VIỆN HÀN LÂM

KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ ĐIỂM

PHÁT TRIỂN ĐỘI NGŨ CÁN BỘ LÃNH ĐẠO,

QUẢN LÝ CỦA HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ CẤP HUYỆN

Ở BẮC NINH HIỆN NAY

LUẬN ÁN TIẾN SĨ CHÍNH TRỊ HỌC

HÀ NỘI, 2021

VIỆN HÀN LÂM

KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ ĐIỂM

PHÁT TRIỂN ĐỘI NGŨ CÁN BỘ LÃNH ĐẠO,

QUẢN LÝ CỦA HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ CẤP HUYỆN

Ở BẮC NINH HIỆN NAY

Ngành: Chính trị học

Mã số: 93 10 201

LUẬN ÁN TIẾN SĨ CHÍNH TRỊ HỌC

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:

PGS.TS. HỒ VIỆT HẠNH

HÀ NỘI, 2021

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi dưới sự hướng

dẫn khoa học của PGS.TS Hồ Việt Hạnh. Các số liệu nêu trong luận án là trung

thực. Những kết luận khoa học của luận án chưa từng được ai công bố trong bất kỳ

công trình nào khác

Tác giả luận án

LỜI CAM ĐOAN

Nguyễn Thị Điểm

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 1

Chƣơng 1: TỔNG QUAN CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN

QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN .......................................................................... 6

1.1. Một số công trình khoa học tiêu biểu có liên quan đến đề tài luận án ...... 6

1.2. Khái quát những kết quả của các công trình có liên quan và những

vấn đề luận án sẽ tiếp tục nghiên cứu ............................................................. 25

Chƣơng 2: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ PHÁT

TRIỂN ĐỘI NGŨ CÁN BỘ LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ CỦA HỆ THỐNG

CHÍNH TRỊ CẤP HUYỆN ................................................................................ 27

2.1. Hệ thống chính trị và hệ thống chính trị cấp huyện ở Việt Nam ............. 27

2.2. Đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý của hệ thống chính trị cấp huyện ....... 41

2.3. Phát triển đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý của hệ thống chính trị cấp

huyện - quan niệm, nội dung, mục tiêu ........................................................... 52

Tiểu kết chƣơng 2 ................................................................................................ 79

Chƣơng 3: THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN ĐỘI NGŨ CÁN BỘ LÃNH

ĐẠO, QUẢN LÝ CỦA HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ CẤP HUYỆN Ở TỈNH

BẮC NINH HIỆN NAY ...................................................................................... 80

3.1. Khái quát về tỉnh Bắc Ninh và hệ thống chính trị cấp huyện ở tỉnh

Bắc Ninh .......................................................................................................... 80

3.2. Thực trạng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý của hệ thống chính trị

cấp huyện ở tỉnh Bắc Ninh .............................................................................. 92

3.3. Công tác phát triển đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý của hệ thống

chính trị cấp huyện ở tỉnh Bắc Ninh - thực trạng và nguyên nhân ............... 109

Tiểu kết chƣơng 3 .............................................................................................. 137

Chƣơng 4: QUAN ĐIỂM VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU TIẾP TỤC

PHÁT TRIỂN ĐỘI NGŨ CÁN BỘ LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ CỦA HỆ

THỐNG CHÍNH TRỊ CẤP HUYỆN Ở TỈNH BẮC NINH ĐẾN NĂM 2030 139

4.1. Quan điểm phát triển đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý của hệ thống

chính trị cấp huyện ở tỉnh Bắc Ninh ............................................................. 139

4.2. Một số giải pháp chủ yếu nhằm tiếp tục phát triển đội ngũ cán bộ lãnh

đạo, quản lý của hệ thống chính trị cấp huyện ở tỉnh Bắc Ninh đến năm 2030 147

Tiểu kết chƣơng 4 .............................................................................................. 170

KẾT LUẬN ........................................................................................................ 171

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ .......... 173

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................... 174

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BTCTU: Ban Tổ chức Tỉnh ủy

BTCTW: Ban Tổ chức Trung ương

BTV : Ban Thường vụ

BTVTU: Ban Thường vụ Tỉnh ủy

CB: Cán bộ

CB LĐQL: Cán bộ lãnh đạo, quản lý

CBLĐ: Cán bộ lãnh đạo

CC: Công chức

CNH: Công nghiệp hóa

CT-XH: Chính trị - xã hội

HĐH: Hiện đại hóa

HĐND: Hội đồng nhân dân

HTCT: Hệ thống chính trị

KT-XH: Kinh tế - xã hội

MTTQ: Mặt trận Tổ quốc

QL: Quản lý

UBKT: Ủy ban Kiểm tra

UBND Ủy ban nhân dân

Biểu đồ 3.1. Số lượng cán bộ lãnh đạo, quản lý của HTCT cấp huyện ở tỉnh

Bắc Ninh ........................................................................................................ 93

Biểu đồ 3.2. Cơ cấu độ tuổi BCH Đảng bộ huyện ở tỉnh Bắc Ninh ..................... 94

Biểu đồ 3.3. Cơ cấu trình độ chuyên môn cán bộ LĐ, QL của HTCT cấp

huyện ở tỉnh Bắc Ninh .................................................................................. 98

Biểu đồ 3.4. Cơ cấu trình độ Lý luận chính trị của cán bộ LĐ, QL của HTCT

cấp huyện ở tỉnh Bắc Ninh ............................................................................ 99

Biểu đồ 3.5. Kết quả xếp loại cán bộ LĐ, QL của HTCT cấp huyện ở tỉnh

Bắc Ninh ..................................................................................................... 102

DANH MỤC BIỂU ĐỒ

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, cán bộ và công tác cán bộ là vấn đề có ý

nghĩa chiến lược đặc biệt quan trọng. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: "Cán

bộ là cái gốc của mọi công việc" [128 tr. 269]; "muôn việc thành công hoặc thất

bại đều do cán bộ tốt hay kém" [128, tr. 273] và “muốn xây dựng chủ nghĩa xã

hội trước hết cần có những con người xã hội chủ nghĩa” [128, tr. 310]. Tiếp thu

tư tưởng đó, từ ngày thành lập đến nay, cán bộ và công tác xây dựng đội ngũ cán

bộ luôn được Đảng ta coi trọng, coi là vấn đề có tầm quan trọng hàng đầu, mang

ý nghĩa chiến lược.

Công cuộc đổi mới đất nước ngày càng phát triển sâu rộng, đạt được

những thành tựu có ý nghĩa quan trọng, đưa Việt Nam vững bước trong thời kỳ

đẩy mạnh CNH, HĐH. Song thời cơ, nguy cơ, thách thức luôn đan xen nhau

trong một thế giới hội nhập phức tạp. Hơn lúc nào hết, đội ngũ cán bộ LĐ, QL

trong đó có đội ngũ cán bộ LĐ, QL cấp huyện có vai trò quan trọng cho sự ổn

định, phát triển của đất nước và của HTCT. Đây là lực lượng nòng cốt trong xây

dựng các tổ chức của HTCT cấp huyện, trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực

hiện các nghị quyết, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước,

các mục tiêu kinh tế - xã hội (KT-XH), quốc phòng, an ninh trên địa bàn huyện;

trực tiếp lĩnh hội các nghị quyết, chủ trương của Tỉnh ủy để lãnh đạo, chỉ đạo,

hướng dẫn cấp cơ sở thực hiện nhiệm vụ.

Bắc Ninh là một tỉnh cửa ngõ phía Bắc của Thủ đô Hà Nội, trung tâm xứ

Kinh Bắc cổ xưa, mảnh đất địa linh nhân kiệt, nơi có truyền thống khoa bảng và

nền văn hóa lâu đời. Bắc Ninh có vị trí địa kinh tế, chính trị là cầu nối giữa Hà

Nội và các tỉnh trung du miền núi phía Bắc và trên hành lang kinh tế Nam Ninh -

Lạng Sơn - Hà Nội - Hải Phòng - Hạ Long. Bắc Ninh là một trong 08 tỉnh thuộc

vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ. Sau hơn 20 năm xây dựng và phát triển từ khi

tái lập, Bắc Ninh bước vào giai đoạn mới của thời kỳ hội nhập quốc tế sâu rộng.

Để xây dựng Bắc Ninh phát triển tương xứng với tiềm năng, thế mạnh của tỉnh

trở thành thành phố trực thuộc Trung ương vào những năm 20 của thế kỷ XXI,

một trung tâm tài chính, thương mại, du lịch, tổ chức hội nghị, hội thảo, hoạt

1

động thể thao cấp châu lục và không gian di sản, văn hóa quốc tế theo Nghị

quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XX nhiệm kỳ 2020-2025 đã đề ra, đội ngũ

cán bộ của tỉnh, trong đó đội ngũ CBLĐ, QL của HTCT cấp huyện, sẽ là lực

lượng then chốt nhất tạo nên sự chuyển biến mạnh mẽ, vững chắc trong sự

nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) của tỉnh.

Trong những năm qua, Tỉnh ủy Bắc Ninh và cấp ủy đảng các cấp cùng với

các cơ quan chức năng của tỉnh, huyện đã thường xuyên quan tâm, chăm lo xây

dựng, phát triển đội ngũ CBLĐ, QL của HTCT cấp huyện, đạt được những thành

quả quan trọng. Hệ thống chính trị từ huyện đến cơ sở có bước phát triển vững

chắc, góp phần tạo nên thành quả khá toàn diện, kinh tế - xã hội phát triển, chính

trị - xã hội ổn định, dân chủ được phát huy, đời sống vật chất và văn hóa của

nhân dân được nâng lên, bộ mặt nông thôn và đô thị biến đổi mạnh mẽ. Tuy

nhiên, việc phát triển đội ngũ CBLĐ, QL của HTCT cấp huyện ở tỉnh Bắc Ninh

hiện nay vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế, khuyết điểm. Số lượng, cơ cấu chưa thật

sự hợp lý, đặc biệt là cơ cấu độ tuổi, cơ cấu nữ. Tình trạng hụt hẫng về CBLĐ,

QL kế cận có trình độ quản lý, chuyên môn cao và có nhiều kinh nghiệm công

tác còn xảy ra ở một số tổ chức trong HTCT. Đội ngũ CBLĐ, QL chưa thể hiện

rõ năng lực tư duy, nhất là tầm nhìn chiến lược để đề xuất những phương hướng,

giải pháp mới mang tính đột phá, đạt hiệu quả cao trong việc phát triển kinh tế

của từng huyện trong tỉnh. Việc xây dựng tiêu chuẩn chức danh CBLĐ, QL của

HTCT các cấp còn chung chung; việc thực hiện một số khâu trong công tác cán

bộ còn nhiều lúng túng, đặc biệt là các khâu đánh giá, quy hoạch, đào tạo, bồi

dưỡng, luân chuyển cán bộ. Công tác phát huy vai trò của các tổ chức trong HTCT

các cấp của tỉnh trong phát triển đội ngũ CBLĐ, QL còn chưa được coi trọng.

Việc đánh giá đúng thực trạng, chỉ rõ nguyên nhân trong phát triển đội

ngũ CBLĐ, QL của HTCT cấp huyện ở tỉnh Bắc Ninh, xác định quan điểm, mục

tiêu và những giải pháp nhằm tiếp tục phát triển đội ngũ cán bộ này phục vụ tốt

hơn nhiệm vụ chính trị của địa phương trong giai đoạn hiện nay là rất cấp thiết

cả về lý luận và thực tiễn. Vì vậy, tác giả lựa chọn vấn đề "Phát triển đội ngũ

cán bộ lãnh đạo, quản lý của hệ thống chính trị cấp huyện ở Bắc Ninh hiện

nay" làm đề tài nghiên cứu luận án tiến sĩ.

2

2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận án

2.1. Mục đích nghiên cứu

Trên cơ sở làm rõ cơ sở lý luận về phát triển đội ngũ CBLĐ, QL của HTCT cấp

huyện ở tỉnh Bắc Ninh giai đoạn hiện nay, luận án phân tích thực trạng, đề xuất một số

giải pháp chủ yếu nhằm tiếp tục phát triển đội ngũ CBLĐ, QL của HTCT cấp huyện ở

tỉnh Bắc Ninh ngang tầm nhiệm vụ trong thời gian tới.

2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

- Tổng quan các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài.

- Hệ thống hóa những vấn đề lý luận liên quan đến phát triển đội ngũ CBLĐ,

QL của HTCT cấp huyện: khái niệm, đặc điểm, vai trò của đội ngũ CBLĐ, QL của

HTCT cấp huyện; khái niệm, nội dung, mục tiêu phát triển đội ngũ CBLĐ, QL của

HTCT cấp huyện và các yếu tố ảnh hưởng đến công tác phát triển đội ngũ CBLĐ, QL

của HTCT cấp huyện.

- Phân tích, đánh giá thực trạng đội ngũ CBLĐ, QL và thực trạng của công tác

phát triển đội ngũ CBLĐ, QL của HTCT cấp huyện ở tỉnh Bắc Ninh; chỉ rõ những

nguyên nhân của thực trạng và những vấn đề đặt ra cần giải quyết.

- Đề xuất quan điểm và các giải pháp chủ yếu tiếp tục phát triển đội ngũ CBLĐ,

QL của HTCT cấp huyện ở tỉnh Bắc Ninh nhằm đáp ứng yêu cầu sự nghiệp CNH,

HĐH của tỉnh và đất nước đến năm 2030.

3. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu của luận án

3.1. Đối tượng nghiên cứu

Luận án nghiên cứu về công tác phát triển đội ngũ CBLĐ, QL của HTCT cấp

huyện ở tỉnh Bắc Ninh.

3.2. Phạm vi nghiên cứu

- Phạm vi nội dung: Luận án nghiên cứu công tác phát triển đội ngũ CBLĐ, QL

của HTCT cấp huyện ở tỉnh Bắc Ninh, tập trung vào các nội dung chủ yếu: Công tác

quán triệt các nghị quyết, chủ trương của TW Đảng, của Tỉnh ủy, xây dựng chủ trương,

kế hoạch phát triển đội ngũ CBLĐ, QL của HTCT cấp huyện; Công tác cụ thể hóa tiêu

chuẩn từng chức danh CBLĐ, QL của HTCT cấp huyện; Thực hiện các khâu trong

công tác cán bộ; Phát huy vai trò, trách nhiệm của các tổ chức trong HTCT và nhân dân

trong công tác phát triển đội ngũ CBLĐ, QL của HTCT cấp huyện. Luận án cũng xác

định, đội ngũ CBLĐ, QL của HTCT cấp huyện ở tỉnh Bắc Ninh, bao gồm các cán bộ

thuộc biên chế huyện, thị xã, thành phố trong tỉnh quản lý; không nghiên cứu các đối 3

tượng cán bộ là biên chế các cơ quan thuộc ngành dọc tỉnh quản lý, doanh nghiệp đứng

chân trên địa bàn huyện.

- Phạm vi không gian: Địa bàn nghiên cứu chủ yếu của luận án là tỉnh Bắc

Ninh, gồm 8 huyện, thị xã, thành phố. Tuy nhiên, luận án có mở rộng thêm đến một số

khu vực địa lý ngoài tỉnh khi thực hiện nghiên cứu so sánh hoặc khi trình bày những

vấn đề liên quan đến bổ nhiệm, luân chuyển, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ.

- Phạm vi thời gian: Thời gian nghiên cứu, khảo sát đánh giá thực trạng đội ngũ

CBLĐ, QL và thực trạng phát triển đội ngũ CBLĐ, QL của HTCT cấp huyện ở tỉnh

Bắc Ninh từ năm 2010 đến nay. Phương hướng và các giải pháp luận án đề xuất có giá

trị đến năm 2030.

4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu

4.1. Cơ sở lý luận

Luận án được nghiên cứu trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư

tưởng Hồ Chí Minh, đường lối của Đảng về cán bộ, công tác cán bộ, về xây dựng hệ

thống chính trị và hệ thống chính trị cấp huyện ở Việt Nam.

4.2. Phương pháp nghiên cứu

Luận án được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác -

Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đồng thời sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể:

Phương pháp tìm hiểu tư liệu: nghiên cứu thông qua những tài liệu có liên quan

đến CBLĐ, QL nói chung và phát triển đội ngũ CBLĐ, QL của HTCT cấp huyện ở

tỉnh Bắc Ninh nói riêng.

Phương pháp phân tích và tổng hợp: Đây là phương pháp rất quan trọng đối với

quá trình nghiên cứu. Trên cơ sở các tài liệu, thông tin và dữ liệu thu thập được, tác giả

sẽ phân tích, đánh giá, xem xét trên khía cạnh chính trị học, qua đó tổng hợp lại để có

những kết luận, những đề xuất mang tính khoa học, phù hợp với lý luận và thực tiễn

công tác phát triển đội ngũ CBLĐ, QL của HTCT tỉnh Bắc Ninh hiện nay.

- Phương pháp thống kê: đề tài tập trung thu thập, thống kê các tài liệu, phân

tích, tổng hợp số liệu trong các báo cáo tổng kết, báo cáo chuyên đề, báo cáo hằng năm

về công tác cán bộ của các cấp ủy cấp huyện ở tỉnh Bắc Ninh và của Ban tổ chức Tỉnh

ủy, Sở nội vụ tỉnh Bắc Ninh. Sử dụng phương pháp thống kê để so sánh, đối chiếu các

số liệu đã thu thập được từ các phương pháp nhằm đảm bảo kết quả nghiên cứu các số

liệu trong bảng phụ lục của đề tài luận án được chính xác, có độ tin cậy cao.

4

5. Những đóng góp mới của luận án

Thứ nhất, luận án đã phân tích, đánh giá và chỉ ra được thực trạng của đội ngũ CB

LĐ, QL của HTCT cấp huyện và thực trạng công tác phát triển đội ngũ CB LĐ, QL

của HTCT cấp huyện ở tỉnh Bắc Ninh từ năm 2010 đến nay.

Thứ hai, luận án đã đề xuất một số quan điểm, các giải pháp chủ yếu có tính khả

thi nhằm tiếp tục phát triển đội ngũ CBLĐ, QL của HTCT cấp huyện ở tỉnh Bắc Ninh

ngang tầm nhiệm vụ trong thời gian tới.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án

6.1. Ý nghĩa lý luận của luận án

Luận án góp phần làm rõ những vấn đề lý luận về phát triển đội ngũ CBLĐ, QL

của HTCT cấp huyện; đánh giá đúng thực trạng và đề xuất các giải pháp tiếp tục phát

triển đội ngũ CBLĐ, QL của HTCT cấp huyện ở tỉnh Bắc Ninh ngang tầm nhiệm vụ

trong giai đoạn hiện nay.

6.2. Ý nghĩa thực tiễn của luận án

- Kết quả nghiên cứu của luận án có thể được các cấp ủy đảng của tỉnh Bắc Ninh

dùng làm tài liệu tham khảo trong lãnh đạo, chỉ đạo phát triển đội ngũ CBLĐ, QL.

- Kết quả nghiên cứu của luận án còn có thể được dùng làm tài liệu tham khảo,

phục vụ nghiên cứu, giảng dạy, học tập tại Trường Chính trị tỉnh Bắc Ninh.

7. Kết cấu của luận án

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các công trình của tác giả đã công bố,

danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, luận án gồm 4 chương, 10 tiết.

5

Chƣơng 1

TỔNG QUAN CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN

ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN

1.1. Một số công trình khoa học tiêu biểu có liên quan đến đề tài luận án

1.1.1. Các công trình nghiên cứu về hệ thống chính trị Việt Nam

- TS Hồ Bá Thâm với công trình “Đổi mới và phát triển hệ thống chính

trị” [154]. Tác giả đã phân tích vị trí, vai trò của HTCT trong quá trình đổi mới,

phát triển đất nước trên cơ sở mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị. Qua đó, tác

giả đã đề xuất hai giải pháp nhằm đổi mới và phát triển HTCT ở Việt Nam là tập

trung xây dựng, chỉnh đốn Đảng và xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền

của dân, do dân và vì dân.

- PGS, TS Lê Quốc Lý, “Đổi mới, hoàn thiện hệ thống chính trị ở nước

ta” [121]. Các tác giả đã tập trung làm rõ quá trình ra đời và xây dựng HTCT ở

Việt Nam, đồng thời đã phân tích, xác định những đặc trưng cơ bản của HTCT

Việt Nam hiện nay, những biến đổi và phát triển của HTCT với các yếu tố như

mối quan hệ giữa HTCT với cơ sở kinh tế, cơ cấu xã hội giai cấp, sự ảnh hưởng

của nhân tố văn hóa truyền thống của dân tộc, những tư tưởng triết học, những

quan niệm đạo đức, những truyền thống của cộng đồng đối với sự hình thành và

phát triển của HTCT nước ta.

- Nguyễn Duy Quý, “Hệ thống chính trị nước ta trong thời kỳ đổi

mới”[143]. Tác giả đã tổng kết, đánh giá hiện trạng cũng như thành tựu và hạn

chế của HTCT nước ta trong hơn 20 năm đã qua. Trên cơ sở dự báo sự vận động

của HTCT, các tác giả đã đề xuất các giải pháp cho việc xây dựng và hoàn thiện

HTCT nước ta trong giai đoạn mới.

- Bùi Thị Thu Hiền, Tư tưởng Hồ chí Minh với sự nghiệp xây dựng hệ thống

chính trị ở Việt Nam hiện nay [88]. Tác giả luận án đã đưa ra khái niệm và phân tích

đặc điểm của HTCT Việt Nam; làm rõ được thực trạng của HTCT Việt Nam trong

thời kỳ đổi mới, từ đó đề xuất bốn giải pháp vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào

đổi mới HTCT Việt Nam: xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam trong sạch vững

mạnh; xây dựng nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân; đổi mới tổ chức và

hoạt động của Mặt trận Tổ quốc (MTTQ) và các đoàn thể chính trị - xã hội (CT-

XH); nâng cao dân trí và thực hiện dân chủ hóa đời sống xã hội.

6

- PGS.TS Nguyễn Ngọc Long, “Những đặc trưng cơ bản, quan điểm,

nguyên tắc xây dựng và hoạt động của hệ thống chính trị nước ta trong thời kỳ

quá độ lên chủ nghĩa xã hội”[118]. Công trình này đã nghiên cứu phân tích xác

định những đặc trưng cơ bản của HTCT với tính cách là cái tất yếu hợp lý trong

giai đoạn quá độ đi lên CNXH ở nước ta; xuất phát từ thực tiễn, nhận thức lại

những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin về HTCT của chủ nghĩa xã

hội; làm sáng tỏ một số nguyên tắc tổ chức và hoạt động của HTCT. Trên cơ sở

đó, đề tài này đã đề xuất những kiến nghị về mặt vận dụng quan điểm, nguyên

tắc trong đổi mới HTCT ở nước ta. Các kết quả nghiên cứu của đề tài này đã góp

phần cung cấp luận cứ, luận chứng cho đổi mới tư duy lý luận chính trị, hệ thống

chính trị, giải quyết một số vấn đề cụ thể do thực tiễn xây dựng HTCT đặt ra.

- TS. Đinh Thế Huynh, GS.TS. Phùng Hữu Phú, GS.TS. Lê Hữu Nghĩa,

GS.TS. Vũ Văn Hiền và PGS.S. Nguyễn Viết Thông, 30 năm đổi mới và phát

triển ở Việt Nam [99]. Đây là một công trình mang tính tổng kết 30 năm đổi mới ở

Việt Nam, vấn đề dân chủ, đổi mới hệ thống chính trị, xây dựng Đảng, xây dựng

Nhà nước pháp quyền đã được các học giả đề cập, phân tích khá kỹ lưỡng từ quá

trình nhận thức về dân chủ và thực tiễn xây dựng và phát huy dân chủ xã hội chủ

nghĩa ở nước ta; phân tích làm rõ quá trình nhận thức và thực tiễn xây dựng và đổi

mới hệ thống chính trị nước ta trong 30 năm sau thực hiện đổi mới (1986).

- Đặng Văn Lợi, Mối quan hệ giữa xây dựng, chỉnh đốn Đảng với xây

dựng và hoàn thiện hệ thống chính trị hiện nay [120]. Trên cơ sở nghiên cứu trên

bình diện tăng cường vai trò lãnh đạo của các tổ chức Đảng ở địa phương và

thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh, các tỉnh phía nam, đề tài đã tiếp cận nghiên

cứu trên 3 tuyến vấn đề lớn như: 1. Quan hệ giữa xây dựng, chỉnh đốn Đảng với

xây dựng, hoàn thiện hệ thống chính trị dưới góc độ lý luận; 2. Thực trạng và

những vấn đề thực tiễn đặt ra trong quan hệ giữa xây dựng chỉnh đốn Đảng với

xây dựng hoàn thiện hệ thống chính trị; 3. Trên cơ sở lý luận và thực trạng, vấn

đề đặt ra, đề tài đã đưa ra và luận giải các giải pháp tăng cường quan hệ giữa xây

dựng, chỉnh đốn Đảng với xây dựng, hoàn thiện hệ thống chính trị.

- Dương Phú Hiệp, Đổi mới hệ tư tưởng chính trị ở Việt Nam từ năm 1986

đến nay [89]. Tác giả đã phân tích các quan điểm mới trong hệ tư tưởng chính trị

của Đảng và Nhà nước Việt Nam giai đoạn từ năm 1986 đến nay. Đó là những

7

quan điểm mới về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, về đấu

tranh giai cấp, đấu tranh giữa hai con đường xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ

nghĩa, về vấn đề đại đoàn kết dân tộc, vấn đề quan hệ giữa các quốc gia, về hệ

thống chính trị, về thực hiện dân chủ. Trong bài viết, tác giả đã trình bày những

quan điểm mới về hệ thống chính trị của Đảng ta. Theo tác giả, trước đây, trong

các văn kiện của Đảng thường sử dụng cụm từ “hệ thống chuyên chính vô sản”.

Lần đầu tiên ở nước ta, cụm từ “hệ thống chính trị” được sử dụng trong Nghị

quyết Trung ương 6, khóa VI và từ đó hầu như không còn sử dụng cụm từ “hệ

thống chuyên chính vô sản”. Điều đó thể hiện quan điểm mới về hệ thống chính

trị; dẫn đến việc đổi mới quan điểm về vai trò, chức năng, quan hệ và hoạt động

của cả hệ thống chính trị nói chung và của từng bộ phận trong hệ thống đó. Với

03 bộ phận quan trọng trong hệ thống chính trị, Đảng đã có sự đổi mới. Đó là cả

một quá trình vận động, trăn trở, tìm tòi để đi tới sự đổi mới hoàn thiện hơn.

Nhóm các công trình nghiên cứu này là cơ sở để tác giả luận án tìm hiểu,

trình bày những nội dung về HTCT và HTCT cấp huyện trong HTCT ở Việt

Nam hiện nay liên quan đến đề tài nghiên cứu của mình.

1.1.2. Các công trình nghiên cứu về cán bộ; cán bộ lãnh đạo, quản lý và công

tác cán bộ

1.1.2.1. Các công trình nghiên cứu về vị trí, vai trò, đặc điểm của cán bộ và

CBLĐ, QL các cấp, ngành, địa phương

- PGS, TS Nguyễn Phú Trọng và PGS, TS Trần Xuân Sầm, Luận cứ khoa học

cho việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa,

hiện đại hóa đất nước [174]. Các tác giả đã tập trung làm rõ những vấn đề lý luận và

phương pháp luận về nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ trong thời kỳ đẩy mạnh

CNH, HĐH đất nước. Các tác giả nghiên cứu quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và

tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và công tác cán bộ như: về vị trí của cán bộ và công

tác cán bộ; về tiêu chuẩn cán bộ; việc phát hiện, lựa chọn, đánh giá sử dụng và cất nhắc

cán bộ... Đồng thời, các tác giả tìm hiểu kinh nghiệm xây dựng đội ngũ cán bộ công

chức trong lịch sử nước ta và một số nước trên thế giới như Trung Quốc, Nhật Bản,

Singapo... Bám sát mục tiêu đã được xác định, các tác giả tập trung hướng vào luận cứ

khoa học của việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ mà không sa vào những vấn đề

cụ thể hoặc dừng ở sự mô tả chung chung. Các tác giả cố gắng luận giải, khái quát lý

8

luận cho việc nâng cao chất lượng cán bộ trên cơ sở những dữ liệu, số liệu thu thập

được. Từ đó, các tác giả đã đưa ra quan điểm, phương hướng giải pháp nhằm củng cố,

phát triển đội ngũ cán bộ cả về số lượng, chất lượng và cơ cấu cho phù hợp, đặc biệt,

nhấn mạnh đến nâng cao chất lượng công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng và rèn

luyện cán bộ. Đây là tài liệu có giá trị tham khảo tốt để nghiên cứu sinh xây dựng và đề

xuất các giải pháp trong quá trình nghiên cứu luận án.

- Đề tài khoa học cấp Nhà nước, mã số KX.05.11, Xác định cơ cấu và tiêu

chuẩn cán bộ lãnh đạo chủ chốt trong hệ thống chính trị đổi mới [145 ]. Đề tài tập

trung phân tích sự cần thiết và đảm bảo sự phù hợp giữa tiêu chuẩn và cơ cấu cán bộ

trong các giai đoạn lịch sử mới. Mỗi thời kỳ khác nhau, tiêu chuẩn cán bộ cũng có yêu

cầu riêng. Các tác giả khẳng định, trước yêu cầu nhiệm vụ mới trong thời kỳ mới, đội

ngũ cán bộ phải không ngừng học tập, nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, trình

độ lãnh đạo, quản lý; không ngừng tu dưỡng, rèn luyện phẩm chất đạo đức cách

mạng... Từ đó, các tác giả đã đưa ra hệ thống tiêu chuẩn chung đối với cán bộ lãnh đạo,

chủ chốt đồng thời nhấn mạnh sự cần thiết cụ thể hóa cơ cấu và tiêu chuẩn từng chức

danh đối với mỗi cơ quan, tổ chức, từng cấp, từng ngành.

- Đề tài khoa học xã hội cấp Nhà nước giai đoạn 2001-2005, mã số KX.05.07,

Cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức [135]. Các nhà khoa

học đã chỉ rõ cơ sở lý luận về công tác xây dựng đội ngũ CB, CC trong giai đoạn hiện

nay. Đề tài cũng nghiên cứu, tổng kết và đánh giá thực trạng đội ngũ CB, CC và thể

chế quản lý CB, CC hiện nay. Các tác giả đã trình bày và phân tích tư tưởng của Chủ

tịch Hồ Chí Minh về cán bộ và công tác xây dựng đội ngũ cán bộ, nguyên tắc đổi mới

cán bộ của Đảng ta giai đoạn hiện nay.

- Sách “Hồ Cẩm Đào, con đường phía trước" [117]. Các tác giả cho rằng, Đảng

Cộng sản Trung Quốc đã sớm phát hiện và tạo điều kiện thuận lợi cho một nhân tài trẻ

tuổi thăng tiến vượt cấp, như trường hợp Tổng Bí thư - Chủ tịch nước Hồ Cẩm Đào.

Con đường đi đến đỉnh cao quyền lực của ông do nhiều yếu tố tạo nên: thứ nhất là tài

năng, thứ hai là sự phấn đấu, thứ ba là thời thế, thứ tư là sự sớm phát hiện, tiến cử, nâng

đỡ dìu dắt của một số lãnh đạo cấp cao thế hệ trước. Theo tác giả, tài năng của Hồ Cẩm

Đào có điều kiện phát triển rất thuận lợi vì có đường lối "bốn hóa" cán bộ của Đặng

Tiểu Bình: cách mạng hóa, trẻ hóa, tri thức hóa và chuyên môn hóa. Trong đó, đường

lối cách mạng hóa luôn được đặt lên vị trí hàng đầu. Bởi vì, trong công tác cán bộ, dù

9

làm công tác lựa chọn, cất nhắc hay đào tạo, bồi dưỡng... đều phải chú ý coi trọng mặt

chính trị và lý luận về chủ nghĩa xã hội (CNXH) đối với cán bộ. Tài rất cần, nhưng

chưa đủ, mà còn phải có đức. Đồng thời, phải trẻ hóa, trí thức hóa, chuyên môn hóa cán

bộ thì mới có cán bộ kế tục sự nghiệp cách mạng khi đất nước bước vào thời kỳ mới.

Tùy từng nơi, từng thời gian cụ thể mà nhấn mạnh đường lối nào, nhưng phải luôn kết

hợp đồng bộ cả 4 đường lối trong công tác cán bộ.

- Chu Phúc Khởi, Xuất phát từ đại cục, hướng tới lâu dài, cố gắng xây dựng

một đội ngũ cán bộ dự bị tố chất cao [103].Tác giả đã làm rõ những vấn đề như ý nghĩa

chiến lược của việc xây dựng đội ngũ cán bộ dự bị và đề xuất các giải pháp có giá trị

tham khảo tốt cho luận án như: xuất phát từ thực tiễn của việc xây dựng ban lãnh đạo,

phải xây dựng quy hoạch thiết thực, khả thi về xây dựng đội ngũ cán bộ dự bị; tăng

cường xây dựng chế độ hóa, quy phạm hóa chặt chẽ về tiêu chuẩn, quy trình và yêu cầu

đối với các khâu trong công tác cán bộ dự bị; đảm bảo số lượng và chất lượng cán bộ

dự bị, có kế hoạch tuyển chọn cán bộ dự bị khi đã chín muồi, kiên trì dự trữ kết hợp với

sử dụng.

- Bùi Đình Phong, Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và công tác cán bộ[132].

Tác giả đã tập trung nghiên cứu quá trình hình thành và những nội dung tư tưởng cơ

bản của Hồ Chí Minh về cán bộ và công tác cán bộ. Tác giả chỉ ra một số nội dung cơ

bản về công tác cán bộ trong tư tưởng Hồ Chí Minh: vai trò, vị trí cán bộ trong sự

nghiệp cách mạng, yêu cầu của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với cán bộ cách mạng như:

đạo đức của người cán bộ cách mạng; tầm quan trọng của việc huấn luyện, đào tạo cán

bộ đối với sự sống còn của Đảng. Tác giả nhấn mạnh, cần vận dụng tư tưởng Hồ Chí

Minh về cán bộ và công tác cán bộ trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước; cần

đổi mới tư duy xây dựng tiêu chuẩn chức danh cho từng cán bộ trong tình hình mới.

Đây là tài liệu có giá trị tham khảo tốt để tác giả vận dụng vào việc đánh giá vị trí vai

trò của đội ngũ CBLĐ, QL của HTCT cấp huyện hiện nay.

- Trương Thị Thông, “Bệnh quan liêu trong công tác cán bộ ở nước ta hiện nay

- thực trạng, nguyên nhân và giải pháp” [155]. Cuốn sách cung cấp cho người đọc

nguồn gốc hình thành bệnh quan liêu trong công tác cán bộ. Bản chất và những biểu

hiện của bệnh quan liêu trong tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, trong kiểm tra,

đánh giá, bố trí, chính sách cán bộ. Đặc biệt, tác giả còn luận giải hết sức thuyết phục

và phân tích sâu sắc nguồn gốc của bệnh quan liêu; khẳng định bệnh quan liêu do nhiều

10

nguyên nhân, song nguyên nhân chủ yếu nhất vẫn xuất phát từ các khâu trong công tác

cán bộ. Từ việc chỉ ra nguyên nhân và biểu hiện của bệnh quan liêu, các tác giả đã đưa

ra được các biện pháp chủ yếu để đề phòng, khắc phục: đổi mới phương thức lãnh đạo

của Đảng, xác định rõ trách nhiệm, quyền hạn của các cá nhân trong công tác cán bộ…

Đây là cuốn sách có giá trị tham khảo đối với tác giả trong việc đề xuất những giải

pháp khắc phục những yếu kém, lệch lạc trong công tác phát triển đội ngũ CBLĐ, QL

của HTCT cấp huyện ở tỉnh Bắc Ninh hiện nay.

1.1.2.2. Các công trình nghiên cứu về tiêu chuẩn, phẩm chất, năng lực cán bộ

lãnh đạo, quản lý

- Bùi Thị Ngọc Mai, Trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan hành chính nhà

nước [106]. Tác giả luận án đã chỉ ra vai trò của người đứng đầu trong cơ quan hành

chính nhà nước, đồng thời nêu và phân tích hai yêu cầu đối với người đứng đầu cơ quan

hành chính nhà nước. Thứ nhất, người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước phải có

đạo đức công vụ, văn hóa công vụ ở mức độ cao. Họ phải làm hết khả năng của bản thân,

biết chia sẻ, đồng cảm, lo nỗi lo của nhân dân. Người lãnh đạo phải luôn xác định việc

đáng làm, nên làm và cần phải làm với nhân dân, với xã hội trên cơ sở tự ý thức về vai

trò, sứ mệnh, bổn phận của bản thân. Thứ hai, người đứng đầu phải có năng lực - sự kết

hợp của ba yếu tố kiến thức, kỹ năng và thái độ. Người đứng đầu phải có kiến thức toàn

diện, phong phú, chuyên sâu về chuyên môn, thạo chính trị, tinh thông pháp luật; vừa có

kỹ năng lãnh đạo, vừa có kỹ năng quản lý, tức là họ vừa phải có kỹ năng ra quyết định,

dẫn dắt, truyền cảm hứng, vừa thành thạo việc lập kế hoạch, tổ chức, triển khai, kiểm tra.

Về thái độ, người đứng đầu phải luôn có tinh thần dám làm, dám chịu trách nhiệm, là

người “đứng mũi chịu sào”, đương đầu với khó khăn, thách thức để thực hiện nhiệm vụ

được giao đạt hiệu quả tối ưu nhất.

- Cao Khoa Bảng, Chất lượng đội ngũ cán bộ diện BTV Thành ủy Hà Nội quản lý

trong giai đoạn hiện nay [51]. Luận án đã đưa ra các khái niệm về đội ngũ cán bộ diện

BTV Thành ủy Hà Nội quản lý và chất lượng đội ngũ cán bộ diện BTV Thành ủy quản

lý. Các yếu tố cấu thành chất lượng đội ngũ cán bộ gồm: số lượng, cơ cấu, trình độ,

phẩm chất, năng lực, phong cách làm việc và chất lượng hoàn thành chức trách nhiệm vụ

được giao. Đồng thời, tác giả đưa ra 07 nhóm giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đội

ngũ cán bộ diện BTV Thành ủy Hà Nội quản lý trong giai đoạn hiện nay. Luận án có giá

trị tham khảo tốt cho tác giả xây dựng khung lý thuyết và gợi ý một số giải pháp phát

triển đội ngũ CBLĐ, QL của HTCT cấp huyện ở tỉnh Bắc Ninh.

11

- Vũ Thanh Sơn, Lãnh đạo tư duy đột phá toàn diện ở Quảng Ninh: cơ sở khoa

học và bài học kinh nghiệm [148]. Tác giả chỉ ra các phẩm chất người lãnh đạo cần có là:

đủ năng lực nắm bắt thời vận, biết chuyển chúng thành những chiến lược, chính sách và

kịp thời, quyết liệt chỉ đạo, triển khai để đạt được mục tiêu đề ra. Đồng thời, người lãnh

đạo cũng cần có uy tín để truyền cảm hứng cho đồng nghiệp, nhân viên dưới quyền để

họ cùng đồng hành theo đuổi mục tiêu đến cùng. Thông qua những kết quả đổi mới toàn

diện ở tỉnh Quảng Ninh về phương thức lãnh đạo của Đảng, tinh giản bộ máy, biên chế,

cải cách thể chế, cơ chế, chính sách, tác giả đã đưa ra bốn kinh nghiệm cho các địa

phương: thứ nhất, đề cao vai trò tiên phong của người đứng đầu và sức mạnh đoàn kết

của tập thể lãnh đạo; thứ hai, tư duy đột phá phải phù hợp với quy luật khách quan và

thích ứng với điều kiện thực tiễn địa phương; thứ ba, chỉ đạo hành động quyết liệt khi đã

có chủ trương đúng và thứ tư, duy trì động lực đổi mới, truyền cảm hứng cho tương lai.

- Thanh Toàn, Năng lực, phẩm chất người lãnh đạo trong sự nghiệp công nghiệp

hóa, hiện đại hóa [167]. Tác giả đã chỉ ra các phẩm chất, năng lực cần có của một người

lãnh đạo trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước gồm: bản lĩnh chính trị vững vàng, trung

thành với lý tưởng cách mạng, với chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh; có

tư duy lãnh đạo, năng lực định hướng hoạt động cho tập thể; có năng lực tổ chức; năng

lực xử lý đúng đắn các mối quan hệ; có nghệ thuật giao tiếp và ứng xử linh hoạt; độ

lượng, nhân hậu, yêu thương cấp dưới. Những phẩm chất, năng lực của người lãnh đạo

mà tác giả chỉ ra là tài liệu tham khảo tốt cho tác giả xây dựng khung lý thuyết về phát

triển đội ngũ CBLĐ, QL của HTCT cấp huyện ở tỉnh Bắc Ninh hiện nay.

- J.C.Maxwell, Phát triển kỹ năng lãnh đạo [100]. Kỹ năng lãnh đạo là một yếu

tố trọng yếu trong công tác quản lý. Một nhà quản lý giỏi phải có các kỹ năng lãnh đạo.

Tương tự, một nhà lãnh đạo hiệu quả cũng phải thực hiện tốt vai trò của một nhà quản lý.

J.C. Maxwell trình bày 5 cấp độ lãnh đạo: bao gồm: cấp độ 1: chức vị (mọi người đi theo

bạn vì họ buộc phải theo); cấp độ 2: sự chấp thuận (mọi người đi theo bạn vì họ muốn

thế); cấp độ 3: định hướng kết quả (mọi người đi theo bạn vì những gì bạn đã làm cho

họ); cấp độ 4: phát triển con người (mọi người đi theo bạn vì những gì bạn đã làm cho

họ); cấp độ 5: cá nhân (mọi người đi theo bạn vì bạn là ai và bạn đại diện cho điều gì). Từ

đó, ông chỉ ra những yếu tố cần thiết cũng như những vấn đề mà các nhà lãnh đạo hay

phải đối mặt, cùng với những giải pháp rất cụ thể để giúp rèn luyện các tố chất lãnh đạo

hay giải quyết vấn đề.

12

- Ngô Kim Ngân, Lâm Quốc Tuấn, Phong cách làm việc của người Bí thư huyện

ủy hiện nay - qua khảo sát vùng đồng bằng sông Hồng [129]. Các tác giả đã trình bày:

HTCT cấp huyện ở đồng bằng sông Hồng và vai trò của người bí thư huyện ủy; quan

niệm và tiêu chí đánh giá phong cách làm việc của người bí thư huyện ủy; thực trạng về

phong cách làm việc của đội ngũ bí thư huyện ủy của nước ta hiện nay (qua khảo sát ở

đồng bằng sông Hồng); mục tiêu, phương hướng và giải pháp nhằm xây dựng phong

cách làm việc khoa học của đội ngũ bí thư huyện ủy. Cuốn sách có giá trị tham khảo tốt

trong việc xây dựng tiêu chí đánh giá sự phát triển đội ngũ CBLĐ, QL của HTCT tỉnh

Bắc Ninh hiện nay.

- Trần Khắc Việt, Phong cách làm việc của người đứng đầu [176]. Phần đầu tác

giả đưa ra những yêu cầu đối với phong cách làm việc của người đứng đầu và giải thích

vì sao phải quan tâm, rèn luyện phong cách làm việc đối với người đứng đầu. Trong

phần 2, tác giả phân tích 05 đặc trưng chủ yếu trong phong cách làm việc của người

đứng đầu, bao gồm: thứ nhất, sự thống nhất giữa tính đảng, tính nguyên tắc cao với tính

năng động, sáng tạo, sự nhạy bén với cái mới; thứ hai, sự thống nhất giữa tính cách mạng

với tính khoa học; thứ ba, sự thống nhất giữa cách làm việc dân chủ, tập thể với tính

quyết đoán và tinh thần trách nhiệm cá nhân cao; thứ tư, sự thống nhất giữa tri thức và

hành động, nói đi đôi với làm; thứ năm, sâu sát cơ sở, thường xuyên liên hệ mật thiết với

nhân dân. Từ đó, tác giả khẳng định: để có phong cách làm việc đúng đắn, mỗi người

đứng đầu phải học tập, tu dưỡng một cách toàn diện cả về phẩm chất chính trị, đạo đức,

lối sống, không ngừng nâng cao trình độ lý luận, chuyên môn nghiệp vụ. Mặt khác, các

tổ chức đảng, cơ quan nhà nước có trách nhiệm giáo dục, tạo môi trường thuận lợi và

giúp đỡ người đứng đầu không ngừng hoàn thiện phong cách làm việc.

- Phan Hữu Tích, Xây dựng phẩm chất, năng lực đội ngũ cán bộ, công chức đáp

ứng yêu cầu thời kỳ mới [166]. Tác giả đã chỉ ra và phân tích một số vấn đề trong xây

dựng đội ngũ CB, CC thời kỳ mới. Đối với công tác xây dựng tiêu chuẩn chức danh và

tiêu chí đánh giá CB, CC, về cơ bản các cơ quan, địa phương đã cụ thể hóa tiêu chuẩn

cán bộ song các tiêu chuẩn còn chung chung, định tính, chưa được lượng hóa; nhiều nơi

xây dựng tiêu chí đánh giá theo cách tính điểm, thiếu rõ ràng, không mang tính thước đo.

Chính vì vậy, việc đánh giá cán bộ phụ thuộc rất lớn vào cảm tính để xếp loại cán bộ

“hoàn thành tốt nhiệm vụ” hay “hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ”. Còn xảy ra tình trạng,

người hoàn thành tốt nhiệm vụ chuyên môn nhưng do tính cách, khẩu khí và hay phải

13

tiếp xúc, va chạm nên bị đánh giá thấp hơn những người không động chạm đến ai, dĩ hòa

vi quý. Do đó, tác giả đề xuất cần xây dựng bộ tiêu chí đánh giá phải gắn với bộ tiêu

chuẩn chức danh để CB, CC làm căn cứ đối chiếu, tự xác định mức độ hoàn thành nhiệm

vụ của mình.

- Đỗ Minh Cương, Mô hình, tiêu chuẩn người lãnh đạo thời kỳ đẩy mạnh hội

nhập quốc tế [60]. Tác giả đưa ra quan điểm về tiêu chuẩn người lãnh đạo gồm có phẩm

chất và năng lực. Tuy nhiên, cách tiếp cận và giải quyết vấn đề của các giả không theo

trình tự về yêu cầu, nhiệm vụ mà theo chuỗi lôgic: công việc, nghề nghiệp - nhân cách -

giá trị - hệ tiêu chuẩn, tiêu chí về cán bộ lãnh đạo. Cách tiếp cận này vạch ra được mối

liên hệ bản chất giữa các giá trị văn hóa và bản sắc dân tộc với con người chuẩn mực

nghề nghiệp và bộ tiêu chuẩn, tiêu chí để xây dựng, đánh giá con người theo các hệ tiêu

chuẩn đó. Với cách tiếp cận trên, tác giả đã xây dựng bộ tiêu chuẩn của người lãnh đạo ở

Việt Nam hiện nay gồm 5 chữ T là tâm, tầm, tài, tốc, thành. Gắn với mỗi chữ lại là tập

hợp các chuẩn mực, tiêu chuẩn khác nhau mà người lãnh đạo cần phải hội tụ đủ.

- Ngô Ngọc Thắng, Xây dựng tầm nhìn cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo ở nước ta

[151]. Tác giả khẳng định đối với người lãnh đạo, đứng đầu tổ chức thì một trong những

yêu cầu đầu tiên là phải có tầm nhìn xa trông rộng, có hướng đi đúng với mục tiêu và

chiến lược phù hợp. Khi người lãnh đạo có tầm nhìn đúng đắn, có thể dẫn đến thành

công phải bao hàm các khía cạnh đó là làm rõ được vị thế của tổ chức trong tương lai; vẽ

được bức tranh mới của nội bộ tổ chức trong tương lai; xác định được hướng đi đúng đắn

và lộ trình thực hiện; gây được hứng khởi và được chia sẻ bởi tất cả các thành viên trong

tổ chức và đạt đến mục tiêu. Tuy nhiên, đội ngũ CBLĐ, QL ở nước ta, nhất là các cấp,

ngành, địa phương và cơ sở, có điểm yếu và thiếu nhất là tầm nhìn. Những chiến lược,

quy hoạch phát triển của bộ, ngành, địa phương xảy ra phổ biến đó là hoặc sớm lạc hậu

so với yêu cầu và xu thế phát triển chung của đất nước, hoặc thiếu thực tiễn, không khả

thi… Tác giả cũng đã chỉ ra những yếu tố cản trở, che khuất tầm nhìn của cán bộ lãnh

đạo, từ đó đề xuất các giải pháp nhằm đào tạo, rèn luyện kỹ năng xây dựng tầm nhìn cho

cán bộ lãnh đạo trong thời kỳ mới.

1.1.2.3. Các công trình nghiên cứu liên quan đến thẩm quyền, trách nhiệm của

cán bộ lãnh đạo, quản lý

- Bùi Đức Lại, Về trách nhiệm người đứng đầu trong công tác cán bộ [104]. Tác

giả đi sâu phân tích chế độ người đứng đầu trong hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa

14

(XHCN) trước đây. Tác giả cho rằng, ở Việt Nam, do đặc thù Đảng duy nhất lãnh đạo

HTCT và toàn xã hội, người đứng đầu được giao quyền rất hạn chế, không tương xứng

với vị trí đứng đầu của họ. Thông qua hai chức danh bí thư cấp ủy và chủ tịch ủy ban

nhân dân (UBND), tác giả nêu ra 03 luận cứ để chứng minh làm rõ. Tiếp đến, tác giả nêu

ra 03 điểm vướng mắc trong quyền và trách nhiệm của cá nhân nói chung, của người

đứng đầu nói riêng như: không tương thích giữa quyền hạn và trách nhiệm; không tương

thích giữa quyền hạn thực tế và quy định mang tính pháp quy; công tác cán bộ trong điều

kiện đặc thù vô hình chung tạo môi trường cho những hành vi lạm dụng, trục lợi; những

việc làm bất chính của những người không tự giác... Cuối cùng, tác giả đề xuất nghiên

cứu, thực hiện một số cải tiến, đổi mới vấn đề này như sau: một là, thực hiện phân công,

phân cấp mạnh hơn về quản lý cán bộ, tạo điều kiện cho các tổ chức và người đứng đầu

cấp dưới thực hiện quyền về cán bộ tương thích với trách nhiệm được giao; hai là, tăng

cường sự lãnh đạo của Đảng thông qua cá nhân đảng viên được giới thiệu để được bầu

giữ cương vị đứng đầu tổ chức nhà nước.

- Nguyễn Ngọc Ánh, Thực hiện thẩm quyền, trách nhiệm của Bí thư Huyện ủy ở

đồng bằng Sông Hồng[1]. Tác giả luận án đã đưa ra được khái niệm về thẩm quyền,

trách nhiệm của Bí thư Huyện ủy. Tác giả chỉ ra Bí thư Huyện ủy ở Đồng bằng sông

Hồng thực hiện những thẩm quyền chủ yếu nào và tương ứng với thẩm quyền là các

trách nhiệm cụ thể. Luận án đã làm rõ được thực trạng việc thực hiện thẩm quyền, trách

nhiệm của Bí thư Huyện ủy đồng thời đưa ra sáu giải pháp để thực hiện tốt thẩm quyền,

trách nhiệm của Bí thư Huyện ủy, đó là: Thứ nhất, cần nâng cao nhận thức về thẩm

quyền, trách nhiệm và thực hiện thẩm quyền trách nhiệm của Bí thư huyện ủy; thứ hai,

xây dựng quy định, quy chế xác định rõ thẩm quyền, trách nhiệm của Bí thư Huyện ủy;

ba là, xây dựng hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực; có chế tài xử lý nghiêm minh, kịp

thời đối với trường hợp lợi dụng, lạm dụng chức vụ, quyền hạn để trục lợi; bốn là, cụ thể

hóa tiêu chuẩn Bí thư Huyện ủy theo yêu cầu thực hiện thẩm quyền, trách nhiệm, tạo sự

chuyển biến mạnh mẽ trong công tác đào tạo, bồi dưỡng, đánh giá, lựa chọn, bố trí chức

danh Bí thư Huyện ủy; năm là, xây dựng chế độ tự học tập, rèn luyện nâng cao phẩm

chất, trình độ, năng lực của Bí thư Huyện ủy; sáu là, tăng cường hướng dẫn, kiểm tra,

giám sát của cấp trên, của MTTQ, các đoàn thể CT-XH và nhân dân địa phương. Những

giải pháp mà tác giả đưa ra cơ bản chỉ tập trung vào các nội dung của công tác cán bộ.

Tuy nhiên, về thực hiện thẩm quyền, trách nhiệm của Bí thư Huyện ủy còn phụ thuộc rất

lớn vào thái độ, văn hóa và tính kỷ luật của bản thân cá nhân. Nếu bước đầu, tổ chức lựa

15

chọn được cán bộ phù hợp thì việc thực hiện thẩm quyền, trách nhiệm của Bí thư Huyện

ủy sẽ không gặp nhiều bất cập.

- Vũ Văn Phúc, Thẩm quyền, trách nhiệm của người đứng đầu cấp ủy, chính

quyền trong hệ thống chính trị hiện nay [136]. Cuốn sách là tập hợp 23 bài tham luận tại

hội thảo được chọn lọc và sắp xếp thành 03 chương. Nội dung cuốn sách bàn luận và

kiến giải nhiều vấn đề về thẩm quyền, trách nhiệm cá nhân người đứng đầu cấp ủy, chính

quyền và mối quan hệ với tập thể cấp ủy, cơ quan, đơn vị. Trên cơ sở đó các nhà nghiên

cứu rút ra những bài học kinh nghiệm, gợi mở nhiều vấn đề nhằm nâng cao khả năng

thực thi hiệu quả thẩm quyền, trách nhiệm người đứng đầu cấp ủy, chính quyền. Tuy

nhiên, vì là tập hợp của các bài tham luận, nên cuốn sách chỉ dừng lại ở việc bàn luận

chung, riêng lẻ của từng bài viết, chưa có tính hệ thống, logic giữa các bài viết.

- Nguyễn Quốc Tuấn, Trách nhiệm chính trị của cán bộ lãnh đạo từ thực tiễn

quận Đống Đa, thành phố Hà Nội [171]. Tác giả đưa ra cách hiểu trách nhiệm chính trị

và trách nhiệm chính trị của cán bộ lãnh đạo. Một là, trách nhiệm chính trị của cán bộ

lãnh đạo là những việc mà cán bộ lãnh đạo nên làm, phải làm, bao gồm việc tự đứng ra

nhận và chịu trách nhiệm liên đới về những vi phạm do thành viên khác của cơ quan nhà

nước gây ra, trong vai trò là người lãnh đạo của cơ quan Nhà nước. Hai là, trách nhiệm

chính trị của cán bộ lãnh đạo là việc chịu trách nhiệm bất lợi, áp dụng các biện pháp xử lí

của pháp luật về kết quả thực hiện không tốt những việc nên làm, phải làm, được làm của

người cán bộ lãnh đạo". Tác giả lựa chọn phân tích trách nhiệm chính trị của CBLĐ, QL

trong một số lĩnh vực như lĩnh vực quản lý và sử dụng CB, CC như trong công tác bố trí,

sử dụng cán bộ, trong việc tuyển dụng, bổ nhiệm CB, CC; lĩnh vực phòng, chống tham

nhũng; trong lĩnh vực phát triển KT-XH. Từ đó, tác giả đưa ra một số giải pháp trong đó

có giải pháp như: xử lý nghiêm minh hành vi vi phạm pháp luật của cán bộ lãnh đạo;

hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm chính trị của cán bộ lãnh đạo; đổi mới hoạt động

đánh giá kết quả thực thi trách nhiệm chính trị của cán bộ lãnh đạo; nâng cao hiệu quả

giám sát đối với việc thực hiện trách nhiệm chính trị của cán bộ lãnh đạo...

1.1.3. Các công trình nghiên cứu về thực trạng phát triển đội ngũ cán bộ lãnh

đạo, quản lý

1.1.3.1. Các công trình nghiên cứu về tạo nguồn, đào tạo và bồi dưỡng cán bộ

lãnh đạo, quản lý

Các nhà khoa học đều khẳng định việc tạo nguồn, đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ

CBLĐ, QL là nội dung rất quan trọng của công tác cán bộ; muốn xây dựng đội ngũ

16

CBLĐ, QL các cấp, các ngành, địa phương đáp ứng yêu cầu thực tiễn, yêu cầu bức thiết

phải tạo nguồn tốt, gắn liền với đào tạo, bồi dưỡng có kế hoạch.

- Đề tài khoa học cấp bộ, Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý

theo chức danh tại Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh[173]. Các tác

giả đã chỉ ra yêu cầu cấp thiết hiện nay về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nhất là CBLĐ, QL

theo chức danh; thực trạng và những vấn đề đặt ra cần giải quyết của công tác đào tạo,

bồi dưỡng CBLĐ, QL theo chức danh tại Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ

Chí Minh từ 2005; đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác đào tạo,

bồi dưỡng như: xác định đối tượng và mục tiêu đào tạo; đổi mới chương trình đào tạo;

nâng cao chất lượng giảng viên, báo cáo viên; mỗi chương trình đào tạo phù hợp với

từng đối tượng và từng chức danh cụ thể. Kết quả nghiên cứu của đề tài có giá trị tham

khảo tốt để tác giả luận án làm rõ cơ sở lý luận và gợi ý giải pháp đẩy mạnh công tác đào

tạo, bồi dưỡng CBLĐ, QL của HTCT cấp huyện ở tỉnh Bắc Ninh hiện nay.

- Đề tài "Tạo nguồn cán bộ hệ thống chính trị cơ sở ở các tỉnh Tây Bắc nước ta

hiện nay" [97]. Các tác giả đưa ra khái niệm và cách tiếp cận vấn đề tạo nguồn cán bộ

chủ chốt, kinh nghiệm tạo nguồn; đặc điểm của HTCT cơ sở các tỉnh Tây Bắc ảnh

hưởng đến xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã. Các tác giả đã phân tích, đánh giá

thực trạng công tác tạo nguồn của cán bộ chủ chốt trong HTCT cấp xã ở các tỉnh Tây

Bắc trong những năm đổi mới. Đề tài cũng tìm hiểu kinh nghiệm thực tiễn trong việc tạo

nguồn cán bộ chủ chốt của HTCT cơ sở ở các tỉnh Tây Bắc qua việc nghiên cứu hoạt

động này ở một số trường chính trị trong khu vực. Đặc biệt, các tác giả luận giải vị trí,

tầm quan trọng của việc tạo nguồn cán bộ của HTCT cơ sở trong việc xây dựng một đội

ngũ CBLĐ, QL đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH ở Tây Bắc hiện nay. Từ đó, các tác giả đã

đề xuất những giải pháp đẩy mạnh công tác tạo nguồn cán bộ HTCT cơ sở ở các tỉnh

Tây Bắc trong thời gian tới.

- Khăm Phăm Vông Pha Chăn, "Đào tạo đội ngũ cán bộ lãnh đạo của hệ thống

chính trị ở Cộng hòa Dân chủ nhân dân Lào hiện nay" [101]. Tác giả đã đưa ra khái

niệm đào tạo cán bộ lãnh đạo của HTCT là quá trình đào tạo nhằm nâng cao trình độ

chuyên môn, nghiệp vụ, phẩm chất chính trị của đội ngũ cán bộ góp phần nâng cao chất

lượng và hiệu quả hoạt động của HTCT. Luận án tập trung nghiên cứu công tác đào tạo

lý luận chính trị - hành chính cao cấp cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo trung, cao cấp của

nước Cộng hòa Dân chủ nhân dân Lào tại Học viện chính trị - Hành chính quốc gia và

17

các trường chính trị - hành chính cấp tỉnh. Tác giả đã tập trung phân tích, làm rõ các quan

điểm của các nhà kinh điển Mác - Lênin và Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản

Việt Nam, quan điểm của Đảng Nhân dân cách mạng Lào về công tác đào tạo, bồi dưỡng

cán bộ nói chung và đối với đội ngũ cán bộ lãnh đạo nói riêng. Đây được coi như điểm

xuất phát để tác giả nhận thức đúng đắn vấn đề đặt ra nắm được thực chất của quá trình

đào tạo, bồi dưỡng cán bộ trong giai đoạn hiện nay. Tác giả tập trung làm rõ thực trạng,

chỉ ra nguyên nhân của những ưu điểm, khuyết điểm trong công tác đào tạo đội ngũ cán

bộ lãnh đạo của Đảng Nhân dân cách mạng Lào. Từ đó, tác giả đã đề xuất một số giải

pháp đối với Trung ương, tỉnh và các trường chính trị - hành chính nhằm nâng cao chất

lượng đào tạo, bồi dưỡng cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đổi

mới ở Lào, trong đó có các giải pháp gắn đào tạo, bồi dưỡng cán bộ với quy hoạch và sử

dụng cán bộ; đổi mới nội dung, chương trình, phương thức đào tạo bồi dưỡng cán bộ đáp

ứng yêu cầu nhiệm vụ trong giai đoạn mới; kết hợp đào tạo ở trường lớp với đào tạo từ

hoạt động thực tiễn; đẩy mạnh hợp tác quốc tế trong đào tạo đội ngũ cán bộ lãnh đạo.

- Nguyễn Văn Mạnh, Tiêu chí đánh giá và điều kiện bảo đảm chất lượng đào tạo,

bồi dưỡng cán bộ là người dân tộc thiểu số [111]. Tác giả đã phân tích và làm rõ hai tiêu

chí để đánh giá chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ: kết quả học tập, rèn luyện của cán

bộ trong mỗi khóa đào tạo, bồi dưỡng và hiệu quả công tác sau đào tạo, bồi dưỡng. Sau

đào tạo, bồi dưỡng, cán bộ phải nắm vững các kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ; có kỹ

năng giải quyết vấn đề, kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn; kỹ năng điều phối

công việc; có trách nhiệm trong công việc được giao, có sự tự tin, linh hoạt, tinh thần hợp

tác tốt...và cuối cùng là khả năng hoàn thành nhiệm vụ cao hơn.

1.1.3.2. Các công trình nghiên cứu về công tác quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản

lý - Trần Đình Hoan, Đánh giá, quy hoạch, luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý thời kỳ

công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước [91]. Đây là kết quả nghiên cứu của đề tài khoa

học độc lập cấp Nhà nước "Những vấn đề lý luận và thực tiễn về đánh giá, quy hoạch,

luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất

nước" do PGS, TS Trần Đình Hoan làm chủ nhiệm. Tác giả đã nghiên cứu cơ sở khoa

học của công tác quy hoạch cán bộ trên phương diện mục tiêu, nguyên tắc, thẩm quyền,

đối tượng quy hoạch cán bộ. Nghiên cứu thực trạng công tác quy hoạch cán bộ, tác giả

khẳng định: công tác quy hoạch CBLĐ, QL, bên cạnh những kết quả đạt được, còn bộc

lộ hạn chế, bất cập. Hiện tượng phổ biến nhất là nhầm lẫn công tác quy hoạch với công

tác nhân sự và xử lý mối quan hệ giữa công tác quy hoạch cán bộ với công tác nhân sự 18

chưa tốt nên lúng túng về cách làm. Đặc biệt, các cấp ủy đảng chưa có phương án giải

quyết mối quan hệ giữa quy hoạch cán bộ trong HTCT và ngoài HTCT, dẫn tới quy

hoạch cán bộ chưa thể hiện tầm chiến lược trước sự thay đổi của xã hội, chưa thể hiện rõ

một nội dung cơ bản là phát hiện bồi dưỡng và sử dụng người tài. Tác giả trăn trở đặt ra

các câu hỏi: có nên mở rộng quy hoạch tới các tầng lớp doanh nhân, chủ trang trại, tiểu

chủ và đội ngũ cán bộ đoàn thể, mặt trận, Hội đồng nhân dân (HĐND)? Những nhân tài

ngoài Đảng khi hội đủ các tiêu chuẩn cơ bản có thể dự bị hay kế cận vào một số vị trí chủ

chốt, nhất là ở cấp cơ sở? Từ việc nghiên cứu thực trạng và để trả lời cho sự trăn trở trên,

tác giả đưa ra quan điểm, giải pháp đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác quy hoạch

CBLĐ, QL thời kỳ CNH, HĐH đất nước. Tác giả đưa ra 03 nhóm giải pháp có tính khả

thi như: làm tốt việc tạo nguồn cán bộ để đưa vào quy hoạch; đổi mới quy trình và

phương pháp làm quy hoạch; hoàn thiện quy trình, trình tự xử lý giữa quy hoạch cán bộ

với công tác nhân sự. Đây là công trình có giá trị tham khảo tốt đối với luận án.

- Đỗ Minh Cương, Quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý [59]. Tác giả đã trình bày

cơ sở lý luận và thực tiễn của việc nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác Quy hoạch

CBLĐ, QL đáp ứng yêu cầu của thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. Tác giả cũng

chỉ ra thực trạng, những hạn chế trong công tác quy hoạch cán bộ và phân tích nguyên

nhân của những yếu kém do: nhận thức và tư tưởng của chủ thể và đối tượng trong công

tác quy hoạch của một số đơn vị chưa đúng đắn, đầy đủ, thống nhất; chưa thực hiện tốt

nguyên tắc tập trung dân chủ, nguyên tắc quy hoạch "mở" và "động" trong công tác quy

hoạch; thẩm quyền và trách nhiệm của tập thể lãnh đạo, cá nhân người đứng đầu chưa

được quy định rõ ràng... Trên cơ sở đó, tác giả đã đề xuất một số giải pháp nhằm nâng

cao chất lượng công tác quy hoạch lãnh đạo, quản lý trong thời kỳ mới.

- Trần Thị Thanh Nhàn, Quy hoạch cán bộ diện BTV tỉnh, thành ủy quản lý ở

đồng bằng Bắc bộ giai đoạn hiện nay [130]. Tác giả phân tích đặc điểm chủ yếu của các

tỉnh, thành phố ở đồng bằng Bắc Bộ hiện nay; đặc điểm của đội ngũ cán bộ diện BTV

tỉnh, thành ủy quản lý; xây dựng khái niệm quy hoạch cán bộ diện BTV tỉnh ủy quản lý;

phân tích rõ thực trạng, chỉ ra nguyên nhân, kinh nghiệm bổ ích của việc quy hoạch cán

bộ của các tỉnh, thành phố ở đồng bằng Bắc bộ hiện nay. Từ đó, tác giả đưa ra một số

giải pháp mới: thực hiện nghiêm những yêu cầu mang tính nguyên tắc trong quy hoạch

cán bộ; phát huy vai trò, trách nhiệm của các cấp có thẩm quyền trong định hướng, phê

duyệt và bổ sung quy hoạch cán bộ diện BTV tỉnh, thành ủy quản lý.

19

1.1.3.3. Các công trình nghiên cứu về công tác đánh giá cán bộ lãnh đạo, quản lý

- Thân Minh Quế, Nâng cao chất lượng đánh giá cán bộ, công chức từ thực tiễn

ở Bắc Giang[138]. Bài báo khẳng định: công tác đánh giá cán bộ có vai trò quan trọng,

có tính chất quyết định trong công tác cán bộ. Thông qua đánh giá đã chỉ ra ưu, khuyết

điểm của CBCC để có căn cứ quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí, sử dụng CBCC.

Việc đánh giá cán bộ đã được các cấp ủy, tổ chức Đảng, thủ trưởng các cơ quan, đơn vị

trong tỉnh nắm vững, duy trì thường xuyên, có nền nếp trong đánh giá hằng năm, theo

nhiệm kỳ và trước khi giới thiệu ứng cử, bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, luân chuyển, khen

thưởng, kỷ luật cán bộ. Tuy nhiên, đánh giá cán bộ còn bộc lộ nhiều khuyết điểm, hạn

chế. Quan niệm, cách làm còn hình thức, giản đơn, cảm tính, chung chung. Từ đó tác giả

đề xuất năm biện pháp nhằm thực hiện tốt việc đánh giá cán bộ.

- Ngô Văn Thảng, Đánh giá đội ngũ cán bộ chủ chốt diện BTV Tỉnh ủy Phú Thọ

quản lý trong giai đoạn hiện nay [156]. Tác giả phân tích làm rõ đánh giá cán bộ là một

khâu quan trọng của công tác cán bộ. Đây là khâu tiền đề, định hướng cho việc bố trí, sắp

xếp, sử dụng, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, bổ nhiệm, luân chuyển, khen thưởng, kỷ

luật cán bộ. Giải pháp nâng cao chất lượng công tác đánh giá cán bộ là một trong những

giải pháp quan trọng trong công tác cán bộ nói chung và công tác xây dựng đội ngũ cán

bộ chủ chốt diện BTV Tỉnh ủy quản lý nói riêng. Tác giả đề xuất một số giải pháp: các

cấp ủy đảng phải tập trung chỉ đạo làm tốt công tác tổng kết thực tiễn và ngày càng bổ

sung, hoàn thiện quy chế, quy trình tiến hành nhằm nâng cao chất lượng công tác đánh

giá cán bộ.

- Phạm Tất Thắng, Đánh giá cán bộ diện BTV tỉnh ủy quản lý ở các tỉnh đồng

bằng sông Hồng trong giai đoạn hiện nay [153]. Luận án đã làm rõ hơn những vấn đề lý

luận và thực tiễn về công tác đánh giá cán bộ diện BTV tỉnh ủy quản lý ở các tỉnh đồng

bằng sông Hồng. Tác giả đã phân tích làm sáng tỏ quan niệm và nội hàm đánh giá cán

bộ, tổng kết một số kinh nghiệm trong công tác đánh giá cán bộ diện BTV tỉnh ủy quản

lý ở các tỉnh đồng bằng sông Hồng; phân tích thực trạng, hạn chế, yếu kém trong công

tác đánh giá cán bộ, từ đó đề xuất một số giải pháp đặc thù, khả thi góp phần nâng cao

chất lượng công tác đánh giá cán bộ trong thời kỳ mới.

- Nguyễn Thị Thanh Dung, Bàn thêm về đánh giá cán bộ [62]. Tác giả đã chỉ ra

đánh giá cán bộ là công việc quan trọng, là tiền đề cho việc thực hiện tốt các khâu như đề

bạt, bổ nhiệm, bố trí, sử dụng cán bộ. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện đánh giá cán

20

bộ lại là khâu yếu. Việc đánh giá, phân loại CB, CC chưa phản ánh đúng với chất lượng

công tác. Để khắc phục tình trạng trên, tác giả đã đề xuất thực hiện tốt tám nội dung sau:

cụ thể hóa, lượng hóa tiêu chí đánh giá kết quả, hiệu quả hoàn thành chức trách, nhiệm

vụ và đóng góp thực tế của cán bộ trong đơn vị; người đứng đầu cần có cách nhìn khách

quan, toàn diện, công tâm khi đánh giá cán bộ; cần tạo môi trường dân chủ để mọi người

có thể nói lên tiếng nói thẳng thắn, chân thật; xử lý nghiêm những hiện tượng tiêu cực

trong đánh giá cán bộ; tiếp tục đổi mới phân cấp quản lý cán bộ và đánh giá cán bộ;

chống chủ nghĩa biệt phái, cục bộ, địa phương, hẹp hòi; có chính sách thưởng phạt, công

minh, tăng cường kiểm tra, giám sát; học tập và làm theo tư tưởng Hồ Chí Minh về công

tác cán bộ và đánh giá cán bộ.

1.1.3.4. Các công trình nghiên cứu về công tác luân chuyển cán bộ lãnh đạo,

quản lý

- Trần Thanh Sơn, Luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý thuộc diện BTV Thành

ủy Hà Nội quản lý trong giai đoạn hiện nay [147]. Tác giả đã làm rõ khái niệm CBLĐ,

QL; đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý thuộc diện BTV Thành ủy Hà Nội quản lý; phân

tích vị trí, vai trò, đặc điểm của đội ngũ cán bộ này; làm sáng tỏ quan niệm và nội hàm

về công tác luân chuyển CBLĐ, QL. Trên cơ sở đó, tác giả phân tích, đánh giá đúng

thực trạng đội ngũ cán bộ và công tác luân chuyển CBLĐ, QL của Thành ủy Hà Nội

quản lý; chỉ ra nguyên nhân của các kết quả đạt được, nguyên nhân hạn chế, yếu kém

trong công tác luân chuyển cán bộ. Từ đó, tác giả đề xuất 06 giải pháp thực hiện tốt công

tác luân chuyển cán bộ diện BTV Thành ủy Hà Nội quản lý trong thời gian tới.

- Trần Đình Hoan, Đánh giá, quy hoạch, luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý

thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đất nước [91]. Tác giả nghiên cứu, trình

bày tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác luân chuyển CBLĐ, QL; quan điểm của Đảng

Cộng sản Việt Nam với công tác xây dựng, rèn luyện đội ngũ cán bộ; phân biệt làm rõ

các khái niệm của công tác tổ chức nhân sự là thuyên chuyển và điều động; chỉ ra mục

đích chính của việc luân chuyển cán bộ là rèn luyện, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, tạo điều

kiện để cán bộ phát triển toàn diện về năng lực lãnh đạo, quản lý đáp ứng yêu cầu cán bộ

trước mắt và lâu dài của toàn bộ HTCT. Tuy nhiên, qua việc nghiên cứu thực trạng của

công tác luân chuyển cán bộ, tác giả chỉ ra những hạn chế như: luân chuyển cán bộ chưa

dựa vào cơ sở quy hoạch, chưa tính đến khả năng phát triển của cán bộ, luân chuyển

mang tính chất bị động; Việc xây dựng kế hoạch và thực hiện luân chuyển còn chậm,

21

thiếu chủ động, tích cực, chưa đồng đều, số cán bộ luân chuyển xuống nhiều, luân

chuyển lên và sang ngang còn ít. Tác giả cho rằng, công tác luân chuyển cán bộ cần được

coi trọng và là khâu đột phá mang tính quyết định đối với việc xây dựng chiến lược cán

bộ ngang tầm nhiệm vụ cách mạng mới.

- Bùi Thị Oanh, Luân chuyển cán bộ ở một số tỉnh đồng bằng sông Hồng [131].

Tác giả tập trung làm rõ những ưu điểm của công tác luân chuyển cán bộ ở một số địa

phương của các tỉnh đồng bằng sông Hồng, nổi bật là việc tăng cường cán bộ về những

địa bàn khó khăn, phức tạp, mất đoàn kết nội bộ; yếu kém trong công tác lãnh đạo, chỉ

đạo; điểm nóng về giải phóng mặt bằng, quản lý đất đai, trật tự xây dựng… Một số tỉnh

đã quan tâm đến chính sách đối với cán bộ luân chuyển như chính sách nhà ở công vụ,

bảo lưu hệ số phụ cấp chức vụ, phụ cấp thâm niên nghề; quan tâm chú trọng đào tạo, bồi

dưỡng đối với cán bộ luân chuyển. Với cách làm này, cán bộ luân chuyển vừa yên tâm

công tác đồng thời có dịp được cọ sát với những thử thách mới, được rèn luyện, nâng cao

bản lĩnh, ngày càng trưởng thành qua thực tiễn, sẵn sàng đảm nhận những trọng trách

mới, nặng nề hơn sau luân chuyển. Tác giả cũng chỉ ra một số hạn chế trong thực hiện

luân chuyển cán bộ tại một số đơn vị, địa phương: một số cấp ủy chưa thực sự tạo điều

kiện cho cán bộ luân chuyển tiếp cận công việc và phát huy sở trường công tác; việc lựa

chọn địa bàn, chức danh luân chuyển còn bất hợp lý, thậm chí trái ngành, trái nghề… Từ

đó tác giả đề xuất 04 giải pháp nhằm nâng cao chất lượng của công tác luân chuyển cán

bộ trong thời gian tiếp theo.

1.1.4. Các công trình nghiên cứu về giải pháp phát triển đội ngũ cán bộ lãnh

đạo, quản lý các cấp, ngành, địa phương

- Phạm Công Khâm, Xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã vùng nông thôn

đồng bằng sông Cứu Long hiện nay [102]. Tác giả xây dựng và phân tích nội hàm khái

niệm đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã vùng nông thôn đồng bằng sông Cửu Long; phân

tích làm rõ vai trò quan trọng của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã; đánh giá đúng thực

trạng, xác định rõ mục tiêu, quan điểm và đưa ra hệ thống các giải pháp xây dựng

đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã vùng đồng bằng sông Cửu Long giai đoạn hiện nay.

Tác giả đề xuất các giải pháp chủ yếu: đổi mới công tác quy hoạch, công tác đào

tạo, bồi dưỡng, sử dụng và quản lý, kiểm tra đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã; hoàn

thiện chính sách đãi ngộ cán bộ cấp xã và tăng cường sự quan tâm, chỉ đạo của cấp

ủy, chính quyền cấp huyện.

22

- Nguyễn Thái Sơn, Xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh vùng

đồng bằng sông Hồng trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước

[146]. Luận án đã luận giải vị trí, vai trò, đặc điểm và chức năng của đội ngũ cán bộ lãnh

đạo vùng đồng bằng sông Hồng. Tác giả tập trung làm rõ thực trạng đội ngũ cán bộ,

công tác xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh, chỉ ra nguyên nhân của

những ưu, khuyết điểm. Tác giả luận án đề xuất các giải pháp chủ yếu: nâng cao chất

lượng công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, và thực hiện tiêu chuẩn hóa chức danh

cán bộ; nâng cao ý thức tự học, từ rèn luyện của cán bộ và nâng cao nhận thức của cấp

ủy đảng, các tổ chức trong HTCT về vai trò của việc xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo

chủ chốt cấp tỉnh.

- Huỳnh Văn Long, Xây dựng đội ngũ bí thư huyện ủy, chủ tịch Ủy ban nhân dân

huyện ở đồng bằng sông Cửu Long ngang tầm đòi hỏi của thời kỳ công nghiệp hóa, hiện

đại hóa đất nước[119]. Luận án phân tích đặc điểm, vị trí, vai trò, chức năng của đội ngũ

bí thư huyện ủy, chủ tịch UBND huyện ở đồng bằng sông Cửu Long giai đoạn hiện nay;

khảo sát, phân tích thực trạng, nguyên nhân thực trạng. Từ đó, tác giả đề xuất một số giải

pháp có tính khả thi như: đổi mới công tác đánh giá cán bộ; nêu cao ý thức trách nhiệm

cá nhân của cán bộ gắn với việc đẩy mạnh phân cấp quản lý; tăng cường kiểm tra, giám

sát thực thi công vụ của cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp huyện ở đồng bằng sông Cửu Long

hiện nay.

- Vũ Văn Hiền, Xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý nhằm đáp ứng yêu

cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước [87]. Các tác giả phân tích

làm sâu sắc hơn những vấn đề lý luận và thực tiễn về xây dựng đội ngũ CBLĐ, QL nhằm

đáp ứng yêu cầu sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Các tác giả đã khảo sát thực tiễn để rút

ra những bài học kinh nghiệm, những vấn đề có tính quy luật trong xây dựng đội ngũ

CBLĐ, QL. Các nhà khoa học khẳng định nguyên nhân của chủ yếu của những ưu điểm

và khuyết điểm của đội ngũ CBLĐ, QL thuộc về những ưu điểm, khuyết điểm trong

công tác cán bộ. Trên cơ sở đó, các tác giả đề xuất những giải pháp đồng bộ, có tính khả

thi nhằm góp phần xây dựng đội ngũ CBLĐ, QL ở Việt Nam ngang tầm nhiệm vụ của

thời kỳ mới.

- Trịnh Cư, Nguyễn Duy Hùng và Lê Văn Yên, Kinh nghiệm xây dựng đội ngũ

cán bộ ở Trung Quốc [58]. Cuốn sách đã phân tích, luận giải theo từng vấn đề mang tính

tổng quát về công tác tổ chức, xây dựng đội ngũ cán bộ của Trung Quốc. Để xây dựng

23

CNXH mang đặc sắc Trung Quốc, đẩy mạnh công cuộc cải cách, mở cửa, Trung Quốc

đặc biệt coi trọng vấn đề xây dựng đội ngũ cán bộ với các đặc điểm: có tố chất cao, có tri

thức, nắm vững nghiệp vụ, hoàn thành tốt trọng trách được giao, trung thành với chủ

nghĩa Mác, kiên trì con đường XHCN, biết lãnh đạo, quản lý đất nước, xã hội. Trong

thời gian gần đây, Trung Quốc tập trung thực hiện một số giải pháp: cải cách thể chế

chính trị; nâng cao tố chất và năng lực đối với cán bộ lãnh đạo; đổi mới công tác đào tạo,

bồi dưỡng cán bộ; đổi mới, hoàn thiện quy chế, quy trình tiến cử, lựa chọn, đề bạt, sử

dụng và nhận xét, đánh giá cán bộ.

- Phạm Văn Sơn, "Nghiên cứu phát triển đội ngũ cán bộ, công chức lãnh đạo,

quản lý nhà nước trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập

quốc tế" [149]. Đội ngũ CB, CC, viên chức lãnh đạo quản lý nhà nước của nước ta hiện

nay ra đời và trưởng thành trong sự nghiệp đấu tranh xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trải

qua khó khăn và thử thách, đội ngũ cán bộ ngày càng trưởng thành, hoàn thành tốt chức

trách, nhiệm vụ được giao; có bản lĩnh chính trị vững vàng, trung thành chủ nghĩa Mác -

Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; trung thành với Đảng, Tổ quốc và nhân dân; không ngừng

học tập, nâng cao trình độ chuyên môn, năng lực thực tiễn. Vì vậy, đội ngũ cán bộ này đã

có những bước chuyển tích cực, thích ứng dần với cơ chế thị trường, yêu cầu tình hình

mới. Bên cạnh mặt tích cực, đội ngũ cán bộ này còn bộc lộ nhiều yếu kém. Một số CBLĐ,

QL nhà nước còn hách dịch, cửa quyền, gây sách nhiễu nhân dân. Một số cán bộ không

chịu khó tu dưỡng rèn luyện nên không theo kịp, không đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ,

thiếu kiến thức chuyên môn, kỹ năng quản lý hành chính nhà nước, quản lý kinh tế... Thực

tiễn ở các bộ, ngành, địa phương còn tình trạng thiếu CBLĐ, QL có trình độ, năng lực,

nhưng thừa CBLĐ, QL kém cả về phẩm chất đạo đức, năng lực chuyên môn.

- Nguyễn Thành Dũng, Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện

ở các tỉnh Tây Nguyên trong giai đoạn hiện nay [64]. Luận án đã tập trung làm rõ khái

niệm cán bộ chủ chốt, đội ngũ cán bộ chủ chốt, đặc điểm của đội ngũ cán bộ chủ chốt

cấp huyện ở các tỉnh Tây Nguyên. Đồng thời, tác giả cũng đã đưa ra quan điểm, các tiêu

chí đánh giá chất lượng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện ở các

tỉnh Tây Nguyên. Luận án đã tiến hành khảo sát thực trạng nâng cao chất lượng đội ngũ

cán bộ này từ năm 2000 đến năm 2011, từ đó rút ra nguyên nhân, bài học kinh nghiệm

và đề xuất 05 giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện ở

Tây Nguyên.

24

1.2. Khái quát những kết quả của các công trình có liên quan và những vấn

đề luận án sẽ tiếp tục nghiên cứu

1.2.1. Khái quát những kết quả của các công trình có liên quan

Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài cho thấy, đã có nhiều công

trình đề cập đến những vấn đề lý luận và thực tiễn chủ yếu về CBLĐ, QL của HTCT.

Nhiều công trình nghiên cứu đã xác định rõ vị trí, vai trò, chức trách, nhiệm vụ của đội

ngũ CBLĐ, QL; tiêu chuẩn, phẩm chất, đặc điểm CBLĐ, QL và về thẩm quyền, trách

nhiệm của CBLĐ, QL. Về các khâu của công tác cán bộ, một số công trình đã đề cập đến

yêu cầu, thực trạng và giải pháp thực hiện tốt hơn các khâu tạo nguồn; đánh giá; đào tạo,

bồi dưỡng; quy hoạch; điều động; bổ nhiệm; bầu cử; luân chuyển và chính sách cán bộ.

Một số công trình đã đề cập đến công tác xây dựng đội ngũ CBLĐ, QL của các địa

phương ở các vùng khác nhau. Đáng quan tâm nhất là một số công trình đã nêu những

kinh nghiệm thiết thực và đề xuất được một số giải pháp cụ thể, sát hợp để xây dựng đội ngũ

cán bộ đảng, chính quyền, MTTQ và các tổ chức CT-XH ở các cấp từ tỉnh đến xã, phường,

thị trấn. Đây là những nội dung có thể tham khảo, vận dụng vào nghiên cứu đề tài.

Tuy nhiên, do mục tiêu, phạm vi và đối tượng riêng, nên chưa có công trình nào

nghiên cứu một cách có hệ thống, chuyên sâu, toàn diện về lý luận và tổng kết thực tiễn

về phát triển đội ngũ CBLĐ, QL của HTCT cấp huyện ở tỉnh Bắc Ninh hiện nay. Các

công trình đó chưa đưa ra được khái niệm đội ngũ CBLĐ, QL của HTCT cấp huyện ở

tỉnh Bắc Ninh; khái niệm phát triển đội ngũ CBLĐ, QL của HTCT cấp huyện ở tỉnh Bắc

Ninh; chưa đánh giá thực trạng số lượng, cơ cấu và chất lượng đội ngũ CBLĐ, QL của

HTCT cấp huyện và thực trạng phát triển đội ngũ CBLĐ, QL của HTCT cấp huyện ở

tỉnh Bắc Ninh; chưa đưa ra được giải pháp nhằm phát triển đội ngũ CBLĐ, QL của

HTCT cấp huyện ở tỉnh Bắc Ninh hiện nay.

1.2.2. Những vấn đề luận án sẽ tiếp tục nghiên cứu

Về lý luận: xây dựng khung lý thuyết về phát triển đội ngũ CBLĐ, QL của HTCT

cấp huyện ở tỉnh Bắc Ninh. Cụ thể, luận án sẽ tập trung làm rõ khái niệm, vị trí, vai trò

và đặc điểm của đội ngũ CBLĐ, QL của HTCT cấp huyện tỉnh Bắc Ninh; khái niệm,

mục tiêu, đối tượng, chủ thể, lực lượng tham gia phát triển đội ngũ CBLĐ, QL của

HTCT cấp huyện ở tỉnh Bắc Ninh; nội dung và phương thức phát triển đội ngũ CBLĐ,

QL của HTCT cấp huyện ở tỉnh Bắc Ninh.

25

Về thực tiễn: trên cơ sở những nội dung và các phương thức phát triển đội ngũ

CBLĐ, QL của HTCT cấp huyện ở tỉnh Bắc Ninh, luận án phân tích, đánh giá thực trạng

số lượng, cơ cấu, chất lượng đội ngũ CBLĐ, QL của HTCT cấp huyện ở tỉnh Bắc Ninh

từ năm 2010 đến nay; thành tựu và hạn chế trong phát triển đội ngũ CBLĐ, QL của

HTCT cấp huyện ở tỉnh Bắc Ninh; xác định rõ nguyên nhân và những vấn đề đặt ra; dự

báo những thuận lợi, khó khăn, tác động đến việc phát triển đội ngũ CBLĐ, QL của

HTCT cấp huyện ở tỉnh Bắc Ninh; xác định quan điểm và đề xuất những giải pháp chủ

yếu nhằm tiếp tục phát triển đội ngũ CBLĐ, QL của HTCT cấp huyện ở tỉnh Bắc Ninh

đến năm 2030.

26

Chƣơng 2

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ PHÁT TRIỂN ĐỘI NGŨ

CÁN BỘ LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ CỦA HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ

CẤP HUYỆN

2.1. Hệ thống chính trị và hệ thống chính trị cấp huyện ở Việt Nam

2.1.1. Hệ thống chính trị Việt Nam

2.1.1.1. Khái niệm hệ thống chính trị

Hệ thống chính trị là thuật ngữ chính trị học xuất hiện trong nền chính trị học

hiện đại, là một trong những khái niệm phản ánh đặc trưng của những quan hệ quyền

lực chính trị. Trong thời kỳ chiếm hữu nô lệ hay phong kiến, mặc dù các quyết định

chính trị mang tính quốc gia, song đó là quyết định của cá nhân người cai trị tối cao là

Hoàng đế hay Nhà vua, không phải là sản phẩm của hệ thống. Từ thời kỳ tư bản chủ

nghĩa, việc xuất hiện các đảng chính trị đại diện cho các giai cấp, các lực lượng xã hội

khác nhau, đấu tranh giành quyền lực nhà nước hay tham gia vào các quyết định chính

trị làm cho nền chính trị mang tính dân chủ hơn so với chế độ phong kiến. Trong xã hội

tư bản, các quyết định chính trị thường là kết quả của một hệ thống, theo một quy trình

có tính bắt buộc, có quan hệ ràng buộc, mang tính thể chế.

Liên quan đến vấn đề này, có nhiều cách tiếp cận khác nhau, dẫn đến có nhiều

quan niệm khác nhau.

Theo nghĩa chung nhất, “Hệ thống chính trị được hiểu là hình thức tổ chức

chính trị của một xã hội”. Sách tra cứu các mục từ về tổ chức định nghĩa: HTCT là

“tổng thể những thiết chế chính trị - xã hội và các mối quan hệ giữa chúng với nhau,

hợp thành thể chế chính trị của một chế độ xã hội. Thể chế đó bảo đảm việc thực hiện

quyền lực chính trị của giai cấp thống trị trong quan hệ với các giai cấp, tầng lớp và các

nhóm xã hội khác” [158, tr. 297]. Có tác giả định nghĩa: “Hệ thống chính trị là hệ thống

các thiết chế thực hiện các hoạt động mang tính chính trị trong xã hội gồm các đảng

chính trị, các cơ quan Nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội được thành lập hợp

pháp, có mối liên hệ trực tiếp hay gián tiếp với quyền lực chính trị, có quan hệ ràng

buộc, tác động lẫn nhau xoay quanh việc tổ chức và thực hiện quyền lực chính trị”

[178, tr. 18]. HTCT còn được hiểu là: “Một hệ thống thiết chế bao gồm Đảng chính trị

hợp pháp, Nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội và các cơ sở tư tưởng cũng như các

thể chế tổ chức vận hành hệ thống đó - nhưng ưu thế cơ bản và vai trò chủ đạo thuộc về

27

các thể chế tư tưởng và thể chế của giai cấp cầm quyền, các quan hệ xã hội - giai cấp và

các quan hệ đối với nhà nước để tác động vào các quá trình kinh tế - xã hội nhằm củng

cố, duy trì và phát triển chế độ chính trị - xã hội đương thời” [52, tr. 47]; hoặc “Hệ

thống chính trị là hình thức tổ chức dân chủ để thực hiện quyền lực của nhân dân. Hệ

thống chính trị bao gồm: Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị -

xã hội khác; về thực chất là chỉnh thể thống nhất các công cụ, phương thức để thực

hiện quyền làm chủ của nhân dân trong lĩnh vực chính trị” [90, tr. 20].

Khi nghiên cứu về các thiết chế chính trị và cách thức tổ chức của một xã hội,

các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin không sử dụng thuật ngữ “hệ thống chính

trị”, mà sử dụng khái niệm “hệ thống cai trị”, “hệ thống đẳng cấp chính trị” hay “hệ

thống chuyên chính vô sản”. V.I. Lênin quan niệm hệ thống chuyên chính vô sản bao

gồm ba yếu tố cấu thành: chính quyền xô viết - nhà nước công nông; đảng cộng sản -

giữ vai trò lãnh đạo nhà nước xôviết; các tổ chức quần chúng. Mỗi thiết chế có vai trò,

vị trí nhất định, có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Khái niệm “chuyên chính vô sản”

nhấn mạnh, thể hiện rõ nét chế độ chính trị của xã hội là quyền lực thống trị xã hội

thuộc về giai cấp vô sản, là chế độ chính trị đối lập với chuyên chính tư sản. Trong nền

chuyên chính vô sản, giai cấp vô sản thực hiện quyền thống trị về chính trị đối với xã

hội thông qua đội tiên phong của giai cấp công nhân, các cơ quan nhà nước do nhân

dân bầu ra và các tổ chức CT-XH đại diện cho các giai cấp, tầng lớp xã hội vô sản. Tuy

nhiên, khái niệm “chuyên chính vô sản” chưa thể hiện rõ tính hệ thống trong tổ chức bộ

máy chuyên chính và quan hệ giữa các tổ chức ấy.

Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng chưa dùng thuật ngữ “hệ thống chính trị”. Tuy

nhiên, cơ cấu tổ chức và cơ chế hoạt động của nền chính trị Việt Nam hiện đại do

Người sáng lập, trên thực tế đã mang tính chất của HTCT như hiện nay. Hồ Chí Minh

đã đề cập đến cơ sở tổ chức - các thiết chế của nền chính trị bao gồm Đảng Cộng sản

Việt Nam, Nhà nước và Mặt trận dân tộc thống nhất và cơ chế hoạt động Đảng lãnh

đạo, Nhà nước quản lý, Mặt trận tổ chức và tập hợp nhân dân.

Như vậy, tuy các góc độ tiếp cận khác nhau, nhưng các nhà kinh điển và các tác giả

đều quan niệm, mô tả HTCT như một cơ cấu các tổ chức chính trị, CT-XH của xã hội,

thông qua đó giai cấp thống trị thực hiện quyền lực chính trị trong xã hội. Nghiên cứu hoạt

động của một HTCT ở một quốc gia cho thấy, một mặt, quyền lực chính trị thuộc về ai,

giai cấp nào, lực lượng nào; mặt khác, tính dân chủ của nền chính trị ở đó ra sao.

28

Ở Việt Nam, cho đến trước thời kỳ đổi mới, trong các văn kiện của Đảng và

Nhà nước đều dùng phổ biến thuật ngữ “chuyên chính vô sản”, “nhà nước chuyên

chính vô sản”; thuật ngữ “hệ thống chính trị” được sử dụng lần đầu tiên trong Nghị

quyết Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương khóa VI (tháng 3-1989), sau đó

chính thức đưa vào Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH

(năm 1991) và được sử dụng phổ biến trong các văn kiện của Đảng cũng như trong đời

sống xã hội cho đến nay.

Kế thừa quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, xuất

phát từ thực tiễn của Việt Nam, Đảng ta quan niệm: “HTCT ở Việt Nam bao gồm:

Đảng, Nhà nước, MTTQ và các tổ chức CT-XH (Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam,

Hội Nông dân Việt Nam, Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp phụ

nữ Việt Nam, Hội Cựu Chiến binh Việt Nam)” với cơ cấu tổ chức, cơ chế vận hành,

phương thức hoạt động, lề lối làm việc phù hợp trong từng thời kỳ, ở từng cấp.

Từ những quan điểm nêu trên có thể hiểu: HTCT Việt Nam là một chỉnh thể

thống nhất, bao gồm Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam,

MTTQ và các tổ chức CT-XH, được pháp luật thừa nhận và có mối liên hệ mật thiết

với nhau, tác động qua lại với nhau, trong đó Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng

lãnh đạo, Nhà nước thực hiện chức năng quản lý, nhân dân làm chủ, từng bước hoàn

thiện nền dân chủ XHCN, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân, vì mục tiêu dân giàu,

nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

2.1.1.2. Kết cấu hệ thống chính trị Việt Nam

Thứ nhất, Đảng Cộng sản Việt Nam là một bộ phận, là hạt nhân chính trị của

HTCT. Đảng thực hiện sự lãnh đạo đối với cả HTCT và toàn xã hội.

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (Bổ sung, phát

triển năm 2011) khẳng định: “Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị đồng thời là bộ phận

của hệ thống ấy”[69, tr. 89]; “Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng cầm quyền, lãnh đạo

Nhà nước và xã hội” [69, tr. 88]. Vai trò, vị trí và khả năng lãnh đạo của Đảng được xã

hội thừa nhận thông qua quá trình lãnh đạo của Đảng trong cuộc đấu tranh giành độc

lập dân tộc và xây dựng CNXH. Điều 4, Hiến pháp năm 2013 khẳng định: “Đảng Cộng

sản Việt Nam… là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội” [140, tr. 9]. Đảng Cộng sản

Việt Nam là Đảng duy nhất cầm quyền. Đảng đề ra đường lối, chủ trương lớn cho từng

thời kỳ và lãnh đạo việc thể chế hóa thành pháp luật của Nhà nước, cụ thể hóa thành

29

chương trình, kế hoạch của các cơ quan nhà nước, MTTQ và các tổ chức CT- XH.

Đảng lãnh đạo công tác tổ chức, cán bộ trong bộ máy nhà nước, MTTQ và các tổ chức

CT- XH; tiến hành công tác kiểm tra, giám sát đối với các tổ chức đảng và đảng viên

trong các cơ quan, tổ chức thuộc HTCT. Hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách và hoạt

động của Nhà nước chính là sự thể chế hóa về mặt pháp lý quyền lực chính trị - quyền

làm chủ của nhân dân, vì lợi ích của nhân dân và dân tộc.

Thứ hai, Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam - Nhà nước pháp quyền

XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; công cụ chủ yếu để thực hiện

quyền làm chủ của nhân dân.

Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là trung tâm quyền lực của HTCT và

toàn xã hội, được tổ chức và thực hiện theo nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống

nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan thực hiện quyền lập

pháp, hành pháp, tư pháp; được tổ chức, vận hành, quản lý và điều hành xã hội theo

pháp luật, bằng pháp luật, trong khuôn khổ của pháp luật - sự thể hiện ý chí, nguyện

vọng của nhân dân.

Thứ ba, MTTQ Việt Nam và các tổ chức CT-XH là các bộ phận của HTCT, là

cơ sở chính trị của cả hệ thống và toàn xã hội.

“Đảng Cộng sản Việt Nam vừa là thành viên vừa là người lãnh đạo Mặt trận”

[67, tr.87]. Các tổ chức CT-XH là tổ chức thành viên của HTCT và là thành viên của

MTTQ Việt Nam; là chỗ dựa vững chắc của Đảng và Nhà nước cũng như toàn bộ chế

độ. Các tổ chức CT-XH là tổ chức thành viên của MTTQ Việt Nam, nhưng độc lập về tổ

chức và hoạt động.

2.1.1.3. Vai trò của hệ thống chính trị Việt Nam

Một là, HTCT chính là thiết chế thực hiện quyền lực chính trị của nhân dân, bản

chất của nền dân chủ XHCN.

HTCT là hệ thống có tổ chức mà thông qua đó nhân dân thực hiện quyền làm

chủ của mình. Đảng ta luôn nhận thức và khẳng định nguyên lý chủ quyền nhân dân

trong xây dựng xã hội mới. Trong chế độ XHCN, nhân dân là chủ thể duy nhất và tối

cao của quyền lực chính trị. HTCT gắn với quyền lực nhân dân, là hệ thống được tổ

chức để thực hiện các nhiệm vụ và quyền hạn do nhân dân giao phó. Các văn kiện Đại

hội Đảng trong thời kỳ đổi mới và Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam năm

2013 đều nhấn mạnh: nước Cộng hòa XHCN Việt Nam do nhân dân làm chủ; nhân

30

dân được thực hiện quyền làm chủ thông qua hoạt động của Nhà nước, của cả HTCT

và các hình thức dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện. Ở nước ta, quyền lực nhà nước là

thống nhất và thuộc về nhân dân nhưng có sự phân công, phối hợp, kiếm soát giữa các

cơ quan nhà nước để loại bỏ nguy cơ độc quyền quyền lực của tổ chức hay lực lượng

nào. Nhân dân chỉ ủy quyền mà không giao toàn bộ quyền lực chính trị của mình cho

riêng một tổ chức, cơ quan nào. Nhân dân là người nắm mọi quyền lực, còn các cơ

quan nhà nước do nhân dân bầu ra và được ủy quyền thực hiện ý chí nguyện vọng của

nhân dân, trở thành công bộc của nhân dân. Nhân dân được đặt ở vị trí cao nhất. Mọi

hoạt động của các cơ quan nhà nước cũng như mọi hoạt động công vụ của CB, CC đều

phải vì lợi ích của nhân dân. Điều 2, Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, năm

2013 ghi: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã

hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân. Nước Cộng hòa xã hội chủ

nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về Nhân dân

mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí

thức” [140, tr. 8]. Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội,

nhưng “Đảng Cộng sản Việt Nam gắn bó mật thiết với Nhân dân, phục vụ Nhân dân,

chịu sự giám sát của Nhân dân, chịu trách nhiệm trước Nhân dân về những quyết định

của mình. Các tổ chức của Đảng và đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam hoạt động

trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật” [140, tr. 9].

Hệ thống chính trị là hình thức tổ chức thực hành dân chủ. Quyền làm chủ của

nhân dân được thực hiện thông qua HTCT dưới các hình thức và cấp độ khác nhau.

Mỗi thiết chế trong HTCT là một hình thức, phương thức để đảm bảo việc “làm chủ”,

“là chủ” của nhân dân trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.

Hai là, HTCT có chức năng xây dựng, thực hiện đường lối chính sách và tác

động vào đường lối chính sách để phát triển đất nước; xây dựng, tăng cường khối đại

đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng một xã hội hài hòa, đồng thuận, đoàn kết.

Các tổ chức trong HTCT có chức năng, nhiệm vụ khác nhau, nhưng đều hướng

tới phát huy quyền làm chủ của nhân dân để xây dựng, phát triển và bảo vệ đất nước.

Các cơ quan, tổ chức trong HTCT đều có mối quan hệ trực tiếp hay gián tiếp với quyền

lực chính trị bằng việc xây dựng các quyết định chính trị hay tham gia xây dựng, thực

hiện, gây ảnh hưởng nhất định tới các quyết định chính trị.

31

Đảng Cộng sản Việt Nam là hạt nhân chính trị của cả HTCT. Đảng thực hiện sự

lãnh đạo chính trị đối với cả hệ thống và toàn xã hội. Đảng đề ra đường lối, chủ trương

lớn cho từng thời kỳ và lãnh đạo việc thể chế hóa thành pháp luật, chính sách của Nhà

nước, cụ thể hóa thành chương trình, kế hoạch của các đoàn thể quần chúng cùng với

việc tổ chức thực hiện; lãnh đạo việc tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước, của

MTTQ, các đoàn thể nhân dân và việc xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức;

lãnh đạo công tác kiểm tra, giám sát, kiểm soát trong toàn hệ thống và cả xã hội. Vì

vậy, mọi quan điểm, đường lối chủ trương của Đảng đều là sự phản ánh nhu cầu và lợi

ích chính đáng của nhân dân trên cơ sở những nguyên tắc cơ bản của giai cấp công nhân.

Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là trung tâm quyền lực của HTCT và

toàn xã hội. Đó là một Nhà nước được tổ chức, vận hành, quản lý và điều hành xã hội

theo luật pháp, bằng pháp luật, trong khuôn khổ của pháp luật mà pháp luật đó là sự thể

hiện ý chí nguyện vọng của nhân dân nhằm tạo ra sự phát triển tốt nhất về kinh tế, xã

hội và văn hóa.

MTTQ Việt Nam là nền tảng chính trị- xã hội của cả HTCT và toàn xã hội. Mỗi

tổ chức thể hiện và thực hiện quyền lực chính trị của từng thành viên trong tổ chức của

mình đối với sự phát triển của xã hội và đối với sự phát triển của chính mình; đồng thời

góp phần tích cực vào việc tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước

trong giới mình đại diện, tập hợp và giáo dục quần chúng thực hiện các mục tiêu kinh

tế - xã hội ở từng cơ sở, đồng thời tạo nên sự đồng thuận trong xã hội. MTTQ ngày

càng phát huy vai trò là một tổ chức đại diện cho dân, nói tiếng nói của dân và là một tổ

chức đoàn kết nhân dân.

Ba là, là một bộ phận của kiến trúc thượng tầng xã hội, HTCT tác động mạnh

mẽ, sâu sắc tới cơ sở hạ tầng của xã hội.

HTCT là bộ phận chủ yếu của kiến trúc thượng tầng, bao giờ cũng phải gắn với

cơ sở kinh tế. Xây dựng HTCT không thể tách rời cơ sở kinh tế. Nếu tách rời thực

trạng kinh tế, những nhiệm vụ phát triển kinh tế, kiến trúc thượng tầng chính trị không

thể thực hiện được vai trò thúc đẩy kinh tế phát triển và định hướng phát triển của nó.

Tuy nhiên, HTCT cũng tác động mạnh mẽ, sâu sắc tới cơ sở hạ tầng xã hội.

V.I. Lênin từng khẳng định: chính trị là biểu hiện tập trung của kinh tế, là kinh

tế cô đọng lại nhưng chính trị không thể không tác động mạnh mẽ đến kinh tế, chiếm vị

trí ưu tiên so với kinh tế. Lênin nhấn mạnh rằng trước hết phải đảm bảo đường lối

32

chính trị đúng đắn và trong bất kỳ trường hợp nào cũng không thể đặt một nhiệm vụ

kinh tế xã hội riêng lẻ. Đặc biệt, trong bối cảnh cải cách kinh tế và chính trị, thời kỳ

thực hiện Chính sách kinh tế mới (NEP), V.I. Lênin đã xác định, chính trị có ý nghĩa

nhất lúc này (thời kỳ cải cách), là tập trung vào kinh tế, phát triển kinh tế, người cộng

sản cũng phải học buôn bán. Kinh tế giữ vai trò cơ sở, song HTCT là biểu hiện tập

trung của kinh tế. Vì vậy, HTCT phải được tổ chức và hoạt động để chủ động định

hướng cho sự phát triển kinh tế, phát hiện và giải quyết các mâu thuẫn trong kinh tế

cũng như các mâu thuẫn giữa kinh tế và xã hội.

Như vậy, thông qua đường lối, chính sách, pháp luật do HTCT đề ra và thực

hiện, hệ thống các tổ chức, các thiết chế của HTCT vừa định hướng vừa là động lực

cho sự phát triển kinh tế, nâng cao tiềm lực và năng lực kinh tế của quốc gia theo đúng

mục tiêu chính trị và lợi ích của nhân dân.

2.1.1.4. Đặc điểm của hệ thống chính trị Việt Nam

HTCT ở Việt Nam hiện nay về cơ bản được tổ chức gần giống HTCT nhiều

nước XHCN và hệ thống các tổ chức chính trị trên thế giới. Tuy nhiên, do bản chất của

HTCT và lịch sử hình thành, các đặc điểm về văn hóa, HTCT Việt Nam hiện nay có

những đặc điểm đặc thù.

Thứ nhất, tính nhất nguyên chính trị

Nhất nguyên lãnh đạo: Chế độ chính trị ở Việt Nam là thể chế chính trị một đảng

duy nhất cầm quyền. Trong những giai đoạn lịch sử nhất định, bên cạnh Đảng Cộng sản

Việt Nam còn tồn tại một số đảng chính trị khác, đến năm 1990 hai đảng cuối cùng là

Đảng Dân chủ và Đảng Xã hội tuyên bố tự giải tán. Tuy nhiên, trước đó hai đảng này

hoạt động như những đảng đồng minh của Đảng Cộng sản Việt Nam và thừa nhận vị

trí, vai trò lãnh đạo tuyệt đối, duy nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Nhất nguyên về tổ chức: Đảng Cộng sản Việt Nam là một bộ phận của HTCT

đồng thời là lực lượng lãnh đạo HTCT. Các tổ chức của HTCT đều chịu sự lãnh đạo

cảu Đảng. Mỗi tổ chức thành viên của HTCT đều do Đảng Cộng sản Việt Nam sáng

lập vừa đóng vai trò là hình thức tổ chức quyền lực của nhân dân, tổ chức tập hợp, đoàn

kết quần chúng, đại diện cho ý chí nguyện vọng của quần chúng, vừa là tổ chức qua đó

Đảng thực hiện sự lãnh đạo chính trị đối với xã hội.

Nhất nguyên về tư tưởng: Hệ thống chính trị nước ta hiện nay được tổ chức và

hoạt động trên nền tảng tư tưởng thống nhất là chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí

33

Minh, không có đa nguyên chính trị và dưới sự lãnh đạo duy nhất của Đảng Cộng sản

Việt Nam. Đây là đặc điểm vừa mang tính phổ biến đối với HTCT các nước XHCN,

vừa mang tính đặc thù.

Thứ hai, HTCT Việt Nam là kết quả của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, giải

phóng giai cấp lâu dài, gian khổ của nhân dân Việt Nam.

Hệ thống chính trị nước ta được hình thành trong quá trình cách mạng, là thành

quả của cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản

Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Sau năm 1954, HTCT làm nhiệm vụ có tính chất

XHCN ở miền Bắc và sau ngày 30-4-1975 trên phạm vi cả nước. Tùy từng thời kỳ,

từng giai đoạn cách mạng mà HTCT có những biến đổi nhất định để phù hợp với yêu

cầu cách mạng và yêu cầu xã hội. HTCT hiện nay là sự kế thừa phát triển của HTCT

trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Điều đó được thể hiện ở chỗ: một Đảng

duy nhất cầm quyền là Đảng Cộng sản Việt Nam; thống nhất về mục tiêu chính trị là

độc lập dân tộc và CNXH với nội dung dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn

minh; thống nhất về cơ sở xã hội là khối đại đoàn kết dân tộc, không phân biệt giai cấp,

tôn giáo, dân tộc, giới tính, quá khứ lịch sử, là hình thức tổ chức thực hiện quyền lực

chính trị của nhân dân đồng thời là hình thức tổ chức đại diện cho ý chí, nguyện vọng và

quyền lợi ích hợp pháp, chính đáng của mọi tầng lớp nhân dân; thống nhất về cơ sở kinh

tế là kinh tế thị trường định hướng XHCN nhiều thành phần kinh tế, đa hình thức sở hữu.

Thứ ba, HTCT Việt Nam được tổ chức rộng khắp và có tính thống nhất

trong toàn quốc.

HTCT Việt Nam được tổ chức ở từng cấp, từ Trung ương đến địa phương, với

đầy đủ các bộ phận hợp thành. Ở các cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, huyện,

quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh; xã, phường, thị trấn đều có đầy đủ các tổ chức đảng, cơ

quan chính quyền, tổ chức MTTQ và các tổ chức CT-XH. Các tổ chức hình thành hệ

thống dọc từ Trung ương đến xã, phường, thị trấn; cấp dưới phục tùng sự chỉ đạo của cấp

trên; đặt dưới sự lãnh đạo của cấp ủy đảng cùng cấp. Nội dung hoạt động của HTCT là

luôn kiên định mục tiêu XHCN, bảo đảm phát huy quyền làm chủ của nhân dân.

Thứ tư, HTCT Việt Nam mang tính nhân dân, chịu sự kiểm tra, giám sát của

nhân dân và mang tính dân tộc sâu sắc.

Đây là đặc điểm có tính nguyên tắc của HTCT ở Việt Nam. HTCT không đứng

trên xã hội, tách khỏi xã hội, mà là một bộ phận của xã hội. Điều đó được thể hiện rõ

34

nét qua các thiết chế của HTCT. Mỗi thiết chế đều đại diện cho một tầng lớp nhân dân

nhất định và là phương thức thực hiện quyền làm chủ của nhân dân. Đồng thời, trong

xã hội Việt Nam, nhân dân thực hiện quyền lực của mình thông qua HTCT, thông qua

các hình thức dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp. Đảng, Nhà nước, MTTQ và các tổ

chức CT-XH đều có vai trò tổ chức, động viên, hướng dẫn nhân dân thực hiện quyền

làm chủ của mình trên các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội.

Bên cạnh tính nhân dân, HTCT Việt Nam mang tính dân tộc sâu sắc. Tính dân

tộc được thể hiện rõ nét trong mục tiêu, nguyên tắc hoạt động, chức năng, nhiệm vụ

của từng tổ chức trong HTCT. “Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai

cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và cả dân tộc Việt

Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân

tộc” [80, tr. 4]. Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam là Nhà nước pháp quyền XHCN

của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. MTTQ Việt Nam là tổ chức tăng cường sự

đoàn kết, tập hợp mọi tầng lớp nhân dân không phân biệt giai cấp, tôn giáo, dân tộc…

Thứ năm, HTCT Việt Nam phải thực hiện nhiệm vụ lịch sử là phát triển kinh tế,

đưa đất nước thoát khỏi tình trạng kém phát triển, tiến hành CNH, HĐH đất nước, xây

dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của CNXH.

Do bước vào xây dựng CNXH từ một nền kinh tế nghèo nàn, lạc hậu, chưa qua

giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, HTCT Việt Nam phải tiến hành nhiệm vụ xây

dựng cả cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng xã hội mới; cả đời sống chính trị, đời

sống kinh tế, đời sống văn hóa mới và con người mới XHCN; phải giải quyết hài hòa

mối quan hệ giữa chính trị và kinh tế; đồng thời phải làm tốt nhiệm vụ quốc phòng, an

ninh, bảo vệ vững chắc Tổ quốc.

2.1.2. Hệ thống chính trị cấp huyện trong hệ thống chính trị ở Việt Nam

2.1.2.1. Quan niệm về hệ thống chính trị cấp huyện

Tổ chức của HTCT được lập tương ứng với sự phân cấp đơn vị hành chính.

Điều 10 Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam ghi rõ: “Hệ thống tổ chức của Đảng được

lập tương ứng với hệ thống tổ chức hành chính của Nhà nước”[80, tr. 19]. Điều 110,

Hiến pháp năm 2013 ghi: “Các đơn vị hành chính của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa

Việt Nam được phân định như sau: nước chia thành tỉnh, thành phố trực thuộc Trung

ương; tỉnh chia thành huyện, thị xã và thành phố thuộc tỉnh; thành phố trực thuộc

Trung ương chia thành quận, huyện, thị xã và đơn vị hành chính tương đương; Huyện

35

chia thành xã, thị trấn; thị xã và thành phố thuộc tỉnh chia thành phường và xã; quận

chia thành phường” [140, tr. 58]. Điều 6, Điều lệ MTTQ Việt Nam năm 2014 ghi:

“Mặt trận Tổ quốc Việt Nam được tổ chức theo cấp hành chính:Trung ương; tỉnh,

thành phố trực thuộc Trung ương (gọi chung là cấp tỉnh); huyện, quận, thị xã, thành

phố trực thuộc tỉnh (gọi chung là cấp huyện); xã, phường, thị trấn (gọi chung là cấp

xã)” [122, tr. 16]. Điều 9 Điều lệ Công đoàn Việt Nam năm 2013 ghi: “Tổng Liên đoàn

Lao động Việt Nam là tổ chức thống nhất có các cấp cơ bản sau đây:

1. Cấp Trung ương: Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam.

2. Liên đoàn Lao động tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, Công đoàn ngành

Trung ương và tương đương (sau đây gọi chung là Liên đoàn Lao động cấp tỉnh,

thành phố và tương đương).

3. Liên đoàn Lao động huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh; Công đoàn

ngành địa phương; Công đoàn các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu kinh tế,

khu công nghệ cao; Công đoàn Tổng Công ty và một số Công đoàn cấp trên

trực tiếp cơ sở đặc thù khác (sau đây gọi chung là Công đoàn cấp trên trực tiếp

cơ sở).

4. Công đoàn cơ sở, Nghiệp đoàn (sau đây gọi chung là Công đoàn cơ sở)”

[168, tr. 14].

Điều 7 Điều lệ Hội Nông dân Việt Nam ghi: “Hội Nông dân Việt Nam gồm bốn

cấp:Trung ương; cấp tỉnh (tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương); cấp huyện (huyện,

quận, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh); cấp cơ sở (xã, phường, thị trấn và tương

đương)” [95, tr. 20]. Điều 6, Điều lệ Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh ghi: “Hệ

thống tổ chức của Đoàn gồm 4 cấp: cấp Trung ương; cấp tỉnh và tương đương; cấp

huyện và tương đương; cấp cơ sở (gồm Đoàn cơ sở và chi đoàn cơ sở)” [81, tr. 17].

Điều 10 Điều lệ Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam ghi: “Hội Liên hiệp Phụ nữ

Việt Nam gồm 4 cấp:a. Trung ương;b. Tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và

tương đương (gọi chung là cấp tỉnh);c. Huyện, quận, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh

và tương đương (gọi chung là cấp huyện);d. Xã, phường, thị trấn và tương đương (gọi

chung là cấp cơ sở)” [94, tr. 16]. Điều 13 Điều lệ Hội Cựu chiến binh Việt Nam ghi:

“Hệ thống tổ chức Hội có 4 cấp: Trung ương; tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương;

huyện, quận,thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh và cấp cơ sở” [92, tr. 25].

36

Trong HTCT nước ta, cấp huyện bao gồm các huyện, quận, thị xã, thành phố

thuộc tỉnh; là một cấp trung gian, cầu nối giữa cấp tỉnh và cấp xã; là hình ảnh thu nhỏ

của HTCT cấp quốc gia. Như vậy, có thể hiểu HTCT cấp huyện là chỉnh thể các thiết

chế gồm tổ chức Đảng, chính quyền, MTTQ và các đoàn thể CT-XH được tổ chức và

hoạt động theo những nguyên tắc nhất định nhằm thực hiện sự lãnh đạo của Đảng, sự

quản lý của Nhà nước và phát huy quyền dân chủ của nhân dân ở cấp huyện.

2.1.2.2. Vai trò của hệ thống chính trị cấp huyện

Hệ thống chính trị cấp huyện bảo đảm sự nối liền, xuyên suốt toàn bộ HTCT

của đất nước từ cấp Trung ương, cấp tỉnh đến cấp xã.

Cấp huyện là cầu nối để đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật

của Nhà nước từ Trung ương, cấp tỉnh đến cấp xã được thông suốt; cụ thể hóa và chỉ

đạo, triển khai, hướng dẫn, tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của cấp

trên phù hợp với đặc điểm tình hình cụ thể của cấp xã, giúp đảng bộ, chi bộ và chính

quyền cấp xã kịp thời tiếp thu, lãnh đạo, chỉ đạo, thực hiện các nhiệm vụ, hoàn thành

thắng lợi nghị quyết bằng các phong trào cách mạng của nhân dân địa phương.

Qua thực tiễn xây dựng cấp huyện, Đảng ta từng bước nhận thức rõ hơn vị trí,

vai trò của cấp huyện. Tại Điều 19, Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam quy định: “Cấp

ủy huyện, quận, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh (gọi tắt là huyện ủy, quận ủy, thị ủy,

thành ủy) lãnh đạo, thực hiện nghị quyết đại hội đại biểu; nghị quyết, chỉ thị của cấp

trên”[80, tr. 33]. Tại Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa X, Đảng

ta đã xác định: “Ủy ban nhân dân huyện tập trung chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra cấp

dưới thực hiện chủ trương, chính sách, nghị quyết, kế hoạch của cấp trên” [70, tr. 171].

Trong Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 nêu rõ nhiệm vụ, quyền hạn

của chính quyền địa phương ở huyện:

Tổ chức và bảo đảm việc thi hành Hiến pháp và pháp luật trên địa bàn huyện.

Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn do cơ quan hành chính Nhà nước cấp trên ủy

quyền. Kiểm tra, giám sát tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương cấp

xã. Chịu trách nhiệm trước chính quyền địa phương cấp tỉnh về kết quả thực

hiện các nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền địa phương cấp huyện. Quyết

định và tổ chức thực hiện các biện pháp nhằm phát huy quyền làm chủ của

Nhân dân, huy động các nguồn lực xã hội để xây dựng và phát triển kinh tế - xã

hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh trên địa bàn huyện” [142, tr. 28-29].

37

Như vậy, cấp huyện có nhiệm vụ cụ thể hóa chủ trương, phương hướng chỉ đạo,

hướng dẫn của cấp tỉnh thành chủ trương, nhiệm vụ cụ thể để triển khai lãnh đạo, chỉ

đạo tổ chức thực hiện xuống đến cấp xã trên tất cả các lĩnh vực. Cấp huyện lãnh đạo

trực tiếp, toàn diện cấp xã. Mặc dù cấp xã có vai trò quan trọng, là nền tảng của chế độ

chính trị, là nền móng căn bản của cả HTCT, song hiện nay, các tổ chức trong HTCT

cấp xã chưa thực sự vững mạnh toàn diện, đội ngũ cán bộ cấp xã tuy đông nhưng chưa

mạnh, năng lực, trình độ còn hạn chế. Vì vậy, không thể thiếu sự lãnh đạo, quản lý của

Đảng, chính quyền và các tổ chức CT-XH cấp huyện.

Thông qua cấp huyện, cấp tỉnh nắm được toàn bộ tình hình hoạt động của các

cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền các cấp, phong trào cách mạng của nhân dân; đặc

biệt nắm được tâm tư, nguyện vọng của nhân dân từ đó có cơ sở để phản ánh, báo cáo

kịp thời Trung ương để Trung ương xây dựng, điều chỉnh hay ban hành mới chủ

trương, chính sách ngày càng phù hợp, sát hợp thực tiễn. Thông qua cấp huyện mà các

sáng kiến tại cơ sở, các nguyện vọng của nhân dân trong quá trình thực hiện chủ

trương, chính sách, được phản ánh đến cấp tỉnh, báo cáo Trung ương tiếp tục có

phương hướng lãnh đạo, chỉ đạo phù hợp với đặc điểm của từng vùng, từng khu vực.

Cấp huyện thường là nơi phát triển đa dạng các ngành sản xuất nông nghiệp,

lâm nghiệp, thuỷ sản, công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp… Có nhiều huyện thuần nông

hoặc kết hợp nhiều ngành nông, lâm, ngư nghiệp, tiểu thủ công nghiệp. Nhiều huyện

cũng kết hợp phát triển nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, công nghiệp và dịch vụ. Các

ngành này dù là đặt dưới sự quản lý trực tiếp của cấp huyện, cấp tỉnh hay Trung ương

thì đều góp phần tác động đến sự phát triển KT-XH trên địa bàn huyện. Dưới sự lãnh

đạo, chỉ đạo của tỉnh, cấp huyện phối hợp chặt chẽ với cấp tỉnh trong thực hiện quy

hoạch tổng thể trên địa bàn huyện; đề ra phương hướng, biện pháp giải quyết vấn đề

chuyển dịch cơ cấu kinh tế công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ, ứng dụng thành tựu

khoa học công nghệ tiên tiến vào sản xuất trên cơ sở quy hoạch tổng thể của tỉnh; cụ

thể hóa quy hoạch KT-XH, quyết sách khác của cấp trên tại địa bàn huyện.

Hệ thống chính trị cấp huyện còn thực hiện quản lý xã hội bằng pháp luật, giữ

vững kỷ luật, trật tự kỷ cương xã hội trên địa bàn huyện; phát huy dân chủ, khối đại

đoàn kết toàn dân, tập hợp quần chúng nhân dân và huy động sức mạnh tổng hợp từ

huyện đến xã nhằm thực hiện thắng lợi chủ trương, nghị quyết của Đảng, quyết sách

của Nhà nước. Xuất phát từ định hướng căn bản trong quá trình xây dựng HTCT làm

38

sao đảm bảo sự phát triển của KT-XH, phục vụ tốt nhất cho cấp xã, để phát triển sức

dân và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của dân từ cơ sở, có thể thấy cấp huyện là

cấp địa phương còn tồn tại lâu dài trong HTCT của Việt Nam.

2.1.2.3. Đặc điểm của hệ thống chính trị cấp huyện

Thứ nhất, HTCT cấp huyện là một bộ phận hợp thành quan trọng, không thể

tách rời của HTCT Việt Nam, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đảm

bảo tính nhất nguyên chính trị của HTCT Việt Nam.

Xét theo khía cạnh quan hệ thứ bậc mang tính pháp lý của chỉnh thể HTCT

thống nhất ở nước ta, HTCT cấp huyện là HTCT của cấp trung gian, cầu nối giữa

HTCT tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và HTCT xã, phường, thị trấn.

Thứ hai, HTCT cấp huyện có đầy đủ các tổ chức của HTCT.

HTCT cấp huyện bao gồm: đảng bộ; chính quyền (HĐND, UBND); tòa án nhân

dân, viện kiểm sát nhân dân; MTTQ Việt Nam, liên đoàn lao động, hội nông dân, đoàn

thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, hội liên hiệp phụ nữ, hội cựu chiến binh cấp huyện.

Từng tổ chức trong HTCT cấp huyện có vai trò, chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ

chức, nguyên tắc và tính chất hoạt động riêng.

Đảng bộ cấp huyện, với cơ quan lãnh đạo giữa hai kỳ đại hội đại biểu đảng bộ là

ban chấp hành đảng bộ, giữ vai trò hạt nhân chính trị, thực hiện vai trò lãnh đạo của

Đảng đối với các tổ chức trong HTCT cấp huyện và các mặt hoạt động trên địa bàn

huyện. Đồng thời, đảng bộ cấp huyện là một bộ phận của HTCT cấp huyện. Nhiệm vụ

của đảng bộ là đề ra chủ trương phát triển địa phương; lãnh đạo xây dựng tổ chức, bộ

máy, cán bộ và hoạt động của các tổ chức trong HTCT huyện; lãnh đạo, chỉ đạo cấp ủy

đảng trực thuộc quán triệt, tổ chức, vận động nhân dân trên địa bàn huyện chấp hành

đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, chỉ thị, nghị

quyết của cấp trên. Đảng bộ huyện có vai trò lãnh đạo toàn diện các lĩnh vực của đời

sống xã hội trên địa bàn huyện, nhưng không bao biện, làm thay chức năng, nhiệm vụ,

quyền hạn của các tổ chức khác trong HTCT.

Chính quyền cấp huyện có vai trò trung tâm, nòng cốt trong HTCT cấp huyện.

Chính quyền cấp huyện gồm HĐND và UBND được bầu ra theo Hiến pháp và Luật Tổ

chức chính quyền địa phương. Chính quyền huyện đại diện cho ý chí, nguyện vọng và

quyền lợi của nhân dân địa phương.

39

Hội đồng nhân dân cấp huyện cụ thể hóa chủ trương, nghị quyết đại hội đại biểu

đảng bộ cấp huyện và nghị quyết của cấp ủy cấp huyện, nghị quyết của HĐND cấp tỉnh

thành chương trình, kế hoạch, đề án thực hiện các chủ trương đó; bầu ra UBND cấp

huyện và giám sát hoạt động của UBND cấp huyện trong thực hiện các quyết định của

HĐND cấp huyện và của cơ quan nhà nước cấp trên.

Ủy ban nhân dân cấp huyện là cơ quan chấp hành của HĐND cấp huyện, có

chức năng, nhiệm vụ thực hiện các quyết định, nghị quyết của HĐND huyện, thực hiện

chức năng quản lý nhà nước trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội ở địa phương;

chịu sự giám sát của HĐND cấp huyện và sự thanh tra của cơ quan nhà nước cấp trên.

Tòa án nhân dân cấp huyện là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa XHCN Việt

Nam, thực hiện quyền tư pháp ở cấp huyện theo quy định của Luật Tổ chức Tòa án

nhân dân.

Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện là cơ quan thực hành quyền công tố, kiểm

sát hoạt động tư pháp ở cấp huyện theo quy định của Luật Tổ chức Viện kiểm sát

nhân dân.

Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức CT-XH cấp huyện có vai trò rất quan trọng

trong sự nghiệp đoàn kết toàn dân, đây là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân.

Các tổ chức CT-XH huyện chăm lo lợi ích hợp pháp, chính đáng của các thành viên,

thực hiện dân chủ và đổi mới xã hội, vận động quần chúng thực hiện thắng lợi đường

lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; giám sát việc thực thi dân chủ, tham

gia củng cố HTCT; góp phần thiết thực trong bảo vệ trật tự trị an, xây dựng nếp sống

văn hóa, bảo vệ môi trường, phát triển KT-XH tại địa phương.

Các bộ phận cấu thành HTCT cấp huyện có mối quan hệ chặt chẽ, tác động qua

lại lẫn nhau, tạo ra tính thống nhất, tính chỉnh thể. Các tổ chức thành viên của HTCT

cấp huyện cùng được thành lập, tồn tại và hoạt động trên cùng một địa bàn lãnh thổ,

dân cư. Các tổ chức thành viên của HTCT đặt dưới sự lãnh đạo thống nhất của tổ chức

đảng về những nội dung như chủ trương, phương hướng phát triển KT-XH, quốc

phòng, an ninh, văn hóa, tổ chức bộ máy, công tác cán bộ. Tuy có chức năng, nhiệm

vụ, cơ cấu tổ chức và phương thức hoạt động khác nhau, nhưng các tổ chức đều hướng

tới mục tiêu cao nhất là đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, quyền

lực chính trị thuộc về nhân dân, phát huy dân chủ ở địa phương, chăm lo và phát triển

mọi mặt của đời sống xã hội trên địa bàn.

40

Thứ ba, HTCT cấp huyện chỉ là cấp trung gian, là cầu nối giữa HTCT cấp tỉnh

và HTCT cấp xã.

Cấp tỉnh chính là hình ảnh thu nhỏ của một quốc gia; là cấp chỉ đạo chiến lược,

là cấp thực hiện chiến lược về phát triển KT-XH; vạch ra chiến lược và chương trình

phát triển của tỉnh về mọi mặt; lựa chọn con đường kinh tế của tỉnh phát triển theo

hướng nào, cơ cấu kinh tế nào? Lựa chọn khâu đột phá nào để tạo sự thay đổi căn

bản?...

Cấp xã là cấp hành động và tổ chức hành động để đưa đường lối, chủ trương,

nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước vào cuộc sống. Mọi chủ

trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước tuy xuất phát từ Trung ương,

nhưng địa chỉ cuối cùng mà nó tìm đến chính là cấp cơ sở.

Cấp huyện cũng giống như hình ảnh thu nhỏ của cấp tỉnh. Mỗi một huyện có

đặc điểm và sắc thái riêng, có lịch sử và điều kiện không gian, địa lý, văn hoá…khác

nhau. Chính vì vậy, để các chủ trương, đường lối, nghị quyết của Trung ương, của tỉnh

có thể thực hiện hiệu quả ở cấp cơ sở thì phải thông qua cấp huyện cụ thể hoá phù hợp

với điều kiện hoàn cảnh của từng địa phương.

2.2. Đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý của hệ thống chính trị cấp huyện

2.2.1. Một số khái niệm cơ bản

Khái niệm cán bộ. Ở nước ta, khái niệm cán bộ có nội hàm rộng, với nhiều cách

tiếp cận khác nhau. Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin đề cập đến cán bộ

trong nhiều tác phẩm của mình. C. Mác viết: “Muốn thực hiện tốt những tư tưởng thì

cần có những con người vận dụng lực lượng thực tiễn” [106, tr. 154]. V.I. Lênin quan

niệm về cán bộ: “giai cấp vô sản thực hiện vai trò lãnh đạo của mình thông qua chính

đảng vô sản, còn chính đảng vô sản thực hiện sự lãnh đạo của mình trước hết thông qua

các cán bộ lãnh đạo của nhóm ít người có tính chất ổn định, gồm những người có uy tín

nhất, có ảnh hưởng nhất, người ta gọi đó là các lãnh tụ” [114, tr. 30]. Như vậy, các nhà

kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin đã đề cập đến cán bộ, CBLĐ, QL từ rất sớm. Các

cụm từ “những nhà chính trị giai cấp”, “những con người vận dụng lực lượng thực tiễn”

hay “các lãnh tụ” đều là cách gọi một bộ phận nòng cốt trong lực lượng cách mạng.

Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: “Cán bộ là những người đem chính sách của

Đảng, của Chính phủ giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành. Đồng thời đem tình

hình của dân chúng báo cáo cho Đảng, cho Chính phủ hiểu rõ, để đặt ra chính sách cho

41

đúng” [125, tr. 269]. Quan niệm về cán bộ của Chủ tịch Hồ Chí Minh rất rõ ràng, gần

gũi và dễ hiểu. Theo quan niệm này, cán bộ là mắt xích trung gian, có vai trò kết nối,

gắn bó, liên hệ giữa Đảng, Chính phủ với nhân dân. Cán bộ - dù ở cương vị nào, lĩnh

vực nào - cũng đều có vai trò quan trọng là đem đường lối, chủ trương, chính sách của

Đảng, Chính phủ tuyên truyền, giải thích cho nhân dân hiểu và hướng dẫn nhân dân

thực hiện, đồng thời nắm bắt kịp thời, cụ thể tình hình thực tiễn mọi mặt và ý kiến của

nhân dân để báo cáo Đảng, Chính phủ có những chính sách giải quyết phù hợp.

Trong cuốn sách Tra cứu các mục từ về tổ chức đưa ra khái niệm: “cán bộ theo

nghĩa rộng và nghĩa hẹp. Theo nghĩa rộng: Cán bộ gồm tất cả những người đảm nhiệm

một công việc, mà những công việc này cần khả năng tập hợp, vận động nhân dân

hưởng ứng, cùng thực hiện không chỉ trong các tổ chức thuộc hệ thống chính trị mà cả

trong các tổ chức kinh tế, văn hóa, xã hội [158, tr.123];theo nghĩa hẹp: Cán bộ bao gồm

những người được bầu hoặc được bổ nhiệm giữ chức vụ trong các tổ chức Đảng, Nhà

nước, đoàn thể nhân dân, thuộc hệ thống chính trị ở các cấp từ Trung ương tới cơ sở’’

[158, tr.122].

Tại kỳ họp thứ tư, Quốc hội khóa XII đã thông qua Luật CB, CC (có hiệu lực thi

hành từ ngày 01-01-2010). Khoản 1, Điều 4, Luật CB, CC quy định:

Cán bộ là công dân Việt Nam, được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ chức vụ,

chức danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà

nước, tổ chức chính trị - xã hội ở Trung ương, ở tỉnh, thành phố trực thuộc

Trung ương (sau đây gọi chung là cấp tỉnh), ở huyện, quận, thị xã, thành phố

thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là cấp huyện), trong biên chế và hưởng lương từ

ngân sách nhà nước.

Cán bộ xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là cấp xã) là công dân Việt

Nam, được bầu cử giữ chức vụ theo nhiệm kỳ trong Thường trực Hội đồng

nhân dân, Ủy ban nhân dân, Bí thư, Phó Bí thư Đảng ủy, người đứng đầu tổ

chức chính trị - xã hội [139, tr. 10].

Cùng với Luật CB, CC còn có nhiều văn bản pháp luật quy định về các đối

tượng khác. Với trách nhiệm là Đảng duy nhất cầm quyền, là lực lượng lãnh đạo Nhà

nước và cả xã hội, Đảng có trách nhiệm lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ đông đảo

hoạt động trong tất cả các tổ chức, lĩnh vực của đời sống xã hội, có đóng góp vào công

cuộc xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc. Vì vậy, Hội nghị Trung ương 9 khóa X

42

thống nhất: “Khái niệm "cán bộ" được hiểu một cách tổng thể, theo nghĩa rộng là cán

bộ, công chức, viên chức; không phân biệt cán bộ và công chức theo Luật Cán bộ, công

chức" [70, tr.197]. Như vậy, khái niệm cán bộ sử dụng trong các văn kiện của Đảng

được hiểu theo nghĩa rộng, bao gồm tất cả các CB, CC, viên chức làm việc trong các tổ

chức của HTCT, các lực lượng vũ trang, các doanh nghiệp nhà nước và các đơn vị sự

nghiệp công lập; cả những người được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ chức vụ lãnh

đạo, quản lý và những người làm công tác chuyên môn, nghiệp vụ. Trong HTCT nước

ta, có nhiều cách phân loại cán bộ. Nếu dựa vào vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ của

người cán bộ, có thể chia ra thành cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý, cán bộ chủ chốt, cán

bộ khoa học, cán bộ kỹ thuật, cán bộ chuyên môn… Nếu phân loại đội ngũ cán bộ theo

các bộ phận cấu thành của HTCT thì có cán bộ đảng, cán bộ chính quyền, cán bộ đoàn

thể, cán bộ lực lượng vũ trang…. Nếu phân loại theo cơ cấu hành chính bốn cấp ở nước

ta có cán bộ cấp Trung ương, cán bộ cấp tỉnh, cán bộ cấp huyện và cán bộ cấp cơ sở.

Nghị quyết Hội nghị Trung ương 3 khóa VIII xác định có bốn loại cán bộ chính:

cán bộ lãnh đạo đảng, nhà nước, MTTQ và các đoàn thể CT-XH; cán bộ lãnh đạo lực

lượng vũ trang; cán bộ tham mưu, khoa học, chuyên gia (ở các cơ quan tham mưu, các

đơn vị sự nghiệp công lập); cán bộ quản lý kinh doanh.

Nghị quyết Trung ương 7 khóa XII xác định và phân loại CBLĐ, QL gồm: cán

bộ cấp chiến lược; CBLĐ, QL cấp tổng cục, cục, vụ, phòng và tương đương ở Trung

ương; CBLĐ, QL ở địa phương; cán bộ lãnh đạo, chỉ huy quân đội, công an; đội ngũ

cán bộ khoa học, chuyên gia; cán bộ quản lý doanh nghiệp nhà nước.

Khái niệm lãnh đạo. Hiện có nhiều quan niệm khác nhau về lãnh đạo, theo

nhiều cách tiếp cận. Trong Từ điển Tiếng Việt, khái niệm lãnh đạo được cho là: “đề

ra chủ trương, đường lối và tổ chức, động viên thực hiện” [169, tr. 544]. Có tác giả

định nghĩa:

Lãnh đạo chỉ sự ảnh hưởng có tính xác định đối với hành vi của một cộng

đồng, tập thể hay cá nhân nhưng sự ảnh hưởng này không thông qua sự cưỡng

chế, không mang tính ép buộc. Lãnh đạo là khái niệm có tính đặc điểm là tính

định hướng, tính thuyết phục. Tính định hướng này thể hiện trước hết ở sự xác

định được ý nghĩa và giá trị chung được cả cộng đồng hay tập thể chia sẻ và

đồng thuận

[ 87, tr. 71].

43

Các nhà nghiên cứu trên thế giới về lãnh đạo học cũng đưa ra quan điểm của

mình: “Lãnh đạo là khả năng của một cá nhân nhằm gây ảnh hưởng, thúc đẩy, làm cho

mọi người góp phần vào hiệu quả và thành công của tổ chức họ đang làm thành viên”

hay “ lãnh đạo là khả năng giành được sự tin tưởng và ủng hộ từ những người cần thiết

để thực hiện thành công mục tiêu của tổ chức” [54, tr. 20].

Như vậy, lãnh đạo chính là hoạt động của chủ thể lãnh đạo, mang tính dẫn dắt,

định hướng, tổ chức cả đội ngũ hoặc phong trào theo một đường lối, định hướng cụ thể,

không mang tính áp đặt hay cưỡng chế. Người lãnh đạo là người biết tìm hiểu mối

tương quan giữa các cá nhân trong tổ chức và dùng những động lực để thúc đẩy mọi

thành viên trong nhóm hoạt động theo đúng mục tiêu đã xác định. Chức năng chủ yếu

của người lãnh đạo là xác định được mục tiêu hành động và tổ chức lực lượng để đạt

được mục tiêu đó.

Khái niệm quản lý. Quản lý là quá trình hoạt động điều hành một tổ chức, một

nhóm người thực hiện các nhiệm vụ nhằm đạt được mục tiêu đề ra. Từ điển Tiếng Việt

định nghĩa: “Quản lý là tổ chức và điều khiển các hoạt động theo những yêu cầu nhất

định”[169, tr. 800]. Quản lý là sự tác động hướng đích, có mục tiêu cụ thể của chủ thể

quản lý với đối tượng quản lý. Đây là mối quan hệ giữa mệnh lệnh và phục tùng. Để

đạt được mục tiêu đề ra “quản lý” dựa vào việc sử dụng một hệ thống các quy định, các

chính sách, các thủ tục đã được ban hành.

Lãnh đạo và quản lý là hai khái niệm khác nhau, nhưng có liên quan chặt chẽ

với nhau trong quá trình hoạt động của các chủ thể. Trong quá trình hoạt động của đội

ngũ cán bộ có chức trách nhất định trong HTCT, người cán bộ lãnh đạo và người cán

bộ quản lý đều phải nhận thức được khách thể và tác động đến khách thể. Trên cơ sở

những thuộc tính, những đặc điểm, những quy luật của khách thể, chủ thể ra quyết

định, điều khiển khách thể để thực hiện mục tiêu đề ra. Trong một hệ thống tổ chức

nhất định, nhất là trong HTCT, việc xác định rõ ràng cán bộ lãnh đạo và cán bộ quản lý

là rất khó khăn, vì ở vị trí này, trong hệ thống tổ chức này một người là cán bộ lãnh

đạo, nhưng trong mối quan hệ khác, vị trí khác, thì người đó lại không phải là cán bộ

lãnh đạo; có nhiều khi ở chính vị trí công tác đó, nhưng trong mối quan hệ khác nhau

thì người lãnh đạo lại là người quản lý. Để tổ chức hoạt động hiệu quả, hoàn thành mục

tiêu thì người cán bộ lãnh đạo phải thực hiện một số chức năng quản lý và người cán

bộ quản lý phải thực hiện một số chức năng lãnh đạo. Trong quá trình thực hiện một

44

đường lối hay một chủ trương, hai quá trình lãnh đạo và quản lý thường bổ sung cho

nhau, đan xen nhau và không cản trở nhau. Trong một tổ chức cần có sự kết hợp hài

hòa giữa lãnh đạo và quản lý nhằm đảm bảo hoàn thành hiệu quả các mục tiêu chung

của tổ chức.

Khái niệm CBLĐ, QL: Điều 2 Quy định số 132-QĐ/TWngày 08-3-2018 của Bộ

Chính trị“về việc kiểm điểm và đánh giá, xếp loại chất lượng hằng năm đối với tập thể,

cá nhân trong hệ thống chính trị” giải thích: CBLĐ, QL bao gồm “cán bộ; công chức

giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý, viên chức quản lý, người quản lý doanh nghiệp nhà

nước, người giữ chức vụ lãnh đạo, chỉ huy trong Quân đội nhân dân và Công an nhân

dân” [47, tr. 1]. Theo đó, CBLĐ, QL là CB, CC được giao giữ chức vụ lãnh đạo, quản

lý, phân biệt với người đảm nhiệm chức danh; trong đó, “cán bộ”, “công chức” theo

quy định của Luật CB, CC.

Từ sự phân tích các khái niệm “cán bộ”, “lãnh đạo”, “quản lý” nêu trên có thể

đưa ra khái niệm đội ngũ CBLĐ, QL trong HTCT là những người được bầu cử, phê

chuẩn, bổ nhiệm giữ một chức vụ, chức danh trong hệ thống bộ máy của Đảng, Nhà

nước, MTTQ, các tổ chức CT-XH; có vị trí, vai trò quan trọng, có trình độ chuyên

môn, nghiệp vụ, có phẩm chất chính trị, đạo đức, có năng lực quy tụ, tập hợp được tập

thể nhằm hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao.

HTCT cấp huyện là một cấp trong hệ thống hành chính bốn cấp của nước ta,

được tổ chức tương tự như cấp Trung ương, cấp tỉnh, gồm các bộ phận cấu thành:

Đảng bộ cấp huyện, chính quyền cấp huyện, MTTQ và các tổ chức CT-XH cấp huyện

(Liên đoàn lao động huyện, Hội Nông dân huyện, Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí

Minh huyện, Hội Liên hiệp phụ nữ huyện, Hội Cựu chiến binh huyện). Đội ngũ CBLĐ,

QL của HTCT cấp huyện bao gồm nhiều chức danh cán bộ ở các tổ chức, các lĩnh vực

công tác khác nhau của HTCT cấp huyện. Từ sự phân tích các khái niệm trên, tác giả

luận án đưa ra quan niệm: Đội ngũ CBLĐ, QL của HTCT cấp huyện là những người

được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ một chức vụ trong hệ thống tổ chức của Đảng,

chính quyền, MTTQ, các tổ chức CT-XH cấp huyện có vai trò quan trọng trong việc

lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức, tập hợp CB, CC và nhân dân địa phương thực hiện các

nhiệm vụ trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội nhằm hoàn thành tốt mọi nhiệm

vụ được giao trong từng thời kỳ lịch sử.

45

Hệ thống tổ chức đảng, Ủy ban MTTQ và các đoàn thể CT-XH được lập tương

ứng với hệ thống tổ chức hành chính của Nhà nước. Bộ máy lãnh đạo được xây dựng

theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Cơ quan lãnh đạo các cấp do bầu cử lập ra, thực

hiện tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách. Cơ quan lãnh đạo cao nhất là Đại hội. Đại hội

bầu ra ban chấp hành, ban chấp hành bầu ra BTV, thường trực và phân công giữ các

chức vụ, chức danh cụ thể trong tổ chức.

Tổ chức bộ máy chính quyền gồm HĐND và UBND, hoạt động theo Luật Tổ

chức chính quyền địa phương và theo nguyên tắc tập trung dân chủ. HĐND được bầu

ra thông qua bầu cử rộng rãi trong toàn thể nhân dân địa phương, đại diện cho ý chí

nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân địa phương. HĐND bầu ra UBND cùng

cấp, là cơ quan chấp hành của HĐND, cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương và

lập ra các cơ quan chuyên môn thuộc UBND. Các cơ quan chuyên môn thuộc UBND

cùng cấp thực hiện chức năng quản lý nhà nước về ngành, lĩnh vực ở địa phương.

Qua sự phân tích trên, có thể tổng hợp các chức danh CBLĐ, QL của HTCT cấp

huyện bao gồm:

* Nhóm chức danh cán bộ các cơ quan đảng:

Bí thư, 01 Phó Bí thư thường trực, 01 Phó Bí thư đồng thời là chủ tịch

UBND huyện;

Người đứng đầu và cấp phó của người đứng đầu các cơ quan tham mưu, giúp

việc cấp ủy cấp huyện (Ban tuyên giáo, Ban tổ chức, cơ quan Ủy ban kiểm tra, Ban

dân vận, Văn phòng) (hầu hết người đứng đầu các cơ quan này là ủy viên BTV cấp

ủy cấp huyện);

Giám đốc, Phó giám đốc Trung tâm chính trị huyện.

* Nhóm các chức danh chính quyền cấp huyện

HĐND cấp huyện

Chủ tịch HĐND cấp huyện (thường do Bí thư cấp ủy cấp huyện kiêm nhiệm);

Phó chủ tịch thường trực HĐND cấp huyện;

Phó chủ tịch HĐND cấp huyện;

Các trưởng ban, phó trưởng ban HĐND cấp huyện.

UBND cấp huyện

Chủ tịch UBND cấp huyện;

Phó chủ tịch thường trực UBND cấp huyện;

46

Phó chủ tịch UBND cấp huyện;

Trưởng cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp huyện và tương đương;

Phó trưởng cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp huyện và tương đương;

Trưởng, phó các đơn vị sự nghiệp trực thuộc UBND huyện

* Nhóm các chức danh cơ quan Ủy ban MTTQ và các tổ chức CT-XH cấp huyện

Chủ tịch, Phó chủ tịch ủy ban MTTQ cấp huyện (hầu hết chủ tịch ủy ban

MTTQ cấp huyện là ủy viên BTVcấp ủy cấp huyện);

Người đứng đầu và cấp phó của người đứng đầu Ban chấp hành tổ chức CT-XH

cấp huyện (hầu hết người đứng đầu ban chấp hành tổ chức CT-XH cấp huyện là cấp ủy

viên cấp ủy cấp huyện).

2.2.2. Đặc điểm của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý của hệ thống chính

trị cấp huyện

Thứ nhất, đội ngũ CBLĐ, QL của HTCT cấp huyện đa số là người địa phương,

chịu sự chi phối mạnh mẽ từ hoàn cảnh cụ thể của từng địa phương.

Đội ngũ CBLĐ, QL của HTCT cấp huyện phần lớn là người địa phương. Mặc

dù, những năm gần đầy, từ khi Bộ Chính trị ban hành Kết luận số 24-KL/TW ngày 05-

6-2012, phấn đấu đến năm 2015, có trên 50% cấp huyện một số chức danh cán bộ lãnh

đạo chủ chốt không phải là người địa phương nhưng kết quả thực hiện còn hạn chế.

Nhiệm kỳ 2010-2015, chức danh bí thư cấp huyện không là người địa phương đạt

38,19%; nhiệm kỳ 2015-2020 đạt 44,92% [39, tr. 73].

Vì là người địa phương, nên đội ngũ CBLĐ, QL gắn bó với quê hương, hiểu sâu

sắc phong tục, tập quán địa phương, tình hình, điều kiện, hoàn cảnh tự nhiên, con

người địa phương nên thuận lợi trong thực hiện nhiệm vụ… Tuy nhiên, đặc điểm này

cũng khiến đội ngũ CBLĐ, QL cấp huyện phải chịu sức ép của quan hệ dòng tộc, dễ

dẫn đến tư tưởng cục bộ, địa phương, trọng tình hơn trọng lý trong công tác lãnh đạo,

chỉ đạo, điều hành. Nếu không có cơ chế, cách thức kiểm soát tốt các mối quan hệ này

sẽ dẫn đến tình trạng lợi dụng chức vụ, quyền hạn để ưu tiên người thân, người quen,

thậm chí kết bè, kéo cánh, ưu tiên lợi ích nhóm…

Thứ hai, phần lớn CBLĐ, QL của HTCT cấp huyện xuất thân từ nông thôn, nông dân.

Phần lớn CBLĐ, QL của HTCT cấp huyện xuất thân từ nông thôn, nông dân, có

kinh nghiệm trong sản xuất nông nghiệp, nhưng còn hạn chế về kinh nghiệm lãnh đạo

các lĩnh vực trong quá trình CNH, HĐH đất nước và địa phương. Do xuất thân từ nông

47

thôn, nông dân nên khá nhiều cán bộ còn chịu sự chi phối của tâm lý tiểu nông như tâm

lý tư lợi, chỉ lo việc của cá nhân, không quan tâm đến những người xung quanh; nếp

nghĩ theo kinh nghiệm, tính bảo thủ, tầm nhìn thiển cận; tâm lý phụ thuộc cộng đồng

không dám thể hiện chính kiến của bản thân, luôn làm theo đa số; sự tùy tiện, ý thức tổ

chức kỷ luật kém; thụ động, cầu an, thiếu năng động, sáng tạo; v.v.. Tâm lý tiểu nông

ảnh hưởng không nhỏ đến kết quả hoàn thành nhiệm vụ của cán bộ và kết quả thực

hiện nhiệm vụ phát triển KT-XH, nhiệm vụ chính trị địa phương.

Thứ ba, đội ngũ CBLĐ, QL cấp huyện tương đối đông, được đào tạo cơ bản,

song số được đào tạo chính quy còn thấp, còn hạn chế về nghiệp vụ, kỹ năng lãnh đạo,

quản lý.

Tính đến ngày 31-12-2017, đội ngũ CBLĐ, QL ở ba cấp của các địa phương

trong nước là 233.269 người, trong đó cấp tỉnh là 65.513 người, cấp xã là 39.700

người, cấp huyện là 128.056 người (gấp hơn 1,9 lần cấp tỉnh và gấp hơn 3,2 lần

cấp xã). Về cơ cấu độ tuổi cấp uỷ viên cấp huyện nhiệm kỳ 2015-2020: dưới 35 tuổi

chiếm 6,5%; từ 35 đến 40 tuổi chiếm 18,02%; từ 41 đến 45 tuổi chiếm 19,28%; từ

46 đến 50 tuổi chiếm 23,32%; từ 51 đến 55 tuổi chiếm 24,64%; trên 55 tuổi chiếm

8,24% [39, tr. 42].

Đa số CBLĐ, QL của HTCT cấp huyện hiện nay được đào tạo có hệ thống,

trong các trường đại học, cao đẳng, nên trình độ mọi mặt tương đối cao. Theo số

liệu tổng hợp của Ban Tổ chức Trung ương, số cấp ủy viên cấp huyện nhiệm kỳ

2015-2020 có trình độ chuyên môn đại học trở lên đạt 97,07%; trình độ lý luận

chính trị cao cấp, cử nhân đạt 82,97%[39, tr. 43]. “Nhiều cán bộ lãnh đạo, quản lý

cấp huyện có tinh thần trách nhiệm cao, năng động, sáng tạo, sâu sát cơ sở, quyết

liệt trong lãnh đạo, điều hành công việc, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm

và có nhiều đóng góp cho địa phương” [39, tr. 44].

Tuy nhiên, số lượng cán bộ được đào tạo chính quy ít, chủ yếu được đào tạo

chuyên tu, tại chức hoặc từ xa, nên ảnh hưởng không nhỏ đến năng lực tư duy sáng

tạo, tầm nhìn, năng lực chỉ đạo, điều hành của cán bộ. “Cán bộ lãnh đạo ở địa

phương tuy tăng nhanh về số lượng nhưng về chất lượng chưa thực sự đáp ứng yêu

cầu nhiệm vụ” [39, tr. 45]. Đặc điểm này của đội ngũ cán bộ là do phần lớn CBLĐ,

QL của HTCT cấp huyện hiện nay sinh ra và trưởng thành trong thời kỳ đất nước

còn gặp nhiều khó khăn về KT-XH.

48

Trong những năm gần đây, đội ngũ CBLĐ, QL của HTCT cấp huyện đã được

trẻ hóa từng bước theo chủ trương của Đảng. Điều này có tác động tích cực đến chất

lượng đội ngũ cán bộ, do cán bộ trẻ được đào tạo bài bản và chính quy ngày càng

nhiều. Tuy nhiên, số cán bộ trẻ là đội ngũ kế cận chưa được rèn luyện nhiều qua các

cương vị lãnh đạo, quản lý khác nhau, môi trường thử thách còn thiếu tính khắc nghiệt.

2.2.3. Vai trò của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý của hệ thống chính trị

cấp huyện

Trong bất kỳ thời kỳ, giai đoạn lịch sử nào của sự nghiệp cách mạng, cán bộ và

công tác cán bộ giữ một vị trí đặc biệt quan trọng. Cán bộ là một trong những nhân tố

cơ bản quyết định mọi thắng lợi của sự nghiệp cách mạng, quyết định việc nâng cao

năng lực và sức chiến đấu của Đảng. Trong một chuỗi những nhân tố tạo nên sự phát

triển KT-XH, nhân tố con người giữ vị trí trọng tâm, quyết định đối với nhân tố khác.

Ngày nay, vai trò quyết định của trí tuệ được coi như một quyền lực, là thước đo giá trị

cao hơn mọi quyền lực giá trị khác. Con người là vốn quý nhất, là chủ thể sáng tạo ra

mọi giá trị. Trong tất cả các quy trình đều có yếu tố con người, vai trò của con người

vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc phát triển KT-XH.

Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin là những người đặt nền móng cho

vấn đề cán bộ của giai cấp vô sản và chỉ ra rằng: Giai cấp vô sản và chính đảng của

mình muốn giành được quyền lãnh đạo, giữ vững được chính quyền thì phải xây dựng

được một đội ngũ cán bộ trung thành và tài năng, đáp ứng được nhiệm vụ cách mạng.

Trong quá trình vừa chỉ đạo phong trào công nhân, vừa chuẩn bị các điều kiện thành

lập các đảng cộng sản, C. Mác và Ph. Ăngghen đã nhận thức sâu sắc rằng: để thực hiện

một lý tưởng cần thiết phải có những con người sử dụng lực lượng thực tiễn. Ngay từ

năm 1844, C. Mác đã khẳng định: "Muốn thực hiện tư tưởng thì cần có những con

người sử dụng lực lượng thực tiễn" [106, tr. 181]. Trong thời kỳ lãnh đạo đấu tranh

giành chính quyền, V.I. Lênin khẳng định: "Trong lịch sử, chưa hề có một giai cấp nào

giành được quyền thống trị nếu nó không đào tạo ra được trong hàng ngũ của mình

những lãnh tụ chính trị, những đại biểu tiên phong có đủ khả năng tổ chức và lãnh đạo

phong trào" [115, tr. 473]. Sau khi giành được chính quyền, nước Nga tiến hành xây

dựng CNXH, Người tiếp tục khẳng định: "Nghiên cứu con người, tìm những cán bộ có

bản lĩnh. Hiện nay đó là then chốt; nếu không thì tất cả mọi mệnh lệnh và quyết định sẽ

chỉ là mớ giấy lộn" [115, tr. 499]. Đồng thời, Người cũng chỉ ra rằng, ba yếu tố cán bộ,

49

tổ chức và cơ chế chính sách có mối quan hệ biện chứng với nhau. Kết quả của việc

thực hiện chính sách phụ thuộc rất lớn vào việc ai là người thực hiện chính sách ấy.

Kế thừa và vận dụng sáng tạo học thuyết Mác - Lênin vào thực tiễn cách mạng

Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định cán bộ là một trong những nhân tố quyết

định đến sự nghiệp cách mạng: "Cán bộ là cái gốc của mọi công việc" [128, tr.

269];"công việc thành công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hay kém" [128, tr. 273].

Phong trào cách mạng của quần chúng nhân dân chỉ giành được thắng lợi khi có đường

lối đúng, được tổ chức chặt chẽ và quan trọng hơn cả là phải lựa chọn, đào tạo được

một đội ngũ những người lãnh đạo tương xứng.

Trong sự nghiệp cách mạng của Đảng ta, vấn đề cán bộ bao giờ cũng giữ vị trí

đặc biệt quan trọng. Việc giải quyết tốt mối quan hệ giữa đường lối chính trị, công tác

tổ chức và phong trào quần chúng là cơ sở để làm tốt công tác cán bộ. Nghị quyết Hội

nghị Trung ương 3 khóa VIII về Chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa,

hiện đại hóa đất nước đất nước khẳng định: “Cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại

của cách mạng; quan hệ đến vận mệnh của Đảng, của chế độ; là khâu then chốt trong

công tác xây dựng đảng” [67, tr. 69].

Với vị trí là cấp hành chính trung gian có mối quan hệ trực tiếp giữa cấp tỉnh và

cấp cơ sở, cấp huyện là địa bàn có điều kiện để kết hợp các ngành, các đơn vị kinh tế,

văn hóa do cấp tỉnh trực tiếp quản lý thành một cơ cấu kinh tế thống nhất. Sự nghiệp

CNH, HĐH ở cấp huyện có thành công hay không phụ thuộc rất lớn vào sự năng động,

sáng tạo vận dụng đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà

nước phù hợp với đặc điểm của địa phương, vào năng lực tổ chức triển khai thực hiện

nhiệm vụ chính trị của đội ngũ CBLĐ, QL của HTCT cấp huyện. Theo yêu cầu đó, vị trí,

vai trò của đội ngũ CBLĐ, QL của HTCT cấp huyện thể hiện ở những nội dung sau:

Thứ nhất, trực tiếp tổ chức chỉ đạo cấp cơ sở thực hiện đường lối, chủ trương

của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước; các chủ trương công tác của tỉnh ủy,

HĐND, UBND cấp tỉnh.

Với tư cách là lực lượng nòng cốt trong HTCT cấp huyện, đội ngũ CBLĐ, QL

trực tiếp lĩnh hội nghị quyết, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước

và sự chỉ đạo, hướng dẫn của cấp trên để quán triệt và tổ chức thực hiện ở cấp mình.

Thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng

trên địa bàn cấp huyện là trách nhiệm của cả HTCT, của mọi người dân, nhưng trách

50

nhiệm nặng nề và có ý nghĩa quyết định thuộc về đội ngũ CBLĐ, QL. Chính họ là lực

lượng trực tiếp lĩnh hội chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, sự chỉ đạo, hướng

dẫn của cấp tỉnh để quán triệt, xây dựng chủ trương, định hướng, phương thức tổ chức

thực hiện phù hợp với điều kiện tình hình thực tế của địa phương. Đội ngũ này là người

đưa ra các dự án phát triển KT-XH thuộc địa bàn quản lý trên cơ sở định hướng của

tỉnh và Trung ương trên cơ sở am hiểu tình hình mọi mặt từ tiềm năng, thế mạnh của

địa phương đến đời sống xã hội của nhân dân, từ tâm tư, nguyện vọng, tín ngưỡng, tôn

giáo, dân tộc, kinh tế, văn hóa, chính trị… Từ sự am hiểu sâu sắc đó, đội ngũ CBLĐ,

QL là người tham mưu cho cấp ủy, HĐND, UBND cấp huyện quyết định các dự án

phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh của địa phương. Sau khi có chủ

trương, kế hoạch thực hiện cụ thể, đội ngũ CBLĐ, QL là lực lượng quán triệt, phổ biến

đến các cơ quan, đơn vị, các xã, phường, thị trấn trên địa bàn; phân công, tổ chức nhân

sự và tạo điều kiện để các cơ quan, đơn vị triển khai thực hiện nhiệm vụ. Đồng thời,

đội ngũ CBLĐ, QL có trách nhiệm kiểm tra, đôn đốc, giám sát việc thực hiện các

nhiệm vụ của các tổ chức, cơ quan, đơn vị, các cấp ủy tổ chức đảng trên địa bàn huyện.

Cuối cùng, đội ngũ CBLĐ, QL là lực lượng có nhiệm vụ tổ chức thực hiện sơ kết, tổng

kết thực tiễn địa phương, rút ra những kinh nghiệm đóng góp với Trung ương, với cấp

tỉnh để hoàn thiện đường lối, chính sách chung phù hợp thực tiễn. Nếu đội ngũ CBLĐ,

QL cấp huyện có đủ phẩm chất, năng lực, trình độ, nêu cao tinh thần trách nhiệm, phát

huy tốt vai trò thì việc quán triệt và tổ chức thực hiện đường lối, chính sách của Đảng,

Nhà nước ở các huyện sẽ đạt hiệu quả cao và ngược lại.

Thứ hai, là lực lượng quan trọng có vai trò quyết định trong việc tổ chức thực

hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng,

xây dựng Đảng, chính quyền, MTTQ và các tổ chức CT-XH cấp huyện trong sạch,

vững mạnh.

Là người đứng đầu cấp ủy, chính quyền, MTTQ và các tổ chức CT-XH cấp

huyện, đội ngũ CBLĐ, QL cấp huyện vừa là người lãnh đạo, vừa là người quản lý mọi

hoạt động của một bộ máy, một tổ chức, một cơ quan. Người CBLĐ, QL vừa có chức

năng chỉ đạo, vừa có chức năng tổ chức mọi hoạt động, đảm bảo cho bộ máy vận hành

đồng bộ.

Đội ngũ CBLĐ, QL cấp huyện là những người điều hành và nâng cao chất

lượng các tổ chức đảng, chính quyền, MTTQ và tổ chức CT-XH tại địa phương. Để

51

thực hiện quyền lãnh đạo, quản lý của mình trên thực tế, đội ngũ CBLĐ, QL cấp huyện

phải góp phần lập ra các tổ chức, định ra chương trình, kế hoạch và tổ chức thực hiện

chương trình, kế hoạch công tác của từng tổ chức. Với vai trò là người đứng đầu, các

CBLĐ, QL cấp huyện trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo củng cố tổ chức, nâng cao chất lượng

nội bộ và chất lượng hoạt động của từng tổ chức, tạo lập sự phối hợp công tác giữa các

tổ chức…

Thứ ba, là những người xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ, đảng viên kế cận

và dài hạn thay thế lớp cán bộ đi trước; là nguồn bổ sung cho đội ngũ cán bộ cấp trên.

Không chỉ là nhân tố quan trọng quyết định chất lượng và hiệu quả hoạt động

của các tổ chức trong HTCT cấp huyện, đội ngũ CBLĐ, QL cấp huyện còn là một

trong những nguồn cung cấp cán bộ cho HTCT cấp trên. Với những phẩm chất, trình

độ, năng lực đáp ứng yêu cầu công việc, với kinh nghiệm hoạt động thực tiễn tại địa

phương…, đội ngũ cán bộ này sẽ là nhân tố bổ sung hiệu quả cho nguồn cán bộ cấp

tỉnh và cấp Trung ương. Đội ngũ CBLĐ, QL của HTCT cấp huyện đã được rèn luyện,

thử thách trong thực tiễn hoạt động, bộc lộ được những phẩm chất và năng lực vượt

trội của mình. Là cấp trên trực tiếp của cơ sở, cấp thừa hành, đôn đốc, kiểm tra và phối

hợp hoạt động cùng cơ sở, đội ngũ CBLĐ, QL cấp huyện có nhiều điều kiện thuận lợi

để tích lũy kiến thức, kinh nghiệm, kỹ năng thực hành để có thể hoàn thành tốt chức

trách, nhiệm vụ được giao. Từ hoạt động thực tiễn này, đội ngũ cán bộ tích lũy được

nhiều kinh nghiệm bổ ích khi được bố trí ở vị trí cao hơn, khắc phục những biểu hiện

quan liêu, xa rời quần chúng nhân dân trong quá trình thực hiện nhiệm vụ.

2.3. Phát triển đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý của hệ thống chính trị cấp

huyện - quan niệm, nội dung, mục tiêu

2.3.1. Quan niệm về phát triển đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý của hệ thống

chính trị cấp huyện

Đại từ điển Tiếng Việt định nghĩa: “Sự phát triển là mở mang từ nhỏ thành to, từ

yếu thành mạnh”[180, tr.1967]. Trong lịch sử triết học, quan điểm siêu hình xem sự

phát triển chỉ là sự tăng lên hay giảm đi thuần túy về lượng, không có sự thay đổi về

chất, đồng thời xem phát triển là sự tiến lên liên tục, không trải qua những bước quanh

co phức tạp. Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, “phát triển là một phạm trù

triết học dùng để khái quát quá trình vận động tiến lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến

phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn... Phát triển là một trường hợp đặc biệt

52

của sự vận động” [114, tr. 227]. “Trong quá trình phát triển sẽ nảy sinh những tính quy

định mới cao hơn về chất, nhờ vậy, làm tăng cường tính phức tạp của sự vật và của sự

liên hệ, làm cho cả cơ cấu tổ chức, phương thức tồn tại và sự vận động của sự vật cùng

chức năng vốn có của nó ngày càng hoàn thiện hơn” [114, tr. 227].

Từ quan niệm trên có thể thấy, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin đã

đưa ra một quan niệm phát triển mang tính biện chứng, là sự phát triển có kế thừa và

theo hướng đi lên, tiến bộ. Khái niệm phát triển không đồng nhất với khái niệm vận

động nói chung, không phải là sự biến đổi tăng lên hay giảm đi đơn thuần về lượng

hoặc sự lặp đi lặp lại ở chất cũ mà phát triển là kết quả của quá trình thay đổi về lượng

dẫn đến sự thay đổi về chất theo hướng hoàn thiện hơn. Phát triển cũng là quá trình

phát sinh và giải quyết mâu thuẫn khách quan vốn có của sự vật; là quá trình thống nhất

giữa phủ định những nhân tố tiêu cực và kế thừa, nâng cao nhân tố tích cực từ sự vật

cũ, trong hình thái mới của sự vật. Sự phát triển, luôn luôn gắn với sự tiến bộ. Con

người, tổ chức, sự vật phát triển, tức là ngày càng hoàn thiện, tiến bộ hơn.

Phát triển nguồn nhân lực được nhiều tác giả trong và ngoài nước bàn luận đến.

Tác giả Shozo Hibino và Gerald Nadler cho rằng: “Phát triển nguồn nhân lực là làm

tăng kinh nghiệm học được trong một khoảng thời gian xác định để tăng cơ hội nâng

cao năng lực thực hiện công việc” [144, tr. 56]. Từ các góc độ tiếp cận khác nhau, các

tác giả đưa ra những khái niệm phát triển nguồn nhân lực khác nhau, nhưng tựu trung

lại, có điểm chung là phát triển nguồn nhân lực của một quốc gia, một vùng lãnh thổ

hay một địa phương, ngành, lĩnh vực là những hoạt động nhằm tạo ra sự biến đổi cả số

lượng và chất lượng về mặt thể lực, trí lực, kỹ năng, kiến thức, tinh thần của từng người

lao động, tạo ra một cơ cấu đội ngũ nhân lực hợp lý và sử dụng năng lực của từng

người và cả đội ngũ vì sự tiến bộ KT-XH.

Phát triển nguồn nhân lực là tổng thể hoạt động có mục đích của con người

nhằm khơi dậy, tạo điều kiện để từng người phấn đấu, rèn luyện, sử dụng khả năng có

được của con người; là sự lựa chọn tối ưu phương thức hoạt động làm tăng thêm tiềm

lực của con người và phát huy hiệu quả tiềm lực ấy. Như vậy, có thể hiểu, phát triển

nguồn nhân lực là quá trình tạo ra sự biến đổi về số lượng và chất lượng nguồn nhân

lực nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng chúng đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu phát

triển KT-XH của đất nước, địa phương, ngành, lĩnh vực.

53

Là một bộ phận của nguồn lực con người, việc phát triển đội ngũ cán bộ nói

chung và đội ngũ CBLĐ, QL của HTCT cấp huyện nói riêng cũng chính là quá trình

nâng cao chất lượng và sử dụng có hiệu quả những phẩm chất và năng lực của đội ngũ

này đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong từng giai đoạn.

Khái niệm “phát triển” có nội hàm rộng hơn khái niệm “xây dựng”. Nếu

“xây dựng” mới chủ yếu nói về việc thành lập, hình thành, tạo lập cái chưa có, thì

khái niệm “phát triển” bao hàm cả việc hình thành cái mới và bồi đắp những cái đã

có. Theo đó, khái niệm “phát triển” được hiểu gần như đồng nghĩa với khái niệm

“nâng cao chất lượng”.

Nghị quyết Hội nghị Trung ương 7 khóa XII đã khẳng định:

Xây dựng đội ngũ cán bộ là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, trực tiếp là

của cấp ủy, tổ chức đảng mà trước hết là người đứng đầu và cơ quan tham

mưu của Đảng, trong đó cơ quan tổ chức, cán bộ là nòng cốt. Phát huy mạnh

mẽ vai trò của Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị -xã hội và

cơ quan truyền thông, báo chí trong công tác cán bộ và xây dựng đội ngũ cán

bộ…; phải thực sự dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng, xây dựng đội ngũ cán

bộ” [78, tr. 56].

Như vậy, phát triển đội ngũ CBLĐ, QL của HTCT cấp huyện là các hoạt động

của cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền, MTTQ và các tổ chức CT-XH, cán bộ, đảng

viên và nhân dân từ tỉnh đến huyện và các lực lượng liên quan nhằm thực hiện

những công việc cần thiết, tạo nên sự hợp lý về mặt số lượng và cơ cấu cán bộ,

nâng cao chất lượng của các cá nhân và cả đội ngũ CBLĐ, QL cấp huyện nhằm

nâng cao hơn nữa hiệu quả và hiệu lực hoạt động của cấp huyện trong hệ thống

chính trị ở nước ta hiện nay.

Mục tiêu phát triển đội ngũ CBLĐ, QL của HTCT cấp huyện:

Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 19-5-2018 Hội nghị Trung ương 7 khóa XII xác

định: “Mục tiêu tổng quát là xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ cấp chiến lược có

phẩm chất, năng lực, uy tín, ngang tầm nhiệm vụ; đủ số lượng, có chất lượng và cơ cấu

phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ Tổ quốc; bảo đảm sự

chuyển tiếp liên tục, vững vàng giữa các thế hệ” [78, tr. 57].

Mục tiêu phát triển đội ngũ CBLĐ, QL của HTCT cấp huyện là làm cho đội

ngũ cán bộ này có số lượng, cơ cấu hợp lý, có chất lượng đáp ứng yêu cầu thực hiện

thắng lợi nhiệm vụ chính trị của từng địa phương.

54

Chủ thể phát triển đội ngũ CBLĐ, QL của HTCT cấp huyện:

Ở nước ta, Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng cầm quyền. Với tư cách và trách

nhiệm của Đảng cầm quyền, “Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội

ngũ cán bộ theo nguyên tắc tập trung dân chủ, đi đôi với phát huy trách nhiệm của các

tổ chức và người đứng đầu các tổ chức trong hệ thống chính trị về công tác cán bộ”

[70, tr. 272]. Khoản 2 điều 41 Điều lệ Đảng do Đại hội XI của Đảng thông qua cũng

xác định tương tự. Quy định số 29-QĐ/TW ngày 25-7-2016 do Hội nghị Trung ương 3

khóa XII thông qua đã cụ thể hóa khoản 2 điều 41 Điều lệ Đảng:

- Đảng đề ra đường lối, chủ trương, chính sách, tiêu chuẩn, quy chế, quy định về

công tác cán bộ và thông qua các cấp ủy, tổ chức đảng, đảng viên trong các cơ quan

nhà nước, MTTQ, đoàn thể, doanh nghiệp, đơn vị sự nghiệp để lãnh đạo các cấp, các

ngành tổ chức thực hiện các quyết định của Đảng về cán bộ và công tác cán bộ.

- Tập thể cấp ủy và tổ chức đảng có thẩm quyền thảo luận dân chủ và quyết

định theo đa số những vấn đề về đường lối, chủ trương, chính sách, đánh giá, bố trí, sử

dụng, bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, luân chuyển, khen thưởng, kỷ luật cán bộ. Khi ý kiến

người đứng đầu khác ý kiến của tập thể cấp ủy, tổ chức đảng, lãnh đạo cơ quan, đơn vị

thì phải báo cáo lên cấp có thẩm quyền xem xét, quyết định.

- Người đứng đầu cấp ủy, tổ chức đảng, cơ quan, đơn vị có trách nhiệm đề xuất

và tổ chức thực hiện các quyết định của tập thể về cán bộ và công tác cán bộ trong lĩnh

vực được phân công phụ trách.

- Cá nhân đề xuất, cơ quan thẩm định, quyết định về cán bộ phải chịu trách

nhiệm về đề xuất, thẩm định, quyết định của mình.

- Cán bộ, đảng viên phải chấp hành nghiêm túc các nghị quyết, quyết định của

cấp ủy, tổ chức đảng; cấp ủy cấp dưới phải chấp hành quyết định của cấp ủy cấp trên

về cán bộ và công tác cán bộ.

- Mỗi cấp ủy, tổ chức đảng, người đứng đầu các cơ quan, đơn vị có trách nhiệm

trực tiếp quản lý cán bộ (kể cả các đồng chí Ủy viên Trung ương) đang công tác, sinh

hoạt trong tổ chức mình và chịu trách nhiệm trước cấp ủy, thủ trưởng cấp trên về cán

bộ thuộc quyền quản lý của mình [75, tr. 84-86].

Chủ thể lãnh đạo và tổ chức thực hiện việc phát triển đội ngũ CBLĐ, QL của

HTCT cấp huyện là cấp ủy cấp tỉnh và cấp ủy cấp huyện, trước hết là BTV cấp ủy cấp

tỉnh và BTV cấp ủy cấp huyện. Mỗi một chủ thể có vai trò, nhiệm vụ cụ thể khác nhau

55

trong việc phát triển đội ngũ cán bộ này. Trên cơ sở quán triệt nghị quyết, chỉ thị của

Trung ương, các cấp ủy cấp tỉnh và cấp ủy cấp huyện có trách nhiệm xác định chủ

trương, định hướng và cụ thể hóa thành các quy định, hướng dẫn, kế hoạch về công tác

cán bộ phù hợp với tình hình, điều kiện thực tế của tỉnh, của huyện theo phân cấp quản

lý và thực hiện.

Lực lượng tham gia phát triển đội ngũ CBLĐ, QL của HTCT cấp huyện gồm:

các cơ quan tham mưu, giúp việc của cấp ủy cấp tỉnh và cấp ủy cấp huyện, trước hết là

ban tổ chức cấp ủy; các tổ chức trong HTCT cấp huyện; các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng

cán bộ cấp tỉnh, cấp huyện; bản thân đội ngũ CBLĐ, QL của HTCT cấp huyện và đảng

viên, nhân dân địa phương.

2.3.2. Mục tiêu phát triển đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý của hệ thống

chính trị cấp huyện

2.3.2.1. Bảo đảm số lượng, cơ cấu đội ngũ cán bộ hợp lý

Số lượng cán bộ được xác định bởi tổng số cán bộ hiện có đang đảm nhận các

chức vụ, nhiệm vụ, công việc khác nhau trong từng tổ chức, đơn vị của HTCT cấp

huyện tại thời điểm nhất định. Số lượng cán bộ là yếu tố tác động trực tiếp đến chất

lượng đội ngũ cán bộ. Số lượng cán bộ phù hợp với nhu cầu biên chế, yêu cầu nhiệm

vụ của từng cơ quan, đơn vị, địa phương là điều kiện để nâng cao chất lượng đội ngũ

cán bộ. Bởi, số lượng cán bộ không chỉ đơn thuần là tổng số cán bộ trong các cơ quan,

đơn vị trong HTCT, tồn tại riêng lẻ, tách biệt nhau mà giữa các cán bộ có mối quan hệ

qua lại, gắn bó mật thiết với nhau để tạo thành sức mạnh tổng hợp của nguồn lực cán

bộ. Tùy thuộc chức năng, nhiệm vụ của từng tổ chức, cơ quan, đơn vị trong từng giai

đoạn nhất định để xác định một cách hợp lý số lượng cán bộ nhằm đảm bảo sự phát

triển chung bền vững và hiệu quả. Nếu số lượng cán bộ quá thiếu, xảy ra trong thời

gian dài mà không được kiện toàn, bổ sung kịp thời dẫn đến tình trạng hụt hẫng cán bộ,

một người phải đảm nhiệm quá nhiều công việc sẽ không bảo đảm chất lượng. Ngược

lại, nếu số lượng cán bộ quá thừa so với nhu cầu, nhiệm vụ của cơ quan, đơn vị sẽ dẫn

đến tình trạng một công việc phải giao cho nhiều người; không ai chịu trách nhiệm, dựa

dẫm, đùn đẩy công việc lẫn nhau, “cha chung không ai khóc”, chất lượng công việc kém.

Như vậy, phải có đủ số lượng cần thiết CBLĐ, QL theo các chức danh cán bộ

đã được Đảng, Nhà nước quy định để bố trí vào các vị trí lãnh đạo, quản lý các cơ

quan, đơn vị trong HTCT cấp huyện, nhằm duy trì tốt mọi hoạt động của địa phương,

56

cơ quan, đơn vị đó; bù đắp số lượng cán bộ nghỉ hưu, cán bộ luân chuyển, cán bộ qua

đời; đủ cán bộ kế cận, tránh tình trạng hụt hẫng, chắp vá, hoặc tình trạng thừa cán bộ.

Cơ cấu đội ngũ cán bộ là yếu tố tác động trực tiếp, thường xuyên đến chất

lượng của đội ngũ cán bộ. Cơ cấu cán bộ biểu hiện ở nhiều khía cạnh như cơ cấu thành

phần xuất thân, cơ cấu tuổi, cơ cấu giới tính, cơ cấu dân tộc, cơ cấu ngành nghề, cơ cấu

trình độ học vấn, chức danh cán bộ, chức vụ cán bộ đảm nhiệm, lĩnh vực hoạt động…

Tất cả những yếu tố đó đều có một vị trí, vai trò nhất định và có mối quan hệ tác động

qua lại lẫn nhau tạo thành một chỉnh thể thống nhất. Cơ cấu cán bộ hợp lý phải đảm

bảo sự ổn định trong quá trình hoạt động và phát triển của tổ chức, không chỉ đáp ứng

yêu cầu hoạt động tại thời điểm hiện tại, mà còn phải bảo đảm sự ổn định trong tương

lai. Nhìn chung, các cấp ủy, tổ chức đảng, cơ quan tham mưu về công tác tổ chức, cán

bộ cần nghiên cứu, tính toán cơ cấu đội ngũ cán bộ cho phù hợp trong từng thời kỳ và

trong tương lai nhằm đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ của từng cơ quan, tổ chức cũng

như phù hợp với chức vụ, công việc của từng cán bộ, phát huy được năng lực chuyên

môn ngành nghề đã được đào tạo, đồng thời phát huy có hiệu quả nguồn lực cán bộ. Cơ

cấu đội ngũ cán bộ hợp lý ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng của đội ngũ cán bộ, tránh

tình trạng chồng chéo, lãng phí nhân lực, đề cao trách nhiệm cá nhân, tạo điều kiện

thuận lợi cho mỗi cán bộ thể hiện tài năng, sở trường của mình, hỗ trợ lẫn nhau trong

quá trình thực hiện nhiệm vụ.

Về cơ cấu độ tuổi, theo quy định, CBLĐ, QL được bổ nhiệm lần đầu phải là

người có đủ sức khỏe, đủ thời gian công tác hai nhiệm kỳ trở lên, hoặc ít nhất trọn một

nhiệm kỳ (5 năm). Đối với đội ngũ cán bộ diện BTV cấp ủy cấp huyện quản lý là ủy

viên ban chấp hành đảng bộ cấp huyện, ngoài điều kiện về tuổi bổ nhiệm còn phải đáp

ứng tiêu chuẩn cơ cấu của cả đội ngũ. Thông thường, cán bộ có tuổi đời dưới 35 chiếm

không dưới 10%, cán bộ có tuổi đời từ 35-50 chiếm khoảng 45-55%; cán bộ có tuổi đời

trên 50 chiếm khoảng 20-30%. Cơ cấu cán bộ này đảm bảo sau mỗi nhiệm kỳ đại hội

sẽ đổi mới ít nhất 30% cấp ủy các cấp.

Cơ cấu giới tính thể hiện ở tỷ lệ CBLĐ, QL là nữ ngày càng tăng lên. Cụ thể,

trong yêu cầu chuẩn bị nhân sự đại hội các cấp, tỷ lệ cán bộ nữ đảm bảo không dưới

15%; trong BTV cấp ủy, thường trực HĐND, thường trực UBND phải có cán bộ nữ.

Bảo đảm tỷ lệ cán bộ là nữ sẽ duy trì và tăng cường sự lãnh đạo của cấp ủy các cấp và

57

nâng cao chất lượng lãnh đạo đối với hơn nửa dân số trong tất cả các lĩnh vực hoạt

động phù hợp đối với phụ nữ.

Cơ cấu chuyên môn đào tạo và lĩnh vực công tác cần hợp lý, tăng cường hơn vai

trò và hiệu quả lãnh đạo của cấp ủy các cấp đối với các ngành nghề, lĩnh vực trọng yếu

trong từng đơn vị, địa phương.

Hiện nay, chưa có quy định nào cụ thể về cơ cấu dân tộc, ngành nghề, thành

phần xuất thân của đội ngũ CBLĐ, QL trong mỗi cơ quan, đơn vị cụ thể của HTCT cấp

huyện. Việc bố trí cơ cấu cán bộ do mỗi đơn vị thực hiện dựa trên số lượng, chất lượng

của đội ngũ cán bộ hiện có ở từng đơn vị nhằm giúp khai thác và sử dụng hiệu quả

năng lực của từng cán bộ. Các cơ quan, đơn vị chủ động trong quy hoạch, tuyển dụng,

đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển, thực hiện chính sách cán bộ, chính sách phát triển

nguồn lực cán bộ của đơn vị mình phù hợp với điều kiện và đáp ứng nhiệm vụ của cơ

quan, đơn vị.

2.3.2.2. Các cán bộ lãnh đạo, quản lý của hệ thống chính trị cấp huyện có phẩm

chất và năng lực tốt, ngang tầm nhiệm vụ

Chất lượng đội ngũ CBLĐ, QL của HTCT cấp huyện là sự tổng hòa các yếu tố

số lượng, cơ cấu; phẩm chất và năng lực của các cá nhân cán bộ được thể hiện chủ yếu

ở mức độ hoàn thành chức trách, nhiệm vụ của cán bộ, đồng thời thể hiện ở uy tín của

đội ngũ cán bộ đối với tổ chức, cán bộ, đảng viên và nhân dân.

Phẩm chất của CBLĐ, QL của HTCT cấp huyện gồm phẩm chất chính trị và

phẩm chất đạo đức.

Phẩm chất chính trị của người CBLĐ, QL hiện nay là:

Kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; trung thành với Đảng,

với Tổ quốc và nhân dân; có lập trường, quan điểm, bản lĩnh chính trị vững vàng; có

tinh thần yêu nước; đặt lợi ích của Đảng, quốc gia lên trên lợi ích của ngành, địa

phương, cơ quan và cá nhân; biết hy sinh vì sự nghiệp cách mạng của Đảng, vì độc lập,

tự do của Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân; dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách

nhiệm. Thực hiện nghiêm các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng; công khai,

minh bạch, khách quan, dân chủ trong lãnh đạo, quản lý; chấp hành sự phân công của

tổ chức [39, tr.14].

Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “có tài phải có đức. Có tài không có đức, tham ô hủ

hóa có hại cho nước. Có đức không có tài như ông bụt ngồi trong chùa, không giúp ích

58

gì được ai” [128, tr. 184]. Như vậy, đạo đức là nền tảng của người cán bộ, đặc biệt là

cán bộ có chức vụ, quyền hạn. Phát triển đội ngũ cán bộ phải đặc biệt chú ý chăm lo, tu

dưỡng rèn luyện đạo đức cách mạng của người cán bộ. Cán bộ không có đức, tâm

không trong sáng thì không thể xả thân vì cách mạng, không thể tận tụy một lòng, một

dạ phục vụ nhân dân. CBLĐ, QL càng phải quan tâm chú ý đến phẩm chất đạo đức. Là

những người trực tiếp lãnh đạo và quản lý đội ngũ cán bộ của cơ quan, đơn vị, địa

phương mình, nên họ không chỉ phải gương mẫu, mẫu mực đối với cán bộ dưới quyền,

mà còn phải là tấm gương trong sáng về đạo đức đối với nhân dân địa phương. Có như

vậy, họ mới tạo được uy tín, lòng tin, sự nể phục của mọi người chung quanh.

Ngày 07-6-2012 Ban Bí thư đã ban hành Quy định số 101-QĐ/TW quy định

trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp

trong việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, trong đó ghi rõ yêu

cầu nêu gương về đạo đức, lối sống, tác phong:

- Thực hiện nghiêm Quy định của Ban Chấp hành Trung ương về những điều

đảng viên không được làm và Hướng dẫn của Ủy ban Kiểm tra Trung ương về việc

thực hiện Quy định này.

- Ði đầu trong đấu tranh phòng, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí; sẵn sàng

nhận và chịu trách nhiệm khi tổ chức, cơ quan, đơn vị do mình phụ trách xảy ra tham

nhũng, lãng phí, tiêu cực và quyết tâm sửa chữa, khắc phục.

- Nêu gương về đức khiêm tốn, giản dị; tác phong sâu sát thực tế, gần gũi để

thấu hiểu tâm tư, nguyện vọng chính đáng của quần chúng, trước hết trong tổ chức, cơ

quan, đơn vị công tác và nơi cư trú.

- Kiên quyết không nhận quà biếu với động cơ vụ lợi dưới mọi hình thức; không

để cho người thân lợi dụng quyền hạn và ảnh hưởng của mình để trục lợi [3, tr. 2-3].

Trong Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XII, Đảng ta đã xác định 9 biểu

hiện suy thoái về đạo đức, lối sống của người cán bộ, đảng viên:

1) Cá nhân chủ nghĩa, sống ích kỷ, thực dụng, cơ hội, vụ lợi; chỉ lo thu vén cá

nhân, không quan tâm đến lợi ích tập thể; ganh ghét, đố kỵ, so bì, tị nạnh, không muốn

người khác hơn mình.

2) Vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ, gây mất đoàn kết nội bộ; đoàn kết xuôi

chiều, dân chủ hình thức; cục bộ, bè phái, kèn cựa địa vị, tranh chức, tranh quyền; độc

đoán, gia trưởng, thiếu dân chủ trong chỉ đạo, điều hành.

59

3) Kê khai tài sản, thu nhập không trung thực.

4) Mắc bệnh "thành tích", háo danh, phô trương, che dấu khuyết điểm, thổi phồng

thành tích, "đánh bóng" tên tuổi; thích được đề cao, ca ngợi; "chạy thành tích", "chạy

khen thưởng", "chạy danh hiệu".

5) Quan liêu, xa rời quần chúng, không sâu sát cơ sở, thiếu kiểm tra, đôn đốc,

không nắm chắc tình hình địa phương, cơ quan, đơn vị mình; thờ ơ, vô cảm, thiếu trách

nhiệm trước những khó khăn, bức xúc và đòi hỏi chính đáng của nhân dân.

6) Quyết định hoặc tổ chức thực hiện gây lãng phí, thất thoát tài chính, tài sản,

ngân sách nhà nước, đất đai, tài nguyên...; đầu tư công tràn lan, hiệu quả thấp hoặc

không hiệu quả; mua sắm, sử dụng tài sản công vượt quy định; chi tiêu công quỹ tùy

tiện, vô nguyên tắc. Sử dụng lãng phí nguồn nhân lực, phí phạm thời gian lao động.

7) Tham ô, tham nhũng, lợi dụng chức vụ, quyền hạn cấu kết với doanh nghiệp,

với đối tượng khác để trục lợi. Lợi dụng, lạm dụng chức vụ, quyền hạn được giao để

dung túng, bao che, tiếp tay cho tham nhũng, tiêu cực.

8) Thao túng trong công tác cán bộ; chạy chức, chạy quyền, chạy chỗ, chạy luân

chuyển, chạy bằng cấp, chạy tội... Sử dụng quyền lực được giao để phục vụ lợi ích cá

nhân hoặc để người thân, người quen lợi dụng chức vụ, quyền hạn của mình để trục lợi.

9) Đánh bạc, rượu chè bê tha, mê tín dị đoan, ủng hộ hoặc tham gia các tổ chức tôn

giáo bất hợp pháp. Sa vào các tệ nạn xã hội, vi phạm thuần phong, mỹ tục, truyền thống

văn hóa tốt đẹp của dân tộc, chuẩn mực đạo đức gia đình và xã hội [76, tr. 30-32].

Theo đó, CBLĐ, QL của HTCT cấp huyện không được vị phạm các quy định nêu trên.

Quy định số 89-QĐ/TW ngày 04-8-2017 của Bộ Chính trị quy định khung tiêu

chuẩn chức danh, định hướng khung tiêu chí đánh giá CBLĐ, QL các cấp ghi rõ khung

tiêu chuẩn chức danh CBLĐ, QL:

1- Về chính trị tư tưởng: Trung thành với lợi ích của Đảng, của quốc gia, dân

tộc và nhân dân; kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, mục tiêu, lý

tưởng về độc lập dân tộc, chủ nghĩa xã hội và đường lối đổi mới của Đảng. Có lập

trường, quan điểm, bản lĩnh chính trị vững vàng, không dao động trong bất cứ tình

huống nào, kiên quyết đấu tranh bảo vệ Cương lĩnh, đường lối của Đảng, Hiến pháp và

pháp luật của Nhà nước. Có tinh thần yêu nước nồng nàn, đặt lợi ích của Đảng, quốc

gia - dân tộc, nhân dân, tập thể lên trên lợi ích cá nhân; sẵn sàng hy sinh vì sự nghiệp

60

của Đảng, vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân. Yên tâm công tác,

chấp hành nghiêm sự phân của của tổ chức và hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao.

2- Về đạo đức, lối sống, ý thức tổ chức kỷ luật: Có phẩm chất đạo đức trong

sáng; lối sống trung thực, khiêm tốn, chân thành, giản dị; cần, kiệm, liêm chính, chí

công vô tư. Tâm huyết và có trách nhiệm với công việc; không tham vọng quyền lực,

không háo danh; có tinh thần đoàn kết, xây dựng, gương mẫu, thương yêu đồng chí,

đồng nghiệp. Bản thân không tham nhũng, quan liêu, cơ hội, vụ lợi và tích cực đấu

tranh ngăn chặn, đẩy lùi các biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống,

những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; kiên quyết đấu tranh

chống quan liêu, cửa quyền, tham nhũng, lãng phí, chủ nghĩa cá nhân, lối sống cơ hội,

thực dụng, bè phái, lợi ích nhóm, nói không đi đôi với làm; công bằng, chính trực,

trọng dụng người tài, không để người thân, người quen lợi dụng chức vụ, quyền hạn

của mình để trục lợi. Tuân thủ và thực hiện nghiêm các nguyên tắc tổ chức, kỷ luật của

Đảng, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình và phê bình [43, tr. 1-2].

Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XII yêu cầu:

Cán bộ, đảng viên, … phải nghiêm chỉnh chấp hành Cương lĩnh, Điều lệ, nghị

quyết, chỉ thị, quy định, quy chế của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; gương

mẫu thực hiện Quy định số 101-QĐ/TW ngày 07/6/2012 Ban Bí thư về trách nhiệm

nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp; Quy định

số 55-QĐ/TW, ngày 19/12/2016 của Bộ Chính trị về một số việc cần làm ngay để tăng

cường trách nhiệm nêu gương. Cán bộ, đảng viên giữ chức vụ càng cao càng phải

gương mẫu nêu gương.

Như vậy, phát triển đội ngũ CBLĐ, QL của HTCT cấp huyện trước tiên là làm

cho đội ngũ CBLĐ, QL có phẩm chất chính trị vững vàng, phẩm chất đạo đức cách

mạng trong sáng, lối sống trong sạch, là tấm gương sáng cho cán bộ, đảng viên và nhân

dân địa phương, không có cán bộ suy thoái về phẩm chất chính trị và phẩm chất đạo

đức, lối sống.

Trình độ, năng lực của CBLĐ, QL của HTCT cấp huyện.

Mỗi lĩnh vực hoạt động cụ thể cần những con người có một năng lực tương

ứng với nó. Có thể chia năng lực thành nhiều dạng như: năng lực chuyên môn,

nghiệp vụ, năng lực lãnh đạo, năng lực quản lý, năng lực tư duy, năng lực phân tích

và dự báo, năng lực tổng kết thực tiễn… Đội ngũ CBLĐ, QL của HTCT cấp huyện

61

là “đầu tàu” của cả HTCT cấp huyện, nên năng lực của nhóm cán bộ này chính là

một trong những yếu tố then chốt quyết định sự trong sạch, vững mạnh và hiệu quả

hoạt động của cả HTCT cấp huyện. Đội ngũ cán bộ này, hằng ngày, hằng giờ phải

giải quyết một khối lượng công việc lớn, đa dạng, phức tạp trên tất cả lĩnh vực hoạt

động của đời sống xã hội trên địa bàn cấp huyện, góp phần thực hiện thắng lợi

nhiệm vụ phát triển KT-XH, ổn định chính trị địa phương và đất nước. Để hoàn

thành các trọng trách được giao, trình độ mọi mặt của đội ngũ CBLĐ, QL của

HTCT cấp huyện cần tích lũy ngày càng tăng lên về trình độ văn hóa, trình độ lý

luận chính trị, chuyên môn nghiệp vụ, quản lý nhà nước và các tri thức cơ bản cần

thiết khác như khoa học xã hội, khoa học - công nghệ cơ bản, kinh tế thị trường, hội

nhập quốc tế, khoa học lãnh đạo, quản lý, tin học, ngoại ngữ nhằm ngày càng đáp

ứng tốt hơn yêu cầu của nhiệm vụ được giao.

Về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ theo từng lĩnh vực nghề nghiệp, từng

cương vị công tác là đòi hỏi tất yếu với người cán bộ chuyên nghiệp. Kiến thức

chuyên môn, nghiệp vụ giúp người CBLĐ, QL có năng lực tổ chức và thực hiện

hiệu quả các chủ trương, nghị quyết, chỉ thị của các cấp ủy đảng, HĐND, UBND

cấp trên và cùng cấp. Không có chuyên môn nghiệp vụ vững vàng, người CBLĐ,

QL không thể lôi kéo, tập hợp được nhân viên dưới quyền, không thể kiểm tra công

tác của họ dẫn đến không thể xây dựng được uy tín trong cơ quan, đơn vị mà mình

trực tiếp phụ trách. CBLĐ, QL cũng cần có hiểu biết đầy đủ, cập nhật các kiến thức

về cuộc sống xã hội. Trong hệ thống tri thức cần có thì tri thức lý luận về CT-XH,

quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của nhà nước là tri thức đóng

vai trò quan trọng, nền tảng. Tùy thuộc vào vị trí, các chức danh lãnh đạo, quản lý

cụ thể mà yêu cầu về trình độ lý luận chính trị tương ứng.

Quy định số 89-QĐ/TW ngày 04-8-2017 của Bộ Chính trị quy định khung

tiêu chuẩn chức danh, định hướng khung tiêu chí đánh giá CBLĐ, QL các cấp ghi

rõ yêu cầu về trình độ đối với CBLĐ, QL các cấp: “Có trình độ chuyên môn, lý luận

chính trị, quản lý nhà nước đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ được giao và theo quy định

của Đảng, Nhà nước; trình độ tin học, ngoại ngữ cần thiết và phù hợp” [43, tr. 2].

Về năng lực lãnh đạo, tổ chức, quản lý: người CBLĐ, QL phải là người có khả

năng phân tích và dự báo, có tầm nhìn chiến lược, có năng lực lập kế hoạch hoạt động

để tổ chức cho hệ thống hoạt động đồng bộ, hiệu quả. Họ phải bình tĩnh, tự chủ nhưng

62

quyết đoán, dứt khoát trong công việc, có kế hoạch rõ ràng và tiến hành công việc nhất

quán theo kế hoạch. Họ phải là những người dám nghĩ, dám làm, quyết đoán, có bản

lĩnh đổi mới, dám chịu trách nhiệm, biết tập trung tiềm lực vào những khâu yếu, tận

dụng thời cơ có lợi cho cơ quan, tổ chức, đơn vị hoàn thành nhiệm vụ.

Quy định số 89-QĐ/TW ngày 04-8-2017 của Bộ Chính trị quy định khung

tiêu chuẩn chức danh, định hướng khung tiêu chí đánh giá CBLĐ, QL các cấp ghi

rõ yêu cầu về năng lực và uy tín đối với CBLĐ, QL các cấp:

Có tư duy đổi mới, có tầm nhìn, phương pháp làm việc khoa học; có năng

lực tổng hợp, phân tích và dự báo. Có khả năng phát hiện những mâu thuẫn, thách

thức, thời cơ, thuận lợi, vấn đề mới, khó và những hạn chế, bất cập trong thực tiễn;

mạnh dạn đề xuất những nhiệm vụ, giải pháp phù hợp, khả thi, hiệu quả để phát

huy, thúc đẩy hoặc tháo gỡ. Có năng lực thực tiễn, nắm chắc và hiểu biết cơ bản

tình hình thực tế để cụ thể hóa và tổ chức thực hiện có hiệu quả các chủ trương,

đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước ở lĩnh vực, địa bàn công

tác được phân công; cần cù, chịu khó, năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm,

dám chịu trách nhiệm và vì nhân dân phục vụ. Có khả năng lãnh đạo, chỉ đạo;

gương mẫu, quy tụ và phát huy sức mạnh tổng hợp của tập thể, cá nhân; được cán

bộ, đảng viên, quần chúng nhân dân tin tưởng, tín nhiệm [43, tr. 2].

Phát triển đội ngũ CBLĐ, QL của HTCT cấp huyện là các hoạt động làm cho

năng lực lãnh đạo, quản lý của đội ngũ cán bộ này ngày càng trưởng thành hơn cụ

thể là năng lực xây dựng, ban hành các quyết định, năng lực tổ chức thực tiễn, quản

lý đội ngũ cán bộ, năng lực tổng kết thực tiễn rút ra bài học kinh nghiệm, làm đầy

đủ và khách quan hơn tính lý luận và tính thực tiễn của các quyết định chính trị.

Về tác phong công tác của CBLĐ, QL HTCT cấp huyện.

Người CBLĐ, QL của HTCT cấp huyện phải có phong cách làm việc dân

chủ, khoa học. Điều đó được thể hiện cụ thể là: nhanh nhạy, sáng tạo trong xử lý

tình huống, quyết đoán, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, gương mẫu thực

hiện nói đi đôi với làm; sâu sát cơ sở, thường xuyên liên hệ mật thiết với nhân dân; là

trung tâm đoàn kết của tổ chức; ứng xử văn hóa, giải quyết hài hòa các mối quan hệ.

Đặc biệt, người CBLĐ, QL của HTCT cấp huyện cần có tác phong dân chủ.

Cán bộ có tác phong dân chủ mới biết lấy lợi ích của nhân dân, của đất nước làm

mục tiêu, tôn trọng lợi ích và quyền lực của nhân dân; biết lắng nghe, tôn trọng và

63

đồng cảm với nhân dân; biết phát huy trí tuệ của tập thể, tập hợp sức mạnh của cộng

đồng. Đồng thời, CBLĐ, QL cần sâu sát cơ sở, bám sát thực tiễn địa phương. Họ

phải là những người am hiểu sâu sắc văn hóa, phong tục, tập quán địa phương, am

hiểu tình hình kinh tế, văn hóa, chính trị, an ninh, quốc phòng địa phương… Đây là

yêu cầu cơ bản mà mỗi người CBLĐ, QL của HTCT cấp huyện cần đáp ứng. Có

như vậy họ mới cụ thể hóa được các nghị quyết, chỉ thị của Trung ương, cấp tỉnh

phù hợp với điều kiện của địa phương và có khả năng triển khai hiệu quả những

nghị quyết, chỉ thị này trong thực tế. Để tổ chức thực hiện có kết quả cao, người

CBLĐ, QL của HTCT cấp huyện cần có tác phong nhanh nhạy, sáng tạo và quyết

đoán, dám nghĩ, dám làm. Đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước được phổ

biến, quán triệt cho toàn hệ thống, song công tác triển khai, tổ chức thực hiện của

mỗi địa phương lại khác nhau do điều kiện thực tiễn của mỗi đơn vị. Kết quả thực

hiện nghị quyết cao hay thấp phụ thuộc rất lớn vào sự vận dụng sáng tạo, đúng đắn,

linh hoạt của đội ngũ CBLĐ, QL trong HTCT các cấp.

Uy tín của CBLĐ, QL của HTCT cấp huyện.

Đây là một trong những yêu cầu quan trọng của phát triển đội ngũ CBLĐ,

QL của HTCT cấp huyện. Uy tín chính là kết quả tổng hòa của phẩm chất và năng

lực cán bộ. “Uy tín là sự tín nhiệm của cán bộ lãnh đạo, quản lý. Uy tín được xây

dựng thông qua quá trình công tác, được chứng minh bằng hành động, công việc,

hiệu quả cụ thể” [39, tr. 16]. Chỉ khi cán bộ có uy tín thì việc vận động, thuyết phục,

lôi cuốn, tập hợp cán bộ, đảng viên và Nhân dân thực hiện chủ trương, đường lối

của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước mới đạt kết quả cao.

2.3.2.3. Hoàn thành chức trách, nhiệm vụ của đội ngũ cán bộ và hoàn thành

nhiệm vụ chính trị địa phương

Đây là yêu cầu quan trọng nhất, xét đến cùng, phản ánh khách quan nhất, đầy

đủ nhất kết quả của việc phát triển đội ngũ CBLĐ, QL của HTCT cấp huyện. Kết

quả hoàn thành nhiệm vụ theo chức trách, nhiệm vụ được giao phản ánh trực tiếp

nhất, tổng hợp nhất phẩm chất, năng lực của từng người cán bộ. Không có các cán

bộ có phẩm chất, năng lực tốt thì tổ chức, cơ quan không hoàn thành nhiệm vụ

chính trị và cũng không nói đội ngũ cán bộ có phẩm chất, năng lực tốt mà tổ chức,

cơ quan, đơn vị không hoàn thành nhiệm vụ. Những yêu cầu này có mối quan hệ

chặt chẽ, mật thiết và ràng buộc lẫn nhau. Kết quả hoàn thành nhiệm vụ của từng

64

người CBLĐ, QL với cương vị, chức trách đang đảm nhiệm cùng kết quả lãnh đạo,

tổ chức thực hiện nhiệm vụ chính trị của tổ chức, cơ quan, đơn vị mà người cán bộ

đó được phân công phụ trách ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả xây dựng tổ chức, cơ

quan, địa phương, đơn vị trong sạch, vững mạnh.

Đánh giá cán bộ có hoàn thành nhiệm vụ hay không phải gắn với đặc điểm,

tình hình nhiệm vụ của từng tổ chức, cơ quan, đơn vị, địa phương trong từng thời kỳ

nhất định. Về nội dung này, cần căn cứ các văn bản quy định và hướng dẫn của Ban

Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, của tỉnh ủy, thành ủy về công tác

cán bộ. Đây là cơ sở quan trọng đánh giá cán bộ. Thứ hai, cần căn cứ vào đặc điểm,

tình hình của từng cơ quan, đơn vị, địa phương; căn cứ vào chức trách, nhiệm vụ và

tiêu chuẩn chức danh của mỗi vị trí CBLĐ, QL. Từ các căn cứ trên, đối chiếu với

kết quả hoàn thành nhiệm vụ của từng cán bộ và của cả đội ngũ CBLĐ, QL sẽ đánh

giá được khách quan, công tâm chất lượng của đội ngũ cán bộ và mức độ phát triển

của đội ngũ CBLĐ, QL. Các chỉ số về mức độ trong sạch, vững mạnh của đảng bộ

huyện, của các tổ chức đảng trong đảng bộ; các cơ quan, đơn vị trong HTCT được

xếp loại nào; tình hình kinh tế, văn hóa, xã hội địa phương có phát triển hay không;

tình hình an ninh, chính trị, quốc phòng địa phương có ổn định không; đời sống vật

chất, tinh thần của nhân dân địa phương có ấm no, hạnh phúc hay không. Tất cả các

tiêu chí này hợp thành mức độ, kết quả hoàn thành nhiệm vụ của từng cán bộ và của

cả đội ngũ CBLĐ, QL của HTCT cấp huyện.

Các tiêu chí trên là một thể thống nhất, có mối quan hệ chặt chẽ, bổ sung cho

nhau. Cần có cái nhìn vừa toàn diện, tổng thể, vừa chi tiết, cụ thể khi dựa vào các

căn cứ trên để đánh giá; tránh những biểu hiện chủ quan, duy ý chí, áp đặt khi đánh

giá. Những căn cứ trên cũng chỉ mang tính chất định tính, khó định lượng, vì vậy

cần phải cụ thể hóa nội dung, yêu cầu của từng tiêu chí trên cơ sở tiến hành điều tra,

khảo sát, phân tích, tổng hợp, tổng kết thực tiễn khoa học, khách quan.

2.3.3. Nội dung phát triển đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý của hệ thống

chính trị cấp huyện

Một là, quán triệt các nghị quyết, chủ trương của Trung ương Đảng, của tỉnh ủy,

xây dựng chủ trương, kế hoạch phát triển đội ngũ CBLĐ, QL của HTCT cấp huyện.

Cấp ủy cấp huyện nghiên cứu, quán triệt các nghị quyết, chỉ thị, quy định của

Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư và của tỉnh, thành ủy, căn cứ

65

nhiệm vụ chính trị và thực trạng đội ngũ CBLĐ, QL của HTCT địa phương để xây

dựng các nghị quyết, chỉ thị chuyên đề, thống nhất các chủ trương, kế hoạch phát

triển đội ngũ CBLĐ, QL của HTCT địa phương trong cả nhiệm kỳ, cho từng năm.

Trong các nghị quyết, chỉ thị, kế hoạch cần xác định rõ mục đích, yêu cầu, mục tiêu,

những nội dung công việc chủ yếu, các giải pháp, phân công các tổ chức và cá nhân

thực hiện. Nghị quyết, chỉ thị của cấp ủy, BTV cấp ủy cấp huyện là căn cứ để các

cơ quan tham mưu, giúp việc cấp ủy, HĐND, UBND, các cấp ủy đảng trực thuộc -

theo chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền của mình – cụ thể hóa, hướng dẫn, đề ra các

kế hoạch, biện pháp để thực hiện thống nhất trong toàn HTCT cấp huyện.

Hai là, cụ thể hóa tiêu chuẩn từng chức danh CBLĐ, QL của HTCT cấp huyện.

Xác định đúng tiêu chuẩn cán bộ là vấn đề quan trọng đầu tiên trong công tác cán

bộ. Tiêu chuẩn là cơ sở để tổ chức xem xét, đánh giá, lựa chọn, bố trí, sắp xếp cán bộ.

Đồng thời, tiêu chuẩn cũng là cơ sở để từng người cán bộ phấn đấu, tự rèn luyện, hoàn

thiện mình.

Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin cho rằng: để lựa chọn cán bộ trước

hết phải căn cứ vào tiêu chuẩn cán bộ và tiêu chuẩn cán bộ thì phải được xác định xuất

phát từ yêu cầu của nhiệm vụ cách mạng. Đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý, V.I. Lênin

đòi hỏi họ phải là những người “thực sự có tài tổ chức, những người có bộ óc sáng suốt

và có bản lĩnh thảo vát trong thực tiễn, những người vừa trung thành với chủ nghĩa xã hội

lại vừa có năng lực…tổ chức công tác chung vững chắc và nhịp nhàng…Chỉ có những

người như thế, chúng ta mới đề bạt lên những chức vụ lãnh đạo của nhân dân” [116,

tr.236-237]

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra rằng: “cán bộ là những người đem chính sách của

Đảng, của Chính phủ giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành. Đồng thời đem tình

hình của dân chúng báo cáo cho Đảng, cho Chính phủ hiểu rõ để đặt chính sách cho

đúng” [128, tr.269]. Như vậy, để có thể đem chính sách của Đảng và Chính phủ giải

thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành, đòi hỏi người cán bộ phải có trình độ, trí tuệ

nhất định. Ngoài điều kiện về trình độ, người cán bộ cần phải có một bản lĩnh chính trị,

phẩm chất đạo đức cách mạng. Nếu không, người cán bộ sẽ không quán triệt hết, thậm

chí làm sai lệch tinh thần, nội dung của chính sách. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã khẳng

định “khi đã có chính sách đúng thì sự thành công và thất bại của chính sách đó là do

cách thức tổ chức công việc, do nơi lựa chọn cán bộ, do nơi kiểm tra. Nếu ba điểm ấy sơ

66

sài, thì chính sách đúng mấy cũng vô ích” [128, tr.154]. Muốn tổ chức công việc tốt, phải

có người cán bộ có tài, có đức. Mặt khác phải biết chọn người nào làm việc gì là thích

hợp, nếu không cũng rất có thể hỏng việc mà không hoàn toàn do cán bộ yếu kém.

Căn cứ các nghị quyết, kết luận, quy định của Đảng về cán bộ và công tác cán bộ,

trong đó có quy định về phân cấp quản lý cán bộ và tiêu chuẩn từng chức danh cán bộ,

Luật CB, CC, quy định của BTV cấp ủy cấp tỉnh, BTV cấp ủy cấp huyện cụ thể hóa tiêu

chuẩn chức danh đối với từng CBLĐ, QL của HTCT cấp huyện cho phù hợp, đúng quy

định. CBLĐ, QL của HTCT cấp huyện phải đáp ứng đầy đủ các tiêu chuẩn chung của

CBLĐ, QL, đồng thời đáp ứng đầy đủ các tiêu chuẩn đối với từng chức danh cụ thể theo

quy định. Hiện nay, việc xây dựng tiêu chuẩn chức danh CBLĐ, QL các cấp không

thuộc diện Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý thực hiện theo Quy định số 89-QĐ/TW ngày

04-8-2017 của Bộ Chính trị quy định khung tiêu chuẩn chức danh, định hướng khung

tiêu chí đánh giá cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp. Các tiêu chuẩn này được xây dựng

dựa trên cơ sở, căn cứ khoa học, phù hợp với khung tiêu chuẩn chức danh CBLĐ, QL

các cấp do Bộ Chính trị ban hành, sát hợp với thực tế của từng địa phương và yêu cầu

nhiệm vụ của từng giai đoạn.

Ba là, thực hiện các khâu trong công tác cán bộ

* Công tác đánh giá cán bộ

Đánh giá cán bộ là tiền đề quan trọng nhất, chi phối tất cả các khâu khác trong

công tác cán bộ. Đánh giá cán bộ đúng là cơ sở khách quan, khoa học cho việc lựa

chọn, quy hoạch, bố trí, sử dụng, quản lý và thực hiện chế độ chính sách cán bộ, phát

huy trí tuệ, năng lực, tâm huyết của cán bộ, tạo môi trường đoàn kết nội bộ để cán bộ

cống hiến. Ngược lại, đánh giá cán bộ không đúng dẫn đến các sai sót trong các khâu

khác của công tác cán bộ; khiến cán bộ có nhiều tâm tư, so bì, đố kỵ lẫn nhau.

Đánh giá cán bộ là công việc của cấp có thẩm quyền, của người lãnh đạo trực

tiếp quản lý cán bộ tại một thời điểm nhất định và chiều hướng phát triển của cán bộ

đó trong thời gian tới. Trong phát triển đội ngũ CBLĐ, QL của HTCT cấp huyện có

hai loại đánh giá cán bộ: đánh giá cán bộ hằng năm và đánh giá cán bộ trước khi

quy hoạch, bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, giới thiệu ứng cử, điều động, luân chuyển, trước

khi kết thúc thời hạn luân chuyển.

Về đánh giá cán bộ hằng năm, theo Quy định số 132-QĐ/TW ngày 08-3-2018

của Bộ Chính trị về kiểm điểm và đánh giá, xếp loại chất lượng hằng năm đối với tập

67

thể, cá nhân trong hệ thống chính trị và Hướng dẫn số 16-HD/BTCTW ngày 24-9-2018

của Ban Tổ chức Trung ương hướng dẫn việc kiểm điểm, đánh giá, xếp loại chất lượng

hằng năm đối với tổ chức đảng, đảng viên và tập thể, cá nhân cán bộ lãnh đạo, quản lý

các cấp. Theo đó, các tiêu chí đánh giá CBLĐ, QL bao gồm: thứ nhất, nhóm tiêu chí về

chính trị tư tưởng; đạo đức, lối sống; ý thức tổ chức kỷ luật; tác phong, lề lối làm việc;

thứ hai, nhóm tiêu chí về kết quả thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao. Trong

nhóm tiêu chí này có tiêu chí chung và tiêu chí đặc thù theo từng nhóm chức danh: đối

với CBLĐ, QL các cơ quan đảng cấp huyện; đối với CBLĐ, QL cơ quan chính quyền

cấp huyện; đối với CBLĐ, QL tòa án nhân dân, viện kiểm sát nhân dân cấp huyện; đối

với cán bộ lãnh đạo MTTQ và các tổ chức CT-XH cấp huyện; thứ ba, kết quả khắc

phục những hạn chế, yếu kém đã được chỉ ra.

Trong đánh giá cán bộ trước khi quy hoạch, bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, giới thiệu

ứng cử, điều động, luân chuyển, trước khi kết thúc thời hạn luân chuyển, ngoài các tiêu

chí như đánh gía cán bộ hằng năm thêm tiêu chí chiều hướng phát triển của cán bộ.

* Công tác tạo nguồn và xây dựng quy hoạch cán bộ.

Đây là nội dung quan trọng có tính quyết định thắng lợi việc phát triển đội ngũ

CBLĐ, QL của HTCT cấp huyện. Công tác quy hoạch đội ngũ CBLĐ, QL giúp bảo

đảm tính kế thừa, tính ổn định của nguồn cán bộ này ở từng tổ chức, địa phương, đồng

thời tạo điều kiện thuận lợi cho việc bố trí, sử dụng nhân sự khi có nhu cầu. Công tác

quy hoạch có mối quan hệ chặt chẽ với các khâu khác trong công tác cán bộ. Quy

hoạch có chất lượng tốt góp phần tích cực vào việc sắp xếp cơ cấu đội ngũ; tạo thế chủ

động, khắc phục sự hẫng hụt, bị động về cán bộ; lựa chọn nhân sự phù hợp vào từng vị

trí, chức danh cụ thể; giúp cho hoạt động đào tạo, bồi dưỡng cán bộ đạt hiệu quả cao,

tránh tràn lan, lãng phí. Công tác quy hoạch đội ngũ CBLĐ, QL của HTCT cấp huyện

cần dựa vào yêu cầu nhiệm vụ chính trị của địa phương, thực trạng đội ngũ cán bộ về

số lượng, chất lượng và cơ cấu đội ngũ cán bộ. Dựa vào tiêu chuẩn cần đáp ứng của các

chức danh CBLĐ, QL cụ thể, tiêu chuẩn cán bộ khi đưa vào quy hoạch để xây dựng

quy hoạch đội ngũ CBLĐ, QL cấp huyện phù hợp, chất lượng tốt. Cần tạo nguồn cán

bộ dồi dào, có chất lượng để đưa vào quy hoạch. Quy hoạch cấp dưới là cơ sở để quy

hoạch cấp trên; đảm bảo số lượng; tỷ lệ về độ tuổi, giới tính theo yêu cầu. Thực hiện

đúng quy trình các bước, đúng quan điểm, nguyên tắc của Đảng về quy hoạch cán bộ.

Xây dựng quy hoạch cán bộ đảm bảo dân chủ, công khai, minh bạch. Thường xuyên 68

tiến hành rà soát quy hoạch, đưa vào quy hoạch những nhân tố mới có triển vọng, đáp

ứng điều kiện, tiêu chuẩn theo quy định, đồng thời đưa ra khỏi quy hoạch những nhân

tố không còn đáp ứng đủ yêu cầu, điều kiện về tuổi bổ nhiệm lần đầu hay các tiêu

chuẩn khác của từng chức danh cụ thể. Hiện nay, công tác quy hoạch cán bộ thực hiện

theo Hướng dẫn số 15-HD/BTCTWngày 05-11-2012 của Ban Tổ chức Trung

ương(BTCTW) về công tác quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý theo tinh thần Nghị

quyết số 42-NQ/TW ngày 30-11-2004 của Bộ Chính trị (khóa IX) và Kết luận số 24-

KL/TW ngày 05-6-2012 của Bộ Chính trị (khóa XI) (thay cho Hướng dẫn số 22-

HD/BTCTW ngày 21-10-2008 của Ban Tổ chức Trung ương); Hướng dẫn số 06-

HD/BTCTWngày 24-02-2017 của Ban Tổ chức Trung ương về sửa đổi, bổ sung một

số nội dung về công tác quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý nêu tại Hướng dẫn số 15-

HD/BTCTW ngày 05-11-2012 của Ban Tổ chức Trung ương.

* Tiến hành công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ

Mục đích cuối cùng và quan trọng nhất của phát triển đội ngũ CBLĐ, QL của

HTCT cấp huyện là đảm bảo cho từng cơ quan, đơn vị trong HTCT hoàn thành tốt

nhiệm vụ của mình. Do đó, một nội dung trọng yếu của việc phát triển đội ngũ CBLĐ,

QL trong HTCT cấp huyện là nâng cao chất lượng của đội ngũ cán bộ này trên thực tế

nhằm đáp ứng được yêu cầu của nhiệm vụ cụ thể của từng tổ chức, cơ quan, đơn vị, địa

phương trong từng giai đoạn. Để nâng cao chất lượng cán bộ có nhiều biện pháp, trong

đó quan trọng nhất và thiết thực nhất là bằng con đường đào tạo, bồi dưỡng cán bộ

bằng nhiều hình thức, nội dung, phương thức phù hợp. Năng lực của cán bộ có được có

thể do năng khiếu, do tích lũy kinh nghiệm trong cuộc sống và công tác, nhưng không

thể phủ nhận vai trò của việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ. Cuộc sống luôn biến đổi

không ngừng, diễn ra ngày càng phức tạp, khoa học kỹ thuật phát triển nhanh đòi hỏi

con người muốn làm chủ được cuộc sống thì phải học thích nghi với nó. Đội ngũ

CBLĐ, QL của HTCT cấp huyện cũng vậy, có thể trong giai đoạn lịch sử này là đáp

ứng yêu cầu, song đến giai đoạn lịch sử sau thì không đáp ứng yêu cầu đòi hỏi của thực

tiễn nữa. Vì vậy, đội ngũ cán bộ cần được trau dồi, học tập không ngừng để tích lũy

thêm kiến thức, nâng cao trình độ mọi mặt nhằm đáp ứng ngày càng cao hơn yêu cầu

của thực tiễn. Hoạt động đào tạo, bồi dưỡng CBLĐ, QL của HTCT cấp huyện là để

nâng cao trình độ lý luận chính trị, quản lý nhà nước, chuyên môn nghiệp vụ của đội

ngũ này, bổ sung những kỹ năng còn thiếu so với yêu cầu công việc, tạo điều kiện cho

69

họ thực hiện tốt công việc của mỗi người. Đào tạo cán bộ còn nhằm đảm bảo cho mỗi

cán bộ trong đội ngũ đều được trang bị tri thức thiết thực nhất góp phần hình thành thế

giới quan khoa học, nhân sinh quan tiến bộ làm tiền để cho hoạt động nhận thức và

thực tiễn của đội ngũ cán bộ; nâng cao năng lực nhận thức, trình độ lý luận chính trị,

củng cố và phát triển phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống phù hợp với công việc và

cuộc sống của từng cán bộ. Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ thông qua các khóa đào tạo, bồi

dưỡng cán bộ tại các cơ sở đào tạo và qua thực tiễn, nhất là luân chuyển cán bộ.

* Điều động, luân chuyển đúng cán bộ

Điều động cán bộ không chỉ đáp ứng nhu cầu cán bộ của nơi thiếu CBLĐ, QL

mà còn là việc điều chỉnh cơ cấu đội ngũ cán bộ, góp phần bảo đảm độ đồng đều về

chất lượng của cả đội ngũ, khắc phục tình trạng khép kín, cục bộ địa phương, bảo thủ,

trì trệ; phát huy tốt nhất khả năng của cán bộ trên các cương vị công tác mới được giao.

Cán bộ được điều động phải có đủ phẩm chất và năng lực đảm đương chức trách,

nhiệm vụ ở nơi đến; không được lợi dụng điều động đề đưa cán bộ khó bố trí công tác,

có biểu hiện sai phạm, hoặc không "ăn cánh".

Luân chuyển cán bộ nhằm đào tạo toàn diện đội ngũ CBLĐ, QL của HTCT cấp

huyện trong thực tiễn. Quy định số 98-QĐ/TW ngày 07-10-2017 của Bộ Chính trị nêu

rõ mục đích của luân chuyển là “bảo đảm chủ trương đào tạo, bồi dưỡng toàn diện và

sử dụng có hiệu quả đội ngũ cán bộ; tạo điều kiện cho cán bộ trẻ, có triển vọng, cán bộ

trong quy hoạch được rèn luyện thực tiễn; tạo nguồn cán bộ lâu dài cho đất nước, nhất

là cán bộ lãnh đạo chủ chốt ở các ngành, các cấp, cơ quan, đơn vị” [44, tr. 1]. Luân

chuyển chính là quá trình tiếp tục đào tạo, bồi dưỡng, bổ sung kiến thức, rèn luyện

năng lực tổ chức thực tiễn, xử lý tình huống nhằm chuẩn bị đầy đủ các điều kiện cần

thiết khi bố trí, sử dụng cán bộ vào cương vị mới cao hơn. Ở cấp huyện có thể luân

chuyển cán bộ từ các cơ quan tham mưu, giúp việc cấp ủy cấp huyện, các cơ quan

chuyên môn thuộc UBND cấp huyện, cán bộ lãnh đạo các tổ chức CT-XH cấp huyện

xuống giữ cương vị lãnh đạo, quản lý cấp xã, phường, thị trấn và ngược lại; luân

chuyển CBLĐ, QL giữa các cơ quan, ban, ngành, đoàn thể trong HTCT cấp huyện.

* Bố trí, sử dụng đúng cán bộ

Bố trí, sử dụng cán bộ gồm: bầu cử, giới thiệu ứng cử, bổ nhiệm và bổ nhiệm

lại, điều động, biệt phái, miễn nhiệm cán bộ. Đây là khâu quyết định, thể hiện sự đúng

đắn, sáng suốt của cơ quan lãnh đạo và cấp có thẩm quyền trong việc dùng người. Bố

70

trí, sử dụng đúng người, đúng việc, đúng lúc thì hiệu quả công việc sẽ cao, ngược lại sẽ

hỏng việc, hỏng người. Bố trí, sử dụng cán bộ phải thực hiện đúng quy trình, nguyên

tắc của Đảng và quan trọng hơn hết là phải sử dụng đúng cán bộ. Không thể lấy quy

trình, nguyên tắc của Đảng để hợp thức hóa sai sót trong lựa chọn nhân sự. Thực hiện

nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ trong bố trí, sử dụng cán bộ. Lựa chọn cán bộ để

bố trí vào từng vị trí, chức danh cụ thể là trách nhiệm, bản lĩnh của cá nhân người đứng

đầu và là trách nhiệm, trí tuệ của cả tập thể lãnh đạo. Thực hiện tốt nội dung này sẽ

thúc đẩy việc thực hiện các nội dung khác trong công tác quản lý cán bộ đạt kết quả.

Hiện nay, việc bổ nhiệm, giới thiệu cán bộ ứng cử thực hiện theo Quy định số 105-

QĐ/TWngày 19-12-2017 của Bộ Chính trị về phân cấp quản lý cán bộ và bổ nhiệm,

giới thiệu cán bộ ứng cử.

* Tiến hành công tác quản lý, kiểm tra, giám sát cán bộ và thực hiện chính

sách cán bộ

Quản lý cán bộ là một trong những nhiệm vụ quan trọng, có vai trò quyết định

đến xây dựng đội ngũ cán bộ đủ phẩm chất và năng lực, góp phần thực hiện nhiệm vụ

chính trị của từng cơ quan, đơn vị, địa phương. Quản lý cán bộ đòi hỏi phải thực hiện

nghiêm các nguyên tắc, thủ tục, quy trình bố trí, sử dụng cán bộ của Đảng. Theo Quy

định về phân cấp quản lý cán bộ ban hành kèm theo Quy định 105-QĐ/TW ngày 19-

12-2017 của Bộ Chính trị, nội dung quản lý cán bộ gồm: tuyển chọn, bố trí, phân công,

điều động, luân chuyển cán bộ và phân cấp quản lý cán bộ; đánh giá cán bộ; quy hoạch,

đào tạo, bồi dưỡng cán bộ; bổ nhiệm, miễn nhiệm cán bộ; khen thưởng, kỷ luật cán bộ;

thực hiện chế độ, chính sách cán bộ; kiểm tra, giám sát công tác cán bộ, giải quyết

khiếu nại, tố cáo về công tác cán bộ và cán bộ [46, tr. 1].

Công tác kiểm tra, giám sát được thực hiện thường xuyên, nền nếp giúp kịp thời

chỉ ra những ưu điểm để cán bộ phát huy, đồng thời cũng chỉ ra những khuyết điểm,

hạn chế để cán bộ có biện pháp sửa chữa, khắc phục ngay từ khi mới manh nha. Qua

kiểm tra có chế tài xử lý nghiêm minh những cán bộ vi phạm, khen thưởng kịp thời

những cán bộ lập thành tích, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.

Thực hiện chính sách cán bộ chính là việc sử dụng đúng cán bộ; đào tạo, bồi

dưỡng cán bộ và quan tâm đến đời sống vật chất và tinh thần của cán bộ, bao gồm chế

độ tiền lương, thưởng, phụ cấp chức vụ, thâm niên nghề, tiền làm thêm giờ; bảo hiểm y

tế, nhà công vụ; lương hưu, chế độ nghỉ ốm đau, thai sản, tại nạn lao động, bệnh tật,

71

nghỉ phép hằng năm; các hình thức khen thưởng (huân chương, huy chương, bằng

khen, giấy khen, công nhận danh hiệu…) của Đảng, Nhà nước, các cơ quan, ban,

ngành trao tặng cán bộ lập thành tích xuất sắc. Đây là nội dung quan trọng cần quan

tâm. Chỉ khi cán bộ có môi trường làm việc tốt, có chính sách đãi ngộ tốt, đảm bảo yêu

cầu cuộc sống về vật chất và tinh thần thì họ mới chuyên tâm với công việc, tự giác đầu

tư thời gian, tiền của, phấn đấu nâng cao trình độ, chất lượng công việc để có thu nhập

cao hơn bằng chính sức lao động và trí tuệ của mình.

Bốn là, phát huy vai trò, trách nhiệm của các tổ chức trong HTCT và nhân dân

trong phát triển đội ngũ CBLĐ, QL của HTCT cấp huyện.

Nguyên tắc quản lý cán bộ là Đảng thống nhất lãnh đạo trực tiếp, toàn diện công

tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ của cả HTCT, đi đôi với phát huy trách nhiệm của

các tổ chức và người đứng đầu các tổ chức trong HTCT về công tác cán bộ. Để phát

triển đội ngũ CBLĐ, QL của HTCT cấp huyện, cấp ủy cấp huyện cần phát huy tính

tích cực tham gia của các tổ chức trong HTCT và nhân dân địa phương. BTV cấp ủy

cấp huyện lãnh đạo chính quyền, MTTQ và các tổ chức CT-XH huyện tích cực, chủ

động đề ra chủ trương, kế hoạch phát triển đội ngũ CBLĐ, QL của tổ chức mình theo

sự lãnh đạo của cấp ủy cấp huyện. Sự phân công, phối hợp nhịp nhàng giữa các cơ

quan, đơn vị trong HTCT tạo cơ sở, điều kiện để công tác cán bộ đạt hiệu quả cao.

BTV cấp ủy cấp huyện tổ chức thực hiện nghiêm túc Quyết định số 218-QĐ/TW ngày

12-12-2013 của Bộ Chính trị ban hành "Quy định về việc Mặt trận Tổ quốc Việt Nam,

các đoàn thể chính trị - xã hội và nhân dân tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng

chính quyền”, nhất là việc góp ý về phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống và vai trò

tiền phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu cấp ủy, tổ chức

đảng; mối quan hệ giữa CBLĐ, QL của HTCT cấp huyện với nhân dân.

Những nội dung phát triển đội ngũ CBLĐ, QL của HTCT cấp huyện nêu trên có

mối quan hệ mật thiết với nhau, là điều kiện, tiền đề của nhau. Những nội dung này cần

được các chủ thể, nhất là chủ thể trực tiếp nhất, tổ chức thực hiện tốt, đồng thời phối

hợp nhịp nhàng, chặt chẽ giữa chủ thể với lực lượng tham gia thực hiện nội dung đó

trong quá trình phát triển đội ngũ CBLĐ, QL của HTCT cấp huyện.

72

2.3.4. Những yếu tố tác động đến phát triển đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản

lý của hệ thống chính trị cấp huyện

2.3.4.1. Các yếu tố khách quan

Một là: các quan điểm, chủ trương, chính sách, quy chế, quy định của Đảng

và Nhà nước về cán bộ và công tác cán bộ.

Ở nước ta, Đảng có vai trò quan trọng trong công tác quản lý cán bộ. Đảng

thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ theo phân cấp.

“Đảng đề ra chủ trương, đường lối, chính sách, tiêu chuẩn, quy chế, quy định về

công tác cán bộ và thông qua các cấp ủy, tổ chức đảng, đảng viên trong các cơ quan

nhà nước, Mặt trận, đoàn thể, các tổ chức kinh tế nhà nước, đơn vị sự nghiệp công

lập để lãnh đạo các ngành, các cấp tổ chức thực hiện các quyết định của Đảng về

cán bộ và công tác cán bộ”[46, tr. 1]. Chính vì vậy, quan điểm, chủ trương, chính

sách, quy chế, quy định của Đảng về cán bộ và công tác cán bộ quyết định công tác

cán bộ của các địa phương. Trong mỗi thời kỳ lịch sử khác nhau, Đảng ta đề ra

những chính sách cán bộ khác nhau nhằm đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chính trị trong

tình hình mới. Những quan điểm, chủ trương của Đảng về công tác cán bộ qua từng

thời kỳ được thể hiện rất rõ trong văn kiện Đại hội Đảng và nghị quyết, quyết định,

quy định của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư. Thời kỳ

đất nước vừa giành được độc lập, thống nhất đi lên CNXH, nhiệm vụ chính trị đòi

hỏi “lựa chọn và bố trí cán bộ có thiên hướng nặng về các tiêu chuẩn quá trình cách

mạng, nhiệt tình công tác mà có phần xem nhẹ trình độ học vấn, kiến thức khoa học,

chất lượng và hiệu quả công tác cụ thể” [71, tr. 113]. Trước yêu cầu đẩy mạnh

CNH, HĐH đất nước, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 3 khóa VIII đề ra yêu cầu

về công tác cán bộ phù hợp với tình hình mới:

Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức các cấp từ Trung ương đến cơ sở, đặc

biệt là cán bộ đứng đầu, có phẩm chất và năng lực, có bản lĩnh chính trị vững vàng

trên cơ sở lập trường giai cấp công nhân, đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu, bảo

đảm sự chuyển tiếp liên tục và vững vàng giữa các thể hệ cán bộ nhằm thực hiện

thắng lợi nhiệm vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, giữ vững độc lập tự chủ, đi lên

chủ nghĩa xã hội [67, tr. 79].

Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII của Đảng, vấn đề cán bộ và công tác

cán bộ được Đại hội đặc biệt quan tâm, chỉ rõ:

73

Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công

nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đất nước. Thể chế hóa, cụ thể hóa các nguyên tắc

về: quan hệ giữa đường lối chính trị và đường lối cán bộ; quan điểm giai cấp và

chính sách đại đoàn kết rộng rãi trong công tác cán bộ; quan hệ giữa tiêu chuẩn và

cơ cấu; giữa đức và tài; giữa kế thừa và phát triển; giữa sự quản lý thống nhất của

Đảng với phát huy đầy đủ trách nhiệm của các cơ quan trong hệ thống chính trị;

giữa thẩm quyền, trách nhiệm cá nhân và tập thể; giữa phân cấp, phân quyền và

kiểm tra, giám sát, kiểm soát để thực hiện thống nhất, đồng bộ trong Đảng và

HTCT. Quán triệt và nghiêm túc thực hiện quan điểm Đảng thống nhất lãnh đạo

công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ, đi đôi với phát huy quyền và trách nhiệm

của các tổ chức và người đứng đầu các tổ chức trong hệ thống chính trị về công tác

cán bộ. Tiếp tục ban hành và thực hiện các quy định, quy chế, cơ chế trong công tác

cán bộ bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ và chặt chẽ giữa các khâu, liên thông giữa

các cấp; trong đó có quy chế về việc đánh giá đúng đắn, khách quan đối với cán bộ,

để có cơ sở sử dụng, bố trí cán bộ, ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng chạy chức, chạy

tuổi, [74, tr. 206].

Trong những năm gần đây, Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản liên quan

đến CB, CC, trong đó có CBLĐ, QL cấp huyện, như: Luật CB, CC; Nghị định

56/2015/NĐ-CP ngày 09-6-2015 về đánh giá và phân loại cán bộ, công chức, viên

chức; Nghị định số 88/2017/NĐ-CP ngày 27-7-2017 sửa đổi, bổ sung một số điều của

Nghị định số 56/2015/NĐ-CP ngày 09-6-2015 của Chính phủ về đánh giá và phân loại

cán bộ, công chức, viên chức; Thông tư số 01/2018/TT-BNV ngày 08-01-2018 của Bộ

Nội vụ hướng dẫn một số điều của Nghị định số101/2017/NĐ-CP ; v.v..

Trên cơ sở chủ trương, chính sách, quy định của Đảng, Nhà nước, các cấp ủy

đảng của từng địa phương cụ thể hóa thành những quy định, quyết định, kế hoạch

phù hợp với tình hình, điều kiện thực tiễn trên tất cả các nội dung của công tác cán

bộ đối với CBLĐ, QL cấp huyện. Chủ trương, chính sách cán bộ của Đảng và Nhà

nước được hoạch định đúng đắn, kịp thời, phù hợp, sát thực với yêu cầu nhiệm vụ

trước mắt và lâu dài của đất nước sẽ trở thành động lực, cơ sở thúc đẩy nâng cao

hiệu quả lao động, sức sáng tạo, tâm huyết, nhiệt tình phấn đấu hoàn thành tốt mọi

nhiệm vụ của đội ngũ cán bộ. Ngược lại, nếu chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà

nước còn nhiều khiếm khuyết, lỏng lẻo, lạc hậu, không phù hợp với tình hình thực

74

tiễn thì sẽ trở thành lực cản, ảnh hưởng tiêu cực đến tinh thần, thái độ, tâm huyết,

năng lực công tác của đội ngũ cán bộ.

Hai là: việc đổi mới tổ chức bộ máy và phương thức hoạt động của HTCT.

Trong những năm qua, Đảng ta luôn quan tâm đến công tác xây dựng tổ chức

bộ máy của HTCT. Đảng đã ban hành nhiều chủ trương, nghị quyết, quy định, kết

luận từng bước hoàn thiện, đổi mới HTCT nước ta nhằm mục tiêu xây dựng được

HTCT tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Trong những năm gần đây, Ban Chấp

hành Trung ương Đảng đã ban hành nhiều nghị quyết, kết luận về tổ chức bộ máy

của HTCT, tiêu biểu như: Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa X (tháng 01-

2007) về đổi mới, kiện toàn tổ chức bộ máy các cơ quan đảng, định hướng về đổi

mới tổ chức bộ máy nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội;

Kết luận của Hội nghị Trung ương 7 khóa X (tháng 5-2013) một số vấn đề về tiếp

tục đổi mới, hoàn thiện hệ thống chính trị từ Trung ương đến cơ sở; Nghị quyết Hội

nghị Trung ương 6 khóa XII (tháng 10-2017) “Một số vấn đề về tiếp tục đổi mới,

sắp xếp tổ chức bộ máy của HTCT tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả”. Trong

các văn kiện của Trung ương đều đánh giá thực trạng và đề ra các quan điểm chỉ

đạo, mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp kiện toàn tổ chức bộ máy của HTCT. Đồng

thời, Ban Chấp hành Trung ương cũng đặc biệt quan tâm đến vấn đề đổi mới

phương thức lãnh đạo của Đảng đối với HTCT, như Nghị quyết Hội nghị Trung

ương 5 khóa X (tháng 7-2007) về tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng

đối với hoạt động của HTCT.

Đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của HTCT vừa là nhu cầu cấp

thiết trong tình hình mới, vừa là cơ sở, yêu cầu nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ.

Bên cạnh đó, sự đổi mới HTCT cũng làm nảy sinh trong cán bộ những tâm tư, suy

nghĩ không an tâm công tác do sự chia tách, sáp nhập các cơ quan, đầu mối, tinh

giản biên chế…

Ba là, mô hình chế độ công vụ trong quản lý CB, CC

Hiện nay, trên thế giới đang có hai mô hình chế độ công vụ đó là chế độ chức

nghiệp và chế độ theo vị trí việc làm. Trong hệ thống công vụ ở Việt Nam hiện nay,

mô hình công vụ đã có sự kết hợp giữa mô hình chức nghiệp và chế độ vị trí việc

làm. Tuy nhiên, các yếu tố của hệ thống chức nghiệp vẫn chiếm ưu thế trong cơ chế

quản lý cán bộ, công chức. Mô hình chức nghiệp được áp dụng phân chia công chức

75

theo ngạch, bậc đã thể hiện rõ sự thiếu hụt cả về hiệu lực và hiệu quả của mô hình

công vụ. Đặc điểm cơ bản nhất của chế độ chức nghiệp đó là đề cao trình độ chuyên

môn được đào tạo, bằng cấp. Việc quá chú trọng đến văn bằng chứng chỉ mà không

chú ý đến năng lực, kỹ năng cụ thể khi bằng cấp không phản ánh trung thực chất

lượng đào tạo dẫn đến vấn nạn chạy bằng cấp, chạy chứng chỉ để được một vị trí

trong biên chế, để được thăng quan, tiến chức. Mô hình công vụ chức nghiệp làm

mất đi tính linh hoạt của công chức, không khuyến khích cán bộ, công chức phấn

đấu, phát huy tiềm lực để phát triển cao hơn. Vì lương được trả theo ngạch bậc và

thâm niên công tác. Khi công việc không hoàn thành thì khả năng đào thải là rất

thấp. Tình trạng có vào mà không có ra, có lên mà không có xuống là rất phổ biến.

Mô hình công vụ theo vị trí việc làm là cách thức bố trí nhân sự dựa trên một

loạt các vị trí việc làm cụ thể của từng tổ chức. Trong mô hình này, việc bố trí cán

bộ, công chức theo quan điểm “vì việc mà tìm người”. Mọi người dân đều có quyền

và cơ hội như nhau trong việc được tuyển dụng vào một vị trí việc làm nhất định

trong nền công vụ nếu người đó đáp ứng được các tiêu chuẩn, điều kiện. Việc tuyển

dụng, sử dụng người vào làm việc hoàn toàn không căn cứ vào bằng cấp, chứng chỉ

mà căn cứ vào năng lực thực tế. Mô hình công vụ việc làm yêu cầu cán bộ, công

chức luôn luôn phải tự rèn luyện, phấn đấu, học hỏi, nghiên cứu để đáp ứng được

yêu cầu, điều kiện của vị trí việc làm nếu không muốn bị sa thải hoặc để được bổ

nhiệm vào vị trí cao hơn. Đồng thời, mô hình công vụ việc làm giúp cơ quan quản

lý cán bộ tổ chức tuyển chọn được nguồn cán bộ, công chức phù hợp với yêu cầu

công việc; thiết kế được các chương trình bồi dưỡng, đào tạo, tập huấn phù hợp với

nhu cầu của từng vị trí việc làm của từng tổ chức tránh tình trạng bồi dưỡng đại trà,

tràn lan gây lãng phí nguồn nhân lực.

Bốn là: đặc điểm điều kiện tự nhiên, kinh tế, văn hóa, xã hội của từng địa phương

Những yếu tố điều kiện tự nhiên, trình độ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội

của từng địa phương tác động trực tiếp đến chất lượng đội ngũ CBLĐ, QL của

HTCT cấp huyện. Điều kiện tự nhiên, trình độ phát triển KT-XH của mỗi địa

phương đặt ra yêu cầu riêng đối với đội ngũ CBLĐ, QL của địa phương đó. Địa

phương có điều kiện tự nhiên thuận lợi thì việc đề ra chủ trương, kế hoạch phát triển

KT-XH của đội ngũ CBLĐ, QL sẽ thuận lợi hơn những địa phương có điều kiện tự

nhiên khắc nghiệt. Những địa phương có trình độ KT-XH phát triển, cơ cấu ngành

76

nghề đa dạng thì yêu cầu trình độ, năng lực lãnh đạo, quản lý của đội ngũ cán bộ

phải cao hơn những địa phương có trình độ KT-XH kém phát triển hoặc ngành nghề

đơn thuần. Trình độ chuyên môn của đội ngũ cán bộ ở các địa phương có kinh tế

phát triển phải đa dạng, phong phú, hiểu biết chuyên sâu nhiều lĩnh vực. Đồng thời,

địa phương có trình độ KT-XH phát triển có cơ hội thu hút được nguồn nhân lực

chất lượng cao về công tác tại địa phương. Đây là nguồn bổ sung dồi dào và đảm

bảo chất lượng cho đội ngũ CBLĐ, QL của HTCT. Ngược lại, những địa phương

kinh tế kém phát triển sẽ có nguy cơ ngày càng tụt hậu nếu không có cơ chế chính

sách thu hút, trọng dụng người tài vào làm việc trong các cơ quan, tổ chức của

HTCT tại địa phương.

Phong tục, tập quán văn hóa và trình độ dân trí của nhân dân địa phương

cũng ảnh hưởng đến công tác phát triển đội ngũ CBLĐ, QL của HTCT cấp huyện.

Những địa phương có trình độ KT-XH phát triển thì các phong tục, tập quán tốt đẹp

được giữ gìn, bảo tồn, phát triển, những phong tục, tập quán lạc hậu, không phù

hợp, cản trở sự phát triển sẽ nhanh chóng được xóa bỏ; tạo thuận lợi cho công tác

quản lý dân cư, tuyên truyền vận động nhân dân của đội ngũ cán bộ. Những địa

phương có trình độ dân trí thấp, phong tục tập quán lạc hậu vẫn tồn tại gây khó

khăn cho công tác phát triển đội ngũ cán bộ của HTCT. Công tác cán bộ ở quận, thị

xã, thành phố thuộc tỉnh có những đặc thù so với công tác cán bộ ở các huyện.

Những nơi có đông đồng bào dân tộc thiểu số, đồng bào theo tôn giáo đòi hỏi việc

sắp xếp, bố trí cơ cấu thành phần cán bộ phải tính đến các yếu tố dân tộc, tôn giáo.

2.3.4.2. Các yếu tố chủ quan

Một là: năng lực và trách nhiệm của các chủ thể phát triển đội ngũ CBLĐ,

QL của HTCT cấp huyện.

Đội ngũ CBLĐ, QL của HTCT cấp huyện chịu sự lãnh đạo trực tiếp của cấp

ủy cấp tỉnh và cấp ủy cấp huyện. Nếu các chủ thể này quan tâm đến công tác cán

bộ, có trách nhiệm đối với công tác xây dựng đội ngũ cán bộ, đồng thời có năng lực

chuyên môn tốt thì những chủ trương, nghị quyết, kết luận liên quan đến đội ngũ

cán bộ sẽ đảm bảo chất lượng. Sự quan tâm và tinh thần trách nhiệm của chủ thể

quản lý cán bộ được thể hiện thông qua chất lượng của tất cả các khâu từ công tác

đánh giá, quy hoạch, tuyển dụng, đào tạo, bồi dưỡng, bổ nhiệm, luân chuyển, khen

thưởng, kỷ luật cán bộ đến thực hiện chính sách cán bộ… Các cấp ủy đảng thực

77

hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ, các quy chế, quy định, kết luận của Đảng

và vận dụng linh hoạt phù hợp điều kiện tình hình thực tiễn của địa phương về công

tác cán bộ thì chất lượng đội ngũ cán bộ ngày càng được nâng cao, đáp ứng tốt

nhiệm vụ chính trị của từng giai đoạn lịch sử. Ngược lại, nếu các chủ thể của công

tác cán bộ không quan tâm, thiếu trách nhiệm, lơ là đối với công tác cán bộ thì chất

lượng đội ngũ cán bộ sẽ yếu kém. Đây chính là một trong những nguyên nhân gây

ra tình trạng nội bộ mất đoàn kết, tạo phe cánh tranh giành quyền lực, chạy chức,

chạy thành tích; cán bộ không yên tâm công tác, không thiết tha làm việc vì kết quả

lao động của bản thân không được đánh giá đúng thực chất.

Hai là: phẩm chất, năng lực của từng CBLĐ, QL cấp huyện.

Phẩm chất, năng lực của từng cán bộ hình thành từ thực tiễn công tác và qua

quá trình đào tạo, bồi dưỡng mà có. Công tác phát triển đội ngũ CBLĐ, QL muốn

đạt kết quả cao thì tiền đề quan trọng là phải có những cán bộ có cơ bản đầy đủ

phẩm chất, năng lực. Cán bộ mà phẩm chất chính trị không kiên định, vững vàng,

phẩm chất đạo đức không trong sáng, lành mạnh, năng lực chuyên môn yếu kém,

năng lực lãnh đạo, quản lý non yếu thì công tác phát triển đội ngũ gặp rất nhiều trở

ngại, không đủ nguồn cán bộ đưa vào quy hoạch, khó khăn trong việc bố trí, sắp

xếp cán bộ khi cần nhân sự đáp ứng đầy đủ tiêu chuẩn, điều kiện theo quy định; khó

khăn trong việc xây dựng cơ cấu cán bộ nhằm đáp ứng nhiệm vụ chính trị trong tình

hình mới…

Ba là: ý thức tự phấn đấu, rèn luyện của từng CBLĐ, QL cấp huyện.

Cùng với sự quan tâm, giáo dục, bồi dưỡng, rèn luyện cán bộ của tổ chức thì

chính sự tích cực, phấn đấu tự tu dưỡng, học tập nhằm nâng cao trình độ, phẩm

chất, năng lực của từng cán bộ đóng vai trò quan trọng. Đội ngũ CBLĐ, QL của

HTCT cấp huyện vừa là đối tượng của công tác đào tạo, bồi dưỡng đồng thời họ

cũng là chủ thể của nhận thức. Vì vậy, chất lượng của đội ngũ CBLĐ, QL của

HTCT cấp huyện có được nâng lên hay không không chỉ phụ thuộc vào chủ thể

quản lý cán bộ mà phụ thuộc rất lớn vào thái độ, ý thức, trách nhiệm của đội ngũ

này. Từ thực tiễn nhận thấy, chất lượng của cả đội ngũ CBLĐ, QL của HTCT cấp

huyện không thể tự nhiên mà có, mà đó là kết quả của cả quá trình học hỏi, tích lũy

kiến thức, kỹ năng, kinh nghiệm của bản thân từng cán bộ.

78

Tiểu kết chƣơng 2

Để thực hiện thành công quá trình CNH, HĐH đất nước và hội nhập quốc tế,

bên cạnh việc huy động mọi nguồn lực để phát triển KT-XH, việc hoàn thiện, đổi

mới HTCT nói chung và HTCT cấp huyện nói riêng, trong đó có việc phát triển đội

ngũ CBLĐ, QL, có ý nghĩa quan trọng. Sự phân cấp trong HTCT Việt Nam hiện

nay tương ứng với phân cấp đơn vị hành chính. Cấp huyện là cấp trung gian giữa

cấp tỉnh và cấp xã - cấp cơ sở, cấp cuối cùng trong đơn vị hành chính. HTCT cấp

huyện có vai trò quan trọng trong việc cụ thể hóa các nghị quyết, chủ trương của

Trung ương, của tỉnh phù hợp với điều kiện cụ thể của địa phương để chỉ đạo,

hướng dẫn cấp cơ sở tổ chức, vận động nhân dân thực hiện đường lối của Đảng,

chính sách pháp luật của Nhà nước; huy động mọi nguồn lực để phát triển KT-XH;

tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân; đồng

thời, là cầu nối, phản ánh những tâm tư, nguyện vọng chính đáng của nhân dân với

cấp ủy tỉnh, Trung ương. Để đảm bảo cho HTCT cấp huyện hoàn thành chức năng

của mình, bên cạnh việc sắp xếp, đổi mới tổ chức, bộ máy, hoàn thiện thể chế thì

công tác phát triển đội ngũ CBLĐ, QL đóng vai trò then chốt.

Thực chất của việc phát triển đội ngũ CBLĐ, QL của HTCT cấp huyện chính

là các hoạt động của cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền, MTTQ và các tổ chức CT-

XH, cán bộ, đảng viên từ tỉnh đến huyện và các lực lượng liên quan thực hiện

những công việc cần thiết, tạo nên sự hợp lý về mặt số lượng và cơ cấu cán bộ, nâng

cao chất lượng của các cá nhân và cả đội ngũ CBLĐ, QL của HTCT cấp huyện

nhằm đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chính trị của địa phương.

Quá trình phát triển đội ngũ CBLĐ, QL của HTCT cấp huyện xuất phát từ

yêu cầu xây dựng HTCT, yêu cầu, nhiệm vụ phát triển KT-XH của từng địa phương

và đặt dưới sự lãnh đạo thống nhất của Đảng và Nhà nước.

79

Chƣơng 3

THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN ĐỘI NGŨ CÁN BỘ LÃNH ĐẠO,

QUẢN LÝ CỦA HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ CẤP HUYỆN

Ở TỈNH BẮC NINH HIỆN NAY

3.1. Khái quát về tỉnh Bắc Ninh và hệ thống chính trị cấp huyện ở tỉnh

Bắc Ninh

3.1.1. Khái quát tỉnh Bắc Ninh

3.1.1.1. Về địa lý, truyền thống văn hóa

Bắc Ninh là một tỉnh đồng bằng Bắc bộ, có diện tích nhỏ nhất Việt Nam, tổng diện tích 822,7 km2. Phía bắc và đông tỉnh giáp tỉnh Bắc Giang, phía đông nam

giáp tỉnh Hải Dương và Hưng Yên, phía tây và tây bắc giáp thủ đô Hà Nội. Trong

quyết định của Thủ tướng Chính phủ về quy hoạch, tỉnh Bắc Ninh thuộc vùng Thủ

đô. Bắc Ninh nằm trên hai hành lang kinh tế Côn Minh- Lào Cai - Hà Nội - Hải

Phòng - Quảng Ninh và Nam Ninh - Lạng Sơn - Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh.

Tỉnh Bắc Ninh có 08 đơn vị hành chính cấp huyện, trong đó có 01 thành phố

(thành phố Bắc Ninh), 01 thị xã (thị xã Từ Sơn) và 06 huyện (Yên Phong, Tiên Du,

Quế Võ, Thuận Thành, Gia Bình, Lương Tài), với 126 đơn vị hành chính cấp xã: 23

phường, 06 thị trấn và 97 xã.

Bắc Ninh - Kinh Bắc là vùng đất giàu truyền thống văn hiến và cách mạng,

nơi khởi nguồn của Thủy tổ Việt Nam (Kinh Dương Vương); là quê hương của

Vương triều Lý và nhiều nhà cách mạng tiền bối như Ngô Gia Tự, Nguyễn Văn Cừ,

Hoàng Quốc Việt; là quê hương của làn điệu Dân ca Quan họ được UNESCO công

nhận là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện cho nhân loại. Tỉnh Bắc Ninh có truyền

thống hiếu học, sáng tạo trong lao động và chiến đấu, được mệnh danh là vùng đất

khoa bảng. Người dân Bắc Ninh cần cù, chịu thương, chịu khó, sống nặng tình,

đoàn kết, gắn bó quê hương.

Bắc Ninh có nhiều di tích lịch sử văn hóa, lễ hội dân gian và làng nghề

truyền thống. Các lễ hội tiêu biểu như hội Lim – hội chùa; hội Phù Đổng (huyện

Tiên Du), Đền Đô (Đình Bảng, thị xã Từ Sơn), hội Thập Đình (huyện Quế Võ và

Gia Bình), hội Đền Tam Phủ (huyện Gia Bình), hội Dâu (huyện Thuận

Thành)…Đời sống tâm linh của người dân Bắc Ninh rất phong phú, thể hiện qua sự

phát triển của các loại tín ngưỡng và tôn giáo nhưng phổ biến nhất là Đạo Phật.

80

Vùng đất Bắc Ninh có rất nhiều chùa chiền, đình, miếu, đền…Hầu như làng nào

cũng có chùa và những sinh hoạt lễ hội chung quanh ngôi chùa. Những ngôi chùa

nổi tiếng như chùa Dâu, chùa Phật Tích, chùa Bút Tháp, chùa Dận, đền Đô, đền Phụ

Quốc... Đến nay, toàn tỉnh có 571/1.585 di tích được xếp hạng, trong đó có 04 di tích

hạng quốc gia đặc biệt, 05 nhóm hiện vật, cổ vật được công nhận bảo vật quốc gia…

Những nét đặc trưng trong truyền thống văn hóa của tỉnh Bắc Ninh đã góp

phần hình thành những phẩm chất tốt đẹp của đội ngũ cán bộ trong tỉnh.

3.1.1.2. Về điều kiện tự nhiên, kinh tế, văn hóa, xã hội

Tỉnh Bắc Ninh có địa hình tương đối bằng phẳng, đất đai màu mỡ, phì nhiêu,

khí hậu ôn hòa, diện tích đất nông nghiệp chiếm trên 60% diện tích đất tự nhiên của

tỉnh. Những điều kiện trên tạo điều kiện thuận lợi để các huyện của tỉnh Bắc Ninh

phát triển kinh tế nông nghiệp.

Địa hình chủ yếu là đồng bằng châu thổ được bồi đắp bởi phù sa sông Hồng

và sông Thái Bình. Độ cao trung bình từ 3-7 m, sự chênh lệch độ cao địa hình giữa

các khu vực không lớn. Dạng địa hình đồng bằng tích tụ xâm thực đồi sót có ở

huyện Yên Phong và Quế Võ với độ cao 100-150 m, các đồi sót do bào mòn, xâm thực

ở thị xã Từ Sơn và các huyện Tiên Du, Thuận Thành, Gia Bình, Lương Tài. Ở một số

nơi của huyện Thuận Thành, Gia Bình, Lương Tài là dạng đồng bằng tích tụ trên nền

phù sa mới của sông Hồng, nhưng không được bồi đắp thường xuyên do đê ngăn.

Khí hậu Bắc Ninh thuộc kiểu khí hậu nhiệt đới gió mùa có mùa đông lạnh

và khô khá rõ rệt. Khí hậu phân làm hai mùa rõ rệt: từ tháng 11 đến tháng 5 là thời

kỳ mùa đông lạnh khô, nhiệt độ thấp. Mùa nóng từ tháng 5 đến tháng 9, nhiệt độ trung bình 27-280C. Lượng mưa trung bình năm 1.800mm, độ ẩm 84%. Đặc điểm

khí hậu trên tạo điều kiện thuận lợi cho việc gieo trồng các loại cây đa dạng, phong

phú, chất lượng cao như cây lúa nước, cây nhiệt đới, các cây ngắn ngày nhiệt đới và

ôn đới. Bên cạnh đó, Bắc Ninh có mạng lưới sông ngòi khá dày đặc, mật độ lưới sông cao, trung bình 1-1,2 km/km2; phần lớn các con sông đều bắt nguồn từ vùng

đồi trọc miền đông bắc, đất đai bị sói mòn nhiều nên nước sông có hàm lượng phù

sa lớn. Với hệ thống sông ngòi dày đặc, lưu lượng nước lớn, nếu biết khai thác trị

thuỷ, điều tiết tốt sẽ là điều kiện thuận lợi cho tưới tiêu, nuôi trồng thuỷ sản, phát

triển nông nghiệp.

81

Với vị trí là cửa ngõ của thủ đô Hà Nội, được Chính phủ quy hoạch vùng

Thủ đô, nằm trong tam giác kinh tế Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh, vùng kinh tế

trọng điểm Bắc Bộ, Bắc Ninh có nhiều điều kiện thuận lợi để đẩy nhanh quá trình

CNH, HĐH.

Bắc Ninh là tỉnh có điều kiện thuận lợi để phát triển giao thông vận tải.

Mạng lưới giao thông bao gồm đường sắt, đường bộ, đường thuỷ đã được hình

thành từ lâu. Hơn nữa, đây là cửa ngõ của Hà Nội trong khu vực tam giác kinh tế

trọng điểm Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh nên được nhà nước quan tâm đầu tư

phát triển các tuyến đường huyết mạch chạy qua địa phận của tỉnh như quốc lộ: 1A,

17, 18, 38 ; đường cao tốc (CT03) Hà Nội - Bắc Ninh - Bắc Giang - Lạng Sơn, cao

tốc (CT06) Hà Nội - Bắc Ninh - Hạ Long - Móng Cái, cao tốc (CT07) Hà Nội - Bắc

Ninh -Thái Nguyên - Bắc Kạn và tuyến đường sắt Hà Nội - Bắc Ninh - Lạng Sơn.

Hệ thống các tuyến đường trong nội tỉnh được nâng cấp và xây dựng mới, đã

góp phần tích cực vào việc mở rộng thông thương khai thác tiềm năng của tỉnh, rút

ngắn khoảng cách giữa Bắc Ninh với các tỉnh trong vùng, giữa thành thị và nông

thôn. Trong tỉnh có mạng lưới đường liên tỉnh, liên huyện như đường 280, 281, 282,

283, 270, 286, 287, 291, 295 và đường từ huyện đến trung tâm các xã. Đã xây dựng

được một số cây cầu bắc qua sông để nối liền các địa phương trong tỉnh và giữa tỉnh

Bắc Ninh với các địa phương khác như cầu Đáp Cầu, cầu Như Nguyệt, cầu Phả Lại,

cầu Mai Đình - Đông Xuyên, cầu Hồ, cầu Bình Than… Ba con sông: sông Cầu,

sông Đuống và sông Thái Bình chảy qua tạo ra một mạng lưới đường thuỷ có thể

nối liền Bắc Ninh với các tỉnh khác; nối liền Bắc Ninh với cảng Hải Phòng và cảng

Cái Lân.

Bên cạnh việc được thiên nhiên ưu đãi thì điều kiện tự nhiên của tỉnh cũng

gây ra những khó khăn, bất lợi đối với sự phát triển KT-XH. Bắc Ninh có diện tích

tự nhiên nhỏ nhất so với 63 tỉnh thành trong cả nước, là tỉnh nghèo khoáng sản,

đáng kể nhất là vật liệu xây dựng như: đất sét trữ lượng khoảng 04 triệu tấn, đá cát

trữ lượng 01 triệu tấn; đá sa thạch trữ lượng 03 triệu tấn, than bùn trữ lượng khoảng

60-200 nghìn tấn. Ngoài ra, tỉnh Bắc Ninh thường xuyên phải chịu ảnh hưởng của

thiên tai, bão lụt, hạn hán, dịch bệnh và chịu ảnh hưởng của biến đổi khí hậu…

Những yếu tố bất lợi trên tác động và ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống sinh hoạt và

sản xuất của nhân dân địa phương trong tỉnh. Đây chính là vấn đề đặt ra, đòi hỏi

82

ngày càng cao hơn trình độ, năng lực lãnh đạo, quản lý, năng lực chỉ đạo, định

hướng phát triển đối với đội ngũ CBLĐ, QL các cấp của tỉnh Bắc Ninh nói chung

và đội ngũ CBLĐ, QL của HTCT cấp huyện nói riêng.

Bắc Ninh là tỉnh có quy mô dân số trung bình, năm 2009 số dân của tỉnh là

1.026,7 nghìn người, năm 2020 tăng lên 1.208,3 nghìn người. Tốc độ gia tăng dân số

những năm gần đây dao động khoảng hơn 1%/năm và đang có chiều hướng giảm dần.

Cư dân nông thôn chiếm tỷ lệ lớn trong tổng số dân cư của tỉnh. Năm 2020,

số dân thành thị là 337,9 nghìn người, chiếm 28,7% số dân, số dân nông thôn là

841,1 nghìn người, chiếm 71,3% số dân. Tuy nhiên, đến nay, đang có xu hướng

chuyển dần một bộ phận sang làm việc trong các ngành công nghiệp, tiểu thủ công

nghiệp và dịch vụ. Năm 2020, số người trong độ tuổi lao động của Bắc Ninh là

753,4 nghìn người, chiếm 63,9% dân số. Số lao động đang làm việc trong các ngành

kinh tế là 667,300 nghìn người, trong đó, lao động trong khu vực I (nông, lâm, ngư,

nghiệp) chiếm 22,5%, trong khu vực II (công nghiệp, xây dựng) là 47,4%, còn lại

khu vực dịch vụ là 30,1%.

Tỉnh Bắc Ninh là vùng đất chật, người đông. Mật độ dân số trung bình của tỉnh là 1.545 người/km2 (năm 2020) chỉ đứng sau Hà Nội trong vùng đồng bằng

sông Hồng và đứng thứ 3 cả nước. Tuy vậy, phân bố dân cư không đồng đều, có

những nơi dân cư tập trung đông như thành phố Bắc Ninh, thị xã Từ Sơn, còn lại

các huyện như Gia Bình, Lương Tài mật độ dân cư thấp, chỉ bằng 1/3 nơi có mật độ

dân cư cao.

Nguồn nhân lực phong phú, dồi dào và có chất lượng tương đối cao so với

các tỉnh, thành khác của vùng đồng bằng sông Hồng là một trong những đặc điểm

nổi bật của tỉnh Bắc Ninh. Đây là điều kiện thuận lợi cho công tác tạo nguồn cán bộ

của cấp uỷ đảng các cấp của tỉnh, đặc biệt là tạo nguồn, quy hoạch đội ngũ CBLĐ,

QL trong HTCT các cấp của tỉnh Bắc Ninh hiện nay. Theo Báo cáo chính trị của

Tỉnh ủy Bắc Ninh tại Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh lần thứ XX nhiệm kỳ

2020-2025 “số lượng học sinh thi đỗ vào đại học, cao đẳng hàng năm từ 35-40%,

luôn nằm trong nhóm 10 tỉnh dẫn đầu của cả nước. Tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề

tăng từ 13,1% năm 2007 lên 75% năm 2020; trong đó tỷ lệ qua đào tạo nghề từ

13,1% lên 47,5%”.

83

Bắc Ninh từ một tỉnh có nền kinh tế nông nghiệp thuần túy đến nay đã cơ

bản trở thành tỉnh công nghiệp với hầu hết các chỉ tiêu cơ bản về KT-XH thuộc

nhóm đứng đầu.

Cơ cấu kinh tế chuyển dịch tích cực, từ chủ yếu là sản xuất nông nghiệp sang

sản xuất nông nghiệp hàng hóa, hàng hóa chất lượng cao, công nghiệp - xây dựng

và dịch vụ. Nếu như, năm 1997, tỷ trọng nông nghiệp chiếm 45,1% thì đến năm

2010 giảm còn 10,4% và đến năm 2020 giảm xuống chỉ còn 2,7%. Đồng thời, tỷ

trọng công nghiệp, xây dựng tăng nhanh, từ 23,8% năm 1997 tăng lên 62,8% năm

2010 và đến năm 2020 tăng lên chiếm 75,8%. Từ năm 2001, khu vực công nghiệp

và xây dựng đã vượt qua khu vực nông lâm nghiệp và thuỷ sản để chiếm vị trí đầu

tầu trong phát triển kinh tế của tỉnh.

Tổng sản phẩm trên địa bàn tỉnh (GRDP) tăng cao. Năm 2020, tổng sản

phẩm (GRDP) chiếm 3,11% GPD cả nước, xếp thứ 4/63 tỉnh, thành phố. Tốc độ

tăng trưởng GRDP đạt 18,6%. Năm 1997, GRDP bình quân đầu người mới đạt 2,2

triệu đồng/năm, thấp hơn mức 04 triệu đồng bình quân chung cả nước và xếp thứ tư

trong vùng đồng bằng sông Hồng, đến năm 2020 đã đạt 107,6 triệu đồng, gấp 2,3

lần bình quân chung cả nước và xếp thứ nhất trong vùng. Thu ngân sách nhà nước

trên địa bàn tỉnh đạt cao, hằng năm đều vượt kế hoạch được giao. Từ năm 2011,

tỉnh Bắc Ninh đã trở thành tỉnh thứ 13 tự cân đối và có điều tiết về Trung ương.

Lĩnh vực quy hoạch, xây dựng, quản lý đất đai, chương trình phát triển đô

thị, hạ tầng kỹ thuật… đã có chuyển biến tích cực. Tổng vốn đầu tư phát triển theo

giá hiện hành từ năm 1997 đến 2020 ước đạt 343 nghìn tỷ đồng, bằng 44,5% GRDP. Đến nay, hệ thống đô thị đã được mở rộng với diện tích khoảng 205km2. Tỷ

lệ đô thị hóa tăng từ 9,0% năm 1997 lên 28,7% năm 2020.

Văn hóa, giáo dục, y tế thuộc nhóm dẫn đầu cả nước, nhiều chính sách an

sinh xã hội đi trước và thực hiện ở mức cao hơn so với Trung ương như hỗ trợ nhà ở

cho người nghèo, trợ cấp người cao tuổi… Chính trị ổn định, trật tự an toàn xã hội

được đảm bảo.

Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu, tỉnh Bắc Ninh còn nhiều hạn chế, yếu kém.

Kinh tế - xã hội phát triển chưa tương xứng với tiềm năng, thế mạnh của

tỉnh. Kinh tế phát triển cao nhưng vẫn còn một số mặt chưa bền vững. Cơ cấu kinh

tế và tỷ trọng giá trị sản xuất trong lĩnh vực công nghiệp tiềm ẩn nhiều vấn đề. Mặc

84

dù khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm tỷ trọng cao, song giá trị sản xuất của

khu vực có vốn đầu tư nước ngoài rất lớn, chiếm trên 90% trong tổng giá trị sản

xuất công nghiệp toàn tỉnh, chiếm gần 50% GRDP và chắc chắn sẽ còn tăng cao

hơn nữa trong những năm tới. Quy mô kinh tế trong nước nhỏ, tăng trưởng thấp,

bình quân từ 1997-2020 tốc độ tăng trưởng đạt 8,1%.

Sản xuất nông nghiệp tăng trưởng chậm dần, do biến đổi khí hậu đã tác động

rõ nét đến thời tiết, ảnh hưởng xấu đến sản xuất; diện tích các khu, cụm công nghiệp

ngày càng được mở rộng, nên diện tích đất nông nghiệp xen kẹp khó canh tác do bị

ô nhiễm môi trường cục bộ, khó tưới tiêu dẫn đến tình trạng nông dân bỏ hoang

ruộng ngày càng gia tăng. Tổng diện tích gieo trồng cây hằng năm giảm từ 103.114

ha năm 1997 xuống còn 83.348 ha năm 2020, bình quân giảm 867ha/năm. Năng

suất cây trồng chưa có bước đột phá. Nhiều năm giá trị sản xuất trồng trọt bị tăng

trưởng âm, như năm 2012 (-1,7%), năm 2013 (-6,4%), năm 2020 (-0.39%). Chăn

nuôi và nuôi trồng thủy sản tuy có ứng dụng công nghệ cao, nhưng chưa phổ biến,

hiệu quả kinh tế chưa có, năng suất thấp, sức cạnh tranh của sản phẩm yếu.

Khu vực dịch vụ thay đổi khiêm tốn, hầu như không đáng kể. Công nghiệp

phụ trợ mới phát triển, sức cạnh tranh còn rất non yếu. Sức lan tỏa theo hướng tích

cực của ngành công nghiệp phát triển đến phát triển dịch vụ, nông nghiệp, nông

thôn và quá trình đô thị hóa chưa tương xứng. Khu vực kinh tế làng nghề, hợp tác

xã hoạt động còn nhiều khó khăn. Việc ứng dụng, chuyển giao, nhân rộng các thành

tựu khoa học - công nghệ vào sản xuất và đời sống còn chậm, trình độ công nghệ

trong các ngành sản xuất công nghiệp địa phương còn lạc hậu…Hầu hết các doanh

nghiệp trong tỉnh đều sử dụng công nghệ lạc hậu, gây ô nhiễm môi trường. Quy mô

công nghiệp chênh lệch lớn giữa các địa phương trong tỉnh.

Tình hình tội phạm và tệ nạn xã hội diễn biến phức tạp, an ninh nông thôn

còn tiềm ẩn nhiều điểm phức tạp. Năng lực quản lý chưa được nâng cấp tương ứng

với xu hướng gia tăng nhanh chóng quy mô kinh tế…

3.1.2. Khái quát về hệ thống chính trị cấp huyện ở tỉnh Bắc Ninh

3.1.2.1. Đặc điểm các huyện ở tỉnh Bắc Ninh.

Một là, trải qua các thời kỳ lịch sử khác nhau, cùng với việc sáp nhập, chia

tách địa giới hành chính của tỉnh, các huyện ở tỉnh Bắc Ninh cũng được sáp nhập,

chia tách.

85

Dưới triều Minh Mạng thứ 12, năm 1831, tỉnh Bắc Ninh có 21 huyện. Đến

thời kỳ Nhà nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa, Quốc hội, Chính phủ đã quyết định

điều chỉnh địa giới các huyện của tỉnh Bắc Ninh như sau: huyện Gia Lương ra đời

trên cơ sở hợp nhất Gia Bình và Lang Tài, huyện Gia Lâm cùng một số xã của các

huyện Thuận Thành, Tiên Du, Từ Sơn thuộc tỉnh Bắc Ninh được chuyển giao về Hà

Nội. Huyện Quế Võ ra đời trên cơ sở hợp nhất Quế Dương và Võ Giàng; huyện

Tiên Sơn ra đời trên cơ sở hợp nhất Tiên Du và Từ Sơn.

Đến tháng 11-1996 tỉnh Bắc Ninh có 06 đơn vị hành chính cấp huyện, trong

đó có 01 thị xã Bắc Ninh, và 05 huyện Quế Võ, Yên Phong, Tiên Sơn, Thuận Thành

và Gia Lương. Ngày 09-8-1999, Chính phủ ra Nghị định số 68/1999/NĐ-CP về việc

chia tách một số huyện của tỉnh Bắc Ninh: tách huyện Tiên Sơn thành 02 huyện

Tiên Du và Từ Sơn; tách huyện Gia Lương thành 02 huyện Gia Bình và Lương Tài.

Tháng 01-2006, Thủ tướng Chính phủ ban hành Nghị định số 15/2006/NĐ-CP

thành lập thành phố Bắc Ninh. Ngày 24-9-2008, thị xã Từ Sơn được thành lập trên

cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của huyện Từ Sơn. Như vậy, cùng với quá trình

chia tách, sáp nhập của tỉnh Bắc Ninh, các huyện trong tỉnh cũng có sự thay đổi, tùy

theo điều kiện, hoàn cảnh lịch sử - cụ thể từng thời kỳ.

Quá trình chia tách, sáp nhập các huyện trong tỉnh đã tác động trực tiếp đến

đội ngũ cán bộ địa phương, vì sau mỗi lần chia tách, sáp nhập đều dẫn đến tình

trạng xáo trộn, thay đổi về tổ chức, bộ máy, phải sắp xếp, bố trí lại cán bộ cho phù

hợp. Công việc này tác động đến tâm tư của nhiều cán bộ, đặc biệt là cán bộ làm

công tác lãnh đạo, quản lý.

Hai là, các huyện ở tỉnh Bắc Ninh diện tích không lớn, gồm nhiều loại hình,

mỗi huyện có những đặc trưng và thế mạnh về phát triển KT-XH khác nhau.

Tỉnh Bắc Ninh hiện có 08 đơn vị hành chính cấp huyện, gồm 01 thành phố

(Bắc Ninh) là đô thị loại I, 01 thị xã (Từ Sơn) là đô thị loại IV và 06 huyện (Quế

Võ, Tiên Du, Yên Phong, Thuận Thành, Gia Bình và Lương Tài), với 126 đơn vị

hành chính cấp cơ sở, trong đó có 23 phường, 06 thị trấn và 97 xã.

Các huyện, thị xã, thành phố ở tỉnh Bắc Ninh có diện tích tương đối nhỏ và không đều nhau. Nhiều huyện có diện tích trên 100 km2, như huyện Quế Võ 154,85 km2, huyện Thuận Thành 118,23 km2, huyện Yên Phong 112,5 km2, huyện Lương Tài; 107,5 km2, huyện Gia Bình 107,5km2. Các huyện còn lại có diện tích nhỏ hẹp

86

hơn dưới 100km2, như thị xã Từ Sơn 61,33km2, thành phố Bắc Ninh 82,6 km2, huyện Tiên Du 96,21 km2.

Có thể chia các huyện ở tỉnh Bắc Ninh thành hai nhóm.

Nhóm các huyện ở phía Bắc sông Đuống - bao gồm thành phố Bắc Ninh, thị

xã Từ Sơn, huyện Yên Phong, huyện Tiên Du, huyện Quế Võ - có nhiều điều kiện

để phát triển KT-XH, tốc độ phát triển về mọi mặt tương đối nhanh, đặc biệt là quá

trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng tỷ trọng ngành công nghiệp, xây

dựng, giảm dần tỷ trọng ngành nông nghiệp; quá trình đô thị hóa tăng nhanh. Hệ

thống cơ sở vật chất - kỹ thuật và kết cấu hạ tầng phát triển cao hơn các huyện còn

lại. Tập trung các khu đô thị, thành phố, khu công nghiệp, cụm công nghiệp lớn của

tỉnh. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển kinh tế, các huyện trong nhóm này phải đối

mặt với vấn đề ô nhiễm môi trường từ các khu công nghiệp và các làng nghề truyền

thống; tệ nạn xã hội ngày càng gia tăng; mật độ dân số ngày càng cao do dân cư ở

các huyện trong tỉnh và các tỉnh lân cận đổ về buôn bán, lao động làm việc tại các

khu công nghiệp; vấn đề an ninh trật tự, vấn đề khiếu kiện của người dân liên quan

đến giải phóng mặt bằng phục vụ các công trình, dự án đầu tư…ngày càng tăng.

Nhóm các huyện ở phía Nam sông Đuống - bao gồm huyện Thuận Thành,

huyện Gia Bình và huyện Lương Tài. Đây là các huyện xa trung tâm, nhìn chung KT-

XH phát triển chậm. Kinh tế phụ thuộc nhiều hơn vào nông nghiệp, mức độ công

nghiệp hoá kém hơn, được nhận phần đầu tư ít hơn rất nhiều so với các huyện phía Bắc

sông Đuống. Đời sống nhân dân tuy đã được nâng lên, song vẫn còn khó khăn.

Ba là, các huyện ở tỉnh Bắc Ninh chủ yếu được tạo nên bởi các làng, xã có

lịch sử hình thành và phát triển lâu đời, quan hệ huyết thống, văn hóa, phong tục tập

quán còn sâu đậm. Song các làng, xã đang trong quá trình phát triển nhanh theo

hướng CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn và xây dựng nông thôn mới.

Các huyện ở tỉnh Bắc Ninh có lịch sử phát triển lâu đời, có truyền thống văn

hoá, phong tục tập quán tốt đẹp, có truyền thống cách mạng kiên cường. Người dân

chịu khó, cần cù, sống nặng tình, nặng nghĩa, gắn bó quê hương. Quan hệ huyết

thống và văn hoá làng xã khá sâu đậm được thể hiện qua sự phân biệt thứ bậc trong

dòng họ, các tập tục, nghi lễ trong hội làng, hiếu, hỉ… Truyền thống văn hóa, cách

mạng có ảnh hưởng tích cực tới việc hình thành và xây dựng đội ngũ cán bộ có

phẩm chất, đạo đức tốt. Bên cạnh đó, sự cố kết cộng đồng, quan hệ dòng tộc cũng

87

đã ảnh hưởng không tốt tới tư duy, phong cách làm việc của đội ngũ cán bộ cấp

huyện. Điển hình là tư duy tiểu nông, nếp nghĩ thói quen sản xuất nhỏ, tư tưởng cục

bộ địa phương, chủ nghĩa kinh nghiệm trong lãnh đạo, điều hành…

Trong những năm gần đây, cùng với sự tác động của quá trình CNH, HĐH

nông nghiệp, nông thôn, kinh tế thị trường cũng đã tác động khá mạnh mẽ đến môi

trường xã hội của các làng, xã của tỉnh Bắc Ninh. Quá trình CNH, HĐH nông

nghiệp, nông thôn đã tạo điều kiện thuận lợi để người nông dân áp dụng khoa học -

công nghệ tiên tiến vào sản xuất. Chương trình xây dựng nông thôn mới được tích

cực đẩy mạnh, gắn với phát triển đô thị. Các tiêu chí tiếp tục gia tăng, đời sống nhân

dân ở khu vực nông thôn được cải thiện. Đến hết năm 2020, 8/8 đơn vị cấp huyện

của tỉnh đã đạt chuẩn nông thôn mới; 94/94 xã được công nhận đạt chuẩn nông thôn

mới đạt tỷ lệ 100%.

Tuy nhiên, kinh tế thị trường đã làm cho tâm lý người dân có diễn biến phức

tạp, đan xen giữa tích cực và tiêu cực. Cùng với quá trình chuyển đổi kinh tế là sự

chuyển đổi về xã hội, văn hóa đã có ảnh hưởng không nhỏ đến đội ngũ CBLĐ, QL cấp

huyện ở tỉnh Bắc Ninh. Quan hệ xã hội đa dạng hơn, quan niệm lợi ích, hệ thống giá trị

và định hướng giá trị trong xã hội thay đổi, nhất là các giá trị đạo đức. Sự thay đổi các

giá trị đạo đức từ trọng các giá trị tinh thần, nhân văn sang coi trọng giá trị vật chất; từ

trọng lương tâm, danh dự, lý tưởng, sang coi trọng các chuẩn mực thực tế như quyền

lực chính trị, vị thế xã hội, sự hưởng thụ cao sang về vật chất đã làm thay đổi chuẩn

mực đạo đức, thang giá trị đánh giá mỗi người. Sự thay đổi này đã ảnh hưởng không

nhỏ đến đội ngũ CBLĐ, QL cấp huyện ở tỉnh Bắc Ninh hiện nay.

Bốn là, các huyện ở tỉnh Bắc Ninh có mật độ dân số cao, đứng thứ hai vùng

đồng bằng sông Hồng, thứ ba cả nước; nhân dân có truyền thống cần cù, sáng tạo

trong lao động, sản xuất nông nghiệp, giỏi buôn bán, tích cực phát huy các làng

nghề truyền thống.

Các huyện ở tỉnh Bắc Ninh có mật độ dân số cao, một số huyện trong tỉnh có mật độ dân số cao như huyện Tiên Du là 1.395 người/km² , thành phố Bắc Ninh 2.252 người/km2, thị xã Từ Sơn 2.601 người/km2 , huyện Yên Phong 1.583 người/km2.

Bắc Ninh thuộc vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng, là cội nguồn của nghề

trồng lúa nước. Nông dân các huyện trong tỉnh có truyền thống canh tác nghề nông,

88

đặc biệt là trình độ thâm canh lúa nước, có điều kiện thuận lợi để tiếp cận nhanh với

khoa học kỹ thuật trồng trọt, một số huyện đạt giá trị sản phẩm nông nghiệp đạt trên

100 triệu đồng/ha.

Từ xa xưa, nhân dân Bắc Ninh đã sớm chú ý đến sản xuất vật phẩm tiêu

dùng, tiểu thủ công nghiệp. Hệ thống làng nghề xuất hiện sớm. Hiện nay, Bắc Ninh

có 62 làng nghề, trong đó chủ yếu là các làng nghề truyền thống, được phân bố

khắp các huyện trong tỉnh. Nhân dân có bàn tay khéo léo, óc thẩm mỹ cao kết tinh ở

các sản phẩm thủ công mỹ nghệ đạt mức tinh xảo, tính cạnh tranh cao, nổi tiếng

trong và ngoài nước như đúc đồng truyền thống Quảng Bố - Lương Tài, tranh Đông

Hồ, Gỗ mỹ nghệ Tam Sơn, Phù Khê, Đồng Kỵ, Mai Động, gốm Phù Lãng, tơ tằm

Vọng Nguyệt….

Hoạt động buôn bán cũng khá sôi nổi từ rất sớm. Tiêu biểu như Chợ Giầu,

huyện Đông Ngàn nay là thị xã Từ Sơn, nổi danh là chợ sầm uất nhất tỉnh; Chợ

Lim, huyện Tiên Du. Đặc biệt, việc buôn bán phát triển đến độ xuất hiện các làng

buôn như Phù Lưu, Đình Bảng (Từ Sơn), có tới 70-80 % số người trong làng

chuyên nghề buôn bán. Hoạt động buôn bán từ sớm đã góp phần hình thành tố chất

của người Bắc Ninh nhanh nhẹn, hoạt bát, tiếp cận nhanh với nền kinh tế thị trường,

khéo léo trong giao tiếp, ứng xử…

3.1.2.2. Hệ thống chính trị cấp huyện ở tỉnh Bắc Ninh

Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh (tính đến tháng 11/2020) có 11 đảng bộ trực thuộc

Tỉnh ủy, với 581 tổ chức cơ sở đảng và 54.923 đảng viên, trong đó có 06 đảng bộ

huyện, 01 đảng bộ thành phố và 01 đảng bộ thị xã được lập tương ứng với 08 đơn vị

hành chính cấp huyện của tỉnh. Số tổ chức cơ sở đảng của 08 đảng bộ tính đến

tháng 11-2020 là 462 tổ chức đảng. Trong đó, thành phố Bắc Ninh là 78, thị xã Từ

Sơn là 62, huyện Quế Võ là 50, huyện Tiên Du là 60, huyện Yên Phong là 54,

huyện Thuận Thành là 54, huyện Gia Bình là 53 và huyện Lương Tài là 50. Tổng số

đảng viên của 08 đảng bộ cấp huyện là 47.240 đảng viên (chiếm trên 80% tổng số

đảng viên của toàn đảng bộ tỉnh), số liệu tương ứng ở các huyện, thị, thành phố là:

thành phố Bắc Ninh có 9.429 đảng viên, thị xã Từ Sơn có 5.365 đảng viên, huyện

Quế Võ có 6.533 đảng viên, huyện Tiên Du có 5.402 đảng viên, huyện Yên Phong

có 4.289 đảng viên, huyện Thuận Thành có 6.096 đảng viên, huyện Gia Bình có

4.625 đảng viên, huyện Lương Tài có 5.474 đảng viên. Trong đó, số tổ chức cơ sở

89

đảng thuộc loại hình xã, phường, thị trấn là 126, với 39.762 đảng viên (chiếm

84,17% tổng số đảng viên của đảng bộ các huyện). Cơ quan lãnh đạo của đảng bộ

cấp huyện giữa hai kỳ đại hội là ban chấp hành đảng bộ huyện được đại hội đại biểu

đảng bộ huyện bầu ra. Số lượng cấp ủy viên của các cấp ủy huyện ở tỉnh Bắc Ninh

đầu nhiệm kỳ 2015-2020 là 328 người; trong đó, hai huyện ủy Lương Tài, Thuận

Thành có số lượng là 39 người; huyện ủy Yên Phong, Tiên Du, Gia Bình, thị ủy Từ

Sơn có 41 đồng chí; huyện ủy Quế Võ, thành ủy Bắc Ninh có 43 người. BTV huyện

ủy có 92 người, trong đó BTV thành ủy thành phố Bắc Ninh và BTV huyện ủy Quế

Võ là 13 người; BTV thị ủy Từ Sơn, các BTV huyện ủy Yên Phong, Tiên Du,

Thuận Thành, Gia Bình, Lương Tài là 11 người. Nhiệm kỳ 2020-2025, tổng số cấp

ủy viên cấp huyện là 309 người, giảm so với nhiệm kỳ 2015-2020 là 19 người. Ủy

viên Ban Thường vụ là 90 người, giảm so với nhiệm kỳ 2015-2020 là 02 người.

Các cơ quan, đơn vị trong HTCT cấp huyện của tỉnh Bắc Ninh được tổ chức

và hoạt động theo đúng quy định của Đảng và Nhà nước. HTCT cấp huyện ở tỉnh

Bắc Ninh vừa mang những nét chung như các huyện, thị xã, thành phố trực thuộc

cấp tỉnh trong cả nước, vừa có những đặc điểm riêng, xuất phát từ điều kiện, hoàn

cảnh thực tiễn của tỉnh.

Các cơ quan tham mưu, giúp việc cấp ủy huyện được thành lập theo đúng

Quy định số 220-QĐ/TW ngày 27-12-2013 của Ban Bí thư quy định chức năng,

nhiệm vụ, tổ chức bộ máy cơ quan chuyên trách tham mưu, giúp việc huyện ủy,

gồm ban tổ chức, ban tuyên giáo, ban dân vận, cơ quan ủy ban kiểm tra, văn phòng

cấp ủy. Cấp ủy cấp huyện có đơn vị sự nghiệp là trung tâm bồi dưỡng chính trị. Về

cơ cấu CBLĐ, QL cơ quan tham mưu, giúp việc cấp ủy huyện, theo quy định gồm

01 cấp trưởng (chủ yếu là các các đồng chí ủy viên BTV cấp ủy cấp huyện) và

không quá 02 cấp phó; riêng Văn phòng thị ủy Từ Sơn và thành ủy Bắc Ninh được

cơ cấu không quá 03 phó. Số lượng CBLĐ, QL của các cơ quan tham mưu, giúp

việc của cấp ủy cấp huyện ở tỉnh Bắc Ninh được quy định tối đa là 148 người.

Chính quyền cấp huyện gồm HĐND và UBND cấp huyện được thành lập và

hoạt động theo đúng pháp luật và các văn bản quy định của Trung ương và Tỉnh ủy.

HĐND cấp huyện gồm các đại biểu do cử tri ở huyện bầu ra. HĐND cấp huyện của

tỉnh Bắc Ninh - theo quy định - được thành lập 02 ban là ban KT-XH và ban pháp

chế; mỗi ban được cơ cấu 01 trưởng ban, 01 phó trưởng ban và một số ủy viên.

90

Thường trực HĐND huyện gồm chủ tịch, 02 phó chủ tịch và các ủy viên là trưởng

ban của HĐND. HĐND huyện đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền lợi của

nhân dân địa phương; có vai trò nòng cốt trong HTCT và là cơ quan quyền lực nhà

nước ở cấp huyện. Số lượng CBLĐ, QL của HĐND huyện ở tỉnh Bắc Ninh theo

quy định tối đa là 56 người.

Ủy ban nhân dân cấp huyện chịu trách nhiệm điều hành mọi lĩnh vực hoạt

động của nhân dân trên địa bàn huyện và thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối

với mọi hoạt động trên các lĩnh vực của đời sống xã hội ở địa phương; kiểm tra,

giám sát tổ chức thực hiện của chính quyền cấp cơ sở và tất cả công dân trong việc

chấp hành Hiến pháp, pháp luật và các quy định của chính quyền cấp trên. UBND

có cơ cấu 01 chủ tịch, 02 phó chủ tịch và các ủy viên là những người đứng đầu các

cơ quan chuyên môn thuộc UBND, ủy viên phụ trách quân sự (chỉ huy trưởng ban

chỉ huy quân sự), ủy viên phụ trách công an (trưởng công an) cấp huyện. Các cơ

quan chuyên môn thuộc UBND cấp huyện ở tỉnh Bắc Ninh được thành lập theo

đúng quy định của Chính phủ về quy định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc

UBND huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh. Theo đó, cơ quan chuyên môn

trực thuộc UBND gồm 12 cơ quan, trong đó có 10 cơ quan chuyên môn được tổ

chức thống nhất ở tất cả các đơn vị hành chính cấp huyện là: phòng nội vụ, phòng

tư pháp, phòng tài chính - kế hoạch, phòng tài nguyên và môi trường, phòng lao

động - thương binh và xã hội, phòng văn hóa và thông tin, phòng giáo dục và đào

tạo, phòng y tế, thanh tra huyện, văn phòng HĐND và UBND. Hai cơ quan chuyên

môn còn lại được tổ chức phù hợp với từng loại hình đơn vị hành chính cấp huyện.

Cụ thể: 06 huyện Yên Phong, Quế Võ, Tiên Du, Thuận Thành, Gia Bình, Lương Tài

được tổ chức 02 phòng: phòng kinh tế và hạ tầng, phòng nông nghiệp và phát triển

nông thôn. UBND thành phố Bắc Ninh và thị xã Từ Sơn được tổ chức 02 phòng:

phòng kinh tế và phòng quản lý đô thị. Về số lượng CBLĐ, QL cơ quan chuyên

môn, theo quy định mỗi cơ quan được cơ cấu 01 trưởng và không quá 02 phó, theo

Nghị định số 108/2020/NĐ-CP ngày 14/9/2020 của Thủ tướng Chính phủ. Như vậy,

số lượng CBLĐ, QL khối UBND cấp huyện tối đa là 328 người.

Căn cứ Quy định số 212-QĐ/TW ngày 30/12/2019 của Bộ Chính trị về tổ

chức bộ máy, biên chế cơ quan Ủy ban MTTQ và các tổ chức chính trị xã hội cấp

tỉnh, cấp huyện. Mỗi cơ quan Ủy ban MTTQ và tổ chức CT-XH cấp huyện ở tỉnh

91

Bắc Ninh được cơ cấu 01 cấp trưởng và 01 cấp phó. Như vậy, số lượng CBLĐ, QL

tối đa của các cơ quan Ủy ban MTTQ và các tổ chức CT-XH cấp huyện của tỉnh

Bắc Ninh là 96 người.

Thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 khóa XII, Tỉnh ủy Bắc Ninh

đang xây dựng đề án kiện toàn tổ chức bộ máy HTCT các cấp, trong đó có cấp

huyện, bao gồm việc hợp nhất các cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp huyện;

hợp nhất một số cơ quan tham mưu, giúp việc cấp ủy cấp huyện với cơ quan chuyên

môn thuộc UBND cùng cấp có chức năng tương đồng; nhất thể hóa chức danh

người đứng đầu một số tổ chức, cơ quan.

Nhìn chung, HTCT cấp huyện ở tỉnh Bắc Ninh về cơ bản là HTCT nông

thôn, với phần lớn đơn vị cơ sở là đơn vị xã, song đang trong quá trình hoàn thiện

nhanh cơ bản trở thành thành HTCT đô thị vào năm 2022, khi tỉnh Bắc Ninh trở

thành thành phố trực thuộc Trung ương với dự kiến có 05 quận, 01 thị xã và 02

huyện. Chính vì vậy, nhiệm vụ của HTCT cấp huyện ở Bắc Ninh hiện nay rất nặng

nề, không chỉ phối hợp với cấp tỉnh thực hiện các tiêu chí về phát triển KT-XH để

đưa tỉnh Bắc Ninh trở thành thành phố trực thuộc Trung ương đúng theo kế hoạch,

mà còn chỉ đạo cấp cơ sở thực hiện tốt việc quản lý địa bàn nông thôn, tạo môi

trường, điều kiện thuận lợi để nông dân xây dựng và phát triển nông thôn dựa trên

thế mạnh của hoạt động nông nghiệp.

Tóm lại, những kết quả đạt được và những hạn chế, yếu kém trong phát triển

KT-XH của tỉnh đặt ra đòi hỏi cấp ủy các cấp từ tỉnh đến huyện phải xây dựng được

nguồn nhân lực chất lượng cao, trong đó trước hết phải có đội ngũ CBLĐ, QL các

cấp vừa thạo chuyên môn, vừa có năng lực tổng kết thực tiễn và tầm nhìn chiến

lược; năng lực lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đẩy

mạnh CNH, HĐH, phát huy những tiềm năng, thế mạnh, lợi thế so sánh và hướng đi

lên của từng địa phương.

3.2. Thực trạng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý của hệ thống chính trị

cấp huyện ở tỉnh Bắc Ninh

3.2.1. Những ưu điểm cơ bản

3.2.1.1. Số lượng và cơ cấu đội ngũ tương đối hợp lý, cơ bản đáp ứng yêu

cầu nhiệm vụ chính trị của tỉnh và của từng địa phương

Về số lượng, theo số liệu thống kê của Ban Tổ chức Tỉnh ủy (BTCTU) Bắc

Ninh, tại thời điểm tháng 11/2020, đội ngũ CBLĐ, QL của HTCT cấp huyện ở tỉnh

92

Bắc Ninh là 629 người. Thành phố Bắc Ninh hiện có số lượng CBLĐ, QL lớn nhất,

với 89 cán bộ, sau đó đến thị xã Từ Sơn 81 cán bộ. Huyện Quế Võ, Tiên Du có số

lượng là 80 cán bộ. Các huyện còn lại là Thuận Thành, Yên Phong và Lương Tài có

75 cán bộ. Huyện Gia Bình ít nhất là 74 cán bộ [phụ lục 1].

Tại thời điểm tháng 11/2020, so với đầu nhiệm kỳ 2010-2015, số lượng

CBLĐ, QL của HTCT cấp huyện của tỉnh Bắc Ninh tăng 28 cán bộ; so với năm

640 630 620 610 600 590 580

Năm 2010

Năm 2015

Năm 2020

Số lượng cán bộ lãnh đạo, quản lý HTCT cấp huyện

2015 tăng 16 cán bộ [phục lục 2].

Biểu đồ 3.1. Số lƣợng cán bộ lãnh đạo, quản lý của HTCT cấp huyện ở

tỉnh Bắc Ninh [phụ lục 2]

Như vậy, số lượng CBLĐ, QL của HTCT cấp huyện của tỉnh Bắc Ninh hiện

nay tương đối hợp lý, cơ bản phù hợp với yêu cầu tổ chức biên chế theo quy định

của Trung ương; đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ phát triển KT-XH, bảo đảm quốc

phòng, an ninh và yêu cầu nhiệm vụ chính trị của từng địa phương cũng như các

lĩnh vực hoạt động của đời sống xã hội.

Về cơ cấu, đội ngũ CBLĐ, QL của HTCT cấp huyện của tỉnh Bắc Ninh có cơ

cấu tương đối hợp lý, cơ bản đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của địa phương trên tất cả

các lĩnh vực của đời sống xã hội.

Cơ cấu độ tuổi có sự thay đổi theo hướng ngày càng trẻ hóa và hợp lý giữa

các độ tuổi, đảm bảo sự kế thừa, chuyển tiếp và phát triển giữa các thế hệ cán bộ.

Trong ban chấp hành đảng bộ cấp huyện nhiệm kỳ 2020-2025, cấp ủy viên dưới 35

tuổi đạt 9.06% tăng 3.27% so với nhiệm kỳ 2015-2020 và tăng 4,45% so với nhiệm

kỳ 2010-2015. [phụ lục 3, 4].

93

Cơ cấu độ tuổi BCH Đảng bộ huyện

50

40

30

20

10

0

Dưới 35 tuổi

Từ 35 đến 40 tuổi

Từ trên 40 đến 50 tuổi

Trên 50 tuổi

Nhiệm kỳ 2010-2020

Nhiệm kỳ 2015-2020

Nhiệm kỳ 2020-2025

Biểu đồ 3.2. Cơ cấu độ tuổi BCH Đảng bộ huyện ở tỉnh Bắc Ninh [phụ lục 3,4]

Tuổi bình quân của ban chấp hành đảng bộ cấp huyện nhiệm kỳ 2015-2020

là 47,27 tuổi, giảm 0,74 tuổi so với nhiệm kỳ 2010-2015. Các ban chấp hành đảng

bộ huyện có tuổi bình quân trẻ tuổi là Tiên Du có tuổi bình quân cấp ủy huyện trẻ

nhất (43,96 tuổi), sau đó là huyện Quế Võ (44,82), Yên Phong (45,69). Các cấp ủy

huyện còn lại có tuổi bình quân cao hơn và có sự cách biệt rõ nét như thành phố Bắc

Ninh có tuổi bình quân cao nhất là 49,62 tuổi, Từ Sơn, Thuận Thành, Lương Tài,

Gia Bình tương ứng là 49,2 - 48,37 - 48,37 - 48,24. Ở hầu hết các huyện đều có cán

bộ trẻ tham gia ban chấp hành, BTV, giữ các chức vụ chủ chốt của Huyện ủy,

HĐND và UBND cấp huyện. Điển hình, huyện Tiên Du, nhiệm kỳ 2015-2020 có 03

cán bộ trẻ được bầu vào BTV huyện ủy là đồng chí bí thư huyện ủy sinh năm 1983;

phó bí thư thường trực huyện ủy sinh năm 1975; phó bí thư, chủ tịch UBND huyện

sinh năm 1977. Thành phố Bắc Ninh có bí thư thành ủy sinh năm 1977. Huyện

Lương Tài có bí thư, chủ tịch HĐND huyện sinh năm 1975.

Theo số liệu tổng hợp của BTCTU Bắc Ninh (tháng 11-2020), cơ cấu giữa

các thế hệ CBLĐ, QL của HTCT cấp huyện có tỷ lệ như sau: dưới 40 tuổi là 219

cán bộ (chiếm 34,82%); từ 41 đến 50 tuổi là 242 cán bộ (chiếm 38,47%); từ 50 tuổi

trở lên là 168 cán bộ, chiếm 26,71%. Tuổi bình quân chung của cả đội ngũ là 42,29

tuổi [phụ lục 5].

Về cơ cấu giới tính: số liệu tổng hợp của ban tổ chức cấp ủy ở các huyện

(tháng 11-2020) cho thấy, tỷ lệ cán bộ nữ trong cơ cấu đội ngũ CBLĐ, QL của

HTCT cấp huyện của tỉnh Bắc Ninh đã tương đối đảm bảo theo quy định của Trung

ương (từ 15% đến 20%). Tổng số CBLĐ, QL là nữ giới có 106 cán bộ, chiếm

16,9%. Tỷ lệ này ở từng địa phương cũng tương đối đồng đều. Thành phố Bắc Ninh 94

có tỷ lệ cán bộ nữ lãnh đạo, quản lý cao nhất, đạt 25,8%; huyện Lương Tài đứng thứ

hai, đạt 20%. Huyện có tỷ lệ cán bộ nữ lãnh đạo, quản lý thấp nhất là huyện Gia Bình,

đạt 13,5% [phụ lục 5]. Một số cán bộ nữ đã được bố trí giữ các chức vụ chủ chốt cấp

huyện như chủ tịch UBND huyện Gia Bình; phó bí thư thường trực huyện ủy Từ Sơn;

phó chủ tịch UBND huyện Tiên Du; phó chủ tịch HĐND thành phố Bắc Ninh.

Về cơ cấu trình độ chuyên môn và lĩnh vực công tác

Cơ cấu trình độ chuyên môn của CBLĐ, QL của HTCT cấp huyện được

đánh giá thông qua hệ thống các văn bằng của đội ngũ cán bộ. Từ năm 2010 đến

tháng 11-2020, so với nhiệm kỳ trước, số cán bộ có trình độ trên đại học tăng từ 56

người (chiếm 9,31%), lên 227 người (chiếm 36.08%); số cán bộ có trình độ cao

đẳng, trung cấp giảm từ 18 người (chiếm 3%) xuống còn 0 người [phụ lục 2]. Cơ

cấu trình độ chuyên môn của đội ngũ CBLĐ, QL của HTCT cấp huyện còn được

đánh giá thông qua chuyên ngành mà họ được đào tạo. Tại các cơ quan, đơn vị của

08 huyện, theo số liệu thống kê của BTCTU và Sở Nội vụ tỉnh Bắc Ninh, cán bộ

được đào tạo các chuyên ngành luật, nội chính, kinh tế, tài chính, khoa học tự nhiên,

khoa học xã hội, xây dựng Đảng và chính quyền nhà nước chiếm đa số. Có thể nhận

thấy, cơ cấu chuyên ngành của CBLĐ, QL của HTCT cấp huyện ở tỉnh Bắc Ninh là

tương đối hợp lý. Cán bộ tham gia công tác tại các cơ quan tham mưu, giúp việc cấp ủy

cấp huyện được đào tạo chuyên ngành luật, nội chính, xây dựng Đảng và chính quyền

nhà nước, khoa học xã hội chiếm tỷ lệ tương đối cao. Cán bộ công tác tại các cơ quan

chuyên môn thuộc UBND cấp huyện được đào tạo chuyên ngành kinh tế, tài chính,

khoa học tự nhiên, luật là chủ yếu. Nhìn chung, trong những năm qua, đội ngũ CBLĐ,

QL của HTCT cấp huyện ở tỉnh Bắc Ninh đã luôn tích cực, chủ động tham gia học tập,

nghiên cứu để trang bị kiến thức phù hợp với công việc thực tế thể hiện qua số cán bộ

đã tham gia nghiên cứu, đào tạo 02 chuyên ngành là 51 người [phụ lục 6].

3.2.1.2. Về phẩm chất, năng lực của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý của

hệ thống chính trị cấp huyện ở tỉnh Bắc Ninh

Một là, đại đa số CBLĐ, QL của HTCT cấp huyện ở tỉnh Bắc Ninh đều có

phẩm chất chính trị vững vàng, phẩm chất đạo đức, lối sống trong sáng, lành mạnh.

Về phẩm chất chính trị:

Đa số CBLĐ, QL của HTCT cấp huyện ở tỉnh Bắc Ninh đều có phẩm chất

chính trị vững vàng, tin tưởng, trung thành với chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ

95

Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH, đường lối đổi mới của

Đảng; kiên quyết đấu tranh chống lại mọi luận điệu, quan niệm sai trái, lệch lạc, thù

địch; chấp hành nghiêm túc các nguyên tắc tổ chức của Đảng, giữ nghiêm kỷ luật

Đảng, tuyệt đối phục tùng sự lãnh đạo của Đảng, tuân theo sự lãnh đạo của ban

chấp hành, BTV tỉnh ủy, huyện ủy, nghị quyết của HĐND huyện; gương mẫu thực

hiện đường lối chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Các

CBLĐ, QL của HTCT cấp huyện tích cực học tập nâng cao trình độ chuyên môn, lý

luận chính trị, học tập chủ nghĩa Mác - Lênin, nghị quyết Hội nghị Trung ương 4

khóa XI, khóa XII. Đa số cán bộ đều thẳng thắn nhận khuyết điểm khi được đồng

nghiệp, lãnh đạo chỉ ra và tự giác xây dựng phương án khắc phục sửa chữa; gương

mẫu trong công tác, luôn có ý chí phấn đấu vươn lên, hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ

được giao; sẵn sàng nhận mọi nhiệm vụ công tác khi được tổ chức phân công,

không kén chọn chức danh, vị trí công tác, tham vọng quyền lực.

Thực tiễn xây dựng và phát triển của các địa phương trong tỉnh đã chứng

minh rằng, trong bất kỳ điều kiện, hoàn cảnh nào, đại đa số CBLĐ, QL của HTCT

cấp huyện ở tỉnh Bắc Ninh luôn đoàn kết, thống nhất, với ý thức quyết tâm cao

trong việc lãnh đạo, chỉ đạo, thực hiện thắng lợi các chủ trương, đường lối của

Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, chương trình, kế hoạch phát triển KT-

XH, bảo đảm quốc phòng, an ninh địa phương, góp phần quan trọng vào sự nghiệp

đẩy mạnh CNH, HĐH của tỉnh và đất nước.

Về phẩm chất đạo đức, lối sống:

Hầu hết CBLĐ, QL của HTCT cấp huyện ở tỉnh Bắc Ninh đều có ý thức

trách nhiệm cao, thường xuyên tự tu dưỡng, rèn luyện, học tập theo tư tưởng, đạo

đức, phong cách Hồ Chí Minh; thường xuyên tu dưỡng đạo đức cách mạng theo lời

dạy của Người: cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư; thực hiện các quy định về

những điều CB, CC, đảng viên không được làm; kiên quyết đấu tranh chống tham

nhũng, lãng phí, quan liêu, hách dịch, cửa quyền và các biểu hiện tiêu cực khác;

luôn có ý thức giữ gìn mối đoàn kết, thống nhất trong Đảng, trong tổ chức, cơ quan,

đơn vị; thường xuyên liên hệ mật thiết với nhân dân, sâu sát cơ sở để nắm chắc tình

hình địa phương, cơ quan, đơn vị; vận động gia đình, người thân thực hiện đúng

đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước.

96

Phần lớn cán bộ có lối sống giản dị, lành mạnh, hòa nhập với quần chúng,

đồng nghiệp, đồng chí, tận tuỵ phục vụ nhân dân; có uy tín với đồng nghiệp, nhân

viên; nhân ái, cảm thông, chia với đồng nghiệp và cấp dưới.

Tổng kết 20 năm thực hiện Chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH

đất nước (1997-2017), Tỉnh ủy Bắc Ninh đã đánh giá về đội ngũ CBLĐ, QL nói

chung, trong đó có đội ngũ CBLĐ, QL của HTCT cấp huyện:

Trước những mặt trái của nền kinh tế thị trường, cũng như sự chống phá

quyết liệt của các thế lực thù địch, cùng những khó khăn, thách thức mà tỉnh Bắc

Ninh phải đối mặt, tuyệt đại đa số cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp vẫn giữ vững

phẩm chất cách mạng, nêu cao tính tiền phong, gương mẫu của người cán bộ, đảng

viên, luôn đi đầu trong mọi hoạt động. Có ý thức trách nhiệm với công việc được

giao, gắn bó mật thiết với nhân dân, uy tín của đội ngũ cán bộ không ngừng nâng

cao, lòng tin của nhân dân với đảng bộ và chính quyền các cấp ngày càng được

củng cố, tăng cường [163, tr. 3].

Hai là, trình độ chuyên môn nghiệp vụ của CBLĐ, QL của HTCT cấp huyện ở

tỉnh Bắc Ninh ngày càng được nâng lên, cơ bản đảm bảo yêu cầu nhiệm vụ được giao.

Về trình độ chuyên môn:

Trong ban chấp hành đảng bộ cấp huyện đã có chuyển biến tích cực thể hiện

qua con số thống kê chất lượng cấp ủy cấp huyện hai nhiệm kỳ 2010-2015 và nhiệm

kỳ 2015 -2020. Tỷ lệ cán bộ có trình độ trên đại học chỉ chiếm 11, 84% ở nhiệm kỳ

2010-2015, đến đầu nhiệm kỳ 2015-2020 đã tăng lên chiếm 35,37%. Tỷ lệ cấp ủy

viên có trình độ cao đẳng, trung cấp giảm từ 5,92% xuống còn 3,05%, đến đầu

nhiệm kỳ 2020-2025 không còn cấp ủy viên có trình độ chuyên môn cao đẳng,

trung cấp, 100% cấp ủy viên đạt trình độ đại học và trên đại học [phụ lục 3, 4].

Theo số liệu thống kê của BTCTU Bắc Ninh (thời điểm tháng 11-2020),

trong tổng số 629 CBLĐ, QL của HTCT cấp huyện ở tỉnh Bắc Ninh, 100% cán bộ

đã tốt nghiệp trung học phổ thông (tính chung cả hệ lớp 10 trước đây và hệ lớp 12

hiện nay), trong đó có 85,85% (540 người) tốt nghiệp trung học phổ thông hệ tập

trung và 14,15% (89 người) tốt nghiệp trung học phổ thông hệ bổ túc văn hóa. Đã

có 05 tiến sĩ (chiếm 0,79%), 222 thạc sĩ (35,29%), 402 người tốt nghiệp đại học

(63,92%), không có cán bộ trình độ cao đẳng, trung cấp [phụ lục 1].

97

So với đầu nhiệm kỳ 2010-2015, tỷ lệ CBLĐ, QL của HTCT cấp huyện ở

tỉnh Bắc Ninh được đào tạo theo tiêu chuẩn quy định nâng lên rõ rệt. Cụ thể, cuối

năm 2010, tỷ lệ thạc sĩ chỉ chiếm 9,32%; đại học chiếm 87,69%; cao đẳng, trung

cấp chiếm 3%. Đến năm 2015, số liệu tương ứng là 28,38%; 69,98%; 1,63%. Đến

tháng 11/2020 số liệu tương ứng là 36,08%; 63,92% và 0%. Một số huyện có tỷ lệ

cán bộ được đào tạo trên đại học đạt mức cao là huyện Quế Võ, thành phố Bắc Ninh

số liệu tương ứng là 43,75% và 42,69%; huyện có tỷ lệ cán bộ đào tạo trên đại học

Trình độ chuyên môn cán bộ lãnh đạo, quản lý

600

500

400

300

200

100

0

Trên đại học

Đại học

Cao đẳng, trung cấp

Năm 2010

Năm 2015

tháng 11/2020

đạt mức thấp nhất là huyện Tiên Du đạt 20% [phụ lục 2].

Biểu đồ 3.3. Cơ cấu trình độ Chuyên môn cán bộ LĐ, QL của HTCT cấp

huyện ở tỉnh Bắc Ninh [ phụ lục 2]

Như vậy, số liệu thống kê cho thấy, đội ngũ CBLĐ, QL của HTCT cấp

huyện ngày càng được đào tạo cơ bản, không ngừng học hỏi, nghiên cứu để nâng

cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ được giao.

Về trình độ lý luận chính trị:

Trong tổng số 328 ủy viên ban chấp hành đảng bộ cấp huyện nhiệm kỳ 2015-

2020, tỷ lệ cán bộ có trình độ lý luận chính trị cao cấp, cử nhân chiếm 66,46%, tăng

5,93% so với nhiệm kỳ 2010-2015; cán bộ có trình độ trung cấp chiếm 33,54%. Các

đảng bộ thị xã Từ Sơn và huyện Yên Phong có tỷ lệ cấp ủy viên được đào tạo cao

cấp, cử nhân chính trị cao nhất, chiếm 87,80%; trong khi đó, huyện Tiên Du có tỷ lệ

thấp nhất, đạt 53,66% [phụ lục 4].

Theo số liệu thống kê của BTCTU Bắc Ninh, trong tổng số 629 CBLĐ, QL

của HTCT cấp huyện ở tỉnh Bắc Ninh, tính đến tháng 11-2020, đã có 362 người

(chiếm 57,55%) có trình độ cử nhân và cao cấp lý luận chính trị; 267 người (chiếm

42,45%) có trình độ trung cấp lý luận chính trị. Tỷ lệ này tương đối đồng đều giữa

98

các huyện. Tỷ lệ cán bộ được đào tạo cao cấp, cử nhân lý luận chính trị cao nhất là

Trình độ lý luận chính trị cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp huyện

Cao cấp, cử nhân Trung cấp

huyện Gia Bình (63,51%), thấp nhất là huyện Lương Tài (46,67%) [phụ lục 1].

Biểu đồ 3.4. Cơ cấu trình độ Lý luận chính trị của cán bộ LĐ, QL của HTCT

cấp huyện ở tỉnh Bắc Ninh [phụ lục 1]

Về kiến thức khác (ngoại ngữ, tin học, và quản lý nhà nước).

100% CBLĐ, QL của HTCT cấp huyện ở tỉnh Bắc Ninh đều tham gia ít nhất

một chương trình đào tạo, bồi dưỡng các kiến thức khác. 97,93% CBLĐ, QL có

bằng hoặc chứng chỉ ngoại ngữ trình độ B trở lên và 100% cán bộ có bằng hoặc

chứng chỉ tin học văn phòng; 97,14% có chứng chỉ quản lý nhà nước chương trình

chuyên viên trở lên[phụ lục1].

Các số liệu trên cho thấy, đội ngũ CBLĐ, QL của HTCT cấp huyện ở tỉnh

Bắc Ninh hiện nay được đào tạo khá toàn diện, hệ thống. Trình độ văn hóa, trình độ

chuyên môn nghiệp vụ, trình độ quản lý nhà nước, trình độ lý luận chính trị, trình

độ ngoại ngữ, tin học… ngày càng được nâng lên, thể hiện sự phát triển hợp quy

luật đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của tình hình mới, đồng thời thể hiện sự quan tâm

của cấp uỷ đảng các cấp của tỉnh Bắc Ninh và sự phối hợp của các tổ chức trong

công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, sự phấn đấu vươn lên, không ngừng học tập của

đội ngũ cán bộ.

Ba là, khả năng vận dụng kiến thức, nắm bắt thực tiễn để chỉ đạo, tổ chức

thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ được giao.

Thành tựu nổi bật về phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh

của tỉnh Bắc Ninh và của các huyện, thị, thành phố của tỉnh hơn 20 năm qua (1997-

2020) đã chứng minh năng lực lãnh đạo, quản lý, điều hành và kết quả thực hiện

chức trách, nhiệm vụ được giao của đội ngũ CBLĐ, QL của HTCT cấp huyện ở tỉnh

Bắc Ninh đã có những chuyển biến ngày càng tích cực. Đại đa số CBLĐ, QL của 99

HTCT cấp huyện ở tỉnh Bắc Ninh đều thể hiện khả năng tiếp thu quan điểm, chủ

trương, đường lối, nghị quyết của Đảng, pháp luật của Nhà nước và nghị quyết của

Tỉnh ủy, HĐND tỉnh để vận dụng, cụ thể hóa vào thực tiễn địa phương một cách

sáng tạo, phù hợp; có khả năng nắm bắt, tiếp cận thông tin, xác định những vấn đề

then chốt trong nhiệm vụ chính trị của từng địa phương thông qua việc xây dựng

nghị quyết, chương trình, đề án, kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội phù hợp với từng

giai đoạn cụ thể trong quá trình đẩy mạnh sự nghiệp CNH, HĐH địa phương. Qua

khảo sát bước đầu có thể khẳng định, năng lực lãnh đạo, quản lý của đội ngũ cán bộ

này được thể hiện khá tốt. Nhiều vấn đề nảy sinh trong thực tiễn tại các địa phương

trong tỉnh đã được các cán bộ nắm bắt kịp thời, đề xuất phương án giải quyết hiệu

quả như việc dồn điền, đổi thửa để phát triển nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng

hóa; xây dựng nông thôn mới đạt kết quả cao, xây dựng cụm làng nghề truyền

thống; đặc biệt giải quyết tốt nhiều tình huống như công tác giải phóng mặt bằng,

hoạt động tôn giáo, khiếu kiện đông người, vượt cấp, cải cách thủ tục hành chính…

Báo cáo tổng kết 20 năm thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 3 khóa VIII,

Tỉnh ủy Bắc Ninh đánh giá: “Đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý từ tỉnh đến cơ sở

nhìn chung, có năng lực thực tiễn, nắm bắt tình hình và có trách nhiệm với công việc

đảm nhiệm; hiểu và nắm vững đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách và pháp

luật của Nhà nước, vận dụng đạt hiệu quả trong công việc” [23, tr. 5]. Đánh giá trên

hoàn toàn thống nhất với đánh giá chỉ số năng lực cạnh tranh cấp huyện ở tỉnh Bắc

Ninh năm 2020 do Viện nghiên cứu phát triển KT-XH tỉnh Bắc Ninh thực hiện. Kết

quả điều tra của cơ quan này cho thấy, về tính năng động trong hoạt động, có ít nhất

77,27% (huyện Lương Tài) và cao nhất 86,36% (huyện Tiên Du) số doanh nghiệp

được hỏi cho biết các lãnh đạo địa phương năng động, sáng tạo trong việc giải quyết

các vấn đề mới phát sinh và ít nhất 78,79% (huyện Lương Tài), cao nhất 89,19%

(thành phố Bắc Ninh) số doanh nghiệp được hỏi cho biết lãnh đạo các địa phương thực

hiện khá, tốt các chủ trương của lãnh đạo tỉnh. Các chỉ số trong báo cáo là một minh

chứng cho khả năng vận dụng kiến thức, nắm bắt thực tiễn để chỉ đạo, tổ chức thực

hiện có hiệu quả nhiệm vụ được giao của đội ngũ CBLĐ, QL của HTCT cấp huyện ở

tỉnh Bắc Ninh [phụ lục 7].

Bốn là, phần lớn CBLĐ, QL của HTCT cấp huyện ở Bắc Ninh có phong

cách làm việc khoa học, dân chủ, gần gũi và gắn bó với nhân dân.

100

Tuyệt đại bộ phận cán bộ đều nêu cao tính đảng, làm việc nguyên tắc, chấp

hành nghiêm chế độ công tác, đề cao tự phê bình và phê bình. Trong làm việc, hầu

hết cán bộ đã thể hiện phong cách khoa học, chủ động tích cực sáng tạo, linh hoạt

trong thực hiện chức trách nhiệm vụ được giao. Nhiều đồng chí có tư tư duy đột

phá, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm trên cơ sở am hiểu và tôn trọng thực

tiễn khách quan. Đội ngũ cán bộ ngày càng sâu sát cơ sở, lắng nghe ý kiến, nguyện

vọng của nhân dân, giải quyết dứt điểm nhiều công việc liên quan trực tiếp đến lợi

ích chính đáng của nhân dân. Các cấp ủy viên thực hiện nghiêm túc chế độ hằng

tháng dự sinh hoạt chi bộ cơ sở tại những địa bàn được phân công phụ trách để kịp

thời giải thích những thắc mắc của nhân dân liên quan đến đường lối, nghị quyết

của Trung ương, Tỉnh ủy, huyện ủy, đồng thời nắm bắt được tâm tư, nguyện vọng,

những bức xúc của nhân dân để kịp thời báo cáo tập thể lãnh đạo, đề xuất phương

án giải quyết, ổn định tình hình, tránh xảy ra tình trạng đơn thư kéo dài, khiếu kiện

đông người, vượt cấp, tạo dư luận và hiệu ứng xấu trong nhân dân. Qua báo cáo kết

quả bầu cử BTV, các chức danh lãnh đạo chủ chốt bí thư, phó bí thư cấp ủy cấp

huyện tại đại hội cấp huyện nhiệm kỳ 2015-2020, nhiệm kỳ 2020-2025 nhiều cán bộ

có uy tín cao trong cán bộ, đảng viên và nhân dân. Các cán bộ được giới thiệu để

bầu giữ chức danh bí thư, phó bí thư cấp ủy cấp huyện đạt tỷ lệ phiếu cao, một số

cán bộ đạt tỷ lệ 100% như các bí thư huyện ủy Lương Tài, Từ Sơn, Yên Phong; các

phó bí thư huyện ủy Gia Bình, thành ủy thành phố Bắc Ninh.

Theo số liệu điều tra về chỉ số năng lực cạnh tranh cấp huyện ở tỉnh Bắc

Ninh năm 2020, tỷ lệ cán bộ được đánh giá “cán bộ thân thiện, nhiệt tình” và “cán

bộ hướng dẫn rõ ràng, đầy đủ” đạt tỷ lệ khá cao, trung bình đạt trên 80%. Đặc biệt,

nội dung “lãnh đạo đơn vị quan tâm, lắng nghe và ứng xử thân thiện” được các

doanh nghiệp và nhân dân đánh giá cao và tương đối đồng đều ở cả 08 đơn vị, đạt

trên 70% [phụ lục 17].

3.2.1.3. Về kết quả hoàn thành chức trách, nhiệm vụ được giao và hoàn

thành nhiệm vụ chính trị của địa phương, cơ quan, đơn vị.

Một là, đa số CBLĐ, QL của HTCT cấp huyện ở tỉnh Bắc Ninh đã luôn phấn

đấu hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, góp phần quan trọng vào sự nghiệp xây

dựng, phát triển địa phương và của tỉnh.

Theo số liệu tổng hợp của BTCTU Bắc Ninh và các ban tổ chức cấp ủy cấp

huyện, kết quả đánh giá CBLĐ, QL từ năm 2010 đến năm 2020 cho thấy: tỷ lệ cán

bộ được đánh giá hoàn thành tốt và hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chiếm tỷ lệ lớn và

năm sau cao hơn năm trước. Cụ thể: năm 2010, các BTV cấp ủy cấp huyện đã tiến 101

hành đánh giá, phân loại CBLĐ, QL; kết quả, tổng số cán bộ được đánh giá là 601 (đạt

100%), trong đó tỷ lệ cán bộ hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ là 297 (đạt 49,43%); hoàn

thành tốt nhiệm vụ là 275 (đạt 45,75%); hoàn thành nhiệm vụ là 29 (đạt 4,82%); không

có cán bộ không hoàn thành nhiệm vụ. Năm 2015, số liệu tương ứng là 53,68%;

43,88%; 2,12% và tỷ lệ cán bộ không hoàn thành nhiệm vụ chiếm 0,32%.

Năm 2020, các BTV cấp ủy cấp huyện đã tiến hành đánh giá, phân loại tổng

số 629 CBLĐ, QL (đạt 100%). Kết quả: tỷ lệ cán bộ hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ

là 158(đạt 25,12%), giảm 28.56% so với năm 2015, giảm 24.31% so năm 2010. Lý

do tỷ lệ cán bộ hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ năm 2020 giảm so năm 2015 và 2010

là thực hiện theo quy định của Trung ương về đánh giá, xếp loại cán bộ lãnh đạo

quản lý hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ không được quá 20% so với tổng số cán bộ

hoàn thành tốt nhiệm vụ theo từng khối; hoàn thành tốt nhiệm vụ 455 (đạt 72.34%);

hoàn thành nhiệm vụ 15 (đạt 2.38%) và không hoàn thành nhiệm vụ 01 (chiếm

0,16%), giảm 0,16% so với năm 2015. Tổng số cán bộ không hoàn thành nhiệm vụ

từ năm 2010 đến năm 2020 có 17 trường hợp, lý do chủ yếu là về sức khỏe không

0 4.02

0.16 2.38

đảm bảo, phải nghỉ dài ngày để chữa bệnh, có 04 trường hợp bị kỷ luật [phụ lục 9].

Đ Á N H G I Á , X Ế P L O Ạ I C Á N B Ộ L Ã N H Đ Ạ O , Q U Ả N L Ý C Ấ P H U Y Ệ N 0.32 2.12

43.88

Hoàn thành xuất sắc nhiệm vu

45.75

72.34

Hoàn thành tốt NV

Hoàn thành tốt NV2

53.68

49.43

25.12

Không HTNV

N Ă M 2 0 1 0

N Ă M 2 0 1 5

N Ă M 2 0 2 0

Biểu đồ 3.5. Kết quả xếp loại cán bộ LĐ, QL của HTCT cấp huyện

ở tỉnh Bắc Ninh [phụ lục 9]

Kết quả đánh giá chất lượng đảng viên: theo số liệu tổng hợp của BTCTU

Bắc Ninh, từ năm 2010 đến năm 2020, đặc biệt là từ năm 2015, tỷ lệ đảng viên là

CBLĐ, QL của HTCT cấp huyện hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ và hoàn thành

102

nhiệm vụ ngày càng tăng. Cụ thể: năm 2015 có 16,06% CBLĐ, QL của HTCT cấp

huyện ở tỉnh Bắc Ninh là đảng viên đủ tư cách, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ;

72,73% là đảng viên đủ tư cách hoàn thành tốt nhiệm vụ; 12,21% là đảng viên đủ tư

cách hoàn thành nhiệm vụ; không có đảng viên không hoàn thành nhiệm vụ. Năm

2020, tỷ lệ đảng viên là CBLĐ, QL của HTCT cấp huyện hoàn thành xuất sắc

nhiệm vụ và hoàn thành tốt nhiệm vụ đều tăng lên, đạt 91,52 (trong đó hoàn thành

xuất sắc nhiệm vụ là 22,56%); 8,48% được đánh giá hoàn thành nhiệm vụ; không

có đảng viên không hoàn thành nhiệm vụ [phụ lục10].

Hai là, trên cơ sở từng cán bộ thực hiện tốt chức trách, nhiệm vụ được giao

trên từng cương vị khác nhau, đội ngũ CBLĐ, QL của HTCT cấp huyện đã góp

phần quan trọng quyết định tới chất lượng xây dựng cấp ủy, chính quyền, cơ quan,

đơn vị và địa phương của toàn tỉnh.

Theo số liệu tổng hợp của BTCTU Bắc Ninh, số cấp ủy và tổ chức cơ sở

đảng được xếp loại trong sạch, vững mạnh và trong sạch, vững mạnh tiêu biểu được

tăng dần theo các năm. Năm 2010, trong tổng số 464/465 tổ chức cơ sở đảng trực

thuộc đảng bộ cấp huyện được xếp loại, số tổ chức cơ sở đảng được xếp loại trong

sạch, vững mạnh tiêu biểu là 87 (chiếm 18,75%); trong sạch, vững mạnh là 310

(chiếm 66,81%); hoàn thành tốt nhiệm vụ là 10,34%; hoàn thành nhiệm vụ là

4,09%. Năm 2015, tổng số tổ chức cơ sở đảng được xếp loại là 459/461, trong đó

xếp loại trong sạch, vững mạnh tiêu biểu là 102 (chiếm 22,22%); trong sạch, vững

mạnh 262 (chiếm 57,08%); hoàn thành tốt nhiệm vụ chiếm 18,30%; hoàn thành

nhiệm vụ chiếm 2,40%. Năm 2020, tổng số tổ chức cơ sở đảng trực thuộc đảng bộ

cấp huyện được đánh giá là 459/462, trong đó đạt trong sạch, vững mạnh tiêu biểu

là 93 (chiếm 20,26%); trong sạch, vững mạnh là 279 (chiếm 60,78%); hoàn thành

tốt nhiệm vụ là 70 (chiếm 15,25%); hoàn thành nhiệm vụ là 19 (chiếm 4,14%);

không có tổ chức cơ sở đảng yếu kém [phụ lục 12, 13].

Về chất lượng xây dựng đảng bộ cấp huyện, theo số liệu tổng hợp của

BTCTU, năm 2010 có 07 đảng bộ cấp huyện được xếp loại trong sạch, vững mạnh

tiêu biểu, 01 đảng bộ (huyện Lương Tài) xếp loại trong sạch, vững mạnh; năm

2020, cả 08 đảng bộ huyện trực thuộc đảng bộ tỉnh Bắc Ninh được xếp loại hoàn

thành tốt nhiệm vụ.

Chất lượng các tổ chức đảng được nâng lên đã góp phần quyết định vào sự

chuyển biến tích cực các lĩnh vực của đời sống xã hội ở các huyện, thị xã, thành phố

103

trong toàn tỉnh. Kinh tế phát triển mạnh, từng bước nâng cao chất lượng, hiệu quả;

cơ cấu kinh tế chuyển dịch tích cực theo hướng CNH, HĐH, xây dựng Bắc Ninh cơ

bản trở thành tỉnh công nghiệp theo hướng hiện đại. Tốc độ tăng trưởng GRDP bình

quân 15,7%/năm, đứng đầu các tỉnh khu vực đồng bằng sông Hồng; GRDP bình

quân đầu người là 106,2 triệu đồng đứng thứ hai cả nước chỉ sau tỉnh Bà Rịa -Vũng

Tàu. Xây dựng và quản lý đô thị có bước tiến bộ rõ nét. Kết cấu hạ tầng đô thị tiếp

tục được đầu tư mở rộng; tỷ lệ đô thị hóa tăng từ 9% năm 1997 lên 28,7% năm

2020. Bộ mặt đô thị được định hình khá rõ nét theo hướng hiện đại, kết hợp với

truyền thống, tạo tiền đề đưa tỉnh Bắc Ninh trở thành thành phố trực thuộc Trung

ương vào năm 2022. Hạ tầng nông nghiệp và nông thôn ngày càng hoàn thiện. Văn

hóa - xã hội có nhiều tiến bộ; giáo dục, đào tạo có sự chuyển biến tích cực, luôn

nằm trong nhóm 10 tỉnh dẫn đầu cả nước về phong trào giáo dục và kết quả thi đại

học, cao đẳng; các lĩnh vực văn hóa, văn nghệ, thông tin, thể dục, thể thao, nghiên

cứu và ứng dụng khoa học - công nghệ, công tác y tế, chăm sóc sức khỏe nhân dân

có nhiều tiến bộ; công tác giải quyết việc làm và an sinh xã hội, giảm nghèo được

chăm lo và đạt kết quả. Bắc Ninh là một trong bẩy tỉnh có tỷ lệ hộ nghèo thấp nhất

cả nước. Quốc phòng, quân sự địa phương được củng cố, tăng cường; an ninh,

chính trị, trật tự xã hội ổn định, tạo điều kiện phát triển KT-XH.

Công tác xây dựng Đảng, xây dựng HTCT ở các huyện, thị xã, thành phố

trong tỉnh có nhiều tiến bộ. Công tác tuyên truyền, quán triệt và tổ chức thực hiện

nghị quyết, chỉ thị nghiêm túc, kịp thời và đạt được một số kết quả quan trọng.

Năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của cấp uỷ, tổ chức Đảng, chất lượng đội ngũ cán

bộ, đảng viên trong đảng bộ được nâng lên; phương thức lãnh đạo của Đảng được

đổi mới theo hướng gần dân, sát dân; hoạt động của MTTQ và các tổ chức CT-XH

đổi mới về nội dung và phương thức, hướng mạnh về cơ sở; Công tác phòng chống

tham nhũng, lãng phí có chuyển biến tích cực. Thực hiện Nghị quyết Hội nghị

Trung ương 4 khóa XI, khóa XII về xây dựng, chỉnh đốn Đảng và Chỉ thị số 03-

CT/TW, số 05-CT/TW của Bộ Chính trị về học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức,

phong cách Hồ Chí Minh đạt kết quả. Kết quả đạt được trong những năm qua, “đã

làm thay đổi rất lớn diện mạo tỉnh, mang lại cho Đảng bộ và nhân dân trong tỉnh

nhiều tiềm lực và sức mạnh mới, tạo tiền đề thuận lợi cho các bước phát triển tiếp

theo và đóng góp tích cực vào sự phát triển chung của cả nước” [165, tr. 25]. Những

104

thành tựu nổi bật và chuyển biến tích cực của sự nghiệp xây dựng và phát triển của

từng địa phương và toàn tỉnh, trong những năm qua đã ghi nhận sự cố gắng phấn

đấu, rèn luyện, tinh thần năng động, sáng tạo, ý thức trách nhiệm của đội ngũ

CBLĐ, QL các cấp, trong đó có đội ngũ CBLĐ, QL của HTCT cấp huyện.

3.2.2. Những hạn chế chủ yếu

3.2.2.1. Số lượng cán bộ, quản lý cấp phó còn tương đối lớn, được bố trí

chưa hợp lý với yêu cầu tổ chức, biên chế của cơ quan, đơn vị, địa phương

Tại một số cơ quan, đơn vị còn có biểu hiện tăng số lượng CBLĐ, QL cấp

phó một cách đơn thuần, hình thức mà không căn cứ vào nhu cầu, mối quan hệ công

tác của tổ chức. Quy định số 220-QĐ/TW ngày 27-12-2013 của Ban Bí thư về chức

năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy cơ quan chuyên trách tham mưu, giúp việc huyện

uỷ, quận ủy, thị ủy, thành ủy trực thuộc tỉnh ủy, thành ủy xác định, mỗi cơ quan

được bổ nhiệm 01 cấp trưởng và không quá 02 cấp phó (riêng văn phòng quận ủy,

thị ủy, thành ủy không quá 03 cấp phó). Tính đến thời điểm tháng 11-2020, nhìn

chung các cơ quan khối đảng, đoàn thể của 08 huyện đều vận dụng bổ nhiệm tối đa

cấp phó theo quy định. Như vậy, số lượng CBLĐ, QL của từng cơ quan, đơn vị

chiếm khoảng 40-50% tổng số biên chế giao hằng năm.

Căn cứ Quy định số 212-QĐ/TW ngày 30/12/2019 của Bộ Chính trị quy

định tổng số lãnh đạo cấp phó chuyên trách của cơ quan Ủy ban MTTQ và các tổ

chức chính trị - xã hội cấp huyện không quá 06 người. Tuy nhiên, tính đến thời

điểm tháng 11/2020 các huyện, thị xã đều bố trí cơ cấu mỗi cơ quan 02 cấp phó. Do

vậy, hiện tại số lượng cấp phó đang gấp đôi theo quy định.

Tuy nhiên, một số cơ quan, đơn vị lại xảy ra tình trạng thiếu cán bộ trong

thời gian dài mà không kiện toàn được. Tình trạng giao phụ trách các chi bộ, giao

quyền cấp trưởng cơ quan xảy ra ở một số ngành, địa phương, ảnh hưởng đến chất

lượng công việc của tổ chức và hệ thống. Như vậy, mặc dù số lượng CBLĐ, QL

tương đối đông, nhưng có chỗ thừa, có chỗ lại thiếu, nên ảnh hưởng rất lớn đến chất

lượng công việc.

3.2.2.2. Cơ cấu độ tuổi và giới tính của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý của

hệ thống chính trị cấp huyện còn một số hạn chế

Theo số liệu thống kê của BTCTU Bắc Ninh (tháng 11-2020), tỷ lệ cơ cấu

cán bộ nữ giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý trong các cơ quan, ban, ngành, đoàn thể

105

của HTCT cấp huyện là tương đối hợp lý, đảm bảo theo quy định của Trung ương

(chiếm 16,85%). Tuy nhiên, tỷ lệ cán bộ nữ trong ban chấp hành và BTV cấp ủy

trong các nhiệm kỳ 2010-2015 và 2015-2020 ở nhiều cấp ủy cấp huyện chưa đảm

bảo theo quy định. Cụ thể, trong tổng số 328 cấp ủy viên cấp ủy cấp huyện nhiệm

kỳ 2015-2020 chỉ có 42 cán bộ nữ, chiếm 12,8%, nhiệm kỳ 2010-2015 tỷ lệ cán bộ

nữ trong ban chấp hành chỉ đạt 9,87%, tương ứng là 30 người. Trong 08 đơn vị cấp

huyện ở tỉnh Bắc Ninh thì có tới 07 huyện không đạt tỷ lệ nữ trong ban chấp hành

theo quy định của Trung ương. Huyện ủy Gia Bình có tỷ lệ nữ thấp nhất, chỉ đạt

4,88%. Chỉ có thành ủy thành phố Bắc Ninh có cơ cấu cấp ủy viên nữ đạt yêu cầu

theo quy định, đạt 16,28% [phụ lục 3, 4].

Đồng thời, trong cơ cấu nữ cũng có sự mất cân đối rõ nét. Đó là tỷ lệ cán bộ

nữ giữ chức vụ cán bộ chủ chốt địa phương và trưởng ngành còn rất thấp. Một số cán

bộ nữ là cấp trưởng, nhưng chủ yếu được bố trí, phân công công tác tại một số cơ quan

khối đoàn thể như Hội Liên hiệp phụ nữ, Đoàn thanh niên..., còn lại được bố trí là phó

ngành. Tỷ lệ cán bộ nữ tham gia thường trực UBND cấp huyện còn thấp.

Về cơ cấu độ tuổi, trong các nhiệm kỳ đại hội đảng bộ cấp huyện, các cấp ủy

đều nhận thức được tầm quan trọng của chủ trương trẻ hóa đội ngũ CBLĐ, QL các

cấp. Tuy nhiên, kết quả thực hiện còn hạn chế. Cụ thể, tỷ lệ cán bộ là cấp ủy viên

dưới 35 tuổi chỉ đạt 4,61% (nhiệm kỳ 2010-2015) và 5,79% (nhiệm kỳ 2015-2020),

không đảm bảo theo quy định của Trung ương là không dưới 10%. Có huyện không

có cán bộ tuổi trẻ trong cơ cấu cấp ủy viên, cụ thể là huyện ủy Từ Sơn nhiệm kỳ

2015-2020 [phụ lục 4].

3.2.2.3. Phẩm chất, năng lực của đội ngũ cán bộ có mặt chưa đáp ứng yêu

cầu, chưa ổn định, vững chắc

Về phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống: Mặc dù đạt được một số kết quả

bước đầu trong thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XI, khóa XII,

song trong đội ngũ CBLĐ, QL của HTCT cấp huyện ở tỉnh Bắc Ninh tuy chưa có

cán bộ suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống bị thi hành kỷ luật, nhưng

còn tình trạng cán bộ thiếu tu dưỡng rèn luyện, thiếu kiên quyết trong đấu tranh tự

phê bình và phê bình. Một số cán bộ khi được bổ nhiệm giữ chức vụ cao hơn chỉ lo

giữ trọn các mối quan hệ, dễ người, dễ ta, để ổn định vị trí, không hết lòng vì công

việc. Một số cán bộ chưa thể hiện tính tiền phong gương mẫu thực hiện các đường

106

lối, chủ trương của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước, không thể hiện rõ

quyết tâm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng. Trong quá trình thực hiện nhiệm

vụ, còn cán bộ thiếu sâu sát cơ sở, ít gặp gỡ trao đổi trực tiếp với cán bộ, nhân viên

dưới quyền và lắng nghe ý kiến, tâm tư, nguyện vọng của người dân; làm việc quan

liêu, chủ yếu khép kín nghe tình hình đời sống của nhân dân địa phương qua báo cáo

của cấp dưới; không có kế hoạch kiểm tra, đôn đốc hoặc kiểm tra chưa thường xuyên

dẫn đến nắm tình hình không chính xác, khách quan; chưa chú trọng đúng mức phương

pháp giáo dục, tuyên truyền, nêu gương mà nặng về hành chính, mệnh lệnh.

Theo số liệu khảo sát của Viện nghiên cứu phát triển KT-XH tỉnh Bắc Ninh

năm 2020, đánh giá chỉ số năng lực cạnh tranh cấp huyện, trong các nội dung đánh

giá về chỉ số thành phần chi phí không chính thức, kết quả cho thấy: các doanh

nghiệp đánh giá “hiện tượng nhũng nhiễu khi giải quyết thủ tục hành chính là phổ

biến” còn ở mức tương đối cao, cụ thể là huyện Lương Tài chiếm tới 46,15%, thấp

nhất là thành phố Bắc Ninh, vẫn còn chiếm 36,11%. Nội dung “công việc không đạt

hiệu quả nếu không chi trả chi phí không chính thức” được các doanh nghiệp lựa

chọn, ở cả 8 đơn vị cấp huyện đều chiếm tỷ lệ trên 63% [phụ lục 15].

Về năng lực, trình độ: một số cán bộ ngại học tập, tu dưỡng rèn luyện nâng

cao trình độ chuyên môn, lý luận chính trị. Năng lực thực tiễn không tương xứng

với bằng cấp, chứng chỉ; thiếu kiến thức khoa học, khả năng tư duy nhạy bén. Cách

nghĩ và phương pháp làm việc của không ít cán bộ chậm được đổi mới, chủ yếu làm

theo tư duy kinh nghiệm, còn có biểu hiện tư tưởng bảo thủ hoặc chủ quan, độc

đoán, gia trưởng. Một số ít CBLĐ, QL của HTCT cấp huyện hạn chế về trình độ,

năng lực chỉ đạo, quản lý điều hành công tác chuyên môn do mình phụ trách, đảm

nhiệm; có tâm lý trông chờ, ỷ lại vào cấp trên; lúng túng trong xử lý tình huống mới

phát sinh, khả năng dẫn dắt, định hướng hoạt động của tổ chức do mình đứng đầu

còn hạn chế.

Cán bộ được đào tạo đại học chính quy chiếm tỷ lệ thấp, đa phần học đại học

tại chức, từ xa, sau học tiếp lên cao học. Trình độ đào tạo giữa các khối không đồng

đều. Cán bộ khối đảng, đoàn thể có trình độ chuyên môn thấp hơn cán bộ khối

chính quyền. Giữa chuyên ngành đào tạo và lĩnh vực công tác thực tế của cán bộ

chưa thực sự phù hợp, thường xảy ra ở các CBLĐ, QL khối đảng, đoàn thể, do

trước đây khi tuyển dụng công chức không chú ý đến chuyên ngành đào tạo. Khi có

107

yêu cầu “tiêu chuẩn hóa” thì một số cán bộ đã theo học lớp đào tạo một số chuyên

ngành, nhưng không liên quan trực tiếp đến lĩnh vực công tác mà chỉ nhằm có bằng

cấp để hợp thức hóa hồ sơ. Số cán bộ có khả năng giao tiếp, làm việc trực tiếp với

người nước ngoài hoặc tham gia hội nghị, hội thảo quốc tế không qua phiên dịch

chiếm tỷ lệ rất ít. Một số cán bộ chưa thực sự thành thạo sử dụng công nghệ thông

tin trong công việc hằng ngày.

Trong báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh khóa XIX tại Đại

hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XX, nhiệm kỳ 2020-2025 đã đánh giá: “So với

yêu cầu của sự nghiệp đổi mới, đội ngũ cán bộ, công chức còn hạn chế về năng lực,

bộc lộ nhiều bất cập. Số cán bộ tinh thông nghiệp vụ, tâm huyết với nghề chưa

nhiều. Một bộ phận cán bộ lãnh đạo, quản lý có năng lực điều hành hạn chế, chưa

thể hiện rõ vị trí, vai trò của người đứng đầu” [165, tr. 40].

3.2.2.4. Kết quả thực hiện chức trách, nhiệm vụ của một số cán bộ lãnh đạo,

quản lý của hệ thống chính trị cấp huyện còn hạn chế, ảnh hưởng đến chất lượng

hoàn thành nhiệm vụ chung của cấp ủy, cơ quan, đơn vị, địa phương và toàn đảng

bộ huyện

Theo số liệu tổng hợp của BTCTU và ban tổ chức cấp ủy của 08 huyện ở

tỉnh Bắc Ninh, mặc dù hằng năm tỷ lệ CBLĐ, QL hoàn thành tốt nhiệm vụ ngày

càng tăng, song sự phát triển này chưa ổn định, chưa bền vững. Một bộ phận

CBLĐ, QL chỉ đạt ở mức hoàn thành nhiệm vụ. Năm 2010 có 29 cán bộ (chiếm

4,02%), năm 2015 có 13 cán bộ (chiếm 2,12%), năm 2020 có 15 cán bộ (chiếm

2,38%). Bên cạnh đó, vẫn còn có cán bộ không hoàn thành nhiệm vụ, từ năm 2010

đến năm 2020 có 08 cán bộ [phụ lục 9].

Những hạn chế, yếu kém trong việc thực hiện chức trách, nhiệm vụ được

giao của một bộ phận CBLĐ, QL của HTCT cấp huyện không chỉ ảnh hưởng tiêu

cực đến kết quả thực hiện chức trách, nhiệm vụ của chính bản thân cán bộ, mà còn

ảnh hưởng xấu trực tiếp đến hoạt động, kết quả hoàn thành nhiệm vụ của tổ chức,

cơ quan, đơn vị. Biểu hiện cụ thể: năm 2010, số tổ chức cơ sở đảng được xếp loại

hoàn thành nhiệm vụ là 4,09%; năm 2012, là 6,72% và tổ chức cơ sở đảng yếu kém

là 0,22% (01 tổ chức cơ sở đảng). Năm 2015 là năm đầu tiên thực hiện Nghị quyết

đại hội đảng bộ các cấp nhiệm kỳ 2015-2020, số tổ chức cơ sở đảng hoàn thành

nhiệm vụ là 2,40%. Năm 2016 tăng lên là 3,25%; năm 2020 là 3,70% [phụ lục 14].

108

Những hạn chế, yếu kém về trình độ, năng lực, phẩm chất của đội ngũ

CBLĐ, QL của HTCT cấp huyện ảnh hưởng đến kết quả thực hiện nhiệm vụ kinh

tế, chính trị, quốc phòng, an ninh của toàn tỉnh. Kinh tế phát triển chưa tương xứng

với tiềm năng, thế mạnh và vị trí của địa phương. Tăng trưởng kinh tế có yếu tố

chưa bền vững, chủ yếu dựa vào khu vực có vốn đầu tư nước ngoài. Khu vực kinh

tế trong nước phát triển chưa tương xứng, tính cạnh tranh chưa cao, công nghệ lạc

hậu. Thu nhập bình quân đầu người của tỉnh Bắc Ninh so với cả nước là tương đối

cao, gấp khoảng 2,3 lần, song để đáp ứng nhu cầu nâng cao chất lượng cuộc sống

của người dân chưa thực sự đảm bảo. Thu nhập bình quân đầu người chính là một

trong những thước đo sự thịnh vượng của một huyện, một tỉnh và của một quốc gia.

Năm 2019 thu nhập bình quân đầu người của huyện Lương Tài, đạt 39,5 triệu

đồng/người/năm; huyện Gia Bình đạt 41 triệu đồng/người/năm; huyện Tiên Du đạt

42,3 triệu đồng/người/năm… Tình trạng ô nhiễm môi trường chậm được khắc phục.

Công tác đào tạo nghề, chất lượng nguồn nhân lực chưa đáp ứng yêu cầu phát triển.

Giải quyết khiếu nại tố cáo; phòng, chống tham nhũng có lúc chưa kịp thời, ở một

số nơi và trong một số thời điểm còn để xảy ra tình trạng khiếu kiện đông người,

vượt cấp, một số vấn đề xã hội bức xúc chưa được quan tâm giải quyết dứt điểm.

Công tác phát triển hạ tầng đô thị và nông thôn chưa đồng bộ. Tốc độ đô thị hóa còn

chậm, gây khó khăn cho việc xây dựng tỉnh Bắc Ninh trở thành thành phố trực

thuộc Trung ương vào năm 2022. Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng kết quả còn

hạn chế, chưa đáp ứng tốt yêu cầu; có lúc, có nơi tổ chức đảng và đảng viên đấu

tranh tự phê bình và phê bình còn hạn chế.

3.3. Công tác phát triển đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý của hệ thống

chính trị cấp huyện ở tỉnh Bắc Ninh - thực trạng và nguyên nhân

3.3.1. Thành tựu

3.3.1.1. Các cấp ủy, cơ quan chính quyền đã nghiêm túc quán triệt các nghị

quyết, chủ trương của Trung ương Đảng, của tỉnh ủy, xây dựng chủ trương, kế

hoạch phát triển đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý của hệ thống chính trị cấp huyện

Nhận thức đúng tầm quan trọng về vai trò của cán bộ LĐ, QL các cấp đặc

biệt là cán bộ LĐ, QL cấp huyện nên Tỉnh ủy Bắc Ninh và Ban Thường vụ các

Huyện ủy đều có quyết tâm cao trong công tác phát triển đội ngũ cán bộ này. Tỉnh

ủy và các huyện ủy của tỉnh Bắc Ninh luôn xác định rõ công tác cán bộ là nhiệm vụ

then chốt trong công tác xây dựng Đảng. Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã tổ chức quán

109

triệt, triển khai kịp thời nghiêm túc các Nghị quyết, quy định, quyết định của Trung

ương về công tác cán bộ đến các cấp ủy trực thuộc và toàn thể cán bộ LĐ,QL các

cấp. Tỉnh ủy và các Huyện ủy đã ban hành nhiều nghị quyết, chương trình, kế

hoạch, đề án, quyết định, quy định về công tác cán bộ trong đó rất quan tâm đến đội

ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp huyện. Ban Thường vụ Tỉnh ủy Bắc Ninh ban

hành Quyết định số 404-QĐ/TU ngày 27/11/2007 về Quy định phân cấp quản lý

cán bộ; Quyết định số 405-QĐ/TU về Quy chế bổ nhiệm và giới thiệu cán bộ ứng

cử; Quy định số 08-QĐ/TU ngày 29/12/2017 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về phân

cấp quản lý và bổ nhiệm, giới thiệu cán bộ ứng cử. Kế hoạch số 29-KH/TU ngày

6/12/2012 của Tỉnh ủy Bắc Ninh về luân chuyển cán bộ đến năm 2015 và những

năm tiếp theo. Quyết định số 633-QĐ/TU ngày 06/12/2012 về việc ban hành tiêu

chuẩn chức danh cán bộ để bổ nhiệm và giới thiệu ứng cử. Chỉ thị số 45-CT/TU

ngày 02/4/2015 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về việc tăng cường sự lãnh đạo của cấp

ủy, tổ chức Đảng đối với công tác phòng chống tham nhũng, lãng phí trên địa bàn

tỉnh; Kết luận số 171-KL/TU ngày 24/4/2015 về việc nâng cao hiệu quả thực hiện

Chỉ thị số 33-CT/TW ngày 03/1/2014 của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo

của Đảng đối với việc kê khai và kiểm soát việc kê khai tài sản. Quy định số 06-

QĐ/TU ngày 29/12/2017 về tiêu chuẩn chức danh cán bộ lãnh đạo, quản lý. Quy

định số 16-QĐ/TU ngày 16/3/2020 về Quy định tiêu chuẩn chức danh cán bộ lãnh

đạo, quản lý các cấp. Quy định số 07-QĐ/TU ngày 29/12/2017 về luân chuyển cán

bộ. Kế hoạch số 41-KH/TU ngày 29/01/2018 về thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần

thứ sáu BCH TW khóa XII về “Một số vấn đề tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ

máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực,hiệu quả”. Kết luận số 150-

KL/TU ngày 01/11/2017 về tình hình thực hiện biên chế, tinh giản biên chế của các

tổ chức trong hệ thống chính trị năm 2015-2016; mục tiêu, nhiệm vụ giải pháp giai

đoạn 2017-2021. Chương trình số 59-CTr/TU ngày 27/7/2018 về thực hiện Nghị

quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về “tập trung

xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và

uy tín ngang tầm nhiệm vụ”. Thực hiện nghiêm túc Quy định số 205-QĐ/TW ngày

23/9/2019 của Bộ Chính trị về việc kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ và

chống chạy chức, chạy quyền. Xây dựng và ban hành Quy định số 16-QĐ/TU ngày

16/3/2020 về quy định tiêu chuẩn chức danh cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp.

110

Việc cụ thể hóa các quy định, hướng dẫn của Trung ương về chức năng

nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức bộ máy, mối quan hệ công tác, quy chế làm việc của

địa phương, cơ quan, đơn vị; việc phân công, phân cấp, phân quyền gắn với tăng

cường kiểm tra, giám sát và kiểm soát quyền lực, chống chạy chức, chạy quyền đã

được Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh và cấp ủy cấp huyện quan tâm. Quy chế làm việc

của cấp ủy được xây dựng kịp thời theo quy định, thể hiện rõ vai trò lãnh đạo của

Đảng, quy định rõ thẩm quyền, trách nhiệm của tập thể lãnh đạo và từng cá nhân

thành viên trong cấp ủy, Ban Thường vụ Huyện ủy, Thường trực Huyện ủy.

Sau khi Tỉnh ủy ban hành các văn bản chỉ đạo, các Huyện ủy đã cụ thể hóa

kịp thời và chỉ đạo, quán triệt, tổ chức thực hiện có hiệu quả. Quy định số 02-

QĐ/HU ngày 10/5/2018 của Ban Thường vụ Huyện ủy Lương Tài về phân cấp quản

lý cán bộ và bổ nhiệm, giới thiệu cán bộ ứng cử. Quy định số 03-QĐ/HU ngày

10/5/2018 của Ban Thường vụ Huyện ủy Lương Tài về luân chuyển cán bộ. Quy

định số 01-QĐ/HU ngày 11/4/2018 của BTV Huyện ủy Tiên Du về tiêu chuẩn chức

danh cán bộ lãnh đạo, quản lý. Quy định số 02-QĐ/HU ngày 26/4/2018 của BTV

Huyện ủy Quế Võ về luân chuyển cán bộ…Sau Đại hội đại biểu, các cấp ủy căn cứ

Quy định của Trung ương, Quy chế làm việc của Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh, 8/8

cấp ủy cấp huyện đã kịp thời xây dựng quy chế làm việc làm cơ sở thực hiện thẩm

quyền, trách nhiệm, mối quan hệ công tác của Ban Chấp hành Đảng bộ huyện. Các

Quy chế làm việc được xây dựng ngày càng cụ thể hơn, phân định rõ hơn về thẩm

quyền, trách nhiệm của từng cá nhân cán bộ lãnh đạo. Ngày 21/12/2015 Tỉnh ủy

ban hành Quyết định số 103-QĐ/TU về việc ban hành Quy chế làm việc của BCH

Đảng bộ tỉnh khóa XIX, nhiệm kỳ 2015-2020. Ngày 03/10/2016 Ban Bí thư ban

hành Quy định số 42-QĐ/TW về “nhiệm vụ và quan hệ công tác của Thường trực

tỉnh ủy, thành ủy” trên cơ sở đó, ngày 24/11/2017 BCH Đảng bộ tỉnh ban hành

Quyết định số 644-QĐ/TU về ban hành Quy chế làm việc của BCH Đảng bộ tỉnh

khóa XIX thay thế Quyết định số 103-QĐ/TU; ngày 29/7/2019 BCH Đảng bộ tỉnh

ban hành Quy chế làm việc số 02-QĐ/TU thay thế Quyết định số 644-QĐ/TU.

3.3.1.2. Công tác xây dựng tiêu chuẩn chức danh cán bộ lãnh đạo, quản lý

của hệ thống chính trị cấp huyện ở tỉnh Bắc Ninh

Thực hiện Kết luận Hội nghị Trung ương 9 khóa X về tiếp tục đẩy mạnh

thực hiện Chiến lược cán bộ từ nay đến năm 2020 với mục tiêu: “Xây dựng đội ngũ

111

cán bộ có bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất và năng lực tốt, có cơ cấu phù

hợp với Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ Tổ quốc, bảo đảm sự

chuyển tiếp vững vàng giữa các thế hệ cán bộ, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của thời

kỳ mới” [71, tr.12] và quan điểm “lựa chọn những người có bản lĩnh chính trị vững

vàng, phẩm chất đạo đức tốt, năng động, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm

giữ các vị trí lãnh đạo, đặc biệt là người đứng đầu. Tập trung xây dựng đội ngũ cán

bộ nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, đủ năng lực và phẩm chất, ngang tầm

nhiệm vụ” [74, tr.206] của Đại hội lần thứ XII của Đảng, Tỉnh ủy, các cấp ủy cấp

huyện và toàn thể cán bộ, đảng viên trong Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh đã nhận thức rõ

yêu cầu quan trọng của việc đổi mới công tác cán bộ, chú trọng xây dựng đội ngũ

CBLĐ, QL các cấp, trong đó có khâu xây dựng tiêu chuẩn chuẩn chức danh nhằm

mục tiêu hoàn thiện và nâng cao chất lượng đội ngũ CBLĐ, QL trong tình hình mới.

Trong từng giai đoạn cụ thể, trước yêu cầu ngày càng cao của thực tiễn, Tỉnh ủy

Bắc Ninh đã quan tâm xây dựng, bổ sung và hoàn thiện quy định tiêu chuẩn chức

danh CBLĐ, QL các cấp. Quy định số 06-QĐ/TU ngày 29-12-2017 của BTV Tỉnh

ủy (BTVTU) Bắc Ninh về tiêu chuẩn chức danh CBLĐ, QL các cấp được ban hành

thay thế Quyết định số 633-QĐ/TU ngày 06-12-2012. Ngày 16/3/2020, BTV Tỉnh

ủy Bắc Ninh ban hành Quy định số 16-QĐ/TU về tiêu chuẩn chức danh CBLĐ, QL

các cấp thay thế Quy định số 06-QĐ/TU. Theo quy định số 16-QĐ/TU, tiêu chuẩn

CBLĐ, QL có tiêu chuẩn chung và tiêu chuẩn chức danh cụ thể. Tỉnh ủy đã chia

CBLĐ, QL các cấp của tỉnh thành các loại chính như: cán bộ cấp tỉnh; cán bộ cấp

huyện; cán bộ các cơ quan tham mưu của tỉnh ủy; cán bộ các sở, ban, ngành; cán bộ

công tác đảng, chính quyền, đoàn thể để xác định những tiêu chuẩn về phẩm chất,

năng lực, trình độ và kinh nghiệm công tác cho từng loại cán bộ. Đối với cán bộ cấp

huyện, nhiều tiêu chí đề ra cao hơn và cụ thể hơn. Các chức danh được tiêu chuẩn

hóa: ủy viên ban chấp hành đảng bộ cấp huyện; ủy viên BTV cấp ủy cấp huyện; bí

thư, phó bí thư huyện ủy; chủ tịch, phó chủ tịch HĐND, UBND cấp huyện; CBLĐ,

QL các cơ quan tham mưu của huyện ủy; CBLĐ, QL các cơ quan hành chính nhà

nước; cán bộ lãnh đạo MTTQ và các đoàn thể CT-XH huyện. Việc phân loại cán bộ

để đề ra tiêu chuẩn chức danh đã được cụ thể hơn. Ví dụ, Tỉnh ủy đã tách tiêu chuẩn

bí thư huyện, thị, thành ủy thành một điểm riêng và yêu cầu cao hơn so với tiêu

chuẩn của phó bí thư huyện ủy, chủ tịch HĐND, chủ tịch UBND huyện; bổ sung

112

thêm quy định về tiêu chuẩn đối với các chức danh là phó trưởng phòng và tương

đương cấp huyện. Các tiêu chuẩn cán bộ chủ yếu trên các lĩnh vực: phẩm chất chính trị

tư tưởng; đạo đức lối sống, ý thức tổ chức kỷ luật; về trình độ; năng lực, uy tín; kinh

nghiệm công tác; tác phong công tác; khả năng thu phục, sức lan tỏa; ý chí phấn đấu

vươn lên, sức khỏe, độ tuổi…Các tiêu chuẩn ngày càng yêu cầu cao hơn như yêu cầu

về tiêu chuẩn LLCT: nếu như trước đây quy định đối với cán bộ diện BTV Tỉnh ủy

quản lý chỉ cần đang học được ½ chương trình Cao cấp LLCT; cán bộ diện BTV

Huyện ủy quản lý đang học được ½ chương trình Trung cấp LLCT là đủ điều kiện bổ

nhiệm, giới thiệu ứng cử thì hiện nay các cán bộ phải hoàn thiện và được cấp bằng.

Căn cứ quy định của Tỉnh ủy, đến nay cả 08 huyện ủy, thị ủy, thành ủy đã

xây dựng được tiêu chuẩn chức danh CBLĐ, QL thuộc diện BTV cấp ủy cấp huyện

quản lý. Đây là cơ sở quan trọng và là căn cứ để các cơ quan, đơn vị tiến hành đánh

giá, phân loại chất lượng cán bộ, chuẩn bị tốt cho các khâu khác trong công tác cán

bộ như bầu cử, giới thiệu ứng cử, bổ nhiệm, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ

trong HTCT cấp huyện.

Theo số liệu tổng hợp của BTCTU và BTV cấp ủy cấp huyện ở tỉnh Bắc

Ninh, tính đến tháng 11-2020, 100% CBLĐ, QL của HTCT cấp huyện đáp ứng đầy

đủ các tiêu chuẩn chức danh theo quy định, đồng thời đáp ứng đầy đủ các tiêu

chuẩn giữ ngạch chuyên viên, chuyên viên chính, chuyên viên cao cấp được quy

định tại Thông tư số 11/2014/TT-BNV ngày 09-10-2014 của Bộ Nội vụ quy định

chức danh, mã số ngạch và tiêu chuẩn nghiệp vụ chuyên môn các ngạch công chức

chuyên ngành hành chính.

3.3.1.3. Thực hiện tương đối tốt các khâu trong công tác cán bộ

* Công tác đánh giá cán bộ

Cùng với việc lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng và thực hiện nghiêm túc các quy

định, hướng dẫn về tiêu chuẩn chức danh cán bộ, BTV Tỉnh ủy và các BTV cấp ủy cấp

huyện của tỉnh Bắc Ninh đã lãnh đạo, chỉ đạo sâu sát công tác rà soát, đánh giá, phân

loại CBLĐ, QL các cấp đảm bảo thực chất, khách quan, toàn diện đúng quy trình. Từ

năm 2010 đến năm 2020, Tỉnh ủy và các cấp ủy đảng đã cụ thể hóa, ban hành và chỉ

đạo thực hiện đồng bộ, có nền nếp trong đánh giá cán bộ hằng năm, trước khi hết

nhiệm kỳ, trước khi bổ nhiệm, luân chuyển, thực hiện chính sách cán bộ. Cụ thể:

113

BTV Tỉnh ủy Bắc Ninh ban hành Quyết định số 670-QĐ/TU ngày 29-12-

2017 về việc ban hành Quy chế đánh giá cán bộ. BTCTU Bắc Ninh ban hành

Hướng dẫn số 11-HD/TC ngày 23-10-2014; Hướng dẫn số 05-HD/BTCTU ngày

14-11-2018; Hướng dẫn số 03-HD/BTCTU để chỉ đạo, hướng dẫn đến toàn bộ các

đơn vị trực thuộc thực hiện đánh giá, phân loại chất lượng tổ chức cơ sở đảng, đảng

viên và tập thể, cá nhân CBLĐ, QL các cấp.

Căn cứ văn bản chỉ đạo, hướng dẫn của cấp trên, các BTV cấp ủy cấp huyện

đã cụ thể hóa và hướng dẫn các cơ quan, đơn vị trực thuộc tổ chức đánh giá, xếp

loại CBLĐ, QL đúng quy định.

Tiêu chí đánh giá có căn cứ khoa học, cụ thể cho từng đối tượng, gắn với

chất lượng và hiệu quả công việc, trong đó chú trọng tiêu chí theo từng nhóm chức

danh cán bộ: kết quả đánh giá cán bộ hằng năm được thống kê theo 4 mức: hoàn

thành xuất sắc nhiệm vụ, hoàn thành tốt nhiệm vụ, hoàn thành nhiệm vụ và không

hoàn thành nhiệm vụ.

Quy trình đánh giá cán bộ cơ bản đảm bảo tính toàn diện, khách quan, đa

chiều, phân định rõ thẩm quyền trách nhiệm của từng chủ thể đánh giá. Đề cao tự đánh

giá của cán bộ, đồng thời lấy ý kiến đánh giá của các chủ thể là cấp dưới trực tiếp, cấp

trên trực tiếp và đồng cấp nhằm đảm bảo sự đa chiều, toàn diện trong đánh giá.

Kết quả, nhiệm kỳ Đại hội 2010-2015, các đảng bộ cấp huyện ở tỉnh Bắc

Ninh đã tiến hành đánh giá, phân loại chất lượng được 3.067 CBLĐ, QL. Trong đó,

tỷ lệ cán bộ hoàn thành tốt và hoàn thành xuất sắc đạt 85-95%; hoàn thành nhiệm vụ

đạt từ 3-5%; không hoàn thành nhiệm vụ chiếm tỷ lệ rất nhỏ. Từ đầu nhiệm kỳ

2015-2020 đến nay, đánh giá xếp loại được 1.893 cán bộ, trong đó hoàn thành tốt và

xuất sắc nhiệm vụ đạt từ 95-98%. Cán bộ hoàn thành nhiệm vụ chiếm tỷ lệ từ 1-2%

và không hoàn thành nhiệm vụ chiếm tỷ lệ rất ít [phụ lục 9].

* Công tác tạo nguồn và xây dựng quy hoạch cán bộ

Tạo nguồn cán bộ để đưa vào quy hoạch CBLĐ, QL của HTCT cấp huyện đã

được các BTV huyện ủy, thị ủy, thành ủy của tỉnh Bắc Ninh quan tâm, xác định,

đây là tiền đề để có sự chuyển tiếp vững vàng giữa các thế hệ cán bộ. Mục đích của

việc tạo nguồn cán bộ không gì khác chính là tạo ra được một đội ngũ cán bộ vững

vàng về chính trị, trong sáng về đạo đức, có sức khoẻ tốt, thành thạo chuyên môn,

nghiệp vụ, có trình độ, năng lực trí tuệ và thực tiễn, đủ về số lượng, đồng bộ về cơ

114

cấu đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của địa phương và thay thế vào các chức danh lãnh

đạo, quản lý. Trong những năm qua, Tỉnh ủy, UBND tỉnh Bắc Ninh và các BTV

cấp ủy cấp huyện đã quan tâm tạo nguồn cho trước mắt và tạo nguồn lâu dài. Tạo

nguồn CBLĐ, QL của HTCT cấp huyện, trước mắt chủ yếu là đội ngũ CB, CC, viên

chức kế cận trong HTCT từ huyện đến cơ sở. Về tạo nguồn lâu dài, Tỉnh ủy, UBND

tỉnh Bắc Ninh thực hiện theo Nghị định 24/2010/NĐ-CP ngày 15-3-2010 của Chính

phủ về tuyển dụng, sử dụng và quản lý công chức; Thông báo kết luận số 86-

KL/TW ngày 24-01-2014 của Bộ Chính trị về chính sách thu hút, tạo nguồn cán bộ

từ sinh viên tốt nghiệp xuất sắc, cán bộ khoa học trẻ; Quyết định số 33/QĐ-UBND

ngày 08-6-2012 về việc quy định chế độ, chính sách đào tạo, bồi dưỡng, thu hút và

sử dụng nhân tài tỉnh Bắc Ninh. Ngày 05-12-2017 Chính phủ ban hành Nghị định

140/2017/NĐ-CP về chính sách thu hút, tạo nguồn cán bộ từ sinh viên tốt nghiệp

xuất sắc, cán bộ khoa học trẻ, tỉnh Bắc Ninh đã tổ chức triển khai và thực hiện thu

hút nhân tài theo Nghị định trên, đồng thời bãi bỏ việc thực hiện Quyết định số

33/QĐ-UBND ngày 08-6-2012 của UBND…Kết quả, từ ngày 01-6-2012 đến ngày

31-3-2020 toàn tỉnh đã tuyển dụng được 549 người, trong đó khối đảng, MTTQ và

các đoàn thể là 74 người; khối nhà nước là 475 người.

Công tác quy hoạch CBLĐ, QL của HTCT cấp huyện đã có nhiều tiến bộ,

chất lượng quy hoạch cán bộ được nâng lên và ngày càng dân chủ, thực chất. BTV

Tỉnh ủy Bắc Ninh đã ban hành Hướng dẫn số 09-HD/TU ngày 18-11-2013 về công

tác quy hoạch CBLĐ, QL theo tinh thần Nghị quyết số 42-NQ/TW và Kết luận số

24-KL/TW của Bộ Chính trị. Sau khi có hướng dẫn của BTVTU, các cấp ủy đảng

cấp huyện đã tiến hành cụ thể hóa và xây dựng quy hoạch CBLĐ, QL của cấp mình

theo đúng quy trình các bước và đảm bảo cơ cấu, tiêu chuẩn theo đúng quy định.

Hằng năm, các cấp ủy cấp huyện đều chỉ đạo, hướng dẫn các cơ quan, đơn vị trực

thuộc tiến hành rà soát, bổ sung quy hoạch, nhằm đưa vào quy hoạch những nhân tố

mới có triển vọng phát triển, đồng thời đưa ra khỏi quy hoạch những cán bộ không

còn đủ điều kiện theo quy định. Từ năm 2016, Tỉnh ủy Bắc Ninh quán triệt chặt chẽ

và thống nhất trong toàn đảng bộ từ tỉnh đến cơ sở đó là chỉ thực hiện bổ sung quy

hoạch duy nhất một lần vào quý I hằng năm, xóa bỏ tình trạng hợp thức hóa quy

trình công tác cán bộ bằng việc quy hoạch thần tốc để bổ nhiệm thần tốc. Trong

thực hiện bổ sung quy hoạch, quy trình đã ngày càng dân chủ hơn, thể hiện từ việc

chỉ thực hiện hai bước đến nay phải thực hiện đủ bốn bước, trong đó có bước tổ

115

chức lấy ý kiến tại hội nghị cán bộ mở rộng về danh sách cán bộ dự kiến đưa vào

quy hoạch. Các cấp ủy cấp huyện đã thực hiện khá tốt công tác quy hoạch CBLĐ,

QL được thể hiện qua kết quả xây dựng quy hoạch cán bộ nhiệm kỳ 2015-2020 và

kết quả rà soát, bổ sung quy hoạch cán bộ hằng năm của từng huyện.

Kết quả quy hoạch cán bộ nhiệm kỳ 2015-2020: tổng số có 1.787 lượt cán bộ

được đưa vào quy hoạch các chức danh lãnh đạo, quản lý của các cơ quan, tổ chức

trong HTCT cấp huyện. Bình quân mỗi huyện đưa vào quy hoạch là 223 lượt cán

bộ. Quy hoạch cấp ủy đã được quan tâm chú trọng bảo đảm các tiêu chuẩn và cơ

cấu độ tuổi, giới tính, trình độ chuyên môn, lý luận chính trị, đảm bảo yếu tố “mở”

và “động”. Số lượng cán bộ đưa vào quy hoạch ủy viên ban chấp hành và BTV đạt

tối thiểu gấp 1,5 lần so với số lượng cấp ủy viên, ủy viên BTV đương nhiệm. Cụ

thể, tổng số cán bộ đưa vào quy hoạch ban chấp hành đảng bộ cấp huyện là 525 cán

bộ (gấp 1,6 lần và tỷ lệ này cũng tương đối đồng đều giữa các huyện trong tỉnh);

trong đó có 113 cán bộ nữ (chiếm 21,52%). Về cơ cấu, đảm bảo cơ cấu ba độ tuổi

trong ban chấp hành: cán bộ trẻ dưới 35 tuổi là 23 đồng chí (chiếm 4,38%), từ 35

đến 45 tuổi là 279 đồng chí (chiếm 53,14%), 46-50 tuổi là 155 đồng chí (chiếm

29,52%), trên 50 tuổi là 68 đồng chí(chiếm 12,96%). Tuổi bình quân của cán bộ quy

hoạch thấp hơn tuổi bình quân của cán bộ đương nhiệm (43,71 tuổi).Quy hoạch cấp

trưởng phòng và tương đương là 398 lượt cán bộ; phó trưởng phòng và tương

đương là 496 lượt cán bộ. Đảm bảo quy định mỗi chức danh quy hoạch từ 2 đến 3

người, đồng thời một người không quy hoạch quá 4 chức danh [phụ lục 14]. Năm

2019, các BTV cấp ủy cấp huyện đã đưa ra khỏi quy hoạch 16 lượt cán bộ, lý do

chủ yếu là không đủ tuổi đảm nhiệm chức vụ quy hoạch, đồng thời bổ sung quy

hoạch các chức danh là cán bộ cấp trưởng, cấp phó các phòng ban, ngành, đoàn thể

cấp huyện là 122 lượt cán bộ.

Công tác quy hoạch của các huyện ở tỉnh Bắc Ninh đã đem lại hiệu quả thiết

thực, góp phần thực hiện đồng bộ các khâu của công tác cán bộ, đặc biệt phục vụ

cho các kỳ bầu cử đại biểu HĐND và Đại hội Đảng bộ các cấp của tỉnh Bắc Ninh

trong những năm qua.

* Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ

Trong những năm qua, công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ được Tỉnh ủy,

UBND tỉnh và các BTV cấp ủy cấp huyện trực thuộc tỉnh đặc biệt quan tâm, chỉ

116

đạo, triển khai đồng bộ và đạt được kết quả khá. Nhận thức được vai trò quyết định

của hoạt động đào tạo, bồi dưỡng trong việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực

của tỉnh nói chung và chất lượng đội ngũ CBLĐ, QL của HTCT các cấp của tỉnh

nói riêng, những năm qua Tỉnh ủy, HĐND, UBND tỉnh, các BTV huyện ủy, thị ủy,

thành ủy đã ban hành nhiều văn bản liên quan đến hoạt động này. Năm 2007,

BTVTU Bắc Ninh đã ban hành Nghị quyết số 07-NQ/TU ngày 19-4-2007 của Ban

chấp hành Đảng bộ tỉnh về “Phát triển giáo dục và đào tạo giai đoạn 2007-2015 và

định hướng đến năm 2020”, trong đó xác định mục tiêu “đảm bảo 100% cán bộ

lãnh đạo, quản lý có trình độ trung cấp lý luận chính trị và quản lý nhà nước trở lên”

[155, tr. 61]. Đến năm 2011, BTV Tỉnh ủy ban hành Nghị quyết số 06-NQ/TU ngày

14-4-2011 về phát triển nguồn nhân lực, giải quyết việc làm giai đoạn 2011-2015,

trong đó đã xác định rõ mục tiêu: “Đối với cán bộ công chức hành chính và viên

chức sự nghiệp các cấp, từ năm 2011 trở đi phải đạt yêu cầu tiêu chuẩn theo chức

danh ngạch bậc đã được Nhà nước 05-3-2010 của Chính phủ về đào tạo, bồi dưỡng

CB, CC, Thông tư số 03/2011/TT-BNV ngày 25-01-2011 của Bộ Nội vụ hướng dẫn

thực hiện một số điều của Nghị định 18/2010/NĐ-CP ngày 05-3-2010 và Thông tư

09/2010/TT-BNV, Nghị quyết của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh, UBND tỉnh Bắc

Ninh đã ban hành những chương trình, kế hoạch cụ thể cho công tác đào tạo, bồi

dưỡng cán bộ trong đó có đội ngũ CBLĐ, QL của HTCT cấp huyện đảm bảo mục

đích, yêu cầu, nội dung và các tiêu chuẩn ngạch, bậc, chức danh theo quy định như

Quyết định số 126/2011/QĐ-UBND ngày 12-10-2011 về việc Phê duyệt quy hoạch

phát triển nhân lực tỉnh Bắc Ninh giai đoạn 2011-2015 định hướng đến năm 2020;

Quyết định số 172/QĐ-UBND ngày 21-11-2011 về việc phê duyệt kế hoạch đào

tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức giai đoạn 2011-2015… Đến năm 2014, Tỉnh ủy

Bắc Ninh đã ban hành Nghị quyết số 12-NQ/TU ngày 26-6-2014 về đổi mới căn

bản, toàn diện giáo dục và đào tạo tỉnh Bắc Ninh giai đoạn 2014-2020, định hướng

đến năm 2030.

Để đảm bảo thực hiện tốt mục tiêu và nội dung đào tạo, bồi dưỡng, BTV

Tỉnh ủy, UBND tỉnh Bắc Ninh đã yêu cầu các BTV cấp ủy cấp huyện phải xây

dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ của đơn vị mình căn cứ vào quy hoạch,

tiêu chuẩn ngạch, bậc, chức danh của cán bộ tại địa phương. Ban tổ chức cấp ủy cấp

huyện và phòng nội vụ các huyện đã tiến hành rà soát lại toàn diện CBLĐ, QL

117

đương nhiệm và cán bộ trong quy hoạch diện BTV cấp ủy cấp huyện quản lý, đối

chiếu với tiêu chuẩn chức danh để làm cơ sở xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng

hằng năm và cả nhiệm kỳ.

Về nội dung đào tạo, bồi dưỡng, ngoài việc tập trung trang bị nâng cao trình

độ chuyên môn nghiệp vụ, trình độ lý luận chính trị, trình độ quản lý nhà nước theo

quy định ngạch, bậc và tiêu chuẩn chức danh, Tỉnh ủy, UBND tỉnh Bắc Ninh còn

chú trọng chỉ đạo, tổ chức các lớp bồi dưỡng chuyên đề nhằm phổ biến, cập nhật

các văn kiện, nghị quyết của Đảng; bồi dưỡng, trang bị kiến thức hội nhập quốc tế,

văn hóa công sở, kiến thức quốc phòng, an ninh, kỹ năng ngoại ngữ, vi tính văn

phòng. Nhiều cán bộ sau đào tạo bồi dưỡng đã có chuyển biến tích cực, nâng cao

chất lượng, hiệu quả công tác chuyên môn, năng lực tổ chức điều hành, đáp ứng yêu

cầu nhiệm vụ. Kết quả cụ thể:

Từ năm 2011 đến tháng 6 năm 2020, CB, CC giữ các chức vụ lãnh đạo, quản lý

các cấp từ tỉnh đến huyện được đào tạo, bồi dưỡng theo chương trình quy định được

4.459 lượt người, đạt 102%, vượt 2% so với kế hoạch; CBLĐ, QL cấp phòng được đào

tạo, bồi dưỡng trước khi bổ nhiệm được 1.782 lượt người, đạt 95% kế hoạch. Thực

hiện chế độ bồi dưỡng bắt buộc hằng năm được 19.582 lượt người, đạt 72%.

Về lý luận chính trị: từ năm 2010 đến tháng 6 năm 2020, tỉnh Bắc Ninh đã cử

4. 461 lượt CB, CC, viên chức đi đào tạo lý luận chính trị; trong đó có 685 người

tham gia đào tạo cao cấp lý luận chính trị; 2.461 người tham gia đào tạo trung cấp

lý luận chính trị; 655 người học sơ cấp lý luận chính trị và 660 người tham gia lớp

bồi dưỡng, phổ biến kiến thức nhằm giúp cho cán bộ nắm vững chủ trương, đường

lối, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.

Về chuyên môn nghiệp vụ: tổng số có 1.477 công chức, viên chức đi đào tạo

sau đại học, trong đó có 50 tiến sĩ, 1397 thạc sĩ.

Về quản lý nhà nước: có 2.284 CB, CC, viên chức đã qua đào tạo, bồi dưỡng;

trong đó, chuyên viên cao cấp có 13 đồng chí tham gia đào tạo, bồi dưỡng; 1.041 người

được đào tạo kiến thức quản lý nhà nước chương trình chuyên viên chính; 1.230 người

được đào tạo kiến thức quản lý nhà nước chương trình chuyên viên.

Về đào tạo kỹ năng chuyên ngành: có 19.615 lượt người tham gia đào tạo về

chuyên môn, 337 người được đào tạo theo vị trí việc làm.

118

Kết quả báo cáo hoạt động đào tạo hằng năm của Sở Nội vụ tỉnh Bắc Ninh

và BTCTU Bắc Ninh cho thấy, việc cử cán bộ đi đào tạo, bồi dưỡng cơ bản thực

hiện nghiêm túc bám sát theo quy hoạch cán bộ và kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán

bộ hằng năm; chuyên ngành đào tạo gắn với chức danh đang phụ trách hoặc chức

danh đã được quy hoạch. Nhiều cán bộ sau đào tạo, bồi dưỡng đã có bản lĩnh chính

trị vững vàng, có trình độ chuyên môn nghiệp vụ, năng động và sáng tạo; tích cực

triển khai thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Trình

độ, năng lực hoạt động thực tiễn của đội ngũ CBLĐ, QL ngày càng được nâng cao,

thích nghi với cơ chế thị trường định hướng XHCN và hội nhập quốc tế.

* Điều động, luân chuyển cán bộ

Trong những năm qua, công tác điều động, luân chuyển CBLĐ, QL của

HTCT cấp huyện được BTVTU và các BTV cấp ủy cấp huyện chỉ đạo, triển khai,

thực hiện từng bước đi vào nền nếp, đạt kết quả khá. Căn cứ các nghị quyết, kết

luận, quy định của Trung ương về luân chuyển CBLĐ, QL, BTVTU Bắc Ninh đã

xây dựng và ban hành Kế hoạch số 29-KH/TU ngày 06-12-2012 về luân chuyển cán

bộ đến năm 2015 và những năm tiếp theo, Quy định số 07-QĐ/TU ngày 29-12-

2017, Kế hoạch số 61-KH/TU ngày 23-10-2018 về luân chuyển CBLĐ, QL giai

đoạn 2018-2021 và những năm tiếp theo.

Thực hiện Quy định và Kế hoạch của BTVTU, các cấp ủy cấp huyện đã xây

dựng quy định, kế hoạch thực hiện luân chuyển CBLĐ, QL ở địa phương mình thiết

thực, bài bản. Sau khi xây dựng kế hoạch luân chuyển, BTVTU chỉ đạo BTCTU chủ

trì, phối hợp với các BTV cấp ủy cấp huyện - trên cơ sở kế hoạch - lập danh sách đề

xuất cán bộ luân chuyển và nêu biện pháp thực hiện cụ thể đối với từng cán bộ.

Trong quá trình thực hiện luân chuyển cán bộ, đã chú trọng làm tốt công tác

tư tưởng đối với cán bộ trong diện luân chuyển; với cơ quan nơi cán bộ đi và nơi

cán bộ đến công tác. Thực hiện công tác luân chuyển cán bộ kết hợp với quy hoạch,

công tác đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện cán bộ. Căn cứ quy hoạch cán bộ để xây

dựng kế hoạch luân chuyển cán bộ. Các BTV huyện ủy đã thực hiện luân chuyển

các cán bộ là phó trưởng các ban, ngành cấp huyện về làm bí thư đảng ủy, chủ tịch

UBND các xã, phường, thị trấn; luân chuyển lãnh đạo cấp phó giữa các cơ quan,

phòng, ban, ngành trong huyện.

Theo số liệu tổng hợp của BTCTU, từ năm 2010 đến tháng 11-2020, các

BTV cấp ủy cấp huyện đã luân chuyển 112 lượt cán bộ; trong đó, luân chuyển từ

119

huyện xuống xã là 21 đồng chí, cơ bản là các đồng chí phó trưởng ngành được luân

chuyển xuống cơ sở giữ chức vụ bí thư đảng ủy hay chủ tịch, phó chủ tịch UBND

xã, phường, thị trấn. Tiêu biểu, Thành ủy Bắc Ninh luân chuyển 11 đồng chí; huyện

Tiên Du luân chuyển 01 đồng chí; huyện Quế Võ luân chuyển 03 đồng chí; huyện

Yên Phong 01 đồng chí; huyện Lương Tài 01 đồng chí; huyện Gia Bình 02 đồng

chí; huyện Thuận Thành 02 đồng chí.

Công tác điều động, luân chuyển về cơ bản đã đạt mục đích, yêu cầu đề ra.

Đối với địa phương có cán bộ luân chuyển đến, bước đầu khắc phục được tình trạng

hẫng hụt cán bộ, tình trạng cục bộ, khép kín trong quy hoạch, đào tạo, bố trí, sử

dụng cán bộ ở địa phương phát huy tốt tinh thần đoàn kết, học tập kinh nghiệm

trong chỉ đạo, điều hành. Đối với cán bộ luân chuyển, nhiều đồng chí hăng hái, tích

cực nhập cuộc công tác mới, nỗ lực học tập, tích luỹ kinh nghiệm, rèn luyện trong

thực tiễn để trưởng thành. Sau khi luân chuyển, nhiều đồng chí được đánh giá hoàn

thành xuất sắc nhiệm vụ được giao, đóng góp tích cực vào sự phát triển KT-XH,

xây dựng HTCT địa phương, được cán bộ, đảng viên và nhân dân tin tưởng. Một số

đồng chí khi hết thời gian luân chuyển đã được bố trí đảm nhận những vị trí cao

hơn. Cụ thể, phó chủ nhiệm ủy ban kiểm tra huyện ủy Tiên Du luân chuyển về làm

bí thư đảng ủy xã Nội Duệ, sau thời gian luân chuyển được BTV huyện ủy đánh giá

hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, được giới thiệu tham gia BTV huyện ủy và giữ chức

vụ chủ nhiệm ủy ban kiểm tra huyện ủy; phó trưởng ban tuyên giáo Thành ủy Bắc

Ninh luân chuyển về làm bí thư đảng ủy phường Võ Cường, sau đó được giới thiệu

tham gia BTV Thành ủy và giữ chức vụ Trưởng ban Dân vận Thành ủy.

Luân chuyển CBLĐ, QL trong nội bộ từng khối và giữa các khối đảng, đoàn

thể, khối chính quyền cũng được quan tâm và đạt kết quả tích cực. Giai đoạn 2012-

6/2020, các cấp ủy cấp huyện ở tỉnh Bắc Ninh đã thực hiện luân chuyển 91 lượt cán

bộ giữ các chức danh lãnh đạo, quản lý giữa các khối và trong cùng khối đảng, đoàn

thể và chính quyền. Nhìn chung, cán bộ được luân chuyển đã yên tâm công tác,

thích nghi nhanh với môi trường công tác mới và luôn cố gắng phấn đấu hoàn thành

tốt chức trách, nhiệm vụ được giao.

* Bố trí, sử dụng cán bộ

Căn cứ các Quy định của Trung ương, BTVTU Bắc Ninh đã cụ thể hóa và

ban hành Quy định về công tác bổ nhiệm và giới thiệu cán bộ ứng cử. Ngày 27-11-

120

2007, BTV Tỉnh ủy ban hành Quyết định số 405-QĐ/TU về quy chế bổ nhiệm và

giới thiệu cán bộ ứng cử. Căn cứ Quy định số 105-QĐ/TW ngày 19-12-2017 của Bộ

Chính trị, ngày 29-12-2017, BTV Tỉnh ủy đã ban hành Quy định số 08-QĐ/TU về

quy định phân cấp quản lý cán bộ và bổ nhiệm, giới thiệu cán bộ ứng cử thay thế

Quy chế kèm theo Quyết định 405-QĐ/TU ngày 27-11-2007. Sau khi BTV Tỉnh ủy

ban hành quy định trên, đến nay 08 đảng bộ huyện, thành phố, thị xã trực thuộc đã

tiến hành xây dựng, cụ thể hóa phù hợp với điều kiện từng địa phương.

Nhìn chung, công tác bổ nhiệm cán bộ và giới thiệu cán bộ ứng cử các chức

danh lãnh đạo, quản lý được thực hiện chặt chẽ, đúng tiêu chuẩn, điều kiện, quy

trình, bảo đảm nguyên tắc Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội

ngũ cán bộ, tính đồng bộ cũng như tương quan giữa trước mắt và lâu dài của đội

ngũ, có chú ý đến cơ cấu cán bộ nữ. Theo số liệu tổng hợp của BTCTU Bắc Ninh,

đa số cán bộ được bố trí, sử dụng đều theo yêu cầu công việc và yêu cầu thực hiện

nhiệm vụ của ngành, địa phương. Hầu hết các cán bộ được bố trí, bổ nhiệm đều gắn

với quy hoạch và đào tạo trên nguyên tắc tập trung dân chủ. Các cấp ủy cấp huyện

thực hiện nghiêm quy trình các bước theo quy định của Ban Tổ chức Trung ương

(BTCTW) và BTVTU để bổ nhiệm và giới thiệu cán bộ ứng cử. Quy trình bổ nhiệm

cán bộ ngày càng thể hiện tính dân chủ, khách quan, minh bạch hơn trong lựa chọn

nhân sự; cụ thể, từ thực hiện quy trình 03 bước đã bổ sung thực hiện quy trình 05

bước. Số liệu tổng hợp của BTCTU Bắc Ninh cho thấy, từ năm 2010 đến tháng 11-

2020, các BTV cấp ủy cấp huyện đã thực hiện bổ nhiệm mới 325 lượt CBLĐ, QL;

bổ nhiệm lại 340 lượt cán bộ; giới thiệu ứng cử 1.169 lượt cán bộ. Trong tổng số

1.834 lượt cán bộ được bổ nhiệm, bổ nhiệm lại và giới thiệu ứng cử có 1.819 lượt

cán bộ đủ điều kiện, tiêu chuẩn; còn lại 15 lượt cán bộ thiếu tiêu chuẩn, điều kiện về

chứng chỉ tin học, ngoại ngữ theo quy định. Thực hiện đúng quy trình 1.834 trường

hợp (đạt 100%) [phụ lục 16]. Hầu hết CBLĐ, QL của HTCT cấp huyện ở tỉnh Bắc

Ninh mới được bổ nhiệm hằng năm đều được đánh giá, phân loại hoàn thành tốt

nhiệm vụ được giao, nhiều đồng chí được đánh giá có khả năng và chiều hướng

phát triển tốt.

* Công tác quản lý, kiểm tra, giám sát cán bộ và thực hiện chính sách cán bộ

Những năm gần đây, sự phân cấp quản lý cán bộ ngày càng được xác định rõ

ràng và cụ thể hơn. Căn cứ Quy định phân cấp quản lý cán bộ của Bộ Chính trị và

121

hướng dẫn của Ban Tổ chức Trung ương, BTVTU Bắc Ninh, các BTV cấp ủy cấp

huyện đã xây dựng và ban hành Quy định phân cấp quản lý cán bộ của địa phương.

Ngày 29-12-2017 BTV Tỉnh ủy Bắc Ninh ban hành Quy định số 08-QĐ/TU về quy

định phân cấp quản lý cán bộ thay thế Quy định phân cấp quản lý cán bộ ban hành

kèm theo Quyết định số 404-QĐ/TU ngày 26-11-2007. Công tác quản lý cán bộ

được quy định cụ thể, rõ ràng thông qua các cấp uỷ trực thuộc, các tổ chức đảng,

các cơ quan của HTCT thực hiện các quyết định về cán bộ và công tác cán bộ.

BTVTU Bắc Ninh đã tăng cường phân công, phân cấp quản lý cán bộ cho các cấp

ủy, tổ chức đảng, đồng thời tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện

công tác cán bộ và quản lý cán bộ các cấp. Theo quy định, BTV cấp ủy cấp huyện

trực tiếp quản lý đội ngũ cán bộ là huyện ủy viên; trưởng, phó ban, ngành, đoàn thể

huyện; cán bộ chủ chốt các xã, phường, thị trấn. Phát huy tốt vai trò, trách nhiệm

của các tổ chức đảng, người đứng đầu cơ quan, tổ chức thành viên trong HTCT cấp

huyện về công tác quản lý đội ngũ cán bộ. Trong những năm qua, nhiều BTV cấp

ủy cấp huyện đã thực hiện khá tốt việc quản lý đội ngũ CBLĐ, QL thuộc diện mình

quản lý về các nội dung: chính trị tư tưởng; phẩm chất đạo đức, lối sống; trình độ,

năng lực công tác; kết quả thực hiện nhiệm vụ được giao; ý thức tổ chức, kỷ luật;

tác phong công tác; giữ mối liên hệ với chi ủy, đảng ủy cơ sở và thực hiện nghĩa vụ

công dân nơi cư trú.

Việc kiểm tra, giám sát cán bộ và công tác cán bộ được các BTV cấp ủy cấp

huyện chú trọng, tăng cường chỉ đạo thực hiện theo đúng Quy định số 181-QĐ/TW

ngày 30-3-2013 và Quy định số 102-QĐ/TW ngày 15-11-2017 về xử lý kỷ luật

đảng viên; Nghị định 34/2011/NĐ-CP ngày 17-5-2011 của Chính phủ về xử lý kỷ

luật đối với công chức. Các cấp ủy, UBKT cấp tỉnh, cấp huyện đã xây dựng chương

trình, kế hoạch kiểm tra, giám sát nhiệm kỳ và hàng năm. Các cuộc kiểm tra được

thực hiện thường xuyên theo định kỳ, hoặc đột xuất hoặc kiểm tra theo chuyên đề.

Chất lượng, hiệu quả các cuộc kiểm tra, giám sát được nâng lên, tạo sự chuyển biến

tích cực. Do đó, đã kịp thời phát hiện những vi phạm của cấp dưới trong thực hiện

các quy định về công tác quản lý cán bộ, đặc biệt là thực hiện các khâu trong công

tác cán bộ như quy hoạch, bổ nhiệm, giới thiệu cán bộ ứng cử… Đối với các trường

hợp CBLĐ, QL diện BTV cấp ủy cấp huyện quản lý có đơn, thư phản ánh, BTV cấp

ủy đã chỉ đạo các cơ quan chức năng và các cơ quan liên quan kịp thời xác minh,

122

làm rõ và kết luận. Ủy ban kiểm tra của các cấp ủy cấp huyện đã kịp thời tham mưu

BTV cấp ủy cấp huyện xác minh, xử lý, kết luận những cán bộ khi có dấu hiệu vi

phạm Điều lệ Đảng, vi phạm pháp luật. Từ năm 2010 đến năm 11-2020, tổng số

đảng viên bị thi hành kỷ luật đảng là 2.444, trong đó kỷ luật khiển trách 1.533, kỷ

luật cảnh cáo là 608, kỷ luật cách chức là 77, kỷ luật khai trừ 226.

Về thực hiện chính sách cán bộ: BTV Tỉnh ủy Bắc Ninh đã thường xuyên

quan tâm, chỉ đạo UBND, BTCTU, các BTV cấp ủy trực thuộc chú trọng nghiên

cứu, xây dựng và thực hiện tốt các chế độ, chính sách đối với cán bộ theo quy định

của Trung ương. Cụ thể:

Đối với cán bộ đang công tác tại khối đảng, đoàn thể cấp huyện, các BTV

cấp ủy cấp huyện kịp thời đề nghị BTV Tỉnh ủy, BTCTU; đối với CBLĐ, QL khối

chính quyền, BTV cấp ủy cấp huyện ủy chỉ đạo phòng nội vụ huyện đề nghị UBND

cấp huyện, Sở Nội vụ tỉnh kịp thời xem xét, giải quyết tốt các chế độ chính sách

như: nâng lương thường xuyên, phụ cấp chức vụ, thâm niên nghề, thâm niên vượt

khung, thi nâng ngạch, chuyển ngạch, thăm hỏi ốm đau… Thực hiện đầy đủ chế độ

bình bầu, khen thưởng hằng năm, khen thưởng theo phong trào thi đua, nhằm động

viên khích lệ cả tinh thần và vật chất đối với cán bộ theo quy định hiện hành của

Đảng và Nhà nước.

Ngoài chính sách của Trung ương ban hành, tỉnh Bắc Ninh cũng thực hiện

một số chính sách đối với CB, CC như: thực hiện chế độ trợ cấp cho CB, CC đi đào

tạo, bồi dưỡng (theo Quyết định số 33/2012/QĐ-UBND ngày 08-6-2012). Đặc biệt,

HĐND tỉnh đã ban hành chính sách đặc thù của tỉnh (Nghị quyết số 100/2018/NQ-

HĐND ngày 17-4-2018 về việc hỗ trợ CB, CC, viên chức, lao động hợp đồng nghỉ

công tác theo nguyện vọng đối với CB, CC, viên chức, người lao động thuộc diện

phải sắp xếp, cơ cấu lại và tinh giản biên chế). CB, CC, viên chức, người lao động

hợp đồng của tỉnh Bắc Ninh hưởng lương từ ngân sách địa phương nghỉ công tác

theo nguyện vọng nếu còn thời gian công tác từ 12 tháng trở lên, có nguyện vọng

nghỉ công tác (thôi việc; nghỉ hưu trước tuổi theo quy định của Luật Bảo hiểm xã

hội), người đang làm việc ở cơ quan, tổ chức, đơn vị thực hiện sắp xếp tổ chức bộ

máy, tinh giản biên chế, ngoài được hưởng các chế độ thôi việc hoặc nghỉ hưu theo

quy định còn được tỉnh hỗ trợ một lần với mức một triệu đồng/tháng làm việc được

tính đóng bảo hiểm xã hội, mức hỗ trợ tối đa không quá 300 triệu đồng. Đây là

123

nguồn cổ vũ, động viên rất lớn đối với đội ngũ cán bộ trong đó có CBLĐ, QL trong

quá trình học tập, công tác.

3.3.1.4. Phát huy vai trò, trách nhiệm tham gia của các tổ chức trong hệ

thống chính trị và nhân dân trong phát triển đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý của

hệ thống chính trị cấp huyện

Với vai trò hạt nhân lãnh đạo mọi mặt hoạt động xây dựng Đảng, chính

quyền, MTTQ và đoàn thể trong HTCT, BTV cấp ủy từ tỉnh đến cấp huyện đã

thường xuyên nắm vững và quán triệt sâu sắc các chỉ thị, nghị quyết, hướng dẫn của

Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, BTCTW về công tác cán bộ;

nắm bắt kịp thời thực trạng đội ngũ CB, CC, viên chức trong đó có đội ngũ CBLĐ,

QL theo phân cấp quản lý cán bộ; xây dựng phương án, đề án, kế hoạch nhằm nâng

cao chất lượng đội ngũ cán bộ, trong đó có đội ngũ CBLĐ, QL. Trong từng thời kỳ,

BTVTU Bắc Ninh đã căn cứ các văn bản chỉ đạo, hướng dẫn của Ban Chấp hành

Trung ương, Bộ Chính trị, BTCTW để cụ thể hóa, xây dựng và ban hành nhiều quy

định, quy chế, hướng dẫn thống nhất, sát hợp với tình hình địa phương. Cụ thể: Quy

chế làm việc của ban chấp hành đảng bộ; Quy chế chất vấn tại hội nghị Ban Chấp

hành Đảng bộ tỉnh và ban chấp hành các cấp; Quy định về phân cấp quản lý cán bộ,

bổ nhiệm và giới thiệu cán bộ ứng cử; Quy định về luân chuyển cán bộ; Quy định

về tiêu chuẩn chức danh CBLĐ, QL các cấp; Quy chế đánh giá cán bộ diện BTVTU

quản lý; Hướng dẫn thực hiện công tác quy hoạch cán bộ; v.v.. Căn cứ các văn bản

quy định của BTVTU, BTV cấp ủy cấp huyện áp dụng, cụ thể hóa cho cấp dưới,

đồng thời thực hiện thống nhất theo phân cấp quản lý cán bộ. Mỗi nhiệm kỳ đại hội,

trong các thời điểm khác nhau, các quy định, quy chế, hướng dẫn của Trung ương,

Tỉnh uỷ về công tác cán bộ có sự điều chỉnh, bổ sung phù hợp với tình hình thực

tiễn, ngày càng phát huy được tinh thần dân chủ, công khai, minh bạch, có sự tham

gia đóng góp ý kiến của nhiều thành phần, đối tượng cán bộ đặc biệt là cán bộ cấp

dưới, ý kiến của nhân dân.

Vai trò của MTTQ, các tổ chức CT-XH và nhân dân trong tham gia giám sát

hoạt động của CBLĐ, QL được các BTV cấp ủy cấp tỉnh và cấp huyện quan tâm,

tạo điều kiện. Cụ thể: công khai tiêu chuẩn bổ nhiệm, giới thiệu cán bộ ứng cử; tiêu

chuẩn quy hoạch CBLĐ, QL… Việc giám sát của MTTQ, các tổ chức CT-XH và nhân

dân ở một số địa phương đã đạt kết quả bước đầu trong công tác xây dựng đội ngũ

124

CBLĐ, QL của HTCT các cấp, đặc biệt từ khi Bộ Chính trị ban hành Quy chế giám sát

và phản biện xã hội của MTTQ và các đoàn thể CT-XH ngày 12-12-2013 và Quy định

về việc MTTQ, các đoàn thể CT-XH và nhân dân tham gia góp ý xây dựng Đảng,

chính quyền; Quy định số 124-QĐ/TW ngày 20/2/2018 của Ban Bí thư về giám sát của

MTTQ, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân đối với việc tu dưỡng, rèn luyện đạo

đức, lối sống của người đứng đầu, cán bộ chủ chốt và cán bộ, đảng viên.

Các BTV cấp ủy cấp huyện đã tích cực phối hợp, tranh thủ sự giúp đỡ,

hướng dẫn của các cơ quan, ban, ngành cấp tỉnh, đặc biệt là BTCTU và Sở Nội vụ

tỉnh về công tác phát triển đội ngũ CBLĐ, QL của HTCT cấp huyện.

3.3.2. Hạn chế, khuyết điểm

3.3.2.1. Việc quán triệt các nghị quyết, chủ trương của Trung ương Đảng,

của tỉnh ủy, xây dựng chủ trương, kế hoạch phát triển đội ngũ cán bộ lãnh đạo,

quản lý của hệ thống chính trị cấp huyện chưa sâu sắc, còn chậm trễ

Trong quá trình phát triển đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý của hệ thống

chính trị cấp huyện ở tỉnh Bắc Ninh hiện nay, trên thực tế còn một số cấp ủy huyện,

một số cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp huyện có lúc còn chưa nhận thức thực sự đúng

đắn, đầy đủ về vị trí, vai trò của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp huyện. Trong

quá trình tổ chức, thực hiện không phải không có những biểu hiện qua loa, đại khái.

Tuy có nhận thức được vai trò của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp huyện, song

chưa sâu sắc, chưa thấy rõ được sự cần thiết của việc xây dựng phẩm chất, năng lực

của đội ngũ cán bộ này trước đòi hỏi của tình hình mới. Do đó, một số cấp ủy đảng

và chính quyền các huyện còn thiếu chủ trương, biện pháp nhằm phát triển đội ngũ

cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp huyện phù hợp và hiệu quả. Có giai đoạn, một số cấp

ủy huyện chưa cụ thể hóa những quy định của Tỉnh ủy về công tác cán bộ để tổ

chức thực hiện phù hợp ở địa phương mình.

3.3.2.2. Việc cụ thể hóa tiêu chuẩn cán bộ lãnh đạo, quản lý của hệ thống

chính trị cấp huyện chưa đáp ứng yêu cầu

Ban Thường vụ Tỉnh ủy Bắc Ninh đã ban hành Quyết định số 633-QĐ/TU về

tiêu chuẩn chức danh CBLĐ, QL. Tuy nhiên, một số cấp ủy cấp huyện còn chậm và

lúng túng trong việc cụ thể hóa tiêu chuẩn chức danh CBLĐ, QL của địa phương

mình. Ngày 29-12-2017 BTV Tỉnh ủy đã xây dựng Quy định số 06-QĐ/TU về tiêu

chuẩn chức danh CBLĐ, QL các cấp; đến ngày 16/03/2020 BTV Tỉnh ủy đã ban

125

hành Quy định 16-QĐ/TU thay thế Quy định 06-QĐ/TU, đồng thời chỉ đạo quyết

liệt các BTV cấp ủy cấp huyện phải cụ thể hóa thành quy định phù hợp với điều

kiện địa phương, báo cáo kết quả về BTV Tỉnh ủy. Tuy nhiên, việc cụ thể hóa tiêu

chuẩn CBLĐ, QL của HTCT cấp huyện ở Bắc Ninh có những nội dung chưa đáp

ứng yêu cầu. Các tiêu chuẩn chức danh đã cố gắng cụ thể hóa tiêu chuẩn cán bộ, có

sự bổ sung, ngày càng hoàn thiện hơn, nhưng về cơ bản vẫn theo các nội dung và

cách trình bày của Nghị quyết Hội nghị Trung ương 3 khóa VIII. Nhiều nội dung

được quy định là đúng đắn và rất cần thiết, song còn chung chung, trừu tượng, khi

áp dụng vào thực tế thường gặp khó khăn. Thứ nhất, nội dung khó nhớ, khó hiểu

các từ khóa, có nhiều điểm chung, chưa thể hiện rõ những đặc thù của từng chức

danh cán bộ. Thứ hai, mặc dù nội dung khá toàn diện, hàng chục tiêu chuẩn cần

thiết phải đáp ứng, nhưng khi áp dụng vào từng cấp, từng cơ quan, đơn vị, địa

phương, các vị trí công tác khác nhau lại vẫn cho ra những báo cáo nhận xét, kiểm

điểm gần như giống nhau. Thứ ba, các nội dung tiêu chuẩn còn chung chung, ít tính

định lượng, chủ yếu mang tính định tính. Các tiêu chuẩn vẫn chỉ dừng lại xây dựng

tiêu chuẩn chung như trình độ chuyên môn, trình độ lý luận chính trị, trình độ quản

lý nhà nước, ngoại ngữ, tin học, kinh nghiệm công tác, tư tưởng chính trị, đạo đức

lối sống… Do quy định tiêu chuẩn chung chung như vậy, nên xảy ra tình trạng sắp

xếp, bố trí, sử dụng CBLĐ, QL không đúng chuyên ngành, chuyên môn, khả năng,

năng lực. Thực trạng cán bộ “sống lâu lên lão làng”, chủ nghĩa kinh nghiệm vẫn xảy

ra ở một số huyện.

3.3.2.3. Một số khâu trong công tác cán bộ chưa được thực hiện nghiêm túc,

có chất lượng cao

* Công tác đánh giá cán bộ còn lúng túng trong quy trình thực hiện

Việc đánh giá cán bộ ở một số cấp ủy đảng, cơ quan, đơn vị, địa phương thực

hiện chưa nghiêm túc, nặng về hình thức, chạy theo thành tích. Kết quả đánh giá

cán bộ chưa phản ánh đúng thực tế và chất lượng cán bộ. Đánh giá cán bộ chưa lấy

hiệu quả công việc, sản phẩm “đầu ra” làm thước đo, chưa gắn với kết quả thực

hiện nhiệm vụ chính trị của cơ quan, đơn vị, địa phương. Kết quả đánh giá cán bộ

chưa tương xứng với kết quả thực hiện nhiệm vụ được giao phụ trách, quản lý. Một

số cán bộ được đánh giá hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, nhưng chưa thể hiện được

tính chuyên nghiệp, thiếu khả năng bao quát tình hình, thụ động trong thực thi

126

nhiệm vụ, thiếu khả năng tư duy độc lập, dự báo, xây dựng chương trình kế hoạch,

nghiên cứu tổng hợp… Việc đánh giá phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, tác

phong, lề lối làm việc, kỷ luật công tác có phần bị xem nhẹ. Tình trạng “dĩ hòa vi

quý”, khen là chủ yếu xảy ra ở nhiều tổ chức, cơ quan, đơn vị.

Thực hiện Hướng dẫn số 05-HD/BTCTU ngày 14-11-2018 của BTCTU Bắc

Ninh, các BTV cấp ủy cấp huyện đã chỉ đạo ban tổ chức tham mưu, xây dựng và

ban hành hướng dẫn cụ thể kiểm điểm, đánh giá, xếp loại chất lượng hằng năm đối

với tổ chức đảng, đảng viên và tập thể, cá nhân CBLĐ, QL. Trong quá trình thực

hiện, mặc dù quy trình đã có sự chặt chẽ hơn, công phu hơn, đảm bảo tính khách

quan hơn, nhưng khi thực hiện đã gây ra sự lúng túng và có biểu hiện của đánh giá

hình thức thể hiện:

Khi đánh giá CBLĐ, QL, BTVTU yêu cầu phải có sự đánh giá của cán bộ

cùng cấp hoặc chức danh tương đương; ban tổ chức cấp ủy được ủy quyền chủ trì

phối hợp hội nghị để đánh giá, xếp loại đối với chức danh tương đương trong cùng

khối và giới hạn cán bộ hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ không quá 20% trong tổng số

cán bộ hoàn thành tốt nhiệm vụ. Mặc dù chủ thể đánh giá được mở rộng hơn, nhưng

về thực chất để các chức danh tương đương có thể hiểu rõ chức năng, nhiệm vụ,

quyền hạn của nhau và bình bầu, xếp loại là việc làm hình thức, thiếu thực tế.

* Công tác tạo nguồn và xây dựng quy hoạch chưa tạo được sự đột phá,

chưa thực sự “động” và “mở”

Trong nhiều năm gần đây, Đảng đã quan tâm và có nhiều chỉ thị, nghị quyết

để chỉ đạo công tác quy hoạch và đẩy mạnh việc quy hoạch CBLĐ, QL. Tuy nhiên,

thực trạng quy hoạch CBLĐ, QL hiện nay vẫn còn tình trạng khép kín, cục bộ.

Công tác quy hoạch hầu như tập trung vào các đối tượng là cán bộ, đảng viên, công

chức, viên chức trong các cơ quan, tổ chức trong huyện. Chưa tạo nguồn cán bộ là

học sinh, sinh viên và nguồn từ hoạt động thực tiễn phong trào quần chúng. Quy

hoạch cán bộ chủ yếu phục vụ nhu cầu trước mắt, quy hoạch tuần tự, chưa có tính

đột phá. Cụ thể, cấp phó quy hoạch cấp trưởng; cấp trưởng quy hoạch cấp ủy viên;

cấp ủy viên quy hoạch ủy viên BTV; ủy viên BTV quy hoạch bí thư, phó bí thư…

Theo số liệu tổng hợp của BTCTU Bắc Ninh, quy hoạch chức danh bí thư, phó bí

thư cấp ủy cấp huyện nhiệm kỳ 2015-2020 và chức danh chủ tịch, phó chủ tịch

HĐND, UBND huyện nhiệm kỳ 2016-2021 không có cán bộ trẻ dưới 35 tuổi. Như

127

vậy, nhiều tài năng mới, trẻ tuổi được đào tạo cơ bản, chưa được mạnh dạn đưa vào

diện quy hoạch để chuẩn bị phương án đào tạo, bồi dưỡng…

Tình trạng quy hoạch “treo”, quy hoạch hình thức còn xảy ra ở một số địa

phương, cơ quan, đơn vị, nghĩa là quy hoạch nhưng không thể bổ nhiệm, bầu cử.

Theo quy định, một chức danh quy hoạch 2-3 người, một người không quy hoạch

quá 03 chức danh, 01 chức danh không quy hoạch quá 04 người, nhưng trên thực tế,

nhiều cơ quan quy hoạch ở mức tối đa để “tạo điều kiện” cho cán bộ phấn đấu, hoặc

để không mất đoàn kết. Do đó, gần như tất cả các CB, CC là biên chế của cơ quan

đều được đưa vào quy hoạch, dẫn đến tình trạng quy hoạch “treo”.

Một số cấp ủy, cơ quan, tổ chức, các lực lượng tham gia quy hoạch CBLĐ, QL

cấp huyện chưa nắm vững mục đích, yêu cầu, tiêu chuẩn, nội dung, quy trình, hình

thức tiến hành, nên quá trình thực hiện còn mang tính hình thức, chủ quan, chưa thực

sự dân chủ. Quy hoạch cán bộ ở một số ngành, huyện, thành phố còn dàn trải, chưa gắn

với lĩnh vực công tác, ngành nghề, độ tuổi để chuẩn bị tốt đội ngũ kế cận.

* Công tác đào tạo, bồi dưỡng còn dàn trải, chưa gắn với quy hoạch, bố trí

sử dụng cán bộ

Trong những năm qua, công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ ở một số cơ quan

chưa được quan tâm đúng mức, chưa đạt kết quả như mong đợi. Các lớp đào tạo,

bồi dưỡng ngắn ngày được tổ chức dàn trải, chất lượng chưa cao, như các lớp

chuyên viên, chuyên viên chính, tin học, ngoại ngữ... Các chương trình hiện nay còn

nặng về trang bị kiến thức lý luận, kiến thức thực tiễn áp dụng giải quyết nhiều tình

huống trong công việc còn nghèo nàn, thiếu sinh động. Một số nội dung chương

trình học bị trùng lắp, chồng chéo. Việc đào tạo, bồi dưỡng chưa gắn chặt với công

tác quy hoạch và bố trí, sử dụng cán bộ. Các lớp bồi dưỡng theo chức danh được tổ

chức hằng năm, song nội dung, chương trình ít được đổi mới. Công tác đào tạo cán

bộ sau đại học đối với những ngành nghề cần thiết cho sự phát triển của huyện chưa

có định hướng rõ ràng. Một số đồng chí cán bộ vẫn còn biểu hiện chạy theo bằng

cấp, chứng chỉ để đáp ứng đủ tiêu chuẩn, điều kiện để bổ nhiệm chức danh CBLĐ,

QL trong quy hoạch. Đặc biệt, công tác quản lý học viên trong quá trình học tập của

BTCTU, Sở Nội vụ tỉnh và cơ sở đào tạo còn lỏng lẻo, tính học đối phó, ảnh hưởng

đến chất lượng đào tạo, bồi dưỡng.

128

* Điều động, luân chuyển cán bộ chưa thực hiện thường xuyên, bố trí cán

bộ sau luân chuyển còn lúng túng

Công tác điều động, luân chuyển cán bộ bộc lộ nhiều hạn chế. Một số cấp ủy

cấp huyện hằng năm không xây dựng kế hoạch luân chuyển cán bộ theo quy định,

dẫn đến tình trạng bị động, lúng túng chất lượng thấp. Một số CBLĐ, QL khi thực

hiện chủ trương điều động, luân chuyển còn nhiều tâm tư, chưa thực sự tích cực,

thậm chí đắn đo, thiếu niềm tin vào mục đích của công tác luân chuyển. Một số cấp

ủy cấp huyện thực hiện luân chuyển cán bộ còn trái ngành, nghề, chuyên ngành đào

tạo, hạn chế khả năng phát huy năng lực, sở trường của cán bộ luân chuyển. Một số

cấp ủy cấp huyện thực hiện quy trình luân chuyển cán bộ thiếu dân chủ, công khai,

mang tính áp đặt, mệnh lệnh. Tình trạng BTV cấp ủy không tổ chức gặp gỡ, trao đổi

và lắng nghe ý kiến, nguyện vọng của cán bộ thuộc diện luân chuyển; không trực

tiếp làm việc xin ý kiến của tập thể lãnh đạo, cấp ủy nơi cán bộ đang công tác trước

khi quyết định luân chuyển cán bộ vẫn còn xảy ra ở một số địa phương, cơ quan,

đơn vị. Cơ chế, chính sách hỗ trợ cán bộ luân chuyển chưa được thực hiện đồng bộ,

thống nhất.

Việc quản lý, giám sát, đánh giá cán bộ luân chuyển chưa thực sự được coi

trọng. Một số cán bộ diện luân chuyển có tư tưởng khi nhận nhiệm vụ công tác tại

cơ quan, đơn vị, địa phương khác chỉ làm việc cầm chừng, tránh va chạm, “dĩ hòa vi

quý” để hết thời hạn được xem xét, bổ nhiệm vị trí mới cao hơn. Do đó, tại một số

địa phương, khi cán bộ được luân chuyển giữ các chức vụ cán bộ chủ chốt như bí

thư đảng ủy hay chủ tịch UBND thì các phong trào có xu hướng “bình quân chủ

nghĩa”, hoặc làm cho xong, làm lấy lệ; không khuyến khích cán bộ, đảng viên phấn

đấu vươn lên để khẳng định giá trị bản thân trong công việc.

* Bố trí, sử dụng cán bộ có lúc còn “đúng quy trình”, nhưng chưa sử

dụng được đúng người, đúng việc, đúng lúc

Việc bố trí, sử dụng CBLĐ, QL của HTCT cấp huyện ở tỉnh Bắc Ninh có

lúc, có nơi chưa chính xác, chưa lựa chọn đúng người, đúng việc, đúng thời điểm.

Một số cấp ủy khi lựa chọn CBLĐ, QL có lúc đã quá coi trọng bằng cấp, tuổi tác và

kinh nghiệm công tác. Một số trường hợp lựa chọn, bổ nhiệm không thực sự gắn với

quy hoạch. Tình trạng hụt hẫng CBLĐ, QL do việc chậm chễ trong bố trí cán bộ

thay thế cán bộ nghỉ hưu, hoặc cán bộ năng lực yếu, phẩm chất đạo đức giảm sút, vi

129

phạm pháp luật còn diễn ra tại một số cơ quan, ban, ngành huyện. Một số chức danh

CBLĐ, QL là cấp trưởng không kiện toàn được trong thời gian dài, ảnh hưởng đến

tiến độ và chất lượng công việc. Công tác bầu cử Ban chấp hành Đảng bộ tại một số

Đại hội Đảng bộ huyện còn nặng về cơ cấu, chưa quan tâm đến chất lượng cán bộ.

Nhiệm kỳ 2015-2020 một số Ủy viên BCH Đảng bộ huyện còn có trình độ chuyên

môn Trung cấp. Công tác sắp xếp cán bộ sau Đại hội theo đúng Đề án nhân sự chưa

thực hiện kịp thời. Tại một số Đảng bộ huyện, nhân sự dự kiến không trúng cử,

song việc điều động, bố trí cán bộ này vào vị trí công tác khác không cơ cấu Ủy

viên BCH chưa được thực hiện.

Công tác bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, giới thiệu ứng cử người đứng đầu là

trưởng phòng và tương đương cấp huyện theo Quyết định 634-QĐ/TU ngày 06-12-

2012 của Tỉnh ủy chưa được triển khai đồng bộ ở các huyện; một số huyện đã triển

khai thực hiện, nhưng mang nặng tính hình thức. Cụ thể, theo quy định khi thực

hiện bổ nhiệm chức danh lãnh đạo là cấp trưởng từ nguồn nhân sự tại chỗ, yêu cầu

ứng cử viên phải trình bày chương trình hành động và ít nhất phải có 02 ứng cử viên

tham gia, song tình trạng chung là chỉ có duy nhất 01 ứng cử viên trình bày trước

hội đồng giám khảo. Công tác thẩm định cán bộ kết quả chưa cao, chủ yếu là thẩm

định hồ sơ, trên cơ sở các biên bản lấy phiếu tín nhiệm của cán bộ, đảng viên nơi

công tác và nơi cư trú. Bên cạnh đó, một số cấp ủy có lúc còn bổ nhiệm cán bộ thiếu

tiêu chuẩn, điều kiện theo quy định, chủ yếu là thiếu chứng chỉ bồi dưỡng quản lý

nhà nước chương trình chuyên viên, chuyên viên chính, chứng chỉ ngoại ngữ, tin

học; hoặc bổ nhiệm chức vụ khi đang theo học lớp lý luận chính trị…

* Tiến hành công tác quản lý, kiểm tra, giám sát cán bộ và thực hiện

chính sách cán bộ có lúc, có nơi chưa được thực hiện thường xuyên và còn biểu

hiện hình thức

Việc quản lý CBLĐ, QL của một số BTV cấp ủy cấp huyện có lúc có biểu

hiện còn chưa nền nếp, chưa chặt chẽ, chất lượng thấp, chưa nắm được thực chất

cán bộ. Việc nắm bắt diễn biến tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, quan hệ xã hội

của cán bộ còn lúng túng. Công tác quản lý cán bộ còn nặng về quản lý hồ sơ. Công

tác kiểm tra, giám sát cán bộ có lúc, có nơi còn lúng túng, hình thức, chiếu lệ. Chủ

yếu các cấp ủy đảng chỉ tiến hành công việc này khi cán bộ có dấu hiệu vi phạm, có

đơn thư tố cáo. Công tác kiểm tra, giám sát về công tác cán bộ chưa được làm

130

thường xuyên, chưa thành nền nếp, thậm chí có lúc bị buông lỏng. Vì vậy, chưa

ngăn chặn có hiệu quả những khuyết điểm, vi phạm của cán bộ khi có dấu hiệu

manh nha, dẫn đến một số CBLĐ, QL bị kỷ luật khai trừ khỏi Đảng, bị truy tố trách

nhiệm hình sự. Trong quá trình xem xét, xử lý cán bộ vi phạm, có nơi, cấp ủy còn

nể nang, né tránh.

Các chế độ chính sách đãi ngộ đối với CBLĐ, QL còn ở mức thấp, chưa phát

huy sự nhiệt tình công tác của cán bộ, nhất là chính sách tiền lương còn nhiều bất

cập. Chưa có chính sách khuyến khích những người tâm huyết, lao động tận tâm,

tận lực, năng suất cao. Đồng thời, chưa thực hiện những biện pháp kiên quyết thay

thế những cán bộ “sáng cắp ô đi, tối cắp ô về”, vi phạm kỷ luật. Công tác thi đua,

khen thưởng chậm đổi mới, khen thưởng chưa thực chất, mang “bệnh thành tích”,

có ít tác dụng, thậm chí có nơi, có lúc còn gây phản cảm, phản tác dụng.

3.3.2.4. Chưa phát huy tốt vai trò, trách nhiệm tham gia của các tổ chức

trong hệ thống chính trị và nhân dân trong phát triển đội ngũ cán bộ lãnh đạo,

quản lý của hệ thống chính trị cấp huyện

Vai trò của các tổ chức trong HTCT tham gia vào các hoạt động phát triển

đội ngũ CBLĐ, QL ở một số huyện chưa phát huy mạnh mẽ, hiệu quả chưa cao.

Một số cấp ủy đảng chưa coi trọng công tác giám sát cán bộ của MTTQ và các tổ

chức CT-XH. Các tổ chức CT-XH còn gặp nhiều lúng túng, không có phương pháp,

chiến lược, kế hoạch cụ thể giám sát hoạt động của CBLĐ, QL và công tác cán bộ

của cấp ủy đảng. Công tác phối hợp giữa các cơ quan, đơn vị trong thực hiện công

tác quản lý cán bộ chưa chặt chẽ, đồng bộ. Việc hướng dẫn của các ban, ngành tỉnh

đối với những vấn đề mới nảy sinh trong công tác cán bộ của cấp uỷ huyện có lúc

còn chung chung, chưa cụ thể, chưa thực sự thống nhất trong toàn tỉnh.

3.3.3. Nguyên nhân, những vấn đề đặt ra

3.3.3.1 Nguyên nhân

* Nguyên nhân của thành tựu

Một là, các nghị quyết, chỉ thị, quy định, quy chế của Đảng, Nhà nước về cán

bộ và công tác cán bộ trong giai đoạn hiện nay được ban hành kịp thời và ngày

càng cụ thể hơn

Trong quá trình lãnh đạo công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, Đảng ta đã

đặc biệt quan tâm xây dựng đội ngũ CBLĐQL các cấp, các ngành, đã ban hành kịp

131

thời các nghị quyết, chỉ thị, quy định, quy chế về công tác cán bộ. Những nghị

quyết, chỉ thị, quy định, quy chế ấy lại được bổ sung ngày càng hoàn thiện hơn.

Năm 1997, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 3, khóa VIII đã ra Nghị

quyết “Về chiến lược cán bộ trong thời kỳ đẩy mạnh CNH-HĐH đất nước”. Nghị

quyết là cơ sở để các địa phương triển khai thực hiện xây dựng đội ngũ cán bộ đáp

ứng yêu cầu của thời kỳ mới. Vấn đề cán bộ và công tác cán bộ luôn được Đảng ta

đặc biệt nhấn mạnh trong các Nghị quyết Đại hội IX, Đại hội X, Đại hội XI và trong

nhiều Nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương và Bộ Chính trị. Đặc biệt, tới Đại

hội XII, Đảng ta đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo tiến hành tổng kết 20 năm thực hiện

Nghị quyết Trung ương 3, khóa VIII, đồng thời ban hành nhiều Nghị quyết về công

tác cán bộ như Nghị quyết Trung ương 4 về “tăng cường xây dựng, chỉnh đốn

Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống,

những biểu hiện “tự diễn biến” “tự chuyển hóa” trong nội bộ”; Nghị quyết Trung

ương 6 về “tiếp tục đổi mới hệ thống tổ chức, quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu

quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập”; Nghị quyết Trung ương 7 “tập

trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng

lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ”. Những nội dung Nghị quyết về cán bộ và công

tác cán bộ, những quy định, hướng dẫn về thực hiện các khâu của công tác cán bộ

có vai trò to lớn đối với công tác cán bộ LĐQL của HTCT cấp huyện ở tỉnh Bắc

Ninh hiện nay. Đây là căn cứ đặc biệt quan trọng để cấp ủy tỉnh, huyện ở Bắc Ninh

quán triệt, đề ra các chủ trương, giải pháp về phát triển đội ngũ CBLĐQL các cấp,

trong đó có cấp huyện và tổ chức thực hiện đem lại kết quả.

Hai là, sự lãnh đạo, chỉ đạo thường xuyên, đúng đắn của Tỉnh ủy Bắc Ninh,

các huyện ủy và cơ quan chức năng đối với công tác cán bộ, phát triển đội ngũ cán

bộ LĐQL của HTCT cấp huyện ở tỉnh Bắc Ninh

Với vai trò hạt nhân lãnh đạo mọi mặt hoạt động, Tỉnh ủy và các huyện ủy

trực thuộc Tỉnh ủy Bắc Ninh đã thường xuyên nắm vững và quán triệt sâu sắc các

nghị quyết, chỉ thị, hướng dẫn của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban

Bí thư, Ban Tổ chức Trung ương về công tác cán bộ; nắm vững thực trạng chất

lượng đội ngũ cán bộ của tỉnh nói chung và đội ngũ CBLĐ, QL cấp huyện nói

riêng; kịp thời xác định các chủ trương, biện pháp, kế hoạch lãnh đạo, chỉ đạo kịp

thời. Hằng năm và trong từng giai đoạn cách mạng, căn cứ các văn bản quy định và

132

hướng dẫn của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Tỉnh ủy Bắc Ninh, các

huyện ủy đã nghiên cứu, vận dụng, cụ thể hóa thành những quy chế, quy trình, quy

định chặt chẽ.

Trong những năm qua, Tỉnh ủy Bắc Ninh đã xây dựng, ban hành và chỉ đạo

tổ chức thực hiện thống nhất trong toàn Đảng bộ nhiều văn bản hướng dẫn về công

tác cán bộ, như: Quy chế bầu cử trong Đảng, trong các cơ quan nhà nước và đoàn

thể; các quy chế, quy định về tiêu chuẩn, chức danh cán bộ; về phân công, phân cấp

quản lý cán bộ; về đánh giá, bố trí, sử dụng, đề bạt, bổ nhiệm, giới thiệu cán bộ ứng

cử, bổ nhiệm lại, miễn nhiệm; về quy trình bổ nhiệm cán bộ, quy hoạch cán

bộ…Trên cơ sở các văn bản quy định đó, Tỉnh ủy Bắc Ninh chỉ đạo, hướng dẫn 8/8

huyện, thị trực thuộc áp dụng thực hiện thống nhất theo phân cấp quản lý cán bộ.

Trong quá trình thực hiện, các quy chế, quy trình và hướng dẫn đã phát huy được

tinh thần dân chủ, công khai, minh bạch, góp phần khắc phục được tình trạng vi

phạm nguyên tắc tập trung dân chủ trong công tác cán bộ.

Ba là, tuyệt đại đa số CBLĐ, QL của HTCT cấp huyện ở tỉnh Bắc Ninh đã

quyết tâm khắc phục khó khăn, nỗ lực phấn đấu vươn lên trong học tập, công tác,

tích lũy kinh nghiệm và rèn luyện phẩm chất đạo đức, lối sống đáp ứng yêu cầu

nhiệm vụ được giao.

Cùng với sự quan tâm giáo dục, rèn luyện tổ chức, sự tích cực chủ động phấn

đấu vươn lên trong tự học tập, rèn luyện, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn

nghiệp vụ, phẩm chất, năng lực và phong cách làm việc của đội ngũ CBLĐ, QL của

HTCT cấp huyện ở tỉnh Bắc Ninh chính là một trong những nguyên nhân cơ bản,

trực tiếp quyết định đến công tác phát triển của chính đội ngũ này những năm qua.

Theo đó, đội ngũ CBLĐ, QL của HTCT cấp huyện ở tỉnh Bắc Ninh vừa là đối

tượng của công tác bồi dưỡng, quản lý, trực tiếp lĩnh hội, tiếp nhận sự quản lý, bồi

dưỡng, xây dựng của tổ chức, nhưng chính họ lại là chủ thể của nhận thức, chủ thể

của hoạt động tự bồi dưỡng, tự xây dựng, tự rèn luyện. Đội ngũ cán bộ này cơ bản

đã xác định được trách nhiệm và nhiệm vụ của mình, quyết tâm khắc phục khó

khăn, phấn đấu vươn lên hoàn thành nhiệm vụ được giao.

Bốn là, phần lớn các cấp ủy huyện ở tỉnh Bắc Ninh đã lãnh đạo và phát huy

tốt vai trò của các tổ chức chính trị - xã hội và đội ngũ cán bộ, công chức ở các cơ

quan, đơn vị trong phát triển đội ngũ CBLĐ, QL của HTCT cấp huyện.

133

Phần lớn cấp ủy các địa phương của tỉnh Bắc Ninh đã có nhận thức đúng và

tìm các giải pháp phát huy có hiệu quả vai trò của các tổ chức chính trị - xã hội và

cổ vũ, động viên toàn thể cán bộ, công chức trong cơ quan tham gia tích cực vào

công tác xây dựng và phát triển đội ngũ CBLĐ, QL của cơ quan mình, coi đó là một

trong những nhân tố quyết định để cơ quan hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Các tổ

chức chính trị - xã hội ở nhiều huyện trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh đã xác định tham

gia xây dựng đội ngũ CBLĐ, QL của địa phương, đơn vị là nhiệm vụ, trách nhiệm

và quyền lợi của mình. Từ đó, đã chủ động, tích cực tham gia có hiệu quả vào công

việc này.

* Nguyên nhân của hạn chế

Có nhiều nguyên nhân khiến chất lượng đội ngũ và công tác phát triển đội

ngũ CBLĐ, QL của HTCT cấp huyện chưa đạt được kết quả như mong muốn.

Trong đó có nguyên nhân chủ quan, nguyên nhân khách quan, có thể nêu một trong

số những nguyên nhân chủ yếu.

Một là, một số cấp ủy huyện ở tỉnh Bắc Ninh nhận thức về các chủ trương,

nghị quyết của Đảng về cán bộ và công tác cán bộ còn có điểm chưa sâu sắc; việc

cụ thể hóa thành các chủ trương, giải pháp phát triển đội ngũ CBLĐ, QL của địa

phương còn hạn chế

Một số cấp ủy, tổ chức Đảng cấp huyện ở tỉnh Bắc Ninh chưa nhận thức rõ

về vị trí, vai trò của các loại cán bộ, dẫn tới chưa có cơ chế, chính sách phù hợp để

xây dựng từng loại cán bộ đáp ứng yêu cầu thực tiễn. Chưa xác định rõ các nội

dung, yêu cầu về năng lực, phẩm chất, uy tín ngang tầm nhiệm vụ của đội ngũ

CBLĐ, QL của HTCT cấp huyện trong điều kiện nhiệm vụ chính trị đã thay đổi.

Nhận thức về vai trò của nhân dân trong công tác cán bộ chưa thực sự đúng

đắn, đầy đủ. Việc phát huy vai trò của nhân dân trong công tác cán bộ còn hạn chế.

Nhận thức về phát huy dân chủ trong công tác cán bộ còn nhiều bất cập, quy trình

trong công tác cán bộ còn dân chủ hình thức, khó phát hiện và bổ sung người tài,

người ngoài đảng vào bộ máy LĐ, QL. Nhận thức về luân chuyển cán bộ và quy

hoạch cán bộ còn nhầm lẫn với công tác cán bộ theo hướng để bổ nhiệm, đề bạt.

Chưa nhận thức đúng đắn vai trò của luân chuyển và quy hoạch là nhằm để phát

hiện người tài, rèn luyện, đào tạo cán bộ trong thực tiễn. Nhận thức về đào tạo, bồi

dưỡng chưa đúng đắn, còn quá chú trọng quy mô, số lượng, coi nhẹ chất lượng,

134

chạy theo bằng cấp, không chú trọng đào tạo, bồi dưỡng theo chức danh trong bối

cảnh tình hình mới.

Hai là, công tác lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện của một số cấp ủy

huyện ở tỉnh Bắc Ninh chưa thực sự nghiêm túc trong các khâu của quy trình công

tác cán bộ.

Đa số các cấp ủy đảng, tập thể lãnh đạo chỉ chú trọng khâu tuyển chọn, quy

hoạch, bố trí, sử dụng, chế độ chính sách cán bộ, mà coi nhẹ xây dựng tiêu chí, tiêu

chuẩn hóa chức danh, đánh giá cán bộ, kiểm tra, giám sát cán bộ và công tác cán bộ.

Các tiêu chuẩn chức danh CBLĐ, QL chưa được xây dựng cụ thể, rõ ràng.

Các tiêu chí đánh giá cán bộ, quy trình đánh giá, phương pháp đánh giá cán bộ còn

chung chung, chưa cụ thể đối với từng chức danh, có thể áp dụng vào cơ quan, đơn vị

nào cũng đúng và chức danh nào cũng phù hợp. Việc xây dựng tiêu chuẩn chức danh

còn nặng về bằng cấp nên dẫn đến tình trạng chạy theo bằng cấp để được bổ nhiệm.

Một số cấp ủy và lãnh đạo đơn vị còn chưa thực sự kiên quyết xử lý kịp thời những cán

bộ yếu kém, uy tín thấp, không đủ sức khỏe, không hoàn thành nhiệm vụ được giao.

Trong công tác quy hoạch, một số cơ quan, đơn vị còn tư tưởng hẹp hòi, cục

bộ, khép kín. Một số cơ quan, đơn vị chưa nắm vững quy trình, trình tự các bước,

nguyên tắc quy hoạch nên lúng túng khi thực hiện; không thực hiện bổ sung quy

hoạch hằng năm, khi cần kiện toàn tổ chức, đã dẫn đến tình trạng bị động, hụt

hẫng… Chưa có cơ chế để quản lý chất lượng “đầu ra” của công tác đào tạo, bồi

dưỡng cán bộ.

Công tác nghiên cứu, dự báo nhu cầu đào tạo cán bộ gắn với chiến lược phát

triển KT-XH của tỉnh, huyện và từng ngành còn thiếu tầm nhìn, lúng túng, bất cập.

Hệ thống đào tạo, bồi dưỡng cán bộ chưa đồng bộ, vừa cồng kềnh, vừa phân tán.

Công tác quản lý đào tạo thiếu thống nhất, liên thông…

Ba là, một bộ phận CBLĐ, QL của HTCT cấp huyện ở tỉnh Bắc Ninh thiếu ý

thức học tập, rèn luyện, tu dưỡng về phẩm chất, tinh thần, năng lực chuyên môn.

Một số cán bộ có tư tưởng “an phận thủ thường”, cốt sao giữ mình hết nhiệm

kỳ, không có ý chí phấn đấu vươn lên; đi đào tạo, bồi dưỡng chỉ nhằm có bằng cấp,

đáp ứng đủ tiêu chuẩn theo quy định mà coi nhẹ mục đích thực sự của việc đào tạo,

bồi dưỡng là nhằm năng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, hiểu biết để áp dụng

có chất lượng, hiệu quả vào giải quyết công việc.

135

Bốn là, một số chủ trương, chính sách của Đảng, văn bản pháp luật của Nhà

nước trong khâu tuyển chọn, bổ nhiệm cán bộ, thực hiện chính sách cán bộ chưa

được cụ thể hóa để thực hiện thống nhất.

Hiện nay đang có những vướng mắc trong quy định về thẩm quyền và trách

nhiệm của người đứng đầu cơ quan, đơn vị trong công tác cán bộ; chế độ thực tập

và tập sự lãnh đạo; chính sách nhà ở của CB, CC và lực lượng vũ trang; chế độ

miễn nhiệm, từ chức, cho thôi việc, thay thế cán bộ kém phẩm chất và năng lực để

phương châm có lên, có xuống, có vào, có ra được thực hiện bình thường trong bố

trí, sử dụng cán bộ; cơ chế để nhân dân phát hiện, tiến cử những người có đức, có

tài cho các cơ quan lãnh đạo Đảng, Nhà nước và đoàn thể; chế độ định kỳ cán bộ tự

phê bình, lắng nghe và tiếp thu những ý kiến đóng góp của dân; v.v..

Năm là, đội ngũ cán bộ chuyên trách làm công tác tổ chức, cán bộ còn hạn

chế về năng lực, trình độ, tính chuyên nghiệp chưa cao.

Quy chế làm việc của các ban tổ chức chưa rõ ràng, chậm đổi mới. Nhiều

cán bộ làm việc thụ động, sự vụ, khả năng nghiên cứu, tham mưu, đề xuất, tổng hợp

còn hạn chế. Cán bộ được đào tạo bài bản chưa nhiều, một số cán bộ làm trái

chuyên môn, hoặc chưa có kinh nghiệm công tác.

3.3.3.2. Những vấn đề đặt ra cần giải quyết

Từ kết quả nghiên cứu thực trạng đội ngũ cán bộ và công tác phát triển đội

ngũ CBLĐ, QL của HTCT cấp huyện ở tỉnh Bắc Ninh, có thể đưa ra một số vấn đề

đặt ra cần giải quyết đối với công tác phát triển đội ngũ CBLĐ, QL của HTCT cấp

huyện ở tỉnh Bắc Ninh như sau:

Thứ nhất, số lượng đội ngũ CBLĐ, QL của HTCT cấp huyện ở tỉnh Bắc

Ninh tương đối hợp lý song có xu hướng tăng lên, đặc biệt là cán bộ là cấp phó

phòng, nhưng hiệu quả xử lý công việc có lúc, có nơi còn thấp và chậm. Do tổ chức

bộ máy của HTCT còn cồng kềnh, cơ cấu đội ngũ cán bộ còn chồng chéo, trùng lắp,

cản trở lẫn nhau trong thực hiện nhiệm vụ. Vì vậy cần phải xây dựng đội ngũ

CBLĐ, QL của HTCT cấp huyện ở tỉnh Bắc Ninh tinh gọn về số lượng, cơ cấu hợp

lý, có chất lượng gắn với đổi mới tổ chức.

Thứ hai, đội ngũ CBLĐ, QL của HTCT cấp huyện ở tỉnh Bắc Ninh có bằng

cấp đào tạo ngày càng cao theo quy định về tiêu chuẩn bằng cấp song trên thực tế

năng lực, phẩm chất, uy tín chưa ngang tầm nhiệm vụ. Do vậy, cần xem xét nội

136

dung, chất lượng, cách tổ chức đào tạo, bồi dưỡng của các cơ sở đào tạo và phương

thức, trách nhiệm đào tạo cán bộ của các cấp ủy quản lý cán bộ.

Thứ ba, các quy định, quy chế, hướng dẫn về cán bộ và công tác cán bộ ngày

càng nhiều và chặt chẽ hơn song vẫn còn tình trạng thực hiện công tác cán bộ đúng

quy trình nhưng không đúng người, đúng việc, đúng thời điểm. Trong tuyển chọn

cán bộ chưa thực sự chọn được người thực tài, thực đức. Tuyển chọn cán bộ vẫn

còn nặng nề cơ cấu, còn tư duy “ cờ đến tay ai người đấy phất” “bình quân chủ

nghĩa”…Do đó, tổ chức bộ máy làm công tác cán bộ cần phải được đổi mới. Vì hiện

tượng bổ nhiệm, đề bạt sai, chưa đúng người trước hết là trách nhiệm thuộc về cấp

ủy và cơ quan làm công tác cán bộ.

Thứ tư, công tác đánh giá cán bộ LĐ, QL được thực hiện thường xuyên, hàng

năm và theo nhiệm kỳ nhưng kết quả chưa phản ánh đúng thực chất, còn lúng túng,

xuề xòa, qua loa, hình thức. Xây dựng tiêu chuẩn chức danh cán bộ lãnh đạo, quản

lý còn chung chung, khó phân biệt, khó nhớ, chủ yếu dựa vào trình độ chuyên môn

nghiệp vụ, kinh nghiệm công tác. Vì vậy, cần xem xét các tiêu chí, nội dung, quy

trình đánh giá cán bộ lãnh đạo, quản lý.

Tiểu kết chƣơng 3

Phát triển đội ngũ CBLĐ, QL của HTCT cấp huyện ở tỉnh Bắc Ninh là vấn đề

quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả xây dựng tổ chức và thực hiện nhiệm vụ

chính trị của từng cơ quan, đơn vị, địa phương và cả Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh.

Nhận thức đúng vị trí, vai trò quan trọng của công tác này, trong những năm

qua, Tỉnh ủy, các BTV cấp ủy cấp huyện và các cơ quan chức năng đã thường

xuyên quan tâm, chăm lo xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ CBLĐ, QL các

cấp của tỉnh nói chung và của HTCT cấp huyện nói riêng. Chính vì vậy, chất lượng

của đội ngũ cán bộ và chất lượng của công tác phát triển đội ngũ CBLĐ, QL cấp

huyện ngày càng được nâng lên rõ rệt, góp phần tích cực vào việc hoàn thành thực

hiện nhiệm vụ chính trị của các địa phương, cơ quan, đơn vị. Bên cạnh những kết

quả đạt được, chất lượng đội ngũ và công tác phát triển đội ngũ cán bộ này còn bộc

lộ một số mặt hạn chế, làm ảnh hưởng không nhỏ đến kết quả thực hiện nhiệm vụ

phát triển KT-XH, bảo đảm quốc phòng, an ninh và các lĩnh vực hoạt động khác

của địa phương.

137

Việc đánh giá đúng thực trạng đội ngũ cán bộ và công tác phát triển đội ngũ

CBLĐ, QL của HTCT cấp huyện là cơ sở quan trọng và là căn cứ sát thực nhất để

xác định đúng phương hướng, mục tiêu và đề ra những giải pháp chủ yếu nhằm phát

triển đội ngũ cán bộ này.

138

Chƣơng 4

QUAN ĐIỂM VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU TIẾP TỤC PHÁT TRIỂN

ĐỘI NGŨ CÁN BỘ LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ CỦA HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ

CẤP HUYỆN Ở TỈNH BẮC NINH ĐẾN NĂM 2030

4.1. Quan điểm phát triển đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý của hệ thống

chính trị cấp huyện ở tỉnh Bắc Ninh

4.1.1. Phát triển đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý của hệ thống chính trị

cấp huyện ở Bắc Ninh hiện nay phải xuất phát từ nhiệm vụ chính trị, phát triển

kinh tế -xã hội của tỉnh, từ đặc điểm và yêu cầu của thực tiễn ở tỉnh Bắc Ninh

Bắc Ninh là tỉnh có vị trí địa kinh tế, chính trị thuận lợi, hệ thống hạ tầng khá

đồng bộ, hiện đại; HTCT ổn định, đoàn kết, thống nhất; năng lực và trình độ sản

xuất của nhiều cơ sở, nhiều ngành kinh tế được tăng cường đáng kể. Sự phát triển

mạnh mẽ của ngành công nghệ cao, công nghệ sạch đã và đang được triển khai một

cách hài hòa và hiệu quả. Là tỉnh có nền văn hóa phong phú, hội tụ của kho tàng

văn hoá nghệ thuật đặc sắc truyền thống văn hóa Kinh Bắc. Trình độ dân trí khá

cao, đa số người lao động đã tiếp cận với nền sản xuất hàng hoá…là những thuận

lợi, động lực để thúc đẩy KT-XH tỉnh Bắc Ninh trong những năm tiếp theo.

Bên cạnh những thuận lợi, tỉnh Bắc Ninh cũng phải đối mặt với nhiều thách

thức bởi diễn biến phức tạp của tình hình thế giới, khu vực và trong nước. Kinh tế

của tỉnh phát triển nhưng chưa phát huy hết tiềm năng, lợi thế; đa số doanh nghiệp

nhỏ và vừa trong nước hoạt động hiệu quả thấp; mật độ dân số cao; hệ thống trường

đào tạo trong tỉnh còn thiếu và yếu, trong khi nhu cầu về lao động có tay nghề ngày

càng cao. Do vậy, để thực hiện mục tiêu “phấn đấu đưa tỉnh Bắc Ninh trở thành

thành phố trực thuộc Trung ương vào những năm 20 của thế kỷ 21 theo hướng văn

minh, hiện đại”[162, tr.121], tỉnh Bắc Ninh phải nhận diện rõ những thách thức,

thời cơ, xác định đúng tiềm năng, thế mạnh của tỉnh nhằm xây dựng những biện

pháp và đề ra lộ trình thực hiện có hiệu quả những giải pháp đó. Một trong những

giải pháp quan trọng hàng đầu chính là phát triển được một đội ngũ cán bộ đảm bảo

số lượng, cơ cấu hợp lý và chất lượng cao từ tỉnh đến cơ sở để nâng cao hiệu lực,

hiệu quả hoạt động của cả hệ HTCT, đảm bảo hoàn thành các mục tiêu, nhiệm vụ đề

ra. Đội ngũ CBLĐ, QL của HTCT cấp huyện là một bộ phận quan trọng trong

139

nguồn lực cán bộ của tỉnh, là yếu tố quyết định hiệu quả hoạt động của HTCT cấp

huyện ở tỉnh Bắc Ninh hiện nay. Là cấp trung gian nối liền cấp Trung ương, tỉnh

với cấp cơ sở- cấp trực tiếp quản lý đại bàn dân cư, triển khai và hướng dẫn nhân

dân thực hiện các nhiệm vụ KT-XH của tỉnh.

Trong giai đoạn hiện nay, Bắc Ninh xác định nhiệm vụ phát triển chủ yếu:

Một là, đẩy mạnh tái cơ cấu kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng theo

hướng phát huy lợi thế so sánh, năng lực cạnh tranh để nâng cao hiệu quả nền kinh

tế; đẩy nhanh quá trình đô thị hóa, xây dựng nền tảng đưa Bắc Ninh trở thành thành

phố trực thuộc Trung ương. Trong đó, tập trung phát triển công nghiệp công nghệ

cao, sản phẩm đảm bảo tính cạnh tranh trên thị trường quốc tế, tạo bước chuyển sản

xuất làng nghề theo hướng bền vững. Đẩy mạnh phát triển các ngành dịch vụ có giá

trị gia tăng cao và thúc đẩy quá trình đô thị hóa, phát triển thị trường khu vực nông

thôn. Tập trung phát triển ngành nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa, ứng

dụng công nghệ cao, nông nghiệp sinh thái, chất lượng, hiệu quả, giá trị gia tăng

cao. Đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng KT-XH, hạ tầng đô thị và nông thôn theo

hướng đồng bộ hiện đại, hướng tới đô thị văn minh, hiện đại. Hai là, phát triển toàn

diện các lĩnh vực văn hóa - xã hội, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, giải quyết

việc làm, đảm bảo an sinh và phúc lợi xã hội; tăng cường quản lý tài nguyên, bảo vệ

môi trường sinh thái. Trong đó, tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy đảng và chính

quyền đối với giáo dục, thực sự coi giáo dục - đào tạo là quốc sách hàng đầu; không

ngừng nâng cao chất lượng chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân. Xây dựng nền văn

hóa và con người Bắc Ninh phát triển toàn diện, mang bản sắc Bắc Ninh – Kinh Bắc;

bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hoá truyền thống, xây dựng một số địa bàn dân cư

mang đậm dấu ấn truyền thống văn hóa, lịch sử của vùng Kinh Bắc. Tập trung đào tạo

nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao coi đây là khâu đột phá chiến

lược trong phát triển kinh tế tri thức. Đồng thời, xây dựng tiềm lực khoa học công nghệ

của tỉnh, trọng tâm là hình thành đội ngũ các nhà khoa học, nhà quản lý giỏi. Ba là,

đảm bảo quốc phòng, an ninh, kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế với quốc phòng,

an ninh; chủ động phòng ngừa và đấu tranh trấn áp các loại tội phạm. Bốn là, chăm lo

công tác xây dựng Đảng, xây dựng HTCT vững mạnh, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ

mới. Thực hiện tốt công tác tổ chức, cán bộ, công tác chính trị tư tưởng, công tác dân

vận, nội chính, kiểm tra, giám sát của Đảng.

140

Để có thể hoàn thành tốt các nhiệm vụ mà Đảng bộ tỉnh đã đề ra phải có sự

nỗ lực, quyết tâm thực hiện của cả HTCT từ tỉnh đến cơ sở. Các cấp, các ngành, các

cơ quan, đơn vị phải có trách nhiệm xây dựng chương trình hành động, xây dựng kế

hoạch thực hiện rõ ràng, cụ thể để thực hiện thành công các chỉ tiêu, nhiệm vụ của

tỉnh đề ra. Nguồn lực trực tiếp đưa nghị quyết trở thành hiện thực chính là đội ngũ

CBLĐ, QL các cấp, trong đó có đội ngũ cán bộ của HTCT cấp huyện. Vì vậy, phát

triển đội ngũ CBLĐ, QL của HTCT cấp huyện ở tỉnh Bắc Ninh hiện nay phải nhằm

mục đích ổn định tình hình chính trị, phát triển KT-XH chung của tỉnh và từng địa

phương, địa bàn cụ thể. Để thực hiện được điều này, trong giai đoạn hiện nay tỉnh

Bắc Ninh cần:

Xác định rõ thế mạnh, tiềm năng, thuận lợi cũng như những thách thức, khó

khăn, hạn chế của tỉnh để xây dựng phương hướng, mục tiêu phát triển KT-XH phù

hợp với tình hình thực tiễn trong từng giai đoạn nhất định, trong đó có việc xây

dựng và phát triển nguồn lực CBLĐ, QL trong HTCT các cấp. Trên cơ sở các điều

kiện, tiêu chuẩn chung mà Trung ương quy định, cần căn cứ vào tình hình chung

của tỉnh, tình hình, đặc điểm riêng của từng địa phương khác nhau trong tỉnh để xây

dựng và thực hiện các chỉ tiêu về phát triển số lượng, nâng cao chất lượng, điều

chỉnh cơ cấu đội ngũ CBLĐ, QL của HTCT cấp huyện. Các giải pháp nhằm phát

triển đội ngũ CBLĐ, QL của HTCT cấp huyện phải bám sát mục tiêu góp phần thực

hiện nhiệm vụ chính trị, nhiệm vụ phát triển KT-XH của từng địa phương. Với địa

bàn nông thôn, hoạt động nông nghiệp là chủ đạo, đội ngũ CBLĐ, QL phải biết xây

dựng chương trình, kế hoạch, đề án phát triển kinh tế nông nghiệp, khai thác có hiệu

quả thế mạnh của địa phương. Địa bàn nông thôn nhưng tập trung nhiều làng nghề

truyền thống, đội ngũ CBLĐ, QL cần có kiến thức thực tiễn và khoa học để xây

dựng đề án, phương án quy hoạch làng nghề nhằm phát triển tiềm năng, thế mạnh

của địa phương đồng thời bảo vệ môi trường, giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho

người dân địa phương… Với địa bàn đô thị, đội ngũ cán bộ phải có kiến thức và

năng lực thực tiễn đa dạng để nắm bắt, quản lý hiệu quả các hoạt động kinh tế, văn

hoá, xã hội, dân cư…

Nắm chắc thực trạng đội ngũ cán bộ trong HTCT của tỉnh, thực trạng về số

lượng, cơ cấu, đến chất lượng của đội ngũ CBLĐ, QL của từng địa phương, cơ

quan, đơn vị. Tiến hành so sánh, chỉ ra được sự chênh lệch về số lượng, trình độ,

141

năng lực của đội ngũ CBLĐ, QL giữa các huyện trong tỉnh, từ đó làm căn cứ để xây

dựng chương trình, nội dung đào tạo, bồi dưỡng đối với từng nhóm đối tượng. Việc

sử dụng, bố trí, cất nhắc, đánh giá, kiểm tra đội ngũ CBLĐ, QL ở từng địa phương

của tỉnh Bắc Ninh bên cạnh tuân thủ những quy định chung cần chú ý đến tính đặc

thù của từng huyện, tránh rập khuôn, máy móc…

4.1.2. Phát triển đội ngũ cán bộ lãnh đao, quản lý của hệ thống chính trị

cấp huyện ở tỉnh Bắc Ninh hiện nay phải đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng; gắn

với xây dựng, đổi mới, tinh gọn tổ chức, bộ máy trong hệ thống chính trị, tinh

giản biên chế

Tổ chức, cán bộ và thể chế là ba vấn đề có mối quan hệ biện chứng chặt chẽ.

Tổ chức đặt ra yêu cầu và quyết định mục tiêu, phương hướng xây dựng, sử dụng,

phát triển đội ngũ cán bộ. Tổ chức gọn nhẹ, chức năng, nhiệm vụ, mối quan hệ công

tác rõ ràng sẽ tạo môi trường thuận lợi để cán bộ phát huy tốt nhất khả năng của bản

thân, nỗ lực phấn đấu hoàn thành nhiệm vụ. Đội ngũ cán bộ có phẩm chất năng lực

tốt, ngang tầm nhiệm vụ sẽ là cơ sở để xây dựng, hoàn thiện tổ chức, điều hành tổ

chức đạt hiệu quả.

Để công tác phát triển đội ngũ CBLĐ, QL của HTCT cấp huyện ở tỉnh Bắc

Ninh đạt chất lượng cao trong thời gian tới, cần quán triệt sâu sắc những nội dung

quan điểm của Đảng các cấp thể hiện trong các nghị quyết:

Nghị quyết Hội nghị Trung ương 3 khóa VIII “về chiến lược cán bộ thời kỳ

đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa” đã chỉ rõ:

Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức từ cấp Trung ương đến cơ sở, đặc biệt

là cán bộ đứng đầu có phẩm chất và năng lực, có bản lĩnh chính trị vững vàng trên

cơ sở lập trường giai cấp công nhân, đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu, bảo đảm

sự chuyển tiếp liên tục và vững vàng giữa các thế hệ cán bộ, nhằm thực hiện thắng

lợi nhiệm vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, giữ vững độc lập tự chủ, đi lên chủ

nghĩa xã hội”. [67, tr. 78-79]

Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI khẳng định:

Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, đồng bộ công tác cán bộ. Thực hiện tốt chiến

lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đổi mới tư

duy, cách làm, khắc phục yếu kém trong từng khâu của công tác cán bộ. Xây dựng

và thực hiện nghiêm các cơ chế, chính sách, phát hiện, tuyển chọn, đào tạo, bồi

dưỡng cán bộ; trọng dụng những người có đức, có tài” [72, tr. 261].

142

Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công

nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Thể chế hóa, cụ thể hóa các nguyên tắc về: quan

hệ giữa đường lối chính trị và đường lối cán bộ; quan điểm giai cấp và chính sách

đại đoàn kết rộng rãi trong công tác cán bộ; quan hệ giữa tiêu chuẩn và cơ cấu; giữa

đức và tài; giữa kế thừa và phát triển; giữa sự quản lý thống nhất của Đảng với phát

huy đầy đủ trách nhiệm của các cơ quan trong hệ thống chính trị; giữa thẩm quyền

trách nhiệm của cá nhân và tập thể; giữa phân cấp, phân quyền và kiểm tra, giám

sát, kiểm soát để thực hiện thống nhất, đồng bộ trong Đảng.” [74, tr. 206].

Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh lần thứ XIX, nhiệm kỳ 2015-

2020 nêu rõ:

Xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên thật sự tiền phong gương mẫu, gần dân,

sát dân, có trách nhiệm với công việc được giao, có phẩm chất đạo đức cách mạng,

ý thức tổ chức kỷ luật và năng lực hoàn thành nhiệm vụ, vững vàng trước mọi khó

khăn, thách thức. Quan tâm công tác quy hoạch cán bộ; chú trọng công tác đào tạo,

bồi dưỡng, nâng cao trình độ, chuyên môn, nghiệp vụ, trình độ lý luận chính trị,

ngoại ngữ, tin học cho đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ công tác xây dựng

Đảng trong tình hình mới” [162, tr. 152].

Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 khóa XII “Một số vấn đề tiếp tục đổi

mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn hoạt động hiệu lực,

hiệu quả” đề ra mục tiêu: “Đến năm 2021, cơ bản hoàn thành việc sắp xếp, kiện

toàn một số tổ chức và các đầu mối bên trong của từng tổ chức theo hướng giảm

đầu mối, giảm tối đa cấp trung gian, giảm cấp phó… Thực hiện thí điểm một số mô

hình mới về tổ chức bộ máy và kiêm nhiệm chức danh để tinh gọn đầu mối, nâng

cao hiệu quả hoạt động” [77, tr.46].

“Thực hiện phân cấp, phân quyền mạnh mẽ, hợp lý giữa Trung ương và địa

phương, giữa cấp trên và cấp dưới, gắn quyền hạn với trách nhiệm; đồng thời xây

dựng cơ chế kiểm soát quyền lực chặt chẽ bằng các quy định của Đảng, pháp luật

của nhà nước”[77, tr. 50].

Nghị quyết Hội nghị Trung ương 7 khóa XII “Tập trung xây dựng đội ngũ

cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm

nhiệm vụ” đề ra mục tiêu:

Đến năm 2020: Hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực; kiên quyết xoá bỏ tệ

chạy chức, chạy quyền; ngăn chặn và đẩy lùi tình trạng suy thoái, “tự diễn biến”, 143

“tự chuyển hóa” trong cán bộ, đảng viên; đẩy mạnh thực hiện chủ trương bố trí bí

thư cấp uỷ cấp tỉnh, cấp huyện không là người địa phương; hoàn thành việc xây

dựng vị trí việc làm và rà soát, cơ cấu lại đội ngũ cán bộ các cấp gắn với kiện toàn

tổ chức bộ máy tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả” [78, tr. 57].

Tỉnh ủy Bắc Ninh cần tiến hành rà soát, kiện toàn và sắp xếp lại các tổ chức

trong HTCT cấp huyện theo hướng gọn nhẹ, hoạt động hiệu quả phù hợp với thực

tiễn, yêu cầu, nhiệm vụ của từng địa phương. Cần căn cứ điều kiện tự nhiên, KT-

XH của tỉnh cũng như từng địa phương trong tỉnh, những điều kiện thuận lợi, khó

khăn, thách thức riêng của từng huyện để xây dựng mục tiêu phát triển phù hợp

tránh tình trạng đổ đồng giữa các địa phương khác nhau. Mô hình HTCT cấp huyện

không nên là hình ảnh thu nhỏ của HTCT cấp tỉnh. Các cơ quan, tổ chức trong

HTCT cấp huyện được thành lập phù hợp với địa bàn và điều kiện của từng huyện

trong tỉnh, tránh rập khuôn, cứng nhắc, hoạt động hình thức, không hiệu quả. Do đó,

những đơn vị hành chính cấp huyện là thành phố, thị xã thì các cơ quan, tổ chức

trong HTCT tương ứng cần phải xây dựng mang tính đặc thù so với HTCT cấp

huyện là các huyện. Những huyện có điều kiện kinh tế, xã hội và tự nhiên như nhau

thì xây dựng chung một mô hình HTCT…

Bên cạnh đó, để phát triển đội ngũ CBLĐ, QL của HTCT cấp huyện ở tỉnh

Bắc Ninh, trong giai đoạn mới cần nâng cao chất lượng hoạt động của hệ thống tổ

chức, bộ máy, đổi mới cơ chế, chính sách, thể chế…Phải xác định rõ chức năng, nhiệm

vụ, quyền hạn của từng tổ chức, từng vị trí công tác của người cán bộ trong tổ chức đó,

tránh chồng chéo, trùng lắp. Xây dựng hợp lý cơ cấu tổ chức bộ máy ở từng cấp, từng

ngành và từng cơ quan; phân công, phân cấp nhiệm vụ, quyền hạn gắn với trách nhiệm

rõ ràng, cụ thể theo nguyên tắc một người, một tổ chức có thể làm nhiều việc nhưng

một việc chỉ do một tổ chức, một người chịu trách nhiệm chính.

4.1.3. Phát triển đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý của hệ thống chính trị cấp

huyện ở Bắc Ninh hiện nay phải đảm bảo yêu cầu cả về cơ cấu, trình độ chuyên

môn nghiệp vụ, bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức và năng lực thực tiễn

Trong những năm tiếp theo, để thực hiện thành công nghị quyết Đại hội

Đảng các cấp và tiến tới xây dựng tỉnh Bắc Ninh trở thành thành phố trực thuộc

Trung ương thì trọng trách đặt lên vai đội ngũ CBLĐ, QL của HTCT cấp huyện

cũng rất nặng nề. Chính vì vậy, đội ngũ CBLĐ, QL của HTCT cấp huyện phải nỗ

144

lực phấn đấu hoàn thiện nâng cao năng lực bản thân theo những định hướng phù

hợp với chiến lược phát triển KT-XH của toàn tỉnh và của từng địa phương. Cụ thể

như sau:

Thứ nhất, nâng cao phẩm chất chính trị, tư tưởng, đạo đức lối sống cho đội

ngũ CBLĐ, QL của HTCT cấp huyện ở tỉnh Bắc Ninh.

Trong thời kỳ hội nhập quốc tế sâu rộng và sự phát triển mạnh mẽ của nền

kinh tế thị trường định hướng XHCN, bên cạnh việc tạo ra nhiều cơ hội cho cán bộ

phát triển, hoàn thiện, nâng cao giá trị bản thân thì cũng tạo ra không ít những cám

dỗ dẫn đến cán bộ vi phạm pháp luật, kỷ cương, nghị quyết, đường lối của Đảng.

Chính vì vậy, công tác phát triển đội ngũ CBLĐ, QL của HTCT cấp huyện trong

tình hình hiện nay càng cần đề cao hơn nữa yêu cầu về phẩm chất chính trị, đạo

đức, lối sống.

Những phẩm chất cần chú trọng như:

- Tuyệt đối trung thành với chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,

với lợi ích quốc gia, lợi ích của tỉnh, địa phương. Bản lĩnh vững vàng, đấu tranh đối

phó với mọi thủ đoạn, âm mưu của các phần tư cơ hội, cục bộ địa phương, phần tử

phá hoại,bè phái. Muốn vậy, cần phải tăng cường công tác tuyên truyền, đẩy mạnh

giáo dục lý tưởng cách mạng, chủ trương, nghị quyết của Đảng, chính sách pháp

luật Nhà nước. Đồng thời, quan tâm, chú trọng cơ chế giám sát, bảo về cán bộ và

xây dựng cơ chế chính sách tiền lương ngày càng phù hợp, đảm bảo đời sống cho

cán bộ và gia đình cán bộ.

- Phẩm chất tận tâm, tận tuỵ phục vụ nhân dân, vì sự nghiệp ổn định và phát

triển lâu dài của tỉnh và địa phương.

Tỉnh Bắc Ninh nói chung và các địa phương trong tỉnh nói riêng đang trong

quá trình phát triển hòa mình vào công cuộc CNH, HĐH đất nước và xu thế toàn

cầu hóa trên thế giới. Từ khi tách tỉnh đến nay, từ một tỉnh thuần nông Bắc Ninh đã

cơ bản trở thành tỉnh công nghiệp, song đời sống của đội ngũ CB, CC vẫn còn chưa

tương xứng. Một số chính sách cơ bản của Nhà nước và của Tỉnh chưa thực sự thỏa

đáng với công sức, tâm huyết, thời gian của cán bộ. Chính vì vậy, một mặt Tỉnh ủy

cần chú trọng quan tâm đến chính sách đãi ngộ cán bộ, mặt khác phải tăng cường

giáo dục để mỗi cán bộ luôn tin tưởng vững vàng vào tương lai phát triển của tỉnh,

của địa phương, vào công việc mà họ đang đảm nhận. Trọng trách của họ là lớn lao,

góp phần không nhỏ vào quá trình xây dựng, phát triển KT-XH của tỉnh. Chỉ khi 145

nào kinh tế của tỉnh phát triển mạnh mẽ, bền vững cả chiều rộng và chiều sâu thì

chính quyền tỉnh mới có khả năng đãi ngộ cán bộ thỏa đáng. Đồng thời, có biện

pháp phát hiện, xử lý nghiêm minh những CBLĐ, QL tư lợi, cơ hội, tham ô, tham

nhũng, hách dịch cửa quyền để xiết chặt kỷ cương, xây dựng được đội ngũ CBLĐ,

QL của HTCT cấp huyện ở tỉnh Bắc Ninh đoàn kết, trong sạch, phục vụ nhân dân.

Thứ hai, xây dựng được cơ cấu đội ngũ CBLĐ, QL của HTCT cấp huyện ở

tỉnh Bắc Ninh phù hợp, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chính trị trong từng giai đoạn

lịch sử của tỉnh và của từng địa phương.

Mục tiêu đến năm 2030, tỉnh Bắc Ninh có nền kinh tế phát triển hài hoà, bền

vững; là một trong những tỉnh dẫn đầu về sự thịnh vượng và chất lượng cuộc sống

của người dân. Trở thành thành phố trực thuộc Trung ương với đô thị hiện đại – văn

minh – sinh thái – giàu bản sắc. Để hoàn thành mục tiêu trên, cấp ủy các cấp phải

xây dựng cho được đội ngũ CBLĐ, QL trong HTCT từ tỉnh xuống cơ sở có cơ cấu

hợp lý về trình độ chuyên môn, lĩnh vực đào tạo, kinh nghiệm công tác, độ

tuổi…phù hợp với chiến lược phát triển KT-XH chung của toàn tỉnh trong đó có

định hướng phát triển riêng của từng địa phương, nhằm chủ động sử dụng, kiện

toàn, thay thế các thế hệ CBLĐ, QL.

Thứ ba, chú trọng nâng cao năng lực của đội ngũ CBLĐ, QL của HTCT cấp

huyện ở tỉnh Bắc Ninh.

Những kết quả khảo sát về năng lực cán bộ nêu ở chương 3 cho thấy, vẫn

còn một bộ phận CBLĐ, QL chưa hội đủ năng lực cần thiết để hoàn thành tốt nhiệm

vụ được giao. Trong những năm tới, cấp ủy đảng cấp tỉnh và cấp huyện cần xác định

nâng cao năng lực cụ thể hóa quan điểm, chủ trương của Đảng, chỉ thị, nghị quyết

của cấp ủy cấp trên; chính sách của Nhà nước phù hợp tình hình thực tiễn của địa

phương; năng lực tổ chức triển khai thực hiện; năng lực tổng kết thực tiễn đối với

đội ngũ CBLĐ, QL của HTCT cấp huyện ở tỉnh Bắc Ninh. Trong quá trình lãnh

đạo, chỉ đạo, cấp ủy các cấp cần chú trọng những nguyên tắc sau:

- Phải xuất phát từ yêu cầu, nhiệm vụ của từng thời kỳ phát triển của đất

nước, của tỉnh và đặc thù của từng địa phương để xây dựng đội ngũ CBLĐ, QL của

HTCT cấp huyện phù hợp.

- Gắn xây dựng đội ngũ cán bộ với xây dựng tổ chức, hạn chế tối đa việc đào

tạo tràn lan, không gắn với nhiệm vụ mới được giao, chạy theo bằng cấp, nhằm đối

phó với yêu cầu tiêu chuẩn để được đề bạt, bổ nhiệm.

146

- Bên cạnh chú trọng đào tạo, nâng cao năng lực cán bộ thông qua việc cử

cán bộ đi học tập tại các cơ sở đào tạo hoặc mở các lớp bồi dưỡng, tập huấn ngắn

hạn cần coi trọng việc đào tạo cán bộ thông qua hoạt động thực tiễn. Công tác cán

bộ phải gắn với hoạt động thực tiễn.

- Xây dựng và nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ làm công tác tham mưu và

thực hiện công tác cán bộ của cấp uỷ đảng các cấp từ tỉnh đến huyện.

4.2. Một số giải pháp chủ yếu nhằm tiếp tục phát triển đội ngũ cán bộ lãnh

đạo, quản lý của hệ thống chính trị cấp huyện ở tỉnh Bắc Ninh đến năm 2030

4.2.1. Nâng cao nhận thức và trách nhiệm của cấp ủy, tổ chức đảng, cán

bộ, đảng viên và nhân dân về yêu cầu phát triển đội ngũ CBLĐ, QL của HTCT

cấp huyện ở Bắc Ninh trong sạch, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín

Đây là giải pháp quan trọng đầu tiên trong công tác phát triển đội ngũ

CBLĐ, QL của HTCT cấp huyện ở tỉnh Bắc Ninh hiện nay. Để tạo nên sức mạnh

tổng hợp, đề cao trách nhiệm của các chủ thể, nhất là của tỉnh ủy, ban tổ chức tỉnh

ủy, các huyện ủy trực thuộc tỉnh ủy Bắc Ninh đối với công tác phát triển đội ngũ

CBLĐ, QL cấp huyện cần có sự thống nhất nhận thức và hành động. Bản thân đội

ngũ CBLĐ, QL của HTCT cấp huyện cũng phải nhận thức đúng để tự giác học tập,

rèn luyện, tu dưỡng. Cần tập trung thực hiện tốt một số nội dung sau đây:

Thứ nhất, quán triệt sâu sắc, nâng cao nhận thức của cấp ủy, chính quyền,

MTTQ và các tổ chức CT-XH các cấp về vai trò của đội ngũ CBLĐ, QL của HTCT

cấp huyện và sự cần thiết, trách nhiệm phải thực hiện công tác phát triển đội ngũ

cán bộ trong giai đoạn hiện nay.

Đội ngũ CBLĐ, QL của HTCT cấp huyện ở tỉnh Bắc Ninh là một bộ phận

của đội ngũ cán bộ của Đảng. Vai trò của đội ngũ cán bộ trong sự nghiệp cách mạng

của Đảng đã được chủ nghĩa Mác - Lênin, chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta khẳng

định. Các cấp ủy đảng, đội ngũ cán bộ, đảng viên và các tổ chức có liên quan đến

công tác phát triển đội ngũ CBLĐ, QL của HTCT cấp huyện ở tỉnh Bắc Ninh cần

nhận thức sâu sắc điều này. Từ nhận thức sâu sắc về vai trò của đội ngũ cán bộ này

trong giai đoạn hiện nay mới có thể nhận thức sâu sắc sự cần thiết phát triển đội ngũ

CBLĐ, QL của HTCT cấp huyện.

Trong nhiệm kỳ 2015-2020, Đảng và Nhà nước đã ban hành và thực hiện

nhiều nghị quyết, chỉ thị, quy chế, quy định về cán bộ và công tác cán bộ; các cấp

147

ủy, tổ chức đảng đã thể chế hóa thành quy chế, quy định, quy trình công tác cán bộ

của địa phương, ngành, đơn vị để thực hiện. Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 19/5/2018

Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương 7, khóa XII “ tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ

các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ”

đã xác định rõ hơn vị trí, vai trò của cán bộ và công tác cán bộ đó là “Cán bộ là nhân tố

quyết định sự thành bại của cách mạng; công tác cán bộ là khâu “then chốt” của công

tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị, xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ cấp

chiến lược là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu, là công việc hệ trọng của Đảng, phải được

tiến hành thường xuyên, thận trọng, khoa học, chặt chẽ và hiệu quả. Đầu tư xây dựng

đội ngũ cán bộ là đầu tư cho phát triển lâu dài, bền vững.”[78, tr 54]

Thứ hai, đối với cấp ủy, cơ quan tham mưu của cấp ủy về công tác cán bộ,

trước hết là người đứng đầu cấp ủy, cơ quan, đơn vị, địa phương hiểu rõ quy trình,

phương pháp và cách thức thực hiện công tác phát triển đội ngũ cán bộ LĐ, QL của

HTCT cấp huyện để bảo đảm thống nhất giữa nhận thức tư tưởng với triển khai

thực hiện. Tránh tư tưởng quan liêu, dập khuôn máy móc, bảo thủ, trì trệ hoặc vi

phạm nguyên tắc tập trung dân chủ trong công tác cán bộ . Đồng thời tùy theo từng

chức danh cán bộ, từng loại cán bộ LĐ, QL của HTCT cấp huyện mà Tỉnh ủy,

Huyện ủy có những yêu cầu, nội dung, quy trình tiến hành cho phù hợp, vừa đảm

bảo đúng các nguyên tắc quy định, vừa thực hiện có hiệu quả và thực sự có chất

lượng công tác này theo yêu cầu đề ra.

Thứ ba, làm rõ chức năng, quyền hạn, trách nhiệm của tập thể lãnh đạo cấp

ủy và cá nhân từng thành viên cán bộ LĐ, QL; các cơ quan, ban, ngành tổ chức

trong HTCT cấp huyện liên quan đến công tác phát triển đội ngũ cán bộ LĐ, QL

của HTCT cấp huyện ở tỉnh Bắc Ninh. Trong đó, BTV Tỉnh ủy Bắc Ninh, BTV

Huyện ủy trực thuộc là chủ thể có thẩm quyền và trách nhiệm cao nhất, là cơ quan

chỉ đạo, quyết định, kết luận và phê duyệt cuối cùng về các chương trình, đề án xây

dựng phát triển đội ngũ cán bộ LĐ, QL của HTCT cấp huyện. Đồng thời, có sự

tham gia, giám sát, kiểm tra của cấp ủy, các tổ chức của HTCT các cấp, các cơ

quan, đơn vị chức năng, đặc biệt là các đồng chí cấp ủy viên của cấp ủy cùng cấp và

cơ quan tổ chức, cán bộ các cấp.

Thứ tư, nâng cao nhận thức và trách nhiệm của các cán bộ LĐ, QL của

HTCT cấp huyện sắp đến tuổi nghỉ hưu và cán bộ trẻ, về những biểu hiện của tư

duy nhiệm kỳ trong công tác cán bộ…

Cán bộ LĐ, QL của HTCT cấp huyện tuổi cao cần nhận thức sâu sắc và xác

định trách nhiệm của mình đối với việc đào tạo, huấn luyện và kèm cặp thế hệ cán 148

bộ trẻ. Thực hiện tốt nội dung này là thiết thực góp phần phát triển đội ngũ cán bộ

LĐ, QL của HTCT cấp huyện. Đồng thời, đối với những cán bộ LĐ, QL còn thời

gian công tác ngắn, có thể tự nguyện xin thôi đảm nhiệm chức vụ khi tổ chức cần.

Nhận thức đúng và thực hiện tốt điều này, sẽ tạo điều kiện cho đội ngũ cán bộ LĐ,

QL của HTCT cấp huyện được bố trí công việc tương xứng và trưởng thành. Phê

phán nghiêm khắc và chỉ ra hậu quả của tư duy nhiệm kỳ trong một bộ phận cán bộ

LĐ, QL đó là ít quan tâm đến đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nhất là cán bộ trong quy

hoạch; chỉ lo giữ gìn bản thân không để xảy ra những xung đột, va chạm lớn, không

quyết đoán trong sử dụng hiệu quả cán bộ, sợ sự xáo trộn.

Thứ năm, đa dạng hóa các hình thức, biện pháp quán triệt, nâng cao nhận

thức, trách nhiệm của các cấp ủy, cán bộ, đảng viên về phát triển đội ngũ cán bộ

LĐ, QL của HTCT cấp huyện ở tỉnh Bắc Ninh

Tỉnh ủy, Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Bắc Ninh chỉ đạo

các cấp ủy cấp huyện trực thuộc đưa những nội dung nhằm phát triển đội ngũ cán bộ

LĐ, QL của HTCT cấp huyện vào nội dung sinh hoạt của các cấp ủy. Có thể thông qua

các hội nghị, hội thảo của cấp ủy có sự tham gia của các cơ quan, các nhà khoa học về

phát triển đội ngũ cán bộ LĐ, QL của HTCT cấp huyện. Thông qua các chương trình

đào tạo, bồi dưỡng chuyên đề, chuyên môn, nghiệp vụ của Ban Tổ chức Trung ương,

của Tỉnh ủy Bắc Ninh cho đội ngũ cán bộ làm công tác tham mưu về công tác tổ chức,

cán bộ của cấp ủy các cấp, nhất là cấp huyện. Có thể thông qua các phương tiện thông

tin đại chúng của tỉnh Bắc Ninh, của các huyện, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh để

tuyên truyền, phổ biến, vận động các tầng lớp nhân dân, đảng viên nắm vững và có

trách nhiệm tham gia thực hiện tốt các chủ trương, nghị quyết của Tỉnh ủy Bắc Ninh,

nghị quyết của cấp ủy cấp huyện về công tác cán bộ, góp phần xây dựng và phát triển

đội ngũ cán bộ LĐ, QL của HTCT cấp huyện.

4.2.2. Tiếp tục xây dựng, bổ sung, hoàn thiện tiêu chuẩn chức danh cán

bộ; đổi mới công tác đánh giá cán bộ làm cơ sở để phát triển đội ngũ cán bộ lãnh

đạo, quản lý của HTCT cấp huyện

4.2.2.1. Tiếp tục xây dựng, bổ sung, hoàn thiện tiêu chuẩn chức danh cán bộ

LĐ, QL của HTCT cấp huyện

Tiêu chuẩn chức danh cán bộ có vai trò quan trọng đặc biệt, là tiền đề, điều

kiện thuận lợi để thực hiện các nội dung khác trong công tác phát triển đội ngũ

CBLĐ, QL. Mỗi thời kỳ cách mạng có nhiệm vụ chính trị riêng, nên tiêu chuẩn

chức danh CBLĐ, QL các thời kỳ cũng khác nhau. Theo phân cấp quản lý cán bộ,

149

tiêu chuẩn chức danh CBLĐ, QL của HTCT cấp huyện do BTV Tỉnh ủy xây dựng

và ban hành. Để tiếp tục cụ thể hóa tiêu chuẩn chức danh CBLĐ, QL của HTCT cấp

huyện đạt hiệu quả, BTVTU Bắc Ninh và các BTV cấp ủy cấp huyện cần thực hiện

tốt những nội dung sau:

Thứ nhất, quán triệt sâu sắc, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin, tư

tưởng Hồ Chí Minh; thực hiện nghiêm Cương lĩnh, Điều lệ, nghị quyết, quy định

của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước về cán bộ và công tác cán bộ.

Tiêu chuẩn CBLĐ, QL của HTCT cấp huyện ở tỉnh Bắc Ninh cần đảm bảo

đầy đủ các tiêu chuẩn chung do Trung ương quy định tại Chiến lược cán bộ thời kỳ

đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Nghị quyết Hội nghị Trung ương

7 khóa XII về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ

phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ và Quy định số 89-QĐ/TW

ngày 04-8-2017 của Bộ Chính trị quy định khung tiêu chuẩn chức danh, định hướng

khung tiêu chí đánh giá cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp. Đồng thời, căn cứ từng

loại cán bộ theo phân cấp, BTVTU Bắc Ninh, các BTV cấp ủy cấp huyện cụ thể hóa

thành các tiêu chí, tiêu chuẩn chức danh phù hợp với điều kiện công tác, trình độ

cán bộ và đặc thù riêng của từng huyện.

Thứ hai, tiếp tục rà soát, bổ sung những điểm mới trong tiêu chuẩn chức

danh CBLĐ, QL trong HTCT phù hợp với điều kiện, tình hình thực tế và yêu cầu

nhiệm vụ của từng địa phương.

Căn cứ yêu cầu, nhiệm vụ chính trị của tỉnh, đặc biệt là nhiệm vụ phát triển

kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh và công tác xây dựng Đảng, HTCT để xây

dựng tiêu chuẩn chức danh CBLĐ, QL trong HTCT phù hợp.

Trên cơ sở các nhóm tiêu chí, BTV Tỉnh ủy, các BTV cấp ủy cấp huyện tập

trung cụ thể hóa tiêu chuẩn cho từng chức danh cụ thể. Đối với nhóm tiêu chí về

chính trị tư tưởng; đạo đức, lối sống; tác phong, lề lối làm việc; ý thức tổ chức kỷ

luật có thể có nhóm tiêu chuẩn chung mà đội ngũ CBLĐ, QL đều phải có. Đối với

nhóm tiêu chí về kết quả thực hiện chức trách nhiệm vụ được giao, cần xây dựng

những tiêu chí đặc thù, mang tính chất định lượng, hạn chế những tiêu chí mang

tính chất định tính, chung chung, thậm chí khó hiểu, khó nhớ. Xây dựng tiêu chí đặc

thù phân biệt rõ ràng giữa tiêu chuẩn cán bộ giữ chức vụ bí thư, phó bí thư, chủ tịch,

phó chủ tịch HĐND, chủ tịch, phó chủ tịch UBND cấp huyện; CBLĐ, QL các cơ

150

quan tham mưu, giúp việc cấp ủy với CBLĐ, QL các cơ quan chuyên môn thuộc

UBND, HĐND và cán bộ lãnh đạo MTTQ, tổ chức CT-XH…

Thứ ba, các nhóm chức danh CBLĐ, QL của HTCT cấp huyện cần tập trung

xây dựng hiện nay gồm: nhóm tiêu chuẩn chung và nhóm tiêu chuẩn riêng cho 13

loại chức danh cụ thể sau:

Nhóm tiêu chuẩn ủy viên ban chấp hành đảng bộ cấp huyện;

Nhóm tiêu chuẩn ủy viên BTV cấp ủy cấp huyện;

Nhóm tiêu chuẩn chức danh bí thư ban chấp hành đảng bộ cấp huyện;

Nhóm tiêu chuẩn chức danh phó bí thư thường trực cấp ủy cấp huyện;

Nhóm tiêu chuẩn chức danh chủ tịch HĐND cấp huyện;

Nhóm tiêu chuẩn chức danh phó chủ tịch HĐND cấp huyện;

Nhóm tiêu chuẩn chức danh chủ tịch UBND cấp huyện;

Nhóm tiêu chuẩn chức danh phó chủ tịch UBND cấp huyện;

Nhóm tiêu chuẩn chức danh trưởng ban, cơ quan tham mưu cấp ủy cấp huyện;

Nhóm tiêu chuẩn chức danh phó trưởng ban, cơ quan tham mưu cấp ủy cấp huyện;

Nhóm tiêu chuẩn chức danh chủ tịch Ủy ban MTTQ cấp huyện;

Nhóm tiêu chuẩn chức danh trưởng đoàn thể CT-XH cấp huyện;

Nhóm tiêu chuẩn chức danh phó trưởng các đoàn thể CT-XH cấp huyện;

Nhóm tiêu chuẩn chức danh trưởng phòng và tương đương cấp huyện;

Nhóm tiêu chuẩn chức danh phó trưởng phòng và tương đương cấp huyện.

Các tiêu chuẩn chung và tiêu chuẩn của từng chức danh CBLĐ, QL phải đáp

ứng yêu cầu trên các tiêu chí như về chính trị, tư tưởng; đạo đức, lối sống, ý thức tổ

chức kỷ luật; về trình độ; năng lực, uy tín; sức khỏe, độ tuổi và kinh nghiệm công

tác. Ngoài ra, tùy theo yêu cầu nhiệm vụ chính trị và điều kiện thực tiễn của tỉnh và

các huyện, thị xã, thành phố trực thuộc, trong từng giai đoạn lịch sử - cụ thể có sự

điều chỉnh, sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện đối với mỗi loại tiêu chí, tiêu chuẩn của

từng loại chức danh CBLĐ, QL của HTCT cấp huyện cho phù hợp.

4.2.2.2. Đổi mới công tác đánh giá cán bộ, nắm chắc thực trạng đội ngũ cán

bộ làm cơ sở để phát triển đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý của hệ thống chính trị

cấp huyện

Để xây dựng thành công đội ngũ CBLĐ, QL của HTCT cấp huyện thời kỳ

đẩy mạnh CNH, HĐH và hội nhập quốc tế, trước hết phải làm tốt công tác đánh giá

151

CBLĐ, QL của HTCT cấp huyện, khắc phục các hạn chế về quan niệm, tiêu chí

đánh giá, phương thức và quy trình đánh giá.

Thứ nhất, nâng cao nhận thức về công tác đánh giá cán bộ và đổi mới tiêu

chí đánh giá cán bộ.

Đánh giá cán bộ là khâu tiền đề quan trọng thực hiện mọi nội dung của công

tác cán bộ và quyết định kết quả của công tác cán bộ. Đây là việc làm khó, phức tạp,

nhất là trong điều kiện nền kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập quốc

tế sâu rộng. Nhiều cán bộ còn tư tưởng ngại đánh giá người khác vì không muốn

đụng chạm đến ai, coi việc đánh giá là “bới lông tìm vết”. Tuy nhiên, khoa học quản

lý hiện đại coi việc đánh giá cán bộ là một kênh cung cấp thông tin, nên cần được

quan tâm thiết kế khách quan nhằm có thể đem lại những thông tin xác đáng và

trung thực nhất. Đồng thời, đánh giá cán bộ chính là cung cấp thông tin để thực hiện

tốt các khâu khác như quy hoạch, luân chuyển, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí, sử dụng,

khen thưởng, kỷ luật cán bộ…

Phải nhận thức được vai trò của công tác đánh giá cán bộ là góp phần tạo

động lực cho cán bộ phấn đấu hoàn thành nhiệm vụ, không phải đánh giá cán bộ để

tìm cho ra lỗi sai, để bôi nhọ, trù dập. Trong quá trình đánh giá cán bộ, cần quán

triệt quan điểm khách quan, toàn diện và lịch sử - cụ thể, công khai, minh bạch và

công tâm. Cơ quan quản lý cán bộ và người đứng đầu, người trực tiếp quản lý, sử

dụng cán bộ phải thực sự trong sáng trong đánh giá cán bộ. Trong một tổ chức,

người cán bộ sẽ luôn phấn khởi, có động lực phấn đấu vươn lên khi những nỗ lực,

thành quả của bản thân được cấp trên, đồng nghiệp ghi nhận, đánh giá đúng; ngược

lại, sẽ cảm chán nản, tâm lý ỷ lại, trì trệ, không có hứng thú làm việc khi mọi nỗ

lực, thành quả của bản thân không được cấp trên, tập thể chú ý, đánh giá đúng. Nếu

người lãnh đạo nhận thức đúng đắn về đánh giá cán bộ, tạo niềm tin đối với nhân

viên thì sẽ góp phần nâng cao tinh thần trách nhiệm của họ. Một trong những

phương thức khích lệ tinh thần làm việc của cán bộ là các hình thức khen thưởng.

Nếu đánh giá đúng, khen thưởng đúng sẽ có tác dụng tích cực, không chỉ mang tính

chất động viên cán bộ hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ mà còn khích lệ những cán bộ

khác phải cố gắng noi theo tấm gương của những cá nhân thành công; ngược lại,

nếu đánh giá sai, khen thưởng sai sẽ trở nên phản tác dụng, không cá nhân nào

muốn tiếp tục sáng tạo, cống hiến.

152

Thứ hai, để thực hiện tốt công tác đánh giá cán bộ trước hết phải xây dựng hệ

tiêu chí cụ thể.

Các tiêu chí đánh giá cán bộ phải được xây dựng thành quy định cụ thể trên

cơ sở hệ thống tiêu chuẩn chung và tiêu chuẩn riêng của từng chức danh CBLĐ,

QL. Trên cơ sở chức trách, nhiệm vụ của người CBLĐ, QL để làm rõ ưu điểm,

khuyết điểm về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống; ý thức tổ chức kỷ luật; tác

phong, lề lối làm việc, kết quả hoàn thành nhiệm vụ. Tuy nhiên, trong từng tiêu chí

cần được cụ thể hóa thành các chỉ số, tránh tình trạng chung chung, sử dụng những

“từ khóa” khó hiểu. Cụ thể như sau:

Về tiêu chí đánh giá phẩm chất chính trị, cần cụ thể hóa thành các chỉ số như:

có nghiêm chỉnh chấp hành chủ trương, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật

của Nhà nước hay không; có tham gia đầy đủ các buổi học tập nghị quyết hay

không; có thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ trong khi ra quyết định

không; có dám chịu trách nhiệm về các quyết định của bản thân hay không; kết quả

xử lý các tình huống cấp bách, thái độ có bình tĩnh không, qua đó thể hiện bản lĩnh

chính trị ra sao; tính kiên trì thực hiện mục tiêu của đơn vị, tổ chức?

Về phẩm chất đạo đức, tiêu chí này cũng cần được cụ thể hóa thành các chỉ

số như: quan hệ với cấp trên, đồng nghiệp và cấp dưới; có gương mẫu trong công

việc không; thái độ trước cái đúng có dám bảo vệ, trước cái sai có dám phê bình; tác

phong, phong cách trong xử lý công việc; có tinh thần hỗ trợ, chia sẻ, hướng dẫn

nhiệt tình với đồng nghiệp, cấp dưới hay không?…

Về thực hiện chức trách nhiệm vụ, mỗi tổ chức phải xây dựng được chỉ tiêu,

nhiệm vụ được giao và kết quả cần đạt được của từng vị trí việc làm. Sau đó, mỗi

thành viên trong tổ chức sẽ công khai kết quả thực hiện, so sánh với chỉ tiêu đề ra

để đánh giá. Hơn nữa, đánh giá CBLĐ, QL cần chú ý đánh giá về các chỉ số năng

lực như năng lực tổ chức thực tiễn; năng lực quản lý, điều hành nhất là năng lực tư

duy khoa học, sáng tạo, vận dụng, cụ thể hoá các chủ trương, nghị quyết của Đảng

thành chương trình hành động và kế hoạch thực hiện; năng lực tổng kết thực tiễn,

tập hợp, quy tụ, sử dụng cán bộ dưới quyền… Đồng thời, đánh giá CBLĐ, QL cần

căn cứ mức độ hoàn thành nhiệm vụ của từng cơ quan, đơn vị, địa phương; kết quả

xây dựng cấp ủy đảng và mức độ hoàn thành nhiệm vụ của đội ngũ cán bộ thuộc

quyền quản lý trực tiếp. Chỉ khi nào đánh giá CBLĐ, QL được đặt trong mối tương

153

quan, quan hệ ràng buộc như trên, việc đánh giá cán bộ mới thực sự khách quan và

ngày càng nâng cao trách nhiệm của người đứng đầu.

Thứ ba, cần xây dựng và thực hiện quy trình đánh giá khoa học, tin cậy.

Trước hết, cần nắm chắc thực trạng đội ngũ cán bộ thông qua công tác khảo

sát đội ngũ cán bộ nói chung và đội ngũ CBLĐ, QL của HTCT cấp huyện nói riêng.

Kết quả khảo sát dựa trên các tiêu chí, tiêu chuẩn quy định, phản ánh đúng thực

trạng đội ngũ cán bộ hiện có, dự báo khả năng phát triển của đội ngũ cán bộ trong

thời gian tới, thấy được mặt tích cực, mặt hạn chế, phân tích đúng nguyên nhân và

tìm ra phương hướng giải quyết. Việc khảo sát công tác cán bộ và đội ngũ CBLĐ,

QL của HTCT cấp huyện phải mang tính trung thực, khách quan, có sự chỉ đạo,

hướng dẫn, kiểm tra của BTV và BTCTU. Các cấp ủy đánh giá cán bộ thông qua

kết quả thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao. Muốn vậy, phải xây dựng được

bản mô tả vị trí việc làm của từng cán bộ; chức trách, nhiệm vụ, quyền hạn của từng

chức danh cán bộ; kế hoạch thực hiện nhiệm vụ của cán bộ theo tháng, quý, năm.

Xử lý kết quả khảo sát, phân loại cán bộ có thể chia thành các loại như sau:

Cán bộ có đủ điều kiện tiêu chuẩn theo quy định, có khả năng đảm đương tốt

nhiệm vụ và phát triển lên vị trí, chức vụ mới cao hơn.

Cán bộ có đủ điều kiện tiêu chuẩn theo quy định, khả năng hoàn thành nhiệm

vụ nhưng còn hạn chế, có triển vọng phát triển cần đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện và

thử thách (đặc biệt quan tâm cán bộ trẻ, có năng lực song kinh nghiệm thực tiễn

còn ít).

Cán bộ thiếu điều kiện, tiêu chuẩn theo quy định, khả năng, năng lực hạn

chế, cần bố trí lại.

Cán bộ có thể giữ nguyên vị trí công tác hiện tại.

Trong quá trình đánh giá cán bộ cần kết hợp tốt từ nhiều nguồn đánh giá để đạt

được kết quả trung thực nhất. Coi trọng việc tự đánh giá của cán bộ thông qua thực

hiện nhiệm vụ, chức trách và kế hoạch đề ra của bản thân cán bộ; thông qua nhận xét,

đánh giá của tập thể lãnh đạo, cán bộ cơ quan; thông qua cấp uỷ nơi cư trú…

Cuối cùng, thẩm quyền nhận xét, đánh giá CBLĐ, QL thuộc về cấp giao

nhiệm vụ trực tiếp cho cán bộ. Cụ thể:

Tập thể thường trực cấp ủy họp, dưới sự điều hành, chủ trì của bí thư cấp ủy

để thống nhất đánh giá các ủy viên trong thường trực huyện, thị, thành ủy.

154

Phó bí thư thường trực huyện, thị, thành ủy đánh giá các trưởng các ban

đảng, chủ tịch Ủy ban MTTQ, trưởng tổ chức CT-XH, giám đốc trung tâm bồi

dưỡng chính trị cấp huyện.

Chủ tịch UBND cấp huyện đánh giá phó chủ tịch UBND cùng cấp; trưởng

phòng chuyên môn thuộc UBND và cấp trưởng đơn vị sự nghiệp công lập trực

thuộc.

Chủ tịch HĐND cấp huyện đánh giá phó chủ tịch HĐND cùng cấp và

trưởng, phó các ban chuyên trách HĐND cấp huyện.

Cấp trưởng, người đứng đầu các cơ quan, ban, ngành đánh giá, nhận xét cấp

phó và cán bộ, nhân viên thuộc quyền quản lý trực tiếp.

Để có kết quả đánh giá xác đáng, trung thực, khoa học cần xây dựng quy

trình đánh giá chi tiết, rõ ràng. Thay vì đánh giá cán bộ theo quy chế làm việc của

từng cơ quan, đơn vị, theo những tiêu chí, tiêu chuẩn chung chung, cần thực hiện

quy trình:

Đánh giá cán bộ dựa vào bản mô tả công việc của từng vị trí việc làm, chức

danh cụ thể, mục tiêu đầu năm của từng cán bộ. Trên cơ sở bản mô tả vị trí việc

làm, mục tiêu xác định, từng cán bộ tự đánh giá kết quả thực hiện công việc, cả khối

lượng và thời gian thực hiện.

Căn cứ bản mô tả công việc của từng cán bộ, xem xét từng tiêu chí đánh giá

mức độ hoàn thành nhiệm vụ trên từng công việc cụ thể. Có thể áp dụng thang điểm

để đánh giá.

Công bố kết quả đánh giá cán bộ công khai tại cuộc họp hằng tháng, hằng

quý và hằng năm của cơ quan, đơn vị.

4.2.3. Đổi mới đồng bộ một số khâu cơ bản của công tác cán bộ để tiếp tục

phát triển đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý của hệ thống chính trị cấp huyện

4.2.3.1. Đổi mới, nâng cao chất lượng công tác quy hoạch cán bộ LĐ, QL

của HTCT cấp huyện

Quy hoạch cán bộ là nội dung trọng yếu, thể hiện tính chiến lược của công

tác cán bộ, bảo đảm cho công tác cán bộ đi vào nền nếp, chủ động, đáp ứng cả

nhiệm vụ trước mắt và lâu dài. Đối với tổ chức, công tác quy hoạch thể hiện chức

năng lãnh đạo thống nhất của Đảng trong quá trình xây dựng đội ngũ cán bộ. Đối

với cán bộ trong diện quy hoạch, hoạt động này sẽ giúp cán bộ định hình rõ con

155

đường phát triển, là động cơ để họ phấn đấu, rèn luyện, vươn lên. Do đó, xây dựng

quy hoạch phải dựa trên cơ sở khoa học, khách quan, bám sát yêu cầu nhiệm vụ

chính trị trước mắt và dự báo những năm tiếp theo của từng địa phương. Đây không

chỉ là công việc của riêng cấp ủy đảng hay cơ quan tổ chức, cán bộ, mà là công việc

đòi hỏi mọi thành viên trong tập thể cơ quan, đơn vị của HTCT phải có trách nhiệm

và nhận thức đúng đắn. Để thực hiện tốt công tác quy hoạch CBLĐ, QL của HTCT

cấp huyện ở tỉnh Bắc Ninh cần nắm vững những yêu cầu sau:

Thứ nhất, quán triệt sâu sắc các quy định của Ban Chấp hành Trung ương,

Bộ Chính trị, Ban Bí thư, BTCTW và BTVTU Bắc Ninh về công tác quy hoạch

CBLĐ, QL. Cụ thể: Nghị quyết số 42-NQ/TW ngày 30-11-2004 của Bộ Chính trị

về “Công tác quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp

hóa, hiện đại hóa đất nước”; Hướng dẫn số 22-HD/BTCTW ngày 21-10-2008 của

BTCTW về thực hiện Nghị quyết số 42-NQ/TW của Bộ Chính trị về công tác quy

hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất

nước; Kết luận số 37-KL/TW ngày 02-02-2009 của Ban Chấp hành Trung ương

Đảng khóa X “Tiếp tục đẩy mạnh chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp

hóa, hiện đại hóa đất nước”; Nghị quyết số 12-NQ/TW ngày 16-01-2012 của Ban

Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng

hiện nay”; Kết luận số 24-KL/TW ngày 05-6-2012 của Bộ Chính trị khóa XI về đẩy

mạnh công tác quy hoạch, luân chuyển cán bộ đến năm 2020 và những năm tiếp

theo; Hướng dẫn số 15-HD/BTCTW ngày 05-11-2012 của BTCTW về công tác quy

hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý theo tinh thần Nghị quyết số 42-NQ/TW ngày 30-

11-2004 của Bộ Chính trị khóa IX; Hướng dẫn số 04-HD/TC ngày 31-12-2011 của

BTCTU Bắc Ninh về việc thực hiện Nghị quyết số 42-NQ/TW ngày 30-11-2004

của Bộ Chính trị về công tác quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý thời kỳ đẩy mạnh

công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; Hướng dẫn số 09-HD/TC ngày 18-11-2013

của BTCTU Bắc Ninh về công tác quy hoạch theo tinh thần Nghị quyết số 42-NQ/TW

của Bộ Chính trị khóa IX và Kết luận số 24-KL/TW của Bộ Chính trị khóa XI.

Thứ hai, chuẩn bị tốt nguồn cán bộ cho quy hoạch.

Việc lựa chọn cán bộ đưa vào nguồn quy hoạch là công việc quan trọng

trong công tác quy hoạch cán bộ. Một mặt, phải lựa chọn để xây dựng nguồn cán bộ

kế cận từ lực lượng hiện tại nhằm đáp ứng nhu cầu trước mắt, để công tác cán bộ

156

không rơi vào tình trạng hụt hẫng, chắp vá; mặt khác, phải quan tâm coi trọng việc

tạo nguồn cán bộ từ xa, phong phú và đa dạng. Quy hoạch phải thực sự “mở” và

“động”. Quy hoạch cấp dưới làm cơ sở cho cấp trên. BTV và ban tổ chức cấp ủy

cấp huyện cần chỉ đạo, hướng dẫn các cấp ủy cấp dưới thực hiện nghiêm túc quy

hoạch cán bộ của đơn vị mình, coi đây là một kênh thông tin để phát hiện nguồn cán

bộ tài năng dự trữ của cấp trên. Đây là công việc rất quan trọng, cần có sự phối hợp

chặt chẽ, nhịp nhàng giữa các cấp ủy các cấp. Chỉ khi làm tốt công tác tạo nguồn,

xây dựng nguồn cán bộ rộng mới có thể phát hiện và thu hút được nhân tài từ công

nhân, trí thức, CB, CC, các sinh viên xuất sắc, các cán bộ khoa học trẻ tuổi ở các

lĩnh vực khác nhau để xây dựng và phát triển đội ngũ CBLĐ, QL của HTCT các

cấp, trong đó có cấp huyện.

Coi trọng việc tạo nguồn, tuyển chọn và phát triển nhân tài, xây dựng đội

ngũ CBLĐ, QL của HTCT cấp huyện trong tương lai từ đội ngũ cán bộ trẻ tuổi hiện

nay. Song, không chỉ đơn thuần là thay thế con người, hạ thấp độ tuổi để “trẻ hóa”

mà quan trọng là năng lực tư duy, năng lực tổ chức thực tiễn, phương pháp làm

việc, tính quyết đoán, khả năng ứng xử kịp thời chính xác các tình huống… của cán

bộ đưa vào quy hoạch. Cán bộ trẻ (dưới 35 tuổi) trong diện quy hoạch nhất thiết

phải được đào tạo chính quy, bài bản. Hiện nay, các cấp ủy cấp huyện cần quan tâm

đến việc đưa vào quy hoạch những cán bộ đã được đào tạo cơ bản, không nên để

đến khi đưa vào quy hoạch mới đưa đi đào tạo.

Thứ ba, xây dựng quy trình các bước quy hoạch ngày càng mở rộng tính dân

chủ, khách quan.

Để thực hiện có hiệu quả, trên cơ sở các nghị quyết, quyết định, hướng dẫn

của cấp ủy tỉnh, các cấp ủy cấp huyện phải xây dựng và ban hành nghị quyết

chuyên đề lãnh đạo công tác quy hoạch CBLĐ, QL của các cơ quan, đơn vị trong

HTCT cấp huyện. Đây là văn bản chính thống mang tính chất định hướng với

những chủ trương, biện pháp lãnh đạo sâu sắc, khẳng định vị trí, vai trò cuả công

tác quy hoạch và trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức trong thực hiện nội dung quy

trình quy hoạch.

BTCTU, các ban tổ chức cấp ủy cấp huyện tiến hành xây dựng hướng dẫn

quy trình các bước quy hoạch cán bộ đảm bảo ngày càng mở rộng tính dân chủ,

khách quan hơn. Khi quy hoạch CBLĐ, QL của HTCT cấp huyện cần lấy ý kiến

157

bằng phiếu kín tại hội nghị cán bộ mở rộng, thành phần lấy ý kiến là toàn bộ CBLĐ,

QL đến công chức, người lao động tại cơ quan, đơn vị. Không nên chỉ bó hẹp ý kiến

của tập thể lãnh đạo và tập thể cấp ủy nơi cán bộ công tác và nơi cư trú. Cấp ủy phải

cung cấp đầy đủ thông tin liên quan về cán bộ chuẩn bị đưa vào quy hoạch để toàn

thể cán bộ trong cơ quan, đơn vị biết, cân nhắc lựa chọn. Sau đó, cấp ủy hoặc thủ

trưởng cơ quan, đơn vị đề nghị cấp có thẩm quyền xem xét, phê duyệt. Kết quả quy

hoạch được công khai đến cán bộ và tại cơ quan, đơn vị mà cán bộ được quy hoạch.

Thực hiện nghiêm túc quy định quy hoạch không quá 03 người cho một chức danh

và một người không quá 03 chức danh.

Thứ tư, khảo sát, đánh giá đội ngũ cán bộ hiện có, dự báo nhu cầu về đội ngũ

CBLĐ, QL của HTCT cấp huyện trong từng thời kỳ.

Khi chuẩn bị xây dựng phương án quy hoạch cán bộ, cấp ủy và ban tổ chức

cấp ủy cấp huyện cần xây dựng kế hoạch điều tra, khảo sát đội ngũ cán bộ trong

toàn huyện; dự báo đúng nhu cầu cán bộ trong những năm tới căn cứ vào nhiệm vụ

chính trị của tỉnh và của từng địa phương được xác định trong nghị quyết của đại

hội nhiệm kỳ. Qua đó, phân loại cán bộ theo năng lực thực tế, độ tuổi và khả năng

phát triển để xây dựng phương án sử dụng hợp lý đội ngũ cán bộ hiện tại, xác định

phương án bổ sung nguồn cán bộ theo dự báo về nhu cầu phát triển trong những

năm tiếp theo. Có thể phân loại cán bộ thành những nhóm sau:

Cán bộ được đào tạo đủ các tiêu chí theo quy định, qua thực tiễn có thể đảm

nhận vị trí hiện tại và chức vụ mới cao hơn.

Cán bộ có năng lực thực tiễn, hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ, có uy tín, có khả

năng đảm nhận chức vụ lãnh đạo, quản lý, song chưa được đào tạo, bồi dưỡng thêm

kiến thức theo tiêu chí yêu cầu như lý luận chính trị, ngoại ngữ, chứng chỉ quản lý

nhà nước, quản lý kinh tế…

Cán bộ hoàn thành công việc, nhưng hạn chế về năng lực, uy tín thấp.

Cán bộ không đủ tuổi đảm nhận chức vụ mới trọn một nhiệm kỳ (5 năm).

Từ việc khảo sát, nắm thực trạng đội ngũ cán bộ trong HTCT cấp huyện, cấp

ủy cần lựa chọn phương án quy hoạch cán bộ phục vụ nhiệm vụ trước mắt và quy

hoạch phục vụ công tác cán bộ cho 5 năm, 10 năm tiếp theo.

158

Thứ năm, tăng cường công tác quản lý, đánh giá cán bộ trong quy hoạch,

định kỳ xem xét bổ sung nhân tố mới, đưa ra khỏi quy hoạch những cán bộ không

đủ điều kiện.

Các cấp ủy đảng cần tăng cường công tác quản lý cán bộ trong quy hoạch

một cách toàn diện, từ nhiều kênh khác nhau. Quản lý về tư tưởng chính trị; ; phẩm

chất, đạo đức, lối sống; năng lực, trình độ thực tiễn; ý thức tổ chức kỷ luật, lề lối

làm việc, tác phong công tác, thái độ phục vụ nhân dân; chiều hướng phát triển…

Định kỳ hằng năm, cấp ủy cấp huyện chỉ đạo các cơ quan, đơn vị tiến hành rà soát

quy hoạch để kịp thời bổ sung những cán bộ có kết quả phấn đấu, rèn luyện tốt

trong thực hiện nhiệm vụ vào những vị trí, chức vụ quy hoạch cao hơn; đưa ra khỏi

quy hoạch những cán bộ vi phạm kỷ luật, không tích cực phấn đấu vươn lên, quá

tuổi… Công tác rà soát, bổ sung quy hoạch cán bộ được làm định kỳ, thường xuyên

cho cả nhiệm kỳ hiện tại và nhiệm kỳ tiếp theo, đảm bảo môi trường bình đẳng cho

đội ngũ cán bộ phấn đấu, trưởng thành, đồng thời đảm bảo quy hoạch luôn cập nhật,

chất lượng cao phục vụ kịp thời công tác cán bộ.

4.2.3.2. Tiếp tục xây dựng, hoàn thiện các quy chế, quy trình, cơ chế về luân

chuyển, điều động, bố trí, sử dụng cán bộ lãnh đạo, quản lý của hệ thống chính trị

cấp huyện

Xây dựng, hoàn thiện các quy chế, quy trình công tác cán bộ là nhằm làm

cho công tác cán bộ đi vào nền nếp, có tính khoa học, đảm bảo sự chỉ đạo thống

nhất, chặt chẽ từ Trung ương đến các cấp ủy cấp huyện, cơ sở. Nội dung các văn

bản về quy chế, quy trình công tác cán bộ phải đảm bảo cơ sở khoa học, thể hiện

được nguyên tắc tập trung dân chủ, công khai, cụ thể, quy định rõ ràng trách nhiệm,

quyền hạn, mối quan hệ công tác, phân công chỉ đạo, phối hợp và tổ chức thực hiện

đối với các cấp ủy, chính quyền, các cơ quan tổ chức, cán bộ các cấp. Các quy chế,

quy trình về công tác cán bộ phải đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất, chặt chẽ giữa

các khâu của công tác cán bộ.

Trên cơ sở các quy chế chung do Trung ương ban hành, theo phân cấp quản

lý cán bộ, từng cấp ủy từ tỉnh đến huyện, cơ sở phải quán triệt, vận dụng, cụ thể hóa

để xây dựng các quy định phù hợp. Đồng thời, các cấp ủy cấp trên phải có biện

pháp, kế hoạch thường xuyên kiểm tra các cấp ủy cấp dưới, các cơ quan, ban, ngành

trong việc thực hiện quy chế, quy trình về công tác cán bộ. Đến nay, Ban Chấp hành

159

Trung ương, Bộ Chính trị đã xây dựng, ban hành và hướng dẫn thực hiện một số

quy chế, quy trình, song cần tiếp tục hoàn thiện và bổ sung các quy chế mới để các

quan điểm, nguyên tắc chung về công tác cán bộ được thực hiện đầy đủ, chính xác

và đồng bộ. BTCTU Bắc Ninh, ban tổ chức cấp ủy cấp huyện cần tập trung rà soát,

xây dựng và hoàn thiện các quy chế, quy trình trong công tác cán bộ thống nhất với

quy định của Trung ương về những nội dung cụ thể sau:

Thứ nhất, tiếp tục bổ sung về mặt pháp lý để lựa chọn cán bộ căn cứ vào vị

trí việc làm gắn với tiêu chuẩn chức danh cán bộ; tuân thủ nguyên tắc “vì việc tìm

người”, không vì người để đặt việc.

Thứ hai, tiếp tục thực hiện nghiêm túc và hoàn thiện các quy trình, quy định

tuyển chọn, bổ nhiệm, giới thiệu cán bộ ứng cử, miễn nhiệm CBLĐ, QL của HTCT

cấp huyện.

Thực hiện nghiêm túc quy định về bổ nhiệm cán bộ theo quy trình “5 bước”;

kiên quyết không bố trí, sử dụng CB, CC không đủ tiêu chuẩn, tiêu chí, kiên quyết

tránh tình trạng “nợ” điều kiện, tiêu chuẩn. Bổ nhiệm, giới thiệu cán bộ ứng cử các

chức vụ lãnh đạo, quản lý trong HTCT cấp huyện theo hướng cạnh tranh lành mạnh,

bảo đảm công khai, minh bạch. Thực hiện quy trình nhân sự theo hướng những

người được dự kiến bổ nhiệm phải trình bày đề án hoặc chương trình hành động

trước khi cấp có thẩm quyền xem xét, quyết định hay thi tuyển chức danh lãnh đạo,

quản lý theo hướng dân chủ, công khai, minh bạch trong cơ chế tuyển chọn người

đủ đức, tài. Trong thi tuyển CBLĐ, QL cần chỉ đạo thực hiện nghiêm túc nội quy,

quy chế, bảo đảm nguyên tắc dân chủ, công khai, minh bạch từ khâu ra đề thi, coi

thi, chấm thi và công bố kết quả. Khi thực hiện việc tuyển chọn nhân sự cần có

nhiều ứng cử viên. Lựa chọn nhân sự kỹ càng, tuân thủ nguyên tắc nếu chưa tìm

được người phù hợp thì tiếp tục tìm kiếm, lựa chọn. Không qua loa tuyển chọn cán

bộ LĐ, QL để lấp chỗ trống.

Nội dung thi ngoài thi viết, bổ sung phần thi bắt buộc là thi phỏng vấn. Chỉ

có phần thi phỏng vấn thì cơ quan tuyển chọn mới có thể đánh giá bước đầu nhưng

rất quan trọng đó là văn hóa, thái độ sống, nhân sinh quan, ý chí, tính kỷ luật , tư

tưởng chính trị của nhân sự dự kiến bổ nhiệm. Đây là những phẩm chất quan trọng

để hình thành tố chất của một cán bộ LĐ, QL. Những phẩm chất này không thể một

sớm một chiều có thể hình thành và thay đổi được. Đánh giá tính kỷ luật, ý chí, nghị

160

lực, thái độ chính trị là điều kiện đầu tiên khi xem xét bổ nhiệm, cất nhắc cán bộ

vào vị trí LĐ, QL. Để có thể đánh giá được, cơ quan tổ chức tuyển chọn phải nghiên

cứu tìm hiểu quá trình công tác, học tập liên tục của các ứng viên. Đồng thời, xây

dựng ngân hàng câu hỏi phỏng vấn nhằm mục đích khơi gợi, đánh giá được ý chí,

tính kiên định, kỷ luật của từng nhân sự.

Những người ứng cử cho vị trí đứng đầu địa phương, cơ quan phải thực hiện

đối thoại với người dân và phải đưa ra tập thể bỏ phiếu, sau đó trao quyền và trách

nhiệm đối với người đứng đầu cấp trên trực tiếp ra quyết định có bổ nhiệm hay

không. Trong quá trình đảm nhận chức vụ lãnh đạo, quản lý, cán bộ nào vì lý do sức

khỏe, hoàn cảnh cá nhân, không vi phạm kỷ luật đến mức bị cách chức có thể được

BTV cấp ủy cấp huyện xem xét, quyết định cho miễn nhiệm, từ chức. Cán bộ nào

không hoàn thành nhiệm vụ, vi phạm kỷ luật, uy tín giảm sút, tùy theo mức độ mà

bị bãi nhiệm hoặc thuyên chuyển công tác…

Thứ ba, thực hiện nghiêm túc việc luân chuyển cán bộ và bố trí một số chức

danh CBLĐ, QL của HTCT cấp huyện không phải người địa phương.

Luân chuyển cán bộ là việc làm cần thiết nhằm đào tạo, bồi dưỡng, rèn

luyện, thử thách CBLĐ, QL của HTCT cấp huyện trong thực tiễn; là quá trình bổ

sung kiến thức, kinh nghiệm trong hoạt động lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành nhằm tạo

ra sự đồng đều, cân đối về chất lượng đội ngũ cán bộ trong tổ chức. Khi thực hiện

luân chuyển cán bộ cần chú ý một số nội dung sau:

Cấp ủy cấp huyện phải xây dựng kế hoạch luân chuyển cán bộ cụ thể, chi

tiết, trong đó xác định rõ mục tiêu luân chuyển; các chức danh cần luân chuyển;

thời gian luân chuyển; đối tượng luân chuyển; địa bàn luân chuyển đến; quy trình

thực hiện luân chuyển; hình thức luân chuyển và chính sách cán bộ khi thực hiện

luân chuyển. Khi xây dựng kế hoạch luân chuyển cần căn cứ vào năng lực, sở

trưởng của cán bộ và đặc điểm, yêu cầu, nhiệm vụ công tác của cơ quan, đơn vị nơi

cán bộ đi và nơi cán bộ đến, để cán bộ khi luân chuyển có thể yên tâm công tác, nỗ

lực, sáng tạo, phát huy được sở trưởng, năng lực bản thân hoàn thành tốt nhiệm vụ

mới. Trong quá trình thực hiện luân chuyển cán bộ, các cấp ủy cấp huyện phải

chuẩn bị thận trọng, chặt chẽ, xây dựng được các phương án sắp xếp, bố trí cán bộ

khác nhau sau thời gian luân chuyển; không làm ồ ạt, chạy theo số lượng.

161

Việc bố trí một số chức danh CBLĐ, QL của HTCT cấp huyện không phải

người địa phương như bí thư huyện ủy, chủ tịch UBND huyện, trưởng phòng tài

chính, chánh án tòa án nhân dân, viện trưởng viện kiểm sát nhân dân, chánh thanh

tra huyện, BTCTU cần tham mưu BTVTU xây dựng quy định, kế hoạch, phương án

cụ thể, trong đó cần quy định cụ thể, rõ ràng nội hàm khái niệm “người địa

phương”.

4.2.3.3. Tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ

lãnh đạo, quản lý của hệ thống chính trị cấp huyện

Đào tạo, bồi dưỡng có ý nghĩa quyết định trực tiếp đến việc nâng cao chất

lượng đội ngũ cán bộ. Công tác đào tạo, bồi dưỡng phải xuất phát từ tiêu chuẩn,

chức trách, nhiệm vụ của từng loại chức danh CBLĐ, QL của HTCT cấp huyện.

Thứ nhất, chương trình đào tạo, bồi dưỡng cần được xây dựng một cách khoa

học, trên cơ sở mục tiêu đào tạo, bồi dưỡng, cập nhật kiến thức mới tiên tiến, hiện đại.

Nội dung đào tạo, bồi dưỡng cần phù hợp với yêu cầu của từng chức danh

CBLĐ, QL, từng vị trí việc làm và trình độ của từng cán bộ. Cần chú trọng đào tạo,

bồi dưỡng theo tiêu chuẩn ngạch với bồi dưỡng theo vị trí việc làm phù hợp với

hoàn cảnh cụ thể và mục tiêu đào tạo. Hệ thống chương trình đào tạo, bồi dưỡng

phải hợp lý, chặt chẽ để cán bộ không phải học chồng chéo, trùng lặp kiến thức.

Chú trọng đào tạo, bồi dưỡng trang bị kỹ năng nghiệp vụ, kiến thức về lý luận chính

trị, quản lý hành chính nhà nước, ngoại ngữ, tin học, pháp luật, hội nhập quốc tế; kỹ

năng lãnh đạo, quản lý phù hợp trước khi bầu cử, bổ nhiệm và cho các CBLĐ, QL

đương chức. Trong quá trình đào tạo, bồi dưỡng cần tích cực, tăng cường nội dung

vận dụng kiến thức vào thực tế công việc của từng cán bộ để họ tự suy nghĩ, học

hỏi, rèn luyện tư duy, năng lực thực tiễn và hình thành được phương pháp làm việc

hiệu quả nhất. Đa dạng hóa các chương trình đào tạo, phương thức đào tạo, bồi

dưỡng như đào tạo tập trung, tại chức, từ xa, đào tạo trong nước, ngoài nước, đào

tạo ngắn hạn, dài hạn, đào tạo trong trường lớp, đào tạo qua thực tiễn… Đặc biệt,

trong quá trình đào tạo đội ngũ CBLĐ, QL không nên quá chú trọng về tri thức, kỹ

năng, mà xem nhẹ việc rèn luyện tầm nhìn, tư duy chiến lược. Nên chú trọng việc

rèn luyện, tu dưỡng về đạo đức, kỷ luật, tác phong công tác của CBLĐ, QL. Việc tổ

chức cho cán bộ đi thực tế phải được tổ chức và đề ra yêu cầu cần đạt được một

cách thiết thực, cụ thể đối với từng học viên để việc đi thực tế trở thành cơ hội cho

162

cán bộ thâm nhập nhằm hiểu sâu, tổng kết đúc rút kinh nghiệm lý luận, thúc đẩy

thực tiễn.

Thứ hai, kết hợp chặt chẽ giữa đào tạo trong nhà trường với quá trình tự đào

tạo nhằm phát huy cao độ tính tích cực, chủ động, tự giác rèn luyện phấn đấu của

bản thân cán bộ.

Chương trình đào tạo ở trường lớp dù có đổi mới, đầy đủ, cập nhật, hiện đại

đến đâu cũng là hệ thống lý thuyết cơ bản, phương pháp giải quyết vấn đề được

khái quát hóa, điển hình hóa, trong khi đó thực tiễn hoạt động công tác của đội ngũ

CBLĐ, QL của HTCT cấp huyện thì muôn hình, muôn vẻ, phong phú, đa dạng,

phức tạp. Do đó, chỉ bằng con đường tự giác học tập, rèn luyện người cán bộ mới

thu được vốn kiến thức lớn hơn, phù hợp với bản thân để giải quyết vấn đề đặt ra

trong cuộc sống. Đào tạo, rèn luyện qua thực tiễn chính là con đường đào tạo liên

tục, phong phú nhất tạo nên năng lực của người CBLĐ, QL.

Thứ ba, phải đặt đào tạo, bồi dưỡng trong mối quan hệ hữu cơ mật thiết với

công tác quy hoạch và bố trí, sử dụng cán bộ.

Đào tạo, bồi dưỡng CBLĐ, QL của HTCT cấp huyện là hoạt động có chủ

đích, nhằm chuẩn bị được đội ngũ cán bộ có trình độ, năng lực đáp ứng nhiệm vụ,

yêu cầu trước mắt và lâu dài. Chính vì vậy, BTCTU, ban tổ chức của cấp ủy cấp

huyện phải tham mưu BTV Tỉnh ủy, cấp ủy cấp huyện việc chọn lựa cán bộ đi học

tập theo đúng quy hoạch đã duyệt, đảm bảo tiêu chuẩn chức danh theo quy định,

tránh tình trạng đào tạo tràn lan, không phù hợp. Cán bộ cần được đào tạo cơ bản,

đáp ứng yêu cầu tiêu chuẩn và qua rèn luyện thực tế rồi mới được bổ nhiệm, bầu cử

vào vị trí lãnh đạo, quản lý. Tuyệt đối không bổ nhiệm những cán bộ còn thiếu điều

kiện, tiêu chuẩn.

Thứ tư, cần tăng cường phối hợp giữa cơ sở đào tạo và địa phương, cơ quan,

đơn vị có cán bộ đi đào tạo, bồi dưỡng trong việc quản lý cán bộ.

Hiện nay, vẫn còn tình trạng, địa phương, cơ quan, đơn vị cử cán bộ đi học

tập, bồi dưỡng, song không biết cán bộ có lên lớp đầy đủ hay không, kết quả học tập

ra sao; còn cơ sở đào tạo không biết cán bộ học tập có vận dụng vào thực tiễn hay

không, sau khi hoàn thành chương trình học tập cán bộ sử dụng thế nào… Chính vì

vậy, cấp ủy, chính quyền địa phương, cơ quan, đơn vị cần lựa chọn, phân loại cán

bộ trước khi cử đi đào tạo; cơ sở đào tạo xác định đúng đối tượng để có chương

trình đào tạo, bồi dưỡng học tập phù hợp.

163

4.2.4. Tiếp tục nâng cao chất lượng công tác kiểm tra, giám sát, quản lý

đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý của hệ thống chính trị cấp huyện

Kiểm tra, giám sát CBLĐ, QL của HTCT cấp huyện là công việc quan trọng

của cấp ủy tỉnh, huyện, cơ quan quản lý cán bộ, ủy ban kiểm tra và cơ quan nội

chính theo phân cấp quản lý. Đây là hoạt động nhằm nắm chắc diễn biến tư tưởng,

hoạt động của đội ngũ cán bộ, giúp cho cấp ủy, cơ quan quản lý cán bộ phát hiện

vấn đề nảy sinh khi mới manh nha, có biện pháp kịp thời điều chỉnh, tác động làm

cho công tác cán bộ luôn hoạt động đúng nguyên tắc, quy định, nâng cao chất lượng

đội ngũ cán bộ. Đối tượng kiểm tra, giám sát là toàn bộ đội ngũ CBLĐ, QL của

HTCT cấp huyện.

Tăng cường kiểm tra, giám sát của cấp trên, thanh tra nhà nước, kiểm tra

đảng, phối hợp chặt chẽ việc giám sát của nhân dân, các cơ quan dân cử, MTTQ,

đoàn thể CT-XH đối với đội ngũ CBLĐ, QL. Tăng cường hoạt động của ủy ban

kiểm tra trong kiểm tra dấu hiệu sai phạm. Tiến hành thanh tra những nơi có phản

ánh, có dư luận về các sai phạm trong thực thi nhiệm vụ.

Về nội dung kiểm tra, giám sát cần chú trọng tính toàn diện, hệ thống, kịp

thời. Kết hợp chế độ kiểm tra thường xuyên, chuyên đề với việc kiểm tra đột xuất.

Nội dung kiểm tra tập trung vào: việc chấp hành và thực hiện Điều lệ Đảng, chủ

trương, đường lối, nghị quyết, quy định của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà

nước; việc thực hiện quy chế làm việc, chế độ sinh hoạt, công tác, giữ gìn đoàn kết

nội bộ; rèn luyện phẩm chất, đạo đức, lối sống, thực hành tiết kiệm, phòng chống

lãng phí; tác phong công tác… Đặc biệt chú trọng việc kiểm tra, giám sát CBLĐ,

QL là người đứng đầu địa phương, cơ quan, đơn vị trong việc thực hiện nguyên tắc

tập trung dân chủ, thực hiện cải cách hành chính, kết quả thực hiện chức trách,

nhiệm vụ được giao. Sau kiểm tra phải có kết luận rõ ràng, chính xác; xử lý nghiêm

minh đúng người, đúng tội đối với các đối tượng vi phạm.

Cơ sở để thực hiện kiểm tra, giám sát có hiệu quả là: các tổ chức đảng rà

soát, sửa đổi, bổ sung quy chế làm việc, xác định và phân công cụ thể trách nhiệm,

quyền hạn của tập thể, cá nhân đặc biệt là trách nhiệm của người đứng đầu và mối

quan hệ giữa các chủ thể trong công tác cán bộ. Hoàn thiện quy định về xử lý kỷ

luật, bảo đảm thống nhất đồng bộ giữa kỷ luật đảng với kỷ luật hành chính của Nhà

nước. Siết chặt kỷ luật, kỷ cương trong Đảng, có hình thức xử lý kịp thời, chính xác,

164

bảo đảm công khai, minh bạch, không có vùng cấm, ngoại lệ đối với cán bộ, đảng

viên, người đứng đầu vi phạm trong việc thực thi trách nhiệm, quyền hạn được giao.

Cần nghiên cứu, ban hành quy định về thẩm quyền, trách nhiệm người đứng

đầu; xây dựng cơ chế, kiểm tra giám sát việc thực thi quyền lực của người CBLĐ, QL;

quyền hạn đến đâu thì trách nhiệm đến đó và xác định rõ trách nhiệm của tập thể, cá

nhân trong từng công đoạn giải quyết công việc được giao. Quy định rõ trách nhiệm cá

nhân trong các công việc quan trọng để tránh sự đùn đẩy, trốn tránh trách nhiệm.

Thực hiện nghiêm túc việc kê khai tài sản, thu nhập cá nhân theo quy định.

Công việc này phải được chỉ đạo thực hiện nền nếp. CBLĐ, QL kê khai tài sản hằng

năm, trước khi xem xét bổ nhiệm, giới thiệu ứng cử hay luân chuyển, điều động.

Cấp ủy có thẩm quyền quản lý cán bộ phải kiểm soát được tài sản và thu nhập của

CBLĐ, QL theo phân cấp.

Tăng cường công tác quản lý CBLĐ, QL của HTCT cấp huyện; hoàn thiện

quy chế, quy định phân cấp quản lý cán bộ; đề cao trách nhiệm quản lý cán bộ từ

chi bộ, trong từng cơ quan, tổ chức, trong từng ngành, trách nhiệm quản lý của cấp

uỷ, cơ quan tổ chức của địa phương, cơ quan, của cấp, của ngành.

4.2.5. Phát huy tinh thần tự phấn đấu, rèn luyện, tu dưỡng của bản thân

từng cán bộ lãnh đạo, quản lý của hệ thống chính trị cấp huyện

Tự tu dưỡng, rèn luyện, phấn đấu là động lực có ý nghĩa quyết định đến sự

trưởng thành, tiến bộ của bản thân mỗi con người. Mặc dù phát triển đội ngũ cán bộ

là thẩm quyền và trách nhiệm của cấp ủy đảng, song yếu tố bản thân từng cán bộ tự

học hỏi, tự trau dồi kiến thức để hoàn thiện bản thân lại ảnh hưởng rất lớn đến việc

hoàn thành mục tiêu của tổ chức đề ra.

Yêu cầu cơ bản của việc tự học tập, tự rèn luyện cần phải gắn với chức trách,

nhiệm vụ được quy định. Trên cơ sở tiêu chuẩn chức danh cán bộ đã đề ra, bản thân

mỗi CBLĐ, QL sẽ xác định mục đích, động cơ học tập, rèn luyện, tu dưỡng thiết

thực và đúng đắn. Nếu cán bộ nhận thức vấn đề này không đúng đắn sẽ dẫn đến

động cơ học tập không rõ ràng, lệch lạc, hình thức.

Để thực hiện có hiệu quả việc tự học tập, tự tu dưỡng, rèn luyện của CBLĐ,

QL của HTCT cấp huyện ở tỉnh Bắc Ninh trong tình hình hiện nay, cần thực hiện

tốt một số nội dung sau:

165

Thứ nhất, mỗi CBLĐ, QL cần xây dựng chương trình, kế hoạch phấn đấu và

cam kết thực hiện hằng năm.

Trên cơ sở bản kế hoạch, mỗi CBLĐ, QL sẽ tự phấn đấu học tập, tu dưỡng,

rèn luyện theo chức trách, nhiệm vụ của mình. Bản kế hoạch phải được xây dựng

chi tiết, có định mức cụ thể, thời gian rõ ràng để thực hiện những nhiệm vụ quy

định theo vị trí việc làm, những nhiệm vụ được giao theo năm và những chỉ tiêu

phấn đấu khắc phục những khuyết điểm, hạn chế của bản thân. Kế hoạch thực hiện

cần được công khai trong cấp ủy và cơ quan, tổ chức mà cán bộ đó là thành viên

lãnh đạo, quản lý. Trong quá trình thực hiện luôn có sự kiểm tra của tổ chức và cán

bộ lãnh đạo cấp trên trực tiếp, sự giám sát của cán bộ cấp dưới trực tiếp.

Thứ hai, thực hiện nghiêm túc tự phê bình và phê bình theo tinh thần Nghị

quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XI, khóa XII của Đảng.

Tự phê bình và phê bình đối với CBLĐ, QL nhằm giúp chỉ ra những khuyết

điểm, hạn chế để cán bộ sửa chữa, rút kinh nghiệm để ngày càng tiến bộ, trưởng

thành hơn. Tuy nhiên, để đạt được mục đích, khi phê bình phải biết cách phê bình

khôn khéo, sáng suốt. Thực hiện tốt phương châm phê bình việc làm, không phê

bình người, phê bình phải triệt để, khách quan, không thêm bớt, không nể nang.

Người được phê bình phải có thái độ đúng mực, sẵn sàng nhận lỗi, nhận khuyết

điểm để tự tìm ra biện pháp khắc phục hạn chế hoàn thiện bản thân. Không nên vì bị

phê bình mà thù ghét người phê bình, hoặc nản chí phấn đấu.

Thứ ba, CBLĐ, QL phải nêu cao tinh thần tiền phong gương mẫu, hình thành

thói quen tự tu dưỡng, tự rèn luyện.

Mỗi CBLĐ, QL của HTCT cấp huyện ở tỉnh Bắc Ninh cần hình thành thói

quen và nêu cao tính tiền phong gương mẫu tự học tập, tu dưỡng, rèn luyện mọi lúc,

mọi nơi, mọi công việc theo yêu cầu Quy định về trách nhiệm nêu gương của cán

bộ, đảng viên mà Hội nghị Trung ương 8 khóa XII đã yêu cầu.

Thứ tư, cấp ủy đảng cần tạo điều kiện để đội ngũ CBLĐ, QL của HTCT cấp

huyện ở tỉnh Bắc Ninh phấn đấu, rèn luyện.

Xây dựng đội ngũ cán bộ là thẩm quyền và trách nhiệm của cấp ủy đảng. Vì

vậy, để mỗi cán bộ đều yên tâm, tích cực phấn đấu, rèn luyện thì tổ chức đảng phải tạo

môi trường thuận lợi, dân chủ. Ngoài việc tạo điều kiện thuộc về chế độ, chính sách,

các cấp ủy đảng, nhất là BTV cấp ủy cấp huyện cần phát huy tốt môi trường cạnh tranh

166

công bằng, khách quan trong tất cả các khâu của công tác cán bộ như đánh giá, bố trí,

sử dụng cán bộ… Chỉ khi tổ chức đảng, BTV cấp ủy đánh giá, lựa chọn, sử dụng đúng

người, đúng việc mới thúc đẩy được tinh thần thi đua tự học tập, rèn luyện, khắc phục

mọi khó khăn để hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ của cán bộ.

4.2.6. Tiếp tục nâng cao chất lượng cơ quan tham mưu, giúp việc về công

tác tổ chức, cán bộ

Công tác cán bộ là công việc của cấp ủy đảng. Các cơ quan tham mưu, giúp

việc có vai trò rất quan trọng, trực tiếp tham mưu giúp Tỉnh ủy, Huyện ủy mà trực

tiếp là Ban Thường vụ tỉnh ủy, Ban Thường vụ Huyện ủy lãnh đạo và triển khai

thực hiện công tác tổ chức, cán bộ. Theo Điều lệ Đảng Công sản Việt Nam khóa

XII, các cơ quan tham mưu giúp việc ở cấp huyện có các cơ quan, đơn vị: văn

phòng, ban tổ chức, cơ quan ủy ban kiểm tra, ban tuyên giáo, ban dân vận, trung

tâm bồi dưỡng chính trị. Trong công tác phát triển đội ngũ cán bộ LĐ, QL của

HTCT cấp huyện cần nêu cao vai trò, trách nhiệm, tham mưu giúp việc của các cơ

quan này, đặc biệt là các ban tổ chức Huyện ủy. Cơ quan tham mưu, giúp việc trong

sạch, vững mạnh, hoạt động hiệu quả là yếu tố quan trọng giúp cấp ủy đề ra được

chủ trương, nội dung, biện pháp, quy trình đúng đắn, phù hợp để xây dựng được đội

ngũ CBLĐ, QL đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ. Đại hội XI của Đảng đã nhấn mạnh

“Kiện toàn, nâng cao chất lượng các cơ quan tham mưu, đội ngũ cán bộ làm công

tác tham mưu, nhất là ở cấp chiến lược” [72, tr. 258-259]. Nghị quyết Hội nghị

Trung ương 7 khóa XII tiếp tục khẳng định: “nâng cao nhận thức, chất lượng công

tác tham mưu, phối hợp chặt chẽ, hiệu quả giữa các cơ quan tham mưu trong công

tác cán bộ và xây dựng đội ngũ cán bộ theo chức năng, nhiệm vụ” [78, tr. 76].

Muốn cho hoạt động của cơ quan tham mưu thực sự có hiệu quả, trước hết

cần kiện toàn về tổ chức; xây dựng được quy chế làm việc, cơ chế hoạt động, phân

công công tác khoa học, phù hợp, đảm bảo thực sự dân chủ, công bằng và nâng cao

chất lượng của từng cán bộ chuyên trách tham mưu, giúp việc cấp ủy theo yêu cầu

của Hội nghị Trung ương 7 khóa XII: “Xây dựng mô hình tổ chức, hoàn thiện chức

năng, nhiệm vụ của các cơ quan tham mưu về tổ chức, cán bộ các cấp theo hướng

giảm đầu mối, tránh chồng chéo, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động; bảo đảm

nguyên tắc Đảng thống nhất lãnh đạo và quản lý tổ chức, biên chế, công tác cán bộ,

xây dựng và quản lý đội ngũ cán bộ trong toàn bộ hệ thống chính trị” [78, tr. 76-77].

167

Việc tham mưu, đề xuất của các cơ quan tham mưu cấp ủy đảng cấp huyện

về công tác phát triển đội ngũ CBLĐ, QL phải đảm bảo tính thống nhất, quán triệt

sâu sắc sự lãnh đạo, chỉ đạo của Trung ương, tỉnh ủy, huyện ủy và sự hướng dẫn của

các cơ quan tham mưu cấp trên. Đồng thời, cần nắm bắt kịp thời, khách quan, toàn

diện, khoa học quá trình công tác, phấn đấu, rèn luyện của từng cán bộ để công tác

cán bộ được “Thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ. Chống quan liêu, bè

phái, cục bộ, địa phương, lối làm việc vô nguyên tắc, vi phạm kỷ luật, vi phạm dân

chủ” [72, tr. 259].

Để “xây dựng được một đội ngũ làm công tác cán bộ trung thành, trung thực,

gương mẫu, trong sáng, tinh thông” [78, tr.77], BTCTU và các ban tổ chức cấp ủy

cấp huyện cần xác định rõ nguồn cán bộ để tuyển chọn, quy hoạch, bố trí, sử dụng

từ nguồn cán bộ đương chức; nguồn cán bộ dự bị; nguồn cán bộ từ các hệ thống

trường đại học, cao đẳng…Trên cơ sở nắm chắc nhiệm vụ trước mắt, nhiệm vụ lâu

dài của toàn tỉnh, của từng huyện, từng cơ quan, đơn vị BTCTU và các ban tổ chức

cấp ủy cấp huyện tiến hành khảo sát, đánh giá, xác định cơ cấu cán bộ từ đó tuyển

chọn những người có phẩm chất, trình độ, năng lực; lựa chọn đưa vào quy hoạch,

đưa đi đào tạo, bồi dưỡng để chuẩn bị tốt cho việc bố trí, sử dụng vào những vị trí

lãnh đạo, quản lý.

Trong tình hình mới, Ban tổ chức Tỉnh ủy Bắc Ninh, các ban tổ chức huyện

ủy ở tỉnh Bắc Ninh phải được kiện toàn về tổ chức, được biên chế đủ về số lượng và

nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động. Yêu cầu của việc kiện toàn cơ quan tham

mưu về công tác tổ chức cán bộ ở tỉnh Bắc Ninh là kiện toàn cả về tổ chức, hoàn

thiện về quy chế hoạt động và tăng cường nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ,

những lực lượng chuyên trách làm công tác tham mưu giúp cấp ủy trong công tác

cán bộ.

Theo số liệu thống kê của BTCTU, tính đến ngày 31-10-2018, BTCTU Bắc

Ninh có tổng số 25 đồng chí, trong đó 100% tốt nghiệp đại học và trên đại học.

100% cán bộ có trình độ chính trị từ Trung cấp trở lên. Tổng số CB, CC Ban Tổ

chức cấp ủy huyện 45 cán bộ. Trong đó, trình độ chuyên môn từ đại học trở lên 42

đồng chí chiếm 93,3%, trình độ cao đẳng, trung cấp 3 đồng chí chiếm 7%.

Số liệu trên cho thấy, vấn đề của các ban tổ chức không phải là số lượng cán

bộ, mà quan trọng là chất lượng. Hiện vẫn còn tình trạng cán bộ có trình độ chuyên

168

môn nghiệp vụ trung cấp. BTCTU chưa xây dựng được Đề án vị trí việc làm để

thống nhất chung trong toàn hệ thống các ban tổ chức của cấp ủy các cấp trong tỉnh.

Vì vậy, trong tuyển dụng, bố trí cán bộ làm công tác tham mưu cấp ủy còn lúng

túng. Phân công nhiệm vụ chưa rõ ràng, khoa học. Một số cán bộ khi được tuyển

dụng còn làm trái ngành, trái nghề. Vì vậy, để nâng cao chất lượng cán bộ làm công

tác chuyên trách tham mưu cấp ủy về công tác tổ chức cán bộ cần thực hiện:

Ban Tổ chức Tỉnh ủy tham mưu, xây dựng để BTVTU ban hành Đề án vị

trí việc làm của các ban tổ chức của cấp ủy các cấp thống nhất trong toàn tỉnh.

Căn cứ vào vị trí việc làm đã được xác định để tuyển dụng, phân công, bố trí

công tác phù hợp.

Coi trọng việc lựa chọn cán bộ có bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định lập

trường tư tưởng, không quan liêu, hách dịch, tự tư, tự lợi. Đồng thời, phải là người

có trình độ chuyên môn vững vàng, am hiểu chủ trương, đường lối của Đảng, chính

sách pháp luật của Nhà nước. Đối với cán bộ là trưởng, phó ban cần có kinh nghiệm

trong công tác xây dựng Đảng, tinh thông nghiệp vụ, thật sự là tấm gương tiêu biểu

về đạo đức trong sáng, tuyệt đối trung thành và tác phong dân chủ, khoa học. Kiên

quyết loại bỏ những cán bộ suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống, mang

nặng chủ nghĩa cá nhân, cục bộ, hẹp hòi, lợi dụng quyền hạn để “nhũng nhiễu”.

169

Tiểu kết chƣơng 4

Đối với tỉnh Bắc Ninh và các huyện ở tỉnh Bắc Ninh, giai đoạn từ nay đến

năm 2030 là thời kỳ có ý nghĩa và vai trò quan trọng. Cùng với cả nước, tỉnh Bắc

Ninh phấn đấu thực hiện thắng lợi mục tiêu chiến lược mà Đại hội XIII của Đảng đã

đề ra. Đồng thời, phấn đấu thực hiện thắng lợi mục tiêu xây dựng tỉnh Bắc Ninh trở

thành thành phố trực thuộc Trung ương vào những năm 20 của thế kỷ XXI.

Để thực hiện được mục tiêu trên, tỉnh Bắc Ninh cần phải xây dựng được đội

ngũ CBLĐ, QL các cấp vừa hồng, vừa chuyên. Đó là, một đội ngũ cán bộ trong đó

có đội ngũ CBLĐ, QL cấp huyện có chất lượng đồng bộ, toàn diện, có cơ cấu hợp

lý, tinh gọn, năng động; có bản lĩnh chính trị vững vàng, có phẩm chất đạo đức

trong sáng, lành mạnh, giản dị; có trình độ, kiến thức, năng lực lãnh đạo, quản lý,

điều hành, năng lực tư duy lý luận, tổng kết thực tiễn ngang tầm nhiệm vụ.

Thực hiện yêu cầu trên cần phải đề ra được những giải pháp thiết thực, đồng

bộ và khả thi, phù hợp với tình hình thực tiễn của Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh nói chung

và HTCT cấp huyện ở tỉnh Bắc Ninh nói riêng. Để thực hiện thực sự có hiệu quả

các giải pháp trên, phải có sự chỉ đạo sát sao, thống nhất và sự phối hợp đồng bộ,

nhịp nhàng chặt chẽ của các cấp, các ngành từ tỉnh đến huyện. Đồng thời phải có sự

quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo tập trung, sâu sát của Bộ Chính trị, Ban Chấp hành

Trung ương Đảng đặc biệt cần sự vào cuộc quyết liệt của cả HTCT và đội ngũ cán

bộ, đảng viên và nhân dân trong tỉnh Bắc Ninh.

170

KẾT LUẬN

Phát triển đội ngũ cán bộ trong đó có đội ngũ cán bộ LĐ, QL là một trong

những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu, có ý nghĩa quyết định đối với công cuộc đổi

mới cũng như trong sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc. Đội ngũ cán bộ LĐ, QL

nói chung, cán bộ LĐ, QL của HTCT cấp huyện nói riêng có vai trò quan trọng

trong sự phát triển mọi mặt của các huyện, là nhân tố quyết định thắng lợi nhiệm vụ

chính trị, công tác xây dựng Đảng, xây dựng HTCT ở cấp huyện. Đội ngũ cán bộ

LĐ, QL của HTCT cấp huyện chính là lực lượng nòng cốt xây dựng các tổ chức của

HTCT cấp huyện; trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo cấp cơ sở tổ chức thực hiện thắng lợi

mọi đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, phát triển

KT-XH, đảm bảo an ninh, quốc phòng địa phương. Trong những năm tới, công

cuộc đổi mới trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh liên tục phát triển với những mục tiêu,

nhiệm vụ nặng nề, to lớn, được thực hiện trong điều kiện có những thuận lợi, thời

cơ và thách thức, khó khăn đan xen. Để tận dụng tốt thời cơ, khắc phục những hạn

chế, khó khăn thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới cần phải tìm giải pháp để phát

triển đội ngũ cán bộ LĐ, QL của tỉnh Bắc Ninh nói chung và đội ngũ cán bộ LĐ,

QL của HTCT cấp huyện ở Bắc Ninh nói riêng. Đây là vấn đề có tính cấp thiết.

Phát triển đội ngũ cán bộ LĐ, QL của HTCT cấp huyện ở Bắc Ninh là các

hoạt động của cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền, MTTQ và các tổ chức CT-XH,

cán bộ, đảng viên và nhân dân từ tỉnh đến huyện và các lực lượng liên quan nhằm

thực hiện những công việc cần thiết, tạo nên sự hợp lý về mặt số lượng và cơ cấu

cán bộ, nâng cao chất lượng của các cá nhân và cả đội ngũ CBLĐ, QL của HTCT

cấp huyện đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chính trị của địa phương.

Trong những năm qua, Tỉnh ủy, Ban Thường vụ Tỉnh ủy Bắc Ninh, các cấp

ủy cấp huyện trực thuộc và nhân dân trong tỉnh đã luôn nỗ lực phấn đấu đạt kết quả

quan trọng trong công tác phát triển đội ngũ cán bộ. Đội ngũ cán bộ LĐ, QL của

HTCT cấp huyện ở tỉnh Bắc Ninh đã có bước trưởng thành. Công tác phát triển đội

ngũ cán bộ LĐ, QL của HTCT cấp huyện đã có nhiều ưu điểm, đạt được những kết

quả bước đầu. Tuy nhiên, công tác phát triển đội ngũ cán bộ này còn một số khuyết

điểm, hạn chế. Qua việc nghiên cứu thực trạng phát triển đội ngũ cán bộ LĐ, QL

của HTCT cấp huyện ở Bắc Ninh từ năm 2010 đến nay, có thể đưa ra một số vấn đề

đặt ra cần giải quyết: Một là, cần phải xây dựng đội ngũ CBLĐ, QL của HTCT cấp

171

huyện ở tỉnh Bắc Ninh tinh gọn về số lượng, cơ cấu hợp lý, có chất lượng gắn với

đổi mới tổ chức. Hai là, đổi mới nội dung, chất lượng, cách tổ chức đào tạo, bồi

dưỡng của các cơ sở đào tạo và phương thức, trách nhiệm đào tạo cán bộ của các

cấp ủy quản lý cán bộ. Ba là, đổi mới, nâng cao chất lượng tổ chức bộ máy làm

công tác cán bộ. Bốn là, xem xét các tiêu chí, nội dung, quy trình đánh giá cán bộ

lãnh đạo, quản lý.

Để tiếp tục phát triển đội ngũ cán bộ LĐ, QL của HTCT cấp huyện ở tỉnh

Bắc Ninh trong những năm tới, cần thực hiện nhiều giải pháp. Có thể chú trọng vào

một số giải pháp do luận án đề xuất. Thứ nhất, nâng cao nhận thức và trách nhiệm

của cấp ủy, tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên và nhân dân về yêu cầu phát triển đội

ngũ CBLĐ, QL của HTCT cấp huyện ở Bắc Ninh trong sạch, đủ phẩm chất, năng

lực và uy tín. Thứ hai, tiếp tục xây dựng, bổ sung, hoàn thiện tiêu chuẩn chức danh

cán bộ; đổi mới công tác đánh giá cán bộ làm cơ sở để phát triển đội ngũ cán bộ

lãnh đạo, quản lý của HTCT cấp huyện. Thứ ba, đổi mới đồng bộ một số khâu cơ

bản của công tác cán bộ để tiếp tục phát triển đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý của

hệ thống chính trị cấp huyện. Thứ tư, tiếp tục nâng cao chất lượng công tác kiểm

tra, giám sát, quản lý đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý. Thứ năm, phát huy tinh thần

tự phấn đấu, rèn luyện, tu dưỡng của bản thân từng cán bộ lãnh đạo, quản lý của hệ

thống chính trị cấp huyện. Thứ sáu, tiếp tục nâng cao chất lượng cơ quan tham mưu,

giúp việc về công tác tổ chức, cán bộ.

Nghiên cứu tìm ra giải pháp tiếp tục phát triển đội ngũ cán bộ LĐ, QL của

HTCT cấp huyện ở tỉnh Bắc Ninh là vấn đề mới, vừa khó, phức tạp và nhạy cảm đòi

hỏi phải có sự quan tâm nghiên cứu công phu, nghiêm túc với quy mô và thời gian

lớn. Kết quả nghiên cứu của luận án mới chỉ là một phần rất nhỏ. Do trình độ của

tác giả luận án còn nhiều hạn chế, chắc chắn khó tránh khỏi những thiếu sót. Tác giả

luận án mong muốn nhận được ý kiến phê bình, đóng góp của các thầy, cô giáo, các

nhà khoa học để tác giả tiếp tục bổ sung, hoàn thiện.

172

1. Nguyễn Thị Điểm (2018), Một số tiêu chí đánh giá chất lượng đội ngũ cán

bộ lãnh đạo, quản lý cấp huyện hiện nay, Tạp chí Giáo dục & Xã hội số đặc

biệt, tháng 1-2018.

2. Nguyễn Thị Điểm (2018), Công tác quy hoạch cán bộ diện Ban Thường vụ

tỉnh ủy quản lý ở Bắc Ninh, Tạp chí Thông khoa học Lý luận chính trị, Học

viện chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, số 4.

3. Nguyễn Thị Điểm (2019), Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ lãnh đạo,

quản lý của hệ thống chính trị cấp huyện ở tỉnh Bắc Ninh hiện nay, Tạp chí

Thông tin Khoa học Lý luận chính trị, Học viện chính trị Quốc gia Hồ Chí

Minh, số 12.

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ

173

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Nguyễn Ngọc Ánh (2016), Thực hiện Thẩm quyền, trách nhiệm của Bí thư

Huyện ủy ở Đồng bằng Sông Hồng giai đoạn hiện nay, LA tiến sĩ chuyên

ngành Xây dựng Đảng và chính quyền Nhà nước, Học viện chính trị Quốc gia

HCM.

2. Ban Bí thư (2007), Quy định số 51-QĐ/TW ngày 19-4-2007về nhiệm vụ và

quan hệ công tác của thường trực tỉnh ủy, thành ủy, Hà Nội.

3. Ban Bí thư (2012), Quy định số 101-QĐ/TW ngày 07-6-2012 Về trách nhiệm

nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp,

Hà Nội.

4. Ban Bí thư (2013), Quy định số 220-QĐ/TW ngày 27-12-2013 Về chức năng,

nhiệm vụ, tổ chức bộ máy cơ quan chuyên trách tham mưu, giúp việc huyện

ủy, quận ủy, thị ủy, thành ủy trực thuộc tỉnh ủy, thành ủy, Hà Nội.

5. BTCTU Bắc Ninh (2015), Báo cáo tình hình đảng viên vi phạm tư cách đảng

viên, Bắc Ninh.

6. BTCTU Bắc Ninh (2016), Báo cáo kết quả đánh giá, phân loại chất lượng tổ

chức cơ sở đảng và đảng viên, giai đoạn 2010-2015, Bắc Ninh.

7. BTCTU Bắc Ninh (2017), Báo cáo kết quả đánh giá, phân loại chất lượng tổ

chức cơ sở đảng và đảng viên năm 2016, Bắc Ninh.

8. BTCTU Bắc Ninh (2018), Báo cáo kết quả đánh giá, phân loại chất lượng tổ

chức cơ sở đảng và đảng viên năm 2017, Bắc Ninh.

9. BTCTU Bắc Ninh (2018), Thống kê cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp huyện năm

2017, Bắc Ninh.

10. BTCTU Bắc Ninh (2018), Báo cáo kết quả tự rà soát công tác cán bộ từ năm

2012 đến tháng 6 năm 2018, Bắc Ninh.

11. BTCTU Bắc Ninh (2018), Báo cáo kết quả xét, công nhận người hoạt động

cách mạng, Bắc Ninh.

12. BTCTU Bắc Ninh (2018), Báo cáo kết quả công tác quy hoạch cán bộ, đào

tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị cho cán bộ lãnh đạo, quản lý và nguồn quy

hoạch cán bộ lãnh đạo quản lý các cấp theo Nghị quyết số 05-NQ/TU ngày

19-4-2007 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh, Bắc Ninh.

174

13. BTCTU Bắc Ninh (2020), Báo cáo kết quả đánh giá, phân loại chất lượng tổ

chức cơ sở đảng và đảng viên năm 2020, Bắc Ninh.

14. BTCTU Bắc Ninh (2020), Thống kê cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp huyện năm

2020, Bắc Ninh.

15. BTV Tỉnh ủy Bắc Ninh (2007), Quyết định số 404-QĐ/TU ngày 26-11-

2007về phân cấp quản lý cán bộ , Bắc Ninh.

16. BTV Tỉnh ủy Bắc Ninh (2007), Quyết định số 405-QĐ/TU ngày 26-11-2007

về bổ nhiệm và giới thiệu cán bộ ứng cử, Bắc Ninh.

17. BTV Tỉnh ủy Bắc Ninh (2008), Báo cáo tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết

Trung ương 3 (khóa VIII) về Chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp

hóa, hiện đại hóa đất nước, Bắc Ninh..

18. BTV Tỉnh ủy Bắc Ninh (2010), Báo cáo số 83-BC/TU về đánh giá kết quả

thực hiện Nghị quyết số 11-NQ/TW của Bộ Chính trị "Về công tác phụ nữ

trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước", Bắc Ninh.

19. BTV Tỉnh ủy Bắc Ninh (2011), Báo cáo sơ kết 4 năm thực hiện Nghị quyết

Trung ương 4 (khóa X) về đổi mới, kiện toàn tổ chức bộ máy các cơ quan

Đảng, định hướng đổi mới, kiện toàn tổ chức bộ máy nhà nước, Mặt trận Tổ

quốc và các tổ chức đoàn thể chính trị - xã hội của tỉnh Bắc Ninh, Bắc Ninh.

20. BTV Tỉnh ủy Bắc Ninh (2012), Quyết định về việc ban hành tiêu chuẩn chức

danh cán bộ để bổ nhiệm, giới thiệu ứng cử, Bắc Ninh.

21. BTV Tỉnh ủy Bắc Ninh (2015), Báo cáo sơ kết công tác luân chuyển, điều

động và bổ nhiệm cán bộ diện BTV Tỉnh ủy quản lý, Bắc Ninh.

22. BTV Tỉnh ủy Bắc Ninh (2015), Báo cáo tổng kết Đại hội Đảng bộ cấp trên cơ

sở và đảng bộ trực thuộc Tỉnh ủy, Bắc Ninh.

23. BTV Tỉnh ủy Bắc Ninh (2017), Báo cáo tổng kết thực hiện Nghị quyết Trung

ương 3, khóa VIII về chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa,

hiện đại hóa đất nước, Bắc Ninh.

24. BTV Tỉnh ủy Bắc Ninh (2017), Quy định số 06-QĐ/TU ngày 29-12-2017 về

tiêu chuẩn chức danh cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, Bắc Ninh.

25. BTVTỉnh ủy Bắc Ninh(2017), Quy định số 07-QĐ/TU ngày 29-12-2017 về

luân chuyển cán bộ, Bắc Ninh.

26. BTV Tỉnh ủy Bắc Ninh(2017), Quy định số 08-QĐ/TU ngày 29-12-2017 về

175

phân cấp quản lý cán bộ và bổ nhiệm, giới thiệu cán bộ ứng cử, Bắc Ninh.

27. BTV Tỉnh ủy Bắc Ninh (2017), Quyết định số 670-QĐ/TU ngày 29-12-2017

về ban hành quy chế đánh giá cán bộ thuộc diện BTV Tỉnh ủy quản lý, Bắc

Ninh.

28. BTV Tỉnh ủy Bắc Ninh (2017), Kết luận số 165-KL/TU ngày 21-12-2017 về

một số chủ trương thực hiện Nghị quyết Trung ương 6 về đổi mới, sắp xếp lại

tổ chức bộ máy tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, Bắc Ninh.

29. BTV Tỉnh ủy Bắc Ninh (2017), Kết luận số 150-KL/TU ngày 01-11-2017 về

tình hình thực hiện biên chế, tinh giản biên chế của các tổ chức trong hệ thống

chính trị năm 2015-2016; mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp giai đoạn 2017-2021,

Bắc Ninh.

30. BTV Tỉnh ủy Bắc Ninh (2017), Báo cáo tình hình thực hiện quy định về phân

cấp quản lý cán bộ, Quy chế bổ nhiệm và giới thiệu cán bộ ứng cử, Bắc Ninh.

31. BTV Tỉnh ủy Bắc Ninh (2017), Báo cáo tổng kết đổi mới phương thức lãnh

đạo của Đảng, xây dựng hệ thống chính trị tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả, Bắc

Ninh.

32. BTV Tỉnh ủy Bắc Ninh (2017), Báo cáo Tổng kết Nghị quyết số 15-NQ/TW

ngày 30-7-2007 của Hội nghị Trung ương 5 (khóa X) và Kết luận số 64-

KL/TW ngày 28-5-2013 của hội nghị Trung ương 7 (khóa XI), Bắc Ninh.

33. BTV Tỉnh ủy Bắc Ninh (2017), Báo cáo tình hình kết quả người đứng đầu cấp

ủy tiếp dân định kỳ hoặc đột xuất để tiếp nhận thông tin, lắng nghe, đối thoại

trực tiếp và xử lý những biểu hiện suy thoái, tự diễn biến, tự chuyển hóa trong

cán bộ đảng viên, Bắc Ninh.

34. BTV Tỉnh ủy Bắc Ninh (2017), Báo cáo sơ kết 5 năm thực hiện Quy định số

101-QĐ/TW ngày 07-6-2012 của Ban Bí thư về trách nhiệm nêu gương của

cán bộ, đảng viên nhất là cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp, Bắc Ninh.

35. BTV Tỉnh ủy Bắc Ninh (2018), Kế hoạch số 41-KH/TU ngày 29-01-2018 về

thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng

khóa XII “Một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ

thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả”, Bắc Ninh.

36. BTV Tỉnh ủy Bắc Ninh (2018), Báo cáo tổng kết thực hiện Chỉ thị số 36-

CT/TW ngày 30-5-2014 của Bộ Chính trị (khóa XI) về đại hội đảng bộ các cấp

176

tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng, Bắc Ninh.

37. BTV Tỉnh ủy Bắc Ninh (2020), Báo cáo kết quả Đại hội Đảng bộ cấp trên cơ

sở nhiệm kỳ 2020-2025, Bắc Ninh.

38. BTV Tỉnh ủy Bắc Ninh (2020), Quy định số 16-QĐ/TU ngày 16-3-2020 về

tiêu chuẩn chức danh cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, Bắc Ninh.

39. Ban Tuyên giáo Trung ương Đảng (2018), Tài liệu nghiên cứu các văn kiện

Hội nghị lần thứ bảy Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá XII, Nhà xuất

bản (Nxb) Chính trị quốc gia (CTQG) - Sự thật, Hà Nội.

40. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh (2010), Lịch sử Đảng bộ tỉnh Bắc

Ninh, Nxb CTQG, Hà Nội.

41. Ban Bí thư (2015), Quyết định số 282-QĐ/TW ngày 01-4-2015 Quy định về

chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế cơ quan chuyên trách tham

mưu, giúp việc Ủy ban Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội cấp

tỉnh, cấp huyện, Hà Nội.

42. Ban Chấp hành Trung ương (2016), Quy định số 29-QĐ/TW ngày 25-7-2016

về thi hành Điều lệ Đảng, Hà Nội.

43. Bộ Chính trị (2017), Quy định số 89-QĐ/TW ngày 04-8-2017 về khung tiêu

chuẩn chức danh, định hướng khung tiêu chí đánh giá cán bộ lãnh đạo, quản

lý các cấp, Hà Nội.

44. Bộ Chính trị (2017), Quy định số 98-QĐ/TW ngày 07-10-2017 về luân chuyển

cán bộ, Hà Nội.

45. Bộ Chính trị (2017), Quyết định số 99-QĐ/TW ngày 03-10-2017 ban hành

hướng dẫn khung để các cấp ủy, tổ chức đảng trực thuộc Trung ương tiếp tục

phát huy vai trò của nhân dân trong đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi sự suy

thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, Hà Nội.

46. Bộ Chính trị (2017), Quy định số 105-QĐ/TW ngày 19-12-2017 về quy định

phân cấp quản lý cán bộ và bổ nhiệm, giới thiệu cán bộ ứng cử, Hà Nội.

47. Bộ Chính trị (2018), Quy định số 132-QĐ/TW ngày 08-3-2018 về việc kiểm

điểm và đánh giá, xếp loại chất lượng hằng năm đối với tập thể, cá nhân trong

hệ thống chính trị, Hà Nội.

48. Bộ Chính trị (2011), Quyết định số 286-QĐ/TW ngày 08-02-2011 về việc ban

hành Quy chế đánh giá cán bộ, công chức, Hà Nội.

177

49. Bộ Chính trị (2014), Chỉ thị số 36-CT/TW ngày 30-5-2014 về đại hội đảng bộ

các cấp tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng, Hà Nội.

50. Bộ Chính trị (2018), Kết luận số 34-KL/TW ngày 07-8-2018 về thực hiện một

số mô hình thí điểm theo Nghị quyết 18-NQ/TW về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ

chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, Hà

Nội.

51. Cao Khoa Bảng (2012), Chất lượng đội ngũ cán bộ diện BTV Thành ủy Hà

Nội quan lý trong giai đoạn hiện nay, Luận án tiến sĩ khoa học chính trị,

chuyên ngành Xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam, Học viện CTQG Hồ Chí

Minh, Hà Nội.

52. Nguyễn Đức Bình, Trần Ngọc Hiên, Đoàn Trọng Truyến, Nguyễn Văn Thảo,

Trần Xuân Sầm (1999), Đổi mới và tăng cường hệ thống chính trị nước ta

trong giai đoạn mới, Nxb CTQG, Hà Nội.

53. Ngô Xuân Bình, Hồ Việt Hạnh (2007), Tìm hiểu Nhà nước pháp quyền Hàn

Quốc, Nxb Lao động xã hội, Hà Nội.

54. Carol Dalglish, Andrew j Dubrin và Petr Miller, Lãnh đạo học (bản dịch lần

1) (8/2010), Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh – Trường

Quản lý nhà nước Mawark O Hatfiel, Hà Nội.

55. Carol Kinsey Goman (2013), Ngôn ngữ thầm lặng của người lãnh đạo, Nxb

Thanh Hóa.

56. Chính phủ (2007), Nghị định số 157/2007/NĐ-CP, ngày 27-10-2007 quy định

chế độ trách nhiệm đối với người đứng đầu các cơ quan, tổ chức, đơn vị, Hà

Nội.

57. Chính phủ (2014), Nghị định số 37/2014/NĐ-CP ngày 05-5-2014 Quy định tổ

chức các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân huyện, quận, thị xã,

thành phố thuộc tỉnh, Hà Nội.

58. Trịnh Cư, Nguyễn Duy Hùng và Lê Văn Yên (2009), Kinh nghiệm xây dựng

đội ngũ cán bộ ở Trung Quốc, Nxb CTQG - Sự thật, HàNội.

59. Đỗ Minh Cương (2009), Quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý, Nxb CTQG,

Hà Nội.

60. Đỗ Minh Cương (2017), Mô hình, tiêu chuẩn người lãnh đạo thời kỳ đẩy mạnh

hội nhập quốc tế, Tạp chí Lý luận chính trị, (10).

178

61. Hạ Quốc Cường (2004), “Không ngừng nâng cao trình độ lãnh đạo và trình độ

cầm quyền, tăng cường năng lực chống tha hóa, phòng biến chất và chống rủi

ro”, Hội thảo lý luận giữa Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Cộng sản Trung

Quốc, ngày 27-29/7/2013, Xây dựng Đảng cầm quyền, kinh nghiệm của Việt

Nam, kinh nghiệm của Trung Quốc, Nxb CTQG, Hà Nội.

62. Nguyễn Thị Thanh Dung (2016), Bàn thêm về đánh giá cán bộ, Tạp chí Xây

dựng Đảng, (6).

63. Hà Thị Thùy Dung (2018), Ảnh hưởng tiêu cực của tâm lý tiểu nông trong

công tác cán bộ, Tạp chí Lý luận chính trị, (1).

64. Nguyễn Thành Dũng (2012), Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt

cấp huyện ở các tỉnh Tây Nguyên trong giai đoạn hiện nay, Luận án tiến sĩ

khoa học chính trị, chuyên ngành Xây dựng Đảng Công sản Việt Nam, Học

viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

65. Đảng Cộng sản Việt Nam (1992), Văn kiện Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp

hành Trung ương khóa VII (Lưu hành nội bộ), Nxb CTQG, Hà Nội.

66. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Báo cáo tổng kết công tác xây dựng Đảng

thời kỳ 1975-1995, Nxb CTQG, Hà Nội.

67. Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Văn kiện Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp

hành Trung ương khóa VIII, Nxb CTQG, HàNội.

68. Đảng Cộng sản Việt Nam (1999), Văn kiện Hội nghị lần thứ sáu (lần 2) Ban

Chấp hành Trung ương (khóa VIII), Nxb CTQG, HàNội.

69. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ

X, Nxb CTQG, HàNội.

70. Đảng Cộng sản Việt Nam (2009), Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp

hành Trung ương khóa X, Nxb CTQG, Hà Nội.

71. Đảng Cộng sản Việt Nam (2009), Văn kiện Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp

hành Trung ương khóa X, Nxb CTQG, HàNội.

72. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ

XI, Nxb CTQG, HàNội.

73. Đảng Cộng sản Việt Nam (2012), Văn kiện Hội nghị Trung ương lần thứ tư

khóa XI, Nxb CTQG, HàNội.

74. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ

179

XII, Văn phòng Trung ương Đảng, HàNội.

75. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp

hành Trung ương khóa XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội.

76. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Hội nghị Trung ương lần thứ tư

Ban Chấp hành Trung ương khóa XII, Nxb CTQG, Hà Nội.

77. Đảng Cộng sản Việt Nam (2017), Văn kiện Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp

hành Trung ương khóa XII,Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội.

78. Đảng Cộng sản Việt Nam (2017), Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp

hành Trung ương khóa XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội.

79. Đảng Cộng sản Việt Nam (2018), Văn kiện Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp

hành Trung ương khóa XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội.

80. Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Nxb CTQG, HàNội.

81. Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh(2018), Điều lệ Đoàn Thanh niên

Cộng sản Hồ Chí Minh, Nxb Thanh niên, Hà Nội.

82. Nguyễn Hữu Đổng, Ngô Huy Đức (2011), Nhận thức các khái niệm Đảng cầm

quyền, Đảng lãnh đạo ở nước ta hiện nay, Tạp chí Lý luận chính trị, (6).

83. Cao Duy Hạ, (2012), "Về thẩm quyền, trách nhiệm của người đứng đầu", Báo

84. Đại đoàn kết online, ttp://daidoanket.vn/printpreview.aspx?IP =40507, ngày

18-7.

85. Tô Từ Hạ (1998), Công chức và vấn đề xây dựng đội ngũ cán bộ công chức

hiện nay, Nxb CTQG, Hà Nội.

86. Hồ Việt Hạnh (2008), Thể chế tam quyền phân lập Nhật Bản, Nxb Khoa học

Xã hội, Hà Nội.

87. Vũ Văn Hiền (chủ biên), Trần Quang Nhiếp và Lê Đức Bình (2007), Xây dựng

đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý nhằm đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công

nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Nxb CTQG, Hà Nội.

88. Bùi Thị Thu Hiền (2015), Tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh với sự nghiệp xây

dựng hệ thống chính trị ở Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ triết học, Trường

Đại học Khoa học xã hội và nhân văn, Đại học quốc gia Thành phố Hồ Chí

Minh.

89. Dương Phú Hiệp (2014), Đổi mới hệ tư tưởng chính trị ở Việt Nam từ năm

1986 đến nay, Tạp chí Khoa học Xã hội, (7).

180

90. Trần Đình Hoan (2008), Quan điểm và nguyên tắc đổi mới hệ thống chính trị

ở Việt Nam giai đoạn 2005-2020, Nxb CTQG, HàNội.

91. Trần Đình Hoan (2008), Đánh giá, quy hoạch, luân chuyển cán bộ lãnh đạo

quản lý thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Nxb CTQG, Hà Nội.

92. Hội Cựu Chiến binh Việt Nam (2018), Điều lệ Hội Cựu Chiến binh Việt Nam,

Hà Nội.

93. Hội đồng Trung ương chỉ đạo biên soạn giáo trình quốc gia các bộ môn khoa

học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh (2013), Giáo trình Triết học Mác -

Lênin, Nxb CTQG, HàNội.

94. Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam (2017), Điều lệ Hội liên hiệp Phụ nữ Việt

Nam, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.

95. Hội Nông dân Việt Nam (2017), Điều lệ Hội Nông dân Việt Nam, Hà Nội.

96. Hội thảo lý luận giữa Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Cộng sản TrungQuốc

(2004), Xây dựng Đảng cầm quyền - Kinh nghiệm của Việt Nam, kinh nghiệm

của Trung Quốc, Nxb CTQG, HàNội.

97. Đoàn Minh Huấn (2005), Tạo nguồn cán bộ hệ thống chính trị cơ sở ở các

tỉnh Tây Bắc nước ta hiện nay, Đề tài khoa học cấp Bộ, Hà Nội.

98. Nguyễn Văn Huyên (2015), Bản lĩnh chính trị của cán bộ chủ chốt trong hệ

thống chính trị trước yêu cầu mới, Tạp chí Lý luận chính trị (10).

99. Đinh Thế Huynh, Phùng Hữu Phú, Lê Hữu Nghĩa, Vũ Văn Hiền, Nguyễn Viết

Thông (2015), 30 năm đổi mới và phát triển ở Việt Nam, Nxb CTQG, Hà Nội.

100. J.C. Maxwell (2008), Phát triển kỹ năng lãnh đạo, Nxb Tổng hợp, thành phố

Hồ Chí Minh.

101. Khăm Phăm Vông Pha Chăn (2013), Đào tạo đội ngũ cán bộ lãnh đạo của hệ

thống chính trị ở Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào hiện nay, Luận án tiến sĩ

khoa học chính trị, chuyên ngành Xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam, Học

viện CTQG Hồ Chí Minh, Hà Nội.

102. Phạm Công Khâm (2000), Xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã vùng

nông thôn đồng bằng sông Cửu Long hiện nay, Luận án tiến sĩ khoa học chính

trị, chuyên ngành Xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam, Học viện CTQG Hồ

Chí Minh, Hà Nội.

103. Chu Phúc Khởi (2004), “Xuất phát từ đại cục, hướng tới lâu dài, cố gắng xây

181

dựng một đội ngũ cán bộ dự bị tố chất cao”. Hội thảo lý luận giữa Đảng Cộng

sản Việt Nam và Đảng Cộng sản Trung Quốc, ngày 16-18/2/2004, Xây dựng

đảng cầm quyền, kinh nghiệm của Việt Nam, kinh nghiệm của Trung Quốc,

Nxb CTQG, Hà Nội.

104. Bùi Đức Lại (2012),“Về trách nhiệm người đứng đầu trong công tác cán bộ”,

Tạp chí Xây dựng Đảng, (3).

105. C. Mác và Ph. Ăngghen (1980), Tuyển tập, tập 1, Nxb Sự Thật, HàNội.

106. C. Mác và Ph. Ăngghen (1995), Tuyển tập, tập 2, Nxb CTQG, Hà Nội.

107. C. Mác và Ph. Ăngghen (1995), Tuyển tập, tập 7, Nxb CTQG, HàNội.

108. C. Mác và Ph. Ăngghen (1995), Tuyển tập, tập 21, Nxb CTQG, Hà Nội.

109. C. Mác - Ph.Ăngghen – V.I. Lênin (2010), Về Đảng Cộng sản, Nxb Văn hóa –

Thông tin, Hà Nội.

110. Bùi Thị Ngọc Mai (2015), Trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan hành

chính Nhà nước, Luận án tiến sĩ Quản lý hành chính công, Học viện Hành

chính quốc gia, Hà Nội.

111. Nguyễn Văn Mạnh (2017), “Tiêu chí đánh giá và điều kiện bảo đảm chất

lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ là người dân tộc thiểu số”, Tạp chí Lý luận

chính trị, (2).

112. V.I. Lênin (1974), Toàn tập, tập 4, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.

113. V.I. Lênin (1978), Toàn tập, tập 38, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.

114. V.I. Lênin (1975), Toàn tập, tập 41, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.

115. V.I. Lênin (1979), Toàn tập, tập 42, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.

116. V.I. Lênin (1979), Toàn tập, tập 44, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.

117. Mã Linh, Lý Minh (2004),"Hồ Cẩm Đào, con đường phía trước" (sách tham

khảo), Nxb Lao động, Hà Nội, biên dịch từ tác phẩm “Hồ Cẩm Đào - từ đâu

tới và sẽ đi về đâu?” của hai tác giả trên, Nxb Minh Báo - Hồng Kông, 2003.

118. Nguyễn Ngọc Long (chủ nhiệm) (1994), Những đặc trưng cơ bản, quan điểm,

nguyên tắc xây dựng và hoạt động của hệ thống chính trị nước ta trong thời kỳ

quá độ lên chủ nghĩa xã hội, mã số KX.05.07.

119. Huỳnh Văn Long (2003), Xây dựng đội ngũ bí thư huyện ủy, chủ tịch Ủy ban

nhân dân huyện ở đồng bằng sông Cứu Long ngang tầm đòi hỏi của thời kỳ

công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Luận án tiến sĩ khoa học chính trị,

182

chuyên ngành Xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam, Học viện CTQG Hồ Chí

Minh, Hà Nội.

120. Đặng Văn Lợi (2006), Mối quan hệ giữa xây dựng, chỉnh đốn Đảng với xây

dựng và hoàn thiện hệ thống chính trị hiện nay, Đề tài khoa học cấp Bộ, Hà

Nội.

121. Lê Quốc Lý (chủ biên) (2014), Đổi mới, hoàn thiện hệ thống chính trị ở nước

ta, Nxb CTQG, Hà Nội.

122. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (2016), Điều lệ Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Hà

Nội.

123. Hồ Chí Minh(1995), Toàn tập, tập 6, Nxb CTQG, Hà Nội.

124. Hồ Chí Minh(1996), Toàn tập, tập 8, Nxb CTQG, Hà Nội.

125. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 9, Nxb CTQG, Hà Nội.

126. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 10, Nxb CTQG, Hà Nội.

127. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 12, Nxb CTQG, Hà Nội.

128. Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, tập 5, Nxb CTQG, Hà Nội.

129. Ngô Kim Ngân, TS. Lâm Quốc Tuấn (2010), Phong cách làm việc của người

Bí thư hiện nay - qua khảo sát vùng đồng bằng sông Hồng, Nxb CTQG, Hà

Nội.

130. Trần Thị Thanh Nhàn (2014), Quy hoạch cán bộ diện BTV tỉnh, thành ủy quản

lý ở đồng bằng Bắc Bộ giai đoạn hiện nay, Luận án tiến sĩ khoa học chính trị,

chuyên ngành Xây dựng Đảng và Chính quyền nhà nước, Học viện CTQG Hồ

Chí Minh, HàNội.

131. Bùi Thị Oanh (2016), Luân chuyển cán bộ ở một số tỉnh đồng bằng sông

Hồng, Tạp chí xây dựng Đảng, (7).

132. Bùi Đình Phong (2005), Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và công tác cán bộ,

Nxb Lao động, Hà Nội.

133. Bùi Đình Phong (2006), Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và công tác cán bộ,

Nxb Lao động, Hà Nội.

134. Thang Văn Phúc, Nguyễn Minh Phương (2005), Cơ sở lý luận và thực tiễn xây

dựng đội ngũ cán bộ, công chức, Nxb CTQG, Hà Nội.

135. Thang Văn Phúc (Chủ nhiệm) (2005), Đề tài khoa học xã hội cấp Nhà nước

giai đoạn 2001-2005 "Cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng đội ngũ CB, CC",

183

mã số KX.05.07, Hà Nội.

136. Vũ Văn Phúc (chủ biên),(2013), Thẩm quyền, trách nhiệm của người đứng

đầu cấp ủy, chính quyền trong hệ thống chính trị hiện nay", Nxb CTQG - Sự

thật, Hà Nội.

137. Thân Minh Quế (2012), Công tác quy hoạch cán bộ thuộc diện BTV tỉnh ủy

quản lý ở các tỉnh miền núi phía Bắc giai đoạn hiện nay, Nxb CTQG, Hà Nội.

138. Thân Minh Quế (2016), Nâng cao chất lượng đánh giá cán bộ, công chức từ

thực tiễn ở Bắc Giang, Tạp chí Xây dựng Đảng, (6).

139. Quốc hội (2008), Luật Cán bộ, công chức, Nxb CTQG, Hà Nội.

140. Quốc hội (2013), Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Hà

Nội.

141. Quốc hội (2015), Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Nxb CTQG, Hà Nội.

142. Quốc hội (2016), Luật Tổ chức chính quyền, địa phương, Hà Nội.

143. Nguyễn Duy Quý (2008), Hệ thống chính trị nước ta trong thời kỳ đổi mới,

Nxb CTQG, Hà Nội.

144. Shzo Hibino & Gerald Nadler (2012), Tư duy đột phá, Nxb Trẻ & First News,

Thành phố Hồ chí Minh.

145. Trần Xuân Sầm (1998), Xác định cơ cấu và tiêu chuẩn cán bộ lãnh đạo chủ

chốt trong hệ thống chính trị đổi mới, Nxb CTQG, Hà Nội.

146. Nguyễn Thái Sơn (2002), Xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh

vùng đồng bằng sông Hồng trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại

hóa đất nước, Luận án tiến sĩ khoa học chính trị, chuyên ngành Xây dựng

Đảng Cộng sản Việt Nam, Học viện CTQG Hồ Chí Minh, HàNội.

147. Trần Thanh Sơn (2006), Luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý thuộc diện

BTV Thành ủy Hà Nội quản lý trong giai đoạn hiện nay, Luận văn thạc sĩ,

khoa học chính trị, chuyên ngành Xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam, Học

viện CTQG Hồ Chí Minh, Hà Nội .

148. Vũ Thanh Sơn (2016), Lãnh đạo tư duy đột phá toàn diện ở Quảng Ninh: cơ sở

khoa học và bài học kinh nghiệm, Tạp chí Lý luận chính trị, (9).

149. Phạm Văn Sơn (2012), Nghiên cứu phát triển đội ngũ cán bộ, công chức lãnh

đạo, quản lý nhà nước trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội

nhập quốc tế", Tạp chí Cộng sản, (6).

184

150. Trịnh Thanh Tâm (2012), Xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt là nữ trong hệ

thống chính trị xã ở đồng bằng sông Hồng giai đoạn hiện nay, Luận án tiến sĩ

khoa học chính trị, chuyên ngành Xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam, Học

viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh,HàNội.

151. Ngô Ngọc Thắng (2016), Xây dựng tầm nhìn cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo ở

nước ta, Tạp chí Lý luận chính trị, (1).

152. Phạm Tất Thắng (2005), Luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý thuộc diện

BTV tỉnh ủy quản lý ở tỉnh Ninh Bình giai đoạn hiện nay, Luận văn thạc sĩ

khoa học chính trị, chuyên ngành Xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam, Học

viện CTQG Hồ Chí Minh, HàNội.

153. Phạm Tất Thắng (2011), Đánh giá cán bộ diện BTV tỉnh ủy quản lý ở các tỉnh

đồng bằng sông Hồng trong giai đoạn hiện nay, Luận án tiến sĩ khoa học

chính trị, chuyên ngành xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam, Hà Nội.

154. Hồ Bá Thâm (2005), Đổi mới và phát triển hệ thống chính trị, Nxb Tổng hợp,

thành phố Hồ Chí Minh.

155. Trương Thị Thông và TS. Lê Kim Việt (đồng chủ biên, 2009), Bệnh quan liêu

trong công tác cán bộ ở nước ta hiện nay - thực trạng, nguyên nhân và giải

pháp, Nxb CTQG, HàNội.

156. Ngô Văn Thảng(2007), Đánh giá đội ngũ cán bộ chủ chốt diện BTV Tỉnh ủy

Phú Thọ quản lý trong giai đoạn hiện nay, luận văn thạc sĩ khoa học chính trị,

chuyên ngành Xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam, Hà Nội.

157. Thủ tướng Chính phủ (2013), Quyết định số 795-QĐ/TTg ngày 23-5-2013 phê

duyệt tổng thể phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bằng sông Hồng đến năm

2020, Hà Nội.

158. Lê Quang Thưởng (2004), Sách tra cứu các mục từ về tổ chức, Nxb CTQG,

Hà Nội.

159. Tỉnh ủy Bắc Ninh (2006), Các văn bản chỉ đạo của Tỉnh ủy Bắc Ninh, giai

đoạn 2006-2010, Bắc Ninh.

160. Tỉnh ủy Bắc Ninh (2010), Văn kiện đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ

XVIII (nhiệm kỳ2010-2015), Bắc Ninh.

161. Tỉnh ủy Bắc Ninh (2015), Các văn bản chỉ đạo của Tỉnh ủy Bắc Ninh giai

đoạn 2010-2015, Bắc Ninh.

185

162. Tỉnh ủy Bắc Ninh (2015), Văn kiện đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XIX

(nhiệm kỳ 2015-2020), Bắc Ninh.

163. Tỉnh ủy Bắc Ninh (2016), Báo cáo tổng kết tình hình phát triển kinh tế - xã

hội, quốc phòng, an ninh, công tác xây dựng Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ

quốc và các đoàn thể sau 20 năm tái lập tỉnh (1997-2016), Bắc Ninh.

164. Tỉnh ủy Bắc Ninh (2020), Các văn bản chỉ đạo của Tỉnh ủy Bắc Ninh giai

đoạn 2015-2020, Bắc Ninh.

165. Tỉnh ủy Bắc Ninh (2020), Văn kiện đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XX

(nhiệm kỳ 2020-2025), Bắc Ninh.

166. Phan Hữu Tích (2015), Xây dựng phẩm chất, năng lực đội ngũ cán bộ, công

chức đáp ứng yêu cầu thời kỳ mơi, Tạp chí Lý luận chính trị, số 11.

167. Thanh Toàn (2007), Năng lực, phẩm chất người lãnh đạo trong sự nghiệp công

nghiệp hóa, hiện đại hóa, Tạp chí Xây dựng Đảng, (10).

168. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (2014), Điều lệ Công đoàn Việt Nam,

Nxb Lao động, Hà Nội.

169. Từ điển Tiếng Việt (2005), Viện Ngôn ngữ học, Nxb Đà Nẵng.

170. Trần Minh Tuấn (2016), Công tác cán bộ trong tình hình mới: quan điểm và

thực tiễn triển khai, Tạp chí Lý luận chính trị, (8).

171. Nguyễn Quốc Tuấn (2016), Trách nhiệm chính trị của cán bộ lãnh đạo từ thực

tiễn quận Đống Đa, thành phố Hà Nội, Luận văn Thạc sĩ Chính trị học, Học

viện CTQG Hồ Chí Minh, Hà Nội.

172. Nguyễn Minh Tuấn (2010), “Đảng cộng sản Trung Quốc đổi mới công tác đào

tạo, bồi dưỡng cán bộ”, Tạp chí Lý luận chính trị, (9).

173. Trần Minh Tuấn (Chủ nhiệm, 2011), Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh

đạo, quản lý theo chức danh tại Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ

Chí Minh, Đề tài khoa học cấp bộ, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia

Hồ Chí Minh, HàNội.

174. Nguyễn Phú Trọng và Trần Xuân Sầm (chủ biên, 2003), Luận cứ khoa học

cho việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ trong thời kỳ đẩy mạnh công

nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Nxb CTQG, HàNội.

175. Nguyễn Phú Trọng (2011), “Tiếp tục tham mưu đổi mới, kiện toàn tổ chức bộ

máy, thực hiện tốt hơn nữa nguyên tắc tập trung dân chủ trong công tác tổ

186

chức và cán bộ”, Tạp chí Xây dựng Đảng, (12).

176. Trần Khắc Việt, (2012), Phong cách làm việc của người đứng đầu, Tạp chí

Cộng sản, số 68 (8), tr 22-25.

177. Trần Khắc Việt (2016), Nhiệm vụ, giải pháp ngăn chặn, đẩy lùi những biểu hiện

"tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ,Tạp chí Lý luận chính trị, (11).

178. Võ Khánh Vinh (chủ nhiệm đề tài) (2015), Hệ thống chính trị ở cơ sở phục vụ

phát triển bền vững Tây Nguyên, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội và nhân văn

Việt Nam, Hà Nội.

179. Xỉnh Khăm Phom Ma Xay (2003), Đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ lãnh

đạo quản lý kinh tế của Đảng và Nhà nước Lào trong giai đoạn hiện nay,

Luận án tiến sĩ khoa học chính trị, chuyên ngành Xây dựng Đảng Cộng sản

Việt Nam, Học viện CTQG Hồ Chí Minh, Hà Nội.

180. Nguyễn Như Ý (Chủ biên, 1998), Đại từ điển tiếng Việt, Nxb Văn hóa -

Thông tin, Hà Nội.

187

PHỤ LỤC

188

PHỤ LỤC 1

THỰC TRẠNG TRÌNH ĐỘ CHUYÊN MÔN, TRÌNH ĐỘ LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ LÃNH ĐẠO QUẢN LÝ CỦA HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ CẤP HUYỆN TỈNH BẮC NINH (11/2020)

Trình độ chuyên môn Kiến thức khác Trình độ lý luận chính trị

(3)

STT Đơn vị Số lƣợng TC SC Tiến sĩ Thạc sỹ Đại học Trung cấp Ngoại ngữ CC, CN QL NN

(7) (10) (11) (1) (4) (8) (9) T.học văn phòng (12) (13) (5) (6)

89 1 52 37 0 87 84 39 49 0 89 1

43.82

55.06

100 1.12 0.00 58.43 41.57 0.00 94.38 100.00 97.75

81 51 30 0 78 79 22 59 2

0 100 27.16 72.84 0.00 62.96 37.04 0.00 97.53 96.30 81 100.00

75 1 39 36 0 72 73 26 48 0 3

100 1.33 34.67 64.00 0.00 52.00 48.00 0.00 97.33 96.00 75 100.00

80 0 49 31 0 79 80 35 45 0 4

100 0 43.75 56.25 0.00 61.25 38.75 0.00 100.00 98.75 80 100.00

80 1 47 33 0 77 79 16 63 0 5

100 1.25 20.00 78.75 0.00 58.75 41.25 0.00 98.75 96.25 80 100.00

75 0 35 40 0 73 72 27 48 0 6 75

100 0 36.00 64.00 0.00 46.67 53.33 0.00 96.00

100.00 97.33 74 0 47 27 0 73 74 24 50 0 7 (2) TP. Bắc Ninh % TX. Từ Sơn % Thuận Thành % Quế Võ % Tiên Du % Lương Tài % Gia Bình 74

189

0 100 32.43 67.57 0.00 63.51 36.49 0.00 100.00 100.00 98.65

2 75 33 40 0 42 33 0 75 72 8

% Yên Phong %

2.67 5 100 629 44.00 222 53.33 402 0.00 0 56.00 362 44.00 267 0.00 0 100.00 616 75 100.00 629 96.00 611 Tổng

100 0.00 % 0.79 35.294 63.91 57.55 42.45 0.00 97.93 100.00 97.14

Nguồn: Ban Tổ chức Tỉnh ủy Bắc Ninh; Sở nội vụ Tỉnh Bắc Ninh

190

PHỤ LỤC 2

TRÌNH ĐỘ CHUYÊN MÔN CỦA CÁN BỘ LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ CẤP HUYỆN (Năm 2010 - Tháng 11/2020)

Trình độ chuyên môn

Trên Đại học Đại học Cao đẳng, Trung cấp Năm Tổng số (ngƣời) Tỷ lệ (%) Tỷ lệ (%)

Số lƣợng (ngƣời) 56 Số lƣợng (ngƣời) 527 Số lƣợng (ngƣời) 18 601 Tỷ lệ (%) 9.32 87.69 3.00 2010

612 68 11.11 85.95 18 2.94 526 2011

619 97 15.67 81.74 16 2.58 506 2012

620 124 20.00 78.06 12 1.94 484 2013

615 160 26.02 72.36 10 1.63 445 2014

613 174 28.38 69.98 10 1.63 429 2015

633 201 31.75 67.30 6 0.95 426 2016

647 210 32.46 66.62 6 0.93 431 2017

645 218 33.80 65.58 4 0.62 423 2018

637 222 34.85 65.15 0 0.00 415 2019

629 227 36.09 63.91 0 0.00 402 Nov-20

Nguồn: Ban Tổ chức Tỉnh ủy; Sở Nội vụ Tỉnh Bắc Ninh

191

PHỤ LỤC 3

CHẤT LƢỢNG, SỐ LƢỢNG CẤP UỶ CẤP HUYỆN, NHIỆM KỲ 2010-2015

Độ tuổi

Trình độ chuyên môn

Trình độ lý luận chính trị

STT

Đơn vị

Nữ

Dƣới 35

Trên 50

TC, CĐ

Đại học

Sơ cấp

Trung cấp

CC, CN

Số lƣợng Ban chấp hành

Từ 35 đến dƣới 40

Từ 40 đến 50

Tuổi bình quân

Trên Đại học

Thành phố

45

3

3

3

17

22

48.15

2

34

9

0

18

27

Bắc Ninh

1

100

6.67

6.67

6.67

37.78

48.89

4.44

75.56

20.00

0.00

40.00

60.00

%

Thị xã Từ

37

5

1

4

12

20

49.09

0

30

7

0

9

28

Sơn

2

100

13.51

2.70

10.81

32.43

54.05

0.00

81.08

18.92

0.00

24.32

75.68

%

Huyện

37

4

1

3

13

20

49.29

2

30

5

0

15

22

Thuận

3

Thành

100

10.81

2.70

8.11

35.14

54.05

5.41

81.08

13.51

0.00

40.54

59.46

%

Huyện Quế

37

3

3

4

14

16

47.01

4

29

4

0

13

24

4

100

8.11

8.11

10.81

37.84

43.24

10.81

78.38

10.81

0.00

35.14

64.86

%

Huyện

37

3

17

13

46.5

0

32

22

15

5

0

2

5

Tiên Du

5

100

8.11

5.41

13.51

45.95

35.14

0.00

86.49

13.51

0.00

59.46

40.54

%

37

4

15

17

48.28

6

33

21

16

0

0

1

4

6

Huyện Lƣơng Tài

192

100

10.81

2.70

10.81

40.54

45.95

16.22

89.19

0.00

0.00

56.76

43.24

%

Huyện Gia

37

3

2

3

14

18

48.25

4

31

2

0

14

23

Bình

7

100

8.11

5.41

8.11

37.84

48.65

10.81

83.78

5.41

0.00

37.84

62.16

%

Huyện Yên

37

5

1

4

18

14

47.47

2

31

4

8

29

0

Phong

8

100

13.51

2.70

10.81

48.65

37.84

5.41

83.78

10.81

0.00

21.62

78.38

%

Tổng

304

30

14

30

120

140

48.01

18

250

36

120

184

0

%

100

9.87

4.61

9.87

39.47

46.05

5.92

82.24

11.84

0.00

39.47

60.53

Nguồn: Ban Tổ chức Tỉnh ủy Bắc Ninh

193

PHỤ LỤC 4

CHẤT LƢỢNG, SỐ LƢỢNG CẤP UỶ CẤP HUYỆN, NHIỆM KỲ 2015-2020

Độ tuổi

Trình độ chuyên môn

Trình độ lý luận chính trị

STT

Đơn vị

Nữ

Dƣới 35

Trên 50

Đại học

Từ 40 đến 50

Trên Đại học

Sơ cấp

Trung cấp

CC, CN

Từ 35 đến dƣới 40

Tuổi bình quân

Số lƣợng Ban chấp hành

Trung cấp, Cao đẳng

Thành phố Bắc Ninh

49.62

1

%

43 100 41

Thị xã Từ Sơn

7 16.28 6

1 2.33 0

3 6.98 5

15 34.88 15

24 55.81 21

49.2

2 4.65 0

24 55.81 26

17 39.53 15

0 0.00 0

16 37.21 5

27 62.79 36

2

100

%

14.63

0.00

12.20

36.59

51.22

0.00

63.41

36.59

0.00

12.20

87.80

39

Huyện Thuận Thành

5

1

4

16

18

48.37

12

1

26

0

18

21

3

%

100

12.82

2.56

10.26

41.03

46.15

2.56

66.67

30.77

0.00

46.15

53.85

43

Huyện Quế Võ

6

5

6

19

13

44.82

20

4

19

0

13

30

4

%

100

13.95

11.63

13.95

44.19

30.23

9.30

44.19

46.51

0.00

30.23

69.77

41

Huyện Tiên Du

6

5

8

17

11

43.96

13

0

28

0

19

22

5

%

100

14.63

12.20

19.51

41.46

26.83

0.00

68.29

31.71

0.00

46.34

53.66

Huyện Lƣơng Tài

39

4

1

4

16

18

48.37

11

2

26

0

21

18

6

%

100

10.26

2.56

10.26

41.03

46.15

5.13

66.67

28.21

0.00

53.85

46.15

41

Huyện Gia Bình

2

2

4

15

20

48.24

13

1

27

0

13

28

7

100

%

4.88

4.88

9.76

36.59

48.78

2.44

65.85

31.71

0.00

31.71

68.29

41

Huyện Yên Phong

6

4

5

0

26

0

18

14

45.69

15

5

36

8

%

100

14.63

9.76

12.20

43.90

34.15

0.00

63.41

36.59

12.20

87.80

0.00

47.27

328 100

Tổng

%

42 12.80

19 5.79

39 11.89

131 39.94

139 42.38

10 3.05

202 61.59

116 35.37

110 33.54

218 66.46

0 0.00

Nguồn: Ban Tổ chức Tỉnh ủy Bắc Ninh

194

PHỤ LỤC 5

CƠ CẤU ĐỘI NGŨ CÁN BỘ LÃNH ĐẠO QuẢN LÝ CỦA HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ CẤP HUYỆN

Ở TỈNH BẮC NINH (11/2020)

Độ tuổi

Giới tính

STT

Tên đơn vị

Tổng số Cán bộ

Trên 50

Nam

Dƣới 40

Từ 41 đến 50

Tổng số

Tuổi trung bình

Nữ Trƣởng ngành

Phó ngành

(1)

(2)

(5)

(6)

(7)

(8)

(10)

(11)

(4)

42.5

1

42.87

2

42.31

3

45.85

4

39

5

41.74

6

42.17

7

41.78

8

TP. Bắc Ninh % TX. Từ Sơn % Thuận Thành % Quế Võ % Tiên Du % Lƣơng Tài % Gia Bình % Yên Phong %

42.29

Tổng %

(3)=(4)+(5)+(6) =(8)+(9) 89 100.00 81 100 75 100 80 100 80 100 75 100 74 100 75 100 629 100.00

30 33.71 25 30.86 26 34.67 15 18.75 39 48.75 28 37.33 27 36.49 29 38.67 219 34.82

35 39.33 35 43.21 29 38.67 36 45.00 28 35.00 28 37.33 26 35.14 25 33.33 242 38.47

24 26.97 21 25.93 20 26.67 29 36.25 13 16.25 19 25.33 21 28.38 21 28.00 168 26.71

(9) =(10)+(11) 23 25.84 11 13.58 12 16.00 10 12.50 12 15.00 15 20.00 10 13.51 13 17.33 106 16.85

66 74.16 70 86.42 63 84.00 70 87.50 68 85.00 60 80.00 64 86.49 62 82.67 523 83.15

5 5.62 2 2.47 3 4.00 3 3.75 5 6.25 6 8.00 2 2.70 2 2.67 28 4.45

18 20.22 9 11.11 9 12.00 7 8.75 7 8.75 9 12.00 8 10.81 11 14.67 78 12.40

Nguồn: Ban Tổ chức Tỉnh ủy; Sở Nội vụ Tỉnh Bắc Ninh

195

PHỤ LỤC 6

CƠ CẤU CHUYÊN NGÀNH ĐÀO TẠO CỦA ĐỘI NGŨ CÁN BỘ LÃNH ĐẠO, QuẢN LÝ CỦA HTCT CẤP HUYỆN Ở TỈNH BẮC NINH

Chuyên ngành đào tạo

STT

Lĩnh vực công tác

Số lƣợng cán bộ

Kinh tế, tài chính

Số lƣợt đào tạo

Luật, nội chính

Khoa học Xã hội

chuyên ngành khác

Khoa học Tự nhiên

Xây dựng Đảng và chính quyền NN

325

1

87

158

31

39

19

3

337

166

2

46

38

27

45

17

3

176

342

3

87

180

48

35

20

4

374

4

121

130

39

24

19

33

12

3

Ban chấp hành Đảng bộ huyện Khối các cơ quan Đảng Khối các cơ quan Nhà nƣớc Khối Uỷ ban MTTQ và các đoàn thể CT- XH huyện

Nguồn: Ban Tổ chức Tỉnh uỷ, Sở nội vụ tỉnh Bắc Ninh, tính đến tháng 11 năm 2020

196

PHỤ LỤC 7

TỶ LỆ ĐÁNH GIÁ CÁC TIÊU CHÍ TRONG CHỈ SỐ CHI PHÍ THỜI GIAN

CỦA CÁC HUYỆN NĂM 2019

ĐV: %

STT

Nội dung đánh giá

Quế Võ

Yên Phong

Tiên Du

Lƣơng Tài

Gia Bình

TP. Bắc Ninh

TX. Từ Sơn

Thuận Thành

1

86.36

83.33

87.04

83.33

85.25

81.97

87.72

85.11

Cán bộ giải quyết công việc hiệu quả (có)

2

81.82

82.14

80.36

78.57

79.37

76.56

81.36

77.08

Cán bộ thân thiện, nhiệt tình (có)

3

90.32

88.68

88.46

86.79

88.14

86.67

85.45

86.67

Cán bộ am hiểu chuyên môn (có)

4

83.08

83.64

81.48

80.00

82.26

83.87

82.76

78.72

Cán bộ hướng dẫn rõ ràng, đầy đủ (có)

Nguồn: Viện nghiên cứu phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Bắc Ninh

197

PHỤ LỤC 8

THỐNG KÊ ĐÁNH GIÁ CHẤT LƢỢNG TỔ CHỨC CƠ SỞ ĐẢNG TRỰC THUỘC ĐẢNG BỘ CẤP HUYỆN TỪ NĂM 2010 ĐẾN NĂM 2014

Các địa phƣơng

Tỷ lệ

Năm

Tiêu chí

Tổng số Gia Bình TP Bắc Ninh Thuận Thành Quế Võ Tiên Du Lƣơng Tài Yên Phong

465 92 T.X Từ Sơn 58 48 51 59 55 47 55

92 58 48 51 59 55 46 55 464 100.0 0

18.75 32 0 9 10 14 5 6 11 87

2010 66.81 47 48 31 35 38 45 32 34 310

10.34 9 9 6 4 5 2 4 9 48

4.09 4 1 2 2 2 3 4 1 19

0.00 0 464 0 92 0 59 0 48 0 51 0 59 0 55 0 46 0 54

92 58 48 51 59 55 46 54 463 100.0 0

2 19.22 34 0 9 9 14 5 7 11 89 011

67.82 46 50 32 35 37 47 32 35 314

9.94 11 8 5 6 4 0 4 8 46 Tổng số TCCSĐ 1. Số được đánh giá, phân loại chất lượng a. Trong sạch vững mạnh tiêu biểu b. Trong sạch vững mạnh c. Hoàn thành tốt nhiệm vụ d. Hoàn thành nhiệm vụ c. Yếu kém Tổng số TCCSĐ 1. Số được đánh giá, phân loại chất lượng a. Trong sạch vững mạnh tiêu biểu b. Trong sạch vững mạnh c. Hoàn thành tốt nhiệm vụ

198

3.02 1 0 2 1 4 3 3 0 14

0 0 463 0 86 0 59 0 53 0 51 0 57 0 55 0 48 0 54

84 59 53 51 57 55 48 54 461 100.0 0

19.09 20 12 8 7 15 10 7 9 88

2 58.79 52 38 32 26 35 39 25 24 012 271

15.18 7 7 8 13 6 4 11 14 70

6.72 5 2 5 5 1 2 5 6 31

0.22 1 454 0 77 0 59 0 52 0 52 0 57 0 55 0 48 1 54

73 59 52 52 57 55 48 54 450 100.0 0

17.78 25 0 8 7 15 6 10 9 80

2 63.56 43 50 36 33 34 31 28 31 013 286

14.00 5 6 4 10 7 13 7 11 63

4.67 0 3 4 2 1 5 3 3 21

d. Hoàn thành nhiệm vụ c. Yếu kém Tổng số TCCSĐ 1. Số được đánh giá, phân loại chất lượng a. Trong sạch vững mạnh tiêu biểu b. Trong sạch vững mạnh c. Hoàn thành tốt nhiệm vụ d. Hoàn thành nhiệm vụ c. Yếu kém Tổng số TCCSĐ 1. Số được đánh giá, phân loại chất lượng a. Trong sạch vững mạnh tiêu biểu b. Trong sạch vững mạnh c. Hoàn thành tốt nhiệm vụ d. Hoàn thành nhiệm vụ c. Yếu kém

0.00 2 Tổng số TCCSĐ 0 454 0 77 0 59 0 53 0 52 0 58 0 50 0 50 0 55

199

014 1. Số được đánh giá, 77 59 52 52 58 49 49 55 451 100.0 0

20.62 23 13 8 8 9 9 11 12 93

56.32 44 34 29 34 24 31 30 28 254

18.63 7 10 9 9 21 9 6 13 84

4.43 3 2 6 1 4 0 2 2 20

0.00 0 0 0 0 0 0 0 0 phân loại chất lượng a. Trong sạch vững mạnh tiêu biểu b. Trong sạch vững mạnh c. Hoàn thành tốt nhiệm vụ d. Hoàn thành nhiệm vụ c. Yếu kém

0 Nguồn: Ban Tổ chức Tỉnh ủy Bắc Ninh

200

PHỤ LỤC 9

TỶ LỆ MỨC ĐỘ HOÀN THÀNH NHIỆM VỤ CỦA CÁN BỘ

LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ CỦA HTCT CẤP HUYỆN

HTXS nhiệm vụ

HT tốt nhiệm vụ

HT nhiệm vu

Không HT nhiệm vụ

Năm

SL

%

SL

% SL

%

SL

%

2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017 2018

49,43 45,27 49,77 48,72 54,65 53,68 54,99 56,43 27.29

275 313 292 315 263 269 275 272 454

4,02 3,43 3,06 3,06 2,43 2,12 1,42 1,23 1.86

0 1 0 3 1 2 1 2 3

0 0,16 0 0,48 0,16 0,32 0,15 0,30 0.46

45,75 51,14 47,17 50,80 42,76 43,88 43,44 42,04 70.39

297 277 308 238 336 329 348 365 176 179

29 21 19 19 15 13 9 8 12 10

2019

28.1

445

1.57

3

0.47

69.86

15

Tổng số cán bộ lãnh đạo, quản lý 601 612 619 620 615 613 633 647 645 637 629

2020

25.12

455

2.38

1

0.16

72.34

158

201

PHỤ LỤC 10 ĐÁNH GIÁ CHẤT LƢỢNG ĐẢNG VIÊN TỪ NĂM 2010 ĐẾN NĂM 2019

CỦA CÁC ĐẢNG BỘ CẤP HUYỆN

Năm 2010

Năm 2011

Năm 2012

Năm 2013

Năm 2014 Năm 2015 Năm 2016

Năm 2017

Năm 2018

Năm 2019

Tiêu chí

38944 39931 40790 42012 42212 42605 43066 44301 45698 47240

I . 32943 33102 33765 34787 33927 34278 35598 36620 37901 38839

32943 33102 33765 34787 33927 34278 35598 36620 37901 38839 I I

100 100 100 100 100 100 100 100 100 100 Đảng viên có mặt đến thời điểm đánh giá Đảng viên đã được đánh giá chất lượng Phân tích chất lƣợng đảng viên đƣợc đánh giá chất lƣợng %

3629 3776 3800 3860 3927 4021 4154 4331 4444 3635

11.41 10.748 10.92 11.38 11.46 11.30 11.34 11.43 11.44 11.03 1. Đảng viên HTXSNV %

24288 24292 24546 25219 25017 25583 25313 26688 27767 28344 2. Đảng viên HTTNV

73.39 72.70 72.50 73.74 74.63 71.11 72.88 73.26 72.98 73.73 %

4812 5214 5291 4631 4402 5826 5442 5465 5709 4775 3. Đảng viên HTNV

14.54 15.442 15.21 13.65 12.84 16.37 14.86 14.42 14.70 14.49 %

222 376 477 419 366 465 336 338 342 245

0.67 1.11 1.37 1.23 1.31 0.89 0.88 0.74 4. Đảng viên không hoàn thành nhiệm vụ %

0.92 1.07 Nguồn: Ban Tổ chức Tỉnh ủy Bắc Ninh

202

PHỤ LỤC 11

THỐNG KÊ ĐÁNH GIÁ CHẤT LƢỢNG TỔ CHỨC CƠ SỞ ĐẢNG TRỰC THUỘC ĐẢNG BỘ CẤP HUYỆN NĂM 2019

Tên đơn vị Tổng số TP. Bắc Ninh Thuận Thành Quế Võ Tiên Du Lƣơng Tài Gia Bình Yên Phong

462 54 50 60 50 54 54 T.X Từ Sơn 62 78

0 0 0 0 2 0 0 1 3

459 54 50 60 50 52 54 62 77 Tiêu chí A. TỔNG SỐ TỔ CHỨC CSĐ 1. Số chƣa đƣợc đánh giá, phân loại 2. Số đƣợc đánh giá, phân loại chất lƣợng

% 100 100 100 100 100 100 100 100 100

93 8 9 12 9 8 13 10 24 a. Trong sạch vững mạnh tiêu biểu

%

b. Trong sạch vững mạnh

%

c. Hoàn thành tốt nhiệm vụ

%

d. Hoàn thành nhiệm vụ

%

c. Yếu kém

Nguồn: Ban Tổ chức Tỉnh ủy Bắc Ninh

% 20.26 279 60.78 70 15.25 19 4.14 0 0 14.81 31 57.41 6 11.11 9 16.67 0 0 18.00 34 68.00 7 14.00 2 4.00 0 0 20.00 35 58.33 9 15.00 4 6.67 0 0 18.00 38 76.00 3 6.00 0 0 0 0 15.38 24 46.15 19 36.54 1 1.92 0 0 24.07 32 59.26 9 16.67 0 0 0 0 16.13 41 66.13 9 14.52 2 3.23 0 0 31.169 44 57.143 8 10.39 1 1.30 0 0

203

PHỤ LỤC 12

ĐÁNH GIÁ, XẾP LOẠI CHẤT LƢỢNG TỔ CHỨC CƠ SỞ ĐẢNG TRỰC THUỘC

ĐẢNG BỘ CẤP HUYỆN, TỪ NĂM 2015 ĐẾN 2019

Các địa phƣơng

Tỷ lệ

Năm

Tiêu chí

Tổng số TP Bắc Ninh Thuận Thành Quế Võ Tiên Du Lƣơng Tài Gia Bình Yên Phong

Từ Sơn 65 461 78 52 51 59 50 51 55

100.00 65 78 52 51 58 50 50 55 459

22.22 15 27 7 6 13 13 10 11 102

57.08 40 37 24 33 28 31 35 34 2015 262

18.30 10 14 13 11 17 6 5 8 84

2.40 0 0 8 1 0 0 0 2 11

0.00 0 463 0 64 0 80 0 52 0 51 0 59 0 49 0 53 0 55

100.43 64 79 52 51 59 49 53 55 462

22.08 12 30 9 8 12 13 13 5 102

58.23 36 35 30 33 32 32 35 36 2016 269

16.88 16 13 8 7 13 4 5 12 78

3.25 0 1 5 5 2 0 0 2 15

0.00 0 0 0 0 0 0 0 0 0 Tổng số TCCSĐ 1. Số được đánh giá a. Trong sạch vững mạnh tiêu biểu b. Trong sạch vững mạnh c. Hoàn thành tốt nhiệm vụ d. Hoàn thành nhiệm vụ c. Yếu kém Tổng số TCCSĐ 1. Số được đánh giá a. Trong sạch vững mạnh tiêu biểu b. Trong sạch vững mạnh c. Hoàn thành tốt nhiệm vụ d. Hoàn thành nhiệm vụ c. Yếu kém

204

472 80 65 54 52 61 52 54 54

20.00

24

10

8

9

12

9

8

13

100.00 78 64 54 51 60 51 53 54 465

93

61.29

44

41

31

34

35

38

24

32

2017

285

15.05

8

9

6

7

9

3

19

9

70

3.66

1

2

9

0

4

0

1

0

17

0.00

Tổng số TCCSĐ 1. Số được đánh giá a. Trong sạch vững mạnh tiêu biểu b. Trong sạch vững mạnh c. Hoàn thành tốt nhiệm vụ d. Hoàn thành nhiệm vụ c. Yếu kém Tổng số TCCSĐ

0 464

100.00

0 79 78

0 64 63

0 52 51

0 51 51

0 59 57

0 49 49

0 53 52

0 55 54

458

20.08

23

10

8

9

12

9

8

13

92

2018

60.04

41

38

29

32

34

36

35

30

275

19.86

14

15

13

10

11

4

9

10

91

0.02

0

0

1

0

0

0

0

1

2

1. Số được đánh giá a. Hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ b. Hoàn thành tốt nhiệm vụ c. Hoàn thành nhiệm vụ d. Không hoàn thành nhiệm vụ Tổng số TCCSĐ

462

100.00

78 77

62 62

54 54

50 50

60 60

50 50

54 52

54 54

459

20.26

24

10

8

9

12

9

8

13

93

2019

60.78

44

41

31

34

35

38

24

32

279

18.95

9

11

15

7

13

3

20

9

87

0.00

0

0

0

0

0

0

0

0

0

1. Số được đánh giá a. Hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ b. Hoàn thành tốt nhiệm vụ d. Hoàn thành nhiệm vụ c. Không hoàn thành nhiệm vụ

205

PHỤ LỤC 13

KẾT QUẢ CÔNG TÁC QUY HOẠCH CÁN BỘ LÃNH ĐẠO,QUẢN LÝ CỦA HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ CẤP HUYỆN, NHIỆM KỲ 2015-2020

Độ tuổi

Trình độ CM

Nữ

Chức danh quy hoạch

Tổng số

Dƣới 35

Từ 46 đến 50

Trên 50

525 100 142 100 21 100 45 100

23 100

52 100

113 21,52 31 21,83 2 9,52 5 11,11 2 8,69 19 36,53 2 7,40 6 10,30

68 12,96 19 13,40 7 33,34 14 31,12 8 34,79 8 15,40 10 37,04 14 24,15

Từ 35 đến 45 279 53,14 81 57,04 4 19,04 9 20,00 4 17,39 19 36,53 6 22,22 16 27,58

23 4,38 2 1,40 0 0,00 0 0,00 0 0,00 0 0,00 0 0,00 0 0,00

155 29,52 40 28,16 10 47,62 22 48,88 11 47,82 25 48,07 11 40,74 28 48,27

Ban chấp hành % Ban Thường vụ % Bí thư % Phó Bí thư % Chủ tịch HĐND % Phó Chủ tịch HĐND % Chủ tịch UBND % Phó Chủ tịch UBND %

27 100 58 100

Trên Đại học 205 39,04 65 45,77 15 71,42 22 48,88 16 69,56 20 38,46 18 66,66 21 36,20

Đại học 273 52,00 77 54,23 6 28,58 23 51,12 7 30,44 32 61,54 9 33,34 37 63,80

Trung câp 47 8,96 0 0,00 0 0,00 0 0,00 0 0,00 0 0,00 0 0,00 0 0,00

CC, CN 258 49,14 106 74,64 21 100,00 45 100,00 23 100,00 19 36,53 27 100,00 33 56,89

Trung cấp 267 50,86 36 25,36 0 0,00 0 0,00 0 0,00 33 63,47 0 0,00 25 43,11

62

65

158

102

73

Trưởng phòng và tương đương %

15,57 106

175 43,96 203

223 56,04 293

0 0,00 0

163 40,95 99

235 59,05 294

16,33 129

39,69 182

25,62 104

18,36 81

398 100 496

Phó Trưởng phòng và tương đương

21,37

26,00

36,69

20,96

16,35

100

40,92

59,08

0,00

19,95

59,29

%

206

PHỤ LỤC 14 CHỈ SỐ THÀNH PHẦN CHI PHÍ KHÔNG CHÍNH THỨC TRONG ĐÁNH GIÁ CHỈ SỐ NĂNG LỰC CẠNH TRANH CẤP HUYỆN CỦA TỈNH BẮC NINH NĂM 2019

S

Nội dung đánh giá TT

TX. Từ Sơn

Thuận Thành

Quế Võ Tiên Du

Lƣơng Tài

Gia Bình ĐVT: % Yên Phong TP. Bắc Ninh

26.09 27.78 30.91 30.35 26.56 38.71 34.48 27.66

36.11 38.18 39.66 42.11 37.88 46.15 38.98 36.73

61.11 57.41 55.17 59.32 53.85 60.32 56.9 52.08

63.89 69.09 68.97 67.8 63.08 76.56 64.41 66.67

47.95 48.21 44.83 46.55 42.42 46.88 45.76 43.75

Nguồn: Viện nghiên cứu phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Bắc Ninh

Các doanh nghiệp cùng ngành thường phải trả thêm các khoản chi phí không 1 chính thức (%) Hiện tượng nhũng nhiễu khi giải quyết 2 thủ tục hành chính cho các doanh nghiệp là phổ biến (có) Công việc đạt hiệu quả cao sau khi trả 3 chi phí không chính thức (có) Công việc không đạt hiệu quả nếu Không 4 chi trả chi phí không chính thức (có) Doanh nghiệp phải chi trả chi phí không chính thức khi thực hiện thủ tục hành chính hoặc 5 các công việc liên quan tại các sở, ban ,ngành, địa phương ở mức chấp nhận được (có)

207

PHỤ LỤC 15

SỐ LƢỢNG BỔ NHIỆM, BỔ NHIỆM LẠI, GIỚI THIỆU ỨNG CỬ CÁN BỘ LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ

CỦA HTCT CẤP HUYỆN TỪ 2010 ĐẾN 11/2020

Bổ nhiệm

Bổ nhiệm lại

Giới thiệu ứng cử

Năm

Tổng số

Số lƣợng

Số lƣợng

Đúng quy trình

Sai quy trình

Đủ tiêu chuẩn

Số lƣợn g

Đúng quy trình

Sai quy trình

Đúng quy trình

Sai quy trình

Đủ tiêu chuẩn

Nợ tiêu chuẩn

Nợ tiêu chuẩ n

Đủ tiêu chuẩ n

nợ tiêu chuẩ n

2

2

3

8

28

0

26

2

19

0

18

1

305

305

302

3

0

19

010

52

2

2

5

3

23

0

21

2

25

0

24

1

2

0

2

0

2

25

011

0

4

2

1

6

46

0

45

1

26

0

25

1

48

0

48

0

48

26

012

20

3

2

7

5

35

0

34

1

21

0

21

0

21

0

21

0

21

21

013

7

5

2

1

0

50

0

48

2

33

0

33

0

24

0

24

0

24

33

014

07

3

2

3

0

30

0

30

0

29

0

29

0

322

322

321

1

0

29

015

81

4

2

1

1

41

0

41

0

34

0

34

0

26

0

26

0

26

34

016

01

2

2

1

9

29

0

29

0

46

0

46

0

52

0

52

0

52

46

017

27

1

6

7

17

0

17

0

27

0

27

0

18

0

18

0

18

27

2

1

8

5

15

0

15

0

50

0

50

0

16

0

16

0

16

50

1

1

3

1

3

3

3

1

1

35

0 11

0

0

0

0

0

35

0 335

0

76

1

3

1

3

3

1

Tổng

834

25

25

0 317

8

40

3 30 3 340

0

37

3

169

169

0 1165

4

Nguồn: Ban Tổ chức Tỉnh ủy Bắc Ninh

208

PHỤ LỤC 16

TỶ LỆ ĐÁNH GIÁ CÁC TIÊU CHÍ TRONG CHỈ SỐ THÀNH PHẦN

TÍNH NĂNG ĐỘNG CỦA CÁC HUYỆN NĂM 2019

ĐV: %

Nội dung đánh giá

TP. Bắc Ninh

STT

TX. Từ Sơn

Quế Võ

Tiên Du

Lƣơng Tài

Gia Bình

Yên Phong

Thuận Thành

86.67

86.44

84.75

88.71

88.24

82.35

85.00

82.69

83.56

78.95

78.95

81.67

86.36

77.27

81.03

84.00

1

Lãnh đạo các sở, ngành, địa phương linh hoạt trong khuôn khổ pháp luật nhằm tạo môi trường kinh doanh thuận lợi cho các doanh nghiệp tư nhân (có) Lãnh đạo các sở, ngành, địa phương năng động, sáng tạo trong việc giải quyết các vấn đề mới phát sinh (có)

50.68

51.79

42.11

45.9

47.76

43.94

40.68

44.9

2

Lãnh đạo các sở, ngành, địa phương am hiểu các chính sách, chủ trương của tỉnh (am hiểu)

89.19

87.72

82.76

85.48

86.57

78.79

85.00

88.23

3

Lãnh đạo sở, ngành, địa phương thực hiện các chủ trương của lãnh đạo tỉnh (khá + tốt)

78.57

81.48

78.18

80.7

79.03

72.58

78.95

78.72

4

Lãnh đạo đơn vị quan tâm, lắng nghe và ứng xử thân thiện với doanh nghiệp (có)

82.86

79.25

78.18

73.68

77.78

70.49

75.00

76.09

5

Lãnh đạo đơn vị thể hiện tinh thần quyết liệt trong công tác cải cách hành chính

Nguồn: Viện nghiên cứu phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Bắc Ninh

6

209