VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI ______________

HOÀNG THỊ HƯỜNG

PHAN KHÔI

VỚI QUÁ TRÌNH HIỆN ĐẠI HÓA VĂN HỌC

VIỆT NAM NỬA ĐẦU THẾ KỶ XX

LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC VIỆT NAM

HÀ NỘI, năm 2018

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI ______________

HOÀNG THỊ HƯỜNG

PHAN KHÔI

VỚI QUÁ TRÌNH HIỆN ĐẠI HÓA VĂN HỌC

VIỆT NAM NỬA ĐẦU THẾ KỶ XX

Ngành: VĂN HỌC VIỆT NAM

Mã số : 9220121

LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC VIỆT NAM

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC

1. PGS.TS Nguyễn Đăng Điệp

2. TS. Phạm Thị Thu Hương

HÀ NỘI, năm 2018

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số

liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực và chưa từng được ai công bố

trong bất kì công trình nào khác.

Tác giả luận án

Hoàng Thị Hường

MỤC LỤC

Trang phụ bìa

Lời cam đoan

Mục lục

* MỞ ĐẦU ...............................................................................................................................1 1. Tính cấp thiết của đề tài.......................................................................................................1

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án ................................................................2

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án .................................................................3

4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận án ..........................................4

5. Đóng góp mới về khoa học của luận án ............................................................................6

6. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn của luận án ............................................................................6

7. Cơ cấu của luận án ...............................................................................................................7

* Chương 1: TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU................................... 8

1.1. Tình hình sưu tập, phục chế di sản Phan Khôi .......................................................8

1.2 Phan Khôi trong các bài nghiên c ứu, đánh giá ..................................................... 14

* Chương 2: PHAN KHÔI - TỪ KHÁT VỌNG CANH TÂN XÃ HỘI ĐẾN HOẠT ĐỘNG VĂN HÓA, VĂN HỌC .......................................................................... 35

2.1. Hiện đại hóa và sự xuất hiện mẫu hình trí thức duy tân ...................................... 35

2.2. Những vấn đề cơ bản trong canh tân tư tưởng, xã hội, văn hóa của Phan Khôi......... 49

2.3. Hoạt động văn hóa, văn chương c ủa Phan Khôi ................................................. 57

* Chương 3: PHAN KHÔI VÀ VIỆC CANH TÂN THƠ VIỆT.............................. 75

3.1. Những thi thoại của Phan Khôi – thẩm định và thẩm định mới về thơ ............. 75

3.2. Tuyên ngôn về thơ mới của Phan Khôi ................................................................. 89

3.3. Những hiệu ứng từ quan niệm mới về thơ của Phan Khôi ................................. 94

* Chương 4: VĂN XUÔI TỰ SỰ PHAN KHÔI GIỮA CÁC HÌNH THỨC TỰ

SỰ VIỆT NAM NHỮNG NĂM ĐẦU THẾ KỶ XX ................................................. 105

4.1. Tả thực trong văn xuôi tự sự của Phan Khôi....................................................... 105

4.2. Xu hướng luận đề trong văn xuôi tự sự của Phan Khôi..................................... 116 4.3. Trạng thái lưỡng lự trong văn xuôi tự sự của Phan Khôi .................................. 123

* KẾT LUẬN ...................................................................................................................... 147 * DANH MỤC CÔNG TRÌNH CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ * TÀI LIỆU THAM KHẢO

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

1.1. Trong cảnh quan đời sống văn hóa, xã hội Việt Nam nửa đầu thế kỷ

XX – thời kỳ xảy ra “cuộc biến thiên vĩ đại”, trước nguy cơ bị phương Tây

đồng hóa, văn hóa phương Đông buộc phải thích ứng bằng những lựa chọn

khác nhau, Phan Khôi (1887-1959) là một trong những người tiên phong và

quyết liệt chọn hướng đi canh tân. Qua gần chục tờ báo cộng tác hoặc làm chủ

bút, với hàng trăm bài nghị luận, bút chiến sắc sảo, Phan Khôi đã khẳng định

vị trí bậc thầy trong thể báo chí chính luận về xã hội, văn hóa, văn nghệ - tạo

tiền đề cho cuộc cách tân, hiện đại hóa của văn hóa và văn học Việt Nam.

Ông được định vị là người mở đường cho loại hình phê bình văn học ở nước

ta theo hướng dân chủ hóa và hội nhập Đông –Tây. Vai trò của ông trong

trong việc tìm hướng đi mới cho thơ Việt hiện đại cũng đã được khẳng định.

Tuy nhiên, vì nhiều lí do, suốt một thời gian dài Phan Khôi dường như bị lãng

quên. Những năm gần đây, trong xu thế đổi mới, di sản của Phan Khôi đã

được phục chế khá đầy đủ, cung cấp cơ sở cho việc đánh giá lại hiện tượng

này trong đời sống văn hóa, văn học Việt Nam những năm đầu thế kỷ XX.

1.2. Trong chặng đường hiện đại hóa văn hóa, văn học, đến những năm

quan niệm và cách viết hiện đại. Song đây là một quá trình chuẩn bị lâu dài và

cần đến những nhân tố mang tính đột phá, Phan Khôi chính là người đảm

đương vai trò đó. Theo nhận định của Lại Nguyên Ân, Phan Khôi hiện diện

trước xã hội và cuộc đời chỉ với tư cách nhà báo nhưng qua báo chí, Phan

Khôi đã chủ trương đổi mới văn học một cách mạnh mẽ, thậm chí hình thành

riêng cho mình quan niệm rất hiện đại, đem đến cú hích đáng kể, tạo tiền đề

1930-1940, văn học Việt Nam được xem là chín muồi với sự định hình về

1

cho văn học Việt Nam đi tới hiện đại hóa. Hơn nữa, hiện đại hóa ở Việt Nam

những năm đầu thế kỷ XX là một sự chuyển đổi trên mọi phương diện, từ

quan niệm văn chương đến việc hình thành các hình thức viết mới, Phan Khôi

đã có vị trí ra sao trong toàn bộ công cuộc đổi thay đó? Đấy là vấn đề cần

được tiếp tục tìm hiểu, giải quyết.

1.3. Hiện đại hóa là một vấn đề mang tính qui luật, nhưng ở trường hợp

Việt Nam, nó còn là sản phẩm của quá trình thực dân hóa, là quá trình nhiều

thế hệ trí thức kiếm tìm và kiến tạo bản sắc dân tộc trong tình cảnh vong

quốc. Hơn nữa, Việt Nam đi về phía hiện đại, nhập vào quỹ đạo chung của cả

thế giới từ truyền thống văn hóa vùng Đông Á trong tình thế bị áp đặt. Tình

huống đó khiến cho tiến trình hiện đại hóa của Việt Nam trở thành một bước

chuyển bất thường, và ở đó nhiều giá trị truyền thống buộc phải bị phán xét,

thậm chí chối bỏ trong khi nhiều giá trị ngoại lai khác được thừa nhận, cổ súy

du nhập vào đời sống tinh thần dân tộc. Trạng thái phức tạp này được hiện

hữu trong nhiều trường hợp mà Phan Khôi là đại diện tiêu biểu.

Vì vậy, khảo sát, tìm hiểu Phan Khôi với quá trình hiện đại hóa văn học

Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX là một công việc cần thiết để đánh giá đúng vị

trí, vai trò của Phan Khôi trong lịch sử văn học dân tộc; đồng thời cung cấp

một cách nhìn khách quan, toàn diện hơn về một hiện tượng văn hóa – văn

học Việt Nam, để Phan Khôi không còn là “người xa lạ”.

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án

2.1. Mục đích nghiên cứu:

Khảo sát, phân tích những hoạt động văn học, bao gồm cả báo chí trên

toàn bộ cuộc đời cầm bút của Phan Khôi để hiểu đúng vị trí văn học sử và

đóng góp của ông đối với quá trình hiện đại hóa văn học Việt Nam ở nửa đầu

thế kỷ XX.

2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

2

- Khảo sát, phân tích tác phẩm (báo chí, văn xuôi tự sự, thơ, những dịch

phẩm...) của Phan Khôi từ cái nhìn đồng đại và lịch đại.

- Phân tích, biện luận ý nghĩa lịch sử của các tác phẩm đó với tư cách một

bộ phận trong tổng thể hoạt động văn hóa – xã hội của Phan Khôi, từ đó đánh

giá đóng góp của ông đối với quá trình hiện đại hóa văn học Viêt Nam những

năm nửa đầu thế kỷ XX.

3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu

- Luận án chú trọng nghiên cứu các lĩnh vực hoạt động tư tưởng, văn học

và báo chí của Phan Khôi (về báo chí tập trung vào các bài viết mang tính

phản biện xã hội, tranh luận văn chương; về sáng tác văn học tập trung vào

những tác phẩm mang tính mở đường và những bài viết thể hiện cách tân về

quan niệm và lối viết).

- Đặt hoạt động sáng tác văn học và báo chí của Phan Khôi trong bối cảnh

hiện đại hóa văn học Việt nửa đầu thế kỷ XX.

3.2. Phạm vi nghiên cứu

- Tất cả sáng tác văn học của Phan Khôi bao gồm: truyện ngắn, tiểu thuyết,

thơ (sáng tác những năm đầu thế kỷ XX, đặc biệt từ 1918 đến 1940)

- Các tác phẩm báo chí của Phan Khôi liên quan đến vấn đề cách tân tư

tưởng, đổi mới cách viết, đổi mới hình thức viết, và quan niệm về nghệ thuật

- Các dịch phẩm của Phan Khôi.

Bên cạnh đó, tác phẩm báo chí và văn học của một số nhà văn, nhà báo

cùng thời với Phan Khôi được dùng để so sánh và đối chiếu.

văn chương...

4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

4.1. Phương pháp luận: Như trên đã nói, cuộc đời cầm bút của Phan

Khôi nằm trong quá trình hiện đại hóa văn hóa và văn chương Việt Nam đầu

3

thế kỷ XX. Tức là các hoạt động văn hóa văn chương của Phan Khôi nằm

trong bước chuyển từ trung đại phương Đông sang cận hiện đại phương Tây

và ở tình thế xã hội Việt Nam bị thuộc địa hóa. Đây cũng là quá trình thay đổi

mang tính cách mạng, hay có thể diễn đạt bằng một khái niệm do Thomas

Kuhn từng đề xuất là quá trình “thay đổi hệ hình” (paradigm shift) [79]. Theo

diễn giải của Kuhn, quá trình thay đổi này đã tạo “một bước chuyển mang

tính cách mạng trong toàn bộ hệ hình tri thức” [207, tr 18], bao gồm: thế giới

quan, khung khổ tri thức, ngôn từ biểu đạt, những tín niệm, giá trị và kỹ thuật

chung,... Chính từ bối cảnh này đòi hỏi vấn đề hiện đại hóa ở Phan Khôi cần

được soi sáng từ quan niệm về sự thay đổi hệ hình.

Thêm nữa, biểu hiện của biến động hệ hình đó lại là hệ quả của nhiều tác

nhân chi phối, như quyền lực chính trị, truyền thống chung, trải nghiệm cá

nhân,... Điều này cho thấy các hoạt động văn hóa nói chung, văn chương nói

riêng của Phan Khôi cũng phải được nhìn nhận, diễn giải như một hoạt động

diễn ngôn trong thời kỳ thực dân của Việt Nam: hiện đại hóa trên nền tảng

của văn hóa Đông Á ngót nghìn năm, và từ toàn bộ tri thức cùng hệ quan

niệm của cá nhân Phan Khôi. Và bản thân Phan Khôi cũng cần được xem là

hệ quả của một kiến tạo xã hội (socical construction), được hình thành trong

sự tương tác giữa bản ngã (sefl) và kẻ khác (other) [163, tr 47].

Bối cảnh diễn ngôn này cũng sẽ là cơ sở để luận án nhìn nhận các hình

thức viết của Phan Khôi theo thi pháp học, gồm thi pháp lịch sử hoặc thi pháp

Bên cạnh đó, việc coi những chuyển đổi đầu thế kỷ XX là một thay đổi hệ

hình cũng đòi hỏi đề tài phải được tiếp cận từ văn hóa học, cụ thể là nhìn nhận

sự nghiệp cầm bút của Phan Khôi nói chung và các vấn đề liên quan đến sáng

tác văn chương ở Phan Khôi nói riêng trong mối liên hệ với các thành tố văn

hóa khác. Đây là hướng tiếp cận được sử dụng xuyên suốt trong quá trình

thể loại và lý thuyết tự sự học.

4

triển khai luận án.

4.2. Phương pháp nghiên cứu: Việc xác lập hướng tiếp cận các hoạt động

văn chương của Phan Khôi như trên sẽ quy định những phương pháp chính để

giải quyết đề tài: phương pháp văn học sử, phương pháp loại hình và phương

pháp liên ngành.

- Phương pháp văn học sử: Luận án sẽ đặt các hoạt động văn học và báo

chí của Phan Khôi trong tiến trình hiện đại hóa văn học Việt Nam nửa đầu thế

kỷ XX, đồng thời phân tích tác động của bối cảnh lịch sử, văn hóa – xã hội

đến quan điểm, tư tưởng sáng tác, tinh thần học thuật của Phan Khôi.

- Phương pháp loại hình: Dựa vào đặc điểm chung của mẫu hình trí thức -

nghệ sĩ duy tân trong giai đoạn giao thời của xã hội Việt Nam để phân tích, lý

giải những hoạt động học thuật của Phan Khôi.

xã hội và nhân văn hiện đại nhằm phân tích, lý giải một cách thỏa đáng hơn những

đóng góp xuất sắc, đa dạng của Phan Khôi đối với quá trình hiện đại hóa văn học

Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX.

- Phương pháp liên ngành: Sử dụng, kết hợp tri thức của các bộ môn khoa học

Bên cạnh đó các hiện tượng văn học sử còn có những yêu cầu riêng, phụ

thuộc vào mục đích nghiên cứu cụ thể của mỗi đề tài, nên trong trường hợp

Phan Khôi, vấn đề hiện đại hóa văn chương còn đòi hỏi những phân tích sâu

vào các hình thức thể loại chính (thơ, văn xuôi), vì thế những gợi ý của lý

người kể chuyện, lời văn) sẽ cần thiết cho quá trình phân tích, luận giải vấn đề.

Ngoài ra trong quá trình triển khai nghiên cứu đề tài, chúng tôi cũng cụ thể

hóa các phương pháp trên bằng một số thao tác, như: so sánh, tổng hợp và

phân tích.

thuyết thi pháp học (thi pháp lịch sử, thi pháp thể loại) và tự sự học (ngôi kể,

5. Đóng góp mới về khoa học của luận án

- Nghiên cứu một cách toàn diện đóng góp của Phan Khôi với tư cách là

5

người mở đường cho quá trình hiện đại hóa văn học Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX.

- Góp phần đánh giá chính xác vị trí văn học sử của Phan Khôi trong diễn

trình văn học Việt Nam.

- Cung cấp nguồn tài liệu tham khảo về văn học Việt Nam nửa đầu thế kỷ

XX và tác giả Phan Khôi.

6. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn của luận án

6.1. Ý nghĩa lí luận

- Luận án góp phần đánh giá đầy đủ hơn con đường hiện đại hóa văn

chương dân tộc, bổ sung thêm một tiếng nói vào việc tìm hiểu tính quy luật và

tính cụ thể của lịch sử phát triển một giai đoạn.

- Vận dụng một số gợi dẫn của lý thuyết hệ hình, quan niệm diễn ngôn khi

tìm hiểu tác phẩm Phan Khôi trong bối cảnh hiện đại hóa Việt Nam nửa đầu

thế kỷ XX, luận án sẽ là một khẳng định tính tích cực cho việc dẫn nhập các

lý thuyết này vào thực tiễn văn học sử Việt Nam, đồng thời cũng có thể có

những đề xuất hoặc điều chỉnh nhất định với bộ khung của các lý thuyết đó.

6.2. Ý nghĩa thực tiễn

- Các kết quả của luận án sẽ góp phần minh định lại một số nhận xét, đánh

giá hoặc chưa đúng, hoặc quá khe khắt về Phan Khôi. Kết quả nghiên cứu sẽ

là nguồn tham khảo cho việc “phục chế” những trường hợp tác giả bị lãng

quên khác của văn học Việt Nam.

chung, chính vì vậy, đây cũng sẽ là một tham khảo cho hoàn cảnh toàn cầu

hóa hiện tại của Việt Nam.

- Hiện đại hóa là một bài học đặc biệt đối với sự phát triển dân tộc nói

7. Cơ cấu của luận án

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, và Tài liệu tham khảo, nội dung chính của

luận án được triển khai thành bốn chương:

6

Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu

Chương 2: Phan Khôi - từ khát vọng canh tân xã hội đến hoạt động văn

hóa, văn học

Chương 3: Phan Khôi và việc canh tân thơ Việt

Chương 4: Văn xuôi tự sự của Phan Khôi giữa các hình thức tự sự Việt

Nam những năm đầu thế kỷ XX

Về nguyên tắc, việc định vị Phan Khôi trong tiến trình hiện đại hóa văn

học Việt Nam cần được tiến hành ở các phạm vi chính, là phê bình và sáng

tác văn chương. Chương 3 và 4 của luận án thực hiện nhiệm vụ khảo sát, đánh

giá Phan Khôi trong sự hình thành hai hình thức quan trọng nhất của văn học

hiện đại là thơ mới và văn xuôi, tức là định vị Phan Khôi trong phạm vi sáng

tác. Còn tư cách phê bình ở Phan Khôi trong sinh hoạt văn chương sẽ được

đặt ở chương 2, mà không thiết kế thành một chương riêng, vì trên thực tế

Phan Khôi luôn tranh luận, phê bình bằng báo chí và ông vốn không chuyên

tâm về văn chương, văn chương chỉ thành mối lưu tâm của Phan Khôi khi nó

hàm chứa hoặc liên quan đến các vấn đề canh tân xã hội, canh tân tư tưởng

mà ông đang cổ súy. Nói cách khác, luận án đặt tư cách phê bình văn chương

7

của Phan Khôi trong tư cách nhà phản biện xã hội, tư tưởng Phan Khôi.

CHƯƠNG 1

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU

Phan Khôi là một cây bút đặc biệt nhiệt thành trong đời sống báo chí,

văn học, văn hoá Việt Nam những năm đầu thế kỷ XX. Riêng trong văn học

sử Việt Nam, Phan Khôi chiếm một vị trí đặc biệt. Song vì một số lí do, việc

tiếp cận và tìm hiểu tác phẩm của ông lại khá dè dặt. Thậm chí một thời gian

dài (hơn ba mươi năm), Phan Khôi còn phải chịu những tổn thất nặng nề về

nghề nghiệp và nhân phẩm. Tuy nhiên, khi những thiên kiến chính trị qua đi,

Phan Khôi đã trở lại và thành một đề tài luận bàn hấp dẫn.

1.1. Tình hình sưu tập, phục chế di sản Phan Khôi

Trước tác của Phan Khôi khá đa dạng, phong phú song trước năm 1945

hoạt động chủ yếu của ông là viết báo nên hầu hết tác phẩm được công bố

trên các tờ báo. Và vì báo chí là một hình thức thông tin, nên bên cạnh ưu

điểm cập nhật, phục vụ tức thời thì loại hình viết này cũng phải chịu đựng số

phận “đoản mệnh”, các bài báo của Phan Khôi không là ngoại lệ. Bên cạnh

đó, do những quan điểm sau này về văn nghệ (trong thời kỳ Nhân văn giai

phẩm, 1955-1956), Phan Khôi bị cách ly và không được quyền công bố bài

viết thì không chỉ Phan Khôi ra đi hết sức lặng lẽ (1959) mà phần lớn di sản

Ở thời điểm này, nhìn lại, có thể thấy những ấn phẩm của Phan Khôi

được xuất bản trong khoảng thời gian ông còn sống gồm:

- Năm 1936, tác phẩm Chương Dân thi thoại do Phan Khôi thực hiện,

trích in những bài nói chuyện về thơ của ông trong Nam âm thi thoại đã đăng

trên các báo Nam Phong tạp chí, Đông Pháp thời báo, Thần chung, Phụ nữ

của ông bị lãng quên trong đời sống văn nghệ, đặc biệt là ở miền Bắc.

tân văn, Trung lập báo từ năm 1918–1931. Năm 1996, Nhà xuất bản Đà Nẵng

8

đã in lại cuốn sách này.

- Năm 1939 Nhà xuất bản Tân Dân (Hà Nội) đã cho ra mắt tiểu thuyết

xã hội Trở vỏ lửa ra.

- Năm 1950, hầu hết các bài nghiên cứu về tiếng Việt của Phan Khôi

trong thời gian ông làm việc ở Ban Ngôn ngữ văn tự của Hội Văn hóa Việt

Nam được tập hợp in thành sách với nhan đề là Tìm tòi trong tiếng Việt. Sau

đó Phan Khôi đã sửa đổi, bổ sung thêm một số nội dung vào cuốn Tìm tòi

trong tiếng Việt và đổi tên thành Việt ngữ nghiên cứu (được nhà xuất bản

Văn nghệ in và phát hành vào năm 1955). Đến năm 1977, tác phẩm này được

nhà xuất bản Đà Nẵng in lại. Trong lần tái bản này, giáo sư Hoàng Tuệ đã

nhận xét, đánh giá cao công trình nghiên cứu về ngôn ngữ này của Phan Khôi

và đề nghị “cần đưa vào tủ sách của các nhà nghiên cứu ngôn ngữ học hiện

nay, đặc biệt các sinh viên đại học khoa Ngữ văn” [71, tr 13]. Đây có thể coi

như một thăm dò cho việc phục chế di sản Phan Khôi sau này.

- Năm 1956, Nhà xuất bản Văn nghệ, Hà Nội xuất bản tác phẩm dịch

của Phan Khôi Tuyển tập tạp văn Lỗ Tấn; Thi thiên, Châm ngôn, Nhã ca

(các chương trong Kinh thánh Tin lành)...

Thanh Lãng trong hai công trình Phê bình văn học thế hệ 1932 (năm

1967) và Mười ba năm tranh luận văn học 1932 -1945 (năm 1972) đã có

những thành quả đáng ghi nhận trong việc tìm kiếm di sản báo chí của Phan

người có đóng góp bước đầu trong việc phục chế một phần di sản báo chí của

Phan Khôi.

Còn ở miền Bắc, kể từ sau vụ án Nhân văn giai phẩm, Phan Khôi bị che

khuất sau bức màn lịch sử. Tình hình này chỉ thay đổi sau 1986, nhưng sự

tháo bỏ định kiến khá chậm chạp. Mười năm, từ 1986 đến 1996, chỉ có 2 ấn

Khôi, tập trung ở tờ Phụ nữ tân văn (1929-1934). Như vậy Thanh Lãng là

phẩm của Phan Khôi (Việt ngữ nghiên cứu, Chương Dân thi thoại) được

9

đưa trở lại sinh hoạt văn hóa văn chương, và đó cũng là những tác phẩm

không mấy gai góc, và ít đại diện cho tính cách và hiểu biết của ông.

Năm 1998, tạp chí Tao Đàn (trọn bộ 2 tập) do Nguyễn Ngọc Thiện và

Lữ Huy Nguyên sưu tầm, tuyển chọn cũng đã đưa vào 6 bài viết của Phan

Khôi viết năm 1939 như: “Khái luận về văn học chữ Hán ở nước ta”, “Người

Việt Nam với óc khoa học (về sự phân loại)”, “Tục ngữ, phong dao và địa vị

của nó trong văn học”, “Tôi với thi sĩ Tản Đà”, “Một cái vũ trụ quan còn mờ

tối và yếu đuối: Khổng Tử chẳng duy vật mà cũng chẳng duy tâm”, “Vận ngữ

với thơ”. Những bài này đã được Lại Nguyên Ân đưa vào trong công trình

sưu tập Phan Khôi tác phẩm đăng báo 1938-1942, xuất bản năm 2017.

Như vậy, nhờ công sức của Thanh Lãng, Nguyễn Ngọc Thiện, Lữ Huy

Nguyên, một số tác phẩm đăng báo, đặc biệt là những bài nghị luận về văn

chương của Phan Khôi đã được phát hiện lại và công bố tới độc giả. Tuy

nhiên số lượng không nhiều, chỉ đến khi nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân công

bố hàng loạt kết quả sưu tầm thì công cuộc “phục chế” di sản Phan Khôi mới

thực sự bắt đầu. Đó là bộ sách gồm 10 cuốn, sưu tập các tác phẩm báo chí của

Phan Khôi từ năm 1928 đến 1942 theo năm công bố, cụ thể như sau:

- Phan Khôi tác phẩm đăng báo 1928, được Nhà xuất bản Đà Nẵng ấn

hành, năm 2003, gồm 450 trang tập hợp những bài Phan Khôi đăng trên Đông

Pháp thời báo ở Sài Gòn, thường ký bút danh C.D. (viết tắt tên hiệu Chương

Khôi và Diệp Văn Kỳ ký chung bút danh Tân Việt, T.V.

- Phan Khôi tác phẩm đăng báo 1929, cũng được ấn hành bởi Nhà

xuất bản Đà Nẵng năm 2005 với 800 trang sưu tầm những bài Phan Khôi cho

đăng trên các nhật báo Thần chung, Trung lập và tuần báo Phụ nữ tân văn ở

Sài Gòn trong năm 1929.

Dân của ông), đôi khi là K., Kh., trong mục Câu chuyện hằng ngày, Phan

- Phan Khôi tác phẩm đăng báo 1930 (Nhà xuất bản Đà Nẵng, năm

10

2006), gồm 1010 trang tập trung các bài viết của ngòi bút Phan Khôi trong

năm 1930 gắn với các tờ báo Thần chung, Trung lập, Phụ nữ tân văn ở Sài

Gòn, Phổ thông ở Hà Nội.

- Phan Khôi tác phẩm đăng báo 1931 được Nhà xuất bản Hội Nhà văn

phát hành năm 2006, gồm 1030 trang sưu tầm những bài báo trong năm 1931

của Phan Khôi chủ yếu là ở các tờ: nhật báo Trung lập và tuần báo Phụ nữ tân

văn ở Sài Gòn, tuần báo Đông tây ở Hà Nội.

Một loạt các tác phẩm đăng báo của Phan Khôi các năm tiếp theo được

Lại Nguyên Ân sưu tập đều do nhà xuất bản Tri thức phát hành:

- Phan Khôi tác phẩm đăng báo 1932 (2007), tập hợp những tác phẩm

của nhà báo, học giả Phan Khôi (1887 - 1959) đăng trên báo chí trong năm

1932 như Đông tây ở Hà Nội, Trung lập và Phụ nữ tân văn ở Sài Gòn.

- Phan Khôi tác phẩm đăng báo 1933-1934 (2010), tập hợp các bài

viết của Phan Khôi ở mấy tháng cuối của giai đoạn khi ông sống và làm báo

hiệu quả nhất tại Sài Gòn (1927 - 1933), cộng với hơn một năm ông chuyển ra

Hà Nội làm báo, trước khi trở vào Huế hành nghề. Thời gian này, hoạt động

làm báo của ông chủ yếu gắn với các tờ Trung lập, Phụ nữ tân văn và Công

luận (Sài Gòn), Thực nghiệp dân báo và Phụ nữ thời đàm (Hà Nội).

- Phan Khôi tác phẩm đăng báo 1935 (2011), tập hợp các bài báo của

Phan Khôi trong năm 1935 hầu như tập trung trên tờ Tràng An báo ở Huế;

Phụ nữ thời đàm từ 2 năm trước (1933-1934), sự điều hành của ông ở vai trò

chủ bút dù sao cũng giới hạn ở tính chất của một tuần báo văn hóa xã hội, thì

với tờ Tràng An báo, một nhật báo (dù chỉ ra 2 kỳ mỗi tuần) có nội dung tổng

hợp mà trước hết là các vấn đề thời sự chính trị xã hội, vai trò chủ bút là một

trọng trách mà Phan Khôi trải nghiệm lần đầu tiên trong đời làm báo của mình.

đây là tờ báo thứ hai Phan Khôi điều hành với tư cách chủ bút. Nếu với tờ

- Phan Khôi tác phẩm đăng báo 1936 (2012), tổng hợp các bài báo,

11

bài viết trong thời gian Phan Khôi làm chủ nhiệm tuần báo ra ngày thứ Bảy

Sông Hương ở Huế (từ 1/8/1936-27/3/1937).

- Phan Khôi tác phẩm đăng báo 1937 (2013), tổng hợp các bài báo của

Phan Khôi trong năm 1937 gắn với hai tờ báo: tờ Sông Hương ở Huế và

tờ Đông Dương tạp chí ở Hà Nội. Ông tiếp tục phụ trách chủ bút tuần

báo Sông Hương thêm 11 số nữa, sau đó Sông Hương tạm ngừng bán lại giấy

phép cho nhóm cộng sản Phan Đăng Lưu, Nguyễn Cửu Thạnh. Trở lại quê

Quảng Nam ít lâu, ông cùng người vợ trẻ sống ở Huế (chưa rõ các mốc thời

gian) rồi sau đó vào Sài Gòn, dạy học tại trường tư thục Chấn Thanh.

- Phan Khôi tác phẩm đăng báo 1938-1942 (2017), tổng hợp các bài

báo của Phan Khôi trong những năm từ 1938-1942 gắn với một số tờ báo như:

Đông Dương tạp chí, Thời vụ, Dư luận, Ngày nay, Tao đàn, Phổ thông bán

nguyệt san (ở Hà Nội), Dân báo (ở Sài Gòn).

Đây là công trình sưu tầm khổng lồ các tác phẩm báo chí của Phan

Khôi (hơn 1000 bài báo có giá trị trong sự nghiệp làm báo của Phan Khôi) từ

năm 1928 đến năm 1942 – thời kỳ cây bút Phan Khôi sung sức nhất trên diễn

đàn báo chí Việt Nam. Đánh giá về Phan Khôi, Thanh Lãng đã cho rằng: “Sự

nghiệp của Phan Khôi hầu hết còn nằm rải rác trên mặt báo. Mà có lẽ những

gì tinh túy nhất ông, linh lợi nhất nơi ông, hóm hỉnh nhất ở ông, “Phan Khôi

nhất” trong ông... hình như đều chưa được in thành sách mà hãy còn giấu kín

thành quan điểm trên của Thanh Lãnh nên đã bỏ ra bao tâm huyết để sưu tập

các bài báo của Phan Khôi.

Kết quả sưu tầm và biên soạn những bài viết của Phan Khôi là nguồn tư

liệu quý giá, khởi đầu cho những nghiên cứu có hệ thống về một học giả, một

tác gia. Công việc chuyên nghiệp này của Lại Nguyên Ân được Nguyễn Quân

dưới những chồng báo” [82, tr 260]. Lại Nguyên Ân chắn chắn cũng tán

đánh giá cao, coi như là “cuộc phục chế” của một nhà phục chế xuất sắc và có

12

trách nhiệm: “Hơn bẩy nghìn trang sách được xử lý từng từ, từng dấu chấm

phẩy, cái ngoặc đơn ngoặc kép, những chỗ trống bị kiểm duyệt hay những

chữ bị đục đi, bị rách nát... đều được ghi chú cẩn thận (...) Lại Nguyên Ân đã

phục chế chuyên nghiệp cả một lâu đài trí tuệ bị hoang phế (....) mở lại một

mỏ tri thức để ta khai thác” [121, tr 3]. Cách làm này được Lại Nguyễn Ân

thổ lộ là sẽ vừa thuận lợi hơn cho việc bổ sung những tư liệu tìm thấy muộn

sau này, vừa thuận tiện cho việc chuẩn bị một tuyển tập Phan Khôi trong

tương lai” [3, tr 6].

Ngoài ra, qua quá trình sưu tập Lại Nguyên Ân nhận thấy một trong

những nội dung được Phan Khôi rất quan tâm trong các bài viết của mình là

vấn đề nữ quyền nên đã lược tuyển thành một bộ sưu tập riêng về Phan Khôi

vấn đề phụ nữ ở nước ta (Nhà xuất bản Tri thức ấn hành năm 2017), gồm

những bài viết của Phan Khôi về đề tài phụ nữ trong suốt những năm làm báo

(đặc biệt là giai đoạn viết cho Phụ nữ tân văn¸Phụ nữ thời đàm).

Bên cạnh đó, năm 2009, trước tình hình 32 số báo Sông Hương lưu trữ

với gần 80 năm trôi qua gần như hỏng nặng, giấy giòn dễ gẩy, mủn, nhiều trang

bị rách và mất chữ, Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây tổ chức xuất bản

thành sách bộ sưu tập đầy đủ Sông Hương tuần báo ra ngày thứ Bảy do Phan

Khôi làm chủ nhiệm, nhằm bảo tồn một tư liệu trở nên rất hiếm này để phục vụ

cho nghiên cứu lịch sử văn hoá, lịch sử báo chí và văn học Việt Nam.

đặc biệt là những tác phẩm đăng báo đã được sưu tập, phục chế tương đối đầy

đủ. Song, vẫn còn một số bài viết, tác phẩm thơ, truyện ngắn của Phan Khôi,

đặc biệt những sáng tác vào những năm từ 1956 đến 1959 chưa được công bố

thành ấn phẩm độc lập, hệ thống mà chỉ xuất hiện rải rác trong các đề cập, các

công trình của các con ông như Phan Thị Mỹ Khanh, Phan Nam Sinh, Phan

Như vậy, cho đến thời điểm hiện nay tình hình văn bản của Phan Khôi,

13

An Sa, của nhà nghiên cứu Vu Gia, Hoàng Văn Chí... Trong quá trình triển

khai thực hiện vấn đề nghiên cứu, luận án chỉ tiếp nhận và khảo sát tư liệu ở

các ấn phẩm của Phan Khôi đã được sưu tập, xuất bản độc lập.

1.2. Phan Khôi trong các bài nghiên cứu, đánh giá

1.2.1. Những đánh giá, nghiên cứu khái quát về thân thế và sự

nghiệp Phan Khôi

Như đã đề cập trước đó, là một hiện tượng của báo chí, văn học Việt

Nam những năm đầu thế kỷ XX, song trước thời cuộc nhiều biến động, một

thời gian dài Phan Khôi gần như bị lãng quên. Chính vì thế những nghiên cứu

về Phan Khôi đa phần là những bài viết nhỏ, lẻ và chưa mang tính hệ thống.

* Tình hình nghiên cứu về Phan Khôi ở nước ngoài

Mặc dù chưa tìm được tài liệu nước ngoài nào qui mô và có tính hệ

thống nghiên cứu về Phan Khôi nhưng theo thông tin của nhà nghiên cứu Lại

Nguyên Ân, khi thực hiện bộ sưu tập các tác phẩm báo chí của Phan Khôi ông

đã nhận được rất nhiều sự hỗ trợ của những cộng sự người Việt ở nước ngoài.

Bên cạnh đó cũng đã có một số nghiên cứu của tác giả Việt Nam ở nước

ngoài công bố trên các trang website cá nhân.

Đặc biệt, chúng tôi cũng tìm thấy nhận định của một nhà nghiên cứu

người Anh William J. Duiker về Phan Khôi trong cuốn Historical Dictionary

of Vietnam (Từ điển lịch sử Việt Nam), The Scare-crow Press, Inc. Metuchen,

N.J & London, 1989, p.146 (Vu Gia đã dẫn vào trong cuốn Phan Khôi –

tiếng Việt, báo chí và thơ mới) đề cao những đóng góp của Phan Khôi trên

nhiều phương diện: “Được giáo dục theo truyền thống Nho giáo, nhưng cuộc

đời hoạt động của Phan Khôi đã hiến dâng sự uyên bác cho đời và báo chí, trở

thành một nhà phê bình và nhà phê bình văn hóa... Phan Khôi đã đóng góp

quan trọng trong việc phát triển chữ quốc ngữ như là một ngôn ngữ tiện lợi

14

của nước nhà” [36, tr 102].

Và đặc biệt tên tuổi Phan Khôi đã được nhắc đến trong chương trình

phát thanh tiếng Việt của đài Radio France Internationale (RFI), cụ thể như:

- Chương trình phát thanh ngày 15-12-1996: Tạ Trọng Hiệp nói về

Phan Khôi - người xa lạ.

- Chương trình phát thanh ngày 22-12-1996: Tạ Trọng Hiệp so sánh

Phan Khôi và Lỗ Tấn

- Chương trình phát thanh ngày 29-12-1996: Tạ Trọng Hiệp nói về thân

thế Phan Khôi và thời đại vùi dập của người trí thức.

- Chương trình phát thanh ngày 05-01-1997: Thụy Khuê giới thiệu

những nét chính trong tư tưởng Phan Khôi và vĩnh biệt Tạ Trọng Hiệp.

- Chương trình phát thanh ngày 06-08-2005: Nói chuyện với nhà phê

bình Lại Nguyên Ân về hoạt động báo chí của Phan Khôi tại Nam Kỳ.

- Chương trình phát thanh ngày 13-08-2005: Nói chuyện với nhà phê

bình Lại Nguyên Ân về hoạt động của Phan Khôi trên các báo Thần chung,

Phụ nữ tân văn và Trung lập.

- Chương trình phát thanh ngày 15-12-2007: Nói chuyện với Lại

Nguyên Ân về sự nghiệp của Phan Khôi.

- Chương trình phát thanh ngày 22-12-2007: Lại Nguyên Ân nói về

hoạt động văn hóa của Phan Khôi.

Ân là đáng chú ý hơn cả. Bên cạnh việc tổng kết các chặng đường làm báo,

tham gia dịch thuật, viết văn của Phan Khôi, Lại Nguyên Ân chủ yếu đề cập

đến những cuộc tranh luận văn học mà Phan Khôi đã khai ngòi trong những

năm 1929-1930 trên các tờ báo trên ở Nam Kỳ. Khi hoạt động ở các tờ báo

này, Phan Khôi đã có những bài viết bàn về vấn đề Khổng giáo có còn thích

Qua các buổi trò chuyện này, những ý kiến, nhận định của Lại Nguyên

dụng cho Việt Nam hay không? Hoặc đưa ra tranh luận sôi nổi về việc có nên

15

viết sách giáo khoa cho trẻ em Nam Kỳ không. Kéo theo đó là việc đặt vấn đề

nên chăng có hai thứ tiếng Việt... Đặc biệt, Lại Nguyên Ân đã nhận xét rằng:

“...Thời gian hoạt động sung sức nhất của ngòi bút Phan Khôi là từ khoảng

1928 đến 1936 (...) Ông là một trong những tác gia rất đáng kể trong lịch sử

báo chí, trong lịch sử tư tưởng cũng như trong lịch sử văn học Việt Nam thế

kỷ XX, một tác gia mà các di sản, do nhiều lí do khác nhau về thời sự chính

trị, cho đến những lý do về khả năng tư liệu, thì gần như là trở nên một người

xa lạ trong con mắt của thế hệ hậu thế...” [133]

Ngoài ra, tại địa chỉ website http://thuykhue.free.fr Thụy Khuê đã dành

một chương rất quan trọng trong Hồ sơ Nhân văn giai phẩm cho trường hợp

Phan Khôi. Nhà báo Thuỵ Khuê đã tập hợp nhiều nhận xét, đánh giá về Phan

Khôi, nêu lại lịch sử hoạt động báo chí và học thuật của Phan Khôi, và đi đến

khẳng định “Phan Khôi là khuôn mặt học giả phản biện duy nhất của Việt

Nam trong thế kỷ XX” [208].

Tạp chí Hợp lưu số 33 tháng 2 & 3 năm 1997 của người Việt ở Mỹ đã

dành một chuyên đề về Phan Khôi tập hợp những bài viết về con người và tác

phẩm Phan Khôi, của các tác giả như Thanh Lãng, Tạ Trọng Hiệp, Nguyễn

Hưng Quốc, Phùng Bảo Thạch, Phan Cừ, Phan An, Vũ Ngọc Phan, đồng thời

giới thiệu những trước tác của Phan Khôi. Đa phần những ý kiến này đều

điểm qua quá trình hoạt động học thuật của Phan Khôi và đánh giá cao vị trí

quả của nhiều nhà văn, nhà biên khảo, và đã giúp độc giả phần nào hình dung

được sự nghiệp đồ sộ và đa dạng của Phan Khôi từng bị chìm khuất một cách

đáng tiếc. Mục đích đó đã được nói rõ trong thư toà soạn là nhằm để các thế

hệ sau này có dịp đọc và học hỏi một tấm gương, một ngòi bút suốt đời sống

ngay thẳng, mạnh mẽ và luôn luôn cầu tiến, cập nhật cái mới.

16

của Phan Khôi trong lĩnh vực báo chí, văn học và cả văn hóa. Đây là thành

Ngoài ra, Đỗ Ngọc Thạch trên Việt văn mới, địa chỉ website

http://newvietart.com năm 2010 cũng có bài giới thiệu khá đầy đủ cuộc đời và

sự nghiệp làm báo, tranh luận học thuật của Phan Khôi.

* Tình hình nghiên cứu về Phan Khôi ở trong nước

Ở miền Nam, Phan Khôi là một cây bút được giới nghiên cứu rất quan

tâm. Năm 1960 trong buổi lễ truy niệm Phan Khôi tại Sài Gòn, Nguyễn Vỹ đã

có bài phát biểu khá đầy đủ về thân thế và sự nghiệp của ông, với những nhận

xét: với vị trí độc đáo trong văn học sử Việt Nam (...); có lối viết văn giản dị,

tự nhiên, thường hay trào lộng, duyên dáng, Phan Khôi nói thẳng thắn những

điều cụ nghĩ, viết thẳng thắn những lời cụ nói, (...); thơ của Phan Khôi ít

nhưng cô đọng..., cách diễn tả ý tứ thơ mới ở chỗ là sâu sắc (...); là nhà văn

chân chính, có tài năng quán xuyến và học thức uyên thâm, tự thấy mình có

một sứ mạng cao cả đối với dân tộc” [201, tr 60-66].

Năm 1969, trên Văn học, số 86, nhân kỷ niệm 10 năm ngày mất của

Phan Khôi, Hoàng Châu Thịnh đã có một tiểu luận nhận định rằng: “bóng

hình Phan Khôi đã xuất hiện sừng sững, trang trọng, khuất lấp nhiều bộ mặt

trong quá trình báo chí Việt Nam từ 1932 đến 1935 [178, tr 76]. Ở phần tổng

kết, Hoàng Châu Thịnh nhấn mạnh vai trò của Phan Khôi trong việc làm cho

xã hội văn minh, tiến bộ.

Phan Thị Nga đã đánh giá rất cao Phan Khôi về ý thức tự trang bị cho mình

vốn tiếng Pháp và cách thức tiếp cận lý giải vấn đề rành mạch, khoa học. Bà

cho rằng Phan Khôi có cuộc tình duyên với cô luận lý (logique).

Song, phải từ những năm cuối thế kỷ XX mới liên tục xuất hiện các bài

viết về Phan Khôi.

Ở miền Bắc, từ năm 1936, trả lời phỏng vấn trên Hà Nội báo, số 10,

Từ góc nhìn gia đình, Phan Thị Mỹ Khanh – con gái Phan Khôi trong

17

hồi ký Nhớ cha tôi, Phan Khôi (xuất bản năm 2001) đã phần nào phác họa

chân dung một trí thức nho học nhưng không mặn mà với những lý thuyết

giáo điều của Nho giáo nên đã quyết định đi theo con đường “duy tân”. Theo

hồi ức của người con gái, Phan Khôi là người tự học bền bỉ và nhờ đó ông

thành người bắt kịp xu thế hiện đại lúc bấy giờ. Khi nhận thức cần phải thay

đổi, ông không ngại học cùng với những người trẻ hơn, học ngay cả khi ngồi

tù, và khi đã có tên tuổi trong làng báo vẫn không ngừng học hỏi…

Và gần đây, năm 2013, con trai của Phan Khôi – Phan An Sa đã cho ra

mắt một cuốn sách Nắng được thì cứ nắng, Phan Khôi từ Sông Hương đến

nhân văn viết về cuộc đời của cha mình (từ vai trò chủ nhiệm tuần báo Sông

Hương đến vai trò chủ nhiệm tuần báo Nhân văn, rồi đi vào văn học sử Việt

Nam dân chủ Cộng hòa với tư cách một trong số những tác gia trọng yếu của

phong trào Nhân văn – Giai phẩm) đã làm sáng tỏ nhiều khuất lấp, chưa được

nhắc đến trong cuộc đời học giả - nhà báo, nhà văn Phan Khôi. Đúng như Lại

Nguyên Ân đã viết (trong lời giới thiệu cuốn sách), đây là một tài liệu đáng

tin cậy, là dịp tốt để nhắc lại và kích thích việc tìm hiểu sâu hơn, hệ thống hơn

về di sản tinh thần, trí tuệ Phan Khôi – một trong những đại diện ưu tú của trí

thức Việt Nam thế kỷ XX. Cuốn sách này của Phan An Sa giúp chúng ta phần

nào hiểu rõ hơn vai trò quan trọng của Phan Khôi trên lĩnh vực báo chí, văn

học, văn hóa tư tưởng Việt Nam suốt các giai đoạn 1900-1930, 1930-1945,

Ngoài ra, các báo điện tử, các trang web cá nhân của một số nhà nghiên

cứu cũng đã có những nhận định và đánh giá về vai trò Phan Khôi trên

phương diện báo chí như bài viết “Những nhà báo tiên phong trên báo chí

tiếng Việt” của Đỗ Ngọc Yên trên trang Văn học quê nhà, mục Văn chương

và dư luận (ngày 20.6.2014) cũng đã khẳng định rằng: “Phan Khôi là một

1945-1954, 1954-1960.

trong những bậc thầy của thể báo chí chính luận về văn hóa, văn nghệ (...).

18

Tính hài hước kết hợp với một tư duy phê phán sắc sảo, đã tạo ra một phong

cách chính luận mang dấu ấn thật sự đậm nét Phan Khôi. Châm biếm giễu

nhại mà không kém phần sắc sảo và thâm thúy, đấy là văn phong bút chiến

của Phan Khôi. Với hàng trăm bài báo phê phán những thói hư, tật xấu của

con người, những bất công trong xã hội thực dân phong kiến... đã đưa ông lên

vị trí hàng đầu trong việc phát triển thể loại văn châm biếm, trào phúng trong

nền văn học cũng như báo chí nước nhà những năm đầu thế kỷ” [212].

Tháng 5 năm 2015 đã có một luận án tiến sĩ nghiên cứu về Những

đóng góp của Phan Khôi đối với báo chí Việt Nam đầu thế kỷ XX của Phạm

Thị Thành (thực hiện tại Học viện Báo chí tuyên truyền), cũng đã đưa ra

những tổng kết, đánh giá về vai trò của Phan Khôi đối với sự phát triển của

báo chí Việt Nam đầu thế kỷ XX, cụ thể là đóng góp đối với phát triển tiếng

Việt trong báo chí và phát triển thể loại tác phẩm báo chí, kỹ năng làm báo.

Đây cũng là một tài liệu giúp chúng tôi có cái nhìn toàn diện, đầy đủ hơn về

những đóng góp của Phan Khôi trên phương diện báo chí.

Gần đây nhất, năm 2017, Ngô Quang Huy một nhà khoa học cùng quê

với Phan Khôi đã cho ra mắt bộ sách gồm 2 tập Tác phẩm Phan Khôi, đọc và

suy ngẫm đã đưa ra những suy ngẫm, nhận định của mình khi đọc tác phẩm

Phan Khôi, đặc biệt chú trọng phân tích những bài báo dẫn đến tranh luận về

luân lý truyền Kiều, vấn đề quốc học, về Nho giáo, về duy tâm và duy vật, về

chế độ phong kiến Việt Nam, về thơ cũ và thơ mới.

1.2.2. Các công trình nghiên cứu trực tiếp về những đóng góp của

Phan Khôi với quá trình hiện đại hóa văn học Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX

1.2.2.1. Những đánh giá, nghiên cứu về tác động của Phan Khôi với

canh tân tư tưởng, sinh hoạt xã hội

Năm 1930, Trần Trọng Kim có bài tranh luận với Phan Khôi “Mấy lời

bàn với Phan tiên sinh về Khổng giáo”, đăng trên Phụ nữ tân văn (số 60),

19

trong đó có nhận xét: “Phan quân là học thức rộng và lại có nhiệt tâm về sự

cải cách của xã hội ta. Nhưng tôi e rằng Phan quân nóng ruột quá, cho nên

muốn vội theo Tây” [82, tr 341]. Như vậy, qua nhận xét này chúng ta nhận

thấy Phan Khôi có tư tưởng rất mới nên không dễ dung hòa được với Trần

Trọng Kim.

Tiếp theo đó, Trần Trọng Kim lại tranh luận với Phan Khôi về vấn đề

Khổng giáo trong bài “Mời Phan tiên sinh trở về nhà học của ta mà nói

chuyện” (Phụ nữ tân văn, số 74, năm 1930). Trần Trọng Kim không đồng

tình với Phan Khôi khi Phan Khôi cho rằng ông và Phạm Quỳnh là “học

phiệt”, và lên tiếng chỉ trích Phan tiên sinh hơi thái quá khi chuộng luận lý

học trong nhìn nhận một số vấn đề về Nho học và khoa học phương Tây.

Năm 1965, trong Việt Nam văn học sử giản ước tân biên (tập 3),

Phạm Thế Ngũ đã giới thiệu đầy đủ bốn đường nét chính trong sự nghiệp

Phan Khôi (Nhà báo/ Bình thơ/ Phản kháng Nho giáo/ Xây dựng văn mới) và

khẳng định những đóng góp của ông ở phương diện tư tưởng: “…Cái óc phê

bình mà ông biểu lộ trên báo thật là khác người và gây không ít ảnh hưởng

trong cuộc tranh luận mới cũ giữa cái buổi xã hội giao thời ấy mà ông đã hầu

như đã đóng vai trò lãnh tụ tư tưởng” [108, tr 266].

Năm 1967, Thanh Lãng, trong Phê bình văn học thế hệ 1932 (tập 2),

cũng đã đề cập đến ý thức khao khát đổi mới của Phan Khôi, rằng: “Ông yêu

phương, ông tìm Tây phương, nhưng ông cũng chẳng chịu để Tây phương

nhổ hết nơi ông những gốc rễ cổ kính đã do Đông phương ăn sâu vào tâm hồn

ông. (...) Cái tổng hợp kỳ diệu ấy, ông không muốn nhờ ai nặn ra nó mà ông

muốn chính ông mò mẫm, nhiều khi rất gian truân, để từ làm lấy cuộc đời

mình” [82, tr 252 – 273]. Vì những mong muốn ấy mà mặc dù xuất thân Nho

Đông phương nhưng ông cũng không thể chịu giam hãm trong cái ao tù Đông

học nhưng Phan Khôi rất nỗ lực trong việc góp phần đưa văn hóa, văn học

20

Việt Nam hướng đến phát triển theo hướng hiện đại hóa.

Năm 1973, Thiếu Sơn trong Nghệ thuật và nhân sinh bên cạnh những

đề cao ngòi bút Phan Khôi trong làng báo Việt thời điểm khoảng năm 1930

khi bài viết của ông được trả nhuận bút cao gấp 5 các bài viết khác, còn khẳng

định cá tính độc đáo khi phân tích các bài viết với những lập luận sắc bén, thể

hiện tư tưởng hiện đại của Phan Khôi: “Đạo Nho người ta cho là khuôn vàng

thước ngọc, là xương tủy của đạo lý dân tộc. Ông Phan Khôi, một nhà nho

chánh thống lại viết cả loạt bài để đả phá đạo Nho cho là một đạo bảo thủ,

phản tiến hóa... [141, tr 355]

Đỗ Lai Thúy đã đề cao Phan Khôi ở khía cạnh là Phan Khôi luôn dám

đặt ra vấn đề để tranh luận (2003). Theo Đỗ Lai Thúy, “vai trò của Phan

Khôi là làm thay đổi quan điểm phê bình, tranh luận – từ độc tài, bạo quyền

sang quyền lực của dân chủ, của trí tuệ. Nhờ đó, tranh luận từ khẩu khí độc

thoại sang khẩu khí đối thoại” [161, tr 94]. Tương đồng quan điểm đánh này,

Huỳnh Hùng trong bài viết “Từ các cuộc bút chiến của Phan Khôi”, trên Xưa

và nay, số 451 cũng đề cao tinh thần “luôn coi trọng lý lẽ, lấy lấy lẽ để tranh

luận nhằm bảo vệ quan điểm của mình” [57, tr 20]

Khi bàn về việc tiếp nhận và ứng dụng phương pháp phê bình văn học

phương Tây, Đào Duy Hiệp (2006), đã đề cao khả năng bao quát các vấn đề

xã hội của Phan Khôi, trong đó có cả văn học và ngôn ngữ. Đào Duy Hiệp

chữ Pháp cũng như văn hóa, văn học hai quốc gia này” [55, tr 65].

Đánh giá về Phan Khôi như một nhà lý luận phê bình có công khai phá

ý thức nữ quyền Việt Nam, Hồ Khánh Vân trong bài “Ý thức nữ quyền và sự

phát triển bước đầu của văn học nữ Nam Bộ trong tiến trình hiện đại hóa văn

hóa dân tộc đầu thế kỷ XX”, trên Nghiên cứu Văn học số 7, (2010), cho rằng:

còn đánh giá “Phan Khôi có trí tuệ, học vấn rất rộng và sâu về cả chữ Hán,

“Phan Khôi đã tiến đến bước tiếp nhận văn học từ ánh sáng tư tưởng nữ

21

quyền, (...) đi vào những vấn đề thuần văn học, thuộc về văn học. Những khai

mở của Phan Khôi có giá trị rất lớn đối với nền phê bình, nghiên cứu theo

khuynh hướng này” [196, tr 81].

Bài viết “Phan Khôi, ngự sử văn đàn” của Nguyễn Đăng Điệp (2008),

đã đưa ra kết luận: “Trong vòng mấy chục năm đầu thế kỷ XX, Phan Khôi là

một cây bút xông xáo và nổi bật. Ông được mệnh danh là “ngự sử văn đàn”.

Các bài báo của Phan Khôi về văn học và văn hóa được nhiều người tìm đọc

vì trong những bài viết ấy, người ta sẽ tìm thấy một vài điều thú vị nào đó. Có

thể, họ thú vị vì sự cẩn trọng của một người uyên thâm Nho học bàn về Nho

giáo, vì tinh thần duy lý và cách phân tích các vấn đề sắc sảo, có thể vì tinh

thần phê phán thấm đầy trong các trang viết của ông và cũng có thể, vì cách

nói rất “gàn” kiểu Phan Khôi. Nỗ lực của Phan Khôi là muốn thúc đẩy nhanh

hơn tiến trình đổi mới, muốn tham góp một tiếng nói mạnh mẽ vì tư tưởng

duy tân” [30, tr 5]. Như vậy có thể xem đây cũng là một ý kiến khẳng định vai

trò của Phan Khôi trên phương diện cách tân về tư tưởng.

Đặc biệt, Đỗ Lai Thúy trong tùy bút chân dung nghệ thuật Vẫy vào vô

tận (2014) khẳng định Phan Khôi đã có những đóng góp đáng kể trong lĩnh

vực học thuật, đặc biệt với vai trò nhà báo. Tuy nhiên Đỗ Lai Thúy cho rằng,

giống như các học giả khác, Phan Khôi cũng mang trong mình một bi kịch,

mà bi kịch lớn nhất là những tư tưởng, cách nghĩ, cách hành động, có phần

không tương thích với thời đại đang sống. Nhận định như vậy nghĩa là Đỗ Lai

luôn thường trực và Phan Khôi không bao giờ hết trăn trở về điều đó.

1.2.2.2. Những đánh giá, nghiên cứu về ảnh hưởng của Phan Khôi đối

với ngôn ngữ dân tộc

Đa phần các ý kiến đều ghi nhận sự đóng góp của Phan Khôi ở phương

diện này. Nhưng bên cạnh đó cũng không phải không có những ý kiến phê

Thúy hàm ý khẳng định ở Phan Khôi những tư tưởng cách tân vượt thời đại

22

phán, đặc biệt là chỉ ra cụ thể những tồn tại ở Việt ngữ nghiên cứu của Phan Khôi.

Văn Tân khi đưa ra “Vài ý kiến về quyển “Việt ngữ nghiên cứu” của

Phan Khôi” đã không tán thành cách tiếp cận của Phan Khôi ở nhiều vấn đề

trong công trình nghiên cứu về ngôn ngữ này:

- không tán thành Việt ngữ là một thứ ngữ ngôn đơn âm mà có rất

nhiều tiếng đa âm.

- không đồng ý với sự phân định khắt khe, máy móc về cấu tạo ngữ

pháp vì như vậy sẽ làm mất nghĩa của ngữ ngôn.

- không tán thành Việt ngữ không có đại danh từ trung lập

- không tán thành Việt ngữ chỉ diễn tả theo thứ tự thời gian

Qua những phân tích dẫn chứng trong Việt ngữ nghiên cứu, Văn Tân

nhận xét Phan Khôi “tỏ ra rất thần phục ngôn ngữ ngoại quốc, đặc biệt là

Pháp ngữ” [150, tr 30]

Khác với quan điểm của Văn Tân, năm 1997, trong Hợp lưu, số 33,

Đoàn Xuân Kiên đã có bài đánh giá “Phan Khôi nghiên cứu Việt ngữ”. Tác

giả nhận định Việt ngữ nghiên cứu của Phan Khôi “tuy chưa phải là cuốn

sách có mạch lạc, mà chỉ là tập hợp một số bài nghiên cứu rời về một số vấn

đề ngữ pháp tiếng Việt...” nhưng “quyển sách khiên tốn của Phan Khôi đã

đánh dấu một bước tiến chuyển của nghiên cứu ngữ học Việt Nam ở buồi đầu.

Ngày nay, nhìn lại quyển sách để thấy lại những bước tiến trên con đường tìm

mở đường quan trọng” [76, tr 55-56; NCS nhấn mạnh].

Cũng trên Hợp lưu, số 33 (1997), Bùi Vĩnh Phúc trong bài “nhận xét về

“Việt ngữ nghiên cứu” của Phan Khôi” đồng quan điểm với Đoàn Xuân Kiên:

“Việt ngữ nghiên cứu thật ra chưa có được cái hệ thống của một tác phẩm

nghiên cứu thấu đáo về Việt ngữ. Nó chỉ là tập hợp của mười hai bài viết, đưa

kiếm mà lúc đó, trong hoàn cảnh khó khăn, Phan Khôi đã làm được một việc

ra được một số vấn đề về tiếng và chữ Việt. Tuy nhiên, những vấn đề được

23

Phan Khôi đưa ra – và đặc biệt cái nhìn, sự suy nghĩ và tìm tòi cũng như

những kiến giải của ông về những vấn đề đặt ra ấy – đã cho thấy đó là những

vấn đề đặc sắc” [117, tr 67].

Năm 2007, trên phương diện khẳng định đóng góp của Phan Khôi trong

vai trò bảo vệ và phát triển ngôn ngữ tiếng Việt, “làm cho tiếng Việt nước ta

tiến dần lên đến bậc hoàn mĩ”, bài viết “Học giả Phan Khôi với Việt ngữ

nghiên cứu” in trong tạp chí Xưa và Nay của Nguyễn Văn Khang đã tổng hợp

phân tích các công trình nghiên cứu Việt ngữ của Phan Khôi và cho rằng ông

là một học giả thông thái, đã sớm nhận ra sự vận động của ngôn ngữ, nhận ra

những vấn đề cụ thể của ngôn ngữ học tri nhận trong tiếng Việt, nhận ra đặc

điểm tiết tính của tiếng Việt, quan tâm đến những mảng “có vấn đề” của tiếng

Việt... để rồi từ đó nghiên cứu và có những đóng góp không nhỏ vào sự

nghiệp Việt ngữ học [66, tr 4].

Năm 2008, khi đánh giá về Phan Khôi trong vai trò một nhà Việt ngữ

xuất sắc, Nguyễn Trung Tín với bài viết về “Học giả Phan Khôi – Yêu tiếng

Việt, yêu nước Việt”, đã nhận định: “...Cụ đã làm mọi cách để mở rộng không

gian văn hóa cho xã hội đương thời trên cơ sở bảo tồn những vốn cổ tốt

đẹp…” [165, tr 23]. Theo Nguyễn Trung Tín, Phan Khôi mở rộng không gian

văn hoá bằng sự lựa chọn riêng, “cố gắng dựa vào những vốn liếng quốc hồn,

quốc túy, lấy đó làm căn bản để tư duy tiếp cho thích ứng với thời đại” [165, tr 23].

nhà nghiên cứu đã khẳng định những đóng góp của Phan Khôi trong quá trình

bảo vệ và phát triển ngôn ngữ, “làm cho tiếng Việt nước ta tiến dần đến sự

hoàn mỹ” – đây là tiền đề thúc đẩy văn học tiến nhanh trên con đường hiện đại.

1.2.2.3. Những đánh giá, nghiên cứu về vai trò của Phan Khôi với các

hình thức văn chương hiện đại (Thơ mới, tiểu thuyết, phê bình...)

Qua những ý kiến này có thể thấy, nhìn từ góc độ ngôn ngữ học, các

* Những đánh giá về vai trò của Phan Khôi đối với vấn đề canh tân thơ

24

Việt Nam hiện đại:

Cùng trong năm 1960, đã có một số ý kiến không đề cao giá trị nội

dung, nghệ thuật bài thơ Tình già của Phan Khôi, và đặc biệt đều không cho

rằng đây là bài thơ mới.

Nhận định đáng chú ý trước hết là Minh Kha (trong mục “Giai thoại

văn chương”, đăng trên Phổ thông, số 26, năm 1960) có bài “Thơ Phan Khôi”

mặc dù không phủ nhận vai trò người mở đầu cho lối thơ mới nhưng theo

Minh Kha, bài Tình già “chỉ đọc để... cười chơi, vì nó chỉ là một bài vè,

không chứa đựng một chút “thi vị” nào cả” [65, tr 21]. Thậm chí Minh Kha

còn cho rằng trong Tình già, Phan Khôi dùng toàn tiếng “nôm”, câu 7 và 8

sai niệm luật, “chứng tỏ rằng ông Phan Khôi không phải là một thi sĩ “chánh

hiệu” [65, tr 21].

Tiếp theo ý kiến Minh Kha, Phượng Hải trong bài “Thế nào là thơ mới

và thơ tự do” (đăng ở Phổ thông, số 35, năm 1960) có ý phủ nhận bài Tình

già của Phan Khôi là thơ mới. Phượng Hải cho là đó “không phải là một bài

thơ, mà chỉ là một bài văn vần bởi nó không có cái nét duyên dáng của nàng

thơ, nhưng tại sao người ta thường hay nhắc nhở tới nó? Có phải bởi cái lý do

nó là tên lính tiền phong của Thơ mới?” [42, tr 87]. Điều này cho thấy

Phượng Hải không đánh giá Tình già ở khía cạnh đóng góp về tư tưởng, nghệ

thuật mà đánh giá ở vai trò tiên phong của nó đối với phong trào Thơ mới.

lộ ở bài viết “Tuấn, chàng trai đất Việt, 1910-1960” đăng ở Phổ thông số 164

kể lại tình tiết đã gặp Phan Khôi ở Hà Nội (trong tòa báo Phụ nữ thời đàm),

khi bàn về bài Tình già, Phan Khôi đã chính thức bác bỏ ý kiến cho rằng

Phần nào đồng quan điểm với Phượng Hải, Nguyễn Vỹ trong một tiết

Tình già là thơ mới, Phan Khôi khẳng định chắc chắn rằng bài này ông làm

theo điệu Thơ cổ phong của Tàu. Vậy qua chi tiết này Nguyễn Vỹ như muốn

trưng ra một dẫn chứng để phản bác những quan niệm khẳng định Tình già

25

của Phan Khôi là thơ mới.

Bên cạnh đó, một số ý kiến khác lại đề cao vai trò cách tân thơ hiện đại

của Phan Khôi.

Năm 1942, Hoài Thanh – Hoài Chân trong bài “Một thời đại trong thi

ca” của công trình Thi nhân Việt Nam đã khẳng định vị thế như “một vị

tướng quân” của Phan Khôi trong cuộc cách mạng thay đổi thi ca Việt, vì sự

xuất hiện của Tình già đã làm cho “một số đông thanh niên trong nước bỗng

thấy mở ra một góc trời vì cái táo bạo dấu diếm của mình đã được một bực

đàn anh trong văn giới công nhiên thừa nhận” [154, tr 20]

Sau này, khi bàn về vai trò của Phan Khôi đối với sự phát triển của thơ

ca Việt Nam trong Tạp chí Non nước (năm 2002), Huỳnh Văn Hoa cũng đã

khẳng định: “Những đề xướng, những dò tìm, những trăn trở của Phan Khôi

đã góp phần làm nên diện mạo của thơ ca giai đoạn 1932-1945” [56, tr 84]

Đặc biệt, Vu Gia trong công trình Phan Khôi – tiếng Việt, báo chí và

thơ Mới (2003), qua 15 bài viết, đã khảo sát khá toàn diện và công phu về vai

trò nhà báo, nhà văn hóa, nhà văn, nhà thơ của Phan Khôi - người con lỗi lạc

xứ Quảng – “huyền thoại của một thời” [36, tr 7]; một con người “làm chủ

được bản ngã” để dấn thân vào con đường làm báo đình đám với hàng loạt bài

viết gây đột phá về mặt tư tưởng như bàn về “Vấn đề đấu tranh nữ quyền”,

“Tranh luận về Nho giáo”, “Tranh luận về quốc học”, “Tranh luận về Duy

Khôi với vai trò của một “thi sĩ có tài năng vững chãi”, “người bảo vệ ngôn

ngữ”, “tạo dấu ấn rõ nét trong lòng bạn đọc” với những sáng tác cả thơ,

truyện ngắn và dịch thuật. Đánh giá Phan Khôi trên phương diện thi ca, Vu

Gia cũng cho rằng: “Bài thơ Tình già ra đời không chỉ gây tranh cãi về mặt

học thuật khắp ba miền Nam, Trung, Bắc mà còn gợi đề tài hấp dẫn cho các

tâm – Duy vật”; và đặc biệt đã có những bài viết, những nhận định về Phan

26

cây bút văn xuôi tung hoành trên giấy” [36, tr 300].

Ngoài ra, tháng 9 năm 2007, trong Xưa và Nay, Nguyễn Q. Thắng cũng

đã khẳng định “Phan Khôi người đề xướng Thơ mới” bằng việc đưa ra hàng

loạt những đóng góp của Phan Khôi trên lĩnh vực văn học từ 1908 cho đến

năm 1955. Qua phân tích, tác giả đã khẳng định Phan Khôi là “cây bút xông

xáo có một không hai trong lịch sử văn học Việt Nam hồi đầu thế kỷ XX”

[157, tr 10].

Cũng trong Xưa và Nay tháng 9 năm 2007, Lê Minh Quốc trong bài

viết “Nghĩ về Phan Khôi” cho rằng: “Thật kỳ lạ cho lịch sử thi ca Việt Nam

khi lại chọn một nhà báo có đời sống cô độc, một nhà lý luận sắc bén là Phan

Khôi để trao nhiệm vụ mở đầu cho nền Thơ mới. Nói cách khác, người Quảng

Nam đã có công đầu để tạo dựng đường đi cho nền thơ Việt Nam hiện đại”

[126, tr 22]

Như vậy, hàng loạt bài nghiên cứu đã nêu trên đều thống nhất khẳng

định vị trí là người đề xướng phong trào Thơ mới của Phan Khôi. Tuy nhiên

tập hợp khá đầy đủ và đáng chú ý hơn cả là công trình Phan Khôi tiếng Việt,

Báo chí và Thơ mới của Vu Gia.

Đồng quan điểm trên nhưng bằng một kiểu diễn đạt khác, Nguyễn Hữu

Sơn, trong bài Vị thế Phan Khôi trong phong trào Thơ mới – nhìn từ thực tại

Thơ mới 1932-1935, sau khi dẫn dắt chi tiết những hiệu ứng xã hội từ bài thơ

Phan Khôi thì vẫn có phong trào Thơ mới nhưng nhờ điểm tựa Phan Khôi, cú

hích Phan Khôi, trực giác Phan Khôi, tài năng Phan Khôi mà nền thơ mới đã

có ngày khai sinh, mở một thời đại mới trong nền thơ Việt Nam (...) [137, tr

305-306].

Cùng bàn về vai trò Phan Khôi với phong trào Thơ mới Lại Nguyên Ân

Tình già của Phan Khôi, cũng khẳng định rằng: ‘Đương nhiên nếu không có

đã có những kiến giải rất chi tiết về vấn đề Phan Khôi có phải là người khởi

27

xướng phong trào thơ mới hay không. Qua phân tích những ứng xử của Phan

Khôi trong quá trình diễn biến phong trào thơ mới, nhà phê bình đã kết luận

rằng: “Phan Khôi đề xướng và cổ vũ phong trào thơ mới tiếng Việt chủ yếu

không phải với tư cách một nhà thơ đi tìm không gian ngôn ngữ cho sự sáng

tạo của bản thân mình, mà chủ yếu như một nhà hoạt động văn hóa nhận thấy

sự cần thiết giải thoát thi ca tiếng Việt khỏi giới hạn của những khuôn khổ cũ,

mở đường tìm kiếm những không gian ngôn ngữ mới, thích hợp với việc bộc

lộ thế giới cảm xúc trữ tình của con người Việt Nam khi đó bắt đầu bước vào

đời sống hiện đại” [137, tr 350]

Đặc biệt, ngày 06.10.2014, nhân kỷ niệm 127 ngày sinh Phan Khôi, hội

thảo Phan Khôi và những đóng góp trên lĩnh vực văn hóa dân tộc đã được

tổ chức dưới sự hỗ trợ của Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam, Viện Văn học

Việt Nam phối hợp với Liên hiệp các Hội Khoa học kỹ thuật tỉnh Quảng

Nam. Gần 50 tham luận, cùng những ý kiến thảo luận góp phần tôn vinh

khẳng định những đóng góp lớn của Phan Khôi trên lĩnh vực báo chí, văn học,

ngôn ngữ và tư tưởng khai trí, phản biện khoa học xã hội vào cuối thế kỷ XIX

đến những năm 40 của thế kỷ XX. Trong số đó có những ý kiến đề cập đến

vấn đề vai trò của Phan Khôi đối với quá trình hiện đại hóa văn học, cụ thể

đối với phong trào Thơ mới như: nhà báo Vũ Đức Sao Biển với bài viết Phan

Khôi – Người khai phá con đường thơ mới; Ngô Văn Huy với bài viết Bài thơ

Nam; Lê Quang Thái với bài “Tình già” của Phan Khôi là Thơ mới? Vu Gia

với bài Phan Khôi với thơ trào phúng và nghề làm báo… Hầu hết các nhận

định đều hướng đến khẳng định Phan Khôi là người mở đường, người dẫn

đường, khai sáng nền thơ mới dân tộc và hiện đại, đưa nền thơ ca Việt Nam

thực sự bước vào thời kỳ hội nhập Đông – Tây…

“Tình già” – một sáng tạo có tầm ảnh hưởng rộng lớn đến nền thi ca Việt

28

* Những ý kiến đánh giá Phan Khôi như một nhà phê bình:

Đầu tiên phải nhắc đến Lưu Trọng Lư trong bài “Các bậc đàn anh”

đăng trên Tao Đàn số 4, năm 1939, khi viết về một kỷ niệm với Phan Khôi đã

cho rằng Phan Khôi là một nhà Nho đặc biệt, và cách mà ông đi thẳng đến

mọi vấn đề một cách trực diện trong các bài phê bình là kết quả của tấm lòng

“trực – tiệt”.

Thanh Lãng, trong Phê bình văn học thế hệ 1932, (tập 2) khi đánh giá

về Chương Dân thi thoại đã nhận định rằng Phan Khôi đã khá thành công về

nghệ thuật bình thơ lẫn cách dùng từ ngữ, cụ thể là có sự biến hóa về từ: “từ

lối văn trang trọng, điều hòa, thanh lịch, Phan Khôi đi đến cái lối văn chất

phác, cộc lốc, thật thà, làm ra ngớ ngẩn và không ngần ngại dùng đến các

tiếng thô tục”[82, tr 262]. Ngoài ra Thanh Lãng còn chỉ ra đặc điểm tư duy và

phê bình văn chương của Phan Khôi “có tư cách một nhà toán học hơn là một

thi gia (...), “trong tư tưởng, cũng như trong văn cách, ông lúc nào cũng có

thái độ của một nhà toán học” [82 ,tr 264]. Trong bài viết về “Phan Khôi”,

qua điểm lược, phân tích những cuộc tranh luận của Phan Khôi về các vấn đề

quốc học, thơ cũ, thơ mới, duy tâm và duy vật, Thanh Lãng nhận thấy Phan

Khôi “là người có tư tưởng rất mới” (...), “đã khơi ngòi cho cuộc chiến tranh

thơ mới thơ cũ” (...), “sửa chữa những hư đốn, đồi bại đặt được trật tự xã hội

văn học” [82, tr 270-273].

Việt Nam (thời kỳ 1932-1945) Nhà văn phê bình ((1996) đã xác định Phan

Khôi là một nhà phê bình luôn luôn làm chủ bản ngã của mình, đồng thời đã

có những khảo cứu sơ lược về sự nghiệp phê bình trên báo chí của ông.

Nhà văn Nguyễn Văn Xuân trong bài giới thiệu cho tập Chương Dân

Mộng Bình Sơn và Đào Đức Chương trong cuốn khảo cứu văn học

thi thoại của Phan Khôi, khi đề cập đến tính cách và tinh thần luôn hướng đến

đổi mới của Phan Khôi đã khẳng định rằng: “Nêu cái gương sáng của một

29

người thức thời, biết cựu học không đủ để thực hiện công cuộc đổi mới nên

đã ra sức học Pháp văn và nhờ đó theo kịp Tân trào (....). Để củng cố tư duy

mới, ông đã dấn bước vào đường luận lý học khúc mắc, xa lạ nhưng có thể

thích hợp với bản tính “Quảng Nam hay cãi”... [73, tr 14].

Về “Phong cách nghị luận, bút chiến của Phan Khôi”, Nguyễn Đăng

Mạnh khẳng định rằng: “Ủng hộ tân học, hướng hẳn về phương Tây hiện đại”

[137, tr 113] là đặc trưng của ngòi bút Phan Khôi.

Nguyễn Ngọc Thiện trên Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam (2009) qua bài

“Thử nhìn lại quan niệm văn học của Phan Khôi qua một bài báo” đã cho rằng

“ông rất trực tính cảnh báo về nguy cơ hạn chế sự phát triển văn nghệ” [176,

tr 64]. Vấn đề mà Nguyễn Ngọc Thiện đề cập là bài báo “Phê bình lãnh đạo

Văn nghệ” ở Giai phẩm mùa Thu, tập 1 cho thấy sự nhìn nhận rất khách quan

về phong cách phê bình thiên về lý, rất thẳng thắn, cầu thị của Phan Khôi.

Năm 2014, Nguyễn Thị Thanh Xuân trong bài viết “Phan Khôi làm văn

học” sau khi chỉ ra những điểm khá độc đáo trong tư duy tiếp cận ở Phan

Khôi trong các thể loại văn chương như thơ, truyện ngắn, tiểu thuyết, phê

bình, dịch thuật... đã khẳng định rằng: Phan Khôi thường xuyên cổ vũ tinh

thần tự do, tinh thần “khai phóng” và dân chủ (...); (...) không mong chờ,

không để mình lệ thuộc vào ngoại cảnh,... từng cá nhân nên kỳ vọng vào

chính mình” [137, tr 426-427].

sáng tác tiểu thuyết:

Những người cùng thời với Phan Khôi đã có những ý kiến khá trái

chiều, có ý kiến đề cao Phan Khôi song ngược lại cũng có những ý kiến phản

bác gay gắt.

Cụ thể là năm 1932, Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu đã kiên quyết “Bài trừ

* Đánh giá Phan Khôi trên phương diện đề xuất lý thuyết và thực hành

cái nạn Phan Khôi ở Nam Kỳ” trên An Nam tạp chí, số 29. Theo Tản Đà, cần

30

phải bỏ Phan Khôi ra khỏi diễn đàn ngôn luận, và còn muốn đưa Phan Khôi ra

tòa án công luận quốc dân trong ba kỳ về tội: “dám lạm dụng bốn chữ “ con

Rồng cháu Tiên” làm quảng cáo cho cuốn tiểu thuyết kia” [51, tr 4], tức là tác

phẩm Cay đắng mùi đời của Hồ Biểu Chánh. Tản Đà cho rằng Phan Khôi có

ý đại bất kính với dân tộc và kết tội chém đầu.

Năm 1933, trên Văn học tạp chí, số 16, Chất Hằng đã có một bài viết

dài kỳ với tiêu đề “Ấm Hiếu không thể làm Tú Khôi hay là... Một cái tỉ hiệu

luận giữa Phan Khôi và Nguyễn Khắc Hiếu” thuật lại những tranh luận của

Tản Đà về các bài báo của Phan Khôi và cho rằng đó là do mâu thuẫn khuynh

hướng về văn chương, xã hội, luân lý. Chất Hằng đánh giá Phan Khôi có “bộ

óc cũ pha mới, hay nói là bộ óc đã “phóng thích” (affranchi) (...), Phan Khôi

do lò Khổng Mạnh đào tạo nên, nhưng khi bị phong trào kích thích, liền biết

tiếp thu ngay lấy cái học mới ở trong sách Tàu nên có khuynh hướng về khoa

học” [46, tr 423]. Chính vì khuynh hướng ấy nên Chất Hằng nhận ra: “về hình

thức, văn ông thoát ly được cái thế lực của Hán văn mà chịu ảnh hưởng Pháp

văn (...), câu rõ ràng, sáng sủa, gẫy gọn” [46, tr 423]. Nhưng Chất Hằng đánh

giá người có óc thực nghiệm như Phan Khôi tất nhiên là ít tình cảm nên cảm

giác về cái bản ngã cũng kém nên không hay làm thơ mà ưa nghiên cứu thơ.

Nếu có làm thơ thì thơ ông cũng “hùng hổ” như ông hay là khắc khổ như văn

xuôi của ông, hoặc nhạt nhẽo vô duyên như hình dáng ông.

sở trường của Phan Khôi, Vũ Ngọc Phan còn đánh giá cao việc sử dụng nhiều

ngôn từ địa phương, góp phần làm giàu có cho tiếng Việt trong tiểu thuyết

Năm 1942 trong Nhà văn hiện đại, bên cạnh khẳng định bút chiến là

Trở vỏ lửa ra.

Sang những năm đầu thế kỷ XXI, Phan Mạnh Hùng khi bàn đến vấn đề

“Phan Khôi viết tiểu thuyết”, qua trường hợp tiểu thuyết Trở vỏ lửa ra đã cho

rằng “sự hấp dẫn của tác phẩm trước hết thể hiện qua việc tác giả sử dụng

31

ngôn ngữ gần với khẩu ngữ. Một thứ khẩu ngữ mang đậm sắc thái vùng

miền...” [137, tr 321]. Nhà nghiên cứu cũng cho rằng tinh thần hiện đại của

tiểu thuyết này là vấn đề cổ xúy nữ quyền.

Những phát biểu như vậy cho thấy, Phan Khôi trong giai đoạn trước

1932 chắc chắn có những ảnh hưởng đối với ý hướng tôn chỉ và sáng tác của

văn nhóm theo xu thế đổi mới.

Bên cạnh đó, trên phương diện đề xuất quan điểm lý thuyết và thực

hành sáng tác truyện ngắn của Phan Khôi cũng có một số nhận định như:

Hoàng Thị Huế, khoa Ngữ Văn, Trường Đại học Sư phạm Huế với bài

viết “Truyện ngắn Phan Khôi trong tiến trình hiện đại hóa văn xuôi Việt

Nam” (2014) đã cho rằng nhìn từ ngôn ngữ và nghệ thuật trần thuật, Phan

Khôi đã có một số đóng góp cho công cuộc hiện đại hóa văn hóa lẫn văn học

Việt Nam những năm đầu thế kỷ XX. Tác giả đã chỉ ra bản thân nhan đề

truyện ngắn Ông Năm Chuột đã phản ảnh tính chất cầu nối – giao thời sâu

sắc (lấy tên nhân vật làm tên tác phẩm là sự tiếp thu thể tài vốn có của văn

học trung đại, nhưng đồng thời vẫn mang dấu ấn hiện đại do cách đặt tên nhân

vật mang mang màu sắc nửa hài hước, nửa nghịch dị). Bên cạnh đó điều đáng

quan tâm hơn, tác giả cho rằng qua truyện ngắn này, đóng góp của Phan Khôi

trên phương diện ngôn ngữ là rất lớn. Ngôn ngữ đối thoại, độc thoại, lời trữ

tình ngoại đề... văn phong gãy gọn, dễ hiểu dễ gần với ngôn ngữ đời sống

đó, tác giả bài viết cho rằng lối viết này mở ra khuynh hướng mới cho ngôn

ngữ văn xuôi Việt Nam – ngôn ngữ của đời sống hiện đại.

Hà Ngọc Hòa với bài viết “Sáng tác của Phan Khôi trong quá trình hiện

đại hóa văn học Việt Nam đầu thế kỷ XX” (2014), đã cho thấy Phan Khôi có

vai trò rất quan trọng trong quá trình đổi mới khi lấy báo chí làm phương tiện

hàng ngày thoát hẳn hệ thống ngôn ngữ nặng nề ước lệ, bác học trước đó. Do

để tuyên truyền, cổ súy tân học, cổ súy đời sống mới để rồi từ đó tạo ảnh

32

hưởng lan tỏa đến những đổi mới trong văn học. Ở bài viết này tác giả đưa ra

rất nhiều dẫn chứng phân tích như những bài tranh luận của Phan Khôi với

Trần Trọng Kim khi bàn về Tống Nho, Khổng Tử, về các thuật ngữ được

dùng trong triết học... và kết luận đây “không phải là lối viết quen thuộc của

một nhà nho vốn ưa chuộng điêu trùng tiểu kĩ, mà là lối viết của một con

người thấm nhuần văn phạm, cốt cách phương Tây thích lập luận, thuyết

phục. Việc học tập, tiếp thu văn học phương Tây để viết nên những bài báo

hùng hồn, lay động người đọc không những đã đem lại cho Phan Khôi sự nổi

tiếng “vọt lên hàng đầu văn đàn, báo giới ở một vị trí đặc biệt” (Lại Nguyên

Ân) mà sâu sa hơn – đem lại cho công chúng thói quen thưởng thức báo quốc

ngữ trong thời buổi ‘tái cấu trúc tâm lí xã hội” (N.Konrat) [137, tr 445].

Tựu trung, các bài viết đã lược dẫn ra đã đề cập một cách khá toàn diện

về vai trò của Phan Khôi với các hình thức văn chương hiện đại như thơ mới,

tiểu thuyết, truyện ngắn, phê bình. Đây là những tư liệu quý giá để góp phần

đánh giá khách quan hơn về vị trí của Phan Khôi trong tiến trình hiện đại hóa

văn học Việt Nam. Trong đó đáng chú ý hơn cả là những bài viết của Lưu

Trọng Lư, Thiếu Sơn, Mộng Bình Sơn, Nguyễn Ngọc Thiện, Lại Nguyên Ân,

Nguyễn Hữu Sơn và Hà Ngọc Hòa.

Tiểu kết chương 1

bị lãng quên, Phan Khôi đã trở lại với đời sống văn hóa, văn chương Việt

Nam. Theo chúng tôi, Thanh Lãng là người có công đầu trong việc cung cấp

một hồ sơ về Phan Khôi, trong đó có nguồn dữ liệu độc đáo là các bài báo mà

tại thời điểm đó hầu như đã bị thời gian và thiên kiến che lấp. Thanh Lãng

cũng là người đầu tiên nhận diện được hiện tượng Phan Khôi và định vị Phan

Nhìn lại tình hình nghiên cứu Phan Khôi có thể thấy sau nhiều thập kỷ

Khôi trong lịch sử văn học dân tộc. Đây là những chỉ dẫn quan trọng cho các

33

nhà sưu tầm và nghiên cứu sau này tiếp tục hành trình phục chế di sản Phan

Khôi. Kế tiếp, Nguyễn Ngọc Thiên và các cộng sự cũng đã sưu tầm rất nhiều

bài báo của Phan Khôi, đặc biệt là những bài viết liên quan đến phê bình văn

học. Tuy nhiên người có công hoàn thiện quá trình này, chính là Lại Nguyên

Ân. Dựa vào việc công bố một lượng lớn các bài báo, tác phẩm của Phan

Khôi này mà hàng loạt nghiên cứu về ông được tiến hành. Sự nghiệp báo chí

đồ sộ của Phan Khôi, vai trò của Phan Khôi với thơ mới, phong cách viết văn

xuôi và lối phê bình của ông cũng như đóng góp của ông cho công cuộc canh

tân văn hóa Việt Nam đầu thế kỷ XX thành những chủ đề được quan tâm.

Ngoại trừ công trình của Vu Gia, hầu hết các nghiên cứu về Phan Khôi cho

đến nay là những tiểu luận, và tập trung tìm hiểu một vấn đề trong toàn bộ sự

nghiệp của Phan Khôi.

Lần đầu đặt vấn đề nghiên cứu đóng góp của Phan Khôi với quá trình

hiện đại hóa văn học Việt Nam, luận án của chúng tôi may mắn được kế thừa

tất cả những kết quả tìm tòi nói trên và sẽ bàn luận, phân tích hệ thống tác

phẩm của Phan Khôi một cách toàn diện và hệ thống, cho phép nhìn nhận ông

34

như một chủ thể can dự, kiến tạo các xu thế và trào lưu văn hóa dân tộc.

CHƯƠNG 2

PHAN KHÔI - TỪ KHÁT VỌNG CANH TÂN XÃ HỘI

ĐẾN HOẠT ĐỘNG VĂN HÓA, VĂN HỌC

Thực hiện chương này chúng tôi bắt đầu từ việc đưa ra cách hiểu về

khái niệm hiện đại hóa, tính hiện đại và tái hiện khái quát tiến trình hiện đại

hóa văn hóa, văn học Việt Nam những năm đầu thế kỷ, với sự xuất hiện của

những mô hình trí thức mới; tiếp đó là xác định vị trí của Phan Khôi (với

những đóng góp ở phương diện tư tưởng) trong tiến trình hiện đại hóa văn

hóa, văn học nửa đầu thế kỷ XX.

2.1. Hiện đại hóa và sự xuất hiện của mẫu hình trí thức duy tân

2.1.1. Quá trình hiện đại hóa ở Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX

Tìm hiểu về quá trình hiện đại hóa văn học Việt Nam, trước hết cần

làm sáng tỏ một số các khái niệm: hiện đại hóa, tính hiện đại trong văn học.

Về những vấn đề này có nhiều ý kiến đóng góp, trong đó chúng tôi chú ý đến

công trình của Trần Đình Hượu, Trần Đình Sử, Mã Giang Lân, Phong Lê,

Vương Trí Nhàn, Nguyễn Đăng Điệp, Đỗ Lai Thúy. Những công trình này đã

đề cập đến nhiều mặt của vấn đề hiện đại hóa, tính hiện đại trong văn học và

trở thành điểm tựa quan trọng cho quá trình tiếp cận, nghiên cứu của luận án.

trình một xã hội từ trạng thái trung cổ phong kiến đi qua giai đoạn công

nghiệp hóa, đô thị hóa trở thành tư sản, tư bản. Quá trình xã hội hóa này sẽ

dần dà tác động và khiến cho cuộc sống của mỗi cá nhân thay đổi theo” [dẫn

theo 47, tr.31]. Như vậy khi nhắc đến hiện đại hóa là nhắc đến những cách

tân, thay đổi từ đời sống xã hội đến con người theo những mô hình và tính

Hiện đại hóa (modernization) là “một khái niệm xã hội học chỉ quá

chất của thời đại mới gắn liền với kinh tế công nghiệp và tầng lớp tư bản.

35

Trong lĩnh vực văn học, hiện đại hóa là quá trình biến đổi để văn học

bước ra khỏi thời trung đại, mang hình thức mới, được biểu đạt bằng những

phương tiện mới và thể hiện quan niệm mới về văn chương; đồng thời được

mở rộng không gian từ khu vực ra thế giới. Cụ thể hơn, trong phạm vi vận

động văn học, tính hiện đại (modernity) “không nhằm biểu đạt giá trị mà biểu

đạt đẳng cấp giá trị, trình độ phát triển tư duy của nghệ thuật” [194, tr 92] mà

bao hàm một quan niệm mới đối với con người và thế giới, một quan niệm

mới về nghệ thuật, khác hẳn với các quan niệm tương ứng trong văn học cổ

điển hay là văn học truyền thống nói chung. Theo cách lý giải này của Trần

Đình Sử, tính hiện đại của văn học từ nét chung là sự quan tâm, ưu tiên về

thời hiện tại đã đi đến những yêu cầu cụ thể như:

“- đòi hỏi khám phá về thời khắc hiện tại của sự sống, của cảm giác

hiện tại của con người qua mọi khía cạnh

- ...đòi hỏi một ngôn ngữ nghệ thuật mới mẻ...

- ...đòi hỏi một tinh thần sáng tạo táo bạo...” [194, tr 101,102]

Như vậy, có thể nhận thấy “tính hiện đại không phải là sự tráo đổi qua

lại của các giá trị mà là sự phá vỡ cấu trúc của tất cả các giá trị cũ; đồng thời

nó cũng có thể hiểu là sự diễn dịch lại thói quen tín ngưỡng, cách sống thường

nhật bằng một hình thức khác, hoặc mục đích khác” [47, tr 33].

Ở Việt Nam, cuộc chạm trán giữa hai nền văn minh Á–Âu (đánh dấu

mọi phương diện. Từ một quốc gia phong kiến có chủ quyền, chịu ảnh hưởng

văn hóa Đông Á, Việt Nam đã tiếp xúc và bị ảnh hưởng bởi văn hóa phương

Tây. Cần có một lưu ý rằng trong lần dịch chuyển văn hóa từ Đông Nam Á

sang Đông Á trước đây (có thể gọi là lần dịch chuyển thứ nhất), nước ta đã

chịu ảnh hưởng sâu sắc của văn hóa Trung Hoa. Trong Một số vấn đề văn học

bằng sự hiện diện của người Pháp) đã tạo nên những biến chuyển sâu sắc trên

Việt Nam hiện đại, Nguyễn Đăng Điệp cho rằng sự dịch chuyển đầu tiên này

36

chỉ mang tính khu vực và dẫu đã “đem đến cho văn hóa và văn học Việt Nam

nhiều thành tựu rực rỡ, nhưng nhìn chung, đó vẫn là sản phẩm của kiểu giao

lưu khép kín, biểu thị tư duy “bế quan” thời trung đại” [32, tr 19]. Đến lần

dịch chuyển thứ hai này (mặc dù ban đầu còn mang tính cưỡng bức) đã đưa

văn hóa, văn học Việt Nam vượt qua khu vực tiến dần vào phạm vi thế giới,

đó là sự chuyển động theo hướng hiện đại, cũng có thể đồng nhất với Âu hóa.

Thời kỳ “mưa Âu gió Mỹ” này diễn ra hết sức sôi nổi trên mọi phương diện

xã hội Việt Nam (qua ba giai đoạn) và đúng như nhận định của Hoài Thanh–

Hoài Chân trong Thi nhân Việt Nam: “Phương Tây bây giờ đã đi tới chỗ sâu

nhất trong hồn ta. Ta không còn có thể vui cái vui ngày trước, buồn cái buồn

ngày trước, yêu, ghét, giận, hờn nhất nhất như ngày trước” [154, tr 19].

Thực chất ban đầu văn hóa Việt Nam chịu ảnh hưởng văn hóa phương

Tây như một sự bắt buộc. Do vậy người Việt có những phản ứng gay gắt với

sự có mặt của phương Tây. Đã có hàng loạt những cuộc nổi dậy chống thực

dân Pháp mà điển hình là phong trào Cần Vương cùng chính sách bài Tây

quyết liệt vì cho rằng không thể dung nạp sản phẩm của giặc. Tuy nhiên, khi

người Pháp đã hoàn tất việc bình định Việt Nam và bắt đầu thiết lập quyền cai

trị, hình thành các trung tâm đô thị, mở trường học, tuyển chọn công chức

người Việt, nhất là khi các tờ báo Quốc ngữ xuất hiện thì ảnh hưởng của văn

hóa Pháp lan nhanh. Tư thế từ kháng cự trong tiếp nhận văn hóa phương Tây

ảnh hưởng của Tân thư Trung Hoa, tinh thần Minh Trị Nhật Bản đối với Việt

Nam cũng rất mạnh mẽ làm cho người Việt quen dần với các khái niệm dân

chủ, văn minh,... Những nhà nho thức thời, đặc biệt là những trí thức Tây học

bắt đầu thức nhận ra rằng hiện đại hóa là một quy luật. Từ đây diễn ra hàng

loạt thay đổi trên mọi bình diện xã hội từ văn hóa, giáo dục, chính trị cho đến

đã chuyển sang chấp nhận, hoặc chủ động tiếp nhận. Bên cạnh văn hóa Pháp,

nhận thức, tư tưởng của mỗi cá nhân. Nhu cầu giải phóng cá nhân và đòi

37

quyền bình đẳng trở thành nhu cầu cấp bách trong đời sống tư tưởng và văn

hóa người Việt, đặc biệt là đội ngũ trí thức. Có thể thấy, từ đầu thế kỉ XX xã

hội Việt Nam đã diễn ra những biến đổi sâu sắc. Đô thị phát triển, lớp công

chúng văn học mới ra đời, ảnh hưởng của văn hóa phương Tây, báo chí và

xuất phát triển... Tất cả những điều đó đã thúc đẩy, tạo nên “một chuyển đổi

toàn diện trong đời sống văn chương, học thuật ở Việt Nam. Bắt đầu từ 1930

trở đi, văn học Việt Nam đã bước qua hệ hình nghệ thuật trung đại để bước

vào quỹ đạo của nghệ thuật hiện đại [32, tr 47]. Và cũng rất dễ nhận thấy,

hiện đại hóa vừa là một yêu cầu khách quan của thời đại đồng thời là nhu cầu

tự thân của chính nền văn học nhằm đáp ứng nhu cầu tinh thần và thẩm mĩ

mới của xã hội.

Công cuộc hiện đại hóa đó đã diễn ra trên nhiều phương diện khác nhau

như:

(1) Trước hết là sự thay đổi quan niệm về văn học, tư tưởng thẩm mỹ

của người sáng tác khác hẳn trước: từ văn – thơ chở đạo, nói chí của mô hình

trung đại chuyển sang quan niệm xem văn chương như một hoạt động nghệ

thuật đi tìm và sáng tạo cái đẹp, từ văn chương để răn đời sang văn chương để

hiểu đời. Tình trạng “văn, sử, triết bất phân” đã không còn tồn tại trong văn

học thời kỳ này. Cùng với những thay đổi ấy, văn học thật sự thoát khỏi

những quan niệm thẩm mĩ, hệ thống thi pháp trung đại (quy phạm, ước lệ dày

nói cá nhân, sáng tạo trên cơ sở phiêu liêu của trí tưởng tượng cá nhân, ngôn

ngữ gần gũi với đời sống, giàu cá tính, giọng điệu mang tính đối thoại, thuộc

phạm trù điệu nói)[32, tr 33].

(2) Quá trình hiện đại hóa còn được thể hiện ở sự hình thành và xác lập

hệ thống thể loại mới có nguồn gốc phương Tây (thơ – kịch – tiểu thuyết thay

đặc, sùng cổ, phi ngã...) để hướng đến thi pháp văn học hiện đại (đề cao tiếng

thế cho văn – thơ – phú –lục). Phóng sự, phê bình văn học cũng là những thể

38

loại xuất hiện trong tiến trình hiện đại này;

(3) Quá trình hiện đại hóa văn học cũng gắn liền với hiện đại hóa ngôn

ngữ văn học và việc sử dụng chữ quốc ngữ thay thế cho chữ Hán, chữ Nôm.

Có thể xem đây là “bước ngoặt quan trọng của đời sống văn hóa Việt Nam

trong xu thế tiến ra phạm vi thế giới” [32, tr 35]. Chữ quốc ngữ sẽ giúp cho

quá trình tiếp xúc với văn hóa Âu Tây diễn ra thuận lợi hơn. Đồng thời với ưu

thế giản tiện dễ đọc, dễ viết, gần với lời ăn tiếng nói hàng ngày nên dễ dàng

trong khả năng biểu đạt đời sống, kể cả những điều nhỏ nhặt nhất. Điều này

dẫn đến thúc đẩy được sự phát triển của văn xuôi theo tinh thần hướng tới

thực tại.

(4) Hiện đại hóa còn thể hiện ở sự thay đổi chủ thể sáng tạo: từ các nhà

nho sang kiểu nhà văn nghệ sĩ mang tính chuyên nghiệp, những trí thức Tây

học ngấm sâu tinh thần thời đại mới. Kéo theo đó là sự thay đổi về công

chúng văn học: từ tầng lớp nho sĩ sang tầng lớp thị dân, đặc biệt là tầng lớp

thanh niên, học sinh, sinh viên – những người nhạy bén với những tư tưởng

canh tân, lối sống mới.

Như vậy, hiện đại hóa đã diễn ra rộng khắp trên mọi hoạt động văn học

và làm biến đổi toàn diện, sâu sắc diện mạo văn học Việt Nam. Đây chính là

sự biến đổi, một bước chuyển mang tính chất hệ hình.

2.1.2. Sự xuất hiện của mẫu hình trí thức duy tân

Nam được đánh dấu ở những tờ báo, những ấn phẩm văn xuôi quốc ngữ,

những bản dịch thơ La Fontaine, truyện A. Dumas của một số công chức

người Việt làm việc cho chính quyền thực dân – những người được đào tạo từ

trường Pháp, thành thạo ngôn ngữ và văn hóa Pháp, như Nguyễn Văn Vĩnh,

Phạm Quỳnh, Trương Vĩnh Ký, Huỳnh Tịnh Của, Nguyễn Trọng Quản... Có

Cuộc tiếp xúc và thâm nhập văn hóa, văn học phương Tây vào Việt

thể nhận thấy rằng, “tiếng Pháp là cầu nối đưa họ đến với tư tưởng và văn hóa

39

phương Tây, còn chữ quốc ngữ là công cụ để họ thực hiện sứ mệnh canh tân

văn hóa nước nhà” [47, tr 53]. Và lực lượng trí thức này đã góp phần tạo ra sự

thay đổi diện mạo văn học Việt Nam, trở thành lực lượng nòng cốt trong công

cuộc canh tân văn hóa, văn học diễn ra trong những năm cuối thế kỷ XIX đầu

thế kỷ XX.

Thật ra đã có một sự chuyển giao âm thầm giữa các thế hệ trí thức Việt

lúc bấy giờ nhưng dù khác nhau về quan điểm và cung cách ứng xử văn hóa

đến thế nào thì điểm chung ở họ vẫn là ở ý thức, tinh thần dân tộc.

Trước hết phải nhắc đến sự đóng góp đáng kể của thế hệ các nhà nho -

sĩ phu, thủ lĩnh phong trào Duy tân ở Việt Nam lúc này như Phan Bội Châu,

Phan Châu Trinh, Nguyễn Thượng Hiền, Trần Quý Cáp, Huỳnh Thúc

Kháng... Khi đất nước hoàn toàn mất hẳn quyền tự chủ, họ đã thức nhận rằng

“để cứu được nước phải tìm một con đường khác – đó là con đường tiếp nhận

văn minh phương Tây và dân chủ hóa đất nước, nhằm thay đổi tình trạng hủ

lậu, thấp kém của văn minh phương Đông” [92, tr 81]. Như vậy, một đội ngũ

trí thức mới (nho sĩ – trí thức yêu nước có đầu óc canh tân) đã được hình

thành. Họ tiếp thu tư tưởng tiến bộ văn minh phương Tây qua làn sóng Tân

thư để phục vụ cho nhu cầu giải phóng dân tộc và phát triển văn hóa; tổ chức

trường Đông Kinh nghĩa thục hướng đến thực hiện nền học mới, đả kích lối

học cũ và bài xích sự lạc hậu của các nhà nho bảo thủ. Điều này được minh

Khoa học quốc gia với Ký hiệu A.567) do nhà trường Đông kinh nghĩa thục

phát hành trong thời kỳ nhà trường hoạt động. Nội dung của công trình gồm

ba bài. Bài đầu (cũng là bài chính): Văn minh tân học sách nêu rõ tinh thần

nền học mới mà nhà trường thực hiện; Bài thứ hai, dưới đầu đề Cáo hủ lậu

văn (bài nói với các nhà nho hủ lậu) nhằm mục đích đả kích lối học cũ, và

định cụ thể khi tiếp cận một công trình (là bản in gỗ được lưu trữ tại Thư viện

tinh thần lạc hậu của các nhà nho bảo thủ.; Bài thứ ba: Tính khán Cao-ly vong

40

quốc chi thảm trạng (Hẵng nhìn xem tình trạng đau đớn của người Cao –ly

mất nước). Qua bản dịch của Đăng Thai Mai về hai bài đầu đã cho thấy rất rõ

tinh thần canh tân của các nhà nho tiến bộ tham gia phong trào Đông kinh

nghĩa thục.

Bằng tinh thần nhập thế họ đã rất tích cực trong việc giới thiệu, truyền

dẫn tư tưởng văn hóa, văn minh Tây phương vào Việt Nam theo nhiều cách

khác nhau nhằm góp phần nâng cao trí dân trí, xây dựng môi trường xã hội

dân chủ. Đặc biệt, việc truyền bá chữ quốc ngữ trong quần chúng như một

hoạt động văn hóa – chính trị và để rồi chữ quốc ngữ cũng đã trở thành công

cụ đắc lực cho cuộc vận động phong trào duy tân tự cường, và văn chương cũ

thay đổi theo nhu cầu canh tân văn hóa xã hội.

Sau thế hệ các sĩ phu khởi xướng sự nghiệp canh tân đất nước là một

đội ngũ khá đông những người cầm bút với tư cách trí thức tự do như Nguyễn

Bá Học, Nguyễn Đỗ Mục, Phan Kế Bính, Nguyễn Trọng Thuật, Phạm Duy

Tốn, Trần Trọng Kim, Hồ Biểu Chánh, Nguyễn Khắc Hiếu, Phan Khôi.... Với

chủ trương tranh thủ tiếp xúc với văn hóa Pháp (qua học đường và qua phong

trào báo chí, xuất bản đã được khởi động trong hai thập niên đầu thế kỷ XX),

họ đã sôi nổi tham gia vào các hoạt động xã hội, văn chương, học thuật đương

thời. Với “vốn kiến thức sâu về văn hóa phương Đông, nhưng cũng không

hoàn toàn xa lạ với văn hóa phương Tây” [92, tr 85] họ đã gặp nhiều thuận lợi

góp phần đẩy nhanh quá trình hiện đại hóa văn hóa, văn học dân tộc.

Báo chí và nghề làm báo ra đời, phát triển cũng ảnh hưởng nhiều đến

đội ngũ trí thức mới chọn con đường cầm bút để lập thân. Và xét ở một

phương diện khác, xuất bản và báo chí đã trở thành nhân tố thúc đẩy tính

chuyên nghiệp của văn học, mang lại thuộc tính mới cho văn học, đời sống

trong việc thực hiện mục tiêu đã đề ra và trở thành thành lực lượng quan trọng

tinh thần mới cho người cầm bút. Đặc biệt trong thời kỳ chưa có nhà xuất bản

41

như những năm đầu thế kỷ XX ở Việt Nam thì mối quan hệ giữa văn học và

báo chí càng trở nên mật thiết. Hệ thống báo chí phát triển mạnh và có vai trò

rất lớn đối với quá trình hiện đại hóa văn học. Báo chí trở thành một mảnh đất

màu mỡ để văn học gieo trồng phát triển. Bên cạnh đó, báo chí thời kỳ này

còn là cơ sở quan trọng để hình thành nên một đội ngũ sáng tác văn học bằng

chữ quốc ngữ. Kiểu nhà văn chuyên nghiệp xuất hiện với mục đích sáng tác

không còn là “trí quân trạch dân” như truyền thống mà hướng đến đáp ứng

nhu cầu tinh thần của con người và xã hội đương thời. Thật đúng như nhà phê

bình Nguyễn Đăng Điệp đã nhận xét: “ Bên cạnh các trí thức Tây học, những

nhà nho thức thời và nhập thế cũng là người tích cực giới thiệu văn hóa, tư

tưởng nước ngoài với mục đích mở mang hiểu biết, nâng cao dân trí, tạo dựng

môi trương dân chủ. Các tờ Đông Dương tạp chí, Trung Bắc tân văn, Nam

phong tạp chí, Tri Tân, Thanh Nghị... với sự góp mặt của Nguyễn Văn Vĩnh,

Phạm Quỳnh, Phan Khôi, Đinh Gia Trinh... đã góp phần tạo nên trường tri

thức mới đối với sự chuyển đổi ý thức hệ trung đại sang bờ hiện đại” [32, tr

29]. Báo chí lúc này, vì thế trở thành một trong những nguyên nhân trực tiếp

cho sự phát triển văn học dân tộc theo hướng hiện đại hóa.

Như vậy, có thể khẳng định rằng, bắt nguồn từ hoàn cảnh văn hóa xã

hội với những biến chuyển mạnh mẽ của buổi giao thời, báo chí đã tác động

đến sự hình thành lực lượng trí thức mới. Bên cạnh các nhà cựu học, các nhà

này Phan Khôi là gương mặt đặc biệt.

nho duy tân cùng trí thức Tây học lần lượt xuất hiện. Và trong đội ngũ trí thức

2.1.3. Hoạt động báo chí – con đường nhập thế, dấn thân của Phan Khôi

2.1.3.1. Viết cho “Đăng cổ tùng báo” – dấn thân vào cuộc vận động

canh tân xã hội của phong trào duy tân yêu nước

Phan Khôi (1887–1959) sinh ở làng Bảo An, huyện Điện Bàn, tỉnh

Quảng Nam. Thân sinh ông là Phan Trân, đỗ phó bảng dưới triều vua Thành

42

Thái, làm quan đến tri phủ nhưng vì bất hòa với viên công sứ Pháp nên bỏ về

hưu sớm. Thân mẫu là Hoàng Thị Lệ, con gái Hoàng Diệu. Quê hương Phan

Khôi là một vùng đất trù phú nằm giữa hai nhánh của sông Thu Bồn và sông

Vu Gia nên có vị trí địa lý thuận lợi cho nuôi trồng và giao thương buôn bán.

Nơi đây cũng là quê hương của rất nhiều nhà nho Duy tân như Phan Châu

Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Trần Quý Cáp, Phan Thành Tài... Nổi tiếng là một

sĩ tử thông minh nhưng Phan Khôi chỉ đỗ tú tài trong kỳ thi Hương năm 1906

tại Huế. Mặc dù được các bậc tiền bối như Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc

Kháng đánh giá cao (khi xem lại bản nháp các bài thi) và tiên liệu khả năng sẽ

đạt được kết quả xứng đáng hơn trong các kỳ thi tiếp tục ở những năm sau

song Phan Khôi đã quyết tâm từ bỏ con đường khoa cử. Ông sớm thức nhận

cần phải thoát khỏi môi trường văn hóa chật hẹp, lạc hậu trì đọng này.

Hưởng ứng phong trào Duy tân Phan Khôi là người đầu tiên dám cắt đi

búi tóc (biểu tượng của chế độ phong kiến hàng trăm năm đè nặng trong tư

tưởng người dân Việt), đồng thời rất tích cực trong việc tự học tiếng Pháp và

vận động người dân học chữ quốc ngữ. Trong hồi ký Nhớ cha tôi Phan Khôi,

con gái của Phan Khôi là bà Phan Thị Mỹ Khanh đã kể lại rằng: Khi quyết

tâm bỏ thi chữ Hán, Phan Khôi quay sang học tiếng Pháp với một người bà

con trong họ tộc là Phan Thành Tài. Đồng thời lúc này ông cũng tranh thủ dạy

chữ quốc ngữ và chữ Hán cho trường Diên Hồng, do Hội buôn Diên Phong

mở để làm trụ sở hợp pháp cho phong trào Duy Tân, Quảng Nam.

Khôi đã có nhận thức sâu sắc hơn rằng, muốn thay đổi vận mệnh đất nước cần

nâng cao dân trí, đồng nghĩa với việc trước hết phải gắn liền với việc nới rộng

không gian văn hóa.

Đăng cổ tùng báo (1907) là tờ báo đầu tiên mà Phan Khôi tham gia viết

bài với bút hiệu Tout seul (cô đơn). Đây là tờ báo viết bằng chữ Hán, chủ

Cũng chính từ sự chủ động tiếp thu văn hóa phương Tây này, Phan

xướng từ nhóm Đông Kinh Nghĩa Thục. Ngay từ khi cộng tác, Phan Khôi đã

43

xác định sứ mệnh của mình là dấn thân vào cuộc vận động canh tân đất nước

nhằm phục quốc cùng các nhà duy tân yêu nước. Tuy nhiên sự lựa chọn này ở

Phan Khôi đã bị ngăn cản bởi sự khủng bố của thực dân Pháp. Trường Đông

Kinh Nghĩa Thục và tờ Đăng cổ tùng báo bị giải thể, đình bản. Lánh về Nam

Định để tiếp tục việc học tiếng Pháp với Nguyễn Bá Học song do bị mật thám

theo dõi hạch sách nên Phan Khôi phải quay lại Quảng Nam. Năm 1909, ông

ra Huế xin vào lớp nhì trường Pellerin để thực hiện cho tới cùng việc học

tiếng Pháp. Tuy nhiên vì dính líu đến vụ “xin xâu” (chống sưu thuế) ở Quảng

Nam, bị kết tội “chống đối nhà nước bảo hộ” nên ông đã bị bắt giam cùng

một số chí sĩ như Huỳnh Thúc Kháng, Phan Thúc Duyện, Trần Cao Vân, Mai

Dị.... Phan Khôi bị kết án ba năm tù. Công cuộc vận động Duy tân bán công

khai theo đường lối Phan Châu Trinh coi như bị dập tắt.

Trong tù, Phan Khôi vẫn âm thầm học tiếng Pháp vì ý thức đó là

phương tiện để tiến gần với văn minh phương Tây. Ra tù, với vốn Hán học

uyên thông ông mở lớp dạy chữ Hán song ông vẫn khuyên học trò nên theo

học chữ quốc ngữ và chữ Pháp. Lúc này, mặc dù vẫn tham gia các vận động

bí mật thuộc Việt Nam Quang phục hội của Phan Bội Châu nhưng ông đã

không còn mặn mà lắm với các trào lưu chính trị và chính thức chấm dứt hoạt

động này vào năm 1914.

Như vậy, khoảng thời gian từ một nhà nho truyền thống đến một nhà

nho duy tân nếm trải đủ những thăng trầm thời thế được xem là giai đoạn “tìm

một thức nhận mới giúp ông có “bước chuyển”, đó là hướng đến hoạt động tri

thức chuyên nghiệp với tư cách một nhà ngôn luận, tác động đến xã hội bằng

ngôn luận.

1.1.3.2. Viết cho “Nam Phong tạp chí” và “Lục tỉnh tân văn” (từ 1918

đến những năm 1920) – dấn thân vào con đường viết báo chuyên nghiệp

đường” của Phan Khôi. Sau tất cả những biến cố thời cuộc Phan Khôi đã có

Phan Khôi chính thức bước vào nghề báo năm 1918 khi được giới thiệu

44

vào làm cho Nam Phong tạp chí, một tờ báo xuất bản tại Hà Nội (do Phạm

Quỳnh làm chủ bút phần chữ Quốc ngữ, Nguyễn Bá Trác làm chủ bút phần

chữ Hán). Từ đây ông bắt đầu đi hẳn vào con đường làm báo chuyên nghiệp.

Nam Phong tạp chí ra đời trong thời điểm giao tranh quyết liệt giữa văn hóa

dân tộc truyền thống với văn hóa phương Tây. Đây cũng là thời điểm khá

nhạy cảm và phức tạp về chính trị và văn hóa của nước ta. Với mong muốn

nhanh chóng đồng hóa dân tộc Việt Nam người Pháp đã nghĩ đến vai trò của

lớp trí thức Tây học để làm công cụ kết dính và trao đổi mọi hoạt động của họ

ở Đông Dương. Do vậy, Nam Phong tạp chí ra đời nằm trong sự tính toán có

chủ đích rõ rệt về chính trị của Pháp; và Phạm Quỳnh với vai trò chủ bút là sự

lựa chọn tối ưu vì thực dân Pháp cho rằng có thể lợi dụng ông để làm phát

ngôn cho chính sách cai trị An Nam. Ông tốt nghiệp thủ khoa trường trung

học Bảo hộ, ra làm thông ngôn tại trường Pháp quốc Viễn Đông Bác Cổ Hà

Nội. Trí thức Bắc Hà thời đó suy tôn “Tràng An tứ hổ”, gồm bốn học sinh

xuất sắc nhất trường Thông ngôn Hà Nội là: “Vĩnh-Quỳnh-Tố-Tốn”. Người

Pháp trong việc lựa chọn này quả là đã có “con mắt xanh” nhưng Phạm

Quỳnh cũng có dụng ý của riêng mình: dùng tờ báo như là phương tiện để cổ

súy xây dựng một nền văn hóa mới, phát huy chủ nghĩa quốc gia. Cộng tác

với Nam Phong tạp chí Phan Khôi chắc hiểu và tán thưởng tinh thần ấy. Thế

nhưng, dường như chính vì những sự kiểm soát chặt chẽ của người Pháp với

tờ tạp chí và cũng vì một số bất đồng với Phạm Quỳnh nên một năm sau Phan

đánh giá của một số nhà nghiên cứu, việc từ bỏ Nam Phong tạp chí là “bước

quyết định của Phan Khôi trong việc biến ông từ một nhà nho cổ điển, một

nhà nho Duy tân thành một nhà nho Tây học, một nhà văn hiện đại, đồng thời

tạo ra một dấu mốc trên hành trình xây dựng văn hóa dân tộc” [137, tr 43].

Chủ trương kiên quyết không dính líu đến các hoạt động chính trị, Phan Khôi

Khôi đã không thể tiếp tục cộng tác làm việc với Nam Phong tạp chí. Theo

công khai, độc lập trong hoạt động học thuật. Thời gian này ông chuyên tâm

45

nghiên cứu luận lí học và đã bộc lộ lối viết gãy gọn, tư tưởng sáng rõ lôi cuốn

độc giả. Đây cũng là thời điểm văn học Trung Quốc nổi lên với những cuộc

vận động đổi mới về văn hóa, văn học: từ văn ngôn bác học chuyển sang cổ

vũ cho lối văn bạch thoại của các nhà tư tưởng, nhà văn như Hồ Thích, Lỗ

Tấn. Phan Khôi đã đón nhận và say mê tìm hiểu những vấn đề mang tính cách

cách mạng này.

Năm 1919, Phan Khôi vào Nam làm việc cho Lục tỉnh tân văn. Những

bài viết của Phan Khôi ở tờ báo này thường là loạt bài đăng nhiều kỳ về đề tài

thường thức xã hội (như mục “Làm dân phải biết”) và ngôn ngữ (như mục

“Ghi chép tiếng An Nam”). Tuy nhiên thời gian Phan Khôi cộng tác với Lục

tỉnh tân văn rất ngắn, chưa đến vài tháng. Theo dẫn liệu của nhà nghiên cứu

Lại Nguyên Ân, trong bài viết “Giải đại ý bài diễn thuyết của quan Toàn

quyền Sarraut về cuộc Đông Dương tự trị” đăng hai kỳ trên Lục tỉnh tân văn,

Phan Khôi đã đưa ra những ý kiến quá “kịch liệt” nên (trước sức ép của chính

quyền thực dân) chủ bút buộc phải chấm dứt việc hợp tác với Phan Khôi.

Mặc dù hiện diện trong khoảng thời gian rất ngắn song nếu làm phép

thống kê sơ bộ về nội dung các bài báo đăng trên các số của Lục tỉnh tân văn

sẽ nhận thấy khá rõ tinh thần phản biện xã hội rất tích cực của Phan Khôi.

Ông quan tâm đến những vấn đề về văn hóa, ngôn ngữ dân tộc. Một loạt bài

như “Nước mẹ đẻ”, “Địa dư nước Nam”, “Chính trị nước Nam”, “Phong tục

nước Nam”, “Dân phải nộp thuế”... cũng như các bài trong mục “Ghi chép

Như vậy, đến với nghề báo với Phan Khôi là cách ông thể hiện quan điểm

mạnh mẽ của mình về các vấn đề xã hội.

Trở ra lại Hà Nội vào năm 1920 sau khi thôi cộng tác với Lục tỉnh tân

văn, Phan Khôi cộng tác với Thực nghiệp dân báo và tạp chí Hữu Thanh.

Cùng thời gian này ông cũng phối hợp với hội thánh Tin lành dịch Kinh

tiếng An Nam” từ 12/5/1919 đến 25/6/1919 đã chứng minh được điều này.

46

Thánh. Tuy nhiên giai đoạn này báo chí miền Bắc khá hạn chế trong việc tiếp

thu những tư tưởng cách tân mà đây lại là một vấn đề khó thể chấp nhận đối

với tính cách Phan Khôi. Chính vì thế ông lại quay trở vào Nam.

2.1.3.3. Viết cho “Phụ nữ tân văn”, “Phụ nữ thời đàm” (những năm 30

thế kỷ XX) - giai đoạn đỉnh cao, làm nên tên tuổi Phan Khôi

Vào Nam năm 1928 Phan Khôi tham gia viết bài cho các tờ báo Đông

Pháp thời báo, Thần chung, Phụ nữ tân văn, Trung lập, và một số ít các tờ

Quần báo hoặc Hoa kiều nhật báo chữ Hán ở Chợ Lớn. Đây là lần thứ hai

Phan Khôi góp mặt với báo chí Sài Gòn và cũng là thời gian sung sức nhất

trong nghề báo của ông.

Đông Pháp thời báo (1927) từ khi Diệp Văn Kỳ tiếp quản đã thu hút rất

nhiều độc giả vì mở ra nhiều phụ trương phong phú, như phụ trương thể thao,

phụ nữ trẻ em, trong đó phụ trương văn chương do Phan Khôi góp mặt đã có

rất nhiều bài gắn với văn học như: “Cấm sách, sách cấm”, “Thi văn với thời

đại”, “Văn chương và văn chương của nhà báo”, “Cái thế lực của nhà văn

hào”, “Hồ Thích với quốc dân Đảng” ...

Sau khi Diệp Văn Kì chấm dứt Đông Pháp thời báo để bắt đầu lại với

Thần chung, Phan Khôi đã tiếp tục cộng tác và có loạt bài hai mươi mốt kỳ

với cuộc tranh luận sôi nổi về “Cái ảnh hưởng của Khổng giáo ở nước ta”.

Đặc biệt khi đến với Phụ nữ tân văn, năm 1928 (tờ báo đã ghi đậm dấu

ấn lịch sử của một thời kỳ: phụ nữ Sài Gòn trên diễn đàn yêu cầu “niêm

là Đào Duy Nhất), Phan Khôi cũng đã góp hàng loạt bài viết về văn học và

phụ nữ như “Về văn học của phụ nữ Việt Nam”, “Văn học với nữ tánh”,

“Theo tục ngữ phong dao xét về sự sanh hoạt của phụ nữ nước ta”, “Cái tánh

ghen cùng dật sự thi văn bởi nó mà ra”...; đồng thời còn có những bài mang

tính khái quát về thể loại và hiện tượng văn học như “Văn học chữ Hán của

phong cái gói tam tùng” do ông bà Nguyễn Đức Nhuận sáng lập cùng chủ bút

nước ta”, “Sử dụng từ điển trong thơ văn và sự chú thích”, “Sử với tiểu

47

thuyết”, “Lối văn học của bình dân”.... Những bài viết này châm ngòi cho các

cuộc luận chiến văn chương, như cuộc tranh luận về Nho giáo, về duy tâm –

duy vật; lôi kéo Phạm Quỳnh vào “vụ án Truyện Kiều”; dấy lên cuộc tranh

luận về quốc học...và đặc biệt làm Tản Đà lên cơn thịnh nộ muốn là một đao

phủ lấy đầu Phan Khôi.... Tất cả những vấn đề này xét ở một phương diện nào

đó, có tính chất dọn đường tư tưởng cho văn học Việt Nam phát triển theo

hướng hiện đại.

Đến với Trung lập, năm 1930, tờ nhật báo lớn nhất Sài Sòn mà chủ bút

là Bùi Thế Mỹ, Phan Khôi cũng đóng góp một lượng bài khá nhiều (nhiều

nhất so với lượng bài đăng ở bất cứ tờ báo nào trong các tờ báo Sài Gòn mà

ông đã cộng tác), trong đó với vấn đề nghệ thuật vị nghệ thuật hay nghệ thuật

vị nhân sinh đã gây nhiều tranh luận trong giới học thuật bấy giờ và thu hút

mạnh mẽ sự quan tâm của độc giả. Đặc biệt mục hài đàm “Những điều nghe

thấy” mà tòa soạn dành riêng cho ông với bút danh lúc đầu là Tha Sơn và sau

đó là Thông Reo đã tạo dấu ấn và phong cách riêng.

Có thể nhận thấy rằng tất cả những tờ báo mà Phan Khôi tham gia giai

đoạn này đều là những tờ báo tư nhân. Chủ đích mà các báo hướng đến là

quyền được tự do ngôn luận, và đặc biệt luôn tìm cách thoát khỏi những ràng

buộc của các tổ chức chính trị. Nội dung được đề cập chủ yếu liên quan đến

những vấn đề có tính chất tiến bộ, thúc đẩy xã hội phát triển, đề cao tinh thần

phản biện dân chủ... Như vậy, trong khoảng thời gian từ 1918 đến 1939, Phan

được xem như là một khuôn mặt học giả phản biện duy nhất của Việt Nam

đầu thế kỷ XX [208].

Khôi không chỉ thành công với tư cách một nhà báo chuyên nghiệp mà còn

2.2. Những vấn đề cơ bản trong canh tân tư tưởng, xã hội, văn hóa của

Phan Khôi

2.2.1. Công kích cái cũ (Nho giáo)

Mặc dù xuất thân là một nhà nho, được vỡ lòng bằng sách thánh hiền

48

song Phan Khôi sớm có những thức nhận mới, trở thành một nhà tân học (nhờ

tự học), theo kịp xu hướng tư duy khoa học của Tây phương. Do vậy, khi đề

cập đến vấn đề Nho giáo, Phan Khôi đã có một điểm nhìn khá toàn diện vừa

từ bên trong (của một nhà cựu học), vừa từ bên ngoài (của một nhà tân học).

Ông đã đặt ra vấn đề về sự cần thiết phải đánh giá lại Nho giáo trong xã hội

hiện đại qua hàng loạt các bài báo thể hiện tư duy lí luận sắc sảo và mang tính

phản biện cao như: “Khổng tử với thuyết Chánh danh hay luận lý học”, “Tác

hại của thuyết Tam cang và luật Cấm cải giá”; loạt bài đăng trên 21 số báo

Thần chung (từ số 213 đến 249/1929) với tên gọi “Ảnh hưởng của Khổng

giáo ở nước ta”; 2 bài phê bình về quyển sách Nho giáo của Trần Trọng Kim

gồm “Đọc cuốn sách Nho giáo của ông Trần Trọng Kim” (Phụ nữ tân văn, số

54/1930) và “Về bài phê bình sách Nho giáo” (Phụ nữ tân văn, số 63/1930).

Trong loạt bài viết này, ngoài mục đích để cho đại đa số công chúng hiểu hơn

về Nho giáo - một học thuyết gần như ăn sâu bám rễ trong xã hội Việt Nam,

Phan Khôi còn kịch liệt phê phán những mặt tiêu cực của học thuyết này.

Thứ nhất, Phan Khôi đã chỉ rõ sự lỗi thời và lạc hậu của Nho giáo trong

xu thế phát triển của các quốc gia phương Đông ở đầu thế kỷ XX (khi xã hội

từ chế độ quân chủ chuyển sang chế độ dân chủ). Ông cho rằng, “cái đạo của

ngài chẳng những không hợp thời, không dụng trong thời nay, mà lại, những

chỗ không hợp thời ấy, những chỗ không dụng ấy, nếu còn vướng víu trong

không lợi cho ta vậy” [5, tr 42-43]. Học thuyết Nho giáo hỗ trợ tích cực cho

sự bình ổn của một thiết chế xã hội mà quyền lực tập trung gần như tuyệt đối

ở tầng lớp thống trị. Khi mọi mối quan hệ xã hội được quy định theo những

định chế khắt khe và tất yếu sẽ dẫn đến bóp chết quyền lợi của mỗi cá nhân.

Nho giáo không chú trọng sự tự do phát triển con người cá nhân mà chú trọng

óc chúng ta, là kẻ cần kiểm cách “sanh hoạt mới” ở đời này, thì cũng còn là

49

đào tạo và chăn dắt con người phận vị. Mỗi cá nhân muốn tiến thân thì trước

hết phải tu thân và chấp nhận cách sống khắc kỷ theo lễ nghĩa. Đây là nguyên

nhân dẫn đến sự trì trệ trong xã hội.

Thứ hai, với Nho học, Phan Khôi phản đối tư tưởng học cốt để thuộc

nhiều sách, học để làm bài thi cho hay, để đỗ đạt, để thành danh chứ không

cốt để vận dụng kiến thức vào thực tế đời sống. Ông cho rằng, “đặt ra khoa cử

để làm cái lồng nhốt sĩ phu và kết quả là làm cho tâm trí của người ta trở nên

hèn yếu và tri thức hẹp hòi. Mà, muốn nói rằng kết quả của nó là mất nước,

cũng không phải là quá đáng” [5, tr 52]. Lối học khoa cử, tầm chương trích cú

làm lu lấp trí khôn và nô lệ học vấn thì làm sao mà phát triển tư duy độc lập,

làm sao tự chủ được. Chính vì trong xã hội đã hình thành quan niệm rất ấu trĩ

là khi không cho thi nữa thì các nho sĩ không cần phải học, đốt sách cho xong.

Theo Phan Khôi, giáo dục kiểu này đã “làm tối tắt lòng người” [5, tr 51].

Thứ ba, Việt Nam nói riêng và các nước phương Đông nói chung là

những nước sống nhờ vào nông nghiệp. Thế nhưng Nho giáo lại có ý “khinh

nông”. Đây là một điểm bất hợp lý trong thuyết giáo của Khổng Tử. Tư tưởng

này ảnh hưởng đến quan niệm sống của con người. Phan Khôi đã phê phán tư

tưởng này của Nho giáo và qui kết đó là lí do vì sao người người đua nhau

học để làm quan chứ nhất định không muốn làm dân, “người An Nam mình vì

chịu ảnh hưởng của cái thuyết khinh nông ấy, nên người nào ôm cuốn sách đi

gì cũng không biết”. Thậm chí họ sẵn sàng chọn lựa những nghề phỉnh dụ

người khác (coi bói, coi tướng, ...) để lấy tiền thiên hạ mà vẫn thấy mát mặt

hơn lao động nông nghiệp. Ấy thế mà xã hội vẫn tôn họ lên bằng danh xưng

là “thầy”! Sự ảnh hưởng tai hại của thuyết khinh nông này mãi cho đến tận

ngày nay vẫn còn tồn tại trong tư duy của người dân Việt. Và tất nhiên nó kéo

học là cố chịu kiếm ăn trong sự học đó chớ không lo sanh lý gì cả, một nghề

50

theo hàng loạt những hệ lụy cho xã hội.

Thứ tư, Phan Khôi đã chỉ ra tác hại của thuyết tam cang và luật cấm cải

giá. Từ đời nhà Hán, thuyết Ngũ luân (gồm năm mối quan hệ vua tôi, cha con,

vợ chồng, anh em, bạn bè) được đổi thành Tam cang (gồm ba mối quan hệ

vua tôi, cha con, chồng vợ). Kéo theo đó sự bình đẳng giữa hai đối tượng

trong mỗi mối quan hệ bị tước mất, tạo nên sự phụ thuộc giữa tôi và vua, con

và cha, vợ và chồng. Mầm mống của sự bất công xã hội bắt nguồn từ đây và

cũng là nguyên nhân dẫn đến sự bất bình đẳng nam nữ trong xã hội. Sau Tam

cang của Hán nho, Tống nho lại đề xuất thêm một bước nữa khi đưa ra luật

cấm cải giá để ràng buộc người phụ nữ. Hàng loạt bi kịch nảy sinh từ những

quy định bất hợp lý này. Phan Khôi đã có hàng loạt những bài viết đấu tranh

cho vấn đề nữ quyền và gián tiếp lên án luật lệ khắc nghiệt của Tống nho.

Như vậy, khi đặt ra vấn đề phân biệt giữa Tống nho với Hán nho hay

Nho nguyên thủy (của Khổng Tử), Phan Khôi đã thể hiện tinh thần hết sức

khách quan khi luận bàn về một học thuyết có sức ảnh hưởng sâu rộng đối với

các nước phong kiến phương Đông, trong đó có Việt Nam. Ngoài loạt bài viết

về “Cái ảnh hưởng của Khổng giáo tại nước ta” (in trên Thần chung, Sài Gòn,

năm 1929), Phan Khôi còn có 4 bài viết về “Đôi điều nên biết về Nho giáo”

(in trên Đông Tây, Hà Nội, năm 1931) đã phân tích rành mạch và lên án Tống

nho về những tác hại mà học thuyết này đã gây ra; kiên quyết cho rằng Khổng

dụng cho một thể chế dân chủ.

giáo không thể dung được với Tây học ngày nay, Khổng giáo không thể áp

2.2.2. Khẳng định cái mới của văn minh phương Tây

Cuộc tiếp xúc Đông–Tây diễn ra ở Việt Nam những năm cuối thế kỷ

XIX đầu thế kỷ XX trên phương diện văn hóa đã xảy ra những “đụng độ”.

Tính bảo thủ ăn sâu trong tiềm thức của giới sĩ phu người Việt nên chấp nhận

thay đổi là việc hết sức khó khăn. Thêm vào đó, với suy nghĩ thay đổi nghĩa là

51

đi theo giặc, là phản quốc, đã khiến rào cản ấy càng khó vượt qua. Thấu hiểu

sự lưỡng lự này của sĩ phu người Việt nên Phan Khôi đã có những phân tích,

lý giải ráo riết để hối thúc họ có sự lựa chọn phù hợp.

Thực tế, ngay từ những năm đầu thế kỷ XX, trường Đông kinh nghĩa

thục đã nêu rõ tinh thần nền học mới mà trường dự định thực hiện trong tác

phẩm Văn minh tân học sách. Các nhà nho tiến bộ của phong trào lúc này đã

có quan điểm tiến bộ khi nhận thức rằng văn minh bắt nguồn từ sự thay đổi tư

tưởng và do đó cần phải có cạnh tranh. Họ cho rằng đặc tính của văn minh

phương Tây là luôn luôn động, bởi phương Tây có một thiết chế xã hội coi

trọng dân chủ, đề cao tinh thần phản biện để hướng đến điều chỉnh và hoàn

thiện mọi hoạt động xã hội, bởi có một đường lối giáo dục chuyên nghiệp và

hướng đến đào tạo thế mạnh ở mỗi cá nhân để có thể phát huy được thế mạnh

ấy ở những lĩnh vực khác nhau trong đời sống; Động khi luôn coi trọng tính

thực tế của việc lĩnh hội kiến thức; Động bởi người Tây không ngại “di

chuyển”, họ thích đi du lịch, thích thám hiểm đến nhiều vùng đất khác nhau

và vì thế rất dễ hấp thụ cái mới. Chính vì thế để có thể hướng đến văn minh

thì cần phải nâng cao dân trí. Hay có thể đặt ra ngược lại vấn đề rằng dân trí

cao là biểu hiện của văn minh [94, tr 205].

Phan Khôi có nhiều chia sẻ với quan điểm duy tân đó. Trên Đông Pháp

thời báo (số ra ngày 27/9/1928 và 2/10/1928) với bài viết “Tư tưởng của Tây

phương và Tây phương là: Đông phương chuộng huyền học/Tây phương

chuộng khoa học; Đông phương quý an phận/Tây phương quý tấn thủ; Đông

phương trọng thống thuộc/Tây phương trọng tự chủ. Và trong cái nhìn của

Phan Khôi, hệ quả quan trọng của khác biệt này là vấn đề liên quan đến chủ

nghĩa cá nhân (individualisme). Ông giải thích: “chữ tự chủ ở đây có nghĩa là

phương và Đông phương”, Phan Khôi đã chỉ ra sự khác biệt giữa Đông

mỗi người làm chủ lấy mình, cũng tức là cá nhân chủ nghĩa. Ở phương Tây,

52

nói rằng “một người”, nghĩa là đối với thế giới, đối với quốc gia mà nói, chớ

không phải phiếm nhiên. Đã gọi là người, thì người nào cũng vậy, ai ai cũng

có cái địa vị cái tư cách đối với thế giới đối với quốc gia... Bởi đó mới có sự

tự do... bởi đó mới có sự bình đẳng... có nghĩa vụ và quyền lợi như nhau” [3,

tr 105]. Chính từ tính tự chủ ở mỗi cá nhân này mà xã hội phương Tây phát

triển, thực hành được dân trị, tức chế độ dân chủ - một việc còn rất khó đối

với xã hội phong kiến Á Đông nói chung và Việt Nam nói riêng. Bởi muốn tự

chủ, muốn đi theo chủ nghĩa cá nhân thì mỗi cá thể phải độc lập suy nghĩ,

phải biết đưa ra những phán đoán hợp lý, đồng thời cần chủ động trong mọi

vấn đề.

Chính vì thế, trong bài “Cá nhơn chủ nghĩa” (Trung lập, ngày 28.11.

1931) Phan Khôi đã chỉ ra sự liên hệ của chủ nghĩa cá nhân với tư tưởng dân

chủ. Ông không tin tưởng vào khả năng thực hành, áp dụng tư tưởng dân chủ

của người Việt bởi trong môi trường xã hội từ xưa đến giờ khái niệm này

chưa được đề cập và còn khá xa lạ đối với nhiều người. Theo Phan Khôi, sự

khác nhau căn bản giữa tính “thống thuộc” của người phương Đông và tính tự

chủ của người phương Tây chính là nguyên nhân làm cho quá trình tiếp thu tư

tưởng dân chủ của người Việt khá khó khăn. Bên cạnh đó, sự cấm đoán bộc lộ

cái tôi trong xã hội phong kiến Á Đông hàng ngàn năm qua cũng là rào cản

đáng kể trong việc tiếp cận cái mới.

và văn minh tinh thần” (Phụ nữ thời đàm, 1933). Phan Khôi cho rằng hai khái

niệm văn minh vật chất và văn minh tinh thần phản ánh cùng một thực thể -

chúng gắn liền nhau. Tinh thần là tri thức khoa học còn vật chất là sản phẩm

do khoa học sáng chế ra. Bằng việc đưa ra hàng loạt những dẫn chứng rất xác

thực, Phan Khôi đã thẳng thắn khuyên người Việt “phải tỉnh ngộ lại, phải

Ngoài ra, Phan Khôi cũng viết bài để “Bác cái thuyết văn minh vật chất

thành thật nhận mình là thua kém, thua kém về vật chất bởi thu kém về tinh

53

thần, tức là thua kém về các sản phẩm khoa học bởi vì ta thua kém về tri thức

khoa học. Ta nên biết cái trình độ của ta ước chừng nằm vào khoảng Trung

thế kỷ (moyen àge) của Âu châu, còn tối tăm lắm, còn vụng dại lắm, chẳng có

tinh thần gì đâu mà làm phách” [15, tr 133].

Như vậy, qua việc so sánh sự khác nhau căn bản về tư tưởng của hai

nền văn hóa Đông–Tây, Phan Khôi đã nhìn nhận, khẳng định tính ưu việt của

tư tưởng Tây phương. Đó là tinh thần tự do và bình đẳng, đề cao quyền con

người, khuyến khích khám phá chinh phục thiên nhiên, phát triển khoa học để

phục vụ cho lợi ích của con người.

2.2.3. Đề cao tư tưởng bình đẳng giới và nữ quyền ở Việt Nam

Mặc dù bình đẳng giới liên quan đến tư tưởng chống Nho giáo nhưng

thực tế nhiều người chống Nho mà vẫn khắt khe với phụ nữ, nhất là không hề

khuyến khích phụ nữ học hành và tham gia hoạt động xã hội. Về điểm này

Phan Khôi đã triệt để hơn và xứng đáng là người mở đường cho phong trào

nữ quyền Việt Nam trong bước khởi đầu hiện đại. Mặt khác, bình đẳng giới là

một hiện trạng xảy ra ở cả những xã hội không mang tư tưởng Nho giáo – tức

là một vấn đề mang tính nhân loại, vì thế việc đề cao tư tưởng bình đẳng giới

của Phan Khôi việc làm có ý nghĩa gắn hoạt động văn hoá bản địa với xu thế

chung của thế giới.

Trong vòng tám năm (từ 1928 đến 1935) Phan Khôi đã có gần 77 bài

đặc biệt chú trọng đến tình trạng bất bình đẳng giữa nam và nữ. Những nội

dung cơ bản về vấn đề nữ quyền được Phan Khôi đề cập ở các bài báo là: tư

tưởng bình đẳng giới, vai trò của người phụ nữ trong gia đình và xã hội. Hơn

nữa ông còn nhấn mạnh khả năng tri thức của phụ nữ và khẳng định họ có thể

tham gia, thậm chí rất thành công ở các vấn đề văn hóa – xã hội.

báo đề cập đến những vấn đề liên quan đến phụ nữ. Con số này cho thấy ông

Trước hết, Phan Khôi muốn xóa bỏ định kiến cổ hủ coi thường phụ nữ,

54

trọng nam khinh nữ. Một loạt bài trên Phụ nữ Tân văn như “Theo tục ngữ

phong dao xét về sự sanh hoạt của phụ nữ nước ta” (số 5, ngày 30.5.1929),

“Chuyện một bà hoàng hậu vì mắc oan mà bị tử hình” (số 50, ngày 1.5.1930),

“Xóa một cái án trong lịch sử: thân oan Võ Hậu” (số 53, ngày 22.5.1930),

“Trời vua với đàn bà con gái” (số 121, ngày 3.3.1932).... Phan Khôi đã công

khai bênh vực cho những người đã mất và cả những người hiện thời. Theo

ông, xuất phát từ tư tưởng nam quyền nên xã hội dồn ép người phụ nữ vào vị

trí thấp kém, chỉ biết chấp nhận, thuần phục và nín nhịn. Xã hội muốn phát

triển hướng đến văn minh cần thay đổi lối nghĩ này, mà đặc biệt bản thân phụ

nữ phải tự nhận thức và tìm mọi cách để thay đổi tình trạng của chính mình.

Đồng thời với việc khẳng định quyền bình đẳng giới, Phan Khôi cũng

cho rằng người phụ nữ có vai trò hết sức quan trọng trong gia đình. Họ không

những phải gánh vác rất nhiều phần việc để duy trì đời sống kinh tế (lao động

sản xuất nông nghiệp, buôn bán...) mà còn có trách nhiệm trong việc giáo

dưỡng con cái. Trong các bài viết trên Phụ nữ tân văn như “Việt Nam phụ nữ

liệt truyện” (số 7, ngày 13.6.1929), “Một cái gương sáng cho người mẹ” (số

9, ngày 5.9.1929)... Phan Khôi đề cập rất cụ thể về khía cạnh này. Người mẹ

như là một tấm gương sáng để hướng đến sự hình thành nhân cách đạo đức

cho những đứa con. Nếu chỉ xem phụ nữ như là những “chiếc máy đẻ”, là trò

tiêu khiển cho đàn ông thì thật sự sai lầm. Chức năng giáo hóa của họ trong

Phan Khôi gắn liền với tư tưởng nhân văn sâu sắc trong dân gian “phúc đức

tại mẫu”. Từ đây, ông quyết liệt đả phá chế độ đa thê, hôn nhân cưỡng bức, và

chia sẻ với phụ nữ về việc không nhất thiết phải thủ tiết thờ chồng mà chôn

vùi tuổi trẻ cùng khát vọng hạnh phục chính đáng. Với ông đó là “sự nhẫn

tâm, vô đạo”. Trong bài “Tống Nho với phụ nữ” đăng trên Phụ nữ tân văn (số

gia đình, đặc biệt là đối với những đứa con là rất lớn. Quan điểm này của

55

95, ngày 13.8.1931), Phan Khôi đã mạnh mẽ chỉ trích “cái phong tục man rợ

mà người ta xưng tụng là thủ tiết trong xã hội Trung Hoa và Việt Nam” [74, tr

130] và hô hào chị em phụ nữ hãy nên “phế trừ” cái tục “trái tính trời” ấy đi:

“Trong phụ nữ ta có rất nhiều người chồng chết, ở trong cảnh ngộ rất

đáng thương, buồn rầu đủ một trăm thứ, vậy mà nói đến truyện cải giá,

sợ mang tiếng, nhất định không thì thôi. Có người bóp bụng cắn răng

cũng giữ được trót đời; nhưng có người khôn ba năm dại một giờ, thì ra

mang cái xấu lại còn hơn cải giá. Lại thường thấy bà góa nào có máu

mặt thì bọn điêu ngoa trong làng trong họ lập mưu mà vu hãm cho, để

mong đoạt lấy gia tài. Những sự đó đều là chịu ảnh hưởng của cái luật

cấm cải giá mà ra; vậy thì nó chỉ lại hại cho phong hóa thì có chớ có bổ

ích gì đâu? Bởi vậy ta nên phế trừ cái luật ấy đi; từ rày về sau, trong óc

chúng ta, cả đàn bà và đàn ông Việt Nam đừng có cái quan niệm ấy

nữa” [8, tr142-143].

Quan trọng và tích cực hơn trong cách nhìn nhận của Phan Khôi về phụ

nữ là khẳng định vai trò của họ đối với xã hội. Theo ông trước hết phụ nữ

phải có “quyền tri thức”, nghĩa là phải được đi học. Qua viện dẫn và phân tích

ở một số bài báo trên Phụ nữ tân văn như “Về văn học của phụ nữ Việt Nam”

(số 1, ngày 2.5.1929), “Văn học với nữ tánh” (số 2, ngày 9.5.1929), “Văn học

của phụ nữ nước Tàu về thời kỳ toàn thạnh” (số 3, 16.5.1929), Phan Khôi đã

đồng là đều biểu hiện cho cái đẹp. Và cũng từ quan điểm này ông rút ra nhận

xét rằng với tâm hồn nhạy cảm, sâu sắc và giàu lòng trắc ẩn phụ nữ sẽ dễ

dàng thành công ở hai lĩnh vực, cụ thể là hai nghề là viết văn và làm thuốc.

Không chỉ vậy Phan Khôi cũng rất ủng hộ nữ giới tham gia vào các

hoạt động chính trị, diễn thuyết, khiêu vũ, thể thao, thời trang... Quan điểm

chỉ ra mối liên hệ giữa phụ nữ và văn học bởi hai phạm trù này có điểm tương

này được thể hiện qua loạt bài trên Phụ nữ tân văn như “Cuộc vận động ở

56

nước Triều Tiên” (số 138, ngày 6.6.1932 và 144, ngày 16.6.1932), “Câu

chuyện thú vị trong nghị viện có đàn bà” (số 161, ngày 28.7.1932), “Vì sao

chúng tôi không bài trừ cái dịch khiêu vũ” (số 14, ngày 17.12.1933), “Vấn đề

cải cách cho phụ nữ” (số 118, ngày 28. 1.1932)...

Ngay từ những thập niên đầu thế kỷ XX cuộc vận động cho quyền lợi

giới nữ đã được phát động bởi các phụ nữ trí thức Việt Nam như Đạm

Phương nữ sử, Sương Nguyệt Anh, Huỳnh Thị Bảo Hòa, bà Nguyễn Đức

Nhuận... Trong khung cảnh đó, các bài báo và quan điểm của Phan Khôi có

vai trò tiếp sức cho cuộc đấu tranh đòi quyền lợi cho phụ nữ. Hiệu ứng tích

cực của nó có thể quan sát qua sự lan truyền nhanh chóng của cuộc đấu tranh

đòi nữ quyền, qua việc trở thành đề tài văn học hấp dẫn cho nhiều cây bút,

trong đó có nhóm Tự lực văn đoàn.

Như vậy, có thể nhận thấy, từ xu hướng nhân đạo khi viết về phụ nữ

trong văn học Việt Nam nửa sau thế kỷ XVIII - đầu thế kỷ XIX đến phong

trào nữ quyền đầu những năm 20–30 của thế kỷ XX, cuộc đấu tranh cho nữ

quyền do Phan Khôi đề xuất trên báo giới là một bước tiến trong cách nhìn

nhận, đánh giá về phụ nữ. Đây thực chất là một phần của việc thúc đẩy văn

hóa và văn học dân tộc tiến vào con đường hiện đại hóa.

2.3. Hoạt động văn hóa, văn chương của Phan Khôi

Xuất thân là một trí thức cựu học nhưng rất nhạy bén để nhận ra giá trị

nhà nho. Chính vì thế từ khi cầm bút Phan Khôi đã có ý thức viết về những

vấn đề có tác động đến xã hội, trong đó có sinh hoạt văn chương. Nói cách

khác, Phan Khôi là kiểu trí thức coi trọng tác động của tri thức đối với những

đổi thay xã hội. Trong bài báo “Thanh niên với tổ quốc” đăng trên Phụ nữ tân

văn số 172 năm 1932, Phan Khôi đã tự xác định trách nhiệm bản thân đối với

của những cái mới, Phan Khôi đồng thời cũng thừa hưởng sự tự nhiệm của

xã hội và trong việc làm báo qua việc đặt vấn đề: thanh niên tân học nước ta

57

muốn giúp ích cho Tổ quốc thì nên làm thế nào? Điều này lí giải vì sao Phan

Khôi tuy không chuyên tâm cho hoạt động văn chương mà chỉ chú trọng ở

việc làm báo nhưng khi nội dung các bài báo đề cập đến những vấn đề liên

quan đến văn chương thì lại có sức ảnh hưởng rất lớn. Và ảnh hưởng từ hoạt

động báo chí của Phan Khôi đến văn hoa, văn chương Việt Nam có thể được

nhìn nhận qua những vấn đề sau.

2.3.1. Thúc đẩy sự phát triển của ngôn ngữ Việt

Như đã đề cập ở phần đầu, từ khi tiếp xúc với văn minh phương Tây xã

hội Việt Nam đã diễn ra những biến động, thay đổi mạnh mẽ ở nhiều phạm vi

và chạm đến chiều sâu nhất của đời sống tinh thần. Quá trình biến đổi này đã

được chuyên chở và phổ cập bởi báo chí.

Trước hết Phan Khôi, qua hoạt động báo chí đã cổ động mạnh mẽ cho

việc dùng chữ quốc ngữ. Sự xuất hiện của chữ quốc ngữ được xem là dấu

hiệu quan trọng của quá trình hiện đại hóa về văn hóa, văn học trong xã hội

Việt Nam. Trạng thái đồng hiện của các văn tự: Hán, Nôm, Quốc ngữ, Pháp là

đặc điểm nổi bật của văn tự Việt Nam cuối thế kỷ XIX. Thậm chí mãi cho đến

những năm đầu thế kỷ XX, một số tờ báo vẫn còn dùng chữ Hán như Đăng cổ

tùng báo và Nam Phong tạp chí ở một số chuyên mục dành riêng cho chữ

Hán với một vài số phát hành thời kỳ đầu. Điều đó chứng tỏ bước đầu chữ

quốc ngữ không hề dễ dàng chen chân vào đời sống văn hóa, văn học Việt

Kỳ) chủ trương khuyến khích dùng chữ quốc ngữ theo mẫu La tinh. Với tâm

thế của kẻ đi khai hóa và mong muốn đồng hóa nhanh chóng người Việt,

chính quyền thực dân đã dùng nhiều biện pháp khác nhau vừa khuyến khích,

vừa cưỡng bức dùng chữ quốc ngữ như là một công cụ chuyển tiếp trong

“thời kỳ quá độ tiến lên chữ Pháp”. Pháp mong muốn thay thế chữ Nôm và

Nam mặc dù trong chính sách đồng hóa của thực dân Pháp (đặc biệt là ở Nam

chữ Hán bằng chữ quốc ngữ với mục đích tách người dân An Nam hoàn toàn,

58

vĩnh viễn ra khỏi những ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa; đồng thời với ưu

thế ghi âm giản tiện, dễ đọc, dễ nhớ chữ quốc ngữ cũng sẽ là công cụ thuận

lợi để Pháp truyền bá văn hóa, dễ dàng hơn trong chính sách đồng hóa của

mình. Một số trí thức thời kỳ đầu như Trương Vĩnh Ký, Huỳnh Tịnh Của,

Nguyễn Trọng Quản,... sau đó là các nhà nho duy tân như Phan Châu Trinh,

Trần Quý Cáp,... Phan Khôi đã sớm nhận ra ưu thế của loại chữ dễ đọc, dễ

viết này và đã tìm cách phổ biến chữ quốc ngữ như một công cụ kiến thiết xã

hội, trở thành “linh hồn” đưa xã hội hướng đến văn minh. Chính vì vậy, Phan

Khôi kiên quyết không tán đồng với quan điểm bảo thủ của một số nhà cựu

học khi cho rằng dùng chữ quốc ngữ là đồng nghĩa với việc thỏa hiệp với giặc

ngoại xâm, đồng thời cũng không ủng hộ phương án dùng chữ Pháp làm quốc

văn của các trí thức Tây học như Hồ Quý Kiên. Trong bối cảnh văn hóa khá

phức tạp lúc bấy giờ cùng những thiên kiến chính trị khá biệt nhau, việc quyết

tâm sử dụng và phổ biến chữ quốc ngữ để trở thành chữ viết của dân tộc là

một thức nhận sáng suốt, đầy bản lĩnh của Phan Khôi cũng như các nhà nho

duy tân và trí thức Âu học mang tinh thần dân tộc.

Bên cạnh việc cổ súy, vận động toàn dân học chữ quốc ngữ, Phan Khôi

cũng đặc biệt quan tâm đến việc chỉnh đốn chính tả. Là một văn tự mới nên

trong quá trình sử dụng, chữ quốc ngữ lúc bấy giờ đã bộc lộ không ít những

hạn chế và đôi chỗ vẫn còn lạ lẫm với người dùng. Khi bàn về quá trình phát

Xuân đã chỉ ra một hạn chế của tình trạng đa phương ngữ vào những năm đầu

thế kỷ XX – thời điểm chữ quốc ngữ được khuyến khích sử dụng, và in ấn

xuất hiện: “Tiếng Việt phổ biến trong toàn dân tộc Việt, nhưng thổ âm thì lại

quá nhiều. Những thổ âm còn tệ hơn điển tích…” [204, tr 592]. Có lẽ ý thức

rất rõ về điều này nên trong quá trình hoạt động nghề nghiệp của mình, đặc

triển “đi về phương Nam” của văn nghệ dân tộc, nhà nghiên cứu Nguyễn Văn

biệt là trong khoảng thời làm việc cho báo chí Sài Gòn từ năm 1928-1933,

59

Phan Khôi đã thường xuyên đề cập đến vấn đề chỉnh huấn chữ quốc ngữ,

nghiên cứu so sánh với tiếng Pháp, chữ Nôm, chữ Hán chỉ ra những chỗ khả

thủ, khắc phục những vấn đề còn tồn tại với ý thức trách nhiệm “làm cho

tiếng ta tiến đến bậc hoàn mĩ”, dành một phần quan trọng trong việc nâng cao

nhận thức của công chúng đối với việc sử dụng đúng chữ quốc ngữ - ngôn

ngữ dân tộc. Những bài viết mang tinh thần phản biện sâu sắc của Phan Khôi

về vấn đề chữ quốc ngữ (sử dụng như thế nào là đúng sai, cách dùng quán từ,

danh từ, động từ ra sao...) trong thời kỳ Phan Khôi góp mặt với báo chí Sài

Gòn (từ 1928 đến 1933) gắn với Đông Pháp thời báo (1928), Thần chung

(1929-1930), Phụ nữ Tân văn (1929-1933), Trung lập (1930-1933) rất có ý

nghĩa, bởi khi ấy nước ta đang trong quá trình hoàn thiện chữ quốc ngữ, và

dùng nó làm phương tiện cho cuộc vận động canh tân văn hoá xã hội.

Mặc dù lý luận về ngôn ngữ tại thời điểm này còn rất sơ khai nhưng

Phan Khôi đã sớm nhận ra được những vấn đề mang tính nguyên tắc của ngôn

ngữ và chỉ rõ đặc điểm của ngôn ngữ tiếng Việt. Một loạt các bài báo đề cập

đến chữ quốc ngữ được đăng trên báo chí Sài Gòn những năm từ 1928 đến

1933 cho thấy sự đóng góp của Phan Khôi đối với Việt ngữ học trên phương

diện nghiên cứu về ngữ pháp, từ vựng, ngữ âm của tiếng Việt; đồng thời thể

hiện ý thức mong muốn phổ biến ngôn ngữ dân tộc như: “Cách xưng hô của

người mình” (Thần chung, số 208,17-1-1929), “Trả lời cho một độc giả hỏi về

hỏi về chữ quốc ngữ” (Thần chung, số 115, 7-6-1929), “Mẹo tiếng An Nam

mới” (Thần chung, số 185, ngày 31-8-1929, “Chữ Quốc ngữ ở Nam Kỳ với

thế lực phụ nữ” (Phụ nữ tân văn, số 28, ngày 7-11-1929), “Viết chữ quốc ngữ

phải viết đúng” (Phụ nữ tân văn, số 31, ngày 5-12-1929), “Dấu hỏi ngã cũng

cần phải phân biệt” (mục Nói chuyện viết quốc ngữ) (Thần chung, số 273,

chữ quốc ngữ” (Thần chung, số 115, 7-6-1929), “Lại trả lời cho một độc giả

ngày 17-12-1929 và Trung lập, số 6038, ngày 27-12-1929), “Đính chánh lại

60

những chữ mà người ta hay dùng sai nghĩa” (Phụ nữ tân văn, số 43, ngày 13-

3-1930)... Quan điểm đầu tiên, rất quan trọng và khá nhất quán mà Phan Khôi

đề cập trong các bài viết trên là dùng chữ quốc ngữ trước hết phải đúng, vì

theo ông bản thân chữ quốc ngữ nước ta thời điểm đó chưa gọi là một thứ chữ

thành văn, nên cần hoàn thiện để hướng đến tính khoa học, chuẩn xác. Phan

Khôi nhận ra rằng, người mình (dân Việt nói chung) viết quốc ngữ sai, tùy

tiện... Một thứ chữ lộn xộn, mà còn viết sai thì làm sao có thể đem ra học

được? Cho nên, cần phải sửa sang, bồi bổ nó cho một ngày kia nó thành văn,

hầu làm cái lợi khí tốt cho chúng ta. Với mục đích rất rõ ràng như vậy nên

Phan Khôi là người khởi xướng cho cuộc thảo luận về “vấn đề viết đúng chữ

quốc ngữ”, cùng vấn đề sách giáo khoa tiếng Việt kéo dài gần ba năm trên

báo chí Sài Gòn.

Trong “Cảm tưởng khi chấm bài luận quốc ngữ” in trong Phụ nữ tân

văn (số 54, 29-5-1930), Phan Khôi đã nhận thấy: “...người An Nam ta viết

chữ quốc ngữ còn sai lầm lắm. Hết thảy 16 quyển mà chỉ được một vài quyển

viết ít lỗi mà thôi còn bao nhiêu thì nhiều lỗi quá, giá bắt lỗi về nét chữ thì

không hơi nào mà bắt”. Và ông đã chỉ ra những lỗi sai cơ bản trong chính tả

là sự nhầm lẫn khi sử dụng các chữ c và t, x và s, ch và tr, có g hay không g

giữa các vùng miền Trung, Nam, Bắc. Bên cạnh đó ông cũng thống kê những

lỗi sai khi dùng dấu chấm câu. Ví dụ dùng dấu chấm hỏi tùy tiện. Những phân

Ông thậm chí cho rằng bài văn được xem là trôi chảy, “hay” đến mức như thế

nào mà viết không đúng từ, sử dụng sai dấu chấm câu thì cũng gần như bỏ đi.

Trong một bài báo khác “Hai dấu hỏi ngã cũng cần phải phân biệt”

(mục Nói chuyện viết quốc ngữ, Thần chung, số 273, 17-12-1929 và Trung

lập số 6038, 27-12-1929), Phan Khôi lại tiếp tục đề cập đến vấn đề lỗi chính

tích cụ thể như vậy cho thấy Phan Khôi rất coi trọng việc viết đúng tiếng Việt.

tả một cách cụ thể hơn, như là dị âm hay đồng âm trong bữa (bữa ăn), bửa

61

(bửa củi) rồi kết luận rằng không thể xô bồ hỏi, ngã vì cho là nó đồng âm....

Có thể chứng minh qua những gì Phan Khôi viết ở bài báo khi tranh luận với

quan điểm của ông Lê Quang Vân (nêu trong báo Lục tỉnh tân văn) như sau:

“Coi cái ví dụ ấy thì thấy ông vẫn biết phân biệt hai dấu ấy rồi: bửa củi

thì chữ bửa theo dấu hỏi; còn bữa ăn thì chữ bữa theo dấu ngã. Ông

viết vậy mà ông lại biểu đánh xô bồ làm một cũng không hại chi vì

nghĩa nó khác nhau, nên “dầu trong một câu mà gặp đến mười chữ

đồng âm tự với nhau, tưởng cũng không lầm nghĩa chữ nầy qua chữ

khác đặng”,  thì thật là lạ quá. Chữ “bửa” dấu hỏi với chữ “bữa” dấu

ông cho là đồng âm nên ông nói lẫn nhau vô hại, như vậy là ông cũng

ngã đã là khác dấu thì nó là dị âm, chớ sao ông lại gọi là đồng âm? Bởi

còn sai đó. Thiệt ra thì, theo cho đúng tiếng An Nam, chữ bửa củi với

chữ bữa ăn phát âm khác nhau, nó cũng như cái ví dụ ông đã lấy, chữ

“ích lợi” và chữ “ít lợi” là khác nhau vậy. Nếu bên chữ “ích lợi” và chữ

“ít lợi” mà ông muốn phân biệt, thì bên kia chữ “bữa ăn” và chữ “bửa

củi” ông cũng phải phân biệt mới được. Đó là tôi muốn ông theo đúng

tiếng An Nam, theo đúng tự vị Trương Vĩnh Ký và Paulus Của chớ

không phải tôi dám ép ông phải theo tôi hay là theo ai khác. Ông nói

phân biệt ngã hỏi thì phiền cho người viết văn, phiền cho sự in sách.

Ông nói vậy thì thành ra trái với cái thuyết ông chủ trương. Vì nếu phân

lẫn lộn nầy cũng chẳng bé gì hơn sự lẫn lộn kia” [5, tr 267].

Liên quan đến vấn đề ngữ pháp tiếng Việt, trong bài “Theo thuyết

chính danh đính chánh lại cách xưng hô tên người Việt Nam” (Phụ nữ tân

văn, số 58, ngày 26-6-1930 và số 59, ngày 03-7-1930), Phan Khôi đã một mặt

cắt nghĩa về nguyên tắc đặt danh từ như thế nào và chỉ ra cái hại của việc

biệt c, t, không g và có g chẳng cũng là phiền hay sao? Mà cái hại của sự

không sử dụng danh từ cho chính đáng. Để dùng đúng danh từ, về mặt lý

62

thuyết ngữ dụng học, khi gọi tên một sự vật tất yếu phải hiểu đặc tính của nó

nhằm phân biệt với sự vật khác. Trên cơ sở này có thể phân chia danh từ

thường dùng thành hai loại: danh từ hữu nguyên và danh từ duyên khởi. Như

vậy với Phan Khôi có bốn lưu ý trong nghĩa chính danh: (1) Một người chỉ

nên có một tên, tránh trường hợp nhầm lẫn, lộn xộn, (2) Tên phải kêu theo

chủ nó, (3) Tên xưng trên báo và tạp chí chỉ có hai cách mà thôi, là xưng tên

thiệt của người viết bài cùng là xưng biệt hiệu (hoặc kêu là bút tự) của người

ấy; (4) Tên kêu giữa xã hội và trên lịch sử khác nhau. Giữa xã hội, là những

người ở đồng thời với nhau, theo phép lịch sự, khi kêu tên một người nào,

phải để chữ ông hay là chữ tiên sanh lên trước cái tên. Song, trên lịch sử thì

trái lại, chỉ kêu một cái tên trổng mà thôi, không có ông hay tiên sanh nữa,

nếu nhà làm sử nào mà không tuân cái luật ấy, thì lại thành ra tay sử gia nhà

quê vậy... Ngoài ra ông còn phân tích nhiều dẫn chứng để chỉ ra tác hại của

việc dùng danh từ không đúng. Vậy làm cách nào để có thể sử dụng chữ quốc

ngữ chuẩn xác? Phan Khôi nhận ra và khẳng định vai trò hết sức quan trọng

của báo chí trong việc nâng cao nhận thức của công chúng về chữ quốc ngữ.

Trong bài viết “Chữ quốc ngữ ở Nam Kỳ với thế lực của phụ nữ” trên Phụ nữ

tân văn (số 28, ngày 07-11-1929), Phan Khôi chỉ ra khởi nguồn và quá trình

phát triển chữ quốc ngữ ở 3 miền Bắc – Trung – Nam. Khởi nguồn chữ quốc

ngữ được dùng rất chuẩn, nhất là ở Nam Kỳ, nơi mà theo Phan Khôi có hai

ông đã phân tích các lỗi sai khi dùng chữ quốc ngữ của người dân Nam Kỳ

mà nguyên nhân bắt đầu từ các nhà làm báo tiền bối là nhà nho sót lại, chỉ học

vần rồi ráp lại viết nên thành ra “loạn xị”, “...không còn chỗ nói nữa! Ai muốn

viết thế nào đó thì viết, tuồng như họ muốn nổi cách mạng nghịch cùng

Huỳnh Tịnh Trai và Trương Vĩnh Ký! Bỏ hết thảy, đừng nói; chỉ nói một chữ

đại sư về quốc ngữ là Trương Vĩnh Ký và Huỳnh Tịnh Trai. Nhưng về sau

dịch (traduire) mà viết ra chữ vịt trong một quyển luật đã in và bán chạy như

63

ngựa rồi kia, cũng đủ cho các ông đương khóc mà phải bật cười” [5, tr 254].

Phan Khôi đã nêu ra trách nhiệm của báo chí trong việc khắc phục tình trạng

này: “Tôi không có quyền sửa đổi trong một tờ báo cho trở nên đúng. Song

tôi mong rằng có một tờ báo nào ở Sài Gòn đây sẽ làm tiên phong mà sửa đổi

cho đúng đi. Tôi thiệt mong ở Phụ nữ tân văn” [5, tr 255]. Báo chí là cơ quan

ngôn luận, phổ dụng, độc giả đọc báo thường xuyên nên nếu luôn tiếp xúc với

các lỗi viết sai, cẩu thả ở báo thì sẽ phương hại vô cùng. Quan điểm này cũng

đã được nhấn mạnh ở một loạt bài “Viết chữ quốc ngữ phải đúng” đăng trên

Phụ nữ tân văn số 31 (05-12-1929), “Tại sao chúng ta không nên bỏ qua chữ

quốc ngữ và phải viết đúng”, đăng trên Thần chung số 341 (20-3-1930) và

Trung lập số 6105 (22-3-1930). Trước đó Hồ Quý Kiên đã đưa ra quan điểm

“nên dẹp chữ quốc ngữ lại, lấy chữ Pháp làm quốc văn Việt Nam” nghĩa là

người Việt nên chuyên học chữ Pháp, còn chữ quốc ngữ viết sao miễn đọc,

hiểu không cần đúng vì theo ông tiếng An Nam khuyết điểm nhiều quá,

không thể nào bồi bổ được. Phan Khôi không hoàn toàn tán đồng mà phân

tích rằng vẫn biết tiếng Pháp là thứ tiếng khoa học, dùng nó như là một sự

tiếp xúc trực tiếp với văn minh Âu Mỹ (trong khi tiếng quốc ngữ đi theo

đường vòng), song văn minh thì phải chú trọng yếu tố văn minh đại chúng.

Tất cả người Việt không thể học tiếng Pháp và coi đó là ngôn ngữ dân tộc mà

để biết chữ, để tiếp thu và phổ biến văn minh, người Việt cần học để biết chữ

Khôi luôn quan tâm đề cập đến vấn đề này và đồng thời cũng khuyến cáo

chung cho người Việt rằng muốn học và viết đúng chữ quốc ngữ tự thân mỗi

cá nhân phải cố gắng và cần có ý thức rằng đây là vấn đề tự trọng của bản

thân và dân tộc. Ông vừa làm người vận động, cổ súy, vừa làm người chú

thích, giảng giải.

quốc ngữ và viết đúng chữ quốc ngữ. Vì thế, trên phương diện báo chí Phan

Như vậy, Phan Khôi, qua hoạt động học thuật và báo chí, còn được biết

64

đến là một nhà ngôn ngữ thực hành. Ông đảm nhận vai trò dọn vườn, sửa chữ,

sửa văn, xông xáo trên các diễn đàn thảo luận về văn học và ngôn ngữ. Trên

báo chí Sài Gòn giai đoạn 1929-1933, ông nhiều lần trả lời các độc giả những

thắc mắc về vấn đề sử dụng chữ quốc ngữ, cụ thể là vấn đề dùng hỏi, ngã như

thế nào trên các chữ a, e, â, o...., giải thích sâu về vấn đề thanh, âm trong

nguyên tắc chữ quốc ngữ... Trong một loạt bài trên Phụ nữ tân văn năm 1931,

Phan Khôi đã chỉ ra những vấn đề khi sử dụng tiếng Việt dẫn đến sai lệch

như: “Tiếng hay văn Việt Nam cũng chỉ một mà thôi” (11-6-1931), cho rằng

không nên thổi phồng khác biệt phương ngữ để rồi vô tình gây chia rẽ dân

tộc, “Đính chánh lại cách xưng tên của người Việt Nam” (26-6-1930) chỉ ra

những danh từ bị dùng sai sẽ dẫn đến sự thiên lệch trong kết luận vấn đề...

Riêng ở Trung lập, Phan Khôi còn có rất nhiều bài về ngôn ngữ, tham gia

thảo luận về thể loại văn chương... Việc làm này của Phan Khôi góp phần

nâng cao nhận thức của công chúng về chữ quốc ngữ, đồng thời góp phần

hiện đại hóa văn phong báo chí. Trong bài viết “Văn nghị luận phải viết như

thế nào?” đăng trên Trung lập (số 6491, năm 1931) Phan Khôi bày tỏ quan

điểm: “Trong văn quốc ngữ ta, cái lối viết của ông Hoàng Tích Chu thật nó

biệt hẳn ra một lối đủ mà kêu được là “lối văn Hoàng Tích Chu” sự ấy trong

làng văn ta... cũng khá gọi là tay hào kiệt”. Đánh giá cao cách đặt câu ngắn

gọn, dễ hiểu nhưng sâu sắc của Hoàng Tích Chu, Phan Khôi cũng tán thành

dòng, hướng đến câu văn gãy gọn, minh bạch, khúc chiết và đưa ngôn ngữ

sống động đời sống vào câu văn tiếng Việt. Bên cạnh đó, Phan Khôi còn rất

ủng hộ lối viết văn ngắn gọn, dễ hiểu và bản thân Phan Khôi hầu hết đều dùng

lối viết rõ ràng, mạch lạc, chặt chẽ.

Những minh chứng trên cho thấy Phan Khôi đã nhận thức rất rõ chuẩn

quan điểm hướng đến đổi mới tiếng Việt trên báo chí, tránh lối diễn đạt dài

hóa chữ quốc ngữ có vai trò quan trọng trong việc xây dựng nền quốc văn

65

thống nhất, phát triển theo hướng văn minh. Như vậy, bằng những hoạt động

của nhà ngôn luận, Phan Khôi đã góp phần vào vấn đề truyền bá chữ quốc

ngữ và dùng báo chí làm phương tiện chuyển tải những kiến thức để phổ biến

và phát triển tiếng Việt trong công chúng xã hội.

2.3.2. Giới thiệu văn học nước ngoài qua dịch thuật

Trong tiến trình hiện đại hóa văn học, việc đến với văn chương các

nước phát triển (đặc biệt là phương Tây) qua con đường dịch thuật là một

biểu hiện của nhu cầu tiếp nhận, giao lưu văn hóa, văn học. Việc làm này của

Phan Khôi là bước chuẩn bị trên cả hai phương diện thể loại và chất liệu ngôn

từ cho một bước chuyển quan trọng của văn học dân tộc. Bên cạnh việc bảo

tồn những giá trị văn hóa cũ, yêu cầu cần thiết là bắt nhịp với thời đại. Dịch

thuật vì thế đóng vai trò cầu nối giữa truyền thống và hiện đại, giữa văn hóa

trong nước với văn hóa ngoại nhập.

Đóng góp cụ thể của Phan Khôi trên phương diện dịch thuật là đã tạo ra

nguồn tư liệu đáng lưu ý về văn học Nga, Pháp và Trung Quốc.

Về mảng văn học Nga, ông dịch Kể chuyện mình, Bờ ao của

Eroshenko (trên các số 722, 727, 730, 731, 732, 774 của Đông Pháp thời

báo), giới thiệu “Cái thế lực của nhà văn hào” (Đông Pháp thời báo, số 727,

năm 1928). Mặc dù không có tiếng Nga, song qua bản chữ Hán, Phan Khôi đã

chọn các nhà văn Nga này để giới thiệu với công chúng Việt Nam bởi đây là

tác động mạnh mẽ góp phần vào sự thay đổi nhiều bình diện xã hội. Trong bài

“Cái thế lực của nhà văn hào”, Phan Khôi đã khẳng định: “ông Tolstoy không

hề có chút binh lính súng đạn gì hết, song cũng thắng được, ấy là nhờ ông có

cái ngòi bút” [3, tr 131] và khi “ngôi vua nước Nga đổ, vua Ni-cô-la bị giết,

nước Nga trở nên dân chủ, rồi lại trở nên nước cộng sản, người ta cho rằng ấy

những nhà văn có tư tưởng tiến bộ với sức ảnh hưởng lớn. Ngòi bút của họ đã

là nhờ thế lực của quân cách mạng bấy giờ và thế lực của Lý – Ninh; nhưng

66

lại có người nói rằng ấy là nhờ thế lực của ông Tolstoy, nhờ ngòi bút của ông

Tolstoy vậy” [3, tr 131]. Phan Khôi rõ ràng đã muốn công chúng mở mang

tầm nhìn khi tiếp xúc với những tác phẩm của những nhà văn có tư tưởng tiến

bộ này. Kể cả khi chọn giới thiệu về thi nhân mù Eroshenko và dịch những tự

truyện của ông (Kể chuyện mình), Phan Khôi góp phần lan tỏa thông điệp mà

nhà văn chuyển tải trong những câu chuyện về cách giáo dục áp đặt, nhồi nhét

ở một trường học bên Nga; phản ánh bản chất thối nát của chế độ Nga hoàng

để công chúng Việt hiểu rõ, từ đó thức tỉnh, thay đổi nhân sinh quan.

Về mảng văn học Pháp, ông dịch bài thơ Quan về vườn của H.de

Rancan (đăng trên Đông Pháp thời báo, số 716 năm 1928); dịch phần đầu tiểu

thuyết (qua bản dịch chữ Hán) Bá tước Monte Cristo của Alexandre

Dumas cha và đặt tiêu đề là Thầy trò trong khám đăng 31 kì trên Đông Pháp

thời báo từ số 741 – 773 cũng trong năm 1928.

Với văn học Trung Quốc, ông dịch một số đoạn trong sử ký của Tư Mã

Thiên (“Thơ trả cho Nhiệm An”, “Thích khách liệt truyện”); dịch Trò miệng

của Lam Thiết Nhai; dịch Bức thư trả lời cho Lưu Mông của Tư Mã Quang;

dịch Tần Sĩ Lục (chép chuyện người kỳ sĩ đất Tần của Tống Liêm) ; dịch Họa

ký (ghi các nhân vật của một quyển vẽ của Hàn Dũ)... đăng trên Phụ nữ tân

văn (số 133 năm 1932); giới thiệu và dịch năm bài thơ của Khang Hữu Vi trên

Trung lập (số 6487 năm 1931); dịch một số chương của bộ thi thoại nổi tiếng

Phan Khôi còn giới thiệu Hồ Thích – nhà tư tưởng, học giả lớn của Trung

Quốc, người khởi xướng thuyết dùng bạch thoại thay thế cho văn ngôn, đăng

trên Đông Pháp thời báo (số 807, năm 1928). Việc chọn giới thiệu về các nhà

cách mạng tư tưởng này đều nằm trong chủ đích của Phan Khôi. Đặc biệt,

Phan Khôi rất quan tâm đến Lỗ Tấn, một nhà văn có nhiều sáng tác phản ánh

nhất đời Thanh là Tùy Viên thi thoại và dịch thơ Viên Mai. Bên cạnh đó,

67

hiện thực, phê phán sự hủ bại của xã hội, đồng thời có lối viết hiện đại.

Ngoài ra, Phan Khôi còn cùng với ông W. Cadman dịch Kinh thánh

cho Hội Tin lành Việt Nam. Trong bài giới thiệu “Giới thiệu và phê bình

Thánh Kinh báo” đăng trên Phụ nữ tân văn (số 74, 1930) Phan Khôi cho rằng:

“Có nhiều chữ trong tiếng Pháp – nhiều không kể xiết – nếu chẳng biết đến

Kinh Thánh thì chỉ hiểu nghĩa cạn cạn mà thôi. Ai đã thông thạo Kinh

Thánh rồi thì chắc hiểu sâu hơn mà lấy làm khoái lắm. Văn quốc ngữ ta cũng

nên dùng chữ Kinh Thánh vào. Làm như vậy thì tiếng mình được dồi dào

thêm, chớ có hại gì đâu” [6, tr 563]. Phan Khôi còn nhận thấy rõ “văn chương

của Thánh kinh báo còn giúp cho văn quốc ngữ ta trong lúc mới lập nền. Bởi

văn chương Thánh kinh báo đặt một cách thật rõ, thật gọn mà lại dễ hiểu, rất

hiệp với lối bình dân học” [6, tr 564]. Qua bài giới thiệu này chúng ta nhận

thấy “một Phan Khôi cao thượng, phóng khoáng, cởi mở, tôn trọng những giá

trị văn hóa và tôn giáo của nhân loại”, đồng thời rất có ý thức trong việc

truyền bá những ưu việt trong các phẩm dịch đến với công chúng nước ta

[213].

Toàn bộ hoạt động dịch thuật của Phan Khôi bộc lộ rất rõ tiêu chí chọn

dịch của ông là những tác giả, tác phẩm có giá trị về mặt tư tưởng “khác

người ta, có thể gọi là cách mạng”, có phương pháp tiếp cận biệt lập, độc đáo

[13, tr 753], hoặc “có quan hệ với sử liệu” [13, tr 753]. Thậm chí ông chọn

dịch những tác phẩm của những nhà hoạt động chính trị, văn hoá như Khang

ra còn có thể nhận thấy, trong hầu hết các tác phẩm đã dịch Phan Khôi luôn

coi trọng lối dịch sát nghĩa, khúc chiết, dễ hiểu và đặc biệt quan tâm yếu tố

phải dịch đúng, bởi ông quan niệm “sự dịch sách là rất cần mà lại rất quan hệ.

Quan hệ cái gì? Bởi vì, lần nầy là lần dịch đầu tiên ta đem một cái đạo lý nào

hay một cái học thuyết nào dịch ra mà cống hiến cho quốc dân, cốt nhất phải

Hữu Vi, Hồ Thích. Điều này sẽ tạo ra sự hấp dẫn cho độc giả báo chí. Ngoài

cho đúng. Bằng sai đi thì sau này chắc sẽ mất công chữa lại, và cũng chưa

68

chắc là chữa lại được nữa” [10, tr 574].

Như vậy, qua hoạt động dịch thuật, Phan Khôi đã giúp cho độc giả

nước ta tiếp cận với những tài năng văn chương nước ngoài, làm phong phú

vốn hiểu biết về văn chương của xã hội Việt Nam. Việc làm này không chỉ

đáp ứng nhu cầu thưởng thức văn chương, mà còn góp phần mở rộng tầm

nhìn, tạo chất xúc tác, kích thích những ý tưởng sáng tạo mới cho văn học

trong nước, đưa văn chương và độc giả văn chương nước nhà hòa nhập vào

dòng chảy văn minh nhân loại.

2.3.3. Tạo ra các tranh luận về văn chương và bằng văn chương (hay là

đóng góp của Phan Khôi cho đời sống phê bình văn chương)

Môi trường học thuật truyền thống ở Việt Nam vốn tĩnh, không coi

trọng tranh luận. Tuy nhiên vào những năm 30 của thể kỷ XX đã xảy ra rất

nhiều cuộc bút chiến và tranh luận sôi nổi. Điều đặc biệt là hầu hết những

cuộc bút chiến này đều có sự tham gia của Phan Khôi, thậm chí ông còn luôn

là người khơi mào.

Có thể liệt kê những cuộc tranh luận có sự tham gia của Phan Khôi

như: tranh luận về Truyện Kiều, tranh luận về quyền của phụ nữ, tranh luận

về Nho giáo, tranh luận về quốc học, tranh luận về thơ cũ và thơ mới, tranh

luận về duy tâm và duy vật... Vu Gia trong một công trình nghiên cứu của

mình đã nhận định: “Làng báo Việt Nam vào những năm đầu thập niên 30 của

thế kỷ XX, nếu không có Phan Khôi thì buồn đến chừng nào? Bây giờ nhìn

khởi xướng, có nhiều cuộc tranh luận đã tạo ra nhiều tên tuổi, đã lôi kéo nhiều

bậc thức giả, nhiều cây bút tên tuổi bấy giờ vào cuộc và hình thành hai trận

tuyến rõ rệt” [36, tr 544-545]. Cụ thể là khi nói về sự thành thực trong văn

chương được đề cập trong lịch sử văn học Việt Nam thế kỷ XX, chúng ta chỉ

biết đến những nhân vật như Hoài Thanh, Lưu Trọng Lư, Lê Tràng Kiều... vì

lại, ta thấy hầu hết các cuộc tranh luận nổ ra ở giai đoạn này là do Phan Khôi

họ đã có ý kiến phản biện trực tiếp trong cuộc tranh luận với phái “vị nhân

69

sinh”, song thực chất nó xuất xứ từ Phan Khôi. Trong bài báo “Nên bài xích

lối văn không thành thực” (đăng ở báo Tràng An, số 88 năm 1935 và số 89

năm 1936), Phan Khôi cho rằng một nền văn học có giá trị thì trước hết phải

chú trọng ở sự thành thực. Nếu văn học không thành thực thì trong sự biểu

hiện và phê bình đều sai lầm, giả dối thì là văn học vô giá trị. Chính là từ bài

viết này, cuộc tranh luận “nghệ thuật vị nghệ thuật, nghệ thuật vị nhân sinh”

đã được châm ngòi để rồi sau đó Hải Triều và Hoài Thanh bút chiến sôi nổi

trên báo chí. Cũng từ cuộc tranh luận này, vai trò và bản chất của văn nghệ

mới được nhìn nhận lại rõ hơn.

Như vậy, có thể thấy phong cách đặc trưng của Phan Khôi trong phê

bình là cách đặt vấn đề hoặc gân hấn dẫn đến tranh luận. Và vì thế tranh luận

đã trở thành một phong cách viết đặc thù ở Phan Khôi. Những vấn đề mà

Phan Khôi quan tâm trong các cuộc tranh luận thuộc nhiều lĩnh vực khác

nhau, từ văn hóa đến tư tưởng, triết học, lịch sử đến ngôn ngữ, văn chương...

Đối tượng tranh luận Phan Khôi cũng đều là những trí thức nổi tiếng đương

thời như Phạm Quỳnh, Trần Trọng Kim, Tản Đà, Lê Dư, Hải Triều, Huỳnh

Thúc Kháng... Điều đáng chú ý là khi đã vào cuộc tranh luận ông rất thẳng

thắn, quyết liệt và luôn đặt mục tiêu truy tìm đến cùng chân lý. Với quan điểm

luận lý học cai trị mọi sự ở đời, Phan Khôi đã góp phần tạo nên một môi

trường học thuật dân chủ và hiện đại. Nhiều vấn đề được làm sáng tỏ, chân lý

được khẳng định từ những cuộc tranh luận khoa học này. Bản thân “những

giai đoạn giao thời của ông đã tạo tiền đề tư tưởng cần thiết cho các cuộc cách

tân hiện đại hóa của văn học Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX” [137, tr 130].

Riêng ở lĩnh vực văn học Phan Khôi cũng đã có những bài viết thể hiện

rõ quan điểm của mình bàn về phép làm văn nghị luận như bài “Văn nghị luận

phải viết như thế nào?” đăng ở Trung lập, số 6491 năm 1931. Ở đây, Phan

bài nghị luận, bút chiến sắc sảo, phong cách mạnh mẽ, đầy ấn tượng trong

Khôi đã đặt vấn đề làm thế nào để có thể viết một bài văn nghị luận tốt sau

70

khi bàn về lối viết của Hoàng Tích Chu, và ông không đề cao lối viết này.

Phan Khôi cho rằng: “văn nghị luận không lấy văn làm mục đích mà lấy việc

làm mục đích” [8, tr 301], nghĩa là không chỉ phải viết hay, lời xuôi lẽ thuận,

không viết suông mà còn chú ý đến tính thực tế đời sống. Ngoài ra Phan Khôi

cũng rất nhạy bén khi đặt vấn đề về sự cần thiết của một thể loại mới khi

“Giới thiệu lối văn phê bình nhân vật” (đăng ở Phụ nữ tân văn, số 93 năm

1931). Những bài viết này rất có giá trị, góp tiếng nói thiết thực để xây dựng

một nền quốc văn ngày càng hiện đại.

Ngoài ra, một loạt những bài viết về “Khái luận về văn học chữ Hán ở

nước ta”, “Tục ngữ, phong dao và địa vị của nó trong văn học”, “Thi văn với

thời đại”, “Vận ngữ với thơ” viết năm 1939 được tạp chí Tao đàn sưu tập cho

thấy tư duy phê bình sắc sảo của Phan Khôi.

Trong bài về “Khái luận về văn học chữ Hán ở nước ta” để đi đến

khẳng định và phát ra lời kêu gọi: “Hỡi, người Việt Nam, trở về với quốc

văn” [21, tr 85] Phan Khôi vừa tổng kết thành quả văn học chữ Hán nước ta

vừa đưa ra những phân tích hết sức cụ thể về sự non yếu của văn học chữ

Hán. Ông cho rằng nguyên nhân quan trọng nhất gây ra sự non yếu là bởi việc

sử dụng văn tự Hán (mà bản chất là thứ ngôn ngữ ngoại lai) khiến người sáng

tác rất khó chuyển tải những trạng thái tinh tế trong tâm hồn, tập tục và đời

sống thường nhật của người Việt. Hơn nữa, lối viết rập khuôn, “hứng lấy cặn

bã” của người Tàu đã làm văn chương của An Nam “chẳng có một chút gì là

không lập nổi một nền văn học riêng cho mình” [21, tr 8]. Cách lập luận chặt

chẽ, phân tích thấu đáo kèm theo dẫn chứng cụ thể ở bài viết này càng cho

thấy ông là ngòi bút phê bình rất ấn tượng.

Hay với bài “Tục ngữ, phong dao và địa vị của nó trong văn học”, Phan

Khôi thể hiện sự am tường về văn học cũng như phương pháp tư duy sắc bén

đặc tính của An Nam, thành thử chúng ta, dù đến trên loài hoàn mỹ ấy, cũng

71

của kiểu phê bình “lý đoán” khi đưa ra cách phân loại rất cụ thể giữa tục ngữ

và phong dao và qua đó khẳng định vị trí quan trọng của những hình thức dân

gian này trong văn học.

Không chỉ ở những bài viết thuần túy về văn học mà đúng như nhận

xét của một nhà nghiên cứu, những loạt bài viết về văn hóa, văn chương được

lồng vào những vấn đề xã hội liên quan đến nữ giới mà Phan Khôi đăng trên

báo chí Sài Gòn cũng thể hiện rõ: “sự nhất quán với tư tưởng tiến bộ. Phan

Khôi đã xuất phát từ việc xác định phụ nữ như một đối tượng được thể hiện

trong văn chương để đi đến việc khẳng định vai trò của họ với tư cách là chủ

thể của hoạt động sáng tạo nghệ thuật. Đó là cách thức góp phần thúc đẩy quá

trình dân chủ hóa đời sống xã hội và văn chương. Hiện đại hóa xã hội gắn với

hiện đại hóa văn học trở thành ý thức thường trực nơi ngòi bút Phan Khôi”

[137, tr 325]. Tư tưởng nữ quyền luận qua hàng loạt bài báo sắc bén của ông

đã tạo nên những hiệu ứng tích cực. Nội dung công kích chế độ gia đình

phong kiến cổ hủ, chống lại hôn nhân cưỡng bức, đấu tranh cho quyền lợi

chính đáng và đề cao vai trò người phụ nữ là những nội dung chủ yếu trong

sáng tác của Tự lực văn đoàn sau này đã được Phan Khôi đề cập trước đó

trong các bài báo của mình. Điều này cho phép khẳng định ảnh hưởng về mặt

tư tưởng từ Phan Khôi đến tiểu thuyết Tự lực văn đoàn.

Ở phạm vi thi ca, mặc dù không phải là thành viên của phong trào Thơ

mới song Phan Khôi cũng là người khơi mào cho cuộc đấu tranh quyết liệt

Với thể loại văn xuôi tự sự, tuy không thành công ở phương diện thực

hành sáng tác nhưng ông cũng đã rất xông xáo và khẳng định tư tưởng tiến bộ

của mình ở phương diện lý thuyết. Phan Khôi đã sớm khẳng định: “về tiểu

thuyết, khuynh hướng về chủ nghĩa tả thực, lại trọng về tâm lý, cũng chủ

trương theo phái nghệ thuật vì nhân sanh. Cái khuynh hướng ấy, cái chủ

giữa thơ cũ và thơ mới.

trương ấy, tôi nhận là đáng đem ra mà thi hành trong cõi tiểu thuyết nước ta

72

ngày nay vậy. Cứ tả thực mà tả cho đúng tâm lý thì đủ làm cho vui cái tâm

cảnh của kẻ đọc rồi tự họ cảm hóa lấy, chớ còn cứ theo cái sáo khuyên răn cũ,

là tầm thường, người đời nay chán rồi” [5, tr 322]. Bằng cách đưa ra quan

điểm để kích thích đối thoại ở các học giả cùng thời, Phan Khôi đã phần nào

xác lập cơ sở lý thuyết để hàng loạt những tiểu thuyết viết theo khuynh hướng

hiện thực chủ nghĩa ra đời sau đó như một cách đổi mới lối viết khuôn sáo, và

được đánh giá cao...

Tiểu kết chương 2

Hoạt động báo chí, văn chương, học thuật của Phan Khôi đã cho thấy

những bước chuyển quyết liệt của ông: bắt đầu từ khát vọng canh tân xã hội

đến hoạt động canh tân văn hóa, văn chương. Đây là con đường dấn thân đầy

chủ động của một trí thức Nho học hết sức quyết liệt và triệt để. Cái bóng lớn

của Nho giáo không chỉ che phủ văn hóa Việt Nam mà thậm chí cả phương

Đông. Để vượt qua được nó không hề đơn giản nhưng Phan Khôi đã nhiều lần

thoát ra khỏi bóng rợp Nho giáo ngót ngàn năm này.

Ông đã rất thành công trong tư cách một nhà báo chuyên nghiệp với lập

luận sắc sảo và tinh thần phê phán quyết liệt. Bằng báo chí, Phan Khôi đã tấn

công vào thành trì của chế độ phong kiến, đồng thời chủ trương tiếp nhận tinh

thần của văn minh phương Tây. Hoạt động này đã được thể hiện qua: 1) tiêu

điểm là các bài viết khẳng định quyền lợi của giới nữ, kêu gọi giới nữ bước

vào các hoạt động xã hội; 2) cổ suý dùng chữ quốc ngữ, kêu gọi thống nhất

và 3) dấy lên những cuộc tranh luận về văn chương và bằng văn chương –

một hoạt động quen thuộc của các nhà canh tân văn hoá xã hội, đồng thời

cũng cho thấy rõ vai trò của Phan Khôi trong tư cách một nhà phê bình văn

học. Nhưng qua đó, chúng ta cũng nhận ra sự ràng buộc chặt chẽ giữa môi

trường xã hội với các sản phẩm viết nói chung cũng như mối quan hệ giữa các

quy ước chính tả cho văn tự mới này, kêu gọi dùng lối viết ngắn gọn, dễ hiểu;

vấn đề xã hội với văn chương trong tinh thần canh tân của Phan Khôi nói riêng.

73

Quan sát xã hội cho thấy mặc dù có ý thức canh tân và mong muốn tiếp thu

những tư tưởng tiến bộ của phương Tây nhưng tầng lớp trí thức Việt Nam giai

đoạn thực dân hóa (1862 -1954) vẫn chưa thể thoát hẳn truyền thống nho sĩ trong

ứng xử văn hóa. Vậy Phan Khôi đã giải quyết ra sao mối quan hệ giữa “truyền

thống” này với cuộc canh tân (tức hiện đại hoá) về văn hoá, văn chương? Hai

74

chương tiếp theo của luận án sẽ lý giải vấn đề trên.

CHƯƠNG 3

PHAN KHÔI VÀ VIỆC CANH TÂN THƠ VIỆT

Thực hiện chương này chúng tôi đặt ra mục đích nhìn lại các tác phẩm

của Phan Khôi liên quan đến thơ: những bài viết cho mục Nam âm thi thoại

(bắt đầu viết ở Nam phong tạp chí rồi đến Đông Pháp thời báo, Phụ nữ tân

văn và một số bài đăng ở báo Thần chung, Trung lập,...) cho đến khi tập hợp

lại để xuất bản Chương Dân thi thoại, những tranh luận xung quanh “thơ

mới”, và các sáng tác thơ của Phan Khôi trong bối cảnh thơ Việt Nam những

năm 1920, 1930 để xác định vai trò của Phan Khôi trong công cuộc hiện đại

hoá thơ dân tộc.

3.1. Những thi thoại của Phan Khôi – thẩm định lại và thẩm định mới về thơ

3.1.1. Từ “Nam âm thi thoại”

“Muốn phê bình Phan Khôi cho đúng mức, muốn xác định ảnh hưởng

của Phan Khôi, muốn xem cái vai trò chiến sĩ tiên phong của Phan Khôi, ta

cần phải căn cứ vào thời kỳ xuất phát các câu chuyện về thơ của ông” [82, tr

271-272]. Nhận định này của Thanh Lãng rất đáng quan tâm.

Thi thoại không có truyền thống ở Việt Nam nhưng lại quen thuộc ở

Trung Hoa. Vốn là một đất nước có truyền thống về thơ nên thi thoại (sách

bình luận thi văn, chép chuyện thi nhân) có điều kiện hình thành và trở thành

một thể loại không thể thiếu từ rất sớm. Hứa Khởi (thế kỷ XII) trong Nhan

chu thi thoại cho rằng thi thoại chính là bàn về phép đặt câu, xếp sắp cổ kim,

ghi điều tốt đẹp, chép truyện lạ kỳ, đính chính những sai ngoa... Bắt đầu xuất

hiện từ đời Tống với những tác phẩm Lục nhất thi thoại (của Âu Dương Tu),

Thương Lang thi thoại (của Nghiêm Vũ), Thạch lâm thi thoại (của Diệp

Mộng Đắc), đời Minh có Thăng Am thi thoại (của Dương Thận) và rộ nở vào

đời Thanh với Tùy Viên thi thoại (của Viên Mai), thi thoại được xem là

những cuốn sách mang tính chất phê bình thơ và kể lại những câu chuyện

75

xung quanh chuyện làm thơ. Đây là thể loại khó viết, không phải ai cũng có

thể thực hiện mà đòi hỏi một kiến văn sâu rộng cùng sự cảm thụ tinh tế. Mặc

dù ảnh hưởng sâu sắc bởi văn học Trung Quốc, song nước ta lại rất ít có thi

thoại (các công trình chuyên bàn về thơ), thậm chí khi dịch Tùy Viên thi

thoại Phan Khôi đã cho rằng:

“Xứ ta đây, người ta biết làm thơ chữ Hán từ hồi nhà Lý nhà

Trần. Song le từ đó đến giờ chưa hề có ai làm một bộ thi thoại nào bằng

chữ Hán hết. Ấy là theo như tôi biết. Hoặc giả có bộ nào mà tôi chưa

thấy chăng. Nhưng nếu có thì cũng chỉ một hay vài bộ là cùng. Mà có

lẽ không bộ nào hết, bởi vì nếu có thì tuy tôi chưa thấy chớ cũng nghe,

Thực chất, trước đây trong văn học trung đại Việt Nam cũng đã có một

có lẽ nào không nghe trơn”.

bộ thi thoại chữ Hán là Thương Sơn thi thoại của Tùng Thiện vương Miên

Thẩm (1819-1870) viết vào đời Thành Thái hoặc muộn hơn một chút. Và

Thương Sơn thi thoại được khẳng định là cuốn thi thoại duy nhất (theo đúng

nghĩa của nó) hiện còn. Phan Khôi có thể chưa biết đến tác phẩm này nên mới

cho rằng nước ra từ trước giờ chưa hề có thi thoại. Trong một nghiên cứu

công bố ở Tạp chí Hán Nôm, số 2 năm 2016, Nguyễn Thanh Tùng đã nhận

định rằng Thương Sơn thi thoại tuy không hoàn toàn mới mẻ và phong phú

nhưng có tính tập trung, tính tổng kết và cập nhật, góp phần bù đắp những

khuyết thiếu về lí luận của nền thi học Việt Nam trung đại vốn không lấy gì

lịch sử tư tưởng thi học Việt Nam, trở thành “thành quả lớn của thi học cổ

Việt Nam”. Rõ ràng cuốn thi thoại thời trung đại này rất ý nghĩa trên nhiều

phương diện (giá trị sử liệu, giá trị văn học sử, giá trị tư tưởng), song nó là thi

thoại viết bằng chữ Hán. Như vậy, văn học Việt Nam từ trung đại cho đến

thời điểm Phan Khôi viết những bài nói chuyện về thơ trong mục Nam âm thi

làm dày dặn. Và vì thế, Thương Sơn thi thoại chiếm vị trí quan trọng trong

thoại ở các tờ báo khác nhau (sau này tập hợp thành Chương Dân thi thoại)

chưa hề có một dạng thức thi thoại nào bằng quốc ngữ. Bên cạnh đó, hình

76

thức bình điểm thơ ở Nam âm thi thoại căn bản không mới nhưng việc Phan

Khôi dùng nó trong các mục thường kỳ trên một vài tờ báo (Nam phong tạp

chí, Đông Pháp thời báo, Phụ nữ tân văn, Thần chung, Trung lập...) lại có tác

dụng dân chủ hóa một sinh hoạt văn chương vốn diễn ra trong một không gian

giao tiếp hạn hẹp. Thời trung đại, văn bản thuộc sở hữu của cá nhân tác giả,

việc phổ biến tác phẩm – tức một giao tiếp văn chương - lại diễn ra khá hạn

chế, “để có được một mối giao tiếp văn chương, chẳng hạn như sự giao tiếp

thơ ca, trong thời kỳ văn học trung đại thì người viết và người đọc, người

xướng và người họa không chỉ có sự tiếp xúc trực tiếp hay qua thư từ, mà họ

còn phải là những người trong giới có học thức, giới nho sĩ, giới văn chương,

tham gia được... Tóm lại đây là một sự giao tiếp hạn hẹp, trong giới văn

một giới khá nhỏ hẹp của dân tộc; những người khác không thể hiểu hoặc

chương hàn lâm là chính”[216]. Với sự phổ biến chữ quốc ngữ, lượng độc giả

đã tăng lên, qua phương tiện báo chí điều kiện giao tiếp nói trên đã thay đổi

đáng kể. Nhờ đó, Nam âm thi thoại đã đưa tác phẩm và những câu chuyện

văn chương ra khỏi môi trường hạn định, đưa di sản văn chương dân tộc đến

đông đảo công chúng đọc, đồng thời cũng kéo tác giả – độc giả lại gần nhau.

Đó chính là tính dân chủ của sinh hoạt văn chương mà Phan Khôi đã tạo ra.

Mặt khác, tuy chỉ dừng ở việc giới thiệu, viết lời bình thơ nhưng việc

Nam âm thi thoại tồn tại trong nhiều năm, nhắc đến thơ ca của các tác giả ở

mọi vùng miền hoặc thời đại... đã khiến nó trở thành một hoạt động mang tính

có hai mảng thơ chữ Hán và thơ Nôm, nhưng Phan Khôi, mặc dù không phủ

định các hình thức, giá trị của thi ca chữ Hán, lại chỉ chọn thơ “Nam âm” để

bình phẩm ở mục thi thoại trên báo chí công khai hẳn thể hiện một quan niệm

riêng về bản sắc dân tộc. Hồn cốt của một dân tộc cần phải tìm kiếm trong

chính những âm sắc đó của dân tộc và công cuộc canh tân về thơ cũng phải

hướng đến những vấn đề về ngôn ngữ, vần luật, tư tưởng và lối viết... liên

chất kiểm kê lại di sản thơ Nôm dân tộc. Hơn nữa, trong di sản thơ ca dân tộc

quan đến “quốc âm”. Thật ra không chỉ Phan Khôi mà toàn bộ trí thức Việt

77

Nam thời Pháp thuộc, về căn bản, đều mang tinh thần dân tộc, song hoạt động

thực hành ở đâu, và thực hành ra sao tinh thần dân tộc ấy thì còn tùy thuộc

vào nhận thức, sở trường cũng như bản lĩnh của họ. Như vậy, vô hình trung

thi thoại về thơ Nam âm trở thành một gợi ý cho thơ Việt đường hướng phát

triển, đúng như nhận định của Vu Gia:

“Phan Khôi ra sức xiển dương lối thơ nôm ngầm ý cho người đọc thấy

rằng tiếng Việt cũng đủ, thậm chí thừa khả năng diễn tả những ngóc

ngách tâm hồn của người Việt Nam, không cần vay mượn đâu xa,

không cần phải cúi đầu ghi ghi chép chép những gì ông Khổng, ông

Mạnh đã dạy mà ngàn đời qua ông cha ta đã học, đã hành như khuôn

Việt hay không, nếu có thì người đọc sẽ được thưởng lãm những tác

đúc. Điều quan trọng là người làm thơ có tài hay không, có yêu tiếng

phẩm nghệ thuật (bài thơ) có một lối hành văn nhẹ nhàng, linh hoạt, sử

dựng chữ và câu thơ Việt Nam một cách dễ dàng uyển chuyển dù đó là

khuôn khổ chật hẹp, gò bó của thể thơ Đường luật” [36, tr 225-226].

Thơ của người Việt không phải là không hay. Thơ của người Việt cần

được trân trọng và giữ gìn. Tuy nhiên cũng cần đánh giá thật đúng mức để

xác định rõ vị trí mà thơ Việt đang có. Một khi nắm bắt rõ hồn cốt thơ ca dân

tộc thì bản thân các nhà thơ sẽ có những ứng xử, những thay đổi về nội dung

tư tưởng và lối viết để theo theo kịp tâm thức thời đại. Như vậy, theo Phan

Khôi, thơ Việt là quốc hồn quốc túy của người Việt nên câu chuyện bảo tồn,

đông đảo công chúng cùng suy ngẫm, giải quyết. Phan Khôi đã hé lộ phần ý

đồ này trong lời đầu cuốn Chương Dân thi thoại. Và trên thực tế, các bài viết

này của Phan Khôi đã thu hút được sự quan tâm của nhiều độc giả. Điều đó

không chỉ khẳng định tác động tích cực của thi thoại này mà còn có ý nghĩa

khẳng định ý đồ tạo dựng một sinh hoạt văn chương dân chủ của Phan Khôi

đã đạt kết quả.

78

phát triển theo hướng nào là vấn đề mà ông đặt ra ở Nam âm thi thoại để

3.1.2. ... đến Chương Dân thi thoại

Chương Dân thi thoại xuất bản tại Huế năm 1936 trên cơ sở tập hợp

các bài viết ở mục Nam âm thi thoại trên các báo Nam phong tạp chí (từ

1918), Đông Pháp thời báo, Phụ nữ tân văn, và các bài viết lẻ tẻ bàn về thi

trên báo Thần chung, Trung lập. Ngoài ra, theo lời đầu sách Chương Dân thi

thoại, Phan Khôi cũng chỉ rõ trong công trình này có thêm phần phụ lục là

mấy bài của bạn đọc viết trao đổi ý kiến sau khi đọc các bài của ông viết trên

mục Nam âm thi thoại trước đó. Nhà nghiên cứu Vu Gia đã theo lời ghi chú

của Phan Khôi, lọc ra cụ thể như sau:

năm 1918-1919 cùng với Tiểu dẫn viết tại Hà Nội, tháng 3-1918.

- Từ chương I đến chương XX, đăng trên Nam phong tạp chí tại Hà Nội

- Từ chương XXI đến chương XXVI, đăng trên Đông Pháp thời báo

tạo Sài Gòn năm 1928.

- Chương XXVII đăng trên báo Thần chung năm 1929.

- Chương XXVIII đến chương XL, đăng trên Phụ nữ tân văn năm

1929, kèm theo 2 Phụ lục và Lại tiểu dẫn viết tại Sài Gòn, tháng 10-1929.

- Chương XLI đến chương XLIII, đăng trên Trung lập báo ở Sài Gòn

vào năm 1931-1932.

Chính Phan Khôi trong Lại tiểu dẫn trước chương XXVIII của Chương

Dân thi thoại còn khẳng định:

phong; năm ngoái lại có đăng một ít trong Đông Pháp thời báo. Coi ý

chừng như có nhiều người hoan nghinh nó lắm. Vì luôn luôn thấy có

người hễ gặp biên giả là nhắc đến Nam âm thi thoại. Vì vậy lần này

bắt đầu lượm lặt viết ra đăng ở Phụ nữ tân văn” [73, tr 84].

Vậy khi lọc chọn các bài đăng trên mục Nam âm thi thoại để tổng hợp

thành cuốn sách này và đổi tên thành Chương Dân thi thoại hẳn Phan Khôi

“Mục Nam âm thi thoại hơn mười năm trước đã đăng trong Nam

đã có dụng ý của mình. Chính Phan Khôi đã thổ lộ rõ trong lời đầu sách khi

79

quyết định in cuốn Chương Dân thi thoại rằng:

“Đến nay tôi mới bắt đầu tin rằng những cái mình viết ra trong hai

mươi năm nay bây giờ đem chọn lọc sửa sang lại thì cũng có thể in

thành sách được. Ý ấy đã quyết, tôi bèn thử chọn những bài viết chung

bằng một mục trên các báo tức là mục Nam ân thi thoại mà cho in

trước đi, đổi tên thành Chương Dân thi thoại” [73, tr 33].

Tại sao Phan Khôi lại nhấn mạnh “tôi bắt đầu tin rằng những cái mình

viết ra trong hai mươi năm nay”? Có thể nhận thấy báo chí là một thể loại có

tính chất cập nhật thường ngày song những thông tin in trên báo khi đọc xong

dễ bị lãng quên. Viết cho Nam âm thi thoại - một mục trên các báo - Phan

trong sinh hoạt văn chương như đã đề tập. Nhưng khi tập hợp các bài viết đã

Khôi đã muốn tận dụng môi trường báo chí để tạo nên không khí dân chủ

có trên một mục báo để in thành sách, Phan Khôi như muốn khẳng định lại

rằng quan điểm của ông từ trước đến nay không thay đổi và đây là một vấn đề

mà ông vẫn hết sức quan tâm. Trong lần tập hợp lại để in sách với nhan đề

mới Chương Dân thi thoại, Phan Khôi mặt khác còn hướng đến khẳng định ý

thức cá tính của mình: Đây là quyển sách đầu tiên của Chương Dân (bút danh

của Phan Khôi).

Về kết cấu cuốn sách, tuy có bốn mươi ba chương (bốn mươi ba tắc),

nhưng Chương Dân thi thoại không sắp xếp theo bất cứ hệ thống nào mà làm

theo ý thích của người viết với những câu chuyện thơ thú vị cùng cách lí giải

xuất bản tại thời điểm mà Thơ mới đã thắng thế trên thi đàn, công trình này

càng khẳng định thêm giá trị của việc “kiểm kê” thi ca cổ điển - chặng đường

suy ngẫm, chọn lựa thấu đáo của Phan Khôi trong hai mươi năm. Đây cũng là

một tác phẩm chuyên về phê bình thơ có trước cả Thi nhân Việt Nam, là

khúc dạo đầu nói về sự gò bó của thơ luật, đòi hỏi làm cho thơ chân thật, tự

nhiên diễn đạt tâm tình (tánh linh). Bên cạnh đó, Chương Dân thi thoại còn

rành mạch vấn đề mấu chốt: thơ như thế nào thì được xem là thơ hay? Được

80

là sự khai phóng tư duy đổi mới thơ ca đương thời mà sau này được tuyên

ngôn trong “Một lối thơ mới trình chánh giữa làng thơ” (1932), “Vận ngữ với

thơ” (1939).

Về giá trị văn học sử, Chương Dân thi thoại đã sưu tập được rất nhiều

sáng tác của các tác giả mà tên tuổi chưa hề được nhắc đến trong các tuyển

tập thơ Việt như: ông Lang Rường (ở Quảng Nam), sống vào đời Gia Long,

Minh Mạng; ông Hoàng Uýnh làm Thị Lang (người Huế), ông Hoàng Đăng

Giai làm Bố chánh Bắc Ninh (người Quảng Bình); cụ Nguyễn Đỉnh Ngọc làm

Giáo thọ triều Tự Đức (người Hưng Yên); ông Học Lạc (người Bến Tre)...

Đặc biệt Phan Khôi đã khảo và bình chú rất nhiều bài thơ của phụ nữ như cô ả

làm thơ có tiếng ở đất Nam Trung... Qua những lược khảo về cuộc đời, về

đào có số phận trái ngang ở Hà Nội, bà Trần Ngọc Lầu (người Vĩnh Long)

xuất xứ những bài thơ được sưu tập chúng ta sẽ có thêm dữ liệu phong phú để

bổ sung những mảng còn khuyết ở một số công trình nghiên cứu thi ca Việt

Nam. Việc làm này của Phan Khôi rõ ràng mang ý nghĩa sưu tầm, giới thiệu

các tác phẩm văn chương mang tính chất “ngoại biên” đến gần hơn với công

chúng trong thời kỳ sách báo còn khá khiêm tốn.

Cũng qua những câu chuyện thơ mà Phan Khôi đã điểm bình chúng ta

sẽ biết thêm được nhiều tình tiết thú vị, không khí sinh hoạt thơ ca của các thi

nhân, thậm chí phát hiện nhiều điều thú vị ở những tác giả vốn tưởng đã rất

quen thuộc như Tú Xương, Sào Nam, Nguyễn Khuyến. Đặc biệt vấn đề mâu

lí tạo tư liệu bổ ích cho việc tìm hiểu, phân tích tác phẩm.

Xét từ góc độ lý luận (tư tưởng thi học) đây cũng là một công trình

nhiều ý nghĩa.

Thứ nhất, trong quá trình bàn về thơ và chuyện làm thơ, Chương Dân

thuẫn tư tưởng trong thơ Tú Xương đã được Phan Khôi cắt nghĩa chi tiết, hợp

thi thoại đã đặt ra vấn đề mang tính phương pháp luận: trước khi thẩm bình

thơ thì cần xác định rõ thơ như thế nào là thơ hay?

“Thơ hay có hai cách: một cách hay tự nhiên, một cách hay đúng đắn.

81

Tự nhiên thì có phần lưu lợi, đúng đắn thì có vẻ trang nghiêm. Nhưng

trang nghiêm thì thường được bên văn từ, mất bên tình tính; mà lưu lợi

thì có thể lưỡng toàn hơn” [73, tr 36].

Phan Khôi còn nêu quan điểm: “Phàm thơ hay, là tả tình, tả cảnh cũng

đều phải cho chân. Có chân mới thấy hay” [73, tr 147]. Như vậy, Phan Khôi

đã nhấn mạnh chữ “chân” (một kiểu tả thực trong thơ) hơn là kỹ xảo, câu chữ.

Ví như khi đưa ra giới thiệu bài Tự thuật của Quan Thượng thư Trần Chỉ Tín

ở Huế, một bài thơ không dùng một điển cố nào nhưng Phan Khôi nhận ra

được sự thanh tao, đôn hậu của tác giả, cho rằng thi như vậy thì “thật đã vào

cảnh tự nhiên”. Nghĩa là khi làm thơ yếu tố quan trọng là phải có cảm xúc

thiết khi sáng tác song học hỏi một cách rập khuôn, máy móc đến mức vô

thật. Ngoài ra, học hỏi, tham khảo các bậc tiền nhân cũng là một vấn đề cần

cảm thì thật sự không nên. Phan Khôi đã chỉ rõ là:

“Nước Nam ta chẳng đời nào có tuyết, vậy mà trong thơ Nôm, thường

thấy có những tuyết phủ, tuyết ngâm thì thật sự là láo quá. Họ không sợ

làm vậy con cháu đời sau nó đọc đến, nó tưởng đời chúng ta đây còn có

tuyết mà đến đời chúng nó không có” [73, tr 141].

Trong truyền thống, khái niệm chân, thực không phải chưa từng được

đề cập song mức độ sai biệt với quan niệm về chữ chân của Phan Khôi, bởi:

“Theo Nho giáo, thực tại không thể tách khỏi đạo và tâm để trở thành sự thực

khách quan và cách nhìn nhận nó bằng lý, phản ánh nó vào văn học bằng phú,

phải cái thực mà là cái thần của một trạng thái hòa hợp giữa tâm và cảnh” [60,

tr 479]. Như vậy, thơ hay tự nhiên mà Phan Khôi đề cập hiện đại hơn và gần

với quan điểm coi sáng tạo nghệ thuật là dùng ngòi bút để nói đúng thực tại.

Phan Khôi cũng thường coi trọng, tán thưởng những hiện tượng độc

đáo, cá biệt, phá cách, nhận ra cái biệt thú, vĩ tam thanh trong thơ. Đây có thể

là những dấu hiệu báo trước cho một lối thơ mới trình chánh trong làng thơ

tỉ, hứng lại không đòi hỏi tính khách quan đó. Văn học nhằm biểu đạt không

sắp tới. Ngoài ra, quan điểm này cũng đã giúp Phan Khôi phát hiện được rất

82

nhiều bài thơ hay và đặc biệt rất khách quan trong việc nhận xét về thơ, về tác

giả. Bên cạnh những bậc đại khoa, ông còn đưa bình về thơ của những người

chưa từng quen biết, thơ của phụ nữ và cả thơ anh “Bồi Ba”. Ông rất thẳng

thắn chỉ ra cái được và chưa được ở mỗi bài thơ, dù tác giả có thể là bậc đế

vương. Ví như khi nhận xét về thơ của vua Lê Thánh Tông, Phan Khôi cho

rằng: “Thi của các vị đế vương thường thường là câu không có nghĩa, chỉ đặt

chữ cho rột, dùng lời cho lớn lao, sang trọng mà thôi” [73, tr 66]. Một tác

phẩm hay nằm chính trong tự thân của nó, yếu tố xuất xứ, tác giả... không

phải là những yếu tố thiết yếu để quyết định một tác phẩm có giá trị. Khi đặt

bút phê bình thơ, Phan Khôi không câu nệ tác giả đó là người như thế nào,

trong ấy. Với bài thơ Buổi chiều qua sông, Nghe gà gáy cảm hoài của

ông đến với cả những bài thơ khuyết danh miễn là cảm nhận được cái hay

N.N.T, Phan Khôi nhận xét rằng:

“Tôi không biết N.N.T là ai, nhưng đọc bài thơ này rồi phải đoán ra là

người có chí khí, có tâm sự mà lại từng trải giang hồ nữa. Tuy vậy,

trong thơ chẳng hề dùng một chữ nào ngông nghênh, một lời nào xốc

nổi, ý kín mà không tối, khí mạnh mà hay dằn, cái hay ở trong chỗ đó”

[73, tr 114].

Một chi tiết đáng chú ý khác là Phan Khôi đã chọn và bình thơ của cả

Tôn Thọ Tường và Phan Văn Trị - hai nhân vật “tương khắc” về lựa chọn ứng

xử trước giặc ngoại xâm thời kỳ Pháp bắt đầu bình định lục tỉnh Nam Kỳ.

học vì không muốn hợp tác với Pháp. Trong khi đó Tôn Thọ Tường (người

Gia Định) nếu xét ở quan điểm dân tộc thì bị xem như một viên quan bán

nước, từng làm việc dưới quyền của Tổng Lãnh sự Pháp De Kergaradec. Lịch

sử có ghi lại việc Pháp muốn Tôn Thọ Tường dùng uy tín của mình dụ hàng

Trương Định, Nguyễn Đình Chiểu và hai người con Phan Thanh Giản là Phan

Tôn và Phan Liêm nhưng không thành công. Việc giới thiệu đồng thời hai nhà

Phan Văn Trị (quê Bến Tre) thường gọi là Cử Trị, từ chối làm quan ở nhà dạy

thơ có lập trường dân tộc đối lập nhau này phải chăng hé lộ một cách nghĩ rất

83

“Phan Khôi”. Dường như, đến thời điểm những năm đầu thế kỷ XX, câu

chuyện chủ chiến chủ hoà từng gay gắt trong triều đình và giữa những “sất

phu hữu trách” vào cuối thế kỷ XIX, với Phan Khôi, đã là quá khứ. Vấn đề

tồn vong của dân tộc theo cách “nợ áo cơm phải trả đến hình hài” đã không

còn là lựa chọn của Phan Khôi kể từ quãng 1914. Chọn các vấn đề xã hội, văn

hóa trước mắt làm tiêu đích giải quyết tất yếu dẫn đến sự thay đổi tiêu chí

định giá văn chương. Có thể đó là lý do giải thích hợp lý cho việc trong

trường hợp lựa chọn phẩm bình này, Phan Khôi chú trọng giá trị nghệ thuật

của thi phẩm và tách bạch nó với hành vi chính trị của tác giả: “Sẵn đây, chép

luôn bài “Vịnh Kiều” của ông Tôn Thọ Tường để ta so sánh... Có lẽ của ông

của ông cũng có ký thác, cũng có đem tâm sự mình ghé vào chút ít. Thật chỉ có

Tôn hay hơn. Ông Đốc phủ Tôn vì mình mang tiếng đầu Tây nên bài thơ nào

trời đất họa mới biết chữ hiếu cho cô Kiều, cũng chỉ có trời đất mới biết chữ

trung cho ông Tôn” [73, tr 121]. Một điểm đáng lưu ý nữa ở đây là Phan Khôi

đã nhắc đến Tôn Thọ Tường nhiều lần, thậm chí có riêng một bài giới thiệu

nhân vật này và cả mười bài liên hoàn tự thuật cùng hai bài vịnh sử đều là

những ký thác tâm sự của Tôn. Và Phan Khôi nhận định “Ông Phan (Phan Văn

Trị) thì cái giọng nghe êm hơn ông Tôn, song hay thì đều hay cả” [73, tr.63].

Như vậy, với Phan Khôi, nhu cầu làm thế nào để nhìn nhận giá trị nghệ thuật

của thơ, được thưởng thức thơ có nghệ thuật là vấn đề cần thiết lúc bấy giờ.

Thứ hai, Chương Dân thi thoại còn đặt ra vấn đề nghề làm thi (kỹ

phải am hiểu, rành rõi về phép tắc làm thi. Phan Khôi đã đề xuất một cách rất

chi tiết, bài bản về phương pháp trong nghề làm thi. Quan trọng hàng đầu là ý

cảnh (ý do tác giả sắp đặt ra), cái này thuộc về phương diện tinh thần. Khi đã

có ý cảnh thì nắm chắc tự pháp, cú pháp, chương pháp và thiên pháp để áp

dụng vào sáng tác thì sẽ có thơ hay. Phan Khôi đã phân tích khá kỹ bài thơ

thuật, “thi pháp” sáng tác thi). Muốn có thơ hay thì ngoài giỏi học vấn còn

Đùa một cô đào của một ả đào hát như là một ví dụ cụ thể cho phương pháp

mà ông đã nêu ra. Đây thật sự là những kiến thức khá bổ ích về lý luận để các

84

nhà thơ có thể áp dụng trong sáng tác.

Thứ ba, một vấn đề đáng lưu ý trong Chương Dân thi thoại là cách

bình thơ. Thanh Lãng cho rằng khi bình thơ, Phan Khôi “không chịu ảnh

hưởng của ai mà chỉ vâng theo cái thẩm mỹ quan đã phát triển đến cực độ ở

nơi ông! ... Ông là một thí dụ của lối phê bình giáo điều, cổ điển. Nhưng với

một óc thẩm mỹ chắc chắn, với một lương tâm đứng đắn, với một lòng vô tư

tột bực, Phan Khôi đã đạt tới một phương pháp phê bình giáo điều kiểu mẫu;

về trước chưa có ai, về sau cũng ít ai bằng” [86]. Nhắc đến một bài, đôi lúc

Phan Khôi chỉ dẫn một vài câu, và đưa ra những lời bình ngắn gọn nhưng lại

thâu tóm được hồn cốt của mỗi bài, mỗi câu. Chẳng hạn, khi bàn về việc so

phẩm để đi đến kết luận rất khéo:

sánh thơ Tú Xương và thơ Tam Nguyên, Phan Khôi chỉ viết mấy dòng bình

“Có người phẩm bình rằng thơ Tú Xương hay như thơ Yên Đổ, mà lại tự

nhiên hơn nữa. Sự so sánh thơ của các nhà thơ mà muốn định đoạt rằng

ai hơn ai kém, sự đó thật khó quá. Bởi vì cái hay mỗi người một lối, mỗi

người một vẻ, đem mà so sánh với nhau làm sao được? Nhưng nói rằng

thơ Tú Xương tự nhiên hơn thơ Yên Đổ thì có lẽ; chúng ta muốn so sánh

cũng chỉ so sánh đến mực đó là cùng” [73, tr 122].

Cái đặc sắc của từng tác giả đã được Phan Khôi chỉ ra theo cách riêng.

Cùng với nhiều dẫn chứng hợp lí bạn đọc sẽ nhận ra rằng, thơ Nguyễn

Khuyến không có liễu buông, không có sóng Tiền Đường, Xích Bích cao kỳ,

người xứ Việt: ao thu, ngõ trúc, tiếng dế và ánh sáng lập lòe của đom đóm...

Ngoài ra, Tú Xương, Tản Đà cũng xuất hiện trong các câu chuyện thơ của

Phan Khôi với những phát hiện rất lạ, rất mới, rất đời.

Bên cạnh đó, dõi theo Chương Dân thi thoại còn có thể thấy phong

cách bình thơ độc đáo của Phan Khôi. Để cuốn hút độc giả đi tìm đến tận

cùng cái hay, cái đẹp trong mỗi câu chữ, Phan Khôi viết như đang nói chuyện

xa xôi khó hiểu mà là những khung cảnh đơn sơ, giản dị, gần gũi với con

phiếm với bạn bè – không cao giọng, không dạy đời mà cực kỳ hóm hỉnh. Với

85

câu thơ: Thôi đừng điếu tráp nghênh ngang nữa/Thằng tiểu Phù Luông nó

“chửi” mầy, Phan Khôi đã bình rằng: “Xin độc giả cho phép tôi bất lịch sự

một chút mà giải câu ấy như vầy: chữ “chửi” ấy bằng với chữ “đéo mẹ; Thằng

tiểu Phù Luông nó chửi mầy tức là thằng tiểu Phù Luông nó đéo mẹ mầy! Mô

phật! Mang tội lỗ miệng” [73, tr 66]. Hóm hỉnh đúng chỗ, đúng cách là kiểu

thẩm bình rất đặc trưng ở Phan Khôi.

Mặt khác, trong phê bình, Phan Khôi còn làm công việc biên khảo, chỉ

xuất xứ của bài thơ nhắc đến để làm thỏa mãn trí tò mò và tạo cảm giác thú vị

của cho người đọc. Khi bình về bài thơ Qua đền Châu Chấu của Nguyễn

Công Trứ, Phan Khôi đã kể rằng:

vị nữ thần mà không rõ ở về tỉnh nào. Thổ nhân ở đó đón rước ông mà

“Khi ông làm quan đi ra ngoài Bắc, đi ngang đền Châu Chấu là đền thờ

nói rằng đền ấy linh lắm, bất luận ai đi ngang qua cũng phải xuống võng.

Ông không nghe, nói rằng “Ta đi đây là vâng mệnh vua, nữ thần nào lại

lớn bằng ta được?” Rồi cứ ngồi luôn trên võng, vừa đi ngang qua trước

mặt đền, bỗng một con chim bay đến đậu trên đòn võng, ông giang tay ra

bắt thì võng triềng một cái, nhờ ông khéo gượng không thì té xuống. Thổ

nhân nói rằng ấy là vị thần xui như vậy để tỏ sự linh hiển, ông bèn làm

bài thơ tứ tuyệt” [73, tr 63-64].

Kiểu phê bình này chắc chắn tạo hứng thú thêm cho người đọc thơ, thể

hiện nghệ thuật lôi kéo bạn đọc trong thẩm bình thơ của Phan Khôi.

chặt chẽ giữa nội dung và hình thức. Đây là vấn đề thuộc về bản chất của cái

đẹp, cái hay. Ông cho rằng:

“Bài thơ hay không cốt ở lời mà thôi, cốt ở ý nữa. Cái ý ấy hàm súc

trong bài thơ mà không lộ ra. Song cũng không kín đáo mắc mỏ quá;

phải làm thế nào cho ngâm qua thì thấy ý liền, và càng ngâm lại càng

thấy nó dồi dào. Cái ý của bài thơ hay sau khi ngâm hay đọc, thấy cái có

Trong quá trình bình thơ, Phan Khôi còn chú trọng đến mối quan hệ

hậu như cái hậu của trà ngon, đằm thắm mà đậm đà, uống vào khỏi cổ

86

rồi mà lưỡi vẫn còn muốn nhắp” [73, tr 113].

Quan điểm để thẩm định một bài thơ như thế nào là hay của Phan Khôi

thật ra không mới, thậm chí rất truyền thống. Chúng ta thường vẫn xao động

trước một câu thơ Đường vừa đẹp vừa hay bởi vì nó hài hòa giữa nội dung và

hình thức, ý tại ngôn ngoại, lời đã hết mà ý vị còn mênh mang. Ở đây quan

điểm Phan Khôi khá độc đáo khi cho rằng đánh giá một bài thơ tất nhiên

không thể bỏ qua các yếu tố ý ngoài lời nhưng cũng phải tránh để khỏi rơi vào

tình trạng mắc mỏ kiểu hũ nút, nghĩa là không cá biệt hóa thơ, không làm khó

người đọc. Thơ hay là ở vẻ đẹp hài hòa lời ý chứ không phải do cố tình làm

cho khác đi khiến cho người thưởng thức rơi vào tình trạng khó hiểu.

không theo một logic định sẵn nên khó theo dõi nắm bắt nội dung; một số

Như vậy, mặc dù vẫn còn những hạn chế như: cách trình bày tản mạn,

quan điểm còn bảo thủ và chưa thật sự chân xác nhưng Chương Dân thi

thoại là một công trình phê bình thơ có tính chất khởi đầu và mở ra một thể

loại mới trong văn học quốc ngữ nước ta. Cái đáng quí nhất mà Phan Khôi đã

đóng góp được qua công trình này là tinh thần nhập thế của một nhà nho luôn

say sưa với cái mới, là ý thức sâu sắc về giá trị của thơ ca dân tộc để rồi bằng

tất cả tâm huyết ông đã chỉ ra vẻ đẹp đích thực của văn chương. Đúng như

nhận định của Thanh Lãng:

“Phan Khôi không chủ trương dùng phê bình để dốc bầu tâm sự chan

hòa trên giấy như phái ấn tượng, vậy mà Phan Khôi cũng để lòng ông

cho nên Phan Khôi gìn giữ lắm. Vậy mà vẫn bắt gặp ông lắm lúc hở cơ

đem phơi cả tâm sự cho thiên hạ thấy” [86, tr 27].

Có thể thấy, qua công trình này Phan Khôi đã cung cấp cho chúng ta

những hiểu biết sâu sắc hơn về thơ Việt để sau này các nhà thơ hiện đại

rấtthành công khi vừa vận dụng truyền thống, vừa tiếp thu cái mới để có được

những tác phẩm thơ rất thành công trong phong trào Thơ mới... Ngay từ rất

gào ra rất nhiều qua những ký thác của ông. Còn nhiều tính cách cổ điển,

sớm, Phan Khôi đã tha thiết mong muốn cần có gì đó phải thay đổi để thơ

87

không bị gò bó. Ông công kích thơ đời Đường và thơ cử tử ở Việt Nam. Để

“phá vỡ cái mu cứng của câu thơ cũ mà còn muốn thổi vào đấy một luồng khí

mới, mới từ nội dung đến hình thức, Phan Khôi nhấn mạnh cần phải:

- Mới trong triết điệu (Chương Dân thi thoại, tr.128)

- Chống sáo trong văn (Chương Dân thi thoại, tr.118)

- Chống sáo trong tư tưởng (Chương Dân thi thoại, tr.125)

- Chống sáo trong luận lý (Chương Dân thi thoại, tr.47)” [86, tr 272].

Như vậy, qua phân tích cho thấy Chương Dân thi thoại đã cung cấp

những gợi dẫn về nguyên tắc cho thi học Việt Nam hiện đại. Bài “Tiểu dẫn”

với lời mở mạch lạc thể hiện rõ quan niệm về thơ của Phan Khôi cùng khát

“Thi là gì? Thi thoại là gì?

vọng về một tác động lớn của những bài mình viết đối với thi giới nước nhà:

Thi là một lối văn có vần theo thanh âm từ điệu của một thứ tiếng mà

làm ra. Thi thoại là một lối trứ thuật chuyên nói về chuyện làm thi.

Trong một quyển Thi thoại thường góp nhặt những bài những câu thi hay

và thường có kèm theo ít nhiều lời bình phẩm, cốt để lưu truyền những

câu đắc ý của tao nhân mặc khách phong nhân mà mong rằng thi giới

nhờ đấy cũng có phần phát đạt” [73. NCS nhấn mạnh]

Sau này, công trình phê bình thơ ca Những kiếp hoa dại (1939) của

Trương Chính và Thi nhân Việt Nam (1942) của Hoài Thanh đã rất thành

công trong việc giới thiệu, sưu tập và thẩm bình từ những tác phẩm dân gian

cho đến phác họa cả một thời đại trong thi ca Việt Nam hiện đại, nhưng

Chương Dân thi thoại của Phan Khôi vẫn thể hiện một lối viết rất độc đáo,

duy lý mà không giáo điều. Tập phê bình bộc lộ sự quan sát tinh tế và xu

hướng tiếp nhận văn chương khách quan của Phan Khôi. Chính vì vậy, đánh

giá về tiến trình lịch sử văn học Việt Nam cũng như lịch sử lý luận phê bình

văn học Việt Nam không thể không nhắc đến công trình này của Phan Khôi

như một chứng tích cho sự giao hòa của hai nguồn tri thức Đông-Tây, và như

một gợi dẫn để trên nền tảng ấy thơ Việt phát triển, đạt những thành tựu rực

88

rỡ vào những năm 1930.

3.2. Tuyên ngôn về Thơ mới của Phan Khôi

3.2.1. Phan Khôi và việc đề xuất quan niệm mới về thơ

Xã hội Việt Nam những năm đầu thế kỷ XX nhiều biến chuyển. Môi

trường văn hóa thay đổi tất yếu sẽ dẫn đến những thay đổi về quan niệm, tư

tưởng, tình cảm. Thơ ca truyền thống mất dần ưu thế vì lối tư duy sáo mòn

cùng những thị hiếu thẩm mĩ lỗi thời không còn phù hợp với thời đại. Trước

những bế tắc đó, một yêu cầu đặt là phải đổi mới thi ca. Thật ra nguồn gốc sâu

sa cho việc đổi mới thơ xuất phát từ nửa cuối thế kỷ XIX bởi nhà canh tân

Nguyễn Lộ Trạch. Ông là người giương cao ngọn cờ thoát khỏi ràng buộc chật

hẹp của quy phạm văn chương trung đại; phá bỏ sự câu thúc của những ước lệ

để tự do sáng tạo, giải phóng cá tính. Ông đã thổ lộ tâm sự về mong muốn “phá

cách vứt luật lệ” đối với văn chương trong Phục Hoa hữu Trình mỗ thư rằng:

“Văn chương tôi không theo mẫu mực nào cả, mênh mông phóng túng, lúc thì

vầng dương trên biển, như mây ráng trời quang; lúc thì quanh co như ruột dê,

cheo leo như đường chim, tạp nhạp, ngông cuồng có khi không thành chương

bài gì cả”. Tiếp theo đó, các nhà nho duy tân là lực lượng có công trong việc

tạo nên một không khí mới trong dòng thơ ca cổ động tuyên truyền, thay đổi

hình thức biểu đạt cũ. Song do bị giới hạn trong sở học, đồng thời với mục tiêu

dùng văn chương làm phương tiện tuyên truyền cho tư tưởng yêu nước mới (họ

mới của họ chỉ dừng lại ở đó. Cho đến những năm đầu thế kỷ XX, dưới ánh

sáng của phong trào Tân thư và văn hóa Pháp, các tầng lớp trí thức càng nhận

thấy sự khủng hoảng của nền văn học dân tộc. Nhu cầu cần đổi mới cho thơ ca

vì thế trở nên bức thiết hơn bao giờ hết.

Phạm Quỳnh là người đầu tiên nhận thấy sự phiền phức gò bó của thơ

không chủ trương mạnh mẽ vào cách tân văn chương) nên những nỗ lực đổi

cũ. Trong bài viết Bàn về thơ Nôm đăng trên Nam Phong tạp chí (số 5 tháng

89

11.1917) ông đã bộc lộ mong muốn phá tung những ràng buộc, khắc nghiệt

của thơ cũ rằng: “Người ta thường nói thơ là tiếng kêu thiên nhiên của con

tâm. Người Tàu định luật nghiêm cho nghề thơ thật là muốn chữa lại, sửa lại

tiếng kêu ấy cho nó hạp hơn, nhưng cũng nhân đó mà làm mất cái giọng thiên

nhiên đi vậy” [82, tr 169]. Ông so sánh thơ Việt và thơ Pháp (bài thơ Qua đèo

Ngang của Bà Huyện Thanh Quan với bài Soir en montagne (Buổi chiều chơi

núi) của Leson Depont) nhằm chỉ ra sự tự do trong diễn tả ý tình của lối diễn

đạt trong thơ Pháp qua đó bộc lộ khao khát hướng đến cái mới cho thơ.

Sau đó, Nguyễn Văn Vĩnh đã dịch một bài thơ viết theo lối tự do của

La Fotanine là Con ve và con kiến. Bài thơ này được đăng trên báo Trung

Bắc tân văn (năm 1928) như là một biểu hiện cho sự mong muốn hướng đến

sự cách tân thơ Việt.

Tiếp theo, năm 1929 trên Phụ nữ tân văn số 29, Trịnh Đình Rư cũng đã

mạnh dạn bộc lộ quan điểm khi cho rằng: “Lối thơ Đường luật bó buộc người

làm thơ phải theo khuôn phép tỉ mỉ, mất cả hứng thú tự do, ý tưởng dồi dào.

Nếu ngày nay, ta cứ sùng bái lối thơ ấy mãi thì làng văn Nôm ta không có

ngày đổi mới được”...

Trên thực tế, từ năm 1918, Phan Khôi đã nhìn thấy những vấn đề tồn

tại cần thay đổi của thơ cũ nên đã có những phân tích, kiến giải khá cởi mở,

dân chủ trong các bài viết có tính chất điểm duyệt thơ in trên mục Nam âm

thi thoại ở các tờ báo khác nhau, sau tập hợp thành tập Chương Dân thi

thực quá trình chuyển biến của thơ Việt từ trung đại sang hiện đại. Và cũng từ

kết quả bình duyệt hết sức nghiêm túc trong công trình này mà Phan Khôi

càng nhận thấy nhất định phải làm mới thơ Việt. Ông cho rằng:

“thơ là để tả cảnh tự tình mà hoặc tình hoặc cảnh cũng phải cho quý

cho chơn. Lối thơ cũ của ta, ngũ ngôn hay thất ngôn, tuyệt cú hay luật

thể thì nó bị câu thúc quá. Mà dầu có phóng ra theo lối thất cổ vẫn bị

thoại. Và như đã phân tích ở trên, Chương Dân thi thoại phản ánh khá trung

90

câu thúc. Hễ bị câu thúc thì nó mất cái chơn đi, không mất hết cũng già

nửa phân. Tôi nhìn thấy trong thơ ta có một điều đáng bỉ, là bài nào

cũng như bài nấy. Cứ rủ nhau khen hay thì nó hay, chớ nếu lột tận

xương ra mà xem thì chẳng biết cái hay ở đâu...” [13, tr 180].

Trên cơ sở nêu rõ tiến trình phát triển thơ ca Việt Nam, Phan Khôi

khẳng định các thể thơ vốn có hoặc đã cũ mòn hoặc đánh mất sự tự nhiên của

việc làm thơ. Ông nhận định khá gay gắt về những cuốn sách dạy làm thơ

Đường luật rằng:

“Thấy có một vài cuốn sách quốc ngữ tự xưng dạy phép làm thi mà

cũng dạy theo lối khoa cử ấy, thì thật là tục quá. Thi quý cho nhã; mà

không biết chữ nho thì học vào đâu? Túng thế tức phải học những sách

đã tục thì còn dạy ai? Bọn thanh niên bây giờ nếu muốn làm thi mà

quốc ngữ dạy thi một cách tục tằn hủ bại ấy, thì trách nào chẳng đưa

thơ mình vào con đường tối tăm dốt nát?” [73, tr 73].

Theo ông, việc không thể tiếp tục làm thơ cũ được nữa xuất phát từ hai

nguyên nhân, một vì nội dung nghèo nàn, hai vì hình thức bó buộc:

“Thơ chữ Hán ư? Thì ông Lý, ông Đỗ, ông Bạch, ông Tô choán trong

đầu tôi rồi. Thơ Nôm ư? Thì cụ Tiên Điền, bà huyện Thanh Quan đè

ngang ngực tôi, làm cho tôi thở không ra. Cái ý nào mình muốn nói, lại

nói ra được nữa, thì đọc đi đọc lại, nghe như họ nói rồi. Cái ý nào họ

chưa nói, mình muốn nói ra, thì lại bị những niêm, những vận, những

bàn tay họ hoài, thật là dễ tức!” [13, tr 178-179].

Song ông cũng không ảo tưởng thái quá về thay đổi của mình mà chỉ

như là một đề xuất nhằm hướng đến cái khác hơn, tìm hướng đi mới, thoát

khỏi những ràng buộc cho thơ mà thôi. Phan Khôi đã bộc bạch rất thành thật

như thế này khi đưa ra một lối thơ mới:

“Chẳng phải là tôi hiếu sự, nhưng vì tôi hết chỗ trong vòng lãnh địa của

luật bó buộc mà nói không được. Té ra mình cứ quanh quẩn trong lòng

thơ cũ, tôi phải đi kiếm đất mới, mà miếng đất tôi kiếm được đó chẳng

91

biết có được không, nên mới đem ra trình chánh giữa làng thơ... Tôi tin

rằng cái lối thơ của ta đã hết chỗ hay rồi, dường như một nơi đế đô mà

vượng khí đã tiêu trầm rồi, ta phải kiếm nơi khác mà đóng đô. Tôi cầm

chắc cái việc đề xướng ra đây sẽ thất bại lần nữa, nhưng tôi tin rằng sau

này sẽ có người làm như tôi mà thành công” [13, tr 181].

Quan điểm này đã thể hiện khá rõ tinh thần trách nhiệm của một học

giả luôn ý thức sâu sắc và đầy tâm huyết rằng cần phải có những thử nghiệm

táo bạo để mong tìm cách đổi mới cho thơ. Không chấp nhận cái cũ, lỗi thời,

khao khát hướng đến cái mới, cái khác luôn là tinh thần của nhà học giả chân

chính.

Và có lẽ vì muốn thể nghiệm về một lối thơ khác trước, năm 1928,

3.2.2. Phan Khôi “trình chánh” một lối thơ mới

Phan Khôi đã làm một bài thơ không tuân luật cũ là Dân quạ đình công. Bài

thơ mới về cảm hứng đề tài, về cách gieo vần, giọng điệu và cả cách đặt tiêu

đề (không dùng “dân đen” mà dùng “dân quạ”). Lời thơ không còn trang

trọng như lời thơ chữ Hán mà bình dân, suồng sã:

Mồng bảy tháng bảy năm Canh Thân,

Chiếu lệ bắc cầu sang sông Ngân

Hằng hà sa số cu li quạ

Bay bổng về trời dường trảy quân...

Dường như khi viết bài thơ này Phan Khôi đã cố diễn tả chân thật nhất

giọng thơ trúc trắc, chất chứa tâm trạng mệt mỏi của “dân quạ” rệu rã với

đình công:

Hai bên bờ sông đậu lóc ngóc

Con thì kêu đói, con kêu nhọc...

Tuy Dân quạ đình công “được nhiều người hoan nghênh, kể cũng

đáng cho là một ngôi sao chổi giữa trời thơ” [13, tr 180], song bản thân Phan

những xúc cảm về hiện thực cuộc sống bằng những hình ảnh rất sống động,

Khôi chưa hài lòng vì nó vẫn còn sáng tác theo lối thất cổ, ít nhiều vẫn gò bó

92

chưa thật sự bộc lộ được cái chân tình.

Ngoài ra Phan Khôi còn tích cực sáng tác thơ ca quốc ngữ, các bài vè,

diễn ca đậm chất khẩu ngữ, mang phong vị bình dân như Dân Quảng Nam

xin sưu, Vè cúp tóc, Làm đi hơn ngồi mà than, Khuyên học, Cái chết của

con nhà nghèo... Hầu hết những sáng tác này chỉ mang tính chất tuyên truyền

cho xu hướng cải cách xã hội nên Phan Khôi không chú trọng lắm đến yếu tố

nghệ thuật. Tuy vậy sự tự do không hạn định về câu, chữ, nhịp điệp cũng như

việc đưa vào cả khẩu ngữ vào thơ có thể xem là sự chuẩn bị về tư duy hình

thức để Phan Khôi trình chánh giữa làng thơ Tình già.

Môi trường xã hội thay đổi tất yếu sẽ dẫn đến những thay đổi về quan

phải được biểu hiện với những dạng thức đa dạng khác nhau. “Lưu Trọng Lư

niệm, tư tưởng, tình cảm. Và những quan niệm, tư tưởng, tình cảm ấy cần

đã nhấn mạnh “liều lĩnh mà tha thiết” trong bài diễn thuyết của mình ở học

hội Qui Nhơn ngày 16.2.1934: đối với chúng ta thì tình cảm có thiên hình vạn

trạng, cái tình say đắm, cái tình thoảng qua, cái tình tha thiết, cái tình ảo

mộng, cái tình ngây thơ, cái tình già dặn, cái tình trong giây phút, cái tình

ngàn thu”. Lớp trẻ “không thể vui cái vui ngày trước, buồn cái buồn ngày

trước, yêu, ghét, giận hờn nhất nhất như ngày trước” (Hoài Thanh).

Phan Khôi vì vậy đã chủ trương hãy duy tân đi, đổi mới đi để tìm

hướng thoát cho thơ. Lần đầu tiên, trên Tập văn mùa xuân (một ấn phẩm phụ

trương của báo Đông Tây, ở Hà Nội, ra mắt vào nhịp tết Nhâm Thân 1932,

xuất hiện. Rồi sau đó một tháng (ngày 10 tháng 05 năm 1932) đăng lại trên

Phụ nữ tân văn (số 22). Với bài báo cùng bài thơ minh họa này, Phan Khôi đã

chính thức đưa ra “tuyên ngôn thơ mới”, và nhờ đó, trở thành người tiên

phong phát động cuộc cách mạng trong lịch sử thơ ca Việt Nam.

bài báo “Một lối thơ mới trình chánh giữa làng thơ” cùng bài thơ Tình già

3.3. Những hiệu ứng từ quan niệm mới về thơ của Phan Khôi

3.3.1. Khơi mào cho những cuộc bút chiến về thơ

Bằng cách công bố bài thơ Tình già, Phan Khôi đã nổ phát súng đầu

93

tiên công kích vào thành trì vững chắc, trì trệ của thơ Việt. Bài thơ được công

bố dưới dạng một số ví dụ minh họa trong tác phẩm văn học nhưng nó mang

nội dung và hình thức của một công trình khoa học. Nhận định về vấn đề này,

trong Thi nhân Việt Nam, Hoài Thanh – Hoài Chân đã phát thốt lên rằng:

“lần đầu tiên trong thành trì thơ cũ hiện ra một lỗ thủng. Ông Phan Khôi hăng

hái như một vị tướng quân, dõng dạc bước ra trận". Như vậy, cùng với Tình

già Phan Khôi đã công khai bày tỏ quan điểm của mình về một sự thay đổi,

một sự vượt thoát cần có cho thơ. Bài thơ ngang nhiên trình chánh giữa làng

thơ, khơi mào cho cuộc tranh luận kéo dài mà thắng lợi cuối cùng thuộc về

những người chủ trương ủng hộ lối làm thơ mới.

hiệu ứng xã hội và thẩm mĩ hết sức mạnh mẽ.

Đề xuất “tuyên ngôn thơ mới” của Phan Khôi cũng đã tạo ra những

Trước hết, đề xuất này đã gây chấn động làng văn, làng báo, tạo ra

những cuộc bút chiến sôi nổi, giằng co quyết liệt về thơ cũ và thơ mới với

nhiều ý kiến trái ngược nhau.

Đại biểu của phái thơ cũ với những tên tuổi như Chất Hằng Dương Tự

Quán, Vân Bằng, Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu, Thương Sơn, Nguyễn Hữu

Tiến, Tùng Lâm Lê Cương Phụng, Nguyễn Văn Hanh... đã có rất nhiều ý kiến

công kích thơ mới, bảo vệ thành trì thơ cũ... Họ hầu hết đều qui kết Phan

Khôi đã phản bội truyền thống thơ ca, coi ông như là “cái họa”.

Cụ thể là Vân Bằng trên An Nam tạp chí, số 39 (ngày 30/4/1932) với

mới mà cũng như Phan Khôi đều dị dạng như nhau, ưa làm những chuyện

ngược đời.

Chất Hằng Dương Tự Quán trên Văn học tạp chí (số 18, ngày 1.6.1933)

trong bài “Ấm Hiếu không thể làm Tú Khôi hay là một cái tỉ hiệu luận giữa

Phan Khôi và Nguyễn Khắc Hiếu” đã chỉ trích rất nặng đối với Phan Khôi và

cho rằng vì là:

bài “Tôi thất vọng về ông Phan Khôi” đã cho rằng Tình già không phải là thơ

“người ít tình cảm thì sự cảm giác về cái bản ngã cũng kém nên Phan

94

Khôi không hay làm thơ.... đôi khi Phan Khôi cũng làm thơ, nhưng thơ

của ông cũng “hùng hổ” như ông...hoặc nhạt nhẽo vô duyên như hình

dáng của ông. Có lẽ vì thế mà Phan Khôi muốn thay đổi cái hình thức

của thơ mà xướng xuất ra một thể thơ mới nó thật ra chẳng mới chút

nào, và cũng ít người cùng ông hưởng ứng” [173, tr 82].

Tản Đà nặng nề hơn khi còn muốn làm đao phủ lấy đầu Phan Khôi vì

tội phỉ báng thơ cũ và viết một bài hài đàm để giễu cợt, cho rằng việc Phan

Khôi khởi xướng thơ mới chỉ là phút ngẫu hứng bất chợt:

“Thơ có họ Phan, đờn họ Quách

Thơ có chữ đờn có tơ?

Tài tử văn nhân nhường rứa rứa

Đờn thời ngơ ngẩn thơ vẩn vơ

Bút huê ngao ngán bận đề thơ”.

Theo dẫn liệu mà Vu Gia đã tìm hiểu và viết trong Phan Khôi, tiếng Việt, Báo chí và Thơ mới thì một Tham tá nha Tư pháp Hà Nội là Tùng Thành Nguyễn Nhún trong tập thơ Nhà ngâm đã có một bài công kích Phan Khôi.

Bài thơ như sau:

Trách bác Phan Khôi khéo rắc rối,

Theo gương Hồ Thích làm thơ mới.

Câu dài câu ngắn chẳng ra sao,

Vần đụp vần đơn nghe thật chối.

Nhiệt thành, Thế Lữ lao công mãi.

Phải chăng muốn diễn ý tân kỳ

Hay tại làm thơ cũ kém giỏi?

(Công kích thơ mới)

Tác giả này cho rằng “trăm sự “rối loạn” trên thi đàn vừa qua đều do

Phan Khôi lắm chuyện, bày vẽ tào lao và khẳng định “các lối thơ cũ không

Hăng hái, Thị Khiêm diễn thuyết khen,

phải là không đủ để diễn đạt tư tưởng như mấy nhà sính lối thơ mới vẫn

95

thường cho là thế” [36, tr 296].

Tuy nhiên, bên cạnh đó cũng có rất nhiều ý kiến đồng tình với những

thay đổi về thơ của Phan Khôi, đặc biệt là phía các nhà tân học như Nguyễn

Thị Kiêm, Thế Lữ, Lê Tràng Kiều, Hoài Thanh, Trương Tửu, Lê Ta, Đỗ Đình

Vượng... Trong đó, Lưu Trọng Lư với bài “Bức thư ngỏ cùng Phan Khôi tiên

sinh” (đăng trên Phụ nữ tân văn, số 153, tháng 6/1932) đã đánh giá việc làm

của Phan Khôi có ý nghĩa đưa ra một lối thoát cho thơ khi giữa lúc nó đang

“triền miên trong cõi chết”, bởi thơ cũ đã không còn phù hợp với tâm thức

của thanh niên thời đại mới. Lưu Trọng Lư ca ngợi Phan Khôi là một trong

những bậc chân thi nhân, không bao giờ chịu đứng trong cái “lãnh thổ” hẹp

Bên cạnh những ý kiến ủng hộ ấy là sự xuất hiện hàng loạt những bài

hòi ngột ngạt, mà có thể đưa tâm hồn người ta lên tận mây xanh...

thơ mới như Đường đời, Vắng khách thơ (Lưu Trọng Lư), Canh tàn, Trên

con đường cũ (Nguyễn Thị Manh Manh)...

Như vậy, mặc dù sau này đã có ý kiến cho rằng ngay cả bản thân Phan

Khôi cũng đã bác bỏ mình chẳng phải là người tiên phong trong phong trào

Thơ mới; thậm chí còn không chấp nhận Tình già là bài thơ mới nhưng thực

tế vẫn cho thấy, ở buổi sơ khai tìm hướng thoát cho thơ Việt, vai trò tạo cú

hích của Phan Khôi để sau này thơ mới có những bước tiến xa hơn là một

thực tế buộc phải được ghi nhận. Vu Gia qua công trình nghiên cứu Phan

Khôi, tiếng Việt, báo chí và thơ mới đã khẳng định rằng:

trào Thơ mới, song sự xuất hiện của nó đã đánh dấu một bước ngoặt,

một cột mốc quan trọng trong lịch sử thơ ca Việt Nam. Và nói như

Hoài Thanh là “cuộc cách mệnh thi ca đã nhóm dậy”. Tôi nghĩ rằng,

một đời thơ để lại cho đời một bài thơ, thậm chí được vài câu thơ cũng

đã quý. Đối với bài Tình già, dù muốn hay không, Phan Khôi xứng

đáng có chỗ đứng đặc biệt trong thơ ca Việt Nam hiện đại” [36, tr 311].

96

“Ảnh hưởng của bài thơ Tình già là tất cả nguyên nhân làm nên phong

Mặt khác, quan trọng hơn là qua những cuộc tranh luận nảy lửa trái

chiều nêu trên, nhiều giá trị của thơ mới được khẳng định và quan niệm về

thơ đã có nhiều đổi mới, tạo đà cho thắng lợi về sau của phong trào Thơ mới.

3.3.2. Xác lập hướng đi khác của thơ Việt

Như đã đề cập, để có được những bước nhảy ngoạn mục tạo nên cuộc

cách mạng trong thơ ca, văn học Việt Nam tất nhiên phải trải qua những bước

chuyển với nhiều cung bậc, dạng thức khác nhau. Vượt dần ra khỏi ảnh hưởng

tư tưởng Trung Hoa cổ, tiếp xúc với những trào lưu tư tưởng, văn hóa, văn

học hiện đại phương Tây là con đường mà các trí thức Việt lựa chọn để tiến

Từ những biến đổi về nhận thức, tư tưởng trong thơ Phan Bội Châu,

dần đến hiện đại hóa.

cho đến sự cách tân phá vỡ cấu trúc quen thuộc để hướng đến khát vọng

khẳng định cái tôi trong thơ Tản Đà và chuyên chở cảm thức bùi ngùi, man

mác trong thơ yêu nước Trần Tuấn Khải, là một quá trình chuyển vận quá độ

làm nhịp cầu nối cho sự xuất hiện cái mới trong thơ.

Nhận diện về vấn đề này Mã Giang Lân đã cho rằng từ đây là quá trình

không thuận chiều mà luôn có những đột biến bất ngờ, lúc lên lúc xuống,

phân nhánh, chia dòng, đứt gãy, tiếp biến... [88, tr 75].

Nhận ra sự gò bó, lệ thuộc mà quan trọng là không thể cứ quẩn quanh

mãi với những “khuôn phép tỉ mỉ” của thơ lối thơ Đường, Phan Khôi đã mạnh

ông có thể thấy: từ những dự định ban đầu ở những bài giới thiệu thơ trong

mục Nam âm thi thoại trên các báo cho đến khi tổng hợp thành Chương Dân

dạn khởi xướng duy tân. Thật ra nhìn lại quá trình nghiên cứu và sáng tác của

thi thoại, rồi công khai trình chánh Tình già giữa làng thơ, Phan Khôi đã thể

hiện những bước chuyển khá rõ và sắc nét về hình thức, mỹ cảm, nội dung

nhằm hướng đến mong muốn tìm ra một hướng đi mới cho thơ Việt. Chủ đích

của ông khá rành mạch và nhất quán.

Như vậy, năm 1932 thật sự đã là mốc khởi phát cho phong trào Thơ

97

mới chưa (đặc biệt là khi Phụ nữ tân văn đăng bài Tình già của Phan Khôi

cùng bài giới thiệu Một lối thơ mới trình chánh giữa làng thơ) vẫn còn được

tranh luận, song không thể phủ nhận sức ảnh hưởng của bài thơ có tính “trình

chánh” này. Bởi về hình thức, Tình già mà Phan Khôi “trình chánh” giữa

làng thơ ấy đã phá hẳn công thức của thi ca cổ điển, thơ Đường luật. Số câu,

chữ dài ngắn tự do không đều nhau, chẳng phải từ mà cũng chẳng phải phú.

Đặc biệt cách gieo vần hoàn toàn không còn theo lối bằng trắc như trước (vần

đi ở cuối câu chẵn và lẻ, khi bằng khi trắc). Bài thơ cũng không áp dụng lối

đối ngẫu của thơ Đường luật mà chỉ duy nhất dùng phép tiểu đối ở câu thứ 3.

Toàn bộ bài thơ được diễn đạt theo cảm xúc của tác giả nên số chữ, số

câu, số đoạn, cách ngắt nghỉ không tuân theo qui luật nào. Nhịp thơ nghe như

tiếng hò buồn chảy trôi theo câu chuyện của đôi trai gái yêu nhau rồi xa cách

rồi tái ngộ về già để chút tình còn sót lại nơi đuôi mắt lúc chia tay. Đặc biệt

bài thơ thoát hẳn lối độc vận của thơ cũ và âm điệu biến đổi linh hoạt.

Vu Gia đã có những phân tích khá kỹ trong cách sử dụng vần rất lạ của

Phan Khôi trong Tình già như sau:

“Vần trong bài thơ Tình già, cơ bản được Phan Khôi sử dụng vần liên

tiếp, như: nhỏ - thở, nặng – đặng, sau – nhau, chỡ - nỡ, nấy – vậy,

chồng – chung, sau – nhau..., nhưng cũng có chỗ không theo một thứ tự

nhất định, như: xưa – mưa – mờ - nhỏ - thở , thôi – rồi – đuôi. Nhạc

điệu của bài Tình già là nhạc điệu quen thuộc của dân tộc. Hai mươi

đơn điệu khiến ta nghe như tiếng hò ai oán đâu đó bên bờ bãi ven sông,

trên chuyến đò với nhịp chèo mái dài trong một đêm trăng mờ sao tỏ...

Tiếp đến, tác giả dùng vần liền nhau trong một câu làm gợi thêm một

ấn tượng buồn khác: Để đến nỗi tình trước phụ sau, chi cho bằng sớm

liệu mà buông nhau! Đọc lên, ta thấy câu thơ đã tạo nên một cái gì mất

mát, buông xuôi với một tiếng thở dài bất lực. Kế tiếp, tác giả sử dụng

bốn năm xưa, một đêm vừa gió lại vừa mưa..., tạo nên ấn tượng buồn,

98

lại vần trắc liên tiếp và loáng thoáng tiếng cười gằn buồn giận: Hay!

Nói mới bạc làm sao chớ? Buông nhau làm sao cho nỡ? Thương được

chừng nào hay chừng nấy, chẳng qua ông Trời bắt đôi ta phải vậy!,

làm cho ta nghe như tiếng nghẹn ngào nức nở và... tiếp tục buông xuôi

theo số phận, vì Ta là nhân ngãi, đâu phải vợ chồng mà tính việc thủy

chung? Câu thơ được ngắt, kết toàn thanh bằng gợi lên một cảm giác

buồn, dàn trải, xa vắng. Ôn chuyện cũ mà thôi. Liếc đưa nhau đi rồi!

Con mắt còn có đuôi, hơi thơ dài hơn, sóng nhạc triền miên hơn và tứ

cũng dồi dào hơn. Cái ai oán ban đầu đã nhường lại cho cái rạo rực của

con tim tin yêu về con người, về cuộc đời” [36, tr 309-310].

thơ tự do không tuân thủ bất cứ qui tắc nào kể cả yêu cầu về gieo vần. Phan

Trước Phan Khôi, các nhà thơ Pháp và Trung Quốc cũng đã đưa ra loại

Khôi ủng hộ loại thơ này song ông quan niệm rằng, dù có muốn đổi mới, tự

do đến mức như thế nào thì thơ khác văn xuôi là phải có vần. Do đó ông đã

viết bài thơ Tình già “tuy không niêm, không luật, không hạn chữ, nhưng mà

phải có vần” [13, tr 209], và khẳng định “ấy là tôi làm nó ra theo như cái

nguyên tắc tôi đã lập” [13, tr 209] xem như là bài mẫu. Như vậy, bắt đầu từ

những đổi mới có tính sáng tạo, Tình già đã góp phần cởi trói cho các nhà thơ

khỏi những qui tắc gò bó, phức tạp của thơ Đường luật và lục bát. Thơ muốn

làm như thế nào là tùy vào xúc cảm của người viết và nó phải thổi được xúc

cảm ấy vào tâm hồn người đọc, được người đọc chấp nhận. Về kiểu hình thức

thực và chuyển tải được những cung bậc tình cảm đa dạng, rất đời của con

người hiện đại.

Ở tiểu mục 3.3.1 phía trên chúng tôi có nhắc đến việc Phan Khôi, sau

khi Tình già có mặt trong đời sống thơ mới, đã ra sức “biện minh” về thể

thức của bài thơ này, rằng ông không viết thơ mới mà dùng lối cổ phong.

Trong các hình thức thơ của Trung Hoa cổ được du nhập vào Việt Nam thời

có phần tự do này đã làm cho thơ bộc bạch cảm xúc một cách tự nhiên, chân

trung đại, cổ phong là thể thức có trước thơ luật Đường và khác lối thơ luật ở

99

chỗ khá tự do, vì không bị quy định về niêm, luật, đối, không bị hạn định về

câu, chữ. Chính vì tính chất khá tự do này mà thể cổ phong thường được

những tác giả Việt Nam có phong cách phóng túng, tài hoa sử dụng, chẳng

hạn Nguyễn Trãi với Côn Sơn ca, Cao Bá Quát với Sa hành đoản ca, Hoàng

Sơn vọng hải ca. Sang đến thời cận hiện đại, lối thơ này vẫn được một số tác

giả có vốn cổ học chuộng dùng, như Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu (Bắc Kỳ),

Nguyễn Liên Phong (Nam Kỳ) quãng những năm 1910-1920. Có thể lấy bài

Mỵ Châu, Trọng Thủy của Tản Đà làm một ví dụ. Bài thơ này được in trong

Khối tình con 1, năm 1916. Như vậy, xét về thời gian, nó sớm hơn Tình già

16 năm, và so về nội dung, đây cũng là một tác phẩm trữ tình ai oán. Vậy tại

thi ca” Việt Nam? Có lẽ, như chúng tôi đã lập luận ở trên, chặng đường đổi

sao chỉ đến Tình già, thể thức này mới được gắn với “cuộc cách mạng trong

mới đó cần phải có những chuẩn bị trên nhiều phương diện, có lẽ nó cũng

“kén” người để trao sứ mệnh, và trong trường hợp này Phan Khôi là một cái

tên xứng đáng. Nói cách khác, Tình già là thơ mới hoàn toàn hay được viết

theo thể cổ phong không quan trọng bằng ý nghĩa phá vỡ những định lệ đã

thành rào cản, thành sự trói buộc sự phát triển của thơ Việt của tác phẩm.

Về nội dung, Tình già thể hiện sự hiện đại trong quan niệm yêu và

sống. Ngay từ tiêu đề bài thơ đã là một kiểu gây hấn với quan niệm truyền

thống. Giãi bày cảm xúc yêu đương nam nữ vốn là một đề tài bị tiết chế trong

văn học viết thời trung đại, và nếu có những khe cửa hẹp để bộc bạch thì căn

công khai, trực diện trên báo và là nói về tình già. Nghĩa là từ Phan Khôi,

quan niệm về tình yêu không tuổi tác đã chính thức được phát ngôn, mà lại là

yêu đương mãnh liệt qua năm tháng. Một cuộc tình dang dở vì “ông Trời bắt

đôi ta phải vậy” sẽ không khác Phạm Thái - Trương Quỳnh Như hay Thuý

Kiều - Kim Trọng,... nếu hai mươi tư năm sau gặp lại họ không là đôi “nhân

bản là những câu chuyện tình yêu của tuổi trẻ. Song ở đây, Phan Khôi lại

ngãi” vẫn tha thiết với cảm xúc yêu đương ngày xưa và cùng nhau ôn lại

100

chuyện cũ, rồi “Liếc đưa nhau đi rồi! Con mắt còn có đuôi”. Lời ai oán kín

đáo nhưng rõ ràng được đặt trong lời của cặp tình nhân già chắc chắn đã tạo

thành một phát ngôn mạnh mẽ, nếu chúng ta nhớ lại câu chuyện bi tình Tố

Tâm của Hoàng Ngọc Phách đã phải lui lại ngày công bố tới 3 năm (Hoàng

Ngọc Phách hoàn thành Tố Tâm vào năm 1922, nhưng phải đến năm 1925

mới dám đưa in, vì sợ cuốn tiểu thuyết “mới quá”). Và tác phẩm sau khi ra

mắt đã tạo ra những ảnh hưởng mạnh mẽ cho lớp thanh thiếu nữ Hà thành.

Ngoài ra câu chuyện Tình già không chỉ là chuyện nam nữ đêm hôm

mưa gió tự tình trong lều vắng (mặc dù trong xã hội cũ chuyện này đã là sự

khó chấp nhận) mà còn mới mẻ, táo bạo hơn nhiều ở quan niệm tình yêu

“nhân ngãi đâu phải vợ chồng mà tính chuyện thủy chung. Dù là thứ tình cảm

trái ngang và ngoài chồng ngoài vợ nhưng Tình già vẫn là một tình yêu đích

thực của con người. Chỉ riêng bài thơ này cho thấy Phan Khôi đã đi trước thơ

mới một chặng dài. Sau này trong thơ mới cũng ít thấy nhà thơ nào đi theo

hướng này, ngoài TTKH.

Bên cạnh đó, xét từ hiệu ứng thẩm mỹ, có thể thấy “Con mắt có đuôi”

không chỉ là một hình ảnh thơ mà còn có giá trị của một biểu tượng văn hóa.

Ở đó có sự kết tập yếu tố truyền thống và có phẩm chất đương đại để gợi dẫn,

chỉ đường và khai mở cho lối thơ mới sau đó. Về khía cạnh này cho thấy Phan

Khôi đã mở ra một con đường thơ mới thênh thang hơn.

có cách nghĩ, cách làm quá mới mẻ, quá táo bạo và cũng quá thú vị. Và đúng

như Hoài Thanh – Hoài Chân đã nhận định: “khi đọc Tình già “một số đông

thanh niên trong nước bỗng thấy mở ra một góc trời vì sự táo bạo giấu giếm

của mình đã được một bậc đàn anh trong văn giới ngang nhiên thừa nhận”

[154, tr 20].

Kiểu vượt rào Nho giáo hướng đến cổ súy cho tinh thần tự do yêu

Như vậy, đôi nam nữ trong Tình già đã bất chấp rào cản của lề thói cũ,

đương này nếu so sánh với các tác phẩm của Tự lực văn đoàn sau này có lẽ

101

vẫn được xem là mới hơn, bởi nó được bắt nguồn từ một nhà cựu học. Phan

Khôi qua bài thơ đã gieo mầm xúc cảm mới mẻ cho người đọc và lưu lại một

chuyện tình đẹp, vượt dòng thời gian, táo bạo, rất thực, rất đời.

Sau này, Vũ Đức Sao Biển trong một nghiên cứu cũng đã có nhận xét

rằng trong Tình già “yếu tố tình dục (sex) được đưa vào một cách kín đáo.

Nếu thơ cũ, thơ cổ điển không dám nói đến tình dục thì Phan Khôi lại mạnh

dạn đưa vào thơ mới” [137, tr 363-364]. Rõ ràng bài thơ như một sắc điệu

mới mẻ, vượt qua những biểu hiện dè dặt, công thức của thơ ca trung đại, đề

cập đến một mối tình không có trong khuôn khổ Nho giáo. Điều này cho thấy

rất rõ sự táo bạo của Phan Khôi với mong muốn canh tân văn học, như là sự

trưng ra giữa bàn dân thiên hạ câu chuyện tình cảm của đôi trai gái – “là nhân

thách thức đối với các nhà thơ truyền thống. Vào thời điểm ấy mà Phan Khôi

ngãi” với những quan niệm hết sức mới mẻ như thế quả hiếm hoi. Đặc biệt,

“lời kết thể hiện sắc nét thần thái của đôi tình nhân, tình cũ nghĩa xưa làm sao

quên “được”, nhưng mà lấy nhau thì không “đặng”. Đây là bài thơ hay, hay vì

ý và âm điệu là rung cảm lòng người” [137, tr 352-553]. Hơn nữa, Vũ Đức

Sao Biển còn cho rằng điều thú vị nhất ở Tình già là: “Phan Khôi đã đưa tính

hay cãi và cãi hay của người Quảng Nam cũng như ngôn ngữ thông dụng

Quảng Nam vào bài thơ của mình. Thông thường, đôi lứa ở bên nhau trong

căn nhà nhỏ giữa đêm mưa gió – nghĩa là không gian và thời gian rất lý tưởng

cho việc ân ái, thì nên giành hết cho nhau những gì mình có được. Thế nhưng,

nhau” [137, tr 363]. Ý kiến này của Vũ Đức Sao Biển càng cho thấy bài thơ

rất đáng yêu và rất đời. Và thật sự không thể phủ nhận Tình già đánh dấu

bước chuyển, xác lập hướng đi khác cho thơ Việt... Rồi kể từ đó cho đến

trước lúc từ giã cõi đời, vào một buổi chiều mùa thu năm 1954, trong phút

giây tĩnh lặng hiếm hoi của chuỗi ngày chao đảo tình đời, Phan Khôi đã “ngột

khởi”(chữ dùng của nhà báo Trần Tuấn) bài thơ Nắng chiều, mà kỳ lạ thay

có lẽ lứa đôi này đắc thủ truyền thống hay cãi cho nên... họ tranh thủ cãi

cũng mang tính bước ngoặt của cuộc đời mình:

102

Nắng chiều đẹp có đẹp

Tiếc tài gần chạng vạng

Mặc dù gần chạng vạng

Nắng được thì cứ nắng

Bài thơ đã cho thấy sức cháy của nắng, dẫu là là nắng chiều. Và có lẽ

đúng như những nhận định đầy xúc cảm mà con trai Phan Khôi đã viết trong

một cuốn hồi ký về cha mình rằng: “Ông tắm trong nắng, thở bằng nắng, nhìn

bằng nắng và chính nắng dội lên trong ông tất cả cái quá khứ dài dặc, cái hiện

tại đầy tai ương và cái tương lai ngắn ngủi ở phía trước toàn một màu đen...”.

Bài thơ Nắng chiều cũng như con đường thơ của Phan Khôi mãi gợi dẫn và

chan chứa tinh thần nhiệt huyết của một nhà học thuật luôn khao khát được

sáng tạo, cống hiến không mệt mỏi....

Tiểu kết chương 3

Như vậy, đóng góp cho văn học, đặc biệt trong lĩnh vực thơ ca Phan

Khôi đã bắt đầu từ việc sưu tầm, giới thiệu, phê bình văn chương cổ Việt

Nam. Ông trở thành đại biểu “cắt băng khánh thành” cho trào lưu thơ mới.

Tình già là dấu ấn đậm nhất trên phương diện sáng tác của Phan Khôi trong

lịch sử văn học. Bằng việc đề xuất một quan niệm mới về thơ kèm bài thơ

minh họa, Phan Khôi đã tỏ rõ sự nhạy bén và quyết liệt trong tư tưởng. Tình

già của ông thành công hay là chưa thành công, mới hay vẫn chưa thật sự

phủ nhận là từ hành vi “gây sự” này, Phan Khôi đã kích thích tranh luận và

tạo cú hích cho phong trào Thơ mới với những tên tuổi lừng lẫy trong lịch sử

văn học Việt Nam hiện đại như Thế Lữ, Lưu Trọng Lư, Hàn Mặc Tử, Huy

Cận, Xuân Diệu....

Đường đến thơ mới của Phan Khôi là hành trình dài có chủ đích trong

suốt thời gian ông dấn thân vào con đường viết văn làm báo chuyên nghiệp,

mới... đến nay vẫn còn nhiều tranh luận. Song vấn đề mà chúng ta không thể

103

thể hiện sự nhạy bén, tư duy sắc sảo của một trí thức luôn hướng đến cái mới,

cái khác. Điều đáng lưu ý là trong hành trình này tư tưởng của ông khá nhất

quán với chủ trương canh tân xã hội, và cụ thể hơn là đổi mới văn học trên

phương diện ngôn luận đồng thời từng bước đề xuất những quan điểm hiện

đại. Khởi đầu từ việc thẩm định, kiểm duyệt thơ cổ của dân tộc cho đến khi

quyết định trình chánh một lối thơ mới giữa làng thơ, Phan Khôi đã hoàn

thành sứ mệnh của người “mở đường” và tạo hiệu ứng tích cực để thơ mới

104

thắng thế và đạt thành tựu rực rỡ về sau.

CHƯƠNG 4

VĂN XUÔI TỰ SỰ PHAN KHÔI GIỮA CÁC HÌNH THỨC

TỰ SỰ VIỆT NAM NHỮNG NĂM ĐẦU THẾ KỶ XX

Thực hiện chương này chúng tôi đặt ra mục đích tìm hiểu quan điểm

của Phan Khôi thông qua những câu chuyện của ông giữa các hình thức tự sự

Việt Nam những năm đầu thế kỷ XX trên cả hai phương diện: lí thuyết và

thực hành sáng tác. Từ đó, xác định vị trí văn học sử của Phan Khôi trong lịch

sử văn học Việt Nam hiện đại, đặc biệt là đối với các hình thức tự sự Việt,

những năm đầu thế kỷ XX.

Từ thực tiễn đọc tác phẩm văn xuôi tự sự của Phan Khôi (Hoạn hải ba

đào, Mộng trung mộng, Trở vỏ lửa ra) và một số ý kiến của Phan Khôi về các

hình thức văn xuôi (chủ yếu là tiểu thuyết) chúng tôi nhận thấy tác phẩm của

ông thể hiện rõ hai xu hướng: tả thực và luận đề; đồng thời văn xuôi tự sự của

Phan Khôi cũng bộc lộ sự “lưỡng lự” giữa hai hình thức cũ – mới của tự sự.

4.1. Tả thực trong văn xuôi tự sự của Phan Khôi

Thời trung đại, Việt Nam nằm trong khu vực văn hóa văn chương

không coi phản ánh thế giới khách quan là mục đích và bản chất của nghệ

thuật. Vì thế “tả thần” được coi trọng. Quan điểm này đã được Trần Nho Thìn

phương Đông – phương Tây (khảo sát qua phạm trù mimesis – mô phỏng

phương Tây) cho rằng: “Quan niệm “quan vật thủ tượng” thoạt có vẻ dẫn đến

thuyết mô phỏng tương đồng với mimesis của Hy Lạp cổ đại nhưng thực ra

không phải như vậy. Quan vật thủ tượng ở phương Đông cổ đại dẫn đến quan

niệm tả thần (miêu tả ấn tượng về thần thái toát ra từ nhân vật) chứ không tả

phân tích khá rõ trong bài viết “Tính phổ biến và tính đặc thù của văn luận

hình (không miêu tả chân thực, chi tiết, tỉ mỉ ngoại hình và hành động nhân

105

vật) [214]

Hơn nữa, văn học Việt Nam trung đại (mà cốt lõi là văn học nhà nho)

luôn đề cao chức năng giáo huấn – giúp con người rèn luyện đạo đức theo

hướng chính đạo. Do vậy, những mệnh đề thi dĩ ngôn chí, văn dĩ tải đạo đã

trở nên hết sức quen thuộc đối với văn học thời kỳ này. Theo nhà nghiên cứu

Trần Đình Hượu, “hướng vào thực tại bằng tâm chí không dắt văn học đến

con đường hiện thực” [62, tr 294]. Dựa vào tiêu chí về “chủ nghĩa hiện thực”

của nhà Đông phương học người Nga N. I. Cônrát “chủ nghĩa hiện thực bác

bỏ cung cách tiếp cận thực tại từ những khái niệm, từ sự trừu tượng hóa... chủ

nghĩa hiện thực đòi hỏi nhà văn phải xuất phát trực tiếp từ thực tại... [dẫn theo

62, tr 296], Trần Đình Hượu khẳng định: văn học truyền thống tiếp cận hiện

thực theo cách “gắn cảnh với tâm, tìm cái thần trong thực tại” tạo ra một kiểu

văn chương “thuyết minh Đạo, Lý, bộc bạch Tâm, Chí” [62, tr 334] nên “đã

không có một phong trào văn học hiện thực chủ nghĩa” [62, tr 297]. Tóm lại,

trong suốt chiều dài lịch sử, người cầm bút của văn chương trung đại Việt

Nam căn bản thiếu vắng ý thức nhận biết, phát hiện và đặc biệt là ý thức phản

ánh sự thật. Đã có một số công trình nghiên cứu của Trần Đình Sử, Trần Nho

Thìn, Nguyễn Đăng Na, Vương Trí Nhàn... cũng đã đề cập đến yếu tố hiện

thực trong văn học trung đại ở nhiều phương diện khác nhau song phần lớn

nhận thấy đó chỉ là biểu hiện cho sự cựa mình, tìm cách phá vỡ tính qui phạm,

Bên cạnh đó, việc người kể chuyện Việt Nam trung đại chỉ có thể dùng

chữ Hán để “kể xuôi” cũng là nhân tố ảnh hưởng đến vấn đề miêu tả hiện

thực trong các tác phẩm. Thêm nữa, văn xuôi trung đại Việt Nam có hai hình

thức kể chuyện chủ yếu là dùng yếu tố kỳ ảo (truyện truyền kỳ) và tính biên

niên (kể theo trật tự, tuyến tính).

ước lệ của các nhà nho lúc bấy giờ.

Là một biểu hiện tất yếu của quá trình hiện đại hóa văn học, thuật ngữ

106

tả thực được đề xuất bởi chính các nhà văn, nhà phê bình giai đoạn văn học

những năm đầu thế kỷ XX. Từ khi có sự thâm nhập của chủ nghĩa tư bản

phương Tây vào Việt Nam, cấu trúc xã hội truyền thống bị phá vỡ, xuất hiện

nhiều nhân tố mới. Hàng loạt biến động đã xảy ra làm thay đổi gốc rễ môi

trường văn học. Những phạm trù nghệ thuật hiện đại vì thế cũng xuất hiện, trong

đó tả thực là một vấn đề rất được quan tâm, đặc biệt trong thể loại văn xuôi hư

cấu. Tả thực được hiểu một cách tương đối đầy đủ và khái quát như sau:

- Về nội dung quan tâm đến hiện thực xã hội và tâm lí con người đương

thời, miêu tả con người bình thường với những trải nghiệm nhân sinh

phổ biến.

- Về nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ sinh hoạt đời thường; chống lại lối

văn khuôn sáo và giáo huấn truyền thống, đồng thời hướng tới học tập

những kỹ thuật miêu tả, kể chuyện từ phương Tây [162, tr 55].

Với hướng tiếp cận ấy, hàng loạt các học giả nước ta như Phạm Quỳnh,

Vũ Khắc Tiệp, Thiếu Sơn đã lưu ý đến khái niệm tả thực ở nhiều khía cạnh

khi giới thiệu, nhận xét đánh giá về một số truyện ngắn, tiểu thuyết sáng tác ở

đầu thế kỷ như Sống chết mặc bay (Phạm Duy Tốn), Cành hoa điểm tuyết và

Tố Tâm (Hoàng Ngọc Phách), Kim Anh lệ sử (Trọng Khiêm), Hòn máu bỏ

rơi (Phan Huấn Chương)... Đa phần các phân tích đều hướng đến đề cao lối

viết chịu ảnh hưởng phương Tây và đối lập với cách hành văn truyền thống ở

Vào tháng 8 năm 1931 trên Phụ trương văn chương, số 15, báo Trung

lập, Phan Khôi đã có bài Tiểu thuyết thế nào là hay?, giới thiệu và bình luận

quan điểm về tiểu thuyết trong công trình lí luận Shòsetsu Shinzui (Tiểu

thuyết thần tủy) của Bình Nội Tiêu Diêu (Tsubouchi Shoyo). Đây là một công

trình được xem là “mốc quan trọng của văn học hiện đại Nhật Bản”[104, tr

các tác phẩm này.

196]. Ở Nhật Bản Tsubouchi Shoyo được xem là đã mang đến làn sóng mới

107

cho văn xuôi hư cấu mang khuynh hướng hiện thực (realistic fiction). Phan

Khôi đã “theo con mắt của một nhà văn học Nhựt Bổn” để đi đến giới thuyết:

“Tiểu thuyết ngày nay, ở trên văn đàn thế giới không còn theo chủ nghĩa

khuyến trừng nữa. Nhựt Bổn vào năm 1885 cũng đã có người tuyên ngôn như

vậy (...). Cứ như lời trên đây của nhà văn học Nhựt ấy, về tiểu thuyết, khuynh

hướng về chủ nghĩa tả thực, lại trọng về tâm lý, cũng chủ trương theo phái

nghệ thuật vị nhân sanh. Cái khuynh hướng ấy, cái chủ trương ấy, tôi nhận là

đáng đem ra mà thi hành trong cõi tiểu thuyết nước ta ngày nay vậy”[8, tr 321

- 322]. Điều mà Phan Khôi đặc biệt chú ý ở công trình này chính là sự đề cao

khuynh hướng tả thực của công trình Shosetsu Shinzui. Bài báo của Phan

Khôi do đó không chỉ góp tiếng nói khẳng định sự tất yếu phải hướng văn học

theo xu hướng tả thực mà quan trọng hơn giúp chúng ta nhìn nhận tả thực

như một phạm trù thẩm mỹ trung tâm của văn học Việt Nam hiện đại (bởi

Trung Quốc, Nhật Bản và Việt Nam là những quốc gia đồng văn).

Tiếp theo đó, khi bàn về vấn đề Văn chương và văn chương của nhà

báo, trên Đông Pháp thời báo năm 1928, Phan Khôi cho rằng:

“....người làm văn cốt phải giữ ba điều, là tín, đạt, mỹ.

Tín, nghĩa là văn phải cho tin. Trong một bài văn, kể chuyện thì phải

cho thật, nói lý thì phải cho đúng; ấy là tín đó.

Đạt, nghĩa là văn cho thông. Cái ý mình nghĩ trong óc thế nào thì viết ra trên

khỏi hiểu ra đường khác hay là không hiểu chi cả; ấy là thông đó.

Mỹ, nghĩa là văn phải là đẹp. Tín và thông cũng đã gọi là đủ dùng trong

sự viết văn rồi; song nếu muốn cảm người cho sâu, truyền đi cho xa thì

phải cần đến cái đẹp. Lời cho nhã, ý cho mới, ấy mới là đẹp đó.

Bất kỳ văn nước nào thời nào, dầu cho ở bên Tây, bên Tàu, hay là đời

giấy cũng thế ấy, làm cho người xem văn mình hiểu đúng như ý mình, mà

xưa nay, cũng phải có đủ ba điều ấy mới gọi là văn được, mới gọi là

108

văn hữu dụng được” [3, tr 138].

Thực tế, “tín, đạt nhã” hay “văn chương hữu dụng” không phải là

những phạm trù mới mẻ, trái lại đó là những khái niệm Phan Khôi “mượn lại”

từ quan niệm viết truyền thống. Tương tự, việc Phan Khôi khẳng định sự hài

hòa giữa yếu tố nội dung và hình thức cũng mang bóng dáng của quan niệm

“văn chất bân bân” do Khổng Tử khẳng định. Như vậy, đọc song song hai bài

viết này của Phan Khôi sẽ thấy ông là người của hai thế giới Đông-Tây nhưng

đã hướng về phương Tây hiện đại. Vì trong quan niệm về sự chân thật (tín),

Phan Khôi không quy đòi hỏi về “tâm” như truyền thống mà coi trọng tiêu chí

đời sống. Và một trong hai yêu cầu cho cái đẹp thì có “mới”, tức là khẳng

định cần có những thay đổi, sáng tạo.

Phan Khôi còn có những bài viết khác, thể hiện rõ quan niệm này. Về

lối văn tự sự, khi nhận xét với tư cách người dịch tác phẩm Trò miệng (của

Lâm Thiết Nhai), ông cho rằng đó chỉ là chép lại “sự việc có sẵn rồi, không

phải rút trong não mình ra như lối ngôn tình hay thuyết lý. Vậy mà khó, khó là

chép làm sao cho y sự thiệt lại phải gọn gàng, sáng sủa, khiến cho người đọc

cũng như chính mắt xem sự thiệt xảy ra. Văn tự sự như thế là lối văn hay lại là

lối văn khó” [13, tr 771]. Chính vì thế, Phan Khôi đã dịch truyện này của Lâm

Thiết Nhai và lấy luôn nó làm minh chứng cho những đặc điểm tự sự mà mình

vừa kết luận. Trò miệng không có ý nghĩa giáo lý cao cả, mà là chuyện của đời

hay có thể diễn đạt khác đi là yếu tố tả thực trong hình thức tự sự.

Đặc điểm này không chỉ được Phan Khôi chú trọng phát hiện ở truyện

ngắn mà cả ở tiểu thuyết. Trên báo Trung lập, số 6364/1931, khi giới thiệu

tiểu thuyết Người vợ hiền (Nguyễn Thới Xuyên), ông đã cảm nhận:

“Trong gia đình mỗi người có một cảnh. Nhiều khi mình đọc sách, thấy

sống thực. Như vậy, có thể nhận thấy Phan Khôi đã rất đề cao tính chân thực

có cảnh giống mường tượng như cảnh mình, hay là chỉ một chấm một

109

nét giống mường tượng như cảnh mình, cũng đủ khiến cho mình cảm

động. Huống chi cái cảnh trong bổn tiểu thuyết này là cảnh người đời

thường gặp, làm cho kẻ đọc phải cảm động là phải.

Như vậy nhờ tác giả khéo tả.

Thật, bổn tiểu thuyết nầy không cốt ở chuyện hay, mà cốt ở lời văn tả

thấu được cái tâm sự của người trong truyện, cũng là cái tâm sự của

người thế gian thường mang lấy” [8, tr 275].

Rõ ràng theo Phan Khôi, cái hay, cái cảm động của tiểu thuyết Người

vợ hiền vì sử dụng chất liệu đời sống “cảnh người đời thường gặp” và nghệ

thuật miêu tả tâm lí nhân vật “thấu được cái tâm sự của người trong truyện,

cũng là tâm sự thế gian thường mang lấy” chứ không phải là ở cốt truyện. Bên

cạnh đó ông cũng đánh giá cao tiểu thuyết hay ở những chỗ “không tả”, tả cái

“làm thinh”, tức là chỉ tả những tâm sự nội tâm nhân vật. Và “làm thinh ấy là

không tả, mà tả”. Như vậy, cái mà Phan Khôi chú trọng là sự khác lạ trong

mô tả, phân tích tâm lí nhân vật, một biểu hiện của lối viết hiện đại.

Trong một cảm nhận khác khi đọc tiểu tuyết Cay đắng mùi đời của Hồ

Biểu Chánh (đăng trên Phụ nữ tân văn, số 84/1931), Phan Khôi đã nhấn mạnh

giá trị hiện thực mà tác phẩm đã có là: “Một bộ tiểu thuyết vẽ ra nhân tình thế

cố, nhất là sự khốn nạn của kẻ nghèo, thật là có ý vị thâm trầm lắm...”[8, tr

61] Cái sự khốn nạn của kẻ nghèo mà Phan Khôi đề cập chính là biểu hiện

Và trong một bài giới thiệu khác về tiểu thuyết Một cô lưu lạc đời này

của Trần Thiện Thành đăng trên Trung lập (số 6468/1931), Phan Khôi lại

nhận thấy sự ảnh hưởng của tiểu thuyết đối với xã hội. Giá trị nội dung mà nó

truyền đạt có tác động rất lớn đến nhận thức và văn hóa của người đọc. Tác

phẩm Một cô lưu lạc đời này được ông cho là hay bởi nó có sức phản ánh

hay nói khác đi có dấu hiệu tả chân trong một tác phẩm.

110

hiện thực và giúp đấu tranh với những bất ổn trong xã hội.

Tiếp cận với tiểu thuyết luân lý Người vợ hiền của Hồ Biểu Chánh,

Phan Khôi không phủ nhận cách viết mang tính giáo huấn của tác phẩm này

mà còn cho rằng nội dung giáo huấn ấy không quá nặng nề, có giá trị phổ quát

“hiệp với nhơn tình”. Do vậy, ông nhận ra cái hay ở tác phẩm Người vợ hiền

ở chỗ “giảng luân lý luôn mà không làm cho người ta khó chịu, cái luân lý nó

hiệp với chơn tình” [8, tr 277].

Qua những ý kiến trên, Phan Khôi đã gián tiếp đặt vấn đề “tiểu thuyết

như thế nào là hay?”. Tiểu thuyết hay phải là tiểu thuyết tả thực, đi theo

đường hướng vị nhân sinh. Như vậy, theo Phan Khôi tả thực hay giá trị hiện

thực là một vấn đề hết sức quan trọng của tiểu thuyết. Bên cạnh đó ông cũng

coi trọng đến lối văn đẹp, ý tưởng mới và biết cách tả được thế giới tâm tư,

tình cảm của con người.

Và xuất phát từ cơ sở lí luận này trên phương diện thực hành sáng tác

Phan Khôi cũng đã hướng đến bám sát vấn đề tả thực. Qua hai truyện ngắn

Hoạn hải ba đào (Sóng gió bể hoạn), Mộng trung mộng (Mộng trong giấc

mộng) và cuốn tiểu thuyết Trở vỏ lửa ra, Phan Khôi đã chú trọng đến một số

nội dung xã hội để tái hiện khá chân thực vấn đề về nho học và sự lựa chọn

hướng sống; phản ánh tình cảnh của lớp nho sĩ cuối mùa; chỉ ra những hủ tục

cùng số phận bị tước đoạt mọi quyền lợi chính đáng của người phụ nữ.

Phong tạp chí (số 15 và 18 năm 1918) với khoảng 5000 chữ. Mỗi câu chuyện

là mỗi cảnh đời. Nếu Hoạn hải ba đào là dòng hồi ức, quá khứ, hiện tại đan

cài như là nỗi suy tư về những gì đã và đang diễn ra với một nhà nho trong xã

hội phong kiến suy tàn, thì Mộng trung mộng là giấc mơ quan lộ không

thành, từ đầu là mơ cho tới lúc nhắm mắt cũng chỉ là mơ. Những gì trong

Truyện ngắn Hoạn hải ba đào và Mộng trung mộng đăng trên Nam

mong muốn, trong mơ ước đầy kỳ vọng công danh của người cha đối với đứa

111

con trai của mình đến cuối đời chỉ là mong muốn ước mơ. Việc chọn một tình

huống nổi cộm trong xã hội đương thời để miêu tả (nhằm mục đích phê phán)

đã đem đến cho truyện ngắn của Phan Khôi chất hiện thực.

Một nét mới nữa của hai truyện ngắn này là đã phần nào thoát được lối

trần thuật tuyến tính truyền thống. Hoạn hải ba đào được mở đầu bằng cuộc

gặp gỡ vô tình của “khách” với một người – đó là vị quan không gặp thời thế,

ở cùng quán trọ, sau đó họ cùng đi trên một chuyến xe vào Nam. Sử dụng lối

trần thuật dịch chuyển ngôi của người kể chuyện, Hoạn hải ba đào tạo nên sự

thay đổi cho điểm nhìn trần thuật. Sự thay đổi này làm cho người đọc có cảm

giác nôn nao vì luôn thắc thỏm để tìm ra câu trả lời cho những băn khoăn của

mình. Và gần như toàn bộ câu chuyện chỉ là hồi ức được kể lại của vị quan

chứ không phải là thuât sự việc xảy ra theo trật tự tuyến tính. Nghĩa là, tác giả

không kể lại câu chuyện mà để nhân vật trần thuật tự kể lại con đường hoạn lộ

thăng trầm. Chính cách trần thuật gián tiếp này góp phần làm cho trạng thái

tâm lý của nhân vật được bộc lộ một cách kín đáo, hợp lý; đồng thời thể hiện

được tính khách quan của câu chuyện. Trong văn học truyền thống, câu

chuyện thường được kể theo kiểu gián cách, khách quan; người trần thuật vô

hình nhưng tường tận mọi sự kiện, tình tiết. Kiểu trần thuật “thượng đế” hay

“toàn tri” này đã không tồn tại trong truyện ngắn Phan Khôi. Người trần thuật

trong truyện ngắn của Phan Khôi là nhân vật xưng tôi, can dự vào một phần

người nghe câu chuyện từ nhân vật chính kể lại. Tức là Hoạn hải ba đào

được viết theo hai tầng trần thuật, với nhân vật tôi (đồng thời đóng vai trò

người dẫn chuyện) vì thế không biết gì hơn độc giả, mà thành một độc giả nên

bị tước bỏ vai trò toàn năng. Cách viết này khá hiện đại, thể hiện sự thay đổi

tư tưởng thẩm mĩ của Phan Khôi.

câu chuyện nhưng không phải là nhân vật chính mà là người chứng kiến,

Tuy nhiên Phan Khôi vẫn để lời kể của nhân vật bị chen ngang bởi

112

những dẫn dắt kiểu: “Người cha nói đây, hỏi là ai thì người kể chuyện chẳng

rõ...” [68, tr 290], “Bây giờ tôi kể thêm cho đủ...” [68, tr 290], “Độc giả chắc

không đến nỗi nóng ruột muốn biết cái gia đình cuồng nhiệt này sẽ kết cục ra

làm sao chứ gì? Số là phải căn cứ vào sự việc mà chép để đáp ứng nỗi mong

mỏi của các vị, cho nên kể đến đây, tác giả bỗng nẩy ra một ý tưởng kỳ lạ

không thể làm im được... [68, tr 299]. Đây chính là những rơi rớt của lối dẫn

giải ở liệt truyện. Dư âm của lối viết truyền thống vẫn còn tồn tại ở Phan

Khôi, Ngô Tất Tố đã tránh được mặc dù cả hai ông đều là nhà cựu học. Có thể

so sánh với Lều chõng của Ngô Tất Tố với hai truyện ngắn trên của Phan

Khôi để nhận thấy rằng: cùng đề cập đến vấn đề khoa cử phong kiến nhưng

Ngô Tất Tố đã đi xa hơn, thành công hơn Phan Khôi khi đã lột tả đến tận

cùng hiện thực xã hội và có những trang viết thật sinh động, đặc sắc bằng

ngôi kể chuyện hoàn toàn thoát khỏi lối kể “toàn tri”.

Thêm nữa, có lẽ vì sở trường của Phan Khôi là viết báo nên khi chuyển

sang viết truyện ông đã quá tỉ mỉ, chi tiết khi mô tả sự kiện và nhân vật. Đặc

biệt chân dung nhân vật được ông khắc họa đơn điệu, kém sinh động. Thậm

chí đôi khi trong Hoạn hải ba đào ông còn có những giải thích vụng về thừa

thãi kiểu như: “Ngài ấy là ai? Khách không kể họ tên ngài mà để ẩn. Khách là

người nào? Là tôi, người viết tiểu thuyết” [68, tr 326]. Những đoạn chuyển

thoại còn cứng nhắc và vụng kiểu “Khách nói...”, “Ngài cười...”, “Ngài

Cùng thời điểm này trên Nam phong tạp chí cũng đã tổ chức cuộc thi

sáng tác theo hướng học hỏi phương Tây. Hàng loạt đoản thiên tiểu thuyết

như Chuyện ông lý Chắm, Chuyện một tối tân hôn (Nguyễn Bá Học), Sống

đáp...”. Đây lại là điểm không thành công của Phan Khôi.

chết mặc bay (Phạm Duy Tốn), Một cánh hoa chìm (Nguyễn Văn Cơ), Ôi!

Thiếu niên (Tam Lang Vũ Đình Chí), Tình xưa (Nguyễn Tiến Lãng), Truyện

cô Phụng (Đoàn Ngọc Bích),... xuất hiện chủ yếu xoay quang chủ đề luân lí

113

xã hội, hướng ý nghĩa phơi bày sự suy đồi của đạo đức phong hóa, các tệ

đoan, phi luân phi nghĩa. Qua lăng kính của các các tác giả này, xã hội đương

thời với những vận động nghịch chiều trước sự tan vỡ của văn hóa truyền

thống đã được phản ánh một cách sắc nét, trung thực. Đây là đóng góp và nét

mới của tiểu thuyết Nam phong so với văn xuôi truyền thống. Dù vậy cũng

“chưa tác giả nào có khả năng đi sâu... vào đời sống cùng khổ, bất hạnh của

nhân dân lao động bấy giờ để phản ánh, và tố cáo những sự áp bức nặng nề”

[160, tr 291]. Trong đối sánh này cho thấy Phan Khôi cũng như các cây bút

trên Nam phong đều chưa thể đi đến tận cùng chiều sâu khi mô tả hiện thực

nhưng tác phẩm của họ đã đặt mầm móng đầu tiên báo hiệu sự ra đời của chủ

nghĩa hiện thực. Đồng thời họ còn là những người có công xây dựng một thể

loại văn học mới – đoản thiên tiểu thuyết, “xứng đáng là những cây bút có

“chỗ đứng riêng” trong lịch trình sơ khởi của dòng văn học hiện thực nước

nhà” [160, tr 285].

Tiếp theo, Trở vỏ lửa ra cũng được xem là sự cố gắng thực hiện quan

niệm về tiểu thuyết của Phan Khôi và tiếp nối mạch chủ đề về nữ quyền đã

từng được đề cập, thu hút sự quan tâm của đông đảo độc giả trên các báo

Thần chung, Trung lập, đặc biệt là Phụ nữ tân văn nhưng năm 1929-1931.

Phan Khôi viết Trở vỏ lửa ra (1939) trong bối cảnh tiểu thuyết hiện đại

Việt Nam đã có một nền tảng khá vững chắc. Về tư tưởng, tác phẩm đã cho

cấp tiến. Ông quan tâm nhiều đến vấn đề học tập và quyền tự do sinh hoạt của

phụ nữ và đề cao vai trò của họ trên bình diện xã hội. Ở khía cạnh này, tuy

chưa thể hiện được sự vượt trội so với tiểu thuyết Tố Tâm của giai đoạn trước

và các tác phẩm nở rộ đương thời của Tự lực văn đoàn như Nửa chừng xuân,

thấy cái nhìn mới mẻ về người phụ nữ trong xã hội hiện đại của một nhà nho

Đoạn tuyệt, Bướm trắng... nhưng Trở vỏ lửa ra cũng có những đóng góp

nhất định vào xu hướng đả phá thành trì phong kiến lạc hậu và phần nào thực

114

hành hóa quan niệm của Phan Khôi rằng tiểu thuyết cần hướng đến sự chân

thực của cuộc sống, không tô vẽ và chuyển tải được câu chuyện về nhân tình

thế thái.

Ngoài vấn đề quyền bình đẳng giới, đấu tranh cho nữ quyền, Trở vỏ

lửa ra còn phản ánh một hiện thực phổ biến của xã hội lúc bấy giờ đó là sự

thối nát của hệ thống quan lại địa phương, nạn ăn hối lộ của quan tham An

Nam. Những vấn đề này hiện ra khá sinh động, chân thực. Ông kết luận:

“Làm quan, ăn nhờ chỉ có những vụ kiện chia gia tài, mà bảo xử mau thôi thì

còn làm quan gì nữa” [72, tr 130]. Hình ảnh những người nông dân ngu muội,

luôn tự ru ngủ mình bằng phép thắng lợi tinh thần cũng được phản ánh chân

thực qua nhân vật cửu Thưởng. Trong tranh chấp tài sản với Nghi, cửu

Thưởng có suy nghĩ rằng: “tao thà cho quan ăn chứ không thí cho con chó ấy

một xu nhỏ” [72, tr 129]... Những nội dung được xem là thành công đáng ghi

nhận này của Trở vỏ lửa ra cho thấy trên phương diện tư tưởng, Phan Khôi tỏ

rõ lập trường đấu tranh kiên định của một nhà nho duy tân.

Ngoài ra, Trở vỏ lửa ra còn là cuốn tiểu thuyết xã hội giàu tính phong

tục. Phong tục này tồn tại ở miền Trung Việt Nam thời phong kiến. Nhà có

đàn bà sinh nở, người ta buộc một que củi đun dở một đầu với lá ráy treo

ngay ngõ ra vào trong vòng một tháng. Nếu sinh con trai thì đầu que củi đó

được quay vào trong còn sinh con gái thì trở đầu que ra ngoài. Việc trở vỏ lửa

có đàn bà đẻ nhằm tránh cữ cho trẻ, đặc biệt là những người có tang vận xung

khắc không lui tới làm ảnh hưởng đến đứa trẻ. Nhưng, qua tục này cũng còn

thể hiện rõ quan niệm phân biệt: nam nội tộc, nữ ngoại tộc.

Bên cạnh đó ngôn ngữ sử dụng trong cuốn tiểu thuyết giản dị, đậm chất

khẩu ngữ và mang sắc thái đặc trưng vùng miền. Đây là một đóng góp đáng

ra ngoài hay hướng vào trong nhằm thông báo cho mọi người biết trong nhà

chú ý ở Phan Khôi. Vũ Ngọc Phan cũng đã nhận thấy: “Từ cái nhan đề Trở vỏ

115

lửa ra cho đến những cách gọi: Phán Thục gái, Phán Thục trai, Cửu Thưởng

trai, Cửu Thưởng gái; rồi những chữ: chỗi dậy, bãi hãi, la lối, sử giặc, hai

hàng lệ nhểu xuống, mắng xối bự mặt, đỏ chạch cặp con mắt, thêm trội, nóc

chính, nóc phụ, giã lã, băng bộ sang thăm, thấy tắt hút nói cù cưa, bỏ trầm

trây, sấn sướt, nói chằm bẵm, vân vân. Dùng những chữ như thế để thuật lại

một chuyện xảy ra ở nam Trung kỳ, không những vừa thích hợp, lại còn làm

giàu cho tiếng Việt Nam nữa” [112, tr 247].

Như vậy, nhìn lại chặng đường làm báo, viết văn của Phan Khôi cho

thấy ông là một trong những cây bút góp phần đưa mô hình tự sự theo định

hướng tả thực, dù chỉ thành công trên phương diện đề xuất lý thuyết.

4.2. Xu hướng luận đề trong văn xuôi tự sự của Phan Khôi

4.2.1. Khái niệm “tiểu thuyết luận đề” và thực tế văn xuôi Việt Nam

Về khái niệm tiểu thuyết luận đề (thesis novel) có rất nhiều cách hiểu

khác nhau, thậm chí trái ngược nhau. “Encryclopedia Britannica” không dùng

khái niệm tiểu thuyết luận đề mà chỉ nhắc đến tiểu thuyết giáo huấn (didactic

novel), tức tiểu thuyết tuyên truyền (propagandist novel); Doãn Quốc Sỹ thì

xếp tiểu thuyết luận đề nằm trong loại tiểu thuyết giáo huấn; Còn giáo sư

Susan Rubin Suleiman khẳng định có tiểu thuyết luận đề và phân biệt với tiểu

thuyết chính trị, tiểu thuyết xã hội, tiểu thuyết dấn thân” [29, tr 139]. Lại có ý

kiến cho rằng không thể xác định được nội hàm của khái niệm tiểu thuyết

tiểu luận Viết và đọc tiểu thuyết đã đưa ra định nghĩa: “Viết luận đề tiểu

thuyết nghĩa là viết tiểu thuyết để nêu lên một lý thuyết, để tán dương tuyên

truyền một cái gì mà tác giả cho là đẹp, để đả đảo một cái gì tác giả cho là xấu

xa” [29, tr 141]. Bên cạnh đó còn có cho quan niệm rằng tiểu thuyết luận đề

“là loại tiểu thuyết luận bàn về một vấn đề xã hội, chính trị hay tôn giáo theo

luận đề bởi vì tác phẩm nào mà chẳng có luận đề [29, tr 140]... Nhất Linh qua

mục đích giáo huấn và có thể là cấp tiến. Dường như nó được sắp đặt để

116

hướng sự quan tâm của mọi người vào những khiếm khuyết của một xã hội”

[205, tr 722]. Tiểu thuyết vô sản, kịch luận đề hay các tác phẩm không tưởng

thuộc dạng này, như Thời gian khổ của Charles Dickens, Túp lều bác Tôm

của Harriet Beecher Stowe, hay Chùm nho nổi giận của John Steinbeck...

Qua tổng hợp các ý kiến chúng tôi thống nhất với cách hiểu: “Tiểu

thuyết luận đề là những tác phẩm được viết ra nhằm khẳng định một luận đề

dường như có sẵn, một ý đồ tư tưởng về triết lý nhân sinh. Toàn bộ tác phẩm

tập trung vào định hướng luận đề, từ cốt truyện, nhân vật cho đến các chi tiết”

[29, tr 140].

Và như vậy có thể nhận thấy luận đề là một hình thức viết của cả hai

truyền thống văn chương Đông Tây. Ngay từ thế kỷ XVI, văn học Việt Nam

đã xuất hiện tác phẩm luận đề viết bằng chữ Hán như một số truyện trong

Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ. Do tính chất tải đạo, nói chí nên luận đề

được cài đặt trực tiếp trong phát ngôn nhân vật chính. Ở một số truyện như

Câu chuyện ở đền Hùng Vương, Câu chuyện đối đáp của người tiều phu

núi Na¸ Chuyện bữa tiệc đêm ở Đà giang,... Nguyễn Dữ không quan tâm

lắm đến nhiệm vụ ghi lại một cách trung thành các câu chuyện lịch sử mà chỉ

muốn mượn lịch sử như một cái cớ để đề cập đến vấn đề thời sự đương thời.

Đây là biểu hiện của tính luận đề. Ví như lời phê phán của người tiều phu núi

Na (một danh sĩ ẩn dật ở núi Nưa, Thanh Hóa) phê phán Hán Thương trong

bước đến thị thành, mình không đến cung đình, nhưng vẫn thường được nghe

tiếng ông vua bây giờ là người như thế nào. Ông ấy thường dối trá, tính nhiều

tham dục, đem hết sức dân để dựng cung Kim Âu, dốc cạn của kho để mở phố

Hoa Nhai, hao phí gấm là, vung vãi châu ngọc, dùng vàng như cỏ rác, tiêu

tiền như đất bùn, hình ngục có của đút lót là xong, quan chức có tiền mua là

Câu chuyện đối đáp của người tiều phu núi Na có đoạn: “Ta tuy chân không

được, kẻ dâng lời ngay thì giết, kẻ nói điều nịnh thì thương… Vậy mà các kẻ

117

đình thần trên dưới theo hùa, trước sau nối vết. Nay ta nương náu vết ở chốn

núi rừng, lo lảng tránh đi chẳng được, há lại còn xắn tay áo mà lỗi nữa ư? Ta

không thể đem hòn ngọc Côn Sơn cho nó cùng cháy trong ngọn lửa Côn Sơn

được”. Ở đây Nguyễn Dữ gắn câu chuyện vào một thời điểm lịch sử nhất định

nhưng chẳng qua đó chỉ là cái cớ để nói bóng gió về vấn đề đương thời. Lời

phê phán của người tiều phu núi Na muốn ám chỉ rằng: theo Hồ Quý Ly thì sẽ

nguy khốn với họ Hồ. Nhưng lời nói trên không đơn giản chỉ để phê phán

vương triều Mạc và hôn quân nhà Hồ mà còn được đề cập như là hình ảnh

khái quát của giới cầm quyền hủ bại của xã hội phong kiến nói chung [29, tr

144 -145].

Đến đầu thế kỷ XX, Phan Bội Châu được xem là tác giả của tiểu thuyết

luận đề với tác phẩm Trùng Quang tâm sử. Luận đề lúc này được lồng ghép

trong lời kêu gọi đồng bào nổi dậy làm cách mạng của nhóm nghĩa quân trong

tác phẩm, cũng như trong toàn bộ nội dung tư tưởng mà Trùng Quang tâm sử

muốn hướng đến. Đây là kiểu luận đề mang tính truyền thống phương Đông.

Sang những năm 1930, luận đề được xem là một hình thức nổi trội của

tiểu thuyết Tự lực văn đoàn. Những vấn đề chống lễ giáo phong kiến, đấu

tranh tự do hôn nhân, đòi quyền bình đẳng cho phụ nữ... xuất hiện một cách

hệ thống trong tiểu thuyết của Nhất Linh, Khái Hưng, Hoàng Đạo. Luận đề

xuất hiện trong các tác phẩm như Đoạn tuyệt, Lạnh lùng, Hai vẻ đẹp (Nhất

phương Tây. Điểm phân biệt giữa hai lối viết luận đề này là Đạo, Lý, Tâm,

Chí của truyền thống đã được thay thế bằng các vấn đề của xã hội hiện đại.

Linh), Con đường sáng (Hoàng Đạo)... là hình thức luận đề theo lối viết

4.2.2. Luận đề trong tác phẩm tự sự của Phan Khôi

Với thực tế của tác phẩm luận đề như vậy thì các tự sự của Phan Khôi

chính là sự kết hợp của cả truyền thống và hiện đại hay nói cách khác là cả

Đông và Tây. Những vấn đề được Phan Khôi hết sức quan tâm và đã thể hiện

118

rất rõ lập trường của mình trên nhiều bài báo có tính châm ngòi và tạo hiệu ứng

mạnh mẽ là: công kích, đả phá Nho giáo, ủng hộ tư tưởng bình đẳng giới, đấu

tranh bền bỉ cho quyền của người dân, đặc biệt là quyền tự do, dân chủ tiếp tục

được đề cập như là mạch nối về tư tưởng trong văn xuôi tự sự của ông.

Hoạn hải ba đào, Mộng trung mộng là hai truyện ngắn đề cập đến những

câu chuyện quan lộ và khoa cử. Tính luận đề được thể hiện ngay từ tên tác phẩm,

qua lời nhân vật, lời tác giả và bộc lộ ngay trong cách tổ chức cốt truyện.

Tiêu đề Mộng trung mộng đã đề cập thẳng đến giấc mộng khoa cử kéo

lê dai dẳng chưa thể thoát ra được của người Việt. Giấc mộng không thành

của người cha về con đường lợi danh khoa cử của đứa con là giấc mộng riêng

trong giấc mộng chung của một thế hệ sĩ tử lúc Nho học suy tàn. Tương tự

với Hoạn hải ba đào, bức tranh quan trường hỗn độn với hàng loạt những tệ

nạn cùng cuộc đời chìm nổi sóng gió của quan lại phong kiến Việt Nam lúc

bầy giờ cũng đã được bộc lộ ngay từ tên tác phẩm.

Chân dung nhân vật ở hai truyện ngắn này cũng thuộc dạng nhân vật

luận đề. Nhân vật vị quan hưu (trong Hoạn hải ba đào) đại diện kiểu quan

Nho thời biến loạn. Hai cha con (trong Mộng trung mộng) lại có dáng dấp

của lớp sĩ tử thời Nho mạt.

Ngoài ra, tác giả còn mượn lời nhân vật để bộ lộ quan điểm và làm phát

ngôn tư tưởng cho mình khi không đồng tình với chế độ khoa cử lạc hậu và

độ thực dân phong kiến. Điều này thể hiện rõ qua là lời người cha trong

mong muốn tố cáo, phơi bày sự trì đọng, bế tắc của tầng lớp quan lại dưới chế

Mộng trung mộng tâm sự với con: “Cha nghe khoa cử nay đã là cái học vô

dụng, Trong thi cử, chuyện lấy đỗ hay đánh hỏng đặc biệt thiếu công minh.

Con mà thi hai khoa không đạt thì cha chẳng biết cái cán cân công lý nằm ở

đâu. Học chữ Tây rất có ích. Phái tân học gọi là lấy chữ Tây làm con đường

mở mang tiến hóa” [68, tr 291]. Rõ ràng tác giả đã ngầm chỉ trích lối học cũ

119

đã lỗi thời và cổ động cho phong trào tân học.

Đặc biệt với tiểu thuyết Trở vỏ lửa ra tính luận đề thể hiện khá rõ nét

từ chủ đề tư tưởng cho đến xây dựng hình tượng nhân vật. Thông qua việc

xây dựng hình tượng nhân vật Trần Thị Nghi (đại diện cho phát ngôn nữ

quyền) và Cửu Thưởng (đại diện cho chế độ nam quyền), Phan Khôi muốn

kêu gọi sự đấu tranh nhằm “chống lại những quan niệm lỗi thời đối với phụ

nữ, chống lại những thói hư tật xấu của quan lại, chống lại thứ lệ làng hủ

lậu...” [36, tr 509].

Gồm có 15 chương, Trở vỏ lửa ra xoay quanh cuộc đời cô nữ sinh

Trần Thị Nghi, con gái út của ông bà Bá Giám một gia đình cự phú đất Qui

Nhơn. Vì không có con trai nên ông bà Giám đã lập tự cho đứa cháu nông dân

vô học, tham lam trong họ là Trần Công Thưởng. Khi ông bà Giám qua đời,

vì muốn chiếm toàn bộ gia tài, đồng thời với suy nghĩ cổ hủ, Cửu Thưởng đã

không cho Nghi đi học và tìm mọi cách ép gả chồng cho Nghi càng sớm càng

tốt để đỡ tốn kém tiền bạc. Với quyết tâm phải thực hiện bằng được mong

muốn của mình cùng sự giúp sức âm thầm của nhiều người, Nghi tiếp tục

được đi học ban tú tài. Khó khăn về tiền bạc và đối diện với những mưu mô

của Cửu Thưởng, Nghi đã quá vất vả, uất ức mà qua đời để lại cái gia tài đang

tranh chấp, trở thành món mồi béo bở cho bọn quan lại địa phương đục khoét.

Có thể nhận thấy hai nhân vật chính là Trần Thị Nghi và Trần Cửu Thưởng

nhưng lại gần như không được Phan Khôi dành cho việc miêu tả ngoại hình,

tâm lý. Chân dung của họ thiếu hẳn sự sinh động của đời sống cá thể. Rõ ràng

Phan Khôi đã dựng lên cuộc đời của Nghi trong Trở vỏ lửa ra với ý hướng cổ

súy nữ quyền rất rõ. Ông đã lồng ghép, cài vào lời nói để nhân vật trong

truyện làm phát ngôn cho quan điểm của mình. Cụ thể như lời của bà giáo khi

tuy mang những đặc tính khá tiêu biểu cho những kiểu người trong xã hội

nói với Nghi: “Chị phải biết chị là nạn nhân của xã hội An Nam hàng ngàn

120

năm nay. Cái chế độ ấy đã không coi đàn bà con gái chúng ta ra gì, cho nên

chị mới phải ở vào cái tình cảnh đáng thương như thế này” [72, tr 26]. Bà còn

cho rằng: “Người ta ai cũng có quyền tự do cầu trí thức, mà anh của chị toan

cướp cái quyền ấy của chị thì chị phải dành lại chớ sao?” [72, tr 49]. Hay là

đoạn Nghi bộc bạch quan điểm của mình với bà giáo: “Con thường đọc báo,

thấy có tờ báo cổ động nữ quyền. Họ làm vậy là hữu tâm với phụ nữ chúng ta

lắm. Nhưng đàn bà con gái không học, hay là học mà chỉ học đến ấu học tiểu

học thì còn mong bình quyền với ai? Bởi vậy con muốn học lên nữa, sức theo

được tới đâu thì theo tới đó” [72, tr 85]. Có thể thấy rõ, ý thức về nữ quyền

luận chi phối mạnh mẽ tác phẩm. Hình tượng người phụ nữ tân thời với hệ tư

tưởng mới mẻ chống lại lễ giáo phong kiến thủ cựu đã trở thành hình tượng

trung tâm mang tính luận đề của Trở vỏ lửa ra.

Như vậy có thể khẳng định cuốn tiểu thuyết này là sự tiếp nối mạch

nguồn tư tưởng từ trước đó đã được Phan Khôi thể hiện khá quyết liệt trên

hàng loạt các báo, đặc biệt là Phụ nữ tân văn, tạo hiệu ứng xã hội mạnh mẽ

như: “Lại nói về vấn đề văn học với nữ tánh”, “Văn học của phụ nữ nước Tàu

về thời kỳ toàn thạnh”, “Chữ trinh: cái tiết với cái nết”, “Luận về phụ nữ tự

sát”, “Đàn bà cũng làm nên quốc sự”, “Cái vấn đề nữ lưu giáo dục”... Nhìn lại

“loạt bài viết này đã đi theo một sự nhất quán với tư tưởng tiến bộ. Phan Khôi

đã xuất phát từ việc xác định phụ nữ như một đối tượng được thể hiện trong

của hoạt động sáng tạo nghệ thuật. Đó là cách thức góp phần thúc đẩy quá

trình dân chủ hóa đời sống xã hội và văn chương. Hiện đại hóa xã hội gắn với

hiện đại hóa văn học trở thành ý thức thường trực nơi ngòi bút Phan Khôi.

Với tư duy khái quát mang tính lí luận, Phan Khôi đã tạo tiền đề cho sự xác

lập cơ sở lý thuyết nữ quyền trong văn học Việt Nam hiện đại” [137, tr 325].

văn chương để đi đến việc khẳng định vai trò của họ với tư cách là chủ thể

Khi cuốn tiểu thuyết ra đời, Kiều Thanh Quế đã nhận ngay ra cái: “Mỹ ý đối

121

với phụ nữ, ông Phan Khôi không phải chỉ mới có tiểu thuyết Trỏ vỏ lửa ra,

mà đã có trước kia trên mặt tờ Phụ nữ tân văn của ông Nguyễn Đức Nhuận,

do ông chủ trương rồi. Hay nói khác: Trở vỏ lửa ra sở dĩ có, là nhớ cái mỹ ý

trước kia còn sót lại”. Nghĩa là vấn đề đấu tranh nữ quyền trên báo chí giờ lại

được cài đặt trong cuốn tiểu thuyết này [145, tr 35-36].

Tuy nhiên có lẽ do quá chú trọng đến tính luận đề (tập trung bênh vực

phụ nữ, đả kích xã hội nam quyền, quan lại thối nát) Phan Khôi ít dụng công

về mặt nghệ thuật khi viết Trở vỏ lửa ra. Ông kết hợp kể chuyện và miêu tả

song lại sa vào tranh luận, rào đón, giảng giải hơn là sáng tạo văn chương.

Ông dàn trải sự việc, vào vai hướng dẫn người đọc... Ông thường chen lời của

mình vào từng tình huống và lạm dụng thuyết giáo, dường như sợ họ không

hiểu nội dung mà mình truyền tải, kiểu như “người đọc nên thấy chỗ này

trước nhất” [72, tr 103]; hoặc khi đăng bức thư cũng lo người đọc không hiểu

nên Phan Khôi viết thêm vào “thư như thế này:” [72, tr 67]; khi nhân vật đối

thoại, ông cũng xen cả lời mình vào lời nhân vật: “Thật, con đã nói, anh con

chỉ biết có đồng tiền! Con lấy làm khổ tâm quá! Và thêm: Con lấy làm khổ

tâm quá! Con một ý, anh con một ý, con không biết làm thế nào nói lọt tai anh

con được” [72, tr 25]; thậm chí khi đã tạo được cao trào cho câu chuyện Phan

Khôi cũng làm cho người đọc hẫng hụt bằng lời kết chủ quan từ phía người

kể. Cụ thể là khi Cửu Thưởng có âm mưu bắt Nghi quay lại nhà, người đọc

tức đưa ra kết luận: “Ai dè vỏ quýt dày có móng tay nhọn! Bà giáo, thầy của

Nghi một người đàn bà túc trí đa mưu lắm. Nhờ có bà, Nghi mới gỡ mình ra

khỏi mọi sự lúng túng khó khăn”[72, tr 45]. Những lúc như thế này, Phan

Khôi đã tước bỏ hết của người đọc vai trò “đồng sáng tạo”, những tình tiết

vừa mới mở ra ông đã thắt lại bằng kết luận của mình. Sẽ không còn sức hấp

đang rất hồi hộp theo dõi xem tình tiết tiếp theo như thế nào thì Phan Khôi lập

dẫn vẫy gọi người đọc khi mà ngay từ rất sớm ông đã báo cho người đọc về

122

đoạn kết của câu chuyện: “...từ đây về sau, cái điều uất ức trong lòng Nghi

một ngày thêm một ngày, uất ức mà không làm gì tốt, rồi sanh ra bệnh tật để

đến nỗi thiệt thòi cái đời xuân xanh” [72, tr 80] và kiểu dự báo cái kết này cứ

lặp đi lặp lại nhiều lần: “Cô Nghi đau bệnh bất trị, chỉ còn có cái chết, nay

mai người ta sẽ đưa cô đến mộ địa Bạch Mai” [72, tr 130]; “yêu trước khi gần

chết thì cũng như ăn uống trước khi gần chết chứ có lạ gì” [72, tr 133]; “Giá

như Nghi cứ làm như một người thường, như hàng triệu cô thiếu nữ khác,

nghe lời Cửu Thưởng mà thôi học đi, lấy chồng đi, thì có lẽ ngày nay chẳng

những cô còn sống mà gia đình sầm uất, con cái sum sê, trở nên một bà nhà

giàu sang trọng chứ có đâu đến nỗi công bất thành, danh bất toại, rút cục chỉ

một mảnh hồn thơ phiêu bạt ở đất người?” [72, tr 103]. Kiểu chưa đọc đã biết

này trong Trở vỏ lửa ra không còn làm cho người đọc cảm thấy hấp dẫn,

thậm chí không có cơ hội tiếp nhận theo quan điểm của mình mà luôn bị tác

giả dẫn dắt, thuyết giáo. Về khía cạnh này, Vũ Ngọc Phan đã đưa ra nhận

định: “Tiểu thuyết Tàu – tôi nói tiểu thuyết cổ - tuy có cái đặc sắc của Á Đông

trong cách bố trí và phô diễn tính tình, nhưng lại có những tật rất lớn là cứ

thỉnh thoảng tác giả lại hướng về độc giả, dùng lời khôn khéo để dặn dò, hay

dùng lời nghị luận để giảng giải. Đó là một sự thấp kém về nghệ thuật... Tôi

nhận thấy Trở vỏ lửa ra có cái tật ấy” [112, tr 272]. Nhận xét mặc dù có hơi

“nặng” song thật chính xác. Phan Khôi xuất thân từ Hán học và suốt chặng

hưởng kiểu tiểu thuyết chương hồi Trung Quốc. Kiểu tư duy ưa tranh biện,

nặng về lí luận có thể mang lại sự thành công cho ông khi viết báo nhưng lại

làm cho tiểu thuyết khô cứng, thiếu sinh động. Phan Khôi ngoài những đóng

góp như là một phát ngôn tiếp nối chủ đề nữ quyền đã đề cập trên những trang

chính luận thì có lẽ đã thất bại với cuốn tiểu thuyết đầu tay này.

đường sáng tác ông luôn có ý thức duy tân, song dù cố gắng ông vẫn bị ảnh

Cùng thể hiện cái nhìn nhân đạo về người phụ nữ nhưng Tây phương

123

mỹ nhơn của Huỳnh Thị Bảo Hòa đã thành công hơn Phan Khôi khi tinh tế

hơn khi đề cập vấn đề bình quyền, bình đẳng giải phóng phụ nữ khỏi những

thành kiến xã hội đang tồn tại như bức tường thành ở Việt Nam những năm

đầu thế kỷ. Nàng Bạch Lan hiện ra trong tác phẩm này đầy đặn hơn Nghi với

số phận và cá tính riêng. Tính luận đề cũng được cài đặt mềm mại hơn trong

phản ánh sâu sắc hiện thực xã hội.

4.3. Trạng thái lưỡng lự trong văn xuôi tự sự của Phan Khôi

“Lưỡng lự” là khái niệm xuất hiện trong tiểu luận của Milan Kundera

khi ông bàn về sự lưỡng lự và hiền minh của tiểu thuyết [215]. Theo Kundera,

do tiểu thuyết hút hết dưỡng chất của các thể loại khác và mở ra những biên

giới khác cho nên nó không có một kết luận duy nhất mà tạo ra nhiều kết

luận. Đây chính là sự hiền minh của tiểu thuyết đồng thời cũng là tính lưỡng

lự của tiểu thuyết. Tuy nhiên, khái niệm lưỡng lự chúng tôi dùng trong luận

án hoàn toàn khác với Milan Kundera khi ông nói về bản chất tiểu thuyết hiện

đại. Lưỡng lự trong trường hợp được đề cập ở đây là một khái niệm thể hiện

bản chất của giai đoạn giao thời của hệ hình văn chương Việt Nam đầu thế kỷ

XX và cũng là khái niệm liên quan đến trạng thái của xã hội thực dân của

Việt Nam lúc đó. Vốn là một khái niệm tâm lý học, lưỡng lự (hay “nước đôi”,

“mập mờ”, “dùng dằng” - ambivalence) chỉ sự dao động giữa cái mong muốn

hoặc yêu thích và cái không mong muốn/không yêu thích, khi được dùng cho

thù. Theo các nhà lý thuyết thực dân, thực dân luôn muốn tạo ra sự phục tùng,

muốn thuộc địa tái hiện lại những các thói quen, giá trị thực dân nhưng đồng

thời cũng không muốn có một bản sao chính xác của mình; trong khi đó, chủ

thể thuộc địa vừa có thể chống đối để tồn tại (thích ứng) lại vừa có thể chuyển

hóa các giá trị thực dân. Đây là những lý do khiến cho mọi diễn ngôn thuộc

diễn ngôn thời thuộc địa, khái niệm này được bổ sung những nét nghĩa đặc

124

địa đều mang tính lưỡng lự.

Lưỡng lự cũng là biểu hiện của trạng thái “lực bất tòng tâm”, mà

trường hợp Phan Khôi là sự níu kéo của truyền thống giáo dục, truyền thống

văn chương và trải nghiệm cá nhân. Nghĩa là sự lưỡng lự ở Phan Khôi có thể

hình dung như nỗ lực vượt qua lực kéo của cái cũ để hướng theo cái mới,

song nỗ lực ấy không phải lúc nào cũng thành công.

Như vậy, sự lưỡng lự ở đây có ba phạm vi thể hiện chính, là: lưỡng lự

tâm lý (giữa thích và không thích), lưỡng lự hoàn cảnh xã hội (cụ thể ở đây là

bối cảnh thực dân của Việt Nam đầu thế kỷ XX), và lưỡng lự của cá nhân

người cầm bút (lực bất tòng tâm). Ở ba phạm vi này hoàn cảnh có sự chi phối

rất quan trọng thể hiện ở hai vấn đề: di sản văn xuôi truyền thống (quan niệm

văn tự, mô hình tự sự) và bối cảnh thực dân hóa (văn chương phương Tây

được nhu nhập như thế nào, người viết chủ động cổ súy lối viết nào, giá trị

văn hóa mà thực dân Pháp muốn áp đặt là gì, trí thức Việt đối diện và vượt

qua tình trạng đó ra sao. Họ đưa ra các phương án xây dựng nền văn hóa dân

tộc như thế nào).

Khi viết truyện ngắn, tiểu thuyết (văn xuôi tự sự) Phan Khôi vấp phải

một thực tế Việt Nam là một đất nước không mạnh về truyền thống tự sự, đặc

biệt là tự sự bằng ngôn ngữ dân tộc, mà chỉ có truyền thống thơ ca. Chính vì

vậy, những mở đường của truyện ngắn, tiểu thuyết bao giờ cũng gặp nhiều lực

Ngoài ra, ở giai đoạn văn học đầu thế kỷ XX, các nước châu Á, bao gồm cả

Việt Nam, đều diễn ra quá trình chuyển đổi mô hình viết, từ cũ sang cái mới,

trong đó tả thực là một vấn đề quan trọng.

Ở trường hợp Phan Khôi còn một lưu ý khác hơn ở sự lưỡng lự giữa

Phan Khôi với tư cách một nhà lý luận và Phan Khôi với tư cách một nhà

cản hơn từ phía truyền thống mà Phan Khôi không nằm ngoài qui luật này.

sáng tác. Một bên là ưu thế vượt trội của tư duy logic, một bên là ưu thế vượt

125

trội của tư duy hư cấu. Nhiều lúc tư duy logic lấn át tư duy hư cấu nên mặc dù

có tư tưởng tiến bộ nhưng Phan Khôi chưa có được sự bay bổng, tinh tế như

một nhà văn khác. Hơn nữa với tư duy thiên về logic mà trải nghiệm viết chủ

yếu ở báo (từ 1918 đến 1939) – tức là từ khi viết truyện ngắn đến tiểu thuyết

Phan Khôi không có bất cứ thử nghiệm nào khác về văn xuôi tự sự mà mọi

tinh lực ông đều dành cho kiểu viết báo nên sự không thành công của Trở vỏ

lửa ra là vấn đề rất dễ lí giải. Mặc dù tư tưởng rất mới nhưng khả năng

chuyển tải tư tưởng ấy vào thực tế thực hành sáng tác văn chương Phan Khôi

đã gần như thất bại. Trong trường hợp này Phan Khôi có chỗ tương đồng với

Nguyễn Bá Học. Nhà văn đầu thế kỷ XX ở miền Bắc này cũng có tư tưởng rất

mới nhưng ở thực tế sáng tác của ông thì vẫn thiên về kiểu cũ. Tương tự, ở

miền Nam Hồ Biểu Chánh được xem là người tiên phong trong lĩnh vực tiểu

thuyết nhưng tác phẩm của ông đã không vượt qua được kiểu tải đạo, nói chí

truyền thống.

Ngoài ra còn nhận thấy, sự lưỡng lự, nhập nhằng trong văn học Việt

Nam giai đoạn này bởi có sự chuyển giao thế hệ giữa trí thức cũ và mới. Hệ

quả tất yếu là hai thế hệ này với vốn tri thức đặc thù của mình sẽ có những

chuyển động về phía hiện đại khác nhau, và sẽ bao gồm cả việc bộc lộ những

hạn chế của vốn tri thức ấy. Với ý thức xây dựng nền “quốc văn” – tức tinh

thần dân tộc trong văn hóa, văn chương bị giới hạn trong sự kiểm duyệt của

cắt đứt Việt Nam với truyền thống, cộng với tuyên truyền văn minh phương

Tây đã tạo nên tâm lý phản kháng cho những người cầm bút mang tính dân

tộc mà một trong những biểu hiện này là quay trở lại với di sản truyền thống.

Bên cạnh đó, sự kiểm duyệt thực dân cũng buộc người cầm bút phải mượn

những ẩn dụ hoặc né tránh khi đề cập đến những vấn đề xã hội, lịch sử. Tất cả

thực dân. Cụ thể đó là chính sách giáo dục, xuất bản của thực dân luôn muốn

những vấn đề này dẫn đến tình trạng lưỡng lự trong văn học giai đoạn này.

126

Trần Đình Hượu đã mô tả rất chính xác trạng thái này như sau:

“Vấn đề cứu nước, vấn đề duy tân đều được đặt ra từ thế kỷ trước

nhưng đến nay phải nhìn nhận lại trong hoàn cảnh mới. Không những

kinh nghiệm thất bại vừa qua cho phép rút ra nhiều bài học mà những

điều tai nghe mắt thấy ở thời này cũng cung cấp cho người ta những

điều kiện để thấy vấn đề thiết thân hơn. Phải có dân đứng lên mới cứu

nước được, phải giàu mạnh mới đánh Pháp được, phải duy tân mới độc

lập được. Nhưng với vốn trí thức và cách suy nghĩ của nhà Nho, lúc đó

chưa ai có điều kiện để hiểu cái mới – mà mỗi người nhìn một cách –

thật sâu xa. Theo cái mới là theo con đường của của kẻ thù (...). Duy

tân là cả một cuộc đấu tranh giữa cái cũ và cái mới, giữa cái dân tộc và

phản dân tộc. Ở hai thái độ cực đoan đó là những quan niệm mơ hồ yêu

nước và duy tân ở những phạm vi khác nhau, ở mức độ khác nhau. Kết

hợp yêu nước và duy tân trong thực tế không phải là chuyện dễ dàng và

xác định cái mới nào là cái cần cho dân tộc cũng không phải một lúc là

làm ngay được. Nhưng cái mới vẫn cứ thâm nhập bất chấp mọi sự lựa

chọn. Nó chi phối suy nghĩ, tác động đến tâm lý, xã hội” [61, tr 15-16].

Phân tích như vậy để nhận thấy rằng tình trạng lưỡng lự trong các tác

phẩm tự sự của Phan Khôi là một hiện tượng không nằm ngoài quy luật hiện

đại hóa của văn học dân tộc. Can dự vào quá trình hiện đại hóa văn học chủ

phương tiện quan trọng để ông bày tỏ, thể hiện quan điểm của mình là báo chí

và ông rất thành công khi làm sôi động không khí học thuật nước ta những

năm đầu thế kỷ XX một cách tích cực nhất. Trong lĩnh vực sáng tác văn

chương, đặc biệt là thể loại tự sự Phan Khôi không thành công khi chưa thật

sự hiện đại được sáng tác của mình. Tư tưởng tiến bộ của ông đã thể hiện khá

yếu với tư cách là một nhà lý luận, nghiên cứu, khảo cứu, phê bình văn học,

rõ từ tôn chỉ đến cách tiếp cận và nhìn nhận mọi vấn đề song vốn xuất thân là

127

một nhà cựu học nên Phan Khôi không thể đi xa hơn trong sáng tác văn học,

đặc biệt ở hình thức tự sự. Sự dùng dằng hay nói chính xác hơn là tình trạng

lưỡng lự này ở Phan Khôi cũng là câu chuyện của tự sự Việt Nam trong

khoảng ba mươi năm đầu thế kỷ XX, với ba vấn đề chính: văn tự (sử dụng

chữ Hán, Nôm hay Quốc ngữ), diễn đạt bằng thơ hay văn xuôi và lối viết (đề

cao luân lý, nêu gương hay là hướng đến tả chân, tả thực). Chúng tôi sẽ tuần

tự lý giải những vấn đề này dưới đây.

4.3.1. Văn xuôi tự sự Phan Khôi trong bước chuyển từ chữ Hán sang

chữ Quốc ngữ

Như chúng ta đã biết, sự biến chuyển sâu sắc trên mọi phương diện

theo hướng hiện đại hóa của xã hội Việt Nam những năm đầu thế kỷ XX một

mặt là sản phẩm của quá trình thực dân hóa, nhưng mặt khác cũng bắt nguồn

từ phong trào duy tân được dấy lên bởi các nhà nho yêu nước, cấp tiến. Cánh

cửa nối Việt Nam với thế giới bên ngoài được khai mở sau một thời kỳ tồn tại

trong tình trạng đóng kín, biệt lập. Từ những kênh giao lưu văn hóa khác

nhau, tiếp tục ảnh hưởng mạnh mẽ văn học Trung Quốc qua con đường tân

thư, thông qua nền giáo dục Pháp – Việt, đặc biệt là sự lụi tàn của những thiết

chế giáo dục – khoa cử Hán học vào khoảng 1915-1919, chữ Quốc ngữ đã

dần thay thế chữ Hán và Nôm trở thành văn tự phổ biến trong phạm vi toàn xã

hội. Thông qua con đường Tân thư, các học giả Việt Nam đã sớm tiếp cận

Thích đưa ra để cách mạng văn học, có hai điểm trực tiếp liên quan đến vấn

đề ngôn ngữ là: không dùng đối ngẫu, không ngại dùng tiếng thông tục [89, tr

107]. Lương Khải Siêu cũng đã đề xướng “ngữ văn hợp nhất” [109, tr 198].

Như vậy, tự sự Việt Nam muốn hướng đến hiện đại cũng cần phải giải quyết

sự bất nhất này. Một thực tế không thể phủ nhận trong truyền thống tự sự của

quan điểm từ các học giả Trung Hoa. Trong tám điểm mà từ năm 1916 Hồ

văn học Việt là luôn tồn tại một khoảng cách rất lớn giữa ngôn ngữ bác học

128

và ngôn ngữ sinh hoạt đời thường. Truyện ngắn và tiểu thuyết trung đại Việt

đều viết bằng hình thức văn ngôn chữ Hán. Một số truyện thơ tuy viết bằng

chữ Nôm nhưng hình thức thơ đã không thuận lợi cho việc sử dụng khẩu ngữ

và thuật kể những chi tiết của đời sống thường ngày. Chỉ từ khi chữ quốc ngữ

được chọn dùng và với ảnh hưởng của văn học phương Tây, tự sự Việt mới có

những chuyển biến rõ rệt.

Tuy nhiên, cũng chính vì những tiền đề văn hóa xã hội như đã nêu trên,

quá trình hiện đại hóa văn học ở nước ta đã diễn ra khá đặc biệt. Mất chủ

quyền dân tộc nên người Việt luôn trong tâm thế phản kháng, chống đỡ lại

nguy cơ bị đồng hóa. Thời gian đầu tình trạng đồng hiện các văn tự: Hán,

Nôm, Quốc ngữ, Pháp là đặc điểm nổi bật của văn tự tại Việt Nam. Đặc biệt

văn học Hán Nôm lúc bấy giờ vẫn tồn tại, phát triển bởi các nhà chí sĩ yêu

nước. “Đồng thời, diễn ra một quá trình tổng duyệt lại những giá trị cũ, đưa

các thể loại văn học truyền thống ra thử thách trước những vấn đề lớn của thời

đại mới. Sau những cuộc tổng duyệt đó, một bộ phận thể loại và kinh nghiệm

sáng tác văn học sẽ được chuyển dịch vào trung tâm nền văn học mới bằng

Quốc ngữ. Từ một phía khác có thể hình thành một nền văn học hiện đại, đặt

ra một vấn đề xây dựng một mô hình thể loại văn học mới, vượt thoát khỏi

“văn thơ phú lục” truyền thống mà phương án tối ưu là “mô phỏng văn học

phương Tây”... Ngoài ra, quá trình chuyển từ sáng tác bằng chữ Hán sang chữ

phải trải qua một quá trình tập làm văn bằng tiếng mẹ đẻ hay nói cách khác,

đặt nền móng xây dựng một thứ ngôn ngữ văn học mới bằng tiếng Việt” [88,

tr 150]. Và trong trào lưu này đã hiện diện mọi thế hệ cựu học như Nguyễn

Văn Ngọc, Phan Kế Bính, Nguyễn Đỗ Mục, Phan Khôi.

Xét về văn tự, hai truyện ngắn Hoạn hải ba đào và Mộng trung mộng

Quốc ngữ bắt buộc tất cả những nhóm nhà văn, dù tân học hay cựu học đều

được in trên Nam Phong tạp chí vào năm 1918 viết bằng chữ Hán. Trước đó

129

tại miền Nam, truyện ngắn Thầy Lazaro Phiền của Nguyễn Trọng Quản ra

mắt vào năm 1887, rồi năm 1907 – quãng hơn 10 năm trước khi Phan Khôi

viết hai đoản thiên tiểu thuyết chữ Hán trên – cũng lại xuất hiện những tác

phẩm tự sự viết bằng chữ quốc ngữ trên Nông cổ mín đàm như Thất kim ngư

của Trần Chánh Chiếu (bút danh Lâm Mai Các), hoặc tiểu thuyết phóng tác

Tiền căn báo hậu của Trần Chánh Chiếu (bút danh Kỳ Lân) trên Lục tỉnh tân

văn. Vậy câu hỏi đặt ra là vì sao cả hai truyện ngắn này đều được Phan Khôi

viết bằng chữ Hán? Như đã biết, mặc dù là một nhà cựu học, thông thạo chữ

Hán nhưng Phan Khôi đã rất nhạy bén với cái mới. Từ rất sớm Phan Khôi đã

chú trọng đến vấn đề dùng chữ quốc ngữ trong đời sống và cả trong sáng tác

(bởi tính giản tiện, sinh động của thứ chữ này) và cổ súy cho vấn đề sử dụng

chữ quốc ngữ trong đời sống lẫn trong sáng tác. Như vậy, việc Phan Khôi

chọn chữ Hán - loại văn tự đã mất dần vai trò trong đời sống xã hội lúc bấy

giờ - hẳn đã nằm trong chủ ý của ông.

Tại thời điểm mới ra đời Nam Phong tạp chí dành riêng một mảng cho

chữ Hán (phần chữ nho) bởi vì thực tế xã hội vẫn còn tồn tại một bộ phận trí

thức cựu học đang loay hoay với hai vấn đề chọn con đường sống và ứng xử.

Theo “Nguồn văn bản chữ Hán trên Nam Phong tạp chí”, Phạm Văn Khoái đã

đưa ra thông tin Nam Phong tạp chí (1917-1934), gồm có ba phần: Phần quốc

ngữ - Phần chữ nho – Phụ trương pháp ngữ. Phần chữ nho này cùng với phần

nho học cũ”, “tổ thuật học vấn Thái tây mà không quên cái quốc túy trong

nước”[69, tr 4].

Rõ ràng phần chữ nho này vì vậy chắc chắn “dành cho giới thượng lưu

trí thức, trong đó chủ yếu là trí thức đã biết chữ nho, hy vọng qua chữ nho mà

thâu thái văn minh hiện đại” [69, tr 5]. Khả năng Phan Khôi đã rất nhạy bén khi

quốc ngữ phấn đấu cho mục đích “gây lấy một nền học mới để thay vào cái

tận dụng mục báo chữ nho này để đăng tải hai truyện ngắn viết về chủ đề quan

130

lộ và thi cử (vấn đề mang tính thời sự) nhắm thẳng vào bộ phận cựu học để

thức tỉnh họ. Ông muốn dùng chính chữ viết của các nhà nho thủ cựu để công

kích trực tiếp vào họ, buộc họ phải nhìn nhận thực tế, buộc họ phải thức tỉnh.

Ngoài lí do chủ yếu này, một nghi vấn khác cũng khá hợp lý giải thích

việc Phan Khôi dùng chữ Hán để viết hai truyện ngắn trên là bởi ông tự ý

thức về sự hạn chế của mình trong năng lực ngôn ngữ khi sáng tác văn xuôi.

Thời điểm này chữ quốc ngữ đã được sử dụng và ngày càng đi vào sâu rộng ở

mọi phương diện đời sống xã hội, đặc biệt ở lĩnh vực hành chính, sự vụ và

báo chí. Phan Khôi đã rất ý thức và cổ súy cho việc dùng thứ chữ giản tiện

này. Tuy nhiên, trong giai đoạn chập chững của chữ quốc ngữ, sử dụng để

sáng tạo văn chương là một việc làm không hề dễ dàng với Phan Khôi. Báo

chí với bản chất thông tin đời sống thường ngày nên việc sử dụng chữ quốc

ngữ để viết có thể thuận lợi hơn trong địa hạt văn chương (một thể loại đòi

hỏi ngôn ngữ phải đạt đến trình độ nghệ thuật điêu luyện và không có kinh

nghiệm truyền thống ở Việt Nam). Phan Khôi rõ ràng không vượt qua hạn chế

của bản thân trong việc sử dụng loại chữ viết còn khá mới này để sáng tác,

đặc biệt ở thể loại văn xuôi. Khảo sát kỹ giai đoạn này cho thấy ở lĩnh vực

báo chí Phan Khôi cũng vẫn còn dùng chữ Hán đề viết bài luận là “Luận Nam

quốc bách niên lai học thuật chi biến thiên cập hiện thời chi cải lương phương

phá”" (Bàn về các biến thiên của học thuật nước nhà trong một trăm năm nay

trên Nam phong (tháng 11 và 12 năm 1917). Thông tin này do Phan Nam

Sinh, con trai thứ của Phan Khôi cung cấp. Ông đã công bố trên trang cá nhân

của mình toàn bộ bài báo viết bằng chữ Hán của Phan Khôi. Qua tìm hiểu

chúng tôi được biết Phan Nam Sinh đang ấp ủ dịch toàn bộ bài luận này ra

chữ quốc ngữ song do dự vì sợ không chuyển tải được hết ý tứ của cha mình.

và phương pháp cải lương hiện thời), tất thảy 7 chương, đăng liền hai số 5, 6

Rõ ràng qua dữ liệu này cho thấy thời điểm lúc bấy giờ, chữ Hán là chữ viết

131

Phan Khôi còn thuận tay. Như vậy, xét về phương diện văn tự dùng để sáng

tác truyện ngắn, Phan Khôi không có đóng góp đáng kể trong tiến hình hiện

đại hóa văn học nhưng không thể phủ nhận sự tác động về mặt xã hội của

Hoạn hải ba đào và Mộng trung mộng cũng như giá trị minh chứng cho tinh

thần canh tân của Phan Khôi. Đánh giá vị trí của hai truyện ngắn này trong

bối cảnh văn học lúc bấy giờ, Vu Gia cho rằng: “Nếu là một sự so sánh nhỏ

(dĩ nhiên không chính xác lắm), hai truyện ngắn của Phan Khôi đăng trên

Nam Phong, và những truyện ngắn được viết bằng chữ quốc ngữ của Phạm

Duy Tốn, Nguyễn Bá Học, Nguyễn Văn Cơ, Hoàng Ngọc Phách, Đoàn Ngọc

Bích, Mân Châu, v..v.. thì về nhiều mặt, truyện của Phan Khôi không thua

sút, thậm chí còn lấn lướt nhiều” [36, tr 376]. Để nhận định của mình thêm

phần thuyết phục, Vu Gia còn trưng ra bằng chứng khi đưa ra khảo sát rằng:

210 số báo trong 17 năm tồn tại, Nam Phong đăng tải 34 truyện ngắn bằng

chữ quốc ngữ. Truyện ngắn đầu tiên là Sống chết mặc bay của Phạm Duy

Tốn – Nam Phong số 18, tháng 12-1918, cùng số với truyện ngắn thứ hai viết

bằng chữ Hán của Phan Khôi: Mộng trung mộng.

Mặt khác, qua câu chuyện về văn tự này cũng cho thấy Phan Khôi đã

bộc lộ sự lưỡng lự trong bước chuyển từ chữ Hán sang chữ quốc ngữ để sáng

tác văn xuôi tự sự. Sự lưỡng lự này được nhìn nhận ở cả hai khả năng: (1) chủ

động (dùng chữ Hán để trực tiếp tác động đến bộ phận cựu học) hoặc (2) bị

Phan Khôi, và cũng có thể là nhiều người cầm bút cựu học lúc bấy giờ.

Nhận định trên càng có cơ sở để khẳng định hơn khi Phan Khôi cho in

tiểu thuyết Trở vỏ lửa ra viết bằng chữ quốc ngữ ở Phổ thông bán nguyệt

san, năm 1939. Từ năm 1918 (khi viết hai truyện ngắn bằng chữ Hán) đến

1939 (khi viết tiểu thuyết) là một bước chuyển dài của một trí thức duy tân

động (vì chưa có khả năng sáng tác văn xuôi tự sự bằng chữ quốc ngữ) của

Phan Khôi trong việc hoàn thiện và nâng cao kỹ năng sử dụng chữ quốc ngữ

132

để sáng tác văn xuôi tự sự. Chính vì vậy, nhìn từ góc độ ngôn ngữ, Trở vỏ lửa

ra rất thành công khi sử dụng hàng loạt ngôn từ đậm chất địa phương, giúp

độc giả có thêm những hiểu biết thú vị về văn hóa miền Nam Trung Bộ, cụ

thể là vùng đất Quảng Nam, như: “Rồi đây tao không thí cho một đồng nhỏ

nào hết thì có ăn ngữ cứt người ta” [72, tr 32]; “Muốn làm thẳng tới cho lại

gan” [72, tr 41]; “Nó trám miệng họ rồi, bây giờ họ tính mần ngơ đi” [72, tr

124].... Như vậy, từ việc sử dụng chữ Hán để viết truyện ngắn chuyển sang sử

dụng chữ quốc ngữ để viết tiểu thuyết, Phan Khôi đã khẳng định được sự

trưởng thành về ngôn ngữ của mình trong lĩnh vực sáng tác. Trở vỏ lửa ra

mặc dù chưa thật sự thành công, thậm chí có thể nói là cuốn tiểu thuyết thất

bại của Phan Khôi song sự độc đáo, hiện đại trong cách sử dụng ngôn ngữ

trần thuật là điều không thể phủ nhận.

Ngoài ra, chúng ta có thể quan sát ý thức rèn tập ngôn ngữ và những nỗ

lực thực hành cùng sự trưởng thành trong cách viết chữ quốc ngữ của Phan

Khôi qua công việc dịch thuật. Hàng loạt tác phẩm của Lỗ Tấn đã được Phan

Khôi công phu chuyển dịch sang quốc ngữ. Hơn nữa, ngoài vốn Hán văn căn

bản, Phan Khôi còn tự bổ sung thêm Pháp văn. Sự phối hợp hai thứ tiếng này

trong lĩnh vực dịch thuật đã làm nên thành công khi ông nhận dịch cuốn Kinh

thánh cho Hội Tin Lành vào những năm (từ 1920-1925). Vu Gia cho rằng “khi

dịch Kinh thánh, Phan Khôi dịch thẳng từ bản chữ Pháp và có tham khảo thêm

khảo sát hàng loạt những câu kinh đã được dịch từ Phan Khôi, Vu Gia đã đi

đến nhận định: “ngay từ khi ra đời đến ngày nay, ai đã đọc qua đều thừa nhận,

bản dịch của những chương, những đoạn được dịch như...thơ” [72, tr 384].

Qua những phân tích trên cho thấy, Phan Khôi đã đạt được những

thành công nhất định trong việc sử dụng văn tự ở những hình thức tự sự. Điều

từ bản chữ Hán, chứ không phải ngược lại” [72, tr 381]. Điều đáng lưu ý là khi

khác biệt ở Phan Khôi nằm ngay ở vấn đề ông luôn ý thức rõ tính mục đích

133

khi sử dụng ngôn ngữ.

4.3.2. Văn xuôi tự sự của Phan Khôi trong sự lưỡng lự giữa tả thực

và luận đề

Trong thể loại văn xuôi tự sự, thành công đáng kể nhất ở Phan Khôi là

phản ánh khá chân xác hiện thực. Thậm chí hai truyện ngắn viết bằng chữ

Hán Hoạn hải ba đào và Mộng trung mộng tính luận đề thể hiện ngay trên

nhan đề và xét về mặt văn tự không có đóng góp đáng kể cho việc hiện đại

hóa văn xuôi như đã phân tích song nó mang lại ý nghĩa thời sự cao trong thời

điểm bấy giờ.

Hoạn hải ba đào viết về những chìm nổi có cả chút gì đó cay đắng,

nhục nhã của một ông quan Nho ở buổi Hán học thoái trào, ở một đất nước bị

mất chủ quyền. Qua Hoạn hải ba đào, hiện thực được phơi bày một cách rất

chân thực. Nó giúp người đọc hiểu thêm về thân phần người dân, kể cả những

bậc quan lại, “cha mẹ dân” của đất nước mất chủ quyền. Phơi bày bộ mặt thật

xã hội thực dân phong kiến nước ta lúc bấy giờ là: Dù là quan, dù làm việc

như thế nào nhưng quan công sứ đánh giá tốt là tốt, xấu là xấu; làm quan mà

liêm chính không vơ vét, cưỡng bức dân đen thì không thể giàu; làm quan mà

không cuốn lùi, bợ đỡ, quà cáp biếu xén quan trên thì khó lòng tại vị lâu dài;

làm quan mà hết lòng vì dân mà không biết lo cho quan trên thì thân bại danh

liệt... Đó là những hiện thực mà cho đến bây giờ vẫn còn nguyên giá trị đã

Cấu trúc cốt truyện tuy đơn giản, dễ đoán song được kể lại chủ yếu

trong dòng hồi ức của nhân vật chính nên ít nhiều thoát được kiểu kết cấu

tuyến tính truyền thống. Số phận đầy thăng trầm của một ông quan bất đắc chí

được khắc họa khá rõ nét như cuốn phim quay ngược qua những bộc bạch,

tâm sự của chính ông với vị khách tình cờ đi cùng nhau trên chuyến xe về

được Phan Khôi khắc họa khá thành công trong thiên truyện này.

Kinh. Kiểu cấu trúc này làm cho câu chuyện được phản ánh chân thực và tự

134

nhiên hơn. Tuy nhiên tính luận đề không chỉ thể hiện ở nhan đề như đã nêu

mà còn đan cài vào phát ngôn của nhân vật nên làm cho câu chuyện nhiều lúc

thiếu hẳn sự uyển chuyển, mang hơi hướng văn chính luận: “Có ông nọ trong

Kinh muốn tôi ở lại trong nhà dạy cậu con học chữ Hán. Trong lòng tôi nghĩ

rằng đời bấy giờ các nhà đại gia đều đua nhau theo Tây học, chẳng khác

người khát đến nơi có nước. Sinh mệnh của chữ Hán cơ hồ không còn dài”

[68, tr 311]; hoặc đoạn này: “Quan Tây nói, tôi nghe như vịt nghe sấm. Nhớ

lại hồi đỗ cử nhân, có người khuyên học tiếng Pháp, rốt cuộc tôi không thuận.

Hồi ấy do áp lực chung quanh. Nay nghĩ lại mới biết sai lầm thì đã muộn”

[68, tr 318]. Qua lời nhân vật, tác giả muốn truyền tải thông điệp mang tính

hiện thực về sự lỗi thời của nền cựu học. Đồng thời ngầm cổ súy cho tư tưởng

cần học hỏi tiếp thu cái mới, cái văn minh. Rõ ràng mô hình tự sự này có sự

dùng dằng giữa lối tả thực và luận đề.

Tương tự, truyện ngắn Mộng trung mộng cũng đã rất thành công trong

việc phản ánh thực trạng giáo dục và tâm lý khoa cử của người học ở xã hội

Việt Nam lúc bấy giờ. Truyện kể về một ước mơ cháy bỏng của người cha

trọc phú mong con mình được học hành đàng hoàng, thoát cảnh dốt nát hiển

vinh đỗ đạt. Người cha này tâm niệm đời người phú - quý luôn phải đi kèm

nhau thì mới trọn vẹn. Đời ông mới chỉ có phú mà chưa có quý cho nên ông

đã đặt hết kỳ vọng vào cậu con trai út, mong muốn nó học hành để đỗ đạt làm

út và cung phụng thầy đủ điều. Song năm lần bảy lượt thay thầy, cầu cạnh đủ

cách mà cậu con trai cũng không chút tiến bộ vẫn hết lần này đến lần khác

chẳng qua nỗi kỳ thi Hương. Tuy vậy, lòng tin của ông đối với cậu út vẫn

chưa giảm. Khi nghe con xin vào học trường Pháp – Việt ông tuy băn khoăn

cũng chiều theo ý con. Có điều thay vì đến trường, cậu út của ông chỉ biết ăn

quan mở mày, mở mặt dòng dõi. Ông đã rước thầy về dạy riêng cho cậu trai

chơi đàng điếm nên cậu cũng chẳng thể khá hơn. Và cho đến lúc chết, ông

135

cũng không biết rằng con ông chỉ giỏi món ăn chơi, không hề giỏi chữ. Đau

lòng hơn là ông cũng không hề biết những thầy giáo mà ông cho là tài giỏi chỉ

lừa để moi tiền ông. Những bài văn đều do họ làm chứ thực lực cậu út không

hề có chút tiến triển. Cuối đời, ông bán đất, bán ruộng để lo cho cậu út hàm

cửu phẩm văn giai nhưng rồi mộng cũng không thành. Cậu út dân đen vẫn

hoàn dân đen và giấc mộng của ông từ thuở ban đầu cho đến khi nhắm mắt

xuôi tay về với tổ tiên cũng chỉ là giấc mộng.

Như vậy trong Hoạn hải ba đào và Mộng trung mộng Phan Khôi đã

đan cài tính luận đề vào quá trình chuyển tải hiện thực. Nếu Hoạn hải ba đào

đặt ra vấn đề thân phận hèn mọn người dân, đặc biệt là quan lại trong xã hội

thuộc địa thì Mộng trung mộng lại xoáy vào vấn đề đả phá Nho giáo ở sự cản

trở sự tiến bộ xã hội, đặc biệt là phương diện giáo dục. Chúng ta cũng nhận ra

tính luận đề của hai truyện ngắn này với những quan điểm mà Phan Khôi đã

từng bộc lộ trong những bài nghị luận sắc sảo kéo theo nhiều cuộc tranh luận

nảy lửa trên báo giới về Quốc học, về Nho giáo.

Bên cạnh hai truyện ngắn này, sự lưỡng lự giữa tả thực và luận đề của

Phan Khôi cũng thể hiện rõ qua tiểu thuyết Trở vỏ lửa ra. Vào những năm

đầu thế kỷ XX khi mà tiểu thuyết Việt Nam nằm trong bước trung chuyển

sang một thời kỳ mới và nhiều nỗ lực hướng đến cách tân phù hợp với tâm

thức con người hiện đại, Phan Khôi cũng đã có những đóng góp nhất định từ

tiểu thuyết là phải diễn tả được cái thực của cuộc sống Trở vỏ lửa ra của Phan

Khôi đã thành công khi khắc họa cuộc đời bị chèn ép cho đến chết của một

thân phận phụ nữ dưới xã hội nam quyền, cường quyền cổ lậu. Số phận của

Nghi có sức ám ảnh và mang giá trị tố cáo xã hội sâu sắc.

Nhan đề Trở vỏ lửa ra mang dấu ấn của tiểu thuyết phong tục, gợi nhắc

thực tiễn sáng tác cũng như quan niệm mang tính lý thuyết. Với quan điểm

đến một tập tục lạc hậu của miền Nam Trung bộ: trọng nam khinh nữ. Phan

136

Khôi đã từng dẫn cho một câu trong bài khảo luận về ca dao, tục ngữ trên Phụ

nữ Tân văn, năm 1929 như sau: “Đẻ ra mà thấy là con gái một cái, là khinh

đứt đi rồi, cho nên: Con gái trở vỏ lửa ra/ Nữ sanh ngoại hướng”. Tuy vậy

toàn bộ nội dung của cuốn tiểu thuyết lại không chú trọng vào khảo cứu

phong tục, văn hóa như những tác phẩm viết về phong tục mà trực diện đấu

tranh cho nữ quyền. Điều này cho thấy sự lưỡng lự giữa tả thực và luận đề

của cuốn tiểu thuyết này đã xảy ra ở sự khác biệt giữa nhan đề Trở vỏ lửa ra

(mang tính hiện thực) với nội dung đấu tranh nữ quyền (mang tính luận đề).

Cấu trúc cốt truyện và ngôi kể trong Trở vỏ lửa ra cũng vẫn đi theo trật

tự tuyến tính truyền thống. Với mục đích muốn miêu tả thật chân xác hiện

thực song tác giả lại rơi vào tình trạng liệt kê tỉ mỉ quá mức cần thiết. Cụ thể

như đoạn này thay vì để cảm xúc tự bộc lộ thì tác giả sa đà kể lể: “Những tin

tức ấy làm cho Nghi sinh ra trăm mối ưu – phiền. Cô thương cha nhớ mẹ, tủi

thân phận mình mồ - côi, lại thương - hại cho chị dâu vì mình mà chịu khổ.

Một đôi khi nghĩ tới gia – tình, Nghi cũng có sinh lòng chán nản; nhưng nhờ

trời phó cho cái tính đằm và có nghị lực nên rồi lại mần ngơ đi được cả

chuyên tâm học tập” [72, tr 78-79]; hoặc “Nghi năm nay mười sáu mười bảy

tuổi rồi, không phải còn con nít như xưa; lại thêm học thức cũng trổi lên, có lẽ

nào chịu được sự áp chế vô lý của một người anh vốn không phải là anh mà

không chống chế lại? Cũng vì đó mà từ đây về sau, cái điều uất ức trong lòng

để đến nỗi thiệt thòi cái đời xuân xanh” [72, tr 80]. Đặc biệt, do quá chú trọng

phân tích, sa đà vào tranh biện kiểu báo chí, thậm chí cốt làm nổi bật luận đề

về đấu tranh bình đẳng giới mà Phan Khôi đã làm cho Trở vỏ lửa ra mất đi sự

đa thanh của thể loại tiểu thuyết. Có thể thấy rõ nhược điểm này ở nhiều tình

huống Phan Khôi đan xen vào tiểu thuyết những đoạn nghị luận, mặc dù khá

Nghi một ngày thêm một ngày; uất ức mà không làm gì tốt, rồi sanh ra bện tật

khúc chiết, sắc sảo xong lại không phù hợp như khi bàn về thân phận của

137

Nghi như: “Sinh trưởng trong một gia đình chuyên chế, trong một xã hội đầy

những chế độ bất bình và tàn khốc, duy có kẻ nào lành như con cừu, không

thích tự do như con lợn thì mới sống được yên thân; còn ai biết đau đớn mà

nhúc nhích, thấy ngột ngạt mà vùng vẫy, là người ấy sẽ thiệt thân, sẽ chết,

chết dưới sức phản động của cái chế độ ấy” [72, tr 80].

Nhân vật luận đề Nghi vừa đại diện phát ngôn cho tư tưởng nữ quyền

của Phan Khôi: phụ nữ phải được quyền tự do học tập, phải được quyền tự do

hôn nhân, vừa có sức khái quát hiện thực sâu sắc. Nghi đã vùng vẫy đến tuyệt

vọng đấu tranh cho quyền lợi ấy nhưng rồi nhận kết thúc bi thảm. Cái chết

của Nghi có sức tố cáo mạnh mẽ xã hội “trọng nam khinh nữ”. Tuy vậy, Nghi

vẫn có một cái gì đó thiếu sức ám ảnh bởi chưa được khai thác một cách tận

cùng tính cách. Phan Khôi đã xuất hiện để chú thích một cách thừa thãi ngay

cả khi nhân vật đang đối thoại làm cho người đọc có cảm giác bị hẫng và làm

cho nhân vật như kiểu chỉ là hình nộm đang chờ tác giả giật giây.

Chính vì thế, xét ở phương diện đóng góp cho sự hiện đại hóa tiểu

thuyết Việt Nam Phan Khôi không thể sánh được với một số nhà văn cựu học

cùng thời. Có thể lấy Ngô Tất Tố như là đối sánh để phân tích nhằm đánh giá

khách quan hơn những nỗ lực và đóng góp của Phan Khôi cho nền văn học

nước nhà. Cũng là con đẻ của chế độ Nho giáo, Ngô Tất Tố đỗ đầu khảo hạch

toàn tỉnh Bắc Ninh và cũng dấn thân vào con đường viết văn, làm báo và đã

vực báo chí, mặc dù Vũ Trọng Phụng đã nhận định rằng Ngô Tất Tố là “một

tay ngôn luận xuất sắc trong đám nhà Nho” song nếu xét đến yếu tố tạo sức

hút mạnh mẽ, giàu tính tranh biện và khả năng châm ngòi thì Phan Khôi có

khả năng hơn hẳn. Tất nhiên trong các cuộc tranh luận đình đám trên báo giới

những năm đầu thế kỷ XX như tranh luận về luân lý Truyện Kiều, về Quốc

để lại những thành công đáng ghi nhận, đặc biệt ở địa hạt văn xuôi. Trên lĩnh

học, về Nho giáo, về duy tâm và duy vật, về chế độ phong kiến Việt Nam, về

138

thơ cũ và thơ mới... đều có ít nhiều dính dáng đến cả hai ông. Tuy nhiên, Phan

Khôi đã thể hiện bản lĩnh của một ngôn luận bậc thầy bởi trong các cuộc tranh

luận nhiều vấn đề rất mới mẻ đã được ông nêu ra và giải quyết khá triệt để.

Song ở thể loại tự sự Phan Khôi lại không đạt được những thành công và

đóng góp đáng kể cho quá trình hiện đại hóa văn xuôi Việt Nam như Ngô Tất

Tố. Trở vỏ lửa ra của Phan Khôi được in trên Phổ thông nguyệt san năm

1939 trong khi năm 1937 Tắt đèn của Ngô Tất Tố cũng được báo Việt nữ in

toàn truyện. Như vậy xét về mặt thời gian Tắt đèn ra đời sớm hơn cả Trở vỏ

lửa ra nhưng đã đạt đến sự thành công trên nhiều phương diện. Tắt đèn nhận

được rất nhiều lời khen ngợi vì nội dung có tính khái quát về hiện thực sâu

sắc và nghệ thuật đạt đến trình độ điêu luyện của một tiểu thuyết gia, không

còn những biện giải khô khan của luân lý. Khả năng xây dựng tình huống,

phân tích tâm lý và nhân dựng nhân vật điển hình... đã làm cho Tắt đèn được

xếp vào hàng những tác phẩm xuất sắc nhất trong dòng văn hiện thực phê

phán nước ta giai đoạn 1930-1945.

Như vậy khi chọn Ngô Tất Tố như là một đối sánh với Phan Khôi sẽ

nhận ra sự khác nhau cơ bản của cây bút Nho học vốn đều xuất chúng và mẫn

cảm với thời cuộc. Vai trò của họ trong quá trình hiện đại hóa văn học nước ta

rất khác nhau. Nếu Ngô Tất Tố ở phương diện sáng tác văn học đã để lại

thành công khẳng định sự hiện đại ngay trong tác phẩm của mình thì Phan

Không thành công nhiều với những sáng tác từ thơ đến tự sự nhưng Phan

Khôi đã tác động một cách gián tiếp đến quá trình hiện đại hóa văn học.

Những bài tranh luận của Phan Khôi đã tạo cú hích lớn, dọn đường cho sự ra

đời những tác phẩm văn học xuất sắc những năm đầu thế kỷ XX. Điều này

càng cho thấy rõ sự canh tân về tư tưởng và thành công trong nghệ thuật đôi

Khôi lại đóng góp trên phương diện tác động về mặt ngôn luận trên báo chí.

139

khi không đồng hành cùng nhau. Phan Khôi cũng đã tự nhận thấy giới hạn

của mình rằng: “Tôi không phải là người viết được tiểu thuyết, nhưng tôi hay

đọc tiểu thuyết, nhất là tiểu thuyết đương thời đây” [8].

4.3.3. Tự sự của Phan Khôi trong bước chuyển từ kết cấu chương

hồi sang kết cấu tâm lý

Chúng ta đã quá quen thuộc với kết cấu chương hồi trong văn học

truyền thống. “Đặc điểm dễ nhận thấy của kiểu kết cấu này là cốt truyện theo

trình tự phát triển tự nhiên của thời gian, sự việc xảy ra tuần tự từ đầu đến

cuối và không bị đứt quãng; đặc biệt, cốt truyện thường được chia làm nhiều

chương (hồi), mỗi chương (hồi) gắn với một giai đoạn phát triển trọn vẹn nào

đó của cốt truyện, đồng thời đầu mỗi chương (hồi) bao giờ cũng có mấy câu

mang tính chất đề dẫn để tóm tắt nội dung của chương đó” [35, tr 145]. Ví

như trong Tam quốc diễn nghĩa (của La Quán Trung) ở hồi 28 có câu tóm

tắt: “Chém Sái Dương anh em giải nghi, Hội Cổ thành vua tôi tụ nghĩa”. Và

thường thì khi kể đến tính tiết gay cấn hấp dẫn nhất thì dừng lại với một câu

đưa đẩy mời mọc: “Muốn biết sự thể... ra sao, xin đợi hồi sau phân giải”. Một

sự khác biệt đáng lưu ý là nếu ở một tác phẩm có kết cấu chương hồi tính

cách nhân vật được khắc họa qua hành động, thì tác phẩm có kết cấu tâm lí

thường lấy quá trình vận động bên trong của nhân vật, những phản ứng tâm lí

của nhân vật đối với sự kiện và diễn biến tâm trạng nhân vật trong mỗi qua hệ

luận Bàn về tiểu thuyết đã chỉ ra những đặc điểm khác nhau về kết cấu tác

phẩm trong văn chương Tây phương với văn chương Trung Hoa, Việt Nam:

“Văn Tàu và văn ta là lối chép sử, việc gì cũng chép lần lượt từ đầu đến cuối,

cứ theo thứ tự trước sau, không gián đoạn một khúc nào, không đào ngược

một phần nào, như nói về một người thời phải kể hết lai lịch người ấy từ đời

với các nhân vật khác làm cơ sở để tổ chức tác phẩm. Phạm Quỳnh trong tiểu

ông đến đời cha, từ thuở nhỏ đến tuổi lớn, lần lượt như chép gia phả vậy. Lối

140

văn ấy là văn đường thẳng, cứ tuần tự mà lên, lần lần mà đến, không có li kỳ

xuất sắc được và cũng không khỏi cái buồn một giọng” [127, tr 7]. Văn đường

thẳng mà Phạm Quỳnh nhắc đến là cách tổ chức truyện theo trật tự thời gian

gian tuyến tính nhằm giúp tạo ra sự liền mạch cho các sự kiện, hành động

nhân vật từ đầu đến cuối song lại đơn điệu, không tạo sự bất ngờ, kịch tính

hấp dẫn.

Loại hình tự sự Việt Nam trong giai đoạn giao thời đã bắt đầu có những

bước chuyển theo lối viết mới khi tiếp xúc với văn hóa phương Tây. “Một

trong những hình thức mới mẻ so với văn xuôi giai đoạn trước đem đến trên

phương diện kết cấu cốt truyện là sự đảo lộn thời gian của sự kiện – tức là

nghệ thuật trần thuật không tuân theo trình tự diễn biến thời gian tuyến tính.

Các truyện này thường bắt đầu ở phần giữa hoặc phần kết thúc của câu

chuyện (cái được biểu đạt). Sự tái tạo lại trật tự nghệ thuật cho các sự kiện

trong cốt truyện là một đặc trưng của tư duy nghệ thuật hiện đại”[195, tr 801].

Đã có những nỗ lực cách tân để dịch chuyển từ lối viết truyền thống sang hiện

đại đã được thể hiện trong sáng tác của Đạm Phương nữ sử, Huỳnh Thị Bảo

Hòa, Phan Thị Bạch Vân, Phạm Duy Tốn, Hồ Biểu Chánh, Nguyễn Trọng

Quản...; song trong buổi đầu tiếp thu ảnh hưởng phương Tây, sự dùng dằng

giữa cái cũ và mới vẫn còn chi phối những người cầm bút.

Khảo sát trong sáng tác của Phan Khôi giai đoạn đầu thế kỷ, chúng tôi

nhận ra sự dùng dằng ở nghệ thuật trần thuật hay cụ thể hơn là ở kết cấu truyện.

Hoạn hải ba đào được kể trong dòng hồi ức với quá khứ, hiện tại đan

cài như nỗi suy tư về thực tại đắng cay của một nhà nho trong xã hội phong

kiến suy tàn. Chính cách tổ chức trần thuật này đã tạo nên sự thay đổi điểm

nhìn, luân phiên thay đổi ngôi kể. Bắt đầu từ người trần thuật: “Khách bèn

ngồi dậy lén dòm sang, trong bụng lấy làm lạ” [68, tr 307]. Và khi đã đưa độc

giả vào thế giới câu chuyện thì tác giả để nhân vật tôi làm nhiệm vụ tường

141

thuật trong dòng hồi ức của tôi: “Tôi nhớ hồi nhỏ theo thân phụ tôi vào Kinh,

đi bộ hàng mười lăm ngày qua sông Lam, leo trèo, bám víu, vô cùng vất vả”

[Mỹ Khanh, Nhớ cha tôi, tr 309]. Đến đây ta biết thân thế nhân vật. Lối kết

cấu vừa đóng vừa mở tạo sự cuốn hút cho truyện, đồng thời cho thấy Phan

Khôi đã cũng đã nỗ lực trong nghệ thuật tự sự. Tuy nhiên vẫn có nhiều chi tiết

thừa, cảm giác tác giả đã quá tỉ mỉ trong miêu tả nhân vật làm mất hứng thú

cho độc giả, kiểu: “Ông này quần áo xốc xếch, người cao to, râu tóc vểnh

ngược, đàng hoàng kiểu ông lớn” [68, tr 307]. Đến khi kết thúc truyện ông

như sợ người đọc không hiểu, nhầm lẫn nên dẫn giải thêm về lai lịch nhân vật

rằng: “Ngài ấy là ai? Khách không kể họ tên ngài ra mà để ẩn? Khách là

người nào? Là tôi, người viết tiểu thuyết” [68, tr 326]. Rõ ràng Phan Khôi vẫn

chưa thật sự thoát ra hẳn lối viết cũ. Hơn nữa do đặc điểm Hán văn nên từ ngữ

được sử dụng để viết truyện thường mang tính công thức. Ví như giữa các

đoạn thoại liên tục có những mẫu từ ngữ kết nối, kiểu: “khách nói…”, “khách

đáp…”, “Ngài lại hỏi…”, “Khách hỏi…”, “Ngài lạnh lùng đáp…”.

Tương tự, khi viết Mộng trung mộng Phan Khôi bắt đầu câu chuyện từ

hình ảnh trong quá khứ để đưa độc giả về một câu chuyện hiện tại ông đang

kể. Cách trần thuật này đã kích thích sự tò mò cho người đọc vì diễn biến câu

chuyện không chảy trôi theo dòng thời gian tuyến tính một cách đơn điệu mà

ít nhiều đã bị xáo trộn. Đặc biệt là kết cấu truyện cũng không kém độc đáo.

thực: “Cậu út của phú ông đến nay vẫn là dân đen”. Quả thật là mộng trong

mộng. Mộng ban đầu của phú ông cho tới lúc nhắm mắt cũng chỉ là mộng.

Nhưng bên cạnh những thành công như đã phân tích, Mộng trong mộng vẫn

chưa thoát được kiểu biện giải dài dòng không nên có của lối viết cũ như:

“Người cha nói đây, hỏi thì ai thì người kể chuyện chẳng rõ. Chỉ biết đó là

Mở đầu là giấc mơ – giấc mơ khoa cử, kết truyện là khép lại giấc mơ với hiện

người lấy của làm sức mạnh nên gọi là phú ông. Ký giả cũng theo đó mà gọi.

142

Gia thế ông đúng như ông đã thuật. Nỗi khổ tâm của ông, niềm ham muốn lớn

lao của ông, cứ dựa vào lời khuyên bảo con đủ biết” [68, tr 290], hay trong

một đoạn khác: “Độc giả chắc không đến nỗi nóng ruột muốn biết cái gia đình

cuồng nhiệt này sẽ kết cục ra làm sao chứ gì? Số là phải căn cứ vào sự việc

mà chép để đáp ứng nỗi trông mong của các vị, cho nên kể đến đây, tác giả

bỗng nẩy ra một ý tưởng kỳ lạ không thể làm in được. Vì thế xin không theo

phép làm văn thường tình, và cam chịu sai trái để dùng lời mềm mỏng giữ

cho được tính tự nhiên của câu chuyện” [68, tr 290]. Những giải thích này

làm cho câu chuyện mất tự nhiên và độc giả cũng ít nhiều không còn cảm

thấy hứng thú vì bị dẫn dắt kỹ lưỡng quá mức.

Trên phương diện tiểu thuyết, với Trỏ vỏ lửa ra Phan Khôi đã xây

dựng hình ảnh Trần Thị Nghi như là nhân vật phát ngôn cho tư tưởng nữ

quyền của ông. Nếu Nghi là một phụ nữ đáng thương bị xã hội chèn ép luôn

cố gắng vượt thoát thì Cửu Thưởng là hình ảnh của sự ngu muội, tham lam,

đớn hèn. Phan Khôi đã cố gắng khai thác diễn biến tâm lý nhân vật, đặc biệt

là diễn biến tâm lý nhân vật Nghi. Cô trong quá trình đấu tranh với người anh

họ gia trưởng là Cửu Thưởng tâm trạng có những dằng xé: lúc bực bội, lúc

tuyệt vọng, cũng giận dữ (bởi nhận ra sự tham lam, ích kỷ, coi thường phụ nữ

thái quá của anh) song cũng đôi thương hại, muốn làm hòa cho yên sự gia

đình (khi Cửu Thưởng nhận được lệnh quan triệu gặp...). Kiểu viết như thế

“Trong trát nói quan Công – sứ đòi có việc khẩn chứ không nói rõ việc

gì, thế mà Cửu Thưởng cứ đổ ám – xác cho bị đòi là vì việc của Nghi

để trách móc cô, cô cũng phải bấm bụng mà chịu. Đó chẳng nững vì sự

huy hiếp đã quen của một gia đình chuyên chế mà cũng do sự ức –

đoán trong trí Nghi khiến cô phải ngậm mồm. Nghi nhớ lại lúc từ - giã

này có lẽ trong tự sự truyền thống chưa được chú trọng:

bà giáo, bà giáo hứa sẽ can thiệp cho khi bị ngăn trở của gia đình; nay

143

có sự đòi hỏi này, có lẽ bởi bà giáo đã được tin mà lấy trường nhà

trường can thiệp. Nghĩ đến đó nên dù bị mắng rầy, Nghi cũng cứ làm

thinh mà chịu; lại thêm Cửu Thưởng lo sợ ngày đêm, thiếu điều mất cả,

máu mặt, thì Nghi lại động lòng trắc ẩn mà thương hại cho anh” [72, tr

18-19].

Đoạn bộc lộ tâm trạng này ở Nghi cũng giúp khắc họa chân thực một

Cửu Thưởng vừa tham lam vừa đớn hèn vì dốt nát, thất học. Vấn đề khai sáng

nhận thức tăm tối cho người dân nông thôn vì thế cũng là một nội dung được

đề cập trong tác phẩm, quyết liệt không kém.

Tuy nhiên, nhìn chung Trở vỏ lửa ra cơ bản vẫn được viết theo lối tự

sự truyền thống mà người kể chuyện - tác giả - ở vị thế người ngoài cuộc có

khả năng toàn tri, áp đặt cái nhìn chủ quan của nhà văn đối với độc giả. Phan

Khôi đã làm tổng đạo diễn và đẩy câu chuyện đi theo tuyến đường mà mình

đã định sẵn khiến cho người đọc mất đi sự thú thú hồi hộp khi bị tước đoạt

quyền cùng đồng sáng tạo. Ảnh hưởng chưa thể thoát ra từ tiểu thuyết chương

hồi làm cho Phan Khôi luôn rơi vào tình trạng hay giảng giải, dặn dò độc giả.

Thậm chí tác giả đã rất hăng hái tham gia tranh luận, rào đón giảng giải mà

quên mất vai trò của một người sáng tạo văn chương. Nhân vật truyện cũng vì

thế mà mờ nhạt bởi thiếu đi sự biến đổi, diễn biến đa dạng, phức tạp về mặt

tâm lý mà trở nên bị sắp đặt, dàn cảnh rất gượng gạo, khô cứng, thiếu sức

nhân vật truyện của mình bộc lộ trực tiếp theo lối trực ngôn báo chí mà không

giữ được vẻ khách quan của người kể chuyện. Vì ghét Cửu Thưởng nên ông

không giấu được thái độ khi miêu tả nhân vật này: “Cửu Thưởng gái vốn

không gian trá hiểm độc như chồng nàng... nàng không hay mình đã trở thành

kẻ đồng mưu với chồng làm một việc giả dối và hèn mạt” [72, tr 52]. Với

sống, chưa tạo được sức hút. Bên cạnh đó, tình cảm của Phan Khôi đối với

những nhân vật ông yêu quý tình cảm cũng thể hiện rõ: “chỉ thương hại cho

144

Văn Hải và Nghi” [72, tr 133]; “tội nghiệp cho Xuân Sơn, một niềm chơn

thành giúp bạn” [72, tr 126]... Biểu hiện này thuộc về lối tự sự mang đậm dấu

chủ quan của tác giả - một biểu hiện khó tránh khỏi của những người cầm bút

giai đoạn giao thời nói chung và Phan Khôi nói riêng. Chính vì vậy, ở Trở vỏ

lửa ra, về phương diện tư tưởng nghệ thuật, Phan Khôi đã có những đóng góp

không thể phủ nhận cho quá trình hiện đại hóa văn học. Nó như là sự tiếp nối

lập trường đấu tranh mạnh mẽ về vấn đề nữ quyền mà ông đã thể hiện sắc sảo,

mạnh mẽ và thu hút rất nhiều sự quan tâm trên diễn đàn báo chí. Song trên địa

hạt văn chương, tác phẩm này có vị trí khá khiêm nhường. Đặc biệt, nếu làm

một đối sánh chúng ta càng thấy rõ Trở vỏ lửa ra được công bố năm 1939

nhưng vẫn bộc lộ rõ sự dùng dằng giữa truyền thống và hiện đại. Trong khi

đó, cũng vào khoảng thời gian này, nhóm tiểu thuyết Tự lực văn đoàn đã nở

rộ với hàng loạt tác phẩm cũng viết về vấn đề phụ nữ như: Đoạn tuyệt (1933),

Nửa chừng xuân (1934), Bướm trắng (1939)..., vận dụng thuần thục lối viết

hiện đại phương Tây và đã gặt hái nhiều thành tựu rực rỡ. Phải chăng do rào

cản tất yếu của một nhà cựu học, dù đã hết sức nỗ lực cách tân theo hướng

hiện đại nhưng đôi khi Phan Khôi chưa vượt thoát khỏi chính mình. Ông chú

trọng hơn đến những vẫn đề thuộc nội dung, tư tưởng và chưa đạt được sự

cách tân về mặt nghệ thuật. Sáng tác văn chương của ông vì vậy, có thể khẳng

định không mấy thành công. Vũ Ngọc Phan đã rất chừng mực khi đưa ra nhận

tiểu thuyết gia. Những việc trong truyện đều là những việc có thể có thật và

hiện đã có trong xã hội Việt Nam; tác giả thuật lại các việc ấy một cách sáng

suốt và rõ ràng, làm cho nó giống một thiên kỹ thuật hơn là một thiên tiểu

thuyết. Bởi thế cho nên có người đã chê là không có nghệ thuật (...) Phan

Khôi đã dùng một nghệ thuật nọ vào một nghệ thuật kia, đó ở cái tính quá

định: “Viết quyển này, Phan Khôi đã dùng ngòi bút nhà báo hơn là ngòi bút

khúc chiết của ông, chứ không phải quyển Trở vỏ lửa ra không có nghệ

145

thuật” [112, tr 247-251].

Tiểu kết chương 4

Vào những năm đầu thế kỷ XX, hoàn cảnh lịch sử nước ta với những

biến cố có tính chất bước ngoặt, đặt ra sứ mệnh hết sức quan trọng cho những

người cầm bút. Làm thể nào để tiếp thu một cách có chọn lọc những mặt tích

cực của văn hóa phương Tây, đồng thời kế thừa những giá trị văn hóa truyền

thống để tạo nên diện mạo mới cho văn học là trăn trở khó khăn. Chính vì

vậy, tự sự Việt Nam trong thời điểm này luôn loay hoay với các vấn đề: văn

tự (sử dụng chữ Hán, Nôm hay Quốc ngữ), diễn đạt bằng thơ hay bằng văn

xuôi và viết theo kiểu luân lý, nêu gương hay thiên về tả thực, tả chân.

Phan Khôi cũng như một số học giả duy tân cùng thời đã tích cực phát

hiện, cổ súy cho những tác phẩm tự sự có xu hướng đổi mới theo phương

Tây, tức Âu hóa. Những ý kiến thẩm định phê bình văn học này đã góp phần

tạo nền tảng lập luận có tác dụng chỉ dẫn, kích thích sự ra đời những tác phẩm

tự sự càng về sau càng đạt được thành công cả trên hai phương diện nội dung

tư tưởng và lối viết.

Đặc biệt, Phan Khôi cũng đã hết sức nỗ lực trong xu hướng tả thực, tả

chân trong những tác phẩm tự sự của mình. Hoạn hải ba đào và Mộng trong

mộng đã khái quát được hiện thực xã hội Việt Nam trong giai đoạn Hán học

suy tàn cùng số phận người dân của một đất nước mất chủ quyền. Bên cạnh

chung, những câu chuyện mà Phan Khôi đề cập trong sáng tác của mình đều

nỏng hổi tính thời sự và tiếp nối quan điểm về Nho giáo, về đấu tranh nữ

quyền..., tạo được sự quan tâm, tranh luận sôi nổi của độc giả trên báo chí.

Về nghệ thuật tự sự, mặc dù vẫn chưa thể thoát ra khỏi lối viết truyền

thống do hạn chế có tính tất yếu của một nhà cựu học, song qua những tác

đó, vấn đề nữ quyền cũng được Phan Khôi đặt ra trong Trở vỏ lửa ra. Nhìn

phẩm này, đặc biệt là tiểu thuyết Trở vỏ lửa ra chúng ta thấy rõ hơn sở trường

146

nghị luận, khảo cứu văn chương, học thuật, của Phan Khôi.

Hiện đại hóa văn học là một quá trình lâu dài với nhiều chặng. Do đó

đặt văn xuôi tự sự của Phan Khôi giữa những hình thức tự sự Việt Nam

những năm đầu thế kỷ XX sẽ thấy cây bút Phan Khôi không khó tìm đường ra

về văn tự, ông cũng khá dễ dàng trong những cách tân về nội dung, nhưng lại

thường phân vân giữa các kỹ thuật viết cũ - mới. Thực tế cho thấy, cho đến

cuối thế kỷ XIX, tiểu thuyết vẫn được coi là ngoại thư – một thứ văn chương

chỉ dùng để tiêu khiển, nên có địa vị thấp kém. Đến đầu thế kỷ XX, tiểu

thuyết từ vị trí ngoại biên đã dần tiến vào trung tâm của văn học, do được mở

rộng chức năng (tuyên truyền cách mạng, tham gia vào cuộc vận động xã

hội,...). Và sự ra đời của tiểu thuyết quốc ngữ được xem như sự vượt thoát của

văn học dân tộc, khẳng định kết quả tất yếu từ sự hội tụ những yếu tố nội sinh

và ngoại nhập. Tuy nhiên trong buổi đầu hình thành, các tiểu thuyết đa phần

chưa thoát khỏi sự ảnh hưởng của văn chương trung đại: chất liệu hiện thực

nghèo nàn, nội tâm nhân vật vẫn còn xây dựng mang tính ước lệ... Dần về

sau, thể loại tiểu thuyết mới từng bước hoàn thiện theo hướng hiện đại.

Những dùng dằng trong tư tưởng và sáng tác của Phan Khôi vì thế mang tính

tất yếu, phản ánh chân thực trang thái giao thời của văn học Việt Nam những

147

năm 1930.

KẾT LUẬN

1. Hiện đại hóa là quá trình tất yếu của một nền văn học khi gia nhập

vào quỹ đạo các nền văn học tiên tiến trên thế giới. Quá trình này diễn ra

trong sự giao lưu văn hóa giữa các quốc gia và xuất phát từ nhu cầu khao khát

đổi mới của cả công chúng và chủ thể sáng tạo. Ở Việt Nam, do hoàn cảnh

đặc biệt của lịch sử, quá trình hiện đại hóa đồng thời là quá trình tiếp biến ảnh

hưởng phương Tây. Quá trình thu nhận này diễn ra không hề dễ dàng mà luôn

có những dằng co quyết liệt trong sự lựa chọn giữa cái cũ và cái mới, dân tộc

và ngoại lai, áp đặt và tự nguyện. Chính vì vậy, kẻ sĩ hay trí thức dân tộc đã

trở thành những “chủ thể” can dự và kiến tạo nên các xu thế và trào lưu văn

hóa của quốc gia (dẫn ý Trần Hải Yến). Phan Khôi là một gương mặt tiêu

biểu mang đặc điểm của chủ thể can dự và kiến tạo văn hóa văn minh ấy. Với

mong muốn đưa đất nước thoát khỏi những rào cản chật chội phương Đông,

hướng đến chân trời rộng mở phương Tây, hầu hết mọi hoạt động của Phan

Khôi gồm báo chí, sáng tác, dịch thuật đều mang mục tiêu truyền bá tư tưởng

mới, cổ súy cho những đổi mới trong sáng tạo văn học, đặt những nền móng

cho quá trình hiện đại hóa văn hóa, văn học dân tộc.

2. Trên phương diện định hình tư tưởng và lựa chọn hành động, Phan

Thúy). Sự chuyển hướng từ canh tân xã hội sang canh tân văn hóa, văn

chương của Phan Khôi là minh chứng rõ ràng cho bước chuyển đầy chủ động

của một trí thức bản lĩnh, nhạy bén và luôn mang trên mình nhiệm vụ kiến tạo

những giá trị mới mẻ cho dân tộc. Phan Khôi đã có hàng loạt bài báo đề cập

đến các vấn đề mang tính thời sự của xã hội Việt Nam giai đoạn giao thời,

Khôi đã có một bước chuyển “từ chính trị sang văn hóa” (dẫn ý Đỗ Lai

trong đó Nho giáo là chủ đề mấu chốt. Không phải người duy nhất quan tâm

148

đến vấn đề này, nhưng Phan Khôi mang đầy “chất nội sinh” vì được đào tạo

theo lối cổ - lại là người có tác phẩm quyết định sự sụp đổ của Khổng giáo.

Chính nhờ thành công này, các bài viết khác của Phan Khôi về văn tự, nữ

quyền, duy tâm – duy vật... đã có những tác động mạnh mẽ đối với đội ngũ

cầm bút. Không chỉ công kích những tư tưởng lỗi thời, cổ súy cho những tư

tưởng tiến bộ, các bài viết còn tạo không khí tranh luận dân chủ trong sinh

hoạt văn hoá - xã hội đương thời. Những thành tựu của văn chương hiện đại

như phong trào Thơ mới, tiểu thuyết Tự lực văn đoàn sau đó chắc chắn không

thể thiếu những đóng góp có tính định hình, đặt nền móng tư tưởng ở những

bài báo “dữ dội” của một nhà báo có tài, “cây bút chiến đáng gờm” này.

Trong văn hóa, văn học, Phan Khôi là người thống nhất trong ý thức

xây dựng một sinh hoạt văn hoá dân tộc, vì vậy ông xông xáo trong các tranh

luận cũng như thực hành, từ quốc ngữ đến quốc học, quốc văn.

3. Đường đến thơ mới của Phan Khôi cũng là một hành trình đầy chủ

động, quyết liệt như cá tính của ông. Với bút danh Chương Dân, ông đã

khẳng định cá tính của mình trong chuyên mục Nam âm thi thoại (giới thiệu

thơ, bình thơ). Tại thời điểm thơ Việt đang không có lối thoát, bị cột chặt vào

những niêm, luật cùng hệ thống ước lệ, chuyên mục giới thiệu thơ, bình thơ,

chia sẻ quan điểm cá nhân, điểm duyệt thơ cũ... xuất hiện thường xuyên trên

báo chí đã tạo cơ sở cho việc đưa ra đề xuất một hướng đi mới cho thơ. Vì

thế, có thể xem Nam âm thi thoại (sau này tập hợp in sách đổi tên thành

Chương Dân thi thoại) là tiền khởi của hoạt động phê bình văn học – dấu

hiệu của văn học hiện đại. Bằng cách công khai bài báo “Một lối thơ mới

trình chánh giữa làng thơ” kèm theo ví dụ minh họa Tình già, Phan Khôi đã

nổ một phát súng đầu tiên đả kích mạnh mẽ vào thành trì thơ cũ, đóng vai trò

châm ngòi cho cuộc cách mạng thơ ca. Mặc dù có nhiều ý kiến trái chiều về

149

giá trị của Tình già, tranh luận về việc ông có phải là nhà thơ mới hay không

song vai trò đặt nền móng, tạo cú hích để thơ ca phát triển của Phan Khôi nhất

định không thể phủ nhận.

4. Ở lĩnh vực tự sự, Phan Khôi là người rất nhạy bén với xu hướng cách

tân khi đề cập trên phương diện lý thuyết và “dấn thân” cả trong sáng tác song

ông không mấy thành công trong lĩnh vực thứ hai. Đề cao tả thực và chữ chân

từ trong thơ cho đến văn xuôi, nên trong truyện ngắn và cuốn tiểu thuyết duy

nhất, Phan Khôi đều đã rất chú trọng phản ánh hiện thực xã hội Việt Nam với

những vấn đề mang tính thời sự lúc bấy giờ như quốc học, nho giáo, đấu tranh

cho nữ quyền. Đây cũng là nội dung ông từng rất lưu tâm và đề cập một cách

thành công trên báo chí. Tuy nhiên, bị chi phối bởi tinh thần luận lý, ưa tranh

biện rõ ràng, truy đến cùng của một nhà biện luận nên khi đến với một địa hạt

đòi hỏi nhiều hơn ở cảm xúc, ở hư cấu, tưởng tượng Phan Khôi đã dường như

thất bại. Phan Khôi đã không sáng tạo được những tác phẩm có giá trị về mặt

nghệ thuật như Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan... Trạng thái phân vân, dùng

dằng giữa truyền thống và hiện đại vừa là trạng thái tâm lí, vừa là giới hạn mà

bản thân Phan Khôi không thể vượt qua. Vì thế, trong quá trình hiện đại hóa

văn học Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX, theo chúng tôi, Phan Khôi đã hiện diện

với vai trò là người đặt gạch, gợi dẫn những tư tưởng hiện đại cho văn học

150

nhiều hơn là được ghi nhận cụ thể ở tác phẩm văn học.

DANH MỤC

1. Hoàng Thị Hường (2014), “Cách đặt vấn đề trong một số bài báo kiểu Phan Khôi”,

Kỷ yếu Hội thảo khoa học: Phan Khôi những đóng góp trên lĩnh vực văn hóa dân tộc”, Sở

Văn hóa, Thể thao và Du lịch Quảng Nam, tr. 683 - 689.

2. Hoàng Thị Hường (2016), “Đóng góp Phan Khôi cho quá trình hiện đại hóa

văn học quốc ngữ trên báo chí SG từ 1928-1932”, Kỷ yếu Hội thảo khoa học:

Những vấn đề văn học và ngôn ngữ Nam Bộ, Nxb Đại học quốc gia, thành phố Hồ

Chí Minh, ISBN 978-604-73-4665-3, tr. 697 – 705.

3. Hoàng Thị Hường (2017), “Đóng góp của Phan Khôi trong việc phổ biến chữ

quốc ngữ trên báo chí SG từ năm 1928-1932”, Tạp chí Khoa học, Đại học Sư phạm

thành phố Hồ Chí Minh, ISSN 1859 - 3100, số 14 (2), tr. 89 - 96.

4. Hoàng Thị Hường (2017), “Đường đến thơ mới của Phan Khôi”, Đề tài

nghiên cứu khoa học cấp Trường, trường Đại học Duy Tân, Đà Nẵng, công nhận

theo QĐ số 2058/QĐ-ĐHDT ngày 12 tháng 7 năm 2017.

5. Hoàng Thị Hường (2017), “Đóng góp Phan Khôi cho quá trình hiện đại hóa

văn học quốc ngữ trên báo chí SG những năm đầu thế kỷ XX”, Tạp chí Khoa học và

Giáo dục, Đại học Sư phạm Huế, số 3 (43), ISSN 1859 - 1612, tr. 16 - 26.

6. Hoàng Thị Hường (2017), “Chương Dân thi thoại của Phan Khôi, tiền khởi cho hoạt

động phê bình văn học Việt Nam”, Tạp chí Khoa học và Công nghệ, Trường Đại học Duy

Tân Đà Nẵng, số 6 (25), ISSN 1859-4905, tr. 75 – 79.

7. Hoàng Thị Hường (2018), “Đường đến thơ mới của Phan Khôi”, Tạp chí

Khoa học và Công nghệ, Trường Đại học Khoa học Huế, , số 2 (11), ISSN 2354 -

0850, tr. 11 – 21.

8. Hoàng Thị Hường (2018), “Trạng thái nước đôi trong tự sự của Phan Khôi”,

Kỷ yếu Hội thảo khoa học: Ngôn ngữ và văn học Quảng Nam trong xu thế hội nhập,

phát triển, Trường Đại học Quảng Nam, ngày 30 tháng 05 năm 2018, tr. 271 – 299.

9. Hoàng Thị Hường (2018), “Những câu chuyện của Phan Khôi giữa các hình thức tự sự Việt Nam những năm đầu thế kỷ XX”, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Trường, trường Đại học Duy Tân, Đà Nẵng, công nhận theo QĐ số 3774/QĐ- ĐHDT ngày 17 tháng 7 năm 2018.

151

CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

* Tiếng Việt

1. Vũ Tuấn Anh – Bích Thu (Chủ biên, 2001), Từ điển tác gia văn xuôi

Việt Nam, tập 1, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

2. Vũ Tuấn Anh – Bích Thu (Chủ biên, 2006), Từ điển tác gia văn xuôi

Việt Nam, tập 2, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

3. Lại Nguyên Ân (sưu tầm và biên soạn, 2003), Phan Khôi tác phẩm

đăng báo 1928, Nxb Đà Nẵng –Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông

Tây, Đà Nẵng.

4. Lại Nguyên Ân (2003), Sống với văn học cùng thời, Nxb Thanh

niên, Tp. Hồ Chí Minh.

5. Lại Nguyên Ân (sưu tầm và biên soạn, 2005), Phan Khôi tác phẩm

đăng báo 1929, Nxb Đà Nẵng –Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông

Tây, Đà Nẵng.

6. Lại Nguyên Ân (sưu tầm và biên soạn, 2006), Phan Khôi tác phẩm

đăng báo 1930, Nxb Đà Nẵng –Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông

Tây, Đà Nẵng.

7. Lại Nguyên Ân (2006), “Liệu có thể xem Phan Khôi (1887-1959)

thảo khoa học “Văn học quốc ngữ Nam Bộ cuối thế kỷ XIX đến

1945” tại khoa Ngữ văn và Báo chí, Trường Đại học Khoa học Xã

hội và Nhân văn Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 26-5).

8.

Lại Nguyên Ân (sưu tầm và biên soạn, 2007), Phan Khôi tác phẩm

đăng báo 1931, Nxb Đà Nẵng –Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông

như một tác gia văn học quốc ngữ Nam Bộ?” (Tham luận tại Hội

152

Tây, Đà Nẵng.

9. Lại Nguyên Ân (2007), Phan Khôi viết và dịch Lỗ Tấn, Nxb Hội

Nhà văn, Hà Nội.

10. Lại Nguyên Ân (2007), “Phan Khôi và báo chí Sài Gòn những năm

1920 – 1930”, Nghiên cứu văn học, số 8, tr. 131-146.

11. Lại Nguyên Ân (2008) “Phạm trù chủ nghĩa cá nhân của tư tưởng

phương Tây trong sự lý giải của Phan Khôi”, Tạp chí Văn học, số

12, tr. 104 – 116.

12. Lại Nguyên Ân (2009), Mênh mông chật chội, Nxb Tri thức, Hà Nội

13. Lại Nguyên Ân (sưu tầm và biên soạn, 2009), Phan Khôi tác phẩm

đăng báo 1932, Nxb Đà Nẵng –Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông

Tây.

14. Lại Nguyên Ân (2009), “ Đôi nét về đời làm báo của Phan Khôi”,

Nghiên cứu Văn học, số 10 (452), tháng 10-2009, tr. 55- 70.

15. Lại Nguyên Ân (sưu tầm và biên soạn, 2013), Phan Khôi tác phẩm

đăng báo 1933-1934, Nxb Tri thức, Hà Nội.

16. Lại Nguyên Ân (sưu tầm và biên soạn, 2013), Phan Khôi tác phẩm

đăng báo 1935, Nxb Tri thức, Hà Nội.

17. Lại Nguyên Ân (sưu tầm và biên soạn, 2014), Phan Khôi tác phẩm

đăng báo 1936, Nxb Tri thức, Hà Nội.

đăng báo 1937, Nxb Tri thức, Hà Nội.

19. Lại Nguyên Ân (2013), Tìm lại di sản, Nxb Văn hóa Văn nghệ, Tp.

Hồ Chí Minh.

20. Lại Nguyên Ân (giới thiệu và tuyển chọn, 2016), Phan Khôi vấn đề

phụ nữ ở nước ta, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.

18. Lại Nguyên Ân (sưu tầm và biên soạn, 2014), Phan Khôi tác phẩm

21. Lại Nguyên Ân (sưu tầm và biên soạn, 2017), Phan Khôi tác phẩm

153

đăng báo 1938 - 1942, Nxb Tri thức, Hà Nội.

22. An Bàng (2014), “Một di sản đồ sộ”, Quảng Nam cuối tuần, số 4000

(7222), ngày 4&5 -10, tr. 7.

23. Vũ Bằng (tái bản, 2002), Bốn mươi năm nói láo, Nxb Văn hóa

Thông tin, Hà Nội

24. Bạt – Chi (1943), “Hoàng Tân Dân đầu năm làm thơ cho vợ khóc –

Tản Đà biết trước mình chỉ thọ 50 tuổi – Phan Khôi nói quyết rằng

mình sống còn lâu”, Đông phong, số 16, tr. 10.

25. Vũ Hoàng Chương (1997), “Sao lại thế được?”, Hợp Lưu (tập san

văn học nghệ thuật biên khảo, (số 33), Hoa Kỳ, tr. 114-117.

26. Đức Dũng (2000), “Suy nghĩ về mối quan hệ giữa văn học và báo

chí”, Tạp chí Văn học, số 8, tr.7-9.

27. Nguyễn Duy Diễn (1960), “Tất cả sự thật về cái chết Phan Khôi”,

Văn đàn, số 1 (tr.7-8), 2 (tr 6 &15), 3 (tr.5và 14).

28. Phan Cự Đệ, Trần Đình Hượu, Nguyễn Trác, Nguyễn Hoành Khung,

Lê Chí Dũng, Hà Văn Đức (tái bản, 2013), Văn học Việt Nam (1900

– 1945), Nxb Giáo dục, Hà Nội.

29. Phan Cự Đệ (chủ biên, 2005) Văn học Việt Nam thế kỷ XX – những

vấn đề lịch sử và lí luận, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

30. Nguyễn Đăng Điệp (2008), “Phan Khôi, ngự sử văn đàn”, Tạp chí

31. Nguyễn Đăng Điệp (2014), Thơ Việt Nam hiện đại tiến trình và hiện

tượng, Nxb Văn học, Hà Nội.

32. Nguyễn Đăng Điệp (2016), Một số vấn đề văn học Việt Nam hiện

đại, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

33. Hà Minh Đức (1997), Báo chí những vấn đề lý luận và thực tiễn,

Văn hóa Nghệ thuật, số 3, tr.5 -7.

154

Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.

34. Hà Minh Đức (1997), Một thời đại trong thi ca, Nxb Khoa học xã

hội, Hà Nội.

35. Hà Minh Đức (chủ biên, 2006), Lí luận văn học, Nxb Giáo dục,

Hà Nội.

36. Vu Gia (2003), Phan Khôi tiếng Việt, Báo chí và thơ Mới, Nxb Đại

học Quốc gia, TP. Hồ Chí Minh.

37. Trần Văn Giàu, Đinh Xuân Lâm, Kiều Xuân Bá (1963), Lịch sử cận

đại Việt Nam, tập 4 (1919-1930), Nxb Giáo dục, Hà Nội.

38. Trần Văn Giàu (1973), Sự phát triển của tư tưởng Việt Nam từ đầu

thế kỷ XIX đến Cách mạng tháng Tám, tập 1, Nxb Khoa học Xã hội,

Hà Nội.

39. Trần Văn Giàu (1975), Sự phát triển của tư tưởng Việt Nam từ đầu

thế kỷ XIX đến cách mạng tháng Tám, tập 2, Nxb Khoa học Xã hội,

Hà Nội.

40. Hồ Thế Hà (1998), Tìm trong trang viết, Nxb Thuận Hóa, Huế.

41. Nguyễn Thị Bích Hải (2009), Đến với tác phẩm văn chương phương

Đông (Trung Quốc – Nhật Bản - Ấn Độ), Nxb Giáo dục, Hà Nội.

42. Phượng Hải (1960), “Thế nào là thơ Mới và thơ tự do”, Phổ thông,

số 35, Sài Gòn, tr.84-89.

Quảng Nam”, Tạp chí Văn hóa Quảng Nam, số 3.

44. Dương Quảng Hàm (tái bản, 2002), Việt Nam văn học sử yếu, Nxb

Hội Nhà văn, Hà Nội

45. Lê Bá Hán, Nguyễn Khắc Phi, Trần Đình Sử (tai bản, 2006), Từ điển

thuật ngữ văn học, Nxb Văn học, Hà Nội.

155

43. Phan Quốc Hải (2007), “Những bước đầu của báo chí cách mạng

46. Chất Hằng (1933), “Ấm Hiếu không thể làm Tú Khôi hay là... một

cái tỉ - hiệu – luận giữa Phan Khôi và Nguyễn Khắc Hiếu”, Văn học

tạp chí, số 16 (tr.364-368), số 17 (tr.420-424), số 18 (tr.525-531).

47. Dương Thu Hằng (2015), Trương Vĩnh Ký và bước khởi đầu đời

sống văn chương Việt Nam hiện đại, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.

48. Thy Hảo Trương Duy Hy (2004), Danh xưng tôn quí của sĩ tử

Quảng Nam dưới thời Nho học, Nxb Văn học, Hà Nội.

49. Thy Hảo Trương Duy Hy (2008), “Câu chuyện ở Văn từ Điện Bàn

cách đây hơn nửa thế kỷ”, Xưa và Nay, số 314, tr. 35-36.

50. Võ Văn Hòe, Hồ Tấn Tuấn, Lưu Anh Rô (2007), Văn hóa xứ Quảng

– một góc nhìn, Nxb Đà Nẵng.

51. Nguyễn Khắc Hiếu (1932), “Bài trừ cái nạn Phan - Khôi ở Nam Kỳ”,

An Nam tạp chí, số 29 (tr.3-5), 34, 37.

52. Nguyễn Văn Hiệu (2007), “Ý thức văn hóa trong dịch thuật văn

chương ở Việt Nam từ cuối thế kỷ XIX đến năm 1945”, Tạp chí Văn

học, số 1, tr. 131-144

53. Đỗ Đức Hiểu (2004, chủ biên), Từ điển văn học (bộ mới), Nxb bản

Thế giới, Hà Nội.

54. Nguyễn Hữu Hiệp (1998), “Bước ngoặc thơ mới ở Nam Kỳ”, Xưa và

55. Đào Duy Hiệp (2006), “Phê bình văn học phương Tây ở Việt Nam –

tiếp nhận và ứng dụng”, Nghiên cứu Văn học, số 5, tr. 61-74.

56. Huỳnh Văn Hoa (2002), “Người đã góp phần làm nên diện mạo thơ

ca giai đoạn 1932-1945”, Tạp chí Non nước, số 63, Đà Nẵng, tr.83 -

84.

Nay, số 52B, tr.38 -39.

57. Huỳnh Hùng (2014), “Từ các cuộc bút chiến của Phan Khôi”, Xưa

156

và Nay, số 451, tr.19-20.

58. Ngô Quang Huy (2017), Tác phẩm Phan Khôi đọc và suy ngẫm,

(tập 1), Nxb Tri thức, Hà Nội.

59. Ngô Quang Huy (2017), Tác phẩm Phan Khôi đọc và suy ngẫm,

(tập 2), Nxb Tri thức, Hà Nội.

60. Trần Đình Hượu (1995), Nho giáo và văn học Việt Nam trung cận

đại, Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.

61. Trần Đình Hượu – Lê Chí Dũng (1996), Văn học Việt Nam 1900 –

1930, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

62. Trần Đình Hượu (2007), Trần Đình Hượu tuyển tập (Trần Ngọc

Vương tuyển chọn, giới thiệu), tập 2, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

63. Đỗ Quang Hưng (chủ biên, 2001), Lịch sử báo chí Việt Nam 1865-

1945, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.

64. Mai Hương – Tôn Phương Lan (2007), Ngô Tất Tố, về tác gia và tác

phẩm, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

65. Minh Kha (1960), “Giai thoại văn chương: Thơ Phan Khôi”, Phổ

thông, số 26, tr.26 -27.

66. Nguyễn Văn Khang (2007), “Học giả Phan Khôi với Việt ngữ

nghiên cứu”, Xưa và Nay, số 292, tháng 9, tr. 3- 6.

67. Huỳnh Thúc Kháng (1930), “Chung quanh cuộc biện luận Phan

chung không? Chiêu tuyết những lời bài báng cho một chí – sĩ mới

qua đời”, Phụ nữ tân văn, số 72, tháng 10, tr. 12-13.

68. Phan Thị Mỹ Khanh (tái bản, 2017), Nhớ cha tôi – Phan Khôi, Nxb

Đà Nẵng.

69. Phạm Văn Khoái (2017), “Nguồn văn bản chữ Hán trên Nam phong

Khôi – Phạm Quỳnh: Chánh – học cùng tà – thuyết có phải là vấn đề

157

tạp chí”, Nghiên cứu văn học, số 2, Hà Nội, tr.3-13.

70. Phan Khôi (1936), “Cái ác ý bởi nghề nghiệp”, Hà Nội báo, số 23

ngày 10-06, Hà Nội, tr 2-3.

71. Phan Khôi (in lại, 1998), Việt ngữ nghiên cứu, Nxb Đà Nẵng

72. Phan Khôi (1939), “Trở vỏ lửa ra”, Phổ thông bán nguyệt san, Nxb

Tân dân, Hà Nội.

73. Phan Khôi (in lại, 1996), Chương Dân thi thoại, Nxb Đà Nẵng.

74. Phan Khôi (1956), Tuyển tập tạp văn Lỗ Tấn (tác phẩm dịch), Nxb

Văn nghệ, Hà Nội.

75. Phan Khôi (chủ nhiệm, in lại, 2009), Sông Hương – tuần báo ra

ngày thứ 7 (1/8/1936-27/3/1937), Nxb Lao động và Trung tâm Văn

hóa Ngôn ngữ Đông Tây, Hà Nội.

76. Đoàn Xuân Kiên (1997), “Phan Khôi nghiên cứu tiếng Việt”, Hợp

Lưu (tập san văn học nghệ thuật biên khảo, (số 33), Hoa Kỳ, tr. 53 -

64.

77. Thụy Khuê (1997), “Phan Khôi: Phong cách và tư tưởng”, Hợp Lưu

(tập san văn học nghệ thuật biên khảo, số 33), Hoa Kỳ, tr.100-112.

78. Konrat. N.I (1977), Phương Đông và phương Tây (Trịnh Bá Đĩnh

dịch), Nxb Giáo dục, Hà Nội.

79. Thomas Kuhn (2008), Cấu trúc của cuộc cách mạng (Chu Lan Đình

80. Lý Nhân Phan Thứ Lang (2007), “Tản Đà – Ngô Tất Tố - Phan

Khôi, họa thơ ở Sài Gòn”, Xưa và Nay, số 292, tr.18,24.

81. Thanh Lãng (1972) Phê bình văn học thế hệ 1932, tập 1, Nxb Phong

trào văn hóa Sài Gòn.

82. Thanh Lãng (1972) Phê bình văn học thế hệ 1932, tập 2, Nxb Phong

dịch), Nxb Tri thức, Hà Nội.

158

trào văn hóa Sài Gòn.

83. Thanh Lãng (in lại, 1995), 13 năm tranh luận văn học, tập 1, Nxb

Văn học, Hà Nội.

84. Thanh Lãng (in lại, 1995), 13 năm tranh luận văn học, tập 2, Nxb

Văn học, Hà Nội.

85. Thanh Lãng (in lại, 1995), 13 năm tranh luận văn học, tập 3, Nxb

Văn học, Hà Nội.

86. Thanh Lãng (1997), “Phan Khôi”, Hợp Lưu (Tập san văn học nghệ

thuật biên khảo, (số 33), Hoa Kỳ.

87. Mã Giang Lân (1998), Những cuộc tranh luận văn học nửa đầu thế

kỷ XX, Nxb Văn hóa – Thông tin, Hà Nội.

88. Mã Giang Lân (chủ biên, 2000), Quá trình hiện đại hóa Văn học

Việt Nam 1900 – 1945, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.

89. Nguyễn Hiến Lê (1969), Văn học Trung Quốc hiện đại (1898-1960),

Nxb Nguyễn Hiến Lê, Sài Gòn.

90. Phong Lê (2002), “Thời kỳ 1900 – 1932 và cuộc chuyển giao từ văn

học trung đại sang văn học hiện đại”, Tạp chí Văn học, số 8, Tr. 3-6

91. Phong Lê (2002), “Văn xuôi những năm 20-thế kỷ XX, phòng chờ

sau 1932”, Tạp chí Văn, số 5, tr.3-12

92. Phong Lê (2014), Phác thảo văn học Việt Nam hiện đại (thế kỷ XX),

93. Lưu Trọng Lư (1939), “Các bậc đàn anh: Ông Phan Khôi”, Tao đàn,

số 4, ngày 16.4, Sài Gòn tr. 363 - 370.

94. Đặng Thai Mai (sưu tầm, biên soạn, 1961), Văn thơ yêu nước và

cách mạng đầu thế ký XX, Nxb Văn hóa, Hà Nội.

95. Đặng Thai Mai (1985), Hồi ký, Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội.

Nxb Tri thức, Hà Nội.

96. Nguyễn Đăng Mạnh (2009), “Phong cách nghị luận bút chiến của

159

Phan Khôi”, Nghiên cứu Văn học, số 10, tr.40-54.

97. Nguyễn Đăng Na (1999), Văn xuôi tự sự Việt Nam thời trung đại,

tập 1, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

98. Nguyễn Đăng Na (2001), Văn xuôi tự sự Việt Nam thời trung đại,

tập 2, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

99. Nguyễn Đăng Na (2007), Con đường giải mã Văn học trung đại Việt

Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

100. Nguyễn Tôn Nhan (2005), Nho giáo Trung Quốc, Nxb Văn hóa

Thông tin, Tp. Hồ Chí Minh.

101. Vương Trí Nhàn (2001), Nhà văn tiền chiến và quá trình hiện đại

hóa trong văn học Việt Nam từ đầu thế kỷ XX đến 1945, Nxb Đại

học quốc gia, Hà Nội.

102. Vương Trí Nhàn (2003), Những lời bàn về tiểu thuyết trong văn học

Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến 1945, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.

103. Đỗ Thúy Nhung (2008), “Khảo sát từ ngữ một số tác phẩm Hán văn

Đông Kinh Nghĩa Thục”, Luận án Tiến sĩ Ngôn ngữ học, Đại học

Khoa học và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.

104. Hữu Ngọc (1993), Chân dung văn hóa đất nước mặt trời mọc, Nxb

Thế giới, Hà Nội.

105. Phan Ngọc (tái bản, 2001), Tìm hiểu phong cách nghệ thuật Nguyễn

106. Nguyên Ngọc (chủ biên, 2005), Tìm hiểu tính cách con người xứ

Quảng, Nxb Đà Nẵng.

107. Phạm Thị Nga (1936), “Lối tự học của những bực đàn anh nước ta”,

kỳ 1: Ông Phan Khôi học chữ Tây và làm quen với cô Luận lý”, Hà

Nội báo, số 10, ngày 11-3, tr. 2-4.

Du trong Truyện Kiều, Nxb Thanh niên, Hà Nội.

108. Phạm Thế Ngũ (tái bản, 1997), Việt Nam văn học sử giản ước tân

160

biên, tập 3, Nxb Đồng Tháp.

109. Nhà xuất bản Bách khoa toàn thư Trung Quốc (2000), Khái yếu lịch

sử Văn học Trung Quốc, tập 2, Nxb Thế giới, Hà Nội.

110. Nhiều tác giả (2005), Bảo An – Đất và Người, Nxb Đà Nẵng.

111. Võ Văn Nhơn (2006), “Báo chí Quốc ngữ Latinh với sự hình thành

và phát triển của tiểu thuyết Nam Bộ cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ

XX”, Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ, tập 9, số 3, tr 15-

17.

112. Vũ Ngọc Phan (tái bản, 1989), Nhà văn hiện đại (tập 1 và 2), Nxb

Khoa học Xã hội, Hà Nội.

113. Philippe M.F. Peycam (Trần Đức Tài dịch, 2015), Làng báo Sài Gòn

1916-1930, Nxb Trẻ, TP. Hồ Chí Minh.

114. Phạm Phú Phong (1997), Thi pháp và thi pháp truyện ngắn, Nxb

Thuận Hóa, Huế.

115. Phạm Phú Phong (2013), “Phan Khôi – người Quảng Nam thứ

thiệt”, Báo Quảng Nam, số 3637, tr. 3-8.

116. Phạm Phú Phong, Phan Quốc Hải (2013), Báo chí đất Quảng thế kỷ

XX, Sở Khoa học Công nghệ Quảng Nam.

117. Bùi Vĩnh Phúc (1997), “Nhận xét về “Việt ngữ nghiên cứu” của

Phan Khôi”, Hợp Lưu (tập san văn học nghệ thuật biên khảo, (số

118. Phan Quang (2000), “Cảm nhận về báo chí Việt Nam thế kỷ XX”,

Báo Nhân dân, số ra ngày 08 & 09/09, tr.3-4.

119. Trần Quang (2000), Các thể loại chính luận báo chí, Nxb Chính trị

Quốc gia, Hà Nội.

120. Đào Duy Quát – Đỗ Quang Hưng – Vũ Duy Thông (2007), Tổng

33), Hoa Kỳ, tr. 66-87.

quan lịch sử báo chí cách mạng Việt Nam (1925-2010), Nxb Chính

161

trị Quốc gia, Hà Nội.

121. Nguyễn Quân (2010), “Hai cuộc phục chế”, Báo Lao động cuối tuần,

ngày 09-7, tr 5.

122. Lê Quân (2014), “Tính cách Phan Khôi”, Quảng Nam cuối tuần, số

4000 (7222), ngày 4 & 5 -10, tr. 6.

123. Lê Quân (2014), “Xoáy sâu vào vấn đề văn hóa”, Quảng Nam cuối

tuần, số 4000 (7222), ngày 4 & 5 -10, tr. 6-7.

124. Nguyễn Hưng Quốc (1997), “Nhân đọc một bài thơ của Phan Khôi,

nghĩ về cấu tứ trong một bài thơ”, Hợp Lưu (tập san văn học nghệ

thuật biên khảo, (số 33), Hoa Kỳ.

125. Nguyễn Hưng Quốc (1997), “Phan Khôi một nửa cuốn sách”, Hợp

Lưu (tập san văn học nghệ thuật biên khảo, (số 33), Hoa Kỳ.

126. Lê Minh Quốc (2007), “Nghĩ về Phan Khôi”, Xưa và Nay, số 292,

tr.19- 22.

127. Phạm Quỳnh (1921), “Bàn về tiểu thuyết”, Nam Phong Tạp chí, số

43.

128. RFI, ngày 15-12-1996: Tạ Trọng Hiệp nói về Phan Khôi: người xa lạ

129. RFI, ngày 05-01-1997: Thụy Khuê giới thiệu những nét chính trong

tư tưởng Phan Khôi và vĩnh biệt Tạ Trọng Hiệp.

130. RFI, ngày 06-08-2005: Nói chuyện với nhà phê bình Lại Nguyên

131. RFI, ngày 06-08-2005: Nói chuyện với nhà phê bình Lại Nguyên

Ân: Hoạt động báo chí của Phan Khôi tại Nam Kỳ

132. RFI, ngày 13-08-2005: Nói chuyện với nhà phê bình Lại Nguyên

Ân: Hoạt động báo chí của Phan Khôi trên các báo Thần Chung, Phụ

nữ tân văn và Trung lập.

Ân: Hoạt động báo chí của Phan Khôi tại Nam Kỳ

133. RFI, ngày 15-12-2007: Nói chuyện với Lại Nguyên Ân về sự nghiệp

162

của Phan Khôi.

134. Phan An Sa (2013), Nắng được thì cứ nắng – Phan Khôi từ Sông

Hương đến nhân văn, Nxb Tri thức, Hà Nội.

135. Edward Wadle Said (Phạm Anh Tuấn & An Khánh dịch, 2015), Văn

hóa và chủ nghĩa bá quyền, Nxb Tri thức, Hà Nội.

136. Phan Nam Sinh (2009), “Bốn bài tứ tuyệt của Phan Khôi”, Xưa và

Nay, số 328, tháng 3.

137. Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Quảng Nam (2014), “Phan Khôi

những đóng góp trên lĩnh vực văn hóa dân tộc”, Kỷ yếu Hội thảo, Sở

Thông tin và Truyền thông Quảng Nam.

138. Khai – Sơn (1960), “Cuộc bút chiến tam – giác: Ngô Đức Kế, Phan

Khôi, Phạm Quỳnh về truyện Kiều”, Văn Đàn, số 17, tr. 8 - 9.

139. Thiếu Sơn (1931), “Lối văn phê bình nhơn vật – Ông Phan Khôi”,

Phụ nữ tân văn, số 94, ngày 6.8.

140. Thiếu Sơn (1933), Những văn nhân chính khách một thời, Nxb Lao

động, Hà Nội.

141. Thiếu Sơn (tái bản, 2000), Nghệ thuật và nhân sinh, Nxb Văn hóa –

Thông tin, Hà Nội.

142. Thiếu Sơn (2003), “Bài học Phan Khôi”, Thiếu Sơn toàn tập (tập 2),

Nxb Văn học, Hà Nội.

Nam 1932-1945, Nxb Văn học, Hà Nội.

144. Nguyễn Hữu Sơn (2005), Văn học trung đại Việt Nam quan niệm

con người và tiến trình phát triển, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.

145. Nguyễn Hữu Sơn, Phạm Mạnh Hùng (sưu tầm và biên soạn, 2009),

Cuộc tiến hóa văn học Việt Nam (tuyển tập nghiên cứu, phê bình văn

143. Mộng Bình Sơn, Đào Đức Chương (1996), Khảo cứu văn học Việt

163

học), Nxb Thanh niên, Hà Nội.

146. Trần Đình Sử (1996), Lý luận và phê bình văn học, Nxb Hội Nhà

văn, Hà Nội.

147. Trần Đình Sử (1999), Mấy vấn đề thi pháp văn học trung đại Việt

Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

148. Trần Đình Sử (2004), Tự sự học, một số vấn đề lí luận và lịch sử,

Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội

149. Văn Tâm (2004), “Mục từ “Phan Khôi”, Từ điển văn học bộ mới,

Nxb Thế giới, Hà Nội.

150. Văn-Tân (1956), “Vài ý kiến về quyển “Việt ngữ nghiên cứu” của

ông Phan Khôi”, Văn – Sử - Địa, số 22, tr. 16-30.

151. Tạ Ngọc Tấn (1999), Cơ sở lý luận báo chí, Nxb Văn hóa - Thông

tin, Hà Nội.

152. Đỗ Đình Tấn (2014), Một nền báo chí phẳng, Nxb Trẻ, Thành phố

Hồ Chí Minh.

153. Trịnh Văn Thảo (2013), Ba thế hệ trí thức người Việt (1862-1954),

Nxb Thế giới, Hà Nội.

154. Hoài Thanh, Hoài Chân (in lại, 2003), Thi nhân Việt Nam 1932-

1941, Nxb Văn hóa, Hà Nội.

155. Phạm Thị Thành (2015), “Những đóng góp của Phan Khôi đối với

Học Viện Báo chí Tuyên truyền.

156. Nguyễn Q. Thắng (2001), Quảng Nam Đất nước và Nhân vật (tập 1,

2), Nxb Văn hóa – Thông tin, Hà Nội.

157. Nguyễn Q. Thắng (2007), “Phan Khôi người đề xướng Thơ mới”,

Xưa và Nay, số 292 tháng 9, tr. 9-14.

báo chí Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX”, Luận án Tiến sĩ Báo chí học,

158. Nguyễn Huy Thắng (2008), “Cha tôi với cụ Tố, cụ Phan”, Văn nghệ

164

Quân đội, số 688, tr. 107-111.

159. Trần Nho Thìn (2003), Văn học trung đại Việt Nam dưới góc nhìn

văn hóa, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

160. Nguyễn Đức Thuận (2008), Văn trên Nam phong tạp chí (diện mạo

và thành tựu), Nxb Văn học, Hà Nội.

161. Đỗ Lai Thúy (2003), “Phan Khôi và những tranh luận báo chí trước

1945”, Văn hóa Nghệ thuật, số 6, tr. 93 - 95.

162. Trần Văn Toàn (2010), “Tả thực với hiện đại hóa văn xuôi nghệ

thuật quốc ngữ giai đoạn giao thời”, Luận án Tiến sĩ Ngữ văn, Đại

học Sư phạm Hà Nội, Hà Nội.

163. Trần Văn Toàn (2015), “Lí thuyết diễn ngôn (discourse) của M.

Foucault và những ứng dụng trong nghiên cứu văn học sử (trên thực

tiễn văn học Việt Nam đầu thế kỷ XX đến 1945), Đề tài nghiên cứu

khoa học, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Hà Nội.

164. Huỳnh Văn Tòng (tái bản, 2000), Báo chí Việt Nam từ khởi thủy đến

1945, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, TP. Hồ Chí Minh.

165. Nguyễn Trung Tín (2008), “Học giả Phan Khôi: Yêu tiếng Việt, yêu

nước Việt”, Tạp chí Sân khấu, tháng 6, tr. 22 - 24.

166. Bùi Đức Tịnh (1992), Những bước đầu của báo chí, tiểu thuyết và

Thơ Mới, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, TP. Hồ Chí Minh.

thành trì Văn – nghệ Mác-xít trong giai phẩm mùa thu”, Văn nghệ

tiền phong, số 21, tr. 30-31.

168. Lê Thí (2014), “Hai ông Phan người Quảng”, Tạp chí Văn hóa

Quảng Nam, số 104.

169. Nguyễn Ngọc Thiện – Nguyễn Phúc – Nguyễn Đăng Điệp (biên

167. Đào – Thi (1956), “Học giả Phan Khôi ném một quả bom tạ vào

soạn, sưu tầm, 1996), Nhìn lại cuộc tranh luận nghệ thuật 1935-

165

1939, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.

170. Nguyễn Ngọc Thiện (chủ biên, 1997), Tuyển tập phê bình, nghiên

cứu văn học Việt Nam (1900-1945), tập 1, Nxb Văn học, Hà Nội.

171. Nguyễn Ngọc Thiện (chủ biên, 1998), Lý luận, phê bình văn học

Việt Nam từ đầu thế kỷ XX -1945, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.

172. Nguyễn Ngọc Thiện – Lữ Huy Nguyên (sưu tầm, 1998), Tao Đàn

1939 (sưu tập trọn bộ), Nxb Văn học, Hà Nội.

173. Nguyễn Ngọc Thiện – Cao Kim Lan (biên soạn, sưu tầm, 2002)- tập

I và II, Tranh luận văn nghệ thế kỷ XX, Nxb Lao động, Hà Nội.

174. Nguyễn Ngọc Thiện (chủ biên, 2004), Văn học Việt Nam thế kỷ XX,

lý luận – phê bình nửa đầu thế kỷ, quyển 5, tập II, Nxb Văn học, Hà

Nội.

175. Nguyễn Ngọc Thiện (chủ biên, 2005), Văn học Việt Nam thế kỷ XX,

lý luận – phê bình nửa đầu thế kỷ, quyển 5, tập IV, Nxb Văn học, Hà

Nội.

176. Nguyễn Ngọc Thiện (2009), “Thử nhìn lại quan niệm văn học của

Phan Khôi qua một số bài báo”, Tạp chí Diễn đàn Văn nghệ Việt

Nam, số 169, tr 62 - 64.

177. Nguyễn Ngọc Thiện (2010), Lý luận, phê bình và đời sống văn

chương (tiểu luận, phê bình), Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.

(1887-1959)” - Tiểu luận, Văn học, số 86, Sài Gòn, tr. 66-77.

179. Bích Thu (2000), Văn học và Báo chí – Từ một góc nhìn, Nxb Văn

học, Hà Nội.

180. Bích Thu (2001), “Tiểu thuyết Việt Nam trong quá trình hiện đại hóa

nửa đầu thế kỷ”, Tạp chí Văn học, số 4, tr.60-68

178. Hoàng Châu Thịnh (1969), “Cuộc đời và người bộ hành Phan Khôi

181. Vân Thư (1960), “ Giai thoại làng văn: Cô bán nem và Phan Khôi”,

166

Văn đàn, số 8, tr.4,10.

182. Đỗ Lai Thúy (2003), “Phan Khôi và những tranh luận báo chí trước

1945”, Văn hóa Nghệ thuật, số 6, tr 93-95.

183. Đỗ Lai Thúy (2005), Văn hóa Việt Nam nhìn từ mẫu người văn hóa,

Nxb Văn hóa Thông tin – Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, Hà Nội.

184. Đỗ Lai Thúy (2010), Phê bình văn học, con vật lưỡng thê ấy, Nxb

Hội Nhà văn, Hà Nội.

185. Đỗ Lai Thúy (2014), Vẫy vào vô tận, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.

186. Lộc Phương Thủy (chủ biên, 2007), Lý luận – phê bình văn học thế

giới thế kỷ XX, tập 1, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

187. Lộc Phương Thủy (chủ biên, 2007), Lý luận – phê bình văn học thế

giới thế kỷ XX, tập 2, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

188. Tsubouchi Shoyo (2013), Chân tủy của tiểu thuyết (Trần Hải Yến

dịch), Nxb Thế giới, Hà Nội.

189. Nguyễn Thanh Tùng (2007), “Vài nét về văn bản và giá trị của

“Thương Sơn thi thoại”, Tạp chí Hán Nôm, số 3 (83), tr. 33-40.

190. Hoàng Tuệ (2003), Tâm hồn và trí tuệ của Phan Khôi trong Việt ngữ

nghiên cứu, Nxb Đà Nẵng.

191. Lê Ngọc Trà (2000), Về khái niệm hiện đại hóa trong văn học, Nxb

Văn học, Hà Nội.

193. Nê –Uy (1943), “Chuyện thơ: Bài thơ Đi đường núi”, Đại Việt tạp

chí, số 22, tr 37-39.

194. Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc Gia – Viện Thông

tin Khoa học Xã hội (2001), Văn học Sử những quan niệm mới,

những tiếp cận mới, Hà Nội.

192. Lê Ngọc Trà (2005), Lí luận văn học, Nxb Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh.

195. Trường Đại học Sư phạm, Đại học Đà Nẵng, “Văn xuôi nữ lưu đầu

167

thế kỷ XX nhìn từ một số phương diện của trần thuật học – khảo sát

qua 3 tác giả nữ: Đạm Phương nữ sử, Huỳnh Thị Bảo Hòa, Phan Thị

Bạch Vân”, Kỷ yếu Hội thảo quốc gia Văn học Việt Nam trong xu

hướng toàn cầu hóa, Nxb Thông tin và Truyền thông, Hà Nội.

196. Hồ Khánh Vân (2007), “Ý thức nữ quyền và sự phát triển bước đầu

của văn học nữ Nam Bộ trong tiến trình hiện đại hóa văn học dân tộc

đầu thế kỷ XX”, Nghiên cứu Văn học, số 7, tr. 81-94.

197. Trần Ngọc Vương (1995), Loại hình tác giả văn học nhà Nho tài tử

và văn học Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

198. Trần Ngọc Vương (1997), Văn học Việt Nam dòng riêng giữa nguồn

chung, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

199. Trần Ngọc Vương (2010), Thực thể Việt nhìn từ các tọa độ chữ, Nxb

Tri thức, Hà Nội.

200. Trần Ngọc Vương (chủ biên, 2010), Giáo trình văn học Việt Nam ba

mươi năm đầu thế kỷ XX, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.

201. Nguyễn Vỹ (1960) “Thân thế và sự nghiệp của Phan Khôi”, Phổ

thông, số 38, Sài Gòn, tr. 59-72.

202. Nguyễn Vỹ (1960), “Dẫn chứng lịch sử và xã hội”: Tuấn, chàng trai

đất Việt 1910 – 1960”, Phổ thông, số 163, 164, tr.43-46.

203. Nguyễn Vỹ (tái bản, 2007), Văn sĩ tiền chiến, Nxb Văn học, Hà Nội.

mới, Sài Gòn.

204. Nguyễn Văn Xuân (1968), Khi những người lưu dân trở lại, Thời

* Tiếng Anh

205. J.A. Cuddon (2013), A dictionary of literary Terms and literary

Theory, Wiley – Blackwell, USA & UK.

206. Tsubouchi Shoyo, The Essence of Novel, Translated by Nanette

168

Twine.

207. Patricia Waugh (2006), Literary Theory and Criticism – an Oxford

Guide, Oxford University Press.

* Các Website:

208. http://thuykhue.free.fr/mucluc/phankhoi.html

209. http://lainguyenan.free.fr/phankhoi

210. http://newvietart.com/index4.832.html/dongocthach

211. http://www.talaws.org

212. http://vanhocquenha.vn/vi-vn/nhung-nha-bao-tien-phong-cho-bao-

chi-tieng-viet-124780.html

213. https://antontruongthang.com

214. htttp://www.vanhoahoc.vn/nghien-cuu/van-hoa-the-gioi/quan-he-

van-hoc-dong-tay/3059-tran-nho-thin-tinh-pho-bien-va-dac-thu-cua-

van-luan-phuong-dong-phuong-tay.htlm

215. http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=2906&rb=0506

216. https://phebinhvanhoc.com.vn/tac-gia-tac-pham-doc-gia-trong-thi-

169

truong-van-hoc/].