô bằng các danh từ chỉ quan hệ xã hội: bạn, đồng chí, ông
chủ…, số lần xuất hiện 856, chiếm tỷ lệ 6,4%.
- Xưng hô bằng các tính từ (danh từ): cưng, út, nhỏ, bồ, …, số lần xuất
hiện 234, chiếm tỷ lệ 1,7%.
- Xưng hô bằng các đại từ chỉ định: đằng ấy, đó…, số lần xuất hiện 12,
chiếm tỷ lệ 0,08 %.
2.2.2.2. Vai trò của các từ xƣng hô có nguồn gốc từ danh từ thân tộc
trong lời thoại nhân vật
Cũng như việc dùng đại từ nhân xưng, các từ ngữ xưng hô khác cũng
có chức năng trước hết là để xưng (mình) và gọi (người); đồng thời qua đó có
thể biểu thị các thông tin khác, với các chức năng khác, như: bộc lộ vai giao
tiếp, vị thế giao tiếp, nhân thân giao tiếp và đặc biệt là tình thái giao tiếp. Có
thể thấy rất rõ rằng: từ xưng hô của tiếng Việt rất phong phú nhưng có chuẩn
mực và nguyên tắc sử dụng rõ ràng, chứ không phải tùy tiện, dù đó là quy ước
bất thành văn. Khảo sát các từ xưng hô lâm thời, không chính danh (so với đại
từ xưng hô chuyên dụng, chính danh), ta có thể thấy xưng hô trong đời
thường nói chung, xưng hô trong giao tiếp nghệ thuật nói riêng bộc lộ nhiều
điều thú vị. Điều đó thể hiện ở việc từ xưng hô trong lời thoại nhân vật trong
tiểu thuyết Chu Lai xuất hiện với số lượng lớn, tần số sử dụng cao, dùng trong
nhiều ngữ cảnh, tình huống khác nhau, chúng thể hiện rõ tâm lí, tình cảm và
tính cách của các nhân vật trong tác phẩm.
Sau đây, chúng tôi tìm hiểu sự hoạt động của các từ xưng hô được
chuyển loại, phân tích làm rõ vai trò của chúng trong các lời thoại nhân vật.
60
a) Xưng hô biểu thị sự thân mật, gần gũi
Văn hóa dân tộc Việt có đặc trưng gốc khởi phát từ nông nghiệp lúa
nước. Đặc trưng gốc này đã tạo nên các đặc trưng “phái sinh” như: người
Việt có lối sống trọng tình, gia đình là gốc, “làng xóm nhƣ cái gia đình mở
rộng và nƣớc nhƣ một cái làng lớn, nên ngôn ngữ xã hội vẫn là kiểu ngôn
ngữ gia đình và xu thế chính của tâm lí ngƣời Việt là kéo xã hội về với gia
đình” [153, tr.44]. Việc người Việt chúng ta lấy những từ chỉ quan hệ thân
tộc trong gia đình để làm từ xưng hô trong xã hội một cách tự nhiên và phổ
biến như vậy chắc hẳn có liên quan đến đặc trưng văn hóa vừa nêu. Quả thực
qua tư liệu thống kê số lượng và tần số xuất hiện trong giao tiếp giữa đại từ
nhân xưng với các danh từ thân tộc, mà cụ thể ở đây là thống kê trong lời
thoại nhân vật tiểu thuyết Chu Lai, ta có thể thấy rõ: các từ xưng hô có gốc
từ danh từ thân tộc có số lượng và tần số nhiều hơn hẳn so với các đại từ
nhân xưng (đại từ nhân xưng chiếm 39,7% trong tổng số lời thoại nhân vật
có sử dụng từ xưng hô, còn từ xưng hô có nguồn gốc từ danh từ thân tộc
chiếm 69,5% trong tổng số lời thoại sử dụng các từ xưng hô khác).
Qua khảo sát có thể nhận thấy lời thoại của nhân vật trong tiểu thuyết
Chu Lai sử dụng khá nhiều danh từ thân tộc (69,5%) để xưng hô. Các từ xưng
hô này có khả năng biểu thị tình cảm thái độ thân mật, rõ nhất là các từ như:
anh - em, chú - bác, con – cháu…
- Út!... Chị có thể đi thăm anh ấy đƣợc không?
- Quyền đi thăm là quyền của mọi ngƣời - Chị buông thõng - Nhƣng
hiện giờ thì chƣa nên vì chú ấy đang trong giai đoạn điều tra [XV, tr.332].
Những từ chị, anh ấy, chú ấy tạo cảm giác thân mật, gần gũi như trong
một gia đình giữa các nhân vật giao tiếp. Đoạn thoại giữa Út Thêm và chú Ba
Đẩu cũng sử dụng những danh từ thân tộc:
- Chú Sáu… chú có nhận ra tôi không?
61
… - Xin lỗi… Bà nhầm thế nào ấy chớ! Tôi thứ năm chớ đâu phải
thứ sáu.
- Không! Sao có thể nhầm đƣợc! - Giọng chị nghẹn lại - Chú Sáu…
Cháu là Thêm, Út Thêm, con bé bƣớng bỉnh ngày nào của chú vẫn còn sống
đây, con bé đã từng làm cực chú biết bao đêm ở cánh rừng ven sông hồi ấy
đây… [XV, tr.84].
Nhân vật dùng từ xưng hô chú Sáu, cháu như gợi nhớ đến những kỷ
niệm thân quen một thời mà họ từng có trong chiến tranh và bây giờ trong
tình cảm của Út Thêm, dù bao biến cố đã xảy ra, nhưng với cô hình ảnh chú
Sáu ngày nào vẫn vẹn nguyên trong ký ức. Việc xưng hô trong xã hội dùng
nhiều danh từ thân tộc như vậy, là một đặc tính xưng hô thể hiện văn hóa ứng
xử của người Việt, theo kiểu “kéo gia đình ra xã hội” và “đây là đầu mối
quan trọng để lí giải những vấn đề ngôn ngữ - văn hóa - xã hội cũng nhƣ tác
động của mối quan hệ gia đình - xã hội đến ứng xử giao tiếp của ngƣời Việt
(nhất là trong giao tiếp hành chính hiện nay” [73, tr.211].
Trong hội thoại, giữa người nói và người nghe có sự luân phiên lượt lời.
Trong tổ chức cuộc thoại, các nhân vật đều ít nhiều có sự hiểu biết, có những
thông tin nhất định về nhau. Việc dùng đúng từ xưng hô thể hiện vốn văn hóa,
sự hiểu biết, tính lịch thiệp, sự tôn trọng đối với người nghe. Cách xưng hô
của Nhàn và Lẫm trong Gió không thổi từ biển phản ánh khá rõ mối quan hệ
giữa những người thân thiết, tôn trọng, có khoảng cách nhưng cũng rất chân
thành qua cặp từ anh, chị:
- Bữa nay chị khỏi bệnh?
- Dạ! Cũng đỡ đỡ… Ủa! Nhƣng sao anh Lẫm biết tôi bệnh?
- Cả Sài Gòn này, cái gì xảy ra tôi cũng biết hết. Tôi còn biết có mấy
thằng cớm mấy bữa nay hay lảng vảng ở nhà chị nữa kia. Nhƣng chị khỏi lo.
Tôi đã cho bọn đàn em dọn sạch rồi.
62
- Chắc anh lầm đó: Tôi làm gì mà họ lảng vảng. Lần sau anh đừng
làm vậy, họ có cớ gây khó dễ cho tôi.
- Dạ? Có thể tôi lầm… Nhƣng mà chị yên chí đi. Không thằng nào
dám qua mặt tôi cả. Tôi chỉ cần… Nhƣng thôi, nói cái đó làm gì. Chị Hai…
Ngó bộ chị xanh quá? Nghe bọn em út nói chị nằm liệt mất ngày không ăn
uống gì, tôi định ghé tới thăm… Còn mệt, chị định đi đâu đây? [X, tr.112].
Việc xưng hô giữa các nhân vật giao tiếp, như ta đã thấy, thường dùng
theo từng cặp, trong đó cặp nhân xưng anh - em là khá tiêu biểu trong việc thể
hiện tình thái thân mật.
Trong Ăn mày dĩ vãng, nhân vật Hai Hùng và Ba Sương là những
người đồng đội rất hiểu nhau. Lời xưng hô giữa họ (anh - em) đã bộc lộ rõ
tình cảm thân thiết, thái độ chân thành. Cuộc trao đổi giữa hai người diễn ra
trong bối cảnh chiến tranh, một căn hầm nhỏ chỉ đủ chỗ cho hai người. Đạn
bom lúc nào cũng ác liệt, đe dọa mạng sống của họ. Anh nói với chị:
- Nằm xuống đi em! Nằm nghiêng, quay mặt vào nhau hay cùng quay
mặt vào vách cũng đƣợc. Vừa đó - Hay anh ngồi dậy cho em nằm nhé! Hai
đứa cứ thay nhau, một đứa gác, một đứa ngủ và ngƣợc lại đƣợc không?
[XIII, tr.215].
Ngôn ngữ thoại với cặp từ xưng hô anh - em thể hiện tình cảm thân mật
nhưng vẫn giữ được một sự tôn trọng lẫn nhau. Ở đây, các từ ngữ khác cùng
với từ xưng hô không chỉ nhằm thông báo một nội dung nào đó mà còn nhằm
chinh phục tình cảm của người khác. Anh - em không chỉ dùng để thực hiện
vai trao - đáp và xưng - gọi mà còn góp phần tạo nên nhịp cầu giao cảm giữa
hai tâm hồn. Tình yêu của họ vẫn nồng nàn, dù xung quanh bom đạn chết
chóc cận kề trong gang tấc:
- Còn giận em gần một năm qua làm mặt lạnh với anh không?
- Không! Càng yêu hơn. Yêu nhiều lắm!
63
- Em… Em thƣơng anh! Yêu anh [XIII, tr.216].
Lời trao đáp anh - em của cô gái đã hòa nhịp cùng cảm xúc với người
con trai. Cùng với những lời yêu thương khác, từ xưng hô đã góp phần bộc lộ,
thể hiện cảm xúc mãnh liệt của hai người yêu nhau trong chiến hào ác liệt.
Một điều đáng lưu ý là các từ xưng hô có vai trò bộc lộ tình thái theo
nhiều mức độ, tuỳ thuộc vào từng ngữ cảnh và đối tượng giao tiếp. Cặp từ
xưng hô anh - em, như đã phân tích ở dẫn chứng trên thể hiện tình cảm yêu
thương. Nhưng ở dẫn chứng sau thì từ xưng hô anh - em thể hiện tình thái có
phần phức tạp hơn.
Người đàn ông nói với cô gái:
- Em có lạnh không?- Có - Tiếng đàn bà run rẩy.
- Lại gần đây anh ủ ấm cho! - Không… em sợ lắm! - Giờ này có ma
nào nữa đâu mà sợ. Kìa! Lại đây kẻo mƣa hắt! - Nhƣng… anh không đƣợc
làm gì đâu đấy! - Tin anh đi. Anh thƣơng em mà. - Không phải! Anh chỉ… ấy
em thôi. - Khổ quá! - Tiếng nói càng gấp gáp hơn - Bao giờ em mới hiểu đƣợc
một chút cho anh nhờ? Trong tay có hàng vài trăm đàn bà con gái, anh thiếu
gì mà phải khổ sở thƣơng chiều một mình em. Lại đây… Chao! Ngƣời em ƣớt
hết cả rồi đây này. Để anh… - Kìa…- Đừng anh! Em sợ… - Sợ cái gì nữa kia
chứ? Chúng mình chả đã từng gần nhau… cho nhau hết một lần rồi ƣ? -
Chính vì thế mà em biết anh không thƣơng em. - Tầm bậy nào! Không thƣơng
mà tối tăm, mƣa gió thế này, anh bỏ cả văn phòng giám đốc, bỏ cả vợ con
xuống đây chỉ cốt đƣợc gặp em à?... Im! Ngoan nào… Cho anh lần nữa nhé! -
Kìa! Đừng làm thế! Em hét bây giờ… Đấy, khuy áo đứt rồi! Bỏ ra đi! Em
không đùa đâu! - Ai đùa! Em ác lắm!... Em có biết rằng mấy tuần nay…
không lúc nào anh không mơ tƣởng về em… về bộ ngực… về cái thân thể
nóng rực của em. Anh… thèm em. - Không đƣợc! Dơ hết quần áo bây giờ…
Kìa, dơ! - Dơ, anh đền cho một trăm bộ, một ngàn bộ khác… Ôm anh đi! Ôm
64
chặt vào… Ôi! Ngực em ấm quá… Bộ ngực trinh nữ của em… Cả cặp đùi nữa!
Anh chƣa từng thấy ai có cặp đùi tròn và rắn thế này…
- Ái đau… Cắn đau thế! Anh xin lỗi! Tại em đấy. Ai bảo em cứ ngon
nhƣ một khúc giò. Nào! Mở chân ra một chút đi! Anh xin…Không…Anh sẽ
không làm em sây xát nhƣ lần trƣớc đâu. Sẽ… sẽ không để cho em có chửa
đâu. Nào… đấy, lại khép vào rồi! Thế có chán không cơ chứ. Em không tin
à?... Dốt! Cái nông trƣờng toàn đàn bà con gái thế này mà không có kinh
nghiệm thì chửa đẻ tùm lum rồi còn gì. Nào… chiều anh chút đi cưng! Đằng
nào cũng lỡ rồi…
Bỗng vang lên một tiếng bốp khá gọn, ắng đi giây phút… rồi tiếng gã
đàn ông bật lên gầm gừ: - Cô làm cái trò gì thế? - Anh đứng dậy đi! Tiếng cô
gái đanh lại. Tôi không phải là thứ trò chơi của anh ở đây nhƣ những cô gái
khác. Anh nói cái gì kinh nghiệm? Anh đã có kinh nghiệm ngủ với bao nhiêu
ngƣời rồi hả? Đồ đểu! Tránh ra cho tôi đi! Tởm lắm! - Ừ, thì thằng này là
đồ đểu đấy, nhƣng cô cũng chẳng hơn gì. Cô tƣởng tôi không biết cô là loại
đàn bà nào à? Cô cắn cấu tôi, đến bây giờ vẫn còn vết, cô rúc đầu vào giữa
hai đùi tôi, cô rít rẩm, cô rít lên nhƣ phát rồ phát dại… Tôi khoái sống lại cái
cảm giác đó nên mới năn nỉ cô chứ cô tƣởng cô báu nõn lắm à. Cô… tóm lại,
cô chỉ là một thứ gái già, thứ đàn bà nạ dòng, cuồng dâm, hiểu chƣa?
- Đồ khốn nạn! Tao không ngờ mày…Chỉ nói được thế, cô gái òa khóc.
Nhưng tiếng hắn lại cười, cười rất đểu:
- Vâng! Cô không nói thì tôi cũng biết tôi khốn nạn từ lâu rồi. Và bây
giờ tôi lại tính khốn nạn một lần nữa đây! Nào, biết thân biết phận thì nằm
xuống và im lặng! Thằng này đã cởi đồ ra là không dễ mặc lại đâu. Nằm
xuống! [XV, tr.118, 119].
Đoạn thoại khá dài trong tiểu thuyết Ba lần và một lần giữa một người
đàn ông và một người đàn bà tránh mưa trong cái lán nhỏ giữa rừng cao su.
65
Mở đầu đoạn thoại là ngôn ngữ xưng hô bằng cặp từ anh - em, người đọc
hình dung đây là hai người đã có tình cảm với nhau từ lâu và nay họ lại gặp
nhau để tiếp nối những tình cảm âu yếm ấy. Ngôn ngữ người đàn ông lưu
loát, có phần mạnh bạo để tán tỉnh, chinh phục. Ngôn ngữ người con gái run
rẩy, sợ sệt, cách sử dụng từ xưng hô anh - em hoàn toàn phù hợp với bối cảnh
giao tiếp này cho dù ở lời thoại của nhân vật nữ đã có những băn khoăn nghi
ngại trước mọi cử chỉ của chàng trai. Đến giữa đoạn thoại, vẫn là từ xưng anh
- em nhưng ngôn ngữ của người phụ nữ đã có sự thay đổi, báo hiệu sự chuyển
biến đột ngột về tình cảm, thái độ đối với người đàn ông khi hắn ta đã dần dần
tự lột mặt nạ của mình. Đó không phải là người đàng hoàng đứng đắn và có tư
cách như chức vụ giám đốc hắn đang nắm giữ, mà thực chất đây chỉ là kẻ lợi
dụng sự yếu mềm, thiếu thốn tình cảm của chị em công nhân trong nông
trường để thỏa mãn dục vọng của mình. Chính vì vậy, khi hiểu thực chất hành
vi của người đàn ông này, lời nói của nhân vật nữ đã thay đổi nhanh chóng,
trong đó rõ nhất là sự chuyển ngôi từ anh - em, sang cách xưng hô anh - tôi.
Và đến tột đỉnh của sự khinh bỉ, căm thù, người đàn bà đã chuyển sang tao -
mày, đã ném vào hắn lời nói đích đáng: Đồ đểu! Tránh ra cho tôi đi! Tởm
lắm! Đồ khốn nạn! Tao không ngờ mày…
b) Xưng hô biểu thị sắc thái tình cảm trân trọng: Quan hệ xã hội là
loại quan hệ đa dạng, phức tạp với nhiều đối tượng và nhiều ngữ cảnh, hàng
ngày người ta phải đóng nhiều “vai” khác nhau. Bởi vậy, việc lựa chọn từ ngữ
giao tiếp, trong đó có dùng từ xưng hô, sao cho phù hợp là điều rất được
người Việt coi trọng.
Trong các từ xưng hô được sử dụng trong lời thoại nhân vật trong tiểu
thuyết Chu Lai, từ xưng hô chỉ quan hệ xã hội (đồng chí, bạn), chỉ chức vụ
nghề nghiệp (giám đốc, thủ trƣởng) xuất hiện khá nhiều. Nếu như khi giao
tiếp dùng mày - tao (đại từ nhân xưng), anh - em (từ xưng hô có gốc từ danh
66
từ) bộc lộ tình thái gần gũi, thân mật giữa những người bạn bè, đồng đội (giao
tiếp tự do), thì những từ xưng hô dùng các từ chỉ quan hệ xã hội (đồng chí),
các chức vụ nghề nghiệp (thủ trƣởng) lại mang sắc thái trang trọng (thường
hay xuất hiện trong giao tiếp nghi thức) như: họp hành, báo cáo, tuyên thệ
hay là những tình huống quyết định như: yêu cầu, ra lệnh trong chiến đấu…
Hai Hùng và Ba Sương đã có tình yêu đẹp và thơ mộng, nhưng trong
chiến tranh, ở những thời khắc quyết định, họ lại đặt việc chung trên tình
riêng. Từ xưng hô thể hiện điều đó, chính từ xưng hô đồng chí đã khiến cho
câu chuyện và quyết định của họ có sắc thái trang trọng, ít biểu cảm:
- Chào đồng chí! - tôi đứng nghiêm như một chú lính kèn.
- Tôi đến để bàn với đồng chí một việc hệ trọng (Đôi mắt đen im lặng
của Sương chỉ hơi nhướng lên). Nếu bây giờ ta quyết định giải tù binh đi
theo phƣơng án thì chết hết. Chết cả ngƣời giải lẫn ngƣời bị giải. Đó là điều
chắc chắn.
- … Khoan đã - Sương chới với trước những loạt đạn bắn thẳng dồn
chứa mọi sự ấm ức từ lâu của tôi - Em… Em thấy chƣa cần phải làm nhƣ thế.
Đề nghị đồng chí xem xét lại coi. Biết đâu…
- …Là người chỉ huy cao nhất ở đây, tôi muốn đồng chí phải trả lời
chính xác…
- Không - Bất thần nét mặt em đanh lại dễ sợ - Tôi sẽ chọn cả hai. Tại
sao đồng chí không tiến hành… [XIII, tr.176].
Nhân vật Năm Thành và Sáu Nguyện xưng hô với nhau lúc đầu là cậu -
tôi nhưng khi câu chuyện đến hồi gay cấn để quyết định cho trận đánh tiếp
theo, ngôn ngữ nhân vật chuyển sang giọng điệu khác, từ xưng hô cũng thay
đổi để phù hợp với mục đích cuộc thoại:
- Đã đến mức chết chóc đâu mà đồng chí nặng lời vậy? - Sáu Nguyện
bất ngờ chuyển sang xưng hô đồng chí…
67
- Tôi đề nghị đồng chí Sáu Nguyện nói rõ hơn! - Năm Thành cũng bất
ngờ chuyển sang đồng chí trong khi đôi mắt đẹp như mắt con gái quắc lên
nhọn sắc [XV, tr.27].
Trở về sau cuộc chiến tranh, với hành trang là một quá khứ đầy ắp kỷ
niệm và sự tự hào về một thời chiến đấu, ngôn ngữ của nhân vật Hai Hùng
trong cuộc sống thời bình, dù đầy những bon chen, giả tạo kia, vẫn giữ được
phong cách của một người lính:
- Chào bác! Chào đồng chí! - Tôi bắt chước với một chất giọng hết sức
chững chạc và tươi tỉnh còn sót lại của một thời cũng đã từng nếm qua mùi
hương quan chức... [XIII, tr.51].
Trong tình huống thông thường ở hoàn cảnh giao tiếp khác, nhân vật
thường sử dụng từ xưng hô tôi - anh, nhưng trong tình huống này, cách sử
dụng từ xưng hô đồng chí đã cho người đọc thấy sự trân trọng, nghiêm túc đối
với đối tượng giao tiếp. Ngôn từ xưng hô trong lời thoại phù hợp khi vai
người trao và người đáp đều là những người lính trở về sau chiến tranh.
Trong giao tiếp, việc chuyển cách xưng hô đồng thời cũng tạo ra một
sự thay đổi về mặt thái độ, tình thái… Sau đây là một số dẫn chứng thể hiện
rõ điều này.
Ở một hoàn cảnh giao tiếp nhất định, nhân vật trong Ăn mày dĩ vãng đã
mạnh dạn xóa bỏ quan hệ xã hội của nghi lễ để đến với bản chất hồn nhiên,
chân thật của người lính kể cả khi họ đã rời về cuộc sống đời thường bằng
những từ xưng hô tớ, cậu, mày, tao:
- Đồng chí hỏi tôi?- Vâng! Anh là Ba Thành, bác sĩ?
- Bác sĩ cái con mẹ gì? Thế đồng chí là…
- Vất mẹ nó đồng chí đi! Mình đây, Hai Hùng đây! Chao ôi! Chả lẽ tớ
già đến nỗi cậu không còn nhận ra nữa ƣ? Đầu viên đạn M16 cậu lấy ra từ
đùi, gần bìu dái, tớ vẫn còn giữ đƣợc [XIII, tr.107].
68
Và đây là tình huống trong trận chiến sinh tử, cái chết lơ lửng trên đầu,
Ba Tiến, phó bí thư quận ủy - mặc dù hèn hạ trốn chạy nhưng vẫn cố giữ cái
hình thức chỉ huy sáo rỗng của mình:
- Ấy cậu… Đồng chí! Tôi… Tôi đây mà. Tôi là Ba Tiến, phó bí thư
quận ủy đây mà. Bỏ… Bỏ tay ra đi, kẻo người ta thấy… Kìa!
- Chạy nhƣ chó mà xƣng là bí thư. Nhục!
- Này đồng chí! - Cái bóng cố gượng đứng dậy, hai cẳng chân để trần
va đập lục cục - Ăn nói cho có tổ chức. Ai là chó hả? Láo! Tất cả đều chạy,
bộ đội của đồng chí cũng chạy chứ riêng gì tôi. Láo! Láo quá! Phải giáo dục
thế nào chứ không thì… [XIII, tr.37].
Từ đồng chí, bí thƣ mà nhân vật xưng hô với người đồng đội đã bị
vạch mặt (chạy nhƣ chó) đã thể hiện bản chất và hình thức của kẻ hèn nhát,
sáo rỗng.
Còn ở không gian lãng đãng mùi hoa sữa của đêm trăng hòa bình, hai
người từng là đồng chí trong một khu phố nhà binh. Lời của anh cảnh sát
cần mẫn yêu dân và người phóng viên có những thước phim quý giá trong
chiến trận:
- Này đồng chí cảnh sát thân mến ơi…
- Thôi mà đồng chí… - Tôi đố đồng chí cảnh sát nhân dân đuổi đƣợc
cái đói nghèo của nhân dân đấy.
- Này này! - Anh công an hơi ưỡn người ra - Đồng chí là bộ đội, là sĩ
quan, đồng chí nói năng cẩn thận một tí nhé! [XIV, tr.32].
Như vậy trong tình huống này, từ đồng chí đã được linh hoạt sử dụng
vào cuộc sống đời thường nhưng phù hợp với thói quen của những người từng
là lính, từng vào sinh ra tử.
Biểu thị sắc thái trang trọng không chỉ có các từ xưng hô thuộc nhóm
chỉ quan hệ xã hội như đã nói trên, mà còn có nhóm từ chỉ nghề nghiệp, chức
69
tước của cá nhân, chức vụ xã hội như: chủ tịch, thầy giáo, bác sĩ, thƣợng tá,
thiếu úy, giám đốc, trƣởng phòng… dùng trong các cuộc thoại.
Trong giao tiếp tự do, người Việt có xu hướng dùng đại từ, dùng từ chỉ
quan hệ thân tộc, nhưng trong giao tiếp mang tính chính thức, việc dùng ngôn
từ được chọn lựa, cân nhắc kĩ hơn. Các từ xưng hô, theo đó cũng được người
nói có ý thức chọn lựa phù hợp. Khi các nhân vật xưng hô với nhau dùng
những từ chỉ nghề nghiệp, chức vụ thì chắc đó phải là cuộc giao tiếp trong
ngữ cảnh liên quan đến công việc chung. Và dĩ nhiên từ xưng hô như vậy
thường mang sắc thái trung hòa, trang trọng.
Trong tiểu thuyết Chu Lai, cách xưng hô là các chức danh nghề nghiệp
thường dùng trong môi trường giao tiếp mang tính nghi thức: hội nghị, nơi
làm việc công sở, giao tiếp công cộng. Đoạn thoại sau đây trong Phố của Chu
Lai thể hiện rõ điều đó:
- Này đồng chí cảnh sát thân mến ơi! - Tiếng nói của Bình đã nhừa
nhựa lắm song vẫn rành rẽ đến sắc lạnh - Cứ để họ ngủ tạm đêm nay cái đã,
có chết chóc gì đâu.
…- Này này! - Anh công an hơi ưỡn người ra -… Nhà của một ông đại
tá tư lệnh sư đoàn…
…- Cái nhà anh cảnh sát này cũng tội… [XIV, tr.41].
Những từ ngữ xưng hô đồng chí cảnh sát, ông đại tá tƣ lệnh sƣ đoàn,
anh cảnh sát góp phần làm cho không khí cuộc đối thoại thêm trang trọng,
nghiêm túc hơn.
Qua cách sử dụng từ xưng hô chỉ chức vụ, nghề nghiệp trong lời thoại
nhân vật, ta có thể xác lập được tư cách đối thoại của những người tham gia
giao tiếp. Các nhân vật tham gia cuộc thoại có thể ngang hàng, bình đẳng với
nhau (quan hệ kết liên), cũng có thể có quan hệ không ngang nhau (quan hệ
tôn ty hay còn quan hệ quyền thế):
70
(1). - Đƣợc! - Ngài đô trưởng thoắt trở nên hào hứng - Tôi xin đƣợc
tranh luận với giáo sư. Giáo sư muốn nói kết quả của biến cố Mậu Thân vừa
qua thành bại còn đang nằm trong hƣ thực phải không? [XIV, tr.41].
(2). - Thƣa thiếu tướng! Tôi có chuyện cần trình gấp lên ngài [X, tr.22].
(3). - Còn cái ông bạn giáo sư của tôi nữa? Cùng thật là khó hiểu. Có
lẽ tôi phải qua bên ông đại tá cảnh sát trưởng một chút [X, tr.29].
(4). - Mừng thủ trưởng có nhà mới - Người khách nói - Thủ trưởng có
còn nhớ em không? [XIV, tr.286].
(5). - … xin anh giới thiệu em với thủ trưởng Um vài chữ để em vào
thăm [XIV, tr.288].
Qua cách xưng hô, xét về mặt vị thế của vai giao tiếp, ta thấy (1) và (3)
quan hệ giữa người nói (tôi) và người nghe (giáo sư) là quan hệ ngang hàng;
ở (2), (4) và (5) là quan hệ không ngang hàng mà có thứ bậc, tôn ty rất rõ thể
hiện qua tôi - ngài, thủ trƣởng - em, anh - em. Xét về mặt tình thái, (1,2,3) có
tình thái thiên về trang trọng, trung hoà, ít biểu cảm, còn ở (4,5) lời nói của
nhân vật có sắc thái tình cảm rõ hơn, thân tình hơn.
Có khi nhà văn dùng nhiều từ ngữ xưng hô chỉ chức vụ nghề nghiệp để
truyền tải các thông tin về nhân vật, tạo vị thế trong cuộc giao tiếp nhất định:
- Hoan hô! Hoan hô bà giám đốc chịu chơi đệ nhất sáu tỉnh miền Nam.
Các quí vị khả kính thử đốt đuốc đi tìm xem cả đất nƣớc quê mùa này có ai
chịu làm, chịu chơi, tài sắc vẹn toàn nhƣ chị Tư của chúng ta không? Không.
Chắc chắn là không? Tôi dám lấy đầu ra để cuộc nhƣ vậy. Bà chúa rừng
xanh. Bà tiên tốt bụng của những sinh linh làm rừng nghèo khổ. Hoan hô!
- Một ly này xin chúc sức khỏe và ý chí cùng nhƣ tấm lòng nhân ái của
bà phó chủ tịch tƣơng lai.
- Không! Bà chủ tịch
- Bà bí thư tỉnh ủy
71
- Còn tôi… đồng chí ủy viên trung ương [XIII, tr.18].
Cuộc đối thoại cho thấy sự tâng bốc, sáo rỗng bên trong để tung hô
một người mà không rõ chức danh nào là thật và có giá trị với bản thân cuộc
đối thoại.
Ở các xưng hô bằng chức nói chung, xưng hô bằng các chức danh nói
riêng, người Việt ưa dùng “xưng khiêm hô tôn” theo phép lịch sự, tôn trọng
thể hiện qua chính chức danh của người đối thoại:
- Này đồng chí cảnh sát thân mến ơi!... [XIV, tr.41].
Căn cứ vào từ xưng hô chỉ chức vụ, nghề nghiệp giữa các các nhân vật,
ta có thể xác định được vị thế của mỗi nhân vật, quan hệ giữa họ.
c) Xưng hô biểu thị quan hệ thân mật, nũng nịu
Bên cạnh việc xưng hô là những đại từ nhân xưng, những từ thân tộc,
từ chỉ nghề nghiệp, chức vụ… tiếng Việt còn dùng những từ chuyển hóa, đó
là những từ như: bé, cƣng, nhóc…Số lượng những từ xưng hô này không
nhiều nhưng khi dùng trong giao tiếp, chúng biểu lộ những sắc thái tình cảm
khá đặc thù, đó là sự nũng nịu, thân mật. Lời thoại trong ngôn ngữ nhân vật
của tiểu thuyết Chu Lai xuất hiện không nhiều, nhưng khi xuất hiện, chúng
thể hiện khá rõ tính cách nhân vật mà nhà văn muốn thể hiện.
Để thể hiện tình cảm yêu mến của mình dành cho cô bé Niên Thảo,
Hùng đã sử dụng từ cƣng để gọi cô bé:
- Chú đi nghe cưng? [XIV, tr.252].
Hay sự yêu mến coi như người thân ruột thịt của Sáu Nguyện dành cho
nhóc tỳ Út Thêm:
- Nhỏ Út đó à - Út đó à cháu? - … Nói nghe này, nhỏ? - Chƣa nhớ
đâu nhóc tỳ à… [XIV, tr.74].
d) Sự phối hợp các từ xưng hô
Nhiều lời thoại trong tác phẩm Chu Lai dùng các từ xưng hô có nhiều
loại khác nhau: đại từ nhân xưng, danh từ thân tộc, các từ chỉ chức vụ nghề
72
nghiệp… Các cặp xưng hô cũng không phải lúc nào cũng tạo ra sự tương ứng,
mà có thể lệch pha, chẳng hạn: tôi - anh (chứ không phải em - anh), tôi - cậu
(chứ không phải cháu - cậu), tôi - bà (chứ không phải ông - bà), v.v… Và đi
kèm theo đó là mối quan hệ phức tạp trong mỗi cuộc giao tiếp. Chính các
quan hệ giao tiếp này đã quy định cách dùng các từ xưng hô như thế nào cho
phù hợp.
Cách xưng hô tôi - anh xuất hiện khá nhiều trong tiểu thuyết Chu Lai
để thể hiện vị thế: ngang hàng/ không ngang hàng, và tình thái: tôn trọng hoặc
trung hoà. Những người lãnh đạo có tác phong dân chủ thì thường có lời nói
thân mật, tự coi mình là thành viên của tập thể nên khen chê theo cách khuyên
giải, nhẹ nhàng, dân chủ ít tính mệnh lệnh. Họ cũng thường xưng hô “anh -
tôi” nhưng luôn khiến người nghe có cảm giác gần gũi, thân mật hơn cho dù
trong hoàn cảnh thực tế ngôn ngữ của họ cần phải lạnh lùng hơn nữa:
(1). - Anh nói tôi không phải chỉ là ý định mà hoàn toàn có chủ đích
giết ngƣời? - Chị hỏi - Tôi đã nói rồi và tôi không muốn nói lại nữa, thƣa bà!
- Người đàn ông vẫn lạnh tanh.
(2). - Này anh kia! Đến đây, anh phải nói năng thƣa gửi cho có lễ độ.
Đây không phải là cái xó xỉnh đầu hè cuối bãi của anh đâu mà anh cứ trỏng
lỏn nhƣ vậy! Anh có biết anh đang đứng trƣớc mặt ai đây không?
(3). - Thôi đƣợc! - Bất giác nét mặt chị nhăn lại, vội chuyển ánh mắt
nhìn sang chỗ khác - anh có thể chƣa cần trả lời câu hỏi này.
… - Nhƣng điều này thì anh phải nói: Khẩu K54 chúng tôi đang thu
giữ, vật chứng khẳng định anh có hành vi phạm tội là của ai đƣa cho anh?
[XV, tr.82].
Trong các ví dụ (1), (3), ngôn ngữ của nhân vật điềm đạm, nhã nhặn,
mặc dù xét trong hoàn cảnh giao tiếp giữa một phạm nhân và một bà trưởng
phòng điều tra xét hỏi, ngôn ngữ của nhân vật có thể có các xưng hô và ngữ
73
điệu khác, điều đó chứng tỏ nhân vật giao tiếp trong cuộc thoại là người cán
bộ giữ được tính lịch sự, mức độ vừa phải trong thể hiện thái độ, tình thái…
Còn ví dụ (2), chủ thể giao tiếp có ý thức biểu thị quyền uy trong giao tiếp đối
với đối tượng giao tiếp.
Hệ thống nhân vật trong tiểu thuyết của Chu Lai tuy có số lượng đông
đảo (trung bình mỗi tác phẩm có khoảng 30 nhân vật); họ “sống và hoạt
động” trong nhiều bối cảnh. Trong số đó, tác giả chú trọng và dành nhiều tâm
huyết xây dựng hình ảnh nhân vật là người lính (chiếm số lượng xấp xỉ 70%
trong tổng số nhân vật của các tác phẩm). Nhưng có một kiểu nhân vật mà tác
giả cũng có chủ ý khắc họa và đạt đến độ khá sâu sắc, đó là nhân vật tiêu cực,
có tính cách xảo trá, lươn lẹo và đểu giả. Loại nhân vật này xuất hiện nhiều
trong các tiểu thuyết lấy bối cảnh cuộc sống sau chiến tranh. Qua cách xưng
hô, cùng với những từ ngữ được đưa vào trong lờì thoại, ta có thể hiểu rõ loại
nhân vật này.
Sau đây là lời thoại giữa nhân vật Quách với nhân vật Linh trong Vòng
tròn bội bạc:
- Thì tôi đối với cậu xƣa nay đã có gì khuất tất đâu. Vào đây! Vào cái
quán này làm một ly cà phê cho tỉnh rồi ta sẽ trao đổi luôn. Thôi đừng nhƣớn
mắt lên nhƣ thế nữa, trông kinh bỏ mẹ! Vào đây!
- Nào bây giờ tôi nghe đây! Nghe một cách đàng hoàng. Nhƣng nhớ
đừng làm ầm ĩ lên nhé!...
- Này! - Quách làm vẻ ngạc nhiên nhăn nhó - Ở báo đã lâu, chả lẽ cậu
không hiểu rằng nghề của ta luôn luôn biến động à! Báo chứ có phải đâu là
một quy trình công nghệ. Cái cậu này thật… uống đi kẻo nguội.
- Thế cậu muốn tôi phải nói cái gì nữa nhỉ? Quái thật!
- Khoan đã - Ông Quách vội giữ tay Linh lại, cười nhạt. Nên biết thân
biết phận một chút ông bạn trẻ ạ! Cùng đã có một thời tôi hăng máu nhƣ ông
74
và để bây giờ… tôi vẫn còn ra thế này đây. Nƣớc đời đen bạc lắm. Nếu ông
không chú ý tới điều đó thì buộc tôi phải nhắc ông; ngoài bài báo có những
cứ liệu không khách quan đang làm rối cơ quan của ông ra, ông cũng có một
đơn kiện đấy.
- Cái gì? Anh muốn gì?
- Thằng du côn! Cút ngay không tao gông cổ lại bây giờ. Đồ thằng
lính mọi rợ! Cút ngay ra khỏi đây.
- Tao nói, chính tao nói mày và cả cái lũ chúng mày là mọi rợ.
- Kìa!... Tha lỗi cho tôi vì đã quá nóng nẩy. Linh… Đồng chí Linh!
Không nên thế! Đồng chí cứ bình tĩnh ngồi xuống đi. Chuyện đâu rồi sẽ có
đó… Chúng ta đều là những ngƣời cộng sản. Kìa… ơ! [XI, tr.264, 331].
Đây là lời thoại của nhân vật Quách trong tiểu thuyết Vòng tròn bội
bạc khi đối thoại với Linh - người lính trở về sau chiến tranh đang vạch trần
bộ mặt tham nhũng của bọn tham quan trong đó có lão Quách. Với cương vị
phó tổng biên tập, Quách đã không hoàn thành trách nhiệm, nhiệm vụ của
mình tệ hơn hắn lại bắt tay với chính những kẻ tham nhũng để “ăn tiền”. Bản
chất con người này được lột mặt nạ dần dần qua sự thay đổi trong từ xưng
hô ở lời thoại: tôi - cậu, cậu - ta, ông - tôi, anh, thằng du côn, thằng lính mọi
rợ - tao, tao - mày. Ở các xưng hô tôi - cậu, nhân vật còn đang giữ được mặt
nạ để che giấu bản chất bên trong, nhưng đến cuối đoạn thoại, bản chất hắn
được bộc lộ, phơi bày hoàn toàn trước những lời kết tội và vạch trần âm
mưu bỉ ổi của Linh, nhưng sau khi bị lộ mặt, bản chất xảo quyệt, giỏi ngụy
biện đã cho hắn vớt vát câu cuối cùng hòng cứu vãn tình thế bằng từ xưng
hô đồng chí - tôi. Qua cách xưng hô dùng nhiều loại từ nhân xưng của các
nhân vật, cùng với các ngôn từ khác được dùng trong lời thoại, nhà văn đã tô
đậm chân dung nhân vật cả trong đời thường và trong chiến tranh. Đó là con
người lừa thầy phản bạn, tên lưu manh chính trị, bất tài bất lực như lời của
Linh đã kết tội gã:
75
- Mƣời năm chiến tranh anh chỉ viết đƣợc một vài bài báo mỏng quẹt.
Mƣời năm hòa bình, anh ngồi im gặm nhấm nỗi buồn quan chức. Tất cả
những gì anh có hiện nay đều do bô báo, cơ hội, luồn lót mà nên. Vậy anh
nhân danh ai, nhân danh cái gì mà chơi đểu ngƣời khác, mà phán xét ngƣời
khác? [XI, tr.330].
Việc lựa chọn cách xưng hô và từ xưng hô trong giao tiếp là vấn đề
mang tính văn hoá - xã hội, nó bị chi phối bởi các điều kiện, các yếu tố khác
nhau, như: hoàn cảnh giao tiếp (giao tiếp chính thức hay tự do), vị thế của các
nhân vật giao tiếp (bình đẳng/ không bình đẳng), trạng thái tình cảm giữa hai
nhân vật giao tiếp trong giao tiếp (gần gũi, quen biết hay xa là, yêu ghét, giận
dữ, căm tức hay trung hòa), v.v…
Từ những phân tích, khảo sát trên cho thấy từ ngữ xưng hô được sử
dụng trong ngôn ngữ nhân vật của tiểu thuyết Chu Lai không chỉ ở nội dung
chỉ ngôi, số mà còn thể hiện thái độ, tình cảm, tâm lý, nhận thức, thói quen,
văn hóa… của nhân vật tham gia giao tiếp.
2.3. Từ xưng hô và các kiểu nhân vật trong tiểu thuyết Chu Lai
2.3.1. Mối quan hệ giữa xưng hô và kiểu nhân vật
Mỗi kiểu nhân vật có một loạt các đặc điểm chung và riêng về tính cách,
tư tưởng, hành động và ngôn ngữ như chính bản thân cuộc sống trong hiện
thực xã hội. Văn là người, ngôn ngữ của mỗi người thể hiện rõ tính cách của
mỗi người. Khi tìm hiểu lời thoại nhân vật trong tiểu thuyết Chu Lai, ta có thể
nhận thấy rõ mối quan hệ qua lại rất chặt chẽ giữa: ngôn ngữ nhân vật với các
nhân tố khác, như: tính cách nhân vật, giới tính, hoàn cảnh mà nhân vật đang
sống,v.v…
So sánh:
(1) - Thế thì đù mạ! Nhớ rồi. Mày là thằng Hùng ác ôn, thằng Hùng
trời gầm, đúng không? Nhƣng sao lóng rày mày già dữ vậy mày? Nếu không
nói tới viên đạn mắc dịch ấy thì ông cố nội tao nhận cũng không ra.
76
- Thì hai mƣơi năm rồi, một phần ba đời ngƣời rồi còn gì nữa.
- Ờ, lẹ hè! Tao nhớ ngày ấy mày ngon lắm kia mà. Cái giò của mày bự
bằng cả khúc bằng lăng, nếu không viên đạn ấy nó cắt cụt cu mày rồi, lão
khọm à.
- Thế bộ mày tƣởng mày còn trẻ lắm ƣ? Nếu thằng con mày nó không
nói ba cháu ở rẫy sắp về tới thì chắc tao nghĩ mày là ông già đẻ ra cái thằng
Ba Thành ngày xƣa quá!
- Khớ…Khá! Thằng khọm già vẫn còn giữ đƣợc cái giọng châm chọc
đểu giả thủa nào. Khá! Với cái giọng này mày nẫng đƣợc con nhỏ Ba Sương
trên tay ráo trọi bọn đàn ông trong này thì hận thật. Khá! [XIII, tr.108].
(2) Nhân vật Thêm và sau này là bà thẩm phán Út Thêm trong Ba lần
và một lần nói với thủ trưởng: - Còn công việc của cháu? - Cô bé lại buột
mồm hỏi mà không biết cái suy nghĩ bỏng rát lúc nãy của mình đã từ từ nguội
đi từ lúc nào.
- Công việc hả? Cứ chậm rãi! Việc cách mạng ngày dài tháng rộng,
không đi đâu mà vội. Có thể sớm mai thử theo chú ra bƣng vài lần làm quen
địa hình cái đã.
- Ngay sớm mai ƣ? Vậy mà - Giọng cô chìm đi - cháu đã định đêm mai sẽ...
- Sẽ bỏ đây đi chứ gì?
- Ơ! Sao chú biết hay vậy? [XV, tr.22].
Quan sát hai đoạn thoại, nhất là các từ được dùng trong mỗi đoạn thoại
ta sẽ thấy giữa chúng tuy cùng là những lời nói giữa các nhân vật, trao qua đổi
lại, nhưng có sự khác nhau.
Ở (1), các nhân vật nói với nhau bằng những từ ngữ rất đời thường,
thông tục, bỗ bã:
- Thể hiện trong xưng hô: mày, tao, thằng khọm già, con nhỏ, thằng
con mày, ông già…
77
- Thể hiện trong các từ tình thái: (già) dữ vậy, ngon, (cái giọng châm
chọc) đểu giả… đù mạ, lẹ hè, khớ, khá…
Ở (2), các nhân vật nói với nhau bằng những từ ngữ cũng rất đời
thường nhưng giàu màu sắc biểu cảm, nhẹ nhàng hơn:
- Thể hiện trong xưng hô: chú, cháu…
- Thể hiện trong các từ tình thái: ƣ, hả, ơ, chứ gì…
Đối chiếu từ được dùng trong hai đoạn thoại, ta thấy có sự khác nhau
về cách xưng hô, về những từ ngữ biểu cảm (Ở (1): thân mật, suồng sã, ở (2):
lịch sự, nhẹ nhàng). Sự khác nhau đó phù hợp với kiểu nhân vật, với trạng
thái tâm lí và hoàn cảnh nhân vật. Ở đoạn (1), nhân vật phát ngôn là người
lính, ở đoạn (2), nhân vật phát ngôn là người phụ nữ. Qua đó, có thể thấy, mỗi
kiểu nhân vật đều có một kiểu ăn nói nhất định, thể hiện rõ và cũng tương hợp
với nhân thân và hoàn cảnh sống của họ.
2.3.2. Từ xưng hô của một số kiểu nhân vật trong tác phẩm của Chu Lai
2.3.2.1. Từ xƣng hô và nhân vật ngƣời lính
Trong số hệ thống nhân vật các tiểu thuyết của Chu Lai, nhân vật người
lính chiếm số lượng đông đảo nhất. Họ đến từ nhiều vùng quê khác nhau, xuất
thân, hoàn cảnh và tuổi tác khác nhau, vị thế cũng không giống nhau, nhưng
có điểm chung là nhân vật người lính mang tính đặc thù “chất lính”, không
lẫn với các nhân vật khác. Chất lính này toát ra không chỉ trong lời giới thiệu,
miêu tả của nhà văn mà nó còn thể hiện sâu đậm nhất, ấn tượng nhất là ở
ngôn ngữ của họ, trong đó có từ xưng hô. Đó được xem là một trong những
thành công nhất của Chu Lai khi xây dựng nhân vật, khắc họa tính cách, đặc
điểm nhân vật. Các từ xưng hô, cùng với các từ ngữ khác của người lính thật
tự nhiên, bỗ bã:
- Tiếc quá! Mày lại có vợ rồi, nếu chƣa, tao xin hứa nếu còn sống trở
về, nhất định tao sẽ gả em gái cho. Em gái tao xinh nhất làng đó.
78
- Nó nói dóc đấy, làm đếch gì có em gái. Nó chỉ có bà chị gái sứt môi
lồi rốn bán thịt chó sống ở đầu chợ thôi.
- Thôi, đừng giỡn nữa! Giỡn hoài, nó chạnh lòng, nó lại chảy nƣớc (Hạ
giọng thật khẽ)… đái ra bây giờ. Có phải không chị Ba? [XIII, tr.93].
Còn đây là đoạn thoại khi hai người từng là đồng đội, gặp lại nhau sau
chiến tranh. Trong lời thoại, có nhiều từ xưng hô và thông tục được người
lính nói ra một cách tự nhiên:
Đồng chí hỏi tôi? Vâng! Anh là Ba Thành, bác sĩ? Bác sĩ con mẹ gì?
Thế đồng chí là… Vất mẹ nó đồng chí đi! Mình đây, Hai Hùng đây! Chao ôi!
Chả lẽ tớ già đến nỗi cậu không còn nhận ra nữa ƣ? Đầu viên đạn M16 cậu
lấy ra từ đùi, gần bìu dái, tớ vẫn giữ… Thế thì đù mạ! Nhớ rồi. Mày là thằng
Hùng ác ôn [XIII, tr.107].
Còn đây là lời của người lính khi gặp lại vị chỉ huy can trường dũng
cảm mà cũng nhân từ độ lượng với lỗi lầm của đồng đội năm nào của mình:
- Ông còn nhớ cái gì đây không?Đầu óc lão này hƣ rồi! Quên hết quá
khứ rồi! – anh ta trợn mắt – Cái dây dù bị cứa đứt đã làm ông té lộn cổ xuống
suối còn để lại thẹo đến tận bây giờ đó, nhớ chƣa!…Thế ra ông là… chính
ông là cái ngƣời đã…Đúng! Tôi chính là thằng Tính… thằng Hai Tính khốn
nạn đã hại ông đây! – Giọng anh ta méo đi như sắp khóc và ngay liền đó,
nước mắt anh ta lại chảy ra thật – Tôi khốn nạn thế mà ông vẫn không nhận
ra ƣ?... Ông không hận tôi ƣ?... Chết thôi! Ông khác đi nhiều quá! [XV,
tr.140].
Lời của người đồng đội năm xưa vẫn chân thật, tự nhiên không khách
sáo, không câu nệ thân phận.
Qua từ ngữ lời thoại, ta có thể thấy tính cách, suy nghĩ của người
lính thấm vào trong lời thoại, trong cách dùng từ xưng hô (đồng chí, mình,
tớ, cậu, mày, lão, thằng) và các từ ngữ thông tục khác (con mẹ, đùi, bìu dái,
79
đù mạ, chết thôi); chúng bộc lộ rõ tâm trạng, tình cảm của nhân vật và phù
hợp với hoàn cảnh giao tiếp. Ta có thể thấy, ngôn ngữ người lính là thứ
ngôn ngữ đậm chất đời thường, ít màu sắc tu từ, lối nói thẳng thắn, bộc
trực với thái độ dứt khoát… Các từ dùng và sắc thái như thế phù hợp tính
cách người lính.
2.3.2.2. Từ xƣng hô của nhân vật là ngƣời nông dân
Trong tiểu thuyết của Chu Lai, nhân vật người nông dân xuất hiện khá
nhiều, họ cùng các nhân vật khác, với những cách thức thể hiện khác nhau,
phản ánh hiện thực xã hội, bộc lộ rõ tư tưởng, chủ đề tác phẩm. Xét ở khía
cạnh ngôn ngữ, qua các lời thoại của các nhân vật người nông dân, có thể thấy
ngôn ngữ của họ phản ánh khá rõ tính cụ thể, gắn liền với hoàn cảnh, tình cảm,
suy nghĩ, phù hợp với bản chất: chân tình, giàu tính biểu cảm. Sau đây là một
số đặc điểm từ ngữ tiêu biểu:
Các nhân vật người dân bình thường được nhà văn miêu tả bằng thứ
ngôn ngữ khá dung dị, mộc mạc như chính đời sống, tâm hồn của họ. Các từ
xưng hô cũng thể hiện rõ điều này. Đọan thoại sau là lời bà má nói với các
chiến sĩ:
- Lính hôm nay xuống ba GMC, đầy nhóc. Tao đoán thằng “sƣ năm”
đổi về. Đi đứng coi chừng cho kỹ, mấy con!
Má quay lại chị phụ nữ:
- Con Út lấy thuốc đƣa cho cậu Tư mày chia cho mấy đứa nó hút! [VII,
tr.130].
Hay trong lời thoại:
- Của thằng Sáu đây! Uống chút thôi. Ráng dẹp cái chuyện ấy đi,
nghe con!
Đến lúc ấy Linh mới nhìn thấy bàn tay cầm can rượu của má co rút lại,
cả cánh tay quặt quẹo như tật nguyền. Má cười móm mém:
80
- Mấy đứa mới xuống hả? Có thằng nào ngƣời Bắc không? Linh
“dạ” khẽ.
Má chặc lưỡi:
- Tội nghiệp! Mƣa gió thế này… Thôi, tao về đây kẻo chúng nó nghi.
Mai tao ra cho mấy thằng Bắc lạng cà phê uống chơi [VII, tr.130].
So sánh cách xưng hô “mày - tao” bỗ bã của nhân vật người lính, ta
thấy có sự khác nhất định với cách xưng hô của nhân vật người nông dân. Từ
xưng hô trong hai đoạn trên thể hiện quan hệ giữa mẹ và con, nặng về tình
cảm với sắc thái thân mật: tao - con, đứa, thằng.
Bên cạnh từ xưng hô, các từ tình thái trong lời thoại nhân vật người
nông dân được nhà văn chọn lọc, đưa vào lời nhân vật phù hợp với suy nghĩ,
tình cảm của tính cách người nông dân. Một số dẫn chứng cụ thể:
Khi nói với Thúy, má Sáu của đồng ruộng bưng biền mắng yêu như
mắng đứa con, đứa cháu nhõng nhẽo của mình:
- Cha nội mày! Con nhỏ dòm càng ngày càng đẹp ra! Chồng con tính
sao chƣa, con? [VII, tr.131].
Lời của nhân vật nữ tên Hương nói với người yêu thể hiện sự chân tình,
chân chất, mộc mạc của người con gái thôn quê:
- Xa xôi lắm Hƣơng à! Chả biết bao giờ về, và có thể không bao giờ về
nữa… Thôi, quên anh đi! Anh không muốn mang sự chờ đợi mỏng manh của
em vào chiến trƣờng…
Hƣơng đã ngồi lặng đi thật lâu, rồi nói nhƣ một lời thề:
- Em đợi… Mai này anh về, dù có què cụt chân tay, em vẫn đợi! Em sẽ
làm lụng nuôi anh suốt đời… [VII, tr.15].
Đoạn thoại giữa cô gái nông dân chỉ biết đồng ruộng, chòm xóm chân
chất mà chưa bao giờ rời khỏi quê hương với cậu chủ nơi cô làm thuê:
- Tôi sẽ đƣa cô Hai về.
81
- Ý! Đâu có đƣợc cậu chủ.
- Đƣợc chớ, sao lại không đƣợc?
- Dạ, thôi cám ơn cậu, tôi về một mình, nhà gần mà.
Cậu ta bước đến sát trước mặt tôi, to cao lừng lững, từ vồng ngực nở
nang của cậu toát ra mùi nước hoa lẫn mùi rượu, mùi mồ hôi, nồng nồng. Mắt
cậu gườm gườm:
- Đừng làm phách. Hay có thằng nào khác đƣa đón rồi?
- Đâu có cậu, tôi gầy guộc, xấu xí, làm gì có ai đƣa đón. Cậu nói thế
tội nghiệp… [IX, tr.22].
Ngôn ngữ thẳng thắn, nóng nảy của Riềng, chàng trai sinh ra và lớn lên
ở làng, khỏe mạnh, cần cù:
- Mẹ nó! Thằng chủ xe nó chơi chó má. Cả ngày đạp ựa cơm, kiếm
đƣợc ba trăm, nó đòi hai. Không chịu, nó cúp luôn. Điên quá, em xáng cho nó
cái bạt tai rồi quẳng cả tiền lại, không thèm [IX, tr.26].
Đứng trước tình huống sẽ bị thất tiết bởi cậu chủ đang theo đuổi mình,
Cô gái Hai Thanh vốn dĩ hiền lành, chịu thương, chịu khó và nhường nhịn
mọi người trong từng lời ăn tiếng nói bỗng đanh lại để bảo vệ mình:
- Tôi không cần! Cậu đi đi!
- Vậy thì cô cứ việc kêu đi, kêu to lên!
Đến nước này thì không thể chịu được nữa, tôi quay phắt lại, người vẫn
dìm sâu trong nước, tôi quắc mắt:
- Cậu cút đi, đàn ông gì mà không biết nhục! [IX, tr.30].
Và cô gái ấy đã có hành động quyết liệt hơn để từ chối cái mà mình
không muốn:
- Cậu dang ra để tôi đi!
Tôi nhìn thẳng vào bộ mặt ấy và không thấy sợ hãi một chút nào.
- Tôi biết cô khinh tôi, giận tôi nhƣng đừng vì thế mà bỏ việc. Sao cô cố
chấp quá!
82
- Cậu mà cũng biết nói những điều nhƣ thế à? Muộn rồi! Nhờ cậu nói
giùm với ông bà chủ cho tôi nghỉ việc. Chào cậu! [IX, tr.32].
- Nhận xét chung:
Qua những đoạn thoại trên, có thể nhận thấy nhân vật người nông dân
có những đặc điểm sử dụng từ nổi bật:
- Về các loại từ được sử dụng trong lời thoại:
+ Sử dụng các từ xưng hô biểu thị các trạng thái tình cảm hay thái độ
phù hợp hoàn cảnh giao tiếp và phù hợp với tính cách nhân vật. Đó là những
từ xưng hô biểu thị thái độ thân mật, yêu thương: Hƣơng - anh; tao - con; anh
- chị Năm; thằng Sáu, con Út, mấy đứa, mấy thằng Bắc, mày, con nhỏ, con,
đứa, chị Hai - em, má,…
Biểu thị thái độ coi thường: chúng nó, thằng nào, nó, thằng chủ xe,…
Biểu thị tình thái trung hòa: tôi - ông, cô Hai - tôi, cậu chủ - tôi, cậu -
tôi, tôi - ông bà chủ…
+ Sử dụng nhiều từ tình thái trong lời thoại để vừa tạo sắc thái câu nói
vừa thể hiện rõ hơn các trạng thái, tình cảm của nhân vật với các đối tượng
giao tiếp cụ thể trong những hoàn cảnh nói năng cụ thể. Các từ tình thái xuất
hiện ở các đoạn thoại trên gồm: hả, dạ, à, chả biết, thôi, vẫn, nghe con, tội
nghiệp, cha nội mày, quá, muộn rồi, mấy con…
2.3.2.3. Từ xƣng hô của nhân vật ngƣời trí thức
Trong tiểu thuyết của Chu Lai, nhân vật người tri thức cũng được nhà
văn chú tâm xây dựng để phản ánh đúng hiện thực của xã hội, của thời đại
mới với một lớp người mới: người trí thức. Kiểu nhân vật trí thức của Chu Lai
khá đa dạng: giáo sƣ, giảng viên, giáo viên, sinh viên, kĩ sƣ, bác sỹ…
Ở khía cạnh ngôn từ, nhà văn đã khắc họa đặc điểm nhân vật trí thức
qua những lời miêu tả của chính tác giả qua các lời dẫn thoại và rõ nhất là qua
lời thoại nhân vật. Một số điểm nổi bật về mặt từ ngữ của nhân vật trí thức.
83
- Đây là lời của giáo sư Luân với những từ dùng trong đoạn thoại rất rõ
ràng, nhã nhặn của người có học. Điều đó trước hết thể hiện qua từ xưng hô.
Các từ xưng hô mang sắc thái trung hòa: tôi/anh:… Xã hội ta bây giờ
đang sao chép lối sống Mỹ một cách sống sít thì đúng hơn. Có quốc gia nào
tự tồn tại bởi những con ngƣời chuyên đi bắt chƣớc những cái bên ngoài. Thà
cứ sống khổ hạnh nhƣ phía bên kia lại giữ đƣợc bản ngã của mình. Anh hiểu
giùm, đây tôi không nói chuyện chính trị. Thú thực tôi không hiểu những
ngƣời cách mạng lắm và tôi cũng chƣa có ý định tìm hiểu [X, tr.25].
Hoặc những từ xưng hô thân mật: ba/con, anh/em:
Đây là cuộc tranh luận giữa hai bố con, mỗi người có những lý lẽ và ý
kiến riêng của mình trên quan điểm, lập trường của người trí thức khi bàn về
vấn đề chính trị: Con lại tranh luận rồi. Con định tranh luận đến bao giờ nữa.
Ngày mai, ở những cánh rừng ẩm thấp xa lạ, nếu con bị ăn một viên đạn của
ngƣời khác hoặc ngƣời khác ngã vật trƣớc mũi súng của con thì thử hỏi ba
còn muốn tranh cãi với con làm gì. Tất cả chúng ta bây giờ mắc cái bệnh nói
nhiều quá mà không làm… Thế là - Ông chuyển giọng - Con không tự cứu
đƣợc con một điều mà ba lo sợ, kể từ ngày má con mất đi. [X, tr.159].
Hay đoạn thoại giữa Nga và Hải, hai trí thức trẻ của Sài Gòn đang chao
đảo giữa cuộc sống thật giả xung quanh mà chưa chọn cho mình một con
đường đúng đắn: Thôi đừng nói nữa anh… Em van anh! Ráng chờ em học
xong, chúng mình sẽ bỏ tất cả về miệt vƣờn quê em. Em làm thầy thuốc, anh
viết bài hát… Ủa! Mà đâu có đƣợc. Người ta đâu có để anh đi. Nhạc sĩ tên
tuổi mà lại.
- Anh muốn quẳng đàn đi cho rồi. Càng viết càng thấy mình quẩn
quanh nhƣ chui vào cầu thang máy mất điện.
… - Không phải vậy đâu. Em cho là anh và ba rất giống nhau nhƣng
cách biểu hiện khác nhau mà thôi. Cả hai đều không chịu nổi cuộc sống lố
84
lăng này. Anh thì than vãn bằng tài năng của anh, ba thì càu nhàu đập phá
bằng niềm tiếc nuối cái cũ lớn lao của ba [X, tr.92].
Ước mơ về một cuộc sống hạnh phúc bình yên của những người trí thức
trong cuộc sống ngột ngạt đầy những tội ác và giết chóc này qua lời thoại của
Hải và Nga: Không! Anh sẽ ngồi chăm giấc ngủ cho em. Bởi vì có cái gì thuộc
về chúng mình đâu. Em không nghe tiếng xe cảnh sát dã chiến rú qua rú lại
ngoài kia ƣ? Con ngƣời đang từng giờ từng phút tìm cách giết nhau. Ngự trị
lên tất cả bây giờ là thứ âm thanh ghê tởm đó. Em có nghe thấy không?
… - Anh đừng nói nữa! Em hiểu anh… Cô gái ôm đầu người con trai
ghì chặt vào ngực mình - Anh… Em yêu anh! Anh đừng buồn khổ nhƣ thế nữa.
Nếu ba cho chúng mình là vợ là chồng em suốt đời ủ ấm cho anh [X, tr.94].
Có một đặc điểm khá nổi bật trong lời thoại của nhân vật trí thức (so
với lời thoại nhân vật người lính và nhân vật người nông dân) là từ xưng hô
cùng với hệ thống từ ngữ mang tính thuật ngữ xuất hiện khá cao. Đó là những
từ ngữ thể hiện suy nghĩ, hành động về các lĩnh vực đời sống mà nhân vật
đang đối diện, chẳng hạn như: tƣ duy năng động, sản phẩm kinh tế, bản ngã,
xã hội nhiễu nhƣơng, số phận con ngƣời, lòng tự trọng, quẩn quanh, cuộc
sống lố lăng, tƣ duy năng động, phạm trù kinh tế, sản phẩm kinh tế, giá trị
luân lý, giá trị đạo đức, tranh đấu, nƣớc mắt cao su nhƣ nƣớc mắt ngƣời,
chiêu bài dân chủ, chống tham nhũng…
- Sự vu cáo nào mà lại không hèn hạ. Anh đang đƣơng chức còn có thể
hiểu đƣợc. Tôi đã nghỉ hƣu rồi mà vẫn bị mới lạ chứ. Thời bao cấp ngƣời ta
chỉ nặc danh. Thời thị trường, ngƣời ta ký tên ký tuổi đàng hoàng. Chiêu bài
dân chủ đang đƣợc một số không ít ngƣời vấy bẩn, vặn xoắn để làm cái cớ
sát phạt nhau. Chống tham nhũng, chống tiêu cực cũng đang trở thành cây
cột buồm để cho một số kẻ bám níu vào đó mà loại trừ không thƣơng tiếc
những kẻ không ăn cánh. Buồn quá! Có lẽ tôi với anh chỉ là hai trong số
không ít nạn nhân đang nằm ngửa trên con dao hai lƣỡi đó [XVI, tr.95].
85
Ngôn ngữ nhân vật trí thức, qua từ ngữ, qua câu nói, cũng thể hiện tư
duy suy ngẫm, suy xét thậm chí mang triết lý như cái “tạng” chính tác giả.
Đây là lời thoại giữa nhân vật Vũ Nguyên và nhân vật Hà Thương:
- Anh… còn nhớ ngày ấy anh thƣờng nói với em câu gì không? - Tiếng
chị thoảng bay trong tiếng lá xào xạc - nước mắt cao su nhƣ nƣớc mắt
ngƣời… Còn em, em lại bảo, anh có một cái đầu thị trường sắc sảo nhƣng
anh lại có một trái tim bao cấp mềm yếu, vì thế mà đời anh vất vả nhƣng cũng
vì thế mà em yêu anh… Anh còn nhớ không? [XVI, tr.510].
Nhân vật thiếu tá mật thám Hoàng Xanh, kẻ phản bội cách mạng chạy
sang địch, khi gặp lại Ba Xuân, người hoạt động cách mạng dưới lốt một
người đàn ông Thượng bán thuốc nam dạo, Hoàng Xanh nói cũng là ngôn ngữ
nặng về triết lý:
… - Tôi không ngờ anh vẫn còn sống. Tất nhiên… Tất nhiên… Vâng!
Sau lần đó và ngay cả bây giờ có thể anh rất khinh tôi... Còn mai đây, nếu do
một sự vận động trái chiều nào đó của cuộc sống, tôi với anh ngồi chung
trong một cơ chế, chúng ta sẽ lại uống rƣợu với nhau [X, tr.65].
Qua các dẫn chứng và phân tích chúng có thể thấy cách xưng hô cùng
với kiểu nói của nhân vật trí thức, dù là nhân vật chính hay phụ, có các nghề
nghiệp khác nhau, vẫn có tính đặc thù: dùng các thuật ngữ chỉ nghề nghiệp
hoặc những câu nói mang tính suy ngẫm, triết lý. Chu Lai đã có ý thức xây
dựng ngôn ngữ nhân vật trí thức có tính đặc thù: người trí thức trong tác phẩm
nói thứ ngôn ngữ gần với ngôn ngữ văn hóa hơn so với ngôn ngữ nhân vật
người lính hay ngôn ngữ nhân vật người nông dân.
2.3.2.4. Từ xƣng hô của các kiểu nhân vật khác
Ngoài những nhân vật người lính, người nông dân, người trí thức, trong
các tiểu thuyết của Chu Lai còn có các nhân vật khác, như: nhân vật phản
diện (kẻ địch), ca sỹ, người buôn bán nhỏ…
86
Sau đây là một số đoạn thoại liên quan đến các kiểu nhân vật này.
- Ngôn ngữ của nhân vật kẻ thù trong Ăn mày dĩ vãng thể hiện rõ bản
chất của chúng. Từ tiếng nói khoái trá ra vẻ mình là chính nghĩa và cao
thượng cho đến sự đe nẹt, dọa dẫm của kẻ giết người không ghê tay và cuối
cùng là tính tục tằn, thô bỉ của những kẻ đại diện cho cái ác kia:
- … Trung úy đồn trưởng đang kêu gọi các bạn đây…
- A lô! Các bạn còn chần chừ gì nữa? - Vẫn cái tiếng nói khoái trá và
hãi hùng lọt xuống từng chập như tiếng gào của ma quỷ dưới địa ngục - Dù
muốn hay không, các bạn cùng chỉ có một con đƣờng đầu hàng hay tan xác?
Ba trái mìn cực mạnh đã đƣợc đặt lên nắp hầm, dây đã ròng xong, chỉ còn
chờ thái độ của mấy ngƣời là phát nổ…
- Đù mẹ bọn mọi ăn đất cát! - Bây giờ là tiếng chửi tục tằn vọng xuống
- Nhẹ không ƣa, ƣa nặng. Cơm không muốn ăn, ăn cứt! Thân con lừa! Vậy
tao cho bọn bay chết mẹ luôn. Lính đâu? Tao đếm từ ba đến một, không lên,
bấm [XIII, tr.226].
Ngôn ngữ trong lời thoại đầu tiên sử dụng cách xưng hô các bạn -
chúng tôi, trung úy đồn trƣởng, đến lời thoại tiếp theo sử dụng các bạn - mấy
ngƣời và lời thoại cuối từ xưng hô chuyển đổi khác hẳn cách sử dụng bằng
các từ “bọn mọi, tao, bọn bay” cùng với từ ngữ tục tĩu của những tiếng chửi
thề (đù mẹ, cứt, con lừa, chết mẹ) cho thấy bộ mặt thật thô bỉ, đểu giả, ác ôn
của kẻ địch.
Nhân vật Quang trung úy trưởng đồn, kẻ được mệnh danh là ác ôn khét
tiếng, xảo quyệt đến tàn bạo, nỗi kinh hoàng của những người dân trong vùng.
Nhưng cũng có khi nhân vật này lại dùng những từ xưng hô trung hoà (tôi/cô),
các từ tình thái biểu lộ tình cảm riêng (cám ơn, buồn, yêu, chính tôi, thế, chứ)
những câu nói bộc bạch tâm sự về tình cảm từ đáy lòng hắn với cô gái mà hắn
yêu thương:
87
- Cám ơn!... - Miệng hắn nhệch ra thành một đường hằn dữ tợn và cay
đắng - vì tôi yêu, tôi yêu cô. Yêu đến tận bây giờ. Khốn nạn! Chính tôi cũng
không rõ vì sao tôi lại đâm đổ đốn nhƣ thế? Cô là ai? Cô là cái quái gì mà
ám ảnh tôi hoài, càng xua đi, càng ám ảnh. Mà tôi đã là cái quái gì với cô kia
chứ, ngoài một vết tích gần nhƣ cƣỡng dâm! …con quỷ... [IX, tr.64].
Nhưng với bản chất của nhân vật (là kẻ địch, ác ôn khét tiếng, xảo
quyệt đến tàn bạo), từ ngữ hắn dùng, dù là trong ngữ cảnh bộc bạch tâm tình,
vẫn toát lên tính cách lỗ mãng, sắc thái dữ dằn của một tâm địa đen tối (biểu
hiện qua các động từ: đập, giết, cƣớp; từ tình thái: khốn nạn, đổ đốn,cƣỡng
dâm, cái quái gì, con quỷ).
Em là của tôi, cần gì phải giờ giấc. Bữa nay em dở ngƣời? Nói nghe
sƣớng chƣa? Thôi, anh ngồi chơi một chút rồi về, mai sớm em mắc công
chuyện. Hắn nhìn quanh quất trong phòng: Đầu mẩu thuốc của ai đây? Em
hút. Xua nay cô đâu có hút thứ thuốc lính này? Xƣa không thì nay có, làm chi
mà anh hạch sách tôi dữ dậy? Ả nhướng mắt lên - Mà tôi cũng nói cho anh
biết, anh chƣa là gì của tôi đâu mà nói cái giọng đó. Mệt lắm!....
Và bây giờ - Hắn cười cay đắng - khi tôi trơn lông đỏ da cô lại chán
tôi nhƣ những thằng đàn ông sạch bóng đã qua tay cô ngày trƣớc. Khốn nạn!
Hóa ra tôi chỉ là phƣơng tiện làm thỏa mãn cái tham lam chuộng lạ của cô?
… - Thôi mà cƣng! Đừng giận! Bữa nay em làm ăn thua lỗ quá. Mai
mốt cƣng lại, em bù cho [X, tr.110].
Từ ngữ của mỗi nhân vật bộc lộ rõ thái độ, tâm lí của từng cá nhân cũng
như hành vi của họ đối với nhau. Nhân vật “hắn” khi thì xưng hô với người đàn
bà với giọng thân thiết là tôi/ em, khi lại là giọng cay đắng: tôi/cô. Còn người
đàn bà, khi là em/ anh, rồi tôi/anh, rồi tôi/ông; nhưng cuối cùng lại chuyển
thành em/cƣng…Vì sao có sự xưng hô thay đổi như vậy giữa hai nhân vật? Qua
lời thoại, xét cho cùng, hoá ra giữa họ chẳng có một thứ tình cảm gì chân thực,
88
gắn bó sâu sắc. Ngôn ngữ của người đàn ông thì thực dụng; ngôn ngữ của
người đàn bà thì phù hợp với từng diễn biến tâm trạng: tức giận đến lạnh lùng,
đanh đá, chua ngoa, tàn nhẫn và cuối cùng bản chất của người đàn bà lọc lõi
mách bảo phải kết thúc câu chuyện bằng sự ngọt ngào bản năng trước một
người đàn ông mãnh thú như Hoàng Xanh. Ngôn ngữ hội thoại đã luồn lách
vào thế giới nội tâm với từng diễn biến tâm trạng nhỏ nhất trong hoàn cảnh
giao tiếp để từ đó từ ngữ chọn lựa sử dụng phù hợp với mỗi nhân vật.
Có thể nhận xét chung rằng, lời thoại các nhân vật nêu trên, dù nhiều
thành phần trong xã hội, nhưng đều thể hiện phần nào tâm lý, tính cách nhân
vật qua từ ngữ họ dùng. Ngôn ngữ của họ, cũng như chính cuộc sống xã hội,
mỗi người mỗi vẻ, làm nên sự phong phú, đa dạng cuộc sống và làm nên tính
hiện thực, tính sinh động của tác phẩm văn học.
Tóm lại, qua thống kê, phân tích từ ngữ trong lời thoại nhân vật của
tiểu thuyết Chu Lai, có thể rút ra điểm nổi bật: cùng với những đặc điểm phổ
quát chung cho các nhân vật trong tác phẩm, mỗi kiểu nhân vật thể hiện tính
cách, đặc trưng nhất định, điều đó thể hiện rõ nhất qua hệ thống từ ngữ trong
lời thoại của các nhân vật. Nhân vật người lính thiên về dùng các từ thông tục,
từ xưng hô và từ tình thái đậm chất khẩu ngữ, tự nhiên, bộc trực, thẳng thắn;
nhân vật người dân thiên về dùng những từ xưng hô, từ tình thái thể hiện rõ
tình cảm chân tình, mộc mạc; nhân vật trí thức thiên về dùng những từ xưng
hô, từ tình thái và đặc biệt các từ có tính thuật ngữ mang đậm chất triết lý,
chiêm nghiệm cuộc sống.
2.4. Vai trò của từ xưng hô trong việc hình thành đặc trưng ngôn
ngữ nhân vật của tiểu thuyết Chu Lai
2.4.1. Từ xưng hô góp phần bộc lộ đặc điểm, tính cách, hoàn cảnh...
của nhân vật trong tác phẩm
Hệ thống nhân vật trong tiểu thuyết của Chu Lai khá là đa dạng (trong
10 cuốn tiểu thuyết có 217 nhân vật), với đủ thành phần và nghề nghiệp:
89
người lính, công nhân, giáo viên, sinh viên (trong đó có gần 70% nhân vật là
người lính hay đã từng là người lính); chức vụ vị thế xã hội cũng rất khác
nhau: chỉ huy - người lính, giám đốc - nhân viên, giàu - nghèo)… Các nhân
vật “sống” trong hai bối cảnh chủ yếu là trong chiến tranh và sau chiến tranh
(Xem phần Phụ lục, bảng a. Danh sách tổng hợp các nhân vật trong tiểu
thuyết của Chu Lai).
Đặc điểm và tính cách của các nhân vật mà nhà văn đã xây dựng cũng
rất phong phú, mỗi nhân vật có một đặc điểm, một tính cách nhất định, như
chính bản thân con người trong đời sống. Có những nhân vật bộc lộ bản thân
qua lời giới thiệu, miêu tả, nhận xét trực tiếp từ tác giả, có những nhân vật tự
bộc lộ bản thân bằng hành động và ngôn ngữ của chính họ qua lời thoại.
Nhà văn chú trọng đến việc lựa chọn ngôn từ trong lời thoại để thể hiện
đặc điểm tính cách của từng loại nhân vật. Nhà văn đã dụng công khắc họa
khá sâu sắc nhiều loại nhân vật: nhân vật người lính (hoạt động trong bối cảnh
chiến tranh), nhân vật là những con người bình thường (trong chiến tranh
cũng như trong hòa bình) và nhân vật tiêu cực (có tính cách xảo trá, lươn lẹo
và đểu giả). Qua từ xưng hô, cách xưng hô (thể hiện qua lời đối thoại), ta có
thể hiểu rõ đặc điểm và tính cách của các nhân vật (trọng tâm là nhân vật
người lính) như thế nào.
Danh sách các từ xưng hô trong lời thoại thật đa dạng. Trong tiểu
thuyết Gió không thổi từ biển là các từ ngữ: cái nhà anh này, cô em, cô kia,
thằng nhỏ, cha, ông bạn, mụ nhà tôi, bà nhà tôi, bà Tƣ Mập, chúng nó, má
con nó, con vợ, sắp nhỏ, bà xã, anh Ba, mày, tao, bọn mày, các ông, hắn,
ngƣời đàn bà, bà này, chúng mình, bác, cô Bảy, lão già, chú mày, mấy thầy,
cha nội, kẻ non gan; trong tác phẩm Ăn mày dĩ vãng: anh Hai, tụi em, mày,
thằng Ba, con nít, chị Ba,con nhỏ, Ba Sƣơng, tôi, tao, anh em mình, má
thằng Hùng, thằng con mẹ, con khẹc, cậu, đồng chí, ông, cô, tụi em, cha nội,
90
chú mày, mình, cô ấy, ông bác sĩ, đồ tể, ả, bọn bay, lão tiền bối, bà vợ tôi,
thằng lính, bà ấy, ngƣời đàn bà i nốc, nó, mấy cha, cánh đàn bà bọn này,
bác sĩ con mẹ gì, Hùng trời gầm, Hùng ác ôn, ông cố nội, lão khọm, thằng
Ba Thành, con khọm già, các bạn, cha nó, thằng ăn mày, cô bé xinh đẹp,
thằng cha này con giống, thằng cha nƣớc lợ, con đàn bà; trong tác phẩm Ba
lần và một lần: chú Sáu Nguyện, Út Thêm, cháu, chú, hắn, ba cháu, hai chú
cháu, con gái, tiểu thƣ, nhóc tỳ, con nít gái, mày, con nhỏ cháu, mấy con
ranh, bé con, nhỏ Út, con bé, thằng cha,cái con khỉ,cha tao, anh Sáu, anh
Hai, thằng Ba Mập, Ba Đẩu này, mấy ả sồn sồn, ông anh, cái thằng tôi, Út
ơi; trong Cuộc đời dài lắm: ông anh, cái cậu này, nhà chị, thằng trọng tài
mặt con gái, bố mày, ngƣời hùng ngƣời hiếc gì đâu, Tuấn tử thần, đứa, lũ
đàn bà, thằng cha, bà chủ, nhà chị, thằng em, Thủy, bọn em, thằng nhỏ, chị
em, con gái trời gầm, lão dở ngƣời, thằng bặm trợn, ông mãnh…trong Vòng
tròn bội bạc: thằng, hai ông bà già, Huấn còi, bọn mình, nhà mình, cô chủ,
chú em nhà báo,chú mày, mày, tao, thủ lĩnh da đỏ, ấy, mụ xã tớ, cô nàng,
thiên thần, thằng cu, ngƣời đẹp, nhà báo… Trong Phố: mình, cậu Lãm, cái
nhà anh này, tớ, cậu, vợ chồng cậu, ông nỡm, đàn ông đàn ang…
Nhân vật người lính thường dùng những từ xưng hô thể hiện sự thân
mật, bỗ bã, tự nhiên như đời thường. Trong đó, các từ xưng ngôi 1 có tần số
sử dụng cao hơn hẳn các từ xưng cùng nhóm, đó là các từ: tao, tôi, tớ, mình,
anh. Các từ ở phần hô ngôi 2 cũng tương tự, đó là các từ: mày, cậu, em…
(Xem phần Phụ lục, bảng b&c. Danh sách tổng hợp các đại từ nhân xƣng và
từ xƣng hô khác trong tiểu thuyết của Chu Lai).
Cách xưng hô trong các lời thoại phản ánh đặc điểm nhân vật ở mấy
mặt sau đây:
Về quan hệ giao tiếp: quan hệ cơ bản giữa các các nhân vật người lính
là quan hệ ngang hàng (tôi - anh, đồng chí; tao - mày; tớ - cậu)…
91
Về thái độ: lời đối thoại giữa người nói và người nghe thể hiện tư tưởng,
tình cảm một cách rõ ràng, dứt khoát.
Về tình cảm: vừa thể hiện sự trân trọng (tình đồng chí, đồng đội, đồng
nghiệp); vừa thể hiện sự thân mật, suồng sã (tình bạn bè, người thân).
Về tính cách: qua xưng hô bộc lộ tính bộc trực, thẳng thắn của nhân vật.
2.4.2. Vai trò của từ xưng hô trong việc khắc họa đặc điểm ngôn ngữ
nhân vật trong tiểu thuyết Chu Lai
Qua cách xưng hô, qua những từ ngữ, khẩu khí và giọng điệu của các
nhân vật trong tiểu thuyết của Chu Lai, ta có thể hiểu rõ đặc điểm và tính cách
của các nhân vật: nhân vật người lính (hoạt động trong bối cảnh chiến tranh),
nhân vật là những con người bình thường (trong chiến tranh cũng như trong
hòa bình) và nhân vật tiêu cực (có tính cách xảo trá, lươn lẹo và đểu giả). Các
từ ngữ trong lời thoại nhân vật của Chu Lai bộc lộ khá rõ các thông tin về
nhân thân của họ (về giới tính, thành phần, nghề nghiệp, hoàn cảnh).
Chẳng hạn, nhân vật Ba Sương thường dùng những từ như: ông – tôi,
anh – em, tôi – anh, tôi – Địch, chị - em, các đồng chí, đồng chí,… Trong
chiến tranh tính cách nữ tính của nhân vật được thể hiện cùng hình ảnh mảnh
mai, nhẹ nhàng của bờ vai chim sẻ, của đôi mắt mở to lay láy có ánh nhìn
miên man tĩnh lặng của dòng sông yên ả, ngoại hình ấy cùng với những từ
ngữ đặc trưng trong ngôn ngữ lời thoại của nhân vật như cách xưng hô anh –
em, tôi – anh… nhẹ nhàng đầy nữ tính; những từ tình thái mang nét riêng
mềm mại của nhân vật nữ như: ơ kìa, ý, sợ lắm, sao thế, ôi, sao lại thế, trời
đất, anh Hùng ơi, ôi chao,… Sau chiến tranh cùng với sự thay đổi về ngoại
hình nhân vật là sự thay đổi rõ rệt trong ngôn ngữ nhân vật. Ở Ba Sương sau
chiến tranh là sự lạnh lùng, kiểu cách có phần kênh kiệu ở người đàn bà thành
đạt và ý thức được vị trí lãnh đạo của mình cho dù người đối diện với bà ta là
ai chăng nữa. Hệ thống từ xưng hô của nhân vật chuyển từ e ấp, rụt rè sang
92
mức độ biểu hiện của sự mạnh mẽ, lạnh lùng đầy khách khí: ông – tôi, anh –
tôi, đồng chí – tôi… Tuy nhiên, xét đến tận cùng của số phận nhân vật, dù
nhân vật Ba Sương có thay đổi như thế nào về ngoại hình và lời nói thì sâu
thẳm trong đôi mắt cô, trong đôi mắt lúc thảng thốt buồn vui vẫn có gì đó
không ổn, vẫn không thể hoàn toàn chối bỏ quá khứ bằng một thực tại viên
mãn. Những dấu lặng (…) xuất hiện trong lời thoại nhân vật như minh chứng
cho những bi kịch của kẻ muốn trốn chạy quá khứ kia.
Qua các từ ngữ xưng hô, tình thái xuất hiện trong lời nói của nhân vật
cứ lặp đi lặp lại, tạo thành tính cách đặc thù của nhân vật Ba Sương, Chu Lai
đã thành công trong việc xây dựng nhân vật nữ có tính cá thể hóa sâu sắc.
Để thấy rõ hơn nét riêng đặc sắc vừa nêu trên, ta cần nhìn đặc điểm từ
xưng hô trong ngôn ngữ nhân vật của tiểu thuyết Chu Lai trong mối liên hệ so
sánh với từ xưng hô trong ngôn ngữ nhân vật ở sáng tác của các nhà văn khác.
Nếu như nhân vật người lính của Chu Lai qua ngôn ngữ thể hiện tính
cách thẳng thắn, bộc trực, nghĩ sao nói vậy bằng một hệ thống từ ngữ đặc
trưng thể hiện cá tính nhân vật qua lớp từ xưng hô, từ thông tục, từ tình
thái… thì ở nhân vật người lính của Bảo Ninh, ngôn ngữ nhân vật người lính
chứa đựng chiều sâu ngôn từ với những ám ảnh buồn đau khủng khiếp thậm
chí còn hoài nghi chân lý. Lớp từ xưng hô được nhân vật sử dụng như: thằng,
tao, tớ, cậu, tôi, anh, mày, chúng mày, chúng, anh giai, em gái, mình,
Phƣơng, em, ông, cha,… Cũng vẫn là lớp từ ngữ phong phú như cách sử
dụng từ ngữ trong lời thoại nhân vật như ở tiểu thuyết Chu Lai, song dưới
ngòi bút của Bảo Ninh, lớp từ ngữ ấy lại xuất hiện trong ngôn ngữ nhân vật
với sắc thái và mục đích khác hẳn. Ngôn ngữ nhân vật Kiên như đong đầy
nỗi buồn đau triền miên với sự ám ảnh nặng nề của những kỷ niệm, những
ký ức đẫm máu vọng về từ quá khứ tuy xa mà gần, dù nhức buốt nhưng lại
chẳng thể lãng quên. Ngôn ngữ nhân vật “rối bời”, “bấn loạn” như “mấp mé
93
bờ vực” và nó khiến nhân vật luôn phải sống đơn độc và đau đớn vật vã.
Những giằng xé nội tâm, những hành động bất thường khiến những ngôn
ngữ nhân vật không thể “tự nhiên” như ngôn ngữ nhân vật trong tiểu thuyết
Chu Lai. Ngay trong tình huống phải xử lý bọn ác ôn trong trận quyết chiến
đầy sinh tử, nhân vật Kiên vẫn thể hiện nét riêng trong tính cách của mình
qua hệ thống từ ngữ giàu triết lý và vẫn thấm đẫm buồn đau của những chết
chóc và mất mát từ chiến tranh:
- Câm đi… - Sẽ chiều mày thôi. Nhƣng tao hỏi mày: Tụi mày tới vùng
này là để theo gót chúng tao, quan chủ lực cơ mà, hả? Vậy vì sao lại tấn công
họ? Cớ gì tụi mày giết hại ngƣời ta tàn bạo thế? Vì sao mà tụi mày căm thù
chúng tao hả? [XX, tr.46].
Cùng khai thác những vùng khuất tối của hiện thực chiến tranh qua số
phận người lính, nhưng tác phẩm của Chu Lai có thiên hướng nhấn vào khả
năng chịu đựng và những khát khao rất con người của người lính để mà chất
vấn cái hiện tại dửng dưng, tàn nhẫn. Còn tác phẩm của Bảo Ninh nổi rõ tinh
thần tự vấn về chính niềm tin quen thuộc của con người Việt Nam rằng chiến
tranh là lò thử vàng, là cơ hội cho những phẩm chất đẹp đẽ tỏa sáng. Ngòi bút
Chu Lai qua ngôn ngữ nhân vật sắc nhọn, đáo để, tự nhiên, bỗ bã khiến tâm
thế người đọc khá nhẹ nhõm khi tiếp cận. Còn nhân vật Bảo Ninh làm dậy lên
biết bao mối hoài nghi đau đớn và dư vị ngôn ngữ nhân vật còn làm tê tái mãi
trên từng câu chữ, trên từng trang sách kể cả khi đã gấp lại rồi.
Trong văn xuôi Việt Nam thời kì đổi mới, bên cạnh và sau Chu Lai,
Nguyễn Huy Thiệp là một trong những gương mặt tiêu biểu. Sáng tác của ông
đa dạng về thể loại: truyện ngắn, tiểu thuyết, kịch bản văn học. Nguyễn Huy
Thiệp là một tác giả có nhiều tìm tòi về kĩ thuật hội thoại. Hội thoại trong tác
phẩm của ông có nhiều nhân vật, nhiều kiểu hội thoại. Đây là điểm gặp nhau
trong tư tưởng cũng như trong “kỹ thuật” tổ chức lời thoại giữa Chu Lai và
Nguyễn Huy Thiệp.
94
Khi nghiên cứu cách dùng từ xưng hô trong truyện ngắn Nguyễn Huy
Thiệp qua 12 truyện ngắn tiêu biểu như: Chảy đi sông ơi, Tƣớng về hƣu,
Huyền thoại phố phƣờng, Không có vua, Muối của rừng, Con gái thủy thần,
Những ngƣời thợ xẻ, Những bài học nông thôn, Kiếm sắc, Thƣơng nhớ đồng
quê, Những ngọn gió Hua tat, Chút thoáng Xuân Hƣơng, chúng tôi thu được
kết quả sau: Đại từ nhân xưng số ít giữ vai trò chủ yếu, có tổng số lần xuất
hiện là 344 lần, trong đó chiếm nhiều nhất là ở truyện Con gái thủy thần là 79
lần; Những ngƣời thợ xẻ là 56 lần, Những bài học nông thôn là 48 lần xuất
hiện đại từ nhân xưng tôi. Điều đó cho thấy ngôn ngữ nhân vật trong tác phẩm
chủ yếu hiện lên là con người với những đặc điểm riêng thuộc về cá nhân, cá
thể, cần bộc lộ con người riêng của mình trước cái nhìn chung của tác phẩm.
Danh từ thân tộc đứng vị trí thứ hai trong tổng số các phương tiện dùng
từ xưng hô trong tổng số lượt sử dụng các phương tiện dùng để xưng hô trong
12 cuốn truyện ngắn đã khảo sát, chúng tôi thu được kết quả sau: Danh từ
thân tộc (anh) trong Tƣớng về hƣu sử dụng 22 lần, (em) 19 lần, (ông) 07 lần,
(chị) 10 lần, (chú) 8 lần, (bà) 11 lần. Thƣơng nhớ đồng quê sử dụng (anh 7
lần), (em) 17 lần. Những ngƣời thợ xẻ sử dụng (anh) 27 lần, (em) 32 lần. Con
gái thủy thần sử dụng (anh) 90 lần, (em) 04 lần.
Danh từ chỉ tên riêng, có kết quả khảo sát như sau: Tƣớng về hƣu: chị
Sinh được nhắc tới 94 lần; Chú Đoài 98 lần, anh Cấn 69 lần, Lão Kiền 55 lần.
Trong Những bài học nông thôn: Nhâm 7 lần, chị Hiên 71 lần, Hạnh 5 lần.
Những ngƣời thợ xẻ: anh Bường 200 lần, Ngọc 11 lần, em Quy 45 lần. Xét về
cấu tạo thì nhóm từ chỉ tên riêng có những cấu tạo chính sau: Danh từ chỉ tên
riêng gồm 1 âm tiết chiếm 21/64 trong tổng số danh từ chỉ tên riêng. Ví dụ:
Hiên, Lân, Hiếu, Ngọc...; Danh từ thân tộc + danh từ riêng chiếm 30/64 trong
tổng số danh từ chỉ tên riêng. Ví dụ: anh Nhâm, bà Hợp, bác Ba Đình…; Họ
và tên + đại từ nhân xưng chiếm 02/64 trong tổng số danh từ chỉ tên riêng. Ví
95
dụ: thằng Khải, thằng Ngọc…; Biệt danh chiếm 01/64 trong tổng số nhóm
danh từ chỉ tên riêng.
Danh từ chỉ nghề nghiệp, chức vụ chiếm vị trí thấp nhất trong tổng số
các phương tiện dùng để xưng hô. Qua khảo sát, chúng tôi thu được: Phẩm
tiết sử dụng danh từ: quận chúa 07 lần, chúa công 16 lần. Tƣớng về hƣu: bác
sĩ 01 lần. Chút thoáng Xuân Hƣơng: quan tri châu 04 lần. Số lượng các danh
tư chỉ chức vụ bằng khoảng 2/3 số lượng các danh từ chỉ nghề nghiệp và khi
đi vào hành chức trong văn bản thì tần số của chúng lớn gần gấp 10 lần so với
danh từ nghề nghiệp.
Điểm qua cách sử dụng từ xưng hô và khảo sát số lượng từ xưng hô sử
dụng trong tác phẩm Bảo Ninh, Nguyễn Huy Thiệp với các tác phẩm của Chu
Lai, chúng ta thấy có những điểm giống nhau giữa các nhà văn khi sử dụng từ
xưng hô (sử dụng nhiều từ xưng hô) nhưng cũng có những nét riêng của từng
tác giả, điều đó càng làm nổi rõ tính đặc thù trong hệ thống từ xưng hô trong
tác phẩm của Chu Lai. Ở đây, sự so sánh không phải để đề cao hay phủ nhận
ai, mỗi nhà văn có một phương thức sáng tạo riêng của mình và chính những
sáng tạo riêng ấy với những thanh âm bổng trầm tạo nên một bản đàn quyến
rũ trên dòng chảy của văn học Việt Nam.
2.5. Tiểu kết
Trong chương 2 của luận án, chúng tôi đã tiến hành thống kê, phân loại
các từ ngữ xưng hô trong lời thoại nhân vật trong 10 cuốn tiểu thuyết của nhà
văn Chu Lai để tìm những lớp từ ngữ có tần số sử dụng cao, lặp đi lặp lại
trong các lời thoại. Qua việc phân tích, có thể thấy nổi lên mấy điểm sau đây:
- Hệ thống từ xưng hô trong giao tiếp giữa các nhân vật xuất hiện với
số lượng lớn và có tần số sử dụng cao, hầu như tất cả các từ nhân xưng (đại
từ, danh từ thân tộc, tên riêng và các nhóm từ khác) đều được dùng trong các
lời thoại. Qua xưng hô ta có thể thấy khá rõ nhân thân của các nhân vật, bao
96
gồm: giới tính, thành phần xuất thân, tuổi tác, nghề nghiệp, chức vụ và cả
những thông tin khác: vị thế của giao tiếp (cao / thấp, ngang hàng), quan hệ
(gia đình, xã hội), tình thái (trọng, thân, khinh). Các nhân vật có cách xưng
hô rất tự nhiên, phù hợp tính cách các nhân vật và hoàn cảnh đang trải qua
nơi chiến hào ác liệt (trong thời chiến) hay trong công trường, nông trường
(khi hoà bình).
- Những khảo sát, phân tích trên đồng thời cho thấy từ ngữ xưng hô
được sử dụng trong ngôn ngữ nhân vật của tiểu thuyết Chu Lai không chỉ ở
nội dung chỉ ngôi, số mà còn thể hiện thái độ, tình cảm, tâm lý, nhận thức,
thói quen, văn hóa… của nhân vật tham gia giao tiếp.
97
Chương 3
ĐẶC ĐIỂM NGÔN NGỮ NHÂN VẬT TRONG TIỂU THUYẾT CHU LAI
QUA TỪ THÔNG TỤC, QUÁN NGỮ VÀ THÀNH NGỮ
3.1. Từ thông tục
3.1.1. Khái niệm
Từ ngữ thông tục (Colloquialism) hiện còn nhiều ý kiến khác nhau. Có
ý kiến cho từ thông tục là những từ tục, thường chỉ dùng trong lớp người gọi
là kém văn hoá (tudien.xalo.vn). Nhưng cũng có cách hiểu khác, rộng hơn: từ
thông tục thuộc khẩu ngữ, mà khẩu ngữ “là ngôn ngữ thông tục, “đời
thường”, chưa có sự gia công trau dồi, ít gắn với chuẩn tắc nghiêm nhặt...
Tính thông tục của khẩu ngữ nói chung và từ vựng khẩu ngữ nói riêng, không
phải là sự nói tục và các từ tục” [29; tr.233, 235]. Trong luận án, chúng tôi
xác định: từ thông tục là lớp từ tự nhiên (còn gọi là khẩu ngữ), đại đa số có
gốc thuần Việt, thuộc phong cách nói; lớp từ này thể hiện trực tiếp suy nghĩ,
tình cảm cá nhân người sử dụng trong nói năng thường nhật, ở trong một số
hoàn cảnh giao tiếp nhất định… Đối lập với từ ngữ thuộc khẩu ngữ, trong đó
có từ thông tục, là từ ngữ có sự trau chuốt gọt giũa trong sử dụng, thuộc
phong cách viết, được dùng trong các loại văn bản (hành chính, báo chí, chính
luận, nghệ thuật). Trên đại thể, lớp từ ngữ thông tục gồm những nhóm: từ tục
(cứt, đéo), từ ngữ chửi rủa (đ.mạ, đồ chó má), các từ ngữ suồng sã, biểu cảm
(mụ nhà tôi, trời ơi).
Tác phẩm văn học thuộc phong cách viết, tức là phong cách sử dụng
ngôn từ có sự chọn lọc, trau chuốt, gọt giũa. Tuy vậy, trong các sáng tác của
mình, bên cạnh việc sử dụng lớp từ thuộc phong cách viết, nhà văn có thể sử
dụng lớp từ thuộc phong cách nói, trong đó có lớp từ ngữ thông tục. Nhưng
phạm vi sử dụng lớp từ ngữ thông tục trong tác phẩm văn học là có điều kiện,
98
tức là chúng chỉ xuất hiện ở ngôn ngữ nhân vật (phần hội thoại, mang phong
cách nói) mà hầu như không xuất hiện trong ngôn ngữ tác giả (phần diễn
thoại, trần thuật, mang phong cách viết).
Khảo sát các tiểu thuyết Chu Lai có thể thấy lời thoại xuất hiện từ
thông tục của nhân vật có tần số sử dụng khá lớn. Ở tiểu thuyết Ăn mày dĩ
vãng, lời thoại có sử dụng từ thông tục là 156 lần, chiếm 5,0%; ở tiểu thuyết
Vòng tròn bội bạc là 134 lần, chiếm 4,6%; ở Ba lần và một lần là 155 lần,
chiếm 4,8%; ở Gió không thổi từ biển là 142 lần, chiếm 5,9%; ở Cuộc đời dài
lắm là 188 lần, chiếm 4,3%; ở Sông xa là 134 lần, chiếm 4,8%; ở Phố là 136
lần, chiếm 6,9%.
Để tìm hiểu rõ hơn về vốn từ thông tục sử dụng cho ngôn ngữ nhân vật,
chúng tôi tiếp tục khảo sát các loại từ ngữ thông tục của ngôn ngữ nhân vật
trong tiểu thuyết Chu Lai qua lượt từ được dùng. Kết quả thống kê có 1.436
lượt dùng các từ ngữ thông tục xuất hiện trong các tiểu thuyết của Chu Lai,
trong đó: từ tục: 666 từ, chiếm 49,5%; từ chửi rủa: 260, chiếm 18,2%; từ ngữ
suồng sã, biểu cảm: 510 từ, chiếm 32,3 %. Từ số liệu trên, có thể thấy nhà
văn có chủ ý lấy từ ngữ thông tục như là một trong những phương thức khắc
hoạ đặc điểm ngôn ngữ nhân vật.
3.1.2. Từ thông tục trong lời thoại nhân vật
3.1.2.1. Một số đặc điểm của từ thông tục trong lời thoại nhân vật ở
tiểu thuyết Chu Lai
Việc các từ ngữ thông tục xuất hiện với một số lượng và tần số cao như
con số thống kê trên đã làm cho ngôn ngữ tác phẩm nói chung, ngôn ngữ nhân
vật của nhà văn Chu Lai nói riêng bộc lộ tính cách của từng nhân vật, đặc biệt
là nhân vật người lính; qua lời thoại nhân vật như vậy, cùng với các nhân tố
khác trong tác phẩm mà ý tưởng của người viết và hiện thực cuộc sống đã
được phản ánh một cách sâu sắc.
99
Lời thoại của nhân vật trong tác phẩm Chu Lai có đặc điểm chung là tác
giả đã “để” cho nhân vật dùng nhiều lời ăn tiếng nói hàng ngày thuộc lớp từ
thông tục (như: các từ ngữ tục, các từ chửi rủa, các từ thân mật suồng sã…).
Lời thoại trong tác phẩm không kiêng kị, tránh né những lớp ngôn từ được
dùng trong lời nói tự nhiên hàng ngày; cách nói, giọng điệu nhân vật thì bạo
liệt, gân guốc, thô mộc, thậm chí là có lúc cay nghiệt, trần trụi… Sở dĩ nó vẫn
được chấp nhận, không gây phản cảm là bởi nhà văn đã đặt đúng nơi, đúng lúc,
tạo ra hiệu ứng nhất định với những ấn tượng mạnh. Và khi đặt lời thoại nhân
vật trong bối cảnh chiến tranh, ở ranh giới giữa cái chết và sự sống, người ta
không thấy những lời ấy là trần tục, thô thiển mà dường như nó mang một ý
nghĩa ngữ dụng khác hẳn với những tình huống giao tiếp bình thường.
Đặc điểm đầu tiên là trong các lời thoại, bên cạnh việc xuất hiện các từ
xưng hô (như đã nêu ở mục trên) là các thông tục thể hiện sự thân mật, suồng
sã vốn chỉ dùng trong giao tiếp tự nhiên hàng ngày, cũng được các nhân vật
dùng trong nhiều ngữ cảnh. Chẳng hạn ở Ăn mày dĩ vãng, không ít lần qua
ngôn từ, người ta có cảm giác sờ nắm được hiện vật qua cảm nhận của nhân
vật: “Mùi cá, mùi mắm, mùi nước đái, mùi xào nấu, mùi sống nƣớc và mùi
lưu manh đĩ điếm lảng vảng cả đêm bủa vây lấy tôi, muốn nuốt chửng, hòa
tan thể xác tôi vào cảnh đời bụi bặm và trƣờng tồn ấy. Thì tôi đã thối rữa ra
trong hàng trăm những cảnh đời đen bạc, uế tạp đó rồi sao?” [XIII, tr.50].
Trong ngôn từ của nhân vật Hai Hùng (nhân vật chính trong Ăn mày dĩ vãng),
các từ ngữ xuất hiện trong các lời đối đáp mang đậm chất đời thường, khẩu
ngữ, nghĩa là chúng trực tiếp, nói thẳng vào nội dung, ít thấy các từ ngữ được
sử dụng mang màu sắc tu từ, chọn lọc trau chuốt như ngôn ngữ miêu tả, ngôn
ngữ tác giả mà ta vẫn thường thấy trong tác phẩm văn chương. Đó là khi nhân
vật ở trong chiến hào với những tình huống ác liệt, đối diện với cái chết. Nhân
vật Hai Hùng phản ứng khi có người hỏi thăm mình:
100
- Thăm hỏi cái quái quỷ gì lúc này! Đây là chuyện sống chết mất còn
chứ không phải cái trò đực cái trăng hoa. Mày vẫn còn cái lối ủy mị rừng
già ấy là không trụ đƣợc ở vùng rừng lõm ác nghiệt này đâu. Đi! [XIII, tr.34].
Tác giả đã để nhân vật nói về việc đi tiểu tiện của người con gái:
- Trời! Làm thì làm đại đi mà! Cứ tắt xòe, tắt xòe mãi nghe nhƣ tiếng
rút chốt tạc đạn, ớn cái xương sống lắm! [XIII, tr.222].
Cái âm thanh sinh học được miêu tả qua ngôn ngữ của âm thanh đùa
vui, ví von đã xóa nhòa ranh giới ngượng ngùng cho nguời con gái trong
chiến tranh, nơi mà chỉ ít phút nữa thôi sẽ biến thành bãi chiến trường đẫm
máu, và người con gái ít phút trước còn đỏ mặt và cười xòa bởi câu nói của
đồng đội trở thành cái xác nát bấy trước sự tàn ác của quân giặc.
Hầu hết trong các tiểu thuyết của mình, Chu Lai dù ít hay nhiều đều nói
đến những điều tế nhị, kín đáo; với tác giả, không có vùng ngôn từ nào là
kiêng kị, miễn làm sao nó nói được thấu triệt tư tưởng tình cảm của mình.
Chẳng hạn, khi miêu tả cái chết bi thảm trong một cảnh huống trớ trêu đau
đớn đến tận cùng của người con gái giao liên mà mới vừa tối qua thôi cô còn
hạnh phúc trong vòng tay của người yêu, nhà văn đã đặc tả những chi tiết rất
thực tế để làm nền cho lời thoại:
… Thu chỉ còn là cái xác lõa lồ, chân tay dẹo dọ nằm trong một tƣ thế
kỳ dị. Rừng xanh, đất xanh, trời xanh… Da thịt sao trắng thế? Mái tóc xoải
dài, chấm ngọn xuống suối, đen đến tức tƣởi. Tƣởng nhƣ cô đang nằm ngủ hớ
hênh sau một đêm giao liên dẫn khách kiệt sức và sắp tỉnh dậy, cƣời thẹn
thùng, vấn lại tóc nếu nhƣ giữa cặp đùi trắng muốt hơi chãng ra của cô, ở
chỗ kín không có một chiếc cọc sần sùi, vạt nhọn cắm sâu vào, xuyên tới
đất… Máu đỏ nhƣ sơn nhểu xuống tận bắp chân, bắn từng giọt lên bụng, lên
gò ngực vẫn no tròn cái sự sống mới nứt, tạo thành những cánh bằng lăng ma
quái vừa ở đâu đó trên cao rụng xuống [XIII, tr.143].
101
Trước hoàn cảnh ấy, lời thoại của nhân vật không thể không sử dụng
đến những yếu tố dứt khoát để giải quyết tình huống:
- Đồng chí y tá! Hùng cũng sắt mặt - Đây là lệnh, đồng chí không đƣợc
can thiệp vào. Anh em đâu? Thằng Khiển, thằng Vƣợng đâu? Cả thằng Tuấn
khốn nạn kia nữa, mày ngồi chết giẫm ở đó à? Mang nó ra hố pháo chôn
ngay! [XIII, tr.79].
Những từ như khốn nạn, chết giẫm xuất hiện trong lời thoại, cùng với
giọng điệu, cách nói chua chát, có vẻ như vô tư lạnh lùng lại ẩn sau đó là một
tình cảm dồn nén sự đau đớn, để thúc đẩy những người lính vượt qua mất mát
vững bước đi tiếp trong cuộc chiến sinh tử này.
Thảm kịch của chiến tranh hiện lên qua lời thoại của người trung đội
trưởng miền Bắc nổi tiếng gan dạ khiến người đọc xót xa, hiểu thêm về sự tàn
khốc của chiến tranh khi lời thoại ấy có hàng loạt từ mang sắc thái đánh giá
chủ quan, trần tục:
- Không thấy. Chắc cũng chết rồi. Chỉ còn hai thằng tôi thôi. Ái! Các
cô làm cái chó gì thế? Nhẹ tay thôi, đếch nhìn thấy xƣơng đùi đằng này đã bị
gãy rời đây à?... Chắc ông ấy tiêu rồi. Trƣớc khi thoát ra đƣợc, tôi còn nhìn
thấy ông ấy hai tay hai sung bắn trả về phía chúng nó dữ lắm. Vừa bắn vừa
gầm lên nhƣ phát điên phát dại… Kìa! Đã bảo nhẹ tay chứ! Ông đ… cho
băng nữa bây giờ! [XIII, tr.47].
Lời thoại của người lính vừa trải qua cuộc chiến tái hiện những mất
mát, chết chóc và sự gan dạ hi sinh của đồng đội. Người đọc không còn thấy
yếu tố tục trong lời chửi mà chỉ còn sự xúc động trước tấm gương gan dạ của
anh mà thôi.
Thảm kịch chiến tranh đến qua hai hình hài đẫm máu rách nát và nhoe
nhoét, cả đại đội bàng hoàng ngơ ngẩn, những tiếng khóc bật qua kẽ tay bụm
chặt. Để xốc lại tinh thần cho đồng đội, không hơn gì là phải có tiếng nói
mạnh mẽ trấn an tinh thần cho tất cả:
102
- Khóc cái gì mà khóc hả, mấy con ranh này! Không lo đƣa thƣơng
binh ra trạm phẫu rồi nhanh chóng về củng cố lại hầm hào, để chúng nó
thông thốc đánh vào thì rồi là còn khóc nữa. Làm lẹ đi! [XV, tr.48].
Ngôn ngữ nhân vật trong đời thường, trong cuộc sống trở về sau chiến
tranh cũng được nhà văn chú ý, khắc họa để làm rõ bản chất của từng nhân
vật. Nếu như ở lời thoại của Sáu Nguyện thể hiện sự đàng hoàng của nhân
cách thì ngôn ngữ của Năm Thành, với những từ phàm tục xuất hiện trong lời
thoại đã bộc lộ bản tính của con người:
Trai gái đĩ bợm hay là trộm cướp, chích choác, hả? - Cút ngay, cút! Từ
giờ phút này tao thề là không có thằng con như mày nữa. Thà tao nuôi con
chó còn biết trung thành hơn với chủ. Cút! Tao không muốn trông thấy cái mặt
phản trắc, đểu giả của mày nữa. Anh ta nói với vợ: - Tất cả chỉ tại cô, một con
đĩ già! Ngày ấy tôi không lôi cô ra khỏi cái vùng nước đái chó ấy thì đời cô
bây giờ đã thành cái xác thối giữa rừng rồi. Cô yêu thƣơng cái thằng trông
nhƣ vƣợn dọc của cô lắm kia mà, sao ngày ấy cô không khăn gói vào rừng với
nó đi, cô lại cứ quặp chặt lấy tôi. Tôi khinh bỉ cô! Khinh bỉ tất cả và tôi cũng
khinh luôn cái gọi là bảo lãnh, cƣu mang của ông già cô [XV, tr.327].
Đặc điểm thứ hai, ngôn ngữ nhân vật trong tác phẩm của Chu Lai xuất
hiện tần số khá cao các từ chửi rủa. Chửi là hành vi kiêng kị trong giao tiếp,
nhưng trong những ngữ cảnh nhất định, nó lại hữu dụng.
Có lẽ trong bối cảnh của chiến tranh, nếu như không có những tiếng
chửi như khích lệ người lính xông trận thì chắc họ sẽ khó vượt qua sự khủng
khiếp của chiến tranh kia. Đoạn thoại sau đây nói về tình huống bị phục kích
bất ngờ, cả đội hình rối loạn và nhanh chóng bị xé nát đến tan tác, thảm hại.
Trong lúc ấy, có một cái bóng chiến sĩ chạy ngược trở lại mà không chịu tiến
công. Hai Hùng nói với ông phó bí thư quận ủy Hai Tiến:
- Thằng khốn! Chạy đi đâu? Mày bỏ bạn bè, đồng đội đi đâu? Cái
bóng nói hào hển, sặc sụa mùi thuốc thơm ru - bi: - Ấy cậu… Đồng chí! Tôi…
103
Tôi đây mà. Tôi là Ba Tiến, phó bí thƣ quận ủy đây mà. Bỏ… Bỏ tay ra đi, kẻo
ngƣời ta thấy… Kìa! … - Chạy như chó mà xƣng là bí thƣ. Nhục!
- Này đồng chí! - Cái bóng cố gượng dậy, hai cẳng chân để trần va đập
lục cục - ăn nói cho có tổ chức. Ai là chó hả? Láo! Tất cả đều chạy, bộ đội của
đồng chí cũng chạy chứ riêng gì tôi. Láo! Láo quá! Phải giáo dục thế nào chứ
không thì…- Cút! Cút về phía sau mà giáo dục. Cút! [XIII, tr.36, 37].
Chiến tranh ác liệt, mất mát, thương vong, nếu không có những con
người sẵn sàng hy sinh và thẳng thắn, bộc trực như Hai Hùng thì chắc dân tộc
không có chiến thắng thần thánh như vậy. Những từ thông tục: thằng khốn,
chạy nhƣ chó, nhục, láo, cút… được dùng trong các câu thoại tỏ ra phù hợp
tâm trạng của người trong cuộc và ngữ cảnh giao tiếp. Qua đó cho người đọc
thấy được tình huống sinh tử của chiến tranh là như thế nào, ngôn ngữ cần
phải diễn đạt ra sao.
Đây lại là đoạn đối thoại của hai người lính khi chứng kiến quá nhiều
cái chết, tình thế bị mắc kẹt, đòi hỏi phải có hành động mau lẹ:
- Sao thế Tuấn? Rút chứ! Muốn ăn phản pháo à? - Kệ mẹ tôi. Anh rút
trƣớc đi. Tôi nắm ngực áo nó đứng dậy: - Lại định giở trò hả? Rút! - Đồ dã
man! [XIII, tr.140].
Thứ ngôn từ tưởng như dung tục phản cảm ấy lại thể hiện một tội ác và
những nỗi đau. Nỗi đau ấy thuộc về con người Việt Nam, đối tượng hứng
chịu hậu quả, là những người như Tuấn, Hùng… và giờ đây đang bị đẩy đến
tận cùng của sự thảm khốc. Sự tàn khốc của chiến tranh khiến những người
can trường nhất cũng có khi lung lạc yếu lòng. Anh dũng nhất cũng là những
người chiến sĩ và đôi khi hèn nhát nhất lại cũng là chính một số trong họ. Chu
Lai đã xoáy sâu vào sự thật của cuộc chiến bằng những từ ngữ tưởng như
thông tục kia, cách nói đanh gọn, riết róng kia để rồi đằng sau lớp từ ngữ ấy,
giọng điệu ấy là cả thế giới tâm trạng của nhân vật in hình trên sự nghiệt ngã
của chiến tranh.
104
Nhân vật Hai Hùng, trở về từ cuộc chiến với một hình hài gầy gò, ốm
yếu, không vợ, không con, không hiện tại và tương lai, chỉ có mảnh quá khứ
phập phồng đập trong lồng ngực. Ở nhân vật này là hiện thực một thời đã
được thẩm thấu với cuộc sống muôn nẻo cam go của người lính trong cơ chế
thị trường ác liệt hơn chiến trường năm xưa. Vì thế ngôn từ trong lời thoại của
nhân vật cũng mang sắc thái riêng không dễ gì khuất phục như khi trả lời tên
vệ sĩ:
- Hết muốn đái rồi. Có sao không? - Tôi vênh mặt lên [VIII, tr.335].
Hay ở tình huống nhân vật dùng những câu cầu khiến để bảo vệ Ba
Sương:
- Bỏ cô ấy ra! Bỏ ngay ra rồi cút đi đâu thì cút. Mày không thấy cô ấy
đang có một vết thƣơng ở đầu à? Bỏ! [XIII, tr.335]
Đặc điểm thứ ba, các từ ngữ tục cũng thuộc nhóm kiêng kị trong giao
tiếp, thế nhưng Chu Lai đã sử dụng khá nhiều từ tục xuất hiện trong các đoạn
thoại giữa các nhân vật. Trong Ăn mày dĩ vãng là: bóp dái, đếch, sứt môi lồi
rốn, đái, rặn ỉa, ỉa đái, chạy nhƣ chó, đít, đánh đéo, con cặc, bìu dái, cu, chó
dái, làm chó gì, cứt thối, con khẹc, khổ nhƣ chó…Trong Ba lần và một lần:
cái chó gì, đếch, ông đ. cho, đàn ông chó dái, thiến mất dái, cơn động đực,
cái chim của mày, đống cứt, bốc cứt bốc đái mà ăn, vũng nƣớc đái chó;
Trong Cuộc đời dài lắm: đ.gì, đĩ non ngứa nghề, con đực đã bị thiến, ôm đít
vợ, đĩ, chó nó tin, cái đít toàn trứng, đ. quên cái gì, ông là cứt, cứt đái, thối,
con tƣờu, ỉa vãi, dại gái đến chảy nƣớc đái ra…
Trong Ăn mày dĩ vãng, nhân vật Tuấn giơ hai tay lên cửa hầm để pháo
tiện đứt tay cho được trở về với mẹ, anh nói với Hai Hùng:
- Anh đánh đéo gì tôi? Mẹ anh chứ! Thế trận càn tháng trƣớc thằng
con mẹ nào chúi đầu xuống hầm, một chân cứ giơ lên hứng đạn? Thằng
nào? Thằng giơ chân tƣởng oai hơn thằng giơ tay à? Lên mặt à? Con cặc!
[XIII, tr.107].
105
Cũng hiếm tìm thấy ở tác phẩm nào cách nói đưa từ tục vào thế này:
- Thế là vô sản. Tuyệt đối vô sản. Vô sản đến tận dái [XIII, tr.50].
Trong Ba lần và một lần, nhân vật Hai Hùng có những lúc buông xuôi
cho số phận thì với Sáu Nguyện, cuộc sống hiện tại của anh là một chiến
trường đấu tranh không khoan nhượng với cái xấu và cái ác, cho dù sau này
anh có phải trả giá bằng tính mạng đi chăng nữa. Lời thoại của nhân vật thể
hiện bản lĩnh của người từng một thời cầm súng:
Hòn than trong đầu Sáu Nguyện từ nãy đã cháy lom dom, đến lúc này
nó không thể âm ỉ được nữa, chợt bùng lên thành lửa. Anh vụt đứng dậy, móc
hộp quẹt Zipo Mỹ còn giữ được, quẹt vào giữa mặt gã dâm tặc, giọng rung lên
vì giận:
- Bỏ cô ấy ra! Làm thằng đàn ông nhƣ vậy là rất nhục! - Cô về đi! Đối
với loại đàn ông chó dái này, cô nên hết sức cẩn thận… [XV, tr.119].
Đoạn thoại giữa Hai Hùng và Ba Thành sau mười năm gặp lại vẫn thấm
đẫm chất lính tráng, bộc trực:
- Bác sĩ con mẹ gì? Thế đồng chí là…Vất mẹ đồng chí đi! Mình đây,
Hai Hùng đây! Chao ôi! Chả lẽ tớ già đến nỗi cậu không còn nhận ra nữa ƣ?
Đầu viên đạn M16 cậu lấy ra từ đùi, gần bìu dái, tớ vẫn giữ đƣợc. Từ đùi? Ừ,
đùi. Bìu dái? Ừ, dái? Vẫn còn giữ? Giữ. Thế thì đù mạ! Nhớ rồi. Mày là
thằng Hùng ác ôn, thằng Hùng trời gầm, đúng không? Nhƣng sao lóng rày
mày già dữ vậy mày? Nếu không nói tới viên đạn mắc dịch ấy thì ông cố nội
tao cũng không nhận ra… [XIII, tr.107].
Ngôn ngữ nhân vật với cách miêu tả và sử dụng từ ngữ mạnh tay như
vậy ta rất ít gặp trong các tác phẩm văn học trước 1975.
Bên cạnh ngôn ngữ nhân vật người lính, Chu Lai cũng chú ý sử dụng
các từ ngữ tục thể hiện đặc điểm ngôn ngữ nhân vật phản diện, cùng với cách
nói rất cộc lốc, đậm chất du côn, lính tẩy, đã khắc họa rõ tính cách nhân vật:
106
- Đù mẹ bọn mọi ăn đất cát! - Bây giờ là tiếng chửi tục tằn vọng xuống
- Nhẹ không ƣa, ƣa nặng. Cơm không muốn ăn, ăn cứt! Thân con lừa! Vậy
tao cho bọn bay chết mẹ luôn. Lính đâu? Tao đếm từ ba đến một, không lên,
bấm! - Ủa! Con Ba Sƣơng chỉ huy xã đội đây mà. Phải là nó thì mới có bàn
tay cụt ngón thế này. Tội hè! Việt cộng sử dụng cả đàn bà tật vô rừng làm đĩ.
Đĩ cụt! - Gọi hàng cái con tườu! Đánh mìn cho chết mẹ chúng nó đi, - Bài
học cái con cặc!... [XIII, tr.207].
Chỉ qua đoạn thoại trên, những từ thông tục được sử dụng đã tô đậm sự
tục tĩu, đểu cáng và phi nhân tính của nhân vật phản diện.
Có thể nói, vốn từ thông tục trong lời thoại của nhân vật đã góp phần
phản ánh sự khắc nghiệt của chiến tranh, của đời sống xã hội rõ nét hơn. Qua
ngôn ngữ nhân vật, ta thấy rõ người lính là những con người với những nhu
cầu, khát vọng như những con người bình thường khác. Điều đáng trân trọng là
trong chiến tranh, luôn phải đối mặt với gian khổ, hy sinh, chết chóc, từng có
những phút mềm lòng nhưng họ vẫn hoàn thành nhiệm vụ đánh giặc cứu nước.
Cách dùng vốn từ thông tục trong lời thoại nhân vật đã thể hiện rõ phong cách,
sở trường của nhà văn khi viết về chiến tranh và cũng tạo nên phong cách ngôn
ngữ đậm “chất lính” trong thế giới nhân vật tiểu thuyết Chu Lai.
Qua tìm hiểu ngôn ngữ đối thoại giữa các nhân vật trong tiểu thuyết
Chu Lai, ta có thể thấy rõ đặc điểm ngôn từ mà nhà văn sử dụng để khắc họa
tính cách nhân vật và qua đó biểu đạt tư tưởng của nhà văn. Ấn tượng rõ nhất
trong ngôn ngữ nhân vật của Chu Lai là hệ thống từ ngữ đời thường, mang
đậm phong cách khẩu ngữ, xuất hiện dày đặc các lớp từ thông tục (các từ
xưng hô hàng ngày; các từ ngữ đánh giá mang tính thân mật, suồng sã; các từ
tục, lời chửi). Cách nói của các nhân vật trong các tác phẩm của Chu Lai cũng
rất ngắn gọn, mạnh mẽ, không nói tránh mà trực diện, thái độ yêu ghét rõ
ràng... Tất cả được diễn đạt bằng một thứ ngôn ngữ rất sắc sảo, tự nhiên như
lời nói hàng ngày. Nhưng đằng sau đó là mạch ngầm - dòng chảy của những
107
triết lý nhân bản mà tác giả muốn gửi gắm qua từng về các nhân vật thấm đẫm
“chất lính” trong tác phẩm của nhà văn.
3.1.2.2. Từ ngữ thông tục của các nhân vật trong tiểu thuyết Chu Lai
a) Từ ngữ thông tục của một số kiểu nhân vật tiêu biểu trong tiểu thuyết
Chu Lai
Trong số hệ thống nhân vật các tiểu thuyết của Chu Lai, nhân vật
người lính chiếm số lượng đông đảo nhất. Họ đến từ nhiều vùng quê khác
nhau, xuất thân, hoàn cảnh và tuổi tác khác nhau, vị thế cũng không giống
nhau, nhưng có điểm chung trong tính cách là các nhân vật người lính có
“chất lính” rất rõ. Chất lính này toát ra không chỉ trong lời giới thiệu, miêu tả
của nhà văn mà nó thể hiện sâu đậm nhất, ấn tượng nhất là ở ngôn ngữ của họ.
Đó được xem là một trong những thành công nhất của Chu Lai khi xây dựng
nhân vật, khắc họa tính cách, đặc điểm nhân vật.
Đây là đoạn thoại của những người lính giữa rừng già sau một trận
đánh ác liệt: - Ơ Khiển! - Một người chiến sĩ thổi phù phù vào cái nòng M79
vừa thông xong - Thế cái lúc ba thằng biệt động to tƣớng nhƣ ba con trâu xô
đến, mày làm thế nào mà óe một cái, ba thằng chúi sang ba hƣớng nhƣ ba
con ngóe vậy?
Một chiến sĩ khác ngồi cạnh đó khum tay lên miệng nói khào khào
để cho mấy cô gái không nghe được: - Nó bóp dái. Hai tay ba củ, vừa bóp
vừa dứt.
Tiếng cười bật lên khoái trá khiến cho mấy cô chẳng hiểu gì cũng
cười theo.
- Tiếc quá! Mày lại có vợ rồi, nếu chƣa, tao xin hứa nếu còn sống trở
về, nhất định tao sẽ gả em gái cho. Em gái tao xinh nhất làng đó.
- Nó nói dóc đấy, làm đếch gì có em gái. Nó chỉ có bà chị gái sứt môi
lồi rốn bán thịt chó sống ở đầu chợ thôi.
108
- Thôi, đừng giỡn nữa! Giỡn hoài, nó trạnh lòng, nó lại chảy nƣớc (Hạ
giọng thật khẽ)… đái ra bây giờ. Có phải không chị Ba? [XIII, tr.93].
Những từ ngữ “óe”, “bóp dái”, “đếch”, “sứt môi lồi rốn”… là những từ
thông tục, nhân vật người lính nói với nhau một cách bình thường, họ bày tỏ
cái hoàn cảnh thực, tâm trạng thực với nhau, khiến cho lời thoại của nhân vật
người lính có những đặc điểm riêng không lẫn với các nhân vật khác. Tính
cách “lính” ăn sâu vào họ, nên từ ngữ họ nói ra, khi đang là lính hay khi họ
trở về đời thường vẫn mang dấu ấn của người lính.
Còn đây là đoạn thoại khi hai người từng là đồng đội, gặp lại nhau sau
chiến tranh. Trong lời thoại cũng có nhiều từ thông tục, được người lính nói
ra một cách tự nhiên:
- Đồng chí hỏi tôi?
- Vâng! Anh là Ba Thành, bác sĩ?
- Bác sĩ con mẹ gì? Thế đồng chí là…
- Vất mẹ nó đồng chí đi! Mình đây, Hai Hùng đây! Chao ôi! Chả lẽ tớ
già đến nỗi cậu không còn nhận ra nữa ƣ? Đầu viên đạn M16 cậu lấy ra từ
đùi, gần bìu dái, tớ vẫn giữ.
- Từ đùi?
- Ừ, đùi.
- Bìu dái?
- Ừ, dái.
- Vẫn còn giữ?
- Giữ.
- Thế thì đù mạ! Nhớ rồi. Mày là thằng Hùng ác ôn [XIII, tr.107].
Qua từ ngữ lời thoại, ta có thể thấy tính cách, suy nghĩ của người lính
ăn sâu vào trong tiềm thức họ thật sâu đậm. Những từ ngữ dùng trong lời
thoại con mẹ, đùi, bìu dái, đù mạ bộc lộ rõ tâm trạng, tình cảm của nhân vật
109
phù hợp với hoàn cảnh giao tiếp và tính cách nhân vật, dù là trong hay sau
chiến tranh.
- Dùng các từ mang sắc thái địa phƣơng:
Có khi nhà văn để cho nhân vật nói những từ ngữ quen thuộc như lời
nói hàng ngày, mang phong cách ngôn ngữ vùng Nam bộ:
- Má mày! Má thằng Sáu Nguyện! Má thằng bạc nghĩa vô tình, đi rồi là
đi miết, không một lần dòm ngó chi đến bạn bè hết. Bộ mày chết dấp chết dúi
ở đâu rồi cũng không cho ai đƣợc biết ƣ?
- Tao cũng hỏi tin mày hoài nhƣng ngƣời ta bảo mày đƣợc cử đi đào
tạo về làm cán bộ nguồn rồi. Tƣởng lóng rày mày đã ông tá ông tƣớng nhà
cao cửa rộng rồi kia chớ! Mãi hôm qua, vô tình gặp ông Bảy tỉnh đội mới biết
mày đã ra quân và đang sinh sống ở đây.
- Sao ốm quá vậy Sáu?... Toàn những xƣơng là xƣơng thôi nè!
- Thì tao có mập bao giờ đâu. Sao, bộ mày tính làm ông chủ đất ở đây hả?
- Nói chuyện mày đi. Từ đó đến nay mày sống ra sao? [XV, tr.178].
Đoạn thoại trên dùng các từ thuộc phương ngữ Nam Bộ, trong đó có từ
xưng hô (má), từ tình thái (miết, bộ, lóng rày, nè).
- Dùng các từ ngữ tình thái có tính suồng sã, biểu cảm:
Chu Lai đặt nhân vật vào các mối quan hệ phức tạp của cuộc sống hiện
đại để khai thác chiều sâu những giá trị nghĩa tình của con người. Linh trong
Vòng tròn bội bạc, Sáu Nguyện trong Ba lần và một lần là những trường hợp
bị xô đẩy giữa dòng đời phức tạp của cuộc sống mới. Nhưng bản lĩnh của
người lính, họ không nhượng bộ. Họ truy quét và tấn công cái ác đến tận cùng.
Khi gặp hoàn cảnh khó khăn, người lính vẫn giữ bản chất lính, thể hiện ngay
trong các từ ngữ họ nói ra:
- Con mẹ quản đốc ngƣời Đại Hàn nó đánh em - Giọng cô uất nghẹn.
- Quản đốc ngƣời Đại Hàn? - Đến lượt anh trợn tròn mắt kinh ngạc -
Sao nó lại đánh? Sao có thể dám đánh?
110
- Tụi em làm lỗi ít mét vải do mệt quá… thiếu ngủ quá! Nó đánh cả tổ.
Đánh bằng dép… Cứ mặt nó nện…
- Thế tụi em chịu cho nó nện à? Đứng im à? Hả? - Anh gằn giọng như
chính anh vừa bị đánh [XV, tr.278].
Trong lời thoại của nhân vật “anh” có các từ tình thái (sao, à, hả) xuất
hiện cùng với các từ khác (các động từ: đánh, dám, nện) đặt trong ngữ cảnh
câu cầu khiến hay nghi vấn, cùng với các từ miêu tả qua lời dẫn thoại (trợn
tròn mắt, gằn giọng) đã thể hiện rõ thái độ, tình cảm dứt khoát, thẳng thắn,
quyết đoán đầy chất “lính”.
Còn đây là lời của người lính khi gặp lại vị chỉ huy can trường dũng
cảm mà cũng nhân từ độ lượng với lỗi lầm của đồng đội năm nào của mình:
- Ông còn nhớ cái gì đây không?
- Một đoạn dây… có gì đâu?
- Đầu óc lão này hƣ rồi! Quên hết quá khứ rồi! - Anh ta trợn mắt - Cái
dây dù bị cứa đứt đã làm ông té lộn cổ xuống suối còn để lại thẹo đến tận bây
giờ đó, nhớ chƣa!
Một luồng khí lạnh toát chạy dọc theo sống lƣng khiến anh đờ ngƣời…
- Thế ra ông là… chính ông là cái ngƣời đã…
- Đúng! Tôi chính là thằng Tính… thằng Hai Tính khốn nạn đã hại ông
đây! - Giọng anh ta méo đi như sắp khóc và ngay liền đó, nước mắt anh ta lại
chảy ra thật - Tôi khốn nạn thế mà ông vẫn không nhận ra ƣ?... Ông không
hận tôi ƣ?... Chết thôi! Ông khác đi nhiều quá! [XV, tr.140].
Lời của người đồng đội năm xưa vẫn chân thật, tự nhiên không khách
sáo, không câu nệ thân phận. Các từ ngữ dùng trong lời thoại đã thể hiện rõ
điều đó (rồi, chƣa, ƣ, sao, quá, ơi, chết thôi).
Qua những dẫn chứng các đoạn thoại của nhân vật người lính, với việc
dùng các từ trong lời thoại (từ thông tục, từ tình thái), có thể thấy rõ: ngôn
ngữ người lính là thứ ngôn ngữ đậm chất đời thường, ít màu sắc tu từ, lối nói
111
thẳng thắn, bộc trực với thái độ dứt khoát… Các từ dùng và sắc thái như thế
phù hợp tính cách người lính.
Bên cạnh đó để thể hiện sự bẩn thỉu trong nhân cách, sự tục tĩu của kẻ
quen uống máu người và giết người không ghê tay các nhân vật này thường
dùng những từ thông tục như: đĩ, đĩ cụt, đù mẹ, thân con lừa, chết mẹ luôn,
tha cái con c,…thằng mọi, mọi rợ…
Hay những từ tình thái: thôi, khổ quá, hả, cái gì, quá, ủa, tội hè…
Các từ ngữ này xuất hiện trong lời nói của nhân vật cứ lặp đi lặp lại,
tạo thành tính cách nhân vật kẻ phản diện, đó là nhân vật được dựng lên từ
những hình ảnh, ngôn ngữ hội thoại sống động, chân thực. Đó là những điển
hình tiêu biểu cho loại kẻ thù ác ôn với những thủ đoạn tinh vi, tàn bạo như
thằng Xầm (Nắng đồng bằng), thằng Quang (Sông xa), thằng Địch (Ăn mày
dĩ vãng)… Nguy hiểm hơn, những nhân vật kẻ thù đó không chỉ là người
của chiến tranh mà còn là người của ngày hôm nay, nó hợp lực với sự tha
hóa của những người từng là lính chiến để thành một thứ nọc độc còn sót lại
và hoành hành trong thời kì hậu chiến, nó hiện diện như một thứ tội ác cần
phải loại bỏ.
Tuy nhiên, đánh giá một cách khách quan, trong việc xây dựng nhân
vật, nhân vật kẻ thù chưa được nhà văn khắc họa rõ nét. Chỉ có điều do cách
thay đổi cái nhìn về hiện thực, đặt kẻ thù dưới cái nhìn nhân bản, nhân tính,
nên Chu Lai đã có cái nhìn đa diện hơn về kẻ thù xâm lược và “kẻ thù” thời
bình. Mô tả chúng, nhà văn đã đứng ở góc độ khách quan để đánh giá chứ
không đơn giản là cái nhìn một chiều đại diện cho dân tộc bị áp bức. Dưới
ngòi bút của tác giả, kẻ thù không chỉ là tàn bạo, ngu dốt, chỉ biết có tiền, có
gái mà đôi khi họ cũng có tài, có nhân cách thực sự nhưng đã lầm đường lạc
lối. Họ có thể dẫm đạp, chém giết tất cả nhưng với tình yêu và lòng tự tôn
giống nòi ẩn sâu trong lòng luôn được họ tôn thờ và không dễ gì kẻ chung
112
trận tuyến chạm đến được (như: nhân vật Duy, Quang…). Đây là nét mới gắn
với sự đổi mới quan niệm nghệ thuật về con người của Chu Lai. Trong nhiều
trường hợp, tác giả không coi nhân vật kẻ thù là phụ, đệm, xuất hiện trong
từng tình huống để đối lập, làm nổi bật tính cách, phẩm chất anh hùng của
người lính cách mạng mà thực sự là một loại nhân vật với tư cách một con
người cá nhân có tính cách, có số phận.
b) Từ ngữ thông tục góp phần tạo tính cá thể hoá nhân vật trong tiểu
thuyết Chu Lai
Tính cá thể hóa nhân vật trong các tiểu thuyết của Chu Lai là khá đậm
nét. Hai Hùng là nhân vật chính, một người lính trong tiểu thuyết Ăn mày dĩ
vãng. Nói đến người lính là ta nghĩ đến những thanh niên trẻ trung, tính cách
mạnh mẽ, yêu ghét rõ ràng, lời họ nói dứt khoát, bộc trực, thẳng thắn. Đó là
những đặc điểm được “mặc định” về người lính. Quả thực, khi tìm hiểu các
nhân vật trong tác phẩm của Chu Lai, ta có thể thấy rõ những đặc điểm đó về
người lính, về tính cá thể hoá của nhân vật điển hình trong mọi hoàn cảnh
khác nhau.
Trong chiến tranh, Hai Hùng hiện lên với mẫu anh hùng của chiến
tranh sông lạch. Sự tinh nhạy, khôn khéo, can tràng của anh đã đạt đến độ
thần tượng của các cô gái du kích, hay các cô ở đội nữ pháo binh, bởi ngoài
chiến đấu giỏi anh còn rất đẹp trai. Chẳng thế, khi nói về anh, các cô thường
hít hà: Chao ôi!... Cứ để cho ảnh sống, ăn uống ngon lành, mỗi đêm đến với
chị em một lần, đến từng đứa, hết lƣợt lại quay lại từ đầu…[XIII, tr.32].
Nhưng anh chàng lính chiến được chị em ưu ái đưa vào giấc mơ đó lại không
phải là người thích đùa cợt, hoa lá. Nghe cậu trinh sát nói có người hỏi thăm
mình, Hai Hùng đã tỏ thái độ rất rõ ràng:
- Ba Sƣơng y tá của đội du kích. Chị ấy mát tay lắm và tỏ ra hết sức tin
cậy ở anh em trinh sát chúng mình. Hồi trƣa, chị ấy có hỏi thăm về anh…
113
- Thăm hỏi cái quái quỷ gì lúc này! Đây là chuyện sống chết mất còn
chứ không phải trò đực cái trăng hoa. Mày vẫn có cái lối ủy mị rừng già ấy
là không trụ đƣợc ở vùng rừng lõm ác nghiệt này đâu. Đi [XIII, tr.34]
Ngôn ngữ thẳng thắn, hơi tàn nhẫn “quái quỷ, đực cái trăng hoa, sống
chết mất còn” khi nhắc đến chuyện tình cảm cho thấy đây còn là mẫu nhân vật
khá lạnh lùng, khô khan và đã là nhiệm vụ thì người lính không gì phân tán tư
tưởng được kể cả khi đó là người con gái đẹp nhất rừng mà ai cũng mơ ước.
Tuy nhiên, cũng là con người ấy, trên chiến trường thì khô khan là vậy
nhưng với đồng đội anh là người rất chăm lo cho sự an toàn của chiến sĩ như
người thân yêu ruột thịt của mình:
- Nhƣng nhớ là đi chậm, thật chậm, quan sát thật kỹ, thấy cái gì khác là
dừng lại ngay [XIII, tr.36].
Hoặc trong tình huống chứng kiến sự phản bội, yếu hèn của người lính
dẫu người đó là cấp trên của mình, Hai Hùng vẫn thẳng thắn đến mức lạnh
lùng, tàn nhẫn qua cách sử dụng lời thoại có nhiều từ thông tục:
- Thằng khốn! Chạy đi đâu? Mày bỏ bạn bè, đồng đội đi đâu?
Cái bóng nói hào hển, sặc sụa mùi thuốc lá thơm ru - bi:
- Ấy cậu… Đồng chí! Tôi… Tôi đây mà. Tôi là Ba Tiến, phó bí thƣ
quận ủy đây mà. Bỏ… Bỏ tay ra đi, kẻo ngƣời ta thấy…Kìa!
- …Chạy như chó mà xƣng là bí thƣ. Nhục!
- Này đồng chí! - Cái bóng cố gượng đứng dậy, hai cẳng chân để trần
va đập lục cục - Ăn nói cho có tổ chức. Ai là chó hả? Láo! Tất cả đều chạy,
bộ đội của đồng chí cũng chạy chứ riêng gì tôi. Láo! Láo quá! Phải giáo dục
thế nào chứ không thì…
- Cút! Cút về sau mà giáo dục. Cút! [XIII, tr. 36].
Cuộc chiến kinh hoàng đã xé nát đội hình của đơn vị Hai Hùng, thi thể
người lính nát tươm bởi mìn clâymo khiến người chỉ huy đau đớn. Vậy mà
114
vẫn có kẻ mang tiếng là cấp trên những lại bỏ trốn một cách hèn hạ. Từ ngữ
chửi trong lời thoại nhân vật “thằng khốn”, “chạy như chó”, “cút”, “nhục”…
hoàn toàn hợp lý trong tình huống này.
Ngôn ngữ nhân vật người lính trong chiến tranh khi đứng trước cái chết
của người đồng đội phải có quyết định nhanh chóng để lấy lại tinh thần chiến
đấu cho mọi người:
- Đồng chí y tá! - Hùng cũng sắt mặt - Đây là lệnh, đồng chí không
đƣợc can thiệp vào. Anh em đâu? Thằng Khiển, thằng Vƣợng đâu? Cả thằng
Tuấn khốn nạn kia nữa, mày ngồi chết giẫm ở đó à? Mang nó ra hố pháo
chôn ngay! [XIII, tr.79].
Ngôn ngữ của người chỉ huy dứt khoát vì anh biết rằng một vết thương
như vậy, sự cứu chữa chỉ làm cho nó trầm trọng thêm, sẽ gây một mật độ
khiếp hãi không lường được cho tất cả mọi người mà chết vẫn hoàn chết. Lời
khấn nguyện cuối cùng của anh trước người đồng đội bạc mệnh như minh
chứng cho tội ác mà chiến tranh đã gây ra:
- Tha thứ cho bọn tao nhé, Bảo ơi!... Bọn tao không còn cách nào
khác… Không còn phƣơng tiện nào khác cả. Bọn tao không nỡ nhìn mày chết
trên đƣờng cáng đi phẫu. Xa lắm… Muốn mày chết ở đây, giữa bạn bè. Hãy
tha thứ… Hãy nhắm mắt lại cho bọn tao đỡ khổ… Đƣợc không? [XIII, tr.80].
Lời khấn nguyện chân thành đầy đau đớn của người đồng đội dành cho
người chiến sĩ hi sinh đã thẩm thấu đến thi thể dưới lòng đất kia, để rồi trong
đôi mắt mù mịt khẽ nhắm lại và rồi mở ra không bao giờ nhắm nữa. Người
chiến sĩ ấy đã chết đem vào lòng đất vết thương và sự yên lòng cho những
người đồng đội tiếp tục chiến đấu.
Đó là giây phút mất mát trong chiến đấu, còn những lúc cánh rừng yên
bình giữa hai làn bom đạn. Tiếng cười vô tư trong trẻo đùa vui của người lính
chiến như để lí giải cho ước mơ hạnh phúc, tuổi trẻ, tình yêu:
115
- Tiếc quá! Mày lại có vợ rồi, nếu chƣa, tao xin hứa nếu còn sống trở
về, nhất định tao sẽ gả em gái cho. Em gái tao xinh nhất làng đó.
- Nó nói dóc đấy. Làm đấy gì có em gái, nó chỉ có bà chị gái sứt môi lồi
rốn bán thịt chó sống ở đầu chợ thôi.
- Thôi đừng giỡn nữa! Giỡn hoài, nó trạnh lòng, nó lại chảy nƣớc (Hạ
giọng thật khẽ)… đái ra bây giờ. Có phải không chị Ba?
Sương thật thà ngẩng lên:
- Cái gì kia?
- Em bảo đừng giỡn nữa kẻo thằng Khiển nó buồn, nó lại chảy nước…
đái ra [XIII, tr.92].
Tiếng cười rộ lên của đám con trai làm át đi cảnh tượng hãi hùng vừa
mới xảy ra quanh đây thôi. Ngôn ngữ người lính mang tính chất ngôn từ hội
thoại, thông dụng như lời ăn tiếng nói hàng ngày. Qua đó những vấn đề nhân
bản của con người được hiện lên mang theo cả mùi vị của cuộc đời. Ngôn từ
của người lính trong chiến tranh ấy không hề bình lặng như vẻ tếu táo bên
ngoài mà cuộn bốc xoáy như chính cuộc đời nhân vật mà tác giả đã tạo ra:
- Anh đánh đéo gì tôi? Mẹ anh chứ! Thế trận càn tháng trƣớc thằng con
mẹ nào chúi đầu xuống hầm, một chân cứ giơ lên hứng đạn? Thằng nào? Thằng
giơ chân tƣởng oai hơn thằng giơ tay à? Lên mặt à? Con cặc! [XIII, tr.107].
Những lời tự trong tâm khảm của con người bột phát ra trong tình
huống đầy chết chóc. Tuấn với những phút giây yếu lòng muốn cối tiện đứt
tay để về quê với mẹ. Chu Lai đã để nhân vật sống thật nhất với con người
bản năng. Đây cũng chính là chất văn “mới” được hiện đại hóa của tác giả
trong cái nhìn nhân bản nhiều chiều về hình tượng khuôn mẫu một thời. Tác
giả đã để nhân vật tự đối thoại về những gì mà họ đang trải qua. Thứ ngôn từ
tưởng như dung tục, phản cảm ấy lại thể hiện một tội ác và nỗi đau. Tội ác
đến tận cùng ấy thuộc về bọn xâm lược. Còn nỗi đau là của con người Việt
116
Nam, đối tượng hứng chịu hậu quả chiến tranh, là những người như Hai Hùng,
Tuấn… và giờ đây số phận của họ đang bị đẩy đến tận cùng của sự thảm khốc.
Sự tàn khốc của chiến tranh khiến cho những người can tràng nhất cũng có
khi lung lạc, yếu lòng. Anh dũng nhất, ngoan cường nhất cũng là người chiến
sĩ mà đôi khi hèn nhát nhất lại cũng chính là họ. Nhiều lúc nhân vật người
lính cũng ném ra những “phản đề” đầy tính triết lý: - Lý thuyết, chủ thuyết,
giác ngộ, lý tƣởng ƣ? Thừa! Những điều cao siêu đó không phải bao giờ, ở
đâu cũng đắc địa, nếu không muốn nói có khi còn trở thành buồn cƣời [XIII,
tr.92], hoặc - Lý tƣởng ƣ? Mục đích ƣ? Giải phóng miền Nam ƣ? Vẫn còn đó
cả nhƣng nó lặn vào đâu đó trong ngƣời sâu lắm rồi [XIII, tr.126]. Những
suy nghĩ lạc dòng của nhân vật như thế chính là biểu hiện của tinh thần đối
thoại với văn chương viết về người lính thời trước. Hình thức câu bỏ ngỏ
cũng là một dạng đối thoại của nhân vật trong độc thoại. Để rồi sự nối tiếp
của số phận nhân vật người lính sau chiến tranh lại tiếp tục đi tìm lời giải đáp
cho vấn đề trong chiến tranh: Phải chăng sự báo oán của Sƣơng (nếu nhƣ em
chết thật) của bao linh hồn vất vƣởng khác thuộc bên này hay bên kia, do
chính tay tôi hoặc mệnh lệnh của tôi gây nên đã khiến tôi giờ đây thành thân
tàn ma dại nhƣờng này? [XIII, tr.132]. Nhân vật luôn bối rối khi phán xét quá
khứ: Khi trong ngƣời thấy khỏe, tôi cũng đủ tỉnh táo để nghĩ rằng, giết đi một
lực lƣợng đại diện cho cái ác thì có nghĩa là anh đang làm điều thiện…
Nhƣng nhỡ ở dƣới đó, ở nơi đâu đó, nơi âm ty tăm tối hay vùng đất xa lạ,
những linh hồn kia lại cãi họ mới chính là đại diện cho điều thiện thì sao?
[XIII, tr.133].
Cuộc đối thoại của người lính về những vấn đề tế nhị rất bản năng con
người được khai thác khá nhiều trong Ăn mày dĩ vãng. Người đọc như bị cuốn
vào dòng cảm xúc mới lạ về tình dục, tình yêu thiêng liêng, trong sáng qua lời
kể của Tuấn với Hùng khi cả hai đang làm nhiệm vụ trinh sát:
117
- Em… Em vừa đƣợc ngủ với đàn bà xong. Lạ lắm!
- Hả? Ngủ với đàn bà? [XIII, tr.135].
Lời thoại của nhân vật hồn nhiên, liền mạch với những từ ngữ tự nhiên
như nó đã từng diễn ra trong cuộc sống đời thường. Suy cho cùng, tất cả đều
là bình thường trong cuộc sống. Nhưng trong hoàn cảnh chiến tranh, điều
bình thường đó lại không là điều giản đơn. Cuộc trò chuyện đặc biệt diễn ra
khi đang căng mắt nhìn động tĩnh của kẻ địch không như những gì chúng ta
tưởng tượng về một bối cảnh nói những điều bình thường này. Bom đạn kẻ
thù không thể hủy diệt lòng ham sống và sự sinh tồn của con người. Ngôn
ngữ nhân vật nhiều khi vượt lên những vấn đề chính trị để xuất hiện trong tác
phẩm. Trong những trường hợp vấn đề chiến tranh tạm nhường chỗ cho lòng
vị tha và đạo đức con người. Ngôn ngữ nhân vật hóm hỉnh, đùa vui trong tình
huống giặc Mỹ bị thương vào chỗ kín, những người lính Việt Nam đã tạm
quên đi mối thù dân tộc để cứu một con người:
- Thằng cha này có con giống ngon lắm! Đ.mẹ! Băng đi băng lại hoài
không nổi mà thằng cha cứ ôm cứng lấy rên rỉ: “Cơơ- kơ… Mai - lootx -
cơơc - kơ!” [XIII, tr.254].
Bên cạnh thứ ngôn ngữ tưng tửng, đùa vui, gần gũi với cuộc sống đời
thường. Những người lính trong Ăn mày dĩ vãng còn có những phút thả mình
vào bóng đêm nhức nhối vừa nhẹ thả phủ tấm vải liệm màu đen xuống cánh
rừng nồng máu. Nơi đó, trong phút dịu nhẹ lắng lại của thanh âm chết chóc
vừa vang lên có người con gái mảnh mai với đôi bả vai chim sẻ đang ngước
mắt nhìn anh chờ đợi:
- Sắp có trăng rồi!... Trăng đêm nay mồng năm. Giá mà đƣợc ngồi đây
nhìn trăng khi nó từ từ lên? Chắc là đẹp lắm! [XIII, tr.208].
Ngôn ngữ mang đậm sắc thái biểu cảm lãng đãng đặc trưng của lãng
mạn trong tình yêu. Người con gái du kích từ gương mặt, mái tóc tỏa ra ánh
118
trăng xanh ngà, trinh trắng. Để người con trai nổi tiếng dũng cảm lạnh lùng
trong chiến đấu thoắt run lên như sắp tan chảy: Mặc ngƣời ta! Mặc tất cả!
[XIII, tr.209] và cúi xuống siết chặt vào đôi môi ướt lạnh của người con gái
một cái hôn tức tưởi và ngàn ngạt yêu thương.
Sau chiến tranh, nhân vật Hai Hùng hiện lên với hình dáng: Bốn mƣơi
chín tuổi và đang thất nghiệp… nửa cƣời nửa khổ [XIII, tr.6]. Nhân vật tự
nhận mình là con nộm rơm khốn khổ giữa cánh đồng đời đầy dông bão [XIII,
tr.6]. Ngay cả khi ngồi trong quán sang trọng do người đồng đội cũ nay là
quan chức đưa đến ăn nhậu, Hai Hùng choáng ngợp trong cái âm thanh của
sự giàu sang, để rồi sau những trạng thái khác nhau của tâm trạng, qua sự
mời gọi, trách móc ngọt ngào của cô gái tiếp viên, anh chỉ thốt lên được
những câu:
- Anh cƣời gì thế? - Cô bé ngước cặp mắt mê hồn lên tôi, hỏi với vẻ lo
lắng thật sự - Sao anh không nói gì với em? Anh mà cứ đăm chiêu hoài vậy,
bà chủ bả…
- Bả làm sao? - Tôi buộc lòng phải mở miệng - Việc khách vào đây, nói
ít hay nói nhiều, buồn hay vui, có liên quan gì đến bả [XIII, tr.12].
Thì ra sau những choáng ngợp đến lặng người trước sự đổi thay của xã
hội trong nhu cầu hưởng thụ ở thời buổi kinh tế thị trường. Câu nói đầu tiên
của nhân vật người lính trở về sau chiến tranh vẫn là giọng nói cứng cỏi,
ngang ngạnh như anh lính chiến ngày nào trong cánh rừng đầy bom đạn và
chết chóc vùng ven đô. Lời của gã phó huyện trưởng nhớt nháy phả vào mặt
Hai Hùng cũng như một minh chứng cho xã hội đầy những lạc thú xác thịt:
- Anh Hai…Thấy thế nào?
- Cái gì thế nào? Nhậu hả? Tốt quá nhƣng hơi tốn.
- Không phải - Hắn chém mắt sang cô bé - Muốn không?
- Muốn gì? - Tôi đã bắt đầu ngờ ngợ.
119
- Lại còn gì. Đuỗn cả mặt ra thế kia là hết muốn chịu nổi rồi. Một đêm,
một đêm chẵn với bé nghen! Rẻ thối. Trăm ngàn bạc mà đƣợc làm chủ cả một
thân hình kiều diễm dƣờng kia thì ở ngoài anh Hai có nằm mơ cũng không ra,
tán tỉnh cả đời cũng không đƣợc. Ƣng nhé! Tôi bao trọn gói.
- Hả?... Bậy mày! - Tôi trừng mắt một cách yếu ớt - Nó đáng tuổi con,
đừng nghĩ lộn xộn.
- Hớ!... Đáng tuổi cháu cũng đƣợc nữa. Càng ngon, thơm thịt, nhai
đƣợc cả xƣơng. Thế nào?
- Dẹp đi! - Lần này thì tôi gắt thật sự, phần vì lối nói chả chớt của gã,
phần vì tôi không muốn cô bé nghe được. Uống xong, về. Bộ thằng Ba mày
xỉn rồi hả? [XIII, tr.15].
Ngôn ngữ của nhân vật phó huyện trưởng sặc mùi thực dụng và xác thịt,
tưởng như nếu không có cái mác quan chức thì người ta dễ lầm tưởng đây là
ngôn ngữ của một gã kinh doanh những mặt hàng bẩn thỉu từ thân xác của
những cô gái. Còn Hai Hùng bắt đầu từ cái ngơ ngác trong từ ngữ mang sắc
thái hỏi “cái gì” cho đến thái độ bất bình, phản đối rõ rệt “dẹp đi” cho thấy
nỗi buồn xoáy nhức cứ dẫn lan tỏa trong từng từ trong lời thoại nhân vật. Nỗi
buồn của cuộc sống cứ khắc khoải triền miên trong lòng kẻ đi tìm quá vãng
mà không thể chấp nhận cuộc sống xô bồ này.
Và hơn hết, trong nhân vật Hai Hùng, cái mà anh đeo đuổi với quyết
tâm tìm ra sự thật không phải là ở những người bạn cùng chiến đấu nay như
thế nào trong cuộc sống kinh tế thị trường. Cái mà anh phải tìm ra đó chính
là người đàn bà đã in hình trong tâm trí anh những day dứt khổ đau lẫn ngọt
ngào. Nếu như ngày xưa trong chiến tranh là hình ảnh của cô người yêu bé
nhỏ dịu dàng như chú chim non hớp ánh sáng bình minh, cô gái bé nhỏ,
mảnh khảnh, e ấp dịu dàng thì nay người con gái ấy chỉ còn lại bằng hình hài:
ngƣời đàn bà trên bốn mƣơi tuổi… khóe môi thỉnh thoảng nhíu lại thành một
120
nếp hằn chạy ngƣợc lên má trông khắc khổ và hơi ang ác một tí [XIII, tr. 22].
Trước người đàn bà của quá khứ mà Hai Hùng đang tìm kiếm ấy, ngôn ngữ
của nhân vật như có luồng điện cao thế chạy vào khiến thanh âm run rẩy:
- Sƣơng… Ba Sƣơng… Không nhận ra tôi ƣ? Tôi đây, Hai Hùng!
…- Không! - Nhiệt huyết người lính chiến một thời trong tôi quẫy cựa
bướng bỉnh - Em là Sƣơng. Em phải là Sƣơng. Đối với thiên hạ em là Lan
nhƣng đối với tôi, riêng tôi thôi, em bao giờ cũng là Sƣơng… [XIII, tr.30].
Ngôn ngữ đầy thảng thốt trìu mến của cung bậc cảm xúc trong lời thoại
của người lính vẫn còn vẹn nguyên theo năm tháng cho dù cuộc sống có đổi
thay như thế nào. Nhưng ngôn ngữ ấy, khi đứng trước người đàn bà chỉ biết
đến quyền lực và cuộc sống giàu sang mà quên đi người yêu cũ đã không còn
đơn giản chỉ là yêu thương:
- Cảm ơn bà đã quá chu đáo…- Bà không phải là một cái gì hết. Đúng
thế. Bởi vì bà chính là Ba Sƣơng. Y tá Ba Sƣơng! Xã đội trƣởng Ba Sƣơng
của ba xã vùng hạ lƣu sông Sài Gòn cách đây hai mƣơi năm [XIII, tr.234].
Lời thoại nhân vật rành rọt, thẳng thắn như đang đứng trước hàng quân
duyệt tập. Phong cách người lính với sự thẳng thắn không ưa lối vòng vo
được dịp bộc lộ. Để nhân vật Tư Lan - Ba Sương chết sững người trong tình
huống bất ngờ này. Hai Hùng lại tiếp tục phản công như người lính trinh sát
từng một thời chiến đấu ngoan cường cho dù hoàn cảnh có khác nhau:
- Bà có muốn nhận bà là Ba Sƣơng hay không. Tùy! Đó là quyền của
bà. Nhƣng tôi, tôi lại cần biết tại sao một xác chết đã chôn sâu ba thƣớc đất
là lại có thể sống lại? Hiểu cho riêng tôi, cho nỗi giày vò và ân hận của riêng
tôi. Ngoài ra không để làm gì hết. Vì rút cuộc, bà vẫn là bà và tôi vẫn là tôi,
xa lạ, tách rời, không quá khứ, không hiện tại, tƣơng lai [XIII, tr.234].
Ngôn ngữ nhân vật cứng rắn như một vị quan tòa đang luận tội
phạm nhân. Những từ ngữ “tùy”, “đó là quyền bà”… như mang cả âm
121
hưởng sắc lạnh của người nói nhưng bên trong sự sắc lạnh ấy còn kèm
theo cả cảm giác rã rời, chán chường của người không muốn tin ấy là sự
thật. Ngôn ngữ ấy của người đàn ông, của người đồng đội từng dành hết
tình cảm của mình cho người đàn bà chối bỏ quá khứ dù cho cố làm vẻ
lạnh lùng những vẫn không sao dấu được cảm xúc khi biết người đàn bà
ấy cũng chỉ là nạn nhân:
- Sƣơng! Em cứ ở đây. Ngày mai tôi sẽ đƣa em về - Ông Hùng đứng
chắn ngang cửa, cặp mắt trũng sâu sáng lên - Nếu cái đoàn thanh tra ấy
muốn, chính tôi sẽ trả lời, nhân danh những ngƣời chết và những ngƣời sống,
tôi sẽ trả lời thay em [XIII, tr.331].
Tình cảm riêng tư trong hoàn cảnh khó khăn đã được nâng lên thành
tình đồng đội. Một Ba Sương bé nhỏ, một Hai Hùng kiên cường chiến đấu
ngày nào được tái hiện qua lời thoại đầy cảm động. Dù trong hoàn cảnh nào,
tình đồng đội của họ vẫn vượt lên tất cả:
- Ngày mai chúng tôi, có cả Ba Thành, cả thằng Tuấn, cả anh Tƣờng
đây cũng sẽ xuống đó. Sẽ xuống với một đồng đội đang cần đƣợc bảo vệ nhƣ
ngày xƣa [XIII, tr.331].
Với đồng đội trong ngày gặp lại, Hai Hùng dù trong hình hài của kẻ bị
xã hội lãng quên, anh vẫn là người lính năm nào thật thà, bỗ bã qua ngôn ngữ
tự nhiên đến thông tục:
- Vất mẹ nó đồng chí đi! Mình đây, Hai Hùng đây! Chao ôi! Chả lẽ tớ
già đến nỗi cậu không nhận ra nữa ƣ? Đầu viên đạn M16 cậu lấy ra từ đùi,
gần bìu dái, tớ vẫn giữ [XIII, tr.107].
Bổ sung cho Hai Hùng là nhân vật Ba Thành, tay bác sĩ đồ tể năm xưa
đã từng cứu sống bao chiến sĩ. Các đoạn thoại giữa Hai Hùng và Ba Thành đã
thể hiện rõ hơn phong cách ngôn ngữ của Hai Hùng. Thời gian đã biến anh
bác sĩ quân y Ba Thành hào hoa, hóm hỉnh ngày nào thành một lão nông lọm
122
khọm cày cuốc. Nhưng sự thay đổi chỉ ở hình thức bên ngoài của chàng bác sĩ,
còn bên trong, khi gặp lại người bạn mình từng cứu sống trong chiến trường,
sự hóm hỉnh, vui tươi, như trở lại trong anh:
- Thế thì đù mạ! Nhớ rồi. Mày là thằng Hùng ác ôn, thằng Hùng trời
gầm, đúng không? Nhƣng sao lóng rày mày già dữ vậy mày? Nếu không nói
tới viên đạn mắc dịch ấy thì ông cố nội tao nhận cũng không ra.
…- Ờ, lẹ hè! tao nhớ ngày ấy mày ngon lắm kia mà. Cái giò của mày
bự bằng cả khúc bằng lăng, nếu không viên đạn ấy nó cắt cụt cu mày rồi, lão
khọm à [XIII, tr.108].
Ngôn ngữ tự nhiên, giản dị như lời ăn tiếng nói trong cuộc sống hàng
ngày. Những lo toan, suy nghĩ từ những bất công trong cuộc sống hàng ngày
như tạm gác lại, chỉ còn tình bạn cùng chung chiến hào năm xưa. Người đọc
không thấy sự tục tĩu trong ngôn ngữ của họ mà chỉ thấy sự sảng khoái, thân
mật trong tình cảm của họ mà thôi.
Nhưng có lúc, cũng những từ ngữ thông tục được sử dụng với mục
đích khác:
- Mà đ.mẹ! Chiến tranh liên miên, không xấu mã thì đẹp cái con đĩ
ngựa nó à? Còn bạn bè? Tao không thèm đi thua đƣợc với bọi đi bằng đầu
gối, nói bằng môi đó. Có thằng lúc này đã ngồi ghế đầu tỉnh. Biết vậy, hổi đó
tao dục cha nó cái panh - sô vô ruột cho rồi [XIII, tr.109].
Lời nhân vật khi sử dụng lời tục chửi thề như chứa chất nỗi niềm từ
những bất công, vô ơn của những kẻ đi từ cuộc chiến những lại quay lưng lại
với đồng đội để bước lên con đường danh vọng. Nhưng, giây phút ấy chỉ
thoáng qua trong lời thoại của nhân vật người lính trở về sau chiến tranh, để
nhường chỗ cho sự bỗ bã, thân mật quen thuộc đã làm nên cá tính họ:
- Chết thế chó nào được! Mổ xẻ, vá víu cho nó xong, tao chắc mẩm
rằng nhất định nó sẽ nghẻo củ tỏi trên đƣờng chuyển về phía sau, chín miểng
123
đạn, toàn vào chỗ phạm chứ ít ỏi gì, vậy mà mấy tháng sau đã lại nghe nó
đang vồ đàn bà con gái ở trên rừng già rồi [XIII, tr.111].
Lời kể về quá khứ đau thương của người bác sĩ quân y tốt bụng nghe cứ
ráo hoảnh. Ngôn ngữ nhân vật không bi lụy đau thương khi nhắc về quá khứ
một thời cho dù quá khứ ấy phải đánh đổi bằng biết bao mất mát hi sinh. Đây
có lẽ là một trong những điểm nhấn trong ngôn ngữ tiểu thuyết Chu Lai khiến
người đọc nhớ mãi qua những trang viết về chiến tranh. Cuộc chiến của dân
tộc qua lăng kính của những người lính trở về vẫn vẹn nguyên khí thế hào
hùng và sẵn sàng hi sinh cho tổ quốc.
Có lúc, nhân vật người lính trở về ấy vô tư rủ bạn của mình:
- Đi chơi gái đi! Mới nửa đêm. Gần thôi.
- Hả… Cái gì gái? - Tôi ngoảnh hẳn sang võng hắn.
- Chơi gái. Ngoài thị trấn. Nhiều lắm! Tao bao. Tao có tiền. Nhiều tiền.
Vừa bán đƣợc lứa mít trên hai trăm trái, chơi xả láng. Đi [XIII, tr.115].
Ngôn ngữ cứ tưng tửng như những gì thuộc bản chất của họ. Nhưng
cuộc đời thật khốn nạn và bất công khi dành cho nhân vật một sinh lực còm
cõi, một vỏ ốc tự ti, một bầu trời trầm uất, để trong thân thể không còn chỗ
nào dành cho khái niệm đàn bà nữa. Câu trả lời của người bạn cũng thật thà,
thẳng thắn như lời mời kia:
- Ngủ đi! - tôi thở dài - Tao liệt rồi! Loay hoay không đâu vào đâu nó
cƣời, lại phí tiền [XIII, tr.116].
Ngôn từ ở hình tượng nhân vật người lính trở về mạnh, sắc nét lột tả
được bản chất sự việc:
- Con khẹc!... - Tôi nghe rõ tiếng nó thở ra, nặng và sâu - Ngày xƣa
bom đạn chết chóc nhƣờng ấy mà thịt da mày vẫn săn seo, thân thể trùng trục
nặng 65 ki - lô, vậy mà hòa bình mới có mƣời năm, ngƣời ngợm mày đã hƣ
hỏng đi nhƣ thế! Hƣ từ trong ra ngoài. Khốn nạn cho mày, thằng chỉ huy
trinh sát đặc nhiệm quân giải phóng ơi!
124
- Thôi đừng nhắc đến giải phóng, đến trinh sát nữa! - Tôi rên rỉ.
- Sao lại không nhắc - Hắn nhƣ gầm lên - Mày mắc cỡ à? Mày nhục à?
Cuộc sống bây giờ tuy khốn nạn thật nhƣng thử đứa nào xúc phạm đến
những chữ ấy coi. Tao bắn bỏ liền [XIII, tr.116].
Ký ức chiến tranh có buồn vui, đau đớn. Có tự hào, anh dũng kiên
cường của chiến thắng nhưng, vẫn là chữ “nhưng” trớ trêu ấy… Chiến tranh
đã lấy đi của họ tuổi trẻ, sự mạnh mẽ bản năng của đàn ông, của những sinh
lực tràn trề yêu đương, để lại, sau hòa bình là những tấm thân tả tơi, nhàu nhĩ
như chính tâm hồn buồn đau của họ vậy. Sự trớ trêu của thời gian hay hậu quả
của chiến tranh đem lại, người đọc không thấy sự đồi trụy trong nhân vật mà
chỉ còn một cảm giác xa xót trước số phận của họ mà thôi. Cách xưng hô
“mày - tao” trong lời thoại cho thấy giữa mối quan hệ của họ vẫn là tình đồng
đội như xưa vẫn là sự đồng cảm, giao hòa kể cả con người sinh lý của bạn.
Mọi cái có thể thay đổi, nhưng tình bạn, tình đồng chí của những con người
như Hai Hùng, Ba Thành vẫn còn mãi với thời gian.
Cuộc sống đời thường bỡn cợt cả những con người từng hi sinh tuổi trẻ,
thậm chí mạng sống của mình cho nó được bình yên. Cái vạt rừng cháy xém
kia như minh chứng cho sự hi sinh của họ giờ đã hồi sinh được đâu. Ngôn
ngữ nhân vật chua chát, xót xa. Nỗi niềm của nhân vật, của nhà văn, của
người đọc nhiều khi hòa cùng trong một dòng cảm xúc. Sự đa dạng trong biểu
hiện ý nghĩa ngôn từ qua lời thoại nhân vật trong tiểu thuyết Chu Lai phải nói
là không dễ gì kiến tạo được...
Hình tượng người lính trong tiểu thuyết Chu Lai phần đa được thể hiện
từ chiến tranh vắt sang đời thường. Bởi vậy ngôn ngữ nhân vật phù hợp
không thể là sử dụng từ ngữ đơn tuyến. Lời thoại nhân vật cho người đọc
nhiều xúc cảm do từ ngữ mang lại. Đó không chỉ làm cảm xúc, tình yêu, mà
còn là những triết lý, quan niệm sống đa dạng trong mỗi con người.
125
Trong lời thoại của các nhân vật, tiêu biểu là nhân vật Hai Hùng, về
mặt từ ngữ - các từ thông tục… xuất hiện nhiều, cứ lặp đi lặp lại, cho thấy đây
là một nhân vật có cá tính đậm nét (bộc trực, thẳng thắn, ngang tàng, quyết
liệt trong chiến đấu, với cái xấu, với kẻ thù nhưng cũng rất giàu tình cảm với
đồng chí, đồng đội, nhân dân); nhân vật Hai Hùng tiêu biểu cho hình tượng
người lính trong tiểu thuyết Chu Lai.
3.1.3. Vai trò của từ thông tục trong ngôn ngữ nhân vật của tiểu thuyết
Chu Lai
Danh sách các từ ngữ thông tục trong lời thoại thật đa dạng, có tần số
sử dung cao, lặp đi lặp lại. Đó là những từ chửi rủa trong Ăn mày dĩ vãng:
mẹ kiếp, đồ ăn mày, thằng khốn, cút xéo, thằng súc sinh, khốn nạn, thằng ngu
ngốc, đồ y tá lang băm, mẹ nó, thằng hèn, đồ khốn, im cái mồm, kệ mẹ tôi, đồ
dã man, mẹ mày, cha trời, con mẹ họ, tiên sƣ chúng mày, thằng con mẹ; trong
Gió không thổi từ biển: thằng điên, đồ con bò, ác hơn con hổ trên rừng, đồ
ăn hại, thằng mọi, đồ đĩ rựa, con mẹ nó, im mồm đi, khốn nạn, đồ rắn độc, đồ
mật vụ, đồ cảnh sát hạng bét, đồ ngu, mẹ kiếp, thằng phản bội; trong Ba lần
và một lần: im mồm, dốt, đồ đểu, đồ khốn nạn, đ.mẹ, má mày, dẹp mẹ nó, má
thằng bạc nghĩa vô tình, chết dấp chết dúi, đ.má thằng già, đồ ăn cháo đái bát,
chó má súc vật, con đĩ già, ông nội mày, con mẹ mày, con bồ mất nết; Cuộc
đời dài lắm: bỏ mẹ, cút, mẹ khỉ, mẹ chị, bố thằng nào, thằng khốn nạn, đồ
đạo đức giả, đồ khốn nạn, con mẹ nhà ông, má thằng bạc nghĩa vô tình, đ.má
thằng già, thằng ngu, ngu dại, dở hơi, thằng khốn, cút khỉ nhà tao, khốn nạn,
mẹ nó, đồ dâm tình, bịp bợm, thằng dại gái, đồ ăn cháo đái bát, tiên sƣ ông,
con mẹ ông…
Trong các lời thoại, có những từ tục xuất hiện không chút kiêng tránh:
bóp dái, rặn ỉa, ỉa đái, con cặc, bìu dái, chó dái, đàn ông chó dái, thiến mất
dái, cơn động đực, cái chim của mày, đống cứt, bốc cứt bốc đái mà ăn, vũng
126
nƣớc đái chó, ôm đít vợ, đĩ, chó nó tin, cái đít toàn trứng, đ.quên cái gì, ông
là cứt, cứt đái, bỏ mẹ, thối, con tƣờu, ỉa vãi, dại gái đến chảy nƣớc đái ra…
Với những từ thông tục xuất hiện khá nhiều trong các lời thoại đã liệt
kê cũng như phân tích ở các mục trên, có thể thấy nhân vật của Chu Lai bộc
lộ khá rõ các thông tin về nhân thân của họ ở mấy mặt sau đây:
Về giới tính, thành phần, nghề nghiệp: phần lớn số nhân vật trong tác
phẩm là người lính (trong và sau chiến tranh) hoặc từng là người lính (sau
chiến tranh); số đông trong họ là nam; nhân vật là nữ có số lượng ít hơn. Tất
cả họ đã tham gia vào cuộc chiến và xây dựng cuộc sống sau hòa bình ở nhiều
môi trường khác nhau.
Về quan hệ, hoàn cảnh và thái độ giao tiếp: quan hệ cơ bản giữa các các
nhân vật người lính là quan hệ ngang hàng; hoàn cảnh giao tiếp phần lớn là
trong các tình huống rất ngặt nghèo, ác liệt của chiến tranh, lúc đó người ta
phải xử lý mau lẹ, thái độ dứt khoát; cũng có thể là trong hoàn cảnh thời bình,
nhưng cuộc đấu tranh giữa cái tốt, cái xấu không kém phần quyết liệt, đòi hỏi
phải bày tỏ thái độ yêu ghét rõ ràng.
Về tính cách: qua lời thoại sử dụng các từ ngữ thông tục, từ chửi, các
nhân vật bộc lộ tính cách ngang tàng, dân dã, đời thường của những con
người sống trong thời kì bão lửa và những thử thách khủng khiếp của thời đại.
Điều này phù hợp với nhân vật là những người lính, phù hợp với hiện thực
đời sống trần trụi, đầy những bức xúc mà các nhân vật giao tiếp trải qua.
Vì sao nhân vật người lính lại phải dùng những từ tục trần trụi như thế?
Cả đội hình của ta rối loạn và nhanh chóng bị xé nát đến tan tác, thảm hại vì
bị địch phục kích bất ngờ. Trong lúc ấy, có một cái bóng chạy ngược trở lại
mà không chịu tiến công, Hai Hùng bức xúc chửi ngay:
- Thằng khốn! Chạy đi đâu? Mày bỏ bạn bè, đồng đội đi đâu? Cái
bóng nói hào hển, sặc sụa mùi thuốc thơm ru- bi: - Ấy cậu… Đồng chí! Tôi…
Tôi đây mà. Tôi là Ba Tiến, phó bí thƣ quận ủy đây mà. Bỏ… Bỏ tay ra đi, kẻo
127
ngƣời ta thấy… Kìa! … - Chạy như chó mà xƣng là bí thƣ. Nhục! - Này đồng
chí! - Cái bóng cố gượng dậy, hai cẳng chân để trần va đập lục cục - ăn nói
cho có tổ chức. Ai là chó hả? Láo! Tất cả đều chạy, bộ đội của đồng chí cũng
chạy chứ riêng gì tôi. Láo! Láo quá! Phải giáo dục thế nào chứ không thì…-
Cút! Cút về phía sau mà giáo dục. Cút! [XIII, tr.32].
Lời thoại trong tác phẩm không kiêng kị, tránh né những lớp ngôn từ
được dùng trong lời nói tự nhiên hàng ngày; cách nói, giọng điệu nhân vật thì
bạo liệt, gân guốc, thô mộc, thậm chí là có lúc cay nghiệt, đáo để… Sở dĩ nó
vẫn được chấp nhận, không gây phản cảm là bởi nhà văn đã đặt đúng nơi, đúng
lúc, tạo ra hiệu ứng sử dụng ngôn từ và cách nói. Và khi đặt lời thoại nhân vật
trong bối cảnh chiến tranh, ở cận kề ranh giới của cái chết và sự sống, người ta
không thấy những lời ấy là trần tục, thô thiển mà dường như nó đã mang một ý
nghĩa ngữ dụng khác hẳn với những tình huống giao tiếp bình thường.
Từ ngữ trong lời thoại làm cho ngôn ngữ nhân vật gần gũi đời sống,
phù hợp phong cách giao tiếp. Đó là những lời chửi: Mẹ kiếp, đồ ăn mày,
thằng khốn, thằng súc sinh, khốn nạn, thằng ngu ngốc, đồ y tá lang băm, mẹ
nó, thằng hèn, đồ khốn, đồ dã man, tiên sƣ chúng mày, đồ con bò, đồ ăn hại,
thằng mọi, đỗ đĩ rựa, đồ rắn độc, đồ mật vụ, đồ cảnh sát hạng bét, đồ ngu, mẹ
kiếp, đồ đểu, đồ khốn nạn, đ.mẹ, đ.má thằng già, đồ ăn cháo đái bát, chó má
súc vật, con đĩ già; bỏ mẹ, cút, mẹ khỉ, mẹ chị, bố thằng nào, thằng khốn nạn,
đồ đạo đức giả, đồ khốn nạn, con mẹ nhà ông, má thằng bạc nghĩa vô tình,
đ.má thằng già, thằng ngu, ngu dại, đồ dâm tình, bịp bợm… Những từ tục
xuất hiện không chút kiêng tránh: Bóp dái, rặn ỉa, ỉa đái, con cặc, bìu dái,
chó dái, đàn ông chó dái, thiến mất dái, cơn động đực, cái chim của mày,
đống cứt, bốc cứt bốc đái mà ăn, vũng nƣớc đái chó, ôm đít vợ, đĩ, chó nó tin,
cái đít toàn trứng, đ.quên cái gì, ông là cứt, cứt đái, bỏ mẹ, thối, con tƣờu, ỉa
vãi, dại gái đến chảy nƣớc đái ra…
128
3.1.4. Một vài so sánh bước đầu từ thông tục trong ngôn ngữ nhân
vật của tiểu thuyết Chu Lai với từ thông tục trong ngôn ngữ nhân vật của
một số nhà văn khác...
Trong tác phẩm của mình trong thời gian gần đây, Chu Lai cũng như
nhiều nhà văn khác đưa vào trong tác phẩm của mình, qua lời nhân vật nhiều
lớp từ ngữ đời sống mà trước đây các sáng tác văn học thường kiêng kỵ.
Dường như những yếu tố tục kia không gợi cho người đọc những gì như bản
chất từ ngữ mà đã hàm chứa một ý nghĩa khác - bản chất của cuộc sống tự
nhiên, bản năng trong mỗi con người. Chẳng hạn, trong các tác phẩm của
mình, Nguyễn Huy Thiệp cũng như Chu Lai, thường dùng khá nhiều các từ
ngữ thông tục.
Khảo sát yếu tố tục trong một số truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp,
chúng tôi nhận thấy thấy tác giả cũng rất chú trọng gửi các thông điệp qua
ngôn ngữ nhân vật. Ngôn ngữ nhân vật trong tác phẩm Nguyễn Huy Thiệp
cũng có những điểm gần giống với ngôn ngữ nhân vật của Chu Lai, có tính cá
thể hóa sâu sắc. Nhân vật tuy không nói nhiều lời nhưng để lại ấn tượng sâu
đậm. Lời nói của nhân vật không văn hoa sách vở, nó mộc mạc như tiếng nói
của đời thường. Họ phát ngôn một cách tự do. Nhân vật chẳng cần giữ ý, cứ
thản nhiên “văng” ra những khẩu ngữ, những câu chửi thề thô tục của mình.
Trong tác phẩm Tƣớng về hƣu, lời nhân vật ông Bổng có nhiều từ ngữ rất đời
thường, nói ra một cách hồn nhiên: mất mẹ bộ xa lông, bốc mộ cho chú bộ
ván… Không sao, bao giờ cả làng này chết tự tao cũng đủ tiền đi đò nhét vào
miệng họ. Lời nhân vật Thủy sắc sảo, rành mạch thể hiện một cá tính mạnh
mẽ: không thể đƣợc, tôi không thích, ăn là trên hết, họ hàng nhà anh kinh bỏ
mẹ. Lời của nhân vật Đoài (Không có vua) bộc lộ bản chất con người đểu
cáng vô lương: “Lạy mẹ, mẹ phù hộ cho con đi học nƣớc ngoài, kiếm cái xe
cúp… Mất thì giờ bỏ mẹ. Ai đồng ý bố chết giơ tay, tôi biểu quyết nhé… Các
bác già chết có gì là lạ” .
129
Loại nhân vật xuất hiện nhiều trong sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp là
loại nhân vật trần tục, tha hóa, biến chất. Đặc điểm của loại nhân vật này là
ngôn ngữ sử dụng nhiều từ tục như: mẹ mày, láo, kề miệng lỗ, cứt, ăn cứt, đồ
ruồi nhặng, lo thọt dái, ngu nhƣ chó, sợ vãi đái, bể cứt, mẹ cha mày, bỏ mẹ,
bóp vú,…Bất cứ nhân vật nào trong tác phẩm Nguyễn Huy Thiệp lúc cần cũng
có thể văng tục, từ một bà già nông thôn đến một ông vua vị tướng, từ những
kẻ trí thức có học đến những người bình dân ít học, từ những con người thực
trong lịch sử đến con người trong huyền thoại.
Qua thống kê từ ngữ qua lời thoại nhân vật của Chu Lai với thống kê sơ
bộ từ ngữ lời thoại nhân vật trong tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp, có thể
thấy những nét khá tương đồng: các nhân vật dùng nhiều từ ngữ như lời nói
thường, có tính thông tục, đậm chất khẩu ngữ. Ở đây, sự so sánh không phải
để đề cao hay phủ nhận ai, mỗi nhà văn có một phương thức sáng tạo riêng
của mình và chính những sáng tạo riêng ấy đã tạo nên phong cách ngôn ngữ
có nhiều dấu ấn mới của các tác phẩm văn học trong thời kỳ đương đại.
Ngôn ngữ nhân vật trong tiểu thuyết Chu Lai cũng sử dụng những từ
tục để chửi, nhưng cái chửi trong tình huống của những người lính gặp lại
nhau sau chiến tranh không phải là lời chửi tục tằn, bất hạnh mà đó là lời chửi
thoải mái của những tâm hồn người lính chân thật, phóng khoáng không câu
nệ lễ nghi. Ở họ dường như yếu tố tục trong lời chửi mất đi sự cay nghiệt,
căm hận mà chỉ còn lại tiếng cười sảng khoái, nhẹ nhàng đùa vui mà thôi.
Nhưng từ ngữ trong lời thoại nhân vật của nhà văn Nguyễn Khải thì lại
có điểm khác. Ngôn ngữ nhân vật tiểu thuyết Nguyễn Khải là sự kết hợp
nhuần nhuyễn các sắc điệu trong tác phẩm, khi hoài nghi, khi đùa vui, khi
chua chát đắng cay, lúc hùng hồn, khúc chiết, lúc luận chiến căng thẳng, khi
trôi theo dòng ý thức thâm trầm khiến nhân vật hiện lên cũng uyển chuyển,
duyên dáng, cái duyên dáng tự nhiên như cuộc đời với những mặt tốt đẹp vốn
là như vậy. Các nhân vật Nguyễn Khải gắn với những vấn đề chính trị xã hội
130
lớn lao của đất nước, hình tượng ngôn ngữ nhân vật thể hiện sự kiếm tìm, trăn
trở về đạo đức, khát vọng cao cả, vẻ đẹp nhân cách, tâm hồn con người trong
cuộc đời. Phông nền xuất hiện các nhân vật là cuộc sống mới đang được xây
dựng trên mảnh đất vừa trải qua chiến tranh.
Cùng xuất hiện hình ảnh nhân vật người lính như tác phẩm của nhà văn
Chu Lai, ở sáng tác của Nguyễn Khải là những người lính một thời xông pha
lửa đạn, nay trở về cuộc đời bình thường, làm nghĩa vụ một công dân họ vẫn
thể hiện những phẩm chất tốt đẹp của người chiến sĩ, sống giản dị, khiêm
nhường, cũng phải vật lộn với thử thách để đứng vững trên đôi chân của mình.
Ông Hai trong truyện Sƣ già chùa Thắm hội tụ những phẩm chất đẹp đẽ giàu
đức hi sinh, coi trọng nghĩa tình, không ham danh vọng, quyền lực và cũng
biết hòa nhập nhanh chóng với cuộc sống đời thường. Từ một sĩ quan quân
đội đang sống trong sự ưu đãi, ông đã tự nguyện xin nghỉ hưu, bỏ lại tất cả
mọi thứ ở đằng sau để trở về sống với những người ruột thịt, lặng lẽ sống như
bao người dân bình thường khác. Về cơ bản, những người lính xuất hiện trong
tác phẩm Nguyễn Khải có cuộc sống thanh đạm nhưng không mất đi chất lính.
Lớp từ ngữ sử dụng trong ngôn ngữ nhân vật thường sử dụng ngôn ngữ trải
nghiệm, xót xa, suy ngẫm. Lời kể của nhân vật thường dài, lời thoại thường
ngắn và bộc lộ cá tính. Ngôn ngữ các nhân vật thường chứa đựng sự thông
minh, hiểu biết rộng.
Sự đa dạng của loại hình nhân vật trong sáng tác Nguyễn Khải vừa
thể hiện sự thống nhất, vừa thể hiện sự đổi mới trong quan niệm con
người của ông. Nó vừa sâu sắc, vừa mới mẻ, vừa có sự tiếp nối liên tục,
không đứt đoạn. Nhìn chung, qua so sánh sơ bộ, có thể thấy các lớp từ
ngữ trong ngôn ngữ nhân vật của Nguyễn Khải phù hợp với kiểu nhân vật
của nhà văn, phù hợp với cái “tạng” của tác giả: nhuần nhị, nhẹ nhàng,
suy tư, triết luận, nó có nhiều điểm khác với ngôn ngữ nhân vật trong tác
phẩm của Chu Lai.
131
3.2. Hệ thống quán ngữ trong ngôn ngữ nhân vật của tiểu thuyết
Chu Lai
3.2.1. Vài nét về quán ngữ
Quán ngữ được hiểu là những cụm từ tương đối cố định, được dùng
theo thói quen, có chức năng đưa đẩy, chêm xen trong câu và liên kết các câu,
biểu thị tình thái nhất định của người nói.
Quán ngữ trong tiếng Việt có hai loại. Loại dùng trong nói năng hàng
ngày, mang tính khẩu ngữ, dùng để đưa đẩy, rào đón, chêm xen trong phát
ngôn. Loại này gồm: nói không phải, hỏi khí không phải, ấy là, chuyện thế
này, nhƣ thế là, ấy thế mà, không giấu gì bác, của đáng tội, nói trộm vía,
đƣợc cái đẹp, đƣợc cái xinh, nói bỏ quá cho… Khi ngôn ngữ học văn bản ra
đời, người ta còn nói đến một loại cụm từ có chức năng liên kết các câu, các
đoạn văn trong văn bản, gọi là quán ngữ liên kết, gồm những tổ hợp như: nói
tóm lại, nhƣ đã nói, nhƣ đã biết, từ đó suy ra, thứ nhất là, trƣớc tiên là, một
mặt thì, dĩ nhiên là…
Trong hai loại quán ngữ trên, thì quán ngữ dùng để rào đón, đưa đẩy
là loại thường dùng trong lời nói, mang đậm chất khẩu ngữ, vì vậy mà loại
này cũng thường xuất hiện trong lời thoại nhân vật. Đây cũng là loại chúng
tôi khảo sát để góp phần làm rõ đặc điểm ngôn ngữ nhân vật trong tiểu
thuyết của Chu Lai.
3.2.2. Vai trò của quán ngữ qua các lời thoại nhân vật trong tiểu
thuyết của Chu Lai
3.2.2.1. Quán ngữ dùng để giải thích về một nội dung nào đó mà người
nói cho là người nghe chưa nghe chưa biết hoặc chưa rõ. Loại này gồm các
quán ngữ như: chuyện thế này, ấy là, nhƣ thế là, ấy thế là, không dấu gì bác…
Để giải thích cho người khác hiểu về vấn đề mình đang muốn nói, Bảy
Lẫm đã thẳng thắn nói với Sáu Nguyện:
132
- Sai phạm à? - Ông vội ngắt lời - Tốt! Làm ngƣời ai chả sai phạm.
Thôi, bây giờ thế này - Ông cao giọng như đứng trước hàng quân - Căn cứ
vào yêu cầu nhiệm vụ của đơn vị, căn cứ vào… [XV, tr.202].
Hoặc giải thích trong tình huống:
- Nó đó. Một ngàn hai trăm ngƣời liên doanh hay gọi là làm thuê cho
thằng Korea đó. Thôi bây giờ thế này! - Anh… [XV, tr.209].
- Thế này nhé! - Anh đứng dậy, giọng nói lạnh hơn nhưng đôi mắt thật
buồn - Có thể do nể tôi là bạn chiến đấu… [XV, tr.275].
3.2.2.2. Quán ngữ dùng để đƣa đẩy nhằm tạo sự tin tưởng đồng cảm
với người nói. Loại này do các quán ngữ: nói thật chứ, nói thực lòng nhé,
thực tình thì…
Chẳng hạn, để diễn tả những suy nghĩ thực trong lòng, nhân vật đã sử
dụng quán ngữ:
- Ông Sáu này, tôi nói thực lòng nhé!... [XV, tr.143].
Có khi quán ngữ là một yếu tố đệm, chêm xen để tạo đà cho điều nói
tiếp theo được tiếp nhận chia sẻ. Chẳng hạn, trong một đoạn thoại:
- Mày khác trƣớc nhiều quá!... Khác ngay cả cái cách nhìn vào bạn bè.
Nói thực tình… ngay từ ngày đầu khi nghe mày nói tính gắn cả đời vào cô ấy,
tao đã thấy có điều gì không ổn nhƣng chửng lẽ mọi ngƣời ngãng ra hết, tao
lại cũng làm ngơ, chẳng ngờ… [XIV, tr.122].
- Ngƣời đàn bà giàu có sẵn sàng tài trợ cho anh suốt ấy. Nói thật nhé.
Đàn ông các anh khờ lắm! Liên quan đến chữ nghĩa nghệ thuật càng khờ
[XIV, tr.149].
3.2.2.3. Quán ngữ bày tỏ sự rào đón, lịch sự của chủ thể giao tiếp đối
với người tiếp nhận.
Câu nói của Bình với vợ chồng Thảo, thể hiện sự khiêm tốn đùa vui
của nhân vật:
133
- Không vợ con gì hết - Bình đột ngột đứng dậy, đứng hơi kiễng chân
nhưng chỉ chạm cằm bạn - Hai ngƣời mà còn mở miệng nói đến chuyện ấy
nữa là tôi… báo cảnh sát bắt liền. Ấy là tôi đang bắt chƣớc câu nói của một
nàng… [XIV, tr.22].
Hay trong những đoạn thoại khác:
- Chị bỏ quá cho! Tôi quả thật không phải [XIV, tr.141].
3.2.2.4. Quán ngữ đƣợc dùng để tạo thành yếu tố đệm, đƣa đẩy biểu thị
tình thái
Các quán ngữ mà nhân vật dùng trong lời thoại còn có vai trò chêm
xem vào trong các thông tin chính của câu, tạo cho câu các thông tin bổ sung
như: sự đánh giá, sự dẫn dắt mà người nói muốn hướng tới người nghe:
- Thì ra là thế đấy! Nghe ngƣời ta đồn có một cặp vợ chồng cùng đứa
con nhỏ đang sinh sống ở góc phố, tôi đã thoáng nghĩ đến cậu nhƣng quả thật
không thể… - Hỏi chị bỏ quá… Tôi nghe nói hình nhƣ lâu nay có một đôi vợ
chồng trẻ cùng đứa con đang lẩn quất sinh sống ở đây? [XIV, tr.192].),
- Có lẽ thế, em cũng không để ý lắm… [XI, tr.222].
Các quán ngữ: thì ra là thế đấy, bỏ quá, có lẽ thế đưa lại cho câu nói
của nhân vật tình thái lịch sự và tạo quan hệ cộng tác trong hội thoại.
3.3. Các loại thành ngữ trong ngôn ngữ nhân vật của tiểu thuyết
Chu Lai
3.3.1. Vài nét về thành ngữ tiếng Việt
Thành ngữ vốn là lời ăn tiếng nói hàng ngày đúc kết nên, trở thành
những tổ hợp cố định, có cấu trúc chặt chẽ; chúng thể hiện lối nói hình ảnh
hoặc có tác dụng nhấn mạnh, biểu cảm. Thành ngữ không có tính độc lập
trong lời nói (như tục ngữ) mà là một bộ phận của câu nói, giúp diễn đạt tình
ý của người nói một cách rõ ràng, có ấn tượng. Sử dụng thành ngữ, tục ngữ
trong giao tiếp thường dễ nhớ, dễ hiểu, tránh được sự tối nghĩa và giải thích
dài dòng.
134
Theo khảo sát của chúng tôi, số lượng thành ngữ xuất hiện với tần suất
khá nhiều trong tiểu thuyết Chu Lai. Lời thoại dùng các từ thông tục, quán
ngữ hay thành ngữ trong tác phẩm Chu Lai tùy theo tính cách và hoàn cảnh
của từng nhân vật; riêng trường hợp thành ngữ, nhìn chung, khi xuất hiện đơn
vị này ở lời nhân vật thì tình thái và ý nghĩa cụ thể của lời thoại được bộc lộ
rõ hơn.
Các quán ngữ đưa đẩy cùng với việc các thành ngữ trong nhiều lời
thoại (của đáng tội, cực chẳng đã, chả thế mà, thì đã biết, trơn lông đỏ da,
tham lam chuộng lạ, lừa thày phản bạn…), cho thấy nhà văn Chu Lai có ý
thức để cho nhân vật sử dụng lời ăn tiếng nói trong giao tiếp. Với cách dùng
như vậy, cùng với các loại từ ngữ khác, chúng góp phần tô đậm thêm tính
chất khẩu ngữ của ngôn ngữ nhân vật.
3.3.2. Vai trò của việc sử dụng các thành ngữ qua lời thoại nhân vật
trong tiểu thuyết Chu Lai
Trong câu nói, các từ ngữ tham gia kiến tạo câu để truyền đạt thông
tin có thể có nhiều loại, tùy thuộc vào tư tưởng, tình cảm người nói muốn
thể hiện; trong đó có những câu người ta có thể chen thêm những quán ngữ
hay thành ngữ, tục ngữ. Đó cũng là lẽ thường của giao tiếp. Những yếu tố
này có thể mang thông tin quan trọng trong câu, cũng có khi chúng chỉ cấp
cho câu thông tin phụ, bổ sung cho một sự tình nào đó (như: tình thái, nhấn
mạnh, lịch sự). Vai trò của những yếu tố này trong lời thoại khá là đa dạng,
phụ thuộc vào từng ngữ cảnh cụ thể. Vì vậy, xác định vai trò của việc sử
dụng các thành ngữ (cũng như các nhóm từ khác đã nêu ở các mục trên) qua
lời thoại trong tiểu thuyết Chu Lai là việc cần thiết nhưng thật khó để phân
loại, chỉ tên vai trò đó của tất cả các từ một cách minh bạch, rach ròi. Sau
đây chúng tôi nêu một số vai trò thường gặp nhất của thành ngữ được dùng
trong lời thoại.
135
3.3.2.1. Trước hết, thành ngữ có tác dụng nhấn mạnh nội dung thông
tin trong câu. Trong Ăn mày dĩ vãng, để diễn đạt cuộc sống đầy bi kịch ngày
trở về sau chiến tranh của những người lính, tác giả đã để nhân vật sử dụng
cách nói: tha phƣơng cầu thực, chửi tục nhƣ ranh, tứ chiếng giang hồ, bất đắc
dĩ, ăn tƣơi nuốt sống…và sau đó sự thay đổi chóng mặt của nền kinh tế thị
trường đã khiến thiên hạ nghĩ rằng người lính trở về ấy chỉ biết ăn no vác
nặng chứ không làm được gì cả. Hai Hùng đã chứng minh cho mọi người
thấy rằng, những người lính trở về ấy không phải như vậy, mà thực chất, họ
ngày trước thế nào, bây giờ thế ấy; họ là những huynh đệ chi binh chia lửa
cùng nhau, chiến hữu bang giao chí cốt cùng liên kết lại như tình đồng đội
năm xưa để đánh thù trong giặc ngoài. Chỉ khác là bây giờ trong thời bình,
đối tượng mà họ hướng đến để tiến công là lũ sâu mọt hại dân hại nước, là
những tham quan ăn hối lộ trắng trợn mà thôi.
Để chỉ thói xét nét, thức đêm như vạc, mò mẫm hết xó xỉnh này đến xó
xỉnh khác của Ba Thành, Hai Hùng dùng thành ngữ dì ghẻ con chồng để đánh
giá thái độ, tính cách của bạn có ấn tượng hơn. Nhưng người đọc không thấy
sự nặng nề trong lời đánh giá ấy mà chỉ thấy sự thân tình, thoải mái và hài
hước trong đoạn thoại:
- Cƣời cái gì vậy, khọm già. Từ cái võng bên cạnh, Ba Thành ngóc đầu
lên hỏi. - Ngủ đi! Lấy vợ đi!... xét nét nhƣ dì ghẻ con chồng ấy à? [XIII, tr.114].
Để nói với Nguyên về việc chuyển về nơi làm việc mới, ông Bảy đã
dùng tục ngữ “nhập gia tùy tục” để hướng dẫn anh cách thích ứng:
- Nhập gia tùy tục, ở đâu theo đó chứ. Họp hành, khai hội tối ngày,
đâu có ăn mặc xập xệ thế nào cũng xong nhƣ trƣớc đƣợc, mày! [XVI, tr.271].
Khi nói về sự phản bội, chối bỏ quá khứ của Ba Sương nhân vật được
nhà văn miêu tả là tự mình biến thành một con người khác đầy hãnh tiến và
giả dối, Quân đã dùng nhận xét về Ba Sương:
- Về đời tƣ thì nghe nói gần đây - Có vẻ thỏa mãn thấy thái độ của tôi,
136
nó làu bàu nói tiếp - Cũng chỉ nghe nói thôi heng! Bà ta bắt đầu sanh tật cưa
sừng làm nghé. Tức là cặp bồ toàn loại trai trẻ, vâm con, vừa phục vụ công
việc vừa đáp ứng sinh lý luôn. Hồi xuân mà [XIII, tr.165].
Có thể nói, chỉ bằng thành ngữ cƣa sừng làm nghé nhân vật đã nói
được một cách ngắn gọn nhưng có ấn tượng về sự thay đổi của người đàn bà
có cái tên Ba Sương này.
Cách nói của Năm Thành trong đêm gặp lại đồng đội cũ sau chiến tranh
khi dùng câu thành ngữ đệm vào đã làm cho nghĩa của câu có phần ngắn gọn,
súc tích hẳn; nó hỗ trợ được rất nhiều cho suy nghĩ, quan niệm của nhân vật
từng là người lính trở về hội nhập trong cuộc sống mới:
- Bù, bù cái con khẹc! Ngày ấy còn lý tƣởng, còn khát vọng, nó xua đi
cái ham hố vặt vãnh. Bây giờ còn cái chó gì nữa mà phải giữ mình. Vả lại…
đàn bà, dính vào mất việc. Sòng phẳng, ăn bánh trả tiền, đúng cơ chế thị
trƣờng, thế là xong [XIII, tr.115].
Những người lính, giữa hai trận càn của địch, trong khung cảnh cánh
rừng thời chiến âm u mùi khói súng và mùi đạn bom chết chóc, họ vẫn nhộn,
so sánh, ví von ngộ nghĩnh:
- Tiếc quá! Mày lại có vợ rồi, nếu chƣa, tao xin hứa nếu còn sống trở
về, nhất định tao sẽ gả em gái cho. Em gái tao xinh nhất làng đó. - Nó nói dóc
đấy! Làm đếch gì có em gái, nó chỉ có bà chị sứt môi lồi rốn bán thịt chó
sống ở đầu chợ thôi [XIII, tr.93].
Qua các dẫn chứng trên, có thể thấy các thành ngữ tục ngữ ở trong câu
đã tạo nên một điểm nhấn nhất định (về ý nghĩa, sắc thái) vào trong nội dung
thông báo của câu, bên cạnh thành ngữ, tục ngữ thường có phần thông tin đi
kèm giải thích thêm cho chúng.
3.3.2.2. Thành ngữ có tác dụng bổ sung nội dung thông tin trong câu
Trong Vòng tròn bội bạc nhân vật nói với nhau những điều rất đời
thường thực dụng, pha lẫn chất triết lý nhờ việc dùng thành ngữ (và tục ngữ):
137
- Mèo chê mỡ, chuyện ngƣợc đời đấy. Nói đùa mày chỉ cần đi với tao
vài chuyến là ngƣời ngợm nhẹ nhõm lại ngay. - Xét đến cùng thời nào cũng
vậy - Khâm vẫn nói theo ý mình - Ngƣời ta thƣờng nói “ác giả ác báo”, “ở
hiền gặp lành” nhƣng rút cục cái ác bao giờ cũng lấn át và ngự trị lên cái
thiện… [XI, tr.157].
Những câu có thành ngữ được sử dụng trong lời thoại tưởng chừng như
ít liên quan, hoặc chỉ là phần đệm vào nhưng đó lại là những yếu tố góp phần
chuyển tải thông tin bổ sung cần thiết cho câu nói. Thông qua cách dùng các
đơn vị cố định chêm xen vào câu như thế, nhà văn để cho nhân vật bộc lộ cái
nhìn về cuộc sống xã hội muôn màu muôn vẻ mà mặt trái của nó khiến cho
những con người sống vì lẽ phải kia phải lên tiếng đấu tranh.
Nhân vật ông bí thư huyện ủy trong Vòng tròn bội bạc là kiểu người có
cách ăn nói leo lẻo mà không có sự chân thực. Đây cũng là mẫu nhân vật tha
hóa mà tiểu thuyết Chu Lai đề cập đến như một hiện tượng đang nổi lên trong
xã hội theo nền kinh tế thị trường:
- Chết thôi! Biết các đồng chí đến hai hôm nay… - Ba hôm! - Khâm
nhắc. - Vâng, ba hôm. Nhƣng quả thực bận quá. Các đồng chí còn lạ gì cái
anh bí thƣ cấp huyện đầu chày đít thớt không việc gì là không dính đến, bận
như con mọn. Tôi cũng vừa ở thằng Hồng Dân về, chà, dƣới ấy linh tinh lắm.
Đúng là cán bộ ta không theo kịp đƣợc tình hình mới, cứ ỳ than cục ra, chết
mất thôi! Mà tôi thì… [XI, tr.161].
Nhân vật này nói những lời hay ho, dùng các thành ngữ để nói vẻ
khiêm tốn, tận tụy, nhưng thực chất chỉ biết a dua theo quyền lực và đồng tiền,
bị suy thoái về bản chất và nhân cách, trở thành nô lệ cho Hòe - một kẻ biến
chất và thâm độc chi phối tất cả theo ý hắn.
Cũng là giọng điệu như ông bí thư huyện ủy, nhưng ở nhân vật
Quách - tay thư ký tổng biên tập - nơi Linh làm việc, lại thâm hiểm hơn sau
138
vẻ mặt cười cợt giả nhân giả nghĩa. Ở hắn không chỉ là giọng nói nhạt nhẽo
xuôi chiều cho qua chuyện mà đã chuyển sang nấc bậc cao hơn của sự
nham hiểm:
- Khoan đã - Ông Quách vội giữ tay Linh lại, cƣời nhạt. Nên biết thân
phận một chút ông bạn trẻ ạ! Cũng đã có một thời tôi hăng máu nhƣ ông và
để bây giờ… tôi vẫn còn ra thế này đây. Đời đen bạc lắm… [XI, tr.266].
Nƣớc đời đen bạc là một câu tục ngữ nói về nhân tình thế thái, khi nhà
văn đưa vào trong lời nhân vật Quách lại tạo thành thông tin hàm ngôn, nó
vừa là câu nói lấp lửng (nói chung về sự đời), nhưng có vẻ như là có ý dọa
dẫm đến đối tượng giao tiếp, rằng hắn sẵn sàng hại anh nếu anh đụng chạm
đến “ đời đen bạc” của hắn.
3.3.2.3. Thành ngữ, tục ngữ không chỉ bổ sung thông tin cho câu mà
còn bộc lộ ý nghĩa tính thái trong lời thoại của nhân vật. Sau đây là một vài
trường hợp tiêu biểu. Trong Gió không thổi từ biển, tâm trạng Hoàng Xanh
đầy thảng thốt và hoang mang khi hắn nhận ra cuộc đời một thằng phản bội
như hắn sẽ có kết thúc bi đát như thế nào. Trong cơn hoảng loạn, hắn rẽ vào
nhà cô nhân tình chủ nhân tiệm Kim Hoàn, khi biết rõ thái độ của cô này hắn
đã không úp mở gì bộc lộ thái độ:
- Và bây giờ - Hắn cười cay đắng - khi cô trơn lông đỏ da, cô lại chán
tôi nhƣ những thằng đàn ông sạch bong đã qua tay cô ngày trƣớc. Khốn nạn!
Hóa ra tôi chỉ là phƣơng tiện làm thỏa mãn cái tham lam chuộng lạ của cô?
Thái độ của cô này đối với hắn là chửi thẳng vào mặt hắn: Thôi đi! - ả tái mét
mặt vì giận. Ông đi ra khỏi cửa nhà tôi ngay. Đây không chứa cái đồ mật vụ,
tráo trở lừa thày phản bạn ấy. Mời ông! [X, tr.111].
Lời đối đáp giữa hai nhân vật với thành ngữ (trơn lông đỏ da) và tục
ngữ (lừa thày phản bạn) đã bộc lộ thái độ và qua đó là quan hệ của các nhân
vật đối với nhau như thế nào.
139
Trong Cuộc đời dài lắm, một cán bộ nông trường nói về giám đốc mới:
Cùng lắm, hắn cũng chỉ có một đầu và tứ chi. Có thú dữ chăng nữa, chắc
cũng không khá hơn thằng giám đốc ăn tục nói phét, quát khẽ một tiếng đã
hồn xiêu phách lạc (tr.27). Các thành ngữ đã góp phần tô đậm tình thái của
người nói và bản chất của nhân vật.
Trước sự luận tội của đồng đội cũ, Huấn (trong Vòng tròn bội bạc)
đã nói:
- Bằng chứng đâu? Thử cho xin bằng chứng. Lời nói theo gió bay đi…
Ai đi tin vào một câu nói vu vơ đã cách đây cả chục năm. Hở! Đúng đấy! Cứ
tung bằng chứng ra là thằng này đầu hàng liền [XI, tr.344].
Ý nghĩa của câu tục ngữ “Lời nói gió bay” với hàm ý lời nói đã qua thì
không có gì để chứng minh, không đủ chứng cớ; đặt trong ngữ cảnh này nhân
vật có thái độ thách thức người bạn buộc tội mình (nếu không có bằng chứng
thì lời nói suông thôi sẽ chẳng có giá trị gì). Qua đó cũng thấy được bản chất
Các thành ngữ trong nhiều lời thoại (chuyện thế này, nhƣ thế là, ấy
con người Huấn là thực dụng và tráo trở.
thế là, không dấu gì bác; bỏ quá cho, quả thật, chả mấy khi, của đáng tội, cực
chẳng đã, chả thế mà, thì đã biết, trơn lông đỏ da, tham lam chuộng lạ, lừa
thày phản bạn…), cho thấy nhà văn Chu Lai có ý thức để cho nhân vật sử
dụng lời ăn tiếng nói trong giao tiếp. Với cách dùng như vậy, cùng với các
loại từ ngữ khác, chúng góp phần tô đậm thêm tính chất khẩu ngữ của ngôn
ngữ nhân vật. Có thể thấy tục ngữ là những lời răn dạy có tính chất giáo huấn
người đời, thành ngữ là cách nói tạo hình ảnh. Đó là nói chung về ý nghĩa và
vai trò của chúng, còn khi ở trong ngữ cảnh, chúng mới “phát huy, hiện thực
hóa” cái tiềm năng của mỗi đơn vị. Cái ý nghĩa “tích cực hoặc tiêu cực” của
thành ngữ và tục ngữ là tùy thuộc vào người sử dụng chúng, vào ngữ cảnh mà
chúng hành chức trong đó.
140
3.4. Tiểu kết
Qua phân tích, có thể thấy, ấn tượng sâu sắc nhất trong ngôn ngữ nhân
vật của Chu Lai là hệ thống từ ngữ thông tục xuất hiện với tần số khá cao,
gồm các từ tục, các từ ngữ chửi rủa. Thái độ của nhân vật giao tiếp là bày tỏ
sự giận dữ, bất bình; từ tục, lời chửi cũng có thể xuất hiện trong lời thoại giữa
các nhân vật là đồng đội, bạn bè, nhưng không có ý coi thường mà là mang
tính chất suồng sã, có khi hơi dung tục. Với lớp từ ngữ thông tục này, tính
cách nhân vật, nhất là nhân vật người lính hiện lên trên từng trang viết như từ
cuộc sống; lời thoại nhân vật không có khoảng cách so với lời nói thường.
Chúng phần nào thể hiện được tính cách nhân vật: không né tránh điều gì
trong cuộc sống, thái độ yêu ghét rõ ràng, trân trọng cái tốt đẹp, coi khinh, tỏ
rõ thái độ đến bạo liệt nghiệt ngã với cái xấu...
Lớp từ ngữ khác, như: quán ngữ, các thành ngữ không có tỉ lệ dùng phổ
biến như các lớp từ xưng hô và thông tục nhưng mỗi khi dùng trong lời thoại,
các từ ngữ này có thể không mang thông tin chính nhưng đem lại cho thông
tin của câu nói các giá trị khác, như: nhấn mạnh hay bổ sung thêm một tình ý
nào đó, tạo một điểm nhấn nhất định về tình thái, về hình ảnh (thành ngữ)
hoặc có ý rào đón, đưa đẩy, làm cho lời nói lịch sự, dễ được tiếp nhận (quán
ngữ). Ngôn ngữ nhân vật trong tác phẩm của nhà văn cũng thấm đẫm chất suy
tưởng, triết lý…
141
KẾT LUẬN
Từ góc độ giao tiếp, trên cơ sở của lý thuyết ngữ dụng học, lấy từ làm
đơn vị khảo sát, đối tượng là ngôn ngữ nhân vật, luận án tập trung làm rõ đặc
điểm đặc điểm ngôn ngữ nhân vật thể hiện trong tiểu thuyết của nhà văn Chu
Lai. Sau đây là một số kết luận chính:
1. Với hệ thống nhân vật đông đảo và phong phú, Chu Lai đã làm bật
nổi đặc trƣng ngôn ngữ nhân vật thông qua việc dùng một hệ thống từ ngữ
mang đậm phong cách khẩu ngữ, khắc họa rõ đặc điểm và tính cách nhân
vật, tạo ấn tƣợng đặc sắc. Qua thống kê, phân loại các lớp từ ngữ trong 10
cuốn tiểu thuyết của Chu Lai, luận án có cơ sở để xác định:
Hệ thống từ xưng hô trong giao tiếp giữa các nhân vật xuất hiện với số
lượng lớn và có tần số sử dụng cao. Qua từ xưng hô, có thể thấy khá rõ nhân
thân của các nhân vật, bao gồm: giới tính, thành phần xuất thân, tuổi tác, nghề
nghiệp, chức vụ và các thông tin khác. Nhân vật người lính trong tác phẩm có
cách xưng hô rất bộc trực, tự nhiên đúng như tính cách của họ, dù ở nơi chiến
hào ác liệt (trong thời chiến) hay trong công trường, nông trường, cuộc sống
thường nhật (khi hoà bình);
Điểm nổi bật trong ngôn ngữ nhân vật của Chu Lai là hệ thống từ ngữ
thông tục xuất hiện với tần số khá cao, gồm các từ tục, các từ chửi, lời chửi
rủa. Chúng làm cho lời thoại nhân vật không có khoảng cách so với lời nói
thường; qua đó bộc lộ hàm ý của nhà văn: thể hiện được tính cách nhân vật,
không né tránh điều gì trong cuộc sống, thái độ yêu ghét rõ ràng, trân trọng
cái tốt đẹp, coi khinh, tỏ rõ thái độ đến bạo liệt nghiệt ngã với cái xấu...
Lớp từ ngữ khác, như: quán ngữ, thành ngữ dù không có tỉ lệ dùng
phổ biến như các lớp từ xưng hô và thông tục nhưng mỗi khi dùng trong lời
thoại, các từ ngữ này có thể không mang thông tin chính nhưng đem lại cho
thông tin của câu nói các giá trị khác, như: nhấn mạnh hay bổ sung thêm một
142
tình ý nào đó, tạo một điểm nhấn nhất định về tình thái, về hình ảnh (thành
ngữ) hoặc có ý rào đón, đưa đẩy, làm cho lời nói lịch sự, dễ được tiếp nhận
(quán ngữ).
2. Hệ thống nhân vật trong tiểu thuyết Chu Lai rất đa dạng, nhiều kiểu
nhân vật. Tuy phong phú và đa dạng như vậy nhưng nhà văn có ý thức xây
dựng đặc điểm từng kiểu nhân vật theo những “lớp lang” nhất định. Cùng với
những đặc điểm phổ quát chung cho các nhân vật trong tác phẩm, ngôn ngữ
nhân vật có sự tƣơng hợp với kiểu nhân vật; mỗi kiểu nhân vật thể hiện tính
cách, đặc trưng qua hệ thống từ ngữ trong lời thoại của các nhân vật đó. Nhân
vật người lính thiên về dùng các từ đậm chất khẩu ngữ, tự nhiên, bộc trực,
thẳng thắn; nhân vật người dân thiên về dùng những từ xưng hô, từ tình thái
thể hiện rõ tình cảm chân tình, mộc mạc; nhân vật trí thức thiên về dùng
những từ xưng hô, từ tình thái và đặc biệt các từ có tính thuật ngữ mang đậm
chất triết lý, chiêm nghiệm cuộc sống.
3. Khảo sát từ ngữ trong tác phẩm của Chu Lai, đặc biệt từ xưng hô,
từ thông tục, quán ngữ và thành ngữ trong ngôn ngữ nhân vật, ta có thể phần
nào thấy được tƣ tƣởng và phong cách ngôn ngữ của nhà văn. Ngôn ngữ
nhân vật trong tiểu thuyết Chu Lai có sự tinh giản về câu chữ, lời thoại nhìn
chung thường ngắn, dồn nén ý tưởng, khêu gợi trí tưởng tượng của độc giả;
các từ ngữ nhân vật có xu hướng đan xen giữa từ khẩu ngữ và từ sách vở.
Chúng làm thành những điểm nổi bật: một mặt, ngôn ngữ nhân vật vừa trần
trụi dân dã, thẳng thắn, bộc trực; mặt khác, ngôn ngữ nhân vật, thể hiện qua
từ và các thông số khác của nhân vật, cũng rất giàu sắc thái biểu cảm, sắc
sảo, đầy chất trí tuệ.
4. Với những phân tích trên, có thể thấy nhà văn Chu Lai đã tạo nên
phong cách ngôn ngữ nhân vật đặc sắc, trong đó có việc làm giàu có thêm,
đa diện hơn ngôn ngữ tiểu thuyết. Ngôn ngữ nhân vật, cùng với ngôn ngữ
143
tác giả, đã liên kết với nhau tạo thành chỉnh thể của tác phẩm. Nhà văn đã
nâng tầm đối thoại trong tiểu thuyết thành tiêu điểm của thông tin, thành tín
hiệu thẩm mỹ. Ông đã thành công trong việc “mượn lời” nhân vật để chuyển
tải một cách tự nhiên tư tưởng, chủ đề của tác phẩm, tạo nên những ấn tượng
khó phai mờ, đọng lại những dư ba trong lòng người đọc, tạo phong cách
riêng (khác phong cách ngôn ngữ nhân vật các nhà văn cùng thời như Bảo
Ninh, Nguyễn Khải, Nguyễn Huy Thiệp…). Và như vậy, nhà văn có những
đóng góp đặc sắc vào ngôn ngữ nghệ thuật, đóng góp vào việc đổi mới nền
văn xuôi Việt Nam hiện đại.
Đề tài đặc điểm ngôn ngữ nhân vật trong tiểu thuyết Chu Lai còn nhiều
vấn đề đặt ra từ góc độ ngôn ngữ học nói chung, từ dụng học nói riêng, chẳng
hạn như: tổ chức lời thoại, ngữ nghĩa lời thoại, lập luận, mối quan hệ giữa
ngôn ngữ nhân vật và ngôn ngữ tác giả, v.v... Với khả năng có hạn, trong
khuôn khổ của luận án, chúng tôi lựa chọn phạm vi khảo sát ở bình diện từ
ngữ nhưng chúng tôi ý thức rằng, ngay phạm vi của đề tài cũng còn nhiều
khía cạnh chưa giải quyết thấu đáo được, kết quả ở đây thực sự mới chỉ giai
đoạn bước đầu.
144
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CÔNG BỐ
CÓ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
1. Nguyễn Thị Thái (2009), “Nhân vật được xây dựng theo mô típ “Người
hùng - Mỹ nhân” trong tiểu thuyết của Chu Lai”, Tạp chí Khoa học,
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, Tr. 64 - 72.
2. Nguyễn Thị Thái (2009), “Đặc điểm ngôn ngữ nhân vật trong tiểu thuyết
Chu Lai”, Tạp chí Khoa học, Trường Đại học Thái Nguyên, Tr. 92 - 96.
3. Nguyễn Thị Thái (2010), “Khảo sát đặc điểm ngôn ngữ lời dẫn thoại
trong tiểu thuyết của Chu Lai”, Tạp chí Khoa học, Trường Đại học Vinh,
Tr. 47 - 54.
4. Nguyễn Thị Thái (2013), “Một số đặc điểm ngôn ngữ người kể chuyện
trong tiểu thuyết Chu Lai”, Hội thảo khoa học quốc tế “Ngôn ngữ học
Việt Nam trong bối cảnh đổi mới và hội nhập”, Hà Nội, Tr. 173.
5. Nguyễn Thị Thái (2014), “Đặc điểm và vai trò của từ ngữ thông tục qua
lời thoại nhân vật trong tiểu thuyết của nhà văn Chu Lai”, số tháng 5/2014,
Tạp chí Ngôn ngữ và đời sống, Hà Nội, Tr.52 - 58.
6. Nguyễn Thị Thái (2014), “Số phận những người lính bị tha hóa sau chiến
tranh trong tiểu thuyết Chu Lai”, Hội thảo khoa học toàn quốc “Phát triển
văn học Việt Nam trong bối cảnh đổi mới và hội nhập”, Hà Nội, Tr. 65.
7. Nguyễn Thị Thái (2014), “Những biểu tượng trùng phức trong tiểu thuyết
viết về chiến tranh của Chu Lai”, Tạp chí Khoa học, Trường Đại học Vinh,
Tr. 73 - 80.
8. Nguyễn Thị Thái (2014), “Cách sử dụng đại từ nhân xưng trong tiểu
thuyết của Chu Lai”, số tháng 10/2014, Tạp chí Ngôn ngữ và đời sống, Hà
Nội, Tr.54 - 58.
145
TÀI LIỆU THAM KHẢO
I. PHẦN TIẾNG VIỆT
1. Lại Nguyên Ân (1999), 150 thuật ngữ văn học, Nxb Đại học Quốc gia,
Hà Nội.
2. M. Bakhtin (1993), Những vấn đề thi pháp Đôxtôiepxki, Nxb Giáo dục,
Hà Nội.
3. M. Bakhtin (2003), Lí luận và thi pháp tiểu thuyết, Phạm Vĩnh Cư tuyển
dịch và giới thiệu, Nxb Hội Nhà văn.
4. Ch. Bally (1972), Tu từ học tiếng Pháp, bản dịch tiếng Việt của trường
Đại học Sư phạm Vinh.
5. Diệp Quang Ban (cb), Hoàng Văn Thung (1996), Ngữ pháp tiếng Việt,
(Tập 1 & 2), Nxb Giáo dục, Hà Nội.
6. Diệp Quang Ban (1998), Văn bản và liên kết văn bản trong tiếng Việt,
Nxb Giáo dục, Hà Nội.
7. Lê Biên (1993), Từ loại tiếng Việt hiện đại, Trường Đại học Sư phạm,
Hà Nội.
8. Võ Bình, Lê Anh Hiền, Cù Đình Tú, Nguyễn Thái Hòa (1982), Phong
cách học tiếng Việt, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
9. Ngô Vĩnh Bình (2003), “Để có thêm những tác phẩm viết về quá khứ
hào hùng của dân tộc”, Tạp chí Văn nghệ Quân đội (số 4).
10. Nguyễn Thị Bình (1996), “Những đổi mới của văn xuôi nghệ thuật Việt
Nam sau 1975”, Luận án tiến sĩ, Hà Nội.
11. Brown và Yule (2002), Phân tích diễn ngôn (Trần Thuật dịch), Nxb Đại
học Quốc gia, Hà Nội.
12. R.A.Buragov, Tính thẩm mĩ của ngôn ngữ, Tài liệu đánh máy, Thư viện
trường Đại học Vinh.
146
13. Nguyễn Phan Cảnh (2000), Ngôn ngữ thơ, Nxb Văn hóa thông tin.
14. Phan Mậu Cảnh (1996), Các phát ngôn đơn phần tiếng Việt, Luận án
Phó tiến sĩ Ngữ Văn, Bộ GD & ĐT, Đại học Quốc gia, Hà Nội.
15. Phan Mậu Cảnh (2008), Lý thuyết và thực hành văn bản tiếng Việt, Nxb
ĐHQG, Hà Nội.
16. Nguyễn Tài Cẩn (1999), Ngữ pháp tiếng Việt, Nxb Đại học Quốc gia,
Hà Nội.
17. Chafe. W. L (1998), Ý nghĩa và cấu trúc của ngôn ngữ, Nxb Giáo dục,
Hà Nội.
18. Đỗ Hữu Châu (1987), Cơ sở ngữ nghĩa học từ vựng, Nxb Đại học và
Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội.
19. Đỗ Hữu Châu (1992), “Ngữ pháp chức năng dưới ánh sáng của dụng
học hiện nay”, Ngôn ngữ (số 1).
20. Đỗ Hữu Châu, Bùi Minh Toán (1996), Đại cƣơng Ngôn ngữ học, tập 2,
Nxb Giáo dục, Hà Nội.
21. Đỗ Hữu Châu (1999), Các bình diện từ và từ tiếng Việt, Nxb Đại học
Quốc gia, Hà Nội.
22. Đỗ Hữu Châu (1999), Từ vựng - ngữ nghĩa tiếng Việt, Nxb Giáo dục, Hà
Nội.
23. Đỗ Hữu Châu (2003), Cơ sở ngữ dụng học, tập 1, Nxb Đại học Sư phạm,
Hà Nội.
24. Đỗ Hữu Châu (2003), Giản yếu về ngữ dụng học, Nxb Đại học Sư phạm,
Hà Nội.
25. Hoàng Thị Châu (1989), Tiếng Việt trên các miền đất nƣớc, Nxb Khoa
học Xã hội, Hà Nội.
26. Nguyễn Minh Châu (1979), “Các nhà văn quân đội và đề tài chiến
tranh”, Báo Nhân dân ra ngày 08/02.
147
27. Lê Thị Sao Chi (2010), Khảo sát lời độc thoại nội tâm nhân vật trong
truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Thị Thu Huệ, Nguyễn Minh
Châu, Luận án Tiến sĩ Ngữ văn, Trường Đại học Vinh.
28. Nguyễn Văn Chiến (1993), “Từ xưng hô trong tiếng Việt”, Việt Nam
những vấn đề ngôn ngữ và văn hóa, Hội Ngôn ngữ học Việt Nam,
Trường Đại học Ngoại ngữ, Hà Nội.
29. Mai Ngọc Chừ, Vũ Đức Nghiệu, Hoàng Trọng Phiến (1992), Cơ sở
ngôn ngữ học và tiếng Việt, Nxb Đại học và Giáo dục chuyên nghiệp,
Hà Nội.
30. Nguyễn Đức Dân (1987), Lôgic - ngữ nghĩa - cú pháp, Nxb Đại học và
Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội.
31. Nguyễn Đức Dân (1998), Lôgic và tiếng Việt, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
32. Nguyễn Đức Dân (2000), Ngữ dụng học (tập 1), Nxb Giáo dục, Hà Nội.
33. Hồng Diệu (1991), “Vấn đề của tiểu thuyết “Vòng tròn bội bạc”, Tạp chí
Văn nghệ Quân đội (số 05).
34. Hồng Diệu (1994), “Chiến tranh và người lính qua một số truyện ngắn”,
Tạp chí Tác phẩm mới (số 16).
35. Trương Thị Diễm (2002), Từ xƣng hô có nguồn gốc thân tộc trong giao
tiếp tiếng Việt, Luận án Tiến sĩ Ngữ Văn, Trường Đại học Vinh.
36. Trương Đăng Dung (2003), Tác phẩm văn học nhƣ là quá trình, Nxb
Khoa học Xã hội.
37. Đinh Xuân Dũng (1995), “Văn học Việt Nam về chiến tranh - Hai giai
đoạn của sự phát triển”, Tạp chí Văn nghệ Quân đội (số 07).
38. Đặng Anh Đào (1994), Tài năng và ngƣời thƣởng thức, Nxb Hội Nhà
văn, Hà Nội.
39. Phạm Quang Đẩu (2003), “Chờ đợi và hy vọng”, Văn nghệ Quân đội
(số 610).
148
40. Trần Bạch Đằng (1991), “Văn học Việt Nam và vấn đề con người trong
chiến tranh”, Tạp chí Văn nghệ quân đội (số 07).
41. Phan Cự Đệ (2001), “Tiểu thuyết Việt Nam những năm đầu thời kỳ đổi
mới”, Tạp chí Văn nghệ quân đội (số 03).
42. Biện Minh Điền (2004), “Vấn đề tác giả và loại hình tác giả trong văn
học trung đại Việt Nam”, in trong sách Những vấn đề văn học và Ngôn
ngữ học, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.
43. Hà Minh Đức (chủ biên), (1997), Lý luận văn học, Nxb Giáo dục.
44. Đinh Văn Đức (1986), Ngữ pháp tiếng Việt - từ loại, Nxb Đại học Quốc
gia, Hà Nội.
45. Nguyễn Hương Giang (2001), “Người lính sau hoà bình trong tiểu thuyết
chiến tranh thời kỳ đổi mới”, Tạp chí Văn nghệ Quân đội (số 04).
46. Lê Xuân Giang (1987), “Ý nghĩ nhỏ của truyện ngắn về đề tài chiến
tranh”, Tạp chí Văn nghệ Quân đội (số 05).
47. Nguyễn Thiện Giáp (1999), Phân tích hội thoại, Viện Thông tin khoa
học xã hội, Hà Nội.
48. Nguyễn Thiện Giáp (1999), Ngữ cảnh và giao tiếp, Viện Thông tin khoa
học xã hội, Hà Nội.
49. Nam Hà (1992), “Sự thật chiến tranh và những tác phẩm văn học viết về
chiến tranh”, Tạp chí Văn nghệ Quân đội (số 07).
50. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (1999), Từ điển thuật ngữ
văn học, Nxb Giáo dục.
51. Hoàng Văn Hành (1982), “Về cấu trúc ngữ nghĩa của tính từ tiếng Việt”
(trong sự so sánh với tiếng Nga), Ngôn ngữ (số 3).
52. Cao Xuân Hạo (1991), Tiếng Việt - sơ thảo ngữ pháp chức năng, Nxb
Khoa học Xã hội, Hà Nội.
53. Nguyễn Hoa (2002), “Về tiểu thuyết "Cuộc đời dài lắm" của nhà văn
Chu Lai”, Tạp chí Văn nghệ Quân đội (số 03).
149
54. Nguyễn Hòa (2003), Phân tích diễn ngôn: Một số vấn đề lý luận và
phƣơng pháp, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.
55. Nguyễn Chí Hòa (1997), “Một vài nhận xét bước đầu về cấu trúc đoạn
thoại tiếng Việt hiện đại”, Ngữ học trẻ, Hà Nội.
56. Nguyễn Hoà, (1989), “Suy nghĩ về vấn đề con người trong văn học viết
về chiến tranh”, Báo Văn nghệ số 51.
57. Nguyễn Thái Hòa (1997), Dẫn luận phong cách học, Nxb Giáo dục.
58. Nguyễn Thái Hòa (2000), Những vấn đề thi pháp của truyện, Nxb
Giáo dục.
59. Hoàng Ngọc Hiến (1991), “Những nghịch lý chiến tranh”, Báo Văn nghệ
(số 15).
60. Đỗ Đức Hiểu (2000), Thi pháp hiện đại, Nxb Hội Nhà văn.
61. Ngô Hoàng (1990), “Hội thảo về hiện thực chiến tranh và người lính
trong văn xuôi gần đây”, Báo Văn nghệ (số 4).
62. Nguyễn Thị Huệ (1997), “Dấu hiệu đổi mới văn xuôi của tác giả :
Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Mạnh Tuấn, Nguyễn Khải”, Luận án Tiến
sĩ, ĐHSP Hà Nội.
63. Nguyễn Trí Huân (1994) “Những trang viết về người lính”, Báo Văn
nghệ (số 04).
64. Nguyễn Thanh Hùng (2004), “Chiến tranh đi qua, tình người ở lại”, Văn
nghệ Quân đội (số 12).
65. Trần Quốc Huấn (2005), “Người chiến sĩ viết văn hôm nay, đội ngũ kế
tục những nhà văn chiến sĩ”, Tạp chí Văn nghệ Quân đội (số 12).
66. Trần Bảo Hưng (1993), “Đôi nét về tình hình văn học mấy năm gần
đây”, Tạp chí Văn nghệ quân đội (số 03).
67. Nguyễn Thanh Hùng (1994), “Chiến tranh đi qua, tình người ở lại”, Tạp
chí Văn nghệ quân đội (số 12).
150
68. Đỗ Việt Hùng, Nguyễn Thị Ngân Hoa (2004), Phân tích phong cách
ngôn ngữ trong tác phẩm văn học, Nxb Đại học Sư phạm Hà Nội.
69. Đỗ Thu Hương (2001), “Phương thức huyền thoại hoá và sự biểu hiện
đời sống tâm linh trong văn xuôi Việt Nam từ sau 1975”, Luận văn
Thạc sĩ.
70. Đỗ Văn Khang (1990), “Cuộc tìm tòi về tiểu thuyết”, Báo Văn nghệ
(số 43).
71. Nguyễn Văn Khang (1996), “Sự bộc lộ giới tính trong giao tiếp ngôn
ngữ”, Ứng xử ngôn ngữ trong giao tiếp gia đình ngƣời Việt, Nxb Văn
hóa Thông tin.
72. Nguyễn Văn Khang (1996), Nghi thức lời nói trong gia đình ngƣời Việt,
Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội
73. Nguyễn Văn Khang (1999), Ngôn ngữ học xã hội - Những vấn đề cơ bản,
Nxb KHXH, Hà Nội.
74. Nguyễn Văn Khang (2003), “Ngôn ngữ tự nhiên và vấn đề chuyển mã
trong giao tiếp hội thoại (trên cơ sở tư liệu trạng thái đa ngữ xã hội ở
Việt Nam”, Ngôn ngữ (số 1).
75. Kerbat - Orecchioni C (1985), “Dụng học về sự phân tích hội thoại
(Pragmatique de I’ analýse conversationnelle)”, Chuyên đề trình bày tại
trường ĐHNN - ĐHQGHN, Bản in của đại sứ quán Pháp tại Việt Nam.
76. Kerbat - Orecchioni C (1998), Tƣơng tác lời nói (Les interactions
verbals), (Đỗ Hữu Châu dịch), Tài liệu tham khảo cho NCS, Đại học Sư
phạm, Hà Nội.
77. Krisijana Gunnar (2005), “Về những tiểu thuyết ngắn”, http://vnexpress.net.
78. Đinh Trọng Lạc (1994), Phong cách học văn bản, Nxb Giáo dục.
79. Đinh Trọng Lạc, Nguyễn Thái Hòa (1995), Phong cách học tiếng Việt,
Nxb Giáo dục.
151
80. Hồ Lê (1976), “Vấn đề lôgic ngữ nghĩa và tính thông tin trong lời nói”,
Ngôn ngữ (số 2).
81. Chu Lai, (1987) “Vài suy nghĩ về phản ánh sự thật trong chiến tranh”,
Tạp chí Văn nghệ Quân đội (số 04).
82. Chu Lai, (1995) “Nhân vật người lính trong văn học”, Tạp chí Văn nghệ
Quân đội (số 06).
83. Chu Lai, (1985) “Sử thi và hoành tráng câu trả lời cho một đời”, Tạp chí
Văn nghệ Quân đội (số 04).
84. Tôn Phương Lan (1980), “Tiểu thuyết về chiến tranh viết sau 1975”, Tạp
chí Văn học (số 05).
85. Nguyễn Lai (1996), Ngôn ngữ với sáng tạo và tiếp nhận văn học, Nxb
Giáo dục.
86. Đỗ Thị Kim Liên (1998), “Từ xưng hô trong hội thoại”, Ngữ học trẻ,
Hội Ngôn ngữ học Việt Nam.
87. Đỗ Thị Kim Liên (1999), Ngữ nghĩa lời hội thoại, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
88. Đỗ Thị Kim Liên (1999), Phương thức cấu tạo hàm ngôn trong hội thoại,
Kỷ yếu Hội thảo “Những vấn đề ngữ dụng học”, Trường Đại học Sư
phạm Hà Nội.
89. Đỗ Thị Kim Liên (2002), Ngữ pháp tiếng Việt, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
90. Đỗ Thị Kim Liên (2003), “Khảo sát các phát ngôn có động từ ngữ vi tiếc,
trách, ước, khuyên trong ca dao người Việt, Tạp chí khoa học, Trường
ĐH Vinh, Tập XXXII (số 1B).
91. Đỗ Thị Kim Liên (2005), “Vai trò của lập luận trong hội thoại”, Ngữ
học trẻ.
92. Đỗ Thị Kim Liên (2005), Giáo trình ngữ dụng học, Nxb Đại học Quốc
gia, Hà Nội.
93. Phạm Hùng Linh (2004), “Phương tiện điều chỉnh sự chú ý của người
nghe trong hội thoại Việt ngữ”, Ngôn ngữ (số 10).
152
94. Nguyễn Văn Long (1981), “Cuộc chiến tranh chống Mỹ và những trang
văn xuôi hôm nay”, Tạp chí Văn nghệ Quân đội (số 07).
95. Đặng Lưu (2006), Ngôn ngữ tác giả trong truyện Nguyễn Tuân, Luận án
Tiến sĩ Ngữ văn, Đại học Vinh.
96. Nguyễn Văn Lưu (1987), Văn học 1975 - 1985 - Tác phẩm và dƣ luận
Nxb Hội Nhà văn.
97. Phương Lựu (1991), “Góp bàn với một số truyện viết về sự hy sinh mất
mát trong chiến tranh”, Tạp chí Văn nghệ Quân đội (số 07).
98. Lyons, J. (1996), Nhập môn Ngôn ngữ học lý thuyết, Nxb Giáo dục,
Hà Nội.
99. Sương Nguyệt Minh (2004), “Văn xuôi viết về người lính - Một thách
đố nhà văn”, Tạp chí Văn nghệ Quân đội (số 610).
100. Đái Xuân Ninh (1978), Hoạt động của từ tiếng Việt, Nxb Khoa học Xã
hội, Hà Nội.
101. Lê Thành Nghị (1995), “Tiểu thuyết về chiến tranh mấy ý nghĩ góp bàn”,
Tạp chí Văn nghệ Quân đội (số 07).
102. Nhiều tác giả (1996), “Năm mươi năm văn học Việt Nam sau Cách
mạng tháng Tám”, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
103. Nhiều tác giả (2003), “Nhà văn Chu Lai và những ám ảnh của nghiệp
viết”, http://vnexpress.net.Vn.Văn hóa, (12/12).
104. D. Nunan (1997), Dẫn nhập phân tích diễn ngôn (Hồ Mỹ Huyền, Trúc
Thanh dịch), Nxb Giáo dục, Hà Nội.
105. Phạm Xuân Nguyên (1992), “Văn học hôm nay có gì mới?”, Tạp chí
Văn học (số 06).
106. Nguyên Ngọc (1991), “Văn xuôi sau 1975 thử thăm dò đôi nét về quy
luật phát triển”, Tạp chí Văn nghệ Quân đội (số 04).
107. Hoàng Phê (1975), “Phân tích ngữ nghĩa”, Ngôn ngữ (số 2).
153
108. Hoàng Phê (1981), “Ngữ nghĩa của lời”, Ngôn ngữ (số 3, 4).
109. Hoàng Trọng Phiến (1980), Ngữ pháp tiếng Việt - Câu, Nxb Đại học và
Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội.
110. Ngô Đình Phương (2008), Hợp phần liên nhân của câu trong ngữ pháp
chức năng hệ thống (Trên ngữ liệu Anh và Việt), Nxb Đại học Quốc gia,
Hà Nội.
111. Huỳnh Như Phương (1991), “Văn xuôi những năm 80 và vấn đề dân chủ
hoá nền văn học”, Tạp chí Văn học (số 04).
112. Hồ Phương (1991), “Những tìm tòi không mệt mỏi”, Tạp chí Văn nghệ
Quân đội (số 09).
113. G.N Pospelop chủ biên, (1998), Dẫn luận nghiên cứu văn học, Nxb Giáo
dục.
114. V.Ia.Propp (2003), Tuyển tập (Tập 1), Nxb Văn hóa dân tộc - Tạp chí
Văn hóa Nghệ thuật.
115. F.D.Saussure (1973), Giáo trình ngôn ngữ học đại cƣơng, Hoàng Phê
dịch, Nxb Khoa học Xã hội.
116. Trần Đình Sử (cb, 2004), Tự sự học, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội.
117. Nguyễn Kim Thản (1963), Nghiên cứu ngữ pháp tiếng Việt, tập 1, Nxb
Khoa học Xã hội, Hà Nội.
118. Nguyễn Kim Thản (1963), Nghiên cứu ngữ pháp tiếng Việt, tập 2, Nxb
Khoa học Xã hội, Hà Nội.
119. Đào Thản (1998), Từ ngôn ngữ chung đến ngôn ngữ nghệ thuật, Nxb
Khoa học Xã hội, Hà Nội.
120. Nguyễn Thị Việt Thanh (1999), Hệ thống liên kết lời nói tiếng Việt, Nxb
Giáo dục, Hà Nội.
121. Ngô Thảo (2000), “Thử nhìn lại mức độ chân thật của các tác phẩm viết
về chiến tranh và quân đội”, sách Văn học với đời sống - đời sống với
văn học, Nxb Văn học, Hà Nội.
154
122. Lí Toàn Thắng (2000), “Về cấu trúc ngữ nghĩa của câu”, Tạp chí Ngôn
ngữ (số 3).
123. Bùi Việt Thắng (1992), “Phản ánh chân thật một hiện thực cách mạng”,
Tạp chí Văn nghệ Quân đội (số 9).
124. Bùi Việt Thắng (1994), “Những dấu hiệu đổi mới của tiểu thuyết nhìn từ
cấu trúc thể loại”, Tạp chí Tác phẩm mới (số 16).
125. Bùi Việt Thắng (1995), “Một đề tài không cạn kiệt”, Tạp chí Văn nghệ
Quân đội (số 02).
126. Phạm Văn Thấu (2000), Cấu trúc liên kết của cặp thoại, Luận án tiến sĩ
Ngữ Văn, Đại học Sư phạm, Hà Nội.
127. Trần Ngọc Thêm (1985), Hệ thống liên kết văn bản tiếng Việt, Nxb
Khoa học Xã hội, Hà Nội.
128. Trần Ngọc Thêm (1999), “Ngữ dụng học và văn hóa - ngôn ngữ học”,
Ngôn ngữ (số 4).
129. Lê Quang Thiêm (2008), Ngữ nghĩa học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
130. Nguyễn Bích Thu (1999), “Văn xuôi năm 1998 - Thực trạng và vấn đề”,
Tạp chí Văn học (số 01).
131. Lý Hoài Thu (2001) “Tiểu thuyết, tầm vóc hiện thực và số phận con
người”, Tạp chí Văn nghệ quân đội (số 2).
132. Huỳnh Văn Thông (1996), “Tìm hiểu một vài vấn đề về kết thúc lượt lời
trong hội thoại tiếng Việt”, Ngôn ngữ (số 4).
133. Khuất Quang Thụy (2004), “Không phải là vấn đề đề tài”, Tạp chí Văn
nghệ Quân đội (số 10).
134. Đỗ Lai Thúy biên soạn (2004), Sự đỏng đảnh của phƣơng pháp, Nxb
Văn hóa thông tin, Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, Hà Nội.
135. Nguyễn Minh Thuyết, Nguyễn Văn Hiệp (1998), Thành phần câu tiếng
Việt, Nxb Đại học quốc gia, Hà Nội.
155
136. Đặng Thị Hảo Tâm (2002), Cơ sở giải nghĩa hàm ẩn của các hành vi
ngôn ngữ gián tiếp trong hội thoại, Luận án tiến sĩ Ngữ văn, Đại học Sư
phạm, Hà Nội.
137. Bùi Minh Toán (1999), Từ trong hoạt động giao tiếp tiếng Việt, Nxb
Giáo dục, Hà Nội.
138. Tzvetan Todorov (2005), Thi pháp văn xuôi, Đặng Anh Đào, Lê Hồng
Sâm dịch, Nxb Đại học sư phạm, Hà Nội.
139. Nguyễn Đức Tồn (1991), “Cách nhận biết và phân biệt từ thuần Việt với
từ Hán - Việt”, Tạp chí Ngôn ngữ (số 2).
140. Nguyễn Văn Tu (1968), Từ vựng học tiếng Việt hiện đại, Nxb Giáo dục,
Hà Nội.
141. Cù Đình Tú (1982), Khảo sát từ vựng tiếng Việt theo bình diện phong
cách ngôn ngữ, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
142. Hoàng Tuệ (2001), Tuyển tập ngôn ngữ học, Nxb Đại học Quốc gia TP
Hồ Chí Minh.
143. Lê Đình Tường (2002), “Hoàn cảnh cầu khiến trong hội thoại”, Ngữ học
trẻ, Hội Ngôn ngữ học Việt Nam.
144. Lê Ngọc Trà (1989), “Thi pháp học lịch sử”, Tạp chí Kiến thức ngày nay
(số 17).
145. Lê Quang Trang (1991), “Vài nét về thân phận người phụ nữ đi qua
chiến tranh”, Tạp chí Văn nghệ quân đội (số 03).
146. Lê Thị Trang (2002), Khảo sát ngôn ngữ hội thoại của nhân vật trong
truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, Luận văn cao học, Đại học Vinh.
147. Vân Trung, Ngô Hoàng, Bảo Hưng (1997), Văn học 1975 - 1985, tác
phẩm và dƣ luận, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
148. Xuân Trường (1991), “Có sự đổi mới thực sự trong văn học”, Báo Văn
nghệ (số 43).
156
149. Lê Kim Vinh (1981), “Góp vào việc nhìn nhận tình hình văn xuôi từ sau
năm 1975”, Tạp chí Văn học (số 02).
150. UBKHXHVN (1998), Từ điển tiếng Việt, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
151. Trần Quốc Vượng (1999), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Hà Nội.
152. Nguyễn Như Ý chủ biên (1996), Từ điển giải thích thuật ngữ ngôn ngữ
học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
153. Mai Thị Hảo Yến (2006), Hội thoại trong truyện ngắn Nam Cao, Luận
văn Thạc sĩ, Đại học Vinh.
II. PHẦN TIẾNG NƯỚC NGOÀI
154. Austin J.L (1975), How to do things with words, Cambridge
University press.
155. Anscombre J.C & Ducrot O. (1983), L’ Argumentation dans Langue,
Mardaga.
156. Armengaud F. (1985), Pragmatique, Presses universitaire de France.
157. Brown P. And Levinson S.C. (1987), Politeness, Some Universls in
language Usage, Cambridge University Press.
158. Coulthard M. (1991), Advances in spoken discourse Analysis, Routledge.
159. Ducrot O. (1988), Polifonia y argumentation, Universidad del Vanlle Cali.
160. Ducrot O. (1984), Le dire et le dit, Minuit.
161. Grice H. P. (1975), Logic and conversation, In: P. Cole & J.L. Morgan
(eds), Syntax and Semantics, Vol 3.
162. Grize J.B. (1983), De la logique à L’ argumentation, Genève: Droze.
163. Levinson S.C. (1983), Pragmatics, Cambridge University Press.
164. Lyons J. (1978), Élement de sémantique, Traduction de J. Durand,
Larousse.
165. Lyons J. (1980), Sémantique linguistique, Larousse.
166. Meyer M. (1983), Logique, language et argumentation, Hachette.
157
TÁC PHẨM TRÍCH DẪN LÀM DẪN CHỨNG
I. Nguyễn Minh Châu (1984), Dấu chân ngƣời lính, Nxb Thanh niên.
II. Nguyễn Khải (1960), Mùa lạc, Nxb Văn hóa.
III. Nguyễn Khải (1989), Một cõi nhân gian bé tí, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh.
IV. Nguyễn Khải (1990), Một ngƣời Hà Nội, Nxb Hà Nội.
V. Nguyễn Khải (1993), Sƣ chùa Thắm và ông Đại tá về hƣu, Nxb Hội Nhà văn.
VI. Nguyễn Khải (1999), Tuyển tập truyện ngắn Nguyễn Khải, Nxb Văn hóa.
VII. Chu Lai (1979), Nắng đồng bằng, Nxb Quân đội nhân dân.
VIII. Chu Lai (1982), Đêm tháng hai, Nxb Hà Nội.
IX. Chu Lai (1987), Sông xa, Nxb Phụ nữ.
X. Chu Lai (1985), Gió không thổi từ biển, Nxb Phụ nữ.
XI. Chu Lai (1990), Vòng tròn bội bạc, Nxb Thanh niên.
XII. Chu Lai (1990), Bãi bờ hoang lạnh, Nxb Phụ nữ.
XIII. Chu Lai (1994), Ăn mày dĩ vãng, Nxb Hội Nhà văn.
XIV. Chu Lai (1999), Phố, Nxb Văn học.
XV. Chu Lai (2000), Ba lần và một lần, Nxb Quân đội nhân dân.
XVI. Chu Lai (2002), Cuộc đời dài lắm, Nxb Quân đội nhân dân.
XVII. Chu Lai (2008), Chỉ còn một lần, Nxb Văn học.
XVIII. Chu Lai (2003) Truyện ngắn Chu Lai, Nxb Văn học.
XIX. Lê Lựu (1987), Thời xa vắng, Nxb Tác phẩm mới.
XX. Bảo Ninh (1990), Thân phận tình yêu, Nxb Hội Nhà văn.
XXI. Nguyên Ngọc (1969), Đất nƣớc đứng lên, Nxb Văn học.
XXII. Trần Huy Quang (1994), Nƣớc mắt đỏ, Nxb Lao động.
XXIII. Nguyễn Đình Thi (1969), Xung kích, Nxb Văn học.
XXIV. Nguyễn Huy Thiệp (1987), Tƣớng về hƣu, Báo Văn nghệ.
XXV. Nguyễn Huy Thiệp (2000), Thƣơng cho cả đời bạc, Nxb Văn hoá thông tin.
158
XXVI. Phan Tứ (1984), Gia đình Má Bảy, Nxb Văn học.
XXVII. Phan Tứ (1972) Mẫn và tôi, Nxb Thanh niên.
XXVIII. Nguyễn Khắc Trường (2000), Mảnh đất lắm ngƣời nhiều ma, Nxb
Văn nghệ.
XXIX. Nguyễn Trọng Oánh (1984), Đất trắng, Nxb Quân đội nhân dân.
XXX. Chu Văn, (1985), Sao đổi ngôi, Nxb Thanh niên.
159
PHẦN PHỤ LỤC
Bảng a. Danh sách tổng hợp các nhân vật trong tiểu thuyết của Chu Lai
(Bổ sung cho bảng 1.1)
Số lượng
Nhân vật nữ
nhân vật
(Tên, tuổi, vị trí công
Tác
Nhân vật nam
(nhân vật
(Tên, tuổi, vị trí công việc, nghề nghiệp)
việc,
phẩm
nam%; nhận
nghề nghiệp)
vật nữ%)
Tổng số 25
Hai Hùng (trong chiến tranh, 29 t, đội
Ba Sương (y tá đội du
Ăn mày
nhân vật trong
trƣởng đặc nhiệm; sau chiến tranh, 49t,
kích, cán bộ địa
dĩ vãng
đó số nhân vật
lính trở về sau chiến tranh, thất nghiệp),
phƣơng, bà chính ủy
nam là16
Ba Quân (chủ tịch, trẻ trai, choai con), gã
xã đội), Tư Lan
chiếm 64%,
Địch phản ngực (vệ sĩ, trƣởng phòng cung
(Giám đốc sở nông
nữ 9 chiếm
ứng vật tƣ), thằng nhỏ (14, 15t), Ba Tiến
lâm, lớn tuổi), Cô bé
36%
(phó bí thƣ quận ủy), Viên (lính đặc
tiếp viên bia ôm
nhiệm, trẻ tuổi), Bảo (lính đặc nhiệm,
(khoảng 25t, gái sec -
20t), Tuấn (lính đặc nhiệm, xạ thủ B41,
via, bán Bar), Hai
18t), Tám Tính (Tính cọp, tiểu đoàn
Hợi (xã đội trƣởng du
trƣởng, gần 30 tuổi), Ba Thành, (bác sĩ),
kích xƣa vốn là dân
ông già (thƣờng trực sở, đại tá về hƣu),
bán thịt, chừng 25
Khiển (mũi trƣởng thiện chiến, 21t),
tuổi), Thu (giao liên,
Tường (thám báo của địch, đại úy, chừng
trẻ trung), cô gái lễ
45t), ông tham mưu phó (trung tá), gã trai
tân sở, cán bộ sở
(phục vụ nhà hàng, nửa già nửa trẻ), Giôn
nông lâm nghiệp, bà
(ngƣời Mỹ, lính chiến Mỹ, trung niên).
chủ quán, cô gái trực
lễ tân sở (khá trẻ).
Tổng số 32
Người lính (thuộc binh đoàn chủ lực),
Cô gái (cứu thƣơng,
Nắng
nhân vật trong
chiến sĩ (thuộc binh đoàn chủ lực), Linh
thuộc binh đoàn chủ
đồng
đó số nhân vật
(trung đội điều nghiên trinh sát, trung đội
lực), Năm Thúy (cô
bằng
nam là 23
trƣởng), Tùng (tiểu đội trƣởng), Ma Hồ
cán sự dân quân),
chiếm 71,8%,
Lang (chiến sĩ),Cầu (chính trị viên), Sáu
Hương, Hai Thanh (y
nữ 9 chiếm
Hóa (tiểu đoàn trƣởng), Kiêu (đại đội
tá kiêm xã đội phó,
28,1%
trƣởng), chú Tư (bí thƣ xã), Năm Dân (bí
du kích vùng ven), má
thƣ kiêm xã đội trƣởng kiêm chính trị viên
Sáu (đảng viên mật),
xã đội), anh Chín (đứng tuổi, chính trị
Út (cơ sở tiếp tế cho
160
Số lượng
Nhân vật nữ
nhân vật
(Tên, tuổi, vị trí công
Tác
Nhân vật nam
(nhân vật
(Tên, tuổi, vị trí công việc, nghề nghiệp)
việc,
phẩm
nam%; nhận
nghề nghiệp)
vật nữ%)
viên Bộ tƣ lệnh), Anh y tá, Bảy Hoàng
cách mạng), người
(tham mƣu trƣởng), Sáu (trƣởng ban cán
đàn bà (chƣa tới 30t,
bộ), Chín ngón (thuộc binh đoàn chủ lực),
thợ may), cô gái (giao
anh Ba (Tƣ lệnh phó quân khu miền đông,
liên tỉnh ủy), Tư
quận trƣởng, tiểu đoàn trƣởng), ông Tư
Hạnh (thám báo của
(Tỉnh đội trƣởng), Mười Đảnh (xã đội
địch).
trƣởng), Sáu Dô (phó bí thƣ huyện ủy),
thằng trung úy (rất trẻ, đại đội trƣởng bảo
an), Út cò ngẳng (bẫy cò, bác sĩ trạm xá
trƣởng), Rổn (giao liên), thằng Xầm (ác
ôn, thiếu tá, quận trƣởng).
Tổng số 16
Ba Xuân (chiến sĩ biệt động Sài Gòn, đội
Thanh Nhàn (nữ
Gió
nhân vật trong
trƣởng đội biệt động, ngƣời đàn ông
chiến sĩ biệt động Sài
không
đó số nhân vật
ngƣời Thƣợng bán thuốc nam dạo,khó
Gòn, cô thợ may,
thổi từ
nam là12
đoán tuổi), cháu (chƣa đầy 2 tuổi), người
chƣa đầy 30t), bà má,
biển
chiếm 75%,
đàn ông (trung tuổi, du đãng Sài Gòn),
Nga (rất trẻ, ca sĩ),
nữ 4 chiếm
Hai Băng Giá - Phan Hồng Lẫm (du đãng
chủ nhân tiệm Kim
25%
Sài Gòn, ông trùm, trạc 30 t), người mặc
Hoàn.
áo lính (du đãng), đô trưởng (thiếu tƣớng
Mỹ ngụy), ông Luân (giáo sƣ), Hoàng
Xanh (thiếu tá ngụy, kẻ chiêu hồi), Hải
(nhạc sĩ, rất trẻ), Thuấn (đại úy ngụy),
chú Tư (trung tuổi, bộ tƣ lệnh), Tư Thanh
(phó tƣ lệnh quân ủy).
Tổng số 23 nhân
Linh (trên dƣới 30, nguyên thiếu úy đại đội
Mẹ Linh (cán bộ về
Vòng
vật trong đó số
trƣởng, hiện đang làm tòa soạn báo, phóng
hƣu, 60t), Hạnh, bà
tròn bội
nhân vật nam là
viên), Chiến (trên dƣới 30, nguyên là lính
trưởng phòng tài vụ,
bạc
16 chiếm
chiến trƣờng và bây giờ là chúa đảo, ông
Tuyến (giảng viên
69,5%, nữ 7
vua hồ), Huấn tức Hòe (trên dƣới 30,
Đại học Sƣ phạm),
chiếm 30,4%
nguyên lính chiến, hiện đang là bí thƣ xã
Thủy (kỹ sƣ thủy lợi),
Thanh Lâm), Vận (trên dƣới 30, cựu thiếu
chị vợ Thịnh (nhà
úy tiểu đoàn trƣởng, chủ ghi số đề), ông bố
giáo), Quỳnh (sinh
161
Số lượng
Nhân vật nữ
nhân vật
(Tên, tuổi, vị trí công
Tác
Nhân vật nam
(nhân vật
(Tên, tuổi, vị trí công việc, nghề nghiệp)
việc,
phẩm
nam%; nhận
nghề nghiệp)
vật nữ%)
Linh (viết sử học), ông anh Linh (kiến trúc
viên trƣờng pháp lý).
sƣ, phụ trách một viện thiết kế), Thanh chú
em Linh (giám đốc), Nguyễn Quách
(trƣởng phòng biên tập), Khâm (phóng viên
trang công nghiệp, hơn 30t), Thịnh (nguyên
lính chiến hiện là chủ nhiệm hợp tác xã),
Hùng (thiếu tá, chỉ huy trƣởng, thƣờng vụ
huyện ủy, tóc lốm đốm bạc), Luân (bí thƣ
huyện ủy), Chị trưởng ban kiểm tra đảng,
Tình (trƣởng công an, khoảng 25, 26t),
Phong (Tổng biên tập, có tuổi).
Tổng số 20
Long (17t, học lớp 12), Vũ Hà Nguyên
Hà Thương (nguyên
Cuộc đời
nhân vật trong
(giám đốc nông trƣờng cao su, nguyên đại
là cô giáo dạy tiếng
dài lắm
đó số nhân vật
đội trƣởng trinh sát), Vũ Lâm (về hƣu,
Anh và hiện tại là cán
nam là16
nguyên là Tổng giám đốc), Phạm Đăng
bộ trồng rừng),
chiếm 80%,
Điền (đội trƣởng nông trƣờng cao su),
Thanh Thủy (cô chủ
nữ 4 chiếm
Đoàn Thanh (phó giám đốc nông trƣờng
quán), thiếu phụ, A
20%
cao su), Tuấn tử thần (thành phần tự do,
Linh (ngƣời đàn bà
gần 30t), chàng trai người Thượng (làm
Trung Hoa, tổng
nƣơng rẫy), Tụ (trung đội trƣởng thông
giám đốc hơn hai
tin), Anh quản giáo (ngoài 20t), Thuần
chục công ty lớn nhỏ
(đội trƣởng bảo vệ), Người tù (trên 40t,
ở Trung Hoa).
từng là thiếu tá biên phòng), Bằng
(nguyên khẩu đội trƣởng Cachiusa), ông
chủ, Hùng tiền đồn, Ba Vinh (giám đốc
công ty cao su), Vận (phó giám đốc nông
trƣờng cao su).
Tổng số 15
Nam (kỹ sƣ công binh), Bình (đạo diễn
Thảo (bác sĩ quân y,
Phố
nhân vật trong
kiêm kiến trúc sƣ, thƣơng binh loại 4/8),
chừng 30t), Niên
đó số nhân vật
Thành, anh công an, Bố Lãm (hiệu trƣởng
Thảo (7t), chị hàng
nam là 9
trƣờng Đảng đã nghỉ hƣu), ông già bán cà
nước (vốn là giảng
chiếm 60%,
phê (ngoài 65t, nguyên cấp tƣớng đã về
viên đại học pháp lý),
162
Số lượng
Nhân vật nữ
nhân vật
(Tên, tuổi, vị trí công
Tác
Nhân vật nam
(nhân vật
(Tên, tuổi, vị trí công việc, nghề nghiệp)
việc,
phẩm
nam%; nhận
nghề nghiệp)
vật nữ%)
nữ 6 chiếm
hƣu), Um (nguyên tiểu đoàn trƣởng trinh
Loan (25t, nhân viên
40%
sát, chủ nhà ngục lớn nhất), Hùng (tổng
công ty kinh
giám đốc hãng điện tử, trên dƣới 40t),
doanh),Vợ Lãm
Dũng (chín năm tù giam mới mãn hạn tù,
(trông con), chị hàng
trên 30t), Lãm (trên 25t, kinh doanh mía).
mía (gần 40t, bán
nƣớc mía).
Tổng số 25
Trần Văn Thạch (hiện tại: trên dƣới 50t,
Út Thêm (cô bé quân
Ba lần và
nhân vật trong
bảo vệ), Sáu Nguyện (quá khứ: cán bộ
báo), Út Thêm
một lần
đó số nhân vật
quân báo tỉnh, trên dƣới 30t), Ba Đẩu
(khoảng 40t, thƣợng
nam là16
(cán bộ quân báo, ban chỉ huy lâm thời,
tá trƣởng phòng điều
chiếm 64%,
sau chiến tranh là ông chủ trồng rừng),
tra xét hỏi), Bảy Thu
nữ 9 chiếm
Huyện đội trưởng, Ông quận trưởng, Năm
(nữ pháo thủ, ngoài
36%
Thành (khoảng 30t,đại đội trƣởng trinh
20t), Tư Chao (chừng
sát), Ba Nguyên (đại úy, chỉ huy trạm
25,26t, cơ sở tiếp vận
phẫu), chú Bảy (tỉnh đội trƣởng), Hoàng
lƣơng thực cho bộ
(trung úy, viện kiểm sát), Phạm Thành
đội, chủ cửa hàng tạp
Long (tổng giám đốc công ty), Hiếu
hóa), cô du kích pháo
(chiến sĩ quân báo), ông lão, Hai Tính
thủ, Lan Thanh (sinh
(ông chủ cơ sở kinh doanh xe máy, trƣớc
viên khoa ngoại ngữ
là lính quân báo), ông chủ quán kiêm nhà
kiêm ngƣời mẫu thời
báo kiêm chiêm tinh, ông trưởng phòng,
trang, khoảng 20t),
ông giám đốc.
Sáu Phượng, bé gái
(khoảng 5,6t), Hương
(chủ cơ sở kinh doanh
xe máy), chị tài vụ.
Tổng số 12
Lân (chƣa đến 30t, chủ tịch thị trấn),
Phương Hạnh Dung
Bãi bờ
nhân vật trong
Quang (trong chiến tranh là trinh sát
(họa sĩ,35t), Hòa (cô
hoang
đó số nhân vật
nhƣng sau chiến tranh trở về bị tâm thần),
giúp việc).
lạnh
nam là10
Thi Hoài (nhà thơ, trẻ), ông già đánh cá,
chiếm 83,3%,
Lê Hoàng (giám đốc lâm trƣờng),Tư
nữ 2 chiếm
Đương, Vũ (bác sĩ, đánh máy chữ), người
16,6%
đàn ông (trên dƣới 40), ông Hai (lãnh đạo
163
Số lượng
Nhân vật nữ
nhân vật
(Tên, tuổi, vị trí công
Tác
Nhân vật nam
(nhân vật
(Tên, tuổi, vị trí công việc, nghề nghiệp)
việc,
phẩm
nam%; nhận
nghề nghiệp)
vật nữ%)
chủ chốt một bộ quan trọng của Trung
ƣơng), ông chủ tịch huyện.
Tổng số 27
Tịnh (chữa xe máy kiêm bán nƣớc ở ngã
Hai Thanh (trên dƣới
Sông xa
nhân vật trong
tƣ đƣờng, nguyên tiểu đoàn trƣởng trong
30, giao liên), Hai
đó số nhân vật
chiến tranh), Hoàng (viên chức cao cấp),
Thanh (trên dƣới
nam là 20
Ông tổng giám đốc, Thắng (thiếu tá, tiền
10t), Má cô Thanh,
chiếm 74%,
đồn Hà Tuyên), đồng chí cán bộ quân sự
cô Nghĩa (làm công,
nữ 7 chiếm
địa phương, ông Tám Nghệ (đánh Tây),
sau tham gia cách
25,9%
thằng Riềng (8t, sau làm cách mạng),
mạng), Thu (chừng
Quang (trên 20t, học tú tài, sau làm ác ôn
23,24t, giao liên),
cho giặc), Nhân (thầy giáo, độ 27, 28t,
Nguyễn Thị Sang,
làm cách mạng), ông chú (ty công an),
Thím.
Lính gác (hạ sĩ), viên đại úy, đồn trưởng,
Tám (hoạt động cách mạng), bí thư huyện
ủy, Chú Năm (huyện ủy), Thành (hoạt
động cách mạng), Anh bộ đội (đại đội
trƣởng), Lê (cán bộ giao liên), Tiến (hoạt
động cách mạng), Đức (3t).
Tổng số 22
Hoàng (đại úy phòng điều tra xét hỏi),
Út Thêm (trƣởng
Chỉ còn
nhân vật trong
Sáu Nguyện (phạm nhân), Năm Thành
phòng điều tra xét
một lần
đó số nhân vật
(nguyên tiểu đoàn trƣởng, tổng giám đốc),
hỏi, Thƣợng tá công
nam là 15
Bác sĩ, Trần Quyền (đại tá, phó giám đốc
an, chừng 40t), Tư
chiếm 68,1 %,
công an), Cầu, Chu Thiên (trợ lý an ninh
Chao (chừng 45t),
nữ 7 chiếm
kiêm vệ sĩ đặc biệt), Nguyễn Thanh (giám
Lan Thanh (chừng
31,8 %
đốc sở), Ba Đẩu (chủ trang trại thƣơng
18t), Bảy Thu (trên
binh), Bảy Ngạnh (tức nhà báo Trần
40t, công nhân thủy
Xuân), Trần Thanh, Hai Tính (trại viên
sản), Bà ca sĩ mù,
trang trại), Ba Bưởng (giám đốc nông lâm
Thu Mây (ca sĩ),
học), Chín Phòng (ngƣời tù năm xƣa), Tư
Phượng (chủ công ty
Nghĩa (nhà báo).
tƣ vấn tin học).
217
Tổng
164
Bảng b. Danh sách tổng hợp các đại từ nhân xưng trong tiểu thuyết của Chu Lai (Bổ sung cho bảng 2.1)
Đại từ nhân xưng được dùng trong NNNV (số lần)
Tên
ĐTNX ngôi 1
ĐTNX ngôi 2
ĐTNX ngôi 3
truyện
Số ít
Số nhiều
Số ít
Số nhiều
Số ít
Số nhiều
Tôi (124),
Tụi em
Mày (154),
Bọn bây
Gã (23), nó
Người ta
Ăn mày
mình (23),
(12), chúng
bạn (68),
(17).
(128),
(12).
dĩ vãng
tao (104),
ta (12), bọn
cậu (79).
thằng (43),
ta (3).
mình (18),
hắn (54), ả
(16), thằng
bọn tao
(19).
(45), ta
(12).
Tôi (146),
Chúng ta
Mày (123). Bọn mày
Hắn (109),
Người ta
Ba lần
tao (102),
(54), mình
(12).
nó (56), ả
(34), chúng
và một
tớ (120),
(8), bọn
(3), người
(32), chúng
lần
mình (12).
mình (45),
ta (2).
nó (34).
chúng tôi
(34), mình
(5).
Tôi (187),
Chúng ta
Bay (12),
Bọn mày
Hắn (67),
Bọn nó
Gió
tao (62), tui
(23), chúng
ngài (14),
(45).
thằng (32),
(14), người
không
(57), mình
tôi (37), tụi
mày (56),
nó (45), gã
ta (12),
thổi từ
(5), tao
mình (23),
mi (2).
(23), mụ
chúng nó
biển
(87).
chúng mình
(23), ả (3).
(43).
(32).
Tao (201),
Mình (11),
Mày (156). Chúng mày
Thằng (49),
Người ta
Vòng
mình (43),
bọn mình
(37).
hắn (76),
(15).
tròn bội
tôi (176),
(32), ta
người ta
bạc
bọn này
(34).
(3), nó
(12), bọn
(148).
tao (67),
chúng ta
(344).
Tôi (258),
Chúng tôi
Mày (74).
Chúng mày
Hắn (87),
Người ta
Cuộc
mình (34),
(34), mình
(24).
nó (45),
(23).
đời dài
165
Đại từ nhân xưng được dùng trong NNNV (số lần)
Tên
ĐTNX ngôi 1
ĐTNX ngôi 2
ĐTNX ngôi 3
truyện
Số ít
Số nhiều
Số ít
Số nhiều
Số ít
Số nhiều
tớ (49), tao
(12), chúng
thằng (23),
lắm
(84).
ta (45), bọn
người ta
ta (37), bọn
(5).
mình (18).
Mình (54),
Mình (5),
Nàng (3),
Bọn nhóc
Nó (96),
Người ta
Phố
tôi (134), tớ
chúng tôi
mày (106).
(8).
hắn (34),
(13), chúng
(123), tao
(54), ta (3).
thằng (23),
nó (69),
(167).
gã (43).
bọn chúng
(12).
Tôi (150),
Chúng tôi
Mày (165),
Bọn mày
Nó (34), tớ
Người ta
Nắng
tao (145).
(56), chúng
nàng (2).
(12).
(92), thằng
(32).
đồng
ta (23).
(23).
bằng
Mình (42),
Mình (12),
Mày (94).
Bọn mày
Ả (5), nó
Chúng nó
Bãi bờ
(23).
(34).
(31).
ta (11), tôi
ta (10),
hoang
(129), tớ
chúng ta
lạnh
(69), tao
(23).
(89).
Bọn mình
Mày (59),
Nó (87), kẻ
Chúng nó
Sông xa Người ta
(16), tao
(28), chúng
mi (12).
(12), hắn
(23), người
(65), tớ
mình (43).
(37).
ta (23), bọn
hắn (12).
(76), mình
(23), tôi
(145),
chúng ta
(44).
Tôi (197),
Chúng tôi
Tụi bây
Hắn (123),
Người ta
Chỉ còn
tao (134).
(75), chúng
(16), bọn
nó (97), ả
(25), chúng
một lần
ta (56),
bây (12).
(12), thằng
nó (23).
chúng mình
(12).
(23).
4113/8820
994/8820
1179/8820
206/8820
1846/8820
482/8820
Tổng
(46,6%)
(11,2%)
(13,3%)
(2,3%)
(20,9%)
(5,4%)
166
Bảng c. Danh sách tổng hợp các từ xưng hô (trừ đại từ nhân xưng) trong tiểu thuyết của Chu Lai (Bổ sung cho bảng 2.2)
Các từ xưng hô khác được dùng trong NNNV (số lần)
Tên
Các danh
Các từ chỉ
Các từ
Các từ chỉ
Các từ chỉ chức
Các từ chỉ
truyện
từ thân
quan hệ
chuyển
tên riêng
vụ, nghề nghiệp
nơi chốn
tộc
xã hội
hóa
Ảnh, anh
Ba Quân
Chủ tịch, sếp (6),
Đồng chí
Bà chúa
Đằng ấy
Ăn mày
(123), em
(2), Ba
giám đốc (12),
(142), bà
rừng xanh
(2).
dĩ vãng
(146), bả,
Thành (23),
phó chủ tịch (2),
chủ (3)
(2), bà
bà (86),
Tường (9),
chủ tịch (2), ủy
bạn (19).
tiên tốt
bụng (1),
cháu (9),
Tuấn (11),
viên trung ương
nhỏ (7),
chị (97),
Vượng (2),
(1), nhà báo (2),
cưng (16).
con bé
Khiển (2),
thanh tra chính
(12), ông
Ba Sương
phủ (3), đội
(49), cha
(18), Hai
trưởng đặc
(6), em út
Hợi (9), Hai
nhiệm (5), thanh
(8), cô
Hùng (33),
tra bộ (2), cửa
(39), con
Viên (6),
hàng trưởng (3),
gái (9), cố
Ba Tiến (4),
y tá (24), xã đội
nội (2),
Bảo (4),
trưởng (5), phó
chú (97),
Tám Tính
bí thư quận ủy
cha nội
(18), Tính
(2), bác sĩ (5),
(10), con
cọp (7).
lính (4).
(8), má
(13), bác
(71), bà
vợ (13),
ông (21),
Cậu
(187).
Em (95),
Chị Năm
Lính (84), trinh
Đồng chí
Thằng trời
Nắng
anh (87),
(3), Tùng
sát (5), đồng chí
(132), các
đánh hộ
đồng
chị (67),
(2), Hương
đại đội trưởng
bạn (18).
pháp (1),
bằng
ông (76),
(23),Linh
(5), bộ đội
lãng chúa
cậu (96),
(23), anh
(16),đồng chí bí
rừng chồi
ông (56),
Sáu (12),
thư, Huyện ủy
(1). người
167
Các từ xưng hô khác được dùng trong NNNV (số lần)
Tên
Các danh
Các từ chỉ
Các từ
Các từ chỉ
Các từ chỉ chức
Các từ chỉ
truyện
từ thân
quan hệ
chuyển
tên riêng
vụ, nghề nghiệp
nơi chốn
tộc
xã hội
hóa
chú em
Năm Dân
(2), thủ trưởng
đẹp (1),
(23), cô
(5), anh
(7), bọn lính
con mất
(124), ông
Kiên (11),
(21), tên đại úy
nết (1),
bà già ảnh
đồng chí
(11), bộ đội (12).
con khốn
(2), ba má
Tâm (3),
nạn (1).
anh ấy
Thúy
(2), thím
(23),anh
(7).
Chín (8),
anh Cầu
(12), anh
Tư (2), ông
Ba (6),
đồng chí
Linh (31),
thằng Sáu
Còi (2),
đồng chí
Đảnh (3),
đồng chí
Thúy (11),
Đại úy Sáu
Còi (2), anh
Sáu (5),
Thanh (17),
đồng chí
Hóa (2),
ông Tư
(12), Chín
Kiêu (8),
Tư Hạnh
(3), Phận
(1), con
Hạnh (7),
thằng Phận
168
Các từ xưng hô khác được dùng trong NNNV (số lần)
Tên
Các danh
Các từ chỉ
Các từ
Các từ chỉ
Các từ chỉ chức
Các từ chỉ
truyện
từ thân
quan hệ
chuyển
tên riêng
vụ, nghề nghiệp
nơi chốn
tộc
xã hội
hóa
(2), Thúy
(15).
Ảnh, anh
Anh Hai
Ông thầy thuốc
Ông bạn
Con nhỏ
Gió
(114),
(12), cô Hai
nam (6), ông
(12).
(4), thằng
không
ông, ổng
(3), ông Hai
thầy (24), ông
nhỏ
thổi từ
(121), mẹ
(11), Phan
bạn giáo sư
(12),bóng
biến
(31), cô
Hồng Lẫm
(3),giáo sư (7),
ma cộng
em (12),
(1), Anh
thiếu tá Xanh
sản (2),
con (41),
Lẫm (4),
(14),ông nhạc sĩ
nhạc sĩ
cô (43),
anh Luân
(12), nghị sĩ (2),
thời danh
chị (34),
(3), thằng
thiếu tá (3),thiếu
(1), người
cháu (37),
Hải (12),
tướng (2), Bộ tư
hùng (4),
chú (45),
anh Thuấn
lệnh (1), quan
nhỏ (12),
má (52),
(2), thiếu tá
(12),tư lệnh (12),
bà xã (2),
bà (32),
(8),chị Ba
ông đại úy (13),
cô bé xinh
lão (23),
(2), thằng
thượng sĩ (2),
đẹp (2),
các anh
Xuân (3),
ông bạn chuyên
cưng (7).
(17), ba
chú Tư (5),
gia tâm lý (3).
(43), cha
bà Tư (2),
nội (12),
Nhàn (16),
thím (9),
anh Ba
vợ (11),
(5),Ba
vợ chồng
Xuân (6),
(13), bà
ông Giôn
nhà tôi
(2), ông
(12), cậu
Thuấn (4),
(34),
anh Hải
chồng chị
(12), thằng
(12), bà
Chu Anh
(15), em
(2).
(96),ông
bà (12),
anh chị
(17), bác
169
Các từ xưng hô khác được dùng trong NNNV (số lần)
Tên
Các danh
Các từ chỉ
Các từ
Các từ chỉ
Các từ chỉ chức
Các từ chỉ
truyện
từ thân
quan hệ
chuyển
tên riêng
vụ, nghề nghiệp
nơi chốn
xã hội
hóa
tộc
(13), cô
(43).
Anh Linh
Cựu thiếu úy tiểu
Đồng chí
Thủ lĩnh
Anh
Vòng
(187), ông
(1 2), thằng
đoàn trưởng (1),
(23).
da đỏ (1),
tròn bội
(32), anh
Chiến (4),
lão giám đốc (6),
mụ xã tớ
bạc
(1), thiên
chị (23),
Huấn (7),
nhà báo (32), cô
thần (1),
nhà tôi
Linh (18),
chủ (4), lão
ông chủ
(12), em
anh Huấn
trưởng phòng
tương lai
(196), mẹ
(13), anh
(12), tổng biên
của bố
(21), con
Hùng (6),
tập (9), cha giám
(1), người
(29), bố
ông Phong
đốc (2), lính (8),
đẹp (1).
(32), chú
(6), lão
ông nhà nước
em (4),
Quách (14),
(1), đồng chí
ông cụ
anh Thanh
phái viên (1),
(12), chú
(2), anh Ba
đồng chí bí thư
mày (56),
(6), chị Ba
(7), Bộ Tổng
(5), thằng
tham mưu (1).
bố con
nhà nó
Minh (8),
(5), lão
thằng Cầm
(12), cu
(2), Thủy
cậu (15),
(13), bà
anh em
Thông (2),
trai (11),
chú Vận
chú mình
(6), bác
(18), cô
Vận (8),
(67), má
chú Tuần
(12), ông
(1), Quỳnh
cụ (12),
(12).
cháu (43),
ba (17),
chú (121),
chị (115),
bác (18),
cụ (12).
170
Các từ xưng hô khác được dùng trong NNNV (số lần)
Tên
Các danh
Các từ chỉ
Các từ
Các từ chỉ
Các từ chỉ chức
Các từ chỉ
truyện
từ thân
quan hệ
chuyển
tên riêng
vụ, nghề nghiệp
nơi chốn
tộc
xã hội
hóa
Ông (87),
Long (2),
Giám đốc (23),
Đồng chí
Anh bạn
Cuộc
cậu (147),
ông Vũ Hà
tụi nhà báo (9),
(76).
công tử
đời
bố (46),
Nguyên (1),
sếp (15).
bột (1),
dài lắm
nhỏ (7),
anh (87),
Thương
tay ấy (1).
em (137),
(23), ông
cô (152),
Thuần (2),
ông anh
anh Nguyên
(12), chú
(23), anh
(84), con
Thanh (12),
(34), má
Tuấn (12),
(32), bả
Thủy (13),
(23), bác
anh Hai (8),
(65).
anh Thanh
(23), anh
Linh (3),
anh Bằng
(4),bác Thái
(2), Long
(2).
Anh
Cậu Lãm
Cựu chiến binh
Đồng chí
Người đàn
Phố
(207), con
(9), bác
(2), đồng chí
(59).
bà mệnh
(23), em
Bình (23),
cảnh sát (23),
phụ (2),
(245), ông
Loan (21),
đồng chí sĩ quan
người đàn
(23), con
bé Niên
cao cấp (2), ông
bà giàu có
gái (6),
Thảo
nhà nước (2),
(1), nhóc
bác (34),
(5),anh
đồng chí cảnh sát
(5), người
bà (12),
Thành (2),
nhân dân (3),
đẹp (9),
cô (65),
chú Bình
giám đốc (13),
con nhỏ
chị (87),
(8), Thảo
thằng nhà báo
(12), cô tỷ
bố (56),
(23), thằng
(11), bà bác sĩ
phú xinh
mẹ (34),
Ưm (2), mẹ
quân y (2), cô
đẹp (1),
cụ (56),
Niên Thảo
hàng chè chén
Người
chú (48),
(12), bố
(4), Bộ (1), ông
tình kiều
ông ngoại
Bình (12),
chủ (6), thủ
diễm của
171
Các từ xưng hô khác được dùng trong NNNV (số lần)
Tên
Các danh
Các từ chỉ
Các từ
Các từ chỉ
Các từ chỉ chức
Các từ chỉ
truyện
từ thân
quan hệ
chuyển
tên riêng
vụ, nghề nghiệp
nơi chốn
tộc
xã hội
hóa
(7), ông
mẹ Loan
trưởng (23),
anh (1),
bác (2),
(12), giáo
chàng cửu vạn
cưng (6),
bà ấy
Khang (5),
(1), đồng chí
con đàn
(12), bà
anh Dắt (1),
giám đốc (2).
bà nhem
chị (14),
cô Thoa
nhuốc (1).
ông già
(1), lão
(12), chú
Hùng (3).
em (12),
ông nội
(12), cậu
em giai
(2), bố
con anh
(22), vợ
tôi (11),
cháu (14),
ông anh
(12), nhà
em (12).
Anh (83),
Thạch (2),
Nhà chức trách
Đồng chí
Cưng
Ba lần
bà (26),
Sáu Thẹo
(3), biệt kích (4),
(97).
(12), Út
và một
cháu
(2), phạm
đại đội trưởng
(32), nhỏ
lần
(4). Nhóc
(156), ổng
nhân Trần
(12), đồng chí
(2), con
(23), chú
Văn Thạch
chỉ huy trưởng
bồ mất nết
(137), má
(1), chú Sáu
(11), đồng chí
(1).
cháu (5),
Nguyện
đại úy quân báo
ba cháu
(14), Út
(16), bà thượng
(6), hai
Thêm (45),
tá trưởng phòng
chú cháu
chú Sáu
điều tra xét hỏi
(14), con
(32), đồng
(2), ông phó chủ
gai (12),
chí Sáu
tịch phụ trách
chú cháu
Nguyện
nội chính (2),
(11), cậu
(23), con
nhà nước (2),
(105), cô
mẹ Tư
đồng chí đội
172
Các từ xưng hô khác được dùng trong NNNV (số lần)
Tên
Các danh
Các từ chỉ
Các từ
Các từ chỉ
Các từ chỉ chức
Các từ chỉ
truyện
từ thân
quan hệ
chuyển
tên riêng
vụ, nghề nghiệp
nơi chốn
tộc
xã hội
hóa
(123), chú
Chao (1),
trưởng (6), Nữ
cháu mình
Tư Chao
chiến sĩ biệt
(34), bà dì
(12), cô Tư
động (2), ông
(2), anh
(15), Út
quan báo (4).
em (12),
(43), chú
ông ấy
Ba Đẩu
(34), em
(23), thằng
(87), anh
Thành (11),
(56), chị
thằng Năm
(92), mẹ
Thành (31),
(43), bố
Tư (8), nhỏ
(12), bác
Út (14),
(43).
Lan Thanh
(23), anh
Hoàng (21),
chú Hoàng
(2), cô Ba
(11), anh
Hai (21),
Sáu Phượng
(6), cô Sáu
(11), thằng
Ba Mập (5),
công dân
Trần Quang
Đẩu (1),
Thu (2), chị
Hai (4), chú
Năm (3),
cha Thành
Long (3).
Ông cố
Quang (7),
Lão chủ tịch (3),
Bạn (23),
Bãi bờ
nội (2),
phương
chủ tịch (6), bác
chủ nhân
hoang
ông (34),
Hạnh Dung
vạn chài (1),
(12), đồng
lạnh
173
Các từ xưng hô khác được dùng trong NNNV (số lần)
Tên
Các danh
Các từ chỉ
Các từ
Các từ chỉ
Các từ chỉ chức
Các từ chỉ
truyện
từ thân
quan hệ
chuyển
tên riêng
vụ, nghề nghiệp
nơi chốn
tộc
xã hội
hóa
cô (102),
(1), thằng
giám đốc (7), cậu
chí (34).
cậu (97),
Hoài (1),
chủ tịch thị trấn
chị (87),
chị Hai
(3), anh lính giải
em (92),
(32), chú
phóng (2), bác sĩ
anh (134),
Tư (13),
(7),nhà thơ (12),
cậu (87),
Dung (23),
nữ họa sĩ (12),
cháu (34),
Hòa (6),
nhà thơ cộng sản
ông cụ
anh Vũ (1),
(2), bọn công an
(23), chú
anh Hoàng
(2).
(23), chú
(1), giám
mày (3),
đốc Hoàng
ba (13),
(3), anh
bác (17).
Quang (6),
Quang (12),
Duy (1),
anh Hai (1),
chị Dung
(6), anh
Hoàng Như
Hẽn (1),
chú Hai (4),
thằng Lân
(1).
Anh Hai
Chú lính (2),
Cậu chủ
Con nhỏ
Sông xa Ông (23),
chị
(12), ông
thầy giáo (24),
(13), ông
(12), nhà
(76),cậu
Tịnh (13),
thầy (21), cảnh
bà chủ
tôi, hổ cái
(89), má
thằng
sát (3), ông chỉ
(12), đồng
rừng xanh
(34), cô
Thắng (4),
huy (5), ông đồn
chí (34).
(1), nữ
(124), bà
Thắng (12),
trưởng (8), cảnh
chúa
(13), con
cô Hai (23),
sát (7), chú lãnh
Đảng sơn
(23), má
Thanh (21),
đạo tỉnh (3), anh
lâm (1),
(23), em
cậu Hai
đại đội trưởng
nữ kiệt
(113), anh
(13), Nhân
(12), huyện ủy
rừng chồi
174
Các từ xưng hô khác được dùng trong NNNV (số lần)
Tên
Các danh
Các từ chỉ
Các từ
Các từ chỉ
Các từ chỉ chức
Các từ chỉ
truyện
từ thân
quan hệ
chuyển
tên riêng
vụ, nghề nghiệp
nơi chốn
tộc
xã hội
hóa
(95), bà
(12), anh
(1), ông quận
(1), cưng
(18), chú
Hai (13),
phó (2).
(13).
(43), con
cậu Riềng
(3), cháu
(5), cậu
(45), em
Quang (13),
trai
em Nghĩa
(6),chú
(23), thằng
em (4), bà
Nhân
thím (34),
(4),chị Hai
bà cháu
(21), Út
nó (5),
(23), Chị
ông bà
Nguyễn Thị
ngoại (2),
Sang (1),
má (13),
chị Phạm
cồng em
thị Thanh
(14).
(1), cô Ba
(17), anh
Tám bí thư
huyện ủy
(2), chú
Năm (1),
chị Ba (3),
Đức (14),
anh Tám
(12), chú
Năm (3),
thằng cha
Bảy Lù (1),
đồng chí
Thanh (11).
Anh
Hoàng (54),
Bác sĩ (32),thủ
Đồng chí
Con nhỏ
Chỉ còn
(129), chị
chị Út
trưởng (23),
(102), ông
(12), chân
một lần
156), ông
(12),đồng
đồng chí phó
chủ (23),
dài ngực
175
Các từ xưng hô khác được dùng trong NNNV (số lần)
Tên
Các danh
Các từ chỉ
Các từ
Các từ chỉ
Các từ chỉ chức
Các từ chỉ
truyện
từ thân
quan hệ
chuyển
tên riêng
vụ, nghề nghiệp
nơi chốn
tộc
xã hội
hóa
ta (34),
chí Hoàng
giám đốc (3), sếp
bà chủ
nhọn (1),
mẹ (65),
(28), cô Út
(45), đồng chí
(1), bạn
tráng sĩ
con (34),
(54), chú
đại úy (6), thủ
(34).
cướp tù
cháu (86),
Hoàng (12),
trưởng (6), thầy
(1), con
bác (34),
Cầu (4), chị
(12), đồng chí
quỷ cái
hai má
Bảy Thu
thượng tá (2).
hiện hình
người (1),
con (8),
(3), anh Sáu
thí chủ
chị em
(23), anh
(6), con
(7), ông
Bảy Ngạch
bé (3), cô
(34),ông
(1), Tư
em đỏng
già (12),
Chao (5),
đảnh (1),
bà già (8),
thằng Cầu
con nhỏ
chú
(2), ni cô
quân báo
(87),ba
Đàm Chao
(1).
(97), cụ
(4), Lan
(21), anh
Thanh (12),
(102), em
Tuyến (1),
(124), cậu
cậu Hai (2),
(86), bả
cô Ba (4),
(23),
Tũm (12),
thằng em
chị Mười
(2), chú
(3), Sáu
em (20).
Nguyện
(12), anh
Nguyên (2),
vợ chồng ca
sĩ Mai Linh
(1), chú Bảy
(12).